<經 id="n643">PHẬT thuyết QUÁN PHẬT TAM-MUỘI HẢI kinh Hán dịch: Đời Đông Tấn, người xứ Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Phật-đà Bạt-đà-la. <卷 id="112589551">Quyển 1 <詞 id="112589552">Phẩm 1: SÁU VÍ DỤ Tôi nghe như vầy: Một thuở Đức Phật ở tại tinh xá Ni-câu-lâu-đà trong thành Ca-tỳ-la. Bấy giờ, Thích Ma-nam thỉnh Đức Phật và chúng Tăng để cúng dường trong ba tháng. Ngày mười lăm tháng bảy, Tăng tự tứ xong. Khi đó phụ vương Duyệt-Đầu-đàn và dì Đức Phật, Kiều-đàm-di đi đến Tăng phòng cúng dường chư Tăng. Lễ bái xong, dâng lên tăm xỉa răng và bát nước rửa, nhà vua gọi ngài A-nan nói rằng: –Tôi muốn đi đến chỗ Đức Thế Tôn, có nên vậy không? Lúc ấy, A-nan liền thưa lời nói này lên Đức Thế Tôn. Đức Phật bảo A-nan: –Phụ vương đến nhất định sẽ hỏi pháp vi diệu. Ông hãy đi bảo khắp các Tỳ-kheo tăng lập tức vào rừng, lệnh cho Đại Ca-diếp, Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên, Ca-chiên-diên, A-na-luật… Bồ-tát Di-lặc, Bạt-đà-bà-la, mười sáu vị Hiền só cùng lúc đến hội họp! Âm thanh này như vang khắp đến các phương nên bấy giờ vua Trời, chúa Dạ-xoa, chúa Càn-thát-bà, chúa A-tu-la, chúa Ca-lâu-la, chúa Khẩn-na-la, chúa Ma-hầu-la-già, chúa Rồng… và các quyến thuộc của họ đều đã tụ tập. Lúc đó, phụ vương và Thích Ma-nam, ba ức người thuộc dòng họ Thích đi vào tinh xá của Đức Phật. Khi đang đi vào, thấy tinh xá của Đức Phật như núi Pha lê, họ cúi đầu đảnh lễ Đức Phật. Chưa kịp ngẩng đầu lên, họ liền thấy trước Đức Phật có hoa sen lớn do nhiều châu báu tạo thành. Ở trên hoa sen có đài ánh sáng lớn. Phụ vương nhìn thấy, lòng rất hoan hỷ, khen chưa từng có, rồi nhiễu quanh Đức Phật ba vòng, lui về ngồi một bên. Khi đó phụ vương liền đứng dậy bạch Phật rằng: –Bạch Thế Tôn! Đức Phật là con của tôi, tôi là cha của Đức Phật. Hôm nay tôi ở đời nhìn thấy sắc thân của Đức Phật mà chỉ thấy bên ngoài, chẳng thấy bên trong thân ấy. Thái tử Tất-đạt-đa còn ở trong cung, thầy tướng thấy tất cả ba mươi hai tướng, hôm nay đã thành Phật ánh sáng càng thêm hiển hiện hơn hẳn ngày xưa trăm ngàn vạn lần. Đức Phật sau khi Niết-bàn, chúng sinh đời sau phải quan sát sắc tướng của thân Đức Phật như thế nào để biết được độ dài thường của ánh sáng Đức Phật? Kính xin Đấng Thế Tôn hôm nay sẽ vì tôi và chúng sinh đời sau mà phân biệt giảng nói! Bấy giờ, Đức Thế Tôn nhập vào Tam-muội Biến tịnh sắc thân. Rồi ra khỏi Tam-muội liền mỉm cười, pháp mỉm cười của chư Phật có năm ánh sáng màu, năm ánh sáng màu hóa thành năm trăm màu từ miệng Đức Phật phát ra chiếu đến đỉnh đầu phụ vương, từ đỉnh đầu phụ vương chiếu đến đài ánh sáng, rồi từ đài ánh sáng chiếu đến tinh xá… soi cùng khắp cõi Ta-bà, ánh sáng ấy trở về nhập vào đỉnh đầu Đức Phật. Lúc đó Đức Phật bảo với vua cha: –Xin Phụ vương hãy lắng nghe! Lắng nghe! Và suy nghó cho kỹ! Như Lai sẽ nói pháp được thấy Phật của chúng sinh đời sau. Phụ vương bạch Phật rằng: –Thưa vâng! Thưa Đức Thế Tôn! Tôi xin lắng nghe! Đức Phật bảo rằng: –Thưa Phụ vương! Trong cõi Diêm-phù-đề có vua sư tử tên là Tỳ-ma-la. Phép của loài sư tử ấy là tròn bốn mươi năm con cái con đực mới gặp nhau. Một khi đã giao phối rồi, chúng chạy lanh quanh kêu rống nhưng uyển chuyển giữ gìn thân thể không làm tổn thương sư tử con, sư tử con khi còn ở trong thai, như vua thú cha không khác. Đại vương nên biết, muốn khiến cho ở trong thai mà có thể kêu rống, bay lên, đáp xuống, chạy đi, ẩn phục, việc ấy chưa có bao giờ. Phụ vương bạch Đức Phật rằng: –Khi con của vua thú ở trong thai mẹ thì đầu, mắt, răng, móng cùng cha giống nhau hay không? Đức Phật bảo rằng: –Thưa Đại vương! Nó cùng cha không khác, chỉ là sức của nó chẳng thể sánh kịp một phần trăm ngàn vạn lần sức của cha nó. Đức Phật bảo rằng: –Thưa Phụ vương! Đúng vậy! Đúng vậy! Trong đời vị lai, các thiện nam, thiện nữ… cùng tất cả, nên có thể chí tâm giữ niệm ở bên trong, ngồi ngay thẳng mà định tâm quán tưởng sắc thân của Phật, nên biết, tâm người đó như tâm của Phật, cùng với Phật không khác. Họ tuy ở trong phiền não mà chẳng bị sự ngăn che của các ác. Ở đời vị lai, họ sẽ mưa pháp lớn. Lại nữa, thưa Phụ vương! Ví như Y-lan cùng với chiên-đàn sinh ra ở núi Mạt-lợi. Ngưu đầu chiên-đàn sinh ra trong bụi rậm Y-lan, lúc chưa kịp to lớn còn ở dưới đất thì mầm, thân, cành lá giống như măng tre của cõi Diêm-phù-đề. Mọi người vì chẳng biết nên nói rằng, trong núi này toàn là Y-lan, không có chiên-đàn. Nhưng mà Y-lan thì thối, thối như thây chết sình tỏa xa đến bốn mươi do-tuần. Hoa của Y-lan màu hồng rất đẹp, nhưng nếu người nào ăn phải thì phát điên mà chết. Ngưu đầu chiên-đàn tuy sinh ở rừng này nhưng vì chưa sinh trưởng đầy đủ nên chẳng thể tỏa ra hương thơm. Vào tiết trọng thu, trăng tròn, bỗng từ đất xuất hiện thành cây chiên-đàn. Mọi người đều nghe hương thơm thượng diệu của cây Ngưu đầu chiên-đàn, mãi mãi không còn mùi hôi thối của cây Y-lan. Đức Phật nói: –Thưa Phụ vương! Lòng niệm Phật cũng như vậy. Nhờ tâm đó nên có thể được ba loại căn Bồ-đề. Lại nữa, thưa Phụ vương! Trong cõi Diêm-phù-đề và bốn thiên hạ có chim cánh vàng tên là Chánh âm, vua của loài Ca-lâu-la, ở trong các loài chim rất tự tại. Nghiệp báo ứng của loài chim này là ưa ăn các loài rồng. Ở cõi Diêm-phù-đề, mỗi ngày nó ăn một vua rồng và năm trăm rồng nhỏ. Sáng ngày mai nó lại ở cõi Phất-bà-đề ăn một vua rồng và năm trăm rồng nhỏ. Ngày thứ ba lại ở cõi Cù-gia-ni, nó ăn một vua rồng và năm trăm rồng nhỏ. Ngày thứ tư lại ở cõi Uất-đan-việt, nó ăn một vua rồng và năm trăm rồng nhỏ. Cứ giáp vòng lại bắt đầu là trải qua tám ngàn năm. Bấy giờ, tướng chết đã hiện ra với chim ấy. Các rồng phun ra độc nên không thể ăn được. Chim đó bị đói bức ngặt, chạy khắp nơi tìm đồ ăn cũng chẳng thể được. Nó đi khắp các núi cũng chẳng được yên, đến núi Kim cương và ở tạm nơi đó. Từ núi Kim cương đi thẳng xuống đến giới hạn của thủy luân. Từ giới hạn của thủy luân đến hết phong luân, nó bị gió thổi trở về đến núi Kim cương. Nó bị như vậy bảy lần sau đó mới chết. Chim ấy chết rồi, chất độc của nó khiến cho mười ngọn núi báu đồng thời bốc cháy. Khi ấy vua rồng Nan-đà sợ lửa cháy thiêu rụi núi này liền tuôn xuống những giọt mưa lớn như trục bánh xe. Thịt chim tan rã hết chỉ còn lại trái tim. Trái tim chim ấy đi thẳng xuống như trước bảy lần, sau đó trở lại ở trên đỉnh núi Kim cương. Vua rồng Nan-đà lấy tim của con chim này làm minh châu. Vua Chuyển luân lấy được thì làm ngọc Như ý. Đức Phật bảo rằng: –Thưa Phụ vương! Các thiện nam, thiện nữ nào nếu niệm Phật thì tâm của họ cũng vậy. Lại nữa, thưa Đại vương! Ở núi Tuyết có loài cây tên là Ương-già-đà. Quả của nó rất lớn mà hạt thì rất nhỏ. Tìm nguồn gốc thì nó có từ Hương sơn, nhờ sức gió nên đến được Tuyết sơn. Vào đầu mùa đông, trời giá lạnh, La-sát, Dạ-xoa tìm chỗ khuất trong hẻm núi mà ở. Phân nhơ chẳng sạch chảy tràn ra đất. Gió mạnh thổi tuyết lấp lên phân ấy, dần dần trở thành cái hào năm mươi do-tuần. Nhờ sức của phân nên quả này được sinh ra. Rễ, thân, cành, lá, hoa, trái của cây ấy tươi tốt sum suê. Ánh mặt trời ba tháng mùa xuân, tám phương gió đồng thời đều khởi lên, làm tiêu tan băng tuyết chỉ quả cây ấy tồn tại. Hình sắc quả cây ấy không thể lấy quả gì của cõi Diêm-phù-đề làm ví dụ được. Hình nó rất tròn chiếm trọn nửa do-tuần, Bà-la-môn ăn liền được đạo Tiên, năm pháp thần thông đầy đủ, sống lâu một kiếp, chẳng già chẳng chết. Người phàm phu ăn nó thì hướng đến Tu-đà-hoàn, A-na-hàm ăn nó thành A-la-hán, ba minh, sáu Thông không gì không đầy đủ. Có người đem giống đến trồng ở đất phân hoại trong cõi Diêm-phù-đề. Sau đó cây mọc lên, cao bằng một cây Đa-la, đặt tên cây là Câu-luật-đà, tên quả là Đa-lặc, lớn như cái bình năm đấu. Người cõi Diêm-phù-đề ăn quả ấy thì có thể trừ bệnh sốt (nóng). Đức Phật bảo rằng: –Thưa Đại vương! Các thiện nam, thiện nữ chánh niệm tư duy về cảnh giới của chư Phật cũng vậy. Lại nữa, thưa Đại vương! Như cây sống trong vườn Hoan hỷ của Đế Thích tên là Ba-lợi-chất-đà-la. Thiên nữ nhìn thấy nó thì thân tâm vô cùng vui vẻ. Đế Thích thấy nó liền sinh ra dục tưởng, tám muôn bốn ngàn các thể nữ… liền được cảm giác vui vẻ. Khi cây này sinh ra gấp cong cành ở mặt đất, liền ở dưới đất, hoa phát triển thành trái. Trái ấy màu vàng ánh sáng rực rỡ. Vả lại hoa lá của cây ấy chẳng bao giờ héo rụng, đầy đủ mười màu sắc, tỏa ra ánh sáng, có nhiều âm thanh vui. Đến tháng tám mùa thu, cây từ dưới đất vọt ra, cao ba trăm bốn mươi lăm vạn do-tuần. Chư Thiên nhìn thấy nó vui mừng tột bậc. Đức Phật bảo rằng: –Thưa Đại vương! Tam-muội quán tưởng Phật ở tại đất phiền não cũng như vậy, như khi sinh ra, cây báu đó trang nghiêm đẹp đẽ rất ưa nhìn. Lại nữa, thưa Đại vương! Như khi kiếp bắt đầu thì lửa nổi lên một kiếp, mưa một kiếp, gió một kiếp và đất sinh khởi một kiếp. Khi kiếp đất thành rồi thì chư Thiên của trời Quang âm bay đến thế gian, xuống tắm gội trong nước. Do tắm gội nên tinh khí bốn đại liền vào trong thân. Thân chạm xúc vui sướng nên tinh khí trôi vào trong nước. Tám loại gió thổi tinh khí ấy chìm vào trong bùn ứ, rồi tự nhiên thành quả trứng. Trải qua tám ngàn năm, trứng ấy mới nở, sinh ra một người con gái. Thân hình người con gái ấy xanh đen giống như bùn, có chín trăm chín mươi chín cái đầu, mỗi đầu có một ngàn con mắt, chín trăm chín mươi chín cái miệng, mỗi miệng có bốn cái răng, răng phát ra lửa giống như sét chớp, có hai mươi bốn tay, trong mỗi tay đều cầm tất cả các vũ khí. Thân người ấy cao lớn như núi Tu-di, vào trong biển lớn tát nước vui chơi. Có trận cuồng phong thổi nước biển lớn, tinh nước ngập vào thân thể, liền mang thai. Trải qua tám ngàn năm, sinh ra một đứa con trai. Thân đứa trẻ ấy cao lớn gấp bốn lần người mẹ. Đứa trẻ có chín đầu, mỗi đầu có một ngàn mắt, trong miệng phun ra lửa, có chín trăm chín mươi chín tay, tám chân. Trong biển phát ra âm thanh: Nó hiệu là Tỳ-ma-chất-đa, vua của A-tu-la. Phép ăn của quỷ này là chỉ nuốt bùn ứ và củ sen, ngó sen. Đứa trẻ ấy lớn lên thấy các Tiên nữ trời vây quanh, liền thưa mẹ rằng: “Mọi người đều có vợ có chồng, sao một mình con không có?” Người mẹ ấy bảo rằng: “Ở Hương sơn có loài thần tên là Càn-thát-bà. Thần ấy có con gái nhan sắc tuyệt đẹp hơn cả bạch ngọc, các lỗ chân lông trên thân phát ra âm thanh vi diệu, rất vừa ý ta. Nay ta cầu hôn cho con, con có đồng ý không?” A-tu-la thưa rằng: “Hay thay! Hay thay! Kính xin mẹ đi đến cầu hôn cho con!” Lúc đó, người mẹ ấy đi đến Hương sơn. Đến nơi, người mẹ thưa với thần âm nhạc kia rằng: “Tôi có một người con trai uy lực tự tại, ở bốn thiên hạ này không ai sánh bằng. Ngài có con gái rất xứng với con tôi.” Người con gái của thần ấy nghe rồi, xin vui lòng theo chàng A-tu-la. Chàng A-tu-la nhận người con gái đó làm vợ rồi, lòng dạ rất thoải mái cùng người con gái kết thành vợ chồng. Thời gian chưa lâu thì người con gái ấy liền mang thai, trải qua tám ngàn năm mới sinh ra một đứa con gái. Người con gái ấy dung nghi đoan chánh vượt trội hơn người, trên trời, dưới đất không ai sánh bằng, có sắc đẹp trên mọi sắc đẹp tự trang nghiêm. Trên mặt có tám muôn bốn ngàn vẻ kiều diễm, bên trái cũng có tám muôn bốn ngàn, bên phải cũng có tám muôn bốn ngàn, đàng trước cũng có tám muôn bốn ngàn, đàng sau cũng có tám muôn bốn ngàn. A-tu-la nhìn thấy lấy làm lạ lùng, nàng như vầng trăng ở giữa những vì sao rất đặc biệt kỳ lạ. Kiều-thi-ca nghe tiếng liền sai sứ xuống đến chỗ A-tu-la mà cầu hôn người con gái này. Vị A-tu-la nói rằng: “Với phước đức trời của ông, nếu ông có thể khiến cho ta ngồi trên cung điện bảy báu thì ta đem con gái gả cho ông!” Đế Thích nghe lời này, vô cùng vui mừng, liền cởi mũ báu đem làm cung điện trên biển, nhờ phước báo mười điều lành nên khiến cho A-tu-la ngồi trên cung điện thù thắng. A-tu-la rất vui mừng, đem con gái gả cho Kiều-thi-ca. Đế Thích liền dùng đài bằng sáu thứ báu đến nghênh hôn. Ở trong cung điện có hoa sen lớn tự nhiên hóa sinh tám muôn bốn ngàn người con gái tuyệt đẹp. Trong khoảng thời gian tráng só co duỗi cánh tay, họ liền đến trên Thiện pháp đường của Đế Thích. Bấy giờ, cung trời vượt hơn trước trăm ngàn vạn lần, Thích Đề-hoàn Nhân đặt tự hiệu cho người con gái ấy là Duyệt Ý. Chư Thiên thấy nàng đều khen chưa từng có, nhìn Đông quên Tây, nhìn Nam quên Bắc. Ba mươi hai phụ thần thấy Duyệt Ý thì tâm ý cũng hoan hỷ, thậm chí trong từng sợi lông tóc cũng đều cảm thấy vui vẻ. Khi Đế Thích đến vườn Hoan hỷ, cùng vui vẻ với các Tiên nữ trong ao thì Duyệt Ý rất ghen ghét. Nàng sai năm Dạ-xoa đến bạch với vua cha, hôm nay Đế Thích này chẳng còn sủng ái nàng mà cùng với các Tiên nữ dạo chơi. Vua cha nghe lời nói này, lòng rất bực bội liền đem bốn binh chủng đến đánh Đế Thích. Vua A-tu-la đứng trên nước biển lớn, xoạc chân đạp lên đỉnh núi Tu-di, đồng thời chín trăm chín mươi chín cánh tay lay thành Hỷ kiến, lắc núi Tu-di, nước bốn biển lớn đồng thời dậy sóng. Thích Đề-hoàn Nhân kinh hoàng sợ sệt, không biết đi đường nào. Có vị thần trong cung thưa vua trời rằng: “Chớ kinh sợ lắm! Đức Phật đời quá khứ nói Bát-nhã ba-la-mật, nhà vua hãy trì tụng thì binh quỷ sẽ tự tan nát.” Lúc đó, Đế Thích ngồi ở Thiện pháp đường, đốt nhiều loại hương thơm quý, phát thệ nguyện lớn rằng: “Bát-nhã ba-la-mật là chú đại minh, là chú vô thượng, là chú không gì sánh bằng chân thật chẳng hư dối, con trì pháp này sẽ thành Phật đạo, khiến cho A-tu-la tự nhiên lui tan.” Khi nói lời nói này, ở trong hư không có bốn bánh xe đao, do công đức của Đế Thích nên tự nhiên đi xuống, chống giữ các A-tu-la. Tức thời tai, mũi, chân, tay của A-tu-la rơi hết xuống cùng một lúc khiến cho nước biển lớn đỏ như nước màu đỏ. A-tu-la liền kinh sợ, không chỗ chạy trốn nên vào ẩn trong lỗ tơ. Huyễn lực của quỷ kia do tham dục, sân nhuế, ngu si mà còn có thể như vậy huống gì là Phật pháp chẳng thể nghó bàn. Đức Phật bảo rằng: –Thưa Đại vương! Các thiện nam và thiện nữ giữ tâm chánh niệm tư duy cảnh giới của chư Phật cũng có thể ở trong biển các Tam-muội. Công đức người ấy chẳng thể xưng kể, cũng như chư Phật bình đẳng không khác.  <詞 id="112589553">Phẩm 2: TRÌNH BÀY QUÁN ĐỊA Thế nào là cảnh giới quán tưởng chư Phật? Các Đức Phật Như Lai xuất hiện ở đời, có hai pháp để tự trang nghiêm. Những gì là hai? 1.Trước tiên nói mười hai bộ kinh, khiến cho chúng sinh đọc tụng thông suốt. Như vậy gọi là pháp thí. 2.Dùng sắc thân vi diệu thị hiện ở cõi Diêm-phù-đề và các thế giới khắp mười phương, khiến cho các chúng sinh thấy sắc thân của Phật đầy đủ trang nghiêm, ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp phụ, không có tướng khuyết giảm, nên tâm sinh hoan hỷ. Quán các tướng như vậy do đâu mà được? Đều do trăm ngàn khổ hạnh đời trước, do tu các Ba-la-mật và những pháp trợ đạo mà sinh ra tướng này. Đức Phật bảo rằng: –Thưa Phụ vương! Như có chúng sinh muốn niệm Phật, muốn quán tưởng Phật, muốn thấy Phật, phân biệt tướng tốt, hiểu ánh sáng của Phật, biết bên trong thân Phật, học quán tưởng tâm Phật, học quán sát đỉnh đầu của Phật, học quán sát tướng bánh xe ngàn nan hoa dưới lòng bàn chân Đức Phật, muốn biết tướng khi sinh ra của Phật, muốn biết khi Đức Phật cưới Thái tử phi, muốn biết khi Đức Phật xuất gia, muốn biết khi Đức Phật tu khổ hạnh, muốn biết khi Đức Phật thu phục các ma, muốn biết khi Đức Phật chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, muốn biết tướng Đức Như Lai khi chuyển pháp luân, muốn biết tướng mã âm tàng báu của Đức Như Lai, muốn biết tướng Đức Như Lai khi lên cõi trời Đao-lợi vì mẹ là hoàng hậu Ma-gia mà nói pháp, muốn biết tướng Đức Như Lai khi rời cõi trời Đao-lợi, muốn biết tướng ánh sáng trong bốn oai nghi đi, đứng, ngồi, nằm của Đức Như Lai, muốn biết tướng của Đức Như Lai lúc đi đến thành Câu-thi-na điều phục hóa độ Lực só, muốn biết tướng ánh sáng của lỗ chân lông lúc Đức Như Lai thu phục quỷ thần nơi đồng trống… Đức Phật nói tiếp: –Thưa Phụ vương! Sau khi Phật vào Niết-bàn, nếu bốn bộ chúng và Trời, Rồng, Dạ-xoa… muốn giữ chánh niệm, muốn tư duy, muốn thực hành thiền, muốn được Tam-muội chánh thọ… Đức Phật bảo: –Thưa Phụ vương! Thế nào là ràng buộc ý niệm? Có chúng sinh ưa quán thân tướng đầy đủ của Như Lai. Có chúng sinh ưa quán một tướng tốt trong những tướng tốt của Như Lai. Có chúng sinh ưa quán thuận theo tướng tốt của Như Lai. Có chúng sinh ưa quán ngược lại tướng tốt của Như Lai. Có chúng sinh ưa quán ánh sáng của Như Lai. Có chúng sinh ưa quán sự đi của Như Lai. Có chúng sinh ưa quán sự đứng của Như Lai. Có chúng sinh ưa quán sự ngồi của Như Lai. Có chúng sinh ưa quán sự nằm của Như Lai. Có chúng sinh ưa quán sự khất thực của Như Lai. Có chúng sinh ưa quán sự đản sinh Như Lai. Có chúng sinh ưa quán khi Như Lai cưới Thái tử phi. Có chúng sinh ưa quán khi Như Lai xuất gia. Có chúng sinh ưa quán khi Như Lai tu khổ hạnh. Có chúng sinh ưa quán khi Như Lai thu phục các ma. Có chúng sinh ưa quán khi Như Lai thành Phật. Có chúng sinh ưa quán khi Như Lai chuyển bánh xe pháp. Có chúng sinh ưa quán khi Như Lai lên trời Đao-lợi vì mẹ nói pháp. Có chúng sinh ưa quán Như Lai thu phục quỷ thần nơi đồng trống. Có chúng sinh ưa quán khi Như Lai ở Na-càn-ha-la điều phục các rồng để lại hình. Có chúng sinh ưa quán Như Lai ở tại thành Câu-thi-na thu phục Lục sư ngoại đạo những người thấp hèn và những người ác luật nghi, nặng nề tà kiến… Như vậy, thưa Phụ vương! Sau khi Như Lai vào Niết-bàn, các chúng sinh có bao nhiêu hạnh nghiệp, có bao nhiêu ý tưởng, sự hiểu biết của họ chẳng đồng. Tùy theo sự nhận thức của tâm tưởng của các chúng sinh đó, nên theo thứ lớp dạy họ giữ chánh niệm. Như tôi còn ở đời thì chẳng cần giữ chánh niệm. Ví như mặt trời mọc thì những gì tối đều được sáng, chỉ có người không có mắt là không thấy gì. Trong đời vị lai, các đệ tử đều nên tu ba pháp. Những gì là ba? 1.Tụng kinh điển Tu-đa-la sâu xa. 2.Giữ gìn thanh tịnh các cấm giới, không phạm oai nghi. 3.Giữ chánh niệm tư duy, tâm không tán loạn. Thế nào là giữ chánh niệm? Hoặc có người giữ tâm quán sát trên đỉnh đầu của Phật. Hoặc có người muốn giữ tâm quán sát lông tóc của Phật. Hoặc có người giữ tâm quán sát viền tóc của Phật. Hoặc có người muốn giữ tâm quán sát tướng trán rộng bằng phẳng của Phật. Hoặc có người muốn giữ tâm quán tướng lông trắng giữa hai chân mày của Phật. Hoặc có người muốn giữ tâm quán chân mày của Phật. Hoặc có người muốn giữ tâm quán tướng mắt như trâu chúa của Phật. Hoặc có người muốn giữ tâm quán tướng mũi thẳng của Phật. Hoặc có người muốn giữ tâm quán tướng nhìn như chim ưng chúa của Phật. Có chúng sinh ưa quán râu mép Như Lai như hình con nòng nọc tỏa ra ánh sáng. Có chúng sinh ưa quán vành môi của Như Lai. Có chúng sinh ưa quán màu môi đỏ đẹp như trái tần-bà của Như Lai. Có chúng sinh ưa quán môi dưới của Như Lai như cành hoa Bát-đầu-ma, trên màu hồng đỏ của môi cũng như màu quả Tần-bà. Có chúng sinh ưa quán tướng có bốn mươi chiếc răng của miệng Như Lai. Có chúng sinh ưa quán tướng hàm răng trắng đều và kín của Như Lai. Có chúng sinh ưa quán tướng hoa văn in trên răng của Như Lai. Có chúng sinh ưa quán vạch giới hạn răng của Như Lai. Có chúng sinh ưa quán tướng vòm miệng trên của Như Lai với tám muôn bốn ngàn họa tiết tỏ rõ phân minh. Có chúng sinh ưa quán phần dưới của Như Lai như màu cành hoa Ưu-đàm-bát. Có chúng sinh ưa quán yết hầu của Như Lai như ống lưu ly hình dáng như hoa sen. Có chúng sinh ưa quán tướng lưỡi rộng dài như hình cánh hoa sen của Như Lai với năm đường nét đủ năm màu rõ ràng, dưới lưỡi mười mạch máu có nhiều ánh sáng tỏa ra, tướng lưỡi rộng dài che khắp mặt Phật. Có chúng sinh ưa quán ba ngấn trong yết hầu của Như Lai. Có chúng sinh ưa quán tướng ngực của Như Lai giống như mắt của chim cánh vàng. Có chúng sinh ưa quán tướng đầu của Như Lai. Có chúng sinh ưa quán tướng có tám muôn bốn ngàn sợi tóc của Như Lai. Có chúng sinh ưa quán lông xoắn về bên phải của Như Lai. Có chúng sinh ưa quán mỗi một lỗ chân lông của Như Lai có một sợi lông xoắn sinh ra. Có chúng sinh ưa quán da đầu của Như Lai. Có chúng sinh ưa quán tướng nhục kế của Như Lai. Có chúng sinh ưa quán bộ não của Như Lai. Có chúng sinh ưa quán tai dài của Như Lai. Có chúng sinh ưa quán vòng vành tai của Như Lai. Có chúng sinh ưa quán tướng xoắn tai của Như Lai sinh ra bảy sợi lông. Có chúng sinh ưa quán tướng bảy chỗ đầy đặn của Như Lai, ở trong tướng đó sinh ra đài ánh sáng. Có chúng sinh ưa quán tướng đầy đặn dưới nách của Như Lai, ở trong tướng ấy có năm viên ngọc như ngọc Ma-ni trong nách Phật. Có chúng sinh ưa quán cánh tay tròn lẳng như vòi voi chúa của Như Lai. Có chúng sinh ưa quán xương khuỷu tay của Như Lai như tướng tóc uyển chuyển của Long vương, hoa văn năm màu không hư hoại, khúc đầu rồng cuộn lại, biến mất dấu vết, ngón tay so le đúng chỗ, ở đốt đầu ngón tay hiện mười hai vòng. Có chúng sinh ưa quán móng tay chân màu đồng đỏ của Như Lai. Các móng ấy có tám màu tỏ rõ phân minh. Có chúng sinh ưa quán tướng Hợp mạn chưởng của Như Lai, khi xòe ra thì thấy, lúc nắm lại thì biến mất như màn lưới trân châu tỏ rõ phân minh hơn cả vàng Diêm-phù-đàn hàng trăm ngàn vạn lần, màu sắc của chúng trong sáng thanh tịnh vượt qua phạm vi nhận thức của mắt, ở mười đầu ngón tay đều có chữ vạn (卐); điểm xen với chữ vạn có bánh xe với hàng ngàn nan hoa; các tướng đầy đủ như hòa hợp hàng trăm ngàn hoa sen. Có chúng sinh ưa quán hoa văn bàn tay của Như Lai thành tựu như cung trời Tự tại; bàn tay ấy bằng phẳng mà trời người không loài nào có; ở trong bàn tay có tướng bánh xe với ngàn nan hoa, ở mười mặt đều tỏa ra ánh sáng ngọc Ma-ni; dưới những bánh xe ấy có mười hình vẽ, mỗi hình đều như mắt trời Tự tại xanh trắng phân minh, sau đó nhập vào trong tướng bàn tay. Có chúng sinh ưa quán theo chiều ngã rạp trên lông và đàng sau lông giống như lưu ly xanh biếc của Như Lai, tỏa ra ánh sáng năm màu, nhập vào trong màn lưới. Có chúng sinh ưa quán tay chân mềm mại của Như Lai như lá bối ngàn kiếp. Có chúng sinh ưa quán nắm tay bên trong bên ngoài của Như Lai. Có chúng sinh ưa quán tướng ngực Như Lai in chữ vạn phước đức, tướng ánh sáng “ba lần ngọc Ma-ni”. Có chúng sinh ưa quán rốn của Như Lai như ngọc báu Tỳ-lăng-già. Có chúng sinh ưa quán hông của Như Lai, lớn nhỏ bằng phẳng uyển chuyển đều nhau. Có chúng sinh ưa quán các chi tiết xương của Như Lai như rồng cuộn kết nối nhau kín mít. Có chúng sinh ưa quán xương Như Lai móc nối liền nhau, co lại, duỗi ra tự tại, chẳng cản trở nhau. Có chúng sinh ưa quán màu xương Như Lai trắng đến nỗi pha lê núi tuyết chẳng làm ví dụ được, bên trên có ánh sáng hồng xen lẫn hoa văn, nước đọng lại như mỡ. Có chúng sinh ưa quán tướng đùi của Như Lai như nai chúa Y-ni. Có chúng sinh ưa quán tướng gót chân của Như Lai. Có chúng sinh ưa quán tướng mu bàn chân bằng phẳng của Như Lai. Có chúng sinh ưa quán màu trên bàn chân của Như Lai, như vàng Diêm-phù-đàn, lông bên trên nằm rạp về một phía, lưới ngón chân như lưới hoa văn rực rỡ, chỗ hoa văn ấy xen lẫn nhiều tia sáng, đất trời chẳng thể kể hết tên. Có chúng sinh ưa quán tướng móng màu đồng đỏ của Như Lai, trên đầu móng ấy có năm con sư tử. Có chúng sinh ưa quán tướng hoa văn ở đầu ngón chân như bức ấn họa của trời Tỳ-nựu-yết-ma của Đức Như Lai. Có chúng sinh ưa quán dưới bàn chân của Đức Như Lai bằng phẳng đầy đặn không hề dính một sợi lông, tướng bánh xe có ngàn nan hoa dưới bàn chân, tướng vành trục bánh xe đầy đủ vẩy cá, tiếp theo tướng chày Kim cang, gót chân cũng có tướng đỉnh đầu của Phạm vương với các hình chẳng khác…. Như vậy gọi là người ưa quán thuận. Có chúng sinh ưa quán ngược từ tướng bánh xe ngàn nan hoa ở dưới chân. Từ dưới quán lên đến ngón chân, mỗi một tướng, mỗi một vẻ đẹp, mỗi một màu sắc… từ dưới lên trên quán ngược rất rõ ràng. Đó gọi là phép quán nghịch. Có chúng sinh ưa quán sắc tướng vàng ròng của Như Lai. Phật sinh ra ở cõi Diêm-phù-đề nên có sắc tối thượng trong các màu sắc, như trăm ngàn mặt trời chiếu sáng núi vàng ròng, chẳng thể được thấy đủ. Có chúng sinh ưa quán thân cao lớn một trượng sáu của Như Lai. Có chúng sinh ưa quán vầng hào quang tròn rộng một tầm của Như Lai. Có chúng sinh ưa quán ánh sáng toàn thân của Như Lai. Có chúng sinh ưa quán tướng điềm ứng khi Như Lai nói pháp. Có chúng sinh ưa quán tướng hướng lên, tướng hướng xuống của rốn Như Lai.  <詞 id="112589554">Phẩm 3: QUÁN TƯỚNG (Phần 1) Đức Phật bảo rằng: –Thưa Phụ vương! Sao gọi là quán đỉnh đầu của Như Lai? Xương đỉnh Như Lai tròn giống như cái nắm tay. Màu sắc chính của đỉnh là trắng, nhưng nếu da mỏng đi nhìn thấy thành màu hồng, hoặc da dày thì nhìn thấy thành màu Kim cương, mép tóc màu vàng, não màu pha lê có mười bốn mạch máu với những vạch đầy đủ và cũng có mười bốn ánh sáng. Những ánh sáng ấy như mạch máu phân minh rõ ràng. Ở trong những mạch máu của não lại sinh ra các ánh sáng ánh lên xương đầu. Rồi từ xương đầu phát ra cho đến mép tóc có mười bốn màu quanh những sợi tóc. Màu vàng dưới tóc cũng phát ra những ánh sáng hòa vào trong mười bốn màu. Đó gọi là Nhục kế trên đỉnh đầu của Như Lai khi Ngài mới sinh ra trong hoàng cung. Chỉ trên đỉnh ấy thì năm tướng Đại phạm mới sinh ra, mẹ Ma-gia và dì của Phật đều chẳng thấy. Năm tướng Đại phạm ấy hiện bày thì ánh sáng lên đến trời Phạm thế, lại qua vô lượng thế giới ở phương trên, hóa thành cung điện, đền đài, cảnh giới của chư Phật, Bồ-tát trụ Địa thứ mười chẳng thấy được. Hôm nay, Như Lai sẽ vì Phụ vương nói về tướng sinh đỉnh. Nếu có người nghe thì phải suy nghó tướng đỉnh thù thắng của Phật. Ánh sáng của tướng ấy, cho đến bụi trần của đại địa ba ngàn cõi cũng chẳng thể nói đủ. Chúng sinh đời sau nếu nghe lời nói này, nghó đến tướng mà lòng không hối hận thì như nhìn thấy ánh sáng tướng đỉnh thù thắng của Thế Tôn. Nhắm mắt là được thấy, do sức tưởng của tâm mà thấy rõ ràng như khi nhìn thấy Phật ở đời. Tuy chỉ quán một tướng ấy chẳng được nhiều, nhưng từ một việc khởi lên lại tưởng một việc, tưởng một việc rồi lại tưởng một việc. Thuận, nghịch, quay đi, trở lại trải qua mười sáu lần như vậy tâm tưởng cuối cùng trở nên sáng suốt thông lợi. Sau đó, giữ tâm chánh niệm, tưởng một chỗ như vậy dần dần đưa lưỡi hướng lên vòm miệng, khiến cho lưỡi đứng thẳng, trải qua hai mươi bảy ngày, sau đó thân tâm có thể được yên ổn. Rồi lại giữ tâm chánh niệm trở lại quán đảnh Phật. Phép quán đảnh Phật là trước hết, quán từ lỗ chân lông. Đức Phật bảo với Phụ vương và A-nan rằng: –Hãy lắng nghe! Lắng nghe! Suy nghó cho kỹ! Hiện nay trên đầu Như Lai có tám muôn bốn ngàn sợi tóc đều mọc xoắn về bên phải, chia đều phân minh, bốn góc rõ ràng. Mỗi một lỗ chân lông lại có năm ánh sáng hòa nhập vào mười bốn ánh sáng màu ở trước. Ngày xưa, ta còn ở hoàng cung, nhũ mẫu gội đầu cho ta. Di mẫu Đại Ái Đạo đi đến chỗ của ta, người biết khi Tất-đạt-đa sinh ra có nhiều điều kỳ lạ đặc biệt nên hỏi ta rằng: “Tóc của con dài bao nhiêu?” Ta làm sao đáp, nay phải đo tóc để biết độ dài của chúng. Người liền bảo ta buông tóc ra, dùng thước đo độ dài được một trượng hai thước năm tấc. Buông xong, tóc xoắn về bên phải trở lại như trước. Lúc sắp nạp phi (cưới vợ) lại gội đầu nữa, di mẫu lại bảo rằng, tóc đo lần trước dài một trượng hai thước năm tấc, nay phải đo lại. Ta liền buông tóc ra đo thì dài một trượng ba thước năm tấc. Lúc ta xuất gia Thiên thần bưng tóc của ta đi, tóc cũng dài một trượng ba thước năm tấc. Hôm nay Phụ vương có muốn xem tướng tóc không? Phụ vương bạch rằng: –Thưa vâng! Thưa Đấng Thiên Tôn! Tôi rất muốn thấy tóc Phật! Đức Như Lai liền đưa tay lên thả tóc của mình ra, tóc dài từ tinh xá Ni-câu-lâu-đà đến cung của phụ vương, tóc Phật như lưu ly xanh biếc, còn quấn quanh thành bảy vòng. Ở trong tóc Phật, đại chúng đều thấy biết bao là ánh sáng màu, chẳng thể tả xiết. Mỗi ánh sáng đó soi khắp tất cả tạo thành màu lưu ly xanh biếc. Trong màu lưu ly có các Đức Phật biến hóa nhiều chẳng thể tính kể. Thị hiện tướng đó rồi, Đức Phật thu ánh sáng và cuốn tóc lại. Tóc xoắn về bên phải uyển chuyển trở lại trụ trên đỉnh Đức Phật, thành nhục kế như cũ. Đức Phật nói: –Đó gọi là tướng tóc chân thật của Như Lai. Nếu Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di… nào muốn quán tóc Phật thì phải quán sát như vậy, chẳng được quán khác. Nếu quán khác thì gọi là tà quán, gọi là cuồng quán, gọi là thất tâm, gọi là tà kiến, gọi là tâm điên đảo… Giả sử người đó được định, điều này không thể có. Như vậy, thưa Phụ vương! Tướng tóc chân thật của Phật quả thật như vậy. Quán tướng tóc rồi, tiếp theo là quán mép tóc như màu trân châu đỏ uyển chuyển buông xuống, có năm ngàn ánh sáng xen lẫn mà rõ ràng, đều hướng lên trên vây quanh các sợi tóc, rồi từ trên đỉnh đầu phát ra, vòng quanh đỉnh năm vòng như của họa só cõi trời vẽ ra, tròn lẳng, phẳng đều, nhỏ như một sợi tơ. Ở khoảng tơ ấy sinh ra các hóa Phật với các hóa Bồ-tát làm quyến thuộc, chư Thiên, tám bộ chúng, tất cả các hình tượng đều hiện ra bên trong. Màu sắc như vầng mặt trời chẳng thể thấy đủ hết. Đó gọi là quán mép tóc của Phật. Người quán như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác thì gọi là tà quán. Đức Phật bảo rằng: –Thưa Phụ vương! Đây gọi là pháp quán chân thật về mép tóc Như Lai! Thế nào là quán tướng trán rộng bằng phẳng của Như Lai? Trong tướng trán rộng bằng phẳng có ba tướng: Một là tướng lông trắng. Khi Phật mới sinh, vua cùng hoàng hậu đem Thái tử đến chỗ tiên A-tư-đà, ra lệnh xem tướng Thái tử. Tiên nhân vạch lớp lông, đầu tiên thấy ở giữa hai chân mày của Thái tử có sợi lông trắng xoắn lại. Ở bên sợi lông trắng có các vòng ngăn theo sợi lông trắng xoắn lại, thầy tướng kéo thẳng sợi lông ra, thấy sợi lông dài và lớn, liền lấy thước đo xem dài hay ngắn thì thấy đúng năm thước như cái ống bằng lưu ly. Buông tay ra thì lông xoắn lại về bên phải như viên ngọc pha lê, hiển hiện vô lượng trăm ngàn ánh sáng màu. Đó gọi là ánh sáng của tướng Bạch hào khi Bồ-tát mới sinh. Đến năm lên tám tuổi, di mẫu lại quan sát theo tuổi của Tất-đạt-đa thì thấy lông ở khoảng mày ấy cũng theo năm tháng lớn lên. Nay bà muốn xem thử, liền kéo thẳng sợi lông trắng thì thấy nó ngay thẳng như ống lưu ly trắng. Ở đầu lông ấy phát ra ánh sáng năm màu sắc, rồi trở lại vào trong lỗ chân lông. Di mẫu thương mến vô cùng tận, bảo với mọi người rằng: “Tướng lông của con ta đến như thế này.” Mọi người thấy rồi, lông xoắn lại như trước rất khả ái. Đó gọi là tướng Bạch hào lúc Bồ-tát làm đồng tử. Thế nào là tướng Bạch hào lúc Bồ-tát cưới vợ? Cha của Da-du-đà-la cho thầy tướng đến xem tướng Thái tử. Thầy tướng thấy ba mươi hai tướng rõ ràng như bức họa, chỉ đối với tướng Bạch hào thì chẳng rõ. Thầy tướng liền nói rằng: “Thưa Thái tử, mọi tướng khác của ngài đồng với tướng của vua Kim luân, chỉ có tướng Bạch hào tỏa ra vô số ánh sáng này là ngoài tầm hiểu biết của tôi. Nay tôi muốn kéo thẳng ra để xem có thể được không?” Thái tử bảo rằng: “Hãy theo ý muốn của ông.” Bấy giờ, thầy tướng lấy tay kéo sợi lông ra. Lông ấy tuôn ra như sữa trâu chúa bắn vào mắt thầy tướng. Mắt thầy tướng ấy trở nên sáng suốt thanh tịnh, liền thấy ở trong sợi lông có hàng trăm ngàn Thánh vương Chuyển luân với bảy món báu cùng với ngàn đứa con…. Thầy tướng kinh ngạc thưa: “Thưa Thái tử! Tôi kéo sợi lông trắng ra là muốn xem dài ngắn. Chẳng biết vì ý gì mà như sữa trâu chúa lại bắn vào mắt tôi? Đây là sự thấy thật hay là sự thấy trong mộng hay là cuồng loạn! Nay tôi quên hết tướng tốt của Thái tử, tất cả đều hết, chỉ còn thấy trăm ngàn vua Chuyển luân thánh với bảy thứ báu, ngàn đứa con và bốn bộ binh từ bốn phía nổi lên. Lòng tôi vui mừng như Bà-la-môn được niềm vui cõi trời Phạm thế.” Nói rồi buông sợi lông. Nó xoắn về bên phải uyển chuyển trở lại chỗ cũ. Bấy giờ, thầy tướng tên là Lao-độ-bạt-đa, thấy việc này rồi, năm vóc sát đất đảnh lễ Thái tử, thưa rằng: “Mọi tướng của Thái tử chẳng thể thấy đủ hết. Như phép xem tướng của tôi, thấy được cả tướng vua bốn châu thiên hạ một cách nhanh chóng tự tại. Nay tướng của Thái tử như Ma-hê-thủ-la, thần lực tự tại chẳng thể ghi chép thì phải nhận biết ra sao?” Thái tử bảo rằng: “Ta không hiểu điều này! Ông hãy trở về mà tâu lên vua của ông!” Lúc ấy, thầy tướng liền trở về nước của mình, đem việc như trên tâu đầy đủ lên vua. Nhà vua nghe lời đó, nói với người đánh xe cho vua tên là Tượng Đạo đem theo hàng trăm ngàn người, đi đến thành Ca-tỳ-la. Đến cung vua Tịnh Phạn, nhà vua dùng nước rửa tay Thái tử, đem con gái trao lên Ngài, nhân đó làm lễ nói rằng: “Thưa Thái tử! Xin Ngài nhận con gái của tôi, nó có thể trông nom gia đình! Thầy tướng đã thấy tướng lông thượng diệu của Ngài. Tôi nay muốn thấy có thể được không?” Thái tử bảo rằng: “Tùy ý Ngài xem đi!” Bấy giờ, cha của Da-du-đà-la dùng tay kéo thẳng sợi lông trắng của Thái tử, thấy lông ấy như ống pha lê, từng đốt từng đốt như nhau. Ở trong các đốt ấy, thấy có vô lượng Phạm vương, Thích Đề-hoàn Nhân, các Thiên tử cùng với cung điện, nhìn thấy rõ ràng như soi trước gương sáng tự quan sát nét mặt của mình. Thấy rồi rất vui mừng, nhà vua liền buông sợi lông ra, nó xoắn lại về bên phải rồi trở lại trụ ở giữa hai chân mày. Ánh sáng rực rỡ tỏa ra khắp bốn phía, rồi nhập vào trong vòng vách ngăn, chẳng thể nói hết. Đó gọi là tướng Bạch hào khi Bồ-tát cưới vợ. Đức Phật bảo rằng: –Thưa Phụ vương! Sau khi Phật vào Niết-bàn, bốn bộ chúng muốn quán tướng Bạch hào của Bồ-tát khi còn thiếu niên và khi cưới vợ thì phải quán tưởng như vậy. Người quán tưởng như thế gọi là Chánh quán, nếu quán khác thì gọi là tà quán. Đức Phật bảo rằng: –Thưa Phụ vương! Sao gọi là tướng Bạch hào khi Như Lai xuất gia? Khi tôi muốn xuất gia, phụ vương và di mẫu sai các thể nữ luôn theo hộ vệ, cửa đặt then khóa, mở đóng có tiếng vang như sư tử hống. Ở cửa các cửa sổ đóng kín, treo các chuông nhỏ, khóa vàng móc nối nhau, rồng, quỷ, Dạ-xoa không vào được. Bấy giờ, Tứ Thiên vương ở trong hư không, từ xa phát ra âm thanh rằng: “Thưa Thái tử! Ngày giờ đã đến, Ngài hãy đi học đạo! Tôi nay muốn đến cúng dường Thái tử, nhưng sợ vào cung điện có tiếng động nên không thể vào được.” Khi ấy Thái tử dùng tay kéo thẳng sợi lông ra đến tận chỗ Tứ Thiên vương, màu sắc như lụa năm màu của cõi trời mềm mại đáng yêu. Tứ Thiên vương nhìn thấy lòng rất kính yêu. Do yêu kính nên liền thấy ở trong sợi lông có hóa Bồ-tát ngồi kiết già, hình dạng như Thái tử. Mỗi vị Bồ-tát lại có vô lượng Đại Bồ-tát xung quanh. Khi hiện tướng này thì vô lượng Trời, Rồng, Dạ-xoa… cùng lúc đều được vào cung. Thái tử ra lệnh cho Xa-nặc rằng: “Ngươi đi ra sau chuồng ngựa, thắng con Kiền-trắc lại đây!” Xa-nặc bạch rằng: “Nay trong đất này, nếu khi nhấc chân lên thì đất chấn động tiếng rống lên như tiếng con voi lớn, làm sao đến được?” Bấy giờ, Thái tử lại duỗi sợi lông trắng ra khiến cho Xa-nặc thấy giống như hoa sen, từng cánh từng cánh xếp lớp lên nhau, trắng như tuyết. Xa-nặc thấy rồi, mắt tâm liền mở ra, nhìn thấy nơi những cánh sen có các hóa Bồ-tát ngồi kiết già nhiều giống như bụi trần cũng chẳng thể nói lên số lượng. Những hóa Bồ-tát đó cũng có lông trắng giữa hai chân mày như Thái tử. Khi ấy, Xa-nặc thấy trong cung, đất như màu pha lê, bên trong thật cứng giống như Kim cương, chân bước nhẹ không có tiếng động, mau chóng đến sau chuồng ngựa, thắng yên vàng vào ngựa dắt đến trước điện. Xa-nặc thưa Thái tử rằng: “Chư Thiên nghiêm chỉnh chắp tay, vòng tay đứng trong hư không, đang đồng thanh khen ngợi công đức xuất gia. Đã đến lúc, Thái tử hãy mau chóng lên ngựa!” Bấy giờ, Thái tử lại duỗi sợi lông trắng ra phỏng theo hình dạng các cô gái khiến cho các thị nữ, thân tâm vui vẻ giống như Tỳ-kheo chứng đệ tam thiền. Lúc ấy sợi lông này uyển chuyển xoắn về bên phải vào trở lại giữa hai chân mày. Chư Thiên lại thấy giữa hai chân mày của Thái tử có trăm ngàn ánh sáng như dòng sông sữa chảy ra khắp nơi. Trong dòng sông sữa có hóa Bồ-tát ngồi trên hoa sen, đều cùng khen ngợi công đức xuất gia. Mỗi vị hóa Bồ-tát trên dòng sông sữa, giữa hai chân mày của chư vị đều tỏa ra ánh sáng như Thái tử. Đức Phật bảo rằng: –Thưa Phụ vương, đó gọi là các điềm lành của tướng Bạch hào khi Bồ-tát xuất gia. Nếu sau khi Phật diệt độ, bốn bộ chúng muốn quán tướng Bạch hào lúc Như Lai xuất gia thì phải quán tưởng như thế, nếu quán khác đi thì đó gọi là tà quán. Đức Phật bảo rằng: –Thưa Phụ vương, sao gọi là tướng Bạch hào khi Bồ-tát tu khổ hạnh? Khi ta vượt ra khỏi thành hoàng cung rồi, cách thành Dà-gia chẳng xa, đi đến cây A-luân-đà, Thiên tử Cát An cùng trăm ngàn Thiên tử đều nghó rằng: “Nếu Bồ-tát ngồi ở đây thì nhất định cần có tọa cụ. Ta nay phải dâng cho Ngài cỏ của cõi trời.” Các Thiên tử liền mang đến cỏ cõi trời thanh tịnh mềm mại tên là Cát Tường. Bồ-tát nhận rồi trải ra đất ngồi. Lúc đó, chư Thiên quan sát kỹ thân tướng khả ái của Bồ-tát lại thấy sợi lông trắng ba tấc xoắn về bên phải uyển chuyển, có trăm ngàn màu sắc tỏa vào các tướng. Khi các Thiên tử quan sát tướng Bạch hào đều nghó rằng: “Hôm nay Bồ-tát chỉ nhận cỏ của ta, chẳng nhận cỏ của ngươi.” Tức thời, ở trong sợi lông trắng, có vạn ức Bồ-tát ngồi kiết già, đều lấy số cỏ ấy trải ngồi dưới gốc cây này. Mỗi Thiên tử đều thấy trong lông trắng có tướng như thế. Lúc đó, Thiên tử Cát An khen ngợi rằng: “Hay thay! Đấng Thắng Só tu hạnh đại Từ bi! Nhờ sức từ bi nên được tướng Đại Nhân. Ở trong tướng ấy biến hiện không lường, có thể làm thỏa mãn tất cả các nguyện lành của chư Thiên, làm cho họ không có tranh cãi, khởi tâm Bồ-đề. Đế Thích, Phạm vương và chư Thiên thấy Bồ-tát ngồi dưới cây này đều mang cam lồ đến dâng cúng dường. Lúc đó Bồ-tát vì muốn hàng phục Lục sư ngoại đạo kia nên không nhận các thứ cúng dường đó. Trời khiến cho bên trái, bên phải tự sinh ra mè, gạo nhưng Bồ-tát chẳng ăn. Chư Thiên đều nói rằng: “Vị thiện nam này chẳng ăn nhiều ngày, khí lực mệt mỏi, mạng sống không còn bao lâu thì làm sao có thể thành tựu Bồ-đề được?” Lúc đó Bồ-tát vào Tam-muội Diệt Ý. Cảnh giới của Tam-muội gọi là các căn tịch tónh. Chư Thiên kêu khóc, nước mắt rơi xuống như mưa, khuyến thỉnh Bồ-tát phải dậy mà ăn uống. Khi chư Thiên nói lên lời thỉnh này thì tiếng vang khắp tam thiên đại thiên thế giới mà Bồ-tát chẳng hay biết. Có một Thiên tử tên là Duyệt Ý thấy đất mọc cỏ xuyên qua thịt của Bồ-tát lên đến khuỷu tay nên bảo với chư Thiên rằng: “Lạ thay! Đấng nam tử tu khổ hạnh đến vậy! Chẳng ăn đã lâu lắm, tiếng kêu chẳng nghe, cỏ mọc chẳng hay biết!” Vị Thiên tử đó liền lấy tay phải kéo duỗi sợi lông trắng của Bồ-tát, sợi lông ấy thẳng ra, dài đúng một trượng bốn thước năm tấc, như ngọc báu trắng của cõi trời, trong ngoài đều rỗng không. Vị trời thấy bên trong sợi lông có hàng trăm ức ánh sáng. Ánh sáng ấy vi diệu chẳng thể tả xiết. Trong ánh sáng ấy hiện ra các hóa Bồ-tát đều tu khổ hạnh như Bồ-tát này không khác. Bồ-tát chẳng nhỏ mà lông cũng chẳng lớn. Chư Thiên thấy rồi khen chưa từng có, liền thả sợi lông trắng xoắn về bên phải, uyển chuyển cùng với ánh sáng đều trở lại chỗ cũ. Lúc bấy giờ, chư Thiên quan sát kỹ sợi lông trắng, mắt chẳng tạm rời. Họ nhìn thấy trong sợi lông trắng, bên dưới có năm cái ống nhập vào nơi khuôn mặt, rót cam lồ từng giọt từng giọt chẳng dứt, từ trên lưỡi chảy vào đến thân, phơi bày trong suốt như núi lưu ly. Có trăm ngàn vạn ức các Đại Bồ-tát hiện ra ở bên trong thân ấy. Chư Thiên thấy rồi, chắp tay vui mừng cho lời nói trước đây là ngu si, vì nói bậc Đại nhân này, mạng sống chẳng còn bao lâu. Hôm nay thấy tướng đó thì nhất định sẽ thành Phật, rõ ràng không nghi ngờ! Mặt trời tuệ Vô thượng chẳng bao lâu nữa sẽ soi chiếu thế gian! Họ nói lên lời đó rồi đi nhiễu quanh Bồ-tát trăm ngàn vòng, đều trở lại cung điện. Âm thanh này nghe vang đến sáu tầng trời cõi Dục. Đức Phật bảo rằng: –Thưa Phụ vương! Sau khi Phật diệt độ, nếu bốn bộ chúng muốn quán tướng Bạch hào khi Như Lai tu khổ hạnh thì phải quán tưởng đúng như vậy, đó gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán. PHẬT thuyết QUÁN PHẬT TAM-MUỘI HẢI kinh <卷 id="112589555">Quyển 2 <詞 id="112589556">Phẩm 3: QUÁN TƯỚNG (Phần 2) Đức Phật nói: –Thưa Phụ vương! Thế nào là ánh sáng tướng lông trắng khi điều phục các ma của Bồ-tát? Ma vương Ba-tuần dùng Thiên nhãn từ xa nhìn vào châu Diêm-phù-đề, thấy người con của dòng họ Thích-ca bỏ thành bỏ nước như bỏ đờm dãi, ngồi nơi gốc cây, da bọc lấy xương, thân thể gầy gò như người bị bệnh lâu ngày, chỉ có ánh sáng màu vàng ròng là tỏa chiếu rực rỡ và ánh mắt sáng chói như ánh sao nơi đáy giếng, các đốt xương chống đỡ nhau như hình rồng cuộn khúc… Ba-tuần cười rằng: “Cù-đàm thân thể ốm gầy, xương như cỏ mục, tuy có ánh sáng nhưng mạng sống chẳng còn được bao lâu, không thể nào thành đạo được, ta hãy đến đó để phá hoại!” Nghó vậy xong, ma Ba-tuần giận dữ trợn mắt ra lệnh cho các Dạ-xoa tức tốc tập hợp binh chúng: “Bây giờ, ta muốn xuống châu Diêm-phù-đề để chinh phục Cù-đàm!” Khi ấy, có một người con của ma tên là Tát-đa-la quỳ xuống thưa cha: “Thái tử con vua Tịnh Phạn, khi Người đản sinh, có hàng vạn vị thần hầu hạ, ánh sáng chiếu soi thấu đến cõi trời. Vị này có tâm Từ bi che chở khắp tất cả. Hiện nay, người ngồi nơi gốc cây là vì tất cả chúng sinh, sao cha lại có ý ác nghịch như vậy?” Ma vương tức giận nói: “Ngươi ấu tró chẳng biết gì nên mới nói Cù-đàm có đạo đức thù thắng. Cù-đàm thân thể gầy nhom như bộ xương khô, có làm được gì mà lại nói là có lòng Từ bi?” Ma con lại nói: “Thân thể Cù-đàm bị ốm gầy là do không ăn uống, nhưng hào quang của Ngài thì như núi kim cương tỏa ra ánh sáng, ngồi điềm nhiên trong sáu năm, tâm không hề dao động, nét mặt của Ngài thì càng tăng sắc diện không sợ hãi. Kính xin Đại vương hãy ở lại Thiên cung, đừng nghó đến việc đi đánh nữa!” Ma Ba-tuần nói: “Ngươi hãy im ngay đi! Sao lại phải nói nhiều như vậy?” Khi ấy, có Dạ-xoa chúa tên là Sí-đà liền đến chỗ Ma vương, cúi đầu đảnh lễ sát đất thưa: “Thưa Thiên vương! Ngài ra lệnh điều gì?” Ma Ba-tuần bảo: “Ngươi hãy đem lời ta ra lệnh cho khắp sáu cõi trời, các quỷ vương, tám bộ quỷ thần, các quỷ thần đồng trống và Diêm-la vương của mười tám tầng địa ngục… tất cả đều phải tập trung đến chỗ của Cù-đàm!” Bấy giờ, các quỷ thần như mây nổi lên từ bốn phía đều tập trung lại, có các quỷ đầu như đầu trâu có bốn mươi tai, trong mỗi tai bắn ra các mũi tên bằng sắt nóng đỏ cao một do-tuần, có mười tám sừng chóa thẳng lên như ngọn núi, trên núi lại có một con rồng ngậm hòn sắt nung đỏ. Lại có các quỷ giống như con cáo, đầu có mười ngàn mắt, lông mi dài lớn như hình chớp sét, trên đầu có miệng khạc ra lửa dữ, thân mọc nhiều lông giống như cây mọc gươm tua tủa. Lại có các loài quỷ đứng lộn ngược trong hư không, chúng có hai mươi chân, nơi mắt cá chân có một ngàn bánh xe dao, đầu như Thái sơn, trên đầu có năm trăm cây kiếm, đầu luôn luôn nổi lửa. Lại có các quỷ trườn bò uốn khúc bám vào núi Thiết vi. Lại có các quỷ một cổ nhiều đầu, miệng có một ngàn lưỡi mọc ra cây có gai nhọn, trên râu, máu theo các đầu sợi râu tuôn ra như mưa, miệng khạc ra gai nhọn phun phùn phụt, ào ào cỡi hư không mà đến. Quỷ Tỳ-xá-xà phát ra âm thanh lớn rất hung dữ, khí phun ra như mây, mưa ra các hòn sắt nóng, ào ạt bất ngờ kéo đến. Quỷ Cưu-bàn-trà ngồi chồm hổm trên mặt đất, hiện ra hình tướng xấu xí. Quỷ Phú-đơn-na hình tướng đen gầy, đầu đội cái vạc lớn chứa đầy những hòn sắt nóng, tay cầm bánh xe dao, chân trái đạp trên con chó, chân phải giẫm lên con sói, rượt đuổi nhau chạy đến. Các quỷ chúa La-sát, lưng đen như mun, ngực trắng như mặt trăng, mắt như than lửa hừng hực, tóc rối bù rối tung như bụi gai, răng nanh chóa ra hình dạng như cây kiếm, mười móng tay bén như mũi nhọn, mười móng chân to lớn như mũi kiếm, đầu bị ràng bằng sắt, đua nhau chạy đến. Các Đại tướng quân quỷ thần đồng trống một cổ có sáu đầu, trên ngực có sáu mặt, hai bên đầu gối lông mọc tua tủa như tên bắn, thân cứ hăng lên là bắn tên vào người khác, mắt trợn đỏ rực, máu tuôn chảy ra, cùng với các loài hung tợn nhung chóng kéo đến. Lại có các quỷ, đầu như đầu hổ, có mười hai mắt, mũi như vòi voi, có mười ba mũi, vai bên trái gánh núi, vai bên phải khiêng lửa, tay cầm gươm bén, chân đạp trên sư tử, gầm rống đi đến. Lại có các quỷ, thân hình như mây, sấm chợp nổi lên như đám mây lớn, bên cạnh đám mây có trăm ngàn vạn con rồng, chẳng thấy thân mà chỉ thấy chất độc chúng phun ra từ các phía khắp mười phương, tất cả những việc hung dữ đều nổi lên như mây. Quỷ tử mẫu, các thần tướng và các quỷ con đều cầm một tảng đá vuông vức một dặm, cao lớn, đáng sợ như núi chen nhau chạy đến. Lại có các quỷ co quắp cong đuôi, dùng mũi ngửi đất, mũi phun ra lửa, lửa bùng cháy lên hóa sinh ra các quỷ bưng mặt chạy đến… Bấy giờ, Ma vương quay lại nhìn Dạ-xoa để ra lệnh cho các quỷ: “Hiện nay, binh lính quỷ đã tập trung đầy đủ, thiện nhân Cù-đàm biết đâu cũng có thể biết được phép thuật, ta phải nổi lên bốn bộ binh”. Nghó xong, Ba-tuần liền dùng viên ngọc Ma vương biến hóa ra bốn binh chúng, voi, ngựa, xe và bộ binh đông đúc la liệt như rừng, vô cùng đáng sợ từ hư không xuống, đi đến bên gốc cây. Ma vương lại nghó: “Binh lính như vầy chắc có lẽ cũng không thể đánh bại Cù-đàm được.” Rồi Ma liền lấy mũ báu đặt xuống đất. Ánh sáng của mũ chiếu thẳng xuống phương dưới, đến điện Diêm-la vương, hóa thành người đứng trên cung điện hô to lên để ra lệnh cho các quỷ: “Diêm-la vương và ngục tốt các ngươi, bánh xe dao, kiếm, kích, xe lửa, lò than… Tất cả đều hãy ném vào Diêm-phù-đề để tiêu diệt Cù-đàm!” Địa ngục A-tỳ rộng lớn tám vạn do-tuần, bảy lớp thành sắt, bên dưới có mười tám ngăn, bốn bên rừng kiếm cũng có mười tám hàng; phương Đông lại có mười tám địa ngục nhỏ xung quanh; phương Nam, phương Tây, phương Bắc đều có mười tám ngăn xung quanh dưới đất tự nhiên có lửa cháy phừng phực, đốt cháy bức thành sắt và tất cả các lưới sắt, tất cả đầu cháy rụi rồi trở lại bị đốt cháy như ban đầu cho đến khi cháy hết mười tám ngăn địa ngục. Chúng sinh nào phạm năm tội đại nghịch, thân ở đầy trong đó và chịu những khổ sở như vậy, kéo dài suốt ngày suốt đêm không hề được nghỉ trong giây lát. Khi kiếp khổ hết, bốn cửa tự mở. Các tội nhân đều thấy tất cả các rừng kiếm bên ngoài cửa phía Đông đều như khu rừng mát mẻ. Họ từ bên dưới lên ngăn ngục thứ hai, từ ngăn ngục thứ hai lên ngăn ngục thứ ba, cứ như vậy đi lên cho đến cửa phía Đông. Lính ngục La-sát cầm chóa ba bằng sắt nóng đâm vào mắt tội nhân, máu tinh như nước đồng nóng chảy tuôn ra khắp mặt đất, lập tức họ đảo lộn lan tràn khắp trong mười tám ngăn địa ngục, các tội nhân bị bất tỉnh mê man suốt một tiểu kiếp. Khi vừa mới tỉnh lại, họ lại hướng đến cửa phía Nam. Cứ như vậy, bốn cửa bốn phía đều như trước không khác, suốt ngày đêm chịu tội khổ trải qua một đại kiếp. Kiếp đó hết lại liền sinh vào địa ngục nhỏ khác. Các địa ngục khác có hình dạng lớn nhỏ và chịu tội báo nặng nhẹ khác nhau. Loại hình xấu, tốt và tất cả các tội báo sẽ được nói rõ trong phần Tam-muội về lòng Từ. Khi ấy, các lính ngục ở thành phía Đông có tám ngàn, ba phương kia cũng vậy. Mỗi tên lính ngục đều có đầu tóc như núi mọc ra bánh xe dao và kiếm, kích. Tai như tai lừa, có trăm ngàn cái, trong mỗi tai đều xịt ra khói lửa, môi miệng và răng đều ghê rợn hơn quỷ La-sát trăm ngàn vạn lần; sừng như sừng trâu, trên đầu sừng mọc ra nhiều lưỡi kiếm, năm phía nhìn thấy đều khác nhau; thân thể đỏ đen loang lỗ như chó bị bệnh lác; có bốn trăm cái đuôi, trên mỗi chót đuôi, máu tanh và phân hôi thối tuôn trào ra, thân thể bị các loài trùng mỏ bằng sắt nhọn bu quanh, tay cầm đinh ba bằng sắt, chân đạp trên bánh xe, các mũi nhọn trên bánh xe dao đâm thấu tim, tủy, chúng chạy nhanh như gió, mỗi tên đều cầm đinh ba chóa thẳng vào hông tội nhân rồi đưa thẳng lên trên. Địa ngục A-tỳ đuổi các tội nhân như bóng theo hình, trong chốc lát liền đến bên đạo thọ. Tất cả tập trung cùng một lúc để nổi lên những việc ác nghịch. Bấy giờ, Bồ-tát vẫn điềm nhiên bất động, nhập vào lòng Từ với tâm ý thù thắng, Ma vương gầm lên giương oai giễu võ, ra lệnh cho các binh chúng: “Các ngươi hãy nhanh chóng phá hoại Cù-đàm, Rồi lên làm chấn động sấm chớp, mưa xuống các hòn sắt nóng, bánh xe dao và các vũ khí càng tập trung nhiều thêm trong hư không.” Các ma quỷ từ bốn phía đều đồng thời làm như vậy. Các mũi tên lửa của chúng vẫn không đến gần Bồ-tát. Khi ấy, Bồ-tát từ từ đưa cánh tay phải lên, kéo dài sợi lông trắng giữa hai chân mày ra rồi đưa thẳng xuống địa ngục A-tỳ, khiến cho các tội nhân thấy được những dòng nước chảy ra từ trong sợi lông tưới mát trên những đám lửa lớn. Lửa dữ dần dần tắt ngúm, chỉ còn lại hơi khói, làm cho những người đang chịu tội được phần nào giác ngộ, họ tự nhớ lại những nghiệp tội mình đã tạo trong trăm đời, ngàn đời, trăm ngàn vạn đời trước. Các lính ngục cầm đinh ba lớn bằng sắt muốn đâm chóa vào tội nhân nhưng họ dùng hết sức lực cũng không thể cử động được. Bỗng nhiên, họ nhìn thấy một đinh ba bằng sắt đầu lớn như núi bằng bạc, có hàng ngàn vạn ban thờ, có sư tử trắng nằm cuộn thân làm tòa, trên tòa có hoa sen trắng, trên hoa sen có một vị Bồ-tát rất vi diệu đang nhập trong Thắng ý từ, rất trang nghiêm như núi Tu-di, phóng ra các đinh ba cắm xuống đất, từ chỗ gốc của đinh ba, hiện ra hoa sen bằng bảy báu, tỏa ra ánh sáng màu trắng, chiếu đến các địa ngục và chiếu vào thân các lính ngục, khiến cho Diêm-la vương và các lính ngục đều thành núi bằng bạc, giống như ánh chớp, chỉ được thấy trong thoáng chốc, những người chịu tội báo, sáu căn bất ngờ nổi lên lửa dữ, ở đầu các đốt xương, lửa thiêu đốt làm cho gân và mạch máu đều bị dính chẳng rời nhau. Cùng lúc, họ đều chắp tay hướng về tướng lông trắng, tức thời, tâm ý họ được khai mở, thấy người trong lông trắng giống như mình không khác, đều ngồi trên tòa hoa sen, lấy nước rưới trên đỉnh đầu tội nhân, khiến cho tâm phiền não nóng bức của họ trong phút chốc được mát mẻ, tất cả đều đồng thời nói: “Nam-mô Phật”. Nhờ nhân duyên này, họ không còn bị chịu tội báo và được sinh thẳng vào cõi người, các căn đầy đủ, có tri kiến chân chánh và được xuất gia. Sau khi xuất gia, họ phá bỏ được hai mươi ức kết sử và thành bậc Tu-đà-hoàn. Ma vương thấy tướng như vậy, tiều tụy áo não nằm mãi nơi giường. Ma có ba người con gái, người lớn tên là Duyệt Bỉ, người thứ tên là Hỷ Tâm và người nhỏ nhất tên là Đa Mị. Khi ấy, ba người con gái đến chỗ Phụ vương, quỳ gối chắp tay kính lễ và thưa: “Thưa Phụ vương! Hôm nay, vì sao Phụ vương buồn rầu tiều tụy như vậy?” Ma vương đáp: “Sa-môn Cù-đàm thệ nguyện sâu nặng, nay đang ngồi nơi gốc cây Bồ-đề, muốn phá hoại dân chúng của ta, cho nên, ta mới buồn rầu như vậy.” Con gái của Ma vương thưa: “Con có thể đến đó để làm cho Cù-đàm tán loạn. Xin Phụ vương đừng buồn rầu nữa”. Nói xong ba người con gái của ma liền trang điểm đẹp đẽ, đội mũ báu nhiều màu, dung nhan kiều diễm đặc biệt hơn hoàng hậu của ma trăm ngàn vạn lần, liếc mắt rất thùy mị, mỹ miều, đeo chuỗi ngọc tỏa ánh sáng rực rỡ chiếu đến khắp sáu tầng trời, đi trên xe báu bay, xe phủ màn báu, treo nhiều hoa cõi trời, nơi các vòng hoa, có nhiều ngọc nữ biến hóa, tay cầm các nhạc cụ, đàn ca lên hàng vạn âm thanh vui vẻ mà người đời ưa thích. Mỗi ngọc nữ biến hóa đều có năm trăm người con gái hầu hạ, dù, cờ, phướn thêu nhiều màu sắc rủ xuống như mây, từ các lỗ chân lông nơi thân tỏa hương thơm ngát, có trăm ngàn màu sắc, đen, vàng sáng rỡ như ánh sáng mặt trời, mọi người rất ưa nhìn. Ba cô gái từ từ đi đến chỗ của Bồ-tát, đi nhiễu quanh bảy vòng rồi thưa: “Khi Thái tử đản sinh có hàng vạn vị thần hầu hạ, hiến dâng bảy báu, sao Người lại bỏ ngôi vị Thiên tử mà đến gốc cây này. Tôi là Thiên nữ xinh đẹp tuyệt trần, nhan sắc rực rỡ, sáu cõi trời không ai sánh bằng. Nay, tôi xin dâng tấm thân hèn mọn này lên Thái tử, cung cấp mọi thứ cần dùng đầy đủ, hầu hạ dọn dẹp, chúng tôi sẽ khéo léo để Thái tử vừa lòng, chúng tôi xin được theo nương tựa, kính mong Thái tử thương tình thuận nhận. Thái tử ngồi nơi gốc cây, thân thể mệt mỏi, cần phải nghỉ ngơi, ăn uống cam lồ bổ dưỡng…” Nói xong, ba cô gái liền dùng đồ đựng quý báu để hiến dâng món ngon trăm vị cõi trời. Thái tử vẫn mặc nhiên tỉnh lặng, thân tâm không hề lay động. Thái tử tướng lông trắng khiến cho ba cô gái tự thấy máu mủ, đờm dãi bất tịnh trong thân bài bài tiết ra chín lỗ, tất cả gân cốt mạch máu, ruột già, ruột non, bàng quang, mề phân; trong những vật ấy, vận chuyển qua lại sinh ra các loài trùng nhỏ đùa giỡn, chúng chạy vào ruột non, mỗi con đều có bốn miệng, chúng há miệng to ra và hướng lên trên; khi các trùng lớn đùa giỡn, chúng chạy vào ruột già, ra khỏi ruột già, chúng lại vào dạ dày; khi bị phát bệnh lạnh, bên trong dạ dày bị bế tắc, các trùng không vào được, vì thế nên ăn không tiêu; lá lách, thận, gan, phổi, tim, mật, họng; phổi lớn, vách ngăn của gan, ở giữa lại có bốn con trùng như bốn con rắn nằm sát nhau, trên dưới đồng thời mổ ăn các nội tạng, cặn hết thì nước nhựa chảy ra, vào mắt tạo thành nước mắt, vào mũi thành nước mũi, tụ lại trong miệng thành đờm và nước giãi; da dày da mỏng, đốt xương tủy, các mạch máu đều sinh các loài trùng nhỏ như sợi lông bay lên số nhiều không thể kể xiết… Các cô gái ma thấy vậy liền bị nôn mửa, không lúc nào ngừng dứt, lại tự thấy thân mình, bên trái mọc ra đầu rắn, bên phải mọc ra đầu cáo, giữa đầu lại mọc ra đầu chó, trên đầu lại hóa sinh ra thây chết chín màu sắc giống như trong chín phép quán tưởng. Chín phép quán tưởng gồm: 1.Tướng mới chết, hoặc thấy có người chết, thân thể thẳng đờ không còn biết gì, liền nghó rằng: “Thân này của ta rồi cũng sẽ như vậy không khác.” Vì thế, gọi là tướng mới chết. 2.Tướng xanh bầm ứ, nghóa là thấy người chết từ một ngày cho đến bảy ngày, thân thể xanh trương phình ứ lên thành tướng màu đen; tấm thân yêu quý của ta rồi cũng sẽ như vậy không khác. Cho nên gọi là tướng xanh bầm ứ. 3.Tướng máu mủ, hoặc thấy người chết, thân đã thối rữa, máu chảy tràn lan vô cùng gớm guốc, không thể nhìn lâu, tấm thân yêu quý của ta rồi cũng sẽ như vậy. Đó là tướng máu mủ. 4.Tướng nước nhựa màu đỏ thẫm. Nghóa là thấy người chết, thân thể phình to, nước màu vàng chảy ra thành màu nước nhựa đỏ thẫm, thân thể yêu quý của ta cũng sẽ như vậy. Cho nên gọi là tướng chảy nước nhựa màu đỏ thẫm. 5.Tướng ăn không tiêu, nghóa là thấy người chết bị chim quạ ăn, bị các loài trùng, chó sói ăn nuốt, bị ruồi nhặng bu sinh giòi, thịt trên thân thể bị chúng ăn hết hoặc chỉ còn một nửa, thân thể yêu quý của ta cũng sẽ như vậy. Đó là tướng ăn không tiêu. 6.Tướng gân cốt như củi bó. Nghóa là thấy người chết, da thịt đã hết, chỉ còn gân xương liền nhau giống như củi được bó lại, nhờ vậy mà dính liền nhau không rời rã, thân thể yêu quý của ta cũng sẽ như vậy. Đó là tướng gân cốt như củi bó. 7.Tướng xương cốt tan rã, nghóa là thấy người chết, những sợi gân đã hư hoại, các đốt xương rời ra không ở một chỗ, thân thể yêu quý của ta rồi cũng sẽ như vậy, đó là tướng xương cốt tan rã. 8.Tướng bị thiêu đốt đen xấu, nghóa là thấy người chết, bị lửa thiêu đốt, cháy nám, co rút trên đất, thật đáng nhờm gớm không thể nhìn lâu; thân thể mà ta yêu quý rồi cũng sẽ như vậy. Đó là tướng bị thiêu đốt cháy đen nhám xấu xí. 9.Tướng xương khô, nghóa là thấy người chết, hoặc năm mươi năm, hoặc một trăm năm, hai trăm năm, cho đến ba trăm năm, xương biến thành màu trắng, ánh nắng mặt trời chiếu thấu vào trong, lửa trên xương cứ cháy bập bùng; sau khi hỏa thiêu, gió thổi tro xương trở về với đất. Như trên đã nói sơ lược về chín tướng. Đó là pháp môn quán bất tịnh ban đầu của Bồ-tát khi ngồi nơi gốc cây. Bấy giờ, ba người con gái của ma, tự thấy mình lưng còng, già nua, tóc bạc, mặt nhăn, môi miệng phều phào, tay chân lụm cụm, mặt mày đen dơ, xấu xí giống như người gần chết, trước ngực lại ôm thây một đứa bé chết, từ trong sáu lỗ trên mặt, chảy ra nhiều mủ, trong mủ lại sinh ra các loài trùng lớn như con giun… Ba cô gái thấy vậy, vô cùng cuống cuồng sợ hãi, gấp gáp bỏ chạy, cúi đầu nhìn xuống thì thấy sáu con rồng sát nhau, rồng phun nước, khạc lửa, tai thổi ra gió mạnh cứng như sắt. Các cô gái lại tự thấy mình hình dáng thô xấu, nhơ uế, rồi cũng sẽ như các con rồng. Ở những chỗ dơ xấu, lại có nhiều loài trùng nhỏ, mỗi con có bốn đầu, hai trên hai dưới, chụp mổ cắn ăn thịt các ma nữ; miệng chúng tiết ra năm chất độc, chất độc có năm mạch lên đến tim và xuống đến cổ họng, từ trong sáu căn lại sinh ra các mạch, gồm chín mươi chín mạch, chảy thẳng vào đầu các loài trùng rồi cùng nhau rưới chất độc vào tim các loài trùng. Các ma nữ này, từ vô số đời đã tạo nhiều hành nghiệp tà vạy. Lại có các loài trùng như vòng đeo tay, tròn xoe nương giữ vào nhau, có rất nhiều miệng, miệng sinh ra các chất độc, ăn nuốt các căn của các cô gái ma. Các cô gái này từ nhiều đời trước, vì nghiệp tà dâm nên bị thân xấu xí. Các cô gái ma thấy vậy, vô cùng khổ đau như tên bắn vào tim, nên càng lổm ngổm bò đi mau. Như lạc đà ốm gầy bước đi, khi vừa giở chân lên thì lửa bốc cháy nơi các khớp xương, lông tóc đen vàng như rừng gai nhọn tự trói buộc quanh thân, các ma nữ than thở kêu la và đến trước Ma vương. Ma vương giận dữ rút kiếm chỉ thẳng vào phía trước. Các Ma nữ thưa: “Phụ vương vô tội vạ, tự nhiên lại chuốc lấy tai ương, Bồ-tát có hạnh thanh tịnh, rất khó làm dao động giống như đất, vậy thì làm sao chúng con phá hoại được.” Khi các ma nữ nói như vậy, Bồ-tát lại phóng ánh sáng nơi tướng lông trắng khiến cho các quyến thuộc của ma, thân tâm được an lạc như Tỳ-kheo nhập vào Thiền thứ ba. Các ngạ quỷ thấy nơi tướng lông trắng, trên đầu sợi lông có trăm ngàn vạn ức các Đại Bồ-tát. Các Bồ-tát này cũng đều nhập vào Tam-muội Thắng ý từ tâm, đều dùng tay phải vuốt đầu ngón tay bên trái, nơi đầu ngón tay, sữa tuôn chảy ra rưới tắt lửa dữ, lửa dữ tắt rồi, liền được mát mẻ; các ngạ quỷ tự nhiên được no đủ, thân tâm vui mừng, phát tâm Bồ-đề, nhờ tâm này nên được chấm dứt nỗi khổ ngạ quỷ. Các quỷ ấy tự thấy thân mình giống như bạch ngọc, như núi lưu ly, như núi pha lê, như núi vàng ròng, như núi mã não, các lỗ chân lông nơi thân đều giống như chuỗi trân châu, mắt sáng thanh tịnh như ngọc Minh Nguyệt, các khói lửa nơi thân đều thành như mây nhiều châu báu, dao gậy cầm nơi tay đều thành như đài bằng bảy báu, trong đài bảy báu có trải chiếu ngọc và đặt gối hương thơm, bên trái bên phải tự nhiên có vị Phạm vương biến hóa hiện ra, thấy có các hóa Bồ-tát ngồi nơi hóa đài, mỗi vị đều giảng nói về nghiệp báo của các tội nhân: “Các ngươi do đời trước đã tạo các nghiệp ác nên phải chịu thân hình xấu xí như thế!” Các hóa Bồ-tát nói những lời ấy xong, những quỷ thần ấy, người thì được phát tâm Bồ-đề vô thượng, người thì được gieo trồng nhân duyên Thanh văn, Bích-chi-phật, kẻ thì vào đời vị lai sẽ được sinh lên cõi trời, cõi người ở những nơi an vui, cao quý. Bấy giờ, bỗng nhiên Ma vương quay về cung điện của mình, tướng lông trắng của Bồ-tát cũng đi theo lên sáu tầng trời. Giữa nơi ấy, vô số Thiên tử và Thiên nữ nhìn thấy trong lông trắng thông suốt trống rỗng và tròn trịa, đẹp đẽ như lá cờ của Phạm vương. Giữa khoảng không ấy, có các hoa sen báu nhiều như số cát trong trăm ngàn vạn sông Hằng. Mỗi hoa sen có vô lượng vô biên lông trắng vi diệu làm thành đài, trên đài có hóa Bồ-tát cũng phóng ra ánh sáng lông trắng đại nhân như vậy. Trên đỉnh đầu của các Bồ-tát có các hoa sen màu vàng ròng đẹp kỳ diệu, bảy Đức Phật biến hóa tự nói danh hiệu của quý Ngài và giảng nói các kinh điển giống nhau không khác. Lại có các vị trời có căn lành từ lâu đời thấy trong mỗi lỗ chân lông của vị hóa Bồ-tát đều có một Bồ-tát. Trên đỉnh đầu của các Bồ-tát này đều có các hóa Phật như trước không khác. Khi ấy, giữa hai chân mày của các hóa Phật nở ra hoa bằng trăm châu báu rất trang nghiêm, khắp các trời và cõi người đều không có màu sắc nào sánh bằng, hóa hiện ra đài ánh sáng, trên đài lại có hóa Phật như trước không khác. Từ trong lỗ chân lông của các hóa Bồ-tát, biến hóa ra những việc hiếm thấy của tất cả chúng sinh ở khắp mười phương. Dưới chân những người hóa hiện ấy lại có đài ánh sáng, sinh ra các cung điện trời, hơn hẳn cung điện của Phạm vương ở sáu tầng trời cõi Dục, cũng hơn hẳn cung điện Nghiêm thân ở cõi trời Đại phạm, Tướng đỉnh đầu của các Phạm thiên từ giữa vòng bánh xe dưới chân của hóa Bồ-tát sinh ra lông trắng như vậy lên đến các trời Vô sắc, chiếu soi khắp tất cả vô lượng vô biên các cõi trời đều giống như gương sáng bằng ngọc trắng pha lê. Chư Thiên thấy tướng điềm lành thù thắng như vậy rồi, không còn ưa thích niềm vui cõi trời, tất cả đều phát tâm Bồ-đề. Tám vạn bốn ngàn Thiên nữ của Ma vương thấy hình dáng của Ba-tuần giống như thân chó chết, cũng giống như cây khô đen nám, nên chỉ lo chiêm ngưỡng tướng ánh sáng nơi lông trắng của Bồ-tát, tâm ý an vui không gì tả xiết. Tất cả đều giận Ma vương Ba-tuần về việc làm lúc trước, nói: “Muốn phá hoại người khác chỉ tổ làm tổn thất quân chúng của mình!” Nói như vậy xong, trăm ngàn vô số Thiên tử, Thiên nữ lại phát tâm cầu đạo Bồ-đề vô thượng. Đức Phật nói: –Thưa Phụ vương! Tất cả các việc và những tướng thù thắng như vậy chỉ là từ nơi lông trắng giữa hai chân mày của Bồ-tát sinh ra mà thôi, không hề mệt nhọc gì đến các công đức ở các phần thân khác. Sau khi Phật diệt độ, nếu bốn bộ chúng, người nào có thể không tán loạn chỉ trong phút chốc, giữ tâm chánh niệm quán tưởng về tướng lông trắng thu phục các ma của Bồ-tát, thì trừ diệt được các nghiệp chướng xấu ác trong vô số kiếp, cũng điều phục được mười điều ác, các phiền não chướng, ở đời hiện tại, được thấy hình tượng Phật rõ ràng phân minh. Vô số các cảnh giới quán tướng như vậy, không thể nào nói đủ. Sau khi ta diệt độ, người nào muốn quán tưởng về tướng lông trắng khi điều phục các ma của Như Lai, nên quán như vậy, quán tưởng như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi gọi là tà quán. Thế nào là tướng Đại nhân, tướng người giác ngộ, tướng người không dao động, tướng người giải thoát, tướng người có ánh sáng, tướng người có trí tuệ viên mãn, tướng người đầy đủ các pháp Ba-la-mật, tướng biển các Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm,… khi thành Phật của Như Lai? Đại Bồ-tát xuất ra khỏi Tam-muội Thắng ý từ, nhập vào định Diệt Yù, xuất khỏi định Diệt ý rồi lại nhập định Thủ-lăng-nghiêm, xuất khỏi định Thủ-lăng-nghiêm nhập vào Tam-muội Tuệ cự, xuất khỏi Tam-muội Tuệ cự nhập vào Tam-muội Chư pháp tướng, xuất khỏi Tam-muội Chư pháp tướng nhập vào Tam-muội Quang minh tướng, xuất khỏi Tam-muội Quang minh tướng nhập vào Tam-muội Sư tử âm thanh, xuất khỏi Tam-muội Sư tử âm thanh nhập vào Tam-muội Sư tử phấn tấn, xuất khỏi Tam-muội Sư tử phấn tấn nhập vào Tam-muội Hải ý, xuất khỏi Tam-muội Hải ý nhập vào Tam-muội Phổ trí, xuất khỏi Tam-muội Phổ trí nhập vào Tam-muội Đà-la-ni Ấn tướng, xuất khỏi Tam-muội Đà-la-ni ấn tướng nhập vào Tam-muội Phổ hiện sắc thân, xuất khỏi Tam-muội Phổ hiện sắc thân nhập vào Tam-muội Pháp giới tánh, xuất khỏi Tam-muội Pháp giới tánh nhập vào Tam-muội Sư tử hống lực vương, xuất khỏi Tam-muội Sư tử hống lực vương nhập vào Tam-muội Diệt chư ma tướng, xuất khỏi Tam-muội Diệt chư ma tướng nhập vào Tam-muội Không tuệ, xuất khỏi Tam-muội Không tuệ nhập vào Tam-muội Giải không tướng, xuất khỏi Tam-muội Giải không tướng nhập vào Tam-muội Đại không trí, xuất khỏi Tam-muội Đại không trí nhập vào Tam-muội Biến nhất thiết xứ sắc thân, xuất khỏi Tam-muội Biến nhất thiết xứ sắc thân nhập vào Tam-muội Tịch tâm tướng, xuất khỏi Tam-muội Tịch tâm tướng nhập vào Tam-muội Bồ-tát Ma-ha-tát kim cương tướng, xuất khỏi Tam-muội Kim cương tướng nhập vào Tam-muội Kim cương đỉnh, xuất khỏi Tam-muội Kim cương đỉnh nhập vào Tam-muội Nhất thiết hải, xuất khỏi Tam-muội Nhất thiết hải nhập vào Tam-muội Nhất thiết Đà-la-ni hải, xuất khỏi Tam-muội Nhất thiết Đà-la-ni hải nhập vào Tam-muội Nhất thiết Phật cảnh giới hải, xuất khỏi Tam-muội Nhất thiết Phật cảnh giới hải nhập vào Tam-muội Nhất thiết chư Phật giải thoát - giải thoát tri kiến hải, xuất khỏi Tam-muội Giải thoát - Giải thoát tri kiến hải, sau đó nhập vào vô lượng pháp môn Tam-muội nhiều như số bụi trần, xuất khỏi biển vô lượng Tam-muội nhập vào Tam-muội Tịch ý diệt ý, xuất khỏi Tam-muội Tịch ý diệt ý nhập vào pháp môn Tam-muội Kim cương đại giải thoát. Bấy giờ, đất nơi đạo tràng đều hóa thành giống như kim cương, trải dài tám mươi dặm màu sắc trắng trong suốt không thể nhìn thấy hết. Khi tướng này hiện ra, ánh sáng nơi tướng lông trắng giữa hai chân mày của Bồ-tát chiếu thẳng đến hướng Đông, dài một trượng sáu thước, hiện ra mười đường cạnh; cô gái dâng sữa tên Di-ca và năm cô bạn, vô số vạn ức trời, rồng, quỷ thần, các Bồ-tát vào đời hiền kiếp: Di-lặc,…, Bạt-đà-hòa,…, các Đại Bồ-tát đông nhiều như vô lượng, vô biên, vô số bụi trần… đều thấy tướng như vậy. Khi tướng này xuất hiện, Phật ngồi nơi gốc cây Bồ-đề, nhờ năng lực của lông trắng nên nơi gốc cây tự nhiên hóa sinh ra hoa sen báu, trải rộng bốn mươi do-tuần, hoa màu vàng ròng, đài bằng kim cương. Ánh sáng giữa hai chân mày của Phật chiếu đến đài hoa này, ánh sáng ấy chiếu thẳng xuống tận kim cương tế, nơi kim cương tế lại tự nhiên hóa sinh ra hai tòa kim cương va chạm nhau, phát ra âm thanh làm chấn động cả tam thiên đại thiên thế giới, khiến cho đại địa chấn động sáu cách. Trên tòa kim cương thông với hoa sen rồi đến gốc của hoa sen, gốc của hoa sen cũng bằng kim cương. Ba loại kim cương này lại va chạm nhau, đi thẳng xuống đến kim cương tế, rồi lại quay trở lại, cứ như vậy đến mười lần. Ánh sáng của lông trắng vòng quanh mười vòng khiến cho tòa kim cương đang khua bỗng nhiên bất động. Phật ngồi trên tòa này, tiêu trừ ba chướng, thành Đạo Bồ-đề, cảnh giới tâm của Phật không thể diễn nói cùng tận, nếu có giảng nói rõ ràng thì tất cả chúng sinh cho đến Bồ-tát ở Địa thứ mười cũng không thể biết, không thể hiểu được. Vì thế nên trong tướng lông trắng này, không thể diễn nói năng lực của ánh sáng tướng lông trắng, khiến cho cây Bồ-đề cành nhánh cũng bằng kim cương, gốc rễ cũng bằng kim cương, thềm bậc do bảy báu hợp thành, trên thềm sinh ra ánh sáng vòng quanh thân Phật bảy vòng, hóa thành một vòng châu báu. Lá cây màu vàng ròng, hoa màu ngọc trắng, trên hoa có ánh sáng màu trăm ngàn châu báu, các ánh sáng của châu báu cõi trời cũng không thể thí dụ được. Quả cũng màu ngọc trắng, ngọc trắng vi diệu trên cõi trời Dạ-ma cũng không thể sánh bằng. Ánh sáng của quả hóa thành màn lưới ngọc ma-ni phủ khắp trên cây, giữa màn lưới ấy giống như tơ trắng mềm mại rủ xuống và hóa thành chuông báu. Bốn góc của chuông ấy có đài báu lớn, đài này cao to hơn hẳn vô lượng thế giới ở phương trên, vượt lên các thế giới ấy xong, lại hóa thành các đài báu lớn, các đài này cực cao không thể tả xiết. Cao lớn vi diệu, ví như hợp lại trăm ngàn vạn ức các núi Tu-di. Trên đài có lọng báu lớn toàn bằng kim cương, ánh sáng vi diệu nhiều màu xen lẫn nhau. Bên dưới ánh sáng chiếu xuống biến hóa thành màn báu, phía trong màn báu tuôn xuống các lọng báu nhiều như mây. Trong đám mây các lọng báu ấy lại tuôn xuống mây các cờ phướn. Trong đám mây âm nhạc lại tuôn xuống các đám mây ánh sáng báu. Trong mây các ánh sáng báu tuôn xuống đám mây hương thơm. Trong mây các hương thơm tuôn xuống các tòa Sư tử nhiều như mây. Trong đám mây các tòa Sư tử tuôn xuống mây các vòng hoa. Trong đám mây các vòng hoa tuôn xuống các đám mây âm thanh vi diệu. Trong đám mây các âm thanh vi diệu phát ra mây các bài kệ. Trong mây các bài kệ tuôn ra các phẩm vật cúng dường quý báu nhiều như mây. Các phẩm vật cúng dường nhiều vô số như vậy đều xuất hiện từ trong ánh sáng tướng lông trắng của Phật nơi gốc cây Bồ-đề. Khi ấy, ánh sáng nơi lông trắng chiếu tỏa xuống đất khiến cho đất kim cương bên đạo tràng hóa ra bảy cái ao, trong bảy ao đều có nước, nước có bảy màu phân biệt rõ ràng, mỗi màu có hàng ngàn tia sáng chiếu lên cây Bồ-đề. Bốn bên bờ ao do nhiều châu báu hợp thành. Mỗi bờ do một trăm loại châu báu cùng hợp thành. Mỗi loại châu báu phát ra trăm ức ánh sáng. Cát nơi đáy ao toàn bằng kim cương. Trong nước ao, mọc lên nhiều loại hoa toàn có cánh bằng vàng ròng. Trên cánh hoa có hàng ngàn ánh sáng hóa thành vầng hào quang. Ao có bảy rãnh nước tự phun ra. Trong ao mọc nhiều hoa, cánh hoa chồng xếp lên nhau. Trên tua hoa sen lại phun ra nhiều nước trong suốt như ngọc lưu ly. Hai bên rãnh nước lại mọc lên nhiều bông hoa do tám vạn bốn ngàn loại châu báu trang trí đẹp đẽ. Nước trong rãnh này này luôn luôn phun rưới, khi nước đang phun rưới ánh sáng cũng chuyển động theo và chiếu rọi lên cây Bồ-đề. Trong ánh sáng của cây này, trên mỗi chiếc lá đều có hoa sen báu. Hoa này trải rộng khắp tất cả thế giới. Trên hoa ấy biến hóa hiện ra một đài bằng ngọc trắng đến khắp vô số thế giới khắp mười phương. Ánh sáng nơi tướng lông trắng giữa hai chân mày của Phật phóng ra, hoa sen báu tròn vìn to lớn một do-tuần. Các tướng như vậy lần lượt xuất hiện nhiều hơn cả phương trên, vô lượng vô biên không tính kể. Các thế giới nhiều như bụi trần, hoa hoa liên tiếp nhau, trên mỗi hoa đều có Đức Phật ngồi, thân Phật màu vàng ròng cao lớn một trượng sáu. Đức Phật nào cũng ngồi kiết già trên đài sen, tòa Kim cương và cây Bồ-đề cũng giống như đã nói ở trên không khác. Cho đến mười phương cũng đều như vậy. Trong tướng lông trắng lại xuất hiện hoa sen báu thù thắng hơn hoa sen báu trước gấp trăm vạn lần. Trên hoa có Phật giống như Phật Thích-ca Văn không khác. Trên đầu mỗi tua râu hoa sen lại có một Đức Phật, thân cũng cao lớn một trượng sáu, đang nhập vào thiền định sâu xa tâm không hề dao động. Ánh sáng nơi tướng lông trắng chiếu đến vô lượng vô biên trăm ngàn thế giới ở phương Đông, khiến cho các thế giới đều thành màu vàng ròng. Các chúng sinh ở các thế giới ấy thấy ánh sáng xuất hiện từ các lỗ chân lông nơi thân hóa Phật cũng đều như trên, từ đó phóng ra vô lượng trăm ngàn ánh sáng báu. Trong mỗi tia sáng lại có vô lượng trăm ức hóa Phật. Bấy giờ, các Trời, Rồng, Quỷ, Thần, Dạ-xoa, Càn-thát-bà,… đều nhìn thấy ánh sáng ấy vòng quanh Phật một ngàn vòng, chiếu đến các cõi nước khắp mười phương, thấy rõ các cõi nước khắp mười phương, cao thấp lớn nhỏ, tất cả đều thấy rõ ràng giống như soi gương thấy rõ nét mặt của mình. Các đại chúng ấy, tám vạn ức quyến thuộc của Ma vương Ba-tuần, các Quỷ thần, Trời, Rồng, Dạ-xoa… đều thấy lông trắng thẳng dài một trượng rưỡi, hiện rõ ở khắp mười phương, chiếu rọi vào mắt của các đại chúng như vạn ức mặt trời, không thể thấy hết, chỉ ở trong ánh sáng ấy, thấy vô lượng vô số trăm ngàn vạn ức hóa Phật Thích-ca Văn, có lông trắng giữa hai chân mày dài một trượng rưỡi. Trong mỗi sợi lông trắng của mỗi hóa Phật đều phóng ra vô lượng ánh sáng. Trong mỗi tia sáng lại có hóa Phật, mỗi hóa Phật này lại có tướng lông trắng giữa hai chân mày như vậy. Trong mỗi đường vòng ánh sáng nơi tướng lông trắng này lại phóng các ánh sáng lên đến hết vầng trán Phật làm cho trán Phật trở nên rộng lớn bằng phẳng. Mỗi sợi lông trên trán đều lướt lên trên, dưới chân lông có màu ngọc ma-ni cõi trời Phạm rất thích hợp với tâm chúng sinh. Mỗi đầu sợi lông phát ra ánh sáng như màu nước vàng ròng nung chảy, tướng ánh sáng ấy hắt lên trên và nhập vào mép tóc, uyển chuyển rũ xuống hai bên vành tai, sau đó mới phân tán trở lên nhập vào giữa tóc, vòng quanh nhục kế trăm ngàn vòng, rồi phóng ra sau xương cổ, như cánh hoa sen bằng vàng ròng, mặt trời chiếu soi đến liền nở tung ra, giữa những cánh và tua râu hoa sen như tòa đài của Đế Thích, hiện ra những màu sắc ấy lại có vô lượng hóa Phật, mỗi Đức Phật có bảy vị Bồ-tát và chư Thiên theo hầu, tay cầm hoa báu trắng ngần, hoa tỏa ra năm ánh sáng có năm màu khác nhau. Các vị đứng hầu các hóa Phật luôn luôn không rời chỗ. Đó là ánh sáng nơi tướng lông trắng lúc mới thành Phật của Như Lai. Nhờ ánh sáng nơi tướng lông trắng này mà khi đản sinh, Thái tử có vầng ánh sáng sau quanh cổ. Khi đản sinh trong cung vua, ánh sáng này như mặt trời, không thể nhìn thấy rõ được. Vầng ánh sáng rộng lớn một tầm () (sẽ nói riêng sau). Khi ấy, tám bộ chúng nhìn thấy ánh sáng nơi tướng lông trắng, mỗi người thấy mỗi khác. Người thì thấy lông trắng giống như chư Phật, người thì thấy lông trắng như các Bồ-tát, có người thì thấy lông trắng giống như cha mẹ của mình, tất cả thế gian đều rất tôn kính, đều được nhìn thấy rõ ràng tướng lông trắng. Thấy rồi, ai ai cũng rất hoan hỷ, người thì phát tâm Bồ-đề vô thượng, người thì phát tâm Thanh văn, Duyên giác. Các quỷ thần thấy tướng lông trắng, tự nhiên phát khởi tâm Từ không còn ác ý. Đức Phật nói tiếp. –Thưa Phụ vương! Lông trắng của Như Lai, từ khi mới đản sinh cho đến khi thành Phật, trong khoảng thời gian ấy, những điều nhỏ nhiệm vi tế, Như Lai đều nhìn thấy. Đến khi thành Phật rồi, các tướng ánh sáng nơi lông trắng đều đầy đủ như trong các Kinh, Phật đã giảng nói rõ ràng, ánh sáng nơi tướng lông trắng là cảnh giới hoàn hảo, chỉ có các Bồ-tát ở Địa thứ mười mới thấy được. Vì trước hết giảng nói những việc nhỏ, để ứng hợp với các chúng sinh nên nói việc này là dễ thấy. Đức Phật nói với vua cha và A-nan: –Hãy lắng nghe, khéo suy nghó và giảng nói lại cho tất cả các đệ tử đời sau đều được hiểu rõ: Sau khi ta diệt độ, nếu các Tỳ-kheo có thưa hỏi: “Bồ-tát thuở xưa tu hành hạnh gì mà có được tướng lông trắng này?” Các ông nên đáp rằng: “Phật có được tướng lông trắng là do từ vô lượng kiếp tu tâm buông bỏ, không bỏn sẻn, không chấp về tướng đã qua, không nghó đến tiền tài vật chất, tâm không lệ thuộc, thực hành bố thí, dùng các phép tắc của thân tâm để giữ gìn oai nghi nơi thân, tuân giữ giới cấm như quý hai tròng mắt, tuy vậy, trong tâm luôn luôn rỗng lặng, tịch tónh, không hề thấy có sai phạm mà xả bỏ các tùy pháp, tâm an như đất không hề dao động. Giả sử có một người dùng trăm ngàn mũi dao mỗ xẻ thân hình, lại giả sử có người dùng nhiều mũi nhọn đâm chích vào thân, Bồ-tát vẫn không hề có một mảy may tâm sân giận. Giả sử lại có người đầu có một ngàn lưỡi, mỗi lưỡi nói ra hàng ngàn lời mắng nhiếc, nhục mạ, nét mặt Bồ-tát vẫn không hề thay đổi, giống như hoa sen thanh tịnh; tâm không chấp thủ, thân tâm đều không biếng trễ, không mệt mỏi, ý tinh tấn như cứu lửa đang cháy trên đầu, lại như lỗ chân lông nơi thân mọc mụt ung nhọt na-lợi, ngày đêm tinh tấn cầu thầy thuốc chữa trị; tâm không nhiễm ô như ngọc lưu ly trong ngoài đều tinh sạch, giữ thân hộ ý, nhắm mắt chắp tay, ngồi ngay ngắn lưng nhập vào thiền định, tâm như biển cả, rỗng rang không lay động, như núi kim cương, không thể phá hoại trở ngại. Tuy thực hành tâm ý như vậy nhưng không hề lệ thuộc theo thiền định, xả tâm diệt trí, không có đối tượng nào là khinh là trọng, cũng không thấy phép nào là giác quán hay chẳng phải giác quán. Tâm trí luôn mạnh mẽ và thông lợi, bao gồm các phương tiện, không hề thấy có pháp nào lớn pháp nào nhỏ hay có tướng vi tế… Tất cả các pháp nhiều như vậy đều gọi là Ba-la-mật. Lại nhờ công đức vi diệu của ba mươi bảy pháp trợ Bồ-đề, nhờ công đức của mười Lực, bốn Vô sở úy, đại Từ, đại Bi và ba Niệm xứ… mà có được tướng lông trắng này. Sau khi ta diệt độ, nếu có đệ tử Phật từ bỏ các điều ác, xa lìa ồn náo, ưa thích pháp ít nói năng, không ôm đồm nhiều việc, ngày đêm sáu thời, mỗi thời phân thành nhiều phần nhỏ, trong mỗi phần nhỏ ấy, chỉ trong khoảng chốc lát, niệm về tướng lông trắng của Phật khiến cho tâm thấy rõ ràng, không hề tán loạn sai lầm, luôn luôn rõ ràng đúng đắn, chú tâm không dứt để niệm về tướng lông trắng, có thể thấy được tướng hảo cũng có thể không được thấy…. Những người như vậy tiêu trừ được các tội lỗi sinh tử trong bụi trần các kiếp nhiều như số cát trong chín mươi sáu ức vô số sông Hằng. Lại nữa, nếu có người chỉ được nghe về tướng lông trắng mà tâm không kinh sợ nghi ngờ, hoan hỷ kính tin, người này cũng tiêu trừ được các tội lỗi sinh tử trong tám mươi ức kiếp. Nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di phạm bốn tội căn bản, những tội lỗi phi pháp và năm tội đại nghịch, chê bai Đại thừa Phương đẳng… những người như vậy, nếu muốn sám hối, phải ngày đêm sáu thời, thân tâm không biếng trễ, như người đi trong đám cây cỏ rậm, bốn phía đều nổi lửa, gió mạnh thổi đến sắp đốt cháy thân, người này nghó: “Nếu lửa đốt cháy ta, thì khi chưa chết mà thân thể tay chân đã lìa tan, ta phải làm thế nào để dập tắt đám lửa này, nếu không có cách nào thì không thể cứu thân được. Nếu ai, là người có trí có nhiều phương cách để cứu mạng ta, ta được cứu sống, thì đối với người ấy, ta đền đáp không hề tiếc nuối gì!” Suy nghó như vậy xong, người ấy như núi Thái sơn sạt lở, năm vóc lạy sát đất, nước mắt như mưa chắp tay hướng về Phật, tán thán vô số các đức hạnh của Như Lai. Khen ngợi xong, trì tụng pháp sám hối, đặt niệm truớc mặt, niệm về ánh sáng tướng lông trắng giữa hai chân mày của Phật, một ngày cho đến bảy ngày, bốn tội nặng trước đây liền được giảm nhẹ, đến hai mươi mốt ngày, tướng tội dần dần tiêu diệt. Sau bốn mươi chín ngày, sau khi Yết-ma, việc tội do đại chúng sửa trị. Nếu Tỳ-kheo phạm các tội lỗi phi pháp mà quán tưởng về ánh sáng tướng lông trắng thì sẽ tối đen không xuất hiện. Lúc ấy, nên vào tháp, quán tưởng về tướng lông trắng giữa hai chân mày của tượng Phật, một ngày cho đến ba ngày, chắp tay chí thành tha thiết, nhất quán tâm tưởng. Sau đó, vào trong chúng Tăng tự nói tội lỗi trước đây của mình. Nhờ đó được tiêu trừ năm loại tội lỗi đã tạo từ trước, niệm về ánh sáng nơi tướng lông trắng của Phật trải qua tám trăm ngày, sau đó mới có pháp Yết-ma khác. Đức Phật nói: –Thưa Phụ vương! Như Lai có vô lượng tướng hảo. Trong mỗi tướng ấy lại có tám vạn bốn ngàn tướng hảo nhỏ, các tướng hảo như vậy công đức vẫn không bằng một chút phần công đức của tướng lông trắng. Cho nên hôm nay, vì các chúng sinh xấu ác đời vị lai mà Như Lai giảng nói về pháp quán tưởng ánh sáng trí tuệ lớn của tướng lông trắng tiêu trừ được các điều ác. Nếu có người tà kiến tạo tội ác cực nặng nghe pháp quán này đã đầy đủ các tướng mạo rồi mà sinh tâm sân hận, điều này không thể có. Giả sử có khởi tâm sân giận thì ánh sáng tướng lông trắng cũng sẽ che chở, giúp đỡ. Chỉ vừa nghe được lời nói này cũng sẽ diệt trừ được tội lỗi trong ba kiếp, đời sau, sinh ra ở đâu cũng được gặp Phật. Các cảnh giới vi diệu của phép quán tưởng về ánh sáng tướng lông trắng có vô số trăm ngàn ức loại như vậy, không thể nào nói hết; khi chỉ niệm về tướng lông trắng thì tự nhiên sẽ sinh ra như vậy. Người quán tưởng như vậy gọi là chánh quán, nếu quán tưởng khác đi thì gọi là tà quán. Thế nào là quán tướng trán rộng lớn bằng phẳng? Có hai vầng ánh sáng, bên ngoài vầng sáng ấy có hình bánh xe với một ngàn nan hoa tạo thành ngọc ma-ni, hình dạng giống như hoa văn ở trời Tỳ-nữu (Tự tại thiên). Trong hoa văn ấy lại lại phát ra ánh sáng thượng diệu màu vàng ròng, nhập vào lông trắng, vòng quanh lông trắng bảy vòng, rồi hướng lên trên nhập vào trong các lỗ chân lông nơi trán, rồi đến mép tóc, với tướng nhiều màu sắc, ánh sáng uyển chuyển rủ xuống vành tai, lại phân ra, ánh lên nhập vào tóc, vòng quanh tóc bảy vòng. Từ xương cổ, ánh sáng tỏa ra, vòng quanh tướng hoa sen (đã nói trước) bảy vòng tròn, tạo thành bảy đường nét rõ ràng. Mỗi đường nét có bảy màu, mỗi màu có bảy hoa sen, mỗi hoa sen có một Đức Phật ngồi, mỗi Đức Phật có bảy vị Bồ-tát theo hầu cung kính đi nhiễu quanh về bên phải. Ba tướng: Trán rộng bằng phẳng, tướng mép tóc, tướng các lỗ chân lông nơi đầu là như vậy. Tướng trong não: Trong não cũng có mười bốn tia sáng, hiện ra trong các mạch máu, trong ngoài đều hiển hiện ánh sáng rất khả ái, lại phóng ra các ánh sáng trắng, hồng, tím xen lẫn nhau. Các ánh sáng ấy rất nhỏ nhiệm phát ra nơi xương cổ, cũng vòng quanh ánh sáng trước ba vòng, giữa mỗi vòng ánh sáng có một Đức Phật ngồi, mỗi Đức Phật có hai vị Bồ-tát theo hầu, ánh sáng hiển hiện thù thắng hơn trước gấp nhiều lần. Thế nào là quán tướng chân mày của Như Lai? Hai chân mày phải trái có hình dạng giống như trăng non, các lông mày mọc dày thưa đúng chỗ theo hình mặt trăng di chuyển, màu tía tươi sáng, đầu mỗi sợi lông đều có màu xanh biếc, màu sắc của ánh sáng ngọc lưu ly cũng không sánh bằng. Ánh sáng nơi hai chân mày tỏa lướt lên trên và nhập vào những sợi tóc, nhập vào tóc rồi lại ra đến tận ngọn tóc. Ánh sáng ấy lại tỏa lên nơi nhục kế; màu sắc của ong chúa, của chim khổng tước nếu đem so sánh với ánh sáng đó, thì cũng giống như một khối màu tối đen so với ánh sáng của ngọc lưu ly. Ánh sáng lại tỏa xuống và phát ra nơi xương cổ, xoay vòng quanh về bên phải bốn vòng. Trong mỗi đường vòng ánh sáng đều xuất hiện một hóa Phật, mỗi hóa Phật có hai vị Bồ-tát và hai vị Tỳ-kheo đứng hầu hai bên, tất cả bốn vị thị giả này đều đứng trên tua râu của hoa sen, hiện bày ánh sáng khả ái thù thắng hơn trước gấp nhiều lần. Bên dưới chân mày, ba đường mí mắt và trong vành mắt đều có bốn màu xanh, vàng, đỏ, trắng xoay vần, tỏa ra tuyệt đẹp, hướng lên trên và nhập vào xương chân mày, cũng phóng ra ánh sáng nơi đầu những sợi lông mày như pháp ở trước đã nói. Từ nơi xương sau cổ phóng ra ánh sáng, vòng quanh bốn vòng, có bốn màu phân rõ ràng. Trong màu vàng thì hóa ra thân Phật màu vàng ròng, màu trắng thì hóa ra thân Phật màu bạc, màu xanh thì hóa ra thân Phật màu kim cương, màu đỏ thì hóa ra thân Phật màu xa cừ. Các ánh sáng như vậy hiển hiện vòng quanh về bên phải thù thắng hơn trước gấp nhiều lần. Thế nào là quán tướng lông mi của Phật? Lông mi mắt của Như Lai, trên dưới đều có năm trăm sợi lông, mềm mại khả ái như tua râu hoa Ưu-đàm. Trên đầu mỗi sợi lông mi đều phóng ra một tia sáng có màu sắc như pha lê nhập vào các tướng trước, màu sắc ánh sáng ấy vòng quanh đầu một vòng, ánh sáng phát ra nơi xương cổ rồi vòng quanh nơi ánh sáng trước, sinh ra toàn những hoa sen xanh. Trên đài hoa sen có dù lọng màu xanh, có vị Phạm thiên vương cầm dù lọng ấy, khi tướng này hiện ra, mắt Phật màu xanh và trắng, trắng thì hơn cả bạch ngọc trăm vạn ức lần, xanh thì hơn hẳn hoa sen xanh và lưu ly xanh biếc cũng trăm vạn ức lần, trên dưới đều mềm mại như mắt trâu chúa. Bên hai đuôi mắt phóng ra hai tia sáng như hoa sen xanh vô cùng nhỏ nhiệm, vòng quanh đầu tóc một vòng rồi phóng ra nơi sau xương cổ, ánh sáng rọi chiếu lên các hoa làm cho hoa nở tung, sáng đẹp rực rỡ. Các tướng thù thắng như vậy có vô lượng công đức. Đó là tướng mắt của Như Lai. Nếu có người muốn quán tướng mắt của Như Lai, nên quán tưởng như vậy để diệt trừ các điều ác, nhắm mắt chắp tay, ngồi ngay thẳng để quán tưởng về tướng mắt của Phật, một ngày cho đến bảy ngày, vào đời vị lai sẽ luôn được thấy Phật, không hề bị mù tối, cũng không bị sinh ra ở nơi biên địa, tà kiến và không có Phật pháp. Mắt tuệ luôn luôn được khai mở, không bị ngu si. Đức Phật nói: –Thưa Phụ vương! Vì thế cho nên, người có trí muốn trừ bỏ mù tối, nên quán tưởng mắt Phật. Phật có năm loại mắt. Trong pháp quán này, trước hết nói về Nhục nhãn (mắt thịt) hiện bày ánh sáng thanh tịnh, quán tưởng về mắt Phật, tâm được thông lợi, cảnh giới súc sinh không thể nào nói đủ. Quán tưởng kỹ càng về mắt Phật và mắt của hình tượng Phật dù chỉ trong một khoảng thời gian ngắn ngủi thì vào đời vị lai, sinh trong năm đường, mắt luôn được sáng tỏ và thanh tịnh, nhãn căn không bị bệnh, trừ diệt được các tội lỗi sinh tử trong bảy kiếp. Này A-nan! Hãy bảo các đại chúng, siêng năng quán tưởng về mắt Phật, cẩn thận không nên ngừng bỏ. Người quán tưởng về mắt Phật chắc chắn sẽ đạt được vô lượng công đức vi diệu. Nếu chỉ chợt nhìn thấy tướng ánh sáng nơi mép tóc, vầng trán rộng, nhục kế, vành mắt, lông mi, lông mày và đường mí mắt của Phật,… trong chốc lát thì tiêu trừ được tội lỗi sinh tử trong sáu mươi kiếp. Vào đời vị lai, sinh ra chắc chắn được gặp Đức Phật Di-lặc, được ánh sáng oai đức của một ngàn Đức Phật ở hiền kiếp gia hộ, tâm như hoa sen không hề đắm nhiễm, không bao giờ bị đọa trong ba đường tám nạn. Nếu ngồi mà không thấy thì nên vào tháp Phật để quán tưởng. Khi vào tháp quán tưởng về các ánh sáng như vậy, chí tâm chắp tay, quỳ gối quán tưởng, một ngày cho đến ba ngày, tâm không hề tán loạn. Sau khi qua đời, được sinh lên cõi trời Đâu-suất, được chiêm ngưỡng thân sắc trang nghiêm của Bồ-tát Di-lặc, thích ứng với sự giáo hóa dẫn dắt. Sau khi được thấy như vậy rồi, thân tâm hoan hỷ vào quả vị Chánh pháp. Đức Phật nói: –Thưa Phụ vương! Quán tưởng như vậy gọi là Chánh quán, nếu quán khác đi, gọi là tà quán. PHẬT thuyết QUÁN PHẬT TAM-MUỘI HẢI kinh <卷 id="112589557">Quyển 3 <詞 id="112589558">Phẩm 3: QUÁN TƯỚNG (Phần 3) Đức Phật bảo rằng: –Thưa Phụ vương! Sao gọi là quán tai Phật? Tai Phật có trái tai thòng xuống xoắn lại, sinh ra bảy vòng lông và các tướng. Khi sinh ở cung vua, lần đầu xỏ lỗ tai khiến cho trong, ngoài hai lỗ tai sinh ra hoa. Trong hoa sen này và bảy vòng lông tai phóng ra những ánh sáng có năm trăm tia, mỗi tia có năm trăm màu, mỗi màu hiện ra năm trăm hóa Phật, mỗi hóa Phật có năm Bồ-tát và năm Tỳ-kheo làm thị giả, ánh sáng xoay về bên phải thành năm vòng, trên dưới ngang bằng, ánh soi tai Phật. Tai Phật đẹp như hoa sen báu treo dưới ánh sáng mặt trời. Khi Đức Phật tại thế, tất cả đại chúng đều thấy tướng này. Đó gọi là ánh sáng tướng tai Phật, Đức Phật nói với vua cha: Nếu bốn bộ chúng xa lìa rối rắm ồn ào, chánh niệm suy nghó về tướng tai Phật thì những người này sinh ra được nhó căn thanh tịnh, không có những nhơ bẩn, tai luôn được nghe mười hai bộ kinh vô thượng nhiệm mầu, nghe rồi tin hiểu, theo đúng lời dạy tu hành, trừ diệt được tội sinh tử trong tám mươi kiếp. Nếu người chẳng thấy thì vào tháp như trước, quán tưởng kỹ tai của tượng Phật từ một ngày đến mười bốn ngày rồi cũng được công đức như đã nói. Vậy nên người trí phải siêng tu tập chánh quán tai Phật, chớ nên phế bỏ. Nếu khi bệnh khổ, tựa nghiêng nằm nghỉ cũng phải quán tưởng tướng tai Phật thanh tịnh. Như vậy quán tưởng tai tượng Phật như sự quán tưởng trước, lòng chẳng biếng trễ thoái lui thì đời sau sinh ra ở đâu cũng thường được cùng với người thọ trì Đà-la-ni làm quyến thuộc, nghe pháp ghi nhớ thọ trì ví như xâu ngọc. Quán như vậy thì gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là quán. Sao gọi là quán tướng gò má vuông vức đầy đặn của Như Lai? Trong sáu vạch trên má của Như Lai, trái phải ngang bằng nhau, có màu ánh sáng vi diệu, sáng đẹp hơn người bình thường gấp nhiều lần. Màu ánh sáng của vàng Diêm-phù-đàn soi khắp khiến cho tướng mặt Đức Phật như màu vàng ròng, ví như hòa hợp trăm ngàn mặt trời mặt trăng. Đó gọi là tướng gò má vuông vức đầy đặn của Như Lai. Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật giữ chánh niệm suy nghó, quán tưởng như vậy thì trừ diệt tội sinh tử trong một trăm kiếp, được chiêm ngưỡng các Đức Phật tỏ rõ không nghi ngờ. Người quán như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán. Sao gọi là tướng Sư tử ngáp của Như Lai? Khi Phật há miệng thì như miệng của sư tử chúa, vuông vức bằng phẳng. Hai bờ mép của miệng tuông ra hai luồng ánh sáng. Ánh sáng ấy màu vàng, hơn ánh sáng trước trăm ngàn vạn lần, hướng lên trên, nhập vào ánh sáng của tai, vòng quanh tóc. Rồi từ xương sọ phát ra vòng quanh vầng sáng phía trước. Trong mỗi vạch sáng có ba vị Hóa Phật. Mỗi một vị Hóa Phật có hai vị Phạm vương làm thị giả. Đó gọi là tướng Sư tử ngáp của Như Lai. Sau khi Phật diệt độ, bốn bộ chúng đệ tử quán tưởng như vậy thì trừ diệt tội sinh tử trong mười kiếp. Đời sau sinh ra ở đâu, trong miệng luôn luôn có hương thơm hoa Ưu-bát, nói ra điều gì mọi người đều tin nhận, ví như trời Đế Thích được sự kính tin của tất cả ba mươi ba tầng trời. Người quán như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán. Sao gọi là quán tướng mũi của Như Lai? Mũi của Như Lai cao dài mà thẳng đứng giữa. Đầu mũi của Như Lai như mỏ của vua chim ưng. Lỗ mũi phóng ra hai luồng ánh sáng chiếu lên, tỏa xuống. Chiếu lên thì lên vào chân mày, tướng Bạch hào và mép tóc. Như vậy đi thẳng vào nhục kế trên đỉnh đầu, như lá cờ bằng vàng, từ xương sọ phóng ra biến thành nhiều bông hoa. Trên hoa đều có những vị thần âm nhạc cõi trời, tay cầm nhạc cụ vào khắp chỗ tất cả các vị Hóa Phật theo ánh sáng nhiễu quanh mười vòng. Xuống thì thẳng đến trong râu mép của Phật, vây quanh râu mép khiến cho rễ râu mép nở hoa như hạt gạo nhỏ, chiếu vào môi, lợi, đến vùng răng, ánh đẹp yết hầu. Xuống đến ngực Phật, thành vừng mây ánh sáng, lộ bày thanh tịnh, không có bụi che khuất, như đồ bằng lưu ly đựng ánh sáng vàng ròng. Đó gọi là tướng mũi thanh tịnh của Như Lai. Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật quán tưởng như vậy thì diệt trừ ác nghiệp rất nặng trong một ngàn kiếp, vào đời vị lai sinh ra ở đâu cũng nghe được mùi thơm thượng diệu, tâm ý tỏ rõ chẳng tham đắm mùi thơm, thường dùng hương thơm của giới làm chuỗi ngọc cho thân mình. Người quán như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán. Sao gọi là quán râu mép của Như Lai? Đầu những sợi râu mép phóng ra ba luồng ánh sáng tía, xanh biếc, hồng, thẳng từ mép miệng xoay quanh cổ chiếu lên, ánh sáng tròn vây quanh tạo thành ba luồng, phân rõ ràng. Trong màu sắc trên, mỗi luồng sinh ra một viên ngọc báu. Ánh sáng của viên ngọc ấy có trăm ngàn màu. Dưới ngọc, từng cây từng cây hoa trắng đứng với nhau, đủ ba vòng rồi sau đó ánh sáng trở lại nhập vào trong râu mép. Đó gọi là tướng ánh sáng râu mép của Như Lai. Sau khi Phật diệt độ, người quán tưởng theo phép quán đó thì tiêu trừ được tội sinh tử của ba mươi kiếp. Đời sau sinh ra thì các lỗ chân lông có ánh sáng tự nhiên, lòng chẳng ưa tham đắm niềm vui của gia đình, quyến thuộc, thế gian, thường ưa xuất gia tu hạnh Đầu-đà. Người quán như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán. Sao gọi là quán tướng môi màu đỏ đẹp như quả Tần-bà của Như Lai? Ở môi trên môi dưới cùng với lợi răng hòa hợp phát ra ánh sáng. Ánh sáng ấy tròn giống như trăm ngàn xâu trân châu đỏ, từ miệng Phật phát ra, đi vào mũi Phật, rồi từ mũi Phật ra, đi vào Bạch hào. Từ Bạch hào ra, đi vào vùng tóc. Từ vùng tóc ra, đi vào trong vừng sáng tròn, ánh lên làm đẹp các hoa. Bốn mươi cái răng trong miệng sinh ra ánh sáng. Ánh sáng hồng trắng ấy chiếu sáng lẫn nhau, soi đến bốn mươi cái răng khiến cho bốn mươi chân răng tự nhiên bằng đều, trắng như vách pha lê, trên dưới bằng phẳng không so le. Vạch hoa văn hàm răng tỏa ra những luồng ánh sáng cũng màu hồng trắng. Những sắc màu như vậy, khi Phật tại thế ánh chói mắt người. Sau khi Phật diệt độ phải dùng tâm nhãn quan sát để thấy màu này. Các đệ tử của Phật quán tưởng như vậy thì trừ được tội sinh tử của hai ngàn kiếp, đời sau, sinh ra có môi miệng vi diệu, răng không sứt mẻ, được màu sắc tối thượng. Tuy được màu sắc như vậy nhưng lòng chẳng tham đắm. Thường thấy các Đức Phật, Thanh văn, Duyên giác được những vị ấy nói pháp khiến cho lòng chẳng nghi ngờ. Người quán như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán. Sao gọi là quán tướng lưỡi rộng dài của Như Lai? Lưỡi của Như Lai chính là quả báo có được của mười pháp Ba-la-mật và mười điều thiện. Dưới lưỡi và hai bên lưỡi có hai viên ngọc báu rót dòng cam lồ làm thấm ướt lên thiệt căn. Chư Thiên, người đời, Bồ-tát trụ Địa thứ mười không ai có tướng lưỡi này, cũng không có vị này. Trên lưỡi có năm vạch như hoa văn của ấn báu. Thượng vị như vậy vào trong hoa văn bảo ấn, rồi rót chảy lên, xuống, nhập vào ống lưu ly. Những khi Phật cười làm lay động lưỡi, do sức của vị này nên lưỡi phát ra năm luồng ánh sáng với năm màu rõ ràng, nhiễu quanh Phật bảy vòng, trở lại nhập vào nơi đỉnh đầu. Khi Phật đưa lưỡi ra thì như cánh hoa sen, lên đến mép tóc, che trùm cả mặt Phật. Bên dưới lưỡi cũng có những mạch máu đủ sắc màu. Như thượng vị rót chảy vào trong mạch nhờ sức của vị ấy nên biến thành những luồng ánh sáng, có mười bốn màu. Hai luồng ánh sáng chiếu lên vô lượng thế giới. Giữa mỗi luồng ánh sáng có một đài ánh sáng, màu sắc của nó vi diệu chẳng thể nêu tên đủ. Mỗi đài ánh sáng có vô số khám thờ Phật. Trong mỗi khám có vô lượng Hóa Phật ngồi kiết già, tất cả đại chúng Thanh văn, Bồ-tát, đều vây quanh. Ánh sáng ấy qua khỏi vô lượng thế giới ở phương trên, hóa thành một vị Phật. Thân Đức Phật cao lớn như núi Tu-di. Những Đức Phật như vậy, nhiều vô lượng đều phát xuất tướng lưỡi cũng lại như vậy. Hai luồng ánh sáng chiếu xuống đến địa ngục A-tỳ thì khiến cho ngục A-tỳ như màu vàng ròng. Nhờ sức lưỡi của Phật nên khiến cho người chịu khổ tạm được ngưng nghỉ, tự nhớ biết việc làm ác từ đời trước. Như vậy xuống qua khỏi thế giới nhiều không lường. Trong mỗi cõi hóa ra một cây hoa báu, lá như lưỡi của Phật. Tướng lưỡi phóng ra ánh sáng. Rồi ánh sáng và ánh sáng soi chiếu nhau biến thành Hóa Phật. Thân của Hóa Phật ấy thuần một màu trắng bạc, thân tướng đầy đủ. Mỗi Hóa Phật phát ra lưỡi dài rộng, trong ánh sáng tướng lưỡi lại có các Hóa Phật. Những Hóa Phật như vậy, số nhiều không lường. Ánh sáng của Hóa Phật tạo thành một núi bạc. Núi ấy cao lớn vô lượng vô biên. Ở vùng núi ấy sinh ra toàn một loài cây bạc ra hoa vàng và trái bạc. Dưới cây đều có hoa sen bạch ngọc. Trên hoa lại có hóa nhân bằng bạch ngọc. Trong rốn người ngọc hóa sinh ra sáu con rồng, miệng rồng màu đen, sắc rồng thuần màu trắng. Số người ngọc hóa ra đó nhiều không lường. Lại nữa, ánh sáng soi xuống qua vô lượng cõi, thấy cây Bạch ngọc, từ phương dưới tỏa ra đến cõi Ta-bà, rồi lại um tùm vươn lên đến đỉnh của ba cõi với cành nhánh rậm, thưa. Lá của cây ấy có chín mươi tám màu. Mỗi lá cây che khắp ba cõi. Vùng những lá cây ấy lại có rồng, voi, cọp, chó sói, sư tử, trùng độc, thú ác, mèo, chồn, chuột nhắt… không gì chẳng có. Còn cảnh giới khác, người ngồi tự thấy, thấy một luồng ánh sáng chiếu về phương Đông khiến cho đất ở phương Đông đều trở thành màu vàng ròng. Núi sông cây cối, tất cả bị lửa đốt. Ánh sáng của lửa cháy và ánh sáng màu vàng ròng đều chẳng chướng ngại nhau. Ở đầu luồng ánh sáng có các vị hóa Phật. Từng vị Phật, từng vị Phật kế tiếp nhau cho đến vô lượng thế giới ở phương Đông, giống như gié lúa, cành mè không rỗng khuyết. Mỗi vị Phật đều có vô lượng Bồ-tát làm thị giả. Những vị Bồ-tát đó cũng phát ra tướng lưỡi giống như Đức Phật. Ánh sáng không lường của tướng lưỡi như vậy hóa thành đám mây ánh sáng. Ở trong đám mây ánh sáng, có vô lượng vị Hóa Phật ngồi kiết già nhiều như bụi trần. Số ánh sáng như vậy nhiều không lường. Ở đầu mỗi ngọn lửa cháy có năm con quỷ Dạ-xoa, tay cầm kiếm bén, đầu có bốn miệng hút lấy lửa mà chạy. Số quỷ như vậy nhiều không lường, cho đến phương Đông cũng lại như vậy. Một luồng ánh sáng chiếu về phương Nam đến vô lượng thế giới khiến cho thế giới ấy trở thành màu lưu ly. Trên đất lưu ly sinh ra hoa bằng vàng ròng. Trên hoa vàng ròng sinh ra hoa mã não. Trên hoa mã não sinh ra hoa xa cừ. Trên hoa xa cừ sinh ra hoa mai khôi. Trên hoa mai khôi sinh ra hoa hổ phách. Trên hoa hổ phách sinh ra hoa san hô. Trên hoa san hô sinh ra hoa kim tinh. Trên hoa kim tinh sinh ra hoa kim cương. Trên hoa kim cương sinh ra hoa ánh sáng ma-ni. Mỗi cánh hoa ánh sáng ma-ni có trăm, ức hoa báu với vô lượng sắc màu. Mỗi tua hoa có vô lượng Phật Thích-ca Mâu-ni ngồi kiết già với đại chúng Bồ-tát vây quanh. Lúc này, trong lỗ chân lông của thân mình các đại chúng cũng mọc ra hoa này. Trên mỗi hoa hiện ra việc hy hữu như trên đã nói. Các vị Hóa Phật đó phát ra tướng lưỡi rộng dài, thị hiện ánh sáng thù thắng hơn tướng đó gấp trăm ngàn vạn lần. Ở chỗ hoa ấy có tòa báu vi diệu cao lớn đẹp đẽ như giường của Phạm vương. Trên mỗi tòa có một vị Đại Bồ-tát, thân tướng trang nghiêm giống như đức Di-lặc, cũng phát ra tướng lưỡi rộng dài. Ánh sáng của lưỡi ấy tạo thành lưới ngọc ma-ni che các vị hóa Phật và đại chúng. Vùng lưới ngọc ma-ni lại phát ra ánh sáng báu lớn. Luồng ánh sáng báu ấy lại có vô lượng vô biên các vị Hóa Phật. Mỗi vị Hóa Phật đều có vô số vị Tỳ-kheo theo hầu. Các vị Tỳ-kheo ngồi trên hoa sen vàng, thân màu vàng ròng, an nhiên, chắp tay nhập vào định niệm Phật. Các lỗ chân lông nơi thân các vị phóng ra ánh sáng màu vàng ròng. Mỗi ánh sáng này hóa thành một vị Hóa Phật giống như núi vàng, vây quanh Tỳ-kheo. Rồi có hóa Tỳ-kheo cũng vây quanh Đức Phật. Số chúng như vậy đông nhiều chẳng thể nói hết. Một luồng sáng chiếu đến phương Tây, khiến cho đất phương Tây trở thành màu pha lê. Trên đất pha lê có mây kim cương. Trong mây kim cương có mây ngọc trắng. Trong mây ngọc trắng có mây trân châu đỏ. Trong mây trân châu đỏ có mây trân châu trắng. Trong mây trân châu trắng có mây trân châu tía. Trong mây trân châu tía có mây trân châu xanh lục. Trong mây trân châu xanh lục có mây trân châu hồng. Trong mây trân châu hồng có mây cát vàng Diêm-phù-đàn. Trong mây cát vàng có mây bụi kim cương ma-ni. Trong mây bụi kim cương ma-ni có mây bụi tất cả màu báu. Trong mỗi đám mây như vậy, có năm mươi sáu ức màu sắc vi diệu đẹp đẽ vượt quá tầm nhìn của mắt, chỉ có tâm tịch tónh mới thích hợp với cảnh đẹp này. Các tướng như vậy lại có vô lượng Hóa Phật nhiều như bụi trần. Mỗi Hóa Phật có vô lượng đệ tử đông như bụi trần. Các bụi trần chẳng lớn, các Đức Phật chẳng nhỏ, trang nghiêm vi diệu như Phật Thích-ca Văn, cũng phát ra tướng lưỡi. Một luồng ánh sáng chiếu về phương Bắc khiến cho đất phương Bắc trở thành màu xa cừ. Trên đất xa cừ có tháp kim cương. Mỗi tháp Phật với trăm ngàn tháp đẹp vây quanh, số tháp ấy nhiều không lường. Ngôi tháp nhỏ nhất cao năm mươi ức na-do-tha do-tuần. Trong mỗi ngôi tháp lại có trăm ức khám thờ, hang động, nhiều như vi trần. Trong mỗi hang có vô lượng vô biên nước màu sắc báu tự nhiên trào ra. Trên mặt nước đó có hoa sen lớn nở, hiện ra ánh sáng. Khi ánh sáng ấy hiện ra thì tỏa mùi thơm vi diệu hơn mùi thơm của Hải thử ngạn chiên-đàn trăm ngàn vạn lần. Hương thơm đó biến thành ánh sáng vi diệu. Trong những ánh sáng có các vị Hóa Phật với thân sắc vi diệu. Tất cả các vật báu đứng đầu trong các vật được báu sinh ra từ tướng lưỡi. Đồng thời mỗi hang có vô lượng ánh sáng, mỗi ánh sáng có vô lượng Hóa Phật, mỗi Hóa Phật lại phát ra vô lượng ánh sáng nơi tướng lưỡi, cũng trở thành tháp hương thơm, qua khỏi vô lượng thế giới chẳng thể cùng tận ở phương Bắc cũng chỉ sinh ra từ biển Tam-muội niệm Phật. Một luồng ánh sáng chiếu về phương Đông nam khiến cho đất phương Đông nam thành màu mã não. Trên đất mã não có núi hổ phách. Trên núi hổ phách sinh ra rừng bảy báu. Khu rừng bảy báu có mười suối nước. Nước mười suối có màu sắc báu. Màu sắc của nước phóng ra ánh sáng soi khắp phương Đông nam đến vô lượng thế giới. Chỗ soi rọi của ánh sáng có núi báu lớn. Bên dưới mỗi cây của mỗi vùng núi đều mọc ra hoa Mạn-đà-la, hoa Đại mạn-đà-la. Trên đài hoa có một hóa Phật toàn một màu pha lê, trong ngoài trong suốt, chẳng thể gọi tên đầy đủ được. Có ánh sáng nhiều loại châu báu vây quanh thân Phật hàng ngàn vòng. Trong mỗi ánh sáng có vô lượng hóa Phật. Mỗi vị Hóa Phật có vô lượng đại chúng đều là màu lưu ly vây quanh. Mỗi vị Hóa Phật phát ra ánh sáng tướng lưỡi, hóa thành núi báu. Núi báu như vậy lại qua khỏi vô lượng thế giới ở phương Đông nam. Một luồng ánh sáng chiếu đến vô lượng thế giới ở phương Tây nam khiến cho đất của phương Tây nam toàn một màu san hô. Trên đất san hô sinh ra lầu ngọc bích, ngôi lầu thấp nhất đã cao đến năm mươi ức do-tuần. Lầu có một ức cây trụ. Mỗi cây trụ này có trăm ức màu sắc báu. Mỗi vật báu phóng ra vô số ánh sáng. Mỗi ánh sáng này hóa thành vô lượng ngàn ức cây báu. Dưới mỗi cây báu có sáu suối nước. Nước của suối ấy theo rễ cây chảy vào, rồi theo nhánh cây chảy ra. Khi chảy ra, nước có sáu màu sắc báu. Trong mỗi dòng nước mọc ra một hoa sen. Hoa ấy trắng tinh, trên hoa lại có một vị Hóa Phật trắng. Thân của vị Phật ấy trắng hơn tất cả. Trên màu trắng lại có năm trăm màu ánh sáng vi diệu vây quanh thân Phật. Mỗi ánh sáng hóa ra vô số Đức Phật. Mỗi Hóa Phật có vô số Bồ-tát. Các cây trụ của các lầu đài đều phóng ra ánh sáng. Trong mỗi ánh sáng có vô số vị Hóa Phật. Vị Hóa Phật màu xanh thì kinh hành trên đất san hô. Vị Hóa Phật màu trắng thì kinh hành trên lầu ngọc xanh. Lầu đài, nhà, khám thờ đều có vô số Hóa Phật như vậy, cũng đều phát ra tướng lưỡi, phóng ánh sáng lớn. Ánh sáng vi diệu ấy soi về phương Tây nam vô lượng thế giới, chẳng thể cùng tận. Một luồng ánh sáng soi đến phương Tây bắc khiến cho phương Tây bắc trở thành đất hổ phách. Trên đất hổ phách sinh ra núi trân châu. Trên núi trân châu có cây san hô, lá ngọc trắng, hoa ma-ni, trái vàng ròng, tua kim tinh. Dưới cây, tự nhiên có con sư tử lớn, thân bằng bảy báu. Trong mắt sư tử phóng ra ánh sáng lớn soi vào đất hổ phách khiến cho đất hổ phách mọc ra một hoa sen lớn. Hoa ấy trải tròn rộng vô lượng vô biên. Trên mỗi hoa có mây ánh sáng màu tía. Trên đám mây ấy có lưới trân châu màu xanh. Vùng lưới trân châu mọc ra hoa sen vàng. Trên hoa sen vàng có một vị Hóa Phật thân màu vàng tía với ánh sáng màu xanh, vàng, đỏ, trắng vây quanh. Trong mỗi ánh sáng có vô số Hóa Phật. Mỗi vị Hóa Phật có vô lượng đại chúng. Các vị hóa Phật đó cũng phát ra tướng lưỡi rộng dài như vậy. Như vậy soi khắp vô lượng thế giới ở phương Tây bắc, ánh sáng tướng lưỡi chẳng thể cùng tận. Một luồng ánh sáng chiếu sang phương Đông bắc khiến cho đất phương Đông bắc toàn một màu kim cương. Trên đất kim cương mọc ra hoa do bảy báu hợp thành. Trên hoa sinh ra cờ màu vàng Diêm-phù-đàn. Trên đầu cờ có hoa, hoa ấy có vô lượng trăm ngàn màu báu, có vô số cánh. Mỗi cánh hoa hóa thành vô lượng trăm ngàn màn báu. Mỗi góc màn báu có cờ bằng bảy báu. Trên mỗi đầu cờ có dù lọng bảy báu. Lọng báu ấy che trên tất cả các thế giới ở đất phương Đông bắc. Mỗi lọng báu có năm lá phướn báu toàn bằng vàng ròng. Mỗi lá phướn có vạn ức vô lượng chuông báu nhỏ. Chuông báu nhỏ phát ra âm thanh vi diệu tán thán danh hiệu Phật, khen ngợi lễ Phật, khen ngợi niệm Phật, khen ngợi sám hối… Phát ra những âm thanh đó rồi, màn báu ấy hạ xuống đất, ánh sáng lớn tuông ra. Ánh sáng ấy vi diệu nhiều vô số ngàn ức. Trong mỗi ánh sáng có vô lượng vị Hóa Phật ngồi kiết già bên trong màn báu mà có thân vọt lên trụ trong hư không. Đông vọt lên Tây lặn mất, Tây vọt lên Đông lặn mất, Nam vọt lên Bắc lặn mất, Bắc vọt lên Nam lặn mất, hai bên vọt lên giữa lặn mất, giữa vọt lên hai bên lặn mất. Hoặc hiện thân lớn đầy trong hư không. Từ lớn lại hiện thân nhỏ như hạt cải. Ở trong hư không đi đứng ngồi nằm, trên thân tuôn ra nước, dưới thân phát ra lửa, dưới thân tuôn ra nước, trên thân phát ra lửa, đi trên đất như trong nước, đi trong nước như trên đất. Trong nước mọc lên hoa sen lớn như bánh xe, trên hoa có vị Phật ngồi kiết già. Hóa Phật nhiều vô lượng vô biên như vậy, đồng thời thấy Phật vọt thân lên hư không làm mười tám pháp biến hóa. Trên lửa sinh ra một ngọn núi Tu-di vàng ròng, các vì sao, mặt trời, mặt trăng, đều bằng bảy báu trang nghiêm, có các rồng, Dạ-xoa và nước biển lớn. Nhiều núi Tu-di như vậy, bên trái bên phải tất cả đều xuất hiện. Số những núi như vậy nhiều không lường, đỉnh núi có Phật cũng phát ra tướng lưỡi có ánh sáng soi khắp vô lượng thế giới ở phương Đông bắc, chẳng thể cùng tận. Một luồng ánh sáng chiếu từ cung điện Tứ Thiên vương ở cõi Diêm-phù-đề, khiến cho Tứ Thiên vương đều thấy Đức Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni, mặt trời của loài người, đang ngồi trên đài bảy báu cùng các đại chúng đi lên cõi trời đó. Chư Thiên nhìn thấy đều phát tâm Bồ-đề. Cho đến tất cả chư Thiên của cõi Vô sắc đều thấy tướng đó rất rõ ràng, lòng không lẫn lộn khiến cho trời Vô sắc chẳng chê bai Niết-bàn và liền phát tâm Bồ-đề. Một luồng ánh sáng soi xuống các A-tu-la, các Dạ-xoa, các Càn-thát-bà, các Ca-lâu-la, các Khẩn-na-la, các Ma-hầu-la-già, các Rồng, các La-sát, các Phú-đơn-na, các Kim-tỳ-la, các quỷ nuốt tinh khí của người, các Cưu-bàn-trà, các Cát-giá, các quỷ đồng trống, các quỷ đói, các quỷ ăn đồ ói ra, các quỷ ăn nước mũi nước dãi, các quỷ ăn mủ máu, các quỷ ăn phân nước tiểu, các thần núi, các thần cây, các thần nước… Bao nhiêu trăm ngàn các quỷ thần như vậy… thân của họ trong chốc lát trở thành sắc thân của trời thư thái, an vui như vị Tỳ-kheo nhập vào thiền loại ba. Những quỷ đó đều tùy theo nghiệp hành tự phát ba loại tâm Bồ-đề. Các quỷ đói khi gặp ánh sáng của tướng lưỡi thì giống như nước lạnh dập tắt lửa nơi các đốt xương. Lửa đã tắt rồi, nước đồng chảy xuống đất, bị vùi lấp thẳng vào đất. Những quỷ đói đều há miệng kêu lên rằng: “Đói! Đói!”, ở hàng ngàn vạn năm chẳng từng thấy nước. Hôm nay, chúng thấy nước này thì tiêu trừ hết nóng nảy, trở nên mát mẻ. Đó là nhờ năng lực của ai? Trong hư không có tiếng nói rằng: “Hỡi loài quỷ đói ngu si! Có Đức Phật Thế Tôn phóng ra ánh sáng của lưỡi! Ánh sáng ấy chiếu đến các ngươi khiến cho sự khổ sở độc hại của các ngươi đều được ngưng nghỉ. Nói lời nói đó rồi thì trước mỗi một quỷ nhìn thấy một người mẹ hiền từ ngồi trên đài hoa sen, giống như mẹ hiền ôm giữ đứa trẻ con cho uống sữa khiến cho quỷ no đủ. No đủ rồi chúng đều phát tâm Bồ-đề. Đã phát tâm rồi thì mỗi người mẹ hiền hóa thành một Đức Phật. Mỗi Đức Phật cũng phóng ra tướng lưỡi, cứu các quỷ đói. Đức Phật bao gồm lấy tướng lưỡi. Ngàn màu sắc ánh sáng này nhiễu quanh Phật một ngàn vòng. Mỗi ánh sáng có một ngàn Đức Phật nhập vào nơi đỉnh đầu của Phật. Vào rồi, thân Phật trang nghiêm hiển hiện ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp phụ đều minh diệu, khắp thân thể phát ánh sáng chói lòa rực rỡ hơn cả trăm ngàn vô số ức mặt trời. Đức Phật nói với Phụ vương: –Nên quán tướng lưỡi và công đức lưỡi của Như Lai… như vậy. Sau khi Phật diệt độ, người nào có lòng niệm Phật thông lợi, quán lưỡi Phật mà cảnh giới tâm và mắt đúng như vừa nói thì người quán tưởng đó tiêu trừ được tội sinh tử của một trăm ức tám muôn bốn ngàn kiếp. Khi bỏ thân, sang đời sau họ sẽ gặp được tám mươi ức Đức Phật. Ở chỗ các Đức Phật, họ đều thấy tướng lưỡi rộng dài của chư Phật phóng ra ánh sáng lớn cũng như vậy. Sau đó, họ được thọ ký đạo Bồ-đề. Đức Phật bảo A-nan: –Ông hãy đem lời nói của Phật, đừng cho quên mất, bảo cho các đệ tử, phải chánh thân, chánh ý ngồi ngay thẳng thiền định quán tưởng tướng lưỡi rộng dài thì như ta còn ở đời không khác. Nếu có chúng sinh nghe lời nói này mà lòng chẳng kinh sợ nghi ngờ, chẳng sinh ra bài báng, chẳng phiền não, niệm Phật, siêng năng tinh tấn niệm Phật và cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, những người như vậy tuy chẳng niệm Phật do tâm thiện mà vẫn tiêu trừ được nghiệp ác rất nặng của hàng trăm kiếp, vào đời vị lai sẽ được gặp Phật Di-lặc… cho đến Phật Lâu-chí, ở chỗ một ngàn Đức Phật nghe Pháp, nhận sự giáo hóa. Họ sẽ được Tam-muội Quán Phật như vậy. Đức Phật nói với vua cha: –Người quán như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán. Sao gọi là quán tưởng tướng cổ của Như Lai? Tướng xương khuyết bồn đầy đặn, tướng chữ Đức ở ức, tướng chữ Vạn ở ngực. Vùng những chữ ấy phát ra ánh sáng tròn. Tướng cổ tròn như ống lưu ly, màu vàng đẹp. Trên yết hầu có tướng nét chấm rõ ràng giống như chữ Y. Trong mỗi nét chấm phóng ra hai luồng ánh sáng. Mỗi luồng ánh sáng ấy nhiễu quanh vừng ánh sáng tròn trước đủ bảy vòng tạo thành những luồng sáng phân biệt rõ ràng. Mỗi luồng sáng có hoa sen báu vi diệu. Trên hoa sen ấy có bảy vị Hóa Phật. Mỗi vị Hóa Phật có bảy vị Bồ-tát làm thị giả. Hai tay của mỗi vị Bồ-tát đều cầm ngọc báu Như ý. Ánh sáng vàng của ngọc ấy đầy đủ màu sắc xanh, vàng, đỏ, trắng và Ma-ni, vây quanh trong những luồng sáng như vậy. Đó gọi là tướng cổ Phật phát ra vầng sáng tròn đầy. Hoa văn chữ Đức, trong ấn chữ Vạn ở ngực, tướng khuyết bồn đầy đặn, tướng ngọc dưới nách… trong những tướng đó, cứ mỗi tướng thù thắng có năm trăm ánh sáng màu sắc xen lẫn nhau. Những tướng ấy chói sáng đều chẳng trở ngại nhau. Mỗi ánh sáng màu vây quanh ánh sáng cổ đủ năm trăm vòng. Trong mỗi luồng sáng có năm trăm vị Hóa Phật. Mỗi vị Hóa Phật có năm trăm vị Bồ-tát làm thị giả, năm trăm vị Tỳ-kheo, tay cầm phất trần màu trắng đứng hầu hai bên. Ánh sáng của những vị Hóa Phật, ánh sáng của những hóa Bồ-tát, ánh sáng của những hóa Tỳ-kheo đều hiển hiện trong tất cả các luồng ánh sáng. Núi Đại Tu-di, cung Tứ Thiên vương, cung điện chư Thiên, mặt trời, mặt trăng, sao, cung rồng, cung thần, cung A-tu-la, thần mười núi báu, thần nước bốn biển và những Càn-thát-bà sống dưới nước… những điều tôn kính của các Bà-la-môn, chín mươi lăm loại thần tiên ngoại đạo với những người có nhân duyên thân thuộc, cha mẹ trải nhiều đời… những thần như vậy… đều hiển hiện ở trong ánh sáng của Phật. Lại có trăm ức vô lượng quỷ thần, hình bóng hiện ra vầng ánh sáng vì người cõi Diêm-phù-đề nói về việc hiếu dưỡng cha mẹ. Bóng hóa nhân này khi thấy mọi người đều tự nói rằng: “Ta là cha của ngươi, ta là mẹ của ngươi trong vô lượng đời. Ngươi tên gì đó, ta tên gì đó. Đại chúng như vậy đông nhiều không lường, đều là những việc mà chúng sinh tôn kính. Việc này ở trong ánh sáng tròn của Phật rõ ràng như bức tranh, như soi gương thấy mặt. Những tướng như vậy gọi là vừng sáng tròn vây quanh cổ Phật, bên trên cũng một tầm, xuống dưới cũng một tầm, bên trái cũng một tầm, bên phải cũng một tầm, đủ đầy tám thước. Ở trong vừng sáng tròn tuông ra Hóa Phật. Tất cả sự hiếm thấy của chúng sinh đều hiện ở trong đó rất rõ ràng. Trên vừng sáng tròn có màu vàng rực rỡ như ngọc Ma-ni, trang nghiêm hiển hiện rất ưa nhìn. Vùng Ma-ni rực rỡ ấy hóa sinh ra cây có hoa. Cây ấy màu vàng, trăm ngàn vạn ức vàng Diêm-phù-đàn chẳng sánh bằng. Dưới mỗi cây, có một hoa sen báu. Trên hoa sen có vị Hóa Phật màu vàng ròng có tán che bằng lưu ly bên trên Đức Phật, làm hiển hiện nét mặt của Phật rất trang nghiêm rõ ràng. Số tượng Hóa Phật như vậy nhiều không lường. Khi Đức Phật còn tại thế, lúc Đức Thế Tôn đi thì ánh sáng này soi vùng đất phía trước một do-tuần biến thành toàn một màu vàng ròng, phía sau một do-tuần toàn màu vàng ròng, bên trái một do-tuần toàn màu vàng ròng, bên phải một do-tuần toàn màu vàng ròng. Có người đi gần bên trái, bên phải Đức Phật thì mùi xú uế của người ấy đều biến mất hết. Người ở xa nhìn họ thấy giống như màu vàng ròng. Khi Phật ngồi dưới cây thì ánh sáng này rực rỡ như nhiều hoa bằng vàng tung vào vùng vườn cây Kỳ-đà. Có người quan sát kỹ ánh sáng cổ Phật, nếu đi trước xem thì thấy Phật ở trước, từ phía sau xem thì thấy Phật ở sau, ở bên trái xem thì thấy Phật ở bên trái, ở bên phải xem thì thấy Phật ở bên phải. Người tám phương lại, từ xa thấy ánh sáng cổ Phật đều nói lên rằng: “Sa-môn Cù-đàm, ở trong núi vàng, bước đi tự tại, đang hướng đến chỗ của ta.” Như vậy mọi người, mỗi mỗi đều thấy khác. Đó gọi là ánh sáng cổ Phật. Khi thấy ánh sáng này, nhục kế ở đỉnh đầu Phật sinh ra muôn ức ánh sáng. Từng ánh sáng, từng ánh sáng tiếp theo nhau cho đến vô lượng thế giới ở phương trên. Chúng trời, người và hàng Bồ-tát trụ Địa thứ mười cũng chẳng thể thấy tóc Phật xoắn về bên phải hoa văn thượng diệu, màu loài ong xanh biếc và màu lông chim công chẳng thể sánh được. Tóc ấy có hàng ngàn ánh sáng rực rỡ tỏa chiếu lên. Khi ánh sáng này chiếu lên thì xương nhục kế và trong đầu của Phật, tất cả diệu tướng đều ánh hiện lên hết. Ánh sáng tướng mặt tròn đầy khả ái, phước báo được diệu hoa của cõi nước thanh tịnh người trời chẳng lấy làm ví dụ được. Ánh sáng mặt Phật lại càng sáng rỡ. Ánh sáng cổ Phật, ngực Phật và tay Phật hơn trước bội phần, lại càng rực rỡ. Đầu gối phát ra ánh sáng. Ánh sáng ấy màu trắng phân làm bốn chi, theo thân di chuyển lên trên hóa thành hoa trắng nhập vào dưới ánh sáng cổ Phật. Rốn phát ra năm luồng ánh sáng, mỗi ánh sáng có hai tia, mỗi tia có năm màu, nhập vào trong xương hông, ống như ngọc trắng đựng đầy nước nhiều màu từ sau hai vai tự nhiên tuông ra, như từng ánh lửa ma-ni vàng chống đỡ nhau. Các ánh sáng ma-ni đều có hoa sen vi diệu. Trên mỗi hoa sen có bảy vị Hóa Phật như vẽ như in, tùy theo thân Phật chuyển đổi chẳng chướng ngại nhau. Nai chúa ngồi xoạc đùi, những vùng xương câu mốc nhau, uốn khúc như rồng cuộn… giữa những khoảng như vậy phát ra các ánh sáng vàng ròng. Những ánh sáng này từ một đốt xương phát ra rồi đi vào giữa một đốt xương khác, cứ như vậy mà hòa hợp thành một ánh sáng lớn như ngọc ma-ni vàng ở sau khuỷu tay của Phật làm đẹp đến ánh sáng trên đỉnh. Móng tay màu đồng đỏ, màn lưới của ngón chân… mỗi chỗ đều có ánh sáng. Ánh sáng ấy sáng rỡ như lưu ly, pha lê đủ màu bảy báu, theo sau bước chân của Phật, xứng đáng gọi thân Phật như ngọc Ma-ni. Cũng như ánh sáng trước, những ánh sáng này lên đến vừng sáng tròn. Tướng bánh xe dưới chân và gót chân dài đều sinh ra một bông hoa. Hoa ấy tuyệt đẹp như hoa Ưu-bát-la của cõi nước thanh tịnh. Gót chân của Phật sinh ra những ánh sáng vây quanh đầy đủ mười vòng. Từng hoa, từng hoa tiếp theo nhau, trong mỗi hoa có năm vị Hóa Phật. Mỗi vị Hóa Phật có năm mươi Bồ-tát làm thị giả. Trên đỉnh đầu mỗi vị Bồ-tát phóng ra ánh sáng ngọc ma-ni. Khi hiện tướng này thì trong mỗi lỗ chân lông trên thân Phật lại phát ra tám muôn bốn ngàn những ánh sáng nhỏ vi tế để trang nghiêm, khiến cho ánh sáng nơi thân vô cùng đẹp đẽ. Các màu sắc xen lẫn như vậy gọi là ánh sáng thường, gọi là ánh sáng vừa ý, cũng gọi là ánh sáng tùy theo sự ưa nhìn của những chúng sinh, cũng gọi là ánh sáng ban mắt cho chúng sinh. Tướng ánh sáng một tầm này rất nhiều. Còn như Cù-sư-la quan sát Phật, ánh sáng này nhỏ theo. Cho đến các Đại Bồ-tát phương khác khi quan sát Phật thì ánh sáng này lớn theo, như nói trong phần các loại hoa. Đức Phật nói với Phụ vương và bảo A-nan rằng: –Ta nay vì các ông thị hiện đầy đủ ánh sáng của thân tướng. Nói lời đó xong, Đức Phật đứng dậy bảo A-nan rằng: –Tỳ-kheo các ông cùng những người dòng họ Thích đều hãy đứng dậy, chắp tay hướng về Phật, quan sát thật kỹ Như Lai, từ ánh sáng đỉnh đầu xuống đến ánh sáng dưới chân, từ nhục kế trên đỉnh đầu xuống đến tướng dưới chân bằng phẳng đầy đặn. Đức Phật lại bảo các Tỳ-kheo: –Lại quan sát từ tướng dưới chân bằng phẳng đầy đặn lên đến nhục kế, cũng quan sát ánh sáng cổ, ánh sáng thân của Như Lai. Lại bảo: –Hãy quan sát từ mỗi một lỗ chân lông của Phật đến hết từng phần của thân thể. Mỗi sự quan sát đều phải cho rõ ràng như người cầm gương soi tự quan sát hình nét mặt của mình. Hoặc có người sinh lòng xấu ác, bất thiện, hoặc có người hủy phạm cấm giới của Phật thì thấy tướng Phật toàn một màu đen giống như người bằng than. Trong những người dòng họ Thích, có năm trăm Thích tử thấy sắc thân của Đức Phật giống như người bằng than đen. Trong chúng Tỳ-kheo, có một ngàn người thấy sắc thân của Đức Phật giống như người bằng đất đỏ. Trong chúng Ưu-bà-tắc, có mười sáu người thấy sắc thân của Đức Phật như chân voi đen. Trong chúng Ưu-bà-di, có hai mươi bốn người thấy sắc thân Đức Phật giống như mực đen tụ lại. Như vậy, trong bốn chúng, mỗi người đều thấy khác nhau. Trong chúng Tỳ-kheo-ni, có Tỳ-kheo-ni thấy sắc thân Đức Phật như màu bạc. Trong chúng Ưu-bà-di có Ưu-bà-di thấy sắc thân Đức Phật như màu xanh lam. Như vậy bốn chúng quan sát sắc thân Đức Phật, nhìn thấy chẳng đồng nhau. Bốn chúng nghe lời nói đó của Đức Phật đều kêu khóc, rơi nước mắt, chắp tay bạch Đức Phật rằng: –Hôm nay chúng con chẳng thấy được diệu sắc! Năm trăm Thích tử tự giựt tóc trên đầu, toàn thân gieo xuống đất, máu trong mũi tuôn ra, thưa rằng: –Đức Phật sinh ra trong gia đình chúng con. Lúc Đức Phật mới sinh, mọi người đều thấy toàn một màu vàng ròng, chỉ có chúng con luôn luôn thấy thân Đức Phật giống như người bằng than đen, cũng giống như các Bà-la-môn còm cõi gầy yếu. Chúng con đời trước có tội lỗi gì? Nguyện xin đấng Mặt trời Phật giảng nói cho chúng con! Nói lời nói đó rồi, lại tự giựt tóc trên đầu, gào khóc như trước, tự đánh đập mình. Lúc đó, Đức Từ Phụ phát ra Phạm âm an ủi các Thích tử và bốn chúng rằng: –Này các thiện nam! Mặt trời Phật Như Lai xuất hiện ở thế gian chỉ vì trừ diệt tội lỗi cho các ông. Các ông hãy đứng dậy đi! Phật tự biết thời sẽ giảng nói cho các ông. Khi đó, đại chúng đứng dậy, đi nhiễu quanh Đức Phật ba vòng, làm lễ dưới chân Đức Thế Tôn. Năm trăm vị Thích tử đi đến chỗ ngài A-nan, bạch rằng: –Chúng tôi cùng ngài đều sinh ra trong gia đình họ Thích mà một mình ngài thông minh, ghi nhớ tất cả những lời Đức Phật giống như rót nước từ đồ đựng này sang đồ đựng khác. Chúng tôi có tội đời trước nên chẳng thấy thân Đức Phật, huống gì là nghe được pháp? Nói lời đó xong, họ đối trước ngài A-nan khóc lóc. Bấy giờ, Đức Như Lai dùng Phạm âm bảo các Thích tử và đại chúng rằng: –Này các anh em! Các anh em chớ nên khóc lóc! Thuở quá khứ có Đức Phật hiệu là Tỳ-bà-thi Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri xuất hiện ở đời, giáo hóa chúng sinh. Hóa độ người xong, sau khi Ngài vào Niết-bàn, trong đời Tượng pháp, có một vị trưởng giả tên là Nhật Nguyệt Đức. Ông ấy có năm trăm người con thông minh đa trí, biết tất cả văn chương, nghề khéo của thế gian, tinh tú, lịch số không gì chẳng quán triệt. Vị trưởng giả ấy kính tin Phật pháp, thường vì các con nói về tâm quán tưởng Phật, cũng nói về ý nghóa sâu xa của mười hai nhân duyên. Các con nghe rồi nghi ngờ, chẳng tin, nói rằng: “Cha già lẩm cẩm, bị sự lừa dối, mê hoặc của các Sa-môn. Chúng ta xem các thư tịch đều không có nghóa đó, nay cha tìm ở đâu ra những thứ này?” Vị trưởng giả thương xót các con nên ẩn giấu Phật pháp chẳng vì họ tuyên nói nữa. Lúc đó, các con đều bị bệnh nặng, người cha xem thấy mạng các con chẳng còn bao lâu nên đến chỗ các con. Trước mỗi đứa con, ông đều rơi lệ, chắp tay nói rằng: “Các con tà kiến chẳng tin chánh pháp, hôm nay lưỡi dao vô thường sắp cắt đứt thân con. Lòng con phiền muộn cậy nhờ vào đâu? Có Đức Phật Thế Tôn tên là Tỳ-bà-thi, con nên xưng niệm danh hiệu Ngài!” Các con nghe rồi, kính trọng cha mình nên nói rằng: “Nam-mô Phật”; người cha lại bảo rằng: “Con hãy xưng danh Pháp! Con hãy xưng danh Tăng!” Chưa kịp xưng danh đủ ba thì những người con ấy đã qua đời. Do xưng danh Phật nên họ được sinh lên trời, chỗ của Tứ Thiên vương. Tuổi thọ ở cõi trời hết, do nghiệp tà kiến trước kia nên họ rơi vào địa ngục lớn. Ở địa ngục, chịu khổ sở, họ bị ngục tốt La-sát dùng chóa sắt nóng đâm mù mắt. Khi chịu sự khổ đó, họ nhớ những lời dạy bảo của người cha. Do niệm Phật nên họ ra khỏi địa ngục, trở lại sinh vào trong loài người chịu bần cùng thấp hèn. Đức Phật Thi-khí ra đời, họ cũng được gặp, nhưng chỉ nghe danh hiệu Phật mà chẳng nhìn thấy hình dáng Phật. Đức Phật Tỳ-xá ra đời, họ cũng chỉ nghe danh hiệu Phật. Đức Phật Câu-lâu-tôn ra đời, họ cũng chỉ nghe danh hiệu Phật. Đức Phật Câu-na-hàm Mâu-ni ra đời, họ cũng chỉ nghe danh hiệu Phật. Đức Phật Ca-diếp ra đời, họ cũng chỉ nghe danh hiệu Phật. Do nhân duyên nghe tên sáu vị Phật nên được cùng sinh ra với ta. Tuy sinh ra ở xứ này, nhưng ngày nay thân tướng ta trang nghiêm đến vậy mà các ông thấy thân ta như thân người Bà-la-môn gầy còm. Thân ta màu vàng mà màu của vàng Diêm-phù-đàn cũng chẳng sánh được, nhưng các ông thấy màu thân ta giống như người bằng than đen. Đức Phật bảo các Thích tử: –Nay các ông hãy xưng danh hiệu Phật đời quá khứ và đảnh lễ chư Phật, đồng thời xưng danh cha các ông. Đảnh lễ các Đức Phật quá khứ, cũng xưng danh hiệu của ta, kính lễ đối với ta, vị lai có Đức Phật hiệu là Di-lặc, các ông cũng nên kính lễ, nói lên tội tà kiến đời trước của các ông. Hôm nay, Phật đang còn ở đời, đại chúng Sa-môn tất cả đã vân tập, các ông phải hướng về các đại đức chúng Tăng mà phát lồ hối lỗi. Thuận theo lời Phật sám hối các tội, ở trong Phật, Pháp và Tăng, năm vóc gieo xuống đất như núi lớn sạt lở, họ hướng về Đức Phật sám hối. Mắt tâm được khai mở, họ thấy sắc thân Đức Phật trang nghiêm vi diệu như ánh sáng núi Tu-di hiển hiện ở biển lớn. Nhìn thấy Phật rồi, lòng vô cùng vui mừng, họ bạch Phật rằng: –Bạch Thế Tôn! Con nay thấy Đức Phật với ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, thân màu vàng ròng. Mỗi tướng tốt có vô lượng ánh sáng. Nói lời đó xong, tức thời đắc đạo, thành Tu-đà-hoàn. Họ thưa với vua cha rằng: –Hôm nay, chúng con muốn ở trong Phật pháp xuất gia học đạo. Vua cha bảo rằng: –Các con hãy bạch với Đức Phật! Xem Đức Phật có cho phép các con không? Họ liền đến chỗ Đức Phật mà bạch rằng: –Bạch Thế Tôn! Con muốn xuất gia! Đức Phật bảo các Thích tử rằng: –Thiện lai Tỳ-kheo! Tức thời những vị Thích tử, râu tóc tự rụng, liền thành Sa-môn. Áo quần họ mặc trên thân hóa thành pháp phục, họ chắp tay đảnh lễ Đức Phật, xưng lên: “Nam-mô Phật!” Khoảnh khắc chưa cất đầu lên thì đã thành A-la-hán với ba Minh, sáu Thông đều đầy đủ. Đức Phật nói với vua cha rằng: –Hôm nay, Đại vương có thấy các Thích tử sám hối tiêu trừ tội, thành A-la-hán không? Vua cha bạch Đức Phật rằng: –Thưa vâng! Đã thấy rồi! Đức Phật nói với vua cha rằng: –Những vị Tỳ-kheo đó đời trước do ác tâm nên hủy báng chánh pháp của Phật, nhưng chỉ vì cha nên xưng “Nam-mô Phật” mà đời đời thường được nghe các danh hiệu Đức Phật, cho đến đời nay được gặp ta ra đời, thấy sắc thân Phật và thấy chúng Tăng, được nghe lời dạy của Phật, sám hối tội lỗi. Nhờ sám hối nên các tội chướng tiêu trừ, tội chướng trừ rồi thì thành A-la-hán. Đức Phật bảo A-nan rằng: –Sau khi ta Niết-bàn, chúng trời, người nếu xưng danh hiệu của ta và xưng “Nam-mô chư Phật” thì được phước đức vô lượng vô biên. Huống gì người giữ tâm chánh niệm nghó về các Đức Phật mà chẳng diệt trừ các chướng ngại sao? Đức Phật bảo các Tỳ-kheo rằng: –Các ông sở dó thấy sắc thân Phật như đất đỏ là vì đời trước, các ông ở trong thời mạt pháp của Đức Phật Nhiên Đăng, xuất gia học đạo. Đã xuất gia với thầy Hòa thượng mà khởi tâm bất tịnh. Nhưng vị Hòa thượng ấy đã được đạo A-la-hán, biết tâm của đệ tử nên bảo họ rằng: “Này các Pháp tử, các ông đối với Hòa thượng và chúng Tăng chớ khởi lên ý nghi ngờ! Nếu khởi lên ý nghi ngờ đối với các giới thanh tịnh, vónh viễn không đạt đạo được!” Các Tỳ-kheo nghe vị Hòa thượng nói, lòng sinh ra sân hận. Lúc đó, vị Hòa thượng biết lòng của đệ tử nên dần dần tự tiết chế, chẳng giảng nói cho họ nữa. Một ngàn người đệ tử theo tuổi thọ tu hành một thời gian ngắn, đều sắp qua đời mà vị Hòa thượng vẫn còn, chẳng vào Niết-bàn. Lúc đó, vị Hòa thượng đến chỗ các đệ tử, nói rằng: “Này Tỳ-kheo các ông! Lúc mới thọ giới, nghi thầy, ngờ giới, luống ăn của tín thí thì hôm nay các ông cậy nhờ vào đâu?” Những người nghe lời nói đó, lòng kinh hãi, dựng tóc gáy, bạch rằng: “Thưa Hòa thượng! Xin ngài vì chúng con nói pháp!” Vị Hòa thượng bảo rằng: “Việc của các ông hôm nay cấp thiết lắm rồi, chẳng còn đủ thời gian dạy các ông sám hối nữa! Các ông hôm nay chỉ phải xưng lên danh hiệu Phật Nhiên Đăng Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri… đầy đủ mười hiệu.” Lúc bấy giờ, các Tỳ-kheo theo lời dạy của vị Hòa thượng, đều xưng lên rằng: “Nam-mô chư Phật”. Vừa xưng danh hiệu Phật xong thì liền qua đời, nhờ tâm thiện đó nên được sinh lên cõi trời. Sinh lên cõi trời Đao-lợi hưởng thụ tự nhiên. Tuổi thọ ở cõi trời hết, hạ sinh xuống thế gian, do tội đời trước, luống ăn của tín thí nên rơi vào trong loài ngạ quỷ, bị nước đồng sôi rót vào cổ họng, tuổi thọ kéo dài tám muôn bốn ngàn năm. Chịu tội ngạ quỷ xong, họ sinh vào trong loài súc sinh. Chịu tội súc sinh xong, họ sinh trở lại trong loài người gánh chịu sự bần cùng thấp hèn. Sinh vào trong loài người, họ được nghe danh hiệu các Đức Phật. Nhờ năng lực xuất gia đời trước nên lòng tin được phát khởi như trước, họ biết đời trước đã xưng niệm “Nam-mô Phật”. Do công đức nhân duyên xưng danh hiệu Phật nên trong tám ngàn đời thường gặp đời có Phật mà mắt chẳng nhìn thấy sắc thân của chư Phật, huống là được nghe pháp. Cho đến ngày hôm nay gặp được đời có ta, họ thấy thân thể của ta giống như đất đỏ. Đức Phật bảo các vị Tỳ-kheo rằng: –Đời trước, các ông đối với chỗ chẳng đáng nghi mà ngang ngược có kiến chấp nghi ngờ, đối với chỗ đáng tin mà ngang ngược chẳng chịu kính tin. Do những tội đó nên chẳng thấy chư Phật, chẳng nghe chánh pháp. Như ta hôm nay hiện sinh ra ở cung vua, màu sắc thân ta chân chánh, tối thượng trong các màu sắc mà các ông thấy như màu đất đỏ. Các Tỳ-kheo nghe lời nói này của Đức Phật đều hối hận và tự trách mình, sửa lại áo vai phải, chắp tay hướng về Đức Phật mà nói lên rằng: –Khi chúng con ở vô lượng kiếp đời trước, tà kiến, nghi ngờ sư trưởng, luống nhận của tín thí. Do nhân duyên này nên bị đọa vào địa ngục. Hôm nay tuy đã được ra mà ở vô lượng đời chẳng thấy chư Phật, chỉ nghe được danh hiệu. Hôm nay thấy được thân Đức Thế Tôn như màu đất đỏ, lớn cao đúng năm thước. Lúc đó, Đức Thế Tôn vạch Tăng-kỳ-chi (áo trong) bày chữ Đức ở ngực, khiến cho Tỳ-kheo đọc tụng chữ Đức, biết được công đức trí tuệ trang nghiêm của Đức Phật. Ở trong ấn chữ Vạn đã nói lên tám muôn bốn ngàn hạnh công đức của Đức Phật. Các vị Tỳ-kheo thấy rồi, khen ngợi Đức Phật rằng: –Đức Thế Tôn rất đặc biệt kỳ lạ! Chỉ có một chữ ở ngực mà còn nói lên vô lượng nghóa, huống gì các công đức trong tâm Đức Phật. Họ nói lời đó xong, hướng về Đức Phật sám hối, năm vóc gieo xuống đất như núi lớn sạt lở, đối trước Đức Phật gào khóc bi thương, nước mắt như mưa. Khi đó, Đức Thế Tôn an ủi họ bằng lời dịu dàng khiến cho tâm các Tỳ-kheo được hoan hỷ. Tâm các vị đã hoan hỷ, giống như gió thổi lớp mây đi bay ra bốn phía, hiển hiện rõ dung sắc tốt đẹp của Đức Phật, ba mươi hai tướng nhìn thấy tỏ tường. Thấy Đức Phật rồi, lòng rất vui mừng phát tâm Bồ-đề. Đức Phật nói với vua cha rằng: –Một ngàn vị Tỳ-kheo này ân cần cầu pháp, lòng không biếng trễ, ngưng nghỉ, vào đời vị lai vô số kiếp sau, sẽ được thành Phật hiệu là Nam-mô Quang Chiếu Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri… đầy đủ mười hiệu. Khi những vị ấy thành Phật, đất toàn một màu vàng ròng có hàng cây bảy báu, lầu đài được trang nghiêm bằng những vật báu vi diệu. Chúng sinh của cõi ấy đều là những người biết tàm quý, sám hối, toàn là Bồ-tát phát tâm vô thượng. Như vậy một ngàn vị Phật tuần tự xuất hiện ở đời, giống như ở Hiền kiếp, một ngàn vị Bồ-tát theo thứ lớp thành Phật. Đức Phật bảo rằng: –Thưa Đại vương! Các vị Tỳ-kheo đó ngờ thầy, nghi Tăng, bị đại trọng tội. Như trước đã nói, xưng “Nam-mô Phật” đã được phước báo, nay ở đời ta được “thọ ký hiện tiền”. Huống gì là người chánh niệm suy nghó về Phật? Những Tỳ-kheo-ni thấy Đức Phật màu bạc đứng dậy, sửa lại áo vai phải, đảnh lễ Đức Phật và bạch rằng: –Bạch Thế Tôn! Hôm nay, Đức Như Lai tự nói về sắc thân của Ngài tiêu trừ vô lượng tội của các chúng sinh. Vì sao chúng con từ lúc sinh ra, đi xuất gia… cho đến hôm nay nhìn thấy Đức Phật màu bạc, hoa bạc, ánh sáng bạc… các dung cụ trang nghiêm đều là bạc hết? Tại sao chúng con chẳng thấy được ánh sáng vàng rực rỡ đẹp đẽ của Như Lai? Cũng chẳng thấy được ba mươi hai tướng công đức phước báo của Đức Phật? Lúc đó, nghe lời nói của các Tỳ-kheo-ni, Đức Như Lai liền mỉm cười, có ánh sáng màu vàng từ khuôn mặt phát ra, nhiễu quanh thân bạc của Đức Phật đủ mười vòng. Khi ánh sáng này hiện thì các Tỳ-kheo-ni thấy thân Đức Phật màu vàng ròng với ba mươi hai tướng và ánh sáng hiển soi chẳng thể nói đủ. Các Tỳ-kheo-ni thấy rồi, quan sát tướng lông trắng giữa hai chân mày uyển chuyển xoáy về bên phải. Thấy rồi, vui mừng, ngay lúc ấy họ liền thành đạo A-la-hán với ba Minh, sáu Thông và đủ tám Giải thoát. Các Tỳ-kheo-ni tự biết mạng sống đời trước của mình đã từng ở vô lượng kiếp trước, có Đức Phật ra đời cũng tên là Thích-ca Văn. Sau khi Đức Phật đó diệt độ, có các đệ tử xuất gia học đạo. Trong chúng Tăng, có một người du hành giáo hóa, thấy năm trăm đồng nữ ở nơi đầm nước trong núi cùng vui chơi với nhau. Vị Tỳ-kheo đó giữ uy nghi an tường từ từ bước đến chỗ của những người con gái, trải Ni-sư-đàn (tọa cụ) xuống mà ngồi. Những người con gái ấy thấy rồi, ai ai cũng đều hoan hỷ nói rằng: “Chỗ thanh vắng này là nơi Thần tiên dạo chơi, bỗng nhiên có vị Tỳ-kheo thắng só này đến ngồi tại đây, nhất định chẳng phải là người phàm. Chúng ta nên cúng dường Ngài!” Họ đều cởi vòng bạc tung lên vị Tỳ-kheo và nghó: “Vị Tỳ-kheo tinh tấn, đức hạnh thuần thục đầy đủ, về sau nhất định thành Phật. Nguyện xin khi chúng ta thấy ngài cũng có màu bạc như vòng bạc đã tung lên.” Đức Phật nói: –Các vị tham đắm màu báu của bạc nên đời đời thường ở trong núi Bạch ngân làm thân Thần bảo nữ Ngân Sơn. Do làm lễ vị Sa-môn, dâng cúng vòng bạc nên nay gặp được đời của ta, tắm gội thanh tịnh, hóa thành A-la-hán. Vị Tỳ-kheo lúc bấy giờ chính là thân ta. Các người con gái lúc đó là thân của các vị. Các ngươi, ở đời trước, cúng dường Sa-môn, lễ bái chư Phật nên từ đó đến nay luôn luôn gặp chư Phật. Đức Phật nói với vua cha rằng: –Phật là vị thần cứu hộ quý báu trong loài người, đem lại lợi ích nhiều nơi. Nếu có người nghe được danh hiệu, lễ bái cúng dường thì được quả báo rất lớn, huống là người giữ tâm chánh niệm nghó đến tôn nhan của Đức Phật. Những Ưu-bà-tắc trong chúng thấy Đức Phật Thế Tôn như chân voi đen liền đứng dậy, sửa lại áo vai phải, chắp tay hướng về Đức Phật, thưa rằng: –Chúng con sinh ra ở cõi nước này. Con của quốc vương chúng con, xuất gia thành Phật. Ông tiên A-tư-đà thấy được ba mươi hai tướng tốt liền vì con nói rằng, Thái tử điện hạ chắc chắn sẽ thành Phật. Chúng con nghe lời nói đó nên quy y Phật. Từ đó đến nay luôn luôn theo sau Đức Phật, thọ ba quy y, thọ trì tám Giới quan trai, thọ năm Giới pháp, nhưng vì tội lỗi của chúng con nên chỉ nghe tiếng Phật mà chẳng thấy hình Phật. Mỗi khi thấy Đức Phật thì như chân voi đen. Sao chúng con bất hạnh quá! Nói lời đó rồi, họ đưa tay đấm ngực gào khóc, ngã lăn ra đất. Khi đó Đức Như Lai dùng Phạm âm, giống như người cha hiền an ủi con mình, bảo các Ưu-bà-tắc rằng: –Này các Pháp tử! Hãy trở lại chỗ ngồi! Phật sẽ vì các ông đoạn trừ nghi ngờ, hối hận, tiêu diệt các chướng ngại. Nói lời đó xong, Đức Phật bảo các Ưu-bà-tắc rằng: –Vô lượng kiếp đời trước, khi các ông ở cõi Diêm-phù-đề đều làm quốc vương, thống lãnh các nước rất được tự tại. Có các vị Sa-môn vì lợi dưỡng nên giảng nói cho các ngươi những điều tà vạy chẳng đúng lời Phật dạy. Đúng pháp thì nói phi pháp, phi pháp thì nói là pháp. Các ông đều tin dùng những lời đó. Người đó dùng những lời dạy ác này nên sau khi mạng chung đọa vào địa ngục A-tỳ. Còn các ông thuận theo lời dạy của người ác nên sau khi mạng chung cũng đọa vào địa ngục Hắc ám. Do năng lực tâm thiện nghe pháp đời trước nên nay gặp đời của ta, thọ trì năm Giới. Nay các ồn nên phải ở trước Phật, Pháp, Tăng nói lên tà kiến của các ngươi và những lời dạy tà để thành tâm sám hối. Các Ưu-bà-tắc nghe lời nói này của Đức Phật, liền xưng lên: “Nam-mô Phật, Nam-mô Pháp, Nam-mô Tăng” và nói lên hết các tội lỗi, thành tâm sám hối. Đức Phật liền phóng ra ánh sáng tướng Đại Nhân ở giữa hai chân mày, chiếu soi vào tâm mọi người. Những người đó tâm ý được khai mở, đồng thời liền được đạo Tu-đà-hoàn. Các Ưu-bà-tắc được đạo rồi, thấy sắc thân của Đức Phật trang nghiêm vi diệu, thế gian không gì sánh bằng, cầu xin Đức Phật xuất gia và thành A-la-hán. Trong chúng, các Ưu-bà-di thấy sắc thân Đức Phật giống như mực đen tụ lại liền đứng dậy, chắp tay hướng về Đức Phật, nước mắt như mưa, gào khóc bi thương, nói chẳng nên lời, giơ tay vỗ đầu, ngừng thở ngã lăn ra đất. Lúc đó, Đức Thế Tôn thấy việc thế rồi, dùng Phạm âm an ủi họ, bảo rằng: –Cớ sao lo buồn đến nỗi vậy? Khi đó, Ưu-bà-di nghe tiếng nói của Đức Phật, các căn được khai mở, liền đứng dậy, chắp tay bạch Đức Thế Tôn rằng: –Đấng Mặt trời Phật ra đời chiếu soi khắp tất cả. Mọi người đều nhìn thấy như vầng trăng tròn đầy, chỉ có chúng con là chẳng được thấy. Khi Đức Phật nói pháp, mọi người đều nghe tám loại âm thanh, chỉ riêng chúng con chẳng nghe được, giống như người điếc. Tôn giả Xá-lợi-phất vì chúng con trao cho cấm giới, chúng con mới được nghe ngài nói có năm Giới pháp. Mỗi lần chúng con đến Phật hội, đều thấy Đức Thế Tôn giống như mực đen tụ lại. Nguyện xin Đấng Thiên Tôn đại Từ bi trừ diệt tội lỗi cho chúng con, khiến cho chúng con được thấy Đức Phật! Lúc đó, Đức Thế Tôn lại ngồi xuống tòa Sư tử, duỗi chân phát ra tướng bánh xe có ngàn nan hoa (Thiên bức luân) để hiển hiện cho các người nữ nhìn thấy. Những người nữ chỉ thấy những hoa sen vi diệu từ tướng bánh xe phát ra. Trên hoa có vị Hóa Phật giống như người bằng mực đen. Những người nữ lại chắp tay hướng về Đức Phật đảnh lễ, bạch rằng: –Bạch Thế Tôn! Làm đệ tử của Đức Phật đã trải qua nhiều thời gian, chỉ có ngày hôm nay thấy được hoa sen vi diệu, nhưng thấy các vị Hóa Phật giống như bị bôi mực đen. Chúng con đời trước có tội gì mà mắt tối tăm đến vậy? Đức Phật bảo các người nữ rằng: –Hãy lắng nghe! Hãy lắng nghe và suy nghó cho kỹ! Hôm nay Như Lai vì các vị mà phân biệt! Thuở quá khứ xa xưa vô lượng đời, thuở ấy, có Đức Phật hiệu là Nhất Bảo Cái Đăng Vương Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri… Sau khi Đức Phật đó diệt độ, trong đời Tượng Pháp, có các vị Tỳ-kheo vào thôn xóm để khất thực, cầm bát, mang tích trượng, uy nghi chẳng phạm, đi đến các nhà dâm nữ. Các dâm nữ lấy bát của vị Tỳ-kheo đựng đầy đồ ăn, rồi đùa cợt nói với vị Tỳ-kheo rằng: “Ông là người dòng họ Thích, nhan sắc khả ố giống như mực đen tụ lại. Thân ông mặc áo giống như người ăn xin. Sự khả ố của ông, thiên hạ không ai sánh nỗi. Tự cho rằng mình vô dục! Thử hỏi còn ai sẽ nghó đến ông?” Lúc bấy giờ, vị Tỳ-kheo nghe lời nói đó rồi, ném bát trong không trung, rồi bay lên mà đi. Những người dâm nữ nhìn thấy rồi xấu hổ sám hối mà nói lên rằng: “Chúng tôi hôm nay bố thí cho vị Sa-môn bữa ăn, nguyện xin ở đời sau, thân được tự tại giống như Sa-môn.” Đức Phật bảo các người nữ: Các dâm nữ cho cơm vị La-hán lúc bấy giờ, nay là các vị đó! Các vị dùng thiện tâm bố thí cho Tỳ-kheo bữa ăn nên trong hai ngàn kiếp thường chẳng bị đói khát. Do bởi nhân duyên dâm dục mắng chửi ở đời trước nên bị đọa vào địa ngục Hắc ám đến sáu mươi tiểu kiếp. Do thiện tâm phát nguyện đời trước chẳng diệt nên nay gặp được đời của ta, được thọ trì năm giới. Vì chỉ mới cúng dường A-la-hán nên chỉ thấy Xá-lợi-phất mà chẳng thấy thân ta. Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói lời đó xong, liền ở trong rốn phát ra đóa hoa sen lớn. Đóa sen lớn ấy hóa thành đài ánh sáng. Ở trong đài ấy có trăm ngàn vô số Thanh văn Tỳ-kheo như Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên… Các vị ấy ở trong đài ánh sáng của Phật, với thần thông tự tại tạo ra mười tám thứ thần biến. Những người nữ thấy rồi, lòng phát sinh hoan hỷ, ngay tức thời liền dùng lửa trí tuệ đốt cháy tan tành hai mươi ức kết sử, đắc đạo Tu-đà-hoàn. Các Ưu-bà-di đã được đạo rồi, thấy sắc thân Đức Phật trang nghiêm vi diệu, nhưng chẳng thấy được ánh sáng tướng Bạch hào của Đức Phật. Đức Phật nói với vua cha rằng: –Đùa giỡn, ác khẩu…. thì thậm chí đã được đạo rồi mà sự nhìn thấy vẫn chẳng sáng. Vậy nên mọi người phải siêng năng giữ gìn nghiệp miệng, chuyên tâm chính ý quán Tam-muội Phật, vì thấy Phật thì được vô lượng phước. Lúc đó, Đức Thế Tôn muốn làm cho đại chúng thấy sắc thân Phật tỏ rõ phân minh nên Đức Phật liền biến hóa ngôi tinh xá thành như núi ngọc trắng, cao đẹp lớn nhỏ giống như núi Tu-di, có hàng trăm ngàn khám thờ, hang động. Ở trong những khám thờ, hang động, ảnh hiện lên những hình tượng như Đức Phật không khác. Mặt đất trước Đức Phật có hoa sen lớn. Hoa ấy có ngàn cánh. Mỗi cánh có một ngàn ánh sáng. Mỗi ánh sáng có một ngàn vị hóa Phật. Mỗi vị hóa Phật có một ngàn đệ tử làm thị giả. Đức Phật bảo ngài A-nan rằng: –Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật, nếu có thể cắt đứt mọi việc, ném bỏ các ác, giữ tâm chánh niệm dể tư duy ánh sáng của Phật thì cho dù Phật chẳng còn hiện tại, cũng gọi là thấy Phật. Do thấy Phật nên tất cả các ác đều được tiêu trừ. Tùy theo sở nguyện của họ mà ở đời vị lai sẽ thành ba loại đạo Bồ-đề. Đức Phật bảo A-nan: –Người quan sát như thế này thì gọi là chánh quán, nếu quan sát khác đi thì gọi là tà quán. PHẬT thuyết QUÁN PHẬT TAM-MUỘI HẢI KINH <卷 id="112589559">Quyển 4 <詞 id="112589560">Phẩm 3: QUÁN TƯỚNG (Phần 4) Đức Phật nói với vua cha rằng: –Sao gọi là quán tướng phóng ra ánh sáng thường của Đức Như Lai? Hôm nay Như Lai nên vì những người phàm phu ở đời vị lai thị hiện một ít ánh sáng! Những phàm phu kia sẽ học sự quán tưởng đó. Người quán như vậy thì cũng như ngày hôm nay thấy tướng ánh sáng của Phật không có khác. Bấy giờ, Đức Thế Tôn phóng ra ánh sáng nơi nhục kế. Ánh sáng ấy có hàng ngàn màu. Mỗi màu tạo ra tám muôn bốn ngàn tia. Mỗi tia có tám muôn bốn ngàn vị Hóa Phật vi diệu. Thân của những Hóa Phật ấy nhiều vô lượng vô biên. Trên đỉnh Hóa Phật cũng phóng ra ánh sáng này. Từng ánh sáng, từng ánh sáng tiếp theo nhau đến vô lượng thế giới ở phương trên. Ở thế giới phương trên, có những hóa Bồ-tát nhiều như mây bụi trần từ hư không hạ xuống xung quanh các Đức Phật. Khi ánh sáng này hiện lên thì các Đức Phật của thế giới nhiều như bụi trần trong mười phương cũng đều được thấy. Ánh sáng này chiếu thẳng lên đỉnh đầu của chư Phật. Chư Phật phóng ra ánh sáng, ánh sáng ấy lại chiếu xuống đỉnh của Phật Thích-ca Văn. Đức Phật bảo A-nan rằng: –Chúng sinh muốn quán tưởng ánh sáng nơi nhục kế của Phật Thích-ca Văn thì phải quán tưởng như vậy. Người thực hành sự quán tưởng đó, nếu tâm chẳng thông lợi thì trong mơ sẽ được thấy. Tuy nhiên, tâm tưởng đó có thể tiêu trừ vô lượng trăm ngàn tội nặng. Người quán như vậy thì thân hiện tại chắc chắn được thấy các vị Đại Bồ-tát. Thấy Bồ-tát nên nghe được Bồ-tát nói pháp. Nghe nói pháp nên được Đà-la-ni. Đà-la-ni ấy gọi là Toàn ức trì (ghi nhớ tất cả). Người quán như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán. Đức Phật nói với vua cha rằng: –Sao gọi là quán ánh sáng giữa hai chân mày của Như Lai? Hôm nay Như Lai vì các chúng sinh đời sau này nên hiện một ít ánh sáng của tướng Bạch hào. Khi nói lời nói đó, giữa hai chân mày của Đức Phật phóng ra ánh sáng tướng Đại nhân bạch hào. Ánh sáng ấy chia làm tám muôn bốn ngàn tia. Mỗi tia cũng có tám muôn bốn ngàn màu, soi khắp mười phương vô lượng thế giới. Mỗi màu sáng hóa ra một núi vàng. Mỗi núi vàng có vô lượng khám thờ, hang động. Trong mỗi hang động có một vị hóa Phật ngồi kiết già nhập vào thiền định sâu xa, có trăm ngàn đại chúng Thanh văn Bồ-tát làm quyến thuộc. Trong các hang động có các Hóa Phật, các Đức Phật đó đều phóng ra ánh sáng tướng Đại nhân bạch hào, chiếu đến khắp mười phương vô lượng thế giới khiến tất cả mọi nơi đều như màu vàng ròng. Trên đất màu vàng có hoa sen vàng. Trên mỗi hoa sen vàng có các vị Hóa Phật đều cùng danh hiệu là Thích-ca Văn. Giữa hai chân mày của các Đức Phật cũng phóng ra ánh sáng này. Ánh sáng ấy soi khắp mười phương thế giới giống như trăm ngàn ức núi chúa Tu-di cùng hợp về một chỗ. Các núi Tu-di ánh hiện các Đức Phật. Thân Phật cao lớn ngang bằng núi. Ánh sáng giữa hai chân mày của các vị Hóa Phật đó vòng quanh các vị Hóa Phật đủ bảy vòng rồi trở lại nhập vào giữa hai chân mày của Phật Thích-ca Mâu-ni. Khi ánh sáng này nhập vào lỗ chân lông thân Phật thì trong mỗi lỗ chân lông có một vị hóa tượng. Trong lỗ chân lông của thân mỗi hóa tượng hóa thành tám muôn bốn ngàn tượng vi diệu. Đó đều là việc hiếm thấy của tất cả chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới. Đó gọi là ánh sáng của một vẻ đẹp trong tám mươi vẻ đẹp của Như Lai. Ánh sáng của tám mươi vẻ đẹp tùy hình như vậy, nói chẳng thể hết. Như Lai chỉ hiện chút ít ánh sáng Bạch hào. Trong các vị tướng của vua cha, có tám ngàn người xa lìa trần cấu được Pháp nhãn tịnh. Đức Phật bảo A-nan rằng: –Ánh sáng tướng Bạch hào của Như Lai, trong các kinh điển Phật đã giảng nói rõ. Ánh sáng nhiệm mầu như vậy chỉ có Phật mới thấy được của Phật, còn Bồ-tát ở Địa thứ mười chẳng thấy rõ ràng. Vậy nên ở đây chỉ nói một phần ít. Nói phần ít là nói vì người phàm phu. Sau khi Phật diệt độ, người quán tưởng như vậy gọi là Chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán. Ánh sáng này trừ diệt tội như vừa nói ở trên. Chỉ có người thấy ánh sáng, tâm mới được tỏ rõ, thấy hàng trăm ức Đức Phật. Thấy được tướng Bạch hào chính là sự thấy của tâm tưởng. Sao gọi là quán tưởng tướng trán rộng bằng phẳng của Như Lai? Trên mặt Như Lai có tướng ba, tướng mép tóc… Các tướng như vậy, trong mỗi tướng đều phát ra ánh sáng vàng ròng. Ánh sáng màu vàng ấy hóa thành giường vàng ròng. Trên mỗi giường vàng ấy có một ngàn vị Bồ-tát, Câu-lâu-tôn-đà là vị đầu tiên đến nơi giường. Một ngàn vị Bồ-tát đều phóng ra ánh sáng, ngồi trên giường vàng. Như vậy có trăm ức ngàn vạn Bồ-tát, trăm ức ngàn vạn giường vàng. Trên giường vàng ấy đều có màn báu. Mỗi màn báu có hàng ngàn ánh sáng. Mỗi ánh sáng hóa thành hàng ngàn cờ báu. Trên mỗi lá cờ có hàng ngàn vạn lọng báu. Dưới mỗi lọng báu có các phướn báu. Trong các phướn báu có vô lượng vị Hóa Phật. Các vị Hóa Phật đó đều nói về khổ, không, vô thường, vô ngã. Tất cả các vị Hóa Phật, khi nói kệ này thì Đức Phật Thích-ca Văn, thân cao lớn một trượng sáu, ở trước mặt hành giả, đưa tay phải lên, nói rằng: “Hay thay! Hay thay! Này Thiện nam! Ông có thể quan sát tướng tốt của các Đức Phật. Chúng tôi đời trước hành đạo Bồ-tát cùng ông không khác! Hôm nay ông có thể quán tưởng cảnh giới các Đức Phật. Cảnh giới này chỉ là sự phát sinh của vọng tưởng nơi tâm các ông.” Nói lời nói đó xong, Phật liền biến mất. Những ánh sáng trên trán lại sáng rỡ. Ánh sáng ấy lan tỏa ra trăm ngàn ức luồng. Mỗi luồng sáng chiếu soi mặt các vị Bồ-tát ngồi trên giường báu. Mặt những vị Bồ-tát kia cũng phát ra ánh sáng chiếu soi Phật Thích-ca Văn. Khi hiện ra tướng này, hành giả quan sát mặt Phật tỏ rõ không nghi ngờ. Đức Phật bảo A-nan rằng: –Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật có thể quán tưởng để thấy mặt Phật đúng như thật, giống như khi ta còn tại thế không khác. Người quán tưởng như vậy, trừ được tội sinh tử trong một ức kiếp. Đời sau sinh ra ở đâu cũng được diện kiến các Đức Phật, sinh vào nhà các Đức Phật, làm quyến thuộc của các Đức Phật, Bồ-tát. Người quán như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán. Sao gọi là quán tưởng mũi phát ra ánh sáng của Như Lai? Mũi phát ra ánh sáng chia thành bốn tia, đi lên nhập vào mắt Phật, lông mày Phật, lông mi Phật, rồi phát ra ánh sáng lớn. Ánh sáng ấy kéo đến dày đặc như hình rồng, voi, soi khắp vô lượng thế giới mười phương rồi nhập vào trong mắt của các Đức Phật. Khi hiện tướng này thì mười phương vô cùng sáng rỡ. Khi đó, các hành giả thấy đất và hư không của thế giới ở mười phương chư Phật rất đông nhiều. Mắt, lông mày, lông mi, lỗ mũi của mỗi Đức Phật cũng đều phóng ra ánh sáng lớn như vậy. Hai luồng ánh sáng của mắt Phật soi vào tất cả mắt của các Đức Phật. Rồi chúng ở trong hư không hóa thành đài ánh sáng. Trên đài ánh sáng ấy toàn là mây ánh sáng, mây ánh sáng xanh trắng trong thế giới không thể sánh bằng. Trong ánh sáng xanh có vị hóa Phật màu xanh. Trong ánh sáng trắng có vị Hóa Phật màu trắng. Hai Đức Phật màu xanh, trắng này, trái, phải phân minh, có ánh sáng màu hàng trăm châu báu làm mây cho các Đức Phật ấy như người có thần thông bay lướt đi trong đám mây. Các lỗ chân lông của thân Phật giống như cây hoa. Mỗi một cây hoa cao lên đến cõi Phạm, các cánh hoa có trăm ngàn ức Thanh văn Tỳ-kheo. Mỗi Tỳ-kheo mặc áo ngàn mảnh có ngàn màu. Trong mỗi màu có trăm ngàn vị Hóa Phật đều thuần một màu vàng. Các vị Tỳ-kheo đó bay vọt thân trong mây theo sau Đức Phật, như rồng, voi lớn đi thì con của chúng đi theo. Đức Phật bảo A-nan rằng: –Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật, nếu có thể chính niệm quán tưởng ánh sáng mắt Phật thì nghiệp chướng nặng nề của đời hiện tại liền được tiêu trừ, ở đời vị lai thường được thấy Phật, chẳng lìa khỏi mặt trời Phật, tuy ở trong thai mẹ nhưng thường nhập vào Tam-muội, khi ở tại thai mẹ, thấy chư Phật khắp mười phương đều phóng ra ánh sáng mắt soi đến thân mình, khi trong vỏ trứng thai thường thọ trì pháp vi diệu, huống là đã ra bên ngoài. Người quán tưởng như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán. Mũi phát ra hai luồng ánh sáng. Ánh sáng ấy chiếu khắp mười phương thế giới. Mỗi ánh sáng ấy hóa thành dòng nước lớn. Dòng nước ấy ở giữa hư không, chảy vào các ánh sáng. Khi nước này chảy vào thì tất cả ánh sáng lại càng hiển hiện rõ. Mỗi vùng sáng sinh ra núi pha lê. Mỗi vùng núi pha lê sinh ra hoa bảy báu. Trên đài hoa ấy vọt trào ra các loại nước. Nước ấy màu vàng giống như lá cờ bằng vàng. Bên trong cờ vàng ấy có trăm ngàn vạn vô lượng hóa Phật. Mỗi vị Hóa Phật, thân cao lớn một trượng sáu. Trong lỗ chân lông của thân Phật có tám muôn bốn ngàn màu sắc báu thượng diệu. Trong các màu sắc báu lại phóng ra ánh sáng. Ánh sáng ấy vi diệu có các màu nhiều như cát sông Hằng. Đức Phật bảo A-nan: –Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật quán tưởng như vậy thì tiêu trừ được nghiệp ác rất nặng của một ngàn kiếp, đời sau sinh ra, tâm không chấp thủ, chẳng ở trong bào thai, luôn luôn hóa sinh, đã hóa sinh rồi, ánh sáng của thân đầy đủ, chẳng hề rời xa các Đức Phật. Người quán tưởng như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán. Sao gọi là quán tưởng ánh sáng khuôn mặt của Như Lai? Ánh sáng ấy màu trắng giống như núi báu, trong ngoài đều thanh tịnh. Bên trong núi báu có vô lượng vị Hóa Phật màu vàng ròng. Khuôn mặt của các vị Hóa Phật cũng phóng ra ánh sáng. Ánh sáng ấy năm màu soi khắp mười phương, rồi nhập vào khuôn mặt của các Đức Phật. Khi hiện tướng này, hành giả đi đứng ngồi nằm luôn luôn nghe Đức Như Lai nói về bốn Niệm xứ: Thân, thọ, tâm, pháp, đồng thời nghe nói cảnh giới, khiến cho hành giả nghe rồi được ghi nhớ, nhắm mắt tư duy. Nhờ năng lực của ánh sáng này nên hành giả được pháp bốn Niệm xứ. Các Đức Phật khắp mười phương và Phật Thích-ca Văn ở trong Tam-muội, đều duỗi tay phải xoa đỉnh đầu hành giả, nói rằng: “Hay thay! Hay thay! Này Thiện nam! Ông có thể chân thật tu hành Định niệm Phật.” Người quán như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán. Sao gọi là quán tướng tai của Như Lai? Tai Phật phát ra năm ánh sáng. Ánh sáng ấy có một ngàn màu. Mỗi màu có một ngàn vị Hóa Phật. Mỗi vị Hóa Phật phóng ra một ngàn ánh sáng. Ánh sáng như vậy soi khắp vô lượng thế giới ở mười phương, rồi hóa thành một đóa hoa. Hoa ấy rất lớn, đo lường chẳng thể biết, ngoại trừ thần lực tâm Phật, không ai có thể biết. Trong hoa sen đó, có trăm ngàn vạn ức vô lượng cõi Phật đều hiện ra và có trăm ngàn vạn ức các Đại Bồ-tát ngồi trên một tua hoa, tua hoa chẳng lớn, Bồ-tát chẳng nhỏ mà cũng chẳng trở ngại nhau. Những Bồ-tát như vậy, trái tai đều thòng xuống như sen vàng treo chỗ ánh sáng mặt trời. Ở trong tai lại sinh ra năm luồng ánh sáng. Khi tướng này hiện thì lông trong tai Phật như cây của Đế Thích, mọi người đều rất ưa nhìn. Đức Phật bảo A-nan: –Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật quán tưởng như vậy thì thường nghe trăm ức ngàn Đức Phật và các vị Bồ-tát nói các pháp vi diệu, chẳng bị hư hoại nhó căn. Người quán như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán. Sao gọi là quán tướng cổ của Như Lai? Tướng cổ phát ra hai luồng ánh sáng. Ánh sáng ấy có một vạn màu, soi khắp tất cả thế giới ở mười phương. Có các chúng sinh căn lành thuần thục gặp ánh sáng ấy thì giác ngộ được mười hai nhân duyên, thành Bích-chi-phật. Ánh sáng này soi cổ các Bích-chi-phật. Khi tướng này hiện, hành giả thấy khắp tất cả những Bích-chi-phật trong mười phương ném bát lên hư không, tạo thành mười tám sự biến hóa. Dưới mỗi một chân của các Bích-chi-phật đều có văn tự. Văn tự ấy diễn nói mười hai nhân duyên: Vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sinh, sinh duyên lão tử, ưu bi khổ não. Một chữ có một ánh sáng, một ánh sáng có mười hai âm thanh, một âm thanh nói khổ, không, vô thường, vô ngã, một âm thanh diễn nói mười hai nhân duyên. Như vậy, trong ánh sáng dưới chân các vị Bích-chi-phật đều có chữ đó, nghịch thuận qua lại đến mười hai lần. Đó gọi là căn bản sinh tử. Ánh sáng này chiếu soi các vị Bích-chi-phật rồi thì trở lại cổ Phật. Người quán tưởng như vậy thì chẳng sinh trong loài người mà sinh lên cõi trời Đâu-suất, được gặp Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ được nghe quý Ngài nói pháp vi diệu. Nghe pháp rồi, thân tâm hoan hỷ, học theo các Bồ-tát quán pháp duyên khởi. Người quán tưởng như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán. Sao gọi là quán tướng xương khuyết bồn đầy đặn của Như Lai? Ánh sáng của tướng đầy đặn soi khắp mười phương tạo thành màu hổ phách. Chúng sinh nào gặp ánh sáng này thì tự nhiên phát tâm cầu đạo Thanh văn. Những Thanh văn đó thấy ánh sáng này chia làm mười tia, mỗi tia có một ngàn màu. Mười ngàn ánh sáng màu, mỗi ánh sáng có một vị Hóa Phật. Mỗi vị Hóa Phật có bốn vị Tỳ-kheo làm thị giả. Mỗi vị Tỳ-kheo đều nói khổ, không, vô thường, vô ngã, phân biệt bốn Đế, nói ý nghóa của tám quả chứng, nói tướng của bốn quả vị, nói ba Tam-muội… khiến cho những chúng sinh kia ở trong pháp này cầu pháp xuất gia, xuất gia chẳng bao lâu đều thành A-la-hán. Như vậy ánh sáng soi khắp đỉnh đầu của các La-hán trong mười phương. Khi soi đỉnh đầu các vị ấy, như người cầm bình thuốc nước rót vào đỉnh đầu. Hình trạng sắc mạo ánh sáng ấy giống như đề hồ, nhập vào đỉnh đầu rồi, xuyên suốt hiện bày rõ. Bấy giờ, hành giả thân tâm yên ổn. Tâm ấy điềm nhiên không có các ý tưởng ác, chẳng thấy tướng mạo của các kết sử. Như vậy bỗng nhiên thành A-la-hán. Ánh sáng này lại biến thành tán che màu vàng nhiều vô số. Trong mỗi tán che có trăm ngàn bộ bảy Đức Phật. Mỗi bảy Đức Phật có bốn vị Tỳ-kheo làm thị giả. Mỗi vị Tỳ-kheo nhập vào bốn đại định. Trong bốn đại định đều hiện tướng mạo của tất cả các kết sử: tám vạn hộ trùng đắp đổi mà sinh ra, các loài trùng nhỏ cũng đều sinh theo. Khi tướng này hiện thì trước tiên lửa lớn nổi dậy. Lửa lớn nổi dậy bắt đầu như hạt cải, từ lỗ chân lông phát ra rồi sau lớn lên dần dần, thiêu đốt khắp các thân. Thân như lửa tụ lại, các trùng kêu rống như tiếng sư tử. Khi tiếng này phát ra, tâm hành giả sợ hãi mê muội, ngã lăn ra đất. Ra khỏi định, hành giả thấy thân như lửa đồng hoang đi bên cây bị đốt cháy. Khi tướng này hiện, hành giả phải khởi lên tâm tạo ra một dược tưởng (tư tưởng về thuốc). Trước hết khởi tưởng về thân, tưởng về thân đã thành thì mở đỉnh đầu khiến cho rỗng không, rồi khởi tưởng về Phạm vương, khởi tưởng về Đế Thích, khởi tưởng chư Thiên, tay cầm bình báu, ý tưởng đem thuốc rót vào. Khi thuốc đã vào đỉnh thì lưu thông khắp thân thể và trong các mạch máu, thấy mạch và thân như ống lưu ly, chỉ thấy các trùng như hoa héo rụng. Bấy giờ, các mạch lại chảy rót vào nhau, giống như chỉ có các dòng nước. Chỗ nào nước đến thì lửa tắt theo. Lúc đó, hành giả nơi từng đốt từng đốt xương, nước phun ra như người ngước cổ phun bắn lên. Nước lên đến cõi Phạm, từng luồng nước tiếp nhau lên đến cõi Phạm thiên. Hành giả thấy nước trong thân mình như bốn biển lớn, thấy các trùng, đầu héo rũ, tay gẫy, chân cong queo. Chỉ có tim hành giả sinh ra lửa phân làm mười phần. Lửa vào các dòng nước chẳng tiêu diệt nhau. Ánh sáng nước xông lên, ánh sáng lửa sáng theo. Hai ánh sáng nước lửa đều từ tim phát ra, xen lẫn nhau lên đến tột đỉnh ba cõi, xuống đến ngục A-tỳ. Hết tận cõi một thế giới chỉ toàn thấy nước, lửa tuôn chảy, Đông, Tây, Nam, Bắc lửa cũng chạy theo. Bấy giờ, đầu trái tim tự nhiên mọc một sợi lông đen. Ở đầu sợi lông ấy phát ra một luồng gió đen lớn. Gió ấy có bốn màu trái tim nổi lên như cơn gió lốc xoáy, có hình dạng như khói lửa. Ngọn gió ấy thổi khắp tất cả các dòng nước. Nước ấy dậy sóng, bọt tụ thành đống, lửa cũng nhập vào trong đó. Nhờ sức lửa nên bọt cứng như băng. Rồi lại có gió đến, thổi các bụi bẩn, chín mươi tám thứ vật xấu xí, bất tịnh đem đặt lên trên băng. Sức băng yếu nên tan theo vật bất tịnh, chỗ đặt vật liền tan ra. Khi băng này tan thì có tám người cầm dao chặt khối băng thành từng khúc rồi mang đi. Bụi đất lấm bẩn, lòng buồn rầu mà nằm. Gió, lửa, nước… tụ hợp một chỗ. Sức lửa lớn nên thiêu đốt hủy hoại mọi vật. Có bốn con rắn độc ngậm một viên ngọc báu, từ nơi lửa cháy vút lên hư không bay đi. Có sáu con rồng lớn đón bốn con li nhỏ (một loại rồng nhỏ không có sừng) đớp lấy mà chạy. Đỉnh đầu rồng mọc lên một cây cao đến cõi Vô sắc. Có một cây cỏ nhỏ, nhỏ như sợi lông bay lên, có màu sắc chính là màu vàng, từ lõi cây mọc xuống rễ cây, rồi từ rễ cây mọc lên vào thân cây, từ thân cây mọc tứ tán vào cành lá. Hoa cây ấy màu trắng, cũng có hoa màu hồng, đỏ. Trái của cây ấy sắp chín thì thành bốn màu. Đến nửa tháng tám thì thuần một màu vàng ròng. Nếu ánh sáng này chiếu soi các Thanh văn thì biến hóa thành vô lượng trăm ngàn cảnh giới. Người quán như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán. Nếu có các Tỳ-kheo khi nhập vào định này mà thân như cây chuối không có bền chắc thì khi ra khỏi định, chi tiết thân thể đau đớn tê liệt. Nếu họ chẳng uống thuốc thì phát điên mà chết. Vậy nên phải kịp thời dùng một thứ thuốc để tiêu diệt. Người quán tưởng như vậy thì tiêu trừ được tội sinh tử của vô số kiếp. Như dòng nước lớn, chẳng bao lâu họ sẽ đắc đạo A-la-hán. Đức Phật bảo A-nan: –Ông hãy thọ trì lời nói chân thật của Phật chớ quên! Rồi ông phải tuyên nói rộng rãi cho các Tỳ-kheo. Khi Đức Phật nói lời nói đó thì năm trăm vị Tỳ-kheo được bốn đại định, đồng thời đều được bốn quả Sa-môn. Sao gọi là quán tưởng tướng chữ Vạn giữa ngực của Như Lai? Ngọc ma-ni dưới nách luôn phóng ra ánh sáng. Trong ánh sáng hồng tía ấy có hoa vàng. Hoa ấy nở ra hóa thành vô lượng trăm ngàn vạn ức vô số các bông hoa. Trên mỗi bông hoa, có vô lượng Đức Phật. Những vị Hóa Phật đó đều có một ngàn ánh sáng. Mỗi ánh sáng lại có một Hóa Phật. Ánh sáng ấy có năm màu. Nếu có chúng sinh gặp ánh sáng này thì người điên được tỉnh, người tán loạn được định tónh, người bệnh được thuyên giảm, người nghèo cùng tự nhiên được châu báu, người mù được nhìn thấy, người điếc được nghe, người câm có thể nói, người gù, thọt, ghẻ lở, cùi hủi đều được tiêu trừ hết. Ánh sáng ấy nhập vào khắp trên đỉnh đầu của chư Phật mười phương. Ánh sáng nhập vào rồi, trong ngực các Đức Phật có trăm ngàn ánh sáng từ chữ Vạn sinh ra. Trong mỗi ánh sáng vang lên hàng trăm ngàn bài kệ diễn nói về Đàn-na ba-la-mật… Những ánh sáng như vậy diễn nói sáu pháp Ba-la-mật. Kệ ấy nhiều không lường. Hành giả ngồi ngay thẳng nghe vô lượng Đức Phật nói về pháp đó. Mỗi Hóa Phật sai một hóa nhân đoan nghiêm vi diệu giống như đức Di-lặc đến an ủi hành giả nói rằng: “Hay thay! Hay thay! Này Thiện nam! Ông giữ tâm chánh niệm nên thấy ánh sáng của các Đức Phật. Trong ánh sáng chư Phật nói lên pháp Thí vô tướng, nói lên Giới vô tướng, nói lên Nhẫn vô tướng, nói lên Tinh tấn vô tướng, nói lên Định vô tướng, nói lên Tuệ vô tướng. Ngươi nghe pháp này hãy thận trọng chớ kinh sợ. Các Đức Phật quá khứ giữ chánh niệm tư duy cũng nghe pháp đó, cũng hiểu tướng đó. Hiểu được tướng đó rồi thì chẳng sợ sinh tử. Dù ở địa ngục lớn A-tỳ đầy lửa dữ cũng chẳng thể đốt cháy. Tuy ở địa ngục mà như dạo chơi ở Thiên cung. Vậy nên chữ Vạn gọi là Ấn thật tướng. Các Đức Phật Như Lai, vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp học được ấn này, nhờ được ấn này nên chẳng sợ sinh tử, chẳng nhiễm năm dục. Đức Phật bảo A-nan: –Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật, người thấy ánh sáng nơi tướng ngực của Phật thì tiêu trừ được tội sinh tử của mười hai vạn ức kiếp. Nếu người chẳng thể thấy tướng ngực rõ ràng thì vào tháp mà quán tưởng tướng đó. Người quán tưởng như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán. Sao gọi là quán tưởng tướng cánh tay tròn nhỏ như vòi voi chúa của Như Lai? Mười ngón tay hợp lại căng bàn tay ra thành bánh xe có hàng ngàn nan hoa mà mỗi hoa đều phóng ra trăm ngàn ánh sáng. Mỗi ánh sáng chia làm hàng ngàn tia, toàn là màu hồng. Mỗi ánh sáng như vậy soi khắp vô lượng thế giới ở mười phương. Chiếu soi thế giới rồi ánh sáng hóa thành nước vàng. Trong nước vàng, có một loại nước vi diệu như màu thủy tinh, ngạ quỷ nhìn thấy thì tiêu trừ được nóng nảy, trở nên mát mẻ, súc sinh nhìn thấy thì tự biết được mạng sống đời trước, voi điên nhìn nước ấy thấy thành vua sư tử. Sư tử nhìn thấy là chim cánh vàng, các rồng nhìn thấy là vua chim cánh vàng. Các súc sinh đó đều thấy sự tôn trọng nên lòng phát sinh sợ sệt, chắp tay cung kính. Do cung kính nên sau khi qua đời được sinh lên cõi trời. Mọi người nhìn thấy nước thủy tinh đó như vua Phạm thiên, hoặc như mặt trời, mặt trăng, sao… thấy rồi hoan hỷ nên sau khi qua đời được sinh lên cõi trời Đâu-suất. Hành giả thấy điều đó, mắt tâm được khai mở, thấy Hóa Phật đầy trong các cõi khắp mười phương. Tay của mỗi một Hóa Phật phát ra ánh sáng nhập vào mắt hành giả nên dù nhắm mắt hay mở mắt đều luôn thấy các Đức Phật. Hành giả tự quan sát thân tướng mình như trong bình báu vi diệu có sự bất tịnh. Như vậy người thấy tuy chưa được thông suốt nhưng đã đến khắp mười phương, hầu hạ các Đức Phật, thấy tay của mỗi Đức Phật cũng phóng ra ánh sáng như vậy. Người quán tưởng như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán. Sao gọi là quán tưởng tướng rốn của Như Lai? Trong rốn của Như Lai có hàng vạn ức hoa báu. Mỗi hoa báu có hàng vạn ức na-do-tha cánh. Mỗi cánh hoa có hàng vạn ức na-do-tha màu. Mỗi màu có hàng vạn ức na-do-tha ánh sáng. Khi tướng này hiện, tất cả đại chúng thấy tướng tim của Phật. Tim của Như Lai như đóa hoa sen hồng, màu vàng ròng ánh lên khiến cho ánh sáng vàng tía xen lẫn nhau như ống lưu ly treo ở trước ngực Đức Phật. Hành giả thấy bên trong thân Phật có hàng vạn ức vị Hóa Phật. Các vị Hóa Phật đó ở vùng tim Phật. Rốn của mỗi vị Phật phát ra ánh sáng kéo tới sáng rỡ như núi Tu-di. Xen giữa các núi có vô lượng núi báu như núi Tu-di. Trên mỗi hoa này có vị hóa Phật nghiêm trang cao lớn như núi Tu-di. Một ngàn loại ánh sáng với mười ngàn màu chia làm mười ức ức tia. Ức ức tia soi xuống phương Dưới, ức ức tia soi lên phương Trên, ức ức tia soi phương Đông, ức ức tia soi phương Nam, ức ức tia soi phương Tây, ức ức tia soi phương Bắc, ức ức tia soi phương Đông nam, ức ức tia soi phương Tây nam, ức ức tia soi phương Tây bắc, ức ức tia soi phương Đông bắc. Như vậy mười phương đều có các hoa. Hoa nhỏ nhất giống như trăm ức núi Tu-di lớn. Trên mỗi núi Tu-di có trăm ức vạn các vị Đại Bồ-tát. Thân nhỏ nhất của các vị Bồ-tát ấy như núi Tu-di. Trong rốn của các vị hóa Bồ-tát đều mọc ra một hoa sen lớn. Các hoa sen ấy che khắp tam thiên đại thiên thế giới. Mỗi đóa hoa có ánh sáng màu vàng. Ánh sáng ấy giống như vàng Diêm-phù-đàn. Mỗi ánh sáng vàng hóa ra Phật Thích-ca Mâu-ni nhiều như bụi trần. Trong rốn mỗi một vị Phật Thích-ca cũng phát ra ánh sáng như vậy. Các ánh sáng như vậy hợp thành đài ánh sáng. Mọi đài ánh sáng ấy cũng đều có vô lượng vị đại Hóa Phật nhiều như bụi trần như cát sông Hằng. Từng Đức Phật, từng Đức Phật tiếp nhau phóng ra ánh sáng nơi rốn. Ánh sáng ấy rất mạnh mẽ chiếu thẳng lên vô lượng thế giới ở phương trên và qua khỏi những thế giới đó. Những thế giới như vậy nhiều như vô lượng bụi trần của tam thiên đại thiên thế giới. Trong những thế giới đó đều có lưu ly, pha lê…. hàng ức loại châu báu dùng làm hang động của Phật. Trong mọi hang động đó đều có hàng vạn ức vô số các Đức Phật. Trong rốn các Đức Phật, mỗi mỗi đều mọc ra hoa sen lớn, giống như trước không khác. Ánh sáng đó chiếu soi tất cả những Bồ-tát trụ ở Địa thứ mười. Những Bồ-tát đó gặp ánh sáng ấy rồi liền nhập vào pháp môn Thủ-lăng-nghiêm vi diệu, lại được nhập vào định Kim cang thí. Chư Thiên gặp ánh sáng ấy thì phát tâm đạo Vô thượng chánh chân, mắt tâm được khai mở, thấy tướng các Đức Phật. Ánh sáng này chiếu soi Bồ-tát, khiến cho các lỗ chân lông của thân những Bồ-tát, trong mỗi lỗ chân lông tạo ra hàng a-tăng-kỳ đám mây cúng dường và các phẩm vật cúng dường. Lọng che nhỏ nhất cũng che cả cõi Diêm-phù-đề… Như vậy mọi phẩm vật cúng dường, các loại châu báu nhiều chẳng thể nói hết. Những vật cúng dường này từ biển Thủ-lăng-nghiêm sinh ra. Đức Phật bảo A-nan: –Nếu thiện nam, thiện nữ khi tư duy như vậy mà nhớ tưởng hay mơ thấy việc này thì đời đời sinh ra luôn luôn gặp được Bồ-tát Phổ Hiền, Bồ-tát Văn-thù. Những vị Pháp vương tử đó sẽ vì hành giả, ở trong mộng luôn nói pháp của chư Phật trong ba đời quá khứ, vị lai, nói Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm, Tam-muội Ban-chu, cũng nói Tam-muội quán Phật… dùng làm chuỗi ngọc trang sức. Tỉnh dậy rồi, hành giả ghi nhớ giữ gìn không để quên mất. Công đức ở đời hiện tại của người này là được Thiên nữ cung cấp cúng dường, tiêu trừ được tội sinh tử của mười vạn ức kiếp. Người quán như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán. Ức ức ánh sáng chiếu xuống phương Dưới khiến cho đất của phương Dưới như màu nước của cõi Diêm-phù-đề. Trong nước có các lầu báu nhiều như cát sông Hằng. Bên dưới mỗi lầu báu có một ngôi thành báu như thành Càn-thát-bà. Bên trên lầu báu có cây báu lớn. Lá cành của cây ấy, tất cả đều nổi lửa. Lửa ấy cháy rực, trên dưới đều thiêu đốt. Lửa đốt các loại nước làm nước hóa thành lưu ly. Trên đất lưu ly lại mọc lên các cây. Mỗi cây có bốn con rồng. Trên đỉnh đầu rồng ấy có ngọc Như ý. Ánh sáng ngọc ấy soi khắp thân rồng khiến cho rồng và cây toàn một màu vàng ròng. Khi rồng ấy chồm lên thì những lỗ chân lông của rồng phát ra ánh sáng màu vàng. Ánh sáng ấy soi thẳng xuống vô lượng thế giới ở phương Dưới. Qua khỏi phương Dưới lại soi vô lượng thế giới khiến cho đất của phương Dưới đều trở thành màu vàng. Trên đất màu vàng có hoa kim cương. Trên hoa kim cương có Thiên nữ vàng. Mỗi Thiên nữ vàng có trăm ngàn Thiên nữ quyến thuộc. Các Thiên nữ đó đều khen ngợi biển Tam-muội Từ tâm. Ra khỏi phương Dưới, lên thẳng đến thành Ca-tỳ-la ở phương trên. Tiếng khen ấy như tiếng sấm khen ngợi lòng Từ. Khi nói lời nói đó, đầu lông của các rồng phát ra các mây báu. Trong mỗi đám mây có các cõi Phật nhiều như cát sông Hằng. Trong mỗi cõi Phật có những vị Hóa Phật nhiều như bụi trần. Mỗi vị Hóa Phật phóng ra ánh sáng này. Khi ánh sáng này hiện, thế giới ở phương dưới có trăm vạn núi vàng. Ở vùng núi cao ấy có trăm ức hang động báu như mây cuồn cuộn. Trong mọi hang động đó có toàn các Đức Phật trắng; có chúng Bồ-tát và Thanh văn màu trắng trang nghiêm làm thị giả. Ánh sáng vàng ròng ở bên trái, bên phải Đức Phật giống như xẻ núi, các châu báu chiếu sáng lẫn nhau. Có lọng báu vi diệu lớn như núi Tu-di, do vô lượng châu báu tạo thành. Mỗi châu báu có hàng trăm ức ánh sáng xoay vần uyển chuyển. Trong mỗi ánh sáng đều có trăm ức tòa Sư tử. Trên mỗi tòa Sư tử có trăm ức na-do-tha đại chúng Bồ-tát ngồi kiết già. Trong lỗ chân lông của thân các Bồ-tát đó có a-tăng-kỳ ánh sáng. Trong mỗi ánh sáng có một vị Hóa Phật, thân vị Phật ấy viên mãn như núi Tu-di. Các vị Hóa Phật đó dùng trăm ngàn bài kệ khen ngợi sự không giết hại, tâm Từ là căn bản; Từ chính là vị thuốc hay tiêu trừ hoạn nạn sinh tử; Từ là con mắt thanh tịnh dẫn đường cho các trời, người. Các vị Hóa Phật đó khen ngợi lòng Từ rồi đều biến hóa làm thành núi lưu ly. Bên trong núi ấy có hàng trăm ức Bồ-tát. Mỗi vị Bồ-tát có hàng vạn Phạm vương làm thị giả, đi đến trước hành giả, ở trong núi báu, đồng thanh nói lên pháp này, bảo rằng: “Này Thiện nam! Đối với biển Niệm Phật nên tu lòng Từ! Các Đức Phật Bồ-tát do tu lòng Từ nên được đại Từ của Phật. Nay ông nên phải tu giới không sát sinh, thực hành đại Từ bi.” Bấy giờ, cũng có tám bộ chúng trời, rồng…, tất cả chúng sinh gặp ánh sáng này, nghe lời nói đó nên sau khi qua đời chắc chắn đều sẽ sinh về cõi Phạm thế. Đức Phật bảo A-nan: –Ông giữ gìn lời nói này cẩn thận chớ quên mất! Ông bảo các Tỳ-kheo khiến cho họ tu hành pháp này. Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật nếu nghe lời dạy này, tư duy pháp này thì người có chánh niệm, có chánh thọ, Tam-muội chẳng dao động, tâm chẳng biếng nhác thoái lui, phát tâm Đại thừa thì phải biết rằng, người đó luôn ở trong mộng nhìn thấy ánh sáng này và cùng nghe hóa Phật nói pháp Từ tâm. Tỉnh dậy rồi, hành giả ghi nhớ, hiểu sâu nghóa lý, tư duy nghóa ấy thì liền được định về tâm Từ. Người quán tưởng như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán. Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật, người nào tư duy pháp này, giữ gìn pháp này thì phải biết rằng, người đó, tâm họ thanh tịnh như tâm của các Đức Phật, tiêu trừ được tội sinh tử của ức kiếp, thường sinh vào cõi Phạm thế, gặp gỡ các Đức Phật, thỉnh Phật vận chuyển bánh xe pháp. Nghe pháp rồi, họ phát tâm Bồ-đề và vào đời vị lai nhất định thành Phật đạo. Ức ức ánh sáng chiếu về phương Đông, cho đến vô lượng thế giới ở phương Đông, khiến cho đất của phương Đông trắng như núi Tuyết. Trên mỗi ngọn núi đều có mây báu trắng. Mây trắng báu ấy giống như đài báu, có hàng vạn ức lưới báu, chuông báu. Vùng lưới báu chuông báu ấy có một ức ánh sáng trắng. Những ánh sáng trắng đó hóa thành đài vàng. Trên mỗi đài vàng có bốn vị Hóa Phật. Mỗi vị Hóa Phật có bốn ức Bồ-tát làm thị giả. Vị Phật cùng với các vị Bồ-tát đều giảng nói pháp Từ, khen ngợi sự chẳng giết hại bằng hàng ngàn ức bài kệ. Người quán như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán. Đức Phật bảo A-nan: –Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật quán tưởng như vậy thì tiêu trừ được tội sinh tử của nửa ức kiếp. Ức ức ánh sáng chiếu về phương Nam, khiến cho đất phương Nam đều trở thành màu hồng. Ánh sáng màu hồng này soi đến vô lượng thế giới của phương Nam rồi biến thành mây trắng. Hai màu hồng, trắng rõ ràng. Giữa những đám mây có các vị Hóa Phật màu trân châu trắng với tòa ngồi bằng hoa sen vàng thượng diệu màu Tỳ-lưu-ly. Ở trên hoa vàng còn có hàng trăm ức Bồ-tát đều màu vàng ròng với trăm ức ánh sáng báu chiếu sáng lên mây trắng. Trong mỗi ánh sáng có năm trăm vị Hóa Phật, các vị Hóa Phật ấy cũng đồng thanh khen ngợi sự không giết hại và đại Từ bi. Người quán như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán. Đức Phật bảo A-nan: –Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật nghe pháp này, tư duy pháp này, quán tưởng pháp này thì người này ở trong mộng, luôn luôn thấy Phật Thích-ca Văn phóng ra ánh sáng từ rốn chiếu soi đến họ. Tướng ánh sáng này như đã nói trên. Người ấy sinh ra chẳng ở trong bào thai, luôn luôn sinh ra ở cõi nước thanh tịnh, như sinh lên trời thì tự nhiên hóa sinh. Ức ức ánh sáng chiếu về phương Tây, đến vô lượng thế giới ở phương Tây. Ánh sáng ấy nhiều màu như mặt trăng, như vì sao. Ở vùng trăng sao ấy có ngọc bảy báu. Một viên ngọc sinh ra nước, một viên ngọc sinh ra lửa, một viên ngọc sinh ra cây. Cây ấy là bảy báu quả bằng kim cương. Một viên ngọc sinh ra hoa. Ở trong ánh sáng mặt trăng có cung điện trời Phạm với quyến thuộc của vua Phạm và mọi thứ báu của trời Phạm đều đầy đủ. Ở trong ánh sáng của sao có cung điện của Ma-hê-thủ-la và quyến thuộc của họ. Mỗi cung điện trời có hàng trăm vạn ức Phạm vương. Mỗi Phạm vương có vô lượng vô số đại chúng các trời làm quyến thuộc, còn số Ma-hê-thủ-la… thì nhiều chẳng thể biết. Những ngọc báu ấy phát ra ánh sáng lưu ly. Bên trong ánh sáng lưu li có tượng vàng ròng. Tượng vàng ròng ấy ngồi trên tòa ngọc báu trắng, cổ đeo ánh sáng trân châu đỏ. Trong ánh sáng trân châu đỏ có các vị Hóa Phật bằng trân châu kết thành. Các vị Hóa Phật đó và Thiên chúng đồng thanh khen ngợi sự không giết hại, khuyến lệ, sách tấn hành giả tu hành đại Từ bi. Đức Phật bảo A-nan: –Người quán tưởng như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán. Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật, người nào nhớ tưởng, người nào tư duy… quán tưởng như vậy thì ở trong mộng, luôn thấy chư Phật vì mình nói pháp Từ bi, tiêu trừ được tội sinh tử của bảy ức kiếp. Ức ức ánh sáng chiếu về phương Bắc, đến vô lượng thế giới ở phương Bắc, khiến cho đất phương Bắc đều thành màu san hô xen lẫn báu hổ phách, mai khôi, trân châu, mã não, pha lê… Trong mỗi châu báu có một ức ánh sáng. Mỗi ánh sáng hóa thành một con Sư tử. Trên lưng sư tử có lọng bảy báu. Lọng báu ấy cao đẹp như núi Tu-di, cán bằng lưu ly, trang nghiêm bằng lụa báu năm màu và hoa. Trên mỗi hoa có trăm ức vị Hóa Phật. Mặt của mỗi vị Hóa Phật như màu của vàng Diêm-phù-đàn, tóc màu lưu ly xanh biếc, thân có màu trăm ức châu báu, cánh tay màu trân châu hồng, móng tay màu vàng ròng, tướng trong tay có màu hoa sen trắng, đùi như nai chúa có màu hoa Ưu-đàm, tướng dưới chân có màu ma-ni Tỳ-lăng. Từ dưới chân phóng ra ánh sáng năm màu lên đến mép tóc. Những lỗ chân lông của thân đều có ánh sáng biến hóa. Trong mỗi lỗ chân lông có một ức Bồ-tát. Rốn của mỗi vị Bồ-tát có một hoa sen lớn. Hoa ấy cao lớn như núi Tu-di do hàng trăm châu báu tạo thành. Trên hoa có Phật, Đức Phật ấy cao lớn ngang bằng với hoa, cũng phát ra ánh sáng ở rốn. Khi tướng này hiện thì các sư tử báu chồm lên như kinh sợ. Ở đầu mỗi sợi lông sư tử có trăm ức cõi Phật. Mỗi cõi Phật được trang nghiêm bằng vô lượng trăm ức hoa sen báu. Trên hoa sen ấy cũng có hàng trăm ngàn đại chúng Bồ-tát. Các vị Bồ-tát đó cũng phát ra tướng ánh sáng ở rốn như Bồ-tát trên. Mọi ánh sáng màu của những Bồ-tát như vậy hợp thành một ngọn núi. Núi ấy cao lớn như đài vàng ròng. Bốn góc của đài ấy có bốn lá cờ cõi trời Phạm, đầu mỗi lá cờ đều có bốn ức cõi Phật. Trong mỗi một cõi có trăm ngàn tháp, tháp nhỏ nhất cao bằng từ cõi Diêm-phù-đề lên đến cõi Phạm thế, với vô số những sự vi diệu và tất cả tượng báu làm trang nghiêm. Những tháp báu và hóa Bồ-tát đó đều cùng ca ngợi hai pháp Hỷ và Xả. Chúng sinh nào gặp ánh sáng ấy thì được trí tuệ lớn như Xá-lợi-phất, ghi nhớ tất cả giống như A-nan. Đức Phật bảo A-nan: –Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật muốn thấy tướng đó thì phải phát tâm Từ bi, tu trì giới không giết hại. Người vì tất cả chúng sinh mười phương thực hành hạnh đó thì tuy chẳng ngồi thiền mà ở trong mộng luôn được thấy các sắc tướng như đã nói trên. Đức Phật bảo A-nan: –Người thọ trì lời nói đó tức là thọ trì tâm Phật. Người quán tưởng như vậy có thể quan sát tâm của Phật. Các Đức Phật Như Lai lấy đại Từ bi làm tâm, lấy Giới, Định, Tuệ, Giải thoát, Giải thoát tri kiến làm thân, lấy mười Lực, bốn Vô sở úy, mười tám pháp Bất cộng, đại Bi, ba Niệm xứ để tự trang nghiêm. Quán như vậy gọi là quán tâm Phật. Đức Phật bảo A-nan: –Trong tướng rốn này, ở đây, chỉ nói sơ lược, còn cảnh giới tâm Phật, sau này ta sẽ giảng nói thêm. Người quán tưởng như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán. Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật tư duy pháp này, thọ trì pháp này, quán tưởng pháp này thì tất cả những tội chướng nghiệp ác đời hiện tại của người này đều thanh tịnh. Ức ức ánh sáng chiếu về phương Đông nam, đến vô lượng thế giới ở phương Đông nam, hóa thành bánh xe vàng. Mỗi bánh xe vàng có bảy báu đi theo. Mỗi bánh xe vàng có trăm ức Chuyển luân thánh vương. Mỗi Chuyển luân thánh vương có một ngàn con trai, bốn bộ binh… đầy đủ. Ngọc thần báu của Thánh vương phát ra ánh sáng lớn như khói như mây. Trong mỗi ánh sáng có hoa sen lớn. Hoa, hoa hợp nhau, trong các hoa hợp nhau ấy phát ra ánh sáng mặt trời lớn. Mỗi ánh sáng mặt trời có hóa Bồ-tát cỡi trên con màu vàng. Khi Bồ-tát cỡi voi có vạn ức điềm lành chẳng thể tuyên nói. Ánh sáng của các Bồ-tát hợp thành một vị Phật. Thân màu vàng của Đức Phật ấy vô lượng vô biên cũng phát ra tướng rốn. Ánh sáng tướng rốn cũng như trên đã nói. Người trong các ánh sáng đều khen ngợi Năm giới, nói mười điều lành. Các Chuyển luân vương, tay cầm bánh xe vàng, tuyên dương mười điều thiện. Đức Phật bảo A-nan: –Người quán như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán. Sau khi Phật diệt độ, những đệ tử của Phật nhớ tưởng như vậy, tư duy như vậy, quán tưởng pháp này thì tiêu trừ được tội sinh tử của hai mươi vạn ức kiếp, thường sinh lên cõi trời, nghe lời dạy về mười điều thiện. Ức ức ánh sáng chiếu về phương Tây nam, đến vô lượng thế giới ở phương Tây nam. Đến những cõi đó rồi, ánh sáng ấy như mưa, giống như ngọc đủ màu. Trong mỗi viên ngọc phát ra trăm ức ánh sáng. Mỗi ánh sáng hợp thành đài báu. Ở góc mỗi đài có mười hai núi Tu-di. Mỗi núi Tu-di có vô lượng nhà, khám thờ. Trong mỗi khám thờ có vô lượng vị Hóa Phật. Mỗi vị Hóa Phật có vô lượng Bồ-tát làm quyến thuộc. Các vị Hóa Phật và hóa Bồ-tát đó cũng đều khen ngợi mười điều thiện. Người quán tưởng như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán. Đức Phật bảo A-nan: –Sau khi Phật diệt độ, những đệ tử của Phật nhớ tưởng như vậy, tư duy như vậy, quán tưởng pháp này thì tiêu trừ được tội sinh tử của mười hai ức kiếp, nếu muốn vãng sinh đến cõi thanh tịnh ở phương khác thì tùy ý không gì ngăn ngại. Ức ức ánh sáng chiếu về phương Tây bắc, đến vô lượng thế giới ở phương Tây bắc, ánh sáng ấy trở thành màu ngọc. Ánh sáng cùng với pha lê màu hồng tía lại chói sáng nhau đẹp thêm. Trong mỗi ánh sáng có trăm ức xe báu, xe trắng với ngựa trắng, xe tía với ngựa tía, xe hồng với ngựa hồng… nhưng các bờm ngựa đều màu vàng ròng. Trên mỗi xe như vậy đều có hiên bảy báu, trên hiên xe luôn có tán che. Tán che ấy có mười tầng, trong hiên xe và tán che có hàng ngàn ánh sáng. Vòng cài báu rủ xuống, ánh sáng tuôn theo ra rồi vào trở lại trong xe hóa thành vị Hóa Phật. Thân Phật cao lớn hàng vạn ức do-tuần. Trong rốn mỗi vị Hóa Phật phát ra vô số ánh sáng. Ánh sáng ấy chiếu khắp vô lượng vị Hóa Phật. Người gặp ánh sáng này thì được thoát hẳn ba đường, không có ba nạn ác. Ánh sáng này quay lại đứng ngay trong hư không như mây bay lên. Mỗi vùng mây có trăm ngàn vị Hóa Phật. Mỗi vị Hóa Phật có trăm ức đệ tử như Đại Ca-diếp siêng năng tu hành mười hai hạnh khổ Đầu-đà, lòng không tham đắm, nhàm chán xa lìa thế gian. Người quán tưởng như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán. Đức Phật bảo A-nan: –Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật nhớ tưởng như vậy, tư duy như vậy, quán tưởng pháp này thì phải biết, người này thường thấy các Đức Phật, mau chóng thành tựu Đại thừa, trừ được tội sinh tử của mười ức kiếp. Ức ức ánh sáng chiếu về phương Đông bắc, đến vô lượng thế giới ở phương Đông bắc. Ánh sáng ấy thanh tịnh không nhơ uế như kính pha lê, trong ngoài đều thấy rõ. Trong ánh sáng đó, có chư Phật khắp mười phương đều phát ra tướng rốn. Ánh sáng rốn của mỗi vị Phật soi khắp vô lượng cõi Phật trong mười phương. Mỗi cõi Phật có số Hóa Phật nhiều như bụi trần. Mỗi vị Hóa Phật có số Bồ-tát nhiều như bụi trần làm quyến thuộc. Ánh sáng tướng rốn của những Bồ-tát ấy giống như cây trụ vàng. Đầu cây trụ vàng ấy có hàng vạn ức rương áo báu, hòm báu, ví như đài mây từ hư không hạ xuống. Mỗi rương, hòm có hàng vạn ức ánh sáng. Mỗi ánh sáng hợp thành một vị Phật. Trong thân mỗi vị Phật có vô lượng vô số ánh sáng biến hóa nhiều hơn bụi trần. Ở đầu các ánh sáng có các vị hóa Phật nhỏ như hạt cải. Thân Đức Phật nhỏ này cũng phát ra tướng rốn như trên đã nói. Ánh sáng rốn này soi khắp mười phương, rồi nhập vào rốn các Đức Phật. Rồi từ rốn các Đức Phật phát ra để vào ngực các vị Bồ-tát. Từ ngực các vị Bồ-tát phát ra để vào đỉnh đầu các vị Thanh văn. Từ đỉnh đầu của các Thanh văn phát ra, ví như đám mây lớn với vô lượng màu vàng ròng xen lẫn các châu báu, vào dưới chân Phật. Vào dưới chân Phật rồi, trong tướng bánh xe ngàn nan hoa dưới chân Phật phát ra ánh sáng lớn. Ánh sáng ấy như hoa. Rồi từng hoa, từng hoa tiếp theo nhau nhiễu quanh Đức Phật hàng ức vòng. Từ móng chân màu đồng đỏ, lỗ chân lông gót chân cho đến nhục kế nơi đỉnh đầu, các lông của thân Phật như hoa sen nở. Trong mỗi lỗ chân lông có tám vạn bốn ngàn hoa sen. Trên mỗi hoa sen có tám vạn bốn ngàn vị Hóa Phật. Mỗi vị hóa Phật có tám vạn bốn ngàn vị Đại Bồ-tát làm quyến thuộc. Ánh sáng ở vùng chân mày của mỗi vị Bồ-tát phát ra âm thanh vi diệu khen ngợi sắc thân của Phật. Đức Phật Thích-ca Văn thị hiện ánh sáng này rồi bảo với đại vương rằng: –Sắc thân Như Lai đã phân biệt sắc tướng rồi, ngoại trừ tâm Phật còn các cảnh giới khác thì như đã thị hiện. Đức Phật nói thế rồi, vua cha liền đứng dậy, sửa y phục, làm lễ Đức Phật, nhiễu quanh Đức Phật bảy vòng, quỳ xuống chắp tay bạch Phật rằng: –Bạch Thế Tôn! Sắc thân của Đức Như Lai thì tất cả đã nhìn thấy! Duy chỉ có bên trong tâm Phật có cảnh giới gì? Có tướng mạo ra sao? Tu hành việc gì? Sự suy nghó của tâm Phật là những điều gì? Ánh sáng của tâm Phật hình dáng ra sao? Lúc đó, Đức Như Lai liền mỉm cười, ánh sáng của tướng lưỡi, như trên đã nói, nhiễu quanh Đức Phật bảy vòng, rồi nhập vào đỉnh đầu Đức Phật. Bấy giờ, Như Lai nhập vào Tam-muội Giải thoát tướng, khiến cho vua cha thấy như hang động lưu ly, Phật thành tượng vàng ròng. Bên trong tượng vàng ròng, ở trong ngực của Đức Phật như ống lưu ly. Từ dưới yết hầu, thấy tim của Như Lai như đóa hoa sen hồng như vàng ròng ánh lên đẹp đẽ. Ánh sáng vàng của hoa sen hồng chẳng nở, chẳng khép, tròn xoe như quả tim, có tám vạn bốn ngàn mạch máu. Mỗi mạch đều như mạch của họa só cõi trời vẽ. Trong mỗi nét vẽ có tám vạn bốn ngàn ánh sáng. Mỗi ánh sáng có tám vạn bốn ngàn màu sắc. Trong mỗi màu có vô lượng Hóa Phật nhiều như bụi trần. Mỗi vị Hóa Phật ngồi trên một đài kim cang. Đài kim cang ấy phóng ra ánh sáng màu vàng. Ánh sáng ấy nhiều vô số, chẳng thể nói đủ được. Trong mỗi ánh sáng có các Hóa Phật số lượng như trên đã nói. Các vị Hóa Phật đó đều hiện ra tướng lưỡi dài rộng lên đến mép tóc. Lưỡi của mỗi một vị Phật có một ức ánh sáng. Ánh sáng ấy hợp lại làm mười ngàn đoạn. Trên mỗi ánh sáng có trăm ức vị Hóa Phật ngồi kiết già nhập vào Tam-muội Phổ hiện sắc thân. Sắc thân vi diệu của các Đức Phật mười phương nhập vào biển Tam-muội này. Khi Đức Phật đang ở trong Tam-muội này thì thành Ca-tỳ-la và tinh xá Ni-câu-lâu-đà cùng cõi Diêm-phù-đề giống như đóa hoa báu lớn. Ở trên đài hoa có cờ pha lê. Đầu pha lê có gương pha lê. Vô lượng các cõi nước thanh tịnh của mười phương đều hiện ở trong gương. Đại chúng nhìn thấy các Đức Phật. Hoặc thấy thân Phật cao lớn đầy khắp hư không toàn màu vàng ròng. Hoặc thấy thân Phật như núi Tu-di do bốn châu báu tạo thành. Hoặc thấy thân Phật màu lưu ly lớn mười trượng. Hoặc thấy thân Phật thành màu bạc báu, lớn hàng trăm ngàn trượng. Hoặc thấy thân Phật Thích-ca Văn lớn một trượng sáu, hoặc thấy bảy thước, hoặc thấy ba thước, hoặc thấy cao đến khắp cõi Phạm thế, hoặc thấy bảy tấc, thấy nhập vào bình bát. Các quỷ thần thấy thân Phật như bụi trần, thấy như hạt cải, thấy như hạt gạo vàng. Các quỷ thần thấy rồi, quỷ thân nhỏ… đều rất vui mừng. PHẬT thuyết QUÁN PHẬT TAM-MUỘI HẢI KINH <卷 id="112589561">Quyển 5 <詞 id="112589562">Phẩm 4: QUÁN PHẬT TÂM Bấy giờ, tim Phật như đóa hoa sen hồng. Cánh hoa sen có tám muôn bốn ngàn ánh sáng màu trắng. Ánh sáng ấy soi khắp chúng sinh trong năm đường. Khi ánh sáng này phát ra, chúng sinh đang chịu khổ đều xuất hiện. Đó là khổ của địa ngục A-tỳ, mười tám địa ngục nhỏ, mười tám địa ngục lạnh, mười tám địa ngục tối đen, mười tám địa ngục đốt nóng nhỏ, mười tám địa ngục bánh xe đao, mười tám địa ngục bánh xe kiếm, mười tám địa ngục xe lửa, mười tám địa ngục nước phân sôi, mười tám địa ngục vạc nước sôi, mười tám địa ngục sông tro, năm trăm ức địa ngục rừng kiếm, năm trăm ức địa ngục rừng gai, năm trăm ức địa ngục trụ đồng, năm trăm ức địa ngục mây sắt, năm trăm ức địa ngục lưới sắt, mười tám địa ngục hang sắt, mười tám địa ngục hòn sắt, mười tám địa ngục đá nhọn, mười tám địa ngục uống nước đồng… rất nhiều những địa ngục như vậy. Đức Phật bảo rằng: –Này A-nan! Sao gọi là địa ngục A-tỳ? A là không, Tỳ là ngăn, A là không, Tỳ là cứu; A là không gián đoạn, Tỳ là không động; A là rất nóng, Tỳ là rất khổ sở; A là chẳng an ổn, Tỳ là chẳng trụ, chẳng an ổn chẳng trụ gọi là địa ngục A-tỳ. A là lửa lớn, Tỳ là nóng dữ. Lửa dữ nhập vào tim gọi là địa ngục A-tỳ. Đức Phật bảo: –Này A-nan! Địa ngục A-tỳ dọc ngang đều đúng tám ngàn do-tuần với bảy lớp thành sắt, bảy tầng lưới sắt, xuống dưới mười tám ngăn, vây giáp vòng bảy lớp đều là rừng đao. Bên trong bảy lớp thành lại có rừng kiếm. Dưới mười tám ngăn, mỗi ngăn có tám muôn bốn ngàn lớp. Ở bốn góc của ngăn ấy có bốn con chó đồng lớn, thân dài rộng đến bốn mươi do-tuần, mắt như chớp kéo, nanh như cây gươm, hàm răng như núi dao, lưỡi như mũi nhọn bằng sắt, tất cả lông trên thân đều phát ra lửa dữ, tạo ra khói rất hôi thối, vật hôi thối của thế gian không gì có thể ví dụ được. Có mười tám ngục tốt, đầu là đầu La-sát, miệng là miệng Dạ-xoa, có sáu mươi tư mắt, mắt tung đuổi hòn sắt như chiếc xe mười dặm. Răng nanh chó chìa ra cao bốn do-tuần, đầu răng nanh tuôn ra lửa, thiêu đốt xe sắt trước khiến cho bánh xe sắt, mỗi vành bánh xe hóa thành một ức ngọn lửa. Dao bén, mũi nhọn, kiếm, kích… đều từ lửa phát ra. Lửa tuôn như vậy thiêu đốt thành A-tỳ khiến cho thành A-tỳ đỏ như nước đồng. Trên đầu ngục tốt có tám đầu trâu. Mỗi đầu trâu có mười tám sừng. Đầu mỗi sừng đều phát ra đám lửa. Đám lửa lại hóa thành mười tám vành bánh xe. Vành bánh xe lửa lại biến thành vòng dao lửa như bánh xe. Từng vòng, từng vòng tiếp nhau tại vùng lửa rực, đầy trong thành A-tỳ. Chó đồng há miệng le lưỡi đụng đất, lưỡi như sắt nhọn. Khi lưỡi lè ra thì hóa thành vô lượng lưỡi, đầy trong thành A-tỳ. Bên trong bảy lớp thành có bảy lá cờ bằng sắt. Đầu lá cờ lửa vọt ra như nước sắt sôi trào lên. Dòng sắt ấy lan đầy thành A-tỳ. Bốn cửa của ngục A-tỳ, trên then cửa có tám mươi cái nồi đồng đựng nước đồng sôi trút xuống từ cửa, lan tràn đầy trong thành A-tỳ. Mỗi khoảng ngăn có tám vạn bốn ngàn con rắn sắt lớn, phun ra độc, phun ra lửa. Thân của chúng đầy trong thành. Những con rắn ấy gào rống như sấm trời động, mưa xuống những hòn sắt lớn đầy thành A-tỳ. Những khổ sở ở thành này có đến hàng tám muôn ức ngàn. Những sự khổ nhất trong các sự khổ đều gom lại tại thành này. Có năm trăm ức loài trùng, mỗi trùng có tám vạn bốn ngàn mỏ. Đầu mỏ lửa tuôn ra như mưa xuống đầy thành A-tỳ. Khi những trùng này hạ xuống thì lửa dữ của A-tỳ càng cháy lớn thêm. Lửa cháy có ánh sáng đỏ soi sáng đến tám vạn bốn ngàn do-tuần, từ địa ngục A-tỳ xông lên biển lớn, đốt cháy thêm dưới núi. Giọt nước biển lớn như trục bánh xe trở thành cây sắt lớn nhọn đầy trong thành A-tỳ. Đức Phật bảo rằng: –Này A-nan! Nếu có chúng sinh giết cha, hại mẹ, nhục mạ quyến thuộc người tạo những tội đó, sau khi qua đời, có con chó đồng há miệng hóa ra mười tám chiếc xe, hình dạng như xe vàng với lọng báu ở trên. Tất cả lửa cháy hóa thành ngọc nữ. Tội nhân từ xa nhìn thấy, vui mừng nghó: “Ta muốn vào trong đó! Ta muốn vào trong đó!” Gió đao thổi đến lạnh quá, nên la thất thanh, nghó rằng: “Thà được lửa cháy ngồi yên ở trên xe để lửa tự đốt.” Khởi ý nghó đó rồi, người ấy liền qua đời. Hồn lìa khỏi xác đã thấy ngồi xe vàng, ngắm nhìn ngọc nữ, liền bị họ cầm búa sắt chém chặt thân tội nhân ấy. Bên dưới thân thì lửa dậy như vòng lửa xoáy, trong khoảng thời gian tráng só co duỗi cánh tay đã rơi thẳng vào địa ngục A-tỳ. Tội nhân ấy từ ngăn trên, như bị vòng lửa xoáy, đưa xuống đến mép ngăn cuối, thân đầy khắp trong các ngăn. Con chó đồng sủa lớn, nhai xương hút tủy. Ngục tốt La-sát cầm chóa sắt lớn đâm vào đầu khiến cho lửa cháy khắp thân thể, tràn đầy thành A-tỳ. Lưới sắt mưa dao theo lỗ chân lông nhập vào thân thể tội nhân. Hóa Diêm-la vương lớn tiếng ra lệnh rằng: “Này những kẻ ngục nhân ngu si! Khi ngươi còn ở đời, bất hiếu với cha mẹ, tà kiến, kiêu mạn, vô đạo! Chỗ ngươi sinh ra hôm nay gọi là địa ngục A-tỳ. Ngươi chẳng biết ân, không có hổ thẹn, chịu sự khổ não này có vui không vậy?” Nói lời đó xong liền biến mất. Bấy giờ, ngục tốt lại đuổi tội nhân từ ngăn dưới lên cho đến ngăn trên, trải qua tám vạn bốn ngàn ngăn. Thân tội nhân này qua đến mép lưới sắt thì phải mất một ngày một đêm nơi ấy mới khắp cùng.Một ngày một đêm ở địa ngục A-tỳ tính theo ngày tháng năm của cõi Diêm-phù-đề này là sáu mươi tiểu kiếp. Tội nhân ngũ nghịch không hổ không thẹn, tạo năm tội đại nghịch. Người phạm năm tội đại nghịch nên khi sắp qua đời, bị mười tám ngọn gió đao như xe lửa sắt cắt phanh thân thể. Do sức nóng bức bách nên họ nói rằng: “Được ở dưới cây lớn mát mẻ, có hoa tươi đẹp dạo chơi thì chẳng vui hay sao?” Khi họ khởi ý niệm này, tám vạn bốn ngàn rừng kiếm dữ của địa ngục A-tỳ hóa thành cây báu, hoa trái sum suê, hàng hàng lớp lớp ở trước mặt. Lửa cháy rất nóng hóa thành hoa sen dưới những gốc cây ấy. Tội nhân nhìn thấy, nói rằng: “Sự mong muốn của ta, nay đã được kết quả.” Khi nói lời nói đó, nhanh như mưa rào, tội nhân lên ngồi trên hoa sen. Ngồi trong giây lát thì các trùng mỏ sắt từ hoa lửa nổi dậy, xuyên qua xương vào trong tủy, thấu qua tim xuyên vào não, vin theo cây mà lên. Tất cả rừng kiếm nạo thịt thấu xương, vô lượng rừng đao đang ở trên hạ xuống, xe lửa, lò than… mười tám việc khổ cùng một lúc ập đến. Khi tướng này hiện, tội nhân bị vùi lấp dưới đất, từ ngăn dưới lên, thân như hoa nở đầy khắp ngăn dưới. Từ ngăn dưới nổi lửa cháy dữ dội lên đến ngăn trên. Đến ngăn trên rồi, thân tội nhân đầy trong đó, vì quá nóng bức khổ não nên họ há miệng, thè lưỡi. Do tội người này nên hàng vạn ức nước đồng, hàng trăm ngàn vòng đao, từ không trung hạ xuống, nhập vào đầu, đi ra ở chân. Tất cả việc khổ ở đây nặng nề hơn trước gấp trăm ngàn vạn lần. Người nào tạo đủ năm tội nghịch thì chịu tội đầy đủ năm kiếp. Lại có chúng sinh phạm bốn giới trọng, luống ăn của tín thí, bài báng, tà kiến, chẳng biết nhân quả, gián đoạn việc học Bát-nhã, hủy báng chư Phật mười phương, ăn trộm đồ vật của Tăng, dâm dật vô đạo, cưỡng bức các Tỳ-kheo-ni giữ giới thanh tịnh, chị, em thân thích mà chẳng biết hổ thẹn, hủy nhục người thân, tạo mọi việc ác. Tội báo người này là khi sắp qua đời thì bị gió đao phanh thây, nằm nghỉ chẳng yên như bị đánh đập khổ sở. Tâm người ấy mê man phát khởi tư tưởng cuồng si, thấy nhà cửa, trai gái lớn nhỏ, tất cả đều là vật bất tịnh, phân, nước tiểu hôi thối tràn đầy chảy ra bên ngoài. Bấy giờ, tội nhân liền nói rằng: “Tại sao chỗ này không có thành quách và núi rừng đẹp để ta dạo chơi mà lại đến chỗ đầy các vật bất tịnh này?” Nói lời đó rồi, ngục tốt dùng chóa sắt lớn nâng cao ngục A-tỳ và những rừng đao hóa thành cây báu và ao nước mát mẻ, lửa rực cháy hóa thành hoa sen cánh vàng, các con trùng mỏ sắt hóa thành le le và nhạn, tiếng thống khổ của địa ngục nghe như âm thanh ca vịnh. Tội nhân nghe rồi nghó rằng: “Như chỗ đẹp này, ta phải vào dạo chơi!” Nghó rồi, tức thì người ấy ngồi trên hoa sen lửa, các loài trùng mỏ sắt theo lỗ chân lông của thân vào ăn nuốt thân thể người ấy, hàng trăm ngàn vòng sắt từ trên đỉnh đầu nhập vào, các chóa sắt nhiều như cát sông Hằng móc tròng mắt người ấy, con chó đồng của địa ngục hóa thành trăm ức chó sắt tranh nhau phanh thây người ấy, lấy tim mà ăn, trong chốc lát thân người ấy, như hoa bị cắt xén đầy mười tám ngăn. Mỗi hoa có tám vạn bốn ngàn cánh. Mỗi cánh có đủ chi tiết đầu, thân, tay… ở tại một ngăn địa ngục mà địa ngục chẳng lớn, thân người này cũng chẳng nhỏ, đầy khắp như trong đại địa ngục này. Những tội nhân đó đọa vào địa ngục này trải qua tám vạn bốn ngàn đại kiếp Nê-lê này diệt, người ấy lại vào trong mười tám ngăn địa ngục ở phương Đông chịu khổ như trước. Ngục A-tỳ này ở phía Nam cũng có mười tám ngăn, phía Tây cũng có mười tám ngăn, ở phía Bắc cũng có mười tám ngăn có giảng nói trong kinh Phương đẳng. Tạo đủ tội ngũ nghịch, phá hoại chúng Tăng, làm ô uế Tỳ-kheo-ni, đoạn trừ các căn lành… những tội nhân đầy đủ các tội ấy, thân đầy trong ngục A-tỳ, bốn chi lại đầy trong mười tám ngăn. Ngục A-tỳ này chỉ thiêu đốt như những loại chúng sinh tạo tội như vậy. Khi kiếp sắp hết thì cửa Đông liền mở, tội nhân thấy ngoài cửa Đông, suối nước trong tuôn chảy, rừng cây hoa trái, tất cả đều hiện ra. Những tội nhân đó thấy lửa cháy tạm tan nên từ ngăn dưới lần lần trườn lên vào trong ngăn trên, tay vịn vào bánh xe dao, trong hư không bỗng mưa xuống các hòn sắt nóng. Tội nhân chạy về cửa hướng Đông, đến nơi thì cửa cài then, ngục tốt La-sát tay cầm chóa sắt đâm ngược vào mắt họ, chó sắt nhai tim, buồn bực tuyệt vọng mà chết. Chết rồi sống lại, tội nhân thấy cửa Nam mở… như trước không khác. Như vậy, cửa Tây, cửa Bắc cũng đều như vậy. Thời gian này trải qua nửa kiếp. Ở địa ngục A-tỳ chết rồi sinh vào ngục băng lạnh. Ở ngục băng lạnh, chết rồi sinh vào ngục tối đen, chịu cảnh mắt không thấy gì trong tám ngàn vạn năm, bị làm thân trùng lớn trườn đi, các căn tối tăm không hiểu biết gì, bị hàng trăm ngàn chồn sói kéo dắt nhau ăn thịt. Sau khi qua đời, tội nhân sinh vào trong loài súc sinh, chịu hình hài chim thú năm ngàn vạn đời. Trở lại sinh trong loài người thì tội nhân chịu thân điếc, đui, câm ngọng, ghẻ lở, ung thư, nghèo cùng, thấp hèn… tất cả mọi tướng suy bại đều phải mang vào thân. Chịu hình hài thấp hèn này trải qua năm trăm đời, sau đó tội nhân sinh trở lại trong đường ngạ quỷ. Trong đường ngạ quỷ, tội nhân gặp được Thiện tri thức, các vị Đại Bồ-tát quở trách tội nhân ấy rằng: “Ngươi ở vô lượng đời, tiền thân đã tạo tội nhiều vô hạn, bài báng, chẳng có niềm tin, đọa vào địa ngục, chịu các khổ não chẳng thể nói đủ được. Hôm nay, ngươi phải phát lòng Từ bi!” Các ngạ quỷ nghe lời nói đó rồi, xưng “Nam-mô Phật”, nghó đến ân đức và thần lực của Phật, tức thời liền qua đời và sinh lên cõi Tứ thiền. Sinh lên cõi đó rồi, người ấy hối lỗi, tự trách, phát tâm Bồ-đề. Ánh sáng tâm của chư Phật chẳng bỏ qua những điều này nên giáo hóa tất cả họ, thương xót họ như thương La-hầu-la, dạy bảo họ tránh địa ngục như yêu tròng mắt của mình. Đức Phật nói với Đại vương rằng: –Muốn biết chỗ chiếu soi của ánh sáng tâm Đức Phật, phải biết ánh sáng tâm của Phật thường soi chiếu những chúng sinh bị khổ không gián đoạn, không ai cứu này. Đối tượng duyên theo của tâm Phật thường duyên với những chúng sinh cực ác này. Nhờ tâm lực của Phật tự trang nghiêm qua vô số kiếp khiến cho tội nhân kia phát tâm Bồ-đề. Đức Phật bảo A-nan: –Sao gọi là mười tám địa ngục lạnh? Địa ngục lạnh là nơi tám phương có núi băng. Mỗi núi băng có mười tám ngăn. Lại có mười tám những núi băng nhỏ màu như pha lê. Những băng lạnh này chứa đầy vùng núi băng như hoa sen, cao mười tám do-tuần, bên trên có bánh xe băng, ngang dọc vuông vức mười hai do-tuần. Như trời mưa đá, từ hư không rơi xuống. Thế gian có kẻ nào không có lòng Từ, cướp đoạt vô đạo, lấy trộm, bóc lột, giết hại chúng sinh…, tội báo của những người này là khi sắp qua đời, tất cả gió đao hóa thành lửa nóng. Tội nhân nghó: “Hôm nay, sao ta chẳng nằm trên băng.” Bị lửa bức ngặt nên khi khởi ý niệm đó thì ngục tốt La-sát, tay cầm bánh xe băng, như con nhạn trắng bay liệng nhẹ nhàng trên hư không mà đến. Tội nhân thấy vậy hết nóng được mát mẻ, tâm rất ưa thích, tắt thở và qua đời, sinh lên trên núi băng. Sau khi sinh lên đó, mười tám núi băng như cái quạt, quạt tất cả băng lạnh theo lỗ chân lông mà vào đầy khắp trong mười tám ngăn. Mỗi ngăn mổ, cắt, bửa, tách tội nhân ra như hoa sen đỏ. Bên trên, bánh xe băng hạ xuống che khắp thân tội nhân ấy. Rồi núi băng tám phương nhất thời đều hợp lại, không nói từ nào khác chỉ kêu rằng: “A la la!” Bấy giờ, tội nhân liền nghó rằng: “Ta khi nào sẽ khỏi được băng lạnh, sinh ra trong lửa nóng?” Bấy giờ, trong hư không có những con chim sắt miệng phun ra lửa từ hư không hạ xuống phá đầu mổ não ăn, tội nhân chết liền. Sau khi qua đời ngục tốt lại dùng chỉa sắt đánh xuống đất, kêu lên rằng: “Sống dậy! Sống dậy!” Ứng theo tiếng kêu, tội nhân sống lại và suy nghó rằng: “Ta nay, trên thân lửa lớn rực cháy, nguyện xin được băng lạnh như trước để dập tắt lửa này!” Ngục tốt lại dùng bánh xe băng tiếp đón, đặt tội nhân vào trong ngục khác. Như vậy, trong mười tám ngăn, không ngăn nào mà tội nhân chẳng trải qua. Số năm tuổi thọ của tội nhân ở địa ngục lạnh này như ngày tháng tám ngàn vạn năm của Tứ Thiên vương. Tội đã hết rồi, người đó sinh làm người thấp hèn, nghèo cùng hèn hạ, trong năm trăm đời làm nô tỳ cho người, áo chẳng đủ mặc, ăn chẳng đủ no. Tội này hết rồi, người ấy gặp Thiện tri thức, phát tâm Bồ-đề. Đức Phật bảo A-nan: –Sao gọi là địa ngục tối đen? Địa ngục tối đen là mười tám lớp núi đen, mười tám lớp lưới đen, mười tám lớp giường sắt, mười tám lớp màn sắt. Mỗi ngọn núi cao tám muôn bốn ngàn do-tuần. Mỗi màn sắt cũng dày tám muôn bốn ngàn do-tuần. Mỗi tấm màn có mười tám lớp núi Thiết vi đen la liệt như rừng che tối núi này. Thế gian có chúng sinh ngu si, lấy trộm đèn đuốc của Phật, Pháp, Tăng, trộm cắp của cha mẹ, sư trưởng, Hòa thượng chê bai người nói pháp, cũng như hủy báng các chủ thuyết luận nghị của thế tục… chẳng có tôn ti, chẳng biết hổ thẹn. Do tội này nên người đó khi qua đời, mắt có ánh điện chớp chớp chẳng dừng, liền nghó rằng: “Ta có tội gì mà luôn bị thấy lửa đó?” Tội nhân liền nhắm hai mắt lại, chẳng chịu nhìn thấy ánh chớp ấy và ánh sáng mặt trời mặt trăng. Khi tuổi thọ sắp hết thì ngục tốt La-sát nâng giường sắt lớn, giăng tán che bằng sắt lớn lên như đám mây lớn, cỡi hư không mà đi. Bấy giờ, trong hư không, không hình có tiếng nói rằng: “Chỗ này tối tăm, ngươi có muốn đến không?” Tội nhân nghe tiếng tức thời khởi tâm muốn đến chỗ đó. Hơi thở đứt, tội nhân qua đời liền ngồi trên giường sắt, như con nhạn chúa liệng đáp xuống chỗ tối đen. Đã vào trong đó rồi, tội nhân bị bánh xe đao từ trên chém xuống, chặt thân mình. Có con quạ sắt lớn mỏ lớn dài sắt bén, từ núi bay đến, mổ ăn tội nhân. Đau đớn quá, tội nhân vội chạy đi tìm ánh sáng mà chẳng được, dưới chân bị gai tật-lê đâm xuyên xương, thấu tủy… Tội nhân sợ hãi như vậy trải qua năm trăm vạn ức năm, cũng như số ngày tháng năm của Tứ Thiên vương. Đầu người đó đánh vào những núi tối đen, não chảy, mắt lòi, ngục tốt La-sát dùng chóa sắt xiềng mắt đặt yên trở lại trong hốc mắt. Tội hết mới ra làm người bần cùng, mắt mờ tối mù, không thấy, hoặc bị bệnh ghẻ lở, mọi người xua đuổi. Chịu tội báo như vậy trải qua năm trăm thân. Qua khỏi những việc đó, về sau tội nhân gặp được Thiện tri thức, phát tâm Bồ-đề. Đức Phật bảo A-nan rằng: –Sao gọi là mười tám địa ngục nóng nhỏ? Mười tám địa ngục nóng nhỏ như ngục A-tỳ, cũng có bảy lớp thành, bảy lớp lưới sắt và trang trí bằng vô lượng các điều xấu ác. Có chúng sinh chẳng thuận theo lời dạy của thầy, khởi lòng ác nghịch, chẳng biết ân nuôi dạy, trộm cắp của thầy, làm hại thầy, làm bẩn thức ăn thanh tịnh của thầy, ngồi lên giường, tòa của thầy, lấy chén, bình bát của thầy, che giấu đồ bất tịnh, làm năm điều ác. Những gì là năm? Đó là mắng thầy, hủy báng thầy, đánh thầy, giết thầy và đem những thứ thuốc độc cho thầy uống. Nếu Sa-môn, Bà-la-môn làm các việc phi pháp, hại thầy, hủy báng thầy, người tạo tội ác này không có hổ thẹn, lột tượng, phá tháp, cướp lấy vật Pháp bảo, giết bác, chú, cha, mẹ, anh em, chị em. Người tạo tội như vậy, khi sắp qua đời, ngục tốt của mười tám từng địa ngục A-tỳ đều dùng chóa sắt đâm rồi giơ lên một ngăn ngục. Mỗi ngục như vậy giống như chiếc lọng báu lớn. Rồi mưa xuống cơn mưa li ti, giọt mưa như hoa. Tội báo của người này bị nóng bức nhập vào tim như lửa thiêu đốt, nhìn thấy mưa mát mẻ liền nghó rằng: “Nguyện cho ta được ngồi dưới bóng mát của lọng báu. Mưa mát rưới thân ta chẳng vui lắm sao?” Nói lời đó xong, tắt thở và qua đời. Như khoảnh khắc ném quả cầu, người ấy liền ngồi trên giường gươm lớn với trăm ức mũi kiếm nhọn. Mỗi mũi nhọn đều phát ra lửa, vừa thiêu đốt vừa đâm vào thân người ấy. Trong hư không, lọng báu hóa thành bánh xe lửa, từ trên lao xuống, bổ thẳng vào đỉnh đầu người ấy. Thân người ấy tan nát thành hàng ngàn đoạn. Bên trên mưa xuống nhiều viên đồng, chúng theo lỗ chân lông đi vào thân tội nhân. Ngục tốt La-sát dùng chóa sắt lớn đâm vào mắt tội nhân, hoặc dùng mũi tên sắt bắn vào tim người ấy. Tội nhân ngất đi rồi chết, trong giây lát, sống lại, ngồi lên trên giường gươm, rồi bị gió chướng xoáy thổi rơi vào địa ngục. Vào ngục rồi, khi ấy vua Diêm-la cùng cung điện đều ở trong hư không, bảo rằng: “Này tội nhân! Ngươi tạo các điều ác, giết thầy, hủy báng thầy… chỗ sinh ra hôm nay của ngươi gọi là A-tỳ Bạt thiệt (địa ngục cắt lưỡi). Ngươi phải ở tại ngục này trải qua ba kiếp.” Nói lời đó rồi liền biến mất. Sự thống khổ của ngục này như trên đã nói. Đức Phật bảo A-nan rằng: –Sao gọi là mười tám địa ngục Đao luân (bánh xe dao)? Địa ngục Đao luân là núi đao bốn mặt, giữa các vùng núi chứa dao như gạch. Trong hư không có tám trăm ức vạn bánh xe dao cực lớn lần lượt hạ xuống giống như những giọt mưa. Chúng sinh nào ưa làm khổ não người khác, giết hại chúng sinh… đến khi sắp qua đời, bị bệnh khí ngược làm khổ, lòng đầy phiền muộn, tim cứng như đá, liền nguyện rằng: “Được một lưỡi dao bén tước bỏ những khổ nạn này thì chẳng sướng lắm ư?” Lúc đó, ngục tốt, đầu đội bánh xe dao che khuất thân quỷ, đi đến chỗ tội nhân, hạ giọng xúi rằng: “Ta có dao bén có thể cắt được bệnh nặng.” Tội nhân vui mừng liền tự nghó rằng: “Chỉ việc này là nhanh thôi!” Nghó rồi tắt thở và qua đời, sinh lên trên bánh xe đao, tội nhân như con voi say chạy, rơi vào vùng núi đao. Khi đó, bốn ngọn núi đao cùng một lúc hợp lại. Bốn núi đao ấy cắt nát thân tội nhân ấy chẳng thể chịu đựng được, ngất đi mà chết. Ngục tốt La-sát đuổi ép tội nhân chạy lên núi đao. Chưa đến đỉnh núi, dao đã gây thương tích từ dưới chân cho đến tận tim. Sợ ngục tốt nên tội nhân lổm ngổm bò lên. Họ vừa đến đỉnh núi, ngục tốt tay cầm tất cả cây dao đánh giết tội nhân. Trong thời gian chưa chết, bị chó sắt nhai tim ăn, vô cùng khổ sở. Sau đó trùng sắt ăn thịt hết sạch, tội nhân liền sống lại, chân mang bánh xe sắt từ trên hư không hạ xuống. Một ngày một đêm, tội nhân có sáu mươi ức lần sinh, sáu mươi ức lần chết. Như vậy phần nhiều, thường có mười tám lần nhưng do tội của người này nên lại càng tăng thêm bội lần. Họ sống thọ như Tứ Thiên vương trong tám ngàn vạn năm. Tội hết, sinh ra đời phải đọa vào loài súc sinh, năm trăm đời đem thân cung cấp cho miệng mọi người. Lại năm trăm đời nữa chịu thân thấp hèn, sau đó họ mới gặp được bậc đại Thiện tri thức, phát tâm Bồ-đề. Đức Phật bảo A-nan rằng: –Sao gọi là địa ngục Kiếm luân (bánh xe gươm)? Địa ngục Kiếm luân là nơi ngang dọc bằng nhau năm mươi do-tuần, bên trong chứa đầy các cây gươm. Số cây ấy như lúa, mè, tre, lau. Mỗi một cây gươm cao bốn mươi do-tuần, lá là tám vạn bốn ngàn bánh xe gươm, hoa là tám vạn bốn ngàn bánh xe gươm, trái là tám vạn bốn ngàn bánh xe gươm, cành là tám vạn bốn ngàn đồ đựng nước đồng sôi… Thế gian tự có chúng sinh ngu si, ưa giết hại không chán. Những tội nhân này khi sắp qua đời, bị bệnh nóng bức, liền nghó rằng: “Hôm nay thân thể ta lúc nóng lúc lạnh, toàn thân cứng ngắt giống như cái chày bằng sắt.” Người ấy liền phát nguyện: “Nguyện được cây gươm Kim cương để cắt bỏ khổ nạn này thì vui chẳng thể nói được!” Lúc đó, ngục tốt liền hóa thân giống như hình dáng cha mẹ, bạn bè ở trước mặt người ấy mà bảo rằng: “Ta có phép bí mật, như ý ngươi muốn ta sẽ trao cho!” Tội nhân nghe rồi, lòng rất ưa thích, muốn được nhìn thấy gấp thì tắt thở qua đời. Nhanh như ngựa chạy, người ấy sinh vào trong hoa kiếm, bị vô lượng kiếm nhọn nạo xương, xẻ thịt, nát tan như đậu hũ. Lại có con chim sắt từ trên cây đáp xuống móc mắt mổ ăn. Có quỷ Đại La-sát, tay cầm búa sắt bủa đầu lòi não, chó sắt đến liếm ăn. Chết rồi, sống lại, tội nhân bị đuổi lên cây, chưa đến đầu cây, thân đã nát như bụi. Trong một ngày thân đi qua qua các cây. Trong một đêm thân lại đi qua các cây. Một ngày một đêm thân bị giết nhiều như bụi, chẳng thể kể số lượng. Do tội giết người nên phải chịu tai ương như thế trải qua tám vạn ức năm, rồi sinh vào loài súc sinh. Làm súc sinh, thân thường gánh vác nặng nhọc, chết rồi lại bị lột da. Trải qua năm trăm đời, người ấy lại sinh trong loài người, chịu thân nghèo cùng, chết yểu nhiều bệnh, ốm gầy… Qua khỏi kiếp đó rồi, về sau mới gặp được bậc Thiện tri thức, phát tâm Bồ-đề. Đức Phật bảo A-nan: –Sao gọi là địa ngục xe lửa? Địa ngục xe lửa là nơi có nhiều vạc đồng, mỗi cái dọc ngang bằng nhau, bốn mươi do-tuần, bên trong chứa đầy lửa, bên dưới có mười hai bánh xe, bên trên có chín mươi bốn vòng lửa. Tự có chúng sinh là đệ tử của Phật và thờ chín mươi sáu vị Phạm thiên. Những đồ chúng xuất gia và tại gia nào lừa dối, mê hoặc, tà mạng, dua nịnh, làm ác…. Những tội nhân như thế, lúc sắp qua đời, phong đại (gió) động trước làm cho thân thể lạnh như băng, liền nghó rằng: “Lúc nào sẽ được đám lửa mạnh để ta ngồi vào trong đó, dứt trừ hẳn bệnh lạnh.” Khởi niệm đó rồi, ngục tốt La-sát hóa ra xe lửa như hoa sen vàng, ngục tốt ở trên đó, dáng như đồng nam, tay cầm phất trần trắng, phất phất mà đến. Tội nhân nhìn thấy, tâm liền đắm nhiễm, nghó rằng: “Nếu màu rực rỡ của ánh sáng hoa vàng này mà soi rọi ta nóng lên thì nhất định sẽ trừ tan lạnh buốt. Nếu được ngồi lên trên xe đó thì vui thích chẳng thể nói!” Nghó như vậy rồi thì người ấy tắt thở và qua đời, được chở trên xe lửa cháy, thân thể bị lửa cháy, rơi vào trong đám lửa, thân thể cháy tan. Ngục tốt la lên: “Hãy sống lại!” Ứng theo tiếng kêu, tội nhân liền sống lại. Xe lửa nghiến qua thân đến mười tám lần, thân nát như bụi. Trời mưa nước đồng sôi tưới khắp thân thể, liền sống trở lại. Cứ lặp đi lặp lại như vậy, lên đến mép nước sôi, rơi vào trong vạc, bị xe lửa nghiến nát… một ngày một đêm có đến chín mươi ức lần chết, chín mươi ức lần sống. Hết tội, người này sinh vào nhà bần cùng, bị người sai khiến, bị lệ thuộc người khác, chẳng được tự do. Đền bồi lợi dưỡng cho người xong, họ mới được giải thoát. Do công đức thiện tâm xuất gia đời trước nên họ gặp được bậc Thiện tri thức, được nghe nói pháp, tâm được khai mở, ý được thông suốt, thành A-la-hán. Đức Phật bảo A-nan rằng: –Sao gọi là địa ngục nước phân sôi? Địa ngục phân sôi là nơi rộng tám mươi do-tuần, có mười tám vòng thánh sắt. Mỗi thành sắt có mười tám ngăn. Trong mỗi ngăn, bốn vách đều có hàng trăm ức vạn cây kiếm. Đất như dao nhọn, mũi nhọn dày ba thước. Ở trên mũi nhọn ấy có trăm ngàn gai tật-lê nhiều chẳng thể kể xiết. Giữa mỗi gai tật-lê và vùng cây kiếm sinh ra trùng sắt nhiều vô lượng. Mỗi con trùng sắt có trăm ngàn đầu. Mỗi đầu có trăm ngàn mỏ, đầu mỏ đều có trăm ngàn con giun, miệng phun phân nóng sôi như nước đồng, chứa đầy bên trong thành sắt. Bên trên ngục có lưới sắt và quạ sắt. Thế gian có chúng sinh phá tám giới quan trai, làm bẩn giới Sa-di, giới Sa-di ni, làm bẩn giới Thức-xoa-ma ni… tự làm ô uế giới thanh tịnh, làm ô uế giới Tỳ-kheo, giới Tỳ-kheo-ni, làm ô uế giới Ưu-bà-tắc, giới Ưu-bà-di… Các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, các Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Sa-di, Sa-di ni, Thức-xoa-ma-ni… Bảy chúng như vậy và tất cả các chúng khác làm ô uế thức ăn thanh tịnh của chúng tăng, làm ô uế thức ăn của cha mẹ, trộm cắp ăn trước, hoặc tay chẳng sạch mà cầm nắm và người tri sự của Tăng vì cậy thế mình nên làm ô uế thức ăn sạch của Tăng. Bốn bộ đệ tử thân chẳng sạch mà ngồi trên giường Tăng-kỳ, phạm Thâu-lan-giá lâu mà chẳng sám hối, huống ăn đồ ăn của Tăng, ngồi trong Tăng chúng cùng Tăng Bố tát… Những người như vậy nhiều không lường. Những tội nhân tạo nghiệp ác bất tịnh, khi sắp qua đời, toàn thân có mùi như con xạ hương, chẳng thể chịu nỗi, liền nghó rằng: “Phải ở chỗ nào để chẳng nghe mùi này. Mùi này giống như cuồng phong đến xông ướp tâm ta!” Tội nhân nghó thế rồi, ngục tốt La-sát tự hóa thân mình giống như cái bình vẽ, bên trong đựng đầy phân dơ, đi đến chỗ tội nhân, dùng tay sờ mó khiến cho tội nhân lòng sinh tham đắm, tắt thở và qua đời, giống như bị gió thổi, tội nhân rơi vào trong phân sôi. Rơi vào đó rồi, thối rữa bị các loài trùng ăn. Khi chạy khắp nơi mòn xương, lòi tủy, đói khát bức bách nên tội nhân uống nước phân sôi nóng, giun, giòi ăn lưỡi của họ. Một ngày một đêm có chín mươi ức lần sinh, chín mươi ức lần chết. Tội hết, người ấy mới sinh vào gia đình nghèo khổ thấp hèn, bị người khác ràng buộc, chẳng được thoải mái. Giả sử khi sinh ra đời, người ấy luôn gặp vua ác, lệ thuộc vào người chủ tà kiến, bị vô số việc ác bức ngặt thân họ, bướu nhọt, ghẻ dữ là y phục. Do nhân duyên lành nghe pháp đời trước nên gặp được bậc Thiện tri thức, xuất gia học đạo, thành A-la-hán với ba Minh, sáu Thông và đủ tám Giải thoát. Đức Phật bảo A-nan rằng: –Sao gọi là mười tám địa ngục vạc nước sôi? Địa ngục vạc nước sôi là nơi có mười tám vạc. Mỗi cái vạc dọc ngang bằng nhau bốn mươi do-tuần, bảy lớp lưới sắt, bên trong chứa đầy nước đồng sôi. Có năm trăm quỷ La-sát chụm than đá lớn thiêu đốt vạc đồng ấy. Lửa than đá này cháy hừng hực liên tục trải qua sáu mươi ngày mà lửa chẳng thể tắt, so với ngày của cõi Diêm-phù-đề là tròn hai mươi vạn năm. Trên vạc nước sôi như vậy, nước đồng vọt lên như sao, rồi hóa thành vòng lửa vào lại trong vạc… Thế gian có chúng sinh hủy phạm cấm giới của Phật, giết sinh vật để cúng tế, vì ăn thịt nên thiêu đốt núi non, đồng trống làm thương hại chúng sinh, hâm nấu sống chúng sinh, dùng lửa đốt cháy… Như những tội nhân này khi sắp qua đời, thân tâm phiền muộn, mắc đại tiểu tiện chẳng tự kiềm chế, hoặc nóng như nước sôi, hoặc lạnh như băng, liền nghó rằng: “Nếu được vào trong nước rất ấm để tắm gội thì chẳng cũng vui hay sao?” Ngục tốt La-sát hóa làm người tôi tớ, tay bưng chậu nước sôi đi đến chỗ tội nhân. Lòng tội nhân vui mừng, ưa thích nước sôi này, tắt thở qua đời và sinh vào trong vạc nước sôi. Thân thể người ấy mau chóng tan rã chỉ còn lại xương, chóa sắt cào ra, chó sắt ăn lấy rồi mửa ói ra đất. Tội nhân liền sống lại. Ngục tốt lại xua đuổi họ vào lại trong vạc. Sợ vạc nóng nên họ vin cây kiếm trèo lên, xương thịt bị cắt lìa rơi vào trong vạc nước sôi. Do tội sát sinh nên một ngày đêm có số lần chết, nhiều như số cát sông Hằng và số lần sống cũng vậy. Tội hết, họ mới sinh vào trong loài súc sinh, chỗ lợn, dê, gà, chó, mạng sống ngắn ngủi. Thọ thân như vậy tám ngàn vạn năm, sau khi qua đời, tội nhân lại sinh trong loài người mà phải chịu hai loại quả báo. Một là nhiều bệnh, hai là tuổi thọ ngắn ngủi. Lấy tuổi thọ ngắn ngủi và nhiều bệnh làm quyến thuộc qua nhiều kiếp không tính toán được, người đó gặp được bậc Thiện tri thức, thọ trì năm giới, thực hành sáu pháp Ba-la-mật. Đức Phật bảo A-nan rằng: –Sao gọi là địa ngục sông tro? Địa ngục sông tro dài hai trăm do-tuần, rộng mười hai do-tuần, bên dưới có dao bén, trên bờ có cây gươm, chứa đầy bên trong là lửa dữ dày mười hai trượng. Lại có tro tàn che bên trên lửa, dày bốn mươi trượng. Thế gian có chúng sinh không biết hổ thẹn, trộm cắp của cha mẹ, trộm cắp của sư trưởng, trộm cắp của bạn lành, anh em, chị em. Người ngu si như vậy không có hổ thẹn, chẳng biết ân nuôi dưỡng, lòng không đền đáp lại, tham lợi là muốn có bằng được, chẳng biết tai họa, chẳng thuận theo lời dạy của thầy. Tội báo của người này, khi sắp qua đời, tim bụng đầy hơi, tắt nghẹn, hơi thở chẳng liên tục, liền nghó rằng: “Tim ta như bùn, hơi đầy trong ngực, được một chút lửa để hơ nóng thân ta thì chẳng sướng hơn sao?” Ngục tốt La-sát đáp ứng ý nghó đó, liền đến hóa làm vợ con, tay nâng lò lửa có ít tro phủ lên trên đi đến chỗ tội nhân. Lúc đó lòng tội nhân rất vui mừng. Do vui mừng nên tắt thở qua đời, sinh vào trong dòng sông tro. Chỗ các cây gươm có một La-sát, tay cầm gươm bén muốn đến gây tổn hại. Người đó sợ hãi chạy vào sông tro, nhấc chân lên hạ chân xuống đều bị dao gây tổn thương chân. Cây gươm mưa xuống toàn dao, dao theo lỗ chân lông mà vào. La-sát dùng chóa móc tim người ấy ra. Người tội ấy đau buồn ngã lăn ra đất mà chết, rồi liền sống lại ngay. Do nhân duyên tội trộm cắp của sư trưởng, cha mẹ của người đó nên một ngày một đêm năm trăm ức lần sinh, năm trăm ức lần chết. Bị đói khát bức ngặt nên tội nhân há miệng muốn ăn, cây gươm dao xuống theo đầu lưỡi vào bụng mổ bụng cắt tim, ngất đi mà chết. Do đời trước nghe danh hiệu Phật, Pháp, Tăng nên sau khi hết tội được sinh vào trong loài người, nghèo cùng hèn hạ. Người ấy giác ngộ đời là vô thường, xuất gia học đạo, gặp lúc đời không Phật thì thành Bích-chi-phật, gặp đời có Phật thì thành A-la-hán. Đức Phật bảo A-nan rằng: –Sao gọi là địa ngục rừng gươm? Địa ngục rừng gươm rộng tám ngàn do-tuần, bên trong chứa đầy các cây gươm, trái là hòn sắt nóng. Như cây kiếm này cao hai mươi bốn do-tuần. Có chúng sinh bất hiếu với cha mẹ, chẳng kính sư trưởng, tạo tác nghiệp ác khẩu, không lòng từ ái, dùng dao gậy làm hại người. Tội báo người này khi sắp qua đời, tâm như keo bám dính, tham đắm khắp nơi, liền nghó rằng: “Tâm ta bị trói buộc, đụng việc chẳng bỏ như đắm rượu tham sắc. Thân tuy gặp nạn, tâm còn chẳng dứt, nếu được dao bén cắt đứt sự yêu thương này.” Ngục tốt La-sát ứng tiếng liền đến hóa làm người hầu, cầm gươm sáng bày nói với tội nhân rằng: “Tâm ngài nhiều tham đắm có thể nhìn vào kính này!” Khi xem tấm gương đó, tội nhân thấy bên trong có hình dạng gươm bén, liền nghó rằng: “Nay thân thể ta gầy yếu chẳng kham nỗi việc ham muốn, nếu được lưỡi gươm bén này cắt đứt tim ta thì chẳng cũng thích hợp sao?” Khi khởi ý niệm này thì tắt thở qua đời, thọ thân ngạ quỷ, bỗng nhiên hóa sinh ra từ trong những cây gươm. Sinh ra rồi, hòn sắt nóng từ trên đỉnh đầu vào và theo miệng mà ra, ruột, bao tử cháy đen tan rã, ngã lăn ra đất. Ngục tốt lại dùng chóa sắt đánh đập xua đuổi chạy lên cây, lên một cây rồi, bị trùng mỏ sắt ăn. Do sợ hãi nên tội nhân nhảy vọt lên cây khác. Cứ lần lượt như vậy, tội nhân trải qua hết rừng cây kiếm, một ngày một đêm tám vạn lần sinh, tám vạn lần chết. Sau khi hết tội, người đó sinh vào đời đói kém và kiếp dịch bệnh, làm người thấp hèn, miệng luôn hôi thối, mọi người nhìn thấy đều ghét. Qua hết kiếp số, người đó gặp được bậc Thiện tri thức, phát tâm Bồ-đề. Đức Phật bảo A-nan rằng: –Sao gọi là địa ngục năm trăm ức rừng gai nhọn? Địa ngục rừng gai nhọn rộng tám ngàn do-tuần, bên trong chứa đầy gai nhọn bằng sắt. Đầu mỗi gai nhọn có mười hai lưỡi kiếm. Trên cây lại có cái kìm lớn bằng sắt nóng. Thế gian có chúng sinh ngu si, nói lời ác, nói lưỡi đôi chiều, nói thêu dệt, nói bất nghóa, đùa cợt không kiềm chế, lời nói dối gạt, thị phi, nói lỗi của kinh điển, hủy báng bậc thầy luận bàn nghóa lý. Như tội báo này, lúc sắp qua đời, tội nhân thấy cổ họng nóng, lưỡi khô, liền nghó rằng: “Nếu được một mũi nhọn bén đâm vào cổ cho chảy máu, khiến cho các mạch máu rót nước mát vào thì chẳng dễ chịu hơn sao?” Khi khởi ý nghó này, ngục tốt La-sát hóa làm cha mẹ, tay cầm ngọc nguyệt châu, đầu viên ngọc sinh ra mũi nhọn, đem cho vào miệng như nước sắp rót. Tội nhân vui mừng nghó rằng: “Điều ta mong muốn đã được kết quả.” Nghó vậy rồi, tắt thở qua đời, nhanh như ánh chớp, người ấy sinh vào rừng gai nhọn. Sau khi người ấy sinh ra, ngục tốt La-sát, tay cầm kìm sắt kéo bật lưỡi tội nhân ra, rồi tám mươi con trâu sắt kéo cày sắt lớn cày phá lưỡi của tội nhân ấy. Các cây của rừng gai nhọn, có gió thổi lại, đánh đập thân thể người ấy. Một ngày một đêm, người ấy sáu trăm lần sinh ra, sáu trăm lần chết đi. Qua khỏi kiếp nạn đó rồi, về sau được sinh trong loài người, môi hở, mặt nhăn, tiếng nói lắp bắp. Như tội nhân này, thân thể sinh ra bị các thương tích máu mủ tràn lan, trải qua năm trăm đời, người nhìn thấy rất gớm ghiếc. Qua hết những việc đó rồi, về sau, có nói ra lời gì, mọi người đều chẳng tin nhận, nhưng nhờ gặp được bậc Thiện tri thức phát tâm Bồ-đề. Đức Phật bảo A-nan rằng: –Sao gọi là địa ngục năm trăm ức trụ đồng? Địa ngục trụ đồng là nơi có một trụ đồng giống như ngọn núi lớn, cao sáu trăm do-tuần, bên dưới có lửa mạnh, trên lửa có giường sắt, bên trên giường có bánh xe dao. Ở chỗ các bánh xe dao có trùng mỏ sắt và quạ sắt ở bên cạnh. Thế gian tự có chúng sinh ngu si tham lam mê hoặc chồng chất, ái nhiễm, chẳng thanh tịnh, phạm giới tà dâm, chẳng phải nơi, chẳng phải lúc, tạo nghiệp bất tịnh. Giả sử có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Bà-la-môn… những người phạm hạnh, nếu chẳng phải lúc, chẳng phải nơi phạm pháp bất tịnh… cho đến tất cả những người phạm tà hạnh, tạo nghiệp bất tịnh. Những tội nhân này, khi sắp qua đời, toàn thân cựa quậy rung động mạnh mẽ chẳng yên giống như cung nỏ, chẳng tự kiềm chế được, liền nghó rằng: “Nếu được một cây trụ bằng đồng hay sắt cứng chắc to lớn để trói thân thể này khiến cho ta không còn lay động nữa.” Ngục tốt La-sát ngay lúc đó liền đến, hóa làm người để sai bảo, tay cầm gậy sắt, đi đến chỗ tội nhân thưa rằng: “Hôm nay, thân ngài mạnh mẽ, còn các vật khác đều yếu mềm. Ngài có thể nắm lấy cây gậy này!” Lòng tội nhân rất vui mừng, liền tắt thở qua đời. Như khoảnh khắc ngắn của cây gậy quay, người ấy sinh vào đầu trụ đồng, lửa mạnh cháy hừng hực thiêu đốt thân người ấy. Tội nhân sợ hãi nhìn xuống thấy trên giường sắt có người con gái đoan chánh. Nếu người con gái đó thấy người nam đàng hoàng thì tâm phát sinh ái nhiễm. Tội nhân từ trên trụ đồng muốn gieo xuống đất thì bị trụ đồng đâm xuyên thân, lưới sắt quấn quanh cổ, các trùng mỏ sắt rỉa ăn thân thể người ấy. Rơi xuống trên giường sắt, cả nam lẫn nữ đều cùng lúc sáu căn bốc lửa. Có con trùng sắt theo mắt mà vào, rồi từ nam căn và nữ căn mà ra. Nếu người có giới hạnh không thanh tịnh thì riêng có chín ức những bọn trùng nhỏ như trùng Tiếu thư(<註 n="1"/>), có mười hai mỏ, đầu mỏ phát ra lửa, rỉa ăn thân thể người ấy. Quả báo tà dâm này, một ngày một đêm chín trăm ức lần sinh, chín trăm ức lần chết. Chịu đựng hết quả báo mới được ra khỏi, sinh vào trong loài tu hú, bồ câu. Thọ thân tu hú, bồ câu trải qua năm trăm đời, lại sinh trong loài rồng trải qua năm trăm đời. Về sau, tội nhân sinh trong loài người, bị không căn, hai căn và căn chẳng định, làm thân bán nam bán nữ trải qua năm trăm đời. Giả sử người ấy được làm người, vợ chẳng trinh tiết tốt lành, con chẳng hiếu thảo, nô tỳ chẳng thuận thảo. Sau khi qua khỏi những việc đó rồi, thì người ấy gặp được bậc Thiện tri thức, phát tâm Bồ-đề. Đức Phật bảo A-nan rằng: –Sao gọi là địa ngục năm trăm ức máy sắt? Địa ngục máy sắt là nơi có một cái giường sắt, ngang dọc bằng nhau bốn trăm do-tuần, bên trên đặt những cái bệ, trong bệ đều có hàng vạn ức nỏ sắt, đầu nỏ có hàng trăm ức mũi nhọn. Thế gian có chúng sinh ngu si, vì tham dục nên bất hiếu với cha mẹ, chẳng kính sư trưởng, chẳng vâng thuận lời dạy tốt, giết hại chúng sinh, ăn theo những người gian dối… Tội báo của người này, khi sắp qua đời, thân thể rúng động, sáu lỗ nơi thân, nước tự chảy ra. Tội nhân này, tự thấy giường của mình như gấm Đâu-la, liền nghó rằng: “Khi nào được một chỗ bền chắc mát mẻ để an thân nằm ngủ thì chẳng thích lắm sao?” Khi họ khởi ý nghó đó, ngục tốt La-sát dùng chóa nâng giường lên đem bày cái giường nệm lớn đến chỗ tội nhân. Tội nhân thấy rồi, lòng rất vui mừng, muốn nằm lên giường nệm thì tắt thở qua đời, sinh lên trên giường sắt, vạn ức cửa bệ sắt từ dưới khởi động, bệ sắt thấp giơ cao lên, vô lượng nỏ sắt đồng thời đều trương lên, tất cả các mũi tên sắt bắn vào tim tội nhân. Một ngày một đêm sáu mươi ức lần sinh, sáu mươi ức lần chết. Tội nhân chịu hết tội như vậy rồi, sinh vào trong loài súc sinh trải qua năm trăm đời, rồi sinh trở lại trong cõi người làm kẻ bần cùng thấp hèn, bị người khác sai khiến, chịu nhiều hình ngục, luôn bị đánh đập. Qua khỏi những việc đó rồi, về sau gặp bậc Thiện tri thức, phát tâm Bồ-đề. Đức Phật bảo A-nan rằng: –Sao gọi là địa ngục lưới sắt? Địa ngục lưới sắt là nơi có tám mươi chín lớp lưới sắt. Trong mỗi lớp lưới có trăm ức kim sắt. Mỗi kim sắc mở ra năm bệ cửa. Thế gian có chúng sinh giả dối, tà dâm, dua nịnh, yêu mị mê hoặc người, lòng luôn mê sảng, ngày đêm nghó ác, từng sát-na, sát-na luôn gây tạo các niệm ác. Tội báo của người này là khi sắp qua đời thân thể ngứa ngáy, liền nghó rằng: “Nếu được một cái gai, cây kim hay cái lẹm mà đâm con trùng ghẻ thì chẳng thích hơn sao?” Khi họ khởi ý niệm đó, ngục tốt La-sát hóa thành vị thầy thuốc, tay cầm kim báu nói lớn rằng: “Ta trị bệnh đây!” Tội nhân nghe, lòng rất vui mừng, tắt thở qua đời, sinh vào vùng lưới sắt. Thân tội nhân rơi xuống thì các bệ đều khởi động, vô lượng kim bắn vào lỗ chân lông. Như vậy, cứ lẩn quẩn trong những lưới sắt từng sát-na chết, từng sát-na sống. Tội hết, người ấy mới sinh vào chỗ biên địa không có Phật pháp, cũng chẳng được nghe lời nói hiền thiện ở thế gian, huống gì là lời chánh pháp. Tuy họ sinh trong loài người nhưng chẳng khác ở ba đường ác. Qua khỏi kiếp số đó, mới gặp được bậc Thiện tri thức, tuy được nghe pháp nhưng lòng chẳng hiểu rõ. Đức Phật bảo A-nan rằng: –Sao gọi là địa ngục hang sắt? Địa ngục hang sắt là pháp khổ bậc nhất trong đường ngạ quỷ. Có một núi sắt ngang dọc bằng nhau hai mươi lăm do-tuần. Trên núi lại có năm trăm vạn ức hòn sắt nóng lớn. Mỗi hòn sắt tròn vìn đúng mười ba do-tuần. Ngọn núi lại có năm ngàn đao kiếm. Lúc đó, hướng Đông của núi kia mở ra, có một lỗ nhỏ như miệng của Ma-dà-đà to như cái đấu, chỉ phát ra khói đen. Thế gian có chúng sinh ngu si, tham lam, bỏn sẻn trói buộc lòng chắn như Kim cương, chỉ ưa cầu tìm không biết chán đủ, cha mẹ vợ con đều chẳng cấp cho, sư trưởng giáo thọ xem như phân nhơ, nô tỳ thân hữu chẳng cho ăn mặc. Người keo kiệt như vậy chẳng nghó đến vô thường, tiếc giữ của cải giống như tròng mắt. Tội báo người này là khi sắp qua đời, các căn bế tắc, cấm khẩu chẳng nói được, trong lòng suy nghó rằng: “Sau khi ta chết, những người ác đó ăn của cải của ta như nuốt hòn sắt, ở nhà của ta như ở trong nhà tối!” Nghó thế rồi, ngục tốt La-sát hóa làm người tham lam giả thâu lấy của cải đem đến chỗ tội nhân, rồi dùng lửa đốt chúng. Lòng tội nhân vui mừng, tắt thở qua đời, sinh lên trên núi lửa, giống như trong hang sắt luyện chung với đồng. Đã vào trong hang, thân thể người ấy bị trùng kiếm, trùng đao rỉa ăn. Khói xông mắt người ấy làm họ chẳng thấy lửa cháy, sợ hãi kinh hoàng xô chạy khắp đông tây, đầu va vào núi sắt, những hòn sắt từ trên rơi xuống nhập vào đỉnh đầu, rồi từ chân mà ra, khoảnh khắc một niệm chết, khoảnh khắc một niệm sống. Tội hết, người ấy mới sinh ra trong loài ngạ quỷ. Thân quỷ ấy cao lớn đến mười do-tuần mà cổ họng như cây kim, bụng lớn như núi, kiếm ăn khắp nơi mà chỉ có nước đồng rót vào cổ họng. Trải qua tám ngàn năm mới được hết khổ, người ấy lại sinh vào loài quỷ ăn đồ khạc nhổ, quỷ ăn mủ, quỷ ăn máu. Tội hết lại sinh làm thần hầm xí heo, chó. Tội hết lại sinh làm người nghèo cùng, thấp hèn, không quần áo, đồ ăn, chỗ ở, sau đó, mới gặp bậc Thiện tri thức, phát tâm Bồ-đề. Đức Phật bảo A-nan rằng: –Sao gọi là địa ngục hòn sắt? Địa ngục hòn sắt là nơi rộng tám mươi do-tuần, bên trong chứa tám mươi tám ngăn thành sắt. Trong mỗi ngăn có năm núi đao che phủ bên trên, bên dưới có mười tám con rắn sắt lớn hung dữ. Mỗi con rắn đều lè lưỡi, lưỡi phát ra kiếm sắt. Đầu kiếm có lửa cháy. Thế gian có chúng sinh ngu si hủy báng hạnh bố thí, cho rằng bố thí không có phước báo, khuyên người tàng trữ. Người ngu si như vậy nói với quốc vương, đại thần, Sa-môn, Bà-la-môn và tất cả mọi người rằng: ‘Bố thí không có nhân, cũng không quả báo. Tội nhân này, lúc sắp qua đời, cổ cứng, mạch co lại, xoay chuyển chẳng nói lên lời, chẳng ưa thấy người, chỉ nằm nhìn xuống, trong lòng chỉ nghó: “Ta chứa của báu, của ấy nếu được ở cùng ta thì vui thích chẳng thể nói.” Ngục tốt La-sát hóa làm vợ người ấy cầm hòn sắt nóng hóa thành đồ quý báu, ở trước người ấy nói rằng: “Tôi chết theo ngài, trước sau có nhau, chẳng hề lìa nhau!” Người ấy tắt thở qua đời, sinh vào trong thành sắt, chạy rong khắp nơi, bị con rắn sắt tiết ra độc quấn quanh thân người ấy. Trên đầu bị lửa cháy, người ấy liền nghó: “Nguyện xin trời thương ta tuôn xuống mưa ngọt ngào!” Theo ý nghó đó, trời mưa xuống những hòn sắt nóng lớn, chúng đi thẳng vào đỉnh đầu và đi ra dưới chân. Hết tội, người ấy mới được làm người nghèo cùng, cô độc, câm ngọng. Số tuổi thọ của người đó bằng số năm của người ở địa ngục hang sắt nói trên. Về sau người ấy mới gặp bậc Thiện tri thức, phát tâm Bồ-đề. Đức Phật bảo A-nan rằng: –Sao gọi là địa ngục đá nhọn? Địa ngục đá nhọn là nơi có hai mươi lăm núi đá. Mỗi núi đá có tám ao băng. Mỗi ao băng có năm con rồng độc. Thế gian có chúng sinh ngu si, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Sa-di, Sa-di ni, Thức-xoa-ma-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, chín mươi sáu các Phạm chí, ngoại đạo…, pháp nói là phi pháp, phi pháp nói là pháp. Hoặc họ phạm giới nhẹ để lâu chẳng sám hối, lòng không biết xấu hổ giống như loài khỉ vượn. Tội báo của người này lúc sắp qua đời, dưới tim khí đầy, bụng căng như trống, ăn uống bị ói mữa, nước uống vào chẳng xuống, họ liền nghó rằng: “Như được một viên đá nhọn khai thông cổ họng của ta thì chẳng dễ chịu hơn sao?” Khi họ khởi ý niệm đó, ngục tốt La-sát hóa làm vị lương y, giả cầm viên đá nhọn làm viên thuốc lớn, đặt vào trong miệng người ấy, bảo rằng: “Ngậm miệng lại!”. Người ấy, lòng rất vui mừng, tắt thở qua đời, sinh vào vùng núi đá, vô lượng đá nhọn từ trên lưng mà vào, rồi từ trước ngực mà ra. Ngục tốt lại dùng chóa sắt đâm vào miệng lấy đá bên trong ra. Một ngày một đêm có đến sáu mươi ức lần chết, sáu mươi ức lần sinh. Đây là sinh báo, từ lúc qua đời này, tội nhân bị đọa vào địa ngục dây đen. Địa ngục dây đen là nơi có tám trăm khóa sắt, tám trăm núi sắt, dựng cờ sắt lớn, hai đầu buộc khóa. Ngục tốt La-sát xua đuổi tội nhân, bắt cõng núi sắt, chạy trên dây sắt, chẳng đi được rơi xuống đất thì lọt vào trong vạc nước sôi, La-sát đuổi dậy, khát quá thì uống nước sắt, nuốt lấy đá mà chạy. Một ngày một đêm trải qua nỗi khổ đó đến mười vạn lần. Tội hết, sinh ra đời làm tôi tớ cho người, gặp bậc Thiện tri thức được người ấy nói pháp chân thật, như vải trắng tốt dễ nhuộm lấy màu, thành bậc A-la-hán với ba Minh, sáu Thông, đủ tám Giải thoát. Đức Phật bảo A-nan rằng: –Sao gọi là mười tám địa ngục uống nước đồng sôi? Địa ngục uống nước đồng sôi là nơi có một ngàn hai trăm thứ xe đồng đủ màu. Trên mỗi xe đồng có sáu ngàn viên đồng. Có chúng sinh tham lam, ganh ghét, tà kiến, ác thuyết, chẳng cung cấp cho cha mẹ, vợ con, quyến thuộc và tất cả. Lòng luôn tham lam, ganh ghét, thấy kẻ khác được lợi như tên bắn vào tim. Tội nhân như vậy, lúc sắp qua đời hay bị nhiều bệnh, gầy còm, hôn mê nói nhảm, trong miệng tự nói, muốn được trái cây để ăn. Khi nói lời đó thì ngục tốt La-sát hóa xe đồng thành xe chở đầy trái cây, đi đến chỗ tội nhân. Tội nhân được rồi, lòng rất vui mừng, liền nghó rằng: “Được những trái ngon này ăn chẳng biết chán, rất hợp với mong muốn của ta”, rồi vô cùng vui mừng, tắt thở qua đời. Chưa qua đời bao lâu, tội nhân đã sinh lên trên xe đồng, chẳng lâu liền sinh đến vùng núi đồng, xe đồng cán cổ, ngục tốt La-sát dùng kìm cạy miệng bắt uống nước đồng nấu chảy. Uống nước đồng rồi mê muội ngã lăn ra đất, la lên rằng: “Đói! Đói!” đồng thời ngục tốt tách miệng cho mở ra, rồi dùng hòn đồng, sắt đặt vào trong miệng người ấy, nuốt luôn mười tám hòn, từng đốt từng đốt xương trên thân lửa bốc cháy. Tội nhân xô chạy khắp đông tây trải qua một ngày mới qua đời. Ngục tốt nói lớn rằng: “Thân đời trước của ngươi dua nịnh, tà kiến, tham lam, ganh ghét. Do nhân duyên đó nên phải chịu quả báo nuốt hòn sắt nóng. Hoặc đã từng xuất gia mà phạm giới nhẹ để lâu chẳng hối lỗi, luống ăn của tín thí. Do nhân duyên này nên phải ăn những hòn sắt.” Tội báo của người này là trải qua hàng ức ngàn vạn năm chẳng biết đến nước uống và lúa gạo. Chịu tội xong rồi, sinh lại trong cõi người, người ấy suốt trong năm trăm đời nói năng lắp bắp, chẳng tự biện luận rõ ràng. Do tập nhiễm đời trước nên ăn uống đời sau họ phải ăn hòn than và ăn đất cục. Từ đó về sau, họ gặp bậc Thiện tri thức, phát tâm Bồ-đề. PHẬT thuyết QUÁN PHẬT TAM-MUỘI HẢI KINH <卷 id="112589563">Quyển 6 <詞 id="112589564">Phẩm 5: QUÁN bốn TÂM VÔ LƯỢNG Bấy giờ, khi Đức Thế Tôn nói lời đó rồi, nhờ năng lực của tâm Đức Phật, mười tia sáng màu trắng từ tim Đức Phật phóng ra. Ánh sáng ấy soi khắp các thế giới ở mười phương. Trong mỗi tia ánh sáng, có vô lượng vị Hóa Phật ngồi trên hoa sen báu. Đại chúng trong hội thấy ánh sáng của Đức Phật như nước pha lê, có người thấy như sữa, thấy các vị Hóa Phật từ ngực Đức Phật phát ra rồi nhập vào ở rốn Đức Phật, đi thuyền báu lớn dạo chơi nơi vùng tim Đức Phật, qua lại chỗ người chịu tội trong năm đường. Mỗi tội nhân thấy các vị Hóa Phật thân thiết như cha mẹ, bạn lành của mình, dần dần được nghe các Ngài nói pháp xuất thế gian. Lúc đó, giữa hư không có âm thanh lớn bảo các đại chúng rằng: –Hôm nay, các ông nên quan sát tâm Phật! Tâm các Đức Phật chính là đại Từ. Đối tượng duyên đến của tâm đại Từ là các chúng sinh khổ! Đức Phật bảo A-nan rằng: –Sao gọi là tâm Từ? Tâm Từ là nên phải giữ tâm chánh niệm duyên vào chúng sinh khổ. Chúng sinh khổ là những người rất khổ não trong ba đường ác. Khi Đức Phật nói lời đó, đại chúng trong hội thấy trong địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, nhờ năng lực của Tam-muội Giải thoát tướng, khiến cho các chúng sinh tự biết mạng sống đời trước của mình. Chư vị thấy những người chịu khổ đó đều chính là cha mẹ, thầy trò, các bạn bè của mình trong vô lượng kiếp ở đời trước. Thấy rồi, họ rơi lệ, đảnh lễ Phật, bạch rằng: –Bạch Thế Tôn! Hôm nay chúng con nhờ thần lực Phật nên thấy các chúng sinh khổ đều chính là cha mẹ, sư trưởng của chúng con. Đức Phật bảo đại chúng rằng: –Chúng sinh ba cõi luân hồi trong sáu đường như bánh xe lửa xoay. Hoặc làm cha mẹ, anh em, dòng họ thân thuộc… tất cả mọi người trong ba cõi không ai chẳng là người thân của các ngươi, vậy thì tại sao lại khởi lòng giết hại ganh ghét? Đức Phật nói lời đó xong, vua Tịnh Phạn cùng tất cả đại chúng bạch Phật rằng: –Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Tam-muội Từ tâm? Nguyện xin Đức Thế Tôn giảng nói sơ lược! Đức Phật bảo đại chúng rằng: –Luận về tâm Từ, ý tưởng khởi lên trước tiên phải liên hệ với người thân thuộc. Khi giữ chánh niệm, nghó đến cha mẹ mình đang chịu các khổ não. Có người bất hiếu chỉ nghó đến sự yêu thương của vợ con mình mà không nghó đến chúng sinh chịu các khổ não. Có người thấy chúng sinh bị ghẻ lở ung nhọt rồi, họ suy nghó phải làm sao để cứu giúp? Một ý tưởng thành tựu rồi nên khởi hai ý tưởng. Hai ý tưởng thành rồi thì nên khởi ba ý tưởng. Ba ý tưởng thành rồi thì ý tưởng chứa đầy một nhà. Một nhà ý tưởng thành rồi thì chứa đầy cả Tăng phường. Một Tăng phường thành rồi thì chứa đầy một do-tuần. Một do-tuần thành rồi thì chứa đầy một cõi Diêm-phù-đề. Một cõi Diêm-phù-đề thành rồi thì chứa đầy cõi Phất-bà-đề. Cõi Phất-bà-đề thành rồi thì chứa đầy ba thiên hạ. Cứ như vậy rộng dần, chứa đầy cõi mười phương. Thấy hết chúng sinh ở phương Đông đều là cha mình, thấy chúng sinh ở phương Tây đều là mẹ mình, thấy chúng sinh ở phương Nam đều là anh mình, thấy chúng sinh ở phương Bắc đều là em mình, thấy chúng sinh ở phương Dưới đều là vợ con, thấy chúng sinh ở phương Trên đều là sư trưởng. Còn những chúng sinh ở bốn góc đều là Sa-môn, Bà-la-môn… Thấy những chúng sinh đó đều chịu khổ não, hoặc bệnh nặng, hoặc thấy họ ở tại núi đao, rừng kiếm, xe lửa, lò than… chịu tất cả các việc khổ. Thấy rồi, hành giả buồn khóc muốn cứu vớt những nỗi khổ ấy, tự khởi lên ý tưởng: Cỡi hoa sen báu đi đến chỗ những người đó, đích thân xoa bóp, rửa ghẻ lở cho họ. Thấy lửa địa ngục, hành giả lo buồn rơi lệ, muốn diệt tắt lửa ấy. Thấy các quỷ đói, hành giả chích thân chảy máu hòa thành sữa cung cấp cho quỷ đói được no đủ. Đã no đủ rồi thì họ vì chúng nói pháp, khen Phật, khen Pháp, khen Tỳ-kheo tăng. Khen ngợi rồi, hành giả lại lo buồn, lòng không hề muốn rời bỏ. Như vậy, cùng cực của tâm Từ khiến cho được thông suốt, từng việc từng việc được nói rộng rãi trong Tam-muội về lòng Từ. Tâm Từ như vậy gọi là tu tập lòng Từ. Tu tập lòng Từ rồi, tiếp theo phải thực hành tâm Bi. Bi là thấy chúng sinh chịu khổ như mình bị tên bắn vào tim, như phá hủy tròng mắt, lòng rất bi khổ, toàn thân tuôn máu, muốn cứu vớt nỗi khổ ấy. Tâm Bi như vậy có trăm ức môn, nói đầy đủ trong Tam-muội đại Bi. Thực hành Từ, Bi rồi, tiếp theo là tu hành đại Hỷ. Thấy những chúng sinh yên ổn vui vẻ, lòng hoan hỷ như mình an vui không khác. Đã hoan hỷ rồi, tiếp theo là tu hành pháp Xả. Những chúng sinh đó không có tướng đến đi, do tâm tưởng sinh ra. Tâm tưởng sinh nghóa là: Nhân duyên hòa hợp, tạm gọi là tâm. Tâm tưởng này giống như cuồng hoa từ điên đảo khởi lên. Khổ từ tưởng khởi lên, vui từ tưởng sinh ra. Tâm như bên trong cây chuối, không hề chân thật, bền chắc. Nói đầy đủ như trong kinh Mười ví dụ. Khi khởi sự quán tưởng đó thì hành giả chẳng thấy thân tâm mà thấy tất cả pháp đều đồng như thật tánh. Đó gọi là thân, thọ, tâm, pháp của Bồ-tát. Nương nhờ pháp này, hành giả tu hành ba mươi bảy pháp hỗ trợ Bồ-đề. Nếu có thủ chứng là pháp Thanh văn, còn chẳng thủ chứng chính là pháp Bồ-tát. Nói lời nói đó xong, ánh sáng nơi thân Đức Phật càng thêm rực rỡ. Từ tim Đức Phật phóng ra ánh sáng. Trong các ánh sáng đó, sinh ra các hoa báu. Mỗi hoa báu có hằng hà sa số hoa báu xung quanh. Trên mỗi hoa báu có vô lượng vô biên Hóa Phật nhiệm mầu, thân cao một trượng sáu, như Phật Thích-ca Văn. Khi tướng này xuất hiện, lỗ chân lông thân Đức Phật có tám vạn bốn ngàn hoa sen báu. Trên mỗi hoa sen có tám vạn bốn ngàn vị đại Hóa Phật mà thân thì vô lượng vô biên. Như vậy, những lỗ chân lông và nơi tim của các vị Hóa Phật cũng phóng ra ánh sáng như đã nói trên. Ánh sáng như vậy, soi khắp mười phương, rồi nhập vào nơi đỉnh đầu Phật vào và tỏa ra ở tướng lông trắng giữa hai chân mày của Đức Phật. Ánh sáng từ tướng Bạch hào phóng ra soi khắp mười phương giống như lá cờ bằng vàng, khiến cho đất khắp mười phương đều thành màu vàng ròng và cuốn các vị Hóa Phật vào trong miệng của Đức Phật. Rồi từ miệng Đức Phật, ánh sáng phát ra cũng soi khắp mười phương, lại nhập vào ngực Đức Phật. Từ ngực Đức Phật, ánh sáng phóng ra lại soi khắp mười phương, lại nhập vào rốn Đức Phật. Khi ánh sáng này vào trong thân Đức Phật thì như nước lưu ly lắng trong chẳng động. Tất cả chúng sinh trong ba cõi, năm đường đều ánh hiện trong tim Đức Phật. Hành giả thấy các vị Hóa Phật ngồi trên đài báu lớn giống như thuyền báu du hành trong thân Đức Phật. Tất cả các vị Hóa Phật khen ngợi sự chẳng giết hại, khen ngợi sự niệm Phật, khen ngợi sự niệm Pháp, khen ngợi sự niệm Tăng, khen ngợi sự niệm Giới, khen ngợi sự niệm Thí, khen ngợi sự niệm Thiên, khen sáu pháp Hòa kính, khen Tam-muội về tâm Từ. Sáu niệm này có thể sinh ra pháp thiện, sáu niệm này chính là nhân của các Đức Phật. Tâm Phật chính là tâm sáu niệm. Nhờ sáu pháp Hòa kính mà được pháp này. Muốn thành Phật đạo phải học tâm Phật. Nói lời nói đó xong, ánh sáng của thân Đức Như Lai sáng rực rỡ bội phần. Số Hóa Phật của thân Đức Phật và hoa sen báu nhiều chẳng thể biết. Ánh sáng mỗi hoa như các loại hoa đã nói. Người quán như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán. Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật tu sáu niệm thì gọi là niệm về tâm Phật. Niệm về tâm Phật thì trừ được tội sinh tử trong mười hai ức kiếp. Người quán tưởng như vậy thì đời đời nhất định chẳng tà kiến, lòng chẳng hẹp hòi xằng bậy, luôn luôn gặp được bậc Bồ-tát vô sinh. Người như vậy nếu sinh vào chỗ biên địa không có Phật pháp thì nhờ năng lực công đức niệm Phật nên tự nhiên giác ngộ giải thoát thành Bích-chi-phật. Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói lời nói đó xong, thu ánh sáng nơi thân lại như cũ. Đức Phật thưa vua cha rằng: –Như ánh sáng Bạch hào của tướng bậc Đại nhân và tất cả các tướng, có thể quán tưởng nghịch, quán tưởng thuận hay quán tưởng phân biệt thì quán tưởng toàn bộ vừng sáng tròn và thân một trượng sáu. Chỉ phát tâm quán tưởng như vậy, còn quán thấy hay chẳng thấy, đều được tiêu trừ các tội lỗi như trên đã nói. Giả sử có thí chủ đủ năm Thần thông, được ngọc Như ý, bay khắp các thế giới ở mười phương, số chúng sinh của mỗi thế giới ở mười phương chẳng thể biết được, chỉ dùng từ vô lượng vô biên chỉ chung cho số lượng ấy, số chúng sinh nhiều như vậy đều là A-la-hán, vị đại thí chủ đó hết vô số kiếp cúng dường những bậc Hiền thánh đầy đủ bốn việc, không thiếu thốn. Người đó được phước chắc là nhiều lắm chăng? Vua đáp rằng: –Chỉ cần cúng dường những vị La-hán của một phương đã được phước không lường, huống gì cúng dường vô lượng La-hán khắp mười phương. Đức Phật nói với vua cha rằng: –Giả sử có người làm cho các chúng sinh tà kiến có số lượng nhiều như đã nói trên được thành tựu, đều khiến cho những người đó được đạo A-la-hán với ba Minh, sáu Thông, đủ tám Giải thoát thì cũng chẳng bằng phát tâm hướng về trí tuệ Phật mà niệm Phật trong giây lát. Khi Đức Phật nói lời đó thì một ức người dòng họ Thích trong chúng Thích tử phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, tự thề chẳng cầu đạo Thanh văn và Bích-chi-phật, bạch Phật rằng: –Bạch Thế Tôn! Thân của các Đức Phật phân ra thậm chí chỉ một sợi lông mà có vô lượng Hóa Phật thì thân của các Thanh văn chỉ như một vật hư mục cháy đen nào có ích gì?  <詞 id="112589565">Phẩm 6: QUÁN BỐN OAI NGHI (Phần 1) Bấy giờ, Đức Thế Tôn, ở trong đại chúng, liền đứng dậy, bước chân đi vào hư không, vua cha nhìn thấy, lòng rất hoan hỷ, cũng đi theo Đức Phật. Khi Đức Phật nhấc chân lên, xuất hiện tướng bánh xe có một ngàn nan hoa dưới chân. Mỗi bánh xe đều mưa xuống tám vạn bốn ngàn hoa sen báu. Mỗi hoa sen báu lại hóa ra tám vạn bốn ngàn ức vô số hoa. Mỗi hoa sen báu hóa thành một đài hoa. Mỗi đài hoa, mỗi cánh hoa che khắp vô lượng thế giới ở mười phương. Mỗi hoa sen có tám vạn bốn ngàn cánh. Mỗi bước chân của Đức Thích-ca Mâu-ni bước vào hư không đều mưa xuống hoa báu. Mỗi hoa như vậy lại có vô lượng bước chân Phật bước vào hư không nhiều như bụi trần. Vua cha nhìn thấy, lòng rất vui mừng, đắc quả A-na-hàm, năm vóc gieo xuống đất đảnh lễ Phật. Đại chúng trong hội đều nhìn thấy việc này, bạch Phật rằng: –Bạch Thế Tôn! Thế giới ở mười phương có vô số Hóa Phật. Vị nào là Đức Phật thật? Vị nào là Hóa Phật? Đức Phật bảo đại chúng rằng: –Các Đức Phật Như Lai nhập vào cảnh giới rỗng lặng, Tam-muội Giải thoát, tùy ý tự tại không có thân thật hay thân biến hóa. Vì sao? Vì tâm Phật tịch tónh, lại nhập vào Tam-muội Không tịch giải thoát quang minh vương. Nhờ năng lực của định này nên các Đức Phật Như Lai hóa ra vô biên thân. Vô biên thân chính là Nhất thiết trí. Nhất thiết trí gọi là Tam-muội Vô trước. Nhờ Tam-muội Vô trước nên Đức Như Lai thị hiện các hạnh, hoặc hiện đi khất thực, hoặc hiện đi kinh hành. Hai pháp như vậy đem lại lợi ích cho chúng sinh. Nếu chúng sinh nào, khi Phật còn ở đời, nhìn thấy Đức Phật đi. Trong từng bước từng bước, thấy được tướng bánh xe có ngàn nan hoa thì họ tiêu trừ được tội ác cực nặng trong một ngàn kiếp. Sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn, người nào nhập vào Tam-muội Chánh thọ quán tưởng bước đi của Phật thì cũng tiêu trừ được tội ác cực nặng trong một ngàn kiếp. Người tuy chẳng quán tưởng sự đi của Phật mà thấy dấu chân của Phật, thấy hình tượng Phật đi từng bước từng bước thì cũng tiêu trừ được nghiệp ác cực nặng trong một ngàn kiếp. Đức Phật bảo A-nan rằng: –Từ hôm nay, ông hãy đem lời dạy của Như Lai nói cho khắp các đệ tử rằng, sau khi Phật diệt độ, tạo hình tượng đẹp khiến cho thân tướng đầy đủ, cũng làm ra sắc tượng của vô lượng Hóa Phật và khai thông ánh sáng nơi thân cùng vẽ dấu chân của Phật bằng lụa màu vi diệu và đem ngọc pha lê đặt ở chỗ tướng Bạch hào khiến cho chúng sinh được thấy tướng đó. Chỉ thấy tướng này, lòng sinh hoan hỷ thì người này trừ bỏ được tội sinh tử trong trăm ức vô số kiếp nhiều như số cát sông Hằng. Nói lời đó xong, Đức Như Lai lại ngồi vào tòa. Vua cha lại hỏi Đức Phật rằng: –Xuất thế gian có lợi ích gì? Có thể làm cho chúng sinh an vui sao? Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói với vua cha rằng: –Ông trưởng giả Tu-đạt trong thành Xá-vệ có nuôi một bà lão tên là Tỳ-khư-la, cẩn trọng siêng năng đối với gia nghiệp nên được ông trưởng giả cho giữ chìa khóa kho. Việc xuất nhập, lấy cho tất cả đều giao cho bà. Ông trưởng giả Tu-đạt thỉnh Phật và chúng Tăng để cung cấp những đồ cần dùng. Có vị Tỳ-kheo bệnh yêu cầu nhiều thứ. Bà lão vốn bỏn sẻn tham lam, sân giận, tî hiềm đối với Phật, Pháp và chúng Tăng nên nói rằng: “Ông trưởng giả nhà ta ngu si mê hoặc bị pháp thuật của Sa-môn. Những kẻ ăn xin đó muốn nhiều không chán. Có thứ đạo gì lạ vậy?” Nói lời đó rồi, bà lại phát nguyện ác rằng: “Khi nào mới được không nghe danh hiệu Phật, chẳng nghe tên Pháp, chẳng thấy những người cạo đầu nhuộm áo?” Tiếng ác như vậy được một người nghe rồi lại hai người nghe… lần lượt khắp trong thành Xá-vệ đều nghe. Phu nhân Mạt-lợi nghe lời nói này rồi, nói rằng: “Tại sao ông Tu-đạt như hoa sen đẹp, mọi người ưa nhìn thấy? Tại sao ông lại có con rắn độc hộ vệ?” Nói lời đó xong, bảo ông Tu-đạt rằng: “Ông hãy sai vợ ông đến, ta muốn nói chuyện với bà ấy!” Bà A-na-bân-đê đi mau đến cung vua, đến làm lễ xong, lui đứng qua một bên. Phu nhân Mạt-lợi lệnh cho tòa ngồi, khách ngồi xong, phu nhân nói rằng: “Bà lão của gia đình ngươi ác khẩu, hủy báng Tam bảo sao chẳng đuổi bà ấy đi!” Bà A-na-bân-đê quỳ xuống bạch rằng: “Mặt trời Phật ra đời được nhiều sự thấm nhuần, lợi ích! Ương-quật-ma-la là người đại ác, Ni-đề kẻ hèn hạ, Khí-hư hạng Chiên-đà-la… Đức Phật đều có thể thu phục, huống gì một nô tỳ già mà chẳng thể điều phục?” Phu nhân Mạt-lợi nghe lời đó rồi, rất vui mừng, nói rằng: “Ta muốn thỉnh Đức Phật, bà hãy sai bà lão nô tỳ đó đến!” Hôm sau, đến giờ ăn, phu nhân thỉnh Đức Phật và Tăng chúng vào cung cúng dường. Ông trưởng giả sai bà lão mang bình đựng đầy ngọc ma-ni, vàng đến khuyến trợ nhà vua cúng dường chúng Tăng, bảo rằng: “Này người đáng tin cậy! Ngươi hãy đem cống vật này dâng lên nhà vua!” Bà lão nô tỳ nghe lời nói đó rất vui mừng, mang bình báu chạy đi. Phu nhân Mạt-lợi thấy bà lão kia đến thì nghó rằng: “Người tà kiến sẽ được Đức Phật hóa độ. Ta thấy người này khi được hóa độ, nhất định sẽ đạt được pháp lợi.” Bấy giờ, Đức Thế Tôn từ cửa chính đi vào, Nan-đà ở bên trái, A-nan ở bên phải, La-hầu-la theo sau Đức Phật. Bà lão thấy Đức Phật, lòng kinh hãi, dựng tóc gáy, nghó rằng: “Thật đáng ghét! Người này theo ta đến sau!” Tức thời bà muốn rút lui, theo lỗ chó chui ra thì lỗ chó liền đóng lại, những hẻm nhỏ bốn phía đều đồng thời đóng chặc lại, chỉ có con đường chính mở ra. Bà lão che mặt bằng quạt, tự ngăn chẳng muốn thấy Đức Phật. Nhưng Đức Phật ở trước bà khiến cho quạt trong suốt như gương, không có gì ngăn ngại. Bà quay đầu về Đông nhìn thấy phương Đông có Phật, về Nam nhìn thấy phương Nam có Phật, về Tây nhìn thấy phương Tây có Phật, về Bắc nhìn thấy phương Bắc có Phật, ngẩng đầu ngước nhìn lên phương trên có Phật, cúi đầu sát đất thì đất hóa thành Phật, dùng tay che mặt thì mười ngón tay đều hóa thành Phật. Bà lão nhắm mắt lại thì tâm nhãn liền mở ra, thấy tất cả hóa Phật trong hư không đầy khắp các cõi mười phương. Khi tướng này hiện, trong thành Xá-vệ có hai mươi lăm người con gái Chiên-đà-la, năm mươi người con gái Bà-la-môn và những người hèn hạ cùng với năm trăm người con gái trong cung của phu nhân Mạt-lợi, lòng sinh hủy báng, chẳng tin Phật pháp. Họ thấy Đức Phật Như Lai, chân bước đi trong hư không, vì bà lão, hiện ra vô số thân, lòng rất vui mừng, phá tan lưới tà kiến, cúi đầu cung kính đảnh lễ dưới chân Đức Thế Tôn. Bấy giờ, Đức Thế Tôn dùng âm thanh Phạm an ủi những người con gái rằng: –Này những người con gái! Các cô hôm nay có thể xưng lên Thích-ca Mâu-ni! Xưng danh hiệu của ta, quán tưởng thân tướng của ta, các cô sẽ được giải thoát. Đức Phật nói lời đó xong thì những người con gái đồng thanh nói: “Nam-mô Phật”. Đức Phật phóng ra ánh sáng tướng lông trắng giữa hai chân mày soi sáng tâm của những người con gái. Những người con gái thấy Đức Phật bước đi oai nghi đónh đạc, dưới chân mưa hoa giống như chiếc lọng hoa, hóa Phật nhiều như rừng cây chẳng thể kể xiết. Những người con gái nhìn thấy vậy đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Bà lão thấy Đức Phật, tà kiến chẳng tin mà còn trừ được tội sinh tử của tám mươi vạn ức kiếp, huống là lại có thiện ý cung kính lễ bái. Bấy giờ, bà lão nhờ được thấy Đức Phật nên hẻm nhỏ, lối mòn mở ra trở lại, liền chạy vội về nhà, thưa với chủ nhà rằng: –Hôm nay, tôi gặp phải điều rất xấu là phải đối mặt với ông Sa-môn Cù-đàm tại cửa cung vua, trước mặt nhiều người. Ông ấy làm những điều yêu mị biến hóa, thân như núi vàng ròng, nhiều loại hoa ánh lên đẹp đẽ, mắt hơn hẳn đóa sen xanh, có hàng vạn ức ánh sáng, chẳng thể thấy đủ được. Sa-môn giỏi huyễn thuật, thế gian không ai sánh bằng. Đại gia tuổi nhỏ có thể chẳng ưa nhìn thấy. Nói lời đó rồi, bà vào trong lồng gỗ, dùng hàng trăm bức màn bằng da che bên trên lồng gỗ, dùng vải trắng buộc đầu, lui vào nằm chỗ tối. Bấy giờ, Đức Thế Tôn trở lại rừng Kỳ-đà. Phu nhân Mạt-lợi bạch rằng: –Bạch Thế Tôn! Nguyện xin Thế Tôn hóa độ cho bà lão tà kiến, đừng trở lại tinh xá! Đức Phật bảo bà Mạt-lợi rằng: –Người đàn bà này tội nặng, đối với Phật không có duyên, nhưng đối với La-hầu-la thì có nhân duyên lớn. Hôm nay, Phật đi là để tiêu trừ tội cho bà ấy. Nói lời đó rồi, Đức Phật liền trở về tinh xá, bảo La-hầu-la rằng: –Ông hãy đi đến nhà ông đại trưởng giả Tu-đạt, hóa độ bà lão ác! Khi Đức Phật nói lời đó, một ngàn hai trăm năm mươi vị Sa-môn đều thưa rằng: –Chúng con hôm nay nguyện xin đi theo! Bấy giờ, La-hầu-la nương uy thần Đức Phật, nhập vào định Như ý, lễ bái xong, nhiễu quanh Đức Phật bảy vòng, liền tự hóa thân làm Chuyển luân thánh vương, A-nan hầu bên trái, Nan-đà hầu bên phải. Một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ-kheo hóa thành một ngàn người con, A-nan làm thần Điển tạng, Nan-đà làm thần Chủ binh, bảy báu bốn binh đều đầy đủ. Lúc đó, bánh xe vàng báu ở trong hư không, ở trên đài hoa sen dẫn đường đến nhà trưởng giả Tu-đạt. Quỷ Dạ-xoa nói lớn rằng: –Thánh vương ra đời, đuổi hết những người ác, tuyên dương pháp thiện! Bà lão nghe rồi, lòng rất vui mừng nghó rằng: “Thánh vương xuất hiện thì có ngọc Như ý. Điều gì cầu xin mà chẳng thể được thì nên nói ở đây!” Bấy giờ, Thánh vương khua chuông, đánh trống, cỡi xe báu lớn đi đến nhà ông Tu-đạt. Bà lão nhìn thấy rất vui mừng nghó rằng: “Thánh vương ra đời đem lại nhiều điều thấm nhuần lợi ích, biết phân biệt thiện ác, nhất định sẽ chẳng bị sự mê hoặc của Sa-môn”. Bà từ lồng cây chui ra, lễ kính Thánh vương. Thánh vương liền sai thần Chủ tạng báu đi đến chỗ bà bảo rằng: –Này người chị em! Đời trước của ngươi có phước ứng với tướng Vương giả. Hôm nay Thánh vương muốn dùng ngươi làm Ngọc nữ báu! Bà lão thưa rằng: –Thân con thấp hèn giống như phân bẩn, được Thánh vương hạ cố hỏi đến đã là vui mừng không lường! Làm sao đủ sức làm Ngọc nữ báu? Nếu ngài đoái thương đến con thì lệnh cho đại gia của con thả con được giải thoát. Sự ân tứ này đã là nhiều lắm rồi! Khi ấy, Thánh vương bảo Tu-đạt rằng: –Bà lão của ngươi, các tướng cao vời, nay ta muốn đem sung làm Ngọc nữ báu! Tu-đạt bạch rằng: –Tuân mạng! Theo lệnh ngài, nguyện dâng lên Đại vương! Bà lão nghe mình được phóng thích, vui sướng vô cùng. Thánh vương liền dùng ngọc Như ý soi sáng mặt bà khiến cho bà tự thấy mình như Ngọc nữ báu nên hoan hỷ bội phần, nói rằng: –Các Sa-môn bàn cao nói lớn, tự nói có đạo mà không một chút hiệu nghiệm! Bậc Thánh vương ra đời đem lại nhiều lợi ích rộng lớn, khiến cho thân già tệ hại của ta giống như Ngọc nữ báu. Nói lời đó rồi, bà gieo mình sát đất, đảnh lễ Thánh vương. Bấy giờ thần Điển tạng tuyên bố lệnh dạy của vua là xiển dương mười pháp thiện. Người nữ tỳ nghe mười pháp thiện, lòng rất vui mừng, liền nghó rằng: “Ý nghóa lời nói của Thánh vương thì không gì chẳng thiện!” Rồi bà đảnh lễ hối lỗi đức vua tự trách mình nên tâm được thuần thục. Lúc đó, La-hầu-la trở lại thân cũ, bà lão ngẩng đầu lên thấy một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ-kheo, liền nói rằng: –Phật pháp thanh tịnh chẳng bỏ chúng sinh! Tệ ác như ta mà còn được hóa độ! Nói lời đó rồi, bà cầu thọ năm giới. La-hầu-la vì bà nói pháp Tam quy và trao cho năm giới. Bà lão nghe pháp này, trong khoảnh khắc chưa cất đầu lên đã thành đạo quả Tu-đà-hoàn. Thần đất vui mừng, từ đất vọt lên bảo Tu-đạt rằng: –Hay thay! Thưa Trưởng giả! Phá tan lưới tà kiến! Đức Như Lai ra đời chính là vì điều này! La-hầu-la đưa bà lão đến rừng Kỳ-đà. Đến nơi bà thấy thân tướng Đức Phật màu vàng ròng, hoan hỷ chắp tay đảnh lễ Đức Phật, sám hối tội đã tạo từ trước, cầu xin Đức Phật được xuất gia. Đức Phật bảo La-hầu-la: –Ông đem bà lão này đến chỗ di mẫu Kiều-đàm-di! Trong thời gian trên đường đi, La-hầu-la vì bà nói pháp khổ, không, vô thường, vô ngã… Bà lão nghe pháp xong, đầu tóc tự rụng, thành Tỳ-kheo-ni với ba Minh, sáu Thông, đủ tám Giải thoát, thân bay lên hư không thực hiên mười tám sự biến hóa. Phu nhân Mạt-lợi của vua Ba-tư-nặc thấy sự biến hóa này, lòng rất vui mừng khen rằng: –Hay thay! Mặt trời Phật xuất hiện ở thế gian phá tan bóng tối vô minh, khiến cho người tà kiến đạt đạo A-la-hán. Nói lời đó xong, phu nhân đảnh lễ Đức Phật, bạch rằng: –Bạch Thế Tôn! Bà lão này đời trước có tội gì mà sinh ra chỗ thấp hèn, làm tôi tớ của người? Lại có phước gì mà may mắn được gặp Đức Thế Tôn, như tấm vải trắng tốt dễ nhuộm màu sắc, ngay tức thời được đạo A-la-hán? Đức Phật bảo rằng: –Này Đại vương! Hãy lắng nghe! Lắng nghe! Khéo suy nghó điều đó! Như Lai sẽ vì Đại vương phân biệt giảng nói! Thuở quá khứ xa xưa cách đây vô số kiếp, có Đức Phật Thế Tôn hiệu là Nhất Bảo Cái Đăng Vương Như Lai… đầy đủ mười hiệu. Sau khi Đức Phật đó diệt độ, trong đời Tượng pháp, có vị vua tên là Tạp Bảo Hoa Quang. Vua ấy có người con tên là Khoái Kiến, cầu xin được xuất gia. Vua cha liền đồng ý. Vương tử đi vào núi, đến trong Tăng phường cầu xin xuất gia thì có một vị Tỳ-kheo thông minh, đa trí, hiểu sâu thật tướng nhận làm đệ tử. Lại có một Tỳ-kheo tên là Đức Hoa Quang, khéo léo nói điều cốt yếu của pháp động viên, sách tấn lúc mới học. Vương tử Tỳ-kheo tuy đã xuất gia nhưng còn tâm kiêu mạn. Hòa thượng vì vương tử nói pháp vi diệu sâu xa, ý nghóa đại Không của Bát-nhã ba-la-mật. Vương tử nghe rồi lý giải lầm lẫn, giảng nói tà bậy. Sau khi vị Tỳ-kheo diệt độ, vương tử liền nói rằng: “Đại Hòa thượng của ta rỗng không, không có trí tuệ, chỉ có thể khen ngợi việc hư vô, rỗng không. Nguyện xin đời sau của ta, chẳng ưa thấy vậy. Vị A-xà-lê của ta trí tuệ biện tài, nguyện xin đời đời làm Thiện tri thức.” Tỳ-kheo vương tử nói lời đó xong thì từ đó, hễ pháp nói là phi pháp, phi pháp nói là pháp, dạy đồ chúng làm theo tà kiến. Tuy giữ gìn giới cấm uy nghi chẳng sai sót, nhưng do lý giải lầm lẫn nên sau khi qua đời, nhanh chóng như tên bắn, bị đọa vào địa ngục A-tỳ, tám mươi ức kiếp luôn chịu khổ não, tội hết mới ra làm người nghèo hèn, năm trăm đời làm người tai điếc, mắt mù, một ngàn hai trăm kiếp luôn làm tôi tớ cho người. Khi Đức Phật nói điều đó, phu nhân Mạt-lợi có năm trăm nữ tỳ sám hối, tự trách, phát tâm Bồ-đề, nguyện xin đời sau hiểu rõ được pháp Không sâu xa. Đức Phật bảo Đại vương rằng: –Vị Hòa thượng ấy, nay chính là thân ta! Vị A-xà-lê nay chính là La-hầu-la! Vị Tỳ-kheo vương tử chính là bà lão này! Đồ chúng đệ tử thì hôm nay là những người con gái tà kiến đang phát tâm Bồ-đề! Khi Đức Phật nói điều này thì hai vạn Ưu-bà-tắc trong thành Xá-vệ đều phát tâm Bồ-đề, được định Niệm Phật, thường ở trong định thấy Đức Phật nói pháp. Đức Phật nói với phụ vương rằng: –Người ác tà kiến khi thấy Đức Phật đi còn được vô lượng phước đức như thế này, huống gì là người quán tưởng sự đi của Phật và tượng Phật. Vua cha bạch Phật rằng: –Phật mẫu Ma-gia sinh lên cõi trời Đao-lợi. Đức Phật hôm nay có tướng ánh sáng thần thông đầy đủ, chừng nào sẽ đến vì mẹ nói pháp? Đức Phật nói với vua cha rằng: –Như Lai sẽ đúng như pháp bước đi của Chuyển luân thánh vương từ cõi Diêm-phù-đề lên cõi trời Đao-lợi thăm hỏi Đàn-việt và nói pháp nhiệm mầu. Lúc ấy, trong hội có vị Đại Bồ-tát tên là Trì Địa liền đứng dậy nhập vào Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm. Nhờ năng lực của Tam-muội nên từ bờ cõi Kim cương mà Kim cương làm vòng, Kim cương, Kim cương làm hoa rồi từng hoa từng hoa kế tiếp nhau ra khỏi cõi Diêm-phù-đề. Bốn vua rồng Nan-đà, Bạt-nan-đà, A-nậu-đạt-đa, Ta-già-la… đều đem bảy báu đi đến chỗ ngài Trì Địa. Họ dâng bảy báu để vì Đức Phật Thế Tôn làm ba đường thềm báu, bên trái bằng bạc, bên phải bằng pha lê, chính giữa bằng vàng ròng, từ bờ cõi Kim cương của Diêm-phù-đề lên đến cung trời Đao-lợi. Mỗi thềm báu có bảy lớp lan can. Những lan can đó do trăm ức châu báu tạo thành có trăm ức ánh sáng. Mỗi ánh sáng có trăm ức hoa báu. Trong mỗi hoa có vô lượng nhạc cụ tự nhiên vọt ra. Bấy giờ, Bồ-tát Trì Địa đem hằng hà sa số hoa sen bảy báu bày ra ở chỗ bước chân đi của Đức Phật. Ở bên đường thềm dựng lên các cờ báu, có vô lượng phướn báu treo trên đầu những cờ báu ấy. Che khắp bên trên là hàng trăm ức lọng báu. Chư Thiên cõi trời Đao-lợi mưa xuống hoa Mạn-đà-la, hoa Đại mạn-đà-la, hoa Mạn-thù-sa, hoa Đại mạn-thù-sa để trang trí vùng ấy. Vua trời Phạm tay nâng lò hương cùng với hàng vạn Phạm chúng đều đứng hầu bên thềm. Mỗi làn khói thơm như mây lưu ly đầy khắp hư không. Trong mây ấy có trăm ngàn loại âm nhạc, chẳng đánh mà tự trổi lên. Vua rồng Nan-đà… đem bột thơm Hải thử ngạn chiên-đàn tung rải tràn lan trên đường đi. Ánh sáng hương thơm tỏa lên như ánh vàng ròng rực sáng cao đến một cây Đa-la, rồi hóa thành đài vàng. Vô lượng chư Thiên đem chuỗi ngọc của trời trang trí đường thềm. Những vậy cúng dường như vậy nhiều chẳng thể kể xiết. Bấy giờ, Đức Thế Tôn ở cõi Diêm-phù-đề, tay cầm ba y bảo A-nan, Nan-đà, La-hầu-la… và năm trăm vị Tỳ-kheo bước chân trên mặt đất mà đi. Khi nhấc bước chân đầu tiên thì đất chấn động sáu cách. Khi hạ chân xuống thì đất sinh ra cung điện báu như cung của vua Phạm thiên. Từng cung điện tiếp theo nhau treo giữa hư không, ánh sáng lên theo sau Đức Phật. Ở bên đường bậc thang, Bồ-tát Trì Địa, Bồ-tát Di-lặc… cùng một ngàn vị Bồ-tát đồng thời chắp tay, dùng hàng vạn ức âm thanh ca vịnh vô lượng đức hạnh của Đức Như Lai. Bấy giờ, Phạm vương cùng với vô số trăm ngàn các Phạm thiên tay nâng lò hương và vô lượng nhạc cụ để cúng dường Đức Phật, đứng hầu ở bậc thềm bên trái. Thích Đề-hoàn Nhân và vô số Thiên tử cùng hàng trăm ngàn Thiên nữ trổi nhạc đàn ca cũng đứng hầu ở bậc thềm bên trái. Vô số đại chúng Thanh văn Bồ-tát đứng hầu ở bậc thềm bên phải. Khi ấy, Đức Thế Tôn phóng ra ánh sáng lớn chiếu soi bên đường bậc thang. Ánh sáng ấy như mây, có trăm ngàn ức màu sắc giống như nhiều lầu đài. Đức Phật ở trong ấy với tám muôn bốn ngàn vị hóa Phật xung quanh. Năm trăm chư Phật phân thân cùng với Đức Phật đều đắp y mang bát, uy nghi an tường. Các Đức Phật phân thân cũng có A-nan, Nan-đà làm thị giả. Ma Ba-tuần, ở trong hư không, cùng với chúng ma tán tụng kệ hay vi diệu ngợi khen công đức của Đức Như Lai. Thích Đề-hoàn Nhân thưa phu nhân Ma-gia rằng: –Đấng Thế Hùng Như Lai vì báo ân nên đi đến chỗ này! Phu nhân Ma-gia nghe Đức Phật đến nên sai các Thiên nữ đem các châu báu cõi trời âm nhạc trời và hoa Mạn-đà-la đứng ở bên đường bậc thang mà nghênh đón Đức Thế Tôn. Lúc bấy giờ, Đức Như Lai nhấc chân, hạ chân hiện ra vô số cung điện. Mỗi cung điện có năm trăm vị Hóa Phật ngồi kiết già. Mỗi Như Lai có năm trăm vị Bồ-tát làm thị giả. Lúc đó, năm trăm Đức Phật Thích-ca Văn phân thân, vào cung trời Đao-lợi, chư Thiên vui mừng nói kệ này: Phật Tỳ-bà-thi Đấng Cát Tường nhất Cũng phóng ánh sáng Đi đến nơi này. Đức Phật Thi-khí Đấng Cát Tướng nhất Hóa thân vô số Đi đến nơi này. Phật Tỳ-xá-phù Ánh sáng bạch hào Soi sáng khắp cùng Đi đến nơi này. Phật Câu-lâu-tôn Ánh sáng khuôn mặt Soi cõi mười phương Đi đến nơi này. Phật Câu-na-hàm Hóa thân vô số Phóng ánh sáng lớn Đi đến nơi này. Đức Phật Ca-diếp Thân như đài báu Chân bước hư không Đi đến nơi này. Phật Thích-ca Văn Năm trăm phân thân Vô số hóa Phật Soi sáng khắp nơi Đi đến chỗ này. Bồ-tát Di-lặc Tôn giả hiền kiếp Cũng phóng hào quang Đi đến nơi này. Chỗ này lành tốt Vô vi an lạc Nơi Đức Phật ở Đất Mâu-ni sinh Tên Niết-bàn-quật Người tuệ, trí độ. Bấy giờ, Đức Thế Tôn vào cung Đao-lợi, phóng ra ánh sáng tướng lông trắng giữa hai chân mày. Ánh sáng ấy hóa thành một lọng lớn bằng bảy báu che bên trên bà Ma-gia, hóa ra giường trang trí bằng bảy báu dâng lên cho phu nhân ngồi. Ma-gia, mẹ của Phật thấy Đức Phật vào cung, chắp tay cung kính đảnh lễ Đức Phật. Năm trăm vị hóa Phật đồng thời duỗi cánh tay, chư Thiên giữ lại, chẳng cho bà lễ kính. Tám muôn bốn ngàn vị hóa Như Lai đều đứng dậy. Lúc ấy, trong cung của phu nhân Ma-gia tự nhiên phóng ra năm trăm ức ánh sáng. Trong ánh sáng này có đài báu lớn. Trên mỗi đài báu có mười phương Phật. Các Đức Phật như vậy tự nói lên danh hiệu và an ủi mẹ của Phật. Phương Đông, Đức Phật Thiện Đức đem hoa báu đẹp đẽ tung lên trên Đức Thích-ca Mâu-ni và phu nhân Ma-gia. Hoa hóa thành chiếc lọng hoa, trong lọng hoa ấy có hàng trăm ức vị Hóa Phật đứng dậy chắp tay thăm hỏi mẹ của Phật. Phương Nam, Đức Phật Chiên-đàn Đức đem hoa sen báu tung lên trên Đức Thích-ca Mâu-ni và mẹ của Phật. Hoa hóa thành lọng hoa. Trong lọng hoa, có vô số Hóa Phật đứng dậy chắp tay thăm hỏi mẹ của Phật. Phương Tây, Đức Phật Vô Lượng Minh dùng hoa sen báu tung lên trên Đức Thích-ca Mâu-ni và mẹ của Phật. Hoa hóa thành lọng hoa. Vô số vị Hóa Phật chắp tay đứng dậy thăm hỏi mẹ của Phật. Phương Bắc, Đức Phật Tướng Đức dùng hoa sen báu tung lên trên Đức Thích-ca Mâu-ni và mẹ của Phật. Hoa hóa thành lọng hoa. Vô số vị Hóa Phật chắp tay đứng dậy thăm hỏi mẹ của Phật. Phương Đông nam, Đức Phật Vô Ưu Đức; phương Tây nam, Đức Phật Bảo Thí; phương Tây bắc, Đức Phật Hoa Đức; phương Đông bắc Đức Phật Tam Thừa Hạnh; phương Trên, Đức Phật Quảng Chúng Đức; phương Dưới, Đức Phật Minh Đức. Những Đức Phật như vậy… đều dùng hoa báu tung lên trên Đức Thích-ca Mâu-ni và mẹ của Phật. Hoa hóa thành lọng hoa. Trong mỗi lọng hoa có vô số vị Hóa Phật đứng dậy chắp tay thăm hỏi mẹ của Phật. Lúc này, trong cung Đao-lợi đầy những vị Hóa Phật. Phật mẫu Ma-gia, trên đỉnh đầu tự nhiên hiện ra những phẩm vật cúng dường, vô lượng cờ phướn cúng dường các Đức Phật. Trong cờ phướn có âm thanh nhiệm mầu khen Phật, khen pháp, khen Tỳ-kheo tăng. Đức Phật bảo A-nan rằng: –Đó gọi là Như Lai từ cõi Diêm-phù-đề lên cung trời Đao-lợi với ánh sáng sắc tướng và những việc thần thông biến hóa. Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật nếu quán tưởng được như vậy thì gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán. Người quán tưởng như thế, tiêu trừ được một tội sinh tử trong một ức kiếp, lúc sắp qua đời, được thấy chư Phật mười phương, chắc chắn được sinh đến cõi Phật thanh tịnh ở phương khác. Đức Phật bảo A-nan: –Ông đem lời nói này giảng nói rộng rãi cho các chúng sinh đời vị lai,. Người nghe lời này, suy nghó ý nghóa đó, phải biết, người đó được sự che chở hộ trì của các Đức Phật mười phương, sau khi qua đời nhất định sẽ sinh ra trước mặt các Đức Phật. Đức Phật nói với vua cha rằng: –Sao gọi là Như Lai lúc từ trời Đao-lợi xuống cõi Diêm-phù-đề với sự ứng biến của tướng ánh sáng? Lúc ta mới xuống, vô số Thiên tử, trăm ngàn Thiên nữ theo hầu Thế Tôn, chỉ thấy duy nhất một vầng tròn ánh sáng của Phật rộng một tầm, phóng ra hàng trăm ngàn ánh sáng, chân bước vào hư không, đi theo bậc thềm mà xuống. Trong ánh sáng của Phật có hình tượng vị Hóa Phật hiện ra, từ ánh sáng của Phật phát ra, dẫn đường đi trước Phật. Lúc đó (dưới cõi Diêm-phù-đề) vua Ưu-điền kính mộ Đức Thế Tôn, đúc vàng làm tượng. Nghe Phật sắp xuống, vua cho voi chở tượng vàng đi nghênh đón Thế Tôn. Tỳ-kheo-ni Liên Hoa Sắc hóa ra núi lưu ly, ngồi kiết già ở trong hang núi với vô lượng phẩm vật cúng dường phụng nghênh Thế Tôn. Bấy giờ, tượng vàng từ trên mình voi hạ xuống giống như Phật sống, chân bước vào hư không, dưới chân mưa hoa, cũng phóng ra ánh sáng đến nghênh đón Thế Tôn. Tượng vàng đúc chắp tay đảnh lễ Phật. Bấy giờ Thế Tôn cũng lại quỳ gối chắp tay hướng về tượng. Lúc ấy trong hư không có hàng trăm ngàn vị Hóa Phật cũng đều chắp tay quỳ gối hướng về tượng. Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói với tượng rằng: –Vào đời sau, Ngài sẽ làm Phật sự lớn! Sau khi ta diệt độ, những đệ tử của ta, xin đem phú chúc cho Ngài! Các vị Hóa Phật ở trong hư không, khác miệng đồng thanh, đều nói lên rằng: –Nếu có chúng sinh, sau khi ta diệt độ, tạo lập hình tượng, rồi dùng cờ phướn, lọng hoa, các loại hương thơm cúng dường thì người đó đời sau nhất định được Tam-muội Niệm Phật thanh tịnh. Nếu chúng sinh nào biết lúc Phật từ trời Đao-lợi xuống với đủ thứ tướng mạo mà nhất tâm chánh niệm để suy nghó thì nhất định được thấy Phật. Đức Phật bảo A-nan rằng: –Sau khi Phật diệt độ, những đệ tử của Phật biết việc Phật Như Lai xuống từ cõi trời Đao-lợi và thấy tượng Phật thì tiêu trừ được nghiệp ác cực nặng trong một ngàn kiếp. Người quán tưởng như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán. PHẬT thuyết QUÁN PHẬT TAM-MUỘI HẢI KINH <卷 id="112589566">Quyển 7 <詞 id="112589567">Phẩm 6: QUÁN BỐN OAI NGHI (Phần 2) Đức Phật bảo A-nan rằng: –Sao gọi là Như Lai đến đầm nơi đồng hoang để thu phục đại tướng quỷ? Ta từ tinh xá Kỳ-đà ở thành Xá-vệ, phóng ánh sáng màu vàng chiếu soi thành Xá-vệ khiến thành màu vàng. Bên trong nước Xá-vệ, có một vị trưởng giả tên là Tài Đức. Vị trưởng giả có người con tuổi mới lên ba. Người cha dạy đứa con ấy thọ tam quy. Quỷ thần Tán Chỉ bị lửa đói bức ngặt, vào thành Xá-vệ bắt trẻ con. Lúc ấy, đứa trẻ nói lớn: “Nam-mô Phật.” Nhờ đứa bé xưng danh Phật nên miệng vua quỷ bị đóng chặt, chẳng thể ăn được, chỉ có mắt quỷ phát ra lửa để dọa đứa trẻ. Đứa trẻ thấy hình dạng của quỷ xấu xí, ngực có ba mặt, rốn có hai mặt, hai đầu gối hai mặt. Mặt như mặt voi, răng chó chóa lên. Mắt lại phát ra lửa, lửa tuôn xuống. Đứa bé kinh sợ xưng lên: “Nam-mô Phật, Nam-mô Pháp, Nam-mô Tăng.” Bấy giờ, Thế Tôn dùng Thiên nhó, từ xa nghe được, cùng với Tôn giả A-nan, chân bước vào hư không ra đi. A-nan ở phía sau theo Đức Phật chẳng kịp. Đức Phật dùng thần lực hóa ra hoa báu, rồi ánh sáng của hoa ấy đón lấy A-nan. Tôn giả A-nan ngồi trên hoa, thấy cõi Diêm-phù-đề chứa đầy những vị Hóa Phật. Thân mỗi vị Hóa Phật đầy tam thiên đại thiên thế giới. Các vị Hóa Phật đó giảng nói pháp ba Thừa, khuyến lệ sách tấn Bồ-tát tu hành niệm Phật. A-nan thấy nghe rồi liền nhớ lại Kinh tạng của chín mươi ức Đức Phật đời quá khứ đã giảng nói, nhớ lại giữ gìn chẳng mất. Bấy giờ, Thế Tôn đã đến đầm nơi đồng trống, phóng ánh sáng tướng Đại nhân là lông trắng giữa hai chân mày. Ánh sáng ấy chiếu thẳng vào thân đứa trẻ đang sợ. Đứa trẻ thấy ánh sáng như thấy cha mẹ, lòng không kinh sợ. Quỷ đồng trống nhấc một tảng đá lớn dày mười hai trượng muốn ném vào Đức Thế Tôn, mắt phát ra sấm chớp, tuôn đá xuống như mưa. Mỗi giọt mưa đá rơi xuống như con gà đỏ từ hư không xuống, chưa đến thân Phật đã hóa thành vị Hóa Phật. Mỗi vị Hóa Phật đều nhập vào Tam-muội Hỏa quang, những ánh sáng lửa đó thiêu đốt đầm nơi đồng hoang. Đất đai cháy suốt mà vua quỷ chẳng sợ, vẫn ném đá, đá trụ ở trên không hóa thành đài báu. Trong đài báu lại có trăm ức vị Hóa Phật, khác miệng đồng thanh, khen ngợi tâm Từ. Quỷ vẫn còn chẳng phục. Thần Kim Cang, tay giơ cao chày vàng, vung kiếm bén, râu mép như kiếm nhọn, mắt như ánh chớp, dùng chày Kim cang đánh vào trán vua quỷ, đâm vào cánh tay quỷ và kêu lớn, tiếng chấn động trời đất. Quỷ vương kinh sợ, ôm giữ đứa trẻ, quỳ gối hướng lên Đức Phật bạch rằng: –Thưa Sa-môn! Nguyện xin Ngài rủ lòng từ thương xót cứu sinh mạng của con! Thần Kim Cang hóa chày Kim cang thành núi sắt lớn, bốn mặt lửa nổi dậy, vây quanh quỷ bảy vòng. Lửa mạnh rừng rực đốt cháy thân quỷ. Đứa trẻ giơ tay bảo vua quỷ rằng: –Hãy xưng lên “Nam-mô Phật”! Ta nhờ xưng danh hiệu Phật nên từ chết được sống, hôm nay ngươi có thể xưng lên “Nam-mô chư Phật”. Lúc bấy giờ, vua quỷ kinh sợ thất thanh xưng “Nam-mô Phật” và bạch rằng: –Xin ngài Cù-đàm hãy cứu giúp tôi! Lúc ấy, Đức Thế Tôn dùng âm thanh Phạm, giống như bậc cha hiền an ủi các con, Phật vỗ về an ủi vua quỷ cũng như vậy. Thần Kim Cang Mật Tích bảo vua quỷ rằng: –Hôm nay, ngươi hãy mau quy phục mà quy y Phật, Pháp cùng với chúng Tăng đi! Nếu ngươi chẳng quy phục thì ngươi và hàng vạn ức tám ngàn quyến thuộc bị tan nát như bụi trần. Quỷ đồng hoang kinh sợ nên năm vóc gieo xuống đất, đảnh lễ Phật bạch rằng: –Bạch Thế Tôn! Con thường ăn thịt người, hôm nay không giết hại nữa thì con sẽ ăn vật gì? Đức Phật sắc bảo quỷ vương rằng: –Ngươi hãy ngưng giết hại, ta sẽ bảo đệ tử luôn bố thí đồ ăn cho ngươi, cho đến khi pháp tận diệt. Do năng lực của ta, ngươi sẽ được no đủ. Quỷ vương nghe rồi hoan hỷ chắp tay, thọ năm giới của Đức Phật. Thọ năm giới rồi, vua quỷ thấy những núi lửa hừng hực tiếp nhau đều biến thành những vị Hóa Phật. Đầy trong đầm nơi đồng hoang đều là các vị Hóa Phật. Sau mỗi vị Hóa Phật có một vị A-nan. Tất cả các vị Hóa Phật đồng thanh giảng nói về năm giới. Quỷ Khoáng dã bạch với thần Kim Cang rằng: –Nhờ Đại đức nên tôi được uống pháp vị cam lộ Vô thượng! Thần Kim Cang ném cái chày vào hư không, nhờ thần lực Đức Phật nên khiến cho chày Kim cang giống như trăm ức núi Tu-di vàng. Mỗi núi Tu-di có hàng trăm ức bàn thờ. Mỗi bàn thờ có trăm ức vị Hóa Phật đang đi kinh hành. Những vị hóa Phật đó nhấc chân hạ chân, dưới chân tự nhiên sinh ra đài bảy báu. Trên mỗi đài có các vị hóa Phật nhiều như cát sông Hằng đang ngồi kiết già. Đức Phật bảo với Đại vương rằng: –Sau khi Phật diệt độ, những đệ tử của Phật muốn biết thần thông tự tại của Như Lai thu phục quỷ đồng trống, nên quán tưởng đúng như vậy, quán tưởng như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán. Sau khi Phật diệt độ, nếu có chúng sinh tư duy pháp này, quán tưởng pháp này, đạt được phép quán tưởng này thì tiêu trừ được tội sinh tử trăm ngàn ức kiếp, đời đời chẳng thọ thân quỷ, được gặp thời có các Đức Phật, không rỗng không, khiếm khuyết. Giả sử khi không có Phật thì gặp Bích-chi-phật, không có Bích-chi-phật thì luôn gặp bậc Tiên nhân giảng nói chánh đạo. Đức Phật bảo A-nan rằng: –Hôm nay, ông hãy đem niệm tưởng cảnh giới này giảng nói cho khắp tất cả chúng sinh đời vị lai. Đó gọi là cảnh giới thần thông của các Đức Phật. Nếu bỏ mất việc này, gọi là bài báng Phật, là đoạn dứt giống Bồ-đề. Người trì pháp này thì quỷ mị chẳng thể dựa nhập, luôn luôn được sự ủng hộ trợ giúp của các Đức Phật. Đức Phật bảo A-nan rằng: –Sao gọi là Như Lai đến hang La-sát ở phía Nam ngọn núi A-na-tư và phía Bắc suối Hoa sen xanh bên ao Độc long ở rừng hoa Chiêm-bặc trong núi Cổ tiên tại nước Na-càn-ha-la? Bấy giờ, hang đó có năm con quỷ La-sát hóa thành Long nữ cùng Độc long thông nhau. Rồng lại tuôn xuống mưa đá, La-sát làm loạn, đói kém dịch bệnh đã trải qua bốn năm. Vua nước ấy kinh sợ, cúng tế thần đất đều vô ích nên triệu các vị thầy chú thuật, ra lệnh chú trừ Độc long. Khí La-sát thịnh, chú thuật chẳng làm được gì, nhà vua nghó rằng: “Phải chi được một vị thần nhân xua đuổi La-sát-này, hàng phục Độc long đó thì chỉ trừ thân ta ra, còn lấy gì ta cũng chẳng tiếc.” Có vị Phạm chí thông minh đa trí bạch rằng: “Thưa Đại vương! Con vua Tịnh Phạn của thành Ca-tỳ-la, ngày sinh của vị ấy có hàng vạn thần hầu hạ, bảy báu giáng điềm, thầy tướng A-tư-đà nói, ở lại với đất nước sẽ làm Chuyển luân thánh vương, nếu chẳng ưa thiên hạ thì thành Phật tự nhiên. Hôm nay Ngài đã thành đạo hiệu là Thích-ca Văn, thân lớn một trượng sáu, đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, đi theo sau chân là hoa sen, cổ tỏa ánh sáng mặt trời, thân tướng trang nghiêm như núi vàng ròng”. Vua nghe lời nói đó, lòng rất vui mừng, hướng về chỗ đản sinh của Đức Phật tự quy y, đảnh lễ, nói rằng: “Nếu lời nói của Phạm chí là xác thật chẳng hư dối, quả có Phật ra đời tên là Thích-ca Văn. Nhưng theo tướng pháp của ta thì sau chín kiếp nữa mới có Phật hiệu là Thích-ca Văn. Tại sao hôm nay ánh mặt trời Phật đã hưng khởi? Tại sao Ngài chẳng thương đến đất nước này?” Trong hư không có tiếng bảo rằng: “Này Đại vương! Ông chớ nghi ngờ! Đức Phật Thích-ca Mâu-ni tinh tấn dũng mãnh vượt qua chín kiếp.” Nghe lời nói đó rồi, nhà vua lại quỳ gối chắp tay khen ngợi: “Đức Phật thông minh trí tuệ ứng biết lòng của con, nguyện xin Ngài rủ ánh sáng từ bi đến nước này.” Bấy giờ, khói hương lan tỏa đến tinh xá của Phật như mây lưu ly trắng, nhiễu quanh Đức Phật bảy vòng rồi hóa thành lọng báu bằng vàng. Lọng báu ấy có những chuông nhỏ phát ra âm thanh vi diệu. Âm thanh ấy thỉnh Đức Phật, thỉnh Tỳ-kheo Tăng. Lúc ấy, Đức Như Lai bảo các vị Tỳ-kheo, những người chứng đắc sáu thần thông đi theo sau Đức Phật, nhận lời mời đến cõi Phất-ba-phù-đề của vua Na-càn-ha-la. Đại Ca-diếp cùng năm trăm đồ chúng hóa ra núi lưu ly. Trên núi có suối chảy, ao tắm, hàng cây bảy báu. Dưới mỗi cây đều có giường vàng, ánh sáng bạc. Ánh sáng hóa thành hang động. Đại Ca-diếp ngồi trong hang động này, luôn ngồi chẳng nằm, bảo các đệ tử tu mười hai hạnh Đầu-đà. Núi lưu ly ấy như đám mây được gió mạnh thổi nhanh đến núi Cổ tiên. Mục-kiền-liên cùng năm trăm đồ chúng hóa trăm ngàn thân rồng cuộn làm tòa ngồi. Miệng rồng phun ra lửa hóa thành đài vàng với giường, tòa ngồi bằng bảy báu và đầy đủ màn báu, lọng báu cùng những cờ phướn. Mục-liên ở bên trong như người bằng lưu ly hiện rõ trong suốt, đi đến nước Na-càn-ha-la. Xá-lợi-phất dùng thần lực hóa ra núi Tuyết với ngọc trắng làm hang, cùng với Câu-đề… Năm trăm vị Sa-di ngồi trong hang bảy báu, vây quanh núi Tuyết. Xá-lợi-phất ngồi trong hang ngọc trắng như người bằng vàng ròng, phóng ra ánh sáng màu vàng. Ánh sáng ấy đủ màu ánh chiếu với núi Tuyết, trình bày đại pháp cho Sa-di nghe nhận và đi đến nước Na-càn-ha-la. Đại Ca-chiên-diên cùng năm trăm vị Tỳ-kheo quyến thuộc hóa làm hoa sen giống như đài vàng, các Tỳ-kheo ngồi trên đó, phần dưới thân tuôn ra nước hóa thành suối, chảy trên các vùng hoa, nước chẳng giọt xuống đất, bên trên có tàng vàng che khắp các vị Tỳ-kheo, cùng đi sang nước kia. Như vậy, một ngàn hai trăm năm mươi vị đại đệ tử đều có năm trăm vị Tỳ-kheo có thần thông như Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên… vọt thân lên hư không như con nhạn chúa chao cánh, đi sang nước kia. Bấy giờ, Đức Thế Tôn mặc áo, cầm bát, bảo A-nan đem theo tọa cụ. Lúc ấy, Đức Thế Tôn bước chân vào hư không. Khi Đức Phật nhấc chân thì Tứ Thiên vương, Thích Đề-hoàn Nhân, Phạm thiên vương, vô số Thiên tử, trăm ngàn Thiên nữ vây quanh Đức Phật bảy vòng, đảnh lễ Phật và theo sau hầu. Lúc ấy, Đức Thế Tôn phóng ra ánh sáng vàng trên đỉnh đầu hóa ra một vạn tám ngàn những vị đại Hóa Phật. Mỗi vị Hóa Phật lại phóng ra ánh sáng. Như ánh sáng đỉnh đầu này, lại hóa ra một vạn tám ngàn vị Hóa Phật lớn, từng Đức Phật, Đức Phật tiếp theo nhau đầy trong hư không, như chúa nhạn chao cánh, đi sang nước Na-càn-ha-la. Mới đến biên giới của đất nước thì nhà vua đã ra cung nghinh và làm lễ Đức Phật. Bấy giờ, Long vương thấy Đức Thế Tôn đến thì cùng cha mẹ, đồ đảng mười sáu con rồng lớn nổi lên mây lớn, sấm gầm vang động, mưa đá. Trong mắt chúng phát ra lửa, miệng cũng phun ra lửa, giáp vảy lông thân đều phát ra khói lửa. Năm quỷ La-sát nữ hiện hình xấu xí, mắt như chớp sắt, đứng ở trước Đức Phật. Con của vua rồng thấy trong hư không đầy các Hóa Phật, tâu với cha rằng: “Phụ vương phun lửa muốn hại một Đức Phật. Cha thử xem, trong hư không có vô số Phật!” Rồng phun ra khí độc, tâm ý mạnh mẽ, quở trách con rằng: “Chỉ có một Phật, có đâu mà nhiều?” Thần Kim Cang tay cầm chày lớn hóa ra vô số thân. Đầu chày lửa cháy như vòng lửa xoáy. Từng vòng lửa, vòng lửa tiếp theo nhau từ không trung hạ xuống. Lửa cháy hừng hực giống như nước đồng sôi, thiêu đốt thân rồng ác. Chúa rồng kinh sợ, không chạy tìm chỗ trốn mà chạy vào bóng Đức Phật. Bóng Phật mát mẻ như được tưới cam lồ. Rồng được hết nóng, ngửa đầu nhìn lên không, thấy không trung đầy các Đức Phật. Mỗi vị Như Lai phóng ra vô lượng ánh sáng. Trong mỗi ánh sáng có vô lượng vị Hóa Phật. Mỗi vị Hóa Phật cũng phóng ra vô số trăm ngàn ánh sáng. Trong tất cả các ánh sáng đều có thần Kim Cang, tay vung chày Kim cang. Rồng thấy các Đức Phật thì vô cùng vui mừng nhưng thấy các thần Kim Cang thì vô cùng kinh hoàng, chắp tay cung kính lễ Phật. Năm La-sát nữ cũng đảnh lễ Đức Như Lai. Các Thiên tử mưa xuống hoa Mạn-đà-la, hoa Đại mạn-đà-la, hoa Mạn-thù-sa, hoa Đại mạn-thù-sa để cúng dường. Trống trời tự kêu. Chư Thiên vòng tay đứng hầu trong hư không. Vua của nước đó cùng năm ngàn quyến thuộc đốt các loại danh hương, cúi đầu đảnh lễ Đức Phật, mời Đức Phật ngồi vào tòa. Vua rồng từ trong ao rồng xuất hiện dâng hiến giường bằng bảy báu, tự tay nâng giường đặt bày và bạch Đức Phật rằng: –Bạch Thế Tôn! Nguyện xin Ngài cứu con, chớ sai lực só làm tổn hại thân con! Lúc ấy, Đức Như Lai dùng âm thanh Phạm, giống như mẹ hiền dỗ dành con trẻ, khiến cho vua rồng và La-sát nữ nhận được sự giáo hóa của Pháp vương, thỉnh Đức Phật ngồi vào tòa ngồi. Khi ấy quốc vương lại bày giường cao với mền lông, đệm lông rất mềm mại, giăng màn vải lông trắng, che phủ bên trên là lưới trân châu rộng khắp, rồi thỉnh Đức Phật Thế Tôn ngồi vào trong màn. Khi ấy, Đức Thế Tôn nhấc chân muốn đi, đùi nai chúa của Đức Phật phát ra năm luồng ánh sáng. Ánh sáng có năm màu nhiễu quanh Đức Phật bảy vòng như hoa vi diệu của cõi trời, hoa kết thành bức màn hoa. Trong mỗi cánh hoa có trăm ngàn vô số hóa Bồ-tát chắp tay nói kệ khen ngợi bằng vạn ức âm thanh. Trong hư không, các vị hóa Phật cũng phóng ra ánh sáng nơi đùi như vậy. Mười sáu rồng nhỏ, tay cầm đá núi, sấm sét dậy lửa, đi đến chỗ Đức Phật. Đại chúng kinh sợ vào trong hào quang của Đức Phật. Lúc ấy, Đức Thế Tôn đưa ra cánh tay màu vàng, mở khép bàn tay có màn lưới. Ở vùng màn lưới ngón tay, mưa xuống hoa báu lớn. Đại chúng đều thấy hoa hóa thành Hóa Phật. Chỉ có các rồng thấy hoa hóa thành chim cánh vàng muốn bắt và cắn chúng. Rồng sợ chim cánh vàng chạy vào trong bóng Đức Phật, đảnh lễ Phật, dập đầu cầu cứu. Đức Phật đến trước màn bảo A-nan rằng: –Hãy trải tọa cụ ra! Lúc đó, A-nan liền vào trong màn, trước tiên đưa tay phải lấy tọa cụ từ trên vai phải, tọa cụ liền hóa thành năm trăm ức đài vàng trang hoàng bằng bảy báu. Khi sắp trải ra, tọa lại hóa thành năm trăm ức hoa sen bằng bảy báu trang nghiêm. Khi trải ngay ngắn bốn góc, mỗi góc sinh ra năm trăm ức hoa sen bảy báu. Từng hàng từng hàng tiếp nhau đầy khắp bên trong màn. Bấy giờ, Đức Thế Tôn ngồi kiết già trên giường bằng bảy báu. Bên trên các hoa sen đều có Phật ngồi. Các Tỳ-kheo thấy Đức Phật ngồi rồi, đảnh lễ Đức Phật, nhiễu quanh bên phải bảy vòng. Tọa cụ trải ra đủ để Tỳ-kheo ngồi, tất cả đều hóa thành tòa ngồi bằng lưu ly. Khi Tỳ-kheo ngồi vào tòa thì tòa lưu ly, phóng ra ánh sáng lưu ly làm thành hang lưu ly. Các vị Tỳ-kheo đều nhập vào Tam-muội Hỏa quang, thân trở nên màu vàng ròng. Lúc đó, quốc vương thấy thần biến của Đức Phật, vô cùng vui mừng, chắp tay nhiễu quanh Đức Phật bảy vòng, rồi đảnh lễ Phật. Nhìn thấy sự thần thông biến hóa của Đức Phật, quốc vương tức thời phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, bảo các bề tôi đều phải phát tâm. Lúc ấy, vua rồng kinh sợ Đại lực só Kim Cang nên cũng phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Năm La-sát nữ cũng phát tâm Bồ-đề. Bấy giờ, Đại vương muốn cúng dường Đức Phật và Tăng chúng một bữa ngọ trai. Đức Phật bảo đại vương, chỉ bày biện đồ đựng thức ăn, không cần gì khác nữa. Nhà vua vâng lời Đức Phật, sắp bày đầy đủ những đồ đựng quý báu. Nhờ thần lực Đức Phật, bên trong những đồ đựng tự nhiên đầy tràn vị Thiên-tu-đà (một loại thức ăn của trời). Các đại chúng ăn đồ ăn đó rồi, tự nhiên được Tam-muội Niệm Phật, thấy thân chư Phật ở mười phương nhiều vô lượng vô biên, lại còn nghe âm thanh nói pháp vi diệu. Âm thanh ấy toàn khen ngợi niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tỳ-kheo tăng, đồng thời cũng giảng nói về sáu pháp Ba-la-mật, ba mươi bảy Phẩm trợ Bồ-đề. Nghe lời nói đó rồi, lại hoan hỷ bội phần, họ nhiễu quanh Đức Phật hàng ngàn vòng. Lúc ấy, quốc vương thỉnh Đức Phật vào thành. Long vương nổi giận nói rằng: –Ngươi đoạt lợi ích của ta, ta sẽ tiêu diệt nước của ngươi! Đức Phật bảo đại vương: –Thí chủ đã quy y Phật, tự biết phải thời! Lúc đó, quốc vương lễ Phật, rồi đi lui ra. Khi ấy Long vương và La-sát nữ năm vóc lạy sát đất, cầu Đức Phật trao cho giới pháp. Đức Phật liền đúng như pháp vì họ nói pháp Tam quy Ngũ giới. Vua rồng nghe rồi lòng rất vui mừng. Năm trăm rồng quyến thuộc của vua rồng từ ao rồng xuất hiện, đảnh lễ Đức Phật. Đức Như Lai tức thời tùy theo từng loại âm thanh của rồng mà nói pháp cho chúng. Chúng nghe pháp rất hoan hỷ, Đức Phật bảo Mục-liên vì chúng mà trao giới pháp. Bấy giờ, Tôn giả Mục-liên nhập vào định Như ý, liền tự hóa thân thành năm ngàn ức vua chim cánh vàng. Mỗi vua chim quắp chân lấy năm con rồng, ở trên hư không. Các rồng nhỏ nói rằng: –Đức Phật bảo Hòa thượng truyền giới pháp cho chúng tôi, sao Hòa thượng lại làm ra hình tượng đáng sợ? Tôn giả Mục-liên bảo rằng: –Đã nhiều kiếp, các ngươi ở trong sự không sợ hãi, lại phát sinh tưởng sợ hãi, đối với không sân nhuế phát sinh tưởng sân nhuế, ở chỗ vô hại lại phát sinh hại tưởng… Ta chính thật là người, các ngươi có tâm ác nên thấy ta là chim. Bấy giờ, Long vương do sợ hãi nên tự thề chẳng giết hại, chẳng gây não hại cho chúng sinh. Vì rồng phát tâm thiện nên Tôn giả Mục-liên liền trở lại thân cũ và nói năm giới cho chúng. Lúc ấy, vua rồng quỳ gối, chắp tay thỉnh cầu Đức Thế Tôn: –Nguyện xin Đức Như Lai thường trụ ở cõi này! Nếu Đức Phật chẳng ở lại, con có lòng ác thì không còn được thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Nguyện xin Đức Như Lai rủ lòng thương luôn ở lại nơi đây. Rồng ân cần ba lần thỉnh Đức Như Lai như vậy chẳng dừng. Vua trời Phạm lại đến lễ Đức Phật, chắp tay cầu thỉnh rằng: –Nguyện xin Đức Thế Tôn vì những chúng sinh đời vị lai, chớ riêng thiên vị một con rồng nhỏ này! Hàng trăm ngàn Phạm vương, khác miệng đồng thanh đều nói lên lời thỉnh nguyện đó! Bấy giờ, Đức Như Lai liền mỉm cười, từ miệng phát ra vô lượng trăm ngàn ánh sáng. Trong mỗi ánh sáng có vô lượng vị Hóa Phật. Mỗi vị Hóa Phật có hàng vạn ức vị Bồ-tát làm thị giả. Vua rồng kia ở trong ao rồng hiện ra đài bảy báu dâng lên Đức Như Lai, bạch rằng: –Nguyện xin Đức Thiên Tôn nhận đài này của con! Lúc ấy, Đức Thế Tôn bảo vua rồng rằng: –Ta chẳng cần cái đài này! Hôm nay ngươi chỉ cần đem hang đá La-sát giao cho ta. Tức thời vua trời Phạm và vô số Thiên tử vào trong hang trước. Vua rồng dùng nhiều châu báu để trang hoàng hang động. Đức Phật bảo A-nan rằng: –Ông hãy bảo vua rồng quét dọn sach sẽ hang đá! Chư Thiên nghe rồi đều cởi áo báu tranh nhau lau quét hang. Lúc đó, Đức Như Lai thu ánh sáng của thân lại, thu các vị hóa Phật lại vào nơi đỉnh đầu. Lúc này, Đức Như Lai bảo các vị Tỳ-kheo đều ở ngoài động, chỉ riêng một mình Đức Phật vào và tự trải tọa cụ. Khi Đức Phật trải tọa cụ, núi đá này bỗng chốc trở thành bảy báu. La-sát nữ và vua rồng vì bốn vị đại đệ tử: Tôn giả A-nan…, tạo ra năm hang đá. Bấy giờ, Đức Thế Tôn ngồi trong hang vua rồng, chẳng dời khỏi chỗ ngồi. Đức Phật cũng nhận lời thỉnh của vua, vào thành Na-càn-ha, rồi ở núi Kỳ-xà-quật, ở thành Ca-tỳ-la của nước Xá-vệ và ở các trụ xứ khác đâu đâu cũng đều thấy có Đức Phật. Trên tòa hoa sen ở trong hư không có vô lượng Hóa Phật. Tất cả thế giới, bên trong cũng đầy những vị Hóa Phật. Vua rồng vui mừng phát đại thệ nguyện rằng: –Nguyện cho con đời vị lai được thành Phật như thế này! Đức Phật nhận lời thỉnh của vua trải qua bảy ngày rồi. Vua sai một người cỡi con voi đi tám ngàn dặm, đem những đồ cúng đi khắp tất cả nước, cúng dường chúng Tăng. Đến đâu cũng đều thấy có Phật Thích-ca Văn. Tin tức hồi báo, bạch với vua rằng: “Đức Như Lai Thế Tôn chẳng chỉ ở nước này mà nước khác cũng có. Các Đức Phật ở nước khác cũng nói khổ, không, vô thường, vô ngã, sáu pháp Ba-la-mật.” Nhà vua nghe lời nói này thì bỗng nhiên tâm ý khai mở, được Nhẫn vô sinh. Bấy giờ, Đức Thế Tôn thu nhiếp thần túc lại, từ hang đá hiện ra, cùng các vị Tỳ-kheo đi hành hóa. Đức Phật đời trước khi làm Bồ-tát, có chỗ bố thí hai đứa trẻ, chỗ thì gieo thân cho cọp đói, chỗ thì dùng đầu bố thí, chỗ thì khoét thân làm một ngàn ngọn đèn, chỗ thì móc mắt bố thí, chỗ thì cắt thịt thay cho chim câu… Những chỗ như vậy, rồng đều đi theo. Lúc đó, Long vương nghe Đức Phật trở lại đất nước, kêu khóc, nước mắt như mưa mà bạch rằng: –Bạch Thế Tôn! Con thỉnh Đức Phật thường trụ, tại sao Đức Phật bỏ con? Con mà chẳng thấy Đức Phật thì sẽ làm việc ác, bị đọa vào đường ác! Lúc ấy, Đức Thế Tôn an ủi vua rồng rằng: –Ta nhận lời thỉnh của ngươi, ngồi trong hang động của ngươi trải qua một ngàn năm trăm năm. Các con rồng nhỏ chắp tay, vòng tay cầu thỉnh Đức Thế Tôn vào lại trong hang. Các rồng thấy Đức Phật đã ngồi trong hang rồi, trên thân tuôn ra nước, dưới thân tuôn ra lửa, biến hiện mười tám cách. Rồng nhỏ thấy rồi lại càng tăng tiến đạo tâm kiên cố. Đức Thích-ca Văn Phật vọt thân vào đá giống như gương sáng thấy bóng dáng mặt người. Các rồng đều thấy Đức Phật ở bên trong đá ánh hiện ra bên ngoài. Bấy giờ, các rồng chắp tay vui mừng, chẳng cần ra khỏi ao rồng mà vẫn luôn thấy mặt trời Phật. Lúc ấy, Đức Thế Tôn ngồi kiết già bên trong vách đá. Khi chúng sinh nhìn từ xa thì thấy, đến gần thì biến mất. Hàng trăm ngàn chư Thiên cúng dường ảnh Phật. Ảnh Phật cũng nói pháp. Vua trời Phạm chắp tay cung kính, dùng kệ khen rằng: Như Lai vào hang đá Ở trong đá hiện thân Như mặt trời không ngại Đủ tướng sáng vàng ròng Con cúi đầu kính lễ Đấng Mâu-ni Thế Tôn. Bấy giờ, Đức Thế Tôn hóa ra năm trăm xe báu. Đức Phật ngồi trong xe, phân thân thành năm trăm. Khi ấy, xe báu trụ trong hư không, xoay trở tự tại. Ở vùng trục vành xe có trăm ngàn ánh sáng. Mỗi ánh sáng có vô số hóa Phật, chẳng chuyển chẳng động, đi đến thành Ca-tỳ-la. Đức Phật ngồi trên tòa Sư tử như đang nhập vào Tam-muội. Trong mỗi lỗ chân lông có một Đức Phật xuất hiện. Trong mỗi lỗ chân lông lại có một Đức Phật nhập vào. Ra, vào như vậy đầy trong hư không, vô lượng vô biên vị Hóa Phật ngồi kiết già. Đó gọi là cảnh giới khi Đức Như Lai ngồi. Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật nếu muốn biết Phật đi thì như trên đã nói, còn nếu muốn biết Phật ngồi thì phải quán tưởng ảnh Phật. Quán tưởng ảnh Phật thì trước tiên phải quán tượng Phật, khởi tưởng về thân một trượng sáu, ngồi kiết già, trải cỏ làm tòa, thỉnh tượng Phật đặt ngồi. Hành giả thấy Phật ngồi rõ ràng, lại phải khởi ý tưởng, làm một hang đá cao một trượng tám, sâu hai mươi bốn bộ, bằng đá trắng trong suốt. Quán tưởng như vậy thành rồi thì thấy tượng Phật ngồi trong hư không, dưới chân có mưa hoa, lại thấy ý tưởng vào trong hang đá. Vào rồi, lại khiến cho hang đó trở thành tưởng về núi bảy báu. Tưởng núi bảy báu này thành rồi, lại thấy tượng Phật vọt vào vách đá, vách đá không chướng ngại giống như tấm gương sáng. Tưởng này thành rồi thì như trước, trở lại quán tưởng ba mươi hai tướng tốt. Từng tướng, từng tướng quán tưởng cùng cực làm cho tỏ rõ. Tưởng này thành rồi thì thấy các vị Hóa Phật ngồi kiết già trên hoa báu lớn, phóng ra ánh sáng nơi thân chiếu soi khắp tất cả. Trong mỗi lỗ chân lông của Đức Phật ngồi, mưa xuống vô số các lá cờ bằng bảy báu. Đầu mỗi lá cờ báu có trăm ngàn phướn báu. Lá phướn nhỏ nhất, dọc ngang bằng nhau, cũng bằng cả núi Tu-di. Trong phướn báu này lại vô số trăm ngàn vị Hóa Phật. Mỗi vị Hóa Phật đều vọt thân vào trong hang đá này và hiện bày ảnh Phật. Khi tưởng này xuất hiện thì như đã nói ở phần tim Đức Phật. Người quán như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán. Sau khi Phật diệt độ, người theo đúng lời ta nói mà quán tưởng ảnh Phật thì đó gọi là quán tưởng chân chánh về sự ngồi của Như Lai. Người quán tưởng sự ngồi của Như Lai thì như người thấy được thân Phật không có gì khác, tiêu trừ được trăm ngàn kiếp tội sinh tử. Nếu quán chẳng thấy được thì phải vào tháp, quán tất cả tượng. Thấy tượng Phật ngồi rồi, sám hối tội chướng. Nhờ công đức nhân duyên quán tượng nên khi Đức Di-lặc ra đời, người này thấy Đức Phật Di-lặc đầu tiên ngồi kiết già ở dưới gốc cây Long hoa. Thấy rồi, người ấy rất hoan hỷ, đối với ba loại Bồ-đề đều theo nguyện hiểu biết rõ. Sao gọi là quán tưởng Đức Như Lai, khi đi đến thành Câu-thi-na hàng phục các lực só? Đức Phật nói với vua cha: –Như Lai chẳng bao lâu nữa sẽ ở nước đó vào Bát-niết-bàn. Lúc ấy, năm trăm lực só đang dẹp tảng đá chẹn đường đi. Họ dùng hết sức lực só cũng chẳng thể dời được. Khi ấy, Đức Thế Tôn hóa làm vị Sa-môn, dùng tay gạt tảng đá, tảng đá liền bay lên ở giữa hư không. Đám lực só kinh sợ, giả sử tảng đá này mà rơi xuống thì không biết chạy trốn vào đâu. Họ ngước lên xem thì tảng đá trên đã hóa thành vị Hóa Phật, giống như núi vàng có các Đức Phật vây quanh. Lực só thấy rồi, lòng rất hoan hỷ. Vị hóa Sa-môn nằm dựa dưới gốc cây như người ngủ ngày, có ánh sáng mặt trời từ hông trái phát ra như có trăm ức mặt trời vào trong hông phải. Trong mỗi mặt trời có hai cây báu, có giường báu lớn, bên trên có các Đức Phật nằm. Ánh sáng như vậy soi khắp vô lượng thế giới ở mười phương. Mỗi thế giới có vô lượng các Đức Phật ngồi tựa dưới gốc cây và đều có ánh sáng từ hông phải vào theo hông trái mà ra. Ánh sáng như vậy biến thành đài báu. Hành giả thấy tất cả mỗi thế giới mười phương đều có một đài báu. Trên đài báu này có một vị Phật lớn thân bằng mười phương, nằm tựa bên đài. Lúc ấy, Đức Phật đó, hông bên trái tuôn ra nước như ngọc lưu ly, mỗi viên ngọc báu lớn như núi Tu-di. Bên trong mỗi núi có trăm ngàn Đức Phật nằm. Mỗi vị Phật nằm phóng ra ánh sáng lớn… cũng như trên đã nói. Hông bên phải Đức Phật đó lại phát ra vạn ức dòng sữa chảy rót xuống, từng giọt từng giọt hóa thành trăm ngàn hóa hoa. Mỗi hoa có hóa Phật nằm ở trên hoa sen, đều dùng tay phải rót cam lồ xuống như mưa khiến cho tất cả mọi người đều được uống, chúng sinh ngạ quỷ khi thấy tướng này thì tự nhiên no đủ. Bấy giờ, trong hư không có âm thanh vi diệu khen ngợi bốn Tâm vô lượng, sau đó, phân biệt cảnh giới rỗng không, cảnh giới tịch diệt không có tâm và tâm tưởng. Người quán tưởng như vậy gọi là quán tưởng sự nằm của Như Lai. Quán sự nằm của Như Lai, trước tiên phải quán tượng Phật nằm. Hành giả thấy tượng nằm rồi thì phải nghó rằng: “Khi Đức Phật còn ở đời, thân thể các Đức Phật Như Lai không hề mệt mỏi, sở dó Phật hiện thân nằm chỉ vì điều phục các lực só cương cường và những chúng sinh tà kiến bất thiện. Hoặc vì thương xót các vị Tỳ-kheo nên hiện thân nằm nghiêng về hông phải. Như Lai nằm chính là nằm đại Bi. Muốn quán Phật nằm phải tu hành tâm Từ.” Người tu hành tâm Từ, khi duyên đến tất cả chúng sinh thấy họ chịu khổ thì chẳng tiếc thân mạng, làm cho chúng sinh chịu khổ được thành tựu đầy đủ và an lạc, khiến cho họ không bị hoạn nạn. Người có tâm đại Bi, khi thấy chúng sinh chịu khổ não thì như thấy chính cha mẹ, sư trưởng, bạn lành của mình bị khổ sở, nên sinh lòng thương cảm, nước mắt rơi như mưa. Lòng bình đẳng như vậy gọi là đại Bi. Thấy người khác được an vui mà sinh lòng vui mừng như vị Tỳ-kheo được thiền thứ ba thì đó gọi là Hỷ. Xả là tất cả không có tướng chúng sinh. Khi khởi sự quán tưởng đó, trước hết hành giả quán tưởng thân mình. Địa đại là chúng sinh sao? Thủy đại, hỏa đại, phong đại là chúng sinh sao? Sắc là chúng sinh sao? Thọ, tưởng, hành, thức là chúng sinh sao? Không là chúng sinh sao? Chẳng phải không là chúng sinh sao? Như là chúng sinh sao? Chẳng phải Như là chúng sinh sao? Thật tế là chúng sinh sao? Chẳng phải thật tế là chúng sinh sao? Hữu vi “không” là chúng sinh sao? Vô vi “không” là chúng sinh sao? Khi lý giải phân biệt như vậy mà chẳng thấy chúng sinh, chẳng được chúng sinh, không có tưởng về chúng sinh, lòng không hề tham đắm, cũng không mong cầu. Hiểu rõ được pháp thanh tịnh như vậy… thì gọi là tu hành Xả. Đức Phật bảo A-nan rằng: –Nếu có chúng sinh ưa quán tưởng sự nằm của Phật thì đó là quán tưởng chân chánh về định Từ thanh tịnh. Nếu có chúng sinh nghe pháp Phật nằm và các Tỳ-kheo thuận theo lời dạy của Đức Phật, chẳng phá bỏ oai nghi, nằm nghiêng về hông phải, nên biết những người đó mặc áo tàm quý, uống thuốc nhẫn nhục. Như Tỳ-kheo này ở đời hiện tại ngồi thiền thì thấy chư Phật mười phương vì mình nói pháp lớn. Nếu họ chẳng ngồi thiền mà chẳng phạm giới nên ở đời vị lai được thấy chư Phật mười phương. Các Đức Phật mười phương sẽ vì họ giảng nói pháp lớn. Họ nghe pháp được dễ dàng giác ngộ, giống như khoảnh khắc người tráng só co duỗi cánh tay, ngay tức thời được đạo A-la-hán, đầy đủ ba Minh, sáu Thông và tám Giải thoát. Sự nằm của Như Lai đem lại nhiều lợi ích cho chúng sinh. Do đem lại lợi ích nhiều nên gọi là Từ, Bi, Hỷ, Xả. Bốn pháp này sinh ra các Đức Phật, là mẹ của các vị Bồ-tát. Khi nói lời đó rồi, ở giữa đại chúng, toàn thân Đức Phật phóng ra ánh sáng. Phía trước tám muôn bốn ngàn, bên phải tám muôn bốn ngàn, bên trái tám muôn bốn ngàn, phía sau tám muôn bốn ngàn, trên cổ tám muôn bốn ngàn là những lỗ chân lông. Mỗi lỗ chân lông mọc ra một sợi lông xoắn. Đầu mỗi sợi lông có trăm vạn ức hoa sen nhiều như bụi trần. Trên mỗi hoa sen có vô lượng vô số hóa Phật nhiều như bụi trần. Thân các vị Hóa Phật cao lớn trang nghiêm như ngàn vạn ức núi Tu-di. Trong rốn của mỗi vị Phật có năm trăm vạn ức con sư tử. Mỗi con sư tử phun ra năm trăm vạn ức phẩm vật cúng dường. Mỗi phẩm vật cúng dường có năm trăm vạn ức đám mây hoa bảy báu. Mỗi đám mây hoa báu có năm trăm vạn ức âm thanh những lời kệ tụng. Từng tiếng từng tiếng tiếp theo nhau giống như những giọt mưa rơi. Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại hiển hiện rõ tám mươi vẻ đẹp. Ánh sáng màu vàng từ tướng Bạch hào phát ra. Mỗi ánh sáng soi khắp mười phương, hóa thành những vị Phật. Những vị Thế Tôn đó, vô số vị đi, vô số vị đứng, vô số vị ngồi, vô số vị nằm. Các vị Hóa Phật đó nói về đại Từ bi, nói về ba mươi bảy Phẩm trợ Bồ-đề, nói về sáu pháp Ba-la-mật, nói về mười Lực, bốn Vô úy, mười tám pháp Bất cộng của Phật Như Lai. Khi tướng này hiện, có một ức người dòng họ Thích, lòng không còn chấp thủ, ngộ pháp Nhẫn vô sinh. Đức Phật vì họ thọ ký: Vào đời vị lai, qua vô số kiếp, sẽ được thành Phật, hiệu là Tam-muội Thắng Tràng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri… đầy đủ mười hiệu, theo thứ lớp thành Phật có đến một ức vị. Khi những Đức Phật đó xuất hiện thì thế giới Ta-bà thanh tịnh trang nghiêm giống như cõi của Đức Phật Quang Minh ở thế giới Thánh phục tràng không khác. Các vị Bồ-tát đó khi được Phật đạo thì cõi nước không có những tên gọi như phá hủy giới cấm, tán loạn tâm ý, bất thiện, toàn là Bồ-tát, tuy có Thanh văn nhưng chẳng hủy báng Đại thừa. Các Thích tử nghe Đức Phật thọ ký, lòng rất vui mừng, đều cởi chuỗi ngọc tung lên trên Đức Phật. Những chuỗi ngọc đó đang trụ bên trên Đức Phật hóa thành cây hoa. Mỗi cây hoa đều có hoa nhiều như cát sông Hằng. Trên mỗi hoa có các lầu báu nhiều như cát sông Hằng. Trong mỗi lầu có các vị Hóa Phật nhiều như cát sông Hằng. Mỗi vị Hóa Phật diễn nói tám muôn bốn ngàn pháp Ba-la-mật. Lại có vị Hóa Phật dạy các Thanh văn phép Sổ tức An ban, tuôn ánh sáng vào xương trắng, xương trắng tỏa ra ánh sáng, tưởng về tâm tịnh, tưởng về tâm bất tịnh, khởi tưởng về kết sử, diệt tưởng kết sử, đoạn tưởng về chi phần kết sử, diệt tưởng về gốc rễ kết sử… Chín mươi ức bụi trần những tưởng như vậy. Như nói Sổ tức An ban thì đó gọi là pháp Thanh văn. Còn pháp Bồ-tát thì chỉ có bốn pháp. Những gì là bốn? 1.Ngày đêm sáu thời nói lên tội lỗi để sám hối. 2.Thường tu niệm Phật chẳng lừa dối chúng sinh. 3.Tu sáu pháp hòa kính, lòng chẳng sân nhuế kiêu mạn. 4.Tu hành sáu niệm như cứu lửa cháy trên đầu. Đức Phật nói với vua cha rằng: –Như vậy… gọi là Tam-muội quán Phật đời vị lai, cũng gọi là phân biệt thân Phật, cũng gọi là biến sắc tướng của Phật, cũng gọi là Tam-muội Niệm Phật, cũng gọi là ánh sáng chư Phật che chở chúng sinh. Khi Phật nói lời đó, Trời, Rồng, Dạ-xoa, tám bộ quỷ thần, mười hai ức chúng sinh phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác và phát thệ nguyền rằng: “Nguyện đời sau thường nhập vào Tam-muội, thấy sắc thân Đức Phật như hôm nay không khác.” Phạm thiên vương, Thích Đề-hoàn Nhân, vô số Thiên tử đảnh lễ Phật, quỳ gối chắp tay, bạch Đức Phật rằng: –Bạch Thế Tôn! Chúng con hôm nay được thấy hình sắc tối thượng trong mọi hình sắc của Đức Như Lai! Nguyện xin cho chúng sinh đời trược ác vị lai giữ chánh niệm, tư duy thấy sắc thân của Đức Phật! Nếu nguyện này chẳng hư dối, lời nói của con và sự nhìn thấy của con hôm nay chân thật chẳng hư dối thì nguyện xin cho con và các thiên chúng giống như thân Phật. Khi chư vị nói lời đó, họ tự thấy trong lòng có trăm vạn ánh sáng phát ra. Mỗi ánh sáng hóa thành vô lượng trăm ngàn vị Hóa Phật. Họ tự thấy thân mình là thân màu vàng ròng giống như Nan-đà… không khác. Các Phạm thiên bạch Đức Phật rằng: –Đấng Thế Hùng Như Lai xuất hiện ở đời, nhất định sẽ đem lợi ích cho tất cả chúng sinh. Lời thề nguyền rộng lớn xưa, hôm nay đã được viên mãn, chẳng bỏ chúng sinh. Lời nói này chẳng hư dối nên con tự thấy tâm tưởng cảnh giới chúng sinh đời vị lai cũng sẽ như vậy mà quán tưởng thân chân thật của Đức Phật. Đức Phật bảo Phạm thiên rằng: –Đúng như lời nói của ông, chân thật chẳng hư dối! Chúng sinh đời vị lai chỉ khởi ý niệm đó thì đã được phước không lường, thân tướng đầy đủ, huống gì là nhớ tưởng. Khi Đức Phật nói lời đó, vua Tịnh Phạn và các Thích tử, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-di đồng thời đều đứng dậy đảnh lễ Đức Phật mà lui ra. Bấy giờ, Phụ vương trở về hoàng cung giảng nói cho các thể nữ về tướng tốt của Đức Phật. Một ngàn hai trăm năm mươi thể nữ nghe về tướng Bạch hào của Đức Phật, lòng vô cùng vui mừng, tiêu trừ được trăm vạn ức vô số tội sinh tử. Trong hư không, có tiếng bảo các thể nữ rằng: –Các ngươi nghe tướng của Đức Phật tiêu trừ được các tội lỗi! Hãy phát tâm Vô thượng Bồ-đề! Nghe lời nói đó rồi, họ liền thấy trong hư không có vô lượng các Đức Phật. Thấy các Đức Phật rồi, họ đều đồng thời được định Niệm Phật. Các Tỳ-kheo-ni liền đứng dậy, kính lễ dưới chân Đức Phật, nhiễu quanh Đức Phật bảy vòng, lui về đứng một bên. Bấy giờ, A-nan sửa lại áo vai phải, chắp tay quỳ gối bạch Đức Phật rằng: –Bạch Thế Tôn! Đức Phật nói ba mươi hai tướng, mà còn một tướng vì sao Đức Như Lai chẳng nói rõ? Lúc ấy, Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo ngồi xuống lại. Lúc ấy, Đức Thế Tôn tự hóa ra năm trăm ức núi báu ở bên trái, bên phải của Phật. Mỗi núi báu có bốn Đức Phật ngồi. Bốn Đức Phật Thế Tôn khen ngợi niệm Phật. Đức Phật liền mỉm cười, miệng có năm sắc ánh sáng, lưỡi có mười bốn ánh sáng. Các ánh sáng này đều hóa thành một Đức Phật. Trong rốn Đức Phật ấy tuôn ra năm dòng nước có màu sắc khác nhau. Trong mỗi màu có chín ức vị Bồ-tát. Trên đỉnh đầu mỗi vị Bồ-tát đều có ánh sáng ngọc ma-ni cõi trời Phạm, trong ánh sáng có các Hóa Phật nhiều như cát sông Hằng. Trong rốn mỗi vị Hóa Phật cũng phát ra nước như vậy. Những dòng nước như vậy chảy vào rốn của Đức Phật. Các vị Hóa Phật và hóa Bồ-tát đó đều nhập vào rốn của Đức Phật. Lúc đó, thân Đức Phật hiển hiện thanh tịnh hơn cả ngọc lưu ly thanh tịnh thù thắng vi diệu. Ở trong thân Đức Phật có tòa Sư tử. Mỗi tòa Sư tử lớn như núi Tu-di. Trên mỗi tòa có một Đức Như Lai, có chín mươi ức Bồ-tát làm thị giả. Trên đỉnh đầu các vị Bồ-tát đó có các Đức Phật lớn như núi Tu-di. Như vậy vô lượng các Đức Phật mười phương mà trong rốn tuôn ra nước đều cùng với nước vào hết trong rốn của Đức Phật Thích-ca Văn. Các Đức Phật chẳng lớn, Đức Thích-ca cũng chẳng nhỏ. Đức Thích-ca chẳng lớn, các Đức Phật cũng chẳng nhỏ. Trong tim bên trong thân của Đức Phật Thích-ca Văn có vô lượng Đức Phật, các Đức Phật đều chẳng ngăn che nhau, lỗ chân lông của toàn thân giảng nói pháp niệm Phật. Các vị Hóa Phật đều duỗi tay phải xoa đỉnh đầu Tôn giả A-nan nói rằng: –Ngươi nay khéo giữ gìn Tam-muội quán Phật, chớ để quên mất! Ngươi phải một lòng nhớ nghó, vì chúng sinh đời vị lai mở mắt ánh sáng! Khi nói lời đó, hình tượng bảy Đức Phật đời quá khứ đứng ở trong hư không đều duỗi tay phải xoa đầu Tôn giả A-nan mà chúc lụy việc đó. Lúc đó, trong hư không, có vô số ánh sáng. Trong mỗi ánh sáng có vô số Hóa Phật đồng thanh chúc lụy pháp ấy. PHẬT thuyết QUÁN PHẬT TAM-MUỘI HẢI KINH <卷 id="112589568">Quyển 8 <詞 id="112589569">Phẩm 7: QUÁN MÃ VƯƠNG TÀNG Đức Phật bảo A-nan rằng: –Chúng sinh đời vị lai phải quán tướng mã âm tàng của Đức Như Lai ra sao? Tướng mã âm tàng là khi ta ở nhà, Da-du-đà-la và năm trăm thị nữ đều nghó rằng: “Thái tử sinh ra đời, có nhiều những việc đặc biệt kỳ lạ, chỉ có một việc đối với ta có sự nghi ngờ.” Trong chúng thể nữ có một thể nữ tên là Tu-mạn-na liền bạch với thái tử phi rằng: “Thái tử là thần nhân! Kinh Tỳ-đà (Vệ-đà) nói: Nếu có thể chất thần nhân thì tánh thanh tịnh, do phạm hạnh nên thân căn đầy đặn. Thái tử giống như người phạm hạnh, nạp phi đã lâu, các thể nữ ấy phụng sự trải qua nhiều năm, chẳng thấy được thân căn, huống là có “sự đời”. Lại có một người con gái tên là Tịnh Ý bạch rằng: “Thưa đại gia! Con phụng sự thái tử trải qua mười tám năm, chưa từng thấy thái tử có hoạn nạn về tiện lợi (ý nói bệnh về thân căn) huống là có các dục.” Bấy giờ, các cô gái, mỗi người đều nói khác nhau, đều cho thái tử không thể là người nam. Ban ngày nằm ngủ thái tử đều nghe các cô gái muốn thấy tướng mã âm tàng của thái tử. Lúc đó, thái tử, do năng lực thệ nguyện nên ứng cho các cô gái, quần áo bên trong thân từ từ chuyển phát, khiến cho họ thấy ánh sáng thân màu vàng rực rỡ. Rồi hai gối tạm mở ra, họ đều nhìn thấy thánh thể đầy đặn như vầng trăng tròn, có ánh sáng màu vàng giống như vầng mặt trời. Các cô gái hoan hỷ nói rằng: “Như thần nhân này thật đáng kính yêu, nhưng đối với chúng ta thì thế tình dứt tuyệt!” Nói lời đó xong, họ buồn khóc nước mắt như mưa. Lúc ấy, thái tử, ở chỗ căn này xuất hiện hoa sen trắng, màu hoa ấy trắng hồng, trên một dưới hai, ba bông hoa liền nhau. Các cô gái thấy rồi lại nói với nhau rằng: “Như thần nhân này có tướng hoa sen thì làm gì có tham nhiễm?” Nói lời đó xong, họ nghẹn lời chẳng thể nói nữa. Lúc đó, trong hoa bỗng có thân căn như hình dạng của đồng tử. Các cô gái thấy rồi lại nói với nhau rằng: “Thái tử hiển hiện việc đặc biệt kỳ lạ, bỗng nhiên có thân căn!” Như vậy thân căn lớn dần dần như hình dạng của bậc trượng phu. Các cô gái thấy căn này đầy đặn rồi, tâm ý vô cùng vui mừng. Khi tướng này hiện, mẹ của La-hầu-la thấy thân căn đó, từng hoa từng hoa tiếp theo nhau, như đồ trang sức quý báu của cõi trời. Trên mỗi hoa có vô số Bồ-tát thân lớn, tay cầm hoa trắng vây quanh thân căn. Hiện rồi lại biến mất, như vừng mặt trời trước đó. Đây gọi là tướng mã âm tàng của Bồ-tát. Như Lai, nay đã thành đạo Bồ-đề là đầy đủ thân nam tử của bậc Đại trượng phu, lại sẽ vì ông hiển hiện tướng nam. Đức Phật bảo A-nan rằng: –Khi ông chưa xuất gia, vua Ma-thâu-la có một người nhũ mẫu tên là Đầu-mâu-bà đã nuôi dưỡng vua đó trải qua mười lăm năm. Khi nhà vua đã trưởng thành, bà chắp tay quỳ gối cầu xin rằng: –Tâu Đại vương! Tôi tuy thấp hèn, nhưng đã nuôi nấng Đại vương cần cù trải nhiều năm, chỉ xin Đại vương ban cho một nguyện. Nhà vua bạch rằng: –Nhũ mẫu muốn cầu điều gì? Nhũ mẫu liền tâu rằng: –Ở trong cung như một trời công đức, tất cả không thiếu thốn, chỉ có một việc khiếm khuyết. Đó là sự hạnh phúc về tình cảm của người nữ. Nhà vua bạch rằng: –Thưa nhũ mẫu! Tôi sẽ gả nhũ mẫu cho một vị đại thần, kết nghóa vợ chồng. Nhũ mẫu chẳng chịu, bạch rằng: –Tâu Đại vương! Người cao quý nhiều việc, chẳng phải là sự ưa thích của tôi! Nguyện xin nhà vua ra lệnh cho tất cả con trai trong nước từ mười lăm tuổi trở lên, ba mươi tuổi trở lại đều phải theo tôi. Nếu người có khả năng đến thì tôi cho người đó một đồng tiền vàng lớn. Người hình dung xấu xí thì sẽ cho đồng tiền bạc. Vị quốc vương đó báo ân người nhũ mẫu, tạo dựng một ngôi lầu cao, rồi truyền lệnh khắp trong nước, lệnh cho các nam tử, theo sở nguyện nêu trên, đều đến tập họp. Trải qua nhiều năm, nhũ mẫu già yếu, chiêu tập các cô gái, có đến năm trăm cô. Mỗi cô gái lại mua các tỳ nữ với đủ thứ trang sức, số tròn tám ngàn. Vị quốc vương kia bị bệnh băng hà (chết mất), thái tử kế vị, có vị bề tôi trí tuệ bạch rằng: –Đức tiên vương vì báo ân nên buông lỏng bà lão này khiến cho đất nước của vua có thêm thôn dâm nữ, làm tổn nhục quốc thể, thật sự chẳng nhỏ, để họ ở đây làm gì, nên tức thời đuổi đi chỗ khác. Bạch xong, ông ra ngoài thiêu đốt ngôi lầu cao, xua đuổi bọn con gái. Bọn họ sợ hãi đi đến nước Xá-vệ. Đến nơi, ở tại ngã tư đường, chúng tạo dựng nhà chứa, tác quái như trước. Xá-vệ là nước lớn, người đông, họ kéo đến nhà những dâm nữ qua một đêm nộp hai trăm tiền vàng. Nước ấy có ông trưởng giả tên là Như Lư Đạt, tích chứa của cải hàng trăm ức. Ông trưởng giả có người con tên là Hoa Đức. Anh em hắn ba người đều là những du đảng vô độ, giành nhau chạy đến dâm xá. Đầu tiên mỗi lần đều nộp mười lăm tiền vàng. Ngày ngày đêm đêm chúng thường nộp tiền vàng hơn gấp bội người thường. Trải qua một tháng mà một kho hết vàng. Ông trưởng giả cha chúng đi xem xét các kho, thấy một kho rỗng không, hỏi người giữ kho, vàng trong kho này ở đâu? Người quản lý kho bạch rằng: “Các con của đại gia ngày ngày đem vàng đến nhà dâm nữ, nếu chẳng bắt dừng lại thì vàng sẽ hết.” Ông trưởng giả nghe rồi, đấm ngực gào khóc to rằng: “Ôi! Tặc tử phá gia cư của ta!” Rồi ông cầm gậy lớn đánh vào đầu mẹ đứa con. Bà mẹ gào khóc rằng: “Ô hô! Tặc tử! Sinh con vô ích, trộm hết kho vàng! Cha không giáo huấn khuôn phép, vốn chẳng dạy bảo nghiêm thì đánh đập làm gì?” Ông trưởng giả giận dữ gào khóc đi đến chỗ vua, vỗ bụng trước vua mà bạch rằng: “Thưa Đại vương! Trong nước hoang loạn, các nữ La-sát của nước Ma-thâu-la đến ở trong thành này, phá hại gia nghiệp của con.” Nhà vua nói với trưởng giả rằng: “Ngươi giàu có rất lớn mà kho vàng còn hết, huống là kẻ phàm hạ khác chắc chẳng khốn đốn sao?” Ông trưởng giả bạch vua rằng: “Nguyện xin Đại vương mau chóng giết kẻ ác!” Nhà vua bảo ông trưởng giả rằng: “Ta thọ giới của Đức Phật, con kiến còn chẳng làm tổn thương, huống là muốn giết người.” Ông trưởng giả nghe lời này, giơ tay vỗ đầu mà bạch rằng: “Tâu Đại vương, Thần nghe, làm vua giết phạt người ác vì nước diệt trừ hoạn nạn đâu có tội gì? Ngày nay, Đại vương làm bạn với người ác. Giả sử các dâm nữ hoại loạn chánh pháp, nước nhà tan hoang, dân chúng bần cùng thì giới còn đâu?” Nhà vua bảo ông trưởng giả rằng: “Đức Như Lai ra đời điều phục được tất cả. Ương-quật-ma-la, Chiên-đà-la Khí Hư, Quỷ vương Đại Lực, La-sát Khôi Hôi… tất cả đều đã được thuần hóa, nay đang đi đến chỗ Đức Phật thưa trình việc này. Ngươi có thể chịu nhịn một chút!” An ủi bề tôi rồi, vua ngồi xe do voi lớn kéo, cùng các tùy tùng đi đến tinh xá Kỳ hoàn, đảnh lễ Phật, nhiễu quanh Đức Phật ba vòng, chắp tay quỳ gối, bạch rằng: –Bạch Thế Tôn! Các dâm nữ của nước Ma-thâu-la, nay đã đến vùng này mê hoặc các thiếu niên, nguyện xin Đức Phật hóa độ họ! Đức Phật bảo rằng: –Này Đại vương! Sau bảy ngày nữa đã! Phật tự biết điều đó! Vua Ba-tư-nặc lễ Phật lui về. Đức Phật bảo Tôn giả Đại Ca-diếp rằng: –Ông hãy đến nhà ông trưởng giả Tu-đạt nói rằng: “Này Đàn-việt! Sau đây bảy ngày, Đức Phật đi đến đại hội luận nghị hóa độ các dâm nữ!” Ông Tu-đạt nghe rồi vui mừng hớn hở, bày biện phẩm vật cúng dường. Ông làm đài hoa bằng bảy báu cao mười một trượng đặt chỗ ngồi của Đức Phật, treo các lọng báu bằng lụa năm màu, lấy nước thơm tưới đất… Ngày ấy đã đến, nhà vua đánh trống vàng, ra lệnh cho các luận nghị sư trong nước đều đến đại hội luận nghị. Trưởng giả Tu-đạt thỉnh các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, tất cả đều tập họp để thiết lễ cúng dường. Sáng ngày hẹn đã đến, nhà vua cùng mọi người đi đến đại hội luận nghị. Trưởng giả Như Lư Đạt sai Chiên-đà-la kêu các dâm nữ. Ông trưởng giả Tu-đạt cũng bạch Đức Phật là thời gian đã đến. Lúc đó, Đức Như Lai bảo một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ-kheo rằng: –Này các Tỳ-kheo! Các ông hãy tùy theo định ý của mình mà hiện đại thần thông đi! Thượng tọa Kiều-trần-như cùng bốn Tỳ-kheo hóa làm một hang động lớn như Hương sơn với trăm ngàn hoa sen. Trên mỗi hoa sen có năm Tỳ-kheo ngồi kiết già, thân phát ra ánh sáng vàng, khiến cho toàn thân màu vàng, trang nghiêm khả ái giống như Di-lặc. Lại có hóa nhân tạo ra mười tám sự biến hóa. Trong mỗi sự biến hóa có mười tám Tỳ-kheo tạo mười tám phép biến hóa thần thông rất đáng xem, bên trong có người thì nhập vào Tam-muội, bên trong có người thì đi kinh hành. Ánh sáng xoắn trở lại giống như núi vàng phát sinh những hoa báu. Tỳ-kheo ở trong hang, thân tâm chẳng tán loạn, bay đến đại hội. Ngồi ở vị trí bên trên. Uất-tỳ Ca-diếp vọt thân lên không trung hóa làm sáu con rồng, cuộn thân kết nhau làm tòa ngồi cho Tỳ-kheo. Ở trên tòa ấy Tôn giả tạo mười tám phép biến hóa, bay đến đại hội. Hai người anh em Già-gia-na-đề vọt thân lên hư không hóa làm hang đá lớn, nhập vào định Hỏa quang, tạo mười tám phép biến hóa mà bay đến đại hội. Đại đức Đại Ca-diếp mặc áo ngàn mảnh vải ghép lại, tay bưng bình bát, giữ đúng uy nghi, chân bước vào hư không. Trong mỗi bước chân, đều hóa ra mỗi cây báu. Dưới mỗi cây báu đều có vị hóa Ca-diếp đi kinh hành trong rừng cây và thực hiện mười tám phép biến hóa, cũng đến đại hội. Tôn giả Đại trí Xá-lợi-phất vọt thân lên không trung thực hiện mười tám phép biến hóa, trên thân phát ra ngàn ánh sáng mặt trời rực rỡ mà chẳng ngăn che nhau. Bên dưới thân phát ra ngàn vầng trăng như trăng thu tròn vành vạnh khả ái. Tôn giả tạo mười tám phép biến hóa rồi bay đến đại hội. Tôn giả Đại Mục-kiền-liên vọt thân lên hư không, hóa làm tám vạn bốn ngàn tòa Sư tử. Mỗi con sư tử đều nhắm mắt phủ phục dưới đất trắng như núi Tuyết. Tôn giả Đại Mục-kiền-liên ngồi trên lưng sư tử ấy tạo mười tám phép biến hóa mà đi đến đại hội. Tôn giả Ưu-ba-ly vọt thân lên hư không, ở trong hư không trải tọa cụ, ngồi kiết già, nhập vào Tam-muội Từ. Các lỗ chân lông của thân Tôn giả tỏa ra ánh sáng vàng ròng. Tôn giả tạo mười tám phép biến hóa mà đi đến đại hội. Tôn giả Đại Ca-chiên-diên vọt thân lên không trung, hóa làm mười lăm vị Ma-hê-thủ-la. Mỗi Thiên tử cỡi một con trâu chúa mà trên đầu nó mọc ra hoa. Tôn giả Đại Ca-chiên-diên ngồi trên tòa hoa này tạo mười tám phép biến hóa, bay đến đại hội. Tôn giả Tu-bồ-đề vọt thân lên hư không, biến mất trong vùng tối, chỉ nghe tiếng nói, nói kệ như vầy: Tánh Chân như mọi pháp Không ngã, không chúng sinh Cũng không tưởng dâm dục Giáo hóa ai tu hành? Các pháp vốn không tính Cũng không tướng tên gọi Ái nhiễm nên khởi dục Giáo hóa ai tu hành? Nói kệ đó rồi, Tôn giả tạo mười tám phép biến hóa, bay đến đại hội. Tôn giả A-na-luật vọt thân lên hư không hóa ra một vạn Phạm vương, tạo các cung điện Phạm, Tỳ-kheo ngồi bên trong tạo mười tám phép biến hóa, bay đến đại hội. Tôn giả La-hầu-la và Tôn giả Nan-đà, hai Tỳ-kheo vọt thân lên hư không hóa làm ngôi lầu báu, Tỳ-kheo ngồi bên trong nhập vào thiền định sâu xa, tạo mười tám phép biến hóa bay đến đại hội. Như vậy một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ-kheo đều thị hiện biến hóa khác thường, cũng thực hiện mười tám phép thần thông, bay đến đại hội. Bấy giờ, Đức Thế Tôn đem theo một mình Tôn giả A-nan vai mang tọa cụ, tay cầm gáo múc nước tắm. Đức Thế Tôn đi trước, A-nan theo sau. Từ trong bình bát của Đức Phật có sáu đóa hoa sen. Mỗi hoa sen đều phóng ra ánh sáng màu vàng, chiếu soi nước Xá-vệ thành toàn một màu vàng. Trong gáo múc nước tắm có lá cờ lớn bằng vàng, đầu lá cờ vàng ấy có năm trăm luồng ánh sáng. Mỗi luồng ánh sáng hóa ra một ngàn vị Hóa Phật đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, bước chân lên hư không, bay đến đại hội. Vua Ba-tư-nặc và các đại chúng tung hoa, đốt hương, đảnh lễ Đức Phật. Hàng trăm ngàn âm nhạc cõi trời chẳng đánh tự trổi lên ca ngợi vô lượng công đức của Như Lai. Vua Ba-tư-nặc quỳ gối, chắp tay khuyến thỉnh Đức Như Lai hóa độ dâm nữ. Đức Phật ngồi trên tòa hoa vì các đại chúng, lược nói về khổ, không, vô thường… các Ba-la-mật. Các dâm nữ chẳng nhận sự giáo hóa. Trong số ấy, có một dâm nữ tên là Khải Ái bảo các dâm nữ rằng: –Sa-môn Cù-đàm bản tánh vô dục, người ta nói, ông chẳng phải là đàn ông nên ở trong chúng diễn nói khổ, không… chê bai dục là bất tịnh. Nếu ông ấy có thân phần đầy đủ thì ở trong đại chúng nên bỏ xấu hổ như bọn Ni-kiền Tử, bày thân ra cho chúng ta xem xét. Nếu ông có tướng này thì chúng ta chịu quy phục làm đệ tử ông ấy. Nếu không có tướng này nói bất tịnh là hư dối. Người không có căn này, tính vốn vô dục thì sao chẳng nói dục là bất tịnh. Khi nói lời đó, Như Lai hóa làm một con voi như con voi báu của Chuyển luân thánh vương. Giữa hai chân voi mọc ra một đóa hoa trắng giống như căn vật của voi, dần dần dài chống đất. Các dâm nữ thấy rồi vui mừng cười lớn, đều nói với nhau rằng: “Sa-môn giỏi huyễn thuật mới hóa làm cái của này.” Đức Phật lại hóa làm hình dáng một ngựa chúa bày ra “mã vương tàng” như ống lưu ly thòng xuống đến gối. Các dâm nữ thấy rồi thì chúng cho là huyễn hóa. Phu nhân Mạt-lợi thấy hóa tướng này thì bạch với các vị Tỳ-kheo-ni và các Ưu-bà-di rằng: –Chúng ta, những người nữ, nên đều lui trở về đi! Lời nói của bọn dâm nữ chẳng nên nghe ngóng! Đức Thế Tôn đại Từ, nay muốn hóa độ chúng nhất định còn làm nhiều biến hóa dị thường nữa. Chúng ta nên tránh, lễ Phật mà lui thôi! Đức Phật bảo A-nan rằng: –Ông hãy bảo vua Ba-tư-nặc và các Tỳ-kheo đều tự đi chơi đi! Vua Ba-tư-nặc bạch các Đại đức rằng: –Đức Như Lai đại Từ muốn giáo hóa dâm nữ, nay tất cả chúng ta nên đi chỗ khác. Nói lời đó xong, vua lui bước mà đi, chỉ còn một ngàn hai trăm năm mươi Tỳ-kheo đứng hầu sau Đức Phật. Đức Phật bảo Tôn giả Kiều-trần-như: –Hãy đem đồ chúng của ông vào trong rừng mà kinh hành! Năm trăm vị Tỳ-kheo do Tôn giả Đại trí Xá-lợi-phất đứng đầu còn đứng chắp tay hầu bên trái, bên phải Đức Phật. Đức Phật bảo Tôn giả Xá-lợi-phất: –Ông cũng tùy ý cùng với các luận sư luận giảng những điều cần yếu! Năm trăm vị Tỳ-kheo theo sau Tôn giả Xá-lợi-phất vào trong rừng hoa, vì vua Ba-tư-nặc, lại nói bốn Đế, chỉ còn Tôn giả A-nan ở lại. Đức Phật bảo Tôn giả A-nan rằng: –Ông để lại tọa cụ cho ta! Rồi ông cũng nên đi! Nói lời đó xong, lúc đó Đức Thế Tôn một mình đi đến chỗ dâm nữ. Lúc đó, các dâm nữ thấy Đức Phật còn một mình thì lớn tiếng cười bạch rằng: –Thưa Sa-môn! Ông có nam căn không vậy? Đức Phật nói rằng: –Ta đầy đủ nam thân, là đại trượng phu. Các dâm nữ nghe rồi che miệng mà cười. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn trải tọa cụ. Thần đất Kim cang hóa làm cái giường vàng, bảy báu làm chân giường ở bên dưới tọa cụ. Đức Phật ngồi trên giường vàng tọa cụ ấy, xếp áo tăng-già-lê, vạch tăng-kỳ-chi, bày chữ vạn ở ngực cho dâm nữ nhìn thấy. Các dâm nữ nhìn thấy chữ như trăm ngàn nam tử mạnh mẽ, tướng người lạ lùng rất vừa lòng họ. Đức Phật lại vạch Nê-hoàn-tăng, họ thấy thân thể Đức Phật hầu hết đều đầy đặn, có ánh sáng màu vàng giống như ngàn mặt trời. Các dâm nữ thấy rồi đều nói rằng, ông Cù-đàm là người không có thân căn. Đức Phật nghe lời này thì như phép mã vương dần dần xuất hiện. Khi mới xuất hiện giống như thân căn của đứa trẻ tám tuổi. Dần dần lớn lên như hình dạng của người thiếu niên. Các dâm nữ thấy rồi đều vui mừng. Mã âm tàng dần dần lớn lên như tràng hoa sen. Trong mỗi tầng có trăm ức hoa sen. Mỗi hoa sen có trăm ức màu sắc báu. Trong mỗi màu sắc có trăm ức vị Hóa Phật. Mỗi vị Hóa Phật có trăm ức Bồ-tát và vô lượng đại chúng làm thị giả. Các vị hóa Phật khác miệng đồng lời, chê trách tội lỗi ác dục của các dâm nữ mà nói kệ rằng: Nếu có các nam tử Tuổi mười sáu, mười lăm Cường tráng nhiều sức lực Nhiều như cát sông Hằng Đem cung cấp dâm nữ Giây lát chẳng thỏa lòng. Các cô gái nghe lời này xong, lòng vô cùng xấu hổ, áo não, ngã lăn ra đất, giơ tay vỗ đầu mà nói rằng: –Than ôi! Vì ái dục mới khiến cho các Đức Phật nói lên việc thế này! Chúng ta mang tâm ác, đắm nhiễm ái dục nhơ uế, chẳng biết là khổ nạn mới khiến cho các Đức Phật nghe sự tệ ác như thế này, giống như lửa mạnh thiêu đốt chúng ta. Khi nói lời đó, họ thấy trong hư không, tất cả các vị Hóa Phật vì tất cả các dâm nữ nói về phép quán Bất tịnh. Đó là chín tưởng, mười tưởng, ba mươi tưởng và phép quán hơi thở. Các cô gái nghe nói pháp quán Bất tịnh thì ưa thích pháp, ưa thiền định, chẳng muốn ái dục nữa. Bấy giờ, Đức Thế Tôn thu ánh sáng nơi thân lại, ngồi ngay ngắn trên giường vàng. Đại chúng vân tập trở lại chỗ Đức Phật. Vua Ba-tư-nặc bạch rằng: –Bạch Thế Tôn! Đức Như Lai ra đời đem lại nhiều lợi ích mới ở chỗ này hiện ánh sáng lớn, huống là vô lượng công đức ở những phần thân khác. Tất cả chư Thiên ở trong hư không, cũng ngợi khen trăm ngàn phạm hạnh của Đức Như Lai. Phạm hạnh Như Lai mới được như thế này, “mã âm tàng” thù thắng lặn mất không xứ sở, hiển bày ra hoa vàng với vô số vị Hóa Phật. Đó là phước báo công đức cao vời của việc trì giới. Những cô gái nghe lời nói này rồi, bốn ngàn cô gái phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, hai ngàn người xa trần lìa cấu được Pháp nhãn thanh tịnh, hai ngàn người vào đời vị lai qua mười hai kiếp lần lượt sẽ được đạo Bích-chi-phật. Ông trưởng giả Như Lư Đạt thấy Đức Phật thị hiện hóa độ những cô gái ác ma, khen rằng: –Hay thay! Hay thay! Đức Như Lai, xưa phá quân ma Ba-tuần, nay hóa độ những cô gái, cùng với việc xưa không khác. Khi tướng này hiện thì vô lượng chư Thiên phát tâm Bồ-đề. Những tướng só mà vua Ba-tư-nặc đem theo, có năm trăm người cầu Phật xuất gia thì râu tóc tự rụng, áo đang mặc trên thân biến thành áo ca-sa, ngay tức thời được đạo A-la-hán. Lúc đó, đại chúng thấy được mã âm tàng, lòng hoan hỷ, trừ được tội sinh tử năm mươi ức kiếp, họ đảnh lễ Đức Phật, lui ra. Đức Phật bảo A-nan rằng: –Lúc trước, ta an cư vào mùa hạ, nước Ba-la-nại có một lầu bán dâm, trên lầu có cô gái tên là Diệu Ý. Ngày xưa, đối với Phật nàng có nhân duyên sâu nặng. Ta cùng với Nan-đà và ông đi đến nhà dâm nữ này, ngày ngày khất thực. Cô gái này đối với ta chẳng từng cung kính mà đối với Nan-đà lại sinh tâm ái nhiễm. Đã qua bảy ngày, lòng cô gái nghó rằng: “Sa-môn Cù-đàm nếu có thể sai Nan-đà hay A-nan đến thì ta nguyện rằng, ta sẽ đem đủ thứ cúng dường cho Sa-môn.” Đức Phật bảo A-nan và Nan-đà rằng: –Các ông từ ngày hôm nay chớ đi đến thôn đó nữa! Đức Thế Tôn một mình cầm bát mà đi. Đức Thế Tôn đến chỗ lầu có người con gái, từ một ngày đến ba ngày phóng ra ánh sáng màu vàng giáo hóa những trời, người, nhưng cô gái này chẳng giác ngộ. Ngày hôm sau, Đức Thế Tôn lại đem theo A-nan và Nan-đà, đi đến dưới lầu. Dâm nữ ái kính hai vị Tỳ-kheo nên từ xa đem mọi thứ hoa tung xuống Đức Phật và hai vị Tỳ-kheo. Tôn giả A-nan bảo rằng: –Ngươi nên đảnh lễ Đức Phật. Cô gái yêu kính A-nan nên liền đảnh lễ. Bấy giờ, Đức Thế Tôn hóa ra ba thiếu niên tuổi đều mười lăm, diện mạo tuấn tú hơn tất cả mọi người ở thế gian. Người con gái này thấy rồi, thân tâm hoan hỷ, vì những hóa niên thiếu, năm vóc gieo xuống đất, kính lễ các thiếu niên mà bạch rằng: –Thưa trượng phu! Nay nhà này của tôi như cõi trời Công đức, phước lực tự tại, các vật báu trang nghiêm. Tôi nay đem thân này cùng với nô tỳ dâng lên trượng phu có thể đủ nâng khăn sửa túi cho chàng. Nếu chàng có thể đoái hoài thu nạp theo ý nguyện của tôi thì tất cả tôi đều cung cấp cho chàng không gì luyến tiếc. Nói lời đó rồi, chưa kịp hết bữa ăn, người con gái đã đến gần thưa rằng: –Thưa trượng phu! Nguyện xin thỏa ý của tôi! Hóa nhân đồng ý, theo sở dục của mình, cô gái đã cận kề rồi, một ngày một đêm lòng chẳng chán mệt. Khi đến hai ngày, tâm ái dứt dần, đến ngày thứ ba thì người con gái bạch rằng: –Trượng phu nên dậy ăn uống! Hóa nhân liền dậy nhưng quấn quít chẳng thôi. Người con gái sinh chán chường hối tiếc nói rằng: –Người trượng phu khác thường mới như vậy! Hóa nhân bảo rằng: –Phép đời trước của ta, phàm cùng con gái thông giao phải qua mười hai ngày mới ngưng nghỉ! Người con gái nghe lời nói này như người mắc nghẹn, nhả ra chẳng được, nuốt vào chẳng xong, thân thể đau khổ như bị chày giã. Đến bốn ngày thì như bị xe nghiến, đến ngày thứ năm thì như hòn sắt vào thân thể, sang ngày thứ sáu thì mọi chi tiết đều đau như tên bắn vào tim. Cô gái nghó rằng: “Ta nghe người ta nói, con vua Tịnh Phạn ở thành Ca-tỳ-la-vệ, thân màu vàng tía với ba mươi hai tướng tốt, thương xót kẻ mù tối, cứu tế người khổ sở, luôn ở thành này, thường làm phước khánh, phóng ra ánh sáng màu vàng, cứu giúp tất cả mọi người. Hôm nay tại sao ngài chẳng đến cứu ta.” Nghó thế rồi, nàng áo não tự trách rằng: “Ta từ ngày hôm nay cho đến trọn đời, nhất định chẳng tham sắc dục nữa! Ta thà cùng với cọp, sói, sư tử, ác thú ở chung một hang chẳng tham sắc dục, chịu sự khổ não này.” Nói lời đó xong, nàng trở dậy ăn uống, đi, ngồi chung đụng mà không thể đòi hỏi gì được nữa. Hóa nhân cũng nổi giận la lên rằng: “Này ma nữ tệ ác! Ngươi đã phế bỏ sự nghiệp của ta! Ta nay chung với ngươi giao hợp thân thể một chỗ, chẳng bằng như chết sớm! Nếu cha mẹ, bà con đến tìm thì ta biết trốn vào đâu? Ta thà chết đi, chẳng cam chịu nhục!” Cô gái nói: “Này đồ tệ ác! Ta chẳng cần! Ngươi muốn chết thì tùy ý.” Khi ấy, hóa nhân lấy dao đâm vào cổ, máu chảy lênh láng bôi bẩn thân thể cô gái, lăn lộn dưới đất. Cô gái chẳng thể tự kiềm chế, cũng chẳng tránh khỏi. Thây chết qua hai ngày, xanh sình thối đen, ba ngày thì trương phình lên, bốn ngày thì tan rữa ra với nước đại, tiểu tiện và các ác trùng, vung vãi những máu, mủ… trây trét giàn giụa thân cô gái. Cô gái rất chán ghét mà chẳng được thoát khỏi. Đến ngày thứ năm thì da thịt rã dần, đến ngày thứ sáu thì thịt đều rơi ra hết, đến ngày thứ bảy thì chỉ có bộ xương thối mà như keo như sơn dán chặt vào thân cô gái. Cô gái phát thề nguyền rằng: “Nếu các Thiên thần cùng với Tiên nhân, con vua Tịnh Phạn, có thể miễn khổ cho tôi thì tôi đem tất cả trân bảo của nhà này để dâng cúng hết!” Khi cô gái khởi ý niệm đó thì Đức Phật đem Tôn giả A-nan và Nan-đà đi theo. Ở trước có Đế Thích bưng lò hương báu, đốt hương thơm vô giá. Ở sau có Phạm vương nâng lọng báu lớn. Vô lượng chư Thiên tấu lên kỹ nhạc cõi trời. Đức Phật phóng ra ánh sáng chiếu soi trời đất. Tất cả đại chúng đều thấy Đức Như Lai đi đến lầu của người con gái này. Người con gái thấy Đức Phật, lòng rất xấu hổ, không chỗ che giấu bộ xương, nàng lấy những miếng vải trắng và mọi thứ hương thơm nhiều không lường, gói bọc bộ xương thối, nhưng mùi thối vẫn như cũ, chẳng thể che giấu. Người con gái thấy Đức Thế Tôn, nàng đảnh lễ. Do xấu hổ nên thân ánh lên trên xương, xương thối bỗng nhiên ở trên lưng người con gái. Người con gái vô cùng xấu hổ, rơi nước mắt mà nói rằng: –Đức Như Lai công đức từ bi không lường! Nếu có thể giúp con lìa khỏi sự khổ này thì con nguyện làm đệ tử, lòng nhất định chẳng thoái lui! Do thần lực của Đức Phật nên bộ xương thối biến mất. Người con gái vô cùng vui mừng, đảnh lễ Đức Phật mà bạch rằng: –Bạch Thế Tôn! Hôm nay, con đem tất cả đồ trân quý cúng dường Đức Phật! Đức Phật vì người con gái chú nguyện bằng Phạm âm lưu loát. Cô gái nghe lời chú nguyện, lòng rất vui mừng, tức thời được đạo Tu-đà-hoàn. Năm trăm người hầu nữ nghe âm thanh của Đức Phật đều phát tâm cầu đạo Vô thượng Bồ-đề. Vô lượng Phạm chúng thấy thần biến của Đức Phật liền đạt được pháp Nhẫn vô sinh. Những Thiên tử của Đế Thích dẫn theo thì có người phát tâm Bồ-đề, có người được quả A-na-hàm. Đức Phật bảo Tôn giả A-nan rằng: –Trước đây, khi ta mới thành đạo ở bên dòng sông Hy-liên cạnh thành Già-gia, có năm người Ni-kiền. Người Ni-kiền thứ nhất tên là Tát-xà-đa với năm trăm đồ chúng. Bốn người khác đều có hai trăm năm mươi đệ tử. Các người Ni-kiền đều tự xưng là đắc đạo. Họ đến chỗ của ta, dùng nam căn quấn quanh thân bảy vòng. Đến chỗ của ta, họ trải cỏ mà ngồi rồi nói rằng: “Này ông Cù-đàm! Ta vô dục nên được thành tựu tướng Phạm hạnh, nam căn của ta mới có thể như thế này, như trời Tự tại. Ta có Thần thông hơn hẳn Sa-môn trăm ngàn vạn lần. Sa-môn làm một, ta làm hai!” Tức thời ở trong đất, hóa làm một cây lớn, rồi dùng thân căn của mình quấn quanh cây đến bảy vòng, khiến cho cây mây mù như hơi khí của vua rồng. Rồi hắn giơ tay lớn tiếng kêu lên rằng: “Này ông Cù-đàm! Việc tướng Phạm hạnh của ta chứng nghiệm như thế này! Ông tự xưng là nam tử, nói là đại trượng phu thì lấy gì làm chứng đây?” Bấy giờ, Đức Thế Tôn hóa làm cái cùm báu, hai đầu cùm báu có mười bốn hạt ngọc. Mỗi hạt ngọc sáng có một ngàn ánh sáng. Mỗi ánh sáng hóa thành hóa Phật tạo ra mười tám phép biến hóa đứng giữa hư không. Đức Thế Tôn hiện hóa, đứng lộn ngược trong hư không, chân ở trên cùm. Hai chân Đức Phật hiện ra một ngàn hoa sen. Mỗi hoa sen có vạn ức ánh sáng. Trong mỗi ánh sáng có trăm ức đài báu. Trong mỗi đài báu có vô số vị Hóa Phật. Mỗi một vị hóa Phật đều thu một chân giống như ống lưu ly khiến cho chân biến mất. Tất cả các vị Hóa Phật và đức Thích-ca Văn đều treo một chân, đứng lộn ngược trong hư không. Chỉ có các Ni-kiền là thấy Đức Phật đứng lộn ngược, còn vô lượng trời, rồng, tám bộ quỷ thần thì thấy Đức Phật Thế Tôn an tọa nơi giảng đường, diễn bày đại pháp, đó là pháp vô tướng, vô ngã… Ở trong hư không có tiếng bảo các Ni-kiền rằng: “Đức Phật đã làm một, ngươi hãy làm hai đi!” Các Ni-kiền liền tự ném mình vọt lên, bám lấy cành cây, ôm cây mà đứng. Dù cho dùng hết pháp thuật Ni-kiền, họ chẳng thể đứng lộn ngược. Thần cây hiện thân, dùng tay tát tai chúng và mắng rằng: “Này mấy người điên! Các người loài trùng nhỏ mà dám cùng với vua thú sư tử đánh nhau. Ngươi dám kêu lớn, nếu Phật làm một, ta sẽ làm hai, Đức Phật nay đã trụ ở đại thần thông lực, sao ngươi chẳng làm được gì cả?” Thần cây mắng rồi, thần đất cứng chắc liền từ dưới đất hiện ra đứng giữa hư không, dùng khóa sắt lớn khóa chân Ni-kiền treo ngược trong hư không, có năm quỷ Dạ-xoa dùng gậy đánh đập. Ni-kiền đau quá tự kéo rơi xuống đất. Trong thời gian chưa đến đất, có một Ni-kiền xưng lên “Nam-mô Phật”, Đức Thế Tôn đưa tay tiếp lấy Ni-kiền, khiến cho thân hắn chẳng đau đớn. Các Ni-kiền đã đến đất rồi thì lòng ganh ghét chẳng thôi nên nói với thần đất rằng: “Ông không lòng từ, thiên vị ông Cù-đàm. Ông phạm tội đời trước nên chịu thân Dạ-xoa ở dưới đất này. Ngày nay lại không từ ái đều khắp, chỉ vì ông Cù-đàm mà làm khốn khổ chúng tôi!” Thần sông Hằng bay đến trụ giữa hư không, tay cầm đá lớn bảo rằng: “Này Ni-kiền! Ngươi như người si dại, ăn uống phân trâu, tro đá bôi đầu khiến cho tóc rụng rơi, trần truồng không xấu hổ, giống như lừa, ngựa, cũng như con rồng nghèo khốn chẳng thể thấm nhuần lợi ích gì. Đức Như Lai là mặt trời Phật chiếu soi khắp tất cả, ngươi hôm nay sao còn đem tấm thân đen tối mà tranh sáng cùng vầng mặt trời?” Khi ấy, thần sông nói lời đó rồi, khuyến thỉnh Đức Thế Tôn thu phục các Ni-kiền. Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo các Ni-kiền rằng: –Các ngươi chẳng biết nam căn của Như Lai. Nếu ai muốn thấy thì tùy ý quan sát đi! Như Lai nhiều kiếp tu hành phạm hạnh, lúc tại gia không có tưởng tà dục, lòng chẳng nhiễm lụy nên được phước báo này, giống như con ngựa báu ẩn hiện không thường. Nay ta vì các ngươi sẽ hiện một phần nhỏ của nam căn. Bấy giờ, Đức Thế Tôn từ trên hư không xuống, liền hóa ra bốn dòng nước ở trên mặt đất, giống như bốn biển lớn. Trong bốn biển có núi Tu-di, Đức Phật ở dưới núi, thân nằm ngửa ngay ngắn, phóng ra ánh sáng màu vàng. Ánh sáng ấy rực rỡ chói mắt chư Thiên, rồi từ từ hiện ra “mã âm tàng” quấn quanh núi bảy vòng, như hoa sen vàng từng hoa từng hoa tiếp theo nhau lên đến cõi Phạm thế. Từ thân Đức Phật hiện ra một ức vô số hoa sen bằng nhiều châu báu, giống như lá cờ hoa che phủ mã âm tàng. Cờ hoa sen này có mười ức tầng. Mỗi tầng có trăm ngàn vô lượng vị Hóa Phật. Mỗi vị Hóa Phật có trăm ức Bồ-tát và vô số Tỳ-kheo làm thị giả. Các vị Hóa Phật phóng ra ánh sáng soi chiếu các cõi khắp mười phương. Các Ni-kiền thấy rồi, rất kinh sợ, lòng khuất phục, nói rằng: “Tướng phạm hạnh của Đức Phật đến như thế này thì chẳng thể nghó bàn! Hình dáng chẳng xấu xí giống như hoa sen. Con xin đảnh lễ biển công đức Phật! Trí Phật vô biên chẳng thể cùng tận! Xin Đức Phật nhận sự sám hối của con, cứu giúp chúng con!” Nói lời nói này xong thì năm trăm Ni-kiền chắp tay, vòng tay, quỳ gối sát đất, cầu Đức Phật xin được xuất gia. Đức Phật dạy rằng: –Thiện lai Tỳ-kheo! Đức Phật bảo Tôn giả Ca-diếp chuẩn bị y phục cho họ. Ca-diếp lúc ấy, đến chỗ Tiên nhân bảo các vị Đại tiên rằng: –Ngày nay, Đức Thế Tôn hàng phục các Ni-kiền, xin Tiên só bố thí cho một ít quần áo! Các Tiên nhân chọn lấy vỏ cây tốt, lá cây Đa-la, cắt may làm áo. Thầy của các Tiên nhân tên là Quang Mục chắp tay, vòng tay bảo các đệ tử rằng: –Đức Phật phước đức vô lượng, thệ nguyện rộng lớn khắp cùng, mới giáo hóa những người tà kiến này! Ta phải chuẩn bị quần áo cung cấp cho những kẻ trần truồng. Họ cũng kính ngồi Phật bảo, đáng được thoát khỏi các khổ. Nói lời này xong, họ theo sau Tôn giả Ca-diếp đến chỗ Đức Thế Tôn. Năm trăm Tiên nhân thấy đài hoa sen từ thân Đức Phật hiện ra như các hoa sen vây quanh núi Tu-di, lên đến cõi Phạm thế. Những tiên nhân thấy việc này rồi, vui mừng chắp tay kính lễ Đức Thế Tôn. Quan sát kỹ Đức Thế Tôn, mắt chẳng tạm rời, thấy ánh sáng tướng Bạch hào vùng chân mày của Đức Phật uyển chuyển xoáy về bên phải và thấy tất cả mọi tướng của thân Đức Phật, họ suy nghó: “Tướng này tốt, nhất định từ đời trước Ngài không lệ thuộc, không chấp thủ, không Ngã, không tạo tác, không tâm, không thức, không người, không vật, không cho, không nhận… Đàn-na ba-la-mật thanh tịnh mà sinh ra. Tướng ấy cũng do Đại trí tuệ Bát-nhã ba-la-mật Nhất thiết bình đẳng vô tướng sinh ra.” Khi tư duy nghóa đó xong, chư vị liền chứng được Pháp nhẫn vô sinh, năm trăm Ni-kiền mặc Tăng-già-lê đảnh lễ Phật, khoảnh khắc chưa ngẩng đầu lên, tức thời đã được đạo A-la-hán với ba Minh, sáu Thông đủ tám Giải thoát. Mỗi Ni-kiền thề nguyền sẽ độ năm trăm Ni-kiền. Khi tướng này hiện, vô lượng chúng trời, rồng, Dạ-xoa thấy quả báo phạm hạnh thanh tịnh của Đức Phật, thân tâm hoan hỷ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Đức Phật bảo A-nan rằng: –Sau khi Phật diệt độ, chúng trời, rồng, chúng Dạ-xoa, chúng Sa-môn, chúng Bà-la-môn… có hỏi Đức Thế Tôn thuở đời quá khứ, thanh tịnh vô dục, tu những phạm hạnh được quả báo gì? Thì ông phải đáp rằng, Đức Phật có tướng Mã vương tàng, cùng với thân bằng phẳng, bảy chỗ đầy đặn như đồ kim cương, trong ngoài đều thanh tịnh. Vì hóa độ chúng sinh nên xuất hiện tướng này: Ánh sáng hóa Phật, mây hoa sen vi diệu… số ấy không lường. Thân như thế này được sinh ra từ vô số đời vô nhiễm yên ổn thọ trì hoàn hảo giới, tuệ, Thi-la ba-la-mật. Đức Phật bảo A-nan: –Sau khi Phật diệt độ, những đệ tử của Phật, nếu muốn quán tướng mã âm tàng của Như Lai, phải quán tưởng như thế. Người quán như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi gọi là tà quán. Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật, nếu có người giữ chánh niệm tư duy tướng phạm hạnh của Phật, ánh sáng của hóa Phật thì thường ở trong mơ, được thấy các Đức Phật mười phương. Người này đời đời luôn tu phạm hạnh, tiêu trừ tội sinh tử trong hai mươi vạn kiếp. Khi Phật nói tướng này, tám ngàn Dạ-xoa trong chúng Dạ-xoa, thân tâm hoan hỷ, khen ngợi đức hạnh không lường của Đức Như Lai và liền phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. PHẬT thuyết QUÁN PHẬT TAM-MUỘI HẢI KINH <卷 id="112589570">Quyển 9 <詞 id="112589571">Phẩm 8: BẢN HẠNH Đức Phật bảo A-nan rằng: –Như Lai có ba mươi hai tướng Đại nhân, tám mươi vẻ đẹp kèm theo và ánh sáng màu vàng. Mỗi ánh sáng có vô lượng Hóa Phật. Những lỗ chân lông trên thân, tất cả đều biến hiện. Sắc thân của Phật, ta đã lược nói. Hôm nay ta nhân lúc hội đại chúng này và vì vua Tịnh Phạn, lược nói về tướng tốt. Phật sinh ra ở nhân gian thị hiện cùng việc với con người. Do đồng tướng với con người nên nói Phật có ba mươi hai tướng hơn cả chư Thiên, nói có tám mươi vẻ đẹp và vì các vị Bồ-tát nói tám muôn bốn ngàn tướng đẹp vi diệu, tướng tốt chân thật của Phật. Lúc mới thành đạo tại đạo tràng Tịch diệt ở nước Ma-già-đà, ta vì các Đại Bồ-tát: Phổ Hiền, Hiền Thủ…, ở kinh Tạp Hoa đã phân biệt rõ. Trong tôn pháp này, ta sở dó lược nói là vì các phàm phu và bốn bộ đệ tử bài báng kinh Phương đẳng, tạo năm tội đại nghịch, phạm bốn Giới trọng, trộm đồ vật của chúng tăng, dâm dục với Tỳ-kheo-ni, phá tám giới quan trai… làm các việc ác, đủ thứ tà kiến. Những người như vậy, nếu có thể chí tâm trong một ngày một đêm giữ chánh niệm ở trước Phật quán tưởng một tướng tốt của Như Lai thì những tội chướng ác đều diệt hết. Vậy nên Như Lai gọi là Bà-già-bà, gọi là A-la-ha, gọi là Tam-miệu-tam Phật-đà, gọi là mặt trời công đức, gọi là mặt trăng tròn trí tuệ, gọi là đất mát mẻ, gọi là ngọc trừ tội, gọi là kho tàng ánh sáng, gọi là núi trí tuệ, sông giới phẩm, gọi là dẫn đường mê, gọi là đèn soi tà kiến, gọi là phá giặc phiền não, gọi là cha mẹ của tất cả chúng sinh, gọi là chỗ nương về lớn. Nếu có người quy y Phật Thế Tôn, hoặc xưng danh hiệu Phật thì trừ được nghiệp chướng nặng phiền não trong trăm ngàn kiếp, huống gì là có tâm chân chánh tu niệm Phật định. Đức Phật bảo A-nan rằng: –Như Lai thuở xưa vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp đã dùng lửa trí tuệ thiêu đốt củi phiền não, tu định vô tướng, chẳng chứng quả phi thời (chứng quả chẳng phải lúc). Vậy nên đạt được tướng thù thắng như vậy. Trong mỗi tướng có vô lượng Hóa Phật, huống là nhiều tướng. Nếu có thể chánh niệm quán tưởng một lỗ chân lông thì người đó gọi là tu hành định Niệm Phật. Do Niệm Phật nên các Đức Phật mười phương thường đứng trước mặt vì họ nói chánh pháp. Người này có thể sinh ra trong dòng giống các Đức Như Lai ba đời, huống gì niệm tưởng đầy đủ về sắc thân Phật. Như Lai cũng có vô lượng pháp thân, mười Lực, Vô úy, Tam-muội giải thoát, các việc thần thông. Những chỗ vi diệu như thế chẳng phải cảnh giới học hiểu của hạng phàm phu các ông, chỉ nên thâm tâm khởi lên tư tưởng tùy hỷ. Khởi tưởng đó rồi, ông lại phải giữ chánh niệm nghó đến công đức của Phật. Nghó đến công đức Phật chính là nghó đến giới, định, trí tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, màu vàng, ba mươi tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp theo hình, mười Lực, bốn Vô sở úy, mười tám pháp Bất cộng, đại Bi, ba Niệm xứ…. Nếu có chúng sinh một lần nghe về công đức tướng hảo quang minh của thân Phật như trên thì ức ức ngàn kiếp chẳng đọa vào đường ác, chẳng sinh ra ở nơi tà kiến, nhơ uế, thường được chánh kiến, siêng năng tu hành không ngừng nghỉ, chỉ nghe danh hiệu Phật mà đã được phước như vậy, huống gì là giữ chánh niệm về Tam-muội quán tưởng Phật. Lúc ấy, khi Đức Thế Tôn nói lời này, trong hư không có bảy đài báu. Trên mỗi đài có hàng trăm ức lọng báu, trời mưa xuống hoa báu cúng dường Đức Phật Thích-ca Mâu-ni. Bấy giờ Pháp vương tử Văn-thù-sư-lợi ngồi kiết già trong đài báu, cùng mười ức Bồ-tát trụ trong hư không khen rằng: –Hay thay! Hay thay! Đức Thích-ca Mâu-ni, Bậc Đại Bi Thế Tôn, nói về tướng thân của Phật! Thị hiện uy nghi của Phật! Hiện lên ánh sáng của Phật! Hiển bày các vị Hóa Phật! Vì chúng sinh phàm phu đời vị lai chẳng thấy Phật mà tạo ra nhân duyên thấy Phật! Hay thay! A-nan, vị Pháp tử từ bi! Tên ngài là Hoan Hỷ! Tên ngài đúng như thật! Xin hãy khéo léo giữ gìn lời nói của Đức Phật, thận trọng chớ quên mất. Chúng sinh đời vị lai nghe lời ngài nói tức là thấy Phật! Tư duy ý nghóa này là thấy đầy đủ sắc thân vi diệu của Phật. Bấy giờ, nói lời này rồi, Văn-thù cùng với các đại chúng Bồ-tát quyến thuộc từ trên hư không xuống, kính lễ dưới chân Đức Phật, nhiễu quanh Đức Phật bảy vòng, lui về đứng một phía. Đức Phật bảo Văn-thù rằng: –Này Phật tử! Ông ngồi tại tòa, khi khởi sự quán tưởng này thì đất mọc ra hoa sen ngang dọc tròn một do-tuần. Này Văn-thù-sư-lợi và các Bồ-tát, hãy ngồi lên đài hoa sen! Lúc ấy, Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử ngồi rồi, bạch Phật rằng: –Bạch Thế Tôn! Con muốn nói về nhân duyên bản sinh của con thuở xưa! Nguyện xin Thế Tôn gia hộ uy thần cho con! Đức Phật bảo Văn-thù rằng: –Hãy mau nói đi! Chớ nghi ngờ! Văn-thù-sư-lợi bảo các đại chúng và đáp lại Tôn giả A-nan rằng: –Này Tôn giả A-nan! Tôn giả phải biết, tôi nhớ thuở quá khứ vô lượng số kiếp, lại hơn số đó chẳng thể nghó tính a-tăng-kỳ kiếp. Ở thế giới kia có Đức Phật hiệu là Bảo Oai Đức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Khi Đức Phật kia ra đời, chúng sinh thuở ấy cũng tệ ác như nay không khác. Đức Phật Thế Tôn đó cũng thân một trượng sáu, màu vàng ròng, cũng nói pháp ba Thừa như Đức Thích-ca Văn. Lúc đó, nước ấy có vị đại trưởng giả tên là Nhất Thiết Thí. Vị trưởng giả có đứa con tên là Giới Hộ, khi đứa con còn ở trong thai mẹ, người mẹ do kính tin nên vui mừng cho con thọ ba quy y. Đứa con sinh ra rồi, năm đến tám tuổi, cha mẹ thỉnh Đức Phật đến nhà cúng dường. Đức trẻ thấy Đức Phật từ từ bước đi an tường, sau chân mọc lên hoa có ánh sáng lớn, nó vui mừng đảnh lễ Đức Phật, lễ rồi, quan sát kỹ càng, mắt chẳng tạm rời. Một khi thấy Đức Phật rồi, liền có thể tiêu trừ được tội sinh tử trăm vạn ức na-do-tha kiếp. Từ đó trở về sau luôn luôn được gặp trăm ức na-do-tha hằng hà sa số Đức Phật, ở chỗ các Đức Phật gieo trồng mọi cội rễ công đức. Các Đức Thế Tôn đó đều nói về Tam-muội Quán Phật như vậy, cũng khen ngợi ánh sáng tướng đại nhân Bạch hào, khuyên nhiều chúng sinh sám hối, giữ chánh niệm. Qua hết thời gian đó, về sau lại được gặp Đức Phật hiệu là Ma-ni Quang Đa-đà A-già-độ, A-la-ha, Tam-miệu-tam Phật-đà. Khi Đức Phật Ma-ni Quang xuất hiện ở đời, Đức Phật thường phóng ra ánh sáng để làm Phật sự, độ thoát dân chúng. Cứ như vậy, hai vạn Đức Phật đồng một danh hiệu là Ma-ni Quang, đều dùng ánh sáng vi diệu của vị Hóa Phật mà dẫn dụ chúng sinh. Tiếp theo, có Đức Phật hiệu là Chiên-đàn Ma-ni Quang với mười hiệu đầy đủ, cứ như vậy có trăm ức Đức Phật đều hiệu là Chiên-đàn Ma-ni Quang, các Đức Thế Tôn đó, do sức thệ nguyện nên chỉ dùng ánh sáng tướng Bạch hào vùng chân mày che chở hộ trì chúng sinh trừ diệt các tội. Lại có Đức Phật ra đời hiệu là Chiên-đàn Hải Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri… cứ như vậy, một trăm vạn Đức Phật đều đồng một danh hiệu là Chiên-đàn Hải, các Đức Thế Tôn đó dùng ánh sáng in chữ Vạn, chữ Đức ở ngực mà hóa độ chúng sinh. Vị thiếu niên đó gần gũi hầu hạ các Đức Phật không lúc nào rời bỏ, lễ bái, cúng dường, chắp tay quán tưởng Đức Phật. Nhờ sức nhân duyên công đức quán tưởng Phật nên lại được gặp trăm vạn a-tăng-kỳ Đức Phật. Các Đức Thế Tôn đó cũng dùng sắc thân hóa độ chúng sinh. Từ đó về sau, đồng tử liền được trăm ngàn ức Tam-muội Niệm Phật, được trăm vạn a-tăng-kỳ Đà-la-ni Toàn. Đã được những điều này rồi, các Đức Phật hiện tiền nói pháp Vô tướng, chừng trong khoảnh khắc vị thiếu niên được Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm. Vị ấy thọ Tam quy y, chỉ một lần lễ Phật, quan sát kỹ càng tướng Phật, lòng không thấy chán. Do nhân duyên này, được gặp vô số Đức Phật, huống gì là giữ chánh niệm tư duy, quán tưởng đầy đủ sắc thân của Đức Phật. Vị thiếu niên lúc đó đâu phải ai khác? Chính là thân của tôi hôm nay! Bấy giờ, Đức Thế Tôn khen Văn-thù-sư-lợi rằng: –Hay thay! Hay thay! Này Văn-thù-sư-lợi! Ông thuở xưa chỉ một lần lễ Phật mà được gặp vô số các Đức Phật như vậy, huống gì là đời vị lai, các đệ tử của ta tinh cần quán tưởng Phật. Đức Phật bảo A-nan: –Ông hãy đem lời nói của Văn-thù-sư-lợi bảo khắp đại chúng và chúng sinh đời vị lai, nếu có người hay lễ bái, hoặc hay niệm Phật, hoặc hay quán tưởng Phật thì phải biết rằng, người này ngang bằng Văn-thù-sư-lợi không khác. Khi bỏ thân qua đời sau, Văn-thù-sư-lợi… các vị Đại Bồ-tát là Hòa thượng của người ấy. Khi nói lời đó, trong chúng Bồ-tát có một Phật tử tên là Tài Thủ liền đứng dậy, nhiễu quanh Đức Phật bảy vòng, cung kính lễ bái, rồi đảnh lễ dưới chân Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, dùng hoa Mạn-đà-la, hoa Đại mạn-đà-la, hoa Mạn-thù-sa, hoa Đại mạn-thù-sa của cõi trời tung lên trên Đức Phật và tung lên trên Văn-thù-sư-lợi, cũng tung lên trên Tôn giả A-nan. Những hoa trời đó đang ở trên Đức Phật hóa thành đài bằng hoa. Ở bên trong đài hoa, có chư Phật mười phương ngồi kiết già. Phương Đông, Đức Phật Thiện Đức bảo đại chúng rằng: –Các ông phải biết rằng, ta nhớ thuở vô lượng đời quá khứ, có Đức Phật Thế Tôn hiệu là Bảo Uy Đức Thượng Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri… Khi Đức Phật đó ra đời, cũng như ngày hôm nay, Đức Phật nói pháp ba Thừa. Đức Phật đó có một vị Tỳ-kheo có chín người đệ tử. Vị ấy cùng với các đệ tử đi đến tháp Phật, lễ bái tượng Phật, thấy một tượng báu trang nghiêm cao lớn khả quan. Đã lễ bái xong, mắt nhìn kỹ tượng, nói kệ khen ngợi, rồi tùy theo tuổi thọ ngắn dài, họ đều qua đời. Sau khi qua đời, họ sinh vào cõi nước của Đức Phật Bảo Uy Đức Thượng Vương ở phương Đông. Họ bỗng nhiên hóa sinh ngồi kiết già trên hoa sen. Từ đây về sau, họ luôn luôn được gặp vô lượng các Đức Phật, ở chỗ các Đức Phật tịnh tu phạm hạnh và được biển các Tam-muội Niệm Phật. Được Tam-muội này rồi, các Đức Phật hiện tiền liền thọ ký cho họ, tùy ý làm Phật ở mười phương. Đức Phật Thiện Đức ở phương Đông chính là thân ta. Đức Phật Chiên-đàn Đức ở phương Nam, Đức Phật Vô Lượng Minh ở phương Tây, Đức Phật Tương Đức ở phương Bắc, Đức Phật Vô Ưu Đức ở phương Đông nam, Đức Phật Bảo Thí ở phương Tây nam, Đức Phật Hoa Đức ở phương Tây bắc, Đức Phật Tam Thừa Hạnh ở phương Đông bắc, Đức Phật Quảng Chúng Đức ở phương Trên, Đức Phật Minh Đức ở phương Dưới… Mười Đức Phật Thế Tôn như vậy do lễ tháp, một lần dùng kệ khen ngợi nên ở mười phương được thành Phật. Các vị Phật ấy đâu phải ai khác? Chúng ta là những vị Phật của mười phương đó. Những vị Phật mười phương từ trên không hạ xuống, phóng ra hàng ngàn ánh sáng, hiển hiện ánh sáng tướng Bạch hào của sắc thân, mỗi vị đều ngồi trên giường của Đức Phật Thích-ca, đều duỗi tay phải xoa đầu A-nan bảo rằng: –Này Pháp tử! Hòa thượng Thích-ca Mâu-ni thầy của ông, trăm ngàn khổ hạnh, vô số tinh tấn, cầu trí tuệ Phật, kết quả được thân này, sắc tướng tỏa ánh sáng mà Ngài vì ông diễn nói, ông hãy đem lời của Đức Phật giảng nói cho khắp trời, rồng, đại chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di ở đời vị lai về phép quán tưởng Phật và Tam-muội niệm Phật. Nói lời đó xong, các Đức Phật thăm hỏi sự sinh hoạt yên ổn của Đức Phật Thích-ca Văn. Thăm hỏi xong rồi, các Đức Phật phóng ra ánh sáng lớn đều trở lại cõi nước của chư Phật. Bấy giờ, đại chúng trong hội nhìn thấy cõi nước lớn nhỏ của các Đức Phật ở mười phương và các vị Bồ-tát rõ như ở trước gương sáng nhìn thấy mọi hình ảnh. Các loại hoa đã tung lên của Bồ-tát Tài Thủ, đang ở trên Bồ-tát Văn-thù, liền biến hóa thành đài báu bốn trụ. Bên trong đài ấy có bốn Đức Thế Tôn đã ngồi sẵn đó, phóng ra ánh sáng nơi thân, phương Đông - Phật A-súc, phương Nam - Phật Bảo Tướng, phương Tây - Phật Vô Lượng Thọ, phương Bắc - Phật Vi Diệu Thanh. Bốn Đức Thế Tôn dùng hoa sen vàng tung lên trên Đức Phật Thích-ca, hoa chưa đến bên trên Đức Phật đã hóa thành bức màn hoa, có vạn ức cánh. Trong mỗi cánh có trăm ngàn vị hóa Phật. Mỗi vị hóa Phật đều phóng ra ánh sáng, trong ánh sáng lại có vô số vị hóa Phật. Màn báu tạo thành rồi thì bốn Đức Phật Thế Tôn từ trên không hạ xuống ngồi trên giường của Đức Phật Thích-ca, khen rằng: –Hay thay! Hay thay! Chỉ Đức Phật Thích-ca Mâu-ni mới có thể vì chúng sinh xấu ác đời vị lai mà nói lên tướng ánh sáng Bạch hào của chư Phật ba đời, khiến cho các chúng sinh được diệt trừ tội lỗi. Sở dó vì sao? Vì, ta nhớ thuở xưa, đã từng ở chỗ Đức Phật Không Vương, xuất gia học đạo. Có bốn vị Tỳ-kheo cùng là đồng học, học tập chánh pháp của chư Phật ba đời. Do phiền não che lấp tâm tánh nên chẳng thể kiên trì giữ gìn kho báu Phật pháp, chúng ta tạo nhiều nghiệp bất thiện, phải bị đọa vào đường ác. Bấy giờ có tiếng trong hư không nói rằng: “Này bốn Tỳ-kheo các ông! Đức Như Lai Không Vương tuy đã Niết bàn, nhưng sự sai phạm của các ngươi chẳng phải là không cứu được! Nay các ông phải vào tháp quán tưởng Phật, so với Phật còn ở đời như nhau không khác.” Chúng ta theo tiếng nói trên không, vào tháp quán tưởng tướng Bạch hào giữa hai chân mày của tượng, liền nghó rằng: “Thân sắc quang minh của Đức Như Lai lúc còn tại thế so với tượng này nào có khác! Tướng Đại nhân của Đức Phật, nguyện xin tiêu trừ tội của con”. Nói lời đó xong, như núi lớn lở, họ gieo năm vóc xuống đất, sám hối các tội, quán tưởng vùng chân mày Đức Phật. Nhờ nhân duyên sám hối nên từ đó về sau, tám mươi ức a-tăng-kỳ kiếp, chẳng bị đọa vào đường ác, đời đời thường thấy chư Phật mười phương, ở chỗ các Đức Phật thọ trì Tam-muội Niệm Phật sâu xa. Được Tam-muội rồi, bốn vị Tỳ-kheo được các Đức Phật hiện tiền thọ ký. Ở phương Đông có đất nước tên là Diệu hỷ. Cõi ấy có Đức Phật hiệu là A-súc, chính là vị Tỳ-kheo thứ nhất. Ở phương Nam có đất nước tên là Hoan hỷ, có Đức Phật hiệu là Bảo Tướng, chính là vị Tỳ-kheo thứ hai. Ở phương Tây có đất nước tên là Cực lạc, có Đức Phật hiệu là Vô Lượng Thọ, chính là vị Tỳ-kheo thứ ba. Ở phương Bắc có đất nước tên là Liên hoa trang nghiêm, có Đức Phật hiệu là Vi Diệu Thanh, chính là vị Tỳ-kheo thứ tư. Lúc này, bốn vị Như Lai đều duỗi tay phải xoa đầu A-nan bảo rằng: –Này Pháp tử! Ông hãy đem lời nói của Đức Phật giảng nói lại cho khắp các chúng sinh đời vị lai! Nói lời này ba lần xong, các Đức Phật đều phóng ra ánh sáng, rồi trở về cõi nước của chư Phật. Hoa của Bồ-tát Tài Thủ đã tung lên đang trụ ở bên trên Tôn giả A-nan thì hóa thành đám mây hoa cùng khắp mười phương. Mỗi đám mây có vô số vị Hóa Phật đều duỗi cánh tay phải xoa đỉnh đầu A-nan, bảo rằng: –Này Pháp tử! Những hóa thân của các Đức Phật Như Lai cũng như của chúng ta như nhau không khác! Nay ông gần gũi nhìn thấy thì hãy phân biệt diễn nói cho tất cả chúng sinh đời vị lai, khiến cho các chúng sinh tu hành niệm Phật. Nếu người niệm Phật thì được thấy hóa Phật so với hôm nay không khác. Nếu có chúng sinh nghe lời của ông nói tức là thấy Phật, trừ được vô số tội lỗi. Bấy giờ, Bồ-tát Tài Thủ bạch Đức Phật rằng: –Bạch Thế Tôn! Con nhớ thuở vô lượng đời quá khứ, có Đức Phật Thế Tôn cũng hiệu là Thích-ca Mâu-ni. Sau khi Đức Phật đó diệt độ, có một vương tử tên là Kim Tràng, kiêu mạn, tà kiến, chẳng tin chánh pháp. Có vị Tỳ-kheo Thiện tri thức tên là Định Tự Tại bảo vương tử rằng: “Đời có tượng Phật được trang trí bằng mọi thứ châu báu, rất là đáng xem, vương tử có thể tạm vào tháp để quan sát hình tượng Đức Phật.” Vị vương tử đó theo lời nói của bạn lành vào tháp, quán tưởng tượng Phật. Thấy tướng tốt của tượng, vương tử bạch rằng: “Thưa Đại đức! Tượng Phật mà còn trang nghiêm thế này, huống là thân Phật chân thật.” Nói lời đó xong thì vị Tỳ-kheo bảo rằng: “Vương tử thấy tượng nếu chẳng thể lễ bái thì hãy xưng Nam-mô Phật.” Lúc đó, vị vương tử chắp tay, cung kính xưng: “Nam-mô Phật”, rồi trở về cung, giữ chánh niệm, nghó đến tượng Phật trong tháp. Tức thời, vào đêm sau, vương tử mơ thấy tượng Phật. Thấy được tượng Phật lòng rất vui mừng, vương tử lìa bỏ tà kiến, quy y Tam bảo, tùy theo tuổi thọ qua đời. Do công đức nhân duyên vào tháp, xưng “Nam-mô Phật” ngày trước nên luôn luôn được gặp chín trăm vạn ức na-do-tha Phật, ở chỗ các Đức Phật thường siêng năng tinh tấn, chứng được Tam-muội Niệm Phật sâu xa. Nhờ năng lực của Tam-muội nên được các Đức Phật hiện tiền thọ ký. Từ đó đến nay, qua trăm vạn a-tăng-kỳ kiếp chẳng bị đọa vào ba đường ác, cho đến ngày hôm nay đạt được Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm sâu xa. Vị vương tử lúc ấy chính là Tài Thủ ta hôm nay. Những vị Đại Bồ-tát như vậy… đông nhiều không lường đều nói về nhân duyên xưa, nương vào pháp niệm Phật mà đạt được, như kinh Bản Sinh đã nói. Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo các đại chúng rằng: –Ta nhớ thuở quá khứ, vô số kiếp, bấy giờ có Đức Phật hiệu là Chiên-đàn-khuất Trang Nghiêm Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, mười hiệu đầy đủ, ở trong núi Chư đức tại cõi Diêm-phù-đề. Ngài ở trong núi đó, xuất gia học đạo đủ trọn bảy kiếp, thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Lúc ấy, cõi đời đó có hai thiếu niên nghe học nhiều không chán, du hành khắp nước tham hỏi các Bà-la-môn. Có một vị Bà-la-môn tên là Lao-độ-xoa-già bảo rằng: “Này thiếu niên! Thế gian có Đức Phật hiệu là Chiên-đàn-khuất, hai người các ông nên đi đến chỗ đó mà cầu luận pháp nghóa.” Hai trưởng giả thiếu niên, một tên là Nhất Thiết Hỷ Kiến, người thứ hai tên là Dũng Mãnh Khải đều đến chỗ Đức Phật, đều đem hoa trời cùng tung lên Đức Như Lai. Lúc ấy, Đức Thế Tôn lặng yên thiền định, nhập vào Tam-muội vua trong các Tam-muội, thân tâm chẳng động, hiện ra sắc thân của tất cả chư Phật với vô số ánh sáng như kinh Bát-nhã ba-la-mật đã nói. Hai thiếu niên thấy sắc thân của Phật và thấy ánh sáng tức thời qua khỏi các tội sinh tử trong na-do-tha hằng hà sa số a-tăng-kỳ kiếp, luôn luôn được gặp vô lượng vô số trăm ngàn các Đức Phật, ở chỗ các Đức Phật tu hành Tam-muội niệm Phật sâu xa, hiện tiền được thấy các Đức Phật mười phương vì mình diễn nói pháp luân chẳng thoái chuyển. Vị thiếu niên thứ nhất đâu phải ai khác? Chính là Bồ-tát Di-lặc hôm nay! Vị đồng tử thứ hai chính là ta, Thích-ca Mâu-ni hôm nay! Ta cùng với các vị Bồ-tát của Hiền kiếp đã từng ở chỗ của Đức Phật Chiên-đàn-khuất trong quá khứ nghe biển các Tam-muội quán Phật biến hóa sắc thân của chư Phật đó. Do sức công đức nhân duyên đó nên vượt thoát tội sinh tử trong chín trăm vạn ức a-tăng-kỳ kiếp và ở Hiền kiếp này theo thứ lớp thành Phật mà sau cùng là Đức Như Lai Lâu Thí cũng ở nơi này nói Tam-muội Quán Phật. Đức Phật bảo A-nan rằng: –Tam-muội Quán Phật này chính là thuốc thang của tất cả chúng sinh phạm tội, là sự ủng hộ của người phá giới, là sự dẫn đường của kẻ lạc đường, là mắt của kẻ mù tối, là trí tuệ của người ngu si, là đèn của kẻ tối đen, là tướng dũng kiện trong giặc phiền não, là sự tự tại của các Đức Phật Thế Tôn. Đó là chỗ phát sinh của các đại Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm v.v… –A-nan! Ông hãy khéo giữ gìn thận trọng chớ quên mất! Quá khứ, vị lai, các Đức Phật ba đời…, những Đức Thế Tôn đó đều nói Tam-muội niệm Phật như vậy. Ta cùng với các vị Đại Bồ-tát của Hiền kiếp nhờ năng lực của Tam-muội Niệm Phật này nên được Nhất thiết trí, uy thần tự tại. Như vậy, vô lượng các Đức Phật trong mười phương đều do pháp này mà thành Chánh giác. Bấy giờ, Tôn giả A-nan nhờ thần lực của Đức Phật nên tự biết việc đời trước vô số kiếp, bạch Phật rằng: –Bạch Thế Tôn! Con nhớ vô số ức kiếp đời quá khứ, có Đức Phật Thế Tôn hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh với mười hiệu đầy đủ. Con ở cõi đời đó, thấy Đức Phật Như Lai phóng ra ánh sáng lớn. Ánh sáng ấy soi khắp các thế giới ở mười phương, đều tạo thành màu vàng. Trong mỗi ánh sáng có các vị Hóa Phật, con thấy vậy rồi, thân tâm hoan hỷ, xưng lên “Nam-mô Phật”. Từ đó về sau, con thường được gặp trăm ngàn các Đức Phật và nghe Phật nói pháp giống như rót nước đựng sang đồ chứa khác, con ghi nhớ, giữ gìn chẳng quên. Vậy nên hôm nay con được thấy Đức Thế Tôn, gần gũi cúng dường hầu hạ. Nói lời đó xong, Tôn giả A-nan nói các bài kệ tụng, khen ngợi sắc thân vi diệu của chư Phật. Bấy giờ, trong hư không có vô số Đức Phật đều hiện ánh sáng. Trong lỗ chân lông của từng thân, từng thân chư Phật đều hiện ra Hóa Phật giống như Phật Thích-ca Văn, đều bảo Tôn giả A-nan rằng: –Này Pháp tử! Nay ông hãy đem Tam-muội Quán Phật này vì tất cả đại chúng giảng nói rõ ràng, khiến cho các phàm phu gieo trồng nhân duyên được thấy Phật. Nói lời này xong, các vị Hóa Phật biến mất. Lúc ấy, vì chúc lụy việc này, Đức Thế Tôn đứng trong hư không, uy nghi tự tại, thực hiện mười tám pháp biến hóa, hiển hiện tất cả ánh sáng, bảo A-nan rằng: –Nếu có chúng sinh muốn quán tưởng Phật thì phải quán như vậy! Khi Đức Phật nói lời này, mười hai ức Thiên tử được Tam-muội Niệm Phật và được hiện tiền thọ ký.  <詞 id="112589572">Phẩm 9: QUÁN TƯỢNG Lúc bấy giờ, trong hội có vị Đại Bồ-tát tên là Di-lặc liền đứng dậy, sửa lại áo vai phải, đảnh lễ dưới chân Đức Phật, cởi chuỗi ngọc trên thân dâng lên Đức Như Lai, dùng hoa trân châu tung lên Đức Phật Thế Tôn và Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi. Số chuỗi ngọc đã tung ra tự nhiên vọt lên trụ trong hư không, hóa thành tám muôn ức đài báu. Trong mỗi đài có trăm ức Phật Thích-ca Văn, đều phóng ánh sáng, hiện sắc thân khắp nơi. Núi rừng sông biển, sắc đẹp của tất cả chúng sinh, các vì sao, mặt trời, mặt trăng, các núi Tu-di, những trời, rồng, thần và các cung điện cũng hiện ở trong đài ấy. Những vị Tiên năm thần thông, trăm ức chú thuật, chín mươi sáu phái ngoại đạo tà kiến, phương thuốc, kỹ nghệ khéo léo, văn chương, ca vịnh… đều ở trên một sợi lông hiển hiện đầy đủ. Uế dục tà kiến của thế gian mà chúng sinh mong được thấy cũng đều ở trong ánh sáng ấy tự vọt ra địa ngục, súc sinh, các A-tu-la, tám nạn, bốn điên đảo, những việc chẳng lành, thọ quả báo tốt, xấu… cũng ở tướng này tự được hiểu biết. Hoa ngọc tung lên trụ bên trên Đức Phật hóa thành hàng trăm ức ánh sáng màu trắng. Hoa ngọc ở bên trên ngài Văn-thù hóa thành hàng trăm ức ánh sáng màu sắc vi diệu. Những ánh sáng này đan xen lẫn nhau như những vua rồng lớn cuộn quấn thân hướng vào nhau. Trong mỗi ánh sáng có năm ức ánh sáng báu như y Tăng-già-lê cắt rời rõ ràng, rồi dùng ánh sáng màu vàng may lại cho liền vào nhau. Chỗ đường may, sinh ra bốn hoa báu. Trong mỗi hoa có Bồ-tát của Hiền kiếp ngồi kiết già. Chư Phật mười phương và các vị Hóa Phật ngồi trên hoa sen báu vì các vị Đại Bồ-tát của Hiền kiếp này nói Tam-muội Ban-chu sâu xa, cũng khen ngợi Tam-muội Quán Phật tối sơ nhân duyên duy vô và định Niệm Phật cảnh giới kim cang thí. Nói pháp đó xong, các Đức Như Lai này đều duỗi tay phải xoa đỉnh đầu Tôn giả A-nan, bảo rằng: –Này Pháp tử! Nay ông nên khéo giữ gìn lời nói của Phật cẩn thận chớ quên mất. Bấy giờ, Bồ-tát Di-lặc bạch Phật rằng: –Bạch Thế Tôn! Nguyện xin Đấng Thiên Tôn đại Từ đại Bi thương xót tất cả chúng sinh tạo nghiệp bất thiện trong đời vị lai, khi Đức Phật chẳng còn hiện tại thì nương cậy vào đâu để có thể trừ diệt tội lỗi? Đức Phật bảo Di-lặc rằng: –Này A-dật-đa! Hãy lắng nghe! Lắng nghe! Suy nghó cẩn thận! Sau khi Như Lai diệt độ, có nhiều chúng sinh do chẳng thấy Phật nên làm các điều ác. Những người như vậy phải bảo họ quán tưởng hình tượng Phật. Nếu người quán tưởng hình tượng thì so với sự quan sát thân ta như nhau không khác. Khi Phật nói lời đó, trong hư không, có hoa và chư Phật ở mười phương đứng giữa hư không, vòng tay, chắp tay khen ngợi rằng: –Hay thay! Này Phật tử! Ông khéo hỏi việc này! Chỉ có Đức Thích-ca Văn mới cứu khổ cho đời và vì các chúng sinh mù tối sau rốt mà nói pháp Quán tưởng tượng Phật. Hôm nay chính đã đúng thời, cẩn thận chớ nghi ngờ, nghó ngợi. Bồ-tát Di-lặc một lần nữa ân cần thỉnh Đức Thế Tôn nói pháp Quán tượng. Bấy giờ, Đức Thế Tôn phóng ánh sáng như thường lệ soi chiếu tinh xá Ni-câu-lâu-đà và các cõi nước mười phương, tất cả đều trở thành màu vàng. Do thần lực của Đức Phật nên khiến cho đất màu vàng chia làm hai phần. Trong mỗi phần có năm trăm ức Phật từ thế giới phương dưới, vọt lên đứng giữa hư không, chắp tay khen ngợi Đại Bồ-tát Di-lặc rằng: –Hay thay! Này Phật tử! Chỉ ông mới có thể thương xót chúng sinh đời vị lai sinh vào thời mạt pháp mà thỉnh cầu Đức Thế Tôn nói pháp Quán Tượng! Các vị Hóa Phật nói lời này xong, vọt thân lên hư không, thực hiện mười tám pháp biến hóa. Đức Phật Thích-ca Văn liền mỉm cười. Khi cười, từ trong miệng sinh ra hoa sen lớn. Hoa ấy có ánh sáng như tập họp hàng trăm ức mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Ở vùng mặt trời, mặt trăng và sao ấy có hàng trăm ức vị Hóa Phật ngồi kiết già trên giường Sư tử. Lúc ấy, Đức Phật Thích-ca Văn bảo Bồ-tát Di-lặc rằng: –Hãy lắng nghe! Lắng nghe! Suy nghó kỹ càng! Như Lai hôm nay vì chúng sinh năm đường khổ đời vị lai như: Tỳ-kheo phạm Giới cấm, người ác tạo tội ngũ nghịch, bài báng, người tạo mười sáu luật nghi ác… ta vì những người như vậy nói pháp trừ tội. Khi ấy, Tôn giả A-nan bạch Đức Phật rằng: –Bạch Thế Tôn! Sau khi Đức Phật vào Niết-bàn, những người ngu này không chỗ nương tựa, không chỗ quay về thì làm sao Đức Như Lai nói pháp trừ tội. Đức Phật bảo A-nan rằng: –Ông đối với Phật pháp, lòng chưa thông giải đầy đủ. Như ta còn tại thế thì người nương theo ta gọi là quy y Phật, gọi là quy y Pháp, gọi là quy y Tăng. Sau khi Phật diệt độ, ở trong đời xấu ác, các chúng sinh muốn tiêu trừ tội lỗi, muốn ở ngay đời hiện tại được Tu-đà-hoàn cho đến A-la-hán, muốn phát tâm Bồ-đề, muốn hiểu rõ được mười hai nhân duyên… thì phải siêng tu tập Tam-muội Quán Phật. Tôn giả A-nan bạch Đức Phật rằng: –Bạch Thế Tôn! Đức Như Lai còn ở đời, chúng sinh nhìn thấy ngài mà quan sát tướng tốt của Đức Phật, quan sát ánh sáng của Đức Phật còn chẳng rõ ràng, huống là sau khi Đức Phật diệt độ. Đức Phật chẳng còn hiện tại thì phải quán ra sao? Đức Phật bảo A-nan rằng: –Sau khi Phật diệt độ, hiện tiền không có Phật thì phải quán tưởng hình tượng Phật. Quán tượng Phật là nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, trời, rồng, tám bộ, tất cả chúng sinh muốn quán tưởng hình tượng Phật thì trước hết vào tháp Phật dùng bùn hương thơm và đất nung tô bồi nền đất cho sạch, rồi tùy theo sức, có thể đốt hương, tung hoa cúng dường tượng Phật và nói lên việc ác đã tạo, đảnh lễ Phật, sám hối. Điều phục tâm như vậy từ một đến bảy ngày, rồi lại đến trong chúng bồi đắp, quét dọn đất của Tăng chúng, trừ các phân dơ và hướng về chúng Tăng mà sám hối, đảnh lễ dưới chân chúng Tăng. Lại trải qua bảy ngày, cúng dường như vậy, lòng chẳng mệt chán. Nếu là người xuất gia thì nên tụng Tỳ-ni cho hết sức thông lợi, nếu là người tại gia thì hiếu dưỡng cha mẹ, cung kính sư trưởng. Rồi điều phục tâm cho thuần thục, nếu tâm chẳng thuần thục thì phải chế ngự mạnh mẽ khiến cho tâm điều thuận, như điều phục voi, ngựa chẳng để cho mất sự chế ngự. Tâm đã nhu thuận rồi thì ở nơi vắng lặng, đốt các loại hương thơm, đảnh lễ Đức Phật Thích-ca Văn, nói lên rằng: “Nam-mô Đại Đức Hòa Thượng của con, Ứng Cúng Chánh Biến Tri Đại Bi Thế Tôn! Nguyện dùng mây lành che chở hộ trì đệ tử!” Nói lời đó xong, năm vóc gieo xuống đất, khóc lóc rơi lệ trước tượng. Rồi đứng dậy chỉnh đốn y phục, ngồi kiết già, giữ chánh niệm. Tùy theo chúng sinh, hoặc giữ tâm ở đầu mũi, hoặc giữ tâm ở trên trán, hoặc giữ tâm ở ngón chân… Đủ loại như vậy, hành giả tùy ý giữ chánh niệm chuyên đặt vào một chỗ, chớ để chạy tán loạn khiến cho tâm dao động. Tâm nếu dao động thì cất lưỡi chống vòm miệng, ngậm miệng, nhắm mắt, vòng tay ngồi ngay thẳng, từ một ngày đến bảy ngày, khiến cho thân được yên ổn. Thân yên ổn rồi sau đó mới quán tưởng hình tượng Phật. Người ưa quán tưởng ngược thì từ ngón chân của tượng quán lên. Đầu tiên quán ngón chân là giữ tâm cho chuyên chú, duyên vào ngón chân của Phật trải qua bảy ngày, khiến cho nhắm mắt, mở mắt đều thấy rõ ràng ngón chân của tượng vàng. Dần dần tiếp đến lại quán lên hai mu bàn chân làm cho thấy rõ ràng. Tiếp theo quán đến đùi nai chúa… Tâm đã chuyên chú rồi thì theo thứ lớp quán đến nhục kế trên đỉnh đầu. Từ nhục kế, quán tưởng mặt, nếu chẳng sáng tỏ thì lại sám hối nữa, thêm tự khổ công sách tấn mình. Do giới thanh tịnh nên thấy mặt tượng Phật như tấm gương vàng ròng rõ ràng phân minh. Quán tưởng như vậy rồi, quán tưởng sợi lông giữa hai chân mày như ngọc pha lê uyển chuyển xoắn về bên phải. Khi tướng này hiện thì hành giả thấy lông mày, mắt của Phật như bức họa của họa só của cõi trời. Thấy việc đó rồi thì hành giả tiếp theo quán tưởng ánh sáng đỉnh đầu cho rõ ràng. Quán các tướng như vậy gọi là quán ngược. Quán thuận tượng là quán từ vùng hoa văn tóc xoăn trên đỉnh đầu Đức Phật. Mỗi hoa văn tóc xoăn, để tâm quán tưởng kỹ càng, khiến cho tâm thấy rõ ràng từng hoa văn tóc xoăn của Đức Phật giống như tơ đen uyển chuyển xoắn về bên phải. Tiếp theo quán tưởng mặt Đức Phật. Quán mặt Phật rồi thì quán tưởng đầy đủ thân, dần dần xuống đến chân. Như vậy, qua lại đến mười bốn lần, quán tưởng kỹ càng một tượng cho thật tỏ rõ. Quán một tượng thành rồi thì dù xuất định hay nhập định, hành giả luôn luôn thấy tượng đứng trước mặt mình. Thấy một tượng rõ ràng lại quán tưởng đến hai tượng. Thấy hai tượng rồi, tiếp theo quán tưởng đến ba tượng… cho đến quán tưởng mười tượng đều thấy rõ ràng. Thấy mười tượng rồi, hành giả quán tưởng bên trong một nhà chứa đầy tượng Phật, không còn một chỗ trống. Quán đầy một nhà tượng Phật rồi, hành giả lại tinh tấn đốt hương, tung hoa, quét tháp, tô đường, dâng nước tắm gội cho chúng Tăng…. Vì cha mẹ, sư trưởng xoa bóp điều hòa thân, tắm gội thân thể, xoa dầu lên chân… đi bốn phương xin ăn, được món ăn ngon thì dâng lên sư trưởng, phân ra phụng dưỡng cha mẹ. Thực hành hạnh đó xong, hành giả phát đại thệ nguyện rằng: “Con nay quán tưởng Đức Phật, bằng công đức này, con chẳng nguyện cầu làm người trời, Thanh văn, Duyên giác mà chính là muốn chuyên cầu đạo Bồ-đề của Phật.” Phát nguyện đó rồi, nếu hành giả thật hết lòng cầu Đại thừa thì phải tu hành sám hối, tu hành sám hối rồi tiếp theo thỉnh Phật, thỉnh Phật rồi tiếp theo tu hành tùy hỷ, tu hành tùy hỷ rồi tiếp theo hồi hướng, hồi hướng rồi tiếp theo phát nguyện. Phát nguyện rồi, hành giả ngồi ngay thẳng, giữ niệm trước mặt, quán tưởng cảnh giới của Phật khiến cho to rộng dần thành tượng Phật đầy trong một tăng phường mà mỗi tượng đều cao lớn một trượng sáu, dưới chân có hoa sen, vừng ánh sáng tròn một tầm và ánh sáng thân như tướng lửa sáng ma-ni cùng những vị Hóa Phật và thị giả của Hóa Phật… mọi màu sắc của ánh sáng trở nên tỏ rõ. Quán Phật trong một Tăng phường rồi thì khiến cho lòng lại mở rộng đến trong khoảnh đất chứa đầy tượng Phật. Sự quán tưởng này thành rồi thì tâm được yên ổn, thân thể an lạc. Nếu hành giả dừng tâm tưởng nhạy bén thì thấy tượng Phật đầy trong một vùng đất với hương hoa, đồ cúng và các cờ phướn đều đi theo tượng. Do tâm nhạy bén nên bên trái bên phải, đàng trước, đàng sau đều thấy tượng đi. Rồi tâm rộng lớn dần dần, hành giả thấy tượng Phật đầy trong hàng trăm khoảnh đất, nhắm mắt mở mắt đều khiến cho tâm quán tưởng. Tưởng tưởng chẳng dứt, tâm tâm nối nhau như khát nghó đến uống. Sự quán tưởng này thành rồi thì hành giả thấy tượng Phật đầy trong một do-tuần, dần dần xa rộng thêm một trăm do-tuần, thấy ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp phụ kèm theo của tất cả tượng đều rực sáng lên. Tưởng này thành rồi thì hành giả quán tưởng hình tượng Phật đầy trong tám ngàn do-tuần của một cõi Diêm-phù-đề. Tưởng này thành rồi thì hành giả tiếp theo quán tưởng hình tượng Phật đầy trong tám ngàn sáu mươi do-tuần của cõi Phất-bà-đề ở phương Đông. Tưởng này thành rồi thì hành giả lại quán tưởng hình tượng Phật đầy trong tám ngàn chín trăm do-tuần của cõi Cù-da-ni ở phương Tây. Tưởng này thành rồi thì hành giả lại quán tưởng hình tượng Phật đầy trong một vạn sáu ngàn do-tuần của cõi Uất-đan-việt ở phương Bắc. Tưởng này thành rồi thì hành giả lại thấy xa rộng, thấy tượng Phật đầy trong một trăm cõi Diêm-phù-đề. Tưởng này thành rồi, hành giả lại thấy tượng Phật đầy trong một trăm ức bốn thiên hạ. Tưởng này thành rồi thì chỉ trừ khi ăn, trừ khi đại tiểu tiện, trong tất cả mọi lúc hành giả luôn luôn thấy tượng Phật, tượng Phật đầy trong hư không và trên mặt đất, các tượng thứ lớp xen nhau không chỗ trống. Niệm tưởng thành rồi, thân tâm hoan hỷ, càng thêm tinh tấn, hành giả đầu đội cung kính mười hai bộ kinh, đối với người nói pháp cung kính xem như bậc Đại sư, đối với Phật, Pháp, Tăng khởi tưởng xem như cha mẹ, khiến cho lòng điều hòa nhu thuận, chẳng khởi lên tưởng sân hận. Giả sử khi sân nhuế thì phải ở trước Bát-nhã ba-la-mật, năm vóc gieo xống đất, thành tâm sám hối. Như trên đã nói, hành giả theo năm pháp thứ lớp mà làm. Niệm tưởng thành rồi, hành giả nhắm mắt, vòng tay, ngồi thẳng nhập vào thiền định, lại khởi niệm tưởng xa hơn, thấy tất cả tượng Phật đầy trong các cõi khắp mười phương, thân toàn một màu vàng ròng, phóng ra ánh sáng lớn. Nếu ai phạm giới làm điều chẳng lành, do thân đời trước phạm giới nên thân đời nay thấy những tượng Phật hoặc đen hoặc trắng thì dùng pháp sám hối, tượng dần dần thấy hiện màu hồng, thấy màu hồng rồi dần dần thấy màu vàng. Thấy màu vàng rồi thì thân tâm hoan hỷ, cầu thỉnh các tượng Phật phóng ra ánh sáng. Khi khởi lên sự quán tưởng này, niệm tưởng linh lợi nên thấy tất cả tượng Phật, lỗ chân lông của toàn thân đều phóng ra ánh sáng. Mỗi ánh sáng có trăm ức màu sắc báu. Trong mỗi màu sắc có vô lượng màu sắc xen lẫn, các cảnh giới vi diệu đều từ đó vọt ra. Tưởng niệm này thành gọi là quán Lập tượng. Đức Phật bảo A-nan rằng: –Người quán tưởng như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán. Còn tướng khác hiện ra là cảnh giới khác sinh ra, phải mau chóng trừ diệt chúng. Người quán pháp quán đó thì tiêu trừ được tội sinh tử trong sáu mươi ức kiếp, cũng gọi là thấy Phật. Vào đời vị lai, nhờ tâm tưởng linh lợi nên hành giả gặp được một ngàn Đức Thế Tôn của Hiền kiếp. Vì những Hòa thượng ấy, hành giả ở trong Phật pháp lần lượt xuất gia. Ở mỗi chỗ Phật, người ấy thấy thân tướng Đức Phật rõ ràng phân minh, nghe Phật nói pháp nhớ giữ chẳng quên. Ở chỗ Đức Phật Quang Minh thuộc kiếp Tinh tú, hành giả được hiện tiền thọ ký. Lòng thô thiển quán tưởng tượng Phật mà còn được công đức vô lượng như vậy, huống là giữ chánh niệm quán tưởng ánh sáng tướng Bạch hào vùng chân mày của Đức Phật. Khi nói lời nói đó thì vua trời Đại phạm với vô lượng Phạm chúng đem các loại hoa cõi trời tung lên cúng dường Đức Thế Tôn. Họ cởi chuỗi ngọc trên thân dâng lên Đức Phật. Những hoa trời ấy như đám mây trụ giữa hư không, trên chỗ chuỗi ngọc, biến thành đài vàng. Ở trong đài vàng có ánh sáng màu vàng. Ánh sáng ấy biến thành tôn tượng của bảy Đức Phật với sắc tướng trang nghiêm vi diệu đều đầy đủ. Phạm vương Loa Kế quỳ gối chắp tay thỉnh cầu Đức Thế Tôn, bạch rằng: –Kính thưa Đức Như Lai Đại Bi thương các chúng sinh! Nguyện xin Như Lai vì chúng sinh mù tối đời sau mà diễn nói đầy đủ pháp quán tưởng hình tướng của tượng, khiến cho chúng sinh theo lời Đức Phật nói, luôn luôn được gặp các Đức Phật Thế Tôn, được Tam-muội Niệm Phật. Nhờ sức Tam-muội nên khiến cho các chúng sinh được xa lìa tội ác. Do tội diệt nên được thấy các Đức Phật. Đức Phật bảo Phạm vương rằng: –Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói! Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại vì những chúng sinh đời sau nên lại nói phép quán tưởng hình tượng Phật ngồi. Quán tưởng hình tượng ngồi là chí tâm giữ chánh niệm khiến cho đứng trước tượng thấy dưới chân tượng sinh ra hoa. Khi hoa này sinh ra thì hành giả phải khởi lên niệm tưởng khiến cho đại địa này trở thành màu vàng ròng, trở thành màu bảy báu, tùy theo sự quán tưởng mà hiện ra. Mỗi màu báu lấy vàng ròng làm giới hạn. Trong mỗi giới hạn sinh ra hoa sen báu. Khi khởi lên sự quán tưởng này thì có hoa sen báu ngàn cánh đầy đủ ứng theo tưởng niệm mà hiện ra. Đã thấy hoa rồi hành giả thỉnh các tượng Phật do ý tưởng sinh ra ngồi lên hoa báu. Khi các tượng ngồi thì đại địa tự nhiên phát ra ánh sáng trắng lớn như màu lưu ly trắng sạch tuyệt đẹp. Trong vùng ánh sáng trắng có trăm ức Bồ-tát trắng như núi Tuyết, từ trong lỗ chân lông của thân tượng hiện ra. Trong lỗ chân lông của thân mỗi Bồ-tát phát ra ánh sáng màu vàng. Ánh sáng ấy như núi vàng Diêm-phù-đàn với trăm ngàn màu vàng. Ánh sáng rực rỡ chẳng thể tính biết được, ứng theo niệm tưởng mà hiện ra. Trên đỉnh mỗi ngọn núi có một tượng cao lớn khả quan màu vàng Diêm-phù-đàn. Ánh sáng rực rỡ ấy soi chiếu làm cho các cõi ở mười phương đều trở thành màu vàng, thấy đất và hư không cũng trở thành màu vàng mà bên trong đầy các tượng vàng, ánh sáng vàng, táng che vàng, đài vàng, hoa vàng, phướn vàng. Hành giả thấy Bồ-tát toàn màu ngọc trắng, tay cầm phất trần trắng hay cầm hoa trắng thì phải khởi lên hết tưởng niệm làm cho tươi trắng. Nếu hành giả thấy còn tạp tưởng, cảnh giới khác hiện ra thì phải mau chóng diệt trừ. Nếu chẳng trừ diệt mà đuổi theo tưởng khác, vui mừng theo cảnh giới khác thì phát ra bệnh phong. Tưởng niệm Phật này chính là đại cam lộ lợi ích cho chúng sinh. Tam-muội Quán Phật như uống thuốc hay lợi ích cho bốn đại. Người uống thuốc này thì chẳng già chẳng chết. Đức Phật bảo A-nan rằng: –Nếu có chúng sinh muốn quán tượng ngồi thì quán tưởng như vậy. Người quán tưởng như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán. Nếu có chúng sinh quán tượng ngồi thì tiêu trừ được tội sinh tử trong năm trăm ức kiếp, đời vị lai được gặp một ngàn Đức Phật của Hiền kiếp. Qua khỏi Hiền kiếp rồi, trong kiếp Tinh Tú người ấy được gặp trọn số mười vạn các Đức Phật, ở chỗ mỗi Đức Phật đều thọ trì lời dạy của Phật, thân tâm yên ổn chẳng hề lầm lẫn rối loạn, được mỗi Đức Thế Tôn thọ ký hiện tiền, qua vô số kiếp được thành Phật. Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo A-nan rằng: –Nếu chúng sinh nào quán tượng ngồi rồi thì phải quán tượng đi. Quán tượng đi là thấy tượng Phật đi đầy trong mười phương thế giới. Hành giả thấy trong hư không và trên đất tất cả tượng đều đứng dậy. Khi mỗi tượng đứng dậy thì có năm trăm ức hoa báu hiện ra. Trong mỗi hoa có vô số ánh sáng. Trong mỗi ánh sáng có vô số vị Hóa Phật theo tâm tưởng hiện ra. Tượng ngồi đứng dậy, trong khoảng thời gian chưa đứng dậy, khi thân đang cử động thì sợi lông xoắn trắng vùng chân mày duỗi ra ngắn dài giống như Đức Phật đang thật sự phóng ra ánh sáng trắng làm cho trăm ngàn màu sắc ánh lên ánh sáng vàng đẹp đẽ. Trong những ánh sáng trắng xen vô số tượng bạc, thân màu bạc trắng, ánh sáng bạc, hoa bạc, táng che bạc, phướn bạc, đài bạc… tất cả đều bằng bạc. Lúc đó, các tượng vàng cùng tượng bạc cử động sắp đứng dậy thì trong rốn các tượng đều sinh ra hoa sen. Trong hoa sen ấy vọt ra vô số trăm ngàn vị Hóa Phật. Mỗi vị Hóa Phật phóng ra ánh sáng vàng soi chiếu thân của hành giả. Lúc đó là lúc hành giả vào định tự thấy nước bẩn ba mươi sáu vật của thân mình, chẳng sạch. Khi bất tịnh hiện thì hành giả phải mau chóng diệt trừ mà nghó rằng: “Các Đức Phật ba đời, thân tâm thanh tịnh, ta nay học theo Pháp thân chân tịnh của Đức Phật, sự bất tịnh này xem ra từ tham ái phát sinh, hư ngụy chẳng thật thì ta theo sự quan sát-này làm gì?” Khởi ý niệm đó rồi, hành giả phải tự quán thân, khiến cho các việc bất tịnh biến thành ngọc trắng. Tự thấy thân mình như cái bình bạch ngọc, trong ngoài đều rỗng không. Khi khởi sự quán tưởng đó thì phải uống thuốc sữa chớ khiến thân trống rỗng. Khi tưởng này thành rồi, các tượng đều đứng dậy như đứng trước mặt hành giả. Khi thấy tượng đứng, hành giả phải khởi tưởng niệm mời thỉnh tượng đi. Tượng đã đi rồi thì trong từng bước từng bước, dưới chân mọc ra hoa, rồi biến thành đài hoa sen. Hành giả thấy trong cõi mười phương đầy các tượng đi, đồ cúng dường, âm nhạc, chư Thiên đại chúng cung kính vây quanh. Tượng đi phóng ra ánh sáng soi chiếu đại chúng khiến tất cả đều trở thành màu vàng. Tượng bạc phóng ra ánh sáng soi các đại chúng đều trở thành màu bạc. Bồ-tát ngọc trắng phóng ra ánh sáng ngọc trắng khiến cho các đại chúng đều trở thành màu ngọc trắng. Các tượng nhiều màu sắc phóng ra ánh sáng nhiều màu ánh chói đẹp vùng ấy. Sự quán tưởng này thành rồi, hành giả lại khởi lên tưởng niệm thỉnh các tượng đang đi đều dùng tay xoa đầu mình. Bấy giờ, các tượng đều duỗi tay phải xoa đầu hành giả. Lúc đó, mọi tượng đều phóng ra ánh sáng lớn chiếu vào thân hành giả. Khi ánh sáng chiếu vào thân, hành giả thấy thân mình có màu vàng ròng. Sự quán tưởng này thành rồi, hành giả ra khỏi định, vui mừng, lại chí tâm kính lễ các Đức Phật, tu các công đức và đem công đức đó hồi hướng đạo Bồ-đề. Bấy giờ, hành giả lại phải khởi lên tưởng niệm rằng: “Ta nay tưởng niệm, thấy nhiều tượng vàng đi, ngồi tùy ý mà chưa thấy thần thông.” Hành giả khởi tưởng niệm thỉnh các tượng đang đi và tượng Bồ-tát làm mười tám phép biến hóa. Ứng theo niệm tưởng, các tượng liền thực hiện mười tám phép biến hóa. Hành giả thấy đầy trong mười phương tất cả các tượng, vọt thân lên không trung làm mười tám phép biến hóa, uy thần tự tại, hiện sắc thân khắp nơi. Thấy rồi, hành giả vui mừng, thỉnh tất cả các tượng chuyển bánh xe pháp. Ứng theo niệm tưởng, tức thời tất cả các tượng, khác miệng đồng thanh, khen ngợi sự trì giới, khen ngợi sự niệm Phật. Niệm tưởng nghe điều này rồi, lòng rất vui mừng, hành giả lại càng thêm tinh tấn. Do tinh tấn nên tâm tưởng được thành. Khi tâm tưởng thành thì hành giả thấy ở các cõi khắp mười phương, tất cả đất đai, sông núi, vách đá… đều biến hóa thành đất kim cương. Trên đất kim cương vọt ra ánh sáng trắng. Ở trong các ánh sáng trắng có vô số vị hóa Phật ngồi trên hoa sen báu. Mỗi vị hóa Phật phóng ra vô số ức trăm ngàn ánh sáng. Mỗi ánh sáng lại hóa ra vô số trăm ngàn vị Hóa Phật. Khi tưởng này hiện thì hành giả thấy những lỗ chân lông của thân mình phát ra ánh sáng màu vàng soi khắp tất cả. Nếu cảnh giới khác khởi lên thì phải mau chóng diệt trừ. Nếu tâm tưởng này nhanh chóng như gió mạnh thì trong giây lát, hành giả thấy vô số vị Hóa Phật. Tâm hành giả linh lợi như người mắt sáng cầm gương pha lê tự xem hình dáng mặt của mình. Hành giả quán tượng cũng vậy. Niệm tưởng này thành rồi, hành giả phải khởi ý niệm rằng: “Các Đức Phật Thế Tôn trụ ở Đại tịch diệt, thân tâm thanh tịnh, không lại không đi! Như thân ta đây là do bốn đại, năm uẩn cùng hợp thành như trong thân cây chuối, không hề chắc thật, như bọt trên mặt nước, như trăng đáy nước, như hình ảnh trong gương, như dợn nắng, như thành Càn-thát-bà. Khởi niệm tưởng đó rồi, các tượng liền diệt, có ánh sáng màu vàng hiện ra. Ở vùng ánh sáng vàng có ảnh Phật vàng như hình dáng trong gương, hiển hiện tất cả hình sắc trong bốn oai nghi đi, đứng, ngồi, nằm. Khi niệm tưởng này thành, hành giả phải nghó đến thân trì giới của Như Lai. Khi nghó thân trì giới thì hành giả thấy ánh sáng vùng chân mày của ảnh chư Phật giống như sợi tơ trắng từ không trung thanh tịnh đến trước hành giả. Hành giả thấy rồi, phải nghó rằng: “Đức Thích-ca Mâu-ni Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đời quá khứ đã dùng đại giới thân mà tự trang nghiêm. Vậy nên ngày nay ngài được Giới, Định, Tuệ, Giải thoát, Giải thoát tri kiến!” Khi tác khởi niệm tưởng đó thì Đức Phật Thích-ca Văn ngồi trong hang lưu ly, thân màu vàng tía, trang nghiêm vi diệu cùng với những đại chúng Tỳ-kheo Bồ-tát làm quyến thuộc trụ ở trước mặt hành giả mà bảo rằng: “Này Pháp tử! Ông tu lực Tam-muội quán Phật nên ta dùng năng lực tướng Niết-bàn thị hiện sắc thân cho ông khiến cho ông quan sát kỹ càng. Nay ông ngồi thiền chẳng được quan sát nhiều. Người đời sau làm nhiều việc ác, chỉ cần quán ánh sáng tướng Bạch hào vùng lông mày. Khi khởi sự quán tưởng này thì được thấy cảnh giới như đã nói trên.” Bấy giờ, hành giả một niệm tình cũng không tham đắm, lòng rất vui mừng, tức thời đạt được Tam-muội niệm Phật. Người đạt Tam-muội niệm Phật thì thấy sắc thân Đức Phật rõ ràng phân minh, cũng thấy tất cả cảnh giới của tâm Phật như trên đã nói “quán tâm Phật”, cũng thấy tất cả ánh sáng của thân Phật như trên đã nói “quán ánh sáng thân Phật”, cũng thấy tất cả lỗ chân lông thân Phật, mỗi lỗ chân lông đều mọc ra tám muôn bốn ngàn hoa sen. Trong mỗi hoa có tám muôn bốn ngàn vị Hóa Phật, từng vị Phật từng vị Phật tiếp nhau đầy các thế giới khắp mười phương. Bấy giờ, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni liền duỗi cánh tay phải ra xoa đỉnh đầu hành giả. Tất cả các vị Hóa Phật cũng duỗi tay phải xoa đỉnh đầu hành giả. Được sự quán tưởng này gọi là Tam-muội Phật hiện tiền, cũng gọi là Tam-muội Niệm Phật, cũng gọi là Tam-muội Quán Phật sắc thân. Lúc ấy, các Đức Phật, khác miệng đồng lời, đều vì hành giả nói pháp. Tuy chưa đắc đạo nhưng thấy Phật, nghe pháp Tổng trì chẳng mất thì đây gọi là Tam-muội Niệm Phật của phàm phu. Người được Tam-muội này thì từng sát-na luôn luôn thấy các Đức Phật, trong từng niệm đều nghe Phật nói pháp. Như là kinh điển Đại thừa Phương đẳng chỉ trong một ngày một đêm liền được hiểu thông suốt. Cha mẹ sinh ra thân trong đời xấu ác phiền não nhưng nhờ niệm Phật nên được nghe Tổng trì, sau khi qua đời khác nhất định được thấy Phật, ở chỗ các Đức Phật được ngàn vạn ức Đà-la-ni Toàn. Được Đà-la-ni rồi thì tám mươi ức Đức Phật đều duỗi tay phải xoa đầu hành giả. Tất cả các Đức Phật đều nói lời thọ ký rằng: “Ông niệm Phật nên qua kiếp Tinh tú sẽ được thành Phật thân tướng có ánh sáng so với ta không khác.” Nói lời đó xong, tám mươi ức Đức Phật cùng một lúc phóng ra ánh sáng. Trong ánh sáng lại có vô lượng vị Hóa Phật mà mỗi vị đều nói lời đó. Đức Phật bảo A-nan rằng: –Như vậy, mọi pháp gọi là pháp quán tượng. Như khi quán tượng, hành giả tự sẽ có vô lượng trăm ngàn những cảnh giới thù thắng. Người quán như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán. PHẬT thuyết QUÁN PHẬT TAM-MUỘI HẢI KINH <卷 id="112589573">Quyển 10 <詞 id="112589574">Phẩm 10: NIỆM BẢY ĐỨC PHẬT Đức Phật bảo A-nan rằng: –Nếu có chúng sinh tâm quán tượng thành tựu thì tiếp đến phải lại quán tưởng tượng bảy Đức Phật đời quá khứ. Người quán tưởng bảy Đức Phật phải siêng tinh tấn, ngày đêm sáu thời siêng tu hành sáu pháp, ngồi ngay thiền định, phải ít nói, trừ khi đọc tụng kinh, diễn giải giáo pháp, nhất định chẳng nói lời vô nghóa, thường nghó đến các Đức Phật, tâm tâm tiếp nối nhau thậm chí không có một niệm nào mà chẳng thấy Phật. Do tâm chuyên chú nên chẳng lìa khỏi mặt trời Phật. Thuở quá khứ xa xưa có Đức Phật Thế Tôn hiệu là Phật Tỳ-bà-thi, thân cao lớn sáu mươi do-tuần. Vầng ánh sáng tròn của Đức Phật ấy rộng đến một trăm hai mươi do-tuần, thân màu vàng ròng với tám muôn bốn ngàn tướng. Trong mỗi tướng có tám muôn bốn ngàn vẻ đẹp. Trong mỗi vẻ đẹp có vô số ánh sáng vàng. Trong mỗi ánh sáng có các Hóa Phật nhiều như cát sông Hằng. Mỗi vị Hóa Phật có ánh sáng màu nhiều như cát sông Hằng. Trong mỗi ánh sáng có vô số các trời, Thanh văn Tỳ-kheo, đại chúng Bồ-tát làm thị giả. Mỗi vị đều cầm một cành hoa báu lớn. Trên hoa đều có hàng trăm ngàn ức lưới báu ma-ni rực rỡ. Lưới ngọc rực rỡ tiếp theo nhau cao đến một trăm ngàn trượng dùng làm ánh sáng của Phật. Lúc đó thân Phật càng thêm sáng rỡ như hàng trăm ngàn mặt trời chiếu soi núi vàng ròng. Ánh sáng rực rỡ tỏa lên, có các Hóa Phật nhiều vô số. Mỗi vị Hóa Phật giống như hàng trăm ức mặt trời, mặt trăng xuất hiện, khiến cho hành giả thấy Đức Phật Tỳ-bà-thi sửa lại áo vai phải, đưa ra cánh tay vàng, xoa đỉnh đầu hành giả mà bảo rằng: “Này Pháp tử! Ông tu hành Tam-muội Quán Phật, được tâm niệm Phật nên ta đến làm chứng cho ông! Ông nay có thể quan sát sắc thân chân thật của ta. Ông hãy tuần tự theo từng tướng mà quán tưởng. Ông phải chí tâm lập lời thề Kim cương! Chúng ta thuở xa xưa khi làm Phật đạo so với ông không khác gì.” Bấy giờ, Đức Phật Tỳ-bà-thi an ủi hành giả rồi, tức thời hóa ra hoa sen báu lớn như núi Tu-di. Đức Phật ngồi kiết già trên hoa vì hành giả giảng nói niệm Phật, niệm Pháp và nói hàng trăm ức Đà-la-ni Toàn. Hành giả thấy rồi, càng vô cùng hoan hỷ, kính lễ Đức Phật. Đức Phật bảo rằng: “Nếu có chúng sinh nghe tên ta, lễ bái ta thì tiêu trừ được tội sinh tử trong năm trăm ức kiếp. Ông nay thấy được ta thì tiêu trừ được các chướng ngại, được vô lượng ức Đà-la-ni Toàn, ở đời vị lai sẽ được làm Phật. Đức Phật bảo A-nan rằng: –Lúc ấy, hành giả thấy Đức Phật Tỳ-bà-thi, lòng vui mừng nên ta cùng sáu Đức Phật hiện ra ở trước mặt người ấy. Đức Phật Tỳ-bà-thi ngồi trên tòa vì Pháp tử này giảng nói Tam-muội Niệm Phật. Đức Thế Tôn Thi-khí, thân lớn bốn mươi hai do-tuần, thân màu vàng tía, vừng hào quang tròn rộng bốn mươi lăm do-tuần, ánh sáng toàn thân tỏa ra một trăm do-tuần. Trong lưới ánh sáng ấy có vô số vị Hóa Phật và các đại chúng Bồ-tát, Thanh văn, chư Thiên làm quyến thuộc vây quanh, đi theo sau Đức Phật, uyển chuyển xoay quanh về bên phải. Lúc đó, hành giả thấy Đức Phật Thi-khí lại càng tăng thêm vô lượng môn Đà-la-ni, lại càng được thấy thêm trăm ngàn vô số vị Hóa Phật. Vào đời vị lai qua vô số kiếp, ở trong khoảng thời gian ấy hành giả luôn luôn được gặp các Đức Phật Thế Tôn và sinh vào nhà Bồ-tát.” Khi nói lời đó, lại có vô số trăm ngàn vị Thiên tử nghe được, tất cả đều thấy sắc thân Đức Phật đoan nghiêm vi diệu. Đồng thời họ đều phát tâm Tam-bồ-đề. Đức Thế Tôn Tỳ-xá, toàn thân phóng ra ánh sáng ở trước mặt hành giả. Thân Đức Phật ấy lớn ba mươi hai do-tuần, vầng sáng tròn rộng bốn mươi hai do-tuần, ánh sáng toàn thân tỏa ra sáu mươi hai do-tuần, thân màu vàng tía, tướng ánh sáng uy nghiêm như vị Phật trước không khác. Hành giả thấy Đức Phật này rồi, lại càng tinh tấn tu các môn Đà-la-ni Tam-muội, vào đời vị lai nhất định sẽ sinh vào nhà của chư Phật, chẳng có gì trở ngại. Đức Phật Câu-lưu-tôn cũng phóng ra ánh sáng ở trước mặt hành giả. Thân Đức Phật ấy lớn hai mươi lăm do-tuần, vừng sáng tròn rộng ba mươi hai do-tuần, ánh sáng toàn thân tỏa ra năm mươi do-tuần, tướng tốt đầy đủ như núi vàng tía. Người thấy Đức Phật này thì thường sinh vào cõi nước thanh tịnh, chẳng ở trong bào thai, lúc sắp qua đời, các Đức Phật Thế Tôn nhất định đến nghênh tiếp. Đức Phật Câu-na-hàm Mâu-ni phóng ra ánh sáng lớn ở trước mặt hành giả. Thân Đức Phật ấy lớn hai mươi do-tuần, vừng sáng tròn rộng ba mươi do-tuần, ánh sáng toàn thân tỏa ra bốn mươi do-tuần, tướng tốt ánh sáng đầy đủ. Người thấy Đức Phật này thì liền được trăm ức các môn Tam-muội, vô số môn Đà-la-ni. Nếu khi xuất định thì thường được Tam-muội chư Phật hiện tiền, Tam-muội này là chứng minh cho hành giả; sở dó gọi là Tam-muội Chư Phật hiện tiền là vì người được Tam-muội này, dù xuất định hay nhập định, đi, đứng, ngồi, nằm, luôn luôn được nhìn thấy tất cả các Đức Phật, vì chư Phật hiện ra sắc thân vi diệu trước mặt người ấy. Đức Thế Tôn Ca-diếp phóng ra ánh sáng lớn ở trước mặt người ấy. Thân Đức Phật ấy lớn mười sáu trượng, thân màu vàng tía, tướng tốt đầy đủ. Người thấy Đức Phật này, được Tam-muội Tịch diệt quang vô ngôn tướng, vào đời vị lai, luôn luôn được ở trong biển Tam-muội Đại không. Đức Phật Thích-ca Mâu-ni thân một trượng sáu, phóng ra ánh sáng vàng tía, ở trước mặt hành giả. Đức Thế Tôn Di-lặc, thân lớn mười sáu trượng… Như vậy chư Phật đều nhập vào Tam-muội Phổ hiện sắc thân để thị hiện trước mặt người ấy, khiến cho hành giả, tâm được hoan hỷ. Do hoan hỷ nên các vị Hóa Phật đó đều duỗi tay phải xoa đỉnh đầu hành giả. Hành giả thấy bảy Đức Phật rồi, thấy đến Đức Di-lặc; thấy Đức Di-lặc rồi, thấy Bồ-tát của Hiền kiếp, thấy từng vị từng vị theo thứ lớp cho đến Đức Lâu-chí. Các vị ấy đều phóng ra ánh sáng trụ ở trước mặt hành giả. Một ngàn vị Bồ-tát, mỗi vị đều khen ngợi Tam-muội Niệm Phật và vì hành giả diễn nói tâm tánh của các Bồ-tát, diễn nói sự giải thoát của các Bồ-tát, diễn nói tuệ của các Bồ-tát. Đó gọi là nhờ quán tưởng hình tượng mà tâm được Tam-muội Niệm Phật. Đức Phật bảo A-nan: –Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật quán tưởng như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán. Người tu Tam-muội này tuy có đủ phiền não nhưng chẳng bị phiền não sai khiến. Do năng lực của Tam-muội Niệm Phật này nên chư Phật mười phương phóng ánh sáng lớn thị hiện trước mặt người ấy. Ánh sáng này đặc biệt tôn quý, ba cõi không gì sánh bằng. Đức Phật nói lời nói đó rồi, vua trời Phạm lại thỉnh cầu: –Nguyện xin Đức Phật Thế Tôn nói về chư Phật khắp mười phương trụ ở trước mặt hành giả, hiện sắc tướng ánh sáng!  <詞 id="112589575">Phẩm 11: NIỆM mười PHƯƠNG PHẬT Đức Phật bảo A-nan rằng: –Sao gọi là hành giả quán tưởng chư Phật khắp mười phương? Quán tưởng Phật mười phương thì trước hết là phương Đông. Phương Đông có thế giới cõi nước tên là Bảo an ổn, do vô lượng ức vật báu với hàng ngàn ức màu sắc hợp thành. Đức Phật ở đó hiệu là Thiện Đức cũng phóng ra vô số ánh sáng soi khắp trăm ngàn nước, cũng cùng với vô số ức những Hóa Phật phân thân, ở trước mặt hành giả. Thân sắc như núi vàng, trang nghiêm không gì so sánh được, ngồi trong động Kim cương lớn với nhà cửa lầu đài trang trí bằng vô số ánh sáng của các châu báu. Trước mỗi nhà, gác có vô lượng trăm ức các cây báu nhiều như bụi trần. Dưới mỗi cây báu có tám muôn bốn ngàn tòa Sư tử, trên mỗi tòa Sư tử có một Đức Phật phân thân ngồi kiết già, nhập vào Tam-muội ngồi dưới cây báu. Đức Phật Thế Tôn Thiện Đức, thân cao lớn hai trăm năm mươi ức na-do-tha do-tuần. Mỗi lỗ chân lông trên thân Ngài đều có vô số ức tất cả các tướng tốt đẹp nhiều như bụi trần. Trong mỗi tướng tốt có vô số vị Hóa Phật. Mỗi Hóa Phật đều cao lớn vời vợi như núi Tu-di, ngồi nơi tòa hoa sen báu ở giữa hư không và phóng ra ánh sáng. Các Đức Phật phân thân đều tỏa ra ánh sáng vi diệu, hiển hiện ra vô số trăm ngàn vị Hóa Phật. Mỗi Hóa Phật đều ngồi trên hoa sen báu. Mỗi hoa sen báu có hàng ngàn cờ phướn. Mỗi cờ phướn diễn nói vô lượng ức âm thanh vi diệu. Trong các âm thanh ấy đều dạy quán tưởng vô số thân Phật khắp mười phương. Khi tướng này hiện, các cõi khắp mười phương đều giống như kim cương, hàng trăm ức màu sắc báu không hoại không diệt. Hành giả thấy tướng này rồi, ở trước chư Phật, được nhận quả vị Pháp vương tử. Cảnh giới như vậy gọi là Bồ-tát Tánh địa. Đức Phật Chiên-đàn Đức ở phương Nam, thân tướng cao lớn. Cõi Phật này đất bằng lưu ly, có các màu sắc báu nhiều như cát sông Hằng. Trong ánh sáng của Phật cũng có vô số trăm ngàn lầu đài, dưới các cây báu có trải bày tòa Sư tử. Chư Phật trên tòa đều ngồi kiết già. Các cờ, phướn, lọng báu đều phát ra âm thanh thuyết pháp… như đã diễn nói trong Tam-muội Phật hải. Đức Phật Vô Lượng Minh ở phương Tây, cõi nước thanh tịnh, đất bằng vàng ròng. Ánh sáng thân Phật có năm trăm ức màu sắc báu. Dưới các cây báu thẳng hàng như ở giảng đường Trùng các đều có các tòa Sư tử. Chư Phật phân thân ngồi kiết già dưới những cây báu ấy. Trong các cờ phướn báu cũng diễn nói về pháp Niệm Phật. Đức Phật Tướng Đức ở phương Bắc, cõi ấy đất có màu pha lê Phật có năm trăm ức ánh sáng báu. Cây báu thẳng hàng, tòa Sư tử báu như ở giảng đường Trùng các, cờ phướn, ánh sáng… đều như trên đã nói. Đức Phật Vô Ưu Đức ở phương Đông nam, cõi ấy, đất có màu bảy báu, trên mỗi màu lại có bảy trăm ức khác, cây báu thẳng hàng như ở giảng đường Trùng các, có trăm ức vạn ánh sáng, mỗi ánh sáng đều diễn nói biển công đức của Phật, như trong phần Phật hải đã nói. Đức Phật Bảo Thí ở phương Tây nam, đất cõi ấy có màu năm loại châu báu, trên mỗi màu báu có năm trăm ức ánh sáng. Mỗi ánh sáng hóa ra năm trăm ức đám mây hoa sen. Trên mỗi đám mây hoa sen có trăm ức lầu đài. Trên mỗi lầu đài đều như trăm ngàn vạn cung điện Phạm vương. Trong mỗi cung điện Phạm vương có vô số giường tòa do các ánh sáng của hoa sen hợp thành. Trên các tòa ấy đều có các Đức Phật phân thân ngồi kiết già, diễn nói về pháp Đại Từ bi của chư Phật, ánh sáng, cờ phướn… cũng diễn nói về biển các Đức Phật. Đức Phật Hoa Đức ở phương Tây bắc, cõi ấy đất có màu lưu ly, pha lê. Trên mỗi màu có vô số trăm ngàn ánh sáng. Mỗi ánh sáng hóa ra năm trăm ức hang báu. Trong mỗi hang báu có vô số lọng báu. Trong mỗi lọng báu có trăm ức ánh sáng. Trong ánh sáng ấy diễn nói Tam-muội Niệm Phật. Nhờ ở trong Tam-muội Niệm Phật, hành giả lại được thấy vô số các Đức Phật. Phương Đông bắc có Đức Phật Tam Thừa Hạnh. Cõi nước của Đức Phật ấy toàn một màu bạch ngân với hàng trăm ức vạn ánh sáng. Ánh sáng ấy có hàng ngàn màu sắc trang nghiêm khắp giới hạn cõi nước rất thanh tịnh. Phân thân hóa Phật, cây báu, cờ phướn… thẳng hàng, trang nghiêm… chẳng thể tính biết được. Phương Trên có Đức Phật Quảng Chúng Đức. Đất của cõi Phật ấy có năm trăm ức màu báu. Mỗi màu báu có vô số ánh sáng. Mỗi ánh sáng hóa ra vô số trăm ức vị Hóa Phật. Trong mỗi ánh sáng Phật có vô lượng cây báu thẳng hàng trang nghiêm. Dưới mỗi cây có hàng trăm ức tòa Sư tử báu, các Đức Phật ngồi kiết già ở bên trên với vô số Bồ-tát làm thị giả. Tất cả đại chúng đều ở trong đám mây ánh sáng của Đức Phật. Phương Dưới có Đức Phật Minh Đức. Đất của cõi Phật ấy màu vàng, ánh sáng vàng, mây vàng… Trong mây ánh sáng có vô số nhà vàng, lầu gác bằng bảy báu, hàng cây bằng trăm loại châu báu thẳng hàng trang nghiêm, số cờ phướn, lọng báu có đến ức ngàn vạn. Dưới mỗi cây có trăm ức tòa báu. Những nhà cửa lầu gác, vô số tọa cụ hình dạng như hoa báu… vô số tất cả các Đức Phật phân thân ngồi trên tòa lưu ly dưới gốc cây báu. Ở vùng những màu hoa có vô số Đức Phật. Những Đức Thế Tôn đó đều giảng nói pháp hạnh của Bồ-tát. Mười phương như vậy có vô số vị Hóa Phật, mỗi vị Hóa Phật đều hiển hiện ánh sáng. Các Đức Phật khắp mười phương, mỗi mỗi đều ngồi trong hang động kim cương mà thân lượng, ánh sáng đều như Đức Phật Thiện Đức và những vị Hóa Phật, uy thần, đất nước… khiến cho hành giả nhìn thấy như ở trước gương sáng tự nhìn thấy hình dáng mặt mình. Hành giả thấy chư Phật mười phương rõ ràng phân minh, lòng vui mừng nên chẳng đắm nhiễm các pháp, trụ ở sơ tâm (lòng trong sạch ban đầu). Lúc đó, các Đức Phật ở mười phương đều nói giống nhau cho hành giả về sáu pháp Ba-la-mật. Nghe pháp đó rồi, mười cảnh giới tâm ở dưới bậc Sơ địa, hành giả không còn gì nghó ngợi nghi ngờ. Người thấy sự việc này thì nhất định nghe các Đức Phật diễn nói Bát-nhã ba-la-mật, nghe Đệ nhất nghóa không, lòng chẳng kinh hãi, nghi ngờ. Ở trong các pháp, người ấy được vào Tam-muội Không. Đó gọi là Tam-muội Tương tợ không tướng. Đức Phật bảo A-nan rằng: –Sau khi Phật diệt độ, những đệ tử của Phật muốn quán tưởng chư Phật ở mười phương, ở trong Tam-muội Niệm Phật chỉ biết tướng thô, rồi sẽ tự nhiên biết được vô lượng tướng vi diệu. Người quán tưởng như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán. Người đạt được sự quán tưởng này thì thấy Phật nhiều vô số, không thể hạn lường. Người nhập vào định này gọi là người thấy sắc thân của tất cả chư Phật, cũng được dần dần vào cửa ba Không. Người đi dạo cửa ba Không này, nhờ thần lực của chư Phật, nên lòng chẳng chấp trước Không, vào đời vị lai sẽ thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, được chẳng thoái chuyển. Đó gọi là tâm chẳng quên Bồ-đề, tùy thuận chân chánh Phật đạo. Khi nói pháp quán tưởng chư Phật mười phương thì Phật mười phương ngồi trong hang trăm báu ở núi Kim cương đều duỗi tay phải xoa đỉnh đầu A-nan mà bảo rằng: “Này Pháp tử! Ông đem lời nói của Đức Phật diễn nói cho các chúng sinh đời vị lai, cẩn thận chớ lưu truyền sai. Ông phải vì người kiên cố phát tâm Tam-bồ-đề, tu hành định Niệm Phật mà tuyên nói.” Đức Phật bảo A-nan rằng: –Tam-muội Niệm Phật này, nếu muốn thành tựu thì có năm nhân duyên. Những gì là năm? 1.Trì giới chẳng phạm. 2.Chẳng khởi tà kiến. 3.Chẳng sinh kiêu mạn. 4.Chẳng sân nhuế, chẳng ganh ghét. 5.Dũng mãnh tinh tấn như cứu lửa cháy trên đầu. Thực hành năm việc này, chánh niệm về sắc thân vi diệu của các Đức Phật, khiến cho lòng chẳng thoái lui, cũng phải đọc kinh điển Đại thừa. Do năng lực của công đức niệm Phật này nên nhanh chóng được thấy vô lượng các Đức Phật. Người thấy chư Phật, một lòng thanh tịnh chẳng cùng người khác chung đụng, phải cúng dường các Đức Phật mười phương. Sao gọi là cúng dường? Người đó ra khỏi định, vào tháp thấy tượng, khi niệm trì kinh, hoặc đảnh lễ một Đức Phật phải nghó rằng: “Tâm trí chư Phật Chánh Biến Tri, không có gì ngăn ngại! Con nay đảnh lễ một Đức Phật tức là đảnh lễ tất cả các Đức Phật.” Nếu tư duy một Đức Phật liền thấy tất cả Phật thì hành giả thấy trước mỗi Đức Phật có một hành giả tiếp tục đảnh lễ đều chính là thân mình. Nếu khi dùng một cành hoa cúng dường, phải nghó rằng: “Pháp thân chư Phật công đức không lường, chẳng trụ, chẳng hoại, sáng rỡ thường an. Con nay dùng hoa dâng cúng chư Phật! Nguyện xin Phật nhận cho.” Nghó vậy rồi hành giả lại phải khởi lên ý tưởng: “Hoa của con cầm là từ cỏ cây sinh ra. Con đem hoa này cúng dường thì có thể dùng ý tưởng giống như hoa.” Hành giả liền khởi ý tưởng ở các lỗ chân lông của thân, khiến cho mỗi lỗ chân lông hiện ra vô số mây hoa. Hành giả dùng mây hoa này vận dụng ý tưởng mô phỏng theo hoa mà cúng dường tất cả Phật. Bên trên mỗi Đức Phật hóa thành đài hoa mà các Đức Phật đã nhận. Ở mười phương thế giới để thi hành Phật sự, khi hành giả cúng dường hương thơm cũng vậy. Khói hương, mây hương làm Phật sự ở thế giới mười phương, khi làm Phật sự xong rồi, chúng lại biến thành đài vàng ở trước mặt hành giả. Nếu người phàm phu muốn cúng dường thì tay bưng lò hương, cầm cành hoa cúng dường cũng phải khởi lên ý làm “hoa hương tưởng”, phải phát nguyện rằng: “Nguyện cho hoa hương này đầy trong thế giới mười phương, cúng dường tất cả Phật, Hóa Phật cùng Bồ-tát và vô số chúng Thanh văn. Nguyện chư Phật thọ nhận mây hương hoa này để làm đài ánh sáng rộng đến vô biên thế giới, làm Phật sự nhiều không lường.” Người đảnh lễ Phật hoặc ngồi thiền mà khởi lên tâm cúng dường đó thì phải phát lời nguyện này. Nếu hành giả cúng dường tán che, cờ phướn bằng lụa năm màu sắc, âm nhạc, kệ tụng thì phải phát nguyện rằng: “Con nay thiết bày một phần ít phẩm vật cúng này, nguyện đem những phẩm vật cúng này cúng dường khắp tất cả các Đức Phật ở mười phương. Các Đức Phật thọ nhận phẩm vật cúng đó thì ở trong cờ phướn hóa ra mây ánh sáng, trong âm nhạc, trong kệ tụng diễn ra âm thanh diệu pháp.” Phát nguyện đó rồi, khi ngồi nên tưởng niệm đến lỗ chân lông của thân, khiến cho trong mỗi lỗ tạo ra vô lượng cờ phướn trong ý tưởng. Trong mỗi cờ phướn, tạo ra vô lượng mây kệ tụng trong ý tưởng. Khi khởi tưởng này, lòng như lò hương tuôn ra khói hương, mây hương màu vàng. Trong lỗ chân lông của thân như cây hoa đẹp vọt ra a-tăng-kỳ vô lượng mây các loại hoa. Những đám mây hoa đó ở bên trên các Đức Phật của thế giới mười phương hóa ra tất cả những phẩm vật cúng dường. Bấy giờ, ở trong từng phần thân tâm sẽ khởi lên ý tưởng về tất cả đồ cúng dường. Nếu được ăn uống hoặc bố thí cho người một tiền, hành giả phải khởi lên tư tưởng Không, vô ngã Đàn-na ba-la-mật. Như vậy… vô lượng sự cúng dường đều do tâm khởi lên, đều từ tâm tưởng xuất hiện để cúng dường tất cả các Đức Phật mười phương. Đó gọi là khi ngồi mà vô lượng công đức từ biển tâm tưởng sinh ra. Như vậy, khi ngồi, nhập vào thiền định sâu xa thì vô lượng cảnh giới, biển các Tam-muội chỉ ở trong lòng. Thở ra hít vào, niệm niệm, tưởng tưởng nối tiếp nhau chẳng dứt. Ở trong một lòng vận dụng tâm ý mình tạo ra mây vô số phẩm vật cúng dường để trên cúng dường các Đức Phật, dưới bố thí cho tất cả. Người khởi ý niệm đó gọi là người học Bố thí khắp cùng. Khi tưởng niệm này thành tựu, thì dần dần giảm thiểu các phiền não kết sử, hành giả quán pháp vô tướng. Rồi nhờ sức của vô tướng nên hành giả sẽ được sáu pháp Ba-la-mật sâu xa.  <詞 id="112589576">Phẩm 12: QUÁN MẬT HẠNH CỦA ĐỨC PHẬT Đức Phật bảo A-nan rằng: –Chúng sinh đời vị lai, nếu có người được Tam-muội Niệm Phật thì người quán tướng tốt của chư Phật được Tam-muội Chư Phật hiện tiền. Ông phải dạy người đó giữ thân, miệng, ý cho miên mật chớ khởi lên tà mạng, chớ sinh ra cống cao. Nếu họ khởi lên tà mạng và cống cao thì phải biết người này chính là người tăng thượng mạn, phá diệt Phật pháp, phần nhiều sai khiến chúng sinh khởi tâm bất thiện, làm rối loạn hòa hợp Tăng, hiện bày điều khác lạ mê hoặc mọi người. Người như vậy là bạn ác của ma. Người ác như vậy tuy họ niệm Phật nhưng mất vị cam lồ. Nơi sinh của người này, vì cống cao nên thân luôn luôn hèn mọn, sinh vào nhà thấp hèn bần cùng, suy bại, trang trí bằng vô lượng nghiệp ác. Vô số những việc ác như thế, hành giả phải tự phòng hộ khiến cho mãi mãi chẳng sinh ra. Nếu người khởi lên nghiệp tà mạng như vậy thì nghiệp tà mạng này giống như con voi điên phá hoại ao hoa sen. Nghiệp tà mạng này cũng vậy, nó làm phá hoại mất hết căn lành. Đức Phật bảo A-nan rằng: –Người có niệm Phật phải tự phòng hộ chớ để cho buông lung. Người đạt Tam-muội Niệm Phật, nếu chẳng tự phòng hộ, sinh ra cống cao thì gió dữ tà mạng thổi, lửa kiêu mạn đốt, tiêu diệt thiện pháp. Thiện pháp là tất cả vô lượng thiền định, các pháp niệm Phật từ các tâm tưởng sinh ra. Đó gọi là kho tàng công đức. Đức Phật bảo A-nan rằng: –Ví như ông trưởng giả có rất nhiều của báu mà chỉ có một đứa con. Ông trưởng giả biết mình sắp chết, chẳng còn bao lâu nữa, đem những kho tàng giao phó cho người con ấy. Người con được của, tùy ý rong chơi. Bỗng, vào một lúc, gặp phải nạn dữ, có vô lượng giặc cướp từ bốn phía kéo đến, tranh nhau lấy của cải trong kho mà người con ấy chẳng thể ngăn cản giữ gìn. Chỉ có một thỏi vàng mới chính là Diêm-phù-đàn Na-tử-kim, nặng mười sáu lượng, chiều dài chiều rộng của đỉnh vàng cũng đều mười sáu tấc. Một lượng vàng này trị giá bằng trăm ngàn vạn lượng của báu khác. Bị giặc bức ngặt, không biết làm gì với thỏi vàng, nó liền dùng vật dơ bẩn bọc gói vàng ròng, đặt vào bên trong cục bùn. Bọn giặc nhìn thấy, chẳng biết đó là vàng, chân dẫm lên mà đi. Sau khi giặc đi rồi, người chủ giữ được vàng, lòng rất vui mừng. Tam-muội Niệm Phật cũng vậy, phải giấu kín. Lại nữa, này A-nan! Ví như có người nghèo cùng, bạc phước nương vào những bậc hào phú hiền đức để bảo tồn tánh mạng. Có vị vương tử ngẫu hứng đi du ngoạn, cầm bình báu lớn. Ở bên trong bình báu đựng túi ấn vua. Lúc đó, có kẻ nghèo trà trộn đến gần bên, lấy được bình báu của vua bưng chạy trốn. Vương tử biết được, sai sáu người lính lớn cỡi sáu con voi đen, tay cầm gươm báu, mau chóng đuổi theo người đó. Người cầm bình chạy vào trong đầm hoang cỏ ngút ngàn. Người đó thấy rắn độc đầy trong đầm nơi đồng trống, từ bốn mặt chúng phun ra độc, hút lấy người cầm bình. Người nghèo cùng bàng hoàng, kinh sợ bương chạy khắp nơi mà rắn cũng đuổi theo, không chỗ trốn tránh. Ở trong đầm trống, người ấy thấy một cây lớn um tùm giúp đỡ nên rất vừa ý, đầu đội bình báu, vin cây mà leo lên. Người ấy lên trên cây rồi, sáu người lính cỡi voi, chạy nhanh như gió lại vừa đến nơi. Người nghèo thấy rồi, tính đánh cắp cái ấn báu của vua, đem bình làm mũ đội đầu, dùng tay che mặt, ngồi tham tiếc nên chẳng nhận là mình đã được ấn báu. Sáu con voi đen dùng vòi quấn lấy cây khiến cho cây ngã nhào, người nghèo rơi xuống đất, thân thể hoại tan, chỉ có cái ấn vàng ở tại bình báu hiện lên ánh sáng. Các con rắn thấy ánh sáng vội vàng chạy tứ tán. Đức Phật bảo A-nan: –Người trụ ở Tam-muội niệm Phật thì tâm ấn chẳng hoại cũng như vậy. Lại nữa, này A-nan! Ví như ông trưởng giả có nhiều của cải báu vật mà không con trai, chỉ có một người con gái. Lúc đó, ông trưởng giả tuổi hơn một trăm, tự biết quá suy yếu sắp chết, chẳng còn bao lâu, nên nghó rằng: “Của cải báu vật này của ta mà không có con trai nên của cải phải thuộc về vua.” Suy nghó vậy rồi, ông gọi người con gái bí mật bảo rằng: “Nay có món diệu bảo đứng trên tất cả báu, cha sẽ đem cho con! Con được món báu này phải giấu kín cho chắc chắn, chớ để cho vua biết!” Người con gái nhận lệnh của cha, đem ngọc ma-ni và các trân bảo giấu vào phân nhơ bẩn, cả nhà lớn nhỏ cũng đều chẳng ai biết. Gặp đời thời kém, chồng người con gái bảo vợ rằng: “Nhà ta nghèo cùng, khốn quẩn về ăn mặc, nàng có thể đi nơi khác tìm chỗ sống cho mình!” Người vợ nói với chồng rằng: “Cha tôi là trưởng giả, lúc sắp qua đời, đem của báu ban cho tôi. Nay ở tại chỗ đó đó chàng có thể lấy chúng!” Người chồng đào lấy, thu được nhiều trân báu cùng ngọc Như ý. Người ấy đem ngọc Như ý ra, đốt hương lễ bái, trước phát nguyện rằng: “Xin ngọc vì ta mưa xuống đồ ăn!” Theo lời phát nguyện liền mưa xuống đồ ăn thức uống trăm vị. Cứ như vậy từng món từng món theo ý người được ngọc báu. Người chồng được rồi bảo vợ mình rằng: “Nàng như Thiên nữ có thể ban cho ta ngọc báu! Nàng giấu ngọc báu này, ta còn chẳng biết, huống lại là người khác.” Đức Phật bảo A-nan: –Tam-muội Niệm Phật bền chặt, lòng chẳng lay động cũng như vậy. Lại nữa, này A-nan! Ví như có ông vua bạo ngược trái đạo. Dân mắc phải sự độc ác của vua ấy, người sợ, thần giận. Nước gặp đại hạn thỉnh cầu thần đất, chẳng thể được mưa, có người bề tôi bạch rằng: “Thưa Đại vương! Ngài phải biết, hiện nay bên trong cõi nước này ở miền Lâm đẩu có một vị Tiên nhân đạt năm phép thần thông vô ngại. Nhà vua nên thỉnh mời vị ấy chú nguyện rồng!” Nhà vua nghe xong, hớn hở không lường, sai người đến rừng thỉnh vị Tiên nhân. Vị Tiên xuất thần bay đến trước điện đại vương, lớn tiếng nói rằng: “Đại vương vô đạo! Các trời, rồng, thần đều đi tứ tán, chẳng ủng hộ đất nước của vua nữa thì làm sao sai ta cầu mưa?’ Nhà vua nghe lời nói này lấy làm rất xấu hổ, cải hối việc làm ác của hành động trước đây. Vị Tiên nhân ấy biết lòng nhà vua đã nhu thuận tốt lành nên niệm tụng chú. Nhờ sức thần thông nên trời mưa xuống cam lộ, đất trào ra suối nước thấm nhuần tất cả. Đức Phật bảo A-nan: –Người muốn niệm Phật như vị vua bỏ điều ác. Người được niệm Phật như người giỏi chú nguyện. Lại nữa, này A-nan! Ví như người lực só ỷ lại mình có sức lực lớn, vi Phạm vương pháp. Nhà vua sai năm người bắt lấy lực só giam vào ngục tối với gông cùm rất bền chắc. Lực só giận vung sức mạnh, toàn thân rướm máu, gông cùm nát tan, vượt tường chạy trốn. Hắn đi đến bên bờ biển, mở viên ngọc sáng trên đỉnh đầu đem thuê người lái thuyền. Người lái thuyền nói rằng: “Cái này như đá trắng ở trong biển nhiều vô số, ta lấy nó làm gì?” Người lực só quỳ gối thưa vị lái thuyền rằng: “Ngọc sáng này của tôi có sáu thứ màu!” Ông liền dùng lụa vàng gói viên ngọc đặt vào trong nước, nước liền thành màu vàng. Ông lại thâu hồi viên ngọc, dùng lụa trắng gói đặt vào trong nước, nước liền biến ra màu trắng. Ông lại thu lấy viên ngọc, dùng lụa màu xanh lục gói lại, đặt vào trong nước, nước liền biến thành màu lưu ly xanh lục. Ông thu lấy ngọc dùng lụa màu ngọc bích gói lại đặt vào trong nước, nước liền biến thành màu chân kim tinh. Ông thu lấy viên ngọc lại dùng lụa đỏ gói đặt vào trong nước, nước liền biến thành màu xa cừ. Ông lại thu lấy ngọc, dùng lụa màu tía gói đặt vào trong nước, nước liền biến thành màu kim cương trời, trên nước lại có ánh sáng ma-ni tía. Vị lái thuyền thấy rồi liền lấy ngọc báu, dùng kiệu báu lớn, khiêng người dũng mãnh, đặt lên thuyền lớn, nhờ gió cất buồm lướt nhanh như tên bắn, đến bờ bên kia. Đến bờ kia rồi, lòng dạ thư thái yên ổn, không sợ, người ấy đem nhiều trân bảo đền ân vị lái thuyền. Đức Phật bảo A-nan: –Người tu hành niệm Phật như vị đại lực só, thoát khỏi gông cùm, tâm vươn đến được bờ kia trí tuệ. Lại nữa, này A-nan! Ví như khi kiếp sắp hết, hai mặt trời cùng xuất hiện. Núi rừng, cây cối, sông ao… đều khô cạn. Khi ba mặt trời xuất hiện thì mọi màu lửa dậy. Khi bốn mặt xuất hiện thì biển lớn tiêu giảm, ba phần còn một. Khi năm mặt trời xuất hiện thì biển lớn cạn hết. Khi sáu mặt trời xuất hiện thì núi Tu-di ngã nhào tan vỡ. Khi bảy mặt trời xuất hiện thì đại địa cháy suốt cho đến Sắc giới, chỉ có núi Kim cương chẳng thể đổ vỡ, trụ lại chốn cũ. Tam-muội Niệm Phật cũng như vậy. Người tu hành định này là trụ ở trong biển thật tế của Phật đời quá khứ. Đức Phật bảo A-nan rằng: –Ta nay muốn cùng với các Đức Phật mười phương báo đền ân Tam-muội Niệm Phật. Đức Thế Tôn nói lời đó rồi, bấy giờ Đức Thế Tôn và các Đức Phật ở mười phương cùng Bồ-tát của Hiền kiếp nhập vào Tam-muội Nhất thiết sắc thân quang minh. Từ mỗi lỗ chân lông của thân chư Phật vọt ra những đám mây hóa Phật vi diệu nhiều chẳng thể tính kể. Những vị Hóa Phật đó ngồi kiết già trong hư không. Vô số những vị Hóa Phật như vậy đều duỗi tay phải xoa đỉnh đầu Tôn giả A-nan và lệnh cho Thích Đề-hoàn Nhân rằng: –Hai người các ông hãy giữ gìn diệu pháp đó cẩn thận chớ quên mất! Vì chúng sinh trược ác đời vị lai, diệt mọi tội chướng nên Đức Như Lai Chánh Biến Tri, hôm nay, ở trong đại chúng, nói thân tướng của tất cả Phật. Bấy giờ, Tôn giả A-nan liền đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Đức Phật mà bạch rằng: –Bạch Thế Tôn! Kinh này sẽ gọi là gì? Pháp yếu này sẽ hành trì ra sao? Đức Phật bảo A-nan rằng: –Kinh này tên là Hệ Tưởng Bất Động! Như vậy mà thọ trì! Cũng tên là Quán Phật Bạch Hào Tướng! Như vậy mà thọ trì! Cũng tên là Nghịch Thuận Quán Như Lai Thân Phận! Cũng tên là Nhất Nhất Mao Khổng Phân Biệt Như Lai Thân Phận! Cũng tên là Quán Tam Thập Nhị Tướng Bát Thập Tùy Hình Hảo Chư Trí Tuệ Quang Minh! Cũng tên là Quán Phật Tam-muội Hải! Cũng tên là Tam-muội Niệm Phật Môn, cũng tên là Chư Phật Diệu Hoa Trang Nghiêm Sắc Thân! Cũng tên là Thuyết Giới Định Tuệ Giải Thoát Giải Thoát Tri Kiến Thập Lực Tử Vô Sở Úy Thập Bát Bất Cộng Pháp Quả Báo Sở Đắc Vi Diệu Sắc Thân Kinh! Ông hãy thọ trì tốt, cẩn thận chớ quên mất! Khi Đức Phật nói lời nói đó, đại chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di và Bồ-tát cùng trời, rồng… tám bộ chúng, tất cả quỷ thần nghe Đức Phật nói thân tướng vi diệu đó, có người được Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, có người được A-la-hán, có người gieo trồng nhân duyên đạo Bích-chi-phật, có người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, có người được Pháp nhẫn vô sinh… Số người ấy nhiều chẳng thể kể hết. Các đại chúng nghe Đức Phật nói pháp, cung kính đảnh lễ, phụng hành lời dạy của Đức Phật, làm lễ xin lui ra. Lúc đó Tôn giả A-nan liền đứng dậy, chắp tay quỳ gối bạch rằng: –Bạch Thế Tôn! Đức Như Lai hôm nay tất cả thân tướng đều đã nói xong! Chỉ có tướng Vô kiến đảnh là Thế Tôn chưa diễn nói. Nguyện xin Đấng Thiên Tôn! Nói một ít về điềm ứng của ánh sáng tướng đảnh, khiến cho chúng sinh, phàm ngu đời vị lai biết được tướng thù thắng của Đức Phật! Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền nhập vào biển Tam-muội Đảnh khiến cho trong nhục kế trên đảnh Đức Phật, mỗi lỗ chân lông vọt ra ánh sáng lưu ly. Ánh sáng ấy như hình dáng tóc xoăn bằng nước xoắn về bên phải đầy khắp vô lượng thế giới mười phương như số biển các bụi trần của trăm ức thế giới. Như vậy trong tám muôn bốn ngàn lỗ chân lông đều hiện ra tướng nước đó. Mỗi tướng nước lại hơn nước đó trăm ngàn vạn lần, chẳng thể biết. Trên những nước lưu ly đó, sinh ra nhiều hoa sen cõi trời quý báu. Mỗi hoa có vô số trăm ngàn ức cánh. Mỗi cánh hoa tạo ra vô số trăm ngàn ức màu sắc báu. Cánh hoa cực nhỏ cũng che khắp tam thiên đại thiên thế giới. Trong mỗi tua hoa trên mỗi hoa như vậy có vô lượng a-tăng-kỳ trăm ngàn vạn ức hóa Phật nhiều như cát sông Hằng. Tướng nhục kế trên đảnh của mỗi hóa Phật tỏa ra các ánh sáng cũng như vậy. Thân lượng của các Đức Phật đồng với hư không, chẳng thể biết được. Như vậy các Đức Phật, từng Đức Phật, Đức Phật tiếp nhau đến tận mép biển của thế giới. Khi tướng này hiện, ở mười phương đều có hàng trăm ức Bồ-tát nhiều như bụi trần, thân vọt lên hư không, thị hiện đại thần biến, đi đến chỗ Đức Phật Thích-ca Mâu-ni. Các vị Bồ-tát nhờ thần lực Đức Phật nên tạm thay một phần nhỏ tướng điềm ứng trong mỗi lỗ chân lông, ngay tức thời được vô lượng trăm ngàn Đà-la-ni Kim cang tướng. Khi Đức Phật hiện ra tướng đó, một ngàn vị Bồ-tát của Hiền kiếp và các Đức Phật mười phương đều thị hiện tướng này. Đại chúng trong hội thấy được phần nhỏ tướng này thì những vị Tu-đà-hoàn trong khoảnh khắc trở thành A-la-hán, người quán nhân duyên chẳng duyên các duyên cũng trở thành A-la-hán, Bồ-tát phát tâm thì vượt qua cảnh giới tăng tiến pháp môn biển các Tam-muội sâu xa, trụ trong tánh địa. Bồ-tát vô sinh thì tăng tiến vô lượng pháp thù thắng, trụ trong Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm. Đức Phật bảo A-nan rằng: –Sau khi Phật diệt độ, trong đời ác trược, nếu có chúng sinh nghe tướng thù thắng của Phật, lòng chẳng nghi ngờ, chẳng sợ hãi thì phải biết người đó có thể diệt trừ tất cả nghiệp chướng phiền não. Người nghe tướng thù thắng của Phật sinh lòng tùy hỷ thì trừ bỏ được nghiệp ác rất nặng trong một ngàn ức kiếp, đời sau sinh ra chẳng bị đoạ vào ba đường ác, chẳng sinh vào chỗ tám nạn. Khi Đức Phật nói lời đó thì Trưởng lão Kiều-trần-như… các vị đại Tỳ-kheo, Bồ-tát Di-lặc… các vị Đại Bồ-tát, vô lượng đại chúng nghe lời nói của Đức Phật đều rất vui mừng đảnh lễ cung kính phụng hành. <卷 id="112589577">