<經 id="n722">KINH DIỆU PHÁP THÁNH NIỆM XỨ Hán dịch: Đời Tống, Tam tạng Pháp Thiên. <卷 id="96841733">Quyển 1 Tôi nghe như vầy: Một thời, Đức Thế Tôn đang ở trong đại chúng, có trời, người vây quanh, chiêm ngưỡng tôn nhan, mắt không tạm rời. Khi ấy, các đại chúng đứng ở trước Đức Phật nói kệ: Quy mạng Nhất Thiết Trí Bậc nhất trong ba cõi Phô diễn âm vi diệu Lợi ích khắp quần sinh. Bấy giờ, Đức Thế Tôn dạy đại chúng, bằng kệ: Nếu có các chúng sinh Không giết, cho không sợ Lòng lành hay nhịn nhục Đoan nghiêm, thọ không sánh. Nếu đối với hữu tình Tưởng giống như cha mẹ Hay lìa không cùng giữ Phước trí tuệ vô lượng. Hoặc thân làm nghiệp lành Tâm lìa dục vững vàng Không nhìn nữ sắc đẹp Giải thoát các nẻo ác. Nên xa lìa thế gian Chứng đắc vui giải thoát Như vàng ở trong quặng Thể tánh vốn thanh tịnh. Phiền não không điều phục Gặp tốt đẹp sinh yêu Không phân biệt tốt xấu Kiếp phù sinh rất khổ. Khổ vui do tâm khởi Việc được, mất cũng vậy Tốt xấu có hợp tan Nhân quả không thiên lệch. Hàng phục các loạn căn Thực hành tâm bình đẳng Lợi ích cho hữu tình Đó là hạnh Tỳ-kheo. Sa-môn, Bà-la-môn Nên đoạn trừ phiền não Trí tuệ càng tăng trưởng Khiến tâm không tán loạn. Chứng đắc lý Niết-bàn Nên xa lìa các khổ Siêng phát tâm chánh kiến Phật nói việc này khó. Giải thoát các luân hồi Tu-di ái không động Mùi hương chiên-đàn kia Vị cam lồ, không sánh! Tuy đã được cúng dường Áo tốt thật mềm mại Không dính mắc tham ái Tâm vui vẻ biết đủ Như cỏ bị lửa đốt Biết rõ không rốt ráo Cúng dường được phước tuệ Nước lửa không xâm hại. Nghiệp sạch quả chân trí Sông nước trọn không hết Không tham các cảnh giới Phật nói hạnh Tỳ-kheo. Ưa cầu đủ các trí Tương ưng luôn hiện tiền Hiểu rõ pháp chân thật Không đọa các luân hồi. Nếu người cầu pháp sạch Khiến tâm không tán loạn Tuệ cho khắp cảnh giới Hỏa kiếp không thể hoại, Các cõi vốn vô minh Luân hồi từ đây sinh Cần trừ bỏ phiền não Hạnh Mâu-ni chân chánh. Ưa thực hành nhẫn nhục Đoan nghiêm lìa oán hại Năng Nhân do tướng tốt Người thấy tâm vui mừng. Rừng vắng lìa rối loạn Tâm yêu thích mừng vui Thường mang bát thọ thực Đó là hạnh Tỳ-kheo. Giải thoát rất an vui Ba đường rất là khổ Chân như lìa kia, đây Suy nghó không thể được. Nghiệp lợi người bình đẳng Nhu hòa thường thẳng ngay Chánh hạnh mãi tương ưng Xa lìa mọi tà chấp. Ý căn ưa dính mắc Ý căn rất cao cả Ý căn rất mau chóng Ý căn hay vui vẻ, Diễn thuyết bằng kệ này Hay làm cũng hay nói Tẩy sạch các phiền não Biết rõ quả nghiệp lành. Biết rõ việc được mất Hướng nẻo đẹp Bồ-đề Tất cả các hữu tình Thứ nhất trong sáu căn, Thích dừng trụ giữa rừng Xa lìa mọi oán tặc Biết rõ sáu căn này Chánh hạnh, từ đây sinh. Thường trụ nơi thiền định Tẩy sạch các nghiệp chướng Thí như ở hư không Gió mây không thể nhiễm. Khéo giữ thân, khẩu, ý Chánh kiến mãi tương ưng Như đèn trí tuệ sáng Chúng ma không thể hoại. Không hại vật là thiện Từ bi nhiều lợi ích Oai nghi không khuyết phạm Mới trụ tâm Tỳ-kheo. Mắt bị cảnh sắc buộc Ngăn ngại không thể đổi Phiền não trói hữu tình Không ra khỏi ba cõi. Trí chân tục vi diệu Việc khéo hiếm trở lại Chư Phật đều cùng khen Vận dụng rất khó nghó, Học rộng cầu giải thoát Tham giận không thể phạm Khéo giữ thân ba nghiệp Trừ bỏ khiến không sinh. Đức Thế Tôn nói kệ này rồi, bảo các đại chúng: –Nếu có chúng sinh bị phiền não trói buộc, xoay tròn trong ba cõi, chịu các khổ não; hoặc làm mười điều lành, cảm được quả cõi trời, người, sung sướng vui vẻ: Ví như mặt trăng tròn, không còn chướng ngại, trong sáng không gì bằng, thấy được rất vui vẻ. Lại giống như củi khô dễ bị lửa thiêu đốt; như vậy, ác nghiệp cần phải đoạn trừ; phải xa lìa sinh tử luân hồi trong ba cõi, giải thoát các khổ. Lại như loài chim bay được lìa sự trói buộc, tự tại không lo ngại. Hoặc các hữu tình không tạo các nghiệp, ra khỏi ba cõi, chứng lý Nhị không, khổ não không xâm hại, tham giận chẳng thể nhiễm, hiểu rõ luân hồi. Ví như đèn sáng, chiếu rõ mọi vật, chánh trí tương ưng, luôn không gián đoạn, lìa mọi tà chấp ưa thích vắng lặng, dưới cây hoang vắng lìa bỏ các ác, gần kề bạn lành. Tỳ-kheo như vậy tu hạnh xuất gia, ưa thích tất cả các cảnh giới, không nên tham lam dính mắc, không thích cửa nhà, xa lìa việc buôn bán, đổi chác và lời nói giả dối, không thích ca múa, lìa bỏ sự thương ghét, ăn một lần giữa trưa nơi rừng, đối với Bồ-đề là trên hết, thường tìm đến chỗ an vui, xa lìa việc ôm giữ, dùng áo đơn sơ vui mừng vừa đủ dừng trụ nơi rừng hoang, tìm nơi vắng lặng suy nghó, xa lìa những loạn tưởng và tham lam giận dữ… Luôn thực hành lòng lành, đem lợi lạc cho hữu tình, xa lìa ngu ám, tu tập trí tuệ lìa nghiệp phiền não, giải thoát sinh tử, tu tám Thánh đạo, trước mắt đạt được sự vắng lặng, phá tan tất cả các khổ phiền não. Như vậy, Tỳ-kheo cần phải tu tập vững vàng các căn lành, xa lìa ham muốn lôi kéo, chuyên tâm một cảnh, ưa thích chân như tất cả trí tuệ, tăng trưởng pháp tịnh viên mãn vô lậu, biết rõ hữu lậu là giả dối không thật. Đức Phật lại bảo các Tỳ-kheo: –Nếu có Tỳ-kheo an trụ phạm hạnh, thanh tịnh như hòa, khéo tu chỉ quán, ưa thích thiền định, vui chơi giữa rừng, xa lìa mọi sự lôi kéo, hiểu rõ mê vọng. Cũng như chim bay, bóng theo hư không, Tỳ-kheo cũng vậy, ba áo theo thân, khéo tu bình đẳng, luôn nghó chánh pháp, diệt trừ phiền não, trí tuệ tương ưng, về nơi chánh đạo, cho đến bờ giác, rốt ráo Niết-bàn. Tỳ-kheo nên biết! Quán sát như vậy sẽ an ổn vui vẻ, chớ đối với sự xoay tròn và già, bệnh chết thường là sợ hãi. Giống như A-tu-la và chúng trời khác, vui vẻ cúng dường, được bát Tăng-già-lê tốt đẹp hơn cả không như đồ khác; giữ gìn phạm hạnh, chẳng làm cho hủy phạm, trong sạch không nhơ, không bị các mùi vị và lợi dưỡng lôi kéo. Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: –Nếu các hữu tình lìa bỏ lòng thương xót, buông thả, ngạo khinh thiêu đốt các điều lành thì khó dứt hết các lậu. Đức Thế Tôn bèn nói kệ: Nếu xả Bi tinh tấn Vô minh, mạn tương ưng Vắng lặng không hiện có Do lậu không trừ diệt. Khi ấy, Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: –Nếu lại có người, đối với các ngọa cụ mềm mại thượng diệu, không có sự ưa thích, hiểu biết rõ vô minh là nguồn gốc của mê ám, các hoặc tùy theo đó phát sinh, vô minh ấy cùng khắc các tâm nhiễm; một lúc nào đó chẳng còn mê ám, thấu hiểu rõ ràng các pháp thiền định, Tam-muội, liền dứt sạch được các lậu. Đức Phật lại bảo các Tỳ-kheo: –Nếu các ông muốn kinh hành ở trong rừng, vắng lặng không loạn; thì đối với các cảnh rượu chè sắc đẹp, với các pháp xấu không nên ưa thích. Các Tỳ-kheo phải như vậy. Bởi có các chúng ma, do nghiệp ràng buộc, làm loạn khổ việc tu tập điều lành, giống như người uống độc, tự làm tự chịu, nay ông phá giới, thực hành tà mạng, bị phiền não trói buộc đọa đại địa ngục, chịu nhiều nỗi khổ. Tỳ-kheo nên biết! Khi đi khất thực nếu thấy người nữ, tưởng đó như rắn độc, nên chuyên chú một lòng nhớ nghó chánh pháp, không cầu danh lợi và các cảnh đẹp, xa lìa nghiệp trói buộc, khiến tâm được bình đẳng, không có hành động chê bai; hoặc vào xóm làng thì tưởng như vào rừng hoang; khi xin đồ ăn, thức uống tưởng để trị bệnh; khi phiền não khởi lên tưởng như rừng cháy; khi cầu diệu pháp, tưởng đến đường chánh, khi nằm trên giường, tưởng sợ hãi như nai; nhập vào thiền định, tưởng dạo xem vườn; thấy A-la-hán, tưởng làm ruộng phước, không thích cảnh giới và lời nói hý luận, luôn cầu giải thoát, quốc vương đại thần không vì lợi ích mà gần kề món ăn thức uống ngon ngọt nhất, cũng chớ tham tưởng là hiếm có; thí chủ danh lợi, thường chẳng nên lừa dối; tâm thực hành các phương tiện, không khởi sân giận; ngược lại, ham thích nhà cửa gần gũi kẻ quý tộc, như cá thích nước, muốn ở không rời xa lìa tri thức mê muội, quay lưng lại với chân thật, mong cầu sự giả dối trống rỗng như đèn chớp trong mộng, tưởng là giải thoát mà thật ra tôn trọng tà đạo, luôn cung kính, cho là chân thật cao tột nhất; thì không bao giờ tỏ ngộ được! Bấy giờ, Đức Phật lại bảo tiếp các Tỳ-kheo: –Phải nên biết tỉnh giác, ưa thích kinh hành, thiền định, trí tuệ, thường hành tâm Từ hướng cầu giải thoát chân thật cao tột, đạt được chánh kiến, thấu hiểu rõ ràng các pháp, mãi luôn tu tập nhẫn nhục, tinh tấn, lìa bỏ tham lam, sân giận và các tán loạn. Đức Phật bảo Tỳ-kheo: –Phải nên ưa thích tất cả hữu tình luôn nhớ nghó thương xót đến họ; khiến cho họ lìa bỏ điên đảo và mọi trói buộc, giải thoát các khổ. Tỳ-kheo nên biết! Đối với các cảnh giới nên xa lìa các nhiễm xâm hại. Giống như thể tánh của vàng là xa lìa nhơ bẩn vậy. Tỳ-kheo nên biết! Đối với bạn thân và bạn không thân, phải nên xa lìa sự tham lam, sân giận; biết rõ đâu là tổn hại lợi ích, tội, chẳng phải tội, an ổn, gian khổ, cay đắng mà có phương tiện hàng phục, nói các pháp yếu; tùy theo căn tánh lanh lợi hay ngu độn, thông minh hay ngu muội, chỉ dẫn con đường cao đẹp hay thấp kém, có lời nói dạy dỗ chân chánh cho họ. Tỳ-kheo nên biết! Kinh hành giữa rừng tu thiền định chỗ vắng, lìa bỏ được tội lỗi, ưa thích chân như, tin rõ nhân quả, hơn kém sai khác; xa lìa các ác độc; hàng phục các căn, không khởi lên lỗi lầm; trí tuệ sẽ tương ưng, khiến tâm hoan hỷ, chấm dứt sự chê bai, như biển sâu xa tương ưng vô tận; tâm ý chắc chắn không khởi nghi ngờ, không tham sắc đẹp, sáng suốt, thương xót bình đẳng; hợp thời khéo nói, cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc, đều là giả dối không chân thật, không nói lời phải trái của thế gian, xa lìa các cảnh giới hoạn nạn; coi đó như là các độc và chỗ bùn nhơ, chớ để cho xâm hại; giải thoát luân hồi; xa lìa vô minh, dùng thiền định, trí tuệ biện tài, tuyên nói nghóa pháp tối thượng, lìa mọi giả dối điên đảo và tất cả trần cấu, khiến không bị nhiễm ô; tất cả việc làm đều vì lợi ích; ở nơi chúng Tăng, không khởi sự chống đối; nghiệp thân, ngữ, ý, lìa những trói buộc, không cầu trời, người, tu các nghiệp lành không vì danh lợi, hướng đến Niết-bàn. Tỳ-kheo nên biết! Luôn lìa bạn ác; không tạo lỗi lầm; thường dùng Từ tâm, quán sát bình đẳng, tâm ý nhu hòa, giữ giới thanh tịnh tùy thuận chân thật, lìa giả dối và sợ sệt, không mê luân hồi; với các thiền định hiểu rõ vô thường, trí “không” tự tại; chúng trời cõi Phạm an trụ thiền định hướng đến Niết-bàn, lắng nghe diệu pháp, thành thật hiểu rõ, vui mừng phấn khởi. Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ: Quả nghiệp tốt, không tốt Đã làm, nhất định chịu Mình tạo, mình trói buộc Như tằm, không khác gì! Vất vả và ngọt đẹp Các khổ và phiền não Như bóng mãi bám theo Uống độc tự hại vậy. Đức Thế Tôn nói kệ này rồi, bảo với các Tỳ-kheo: –Nếu có chúng sinh, khéo tu trí tuệ, phá lửa phiền não, an trụ phạm hạnh, ưa thích Tam bảo, thấy nghe tùy hỷ, không khởi tham giận, luôn tưởng đến giải thoát, hiểu rõ không lay động, hướng đến chân thật, an trụ nơi cao tột thì sẽ thoát khỏi luân hồi già, bệnh, chết và các oan gia phiền não. Đức Thế Tôn lại bảo các Tỳ-kheo: –Nếu ở chỗ vắng mà tu tập phạm hạnh, hướng tới trí tự nhiên; thì được các chúng Phạm thiên luôn đến để gần kề cung kính cúng dường. Vì sao? Vì ưa thích Phạm hạnh có thể phá bỏ luân hồi, xa lìa phiền não, khiến tâm được điều phục, lìa bỏ tối tăm và các oan gia chẳng thể xâm hại. Giống như cỏ khô lìa được lửa thiêu đốt, lìa bỏ phiền não, cũng lại như vậy. Đức Phật bảo Tỳ-kheo: –Nếu lại có người, mê các cảnh giới, buông thả các căn, chống đối Niết-bàn, tâm không bình đẳng, luôn tạo nhân khổ, tà kiến trói buộc, tất cả các hoặc, không thể hàng phục, chứa nhóm những thứ cần dùng, tâm vô cùng tham lam, đối với ruộng phước cao cả bị ngu muội ngăn che, chưa từng tỉnh ngộ. Nếu gặp Pháp sư chỉ bày phương tiện khai hóa, xa lìa các hoặc và tham nhiễm… liền trừ được lửa dữ và lìa các xúc, hướng đến pháp cam lồ vi diệu cao cả an trụ chỗ tối thượng. Các bạn lành tri thức, ưa thích vắng lặng, tu tập trí tuệ; thì phiền não như núi cũng có thể phá hoại, an trụ tuệ sáng, bỏ mọi ngu ám, xa lìa luân hồi, được quả báo tốt đẹp; trí tuệ thông minh cao tột, tu tập các hạnh cao đẹp, tâm ý liên tục, bớt ham muốn, biết đủ, trừ hết tà chấp, thảy đều xa lìa phan duyên trói buộc. Như cá nuốt câu vì tham mùi vị, tự bị trói buộc, hữu tình cũng vậy; vì ưa thích năm dục luôn luôn không bỏ, mà khởi lên các nghiệp, làm cho sinh tử luân chuyên không lúc nào dừng nghó, đó là nguyên nhân nhiễm mê muội làm sai khác các nẻo, không có sự chấm dứt. Lúc đó, Đức Thế Tôn nói kệ: Nếu người tạo nghiệp ác Luân hồi địa ngục khổ Ngạ quỷ và bàng sinh Chìm đắm không cùng tận Đẳng hoạt và Hắc thằng Chúng hợp và Hiệu khiếu Và ngục lớn A-tỳ Thiêu đốt rất dữ dội Gian nan nghiệp ác khổ Nhọn dài mười sáu ngón Bốn vách và bốn cửa Đều làm bằng sắt nhọn. Đức Thế Tôn lại bảo các Tỳ-kheo: –Các địa ngục kia, lửa cháy hừng hực, rất nhiều bạo ác, liên tục không gián đoạn, trải qua trăm du-thiện-na, khó có thể điều phục, toàn thân lông dựng ngược, rất là sợ hãi, tiếng rất độc ác, nghe đều khổ sở. Nếu hữu tình tạo ác nghiệp, khi đọa vào địa ngục này, thân thì treo lên, đầu lại chúc xuống, trong khoảng sát-na, chịu nhiều khổ sở, lần lượt thiêu đốt, ngày đêm than khóc, tiếng kêu phát ra rất đau đớn, như xâu cá nướng, da thịt nức nẻ, đầy dẫy hắc ám, tâm ý mê loạn, tội nhân thấy cõi Diêm-ma-la kia, bị lửa thiêu đốt, mê loạn tuyệt vọng, những người cùng tạo một nghiệp, cùng ở một ngục, người nào cũng bị trói buộc, cai ngục lôi kéo, chịu các nạn khổ, không có gián đoạn. Hoặc người thiếu trí, hư vọng tạo tội, do luân chuyển này mà oan gia tụ hội, chịu khổ địa ngục. Lúc đó, các Tỳ-kheo bạch Phật: –Thưa Thế Tôn! Cõi Diêm-ma-la này, người chịu tội, vì sao phải trói buộc, chịu khổ vô lượng? Bấy giờ, Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: –Người này thường luôn chê bai chánh pháp, không sinh tâm tín thọ, nhân quả không hiểu rõ, mê các địa ngục chẳng sinh sợ hãi, lại khởi lên lửa phiền não, thiêu đốt các điều lành, vì nhân duyên này, bị đọa vào cõi Diêm-ma, chịu khổ như vậy, chịu hết mọi nạn lửa, không hề gián đoạn, sân giận oan gia, ngu si tối tăm, tùy theo nghiệp mà phải chịu, khi nghiệp hết, mới ra khỏi. Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: –Nếu lại có người, khinh khi dối trá đối với vợ người, đam mê không bỏ, sống trong bóng tối ánh sáng bị che làm sao có thể hiểu rõ! Khi ấy, các Tỳ-kheo lại bạch Phật: –Thưa Thế Tôn! Chỗ người thấp hèn ngu muội, vô trí, phải nhân gì mà hứng chịu quả như vậy? Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: –Người ấy, ở đời quá khứ, tâm cống cao, ngã mạn, khinh khi, hủy báng Hiền thánh, tham lam ganh ghét, nên phải chịu quả báo ấy. Hoặc lại có người, làm chuyện chia lìa đây đó và tạo ác nghiệp, do nhân duyên này, đọa vào các địa ngục, nếu được sinh trong loài người thì không có con cái, tài vật tiêu tan, xa lìa tri thức, khi mạng hết điên cuồng sợ hãi, nhờ quyến thuộc bảo vệ, mê các cảnh giới, không thể hiểu rõ. Lúc đó, Đức Phật nói kệ tụng: Tự tạo phải tự nhận Tội tàn hại hữu tình Chịu cảnh khổ bạo ác Nghiệp hết mới ra khỏi. Thế gian tạo các nghiệp Thường tùy lành hay ác Thí như mùi hương hoa Xa gần đều cùng thích. Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo: –Ví như loài chim bay, việc đậu, nghỉ luôn ở trong rừng cây, việc họp tan cũng chẳng đúng kỳ! Cha mẹ bà con cũng lại như vậy. Đức Phật bảo Tỳ-kheo: –Nếu lại có người, ở nơi vắng lặng, trói buộc những suy tư nhớ nghó, tu tập nghiệp lành, lìa bỏ ngu tối, cắt đứt trói buộc bạo ác phi pháp, đến khi mạng hết, thân tâm không còn áo não, lìa mọi sự sợ hãi, được quả báo sinh Thiên, ăn uống, y phục, tùy tâm mong muốn liền có, quyến thuộc và cung điện thảy đều đầy đủ, thông minh trí tuệ, của cải vườn tược, đầy đủ không thiếu, thọ mạng hình sắc viên mãn đầy đủ. Nếu lại có người, dối trá chính mình, làm mê hoặc thế gian; đối với nam nữ quyến thuộc, bạn bè tri thức thì chửi bới xúc phạm tạo nhiều tội lỗi, sau khi người đó mạng hết sẽ đọa vào đường ác, chịu khổ vô lượng; từ chỗ ác kia xa, nếu lại sinh trong loài người thì nghèo khổ hèn hạ, cơm ăn áo mặc thiếu thốn, nam nữ quyến thuộc thảy đều nhàm chán xa lìa, giả dối ngu mê, không rõ nhân quả, tham lam lầm lẫn, tất cả tương ưng không gián đoạn, đối với việc lành không hề tu tập, luôn luôn tìm cách gần gũi bạn ác và pháp chẳng thật. Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ: Từ nghiệp sinh các khổ Bị địa ngục thiêu đốt Con người bị khổ trói Đều tự tâm mình tạo. Xoay tròn trong ba cõi Qua lại như kiến bò Nghiệp quả duyên với nhau Liên tục không cùng tận. Đức Thế Tôn nói kệ này rồi, bảo các Tỳ-kheo: –Nếu được chánh quả, mới thoát khỏi luân hồi, không còn trói buộc, tự tại an lạc, nghiệp và quả của nghiệp không thể làm nghiêng ngã lay động. Hoặc lại có người, khởi tham giận, mê hoặc và tạo các tội lỗi thì bị đọa vào địa ngục, bị lửa dữ thiêu đốt, cả thân thể chịu các thứ khổ, phát tiếng kêu khóc, suy nghó tìm cách đều không thể giải thoát; khổ sở như vậy là do nghiệp ác ngu mê tự tạo. Ví như lửa dữ thiêu đốt rừng hoang, tất cả cỏ cây, đều bị cháy rụi; ác nghiệp cũng vậy, xoay tròn trong địa ngục, chịu các khổ não, không thể xa lìa. Hoặc lại có người, lìa bỏ bạn ác, không tạo tội lỗi, hiểu rõ nhân quả, lìa mọi nghi ngờ chê bai, tu tập chánh kiến, tin ưa chân như, an lạc vắng lặng, xa lìa luân hồi và các khổ não, cao cả không gì sánh bằng, vô tướng, vô vi, lìa những dối lừa điên đảo, thường, lạc, ngã, tịnh; tự tại không ngại, lìa mọi trói buộc, nghiệp lành hay ác, thảy đều xa lìa. KINH DIỆU PHÁP THÁNH NIỆM XỨ <卷 id="96841734">Quyển 2 Bấy giờ, tất cả các Tỳ-kheo trong chúng hội, nghe Đức Phật nói về địa ngục thiêu đốt, chịu khổ vô lượng mà buồn khóc, nước mắt như mưa, đảnh lễ dưới chân Phật, rồi bạch: –Hữu tình chịu tội ở các địa ngục này; tu nhân gì, để được giải thoát các khổ não; ở đời vị lai, không bị trói buộc, mau được giải thoát. Cúi xin Đức Từ Bi, rộng giảng việc này, để làm lợi ích cho đời vị lai. Lúc đó, Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo: –Hãy lắng nghe! Lắng nghe! Ta nay vì các ông mà phân biệt giảng nói. Hoặc lại có người, tu hành các giới trong sạch, xa lìa tà chấp, ngu mê điên đảo; nếu người đã tạo tội thì ăn năn, không cho tăng trưởng; nếu người chưa tạo tội thì ngăn ngừa không cho sinh, tu tập nghe nghó và các nghiệp lành; lìa bỏ tham lam, keo kiệt, dối trá và bạo ác, tin sâu nhân quả; do nhân duyên này sẽ không bị nỗi khổ địa ngục thiêu đốt. Đức Phật bảo Tỳ-kheo: –Hoặc lại có người muốn cầu sự xa lìa, thiêu đốt oán hại, không uống các thứ rượu, tu hành bố thí và giữ giới. Tỳ-kheo nên biết! Lỗi của rượu là trên hết vì phá hoại pháp lành; lỗi của rượu là trên hết vì có thể phá hoại sự sáng suốt của trí tuệ; lỗi của rượu là trên hết vì phá hoại sự an vui; lỗi của rượu là trên hết vì làm xa lìa bạn lành; lỗi của rượu là trên hết vì hay sinh các bệnh; lỗi của rượu là trên hết vì phá hoại sự giải thoát; lỗi của rượu là trên hết vì oan gia tìm được sơ hở; lỗi của rượu là trên hết vì tài vật tan mất; lỗi của rượu là trên hết vì tăng trưởng pháp không thật; lỗi của rượu là trên hết vì xa lìa châu báu; lỗi của rượu là trên hết vì nói loạn việc phá trái; lỗi của rượu là trên hết vì tăng trưởng sự tán loạn; lỗi của rượu là trên hết vì hay sinh tham lam giận dữ; lỗi của rượu là trên hết vì tăng trưởng vô minh; lỗi của rượu là trên hết vì trung thực biến thành giả dối; lỗi của rượu là trên hết vì tiết lộ bí mật; lỗi của rượu là trên hết vì tăng thêm phiền não; lỗi của rượu là trên hết vì thành tựu địa ngục; lỗi của rượu là trên hết vì thiêu đốt căn lành; lỗi của rượu là trên hết vì hủy hoại Tam bảo; lỗi của rượu là trên hết vì tiếng ác đồn khắp; lỗi của rượu là trên hết vì say sưa, sắc mặt đỏ gấc; lỗi của rượu là trên hết vì bay mùi hôi hám; lỗi của rượu là trên hết vì tăng trưởng ba nẻo khổ. Tỳ-kheo nên biết! Rượu có thể hủy hoại nghiệp cõi Sắc, vô Sắc; rượu có thể thiêu đốt bốn nghiệp Thánh quả; rượu làm tăng trưởng các nghiệp bạo ác; rượu có thể làm không tin nhân quả chân chánh; rượu làm tăng trưởng các khổ phiền não; rượu có thể phát khởi bốn lỗi lầm của miệng và những việc sợ hãi, rượu luôn luôn khởi lên các sự dối trái cao ngạo; rượu có thể chê bai bạn lành, tri thức; rượu có thể đem lại các nỗi khổ buồn lo; rượu làm tăng trưởng tất cả tội lỗi; rượu đọa hữu tình vào chỗ tối tăm; rượu đọa hữu tình vào ngạ quỷ và bàng sinh; rượu làm xa lìa sự thông minh trí tuệ; rượu làm xa lìa chư Thiên, Thần tiên; rượu có thể hủy hoại việc chuyển bánh xe Phật pháp; rượu làm tăng trưởng dâm dục hừng hẫy; rượu làm hủy hoại phạm hạnh thanh tịnh; rượu làm tăng trưởng ngã mạn buông lung; rượu giống như bão tố phá hoại thế gian; rượu làm hủy hoại não loạn các hạnh của trưởng giả; rượu làm quên mất tâm của nhẫn nhục; rượu làm mê loạn sự thông tuệ của thế gian; rượu có thể chê bai pháp giải thoát; rượu làm xa lìa giới trong sáng của chư Phật. Lúc này, Đức Thế Tôn mới bảo các Tỳ-kheo: –Rượu có nhiều lỗi như vậy, cần phải xa lìa. Tỳ-kheo nên biết! Những người uống rượu chỉ tham vị ngon, không nghó đến quả khổ; do nhân này, mà đọa vào địa ngục, chịu nhiều khổ sở; từ địa ngục này ra rồi, hoặc được sinh trong loài người thì lại ngu muội bần cùng, không tin nhân quả, chê bai chánh pháp, coi thường sự hiền lành, thêm nhiều phiền não, dâm dục càng hừng hẫy, xa lìa giải thoát, bạo ác trói buộc, một mảy may điều thiện cũng chẳng tu tập được; đó là cái nhân của cực ác, lúc nào cũng gần gũi luân hồi các nẻo, không lúc nào có được giải thoát. Tỳ-kheo nên biết! Suy nghó để xa lìa giả dối, luôn phải tu tập chánh hạnh thận trọng giữ gìn ba nghiệp; những tội khổ não kia sẽ chịu quả báo gian truân, cay đắng, đau đớn, khó chịu đựng; nhất định phải bị thiêu đốt. Thế nên, Tỳ-kheo cần phải xa lìa tất cả tội lỗi và mọi sợ hãi. Tỳ-kheo nên biết! Mình tạo ra thì mình lãnh chịu, người khác không thể thay thế được. Mười nghiệp ác như sát sinh… chịu quả không sao tránh khỏi. Lúc đó, Đức Thế Tôn nói kệ: Tội lỗi thân, ngữ nghiệp Xoay tròn các nẻo ác Mình tạo mình trói mình Thiện Thệ không thể cứu. Đức Thế Tôn nói kệ này rồi, bảo các Tỳ-kheo: –Tất cả giận dữ và giả dối phải nên xa lìa, vì nhân này sẽ đọa vào các đường ác, chịu nhiều điều khổ, sau sinh trong loài người, lại bị nghèo khổ thấp hèn, mỗi khi nói ra, tăng thêm nhơ bẩn, độc ác, gây thương tổn, xâm hại đến người khác, giống như dao búa, như ngạ quỷ, tự mình chịu nghiệp, ăn uống đều bị thiêu đốt, nghiệp này cũng vậy, thiêu đốt điều lành, tiếng xấu đồn khắp, thấy nghe không vui. Hoặc có người trí, xa lìa nói dối, nói lời chân thật, người người đều tin, nhận tiếng tốt vang khắp, giống như ngửi mùi thơm, ai nghe đều cũng vui vẻ. Tỳ-kheo nên biết! Nếu lại có người, nói lời chân thật, xa lìa khổ não, giả dối tà chấp, giống như người ấy gánh vác thọ dụng châu báu vậy cũng như đèn sáng, chiếu rõ hình ảnh muôn vật; nói chân thật cũng vậy, ai nghe cũng đều tin thọ, bởi nhân duyên ấy mà được tự tại cõi trời, người giải thoát các khổ, lìa bỏ tiếng xấu ác giả dối, như có tài năng tính toán, an trụ chỗ cao đẹp nhất hướng đến giải thoát, của cải vô lượng giúp khắp người bần cùng, trí tuệ sáng suốt, trang nghiêm đệ nhất, kho tàng tràn đầy, xa lìa phiền não. Nếu sinh trong loài người được tôn quý hơn hết, các thứ trang nghiêm, tự tại đầy đủ, luôn làm lợi ích cho những hữu tình nghèo cùng cô độc, cho đến các bậc hiểu biết thảy đều lợi lạc; luôn nói lời chân thật, giống như lửa độc thiêu đốt hừng hực con đường hiểm ác; như độc được lìa bỏ. Cho nên nói dối, bất cứ lúc nào cũng cần phải lìa bỏ; các trói buộc và những tội sợ hãi cũng phải lìa bỏ. Lại nữa, này Tỳ-kheo! Hữu tình nói dối sẽ đọa địa ngục lớn chịu các khổ não, cắt thân ra từng phần giống như cánh hoa sen xanh. Khi ấy, kẻ giữ ngục Diêm-ma, vì người có tội kia mà nói kệ: Nhân hư vọng, địa ngục Các khổ, tự tâm tạo Nước Sa-già có tận Nghiệp báo này không cùng. Đức Thế Tôn lại bảo các Tỳ-kheo: –Nếu lại có người, lìa bỏ nói dối như xả bỏ khổ sở, được vị ngon ngọt. Tỳ-kheo nên biết! Tu tập trí tuệ ưa thích chân thật, tự thân trang nghiêm bằng công đức cao đẹp. Giống như cam lồ có thể giúp lìa lỗi lầm. Kẻ ngu si điên đảo, mê muội, không rõ nhân khổ, hừng hẫy tạo ra các nghiệp bạo ác, tổn hại, oán ghét, tất cả tội lỗi đó luôn luôn không dừng, đọa vào địa ngục, xa lìa sự vui và chân thật. Hoặc được làm thân người, thấy nghe chẳng vui, càng nhiều lỗi lầm, trời rồng chê bai nhàm chán, ngu si giả dối. Bạn lành mà như oán thù chưa từng gần gũi, thường tập nhiễm điều ác, không khi nào tạm bỏ, phải chịu khổ, xoay tròn không có cùng tận. Tỳ-kheo nên biết! Người trí tu tập chân thật tối thượng, giống như cam lồ, xa lìa lỗi lầm, luôn luôn an lạc; cũng như Niết-bàn, khổ não không hại, xa lìa vô nghóa và bốn tướng… lại như Thánh cảnh, ưa thích tối thượng, chân thật cũng vậy, nghe đều hoan hỷ. Lại như nhà tối, đèn sáng rực rỡ, soi rõ mọi vật, chân thật cũng vậy, nghe chẳng nghi ngờ chê bai, lại như thuốc hay, có thể dứt hết khổ não, cho đến quỷ mị đều phải xa lìa, chân thật cũng vậy, giải thoát địa ngục và các khổ não, ngu mê luân hồi trong các nẻo ác, lần lượt chịu khổ, nghiệp báo không cùng, đọa vào các địa ngục, không được giải thoát, chịu nhiều khổ não, phát tiếng kêu khóc, bỗng nhiên trong hư không, có tiếng bảo các tội nhân rằng: “Các ông chớ khóc, mình làm mình chịu, chớ oán giận ai, phiền não mê mờ che lấp tự tâm giả dối không thể xa lìa giải thoát các khổ.” Nếu lại có người, thường không nói dối, giống như cam lồ, ai cũng đều ưa thích, lợi ích cho mình và người. Nếu thực hành nói dối, giống như thuốc độc, tổn hại đến mình và người, không được an ổn, giả dối cũng vậy, đọa ở nơi nguy hiểm chịu đại khổ não, như vậy đời đời, ở trong giả dối. Vì vậy phải nên phải lìa bỏ, tu tập tịnh hạnh, giải thoát các khổ, trang nghiêm chân thật các loại trí tuệ; tham lam mê hoặc và các nghiệp ác quyết đoạn trừ không còn. Tỳ-kheo nên biết! Hữu tình giả dối bị phiền não trói buộc, giống như các vật dụng như trượng, dao, kiếm, làm tổn hại hữu tình không được an ổn. Nếu lại có người chân thật lìa dối ban cho tài, pháp, tuệ; làm nhiều lợi ích hữu tình, công đức cao đẹp sẽ không cùng tận, đạt đến mọi tự tại an vui. Nếu lại có người, xa lìa chân thật và các trí tuệ, luôn tạo nghiệp ác, xoay tròn trong các nẻo, chịu nhiều khổ sở, như đao binh, đói khát, gió lửa, bệnh tật, trôi nổi, chìm đắm, thiêu đốt, oan gia chẳng phải một, các khổ tụ hội, thúc ép đau đớn. Tất cả bạo ác mình làm mình chịu nghiệp báo, không sao tránh khỏi. Tỳ-kheo nên biết! Phàm phu ôm lấy sự giả dối, cho cái này cái kia là không nhân không quả và không tác dụng thế gian, tán loạn ngang trái, tăng trưởng pháp không thật xa lìa pháp lành, hữu tình ngu mê, chẳng rõ nhân quả, đọa vào chỗ tối tăm, luân chuyển không dừng, vô cùng khổ não. Đức Phật đại Từ bi, nói pháp hiếm có chỉ bày cái ngu mê kia cho họ, khiến tâm tỉnh ngộ, lìa bỏ chúng ma và mọi sợ hãi. Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: –Hữu tình bị nghiệp lôi kéo, đọa vào địa ngục, chỗ ở tối tăm, thường nghe tiếng ác, mê loạn sợ hãi, rơi vào hầm lửa, thiêu đốt thân thể, da khô thịt nát, giống như cây khô, vì do nghiệp lực, gió mát chạm vào thân thể trở lại như cũ, lại tiếp tục bị thiêu đốt như trước, khổ não vô lượng, chịu khổ như vậy hết mới thoát khổ. Tỳ-kheo nên biết! Siêng tu nghiệp lành xa lìa đường ác và mọi khổ não thì trời, người vui thích, tự tại, đáng yêu hướng đến Niết-bàn, hàng phục tham, sân và các hoặc khác, khiến chúng không xâm hại, lìa bỏ tán loạn, không tạo điều ác, địa ngục chua cây đau đớn mãi mãi chịu khổ nên sinh nhàm chán, thoát khỏi luân hồi. Nếu lại có người, giết hại chúng sinh, ôm giữ của không cho, chê bai Tam bảo, không tin nhân quả, tạo sự dối lừa làm xa lìa đó đây, thân tạo các nghiệp bỏn sẻn, tham lam ganh ghét, thường không lìa bỏ; sau khi mạng hết đọa vào địa ngục, chịu khổ vô lượng, lần lượt như vậy, chìm đắm trong đường ác không thể thoát ra. Tỳ-kheo nên biết! Do nghiệp lực đời trước, nên phải chịu xoay tròn sinh tử, trói buộc hữu tình, không có sự cùng tận. Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: –Nghiệp của thân, ngữ, ý; nếu nhân ác, sẽ đọa vào địa ngục, ba thời chịu khổ, không có dừng nghó. Thà đem kiếm bén, cắt lưỡi của mình, chớ để lưỡi này, nói lời nhiễm dục. Vì sao? Vì do nhân này, khởi lên tham, sân, si, tạo nhiều nghiệp ác luân chuyển các nẻo, không được giải thoát; tất cả đều do nơi giả dối, dính mắc vào nhiễm dục. Đối với khổ cho đó là vui khởi lên nghiệp phiền não, sống chết mãi với nó không thể xa lìa; lại nữa, nó như cạm bẫy, trói buộc hữu tình; nhiễm dục cũng vậy, trói buộc hữu tình, đọa vào địa ngục, chịu quả đau khổ; hữu tình ngu mê, không thể xa lìa, nhân duyên nhiễm dục, nó lừa dối, nịnh hót, bạo ác, tăng thêm hừng hẫy, thiêu đốt điều lành, không chút thương xót những lợi ích cho hữu tình. Tỳ-kheo nên biết! Ngã chấp như núi, nghiệp ác như biển, phiền não dữ tợn, đốt cháy liên tục, trói buộc chẳng bỏ; làm cho tướng mạo xấu ác kinh sợ, sầu não, thường chẳng an ổn. Giống như hư không, có khắp tất cả mọi chỗ, nó là nghiệp khổ não, theo đuổi hữu tình, luôn không lìa bỏ, không có chỗ nào mà không có sự trói buộc, hữu tình không thể ra khỏi. Như tà kiến, chấp ngã của thế gian, lại rất kiên cố, khó mà sửa đổi, dính mắc vào trói buộc mà không dừng bỏ, khổ não thúc ép, bạo ác trói buộc, tổn hại, gian khổ, cay đắng, không chỗ nương tựa, luân chuyển trong sinh tử, biến khắp tất cả, như lửa thiêu đốt, chịu nhiều đau khổ, không có cùng tận. Lại nữa, ngã chấp này điên đảo, giả dối ngu tối, mê loạn, hoặc chấp sao thần, hoặc chấp năm căn, hoặc chấp ý căn giả dối cho là cứu cánh, nương về phụng thờ mà cầu giải thoát, do dính mắc giả dối, nên ngã có thể tạo nhân cũng có thể chịu quả, do dính mắc này mà thân tâm càng thêm khổ não, chẳng thể xa lìa, chua xót đau đớn, khổ sở xoay tròn trong địa ngục; sự dính mắc càng mạnh mẽ thì trói quấn càng liên tục, ngu mê tạo tác các nghiệp ác càng nhiều mà chẳng hối hận, suy nghó tìm cách để hiểu rõ nhân quả, xa lìa lỗi lầm; hướng cầu giải thoát. Tỳ-kheo nên biết! Nếu lại có người, tạo các nghiệp ác, phải chịu quả báo, khổ sở cay đắng, ở nơi địa ngục, cho đến kiếp hoại chẳng được giải thoát; Trời, Rồng, tám Bộ chúng không thể bảo vệ. Vì sao? Vì các hữu tình này bị nghiệp lôi kéo phải chịu khổ địa ngục, khi cõi này hoại, nhân duyên của nghiệp ác, sinh qua cõi khác, ở chỗ khác lại cũng chịu khổ, không thể xa lìa. Nếu lại có người, đối với cha mẹ, khởi lên ý tưởng giết hại, thì chắc chắn mắc tội rất nặng. Ví như có người, dùng dao kiếm bén, phá hoại ba cõi và tất cả chúng sinh, so sánh thì tội này còn nhẹ. Vì sao? Vì cha mẹ là ân đức, lại sinh oái hại là mắc tội rất nặng. Nếu lại có người, phá hòa hợp Tăng, giết A-la-hán, làm thân Phật ra máu, tội này rất nặng, mắc quả báo ở địa ngục Vô gián, chịu khổ liên tục, tàn hại sợ hãi luôn luôn trị trừng phạt, có suy nghó tìm cách cũng không thể dừng nghó, sắt độc nung đỏ, đau khổ vô cùng; lại bị các pháp không thật trói buộc, phá hoại làm cho sợ hãi, luôn luôn không dứt, điên đảo, ngu muội trên càng không thể xa lìa quả báo đau khổ; do nhân duyên này, nghiệp phiền não tiếp tục lôi kéo xoay tròn trong sinh tử không được giải thoát. Tỳ-kheo nên biết! Nhiễm dục, nói dối nên sinh nhàm chán xa lìa, hối hận suy nghó mà xả bỏ hết chấm dứt tham ái, chớ nghó như vậy mà xem thường sự dính mắc, lại tạo ra các nghiệp kia. Thế nên Tỳ-kheo, phiền não, bạo ác, tà kiến, điên đảo, ông nên phá bỏ đối với các đường ác, lìa bỏ nghiệp ngu si kia… Hướng cầu vô thượng, vô biên tối thắng, trí tuệ nhị không, làm lợi ích hữu tình, không bị đọa lạc địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh, chịu các kết quả không được như ý. Nếu lại có người tôn trọng Phật, Tăng và các kinh điển, cung kính cúng dường, ca tụng khen ngợi; do nhân duyên này mà xa lìa trần cấu và các nghiệp trói buộc cùng mọi chướng ngại… được phước báo an vui, được sinh vào đường lành, đầu, giữa, cuối đều tốt đẹp, xa lìa khổ não, thường luôn an lạc liên tục không gián đoạn, xả bỏ nhơ nhiễm và các phiền não, ngu mê say loạn, hàng phục không cho khởi lên, chấm dứt sự xoay tròn, giải thoát các cõi, cho đến rốt ráo mà chứng chuyển y. Lúc đó, Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: –Nếu lại có người, dối trá nói năng không thật mê hoặc thế gian, mong cầu của cải, nuôi sống thân mạng, kể cả người giúp việc và ngựa… Do nhân duyên này, sau khi mạng hết ắt sẽ đọa địa ngục, chịu khổ thiêu đốt, lửa cháy hừng hực liên tục không gián đoạn, khổ não đốt cháy, không cùng tận; phải chịu các khổ bạo ác kia như vậy là đều do nghiệp lôi kéo, không có cách xa lìa. Các điều khổ địa ngục, ví như cạm bẫy, trói buộc hữu tình khiến không được tự tại; nghiệp này cũng vậy, hay trói hữu tình, rơi vào lửa dữ, thiêu đốt thân thể, tay chân, xương, tủy giống như đống lửa trong ngoài cũng vậy. Đại địa ngục đó, khổ não vô lượng, vòng khắp bốn cửa, lại có bốn góc, ở mỗi mỗi góc cũng có thiêu đốt những máu mũ phân dơ, nhiều cách trị phạt, đủ thứ khổ sở, lửa cháy thiêu đốt liên tục không gián đoạn. Khi ấy, Đức Thế Tôn nói kệ: Các hữu tình ngu muội Hư dối tham của cải Nghiệp địa ngục lôi kéo Chịu các khổ thiêu đốt, Cũng như các thuốc độc Mình uống lại hại mình Tạo nghiệp cũng như vậy Như bóng không rời hình, Như cây phát ra lửa Lửa trở lại đốt cây Quả khổ từ nhân ác Mình làm, mình phải chịu. Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: –Nếu lại có người đối với cảnh. Nếu khởi lên sự tham lam thì phải nên quán tưởng để có thể đối trị; nếu đối với châu báu mà khởi lên ý tham thì tưởng như vòng lửa và nghó đến sự tan mất. Thế gian tham ái là vô lương, vô biên, do quán tưởng này, mà thảy đều xa lìa. Sự tham trước ở thế gian, tưởng như oan gia; thấy nước biển cả, tưởng như chìm đắm, thấy đối với dao kiếm, tưởng diệt phiền não; khi mây mưa xuống, tưởng như lợi ích; khi thấy chư Phật tưởng đó là giải thoát; khi thấy quốc vương, khởi lên ý tưởng tôn trọng; khi thấy cha mẹ khởi lên ý tưởng thân ái; khi khởi lên sự bỏn sẻn tưởng như thuốc độc, khi thấy quyến thuộc, tạm dứt ý tưởng; khi hướng đến chỗ vắng lặng, khởi lên ý tưởng bình đẳng; khi giữ giới sạch khởi lên ý tưởng sáng suốt; khi thấy vàng báu, khởi lên ý tưởng tan mất; thấy người phá giới, khởi lên ý nghó giúp đỡ, khi của cải tan mất, tưởng như chẳng tồn tại; khi ở trong ba cõi, tưởng như lao ngục; khi thấy vầng mặt trời, khởi lên ý tưởng trí tuệ; khi tu vắng lặng, tưởng cầu công đức. Tỳ-kheo nên biết! Đối với tài vật của người khác mà khởi lên hành động dối lừa trộm lấy; thì do nhân này, đọa vào địa ngục chịu các thứ khổ não, thiêu đốt thân kia; tay, chân, thân thể bị tan nát, luôn ở chỗ tối tăm, chẳng có chút ánh sáng, tâm bị ngu mê che lấp không thể lìa bỏ, không có được chút an vui, xa lìa Niết-bàn; một khi quả báo hết, lại đọa vào ngạ quỷ và súc sinh, luôn chịu khốn khổ đói khát, bị đọa đày khổ nhọc, các khổ thúc ép không có cùng tận. Nếu sinh trong loài người, của cải thiếu thốn, lòng ham muốn lại quá lớn, làm người thấp hèn, khổ nhọc liên tục, không có chút giận tạm dừng. Đức Thế Tôn liền nói kệ: Dối gạt, trộm của người Tự chịu ba nẻo khổ Thường liên tục đói khát Các khổ không dừng nghỉ, Ngu si che trí tuệ Ánh sáng mãi xa lìa Trôi lăn trong đường ác Nghiệp hết mới ra khỏi. Bấy giờ, Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: –Nếu lại có người đối với các cảnh, thuận theo ý, xúc chạm thích thú mà khởi lên sự dính mắc, mãi chẳng lìa bỏ, thì phải tạo ra ý tưởng cứng, khổ, thô ngạnh, là vô thường, sẽ tan mất, thể nó không có tồn tại, như điên, như mộng, tự tánh chẳng có; đối với các thứ xúc chạm dịu dàng thảy đều nên xa lìa. Tỳ-kheo nên biết! Đối với các cảnh dục, chớ để lòng yêu thích bị lôi kéo. Trần cảnh nhiễm dục của thế gian, trong quá khứ, hiện tại, vị lai; nếu có ưa thích, thì phải nên xa lìa. KINH DIỆU PHÁP THÁNH NIỆM XỨ <卷 id="96841735">Quyển 3 Khi ấy, Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: –Nếu lại có người, đối với đời vị lai, cầu sinh cõi trời, người vì nhàm chán muốn lìa khổ; thì phải nên xa lìa các nghiệp phiền não, bạo ác, dâm dật và lìa nói dối phá hoại những tổn não cho tất cả hữu tình, tu các nghiệp lành khiến cho tăng trưởng, liên tục được quả báo an vui, lìa bỏ khổ não. Đức Thế Tôn liền nói kệ: Hãy xa lìa bạo ác Quả khổ sở chẳng có Không xem thường nói dối Nghe danh đều vui vẻ, Tà chấp cùng oán tặc Hàng phục khiến không khởi Tỏ ngộ phiền não nhiễm Luôn tu pháp đối trị. Bấy giờ, Đức Phật lại bảo các Tỳ-kheo: –Nếu lại có người, gặp duyên trái ngược đối với mình và người, thì phải nên giác ngộ, phá bỏ và xa lìa sự giả dối dính mắc, nghó tưởng đến các bậc Thánh hiền tu tập hạnh nhẫn; đối với của cải, bỏ ý tưởng tham vọng, nhân và phi nhân, thế gian và xuất thế gian, chánh đạo phi đạo, hoặc nam, hoặc nữ, nghiệp quả xấu tốt, chân thật hư vọng, cung điện nhà cửa, cung kính cúng dường… cho đến tất cả các cảnh nhơ và sạch, chớ khởi lên vọng chấp, cũng chẳng ganh ghét; chân thật xa lìa sự hư vọng, thương xót hữu tình nhập dần vào bậc Thánh, xa lìa địa ngục, tổn hại Diêm-ma, trừ diệt đen tối, tu tập trí tuệ, dính vào tham giận, giống như lửa độc, phải nên lìa bỏ, nghiệp báo gian khổ cay đắng, phát lồ sám hối, không nên che giấu, hiểu rõ văn tự, tuyên nói nhân khổ, đều nên xa lìa. Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: –Nếu lại có người, đối với bạn ác và quyến thuộc của người khác, mà sinh tâm ghét thì nên khởi lên ý nghó này: Ta đã nhiều kiếp từ xa xưa đến nay, luân chuyển các nẻo; cha mẹ, thân tộc, bạn lành, tri thức cũng luân chuyển trong sinh tử, qua lại không dừng; đối với các hữu tình phải nên thương xót, khởi lên ý tưởng thân yêu, do diều này mà được xa lìa tham, sân và mê hoặc. Khi ấy, các Tỳ-kheo bạch Đức Phật: –Kính thưa Thế Tôn! Nếu lại có người giả dối nói hai lời làm chia lìa người nọ kẻ kia, thì sẽ chịu quả tương ứng gì? Cúi xin Thế Tôn diễn nói, chúng con thích nghe, để làm lợi ích cho tất cả hữu tình đời vị lai. Đức Phật bảo Tỳ-kheo: –Nên biết nói hai lời mắc nhiều quả báo sai khác, nói gọn có mười loại: 1. Dòng họ thấp hèn quyến thuộc xa lìa. 2. Bạn lành xa lìa, thêm nhiều bạn ác. 3. Ngu si ám độn, tăng trưởng lỗi lầm. 4. Chê bai Thánh hiền không tin nhân quả. 5. Che giấu lỗi mình, ưa nói lỗi người. 6. Giả dối thì nhiều, trung thực thì ít. 7. Chết đọa địa ngục, chịu khổ vô cùng. 8. Phóng túng tham, sân tiếng xấu đồn khắp. 9. Của cải tan mất mãi, luôn sầu khổ. 10. Xa lìa chánh pháp, thường sinh nơi biên địa. Tỳ-kheo nên biết! Nghiệp của nói hai lời mắc quả báo như vậy, không nên dính mắc vào phải xả bỏ nó. Lúc đó, có Tỳ-kheo lại bạch Đức Phật: –Thưa Thế Tôn! Nếu có chúng sinh, lời nói thô ác sẽ chiêu cảm quả gì? Đức Phật bảo: –Nên biết ngữ nghiệp, mắc người quả báo: 1. Miệng nói ra như dao kiếm, tự thân bị thiêu đốt. 2. Tà kiến hừng hẫy, không có điều ác nào mà không làm. 3. Xa lìa Thánh hiền, càng ngày thêm nhiều bạn ác. 4. Chúng đều nhàm chán, giống như các thứ độc. 5. Hình dáng bên ngoài hiểm ác, cao thấp không bằng nhau. 6. Phiền não hừng hẫy, của cải tiêu tan. 7. Thiêu đốt điều lành, pháp không thật càng tăng. 8. Thân thể hôi hám, nghe đều ngờ chán. 9. Xương khớp khô cạn, luôn bị bệnh khổ. 10. Chết đọa đường ác, luân chuyên sinh tử. Tỳ-kheo nên biết! Ngữ nghiệp thô ác, chiêu cảm quả báo như vậy, ông nên xa lìa. Khi ấy, Đức Thế Tôn nói kệ: Điều lành nên ưa thích Như cha hay như mẹ Lành đẹp thể đều vậy Hãy xa lìa tranh cãi. Đẹp lành trời, người vui Đẹp lành càng siêng năng Đẹp lành quyến thuộc nhiều Đẹp lành lìa tam đồ Đẹp lành dứt các ác Đẹp lành lìa phiền não Hay bỏ lời lỗi lầm Nên tu các điều lành. Đức Thế Tôn nói kệ này rồi, bảo các Tỳ-kheo: –Như vậy, lời nói thô ác phải nên xa lìa, hàng phục không cho nó khởi lên, chớ khiến nó tăng trưởng. Người hay nói lời thô ác kia, đọa vào địa ngục, chịu khổ đói khát, đủ các thứ sầu não, đối với nẻo ác kia, luôn luôn chịu đói khát, như lửa thiêu đốt, thường nghó đến ăn uống, số lượng chỉ cần bằng hạt cải, mà cũng không thể được huống gì ăn nhiều! Tỳ-kheo nên biết! Các hữu tình kia, do nghiệp ác này, mà bị các khổ trói buộc, lửa cháy và đói khát liên tục thúc ép, không lúc nào tạm dừng. Quả khổ như vậy, đều do ngữ nghiệp thô ác giả dối cảm ứng tạo nên. Tỳ-kheo nên biết! Nghiệp ác giả dối và các công đức lành cao đẹp của trời, người đều do tâm tạo; nếu ngu si tăng cao khiến khinh khi chê bai Hiền thiện, khởi lên ý nghiệp ác, xa lìa bình đẳng, ưa nói chuyện phải trái cái tốt cái xấu của người này người kia sẽ giống như dầu sắp hết, ánh sáng mờ dần, trí tuệ tổn giảm, phạm phải tội lỗi càng nhiều. Thế nên Tỳ-kheo! Thường phải xa lìa nghiệp ác giả dối, đừng để nó xâm hại; đối với danh lợi người khác, nếu sinh ganh ghét và giận dữ, thì thân tâm não loạn không khi nào tạm dừng. Tỳ-kheo nên biết! Các nhân ác này, thiêu đốt điều lành, đối với đời tương lai, chắc chắn chiêu cảm quả khổ, xoay tròn không dừng, phải nên lìa bỏ. Khi ấy, các Tỳ-kheo lại bạch Phật: –Kính thưa Thế Tôn, nếu có chúng sinh, đối với hữu tình hay chẳng phải hữu tình luôn khởi tâm sân giận thì phải chịu quả báo gì? Đức Phật bảo: –Nên biết sân giận, đối với đời vị lai, bị mười điều suy tổn: 1. Oan gia càng nhiều, người đều nghi ngờ nhàm chán. 2. Sinh ở biên địa, xa lìa chánh pháp. 3. Các bệnh trói buộc, làm cho nghèo nàn khốn khổ. 4. Chết đọa làm chó sói, bạo ác ở nơi hoang dã. 5. Ở chỗ rắn độc, luôn luôn sân giận. 6. Căn xấu xí, quyến thuộc xa lìa. 7. Chết đọa địa ngục Hắc thằng, chịu khổ liên tục. 8. Các khổ thiêu đốt, tay chân thân thể cháy khô. 9. Càng thêm tà chấp, chê bai Thánh hiền. 10. Luôn ở trong ba nẻo ác luân chuyển không dừng. Mười điều suy tổn như vậy, đều do sân giận. Tỳ-kheo phải biết và nên xa lìa. Lúc đó, có Tỳ-kheo lại bạch Phật: –Kính thưa Thế Tôn! Nếu có chúng sinh, luôn tu hạnh không sân giận, thì sẽ được quả báo gì? Đức Phật bảo: –Chúng sinh đó được mười điều lợi ích đặc biệt tốt đẹp: 1. Điều đẹp lành vang khắp. 2. Xa lìa tánh cao ngạo, xem thường. 3. Có khả năng hàng phục sân giận. 4. Lìa bỏ ba nạn khổ. 5. Oán địch không hại được. 6. Thường sinh cõi trời, người. 7. Quyến thuộc sum hợp. 8. Các căn không thiếu. 9. Sắc tướng đầy đủ. 10. Thành tựu sự giải thoát. Tỳ-kheo nên biết! Mười điều lợi ích tốt đẹp đặc biệt như vậy, ông nên tu tập. Khi ấy, Đức Thế Tôn nói bài kệ: Suy tổn do sân giận Chìm đắm trong biển khổ Các căn nhiều xấu xí Bức bách khó chịu đựng, Nhân lành sinh đường lành Phi pháp vào địa ngục Bàng sinh và quỷ thú Tùy theo nghiệp ác lành. Đức Thế Tôn nói kệ này rồi, bảo các Tỳ-kheo: –Nghiệp của thiện ác, tổn hại và lợi ích không đồng, tăng giảm lẫn nhau, tùy theo nghiệp lực, phải chịu quả báo, không sao tránh khỏi. Lúc đó, các Tỳ-kheo lạc bạch Phật: –Thưa Thế Tôn, hữu tình keo kiệt tham lam không thực hành tuệ thí, tự mình không có chỗ nương tựa, mê tối ngu si, không tin nhân quả, chê bai Thánh hiền, sẽ mắc quả báo như thế nào? Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: –Nếu các hữu tình keo kiệt tham lam không có niềm tin; đối với tài vật, tự mình không dám thọ dụng, huống gì bố thí cho người khác. Tỳ-kheo nên biết! Người ngu vô trí thường xa lìa bạn lành, lại hay tạo các tội; do nhân duyên này, đọa vào địa ngục, chịu khổ vô cùng. Các Tỳ-kheo kia, nghe lời nói này rồi, lo sầu khổ ở kêu gào khóc lóc, bạch với Đức Phật: –Thưa Thế Tôn! Các hữu tình này, cho đến bao giờ, mới hết khổ? Xin Đức Phật diễn nói, để làm lợi ích cho đời vị lai. Khi ấy, Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo bằng bài kệ: Nhân gian sáu vạn năm Ngày đêm A-bộ-đà Gom cả năm tháng kia Trước ba vạn sáu ngàn, Thừa thọ mạng đó ra Sáu đó tăng hai vạn Tám thứ lạnh địa ngục Khổ liên tục vô tận. Đức Thế Tôn nói kệ này rồi, bảo các Tỳ-kheo: –Đại địa ngục này, hữu tình bị khổ là do thân, ngữ, ý cao ngạo xem thường bậc Hiền thiện, chê bai chánh pháp, tạo tác chẳng thật, phá hoại tượng Phật, thiêu đốt kinh điển, chê bai pháp chân thật, lời nói vô nghóa, do nhân nơi nghiệp này, lối kéo dẫn dắt hữu tình, đọa vào chỗ hiểm ác, đủ các thứ trị phát, chịu khổ liên tục, không có cùng tận. Khi ấy, các Tỳ-kheo lại bạch Phật: –Thưa Thế Tôn! Nếu lại có người, đối với chánh pháp và kinh điển sâu xa của Đức Phật, đọc tụng, diễn nói, khiến người khác tin thọ, phát tâm Bồ-đề thì sẽ được quả lợi ích thù thắng gì? Bấy giờ, Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: –Người đó được vô lượng công đức rất cao cả và tốt đẹp. Các hữu tình này, thọ trì đọc tụng pháp sâu xa như vậy, phô diễn giảng nói, nương theo pháp tu hành, khởi lên niềm tin chân chánh, hàng phục chướng nhiễm, xa lìa đường ác, luôn ở chỗ trời, người, an ổn thích thú, tất cả Thánh hiền che chở giúp đỡ ngợi khen; đối với đời tương lai, đạt được Đa văn tổng trì, phước đức trí tuệ cao cả nhớ nghó không quên, cung điện châu ngọc thảy đều đầy đủ, cho đến khi mạng hết mau được thành tựu, thường lìa già bệnh, keo kiệt, tham lam, ganh ghét, mê hoặc, say loạn, chê bai chánh pháp, giả dối ôm giữ cái tà, tám nạn hiểm ác và các pháp không thật, tất cả thảy đều lìa bỏ. Đức Phật lại bảo các Tỳ-kheo: –Nếu lại có người, ngu mê ôm giữ tà ác; đối với thế gian, ưa thích sự giả dối, tạo nhiều tội lỗi; đối với việc làm đó, lại không hối hận, tâm ấy lại càng tăng thêm, tạo điều ác liên tục, không sợ chỗ hiểm ác, xa lìa bạn lành; do nhân nơi nghiệp này mà luân chuyển trong địa ngục, chịu quả khổ, chắc chắn không sao tránh khỏi. Tỳ-kheo nên biết! Những người có trí đều lìa bỏ các nghiệp ác, phát khởi lòng tin chân chánh, tu tập pháp sửa đổi. Tỳ-kheo nên biết! Do tâm tạo tội, nên chịu quả như vậy; giải thoát sự sinh tử luân chuyển trong các nẻo, cũng do từ nơi tâm; hay làm việc lừa dối nịnh hót, lại có thể điều phục, cũng có thể bạo ác, hay hướng đến tam đồ rất đáng sợ, cũng do từ nơi tâm tạo nên; lại có khả năng xả bỏ, tu tập pháp lành; cũng có thể từ bỏ chân thật, an vui và cũng có thể xa lìa hư dối điên đảo, với đủ các loại nhân duyên và quả báo sai khác, hoặc giả hoặc thật, được quả báo chắc chắn hay không chắc chắn, có lợi ích hay không lợi ích, hoặc tốt hoặc chẳng phải tốt, đều có thể xa lìa, cũng có thể hiện bày đối với lý nhị không. Ví như đèn sáng, xua tan màn đêm, lại có thể hiện rõ ra các vật tượng… tâm cũng như vậy. Lại như nhân quả tốt xấu có sai khác, theo đuổi lẫn nhau, thường chẳng lìa bỏ, bị luân chuyển các nẻo, cũng do từ nơi tâm. Lại như sạch nhơ ẩn hay lộ, tuy có khác, nhưng cùng nhau tăng giảm sự lý giả hay thật, cũng chẳng xa lìa; chánh kiến hay tà chấp; nghiệp ái hay chẳng phải ái; xuất ly hay chìm đắm, có lý hay phi lý, tưởng tức hay xa lìa, đều là do tâm tạo. Tỳ-kheo nên biết! Các nghiệp trói buộc, qua lại trong sinh tử, giống như cạm bẫy, trói buộc hữu tình, không được tự tại; ngu mê giả dối, bị phiền não trói buộc, ngăn che chân lý, khiến trí không phát khởi; đối với pháp hay chẳng phải pháp, không thể hiểu rõ, cũng chẳng tu tập, thực hành, để chứng đắc, chân lý nhị không, không do đâu hiện ra để chứng đắc. Tỳ-kheo nên biết! Do vô minh này làm mê lầm chân lý; đối với giáo pháp của Đức Phật, chưa từng tỏ ngộ, chướng ngại khó giữ lại, tự mình không theo đó mà tu tập, trái lại còn ngăn ngừa người khác tu học, nói dối lỗi lầm, tăng thêm nhàm chán xa lìa. Nghiệp này do nhân chê bai chánh pháp, oán tặc đối với chư Phật. Nên đời đời ngu muội, luôn bị đọa vào địa ngục tối tăm, chịu đủ thứ khổ, không có cùng tận. Từ địa ngục này ra, rồi lại đọa làm ngạ quỷ, ngu mê, bạo ác, tàn hại lẫn thứ khổ. Lại từ ngạ quỷ ra, rồi đọa trong loài súc sinh, đói khát khốn cùng, các khổ trói buộc, luôn không dừng nghỉ, tâm sân thêm mạnh, giành nhau ăn uống, ý vui với ác, liên tục không gián đoạn, giống như lửa ở đời, thiêu đốt rừng hoang, nghiệp này cũng vậy, thiêu đốt điều lành làm tổn hại đến hữu tình. Đức Thế Tôn lại nói kệ: Chúng hữu tình mê hoặc Chê Phật, phá chánh pháp Đọa vào ba nẻo khổ Tận kiếp, không thể ra, Chịu khổ nơi địa ngục Tối tăm không chút sáng Ngạ quỷ và bàng sinh Đói khát không cùng tận, Hữu tình do nghiệp trói Phiền não che trí tuệ Chìm đắm biển hiểm ác Kiếp hết không ra khỏi. Đức Thế Tôn nói kệ này rồi bảo các Tỳ-kheo: –Do trước kia chê bai chánh pháp, tạo nhân của nghiệp ác, bị luân chuyển trong tam đồ, chịu khổ vô lượng, từ chỗ tam đồ kia, ra rồi, nếu được sinh trong loài người, thì nghèo hèn khốn khổ, các căn không đủ bị đói khát thúc ép, phiền não càng tăng, tánh lại bạo ác; giống như voi ngựa hung dữ, khó chế ngự; ngu mê ôm giữ cái xấu luôn luôn tương ưng, bệnh khổ trói buộc, không có gián đoạn, tâm họ buông lung, phan duyên giả dối không dừng nghỉ, đui điếc câm ngọng, khó gặp chánh pháp, ở chỗ biên địa, không có trí tuệ; ngu si theo điều tà phải chịu các thứ khổ, không có cùng tận. Tỳ-kheo nên biết! Tội chê bai chánh pháp, mắc quả báo vô lượng, nói không thể hết. Đức Phật lại bảo Tỳ-kheo: –Nếu lại có người tu các thiền định để mong cầu giải thoát, đối với Phật, Pháp, Tăng không sinh lòng chê bai, luôn luôn tôn trọng khen ngợi tin nhận thọ, giống như cha mẹ và bạn lành, luôn luôn thương yêu, giúp đỡ, tôn trọng và tin tưởng, không khởi lên ý xấu chê bai khiến cho tâm vui vẻ. Khi ấy, các Tỳ-kheo lại bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Hữu tình làm sao lìa bỏ tội lỗi, tu tập hạnh thù thắng? Xin Thế Tôn giảng nói, để làm lợi ích cho đời vị lai. Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại bảo các Tỳ-kheo: –Hãy lắng nghe! Lắng nghe! Nay ta vì các ông, mà nói. Nếu lại có người, lìa bỏ thân ngữ và các nghiệp ác, luôn tu tập nghiệp lành, lại đối với ba đời, an trụ quán sát, trừ bỏ các tà mạn, tôn trọng Tam bảo, sáng suốt thực hành tốt ba nghiệp, hướng chứng Bồ-đề, đối với ba thời, xa lìa mọi dính mắc và tham sân… Lại nữa, này Tỳ-kheo! Do nơi ba nghiệp mà xa lìa các lỗi lầm, ưa thích an trụ ở ba tụ tịnh giới, hướng đến ba Bồ-đề, ba Chân như, xa lìa phiền não, an ổn suy nghó, khiến tâm bình đẳng, quán sát được tốt đẹp; lại xa lìa mạn nghi, được ba nghiệp thanh tịnh, hàng phục nhơ bẩn làm chướng ngại ở bất cứ chỗ nào cũng có thể lìa trói buộc, tu tập chánh hạnh, nhớ nghó khổ không, ưa thích giải thoát sâu xa cao đẹp, xa lìa các ác, phát khởi phương tiện để phá hoại ngu si và các tham dục. Vì thế Tỳ-kheo, nên tu hạnh lành, xả bỏ mọi lỗi lầm và hay xa lìa đói khát, lạnh nóng, dung nhan tiều tụy, phá trừ ngu tối, sầu não, hối hận, những thứ khổ nay thảy đều xả bỏ, được sinh cõi trời, người giàu có an vui, thông minh trí tuệ, nghe nhiều hiểu rộng, luôn tu hạnh xả bỏ và đầy đủ các thứ để cúng dường, như: hương, đèn, vòng hoa và chuỗi ngọc. Này các Tỳ-kheo! Nếu khởi lên tà chấp, keo kiệt, tham lam, ganh ghét, giả dối nịnh hót, thì sẽ bị đọa làm ngạ quỷ, chịu các khổ não thúc ép, tàn hại liên tục, không gián đoạn, đói khát thiêu đốt, khi nghiệp nhân thành thục, một mảy may cũng khó thoát khỏi sầu khổ trói buộc lại xa lìa giải thoát. Khi ấy, các Tỳ-kheo bạch Phật: –Kính bạch Thế Tôn! Các hữu tình này vì sao bị khổ như vậy? Cho đến bao giờ, mới được giải thoát và được chánh tín? Nay con suy nghó, không thể hiểu rõ. Lại nữa, hữu tình này ở trong đường ngạ quỷ, ngày đêm mãi mãi chịu đói khát, nóng lạnh, sầu khổ, thân thể khô khan, si ám mê mờ thường không tạm bỏ. Cúi xin Phật diễn nói, để làm lợi ích cho đời vị lai. Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: –Các hữu tình này, đối với đời quá khứ, tạo các nghiệp ác, không tu phước tuệ, keo kiệt, tham lam, giả dối, phiền não quá mạnh, tự do buông thả, tham sân không thể hàng phục; sau khi mạng hết, đọa vào địa ngục, chịu khổ vô lượng; từ địa ngục ra, lại đọa vào ngạ quỷ, các khổ thúc ép, đói khát trói buộc, bất cứ ở chỗ nào cũng luôn chịu khổ, không người cứu giúp, không nơi nương tựa, nhớ nghó ăn uống, trọn không thể được, hối hận khóc lóc biết khi nào mới bỏ được khổ này! Tỳ-kheo nên biết! Hữu tình ngu si, bị phiền não trói buộc, đều do ba nghiệp ác, luân chuyển trong tam đồ, nên chịu khổ như vậy. Tỳ-kheo phải biết! Nếu lại có người cận sự nam, cận sự nữ, các Trời, Phạm, phá trừ được nghiệp ác kia, tu tập pháp lành, ưa thích chân đế tự quán kỹ thân mình chỉ là bốn đại, năm uẩn, khổ, không, vô thường, giống như bọt nước, cây chuối, giấc mộng, ánh điện, thảy đều là giả tạm. Thế nên Tỳ-kheo! Đối với các pháp lành tu tập làm cho tăng trưởng; đối với mọi điều ác phải sửa đổi không cho khởi lên, an trụ cõi trời, người rất đáng được tôn trọng, thân, ngữ, ý, nghiệp tất cả đều được tự tại, xa lìa các lỗi lầm, giả tạm, dối trá và mọi kinh sợ nhất định xả bỏ, ưa thích hơn cả sự suy nghó vắng lặng, lìa mọi sự tán loạn, tạo ra các điều lành, đầu giữa và cuối không cho gián đoạn, hàng phục các căn, lìa bỏ trói buộc và các nẻo ác. Kẻ ngu si tối tăm, không rõ nhân quả, tạo nhiều điều ác, sẽ luân hồi trong ba nẻo khổ bị đầy dẫy các khổ não. Đức Thế Tôn bèn nói kệ: Nếu ưa thích trụ xứ Nên quán thai tạng khổ Xa lìa tham điên đảo Phá hoại không cho khởi, Dây nghiệp đã trói buộc Tam đồ khổ vô tận Như kiến bò vòng tròn. Chìm đắm khó ra khỏi. Đức Thế Tôn nói kệ này rồi bảo các Tỳ-kheo: –Khổ của già, bệnh, chết trói buộc hữu tình, không một chút lìa bỏ; ví như cá mắc lưới, nai trúng tên; trói buộc cũng lại như vậy. Lại nữa, này Tỳ-kheo! Tham ái như độc, sân hận tợ như lửa, giả dối nịnh hót mê mờ, che lấp tâm sáng phiền não mạnh mẽ luôn theo đuổi nhau, khiến chẳng ra khỏi. Nếu lại có người, tham cầu của cải, làm nhiều điều giả dối, nịnh hót để nuôi sống thân mạng; do vọng chấp trói buộc nên chịu luân hồi các nẻo; như cá nuốt câu; nhân tham mà khởi lên, như lửa nung nước, đều từ tâm sinh ra. Đức Thế Tôn lại nói kệ: Mê chấp hư vọng kiến Nghiệp duyên hữu huyễn thân Quả nhân thường ly đảo Lìa nhân quả chẳng nhân, Nhân luân chuyển phiền não Hiểu rõ chứng chân không Giải thoát, lìa phiền não Lý chân thật chẳng không, Bậc Diệu Giác Tối Thượng Thảy đều quên hai chướng Sâu lắng mãi không động Lợi vui các hữu tình. Đức Thế Tôn nói kệ này rồi lại bảo các Tỳ-kheo: –Nếu lại có người, khởi lên tâm chê bai không tin tưởng làm tổn hại Tam bảo, lấy các thứ hoa quả đem buôn bán đổi chác, để nuôi sống thân mạng. Do nhân duyên này, đọa vào đường ác, gặp các loài cáo, chim thú hoang dã, mỏ nhọn sắc bén, giống như kim cang, hình thể xấu ác, nhiễu loạn rất đáng sợ, tập hợp lại đến ăn thịt, tay, chân, mắt, xương, tủy không để lại một thứ gì, hữu tình chịu khổ vô lượng, dây nghiệp trói buộc, luôn theo đuổi không bỏ, không nơi nương tựa, không ai cứu giúp, luân chuyển qua lại trong ba đường ác như vậy, mãi chẳng lìa bỏ; từ chỗ này ra, rồi lại đọa vào ngạ quỷ, bị đói khát thúc ép các điều khổ tăng thêm, miệng nói ra lửa cháy giống như núi lửa liên tục không gián đoạn, giá như có mưa lớn xuống khắp mọi nơi, nhưng lửa ác nghiệp này, trọn không thể diệt. Tỳ-kheo nên biết! Nếu lại có người tu tập bố thí và giữ giới, cho đến trí tuệ; thì có thể giải thoát các thứ khổ sở. Lại nữa Tỳ-kheo! Nghiệp ác làm nhân, sẽ chiêu cảm quả ba nẻo khổ, hữu tình mê chấp, không thể hàng phục, phân biệt câu sinh phiền não; có một trăm hai mươi tám sử, ở trong ba cõi; muốn thực hành bốn Đế thì có mười hai, hợp hai các trên mà bàn thì có hai mươi bốn; nói hai mươi bốn là ước lược của ba cõi mà nói. Lại nữa Tỳ-kheo! Bốn Đế, bốn Trí có mười sáu và hai kiến đạo, tu tập bốn Niệm xứ, tám Chánh đạo, năm Căn, năm Lực; sẽ giải thoát bạo ác và xa lìa thiêu đốt. Lại nữa Tỳ-kheo! Nhị đế là cao tột, người trí nên tu tập và trụ vào ba niệm, xa lìa chúng ma và các ngạ quỷ, đói khát khốn khổ, pháp lành liền được tăng trưởng. Đức Thế Tôn lại nói kệ: Mười ác do tâm tạo Chìm đắm, đường hiểm nguy Cảnh tham si trói, chấp Cảm quả, ắt theo sau, Cực khổ đường địa ngục Rên siết không chỗ nương Duyên nóng tạo bóng vang Kiếp hoại báo khó rời. Ba nghiệp cần tinh tấn Đa văn, học Tổng trì Nhị nghiêm tu lục Độ Viên mãn chứng Bồ-đề. Đức Thế Tôn nói kệ này rồi, liền bảo các Tỳ-kheo: –Nếu lại có người tu ba nghiệp lành, ra sức học tập, bố thí, giữ giới, lìa bỏ bạo ác, ngu mê, tham ái, giải thoát các khổ; thì lìa được những điều ác của địa ngục ngạ quỷ. Tỳ-kheo nên biết! Các cõi ngạ quỷ phải chịu mọi thứ khổ, nóng lạnh, đói khát, khổ não, bức bách mà không thể xa lìa; do cao ngạo giả dối do các nghiệp ác này mà đọa lạc trong tam đồ; ở trong nẻo đó tàn hại lẫn nhau, tham, sân trói buộc, luôn luôn không rời. Do thuở xưa, xa lìa, bố thí, trì giới và đa văn, tạo ra các lỗi lầm, không thể biết rõ pháp và chẳng phải pháp… đối với chánh tín cũng đều mê ám, cũng chẳng tỉnh ngộ; do chướng ngại này mà nẻo lành của cõi trời, người không thể tu tập, cũng chẳng quán sát những việc được mất. Lúc đó, các Tỳ-kheo lại bạch Phật: –Thưa Thế Tôn! Nẻo A-tố-la bị chiêu cảm bởi nghiệp gì? Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: –Lắng nghe, lắng nghe! Nay ta vì các ông mà nói. A-tố-la do thuở xưa giả dối luôn luôn tạo nghiệp nịnh hót, quanh co và các nghi hoặc trói buộc không bỏ được nên bị đọa vào A-tố-la; cũng do không tin, chê bai bậc Hiền thiện; đối với nhân quả chân chánh, không thể hiểu rõ, nên đọa vào nẻo ấy không có trí tuệ, ngu mê, vọng chấp, sợ hãi, khiếp nhược, chẳng được an ổn. Lúc này, Đế Thích và chư Thiên trên trời Đao-lợi, nghe Đức Phật nói, vui mừng phấn khởi, đứng trước Đức Phật, dùng kệ tụng: Đường ba thừa bằng phẳng Mâu-ni đã tuyên nói Lý chân không vô lậu Bản thể lìa ràng buộc, Lòng từ Phật ban khắp Thương chúng sinh đau khổ Ánh sáng mãi chiếu soi Không bỏ tâm lợi tha. Trời Đế Thích nói kệ này rồi, chắp tay cung kính, đứng ở một bên. Đức Phật mới bảo Thiên đế: –Pháp thanh tịnh ba thừa, ông nên tu tập, giúp lìa các trói buộc, nó bình đẳng trong sáng, có thể lìa hiểm ác, dứt mọi tối tăm, ánh sáng không nhiễm, giống như châu báu, thể tánh vốn thanh tịnh, chư Thiên nên vui mừng, ưa thích nó hơn hết tu tập vắng lặng, giữ gìn không bỏ. Còn đối với giới, thí và Tam-ma-địa nên ưa thích quán sát, cũng như chư Thiên kính thờ Thiên chủ mà xa lìa tội lỗi; với các hữu tình thì tôn kính, chiêm ngưỡng thờ phụng một lòng nhu nhuyến hòa thuận. Nếu được sinh lên trời; sẽ được thân trong sạch tốt đẹp, xa lìa sân giận, dứt trừ, bụi nhơ cõi trần các cảnh giới, các nhân duyên, các tham giận, giải thoát sự chìm đắm, phá bỏ sự ganh ghét lẫn nhau giữa thân tộc bạn bè; bùn dơ của năm dục, thảy đều xa lìa; đối với các hữu tình kính nhường hòa thuận, luôn luôn được an trụ, khéo lìa các nhiễm, tuân theo phép tắc oai nghi, tẩy sạch phiền não, hàng phục Ma-la, an trụ trí tuệ, thanh tịnh hơn hết, khéo giữ ba nghiệp, thường học thiền định, xả bỏ bạn ác và chẳng phạm hạnh, lìa hẳn trói buộc, luôn ở chỗ chư Thiên, có bạn lành tri thức, khuyên phát tâm rộng lớn tất sẽ mau lên bờ giác. KINH DIỆU PHÁP THÁNH NIỆM XỨ <卷 id="96841736">Quyển 4 Bấy giờ, bốn chúng vây quanh Đức Thế Tôn, phấn khởi chiêm ngưỡng vui vẻ được nghe pháp sâu xa. Khi ấy có các Tỳ-kheo bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Nếu lại có người, ưa thích chư Thiên, hưởng niềm vui tột cùng cao đẹp không còn bị đọa vào ba đường ác; những người ấy tu tập thực hành nhân gì mà được quả báo thù thắng này? Cúi xin Thế Tôn diễn nói, để làm lợi ích cho đời vị lai. Lúc đó, Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo: –Nếu lại có người, luôn tu bố thí, trì giới, thiền định, với tâm ý vững vàng, khiến việc tu tập tăng trưởng; xa lìa mọi trói buộc và mọi sự ô nhiễm của tham dục; không khởi lên lỗi lầm, khiến trí càng sáng suốt, tu tập được nhiều điều lành. Sau khi mạng hết, hóa sinh chư Thiên, được tự tại vô ngại, hình tướng đều đầy đủ, giàu có không gì bằng, đầy đủ quyến thuộc và bạn lành tri thức, hòa thuận kính nhường lẫn nhau, xa lìa ngu si cao ngạo, ưa thích pháp sâu xa, thường gặp Thánh hiền nói pháp chỉ dạy xa lìa ba độc và các nghiệp ác, luôn vui với chánh pháp, trong tâm vắng lặng, lìa sự ham mê ngủ nghỉ, hiểu rõ giả dối hướng cầu thắng pháp, hiểu rõ niềm tin sâu xa. Giống như các vì sao ở trên không, đủ loại tia sáng trang nghiêm tráng lệ đặc biệt cao đẹp, hoặc như thân chư Thiên trong cung điện lầu các, cũng lại như vậy; các thứ châu báu tốt đẹp đủ loại trang nghiêm, ánh sáng chiếu rọi sắc tướng tròn đầy, đầy đủ không so sánh được, nói không thể hết. Bấy giờ, Đức Thế Tôn mới nói kệ tụng: Thế và xuất thế gian Tất cả do tâm tạo Giống như người thợ vẽ Khéo léo để thành tựu. Chìm đắm ở ba cõi Ra khỏi cũng do tâm Như tằm tự ràng buộc Mê chấp các cảnh giới. Đức Thế Tôn nói kệ này rồi, Ngài bảo các Tỳ-kheo: –Tất cả hữu tình, luân chuyển trong ba cõi là do mê đắm vào cảnh giới đầy dẫy tán loạn trói buộc, đối với chánh đạo, chẳng chịu tỏ thấu rõ ràng; pháp và phi pháp, chân thật và giả dối, thắng tuệ và tà chấp… đều không rõ; đối với quyến thuộc của A-tố-la khi có nhạc, có các chúng vây quanh thì ưa thích đùa giỡn, mê loạn, đắm say, buông thả, ham muốn quá độ thường không chịu xả bỏ. Tỳ-kheo nên biết! Xem xét kỹ những thứ đó, chớ sinh mê đắm, mà nên tu bố thí, trì giới để giữ gìn sự trong sạch; thì sẽ được cung điện và năm dục như chư Thiên; cha mẹ, bạn bè, châu báu, của cải đều đầy đủ; các kho tàng với những thứ ưa thích, sử dụng không hết. Tỳ-kheo phải biết! Người có trí có thể giữ được giới trong sạch, hay hướng đến con đường lành và hay khen ngợi, cao đẹp không gì bằng, an vui vắng lặng xa lìa sự chìm đắm, đạt được thân căn đầy đủ, tốt đẹp hơn cả, ánh sáng chiếu rọi, ca ngợi đến vô tận. Giữ giới là hơn hết, nước lửa giặc mạnh, không thể xâm lấn, hủy hoại. Giữ giới là hơn hết, có thể xa lìa nhỏ nhen để hướng đến vắng lặng. Giữ giới là hơn hết, nó tăng trưởng phước đức, được cung kính tôn trọng. Giữ giới là hơn hết, tiếng tốt ấy sẽ vang khắp ai nghe cũng đều vui vẻ. Giữ giới là hơn hết, nó xa lìa sự keo kiệt, tham lam, sân giận và những phiền não nhỏ nhất. Giữ giới là hơn hết, vì mau chứng Niết-bàn. Giữ giới là hơn hết, vì thường được ở cõi trời, người. Giữ giới là hơn hết sẽ thành tựu Tam-muội. Giữ giới là hơn hết, vì có thể đoạn các chướng. Giữ giới là hơn hết, vì thân tâm sẽ an vui. Giữ giới là hơn hết, xả bỏ sự khỏa hình. Giữ giới là hơn hết, vườn tược tự tại. Giữ giới là hơn hết, vì quyến thuộc đầy đủ. Giữ giới là hơn hết, vì ba nghiệp sạch trong. Giữ giới là hơn hết, vì chư Thiên vui mừng. Giữ giới là hơn hết, vì sở nguyện thành tựu. Giữ giới là hơn hết, vì thường gặp bạn lành. Giữ giới là hơn hết, vì xa lìa đói khát và mọi sợ hãi. Giữ giới là hơn hết, vì xa lìa ba tai tám nạn. Giữ giới là hơn hết, vì nó giống như dao bén có thể cắt đứt các điều ác. Giữ giới là hơn hết, vì đó là sự rộng rãi tự tại để xa lìa mọi sự trói buộc. Tỳ-kheo nên biết! Giữ giới trong sạch luôn được vô lượng công đức như vậy. Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: –Nếu lại có người, giữ giới trong sạch, sẽ hóa sinh ở các cõi trời, luôn được ở những chỗ toàn là ma-ni, như cung điện, lầu các, vườn rừng, ao tắm, vui chơi thỏa thích cảnh giới rất đẹp, quán sát không cùng, tự tại vô ngại. Lúc đó, Đức Thế Tôn lại nói kệ: Sáu căn duyên các cảnh Hoặc, nghiệp từ đây sinh Chìm đắm ba đường ác Liên tục không gián đoạn Giống lửa đốt đồng hoang Thiêu sạch các cây cỏ Thức căn duyên với cảnh Khéo diệt, cũng như vậy. Đức Thế Tôn nói kệ này rồi bảo các Tỳ-kheo: –Nếu lại có người phá phạm giới trong sạch, mà mong cầu quả báo an vui tốt đẹp nhất của cõi trời, người thì dứt khoát không thể nào được, tất cả cung điện châu báu quyến thuộc cũng đều lìa tan hết. Tỳ-kheo nên biết! Nếu người có trí, giữ giới trong sạch, sẽ lìa bỏ ba nẻo khổ, luôn được ở các cõi trời, thềm đường bằng bảy báu qua lại đùa giỡn tự do sướng khoái, châu báu thì vô lượng, ai thấy cũng đều vui vẻ, vườn rừng đẹp hơn hết vui mừng tự tại, thân sáng chiếu rọi, giống như đèn đuốc, kinh hành nơi cung điện, đủ thứ tốt đẹp đặc biệt, phước báo khôn cùng, không thể ca tụng hết được. Bấy giờ, Đức Thế Tôn mới bảo các Tỳ-kheo phải siêng năng giữ giới, tắm gội sạch sẽ, tất cả mọi nơi rộng rãi, vô ngại, lấy chuỗi ngọc trời để tự trang nghiêm, âm nhạc của các trời trổi liên tục không dứt, hưởng mọi vui thú, đối với mọi cảnh đẹp trên, suy nghó liền có các thứ vườn rừng, hoa quả, sum suê. Lại nữa, đối với tất cả trời, người đều cung kính cúng dường, trong sạch phụng thờ. Thế nên Tỳ-kheo phải giữ gìn giới trong sạch, nên thương xót hữu tình, bị khổ trong ba đường ác, cứu giúp, khiến họ được ra khỏi. Nếu lại có người luôn hành tuệ thí, đối với các hữu tình, khốn khổ nghèo đói, khuyên họ nên xa lìa sát sinh, tu tập điều lành, được quả báo sinh Thiên; xa lìa tà dục, thường khởi lòng tin chân chánh, yêu thích Niết-bàn, không tham tất cả danh lợi và rượu chè, sắc đẹp ở thế gian, coi đó là giả tạo không thật, luôn muốn xa lìa; đối với các hữu tình xả bỏ sự hủy phạm tịnh giới và nghiệp của phiền não. Đức Thế Tôn liền nói kệ tụng: Quả từ hoặc, nghiệp sinh Như cây nhờ rễ: Sống Hoặc, nghiệp duyên lẫn nhau Liên tục không cùng tận. Thiện ác do tâm tạo Như bóng không rời hình Mật, độc hòa lẫn nhau Suy tổn cũng như vậy. Đức Thế Tôn nói kệ này rồi bảo các Tỳ-kheo: –Nếu lại có người khi phước ở cõi trời đã hết, tướng suy sẽ hiện ra, tất cả quyến thuộc, thảy đều lìa bỏ; giống như đèn sắp tắt, ánh sáng mờ dần, ở cõi trời cũng vậy. Ngay ở lúc này, phước đức thọ mạng sắp tận, bị các khổ thúc ép, sầu não trói buộc, sợ hãi vô lượng, thúc ép thân tâm, khởi lên các phiền não; do tội lỗi này, ắt khi mạng hết sẽ theo nghiệp đời trước, mà đọa vào ba nẻo khổ, hoặc được ở trong loài người thì luân chuyển không dừng, giống như gông cùm trói buộc hữu tình, làm chìm đắm trong các cõi không được giải thoát, niềm tin chân chánh bị mê hoặc, xa lìa vắng lặng, gần gũi bạn ác đã kết oán, gây ra từ đời trước. Tỳ-kheo nên biết! Luân chuyển ba cõi các nẻo như vậy, đều do hoặc nghiệp, không thể hàng phục, cũng chẳng tỉnh ngộ, hoặc và nghiệp này, theo đuổi hữu tình, thiêu đốt không dừng. Giống như củi khô, bị lửa thiêu đốt, bùng cháy lan tràn; lửa ba độc này, thiêu đốt điều lành, cũng lại như vậy. Tỳ-kheo nên biết! Tham, sân, si này, giống như sông lớn, nhận chìm hữu tình, khiến không ra khỏi; lại nữa, các tham lam… giống như cạm bẫy, trói buộc chúng sinh, không được giải thoát; lại nữa các tham… cũng như bụi nhơ cõi trần, làm nhiễm ô hữu tình, không được thanh tịnh. Vì thế người trí phải nên đoạn trừ. Nếu lại có người, giữ giới trong sạch của Phật và thực hành huệ thí, lìa bỏ giả dối, nịnh hót, hàng phục tham, si, dần dần khiến lòng được nhẹ nhàng, hiểu rõ các pháp, không khởi lên sự dính mắc vào đó. Tỳ-kheo nên biết! Nếu lại có người tham lam, mê hoặc đủ các khổ hiện ra mà không thể hàng phục, thì không ra khỏi cái khổ của ba cõi. Ví như người khát nước, mà uống nước muối thì cái khát không thể hết được. Tỳ-kheo nên biết! Xem xét sự giải thoát là trên hết mới thích thú hướng đến Niết-bàn, phải tu tập thiền định diệt trừ các nhiễm; chớ đắm chìm vào những trói buộc, sẽ đọa lạc vào địa ngục, luôn chịu các khổ, chớ chống đối chánh đạo, trời, A-tố-la thảy đều lìa bỏ, các rồng sân giận, mưa gió bất thường, bốn mùa chống đối lúa gạo thất thu, nhân dân đói khát; tất cả những ưa thích, thảy đều xa lìa, cung điện đáng yêu và các vườn rừng, cảnh giới rất đẹp đều hủy diệt, cho là chẳng có, kho tàng của cải tất cả đều tiêu tan tàn hại lẫn nhau, mê vọng điên đảo, mà chẳng tỉnh ngộ; lợi ích cao cả không hề tu tập; chánh pháp ba thừa, chê bai cho là không có; u mê ở ba cõi, giả dối cho là chân thật, cho là cứu cánh; mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao cũng đều cho là giả dối; cho đến tất cả tội phước có được của hữu tình cũng chê bai, cho là chẳng có; chánh pháp, cam lồ không thể hiểu rõ, luôn sinh ganh ghét, giống như oán thù độc hại nhàm chán lìa bỏ. Tỳ-kheo nên biết! Hữu tình ngu mê; đối với các khổ ở thế gian cho là vui, không tịnh cho là tịnh, chạy theo tà đạo, giả dối; đối với những chỗ cực ác cho là cao tột, ưa thích tu tập; còn đối với vô thường… lại không thể hiểu rõ, ôm giữ tà pháp mà cho là hơn hết, rồi quyết định yêu thích siêng năng tu tập, chẳng có nghóa lợi gì, lại không thoát khỏi vòng xoay tròn, luôn luôn khổ sở; người trí phải xem xét kỹ, không nên mê đắm, phải hiểu rõ giả dối, những chuyện phải trái hiển hiện phải tỉnh ngộ chớ say mê được vậy khiến tâm không loạn. Khi ấy, đại chúng vây quanh Đức Thế Tôn, nghe pháp vui mừng và thích thú, lìa bỏ mọi trói buộc, chiêm ngưỡng Đức Như Lai, mắt chẳng tạm rời. Lúc đó, các Tỳ-kheo mới nói kệ tụng: Ví như Tô-di-ô Trang nghiêm bốn thứ báu Nhiễu quanh khắp bảy vòng Tám biển trong vắng lặng, Tướng Thế Tôn tuyệt vời Lý trí lìa ngôn thuyết Do vạn hạnh tu tập Quả ba thân đức tròn Trời, người mong chiêm ngưỡng Xin nói duyên đời trước. Các Tỳ-kheo dùng kệ ca ngợi Đức Phật rồi liền bạch Thế Tôn: –Chư Thiên ở cõi Dục, cõi Sắc, so sánh hình lượng phước đức chắc có sai khác, cúi xin Đức Phật diễn nói, để làm lợi ích cho đời vị lai. Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo: –Hay thay! Hay thay! Các ông phải nên lắng nghe, ta sẽ vì các ông mà nói. Nếu có người phụng trì tịnh giới, khéo giữ gìn các căn khiến không hủy phạm, ba nghiệp đều được thanh tịnh, đối với các hữu tình vì lợi ích mà thương xót, siêng năng tu phương tiện, lìa bỏ tán loạn, hướng cầu thiền định, đối với nhân đã tu tập, hơn kém không đồng, có thượng, trung, hạ, nên chiêu cảm quả cũng sai khác, cho đến bề ngoài từ tướng trạng cao thấp cho đến cung điện trang nghiêm đều tùy theo nhân duyên đời trước, mà có sai khác. Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: –Do giữ tịnh giới và thực hành huệ thí nên thường ở cõi trời lìa bỏ mọi nhơ bẩn, tất cả trói buộc bị hàng phục, không khởi lên; đối với cõi trời ấy thân bên trong và bề ngoài, ưa thích mong cầu, không sinh chê bai, phá hoại sự chán lìa. Sau khi mạng hết, chắc chắn sinh qua chỗ khác, được quả báo có hơn kém, là tùy theo nhân mà có sai khác. Tỳ-kheo nên biết! Giữ tịnh giới của Phật, được cung điện cõi trời, luôn tự mình thích thú. Giữ tịnh giới của Phật, được lìa bỏ các khổ, giải thoát, không còn đắm nhiễm. Giữ tịnh giới của Phật, được vòng chuỗi ngọc trời, luôn tự trang nghiêm. Giữ tịnh giới của Phật, được hoa Ô-bát-la, mùi thơm vi diệu, vừa ý. Giữ tịnh giới của Phật được cảnh giới rất đẹp, vui thích vô tận. Giữ tịnh giới của Phật, được trời, rồng, tám bộ chúng thường luôn giúp đỡ. Giữ tịnh giới của Phật, được vật báu trang nghiêm, xa lìa mọi dơ bẩn. Giữ tịnh giới của Phật, được đủ loại hoa trời màu sắc vi diệu nở ra tùy tâm tự tại. Giữ tịnh giới của Phật, được mùi thơm vi diệu, ý vui vô tận. Giữ tịnh giới của Phật, được nhà cửa vườn tược, tùy ý vui thích. Giữ tịnh giới của Phật, được đủ các loại hoa Ma-lỗ-ca, Chiêm-ba-ca, Kế-đa-ca, phát ra mùi thơm, vi diệu hơn hết, không gì sánh bằng, luôn hiện ra trước mắt. Giữ tịnh giới của Phật, xa lìa được những tai nạn bất ngờ. Giữ tịnh giới của Phật, được điều lành tăng trưởng. Giữ tịnh giới của Phật, các duyên phạm giới thảy đều xa lìa. Giữ tịnh giới của Phật, được hạnh nhẫn tròn đầy. Giữ tịnh giới của Phật, được bước lên thềm đạo quý đẹp trước mắt được những thành tựu. Giữ tịnh giới của Phật, được làm người thợ khéo có dụng cụ đáng yêu, sẽ đạt được kết quả. Tỳ-kheo nên biết! Giữ tịnh giới của Phật, đối với đời tương lai sẽ đạt được quả như vậy. Giống như người thợ vẽ, vẽ ra các hình tượng của thế gian và xuất thế gian, đều được thành tựu; giữ giới cũng như vậy, đối với đời tương lai, tất cả những gì muốn có đều tùy ý mà được thành tựu. Nếu có người, hủy phạm tịnh giới, đối với đời tương lai sẽ bị chìm đắm trong đường ác, chịu các điều khổ sở, lìa bỏ cảnh giới đáng yêu của cõi trời, người, cũng như bức tranh màu, mưa gió khói bụi, có thể phá hoại; các thứ nhơ bẩn, tham sân hay hủy hoại tịnh giới và cũng hay xa lìa quả tốt đẹp của thế gian và xuất thế gian. Lại nữa, này Tỳ-kheo! Tham lam, mê hoặc có thể hủy hoại tất cả nghiệp lành của hữu tình, cũng có thể làm tăng trưởng các nghiệp ác, giống như lửa ở thế gian, bùng cháy lan tràn, sẽ thiêu đốt mọi cây cỏ. Tỳ-kheo nên biết! Thức căn của hữu tình phan duyên với lục trần làm cho hoặc không tỏ giả dối, mê đắm dính mắc bị cảnh giới trói buộc, khởi lên lòng tham lam, sân giận, các nghiệp theo đó mà phát sinh, luân chuyển các cõi, chịu khổ vô lượng, không thể xa lìa; các độc của tham dục, vì ngu mê không rõ, lửa tham càng dữ dội làm tổn hoại điều lành và cung điện, vườn rừng, hoa quả, tươi tốt, dù đáng yêu cũng đều tiêu tan hết; tịnh giới của Phật, phước báu hơn cả quý báu vô lượng, kho tàng luôn đầy khắp, vui thích tự tại, cha mẹ quyến thuộc, phước đức cao tột, thế gian rất hiếm có, thích thú vô ngại. Tỳ-kheo nên biết! nếu có người, tu tập Bố thí ba-la-mật đối với đời tương lai, của cải sẽ đầy đủ, xa lìa mọi tổn hoại. Bố thí ba-la-mật là hơn hết, vì được sự sướng vui tự tại. Bố thí là hơn hết, vì tùy thân được phước như bóng không rời hình. Bố thí là hơn hết, vì được cõi trời, người quý trọng, trang nghiêm, vui vẻ. Bố thí là hơn hết, vì có thể lìa nghèo khổ. Bố thí là hơn hết, bởi không khởi lên keo kiệt. Bố thí là hơn hết, vì có thể hàng phục ngu si, ra khỏi ba nẻo khổ. Bố thí là hơn hết, bởi ai thấy cũng đều vui vẻ. Bố thí là hơn hết, vì được các căn đầy đủ. Bố thí là hơn hết, vì giúp loài bàng sinh ưa thấy. Bố thí là hơn hết, vì giúp xa lìa sự thương ghét. Bố thí là hơn hết, vì không sinh nơi biên địa. Bố thí là hơn hết, vì được chư Thiên vui thích. Bố thí là hơn hết, vì được xa lìa các khổ trói buộc. Bố thí là hơn hết, vì vượt khỏi sự xoay tròn. Bố thí là hơn hết, vì vui thích tự tại. Bố thí là hơn hết, vì có thể hướng đến Tam thừa để được giải thoát rốt ráo. Lại nữa, này Tỳ-kheo! Phải xem xét sự xoay tròn của các khổ cùng nhiều thứ thúc ép mà chán lìa; xem xét kỹ lưỡng các thứ ấy chẳng phải rốt ráo, mà là vô thường tan hoại, như mộng, như sóng nắng, cây chuối chẳng phải chân thật, cho đến cõi Sắc và cõi Vô sắc, tất cả cảnh giới cũng đều không thật, chỉ là giả tạm chẳng phải rốt ráo; nên chán lìa, không nên ôm giữ để rồi giả dối lại cho là tối thắng, khiến tâm ưa thích. Đức Phật bảo Tỳ-kheo: –Vắng lặng, an lạc, xa lìa các tướng, thể chẳng phải một, chẳng phải khác; cũng chẳng ba đời, cũng đều chẳng phải cái này, cái kia; lìa mọi trói buộc, được rốt ráo tròn đầy; ông phải mong cầu, chớ nên xả bỏ, thì sẽ được tự tại vô ngại, vắng lặng không nhiễm, phải mau mà chứng đắc! KINH DIỆU PHÁP THÁNH NIỆM XỨ <卷 id="96841737">Quyển 5 Khi ấy, vua trời Đế Thích nói với chúng trời: –Ông đã tạo điều lành, phải nên giữ lấy và làm cho tăng trưởng như ý, vui mừng rồi liền nói kệ: Ba điều lành đã tạo Ba loại, ba nhân duyên Ba vị, đến ba địa Ba đức, ba đại quả Không giết, thí tối thượng Pháp này ông ưa thích Được nhẫn nhục chân thật Được sinh các cõi trời Tùy thân, có cung địên Thọ sướng vui cùng tột Nếu người ưa điều ác Sinh nơi không an vui Bị tà pháp trói buộc Làm sao để ra khỏi! Cái lành trời, người tạo Vốn huân tập trong thức Khi nghiệp kia cảm quả Được sinh cõi trời, người Ưa thích nơi sinh ấy Tâm tự tại an vui. Lúc đó, trời Đế Thích lại nói: –Các ông đã đầy đủ phước đức lớn, được sinh ở cõi trời, hưởng thọ sự sướng vui ở cõi trời, tùy theo phước quả của họ hơn hay kém mà có sai khác; nếu tạo ra nhiều phước đức, huân tập trong thân thức, về sau sinh ở cõi trời, được nhiều sướng vui. Như vậy, tất cả vườn rừng, hoa trái đều làm cho vui thích và vừa ý, khi vào trong rừng kia, có loài phi điểu trời, diễn nói âm thanh, khiến người thích nghe. Lúc này, vì Thiên tử kia, liền nói kệ: Lành thay những bậc Hiền! Đời trước tu thiện nghiệp Kiên trì bảy luật nghi Thành tựu quả tối thắng Sinh trong cõi trời kia Được quả báo sướng vui Thọ trì các cấm giới Được lìa khổ, chìm đắm. Vì do giới thanh tịnh Được ao trời tốt đẹp Tùy ý mà tắm gội Lại mưa hoa vàng tía, Tung khắp ở trên thân Cùng ao công đức kia Dùng hạt giống giới ấy Để ngăn ngừa từng niệm. Lên cõi trời vui đẹp Tùy ý mà thọ dụng Nếu ý người đã quyết Cấm giới nên giữ gìn. Khi sinh cõi trời kia Sướng vui vô bờ bến Dùng giới này trang nghiêm Đạt được quả Thiện Thệ, Mà thọ vui giải thoát Phá giới: Tội ác nặng Như dao và lửa độc Nên vững vàng giữ giới. Tu bố thí pháp tài Xa lìa mọi chê bai Nghiệp có trên dưới, giữa Quả cảm cũng như vậy. Nay được thân báo thắng Thường đội vòng ánh sáng Thọ nhiều niềm vui trời Thân sạch sẽ không dơ. Nếu người tạo nghiệp ác Quả khổ tự buộc thân Lần lượt bị chìm đắm Sinh tử không cùng tận. Ông đã sinh đến đây Hưởng thọ niềm vui trời Dạo khắp các vườn rừng Chớ buông lung dính mắc, Buông thả lỗi lầm nhiều Như Lai vẫn thường nói Vì thế người buông thả Hơn hết trong ba độc. Tinh tấn như cam lồ Tâm tánh tự mát mẻ Chấm dứt vòng sinh tử Rốt ráo đến bờ giác. Như Lai, ta thuở kia Diễn nói lời vi diệu Mau tu hành lìa ngã Chớ đắm trong điên đảo. Nếu có người chống đối Tham lam sinh cùng hoặc Đoạn duyên giải thoát kia Bị chìm đắm biển khổ. Khi ấy, trời Đế Thích cùng với chư Thiên nữ và tất cả Thiên chúng nhanh chóng đi đến Thiện pháp đường đến nơi rồi tất cả đều cùng nhau thỏa thích với đủ các loại vui chơi. Lúc đó, vua trời xem xét sự vui thích của Thiên chúng, biết họ đang tự giả dối đam mê, làm tăng trưởng phiền não, nên liền nói bài kệ: Trong cảnh giới giả dối Tham ái không biết đủ Hữu tình ôm mê đắm Phiền não sẽ tăng trưởng, Bị cảnh trói căn thức Như độc trong thức ăn Thời sau đó nếu hết Mê buồn không an vui, Không trước, sau và giữa Chẳng đời này đời sau Khi nhân duyên hội ngộ Không ai khỏi nghiệp báo. Trời Đế Thích nói kệ này rồi, lại bảo tiếp: –Giả sử tuổi trẻ, sức mạnh, chưa hẳn là sống mãi; bốn tướng biến đổi thì mau chóng tan diệt; khoái lạc hiển bày, tự tánh không có thật; khi cái vui đã thọ hết, thân tâm bị thúc ép không lúc nào được an ổn, các ông chớ để cho si mê, ngu hoặc dối trá, lường gạt, nếu đối với tất cả cảnh giới cứ dính mắc không biết đủ, thì sau đó đại hoạn đến; giống như lửa dữ, thiêu đốt cây cỏ, tham đắm vào cảnh giới, thì thêm nhiều lỗi lầm, cũng lại như vậy, bị lửa phiền não thiêu đốt thân tâm, trái bỏ chánh đạo, khi tướng tuy hiện ra, cõi trời cũng bị đọa lạc. Thế nên, ta nay giáo hóa các ông, khiến cắt đứt phiền não, khử trừ mê hoặc, tất cả chúng trời, từ đây luôn tạo lợi ích, đối với pháp hạnh cao tột, chí tâm tu tập, sau được vắng lặng và an vui hơn cả. Nay ông chớ có cao ngạo, mau tạo ruộng lành, đối với đời tương lai, liền được quả báo cao tột, vừa ý vô tận. Nếu tạo nghiệp ác, các thứ báu theo thân, cung trời cũng bị rơi xuống, chìm đắm trong nẻo ác, tất cả cung điện lầu cát thảy đều ẩn mất. Khi ấy, trời Đế Thích thấy Thiên tử kia, mạng vừa hết trong chốc lát bị đọa vào nẻo ác, liền nói kệ: Hương hoa sen rất thơm Các loại mọc trên núi Món báu vừa ý nhất Để trang nghiêm khắp nơi, Suối chảy và ao tắm Hoa cây trái đủ sắc Và cây kiếp vàng tía Đàn chim đậu ở trên, Thường hót tiếng rất hay Vui lòng các chúng trời Lưu ly báu không dơ Xen lẫn ánh sắc vàng, Lâu đài đẹp hơn cả Trang nghiêm luôn vừa ý Quần sinh không xa lìa… Nên biết là giả tạo, Như bọt trên mặt nước Như điện chớp, mây trôi Cũng như thành Tầm hương Chốc lát liền tan mất. Nếu sinh tham, giả dối Rơi xuống đường luân hồi Như lửa độc si ái Thiêu đốt các căn lành Chúng trời bị tổn giảm Bỏ tất cả Bồ-đề. Trời Đế Thích lại nói tiếp: –Nếu trời ngu si, thương người cuồng hoặc, sẽ bị trời A-tố-la và La-sát… hàng phục, về sau đọa vào địa ngục, làm rồng rắn, xa lìa chư Thiên, ở mãi trong ba cõi, như dây trói buộc, không được tự tại; nếu lìa si ái, tỏ rõ thông đạt, làm lợi ích hữu tình, nương về Phật đạo, ra khỏi thế gian, đoạn hữu và ái, được Nhất thiết trí, bình đẳng vô ngại, được ba môn giải thoát, chứng ngộ khổ không, đến Niết-bàn chân thật, xa lìa luân hồi, không thọ thân sau, sắc, hương, vị, xúc không còn dính mắc. Khi đó, vua trời thấy các chúng trời trong mỗi niệm vô thường lại tăng thêm nhiều lỗi lầm; hết lòng thương xót, phát lời chân thật, nói bài kệ tụng: Hết thảy ở cõi trời Chìm đắm trăm ngàn kiếp Giống như vòng lửa quay Sinh tử không cùng tận, Thấy người bị vô thường Không xem xét chính mình Về sau khi mạng chết Tai hại cũng như vậy. Nếu bỏ tâm dơ bẩn Không đắm trong cảnh giới Sinh tử chẳng thể hại Thường trụ chân tịch lạc. Nếu vi phạm giới hạnh Như say uống thuốc độc Chẳng phải quân ma trời Trói buộc, ai cứu giúp, Bụi trần dính trên mặt Trong lòng sao thấy biết Mạng tàn nằm giữa rừng Ai mà còn say đắm. Nếu sinh lòng tham ái Cùng chịu khổ, vô thường Vónh viễn nơi sinh tử Đang xa lìa an vui, Ác lớn không dứt bỏ Bị luân hồi từ đây Ví như gió bạo ác Thổi lay lá đỉnh núi. Tự nghiệp được sinh Thiên Quả sướng vui tự nhận Giới sáng không ngu mê Tự đầy đủ an vui, Tham ngu bị đọa lạc Như lửa phát ra khói Sau tự đọa địa ngục Nghiệp báo cũng như vậy. Lúc đó, có vị trời tên là Ô-ba-miệt-du, do sức của nghiệp lành đời trước, được sinh ở cõi trời Đao-lợi. Khi ấy Tỳ-kheo vì vua trời này mà nói bài kệ tụng: Nếu tạo các loại nghiệp Khắp nơi vọng phan duyên Do sức tâm mê hoặc Tạo nên tất cả nghiệp. Vì tâm trước tối thắng Tâm sau sinh liên tục Dẫn sinh không gián đoạn Nhân ba cõi vô tận. Tất cả nghiệp báo thân Lìa tâm không thể được Thế nên hàng phục tâm Sẽ được quả vô tận. Ông cần mau tấn tu Điều phục lìa mê chấp Được tùy tâm mãn nguyện Rốt ráo được an vui. Nếu luôn điều phục tâm Vónh viễn lỗi không tăng Người trí khéo điều tâm Các khổ không thể hại. Nếu tâm bị khổ kia Sao liên tục chịu khổ Trong tất cả cảnh giới Được quả báo nhẹ nhàng. Trời, người, A-tố-lạc Các Rồng, Quỷ, La-sát Không lìa nơi một tâm Tâm làm chủ ba cõi. Ba cõi tự tâm sinh Trời, người cùng địa ngục Tùy tâm sinh tội phước Trôi dạt bị chìm đắm, Hoại nhân lành mê cảnh Sinh ngu, si, tham, ái Chịu khổ, rộng vô biên Chìm đắm khó ra khỏi. Sức tâm khó điều phục Theo đuổi nhanh như gió Thiên nhãn chớ duyên hình Tướng thức đều như vậy. Người trí khéo điều phục Xa lìa ma trói buộc Vượt khỏi sông sinh tử Mau đến bờ bên kia. Nghi hoặc không ngay thẳng Nạn ác nhiều không đáy Hạnh vi tế một, nhiều Không trụ trong sát-na Hành tướng ẩn khó lường Không thân khắp mọi nơi Ai dẫn dắt thế gian Người qua lại là ai? Ẩn kín sâu trong pháp Tạo ra nghiệp của thân Tuy thấy hành sai khác Chớ cho pháp tương ưng. Vì sao khó điều phục Không sắc, không hình tướng Chúng sinh bớt xấu ác Như mắt sáng giữ cảnh. Tuy thấy điều tốt xấu Ví như việc mộng ảo Bản tánh dáng khó cùng Ai lại có thể thấy? Dẫn dắt cho quần sinh Thường lưu chuyển các nẻo Kiếm bén không cắt đứt Lửa dữ đốt chẳng đứt, Tâm tất cả hữu tình Tướng nghiệp lực như vậy Dây nghiệp rất bền vững Trói buộc với quần sinh Ba tánh mà chẳng còn Chốc lát thiện chẳng thiện! Cũng lại đều bỏ hết Vịn bám cửa sáu căn Vọng cầu với trần cảnh Nên dính mắc thế gian Không hiểu pháp sinh diệt Như gương chiếu ở trước Mà không chiếu ở sau. Bấy giờ, Thiên tử nghe Tỳ-kheo kia nói việc như vậy. Biết thuở xưa toàn làm các điều lành, nay được thân thù thắng, nên liền nói kệ: Xưa tu tâm tịnh diệu Cẩn thận giữ giới hạnh Do nhân vi diệu này Được trụ đạo an vui. Người khéo giữ gìn giới Phòng trái với luật nghi Sẽ đoạn trừ các hoặc Chứng đạt vui tịch diệt Giới có oai đức lớn Vượt qua khổ các cõi Cho đến khi mạng hết Không sợ nẻo ác kia. Đường ác, không thể cứu Sức giới cứu tối thượng Nếu có người giữ giới Vạn điều lành nương tựa, Sau được quả sinh Thiên Vónh viễn lìa hiểm nạn Phật pháp, thầy Thánh chúng Ba cõi đều tôn trọng. Lúc đó, các Thiên tử… năm vóc sát đất đem thân đảnh lễ lòng tôn trọng, ngay lúc ấy, trời Đế Thích cũng vui mừng gấp bội, ca ngợi sâu xa và liền nói kệ: Giải thoát độc tham sân Quần sinh gần bạn đạo Có thể đến bờ giác Ta nay quy mạng lễ Hàng phục lỗi ngu si Vô vi, không gì bằng Hết thảy đều tôn kính Ta nay quy mạng lễ. Khi ấy, trong cõi trời kia, có các phi điểu, vui chơi ở giữa hư không, hoặc bay lượn cao thấp, hoặc ở trong ao báu, đùa giỡn trong nước, có các Thiên tử ưa thích sự phóng đãng, cùng với các phi cầm, dạo chơi đam mê dục lạc không sợ đường ác, có Tỳ-kheo vì Thiên tử kia, tuyên nói kệ tụng: Bàng sinh ham dục lạc Vui chơi kiểu ngu mê Chúng trời cũng như vậy Các loài phi cầm kia Bậc Chánh Giáo tuyên nói: Tâm các ông điên đảo Không sợ nơi nghiệp ác Quá vui đắm thế gian Nếu trời có nghiệp tội Rơi xuống ở địa ngục Nghiệp lực, độc như vậy Người trí thường xa lìa Người đức mỏng, tuệ ít Trước chỉ quán dục lạc Trái lại không tư duy Thành tựu các quả khổ Nếu người có trí tuệ Quán khắp mọi điều ác Cầu đoạn trừ ác nghiệp Lợi ích các quần sinh Nghiệp ác sinh các khổ Nhân tốt được lìa trói Hành tốt xấu không đồng Quả báo cũng như vậy Mê khổ cho là vui Cầu an không thể được Trí đủ chẳng lỗi lầm Không lâu đến vắng lặng Khéo tu các tónh nghiệp Tìm cách nhóm căn lành Tam-muội tự hiện ra Mau đến bậc Vô sinh Chớ lưu luyến bàng sinh Vui chơi nơi vườn tược Biếng nhác càng tăng thêm Sau đọa loài phi cầm Nếu lại vô thiểu trí Nghiệp tốt xấu không phân Ngạ quỷ, A-tố-la Địa ngục cũng như vậy Với nghiệp hay phân biệt Quả báo cũng thông đạt Ở trong các nghiệp kia Tướng sạch nhơ thâm cùng Ngày đêm thường tinh tấn Nghó ba môn giải thoát Không còn đọa địa ngục Rốt ráo được an vui Thiên tử, ông nên biết! Tự vui tự khéo thành Tự hoặc sinh tự khổ Khổ vui chẳng lìa tâm Nên xa lìa lỗi lầm Dính mắc các trần cảnh Phóng túng bị mù lòa Chợt cái chết đến giục Chìm đắm nơi địa ngục Khổ não không cùng tận. Lúc đó, vị trời kia có trăm ngàn Thiên nữ, sắc tướng đoan nghiêm tùy ý tự tại, ở giữa rừng kia ca hát chơi đùa. Có loài phi cầm, biết điều lành đời trước của trời, liền nói bài kệ: Xưa siêng tu nghiệp lành Nay lại được sinh Thiên Nếu hành trái nhân lành Sẽ chìm đắm nẻo ác Nghiệp báo đã quyết định Chư Thiên đều bình đẳng An vui chẳng an vui Nay các ông phải biết Ái nhiễm vốn làm hại Dây nghiệp theo trói buộc Luân chuyển không cùng tận Dây nghiệp lại làm nhân Trên đến Phi tưởng xứ Dưới đến ba nẻo khổ Qua lại mau như gió Sinh số lại như mưa Tuần hoàn trong các nẻo Vô thỉ mãi như vậy Nếu người tâm vắng lặng Như nước sạch trong suốt Như hư không ly ngại Đạt được vui tối thượng Năm thức duyên trần cảnh Ba ác nghiệp kéo theo Một pháp cũng bỏ hết Không được sinh cõi trời Sát, đạo, dâm, vọng, độc Thường làm bạn đường ác Như lửa cháy thiêu đốt Người trí nên quán sát Ưa chân thật, nhẫn nhục Ra đời gặp bạn lành Nếu gần gũi tu tập Sẽ được quả tam thiên Chế ngự ý tà loạn Cẩn thận đụng các tham Sau chắc chắn sinh Thiên Thành tựu quả nghiệp sạch Nếu với nghiệp sinh tử Mà không cầu giải thoát Quỷ Diệm-ma sát đến Làm sao trốn tránh được. Lúc ấy, trời Đế Thích lại bạch: –Nếu có chúng sinh không sợ điều ác, đối với tất cả mọi nơi tâm đã bị dính mắc, do dính mắc nên không có trí tuệ, nói dối, nói thêu dệt, dối trá, nịnh hót, làm não loạn hữu tình, quay lưng với lời dạy chân chánh, thân cận thầy xấu, bất hiếu cha mẹ, cho đến làm gián đoạn căn lành, dây nghiệp trói buộc, như mũi tên bay nhanh, khi chết đọa vào địa ngục, đủ thứ hình phạt, chịu mọi cực khổ, không có dừng nghỉ; các ông từ nay, đối với tội duyên sinh tử, phải mau xả bỏ, chớ nên tham đắm, đối với tự thân, mạng phần có hạn, có dài có ngắn, phải xem xét kỹ lưỡng các hạnh hữu vi, trong từng sát-na đều có sinh diệt, đâu có lâu dài, như bọt nước, như hình bóng trong gương, như điện chớp, như mây tan; nếu như phước trời hết, các thú vui đều không còn; tất cả tướng suy chợt hiện ra thúc ép thân tâm nên nhẫn như thế nào? Vì thế, nay ta tuyên nói chỉ bảo như vậy ông phải siêng năng thực hành tinh tấn, nhẫn nhục nhu hòa, thương xót hữu tình, bảo vệ sáu căn, tu hành bốn Đế, không lấy oán thân mà tu bình đẳng, trí tuệ tăng trưởng, thâm nhập nghóa vị, bỏ vọng theo chân, chỉ dẫn thiền định, khi hết hoặc nghiệp sau đó không sinh sẽ được giải thoát. Khi ấy, trời Đế Thích muốn nói rõ lại nghóa trên mà nói bài kệ: Như vậy mười hai xứ Sáu cảnh và sáu căn Khi các thức sinh diệt Tương ưng thành vọng tưởng Người trí khéo tu tâm Không trụ sắc các pháp Nhập vào môn vắng lặng Lặng yên không một tướng Cần cầu pháp vắng lặng Không đọa cõi Ma-la Dùng tâm sạch đẹp này Để luôn luôn nhớ nghó Nếu hành tuệ như vậy Hoặc khổ sinh chỗ nào Ở trong ba đời kia Đều tự tại, không sợ Phiền não trói tự mở Tội nhơ không thể nhiễm Mắt tuệ được tròn sáng Thường trụ hạnh chân tịch Thân trời rất sướng vui Còn bị tội nhơ giục Vì sao người ngu mê Rộng tạo mười nghiệp ác Nếu người tu trí tuệ Hiểu rõ gốc tội phước Sợ khổ nghiệp hại chết Cái gốc: Phải thoát khổ. Thuở xưa, vào lúc Đế Thích nghe Đức Thế Tôn, nói về những việc trong nẻo ác, ông liền vì Thiên chúng mà tuyên nói. Đức Phật bảo: –Nếu người nào được khỏi tội gốc của sinh tử, thường gặp bạn lành, trồng được các gốc lành; nếu sinh cõi trời thọ hưởng sướng vui vi diệu có cung điện trang nghiêm, báo ứng vô lượng; nếu không rơi vào đường ác mà lại đắm say vào những sướng vui, khi hết phước lành, ắt sẽ đọa lạc. Ví như đèn đuốc cần có nhiên liệu, khi nhiên liệu hết, đèn liền tắt; như vậy, đọa rồi lại bị gió nghiệp nhanh chóng thổi xoay qua lại thế gian xoay tròn không dừng; nếu các người trí, chánh định tương ưng dây nghiệp vô minh không thể lay động. Ví như rễ sen mọc nơi núi Tu-di, không thể lay động. Khi ấy, vị trời kia, nghe Thiên đế nói pháp này rồi, liền dùng kệ ca ngợi Thiên đế: Nay ngài nói pháp này Dứt trừ tất cả chướng Tôi y lời Thiên đế An trụ không sợ hãi Cùng các quần sinh kia Làm người cha từ bi Tuyên bày thành Niết-bàn Khiến họ được lợi lạc Pháp vốn không sai khác Thiên đế khéo tuyên nói Nay gặp thầy dạy đúng Được đến đạo Vô thượng. Khi ấy, Thiên đế lại bạch: –Chớ tham đắm vào của cải ở thế gian; nếu người lìa bỏ nó, thì trí tuệ sẽ sinh ra, nếu trở lại ưa thích thì căn lành bị phá hoại, bảy thứ Thánh tài dần dần mai một, trải qua trăm ngàn đời chìm đắm vào đường ác. Lại nữa, tiền tài ở thế gian không vững vàng tồn tại, bị nước lửa, giặc cướp và các thế lực của nhà vua đoạt lấy, nếu là pháp tài có bị các tai vạ nước và lửa, trọn không thể hoại được. Chúng chư Thiên các ông tuy có thế lực, đầy đủ các căn, thân được ánh sáng nhưng khi tướng suy hiện ra, liền sinh sầu não, rơi xuống hư không, trải qua trăm ngàn du-thiện-na, vào trong nẻo ác kia. Đế Thích liền nói kệ: Như ông, đại sướng vui! Giàu có, không thể lường Khi tướng suy hiện ra Nhất định vào nẻo ác Như nghiệp đang tạo ra Tùy nghiệp quả lại sinh Tướng nghiệp lành cao đẹp Quả dị thục cũng vậy Nghiệp có trên giữa, cuối Cùng phẩm loại tốt xấu Khi có quả báo kia Hơn kém cũng như vậy Các ông suy nghó kỹ Sức sắc thân cao tột Không tránh khỏi sinh diệt Làm sao mà không đọa Thí như các giống lúa Bị lửa dữ đốt cháy Thiêu đốt đã phá hoại Mầm làm sao được sinh! Thân nhẹ rỗng giả tạo Bốn tướng mau biến đổi Như ánh lửa đèn sáng Không trụ trong sát-na Tâm tướng cũng như vậy Rỗng giả không chân thật Luôn bị lậu tăng theo Làm sao được an vui Xả bỏ mọi cảnh dối Chớ tự yêu thân này! Nhất định khỏi luân hồi Mau đến nơi bờ giác. Khi đó, vị trời ấy có phi điểu nói: –Nay chúng ta, đang ở rừng Ô-bát-la, ở giữa rừng kia, có ao tắm lớn, mọc nhiều hoa sen hồng, khi nở mùi thơm phảng phức; thân cánh lông của chim có nhiều màu sắc lẫn lộn, hình dáng giống như bảy báu, mắt có ánh sáng, giọng hót rất hay, phi điểu này vui chơi mãi ở trong rừng. Thiên tử quán sát sự ham thích say mê của phi điểu, liền nói bằng kệ: Ta thường ham vui chơi Trời, người, yêu cũng vậy. Tuy trời khác cầm thú Ái nhiễm thì không hai Không giữ gìn pháp hạnh Làm sao được giải thoát Nếu các trời như vậy Phi cầm khác chỗ nào Nay lại bảo các ông Chớ đắm năm dục lạc Nên tu pháp thù thắng Sẽ được đại giải thoát Khổ, sinh, già, bệnh, chết Mãi không hại thân kia Thân trời cùng loài cầm Được thiện lợi bình đẳng. Bấy giờ, Đế thích lại bạch: –Nếu có người trí lìa nhơ để được trong sạch, tội lỗi ở thế gian có biến khắp trời này, cũng không thể làm cho chìm. Vì sao? Vì người trí kia, đối với nhân duyên sinh khổ, có thể hiểu rõ; vả lại, đối với mọi ân ái của bằng hữu tri thức và quyến thuộc ở cõi trời kia, không hề bị luyến tiếc! chư Thiên các ông, ngu si tham đắm, không lìa luân hồi, nên cùng các loài phi cầm kia, cũng không có khác. Lại có chúng sinh, đam mê uống rượu, mắc tội rất nhiều. Vì sao? Vì tâm thức của hữu tình mê loạn, nên phạm phải nhiều lỗi lầm; sức rượu tuy mất, nhưng nghiệp báo không bao giờ mất, ở trong năm nẻo xoay tròn không dừng; ở trong tất cả tội, hơn hết là tội tăng thượng mạn, cho đến câu-chi kiếp vẫn lưu chuyển không dừng, chìm đắm nẻo ác, bị phiền não trói buộc, như Đức Phật đã nói. Bấy giờ, trong vườn của Đế Thích kia, có nhà diệu pháp, với đủ loại châu báo trang nghiêm cao đẹp hơn hết. Lúc đó, chúng chư Thiên đã đến trong nhà diệu pháp ấy. Bấy giờ, Đế Thích quán sát Thiên chúng, rồi nói kệ: Chúng chư Thiên các ông Quá khứ tu lành ít Được sinh trong cõi trời Nếu quả báo trời hết Nhất định đọa luân hồi Nghiệp lực khó nghó bàn Dẫn dắt các chúng sinh Trong ba cõi, năm nẻo Sinh ra ở mọi nơi Các ông cần tinh tấn Phải suy nghó chắc chắn Sinh diệt chỉ chốc lát Làm sao không tỉnh giác? Đường hiểm ác sợ hãi Nương theo các luật nghi Vững vàng bảy Giác chi. Siêng hành tám Chánh đạo Khéo trụ ở năm Căn Tăng tưởng với năm Lực Bốn Niệm và Chánh cần Và bốn Thần túc kia Như vậy không thoái chuyển Ắt đến thành Niết-bàn Luôn được vui tịch diệt. KINH DIỆU PHÁP THÁNH NIỆM XỨ <卷 id="96841738">Quyển 6 Với tội, không sợ hãi Người kia không trí tuệ Về sau khi mạng hết Khổ não luôn thiêu đốt Khắp vòng trong cõi trời Đọa lạc này, ai thấy! Họ luôn thích tham dâm Không thể biết việc này Dâm dục sinh dối trá Làm mê hoặc hữu tình Dẫn dắt xuống ba nẻo Như dây luôn trói buộc Sinh diệt luôn như vậy Hữu tình cần tự lợi Nhu hòa thân, khẩu, ý Chớ để phiền não sinh Phải dứt các pháp cảnh Tất cả người tham dâm Ngu si tăng không nghỉ Bỗng chốc lửa dục đốt Xa lìa những người thân Bạn bè, Thiện tri thức Cốt nhục cùng quyến thuộc Khi chết, đại khổ đến Nói làm sao hết được! Từ sinh đến khi chết Như núi bỗng sụp đổ Chốt lát không thể dừng Sát-na, không còn gì Chỉ với Nhất thiết trí Không tội, không luân hồi Rốt ráo khỏi nguồn khổ Chư Thiên luôn yêu thích Biển dục sâu không đáy Làm sao có được đủ! Tâm tham ái tăng trưởng Như lửa đổ thêm dầu Mất các thứ trang nghiêm Phá hoại nhân xuất thế Lưu chuyển trong bốn nẻo Người, Bàng, Địa ngục, Quỷ Sinh tử mãi không dừng Qua lại như khuôn gốm Quần sinh rất ngu si Không rõ tánh phiền não Nếu các hữu tình kia Vónh viễn không tham ái Sẽ được nhân cao cả. Giải thoát khỏi trói buộc Người trí trừ phiền não Các bệnh khổ không hại Hàng phục mọi tham sân Mãi được đạo an vui Sinh tử không thể nhiễm Cạm bẫy không thể trói Trí tuệ dần tròn sáng Biết tất cả các việc Đối với lý Niết-bàn Khởi lên tâm vô tướng Xa lìa mọi trần cấu Rốt ráo đến bờ giác Mọi cảnh khổ vui kia Vắng lặng không có gì Nhập vào đại giải thoát Thường trụ nơi vắng lặng Lại khởi tâm Từ bi Thương xót các hữu tình Chỉ khổ trí chân như Xa lìa nơi cạm bẫy Dứt ý niệm nghi ngờ Trừ sạch sự tham ái Giải thoát nỗi khổ não Đạt được tuệ cao tột Hiểu tập-tán-không đó Dù sống tám vạn kiếp Cũng lại bị vô thường Thường an trụ nơi đây Cõi trời mãi không mất Thấy ác sinh coi thường Không suy nghó tội lỗi Ngu si không tìm cách Mãi cầu sự sướng vui Ví như trong đống cát Tìm dầu làm gì có Nếu gây ra nghiệp tội Thường luôn bị thúc ép Cây khổ rễ tội sâu Tất cả ác sinh trưởng Ta nói chân như này Chắc là pháp phi pháp Ý thẹn khi tạo tội Sau lại không phiền não Lợi ích rộng vô biên Đạt đến bờ chân như. Nếu lại ngu mê đối với lời Phật dạy mà không tin thọ thì sau khi mạng hết tự chịu khổ não, trải qua vô số trăm ngàn câu-chi na-do-tha, a-một-na… không được quả của trời, người còn bị lửa tội vô thường, nhất định thiêu đốt bất tận ở kiếp này. Khi ấy, Đức Cù-đàm bảo: –Vì sao trời lại được trụ lâu? Ví dụ như bọt nước, cây chuối không có mảy may chân thật, là giả tạo, không thật chẳng bền lâu; nếu cho rằng cái vui này vónh viễn, thì điều đó không bao giờ có! Lúc đó, Đức Phật hỏi Thiên chúng kia: –Các ông có biết nghóa này không? Ý các trời vui mừng như nghe được năm loại nhạc, được nhiều sướng vui, được năm công đức và lại nói: –Có phi cầm, tên là Hy hý, hay khéo nói pháp cho Thiên chúng kia. Liền nói bằng bài kệ: Ái dục không nhàm chán Ý ham muốn không thôi Phát khởi tâm không đủ Chết như vậy không biết Tất cả cõi chúng sinh Hình loại có nhiều thứ Lâu dài trong một lúc Không thể kịp có cách Mãi không được an vui Nhất định đọa luân hồi Luôn ở nơi địa ngục Đời đời cũng như vậy. Nếu sự thật mà nói, cảnh giới của Đế Thích giàu có tốt đẹp đặc biệt khác với chư Thiên, thì đối luân hồi này cũng không thể tránh khỏi, nhất định cũng bị vô thường nó biến khắp trên cõi trời, chưa có chỗ nào vi diệu mà có thể tránh khỏi vô thường, tất cả đều bị đọa lạc. Khi ấy, có Thiên đế tên là Kiều-thi-ca, thông hiểu pháp tướng, vì Thiên phụ kia, nói hạnh đa nhân và đủ các thứ tinh tấn mà các Thiên chúng vẫn không tỉnh ngộ! Ai có thể ưa tu tịnh hạnh, xa lìa tội nhơ, mặc sức ngu mê, tâm đắm chìm buông thả, đối với lời dạy đó lại không thọ trì sẽ bị luân hồi mãi mãi. Vì sao không hiểu? Vì các người ngu kia ưa tạo nhân ác, đối với đời sau sẽ bị các tội ác phá hoại, phải biết ác nghiệp là những phiền não chướng trói buộc. Lúc đó, Tỳ-kheo nói kệ tụng: Nếu hành lợi tốt Khi dùng ngọa cụ Ăn uống, y phục Được cấp, cúng dường Phải biết trên dưới Không vì riêng mình Mà cầu phước lợi Hoặc quán thân mình Ai làm chủ tể Mới gặp cảnh ác Oan gia, tạo tội Lại cố lấn hiếp, Khởi lên chân thật Lìa tướng nhẫn nhục Người trí xét kỹ Đều không đau xót Tai nạn khổ não Chỉ có hiện tại Vật ấy không sạch Tạo thân như vầy. Vả lại thân này Sát-na không trụ Mạnh mẽ cũng vậy Sao phá hoại thân? Chúng sinh say mê Với của cải mình Không làm lợi ích Tăng trưởng nghiệp tội, Chẳng vâng lời dạy Không hành bố thí Với hết thảy nơi Tâm không thọ dụng, Lũ giặc dòm ngó Làm sao giữ gìn Nếu tâm hồi hướng Cúng dường Tôn sư Của kia thù diệu Mà lại vứt đi Như bỏ cỏ cây Tâm không đắm ái Hữu tình thấp kém Luôn mong cứu độ Lìa nhơ không đắm Đời này đời sau Được bảy Tụ giới Cứu độ tối thượng Với người giữ giới Sẽ sinh lên trời. Trí tuệ rộng lớn Có thể cắt dứt Tất cả phiền não Các bệnh gông cùm Vượt qua hiểm ác Chiếc cầu luân hồi Đến bờ chắc thật Niết-bàn bờ kia. Tâm sạch lìa dơ Đắc Vô sinh nhẫn Dụ như gánh vác Vật ấy nhẹ nhàng Ra khỏi đường dài Mà không mệt mỏi. Nếu người gánh vác Nghiệp ác nhẹ nhàng Trải qua thế gian Mà không chìm đắm. Lại như phi cầm Đôi cánh khỏe mạnh Bay trên hư không Mau chóng sẽ đến. Nếu người trì giới Giữ gìn vững chắc Muốn được sinh Thiên Cũng lại như vậy. Lại có phi cầm, tên là Hiện Chân Như, ở núi trắng kia, có thể quán sát liền nói kệ tụng: Như hình sắc ta Sát-na, không trụ Sướng vui cũng vậy Ngu mê không rõ Nếu tất cả loài Tướng thiện nhiều thứ Khi luân hồi sinh Ắt sẽ phá hoại Phá hoại phước ấy Một đời cũng thế Cái chết lại đến Ý sao khỏi tội Mãi lo sướng vui Vô tài, Hắc thằng Hủy hoại hữu tình Mạnh mẽ không bệnh An vui xa lìa Cái chết gần đến Gần thì tâm mê Hoại mạng quần sinh Tội cứ phá mãi Trời, người luân chuyển Không hiểu nguồn mê Xa lìa an vui Đọa cõi Diệm-la Mới biết nghiệp quả Sát-na vui sướng Mà thân suy yếu Vui các cảnh trần Không hiểu, tham đắm Khi sướng vui hết Già chết xâm hại Các căn đối cảnh Đắm luyến không thôi Sau đó vô thường Tự sinh phiền não Nếu tuệ không sáng Thấy khắp cảnh trần Thọ hành cảnh giới Chấp ngã phân biệt Vui trong giả dối Lửa dục luôn sinh Sức cảnh như gió Thổi mạnh lửa dục Trí hiểu chân như Suy nghó thành, bại Tất cả ngu mê Vui đùa không tỉnh Cảnh giới luôn hành Thổi vào lửa dục Trời người hành dục Đọa cõi trời kia Đức trời đó đủ Thật được vui trời? Tướng suy hiện ra Không hoại sao đến Sát-na không trụ Sinh diệt từng niệm Tạm dừng chẳng lâu Mạng kia như vậy Cảnh này vừa gặp Một lòng không hiểu Năm đức vui trời Mau lìa hoại khổ Vua trời Đế Thích Rũ bỏ phiền não Tẩy sạch ba chướng Nương về ba báu Ba nghiệp rỗng không Ngộ được Tối thượng Tam-phật-bồ-đề Tuy sinh những tội Không nhiễm tội dơ Tâm giữ làm lành. Lại có ngục tốt Diệm-ma kia, vì chúng sinh ấy mà nói kệ tụng: Lòng ôm tham dục Chê bỏ duyên lành Không lìa luân hồi Bị quả khổ này Chẳng nương hạnh trời Mà tạo nhân ác Sau đó vô thường Hối hận làm ác Dao bén cắt hình Lửa dữ đốt thân Dẫu chưa tổn thương Năm căn mắc tội Khổ không thể nhẫn Mắt nhìn sắc đẹp Như thật được vui Nếu biết là khổ Nghe tiếng quá vị Lỗi đó cũng vậy Oan gia tạo tội Vì thế lìa bỏ Ba oan gia kia Trói buộc tội nhân Phá người an vui Tham si hòa hợp Xa lìa giới phẩm Sẽ đọa địa ngục Nếu hành giới luật Sau được phước lành Nếu trái giới luật Sau bị phiền não Uống rượu sát sinh Lìa xa vợ người Tà kiến, lưỡng thiệt Không giữ oai nghi Tình ý buông lung Phá hoại hữu tình Sẽ chìm đường ác Tham đắm tà hạnh Mà lại nói ác Đời nay đời sau Không được an vui Xa lìa người ác Gần gũi bạn lành Diệt tội căn này Không tin nghiệp ấy Không được nghiệp quả Không chúng an vui Gốc rễ quả ác Sau phiền não đốt Nếu lại nói dối Vốn chẳng Pháp sư Nói ta hiểu pháp Sau đó vô thường Bị quả nghiệp ma Chuyển bỏ thân người Sinh vào nẻo ác Vì thế Như Lai Nói là vô minh Tất cả tham dục Sướng vui sao hết Không tham, biết đủ Thân lìa phiền não Muốn sinh vui sướng Gọi là sướng vui Tương ưng giải thoát Được vui tối thượng Nếu tham vui sướng Như độc hòa nước Giải thoát sướng vui Như sữa hòa nước Lửa dục thiêu hại Ngu si không hiểu Lại cớ tham ái Độ lượng tài lợi Mua bán rượu thịt Được của vô số Tâm cho chưa đủ Vô thường sát quỷ Mau đến dẫn đi Nếu ham dục lạc Ưa trụ cảnh giới Chẳng được sướng vui Như Lai đã nói Pháp dụ hiểu mộng Như thành Càn-thát Như rỗng không thật Như bọt trên nước Giống như thân cây chuối Như lửa độc kia Cảnh dục cũng vậy Nếu rõ nhân quả Biết dục tội lỗi Không mê chân như Thành tựu trí tuệ Suy nghó vắng lặng Bỏ tham ái kia Không sinh khổ não Bỏ dục cũng vậy Dục là chủ tội Giống như thuốc độc Ý ấy không đủ Đọa lạc cõi trời Lại đọa địa ngục Giả dối ngu mê Ví như sông treo Cũng như điện chớp Sức độc thế gian Nữ sắc hơn hết Tư tưởng dục tăng Như lửa cháy mạnh Vì thế người trí Lìa dục, vắng lặng Không trước không sau Cũng không khoảng giữa Như như mà hành Tăng trưởng cũng vậy Bị dục khổ kia Giống lửa dữ chạm Biết lỗi như vậy Người trí xa lìa Nên mau lìa dục Sẽ được an vui Vô số trăm ngàn Trời na-do-tha Vì được hành dục Đọa ngục lửa độc Đủ thứ trị phạt Như lửa độc kia Xa lìa sướng vui Không tạo nhân dục Như trước địa ngục Không thấy, không nghe Nếu người tham dục Đoạn tham dục đó Sẽ không khổ não Vì thế không dơ Được ý trong sạch Ở khắp mọi nơi Diệt ngọn lửa dục Nhập vào tất cả Nghiệp lành cao tột Hạnh ấy không nhiễm. Khi ấy, trời Đế Thích quán sát loài phi cầm ở cây Trang nghiêm, sắc ví như gỗ vàng với pháp nhân quả kia, thấy đúng là nghiệp lành nên nói kệ tụng: Thấy đúng nghiệp lành Như cây lớn kia Sắc vàng tươi đẹp Các thứ trang nghiêm Người trí đã nói Như quả báo lành Sinh ra nơi nào Hoặc thiện hoặc ác Được thân người rồi Lại làm nghiệp lành Được sinh lên trời Làm ác cũng vậy Chìm xuống địa ngục Ý tốt ham mê Cũng lại không được Thuốc tốt hơn hết Nếu biết quả báo Ý chẳng ái dục Cảnh giới chúng sinh Mê say dính mắc Nếu luôn tham lam Ắt ác cùng sinh Nữ là phiền não Như lửa thế gian Nếu sinh lửa này Phiền não như vậy Phiền não người nữ Sinh tâm chúng sinh Phá hoại thế gian Diệt tất cả pháp Là nhân địa ngục Đại Tiên đã nói Người nữ gian mị “Khẩu Phật tâm xà” Tình ái bất thường Luyến ái chốc lát Trái bỏ cũng vậy Tánh ấy trôi nổi Ví như điện chớp Lừa gạt hữu tình Ân ái dối trá Trời, Người, Rồng, Quỷ La-sát quyến thuộc Cảnh giới cũng vậy Người nữ xấu ác Giống như rắn độc Chẳng chọn chủng tánh Không nhìn thế lực Thương ghét chẳng thường Tánh như gió lửa Chỉ tìm của cải Không có trước sau Như có hiểm nạn Vứt bỏ xa lìa Người giàu cũng vậy Họ thì vui thích Nếu lại nghèo hèn Mau chóng lìa bỏ Ví như đàn ong Lăng xăng tìm hoa Tranh nhau đến hút Nếu cây khô mục Tất cả xa lìa Không của cũng vậy Người nữ xa lìa Người nữ tối tăm Thả tâm điên cuồng Phá hoại nhân tốt Không biết tốt lành Người nữ trói buộc Như trời buộc vậy Nếu bị nữ buộc Ắt đọa địa ngục Như tham nữ sắc Tham là đệ nhất Nếu có chúng sinh Tuy hiểu nghiệp dục Nhưng do dính mắc Thế nên không hiểu Người mê không hiểu Lại bị người nữ Nói năng giả dối Lừa người tin mình Thân tuy một chỗ Tâm thì sai khác Tổn hoại hữu tình Giống như rắn độc Tìm cách cầu nhiều Nuôi dưỡng hết thảy Người nữ đức hạnh Điều đó rất hiếm Tự tánh như vậy Không thể đo lường Người trí không đắm Tâm luôn quyết định. Cung trời Đao-lợi có Thiện pháp đường. Bấy giờ, chư Thiên đang tụ hội nơi Thiện pháp đường đó, có người tán loạn như vậy, nên phi cầm vì những người kia mà nói kệ tụng: Ví như phi cầm Tùy theo tánh mình Chán vui bất đồng Mà có hai loại Một thấy hoa sen Thì lại ưa thích Nếu thấy rừng hoang Tự mình chán lìa Một thấy rừng hoang Ý lại ưa thích Nếu thấy hoa sen Lại nghó xa lìa! Chúng sinh cũng vậy Như rừng vắng lặng Hoa ví tham dục Người trí ưa rừng Ý thích nơi đó Trời người điên đảo! Lại thích hoa sen Như mặt trời mọc Có thể hết lạnh Cái vui giải thoát Cũng lại như vậy Trong tham, sinh khổ Làm sao an vui Người trí chẳng mê Nên cầu giải thoát Với hết thảy chỗ Làm vui cao tột Trụ rừng vắng lặng Hãy khéo quán sát Trụ ý không tham Trời người cao tột Trụ tham dục này Chẳng được lâu dài Nếu hạnh không tham Vui trong cao tột Ở rừng vắng lặng Trong hành thứ nhất Dứt tất cả khổ Nhận làm điều ác Dối gạt hữu tình Ý thích núi rừng Nên khéo quán sát Tâm khéo quán sát Những nơi an vui Tâm hành không tham Vui nơi rừng hoang Người ấy thích rừng Tâm hoàn toàn thiện Lìa dục không tham Được vui vắng lặng Nếu người phiền não Thấy sợ rừng hoang Tham ái gấp bội Lại tự thiêu đốt Quay lưng tham ái Trong sạch không dơ Tâm định đời đời Thường được an vui Như giàu có đủ Phước hết thành không Tuổi trẻ sức mạnh Già đến xâm hại Tất cả ân ái Ắt có biệt ly Tất cả hữu vi Tạm hòa hợp vậy Pháp thế gian này Bậc Chánh Giác nói Nếu hiểu ngu mê Xả ái biết đủ Vào rừng vắng lặng Được vui cao tột Khoe mình tài giỏi Tự ái nhiều cách Xa lìa rừng thiện Chắc mất lợi lạc Giữa rừng lặng xét Vắng lặng tương ưng Ý thích không tham Đầy đủ tâm lành Vậy nên xóm làng Thường sinh tán loạn Nếu nơi núi rừng Lìa mọi tham ái Ý ông mau chóng Chán lìa ngu mê Rừng vắng cao tột Chỗ ở tương xứng Tâm hành nếu lặng Phiền não chắc lìa Hành khổ tương ưng Căn lành tăng mạnh Giả sử có người Được ngàn Đế Thích Khi thọ báo hết Cũng lại sinh diệt Thường hành tham dục Tất cả không thấy Bị dục hàng phục Mà sinh các khổ Cái vui ái dục Tạm trong chốc lát Không lâu liền mất Tâm như oan gia Hay lìa vui kia Dục ấy, không được Quả khổ phiền não Đều từ dục sinh Giải thoát sinh vui Vui ấy chân thật Với hạnh Thiện Thệ Túng nhậm tương ưng Lìa dục không tham Được vui vô tận Cái vui năm dục Trước sướng sau khổ Lúc vui, cùng hoại Chìm đắm địa ngục Điều lành không tham Trước, sau và giữa Lìa dơ, trong sạch Hưởng vui vô cùng Là mẹ chân thiện Ưa thích, ngu mê Làm sao lìa nó Luôn sinh lỗi lầm Về sau rất khổ Tạo tội làm gì Chẳng thấy sướng vui Ví như thế gian Có loài hoa độc Màu sắc tươi đẹp Thân nó có độc Nếu người chạm hoa Độc liền hại thân Ưa thích tạo tội Cũng như độc đó Lại như gió thổi Nếu cầm bó đuốc Những con thiêu thân Sẽ chui vào lửa Lửa của dục lạc Thiêu hại cũng vậy Vì thế độc dục Thường phải xa lìa Trời mê đắm dục “Tích ác hư sinh” Người tìm tham ái Ngu si tạo tội Vì thế lửa dục Thiêu đốt căn lành Lừa dối trời, người Chìm nẻo ác ấy Nếu chưa hết mạng Mau hồi tâm ý Với mọi điều lành Tu để tăng trưởng Các tham, loạn, hoặc Ba lỗi sinh trần Ba độc, làm một Lưới tội rất lớn Khởi lên ba hoặc Liên tục chẳng tận Ca múa hát xướng Tai, mắt đồng tình Thiên ý như đá Cũng bị lôi kéo Tất cả cảnh dục Che lấp tâm sáng Chìm đắm sông ái Thời không ra khỏi Sao trời ngu mê Không biết lỗi dục Ví như cây độc Nở ra hoa độc Ong đến tìm hút Độc hại mạng nó Độc của tham dục Tổn hại cũng vậy Còn đọa tam đồ Như lửa đốt cây Trời người không hiểu Tạo tội lỗi này Khi hết thọ khổ Mới lìa địa ngục Trời người ngu mê Không nghó điều lành Cảnh giới tội ác Không một ai tin Người trí xét kỹ Chân như, huyễn mộng Người ngu “phi mộng” Là nhân địa ngục Thế nên lìa dục Được giải thoát lành Trái bỏ ác hạnh Nhân lành lợi ích Thực hành lợi ấy Lìa hẳn cái ác Trời không đen tối Có người trí kia Nhất định thấy đúng Chẳng ưa tán loạn Được tất cả phước. Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn chỉ dạy Thiên tử, thực hành không tán loạn, nên liền nói kệ tụng: Cung điện trời, người Rễ của tán loạn Mê say vui đắm Nên đọa luân hồi Nếu lìa tán loạn Luân hồi cũng thoát Rễ tán loạn kia Tức là vô minh Tự tánh tối tăm Như người không mắt Ta quán lỗi kia Chẳng khác lửa mê Ngu si sâu rộng Tán loạn cũng vậy Chúng sinh ngu mê Thu gom của báu Để nuôi dưỡng mình Lại phải tán loạn Rơi xuống nẻo ác Trời cũng ngu si Yêu đắm nữ sắc Vốn mong lìa khổ Ý được sướng vui Nếu biết mạng mất Bị khổ não lớn Vui của tập dục Không lâu liền mất Tất cả chúng sinh Thọ nghiệp có hạn Cường tráng chốc lát Liền sẽ già yếu Nghiệp tốt xấu trói Ai được tự tại! Ví như lạc chủ Đẽo ra người gỗ Nhờ những sợi tơ Mới có tác dụng, Hữu tình cũng vậy Tạo ra hoặc nghiệp Mới bị luân hồi. Nếu lìa tham ái Thì không tác dụng Hành nghiệp chẳng lâu Người trí không tin Xa lìa tất cả Phương tiện tán loạn Nếu lìa tán loạn Chẳng sinh ba cõi. Ví như có người Rơi xuống vực sâu Trong đó còn có Những người sống sót Nếu người tán loạn Rơi xuống ba cõi Trong đó chưa có Người nào ra khỏi! Tất cả hoặc nghiệp Tán loạn hơn hết Cả ngày lẫn đêm Mãi không an vui Nếu người thế gian Mảy may tán loạn Phá hoại hữu tình Có ý xuất thế Phải nên xa lìa. Đức Thế Tôn nói rõ như vậy rồi, trời Đế Thích khởi tâm tôn trọng trải tọa cụ ra, đầu mặt đảnh lễ, đứng dậy chắp tay nhìn Già-tha-thư, tâm sinh sợ hãi, nói bài kệ tụng: Nếu không tán loạn Như cam lồ kia Nếu hành tán loạn Thì bị vô thường Người không tán loạn Trời, người hơn hết Hành nghiệp tán loạn Rễ của luân hồi Hành nghiệp thanh tịnh Gốc của an vui Thế nên chánh định Với khắp mọi nơi Được vui hơn hết Nếu với dục lạc Như sợ cực khổ Độc lớn tán loạn Cùng hoại điều lành Tán loạn: độc mê Do người tạo ác Không theo tán loạn Hay được an vui Nếu người trí kia Bình đẳng mà nói Có đức, không đức Tất cả chấp ngã Là rễ khổ vui Như Thế Tôn, ta Già-tha thư điển Lìa dục, trong sạch Được nhiều an vui. KINH DIỆU PHÁP THÁNH NIỆM XỨ <卷 id="96841739">Quyển 7 Khi ấy, có loài phi cầm tên là Vị Tằng Hữu Kiến, hạnh nó chẳng tán loạn, liền nói kệ tụng: Ý tham, sân, si Luôn là bạn tội Là giống địa ngục. Tâm tham, sân, si Làm người tạo tội Đọa xuống tam đồ. Sau đó mới biết Độc tham, sân, si Luôn luôn đáng sợ. Người trí chế phục Khiến chẳng tán loạn Tham si nếu quá Uống rượu, nói dối Sát sinh, trộm cắp Không tin nhân quả Ý sân nghiệp ác Lại chẳng đề phòng Không sinh lên trời Mà chìm nẻo ác Luôn hành ái dục Ái càng lớn mạnh Sai khiến hữu tình Lười biếng mỏi mệt Không tạo điều lành Lại như màn mây Che mắt trí tuệ. Đối với giới luật Khuyết phạm rất nhiều Dù được thân người Cũng hạng thấp hèn. Nếu ý tạo tội Tối tăm vô biên. Nếu ý hiểu biết Như ngày sáng tỏ Các pháp như vậy Phật đã tuyên nói. Trời sinh tán loạn Như say mê rượu Người ấy tán loạn Như hành địa ngục, Luân chuyển nhân gian Đều bị hoại diệt Quyết định như vậy Sinh thật vô thường Tán loạn che lấp Đọa biển cảnh giới Thành nhân gông cùm. Trời nhiều đùa giỡn Mạng sống nếu hết Dứt sạch sướng vui Trời chẳng suy nghó Tâm sinh tán loạn Chuyển đổi căn lành Đắm sâu lạc cảnh Tâm do không đủ Trời, người không biết Vì gốc khổ não Lại chẳng giữ gìn Trong khoảng chốc lát Sát-na không dừng Không bị ái hàng Cảnh dục gián đoạn Chẳng hiểu trăm thứ Trời luôn thọ dụng Chìm đắm buông lung. Bị dục hàng phục Như lửa địa ngục Thiêu đốt hữu tình Lại chẳng lựa chọn Lửa dục cũng vậy, Thiêu đốt Thiên chúng Cũng không lựa chọn. Lại như ngạ quỷ Miệng tuôn ra lửa Đốt thức ăn kia Các loài bàng sinh Đói khát cũng vậy Trời người tự tạo Lửa dục như vậy Biến khắp thế gian Thiêu đốt tất cả Hữu tình chẳng biết. Có loài phi cầm kia, tên là Cụ Túc Đức khéo hiểu sự tán loạn ấy, không thể thực hành về sau đọa vào trời này, nói kệ tụng: Dứt hết nghiệp lành Thọ mạng sát-na Chúng sinh điều phục Người được hơn hết Tất cả thiếu niên Chốc lát mạng hết Tất cả giàu sang Chốc lát hoại phá Trời, người không thường Giàu có không thường Sát-na không trụ Chớ làm loạn ý Nên sớm tu hành Siêng tu lợi ích Giữ pháp luật nghi Lý nơi vắng lặng Lỗi lầm không sinh Sao trời không thấy? Nếu ý tán loạn Hành pháp không thường Qua rồi không lại Sướng vui cũng vậy. Bảo vệ giới căn Trời, người sướng vui Các chúng sinh kia Nếu không giới này Sau bị phiền não Thế nên giới hạnh Phải luôn thực hành Vui trong cao tột Giới ấy trong sạch Liền được quả lớn Người ngu phá giới Chẳng sinh lên trời Nếu trời hành dục Tán loạn mê độc Với cảnh năm dục Thọ sướng vui đó Tâm chẳng suy nghó Tất cả không lâu Mạng bị phá hoại Vô số trăm ngàn Na-do-tha trời Mê dục tán loạn Bị lửa năm dục Tàn hại thiêu đốt Tất cả tán loạn Người bị đắm say Sau đó vô thường Bị quả mới hiểu Tâm chạy theo cảnh Rất cực rất khổ Bị khổ, thấy mê Tâm đắm say cảnh Khổ não không biết Cứ liên tục sinh Sau đó hối hận. Phiền não, nghi, hoặc Từ cảnh giới sinh Tâm ta không biết Hành hạnh luân hồi Nào biết luân hồi Lòng người theo đuổi Ngu mê lẫn nhau Xoay vần ba cõi Người trí chứng chân Thấy ở luân hồi Vô thường, khổ, không Khổ ấy chẳng có. Nếu mê nữ sắc Luôn bị nhiễm dục Sau đó không thấy Cảnh giới chư Thiên Hành pháp phi pháp Ác là hơn hết Tất cả thế gian Không ai cứu giúp Chỉ có chánh pháp Vì thế nương pháp. Nếu xa lìa pháp Người ưa phi pháp Đã làm phi pháp. Lửa khổ cháy mạnh Lìa hẳn cõi trời Nghiệp lành diệt hết Bỗng chốc rơi xuống. Nghó sướng vui kia Không có không thường Dây nghiệp trói buộc Ai có an vui! Tham ái càng tăng Dẫn vào nẻo ác Mãi lìa cõi trời. Lúc đó, trời Đế Thích thấy các chúng trời được trăm thứ phước đức rất đáng kinh sợ, liền nói kệ tụng: Làm lành sướng vui Trời được báo lành Nhân của trời, người Trước kia làm lành Mặt trời trên không Chiếu sáng thế gian Không có hai vầng Ánh sáng trí tuệ Chiếu soi tối tăm Cũng lại như vậy Không có hai loại. Muốn đến cung trời Hành hạnh xót thương Thương khắp quần sinh Là mẹ sinh ra Cậy nhờ lành này Người sinh cõi trời. Lại nữa, tâm Bi Nhiêu ích lợi vui Tất cả hữu tình Được trời ưa thích Ngươi Bi luôn tốt Tất cả chúng sinh Các bậc Hiền thánh Khắp đều quy mạng Lại nữa, hạnh Bi Như trăng trong mát Trừ phiền não kia Trừ lửa khổ nóng Vì thế tâm Bi Là gốc sướng vui Tất cả tâm dục Nghiệp chủ trời, người Đối với sắc, thanh Hương, vị, xúc, pháp Không đủ phan duyên. Tỳ-kheo quán sát Nói kệ tụng rằng: Thí như kiếp hoại Lửa mặt trời làm Sông ngòi, biển cả Đều khô cạn hết Các nhãn thức, căn Vin vào sắc cảnh. Trải qua câu-chi Trăm ngàn vạn kiếp Biển dục tham si Không khô cạn được. Tâm tham của người Còn hơn thế nữa Nhân của tán loạn Sinh tất cả ác Chớ hành tán loạn Tán loạn người lỗi Che lý chân như Nếu hành tán loạn Chẳng tạo điều lành Mà người lìa lành Dẫn xuống tam đồ Lìa mọi điều vui Chẳng sinh cõi trời Mạng luôn sinh diệt. Là căn phiền loạn Ý biết thông suốt Khổ là hơn hết. Nếu căn trước cảnh Không rõ luân hồi Nhất định dính mắc! Như hoa trong không Như thành Kiền-thát Như bọt trên nước Như đống bọt nước Mê đống bọt kia Làm các ngọa cụ! Mê giả tạo ấy Là tự mình làm Trời, Rồng, Dược-xoa Và A-tu-la Các Ca-lỗ-noa Hư huyễn cũng vậy. Ai cứu vô thường! Nếu cứ tạo tôïi Không sớm biết sợ Cái chết cực ác Mau đến bức hại! Thế nên làm lành Sau không phiền não Ta hiểu các ông Chớ có buông thả Lại sinh ái ấy Bị cảnh lôi kéo Cảnh trói hữu tình Như gông cùm tù Là nhân địa ngục Quyết lìa giải thoát. Chớ cho không thật! Ông phải xa lìa Pháp chân thật này Thế Tôn đã nói Lắng nghe phụng hành. Được lợi vô tận. Lúc bấy giờ trong khoảnh khắc, trời Đế Thích cùng các chúng trời thấy hình ảnh Đức Phật bèn khởi tâm tôn trọng, đầu mặt đảnh lễ và nói kệ tụng: Đức Phật Thế Tôn Bậc Chánh Biến Tri Hiện ra cứu độ Mở đường giải thoát. Nếu người quy lễ Giải thoát luân hồi Tâm lành được hơn Ưa thích lành này Trong sạch không nhơ. Phật nói pháp này Thành đạo Niết-bàn Nói để người ấy. Được sức không sợ Hưởng vui vắng lặng Trụ địa chân không Qua biển luân hồi Độ nạn ba cõi Mở mắt trí tuệ Phóng quang tối thắng Thấy khắp thế gian Chẳng như cây, đất Loài phàm phu ngu Không thấy ánh sáng Du hành vọng cảnh Nếu người tham dơ Tâm không trong sạch Miệng đầy những độc Lại dùng nước trí Rửa sạch lìa nhiễm! Tất cả ngoại đạo Chấp ngã, không biết Lý chân thật đó Mà không thể thấy Nói đó không sạch Vì ông giảng nói Phật tại nhân địa Chẳng hành tán loạn Cứu độ các ông Nay đến bờ giác Lại độ người khác Lợi lạc tất cả Với thế gian này Chỉ một Đức Phật Không lợi, làm lợi Lợi người hơn hết. Như vậy tạo ác Đọa địa ngục lớn. Như vậy làm lành Sẽ sinh lên trời. Trời Đế Thích lại quán sát Thiên chúng rồi tiếp tục nói kệ tụng: Ví như phi cầm Thuận chiều gió thổi Trời người luân chuyển Cũng lại như vậy. Đều do cảm nghiệp Như khổ vui kia Tụ tập, tan mất Tùy nghiệp hơn kém Nghóa đó cũng vậy. Vì thế, tạo tác Đều thành nhân quả Mâu-ni đã nói Chân như vô biên Chỗ dựa bình đẳng Hạt giống nghiệp tập Tâm tạo tất cả Khó mà điều phục Chỉ Phật Như Lai Mở bày mới hiểu. Nếu các loại nghiệp Từ một đến mười Từ mười đến trăm Từ trăm đến ngàn Đến na-do-tha Vô số hữu tình Bao nhiêu chủng loại Bị lưới nghiệp lớn Vẻ đẹp thế gian Ví như phi điểu Dây trói buộc chân Muốn bay lên không Trọn không thể được! Hữu tình cũng vậy Đã tạo các nghiệp Nghiệp ấy trói buộc Muốn khỏi luân hồi Cũng không thể được. Khi ấy, trời Đế Thích thấy các trời tán loạn cùng nhau vui chơi đùa giỡn, đắm say trước những sướng vui, xem xét chúng trời ấy, Đế Thích liền nói kệ tụng: Năm nhạc múa ca Khắp cả cõi trời Nếu không suy nghó Nhất định bị đọa. Ông tham người nữ Tự tánh đắm say Không tạm lìa bỏ Ý người bất thường Tùy tình tới lui Người giàu luyến ái Thường được của cải Ưa thích dối trá Như có cố chấp Khinh bỏ xa lìa Người đó tham si Đuổi theo dục lạc Như nai khát nước Tranh giành bóng nắng Để tìm cầu nước. Mê dục cũng vậy Giả dối không thật Các người nữ kia Không ân, không nghóa Không thân, không sơ Bất luận lớn nhỏ Không kể dòng dõi Ví như ong tìm Mùi thơm hoa kia Liền đến hút nhụy. Nếu thấy hoa héo Tức liền bỏ đi! Lại nữa, người nữ Lừa dối, hoặc, loạn Như trong mật kia Ẩn chứa độc dược Gây hại cũng vậy. Người có trí kia Tâm phải quyết định Với dục vọng này Đều không bị đắm Người mê thấy vui Tự mình đắm vào Như kiến gặp mùi Như ong giữ mật. Trời, Rồng, Quỷ Thần Các ác Dạ-xoa Bọn Tỳ-xá-già Ma-hộ-la-nga Cùng La-sát-ta Cũng bị mê hoặc Tánh dục chẳng thật Sinh cảnh giới vọng Ví như pháp giả Lừa dối hữu tình Đến khi vô thường Bỗng chốc tan mất. Trời đất tốt lành Tất cả rừng cây Tốt tươi hoa quả. Bị dây sinh tử Trói buộc các ông Như dây buôïc nghé Không được tự tại. Thích thú cảnh giới Nam nữ quyến thuộc Khi vô thường đến Ai người cứu giúp? Nếu người được trụ Trí tuệ đa văn Nhà của nghiệp lành Tâm thích hơn hết. Ta nay nên bỏ Nam Diêm-phù-đề Khe, suối, sông, biển Vườn tược, tình, đài Thảy đều đầy đủ Các loại như vậy Người có như pháp Người không như pháp Luận nghóa tuệ học Pháp và phi pháp Nay ta đều biết. Tâm: Oán, hư, vọng Làm mê hữu tình Các Tỳ-kheo kia Lại nói kệ tụng: Tâm oán: Thấp hèn Sinh năm căn độc Giết hại chúng sinh Như rắn năm đầu Ôm lòng hối hận Các sắc, năm cảnh Làm sông ái lớn Không đến bờ kia Bờ kia vắng lặng Lìa mọi tà vọng Tà kiến không lợi Mê đọa địa ngục Người tà kiến kia Không nhân, đếm nhân Bị ác, tà kiến Ngăn che tâm sáng Hiểu lầm nhân quả Bị nạn luân hồi Thân chịu khổ não Nghiệp quả sinh diệt Thiện ác cũng vậy. Nếu thấy chân không Liền đến bờ kia Lìa hẳn sinh diệt. Các ông nên biết Ngu si mê dục Dục che người mê. Nếu trụ chánh kiến Thanh tịnh tốt lành Giới hạnh luật nghi Xuất thế, cõi trời Cầu được, không khó. Nếu chấp tà kiến Tu nghiệp tà nạn Ta nguyện sống lâu Mình chẳng ngu mê Mà lại người mê Sở hành tối tăm Đọa luân hồi lớn Tạo thành nhân khổ Thúc ép tự tánh Như Phật đã nói Cốt yếu lợi lạc Chánh tánh phản chiếu Căn trần cảnh không Ta tự phá hết Phiền não sạch sẽ Khỏi nạn sinh tử Trụ thành Niết-bàn Là chân giải thoát. Thế gian các ông Tất cả hữu tình Đắm sâu dục lạc Tà độc vào tâm Bờ kia Niết-bàn Trọn không thể đến. Giả sử trăm kiếp Chìm nổi thế gian Như bị gông cùm Thoát không thể được Người trí đã nói Tài pháp xuất thế Kinh điển tốt nhất Tin nhận phụng hành Chắc được lợi hành. Tà kiến không nhân Ngang chấp thấp hèn Lời dạy giả dối. Hữu tình mê lầm Luân hồi đọa khắp. Vì sao chúng sinh Dối lừa chân pháp Vọng thấy không nhân Chẳng thương chúng sinh Mình đọa, người đọa Đều vào nẻo ác! Có loài phi cầm tên là Mật Hạnh ở rừng cây ấy vui chơi hút mật, nói bài kệ tụng: Chúng sinh uống rượu say si mê Yêu mùi nào biết si lôi kéo Khi chết rơi xuống trong nẻo ác Thế nên, chớ uống rượu vô minh. Chạm nhân luân hồi sinh si kiến Phi pháp đều từ tham ái sinh Nghiệp các trần lao như biển sâu Như Lai đại trí nói như vậy. Ông biết uống rượu mất danh sắc Tốt xấu không phân, mắt như mù Cho đến té nhào không hiểu biết Giống như cây đá, bị người cười Thường luôn uống rượu, lỗi lầm nhiều Ba mươi sáu lỗi, làm trái ngược Người trí dính mắc là đại ám Thế nên xa lìa, đừng uống rượu Hoa ca-xả khinh những người kia Trôi nổi, không định, không trung tín Tham sân tăng trưởng, sinh tử mãi Bẻ gãy sức này, cần cứu hộ. Trời Đế Thích lại nói kệ tụng: Không sân phá sân Nhẫn nhục phá oán Pháp phá phi pháp Sáng pháp tối tăm Thật phá nói dối Định phá hai lưỡi Thiện phá miệng ác Quen phá chẳng quen Từ phá sát sinh Thí phá keo kiệt Niệm phá chẳng niệm Minh phá vô minh Ngày phá ban đêm Sáng phá bóng tối. Suy nghó tà dục Phá chân giác trí. Nạn nghiệp nẻo ác Phá tám Thánh đạo Bốn trí vô ngại Phá mọi ngu độn. Trí phá vô trí. An trụ vắng lặng Phá phan duyên kia. Gió phá núi rừng. Lửa phá tất cả. Biển nuốt sông ngòi Mặt trời phá sao. Giàu phá bần cùng. Lửa phá lạnh buốt. Nước phá khô cạn. Ăn phá đói khát. Đủ phá không đủ Thường khen là thương Không khen không thương. Nghiệp ác nói dối Phá hoại hữu tình. Khéo nói chân như Phá tuệ hữu vi. Như Phật Thế Tôn Hay phá ngoại đạo Các thế lực trời Phá A-tu-la. Đế Thích bảo rằng Ta hàng phục ông Tất cả Thiên chúng Là tại vì sao? Người trụ chánh pháp Oai thế được vậy. Nếu lại luân hồi Làm loài tôi tớ Ngủ trên nền đất Tất cả ở dưới Nhưng nếu một lòng Phụng hành chánh pháp Như ngồi trên giường Ở trên tất cả Làm mê trí tuệ Thích làm phi pháp Nghiệp quả tự trời Làm sao không đọa Bị gió nghiệp thổi Luân chuyển địa ngục Ngạ quỷ, bàng sinh Ai thay thế chịu? Tất cả như vậy Trời nam, trời nữ Những kẻ ngu mê Tất cả chúng sinh Tự tạo nghiệp ác Bị phá hoại hết. Trời Đế Thích lại tiếp tục nói kệ tụng: Ví như gió mạnh Thổi mây trên không Tan hợp thất thường Hữu tình luân hồi Tùy nghiệp hợp tan Bất định cũng vậy Lại nhu hoa nở Đúng lúc nở ra Nở hết rồi tàn Tùy thời không tru Thời gian cũng vậy Quá khứ, vị lai Cũng lại không trụ. Người tạo phước lành Được lúc vui chơi Nếu phước vui hết Qua lại chẳng còn. Như cây mọc lá Rất là tươi tốt Nếu gặp mưa đá Rụng rồi không lại. Trời, người cũng vậy Hưởng sướng cõi trời Nếu bị luân hồi Không còn sướng vui Ví như trời mưa Rỗng không, không trụ. Sướng vui cũng vậy, Huyễn thể, không trụ. Ví như gió mạnh Thổi tan đám mây. Sướng vui cũng vậy, Thổi tan mạng sống. Ví như cây mục Bỏ vào trong lửa Không thể còn nguyên. Mê ái cũng vậy Trải trăm ngàn đời Rơi xuống địa ngục Chẳng lại trời, người Hư, vọng, mê, ái Biến khắp tất cả Ma diệt hạnh lành Xa lìa trời, người Bảo vệ giới này Bảy Phật đã nói Thứ nhất giới định Đời đời nhớ nghó Người được nghiệp địa Nhiều kiếp nhớ nghó Cha mẹ nghiệp địa Được sinh lên trời. Trời Đế Thích lại nói tiếp bài kệ: Nếu được sinh cõi người Do đời trước làm lành Nay phụng thờ luật nghi Lại được sinh lên trời. Sinh làm người khó được Như hạt cải, đầu kim Nếu tán loạn, mê hoặc Lại đọa vào địa ngục. Hành ba nghiệp lành rồi Quán xét tâm vắng lặng Phiền não tự tiêu trừ Ắt được sinh lên trời. Hàng phục hết phiền não Trong tâm sinh vui thích Thanh tịnh lìa sân si Được sinh lên cõi trời. Đoạn trừ mọi thương ghét Không sinh nhiều nỗi khổ Làm đủ việc bố thí Được sinh lên cõi trời. Thường dùng tâm Từ bi Cứu giúp cho muôn loài Như bảo vệ mạng mình Được sinh lên cõi trời. Tâm người làm điều ác Như lửa độc, hại vật Ai cầu gì đều giúp Được sinh lên cõi trời. Nếu thấy thê thiếp người Không sinh tâm xấu xa Xem như mẹ kính yêu Được sinh lên cõi trời. Nếu người xem nói dối Như lửa sinh đầu lưỡi Nếu chân thật cấm giới Được sinh lên cõi trời. Không còn nói hai lưỡi Bạn thân được hòa hợp Ái ngữ dứt ngang trái Được sinh lên cõi trời Miệng nói ác vô độ Như dao bén hại người Nói tốt, lìa lỗi trước Được sinh lên cõi trời. Nói thêu dệt thêm lỗi Nói nhiều lời trang sức Như luận lý chân thật Được sinh lên cõi trời. Nếu gìn giữ giới này Bảy Phật đều đã nói Giới pháp tròn, không sợ Được sinh lên cõi trời. Tất cả các chúng sinh Nếu sinh tăng thượng mạn Sẽ như gông cùm trói Không được sự giải thoát. Khi ấy, có một Tỳ-kheo nói kệ tụng: Nếu bị người nữ trói Buộc lấy người vững chắc, Khi thọ báo luân hồi Trước nhất chịu quả ác. Nếu bị người nữ trói Chẳng phải trói ở cổ Mà buộc tâm hữu tình Sinh khổ là thứ nhất. Nữ trói buộc mọi người Nhân gian không thể tính Địa ngục, quỷ, súc sinh Đều bị nữ trói hết. Sắc lớn trói buộc thân Còn thấy được hình lượng. Nữ trói tâm, chẳng sắc Trói nhiều, không hình lượng Nữ trói ý tuy vui Sinh mê muội không thoát Những người bị trói ấy Khó ra khỏi luân hồi. Người bị sáu trần trói Sức nữ trói mạnh nhất Các chúng sinh hàng phục Trói này là hơn hết. Nếu bị người nữ trói Tâm ngu mê, luyến ái Vì thê thiếp, quyến thuộc Không thể khỏi lao ngục. Bấy giờ, một ngàn vị Thiên tử tất cả đều thấy như vậy bèn sinh tâm vui mừng, nhảy múa, ca hát, khen ngợi vua trời Đế Thích bằng kệ tụng: Vua Đế Thích Đao-lợi Cha mẹ cõi Ta-bà Hành hạnh lành trời Phạm Không đắm mọi thú vui Chánh pháp cứu thế gian Phi pháp khiến đoạn trừ Dùng tâm ấy thích pháp Vui này chưa từng có. Trí cao tột hơn hết Lòng lành nói chân thật Pháp sướng vui chẳng thường Trong sạch mà không nhiễm Đức thế gian có được Và đức xuất thế gian Hạnh tự tại vua trời Thấy tất cả, không khác Cứu độ người sợ hãi Lìa khổ được an vui Trời, người, A-tu-la Thường giúp đỡ thế gian. Cõi trời Đao-lợi này Tất cả rừng cây kia Các loại thật trang nghiêm Che kín như lọng tơ Đất trải bằng lưu ly Cung điện đủ sắc báu Hoa sen thường tự nở Trang nghiêm rất vừa ý Nghiệp thân trời, người hết Khi kiếp lửa phá hoại Núi Tu-di cũng mất Không có vật nào còn Huống nữa chúng các trời Như bọt trên mặt nước Vừa sinh lại biến mất Vô minh, mê, không hiểu Trời Đế Thích tôn quý Thường phóng ánh sáng ấy Chiếu sáng cho chúng ta Tất cả đều nương nhờ. Lúc bấy giờ, trời Đế Thích nói kệ tụng: Các núi chúa Tu-di Ánh sáng màu vàng ròng Thể rõ ràng trong sạch Ví như trăng trong nước Với ánh sáng vàng này Ví như người trì giới Giới sáng suốt, không nhơ Mười sáu phần, thiếu một Tự nghiệp được sinh trời Trang nghiêm mà đầy đủ Nghiệp có cao, thấp, giữa Cảm quả, cũng như vậy. Tùy tâm mình giữ giới Xa lìa mọi tán loạn Trụ ngôi chánh pháp này Luôn được sự sướng vui. Đời sống, giới không nhơ Thân có ánh sáng lớn. Như ngàn vầng mặt trời Cùng nhau sáng không khác. Phật nói bảy loại giới Nếu vui vẻ thọ giữ Người đó là hơn hết Sẽ được quả tốt nhất. Tạo tất cả nghiệp lành Nhất định có thân sau Không hạnh kia, không tạo Không nghiệp, không phá hoại Ngu mê, không tin nhân Không nhân, cũng không quả Như tìm dầu trong nước Không hưởng được an vui Tâm tạo tội mê ám Chẳng lành, chẳng an vui Phiền não cùng nhau tăng Thấy họ chưa từng có! KINH DIỆU PHÁP THÁNH NIỆM XỨ <卷 id="96841740">Quyển 8 Lại nữa, tuyên thuyết về luân hồi, tụng rằng: Tất cả trời, người Có nhiều tán loạn Trước như bạn thân Sau thành oan gia Như lửa thiêu đốt Như dao cắt đứt Trời, người nhân gian Được mất bình đẳng, Tâm ý cuồng mê Như cùng oan gia Trời, người không biết Người trí xa lìa Tán loạn cây độc Nói có ba cành Là già, bệnh, chết Lại thường liên tục Người trí lìa dối Toàn lành tương ưng Già những ba cành Mà không làm hại Như xa lìa lỗi Không sinh tán loạn Sợ ác giải thoát Được vui hơn hết. Nếu vui tán loạn Không lâu sợ hãi Nếu vui giải thoát Vui đó vô tận. Trăm ngàn vạn ức Muôn người chạy theo Ưa thích danh lợi Giả dối lường gạt Vọng loạn trên hết. Có bốn lỗi lầm Nếu lìa vọng loạn Phá oán thế gian. Hành vọng loạn ấy Nhiều nghi, nhiều sợ Nhiều nạn, nhiều khổ Lần lượt luân hồi Không có cùng tận. Bốn lỗi lìa một Được vui vô biên Trời, người các ông Một lòng tán loạn Ngăn che tất cả Pháp lành vô lậu Làm sao mà được. An vui vắng lặng Nếu ưa tự lợi Suy nghó làm lành Các khổ, phiền não Sau đó không sinh Nếu các Thiên chúng Đắm chìm dục lạc Giả dối không thật Tất cả chẳng lâu Từ huyễn hóa sinh Kia không thấy biết Tự tánh huyễn hóa Nên chẳng quyết định Xa lìa an vui Thường sinh các khổ. Nói thật với ông Nếu người luôn lành Được đời yêu kính Thánh hiền vây quanh Sau sinh lên trời Hưởng thú vui trời. Nếu hành bố thí Được tất cả người Tâm sinh vui kính Sau được giàu sang Quả thí như vậy. Nếu hành nhẫn nhục Sau sinh lên trời Không còn sợ hãi Người đời quý mến Tiếng tốt vang xa Mặt mũi đoan nghiêm Đầy đủ bạn bè Hưởng vui thú trời Các hữu tình kia Tất cả còn có Cha mẹ thế gian Hay phá tội ám Như mặt trời sáng Trụ ý cao tột Vì báu từ bi Phát sinh căn lành Thông đạt các pháp Tuy ở tại gia Nếu trụ chánh kiến Trí ấy giải thoát. Luân hồi, gông cùm Không sinh bạn ác Người được an vui Pháp chưa nghe, nghe Nghe rồi không thoái Khỏi mọi nẻo ác Được sinh lên trời Tâm lành không dơ Các lỗi không sinh Lìa nhiễm, trong sạch Khéo biết báo ứng Hiểu nghóa vi diệu Dứt các lỗi lầm Ví như hư không Không trụ bùn lầy Được quả vắng lặng Tin sâu Tam bảo Được vô sở úy Cùng các Thiên chúng Tôn kính Như Lai Tin nhận lời Phật Nhờ pháp cứu hộ. Ngã sinh có quả Thân sinh có ái Chìm đắm vô biên Khổ này khó cùng Mười sáu phần khổ Không bằng một phần Vui ít sợ nhiều Luôn đối hữu tình Ví thành Càn-thát Người trí phải tin Nói giết chúng sinh Đến khi mạng hết Không đi theo vui Đều không có được Các loài chúng sinh Tâm có nhiều loại Hạnh nghiệp đủ thứ Luân hồi gông cùm Từng bước đi theo Sinh lại có chết Ngu si mê hoặc Tự tánh chân thật Mà không tỏ ngộ Vô thường đáng sợ Theo chúng sinh kia Đến rồi lại đi Tán loạn không biết Trời mê muội cảnh Như gặp rắn độc Rơi xuống trời, người Khổ không gì bằng Cha mẹ vợ con Nam nữ quyến thuộc Bạn thân tri thức Không thể chịu thay Đắm say cảnh giới Đam mê dục lạc Bỗng chốc vô thường Đại khổ mau đến Dùng phương tiện gì Khiến lìa khổ não? Nếu không ái dục Khổ không thể hại Cũng lại không sinh Địa ngục, ngạ quỷ Các loài bàng sinh. Khi ấy, trời Đế Thích lại nói kệ tụng: Người hành tà đạo Muốn thấy chánh chân Như muốn lấy nước Mà đụng lửa vậy. Nếu không có nhân Sao lại có quả? Tán loạn không đức Ích lợi sao có! Phá hoại trời, người Ý này nếu sinh Thích vui mê dục Sau bị vô thường Tâm nhiệt não lớn Không mê cảnh giới Không phát lửa dục Không tham gọi tên An vui hơn hết Nếu lại một lòng Vui đời tham ái Mười sáu phần tội Không bằng một phần Nếu phát tin lớn Giải thoát luân hồi Ái hết, cảnh mất Thấy không gì vui Tương ưng vui thiền Không giận, không vui Nếu sinh lành ấy Lại không luân hồi Rốt ráo bờ giác Nếu có tâm dục Mà cầu sướng vui Bị dây nghiệp kéo Rơi xuống địa ngục Chịu tất cả khổ Ai người cứu khỏi Qua mà chẳng lại Từ nhân nghiệp, sinh Không trước, giữa, sau Chẳng nay, đời sau Vô minh tạo lỗi Người đọa nẻo ác Mới biết mình ngu Hành độc tán loạn Giây lát phù sinh Ngu mê không hiểu Sau bị vô thường Mới biết là khổ Nếu sinh có khổ Sợ vô thường kia Ý tạo pháp mầu Mới thật cứu họ Chân thật an vui Như lời nói này. Thật là lợi ích Khiến tâm làm lành Mau được an vui Vui là hơn hết Nhất định không mất Nếu trời mê hoặc Không nương pháp này Ý lại tán loạn Sinh vào địa ngục Không mong ra khỏi. Có loài phi cầm, tên là Chủng Chủng Man, giác ngộ được trời kia nên nói kệ tụng: Các loại nghiệp sinh Trời, người tùy nghiệp Không biết nương pháp Sau bị khổ não. Thế gian đã có Nhiều loại quả lành Vườn rừng, vòng hoa Thềm, đường, lầu các Thân tâm vui thích Nhờ tạo nghiệp lành Được thấy quả đó Nghiệp nhân trời, người Có cao, giữa thấp Trời chẳng tạo ra Mỗi mỗi quả ấy Trời, người vì si Mê các loại hạnh Nếu ý ấy mê Không thấy đáng sợ Mất hạnh tự lợi Các thứ ái lạc Cầu các thứ quả Tâm mê tạo nghiệp Trời không giới hạnh Như đêm không đèn Mà tìm ánh sáng Các nhân và quả Chân thật nên tu Quả trí chân như Có được phần vui. Lìa mạng không quả Lìa đèn không sáng Lìa giới vô Thiên Nếu lìa trí tuệ Không được giải thoát Nều lìa giải thoát Thời không an vui Cầu cứu trăm bề Thân mới khỏi ái Người trí lìa ngã Nghiệp này không vui Tất cả có tội Mà lại không sinh Được lợi ích ấy Tất cả Thánh nhân Đã nói không nhơ. Trăm ngàn kiếp người Ưa muốn cảnh giới Chìm đắm không đủ Một lòng không bỏ Tăng trưởng dần dần Độc ấy lớn nhanh Chốc lát rơi xuống Biết trí hơn đức Tướng Pháp sư này Đức hơn, không biết! Mê hành tướng này Nơi đức sinh đức Nơi lỗi cũng vậy Biết chân, hơn tức Luôn được an vui Đức hơn khó biết. Lìa trí kia rồi Trí nào hơn hết Cảnh giới trời hành Ý kia vô trí! Trăm nguyện không thể Được an vui kia Như tạo nghiệp lớn Quả giới hơn hết Được làm trời, người Sướng vui thích thú Rất là đệ nhất. Căn môn điên đảo Cảnh giới chấp tà Hàng phục tâm này Được sướng vui trời Phước vui, khổ não Mình làm mình chịu Quyết định tạo tội Chấp nhận oan gia Làm lành cũng vậy Như quen bạn lành Nếu ý mau đủ Phước lực sạch trong Sẽ được trời, người Như nước ra biển Luôn hành cảnh ác Hạnh ác tương ưng Ắt không lợi ích. Chủng trí, bờ giác Nếu ý ưa thích Đắc khổ phi pháp Phi pháp khoái lạc Liền thành ma khổ Tướng khổ, vui này Cả hai bình đẳng. Nếu người có trí Chán khổ thích vui Diệt nhẫn diệu pháp Có thể phụng hành Khổ là cùng vui Chẳng thấy không nhân Đủ thứ khổ, vui Nhân sinh sai khác. Chúng sinh tự làm Nhiều đời nhiều kiếp Tất cả nghiệp quả Các loại chẳng mất. Nếu ưa hành pháp Bảo vệ chánh pháp Được sinh lên trời Hưởng thọ sướng vui Người mê pháp ấy Xa lìa chánh pháp Không được lợi ích Đọa ngục luân hồi. Nếu mở mắt pháp Si bất hàng tâm Thấy sướng vui này Như mưa xuống đất. Giả dối không thật Ý tạo cõi Phật Tâm trồng giống pháp Ngu mù giới pháp Ưa hành phi pháp Hành đạo phi pháp Tâm đối luân hồi Người có tội lâu. Nếu tâm hạnh này Tự tánh khinh bỉ Các thứ điên đảo Sát-na không trụ Huyễn hóa chẳng thật Như thành Càn-thát Trói buộc trí thức Mau nên tỉnh ngộ Trời, người tán loạn Cảnh giới tham ái Bị cảnh vui lừa Mạng đọa không biết Sướng vui giả dối Tất cả chẳng định Chư Thiên tạo vui Không lâu liền diệt Thiên chúng mê chuyển Đời đời cũng vậy. Pháp sinh giả, rỗng Cho nó chân thật. Pháp sinh chẳng định Cho nó nhất định Hành pháp sợ kia Trói buộc mạng sống Trời người rơi xuống Như nhổ xuống đất Tâm nữ điên đảo Hư vọng lừa dối Nếu lại lìa bỏ Được vui thứ nhất. Người nữ điên cuồng Trang sức chẳng thường Hoặc nói xảo trá Tánh đổi chẳng định Ví như ong bay Gặp hoa liền hút Không hoa, bỏ đi. Người nữ cũng vậy Có của liền theo Không của liền bỏ Tâm nữ ghen ghét Là những hắc độc. Lại nữa, người nữ Khó được sống chung Như gió lớn thổi Như lửa cháy mạnh Như khắp cả không Ai thể bắt giữ! Người nữ đổi tánh Trăm thứ cơ hội Cũng đừng bắt giữ. Nếu một người nữ Bị nhân nghiệp ác Phá hạnh giải thoát Thành nạn bệnh tử. Nếu nhiều người nữ Sinh phiền não kia Vì thế gian đó Làm khó đủ cách. Người nữ nhỏ bé Ngu mê tăng trưởng Tự tánh điên cuồng Vô minh hừng hực Như đèn sáng kia Thật cho là oán Như ruồi bu ghẻ Thích kẻ có của Không của chẳng thích. Nếu có của cải Người nữ thích ở Nếu không có của Làm sao ở được! Vì không tài lợi Nên không gần gũi Tánh hạnh sai khác Tâm ví như lửa Không hàng phục nữ Như người theo hầu Theo đó hầu hạ Rồi cũng trái bỏ Nữ nhiều dối lừa Như rắn ẩn hoa Trong tâm người nữ Như tro che lửa. Sắc đẹp cũng vậy Vui mà không lành Thân như cây độc Sinh ra hoa độc Chớ nên gần kề Hướng đến cảnh dục Đắm say người nữ Đời nay đời sau Người không sướng vui! Mê say vô minh Điên cuồng biếng nhác Thích mùi tạo tội Chẳng thấy người hiền. Người trí biết pháp Tin sâu nhân quả Phát tâm tinh tấn Dũng mãnh tu hành Xa lìa nữ sắc Người được tốt lành. Tới nhà người nữ Như bị mắc lưới Người trí không đắm Cõi ma đã sạch Tất cả cấm giới Nữ giới thứ nhất. Sao không lìa nữ? Người trí xa lìa Được vui vắng lặng Nữ kia trói người Lửa dữ, khí trượng Không thể đốt rụi Sức mạnh chúng sinh Không thể điều phục. Ta nên lìa nó Một lòng lên trời Bỏ sướng vui ấy Sinh trời Dạ-ma Được vui vô tận Trong nhiều sướng vui Các mắt tai này Mũi, lưỡi, thân, ý Với sắc, thanh đó Hương, vị, xúc, pháp Sáu căn không vững Các chúng trời này Luôn hành khát dục Mà không biết đủ Tự tánh như lửa Hay đốt cỏ cây Làm sao có đủ Lửa sáu, căn kia Do dự không quyết Đốt hữu tình này Đều không hiểu biết. Đất này tán loạn Không hành đạo pháp Lìa tán loạn đó Bị cảnh giới ái. Người tùy nghiệp mình Được trụ chân thật Người nữ sinh ái Tâm ấy khó ngăn Nghiệp mình tùy nhân Sinh, có lìa bỏ Quán sát như vậy Người nữ điên đảo Sinh nơi lìa bỏ. Nếu tìm sướng vui Tâm trụ cuồng hoặc Người nữ hành dục Như gần bạn ác. Ý có ba lỗi Thân bị bốn lỗi Thế nên xa lìa Lửa của độc dục Sướng, vui, khổ não Từ nghiệp lôi kéo, Nếu ở trên trời Vui đắm năm dục Sắc cung trời, người Không lâu rơi xuống. Phật thấy chân không Đắc đạo giải thoát Nói luân hồi ấy Tất cả do nghiệp Người nữ vì ái Bị lỗi hơn hết Tâm không quyết định Như ngày không tối Như lửa không lạnh Người nữ ít tin Không ái cũng vậy. Như đất, như gió Động tịnh khác nhau Người nữ ân hại Khác nhau cũng vậy. Người chỉ một lòng Nhiều hạnh ân luyến Ý kia chẳng thường Thời luôn xa lìa Như chim quán thước Đứng trông ao không Lại như núi lớn Chưa thấy ai đến Cũng như sông lớn Chưa ai ngược dòng. Người nữ cũng vậy Chưa thấy thương thật Sinh là lưới tội Pháp người ngăn ngại Ví như “nhật quang” Không lìa “nhật thể” Như kẻ nịnh yêu Không lìa người nữ Lại nói lời hay Cấp cho của cải Mà tâm nữ kia Như lửa khó hàng Ý vui bình hòa Gian nan lìa bỏ Một niệm sinh tội Tìm lại quên ân Người nữ xấu ác Khó hàng như lửa Nên mau lìa bỏ Trốn trong núi rừng Cầu vui vắng lặng. Trời, người phát ý Mê dục sướng vui Không sợ điều ác Ắt tổn thọ mạng. Sinh ở trời kia Nhất định vô thường Như đêm ngày mất. Thế nên ba cõi Đêm dài vô thường Nhiều ngày trời lặn Nếu cầu ra khỏi Làm lợi ích kia Hành ba tụ giới Nghiệp kia báo ứng Được sướng vui nhiều Trời lại, tán loạn Tâm không một niệm Riêng tạo nghiệp lành Vui ấy ắt hết Ái dục không tốt Sẽ bị khổ lớn Mười sáu khổ khác Không bằng một phần Lành thay! Nghiệp lành Tâm dục không đủ Như người bắt cá Tham cá cũng vậy Dục trói buộc tâm Như đêm dài ngủ Mê ái liên tục Không hiểu vô thường Sau thấy tướng khổ Mới biết quả kia. Lại dục ái này Trước như bạn hiền Sau hành không lợi Nếu tin dục đó Mù mắt trí tuệ Sau đọa địa ngục Như rơi vực thẳm Không hành tán loạn Bạn lành hơn hết Thường cứu hộ người Là cầu bạn lành Tán loạn là oán Độc này rất ác Phật nói tán loạn Vào đường nẻo ác Nếu mê tán loạn Ưa thích cảnh giới Người mê gây tội Luôn bị khổ não Nếu có sợ khổ Không trí quán sát Các bàng sinh kia Không được sướng vui Của hàng trời, người. Nếu trời, người kia Ưa thích ăn uống Đắm say dâm dục Tâm hạnh bàng hành Ở nơi bàng sinh Nếu không phân biệt Chẳng biết đức nghiệp Nếu biết tâm pháp Biết nghiệp cũng vậy. Với vui chơi này Trụ nhà vô thường Khi vô thường đến Chịu quả khổ nạn. Nếu sợ vô thường Khởi trí tuệ lớn Suy nghó chánh pháp Ưa thích kinh điển Là người trí chân. Tất cả tham ái Vô thường, oan gia Khi sướng vui hết Mất tất cả mạng. Vị vô thường đó Chỗ rất là ác Không ai cứu được. Chỉ nương chánh pháp Chân thật quy y Xét kỹ tâm sâu Rễ của vô thường Vốn là tán loạn. Trước trị phan duyên Sau trừ vô thường Mạng vui được pháp Nói là thứ nhất Không tán loạn này Thực hành đạo trời Khéo biết khổ trói. Giải thoát cũng vậy. Không lìa tán loạn Là khéo sướng vui Đã lành chẳng lành Như mây tan mất. Nếu người tinh tấn Phát sức dũng mãnh Chống cự ma quân Được vắng lặng ấy An vui tốt đẹp. Nếu người tà loạn Không hành hạnh lành Lành đời trước hết Sẽ đọa địa ngục. Nếu người một lòng Trau dồi điều lành Lìa các khổ não Sẽ được phước vui. Hàng phục các căn Không nhiễm tội pháp. Cảnh giới cũng vậy Lìa mọi trói buộc Và đường luân hồi Như vàng ròng kia Không dính bụi nhơ Khỏi nạn sinh tử Tất cả trong sạch. Nếu hành tán loạn Không qua sáu căn Việc đời không sinh Tất cả lợi ích Đó là an vui Đầy đủ thích thú. Nếu trời, người kia Thân tâm trong sạch Không đắm nữ sắc Như cá gặp nước Quyết lìa bụi trần Trí tuệ cũng vậy. Thế nên trên trời Xa lìa nữ sắc. Ý nghó ái dục Ắt bị trói buộc. Mê tất cả pháp Việc, chẳng phải việc. Người thiếu giúp đỡ Xa lìa Niết-bàn. Gần kề Pháp sư Được trí chân pháp. Hành pháp cầu quả Thành tựu như vậy. Tâm luôn lìa dối Điều phục các căn Được đến bờ giác. Do trí tuệ đó Ý bị lôi kéo Cảnh giới trói buộc Người trí hay trừ Vì thế gian kia Làm thầy giảng pháp Vườn cây trên trời Tự tại vui chơi Được nhiều sướng vui Cảnh giới quá thích Không thể bỏ đi Tạo nghiệp lành kia Tâm tịnh an vui Được thế rất khó Sinh cõi Dạ-ma Nếu lìa tán loạn Phan duyên giả dối Người sinh ở trời Số bằng câu-chi Và bát-đô-ma Được quả từ nghiệp. Nếu tâm khó điều Tạo quả nghiệp kia Do tâm lưu chuyển Chúng sinh mê đó Mười hai Nhân duyên Lần lượt luân hồi Xưa, nay và mai Các Thiên, nhân gian Tất cả hữu tình Đều do tâm tạo. Đỉnh núi Tu-di Đất bằng lưu ly Đế Thích, Thánh hiền Luôn trụ ở đây. Có ngọn núi khác Lưu ly tạo thành. Càn-thát-bà ở Người không thể đến. Tất cả địa vị Vườn rừng cây cối Đều ở rải rác Ý họ vui thích Người không thể đến. Đất vàng hơn hết Có ao hoa sen Tạo bởi lưu ly Người không thể đến. Lại có khe suối Và các ao tắm Bầy chim xúm xít Tới lui đùa giỡn Rất là đẹp lạ Người không thể đến Cung điện xe cộ Trang nghiêm rất đẹp Chư Thiên ở đấy Người lại xa lìa. Vì người xa lìa Cảnh dục lừa dối Đời khổ như vậy Tâm không sợ hãi Trở lại ngu si Đi trong luân hồi Luôn chịu các khổ Như dây trói buộc Như lồng nhốt chim. Trên mỗi thứ kia Cõi trời lạ đẹp Mà không được sinh. Nữ trói thế gian Phá hoại pháp lành Tăng trưởng sinh tử. Nếu người tham trước Chết vì ma quân Giành nhau phá hoại Tánh của tán loạn. Mê đắm người nữ Khi vô thường đến Tự chịu nghiệp quả. Núi rừng, hoa sen Khe suối, ao tắm Chỗ vui chơi kia Sao thương người nữ! Chắc chắn bị họ Họa lớn sinh tử Luôn tham danh lợi Tai họa cũng vậy! Người nữ kia trói Tạo nhiều tham ái Khó thể điều phục Mà bị họa lớn Tổn hại thế gian. Tất cả hữu tình Nếu bị nữ trói Tham dục thế gian Là lỗi hơn hết. Một lòng suy nghó Biết thật của lỗi Lỗi dục soi xét Không đọa nơi nào. Tất cả người kia Hàng tâm lìa dục Xa lìa người nữ Sinh trời Dạ-ma Có ánh sáng ấy Như trời như sao Tùy thân chiếu diệu Vui đi trên không Tất cả cũng vậy Vì ánh sáng ấy Trời, người đầy đủ Tất cả như vậy. Vua trời thấy chúng này, đối với ánh sáng đó, ôm giữ lấy tướng của nó và dính mắc vào đó (chấp trước vào); thấy vậy liền dùng chữ vàng, tuyên nói văn kệ, theo đó mà tụng: Thân trời không cấu bẩn Thường tu hạnh trong sạch Không làm tán loạn sinh Được sướng vui vónh viễn. Chẳng chọn khổ và vui Già trẻ và trung niên Họ trên và họ dưới Không khỏi vô thường hoại Người có chủ, không chủ Có sức cùng không sức Xấu xí và đoan nghiêm Không tránh khỏi vô thường Vương hầu và bề tôi Tại gia cùng xuất gia Hoặc lành hoặc chẳng lành Không tránh khỏi vô thường Giàu sang và nghèo khổ Có đức và không đức Hoặc thân nữ, thân nam Không tránh khỏi vô thường Đồng hoang và sông suối Trong nước và đất liền Chủ, khách và cầm thú Không tránh khỏi vô thường Người chủ và không ngủ Ăn uống và không ăn Tất cả ở thế gian Không tránh khỏi vô thường Trên đất và trên trời Cõi này và cõi khác Luân chuyển cũng như vậy Không tránh khỏi vô thường Phước nhiều và phước ít Kiên cường và nhu hòa Bệnh hoạn và thân an Không tránh khỏi vô thường Ngạ quỷ và bàng sinh Mọi người cùng phi nhân Không sức cũng không thể Đâu tránh khỏi vô thường Dục giới, cùng Sắc giới Tất cả trời và người Khi phước thọ tiêu hết Không tránh khỏi vô thường Trên đến cõi Vô sắc Tất cả chúng chư Thiên Trụ Tam-ma-bát-để Không tránh khỏi vô thường. Ba cõi tình, phi tình Tất cả như huyễn hóa Người xuất thế, lìa trói Vô thường kia chẳng hại. Biết sức vô thường này Sinh tất cả ái dục Rơi xuống bị luân hồi Cứ lỗi lầm không cùng Đắm mùi cảnh thế gian Làm nhân sinh phiền não Như rắn độc gây hại Mãi chìm nơi địa ngục. Nạn hữu tình, vô thường Không có sức làm lành Luân chuyển ở thế gian Đều do nơi tâm tạo Mê dục hành tán loạn Ưa muốn năm cảnh trần Ái trói buộc trời, người Rơi xuống ở nẻo ác. Trời, người hành tán loạn Tham tất cả sướng vui Lơ lửng như trôi sông Thân đọa đều không biết. Người tham khoái lạc kia Mạng hiểm nơi vách núi Thiên chúng không thể thấy Như người mù lạc đường. Người mê dục đắm vui Chẳng khác gì người mù Mê dục đọa tam đồ Người mù sao khỏi đọa! Vì thế nương hạnh dục Khác gì người không mắt Với dục không nhàm chán Đã biết tâm mình mê Rơi xuống, tâm chẳng lìa Luôn tạo không lợi ích! Nếu người hành ái dục Không trí, không hiểu biết Mỗi niệm dục sinh khổ Tại sao còn hành dục! Bị chiêu cảm quả dục Như gặp bạn bè ác Kéo vào cung vô thường Thời luôn ở nẻo ác. Người chết không sống lại Dòng nước đi không lại Dục lạc cũng như vậy. Tất cả thành hư huyễn Tất cả mạng chúng sinh Sinh diệt như bọt nước Tuổi trẻ không trở lại Nhanh chóng như nước chảy Sinh, già, vô thường, khổ Tất cả đều diệt hết Trời, người chẳng hiểu biết Tâm luôn luôn tán loạn Nếu khởi tuệ không nhơ Ý tạo hạnh trong sạch Đổi được thân thế gian Chắc không vào nẻo ác Lành chưa sinh, sẽ sinh Đã sinh làm tăng trưởng Tâm đã tạo điều lành Quả của mình sẽ vậy. Tâm lành thấy cảnh dục Như xem đồ độc hại Không lành đắm cảnh dục Tâm mê, được vui thích Các căn làm tốt xấu Đều do nơi tâm mình Tâm khởi gom phiền não Để được quả tốt xấu Người trí xét chân chánh Quán sắc như hư không Đoạn trừ duyên khổ tập Quả làm sao mà có! Đốt cháy các cảnh giới Tất cả đều do tâm Tâm lành được hàng phục Như sắc, không, như nhau Như hạt lúa gạo kia Sắc thân, lá, đều khác Tâm hành cũng như vậy Sinh đủ thứ phiền não. Lúa kia ví tâm vương Tâm vương tạo các hành Lúa sinh cây lá khác Tâm thế gian cũng vậy. Tán loạn tham sắc dục Sắc cảnh ví mây trôi Bỗng chốc sinh quả khổ Tùy tướng nghiệp mà chuyển. Nếu đã thấy khổ này Sao trời, người thích dục? Nếu luôn sinh ái dục Xa lìa mọi điều lành. Vì thế người trí tuệ Với dục, đều lìa bỏ. Khổ thật hằng khổ không Khổ này tướng tự hành Quả khổ đã vô thường Người trí chẳng nên thích Cảnh giới dối gạt tâm Tâm mê không biết nghiệp Khi trời, người rơi xuống Nghiệp lôi kéo không biết Dù sinh trời Dạ-ma Tự tánh thành hư huyễn Mắt ngu mù vô trí Không thấy tham mạn cấu Rơi xuống bị vô thường. Khi ấy, Diệu Đức liền nói kệ tụng: Mắt nhìn thấy vô thường Tướng suy tự thiêu đốt Dù ở trời Đâu-suất Báo hết, như đèn tắt Sức mạnh mười hai chi Luân chuyển khắp pháp giới Khi nghiệp báo lưu chuyển Sinh diệt đều không định. <卷 id="96841741">