<經 id="n818">KINH ĐẠI TRANG NGHIÊM PHÁP MÔN <卷 id="109368817">Quyển thượng Hán dịch: Đời Tùy, Tam tạng Na-liên-đề-lê-da-xá, người nước Thiên Trúc. Tôi nghe như vầy: Một thời, Đức Phật cùng với năm trăm vị đại Tỳ-kheo và tám ngàn vị Đại Bồ-tát, tập hợp đông đủ tại núi Kỳ-xà-quật, thuộc thành Vương xá. Khi ấy, trong thành Vương xá, có một dâm nữ, tên là Thắng Kim Sắc Quang Minh Đức. Do nhân duyên căn lành đời trước; cô gái này có dáng vẻ đoan chánh, đẹp đẽ, đầy đủ các tướng tốt, toàn thân ánh lên sắc vàng, chiếu sáng rực rỡ, thân hình xinh đẹp, hiếm có trên đời. Cô gái này thông minh, giảng nói không trở ngại, âm thanh trong trẻo, lời lẽ hòa nhã, miệng luôn nở nụ cười, không cọc cằn thô bạo, nhìn ngắm bao dung, đi đứng uyển chuyển dịu dàng; tùy theo chỗ ở, hoặc đi, hoặc đứng, hoặc nằm, hoặc ngồi, mặt đất đều có sắc vàng, chiếu sáng rực rỡ. Dù cô mặc y phục màu xanh, màu vàng hay màu đỏ, cũng đều ánh lên sắc vàng. Khi ấy, tất cả những người trong thành Vương xá, hoặc là con vua, hoặc là con của đại thần, con của trưởng giả, hoặc là kẻ giàu sang…, người nào nhìn thấy cô rồi cũng sinh lòng mê đắm, mến yêu, không muốn xa lìa. Cô gái sắc vàng này, khi ở trong xóm làng, hay dạo chơi trên đường phố, hoặc ở nơi phố chợ đông đúc, hay bên bờ sông, những nơi dạo chơi trong vườn, dù là con trai hay con gái, đồng nam, đồng nữ… cũng đều đi theo và nhìn cô không chán. Vào một ngày nọ, có người con của trưởng giả, tên là Thượng Oai Đức, vì ham vui nên đem theo nhiều của cải quý, đặt lên xe tứ mã và hẹn hò với cô gái sắc vàng. Chiếc xe này, toàn dùng các thứ châu báu tốt quý nhất như là vàng, bạc, lưu ly, ngọc ma-ni trang hoàng thật đẹp đẽ; dựng cờ báu, lọng đẹp, tòa báu, kết hoa, rải các loại hương, đốt hương bột. Các thứ hoa, hòa hợp với hương thơm, dùng để xông ướp. Con trưởng giả lại dùng hoa Chiêm-bặc làm chuỗi ngọc trang sức quanh thân, trông thật oai nghiêm và cùng lên xe đi. Trước xe báu, họ bày các trò ca xướng, nhảy múa, hát vè; phía sau xe, mang theo thức ăn, thức uống ngon ngọt, các thứ y phục, đồ nằm, trước sau cùng đi đến vườn. Lúc ấy, con trai, con gái, đồng nam, đồng nữ trong đám đông đều chạy theo hai bên ngắm nhìn. Bấy giờ, sau khi xuất thiền, Văn-thù-sư-lợi mở lòng lành thương xót tất cả chúng sinh, mà nghó rằng: “Những chúng sinh nào, có thể được giáo hóa trong Đại thừa? Những chúng sinh nào, phải dùng thần thông để giáo hóa? Những chúng sinh nào, phải đem lý nghiệp duyên quá khứ để giáo hóa? Những chúng sinh nào ưa nghe chánh pháp, chịu sự giáo hóa?”. Vừa nghó như vậy xong, chợt thấy cô gái sắc vàng và con của trưởng giả đang cùng ngồi trên xe báu để đi đến vườn. Văn-thù-sư-lợi liền xem xét căn tánh sai khác của họ, xem xét sự sai khác căn tánh của họ rồi nghó: “Cô gái này, đời trước đã có nghiệp duyên căn lành đã lãnh nhận sự giáo hóa, nếu được nghe giáo pháp của ta thì sẽ tin theo mà thọ trì!”. Văn-thù-sư-lợi liền dùng sức thần thông, từ thân, phóng ra ánh sáng, che khuất tất cả, thậm chí ánh sáng mặt trời, cũng không còn nhìn thấy được, huống nữa là các thứ ánh sáng khác. Khi ấy, y áo của Văn-thù-sư-lợi đang mặc tỏa ánh sáng chiếu khắp các hướng, rộng tới một do-tuần, làm cho mọi người đều thấy rõ, lại dùng đủ các thứ châu báu, chuỗi ngọc, mũ trời, để trang nghiêm thân mình, tay nắm ấn chỉ muốn làm cho mọi người trông thấy, mà sinh lòng ưa thích. Làm như vậy rồi, Văn-thù-sư-lợi đi đến đoạn đường chỗ cô gái, ánh sáng của Văn-thù-sư-lợi soi chiếu đến chỗ cô gái và con của trưởng giả, làm cho ánh sáng của xe báu tứ mã bị lu mờ, giống như bóng tối so với sắc vàng ròng thì ánh sáng không thể có được! Cô gái sắc vàng trông thấy các thứ châu báu đẹp đẽ, y phục sáng trong, rạng rỡ ánh sáng của Văn-thù-sư-lợi, thì cho đó là đồng tử trời, rồi sinh chán ghét, không còn ưa thích thân mình và thân của con trưởng giả nữa. Cô gái lại phát sinh lòng tham đắm tấm thân Văn-thù, cả đến y phục. Cô suy nghó: “Ta nên gặp người kia để cùng vui thú, rồi tùy theo lòng dục của người này, mà xin y áo kia”. Trong khi cô suy nghóa, thần lực của Văn-thù-sư-lợi, khiến Tỳ-sa-môn vương, hóa thành người, từ trên không bay xuống, đứng trước cô gái, nói: –Ngươi không được sinh lòng tham dục với người ấy. Vì sao? Bởi vì người ấy trong sạch, không có sự tham lam ham muốn. Cô gái sắc vàng hỏi: –Người ấy là ai vậy? Tỳ-sa-môn đáp: –Người ấy là Đồng tử Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi. Cô gái sắc vàng hỏi: –Vì sao gọi là Bồ-tát? Xin ngài khéo nói rõ. Bồ-tát là trời chăng? Là Dạ-xoa? Là Càn-thát-bà? Là A-tu-la? Là Ca-lầu-la? Là Khẩn-na-la? Là Ma-hầu-la-già chăng? Là Đế Thích chăng? Là Phạm vương hay là trời Tứ Thiên vương? Tỳ-sa-môn đáp: –Chẳng phải trời, chẳng phải Dạ-xoa, chẳng phải Càn-thát-bà, chẳng phải A-tu-la, chẳng phải Ca-lầu-la, chẳng phải Khẩn-na-la, chẳng phải Ma-hầu-la-già, cũng chẳng phải Đế Thích, cũng chẳng phải là Phạm thiên, cũng chẳng phải là trời Tứ Thiên vương. Như vậy, những loại trên đều chẳng phải là Bồ-tát. Bồ-tát là tùy theo mong cầu của tất vả chúng sinh đều làm cho vừa lòng, thỏa ý; không có sự tiếc rẻ hay keo kiệt. Như vậy mới gọi là Bồ-tát. Lúc ấy, cô gái sắc vàng suy nghó: “Như những lời đã nói, ta lúc này xin y, nhất định sẽ được”. Cô liền xuống xe, đi về phía Văn-thù-sư-lợi. Đến nơi, cô thưa: –Văn-thù-sư-lợi! Xin ngài có thể cho tôi áo y ngài đang mặc không? Văn-thù-sư-lợi đáp: –Này cô em! Nếu cô có thể phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thì ta sẽ cho cô y phục. Cô gái sắc vàng hỏi Văn-thù-sư-lợi: –Thế nào gọi là tâm Bồ-đề? Văn-thù-sư-lợi đáp: –Thân cô tức là Bồ-đề. Cô gái sắc vàng hỏi: –Tại sao thân tôi tức là Bồ-đề? Xin ngài nói rõ cho tôi được hiểu. Rồi cô bèn nói kệ xin y: Từ lâu Văn-thù cầu Bồ-đề Nay cho tôi y đắp trên thân Nếu không, ngài chẳng phải Bồ-tát Giống như sông cạn không có nước. Văn-thù-sư-lợi nói kệ, đáp lại: Nếu cô phát khởi tâm Bồ-đề Ta sẽ cho y theo ý cô Người có tâm Bồ-đề vững chắc Tất cả trời, người đều cúng dường. Bấy giờ, cô gái Thắng Kim Sắc lại dùng kệ, hỏi: Bồ-đề nghóa là gì? Bồ-đề do ai được? Bồ-đề ai ban cho? Bồ-đề làm sao thành? Văn-thù-sư-lợi bảo cô gái: –Hiện nay có Đức Phật, hiệu là Thích-ca Mâu-ni Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác. Đức Phật ấy dạy: Thân và Bồ-đề đều bình đẳng. Vậy nghóa là thế nào? Thân cô có năm ấm, mười hai nhập và mười tám giới không? Cô gái này, do nhân duyên căn lành đời trước, liền đạt được Pháp quang. Được Pháp quang rồi, cô liền thưa với Văn-thù-sư-lợi: –Đúng vậy, đúng vậy! Thân này của tôi có năm ấm, mười hai nhập và mười tám giới. Văn-thù-sư-lợi lại hỏi: –Ý cô muốn nói gì? Sắc có thể hiểu, có thể biết không? Cô gái đáp: –Không, không thể hiểu, không thể biết được. Văn-thù-sư-lợi nói: –Bồ-đề cũng vậy, không thể hiểu, không thể biết được. Như vậy, sắc bình đẳng, Bồ-đề cũng bình đẳng, cho nên ta nói thân cô tức là Bồ-đề. Rồi hỏi: –Ý cô thế nào? Thọ, tưởng, hành, thức có thể hiểu, có thể biết không? Cô gái đáp: –Không thể hiểu, không thể biết. Văn-thù-sư-lợi nói: –Bồ-đề cũng như vậy, không thể hiểu, không thể biết được. Như vậy, thọ, tưởng, hành, thức đều bình đẳng; Bồ-đề cũng bình đẳng. Cho nên ta nói: Thân cô tức là Bồ-đề. Lại hỏi: –Ý cô thế nào? Sắc đấy, có thể nói là ở nơi đây, ở nơi kia, ở trong hay ở ngoài, hoặc ở giữa không? Có thể nói là màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu trắng, trong suốt hay lẫn lộn sắc không? Cô gái đáp: –Không. Văn-thù-sư-lợi nói: –Bồ-đề cũng như vậy; không thể nói được. Như vậy, sắc bình đẳng, Bồ-đề cũng bình đẳng, cho nên, ta nói thân cô tức là Bồ-đề. Lại hỏi: –Thọ, tưởng, hành, thức có thể nói là ở nơi đây, ở nơi kia, ở trong, ở ngoài hay ở giữa không? Có thể nói là màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu trắng, trong suốt hay đủ thứ màu sắc không? Cô gái đáp: –Không! Cũng như sắc, không thể nói được, cho đến thọ, tưởng, hành, thức, cũng không thể nói được. Văn-thù-sư-lợi nói: –Bồ-đề cũng như vậy, không thể nói được. Như vậy, thọ, tưởng, hành, thức bình đẳng, cho nên Bồ-đề bình đẳng. Vì thế ta nói, thân cô tức là Bồ-đề. Lại nữa, năm ấm như huyễn, thể tánh thì không thật, do điên đảo sinh ra. Bồ-đề cũng như huyễn, thể tánh thì không thật, cũng do điên đảo, nên thế tục nói là sinh; như vậy, hư huyễn bình đẳng, cho nên năm ấm bình đẳng; hư huyễn bình đẳng cho nên Bồ-đề bình đẳng. Vì thế ta nói, thân cô tức là Bồ-đề. Lại nữa, năm ấm như mộng, thể tánh không sinh, Bồ-đề cũng như vậy, thể tánh cũng không sinh. Như vậy, mộng bình đẳng, cho nên năm ấm bình đẳng; mộng bình đẳng, cho nên Bồ-đề bình đẳng. Vì vậy ta nói, thân cô tức là Bồ-đề. Lại nữa, năm ấm như bóng nắng, do nghiệp duyên sinh ra. Bồ-đề cũng như sóng nắng, không có nghiệp duyên, không có quả báo. Như vậy, sóng nắng bình đẳng, cho nên năm ấm bình đẳng; sóng nắng bình đẳng, cho nên Bồ-đề bình đẳng. Vì vậy ta nói, thân cô tức là Bồ-đề. Lại nữa, năm ấm như hình trong gương, thể tánh hoàn toàn không, không đi, không đến. Bồ-đề cũng như vậy, không đi, không đến. Như vậy, ảnh trong gương bình đẳng, cho nên năm ấm bình đẳng; ảnh trong gương bình đẳng, cho nên Bồ-đề bình đẳng. Vì thế ta nói, thân cô tức là Bồ-đề. Lại nữa, năm ấm chỉ là giả danh. Bồ-đề cũng như vậy, chỉ là giả danh. Như vậy, năm ấm bình đẳng, cho nên Bồ-đề bình đẳng. Thế nên ta nói, thân cô tức là Bồ-đề. Lại nữa, năm ấm không có ai tạo ra, nghóa là xa lìa người tạo ra. Bồ-đề năm ấm không có thể tánh, xa lìa nghóa thể tánh. Bồ-đề năm ấm không sinh, xa lìa nghóa sinh. Bồ-đề năm ấm không thường, xa lìa nghóa thường. Bồ-đề năm ấm không vui, xa lìa nghóa vui. Bồ-đề năm ấm không trong sạch, xa lìa nghóa trong sạch. Bồ-đề năm ấm không có ngã, xa lìa nghóa ngã. Bồ-đề năm ấm vốn trong sạch, xa lìa nghóa thanh tịnh. Bồ-đề năm ấm không nắm giữ, xa lìa nghóa nắm giữ. Bồ-đề năm ấm không có nhà, xa lìa nghóa nhà. Bồ-đề năm ấm không đi, không đến, không có nghóa đi đến. Đó là pháp luận của Thánh nhân về Bồ-đề năm ấm. Bồ-đề cũng là pháp luận của Thánh nhân. Luận pháp hay chẳng luận pháp, thì thể tánh năm ấm vẫn như vậy? Như Lai hiểu biết tất cả, nên được gọi là Bồ-đề. Như vậy, thể tánh năm ấm tức là thể tánh Bồ-đề. Thể tánh Bồ-đề tức là thế tánh của tất cả chư Phật. Như trong thân của cô, thể tánh năm ấm, tức là thể tánh của tất cả chư Phật. Thể tánh chư Phật tức là thể tánh năm ấm của tất cả chúng sinh. Vì vậy nên ta nói, thân cô tức là Bồ-đề. Lại nữa, hiểu biết năm ấm, gọi là hiểu biết Bồ-đề. Vì sao? Chẳng phải xa lìa năm ấm mà Đức Phật đắc được Bồ-đề, cũng chẳng phải lìa Bồ-đề mà Đức Phật giác ngộ được năm ấm. Phương tiện này cho biết, tất cả chúng sinh đều đồng với Bồ-đề. Bồ-đề cũng đồng với tất cả chúng sinh. Cho nên ta nói, thân cô tức là Bồ-đề. Lại nữa, tứ đại pháp phát sinh, đó là giới đất, giới nước, giới lửa và giới gió. Giới đất này, chẳng phải ta, chẳng phải là chúng sinh, chẳng phải là thọ mạng, chẳng phải trượng phu, chẳng phải người. Giới đất bình đẳng là Bồ-đề, không nắm giữ quá khứ. Giới nước bình đẳng là Bồ-đề, nên thể tánh không sinh. Giới lửa bình đẳng là Bồ-đề, nên thể tánh không thể biết. Giới gió bình đẳng là Bồ-đề, nên thể tánh không thể thấy. Như Lai biết được thể tánh của giới đất, cho nên đắc được Bồ-đề. Như vậy, Như Lai hiểu biết được thể tánh của giới đất, giới nước, giới lửa và giới gió, cho nên đắc được quả Bồ-đề. Hiểu được tánh đất thì được gọi là Bồ-đề. Như vậy, nếu có thể hiểu được tánh của nước, lửa và gió… thì được gọi là Bồ-đề. Vì thế ta nói, thân cô tức là Bồ-đề. Lại nữa, giới đất không biết đến nước, giới nước không biết đến lửa, giới lửa không biết đến gió. Như vậy, các giới không có tên gọi, không thể nói, thì gọi là Bồ-đề. Thế nên ta nói, thân cô tức Bồ-đề. Lại nữa, thân cô, pháp của mắt có sinh không? Như vậy, tai, mũi, lưỡi, thân và ý có sinh không? Này cô em! Trong cô đây nhãn không, thể tánh của nhãn cũng không, tức là Bồ-đề. Như vậy, tai, mũi, lưỡi, thân và ý không. Thể tánh của ý không, tức là Bồ-đề. Lại nữa, nếu thể tánh của nhãn không, thì sắc không thể nói, thể tánh của sắc không tức là Bồ-đề. Như vậy, thể tánh của nhó, tỷ, thiệt, thân và ý: Không, thì tất cả pháp không thể nói. thể tánh pháp không, tức là Bồ-đề. Lại nữa, nhãn không giữ lấy sắc, Bồ-đề cũng như nhãn, cũng không giữ lấy sắc. Như vậy, tai, mũi, lưỡi, thân và ý cũng không ôm giữ lấy thanh, hương, vị, xúc và pháp. Bồ-đề cũng như vậy, không ôm giữ lấy tất cả pháp. Như vậy, thức giới của mắt không trụ trong sắc giới; thức sắc giới của mắt cũng không trụ trong Bồ-đề; thức giới của tai, thức giới của mũi, thức giới của lưỡi, thức giới của thân và thức giới của ý, đều không trụ trong pháp giới. Như vậy, pháp giới của ý thức không thụ trong Bồ-đề. Thức giới của mắt và giới của Bồ-đề là không hai, không khác; cho đến giới của ý thức, giới của Bồ-đề cũng không hai, không khác. Cho nên ta nói, thân cô tức là Bồ-đề. Lại nữa, cái hiểu biết về mắt được gọi là Bồ-đề. Như vậy, hiểu biết về tai, mũi, lưỡi, thân và ý cũng được gọi là Bồ-đề. Thể tánh của mắt là không; năng lực hiểu biết thể tánh như vậy cũng không, vậy tức là Bồ-đề. Thể tánh của tai, mũi, lưỡi, thân và ý là không. Năng lực hiểu biết như vậy tức là Bồ-đề. Lại nữa, thể tánh của mắt là không tham, không sân, không si, xa lìa được tham, sân, si tức là Bồ-đề. Như vậy, thể tánh của tai, mũi, lưỡi, thân và ý là không tham, không sân, không si, xa lìa được tham, sân, si tức là Bồ-đề. Mắt không có chủ, không có chấp giữ. Bồ-đề cũng không có chủ, không có chấp giữ. Như vậy, tai, mũi, lưỡi, thân và ý cũng không có chủ, không chấp giữ. Bồ-đề cũng không có chủ, cũng không chấp giữ. Trong mắt không có pháp nam, không có pháp nữ, cũng chẳng phải nam, chẳng phải nữ. Như vậy, trong Bồ-đề không có pháp nam, không có pháp nữ, cũng chẳng phải nam, chẳng phải nữ. Trong tai, mũi, lưỡi, thân và ý, không có pháp nam, không có pháp nữ, chẳng phải nam, cũng chẳng phải nữ. Như vậy, trong Bồ-đề, cũng không có pháp nam, không có pháp nữ, cũng chẳng phải nam, chẳng phải nữ. Lại nữa, nhãn-sắc Như Lai, thấu rõ được cái nghóa Như này cho nên gọi là Bồ-đề. Như vậy, ý-pháp như Như Lai, hiểu rõ được nghóa Như này, cho nên gọi là Bồ-đề. Thế nên ta nói, thân cô tức là Bồ-đề. Lại nữa, thân cô không có ngã, không có chúng sinh, không có thọ mạng, không có hữu tình, không có phàm phu, không người, không ngã, không người tạo ra, không người lãnh thọ, không người thấy, không người nghe, không người ngửi, không người nếm, không người tiếp xúc, không người biết. Bồ-đề ấy cũng không ngã, không chúng sinh, không thọ mạng, không phàm phu, không hữu tình; không người, không ngã, không người tạo ra, không người lãnh thọ, không người thấy, không người nghe, không người ngửi, không người nếm, không người tiếp xúc, không người biết. Như vậy, cho nên nói, tất cả pháp không có thể biết, tức là Bồ-đề. Lại nữa, thân này không biết, không hiểu, không tạo ra, giống như cỏ cây, đá ngói, dù ở trong đất giới hay ngoài đất giới, đều gọi là thể tánh của giới đất. Tánh của đất giới, Như Lai dùng trí lực Bát-nhã, đã giác ngộ rồi. Thế nên ta nói, thân cô tức là Bồ-đề. Lại nữa, này cô em! Như tâm ý cô hòa hợp, suy lường phân biệt mà tâm ý suy lường phân biệt, tại không hiểu, không biết, không ở nơi da, không ở trong máu thịt, không ở trong xương tủy, không ở nơi tóc lông, không ở nơi móng vuốt, không ở trong, không ở ngoài, không ở trong mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý, chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ, không phải định trụ, cũng chẳng phải không định trụ, chẳng phải trụ nơi đây, chẳng phải trụ nơi kia, chẳng phải sắc, không thể thấy, không thể nắm bắt, không ngăn ngại, không phân biệt, không thể nắm giữ, không thể hòa hợp; chẳng phải nhà, lìa nghóa nhà; trong sạch, rất trong sạch. Ánh sáng chiếu rực rỡ tâm ý suy lường phân biệt ấy, không cùng với phiền não hòa hợp, cũng chẳng trong sạch. Vì sao? Vì thể tánh sạch, cho nên không hòa hợp với phiền não, không hòa hợp, cho nên trong sạch sáng rỡ. Ánh sáng kia không có thân, vì không có thân cho nên không hòa hợp với phiền não, cũng chẳng phải trong sạch. Như vậy, thể tánh của ấm, giới, nhập tức là Bồ-đề. Như vậy, thể tánh của Bồ-đề tức là ấm, giới và nhập. Thế nên, tánh ấm giới, nhập của thân ngươi, gọi là Bồ-đề. Vì sao? Chẳng phải xa lìa tánh ấm, giới, nhập, cho nên được gọi là Bồ-đề. Trong việc xa lìa ấm, giới, nhập cũng không thể đạt được Bồ-đề. Hiểu được ấm, giới, nhập tức là Bồ-đề. Cho nên ta nói, tất cả pháp bình đẳng. Hiểu được điều này, gọi là Bồ-đề. Đồng tử Văn-thù-sư-lợi nói pháp này rồi, trong hư không, có năm trăm vị chư Thiên phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Những người đi theo cô gái Thắng Kim Sắc Quang Minh Đức, hoặc là con trai, con gái, đồng nam, đồng nữ có tới hai trăm người, cũng phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; lại còn có sáu mươi trời, người ở trong các pháp đạt được Pháp nhãn tịnh. Khi ấy cô Thắng Kim Sắc vui mừng hớn hở, đạt được tâm trong sạch, nên cả thân thể cúi sát đất, đảnh lễ dưới chân Văn-thù-sư-lợi và thưa: –Quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Quy y Tam bảo rồi, lãnh giữ năm giới phạm hạnh; thọ lãnh giới pháp rồi, cô hết lòng phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Đã phát tâm rồi, cô bạch với Văn-thù: –Con nay đã được nghe giáo pháp như vậy, vì tất cả chúng sinh được an ổn, cho nên phát sinh lòng Từ bi; vì không lìa hạt giống Phật, cho nên hết lòng, phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cũng như ngài Văn-thù-sư-lợi đã vì con mà giảng nói pháp Bồ-đề này vậy. Con phải làm theo và cũng nói rõ, vì tất cả chúng sinh sẽ nói pháp như của Văn-thù-sư-lợi đã nói. Như vậy, Phật pháp tịch diệt đại tịch diệt, mà con không biết, nên chạy theo những cái hiểu và thấy xấu, phát sinh có tâm điên đảo, chấp vào thân kiến, tham đắm nơi thân mình, lại còn khiến cho người khác tham đắm. Con nay đã một lòng trong sạch xin sám hối tất cả nghiệp tội. Như Văn-thù-sư-lợi nói, tham pháp tịch diệt thì tất cả các pháp hòa hợp cũng tịch diệt như vậy. Nếu có chúng sinh nào, không biết pháp này, mà phát sinh sự tham đắm, thì con có thể làm cho người này, xa lìa tham đắm, an trụ trong Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vì sao? Vì tất cả phiền não cũng như người chết, chỉ do điên đảo, vọng tưởng sinh ra. Nếu không có các vọng tưởng, điên đảo, thì phiền não thảy đều bị diệt. Con nay được nghe pháp quan trọng của Văn-thù-sư-lợi giảng nói, hiểu được tất cả phiền não giống như mây mù, thể tánh nó không thật; phiền não như ánh chớp, dù một niệm cũng không trụ; phiền não như gió, thể tánh nó không sinh; phiền não như vẽ tranh giữa hư không, không thể thấy dấu vết; phiền não như vẽ trong nước, vẽ xong liền mất; phiền não như quỷ Dạ-xoa, phát sinh sự hiểu biết xấu; phiền não như bệnh nóng sốt, điên cuồng nói bậy. Thể tánh của phiền não không có, hiểu biết xấu phát sinh, phiền não khó xả bỏ được, chấp vào ngã và ngã sở, vật không có thật, vọng chấp khách trần; phiền não sinh sự giả dối. Phiền não tùy theo vọng tưởng xuất hiện, ôm giữ những hiểu biết xấu. Phiền não như con mắt, thấy đủ các loại cảnh phát sinh. Thể tánh phiền não không dứt, do tâm bẩn đục phát sinh. Thể tánh phiền não không, do duyên hòa hợp sinh ra; phiền não như khối tập hợp, từ năm ấm, mười tám giới và mười hai nhập hòa hợp; phiền não không thể nhận biết, không có danh sắc; phiền não không thể biết, không hiểu được điều lành; phiền não như hạt giống, có thể phát sinh Bồ-đề. Vì sao? Vì phiền não là nhân duyên chủ yếu làm cho Bồ-đề tràn đầy. Này Văn-thù-sư-lợi, Bồ-đề vững như Kim cang, phiền não của chúng sinh, không thể lay động. Bồ-đề như dấu vết Kim cang, tất cả phiền não không thể phá được. Vì sao? Vì pháp giới phương tiện là không thể hoại! Lại nữa, Văn-thù-sư-lợi! Thấy được phiền não gọi là Bồ-đề. Vì sao? Vì tất cả cảnh giới đều thuận theo Bồ-đề. Như vậy, Bồ-đề không có chỗ trụ, tất cả phiền não cũng không có chỗ trụ. Vì sao? Vì sinh tức là diệt. Văn-thù-sư-lợi! Như thể tánh của tâm là không thể nói rõ; cũng không thể nói, ở chỗ này, ở chỗ kia. Thể tánh của tham, sân, si cũng như vậy, Bồ-tát biết như vậy về phiền não. Đối với những chúng sinh nhiều tham lam, nhiều sân hận nhiều si mê; thì khéo léo giáo hóa, nhưng không bị những chúng sinh này não loạn, cho đến việc giáo hóa những chúng sinh có đủ tham, sân, si; cũng không để cho bị não loạn. Văn-thù-sư-lợi! Như ta có tham, sân, si; tất cả tham, sân, si của chúng sinh, cũng lại như vậy. Như ta có phiền não, tất cả phiền não của chúng sinh, cũng lại như vậy. Lại nữa, Văn-thù-sư-lợi! Ví như lửa lớn, không phát sinh sợ hãi, với tất cả cỏ cây. Như vậy, Bồ-tát thực hành trí tuệ, không phát sinh sợ hãi, đối với các phiền não, ví như mặt trời, không tồn tại với bóng tối. Như vậy, Bồ-tát thực hành trí tuệ, không ở chung với các hoặc. Ví như gió lớn, thì dù núi rừng, cây cối, cũng không thể ngăn ngại. Như vậy, Bồ-tát thực hành trí tuệ, thì tất cả cảnh giới phiền não của thế gian, không thể ngăn ngại. Ví như hư không, kiếp lửa không thể thiêu đốt. Như vậy, Bồ-tát thực hành trí tuệ, dù là lửa các phiền não, cũng không thể thiêu đốt được. Ví như có vật báu, gọi là Thiết ái, không trụ, không sạch, tùy theo chỗ nó ở, mà tất cả trong sạch. Như vậy, Bồ-tát thực hành trí tuệ, đối với các phiền não, cũng lại không trụ. Ví như hư không, không hòa hợp với đất. Như vậy, Bồ-tát hành trí tuệ, không hòa hợp với các phiền não và các kết sử. Như núi Thiết vi, thì gió không thể làm lay động; như vậy, tất cả phiền não, không thể làm lay chuyển Bồ-tát hành trí tuệ. Ví như chim hộc, chim dang, đối với hỗn hợp nước và sữa, thì chỉ nuốt sữa mà không nuốt nước; như vậy Bồ-tát hành trí tuệ, dù hòa hợp với tất cả phiền não, nhưng chỉ giữ phần trí, mà không giữ lấy phiền não. Ví như ở nước Uất-đơn-việt, con trai, con gái, hòa hợp đều đến dưới gốc cây, nếu chẳng phải người thân, thì cành cây rủ xuống che khắp toàn thân họ. Bồ-tát cũng như vậy, không giáo hóa những chúng sinh căn tánh chưa thuần thục. Lại nữa, Văn-thù-sư-lợi! Nay con không còn sợ hãi đối với tất cả phiền não. Vì sao? Vì đã biết được tánh của tất cả phiền não, vì khéo mặc được áo không biết sợ của Bồ-tát. Ví như người khỏe mạnh, ra trận không sợ hãi. Nếu có lòng sợ hãi, thì chẳng phải là người khỏe mạnh. Bồ-tát cũng vậy; nếu phát sinh lòng sợ hãi đối với các phiền não, thì chẳng phải là Bồ-tát. Lại như có người vào trận đánh nhau, đã không đánh thắng lại còn bị người kia làm hại, thì không được gọi là dũng mãnh. Nếu các Bồ-tát mà bị phiền não tổn hại, thì không được gọi là Bồ-tát. Văn-thù-sư-lợi! Như ngọc tịnh thủy, nếu thả vào nước đục, nước đục liền trong sạch mà viên ngọc không bị nước đục làm bẩn. Bồ-tát dù hòa hợp với phiền não, cũng không bị phiền não làm ô nhiễm. Khi nói những lời này rồi, Thắng Kim Sắc nữ hỏi Văn-thù-sư-lợi: –Thế nào là Bồ-tát hay xa lìa phiền não? Văn-thù-sư-lợi đáp: –Vị Bồ-tát nào biết phiền não phát sinh, biết phiền não diệt, thì không được gọi là lìa phiền não. Ví như ngọn đèn sáng, có thể làm tan hết bóng tối. Nếu cùng tồn tại với bóng tối, thì không được gọi là đèn. Như vậy, Bồ-tát thấy phiền não phát sinh, thấy phiền não diệt, thì không được gọi là Bồ-tát xa lìa phiền não. Lại nữa, Bồ-tát xa lìa phiền não, không thấy phiền não, không thấy thanh tịnh, chẳng phải thấy, chẳng phải không thấy, xa lìa tâm, ý thức; thì được gọi là xa lìa phiền não. Đối với các nơi kia, tâm có phân biệt, cho đến có nghó về Niết-bàn thì cũng gọi là không xa lìa phiền não. Vì sao? Vì hoặc là tâm, hoặc là tâm số phát sinh, phan duyên tội phước. Phan duyên này được gọi là tất cả nghiệp tạo tác. Tạo tất cả nghiệp rồi, bị lưu chuyển, pháp lưu chuyển gọi tên là Thật lưu chuyển. Tất cả lưu chuyển, gọi là phiền não. Lại nữa, gọi hòa hợp là phiền não. Thế nào là hòa hợp? Mắt hòa hợp với sắc, tai hòa hợp với âm thanh, mũi hòa hợp với hương, lưỡi hòa hợp với mùi vị, thân hòa hợp với va chạm, ý hòa hợp với pháp; Tam-muội hòa hợp với phiền não. Vì sao? Ngay hiện tại mà thấy được Tam-muội xuất một tướng thì được gọi là phiền não. Xa lìa cái hiểu ác, được gọi là xa lìa phiền não. Xa lìa tâm hành, gọi là xa lìa phiền não. Không công dụng được gọi là xa lìa phiền não. Xa lìa số lượng được gọi là xa lìa phiền não. Nếu có Bồ-tát, tự xa lìa phiền não, lại làm cho người khác cũng xa lìa, vì cởi bỏ mọi trói buộc cho tất cả chúng sinh, nên siêng năng thực hành tinh tấn, Như Lai gọi đấy là Bồ-tát tinh tấn, xa lìa phiền não. Thắng Kim Sắc nữ lại hỏi Văn-thù-sư-lợi: –Vì sao gọi là Bồ-tát tối thắng tinh tấn? Văn-thù-sư-lợi đáp: –Nếu có Bồ-tát không chứng được pháp “không”. Đối với thân kiến chúng sinh, lòng thương xót, không dứt bỏ, không chứng vô tướng. Đối với ác kiến chúng sinh, lòng thương xót không dứt bỏ, không chứng vô nguyện. Đối với nguyện hạnh chúng sinh, không dứt bỏ lòng thương xót và không chứng vô tác pháp. Đối với tác hành chúng sinh, lòng thương xót không bỏ, không chứng vô sinh pháp. Đối với sinh, lão, tử chúng sinh, lòng thương xót không bỏ, không chứng vô xuất pháp. Đối với sinh diệt chúng sinh lòng thương xót không bỏ và không chứng quả Thanh văn, Bích-chi-phật, trụ ở địa vị Bồ-tát. Đối với tất cả chúng sinh, không dứt bỏ lòng thương xót, thì được gọi là Bồ-tát tối thắng tinh tấn. Ví như biển lớn, dễ vào khó ra. Vì sao? Vì không khéo dùng phương tiện. Như vậy, Thanh văn, Duyên giác vào trong pháp Không, Vô tướng, Vô tác, không có phương tiện thì không thể tự ra được. Bồ-tát tối thắng tinh tấn, có phương tiện, nên có thể vào, có thể ra. Ví như có người vào trận chiến đấu, thân không bị thương tổn mà có thể thoát ra khỏi, như vậy rất là khó. Như vậy, Bồ-tát vào ba cửa giải thoát: Không, Vô tướng, Vô nguyện, có phương tiện, thì có thể thoát ra ngoài, cho nên được gọi là Bồ-tát phương tiện. Thắng Kim Sắc nữ hỏi Văn-thù-sư-lợi: –Tại sao gọi là Bồ-tát phương tiện? Văn-thù-sư-lợi đáp: –Phương tiện có hai loại: Một là không xả bỏ sinh tử; hai là không trụ trong Niết-bàn. Lại có hai loại: Một là Không môn; hai là Ác kiến môn. Lại có hai loại: Một là Vô tướng môn; hai là Tướng giác môn. Lại có hai loại: Một là Vô nguyện môn; hai là Nguyện sinh môn. Lại có hai loại: Một là Vô tác môn; hai là Chủng thiện căn hành môn. Lại có hai loại: Một là Vô sinh môn; hai là Thị sinh môn. Lại có hai loại: Một là Vô xuất môn; hai là Ấm–Nhập–Giới môn. Lại có hai loại: Một là Tịnh diệt môn; hai là Xuất sinh môn. Lại có hai loại: Một là Định môn; hai là Giáo hóa môn. Lại có hai loại: Một là Pháp giới môn; hai là Hộ chánh pháp môn. Lại có hai loại: Một là Thanh văn môn; hai là Thâm tâm Bồ-đề hành môn. Lại có hai loại: Một là Bích-chi-phật môn; hai là Tứ vô ngại môn. Bồ-tát nào, đối với hai loại pháp môn như các loại ở trên, vì người khác mà hiện ra không có chỗ dính mắc; đối với tất cả pháp môn, cũng lại như vậy, thì được gọi là phương tiện. Lại có hai loại pháp môn: Một là Tham môn; hai là Ly tham môn. Lại có hai loại khác: Một là Sân môn; hai là Ly sân môn. Lại có hai loại nữa: Một là Si môn; hai là Ly si môn. Lại có hai pháp môn: Một là Phiền não môn; hai là Ly phiền não môn. Lại có hai loại: Một là Nhất thiết sinh môn; hai là Ly sinh môn. Đấy gọi là Bồ-tát Phương tiện môn. Lại có hai loại: Một là Nhất thiết phàm phu hành môn; hai là Nhất thiết học, Vô học, Thanh văn, Bích-chi-phật, Bồ-tát Như Lai môn. Bậc nào có thể biết hai loại môn này, thì được gọi là Bồ-tát Tối thắng phương tiện. KINH ĐẠI TRANG NGHIÊM PHÁP MÔN <卷 id="109368818">Quyển hạ Bấy giờ, cùng với vị Tăng theo hầu là A-nan, từ nơi kinh hành, tại đỉnh núi Kỳ-xà-quật, Đức Thế Tôn từ xa khen ngợi Văn-thù-sư-lợi: –Lành thay, lành thay! Văn-thù-sư-lợi đã khéo nói pháp môn Bồ-tát Tối thắng tinh tấn phương tiện. Đúng như ông đã nói. Những lời khen ngợi này, khi phát ra âm thanh của Đức Thế Tôn vang khắp tam thiên đại thiên thế giới, tất cả mặt địa có sáu cách chấn động. Lúc ấy có vô lượng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân Phi nhân… Đế Thích, Thiên vương, Đại phạm Thiên vương, bốn Đại Thiên vương, nghe theo âm thanh này, đều đi đến chỗ Đức Phật cung kính, đảnh lễ dưới chân, rồi ngồi qua một bên và cùng bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Vừa rồi, chúng con nghe Như Lai khen ngợi: “Lành thay!”, âm thanh vang khắp đại thiên thế giới, mặt đất đều chấn động; nhưng chúng con chưa biết rõ Như Lai khen ngợi ai? Lúc ấy, Thế Tôn bảo các đại chúng: –Vừa rồi, ta khen ngợi Văn-thù-sư-lợi. Khi ấy, đại chúng lại bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Văn-thù-sư-lợi nay ở đâu? Phật bảo: –Ở trên ngã tư đường, thuộc cửa Đông thành Vương xá, cùng với cô gái sắc vàng, giảng giải trình bày pháp vi diệu cho mọi người. Các ông, người nào thích nghe pháp, nên đến chỗ ấy. Tất cả Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân… Đế Thích, Thiên vương, Đại phạm Thiên vương, Tứ đại Thiên vương… nghe Phật dạy rồi, đều đến chỗ Văn-thù-sư-lợi, mỗi người từ thân mình hiện lên ánh sáng cao đẹp khác lạ, làm mưa hoa trời khắp cả thành Vương xá và khắp cả mọi người. Bấy giờ, tất cả trời, người và đại chúng, đều cùng được thấy nhau mà không có chướng ngại. Tất cả nhân dân thành Vương xá thấy các chúng trời và thấy hoa vi diệu, đều cùng nhau đi đến chỗ Văn-thù-sư-lợi. Lúc ấy, vua A-xà-thế cùng oai đức lớn, trang nghiêm bốn bộ binh, cùng các thể nữ ở hậu cung, cũng đi đến chỗ Văn-thù-sư-lợi. Lúc này, trong thành tất cả con vua, con của trưởng giả, con đại thần, con của cư só… thấy cô gái sắc vàng tâm trụ Niết-bàn, họ đều bỏ hết tâm ô nhiễm, năm căn trong sạch, có đầy đủ sự hổ thẹn, không còn phiền não. Khi thấy những người này, không còn sinh tâm ô nhiễm với Thắng Kim Sắc nữ, Văn-thù-sư-lợi mới hỏi Thắng Kim Sắc nữ: –Nay ngươi để phiền não ở chồ nào, khiến con vua cho đến con của cư só… không còn sinh tâm ô nhiễm? Cô gái sắc vàng thưa: –Tất cả phiền não và chúng sinh phiền não, đều ở nơi bờ trí tuệ giải thoát, ở trong pháp: “Pháp giới như như bình đẳng”. Các phiền não kia chẳng phải có sinh, chẳng phải có diệt, cũng chẳng phải ở yên một chỗ. Tôi biết như vậy, thấy chính xác như vâïy về thể tánh phiền não. Văn-thù-sư-lợi hỏi Thắng Kim Sắc nữ: –Thể tánh của phiền não là gì? Thắng Kim Sắc nữ đáp: –Các thấy biết ác, là thể tánh của phiền não. Phan duyên không trong sạch, nên phiền não phát sinh. Thấy biết được trong sạch nên phiền não như khách. Như vậy, phiền não không hòa hợp với “không trí”; không hòa hợp với vô tướng, vô nguyện. Như rắn độc lớn, khi mắt nó nhìn thấy người, người liền bị cắn chết. Nếu có người trí, giữ thuốc trị độc rắn, đi đến chỗ con rắn ấy, rắn nghe hơi thuốc, liền mất chất độc. Thậm chí đến những đứa trẻ, với các loại xúc não không vì thế mà làm hại. Thưa Văn-thù-sư-lợi! Ngày trước, vì cái thấy hiểu xấu, nên con phát sinh tâm điên đảo, bị lửa phiền não thiêu đốt, yêu đắm thân mình, không biết thân đó như bọt nước, như ngọn lửa, như huyễn, như hóa, như trong giấc mộng; nhận năm thứ sướng vui như nếm mật bôi trên dao. Người ngu ham mùi vị, không biết sẽ bị đứt lưỡi. Lại như sương trên ngọn cỏ, gặp mặt trời liền tan; không biết các hành là vô thường chóng qua, không biết năm ấm toàn là thường và khổ; không biết tánh của thân mình là không trong sạch; không biết tất cả pháp đều xa lìa các thứ sai khác của ngã và ngã sở; không biết mình vô sở kiến nên khiến người khác tối tăm; không biết mình đã tự trói buộc, lại làm cho người khác bị trói buộc. Con chưa được nghe pháp, nên đối với các pháp này, không được giải thoát. Con nay nghe pháp, đạt được trí tuệ rồi, đối với các phiền não đã được giải thoát. Thế nên, tất cả chúng sinh đã không còn có tâm tham muốn đối với thân con. Văn-thù-sư-lợi! Ví như ánh sáng không ở chung với bóng tối. Như vậy, xa lìa tâm tham, thì phiền não sẽ không còn. Khi nói pháp này với Văn-thù-sư-lợi xong, Thắng Kim Sắc nữ liền bạch: –Tất cả trời, người đại chúng đã tập hợp, xin hãy rủ lòng lành thương xót dùng pháp lực nói rõ cho mọi người, làm cho họ biết được thể tánh của tát cả phiền não. Biết được thể tánh phiền não rồi, họ phát lòng thương xót tất cả chúng sinh, làm cho các chúng sinh được an ổn, phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Văn-thù-sư-lợi nói: –Thể tánh của phiền não, khó tin, khó hiểu. Vì sao? Vì tánh của phiền não, tức là Bồ-đề. Ví như lửa chưa phát ra, thì không thể đốt được củi. Như vậy, không phát sinh phiền não, thì không bị sự lưu chuyển trong vòng sinh tử. Như lửa mà phát rồi, thì liền có thể đốt cháy củi. Cái hiểu biết xấu mà phát sinh, thì sẽ lưu chuyển trong sinh tử. Như lửa mà thiêu đốt cỏ cây lớn, thì thế lửa khó mà dập tắt. Như vậy, cái thấy xấu, cái tâm độc hòa hợp với phiền não, ở trong ba cõi, nó như lửa dữ, luôn thiêu đốt không có dừng nghỉ. Ví như không có củi, thì lửa không đốt cháy được. Như vậy, xa lìa cái xấu ác và phiền não, thì không sinh vào ba cõi. Ví như lửa đốt, giả sử đến trăm ngàn năm cũng không có lợi ích, cũng không tăng thêm nhiều. Lửa phiền não bùng cháy cũng lại như vậy, cho đến trăm ngàn năm cũng không có lợi ích, cũng không tăng thêm được gì. Ví như lửa tắt, không biết đi về đâu. Như vậy, trí tuệ diệt các phiền não, cũng như vậy, không biết đi về đâu. Ví như lửa dữ, không thể vào được; như vậy tự tánh mà trong sạch thì dù khách trần phiền não có phát sinh, cũng không bị nó làm ố nhiễm. Lúc ấy, Văn-thù-sư-lợi hỏi Thắng Kim Sắc nữ: –Thế nào là thân kiến? Thắng Kim Sắc nữ đáp: –Như thấy trăng ở trong nước. Lại hỏi: –Thế nào là thấy năm ấm? Nữ đáp: –Như thấy Đức Phật giáo hóa người. Lại hỏi: –Thế nào là thấy mười tám giới? Nữ đáp: –Như thấy kiếp lửa, thiêu đốt các thế giới. Lại hỏi: –Thế nào là thấy mười hai nhập? Nữ đáp: –Như không tạo hạnh nghiệp. Lại hỏi: –Thế nào là thấy bốn chúng? Nữ đáp: –Như thấy hư không ở trên. Lại hỏi: –Quán tự thân là thế nào? Nữ đáp: –Biết được từ cha mẹ hòa hợp sinh ra. Lại hỏi: –Thấy thân mình là thế nào? Nữ đáp: –Như người mù thấy màu sắc. Lại hỏi: –Cô nay nghe phấp này chăng? Nữ đáp: –Như người huyễn nghe pháp. Lại hỏi: –Cô phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác chăng? Nữ đáp: –Con đã phát tâm, không phát tâm lại nữa. Lại hỏi: –Cô thực hành Bố thí ba-la-mật chăng? Nữ đáp: –Trong phiền não, không thực hành, cũng không xả bỏ. Lại hỏi: –Cô trì giới đầy đủ chăng? Nữ đáp: –Đầy khắp, như đầy khắp hư không. Lại hỏi: –Cô tu Nhẫn nhục ba-la-mật chăng? Nữ đáp: –Đã tu như tất cả chúng sinh, không sinh, không xuất. Lại hỏi: –Cô phát hạnh Tinh tấn ba-la-mật chăng? Nữ đáp: –Đã phát như tất cả pháp, không thể được. Lại hỏi: –Cô trụ Thiền ba-la-mật chăng? Nữ đáp: –Đã trụ, như trụ trong pháp giới. Lại hỏi: –Cô đầy đủ Bát-nhã ba-la-mật chăng? Nữ đáp: –Đã đầy đủ. Thế nào là đầy đủ? Không tăng không giảm phương tiện trí. Lại hỏi: –Cô tu lòng lành chăng? Nữ đáp: –Đã tu như tất cả chúng sinh, không sinh. Lại hỏi: –Bồ-tát có lòng thương lớn nên cầu ở đâu? Nữ đáp: –Cầu ở trong phiền não của tất cả chúng sinh. Vì sao? Vì nếu chúng sinh, không có phiền não, thì Bồ-tát không phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Văn-thù-sư-lợi hỏi: –Tâm vui vẻ nên cầu ở đâu? Nữ đáp: –Cầu ở trong lòng tin cao cả, vui vẻ, trong sạch Bồ-đề. Văn-thù-sư-lợi hỏi: –Bồ-tát xả tâm thế nào là đầy đủ? Nữ đáp: –Xả bỏ, xa lìa mọi sự tranh cãi của tất cả chúng sinh, thì gọi là đầy đủ. Xa lìa tất cả pháp tranh luận, gọi là đầy đủ. Văn-thù-sư-lợi hỏi: –Thế nào là tranh luận? Nữ đáp: –Vị Bồ-tát nào tự nói: “Ta đang xả bỏ, xa lìa, tất cả phiền não, độ thoát tất cả chúng sinh”, thì gọi là tranh luận. Văn-thù-sư-lợi hỏi: –Tranh luận với ai? Nữ đáp: –Với tất cả ngoại đạo. Lại hỏi: –Ngoại đạo là ai? Nữ đáp: –Chấp nhận theo các tà thuyết, thì gọi là ngoại đạo. Lại hỏi: –Tâm nhẫn nhục của Bồ-tát do đâu mà sinh? Nữ đáp: –Từ trong sự não loạn của tất cả chúng sinh mà phát sinh. Vì sao? Nếu không não loạn, thì tâm nhẫn nhục không sinh. Bồ-tát bị các chúng sinh mắng chửi, đánh đập, làm nhục; mà tâm Bồ-tát vẫn như đất, không khởi lên sự oán hận, như vậy gọi là nhẫn. Văn-thù-sư-lợi hỏi: –Thế nào là sân hận? Nữ đáp: –Sân hận có thể làm tiêu tan các nghiệp lành đã tạo từ trăm ngàn kiếp. Như vậy gọi là sân hận. Lại hỏi: –Thế nào là chẳng phải sân hận? Nữ đáp: –Ai đối với tất cả cảnh giới của phiền não mà không bị chướng ngại, gọi là không sân hận. Văn-thù-sư-lợi hỏi: –Bồ-tát làm sao vượt được các việc tranh luận? Nữ đáp: –Bồ-tát đối với tất cả pháp, không có chỗ phân biệt, cũng không có chỗ để đạt. Như vậy gọi là vượt được các việc tranh luận. Văn-thù-sư-lợi lại hỏi: –Bồ-tát làm sao xa lìa được ma oán? Nữ đáp: –Bồ-tát tuy hiện ra để thực hành ma nghiệp, mà không bị dính mắc. Như vậy gọi là xa lìa ma oán. Vì sao? Bồ-tát, tuy đang sống trong năm ấm phiền não; nhưng không hòa hợp với năm ấm phiền não. Thể tánh không bị ô nhiễm. Bồ-tát, tuy đang sống trong sinh tử, để giáo hóa chúng sinh; nhưng biết tất cả pháp là không đi, không đến. Tuy vì chúng sinh nói thiên ma đạo, nhưng đối với Nhất thiết trí tự thân xa lìa ngã và ngã sở. Văn-thù-sư-lợi lại hỏi: –Bồ-tát làm sao giáo hóa chúng sinh? Nữ đáp: –Bồ-tát nên tu phương tiện Bát-nhã ba-la-mật, là có thể giáo hóa chúng sinh. Văn-thù-sư-lợi hỏi: –Bồ-tát làm thế nào an trụ được tất cả chúng sinh? Nữ đáp: –Như Bồ-tát tự an trụ trong trí, tất cả chúng sinh cũng như vậy mà an trụ. Văn-thù-sư-lợi bảo: –Này cô gái, hết thảy mọi người nghe cô thuyết pháp, tâm đều sinh vui thích, yêu mến và cung kính cô. Nữ nói: –Thưa Văn-thù-sư-lợi! Không nên cung kính, cúng dường như vậy. Cúng dường như vậy, không gọi là cúng dường. Vì sao? Vì nếu thấy thân mình, thân người và thấy có pháp mà có thể nói, thì không được gọi là cúng dường. Nếu không thấy thân mình, thân người và không thấy có pháp; thì gọi là cúng dường. Như vậy, không nghe, không chấp trước; thì gọi là nghe pháp, cũng gọi là cúng dường. Văn-thù-sư-lợi hỏi: –Thế nào là pháp cúng dường? Nữ đáp: –Nếu xem thân như mộng, người nói như huyễn, pháp được nghe tiếng vang. Như vậy, tin rồi, không tạo hai loại giải thoát, thì được gọi là pháp cúng dường. Văn-thù-sư-lợi hỏi: –Thế nào là nghe pháp? Nữ đáp: –Cứ như nói mà tu hành, gọi là nghe pháp. Nhờ sức thần thông của Văn-thù-sư-lợi, lại dùng sức trí tuệ, căn lành đời quá khứ của chính mình, Kim Sắc nữ thuyết pháp đúng như pháp, cho những người kia. Khi Kim Sắc nữ thuyết pháp này, trong đại chúng có ức ngàn người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Lại có các chúng trời, người, đã trồng căn lành sâu xa từ đời trước, số người ấy nhiều đến năm trăm người, đạt được Vô sinh pháp nhẫn, ba vạn ba ngàn trời, người xa lìa bụi nhơ cõi trần, đạt được mắt pháp trong sạch. Thắng Kim Sắc nữ tâm trong sạch, vui mừng, đắc được pháp Thuận nhẫn. Đạt được pháp Thuận nhẫn rồi, Kim Sắc nữ liền đảnh lễ sát chân Văn-thù-sư-lợi và sinh lòng hổ thẹn sâu sắc, đối với thân mình, cô nói: –Con đối với chánh pháp giống như người chết, xin hãy rủ lòng lành thương xót, cho phép con xuất gia. Văn-thù-sư-lợi nói: –Bồ-tát xuất gia, chẳng phải tự mình cắt tóc mà gọi là xuất gia. Vì sao? Vì nếu phát lòng đại tinh tấn, thì trừ được tất cả phiền não của chúng sinh. Gọi đó là Bồ-tát xuất gia. Bồ-tát xuất gia, chẳng phải do tự mình đắp y gọi là xuất gia. Phải siêng năng, đoạn trừ ba độc, làm ô nhiễm tâm của chúng sinh, mới gọi là xuất gia. Chẳng phải tự thọ trì giới hạnh, gọi là xuất gia, mà có thể làm cho người phá hủy cấm giới, an trụ trong tịnh giới, mới gọi là xuất gia. Chẳng phải một mình, ngồi ở nơi chùa vắng, suy nghó, mà gọi là xuất gia, đối với nữ sắc, lưu chuyển trong sinh tử, phải biết dùng tuệ phương tiện để giáo hóa, làm cho giải thoát, mới được gọi là xuất gia. Không phải tự thân, giữ gìn luật nghi mà gọi là xuất gia. Nếu phát khởi bốn Vô lượng tâm rộng rãi, làm an ổn chúng sinh, thì được gọi là xuất gia. Chẳng phải tự thân, tu hành pháp lành mà gọi là xuất gia. Hay làm cho chúng sinh tăng trưởng căn lành mới được gọi là xuất gia. Chẳng phải được vào Niết-bàn, gọi là xuất gia, mà vì muốn an ổn cho tất cả chúng sinh vào đại Niết-bàn, đó mới gọi là xuất gia. Chẳng phải tự mình trừ được các phiền não, thì gọi là xuất gia; mà phải siêng năng đoạn trừ tất cả phiền não của chúng sinh, đó mới được gọi là xuất gia. Chẳng phải tự giữ gìn thân tâm của chính mình, thì gọi là xuất gia, mà phải giữ gìn thân tâm cho tất cả chúng sinh, đó mới gọi là xuất gia. Chẳng phải tự cởi bỏ phiền não ràng buộc trong thân tâm của mình, thì gọi là xuất gia, mà phải vì sự cởi bỏ phiền não trói buộc trong thân tâm của tất cả chúng sinh, đó mới được gọi là xuất gia. Chẳng phải tự mình biết sợ hãi sinh tử, để được giải thoát, thì gọi là xuất gia, mà có thể trừ được tất cả sự sợ hãi sinh tử của chúng sinh, làm cho họ được giải thoát, đó mới gọi là xuất gia. Chẳng phải tự mình vui với Niết-bàn thì gọi là xuất gia, mà phải chuyên cần tu hành tinh tấn, làm cho chúng sinh đầy đủ tất cả Phật pháp, đó mới được gọi là xuất gia. Văn-thù-sư-lợi nói: –Này cô gái! Người xuất gia, là khởi lòng Từ bi đối với tất cả chúng sinh, thì mới gọi là xuất gia. Xuất gia, nghóa là không thấy tất cả chúng sinh xấu xa, cũng không chấp giữ lấy tướng, đó là xuất gia. Xuất gia, là không nêu ra tội của người khác, giáo hóa người biết hổ thẹn, khiến họ sám hối, đó là xuất gia. Này cô gái! Người xuất gia khó khăn là vì lệ thuộc người khác; Bồ-tát không như vậy, thân tâm tự tại, nên không có sự lệ thuộc. Nữ hỏi: –Tại sao xuất gia lại gọi là lệ thuộc? Văn-thù-sư-lợi đáp: –Người phụ thuộc vào giới, gọi là xuất gia. Người phá giới, không được gọi là xuất gia. Người phụ thuộc thiền định, gọi là xuất gia; người loạn tâm, không được gọi là xuất gia. Phụ thuộc vào trí tuệ, thì gọi là xuất gia, ngu si không được gọi là xuất gia. (Người) phụ thuộc giải thoát, gọi là xuất gia, xa lìa giải thoát, không gọi là xuất gia. Nữ hỏi: –Văn-thù-sư-lợi! Tại sao Bồ-tát gọi là không phụ thuộc? Văn-thù-sư-lợi đáp: –Bồ-tát, bên trong tự mình chứng ngộ được pháp, chứ không từ nơi sự học kia, nên gọi là không phụ thuộc. Vì sao? Vì Bồ-tát đối với Nhất thiết trí, tự mình mở ra mà hiểu. Khi Văn-thù-sư-lợi thuyết pháp xuất gia này, có năm trăm Bồ-tát tâm sinh vui vẻ, cởi bỏ y phục và chuỗi ngọc trên thân, dâng lên Văn-thù-sư-lợi và khen ngợi: –Hay thay, hay thay! Nói pháp này, thật sướng thích, ta nên tu hành theo. Bấy giờ, Văn-thù-sư-lợi bảo Kim Sắc nữ: –Người có thể lên xe, giáo hóa cho con của Trưởng giả là Thượng Oai Đức. Nếu có thể giáo hóa được con của trưởng giả này, thì mới được gọi là xuất gia. Khi Văn-thù-sư-lợi nói lời này xong, tất cả đại chúng đều kinh ngạc, nghó: “Người con gái này, nay đã lìa bỏ tham dục, vì sao lại sai đến gặp người tham dục?”. Biết ý nghi ngờ của đại chúng, Kim Sắc Nữ nói: –Bồ-tát xa lìa tham dục, dù vậy, vẫn thường gần với người tham dục để giáo hóa, làm cho họ xa lìa điều ác. Bồ-tát tự mình đã xa lìa sân si, dù có ở chung với người đầy đủ sân si để giáo hóa, cũng không có gì gọi là xấu. Bồ-tát tự mình đã xa lìa phiền não, tuy có gần với người nhiều phiền não mà để giáo hóa họ, thì đó cũng là cách xa lìa điều ác. Ví như mẹ con cùng ở chung, nhưng đâu có sự tham nhiễm. Bồ-tát xa lìa sự tham dục, cũng lại như vậy, gần với người tham dục, cũng không nhiễm cái tham ấy. Ví như kẻ không có nam căn ở chung với con gái thì cũng không có tham nhiễm. Như vậy, Bồ-tát xa lìa ba cõi, dù ở trong cõi Dục cũng không có tâm dục. Khi đã biết rõ ác pháp phiền não sinh tử, đứng vững nơi ngằn mé của ly dục, Kim Sắc nữ liền đạt được ánh sáng ly dục, trừ được bóng tối tham dục, liền cúi đầu, đảnh lễ Văn-thù-sư-lợi, đi nhiễu bên phải ba vòng, nàng nói kệ, trước khi lên xe: Con đang lên xe, lìa ba độc Thể tánh trong sạch không tham nhiễm Xa lìa sân hận phát lòng lành Diệt ngu si để được trí tuệ. Bỏ ham dò xét con trong sạch Nay sẽ lên xe, đi đến rừng Trước, con vì tham, tâm mê muội Đam mê tài sắc, không biết rõ. Giống như mây lớn che ánh nắng Nên mặt đất không được chiếu tỏ Ánh sáng kia, không đến, không đi Bị mây lớn che, nên không hiện. Như chúng sinh bị phiền não lấp Trí trong sạch không, sáng rõ được Trí kia, không đến, cũng không đi Biết phiền não rồi, trí sáng ra. Cũng chẳng phải từ nơi khác đến Hiểu biết xấu, nên phiền não sinh Hiểu biết trong sáng, phiền não diệt Không chấp, cũng không xả, danh, sắc. Cũng lại không sinh, cũng không diệt Không đem cho, cũng không giữ lấy Pháp vị như vậy, rất trong sạch Giống như đèn sáng, trừ bóng tối. Bóng tối kia, không đến, không đi Như vậy, trí tuệ lìa phiền não Phiền não không đi, cũng không đến Cũng không sinh và cũng không diệt. Như thầy thuốc giỏi chữa các bệnh Trừ cả bệnh lạ, bệnh không sinh Nhưng không trị được đất, lửa, gió Văn-thù đúng là thầy thuốc lớn. Trị bệnh phiền não cho chúng sinh Trí tuệ, nhân duyên, không phiền não Phiền não không đi, pháp không mất Thân con đây, có đủ năm ấm Và mười tám giới, mười hai nhập Con trước kia chứa đầy phiền não Nay đã xa lìa, được sạch trong. Văn-thù-sư-lợi thuyết pháp giáo hóa cho đại chúng xong rồi, đại chúng rất là vui mừng. Văn-thù-sư-lợi lại nói: –Lành thay, lành thay! Đại chúng đã hết lòng nghe pháp. Khi đã khen ngợi rồi, ở giữa đại chúng, ngài nói: –Hôm nay ta sẽ đi đến chỗ Như Lai. Đại chúng muốn nghe pháp, thì nên đến chỗ Đức Phật. Nói xong, Văn-thù-sư-lợi và các đại chúng, đều trở về chỗ của mình. Khi ấy, Thắng Kim Sắc nữ cùng với tám mươi cô gái theo hầu vây quanh trước sau và cả con của trưởng giả cùng nhau lên xe báu, đi đến vườn. Đến nơi, họ bày ra đủ các loại lọng báu, cờ phướn, hương, hoa, chuỗi ngọc, cùng trăm thứ hương, đốt khắp rừng cây, để làm vui, ca hát, nhảy múa, vui đùa. Lại còn bày ra đủ các thứ thức ăn, thức uống ngon ngọt. Bấy giờ, Thắng Kim Sắc nữ gối đầu lên đầu gối của con trưởng giả là Thượng Oai Đức, ngủ. Nàng liền dùng thần lực, biến thành thây chết trên chỗ nằm, phình trương, hôi thối, khó có thể đến gần. Chốc lát, gan ruột phanh ra, ngũ tạng lộ liễu, mùi hôi thối đáng ghét, đường đại tiểu tiện chảy tràn thứ nước bẩn. Trong mắt, tai, mũi và các phần khác trên thân cũng như tất cả các lỗ chân lông đều có máu mủ chảy tràn, miệng toát ra mùi hôi thối, mùi phình trướng hôi thối lan khắp khu rừng, xương đầu lâu bể ra, não văng khắp nơi, tay, chân, gân cốt, rã rời đầy khắp; ruồi xanh, giòi bọ rúc rỉa. Các thứ mùi hôi thối, nhơ nhớp đáng ghét, không thể kể hết. Lúc thấy thây chết này, con của trưởng giả vô cùng sợ hãi, lông trên thân dựng ngược lên và suy nghó: “Ta đang ở đây, đối với thây chết này không thể cứu giúp, không thể nương tựa”. Xem khắp bốn phương, không biết nương dựa vào ai, càng thêm sợ hãi, con của trưởng giả kêu la hãi hùng. Con của trưởng giả vì hai lý do mà sinh sợ hãi lớn: Một là, vốn chưa từng thấy việc đáng sợ hãi đến như vậy; hai là, mọi người đều biết ta và cô gái kia, cùng đi đến chỗ này, mà nay bỗng nhiên cô chết, cho rằng ta giết, sợ vua A-xà-thế không xét rõ sự thật, có thể bị giết oan! Lúc này, con của trưởng giả một mình ở trong rừng, chung quanh không thấy một người nào, lại tự nghó: “Ta đang sợ hãi. Hỡi các Sa-môn, Bà-la-môn, Trời, Rồng, Thần, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già… ai là người có thể cứu ta?!” Con của trưởng giả kia, dù căn lành đời trước chín muồi, nhưng vì không nghe thấy những pháp của Văn-thù-sư-lợi và Kim Sắc nữ đã nói, nên mới quá sợ hãi như vậy. Văn-thù-sư-lợi thấy vậy, liền dùng thần lực, làm cho các cây rừng đều nói kệ: Thể tánh của các pháp Như con trưởng giả thấy Ba cõi đều giả dối Như huyễn, đều không thật. Da che sự xấu bẩn Phàm phu không hổ thẹn Do vì hiểu biết xấu Vọng tưởng sinh tham đắm. Ví như bình đầy phân Trang trí đẹp bên ngoài Người ngu si không biết Đội lên đầu mà đi. Bình rơi, liền bể tan Vật dơ bẩn tràn khắp Mùi hôi thối khó gần Hối hận muốn lìa bỏ. Như vậy, các phàm phu Qua phân biệt nữ sắc Thấy dài, ngắn, trắng, đỏ Ưa nhiễm các biết xấu. Nếu thấy thật tánh thân Thân ngươi cũng như vậy Ai thật thấy có người Lại tham đắm thây thối. Ngươi nay, không nên sợ Pháp này, thể tánh không Tất cả chẳng chân thật Ngươi trước đã tham đắm. Sao nay lại sợ hãi Thích-ca Văn Đạo sư Ban an vui cho ngươi Trong lời pháp cao cả. Nói các dục: Vô thường Như sương mù, điện chớp Năm dục: Dối, không thật Người trí nào tham đắm. Như gió kích động nước Làm bọt nước nổi lên Chúng không thật tạo ra Mà chỉ do nhân duyên. Hòa hợp rồi sinh ra Như vậy pháp danh sắc Cũng không thật tạo ra Do nghiệp lực không mất. Các pháp hòa hợp sinh Sắc đẹp, đã từng thấy Nay đã đi đâu rồi! Sắc xấu từ đâu lại. Mà sinh lòng hoảng sợ? Pháp không có chỗ dừng Cũng không nơi khác đến Không đi đến vị lai. Do tập khởi nên thấy Trong ấy không người tạo Cũng không người nhận lấy Xa lìa pháp tác thọ. Như huyễn, không, không thật Ngươi với thân người kia Không nên sinh sợ hãi Nếu tự mình xem xét. Thân ngươi cũng như vậy Như sướng vui trong mộng Rất hớn hở, sung sướng Người thức, đắm dục lạc. Cũng như mộng, không khác Ngươi sợ, không dám bỏ Cũng không người an ủi Ngươi nay nên mau đến. Chỗ Đại sư Như Lai Nỗi sợ lớn của ngươi Chẳng cha mẹ, họ hàng Hay bậc trí, cứu được! Chỉ có Phật, Thế Tôn Nhổ trừ được gốc rễ Đem vui, cho người sợ Và giúp người không giúp. Ngươi nên quy y Phật Cùng Pháp, Tăng thù thắng Nếu có các trời, rồng Quy y với Thế Tôn Sợ hãi đều giải thoát Mau được thân trời, người. Khi con của trưởng giả là Thượng Oai Đức, nghe bài kệ này rồi, lòng tự cảm thấy vô cùng sung sướng hớn hở không gì tả được; liền bỏ thây người chết đi ra khỏi rừng. Khi ấy, ở nơi đỉnh núi Kỳ-xà-quật, Phật biết Thượng Oai Đức căn lành đã thành thục, có thể lãnh nhận sự giáo hóa, liền phóng ánh sáng lớn, chiếu khắp nước Ma-già-đà. Trong ánh sáng đó, từ xa, con của trưởng giả, trông thấy thân Phật như mặt trời hiện ra, có đủ mọi người vây quanh nghe nói pháp. Thấy như vậy rồi, một lòng nhớ nghó Phật, con của trưởng giả bỗng nhiên lại thấy con đường làm bằng bảy báu, có lan can hai bên, trải dài đến chỗ Phật. Lại thấy các thứ hoa rất đẹp, rải khắp các ngã đường. Khi ấy, con của trưởng giả muốn tìm đường để đến chỗ Phật. Vừa cất bước, Thích Đề-hoàn Nhân liền chặn lại, đứng ngang giữa đường, nói: –Này con của trưởng giả, nhà ngươi muốn đến gặp Phật, để nhận lãnh điều lợi lành lớn, Phật cũng sẽ thương xót cho ngươi. Ta phải cùng với ngươi đến chỗ Phật. Con của trưởng giả, cùng với Đế Thích liền đi đến chỗ Phật. Đến nơi rồi, Đế Thích vạch vạt áo, lấy hoa Mạn-đà-la đưa cho con của trưởng giả để dâng lên Đức Phật. Khi nhận hoa trời rồi, con trưởng giả phát lòng vui vẻ, đem dâng hoa lên Đức Phật, cúi đầu làm lễ và đi nhiễu bên phải ba vòng, rồi đứng qua một bên, mà bạch Phật: –Con nay hết lòng quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Ba lần quy y rồi, con của trưởng giả nghó: “Nhờ các loại công đức và căn lành này, nguyện đời sau được thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.” Rồi con của trưởng giả lại bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Mọi người đều biết, với cô Kim Sắc nữ này, con đã vì lòng ham muốn, dùng tiền của, cùng cô ta định vào rừng tìm những vui thú. Đến khu rừng, cô ta gối lên đầu gối con mà nằm và bỗng nhiên chết đi, chốc lát thối nát, tan hoại, hôi thối, đáng sợ. Những người thân thuộc đều bỏ con đi, không người nào nhìn lại. Con sợ vua A-xà-thế biết người con gái này chết, cho rằng con giết, rồi giết oan con, nên con rất là sợ hãi! Khi ấy, Phật bảo con của trưởng giả: –Ngươi chớ nên lo rầu, sợ hãi. Ta sẽ ban cho ngươi tất cả sự không biết sợ. Này con của trưởng giả! Ngươi đã quy y Phật rồi, thì không còn sợ hãi ở bất cứ chỗ nào nữa. Phật bảo: –Ngươi nên dứt bỏ lý do sợ hãi. Con của trưởng giả bạch Phật: –Tất cả sợ hãi từ đâu sinh ra? Phật nói: –Sợ hãi từ nhân duyên tham, sân, si sinh ra. Từ những nhân duyên thấy được ở thân, mà sợ hãi sinh ra. Từ nhân duyên thấy cái xấu ác mà sợ hãi sinh. Từ nhân duyên thèm khát yêu thương, mà sợ hãi sinh ra. Từ những nhân duyên ngã, ngã sở, dính mắc ôm giữ, đấu tranh, tham đắm, tự thân trói buộc mà sợ hãi phát sinh. Ở trong vô thường lại tưởng là thường, nên sợ hãi sinh ra. Ở trong pháp khổ mà sinh tưởng vui, cho nên sinh ra sợ hãi. Ở trong cái không sạch mà cứ tưởng rằng sạch nên sinh ra sợ hãi. Ở trong không ngã sinh tưởng ngã, nên sinh ra sợ hãi. Do dính mắc vào nhân duyên của năm ấm, mà sợ hãi sinh ra. Do không quán mười hai nhập, mà sợ hãi sinh ra. Do không quán mười tám giới, mà sợ hãi sinh ra. Do không thấy ác báo ở đời sau, mà sợ hãi sinh ra. Do không thấy nhân duyên trong ngoài của thân, mà sợ hãi sinh ra. Do ưa thích tuổi sống còn của thân mạng, mà sợ hãi sinh ra. Này con của trưởng giả! Như vậy, do các nhân duyên trên, nên tất cả sợ hãi phát sinh. Các việc như vậy, ngươi nên xả bỏ. Phật lại bảo: –Ngươi có thấy các sự xấu xa trên thân cô gái này không? Con của trưởng giả đáp: –Thưa Thế Tôn! Con đã thấy. Phật nói: –Như vậy, tất cả pháp là vô thường, biến hoại, khổ, không, không thật, chỉ là hư dối. Người ngu si không biết, đó là do nghiệp duyên sinh ra. Sắc tướng nên xa lìa, vì nó như huyễn, không thật. Như sự vui vẻ trong mộng, không phải là sự vui vẻ thật. Như khi trời nắng, sóng nắng bốc lên, chẳng phải nước mà tưởng là nước. Cũng như bóng nước phản chiếu trên tường, nước động thì bóng trên tường động, thật ra không có xao động. Như hình ảnh trong gương, đều do nghiệp lực sinh ra. Như trăng trong nước, nước lặng thì trăng hiện ra, trăng không có thật. Như tiếng vang là do âm thanh phát sinh bị dội lại, không thể nói là có thật. Như cái bóng, không thể hoạt động được. Như thể tánh là huyễn, là không vậy. Như tánh của gió là không thể nắm bắt được… Như vậy, tất cả pháp đều là rỗng, là giả tạm, không thật, không tăng, không giảm. Như vậy, này con của trưởng giả! Nên biết, tất cả pháp không có chủ, không ai tạo ra, không có người nhận. Ngươi, trước đây muốn hiểu biết, nay sao lại ở đây? Con của trưởng giả đáp: –Những gì thấy ở đây: Dài, ngắn, sắc đẹp, … là do nhân duyên từ cái biết xấu. Kẻ phàm phu dính mắc vào; đối với Thánh pháp không phải việc như vậy. Trong pháp của Thánh nhân, chỉ xem là không sạch, như thật thấy, xa lìa cái biết xấu, tham, sân, si dứt sạch. Phật bảo: –Lành thay, lành thay! Này con của trưởng giả! Thấy được tánh tham nên xa lìa sự thấy hiểu (dò xét) xấu. Xa lìa sự dò xét xấu nên tham, sân, si dứt sạch. Vì vậy, ngươi nên phát lòng trong sạch, tu hạnh phương tiện, phát khởi nghiệp trí tuệ đối với tất cả cảnh, xa lìa sự tham đắm vào thân mình và mê đắm thân người khác. Con của trưởng giả nói: –Bồ-tát làm thế nào để phát lòng trong sạch, thực hành hạnh trí tuệ? Phật bảo: –Này con của trưởng giả! Bồ-tát phải cầu Bồ-đề ở trong thể tánh tham. Như vậy, cũng cầu Bồ-đề trong thể tánh sân, si. Cũng cầu Bồ-đề trong thể tánh tất cả phiền não. Như vậy, thể tánh của tất cả phiền não, tham, sân, si… là không, là không có vật gì. Bồ-tát phát sinh hạnh trí tuệ, đối với tất cả pháp. Vì thế, này con của trưởng giả! Thể tánh của tham, sân, si không có gốc rễ, cũng không có chỗ trụ, cũng không có chủ, không có ai tạo ra, trong ngoài trong sạch, hoàn toàn không có sở hữu; không có ngã, không có chúng sinh, không có thọ mạng; xa lìa người, không có tướng, xa lìa sự dò xét xấu, nên không có ước mong, xa lìa khát ái và sự nắm giữ. Như vậy, thể tánh của tham, sân, si là không sinh. Bồ-tát phát sinh hạnh trí tuệ đối với tất cả pháp. Lại nữa, này con của trưởng giả! Trong sạch phan duyên với phương tiện hạnh. Bồ-tát, đối với tất cả tâm pháp của chúng sinh, đều có Bồ-đề. Vì sao? Vì tâm Bồ-tát không có sắc, xa lìa sắc, xa lìa phân biệt. Thể tánh như huyễn, đây và kia; trong và ngoài không có sự tiếp nối. Đấy gọi là Bồ-đề. Lại nữa, này con của trưởng giả! Bồ-tát không nên biết các việc khác, chỉ biết tâm mình. Vì sao? Vì hiểu biết tâm mình, là hiểu biết tâm của tất cả chúng sinh. Nếu tâm mình trong sạch, tức là tâm của chúng sinh trong sạch. Như thể tánh của tâm mình, tức là thể tánh của tâm chúng sinh. Tâm mình xa lìa bụi nhơ cõi trần, tức tâm chúng sinh cũng xa lìa bụi trần nhơ bẩn. Tâm mình xa lìa tham, tức là tâm tất cả chúng sinh cũng xa lìa tham. Tâm mình xa lìa sân hận, tức là tâm tất cả chúng sinh cũng xa lìa sân hận. Tâm mình xa lìa si mê, tức là tâm của tất cả chúng sinh cũng xa lìa si mê. Tâm mình xa lìa phiền não, tức là tâm tất cả chúng sinh cũng xa lìa phiền não. Hiểu biết như thế này, gọi là Nhất thiết trí tri giác. Như vậy, trong sạch duyên với phương tiện hạnh. Bồ-tát có thể biết thể tánh của phiền não, làm ô nhiễm tâm tất cả chúng sinh. Như có thuyết nói: Khách trần phiền não liên tục làm nhiễm ố tâm. Bồ-tát tìm thấy các pháp phương tiện, đối với chúng sinh kia, để khéo giáo hóa, để không có não loạn. Nếu chúng sinh kia, mà hiểu biết được khách trần phiền não, thì khách trần phiền não không thể làm ô nhiễm chúng sinh được. Phật thuyết pháp này rồi, con của trưởng giả đạt được pháp Thuận nhẫn. Khi biết con của trưởng giả đã nhận sự giáo hóa rồi; Kim Sắc nữ đem đến năm trăm xe ngựa, vây quanh trước sau, tấu lên các loại âm nhạc và đi đến chỗ Đức Thế Tôn. Đến nơi, nàng xuống xe, lạy ba lạy, đi nhiễu bên phải ba vòng, rồi đứng qua một bên. Bấy giờ, Văn-thù-sư-lợi hỏi con của trưởng giả: –Ngươi đã hiểu rõ cô gái này chưa? Con của trưởng giả đáp: –Con thực sự đã hiểu rõ cô gái này. Văn-thù-sư-lợi hỏi: –Làm thế nào ngươi hiểu rõ được? Con của trưởng giả, hướng về Văn-thù-sư-lợi mà nói kệ trả lời: Thấy sắc như bọt nước Các thọ như bong bóng Xem tưởng như ánh nắng Con hiểu được như vậy. Xem hành như thân chuối Biết thức như huyễn hóa Tên cô, giả đặt ra Con hiểu được như vậy. Thân không hiểu như cây Cũng như cỏ, đá sỏi Tâm không thể thấy được Con hiểu ra như vậy. Chẳng ngã, chẳng chúng sinh Chẳng thọ, chẳng hữu tình Mười tám giới liên tục Con hiểu được như vậy. Trong ấy chẳng tham, sân Cũng lại chẳng ngu si Chẳng nhiễm, chẳng trong sạch Con biết được như vậy. Phàm phu như kẻ say Sinh hiểu biết điên đảo Người trí không bị nhiễm Con hiểu được như vậy. Như thây chết trong rừng Hôi thối, bẩn, không sạch Thể tánh thân như vậy Như thế con hiểu được. Quá khứ vốn không mất Vị lai cũng không sinh Hiện tại không tạm dừng Con hiểu được như vậy. Văn-thù xin lắng nghe Ân đó khó đáp đền Con vốn nhiều ham muốn Thấy bẩn, muốn trốn bỏ Thân kia thật không chết Vì dạy con hiện chết Thương người bày ra vậy Ai thấy chẳng phát tâm Như vậy tham, sân, si Và tất cả phiền não Thể tánh pháp là vậy Lành thay! Thật nhiệm mầu! Khi ấy, Như Lai mỉm cười, trên khuôn mặt, phát ra sắc sáng, chiếu khắp tam thiên đại thiên thế giới. Chiếu sáng rồi thâu lại, nhập vào đỉnh đầu. Thấy ánh sáng ấy, Tôn giả A-nan liền từ chỗ ngồi, đứng dậy, vạch vai áo bên phải, đảnh lễ Đức Phật, gối phải quỳ sát đất, chắp tay, hướng Phật, khen ngợi: –Lành thay, Thế Tôn! Do nhân duyên gì Thế Tôn mỉm cười? Chư Phật Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác đã hiện mỉm cười chẳng phải không lý do! Phật bảo A-nan: –Ông có thấy cô Kim Sắc nữ này không? A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Con đã thấy. Phật bảo A-nan: –Kim Sắc Nữ này đời quá khứ đã được Văn-thù-sư-lợi giáo hóa, khiến phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; nay cũng lại ở chỗ Văn-thù-sư-lợi nghe giảng pháp và đắc được pháp Thuận nhẫn. Phật bảo A-nan: –Ông có thấy Thượng Oai Đức, con của trưởng giả không? A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Con đã thấy. Phật bảo A-nan: –Người con của trưởng giả này, đời quá khứ, từng được ta giáo hóa, khiến phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nay cũng lại ở nơi chỗ ta, nghe thuyết pháp và đắc được pháp Thuận nhẫn. A-nan! Thắng Kim Sắc Nữ này, hơn chín mươi trăm ngàn kiếp về sâu sẽ thành Phật, hiệu là Bảo Quang Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác, thọ mạng vô lượng. Thế giới của Đức Phật này, gọi là Bảo đức sát, kiếp tên là Lạc sinh. Cô gái này, trong tương lai khi thành Phật, chúng sinh ở trong nước của cô ấy, áo quần, thực phẩm, đời sống, thân sắc, đều như các vua trời ở trời Đao-lợi, không khác. Thế giới của Phật này, không có hàng Thanh văn và Bích-chi-phật, thuần nhất một ngôi là Đại thừa Bồ-tát. Khi Bảo Quang Như Lai kia thành Phật, người con của trưởng giả này mang thân Bồ-tát, gọi là Đức Quang, giữ gìn tạng Phật pháp của Bảo Quang Như Lai. Khi Bảo Quang Như Lai sắp nhập Niết- bàn, sẽ thọ ký Bồ-đề cho Đức Quang Bồ-tát và bảo các đại chúng rằng: –Sau khi ta diệt độ, pháp của ta diệt rồi, Đức Quang Bồ-tát sẽ thành Phật, hiệu là Bảo Viêm Như Lai Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Khi Như Lai, thọ ký cho hai người rồi, thì tam thiên đại thiên thế giới chấn động sáu cách, áng sáng lớn phóng khắp tất cả mười phương thế giới. Khi Phật nói pháp thọ ký này, có tám ngàn người, phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Khi ấy, A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Kinh này tên là gì? Phật bảo: –Kinh này gọi là kinh Đại Trang Nghiêm Pháp Môn. Cứ như vậy mà thọ trì. Kinh này cũng gọi là kinh Văn-thù-sư-lợi Thần Thông Phấn Tấn Lực. Cũng gọi là kinh Thắng Kim Sắc Quang Minh Đức Nữ Giáo Hóa. Phật nói kinh này rồi, Tôn giả A-nan, Thắng Kim Sắc nữ, con của Trưởng giả, Văn-thù-sư-lợi và Người, Trời, A-tu-la… tất cả đại chúng sinh đều vui vẻ thọ lãnh để tu hành. <卷 id="109368819">