...... ... |
. |
. |
. |
. |
. |
- Luận Chỉ Quán
- Đại thừa Chỉ quán pháp môn:
Chỉ quán của đại thừa
- HT. Thích Trí Quang dịch giải
Mục Lục
- I. Lược Truyện Tôn Giả Đại
Cương
- II. Lời Dẫn 1
- III. Lời Dẫn 2
- IV. Luận Chỉ Quán
- A1. Mở Đầu
- A2. Giải Thích
- B1. Nói Căn Cứ Của Chỉ Quán
- B2. Nói Đối Tượng Của Chỉ
Quán
- B3. Nói Thể Trạng Của Chỉ
Quán
- B4. Nói Hiệu Năng Của Chỉ
Quán
- B5. Nói Hiệu Quả Của Chỉ
Quán
- A3. Chỉ Việc
- V. Pháp Môn Chỉ Quán Đại Thừa
- A1. Phụ Lục Bản Dịch
- A2. Lời Giới Thiệu
- A3. Pháp Môn Chỉ Quán Đại
Thừa
|
Phần I
Lược Truyện Tôn Giả
Tuệ Tư (1)
Tôn giả Tuệ tư, có hiệu là Tư
đại thiền sư, do hoàng đế nhà Trần phong tặng. Nhưng thường lại hay gọi
là Nam nhạc tôn giả. Gọi như vậy là lấy chỗ ở mà gọi người, trọng
mà không gọi tên húy.
Tôn giả là trò của tôn giả Tuệ
văn, là thầy của đại sư Trí giả. Vị sau là người lập ra tông Thiên
thai (Pháp hoa), nên người ta tôn các tôn giả Tuệ văn và Tuệ tư là sáng
tổ của tông ấy.
Tôn giả có niên đại 515 - 577
dương lịch (2) , sống 63 tuổi âm lịch. Họ Lý, người Vũ tân, nay là huyện
Thượng thái, Hà nam. Sinh ngày 11 tháng 11 năm ất mùi, niên hiệu Thiên
giám thứ 14 của Lương Vũ đế, 515 dl. Mất ngày 22 tháng 6 năm đinh dậu,
niên hiệu Thái kiến thứ 9 của Trần Tuyên đế, 577 dl.
Sáu mươi ba năm ở chốn Diêm
phù của tôn giả Tuệ tư có thể phân ra 5 thời kỳ.
Một, 1-6 tuổi, là thời kỳ thơ
ấu, không thấy tài liệu nào ghi chép gì về thời kỳ này. Thân thế, cuộc
sống và giáo dục của tôn giả trong thời kỳ này không tìm thấy gì cả.
Hai, 7-14 tuổi, là thời kỳ tiền
xuất gia. Mộng thấy Phạn tăng khuyên nên thoát tục. Cảm vì lời khuyên
ấy nên từ thân, nhập đạo. Nhưng ngôi chùa tôn giả xin ở lại không phải
yên tĩnh. Rất yêu thích Pháp hoa, tôn giả tìm ở chỗ mả trống, ở huyệt,
ở thảo am, ngoài việc khất thực, ngày đêm chuyên tâm trì tụng, không
quan tâm ngủ nghỉ. Bị ẩm thấp phù người, tôn giả vẫn nhịn đau mà tụng
Pháp hoa, bịnh bỗng biến mất. Trong mấy năm mà tụng được một ngàn biến.
Mộng thấy đức Phổ hiền xoa đầu, chỗ xoa nổi nhục kế. Văn tự chưa
biết tự nhiên biết được.
Ba, 15-20 tuổi, là thời kỳ xuất
gia. Thời kỳ này tôn giả tự ghi tụng Pháp hoa, tinh tiến, khổ hạnh.
Các tài liệu khác ghi rõ hơn. Thọ cụ túc giới rồi, mộng thấy 32 vị
Phạn tăng tác pháp kiết ma cho. Nương thân những nơi tĩnh nhã. Ngày ăn một
bữa. Không thọ biệt thỉnh. Mặc vải thô. Chống lạnh với áo độn cỏ.
Mộng thấy đức Di đà và đức Di lạc thuyết pháp cho, nên tạo 2 tượng
mà tôn thờ. Lại mộng thấy theo đức Di lạc mà dự hội Long hoa. Nghĩ rằng
trong mạt pháp của đức Thích tôn, nhờ thọ trì Pháp hoa mà được thấy
đức Từ tôn. Cảm khái, khóc, và càng tinh tiến. Lại đọc kinh Diệu thắng
định (3) , nên ưa thích thiền định. Tìm yết kiến tôn giả Tuệ văn (4)
, được truyền thọ cho pháp"nhất tâm tam quán". Pháp này nguyên
tôn giả Tuệ văn phát giác từ bài tụng sau đây, trong luận Trung quán, của
Long thọ đại sĩ (5) .
- Các pháp duyên sinh
- tôi nói là không
- cũng nói là giả
- đó là trung đạo (6) .
Tôn giả y chỉ tôn giả Tuệ văn,
bẩm thụ đại thừa. Tánh thích khổ hạnh, phục dịch tăng chúng, đông cũng
như hè, không kể khó nhọc. Ngày đêm nhiếp tâm định ý. Trong mùa an cư,
tôn giả rất mực tinh tiến tọa thiền, phát căn bản thiền (7) , thấy
được 3 đời tiền thân. Tinh tiến hơn nữa, tôn giả đến ngộ Pháp hoa
tam muội, pháp môn đại thừa nhất niệm đổng triệt tất cả.
Bốn, 20-24 tuổi, là thời kỳ tạo
Bát nhã và Pháp hoa chữ vàng (8) . Bát nhã đây là Đại bát nhã 27 cuốn,
cũng như Pháp hoa 7 cuốn, do ngài La thập dịch. Thời kỳ này được chính
tôn giả ghi khá rõ. Theo đó, năm 20 tuổi, vì muốn thành tựu tuệ giác bồ
đề cho chúng sinh, nên tôn giả khắp học đại thừa với các đại thiền
sư nước Tề (bấy giờ đúng ra nên nói nước Lương). Thường ở rừng nội,
kinh hành, tu định. Năm 34 tuổi, tại Duyện châu, tôn giả bị đầu độc
suýt chết, nên phải bỏ ý định ban đầu muốn qua sông khắp học các vị
đại thiền sư (9) . Tôn giả trở lại Tín châu, diễn giảng Bát nhã, 3 năm
không ngừng. Từ 20 tuổi đến 38 tuổi, thường ở Hà nam, học tập đại
thừa, phụng sự chư vị đại thiền sư. Năm 39 tuổi, qua Dĩnh châu diễn
giảng Bát nhã. Tại đây lại bị đầu độc, đau đớn hết sức, tôn giả
sám hối chư Phật, nhất tâm niệm Bát nhã thì lành. Năm 40 tuổi, đến chùa
Khai nhạc ở Quảng châu, diễn giảng Bát nhã. Năm 41 tuổi, đến núi Đại
tô, cũng thuộc Quảng châu, diễn giảng Bát nhã. Năm 42 tuổi, đến chùa
Tây quan cũng thuộc Quảng châu, diễn giảng Bát nhã, bị nhiều kẻ mưu sát.
Tôn giả khởi tâm đại bi, nguyện tạo Bát nhã và Pháp hoa chữ vàng. Năm
43 tuổi, đến Định châu, diễn giảng Bát nhã, bị phong tỏa thực phẩm.
Tôn giả lạinguyện vì những kẻ ác tâm và tất cả chúng sinh mà tạo
Bát nhã chữ vàng. Năm 44 tuổi, trở về núi Đại tô, phổ cáo lời nguyện
của mình, và rằng ai tạo được? Bấy giờ có 1 vị Tỷ kheo độtnhiên
đến nói tạo được. Tôn giả liền phổ khuyến tài bảo, mua vàng mà tạo
kinh. Từ rằm tháng giêng đến 11 tháng 11 năm ấy tạo thành, hoàn mãn tâm
nguyện. Tôn giã làm hộp lưu ly mà tôn trí, và nguyện rằng Bát nhã chữ
vàng ấy sẽ xuất hiện khi đức Di lạc xuất thế tuyên dương kinh ấy.
Năm, 44-63 tuổi, là thời kỳ ở
Nam nhạc. Nhưng các năm 44-53 tuổi, không tài liệu nào ghi chép gì. Dầu vậy,
chắc chắn các năm ấy tôn giả vẫn ở núi Đại tô, và truyện đại sư
Trí giả ghi rằng, tại đây, đại sư đến yết kiết cầu pháp với tôn
giả. Cho đến ngày 22 tháng 6 năm mậu tí, tôn giả 54 tuổi, thì đến núi
Nam nhạc, nói với mọi người, rằng ở 10 năm rồi sẽ đi xa. Tại Nam nhạc,
tôn giả chỉ 3 nơi, nói dưới đó có xương cốt 3 đời của mình. Đào
lên quả đúng. Tôn giả dựng đài, diễn giảng Bát nhã. Kẻ ác mật vu
tôn giả là gián điệp của Hà bắc, nhưng rồi nhà Trần cũng không làm
gì được (10) . Ngày 22 tháng 6 năm đinh dậu, tôn giả nhập diệt, đúng với
số lượng 10 năm mà tôn giả đã nói trước. Trước đó, tôn giả họp
chúng, nói, nếu có 10 người bất kể tính mạng mà tu Pháp hoa sám pháp
hay Niệm Phật tam muội, thì tôi đích thân cung phụng phục dịch, không
thì tôi sẽ đi xa. Chúng không ai lên tiếng cả. Tôn giả sau đó từ biệt,
chánh niệm mà xả bỏ báo thân. Sau này, luật tổ Đạo tuyên biên tập Tục
cao tăng truyện, đến truyện của tôn giả thì viết, tôn giả đầu có nhục
kế, tai có trùng luân, thắng tướng trang nghiêm. Phụng trì Bồ tát giới,
không thọ biệt thỉnh, không nhận biệt cúng. Mặc vải thô. Lạnh thì
dùng áo độn cỏ. Ăn ngày một bữa. Thường ở núi rừng. Đêm tư duy, ngày
phu diễn, phát ngôn sâu xa."Nhân định mà phát tuệ, điều này thấy
rõ nơi tôn giả Tuệ tư".
Lời Dẫn 1
(1) Trung hoa có 2 nguồn Thiền. Có
nguồn Thiền rất nghiêm cẩn: khổ tu, tinh học, thực chứng. Có nguồn Thiền
linh hoạt, nhưng hay cuồng phóng, hoạt đầu -- nguồn Thiền mà lịch sử
bao giờ nói đến cũng nói Phật giáo thịnh vì đó là suy vì đó. Tôn giả
Tuệ tư, và luận Chỉ quán của tôn giả, là nguồn Thiền thứ nhất. Việt
Nam chỉ Khóa hư lục là có hơi hướng của nguồn Thiền này.
Tôn giả Tuệ tư sinh vào thời đại
tổ sư Đạt ma đến Tàu, nơi đến cũng là Hà nam, năm 527. Nhưng không có
ảnh hưởng gì nơi tôn giả. Thiền của tôn giả cũng không tạo ra con
cháu như Lâm tế, mà con cháu của tôn giả là Thiên thai.
(2) Thời đại của tôn giả Tuệ
tư sau Thắng man (435-443), nhưng cùng thời đại với Khởi tín (553) (1) và
Nhiếp luận (563). Quá rõ ràng để nói luận Chỉ quán chịu ảnh hưởng của
3 thánh điển này (2) . Chịu ảnh hưởng, nhưng cũng quá rõ ràng để nói,
từ tư tưởng đến văn từ, luận Chỉ quán rất có đặc sắc, và đặc
sắc ấy thật độc đáo.
Ảnh hưởng của luận Chỉ quán
thì chỉ nói một điều rất nhỏ cũng đủ biết. Ấy là cái thuyết tính
dơ bẩn tính trong sạch (3) . Chính từ cái thuyết này mà có cái thuyết
tánh cụ, thuyết 10 pháp giới -- cái thuyết mà có kẻ đã cho là có thể
chủ trương tánh ác (dĩ nhiên không phải tánh ác của Tuân tử). Thế nhưng
ảnh hưởng của luận Chỉ quán không phải chỉ là căn bản của toàn bộ
tư tưởng Thiên thai tông, tư tưởng nổi tiếng là đặc biệt của Trung
hoa. Mà trong luận ấy đã thấy rõ tư tưởng"sự sự vô ngại" của
Hoa nghiêm tông.
(3) Nội dung luận Chỉ quán có 2
điều cần nói nhất. Thứ nhất, luôn luôn đề cao cái gọi là nhất tâm
(4) . Nhất tâm là xuất điểm mà cũng là qui điểm của chỉ quán đại thừa.
Thứ hai, ý thức là công cụ chính yếu của chỉ quán đại thừa ấy. Chỉ
quán là chỉ và quán nhất tâm, chỉ và quán ấy là ý thức. Đó là cái
Thiền của tôn giả Tuệ tư tu tập, và "phương tiện chỉ dạy"
qua luận Chỉ quán.
(4) Về nhất tâm, nên nói lại
chút ít. Nhất tâm là cái Tâm đồng nhất hay duy nhất. Nhưng luận này chủ
trương, và nói rõ, là cái Tâm duy nhất. Tôi dịch hay dùng chữ Tâm mà
thôi, nhưng có chỗ vẫn dịch đủ. Không cần phải nói chủ thuyết luận
này là duy tâm tuyệt đối, cái duy tâm của Phật giáo ấy; mà nên chú ý
sự đặc hữu của luận này trong những danh từ liên hệ đến Tâm. Thídụ
tâm thể (là bản thể của Tâm) tâm tánh (là tính năng của Tâm) tịnh
tâm (là tâm thể trong sạch)...
*
Luận này tôi dịch và in năm
1951, khi vào Nam lần đầu. Việc làm hơn 40 năm rồi thì phải chữa lại.
Lần này chữa lại, tôi vẫn lấy
Đại thừa chỉ quán pháp môn thích yếu và thuật ký (của các ngài Trí
húc và Đế nhàn) làm tài liệu. Phụ vào là bản dịch của trưởng giả
Tâm minh Lê đình Thám, và bản dịch 1951 của tôi (5) .
Cũng nên nói lại về cái tên luận
Chỉ quán. Đại thừa chỉ quán pháp môn (Chỉ quán của đại thừa) là thể
văn luận tạng, và rất xứng đáng để gọi là 1 bộ luận. Nên tôi đã
để, và vẫn để, cái tên luận Chỉ quán mà tôi đã đổi ra.
Trí Quang
Lời Dẫn 2
Như Mặt Gương Sáng
Như mặt gương sáng, có đủ tính
năng của các loại hình ảnh, và biểu hiện được các loại hình ảnh đó.
Hiện cùng lúc, hiện trước sau, đều có. Toàn thể mặt gương hiện một
hình ảnh, toàn thể mặt gương hiện mọi hình ảnh. Mọi hình ảnh không
trở ngại gì nhau. Tâm cũng vậy. Luận này thỉ chung nhất quán đưa ra cái
Tâm mà, cho đến nay, không một kinh sách nào tôi đọc, đã nói rõ cho bằng.
Dưới đây là tóm tắt lý thuyết về Tâm ấy.
Tâm Thể Nhất Vị
Tâm thể là bản thể của Tâm.
Tâm thể thì nhất vị (một mùi vị) bất nhị (không sai biệt) bình đẳng
(nơi chúng sinh hay nơi Phật hoàn toàn như nhau) vô tướng (siêu việt hình
tướng, khái niệm). Tâm thể hay được gọi là nhất tâm. Nhất tâm là
cái Tâm duy nhất ? hay là cái Tâm đồng nhất? Luận này nói dứt khoát mà
minh bạch."Hỏi, mỗi một chúng sinh mỗi một đức Phật đều có một
Tâm hay tất cả chúng sinh tất cả đức Phật chỉ có một Tâm? Đáp, tất
cả chúng sinh và tất cả đức Phật chỉ cùng một Tâm". Tâm thể như
mặt gương vậy."Tâm thể trong lặng mà chiếu soi"."Tâm thể vốn
đủ 2 trạng huống vắng lặng và hoạt dụng".
Tâm Tánh Duyên Khởi
Tâm tánh của luận này là tính năng
của Tâm, không phải nghĩa thường là thể tánh của Tâm. Tính năng của Tâm
là như mặt gương có đủ tính năng của tất cả hình ảnh nên biểu hiện
được hình ảnh ấy. Tính năng của Tâm có 2 loại: tính thuận (tính thuận,
thuận hợp với Tâm) tính tịnh (tính trong sạch); tính trái (tính trái, chống
trái với Tâm) tính nhiễm (tính dơ bẩn). Như tính năng của mặt gương có
thể biểu hiện hình ảnh tốt hay hình ảnh xấu, nhưng tính năng chỉ là
tính năng, chỉ là nhất vị. Tính năng của Tâm cũng vậy, chỉ là nhất vị,
không trở ngại hay phá hoại lẫn nhau, đặc biệt không tính năng nào mất
đi, dầu ở giai đoạn chúng sinh hay giai đoạn chư Phật.
Tâm Dụng Nhiễm
Tịnh
Tâm tánh do 2 loại tính năng nhiễm
tịnh mà, tùy sức mạnh của sự huân tập, biểu hiện 2 loại dụng: dụng
trái, dụng dơ bẩn, và dụng thuận, dụng trong sạch. Cũng như mặt gương
do có tính của hình ảnh xấu và tính của hình ảnh đẹp mà biểu hiện
được 2 loại hình ảnh ấy. Theo thuyết của luận này, không những dụng
trong sạch, dụng thuận, mới không bao giờ mất, mà dụng dơ bẩn, dụng
trái, cũng không bao giờ mất. Do vậy, Phật có thuận hóa (sự biến thể
và phương cách hóa độ thuận với Tâm) và vi hóa (sự biến thể và phương
cách hóa độ trái với Tâm). Vi hóa là dụng trái, dụng dơ bẩn, mà ở chư
Phật gọi là diệu dụng bất tư nghị: biến thể đủ loại thân hình, cư
trú đủ loại thế giới, quyền hiện đủ loại công việc. Nếu tính
trái mất thì diệu dụng ấy làm sao có? nếu không phải là dụng trái
thì diệu dụng ấy là gì? Vậy cái phải mất chỉ là cái không thực, đó
là vô minh, là vọng tưởng và vọng cảnh của vô minh. Như một kẻ lạc
nhà, đi sai hướng, thì vấn đề không phải xoay nhà, đổi hướng, đừng
đi, mà vấn đề ở chỗ đừng lầm hướng nhà nữa.
Pháp Giới Pháp
Nhĩ
Danh từ pháp nhĩ không do luận
này sáng tác, nhưng được sử dụng như một lý thuyết. Pháp nhĩ là ngữ
khí, như nói thế đấy, vậy đó. Tôi để nguyên. Trưởng giả Tâm minh dịch
là bản nhiên.Tâm mà thể tánh dụng như trên là pháp nhĩ, là pháp môn
pháp giới. Có một pháp nhĩ mà luận này hay nói là thường đồng thường
biệt (thường duy nhất mà thường sai biệt) Tâm thể duy nhất mà tâm
tánh và tâm dụng sai biệt là pháp nhĩ như vậy. Tâm thì tịch mà chiếu
(vắng lặng mà chiếu soi) tịch mà dụng (vắng lặng mà hoạt dụng) cũng
là những pháp nhĩ mà luận này hay nói.
Có Với Chẳng
Có
Có là chẳng có, chẳng có là
có, hoặc có mà chẳng có, chẳng có mà có, 2 câu này luận này nói khá
nhiều mà vẫn không là sáo ngữ. Và thể tánh dụng của Tâm là như vậy,
Tâm là như vậy. Có là chẳng có, vì toàn là tâm thể. Chẳng có mà có,
vì tâm tánh duyên khởi. Câu một là hệ Bát nhã. Câu hai là hệ Pháp tướng.
Câu một là hệ tánh không. Câu hai là hệ diệu hữu. Chỉ và Quán thì Chỉ
là quán có mà chẳng có, các pháp là tâm thể siêu việt; Quán là quán chẳng
có mà có, các pháp là tâm tánh duyên khởi.
Đại Dụng Chỉ
Quán
"Tâm thể vốn đủ 2 trạng
huống vắng lặng và hoạt dụng". Chỉ làm cho vắng lặng thể hiện.
Quán làm cho hoạt dụng phong phú. Vắng lặng là tự lợi. Hoạt dụng là lợi
tha.
Vai Tuồng Ý Thức
Luận này cũng cho ý thức là
công cụ để tu chỉ quán. Nhưng ý thức, qua chỉ quán, trước hết là khả
năng biết pháp biết nghĩa, kế đến thành vô trần trí, rồi thành vô ngại
trí, sau hết chính nó làm cho bản thức thành vô phân biệt trí.
Bước Đầu Chỉ
Quán
Luận này sử dụng những danh từ
chống lại, cưỡng lại, để nói ý chí phản tỉnh. Và đó là công phu
quan trọng trong bước đầu. Bước đầu hơn nữa là phát nguyện, rồi tập
Chỉ, rồi khởi Quán. Tối quan trọng trong bước đầu là biết tin vào
giáo lý mà tự biết tâm thức của mình là mê lầm, "không còn tự
cho tâm thức của mình là không mê lầm nữa". Và từ đó mà bắt đầu
đi,"đừng khinh thường bản thân, cũng đừng khinh thường người".
*
Hãy tạm ngưng sự quan sát nội
dung luận này ở đây. Nay, hãy tạm quan sát ngoại hình của luận này.
Chỉ Quán 3 Tánh
Luận này phần chính có 5 chương.
Tựu trung, chương 1 nói lý thuyết của chỉ quán, 4 chương còn lại toàn
nói trạng huống chỉ quán.Trong đó đặc biệt phải nói là 3 tánh. Vào thời
tôn giả Tuệ tư, 3 tánh được dịch là phân biệt y tha và chân thật. Thế
nhưng trong luận này thì 3 tánh là 3 tánh của tôn giả. Nhất là tánh phân
biệt. Tôn giả định nghĩa phân biệt là"đối lại với trí vô phân
biệt", và nói tất cả cái dụng lợi tha của Phật chính là phân biệt
phần trong sạch. Thiên thai tông của Tàu được tiếng là tư tưởng đặc
hữu của Tàu. Điều đó có phần đúng. Nhưng sự đặc hữu ấy không khỏi
có vết đen trên áo trắng. Ấy là do"vọng văn sinh nghĩa". Nên,
cho đến nay,"tất đàn nghĩa là biến thí", ngày càng là chuyện buồn
cười. Tuệ tư tôn giả vọng văn sinh nghĩa không ít trong luận này. Nhưng
lối sinh nghĩa của tôn giả rất khó, đến nỗi không thể, cho là suy diễn
sai lầm. Luận này đầy những sinh nghĩa của tôn giả, nhưng là sinh nghĩa
đầy tính thuyết phục.
Về Khởi Tín Luận
Lương Khải Siêu tập hợp kiến
giải của học giả Nhật chứng minh Khởi tín luận là sáng tác của Tàu.
Kiến giải ấy như thế nào, tôi chưa được đọc nên chưa biết. Nhưng về
Lương Khải Siêu tôi đã có kinh nghiệm, khi làm việc cho kinh Tứ thập nhị
chương. Ông cực lực bài xích thời đại kinh ấy theo thuyết xưa. Thế
nhưng bản văn ông căn cứ để nói là bản hiện hành. Ông hoàn toàn
không tra đọc kinh ấy ngay trong Đại tạng bản Đại chính!
Luận này liên quan đến Khởi tín
thì khỏi nói. Chỉ nói sự liên quan ấy tất chứng minh được thời đại
của luận ấy - thời đại ngài Chânđế phiên dịch Khởi tín. Một chi tiết
nhỏ mà khiến tôi ngờ vực không ít, ấy là 1 trong những câu của luận
ấy mà luận này trích dẫn. Xin coi ghi chú số 59 thì biết. Phát giác này
đặt ra, ít nhất là sự thận trọng, đối với văn tự của Khởi tín luận.
Nên Có Hay Không?
Luận này chương 1 của phần chính
từ từ đưa người đọc thấy thật rõ cái Tâm duy nhất, bản thể của
Chỉ Quán. Trong 4 chương tiếp theo, chỉ đọc không thôi mà càng lúc càng
thấy như đang Chỉ Quán thật sự. Trong phần kết, gồm 3 chương ngắn, tiêu
đề"chỉ việc' thì rất phải: phải cho thấy Chỉ Quán, ngoài thì
khóa tịnh tu, cần phải có trong sinh hoạt bình thường là lễ bái, ăn uống,
tiện lợi. Sinh hoạt bình thường trọng nhất như lễ bái, khinh nhất như
tiện lợi, đều phải có Chỉ Quán. Thế nhưng, theo thiển ý, bất cứ
lúc nào, việc gì, cũng xét "chẳng có mà có" để sinh hoạt,
"có mà chẳng có" để hội qui. Thế cũng đủ. Vừa khỏi phải phân
tâm, vừa khỏi một cái gì có vẻ không nên có như 3 chương ấy, nhất là
chương cuối, nói. Cảnh cáo cần ghi Rất nên sao lục lại ở đây lời
tôn giả Tuệ tư cảnh cáo về thiền bịnh của những kẻ dám tự xưng
thiền sư. "Chỉ vì chuyên tâm vào sự không nghĩ, lấy sự không nghĩ
ấy làm đối tượng, ý thức bị đối tượng này ràng buộc nên không
còn vin theo những đối cảnh khác. Kẻ lầm lẫn không biết như vậy nên
bảo rằng đó là không còn vin theo các pháp, và sinh ra một cách sâu xa ý
tưởng quí báu cho là chân thật. Do vậy mà thúc dục tâm ý tiếp tục
không ngừng. Rồi ngày đêm luyện tập, lâu ngày thuần thục, không còn
tác ý, và cứ tự nhiên mà đi tới. Thế nhưng họ không biết sự sinh diệt
vẫn thường xuyên liên tục, vẫn thường xuyên nổi lên trong từng sát
na, nổi lên mà không biết; vô minh vọng tưởng chưa loại bỏ mảy may; lại
không biết bản thân đứng vào vị trí nào; thế mà bảo rằng tâm tôi đứng
vào trong sự vắng lặng, sự vắng lặng này là chân như tam muội! Bảo
như vậy thì thật không biết phận mình!".
Nhân Định Phát
Tuệ
Luật tổ Đạo tuyên viết về
tôn giả Tuệ tư như sau, xin coi lại lược truyện: "Phụng trì Bồ
tát giới, không thọ biệt thỉnh, không nhận biệt cúng. Mặc vải thô. Lạnh
thì dùng áo độn cỏ. Ăn ngày 1 bữa. Thường ở núi rừng. Đêm tư duy,
ngày phu diễn, phát ngôn xâu xa. Nhân định mà phát tuệ, điều này thấy
rõ nơi tôn giả Tuệ tư". Thiền của tôn giả Tuệ tư là khổ tu, tinh
học, thực chứng. Luận này cho thấy rõ như vậy. Phi "nhân định mà
phát tuệ", không thể nói gì gọi là đáng nói về luận này. Suốt 5
chương về Chỉ Quán, đặc biệt 4 chương sau, rõ ràng như phơi bày trên
giấy sự tinh tu thực chứng của tôn giả Tuệ tư.
Trí Quang
- Chân thành cảm ơn quý cư sĩ Nguyễn Văn Củng, Đoàn Viết
Hiệp và Nguyễn Anh Tuấn đã phát tâm chuyển tác phẩm này từ dạng Help
File, VPS font sang dạng Word, VNI font. Thích Nhật Từ 3-5-2000
Phần | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 |
|
|