<經 id="n671">KINH NHẬP LĂNG-GIÀ Hán dịch: Đời Nguyên Ngụy, Tam tạng Pháp sư Bồ-đề-lưu-chi, người Thiên Trúc. <卷 id="118149466">QUYỂN 1 <詞 id="118149467">Phẩm 1: THỈNH PHẬT Quy mạng Đại Trí Hải Tỳ-lô-giá-na Phật! Tôi nghe như vầy: Một thuở Đức Thế Tôn cư ngụ trong thành Lăng-già trên đỉnh núi Ma-la-gia bên bờ biển lớn, núi đó được tạo thành bằng đủ loại vật báu, các báu xen lẫn, ánh sáng rực rỡ như trăm ngàn mặt trời soi sáng núi vàng. Lại có vô lượng vườn hoa, cây thơm đều là rừng hương báu, gió nhẹ thổi qua, lay cành rung lá, làm trăm ngàn hương thơm cùng lúc lan tỏa, trăm ngàn âm thanh cực hay đồng thời phát ra. Núi cao trùng trùng điệp điệp, nơi nơi đều có tiên đường, linh thất, khám thờ, hang động do vô số vật báu tạo thành, trong ngoài sáng rực, làm ánh sáng mặt trời, mặt trăng đều phải mờ nhạt. Nơi đây chính là chỗ xưa các Tiên, Thánh hiền tư duy pháp như thật và đắc đạo. Đức Phật đã cùng với chúng đại Tỳ-kheo tăng và chúng Đại Bồ-tát đều từ các cõi Phật ở phương khác đến tập hội nơi đây. Các vị Bồ-tát này đầy đủ vô lượng lực tự tại Tam-muội thần thông, du hóa tinh tấn, năm pháp tự tánh, hai thứ vô ngã rốt ráo thông đạt, do Đại Bồ-tát Đại Tuệ làm thượng thủ. Tất cả chư Phật đều dùng tay làm pháp quán đảnh và thọ ký ngôi vị Phật cho chư vị ấy tự tâm là cảnh, giỏi hiểu ý nghóa ấy, đủ loại chúng sinh, đủ thứ tâm sắc, tùy theo đủ loại tâm, đủ loại niệm khác nhau, dùng vô lượng pháp môn độ thoát nên tùy chỗ đáng độ, tùy việc ứng thấy mà vì họ thị hiện khắp nơi. Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói pháp ở cung vua rồng trong biển lớn đã mãn bảy ngày, rồi đi đến bờ Nam. Khi ấy, có vô lượng ức Đế Thích, Phạm vương, Thiên vương, các vua rồng… vô biên đại chúng đều cùng nhau hướng về bờ biển phía Nam. Lúc ấy, Đức Thế Tôn từ xa quan sát thành Lăng-già trên núi Ma-la-gia, tôn nhan thư thái như lay động núi vàng, vui vẻ mỉm cười rồi nói: –Chư Phật Ứng Chánh Biến Tri đời quá khứ ở trong thành Lăng-già trên đỉnh núi Ma-la-gia kia, nói lên pháp Tự nội thân thánh trí chứng, lìa khỏi tất cả tà kiến giác quán, chẳng phải cảnh giới tu hành của các ngoại đạo, Thanh văn, Bích-chi-phật… Ta cũng nên ở trong thành Lăng-già trên núi Ma-la-gia kia mà vì vua Dạ-xoa La-bà-na thượng thủ nói lên pháp này. Bấy giờ, vua Dạ-xoa La-bà-na nhờ thần lực của Đức Phật nên nghe tiếng của Đức Như Lai. Sau khi rời khỏi cung vua rồng biển qua khỏi biển lớn Đức Phật cùng với vô lượng ức Phạm vương, Đế Thích, Thiên vương, các Long vương… vây quanh cung kính. Bấy giờ, Đức Như Lai quan sát sóng biển cả A-lê-gia thức của chúng sinh bị các cảnh giới gió mạnh thổi động nên làn sóng chuyển thức theo duyên mà khởi. Bấy giờ, vua Dạ-xoa La-bà-na tự nghó: “Ta nên thỉnh Đức Như Lai vào thành Lăng-già để khiến cho ta mãi mãi ở trong trời, người, cùng với những trời, người được lợi ích lớn, mau được an lạc.” Bấy giờ, vua Dạ-xoa La-bà-na, chủ của thành Lăng-già cùng với các quyến thuộc cưỡi cung điện hoa đi đến chỗ Đức Như Lai. Rồi ông cùng các quyến thuộc từ cung điện xuống, nhiễu quanh Đức Phật ba vòng, dùng đủ loại âm nhạc để cúng dường Đức Như Lai. Những nhạc khí họ mang theo đều làm bằng báu Nhân-đà-la xanh lớn và khảm xen vào các thứ báu khác như đại tỳ lưu ly, mã não…, bao bọc nhạc cụ bằng lớp áo màu sắc vô giá. Họ dùng tiếng Phạm và vô lượng những âm thanh khác ca tụng khen ngợi tất cả công đức của Đức Như Lai rồi nói kệ: Tâm đủ ở Pháp tạng Lìa vô ngã, kiến chấp Thế Tôn nói các hạnh Nội tâm biết pháp rồi Pháp thiện được thân Phật Nội thân pháp chứng được Hóa thân bày hóa thân Đúng lúc vào Lăng-già Nay đây thành Lăng-già Vô lượng Phật quá khứ Và các hàng Phật tử Vô lượng thân thọ dụng Thế Tôn nếu nói pháp Thì vô lượng Dạ-xoa Hiện bày vô lượng thân Muốn nghe tiếng thuyết pháp. Bấy giờ, vua thành Lăng-già La-bà-na dùng đủ loại âm thanh vi diệu Đô-đà-ca để ca tụng khen ngợi những công đức của Đức Như Lai rồi, lại dùng diệu thanh kệ tụng ca ngợi Đức Như Lai: Như Lai ở bảy ngày Trong biển lớn ác thú Qua biển đến bờ kia Ra khỏi rồi liền trụ Đức vua La-bà-na Cùng vợ con Dạ-xoa Và quyến thuộc vô kể Các đại thần đại trí Thúc-ca-bà-la-na Những Thiên chúng như vậy Tất cả đều hiện ra Những thần thông vô lượng Cưỡi cung điện hoa quý Đi đến chỗ Đức Phật. Đến rồi, xuống điện hoa Lễ bái cúng dường Phật Nương nơi oai lực Phật Liền ở trước Như Lai Tự nói lên danh tự: Con, La-sát mười đầu Nguyện xin thương xót con Những chúng sinh thành này Nhận thành Lăng-già này Núi báu Ma-la-gia Vô lượng Phật quá khứ Ở trong thành Lăng-già Trên núi đủ loại báu Tự nói Pháp thân chứng Như Lai cũng vậy nên Ở trong núi báu này Đồng chư Phật quá khứ Cũng nói pháp như vậy Nguyện cùng các Phật tử Nói pháp thanh tịnh này Con và chúng Lăng-già Đều rất muốn được nghe Nhập Lăng-già kinh điển Phật quá khứ tán thán: Cảnh giới trí nội thân Lìa lời nói, tên gọi Con nghó đời quá khứ Vô lượng Đức Như Lai Hàng Phật tử vây quanh Giảng nói kinh điển này Ngày hôm nay Đức Phật Cũng nên vì chúng con Và tất cả những chúng Nói pháp sâu xa này Các Thế Tôn vị lai Và các hàng Phật tử Ở trên núi báu này Giảng sâu xa pháp này Nay tại Lăng-già thành Hơn cung trời vi diệu Đất, đá không làm tường Những lưới báu che phủ Những Dạ-xoa này từng Ở chỗ Phật quá khứ Lìa các lỗi, tu hành Trụ Đại thừa rốt ráo Khéo tư duy nội tâm Như thật nghó tương ứng Nguyện Phật rủ lòng thương Vì các Dạ-xoa nói, Nguyện Phật, Thầy trời, người Vào núi Ma-la-gia Dạ-xoa và thê tử Muốn được Đại thừa tôn Những La-sát tai vò Cũng đã trụ trong thành Từng cúng dường quá khứ Vô lượng ức Thế Tôn Nay lại muốn dâng cúng Hiện tại Đại Pháp vương Muốn nghe hạnh nội tâm Muốn được Đại thừa tôn. Nguyện Phật thương xót con Và những chúng Dạ-xoa Cùng các hàng Phật tử Vào thành Lăng-già này Những cung điện của con: Thê tử và quyến thuộc Mũ báu, các chuỗi ngọc Đủ vật dụng trang nghiêm Vườn rừng A-thư-ca Đủ thứ đều ưa thích Và những cung điện hoa Dâng lên Phật, đại chúng! Con ở chỗ Thế Tôn Không vật gì chẳng xả Nguyện Đại Mâu-ni Tôn Thương xót con thọ nhận Các Phật tử và con Nhận lời pháp của Phật Nguyện Phật rủ lòng thương Vì con, nhận giảng nói Bấy giờ Tam Giới Tôn Nghe lời Dạ-xoa thỉnh Vì Dạ-xoa giảng nói Phật quá khứ, vị lai Dạ-xoa! Quá khứ Phật Ở trong núi báu này Thương xót Dạ-xoa nên Nói Nội Thân Chứng Pháp Các Thế Tôn vị lai Cũng ở núi báu này Vì các chúng Dạ-xoa Cũng nói pháp mầu này Dạ-xoa! Ở núi báu Người tu hành như thật Người tu pháp hiện tại Mới an trụ nơi này Dạ-xoa! Nay bảo ông Ta và các Phật tử Do thương xót các ông Nhận cúng dường, thỉnh giảng Như Lai lược đáp xong Tịch tónh yên lặng ngồi La-sát La-bà-na Dâng Phật cung điện hoa Như Lai và Phật tử Nhận rồi và lên ngự Dạ-xoa La-bà-na Tự ngồi cung điện hoa Lệnh các thể nữ, nhạc Tấu đưa Phật đến thành Đã đến thành diệu đó Dạ-xoa La-bà-na Và vợ Dạ-xoa ấy Cùng con trai con gái… Mang đồ cúng tốt đẹp Đủ loại đều vi diệu Cúng dường Đấng Như Lai Và các chúng Phật tử Chư Phật cùng Bồ-tát Đều nhận cúng dường đó Các chúng La-bà-na Cúng dường người nói pháp Quan sát lời nói pháp Chứng cảnh giới nội thân Cúng dường Đại Tuệ só Lâu sau mà thỉnh rằng: Đại só! Ngài hỏi Phật Tu cảnh giới nội thân Con cùng chúng Dạ-xoa Và các hàng Phật tử Tất cả những thính giả Đều thỉnh Ngài thưa hỏi Đại só nói pháp thắng Tu hành cũng tối thắng Con tôn trọng Đại só Thỉnh hỏi Phật thắng hành! Lìa các chấp ngoại đạo Nhị thừa cũng rời khỏi Nói nội pháp thanh tịnh Như Lai địa cứu cánh! Bấy giờ, lực Thế Tôn Lại hóa làm thành, núi Tướng cao ngất trăm ngàn Nghiêm sức núi Tu-di Vô lượng ức vườn hoa Đều là những rừng báu Mùi hương tỏa lan tràn Thơm nức, chưa từng nghe Trong mỗi một núi báu Đều thị hiện thân Phật Cũng có Dạ-xoa vương La-bà-na và chúng Đất nước Phật mười phương Cùng với những thân Phật Phật tử, Dạ-xoa vương Đến tập hợp núi đó Những chúng hiện có đây Ở trong thành Lăng-già Đều thấy được thân mình Trong hóa thành Lăng-già Như Lai hiện thần lực Cũng đồng Lăng-già đó Các núi và vườn rừng Báu trang nghiêm cũng vậy. Phật trong mỗi núi báu Đều có Đại Tuệ hỏi Như Lai đều nói lên Sự chứng pháp nội thân Phát trăm ngàn tiếng hay Kinh pháp này nói xong Phật và các Phật tử Tất cả đều biến mất. Dạ-xoa La-ba-na Bỗng nhiên thấy tự thân Ở tại cung điện cũ Chẳng thấy còn vật khác Mới khởi lên suy nghó: Cái nhìn thấy ai làm Ai là người nói pháp Là những ai lắng nghe Pháp gì ta đã thấy Có những việc như vậy Đất nước các Thế Tôn Và những thân Phật đó Việc vi diệu như thế Nay đã đi về đâu Là điều nhớ trong mộng Hay việc làm của huyễn Hay thành ấp chân thật Hay thành Càn-thát-bà Hay bị che, thấy dối Hay là bóng nắng khởi Là mơ thạch nữ sinh Là ta thấy vầng lửa Hay thấy khói hỏa luân Ta thấy cái gì vậy? Lại tự mình suy nghó Thể các pháp như vậy Cảnh giới chỉ tự tâm Nội tâm hay chứng biết Mà các hạng phàm phu Bị vô minh che lấp Tâm hư vọng phân biệt Mà không thể biết thông. Năng kiến và sở kiến Tất cả chẳng vẹn toàn Người nói và điều nói Như vậy… cũng là không. Thể Phật pháp chân thật Chẳng có cũng chẳng không Pháp tướng hằng như vậy Chỉ tự tâm phân biệt Nay thấy vật là thật Người đó chẳng thấy Phật! Chẳng trụ tâm phân biệt Cũng chẳng thể thấy Phật! Chẳng thấy có các hành Như vậy gọi là Phật! Nếu thấy được như vậy Thì người đó thấy Phật. Bậc trí quán như trên Tất cả các cảnh giới Chuyển thân được diệu thân Tức là Bồ-đề, Phật. Bấy giờ, vua thành Lăng-già, La-sát mười đầu La-bà-na thấy lỗi của tâm phân biệt mà chẳng trụ ở trong tâm phân biệt, do lực căn lành đời quá khứ nên hiểu rõ như thật tánh chất các luận, có thể thấy như thật về thật tướng các pháp, chẳng theo lời dạy của kẻ khác, giỏi tự suy nghó hiểu rõ các pháp, có thể lìa khỏi tất cả sự nhận thức của tà kiến, có thể tu hành như thật hành pháp, ở trong tự thân có thể hiện tất cả đủ loại sắc tượng mà được cứu cánh, hiểu rõ đại phương tiện, biết rõ tướng mạo tự thể trên tất cả các địa thượng, ưa quan sát tự thể của tâm ý và thức thấy thân tương tục ở ba cõi, đoạn lìa thường kiến của các ngoại đạo, nhờ trí như thật biết rõ Như Lai tạng, giỏi trụ ở thật trí nội tâm của Phật địa, nghe trong hư không và trong tự thân phát ra âm thanh vi diệu như vầy: “Hay thay! Hay thay! Này vua Lăng-già! Những người tu hành đều nên tu học như ngươi!” Lại nói: “Hay thay! Này vua Lăng-già! Pháp Như Lai chư Phật và phi pháp như ông đã thấy, nếu chẳng đúng như điều thấy của ông thì gọi là Đoạn kiến. Này vua Lăng-già! Ông nên lìa khỏi tâm, ý, thức, mà tu hành như thật các pháp thật tướng. Ông nay cần phải tu hành nội pháp, chớ chấp trước tướng tà kiến nghóa ngoại đạo. Này Lăng-già Vương, ông chớ tu hành theo cảnh giới tu hành của Thanh văn, Duyên giác, các ngoại đạo… Ông chẳng nên trụ ở các Tam-muội khác của tất cả ngoại đạo. Ông chẳng nên ưa thích đủ thứ hý luận của tất cả ngoại đạo. Ông chẳng nên trụ ở Vi-đà-tà kiến của tất cả ngoại đạo. Ông chẳng nên đắm trước trong lực tự tại buông lung của ngôi vua. Ông chẳng nên đắm trước trong lực tự tại thần thông của thiền định. Này vua Lăng-già! Những việc như trên đây đều là thật hạnh của người tu hành như thật, có thể hàng phục tà luận của tất cả ngoại đạo, có thể phá tất cả tà kiến hư vọng, có thể chuyển lỗi ngã kiến của tất cả kiến, có thể chuyển tất cả hạnh của thức vi tế mà tu hạnh Đại thừa. Này vua Lăng-già! Ông nên nội thân Như Lai địa, tu hạnh như thật. Người tu hành như vậy được chuyển lên pháp Thượng thanh tịnh. Này vua Lăng-già! Ông chớ bỏ đạo sở chứng của ông, khéo tu Tam-muội Tam-ma-bạt-đề. Ông chớ đắm trước cảnh giới Tam-muội của Thanh văn, Duyên giác và ngoại đạo mà lấy làm thắng lạc, như người tu hành theo đạo phàm phu, ngoại đạo. Ông chớ phân biệt. Này vua Lăng-già! Ngoại đạo chấp trước ngã kiến. Có ngã tướng nên hư vọng phân biệt. Ngoại đạo thấy có tướng bốn đại mà chấp trước sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp cho là thật có. Thanh văn, Duyên giác thấy có vô minh duyên hành cho là thật có. Họ khởi lòng chấp trước, lìa khỏi “như thật không”, hư vọng phân biệt chuyên chấp trước “hữu pháp” mà rơi vào trong năng kiến, sở kiến. Này vua Lăng-già! Pháp thắng đạo này có thể khiến cho nội thân chúng sinh giác quán, có thể khiến cho chúng sinh được thì Đại thừa thắng, có thể sinh ra ba cõi. Này vua Lăng-già! Hạnh nhập Đại thừa này có thể phá đủ thứ màn che, đủ thứ sóng thức của chúng sinh, chẳng rơi vào trong các kiến, hành của ngoại đạo. Này vua Lăng-già! Đây chính là hạnh của Đại thừa, chẳng phải hạnh vào ngoại đạo. Hạnh ngoại đạo thì nương vào “nội thân hữu ngã” mà thực hạnh thấy hai pháp sắc, thức cho là thật nên thấy có sinh diệt. Hay thay! Này vua Lăng-già! Tư duy nghóa này đúng như tư duy của ông tức là thấy Phật.” Bấy giờ, vua Lăng-già La-bà-na lại nghó: “Ta nên hỏi Đức Phật về pháp hành như thật để chuyển đến hành của tất cả các ngoại đạo, tu hành nội tâm, cảnh giới sở quán, lìa khỏi ứng thân Phật làm việc ứng hợp, lại có thắng pháp. Sở dó gọi người tu hành như thật là khi chứng được pháp thì đạt được niềm vui của Tam-muội cứu cánh. Nếu được niềm vui đó thì gọi là người tu hành như thật. Vậy nên, ta nên hỏi Đức Thế Tôn Như Lai đại Từ bi, Như Lai có thể đốt cháy hết củi phiền não và các Phật tử cũng có thể đốt cháy hết. Đức Như Lai có thể biết phiền não sai khiến tâm của tất cả chúng sinh. Đức Như Lai đến khắp chỗ Nhất thiết trí. Đức Như Lai có thể hiểu biết rõ như thật là tướng hay phi tướng. Ta nay nên dùng sức thần thông vi diệu để thấy được Đức Như Lai. Thấy Đức Như Lai rồi thì người chưa được, người đã được đều chẳng thoái lui, được Vô phân biệt Tam-muội Tam-ma-bạt-đề, được tăng trưởng đầy đủ hành xứ của Như Lai.” Lúc ấy, Đức Thế Tôn như thật soi biết vua Lăng-già đã đến lúc ứng chứng Vô sinh pháp nhẫn, thương xót vua La-sát mười đầu nên làm cho cung điện đã ẩn mất hiện trở lại như cũ và hiện thân ở trong thành ở trên núi với vô số lưới báu trang nghiêm. Bấy giờ, La-sát mười đầu, vua thành Lăng-già thấy các cung điện trở lại như cũ. Trong mỗi một núi, khắp nơi đều thấy có Đức Phật Thế Tôn Ứng Chánh Biến Tri với ba mươi hai tướng tốt trang nghiêm thân, ở tại trong núi, ông tự thấy thân mình ở trước khắp các Đức Phật. Ông lại thấy tất cả cõi nước chư Phật và các quốc vương nghó về thân vô thường, do tham vương vị, vợ con, quyến thuộc, năm dục trói buộc nhau không có kỳ hạn giải thoát nên liền đem đất nước, cung điện, vợ con, voi ngựa, trân báu… dâng cúng Phật và Tăng rồi vào với núi rừng xuất gia học đạo. Ông lại thấy Phật tử ở trong rừng núi dũng mãnh tinh tấn gieo thân cho hổ đói, sư tử, La-sát để cầu Phật đạo. Ông lại thấy Phật tử ở dưới rừng cây đọc tụng Kinh kiển, vì người diễn nói để cầu Phật đạo. Ông lại thấy Đức Bồ-tát nghó về chúng sinh khổ, ngồi dưới gốc cây Bồ-đề nơi Đạo Tràng tư duy Phật đạo. Ông lại thấy trước mỗi một Đức Phật đều có Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ nói về cảnh giới tu hành nội thân và cũng thấy tất cả quyến thuộc Dạ-xoa vây quanh mà nói danh tự chương cú. Bấy giờ, Đức Thế Tôn dùng trí tuệ quan sát đại chúng hiện tại, chẳng phải dùng mắt thịt quan sát, như dáng chồm lên của sư tử chúa, nhìn khắp rồi cười lớn, nhục kế trên đỉnh phóng ra vô lượng ánh sáng, từ vai, hông, lưng, đùi, ngực, chỗ chữ卐đức và những lỗ chân lông đều phóng ra tất cả ánh sáng không lường như cái cầu vồng ở không trung, như ngàn ánh sáng mặt trời, như khi hết kiếp lửa mạnh bốc cháy bừng bừng… Đế Thích, Phạm vương, Tứ Thiên vương… ở trong hư không, quan sát Đức Như Lai, thấy Đức Phật ngồi ở trên núi Tu-di đối diện với đỉnh núi Lăng-già và cười lớn. Bấy giờ, chúng Bồ-tát, Đế Thích, Phạm vương, Tứ Thiên vương… suy nghó như vầy: “Vì nhân duyên gì Đức Như Lai Ứng Chánh Biến Tri ở trong các pháp mà được tự tại, chưa từng cười lớn như vậy, lại tự thân phóng ra vô lượng ánh sáng, ngồi yên chuyên niệm cảnh giới trí tuệ nội thân chẳng cho là thù thắng, như sư tử nhìn xem vua Lăng-già niệm hạnh như thật? Lúc ấy, Thánh giả Đại Bồ-tát Đại Tuệ trước đã nhận sự thỉnh cầu của vua Lăng-già La-bà-na, nghó đến vua Lăng-già, biết những pháp tâm hành của tất cả chúng Đại Bồ-tát, quan sát tất cả chúng sinh vị lai, lòng đều ưa danh tự nói pháp, lòng mê sinh ra nghi, theo đúng như lời nói mà chấp trước tất cả hành hóa của hàng Thanh văn, Duyên giác và ngoại đạo. Còn các Đức Phật Thế Tôn lìa khỏi những sự vận hành của tất cả tâm thức, có thể cười, cười lớn. Vì đại chúng kia đoạn dứt lòng nghi hoặc, Thánh giả hỏi Đức Phật: –Đức Như Lai vì nhân gì, duyên gì, việc gì, mà cười lớn? Đức Phật bảo Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ: –Hay thay! Hay thay! Này Đại Tuệ! Hay thay! Này Đại Tuệ! Ông có thể quan sát tâm của thế gian vọng tưởng, phân biệt, tà kiến, điên đảo. Ông thật có thể biết việc ba đời mà còn hỏi việc này. Như câu hỏi của ông thì câu hỏi của bậc Trí cũng lại như vậy, vì tự lợi và lợi tha. Này Đại Tuệ! Vua Lăng-già này đã từng hỏi tất cả các Đức Phật Ứng Chánh Biến Tri đời quá khứ hai pháp như vậy, hiện tai lại cũng muốn hỏi ta hai pháp như vậy. Hai pháp này thì tất cả Thanh văn, Duyên giác, ngoại đạo chưa từng biết tướng của hai pháp này. Này Đại Tuệ! La-sát mười đầu này cũng hỏi tất cả chư Phật đời vị lai hai pháp như đây. Bấy giờ, Đức Như Lai biết nên hỏi vua La-bà-na: –Này vua Lăng-già! Ông có điều nghi ngờ gì thì nay đều có thể hỏi. Ta đều có thể đáp để dứt trừ lòng nghi ngờ của ông, khiến cho ông được hoan hỷ. Này vua Lăng-già! Ông đoạn trừ tâm phân biệt hư vọng, được Địa đối trị phương tiện quan sát, trí tuệ như thật có thể vào Tam-muội Nội thân như thật tướng, ưa tu hành Tam-muội thì Như Lai liền nhiếp lấy thân của ông, khéo an trụ trong cảnh giới an lạc của định, qua khỏi sự cấu bẩn nơi Tam-muội bất tịnh của các Thanh văn, Duyên giác thì có thể trụ ở địa Bất động, địa Thiện tuệ, địa Pháp vân… biết rõ như thật về pháp vô ngã, ngồi lên vương tòa Đại bảo liên hoa, được vô lượng Tam-muội mà nhận của vị Phật. Này vua Lăng-già! Chẳng bao lâu nữa, ông sẽ tự thấy thân mình cũng ngồi trên vương tòa Liên hoa như vậy, giữ gìn pháp như vậy, vô lượng quyến thuộc của hoa sen chúa vô lượng quyến thuộc của Bồ-tát, tất cả đều ngồi tòa hoa sen chúa mà tự vây quanh ngắm nhìn nhau, chẳng bao lâu tất cả đều được an trụ ở cảnh giới chẳng thể nghó bàn đó. Như là khởi một hạnh phương tiện trụ trong các Địa, có thể thấy chẳng thể nghó bàn cảnh giới, thấy vô lượng, vô biên đủ loại pháp tướng của địa Như Lai mà tất cả Thanh văn, Duyên giác, Tứ Thiên vương, Đế Thích, Phạm vương… chưa từng thấy. Lúc ấy, vua Lăng-già nghe Đức Phật Thế Tôn nói. Sau khi nghe và hỏi rồi, ở trên núi được trang nghiêm bằng mọi thứ báu, hoa sen báu lớn với vô lượng ánh sáng thanh tịnh đó, có vô lượng thiên nữ tự vây quanh, rồi hiện ra vô lượng vô số hoa lạ, đủ loại hương lạ, hương tung rải, hương bôi xoa, cờ, phướn báu, mũ báu, chuỗi ngọc, đồ trang sức thân. Lại hiện ra đủ loại đồ trang nghiêm thù thắng vi diệu mà thế gian chưa từng nghe thấy. Lại hiện ra vô lượng đủ loại nhạc cụ hơn cả nhạc cụ của các trời, rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân… Lại biến hóa ra nhạc cụ giống như trong ba cõi, cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc. Lại biến hóa ra đủ loại nhạc cụ thù thắng vi diệu như ở cõi nước chư Phật khắp mười phương lại hóa làm vô lượng màn lưới báu lớn che khắp ở bên trên tất cả chư Phật, đại chúng Bồ-tát. Lại dựng vô lượng vô số cờ báu. Vua La-bà-na làm những việc biến hóa như vậy rồi, thân bay lên hư không, cao bảy cây Đa-la, rồi trụ trong hư không mưa xuống đủ loại kỹ nhạc, mưa xuống đủ loại hoa, mưa xuống đủ loại hương, mưa xuống đủ loại y phục… đầy trong hư không như trời tuông mưa lớn dùng để cúng dường Đức Phật và Phật tử. Mưa cúng dường xong, ông ấy từ trên xuống, đến giữa hư không, liền ngồi ở trên tòa Đệ nhị điển quang minh trang nghiêm bằng hoa sen báu chúa và vô số núi báu. Bấy giờ, Đức Như Lai thấy ông ấy ngồi liền mỉm cười, nghe vua Lăng-già hỏi hai pháp. Vua Lăng-già bạch: –Bạch Thế Tôn! Hai pháp này con đã từng nghe ở các Đức Phật Ứng Chánh Biến Tri đời quá khứ, các Đức Phật Thế Tôn đó đã vì con mà giảng nói. Bạch Thế Tôn! Con hiện tại nương vào danh tự chương cú thưa hỏi Đức Như Lai, kính mong Đức Như Lai giảng nói rõ ràng cho con. Bạch Thế Tôn! Hóa Phật ứng hóa giảng nói, hai pháp này chẳng phải căn bản Như Lai. Bạch Thế Tôn! Căn bản Như Lai tu tập cảnh giới Tam-muội an lạc thì chẳng nói những cảnh giới ngoài tâm thức. Hay thay! Bạch Thế Tôn! Tự thân Như Lai đối với tất cả pháp mà được tự tại. Nguyện xin Đức Thế Tôn Ứng Chánh Biến Tri nói hai pháp này. Tất cả Phật tử và bản thân con cũng nguyện muốn nghe. Lúc ấy, Đức Thế Tôn biến nên liền bảo vua Lăng-già: –Này vua Lăng-già! Ông hỏi hai pháp này chăng? Bấy giờ, vua Dạ-xoa thay đổi đủ loại vật dụng trang sức bằng vàng như đội mũ vàng, đeo chuỗi ngọc vàng… rồi bạch: –Đức Như Lai thường nói, pháp còn nên xả bỏ, huống gì là phi pháp? Bạch Thế Tôn! Sao gọi là hai pháp xả? Bạch Thế Tôn! Những gì là pháp? Những gì là phi pháp? Bạch Thế Tôn! Pháp xả làm sao có hai? Do rơi vào trong tướng phân biệt nên hư vọng phân biệt là pháp có, không, không Đại, có Đại. Bạch Thế Tôn! Thức A-lê-gia biết danh thức tướng. Thể tướng vốn có của nó như trong hư không có vầng lông trụ, là cảnh giới mà trí thanh tịnh biết được. Bạch Thế Tôn! Nếu pháp như vậy thì làm sao mà xả? Đức Phật bảo vua Lăng-già: –Này vua Lăng-già! Ông chẳng thấy cái bình… là pháp vô thường, biến hoại. Phàm phu ngu si phân biệt tướng sai biệt của cảnh giới này. Này vua Lăng-già! Vì sao không thủ chấp tướng sai biệt của pháp và phi pháp như vậy? Nương theo tâm phân biệt của phàm phu ngu si thì có, chớ chẳng phải trí chứng Thánh cho là có thể thấy. Này vua Lăng-già! Như việc đặt cái bình… đủ thứ tướng thì tâm phàm phu ngu si gọi là có, chẳng phải gọi Thánh nhân cho là có pháp. Này vua Lăng-già! Ví như có một ngọn lửa đốt cháy cung điện, vườn rừng, cỏ cây mà nhìn thấy đủ loại màu sắc ánh sáng của lửa mỗi một đều sai biệt. Nương vào đủ thứ củi, cỏ, cây dài hay ngắn mà phân biệt thì thấy có tướng hơn, thua. Trong này vì sao chẳng biết có tướng sai biệt của pháp và phi pháp như vậy? Này vua Lăng-già! Chẳng phải chỉ ngọn lửa nương vào trong một thân nối tiếp nhau mà thấy có đủ những loại tướng sai biệt. Này vua Lăng-già! Như một hạt giống là một sự nối nhau sinh ra mầm, thân, cành, lá, hoa, trái, cây rừng… đủ các tướng khác nhau. Như vậy, sự sinh ra các pháp trong, ngoài như vô minh và hành, ấm, giới, nhập… tất cả các pháp, mọi vật sinh ra trong ba cõi đều có sai biệt, như hiện ra niềm vui, hình tướng, ngôn ngữ, đi lại, thắng trí, dị tướng… cảnh giới một tướng mà chấp lấy tướng cũng thấy tướng thù thắng, thượng, trung, hạ, tướng nhiễm, tịnh, thiện, bất thiện. Này vua Lăng-già! Chẳng phải chỉ trong đủ loại pháp thấy tướng sai biệt, mà người giác ngộ đạo như thật, trong tu hành nội chứng cũng có thấy đủ các tướng sai khác, huống gì là pháp, phi pháp mà không phân biệt đủ loại tướng sai biệt? Này vua Lăng-già! Có đủ thứ tướng sai biệt của pháp và phi pháp! Này vua Lăng-già! Thế nào là pháp? Đó là sự thấy phân biệt của tất cả ngoại đạo, Thanh văn, Duyên giác, phàm phu ngu si. Từ nhân và vật thật mà lấy làm căn bản để sinh ra đủ thứ pháp. Những pháp như vậy… nên xả, nên lìa, chớ thủ chấp tướng mà sinh ra phân biệt. Thấy pháp tự tâm liền cho là thật. Này vua Lăng-già! Không có pháp thật về cái bình mà phàm phu ngu si hư vọng phân biệt. Pháp vốn không có tướng quán sát, biết như thật thì gọi là xả các pháp. Này vua Lăng-già! Những gì là phi pháp? Cái gọi là không có thân tướng, chỉ tự tâm diệt vọng tưởng phân biệt mà những phàm phu thấy thật pháp chẳng phải thật pháp, Bồ-tát thấy như thật. Như vậy là xả bỏ phi pháp. Lại nữa, này vua Lăng-già! Cái gì là phi pháp nữa? Cái gọi là sừng thỏ, sừng ngựa, sừng lừa, sừng lạc đà, thạch nữ không thân, không tướng mà phàm phu ngu si chấp là có, vì nghóa của thế gian nên nói đến danh tự, chẳng phải chấp tướng như cái bình kia… là pháp có thể xả. Người trí chẳng chấp sự phân biệt hư vọng như vậy, sừng thỏ… pháp danh tự cũng có thể xả bỏ. Đó là xả bỏ pháp và phi pháp. Này vua Lăng-già! Ông nay hỏi ta về pháp và phi pháp làm sao xả bỏ, ta đã nói xong. Này vua Lăng-già! Ông nói rằng: “Con đã hỏi pháp này nơi các đấng Ứng Chánh Biến Tri đời quá khứ, những Đức Như Lai đó đã vì con nói.” Này vua Lăng-già! Ông nói quá khứ thì tức là tướng phân biệt. Phân biệt vị lai, hiện tại cũng vậy. Này vua Lăng-già! Ta nói Chân như pháp thể là như thật cũng là phân biệt. Như phân biệt sắc là thật tế, vì chứng thật trí nên ưa tu hành trí tuệ vô tướng. Vậy nên, chớ phân biệt Như Lai là thân trí, thể trí. Trong tâm chớ phân biệt, trong ý chớ thủ chấp ngã, nhân, thọ mạng… sao chẳng phân biệt? Trong ý thức, chấp giữ đủ thứ cảnh giới như sắc, hình tướng… như vậy chớ thủ chấp, chớ phân biệt cái có thể phân biệt. Lại nữa, này vua Lăng-già! Ví như vẽ lên vách đủ thứ hình tướng, tất cả chúng sinh cũng lại như vậy. Này vua Lăng-già! Tất cả chúng sinh giống như cỏ cây không nghiệp, không hành. Này vua Lăng-già! Tất cả pháp, phi pháp không nghe, không nói. Này vua Lăng-già! Tất cả pháp thế gian đều như huyễn mà các ngoại đạo, phàm phu chẳng biết. Này vua Lăng-già! Nếu có thể thấy như vậy, thấy như thật thì gọi là chánh kiến. Nếu thấy khác thì gọi là tà kiến. Nếu phân biệt thì gọi là nắm giữ cả hai. Này vua Lăng-già! Ví như hình tượng trong gương tự thấy hình tượng. Ví như bóng dáng trong nước tự thấy bóng dáng. Như bóng ánh sáng đèn, trăng ở trong nhà tự thấy bóng dáng. Như tiếng vang trong không tự phát ra tiếng rồi thủ chấp cho là tiếng… Nếu như vậy chấp giữ pháp cùng phi pháp đều là vọng tưởng hư vọng phân biệt. Vậy nên chẳng biết pháp và phi pháp, tăng thêm hư vọng, chẳng được tịch diệt. Tịch diệt thì gọi là nhất tâm, nhất tâm thì gọi là Như Lai tạng, thể nhập cảnh giới trí tuệ nội thân, đạt được Tam-muội Vô sinh pháp nhẫn.  <詞 id="118149468">Phẩm 2: VẤN ĐÁP Bấy giờ, Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ cùng tất cả những Bồ-tát có trí tuệ rộng lớn đều ở nơi tất cả cõi nước chư Phật, nương thần lực Đức Phật nên đứng dậy sửa lại y phục, chắp tay cung kính, dùng kệ khen Đức Phật: Phật tuệ quán đại Bi Lìa sinh diệt thế gian Giống như hoa hư không Chẳng vướng mắc có, không. Phật tuệ quán đại Bi Tất cả pháp như huyễn Lìa xa tâm, ý, thức Chẳng chấp giữ có, không Phật tuệ quán đại Bi Giống như mộng thế gian Xa lìa khỏi thường, đoạn Chẳng vướng mắc có, không. Phật tuệ quán đại Bi Chướng trí chướng phiền não Cả hai vô ngã, tịnh Chẳng chấp giữ có, không. Phật chẳng vào bất diệt Cũng chẳng trụ Niết-bàn Lìa pháp, pháp sở giác Lìa cả hai có, không Nếu như vậy quán Phật Tịch diệt lìa diệt, sinh Người đó nay, đời sau Thanh tịnh, không nhiễm, chấp. Lúc ấy, Đại Bồ-tát Đại Tuệ theo đúng như pháp nói kệ khen Phật xong, rồi tự nói tên mình: Con tên là Đại Tuệ Nguyện đạt thông Đại thừa Dùng trăm lẻ tám câu Kính hỏi Vô Thượng Tôn. Tối thắng thế gian giải Nghe Đại Tuệ hỏi han Quan sát các chúng sinh Bảo các Phật tử rằng: Các ông, những Phật tử Và Đại Tuệ thưa hỏi: Ta sẽ vì ông nói Cảnh giới tự giác ngộ! Bấy giờ, Đại Bồ-tát Đại Tuệ nghe Đức Phật cho phép hỏi, liền đảnh lễ dưới chân Phật, chắp tay cung kính, dùng kệ hỏi: Làm sao tịnh các giác Nhân đây mà có giác Nhân đâu thấy mê hoặc Nhân đâu có mê hoặc Nhân đâu có đất nước Các ngoại đạo biến hóa Sao gọi là Phật tử Tịch tónh và thứ lớp Giải thoát đi về đâu Ai trói? Nhân đâu thoát Người thiền quán pháp nào Nhân đâu có ba thừa Do đâu pháp duyên sinh Tác, sở tác nhân đâu Nhân đâu nói khác nhau Nhân đâu không mà hiện Nhân đâu định Vô sắc Và cùng định Diệt tận Định tưởng diệt do đâu Nhân đâu từ định xuất Làm sao nhân quả sinh Nhân đâu thân đi, đứng Nhân đâu quán kiến chấp Nhân đâu các Địa sinh Những ai phá ba cõi Thân nào? Đến chỗ nào Trụ ở chỗ ra sao Làm sao các Phật tử Nhân đâu được thần thông Và Tam-muội tự tại Nhân đâu được tịnh tâm Xin Phật vì con nói: Là Tàng thức nhân đâu Nhân đâu ý và thức Do đâu thấy các pháp Nhân đâu đoạn kiến chấp Sao là tánh, phi tánh Tâm không pháp ra sao Nói pháp tướng nhân đâu Sao gọi là vô ngã Nhân đâu không chúng sinh Nhân đâu có Thế đế Nhân đâu chẳng thấy thường Nhân đâu chẳng thấy đoạn Làm sao Phật ngoại đạo Hai tướng chẳng trái nhau Nhân đâu đời vị lai Đủ những loại bộ khác Sao lại gọi là không Nhân đâu niệm chẳng trụ Nhân đâu có thai tàng Nhân đâu niệm chẳng động Làm sao như huyễn mộng Nói như Càn-thát-bà Loáng nắng trăng trong nước Xin Phật vì con nói: Sao nói là Giác chi Sao là Bồ-tát phần Nhân gì nước loạn động Tạo hữu kiến nhân gì Nhân đâu chẳng sinh diệt Như không hoa nhân gì Giác thế gian nhân gì Nhân đâu nói chữ không Không phân biệt ra sao Như hư không nhân đâu Chân như bao nhiêu loại Tâm có bao nhiêu bờ Nhân đâu Địa thứ lớp Chân như không thứ lớp Hai vô ngã nhân đâu Nhân đâu cảnh giới tịnh Trí, giới có bao nhiêu Chúng sinh do đâu sinh Ai làm tính các báu Vàng, ngọc báu Ma-ni… Ai sinh ra lời nói Của đủ loại chúng sinh Kỹ thuật, chỗ ngũ minh Ai hay nói như vậy Kệ có bao nhiêu loại Sao là “trường đoản cú?” Pháp lại có bao nhiêu Bao nhiêu cách giải nghóa Giống thực phẩm nhân đâu Nhân đâu sinh ái dục Sao gọi vua Chuyển luân Sao gọi là tiểu vương Nhân đâu giữ đất nước Bao nhiêu loại chư Thiên Nhân đâu mà có đất Và mặt trời, trăng, sao Bao nhiêu loại giải thoát Bao nhiêu người tu hành Bao nhiêu hàng Phật tử Bao nhiêu A-xà-lê Bao nhiêu hạng Như Lai Bản sinh bao nhiêu loại Có bao nhiêu thứ ma Ngoại đạo bao nhiêu loại Tự tánh có bao nhiêu Tâm có bao nhiêu loại Thí giả danh là sao Xin Phật vì con nói Nhân đâu có gió mây Nhân đâu có thông tuệ Nhân đâu có rừng cây Thế Tôn vì con nói! Sao có voi, ngựa, nai Vì sao người bắt lấy Nhân đâu bị thấp hèn Xin Phật vì con nói! Nhân đâu có sáu thời Nhân đâu thành Xiển-đề Trai gái và chẳng trai Vì con nói tính ấy! Nhân gì tu hành thoái Tu hành tiến vì sao Dạy những người nào tu Khiến trụ những pháp nào Những chúng sinh qua lại Nhân gì ở loài nào Nhân đâu giàu của cải Thế Tôn vì con nói! Dòng họ Thích thế nào Nhân đâu có họ Thích Dòng Cam giá thế nào Nhân đâu tiên trường thọ Tiên trường thọ gần đâu Làm sao giáo hóa họ Thế Tôn như hư không Vì con phân biệt nói! Nhân đâu Phật Thế Tôn Tất cả lúc xuất hiện Vố số loại sắc, danh Chúng Phật tử vây quanh Nhân đâu chẳng ăn thịt Sao chế cấm ăn thịt Những chủng loại ăn thịt Vì sao mà ăn thịt Tướng mặt trời, mặt trăng Tu-di và hoa sen Sư tử là hơn hết Xin Phật vì con nói! Loạn lạc trùm thế giới Như lưới Nhân-đà-la Tất cả đất nước báu Vì con nói: Nhân đâu Như cầm sắt, không hầu Trống, hình hoa đủ loại Cõi lìa ánh nhật nguyệt Vì con nói do đâu Những gì Phật hóa thân Những gì Phật báo thân Những gì như trí Phật Vì con nói: Nhân đâu Làm sao ở Dục giới Chẳng thành Đẳng chánh giác Làm sao Sắc cứu cánh Được đạo trong ly dục Như Lai Bát-niết-bàn Người nào trì chánh pháp Thế Tôn trụ lâu bằng Thời gian pháp trụ không Phật lập bao nhiêu pháp Chủng loại có bao nhiêu Tỳ-kheo-ni, Tỳ-kheo Xin Phật vì con nói! Nhân đâu trăm biến đổi Trăm tịch tónh nhân đâu Thanh văn, Bích-chi-phật Thế Tôn nói vì con! Nhân đâu thông thế gian Nhân đâu thông xuất thế Nhân đâu thất địa tâm Thế Tôn vì con nói! Tăng-già bao nhiêu loại Nhân đâu là phá tăng Sao y là phương luận Xin Phật vì con nói. Ca-diếp, Câu-lưu-tôn Câu-na-hàm… là con! Thường vì các đệ tử Nói như vậy, vì sao Vì sao nói nhân, ngã Vì sao nói đoạn, thường Vì sao chẳng chỉ nói Chỉ có một tâm thôi Nhân đâu rừng nữ nam Ha-lê, A-ma-lặc Kê-la và thiết vi Cùng Kim cang… các núi Thứ đến vô lượng núi Đủ loại báu trang nghiêm Tiên vui, người sung mãn Xin Phật vì con nói! Khi Đại thiên Phật nghe Những câu kệ đó xong Đại thừa nẻo giải thoát Tâm chư Phật đệ nhất: Hỏi hay thay! Hay thay! Này Đại Tuệ! Nghe kỹ! Ta nay theo lớp lang Lời ông hỏi mà nói Sinh cùng với chẳng sinh Sát-na, Niết-bàn không Đường đến không tự thể Con Phật, Ba-la-mật Thanh văn, Bích-chi-phật Người ngoại đạo Vô sắc Núi, biển và Tu-di Bốn thiên hạ đất đai Mặt trăng, mặt trời, sao Ngoại đạo, trời, tu-la Tự tại, không giải thoát Tịch định, lực tư duy Diệt và Như ý túc Đạo phẩm và Giác chi Vô lượng các thiền định Năm ấm và đến đi Bốn không định diệt tận Phát khởi tâm nói lên! Tâm, ý và ý thức Pháp vô ngã có năm: Tự tánh, tướng, sở tưởng Hai năng kiến, sở kiến Sao gọi vô số thừa Tính vàng, ngọc ma-ni Nhất-xiển-đề, bốn đại Loạn động và nhất Phật Cảnh giới trí dạy được Chúng sinh có, không có Voi, ngựa, các cầm thú Làm sao mà bắt lấy Ví như nhân tương ưng Lực, nói pháp ra sao Nhân đâu có nhân quả Rừng mê hoặc như thật Chỉ tâm không cảnh giới. Các địa không thứ lớp Trăm đổi thay, vô tướng Luận y phương khéo léo Chú thuật các minh xứ Vì sao mà hỏi ta Các núi, tu-di, đất Hình thể nhỏ hoặc to Biển cả, trời, trăng, sao Vì sao mà hỏi ta Chúng sinh thượng, trung, hạ Thân bao nhiêu vi trần Khuỷu tay đến mười dặm Bốn mươi và hai mươi Lông thỏ, bụi cửa sổ Lông dê, bụi bột mì Một thăng bao nhiêu bột Nửa thăng bao nhiêu đầu Một hộc và mười hộc Trăm vạn và một ức Tần-bà bao vi trần Hạt cải bao nhiêu bụi Bao cải thành hạt đỏ Bao hạt cỏ thành đậu Bao thù thành một lượng Bao lượng thành một phân Thứ lớp tính như vậy Bao nhiêu thành Tu-di Nay vì sao Phật tử Chẳng hỏi ta như vầy: Thanh văn và Duyên giác Chư Phật và Phật tử Thân bao nhiêu vi trần Vì sao chẳng hỏi rằng: Ngọn lửa bao nhiêu bụi Gió có bao nhiêu vi trần Bụi từng căn bao nhiêu Chân lông, mi bao bụi Nhân đâu làm Tự tại Chuyển luân thánh Đế vương Nhân đâu vua ủng hộ Giải thoát rộng lược nói Chúng sinh đủ thứ dục! Làm sao mà hỏi ta Nhân đâu các thực phẩm Nhân đâu rừng trai gái Núi Kim cang vững chắc Ta phải nói thế nào Nhân đâu như huyễn mộng Khát ái ví nai hoang Nhân đâu mây xuất hiện Nhân đâu có sáu thời Nhân đâu đủ thứ vị Nam, nữ, phi nam nữ Nhân đâu các trang nghiêm Phật tử nhân đâu hỏi Làm sao các núi báu Tiên vui, người trang nghiêm Giải thoát, chỗ nào đến Ai trói, trói ra sao Cảnh giới Thiền thế nào Niết-bàn và ngoại đạo Sao lại không nhân làm Nhân đâu được thấy buộc Nhân đâu tịnh các giác Có các giác do đâu Nhân đâu chuyển tạo tác Vì hạnh nguyện hỏi ta Nhân nào đoạn các tưởng Tam-muội có nhân đâu Ai phá bỏ ba cõi Thân do đâu, ở đâu Làm sao không nhân, ngã Nương thế nói do đâu Nhân đâu hỏi ngã tướng Hỏi vô ngã thế nào Sao gọi là thai tạng Ông nhân đâu hỏi ta Nhân đâu thường, đoạn kiến Tâm được tịnh vì sao Nhân đâu nói và trí Giới tính, các Phật tử Suy xét đệ tử, thầy Đủ hạng các chúng sinh Sao là tham ẩm thực Thí, thông minh, hư không Nhân đâu có cây rừng Phật tử nhân đâu hỏi Sao gọi đủ thứ cõi Nhân đâu tiên sống lâu Đủ loại thầy nhân đâu Ông nhân đâu hỏi ta Vì sao có xấu xí Tu hành chẳng muốn thành Sắc cứu cánh thành đạo Làm sao mà hỏi ta Nhân đâu hiểu thế gian Nhân đâu là Tỳ-kheo Là hóa, báo thân Phật Nhân đâu mà hỏi ta Sao gọi như trí Phật Sao gọi là chúng Tăng Không hầu, trống, hoa, cõi Làm sao lìa ánh sáng Sao gọi là Tâm địa Phật tử mà hỏi ta Đây và chúng sinh khác Phật tử nên thưa hỏi Mỗi một tướng tương ứng Xa lìa lỗi kiến chấp Lìa các pháp ngoại đạo. Ta nói ông lắng nghe Đây trăm lẻ tám kiến Như lời chư Phật nói Ta nay nói phần ít Phật tử khéo lắng nghe. Sinh kiến bất sinh kiến, thường kiến vô thường kiến, tướng kiến vô tướng kiến, trụ dị kiến phi trụ dị kiến, sát-na kiến phi sát-na kiến, ly tự tánh kiến phi ly tự tánh kiến, không kiến bất không kiến, đoạn kiến phi đoạn kiến, tâm kiến phi tâm kiến, biên kiến phi biên kiến, trung kiến phi trung kiến, biến kiến phi biến kiến, duyên kiến phi duyên kiến, nhân kiến phi nhân kiến, phiền não kiến phi phiền não kiến, ái kiến phi ái kiến, phương tiện kiến phi phương tiện kiến, xảo kiến phi xảo kiến, tịnh kiến phi tịnh kiến, tương ưng kiến phi tương ưng kiến, thí dụ kiến phi thí dụ kiến, đệ tử kiến phi đệ tử kiến, sư kiến phi sư kiến, tính kiến phi tính kiến, thừa kiến phi thừa kiến, tịch tónh kiến phi tịch tónh kiến, nguyện kiến phi nguyện kiến, tam luân kiến phi tam luân kiến, tướng kiến phi tướng kiến, hữu vô lập kiến phi hữu vô lập kiến, hữu nhị kiến vô nhị kiến, duyên nội thân Thánh kiến phi duyên nội thân Thánh kiến, hiện pháp lạc kiến phi hiện pháp lạc kiến, quốc thổ kiến phi quốc thổ kiến, vi trần kiến phi vi trần kiến, thủy kiến phi thủy kiến, cung kiến phi cung kiến, tứ đại kiến phi tứ đại kiến, số kiến phi số kiến, thông kiến phi thông kiến, hư vọng kiến phi hư vọng kiến, vân kiến phi vân kiến, công xảo kiến phi công xảo kiến, minh xứ kiến phi minh xứ kiến, phong kiến phi phong kiến, địa kiến phi địa kiến, tâm kiến phi tâm kiến, giả danh kiến phi giả danh kiến, tự tánh kiến phi tự tánh kiến, ấm kiến phi ấm kiến, chúng sinh kiến phi chúng sinh kiến, trí kiến phi trí kiến, Niết-bàn kiến phi Niết-bàn kiến, cảnh giới kiến phi cảnh giới kiến, ngoại đạo kiến phi ngoại đạo kiến, loạn kiến phi loạn kiến, huyễn kiến phi huyễn kiến, mộng kiến phi mộng kiến, dương việm kiến phi dương việm kiến, tượng kiến phi tượng kiến, luân kiến phi luân kiến, Kiền-thát-bà kiến phi Kiền-thát-bà kiến, thiên kiến phi thiên kiến, ẩm thực kiến phi ẩm thực kiến, dâm dục kiến phi dâm dục kiến, kiến kiến phi kiến kiến, Ba-la-mật kiến phi Ba-la-mật kiến, giới kiến phi giới kiến, nhật nguyệt tinh tú kiến phi nhật nguyệt tinh tú kiến, đế kiến phi đế kiến, quả kiến phi quả kiến, diệt kiến phi diệt kiến, khởi diệt tận định kiến phi khởi diệt tận định kiến, trị kiến phi trị kiến, tướng kiến phi tướng kiến, chi kiến phi chi kiến, xảo minh kiến phi xảo minh kiến, thiền kiến phi thiền kiến, mê kiến phi mê kiến, hiện kiến phi hiện kiến, hộ kiến phi hộ kiến, tộc tánh kiến phi tộc tánh kiến, tiên nhân kiến phi tiên nhân kiến, vương kiến phi vương kiến, bổ thủ kiến phi bổ thủ kiến, thật kiến phi thật kiến, ký kiến phi ký kiến, Nhất-xiển-đề kiến phi Nhất-xiển-đề kiến, nam nữ kiến phi nam nữ kiến, vị kiến phi vị kiến, tác kiến phi tác kiến, thân kiến phi thân kiến, giác kiến phi giác kiến, động kiến phi động kiến, căn kiến phi căn kiến, hữu vi kiến phi hữu vi kiến, nhân quả kiến phi nhân quả kiến, sắc cứu cánh kiến phi sắc cứu cánh kiến, thời kiến phi thời kiến, thọ lâm kiến phi thọ lâm kiến, chủng chủng kiến phi chủng chủng kiến, thuyết kiến phi thuyết kiến, Tỳ-kheo kiến phi Tỳ-kheo kiến, Tỳ-kheo-ni kiến phi Tỳ-kheo-ni kiến, trụ trì kiến phi trụ trì kiến, tự kiến phi tự kiến. Này Đại Tuệ! Một trăm lẻ tám kiến này, chư Phật đời quá khứ đã nói. Ông và các Bồ-tát phải học như vậy. KINH NHẬP LĂNG-GIÀ <卷 id="118149469">QUYỂN 2 <詞 id="118149470">Phẩm 3: TẬP hợp TẤT CẢ PHÁP PHẬT (Phần 1) Lúc bấy giờ, Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch: –Bạch Thế Tôn! Các thức có bao nhiêu loại, sinh, trụ, diệt? Đức Phật bảo Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ: –Này Đại Tuệ! Các thức sinh, trụ, diệt chẳng phải do suy nghó mà có thể biết được. Này Đại Tuệ! Các thức đều có hai loại sinh, trụ, diệt. Này Đại Tuệ! Các thức có hai loại diệt, một là tướng diệt, hai là tương tục diệt. Này Đại Tuệ! Các thức lại có hai loại trụ, một là tướng trụ, hai là tương tục trụ. Này Đại Tuệ! Các thức lại có hai loại sinh, một là tướng sinh, hai là tương tục sinh. Này Đại Tuệ! Thức có ba loại. Những gì là ba? 1. Chuyển tướng thức. 2. Nghiệp tướng thức. 3. Trí tướng thức. Này Đại Tuệ! Có tám thức mà lược nói thì có hai. Những gì là hai? 1. Liễu biệt thức. 2. Phân biệt sự thức. Này Đại Tuệ! Như thấy các sắc tượng trong gương sáng. Này Đại Tuệ! Liễu biệt thức cũng như vậy, thấy đủ loại cảnh tượng. Này Đại Tuệ! Liễu biệt thức, Phân biệt sự thức, hai thức đó không sai khác mà đắp đổi nhau làm nhân. Này Đại Tuệ! Liễu biệt thức huân tập chẳng thể nghó bàn biến nhân. Này Đại Tuệ! Phân biệt thức là phân biệt, chấp giữ cảnh giới, do từ vô thủy đến nay, huân tập phiền não. Này Đại Tuệ! A-lại-gia thức hư vọng phân biệt, huân tập đủ loại mà diệt thì các căn cũng diệt. Này Đại Tuệ! Đó gọi là tướng diệt. Này Đại Tuệ! Tương tục diệt nghóa là nhân nối tiếp nhau diệt tức là tương tục diệt. Nhân diệt, duyên diệt tức là tương tục diệt. Này Đại Tuệ! Gọi là nương vào pháp, nương vào duyên, nói nương vào pháp nghóa là sự huân tập vọng tưởng phiền não từ vô thủy; nói nương vào duyên nghóa là tự tâm thức thấy cảnh giới phân biệt. Này Đại Tuệ! Ví như cục bùn với bụi trần chẳng phải khác, chẳng phải chẳng khác. Vàng với vật dụng trang sức bằng vàng cũng lại như vậy, chẳng phải khác, chẳng phải chẳng khác. Này Đại Tuệ! Nếu như loại bùn khác thì chẳng phải do bụi trần kia tạo thành mà thật do nó tạo thành. Vậy nên chẳng khác. Nếu chẳng khác thì bùn ấy và bụi trần lẽ ra không sai biệt. Này Đại Tuệ! Như vậy Chuyển thức, A-lê-gia thức nếu tướng khác thì chẳng từ A-lê-gia thức sinh ra, nếu chẳng khác thì Chuyển thức. A-lê-gia thức lẽ ra cũng diệt mà tự tướng A-lê-gia thức chẳng diệt. Vậy nên, này Đại Tuệ! Tự tướng các thức diệt mà tự tướng diệt thì nghiệp tướng diệt. Nếu tự tướng diệt thì A-lê-gia thức phải diệt. Này Đại Tuệ! Nếu A-lê thức diệt thì đây chẳng khác hý luận đoạn kiến của ngoại đạo. Này Đại Tuệ! Những ngoại đạo đó nói như vầy: “Gọi là lìa các cảnh giới thì thức tương tục diệt, thức tương tục diệt rồi tức là diệt các thức. Này Đại Tuệ! Nếu thức tương tục diệt thì từ vô thủy đến nay các thức phải diệt. Này Đại Tuệ! Các ngoại đạo nói các thức tương tục từ người tạo tác sinh ra. Họ chẳng nói thức nương vào mắt, hình sắc, hư không, ánh sáng hòa hợp sinh ra mà nói có người tạo tác. Này Đại Tuệ! Người tạo tác của ngoại đạo là người nào? Là bậc thù thắng, tự tại đối với vi trần… chính là người có khả năng tạo tác. Lại nữa, này Đại Tuệ! Có bảy tự tánh. Những gì là bảy? 1. Tập tánh tự tánh. 2. Tánh tự tánh. 3. Tướng tánh tự tánh. 4. Đại tánh tự tánh. 5. Nhân tánh tự tánh. 6. Duyên tánh tự tánh. 7. Thành tánh tự tánh. Lại nữa, này Đại Tuệ! Có bảy loại Đệ nhất nghóa. Những gì là bảy? 1. Tâm cảnh giới. 2. Trí cảnh giới. 3. Tuệ cảnh giới. 4. Nhị kiến cảnh giới. 5. Quá nhị kiến cảnh giới. 6. Quá Phật tử địa cảnh giới. 7. Nhập Như Lai địa nội hành cảnh giới. Này Đại Tuệ! Đây chính là Tánh tự tánh Đệ nhất nghóa tâm của các Đức Phật Như Lai Ứng Chánh Biến Tri quá khứ, vị lai và hiện tại. Này Đại Tuệ! Nương vào Tánh tự tánh Đệ nhất nghóa tâm này, các Đức Phật Như Lai đạt được sự rốt ráo ở thế gian, xuất thế gian. Từ mắt trí tuệ của chư Phật mà các pháp đồng tướng, khác tướng được kiến lập. Như sự kiến lập này thì chẳng giống với ngoại đạo tà kiến. Này Đại Tuệ! Sao chẳng giống với ngoại đạo tà kiến? Đó là cảnh giới phân biệt tự tâm, vọng tưởng kiến chấp mà chẳng biết rõ tự tâm vọng tưởng kiến chấp. Này Đại Tuệ! Những phàm phu ngu si lấy điều không thật thể làm Đệ nhất nghóa nên nói Nhị kiến luận. Lại nữa, này Đại Tuệ! Nay ông hãy lắng nghe, ta sẽ vì ông giải nói. Hư vọng phân biệt cho là có vật, là đoạn trừ ba khổ. Những gì là ba? Là vô tri, ái nghiệp, nhân duyên diệt, kiến chấp tự tâm như cảnh giới huyễn. Này Đại Tuệ! Các Sa-môn, Bà-la-môn nói như vầy: “Vốn từ vô thủy sinh ra, nương vào nhân quả mà hiện.” Họ lại cho rằng: “Thật có vật tồn tại, nương theo các duyên nên có ấm, giới, nhập, sinh, trụ, diệt. Do sinh thì có diệt.” Này Đại Tuệ! Sa-môn, Bà-la-môn đó nói, thể tương tục vốn có từ vô thủy, hoặc sinh, hoặc diệt, hoặc Niết-bàn, hoặc đạo, hoặc nghiệp, hoặc quả, hoặc đế. Phá hoại các pháp chính là đoạn diệt luận, chẳng phải là lời nói của ta. Vì sao? Vì pháp hiện tại chẳng thể nắm bắt, chẳng thấy căn bản. Này Đại Tuệ! Ví như các bình vỡ thì chẳng có công dụng của bình. Này Đại Tuệ! Ví như giống bị đốt cháy thì chẳng sinh ra mầm… Này Đại Tuệ! Ấm, giới, nhập kia chính là diệt, mà ấm, giới, nhập quá khứ diệt thì ấm, giới, nhập hiện tại, vị lai cũng diệt. Vì sao? Vì nương vào hư vọng, phân biệt, kiến chấp nơi tự tâm. Này Đại Tuệ! Vì không có cái thể tương tục của ấm, giới, nhập kia vậy. Này Đại Tuệ! Nếu vốn từ vô thủy sinh, nương vào ba pháp sinh ra đủ loại thức thì vì sao lông rùa chẳng sinh? Cát chẳng sinh ra dầu? Nghóa quyết định lập ra của ông tức là tự hoại. Ông nói có, không, nói sinh, nhân quả tạo thành cũng hoại. Này Đại Tuệ! Nếu nương vào nhân duyên ba pháp như vậy thì có thể sinh ra tự tướng nhân quả của các pháp, hữu vô quá khứ, hiện tại, vị lai, thí dụ về các tướng và lãnh vực tự giác quán của A-hàm nương vào nhận thức nơi tự tâm mà nói lên chủ thuyết như vậy. Này Đại Tuệ! Phàm phu ngu si cũng lại như vậy, bị sự phá hại của ác kiến, ý mê nơi tà kiến, kẻ vô trí mà hư dối xưng là Nhất thiết trí nói. Này Đại Tuệ! Nếu lại có Sa-môn, Bà-la-môn thấy các pháp lìa khỏi tự tánh như mây, vừng lửa, thành của Kiền-thát-bà chẳng sinh, chẳng diệt, như huyễn, loáng nắng trăng trong nước, như mộng bên trong ngoài tâm nương theo từ đời vô thủy đến nay mà hư vọng phân biệt, hý luận hiện ra, lìa khỏi tự tâm hư vọng phân biệt là có thể thấy nhân duyên, lìa khỏi vọng tưởng Diệt tận để giảng nói giáo pháp, lìa khỏi của cải của tự thân để giữ gìn, sử dụng vào pháp, lìa khỏi A-lê-gia thức chọn lấy cảnh giới tương ứng, vào cảnh giới tịch tónh, lìa khỏi pháp sinh, trụ, diệt. Tư duy, quán sát sự sinh khởi nơi tự tâm như vậy. Này Đại Tuệ! Bồ-tát như vậy chẳng bao lâu sẽ đạt được tâm bình đẳng Niết-bàn ở thế gian. Này Đại Tuệ! Ông dùng phương tiện khéo léo để mở bày phương tiện, quan sát cảnh giới của tất cả chúng sinh đều như huyễn hóa, như hình tượng trong gương, không nhân duyên khởi, xa lìa cảnh bên trong tự tâm thấy cảnh giới bên ngoài, thứ lớp thể nhập vào cõi vô tướng, thứ lớp hội nhập từ địa đến cảnh giới Địa Tam-muội, tin vào sự huyễn hóa tự tâm của ba cõi. Này Đại Tuệ! Người tu hành như vậy sẽ đạt được Tam-muội Như huyễn, vào cảnh giới tịch tónh của tự tâm, đến được cảnh giới bờ kia, lìa khỏi các pháp sinh ra do tạo tác, đạt được Tam-muội Kim cang, thể nhập thân của Như Lai, nhập vào hóa thân của Như Lai, hội nhập những lực thông tự tại đại Từ, đại Bi trang nghiêm thân, đi đến tất cả các cõi Phật, thể nhập tất cả niềm vui của chúng sinh, lìa khỏi cảnh giới của tâm ý và thức chuyển thân đạt được thân vi diệu. Này Đại Tuệ! Các Đại Bồ-tát tu hành như vậy thì nhất định đạt được thân vi diệu Vô thượng của Như Lai. Này Đại Tuệ! Bồ-tát muốn chứng đắc thân Như Lai thì nên xa lìa ấm, giới, nhập vào pháp hòa hợp nhân duyên của tâm, xa lìa hý luận phân biệt hư vọng sinh, trụ, diệt, các pháp chỉ có tâm. Phải biết rõ như vậy, ba cõi từ đời vô thủy đến nay đều do hư vọng phân biệt hý luận mà có, quan sát địa Như Lai tịch tónh chẳng sinh, tiến đến hạnh của bậc Thánh ở nội thân. Này Đại Tuệ! Ông sẽ chẳng bao lâu đạt được hạnh Vô công dụng rốt ráo, tự tại của tâm, như mọi màu sắc theo báu Ma-ni hóa thân đi vào tâm vi tế của chúng sinh. Do vào theo Tâm địa nên khiến cho các chúng sinh thứ lớp nhập vào địa. Vậy nên, này Đại Tuệ! Các Đại Bồ-tát cần phải biết rõ nội pháp tự tu hành của các Bồ-tát. Bấy giờ, Thánh giả Đại Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch: –Nguyện xin Đức Thế Tôn vì các vị Đại Bồ-tát giảng nói về pháp môn “Tâm, ý, ý thức ngũ pháp tự thể tương ứng”, chỗ tu hành của chư Phật, Bồ-tát, xa lìa tà kiến nơi tự tâm hòa hợp với cảnh giới có thể phá tất cả thể tướng ngôn ngữ, thí dụ, tâm nói pháp của tất cả chư Phật vì các Bồ-tát ở thành Lăng-già trên núi Ma-la-gia trong biển lớn, nói lên sự quan sát cảnh giới sóng biển cả A-lê-gia thức, giảng nói giáo pháp về Pháp thân Như Lai. Lúc ấy, Đức Phật bảo Thánh giả Đại Bồ-tát Đại Tuệ: –Này Đại Tuệ! Có bốn nhân duyên mà nhãn thức sinh ra. Những gì là bốn? 1. Chẳng biết trong tự thân chấp cảnh giới. 2. Từ đời vô thủy đến nay hư vọng phân biệt cảnh giới của sắc, huân tập chấp trước hý luận. 3. Thể tự tánh của thức như vậy. 4. Ưa thấy đủ thứ sắc tướng. Này Đại Tuệ! Đó gọi là bốn nhân duyên, đối với biển A-lê-gia thức nổi dậy sóng mạnh, có thể sinh ra chuyển thức. Này Đại Tuệ! Như nhãn thức khởi lên nhận thức thì tất cả lỗ chân lông của các căn đồng thời sinh ra Chuyển thức, như hình tượng trong gương nhiều hay ít đều nhất thời hiện ra. Lại có thứ tùy theo nhân duyên thứ lớp sinh ra, này Đại Tuệ! Giống như gió mạnh thổi biển tâm cảnh mà sóng thức sinh, chẳng đoạn dứt nhân sự tướng, cùng đắp đổi chẳng lìa nhau, nghiệp thể sai khiến, trói buộc nhau, chẳng hiểu biết sắc thể mà năm thức thân chuyển vậy. Này Đại Tuệ! Không xa lìa nhân của năm thức kia và tướng của Liễu biệt thức thì gọi là ý thức, do cùng với nhân ấy luôn vận chuyển. Này Đại Tuệ! Năm thức và tâm thức chẳng khởi ý niệm này: “Ta cùng đắp đổi làm nhân, tự tâm thấy hư vọng phân biệt, chấp lấy các cảnh giới mà thức kia mỗi mỗi đều chẳng khác, cùng nhau hiện cảnh giới phân biệt.” Như vậy thức kia sinh diệt vi tế. Do người tu hành Tam-muội chẳng hiểu, chẳng biết huân tập vi tế mà người tu hành khởi tâm này: “Ta diệt các thức để nhập vào Tam-muội”, mà người tu hành chẳng diệt các thức để nhập vào Tam-muội, này Đại Tuệ! Tâm huân tập chủng tử chẳng diệt, các thức chấp giữ cảnh giới bên ngoài thì diệt. Này Đại Tuệ! Như vậy là sự vận hành của vi tế của A-lê-gia thức, trừ Phật Như Lai và các Đại Bồ-tát nhập Địa, còn các Thanh văn, Bích-chi-phật, người tu hành ngoại đạo khác thì chẳng thể biết, trí lực thể nhập Tam-muội cũng chẳng thể hiểu, vì họ chẳng biết tướng của các Địa, vì chẳng thể biết phương tiện, trí tuệ khéo quyết định sai biệt, vì chẳng thể hiểu sự huân tập các thiện căn của các Đức Phật Như Lai, vì chẳng thể biết tự tâm hiện cảnh giới phân biệt hý luận, vì chẳng thể vào hang động A-lê-gia thức với vố số rừng rậm. Này Đại Tuệ! Chỉ có người tu hành đúng như thật thượng, trung, hạ mới có thể phân biệt thấy Hư vọng kiến chấp trong tự tâm, có thể ở trong vô lượng cõi nước được các Đức Như Lai thọ ký, được vô lượng lực thần thông Tam-muội Tự tại, nương theo Thiện tri thức, quyến thuộc Phật tử mà có thể được thấy cảnh giới tự thể, tự tâm của tâm, ý và thức phân biệt biển lớn sinh tử do nghiệp ái vô trí làm nhân mà có vậy. Này Đại Tuệ! Người tu hành như thật nên tìm kiếm, thân cận Thiện tri thức. Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ: Ví như sóng biển cả Do gió mạnh nổi lên Sóng cả vỗ biển rộng Không có lúc đoạn dừng Lê-gia thức cũng vậy Cảnh giới gió thổi rung Đủ thứ những sóng thức Ào ạt mà chuyển động Xanh, đỏ, muối trắng, sữa Và cả vị ngọt đường Mọi hoa cùng quả trái Như ánh mặt trời, trăng Chẳng khác, chẳng không khác Nước biển dậy sóng lên Bảy thức cũng như vậy Tâm cùng hòa hợp sinh. Ví như nước biển động Đủ làn sóng chuyển thành. Lê-gia thức cũng vậy Đủ các loại thức sinh Tâm, ý và ý thức Vì các tướng nói lên Các thức không khác tướng. Chẳng tướng kiến, sở kiến Ví như sóng nước biển Đều không hề sai biệt Các thức tâm như vậy Khác cũng không thể được Tâm hay nhóm các nghiệp Ý hay quán cảnh chung Thức hay rõ nhận thức Năm thức hiện phân biệt. Lúc ấy, Thánh giả Đại Bồ-tát Đại Tuệ dùng kệ hỏi Đức Phật: Các sắc tướng xanh, đỏ… Nhãn thức thấy như trên Sóng nước, pháp tương đối Vì sao nói như vậy? Bấy giờ, Đức Thế Tôn dùng kệ đáp: Các tạp sắc xanh đỏ Trong sóng đều là không Nói chuyển thức trong tâm Vì tướng phàm phu nói Nghiệp đó đều là không Tự tâm lìa chấp giữ Sở thủ và năng thủ Cùng giống những sóng kia Thân, của cải giữ gìn Chúng sinh chỉ thấy thức Vậy nên hiện Chuyển thức Sóng nước tương tự thức Sóng biển cả rung động Nhấp nhô phân biệt được Vì sao chẳng biết thông Thức A-lê-gia chuyển? Phàm phu không trí tuệ Thức Lê-gia như biển Pháp chuyển động như sóng Vậy nên nói ví dụ. Bấy giờ, Thánh giả Đại Bồ-tát Đại Tuệ lại nói kệ: Mặt trời mọi soi khắp Chúng sinh thượng, trung, hạ Như Lai hiện ở đời Vì phàm phu nói thật Phật được pháp rốt cùng Vì sao chẳng nói thật? Nếu nói pháp chân thật Tâm kia không chân thật Như sóng biển mênh mông Mộng và cảnh trong gương Đồng thời mà được hiện Cảnh giới tâm cũng vậy Cảnh giới chẳng đầy đủ Nên thứ lớp hiện lên Thức nhận biết cái biết Ý là đúng hay sai Năm thức do hiện thấy Trong định không như vậy. Ví như vị họa só Cùng với các đệ tử Vẽ hình tượng đủ màu Ta nói pháp cũng vậy. Sắc màu vốn không nét Chẳng bút cũng chẳng vật Vì chúng sinh nói nên Vẽ đan xen hình tượng. Lời nói lìa chân thật Chân thật lìa danh tự Ta được chỗ chân thật Như thật trong thân biết Lìa tướng giác, sở giác Hiểu như thật nói lên Nói đây vì Phật tử Người ngu phân biệt khác. Mọi thứ như huyễn thôi Chỉ thấy chẳng phải thật Nói các việc như vậy Tùy việc thật chẳng thật Nói lên vì người này Vì người kia chẳng nói Hết thảy những bệnh nhân Lương y tùy cho thuốc Như Lai vì chúng sinh Chỉ nói tâm ứng hợp Vọng tưởng phi cảnh giới Thanh văn chẳng phân biệt Các Như Lai Thế Tôn Nói cảnh giới tự giác. Lại nữa, này Đại Tuệ! Nếu Đại Bồ-tát muốn biết tự tâm lìa khỏi hư vọng phân biệt, tướng cảnh giới năng thủ, sở thủ thì phải lìa khỏi sự náo loạn, lìa khỏi sự che phủ của thùy miên, đầu đêm cuối đêm luôn tự tỉnh thức tu hành phương tiện, lìa khỏi tất cả hý luận của các ngoại đạo, lìa khỏi tướng của thừa Thanh văn, Duyên giác, phải thông đạt tự tâm hiện thấy tướng hư vọng phân biệt. Lại nữa, này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát kiến lập, an trụ tâm tướng trí tuệ thì đối với ba tướng Thượng Thánh trí phải siêng năng tu học. Này Đại Tuệ! Những gì là ba tướng Thượng thánh trí? Đó là tướng Vô sở hữu, tướng tất cả chư Phật tự nguyện trụ trì, tướng nội thân thánh trí tự giác tri. Người tu hành này có thể xả bỏ tướng trí tuệ của con lừa què đạt được ba tướng tu hành của Địa thứ tám Thắng tử. Này Đại Tuệ! Thế nào là tướng Vô sở hữu? Là quan sát tướng của Thanh văn, Duyên giác và ngoại đạo. Này Đại Tuệ? Thế nào là tướng của tất cả chư Phật tự nguyện trụ trì? Nghóa là chư Phật vốn tự tác nguyện trụ trì các pháp. Này Đại Tuệ! Thế nào là tướng nội thân Thánh trí tự giác tri? Tất cả pháp tướng không có sự chấp trước, đạt được thân như huyễn Tam-muội, chỗ các Phật địa tiến đến tu hành. Này Đại Tuệ! Đó gọi là ba tướng Thượng chánh trí. Nếu người thành tựu ba tướng này thì có thể đến cảnh giới thánh trí tự giác. Vậy nên, này Đại Tuệ! Các Đại Bồ-tát cầu ba tướng Thượng thánh trí phải học tập như vậy. Bấy giờ, Thánh giả Đại Tuệ Đại Bồ-tát biết ý niệm trong tâm những chúng Đại Bồ-tát, liền nương lực trụ trì của Đức Phật Như Lai mà hỏi Đức Như Lai về tên gọi của Thể pháp môn thực hành phân biệt về Thánh trí: –Bạch Thế Tôn! Nguyện xin Thế Tôn vì con nói về tên gọi của thể pháp môn thực hành phân biệt về Thánh trí, nương theo một trăm lẻ tám kiến mà phân biệt nói. Đức Như Lai Ứng Chánh Biến Tri nương vào một trăm lẻ tám kiến vì các Đại Bồ-tát phân biệt nói về pháp tự tướng, đồng tướng, vọng tưởng, phân biệt thể tu hành sai biệt: –Này Đại Tuệ! Các Bồ-tát khéo đạt được sự tu hành sai biệt của pháp vọng tưởng phân biệt tự thể này thì có thể thanh tịnh được nhân vô ngã, pháp vô ngã, hiểu rõ được các Địa, vượt qua niềm vui thiền định Tam-ma-bạt-đề của các Thanh văn, Bích-chi-phật đạt được cảnh giới tu hành chẳng thể nghó bàn của các Đức Phật Như Lai, được lìa khỏi tướng hạnh tự thể của năm pháp, nhập vào hạnh chân thật, thể Pháp thân của chư Phật, đạt đến chỗ khéo quyết định của Pháp thân Như Lai, thành tựu cảnh giới như huyễn, tất cả cõi nước, từ trời Đâu-suất đến cõi A-ca-ni-sấc đều được Pháp thân của Như Lai. Đức Phật bảo Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ: –Có một dòng ngoại đạo tà kiến chấp trước “Không vô”, họ vọng tưởng phân biệt nhân của trí có hai: Tự thể và vô thể. Họ phân biệt sừng thỏ không có. Như sừng thỏ không có thì các pháp cũng không có. Này Đại Tuệ! Lại có ngoại đạo khác thấy công đức bốn đại thật có vật. Họ thấy mỗi mỗi vật đều có tướng sai biệt, thật không có sừng thỏ, rồi hư vọng chấp trước vọng tưởng phân biệt thật có sừng trâu. Này Đại Tuệ! Những ngoại đạo đó rơi vào hai kiến chấp, chẳng biết chỉ có tâm, vọng tưởng phân biệt tăng trưởng nơi cảnh giới tự tâm. Này Đại Tuệ! Như thân, của cải, đồ dùng, thế gian… chỉ là sự phân biệt của tâm, chẳng được phân biệt sừng thỏ, lìa khỏi có, không. Này Đại Tuệ! Chẳng phân biệt được tất cả các pháp, lìa khỏi có, không. Này Đại Tuệ! Nếu có người lìa khỏi có không mà nói như vầy: “Không và có là có việc phân biệt có sừng thỏ, chẳng được phân biệt không và có, cho là có sừng thỏ.” Người đó thấy được tướng đại nhân, chẳng được phân biệt không có sừng thỏ. Vì sao? Này Đại Tuệ! Vì cho đến quan sát hạt bụi rất nhỏ cũng chẳng thấy sự thật, lìa khỏi cảnh giới trí tuệ của bậc Thánh, chẳng được phân biệt có sừng trâu! Bấy giờ, Thánh giả Đại Bồ-tát Đại Tuệ bạch: –Bạch Thế Tôn! Phàm phu ngu si chẳng thấy tướng phân biệt mà sánh với trí phân biệt thì người đó thấy không có! Đức Phật bảo Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ: –Này Đại Tuệ! Chẳng phải quan sát tâm phân biệt người đó là không tướng. Vì sao? Vì nương vào tâm hư vọng phân biệt, nương vào sừng mà có tâm phân biệt. Này Đại Tuệ! Nương vào sừng hư vọng mà có tâm phân biệt. Vậy nên, nương vào nhân của sự nương tựa, lìa tướng pháp đối đãi thì chẳng phải thấy pháp không có sừng kia. Này Đại Tuệ! Nếu lìa tâm phân biệt lại có phân biệt thì nên lìa cái có của sừng, chẳng phải nương vào cái có của sừng. Này Đại Tuệ! Nếu chẳng lìa tâm phân biệt đó thì pháp kia thậm chí quan sát bụi trần, chẳng thấy có vật thật. Này Đại Tuệ! Chẳng lìa khỏi tâm thì pháp đó không có; do hai pháp có và không đó chẳng thể nắm bắt. Nếu vậy thì thấy những pháp gì có những pháp gì là không? Này Đại Tuệ! Nếu chẳng thấy có, không như vậy thì chẳng phân biệt được có không. Nghóa này ra sao? Thấy có sừng trâu, thấy không có sừng thỏ, chẳng được phân biệt như vậy. Này Đại Tuệ! Vì nhân chẳng tương tự nên nghóa có, không chẳng thành; vì các ngoại đạo, phàm phu, Thanh văn nói nghóa có, không, cả hai đều chẳng thành. Này Đại Tuệ! Lại có ngoại đạo khác thấy sắc là có, rồi nhân đó vọng tưởng chấp trước hình tướng dài ngắn, thấy hư không không hình tướng giới hạn rõ ràng, thấy các sắc tướng khác với hư không, có giới hạn rõ ràng. Này Đại Tuệ! Hư không tức là sắc, do sắc đại vào hư không, này Đại Tuệ! Sắc tức là hư không, nương pháp này có pháp kia, nương pháp kia có pháp này. Do nương sắc phân biệt hư không, nương hư không phân biệt sắc vậy. Này Đại Tuệ! Bốn Đại chủng sinh ra tự tướng đều riêng biệt, chẳng trụ ở hư không mà trong bốn Đại chẳng phải không có hư không. Này Đại Tuệ! Sừng thỏ cũng như vậy, nhân có sừng trâu mà nói không có sừng thỏ. Này Đại Tuệ! Lại nữa, đem sừng trâu đó chặt nát thành bụi trần thì phân biệt tướng bụi trần chẳng thể thấy được tất cả những gì là pháp có, tất cả những gì là pháp không nói là có hay là không? Nếu quan sát như vậy thì những pháp khác cũng vậy. Bấy giờ, Đức Phật bảo Thánh giả Đại Bồ-tát Đại Tuệ: –Này Đại Tuệ! Ông hãy nên lìa sừng thỏ, sừng trâu, hư không, sắc vọng tưởng, kiến chấp khác… Này Đại Tuệ! Ông cũng nên vì các Bồ-tát nói lìa tướng sừng thỏ… Này Đại Tuệ! Ông nên biết tướng hư vọng phân biệt kiến chấp của tự tâm. Này Đại Tuệ! Ông nên ở trong cõi nước chư Phật, vì các Phật tử mà nói tất cả cảnh giới hư vọng của tự tâm đang thấy. Lúc ấy, Đức Thế Tôn lại nói: Sắc chẳng ở trong tâm Tâm nương cảnh thấy có Trong thức thấy chúng sinh Thân, của cải, trụ xứ Tâm, ý, cùng ý thức Tự tánh và năm pháp Hai vô ngã thanh tịnh Như Lai nói như vậy Dài, ngắn và có, không… Hỗ tương sinh đắp đổi Do có nên thành không Do không nên thành có Phân biệt thể bụi trần Chẳng khởi vọng tưởng sắc Chỉ chỗ an trụ tâm Ác kiến chẳng thể tịnh Chẳng cảnh trí vọng tưởng Thanh văn chẳng biết thông Lời nói của Thế Tôn Cảnh giới của tự giác. Bấy giờ, Thánh giả Đại Bồ-tát Đại Tuệ vì tự tâm thanh tịnh đang tuôn chảy, lại thỉnh Đức Như Lai: –Bạch Thế Tôn! Làm sao khiến tự tâm thanh tịnh đang tuôn chảy? Là thanh tịnh theo thứ lớp hay cùng một lúc vậy? Đức Phật bảo Thánh giả Đại Bồ-tát Đại Tuệ: –Này Đại Tuệ! Tự tâm thanh tịnh đang tuôn chảy, thứ lớp trở nên thanh tịnh, chẳng phải là cùng một lúc. Này Đại Tuệ! Ví như trái Am-ma-la chín dần dần, chẳng phải cùng một lúc. Này Đại Tuệ! Chúng sinh tự tâm thanh tịnh đang tuôn chảy cũng lại như vậy, thanh tịnh dần dần chẳng phải cùng một lúc. Ví như người thợ gốm làm những đồ dùng, dần dần thành tựu chẳng phải cùng một lúc. Này Đại Tuệ! Các Đức Phật Như Lai làm thanh tịnh tự tâm các chúng sinh đang tuôn chảy cũng lại như vậy, dần dần mà thanh tịnh, chẳng phải thanh tịnh cùng lúc. Này Đại Tuệ! Ví như đại địa sinh ra những rừng cây, dược thảo, muôn vật… tăng trưởng dần dần, chẳng phải một lúc mà thành. Này Đại Tuệ! Các Đức Phật Như Lai làm thanh tịnh tự tâm các chúng sinh đang tuôn chảy cũng lại như vậy, dần dần thanh tịnh, chẳng phải thanh tịnh cùng một lúc. Này Đại Tuệ! Ví như có người học các âm nhạc, ca múa, thư họa, đủ thứ kỹ thuật cứ dần dần mà hiểu được, chẳng phải biết cùng một lúc. Này Đại Tuệ! Các Đức Phật Như Lai làm thanh tịnh tự tâm các chúng sinh đang tuôn chảy cũng lại như vậy, dần dần thanh tịnh, chẳng phải thanh tịnh cùng một lúc. Này Đại Tuệ! Ví như gương sáng không có tâm phân biệt, tất cả sắc tượng đều hiện lên cùng lúc. Đức Như Lai Thế Tôn cũng lại như vậy, không có phân biệt thanh tịnh tự tâm các chúng sinh đang tuôn chảy, làm thanh tịnh cùng một lúc, chẳng phải thanh tịnh dần dần, khiến cho họ trụ ở chỗ tịch tónh không phân biệt. Này Đại Tuệ! Ví như ánh sáng của vầng mặt trời, mặt trăng cùng một lúc soi khắp tất cả sắc lượng, chẳng phải là trước hay sau. Này Đại Tuệ! Đức Như Lai Thế Tôn cũng lại như vậy, vì khiến cho chúng sinh lìa khỏi não tự tâm, thấy lỗi lầm của tập khí chứa nhóm nên cùng một lúc, thị hiện cảnh giới trí tối thắng chẳng thể nghó bàn. Này Đại Tuệ! Ví như A-lê-gia thức phân biệt cảnh hiện tại nơi tư thân, tài sản, thế gian… thì biết cùng lúc, chẳng phải là trước hay sau. Này Đại Tuệ! Báo thân Phật Như Lai cũng lại như vậy, thành tựu các cõi chúng sinh, cùng lúc đưa đến cung điện thanh tịnh vi diệu của trời Cứu Cánh, chỗ tu hành thanh tịnh. Này Đại Tuệ! Ví như Phật pháp, Báo thân Phật phóng ra những ánh sáng có Ứng và Hóa thân Phật chiếu soi các thế gian. Này Đại Tuệ! Pháp thể ánh sáng của nội thân Thánh hạnh chiếu soi diệt trừ tà kiến, hữu vô của thế gian cũng lại như vậy. Lại nữa, này Đại Tuệ! Pháp Phật mà báo thân Phật nói, tự tướng tất cả pháp là đồng tướng, do tự tâm hiện thấy tướng huân tập, do hư vọng phân biệt hý luận trói buộc nhau. Như đã nói, pháp không có thể như vậy. Này Đại Tuệ! Như nhà ảo thuật biến hóa tất cả đủ thứ hình tượng. Những người ngu si lấy đó làm thật mà những hình tượng đó thật ra chẳng thể thật được. Lại nữa, này Đại Tuệ! Pháp thể hư vọng nương vào pháp nhân duyên, chấp trước là thật có, do phân biệt sinh ra. Này Đại Tuệ! Như nhà ảo thuật giỏi nương vào cỏ cây gạch đá tạo ra vô số việc, nương vào chú thuật, sức nhân công thành tựu tướng tất cả chúng sinh với hình sắc và thân phận, gọi là hình dáng người huyễn. Chúng sinh thấy đủ thứ hình sắc huyễn mà chấp trước là người nhưng thật ra không có người. Này Đại Tuệ! Chúng sinh tuy thấy đó là người nhưng không thật thể là người. Này Đại Tuệ! Nhân duyên pháp thể theo tâm phân biệt cũng lại như vậy, do thấy tâm tướng đủ thứ huyễn. Vì sao? Vì do chấp trước tướng hư vọng, do huân tập tâm phân biệt. Này Đại Tuệ! Đó gọi là thể tướng của hư vọng phân biệt. Này Đại Tuệ! Đó gọi là tướng báo thân Phật nói pháp. Này Đại Tuệ! Pháp Phật nói pháp là lìa tâm thể tương ứng, cảnh giới nội chứng thánh hạnh. Này Đại Tuệ! Đó gọi là tướng Pháp Phật nói pháp. Này Đại Tuệ! Ứng và Hóa thân của Phật tạo ra ứng thân Phật giảng nói: Thí, giới, nhẫn, tinh tấn, thiền định, trí tuệ, ấm, giới, nhập, giải thoát, kiến lập thức, tưởng, hạnh sai biệt, nói tướng thứ lớp vô sắc Tam-ma-bạt-đề của các ngoại đạo. Này Đại Tuệ! Đó gọi là Ứng thân Phật tạo ra ứng thân Phật nói pháp tướng. Lại nữa, này Đại Tuệ! Pháp Phật nói pháp là lìa khỏi nắm bắt vào duyên, lìa khỏi năng quán, sở quán, lìa khỏi sở tác tướng, lượng tướng. Này Đại Tuệ! Chẳng phải cảnh giới của các phàm phu, Thanh văn, Duyên giác, ngoại đạo, vì các ngoại đạo chấp trước hư vọng, ngã tướng. Vậy nên, này Đại Tuệ! Như vậy, nội thân tự giác tu hành thắng tướng thì nên học như vậy. Này Đại Tuệ! Ông nên lìa khỏi tướng chấp tự tâm, vì chúng chẳng phải thật. Lại nữa, này Đại Tuệ! Thanh văn thừa có hai tướng sai biệt. Đó là ở nội thân chứng được Thánh tướng, chấp trước tướng hư vọng phân biệt có vật. Này Đại Tuệ! Thế nào là nội thân Thanh văn chứng được Thánh tướng? Là gọi cảnh giới vô thường, khổ, không, vô ngã vậy, là chân đế, ly dục, tịch tónh, là ấm, giới, nhập, tự tướng, đồng tướng, tướng nội ngoại bất diệt, thấy pháp như thật, đạt được tâm Tam-muội, được tâm Tam-muội rồi, đạt được thiền định giải thoát Tam-muội, đạo quả Tam-ma-bạt-đề bất thoát giải thoát, lìa khỏi huân tập biến dịch sinh tử chẳng thể nghó bàn, nội thân chứng được pháp Thánh lạc hạnh, trụ ở địa Thanh văn. Này Đại Tuệ! Đó gọi là Thanh văn nội thân chứng đắc Thánh tướng. Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát nhập vào pháp lạc Tam-muội nội chứng Thánh hạnh của các Thanh văn mà chẳng thủ chấp niềm vui Tịch diệt không môn, chẳng nắm giữ niềm vui Tam-ma-bạt-đề, do thương xót chúng sinh nên khởi phát lực hạnh bản nguyện. Vậy nên, Bồ-tát tuy biết nhưng chẳng chấp, cho là cứu cánh. Này Đại Tuệ! Đó gọi là Thanh văn nội thân chứng thánh, tu hành tướng an lạc. Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát nên tu hành nội thân chứng Thánh tu hành pháp môn an lạc mà chẳng nắm giữ. Này Đại Tuệ! Những gì là Thanh văn phân biệt có vật, chấp trước tướng hư vọng? Là gọi tướng cứng, ướt, nóng, động của bốn Đại, tướng xanh, vàng, đỏ, trắng,… không có người tạo tác mà có sinh ra tự tướng, đồng tướng, đo lường, tương ứng với A-hàm hơn trước thấy khéo nói vậy. Nương vào pháp đó mà hư vọng chấp trước, cho là thật có. Này Đại Tuệ! Đó gọi là Thanh văn phân biệt có vật, chấp trước tướng hư vọng. Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát đối với pháp Thanh văn đó nên biết mà xả bỏ, xả bỏ rồi thể nhập tướng pháp vô ngã. Nhập vào tướng pháp vô ngã rồi, hội nhập nhân vô ngã. Quan sát tướng vô ngã rồi, thứ lớp nhập vào các Địa. Này Đại Tuệ! Đó gọi là Thanh văn phân biệt có vật, chấp trước tướng hư vọng. Này Đại Tuệ! Gọi là thừa Thanh văn có hai tướng thì ta đã nói xong. Bấy giờ, Thánh giả Đại Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch: –Bạch Thế Tôn! Lời nói của Đức Thế Tôn pháp thường chẳng thể nghó bàn, pháp nội thân chứng của bậc cảnh giới Thánh, pháp thứ nhất đã nói ở trước. Bạch Thế Tôn! Ngoại đạo cũng nói nhân quả thường chẳng thể nghó bàn. Nghóa này là sao? Đức Phật bảo Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ: –Này Đại Tuệ! Các ngoại đạo nói nhân quả thường chẳng thể nghó bàn thì chẳng thành. Vì sao? Này Đại Tuệ! Các ngoại đạo nói thường chẳng thể nghó bàn, chẳng phải nhân tự tướng tương ứng. Này Đại Tuệ! Các ngoại đạo nói thường chẳng thể nghó bàn mà nếu nhân tự tướng tương ứng thì đây là những pháp gì? Những pháp gì tỏ rõ hiện bày? Vậy nên ngoại đạo chẳng được nói Thường chẳng thể nghó bàn. Lại nữa, này Đại Tuệ! Các ngoại đạo nói Thường chẳng thể nghó bàn, nếu nhân tự tướng tương ứng thì ứng thành vô thường chẳng thể nghó bàn do có tướng của nhân. Vậy nên chẳng thành Thường chẳng thể nhiều nghó bàn. Này Đại Tuệ! Ta nói Thường chẳng thể nghó bàn là Đệ nhất nghóa. Thường chẳng thể nghó bàn cùng tướng Đệ nhất nghóa tương ứng nhân quả vì lìa khỏi hữu vô, vì tướng nội thân chứng đắc, vì có tướng đó, vì nhân tướng của Đệ nhất nghóa trí tương ứng, vì lìa khỏi có không, vì chẳng phải tạo tác mà cùng tương ứng với hư không Niết-bàn tịch diệt thí dụ. Vậy nên, thường chẳng thể nghó bàn. Vậy nên, này Đại Tuệ! Ta nói Thường chẳng thể nghó bàn chẳng đồng với luận Thường chẳng thể nghó bàn của ngoại đạo. Này Đại Tuệ! Thường này chẳng thể nghó bàn, các Đức Phật Như Lai Ứng Chánh Biến Tri quả thật là pháp thường vì Thánh trí của chư Phật do nội thân chứng được, chẳng phải cảnh giới của tâm, ý và ý thức. Vậy nên, này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát nên phải tu hành Thường chẳng thể nghó bàn, thánh trí hành pháp chứng đắc của nội thân. Lại nữa, này Đại Tuệ! Thường chẳng thể nghó bàn của các ngoại đạo là nhân tương ứng với tướng pháp vô thường. Vậy nên, nó là vô thường, chẳng phải nhân vào tướng mà được danh xưng. Vậy nên, pháp Thường chẳng thể nghó bàn. Này Đại Tuệ! Nếu Thường chẳng thể nghó bàn của những ngoại đạo thấy pháp có, không mà nói là thường, do pháp đó Tỷ trí biết được nên nói rằng có Thường. Này Đại Tuệ! Ta cũng như vậy, liền nhân pháp này mà tạo ra cái thấy có, không, vô thường ứng với thường. Vì sao? Vì không có nhân. Lại nữa, này Đại Tuệ! Các ngoại đạo nói, nếu nhân tướng tương ứng thành Thường chẳng thể nghó bàn, mà do ngoại đạo kia nói, nhân tự tướng có không thì đồng với sừng thỏ. Này Đại Tuệ! Thường này chẳng thể nghó bàn chỉ là các ngoại đạo… hư vọng phân biệt. Vì sao? Vì do không có sừng thỏ mà chỉ hư vọng phân biệt không có tướng tự nhân vậy. Này Đại Tuệ! Thường chẳng thể nghó bàn của ta chỉ là nội chứng nhân của tướng, lìa khỏi pháp tạo tác hữu vô. Vậy nên thường chẳng thể nghó bàn, do không có tướng bên ngoài tương ứng với pháp thường. Này Đại Tuệ! Các ngoại đạo… thấy không có tướng bên ngoài, do tỷ trí biết thường chẳng thể nghó bàn lấy làm thường thì ngoại đạo… kia chẳng biết thường chẳng thể nghó bàn! Tướng nhân của mình và tướng nhân của người do tướng cảnh giới nội thân chứng thánh trí. Này Đại Tuệ! Những ngoại đạo kia đối với pháp của ta chẳng nên vì họ mà nói. Lại nữa, này Đại Tuệ! Các Thanh văn, Bích-chi-phật sợ khổ sinh tử, vọng tưởng mà cầu Niết-bàn, chẳng biết thế gian và Niết-bàn không có sai biệt. Họ phân biệt tất cả pháp cùng phi pháp mà diệt hết các căn, chẳng thủ chấp cảnh giới vị lai mà hư vọng chấp giữ làm Niết-bàn, chẳng biết pháp tu hành nội thân chứng, đắc chẳng biết do A-lê-gia thức chuyển vậy. Này Đại Tuệ! Vậy nên, những người ngu đó nói có pháp ba thừa mà chẳng thể biết chỉ tâm tưởng vắng lặng thì đạt được pháp tịch diệt. Vậy nên, kẻ ngu thiếu trí tuệ đó chẳng biết các Đức Phật Như Lai Ứng Chánh Biến Tri quá khứ, vị lai và hiện tại thấy cảnh giới tự tâm, mà chấp trước cảnh giới bên ngoài tâm. Vậy nên, này Đại Tuệ! Người ngu si đó ở trong vòng sinh tử của thế gian, luôn xoay chuyển chẳng trụ. Lại nữa, này Đại Tuệ! Tất cả các Đức Phật quá khứ, vị lai, hiện tại đều nói các pháp chẳng sinh. Vì sao? Vì là tự tâm thấy pháp có, không. Nếu lìa khỏi có, không thì các pháp chẳng sinh. Vậy nên, này Đại Tuệ! Tất cả pháp chẳng sinh. Này Đại Tuệ! Tất cả pháp như sừng thỏ, sừng lừa, sừng lạc đà… Này Đại Tuệ! Kẻ phàm phu ngu si do vọng tưởng phân biệt mà phân biệt các pháp. Vậy nên, tất cả các pháp chẳng sinh. Này Đại Tuệ! Tướng tự thể của tất cả các pháp chẳng sinh, là nội thân chứng cảnh giới Thánh trí, chẳng phải là tự thể phân biệt hai cảnh giới của các phàm phu vậy. Này Đại Tuệ! Chính là A-lê-gia thức! Tướng tự thể của thân, tài sản, thế gian, đến đi thấy sự chuyển biến của năng thủ và sở thủ. Các phàm phu rơi vào sinh, trụ, diệt và hai tướng của tâm nên phân biệt các pháp, sinh ra có, không. Này Đại Tuệ! Ông nên biết pháp như vậy. Lại nữa, này Đại Tuệ! Ta nói về tánh chứng pháp của năm thừa. Những gì là năm? 1. Tánh chứng pháp của thừa Thanh văn. 2. Tánh chứng pháp của Bích-chi-phật. 3. Tánh chứng pháp của thừa Như Lai. 4. Tánh chứng pháp của thừa Bất định. 5. Tánh chứng pháp của không. Này Đại Tuệ! Tánh chứng pháp của thừa Thanh văn là gì? Nghóa là, nói pháp ấm, giới, nhập, nói pháp tự tướng, đồng tướng chứng trí, khắp các lỗ chân lông của thân đó vui vẻ hân hoan, ưa tu tướng trí, chẳng tu tướng “nhân duyên Bất tương ly”. Này Đại Tuệ! Đó gọi là tính chứng pháp của thừa Thanh văn. Trí biết tà kiến của hàng Thanh văn đó lìa khỏi sự sinh khởi phiền não thô, chẳng lìa khỏi phiền não của vô minh huân tập, thấy tướng chứng đắc của thân mình, gọi là lìa khỏi các phiền não trong Sơ địa cho đến Ngũ địa, Lục địa. Tuy việc xa lìa giống nhau, nhưng do huân tập vô minh phiền não, nên bị rơi vào Biến dịch tử chẳng thể nghó bàn, rồi nói: “Sinh tử của ta đã hết, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, chẳng còn thọ thân sau… như vậy… ta được thể nhập vào nhân vô ngã.” Cho đến họ phát sinh tâm cho là đã được Niết-bàn. Này Đại Tuệ! Lại có ngoại đạo khác cầu chứng Niết-bàn mà nói rằng: “Biết rõ ngã, nhân, chúng sinh, thọ mạng, tác giả, thọ giả, trượng phu thì đó là Niết-bàn.” Này Đại Tuệ! Lại có ngoại đạo khác thấy tất cả các pháp nương vào nhân mà có nên sinh khởi tâm Niết-bàn. Này Đại Tuệ! Những ngoại đạo đó không đạt được Niết-bàn giải thoát do chẳng thấy pháp vô ngã. Này Đại Tuệ! Đó gọi là tính ngoại đạo của thừa Thanh văn, ở chỗ chẳng phải xa lìa mà sinh ra tư tưởng xa lìa. Này Đại Tuệ! Ông nên chuyển tà kiến này mà tu hành hạnh như thật. Này Đại Tuệ! Tánh chứng pháp của thừa Bích-chi-phật là gì? Nghóa là, nghe giảng nói nhân duyên mà giác ngộ chứng pháp, toàn thân sởn gai ốc, buồn khóc rơi nước mắt, chẳng ưa nơi ồn ào. Quan sát các pháp nhân duyên, chẳng chấp trước các pháp nhân duyên, nghe nói đủ loại thần thông của tự thân, hoặc lìa hoặc hợp đủ loại biến hóa, tâm ấy theo đó mà thể nhập. Này Đại Tuệ! Đó gọi là tính chứng pháp của Thừa Duyên giác. Ông hãy nên biết thuận theo lời nói của Duyên giác! Này Đại Tuệ! Tính chứng pháp của thừa Như Lai là gì? Này Đại Tuệ! Tánh chứng pháp của thừa Như Lai có bốn loại. Những gì là bốn? 1. Chứng tánh của pháp chân thật. 2. Lìa pháp chân thật để chứng tánh. 3. tự thân chứng đắc tánh Thánh trí. 4. Chứng được pháp tánh thù thắng vi diệu trang nghiêm nơi các cõi nước bên ngoài. Này Đại Tuệ! Nếu khi nghe nói mỗi một pháp này mà chỉ có tâm A-lê-gia thấy của cải nương tựa bên ngoài thân, hay cảnh giới khí thế gian chẳng thể nghó bàn mà chẳng kinh sợ, chẳng lo buồn, thì này Đại Tuệ! Ông nên biết người đó chứng tánh Như Lai thừa. Này Đại Tuệ! Đó gọi là tướng của người có tánh chứng pháp của Như Lai thừa. Này Đại Tuệ! Tánh chứng pháp của thừa Bất định là gì? Này Đại Tuệ! Nếu người nghe ba pháp này mà ở trong mỗi một pháp có được niềm vui thì thuận theo vì họ nói. Này Đại Tuệ! Nói ba thừa là vì phát khởi Địa tu hành. Nói các tánh sai biệt chẳng phải Địa cứu cánh. Vì muốn kiến lập rốt ráo có thể nắm giữ Địa tịch tónh. Này Đại Tuệ! Ba hạng người đó lìa khỏi phiền não chướng, huân tập đạt được thanh tịnh, thấy pháp vô ngã, được Tam-muội lạc hạnh, Thanh văn, Duyên giác đều rốt ráo chứng được Pháp thân của Như Lai. Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ: Nghịch Lưu tu vô lậu Vãng lai và Bất hoàn Ứng Cúng, A-la-hán Những tâm đó mê hoặc Ta nói đủ ba thừa Một thừa, chẳng có thừa Các Thánh hiểu như thật Phàm phu chẳng biết thông Pháp môn Đệ nhất nghóa Xa lìa khỏi hai giáo Kiến lập cả ba thừa Vì trụ chỗ tịch tónh Các thiền và Vô lượng Tam-ma-đề Vô sắc Vô tưởng định, Diệt tận Trong tâm cũng đều Không. Này Đại Tuệ! Thừa Vô tánh là gì? Nghóa là Nhất-xiển-đề. Này Đại Tuệ! Nhất-xiển-đề thì không có tánh Niết-bàn. Vì sao? Vì ở trong giải thoát, Nhất-xiển-đề chẳng sinh ra tín tâm, chẳng nhập vào Niết-bàn. Này Đại Tuệ! Nhất-xiển-đề thì có hai loại. Những gì là hai? 1. Thiêu đốt tất cả căn lành. 2. Thương xót tất cả chúng sinh mà phát nguyện độ hết tất cả chúng sinh trong các cõi. Này Đại Tuệ! Sao gọi là thiêu đốt tất cả thiện căn? Nghóa là chê bai tạng Bồ-tát mà nói như vầy: “Những người đó chẳng thuận theo kinh, luật giải thoát mà nói, xả bỏ các thiện căn.” Vậy nên chẳng đạt được Niết-bàn. Này Đại Tuệ! Thương xót chúng sinh mà phát nguyện độ hết cõi chúng sinh thì đó là Bồ-tát. Này Đại Tuệ! Bồ-tát phương tiện khởi nguyện rằng: “Nếu các chúng sinh chẳng vào Niết-bàn thì ta cũng chẳng vào Niết-bàn.” Vậy nên Đại Bồ-tát chẳng vào Niết-bàn. Này Đại Tuệ! Đó gọi là hai hạng Nhất-xiển-đề không có tánh Niết-bàn. Do nghóa này nên quyết định chấp giữ hạnh Nhất-xiển-đề. Bồ-tát Đại Tuệ bạch: –Bạch Thế Tôn! Hai hạng Nhất-xiển-đề này thì những Nhất-xiển-đề nào thường chẳng vào Niết-bàn? Đức Phật bảo Đại Bồ-tát Đại Tuệ: –Nhất-xiển-đề thường chẳng vào Niết-bàn. Vì sao? Vì có thể biết rõ tất cả các pháp vốn là Niết-bàn. Vậy nên chẳng vào Niết-bàn, chẳng phải hạng xiển-đề xả bỏ tất cả thiện căn. Vì sao? Này Đại Tuệ! Vì người đó là xiển-đề xả bỏ ta thiện căn, nếu gặp các Đức Phật, Thiện tri thức… liền phát tâm Bồ-đề, sinh ra các thiện căn thì chứng đắc Niết-bàn. Vì sao? Này Đại Tuệ! Vì các Đức Phật Như Lai chẳng bỏ tất cả chúng sinh. Vậy nên, này Đại Tuệ! Bồ-tát Nhất-xiển-đề thường chẳng vào Niết-bàn. KINH NHẬP LĂNG-GIÀ <卷 id="118149471">QUYỂN 3 <詞 id="118149472">Phẩm 3: TẬP hợp TẤT CẢ PHÁP PHẬT (Phần 2) Lại nữa, này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát phải biết rõ ba pháp tướng tự thể. Này Đại Tuệ! Những gì là ba pháp tướng tự thể? 1. Tướng hư vọng phân biệt danh tự. 2. Tướng nhân duyên pháp thể tự tướng. 3. Tướng Đệ nhất nghóa đế pháp thể. Này Đại Tuệ! Tướng hư vọng phân biệt danh tự là gì? Nghóa là từ danh tự mà hư vọng phân biệt tướng tất cả pháp. Đó gọi là tướng hư vọng phân biệt danh tự. Này Đại Tuệ! Tướng nhân duyên pháp thể tự tướng là gì? Này Đại Tuệ! Nhân duyên pháp thể tự tướng tướng là từ cảnh giới sinh ra sự việc. Này Đại Tuệ! Nhân duyên sự tướng cảnh giới của pháp thể mà các Đức Phật Như Lai Ứng Chánh Biến Tri nói là hư vọng phân biệt, có hai loại khác nhau. Những gì là hai? 1. Vọng chấp danh tự hý luận phân biệt. 2. Vọng chấp tướng danh tự phân biệt sự tướng của tướng cảnh giới. Này Đại Tuệ! Vọng chấp tướng danh tự, sự tướng của tướng cảnh giới là gì? Tức là trong ngoài pháp đó tự tướng đồng tướng. Này Đại Tuệ! Đó gọi là nhân duyên pháp thể. Hai tướng tự tướng do nương vào pháp đó để quan sát pháp đó sinh ra. Này Đại Tuệ! Đó gọi là tướng Nhân duyên pháp thể tự tướng. Này Đại Tuệ! Tướng Đệ nhất nghóa đế pháp thể là gì? Nghóa là, các Đức Như Lai lìa khỏi tướng danh tự, tướng cảnh giới, tướng sự tướng, dùng trí bậc Thánh để tu hành cảnh giới hành xứ. Này Đại Tuệ! Đó gọi là tướng Đệ nhất nghóa đế, tâm của chư Phật Như Lai tạng. Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ: Việc phân biệt, danh, tướng. Và pháp có hai tướng. Trí chánh diệu Chân như Là tướng Đệ nhất nghóa. Này Đại Tuệ! Đó gọi là pháp môn quan sát-năm pháp tự tướng là tướng các Đức Phật, Bồ-tát tu hành cảnh giới nội chứng. Ông và các Bồ-tát nên học như vậy. Lại nữa, này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát cần phải quan sát khéo léo hai tướng vô ngã. Này Đại Tuệ! Những gì là hai? 1. Nhân vô ngã trí. 2. Pháp vô ngã trí. Sao gọi là nhân vô ngã trí? Nghóa là lìa khỏi sự chứa nhóm ngã, ngã sở, ấm, giới, nhập cùng vô trí, nghiệp, ái, sinh. Nương vào mắt, sắc… hư vọng, chấp trước, tự tâm hiện thấy tất cả các căn, đồ dùng, thân, nhà cửa… phân biệt về tự tâm phân biệt, phân biệt về nhận thức phân biệt như dòng sông chảy, chủng tử (hạt giống), đèn, ngọn lửa, gió, mây… từng niệm từng niệm đắp đổi trước sau sai khác, chuyển động vội vàng như khỉ vượn, như ruồi nhặng… ưa thích nơi cảnh giới bất tịnh, không biết nhàm chán như lửa. Nhân huân tập cảnh giới hý luận từ vô thủy đến nay giống như cơ quan con lăn bánh xe. Ở trong ba cõi sinh ra đủ thứ sắc, đủ loại thân như huyễn hóa khởi lên hão huyền. Này Đại Tuệ! Như vậy quan sát, tướng các pháp bằng trí phương tiện khéo léo, đó gọi là biết rõ tướng cảnh giới trí của nhân vô ngã. Này Đại Tuệ! Pháp vô ngã trí là gì? Nghóa là, như thật phân biệt tướng ấm, giới, nhập. Này Đại Tuệ! Bồ-tát quan sát ấm, giới, nhập… vô ngã, ngã sở. Chứa nhóm ấm, giới, nhập nhân sợi dây nghiệp ái đắp đổi, trói buộc nhau, do nhân duyên sinh ra nên không có ngã, không có người tạo tác. Này Đại Tuệ! Ấm, giới, nhập… lìa khỏi tướng đồng, tướng khác, nương vào tướng chẳng thật mà hân biệt được danh. Phàm phu ngu si vọng tưởng phân biệt cho là có, chẳng phải người thật chứng thấy mà cho là có. Này Đại Tuệ! Bồ-tát quan sát tâm, ý, ý thức, như vậy thể tướng năm pháp, tất cả lìa khỏi nên các nhân duyên không. Đó gọi là biết rõ tướng cảnh giới trí vô ngã của các pháp. Này Đại Tuệ! Bồ-tát biết rõ các pháp vô ngã rồi, quan sát Chân Như, tu hạnh tịch tónh, chẳng bao lâu sẽ được địa Hoan hỷ đầu tiên, có thể quan sát khéo léo địa Hoan hỷ rồi, như vậy các Địa theo thứ lớp hoán chuyển sáng tỏ, cho đến chứng được địa Pháp vân. Bồ-tát trụ ở địa Pháp vân đó rồi, vô lượng loại báu xen lẫn trang nghiêm, rồi cảnh giới huyễn của nghiệp sinh ra cung điện báu lớn với vương tòa hoa sen lớn như thật mà ngồi lên trên tòa ấy, tất cả Phật tử đồng hạnh… cung kính vây quanh, được các Đức Phật mười phương đưa tay xoa đỉnh đầu trao cho quả vị Phật, như vua Chuyển luân làm lễ quán đảnh thái tử, qua khỏi địa vị Phật tử. Qua khỏi địa vị Phật tử rồi, quan sát các Phật pháp, đúng như thật tu hành, ở trong các pháp mà được tự tại. Được tự tại rồi gọi là chứng được Pháp thân Vô thượng của Như Lai vì thấy pháp vô ngã vậy. Này Đại Tuệ! Đó gọi là tướng như thật của pháp vô ngã. Này Đại Tuệ! Ông và các Bồ-tát nên học như vậy. Lúc ấy, Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch: –Bạch Thế Tôn! Tướng phỉ báng có không, nguyện xin Thế Tôn vì con giảng nói. Bạch Thế Tôn! Con và các Đại Bồ-tát nếu được nghe thì lìa khỏi tà kiến có không, mau chóng đạt được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác rồi, lìa khỏi sự kiến lập tà kiến đoạn thường và liền có thể kiến lập chánh pháp của chư Phật. Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nhận lời thỉnh của Thánh giả Đại Bồ-tát Đại Tuệ liền nói kệ: Trong tâm không đoạn, thường Thân, của cải, trụ xứ… Chỉ tâm thiếu trí tuệ Không vật mà thấy có. Bấy giờ, Đức Thế Tôn, đối với ý nghóa kệ này, lại một lần nữa tuyên nói với Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ: –Này Đại Tuệ! Có bốn tướng kiến lập phủ định. Những gì là bốn? 1. Tướng kiến lập chẳng phải có. 2. Tướng kiến lập chẳng phải chánh kiến. 3. Tướng kiến lập chẳng phải có nhân. 4. Tướng kiến lập chẳng phải có thể. Này Đại Tuệ! Đó gọi là bốn loại kiến lập. Này Đại Tuệ! Tướng phủ tịnh là gì? Này Đại Tuệ! Quán sát tự kiến lập pháp của tà kiến chẳng thấy thật tướng liền phủ nhận các pháp mà nói rằng, tất cả đều không. Này Đại Tuệ! Đó gọi là tướng kiến lập phủ định. Lại nữa, này Đại Tuệ! Tướng kiến lập chẳng phải có là gì? Là phân biệt ấm, giới, nhập chẳng phải pháp có. Từ vô thủy đến nay hý luận chẳng phải thật có mà chấp trước tướng đồng, tướng khác. Pháp nào như vậy, như vậy… rốt ráo chẳng khác. Này Đại Tuệ! Nương vào phiền não huân tập từ vô lượng đời đến này mà chấp trước khởi lên. Này Đại Tuệ! Đó gọi là tướng kiến lập chẳng phải có. Này Đại Tuệ! Tướng kiến lập chẳng phải chánh kiến là gì? Này Đại Tuệ! Trong ấm, giới, nhập kia không có ngã, nhân, chúng sinh, thọ mạng, tác giả, thọ giả mà kiến lập tà kiến gọi là có ngã, nhân… Này Đại Tuệ! Đó gọi là tướng kiến lập chẳng phải chánh kiến. Này Đại Tuệ! Tướng kiến lập chẳng phải có nhân là gì? Là thức ban đầu chẳng từ nhân sinh ra, vốn chẳng sinh mà thời gian sinh ra như huyễn hóa, vốn không nương vào vật mà có, nương vào mắt, hình sắc, ánh sáng, ý niệm nên sinh ra thức, sinh ra rồi trở lại diệt đi. Này Đại Tuệ! Đó gọi là tướng kiến lập chẳng phải có nhân. Này Đại Tuệ! Tướng kiến lập chẳng phải có thể phủ nhận pháp là gì? Là kiến lập chấp trước hư không diệt, Niết-bàn không tạo tác, không sự vật. Này Đại Tuệ! Ba pháp đó lìa khỏi có, không. Này Đại Tuệ! Tất cả các pháp như sừng, lông của thỏ, ngựa, lừa, lạc đà… lìa khỏi tướng kiến lập có không. Này Đại Tuệ! Tướng kiến lập phủ định là do các phàm phu hư vọng phân biệt, chẳng biết chỉ là sự chấp của tâm. Các pháp là có thì chẳng phải là cái thấy của bậc Thánh nhân. Này Đại Tuệ! Đó gọi là tướng kiến lập chẳng có thể bài báng pháp. Vì vậy, ông nên xa lìa tướng kiến lập không chánh kiến, bài báng pháp. Lại nữa, này Đại Tuệ! Những Đại Bồ-tát biết như thật về tâm, ý, ý thức, năm pháp thể tướng, hai loại vô ngã… vì yên ổn chúng sinh nên hiện ra vô số, hình dáng. Như sự hư vọng kia không hề phân biệt, chỉ nương vào pháp nhân mà có đủ thứ. Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, nương vào chúng sinh hiện ra vô số màu sắc như báu Như ý theo các tâm niệm của tất cả chúng sinh ở trong đại chúng của các cõi Phật mà hiện ra, như huyễn, như mộng, như tiếng vang, như trăng như nước, như hình dáng trong gương, xa lìa các pháp, chẳng sinh chẳng diệt, chẳng phải thường, chẳng phải đoạn. Bồ-tát đó hiện ra Phật Như Lai, lìa khỏi các thừa Thanh văn, Duyên giác, nghe các Phật pháp liền được vô lượng trăm ngàn vạn ức Tam-muội sâu xa. Được Tam-muội rồi, Bồ-tát nương vào sức Tam-muội, từ một cõi Phật này đến một cõi Phật khác để cúng dường các Đức Phật, thị hiện sinh ra ở trong cung điện khen ngợi ngôi Tam bảo, hiện làm thân Phật với đại chúng Bồ-tát, Thanh văn vây quanh khiến cho tất cả các chúng sinh được nhập vào “tự tâm thấy cảnh”, vì chúng sinh nói cảnh bên ngoài không có sự vật, có sự vật khiến cho họ được xa lìa pháp kiến lập có không vậy. Lúc ấy, Đức Thế Tôn lại nói kệ: Phật tử thấy thế gian Chỉ tâm, không các pháp Chủng loại chẳng do thân Được thành lực tự tại. Bấy giờ, Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ lại thỉnh Đức Phật: –Nguyện xin Đức Thế Tôn vì chúng con nói về tất cả pháp không, không sinh, không hai, lìa khỏi tướng tự thể. Con và tất cả các chúng Bồ-tát biết các pháp là không, không sinh, không hai lìa khỏi tướng tự thể rồi, lìa khỏi vọng tưởng có không, mau chóng đạt được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Bấy giờ, Đức Phật bảo Thánh giả Đại Bồ-tát Đại Tuệ: –Hay thay! Hay thay! Này Đại Tuệ! Hãy lắng nghe! Hãy lắng nghe! Ta sẽ vì ông phân biệt giảng nói rõ ràng. Bồ-tát Đại Tuệ bạch: –Hay thay! Bạch Thế Tôn! Thưa vâng chúng con xin lắng nghe! Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ rằng: –Này Đại Tuệ! Không tức là phạm trù vọng tưởng pháp thể. Này Đại Tuệ! Nương vào chấp trước pháp thể vọng tưởng mà nói không, không sinh, không thể tướng, chẳng hai. Này Đại Tuệ! Không có bảy loại. Những gì là bảy? 1. Tướng không. 2. Tất cả các pháp có tự tánh không tự tánh đều không. 3. Hành không. 4. Chẳng hành không. 5. Tất cả pháp lìa ngôn ngữ không. 6. Đệ nhất nghóa Thánh trí đại không. 7. Bỉ bỉ không. Này Đại Tuệ! Tướng không là gì? Là tất cả pháp tự tướng, đồng tướng đều không, thấy chúng cùng đắp đổi tích tụ. Này Đại Tuệ! Quán sát mỗi một pháp tự tướng, đồng tướng không một pháp nào có thể nắm bắt, lìa khỏi tự tướng, tha tướng, cả hai tướng không có tướng nào có thể trụ, có thể thấy. Vậy nên gọi là tự tướng không. Này Đại Tuệ! Tất cả pháp có tự tánh, không tự tánh đều không là gì? Là tướng tự thể thật có pháp sinh. Này Đại Tuệ! Tướng tự thể của các pháp có không đều không. Vậy nên, gọi là tướng tự thể có tự tánh không có tự tánh đều không. Này Đại Tuệ! Hành không là gì? Là các ấm… lìa khỏi ngã, ngã sở, nương vào nhân tạo tác nghiệp mà có sinh. Này Đại Tuệ! Vậy nên gọi là hành không. Này Đại Tuệ! Bất hành không là gì? Là trong pháp ấm. Niết-bàn chưa từng thực hành. Này Đại Tuệ! Đó gọi là Bất hành không. Này Đại Tuệ! Tất cả pháp không có ngôn ngữ không là gì? Là vọng tưởng phân biệt, tất cả các pháp không có ngôn ngữ nào có thể nói. Này Đại Tuệ! Đó gọi là tất cả pháp không có ngôn ngữ không. Này Đại Tuệ! Đệ nhất nghóa Thánh trí đại không là gì? Là trong tự thân chứng thánh trí pháp không, lìa khỏi các lỗi huân tập tà kiến. Này Đại Tuệ! Đó gọi là Đệ nhất nghóa Thánh trí đại không. Này Đại Tuệ! Bỉ bỉ không là gì? Là gồm những pháp xứ gì? Pháp kia không, pháp này có, pháp kia có pháp này không. Vậy nên nói không. Này Đại Tuệ! Ta thuở xưa từng vì Lộc Mẫu nói cung điện nhà cửa trống không, không voi ngựa, trâu, dê… thì gọi là không, có các Tỳ-kheo… gọi là chẳng phải không mà thể cung điện, nhà cửa của cung điện nhà cửa không có, thể Tỳ-kheo của Tỳ-kheo cũng chẳng thể nắm bắt mà voi, ngựa, trâu, dê… kia chẳng phải chỗ khác cũng không có. Này Đại Tuệ! Như vậy tự tướng đồng tướng của các pháp cũng chẳng thể nắm bắt lìa khỏi chỗ này chỗ kia. Vậy nên ta nói rằng, bỉ bỉ không. Này Đại Tuệ! Đó gọi là bảy loại không. Này Đại Tuệ! Bỉ bỉ không này rất là thô thiển. Này Đại Tuệ! Ông phải nên lìa khỏi “bỉ bỉ không”, chẳng cần tu tập. Bồ-tát Đại Tuệ hỏi: –Bất sinh là gì? –Này Đại Tuệ! Tự thể chẳng sinh mà chẳng phải chẳng sinh. Nương vào Thế đế nên nói là sinh, nương vào bản thể chẳng sinh nên nói là chẳng sinh. Bồ-tát Đại Tuệ hỏi: –Vô thể tướng là gì? –Này Đại Tuệ! Ta nói Vô thể tướng là thể tất cả các pháp vốn chẳng sinh. Vậy nên, ta nói các pháp vô thể mà thể từng sát-na nối tiếp nhau chẳng trụ. Này Đại Tuệ! Do thấy từng tướng khác, tướng khác nối nhau. Vậy nên, tất cả pháp không thể tướng. Bồ-tát Đại Tuệ thưa: –Thế nào gọi là Bất nhị Pháp tướng? –Này Đại Tuệ! Tướng hai pháp là gọi bóng ánh sáng mặt trời dài ngắn, đen trắng. Những pháp như vậy đó… thì mỗi một đều có tên riêng nên chẳng được nói rằng chẳng hai. Này Đại Tuệ! Như thế gian, Niết-bàn… tất cả các pháp, mỗi một đều có hai. Này Đại Tuệ! Những gì là Niết-bàn? Nơi đó không có thế gian. Chỗ nào là thế gian? Chỗ đó không có Niết-bàn, do tướng nhân khác nhau. Vậy nên, ta nói tất cả các pháp chẳng hai. Tất cả các pháp chẳng hai là thế gian, Niết-bàn không hai. Vậy nên, ông nên tu học các pháp không, vô tướng, vô thể, bất nhị vậy. Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ: Ta thường nói pháp không Xa lìa khỏi đoạn, thường Sinh tử như huyễn mộng Nghiệp kia chẳng mất tan Hư không và Niết-bàn Diệt cả hai cũng vậy Phàm phu sinh phân biệt Thánh nhân lìa có, không. Lúc ấy, Đức Phật bảo Thánh giả Đại Bồ-tát Đại Tuệ: –Này Đại Tuệ! Tất cả pháp không đều chẳng sinh, không thể, chẳng có hai tướng. Trong kinh của các Đức Phật Như Lai đã nói thì phàm các pháp môn đều nói ý nghóa này. Này Đại Tuệ! Tất cả kinh điển tùy theo tâm của tất cả chúng sinh nên phân biệt hiển bày. Này Đại Tuệ! Ví như sóng nắng mê hoặc loài cầm thú nên chúng hư vọng sinh ra chấp trước tưởng là nước mà thật ra trong sóng nắng không có nước. Này Đại Tuệ! Tất cả kinh nói về pháp cũng lại như vậy, vì các phàm phu tự tâm phân biệt nên khiến cho họ được hoan hỷ, chứ chẳng phải ở nơi lời nói như thật của bậc Thánh trí. Này Đại Tuệ! Ông nên thuận theo ý nghóa, chớ chấp trước danh tự, chương cú của lời nói. Bấy giờ, Thánh giả Đại Bồ-tát Đại Tuệ bạch: –Bạch Thế Tôn! Như kinh nói, tự tánh của Như Lai tạng thanh tịnh, đủ ba mươi hai tướng, ở trong thân của tất cả chúng sinh, bị sự bao bọc của chiếc áo ấm, giới, nhập cấu bẩn tham, sân, si chẳng thật như được ràng buộc bằng chiếc áo cấu bẩn báu vô giá. Đức Như Lai Thế Tôn lại nói là thường hằng thanh lương chẳng biến đổi. Bạch Thế Tôn! Như vậy ngoại đạo cũng nói ngã có thần ngã thường trụ bất biến. Đức Như Lai cũng nói, Như Lai tạng là thường… cho đến chẳng biến đổi. Bạch Thế Tôn! Ngoại đạo cũng nói có sự tạo tác thường, chẳng nương vào các duyên, tự nhiên mà có, cùng khắp chẳng diệt. Nếu như vậy thì lời Như Lai và ngoại đạo nói đều không sai biệt. Đức Phật bảo Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ: –Này Đại Tuệ! Ta nói Như Lai tạng là thường, chẳng đồng với sự có thần ngã của ngoại đạo. Này Đại Tuệ! Ta nói văn từ chương cú Như Lai tạng trống không, thật tế Niết-bàn chẳng sinh, chẳng diệt, không tướng, không nguyện… Gọi là Như Lai tạng. Này Đại Tuệ! Như Lai Ứng Chánh Biến Tri vì tất cả những phàm phu ngu si nghe nói vô ngã thì sinh ra kinh sợ. Vậy nên, ta nói có Như Lai tạng mà Như Lai tạng không có sự phân biệt, tịch tónh vô tướng gọi là Như Lai tạng. Này Đại Tuệ! Những Bồ-tát hiện tại và vị lai… chẳng nên chấp trước tướng có ngã. Này Đại Tuệ! Ví như người thợ gốm giỏi nương vào cục bùn mịn, vòng bánh xe, sợi dây, tay nhân công, sức phương tiện của cây nên làm ra đủ thứ đồ dùng. Này Đại Tuệ! Như Lai Thế Tôn cũng lại như vậy, pháp vô ngã kia lìa khỏi tất cả những tướng phân biệt, dùng trí tuệ phương tiện khéo léo gọi là Như Lai tạng, hoặc nói Vô ngã, hoặc nói thật tế và Niết-bàn… thị hiện đủ loại danh tự, chương cú như người thợ gốm giỏi kia tạo tác đủ thứ đồ dùng. Vậy nên, này Đại Tuệ! Ta nói Như Lai tạng chẳng đồng với ngoại đạo nói có tướng của ngã. Này Đại Tuệ! Ta nói Như Lai tạng là vì các ngoại đạo chấp trước đối với ngã, vì thu phục họ nên nói Như Lai tạng để khiến cho ngoại đạo kia xa lìa thần ngã vọng tưởng, thấy chỗ chấp trước của tâm, đi vào ba cửa giải thoát, mau chóng đạt được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Này Đại Tuệ! Do ý nghóa này nên các Đức Phật Như Lai Ứng Chánh Biến Tri nói Như Lai tạng. Vậy nên, ta nói có Như Lai tạng chẳng đồng với ngoại đạo chấp trước Thần ngã. Vậy nên, này Đại Tuệ! Vì lìa khỏi tất cả ngoại đạo tà kiến nên các Đức Phật Như Lai nói như vậy. Ông nên tu học pháp tướng Vô ngã của Như Lai. Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ: Nhân, ngã cùng với ấm Mọi duyên cùng vi trần Tự tánh vốn tự tại Chỉ tâm vọng phân biệt. Bấy giờ, Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ quan sát tất cả chúng sinh vị lai, lại thỉnh Đức Phật: –Nguyện xin Thế Tôn vì các Bồ-tát nói pháp tu hành như thật. Các vị Bồ-tát đó nghe nói pháp tu hành như thật liền được thành tựu sự tu hành như thật. Đức Phật bảo Thánh giả Đại Bồ-tát Đại Tuệ: –Này Đại Tuệ! Có bốn pháp được gọi là tu hành đại Như thật. Những gì là bốn? 1. Biết rõ tự tâm thấy được hiện tại. 2. Xa lìa sinh, trụ, diệt. 3. Hiểu rõ sự có, không của pháp bên ngoài. 4. Ưa tu “nội thân chứng trí”. Này Đại Tuệ! Bồ-tát thành tựu bốn pháp như vậy thì được thành tựu sự tu hành đại Như thật. Này Đại Tuệ! Thế nào là Đại Bồ-tát quan sát ba cõi chỉ là một tâm tạo tác? Do lìa ngã, ngã sở, không động không giác, lìa khỏi sự nắm giữ, xả bỏ từ vô thủy đến nay hư vọng chấp trước, tâm hý luận huân tập của ba cõi, đủ thứ sắc hạnh thường trói buộc, thân và tài sản, sáu đường trong khí thế gian đều hư vọng hiện bày. Này Đại Tuệ! Đó gọi là các Đại Bồ-tát biết rõ tự tâm thấy tướng trong hiện tại. Này Đại Tuệ! Làm sao tất cả Đại Bồ-tát thấy xa lìa pháp sinh, trụ, diệt? Là quán các pháp như huyễn như mộng nên tất cả pháp, tự mình và người khác, hai loại đều không có nên chẳng sinh, do tùy theo tự tâm thấy biết ở hiện tại, do không có pháp bên ngoài, các thức chẳng khởi, quán các nhân duyên không chứa nhóm, thấy ba cõi có nhân duyên, chẳng chấp tất cả các pháp trong, ngoài đều không thật thể, xa lìa việc sinh ra các pháp chẳng chánh kiến, hiểu rõ tướng như huyễn tất cả pháp của Đại Bồ-tát, bấy giờ gọi là chứng đắc Sơ địa Vô sinh pháp nhẫn. Lìa xa tâm, ý, ý thức, năm thể tướng của pháp đạt được vô ngã, như ý ý thân cho đến đạt được Bất động Địa thứ tám như ý ý thân vậy. Bồ-tát Đại Tuệ bạch: –Bạch Thế Tôn! Sao gọi là như ý ý thân? Đức Phật bảo: –Này Đại Tuệ! Theo ý đi mau như nhớ nghó liền đến, không có chướng ngại gọi là như ý thân. Này Đại Tuệ! Nói như ý là đối với núi vách đá, chướng ngại vô lượng trăm ngàn vạn ức do-tuần mà ý niệm vốn đã ghi nhớ mọi thứ cảnh giới thì sự trói buộc tự tâm chẳng thể ngăn ngại, tự tại mà đi. Này Đại Tuệ! Như ý thân cũng lại như vậy, được thần lực tự tại của Tam-muội Như huyễn trang nghiêm thân ấy, tiến đến tất cả chủng loại thân Thánh trí không chướng ngại, tùy ý mà đi, do nghó về cảnh giới năng lực bản nguyện, vì giáo hóa tất cả các chúng sinh. Này Đại Tuệ! Đó gọi là Đại Bồ-tát xa lìa tướng sinh, trụ, diệt. Này Đại Tuệ! Thế nào là Đại Bồ-tát hiểu rõ tướng có, không của pháp bên ngoài? Đó gọi là Bồ-tát thấy tất cả pháp như sóng nắng, như giấc mơ, như vừng sáng. Do từ vô thủy đến nay chấp trước đủ thứ hý luận, huân tập phân biệt vọng tưởng nên thấy tất cả pháp không có thể tướng, cầu chứng đắc cảnh giới tu hành Thánh trí vậy. Này Đại Tuệ! Đó gọi là Bồ-tát hiểu rõ tướng có, không của pháp bên ngoài liền thành tựu sự tu hành đại như thật. Này Đại Tuệ! Ông nên tu học như vậy. Bấy giờ, Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ lại thỉnh Đức Phật: –Bạch Thế Tôn! Nguyện xin Đức Thế Tôn nói tướng nhân duyên của tất cả pháp khiến con và tất cả các Bồ-tát… biết rõ tướng nhân duyên của các pháp, lìa khỏi có, không, chẳng chánh kiến… vọng tưởng phân biệt các pháp theo thứ lớp hay cùng lúc sinh ra lỗi lầm. Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ: –Này Đại Tuệ! Tất cả các pháp có hai loại tướng chứa nhóm nhân duyên là trong và ngoài. Này Đại Tuệ! Tướng chứa nhóm nhân duyên của pháp bên ngoài như gọi viên bùn, trụ, vòng bánh xe, sợi dây, nhân công, nhờ duyên làm phương tiện nên có cái bình sinh ra. Này Đại Tuệ! Như nhân duyên viên bùn… sinh ra cái bình, như vải gai, chiếu cỏ, giống mầm…, nhân công sinh ra sữa đặc. Sinh sữa đặc rồi sinh ra váng sữa. Sinh ra váng sữa rồi thì được đề hồ. Này Đại Tuệ! Đó gọi là tướng chứa nhóm nhân duyên của pháp bên ngoài. Từ dưới lên trên ông nên biết. Này Đại Tuệ! Tướng chứa nhóm nhân duyên của pháp bên trong là gì? Này Đại Tuệ! Đó là vô minh, nghiệp, ái… những pháp như vậy gọi là tướng chứa nhóm nhân duyên bên trong. Này Đại Tuệ! Nương vào vô minh… ấm, giới, nhập… mà được gọi là tướng chứa nhóm nhân duyên, nhưng các phàm phu do hư vọng phân biệt đều thấy có tướng riêng biệt. Này Đại Tuệ! Nhân có sáu loại. Những gì là sáu? 1. Đương nhân. 2. Tương tục nhân. 3. Tương nhân. 4. Tác nhân. 5. Liễu nhân. 6. Tương đãi nhân. Này Đại Tuệ! Đương nhân là tạo tác nhân rồi có thể sinh ra pháp trong, ngoài. Này Đại Tuệ! Tương tục nhân là có thể nương vào duyên, pháp trong ngoài, ấm, chủng tử… Này Đại Tuệ! Tương nhân là có thể sinh khởi nối tiếp nhau theo thứ lớp tạo tác sự việc mà chẳng đoạn dứt. Này Đại Tuệ! Tác nhân là có thể làm Tăng thượng nhân như Chuyển luân vương. Này Đại Tuệ! Liễu nhân là việc vọng tưởng sinh ra rồi có thể hiển thị như đèn soi màu sắc… Này Đại Tuệ! Tương đãi nhân là đến khi diệt chẳng thấy hư vọng sinh ra pháp, việc nối tiếp nhau đoạn dứt. Này Đại Tuệ! Các pháp như vậy, phàm phu tự tâm hư vọng phân biệt. Này Đại Tuệ! Các pháp này chẳng phải theo thứ lớp sinh ra, chẳng phải cùng lúc sinh ra. Vì sao? Này Đại Tuệ! Vì nếu tất cả pháp cùng lúc sinh thì nhân quả chẳng thể sai biệt, do chẳng thấy thân tướng của nhân quả vậy. Nếu các pháp theo thứ lớp sinh thì chưa được thân tướng, chẳng được nói là theo thứ lớp sinh, như chưa có con chẳng thể nói là cha. Này Đại Tuệ! Phàm phu ngu si tự tâm quan sát, thứ lớp nối tiếp nhau chẳng tương ứng nên nói như vầy: “Nhân duyên, thứ đệ duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên… có thể sinh ra các pháp.” Này Đại Tuệ! Như vậy các pháp chẳng phải theo thứ lớp sinh ra. Này Đại Tuệ! Hư vọng phân biệt chấp giữ thể, tướng của pháp. Cùng lúc, thứ lớp đều cũng chẳng sinh. Lại nữa, này Đại Tuệ! Do trong tự tâm thấy có thân và của cải vậy. Này Đại Tuệ! Tự tướng, đồng tướng, pháp bên ngoài, pháp không, vậy nên thứ lớp và cùng lúc chẳng sinh. Này Đại Tuệ! Chỉ là thức hư vọng sinh ra sự thấy của tự tâm vậy. Này Đại Tuệ! Ông hãy nên lìa khỏi việc nhân duyên chẳng chánh kiến và pháp sinh theo thứ lớp và cùng lúc. Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ: Nhân duyên không sinh ra Chẳng sinh nên chẳng diệt Sinh diệt nhân duyên giả Không sinh cũng không diệt Vì ngăn các nhân duyên Người ngu chấp hư vọng Duyên có, không chẳng sinh Nên các pháp chẳng khởi Do ở trong ba cõi Huân tập tâm mê hoặc Nhân duyên vốn tự không Chẳng sinh cũng chẳng diệt. Thấy những pháp hữu vi Thạch nữ, hoa hư không. Lìa sở thủ, năng thủ Hoặc, vọng kiến chẳng sinh. Hiện tại đều chẳng sinh Duyên vốn cũng chẳng có Hết thảy pháp như thế… Tự thể là trống không Cũng không có chỗ trụ Nói có vì thế gian. Bấy giờ, Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch: –Bạch Thế Tôn! Nguyện xin Đức Thế Tôn vì con nói pháp môn gọi là phân biệt ngôn ngữ tướng tâm. Con và tất cả các Bồ-tát… nếu được biết hoàn thiện pháp môn phân biệt ngôn ngữ tướng tâm thì có thể thông đạt lời nói và nghóa của hai pháp, mau chóng đạt được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Chứng Bồ-đề rồi, dùng lời nói và nghóa có thể khiến cho tất cả các chúng sinh… được thanh tịnh giải thoát. Đức Phật bảo Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ: –Hay thay! Này Đại Tuệ! Ông hãy lắng nghe, lắng nghe! Ta sẽ vì ông mà nói. Bồ-tát Đại Tuệ bạch: –Hay thay! Bạch Thế Tôn! Con xin nghe nhận! Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ: –Này Đại Tuệ! Có bốn loại ngôn ngữ vọng tưởng. Những gì là bốn? 1. Tướng ngôn thuyết. 2. Mộng ngôn thuyết. 3. Vọng chấp ngôn thuyết. 4. Vô thủy ngôn thuyết. Này Đại Tuệ! Tướng ngôn thuyết là gọi sự chấp trước sắc… các tướng mà sinh ra. Này Đại Tuệ! Mộng ngôn thuyết là nhớ nghó về cảnh giới hư vọng đã ghi nhận từ xưa. Nương vào cảnh giới, tỉnh mộng rồi biết nương vào cảnh giới hư vọng chẳng thật mà sinh ra. Này Đại Tuệ! Chấp trước ngôn thuyết là nhớ nghó về việc nghe, việc tạo tác nghiệp xưa mà sinh ra. Này Đại Tuệ! Vô thủy ngôn thuyết là từ vô thủy đến nay huân tập hạt giống chấp trước, hý luận, phiền não mà sinh ra. Này Đại Tuệ! Ta đã nói xong bốn loại ngôn thuyết hư vọng chấp trước. Bấy giờ, Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ lại dùng ý nghóa này thỉnh cầu Đức Như Lai mà bạch: –Bạch Thế Tôn! Nguyện xin Thế Tôn vì con nói lại về bốn tướng của hư vọng chấp trước ngôn thuyết. Ngôn ngữ của chúng sinh từ đâu ra? Làm sao sinh ra? Nhân nào sinh ra? Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ: –Này Đại Tuệ! Từ đầu, ngực, yết hầu, mũi, môi, lưỡi, răng chuyển nên hòa hợp phát ra âm thanh. Bồ-tát Đại Tuệ bạch: –Bạch Thế Tôn! Ngôn ngữ trong miệng và tướng của pháp hư vọng là khác hay là chẳng khác? Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ: –Này Đại Tuệ! Ngôn ngữ hư vọng là chẳng phải khác, chẳng phải chẳng khác. Vì sao? Này Đại Tuệ! Do pháp tướng hư vọng kia làm nhân sinh ra ngôn ngữ. Này Đại Tuệ! Nếu ngôn ngữ khác thì lẽ ra không có nhân sinh ra. Này Đại Tuệ! Nếu chẳng khác thì lời nói chẳng thể tỏ rõ cảnh giới trước nhưng ngôn ngữ đó biết rõ cảnh trước. Vậy nên chẳng phải khác, chẳng phải chẳng khác. Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch: –Bạch Thế Tôn! Vậy ngôn ngữ là Đệ nhất nghóa, hay lời nói, ngôn ngữ là Đệ nhất nghóa? Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ: –Chẳng phải ngôn ngữ là Đệ nhất nghóa. Vì sao? Này Đại Tuệ! Vì khiến cho Đệ nhất nghóa thuận theo ngôn ngữ nhập vào cảnh giới bậc Thánh. Có ngôn ngữ nói Đệ nhất nghóa, chẳng phải ngôn ngữ tức là Đệ nhất nghóa. Này Đại Tuệ! Đệ nhất nghóa là sự chứng đắc Thánh trí, chẳng phải pháp ngôn ngữ là cảnh giới Trí, do ngôn ngữ có thể biết rõ cảnh giới đó. Này Đại Tuệ! Nói ngôn ngữ Đệ nhất nghóa chính là pháp sinh diệt, từng niệm từng niệm chẳng trụ, nhân duyên hòa hợp thì có ngôn ngữ sinh ra. Do nhân duyên hòa hợp thì chúng chẳng thể biết rõ Đệ nhất nghóa. Vì sao? Vì do không có tự tướng và tha tướng. Vậy nên, này Đại Tuệ! Ngôn ngữ chẳng thể biết rõ Đệ nhất nghóa. Lại nữa, này Đại Tuệ! Thuận theo tự tâm thấy các pháp bên ngoài không có pháp để phân biệt. Vậy nên chẳng thể rõ biết Đệ nhất nghóa. Do đó, ông hãy nên lìa khỏi đủ loại tướng ngôn ngữ hư vọng phân biệt. Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ: Các pháp vốn hư vọng Không có tự thể thật Vậy nên các ngôn ngữ Chẳng thể nói có không. Rỗng không cùng chẳng không Phàm phu chẳng thể biết Các pháp, không thể tướng Nói chúng sinh cũng vậy. Pháp phân biệt có, không Giống như huyễn hóa, mộng… Quán sát tất cả pháp Chẳng trụ ở Niết-bàn Cũng chẳng trụ thế gian Như vua và trưởng giả… Vì khiến các con mừng Lấy bùn làm cầm thú Trước cho vật hư ngụy Việc thật sau mới trao Ta nói đủ loại pháp Tương tự bóng trong gương Làm các Phật tử mừng Sau thuyết minh thật tế. Lúc ấy, Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch: –Bạch Thế Tôn! Nguyện xin Thế Tôn vì các vị Bồ-tát và bản thân con, nói về lìa có và không, một và khác, đồng chẳng đồng, có không, chẳng phải có, chẳng phải không, thường và vô thường, việc chẳng thể làm của tất cả ngoại đạo, việc tu hành tự chứng giác của Thánh trí, lìa khỏi pháp tự tướng đồng tướng, thể nhập pháp tánh chân thật Đệ nhất nghóa, các Địa theo thứ lớp dần dần thanh tịnh, hội nhập tướng địa Như Lai, nương vào lực bản nguyện, như báu Như Ý, vô lượng tướng cảnh giới tu hành tự nhiên vận hành, đối với tất cả pháp tự tâm thấy rõ tướng sai biệt, khiến con và các Bồ-tát… lìa khỏi vọng tưởng phân biệt đồng tướng, dị tướng như vậy, mau đạt được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Chứng quả Bồ-đề rồi, chúng con sẽ ban cho tất cả chúng sinh yên ổn vui sướng, đều khiến cho họ thỏa mãn đầy đủ. Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ: –Hay thay! Hay thay! Này Đại Tuệ! Ông vì thương xót tất cả hàng trời, người, muốn họ được nhiều an lạc, nhiều lợi ích nên mới có thể hỏi ta ý nghóa như vậy. Hay thay! Hay thay! Này Đại Tuệ! Ông hãy lắng nghe! Lắng nghe! Ta sẽ vì ông phân biệt giải nói! Bồ-tát Đại Tuệ bạch: –Hay thay! Bạch Thế Tôn! Con xin lắng nghe! Đức Phật bảo: –Này Đại Tuệ! Phàm phu ngu si chẳng thể hiểu biết là chỉ có tự tâm thấy mà chấp trước vô số những pháp tướng bên ngoài, rồi cho là thật có. Vậy nên, họ hư vọng phân biệt là một hoặc khác, đồng chẳng đồng, có hoặc không, chẳng phải có hoặc chẳng phải không, thường và vô thường, do tự tâm huân tập, nương tâm hư vọng phân biệt. Này Đại Tuệ! Ví như bầy thú bị khát bức bách nương vào sóng nắng tự tâm mê loạn tưởng là nước, chạy rong khắp nơi, chẳng biết là chẳng phải nước. Này Đại Tuệ! Như vậy tâm phàm phu ngu si thấy pháp sinh, trụ, diệt, chẳng phân biệt rõ nương vào hư vọng chấp trước hý luận huân tập từ vô thủy đến nay, lửa tham, sân, si bức bách khiến tâm mê hoặc, ưa cầu vô số những cảnh giới sắc. Vậy nên phàm phu rơi vào một hoặc khác, đồng hoặc chẳng đồng, có không, chẳng phải có hoặc chẳng phải không, thường hoặc vô thường… Này Đại Tuệ! Ví như phàm phu thấy thành Càn-thát-bà mà sinh ra tư tưởng là có thành thật. Họ nương vào chủng tử huân tập thành tưởng phân biệt hư vọng từ vô thủy đến nay mà thấy. Này Đại Tuệ! Thành kia chẳng phải thành, chẳng phải chẳng thành. Này Đại Tuệ! Tất cả ngoại đạo cũng lại như vậy, nương vào hý luận huân tập từ vô thủy đến nay mà chấp trước pháp là một - khác, đồng chẳng đồng, có không, chẳng phải có, chẳng phải không, thường vô thường. Này Đại Tuệ! Do chẳng hiểu biết là chỉ tự tâm thấy hư vọng. Này Đại Tuệ! Ví như có người trong giấc mộng thấy những nam, nữ, voi ngựa, xe cộ, thành ấp, xóm làng, bò cùng trâu, vườn rừng, cây cối, vô số núi sông, dòng suối, ao tắm, cung điện, lầu đài, đủ thứ trang nghiêm, rộng lớn rực rỡ, thấy thân ở trong đó, họ bỗng nhiên tỉnh thức. Thức dậy rồi, họ vẫn nghó nhớ đến ngôi thành rộng lớn ấy. Này Đại Tuệ! Ý ông thế nào? Người đó gọi là Thánh giả chăng? Bồ-tát Đại Tuệ bạch: –Chẳng phải vậy, bạch Thế Tôn! Đức Phật bảo: –Này Đại Tuệ! Tất cả phàm phu ngu si, ngoại đạo, tà kiến, các kiến chấp cũng lại như vậy, chẳng thể hiểu biết các pháp, trong mộng tự tâm thấy nên chấp trước các thấy một khác, đồng chẳng đồng, có không, chẳng phải có chẳng phải không, thường vô thường. Này Đại Tuệ! Ví như hình vẽ chẳng cao chẳng thấp. Này Đại Tuệ! Phàm phu ngu si thấy hư vọng cho rằng các pháp có cao, có thấp. Này Đại Tuệ! Vào đời vị lai, nương theo ngoại đạo nên tâm huân tập tà kiến mà tăng trưởng hư vọng phân biệt một khác, đồng chẳng đồng, có không, chẳng phải có chẳng phải không, thường vô thường… Này Đại Tuệ! Ngoại đạo kia tự hoại và hủy hoại người khác, nói lời như vầy: “Các pháp chẳng sinh, chẳng diệt, có, không, tịch tónh.” Người đó gọi là người chánh kiến. Này Đại Tuệ! Những ngoại đạo đó phỉ báng pháp nhân quả. Do tà kiến nên nhổ sạch tất cả các căn lành và nhân duyên thanh tịnh của pháp thiện. Này Đại Tuệ! Người muốn cầu pháp thù thắng thì phải xa lìa người nói pháp như vậy. Tâm người đó chấp trước hai kiến chấp mình và người khác, chấp pháp hư vọng, rơi vào chê bai, kiến lập tâm tà đi vào đường ác. Này Đại Tuệ! Ví như mắt bị nhặm, thấy trong hư không có vừng sáng nói với người khác rằng: “Những màu sắc, xanh, vàng, trắng, đỏ này sao ông chẳng xem?” Này Đại Tuệ! Vừng sáng đó vốn tự không hình thể. Vì sao? Vì cái có thấy chẳng thể thấy vậy. Này Đại Tuệ! Các ngoại đạo… nương theo tâm tà kiến hư vọng phân biệt cũng lại như vậy, hư vọng chấp trước một khác, đồng chẳng đồng, có không, chẳng phải có chẳng phải không, thường vô thường sinh ra các pháp. Này Đại Tuệ! Ví như trời mưa sinh ra bong bóng nước tợ như ngọc pha lê, người phàm phu ngu si thấy sai lầm chấp trước, tưởng là ngọc mà đuổi theo khắp nơi. Này Đại Tuệ! Bong bóng nước đó chẳng phải ngọc báu, chẳng phải chẳng ngọc báu. Vì sao? Vì có chấp giữ, chẳng thể nắm giữ. Này Đại Tuệ! Những ngoại đạo kia nương vào tâm hư vọng nên phân biệt, huân tập cũng lại như vậy, nói chẳng phải pháp có là nương vào nhân duyên sinh ra, lại có thuyết nói rằng, thật có pháp diệt. Lại nữa, này Đại Tuệ! Những ngoại đạo đó kiến lập ba lượng, năm phần luận rồi cho rằng, quả thật có pháp nội chứng của bậc Thánh, lìa khỏi hai tự thể, hư vọng phân biệt vậy. Này Đại Tuệ! Lìa tâm, ý, ý thức thì khi chuyển thân liền được thân thánh chủng. Tu hành các hạnh không có tâm như vậy thì lìa khỏi cảnh giới hư vọng của tự tâm chấp “năng thủ và sở thủ” thể nhập Như Lai địa, tự thân tiến đến chứng Thánh trí. Người tu hành như thật thì chẳng sinh tâm có, không. Này Đại Tuệ! Người tu hành như thật thì nhất định đạt đến cảnh giới như vậy. Này Đại Tuệ! Nếu chấp giữ pháp có, không tức là tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sinh, tướng thọ giả. Này Đại Tuệ! Nói pháp có, không tự tướng, đồng tướng thì đó gọi là ứng hóa Phật giảng nói, chẳng phải pháp Phật nói. Lại nữa, này Đại Tuệ! Đức Như Lai ứng hóa nói pháp như vậy là thuận theo tâm thấy của phàm phu ngu si để khiến cho họ tu hành, chẳng phải là kiến lập sự tu hành như thật, thị hiện hạnh an lạc tự thân chứng Thánh trí Tam-muội. Này Đại Tuệ! Ví như người thấy bóng cây trong nước. Này Đại Tuệ! Cái đó chẳng phải bóng chẳng phải chẳng bóng. Vì sao? Ví có cây thì có, không cây thì không vậy. Này Đại Tuệ! Các ngoại đạo kia nương theo tà kiến vọng tưởng huân tập cũng lại như vậy, phân biệt một khác, đồng chẳng đồng, có không, chẳng phải có chẳng phải không, thường vô thường là vọng tưởng phân biệt vậy. Vì sao? Vì do chẳng hay chẳng biết chỉ là tự tâm thấy vậy. Này Đại Tuệ! Ví như gương sáng tùy theo duyên được thấy tất cả sắc tượng không có tâm phân biệt. Này Đại Tuệ! Đó chẳng phải hình dáng, chẳng phải chẳng hình dáng. Vì sao? Có duyên thì được thấy, không có duyên thì chẳng thấy. Này Đại Tuệ! Phàm phu ngu si tự tâm phân biệt thấy hình tượng có, không. Này Đại Tuệ! Tất cả các ngoại đạo tự tâm vọng tưởng phân biệt hình tượng trong gương cũng lại như vậy, thấy một khác, đồng chẳng đồng. Này Đại Tuệ! Ví như những tiếng vang nhờ vào người, núi, sông, nước, gió, trống không, nhà… hòa hợp lại mà nghe. Tiếng vang nghe được đó chẳng phải có, chẳng phải không. Vì sao? Vì nhờ vào âm thanh mà nghe âm thanh. Này Đại Tuệ! Tất cả ngoại đạo tự tâm hư vọng phân biệt huân tập, thấy một khác, đồng chẳng đồng, có không, chẳng phải có chẳng phải không, thường vô thường. Này Đại Tuệ! Ví như đại địa, chỗ không có các cây cỏ do ánh sáng mặt trời, bụi đất hòa hợp mà thấy sóng nước dao động, nhưng sóng nước đó chẳng phải có, chẳng phải không. Vì sao? Vì khiến cho chúng sinh hoan hỷ, điều chẳng hoan hỷ. Này Đại Tuệ! Tất cả ngoại đạo, phàm phu ngu si cũng lại như vậy, do từ vô thủy đến nay tâm phiền não huân tập hý luận, phân biệt, sinh, trụ, diệt, một khác, đồng chẳng đồng, có không, chẳng phải có chẳng phải không, thường vô thường. Trong pháp môn chứng trí nơi tự thân của Thánh nhân, thị hiện việc khát ái như sóng nắng vậy. Này Đại Tuệ! Ví như có người nương theo sức chú thuật khiến thây chết đứng dậy, người gỗ, máy không có thể của chúng sinh nhưng nương theo lực Tỳ-xá-xà, nương theo sức người thợ khéo tạo ra sự đi lại mà những phàm phu ngu si chấp trước cho là thật có. Do việc đi lại của chúng nên, này Đại Tuệ! Phàm phu ngu si, các ngoại đạo… rơi vào tâm tà kiến cũng lại như vậy, chấp trước hư vọng một khác, đồng chẳng đồng, có không, chẳng phải có chẳng phải không, thường vô thường. Vậy nên phàm phu, ngoại đạo, hư vọng kiến lập pháp như vậy. Vậy nên này Đại Tuệ! Ông phải xa lìa sinh trụ, diệt, một khác, đồng chẳng đồng, có không, chẳng phải có chẳng phải không, thường vô thường mà tự thân nội chứng Thánh trí phân biệt vậy. Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ: Năm ấm cùng với thức Như bóng cây trong nước Thấy như huyễn như mộng Chớ nương chấp ý thức Các pháp như vầng sáng Như loáng nước mê hoặc. Quán sát khắp ba cõi Tất cả như huyễn mộng Nếu quán sát như vậy Tu hành được giải thoát Như loài thú khát nước Tâm dao động mê hoặc Chỗ kia không có nước Vọng tưởng thấy là nước Như hạt giống ý thức Cảnh giới động, thấy sinh Ngu si chấp là thật Pháp đó sinh như che Ngu si đời vô thủy Chấp vật như hoài bão Như nhờ chốt tháo chốt Dùng pháp lừa người phàm. Huyễn, khởi thây, máy móc Mộng, chớp, mây thường vậy. Quán, thế gian như thế Trừ chấp có, giải thoát Sóng nắng trong hư không Các thức không thể biết Quán các pháp như vậy Chẳng thấy tất cả pháp Các thức chỉ có tên Còn các tướng rỗng không Thấy ấm như vầng sáng Phân biệt gì trong pháp? Hình vẽ, các vừng sáng Càn-thát-bà, huyễn, mộng Vầng lửa, chim tìm nước Thấy có mà thật không. Thường vô thường và một Hai, đồng và chẳng đồng Nương nhân vô thủy buộc Phàm phu tâm mê hoặc Trong gương, báu nước, mắt Hiện đủ loại hình ảnh Vọng thấy đủ loại sắc Như mộng, con thạch nữ Tất cả pháp không thật Như thú khác nước không. Lại nữa, này Đại Tuệ! Các Đức Phật Như Lai nói pháp lìa khỏi bốn kiến chấp. Đó là lìa khỏi một khác, đồng chẳng đồng, xa lìa kiến lập có, không. Này Đại Tuệ! Tất cả các Đức Phật Như Lai nói pháp vương vào thật tế, nhân duyên, tịch diệt, giải thoát. Này Đại Tuệ! Tất cả các Đức Phật Như Lai nói pháp nương theo cảnh giới cứu cánh, chẳng phải tự tánh, trời tự tại, không có nhân, thời gian, vi trần… chẳng nương như vậy mà nói pháp. Lại nữa, này Đại Tuệ! Các Đức Phật nói pháp lìa khỏi hai chướng là phiền não chướng và trí chướng. Như vị đại thương chủ dẫn mọi người lần lượt đến chỗ rất tịch tónh, hoàn toàn yên ổn chưa từng thấy, theo thứ lớp an trí khiến cho họ hiểu biết tướng, sai biệt của Thừa và Địa. Lại nữa, này Đại Tuệ! Có bốn Thiền. Những gì là bốn? 1. Thiền của phàm phu ngu si thực hành. 2. Thiền quan sát nghóa. 3. Thiền niệm Chân như. 4. Thiền của Phật Như Lai. Này Đại Tuệ! Thiền của phàm phu ngu si thực hành là gì? Là người tu hành theo Thanh văn, Duyên giác, ngoại đạo, quan sát nhân vô ngã, tự tướng đồng tướng, xương cốt liền nhau, vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh… chấp trước các tướng, hoàn toàn quyết định như vậy chẳng khác, như vậy theo thứ lớp quan sát trước, theo thứ lớp tiến tới cho đến Phi tưởng, định Diệt tận, giải thoát. Đó gọi là Thiền của Thanh văn, ngoại đạo, phàm phu ngu si… Này Đại Tuệ! Thiền quán sát nghóa là gì? Là quán sát nhân vô ngã, tự tướng, đồng tướng, thấy ngoại đạo, phàm phu ngu si tự tướng, đồng tướng, tướng mình, tướng người khác đều không thật; quán sát pháp vô ngã, nghóa hành tướng của các Địa theo thứ lớp. Này Đại Tuệ! Đó gọi là thiền quán sát nghóa. Này Đại Tuệ! Quán thiền Chân như nghóa là gì? Là quán sát nhân duyên phân biệt hư vọng, biết như thật về hai loại vô ngã, phân biệt như thật thể tướng của tất cả các pháp đều không thật. Bấy giờ, chẳng trụ trong tâm phân biệt đạt được cảnh giới tịch tónh. Này Đại Tuệ! Đó gọi là Thiền quán chân như. Này Đại Tuệ! Quán sát thiền Như Lai là gì? Là thể nhập như thật Như Lai địa, nhập vào ba không, ba hạnh an lạc của tướng nội thân Thánh trí, có thể thành tựu cho chúng sinh chẳng thể nghó bàn. Này Đại Tuệ! Đó gọi quán sát thiền Như Lai. Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ: Những phàm phu… hành thiền Quán sát thiền nghóa tướng Quán niệm Thiền chân như Thiền Phật tịnh rốt ráo Như ánh trăng, mặt trời Tướng Bát-đầu-ma hải Tướng lửa diệt, hư không Hành giả quán như vậy Đủ các tướng như trên Rơi vào pháp ngoại đạo Cũng rơi vào Thanh văn Và hạnh Bích-chi-phật Xả bỏ hết tất cả Tức là vô trụ chấp Phật cõi nước mười phương Đều dùng tay chân như Xoa đầu người tu hành Vào Chân như vô tướng. Bấy giờ, Thánh giả Đại Bồ-tát Đại Tuệ bạch: –Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn nói về Niết-bàn! Những pháp gì mới gọi là Niết-bàn? Đức Phật bảo Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ: –Nói Niết-bàn là chuyển diệt thể tướng của các thức, pháp, chuyển các kiến huân tập, chuyển tâm, ý, A-lê-gia thức, pháp tướng huân tập… gọi là Niết-bàn. Này Đại Tuệ! Ta và các Đức Phật nói về sự rỗng rang của cảnh giới Niết-bàn pháp thể như vậy. Lại nữa, này Đại Tuệ! Nói Niết-bàn nghóa là cảnh giới tu hành của Thánh trí nội thân, lìa khỏi pháp hư vọng phân biệt có, không. Này Đại Tuệ! Chẳng phải thường là sao? Là lìa khỏi pháp phân biệt tự tướng đồng tướng. Đó gọi là chẳng phải thường. Này Đại Tuệ! Chẳng phải đoạn là gì? Là tất cả Thánh nhân quá khứ, vị lai, hiện tại đều được chứng đắc. Đó là chẳng phải đoạn. Này Đại Tuệ! Bát-niết-bàn là chẳng phải chết, chẳng phải diệt. Này Đại Tuệ! Nếu Bát-niết-bàn là pháp tử thì đáng lẽ có sinh trói buộc. Này Đại Tuệ! Nếu Bát-niết-bàn là pháp diệt thì đáng lý rơi vào pháp hữu vi. Vậy nên, này Đại Tuệ! Bát-niết-bàn là chẳng phải chết, chẳng phải diệt, là chỗ nương về của người tu hành như thật. Lại nữa, này Đại Tuệ! Nói Niết-bàn là chẳng phải có thể nắm giữ, chẳng phải có thể xả bỏ, chẳng phải chỗ này, chẳng phải chỗ kia, chẳng phải đoạn, chẳng phải thường, chẳng phải một nghóa, chẳng phải nhiều loại nghóa. Vậy nên gọi là Niết-bàn. Lại nữa, này Đại Tuệ! Niết-bàn của Thanh văn là quan sát tự tướng đồng tướng mà thấu hiểu các pháp nên gọi là Niết-bàn của Thanh văn. Này Đại Tuệ! Niết-bàn của Bích-chi-phật là chẳng ưa nơi ồn nào, thấy các cảnh giới vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh, chẳng sinh ra tướng điên đảo. Vậy nên Thanh văn, Bích-chi-phật chẳng phải chỗ cứu cánh để sinh ra tưởng Niết-bàn. Lại nữa, này Đại Tuệ! Ta vì ông nói về hai thể tướng của pháp. Những gì là hai? 1. Chấp trước thể tướng của lời nói. 2. Chấp trước thể tướng của các pháp thế gian. Này Đại Tuệ! Chấp trước thể tướng của lời nói là gì? Là từ vô thủy đến nay chấp trước lời nói hý luận huân tập mà sinh ra. Này Đại Tuệ! Chấp trước thể tướng của các pháp thế gian là gì? Là chẳng như thật biết chỉ là tự tâm thấy cảnh giới bên ngoài. Lại nữa, này Đại Tuệ! Các Đại Bồ-tát nương vào hai nguyện lực kiến lập để đảnh lễ các Đức Phật Như Lai Ứng Chánh Biến Tri, thưa hỏi chư Như Lai về sự nghi ngờ. Những gì là hai loại nguyện lực trì? 1. Nương vào lực trụ trì của Tam-muội Tam-ma-đề. 2. Toàn thân được an lạc, gọi là được tay của chư Như Lai xoa đầu trao cho lực trụ trì ngôi vị Phật. Này Đại Tuệ! Các vị Đại Bồ-tát trụ trong Sơ địa, nương lực trụ trì của các Như Lai gọi là thể nhập vào Tam-muội Đại thừa quang minh của Bồ-tát. Này Đại Tuệ! Các Đại Bồ-tát nhập vào Tam-muội Đại thừa quang minh rồi, bấy giờ các Đức Phật Như Lai Ứng Chánh Biến Tri mười phương ban cho các Bồ-tát lực trụ trì nên thị hiện thân, miệng, ý. Này Đại Tuệ! Các Đại Bồ-tát Kim Cang Tạng và các Đại Bồ-tát khác thành tựu tướng công đức như vậy. Này Đại Tuệ! Những Đại Bồ-tát như vậy chứng Sơ địa, trụ ở lực trụ trì Tam-muội Tam-ma-bạt-đề, dùng năng lực căn lành tu tập ở trăm ngàn vạn ức kiếp, theo thứ lớp như thật biết và thành tựu pháp tướng đối trị các Địa. Đại Bồ-tát đến Pháp vân địa, trụ ở cung điện vua Đại Bảo Liên Hoa, ngồi lên tòa Sư tử với Đại Bồ-tát quyến thuộc đồng loại vây quanh, mũ báu, chuỗi ngọc trang nghiêm thân mình như vàng Diêm-phù-đàn, hoa Chiêm-bặc, ánh sáng mặt trời mặt trời, mặt trăng, màu sắc của hoa sen thù thắng. Bấy giờ, tất cả các Đức Phật mười phương đều duỗi tay ra, từ xa xoa đầu Đại Bồ-tát trên vương tòa Liên hoa như vị thái tử được Tự tại vương, Đế Thích vương, Chuyển luân vương làm lễ quán đảnh trao ngôi vị. Này Đại Tuệ! Vị Bồ-tát được trao ngôi vị kia và những Đại Bồ-tát quyến thuộc nương theo tay Như Lai xoa đầu nên được an lạc toàn thân. Vậy nên nói rằng, lực trụ trì của tay xoa đầu Bồ-tát. Này Đại Tuệ! Đó gọi là hai lực trụ trì của những Đại Bồ-tát. Này Đại Tuệ! Các Đại Bồ-tát nương vào hai lực trụ trì này nên có thể quán sát thân của tất cả các Đức Như Lai. Này Đại Tuệ! Nếu không có hai lực trụ trì thì chẳng được thấy các Đức Phật Như Lai. Này Đại Tuệ! Nếu các vị Đại Bồ-tát lìa khỏi hai lực trụ trì mà có thể nói pháp thì phàm phu ngu si lẽ ra cũng nói pháp. Vì sao? Vì chẳng được lực trụ trì của các Đức Phật. Này Đại Tuệ! Nương theo lực trụ trì của các Đức Như Lai nên núi sông, vách đá, cỏ cây, vườn rừng và đủ loại kỹ nhạc, thành ấp, xóm làng, cung điện, nhà cửa… đều có thể phát ra tiếng nói pháp, các nhạc cụ tự nhiên đều phát ra âm thanh. Này Đại Tuệ! Huống gì là người có tâm khiến vô lượng chúng sinh điếc, mù, câm, ngọng lìa khỏi những khổ não. Này Đại Tuệ! Lực trụ trì của các Đức Phật Như Lai có vô lượng lợi ích làm cho chúng sinh an lạc. Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch: –Bạch Thế Tôn! Vì sao khi các Đại Bồ-tát nhập vào Tam-muội Tam-ma-bạt-đề và thể nhập các Địa thì được các Đức Phật Như Lai Ứng Chánh Biến Tri gia hộ lực trụ trì? Đức Phật bảo: –Này Đại Tuệ! Vì hộ trì nghiệp ma tâm phiền não tán loạn, vì chẳng rơi vào cõi thiền định của Thanh văn, vì nội thân chứng Như Lai địa, vì tăng trưởng nội thân chứng pháp. Này Đại Tuệ! Vậy nên các Đức Phật Như Lai Ứng Chánh Biến Tri vì các Bồ-tát gia hộ lực trụ trì. Này Đại Tuệ! Nếu các Đức Như Lai chẳng vì Bồ-tát gia hộ lực trụ trì thì chư vị ấy rơi vào việc ma của các ngoại đạo, Thanh văn, Bích-chi-phật, chẳng đạt được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vậy nên, các Đức Phật Như Lai Ứng Chánh Biến Tri đại Từ luôn hộ trì các vị Bồ-tát. Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ: Bồ-tát nương tự thân Bản nguyện lực thanh tịnh Thể nhập các Tam-muội Từ Sơ đến Thập địa Chư Phật nhân trung tôn Dùng thần lực trụ trì. KINH NHẬP LĂNG-GIÀ <卷 id="118149473">QUYỂN 4 <詞 id="118149474">Phẩm 3: TẬP hợp TẤT CẢ PHÁP PHẬT (Phần 3) Bấy giờ, Thánh giả Đại Bồ-tát Đại Tuệ bạch: –Bạch Thế Tôn! Như Đức Thế Tôn giảng nói, mười hai nhân duyên từ nhân sinh ra quả, chẳng nói tự tâm vọng tưởng phân biệt, thấy sức lực mà sinh ra. Bạch Thế Tôn! Nếu vậy, ngoại đạo cũng nói từ nhân sinh ra quả. Bạch Thế Tôn! Ngoại đạo nói rằng, từ nơi tự tánh, khi trời Tự tại do vi trần… sinh ra tất cả pháp. Đức Như Lai cũng nói, nương vào nhân duyên mà sinh ra các pháp, mà chẳng nói có pháp tự kiến lập. Bạch Thế Tôn! Ngoại đạo cũng nói, từ nơi có không mà sinh ra các pháp. Đức Thế Tôn nói rằng, các pháp vốn không, nương nhân duyên mà sinh, sinh rồi trở lại diệt. Đức Thế Tôn nói, từ Vô minh duyên hành cho đến hữu, nương vào nhãn thức… sinh ra tất cả pháp. Như Đức Thế Tôn nói thì cũng có các pháp không có nhân mà sinh. Vì sao? Vì chẳng từ nhân sinh ra một lúc, không sinh ra trước, sau. Do nhân pháp này sinh ra pháp này. Đức Thế Tôn tự nói, nương vào nhân hư vọng mà pháp sinh ra; pháp này chẳng phải theo thứ lớp sinh ra. Nếu vậy thì ngoại đạo nói pháp hơn Đức Như Lai sao. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì ngoại đạo nói, nhân không nhân duyên có thể sinh ra quả. Đức Như Lai nói, nhân của pháp cũng nương vào quả, quả cũng nương vào nhân. Nếu vậy thì nhân duyên không nhân, không quả. Bạch Thế Tôn! Nếu vậy thì nhân quả đó đây đắp đổi không cùng. Thế Tôn nói rằng, từ pháp này sinh ra pháp kia. Nếu vậy thì không nhân sinh ra pháp? Đức Phật bảo Thánh giả Đại Bồ-tát Đại Tuệ: –Này Đại Tuệ! Ta nay sẽ nói, nhân pháp này sinh ra pháp kia chẳng đồng với sự kiến lập nhân quả của ngoại đạo. Pháp không nhân cũng từ nhân sinh ra, còn ta chẳng như vậy. Ta nói, các pháp từ nhân duyên sinh, chẳng phải không nhân duyên, cũng chẳng tạp loạn, cũng không lỗi đắp đổi vô cùng. Vì sao? Vì do pháp không có năng thủ, sở thủ. Này Đại Tuệ! Ngoại đạo chẳng biết tự tâm thấy nên chấp trước pháp năng thủ, sở thủ, chẳng biết rõ chỉ tự tâm thấy pháp cả trong lẫn ngoài. Này Đại Tuệ! Các ngoại đạo kia chẳng biết cảnh giới bên trong của tâm mình nên thấy vật có, không. Vậy nên, ngoại đạo có lỗi như vậy, chẳng phải lỗi của ta. Ta thường nói rằng, nhân duyên hòa hợp mà sinh ra các pháp, chẳng phải không có nhân sinh ra. Bồ-tát Đại Tuệ lại nói: –Bạch Thế Tôn! Có ngôn ngữ để nói thì lẽ ra có các pháp. Bạch Thế Tôn! Nếu không có các pháp thì lẽ ra chẳng nói lời nói. Bạch Thế Tôn! Vậy nên nương vào lời nói lẽ ra có các pháp. Đức Phật bảo: –Này Đại Tuệ! Cũng có và không có pháp mà nói lời nói, như sừng thỏ, lông rùa, thạch nữ có con… ở trong thế gian mà có lời nói. Này Đại Tuệ! Sừng thỏ đó chẳng phải có, chẳng phải không mà nói lời nói. Này Đại Tuệ! Ông nói, do có lời nói nên có các pháp thì nghóa này đã bị phá. Này Đại Tuệ! Chẳng phải tất cả cõi Phật đều dùng ngôn ngữ để nói pháp. Vì sao? Vì các ngôn ngữ chỉ là tâm người phân biệt mà nói. Vậy nên, này Đại Tuệ! Có cõi nước Phật chỉ nhìn thẳng không chớp mắt, miệng không phát ra lời nói gọi là nói pháp, có cõi nước Phật thị hiện tướng của người đó gọi là nói pháp. Có cõi nước Phật chỉ nhướng mày gọi là nói pháp. Có cõi nước Phật chỉ nháy mắt gọi là nói pháp. Có đất nước Phật chỉ cười gọi là nói pháp. Có cõi nước Phật chỉ ngáp gọi là nói pháp. Có cõi nước Phật chỉ tằng hắng gọi là nói pháp. Có cõi nước Phật chỉ niệm gọi là nói pháp. Có đất nước Phật, thân mạng gọi là nói pháp. Này Đại Tuệ! Như thế giới Vô thuấn và thế giới Chúng hương, ở chỗ Đức Phổ Hiền Như Lai Ứng Chánh Biến Tri, hàng Đại Bồ-tát ở đó quán sát Như Lai không hề chớp mắt thì đạt được pháp Nhẫn vô sinh, cũng đạt được vô lượng pháp Tam-muội thù thắng. Vậy nên, này Đại Tuệ! Ông chẳng được nói rằng, có ngôn ngữ để nói nên có các pháp. Này Đại Tuệ! Như Lai cũng thấy tất cả loài chúng sinh trong các thế giới như vi trùng, muỗi, mòng, ruồi nhặng… chẳng nói ngôn ngữ mà cùng nhau hoàn thành công việc của mình. Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ: Như hư không, sừng thỏ Và thạch nữ sinh con Không mà có ngôn ngữ Như vậy phân biệt suông Pháp nhân duyên hòa hợp Ngu si sinh phân biệt Chẳng biết pháp như thật Xoay vần trong ba cõi. Bấy giờ, Thánh giả Đại Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch: –Bạch Thế Tôn! Thế Tôn nói pháp là thường, thì nương vào những pháp gì mà nói những lời như vậy? Đức Phật bảo Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ: –Này Đại Tuệ! Nương vào pháp mê hoặc ta nói là thường. Vì sao? Này Đại Tuệ! Vì bậc Thánh cũng thấy pháp mê hoặc của thế gian, chẳng phải là tâm điên đảo. Này Đại Tuệ! Ví như loáng nắng, vừng lửa, vừng sáng thành Càn-thát-bà, huyễn, mộng, trăng trong nước, hình tượng trong gương… Người thế gian chẳng phải bậc Trí tuệ thì thấy có các hình tượng, thấy điên đảo vậy. Người có trí tuệ thì chẳng sinh ra phân biệt, chẳng phải chẳng thấy sự việc mê hoặc đó. Này Đại Tuệ! Người có trí tuệ thì thấy vô số việc mê hoặc kia, chẳng sinh tâm cho là thật. Vì sao? Vì lìa khỏi pháp có, không vậy. Đức Phật lại bảo Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ: –Này Đại Tuệ! Pháp mê hoặc lìa khỏi có, không là sao? Nghóa là những phàm phu ngu si thấy có đủ loại cảnh giới như những ngạ quỷ thấy biển cả sông Hằng, tuy thấy nước mà chẳng thấy. Này Đại Tuệ! Pháp mê hoặc này thì chẳng được nói có, chẳng được nói không. Này Đại Tuệ! Còn chúng sinh khác thì thấy đó chính là nước nên chẳng được nói không. Này Đại Tuệ! Việc mê hoặc cũng lại như vậy, do các Thánh nhân lìa khỏi cái thấy điên đảo. Này Đại Tuệ! Nói rằng pháp mê hoặc thường, là do sự sai biệt của tưởng vậy. Này Đại Tuệ! Do pháp mê hoặc nên thấy đủ loại tướng mà pháp mê hoặc chẳng phân biệt sự sai biệt nào khác. Vậy nên, này Đại Tuệ! Pháp mê hoặc là thường. Này Đại Tuệ! Sao pháp mê hoặc mà gọi là thật? Do các Thánh nhân ở trong pháp mê hoặc, chẳng sinh tâm điên đảo, cũng chẳng sinh tâm chân thật. Này Đại Tuệ! Các bậc Thánh thấy pháp mê hoặc đó khởi lên chút ít tâm tưởng, chẳng sinh ra sự tướng của Thánh trí. Này Đại Tuệ! Khởi lên chút ít tưởng thì đó gọi là phàm phu, chẳng phải gọi là bậc Thánh. Này Đại Tuệ! Phân biệt pháp mê hoặc đó là điên đảo, chẳng phải là điên đảo là có thể sinh ra hai tánh. Những gì là hai? 1. Có thể sinh ra tánh phám phu. 2. Có thể sinh ra tánh Thánh nhân. Này Đại Tuệ! Tánh Thánh nhân đó là có thể sinh ra ba tánh sai biệt. Đó là tánh sai biệt về cõi nước của Thanh văn, Bích-chi-phật và Phật. Này Đại Tuệ! Pháp phàm phu ngu si phân biệt mê hoặc là gì mà có thể sinh ra tánh Thanh văn thừa đó? Này Đại Tuệ! Đó gọi là chấp trước mê hoặc pháp tự tướng, đồng tướng kia thì có thể thành tánh Thanh văn thừa. Này Đại Tuệ! Đó gọi là pháp mê hoặc có thể sinh ra, có thể thành tánh thừa Thanh văn. Này Đại Tuệ! Phàm phu ngu si phân biệt, mê hoặc pháp là gì mà có thể sinh ra tánh thừa Bích-chi-phật đó? Này Đại Tuệ! Đó là chấp trước mê hoặc pháp đó quan sát tự tướng, đồng tướng của các pháp mà chẳng ưa ồn náo thì có thể sinh ra tánh thừa Bích-chi-phật. Này Đại Tuệ! Đó gọi là pháp Mê hoặc có thể sinh ra, có thể thành tánh thừa Bích-chi-phật. Này Đại Tuệ! Bậc trí liền phân biệt pháp mê hoặc đó có thể sinh ra tánh Phật thừa là gì? Này Đại Tuệ! Là gọi sự thấy về năng kiến, sở kiến đó chỉ là tự tâm, mà chẳng phân biệt pháp có, không. Này Đại Tuệ! Như vậy quan sát pháp mê hoặc có thể sinh ra, có thể thành tánh Như Lai thừa. Này Đại Tuệ! Như vậy gọi là nghóa của tánh. Này Đại Tuệ! Thế nào là tất cả phàm phu ngu si? Tức là phân biệt pháp mê hoặc đó thấy đủ thứ việc, có thể sinh tánh thừa của thế gian. Do quan sát các pháp như vậy… như vậy… quyết định chẳng sai khác. Vậy nên, này Đại Tuệ! Pháp mê hoặc đó, kẻ phàm phu ngu si hư vọng phân biệt đủ loại pháp thể. Này Đại Tuệ! Mê hoặc pháp đó chẳng phải là việc thật, chẳng phải là việc chẳng thật. Vì sao? Này Đại Tuệ! Vì bậc Thánh quan sát pháp mê hoặc đó mà chẳng hư vọng phân biệt. Vậy nên, bậc Thánh có thể chuyển biến tâm, ý, ý thức, thân tướng, lìa khỏi sự tích tập phiền não. Vậy nên, bậc Thánh chuyển pháp mê hoặc đó, gọi là Chân như. Này Đại Tuệ! Pháp này tên là gì? Này Đại Tuệ! Đây gọi là pháp Chân như, pháp lìa phân biệt. Này Đại Tuệ! Vì nghóa này nên ta một lần nữa tuyên nói pháp thể Chân như, pháp lìa phân biệt. Trong Chân như đó không có pháp hư vọng phân biệt kia. Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch: –Bạch Thế Tôn! Pháp mê hoặc kia là có hay không? Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ: –Pháp mê hoặc kia chấp trước đủ loại tướng nên gọi là có. Này Đại Tuệ! Pháp mê hoặc kia ở trong vọng tưởng nếu là có thì tất cả bậc Thánh, lẽ ra chẳng lìa khỏi do chấp trước nên có pháp hư vọng có, không. Này Đại Tuệ! Như ngoại đạo nói mười hai nhân duyên, có từ nhân sinh ra, chẳng từ nhân sinh ra. Nghóa này cũng như vậy! Bồ-tát Đại Tuệ bạch: –Bạch Thế Tôn! Nếu thấy pháp mê hoặc như huyễn thì pháp mê hoặc này khác với mê hoặc, vì pháp mê hoặc có thể sinh ra pháp? Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ: –Này Đại Tuệ! Chẳng phải pháp mê hoặc sinh ra lỗi lầm phiền não. Này Đại Tuệ! Nếu chẳng phân biệt pháp mê hoặc thì chẳng sinh ra các lỗi lầm. Lại nữa, này Đại Tuệ! Tất cả pháp huyễn nương và công sức người và chú thuật mà sinh ra, chẳng phải tự âm phân biệt phiền não mà sinh ra. Vậy nên, này Đại Tuệ! Pháp mê hoặc kia chẳng sinh ra các lỗi lầm, chỉ là người ngu si thấy pháp mê hoặc. Này Đại Tuệ! Phàm phu ngu si chấp trước việc hư vọng vi tế mà sinh ra các lỗi lầm, chẳng phải là bậc Thánh. Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ: Thánh chẳng thấy mê hoặc Thế gian cũng không thật Mê hoặc tức là thật Pháp thật ắt mê lầm. Xa lìa các mê hoặc Nếu có tướng phát sinh Tức đó là mê hoặc Chẳng tịnh như ngăn che. Lại nữa, này Đại Tuệ! Ông chẳng nên nói huyễn là không, nên tất cả các pháp cũng không như huyễn. Bồ-tát Đại Tuệ bạch: –Bạch Thế Tôn! Vì chấp trước các pháp tướng như huyễn nên nói rằng, các pháp như huyễn. Vì chấp trước tướng các pháp điên đảo nên nói rằng, các pháp hư huyễn. Bạch Thế Tôn! Nếu chấp trước các pháp tướng như huyễn thì Thế Tôn chẳng nên nói rằng, tất cả pháp đều như tướng huyễn. Nếu chấp trước các pháp tướng điên đảo nên nói như huyễn thì chẳng nên nói rằng, tất cả pháp như huyễn. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Sắc có đủ vô số nhân, tướng để thấy. Không có nhân khác để sắc có các tướng có thể thấy như huyễn. Vậy nên, chẳng nên nói rằng, chấp trước các pháp, tất cả đều như huyễn. Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ: –Chẳng phải gọi chấp trước đủ loại pháp tướng thì nói rằng, các pháp tất cả đều như huyễn. Này Đại Tuệ! Các pháp điên đảo diệt mau chóng như ánh chớp nên nói như huyễn. Tất cả các pháp ví như ánh chớp, chợt thấy liền mất mà phàm phu chẳng thấy. Tất cả các pháp cũng lại như vậy, do tự tâm phân biệt đồng tướng, dị tướng của tất cả pháp, do chẳng thể quán sát nên chẳng thấy như thật, do vọng chấp sắc, pháp… Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ: Chẳng thấy sắc và pháp Nói rằng pháp không, huyễn Nên chẳng trái trên dưới Ta nói tất cả pháp Chẳng thấy có bản tánh Như huyễn, thể không sinh. Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch: –Bạch Thế Tôn! Như Thế Tôn nói, các pháp chẳng sinh, rồi lại nói rằng như huyễn. Theo lời nói trước sau của Thế Tôn về tự tướng không trái sao? Do Đức Như Lai nói tất cả pháp chẳng như huyễn. Đức Phật bảo: –Này Đại Tuệ! Ta nói, tất cả pháp chẳng sinh, như huyễn thì chẳng thành ra trước sau có sự trái lỗi nhau. Vì sao? Vì tất cả phàm phu ngu si chẳng thấy pháp sinh và pháp chẳng sinh, chẳng thể hay biết tự tâm có không, pháp bên ngoài có không. Vì sao? Do chẳng thể thấy pháp chẳng sinh. Này Đại Tuệ! Như vậy, ta nói các pháp trước sao không có trái nhau. Này Đại Tuệ! Ta ngăn ngoại đạo kiến lập nghóa nhân quả chẳng tương đương. Vậy nên ta nói các pháp chẳng sinh. Này Đại Tuệ! Tất cả ngoại đạo tụ tập lại mà nói như vầy: “Từ nơi có, không sinh ra tất cả các pháp.” Họ chẳng nói do tự tâm phân biệt, chấp trước, nhân duyên mà sinh ra. Này Đại Tuệ! Ta nói các pháp có cũng chẳng sinh, không cũng chẳng sinh. Vậy nên, ta nói, các pháp chẳng sinh, chẳng diệt. Này Đại Tuệ! Ta nói tất cả các pháp có là để giúp đỡ các đệ tử, khiến cho họ biết hai pháp. Những gì là hai? 1. Giữ gìn các thế gian. 2. Vì giúp đỡ cho các đoạn kiến. Vì sao? Vì nương theo nghiệp nên có đủ thứ nhân, sinh ra trong sáu đường. Vậy nên ta nói rằng, có các pháp giữ gìn thế gian. Này Đại Tuệ! Ta nói, tất cả pháp như huyễn là vì khiến cho tất cả phàm phu ngu si rốt cùng có thể lìa khỏi tự tướng, đồng tướng. Do tâm các phàm phu ngu si chấp trước nên rơi vào tà kiến. Do chẳng thể biết, chỉ là tự tâm thấy hư vọng, khiến cho lìa khỏi sự chấp trước nơi pháp nhân duyên sinh. Vậy nên ta nói, tất cả các pháp như huyễn, như mộng, không có thật thể. Vì sao? Vì nếu chẳng nói như vậy thì phàm phu ngu si chấp tâm tà kiến, lừa dối tự thân và cả người khác, lìa khỏi sự thấy như thật đối với tất cả pháp. Này Đại Tuệ! Làm sao trụ ở sự thấy như thật? Là thể nhập tự tâm, thấy các pháp vậy. Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ: Như ông nói các pháp Tất cả đều chẳng sinh Là chê bai nhân quả Như thật thấy chẳng sinh Ta nói có pháp sinh Giữ gìn các thế gian Thấy các pháp như huyễn Chẳng chấp tướng các kiến. Lại nữa, Đức Phật bảo Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ: –Này Đại Tuệ! Ta nay vì các Đại Bồ-tát nói về danh, cú, tự thân, tướng để các Bồ-tát khéo biết về danh, cú, tự thân, tướng mà nương theo danh, cú, tự thân tướng mau chóng đạt được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Chứng đắc Bồ-đề rồi, các Bồ-tát vì chúng sinh nói về danh, cú, tự, tướng. Bồ-tát Đại Tuệ bạch: –Hay thay! Bạch Thế Tôn! Nguyện xin Thế Tôn giảng nói! –Này Đại Tuệ! Thế nào là danh thân? Là nương theo những pháp gì tạo ra tên gọi, danh thân và sự vật có tên khác nhau nhưng nghóa là một. Này Đại Tuệ! Danh này ta nói là danh thân. Này Đại Tuệ! Thế nào là cú thân? Là việc nghóa quyết định thấy nghóa rốt ráo. Đó gọi là ta nói cú thân. Này Đại Tuệ! Thế nào là chữ thân? Là văn cú rốt ráo. Lại nữa, danh thân là nương vào những pháp gì để phân biệt rõ danh cú, có thể biết rõ hình tướng của mình. Này Đại Tuệ! Cú thân là gọi văn cú, sự việc rốt ráo vậy. Này Đại Tuệ! Danh thân là gọi những chữ từ tên gọi sai biệt như từ chữ A cho đến chữ Ha gọi là danh thân. Này Đại Tuệ! Chữ thân là gọi tiếng dài ngắn, âm vận cao thấp gọi là tự thân. Này Đại Tuệ! Cú thân là gọi đường đi, dấu vết như đường đi, dấu vết của người, voi, ngựa, các loài thú… được gọi là cú. Này Đại Tuệ! Danh tự là gọi bốn ấm không sắc nương vào danh mà nói. Này Đại Tuệ! Tướng danh tự là gọi khả năng phân biệt rõ tướng của danh tự. Đó gọi là danh, cú, tự thân tướng. Như vậy, danh, cú, tự tướng, ông nên học và diễn nói cho người khác. Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ: Danh thân cùng cú thân Và tự thân sai biệt Phàm phu ngu chấp trước Như voi chìm xuống bùn. Lại nữa, này Đại Tuệ! Trong đời vị lai, người không trí tuệ, do tâm tà kiến, chẳng biết pháp như thật nên do luận thế gian mà tự cho là người trí. Người có trí hỏi pháp như thật, lìa khỏi tướng tà kiến: một khác, đồng chẳng đồng mà người ngu kia nói như vầy: “Phải hỏi chẳng phải là chẳng phải hỏi chánh niệm. Gọi các pháp sắc… là thường vô thường, là một là khác. Như vậy Niết-bàn là hữu vi. Các hành là một là khác. Năng kiến, sở kiến trong tướng là một là khác. Tác giả, sở tác là một là khác. Sắc, hương, vị, xúc trong bốn đại là một là khác. Năng kiến, sở kiến là một là khác. Viên bùn, vi trần là một là khác. Sự hiểu biết của người trí là một là khác. Tướng thứ lớp thượng thượng, vô ký thượng thượng như vậy để đáp rằng, Đức Phật nói như vậy, thì đó là bài báng ta. Này Đại Tuệ! Ta chẳng nói pháp như vậy, chỉ vì ngăn chận ngoại đạo và người tà kiến nói. Vì sao? Này Đại Tuệ! Vì ngoại đạo… nói thân tức mạng, thân khác mạng khác. Những pháp như vậy… mà ngoại đạo đã nói chính là Pháp vô ký. Này Đại Tuệ! Ngoại đạo mê mờ đối với nghóa nhân quả, vậy nên vô ký, chẳng phải trong pháp của ta, gọi là vô ký. Này Đại Tuệ! Trong Phật pháp của ta lìa khỏi tưởng năng kiến, sở kiến hư vọng, tâm không phân biệt. Vậy nên, trong Pháp của không có trí đáp. Các ngoại đạo… chấp trước sở thủ, năng thủ mà chẳng biết chỉ là tự tâm thấy pháp. Vì những người đó nên ta nói rằng, có bốn loại hỏi pháp, vô ký, trí đáp chẳng phải ở trong pháp của ta. Này Đại Tuệ! Các Đức Phật Như Lai Ứng Chánh Biến Tri vì các chúng sinh, có bốn loại lời nói để đáp. Này Đại Tuệ! Vì đúng thời nên ta nói pháp như vậy. Vì chúng sinh căn chưa thành thục, chẳng phải vì chúng sinh căn thuần thục. Vậy nên, ta nói nghóa của trí đáp. Lại nữa, này Đại Tuệ! Tất cả các pháp nếu lìa khỏi người tạo tác và nhân thì chẳng sinh, do không có người tạo tác nên ta nói, các pháp chẳng sinh. Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ: –Tất cả các pháp không có thể tướng. Bồ-tát Đại Tuệ bạch: –Bạch Thế Tôn! Vì sao tất cả các pháp không có thể tướng? Đức Phật bảo: –Này Đại Tuệ! Vì tự trí quán sát tự tướng, đồng tướng của tất cả các pháp mà chẳng thấy các pháp. Vậy nên ta nói tất cả các pháp không có thể tướng thật Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ: Tất cả các pháp cũng không có tướng chấp giữ. Bồ-tát Đại Tuệ bạch: –Bạch Thế Tôn! Do nghóa gì mà tất cả các pháp cũng không có tướng chấp giữ? Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ: –Do tự tướng, đồng tướng không có pháp có thể chấp giữ nên ta nói không có pháp chấp giữ. Đức Phật bảo: –Này Đại Tuệ! Tất cả các pháp cũng không có tướng xả Bồ-tát Đại Tuệ bạch: –Bạch Thế Tôn! Vì sao các pháp cũng không tướng xả? Đức Phật bảo: –Này Đại Tuệ! Quán sát pháp tự tướng, đồng tướng thì không có pháp có thể bỏ. Vậy nên ta nói, tất cả pháp cũng không có tướng xả. Đức Phật lại bảo: –Này Đại Tuệ! Các pháp chẳng diệt! Bồ-tát Đại Tuệ bạch: –Bạch Thế Tôn! Vì sao tất cả các pháp chẳng diệt? Đức Phật bảo: –Này Đại Tuệ! Quán sát tự tướng, đồng tướng của tất cả pháp không có thể tướng. Vậy nên ta nói, các pháp chẳng diệt. Đức Phật lại bảo: –Này Đại Tuệ! Các pháp vô thường. Bồ-tát Đại Tuệ bạch: –Bạch Thế Tôn! Vì sao tất cả các pháp vô thường? Đức Phật bảo: –Này Đại Tuệ! Tất cả các pháp luận vô thường mà tưởng là thường, vì chẳng sinh ra tướng. Vậy nên ta nói, các pháp vô thường. Lại nữa, này Đại Tuệ! Ta nói, tất cả các pháp vô thường. Bồ-tát Đại Tuệ bạch: –Bạch Thế Tôn! Vì sao tất cả các pháp vô thường? Đức Phật bảo: –Này Đại Tuệ! Do tướng chẳng sinh, do chẳng sinh ra thể tướng nên luôn vô thường. Vậy nên ta nói, các pháp vô thường. Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ: Ký luận có bốn loại: Trực đáp, phản chất đáp Phân biệt đáp, trí đáp Để chế ngự ngoại đạo! Hữu và phi hữu sinh Thế sư, tăng-khư-tỳ Nói rằng, đều vô ký Họ nói lời như trên. Người chánh trí quán sát Tự tánh chẳng nắm bắt Vậy nên chẳng thể nói Và nói, không thể tướng. Bấy giờ, Thánh giả Đại Bồ-tát Đại Tuệ bạch: –Bạch Thế Tôn! Nguyện xin Thế Tôn vì chúng con nói về tướng sai biệt những hạnh của Tu-đà-hoàn… để con và tất cả Đại Bồ-tát… biết rõ tướng tu hành của Tu-đà-hoàn… rồi được biết như thật về Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán… mà sẽ như vậy… như vậy… vì chúng sinh giải nói. Chúng sinh nghe rồi, thể nhập vào hai tướng vô ngã thanh tịnh hai chướng, thứ lớp tiến lên đạt được Địa, tướng thù thắng của Địa, đạt được cảnh giới tu hành chẳng thể nghó bàn của Như Lai. Bồ-tát đạt được chỗ tu hành rồi thì như ngọc báu Như ý, tùy theo ý niệm thọ dụng, cảnh giới và sự vận hành thân miệng ý của chúng sinh. Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ: –Hay thay! Hay thay! Này Đại Tuệ! Hay thay! Ông hãy lắng nghe, lắng nghe! Ta nay vì ông giảng nói. Bồ-tát Đại Tuệ bạch: –Hay thay! Bạch Thế Tôn! Con xin nghe nhận! Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ: –Này Đại Tuệ! Tu-đà-hoàn có ba quả sai biệt! Bồ-tát Đại Tuệ hỏi: –Những gì là ba? Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ: –Đó gọi là hạ, trung, thượng. Này Đại Tuệ! Sao gọi là hạ Tu-đà-hoàn? Nghóa là bảy lần trở lại thọ sinh trong ba cõi. Này Đại Tuệ! Sao gọi là trung? Nghóa là ba lần sinh hay năm lần sinh trở lại, rồi nhập Niết-bàn. Này Đại Tuệ! Sao gọi là thượng? Nghóa là một lần sinh trở lại rồi nhập Niết-bàn. Này Đại Tuệ! Ba bậc Tu-đà-hoàn này luôn có ba loại kết sử, gọi là thượng, trung, hạ. Này Đại Tuệ! Những gì là ba kết sử? Là thân kiến, nghi, giới cấm thủ. Vượt lên trên ba thứ kết sử đó thì đạt được quả A-la-hán. Này Đại Tuệ! Thân kiến có hai thứ. Những gì là hai? 1. Câu sinh. 2. Hư vọng phân biệt mà sinh, như pháp nhân duyên phân biệt. Này Đại Tuệ! Ví như nương theo các pháp tướng nhân duyên hư vọng phân biệt mà sinh ra thật tướng. Trong pháp nhân duyên đó chẳng phải có, chẳng phải không; do phân biệt có, không nên chẳng phải là thật tướng. Phàm phu ngu si chấp trước đủ loại pháp tướng, như các loài cầm thú thấy loáng nắng mà chấp giữ cho là nước. Này Đại Tuệ! Đó gọi là Tu-đà-hoàn phân biệt thân kiến. Vì sao? Vì do không có trí mà từ đời vô thủy đến nay hư vọng chấp giữ tướng. Này Đại Tuệ! Thân này thấy cấu bẩn, thấy được nhận vô ngã thì mới có thể lìa xa. Này Đại Tuệ! Sao câu sinh là thân kiến của Tu-đà-hoàn? Là đều chấp thân mình, thân người khác. Bốn ấm của hai thân kiến đó, khi sinh ra sắc ấm ở Vô sắc thì nương vào bốn Đại và bốn trần… Nhân duyên đó, đây hòa hợp sinh ra sắc, mà Tu-đà-hoàn đã biết thì có thể xa lìa tà kiến có, không, đoạn trừ thân kiến. Đoạn thân kiến rồi, chẳng sinh lòng tham. Này Đại Tuệ! Đó gọi là tướng thân kiến của Tu-đà-hoàn. Này Đại Tuệ! Sao gọi là tướng nghi của Tu-đà-hoàn? Nghóa là được chứng pháp thiện, thấy tướng rồi thì trước tiên đoạn trừ thân kiến và tâm phân biệt nhị kiến. Vậy nên, ở trong các pháp chẳng sinh tâm nghi, lại chẳng sinh tâm đối với những bậc tôn kính khác, do vì tưởng bậc tôn kính là tịnh hay bất tịnh. Này Đại Tuệ! Đó gọi là tướng nghi của Tu-đà-hoàn. Này Đại Tuệ! Sao là tướng giới thủ của Tu-đà-hoàn? Nghóa là thấy rõ tướng khổ của chỗ thọ sinh. Vậy nên, chẳng chấp giữ giới tướng. Này Đại Tuệ! Giới thủ nghóa là các phàm phu trì giới tinh tấn, làm vô số điều lành để cầu cảnh giới an vui, sinh trong các cõi trời. Bậc Tu-đà-hoàn kia chẳng chấp thủ tướng này mà chỉ chấp giữ nội chứng tự thân, hồi hướng tiến đến chỗ thù thắng hơn, lìa khỏi các vọng tưởng, tu giới phần vô lậu. Này Đại Tuệ! Đó gọi là tướng giới thủ của Tu-đà-hoàn. Vì vậy, Tu-đà-hoàn ba kết sử phiền não, xa lìa tham, sân, si. Bồ-tát Đại Tuệ bạch: –Bạch Thế Tôn! Đức Thế Tôn nói, mọi người nhiều tham, Tu-đà-hoàn lìa khỏi những tham gì? Đức Phật bảo: –Này Đại Tuệ! Tu-đà-hoàn xa lìa việc cùng với nữ nhân hòa hợp, chẳng vì niềm vui hiện tại mà gieo nhân khổ vị lai, xa lìa đánh đập, than thở, ôm ấp, liếc nhìn. Này Đại Tuệ! Tu-đà-hoàn chẳng sinh lòng tham như vậy. Vì sao? Vì đã được Tam-muội lạc hạnh. Này Đại Tuệ! Tu-đà-hoàn xa lìa những sự tham như vậy… chẳng phải lìa khỏi tham Niết-bàn. Này Đại Tuệ! Sao là quả tướng của Tư-đà-hàm? Nghóa là một lần trở lại là thấy sắc tướng khởi tâm hiện tiền chẳng phải thấy do tưởng hư vọng phân biệt, do thấy rõ tướng thiền tu hành. Một lần trở lại thế gian, liền đoạn hết khổ, được nhập Niết-bàn. Đó gọi là Tư-đà-hàm. Này Đại Tuệ! Tướng A-na-hàm là gì? Nghóa là ở trong sắc tướng quá khứ, hiện tại, vị lai sinh ra tâm có không, do kiến giải khiến tâm hư vọng phân biệt, nhưng các kết sử chẳng sinh, chẳng tái sinh nên gọi là A-na-hàm. Này Đại Tuệ! Tướng A-la-hán là gì? Nghóa là chẳng sinh ra tư duy phân biệt cái có thể tư duy, tâm phân biệt về lực, Tam-muội, giải thoát, thần thông, phiền não, khổ… đó gọi là A-la-hán. Bồ-tát Đại Tuệ bạch: –Bạch Thế Tôn! Nói về ba bậc A-la-hán thì đây nói những La-hán nào gọi là A-la-hán? Xin Thế Tôn vì con nói về La-hán chắc chắn được tịch diệt, La-hán vì căn lành phát nguyện Bồ-đề mà quên mất căn lành, La-hán vì hóa độ nên ứng hóa. Đức Phật bảo: –Này Đại Tuệ! Ta vì ông nói về Thanh văn La-hán chắc chắn được tịch diệt, chẳng phải La-hán khác. Này Đại Tuệ! La-hán khác là gọi người từng tu hành hạnh Bồ-tát, lại có Ứng hóa Phật đã hóa ra La-hán. Do lực phương tiện căn lành của nguyện xưa nên hiện ra ở các cõi Phật, sinh ra trong đại chúng, làm trang nghiêm đại hội của chư Phật vậy. Này Đại Tuệ! Các vị ấy phân biệt quá khứ, vị lai nói đủ mọi việc, xa lìa quả chứng có thể tư duy về năng tư duy, sở tư duy, do thấy tự tâm, vì thấy sở kiến, nói chứng đắc quả tướng. Lại nữa, này Đại Tuệ! Nếu Tu-đà-hoàn khởi tâm như vầy: “Đây là ba kiết, ta lìa khỏi ba kiết thì đó gọi là chấp ba pháp, rơi vào thân kiến, người đó nếu như vậy thì chẳng lìa khỏi ba kiết. Này Đại Tuệ! Vậy nên Tu-đà-hoàn chẳng khởi tâm như vậy. Lại nữa, này Đại Tuệ! Nếu muốn xa lìa Thiền vô lượng Vô sắc giới thì nên phải xa lìa kiến tướng nơi tự tâm, xa lìa thiểu tướng, tướng tịch diệt định Tam-ma-bạt-đề. Này Đại Tuệ! Nếu chẳng như vậy thì tâm Bồ-tát kia thấy các pháp do chỉ có tâm. Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ: Những Thiền bốn vô lượng Vô sắc Tam-ma-đề Thiểu tướng, tịch diệt định Tất cả tâm vốn không Nghịch lưu tu vô lậu Và một lần tái sinh Vãng lai và Bất hoàn La-hán tâm mê đắm Tư, khả tư, năng tư Xa lìa, thấy chân đế Chỉ là tâm hư vọng Biết rõ được giải thoát. Lại nữa, này Đại Tuệ! Có hai loại trí. Những gì là hai? 1. Trí quan sát. 2. Trí hư vọng phân biệt chấp giữ tướng. Này Đại Tuệ! Trí quan sát là gì? Là những trí nào quán sát tất cả thể tướng của các pháp, lìa khỏi bốn pháp thì không có pháp có thể nắm bắt. Đó gọi là trí quán sát. Này Đại Tuệ! Bốn pháp là gì? Là một, khác đồng, chẳng đồng đó gọi là bốn pháp. Này Đại Tuệ! Nếu lìa khỏi bốn pháp thì tất cả pháp chẳng thể nắm bắt. Này Đại Tuệ! Nếu muốn quán sát tất cả pháp thì phải nương vào bốn pháp mà quán sát các pháp. Này Đại Tuệ! Trí hư vọng phân biệt chấp giữ tướng nghóa là chấp trước tướng hư vọng phân biệt của bốn đại như cứng nóng, ẩm ướt, chuyển động; là chấp trước tướng kiến lập, nhân, thí dụ mà kiến lập pháp chẳng phải thật lấy làm thật. Này Đại Tuệ! Đó gọi là trí hư vọng phân biệt chấp trước tướng. Đó gọi là hai loại trí tướng. Này Đại Tuệ! Các Đại Bồ-tát biết tường tận hai tướng này, tiến đến tướng vô ngã của pháp, biết rõ tướng địa hạnh của trí chân thật. Biết được rồi, Bồ-tát liền đạt được Sơ địa, được trăm Tam-muội, nương vào lực Tam-muội thấy trăm Đức Phật, thấy trăm vị Bồ-tát, có thể biết sự việc trong trăm kiếp quá khứ, trăm kiếp vị lai, chiếu soi trăm thế giới Phật. Chiếu soi trăm thế giới Phật rồi, Bồ-tát biết rõ tướng trí thượng thượng của các Địa. Rồi do lực bản nguyện nên Bồ-tát có thể tinh tấn thị hiện đủ mọi thần thông, ở trong Pháp Vân địa, nương theo mưa pháp được thọ ký quả vị, chứng được Như Lai Nội cứu cánh Pháp thân trí tuệ địa, nương theo sự chuyển biến của mười căn lành vô lượng, vì giáo hóa chúng sinh mà ứng hóa đủ thứ, tự thân thị hiện đủ loại ánh sáng do được niềm vui của Tam-muội tu hành chứng trí. Lại nữa, này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát nên biết rõ tướng bốn Đại và bốn trần. Này Đại Tuệ! Thế nào gọi là Bồ-tát bie tướng bốn đại và bốn trần? Này Đại Tuệ Đại Bồ-tát! Nên tu hành như vậy. Sở dó nói là thật nghóa là không có xứ sở của bốn đại. Quán sát bốn đại xưa nay chẳng sinh ra. Quán sát vậy rồi lại khởi ý niệm này: Nói quán sát là chỉ tự tâm thấy, biết rõ hư vọng, do thấy trần cảnh bên ngoài không có vật chất chỉ là tâm phân biệt danh tự mà thấy, sở dó gọi là ba cõi vì lìa khỏi tướng bốn đại và tướng bốn trần. Thấy như vậy rồi, lìa khỏi bốn kiến chấp, thấy pháp thanh tịnh, lìa ngã và ngã sở, trụ ở trong pháp tự tướng như thật. Này Đại Tuệ! Nên trụ ở trong pháp tự tướng như thật nghóa là trụ ở trong pháp tự tướng để kiến lập pháp vô sinh. Này Đại Tuệ! Ở trong bốn đại làm sao có bốn trần? Này Đại Tuệ! Là vọng tưởng phân biệt mềm mại, ẩm ướt, thấm nhuần mà sinh ra Thủy đại trong ngoài. Này Đại Tuệ! Vọng tưởng phân biệt ấm áp tăng trưởng mà sinh ra Hỏa đại trong ngoài. Này Đại Tuệ! Vọng tưởng phân biệt tướng chuyển động nhẹ nhàng mà sinh ra Phong đại trong ngoài. Này Đại Tuệ! Vọng tưởng phân biệt có tướng cứng mà sinh ra Địa đại trong ngoài. Này Đại Tuệ! Vọng tưởng phân biệt hư không cùng trong ngoài mà sinh ra tướng trong ngoài. Do chấp trước tà kiến hư vọng trong ngoài mà năm ấm nhóm họp, bốn đại và bốn trần sinh ra. Đức Phật bảo: –Này Đại Tuệ! Thức có thể chấp trước đủ các cảnh giới, ưa tìm cầu cõi khác, chấp giữ cảnh giới kia. Này Đại Tuệ! Bốn đại có bốn, gọi là sắc, hương, vị, xúc. Này Đại Tuệ! Bốn đại không nhân. Vì sao? Vì là hình tướng tự thể của đất dài ngắn chẳng sinh ra tướng của bốn đại. Này Đại Tuệ! Nương theo hình tướng lớn nhỏ, dung mạo trên dưới mà sinh ra các pháp, chẳng lìa khỏi hình tướng lớn nhỏ, dài ngắn mà có pháp. Vậy nên, này Đại Tuệ! Ngoại đạo hư vọng phân biệt bốn đại và bốn trần. Chẳng phải trong ngã pháp như sự phân biệt này. Lại nữa, này Đại Tuệ! Ta vì ông nói thể tướng của năm ấm. Này Đại Tuệ! Tướng năm ấm là gì? Là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Này Đại Tuệ! Bốn ấm không sắc tướng là thọ, tưởng, hành, thức. Này Đại Tuệ! Sắc nương vào bốn Đại sinh ra. Tướng bốn Đại mỗi một đều chẳng đồng. Này Đại Tuệ! Pháp không có sắc tướng giống như hư không thì làm sao được thành bốn loại số tướng? Này Đại Tuệ! Ví như hư không lìa khỏi số tướng mà hư vọng phân biệt, đây là hư không. Này Đại Tuệ! Số tướng của ấm lìa khỏi các tướng, lìa khỏi tướng có không lìa khỏi bốn tướng. Phàm phu ngu si nói các số tướng, chẳng phải là Thánh nhân. Này Đại Tuệ! Ta nói, các tướng như huyễn, đủ loại hình tướng xa lìa tướng một tướng khác, nương theo giả danh mà nói theo hình tượng trong gương, như giấc mộng chẳng lìa khỏi đối tượng nương tựa. Này Đại Tuệ! Như bậc Thánh trí tu hành phân biệt thấy năm ấm là hư vọng. Này Đại Tuệ! Đó gọi là năm ấm không có thể tướng năm ấm. Này Đại Tuệ! Ông nay nên lìa khỏi tướng hư vọng phân biệt như vậy. Lìa khỏi như vậy rồi, vì các Bồ-tát nói pháp không tịch, lìa các pháp tướng để ngăn các tướng kiến chấp của ngoại đạo. Này Đại Tuệ! Nói pháp tịch tónh, được chứng tướng vô ngã thanh tịnh, thể nhập Viễn hành địa. Vào Viễn hành địa rồi, đạt được vô lượng Tam-muội, tự tại, sinh ra thân như ý, do được Tam-muội các pháp như huyễn, do được lực thần thông tự tại, nên tùy theo tất cả chúng sinh tự tại sử dụng như đại địa. Này Đại Tuệ! Ví như đại địa, tất cả chúng sinh tùy ý sử dụng. Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát theo sự sử dụng của chúng sinh cũng lại như vậy. Lại nữa, này Đại Tuệ! Ngoại đạo nói có bốn loại Niết-bàn. Những gì là bốn? 1. Tự thể tướng Niết-bàn. 2. Chủng chủng tướng hữu vô Niết-bàn. 3. Tự giác thể hữu vô Niết-bàn. 4. Chư ấm tự tướng đồng tướng đoạn tương tục thể Niết-bàn. Này Đại Tuệ! Đó gọi là bốn loại Niết-bàn của ngoại đạo, chẳng phải điều ta nói. Này Đại Tuệ! Điều ta nói là, thấy cảnh giới hư vọng, mà thức phân biệt diệt, gọi là Niết-bàn. Bồ-tát Đại Tuệ bạch: –Bạch Thế Tôn! Đức Thế Tôn đã chẳng nói có tám thức sao? Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ: –Ta nói có tám thức. Bồ-tát Đại Tuệ bạch: –Bạch Thế Tôn! Nếu Đức Thế Tôn nói tám thức thì sao chỉ nói là ý thức chuyển diệt mà chẳng nói bảy thức chuyển diệt? Đức Phật bảo: –Này Đại Tuệ! Do nương theo ý niệm kia quan sát là có nên chuyển thức diệt thì bảy thức cũng diệt. Lại nữa, này Đại Tuệ! Ý thức chấp trước, nắm giữ sinh ra cảnh giới. Sinh ra rồi huân tập mọi thứ, tăng trưởng A-lê-gia thức, cùng với ý thức, lìa tướng ngã và sở ngã, chấp trước hư vọng rỗng không mà sinh ra phân biệt. Này Đại Tuệ! Tướng của hai thức đó không sai biệt. Do nương theo nhân của A-lê-gia thức quán sát tự tâm thấy cảnh mà vọng tưởng chấp trước sinh ra đủ thứ tâm giống như buộc tre đắp đổi cùng làm nhân, như sóng biển cả, do tự tâm thấy cảnh giới gió thổi mà có sinh diệt. Vậy nên, này Đại Tuệ! Ý thức chuyển diệt thì bảy thức chuyển diệt. Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ: Ta chẳng chấp Niết-bàn Chẳng bỏ tướng tạo tác Chuyển diệt tâm hư vọng Nên nói, chứng Niết-bàn Nương nhân và niệm nên Ý đến các cảnh giới Thức cùng tâm làm nhân Đối tượng nương của thức Như dòng nước khô cạn Thì sóng chẳng khởi dậy Như ý thức diệt tan Các thức chẳng sinh nữa. Lại nữa, này Đại Tuệ! Ta đã vì ông nói tướng sai biệt hư vọng phân biệt pháp thể. Ông và các Đại Bồ-tát khéo phân biệt biết tướng sai biệt pháp thể hư vọng, lìa khỏi pháp phân biệt và đối tượng phân biệt, biết rõ pháp trong thân để tu hành, xa lìa cảnh giới năng thủ, sở thủ của ngoại đạo, xa lìa thể tướng của đủ thứ pháp nhân duyên hư vọng phân biệt, xa lìa rồi thì chẳng còn tướng phân biệt hư vọng. Tướng hư vọng phân biệt pháp thể sai biệt là gì? Này Đại Tuệ! Tướng hư vọng phân biệt tự thể sai biệt có mười hai loại. Những gì là mười hai? 1. Ngôn ngữ phân biệt 2. Khả tri phân biệt 3. Tướng phân biệt. 4. Nghóa phân biệt. 5. Thật thể phân biệt. 6. Nhân phân biệt. 7. Kiến phân biệt. 8. Kiến lập phân biệt. 9. Sinh phân biệt. 10. Bất sinh phân biệt. 11. Hòa hợp phân biệt. 12. Chuyển bất phân biệt. Này Đại Tuệ! Đó gọi là tướng phân biệt tự thể, tướng pháp sai biệt. Này Đại Tuệ! Ngôn ngữ phân biệt nghóa là ưa chấp trước âm thanh hay của đủ loại ngôn ngữ. Này Đại Tuệ! Đó gọi là Ngôn ngữ phân biệt. Này Đại Tuệ! Khả tri phân biệt nghóa là khởi sự suy nghó này: Nên có tướng thật sự của pháp trước, Thánh nhân tu hành biết nương theo pháp đó mà sinh ra ngôn ngữ. Phân biệt như vậy gọi là Khả tri phân biệt. Này Đại Tuệ! Tướng phân biệt nghóa là trong cảnh giới có thể biết, chấp đủ thứ tướng như nóng, ẩm ướt, chuyển động, cứng chắc, cho là thật như loáng nắng giữa hư không mà các loài cầm thú nhìn thấy, khởi tưởng cho là nước. Này Đại Tuệ! Đó gọi là Tướng phân biệt. Này Đại Tuệ! Nghóa phân biệt nghóa là ưa thích vàng bạc… đủ thứ cảnh giới thật. Này Đại Tuệ! Đó gọi là Nghóa phân biệt. Này Đại Tuệ! Tự thể phân biệt nghóa là chuyên nghó về hình tướng tự thể của pháp, pháp này như vầy… như vầy… chẳng khác; chẳng phải chánh kiến mà thấy phân biệt. Này Đại Tuệ! Đó gọi là Tự thể phân biệt. Này Đại Tuệ! Nhân phân biệt nghóa là những loại nhân gì? Những loại duyên gì? Là nhân liễu biệt có, không, tướng sinh ra tướng liễu biệt. Này Đại Tuệ! Đó gọi là Nhân phân biệt. Này Đại Tuệ! Kiến phân biệt nghóa là có không, một khác, đồng chẳng đồng mà ngoại đạo tà kiến chấp trước phân biệt. Này Đại Tuệ! Đó gọi là Kiến phân biệt. Này Đại Tuệ! Kiến lập phân biệt nghóa là chấp thủ tướng của ngã, ngã sở, nói pháp hư vọng. Này Đại Tuệ! Đó gọi là Kiến lập phân biệt. Này Đại Tuệ! Sinh phân biệt nghóa là nương theo mọi duyên có không trong pháp mà sinh tâm chấp trước. Này Đại Tuệ! Đó gọi là Sinh phân biệt. Này Đại Tuệ! Bất sinh phân biệt nghóa là tất cả các pháp từ xưa đến nay chẳng sinh. Do vốn không mà nương vào nhân duyên có nên không có nhân quả. Này Đại Tuệ! Đó gọi là Vô sinh phân biệt. Này Đại Tuệ! Hòa hợp phân biệt nghóa là những pháp nào hòa hợp như sợi vàng hợp lại, những pháp nào hòa hợp như sợi vàng hòa hợp, này Đại Tuệ! Đó gọi là Hòa hợp phân biệt. Này Đại Tuệ! Phược bất phược phân biệt nghóa là nhân của trói buộc chấp trước như đối tượng bị trói buộc. Này Đại Tuệ! Như người phương tiện thắt dây làm nút, thắt rồi lại mở ra. Này Đại Tuệ! Đó gọi là phược bất phược phân biệt. Này Đại Tuệ! Đó gọi là tướng sai biệt hư vọng phân biệt pháp thể. Tất cả phàm phu chấp trước có không nên chấp trước đủ thứ nhân duyên của pháp tướng. Vậy nên, này Đại Tuệ! Tướng phân biệt pháp thể sai biệt thấy đủ thứ pháp, chấp trước làm thật, như nương vào huyễn thấy đủ mọi việc mà phàm phu phân biệt biết khác với huyễn, cho là có pháp như vậy. Này Đại Tuệ! Ta ở trong vô số pháp chẳng nói gì khác với huyễn, cũng chẳng phải chẳng khác. Vì sao? Vì nếu huyễn khác với đủ loại pháp khác thì chẳng nên nhân duyên mà sinh ra đủ loại. Nếu huyễn tức là đủ mọi pháp thì chẳng nên thấy khác, đây là huyễn, đây là đủ loại mà thấy sai biệt. Vậy nên ta nói, chẳng khác, chẳng phải chẳng khác. Vậy nên này Đại Tuệ! Ông và những Đại Bồ-tát chớ phân biệt huyễn có thật hay không có thật. Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ: Tâm nương, buộc cảnh giới Tri giác theo cảnh sinh Nơi thù thắng Tịch mịch Trí tuệ bình đẳng sinh. Vọng tưởng phân biệt có Với duyên pháp thì không Chấp hư vọng mê loạn Chẳng biết lực khác sinh. Đủ loại pháp duyên sinh Là huyễn chẳng chân thật Kia có đủ thứ tưởng Vọng phân biệt chẳng thành. Tưởng kia chính là lỗi Đều từ tâm buộc sinh Người ngu si, không trí Phân biệt pháp nhân duyên. Các thể vọng tưởng ấy Chính là pháp duyên khởi Vọng tưởng có đủ loại Phân biệt trong mọi duyên. Thế đế Đệ nhất nghóa Thứ ba không nhân sinh Vọng tưởng nói thế đế Đoạn cảnh giới Thánh nhân. Ví như người tu hành Một việc thấy vô số Pháp kia không đủ loại Tướng phân biệt như vậy. Như mắt che mọi thứ Vọng tưởng thấy các sắc Ngăn vô sắc, phi sắc Vô trí chấp pháp ấy. Như vàng ròng lìa bẩn Như nước lìa bùn đục. Như hư không sạch mây Chân pháp tịnh cũng vậy. Không có pháp vọng tưởng Nhân duyên pháp cũng không Chấp có, phủ nhận không Quán phân biệt thì thấy Vọng tưởng nếu không chân Pháp nhân duyên nếu thật Lìa nhân nên sinh pháp Thật pháp sinh ra thật pháp Nhân hư vọng gọi pháp Thấy các nhân duyên sinh Danh, tưởng chẳng lìa nhau Như vậy hư vọng sinh. Hư vọng vốn không thật Thì vượt các vọng tưởng Về sau biết thanh tịnh Đó gọi là Đệ nhất nghóa Vọng tưởng có mười hai Duyên pháp có sáu loại Cảnh giới chứng nội thân Không hề có sai biệt. Năm pháp là chân thật Và ba loại, cũng vậy Người tu hành hạnh này Chẳng lìa khỏi Chân như Các tưởng và nhân duyên Gọi pháp đó phân biệt Những tướng vọng tưởng ấy Từ nhân duyên kia sinh. Khéo quán trí chân thật Không vọng tưởng, không duyên Đệ nhất nghóa không vật Làm sao trí phân biệt? Nếu có pháp chân thật Xa lìa khỏi có không Nếu lìa khỏi có không Làm sao có hai pháp? Phân biệt hai pháp thể Pháp thể nếu có hai Hư vọng thấy đủ thứ Cảnh giới Thánh thanh tịnh Thấy vô số vọng tưởng Trong nhân duyên phân biệt Nếu có phân biệt khác Thì rời vào ngoại đạo Vọng tưởng nói vọng tưởng Nhân thấy hòa hợp sinh Lìa hai loại vọng tưởng Tức là pháp chân thật. Bấy giờ, Đại Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch: –Bạch Thế Tôn! Nguyện xin Thế Tôn vì con nói về tướng tu hành tự thân nội chứng Thánh trí và pháp Nhất thừa, chẳng nhờ người khác, tự tại đến tất cả các cõi nước Phật, thông đạt Phật pháp. Đức Phật bảo Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ: –Hay thay! Hay thay! Này Đại Tuệ! Hay thay! Hãy lắng nghe! Lắng nghe! Ta sẽ vì ông nói. Bồ-tát Đại Tuệ bạch: –Hay thay! Bạch Thế Tôn! Thưa vâng con xin nghe nhận. Đức Phật bảo: –Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát lìa khỏi pháp danh tự A-hàm, lời nói phân biệt pháp tướng của các luận sư, ở chỗ tịch tónh, ngồi một mình tư duy, tự mình dùng trí tuệ quan sát các pháp chẳng theo lời dạy người khác, lìa khỏi đủ loại tướng kiến chấp hư vọng, phải siêng tu hành nhập và Thượng thượng chứng trí của Như Lai địa. Này Đại Tuệ! Đó gọi là tướng tu hành tự thân nội chứng Thánh trí. Này Đại Tuệ! Lại có người tu tướng Nhất thừa trong ba cõi. Này Đại Tuệ! Tướng Nhất thừa là gì? Này Đại Tuệ! Như thật giác ngộ đạo Nhất thừa nên ta gọi là Nhất thừa. Này Đại Tuệ! Như thật giác ngộ biết tướng đạo Nhất thừa là gì? Nghóa là chẳng phân biệt cảnh giới sở thủ, năng thủ, chẳng sinh tướng chấp giữ các pháp như vậy, do chẳng phân biệt tất cả các pháp vậy. Này Đại Tuệ! Đó gọi là như thật giác ngộ tướng đạo Nhất thừa. Này Đại Tuệ! Như vậy giác ngộ tướng đạo Nhất thừa mà tất cả ngoại đạo, Thanh văn, Bích-chi-phật, Phạm thiên… chưa từng được biết, chỉ trừ ta. Này Đại Tuệ! Vậy nên ta gọi là tướng đạo Nhất thừa. Bồ-tát Đại Tuệ bạch: –Bạch Thế Tôn! Thế Tôn vì nhân gì nói tới ba thừa, chẳng nói Nhất thừa? Đức Phật bảo: –Này Đại Tuệ! Thanh văn, Duyên giác chẳng thể tự biết chứng đắc Niết-bàn. Vậy nên ta nói chỉ có đạo Nhất thừa. Này Đại Tuệ! Do tất cả Thanh văn, Bích-chi-phật kính nhận lời Phật dạy, nhàm chán thế gian, tự mình chẳng thể được giải thoát. Vậy nên ta nói chỉ có đạo Nhất thừa. Lại nữa, này Đại Tuệ! Tất cả Thanh văn, Bích-chi-phật chẳng xa lìa trí chướng, chẳng lìa nghiệp chướng tập khí phiền não. Vậy nên ta nói chỉ có đạo Nhất thừa. Này Đại Tuệ! Thanh văn, Bích-chi-phật chưa chứng pháp vô ngã, chưa thể lìa khỏi chẳng thể nghó bàn biến dịch sinh tử. Vậy nên, ta vì các Thanh văn nên nói đạo Nhất thừa. Này Đại Tuệ! Thanh văn, Bích-chi-phật, nếu lìa tất cả các lỗi huân tập thì được chứng pháp vô ngã. Bấy giờ, lìa khỏi các lỗi được Tam-muội vô lậu, ưa thích pháp giác ngộ rồi tu hành, ra khỏi thế gian, ở trong cõi vô lậu, được tất cả công đức, do tu hành nên đạt được Pháp thân tự tại chẳng thể nghó bàn. Lúc ấy, Đức Thế Tôn một lần nữa nói kệ: Chư Thiên và Phạm chúng Thừa Thanh văn, Duyên giác Chư Phật Như Lai thừa Ta nói các thừa ấy Do tâm có diệt, sinh Các thừa chẳng rốt ráo Nếu Tâm đó diệt tận Chẳng có thừa, không thừa Không có thừa sai biệt Ta nói là Nhất thừa Dẫn đường cho chúng sinh Phân biệt nói các thừa Giải thoát có ba loại Và hai pháp vô ngã Chẳng lìa hai thứ chướng Xa lìa chân giải thoát Như cây nổi trên biển Thường theo sóng xoay chuyển Các Thanh văn cũng vậy Trôi nổi theo tướng gió Lìa các tùy phiền não Huân tập buộc phiền não Đắm vị vui Tam-muội An trụ cõi vô lậu Không có cõi rốt ráo Cũng lại chẳng thoái lui Được các thân Tam-muội Mê mờ vô lượng kiếp Như người say mê man Rượu tan rồi mới tỉnh Được Phật thể vô thượng Là chân Pháp thân ta. KINH NHẬP LĂNG-GIÀ <卷 id="118149475">QUYỂN 5 <詞 id="118149476">Phẩm 4: PHẬT TÂM Bấy giờ, Đức Phật bảo Thánh giả Đại Tuệ: –Này Đại Tuệ! Ta nay vì ông nói về tu hành sai biệt của Ý sinh thân! Này Đại Tuệ! Ông hãy lắng nghe, lắng nghe! Ta sẽ vì ông nói. Bồ-tát Đại Tuệ bạch: –Hay thay! Bạch Thế Tôn! Thưa vâng, con xin nghe nhận. Đức Phật nói: –Này Đại Tuệ! Có ba loại Ý sinh thân. Những gì là ba? 1. Ý sinh thân đạt được niềm vui Tam-ma-bạt-đề. 2. Ý sinh thân như thật biết rõ tướng các pháp. 3. Ý sinh thân chủng loại sinh không tạo tác hạnh. Bồ-tát từ Sơ địa tu hành như thật thì sẽ đạt được Thượng thượng địa chứng tướng trí. Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát đạt được Ý sinh thân Tam-muội an lạc Tam-ma-bạt-đề là gì? Nghóa là trong Địa thứ ba, thứ tư, thứ năm, tự tâm tịch tónh tu hành vô số hạnh. Sóng tâm biển cả chuyển tướng thức thành niềm vui Tam-ma-bạt-đề, gọi là Ý thức sinh. Do thấy cảnh giới tự tâm nên biết như thật tướng có, không. Này Đại Tuệ! Đó gọi là tướng Ý sinh thân. Này Đại Tuệ! Ý sinh thân hiểu biết như thật các pháp tướng là gì? Nghóa là Đại Bồ-tát ở trong Địa thứ tám quan sát hiểu rõ, đạt được các pháp vô tướng, pháp như huyễn… đều không vướng mắc, thân tâm chuyển biến, đạt được Tam-muội Như huyễn và vô lượng pháp môn an lạc Tam-ma-bạt-đề khác, vô lượng tướng lực thần thông tự tại hoa báu trang nghiêm tự tại như ý, giống như huyễn, mộng, trăng trong nước, hình tượng trong gương, chẳng phải bốn đại sinh ra mà tương tự tướng bốn đại, đầy đủ thân phần. Tất cả sự tu hành đều được tự tại như ý, tùy thuận nhập vào đại chúng của các cõi nước chư Phật. Này Đại Tuệ! Đó gọi là Ý sinh thân biết rõ như thật về tướng các pháp. Này Đại Tuệ! Chủng loại sinh vô tác hạnh Ý sinh thân là gì? Nghóa là tự thân nội chứng tất cả các pháp, an lạc như thật với tướng an lạc, tướng pháp. Này Đại Tuệ! Đó gọi là Chủng loại sinh vô tác hạnh Ý sinh thân. Này Đại Tuệ! Đối với ba loại thân tướng đó, ông nên quan sát biết rõ. Bấy giờ, Đức Thế Tôn một lần nữa nói kệ: Thừa ta chẳng Đại thừa Không nói chẳng văn tự Không giải thoát, không đế Chẳng phải không cảnh giới Nhưng đối với Đại thừa Tự tại Tam-ma-đề Đủ loại Ý sinh thân Hoa tự tại trang nghiêm. Bấy giờ, Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch: –Bạch Thế Tôn! Như Đức Thế Tôn nói, thiện nam, thiện nữ tạo lập năm nghiệp vô gián. Bạch Thế Tôn! Những gì là năm nghiệp vô gián mà thiện nam, thiện nữ tạo lập năm nghiệp vô gián liền nhập vào vô gián. Đức Phật bảo Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ: –Hay thay! Hay thay! Này Đại Tuệ! Ông hãy lắng nghe, lắng nghe! Ta sẽ vì ông nói. Bồ-tát Đại Tuệ bạch: –Hay thay! Bạch Thế Tôn! Thưa vâng, con xin lắng nghe và ghi nhận. Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ: –Năm vô gián: 1. Giết mẹ. 2. Giết cha. 3. Giết A-la-hán. 4. Phá hòa hợp Tăng. 5. Ác tâm làm thân Phật chảy máu. Này Đại Tuệ! Mẹ của chúng sinh là gì? Nghóa là lại thọ đời sau, ham thích sinh ra như duyên vào mẹ lập nên. Này Đại Tuệ! Cha là gì? Nghóa là vô minh là cha, sinh ra sự nhóm họp của sáu nhập. Này Đại Tuệ! Đoạn trừ hai thứ căn bản có khả năng sinh khởi đó thì gọi là giết cha, mẹ. Này Đại Tuệ! Giết A-la-hán là gì? Nghóa là các sử, như loài chuột bị trúng độc, nhổ đi các sử oán căn bản, nên chẳng sinh ra. Này Đại Tuệ! Đó gọi là giết A-la-hán. Này Đại Tuệ! Phá hòa hợp Tăng là gì? Nghóa là tướng khác nhau của năm ấm hòa hợp tích tụ mà đoạn trừ hết thì gọi là phá Tăng. Này Đại Tuệ! Tâm ác làm thân Phật chảy máu là gì? Nghóa là thấy tự tướng đồng tướng là tướng bên ngoài tự tâm, thân tám thức nương vào vô lậu, ba cửa giải thoát, đoạn trừ rốt ráo Phật tám thức thì gọi là ác tâm làm thân Phật chảy máu. Này Đại Tuệ! Đó gọi là năm loại vô gián trong thân thiện nam, thiện nữ nào tu theo vô gián này được gọi là người vô gián, người vô gián gọi là chứng đắc pháp như thật. Lại nữa, này Đại Tuệ! Ta vì các ông nói năm tướng vô gián bên ngoài. Các Bồ-tát nghe nghóa đó rồi, ở đời vị lai chẳng sinh tâm nghi ngờ. Này Đại Tuệ! Năm vô gián bên ngoài là gì? Nghóa là giết cha, mẹ, A-la-hán, phá hòa hợp Tăng, làm thân Phật chảy máu. Người tạo lập vô gián này thì ở trong ba cửa giải thoát chẳng thể chứng đắc mỗi một cửa giải thoát nào chỉ trừ nương vào lực gia hộ Như Lai. Thần lực của Như Lai, Bồ-tát, Thanh văn ứng hóa vì năm hạng người có tội mà sám hối tâm nghi ngờ. Đoạn trừ tâm nghi này khiến sinh ra thiện căn, rồi vì người có tội đó thị hiện ứng hóa mà giảng nói. Này Đại Tuệ! Nếu người phạm năm tội vô gián thì hoàn toàn chẳng được chứng đắc đạo phần, trừ những ai thấy tự tâm chỉ là hư vọng, lìa khỏi chỗ nương trụ và của cải của thân, phân biệt thấy tướng của ngã và ngã sở, ở trong vô lượng, vô biên kiếp gặp được Thiện tri thức, thân ở cõi khác thì lìa khỏi lỗi thấy của tự tâm hư vọng. Bấy giờ, Đức Thế Tôn một lần nữa lại nói kệ: Tham ái gọi là mẹ Vô minh tức là cha Thức liễu cảnh là Phật Các sử là La-hán Ấm nhóm họp là Tăng Vô gián nối nhau đoạn Nghiệp vô gián lại không Được chân như vô gián. Bấy giờ, Thánh giả Đại Tuệ lại bạch: –Bạch Thế Tôn! Nguyện xin vì con nói tướng tri giác của các Đức Như Lai! Đức Phật bảo Thánh giả Đại Bồ-tát Đại Tuệ: –Này Đại Tuệ! Biết như thật nhân vô ngã, pháp vô ngã, có thể biết rõ như thật hai chướng, xa lìa hai thứ phiền não. Đó gọi là Tri giác như thật của Như Lai. Thanh văn, Bích-chi-phật đạt được pháp này thì cũng gọi là Phật. Này Đại Tuệ! Do nhân duyên này nên ta nói Nhất thừa. Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ: Biết rõ hai vô ngã Hai chướng, hai phiền não Biến hóa chẳng nghó bàn Gọi là tri giác Phật. Bấy giờ, Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch: –Bạch Thế Tôn! Sao Thế Tôn ở trong đại chúng nói lời như vầy: “Ta là tất cả Phật quá khứ” và nói vô số kinh Bản Sinh: “Bấy giờ, ta làm vua Đảnh Sinh, voi lớn sáu ngà, chim Anh vũ, tiên nhân Tỳ-gia-đa, vua trời Đế Thích, Bồ-tát Thiện Nhãn… như vậy, trong trăm ngàn kinh đều nói Bản Sinh. Đức Phật bảo Thánh giả Đại Bồ-tát Đại Tuệ: –Này Đại Tuệ! Nương theo bốn thứ bình đẳng, Như Lai Ứng Chánh Biến Tri, ở trong đại chúng xướng lên lời như vầy: “Vào lúc ấy, ta làm Phật Câu-lưu-tôn, Phật Câu-na-hàm Mâu-ni, Phật Ca-diếp.” Những gì là bốn? 1. Tự bình đẳng. 2. Ngữ bình đẳng. 3. Pháp bình đẳng. 4. Thân bình đẳng. Này Đại Tuệ! Nương vào bốn pháp bình đẳng này, các Đức Phật Như Lai ở trong chúng nói lời như vậy. Này Đại Tuệ! Tự bình đẳng là gì? Nghóa là những chữ gì mà Phật quá khứ gọi Phật thì ta đồng với chữ đó cũng gọi là Phật, chẳng vượt qua chữ đó mà cùng với chữ đó ngang bằng không sai khác. Này Đại Tuệ! Đó gọi là tự bình đẳng. Này Đại Tuệ! Ngôn ngữ chư Phật bình đẳng là gì? Nghóa là ngôn ngữ nói pháp của chư Phật quá khứ có sáu mươi bốn loại Phạm thanh cực hay thì ta cũng có sáu mươi tư loại ngôn ngữ nói pháp bằng Phạm thanh vi diệu. Này Đại Tuệ! Các Đức Phật vị lai cũng dùng ngôn ngữ nói pháp bằng sáu mươi tư Phạm thanh vi diệu, không thêm không bớt, chẳng khác, không sai biệt, tiếng Phạm vi diệu như tiếng Ca-lăng-tần-già. Này Đại Tuệ! Đó gọi là ngôn ngữ bình đẳng của các Đức Phật. Này Đại Tuệ! Thân bình đẳng của chư Phật là gì? Này Đại Tuệ! Pháp thân, sắc thân của ta và chư Phật, tướng tốt trang nghiêm không khác, không sai biệt, trừ việc nương theo những chúng sinh đáng hóa độ. Những chúng sinh kia ở khắp nơi nên chư Phật Như Lai hiện vô số thân để độ họ. Này Đại Tuệ! Đó gọi là thân bình đẳng của chư Phật. Này Đại Tuệ! Sao là pháp bình đẳng của chư Phật? Nghóa là chư Phật đó và ta đều đạt được ba mươi bảy pháp phần Bồ-đề, mười Lực, bốn Vô úy… Này Đại Tuệ! Đó gọi là Pháp bình đẳng của chư Phật. Này Đại Tuệ! Nương vào bốn pháp bình đẳng này nên Như Lai ở trong đại chúng nói lời như vầy: “Ta là vua Đảnh Sinh đời quá khứ…” Bấy giờ, Đức Thế Tôn một lần nữa lại nói kệ: Ca-diếp, Câu-lưu-tôn Câu-na-hàm… là ta Nói cho các Phật tử Nương bốn pháp bình đẳng Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch: –Bạch Thế Tôn! Đức Như Lai nói rằng, đêm đó ta chứng Đại Bồ-đề? Đêm đó ta vào Bát-niết-bàn? Trong khoảng thời gian đó ta chẳng nói một chữ Phật nói là chẳng phải nói. Đức Thế Tôn nương vào những nghóa gì mà nói lời như vậy? Lời nói của Phật chẳng phải lời nói? Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ: –Này Đại Tuệ! Như Lai nương vào hai pháp mà nói lời như vậy. Những gì là hai để ta nói như vậy? 1. Nương vào pháp tự thân chứng đắc. 2. Nương vào pháp bản trụ. Ta nương vào hai pháp này mà nói lời như vậy. Này Đại Tuệ! Thế nào là nương vào pháp tự thân chứng đắc? Là pháp chứng đắc của các Đức Phật Như Lai quá khứ kia, ta cũng chứng được như vậy, chẳng thêm chẳng bớt, tự thân chứng đắc các hạnh cảnh giới, lìa khỏi tướng ngôn ngữ phân biệt, lìa khỏi hai loại văn. Này Đại Tuệ! Pháp bản trụ là gì? Này Đại Tuệ! Nghóa là đường bản hạnh bằng phẳng ví như có các báu vàng, bạc, trân châu ở chỗ đó. Này Đại Tuệ! Đó gọi là pháp tánh bản trụ xứ. Này Đại Tuệ! Các Đức Phật Như Lai ra đời, chẳng ra đời thì pháp tánh, pháp giới, pháp trụ, pháp tướng pháp chứng vẫn thường trụ như đường đi vốn có của ngôi thành. Này Đại Tuệ! Ví như có người đi trong vùng hoang vắng, thấy hướng đi về ngôi thành có con đường ngay bằng phẳng liền theo đó vào thành. Vào ngôi thành đó rồi, nhận được mọi niềm vui, tạo tác đủ thứ nghiệp. Này Đại Tuệ! Ý ông thế nào? Việc làm trước của người đó chính là con đường theo vào thành sao? Trước đã tạo vô số sự trang nghiêm sao? Bồ-tát Đại Tuệ bạch: –Chẳng phải vậy, bạch Thế Tôn! –Này Đại Tuệ! Ta và tất cả chư Phật quá khứ thì pháp tánh, pháp giới, pháp trụ, pháp tướng, pháp chứng thường trụ cũng lại như vậy. Này Đại Tuệ! Ta nương vào ý nghóa này mà ở trong đại chúng nói lên như vầy: “Ta đêm nào đạt được Đại Bồ-đề, đêm nào vào Bát-niết-bàn, khoảng giữa hai đêm này, ta chẳng nói một chữ, cũng chẳng đã nói, sẽ nói và hiện nói.” Bấy giờ, Đức Thế Tôn một lần nữa lại nói kệ: Ta đêm nào thành đạo Đêm nào Bát-niết-bàn Khoảng giữa hai đêm ấy Ta không nói lời nào Nội thân chứng pháp tánh Ta nương lời như vậy Ta và mười phương Phật Các pháp không sai biệt. Bấy giờ, Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ lại thỉnh Đức Phật: –Nguyện xin Đức Thế Tôn nói về tướng có không của tất cả pháp, khiến cho con và đại chúng Bồ-tát khác khi được nghe rồi, lìa khỏi tướng có không, mau thành tựu được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Đức Phật bảo Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ: –Hay thay! Hay thay! Này Đại Tuệ! Ông hãy lắng nghe, lắng nghe! Ta sẽ vì ông giải nói. Bồ-tát Đại Tuệ bạch: –Hay thay! Bạch Thế Tôn! Thưa vâng, con xin lắng nghe và tin nhận. Đức Phật nói: Này Đại Tuệ! Người thế gian, đa phần rơi vào hai kiến chấp. Những gì là hai kiến chấp? 1. Thấy có. 2. Thấy không. Do thấy có các pháp, thấy các pháp, chẳng phải pháp cứu cánh mà sinh ra tưởng cứu cánh. Này Đại Tuệ! Sao thế gian lại rơi vào chấp có? Nghóa là, do nhân duyên thật có mà sinh ra các pháp chẳng phải chẳng thật có. Pháp thật có sinh chẳng phải không có pháp sinh ra. Này Đại Tuệ! Người thế gian nói như vậy đó gọi là nói không nhân, không duyên và bài báng thế gian, không nhân không duyên mà sinh ra các pháp. Này Đại Tuệ! Người thế gian làm sao rơi vào chấp không? Là nói rằng, tham, sân, si, thật có tham, sân, si mà lại nói rằng, không tham, sân, si, phân biệt có, không. Này Đại Tuệ! Nếu lại có người nói lên lời như vầy: “Không có các pháp do chẳng thấy tướng của các vật.” Này Đại Tuệ! Nếu lại có người nói lên như vầy: “Thanh văn, Bích-chi-phật không tham, không sân, không si” rồi lại nói, trước thì có. Hai hạng người này thì người nào hơn? Người nào chẳng đúng? Bồ-tát Đại Tuệ bạch: –Bạch Thế Tôn! Nếu người nói rằng, trước có tham, sân, si, thời gian sau không còn thì người này chẳng đúng. Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ: –Hay thay! Hay thay! Này Đại Tuệ! Ông hiểu lời ta hỏi. Này Đại Tuệ! Chẳng phải chỉ nói trước thật có tham, sân, si, về sau nói không giống với Vệ thế sư… Vậy nên chẳng đúng. Này Đại Tuệ! Chẳng phải là chỉ không giống như diệt tất cả pháp của Thanh văn, Bích-chi-phật. Vì sao? Này Đại Tuệ! Do thật không có các pháp trong hay ngoài, do chẳng phải một chẳng phải khác, do các phiền não chẳng phải một, chẳng phải khác vậy. Này Đại Tuệ! Pháp tham, sân, si trong thân chẳng thể nắm bắt được, trong pháp bên ngoài cũng chẳng thể nắm bắt được, không thật thể nên ta chẳng chấp nhận. Này Đại Tuệ! Ta chẳng chấp nhận là chẳng chấp nhận có tham, sân, si. Vậy nên, người đó diệt pháp của Thanh văn, Bích-chi-phật. Vì sao? Vì các Đức Phật Như Lai biết pháp Tịch tónh còn Thanh văn, Duyên giác chẳng thấy pháp, do không có nhân của năng trói buộc và sở trói buộc. Này Đại Tuệ! Nếu có năng trói buộc thì nhất định có sở trói buộc. Nếu có sở trói buộc thì nhất định có nhân năng trói buộc. Này Đại Tuệ! Nói như vậy gọi là diệt các pháp. Này Đại Tuệ! Đó gọi là tướng Vô pháp. Này Đại Tuệ! Ta nương vào nghóa này mà trong Kinh khác nói rằng, thà khởi lên ngã kiến như núi Tu-di mà khởi lên kiêu mạn, chứ chẳng nói rằng, các pháp là trống không. Này Đại Tuệ! Người tăng thượng mạn nói rằng, các pháp không có thì chính là diệt các pháp, rơi vào kiến chấp tự tướng, đồng tướng. Do thấy tự tâm thấy pháp, do thấy vật bên ngoài vô thường, các tướng đắp đổi mỗi một đều sai biệt, do thấy thể nối tiếp nhau của ấm, giới, nhập, do các nhân duyên đắp đổi mà sinh ra, do tự tâm hư vọng phân biệt. Vậy nên, này Đại Tuệ! Như người này là diệt các Phật pháp. Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ: Hữu, vô là nhị biên Đều do cảnh giới tâm Xa lìa pháp cảnh giới Tâm bình đẳng, tịch tónh Không chấp pháp, cảnh giới Diệt chẳng có, chẳng không Như chân như vốn có Chính là cảnh giới Thánh Vốn không mà có sinh Đã sinh, lại diệt mất Chẳng có, chẳng không sinh Chẳng phải lời ta dạy Không ngoại đạo, chẳng Phật Không ngã cũng chẳng khác Từ nhân duyên không thành Sao lại cho là có Nếu nhân duyên không sinh Sao lại nói là không Khởi pháp luận tà kiến Vọng tưởng chấp có, không Nếu biết không hề sinh Cũng biết chưa từng diệt Quán đời đều rỗng lặng Họ chẳng chấp có, không. Bấy giờ, Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch: –Bạch Thế Tôn! Cúi xin Đấng Như Lai Ứng Chánh Biến Tri, thầy của trời, người kiến lập tướng tu hành chánh pháp cho con và tất cả hành Bồ-tát, khiến con và tất cả Đại Bồ-tát biết rõ tướng tu hành chánh pháp, mau chóng chứng đắc đạo quả Vô thượng Bồ-đề, không rơi vào tất cả sự quán sát hư vọng của các ma. Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ: –Lành thay! Lành thay! Này Đại Tuệ! Hãy lắng nghe! Ta sẽ giảng nói cho ông. Bồ-tát Đại Tuệ thưa: –Lành thay! Bạch Thế Tôn! Con xin lắng nghe và tin nhận! Đức Phật nói: –Này Đại Tuệ! Có hai pháp để Đức Phật Như Lai kiến lập tướng tu hành chánh pháp cho các Bồ-tát, Thanh văn và Bích-chi-phật. Những gì là hai? 1. Kiến lập tướng chánh pháp. 2. Giảng nói kiến lập tướng chánh pháp. Này Đại Tuệ! Thế nào là kiến lập tướng Chánh pháp? Nghóa là, tự thân chứng đắc tướng các pháp thù thắng, xa lìa văn tự, ngôn ngữ, chương cú, có thể nắm giữ Chánh giới vô lậu, chứng đắc các Địa, tu hành pháp tướng, xa lìa sự quán sát hư vọng của ngoại đạo và các cảnh giới của ma, hàng phục tất cả ngoại đạo, các ma, hiển bày pháp chứng đắc của tự thân, như thật tu hành. Này Đại Tuệ! Đó gọi là Tưởng kiến lập tướng chánh pháp. Này Đại Tuệ! Thế nào là kiến lập tướng thuyết pháp? Nghóa là, giảng nói chín bộ loại giáo pháp, xa lìa tướng chấp một khác, có không, trước nói phương tiện thiện xảo, vì khiến chúng sinh thể nhập an lạc, là tùy theo chúng sinh có bao nhiêu niềm tin đối với pháp thì giảng nói bấy nhiêu pháp. Này Đại Tuệ! Ông và các Bồ-tát nên tu học Chánh pháp như vậy. Bấy giờ, Đức Thế Tôn một lần nữa lại nói kệ: Kiến lập pháp nội chứng Và nói tướng, danh pháp Nếu phân biệt rõ ràng Chẳng theo lời người khác. Pháp ngoại đạo thật, không Như phàm phu phân biệt Nếu các pháp hư vọng Vì sao chấp giải thoát Quan sát các hữu vi Sinh diệt luôn tương tục Tăng trưởng hai kiến chấp Chẳng thể biết nhân duyên Niết-bàn lìa khỏi thức Chỉ một pháp thật này Quán thế gian hư vọng Như cây chuối, huyễn, mộng. Tuy có tham, sân, si Không có người tạo tác Từ ái sinh các ấm Như huyễn, mộng mà có. Bấy giờ, Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ lại thỉnh Đức Phật: –Bạch Thế Tôn! Nguyện xin Đức Như Lai Ứng Chánh Biến Tri vì các Bồ-tát nói về vọng tưởng chẳng thật. Vọng tưởng không thật trong pháp là những gì? Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ: –Hay thay! Hay thay! Này Đại Tuệ! Ông vì yên ổn cho tất cả chúng sinh, làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, an vui cho tất cả chúng sinh, thương xót tất cả trời, người của thế gian mà thỉnh ta việc này. Này Đại Tuệ! Ông hãy lắng nghe, lắng nghe! Ta sẽ vì ông giảng nói. Bồ-tát Đại Tuệ bạch: –Hay thay! Bạch Thế Tôn! Con xin lắng nghe và tin nhận! Đức Phật nói: –Này Đại Tuệ! Tất cả chúng sinh chấp trước tưởng hư vọng chẳng thật từ kiến chấp nên sinh ra vô số pháp hư vọng. Do chấp trước các cảnh giới hư vọng năng thủ sở thủ, chấp nơi tự tâm mà sinh ra tưởng hư vọng, rơi vào trong bè đảng nhị kiến có không, trong nhóm phi pháp, tăng trưởng thành tựu sự huân tập dị kiến hư vọng của ngoại đạo. Này Đại Tuệ! Do chấp giữ những nghóa hý luận bên ngoài nên khởi lên tâm hư vọng và tâm số pháp giống như bó cỏ, phân biệt pháp ngã và ngã sở. Này Đại Tuệ! Do nghóa này nên sinh ra vọng tưởng chẳng thật. Bồ-tát Đại Tuệ bạch: –Bạch Thế Tôn! Nếu các chúng sinh chấp trước tưởng hư vọng chẳng thật thì từ kiến chấp, đủ thứ pháp hư vọng sinh ra, chấp trước tất cả cảnh giới hư vọng năng thủ sở thủ, chấp tự tâm sinh ra tưởng hư vọng, rơi vào trong bè đảng nhị kiến có không, trong nhóm phân biệt, tăng trưởng thành tựu sự huân tập dị kiến hư vọng của ngoại đạo. Do chấp thủ nghóa hý luận của ngoại đạo, vọng tưởng chẳng thật mà khởi lên tâm hư vọng và tâm số pháp, giống như bó cỏ, chấp giữ ngã và ngã sở… thì Bạch Thế Tôn! Như những chúng sinh đó nương vào đủ các cảnh giới, đủ loại tướng bên ngoài, rơi vào trong tướng có bè đảng, rơi vào trong tướng không bè đảng, lìa khỏi tướng chấp có, không. Bạch Thế Tôn! Đệ nhất nghóa đế cũng nên như vậy, xa lìa pháp A-hàm mà bậc Thánh đã giảng xa lìa các căn, xa lìa sự kiến lập ba pháp là tướng, nhân duyên, thí dụ. Bạch Thế Tôn! Sao gọi là một nơi có đủ loại phân biệt chấp trước? Đủ loại tưởng hư vọng sinh ra? Vì sao chẳng chấp trước Đệ nhất nghóa đế? Hư vọng phân biệt mà sinh ra phân biệt? Đức Thế Tôn nói pháp như vậy chẳng phải nói bình đẳng mà nói không nhân duyên. Vì sao? Vì một nơi sinh, một nơi chẳng sinh vậy. Nếu Thế Tôn nói như vậy thì rơi vào hai bè đảng. Do thấy chấp trước hư vọng phân biệt mà sinh ra phân biệt, do Thế Tôn nói, như nhà ảo thuật nương vào đủ thứ nhân duyên tạo ra đủ thứ sắc tượng, do tự tâm Thế Tôn hư vọng phân biệt, do Thế Tôn nói đủ thứ hư vọng, hoặc có, hoặc không, chẳng thể ngôn thuyết… là lìa khỏi phân biệt. Như vậy, Như Lai rơi vào luận thế gian, vào trong nhóm bè đảng tâm tà kiến. Đức Phật nói: –Này Đại Tuệ! Ta phân biệt hư vọng chẳng sinh chẳng diệt. Vì sao? Vì chẳng sinh ra tướng phân biệt có không, chẳng chấp tất cả có không ở bên ngoài. Này Đại Tuệ! Do thấy tự tâm là thấy như thật nên hư vọng phân biệt chẳng sinh chẳng diệt. Này Đại Tuệ! Lời nói này của ta chỉ vì hạng phàm phu ngu si mà nói tự tâm phân biệt, phân biệt đủ thứ tùy theo tâm trước sinh ra, phân biệt đủ thứ chấp trước tướng có. Vì sao? Vì nếu chẳng nói thì phàm phu ngu si chẳng lìa khỏi sự nhận biết hư vọng của tự tâm, chẳng lìa khỏi chấp trước sự thấy của ngã và ngã sở, chẳng lìa khỏi những lỗi nhân duyên của nhân quả, hiểu biết như thật hai loại tâm, biết rõ hành tướng của tất cả các Địa, biết rõ cảnh giới nội chứng, các hạnh tự thân của chư Phật, chuyển năm pháp thể, thấy tướng phân biệt nhập vào Như Lai địa. Này Đại Tuệ! Nhân việc này nên ta nói, tất cả các chúng sinh… chấp trước hư vọng sinh ra tâm hư vọng, tự tâm phân biệt đủ các nghóa. Do nghóa này nên tất cả chúng sinh biết nghóa như thật mà được giải thoát. Bấy giờ, Đức Thế Tôn một lần nữa lại nói kệ: Các nhân và cùng duyên Từ đây sinh thế gian Vọng tưởng chấp bốn cú Chẳng biết lời ta nói Đời chẳng sinh, không, có Lìa chẳng sinh, có, không Sao ngu si phân biệt Nương nhân duyên pháp sinh Nếu hay thấy thế gian Có không, chẳng có không Chuyển biến tâm hư vọng Được pháp chân vô ngã. Các pháp vốn chẳng sinh Mà nương nhân duyên sinh Các duyên tức là quả Từ quả chẳng sinh có. Từ quả, chẳng sinh quả Nếu vậy có hai quả Nếu đã có hai quả Khó được quả trong quả. Niệm, sở niệm rồi Quán các pháp hữu vi Thấy các pháp do tâm Nên ta nói duy tâm Lượng thể và hình tướng Lìa các pháp và duyên Cứu cánh có thanh tịnh Ta nói lượng như vậy. Thế đế ta giả gọi Đó thì không thật sự Các ấm, ấm giả danh Giả danh chẳng thật pháp. Có bốn bình đẳng là Tướng, nhân, sinh, vô ngã Bốn Bồ-đề như thế Là pháp người tu hành Chuyển tất cả các kiến Lìa phân biệt, phân biệt Chẳng thấy và chẳng sinh Nên ta nói duy tâm Pháp chẳng có, chẳng không Lìa các pháp có, không Như vậy lìa tâm pháp Nên ta nói duy tâm Phân biệt nương huân tập Chân như không thật tế Niết-bàn và pháp giới Ý thân và thân tâm Nên ta nói duy tâm Tâm nương các cảnh sinh. Chúng sinh thấy ngoại cảnh Nên ta nói duy tâm Được thấy ngoại pháp không Tâm thấy hết như vậy Trụ xứ, của cải thân Nên ta nói duy tâm. Bấy giờ, Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ bạch: –Bạch Thế Tôn! Đức Như Lai nói rằng, như lời nói của ta, ông là các Bồ-tát chớ chấp trước nghóa của âm thanh ngôn ngữ. Bạch Thế Tôn! Làm sao Bồ-tát chẳng chấp trước vào nghóa của ngôn ngữ? Ngôn ngữ là gì? Nghóa là gì? Đức Phật bảo Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ: –Hay thay! Hay thay! Này Đại Tuệ! Ta sẽ vì ông nói! Bồ-tát Đại Tuệ bạch: –Hay thay! Bạch Thế Tôn! Thưa vâng, con xin lắng nghe và tin nhận. Đức Phật bảo: –Này Đại Tuệ! Âm thanh là gì? Nghóa là nương vào sự huân tập ngôn ngữ, danh tự hòa hợp phân biệt từ vô thủy; nương vào yết hầu, mũi, răng, má, môi, lưỡi hòa hợp chuyển động mà phát ra ngôn ngữ đó để phân biệt các pháp. Đó gọi là Thanh. Này Đại Tuệ! Nghóa là gì? Là Đại Bồ-tát nương vào văn, tư, tu lực trí tuệ bậc Thánh, ở chỗ yên tónh, ngồi một mình để tư duy. Sao gọi là Niết-bàn hướng đến đạo Niết-bàn? Là quan sát cảnh giới tu hành nội thân, từng Địa, mỗi từng chỗ tướng tu hành thù thắng, làm chuyển biến nhân huân tập từ vô thủy đó. Này Đại Tuệ! Đó gọi là Bồ-tát khéo hiểu rõ tướng của nghóa. Lại nữa, này Đại Tuệ! Sao gọi là Đại Bồ-tát khéo hiểu rõ nghóa của ngôn ngữ? Bồ-tát thấy nghóa của ngôn ngữ và thanh chẳng một chẳng khác. Thấy nghóa, ngôn ngữ, thanh chẳng một chẳng khác. Nếu nói rằng, ngôn ngữ lìa khỏi nghóa thì chẳng nên do tiếng ngôn ngữ đó mà có được nghóa, mà nghóa nương vào ngôn ngữ đó hiểu rõ. Này Đại Tuệ! Như nương vào ngọn đèn phân biệt rõ mọi hình sắc. Này Đại Tuệ! Ví như có người thắp đèn lên quan sát đủ loại châu báu, chỗ này như vầy… như vầy… chỗ kia như vầy… như vầy… Này Đại Tuệ! Bồ-tát nương vào âm thanh, ngôn ngữ mà chứng đắc lìa khỏi ngôn ngữ, vào được nghóa tự thân tu hành. Lại nữa, này Đại Tuệ! Tất cả các pháp chẳng sinh chẳng diệt, bản lai tự tánh nhập vào Niết-bàn. Ba thừa, một thừa, năm tâm pháp, các pháp thể đều đồng. Ngôn ngữ, thanh, nghóa nương vào mọi duyên mà chấp tướng, rơi vào hữu, vô chấp các pháp, là chắc thật thấy thể của các pháp đều trụ ở tướng khác mà phân biệt tướng khác. Phân biệt như vậy rồi, thấy vô số pháp tướng như huyễn, thấy đủ loại phân biệt. Này Đại Tuệ! Ví như huyễn có đủ loại khác nhau, phân biệt khác nhau, chẳng phải là sự thấy của Thánh nhân mà là sự thấy của phàm phu. Bấy giờ, Đức Thế Tôn một lần nữa nói kệ: Phân biệt ngôn ngữ, thanh Kiến lập nên các pháp Do kiến lập như vậy Nên rơi các đường ác. Trong năm ấm vô ngã Trong ngã không năm ấm Chẳng như vọng tưởng đó Cũng chẳng phải là không. Phàm phu vọng phân biệt Thấy các pháp có thật Nếu nhận thức như trên Tất cả nên thấy chân Tất cả pháp nếu không Nhiễm, tịnh cũng là không Thấy đó không như vậy Chẳng phải không thật có. Lại nữa, này Đại Tuệ! Ta nay vì ông nói tướng của trí thức! Ông và các Đại Bồ-tát nên biết rõ tướng của trí thức đó và như thật tu hành tướng trí thức để mau chóng đạt được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Này Đại Tuệ! Có ba loại trí. Những gì là ba? 1. Thế gian trí. 2. Xuất thế gian trí. 3. Xuất thế gian thượng thượng trí. Này Đại Tuệ! Thức là tướng sinh diệt; Trí là tướng chẳng sinh diệt. Lại nữa, này Đại Tuệ! Thức là rơi vào tướng có tướng không, rơi vào đủ loại nhân của tướng có, không đó. Này Đại Tuệ! Tướng trí là xa lìa tướng có, tướng không, tướng nhân có không gọi là tướng trí. Lại nữa, này Đại Tuệ! Tập hợp các pháp thì gọi là tướng của thức, chẳng tập hợp các pháp thì gọi là tướng của trí. Này Đại Tuệ! Trí có ba loại. Những gì là ba? 1. Quan sát tự tướng đồng tướng. 2. Quan sát tướng sinh, tướng diệt. 3. Quan sát tướng chẳng sinh chẳng diệt. Này Đại Tuệ! Thế gian trí là gì? Là những ngoại đạo, người phàm phu… chấp trước tất cả các pháp có không. Đó gọi là tướng của Thế gian trí. Này Đại Tuệ! Xuất thế gian trí là gì? Là tất cả những Thanh văn, Duyên giác hư vọng phân biệt tự tướng, đồng tướng. Đó gọi là Xuất thế gian trí. Này Đại Tuệ! Xuất thế gian thượng thượng trí là gì? Là Phật Như Lai Đại Bồ-tát quan sát tất cả các pháp tịch tónh, chẳng sinh, chẳng diệt, đạt được Như Lai địa chứng pháp vô ngã, lìa khỏi hai kiến bè đảng có, không kia. Lại nữa, này Đại Tuệ! Sở dó nói trí là không có tướng chướng ngại thức là nhận biết những tướng cảnh giới đó. Lại nữa, này Đại Tuệ! Thức là hòa hợp khởi lên sự tạo tác và đối tượng tạo tác gọi là tướng của Thức, không chướng ngại pháp tương ứng thì gọi là tướng của trí. Lại nữa, này Đại Tuệ! Tướng không thể nắm bắt, gọi là trí, do cảnh giới tu hành tự thân chứng được Thánh trí, vào ra nơi các pháp như trăng trong nước. Đó gọi là trí tướng. Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền nói kệ: Thức chứa nhóm các nghiệp Trí phân biệt rõ ràng Tuệ hay được vô tướng Và cảnh diệu trang nghiêm. Thức bị cảnh giới buộc Trí biết rõ các cảnh Vô tướng và thắng cảnh Là trú xứ Tuệ thông. Tâm, ý và ý thức Thường xa lìa các tướng Thanh văn phân biệt pháp Chẳng phải đệ tử ta Tịch tónh tinh tấn, nhẫn Trí Như Lai thanh tịnh Sinh ra trí Thiện thắng Xa lìa các tạo tác. Ta có ba loại tuệ Nương đó được Thánh danh Đối tưởng kia phân biệt Có thể nghe có, không Lìa khỏi hạnh Nhị thừa Tuệ lìa khỏi cảnh giới Chấp giữ tưởng có, không Từ các Thanh văn sinh Hiểu được chỉ là tâm Tướng trí tuệ sạch trong Lại nữa, này Đại Tuệ! Các ngoại đạo có chín loại thấy chuyển biến. Những gì là chín? 1. Hình tướng chuyển biến. 2. Tướng chuyển biến. 3. Nhân chuyển biến. 4. Tương ứng chuyển biến. 5. Thấy chuyển biến. 6. Vật chuyển biến. 7. Duyên liễu biệt chuyển biến. 8. Tác pháp liễu biệt chuyển biến. 9. Sinh chuyển biến. Này Đại Tuệ! Đó gọi là chín loại thấy chuyển biến. Nương theo chín loại thấy chuyển biến này mà tất cả ngoại đạo cho rằng chuyển biến từ có, không sinh ra. Này Đại Tuệ! Hình tướng chuyển biến của ngoại đạo là gì? Này Đại Tuệ! Ví như dùng vàng làm ra vật dụng trang sức như vòng, xuyến, chuỗi ngọc… đủ loại khác nhau. Hình tướng tuy khác nhưng thể của vàng chẳng biển đổi. Tất cả ngoại đạo phân biệt sự chuyển biến hình tướng của các pháp cũng lại như vậy. Này Đại Tuệ! Lại có ngoại đạo phân biệt các pháp nương vào nhân chuyển biến. Này Đại Tuệ! Mà các pháp kia cũng chẳng phải như vậy, chẳng phải chẳng như vậy do nương vào phân biệt. Này Đại Tuệ! Như vậy, tất cả chuyển biến cũng vậy. Ông nên biết ví như sữa, sữa đặc, rượu, trái cây… khi chín rồi thì từng thứ một chuyển biến. Tất cả ngoại đạo phân biệt chuyển biến cũng lại như vậy, mà pháp không thật do chuyển biến, do tự tâm thấy có không rồi chấp giữ phân biệt có không vậy. Này Đại Tuệ! Tất cả phàm phu cũng lại như vậy, do nương vào tự tâm phân biệt mà sinh ra tất cả các pháp. Này Đại Tuệ! Không có pháp sinh ra, không có pháp chuyển biến, như huyễn, như trong giấc mộng thấy các hình sắc, sự việc. Ví như trong giấc mộng thấy tất cả việc, con của thạch nữ sinh ra và chết đi. Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ: Khi hình tướng chuyển biến Bốn đại chủng, các căn Trung ấm và nắm giữ Chấp vậy chẳng phải trí. Nhân duyên sinh thế gian Phật chẳng nói như vậy Nhân duyên tức thế gian Như thành Càn-thát-bà. Bấy giờ, Đại Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch: –Bạch Thế Tôn! Nguyện xin Đức Như Lai Ứng Chánh Biến Tri giảng nói rõ tướng của tất cả các pháp nối tiếp hay chẳng nối tiếp nhau. Nguyện xin Đấng Thiện Thệ giảng nói, tướng của tất cả pháp nối tiếp, hay chẳng nối tiếp nhau khiến con và tất cả các chúng Bồ-tát hiểu rõ tướng của các pháp nối tiếp hay chẳng nối tiếp nhau, phương tiện khéo léo biết rồi, chẳng rơi vào sự chấp trước tướng của các pháp là nối tiếp hay chẳng nối tiếp, lìa khỏi lời nói, văn tự, vọng tưởng của tất cả pháp nối tiếp hay, chẳng nối tiếp rồi thì được diệu lực thần thông tự tại, đến khắp trong đại chúng của tất cả cõi nước chư Phật ở mười phương pháp môn Đà-la-ni khéo ấn chứng ấn đã ấn chứng, mười tận cú khéo chuyển đã chuyển, đủ loại ánh sáng biến hóa chiếu sáng, ví như bốn mặt trời, mặt trăng lớn, ngọc ma-ni tự nhiên hiện ra. Chúng sinh thọ dụng xa lìa các cõi, chỉ tự tâm thấy tướng phân biệt, hiện ra tất cả các pháp như huyễn, như mộng hiện bày vào nương tựa Địa của chư Phật. Đối với cõi chúng sinh thì tùy theo sự ứng hợp của họ mà vì họ nói pháp, ủng hộ, khiến cho họ hiểu rõ tất cả các pháp như huyễn như mộng, lìa khỏi tất cả bè đảng có, không, sinh diệt vọng tưởng, khác với lời nói ý nghóa, chuyển thân tự tại, sinh đến cõi thù thắng. Đức Phật bảo Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ: –Hay thay! Hay thay! Này Đại Tuệ! Ông hãy lắng nghe, lắng nghe, ta sẽ vì ông giải nói. Bồ-tát Đại Tuệ bạch: –Hay thay! Bạch Thế Tôn! Thưa vâng, con xin lắng nghe và tin nhận. Đức Phật nói: –Này Đại Tuệ! Tướng tương tục, chẳng tương tục của tất cả các pháp nghóa là, như Thanh văn chấp trước nghóa tương tục, tướng chấp trước tương tục, duyên chấp trước tương tục, có không chấp trước tương tục, phân biệt sinh chẳng sinh chấp trước tương tục, phân biệt diệt chẳng diệt chấp trước tương tục, phân biệt thừa chẳng phải thừa chấp trước tương tục, phân biệt hữu vi vô vi chấp trước tương tục, phân biệt Địa, tướng của Địa chấp trước tương tục, phân biệt tự phân biệt chấp trước tương tục, phân biệt có không vào bè đảng ngoại đạo chấp trước tương tục… Này Đại Tuệ! Như vậy phàm phu ngu si có vô lượng tâm phân biệt tương tục khác nhau rồi nương vào sự tương tục mà ngu si phân biệt như con tằm làm kén. Họ nương vào cái thấy của tâm mình mà phân biệt tương tục mãi, ưa hòa hợp tự ràng buộc và ràng buộc người khác, chấp trước có không hòa hợp tương tục. Này Đại Tuệ! Nhưng không có tương tục, không có tướng tương tục, vì thấy các pháp tịch tónh. Này Đại Tuệ! Do các vị Bồ-tát thấy tất cả pháp không có tướng phân biệt nên gọi là thấy pháp môn tịch tónh của tất cả Bồ-tát. Lại nữa, này Đại Tuệ! Có thể biết như thật tất cả pháp bên ngoài lìa khỏi có không, hiểu biết như thật tự tâm thấy tướng, do thể nhập được tướng tự tâm vô tướng. Này Đại Tuệ! Do thấy mà phân biệt pháp có, không nên gọi là tương tục. Do thấy các pháp tịch tónh nên gọi là không tương tục không có tướng tương tục, không tương tục các pháp tướng. Này Đại Tuệ! Không trói, không mở do rơi vào nhị kiến, nên tự tâm phân biệt có trói có mở. Vì sao? Vì chẳng thể biết các pháp có, không. Lại nữa, này Đại Tuệ! Phàm phu ngu si có ba loại tương tục. Những gì là ba? Là tham, sân, si và ưa thích sinh. Do những tương tục này nên có đời sống về sau. Này Đại Tuệ! Tương tục là chúng sinh nối tiếp nhau sinh ra ở năm đường. Này Đại Tuệ! Cắt đứt sự tương tục thì không nối tiếp nhau, không có tướng tương tục. Lại nữa, này Đại Tuệ! Chấp trước nhân duyên tương tục nên sinh ra ba cõi. Do các thức đắp đổi nối tiếp nhau chẳng gián đoạn, nhưng thấy ba cửa giải thoát mà chuyển biến diệt trừ nhân và thức chấp trước ba cõi. Đó gọi là đoạn tương tục. Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ: Chẳng thật, vọng phân biệt Gọi là tướng tương tục Biết như thật đó rồi Cắt đứt lưới tương tục Nếu chấp tiếng là thật Tự buộc như kén tằm Tự tâm vọng tưởng buộc Phàm phu chẳng thể biết. Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch: –Bạch Thế Tôn! Như Thế Tôn nói thì do những gì, những gì mà tâm phân biệt? Phân biệt những pháp gì, những pháp gì? Mà những pháp đó không có thể tướng như vậy, như vậy đó, chỉ là tự tâm phân biệt? Bạch Thế Tôn! Nếu chỉ tự tâm phân biệt chẳng phải tướng pháp đó thì như Thế Tôn nói, tất cả các pháp lẽ ra không có nhiễm hay tịnh. Vì sao? Vì như Đức Như Lai nói rằng, tất cả các pháp do vọng phân biệt mà thấy, không có thật thể. Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ: –Đúng vậy! Đúng vậy, đúng như lời ông nói! Này Đại Tuệ! Nhưng tất cả những phàm phu ngu si phân biệt các pháp mà các pháp đó không có tướng như vậy, chỉ hư vọng phân biệt cho là thật có. Này Đại Tuệ! Đó chính là phàm phu hư vọng phân biệt thể tướng các pháp, hư vọng mà biết chẳng phải thấy như thật. Này Đại Tuệ! Như Thánh nhân biết tánh tướng tự thể của tất cả các pháp, nương vào trí Thánh nhân, nương vào sự thấy của Thánh nhân, nương vào Tuệ nhãn của Thánh nhân mà biết đúng như thật tự thể của các pháp. Bồ-tát Đại Tuệ bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Như Thế Tôn và các Thánh nhân… nương vào Thánh trí, nương vào Thánh kiến, y vào Thánh tuệ nhãn, chẳng phải Nhục nhãn, Thiên nhãn mà biết rõ thể tướng của tất cả các pháp không có tướng như vậy, chẳng phải như phàm phu hư vọng phân biệt. Bạch Thế Tôn! Làm sao phàm phu ngu si chuyển tướng hư vọng? Đức Phật nói: –Này Đại Tuệ! Có thể biết như thật về cảnh giới Thánh nhân mà chuyển sự nhận thức hư vọng. Bồ-tát Đại Tuệ bạch: –Bạch Thế Tôn! Phàm phu ngu si đó chẳng phải kiến chấp điên đảo, chẳng phải chẳng kiến chấp điên đảo! Vì sao vậy? Vì do chẳng thể thấy pháp thể như thật của cảnh giới Thánh nhân, do thấy tướng chuyển biến có, không vậy. Bạch Thế Tôn! Tất cả Thánh nhân cũng có phân biệt, tất cả những việc không tướng như vậy, do tự tâm thấy tướng cảnh giới. Bạch Thế Tôn! Những Thánh nhân đó thấy có pháp thể phân biệt pháp tướng, do Thế Tôn chẳng nói có nhân, chẳng nói không nhân. Vì sao? Vì rơi vào có pháp tướng, còn người khác thấy cảnh chẳng thấy như vậy. Bạch Thế Tôn! Nói như vậy thì có lỗi vô cùng. Vì sao? Vì do chẳng biết rõ pháp tướng vốn không có tướng tự thể. Bạch Thế Tôn! Chẳng phải nhân phân biệt có tướng pháp thể mà có các pháp. Bạch Thế Tôn! Điều đó làm sao phân biệt? Chẳng nên phân biệt điều đó như vậy hay nên phân biệt như vậy? Bạch Thế Tôn! Tướng phân biệt khác với tướng, tướng tự thể khác với tướng. Bạch Thế Tôn! Mà hai nhân đó chẳng tương tự, phân biệt các loại… thể tướng của pháp khác nhau thì làm sao phàm phu phân biệt như vậy, mà nhân này chẳng thành đúng như điều đã thấy? Thế Tôn nói rằng, ta vì muốn đoạn trừ tâm hư vọng phân biệt của tất cả các chúng sinh. Nói lời như vậy thì như phàm phu kia hư vọng phân biệt không có pháp như vậy. Bạch Thế Tôn! Vì sao ngăn sự thấy có, không của các chúng sinh mà chấp trước cảnh giới Thật pháp Thánh trí? Bạch Thế Tôn! Lại khiến cho tất cả chúng sinh rơi vào chỗ Vô kiến. Vì sao? Vì nói các pháp tịch tónh không tướng. Như vậy pháp thể Thánh trí là vô tướng. Đức Phật nói: –Này Đại Tuệ! Ta chẳng nói rằng, tất cả các pháp tịch tónh vô tướng, cũng chẳng nói rằng, các pháp đều không, cũng chẳng khiến cho họ rơi vào Vô kiến, cũng khiến cho họ chẳng chấp trước cảnh giới của tất cả Thánh nhân như vậy. Vì sao? Vì ta làm cho chúng sinh lìa khỏi chỗ kinh sợ, do các chúng sinh từ đời vô thủy đến nay chấp trước thể tướng các pháp thật có. Vậy nên ta nói, Thánh nhân biết thể tướng của Pháp thật có, lại nói, các pháp tịch tónh vô tướng. Này Đại Tuệ! Ta chẳng nói rằng, pháp thể là có hay không. Ta nói, tự thân chứng pháp như thật. Do nghe pháp của ta mà tu hành các pháp tịch tónh vô tướng, được thấy cảnh giới Chân như vô tướng, thể nhập tự tâm thấy pháp, xa lìa sự thấy có, không của pháp bên ngoài, được ba cửa giải thoát, đạt được rồi, dùng ấn như thật khéo ấn chứng vào các pháp, trí tuệ tự thân nội chứng quan sát, lìa khỏi sự thấy có không. Lại nữa, này Đại Tuệ! Bồ-tát chẳng nên kiến lập các pháp chẳng sinh. Vì sao? Vì do kiến lập pháp thì đồng với các pháp có. Nếu chẳng vậy thì đồng với các pháp không. Lại nữa, này Đại Tuệ! Do kiến lập các pháp có nên nói, tất cả pháp giống với pháp kiến lập. Vì sao? Vì do sự kiến lập đó chẳng đồng với tất cả pháp chẳng sinh. Vậy nên nói, kiến lập tất cả pháp là lời nói tự phá. Vì sao? Vì do trong kiến lập không có sự kinh luận đó. Nếu chẳng vậy thì kinh luận đó cũng chẳng sinh, do đồng với tướng không sai biệt của các pháp. Vậy nên kiến lập các pháp chẳng sinh gọi là tự phá. Do kiến lập ba pháp, năm pháp đó hòa hợp mà có nên lìa khỏi kiến lập thì có, không chẳng sinh ra. Này Đại Tuệ! Kiến lập đó hội nhập trong các pháp chẳng thấy pháp có, không. Này Đại Tuệ! Nếu kiến lập đó thì các pháp chẳng sinh mà nói lời này, tất cả pháp chẳng sinh. Này Đại Tuệ! Nói như vậy thì kiến lập tức là phá. Vì sao? Vì lìa khỏi kiến lập thì tướng có, không chẳng thể được. Này Đại Tuệ! Vậy nên, chẳng nên kiến lập các pháp chẳng sinh. Này Đại Tuệ! Do kiến lập đó đồng với tất cả pháp thể chẳng sinh kia, vậy nên chẳng nên kiến lập các pháp chẳng sinh do có nhiều lỗi vậy. Này Đại Tuệ! Lại có chẳng nên kiến lập các pháp chẳng sinh. Vì sao? Vì do ba pháp, năm pháp nhân của chúng chẳng đồng. Này Đại Tuệ! Lại có, chẳng nên kiến lập các pháp chẳng sinh. Vì sao? Vì do ba pháp, năm pháp đó tạo tác hữu vi vô thường. Vậy nên, chẳng nên kiến lập tất cả các pháp chẳng sinh. Này Đại Tuệ! Như vậy, chẳng nên kiến lập tất cả pháp trống không. Thể tướng của tất cả các pháp không thật, này Đại Tuệ! Mà các Bồ-tát vì chúng sinh nói tất cả các pháp như huyễn như mộng, do tướng thấy, chẳng thấy, do tướng các pháp mê hoặc trí thấy. Vậy nên, nên nói như huyễn như mộng để ngăn trừ tất cả phàm phu ngu si lìa khỏi sự kinh sợ. Này Đại Tuệ! Do các phàm phu rơi vào trong tà kiến có không, do phàm phu nghe như huyễn như mộng sinh ra kinh sợ. Các phàm phu nghe, sinh ra kinh sợ rồi xa lìa Đại thừa. Bấy giờ, Đức Thế Tôn một lần nữa nói kệ: Không tự thể, không thức Không A-lê-gia thức Ngu si vọng phân biệt Tà kiến như thây chết. Tất cả pháp chẳng sinh Thấy khác nói chẳng thành Các pháp đều chẳng sinh Nhân duyên chẳng thể thành. Tất cả pháp chẳng sinh Chớ kiến lập pháp vậy Đồng, bất đồng chẳng thành Vậy nên kiến lập hoại. Ví như mắt có màng Hư vọng thấy vầng sáng Phân biệt ở có không Phàm phu thấy hư vọng Ba cõi chỉ giả danh Không có pháp thể thật Chấp giả danh là thật Phàm phu khởi phân biệt Sự tướng và giả danh Tâm ý đã chấp giữ Phật tử nên xa lìa Trụ cảnh giới tịch tónh Không nước chấp tướng nước Các thú, tâm vọng si Phàm phu thấy pháp vậy Thánh nhân thì chẳng vậy. Thánh nhân thấy thanh tịnh Ba thoát, Tam-muội sinh Xa lìa khỏi sinh diệt Được vô chướng tịch tónh Tu hành chẳng vướng mắc Cũng lại chẳng thấy không Pháp có, không bình đẳng Vậy nên quả Thánh sinh. Sao gọi pháp có không Làm sao thành bình đẳng Chẳng thể thấy do tâm Pháp trong ngoài vô thường Nếu diệt trừ pháp đó Thấy tâm được bình đẳng. Bấy giờ, Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ bạch: –Bạch Thế Tôn! Như Thế Tôn nói, trí tuệ quan sát chẳng thể thấy cảnh giới các pháp trước. Biết được cảnh giới bấy giờ chỉ là nội tâm. Tâm, ý, ý thức hiểu biết như thật, không có pháp sở thủ, cũng không có pháp năng thủ. Vậy nên trí cũng chẳng thể phân biệt mà nắm bắt được. Bạch Thế Tôn! Nếu nói rằng, trí tuệ chẳng thể nắm giữ thì vì thấy tự tướng, đồng tướng của các pháp khác với pháp tướng khác, đủ loại pháp thể khác nhau chẳng đồng nên trí chẳng thể biết. Vì thấy đủ loại thể tướng của các pháp chẳng thể khác nên trí chẳng thể biết. Vì chính sự chướng ngại của núi non, vách đá, tường vách, rừng rậm, cây cối… đất, nước, lửa, gió nên trí chẳng thể biết, vì chính là chỗ rất xa rất gần nên trí chẳng thể biết. Vì chính là già, trẻ, vì chính là mù tối, các căn chẳng đủ nên trí chẳng thể biết. Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều khác, pháp tướng đều khác với pháp thể tự tướng đồng tướng, đủ loại chẳng đồng mà trí chẳng thể biết thì, bạch Thế Tôn! Nếu vậy, trí đó chẳng phải là trí. Vì sao? Vì chẳng thể biết cảnh giới thật trước. Bạch Thế Tôn! Nếu đủ loại thể tướng, tự tướng đồng của tất cả pháp chẳng thấy khác nhau mà trí chẳng thể biết, nếu vậy trí kia chẳng được nói rằng trí. Vì sao? Vì thật có cảnh giới chẳng thể biết. Bạch Thế Tôn! Có cảnh giới trước có thể thấy như thật gọi đó là trí. Nếu vì núi non vách đá, tường ngăn, rừng cây, cây cỏ, đất nước, lửa, gió, rất xa, rất gần, già trẻ, mù tối, các căn chẳng đủ… mà chẳng thể thấy biết thì trí đó không là trí, vì cảnh giới có thật mà chẳng biết. Đức Phật nói: –Này Đại Tuệ! Như lời ông nói về vô trí thì nghóa này chẳng vậy! Vì sao? Vì có thật trí. Này Đại Tuệ! Ta chẳng nương vào lời nói như vậy của ông, cảnh giới là không có, chỉ là tự tâm thấy. Ta nói rằng, chẳng hiểu chỉ là tự tâm thấy các vật bên ngoài, rồi cho là có, không. Vậy nên, trí tuệ chẳng thấy cảnh giới. Trí chẳng thấy thì chẳng vận hành ở tâm. Vậy nên ta nói, vào ba cửa giải thoát, trí cũng chẳng thấy. Nhưng các phàm phu từ đời vô thủy đến nay, hư vọng phân biệt, nương theo hý luận huân tập chất chứa trong tâm nên phân biệt như vậy, thấy hình tướng cảnh giới bên ngoài có, không, vì làm cho họ lìa khỏi tâm hư vọng như vậy nên ta nói, tất cả pháp chỉ là tự tâm thấy, chấp trước ngã và ngã sở nên chẳng thể hiểu biết, chỉ là tự tâm. Hư vọng phân biệt chính là trí, chính là cảnh giới. Do phân biệt chính là trí, chính là cảnh giới, nên quan sát pháp bên ngoài chẳng thấy có, không thì rơi vào Đoạn kiến. Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ: Có cảnh giới, sự việc Trí chẳng thể thấy được Vô trí chẳng phải trí Hư vọng thấy cho rằng Các pháp là vô lượng Trí này chẳng thể biết Chướng ngại và xa gần Trí vọng, chẳng phải trí Già, trẻ, các căn tối Chẳng thể sinh trí tuệ Mà thật có cảnh giới Trí đó chẳng thật trí. Lại nữa, này Đại Tuệ! Phàm phu ngu si nương vào phiền não hý luận, phiền não phân biệt của thân đời vô thủy, thân huyễn hóa mà kiến lập pháp của mình. Rồi họ chấp trước tự tâm thấy cảnh giới bên ngoài, chấp trước danh tự, chương cú, lời nói mà chẳng thể biết kiến lập chánh pháp, chẳng tu chánh hạnh, lìa khỏi bốn pháp cú thanh tịnh. Bồ-tát Đại Tuệ bạch: –Đúng vậy! Đúng vậy! Bạch Thế Tôn! Đúng vậy, đúng như lời của Thế Tôn! Thế Tôn vì con giảng nói kiến lập pháp tướng. Con và tất cả các Bồ-tát… vào đời vị lai biết rõ tướng kiến lập nói pháp, chẳng mê theo tà kiến của ngoại đạo, pháp chẳng chánh kiến của Thanh văn, Bích-chi-phật. Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ: –Hay thay! Hay thay! Này Đại Tuệ! Ông hãy lắng nghe, lắng nghe! Ta sẽ vì ông nói! Bồ-tát Đại Tuệ bạch: –Hay thay! Bạch Thế Tôn! Con xin lắng nghe và tin nhận! Đức Phật nói: –Này Đại Tuệ! Có hai loại pháp mà các Đức Như Lai Ứng Chánh Biến Tri đời quá khứ, vị lai và hiện tại đã giảng nói. Những gì là hai? 1. Kiến lập nói pháp tướng. 2. Kiến lập như thật pháp tướng. Này Đại Tuệ! Kiến lập nói pháp tướng là gì? Nghóa là đủ các công đức, Tu-đa-la, Ưu-ba-đề-xá (Kinh, Luật) tùy theo lòng tin của chúng sinh mà vì họ nói pháp. Này Đại Tuệ! Đó gọi là Kiến lập thuyết pháp tướng. Này Đại Tuệ! Kiến lập như thật pháp tướng là gì? Nghóa là nương vào những pháp nào mà tu chánh hạnh, xa lìa tự tâm hư vọng phân biệt các pháp tướng, chẳng rơi vào trong nhóm bè đảng một khác, đồng chẳng đồng, lìa khỏi tâm, ý, ý thức, bên trong chứng cảnh giới hành hóa của Thánh trí, lìa khỏi tướng chấp tương ứng của các tướng nhân duyên, lìa khỏi tà kiến của tất cả ngoại đạo, lìa khỏi các kiến chấp của tất cả Thanh văn, Bích-chi-phật, lìa khỏi kiến chấp của hai bè đảng có, không. Này Đại Tuệ! Đó gọi là kiến lập như thật pháp tướng. Này Đại Tuệ! Ông và các Đại Bồ-tát cần phải tu học. Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ: Ta kiến lập hai pháp Nói pháp, pháp như thật Nương danh tự nói pháp Vì người thật tu hành. KINH NHẬP LĂNG-GIÀ <卷 id="118149477">QUYỂN 6 <詞 id="118149478">Phẩm 5: Lô-CA-dA-ĐÀ Bấy giờ, Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch: –Bạch Thế Tôn! Một thuở, Đức Như Lai Ứng Chánh Biến Tri nói rằng: Đủ thứ biện luận của Lô-ca-da-đà, nếu có gần gũi cúng dường người đó thì nhận lấy vật thực tham dục thực, chẳng có được pháp thực. Bạch Thế Tôn! Vì sao nói rằng, đủ thứ biện luận của Lô-ca-da-đà, nếu gần gũi cúng dường, thì nhận lấy vật thực tham dục, chẳng có được pháp thực? Đức Phật nói: –Này Đại Tuệ! Lô-ca-da-đà có đủ thứ biện tài, ngôn từ, câu cú sắc sảo mê hoặc thế gian, chẳng nương vào như pháp mà nói, chẳng nương vào như nghóa mà nói, chỉ tùy theo sự ưa thích tình cảm phàm phu ngu si ở thế gian mà nói việc thế tục, chỉ có ngôn từ khéo léo, chương cú êm dịu làm mất đi chính nghóa. Này Đại Tuệ! Đó gọi là lỗi đủ thứ biện tài lạc thuyết của Lô-ca-da-đà. Này Đại Tuệ! Biện tài như vậy của Lô-ca-da-đà chỉ thu phục phàm phu ngu si của thế gian, chẳng phải thể nhập pháp tướng như thật mà nói pháp, tự mình chẳng biết rõ tất cả pháp, rơi vào trong nhóm tà kiến nhị biên, tự mất chính đạo, cũng khiến cho người khác mất. Vậy nên, họ chẳng thể lìa khỏi các cõi, do chẳng thể thấy chỉ là tự tâm, phân biệt chấp trước pháp bên ngoài có tướng. Vậy nên chẳng lìa khỏi hư vọng phân biệt. Này Đại Tuệ! Vậy nên ta nói, Lô-ca-da-đà tuy có đủ thứ biện tài sắc sảo để giảng nói các pháp nhưng mất chánh lý nên chẳng thoát khỏi sinh già, bệnh, chết buồn rầu, khổ não… tất cả khổ nhóm họp, do nương vào đủ loại danh tự, chương cú, thí dụ, nói khéo léo để mê hoặc, lừa dối người. Này Đại Tuệ! Thích Đề-hoàn Nhân lý giải các luận rộng rãi tự tạo ra thanh luận. Lô-ca-da-đà đó có một đệ tử chứng được thần thông thế gian, đi đến cung trời Đế Thích kiến lập luận pháp nói rằng: “Thưa Kiều-thi-ca! Tôi đánh cược với ông là cùng nhau bàn luận. Nếu người nào chẳng đúng thì phải chịu khuất phục.” Để cho tất cả những người trời thấy biết, ông ấy liền lập lời yêu cầu chung: “Nếu tôi thắng ông thì tôi sẽ phá nát bánh xe ngàn nan hoa của ông. Nếu tôi thua thì sẽ chặt từng đốt, từng đốt xương từ đầu đến chân, để đáp tạ cho ông.” Nói lời thề rồi, người đệ tử của Lô-ca-da-đà hiện làm thân rồng cùng bàn luận với Thích Đề-hoàn Nhân. Ông dùng luận pháp của mình liền thắng được Thích Đề-hoàn Nhân kia nên khiến cho trời ấy khuất phục. Ông liền ở trong trời phá tan nát bánh xe có ngàn nan hoa thành bụi trần, rồi trở về nhân gian. Này Đại Tuệ! Bà-la-môn Lô-ca-da-đà với đủ loại ví dụ tương ứng như vậy… cho đến hiện thân súc sinh, nương vào danh tự mê hoặc thế gian, Trời, Người, A-tu-la… do tất cả chúng sinh của các thế gian chấp trước pháp sinh diệt, huống gì là đối với loài người? Này Đại Tuệ! Do nghóa này nên phải xa lìa Bà-la-môn Lô-ca-da-đà, vì nhân lời nói của người đó có thể sinh ra sự chứa nhóm khổ. Vậy nên, chẳng nên thân cận cúng dường, cung kính thưa hỏi Bà-la-môn Lô-ca-da-đà. Này Đại Tuệ! Pháp của Bà-la-môn Lô-ca-da-đà giảng nói chỉ thấy cảnh giới thân trí hiện tiền, nương vào danh tự của đời để nói các pháp tà. Này Đại Tuệ! Luận của Bà-la-môn Lô-ca-da-đà tạo ra có đến trăm ngàn kệ mà đời sau phân ra làm nhiều bộ, mỗi mỗi đều có tên khác, nương vào tự tâm chấp giữ mà tạo ra vậy. Này Đại Tuệ! Bà-la-môn Lô-ca-da-đà không có đệ tử có thể thọ trì luận ấy. Vậy nên đời sau phân làm nhiều bộ với đủ thứ tên khác nhau. Này Đại Tuệ! Các ngoại đạo… nội tâm không hiểu biết như thật nên nương vào đủ loại nhân, mọi lý giải khác nhau, tùy theo tự tâm tạo ra mà vì người nói, chấp trước nhân Tự tại… Này Đại Tuệ! Trong sự tạo luận của tất cả ngoại đạo không có pháp như thật, chỉ là tất cả Thế luận, đủ loại pháp môn nhân duyên giảng nói trăm ngàn vạn pháp mà những ngoại đạo đó chẳng biết là Lô-ca-da-đà. Bồ-tát Đại Tuệ bạch: –Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả ngoại đạo chỉ nói Lô-ca-da-đà, nương vào đủ mọi danh tự, chương cú, thí dụ của thế gian mà chấp trước các nhân thì, bạch Thế Tôn! Chúng sinh, Trời, Người, A-tu-la của tất cả cõi nước khắp mười phương tập họp chỗ Đức Như Lai, Đức Như Lai cũng dùng đủ loại danh tự, chương cú, thí dụ của thế gian nói pháp mà chẳng nói pháp tự thân chứng trí. Nếu vậy thì cũng đồng với lời nói của tất cả ngoại đạo, chẳng khác. Đức Phật bảo: –Này Đại Tuệ! Ta chẳng nói tới Lô-ca-da-đà, cũng chẳng nói rằng, các pháp chẳng đến chẳng đi. Này Đại Tuệ! Ta nói, các pháp chẳng đến chẳng đi. Này Đại Tuệ! Sao gọi là đến? Này Đại Tuệ! Sở dó nói rằng “đến” là gọi nhóm họp sinh ra, do hòa hợp sinh ra. Này Đại Tuệ! Sao gọi là đi? Này Đại Tuệ! Sở dó nói rằng “đi” là gọi đó là diệt. Này Đại Tuệ! Ta nói, chẳng đi chẳng đến là gọi chẳng sinh chẳng diệt. Này Đại Tuệ! Ta nói chẳng đồng với pháp của ngoại đạo kia. Vì sao? Vì do chẳng chấp trước vật bên ngoài có không, chỉ kiến lập giảng nói tự tâm thấy, chẳng trụ hai chỗ, chẳng hành hóa phân biệt cảnh giới các tướng, do biết như thật kiến chấp tự tâm nên chẳng sinh ra sự chấp tự tâm phân biệt. Do chẳng phân biệt tất cả tướng mà có thể hội nhập ba cửa giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện nên gọi là giải thoát. Này Đại Tuệ! Ta nhớ thuở quá khứ, ở một chỗ nọ, bấy giờ có một đại Bà-la-môn Lô-ca-da-đà đi đến chỗ của ta, thưa: “Này ông Cù-đàm! Tất cả tạo tác sao?” Này Đại Tuệ! Khi đó ta đáp: “Này Bà-la-môn! Tất cả tạo tác thì đây là Lô-ca-da-đà Đệ nhất. Bà-la-môn nói: “Này ông Cù-đàm! Tất cả chẳng tạo tác sao?” Ta đáp: “Này Bà-la-môn! Tất cả chẳng tạo tác chính là Lô-ca-da-đà thứ hai.” Bà-la-môn nói: “Như vậy tất cả thường hay tất cả vô thường? Tất cả sinh hay tất cả chẳng sinh?” Ta đáp: “Này Bà-la-môn! Chính là Lô-ca-da-đà thứ sáu.” Này Đại Tuệ! Lô-ca-da-đà lại hỏi: “Này ông Cù-đàm! Tất cả một chăng? Tất cả khác chăng? Tất cả giống nhau chăng? Tất cả khác nhau chăng? Tất cả các pháp nương vào nhân sinh ra, thấy đủ loại nhân sinh?” Này Đại Tuệ! Ta đáp: “Này Bà-la-môn! Chính là Lô-ca-da-đà thứ mười một.” Này Đại Tuệ! Bà-la-môn đó lại hỏi: “Này ông Cù-đàm! Tất cả vô ký sao? Tất cả hữu ký sao? Có ngã sao? Không ngã sao? Có đời này sao? Không có đời này sao? Có đời sau chăng? Không có đời sau chăng? Có giải thoát chăng? Không giải thoát chăng? Tất cả trống rỗng chăng? Tất cả chẳng trống rỗng chăng? Tất cả hư không chăng? Chẳng phải duyên diệt sao? Niết-bàn sao? Này Cù-đàm! Tạo tác chăng? Chẳng phải tác chăng? Có trung ấm chăng? Không có trung ấm chăng?” Này Đại Tuệ! Ta đáp: “Này Bà-la-môn! Nói như vậy, tất cả đều chính là Lô-ca-da-đà, chẳng phải lời nói của ta, chiùnh là pháp ông nói. Này Bà-la-môn! Ta nói do hý luận hư vọng phân biệt phiền não huân tập từ vô thủy nên nói ba cõi kia. Do chẳng biết rõ đó chỉ là tự tâm phân biệt thấy có, chẳng phải thấy bên ngoài có như pháp ngoại đạo.” Này Đại Tuệ! Ngoại đạo nói rằng: “Ngã, căn, ý nghóa, ba thứ hòa hợp có thể sinh ra trí.” Ta đáp: “Này Bà-la-môn! Ta chẳng như vậy, ta chẳng nói nhân, cũng chẳng nói không nhân mà chỉ nói tự tâm phân biệt thấy có tướng cảnh giới khả thủ năng thủ. Ta nói nhân duyên giả danh tập họp mà sinh ra các pháp, chẳng phải như Bà-la-môn các ông và cảnh giới khác, do rơi vào ngã kiến.” Này Đại Tuệ! Niết-bàn, hư không, duyên diệt chẳng thành ba loại, huống gì nói rằng, tạo tác có tạo tác, chẳng tạo tác? Này Đại Tuệ! Lại có Bà-la-môn Lô-ca-da-đà đến hỏi ta: “Này ông Cù-đàm! Nhân của nghiệp ái vô minh ở những thế gian này sinh ra ba cõi có hay là không nhân?” Ta đáp: “Này Bà-la-môn! Hai pháp này của Lô-ca-da-đà, chẳng phải pháp của ta!” Bà-la-môn lại hỏi: “Này ông Cù-đàm! Tất cả pháp rơi vào tự tướng hay đồng tướng?” Ta đáp: “Này Bà-la-môn! Đây chính là Lô-ca-da-đà, chẳng phải pháp của ta. Này Bà-la-môn! Chỉ có tâm, ý, ý thức chấp trước vật bên ngoài đều chính là Lô-ca-da-đà, chẳng phải pháp của ta vậy.” Này Đại Tuệ! Bà-la-môn Lô-ca-da-đà lại hỏi: “Này ông Cù-đàm! Vả lại, có pháp chẳng phải Lô-ca-da-đà sao? Này ông Cù-đàm! Tất cả ngoại đạo kiến lập đủ loại danh tự, chương cú, nhân, thí dụ để nói thì đều là pháp của chúng tôi sao?” Ta đáp: “Này Bà-la-môn! Có pháp chẳng phải pháp của ông mà chẳng phải chẳng kiến lập, cũng chẳng phải chẳng nói đủ loại danh tự, chương cú, cũng chẳng phải chẳng nương nghóa, hoặc nương nghóa giảng nói mà chẳng phải pháp kiến lập của Lô-ca-da-đà. Này Bà-la-môn! Có pháp chẳng phải Lô-ca-da-đà, do các pháp đó, tất cả ngoại đạo cho đến cả ông chẳng thể rõ biết, do hư vọng chấp trước pháp chẳng thật bên ngoài, phân biệt hý luận. Sao gọi là xa lìa phân biệt? Là tâm quan sát có, không, tự tâm thấy tướng, thấy biết như thật. Vậy nên chẳng sinh ra tất cả phân biệt, chẳng thủ đắc các pháp cảnh giới bên ngoài, dừng tâm phân biệt, trụ chỗ tự tại, cảnh giới tịch tónh. Đó gọi là chẳng phải Lô-ca-da-đà, là luận pháp của ta, chẳng phải luận của ông. Này Bà-la-môn! Trụ nội tự tại, chẳng sinh chẳng diệt. Chẳng sinh chẳng diệt là chẳng sinh tâm phân biệt. Này Bà-la-môn! Đó gọi là chẳng phải Lô-ca-da-đà. Này Bà-la-môn! Ta chỉ lược nói. Do đâu mà thức chẳng vận hành, chẳng thủ chấp, chẳng thoái, chẳng cầu, chẳng sinh, chẳng chấp trước, chẳng vui, chẳng thấy, chẳng nhìn, chẳng trụ, chẳng xúc… Đó gọi là trụ, tức là tên khác nghóa một. Này Bà-la-môn! Chấp trước đủ các tướng, tự ngã hòa hợp, tham ái chấp trước các nhân thì chính là pháp Lô-ca-da-đà của Bà-la-môn, chẳng phải là pháp của ta vậy!” Này Đại Tuệ! Bà-la-môn Lô-ca-da-đà đi đến chỗ ta hỏi pháp như vậy, ta đáp lại Bà-la-môn đó những lời nói như trên, Bà-la-môn lặng thinh ra đi mà chẳng hỏi sự kiến lập pháp chân thật của ta. Bà-la-môn Lô-ca-da-đà tác khởi ý niệm trong tâm: “Sa-môn Thích tử ở bên ngoài pháp của ta này thật là đáng thương xót. Ông ta nói tất cả pháp không nhân, không duyên, không có tướng sinh, chỉ nói rằng, tự tâm phân biệt thấy pháp. Nếu có thể biết rõ tự tâm thấy tướng thì tâm phân biệt diệt.” Này Đại Tuệ! Ông nay hỏi ta, vì sao Lô-ca-da-đà có đủ loại biện tài giảng nói, mà thân cận cúng dường, cung kính người đó, chỉ nhận lấy vị tham dục, chẳng đạt được pháp vị. Bồ-tát Đại Tuệ bạch: –Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Thực cú nghóa? Sao gọi là Pháp cú nghóa? Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ: –Hay thay! Hay thay! Này Đại Tuệ! Ông mới có thể vì chúng sinh đời vị lai thưa hỏi Như Lai hai nghóa như vậy. Hay thay! Này Đại Tuệ! Ông hãy lắng nghe, lắng nghe, ta sẽ vì ông mà nói! Bồ-tát Đại Tuệ bạch: –Hay thay! Bạch Thế Tôn! Thưa vâng, con xin lắng nghe và tin nhận. Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ: –Thế nào là thực? Là ăn, tiếp xúc với vị, mong cầu phương tiện, khéo dua nịnh, đắm say vị, chấp trước ngoại cảnh… những pháp như vậy tướng là tên khác nhưng nghóa là một, do chẳng thể nhập vào nghóa pháp môn cảnh giới không hai. Lại nữa, này Đại Tuệ! Gọi là thực thì nương vào tà kiến, sinh ra các ấm có chi thể, chẳng lìa khỏi sinh, già, bệnh, chết lo buồn, khổ não, ái sinh ra hữu… những pháp như vậy gọi đó là thực. Vậy nên, ta và tất cả chư Phật đều nói thân cận cúng dường Bà-la-môn Lô-ca-da-đà kia thì gọi là được thực vị, chẳng được pháp vị. Này Đại Tuệ! Những gì là pháp vị? Là có thể biết như thật hai loại vô ngã; do thấy tướng nhân vô ngã, pháp vô ngã, vậy nên chẳng sinh ra tướng phân biệt và có thể biết như thật trí thượng thượng của các Địa, bấy giờ có thể lìa khỏi tâm, ý, ý thức, thể nhập Địa ngôi vị trí chư Phật, đạt được tất cả các chỗ tận cùng chương cú, có thể biết như thật tất cả cõi tự tại của chư Phật. Đó gọi là pháp vị, chẳng rơi vào tất cả tà kiến hý luận phân biệt nhị biên. Này Đại Tuệ! Ngoại đạo nói pháp nhiều khiến cho chúng sinh rơi vào nhị biên, chẳng khiến cho bậc Trí rơi vào nhị biên. Vì sao? Này Đại Tuệ! Những ngoại đạo… nói nhiều về đoạn, thường do không có nhân nên rơi vào thường kiến, thấy nhân diệt nên rơi vào đoạn kiến. Này Đại Tuệ! Ta nói thấy như thật, chẳng chấp trước sinh diệt. Vậy nên lời nói của ta gọi là Pháp vị. Này Đại Tuệ! Đó gọi là ta nói về thực vị và Pháp vị. Này Đại Tuệ! Ông và các Đại Bồ-tát nên học pháp này. Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền nói kệ: Ta nhiếp phục chúng sinh Nương giới ngăn các ác Trí tuệ, tà kiến diệt Ba giải thoát lớn thêm. Ngoại đạo nói hư vọng Đều là luận thế gian Dùng tà kiến nhân quả Lập luận, không chánh kiến Ta lập pháp kiến lập Lìa hư vọng, chấp nhân Vì các đệ tử nói Lìa khỏi pháp thế gian. Chỉ tâm, không pháp khác Không có tâm nhị biên Pháp năng thủ, sở thủ Lìa khỏi kiến đoạn, thường. Chỉ hành xứ của tâm Đều là luận thế tục. Nếu quán sát tự tâm Chẳng thấy các hư vọng Nếu đến thấy nhân sinh Khi đi thấy quả diệt. Đến, đi biết chân thật Chẳng phân biệt hư vọng Thường, vô thường, tạo tác Chẳng tạo, vật đây, đó. Tất cả Pháp như vậy Đều là luận Thế tục.  <詞 id="118149479">Phẩm 6: NIẾT-BÀN Bấy giờ, Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ bạch: –Bạch Thế Tôn! Như lời Phật nói về Niết-bàn, Niết-bàn là do những pháp gì gọi là Niết-bàn mà tất cả ngoại đạo đều hư vọng phân biệt Niết-bàn? Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ: –Hay thay! Hay thay! Này Đại Tuệ! Ông hãy lắng nghe, hãy lắng nghe, ta sẽ vì ông giải nói. Các ngoại đạo… hư vọng phân biệt tướng của Niết-bàn. Như sự phân biệt của ngoại đạo đó thì không phải là Niết-bàn. Bồ-tát Đại Tuệ bạch: –Hay thay! Bạch Thế Tôn! Con xin lắng nghe và tin nhận! Đức Phật nói: –Này Đại Tuệ! Các ngoại đạo nhàm chán các cảnh giới, thấy ấm, giới, nhập diệt, các pháp vô thường, tâm, tâm số pháp chẳng sinh, hiện tiền do chẳng nhớ nghó về cảnh giới vui ở quá khứ, vị lai và hiện tại, chỗ các ấm diệt tận như lửa đèn tắt, đủ loại gió ngăn chặn lại, chẳng chấp giữ các tướng hư vọng phân biệt… gọi là Niết-bàn. Này Đại Tuệ! Ngoại đạo kia thấy những pháp như vậy sinh ra tâm Niết-bàn, chẳng phải thấy diệt nên gọi là Niết-bàn. Này Đại Tuệ! Hoặc có ngoại đạo, từ phương này đến phương kia thì gọi là Niết-bàn. Này Đại Tuệ! Có ngoại đạo phân biệt các cảnh như gió, vậy nên phân biệt gọi là Niết-bàn. Này Đại Tuệ! Lại có ngoại đạo nói như không thấy cảnh giới năng kiến, sở kiến chẳng diệt thì gọi là Niết-bàn. Lại có ngoại đạo cho rằng không thấy phân biệt, thấy thường không thường gọi là Niết-bàn. Lại nữa, này Đại Tuệ! Có ngoại đạo nói do phân biệt thấy đủ loại tướng khác nhau có thể sinh ra các khổ. Do tự tâm thấy hư vọng phân biệt tất cả các tướng, kinh sợ các tướng, thấy được vô tướng mà thâm tâm ưa thích sinh ra tưởng Niết-bàn. Lại nữa, này Đại Tuệ! Có ngoại đạo thấy tự tướng đồng tướng của tất cả pháp chẳng sinh ra tưởng đoạn diệt, phân biệt các pháp quá khứ, vị lai và hiện tại là có thì gọi là Niết-bàn. Lại nữa, này Đại Tuệ! Có ngoại đạo thấy, ngã, nhân, chúng sinh, thọ mạng, thọ giả… là các pháp chẳng diệt rồi hư vọng phân biệt thì gọi là Niết-bàn. Lại nữa, này Đại Tuệ! Có ngoại đạo khác, không trí tuệ nên phân biệt tự tánh đối tượng chấp trước nhân mạng chuyển biến, phân biệt chuyển thì gọi là Niết-bàn. Lại nữa, này Đại Tuệ! Có ngoại đạo khác nói vì tội hết nên phước đức cũng hết. Đó gọi là Niết-bàn. Lại nữa, này Đại Tuệ! Có ngoại đạo khác nói vì phiền não hết, nên nương vào trí nên gọi là Niết-bàn. Lại nữa, này Đại Tuệ! Có ngoại đạo khác nói do thấy trời Tự tại tạo tác ra chúng sinh mà hư vọng phân biệt gọi là Niết-bàn. Lại nữa, này Đại Tuệ! Có ngoại đạo khác nói do các chúng sinh cùng nhân đắp đổi mà sinh ra, chẳng phải do nhân khác tạo tác. Như những ngoại đạo kia chấp trước vào nhân mà chẳng hiểu, chẳng biết, ngu si, ám độn hư vọng phân biệt gọi là Niết-bàn. Lại nữa, này Đại Tuệ! Có ngoại đạo khác nói chứng Đạo đế, hư vọng phân biệt gọi là Niết-bàn. Lại nữa, này Đại Tuệ! Có ngoại đạo khác nói có tạo tác và đối tượng tạo tác mà cùng hòa hợp thấy là một, khác đồng, chẳng đồng, hư vọng phân biệt gọi là Niết-bàn. Lại nữa, này Đại Tuệ! Có ngoại đạo khác nói tất cả pháp tự nhiên mà sinh ra, giống như nhà ảo thuật làm ra đủ các hình tượng, thấy đủ loại những vật quý báu, gai nhọn… tự nhiên mà sinh ra, hư vọng phân biệt gọi là Niết-bàn. Lại nữa, này Đại Tuệ! Có ngoại đạo khác nói vạn vật đều chính là thời gian tạo tác, hiểu biết chỉ là thời gian mà hư vọng phân biệt gọi là Niết-bàn. Lại nữa, này Đại Tuệ! Có ngoại đạo khác nói thấy có vật, thấy không vật, thấy vật vừa có, không. Như vậy phân biệt gọi là Niết-bàn. Lại nữa, này Đại Tuệ! Còn bậc Trí kiến lập pháp khác nói thấy như thật thì chỉ là tự tâm, chẳng chấp giữ các cảnh giới bên ngoài, lìa khỏi bốn loại pháp, thấy tất cả pháp đúng như pháp đó trụ, chẳng thấy tướng tự tâm phân biệt, chẳng rơi vào nhị biên, chẳng thấy cảnh giới năng thủ khả thủ, thấy thế gian kiến lập tất cả chẳng thật chỉ mê mờ pháp như thật. Do chẳng thủ đắc các pháp nên gọi đó là thật, do pháp tự thân chứng Thánh trí mà biết như thật hai loại vô ngã, lìa khỏi hai loại cấu bẩn phiền não, thanh tịnh hai chướng, có khả năng biết như thật tướng thượng thượng địa vào Như Lai địa đạt được Tam-muội Như huyễn, xa lìa tâm, ý, ý thức, phân biệt những kiến chấp như vậy… thì gọi là Niết-bàn. Này Đại Tuệ! Lại có các ngoại đạo… biết, quán sát tà kiến mà nói các luận chẳng cùng tương ứng với chánh pháp như thật mà những bậc Trí xa lìa, quở trách. Này Đại Tuệ! Những ngoại đạo như vậy… đều rơi vào nhị biên hư vọng phân biệt, không thật là Niết-bàn. Này Đại Tuệ! Tất cả ngoại đạo hư vọng phân biệt Niết-bàn như vậy, không có người trụ ở thế gian, không có người vào Niết-bàn. Vì sao? Vì tất cả ngoại đạo nương vào luận tự tại mà hư vọng phân biệt, không có trí như thật. Như những ngoại đạo kia tụ tâm phân biệt, không có pháp như vậy thì đến, đi, lay động, không có Niết-bàn của ngoại đạo như vậy. Này Đại Tuệ! Ông và tất cả các Bồ-tát… nên xa lìa Niết-bàn hư vọng của tất cả ngoại đạo. Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ: Ngoại đạo thấy Niết-bàn Thảy đều khởi phân biệt Đều từ tướng tâm sinh Không phương tiện giải thoát Chẳng lìa trói, bị trói Lìa xa các phương tiện Tự sinh tưởng giải thoát Mà thật không giải thoát. Ngoại đạo kiến lập pháp Đều khác chấp các trí Chúng đều không giải thoát Vọng phân biệt, ngu si. Tất cả si ngoại đạo Thấy vọng tác, sở tác Vậy nên không giải thoát Do nói pháp có, không. Phàm phu ưa hý luận Chẳng nghe tuệ chân thật Gốc ba cõi ngôn ngữ Trí như thật diệt khổ. Ví như bóng trong gương Tuy thấy mà chẳng có Huân tập chấp tâm hương Phàm phu nói có hai Chẳng biết chấp do tâm Vậy nên, phân biệt hai Biết như thật chỉ tâm Phân biệt thì chẳng sinh. Tâm gọi là đủ loại Năng, sở kiến lìa xong Thấy tướng không thể thấy Phàm phu vọng phân biệt. Ba cõi chỉ vọng tưởng Cảnh giới ngoài thật không Vọng tưởng thấy đủ hết Phàm phu chẳng biết thông. Kinh, kinh nói phân biệt Đủ loại danh tự khác Lìa khỏi pháp ngôn ngữ Chẳng nói, không nắm bắt.  <詞 id="118149480">Phẩm 7: PHÁP THÂN Bấy giờ, Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ bạch: –Bạch Thế Tôn! Bạch Đức Như Lai Ứng Chánh Biến Tri! Nguyện xin Như Lai diễn nói pháp nhận biết chứng đắc tự thân! Do những pháp gì gọi là Pháp thân, để con và tất cả các Bồ-tát… biết rõ tướng Pháp thân của Như Lai để tự thân và người khác đều không còn nghi hoặc. Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ: –Hay thay! Hay thay! Này Đại Tuệ! Ông có điều nghi ngờ gì, cứ tùy ý thưa hỏi, ta sẽ vì ông phân biệt rõ. Bồ-tát Đại Tuệ bạch: –Hay thay! Bạch Thế Tôn! Con xin lắng nghe và tin nhận. Bạch Thế Tôn! Pháp thân của Đức Như Lai Ứng Chánh Biến Tri pháp tạo tác hay chẳng phải pháp tạo tác vậy? Chính là nhân hay chính là quả vậy? Là năng kiến hay là sở kiến vậy? Chính lời nói hay là đối tượng nói vậy? Chính là trí hay là sự biết của trí vậy? Những từ, cú như vậy… với Pháp thân Như Lai là khác hay chẳng khác vậy? Đức Phật nói: –Này Đại Tuệ! Tướng Pháp thân của Như Lai Ứng Chánh Biến Tri và những từ, cú như vậy… chẳng phải pháp tạo tác, chẳng phải pháp chẳng tạo tác, chẳng phải thân, quán pháp quả. Vì sao? Vì do nhị biên là có lỗi. Này Đại Tuệ! Nếu nói rằng, Như Lai chính là pháp tạo tác tức là vô thường. Nếu vô thường thì tất cả tác pháp lẽ ra chính là Như Lai, mà Phật Như Lai Ứng Chánh Biến Tri chẳng chấp nhận pháp này. Này Đại Tuệ! Nếu Pháp thân của Như Lai chẳng phải là pháp tạo tác tức là không có thân nên nói rằng, có người tu hành vô lượng công đức và tất cả hạnh tức là hư vọng. Này Đại Tuệ! Nếu chẳng tạo tác thì lẽ ra đồng với sừng thỏ, thạch nữ sinh con… Do không nhân tạo tác nên cũng không có thân vậy. Này Đại Tuệ! Nếu pháp chẳng phải nhân, chẳng phải quả, chẳng phải có, chẳng phải không mà thể của pháp đó lìa khỏi bốn tướng thì, này Đại Tuệ! Bốn pháp đó gọi là ngôn thuyết của thế gian. Này Đại Tuệ! Nếu pháp lìa khỏi bốn pháp thì pháp đó chỉ có danh tự như thạch nữ sinh con. Này Đại Tuệ! Thạch nữ sinh con… chỉ là pháp danh tự chương cú, nói đồng với bốn pháp. Nếu rơi vào bốn pháp thì bậc Trí chẳng chấp giữ. Như vậy, tất cả những câu về Như Lai, bậc Trí nên biết. Đức Phật lại bảo Bồ-tát Đại Tuệ: –Ta nói tất cả các pháp là vô ngã. Ông hãy lắng nghe nhiếp hóa của vô ngã. Phàm vô ngã thì nội thân vô ngã, vậy nên vô ngã. Này Đại Tuệ! Tất cả các pháp tự thân là có, thân người khác là không, tựa như trâu, ngựa. Này Đại Tuệ! Ví như thân trâu chẳng phải là thân ngựa, ngựa cũng chẳng phải trâu. Vậy nên, chẳng được nói có hay nói không mà tự thể của chúng chẳng phải là không vậy. Này Đại Tuệ! Tất cả các pháp cũng lại như vậy, chẳng phải không thể tướng hay có tướng tự thể. Phàm phu ngu si chẳng biết thể tướng các pháp vô ngã, do tâm phân biệt, chẳng phải tâm chẳng phân biệt. Này Đại Tuệ! Như vậy tất cả pháp trống không, tất cả pháp chẳng sinh, tất cả pháp không thể tướng cũng vậy. Này Đại Tuệ! Pháp thân Như Lai cũng lại như vậy, ở trong năm ấm chẳng phải một, chẳng phải khác. Này Đại Tuệ! Pháp thân Như Lai với năm ấm là một tức là vô thường, do năm ấm chính là pháp tạo tác vậy. Này Đại Tuệ! Pháp thân Như Lai với năm ấm khác nhau tức là có hai pháp, chẳng đồng với thể tướng, như hai cái sừng con trâu tương tợ chẳng khác, dù thấy có hình thể riêng, dài ngắn hơi khác. Này Đại Tuệ! Nếu như vậy thì tất cả các pháp lẽ ra không khác tướng nhưng lại có khác ướng như sừng trái con trâu khác sừng phải, sừng phải khác sừng trái. Như vậy tướng dài ngắn đối đãi đếu khác biệt. Như hình sắc đủ thứ đó đây sai biệt. Này Đại Tuệ! Như vậy, tướng của Pháp thân Như Lai ở trong năm ấm chẳng thể nói một chẳng thể nói khác, ở trong giải thoát chẳng thể nói một chẳng thể nói khác, ở trong Niết-bàn chẳng thể nói một chẳng thể nói khác. Như vậy nương vào giải thoát nói tên tướng của Pháp thân Như Lai. Này Đại Tuệ! Nếu Pháp thân Như Lai khác giải thoát thì đồng với sắc tướng là vô thường. Nếu Pháp thân Như Lai chẳng khác giải thoát tức là không sai biệt về năng chứng, sở chứng. Này Đại Tuệ! Nhưng người tu hành lại thấy có năng chứng và cả sở chứng. Vậy nên chẳng phải một. Này Đại Tuệ! Như vậy biết đối với cảnh giới đối tượng nhận biết chẳng phải một, chẳng phải khác. Này Đại Tuệ! Nếu pháp chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải nhân, chẳng phải quả, chẳng phải hữu vi, chẳng phải vô vi, chẳng phải giác, chẳng phải bất giác, chẳng phải năng kiến, chẳng phải khả kiến, chẳng phải lìa khỏi ấm, giới nhập, chẳng phải từ là ấm giới nhập, chẳng phải danh, chẳng phải cảnh giới, chẳng phải một, chẳng phải khác, chẳng phải đồng, chẳng phải chẳng đồng, chẳng phải tương tục, chẳng phải chẳng tương tục… vượt qua tất cả các pháp. Nếu vượt qua các pháp thì chỉ có cái tên ấy thôi. Nếu chỉ có tên thì pháp đó chẳng sinh ra. Do chẳng sinh ra nên pháp đó chẳng diệt. Do chẳng diệt nên pháp đó bình đẳng như hư không. Này Đại Tuệ! Hư không chẳng phải nhân, chẳng phải quả! Nếu pháp chẳng phải nhân, chẳng phải quả thì pháp đó chẳng thể quan sát, mà chẳng thể quan sát thì pháp đó vượt qua tất cả những hý luận. Nếu vượt qua tất cả các hý luận thì pháp đó gọi là Pháp thân Như Lai. Này Đại Tuệ! Đó gọi là tướng của Pháp thân Như Lai Ứng Chánh Biến Tri, do vượt qua tất cả cảnh giới các căn vậy. Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ: Lìa các pháp và căn Không quả cũng không nhân Đã lìa giác, sở giác Năng, khả kiến lìa luôn Năm ấm và các duyên Phật không thấy có pháp Nếu không thấy có pháp Làm sao mà phân biệt? Chẳng tác, chẳng không tác Không quả cũng không nhân Chẳng ấm, chẳng lìa ấm Cũng chẳng trụ nơi khác. Những tâm nào phân biệt Phân biệt chẳng thấy được Pháp đó chẳng phải không Các pháp, pháp tự nhiên Trước có nên nói không Trước không nên nói có Vậy nên chẳng nói không Cũng chẳng được nói có Mê theo ngã, vô ngã Chỉ chấp trước âm thanh Đó rơi vào nhị biên Vọng nói thế gian hoại Lìa khỏi tất cả lỗi Thì thấy được pháp ta. Đó gọi là chánh kiến Chẳng phỉ báng Thế Tôn. Bấy giờ, Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch: –Bạch Thế Tôn! Nguyện xin Thế Tôn vì con giải nói! Nguyện xin Đấng Thiện Thệ vì con giải nói! Đức Như Lai ở đâu cũng nói rằng, các pháp chẳng sinh chẳng diệt. Bạch Thế Tôn! Thế Tôn lại nói rằng, chẳng sinh chẳng diệt gọi là Pháp thân của Như Lai, nên nói chẳng sinh chẳng diệt. Bạch Thế Tôn! Như Lai nói rằng, chẳng sinh chẳng diệt, vì không có pháp nên gọi chẳng sinh chẳng diệt. Vì Như Lai khác gọi chẳng sinh chẳng diệt mà Phật Như Lai thường nói, các pháp chẳng sinh chẳng diệt do lìa khỏi pháp kiến lập có không vậy. Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp chẳng sinh thì đây chẳng được nói rằng, tất cả pháp, do tất cả pháp chẳng sinh. Nếu nương vào pháp khác có danh này thì xin Thế Tôn giảng nói cho con. Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ: –Hay thay! Hay thay! Này Đại Tuệ! Ông hãy lắng nghe, lắng nghe! Ta sẽ vì ông giải nói. Bồ-tát Đại Tuệ bạch: –Hay thay! Bạch Thế Tôn! Vâng con xin lắng nghe và tin nhận! Đức Phật nói: –Này Đại Tuệ! Pháp thân Như Lai chẳng phải là không vật chất, cũng chẳng phải là tất cả pháp chẳng sinh chẳng diệt, cũng chẳng được nói rằng, nường vào nhân duyên mà có, cũng chẳng phải hư vọng nói chẳng sinh chẳng diệt. Này Đại Tuệ! Ta thường nói rằng, chẳng sinh chẳng diệt thì gọi là Ý sinh thân. Pháp thân Như Lai chẳng phải là cảnh giới của các ngoại đạo, Thanh văn, Bích-chi-phật, cũng chẳng phải cảnh giới của Bồ-tát trụ ở Địa thứ bảy. Này Đại Tuệ! Ta nói chẳng sinh chẳng diệt tức là tên khác của Như Lai. Này Đại Tuệ! Ví như Thích Đề-hoàn Nhân, Đế Thích, Bất-lan-đà-la, thủ trảo, thân thể, địa, phù di, hư không, vô ngại… những danh hiệu như vậy, tên gọi thì khác mà nghóa chỉ một, chẳng nương vào nhiều danh hiệu mà nói rằng, có nhiều thể Đế Thích! Này Đại Tuệ! Ta cũng như vậy, ở trong thế giới Ta-bà với ba trăm ngàn ức danh hiệu, phàm phu tuy nói mà chẳng biết là danh hiệu khác của Như Lai. Này Đại Tuệ! Hoặc có chúng sinh biết Như Lai, có người biết Tự Tại, có người biết Nhất Thiết Trí, có người biết Đấng Cứu Thế, có người biết là Đấng Đạo Sư, có người biết là bậc Tướng, có người biết là bậc Thắng, có người biết bậc Vi diệu, có người biết là đấng Thế Tôn, có người biết là Đức Phật, có người biết là Ngưu Vương, có người biết là Sư Tử, có người biết là Tiên nhân, có người biết là đấng Phạm, có người biết là Na-la-diên, có người biết là bậc Thắng, có người biết là Ca-tỳ-la, có người biết là bậc Cứu Cánh, có người biết A-lị-sấc-ni-di, có người biết là mặt trăng, có người biết là mặt trời, có người biết là Bà-lâu-na, có người biết là Tỳ-gia-ta, có người biết là Đế Thích, có người biết là bậc Lực, có người biết là Biển, có người biết là bậc chẳng sinh, có người biết là bậc chẳng diệt, có người biết là đấng Không, có người biết là Chân Như, có người biết là Thật Tế, có người biết là Niết-bàn, có người biết là Pháp giới, có người biết là Pháp tánh, có người biết là đấng Thường Hằng, có người biết là bậc Bình Đẳng, có người biết là đấng Bất Nhị, có người biết là Vô Tướng, có người biết là Duyên, có người biết là Phật thể, có người biết là Nhân, có người biết là giải thoát, có người biết là Đạo, có người biết là Thật Đế, có người biết là Nhất Thiết Trí, có người biết là Ý sinh thân… Này Đại Tuệ! Vô số những danh hiệu Như Lai Ứng Chánh Biến Tri như vậy ở trong thế giới Ta-bà và các thế giới khác, ba trăm ngàn ức danh hiệu chẳng thêm chẳng bớt mà chúng sinh đều biết, như vầng trăng trong nước, chẳng vào chẳng ra mà các phàm phu chẳng hay chẳng biết, do rơi vào trong pháp nhị biên tương tục, nhưng họ đều cung kính cúng dường ta, chẳng thể hiểu rõ được danh tự, câu nghóa, thủ đắc tướng sai biệt, chẳng thể tự biết, chấp trước danh tự nên hư vọng phân biệt, chẳng sinh chẳng diệt gọi là Không có pháp, mà chẳng biết đó là tướng sai biệt của danh hiệu Như Lai, như Nhân Đà-la, Đế Thích, Vương, Bất-lan-đà-la… Do chẳng thể quyết định danh hiệu chân thật mà thuận theo danh tự âm thanh chấp giữ pháp cũng lại như vậy. Này Đại Tuệ! Vào đời vị lai, phàm phu ngu si nói lời như vầy: “Nghóa cũng giống như danh vậy” mà họ chẳng biết khác danh có nghóa. Vì sao? Vì do nghóa không có thể tướng. Họ lại nói lời này: “Chẳng khác danh tự âm thanh có nghóa, mà danh tự âm thanh tức là nghóa. Vì sao? Vì họ chẳng biết thể tướng của danh tự. Này Đại Tuệ! Người ngu si kia chẳng biết âm thanh tức là sinh, tức là diệt, còn nghóa thì chẳng sinh diệt. Này Đại Tuệ! Tánh của âm thanh rơi vào danh tự mà nghóa thì chẳng đồng rơi vào danh tự, do lìa khỏi có không nên vô sinh, vô thể. Này Đại Tuệ! Như Lai nói pháp nương vào tiếng của mình mà nói, chẳng thấy các chữ là có không nên chẳng chấp trước danh tự. Này Đại Tuệ! Nếu người chấp trước danh tự mà nói thì người đó chẳng gọi là người nói pháp giỏi. Vì sao? Vì pháp không danh tự vậy. Này Đại Tuệ! Vậy nên trong kinh ta nói, các Đức Phật Như Lai thậm chí chẳng nói một chữ, chẳng thị hiện một danh. Vì sao? Vì các pháp không có chữ, nương vào nghóa không mà nói, nương vào phân biệt mà nói vậy. Này Đại Tuệ! Nếu chẳng nói pháp thì pháp luân của các Đức Phật Như Lai sẽ đoạn diệt. Pháp luân đoạn diệt thì cũng không có Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát mà không có Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát thì vì những người nào? Nói những pháp gì? Những việc gì? Này Đại Tuệ! Vậy nên Đại Bồ-tát chẳng nên chấp trước lời nói, danh tự. Này Đại Tuệ! Danh tự chương cú chẳng phải là pháp cố định, nương vào tâm của chúng sinh mà nói. Các Đức Phật Như Lai tùy theo niềm tin của chúng sinh mà nói các pháp. Vì khiến cho họ xa lìa tâm, ý, ý thức nên chẳng nói Tự thân chứng đắc Thánh trí kiến lập các pháp, khiến cho họ có thể biết như thật tất cả tướng tịch tónh của các pháp, chỉ thấy tự tâm biết rõ các pháp, lìa khỏi hai tướng phân biệt của tâm… các Đức Phật chẳng nói như vậy. Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát nương vào nghóa chẳng nương vào lời nói. Nếu thiện nam, thiện nữ tùy theo văn tự mà nói thì rơi vào tà kiến, tự thân hoại mất Đệ nhất nghóa đế, cũng hủy hoại người khác, khiến cho họ, chẳng thể nhận biết. Này Đại Tuệ! Các ngoại đạo… đều nương vào luận của mình và kiến chấp khác mà nói năng. Này Đại Tuệ! Ông nên biết rõ tướng của tất cả Địa, biết rõ biện tài giảng nói, văn chương, từ cú. Biết rõ tướng của tất cả các Địa rồi, ông tiến đến nắm giữ biện tài nhạo thuyết về danh cú, biết rõ nghóa tướng tương ưng của các pháp. Bấy giờ, tự thân đối với niềm vui pháp vô tướng mà nhận lấy an lạc, trụ ở trong Đại thừa, khiến cho chúng sinh biết rõ. Này Đại Tuệ! Giữ gìn Đại thừa thì tức là hộ trì các Đức Phật, Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát. Hộ trì các Đức Phật, Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát là ủng hộ tất cả chúng sinh. Ủng hộ tất cả chúng sinh là giữ gìn pháp tạng thù thắng vi diệu. Giữ gìn pháp tạng tức là chẳng gián đoạn Phật chủng. Chẳng gián đoạn Phật chủng thì chẳng đoạn tất cả chỗ sinh ra thù thắng vi diệu. Do chỗ thù thắng đó là nơi các Bồ-tát nguyện sinh ra, để gặp các chúng sinh trong pháp Đại thừa, với mười Lực tự tại, tùy theo hình sắc của các chúng sinh và các sử, có thể tùy theo đó để ứng hiện nói pháp như thật. Này Đại Tuệ! Pháp như thật là gì? Như thật pháp là chẳng khác, chẳng sai biệt, chẳng chấp giữ, chẳng bỏ, lìa khỏi các hý luận. Đó gọi là Pháp như thật. Này Đại Tuệ! Thiện nam, thiện nữ chẳng nên chấp trước văn tự, âm thanh, do tất cả pháp không có văn tự. Này Đại Tuệ! Ví như có người vì chỉ vật cho người, dùng ngón tay chỉ bày mà người ngu liền chấp trước ngón tay, chẳng nương theo ngón tay để lấy vật được chỉ bày. Này Đại Tuệ! Phàm phu ngu si cũng lại như vậy, Thanh văn chấp trước “ngón tay” văn tự, cho đến chết cũng chẳng thể bỏ “ngón tay” văn tự để nắm giữ Đệ nhất nghóa. Này Đại Tuệ! Ví như lúa gạo gọi là thức ăn của phàm phu mà chẳng giã, chẳng thổi nấu thì chẳng thể ăn được. Nếu lúa gạo ấy, có người chưa làm thành đồ ăn mà ăn thì gọi là điên cuồng, cần phải theo thứ lớp… cho đến thổi nấu chín mới thành đồ ăn được. Này Đại Tuệ! Chẳng sinh chẳng diệt cũng lại như vậy, chẳng tu hạnh phương tiện trí khéo léo thì chẳng được Pháp thân đầy đủ sự trang nghiêm. Này Đại Tuệ! Người chấp trước danh tự để nói được nghóa thì như người ngu si kia chẳng biết giã, thổi, nấu mà nuốt lấy những “hạt thóc” văn tự, chẳng được “món ăn” nghóa. Do ý nghóa này nên phải học đến nghóa, chớ chấp trước văn tự. Này Đại Tuệ! Sở dó nói nghóa là gọi Niết-bàn, nói danh tự là tướng phân biệt, trói buộc sinh ra lý giải của thế gian. Này Đại Tuệ! Nghóa là từ nơi người học rộng hiểu nhiều mà được. Này Đại Tuệ! Nói học rộng hiểu nhiều là gọi phương tiện khéo léo của nghóa, chẳng phải phương tiện khéo léo của âm thanh. Này Đại Tuệ! Nghóa phương tiện thì lìa khỏi tất cả tà thuyết của ngoại đạo, cũng chẳng hòa lẫn vào nhau. Nói như vậy thì tự thân chẳng rơi vào pháp tà của ngoại đạo. Này Đại Tuệ! Đó gọi là học rộng hiểu nhiều có nghóa phương tiện. Này Đại Tuệ! Muốn hiểu được nghóa thì nên thân cận bậc Trí học rộng hiểu nhiều cúng dường cung kính. Những ai chấp trước danh tự thì nên lìa xa, chẳng nên gần gũi. Bấy giờ, Bồ-tát Đại Tuệ nương thần lực chư Phật mà bạch: –Bạch Thế Tôn! Đức Như Lai Thế Tôn nói, tất cả pháp chẳng sinh chẳng diệt chẳng phải là đặc biệt kỳ lạ. Vì sao? Vì tất cả ngoại đạo cũng nói, các nhân chẳng sinh chẳng diệt. Đức Như Lai cũng nói, hư không, chẳng phải sô duyên diệt và cõi Niết-bàn chẳng sinh chẳng diệt. Bạch Thế Tôn! Các ngoại đạo cũng nói, nương vào các nhân duyên sinh ra các chúng sinh. Đức Như Lai cũng nói, nghiệp vô, minh, ái nhân duyên phân biệt sinh ra các thế gian. Nếu vậy, Đức Như Lai cũng nói tướng nhân duyên danh tự khác nhau, nương vào nhân duyên bên ngoài có thể sinh ra các pháp. Ngoại đạo cũng nói, nương vào nhân duyên bên ngoài mà sinh ra các pháp. Vậy nên, Đức Như Lai cùng với ngoại đạo nói không có sai biệt. Bạch Thế Tôn! Ngoại đạo nhân vi trần, thắng nghóa căn, Tự tại thiên, Phạm thiên… cùng với chín loại nhân duyên bên ngoài mà nói rằng, các pháp chẳng sinh chẳng diệt. Đức Như Lai cũng nói, tất cả các pháp chẳng sinh chẳng diệt, có, không chẳng thể nắm bắt, do bốn đại chẳng diệt. Tự tướng chẳng sinh chẳng diệt, theo như Đức Phật Như Lai nói có đủ loại khác nhau mà chẳng lìa khỏi lời nói của ngoại đạo, các ngoại đạo cũng nói, các Đại chẳng lìa khỏi Đại thể. Bạch Thế Tôn! Các ngoại đạo phân biệt các đại, Như Lai cũng phân biệt các đại như vậy. Do nghóa này nên lời nói của Đức Như Lai chẳng khác ngoại đạo. Nếu chẳng đồng thì Đức Như Lai lẽ ra nói có tướng khác. Nếu có tướng khác thì sẽ biết chẳng đồng với lời nói của ngoại đạo. Bạch Thế Tôn! Nếu Phật Như Lai ở trong pháp của mình chẳng nói tướng thù thắng thì trong các ngoại đạo lẽ ra cũng có Phật, do nói các pháp chẳng sinh chẳng diệt. Đức Như Lai thường nói trong một thế giới mà có nhiều Đức Phật cùng ra đời thì không có điều này. Nhưng theo lời nói trên thì trong một thế giới đáng lý có nhiều Đức Phật. Vì sao? Vì đã nói có nhân, không nhân đều không sai khác vậy. Như lời Phật nói không hư dối thì tại sao, ở trong pháp của mình, Thế Tôn chẳng nói lên tướng thù thắng. Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ: –Này Đại Tuệ! Ta nói “pháp chẳng sinh chẳng diệt” chẳng đồng với chẳng sinh chẳng diệt của ngoại đạo, cũng chẳng đồng với pháp vô thường chẳng sinh kia. Vì sao? Này Đại Tuệ! Vì các ngoại đạo nói có thể tánh thật có, chẳng sinh, chẳng biến tướng, còn ta thì chẳng rơi vào trong nhóm bè đảng có, không như vậy. Này Đại Tuệ! Lời ta nói lìa khỏi pháp có không, lìa khỏi tường sinh, trụ, diệt, chẳng phải có, chẳng phải không, thấy tất cả đủ loại sắc tượng như huyễn như mộng. Vậy nên chẳng được nói điều ấy là có hay không. Này Đại Tuệ! Tại sao chẳng được nói điều ấy có hay không? Nghóa là thể tướng của sắc có thấy hay chẳng thấy, có thủ chấp hay chẳng thủ chấp vậy. Này Đại Tuệ! Vậy nên, ta nói tất cả các pháp chẳng phải có chẳng phải không. Này Đại Tuệ! Do chẳng hiểu biết, chỉ là tự tâm phân biệt sinh ra kiến chấp. Tất cả các pháp thế gian xưa nay chẳng sinh diệt mà các phàm phu sinh ra phân biệt, chẳng phải Thánh nhân vậy. Này Đại Tuệ! Tâm mê hoặc phân biệt nghóa chẳng thật thì ví như phàm phu thấy thành Càn-thát-bà, thấy nhà ảo thuật tạo tác vô số người huyễn đủ loại voi ngựa…, thấy những thứ ấy vào ra mà hư vọng phân biệt nói lời như vầy: “Những thứ này vào như vầy… như vầy…, ra như vầy… như vầy…” Này Đại Tuệ! Nhưng chỗ ấy thật không người ra, vào chỉ là tự tâm thấy mê hoặc phân biệt, pháp sinh hay pháp chẳng sinh cũng lại như vậy. Này Đại Tuệ! Nhưng ở đó thật không có điều này, là không, là các pháp, như việc tạo tác việc huyễn của nhà ảo thuật kia, mà nhà huyễn thuật kia chẳng sinh chẳng diệt. Này Đại Tuệ! Các pháp có không cũng không có đối tượng để tạo ra do lìa khởi sinh diệt vậy. Chỉ những phàm phu rơi vào tâm điên đảo phân biệt sinh diệt, chẳng phải là Thánh nhân. Này Đại Tuệ! Điên đảo thì như tâm phân biệt pháp này thì như vậy, như vậy, pháp kia thì chẳng như vậy, như vậy… cũng chẳng phải điên đảo mà phân biệt điên đảo thì chấp trước các pháp là có, là không, chẳng phải thấy tịch tónh vậy. Chẳng thấy tịch tónh thì chẳng thể xa lìa hư vọng phân biệt. Vậy nên, này Đại Tuệ! Thấy tịch tónh thì gọi là tướng thù thắng, chẳng phải thấy các tướng thì gọi là tướng thù thắng, do chẳng thể đoạn tướng sinh nhân. Này Đại Tuệ! Nói vô tướng là xa lìa tất cả các tâm phân biệt. Vô sinh, vô tướng thì chính là điều ta nói, gọi là Niết-bàn. Này Đại Tuệ! Nói Niết-bàn nghóa là thấy được trụ xứ như thật của các pháp, xa lìa tâm phân biệt, tâm số pháp, nương theo thứ tự như thật tu hành đối với sự chứng đắc Thánh trí tự thân. Ta nói như vậy gọi là Niết-bàn. Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ: Vì ngăn các pháp sinh Kiến lập pháp vô sinh Ta nói pháp không nhân. Phàm phu chẳng thể biết. Ta nói pháp không nhân Mà phàm phu chẳng biết Tất cả pháp chẳng sinh Cũng chẳng được nói không. Càn-thát-bà, mộng, huyễn Các pháp không có nhân Các pháp không, vô tướng. Làm sao ta giảng nói? Lìa các duyên hòa hợp Trí tuệ chẳng thể thấy Do không vốn chẳng sinh Vậy nên nói vô thể Mỗi một duyên hòa hợp Thấy vật chẳng nắm bắt Ngoại đạo không thể thấy Hòa hợp chẳng nắm bắt. Mộng, huyễn và vầng sáng. Càn-thát-bà loáng nắng Vọng thấy mà không nhân Việc thế gian cũng vậy. Hàng phục luận không nhân Thì thành nghóa vô sinh Có thể thành vô sinh Thì pháp ta chẳng diệt. Nói các luận vô nhân Ngoại đạo sinh kinh sợ: Tại sao những người nào? Nhân gì? Ở đâu thế? Sinh các pháp vô nhân Chẳng nhân, chẳng vô nhân Bậc trí nếu thấy được Xa lìa thấy diệt, sinh. Không pháp sinh, chẳng sinh Là không tướng nhân duyên. Nếu là pháp danh tự Là ta nói Vô nghóa Chẳng sinh pháp có không Cũng chẳng có nhân duyên Pháp trước chẳng có danh Danh cũng chẳng phải không Phi cảnh giới Thanh văn Bích-chi-phật, ngoại đạo Và bậc trụ Thất địa Chỗ đó không tướng sinh. Lìa các pháp nhân duyên Vì ngăn các nhân duyên. Nói kiến lập duy tâm Ta nói tên không sinh Các pháp không nhân duyên Lìa phân biệt phân biệt Lìa bè đảng có không Ta nói tên không sinh Tâm xa lìa chấp pháp Lìa khỏi hai pháp thể Chuyển thân nương chánh tướng. Ta nói tên vô sinh. Ngoài phi thật, không thật. Chẳng có tâm chấp thủ Huyễn, mộng và vầng sáng Càn-thát-bà loáng nắng Xa lìa các kiến chấp Gọi là tướng Vô sinh Như vậy những pháp không… Nên biết những văn cú Chẳng sinh và không không Mà không ở sinh không Các nhân duyên hòa hợp Có diệt và có sinh Xa lìa các nhân duyên Chẳng diệt cũng chẳng sinh Lìa nhân duyên, không pháp Lìa hòa hợp không thành. Ngoại đạo vọng phân biệt Đều thấy có một, khác Có không chẳng pháp sinh Chẳng nắm bắt có không Chỉ các pháp hòa hợp Mà thấy có diệt, sinh. Và có ở danh tự Đắp đổi làm gông cùm Lìa nhân duyên xiềng xích Sinh pháp chẳng thể thành. Pháp sinh chẳng thấy sinh Lìa khỏi lỗi ngoại đạo Ta nói duyên xiềng xích Phàm phu chẳng biết thông. Nếu lìa duyên xiềng xích Không có pháp phân biệt Tức là không nhân duyên Phá nghóa duyên trói buộc Như đèn hiển hình tượng Xiềng xích sinh cũng vậy Nếu xa lìa xiềng xích Lại có các pháp sinh. Pháp sinh vốn không thể Tự tánh như hư không Lìa xiềng xích cầu pháp Người ngu không biết rõ. Lại có vô sinh khác Pháp Thánh nhân chứng đắc Pháp sinh, vô sinh đó Là pháp Nhẫn vô sinh. Nếu thấy các thế gian Tức là thấy xiềng xích Tất cả đều trói buộc Vậy là định được tâm. Vô minh và nghiệp ái… Là xiềng xích bên trong Dùi, trục, bùn, bánh xe Chủng tử xiềng xích lớn. Nếu lại có pháp khác Mà sinh từ nhân duyên Lìa khỏi nghóa xiềng xích Đó chẳng trụ Thánh giáo. Nếu pháp sinh là không Ai là người trói buộc Đắp đổi mà sinh ra Đó gọi nghóa nhân duyên. Pháp cứng, ẩm, nóng, động Phàm phu sinh phân biệt Lìa buộc lại không pháp Vậy nên nói không thể. Như thuốc trị mọi bệnh Tùy bệnh mà chữa trị Bàn luận không sai biệt Bệnh khác nên thuốc khác. Ta nghó các chúng sinh Bị nhiễm lỗi phiền não Biết căn, lực sai biệt Theo sức nhận mà nói. Pháp ta không sai biệt Tùy căn bệnh nói khác Pháp ta chỉ Nhất thừa Tám Thánh đạo thanh tịnh. KINH NHẬP LĂNG-GIÀ <卷 id="118149481">QUYỂN 7 <詞 id="118149482">Phẩm 8: VÔ THƯỜNG Bấy giờ, Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch: –Bạch Thế Tôn! Đức Thế Tôn nói vô thường thì tất cả ngoại đạo cũng nói vô thường. Bạch Thế Tôn! Đức Như Lai nương vào danh tự, chương cú nói lời như vầy, các hạnh vô thường là pháp sinh diệt. Bạch Thế Tôn! Pháp này là chân thật hay là hư vọng? Bạch Thế Tôn! Lại có bao nhiêu loại vô thường? Đức Phật bảo Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ: –Hay thay! Hay thay! Này Đại Tuệ! Tất cả ngoại đạo hư vọng phân biệt có tám loại vô thường. Những gì là tám? 1. Phát khởi việc làm mà chẳng làm. Đó gọi là vô thường. Sao gọi là phát khởi? Nghóa là pháp sinh, pháp bất sinh, pháp thường pháp vô thường gọi là phát khởi vô thường. 2. Hình tướng dừng nghỉ gọi là vô thường. 3. Sắc… tức là vô thường. 4. Sắc chuyển biến nên sai khác là vô thường, các pháp nối tiếp nhau tự nhiên mà diệt như sữa, chuyển biến thành sữa đặc. Đối với tất cả pháp chẳng thấy sự chuyền biến ấy cũng chẳng thấy diệt thì gọi là vô thường. 5. Lại có ngoại đạo khác… do không có vật nên gọi là vô thường. 6. Có pháp, không pháp đều là vô thường, do tất cả pháp vốn chẳng sinh nên gọi là vô thường. Do pháp vô thường hòa hợp trong đó chính là vô thường. 7. Lại có ngoại đạo khác… cho rằng, vốn không sau lại có gọi là vô thường. Nghóa là nương vào sự diệt tướng sinh của các Đại, chẳng thấy sự sinh ấy lìa khỏi thể nối tiếp nhau thì gọi là vô thường. 8. Chẳng sinh vô thường. Nghóa là chẳng phải thường chính là vô thường. Thấy các pháp có không, sinh chẳng sinh… cho đến quán sát bụi trần chẳng thấy pháp sinh nên nói rằng chẳng sinh, các pháp chẳng phải sinh. Này Đại Tuệ! Đó gọi là tướng vô sinh vô thường mà các ngoại đạo chẳng biết pháp đó sở dó chẳng sinh. Vậy nên họ phân biệt các pháp chẳng sinh nên nói rằng, vô thường. Lại nữa, này Đại Tuệ! Ngoại đạo phân biệt pháp vô thường, cho là có vật. Những ngoại đạo đó tự tâm hư vọng phân biệt về vô thường, thường, chẳng phải vô thường, do có vật. Vì sao? Vì tự thể chẳng diệt vậy. Tự thể chẳng diệt là thể của vô thường, thường là chẳng diệt. Này Đại Tuệ! Nếu pháp vô thường là có vật thì đáng lẽ sinh ra các pháp, do vô thường đó có thể làm nhân vậy. Này Đại Tuệ! Nếu tất cả pháp chẳng lìa khỏi vô thường thì các pháp có, không, tất cả lẽ ra phải thấy. Vì sao? Vì như gậy, cây, sành, đá là vật năng phá, sở phá đều bị phá hủy hết. Thấy vô số tướng kia khác nhau, vậy nên vô thường do tất cả pháp không là pháp, cũng chẳng phải nhân, cũng chẳng phải quả. Này Đại Tuệ! Lại có các lỗi, do nhân quả kia không sai biệt mà chẳng được nói rằng, đây là vô thường mà kia là quả. Do nhân quả sai biệt nên chẳng được nói rằng, tất cả pháp là thường, do tất cả pháp không nhân. Này Đại Tuệ! Các pháp có nhân mà các phàm phu chẳng hiểu, chẳng biết nhân khác chẳng thể sinh ra quả khác. Này Đại Tuệ! Nếu nhân khác có thể sinh ra quả khác thì khác nhân nên sinh ra tất cả các pháp. Nếu vậy thì lại có lỗi, nên nhân quả sai biệt mà thấy sai biệt. Này Đại Tuệ! Nếu vô thường ấy là có vật thì lẽ ra giống với việc có đối tượng tạo tác của nhân thể. Lại có lỗi nữa, ở trong một pháp lẽ ra đầy đủ tất cả các pháp do giống tất cả đối tượng tạo tác, nhân quả nghiệp tướng không sai biệt. Hoặc tự có là vô thường, vô thường có thể vô thường vậy. Hoặc tất cả các pháp vô thường lẽ ra thường hằng vậy. Hoặc nếu vô thường ấy đồng với các pháp thì rơi vào pháp ba đời. Này Đại Tuệ! Sắc quá khứ đồng với vô thường nên đã diệt, pháp vị lai chưa sinh ra do đồng với sắc vô thường nên chẳng sinh ra, hiện tại có pháp chẳng lìa khỏi sắc. Do sắc cùng với tướng các Đại kia nương vào năm Đại, nương vào trần, vậy nên chẳng diệt, do những pháp đó chẳng lìa nhau. Này Đại Tuệ! Tất cả ngoại đạo chẳng diệt các đại, ba cõi nương vào đại, nương vào vi trần… Vậy nên nương vào pháp đó nói rằng, sinh trụ diệt. Này Đại Tuệ! Lìa khỏi pháp này, lại không có các pháp như: bốn đại, các trần… do ngoại đạo kia kia hư vọng phân biệt, lìa khỏi tất cả pháp, lại có vô thường nên ngoại đạo nói rằng, các đại chẳng sinh chẳng diệt, do tướng tự thể thường hằng chẳng diệt vậy. Vậy nên họ nói, phát khởi việc làm mà giữa chừng chẳng làm thì gọi là vô thường. Các đại lại có sự phát khởi các đại, không có những dị tướng đồng tướng đó, chẳng có pháp sinh diệt. Do thấy các pháp chẳng sinh diệt mà ở nơi đó sinh ra trí vô thường. Này Đại Tuệ! Sao gọi là hình tướng vô thường dừng nghỉ? Nghóa là hình tường năng tạo, sở tạo, thấy hình tướng khác như dài, ngắn, chẳng phải các đại diệt mà thấy hình tướng các đại chuyển biến. Người đó rơi vào trong pháp Tăng-khư (Số luận). Này Đại Tuệ! Hình tướng vô thường nghóa là những người nào là sắc thì gọi là vô thường. Người đó thấy ở hình tường vô thường mà chẳng phải các đại chính là pháp vô thường. Nếu các đại vô thường thì tất cả các thế gian chẳng được bàn luận việc đời, rơi vào bè đảng tà kiến Lô-ca-da-đà, do nói là, tất cả pháp chỉ có danh. Lại thấy các pháp do tướng tự thể sinh ra. Này Đại Tuệ! Chuyển biến vô thường nghóa là thấy đủ loại tướng khác của các sắc, chẳng phải các đại chuyển biến. Ví như thấy vàng được làm thành vật trang sức thì hình tướng chuyển biến mà thể của vàng chẳng khác. Các pháp khác chuyển biến cũng lại như vậy. Này Đại Tuệ! Như vậy ngoại đạo hư vọng phân biệt thấy pháp vô thường. Lửa chẳng thiêu đốt các đại, tự thể chẳng thiêu đốt, do tự thể các đại đó sai khác. Này Đại Tuệ! Các ngoại đạo nói, nếu lửa có thể thiêu đốt các đại thì các đại đoạn diệt. Vậy nên chẳng thiêu đốt. Này Đại Tuệ! Ta nói đại và các trần chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. Vì sao? Vì ta chẳng nói cảnh giới bên ngoài là có. Ta nói ba cõi chỉ là tự tâm, chẳng nói đủ loại tướng là có. Vậy nên nói rằng, chẳng sinh chẳng diệt, chỉ là nhân duyên bốn đại hòa hợp, chẳng phải đại và các trần là pháp thật có, do tâm hư vọng phân biệt hai pháp khả thủ và năng thủ. Có thể biết như thật hai loại phân biệt. Vậy nên, lìa khỏi tướng thấy có không bên ngoài, chỉ là tự tâm phân biệt tạo tác nghiệp, gọi là sinh nhưng nghiệp chẳng sinh do lìa khỏi tâm phân biệt có không vậy. Này Đại Tuệ! Vì sao chẳng phải thường, chẳng phải không thường? Vì do có những pháp thế gian và xuất thế gian thượng thượng. Vậy nên chẳng được nói rằng, thường. Vì sao chẳng phải vô thường? Vì có thể hiểu biết chỉ là tự tâm phân biệt thấy. Vậy nên chẳng phải vô thường. Do các ngoại đạo rơi vào tà kiến, chấp trước hai bên, không biết tự tâm hư vọng phân biệt, chẳng phải các Thánh nhân phân biệt vô thường. Này Đại Tuệ! Tất cả các pháp có ba loại. Những gì là ba? 1. Thế gian pháp tướng. 2. Xuất thế gian pháp tướng. 3. Xuất thế gian thượng thượng thắng pháp tướng. Do nương vào ngôn ngữ nói vô số pháp mà các phàm phu chẳng hiểu, chẳng biết. Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ: Lìa tạo tác từ trước Cùng với hình tướng khác Gọi có vật vô thường Ngoại đạo vọng phân biệt Các pháp không có diệt Các Đại trụ tự tánh Rơi vào mọi kiến chấp Ngoại đạo nói vô thường. Các ngoại đạo kia nói Các pháp chẳng diệt, sinh Các đại thể tự thường Thì pháp nào vô thường? Cả thế gian do tâm Mà tâm thấy hai cảnh Pháp khả thủ, năng thủ Pháp không ngã, ngã sở Pháp ba cõi trên dưới Ta nói, đều là tâm Lìa khỏi các tâm pháp Lại không thể nắm bắt.  <詞 id="118149483">Phẩm 9: NHẬP ĐẠO Lúc Thánh giả Đại Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch: –Bạch Thế Tôn! Nguyện xin Đức Thế Tôn vì con nói về tướng thứ lớp nhập định Diệt tận của tất cả các Bồ-tát, Thanh văn, Bích-chi-phật, con và tất cả các Bồ-tát… nếu được biết rõ tướng thứ lớp nhập vào định Diệt tận và phương tiện khéo léo thì chẳng rơi vào niềm vui Tam-muội Tam-ma-bạt-đề định Diệt tận của Thanh văn, Bích-chi-phật, chẳng rơi vào pháp mê hoặc của Thanh văn, Bích-chi-phật và ngoại đạo. Đức Phật bảo Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ: –Hay thay! Hay thay! Này Đại Tuệ! Ông hãy lắng nghe, lắng nghe! Ta sẽ vì ông giải nói. Bồ-tát Đại Tuệ bạch: –Hay thay! Bạch Thế Tôn! Thưa vâng, con xin lắng nghe và tin nhận! Đức Phật dạy: –Này Đại Tuệ! Bồ-tát từ Sơ địa cho đến Địa thứ sáu nhập vào định Diệt tận, Thanh văn, Bích-chi-phật cũng nhập vào định Diệt tận. Này Đại Tuệ! Các Đại Bồ-tát ở trong Địa thứ bảy từng niệm từng niệm thể nhập định Diệt tận do các Bồ-tát đều có thể xa lìa tướng có, không của tất cả các pháp. Này Đại Tuệ! Thanh văn, Bích-chi-phật chẳng thể từng niệm từng niệm nhập vào định Diệt tận do Thanh văn, Bích-chi-phật nương vào hạnh hữu vi để hội nhập định Diệt tận, rơi vào cảnh giới khả thủ năng thủ. Vậy nên Thanh văn, Bích-chi-phật chẳng thể nhập vào định Diệt tận từng niệm từng niệm trong Địa thứ bảy, do Thanh văn, Bích-chi-phật phát sinh tư tưởng kinh sợ, sợ rơi vào tướng không, khác của các pháp, do hiểu các pháp với đủ loại tướng khác nhau: Pháp có, pháp không, pháp thiện, pháp ác, cùng tướng, khác tướng… mà vào định Diệt tận. Vậy nên Thanh văn, Bích-chi-phật chẳng thể nhập vào định Diệt tận từng niệm từng niệm trong Địa thứ bảy, do không có trí phương tiện khéo léo. Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát ở Địa thứ bảy chuyển diệt tâm, ý, ý thức của Thanh văn, Bích-chi-phật. Này Đại Tuệ! Từ Sơ địa cho đến Địa thứ sáu, Đại Bồ-tát thấy ở ba cõi chỉ là tâm, ý, ý thức của tự tâm, lìa khỏi pháp ngã và ngã sở, chỉ là tự tâm phân biệt chẳng rơi vào đủ các tướng của pháp bên ngoài, chỉ là nội tâm ngu si của phàm phu rơi vào nhị biên, thấy có pháp khả thủ, năng thủ. Do không biết mà chẳng hiểu rõ từ đời vô thủy đến nay, do thân miệng và ý huân tập vọng tưởng phiền não, hý luận mà sinh tử các pháp. Này Đại Tuệ! Ở trong Địa thứ tám, tất cả Bồ-tát, Thanh văn, Bích-chi-phật nhập vào tưởng Niết-bàn. Này Đại Tuệ! Các Đại Bồ-tát nương thần lực Phật và Tam-muội tự tâm, chẳng vào pháp môn Tam-muội An lạc, rơi vào Niết-bàn mà trụ, do chẳng đầy đủ Như Lai địa. Nếu Bồ-tát đó trụ ở phần Tam-muội thì dừng nghỉ độ thoát tất cả chúng sinh, đoạn tuyệt giống Như Lai, diệt tan nhà của Như Lai. Vì thị hiện các cảnh giới chẳng thể nghó bàn của Như Lai, vậy nên chẳng vào Niết-bàn. Này Đại Tuệ! Thanh văn, Bích-chi-phật rơi vào pháp môn Tam-muội An lạc. Vậy nên Thanh văn, Bích-chi-phật sinh ra tưởng Niết-bàn. Này Đại Tuệ! Các Đại Bồ-tát từ Sơ địa cho đến Địa thứ bảy đầy đủ phương tiện khéo léo, quan sát tưởng của tâm, ý, ý thức, xa lìa pháp tướng chấp giữ của ngã và ngã sở, quan sát ngã không, pháp không, quan sát đồng tướng, dị tướng, hiểu rõ nghóa phương tiện khéo léo của bốn vô ngại mà tự tại thứ lớp nhập vào pháp Bồ-đề phần của các Địa. Này Đại Tuệ! Nếu ta chẳng nói pháp đồng tướng dị tướng của các Đại Bồ-tát thì tất cả các Bồ-tát chẳng biết như thật thứ lớp các Địa, sợ rơi vào pháp ngoại đạo tà kiến… Ta theo thứ lớp nói về tướng của các Địa. Này Đại Tuệ! Nếu người theo thứ lớp mà vào Địa thì chẳng rơi vào đạo khác. Ta nói tướng các Địa theo thứ lớp thì chỉ tự tâm thấy thứ lớp các Địa và đủ các hành tướng trong ba cõi mà các phàm phu chẳng hiểu chẳng biết. Do các phàm phu chẳng hiểu biết, vậy nên ta và tất cả các Đức Phật nói đến tướng các Địa theo thứ lớp và kiến lập đủ các hành tường của ba cõi. Lại nữa, này Đại Tuệ! Thanh văn, Bích-chi-phật đối với Địa thứ tám của Bồ-tát ưa thích say đắm pháp môn An lạc Tam-muội Tịch diệt nên chẳng thể biết rõ chỉ là sự thấy tự tâm, rơi vào tự tướng đồng tướng huân tập chướng ngại, rơi vào lỗi thấy nhân vô ngã, pháp vô ngã vậy. Do tâm phân biệt gọi là Niết-bàn mà chẳng thể biết các pháp tịch tónh. Này Đại Tuệ! Các Đại Bồ-tát, do thấy pháp môn An lạc Tam-muội tịch tónh, nhớ nghó bản nguyện tâm đại Từ bi độ các chúng sinh, biết mười hạnh trí vô tận như thật. Vậy nên chẳng nhập vào Niết-bàn ngay. Này Đại Tuệ! Các Đại Bồ-tát xa lìa tâm hư vọng phân biệt, xa lìa cảnh giới năng thủ, sở thủ gọi là vào Niết-bàn. Do trí như thật biết tất cả các pháp chỉ là tự tâm, vậy nên chẳng sinh ra tâm phân biệt. Do đó, chẳng chẳng chấp thủ tâm, ý, ý thức, chẳng chấp trước tướng pháp bên ngoài là thật có, chẳng phải chẳng vì tu hành Phật pháp, nương theo căn bản trí đắp đổi tu hành, vì ở tự thân cầu chứng Địa trí của Phật Như Lai vậy. Này Đại Tuệ! Như người nằm mộng thấy đi qua nước biển cả, tạo ra phương tiện lớn muốn đưa mình qua. Chưa qua khỏi giữa chừng bỗng nhiên thức dậy, khởi sự suy nghó này: “Đây là thật hay hư vọng?” Người đó lại nghó: “Tướng như vậy chẳng phải thật, chẳng phải hư dối chỉ là ta vốn hư vọng phân biệt cảnh giới chẳng thật, huân tập nhân nên thấy đủ loại sắc, hình tướng điên đảo, chẳng lìa có không, do ý thức huân tập nên thấy trong giấc mộng. Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, ở nơi Địa thứ tám, thấy tâm phân biệt, các pháp cùng một tướng ở trong Sơ địa, như mộng, như huyễn bình đẳng không sai khác, lìa các công dụng tâm phân biệt khả thủ, năng thủ, thấy tâm, tâm số pháp vì chưa đạt được Phật pháp thượng thượng. Người tu hành thì khiến cho đạt được vậy. Đại Bồ-tát tu hành pháp thù thắng gọi là Niết-bàn, chẳng phải diệt tất cả pháp gọi là Niết-bàn. Đại Bồ-tát xa lìa tướng phân biệt về tâm, ý, ý thức, nên đạt được pháp nhẫn Vô sinh. Này Đại Tuệ! Trong Đệ nhất nghóa cũng không thứ lớp, không có hạnh thứ lớp, các pháp tịch tónh cũng như hư không. Bồ-tát Đại Tuệ bạch: –Bạch Thế Tôn! Thế Tôn nói, Thanh văn, Bích-chi-phật thể nhập pháp môn an vui Tịch tónh của Bồ-tát ở Địa thứ tám. Đức Như Lai lại nói, Thanh văn, Bích-chi-phật chẳng biết chỉ là tự tâm phân biệt. Thế Tôn lại nói, các Thanh văn đạt được “nhân vô ngã” mà chẳng hiểu được “Pháp vô ngã” là rỗng không. Nếu nói như vậy thì Thanh văn, Bích-chi-phật còn chưa thể chứng được pháp Sơ địa, huống gì thể nhập pháp môn an vui tịch diệt của Địa thứ tám? Đức Phật nói: –Này Đại Tuệ! Ta nay vì ông phân biệt tuyên nói. Này Đại Tuệ! Thanh văn có ba bậc. Nói rằng người nhập vào pháp môn Tịch diệt của Địa thứ tám, đây là người trước đã tu hạnh Bồ-tát mà rơi vào Thanh văn địa, rồi trở lại nương vào bản tâm tu hạnh Bồ-tát để cùng vào pháp môn an vui tịch diệt của Địa thứ tám, chẳng phải là Tăng thượng mạn Thanh văn tịch diệt, do hàng Thanh văn đó chẳng thể nhập vào hạnh Bồ-tát, chưa từng biết rõ ba cõi chỉ là tâm, chưa từng tu hành các pháp Bồ-tát, chưa từng tu hành các Ba-la-mật, hạnh Địa thứ mười. Vậy nên chắc chắn là Thanh văn tịch diệt chẳng thể chứng được pháp môn an vui tịch diệt mà Bồ-tát đó thực hành. Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ: Chỉ tâm không sở hữu Phật địa và các hành Phật khứ, lai, hiện tại Ba đời nói như trên. Thất địa là Tâm địa Không sở hữu Bát địa Nhị địa gọi là hành Địa khác gọi ngã địa. Tịnh và chứng nội thân Đây gọi là ngã địa Chỗ Tự tại tối thắng Trời A-ca-ni-sấc Chiếu sáng như lửa hừng Phát ánh sáng vi diệu Đủ loại đẹp đáng ưa Hóa làm ở ba cõi Sắc ba cõi hiện lên Hoặc có tại Quang hóa Chỗ đó nói các thừa Tự Tại địa của ta Thập địa là Sơ địa Sơ địa là Bát địa Cửu địa là Thất địa Thất địa là Bát địa Nhị địa là Tam địa Tứ địa là Ngũ địa Tam địa là Lục địa Tịch diệt đầu thứ lớp? Chắc chắn các Thanh văn Chẳng hành Bồ-tát hạnh Đồng vào Địa thứ tám Vốn là hạnh Bồ-tát.  <詞 id="118149484">Phẩm 10: THƯA HỎI ĐỨC NHƯ LAI LÀ THƯỜNG HAY VÔ THƯỜNG Bấy giờ, Thánh giả Đại Bồ-tát Đại Tuệ bạch: –Bạch Thế Tôn! Như Lai Ứng Chánh Biến Trí là thường hay vô thường? Đức Phật bảo Thánh giả Đại tuệ: –Này Đại Tuệ! Như Lai Ứng Chánh Biến Tri chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. Vì sao? Vì nhị biên là có lỗi vậy. Này Đại Tuệ! Nhị biên có, không nên có lỗi lầm. Này Đại Tuệ! Nếu nói Như Lai là pháp thường thì đồng với nhân của thường. Này Đại Tuệ! Do các ngoại đạo nói rằng, vi trần… các nhân là thường, chẳng phải là pháp do tạo tác. Này Đại Tuệ! Vậy nên chẳng được nói Như Lai thường. Do chẳng phải là pháp tạo tác nên nói rằng thường. Này Đại Tuệ! Cũng chẳng được nói Như Lai vô thường. Nói vô thường tức là đồng với pháp hữu vi tạo tác. Pháp sở kiến, năng kiến của năm ấm là không, nên năm ấm diệt. Năm ấm diệt thì các Đức Phật Như Lai lẽ ra cũng diệt, mà Phật Như Lai chẳng phải là pháp đoạn trừ. Này Đại Tuệ! Phàm các pháp tạo tác đều là vô thường, như cái bình, cái áo, cái xe, cái nhà và tấm vải, chiếc chiếu… đều là pháp tạo tác, vậy nên vô thường. Này Đại Tuệ! Nếu nói tất cả đều vô thường pháp Nhất thiết trí, tất cả công đức của người chứng Nhất thiết trí lẽ ra cũng vô thường do đồng tướng tất cả các pháp, do đó nên có lỗi. Nếu nói tất cả đều là vô thường thì các Đức Phật Như Lai lẽ ra chính là pháp tạo tác mà Phật Như Lai chẳng phải là pháp tạo tác, do không lại nói có nhân thù thắng nhân. Vậy nên, ta nói rằng, Như Lai chẳng phải thường cũng chẳng phải vô thường. Lại nữa, này Đại Tuệ! Như Lai chẳng phải thường. Vì sao? Vì tánh của hư không cũng không tu hành các công đức vậy. Này Đại Tuệ! Ví như hư không chẳng phải thường chẳng phải vô thường. Vì sao? Vì lìa khỏi thường và vô thường, do chẳng rơi vào một khác, đồng chẳng đồng, có không, chẳng phải có chẳng phải không, thường vô thường, chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. Vậy nên lìa khỏi tất cả các lỗi, chẳng nắm bắt, giảng nói. Lại nữa, này Đại Tuệ! Cũng chẳng được nói Như Lai là thường. Vì sao? Vì nếu nói là thường thì đồng với sừng của thỏ, ngựa, lạc đà, lừa, rùa, rắn, nhặng cá… Vậy nên chẳng nói rằng. Như Lai là thường. Lại nữa, này Đại Tuệ! Cũng chẳng được nói Như Lai là thường sợ rơi vào “bất sinh thường”. Vậy nên chẳng được nói Như Lai Thế Tôn là thường. Lại nữa, này Đại Tuệ! Lại có pháp khác, nương vào pháp đó nên được nói Như Lai Thế Tôn là thường. Vì sao? Vì vào pháp thường chứng đắc trí ở nội tâm. Vậy nên được nói Như Lai là thường. Này Đại Tuệ! Pháp Chứng đắc trí nội tâm của các Đức Phật Như Lai là thường hằng, thanh lương, chẳng biến đổi. Này Đại Tuệ! Các Đức Phật Như Lai Ứng Chánh Biến Tri hoặc ra đời hay không ra đời, pháp tánh vẫn thường. Như vậy pháp thể là thường. Như vậy quy tắc của pháp cũng thường. Như vậy, do pháp tánh đó mà tất cả Thanh văn, Bích-chi-phật… cũng chẳng từng nghe, cũng chẳng từng thấy, như vậy pháp thể chẳng phải trong hư không nên phàm phu chẳng hiểu, chẳng biết. Này Đại Tuệ! Trí chứng đắc của chư Phật Như Lai là nương vào đó mà có tên gọi. Này Đại Tuệ! Do nương vào trí tuệ như thật tu hành nên được gọi là Phật, chẳng phải do tâm, ý, ý thức, vô minh, năm ấm… huân tập mà có tên gọi. Này Đại Tuệ! Tất cả ba cõi chẳng thật, do vọng tưởng phân biệt hý luận nên có tên gọi. Này Đại Tuệ! Phân biệt chẳng thật về hai pháp được gọi là thường cùng vô thường, nhưng Phật Như Lai chẳng rơi vào hai pháp, chẳng rơi vào nhị biên năng thủ, khả thủ. Như Lai tịch tónh nên hai pháp chẳng sinh. Vậy nên, này Đại Tuệ! Các Đức Phật Như Lai Ứng Chánh Biến Tri thì chẳng được nói là thường cùng vô thường. Này Đại Tuệ! Phàm có ngôn ngữ mà được nói rằng, thường cùng vô thường thì xa lìa sạch hết tất cả phân biệt, chẳng được nói chấp giữ pháp thường, pháp vô thường. Vậy nên, ta ngăn tất cả phàm phu, chẳng được phân biệt thường cùng vô thường. Do đạt được pháp chân thật tịch tónh nên hết phân biệt, chẳng sinh ra phân biệt. Lúc ấy, Đức Thế Tôn lại nói kệ: Lìa khỏi thường, vô thường Chẳng thường, chẳng vô thường Nếu thấy Phật như vậy Chẳng rơi trong đường ác. Nếu nói thường, vô thường Những công đức hư vọng Kẻ vô trí phân biệt Ngăn nói thường, vô thường Người lập pháp, chấp giữ Đều có những lỗi lầm. Nếu thấy chỉ do tâm Chẳng rơi vào các lỗi.  <詞 id="118149485">Phẩm 11: PHẬT TÁNH Bấy giờ, Thánh giả Đại Bồ-tát Đại Tuệ lại thỉnh Đức Phật: –Bạch Thế Tôn! Nguyện xin Đức Như Lai Ứng Chánh Biến Tri vì con giảng nói. Xin Đấng Thiện Thệ vì con nói về tướng sinh diệt của ấm, giới, nhập. Bạch Thế Tôn! Nếu vô ngã thì ai sinh, ai diệt? Bạch Thế Tôn! Tất cả phàm phu nương vào sinh, diệt mà trụ, chẳng thấy hết khổ. Vậy nên, chẳng biết tướng Niết-bàn. Đức Phật bảo Thánh giả Đại Tuệ: –Hay thay! Hay thay! Này Đại Tuệ! Ông hãy lắng nghe, ta sẽ vì ông nói. Bồ-tát Đại Tuệ bạch: –Hay thay! Bạch Thế Tôn! Thưa vâng, con xin lắng nghe và tin nhận. Đức Phật bảo: –Này Đại Tuệ! Như Lai tạng là nhân thiện hay chẳng thiện, có thể cùng tạo tác nhân duyên sinh tử trong sáu đường. Ví như nhà nghề làm ra đủ tài khéo léo, chúng sinh nương vào Như Lai tạng, sinh tử trong năm đường. Này Đại Tuệ! Mà Như Lai tạng cũng lìa khỏi ngã và ngã sở, các ngoại đạo… chẳng biết, chẳng hiểu. Vậy nên chẳng thể đoạn trừ nhân duyên sinh tử của ba cõi. Này Đại Tuệ! Các ngoại đạo… vọng chấp có ngã nên chẳng thể thấy như thật về Như Lai tạng, do các ngoại đạo từ đời vô thủy đến nay hư vọng chấp trước đủ thứ hý luận và các sự huân tập. Này Đại Tuệ! A-lê-gia thức gọi là Như Lai tạng cùng liên hệ với bảy thức vô minh, như sóng ở biển cả, thân câu sinh thường chẳng đoạn dứt, nếu lìa khỏi lỗi vô thường, lìa khỏi lỗi của ngã, thì tự tánh thanh tịnh. Còn bảy thức, tâm, ý, ý thức… từng niệm từng niệm chẳng trụ, chính là pháp sinh diệt. Bảy thức do nhân hư vọng đó sinh ra, chẳng thể phân biệt như thật các pháp, xem xét hình tướng cao thấp, dài ngắn, chấp trước danh tướng, có thể khiến cho tự tâm thấy sắc tướng, có thể nhận lấy khổ vui, có thể lìa khỏi nhân của giải thoát, do danh tướng sinh ra phiền não tham. Nương vào ý niệm đó, nương vào sự diệt tận các căn, chẳng theo thứ lớp sinh ra, còn tự ý phân biệt chẳng sinh ra cảm nhận khổ vui. Vậy nên nhập vào định Thiểu tưởng Diệt tận, vào Tam-ma-bạt-đề, Tứ Thiền, Thật đế giải thoát mà người tu hành sinh ra tướng giải thoát, do chẳng biết chuyển diệt tướng hư vọng. Này Đại Tuệ! Như Lai tạng thức chẳng ở trong A-lê-gia thức. Vậy nên, bảy thức có sinh, có diệt. Như Lai tạng thức chẳng sinh chẳng diệt. Vì sao? Vì bảy thức nương vào ý niệm quán sát các cảnh giới mà sinh ra. Cảnh giới bảy thức này, tất cả Thanh văn, Bích-chi-phật, ngoại đạo tu hành thì chẳng thể thông đạt, chẳng biết như thật về nhân vô ngã, do chấp giữ pháp cùng tướng và khác tướng, do thấy các pháp ấm, giới, nhập… Này Đại Tuệ! Như Lai tạng thấy như thật về thể tướng của năm pháp, pháp vô ngã nên chẳng sinh, biết như thật các Địa thứ lớp đắp đổi hòa hợp, còn ngoại đạo thì chẳng chánh kiến nên chẳng thể quan sát. Này Đại Tuệ! Bồ-tát trụ ở Bất Động địa, bấy giờ được mười pháp môn Tam-muội… là bậc đứng đầu, đạt được vô lượng, vô biên Tam-muội. Nương vào Tam-muội chư Phật an trụ mà quán sát chẳng thể nghó bàn pháp của chư Phật và năng lực bản nguyện của mình, ngăn chặn hộ trì cảnh giới thật tế của pháp môn Tam-muội. Ngăn chặn rồi, nhập vào cảnh giới Tự thân chứng Thánh trí của pháp Chân thật, chẳng đồng với cảnh giới quan sát tu hành của Thanh văn, Bích-chi-phật và ngoại đạo. Bấy giờ, vượt qua mười Thánh đạo đó, thể nhập trí thân, ý sinh thân của Như Lai, lìa khỏi các tâm Tam-muội dụng công. Vậy nên, này Đại Tuệ! Các Đại Bồ-tát muốn chứng pháp thù thắng của Như Lai tạng và A-lê-gia thức thì nên tu hành khiến cho thanh tịnh. Này Đại Tuệ! Nếu Như Lai tạng, A-lê-gia thức gọi là không thì lìa khỏi A-lê-gia thức không sinh không diệt. Tất cả phàm phu và các Thánh nhân nương vào A-lê-gia thức đó nên có sinh có diệt. Do nương vào A-lê-gia thức nên những người tu hành chứng đắc Thánh hạnh nơi tự thân, hiện tại được hạnh an lạc của pháp mà chẳng dừng nghỉ. Này Đại Tuệ! Các cảnh giới về tâm A-lê-gia thức, Như Lai tạng của Như Lai này, tất cả Thanh văn, Bích-chi-phật, ngoại đạo… chẳng thể phân biệt. Vì sao? Vì Như Lai tạng là tướng thanh tịnh mà khách trần phiền não thì cấu bẩn bất tịnh. Này Đại Tuệ! Ta nương vào ý nghóa này, nương vào phu nhân Thắng Man nương vào các Đại Bồ-tát khác, những người trí tuệ thậm thâm mà nói tạng A-lê-gia thức của Như Lai, cùng với bảy thứ thức sinh ra gọi là tướng chuyển diệt, vì các Thanh văn, Bích-chi-phật… hiện bày pháp vô ngã. Đáp lại lời phu nhân Thắng Man nên nói rằng, Như Lai tạng chính là cảnh giới Như Lai. Này Đại Tuệ! Cảnh giới Như Lai tạng, A-lê-gia thức, ta nay cùng ông và các Bồ-tát, những người có trí tuệ thậm thâm có thể phân biệt rõ hai pháp này. Còn những Thanh văn, Bích-chi-phật và ngoại đạo… những người chấp trước danh tự thì chẳng thể biết rõ hai pháp này. Này Đại Tuệ! Vậy nên, ông và các Đại Bồ-tát nên học pháp này. Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ: Như Lai tạng sâu xa Cùng bảy thức đều sinh Chấp hai pháp thì sinh Như thật biết chẳng sinh Như tâm hiện bóng gương Huân tập từ vô thủy Như thật xét kỹ càng Các cảnh đều trống không Ngu nhìn tay chỉ trăng Thấy tay, chẳng thấy trăng Người chấp trước danh tự Chẳng thấy Ngã chân thật Tâm như thợ nghề khéo Ý như kẻ gian manh Ý thức và năm thức Chấp cảnh giới hư vọng Hòa hợp như nhà nghề Lừa dối kẻ phàm phu.  <詞 id="118149486">Phẩm 12: NĂM PHÁP MÔN Bấy giờ, Thánh giả Đại Bồ-tát Đại Tuệ lại thỉnh Đức Phật: –Bạch Thế Tôn! Nguyện xin Đức Như Lai Ứng Chánh Biến Tri vì con giải nói. Cúi xin Đấng Thiện Thệ vì con giảng nói về thể tướng của năm pháp và hành tướng sai biệt của hai vô ngã. Con và các Bồ-tát… nếu được biết rõ thể tướng của năm pháp và tướng sai biệt của hai vô ngã thì tu hành pháp này, theo thứ lớp thể nhập tất cả các Địa, tu hành pháp này có thể vào trong tất cả pháp của chư Phật. Đã hội nhập pháp của chư Phật thì có thể chứng đắc Trí địa Tự Thân Như Lai. Đức Phật bảo Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ: –Hay thay! Hay thay! Này Đại Tuệ! Ông nay hãy lắng nghe, ta sẽ vì ông giải nói. Bồ-tát Đại Tuệ thưa: –Hay thay! Bạch Thế Tôn! Thưa vâng, con xin lắng nghe và tin nhận. Đức Phật nói: –Này Đại Tuệ! Ta vì ông nói thể tướng của năm pháp và hành tướng sai biệt của hai loại ngã. Này Đại Tuệ! Những gì là năm pháp? 1. Danh. 2. Tướng. 3. Phân biệt. 4. Chánh trí. 5. Chân như. Những ai tự thân tu hành, chứng trí bậc thánh thì lìa khỏi đoạn kiến và thường kiến, hiện tại như thật tu hành thì được vào Tam-muội an lạc, pháp môn Tam-ma-bạt-đề vậy. Này Đại Tuệ! Tất cả phàm phu chẳng hiểu chẳng biết thể tướng năm pháp và hai loại vô ngã mà chỉ do tự tâm thấy vật bên ngoài nên sinh ra tâm phân biệt, chẳng phải là Thánh nhân. Bồ-tát Đại Tuệ bạch: –Bạch Thế Tôn! Sao phàm phu sinh tâm phân biệt, chẳng phải Thánh nhân vậy? Đức Phật nói: –Này Đại Tuệ! Tất cả phàm phu chấp trước danh tướng, thuận theo pháp sinh ra. Thuận theo pháp sinh rồi, thấy đủ các tướng, rơi vào trong tâm tà kiến, ngã và ngã sở, chấp trước đầy đủ tất cả pháp tướng. Chấp trước rồi vào đến chỗ vô minh tối tăm chướng ngại. Vào chỗ chướng ngại rồi, khởi lên lòng tham. Khởi lên lòng tham rồi, có thể tạo tác nghiệp tham, sân, si. Tạo hành nghiệp rồi, chẳng thể tự dừng như con tằm làm tổ kén, do tâm phân biệt mà tự trói buộc thân, rơi vào biển cả hiểm nạn trong sáu đường, như con lăn (cái ròng rọc) xoay chuyển mà chẳng tự hay biết, do thiếu trí tuệ nên chẳng biết tất cả các pháp như huyễn, chẳng biết vô ngã và ngã sở, các pháp chẳng phải là thật mà từ vọng tưởng phân biệt sinh ra, lại chẳng biết lìa khỏi sở kiến, năng kiến, chẳng biết lìa khỏi tướng sinh, trụ, diệt, chẳng biết do tự tâm hư vọng sinh ra. Gọi là biết thuận theo trời Tự Tại, thời gian, vi trần, ngã sinh ra. Này Đại Tuệ! Những gì là danh? Là nhãn thức thấy sắc trước… tướng các pháp như: tướng thanh, tướng nhó, tướng tỷ, tướng thiệt, tướng thân. Này Đại Tuệ! Những tướng như vậy… ta nói danh, là tướng của danh. Này Đại Tuệ! Phân biệt là gì? Do nương vào những pháp gì gọi là chấp giữ tướng? Phân biệt rõ pháp này như vậy… như vậy… rốt ráo chẳng khác, như là con voi, con ngựa, chiếc xe, bước đi, nhân dân… phân biệt đủ các tướng. Đó gọi là Phân biệt. Này Đại Tuệ! Chánh trí là gì? Quan sát danh, tướng. Quan sát rồi, chẳng thấy có thật pháp, chúng do các nhân cùng đắp đổi sinh ra nên nhìn thấy. Do đắp đổi cùng sinh ra thì các thức chẳng khởi lên nên tướng thức phân biệt, chẳng đoạn, chẳng thường. Vậy nên, chẳng rơi vào Địa của tất cả ngoại đạo, Thanh văn, Bích-chi-phật. Này Đại Tuệ! Đó gọi là Chánh trí. Lại nữa, này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát nương vào Chánh trí, chẳng chấp thủ pháp danh tướng cho là có, chẳng chấp giữ tướng chẳng thấy cho là không. Vì sao? Vì lìa khỏi tà kiến có không, do chẳng thấy danh tướng chính là nghóa của Chánh trí. Vậy nên, ta nói danh là Chân như. Này Đại Tuệ! Bồ-tát trụ ở pháp Chân như thì được thể nhập cảnh giới Vô tướng tịch tónh. Sau khi hội nhập thì đạt được Hoan hỷ địa đầu tiên của Đại Bồ-tát. Khi Bồ-tát được Hoan hỷ địa đầu tiên thì chứng được pháp môn Bách kim cang Tam-muội minh, lìa bỏ tất cả quả nghiệp của hai mươi lăm cõi, vượt qua các địa Thanh văn, Bích-chi-phật, trụ ở cảnh giới chân như, nhà của Như Lai, như thật tu hành, biết tướng năm pháp đều như huyễn, như mộng, như thật quán sát tất cả các pháp, khởi lên sự tu hành chứng Thánh trí nơi tự thân. Như vậy, dần dần lìa xa địa quán sát an lạc của thế gian hư vọng, theo thứ lớp cho đến Pháp vân địa. Vào Pháp vân địa rồi, thứ đến đạt được lực Tam-muội thần thông tự tại, địa Chư hoa trang nghiêm của Như Lai. Vào Như Lai địa rồi, vì giáo hóa chúng sinh nên thị hiện đủ loại ánh sáng ứng với thân trang nghiêm, như trăng trong nước. Nương vào Vô tận cú mà khéo trói buộc đối tượng trói buộc, tùy theo niềm tin của chúng sinh mà nói pháp cho họ, lìa khỏi thân, tâm, ý và ý thức vậy. Này Đại Tuệ! Bồ-tát vào Chân như rồi, được vô lượng, vô biên pháp như vậy… như vậy… trong Phật địa. Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch: –Bạch Thế Tôn! Thế Tôn vì năm pháp môn nhập vào ba pháp, vì ba pháp nhập vào trong năm pháp môn, hay vì tướng tự thể mỗi mỗi đều sai biệt. Đức Phật bảo: –Này Đại Tuệ! Ba pháp nhập vào trong năm pháp môn. Này Đại Tuệ! Chẳng phải chỉ có ba pháp môn nhập vào trong năm pháp môn mà tám thứ thức, hai vô ngã cùng nhập vào năm pháp môn. Này Đại Tuệ! Thế nào là ba pháp nhập vào trong năm pháp? Này Đại Tuệ! Danh tướng là pháp tướng phân biệt. Này Đại Tuệ! Nương vào hai pháp phân biệt đó sinh ra tâm. Tâm số pháp cùng một lúc, chẳng phải trước sau như mặt trời cùng ánh sáng xuất hiện một lúc mà có đủ các tướng phân biệt. Này Đại Tuệ! Đó gọi là ba tướng, nương vào lực nhân duyên sinh ra. Này Đại Tuệ! Chánh trí Chân như gọi là tướng Đệ nhất nghóa đế nương vào pháp không diệt. Lại nữa, này Đại Tuệ! Chấp trước tự tâm thấy pháp phân biệt; có tám loại sai biệt, do phân biệt các tướng. Do là thật nên lìa khỏi pháp sinh diệt của ngã, ngã sở, bấy giờ chứng đắc hai pháp vô ngã. Này Đại Tuệ! Pháp môn của năm pháp thể nhập các Phật địa, pháp tướng các Địa cũng hội nhập trong năm pháp môn, pháp của tất cả Thanh văn, Bích-chi-phật cũng nhập vào trong năm pháp môn, pháp chứng Thánh trí tự thân của Như Lai cũng nhập vào trong năm pháp môn. Lại nữa, này Đại Tuệ! Năm pháp tướng gọi là Chánh trí phân biệt chân như. Này Đại Tuệ! Sao gọi là tướng? Tướng là thấy hình tướng, màu sắc hơn hay thua. Đó gọi là tướng. Này Đại Tuệ! Nương vào pháp tướng đó sinh khởi tướng phân biệt: Đây là cái bình, đây là con trâu, con ngựa, con dê… pháp này như vậy… như vậy… chẳng khác. Này Đại Tuệ! Đó gọi là danh. Này Đại Tuệ! Nương vào pháp đó mà thành lập danh, tướng đó thị hiện rõ ràng. Vậy nên lập ra đủ các danh tự, trâu, dê, ngựa… đó. Đó gọi là tâm phân biệt, tâm số pháp. Này Đại Tuệ! Quán sát từ danh, tướng cho đến vi trần thường chẳng thấy được tướng một pháp, các pháp chẳng thật, do tâm hư vọng phân biệt sinh ra. Này Đại Tuệ! Nói Chân như tức là Danh chẳng trống rỗng, mà tự tánh tự thể quyết định rốt ráo tận cùng, chánh kiến về tướng Chân như. Ta và Bồ-tát cùng các Đức Phật Như Lai Ứng Chánh Biến Tri nói danh thì khác mà nghóa là một. Này Đại Tuệ! Như vậy… thuận theo chánh trí, chẳng đoạn, chẳng thường, không phân biệt, chẳng phân biệt hành xứ, thuận theo sự chứng đắc Thánh trí mới Tự thân lìa khỏi những bè đảng ác kiến, chẳng Chánh trí của tất cả ngoại đạo, Thanh văn, Bích-chi-phật… Này Đại Tuệ! Đối với năm pháp thì ba pháp tướng, tám thức, hai pháp vô ngã và tất cả Phật pháp đều thể nhập trong năm pháp. Này Đại Tuệ! Ông và các Đại Bồ-tát vì cầu Trí thù thắng thì nên phải tu học. Này Đại Tuệ! Ông nên biết, năm pháp chẳng nương theo lời dạy của người khác. Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ: Tướng tự thể năm pháp Cùng với tám loại thức Hai thứ pháp vô ngã Bao trùm các Đại thừa. Danh, tướng và phân biệt Ba pháp tướng tự thể Chân như và Chánh trí Là tướng Đệ nhất nghóa.  <詞 id="118149487">Phẩm 13: HẰNG HÀ SA Bấy giờ, Thánh giả Đại Bồ-tát Đại Tuệ bạch: –Bạch Thế Tôn! Như Thế Tôn nương vào danh tự giảng nói, chư Phật quá khứ, vị lai và hiện tại nhiều như cát sông Hằng. Bạch Thế Tôn! Đức Như Lai nói như vậy là nương vào lời nói trong kim khẩu của Như Lai, con thuận theo chấp lấy, cho là nghóa! Nguyện xin Thế Tôn vì con giải nói. Đức Phật bảo Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ: –Này Đại Tuệ! Như danh tự, chương cú của ta đã giảng nói thì không nên chấp giữ như vậy. Này Đại Tuệ! Các Đức Phật ba đời chẳng phải nhiều như cát sông Hằng. Vì sao? Vì lời nói thí dụ vượt hơn thế gian thì chẳng phải như thí dụ. Vì sao? Vì do có tương tự và chẳng tương tự vậy. Này Đại Tuệ! Các Đức Phật Như Lai Ứng Chánh Biến Tri chẳng định nói thí dụ tương tự, chẳng tương tự vượt hơn thế gian. Vì sao? Này Đại Tuệ! Vì ta nói thí dụ chỉ là phần ít. Này Đại Tuệ! Lời nói thí dụ của ta và các Đức Phật Như Lai Ứng Chánh Biến Tri chỉ nói lên một ít nghóa. Vì sao? Vì phàm phu ngu si, các ngoại đạo… sự chấp trước các pháp là thường, tăng trưởng tà kiến, thuận theo thế gian, luân hồi sinh tử. Vì những người đó nhàm chán, khi nghe sinh ra kinh sợ mà lại nghe các Đức Phật nhiều như cát sông Hằng, đối với đạo Thánh vô thượng của Như Lai họ sinh ra tư tưởng dễ có được, dễ cầu pháp xuất thế. Này Đại Tuệ! Vậy nên, ta nói các Đức Phật Như Lai nhiều như cát sông Hằng. Vì sao? Vì trong những kinh khác mà ta nói, Đức Phật ra đời như hoa Ưu-đàm. Chúng sinh nghe rồi nói rằng, đạo Phật khó đạt được mà chẳng tu hành tinh tấn. Vậy nên ta nói, các Đức Phật Như Lai nhiều như cát sông Hằng. Này Đại Tuệ! Ta nói, các Đức Phật ra đời như hoa Ưu-đàm nương vào nghóa này có thể giáo hóa chúng sinh, nên ta nói các Đức Phật ra đời như hoa Ưu-đàm, này Đại Tuệ! Hoa Ưu-đàm ở trong thế gian, không có người từng thấy, rồi sẽ cũng chẳng thấy. Này Đại Tuệ! Chư Phật Như Lai trong thế gian đã thấy, hiện tại đang thấy và sẽ thấy. Này Đại Tuệ! Ta nói như vậy chẳng phải nương vào pháp tự thân chứng đắc mà nói. Vậy nên nói rằng: Như hoa Ưu-đàm, các Đức Phật Như Lai cũng lại như vậy. Này Đại Tuệ! Ta nương vào pháp chứng đắc nơi tự thân mà nói pháp. Vậy nên, nói thí dụ vượt hơn thế gian, do các phàm phu, chúng sinh không có niềm tin chẳng thể tin lời thí dụ của ta. Vì sao? Vì nói về cảnh giới Thánh trí tự thân mà không thí dụ thì có thể nói được, còn xa lìa tâm, ý và ý thức, qua khỏi các kiến địa, pháp Chân như của các Đức Phật Như Lai thì chẳng thể nói được. Vậy nên ta nói đủ các thí dụ. Này Đại Tuệ! Ta nói, các Đức Phật nhiều như số cát sông Hằng tức là thí dụ một phần ít. Này Đại Tuệ! Các Đức Phật Như Lai bình đẳng, chẳng phải chẳng bình đẳng, do chẳng thể phân biệt mà phân biệt được. Này Đại Tuệ! Ví như cát trong sông Hằng bị cá, ba ba, rùa, rồng, trâu, dê, voi ngựa… các loài thú giẫm đạp mà cát sông đó chẳng sinh phân biệt, chẳng sân, chẳng giận, cũng chẳng sinh tâm: “Chúng quấy nhiễu”, không phân biệt nên thanh tịnh lìa các cấu bẩn. Này Đại Tuệ! Các Đức Phật Như Lai Ứng Chánh Biến Tri cũng lại như vậy, đã chứng đắc Thánh trí nội thân, đủ đầy các lực, thần thông tự tại, công đức như cát sông Hằng. Tất cả tà luận ngoại đạo, những học phái, cá, ba ba… vì ngu si nên đem tâm sân hận chê bai Như Lai mà Như Lai chẳng động, chẳng sinh ra phân biệt. Do năng lực bản nguyện nên ban cho chúng sinh tất cả các niềm vui Tam-muội Tam-ma-bạt đề, khiến họ thỏa mãn đầy đủ, chẳng còn phân biệt điều gì. Này Đại Tuệ! Vậy nên ta nói, các Đức Phật Như Lai nhiều như cát sông Hằng. Đẳng là bình đẳng, không có tướng khác, do lìa khỏi tấm thân yêu thích. Này Đại Tuệ! Ví như cát của sông Hằng chẳng lìa khỏi tướng của đất. Này Đại Tuệ! Đại địa lửa đốt cháy, lửa chẳng khác đất, lửa chẳng đốt cháy đất. Địa đại có thể tương tục của lửa. Này Đại Tuệ! Phàm phu ngu si rơi vào trí điên đảo, tự tâm phân biệt nói rằng, đất bị đốt cháy mà đất chẳng cháy, do chẳng lìa khỏi đất mà lại có thân lửa bốn đại vậy. Này Đại Tuệ! Các Đức Phật Như Lai cũng lại như vậy, thể Pháp thân của các Đức Phật Như Lai giống như cát của sông Hằng, chẳng diệt, chẳng mất. Này Đại Tuệ! Ví như cát sông Hằng vô lượng, vô biên. Này Đại Tuệ! Các Đức Phật Như Lai cũng lại như vậy, xuất hiện ở thế gian, phóng ra vô lượng ánh sáng, chiếu khắp tất cả đại hội của chư Phật, vì giáo hóa chúng sinh khiến cho họ đều rốt ráo thông đạt. Này Đại Tuệ! Như cát sông Hằng lại chẳng sinh ra tướng, như vi trần kia vẫn an trụ nơi thể tướng vi trần. Này Đại Tuệ! Các Đức Phật Như Lai cũng lại như vậy, ở trong thế gian chẳng sinh chẳng diệt, các Đức Phật Như Lai đã đoạn trừ nhân hữu. Này Đại Tuệ! Như cát sông Hằng, nếu ra khỏi sông thì cũng chẳng thể thấy, vào ở trong sông cũng chẳng thể thấy, cũng chẳng khởi tâm: Ta ra vào sông. Này Đại Tuệ! Lực trí tuệ của các Đức Phật Như Lai cũng lại như vậy, độ các chúng sinh cũng chẳng diệt hết, cũng chẳng tăng trưởng. Vì sao? Vì các pháp không thân vậy. Này Đại Tuệ! Tất cả loài có thân đều là pháp vô thường, hủy diệt, chẳng phải pháp không thân. Các Đức Phật Như Lai chỉ có Pháp thân. Này Đại Tuệ! Ví như có người muốn được váng sữa, dầu mà lại ép cát sông Hằng thì nhất định chẳng thể được, không có váng sữa, dầu vậy. Này Đại Tuệ! Các Đức Phật Như Lai vì khổ não của các chúng sinh đã đè nén sân hận mà chẳng thể được, các Đức Phật chẳng xả tướng pháp giới của mình, chẳng xả tướng pháp vị của mình, chẳng xả bản nguyện cùng chúng sinh an lạc, do được đầy đủ đại Từ đại Bi, rằng: Ta nếu chẳng khiến cho tất cả chúng sinh vào Niết-bàn thì thân ta cũng chẳng thể nhập Niết-bàn. Này Đại Tuệ! Như cát sông Hằng theo dòng nước mà chảy thì nhất định chẳng ngược dòng. Này Đại Tuệ! Các Đức Phật Như Lai vì các chúng sinh nói pháp cũng vậy, thuận theo Niết-bàn thì chẳng phải ngược dòng. Này Đại Tuệ! Do đó, ta nói các Đức Phật Như Lai nhiều như số cát sông Hằng. Này Đại Tuệ! Ta nói, cát sông Hằng thuận theo dòng thì chẳng phải là nghóa bỏ đi. Nếu Phật Như Lai có nghóa bỏ đi thì các Đức Phật Như Lai lẽ ra vô thường và diệt mất. Này Đại Tuệ! Bản tế của thế gian còn chẳng thể biết, mà chẳng thể biết thì ta làm sao nương vào mà nói nghóa bỏ đi. Vậy nên, Như Lai chẳng phải là nghóa bỏ đi. Này Đại Tuệ! Nghóa bỏ đi thì gọi là nghóa đoạn diệt nghóa, phàm phu ngu si chẳng hiểu chẳng biết. Bồ-tát Đại Tuệ bạch: –Bạch Thế Tôn! Nếu chúng sinh luân hồi trong thế gian, bản tế đến đi chẳng thể biết thì làm sao Đức Như Lai được giải thoát, lại còn khiến cho chúng sinh được giải thoát? Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ: –Này Đại Tuệ! Nói giải thoát là lìa khỏi tâm phân biệt huân tập tất cả hý luận phiền não từ vô thủy, có thể biết như thật, chỉ là tự tâm thấy tâm xoay chuyển phân biệt bên ngoài. Vậy nên, ta gọi là Giải thoát. Này Đại Tuệ! Nói giải thoát chẳng phải là pháp Diệt. Vậy nên, nay ông hỏi ta, nếu ta chẳng biết bản tế làm sao được giải thoát thì câu hỏi này chẳng thành. Này Đại Tuệ! Nói bản tế thì tức là tâm phân biệt, một thể mà khác tên. Này Đại Tuệ! Lìa khỏi tâm phân biệt lại không có chúng sinh, tức sự phân biệt này gọi là chúng sinh. Này Đại Tuệ! Trí tuệ chân thật quan sát pháp trong ngoài, không có pháp chủ thể biết và đối tượng để biết. Này Đại Tuệ! Do tất cả pháp vốn là tịch tónh. Này Đại Tuệ! Nếu chẳng biết như thật, chỉ là tự tâm thấy, do hư vọng phân biệt nên sinh ra tâm phân biệt. Biết như thật thì chẳng sinh ra phân biệt. Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ: Quan sát đối chư Phật Ví như cát sông Hằng Chẳng diệt cũng chẳng sinh Người đó thấy được Phật Xa lìa các trần cấu Như cát dòng sông Hằng Thuận theo dòng chẳng đổi Pháp thân cũng như vậy. KINH NHẬP LĂNG-GIÀ <卷 id="118149488">QUYỂN 8 <詞 id="118149489">Phẩm 14: sát-na Bấy giờ, Thánh giả Đại Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch: –Bạch Thế Tôn! Nguyện xin Đức Như Lai Ứng Chánh Biến Tri giảng nói cho con. Xin Đấng Thiện Thệ vì con giảng nói về tướng sinh diệt của tất cả pháp. Sao Như Lai nói, tất cả pháp từng niệm từng niệm chẳng trụ. Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ: –Hay thay! Hay thay! Này Đại Tuệ! Ông hãy lắng nghe, ta sẽ vì ông giải nói. Bồ-tát Đại Tuệ bạch: –Hay thay! Bạch Thế Tôn! Xin vâng, con xin lắng nghe và tin nhận. Đức Phật nói: –Này Đại Tuệ! Tất cả pháp. Tất cả pháp là những gì gọi là, pháp thiện, pháp bất thiện, pháp hữu vi, pháp vô vi, pháp thế gian, pháp xuất thế gian, pháp hữu lậu, pháp vô lậu, pháp bên trong, pháp bên ngoài… Này Đại Tuệ! Lược nói pháp năm ấm, nương vào tâm, ý, ý thức huân tập tăng trưởng. Những người phàm phu nương vào tâm, ý, ý thức huân tập nên phân biệt pháp thiện, pháp bất thiện. Này Đại Tuệ! Thánh nhân hiện tại chứng Tam-muội Tam-ma-bạt-đề, hạnh an lạc pháp thiện vô lậu. Này Đại Tuệ! Đó gọi là pháp thiện. Lại nữa, này Đại Tuệ! Nói rằng, pháp thiện, pháp bất thiện là gọi tám thức. Những gì là tám? 1. A-lê-gia thức. 2. Ý. 3. Ý thức. 4. Nhãn thức. 5. Nhó thức. 6. Tî thức. 7. Thiệt thức. 8. Thân thức. Này Đại Tuệ! Thân năm thức cùng với thân ý thức đối với pháp thiện, pháp bất thiện đắp đổi sai biệt tương tục, thể không thân sai biệt, thuận theo pháp sinh ra, sinh ra rồi trở lại diệt, chẳng biết tự tâm thấy cảnh giới hư vọng tức là lúc diệt, có thể chấp giữ hiện trạng cảnh giới, hình tướng lớn nhỏ, hơn hay ngang bằng. Này Đại Tuệ! Ý thức cùng với thân năm thức tương ứng sinh ra, thời gian một niệm chẳng trụ. Vậy nên ta nói, thời gian niệm về pháp đó chẳng trụ. Này Đại Tuệ! Nói sát-ni-ca thì gọi là Không A-lê-gia thức gọi là Như Lai tạng, không cùng với ý chuyển biến thức huân tập nên gọi là không, đầy đủ pháp huân tập vô lậu gọi là bất không. Này Đại Tuệ! Phàm phu ngu si chẳng hiểu, chẳng biết chấp trước các pháp trong sát-na chẳng trụ, rơi vào tà kiến mà nói: “Pháp vô lậu cũng chẳng trụ trong sát-na, phá chân như Như Lai tạng đó. Này Đại Tuệ! Thân năm thức chẳng sinh ra sáu đường, chẳng nhận chịu khổ vui, chẳng tạo tác nhân của Niết-bàn. Này Đại Tuệ! Như Lai tạng chẳng nhận chịu khổ vui, chẳng phải nhân của sinh tử, còn pháp khác thì cùng sinh, cùng diệt, nương vào bốn loại say sưa huân tập, mà các phàm phu chẳng hiểu chẳng biết, huân tập tà kiến, nói rằng, tất cả pháp chẳng trụ trong sát-na. Lại nữa, này Đại Tuệ! Kim cang Như Lai tạng, pháp Như Lai chứng đắc chẳng phải trong sát-na chẳng trụ. Này Đại Tuệ! Pháp Như Lai chứng đắc, nếu trong sát-na chẳng trụ thì tất cả Thánh giả chẳng thành Thánh nhân. Này Đại Tuệ! Chẳng phải phi Thánh nhân do đó là Thánh nhân vậy. Này Đại Tuệ! Trụ ở Kim cang một kiếp gọi là bằng trụ không lường, chẳng tăng chẳng giảm. Này Đại Tuệ! Sao phàm phu ngu si phân biệt các pháp cho rằng, sát-na chẳng trụ, mà các phàm phu chẳng thông đạt ý của ta, chẳng hiểu chẳng biết các pháp trong ngoài từng niệm từng niệm chẳng trụ? Bồ-tát Đại Tuệ bạch: –Bạch Thế Tôn! Như Lai thường nói, đủ đầy sáu pháp Ba-la-mật, thì đạt được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Bạch Thế Tôn! Những gì là sáu Ba-la-mật? Làm sao đầy đủ? Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ: –Này Đại Tuệ! Ba-la-mật có ba loại khác nhau, đó là: Thế gian Ba-la-mật, xuất thế gian Ba-la-mật, xuất thế gian Thượng thượng Ba-la-mật. Này Đại Tuệ! Nói rằng, thế gian Ba-la-mật là phàm phu ngu si chấp trước pháp ngã và ngã sở, rơi vào nhị biên, vì đối với vô số cảnh giới thù thắng vi diệu mà tu hành Ba-la-mật, cầu quả báo nơi cảnh giới Sắc… Này Đại Tuệ! Phàm phu ngu si hành Thi ba-la-mật (Trì giới), Sằn-đề ba-la-mật (Nhẫn nhục), Tỳ-lê-gia ba-la-mật (Tinh tấn), Thiền ba-la-mật, Bát-nhã ba-la-mật-đa (Trí tuệ)… cho đến sinh ở Phạm thiên cầu pháp năm thần thông thế gian. Này Đại Tuệ! Đó gọi là những Ba-la-mật của thế gian. Này Đại Tuệ! Nói rằng xuất thế gian Ba-la-mật nghóa Thanh văn, Bích-chi-phật chấp giữ tâm Niết-bàn của Thanh văn, Bích-chi-phật mà tu hành Ba-la-mật. Này Đại Tuệ! Như phàm phu ngu si thế gian kia vì cầu niềm vui Niết-bàn nơi tự thân mà tu hạnh Ba-la-mật của thế gian. Thanh văn, Duyên giác cũng lại như vậy, vì tự thân cầu niềm vui Niết-bàn mà tu hành hạnh Ba-la-mật xuất thế gian cho đến cầu niềm vui chẳng phải cứu cánh đó. Này Đại Tuệ! Xuất thế gian Thượng thượng Ba-la-mật là có thể biết như thật, chỉ là tự tâm hư vọng phân biệt nên thấy cảnh giới bên ngoài. Bấy giờ, biết quả thật chỉ là tự tâm thấy pháp trong ngoài, chẳng phân biệt hư vọng phân biệt, chẳng chấp giữ sắc tướng trong ngoài tự tâm. Đại Bồ-tát có thể biết như thật tất cả pháp nên tu hành Đàn ba-la-mật (Bố thí), vì khiến cho tất cả chúng sinh được niềm vui yên ổn, không kinh sợ. Đó gọi là Đàn ba-la-mật (Bố thí). Này Đại Tuệ! Bồ-tát quan sát tất cả các pháp đó, chẳng sinh ra phân biệt mà tùy thuận thanh lương. Đó gọi là Thi ba-la-mật. Này Đại Tuệ! Bồ-tát lìa khỏi tâm phân biệt mà nhẫn nhịn. Bồ-tát đó tu hành như thật mà biết cảnh giới năng thủ, khả thủ chẳng phải thật, đó gọi là Sằn-đề ba-la-mật của Bồ-tát. Này Đại Tuệ! Bồ-tát làm sao tu hạnh tinh tấn? Đầu đêm, giữa đêm, cuối đêm thường siêng năng tu hành, thuận theo pháp như thật, đoạn trừ các phân biệt. Đó gọi là Tỳ-lê-gia ba-la-mật. Này Đại Tuệ! Bồ-tát lìa khỏi tâm phân biệt, chẳng thuận theo tướng cảnh giới năng thủ khả thủ của ngoại đạo, đó gọi là Thiền ba-la-mật. Này Đại Tuệ! Bát-nhã ba-la-mật của Bồ-tát là gì? Bồ-tát như thật quan sát tướng tự tâm phân biệt, chẳng thấy phân biệt chẳng rơi vào nhị biên, nương vào sự tu hành như thật mà chuyển biến thân, chẳng thấy một pháp nào sinh ra, chẳng thấy một pháp nào diệt đi, tự thân chứng đắc tu hành Thánh hạnh. Đó gọi là Bát-nhã ba-la-mật của Bồ-tát. Này Đại Tuệ! Nghóa Ba-la-mật đủ đầy như vậy thì đạt được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ: Không, vô thường sát-na Ngu phân biệt hữu vi Như sông, đèn, hạt giống Không, vô thường sát-na. Phân biệt nghóa sát-na Cũng như vậy sát-na Sát-ni-ca chẳng sinh Tịch tónh lìa tạo tác. Tất cả pháp chẳng sinh Ta nói, nghóa sát-na Vật sinh tức có diệt Chẳng nói vì phàm phu. Phân biệt pháp tương tục Vọng tưởng thấy sáu đường Nếu vô minh là nhân Hay sinh những tâm ấy Cho đến sắc chưa sinh Trung gian nương đâu trụ? Có sinh tức có diệt Tâm khác theo đó sinh Sắc chẳng trụ một niệm Quan sát pháp gì sinh? Nương nhân nào sinh pháp? Tâm không nhân mà sinh Vậy nên sinh chẳng thành! Làm sao biết niệm hoại? Người tu hành chứng định Kim Cang, Xá-lợi-phất Cung điện trời Quang Âm Việc thế gian chẳng hoại Chứng đắc pháp Chân như Thành tựu trí Như Lai Tỳ-kheo chứng bình đẳng Làm sao niệm chẳng trụ? Huyễn, thành Càn-thát-bà Vì sao niệm chẳng trụ? Bốn đại không, thấy sắc Thì bốn đại là gì?  <詞 id="118149490">Phẩm 15: HÓA Bấy giờ, Thánh giả Đại Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch: –Bạch Thế Tôn! Như Phật Thế Tôn thọ ký cho các vị La-hán thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Đức Như Lai lại nói, các Đức Phật Như Lai chẳng vào Niết-bàn, lại nói, Như Lai Ứng Chánh Biến Tri vào đêm đó chứng Đại Bồ-tát, vào đêm đó nhập Bát-niết-bàn và ở khoảng giữa ấy chẳng nói một chữ. Như Lai lại nói, các Đức Phật Như Lai thường vào định Vô giác vô quán vô phân biệt, lại nói, tạo ra vô số thân ứng hóa độ các chúng sinh. Thế Tôn lại nói, các thức sai khác từng niệm từng niệm chẳng trụ. Kim Cang Mật Tích thường theo ủng hộ. Thế Tôn lại nói, bản tế của thế gian khó biết, lại nói rằng, chúng sinh vào Niết-bàn, mà nếu vào Niết-bàn lẽ ra có bản tế. Thế Tôn lại nói, các Đức Phật không có thù oán, mà thấy các ma, lại nói, Như Lai đoạn tất cả chướng, nhưng mà thấy Chiên-già, Ma-na-tỳ, Tôn-đà-lê… bài báng. Phật vào thôn Ta-lê-na rốt cuộc chẳng được thức ăn, mang bát không mà đi ra. Bạch Thế Tôn! Nếu như vậy thì Như Lai có vô lượng tội, nghiệp chướng, sao Như Lai chẳng lìa khỏi tất cả những tội lỗi mà đạt được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác? Được Nhất thiết chủng trí? Đức Phật bảo Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ: –Hay thay! Hay thay! Này Đại Tuệ! Ông hãy lắng nghe, ta sẽ vì ông giải nói. Bồ-tát Đại Tuệ bạch: –Hay thay! Bạch Thế Tôn! Thưa vâng, con xin lắng nghe và tin nhận. Đức Phật nói: –Này Đại Tuệ! Ta vì các Thanh văn… đã từng tu hành hạnh Bồ-tát, nương vào Niết-bàn Vô dư mà thọ ký cho họ. Này Đại Tuệ! Ta thọ ký cho Thanh văn là vì chúng sinh khiếp nhược làm cho họ sinh ra có lòng dũng mãnh. Này Đại Tuệ! Trong thế giới này và những cõi Phật khác, có các chúng sinh tu hạnh Bồ-tát mà ưa thích hạnh của pháp Thanh văn. Vì chuyển cho họ đạt được Đại Bồ-đề nên Phật ứng hóa vì Thanh văn ứng hóa mà thọ ký, chẳng phải là Phật báo thân, Phật Pháp thân mà thọ ký. Này Đại Tuệ! Niết-bàn của Thanh văn, Bích-chi-phật không sai khác. Vì sao? Vì đoạn trừ phiền não không sai khác, đoạn phiền não chướng chẳng phải đoạn trí chướng. Lại nữa, này Đại Tuệ! Thấy pháp vô ngã thì đoạn trừ được Trí chướng. Thấy nhân vô ngã thì đoạn trừ phiền não chướng. Này Đại Tuệ! Chuyển ý thức nên đoạn pháp chướng, nghiệp chướng. Do chuyển huân tập của ý và A-lê-gia thức nên được thanh tịnh hoàn toàn. Này Đại Tuệ! Ta thường nương vào thể của bản pháp mà trụ, lại chẳng sinh ra pháp, nương vào bản danh tự chương cú chẳng hiểu, chẳng tư duy mà nói các pháp. Này Đại Tuệ! Như Lai thường biết như ý, thường chẳng mất niệm, vậy nên Như Lai không giác, không quán. Các Đức Phật Như Lai lìa khỏi Tứ địa rồi, xa lìa hai loại sinh tử, hai chướng, hai loại nghiệp vậy. Này Đại Tuệ! Bảy loại thức, ý, ý thức, nhãn, nhó, tỷ, thiệt, thân từng niệm từng niệm chẳng trụ, do hư vọng huân tập lìa khỏi các thiện pháp vô lậu. Này Đại Tuệ! Như Lai tạng ở thế gian chẳng sinh, chẳng tử, chẳng đến, chẳng đi, thường hằng, thanh lương, bất biến. Lại nữa, này Đại Tuệ! Nương vào Như Lai tạng nên có nhân của thế gian, Niết-bàn, khổ vui mà các phàm phu chẳng hiểu, chẳng biết, rơi vào trống không, hư vọng, điên đảo. Này Đại Tuệ! Kim Cang Mật Tích thường theo ủng hộ, vây quanh Đức Như Lai Ứng Hóa, chẳng phải Phật Pháp thân, Phật báo thân, căn bản Như Lai Ứng Chánh Biến Tri. Này Đại Tuệ! Căn bản Như Lai xa lìa các căn lớn nhỏ, các lượng xét xa lìa tất cả phàm phu, Thanh văn, Bích-chi-phật… Này Đại Tuệ! Người tu hành như thật đạt được cảnh giới hạnh an lạc Chân như đó, biết căn bản Phật do đạt được pháp nhẫn Bình Đẳng. Vậy nên Kim Cang Mật Tích theo Phật Ứng Hóa. Này Đại Tuệ! Phật Ứng Hóa thì không còn nghiệp, không bài báng, mà Phật Ứng Hóa chẳng khác Pháp Phật, Báo thân Phật Như Lai mà cũng chẳng là một. Như thợ gốm, muối… người làm việc làm ra, Phật Ứng Hóa làm việc giáo hóa chúng sinh, khác với tướng chân thật nói pháp, chẳng nói pháp chứng đắc cảnh giới Thánh trí nơi tự thân. Lại nữa, này Đại Tuệ! Tất cả phàm phu, ngoại đạo, Thanh văn, Bích-chi-phật… thấy sáu thức diệt thì rơi vào Đoạn kiến, chẳng thấy A-lê-gia thức thì rơi vào Thường kiến. Lại nữa, này Đại Tuệ! Chẳng thấy tự tâm phân biệt bản tế, vậy nên thế gian gọi là không bản tế. Này Đại Tuệ! Xa lìa sự thấy phân biệt nơi tự tâm thì gọi là giải thoát, được chứng Niết-bàn. Này Đại Tuệ! Các Đức Phật Như Lai xa lìa bốn huân tập khí, vậy nên không gây ra những lỗi lỗi. Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ: Ba thừa và phi thừa Chư Phật vô lượng thừa Thọ ký thảy Phật địa Nói đoạn các phiền não Chứng Thánh trí nội thân Và Vô dư Niết-bàn Khuyên gắng chúng sinh khiếp Nên nói pháp ẩn lấp. Như Lai chứng đắc trí Cũng nói đến đạo trên Chúng sinh nương vào đạo Nhị thừa không Niết-bàn. Thấy Dục, Sắc và Hữu Và huân tập bốn Địa Ý thức cũng sinh ra Thấy ý thức cùng trụ. Thấy ý, nhãn thức thảy Thường vô thường, đoạn diệt Nương ý… chấp thường kiến Khởi kiến chấp Niết-bàn.  <詞 id="118149491">Phẩm 16: NGĂN ĂN THỊT Bấy giờ, Thánh giả Đại Bồ-tát Đại Tuệ bạch: –Bạch Thế Tôn! Con quan sát thế gian, sinh tử lưu chuyển, oán kết liền nhau, rơi vào các đường ác, đều do ăn thịt, giết hại lẫn nhau, tăng trưởng tham sân, chẳng được ra khỏi, thật là khổ sở. Bạch Thế Tôn! Người ăn thịt đoạn trừ hạt giống đại Từ. Người tu đạo Thánh thì chẳng nên ăn thịt. Bạch Thế Tôn! Các ngoại đạo… nói pháp tà kiến Lô-ca-da-đà, rơi vào luận của thế tục, rơi vào trong hai kiến đoạn thường, hữu vô, đều ngăn ăn thịt, tự mình chẳng ăn, chẳng cho phép người khác ăn. Sao trong pháp thanh tịnh của Như Lai, người tu phạm hạnh thì tự ăn, cho phép người khác ăn, tất cả chẳng cấm chế? Như Lai Thế Tôn đối với các chúng sinh Từ bi bình đẳng thì sao lại cho phép dùng thịt làm thức ăn? Hay thay! Bạch Thế Tôn! Thế Tôn thương xót thế gian, nguyện xin vì con nói về lỗi của sự ăn thịt và công đức của sự chẳng ăn thịt. Con và những Bồ-tát nghe rồi, được nương vào đó tu hành như thật và tuyên nói, lưu bố rộng rãi, khiến cho chúng sinh hiện tại và vị lai, tất cả đều biết rõ. Đức Phật bảo Thánh giả Đại Tuệ: –Hay thay! Hay thay! Này Đại Tuệ! Ông có tâm đại Từ bi thương xót chúng sinh nên có thể hỏi ý nghóa này. Ông nay hãy lắng nghe, ta sẽ vì ông giải nói. Bồ-tát Đại Tuệ bạch: –Hay thay! Bạch Thế Tôn! Thưa vâng, con xin lắng nghe và tin nhận. Đức Phật nói: –Này Đại Tuệ! Luận về ăn thịt có vô lượng lỗi. Các Đại Bồ-tát tu đại Từ bi thì chẳng được ăn thịt. Tội lỗi và công đức của người ăn thịt cùng chẳng ăn thịt, ta sẽ nói lên một phần ít. Ông nay hãy lắng nghe. Này Đại Tuệ! Ta quán sát chúng sinh từ vô thủy đến nay đã quen ăn thịt, tham trước vị thịt, giết hại lẫn nhau, xa lìa Hiền thánh, chịu khổ sinh tử. Người xả bỏ vị thịt, nghe vị chánh pháp, ở Bồ-tát địa tu hành như thật thì mau chóng đạt được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Lại khiến cho chúng sinh vào đến chỗ dừng nghỉ, cả địa Thanh văn, Bích-chi-phật. Dừng nghỉ rồi, khiến họ vào Như Lai địa. Này Đại Tuệ! Những lợi ích như vậy lấy tâm Từ làm gốc. Người ăn thịt đoạn trừ hạt giống đại Từ thì làm sao sẽ được lợi lớn như vậy? Vậy nên, này Đại Tuệ! Ta quan sát chúng sinh luân hồi sáu đường, đồng ở trong sinh tử, cùng nhau nuôi sống, đắp đổi làm cha mẹ, anh em, chị em, hoặc nam, hoặc nữ hoặc trong lục thân quyến thuộc nội ngoại, hoặc sinh vào đường khác, đường thiện, đường ác, thường làm quyến thuộc. Do nhân duyên đó, ta quan sát chúng sinh ăn thịt lẫn nhau thì không ai là chẳng phải người thân. Do tham vị thịt, họ đắp đổi ăn lẫn nhau, thường sinh tâm ác hại, tăng trưởng nghiệp khổ, lưu chuyển trong sinh tử, chẳng được ra khỏi. Khi Đức Phật nói lời này, các La-sát ác nghe lời dạy của Đức Phật đều bỏ tâm ác, dừng lại chẳng ăn thịt, cùng khuyên nhau phát tâm Từ bi, hộ trì mạng của chúng sinh, hơn tự hộ thân mình, lìa bỏ tất cả những thứ thịt, chẳng ăn nữa, buồn khóc rơi nước mắt, bạch: –Bạch Thế Tôn! Con nghe Phật dạy, quan sát kỹ sáu đường, thịt mà con ăn đều chính là người thân của con, mới biết ăn thịt chúng sinh là oán thù lớn, cắt đứt giống đại Từ, lớn thêm nghiệp bất thiện, chính là gốc của khổ đau. Bạch Thế Tôn! Từ ngày hôm nay, con chấm dứt, chẳng ăn thịt và quyến thuộc của con cũng chẳng được phép ăn. Đệ tử của Đức Như Lai có người nào chẳng ăn thịt thì con sẽ ngày đêm gần gũi ủng hộ. Nếu có người ăn thịt thì con sẽ làm cho họ chẳng được nhiều lợi ích. Đức Phật nói: –Này Đại Tuệ! Quỷ ác La-sát là loài thường ăn thịt, nghe lời nói của ta còn phát Từ tâm, bỏ thịt chẳng ăn, huống là đệ tử của ta tu hành thiện pháp mà được phép ăn thịt ư? Nếu có người ăn thịt thì phải biết kẻ đó là oán thù của chúng sinh, đoạn trừ Thánh chủng của ta. Này Đại Tuệ! Nếu đệ tử của ta nghe lời ta dạy, chẳng quan sát kỹ càng mà ăn thịt thì phải biết người đó chính là dòng giống Chiên-đà-la, chẳng phải đệ tử của ta, ta chẳng phải là thầy của người ấy. Vậy nên, này Đại Tuệ! Nếu muốn cùng ta làm quyến thuộc thì tất cả các thứ thịt đều chẳng nên ăn. Lại nữa, này Đại Tuệ! Bồ-tát nên quan sát tất cả thịt đó đều nương vào máu mủ bất tịnh đỏ trắng của cha mẹ hòa hợp mà sinh ra thân bất tịnh. Vậy nên, Bồ-tát quan sát thịt bất tịnh, chẳng nên ăn thịt. Lại nữa, này Đại Tuệ! Người ăn thịt thì chúng sinh nghe thấy hơi đều kinh sợ, chạy trốn tránh xa. Vậy nên, Bồ-tát tu hạnh như thật, vì hóa độ chúng sinh thì chẳng nên ăn thịt. Này Đại Tuệ! Ví như Chiên-đà-la, thợ săn, người giết mổ, người đánh cá, kẻ bắt chim… tất cả hành động của họ, chúng sinh thấy từ xa đều khởi lên ý nghó như vầy: “Ta nay nhất định chết, người đi đến đây chính là người đại ác, chẳng nhận thức được tội phước, giết hại mạng của chúng sinh, cầu lợi hiện tiền, nay đi đến đây, vì tìm kiếm chúng ta. Nay thân của chúng tôi đều có thịt. Vậy nên, nay chúng tôi nhất định sẽ chết.” Này Đại Tuệ! Do người ăn thịt có thể khiến cho chúng sinh nhìn thấy đều sinh ra kinh sợ như vậy. Này Đại Tuệ! Tất cả chúng sinh trong hư không, trên đất thấy người ăn thịt đều sinh ra kinh sợ mà khởi lên ý niệm nghi ngờ: “Đến hôm nay thì ta sống hay chết đây? Như vậy, người ác chẳng tu Từ tâm cũng như loài hổ, chó sói ở thế gian thường tìm kiếm thịt ăn, như trâu ăn cỏ, bọ hung ăn phân… chẳng biết no đủ. Thân ta là thịt chính là thức ăn của chúng, chẳng nên cho chúng nhìn thấy.” Chúng sinh đó liền bỏ chạy trốn, tránh xa những kẻ giết hại ấy, như người sợ sệt La-sát không khác. Này Đại Tuệ! Người ăn thịt có thể khiến cho chúng sinh thấy thì đều sinh ra kinh sợ như vậy. Ông nên biết, ăn thịt chúng sinh là oán thù lớn. Vậy nên, Bồ-tát tu hành từ bi, vì cứu giúp chúng sinh thì chẳng nên ăn thịt họ, chẳng phải vị ăn của người Thánh tuệ, tiếng ác truyền khắp, Thánh nhân quở trách. Vậy nên, này Đại Tuệ! Bồ-tát vì hộ trì chúng sinh chẳng nên ăn thịt. Lại nữa, này Đại Tuệ! Bồ-tát vì hộ trì lòng tin của chúng sinh thì chẳng nên ăn thịt. Vì sao? Này Đại Tuệ! Vì nói rằng, Bồ-tát thì chúng sinh đều biết chính là hạt giống tâm Từ của Phật Như Lai, có thể làm nơi nương tựa cho chúng sinh, người nghe tự nhiên chẳng sinh ra nghi ngờ, kinh sợ mà sinh ra tướng thân hữu tưởng Thiện tri thức, tưởng không sợ hãi… còn nói rằng, được chỗ quy y, được chỗ yên ổn, được thầy dẫn đường tốt. Này Đại Tuệ! Do chẳng ăn thịt, có thể sinh ra lòng tin của chúng sinh như vậy, còn nếu ăn thịt thì chúng sinh liền mất đi tất cả lòng tin và liền nói rằng, thế gian không có người có thể tin được. Họ liền đoạn trừ tín căn. Vậy nên, này Đại Tuệ! Bồ-tát vì hộ trì lòng tin của chúng sinh thì tất cả các thứ thịt đều chẳng nên ăn. Lại nữa, này Đại Tuệ! Các đệ tử của ta vì ủng hộ thế gian, ngăn bài báng Tam bảo nên chẳng nên ăn thịt. Vì sao? Vì thế gian có người thấy ăn thịt nên hủy báng Tam bảo nói lên lời như vầy: Ở trong Phật pháp, chỗ nào sẽ có Sa-môn, Bà-la-môn tu phạm hạnh chân thật thì bỏ món ăn của Thánh nhân đã ăn mà ăn thịt chúng sinh, giống như La-sát ăn thịt no bụng ngủ say chẳng động, nương vào người phàm ở đời, giàu có thế lực, tìm kiếm thịt để ăn, như vua La-sát làm chúng sinh kinh sợ. Vậy nên, khắp nơi xướng lên lời như vầy: Chỗ nào có Sa-môn, Bà-la-môn tu hạnh thanh tịnh chân thật thì chỗ đó không pháp, không Sa-môn, không Tỳ-ni, không có người tu hạnh thanh tịnh. Sinh ra vô lượng, vô biên lòng ác, chẳng lành như vậy… đoạn dứt pháp luân của ta, diệt hết Thánh chủng… tất cả đều do lỗi của người ăn thịt. Vậy nên, này Đại Tuệ! Đệ tử của ta vì hộ trì người ác, hủy báng Tam bảo, thậm chí chẳng nên sinh ra ý niệm “tưởng về thịt, huống gì là ăn thịt.” Lại nữa, này Đại Tuệ! Bồ-tát vì cầu cõi Phật thanh tịnh, giáo hóa chúng sinh thì chẳng nên ăn thịt mà nên quan sát các thứ thịt như thây chết của người, mắt chẳng muốn thấy, chẳng muốn nghe hơi, huống gì có thể ngửi mà đặt vào trong miệng. Tất cả các thứ thịt cũng lại như vậy. Này Đại Tuệ! Như thiêu đốt thây chết mùi hôi thối bất tịnh cùng với thiêu đốt thịt khác, thối bẩn không khác thì làm sao trong đó có đồ ăn hay chẳng có đồ ăn? Vậy nên, này Đại Tuệ! Bồ-tát vì cầu cõi Phật thanh tịnh, giáo hóa chúng sinh thì chẳng nên ăn thịt. Lại nữa, này Đại Tuệ! Bồ-tát vì cầu lìa khỏi sinh tử nên phải chuyên tâm nhớ nghó hạnh Từ bi, ít muốn biết đủ, nhàm chán khổ thế gian, mau cầu giải thoát, phải bỏ nơi ồn ào, đến với nơi thanh vắng, ở trong rừng thây chết, chỗ thanh tịnh, vùng tha ma, ngồi một mình dưới gốc cây để tư duy, quan sát các thế gian, không có một thứ gì đáng vui: Vợ con quyến thuộc tưởng như cùm khóa, cung điện lầu đài quán tưởng như lao ngục, quan sát những trân bảo tưởng như đống phân, thấy đồ ăn thức uống tưởng như máu mủ, nhận đồ ăn thức uống như bôi thuốc trị ung nhọt, mục đích giữ được mạng sống buộc niệm vào Thánh đạo, chẳng vì tham vị. Rượu, thịt, hành, hẹ, tỏi, nén… mùi hôi đều bỏ chẳng ăn. Này Đại Tuệ! Nếu người như vậy, chính là người tu hành chân chánh, đủ sức thọ sự cúng dường của tất cả trời người. Nếu ở thế gian chẳng sinh nhàm chán tham trước nhiều vị: rượu, thịt, cay, nồng… có được liền ăn ngay thì chẳng nên nhận của tín thí ở thế gian. Lại nữa, này Đại Tuệ! Có các chúng sinh ở quá khứ từng tu vô lượng nhân duyên, có ít thiện căn, lại được nghe pháp của ta. Người tín tâm xuất gia ở trong pháp của ta mà đời quá khứ từng làm quyến thuộc của La-sát, sinh ra trong loài cọp, sói, sư tử, mèo, chồn thì tuy ở tại trong pháp ta nhưng tập quán ăn thịt còn nên thấy người ăn thịt thì vui mừng, gần gũi. Họ vào trong thành ấp xóm làng, tháp chùa mà uống rượu, ăn thịt, cho là vui vẻ. Nhưng người trong thiên hạ xem họ giống như quỷ La-sát dành ăn thây chết với nhau, không khác mà chẳng tự biết, rồi đánh mất chúng của ta, thành quyến thuộc của La-sát. Họ tuy mặc áo ca-sa, cạo bỏ râu tóc nhưng kẻ có mạng sống nhìn thấy họ thì lòng sinh kinh sợ như sợ La-sát. Vậy nên, này Đại Tuệ! Nếu người thờ ta làm thầy thì tất cả các thứ thịt đều chẳng nên ăn. Lại nữa, này Đại Tuệ! Những thầy chú thuật tà kiến ở thế gian nếu họ ăn thịt thì chú thuật chẳng thành. Vì để thành tà thuật mà còn chẳng ăn thịt, huống là đệ tử của ta vì cầu đạo Thánh vô thượng của Như Lai, cầu giải thoát xuất thế? Tu đại Từ bi, tinh cần khổ hạnh còn sợ chẳng được huống là nơi nào sẽ có giải thoát như vậy, vì người ngu si đó ăn thịt mà được? Vậy nên, này Đại Tuệ! Những đệ tử của ta vì cầu niềm vui giải thoát xuất thế thì chẳng nên ăn thịt. Lại nữa, này Đại Tuệ! Ăn thịt có thể sinh ra sắc lực, người ăn vị này khiến có nhiều tham trước nên phải quan sát kỹ càng. Kẻ có thân mạng trong tất cả thế gian đều tự quý trọng, sợ nỗi khổ chết, tiếc giữ thân mạng, người và súc vật không khác biệt, thà phải ưa tấm thân ghẻ lở hoang dã tồn tại, chẳng thể bỏ mạng để đạt được những niềm vui cõi trời. Vì sao? Vì sợ khổ của cái chết. Này Đại Tuệ! Do sự quan sát chết đó là khổ lớn, chính là pháp đáng sợ, tự thân sợ chết thì làm sao mà ăn thịt người khác được? Vậy nên, này Đại Tuệ! Muốn ăn thịt thì trước tự nghó đến thân, thứ đến là quan sát chúng sinh thì chẳng nên ăn thịt. Lại nữa, này Đại Tuệ! Phàm người ăn thịt thì chư Thiên xa lìa, huống gì là Thánh nhân. Vậy nên Bồ-tát vì thấy Thánh nhân phải tu từ bi, chẳng nên ăn thịt. Này Đại Tuệ! Người ăn thịt ngủ nghỉ cũng khổ, khi thức dậy cũng khổ. Hoặc ở trong mộng, thấy đủ thứ ác, kinh sợ dựng tóc gáy, lòng luôn bất an, không có lòng từ nên thiếu thốn các năng lực thiện. Nếu người ấy, một mình ở chỗ thanh vắng thì bị nhiều phi nhân lén lút quấy phá cọp, sói, sư tử cũng đến rình mò muốn tìm cơ hội mà ăn thịt, lòng luôn luôn kinh sợ chẳng được yên ổn. Lại nữa, này Đại Tuệ! Những người ăn thịt khó thỏa mãn lòng tham, ăn chẳng biết lượng sức, chẳng thể tiêu hóa, bốn đại tăng thêm, hơi của miệng tanh tao bên trong lại có nhiều vô lượng trùng độc thân nhiều ghẻ lở, hắc lào, bệnh tật đủ thứ, chẳng sạch, phàm phu hiện tại chẳng ưa nghe thấy, huống là có thể được thân người thơm sạch không bệnh trong đời vị lai. Lại nữa, này Đại Tuệ! Ta nói, phàm phu vì cầu mạng sống thanh tịnh mà ăn thức ăn thanh tịnh còn nên sinh ra lòng tưởng như ăn thịt con, huống gì là cho phép ăn thức ăn chẳng phải của Thánh nhân. Thánh nhân giải thoát thì dùng thịt có thể sinh ra vô lượng lỗi, mất đi tất cả công đức xuất thế thì làm sao nói rằng, ta cho phép những đệ tử của ta ăn những thứ thịt, máu, vị bất tịnh… Người nào nói rằng, ta cho phép tức là bài báng ta. Này Đại Tuệ! Ta cho phép đệ tử ăn thứ ăn mà các Thánh nhân ăn, chẳng phải là thức ăn Thánh nhân xa lìa. Thức ăn của Thánh có thể sinh ra vô lượng công đức, xa lìa các tội lỗi. Này Đại Tuệ! Thức ăn của Thánh nhân quá khứ hiện tại như là gạo lúa nước, đại mạch, tiểu mạch, đậu, đủ thứ dầu, mật, cây mía, nước cốt cây mía, bột kiển-đà, can-đề… tùy lúc được thì cho phép ăn vì thanh tịnh. Này Đại Tuệ! Ở đời vị lai, có người ngu si nói đủ các Tỳ-ni rằng, được ăn thịt. Do ở đời quá khứ người ấy huân tập ăn thịt, tham đắm vị thịt, tùy theo tâm mình thấy nên nói lời như vậy, chẳng phải Phật, thánh nói vì món ăn ngon. Này Đại Tuệ! Người chẳng ăn thịt thì do đời quá khứ, cúng dường chư Phật, gieo trồng căn lành, có thể tin lời của Phật, giữ gìn giới luật chắc chắn, tin các nhân quả, đối với thân miệng có thể tự tiết chế, điều lượng, chẳng vì tham trước các vị của thế gian. Thấy người ăn thịt có thể sinh tâm Từ. Này Đại Tuệ! Ta nhớ, thuở quá khứ, có vị vua tên là Sư Tử Nô ăn đủ thứ thịt, đam mê vị của thịt, lần lượt thậm chí ăn cả thịt người. Vì vua ấy ăn thịt người nên cha mẹ, anh em, vợ con, quyến thuộc đều xa lìa hết. Tất cả thần dân trong đất nước, xóm làng đều liền mưu phản, cùng muốn giết vua ấy. Do người ăn thịt có những lỗi lầm như vậy. Vậy nên, chẳng nên ăn tất cả loài thịt. Lại nữa, này Đại Tuệ! Vua trời Tự tại hóa thân làm chim câu. Thích Đề-hoàn Nhân là chúa của chư Thiên, do tập khí ăn thịt ở đời quá khứ nên hóa thân làm chim ưng đuổi bắt chim bồ câu này. Chim bồ câu bay đến đậu vào ta. Bấy giờ, ta làm vua Thi Tỳ, thương xót chúng sinh ăn nuốt nhau nên cân thịt của thân mình cho chim ưng thay cho thịt bồ câu, cắt thịt thân chẳng đủ đặt lên trên cân, phải chịu đau khổ vô cùng. Này Đại Tuệ! Như vậy từ vô lượng đời đến nay huân tập ăn thịt, thân mình, thân người khác có lỗi như vậy, huống gì là người thường ăn thịt không hổ thẹn. Này Đại Tuệ! Lại có vị vua khác chẳng ăn thịt thì cưỡi ngựa dạo chơi, vì ngựa nổi kinh sợ, dẫn vào núi sâu, thất lạc tùy tùng, chẳng biết đường về. Vì vua ấy chẳng ăn thịt nên sư tử, cọp, sói nhìn thấy không có tâm muốn hại, rồi cùng với sư tử cái cùng làm việc dâm dục, cho đến sinh ra con là Ban Túc Vương… Do đời quá khứ huân tập ăn thịt và làm vua cõi người cũng thường ăn thịt, ở tại thôn Thất gia, nhiều người ưa ăn thịt, ăn thịt thái quá liền ăn cả thịt người nên họ sinh ra những con trai, con gái hầu hết là La-sát. Này Đại Tuệ! Chúng sinh ăn thịt nương vào quá khứ huân tập ăn thịt nên phần nhiều sinh vào trong những loài La-sát, sư tử, cọp, sói, báo, mèo, chồn, cú vọ, diều hâu, chim ưng… Những loài có thân mạng đều tự hộ thân, không ai có thể giết hại, chịu khổ đói khát thì thường sinh ra tâm ác, nghó đến việc ăn thịt kẻ khác, mạng chung lại rơi vào đường ác, thọ sinh thân người khó được, huống nữa sẽ đạt được đạo Niết-bàn. Này Đại Tuệ! Ông nên biết, người ăn thịt có vô lượng những tội lỗi như vậy. Người chẳng ăn thịt tức là gom tụ công đức không lường. Này Đại Tuệ! Các phàm phu chẳng biết tội lỗi của ăn thịt và công đức của chẳng ăn thịt như vậy. Ta nay lược nói về chẳng cho phép ăn thịt. Này Đại Tuệ! Nếu tất cả mọi người chẳng ăn thịt thì cũng không có người giết hại chúng sinh. Do người ăn thịt nếu chẳng có để thì đi khắp nơi tìm mua, người vì tài lợi liền giết để buôn bán. Vì người mua nên giết, vậy nên người mua cùng người giết không khác. Vậy nên, ăn thịt có thể làm chướng ngại Thánh đạo. Này Đại Tuệ! Người ăn thịt đam mê vị thịt, đến nỗi không có vật nuôi thì ăn cả thịt người, huống gì là hươu, nai, tró, thỏ, ngỗng, heo, dê, gà, chó, lạc đà, lừa, voi, ngựa, rồng, rắn, cá, ba ba… loài có sinh mạng sống dưới nước, trên đất đã bắt được mà chẳng ăn. Do tham đắm vị thịt nên tạo ra các phương tiện giết hại chúng sinh, tạo tác đủ thứ lưới giăng, cạm bẫy…, lưới bao núi, lưới giăng dưới đất, ngăn sông, chận biển… khắp nơi trên đất, trong nước đều vây lưới, đặt bẫy, đào hầm hố, đặt cung, dao, tên độc… xen lẫn không còn chỗ trống. Đủ thứ chúng sinh sống trong hư không, trên đất, dưới nước đều bị giết hại vì ăn thịt vậy. Này Đại Tuệ! Thợ săn, kẻ giết mổ, người ăn thịt… tâm ác bền vững có thể làm điều bất nhẫn, thấy hình thể chúng sinh béo tốt, da thịt mơn mởn thì sinh tâm nghó đến món ăn, lại chỉ cho nhau rằng, cái này có thể ăn, lòng chẳng sinh một ý niệm bất nhẫn. Vậy nên ta nói, người ăn thịt đoạn mất hạt giống đại Từ. Này Đại Tuệ! Ta quan sát thế gian, không có thứ thịt nào mà chẳng phải là sinh mạng. Tự mình chẳng giết, chẳng dạy người giết, thì người khác chẳng bị giết, chẳng từ sinh mạng mà có thịt này thì không có điều này. Nếu có thứ thịt chẳng từ sinh mạng mà ra này lại là món ăn ngon thì ta vì lý do gì chẳng cho phép người ăn? Tìm khắp thế gian, không có thứ thịt như vậy. Vậy nên ta nói, ăn thịt là tội, đoạn dứt hạt giống Như Lai nên chẳng cho phép ăn. Này Đại Tuệ! Sau khi ta Niết-bàn, vào đời vị lai, lúc pháp sắp diệt, ở trong pháp của ta, có người xuất gia, cạo bỏ râu tóc, tự xưng: “Ta là Thích tử Sa-môn”, mặc áo ca-sa của ta mà ngu si như đứa trẻ, tự xưng là luật sư mà rơi vào nhị biên, đủ thứ hư vọng giác quán, loạn tâm, tham trước vị thịt, theo kiến chấp tự tâm nói. Trong Tỳ-ni nói rằng, được ăn thịt, cũng bài báng ta rằng, các Đức Phật Như Lai cho phép người ăn thịt, cũng nói rằng, do cấm chế mà được phép ăn thịt, cũng bài báng ta rằng, Như Lai Thế Tôn cũng tự ăn thịt. Này Đại Tuệ! Ở trong tất cả kinh, như Tượng Dịch, Ương-quật-ma, Niết-bàn, Đại Vân… của ta chẳng cho phép ăn thịt, cũng chẳng nói, cho thịt vào thức ăn. Này Đại Tuệ! Ta nếu cho phép các đệ tử Thanh văn lấy thịt làm thức ăn thì nhất định ta chẳng được miệng thường khen ngợi người tu từ bi thực hành hạnh như thật, cũng chẳng khen ngợi người tu hạnh đầu đà trong rừng Thi-đà, cũng chẳng khen ngợi người tu hành Đại thừa trụ ở Đại thừa, cũng chẳng khen ngợi người chẳng ăn thịt. Ta chẳng tự ăn, chẳng cho phép người khác ăn. Vậy nên ta khuyên người tu hạnh Bồ-tát, khen ngợi chẳng ăn thịt, khuyên nên xem chúng sinh như con một thì tại sao xướng lên rằng, ta cho phép ăn thịt. Ta vì đệ tử tu hạnh ba thừa mau đạt được quả nên ngăn chặn tất cả thịt, chẳng cho phép ăn thì tại sao nói rằng trong Tỳ-ni của ta cho phép người ăn thịt. Lại nữa, nói rằng trong kinh khác của Như Lai nói, có ba thứ thịt cho phép người ăn thì nên biết người đó chẳng lý giải được Tỳ-ni mà cắt đứt thứ lớp nên xướng rằng, được ăn. Vì sao? Này Đại Tuệ! Vì thịt có hai thứ, một là người khác giết, hai là tự chết. Do người đời nói rằng, có thịt được ăn, có thịt chẳng được ăn. Voi, ngựa, rồng, rắn, người, quỷ, khỉ vượn, heo, chó và trâu thì nói chẳng được ăn, còn các loài khác thì được ăn. Người giết mổ chẳng hỏi được ăn hay chẳng được ăn mà cứ giết hết tất cả, bày bán khắp nơi. Chúng sinh không có lỗi mà bị giết hại ngang ngược. Vậy nên, ta cấm chế thịt người khác giết hay tự tử đều chẳng được ăn. Nghe thấy nghi ngờ thì gọi là người khác giết, chẳng nghe thấy nghi ngờ thì gọi là tự tử. Vậy nên, này Đại Tuệ! Trong Tỳ-ni của ta xướng lên lời như vầy: Phàm đối với tất cả Thích tử Sa-môn, thịt đều là thức ăn bất tịnh, làm ô uế mạng sống thanh tịnh, chướng ngại Thánh đạo phần, không có phương tiện mà có thể được ăn. Nếu có nói rằng, trong Tỳ-ni của Phật nói có ba thứ thịt là chẳng cho phép ăn, chẳng phải là cho phép ăn. Ông nên biết là người trụ vững chắc ở Tỳ-ni là người chẳng bài báng ta. Này Đại Tuệ! Nay trong kinh Lăng-già này, tất cả thời gian, tất cả các thứ thịt, cũng không phương tiện mà có thể được ăn. Vậy nên, này Đại Tuệ! Ta ngăn ăn thịt chẳng phải vì một người mà hiện tại và vị lai, tất cả chẳng được ăn. Vậy nên, này Đại Tuệ! Nếu người ngu si kia tự nói là luật sư mà nói rằng, trong Tỳ-ni cho phép người ăn thịt, cũng bài báng ta rằng, Như Lai tự ăn thì người ngu si đó thành tội chướng lớn, mãi mãi rơi vào chỗ không lợi ích, chỗ không Thánh nhân, chỗ chẳng nghe pháp, cũng chẳng được gặp đệ tử của bậc Thánh hiền hiện tại, vị lai, huống là sẽ được gặp các Đức Phật Như Lai. Này Đại Tuệ! Những hàng Thanh văn thường nên ăn gạo, lúa mì, dầu mất, đủ thứ mè, đậu có thể sinh ra mạng thanh tịnh. Nếu là chứa nuôi phi pháp, nhận lấy phi pháp thì ta nói bất tịnh, còn chẳng cho ăn, huống gì là cho phép ăn máu thịt bất tịnh. Này Đại Tuệ! Các đệ tử Thanh văn, Bích-chi-phật, Bồ-tát của ta ăn được pháp thực thì chẳng phải ăn uống thức ăn, huống gì là Như Lai. Này Đại Tuệ! Pháp thực, pháp trụ của các Đức Phật Như Lai chẳng phải là thân ăn uống, chẳng phải thân trụ ở tất cả các thức ăn thức uống, lìa khỏi các của cải ưa thích… xa lìa tất cả tội lỗi của tập khí phiền não, khéo phân biệt tâm, trí tuệ của tâm, Nhất thiết trí, Nhất thiết kiến, thấy các chúng sinh thương xót bình đẳng. Vậy nên, này Đại Tuệ! Ta thấy tất cả các chúng sinh bình đẳng giống như con một thì làm sao mà cho phép dùng thịt làm thức ăn. Ta cũng chẳng tùy hỉ, huống gì là tự ăn. Này Đại Tuệ! Như vậy, tất cả hành hẹ tỏi nén hôi nhơ bất tịnh có thể làm chướng ngại đạo Thánh, cũng làm chướng ngại chỗ thanh tịnh của người trời ở thế gian, huống gì là quả báo cõi thanh tịnh của chư Phật. Rượu cũng như vậy, có thể làm chướng ngại Thánh đạo, có thể làm tổn hại nghiệp thiện, có thể sinh ra những tội lỗi. Vậy nên, này Đại Tuệ! Người đến với Thánh đạo thì rượu, thịt, hành, hẹ, tỏi nén… những thứ có thể tạo vị nồng đều chẳng nên ăn. Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ: Đại Tuệ Bồ-tát hỏi Rượu, thịt, tỏi, nén, hành… Phật rằng, là bất tịnh Tất cả chẳng cho ăn. Quỷ La-sát ăn nuốt Chẳng phải của Thánh ăn Người ăn, Thánh quở trách Và tiếng ác lưu truyền Nguyện Phật phân biệt nói Tội phước ăn, chẳng ăn. Này Đại Tuệ! Nghe kỹ. Ta nói lỗi trong ăn Rượu, thịt, hành, hẹ, tỏi Là chướng đạo Thánh nhân Ta xem trong ba cõi Chúng đạt được đạo Thánh Từ thế giới vô thủy Đắp đổi đều thân thuộc Làm sao ở trong ấy Mà có ăn, chẳng ăn. Quan sát chỗ thịt đến Xuất xứ chẳng thanh tịnh Sinh máu mủ trộn lẫn Phân, giải mủ… hòa chung. Người tu hạnh thanh tịnh Phải quán, chẳng nên ăn Đủ thứ thịt, hành hẹ… Uống rượu cũng chẳng nên Đủ loại tỏi và nén… Người tu thường xa lìa Xa lìa khỏi dầu mè Giường thùng lỗ chẳng nằm Các trùng nhỏ biết bay Đoạn hai mạng người khác. Ăn thịt tăng sức mạnh Do lực sinh tà niệm Tà niệm sinh tham dục Nên chẳng cho ăn thịt Do ăn thịt sinh tham Lòng tham say mê hoặc Mê say tăng ái dục Chẳng giải thoát tử, sinh Vì lợi giết chúng sinh Vì thịt tìm của tiền Nghiệp ác hai người đó Chết đọa ngục kêu la Ba thứ gọi tịnh nhục Chẳng nghi, chẳng thấy nghe Đời không thịt như vậy Ăn thịt rơi vào trong Nạn nhơ uế đáng chán Thường sinh trong điên cuồng Sinh vào nhà đồ tể Chiên-đà-la, thợ săn Hoặc sinh nữ La-sát Và những chỗ ăn thịt. La-sát và mèo, chồn… Sinh trong loài ăn thịt Kinh Tượng Dịch, Đại Vân Kinh Niết-bàn, Thắng Man Và kinh Nhập Lăng-già Ta chẳng cho ăn thịt. Phật, Bồ-tát, Thanh văn Các vị cũng quở trách Ăn thịt không hổ thẹn Đời đời điên cuồng mãi. Trước nói, nghi, thấy, nghe Đã đoạn tất cả thịt Vọng tưởng chẳng hiểu biết Nên tưởng ăn thịt sinh. Như lỗi tham dục đó Chướng ngại Thánh giải thoát Rượu, thịt, hành, tỏi, nén… Thánh đạo đều bị ngăn Chúng sinh đời vị lai Với thịt, ngu nói rằng: Thịt thanh tịnh không tội Phật cho chúng ta ăn Ăn thanh tịnh như thuốc Giống như ăn thịt con Tri túc sinh nhàm chán Tu hành đi khất thực Người Từ tâm an trụ Ta nói, luôn lìa chán Sư tử, sài lang, cọp Thường hay đi, ở chung. Ăn thịt người thấy sợ Làm sao có thể ăn? Vậy nên người tu hành Tâm từ chẳng ăn thịt. Ăn thịt đoạn tâm Từ Lìa Niết-bàn giải thoát Trái lời dạy Thánh nhân Nên chẳng cho ăn thịt Không ăn sinh Phạm chủng Và những người tu đạo. Trí tuệ và giàu sang Ấy do chẳng ăn thịt.  <詞 id="118149492">Phẩm 17: ĐÀ-LA-NI Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Thánh giả Đại Bồ-tát Đại Tuệ: –Này Đại Tuệ! Ông nên lắng nghe, thọ trì chú kinh Lăng-già của ta. Thần chú này, các Đức Phật quá khứ, vị lai, hiện tại đã nói, nay nói và sẽ nói. Này Đại Tuệ! Ta nay cũng nói. Ta vì các pháp sư thọ trì, đọc tụng Kinh Lăng-già mà nói chú: Đâu đế đâu đế, chúc đế chúc đế, tô pha đế tô pha đế, ca đế ca đế, a ma lị, a ma đế, tỳ ma lê tỳ ma lê, ni di ni di, hề di hề di, bà mê bà mê, ca lê ca lê, ca la ca lê, a tề ma tề, già tề đâu tề, nhượng tề, tô phất tề, cát đệ cát đệ, ba đệ ba đệ, hề mễ hề mễ địa mễ địa mễ, la chế la chế, ba chế ba chế, bàn đệ bàn đệ, a chế di chế, trúc trà lê đâu trà đệ, ba la đệ, át kế át kế, chước kế chước kế lê lợi, nhỉ dương mễ, hề mễ hề mễ, trú trú trú trú, trừu súc trừu súc, trừu trừu trừu trừu, trừ trừ trừ trừ, tô bà ha. Này Đại Tuệ! Đó gọi là câu văn chú trong kinh Đại Lăng-già. Thiện nam, thiện nữ, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di… có thể thọ trì đọc tụng câu văn này và vì người diễn nói thì không có người nào có thể tìm ra tội lỗi của những người ấy. Hoặc Trời, thiên nữ, hoặc rồng, rồng nữ, hoặc Dạ-xoa, Dạ-xoa nữ, A-tu-la, A-tu-la nữ, Ca-lâu-la, Ca-lâu-la nữ, Khẩn-na-la, Khẩn-na-la nữ, Ma-hầu-la-già, Ma-hầu-la-già nữ, Phù-đa, Phù-đa nữ, Cưu-bàn-trà, Cưu-bàn-trà nữ, Tỳ-xá-xà, Tỳ-xá-xà nữ, Ô-đa-la, Ô-đa-la nữ, A-ba-la, A-ba-la nữ, La-sát, La-sát nữ, Trà-già, Trà-già nữ, Ô-châu-hà-la, Ô-châu-hà-la nữ, Già-tra-phước-đa-la, Già-tra-phước-đa-la nữ, hoặc người, phi nhân, hoặc người nữ, chẳng phải người nữ… chẳng thể tìm thấy tội lỗi của những người ấy. Nếu có quỷ thần ác làm tổn hại người mà muốn mau chóng khiến cho những ác quỷ đó đi thì tụng một trăm biến chú Đà-la-ni này. Những quỷ ác đó kinh sợ gào khóc vội vàng bỏ đi. Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ: –Này Đại Tuệ! Ta vì hộ trì Pháp sư ủng hộ pháp này lại nói Đà-la-ni! Đức Phật nói chú: –Ba đâu di, ba đầu di đề tỳ, hề ni hề ni hề nỉ chư lê, chư la, chư lệ, hầu la, hầu lệ, do lê, do la, do lệ, ba lệ, ba la, ba lệ, văn chế, ân điệt tần điệt bàn thể mạt điệt trì na, ca lê tô ba ha. Này Đại Tuệ! Câu văn chú Đà-la-ni này, nếu thiện nam, thiện nữ thọ trì đọc tụng, vì người diễn nói thì không người nào có thể gây tạo tội lỗi cho họ. Hoặc trời hoặc thiên nữ hoặc rồng hoặc rồng nữ, Dạ-xoa, Dạ-xoa nữ, A-tu-la, A-tu-la nữ, Ca-lâu-la, Ca-lâu-la nữ, Khẩn-na-la, Khẩn-na-la nữ, Ma-hầu-la-già, Ma-hầu-la-già nữ, Càn-thát-bà, Càn-thát-bà nữ, Phù-đa, Phù-đa nữ, Cưu-bàn-trà, Cưu-bàn-trà nữ, Tỳ-xá-xà, Tỳ-xá-xà nữ, Ô-đa-la, Ô-đa-la nữ, A-bạt-ma-la, A-bạt-ma-la nữ, La-xoa, La-xoa nữ, Ô-thát-a-la, Ô-thát-a-la nữ, Già-tra-phước-đơn-na, Già-tra-phước-đơn-na nữ, hoặc người, hoặc phi nhân, hoặc người nữ phi nhân nữ… tất cả những người đó chẳng thể tìm được tội lỗi của họ. Này Đại Tuệ! Nếu có người có thể thọ trì đọc tụng câu văn chú này thì người đó được gọi là tụng tất cả kinh Lăng-già. Vậy nên, ta nói câu chú Đà-la-ni này, vì ngăn chận tất cả các La-sát, hộ trì tất cả thiện nam, thiện nữ giữ gìn kinh này. KINH NHẬP LĂNG-GIÀ <卷 id="118149493">Quyển 9 <詞 id="118149494">Phẩm 18: tổng trì (Phần 1) Bấy giờ, Đức Thế Tôn dùng kệ muốn nói lại nghóa lý sâu xa của khế kinh: Như cầm thú mê hoặc Vào mùa hè thấy sóng Các cầm thú ưa nước Sóng nước không thật có Cũng vậy, chủng tử thức Thấy các cảnh giới động Các chúng sinh ngu si Như mắt nhặm thấy vật Suy đi rồi nghó lại Xa lìa sự tư duy Thấy thật đế phân biệt Hiểu rõ, đắc giải thoát Các pháp chẳng kiên cố Hư vọng phân biệt sinh Hư vọng phân biệt không Nương kia không phân biệt Năm ấm, thức, các pháp Như bóng cây trong nước Như huyễn, mộng vân vân Trong thức chớ phân biệt Huyễn khởi cơ quan ảo. Mộng, điện chớp, mây bay Dứt ba pháp tương tục Chúng sinh đắc giải thoát Nương các pháp tà niệm Do đó có thức sinh Tám, chín, vô số thức Cũng như sóng trong nước Nương pháp huân chủng tử Kiên cố thường buộc thân Tâm lưu chuyển cảnh giới Như nam châm hít sắt Nương tựa các chúng sinh Thật tánh lìa hiểu biết Xa lìa các việc làm Lìa pháp hiểu và biết. Hành Tam-muội như huyễn Xuất các hạnh Thập địa Ông quán tâm và pháp Lìa tâm, cảnh, thức, tướng Thời biết tâm thường chuyển Tức thường trụ bất biến Ở cung điện Liên hoa Tướng cảnh giới như huyễn Trụ Thắng xứ kia rồi Đắc các hành tự tại Như Ma-ni hiện sắc Làm việc độ chúng sinh Không hữu vi, vô vi Trừ các tâm phân biệt Người ngu do cố chấp Như Thạch nữ mong con. Tịch tónh và vô sinh Năm ấm, nhập tương tục Nhân duyên các cảnh giới Không, có và chẳng có Ta nói các phương tiện Thật tướng không như vậy Người ngu chấp thật có Không có tướng năng, sở Ta hiểu hết các pháp Mà không hề hiểu hết. Ta quán tất cả pháp Mà không quán tất cả Ta có Nhất thiết trí Mà không Nhất thiết trí Người ngu do phân biệt Tự nói là Thế trí. Ta chưa từng giác ngộ. Chưa giác ngộ chúng sinh Các pháp chỉ nhất tâm Các ấm như hoa đốm Các tướng rốt cục không Nơi nào có phân biệt Vật mới sinh vốn không. Trong các duyên cũng không Hoa đốm, con tượng đá Nếu biết được hữu vi Bấy giờ kiến, sởû kiến Thấy pháp mê tức trụ Ta không vào Niết-bàn Không diệt các nghiệp tướng Diệt các thức phân biệt Đó ta vào Niết-bàn Chẳng diệt các pháp tướng Người ngu vọng phân biệt Như nước bỗng cạn kiệt Bấy giờ sóng không sinh Như các thức diệt mất Diệt mất không sinh lại Không và không thức tướng Như huyễn vốân không sinh Có, không, lìa có, không Các pháp này như mộng Ta nói một thật pháp Lìa xa các Giác quán Vi diệu cõi Thánh nhân Lìa hai pháp thể, tướng. Như thấy lửa đom đóm Tướng lửa ấy không thật Thế gian thấy bốn đại Tướng ấy cũng như vậy Như nương cỏ, cây, đá Hiện bày các tướng huyễn Huyễn kia không thật tướng Thể các pháp cũng vậy. Chấp giữ, không chấp giữ Không buộc, không giải thoát Như huyễn, như sóng nắng Như mộng, mắt nhặm thấy Nếu thật thấy như vậy Lìa các sự phân biệt Tức trụ định như thật Ngã, kiến kia không si Trong ấy không tâm thức Như sóng nắng, hư không Như vậy biết các pháp Mà không biết một pháp Lìa các duyên có, không Nên các pháp không sinh Ba cõi, tâm mê hoặc Cho nên hiện các loại Mộng và pháp thế gian Hai pháp này bình đẳng Sở và tư kiến sinh Các xúc cùng với lượng Thân thế gian vô thường Tất cả sắc cũng vậy Bậc Thánh trong cõi đời Nói mọi việc như thế Chúng sinh trong ba cõi Tâm mê thấy hai thời Trí thế gian phân biệt Thật pháp không như vậy Thấy thế gian như thế Hay xa lìa sinh tử Sinh cùng với không sinh Người ngu mê hoặc thấy Không sinh và không diệt Người tu trí tuệ thấy Cảnh giới sắc cứu cánh Xa lìa các ác hạnh Thường hành không phân biệt Lìa pháp tâm, tâm sở Đắc lực, thông, tự tại Đến chỗ các Tam-muội Nơi đây thành Chánh giác Trong ấy thành hóa Phật Các pháp không sinh diệt Các pháp thể như vậy Ứng, hóa vô lượng ức Thể kia trong xuất thế. Người ngu nghe Phật pháp Như tiếng vang không nghó Xa lìa đầu, giữa, sau Lìa pháp có và không Biến bất động, thanh tịnh Không các tướng, hiện tướng Thức, tánh che Pháp thân Tất cả thân trong hữu Mê hoặc là huyễn có Huyễn chẳng do mê hoặc Tâm không mê hoặc pháp Cũng chẳng phải có, không Tâm nương hai pháp buộc Thức A-lại-da sinh Nhưng tâm thấy như vậy Ngã, pháp như nước chảy Quán thế gian như thế Bấy giờ chuyển các tâm Mới là ngã chân thật Thành tựu thật pháp hành Nóng, ấm và kiên, động Người ngu phân biệt pháp Chẳng thật, chuyên nghó có Không năng tướng, sở tướng Tám thức và một thân Hình tướng và các căn Người ngu phân biệt sắc Lưới mê hoặc giăng thân Các nhân duyên hòa hợp Người ngu do phân biệt Không biết pháp như vậy Luân chuyển trong ba cõi Các pháp và ngôn ngữ Là chúng sinh phân biệt Mà các pháp là không Như huyễn, mộng vân vân Quán các pháp như vậy Không trụ thế, Niết-bàn Vô số chủng tử tâm Hiện thấy cảnh giới tâm Sở kiến phân biệt sinh Người ngu ưa hai pháp Vô minh, ái và hành Là nhân tâm, tâm pháp Nương tha lực pháp sinh Nên nói pháp tha lực Nương pháp rồi phân biệt Tâm mê hoặc cảnh giới Nên không thành phân biệt Mê hoặc phân biệt sai Tâm vì duyên trói buộc Cho nên sinh các thân Nếu lìa các nhân duyên Ta nói không thấy pháp Lìa các pháp nhân duyên Lìa nơi các pháp tướng Không trụ trong các pháp Ta nói không thấy cảnh Như vua, trưởng giả thảy Dùng các loại cầm thú Hội tụ trong đồng trống Để chỉ dạy các con Ta nói các pháp tướng Như gương soi hình ảnh Nội thân trí vì con Nói về pháp Thật tế Như biển cả nổi sóng Do từ gió sinh ra Hiện tại hay biến đổi Mà không có đoạn tuyệt Thức A-lại-da thường Nương gió cảnh giới sinh Vô số sóng nước thức Biến chuyển sinh không dứt Tướng năng thủ, sở thủ Chúng sinh thấy như vậy Không các tướng sở kiến Không đạo thấy như vậy Bản thức A-lại-da Ýù cùng với ý thức Lìa năng thủ, sở thủ Ta nói tướng như vậy Năm ấm vốn vô ngã Và không nhân, chúng sinh Sinh tức các thức sinh Diệt tức các thức diệt Như trong tranh cao, thấp Sở kiến không như vậy Như thấy các vật thể Tướng thấy không như vậy Như thành Càn-thát-bà Cầm thú khát thích nước Như vậy kiến, sở kiến Trí quán không như vậy Lìa sở lượng và tưởng Không nhân, chẳng phải quả Lìa năng giác, sở giác Lìa năng kiến, sở kiến Nương ấm, nhân duyên hiểu Không nhân kiến, sở kiến Nếu không kiến, sở kiến Tại sao tu pháp ấy? Nhân duyên, nhân, thí dụ Lập ý và nhân duyên Mộng thành Càn-thát-bà Sóng nắng và trời, trăng Dụ ánh sáng đều huyễn Ta ngăn các pháp sinh Như mộng huyễn, mê hoặc Không phân biệt chúng sinh Không nương vào ba cõi Trong, ngoài cũng đều không Thấy các cảnh không sinh Mới đắc Vô sinh nhẫn Đắc Tam-muội như huyễn Cùng với thân Như ý Thần thông và Tự tại Cả thảy tâm, pháp lực… Các pháp vốn không sinh Không, không pháp, thể, tướng Người kia mê không biết Tùy nhân duyên sinh diệt Như người ngu phân biệt Tâm thấy nơi tự tâm Thấy các tướng bên ngoài Thật không thể thấy pháp Thấy tướng xương, tượng Phật Và các đại lìa tan Tâm giác ngộ hay biết Ở trong tướng thế gian Do duyên thân hiện hữu Chấp giữ ba loại cảnh Cảnh giới thức thủ thức Ý, thức, phân biệt ba Phân biệt, sở phân biệt Nên có từ cảnh giới Không thể thấy thật pháp Mê lầm kia không thấy Các pháp không tự thể Người trí khéo nhận biết. Các hành mới chấm dứt Trụ ở chỗ vô tướng Như dùng mực vẽ gà Ngu chấp gà của ta Phàm phu ngu si chấp Ba thừa đồng là một Không có các Thanh văn Cũng không Bích-chi-phật Đã thấy sắc Thanh văn Và thấy chư Như Lai Các Bồ-tát đại Bi Thị hiện hóa thân ấy Ba cõi chỉ là tâm Lìa hai loại thể, tướng Chuyển biến các tướng kia Đó tức là Chân như Hành tướng pháp và nhân Ánh sáng mặt trời, trăng Các Ma-ni, châu báu Không phân biệt các việc Phật pháp cũng như vậy Như bệnh thấy hoa đốm Do đó sinh phân biệt Ngu si hư vọng chấp Lìa nơi sinh, trụ, diệt Lìa thường và vô thường Bỏ sở kiến, nhiễm, tịnh Như hoa đốm trong không Như người lấy cỏ thuốc Thấy cây cỏ trên đất Tất cả như sắc vàng Người ấy không có vàng Như vậy người ngu si Vô thủy tâm nhiễm pháp Sóng nắng, huyễn, tưởng có Người ngu chấp là thật Một loại và không loại Biển cả, một chủng tử Cũng vô lượng chủng tử Ngươi quán chủng tử tâm Một chủng tử thanh tịnh Chuyển sang không chủng tử Bình đẳng không phân biệt Khởi tức là sinh tử Hay sinh các chủng tử Cho nên nói chủng tử Nhân duyên không sinh pháp Nhân duyên không diệt pháp Sinh pháp chỉ nhân duyên Tâm phân biệt như vậy Ba cõi chỉ giả danh Thật không, sự, pháp, thể Người hiểu nhầm phân biệt Chấp giả danh là thật Quán thật thể các pháp Ta không ngăn mê hoặc Thật thể không sinh pháp Quán vậy đắc giải thoát Ta không thấy huyễn, không Nói các pháp là có Chuyển biến nhanh như chớp Cho nên nói như huyễn Chẳng bản sinh, thủy sinh Các nhân duyên không thể Không có xứ và thể Chỉ có nơi ngôn ngữ Không ngăn duyên sinh, diệt Không chận duyên hòa hợp Ngăn các ngu si thấy. Phân biệt nhân duyên sinh Thật không thức, thể, pháp Không sự và bản thức Người ngu sinh phân biệt Như thây chết nhận biết Ba cõi chỉ là tâm Các Phật tử thường thấy Tức đắc các loại thân Lìa các pháp hữu vi Đắc thần thông tự tại Và cùng pháp tương ưng Hiện bày tất cả sắc Tâm pháp sinh như vậy Mà không tâm và sắc Vô thủy tâm mê hoặc Bấy giờ người tu hành Được thấy nơi vô tướng Trong trí tuệ quán sát Không thấy các chúng sinh Giả gọi tướng và sự Ý chấp các pháp động Các con ta mê lầm Không phân biệt tu hành Thành Càn-thát-bà, huyễn Hoa đốm và sóng nắng Không thật mà thấy thật Thể các pháp như vậy Như tâm thấy các pháp Thể, tướng không như vậy Tất cả pháp không sinh Chỉ thấy pháp mê hoặc Không đường mê phân biệt Để trụ nơi hai pháp Lúc đầu thức phân biệt Các thứ chủng tử xấu Thức như nước tuôn chảy Đoạn nó tức không sinh Tất cả pháp quán, niệm Hoặc chỉ trong tâm sinh Như hư không trong tường Tại sao mà không sinh Nếu có chút quán Tướng Tâm tức từ duyên sinh Nếu theo nhân duyên sinh Không được nói duy tâm Tâm chấp lấy tự tâm Không pháp cũng không duyên Thể tâm, pháp thanh tịnh Trong hư không chẳng có Hư vọng chấp tâm mình Cho nên tâm hiện sinh Ngoài pháp không thể thấy Cho nên nói duy tâm Bản thức chỉ là tâm Ý hay niệm cảnh giới Hay giết các cảnh giới Nên ta nói duy tâm Tâm pháp thường Vô ký Ý chấp tướng có, không Chấp hiện pháp là thức Đó là thiện, bất thiện Lìa hai loại thức, tướng Là đệ “Nhất nghóa đế” Nói ba thừa sai khác Tịch tónh không phải tướng Nếu tâm trụ tịch tónh Liền đến nơi Phật địa Đây, quá khứ Phật nói Hiện, vị lai cũng vậy Một đến bảy Tâm địa Tịch tónh Địa thứ tám Địa thứ hai: Hành xứ Địa kia là: Ngã Pháp Nội thân mình thanh tịnh Là ở Địa tự tại Chỗ cứu cánh Tự tại Hiện cõi Sắc cứu cánh Ví như ngọn lửa cháy Thì phát ra ánh sáng Các loại tâm đáng ưa Hóa tạo nơi ba cõi Hoặc có sinh, có hóa Mà hóa tạo ba cõi Nơi kia nói các pháp Là ở Địa tự tại Các Địa không thời tiết Cõi nước chuyển cũng vậy Vượt các pháp: Tâm, địa Là trụ quả Tịch tónh Thật không mà gọi có Nên thấy đủ các loại Người ngu điên đảo chấp Các thứ điên đảo này Như trí vô phân biệt Có việc bất tương ưng Tâm không trụ các sắc Cho nên không phân biệt Các Thiền và vô lượng Cùng Tam-muội Vô sắc Diệt hết thảy các tướng Cho nên trong tâm không Pháp quả Tu-đà-hoàn Tư-đà, A-na-hàm Và quả A-la-hán Tất cả tâm mê hoặc Sát-na, không, vô thường Ngu phân biệt hữu vi Thí dụ sông chủng tử Phân biệt nghóa sát-na Sát-na không phân biệt Lìa các pháp tạo tác Tất cả pháp không sinh Ta nói nghóa sát-na Nói có, không và sinh Pháp tăng thảy vọng nói Tất cả pháp vô ký Cũng là người kia nói Có bốn cách thuyết pháp Đáp bằng cách hỏi lại Đáp phân biệt sai biệt Im lặng ngăn ngoại đạo Thế đế tất cả có Không có Đệ nhất nghóa Mà thật tướng, vô tướng Là Đệ nhất nghóa đế Thấy nơi pháp hư vọng Cho nên nói Thế đế Do nơi ngôn ngữ sinh Thật thể không như vậy Không sự, có ngôn ngữ Trong Thế đế thật không Tức là sự điên đảo Sở kiến cũng là không Nếu có sự điên đảo Tịch tónh rốt cục không Nương nơi sự điên đảo Cùng thấy các pháp sinh Cuối cùng định là không Tức là không thể, tướng Đủ các loại sở kiến Huân tập phiền não sinh Tâm mê thấy bên ngoài Liền chấp cảnh trước mắt Phân biệt, không phân biệt Thật tướng pháp Không này Các tướng như bóng huyễn Như cây lá bằng vàng Người thấy, người được thấy Tâm vô minh huân tập Thánh nhân không thấy mê Cũng không hề thấy thật Mê hoặc tức là thật Thấy thật tức trung đạo Xa lìa các mê hoặc. Nếu hay sinh các tưởng Đó tức là mê hoặc Như mù lòa không sáng Mắt nhặm thấy hoa đốm Nương mê, chấp các pháp Ở trong các cảnh giới Ngu si chấp pháp này Các pháp như hoa đốm Sóng nắng, nước, mê hoặc Ba cõi như mộng huyễn Tu hành đắc giải thoát. Phân biệt, bị phân biệt Hay sinh với phân biệt Buộc, trói buộc và nhân Sáu loại nhân giải thoát Không có Địa, các Đế Không cõi nước, hóa thân Thanh văn, Bích-chi-phật Chỉ là tâm phân biệt Thân thể và năm ấm Các duyên và bụi trần Người thù thắng tự tại Chỉ là tâm phân biệt Tâm biến khắp mọi nơi Cùng khắp đều là tâm Do tâm không biết xét Tâm tánh không các tướng Trong năm ấm không ngã Trong ngã không năm ấm Phân biệt không phải pháp Mà pháp kia chẳng không Như ngu si phân biệt Có tất cả các pháp Như vậy thấy thật có Tất cả đều thấy thật Tất cả pháp nếu không Không nhiễm cũng không tịnh Ngu si thấy như thế Pháp kia không như vậy Ngu si phân biệt tướng Là tha lực phân biệt Tướng kia đã có danh Danh này phân biệt tướng Danh, tướng là phân biệt Nhân duyên, Sự hòa hợp Nếu không sinh tâm kia Là tướng Đệ nhất nghóa Thật thể Báo thân Phật Và Hóa thân của Phật Chúng sinh và Bồ-tát Khắp mười phương cõi nước Tập khí, Pháp hóa Phật Cùng với tạo Hóa Phật Tất cả đều xuất hiện Từ cõi Phật Di-đà Ứng, Hóa để thuyết pháp Báo thân Phật thuyết pháp Giảng rộng về Khế kinh Ngươi nên biết mật ý Nếu có Phật tử nói Giốâng như chư Như Lai Đều là Hóa Phật nói Chẳng phải người thuần thục Các pháp này không sinh Mà pháp ấy chẳng không Thành huyễn Càn-thát-bà Giống như mộng, ảo hóa Các thứ tùy tâm chuyển Chỉ Tâm chẳng pháp khác Tâm sinh các pháp sinh Tâm diệt các pháp diệt Chúng sinh vọng phân biệt Không vật mà thấy vật Vô nghóa chỉ là không Không phân biệt, giải thoát Xa xưa thường hý luận Nương dựa nơi phiền não Các phân biệt huân tập Cho nên tà kiến sinh Thức không phân biệt nghóa Là cảnh trí Chân như Chuyển kia là Tịch tónh Là cảnh giới các Thánh Quán sát nghóa tư duy Tư duy các phàm phu Tư duy niệm Chân như Tư duy chư Phật tịnh Phân biệt thể các pháp Tất cả pháp không sinh Nương nhân duyên tha lực Chúng sinh mê phân biệt Tha lực nếu thanh tịnh Lìa phân biệt tương ưng Chuyển kia tức Chân như Lìa phân biệt hành ấy Chớ phân biệt, phân biệt Phân biệt là không thật Pháp phân biệt mê vọng Chấp, sở chấp không dứt Thấy ngoại cảnh, phân biệt Phân biệt thực thể ấy Tâm phân biệt, phân biệt Pháp kia do duyên sinh Tà kiến thấy ngoài nghóa Không nghóa chính là tâm Quán suy xét tương ưng Hay diệt chấp, sở chấp Không có các ngoại cảnh Ngu si vọng phân biệt Tâm huân tập tăng trưởng Tợ như sinh các pháp Diệt hai loại phân biệt Cảnh giới trí chân như Sinh nơi vô pháp tướng Cảnh Thánh không tư nghì Danh, tướng và phân biệt Thật thể hai loại tướng Chánh trí và Chân như Thành tựu thật thể này Nương cha, mẹ hòa hợp Cùng thức A-lại-da Như bình, sữa, chuột thảy Cùng tháng ngày tăng trưởng Như thây chết sình thối Bất tịnh chảy tràn ra Bốn Đại nghiệp Phong tăng Như các quả chín muồi Năm và năm lăm thứ Và chín lỗ bài tiết Các móng, lông che đậy Như vậy tăng trưởng sinh Như trùng sinh trong phẩn Như người thức trong mộng Mắt thấy sắc khởi niệm Phân biệt tăng trưởng sinh Phân biệt và chuyên nghó Đoạn răng, môi hòa hợp Miệng mới nói ngôn ngữ Như oanh vũ cất tiếng Các ngoại đạo nói định Đại thừa không quyết định Nương định tâm chúng sinh Tà kiến không thể gần Nội chứng trí, thừa ta Mê hiểu không cảnh giới Sau khi Phật diệt độ Ai trì là nói pháp Như Lai diêït độ rồi Vị lai sẽ có người Này Đại Tuệ! Ông lắng nghe Có người đem pháp ta Về nước lớn phương Nam Có Đại đức Tỳ-kheo Tên Bồ-tát Long Thọ Phá chấp có, chấp không Vì người nói pháp ta Pháp Đại thừa Vô thượng Chứng đắc địa Hoan hỷ Sinh về nước An lạc Trí tuệ quán sát pháp Không thấy thật thể pháp Cho nên chẳng thể nói Và cũng nói không thể Nếu nhân duyên sinh pháp Không được nói có, không Trong nhân duyên có vật Ngu phân biệt có, không Tà kiến hai tà pháp Tà biết lìa pháp ta Danh tự tất cả pháp Vô lượng kiếp thường học Đã học lại càng học Mê cùng nhau phân biệt Nếu không nói các danh Thế gian nhiều mê hoặc Cho nên nói danh tự Vì trừ nghiệp mê hoặc Nương ba loại phân biệt Ngu si phân biệt pháp Nương danh, mê phân biệt Cùng nhân duyên thường sinh Tự tánh như hư không Pháp không thể là thể Tướng phân biệt tức thể Ảnh tượng và huyễn, mộng Sóng nắng và âm vang Vòng sáng Càn-thát-bà Các pháp như vậy sinh Chân như, không không hai Thật tế và pháp, thể Ta nói không phân biệt Thành tựu pháp tướng kia Khẩu, tâm, cảnh hư vọng Thật mới lập hư vọng Tâm rơi vào Nhị biên Cho nên lập phân biệt Rơi vào nơi có, không Ở nơi cảnh giới tâm Xa lìa các cảnh giới Bấy giờ chính tâm diệt Xa lìa cảnh giới Chấp Diệt kia chẳng có, không Như cảnh giới Thánh nhân Người ngu không thể biết Có diệt, trụ, Chân như Người trí tuệ hay biết Như các pháp trụ kia Người trí hay biết được Thể, pháp không như vậy Do các pháp không tướng Người ngu si thấy sắt Phân biệt đó là vàng Chẳng phải vàng, thấy vàng Như ngoại đạo chấp pháp Không nói ban đầu sinh Ban đầu sinh sau diệt Từ nhân duyên có, không Thuyết này ta chẳng dạy Pháp không đầu không cuối Không như tướng trụ này Như tướng trụ thế gian Người tà kiến không biết Pháp quá khứ là có Pháp vị lai chẳng không Pháp hiện tại cũng vậy Không nên nói pháp sinh Thời chuyển và tướng hành Các đại và các căn Hư vọng chấp trung ấm Nếu chấp không giác ngộ Tất cả Phật Thế Tôn Không nói nhân duyên sinh Nhân duyên tức thế gian Như thành Càn-thát-bà Chỉ pháp duyên hòa hợp Nương pháp này, sinh pháp. Lìa các pháp hòa hợp Không diệt cũng không sinh Trong gương và trong nước Mắt và báu Ma-ni Nhìn thấy hình trong gương Các hình tượng là không Như thú ái sóng nước Thấy đủ loại các sắc Tất cả tợ như có Như mộng, con Thạch nữ Thừa ta chẳng Đại thừa Không tiếng cũng không tên Không Đế, không giải thoát Không cảnh giới Tịch tónh Nhưng pháp Đại thừa ta Các Tam-muội tự tại Được các thân như ý Hoa tự tại trang nghiêm Một thể và khác thể Trong nhân duyên không pháp Lược nói các pháp sinh Rộng nói các pháp diệt Không sinh, không là một Mà sinh, không là hai Không sinh, không tối thắng Sinh, diệt tức là không Chân như, không, thực tế Niết-bàn cùng pháp giới Thân và ý vân vân Ta nói nhiều pháp khác Kinh luận và giới luật Phân biệt ngã thanh tịnh Nương danh không nương nghóa Kia không biết vô ngã Không ngoại đạo, không Phật Vô ngã cũng như vậy Theo duyên nên có pháp Tại sao không các pháp? Người nào thành tựu pháp Từ nhân duyên nói không Thuyết pháp sinh tà kiến Vọng phân biệt có, không Nếu người thấy không sinh Cũng thấy pháp không diệt Người ấy lìa có, không Thấy thế gian tịch diệt Chúng sinh phân biệt kiến Sở kiến như sừng thỏ Phân biệt là mê hoặc Như thú ưa sóng nước Hư vọng phân biệt pháp Nương thấy kia phân biệt Phân biệt không nhân duyên Không nhân không phân biệt Không nước, chấp có nước Như thú vọng sinh ái Ngu si thấy như vậy Bậc Thánh không như thế Thánh nhân thấy thanh tịnh Đạt được ba giải thoát Lìa các pháp sinh tử Tu hành chỗ tịch tónh Phương tiện rất an lạc Biết cõi nước vi diệu Ta nói, vì các ông Không vì những Tiểu thừa Ba cõi là vô thường Không, vô ngã, lìa ngã Đồng tướng và biệt tướng Vì Thanh văn, ta nói Không chấp tất cả pháp Lìa thế gian “độc hành” Ta nói quả Duyên giác Chẳng phải cảnh suy lường Phân biệt thật thể ngoài Từ tha lực nên sinh Thấy tự thân mê hoặc Bấy giờ chuyển các tâm Thập địa tức Sơ địa Sơ địa tức Bát địa Cửu địa tức Thất địa Thất địa tức Bát địa Nhị địa tức Tam địa Tứ địa tức Ngũ địa Tam địa tức Lục địa Tịch tónh không trước sau Các pháp thường tịch tónh Tu hành là không pháp Pháp có, không bình đẳng Bấy giờ chứng quả Thánh Các pháp không thể, tướng Sao đối với pháp vô Mà hay nói bình đẳng Tịch tónh không phân biệt Nếu không thấy các tâm Pháp động trong và ngoài Bấy giờ các pháp diệt Đã thấy tâm bình đẳng Ngu lưu chuyển vô thủy Ôm giữ chấp các pháp Cuồng chuyển theo phàm phu Như dùng nêm, bật nêm Nương quán và nhân kia Cùng ý chấp cảnh giới Nương nơi chủng tử thức Nương vào tâm tạo tác Chứng đắc và an trú Tùy chủng loại thân đắc Và sở đắc trong mộng Có bốn loại thần thông Đắc thần thông trong mộng Cùng với ân chư Phật Chấp chủng loại thân đắc Thần thông ấy không thật Tâm huân, chủng tử huân Tợ có pháp chuyển sinh Người ngu không trí giác Nếu nói có pháp sinh Phân biệt với ngoại vật Thành tựu tướng các pháp Bấy giờ tâm mê muội Không thấy, tự mê hoặc Cớ sao nói về sinh Do đâu nói không thấy Không chỗ thấy mà thấy Nguyện xin vì con, nói Đối với những người nào Nói pháp nào là có? Đối với những người nào Nói pháp nào là không? Tâm, thể tự thanh tịnh Ý khởi các ô trược Ý và tất cả thức Hay làm huân chủng tử Xuất thân A-lại-da Ý tìm cầu các pháp Ý thức chấp cảnh giới Mê hoặc thấy tham chấp Tự tâm chỗ thấy pháp Ngoại pháp, không ngoại pháp Mê hoặc quán như vậy Thường nhớ nghó Chân như Cảnh giới người tu Thiền Sự nghiệp lớn của Phật Ba việc không nghó bàn Cảnh giới bậc Trí tuệ Quá khứ, hiện, vị lai Niết-bàn và hư không Ta nương tục đế, nói Chân đế không danh tự Hai thừa và ngoại đạo Chấp trước nơi tà kiến Mê muội ở trong tâm Phân biệt nơi ngoại pháp Phật, Duyên giác, Bồ-tát La-hán thấy chư Phật Tâm Bồ-đề kiên cố Và thành tựu trong mộng Ở đâu và những gì Vì sao và nhân gì Việc làm và nghóa gì Nguyện vì con, giảng nói Tâm huyễn bỏ tịch tónh Nói bè đảng có, không Mê chấp chặt trong tâm Nói có huyễn, không huyễn Tướng sinh, diệt tương ưng Tướng, sở tướng có, không Phân biệt chỉ do ý Và cùng với năm thức Ảnh tượng, bọt nước thảy Từ chủng tử tâm sinh Nếu tâm cho đến ý Và các thức không sinh Thời đắc thân như ý Cho đến quả vị Phật Các duyên và ấm, giới Tự thể tướng pháp này Giả danh và nhân tâm Như mộng, như hoa đốm Thế gian như huyễn mộng Nương tựa kiến chấp thật Các tướng vốn tương ưng Lìa các nhân quán xét Nội tâm các Thánh nhân Thường quán các diệu hạnh Do mê che quán xét Hiểu thế gian thật có Lìa các pháp hý luận Trí không trụ mê hoặc Các pháp không thực thể. Không và thường, vô thường Tâm trụ nơi ngu si Mê hoặc nên phân biệt Người nói các pháp này Chẳng phải nói “Vô sinh” Một, hai, đối với hai Bỗng nhiên tự tại có Nương bụi trần thù thắng Duyên phân biệt thế gian Chủng tử ấy là thức Y chỉ nhân kia sinh Như nương hình bức tranh Biết thật tức là diệt Như người thấy nơi huyễn Thấy sinh tử cũng vậy Người ngu si mê ám Buộc và giải thoát sinh Nội tâm và ngoại tại Các pháp và nhân duyên Tu hành quán như vậy Trụ ở nơi tịch tónh Trong huân tập không tâm Tâm không cùng huân tập Tướng tâm không sai biệt Huân tập ràng buộc tâm Như huân tập tà kiến Ý từ nơi thức sinh Tâm sáng suốt cũng vậy Nương huân tập không rõ Như vật chẳng không vật Ta nói hư không vậy Trong thân A-lại-da Lìa xa vật có, không Ý thức chuyển diệt rồi Tâm lìa xa pháp nhiễm Hiểu biết tất cả pháp Nên ta nói tâm Phật Đoạn dứt nơi ba thừa Lìa xa pháp có, không Bốn tương ưng thế pháp Các hữu đều như huyễn Thể tướng hai pháp này Bảy Địa từ tâm sinh Ngoài ra cũng thành tựu Hai Địa và Phật địa Sắc giới, Vô sắc giới Dục giới và Niết-bàn Tất cả cảnh giới tâm Không lìa ở trong thân Nếu thấy các pháp sinh Là pháp mê hoặc sinh Biết tự tâm mê hoặc Là các pháp không sinh Thể tướng pháp không sinh Sinh là đắm thế gian Thấy các tướng như huyễn Thể tướng pháp như vậy Tự tâm hư vọng chấp Chớ phân biệt các pháp Vì si, vô trí, nói Ba thừa với Nhất thừa Và nói về không thừa Các Thánh nhân tịch tónh Pháp ta có hai loại Pháp tướng và chứng đắc Bốn loại tướng quán xét Lập pháp quán tương ưng Thắng hơn hình và tướng Kiến mê hoặc phân biệt Danh tự và hành xứ Cõi thánh thật thanh tịnh Phân biệt nương phân biệt Nên có tướng phân biệt Phân biệt lìa phân biệt Thật thể cảnh giới Thánh Thật thường hằng, bất biến Sự tánh và thật thể Chân như lìa tâm, pháp Xa lìa nơi phân biệt Nếu không pháp thanh tịnh Cũng không có pháp nhiễm Do có tâm thanh tịnh Mà thấy có pháp nhiễm Cảnh giới Thánh thanh tịnh Cho nên không thật sự Thể tướng các pháp này Cảnh giới của Thánh nhân Nhân duyên sinh thế gian Lìa xa các phân biệt Như huyễn, mộng vân vân Thấy pháp đắc giải thoát Huân tập các phiền não Cùng tâm tương ưng sinh Chúng sinh thấy ngoại cảnh Chẳng phải thể tâm pháp Tâm, pháp thường thanh tịnh Chẳng phải mê hoặc sinh Mê từ phiền não sinh Cho nên tâm không thấy Mê hoặc tức Chân thật Chốn kia không đạt đến Không ấm, không chốn kia Như thật quán ấm, hành Lìa tướng kiến, sở kiến Nếu thấy pháp hữu vi Thấy tự tâm thế gian Người đó hay lìa tướng Chớ thấy pháp duy tâm Chớ phân biệt ngoại nghóa Trụ nơi Chân như quán Vượt qua cảnh giới tâm Qua cảnh giới tâm rồi Xa lìa các tịch tónh Tu hành trụ tịch tónh Hành giả tịch tónh trú Không thấy được Đại thừa Tự nhiên gọi tịch tónh Nương các nguyện thanh tịnh Trí vô ngã tịch tónh Nên quán cảnh giới tâm Cũng quán cảnh giới trí Quán cảnh giới trí tuệ Không mê ở trong tướng Cảnh giới tâm: Khổ đế Cảnh giới trí là tập Hai Đế và Phật địa Là cảnh giới Bát-nhã Đắc quả và Niết-bàn Cùng với tám Thánh đạo Biết rõ tất cả pháp Đắc Phật trí thanh tịnh Nhãn sắc cùng với Minh Hư không cùng tâm, ý Các pháp ấy hòa hợp Thức từ Lại-da sinh Thọ hay chấp, bị chấp Không danh cũng không sự Không do nhân phân biệt Hoặc chấp nơi giác ngộ Ở trong nghóa không danh Trong danh, nghóa cũng vậy Do không nhân mà sinh Chớ phân biệt, phân biệt Tất cả pháp không thật Ngôn ngữ cũng như thế Như nghóa không, không không Ngu si thấy pháp này Vọng chấp là thật có Tà kiến nói giả danh Một pháp thành năm loại Thật trí hay xa lìa Năm loại tà pháp này Vượt qua pháp có, không Không cảnh giới tu hành Là pháp của ngoại đạo Không mong có tà pháp Cũng không trông thấy ngã Do tự biết thường pháp Chỉ từ ngôn ngữ sinh Thật đế không nói hết Tịch diệt thấy các pháp Nương thức A-lại-da Hay chuyển sinh ý thức Y chỉ nơi tâm, yÙ Thường sinh nơi chuyển thức Nương hư, hư vọng thành Chân như là tâm pháp Như vậy người tu hành Hay biết thể tâm tánh Phân biệt thường, vô thường Tướng ý cùng với sự Sinh cùng với không sinh Hành giả không nên chấp Chớ phân biệt hai pháp Thức từ Lại-da sinh Một nghóa hai pháp sinh Không biết pháp như thế Chấp pháp một và hai Là cảnh giới phàm phu Người thuyết và không thuyết Không không để thấy tâm Không thấy nơi tự tâm Nên võng lưới kiến sinh Các nhân duyên không sinh Các căn cũng như vậy Không giới và năm ấm Không tham, không hữu vi Vốn không có tạo nghiệp Không tạo, không hữu vi Không bỏ cũng không buộc Không trói cũng không mở Không vô ký, không vật Không pháp, không phi pháp Không thời, không Niết-bàn Thể pháp cũng là không Không Phật, không Thật đế Không nhân cũng không qua Không điên đảo, không diệt Không diệt cũng không sinh Mười hai chi cũng không Biên, vô biên cũng vậy Lìa xa các tà kiến Cho nên nói duy tâm Nghiệp phiền não và thân Người tạo và quả báo Như thành Càn-thát-bà Sóng nắng, mộng vân vân Trụ ở trong tâm pháp Mà sinh các pháp tướng Trụ ở trong tâm pháp Mà thấy nơi đoạn, thường Trong Niết-bàn không ấm Không ngã cũng không tướng Hội nhập chỉ là tâm Giải thoát không chấp tướng Thấy kia đâu lỗi lầm Các chúng sinh thấy ngoài Tâm chẳng có, chẳng không Do huân tâïp không hiểu Trong nhơ không thấy sạch Trong sạch không thấy nhơ Như mây che hư không Bởi vậy tâm không thấy Tâm hay tạo các nghiệp Ở trong trí phân biệt Tuệ hay quán tịch tónh Đắc thể đại diệu pháp Tâm chuyển theo cảnh giới Trí nương giác quán sinh Tịch tónh thắng cảnh giới Tuệ hay ở trong hành Tâm, ý và ý thức Ở trong tướng phân biệt Đắc thể không phân biệt Hai thừa không chủng tử Tịch tónh thắng nhân tướng Trí tuệ Phật thanh tịnh Thường sinh với Thắng trí Đã lìa các hành tướng Phân biệt có thể pháp Pháp tha lực là không Mê hoặc chấp phân biệt Không phân biệt tha lực Không các đại, có sắc Có sắc, không các đại Càn-thát-bà mộng huyễn Thú khát không thích nước Ta có ba loại tuệ Được y chỉ Thánh nhân Tâm sinh từ trong pháp Cho nên không thấy tâm Do duyên thân hiện hữu Chúng sinh huân tập thấy Nương tướng phân biệt kia Mà nói về các pháp Lìa hai thừa tương ưng Lìa tuệ pháp tướng hiện Hư vọng chấp lấy pháp Thanh văn thấy nơi pháp Hội nhập chỉ là tâm Trí Như Lai không cấu Hoặc thật và không thật Pháp từ nhân duyên sinh Một, hai tà kiến này Rốt cục hay chấp trước Tất cả các nhân duyên Như huyễn không có thật Như vậy tất cả tướng Không thể thành phân biệt Nương nơi tướng phiền não Các phược từ tâm sinh. Không biết pháp phân biệt Tha lực phân biệt này Đã có thể phân biệt Tức là pháp Tha lực Tất cả thấy phân biệt Đối Tha lực phân biệt Tục đế, Đệ nhất nghóa Thứ ba không nhân sinh Phân biệt nói tương tục Đoạn tức cảnh giới Thánh Một việc người tu hành Do tâm thấy tất cả Tâm thể không ở kia Cho nên phân biệt tướng Như người bị nhặm mắt Phân biệt các loại sắc Không phải sắc phi sắc Như ngu thấy Tha lực Như vàng lìa bụi bặm Như nước lìa bùn đục Như hư không lìa mây Tịnh phân biệt như vậy Thanh văn có ba hạng Ứng, Hóa và nguyện sinh Lìa các cấu tham, si Thanh văn từ pháp sinh Bồ-tát cũng ba hạng Chư Như Lai vô tướng Trong tâm mỗi chúng sinh Thấy tượng Phật Như Lai Phân biệt không như vậy Có thể pháp tha lực Thấy hai thứ có, không Thấy vậy nên phân biệt Hoặc không phân biệt pháp Tha lực làm sao có Có xa lìa thể pháp Thật có thể pháp sinh Nương tựa nơi phân biệt Mà thấy về Tha lực Nương danh, tướng hòa hợp Mà sinh ra phân biệt Thường không được thành tựu Sinh phân biệt Tha lực Bấy giờ trí thanh tịnh Thật thể Đệ nhất nghóa Phân biệt có mười loại Tha lực có sáu loại Chân như là nội thân Cho nên không tướng khác Năm pháp thật pháp này Cùng ba loại thật tướng Như vậy, người tu hành Không hoại pháp Chân như Hình tượng, mây và sao Tợ như thể trăng, trời Các chúng sinh thấy tâm Sở kiến huân tập sinh Các Đại không tự thể Không năng kiến, sở kiến Nếu sắc từ đại sinh Các đại sinh các đại Như vậy không sinh đại Trong đại không bốn đại Nếu quả là bốn đại Do địa, thủy, hỏa, phong Danh, sắc, thật và giả Huyễn sinh tạo như vậy Mộng và Càn-thát-bà Thứ năm: thú ái nước Xiển-đề trong năm loại Các chủng tánh cũng vậy Năm thừa và phi thừa Niết-bàn có sáu loại Ấm có hai mươi bốn Sắc lại có tám loại Phật có hai mươi bốn Phật tử có hai loại Pháp môn có trăm loại Thanh văn có ba loại Cõi chư Phật có một Mà Phật cũng có một Giải thoát có ba loại Tâm suy tư có bốn Vô ngã, ngã: sáu loại Cảnh sở trí có bốn Xa lìa các nhân duyên Cũng lìa khỏi tà kiến Trí nội thân lìa cấu Pháp Đại thừa vô thượng Sinh cùng với không sinh Có tám đến chín loại Một thời tuần tự chứng Lập pháp duy nhất này Vô sắc có tám loại Thiền sai biệt: Sáu loại Duyên giác và Phật tử Thường chấp có bảy loại Không có pháp ba đời Thường, vô thường cũng vậy Tạo nghiệp và quả nghiệp Sự việc như trong mộng Xưa nay Phật không sinh Thanh văn cũng như vậy Tâm lìa nơi sở kiến Cũng thường như pháp huyễn Thai sinh chuyển pháp luân Xuất gia và Đâu-suất Ở trong các cõi nước Mà không sinh sở kiến Hành hóa và chúng sinh Thuyết pháp và Niết-bàn Biết Thật đế, cõi nước Từ pháp nhân duyên sinh Thế gian, các rừng cây Vô ngã, hành ngoại đạo Thiền, thừa, A-lại-da Nói quả không suy lường Tánh mặt trăng, vì sao Các vua, A-tu-la Dạ-xoa, Càn-thát-bà Do nghiệp mà phát sinh Thay đổi không thể bàn Lại nương duyên huân tập Đoạn tuyệt các biến chuyển Thời diệt tội, phiền não Tất cả các Bồ-tát Hành giả như thật tu Không chứa các của báu Vàng, bạc và voi, ngựa Trâu, dê, nô tỳ thảy Lúa, gạo cùng ruộng, nhà Không nằm giường chạm trổ Không được dùng bùn đất Vàng, bạc, đồng đỏ, trắng Chén, bát và đồ dùng Hành giả tịnh tu hành Tất cả: không được chứa Y phục Kiền-xà-da Tất cả: không được mặc Ca-sa Khâm-bà-la Phân ngựa, cỏ, lá, quả Xanh, đỏ, bùn đất lỏng Nhuộm hoại màu sắc trắng Bùn đá cùng với sắt Ngọc kha và lưu ly Bát như vậy cho chứa Vừa đủ lượng Ma-đà Dùng y phục cắt rọc Cho chứa dao bốn tấc Cong như nửa mặt trăng Không được học kỹ thuật Người như thật tu hành Không buôn bán ở chợ Nếu cần, sai cư só Và các Ưu-bà-tắc Thường hộ trì các căn Biết rõ như thật nghóa Đọc tụng Tu-đa-la Và học các Tỳ-ni Không ăn cùng Bạch y Người tu hành như vậy Chỗ vắng và gò mã Trong hang dưới rừng cây Trong cỏ, rừng Thi-la Cho đến ở ngoài đồng Người như thật tu hành Nên ở chỗ như thế Ba y thường bên mình Không chứa dư tiền của Vì thân cần y phục Mình, người đều cho nhận Đi ra ngoài khất thực Cũng không nhìn hai bên Nhìn trước đất: thước sáu An bình mà đi thẳng Như ong hút mật hoa Khất thực cũng như vậy Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni Chúng tạp loạn trong chúng Ta vì Phật tử nói Đây là mưu sống ác Hành giả như thật tu Nơi này không được ăn Vua, thái tử, vương tử Đại thần và trưởng giả Vì mong cầu ăn uống Tất cả, không được đến Nhà có tang, sinh con Thân thuộc, nhà luyến ái Chúng Tỳ-kheo tạp loạn Người tu không cùng ăn Khói chùa phòng không dứt Thường làm các thức ăn Vì người nên làm ra Hành giả không nên ăn Lìa bè đảng: Có, không Năng kiến và Sở kiến Hành giả quán thế gian Lìa xa pháp sinh diệt Tương ưng Lực Tam-muội Và thần thông tự tại Nếu không sinh phân biệt Không lâu được Như pháp Theo những bậc Tối thắng Trong duyên chớ phân biệt Các nhân duyên hòa hợp Hành giả không phân biệt Phân biệt các thế gian Đều từ huân tập sinh Hành giả như thật quán Ba cõi như huyễn mộng Chớ phân biệt ba cõi Do duyên, thân hiện hữu Lìa phỉ báng có, không Cũng lìa thấy: Có, không Ăn uống xem như thuốc Thân tâm thường ngay thẳng Nhất tâm chuyên cung kính Phâït và các Bồ-tát Hành giả như thật tu Nên biết tướng các Luật Và các Tu-đa-la Chọn lựa tướng các pháp Năm pháp thể và tâm Tu hành tướng vô ngã Thanh tịnh nội Pháp thân Các Địa và Phật địa Như vậy người tu hành Trụ nơi hoa sen lớn Chư Phật đại Từ bi Tay Như ý xoa đầu Đi lại trong sáu đường Các cõi sinh nhàm chán Phát khởi hạnh như thật Đến trong rừng Thi-đà Thể tướng mặt trời, trăng Cùng với tướng biển hoa Hư không, lửa, các thứ Người tu hành thấy pháp Thấy các tướng như vậy Chấp vào pháp ngoại đạo Cũng thuận đạo Thanh văn Và cảnh giới Duyên giác Như vậy lìa tất cả Trụ ở nơi tịch tónh Lúc Phật Diệu Quang Minh Ở nơi các cõi nước Xoa đầu Bồ-tát kia Diệu tướng xoa đầu này Tùy thuận pháp Chân như Ấy được thân vi diệu Nhân thể pháp có, không Lìa xa pháp thường, đoạn Chê bai pháp có, không Là phân biệt Trung đạo Phân biệt không các nhân Không nhân là đoạn kiến Thấy tất cả ngoại pháp Người này diệt Trung đạo Không bỏ tướng các pháp Sợ có tướng diệt mất Chê bai pháp có, không Như thế nói Trung đạo Biết chỉ ở nội tâm Không diệt nơi ngoại pháp Chuyển hư vọng phân biệt Tức là pháp Trung đạo Duy tâm không sở kiến Lìa nơi tâm không sinh Tức là pháp Trung đạo Ta và chư Phật nói Sinh cùng với không sinh Có vật, không vật, không. Các pháp không tự thể Chớ phân biệt hai pháp Phân biệt là có pháp Ngu phân biệt giải thoát Không biết tâm phân biệt Lìa hai tướng chấp thủ Biết rõ tự tâm thấy Thời xa lìa Nhị kiến Như thật biết xa lìa Không diệt tướng phân biệt Thật biết tâm sở kiến Thời biết phân biệt sinh Không sinh các phân biệt Là Chân như, lìa tâm Lìa khỏi các ngoại đạo Nếu thấy các pháp sinh Người trí kia chấp giữ Niết-bàn mà không diệt Biết pháp này là Phật Ta nói, các Phật nói Nếu thấy các pháp khác Là việc ngoại đạo nói Không sinh hiện nơi sinh Không mất thường hiện mất Giống như trăng trong nước Vạn ức cõi nước thấy Một thân và vô lượng Lửa cháy và mưa rơi Tâm, tâm thể không khác Nên nói chỉ là tâm Trong tâm chỉ là tâm Tâm không tâm mà sinh Các loại sắc, hình tướng Chỗ thấy chỉ là tâm Phật và thân Thanh văn Bích-chi-phật hết thảy Và vô số sắc thân Chỉ nói là nội tâm Vô sắc giới không sắc Sắc giới và địa ngục Sắc hiện là chúng sinh Chỉ là nhân duyên tâm Pháp Tam-muội Như huyễn Mà sinh thân Như ý Thập địa, tâm tự tại Đắc kia, Bồ-tát chuyển Tự tâm phân biệt danh Hý luận và dao động Nương thấy, nghe sinh biết Ngu si nương tướng biết Tướng là thể tha lực Nó nương danh phân biệt Phân biệt các tướng này Nương tha lực, pháp sinh Trí tuệ quán các pháp Không tha lực, không tướng Rốt ráo không thành tựu Trí nương đâu phân biệt Hoặc có pháp thành tựu Xa lìa pháp có, không Xa lìa thể có, không Hai thể làm sao có? Phân biệt hai thể này Hai thể này nên có Phân biệt thấy tất cả Cảnh giới Thánh thanh tịnh Phân biệt là vô số Phân biệt là Tha lực Nếu người phân biệt khác Rơi vào thuyết ngoại đạo Phân biệt là phân biệt Thấy là nhân, thể, tướng Phân biệt nói phân biệt Thấy là nhân, tướng sinh Lìa hai thứ phân biệt Tức là pháp thành tựu Cõi nước Phật hóa thân Nhất thừa và Tam thừa Không Niết-bàn cả thảy Không lìa tất cả sinh Phật, ba mươi sai biệt Mỗi sai biệt có mười Tất cả khí thế gian Nương tâm các chúng sinh Như pháp tướng phân biệt Hiện thấy vô số pháp Pháp ấy không vô số Phật pháp, thế gian vậy Phật pháp là chân Phật Ngoài ra nương hóa thân Chủng tử các chúng sinh Thấy tất cả tướng Phật Nương mê hoặc buộc tâm Hay sinh các phân biệt Thật không lìa phân biệt Và không xa lìa tướng Thật thể và thọ lạc Hóa thân tạo các thân Chúng Phật ba mươi sáu Là thật thể chư Phật Như xanh, đỏ và muối Ngọc kha, sữa, đường phèn Hoa, lá, quả cả thảy Như ánh sáng mặt trăng Chẳng một cũng chẳng khác Như sóng lớn trong nước Bảy thức này cũng thế Cùng hòa hợp với tâm Như biển cả chuyển biến Cho nên sóng dập dồn A-lại-da cũng vậy Danh, thức cũng như vậy Tâm, ý và ý thức Phân biệt nghóa ngoại tướng Tám tướng không sai biệt Không thấy, không chỗ thấy. Như sóng nước biển cả Không có tướng sai biệt Các thức đối với tâm Chuyển biến không biết được Tâm hay tạo các nghiệp Ý hay sinh phân biệt Ý thức hay biết pháp Năm thức hư vọng thấy Các màu xanh đỏ trắng… Thức chúng sinh hiện thấy Tướng sóng, nước với pháp Ta vì ông nói rõ Xanh, đỏ, trắng các loại Trong sóng nước không thấy Ngu si thấy các tướng Nói là trong tâm chuyển Trong tâm không thể này Lìa tâm không thể thấy Nếu có nơi sở chấp Thì có nơi năng chấp. Do duyên thân hiện hữu Nói tương tự sóng nước Thức chúng sinh hiện thấy Sóng nước đều như nhau Sóng nước biển nổi dậy Uyển chuyển như nhảy múa Bản thức chuyển như vậy Tại sao biết không chấp Ngu si không trí tuệ Bản thức như sóng nước Sóng nước chuyển tương đối Cho nên nói thí dụ Như mặt trời xuất hiện Bình đẳng chiếu chúng sinh Như đèn sáng Thế Tôn Không vì ngu nói pháp Trụ nơi pháp Chân như Sao không nói thật pháp Nếu nói về thật pháp Trong tâm không thật pháp Như sóng nước trong biển Như gương và như mộng Như cảnh giới tự tâm Đều thấy không trước sau Không cảnh giới nhất thời Cho nên thứ lớp sinh Thức hay biết các pháp Ý lại hay phân biệt Năm thức hiện thấy pháp Tịch tónh không thứ lớp Như họa só ở đời Và học trò học vẽ Ta trụ ở pháp vi diệu Vì thật tu hành, nói Lìa phân biệt, phân biệt Là thật trí nội thân Ta nói cho Phật tử Không nói cho kẻ ngu Cũng như huyễn hết thảy Sở kiến không như vậy Nói các thứ cũng vậy Nói cũng vậy, không vậy Vì một người nói pháp Không vì người khác nói Như mỗi người mỗi bệnh Thầy cho thuốc khác nhau Chư Phật vì chúng sinh Tùy tâm nói các pháp Nương chủng tử ngoại pháp Phân biệt thuyết hiện pháp Tâm chấp pháp tha lực Sở chấp là phân biệt Nương nơi chủng tử tâm Quán chấp ngoại cảnh giới Hai loại chuyển mê hoặc Lại không nhân thứ ba Dùng mê hoặc không sinh Nương pháp nào không sinh Sáu mươi, mười tám pháp Cho nên chỉ nói tâm Tự tâm thấy ngoại pháp Thấy ấy lìa xa ngã Hoặc nhập tâm phân biệt Hay lìa tướng các pháp Nương vào A-lại-da Hay sinh ra các thức Ngu si nhập nội thân Tâm thấy nơi ngoại nhập Chấp ánh sáng ngôi sao Như trong mộng thấy sắc Hữu vi, vô vi thường Không phân biệt như vậy Thành huyễn Càn-thát-bà Như cầm thú ưa nước Không như vậy, thấy có Pháp tha lực cũng vậy Ngã, các căn, hình tướng Ta nói ba loại tâm Tâm, ý và ý thức Xa lìa tướng, tâm, thể Tâm, ý và yÙ thức Xa lìa tướng tự thể Tâm, ý và ý thức Không ngã, không hai thể Năm pháp tự thể tướng Là cảnh giới chư Phật Tướng ấy có ba loại Nương vào nhân huân tập Như loại tơ năm sắc Trên tường thấy đủ màu Hai loại tâm vô ngã Ý và các thức tướng Năm loại pháp thể tướng Tánh ngã không như vậy Xa lìa tướng các tâm Thức lìa nơi tướng ý Thể các pháp như vậy Là cảnh giới của ta Lìa xa thể các pháp Là tánh các Như Lai Nghiệp thân, miệng và ý Không tạo pháp trong sạch Tánh Như Lai thanh tịnh Xa lìa sự tu hành Các thần thông tự tại Sức Tam-muội trang nghiêm Các loại ý sinh thân Là tánh tịnh Như Lai Biết trong thân lìa cấu Lìa xa tướng các nhân Bát địa và Phật địa Là tánh các Như Lai Viễn hành, Thiện tuệ địa Pháp vân và Phật địa Là tánh của Như Lai Địa xen lẫn ba Thừa Nương chúng sinh khác biệt Và vì tướng ngu si Vì nói bảy loại Địa Nên Phật thuyết Tâm địa Thân, miệng, ý, các chướng Trong Thất địa, không thế Diệu thân trong Bát địa Như tướng môïng, nước bọt Bát địa và Ngũ địa Học các loại kỹ thuật Tất cả các Phật tử Làm vua trong ba cõi Sinh cùng với không sinh Không phân không, bất không Thật cùng với không thật Trong tâm không như vậy Đây thật, đây không thật Chớ phân biệt thật ấy Duyên giác và Thanh văn Không vì Phật tử nói Có, không có chẳng thật Cũng không có tướng không Giả danh và thật pháp Trong tâm tất cả không Nương tục đế có pháp Đệ nhất nghóa đều không Không thật, mê hoặc pháp Là các pháp tục đế Tất cả pháp, không pháp Ta nói đều giả danh Ngôn ngữ và thọ dụng Ngu si thấy là thật Từ nơi pháp ngôn ngữ Là thật có cảnh giới Từ ngôn ngữ sinh pháp Thấy pháp không như vậy Như lìa tường không vẽ Cũng như bóng lìa hình Bản thức cũng như vậy Như sóng nước không hiện Cũng vậy, tâm như huyễn Ý như kẻ lừa đảo Ý cùng với năm thức Phân biệt tựa năm sắc Nói tu tập chân pháp Có tập hợp, hóa hiện Là nguồn gốc chư Phật Ngoài ra Ứng, Hóa Phật Tâm mê trong chỗ thấy Chỗ thấy trong tâm không Do duyên thân hiện hữu Tức A-lại-da hiện Tâm, ý và ý thức Thật thể năm pháp này Hai loại tịnh vô ngã Chư Phật Như Lai nói Hư vọng biết không cảnh Và Thanh văn cũng vậy Là cảnh giới nội thân Chư Phật Như Lai thuyết Dài, ngắn đối đãi nhau Đây, kia nương nhau sinh Có có thể thành không Không có thể thành có Và phân biệt bụi trần Không phân biệt sắc thể Nói chỉ là nơi tâm Tà kiến không thanh tịnh Trong đây phân biệt không Không không cũng như vậy Có, không chỉ phân biệt Nói không thể như vậy Vô số công đức hợp Ngu si phân biệt sắc Mỗi mỗi vi trần: không Cho nên nghóa không thật Tự tâm thấy hình tướng Chúng sinh thấy ngoại giới Bên ngoài không chỗ khấy Cho nên nghóa không thật Tâm như hoa đốm huyễn Thành Càn-thát mộng ảo Vòng lửa, thú thích nước Không thật, người thấy có Thường, vô thường và một Hai cùng với không hai Vô thủy đã trói buộc Ngu si mê phân biệt Ta không nói ba thừa Chỉ nói pháp Nhất thừa Vì nhiếp phục chúng sinh Cho nên nói Nhất thừa Giải thoát có ba loại Cũng nói pháp vô ngã Bình đẳng trí, phiền não Nương giải thoát phân biệt. Cũng như cây trong nước Bị sóng đẩy trôi dạt Như Thanh văn ngu si Vì các tướng phiêu bạt Ấy, không chỗ cứu cánh Cũng không sinh trở lại Đắc Tam-muội Tịch tónh Vô lượng kiếp không biết Là định của Thanh văn Không phải Phật, Bồ-tát Lìa các tùy phiền não Từ tập, phiền não buộc Say lạc cảnh Tam-muội Trú cõi vô lậu kia Như người say ở đời Rượu nhạt dần mới tỉnh Người ấy sau khi đắc Thể Pháp thân Thế Tôn Như voi lún bùn sâu Thân lay động Đông, Tây Như vậy say Tam-muội Thanh văn chìm đắm vậy. KINH NHẬP LĂNG-GIÀ <卷 id="118149495">Quyển 10 <詞 id="118149496">Phẩm 18: tổng trì (Phần 2) Nương nơi cảnh giới Phật Các nguyện lực thanh tịnh Thọ, thức và Tam-muội Công đức cùng Thập địa Hư không với sừng thỏ Và con của Thạch nữ Phân biệt pháp như vậy Không mà nói danh tự Huân chủng tử thế gian Chẳng có, chẳng không xứ Năng kiến đắc giải thoát Biết rõ pháp Vô ngã Phân biệt thật thể danh Thể kia từ duyên sinh Ta nói là thành tựu Các kinh thường nói vậy Câu, chữ, danh, thân thảy Nơi thắng pháp danh, thân Người ngu si phân biệt Như voi lún đầm lầy Thiên và Phạm thiên thừa Cùng với Thanh văn thừa Như Lai và Duyên giác Ta nói thừa như vậy Không nói hết các thừa Có tâm sinh như vậy Tâm chuyển diệt cũng không Không thừa cùng với thừa Tâm phân biệt và thức Ý cùng với ý thức A-lại-da, ba cõi Tâm suy tư tên khác Mạng cùng với ấm, thức Mạng căn, A-lại-da Ý cùng với ý thức Là phân biệt tên khác Tâm an trụ nơi thân Ý thường biết các pháp Cảnh giới nơi tâm thức Cùng với thức phân biệt Ta nói ái là mẹ Vô minh nhận làm cha Thức biết các cảnh giới Cho nên nói danh Phật Các sử là oan gia Chúng hòa hợp là ấm Không ở thể tương tục Đoạn kia là vô gián Hai: Vô ngã, phiền não Và hai loại Vô ngã Không thể nghó bàn được Không sinh tử là Phật Ý tương ưng pháp thể Ngã, pháp là nội thân Nếu hay thấy như vậy Ấy không theo vọng giác Thật không có các pháp Như ngu si phân biệt Nương hư vọng không pháp Làm sao đắc giải thoát Sinh diệt hòa hợp buộc Thấy nơi pháp hữu vi Tăng trưởng nơi hai kiến Không mất pháp nhân duyên Cây chuối, mộng, huyễn thảy Thế gian này như vậy Chỉ là một thật pháp Niết-bàn lìa ý thức Có tham cùng với sân Và có si, có thân Từ ái sinh các ấm Ấm có cũng như mộng Sao chứng đạo ban đêm Sao nhập diệt ban đêm Ở trong hai loại này Ta không nói một chữ Nội thân chứng nơi pháp Ta nương như vậy nói Phật kia và thân ta Không có nói thắng pháp. Thật vật có Thần ngã Năm ấm lìa tướng kia Thể ấm là thật hữu Trong ấm kia không ngã Mỗi mỗi tự phân biệt Tùy phiền não, kết sử Đắc tự tâm thế gian Lìa khổ đắc giải thoát Các nhân và nhân duyên Thế gian như vậy sinh Là bốn pháp tương ưng Kia không trụ pháp ta Chẳng có, không sinh pháp Lìa có, không không sinh Ngu làm sao phân biệt Từ nhân và các duyên Lìa bốn câu: Có, không Nếu hay thấy thế gian Bấy giờ tâm thức chuyển Tức đắc pháp Vô ngã Các pháp vốn không sinh Ấy do nhân duyên sinh Các duyên tức là quả Trong quả sinh cõi nước Trong quả sinh hai loại Trong quả nên có hai Mà trong hai không quả Trong quả không thấy vật Lìa xa quán, sở quán Nếu thấy pháp hữu vi Lìa tâm chỉ là tâm Nên ta nói duy tâm Lượng xét thật thể tướng Lìa xa duyên thật thể Cứu cánh Đệ nhất tịnh Ta nói lượng như vậy Như giả danh là ngã Pháp sở kiến không thật Như vậy thể các ấm Là giả danh không thật Bình đẳng có bốn loại Tướng nhân cùng với sinh Vô ngã cũng bình đẳng Người tu hành bốn pháp Chuyển tất cả các kiến Phân biệt, sở phân biệt Không kiến cùng không sinh Nên ta nói duy tâm Không pháp cũng chẳng không Lìa xa thể có, không Chân như lìa xa tâm Nên ta nói duy tâm Chân như, không, thật thể Niết-bàn và pháp giới Ý sinh thân và tâm Nên ta nói duy tâm Phân biệt nương huân tập Các loại sinh các loại. Tâm chúng sinh thấy ngoài Nên ta nói duy tâm Sở kiến không ngoài vật Thấy tâm các thứ kiến Do duyên thân hiện hữu Nên ta nói duy tâm Các Thanh văn tận trí Chư Phật Như Lai sinh Tất cả Bích-chi-phật Không hòa hợp mà sinh Không ngoài các sắc tướng Tự tâm thấy ngoại pháp Hiểu biết nơi tự tâm Ngu phân biệt các pháp Người ngu không biết ngoài Tự tâm thấy các thứ Ví dụ ngăn người ngu Chấp chặt nơi bốn pháp Không nhân, không phân biệt Thí dụ năm loại luận Tự tâm thể hình tướng Hay biết được chút ít Phân biệt, sở phân biệt Đây là tướng phân biệt Nương tựa nơi phân biệt Phân biệt liền hiện sinh Mỗi phân biệt hòa hợp Là nhân một chủng tử Khách Nhị pháp là hai Nên tâm người không sinh Phân biệt tâm, tâm pháp Trụ ở trong ba cõi Hiện sinh tất cả pháp Thể kia là hư vọng Nhân nương hiện hòa hợp Nên có mười hai nhập Nương nhân quán hòa hợp Ta không nói pháp này Như trong kính thấy hình Mắt nhặm thấy hoa đốm Như nương tâm huân này Là tâm người ngu thấy. Cùng phân biệt, phân biệt Mà sinh ra phân biệt Như ngoại đạo phân biệt Không như ngoại tướng này Như người không biết dây Mà chấp đó là rắn Không biết nghóa tự tâm Phân biệt nơi ngoại pháp Ràng buộc nơi thể thừa Lìa một trong hai loại Dùng phân biệt nơi thừa Là lìa lỗi tự tâm Nương pháp nào? Thể nào? Phân biệt không thể thấy Không được nói kia không Thể các pháp như vậy Nương có nên nói không Nương không nên nói có Nên không được nói không Cũng không được nói có Tức phân biệt, phân biệt Không phải thể pháp kia Tại sao thấy không thể Mà sinh ra phân biệt Sắc thể không sắc thân Như bình và vải thảy Đã thấy là không pháp Tại sao có phân biệt Nếu phân biệt là mê Pháp hữu vi vô thủy Pháp nào mê chúng sinh Xin Phật vì con nói Các pháp không thể pháp Mà chỉ nói là tâm Không thấy nơi tự tâm Mà sinh khởi phân biệt Nếu phân biệt không này Như ngu si phân biệt Pháp kia không thể khác Mà trí không thể biết Nếu Thánh có pháp kia Không phàm phu phân biệt Nếu Thánh vọng có kia Thánh, ngu đều không khác Thánh nhân không mê hoặc Do được tâm thanh tịnh Người ngu không tín tâm Nên phân biệt, phân biệt Như mẹ vì các con Hư không dẫn quả đến Ngươi nắm quả chớ khóc Con lấy vô số quả Ta vì các chúng sinh Phân biệt các thứ quả Khiến nói tham hết thảy… Lìa bè đảng có, không Nếu vốn không thể pháp Không nhân, không từ nhân Vốn không sinh, mới sinh Cũng không thân thể ấy Không thân cũng chẳng sinh Lìa nhân duyên không xứ. Thể các pháp sinh diệt Không lìa ở nhân duyên Lược quán sát như vậy Có, không chẳng ngoài xứ Từ nhân duyên sinh pháp Người trí chớ phân biệt Nói một thể, hai thể Ngoại đạo ngu si nói Thế gian như mộng, huyễn Không từ nhân duyên sinh Nương cảnh giới ngôn ngữ Pháp Đại thừa Vô thượng Ta nương liễu nghóa nói Nên ngu si không hiểu Thanh văn và ngoại đạo Nương đố kî nói pháp Nơi nghóa không tương ưng Nương theo vọng giác nói Thể tướng và hình tướng Gọi là bốn loại pháp Quán sát pháp như vậy Nên sinh ra phân biệt Phân biệt một, hai, nhiều Kia Phạm thiên trói buộc Trời, trăng và chư Thiên Thấy ấy, chẳng con ta Thánh nhân thấy Chánh pháp Lấy như thật tu hành Hay chuyển tướng hư vọng Cũng lìa nơi đi, lại Đây là ấn giải thoát Ta dạy các Phật tử Lìa xa pháp có, không Cũng lìa tướng đi, lại Chuyển các loại sắc, thức Hoặc diệt tất cả nghiệp Không hợp thường, vô thường Không thế gian, sinh pháp Nếu lúc chuyển hoặc diệt Sắc lìa nơi xứ kia Lìa chỗ không lỗi lầm Nghiệp trụ A-lại-da Sắc là diệt thể tướng Trong thức, có cũng vậy Sắc, thức cùng hòa hợp Mà không mất các nghiệp Nếu cùng kia hòa hợp Chúng sinh mất các nghiệp Nếu diệt nghiệp hòa hợp Không sinh tử: Niết-bàn Nếu cùng với kia diệt Sinh ở trong thế gian Sắc cũng cùng hòa hợp Không sai biệt với có Có khác cũng không khác Chỉ là tâm phân biệt Các pháp không diệt thể Lìa bè đảng có, không Pháp nhân duyên giả danh Thay đổi không sai biệt Như vô thường trong sắc Thay đổi sinh các pháp Lìa hai tướng đây, kia Phân biệt không thể biết Có, không có gì thành Như vô thường trong sắc Nếu khéo phân biệt thấy Tức không khởi tha lực Đối với pháp tha lực Cũng không khởi phân biệt Nếu diệt nơi phân biệt Là diệt nơi pháp ta Trong pháp ta, tạo tác Cũng hủy báng có, không Người hủy báng pháp này Trong lúc nào mà có Là diệt pháp luân ta Không được cùng họ nói Người trí không cùng nói Không cùng pháp Tỳ-kheo Đã diệt nơi phân biệt Thấy huyễn lìa có, không Thấy như hoa đốm huyễn Như mộng, Càn-thát-bà Cũng như thấy sóng nắng Thời thấy nơi có, không Người kia không học pháp Nếu người ủng hộ họ Người ấy rơi nhị biên Cũng hoại đến người khác Nếu biết pháp tịch tónh Hành giả này thâït tu Lìa xa pháp có, không Nên nhiếp hộ người ấy Như nơi có thể xuất Vàng, bạc, các châu báu Không tạo tác các nghiệp Mà chúng sinh lấy dùng Tánh chân như chúng sinh Không do nơi nghiệp có Không chấp nên không nghiệp Cũng chẳng tạo nghiệp sinh Các pháp không pháp thể Như Thánh nhân phân biệt Mà có ở các pháp Như ngu si phân biệt Hoặc pháp không như vậy Như ngu si phân biệt Không có tất cả pháp Chúng sinh cũng không nhiễm Pháp nương tâm mà có Phiền não cũng như vậy Sinh tử trong thế gian Tùy theo căn mà chuyển Vô minh, ái hòa hợp Sinh ra các thân ấy Ngoài nhân, thường không pháp Như ngu si phân biệt Nếu nhân, pháp không sinh Hành giả không thấy căn Hoặc các pháp là không Hay tạo nhân thế gian Người ngu lìa tạo tác Tự nhiên được giải thoát Ngu, thánh không sai khác Có, không làm sao thành? Thánh nhân không pháp thể Do tu ba giải thoát. Năm ấm và nhân, pháp Tướng có giống, có khác Các nhân duyên và căn Ta vì Thanh văn, nói Không nhân chỉ là tâm Diệu sự và các Địa Trong thân Chân như tịnh Vì các Phật tử, nói Người ở đời vị lai Phỉ báng pháp luân ta Thân mặc áo ca-sa Nói các pháp có, không Không có pháp nhân duyên Là cảnh giới Thánh nhân Phân biệt không pháp thể Người mê lầm phân biệt Đời vị lai có người Hạng ngu si ăn trấu Không nhân và tà kiến Phá hoại người thế gian Vi trần sinh cõi nước Hạt bụi là không nhân Chín loại vâït là thường Tà kiến nói như vậy Từ vật sinh ra vật Công đức sinh công đức Pháp này khác với pháp Phân biệt là chân thật Vốn không bắt đầu sinh Thế gian có nguồn gốc Ta nói nơi thế gian Không có nơi bản tế Các chúng sinh ba cõi Vốn là vô thủy sinh Chó, lạc đà không sừng Chắc hẳn sinh không nghi Mắt có từ vô thủy Sắc, thức cũng như vậy Chiếu, mũ, vải hết thảy… Từ trong bùn sinh ra Trong vải không có bình Trong cỏ cũng không vải Trong mỗi một là thật Vì sao nhân không sinh Tức mạng, tức là thân Vốn sinh từ vô thủy Đây là nói pháp kia Ta nói các pháp khác Ta rõ pháp nhân duyên Sau đó ngăn pháp kia Ngăn người tà kiến ấy Sau nói pháp của ta Vì biết pháp ngoại đạo Sau đó nói chánh pháp Sợ đệ tử mê hoặc Rơi vào pháp có, không Bậc thù thắng ra đời Ở thành Ca-tỳ-la Vì đệ tử nên nói Các công đức chuyển biến Chẳng thật, chẳng không thật Không từ duyên tức duyên Do không các nhân duyên Pháp không thật không sinh Lìa nơi pháp có, không Lìa nhân cũng lìa duyên Lìa xa pháp sinh diệt Tự pháp lìa sở kiến Thế gian như huyễn, mộng Lìa các pháp nhân duyên Thấy có lập nhân duyên Nên sinh ra phân biệt Như cầm thú thích nước Càn-thát-bà, hoa đốm Lìa xa pháp có, không Lìa nhân cùng với duyên Thấy ba cõi không nhân Thấy như vậy tịnh tâm Sao gọi người vô sự? Chỉ có nơi nội tâm Xa lìa việc ở tâm Không thể nói duy tâm Nếu thấy việc bên ngoài Chúng sinh khởi sinh tâm Tại sao tâm không nhân Không thể nói duy tâm Chân như chỉ có tâm Người nào không pháp Thánh Có cùng với không có Ấy chẳng hiểu pháp ta Pháp năng chấp, sở chấp Nếu tâm sinh như vậy Đó là tâm thế gian Không thể nói duy tâm Thân do duyên hiện có Giống như trong mộng sinh Nên có hai loại tâm Mà tâm không hai tướng Như dao không tự cắt Tay không chỉ có ngón Như tâm không tự thấy Việc kia cũng như vậy Không kia, không nhân duyên Phân biệt, chỗ phân biệt Năm pháp và hai tâm Tịch tónh không như vậy Năng sinh cùng với sinh Và hai loại pháp tướng Ý ta không năng sinh Nói pháp không tự tướng Thể các loại hình tướng Nếu sinh nơi phân biệt Hư không, sừng thỏ thảy Thể ấy không hiện sinh Nếu có tướng các pháp Nên có với ngoại sự Do không ngoại phân biệt Lìa tâm lại không pháp Thế gian từ vô thủy Không có ngoài các pháp Do tâm không nhân sinh Mà thấy nơi ngoại nghóa Nếu nhân không sinh trưởng Sừng thỏ cũng hiện sinh Do nhân không tăng trưởng Tại sao sinh phân biệt Như không pháp hiện tại Vậy nguồn gốc cũng không Không thể hòa hợp thể Tại sao tâm hay sinh Chân như, không, thật tế Niết-bàn và pháp giới Tất cả các pháp sinh Là pháp Đệ nhất nghóa Phàm phu rơi có, không Phân biệt nhân và duyên Không nhân vốn không sinh Không biết nơi ba cõi Tâm thấy với sở kiến Tà kiến nhân vô thủy Vô thủy cũng không pháp Sao thấy pháp khác sinh Nếu không vật hiện sinh Người nghèo phải nhiều của Vì sao không vật sinh Nay Phật vì con nói Tất cả đều duy tâm Mà không không các pháp Càn-thát-bà, mộng, huyễn Các pháp không có nhân Không sinh, không thể, tướng Pháp không là ta nói Lìa xa pháp hòa hợp Là không thấy pháp sinh Bấy giờ không không sinh Ta nói không pháp tướng Mộng, huyễn và hoa đốm Càn-thát-bà, ái nước Không nhân mà hiện có Pháp thế gian cũng vậy Hòa hợp nhau như thế Lìa nơi không Sở kiến Chẳng phải ngoại đạo thấy Hòa hợp không như vậy Hàng phục nương không nhân Thành tựu nơi không sinh Nếu thành tựu không sinh Pháp luân ta không diệt Nói về không nhân, tướng Ngoại đạo sinh sợ hãi Tại sao, vì người nào? Ở đâu đến nghe pháp Ở đâu sinh các pháp Không nhân mà pháp sinh Sinh ở trong không nhân Mà không ở hai nhân Nếu người trí hay biết Bấy giờ chuyển tà kiến Nói sinh tất cả pháp Không sinh là không vật Vì quán các nhân duyên Bấy giờ chuyển tà kiến Vì pháp có, danh có Vì pháp không, danh không Mà pháp không không sinh Cũng không đợi nhân duyên Danh không nương nơi pháp Mà danh chẳng không thể Thanh văn, Bích-chi-phật Ngoại đạo không cảnh giới Bồ-tát trụ Thất địa Ấy là tướng không sinh Chuyển nơi pháp nhân duyên Cho nên ngăn nghóa nhân Chỉ nói nương nơi tâm Nên ta nói không sinh Không nhân sinh các pháp Lìa phân biệt, phân biệt Lìa kiến lập có, không Nên ta nói không sinh Tâm lìa nơi sở kiến Cũng lìa xa hai thể Chuyển nơi pháp y chỉ Nên ta nói không sinh Không mất ngoài pháp thể Cũng không chấp trong tâm Lìa tất cả tà kiến Đây là tướng không sinh Như vậy không không tướng Tất cả nên quán sát Pháp không chẳng sinh không Vốn không sinh là không Các nhân duyên hòa hợp Pháp sinh cùng pháp diệt Lìa nơi pháp hòa hợp Không sinh cũng không diệt Nếu lìa pháp hòa hợp Lại không thể thật pháp Một thể và khác thể Như Ngoại đạo phân biệt Pháp có, không không sinh Chẳng thật sinh không sinh Lìa xa các nhân duyên Sinh cùng với không sinh Chỉ đối với tên gọi Đây, kia buộc, thay đổi Thể đã sinh tất không Vòng nhân duyên sai biệt Lìa sinh và không sinh Là lìa các ngoại đạo Ta nói vòng trói buộc Nhưng phàm phu không biết Có thể sinh pháp thể Lìa trói buộc không khác Người kia không nói nhân Phá diệt, hoại trói buộc Như đèn chiếu sáng vật Trói buộc cũng giải tỏa Nếu lại phân biệt pháp Lìa xa thể ràng buộc Không thể cũng không sinh Tự tánh như hư vọng Lìa xa pháp trói buộc Ngu si tà phân biệt Đây là khác không sinh Pháp Thánh nhân chứng đắc Pháp ấy sinh không sinh Không sinh là Vô sinh Nếu thấy các thế gian Tức là duyên ràng buộc Thế gian lìa trói buộc Lúc ấy tâm đắc định Vô minh, ái và nghiệp Là pháp buộc bên trong Lún bùn vòng tròn thảy Pháp bên ngoài bốn đại Nương nơi thể pháp kia Là từ nhân duyên sinh Không chỉ thể trói buộc Không thể so sánh được Nếu pháp sinh kia không Biết pháp nào làm nhân Pháp kia thay đổi sinh Chẳng phải các nhân duyên Ấm, nóng, động và cứng Người ngu si phân biệt Trói buộc này không pháp Cho nên không thể, tướng Như thầy thuốc trị bệnh Trị bệnh có sai khác Mà xem bệnh như nhau Tùy bệnh cho khác thuốc Ta nương thân chúng sinh Các phiền não, ô trược Biết các căn và lực Ta vì người ngu, nói Phiền não, căn sai khác Ta dạy không sai biệt Ta chỉ có Nhất thừa Tám Thánh đạo mát mẽ Bình, vải, mũ và sừng Sừng thỏ không phải nhân Không nhân nương kia sinh Nhưng không pháp nhân kia Mà đó không pháp nhân Ngươi không được chấp không Nương nhân có nên không Nương không không giống nhau Pháp có đối pháp không Là pháp đối đãi nhau Nương một phần pháp có Thấy một phần pháp có Không nhân thấy ít pháp Ít pháp là không nhân Nếu như nương ngoài pháp Đây, kia thay đổi thấy Như vậy lỗi không cùng Thể ít cũng không ít Nương sắc, cây cả thảy… Pháp thấy giống như huyễn Như vậy việc nương tựa Người thấy có các loại Ảo thuật không phải sắc Không phải cây, không đá Ngu si thấy như huyễn Nương tựa nơi thân huyễn Nương tựa nơi việc thật Nếu thấy được ít việc Lúc thấy không hai pháp Tại sao thấy ít việc Phân biệt, không phân biệt Mà chẳng không phân biệt Nếu phân biệt pháp không Trói không, giải thoát không Do phân biệt pháp không Nên không sinh phân biệt Nếu không sinh phân biệt Không thể nói duy tâm Mỗi mỗi tâm sai khác Trong pháp, pháp không thật Bởi vì pháp không thật Không thế gian, giải thoát Không ngoại vật, chỗ thấy Ngu si vọng phân biệt Như ảnh hiện trong gương Do tâm huân mê muội Tất cả pháp không sinh Không có tợ có sinh Tất cả chỉ tâm này Lìa với các phân biệt Người ngu nói các pháp Từ nhân, không phải trí Lìa thật thể nơi tâm Tâm Thánh nhân thanh tịnh Tăng-già thầy ở đời Bà-la-môn lõa hình Cùng với trời Tự tại Không thật, đọa tà kiến Thể không, sinh cũng không Như hư không không nhiễm Các Phật nói làm gì? Và Phật vì ai nói Người tu hành thanh tịnh Lìa giác quán tà kiến Quá khứ Phật đã nói Nay ta cũng nói vậy Nếu tất cả duy tâm Thế gian trụ ở đâu? Đi, đến nương pháp nào? Làm sao thấy nơi dất Như chim trong hư không Nương theo gió mà bay Không trụ, không quán sát Ở trên đất mà đi. Như vậy các chúng sinh Nương gió động phân biệt Đi, lại trong tự tâm Như chim bay trong không Thấy thân do duyên sinh Phật nói tâm như vậy Vì sao hiện thấy nhân Chỉ là tâm, xin nói Do duyên thân hiện hữu Hiện thấy nương huân sinh Người không tu hành sinh Hiện thấy sinh phân biệt Phân biệt thể cảnh giới Tâm nương cảnh giới sinh Biết đối với tâm sinh Không lại sinh phân biệt Nếu hay thấy phân biệt Lìa xa giác, sở giác Danh, danh không cùng hợp Là nói pháp hữu vi Đây chỉ là sở giác Danh, danh không lẫn lộn Lìa nơi tri, sở tri Là nói pháp hữu vi Đây chỉ là sở giác Trong danh, danh không lìa Nếu người tà giác biết Không tự giác, giác tha Năm pháp vốn thật pháp Cùng với tám loại thức Hai loại không pháp ta Nhiếp giữ nơi Đại thừa Nếu thấy tri, sở tri Tịch tónh thấy thế gian Trong danh, danh phân biệt Bấy giờ lại không sinh Tạo danh tự phân biệt Thấy kia lại không sinh Không thấy nơi tự tâm Cho nên sinh phân biệt Bốn ấm không các tướng Ấy là vô số pháp Tại sao sắc nhiều loại Tướng bốn Đại khác nhau Xả bỏ các pháp tướng Không các đại và đại Nếu có sắc tướng khác Vì sao ấm không sinh Nếu thấy tướng như vậy Không thấy các ấm, nhập Nương cảnh, căn và thức Nên sinh tám loại thức Nương tướng có ba loại Tịch tónh không như vậy A-lại-da, ý, ngã Ngã sở cùng với trí Do chấp nơi hai pháp Biết pháp ấy tức diệt Lìa xa pháp đây, kia Nếu thấy không tướng lìa Thế gian, tâm phân biệt Thế Tôn vì con nói Không phân biệt hai pháp Ngã cùng với ngã sở Không tăng trưởng phân biệt Cũng không nhân ý thức Lìa xa nhân và duyên Không vật cũng không sinh Phân biệt chỉ là tâm Thế Tôn vì con nói Lìa xa các nhân duyên Lìa năng kiến, sở kiến Thấy tự tâm các loại Sở kiến vọng phân biệt Không biết tự tâm thấy Không hiểu nghóa tâm khác Không thấy tà kiến thành Đối với trí không sinh Kia vì sao không có Tâm người kia chấp có Phân biệt chẳng có, không Nên không sinh tâm có Không biết chỉ tâm thấy Cho nên sinh phân biệt Không phân biệt, phân biệt Diệt nó rồi không nhân Ngăn bốn loại bè đảng Nếu các pháp có nhân Tướng danh tự này khác Người kia tạo không thành Kia nên tự sinh khác Không ứng hợp nhân sinh Nhân duyên nên hòa hợp Để ngăn nhân sinh pháp Ta ngăn với lỗi thường Hoặc các duyên vô thường Là không sinh, không diệt Ngu si thấy vô thường Diệt pháp tướng, pháp không Không thấy tạo tác nhân Nên vô thường cho có Vì sao người không thấy Ta nhiếp thủ chúng sinh Dùng trì giới hàng phục Trí tuệ diệt tà kiến Nương giải thoát tăng trưởng Tất cả các thế gian Ngoại đạo nói dối gạt Nương nhân, quả tà kiến Tự pháp không thể lập Nhưng thành “pháp tự lập” Lìa nơi nhân, duyên, quả Nói các chúng đệ tử Lìa xa pháp thế tục Duy tâm, chỗ thấy không Tâm thấy nơi hai loại Lìa sở chấp, năng chấp Cũng lìa xa đoạn, thường Chỉ có tâm chuyển động Đều là pháp thế tục Lại không khởi chuyển sinh Thế gian là tự tâm Người đến là sự sinh Người đi là sự diệt Như thật biết đến đi Lại không sinh phân biệt Thường, vô thường, tạo tác Không tạo tác đây, kia Như vậy tất cả pháp Đều là pháp thế tục Trời, người, A-tu-la Súc sinh, quỷ Dạ-ma Chúng sinh đến cõi kia Ta nói ở sáu đường Nghiệp nhân thượng, trung, hạ Thường sinh ở cõi kia Khéo giữ gìn thiện pháp Được thắng xứ giải thoát Phật dạy mỗi niệm sinh Sinh tử và đọa lạc Vì chúng Tỳ-kheo, nói Ý nào vì con, nói Tâm không đến lần hai Đã diệt không tiếp nối Ta vì đệ tử, nói Tâm thay đổi sinh diệt Mỗi sắc phân biệt có Sinh và diệt đã xong Phân biệt tức là người Lìa phân biệt không người Ta nói về pháp niệm Nương kia ta nói xong Lìa chấp thủ sắc tướng Không sinh cũng không diệt Nhân duyên từ duyên sinh Vô minh, chân như thảy Nương hai pháp mà sinh Chân như không phải thể Nhân duyên từ duyên sinh Nếu vậy không pháp khác Từ thường sinh ra quả Quả tức là nhân duyên Không khác với ngoại đạo Nhân, quả cùng xen lẫn Phật và chư Phật nói Đại Mâu-ni không khác Tầm cứu trong thân này Khổ đế và Tập đế Diệt đế và Đạo đế Ta vì các Phâït tử Chấp ba pháp thật có Thủ, sở thủ, tà kiến Pháp thế gian, xuất thế Người phàm phu phân biệt Ta rõ biết pháp kia Cho nên nói ba pháp Vì ngăn tà kiến kia Chớ phân biệt thật thể Nói qua pháp không định Cũng lại không tâm sinh Thật cũng không hai thủ Chân như không hai loại Vô minh và ái, nghiệp Thức thảy từ tà sinh Không cùng, không tạo tác Trong tạo tác không sinh Các pháp bốn loại diệt Kẻ ngu si đã nói Phân biệt hai loại sinh Có vật, không có vật Lìa xa bốn loại pháp Cũng lìa xa bốn kiến Hai loại sinh phân biệt Kiến thấy lại không sinh Các pháp vốn không sinh Khởi nơi trí phân biệt Hiện sinh nơi các pháp Bình đẳng chớ phân biệt Nguyện Thế Tôn Mâu-ni Vì con và chúng sinh Như pháp tương ưng, nói Lìa hai loại nhị kiến Ta lìa nơi tà kiến Cùng các Bồ-tát khác Thường không thấy có, không Do không thấy pháp kia Lìa ngoại đạo xen tạp Lìa Thanh văn, Duyên giác Phật chứng, các pháp Thánh Vì con nói không mất Nhân điên đảo, nhân không Vô sinh và tất cả Danh khác, các mê hoặc Bậc trí đã xa lìa Như mây, mưa, lầu các Cung điện và cầu vòng Sóng nắng, hoa đốm, huyễn Có, không từ tâm sinh Các ngoại đạo phân biệt Thế gian từ nhân sinh Không sinh pháp Chân như Và cùng thật tế, không Là các tên pháp khác Chớ phân biệt không vật Đối với sắc, các loại Chớ phân biệt pháp không Như bàn tay thế gian Tự do để phá vật Như vậy tất cả pháp Chớ phân biệt pháp không Lìa sắc, không không khác Cũng không sinh thể pháp Chớ phân biệt không khác Phân biệt, chấp tà kiến Phân biệt, sở phân biệt Nắm lấy nơi sự tướng Dài, ngắn, vuông, tròn thảy Là chấp tướng, phân biệt Phân biệt là tâm pháp Sở phân biệt là ý Nếu hay như pháp biết Lìa năng tướng, sở tướng Ngoại đạo nói không sinh Và chấp nơi ngã, pháp Phân biệt tướng như vậy Nhị kiến này không khác Ý gì, nói như thế Nếu biết rõ như vậy Người ấy vào vô lượng Hay hiểu ta nói pháp Do thấy vậy, chìm đắm Không sinh là không nương Biết đúng hai loại nghóa Nên ta nói không sinh Các pháp không có sinh Mâu-ni vì con, nói Không nhân, không giống nhau Không có pháp xen tạp Không nhân cũng không sinh Khác nhân, ngoại đạo thấy Lìa có, không, pháp không Nên nói chỉ là tâm Sinh cùng với không sinh Lìa pháp là tà kiến Nói không nhân, không sinh. Nói có là chấp nhân Tự nhiên không tác giả Tác giả là tà kiến Phương tiện, các nguyện thảy Thấy đó vì con nói Nếu các pháp là không Tại sao sinh ba đời Lìa năng chấp, sở chấp Không sinh cũng không diệt Từ vật thấy vật khác Nương pháp kia tâm sinh Các pháp không hóa sinh Làm sao vì con nói Thật có mà không biết Cho nên ta nói pháp Trong các pháp Mâu-ni Trước sau lìa tự tướng Lìa các lỗi ngoại đạo Lìa nơi nhân điên đảo Sinh cùng với không sinh Đại sư vì con nói Lìa có cùng với không Không mất nơi nhân, quả Địa và các Thứ đệ Vì nói một vô tướng Thế gian rơi nhị biên Bị các kiến mê hoặc Không sinh không sinh thảy Không biết nhân tịch diệt Ta không pháp ba đời Ta cũng không nói pháp Có hai tất có lỗi Chư Phật vốn thanh tịnh Các pháp, không, sát-na Không thể cũng không sinh Nói tà pháp, che tâm Phân biệt không Như Lai Sinh cùng với không sinh Xin nguyện vì con nói Vì sao những pháp gì Lìa cảnh giới mà sinh Đầy đủ sắc hòa hợp Tụ tập từ hý luận Chấp nơi ngoài sắc tướng Từ phân biệt mà sinh Người biết về pháp ấy Là hiểu nghóa “như thật” Tùy thuận tánh Thánh nhân Mà tâm lại không sinh Lìa xa tất cả đại Không tương ưng pháp sinh Tâm hư vọng quán đại Quán như vậy không sinh Chớ phân biệt sai khác Người trí không phân biệt Phân biệt với phân biệt Hai pháp không Niết-bàn Lập ra pháp không sinh Như huyễn không thấy pháp Từ các nhân huyễn sinh Phá việc lập các pháp Tâm như hình trong gương Nhân huân tập vô thủy Tự nghóa mà không nghóa Quán các pháp như vậy Như hình bóng trong gương Lìa xa một, hai tướng Sở kiến không, chẳng không Các tướng cũng như vậy Càn-thát-bà, huyễn thảy Quán nương nơi nhân duyên Như vậy thể các pháp Pháp sinh, chẳng không sinh Phân biệt tựa như người Hai loại nương nhau hiện Nói ngã cùng với pháp Mà người ngu không biết Tương vi và vô nhân Thanh văn, các La-hán Tự thành và Phật lực Là năm hạng Thanh văn Thời nhiếp thủ và diệt Đệ nhất lìa đệ nhất Là bốn loại vô thường Ngu, không trí phân biệt Ngu si rơi nhị biên Công đức và vi trần Không biết nhân giải thoát Do chấp pháp có, không Giống như người ngu si Chắp tay là mặt trăng Thích danh tự như vậy Không biết thật pháp ta Các đại, tướng khác nhau Thể không sắc cũng sinh Mà các đại hòa hợp Không đại, không nương đại Lửa hay thiêu các sắc Nước làm mục nát vật Gió lay động các sắc Làm sao đại cùng sinh Sắc ấm cùng với thức Là hai pháp không năm Các ấm này khác tên Ta nói như Đế Thích Vô số tâm sai biệt Hiện chuyển các pháp sinh Bốn đại đây, kia khác Sắc, tâm không nương theo Nương xanh thảy có trắng Nương trắng có xanh thảy Nương nhân, quả nên sinh Không, có cùng với không Nương năng tạo, sở tạo Nóng, lạnh thấy, chỗ thấy Tất cả pháp như vậy Vọng biết, không thể thành Tâm, ý, sáu thức khác Các thức cùng hòa hợp Lìa nơi một thể khác Sinh tử hư vọng sinh Sư Tăng-khư-tỳ-thế Lõa hình, trời Tự tại Đọa bè đảng có, không Lìa xa nghóa tịch tónh Sinh tướng mạo thù thắng Sinh bốn đại, không trần Là ngoại đạo nói sinh Bốn đại và bốn trần Ngoài ra không thể sinh Ngoại đạo phân biệt nhân Ngu si nên không hiểu Nương bè đảng có, không Sinh cùng tâm tương ưng Tử không cùng tương ưng Pháp thật tương thanh tịnh Trụ cùng trí tương ưng Nghiệp cùng với sắc tướng Năm ấm, cảnh giới, nhân Thể chúng sinh không nhân Không trụ Vô sắc giới Phật nói pháp vô ngã Không sắc đồng ngoại đạo Thuyết vô ngã là đoạn Thức cũng không nên sinh Tâm có bốn loại trụ Không sắc làm sao trụ Tướng trong, ngoài các pháp Mà thức không cùng hành Kẻ vọng hiểu chấp có Trong ấm có năm ấm Như vậy không sắc sinh Có mà là không sắc Tự nhiên được giải thoát Không chúng sinh và thức Là ngoại đạo không nghi Hiểu lầm, không thể biết Hoặc chỗ ấy không sắc Cho nên thấy không sắc Kia không, chẳng lập pháp Chẳng phải thừa, không thừa Thức từ chủng tử sinh Hòa hợp cùng các căn Một phần tám loại sắc Đối niệm thời không chấp Sắc không trụ nơi thời Căn không trụ với căn Cho nên Như Lai nói Các căn, niệm không trụ Nếu không thấy thể sắc Thức làm sao phân biệt Nếu biết là không sinh Vì sao thế gian sinh Vừa sinh thời liền diệt Phật không nói như thế Nhất thời cũng không niệm Hư vọng phân biệt chấp Các căn và cảnh giới Ngu si không biết đến Ngu si nghe là chấp Thánh nhân biết như thật Ý thức không nương tựa Dùng không nhân chấp lấy Không khéo biết nơi ngã Lìa hẳn nơi pháp có Ngu đối pháp có, không Giác ngộ lìa thật trí Hữu vi, vô vi, ngã Ngu si không thể biết Trong một có pháp thí Trong khác cũng như vậy Trong tâm cùng một thể Ý thức hay hiểu biết Nếu thí đúng là tâm Tâm sở là tên gọi Tại sao lìa năng chấp Phân biệt nơi một, khác Cùng nhân, nương tựa thấy Nghiệp sinh, tạo nghiệp thảy Như lửa, thuyết như vậy Giống như pháp tương tợ Như lửa một thời gian Thiêu và chỗ thiêu khác Như vậy ta nương nhân Vọng hiểu sao không vậy Sinh cùng với không sinh Mà tâm thường thanh tịnh Người mê vọng lập Ngã Cớ sao không nói dụ Mê nơi rừng rậm thức Lìa xa pháp chân thật Vọng hiểu chạy Đông, Tây Tìm thần ngã cũng vậy Trong thân tu thật hạnh Ta là tướng thanh tịnh Cảnh Phật Như Lai tạng Vọng hiểu không cảnh giới Năng chấp và sở chấp Năm ấm, ngã sai biệt Nếu hay biết nơi tướng Bấy giờ sinh chân trí Ngoại đạo nói ý thức Tạng thể A-lại-da Tương ưng cùng với ngã Pháp ta không nói vậy Nếu như thật biết pháp Thật đế được giải thoát Tu hành mà thấy đạo Đoạn phiền não, thanh tịnh Tự tánh tâm thanh tịnh Pháp thân tịnh Như Lai Pháp này nương chúng sinh Lìa hữu biên, vô biên Như vàng cùng với sắc Tánh đá cùng vàng thật Người chế tạo hay biết Chúng sinh với ấm vậy Không người, không phải ấm Phật, bậc Trí vô lậu Vô lậu là Thế Tôn Cho nên con quy y Tự tánh tâm thanh tịnh Phiền não và tạo nghiệp Cùng năm ấm tương ưng Bậc Thù thắng đã nói Tự tánh tâm thanh tịnh Ý thảy là nhân duyên Nó hay tạo các nghiệp Nên hai loại nhiễm ấy Ý thảy pháp trần lụy Ta thanh tịnh phiền não Kia nương phiền não nhiễm Cấu bẩn nương thanh tịnh Như áo lìa cấu bẩn Cũng như vàng lìa bẩn Có mà không thể thấy Ta lìa lỗi cũng vậy Như đàn cầm, tiếng trống Các âm thanh vi diệu Trong ấm, ngã cũng vậy Ngu si tìm một, khác Trong đất chứa vật báu Cùng với nước trong sạch Trong ấm, ngã cũng vậy Thật có, không thể thấy Tâm pháp và tâm sở Công đức, ấm hòa hợp Trong ấm, ngã cũng vậy Ngu si không thể thấy Như bào thai phụ nữ Tuy có mà không thấy Ngã ở trong năm ấm Ngu si nên không thấy Như gánh vác hương thuốc Lửa cùng với các củi Trong ấm, ngã cũng vậy Ngu si không thể thấy Trong tất cả các pháp Vô thường cùng với không Trong ấm, ngã cũng vậy Ngu si không thể thấy Các Địa và tự tại Thần thông cùng thọ vị Các pháp Vô thượng diệu Cùng các Tam-muội khác Và cảnh giới thù thắng Nếu trong ấm không ngã Mà tất cả pháp này Hết thảy cũng đều không Có người phá hoại, nói Hoặc có ngã ứng hiện Bậc trí tuệ nên đáp Ngã ứng hiện tâm người Nói Ngã không chân như Chỉ là nói hư vọng Tạo tác nghiệp Tỳ-kheo Không nên cùng hòa hợp Người này lập có, không Đọa vào hai bè đảng Phá hoại các Phật pháp Ấy không trú pháp ta Lìa lỗi các ngoại đạo Đốt cháy vô ngã kiến Khiến ngã kiến hừng cháy Như kiếp tận thiêu hủy Như đường phèn, Bồ-đào Sữa, dầu, cao sữa thảy Nơi ấy có các vị Người không dùng không biết Nắm giữ trong năm loại Năm ấm, ngã cũng vậy. Người ngu si không thấy Trí thấy đắc giải thoát Nói rõ các thí dụ Tâm pháp không thể thấy Ở đâu, nhân duyên gì Hòa hợp không thể thấy Các pháp khác thể, tướng Nhất tâm không thể chấp Không nhân cũng không sinh Hư vọng hiểu sai lầm Thật hành là thấy tâm Trong tâm không thấy tâm Chỗ thấy theo thấy sinh Chỗ thấy nhân nào tạo Ta họ Ca-chiên-diên Từ trời Thủ-đà-hội Vì chúng sinh, thuyết pháp Hướng đến thành Niết-bàn Là đường đi xưa kia Ta và chư Phật kia Ba ngàn Tu-đa-la Nói về pháp Niết-bàn Dục giới và Sắc giới Phật không kia thành Phật Trên trời Vô sắc giới Ly dục thành Bồ-đề Cảnh giới không buộc nhân Cảnh giới nhân là buộc Nương trí đoạn phiền não Kiếm bén người tu hành Có ngã, có huyễn thảy Pháp có, không là gì Ngu không thấy như vậy Vì sao có vô ngã Do có tạo, không tạo Không nhân mà chuyển sinh Tất cả pháp không sinh Ngu si không hiểu biết Các nhân không thể sinh Các duyên cũng không tạo Hai kia không thể sinh Làm sao phân biệt duyên? Trước, sau và bây giờ Người vọng hiểu nói nhân Hư không, bình, đệ tử Tất cả các vật sinh Phật không tạo hữu vi Các tướng, tướng trang nghiêm Là công đức Chuyển luân Không được gọi chư Phật Chư Phật là trí tướng Lìa các lỗi tà kiến Trong thân là trí thấy Lìa hẳn các lỗi lầm Điếc, mù lòa, câm ngọng Lớn, nhỏ ôm lòng ác Tất cả người như thế Gọi là không phạm hạnh Thể rộng lớn, vi diệu Là tướng Chuyển luân vương Xuất gia hoặc một, hai Ngoài ra là buông lung Tỳ-da, Sa-ca-na Cùng với Lê-sa-bà Ca-tỳ-la, Thích-ca Sau, ta nhập Niết-bàn Đời vị lai sẽ có Các bậc Xuất thế ấy Ta mất, sau trăm năm Tỳ-da-bà, Vi-đà Cùng với Bàn-trà-bà Cưu-la-bà-thất-la Sau đó lại hiện hữu Cùng với Mao Ly thảy Đến Mao Ly, Quật-đa Kế, có vua vô đạo Đến lúc đao, kiếm loạn Kế đao, kiếm mạt thế Rồi vào đời mạt thế Không pháp, không tu hành Quá khứ, vị lai ấy Như luân chuyển thế gian Lửa, mặt trời cùng hợp Thiêu cháy cõi Dục giới Lại thành thế giới diệu Khí thế gian kia sinh Bốn họ và vua chúa Các Tiên nhân và pháp Cúng dường hội thí lớn Thời pháp lại như cũ Nói pháp vẫn như vậy Văn chương và chú giải Chú giải lại tạo ra Các thuyết nhiều vô lượng Như vậy ta nghe hết Mê muội các thế gian Không biết pháp chân thật Pháp gì là đúng, sai Pháp nhiễm như xiêm y Giặt giũ cho sạch sẽ Nước, bùn, phân trâu thảy Hoại sắc mà thọ dùng Các hương xoa thân, y Lìa nơi tướng ngoại đạo Thông suốt pháp luân ta Là các tướng Như Lai Không lọc nước không uống Dây lưng buộc nội y Đúng thời đi khất thực Xa lìa nhà trộm cướp Sinh cảnh trời vi diệu Cõi tốt đẹp loài người Các báu cùng thành tựu Tự tại trong trời, người Người nương pháp tu hành Sinh trời Tứ thiên vương Nhiều lúc được thọ dụng Do tham nhiều nên diệt Đúng lúc gặp ba nạn Và ở ba đời ác Ta và người gặp lúc Thời mạt thế Thích-ca Dòng họ Tất-đạt-đa Trời Bát tý, Tự tại Như vậy, các ngoại đạo Ta diệt, hiện ở đời Ta nghe hết tất cả Sư tử Thích-ca nói Từng có việc như thế Ty-da-bà nói vậy Bát tý, Na-la-diên Và Ma-hê-thủ-la Nói những lời như vậy Ta hóa thân thế gian Mẹ ta tên Thiện Tài Cha tên Phạm thiên vương Ta, họ Ca-chiên-diên Lìa xa các phiền não Sinh ở thành Chiêm-bà Cha ta và ông nội Cha tên là Nguyệt Hộ Từ dòng trăng sinh ra. Xuất gia tu thật hạnh Nói đến hơn ngàn câu Thọ ký cho Đại Tuệ Bảo vận chuyển pháp luân Đại Tuệ cùng Pháp Thắng Thắng truyền Di-khư-lê Di-khư cùng đệ tử Vào đời sau pháp diệt Ca-diếp, Câu-lưu-tôn Câu-na-hàm và ta Lìa xa các phiền não Tất cả thành Chánh giác Sau thời chánh pháp ấy Có Phật tên Như Ý Ở đó thành Chánh giác Vì người nói năm pháp Không hai trong ba nạn Qua mạt thế cũng vậy Chư Phật không xuất hiệïn Đúng lúc hiện ở đời Không có người trộm cướp Y phục không cắt, rọc Mặc áo vô số mảnh Như Khổng tước hoại sắc Hai tấc đến ba tấc Nôi nhau mà vá lại Nếu không làm như vậy Ngu sẽ tham đoạt lấy Thường diệt lửa tham dục Nước trí thường tẩy rửa Ngày đêm trong sáu thời Tu hành pháp như thật Như phóng tên, cây, đá Phóng ra rồi rơi xuống Phóng một thì rơi một Thiện, không thiện cũng vậy Trong một không nhiều loại Do không cùng như vậy Như gió thổi tất cả Như ruộng đất bị cháy Nếu một tạo tác nhiều Tất cả không tạo có Không vậy, tất cả mất Là pháp người vọng hiểu Như đèn và tim đèn Vì sao giống nhau nhiều? Một hay sinh ra nhiều Là pháp người mê hiểu Như vừng không sinh đậu Lúa tẻ không sinh mì Ít hạt giống lúa mì Làm sao một sinh nhiều? Luận Ba-ni xuất thanh Thái bạch A-xoa-ba Mạt thế có tạng Phạm Nói về luận thế tục Ca-chiên-diên tạo kinh Dạ-bà-già cũng vậy Thiên văn Phù-trù-ca Là luận cuối mạt thế Ba-lợi nói phước đời Người đời nương phước đức Thường hộ trì các pháp Vua Bà-ly cho đất Di-ca-ma-tu-la A-thư-la các thuyết Mê hoặc và luận chủ Mạt thế chư Thiên hiện Thích tử Tất-đạt-đa Phù-đơn-đà ngũ giác Khẩu Lực và Điểm Tuệ Ta diệt rồi, xuất hiện A-thị-na, Tam-quật Di-khư-la, Tháo Quán Ta ở A-lan-nhã Phạm thiên thí cho ta Ông ở đời vị lai Gọi Bậc xa trần cấu Hay nói chân giải thoát Là các tướng vắng lặng Phạm thiên cùng Phạm chúng Cùng các chúng trời khác Da nai đều cho ta Trở lại trời Tự tại Các y phục vá nạp Cùng với bát khất thực Đế Thích, Tứ Thiên vương Đem đến cúng cho ta Nói không sinh và nhân Sinh cùng với không sinh Sẽ thành nơi không sinh Là chỉ nói ngôn ngữ Nếu các nhân vô minh Hay sinh nơi các tâm Lúc chưa sinh nơi sắc Trung gian trụ ở đâu? Tức thời diệt nơi tâm Mà lại sinh tâm khác Sắc không trụ một niệm Quán pháp gì hay sinh? Nương vào nhân duyên gì? Tâm là nhân điên đảo Nó không thể thành pháp Làm sao biết sinh diệt? Người tu hành hợp định Kim-an-xà-na tánh Cung điện Quang âm thiên Pháp thế gian không hoại Trụ nơi pháp đã chứng Là tất cả chư Phật Như Lai đủ trí tuệ Tỳ-kheo chứng nơi pháp Và pháp đã chứng khác Pháp ấy thường không hoại Tại sao thấy hư không? Các pháp không trụ niệm Sắc Càn-thát-bà huyễn Tại sao không trụ niệm? Các sắc không bốn đại Các đại đâu tạo ra? Do có tâm vô minh Thế giới tập vô thủy Nương sinh diệt hòa hợp Kẻ vọng hiểu phân biệt Tăng-khư có hai loại Thù thắng và chuyển biến Trong thù thắng có quả Quả lại thành tựu quả Thắng là thể tướng đại Nói công đức sai biệt Hai pháp nhân và quả Chuyển biến ở trong không Như thủy ngân trong suốt Các bụi, đất không dính Chân như sạch như vậy Y chỉ nơi chúng sinh Như cây hành và hẹ Phụ nữ lúc mang thai Muối và vị trong muối Chủng tử tại sao có? Khác thể, không khác thể Hai thể lìa hai pháp Có pháp không nhân duyên Chẳng không nơi có, không Như trong ngựa không trâu Trong ấm, ngã cũng vậy Thuyết hữu vi, vô vi Là pháp không thể nói Ác kiến, lượng, A-hàm Nương cấu nhiễm mê lầm Không biết nói có ngã Không nhân chẳng lìa nhân Trong năm ấm không ngã Chấp ngã là sai lầm Trong một và trong khác Kẻ mê, không hiểu biết Trong gương nước, trong mắt Như thấy ảnh trong gương Xa lìa nơi một, khác Trong ấm, ngã cũng vậy Sở quán và năng quán Thiền đạo thấy chúng sinh Quán sát ba pháp này Lìa nơi pháp tà kiến Tức diệt nơi tri kiến Như rỗng không thấy không Tướng các pháp chuyển biến Người ngu vọng phân biệt Niết-bàn lìa có, không Trụ chỗ thấy như thật Xa lìa pháp sinh diệt Cũng lìa thể có, không Lìa thấy và chỗ thấy Quán sát pháp chuyển biến Lìa các thuyết ngoại đạo Lìa danh tướng, hình thể Tà kiến nương trong thân. Quán sát pháp chuyển biến Chư Thiên và địa ngục Xúc chạm và bức não Không có pháp trung ấm Vì sao nương thức sinh? Thai, noãn, thấp, hóa sinh Sinh ở trong trung ấm Thân chúng sinh vô số Nên quán về khứ, lai Lìa lượng và A-hàm Hay sinh và phiền não Các ngoại đạo nói càn Người trí tuệ chớ chấp Trước quán sát nơi ngã Sau quán nơi nhân duyên Không biết có, nói có Cho nên con Thạch nữ Trí tuệ lìa mắt thường Mắt sáng thấy chúng sinh Lìa xa ấm hữu vi Thân chúng sinh vi diệu Trong sắc xấu và đẹp Giải thoát khỏi trói buộc Diệu thể trụ hữu vi Hay thấy Pháp thân đẹp Đang ở trong sáu đường Mê hiểu không cảnh giới Ta qua nơi cõi người Chẳng phải mê hiểu kia Nên thân ta không sinh Do đâu sinh như vậy? Như bóng đèn trên sông Sao không nói như vậy Mà lúc thức chưa sinh Chưa có vô minh thảy Lìa mê ám không thức Tại sao liên tục sinh Ba đời và không đời Năm thức không thể nói Là cảnh giới chư Phật Người mê lầm quán sát Trong hành không thể nói Do lìa trí trong hành Bám chấp trong các hạnh Trí lìa nơi pháp hành Nương pháp này sinh ra Hiện thấy là không nhân Các duyên không thể thấy Lìa xa không người tạo Nương gió, lửa hay đốt Do gió động nên sinh Gió hay thổi động lửa Gió trở lại diệt lửa Người ngu không phân biệt Tại sao sinh chúng sinh? Thuyết hữu vi, vô vi Lìa nương tựa chỗ dựa Làm sao thành pháp kia Ngu phân biệt gió, lửa Sức tăng trưởng đây, kia Pháp đây, kia không đồng Làm sao mà lửa sinh Chỉ ngôn ngữ vô nghóa Chúng sinh là ai tạo Mà phân biệt như lửa? Có thể tạo ấm, nhập Thân, ý, nhân duyên sinh Như nghóa thường, vô ngã Cùng tâm thường chuyển sinh Hai pháp thường thanh tịnh Lìa xa các nhân quả Lửa không thể thành kia Người mê muội không biết Tâm, chúng sinh, Niết-bàn Thể vốn tự thanh tịnh Từ vô thủy đã nhiễm Như hư không không khác Ngoại đạo thấy tà vậy Như voi trắng hùng mạnh Nương ý, ý thức che Các đại đều thanh tịnh Người kia thấy như thật Thấy rồi phá phiền não Bỏ rừng rậm thí dụ Người kia chấp cảnh Thánh Trí hay biết sai khác Nó phân biệt khác thể Người ngu si không biết Lại nói không thể nói Ví như trống Chiên-đàn Người ngu lại nói khác Như Chiên-đàn ngâm nước Trí chư Phật cũng vậy Người ngu không hiểu biết Do nương thấy hư vọng Sau trưa không thọ thực Dùng bát nhận đủ lượng Lìa lỗi thân, miệng, ý Ăn thức ăn thanh tịnh Đây là hành như pháp Tương ưng không thể biết Nương pháp có thể tin Chớ theo tà phân biệt Không đắm vật thế gian Khéo giữ gìn chánh nghóa Người ấy nhận vàng thật Hay đốt sáng đèn pháp Lìa nhân duyên có, không Lìa phân biệt sai lầm Các phiền não nhơ bẩn Xa lìa tham và sân Bấy giờ lại không sinh Do không nhiễm tất cả Chư Như Lai đưa tay Thọ ký quả vị Phật Ngoại đạo mê nhân quả Người khác mê nhân duyên Và không nhân, có vật Thấy không có Thánh nhân Thọ nơi quả chuyển biến Thức cùng với ý thức Ý nương tạng thức sinh Thức từ nơi ý sinh Các thức nương tạng thức Hay sinh như sóng biển Đều từ nhân huân tập Tùy nhân duyên mà sinh Niệm ràng buộc sai khác Trói buộc tâm chấp cảnh Giống như tướng hình thể Ý, mắt thảy thức sinh Lỗi buộc xưa đến nay Nương huân tập chấp cảnh Thấy các pháp ngoài tâm Ngăn cái thấy ngoại đạo Nương đó sinh các thứ Và nương đó quán sinh Cho nên sinh tà kiến Và thế gian sinh tử Các pháp như mộng, huyễn Như thành Càn-thát-bà Sóng nắng, trăng trong nước Quán sát nơi tâm này Làm sai với Chân như Chánh trí huyễn Tam-muội Nương định Thủ-lăng-nghiêm Và các Tam-muội khác Hội nhập nơi Sơ địa Đắc các thông, Tam-muội Trí và thân Như ý Được thọ ký làm Phật Bấy giờ tâm không sinh Do thấy đời hư vọng Đắc quán địa, các Địa Và chứng đắc quả Phật Chuyển thành thân y chỉ Như các sắc Ma-ni Cũng như trăng trong nước Các chúng sinh tạo nghiệp Lìa bè đảng có, không Lìa hai và không hai Ra khỏi chỗ Tiểu thừa. Rời xa Địa thứ bảy Các pháp thấy trong thân Trong mỗi Địa thanh tịnh Lìa ngoài vật, ngoại đạo Bấy giờ nói Đại thừa Chuyển nơi thức phân biệt Lìa xa diệt biến đổi Như sừng thỏ, Ma-ni Người đắc giải thoát nói Nương phiền não tương ưng Nương pháp cũng như vậy Nương tương ưng, tương ưng Chớ phân biệt sai khác Nhãn thức, nghiệp và thọ Vô minh và chánh kiến Nhãn sắc cùng với ý Ý thức nhiễm như vậy Phật nói kinh diệu này Thánh giả Đại tuệ só Bồ-tát Ma-ha-tát Đại vương La-ba-na Thúc-ca-bà-la-na Ung-nhó-đẳng-la-xoa Trời, Rồng, Dạ-xoa thảy Càn-thát-bà, Tu-la Chư Thiên, chúng Tỳ-kheo Rất hoan hỷ, vâng làm. <卷 id="118149497">