<經 id="n639a">KINH NGUYỆT ĐĂNG TAM-MUỘI Hán dịch: Đời Cao Tề, Tam tạng Na-liên-đề-da-xá, người Thiên Trúc. <卷 id="112589536">QUYỂN 6 Bấy giờ Đức Thế Tôn lại bảo Đồng tử Nguyệt Quang: –Đại Bồ-tát cần phải thành tựu phương tiện quyền xảo. Này Đồng tử! Sao gọi là Đại Bồ-tát thành tựu phương tiện thiện xảo? Này Đồng tử! Đại Bồ-tát này đối với tất cả chúng sinh nên khởi tưởng thân quyến. Các chúng sinh này có bao nhiêu điều thiện thì đều sinh tâm tùy hỷ. Ngày đêm sáu thời, đối với phước đức của họ nên sinh tâm tùy hỷ nhờ duyên Nhất thiết trí, duyên Nhất thiết trí nên sinh ra phước đức ở nơi tất cả chúng sinh. Vị Bồ-tát này nhờ căn lành này nên mau được Tam-muội này, thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Bấy giờ Đức Phật liền nói bài kệ: Xem các chúng sinh là thân quyến Nếu có tất cả các phước đức Ngày đêm sáu thời với việc thiện Thường khởi tâm tùy hỷ với họ. Ta tùy hỷ thọ trì giới tịnh Cho đến mạng chung không làm ác Bồ-tát đầy đủ thanh tịnh tín Bao nhiêu phước đức đều tùy hỷ. Tùy hỷ tin thích các Đức Phật Đối với Pháp, Tăng tin cũng vậy Tùy hỷ hay thờ kính Như Lai Vì cầu Vô thượng Bồ-đề vậy. Tùy hỷ họ không có ngã kiến Không chúng sinh kiến và thọ mạng Tùy hỷ người không khởi ác kiến Nghe pháp thắng không thêm yêu thích. Ở trong Phật pháp sinh tùy hỷ Được xuất gia rồi thọ cụ giới Ít muốn, biết đủ, sống giữa rừng Ôm lòng từ mẫn như cây kiếm. Tùy hỷ độc nhất, không bạn lữ Ở rừng giống như đao trong vỏ Tịnh mạng thường hay ít mong cầu Không có lừa dối với bạn thân. Tùy hỷ nơi tịnh, lìa huyên náo Không có ái luyến với thân thuộc Ở trong ba cõi thường sợ hãi Du hành thế gian không nhiễm trước. Tùy hỷ xa lìa người hý luận Nhàm chán tất cả sự sinh tử Không có tranh cãi, hành tịch tónh Được Tam-muội này đâu có khó. Tùy hỷ sự biết người thiện, ác Thường lìa tất cả việc tranh luận Đi đến rừng cây chỗ không nhàn Cầu Thánh giải thoát, chân Phật tử. Tùy hỷ thường ở chỗ không nhàn Không tự khen mình, chê kẻ khác Tùy hỷ ưa thích sự công đức Ở trong Phật pháp không phóng dật. Nếu có các công đức trợ đạo Nhờ không phóng dật làm căn bản Nếu có Bồ-tát lìa phóng dật Được Tam-muội này sẽ không khó. Được gặp Phật pháp Tạng thứ nhất Và được xuất gia Tạng thứ hai Tịnh tín không uế, Tạng thứ ba Được Tam-muội này tạng thứ tư. Nghe nơi cảnh giới Phật Đại Không Nghe không hủy báng là Thắng tạng Nếu được biện tài là Đắc tạng Được Tam-muội này cũng Thắng tạng. Ta đã nói các thiện pháp ấy Là Giới, Văn, Xả và Nhẫn nhục Nhờ không phóng dật làm căn bản Phật nói đó là Tạng tối thắng. Nếu có Bồ-tát không phóng dật Liền được đầy đủ các biện tài Với trí tuệ Phật, không nghi hoặc Được Tam-muội này sẽ không khó. Này Đồng tử! Vì nghóa này cho nên ông phải trụ nơi hạnh không phóng dật, các Bồ-tát này nên tu học. Vì sao? Vì người không phóng dật sẽ chứng được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, huống gì Tam-muội này. Này Đồng tử! Vì sao Bồ-tát trụ không phóng dật? Này Đồng tử! Bồ-tát này thành tựu tụ Thiện tịnh giới. Này Đồng tử! Vì sao thành tựu tụ Thiện tịnh giới? Này Đồng tử! Bồ-tát này không bỏ tâm Nhất thiết trí, học sáu pháp Ba-la-mật. Này Đồng tử! Nếu Bồ-tát không bỏ tâm Nhất thiết trí, hành sáu pháp Ba-la-mật sẽ được các lợi ích, ông hãy lắng nghe, ta sẽ vì ông mà nói. Này Đồng tử! Bồ-tát tin thích Bố thí ba-la-mật, được mười lợi ích. Những gì là mười? 1.Hàng phục phiền não keo kiết. 2.Tu tập tâm xả liên tục. 3.Cùng với chúng sinh đồng hưởng tài sản và của cải, nhiếp thọ kiên cố cho đến diệt độ. 4.Sinh nhà giàu có. 5.Dù sinh ở đâu vẫn có tâm thí hiện tiền. 6.Thường được bốn chúng yêu thích. 7.Đối với bốn chúng không khiếp, không sợ. 8.Tiếng tốt lan khắp mọi nơi. 9.Tay chân mềm mại, lòng bàn chân bằng phẳng. 10.Cho đến cây đạo (thành đạo) không lìa Thiện tri thức. Là đệ tử Thanh văn, Bồ-tát của chư Phật. Này Đồng tử! Đó là Bồ-tát tin thích bố thí được mười thứ lợi ích. Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói bài kệ: Hàng phục sự keo kiết Tăng trưởng tâm bố thí Giữ tâm thí kiên cố Sinh vào nhà giàu có. Ngay tại chỗ sinh ra Hay phát khởi tâm xả Bỏ nhà đi xuất gia Các chúng sinh yêu mến. Nếu vào trong đại chúng Không sợ không khiếp nhược Tiếng tốt lan khắp nơi Khắp thành ấp, tụ lạc. Tay chân thường mềm mại Thành tựu tướng đầy đủ Gặp được Thiện tri thức Thanh văn, Bồ-tát, Phật. Thường ôm lòng tuệ thí Chưa bao giờ tiếc lẫn Được chúng sinh kính yêu Đó là bỏ lợi dưỡng. Sinh vào nhà giàu có Tâm thường ưa bố thí Nhiếp thọ xả kiên cố Là vui nơi bố thí. Ở trong các đại chúng Tiếng tốt lan khắp nơi Tay chân đẹp, mềm mại Là lợi ích lạc thí. Được gặp Thiện tri thức Là Phật và Bồ-tát Thấy rồi đến cúng dường Là lợi lạc bố thí. Này Đồng tử! Bồ-tát giữ tịnh giới có mười thứ lợi ích. Những gì là mười? 1.Đầy đủ Nhất thiết trí. 2.Học theo những điều chư Phật đã học. 3.Không bị người trí hủy báng. 4.Không thoái lui thệ nguyện. 5.An trụ tu hành. 6.Vất bỏ sinh tử. 7.Ưa thích Niết-bàn. 8.Được tâm không trói buộc. 9.Được thắng Tam-muội. 10.Không thiếu tài sản tín tâm. Đó là mười loại lợi ích của tịnh giới. Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói bài kệ: Đầy đủ Nhất thiết trí Như Phật đã tu học Người trí tuệ không chê Thường không có sợ hãi. Thệ nguyện không thoái chuyển Hay an trụ Thắng hạnh Tránh khỏi chỗ sinh tử Ưa thích đến Niết-bàn. An trụ không chướng ngại Mau được Thắng Tam-muội Trụ nơi tịnh giới tụ Xa lìa sự bần cùng. Trí ấy thường thanh tịnh Tu tập sở học Phật Không bị Thánh quở trách Nhờ giới thanh tịnh vậy. Người trí thề không lui Dũng mãnh trụ Thiện hạnh Thấy đời các thứ lỗi Tránh đời, hướng diệt đạo. Tâm ấy không chướng ngại Nhờ sức trụ tịnh giới Mau được định, lìa não Đó là lợi tịnh giới. Này Đồng tử! Bồ-tát trụ nơi Từ nhẫn có mười thứ lợi ích. Những gì là mười? 1.Lửa không thể đốt. 2.Dao không thể cắt. 3.Độc không thể trúng. 4.Nước không thể trôi. 5.Được phi nhân che chở. 6.Được thân tướng trang nghiêm. 7.Đóng kín các ác đạo. 8.Tùy theo sự ưa thích, sinh nơi Phạm thiên. 9.Ngày đêm thường an ổn. 10.Thân thể luôn luôn hỷ lạc. Này Đồng tử! Đó là Bồ-tát thành tựu mười thứ lợi ích của Từ nhẫn. Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói bài kệ: Người này lửa không đốt Dao gậy không tổn thương Thuốc độc không thể trúng Nước lớn không thể trôi. Phi nhân thường hộ vệ Đủ ba hai tướng tốt Đóng kín các đường ác Đều là lợi Từ nhẫn. Đế Thích và Phạm thiên Muốn được đâu có khó Thường ở chỗ an lạc Hoan hỷ khó nghó bàn. Dao, gậy, lửa không hại Nước độc chẳng tổn hại Thiên, Long, Dạ-xoa giúp Trú Nhẫn được lợi này. Thân ba hai tướng tốt Không sợ nơi ác đạo Chết được sinh Phạm thiên Lợi lạc trú Từ nhẫn. Ngày đêm thường an ổn Toàn thân được vui vẻ Nơi chúng, thân thanh tịnh Không có các chướng nạn. Này Đồng tử! Bồ-tát tinh tấn có mười thứ lợi ích. Những gì là mười? 1.Người khác không thể chiết phục. 2.Được Phật nhiếp thọ. 3.Được phi nhân hộ vệ. 4.Nghe pháp không quên. 5.Điều chưa nghe được nghe. 6.Tăng trưởng biện tài. 7.Được tánh Tam-muội. 8.Ít bệnh ít não. 9.Ở đâu cũng được ăn uống, ăn xong tiêu hóa tốt. 10.Như hoa Ưu-bát-la hiếm có. Này Đồng tử! Đó là mười thứ lợi ích của sự Tinh tấn. Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói bài kệ: Thành tựu khó chiết phục Tâm ấy không hối nhiệt Được phi nhân hộ vệ Thường nhìn thấy chư Phật. Tăng trưởng Thắng biện tài Đạt đến trí vô tận Đạt được tánh Tam-muội Không còn các bệnh não. Ăn uống các ẩm thực Vào bụng tiêu hóa tốt Như hoa sen dưới nước Cứ tăng trưởng dần dần. Pháp được nghe như vậy Nghe rồi được tăng trưởng Đêm ngày thường nhớ nghó Không bao giờ bỏ qua. Như Lai luôn dũng mãnh Nhiều kiếp luôn tinh tấn Hàng phục chúng ma quân Chứng đạo, trừ lo sợ. Bồ-tát cứu các cõi Không luyến tiếc thân mạng Tinh tấn khởi Pháp tạng Ta hiển bày đức ấy. Tinh tấn khó hàng phục Được chư Phật nhiếp thọ Nếu ai được lợi này Sẽ mau được chứng đạo. Không quên mất điều nghe Được nghe điều chưa nghe Tăng trưởng sức biện tài Là lợi ích tinh tấn. Mau được Tam-muội này Không có các bệnh não Tùy theo sự ăn uống Tiêu hóa được an lạc. Ngày đêm tăng thiện pháp Thường siêng không giải đãi Không lâu được Bồ-đề Nhờ vững tâm tinh tấn. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát tương ưng với thiền có mười thứ lợi ích. Những gì là mười? 1.An trụ nghi thức. 2.Thực hành cảnh giới Từ. 3.Không có các nhiệt não. 4.Thủ hộ các căn. 5.Được hỷ lạc vô tham. 6.Xa lìa ái dục. 7.Tu thiền bất không. 8.Giải thoát lưới ma. 9.An trụ cảnh Phật. 10.Hoàn toàn giải thoát. Này Đồng tử! Đó là Bồ-tát tương ưng với thiền định có mười thứ lợi ích. Bấy giờ Đức Thế Tôn nói bài kệ: Họ không sống phi pháp An trụ nơi nghi thức Du hành cảnh phương tiện Xa lìa phi cảnh giới. Trong tâm không nóng bức Khéo điều phục các căn Thọ thiền định thắng lạc An tọa lìa các duyên. Xa lìa dục khát ái Ăn món ăn thiền định Giải thoát cảnh giới ma An chỉ hành xứ Phật. Thích sống giữa rừng cây Cho là phương tiện tốt Tu giải thoát chân thật Diệt trừ các khổ não. An tâm, pháp thanh tịnh Xa lìa không nghi thức Trụ cảnh, lìa phi cảnh Sống Thiền được lợi lạc. Tâm không sinh nóng bức Chứng Thánh lạc vô thực Thân tâm thường mát mẻ Thiền tương ưng lợi lạc. Nơi “không”, căn vắng lặng Trong tâm lìa tạp loạn Đạt được thiện hơn người Nhờ phương tiện lìa dục. Tâm không dục nhiễm tạp Thường xa cảnh giới ma An chỉ hành xứ Phật Họ hoàn toàn giải thoát. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật có mười thứ lợi ích. Những gì là mười? 1.Tất cả đều xả, không thủ giữ tưởng bố thí. 2.Trì giới không thiếu sót, nhưng không chấp mê vào giới. 3.Trụ nơi sức nhẫn, nhưng không trụ tưởng chúng sinh. 4.Thực hành tinh tấn, nhưng lìa thân tâm. 5.Tu thiền nhưng không chỗ trụ. 6.Ma vương Ba-tuần không thể nhiễu loạn. 7.Đối với ngôn luận người khác, tâm không lay động. 8.Có thể ra khỏi biển sinh tử. 9.Đối với chúng sinh, tăng khởi lòng thương. 10.Không thích đạo Thanh văn, Bích-chi-phật. Này Đồng tử! Đó là Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, thành tựu mười thứ lợi ích như vậy. Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói bài kệ: Dũng mãnh bỏ tất cả Nhưng không chấp tưởng thí Hộ trì giới không khuyết Cũng không có câu nệ. Trí tuệ, tu nhẫn nhục Nhưng không thấy chúng sinh Dũng mãnh siêng tinh tấn Xa lìa nơi thân tâm. Tu tập thắng Thiền định Không nương vào ba cõi Chế ngự các ma mị Công đức của tín tuệ. Đối với các ngoại đạo Trong tâm không lay động Đến tận cùng sinh tử Công năng của tín tuệ. Với chỗ các chúng sinh Thường khởi tâm đại Bi Bâïc Thanh văn, Duyên giác Tâm chưa từng ưa thích. Với xả tâm không chấp Trì giới cũng không thủ Nhẫn nhục lìa tưởng sinh Là công năng tín tuệ. Tinh tấn, mà xa lìa Tu thiền không đắm trước Không bị ma chế ngự Là công năng tín tuệ Không động ngôn luận người Đạt tận cùng sinh tử Thương chúng sinh vô hạn Là công năng tín tuệ. Đạo Thanh văn, Duyên giác Không khởi tâm ưa thích Là công đức học Phật Là công năng tín tuệ. Này Đồng tử! Bồ-tát Đa văn có mười thứ lợi ích. Những gì là mười? 1.Biết sự tiếp tay của phiền não. 2.Biết sự trợ lực của thanh tịnh. 3.Xa lìa nghi hoặc. 4.Sự thấy ngay thẳng. 5.Xa lìa phi đạo. 6.An trụ đường chánh. 7.Mở cửa cam lồ. 8.Gần Bồ-đề Phật. 9.Làm ánh sáng cho các chúng sinh. 10.Không sợ ác đạo. Này Đồng tử! Đó là mười thứ lợi ích của Đa văn. Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói bài kệ: Đồng tử! Mười lợi này Hiển bày nơi Đa văn Là chư Phật Thế Tôn Đã rõ biết như thật. Phiền não và thanh tịnh Thật biết hai trợ lực Hay vứt bỏ phiền não An trụ trong thanh tịnh. Trí tuệ trừ nghi hoặc Thấy tâm họ chánh trực Thường xa lìa ác đạo Dừng chân nơi đường chánh. Khai mở cửa cam lồ Gần nơi Bồ-đề Phật Làm ánh sáng chúng sinh Mà không sợ ác đạo. Biết các phiền não giúp Và thanh tịnh hỗ trợ Dũng mãnh lìa phiền não Nương vào pháp thanh tịnh. Trừ các thứ nghi hoặc Làm người khác chánh kiến Vất bỏ đường hiểm ác Đa văn trụ đường thiện. Hay mở cửa cam lồ Kiên cố gần Bồ-đề Như ánh sáng chúng sinh Mãi không sợ ác đạo. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát thực hành Pháp thí có mười thứ lợi ích. Những gì là mười? 1.Vứt bỏ việc ác. 2.Hay làm việc thiện. 3.Trụ pháp thiện nhân. 4.Thanh tịnh cõi Phật. 5.Đi đến đạo tràng. 6.Bỏ việc tham ái. 7.Hàng phục phiền não. 8 Đối với chúng sinh thí phần phước đức. 9.Tu tập tâm Từ đối với các chúng sinh. 10.Thấy pháp, được sự hỷ lạc. Này Đồng tử! Đó là Bồ-tát thực hành pháp thí có mười thứ lợi ích. Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói bài kệ: Thực hành Thí tối thắng Với pháp không tham tiếc Mười thứ lợi lạc ấy Đạo Sư đã nói rõ. Vứt bỏ các việc ác Thường thực hành nghiệp thiện An trụ pháp thiện nhân Tâm tu hành bố thí. Hay tịnh các cõi Phật Như Đức Phật đã nói Đi đến nơi đạo tràng Là kết quả Pháp thí. Vất bỏ tất cả việc Tu học với Pháp vương Hàng phục các phiền não Họ được đạo không khó. Lòng Từ cho chúng sinh Tất cả phần phước đức Không khởi kết ganh ghét Được niềm vui hơn người. Bậc Trí lìa việc ác Dũng mãnh làm việc thiện Trụ pháp Thiện trượng phu Bậc Pháp thí đạt được. Thanh tịnh quốc độ Phật Khởi thiện pháp trợ đạo Đi gần đến đạo tràng Đó là lợi pháp thí. Với việc không tham ghét Hay rõ việc tự tướng Giải thoát các chấp trước Việc ái không chướng ngại. Bậc Trí phát tâm này Khiến chúng sinh có phước Lòng Từ không ganh ghét Được vui trong thiện pháp. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát, an trụ nơi không, được mười thứ lợi ích. Những gì là mười? 1.Đứng nơi chỗ Phật đứng. 2.Tu thiền không chấp trước. 3.Không thích tất cả sự thọ sinh. 4.Đối với giới không chấp thủ. 5.Không hủy báng Hiền thánh. 6.Không tranh cãi đối với tất cả chúng sinh. 7.Không làm việc chúng sinh. 8.Trụ vào sự xa lìa tất cả việc ác. 9.Không hủy báng chư Phật. 10.Nhiếp thủ tất cả pháp bạch tịnh. Này Đồng tử! Đó là Đại Bồ-tát an trụ vào Không nên được mười thứ lợi ích. Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói bài kệ: Chỗ trụ Bậc Thiên Nhân Là Đạo Sư Thế Thân Dũng mãnh hay an trụ Đó là không thọ mạng. Đạt được vui thiền định Không đắm trước thế gian Tâm không mong thọ sinh Nhờ biết được pháp tánh. Với giới nếu không chấp Thành tựu giới vô lậu Không sinh trong ác đạo Thường an trụ dòng Thánh. Trụ nơi không đấu tranh Nhu nhuyến với thế gian Biết rõ tất cả việc Đúng thể tánh như thật. Cho đến bỏ thân mạng Không bài báng Như Lai Quyết định nơi không pháp Thân chủng không sợ hãi. Thân tất cả thế gian Phật đạo khó nghó bàn Hay giữ nơi Phật đạo Không nghi ngờ pháp Không. Là chỗ Nhân Tôn trụ Không phải chỗ ngoại đạo Không nương thiền định lạc, Không chúng sinh, thọ mạng. Chưa bao giờ dừng nghỉ Không y vào Thiền lạc Biết pháp không thọ mạng Luôn có tâm vô nguyện. Khéo biết tự tánh pháp Không nương các phiền não Tin thích Phật Thắng Nhân Tâm chưa từng chấp trước. Thường không có đấu tranh Quán việc, tu hành xả An trụ đạo Chánh giác Thọ trì pháp Như Lai. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát trụ nơi an tọa có mười thứ lợi ích. Những gì là mười? 1.Tâm không ô trược. 2.Trụ nơi không phóng dật. 3.Được chư Phật thương nhớ. 4.Tin giác hạnh chân chánh. 5.Không nghi trí Phật. 6.Biết ân. 7.Không hủy báng chánh pháp. 8.Khéo hay phòng hộ giới cấm. 9.Đạt đến địa vị điều phục. 10.Chứng bốn vô ngại. Này Đồng tử! Đó là Đại Bồ-tát trụ nơi an tọa có mười thứ lợi ích. Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói bài kệ: Trong tâm không uế, loạn Xa lìa các phóng dật Giữ hạnh không phóng dật Cảnh giới của an tọa. Niệm sáng chiếu soi đời Tăng trưởng sự tin thích Trí Phật khó nghó bàn Phương tiện không nghi hoặc. Hay biết ân chư Phật Không bài báng chánh pháp An trụ Thiện luật nghi Đạt đến chỗ điều phục. Được biện tài vô ngại Thích sống ở giữa rừng, Bỏ lợi dưỡng cung kính Cảnh giới của an tọa. Tâm họ không uế, loạn Chưa bao giờ phóng dật Kẻ trí thường cẩn thận Đó là lợi tịch tónh. Vô úy, thường ái niệm Tin nơi việc Phật làm Không nghi ngờ trí Phật Đó là lợi tịch tónh. Thường nhớ ân Như Lai Không bài báng chánh pháp Trụ phương tiện Luật nghi Đó là lợi tịch tịnh. Họ đã được điều phục Mau chứng vô ngại biện Diễn thuyết trăm ngàn kinh Thường hành không trì trệ. Mau được Bồ-đề Phật Hộ trì các Phật pháp Hàng phục các tà luận Rộng làm Bồ-đề Phật. Bồ-tát khi mạng chung Vãng sinh nước Cực lạc Phật Di-đà thuyết pháp Mau được Nhẫn vô sinh. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát ưa thích sự không nhàm chán có mười thứ lợi ích. Những gì là mười? 1.Thức tỉnh việc đời. 2.Xa lìa các huyên náo. 3.Không có tranh cãi. 4.Sống chỗ không phiền não. 5.Không tăng hữu lậu. 6.Không sinh sự tranh tụng. 7.An trụ sự yên lặng. 8.Tùy thuận giải thoát tương tục. 9.Mau chứng giải thoát. 10.Ra sức tu hành để được Tam-muội. Này Đồng tử! Đó là Đại Bồ-tát ưa thích sự không nhàn nên được mười thứ lợi ích. Bấy giờ Đức Phật liền nói bài kệ: Thành tựu sự ít việc Xa lìa các huyên náo Thành tựu không tranh cãi Độc tịnh vui thanh nhàn. Trong lòng không sân não Không tăng trưởng hữu lậu Thường hòa, không tranh tụng Là lợi sống thanh nhàn. Tâm an, sống tịch diệt Thường ưa hạnh xa lìa Tùy thuận không hệ lụy Mau chứng đạo giải thoát. Nơi rừng, tập thiền định Vứt bỏ lỗi huyên náo Lại không khởi tranh cãi Là lợi sống núi rừng. Thường xa lìa hữu vi Thế gian, không ưa thích Các lậu không tăng trưởng Sống trong rừng có lợi. Không sinh lỗi đấu tranh Tâm thường thích tịch tónh Khéo giữ thân, khẩu, ý Trụ không, có lợi này. Tùy thuận sự giải thoát Mau được không chướng ngại Thường ưa sống điềm tịnh Là lợi ích thanh nhàn. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát ưa sống Đầu-đà, thường đi khất thực, có mười thứ lợi. Những gì là mười? 1.Xô cờ ngã mạn. 2.Không cầu thân ái. 3.Không mong danh tiếng. 4.Ở trong dòng Thánh. 5.Không dua nịnh, không lừa dối, không hiện tướng lạ lại không kích động. 6.Không tự cao. 7.Không hủy báng người khác. 8.Đoạn trừ yêu, giận. 9.Nếu vào nhà người, không phải vì ăn uống, nhưng vì hành pháp thí. 10.Người tu hành đầu-đà, nếu khi thuyết pháp được người tin thọ. Này Đồng tử! Đó gọi là Đại Bồ-tát thích tu hạnh Đầu-đà, đi khất thực có mười thứ lợi ích. Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói bài kệ: Người ấy không ngã mạn Không mong cầu thân hữu Lợi, suy, tâm bình đẳng Nhờ sống hạnh Đầu-đà. Không hoại hạt giống Thánh Không lừa cũng không dối Tự thân không cống cao Cũng không khinh khi người. Vất bỏ tâm yêu, giận Thuyết pháp không mong cầu Khi nói người tín thọ Là lợi lạc khất thực. Không cầu thân danh lợi An trụ trong dòng Thánh Ngay thẳng, không dua nịnh Là lợi lạc Đầu-đà. Không khen mình, chê người Được khen không vui mừng Nghe chê không áo não Là lợi vui Đầu-đà. Thí pháp không vì ăn Vì không cầu cung kính Lời nói, người tín thọ Là lợi lạc Đầu-đà. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát an trụ các công đức lợi ích như vậy, ở chỗ không nhàn được thấy Phật tạng, đạt được Pháp tạng, đạt được Trí tạng, được tạng trí tuệ quá khứ, vị lai, hiện tại. Này Đồng tử! Thế nào là được Phật tạng? Này Đồng tử! Đại Bồ-tát thích hạnh viễn ly, trụ nơi không nhàn, được năm thần thông. Những gì là năm? 1.Thiên nhãn. 2.Thiên nhó. 3.Biết tâm người khác. 4.Biết được đời trước. 5.Cảnh giới thần thông. Bồ-tát này dùng Thiên nhãn giới, thanh tịnh hơn người thường, vô lượng vô số các Đức Phật Thế Tôn ở phương Đông. Phương Nam, phương Tây, phương Bắc cũng thế, bốn phương phụ, phương trên và dưới, cũng thấy vô lượng vô số chư Phật, thường được nhìn thấy, chưa từng xa lìa. Này Đồng tử! Đó là Bồ-tát được thấy Phật tạng. Này Đồng tử! Sao là Đại Bồ-tát đạt được Pháp tạng? Này Đồng tử! Đó là Đức Phật Như Lai nếu có thuyết pháp, vị Bồ-tát ấy dùng Thiên nhó giới thanh tịnh hơn người thường nghe được. Tất cả Bồ-tát này thường được nghe pháp, mà không xa lìa. Này Đồng tử! Đó là Bồ-tát đạt được Pháp tạng. Này Đồng tử! Sao là Bồ-tát đạt được Trí tạng? Này Đồng tử! Nhờ trí tuệ này, có thể thọ trì các pháp, đối với tất cả chúng sinh lấy tâm đại Bi làm đầu, dùng tâm không si mê mà thuyết pháp, biết được Pháp tạng. Này Đồng tử! Đó là Đại Bồ-tát đạt được Trí tạng. Này Đồng tử! Sao là Đại Bồ-tát đạt được Trí tạng của quá khứ, vị lai và hiện tại? Này Đồng tử! Bồ-tát này biết như thật tâm hạnh của các chúng sinh, chỉ do tâm hành thứ lớp khởi lên, quán pháp tự tâm để không loạn tưởng, tu tập phương tiện, như tự tâm hành. Các loại khác cũng vậy, tùy theo sắc được thấy, tiếng được nghe, có tâm ưa thích, hay không ưa thích đều biết như thật. Này Đồng tử! Đó gọi là Bồ-tát được Trí tạng của quá khứ, hiện tại và vị lai. Này Đồng tử! Nay ta lược nói trụ công đức như vậy, Đại Bồ-tát được tất cả Phật pháp, không phải địa vị của các Thanh văn và Bích-chi-phật, huống chi tất cả dị luận của ngoại đạo. Bấy giờ Đức Thế Tôn nói bài kệ: Ta nhớ vô lượng kiếp quá khứ, Có Phật Như Lai đại danh xưng Hiệu là Phật Oai Đức Chúng Vương Được các trời, người đến cúng dường. Mười ức Tỳ-kheo đủ thần thông Đạt được biện tài, được tự tại Sống hạnh Đầu-đà, tâm điều phục Phật ấy đầy đủ chúng như vậy. Có bảy ức sáu ngàn vạn thành Thành ấy chu vi hai ngàn dặm Bấy giờ thế giới Diêm-phù-đề Được làm bằng bảy báu tối thắng. Thành ấy vi diệu rất mỹ lệ Trăm vườn, nhà đẹp, được trang nghiêm Khu vườn rừng ấy rất trùng điệp Thường có các thứ hoa và quả. Sinh trưởng các loại rừng cây lạ Cây xoài và cây chuối Diêm-phù Ca-ni, Chiêm-ba, Tất-lạc-xoa Ni-câu, Tất-bát, các chim đậu. Tần-già, Câu sí và Khổng tước Nga vương, Xá-lợi rất hoan lạc Các thứ tiếng chim rất kỳ lạ Ca hót vui chơi trong trăm vườn. Đề-đầu lại-tra, Thắng Võ vương Tiếng chim Na-la, Câu phong, Hạc Lông chim đẹp muôn màu muôn vẻ Ở trên hoa sen, hót tiếng hay. Có các loại khác sinh bằng trứng Hót tiếng hòa nhã làm người vui Nô đùa trong vườn tự vui chơi Cùng nhau vui mừng kêu gọi nhau. Hoa Mục-đa-bà-sư, Thâu-ca Ba-lợi-da-đa Câu-la-bà Cây Ta-ha-ca như mây phủ Bát-đầu, Phân-đà, Câu-mâu-đầu. Trong nước có nhiều các loại hoa Trang điểm cho ao đẹp vi diệu Các hoa hương lạ cùng trang sức Khu vườn rừng ấy rất khả ái. Ở Diêm-phù-đề có vị vua Hiệu Kiên Cố Đức, chủ loài người Nhà vua có đủ năm trăm con Nhu nhuyến, đoan chánh học đủ nghề. Quốc gia giàu có rất an ổn Không có các lỗi thường hoan lạc Mặt đất trải bằng các hương hoa So với Thiên cung nào sai khác. Vào lúc ấy, Pháp vương Mâu-ni Tuyên xướng, định tịch diệt như vậy Nói đạo các cõi như mộng huyễn Không có sinh ra và kết thúc. Thọ mạng chúng sinh bất khả đắc Tất cả các pháp đều hư vọng Như điện chớp trong không huyễn hóa Lại như ngựa hoang, trăng trong nước. Không có pháp sinh diệt đời này Cũng không hướng đến việc đời sau Nghiệp đã tạo ra không hoại mất Quả trắng, đen ba đời không mất. Không có đoạn, thường nơi các hành… Không tập nơi nghiệp, không trụ hữu Không tự tạo nghiệp đến tự thọ Cũng không tự tác người khác thọ. Không có đến cũng không có đi Chúng sinh chẳng có cũng chẳng không Không kiến thủ và ác kiến tụ Cũng không chúng sinh và tịnh hạnh. Vô tướng cú tịch diệt, vô sinh Cảnh giới Phật, công Đức Như Lai Đà-la-ni, mười Lực, biện tài Là chỗ Thắng hạnh Phật Như Lai Toàn pháp bạch tịnh công đức tụ Lực Tổng trì trí đức tối thắng. Thần túc biến hiện sức vô biên Sáu Thông, biện tài nhờ đó có Nơi tự tánh ấy chưa từng giảm Hành cái vô hành, chẳng pháp hành. Trong pháp giới này chẳng có đi Hạnh này chẳng hành, chân pháp hành Tánh chẳng âm thanh nhập tự tánh Về nơi tự tánh Vô sở trụ. Tự tánh hành không trụ, không y Cảnh giới Phật ly trần tịch diệt Định tối thắng định hành thắng định Có chỗ trụ chắng hành tự tánh. Thường có tự tánh, thường tùy thuận Vi tế khó thấy câu bất động Nó thường an rú, mà bất động Trú vô sở trú, trú pháp tánh. Không thể nói được trụ tự tánh Là hành bất động trụ nơi pháp Dùng âm thanh nói đạo không lời Thể đạo âm thanh là pháp đạo. Chẳng phân biệt tiếng có chỗ trụ Tánh hạnh như vậy là pháp hạnh Âm thanh nói ra, chẳng sinh hạnh Thể tánh pháp ấy chân nghóa hạnh. Dùng âm thanh nói hạnh chúng sinh Âm thanh chúng sinh hạnh vốn không Trong đó văn tự không chỗ nhập Trí tuệ rộng lớn, nghóa cũng vậy. Theo đạo Phật khen mà tu hành Pháp lý sáng rạng, hạnh vi tế Lìa hết trần cấu, tạng trí tuệ Nếu có thể trụ không gì hơn. Thường rưới mưa pháp thí thắng diệu Là đạo chân nghóa đệ nhất không Xa trần, thanh tịnh, câu thứ nhất Tịch diệt, thắng tịnh, lìa cấu nhiễm. Không thủ, phân biệt và hý luận Là câu tịch diệt Phật đã nói Chẳng trụ đầu, giữa và sau cùng Chẳng có, chẳng không, chẳng nơi chốn. Đã biết tự tánh hành như vậy. Là pháp vô đẳng Phật đã nói Vua Kiên Cố Đức lúc ấy nghe Lưỡng Túc Thế Tôn nói pháp định. Cùng tám mươi ức na-do chúng Hoan hỷ, kính tín đến chỗ phật Nhà vua cúi lạy Nhân Trung Hùng Với hết lòng tin cung kính Phật. Thọ giáo rồi lui về một chỗ Kính tâm chiêm ngưỡng chắp hai tay Phật biết đức vua hạnh thuần tịnh Căn, thức tự tại đến rốt ráo. Thế Tôn biết tâm vua ưa thích Nên nói Thắng Tam-muội như vậy Đức vua nghe nói Đệ nhất nghóa Liền phát tâm tin vui vào Thánh đạo. Vất bỏ tất cả bốn thiên hạ Lìa vui ngũ dục để xuất gia Đức vua nhờ đó xuất gia rồi Thâm tín chắc chắn nơi Phật đạo Tất cả mọi người Diêm-phù-đề Thảy đều lìa dục đi xuất gia Tỳ-kheo tăng, ni thích tập định Đồ chúng Như Lai nhiều vô lượng. Tất cả tự nhiên từ đất lên Chư Thiên đều đến để hầu hạ Pháp phục ca-sa từ cây sinh Thanh tịnh vô cấu thật khả ái. Cắt may, chằm vá đúng theo pháp Là nhờ oai lực công Đức Phật Đồng tử! Người nên xem vua ấy Bỏ nhà xuất gia, bỏ thiên hạ. Xem ba cõi này như cái máy Để cầu vui lớn đại Bồ-đề Vào đời vị lai, thời mạt pháp Không thể bỏ nhà nghèo hèn ấy. Gông cùm kèm kẹp khổ vô cùng Nơi Thắng pháp này không niềm tin Tuy bị phạt gông cùm, roi, gậy Chửi mắng, hủy nhục, trăm ngàn cách. Bị vua bức bách đều nhẫn chịu Khốn khổ bần cùng, không bỏ nhà Tiền của thiếu thốn, thọ mạng yểu Uổng công cay đắng không phước báo. Ngu si không học các nghề nghiệp Người ấy thường sống nơi phàm tục Bức bách vô nghóa, hung, bạo ác Tham lam giàu có đoạt của người. Vui đùa, cười giỡn chê người thiện Tự xưng đã phát tâm Bồ-đề Yêu vợ người ta, đoạt của người Xan tham, tật đố, nhiều phóng dật. Lìa tâm thương xót, hướng ác đạo Cũng tự cho rằng: Ta làm Phật Thấy người khổ não sinh vui thích Phá giới, bạo ngược, ôm lòng ác. Không nhớ báo ân, phá hoại người Đại đức vì ta nói pháp hạnh Nghe người nói họ hành Bồ-đề Lại đối vị ấy sinh sân hận. Nếu thấy Pháp sư ít lỗi lầm Phóng đại nói thêm trăm ngàn thứ Đồng tử! Nay ngươi nghe ta nói Với hạng người ấy chớ thân cận. Nếu muốn cầu chứng đạo Bồ-đề Cho đến trong mộng chớ gần chúng Trong hạnh Đầu-đà vô lượng đức Nơi vô biên kiếp mà diễn thuyết. Với đức như vậy không an trụ Không bao giờ chứng đạo Bồ-đề Tâm ấy thanh tịnh luôn khéo nói Tịnh giới, tâm hòa, lời thiện diệu. Chỗ chư tôn trưởng thường tịnh tâm Không lâu liền được Tam-muội này Không theo ngã mạn sinh uế ác Tâm ấy thanh tịnh thường thành tựu. Vứt bỏ kiêu mạn và sân nhuế Hay được Thắng Tam-muội như vậy Thường nhớ công đức tụ chư Phật Da Phật sắc vàng, vô lượng đức. Các tướng tự trang nghiêm thân Phật Như các sao đêm thu yên tónh Tràng phan, dù lọng và trướng đẹp Hương xoa, hương bột và vòng hoa Cúng dường tối thắng Bậc Vô Đẳng Không lâu sẽ được Tam-muội này Chiên-đàn trầm thủy và hương bột Đèn dầu tô lạc, vô lượng thứ. Đem cúng hằng sa tháp miếu Phật Không lâu sẽ được Tam-muội này Tỳ-bà, không hầu, tiếng trống hay Sáo, địch tấu lên cùng tán thán. Vô số tiếng hay trăm ngàn vạn Cúng dường Bậc Tối Thắng lìa ác Tạo tác vô lượng hình tượng Phật Điêu khắc thật đẹp các thứ báu. Bậc Tối Thắng đoan chánh mỹ diệu Không lâu sẽ được Tam-muội này Thường sống giữa rừng, thích tịch tónh Vứt bỏ tụ lạc, lìa tâm đắm. Thích sống một mình giống như kiếm Không lâu sẽ được Tam-muội này Ta là Pháp vương, ngươi con ta Tùy thuận học ta hạnh Tam-muội. Xưa ta được Bậc Đại Danh Xưng Danh hiệu ngài là Kiên Cố Vương Xưa ta cúng dường vô lượng Phật Hằng mong hộ trì giới thanh tịnh. Ở chỗ Thập Lực lòng cung kính Để cầu được thắng định như vậy Ngày xưa ta từng bỏ vợ con Bỏ đầu, tay chân, mắt và tai. Chưa từng khởi sinh tâm hạ liệt Để cầu Tam-muội thắng tịch này Voi ngựa xe cỡi vô lượng thứ Châu báu nhà cửa thí tất cả. Trong tâm không hề có hối tiếc Để cầu được thắng định như vậy Nô tỳ, lúa thóc nhiều vô số Các thứ y phục và ẩm thực. Đem cho tất cả người đến xin Để cầu được thắng định như vậy Ma-ni, trân châu và vàng bạc Lưu ly kim cang, tiền, ngọc báu. Tất cả sở hữu đều đem cho Để cầu được thắng định như vậy Ta bỏ châu báu điểm tô thân Anh lạc, ấn tay, sư tử điều. Mão trời lụa báu hơn trăm thứ Để cầu được thắng định như vậy Y phục vi diệu nhiều trăm ức Lúc ấy ta hoan hỷ đem cho. Vải trắng, bình bát, độc-câu-la Để cầu Thắng Tam-muội như vậy Xưa thấy kẻ bần cùng bế tắc Tên Dịch Lực cầu mong thoát khổ. Đối với người ấy ta rộng thí Để cầu Thắng Tam-muội như vậy Voi ngựa, trâu dê và nhà cửa Vườn tược, xe cộ báu trang nghiêm. Ta cho trăm ngàn kẻ nghèo khổ Để cầu thắng Tam-muội như vậy Ức na-do-tha rừng và vườn Các báu trang nghiêm đều đem cho. Khi thí vui mừng khởi lòng thương Để cầu được thắng định như vậy Thành ấp kinh đô và tụ lạc Tất cả đất đai đều bỏ hết. Cho xong, hay sinh vui tăng thượng Để cầu được thắng tạng như vậy Cứ mỗi kho báu như Tu-di Y phục trên thân cũng như vậy. Ta đều đem cho kẻ bần cùng Để cầu được thắng định như vậy Giàu có, vô lượng kẻ bần cùng Đều đến nơi ta cầu che chở. Chúng sinh khổ não được an lạc Để cầu được thắng định như vậy Xưa ta giàu nhất trên đời này Thấy các thế gian rất khổ não. Vứt bỏ ngôi vua, các sở hữu Hết lòng thương yêu mong chúng vui Đồng tử! Xưa ta làm việc này Trong vô lượng kiếp, làm việc khó. Ngôn ngữ có nói không thể hết Ta nói ức kiếp khó cùng tận Nếu ta nói ra, chúng mê hoặc Với điều Phật làm không thể tin. Trải đủ vô lượng các việc khổ Để cầu được Tam-muội như vậy Nay ta khuyên ông, này Đồng tử! Oâng hết lòng tin nơi lời ta. Thiện Thệ hoàn toàn không nói dối Phật Tối Thắng đại Bi, thật ngữ Ngoài ra việc khổ trăm ngàn thứ Xưa ta lãnh thọ thân khô kiệt. Làm sao hay được Tam-muội này Nếu giải thoát người trăm ngàn khổ Ở trong sát-na chứng định này Liền được đạo trí tuệ chân thật. Ta gặp na-do-tha Đức Phật Hơn cả mười phương cát sông Hằng Đạt Thần túc thù thắng, như ý Hay đến trăm ngàn các cõi Phật. Đến đó thưa hỏi Bậc Tối Thắng Luận hỏi trang nghiêm trăm ngàn loại Khi Phật vì ta mà tuyên thuyết Trả lời như điều ta thưa hỏi. Ta đều có thể lãnh thọ hết Cho đến không quên một câu, chữ Đã được nghe pháp chân thật vậy Rộng đặt vô lượng trăm điều hỏi. Diễn nói câu tịch tónh lìa trần An vô lượng chúng, trí tuệ đạo Ta trụ thắng Tam-muội như vậy Trong vô lượng kiếp học pháp này. Ngày xưa vô lượng các chúng sinh An trú đạo vô thượng, tối thắng Nếu ai xưa nay không thấy Phật Với thắng pháp này chưa từng nghe. Kẻ ấy hoàn toàn không tin ưa Định chân thật nghóa không đệ nhất Người trí nào có thể hiểu rõ Đạt công đức chân thật, thậm thâm. Nghe Đệ nhất nghóa không sợ hãi Nghe rồi sinh tâm rất hoan hỷ Người ấy hay giữ đạo Bồ-đề Tức là chân Phật tử Như Lai. Hiếm có giống như hoa Ưu-đàm Ta đã nhiều kiếp tu khổ hạnh Người ấy không sợ đọa ác đạo Thường được xa lìa nơi tám nạn. Thường thấy vô lượng, vô số Phật Có thể tin Thắng Tam-muội này Cũng như Di-lặc không bạn lữ Ở chỗ chúng sinh được tịnh trí. Kinh Tam-muội này trong tay họ Ta đã thọ ký như Di-lặc Người ấy thành tựu niệm trí tuệ Nghe, giữ rốt ráo đạo tăng thượng. Biện tài tịch tónh không sầu não Định này vì trong tay người ấy Cho nên thường được trời cúng dường Lại được mọi người đến lễ kính. Luôn được quỷ thần đến hộ vệ Bởi nhờ thọ trí Tam-muội này Không bị lửa, độc làm thương tổn Tất cả dao gậy không thể hại. Vào trong nước lớn không bị chìm Bởi nhờ thọ trì Tam-muội này Người ấy hằng ở trong rừng núi Được các chư Thiên đến hầu hạ. Vô lượng Dạ-xoa đến cúng dường Nhờ thọ trì Tam-muội như vậy Trí tuệ rộng lớn như biển cả Nói công đức Phật không chướng ngại. Diễn xướng đức chân thật Như Lai Nhờ thọ trì thắng định như vậy Điều người ấy nghe vô cùng tận Giống như hư không, không bờ mé. Cầm đuốc trí tuệ trừ tối tăm Nhờ người ấy trì định như vậy Lời đúng nghóa nhu nhuyến, mỹ diệu Giữa chúng, diễn thuyết người trí thích. Nói như nước chảy không cùng tận Nhờ thọ trì Tam-muội như vậy Giống như y vương cho thuốc hay Lại cho chúng sinh nơi để ở. Thường phóng ánh sáng cho chúng sinh Nhờ thọ trì Tam-muội như vậy Người ấy không có tâm ái dục Ưa thích tịch tónh được thiền lạc. Nói về tịch tónh lời hay đẹp Nhờ thọ trì Tam-muội như vậy Người ấy lìa tướng, ý không nhiễm Nơi tất cả tướng đều lựa chọn. Tâm thường tịch tónh mà kinh hành Nhờ thọ trì Tam-muội như vậy Người ấy được mắt lìa cấu uế Có thể thấy vô lượng Như Lai. Được mắt Trượng phu thấy vô biên Nhờ thọ trì Tam-muội như vậy Tiếng hay Khổng tước hợp tịch tónh Tiếng Ca-lăng-tần-già vui lòng. Các nhạc hòa hợp phát diệu âm Nhờ thọ trì Tam-muội như vậy Thành tựu tiếng sấm sét vang xa Chim ngỗng, chuông, trống âm mỹ diệu. Hòa hợp trăm thứ thắng kỹ nhạc Nhờ thọ trì Tam-muội như vậy Vô lượng, vô số tăng-kỳ kiếp Thành tựu tiếng hòa nhã như vậy. Những lời nói ra như cam lộ Bởi do thọ trì Thắng Tam-muội Đồ ăn ngon bổ không tham trước Đối với y bát không đắm trước. Ít muốn, biết đủ, khéo điều phục Bởi nhờ thọ trì Tam-muội này Đối với tự thân không cao mạn Đối với người khác không khinh chê. Tâm thường nhu nhuyến thích thiền định Nhờ thọ trì Tam-muội như vậy Thường tự quán sát việc mình làm Không thấy lỗi lầm của người khác. Vui với mọi người, không tranh cãi Nhờ thọ trì Tam-muội như vậy Tâm thường thích hành hạnh bố thí Không thể ô nhiễm tánh keo kiệt. Không bị cảnh giới làm nhiễu loạn Nhờ thọ trì Tam-muội như vậy Đoan chánh thù đặc người ưa thích Da dẻ trong thân sắc vàng ròng Ba mươi hai tướng để trang nghiêm Nhờ thọ trì Tam-muội như vậy Công đức sắc tướng đều vi diệu Nhiều người kính yêu thường gìn giữ. Nam nữ lớn nhỏ nhìn không chán Nhờ thọ trì Tam-muội như vậy Chư Thiên, Long thần, chúng Dạ-xoa Đối với người này điều hoan hỷ. Đi đến nơi đâu cũng hoan hỷ Nhờ thọ trì Tam-muội như vậy Phạm vương, Đế Thích, trời Tự tại Cùng chư Thiên khác đến cúng dường. Trong tâm hoàn toàn không ngã mạn Nhờ thọ trì Tam-muội như vậy Xa lìa tất cả các đường hiểm Không có chướng nạn và ác đạo. Giải thoát tất cả các sợ hãi Nhờ thọ trì Tam-muội như vậy Hay nghe Phật nói pháp vi diệu Không còn tất cả các nghi hoặc. Tùy thuận nhập vào pháp thậm thâm Nhờ thọ trì Tam-muội như vậy Nếu nghe pháp vi diệu Hiền thánh Sẽ đều hiểu rõ được rốt ráo. Do lực nhân duyên kiếp quá khứ Nhờ thọ trì Tam-muội như vậy Như Lai nói ra lời như vậy Khéo được không khởi tâm lợi dưỡng. Nhờ nhân duyên đó được Tổng trì Bởi do đạt được Tam-muội này Người ấy đến khi lúc mạng chung Phật A-di-đà, tuệ dũng mãnh. Phật vì người ấy hiện trước mặt Nhờ thọ trì Tam-muội như vậy Được thấy Thập Lực như cầu mong Và các Thanh văn đứng ở trước. Quyết định sinh về nước An dưỡng Nhờ thọ trì Tam-muội như vậy Giả như khiến tất cả chúng sinh Một lúc thành Phật không biên tế. Một người trong đó đều cúng dường Lại qua hằng hà vô số kiếp Nếu ở đời sau, thời mạt thế Được nghe định này không ai khinh. Thường nơi định này khởi tùy hỷ Công đức hơn trước chẳng thể tính Đồng tử nên biết, đạo tịch tónh Là Tam-muội nghóa không đệ nhất Hoặc chép, đọc tụng và thọ trì Người ấy gọi là trì Pháp tạng. Này Đồng tử! Vì ý nghóa này nên Đại Bồ-tát nếu muốn biết tất cả tiếng nói của chúng sinh và biết tất cả các căn sai biệt của chúng sinh, trước sau không đồng mà thuyết pháp cho phù hợp. Này Đồng tử! Người đó đối với Tam-muội này nên phải thọ trì, đọc tụng, rộng nói cho người khác, lại vì nhiếp thọ tất cả chúng sinh, nên phải tu tập phương tiện tương ưng. Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói bài kệ: Nếu ai từng thấy vô lượng Phật Cũng từng học hỏi Tam-muội này Là người thắng trí trì định này Trụ đệ nhất thiện mà không động. Được Thượng diệu lạc trên trời, người Thường được người khác Thắng cúng dường Lại được vui thiền định, Niết-bàn Nhờ không phóng dật, trì định vậy. Nghe người khen mình, không hân hoan Hoặc bị mắng chửi cũng không giận Vào pháp bất động giống như núi Thích cầu giải thoát nhờ trì định. Miệng không hề nói lời vô nghóa Lìa sân, ngạo mạn và tranh luận Nhẫn nhục điều phục, tâm hoan hỷ Nhờ không phóng dật, trì định vậy. Lời nói êm dịu và chắc thật Nét mặt vui vẻ trước hỏi thăm Thấy các chúng sinh thường mỉm cười Nhờ trì Tam-muội thắng tịnh vậy. Tâm thường điều phục, không phiền người, Khéo nhiếp năm căn trì tịnh giới Chân thật ít lời, lợi đáng yêu Nhờ thọ trì Tam-muội thắng tịnh. Thường bố thí rộng, tâm không tiếc Khiến chúng sinh đói khát no đủ Tự ăn không vui, cho người vui Người thiện nghiệp nhờ trì định này. Được nhiều trăm chư Thiên mến Dạ-xoa, Tu-la, Rồng cung kính Riêng ở trong rừng hằng gìn giữ Nhờ dũng mãnh trì thắng định này. Thích ở tịch tónh, lìa âm nhạc Rồng, A-tu-la, thường thân cận Tất cả không ai làm cho sợ Nhờ trì định không phóng dật vậy. Tiếng nói giống như tiếng Phạm thiên Lại như Thiên nga, tiếng thật hay Cũng như năm trăm tiếng mỹ diệu Danh tiếng lan khắp các thế gian. Tất cả các vi trần đại địa Công đức nhiều hơn vi trần ấy, Tạng công đức lợi ích chúng sinh Nhờ tu tịch định như vậy đó. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát tâm sinh ưa thích: “Ta đối với tất cả pháp tự tánh làm sao được biết.” Này Đồng tử! Đại Bồ-tát đối với Tam-muội này phải nên thọ trì đọc tụng, nói rộng cho người khác, phương tiện tương ưng để tu tập, vì nhiếp phục tất cả chúng sinh vậy. Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói bài kệ: Người trí không giận, thương Lại không khởi ngu si Phiền não thêm sức mỏng Nhờ biết pháp thắng tịch. Giới Phật không khuyết phạm Không buông lung nữ sắc Kiên tâm cầu định này Biết pháp lìa trần cấu. Trí tuệ và thần thông Thấy Phật đến nhiều cõi Tổng trì đến bờ kia Nhờ biết được định này. Mau thành Bậc Lưỡng Túc Dùng tịch trị phiền não Khéo nhổ tên ác, độc Nói câu không cấu tịch. Nếu họ là lương y Khéo biết nguyên nhân bệnh Học trí quyết định này Giải thoát hại chúng sinh. Học lý được tự tại Không đắm việc cúng dường An lạc không mong cầu Nhờ hiểu biết tịnh pháp. Nhân sư tử nhẫn nhục Đánh chửi không sân hận Cắt đứt thân không sầu Vì biết ấm là không. Sức nhẫn như Tu-di Vẫn không chấp nhẫn tưởng Cho đến Phật không còn Nhờ biết vô thường, không. Ba cõi vô lượng tưởng Ba đời đều hiểu rõ Hay hiển lý vô lượng Nhờ học pháp vô úy. Nơi sự không thủ tưởng Yêu, ghét đều không chấp Biết pháp thường không tịch, Nhờ được thắng tịch diệt. Nếu nói thắng định này Không lâu thấy Bồ-đề Khéo liễu đạt cảnh Thánh Bố thí quả báo nhiều. Nói ức Tu-đa-la Trình bày không trở ngại Biện tài không đoạn tuyệt Nhờ biết pháp rộng lớn. Nếu ai vô số kiếp Định tuệ như hư không Thuyết pháp không cùng tận Nhờ biết tịch định này. Biện tài không nghó bàn Cầu đạo nhất định được Nói vô biên ức kinh Biết danh tự pháp tướng. Phật nói pháp vô thượng Nghe, giữ khiến sung mãn Trong đó không nghi hoặc Biết pháp đều phi hữu. Ái ngữ thường hành thí Khéo xả, thích sống nghèo Đời sống vẫn sung mãn Vì thương xót thế gian. Thường làm vua Diêm-phù Thương chúng sinh, không giận Mọi người khởi từ, kính Vì nhờ biết pháp Không. Đoan chánh, vợ, nam, nữ Ngôi vua, thân đều bỏ Quyết định không hối tiếc Nhờ biết được không tịch. Nếu ai cắt thân thể Mộng mị cũng không sân Từng cúng vô lượng Phật Nhờ thọ trì pháp Không. Cúng dường Mâu-ni Phật Ba đời không mệt mỏi Đại tín tâm bất động Là biết pháp Không vậy. Khéo giữ tạng Phật pháp Trụ thắng Đà-la-ni Không lâu được thành Phật Nhờ trì thắng kinh vậy. Đời đời không điếc đui Nhiều kiếp các căn đủ Thường xa lìa tám nạn Hết lòng với kinh này. Làm phước lìa ác đạo Tướng đoan chánh trang nghiêm Tâm tịnh trụ thần thông Nhờ đó Phật hiện tiền. Các thứ ứng hóa thân Độ chúng sinh các cõi Nếu được thấy vị ấy Bồ-đề tâm quyết định. Người trí nghó không buồn Năng lực tinh tấn khởi Cứu cánh trong thắng pháp Mạt thế nhờ trì kinh. Thân phóng ngàn ức sáng Ánh sáng hơn trời, trăng Nếu tu tập không định Không lâu được thành Phật. Ta cầu cảnh giới tịch Ngàn ức tăng-kỳ kiếp Không bỏ tâm tinh tấn Được Nhiên Đăng thọ ký. Kẻ trí trì kinh này Nói Phật pháp tối thắng Ngu si, ngoại đạo mất Mạng chung, địa ngục đốt. Thọ khổ rất kịch liệt Vô số kiếp mới hết Nhiều kiếp đã hết tội Mới được nhận cam lồ. Thời mạt thế đáng sợ Gần với đạo Vô thượng Hộ trì Pháp tạng ta Thọ ký trì kinh này. KINH NGUYỆT ĐĂNG TAM-MUỘI <卷 id="112589537">QUYỂN 7 Này Đồng tử! Đại Bồ-tát nên thường thích tu thần thông bản nghiệp. Thế nào là Đại Bồ-tát tu đại thần thông bản nghiệp? –Đó là nhiếp tất cả thiện pháp, không thủ giới tụ, không trước định tụ, đối với trí tuệ tụ cũng không hý luận, nơi giải thoát, giải thoát tri kiến tụ cũng không chấp trước. Này Đồng tử! Đó là Đại Bồ-tát tu đại thần thông bản nghiệp. Nếu thành thần thông bản nghiệp liền được đại thần thông. Nếu Đại Bồ-tát đối với tất cả việc mà biến hiện tự tại liền có thể vì tất cả chúng sinh thuyết pháp để đưa họ vào Đại thừa. Bồ-tát ấy đối với đại thần thông này phải thường tu học. Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói bài kệ: Thần thông bản thắng nghiệp Hiển thị không quả báo Mong quả tu các hạnh Thủ ngã tưởng, không trừ. Đã nói bậc Thần thông Trí Phật chẳng nghó bàn Nếu trụ nơi chấp trước Người ấy không trí tuệ. Các pháp chẳng nghó bàn Dùng âm thanh hiển thị Nếu chấp nơi âm thanh Không đạt phương tiện thuyết. Không hiểu dạy phương tiện Không biết phương tiện thuyết Phi pháp nói là pháp Nơi pháp dẫu hiểu rõ. Trong thế giới ba ngàn Khi ta nói các kinh Một nghóa, vô số vị Không thể nói hết được. Chư Phật ở mười phương Nói rõ vô lượng pháp Nghó kỹ nghóa Nhất cú Liền hiểu được tất cả. Tất cả pháp vô ngã Nếu ai học pháp này Lúc đó học Nhất cú Hiểu Phật pháp không khó. Các pháp là Phật pháp Nếu ai học nghóa này Như pháp mà hiểu rõ Liền thuận theo pháp không. Các lời là lời Phật Tất cả âm thanh không Cầu khắp cả mười phương Lời Phật chẳng thể nắm bắt. Lời Phật tối đệ nhất Lời Phật không ai bằng Việc vi tế đều không Là lời nói tối thượng. Pháp ấy tối vô thượng Hiển hiện, không đoạn tuyệt Không có mảy vi trần Điều chư Phật tuyên nói. Các pháp chẳng thể nắm Không có pháp để chứng Biết về pháp như vậy Mới hiểu Phật Bồ-đề. Nếu ai ngộ pháp này Liền chuyển được pháp luân Ngay khi chuyển pháp luân Tuyên dương thắng cam lồ. Bồ-tát mới hiểu được Bồ-đề Phật vô thượng Phật là Bậc Vô Đẳng Khiến người ngộ trí Phật. Không tu và không nguyện Vô tướng tức là không Như bốn pháp môn này Phật dạy là giải thoát. Mắt, tai và mũi, lưỡi Thân, ý với các căn Thể tánh chúng là không Kiều-trần-như mới thấy. Nếu đối với pháp này Biết thể tánh như thật Chẳng tranh luận mọi người Nhờ hiển đạt pháp tướng. Là cảnh giới dũng mãnh Bậc Bồ-tát cứu hộ Đều không có nghi hoặc Nhờ hiểu thể pháp không. Hay đạt tánh các pháp Nên được gọi là Phật Vì khó lường pháp giới Giác ngộ kẻ đáng độ. Được sự nghiệp chư Phật Đều do giới thân tạo Lời Phật và tiếng giới Đều cùng tướng bình đẳng. Đã nói các âm thanh Là âm thượng, trung, hạ Bình đẳng đều một tướng Phật thường chỉ dạy pháp. Phật pháp không chỗ trụ Cũng không ở các nơi Không sinh cũng không diệt Cho nên gọi vô lậu. Không mới cũng không cũ Không tan cũng không hợp Không xanh cũng không vàng Không trắng cũng không đen. Khó nói, không thể nắm Hết lời mà tuyên dương Âm thanh không làm nỗi Trí thông Phật thiện xảo. Đó là pháp vô lậu Pháp này không chỗ nương Chẳng ở tại mười phương Pháp ấy Phật đã nói. Sau khi Phật diệt độ Nhớ nghó thân tướng Phật Liền thấy được thân Phật Nhờ thần lực của Phật. Lại không có chúng sinh Chứng đắc quả tịch diệt Khi nói nơi pháp này Vô lượng chúng diệt độ. Ví như mặt trời, trăng Ảnh hiện nơi trăm sông Đều thấy bóng của chúng Tướng các pháp cũng vậy. Nếu biết tánh các pháp Cũng giống như ảnh tượng Quyết chẳng lấy sắc thân Để thấy được chân Phật. Các pháp không hình tướng, Cầu tướng không thể được Pháp không hình như vậy, Chính là Pháp thân Phật. Nếu ai thấy Pháp thân Chính là thấy Đạo Sư Pháp thân là Chánh giác Như vậy là thấy Phật. Không được mà hiện được Không được mà nói được Nếu muốn cầu Sa-môn Cần phải biết đạo này. Ta đã nói chân hạnh Biết chúng sinh ưa thích Nếu nhập bí mật giáo Họ liền không chấp trước. Nếu bảo có chỗ đắc Họ liền chẳng được gì, Họ chẳng được đạo quả Nên gọi phi Sa-môn. Pháp này rất thâm áo Chưa đạt, nói lời này Giáo pháp ấy sâu xa Khó có thể tuyên bày. Việc năm chúng đều không Đều do hư vọng khởi Không có người khởi sinh Và bạn pháp năm chúng. Tánh tướng của năm pháp Là tướng tất cả pháp Phật nói tướng như vậy Tướng ấy chẳng thể nắm. Như hư không không vật Các pháp cũng như vậy Trước sau và hiện tại Quán như thật ba đời. Lời nói như hư không Hư không không thể nắm Thể tánh pháp như vậy Vô thủ như hư không. Diễn nói pháp như vậy Chưa từng có sở thuyết Với pháp không sở kiến Đó là chẳng nghó bàn. Pháp này không tự tánh Pháp thể bất khả đắc Ngộ được Phật Bồ-đề Cảnh giới của định diệt. Nếu có thể biết vậy Với pháp liền không chấp Nếu không chấp trước pháp Người ấy hiểu tướng pháp. Bồ-tát trong mọi lúc Vứt bỏ tất cả tưởng Nếu ai vứt bỏ tưởng Sẽ không chấp Phật pháp. Nơi ấy không thể nắm Mới gọi là thật tế Nơi đó mà hiểu rõ Ức kiếp vẫn không chấp. Vọng phân biệt bản tế Ngu si mãi sinh tử Tìm kiếm khắp mười phương Bản tế bất khả đắc. Vì tất cả pháp không Bồ-tát không chấp trước Hành dụng vì Bồ-đề Hành ấy bất khả đắc. Như chim bay trên không Không để lại dấu vết Tánh Chánh giác như vậy Bồ-tát hay biết rõ. Như người khéo huyễn thuật Giả tạo ra các vật Cũng hiện các sắc vật Thật sự bất khả đắc. Nếu chấp vào được mất Nó liền không sở đắc Trí ấy giống như huyễn Nhưng không đồng với huyễn. Đối với chỗ pháp không Kẻ ngu vọng phân biệt Hành ở trong phân biệt Kẻ ấy vào đường ác. Chúng sinh sinh rồi già Lưu chuyển mãi không thôi Đắm chìm trong sinh tử Khổ não không hạn lượng. Thế gian sinh khổ não Do ngu vọng phân biệt Chưa trừ phân biệt ấy Mãi nổi trôi sinh tử. Vừa vui liền tương ưng Huân tập quả báo dục Chưa thể bỏ chấp thủ Vì trụ nghiệp phiền não. Nghiệp chúng sinh không cùng Phiêu lưu trong biển dục Luôn luôn bị thọ sinh Mãi mãi bị chết chóc. Không trí, bị ma khiến Tạo tác các nghiệp ác Thọ sinh ở nơi đâu Liền bị quả báo chết. Phàm phu ngu tăm tối Nên phải bị sinh tử Bần cùng lại khổ sở Rơi vào đường bất thiện. Bị đao, roi và gậy Thay nhau làm tổn hại Tạo tác việc ác này Tăng trưởng các khổ não. Con tôi và của tôi Phàm phu vọng phân biệt Vọng phân biệt như vậy Tăng thêm các hữu lậu. Tăng trưởng sự sinh tử Tức là kẻ phàm phu Lưu chuyển trong các cõi Nên gọi là phàm phu. Họ vứt bỏ Phật pháp Tăng thêm các pháp ác Nên không được giải thoát Bị lưới ma trói buộc. Kẻ ngu vì ái dục Theo nữ sắc ô uế Hướng sống chỗ ô uế Rơi vào các đường ác. Nhiễm dục, Phật không khen Và thân cận nữ sắc Các lưới đáng sợ này Lưới nữ sắc sợ nhất. Bồ-tát thường xa lìa Giống như sợ rắn độc Thường không thân nữ sắc Biết không phải Phật đạo. Tu học đạo Bồ-đề Như xưa Phật tu tập Đã tu học Phật đạo Mau thành đạo Vô thượng. Phật đạt Tối vô thượng Làm tháp miếu thế gian Trí tuệ không ai hơn Thành Bậc Thiên Trung Thiên. Bảo người tu tám giới Giới thân không cấu uế Các ức chúng vô lượng Khuyên dạy tu Bồ-đề. Làm lợi ích cho chúng Thương yêu khắp tất cả Bậc Trí tuệ dũng kiện Đánh lên tiếng trống pháp. Chấn động cung Ma vương Cùng với quyến thuộc ma Vô lượng các ức ma Khuyên bảo tu Bồ-đề. Hàng phục các dị luận Vượt trên các ngoại đạo Chấn động cả đại địa Biển cả và núi cao. Biến hiện làm nhiều thân Vô số các loại khác Đại trí hay thị hiện Trăm ngàn các thần biến. Chấn động vô lượng cõi Giống như cát sông Hằng Hàng phục các ma quân Liền ngộ đạo Vô thượng. Lại hóa làm cây lạ Các thứ báu trang sức Hoa quả lạ, tươi tốt Mùi thơm thật khả ái. Hoặc hóa làm đài cây Vọng đài và cung điện Biến hóa thật dũng mãnh Ao hoa rất trong sạch. Đầy nước tám công đức Trong mát không uế trược Nếu có chúng sinh uống Diệt trừ ba thứ khát. Nếu ai uống nước này Liền được quả không thoái Hay được trí Vô thượng Làm Bậc Thế Đạo Sư. Đạo Vô thượng tịch diệt Hành giả phải nên biết Không đạt đạo này vậy Đó gọi là ngoại đạo. Nếu ai thân cận họ Hành trì theo lời dạy Rơi vào chỗ đại ác A-tỳ khó cứu thoát. Chịu khổ não cùng cực Không thể nói hết được Chỉ có ta biết rõ Và Bồ-tát Đại Thắng. Sâu xa khó thấy được Chẳng phải phàm phu ngu Vì họ bị đắm trước Với pháp này sinh nghi. Biến hóa rất trang nghiêm. Vô lượng thứ khả ái Tất cả đều trải qua Các cõi Phật vô thượng. Tất cả các cõi Phật Đều hiện các sắc lạ Đại thần lực Bồ-tát Tất cả đều thị hiện. Đại lực, đại dũng mãnh Mặc áo giáp kiên cố Cầm chày đại Kim cang Nơi pháp không diệt trừ. Chỗ phóng xuất tự thân Vô số ánh sáng lớn Nhiều như cát sông Hằng Trừ tăm tối thế gian. Họ không nhiễm nữ sắc Cũng không tùy thuận chúng Nên lìa tư tưởng này Nữ tưởng rất xấu ác. Cõi Phật thường bất không Là chỗ trụ dũng mãnh Các ác ma Ba-tuần Không thể đến nhiễu loạn. Kẻ sống bằng ác kiến Không thể gặp chư Phật Bị sân hận chế ngự An trụ nơi xan tham. Chúng là ma Ba-tuần Sinh Thiên và giải thoát Bị chúng làm chướng ngại Nên phải đọa ác đạo. Quán sát tất cả tưởng Mà sống xa lìa tưởng Người ấy mới biết được Vô thượng trí chư Phật. Hay biết đời trước sau Cùng với đời hiện tại Diễn thuyết nghóa như thị Trong đó không sở thuyết. Lời hòa hợp, giả danh Bồ-tát biết như vậy Lợi ích các chúng sinh Vô lượng khó nghó bàn. Tưởng ấy lường biết nghóa Hiển bày sự nắm giữ Tướng đó không thể nắm Liền chỉ nghóa tịch diệt. Không tịch diệt là tưởng Tịch diệt chính là trí Nếu biết tự tánh tưởng Liền lìa bỏ các tưởng. Nếu có tưởng sai khiến Thì trở lại có tưởng Hành tưởng ấy hý luận Người ấy không lìa tưởng. Nếu ai khởi tâm này: “Tưởng ấy do ai khởi? Tưởng này ai chứng được? Ai diệt được tưởng này?” Người khởi lên tưởng pháp Không thể gặp chư Phật Ngay chỗ đó liền có Vô ngã, lìa chấp trước. Nếu tâm ấy không sinh Do đâu có khởi tưởng Nếu tâm được giải thoát Chúng không do đâu khởi. Nếu chứng được giải thoát Tâm ấy khó nghó bàn Vì tâm khó nghó bàn Thành tựu khó nghó bàn. Xưa ta nghó như vậy: Nên an trụ tâm địa Vứt bỏ tất cả tâm Nguyện thành chẳng nghó bàn. Quả báo pháp bạch tịnh Nhìn thấy nơi vô vi Một niệm đều rõ biết Tất cả niệm chúng sinh. Chúng sinh tức tâm này Tâm tức là Như Lai Chư Phật chẳng nghó bàn Hiểu rõ được tâm này. Nếu ai nghó như vậy Làm sao được xả tâm Suy nghó nơi vô tâm Xa lìa tất cả tâm. Nếu vào lúc chết chóc Tâm theo tưởng mà chuyển Người ấy khởi tâm nghó Khiến tâm không giải thoát. Kẻ ngu tưởng nữ sắc Liền khởi lên ái dục Nếu diệt trừ tưởng ấy Liền không có ái dục. Nếu nghó pháp vô thượng Suy nghó ấy rộng lớn Nhờ suy nghó các pháp Đạt được tâm chân thật. Tâm nhớ nghó vô cùng Nên mãi mãi phan duyên Nhớ nghó các tà đạo Tâm nghó không cùng cực. Gọi là pháp tâm tận Trong cùng tận không trí Trí tuệ chẳng cùng tận Vì pháp vô tận vậy. Tạm mượn lời nói đạo Quên lời mà diễn thuyết Pháp này không sai khác Trí tuệ không cùng tận. Không sinh cũng không diệt Không tướng mạo, hình dạng Thường ở trong ức kiếp Hiển hiện pháp vô tướng. Quán sát tất cả hữu An trụ trong phi hữu Chưa từng thấy hữu khác Cũng không thấy không khác. Tạm gọi có ngôn thuyết Hiển thị chẳng có không Song với tất cả Phật Có, không không chỗ thấy. Tất cả pháp hữu vi Hiển thị nơi phi hữu Nếu hay biết pháp này Liền thấy được phi hữu. Thường không có sở chứng Vì rốt ráo không có Nếu có sự chứng đắc Liền gọi là thế gian. Nếu khởi tâm như vầy: “Ta ở đời, thành Phật Còn có khởi tưởng này Trọn không ngộ Bồ-đề”. Bậc Bồ-tát vô úy Nơi pháp không cầu mong Tự nhiên không phiền não Đó gọi là Bồ-đề. Mọi người nói lời này: “Ta hướng nơi Bồ-đề Vì không biết đạo này Nên xa Phật Bồ-đề”. Dùng âm thanh nói pháp Tất cả các hành không Tự tánh thể âm thanh Tinh vi không thể thấy. Thị hiện đại thần thông Nói Tu-đa-la này Lợi ích các Bồ-tát Điều chư Phật sáng tỏ. Đoạn trừ các đối trị Là tất cả phiền não… Phật trụ đại thần thông Khéo tu bốn Thần túc. Đã thấu đạt giới luật Với không đã rốt ráo An trụ nơi thần thông Thần túc chẳng nghó bàn. An trụ trí vô nguyện, Tu trí rất thanh khiết Cầu trí không mệt mỏi Vô lượng chẳng nghó bàn. Trong Tam-muội thần thông Rõ vận không công dụng Quả ấy hằng không tịch Tất cả thường tịch diệt. Năng lực thần túc ấy Trải qua ức thế giới Thấy Phật đèn soi đời Giống như cát sông Hằng. Người ấy nơi sinh diệt Tùy tâm được tự tại Nhờ tâm tự tại rồi Nên thân được thanh tịnh. Trong các đệ tử Phật Nếu tu sức thần thông Quả báo thần thông này Không được phần mười sáu. Tất cả các chúng trời Không thể thấy thân họ Ngoại trừ Phật Thế Tôn Và những vị đồng chứng. Vị ấy thân không bệnh Không tóc bạc da nhăn Cũng không già ốm yếu Lâm chung không khổ não. Không có các nghi ngờ Cùng với các nghi hoặc Ngày đêm hằng diễn thuyết Trăm ức Tu-đa-la. Với tất cả phiền não Đoạn hết các tập khí Đối với các chúng sinh Thường khởi tâm bình đẳng. Với trăm ngàn Tam-muội Không uế, được tự tại Tu tập trí tuệ lớn Diễn thuyết cho mọi người. Với hai căn nam nữ Xa lìa tất cả tưởng An trụ phi hữu tưởng Hay nói chân quyết định. Dùng trí tuệ thanh tịnh Diễn thuyết pháp như thật Đúng với pháp tùy thuận Cảnh giới của định, tuệ. Nhờ tu các định ấy Không bị sự đình trệ Thường dùng lời chân thật Thuyết pháp điều lợi ích. Nên khéo được thân người Xa lìa tất cả nạn Hay báo ân chư Phật Vì thường thích kinh này. Nên trong vô lượng kiếp Xả bỏ nơi thế gian Nếu nơi kinh điển này Cho đến trì (một) bài kệ. Đã từng thấy chư Phật Luôn luôn đến cúng dường Vì ưa thích kinh này Mau ngộ Bồ-đề Phật. Nên liền thấy chư Phật Thường ở núi Kỳ-xà Sẽ được Phật thọ ký Sẽ thấy Phật Di-lặc. Nhờ thấy Phật Di-lặc Hoặc ở thời mạt thế Người thọ trì kinh này Được tâm thượng ái lạc. An trụ trong thật tế Thành tựu chẳng nghó bàn Nơi chẳng nghó bàn này Không có các nghi hoặc. Người ấy không nghi ngờ Không có vi tế hoặc Nơi lời Phật quyết định Bồ-đề đâu khó được. Đời mạt thế hãi hùng Khó có thể tu hành Nếu được nghe kinh này Liền được vô tận biện. Ai ưa thích kinh này Tạng Phật pháp vô thượng Phật và các Thanh văn Liền đi đến cúng dường. Người chuyên đọc kinh này Chính là trì Pháp tạng Trong các sự cúng dường Cúng dường pháp cao nhất. Nếu hay trì kinh này Bồ-đề Phật khó nghó Là trí Phật vô thượng Được trí ấy đâu khó. Trước khi Phật xuất thế Từng trì kinh điển này Cho đến đời mạt thế Lại được gặp kinh này. Đi đến các cõi Phật Cất tiếng rống chấn động Tiếng rống sư tử lớn Tiếng Phật chẳng nghó bàn. Ở chỗ ức Đức Phật Việc làm Thích sư tử Hay dùng vô lượng biện Diễn thuyết không sợ hãi. Loại công đức ngọt ngào Được chư Phật thọ ký Và đời sau mạt thế Hay hộ Bồ-đề Phật. Sắc đẹp đều đầy đủ Tướng tốt tự trang nghiêm Thần lực mau đến được Thấy được vô lượng Phật. Thần lực hóa thành hoa Đẹp đẽ và thơm phức Thường dùng thủy tinh, bạc Cùng với các lưu ly… Tất cả các của báu Từ lòng tay hiện ra Vì cầu được Bồ-đề Cúng dường tất cả Phật. Vô lượng thứ cúng dường Âm nhạc và ca tán Phát từ lỗ chân lông Giống như cát sông Hằng. Hằng ức loại chúng sinh Nếu được nghe tiếng này Liền được không thoái chuyển Trí tuệ Phật vô thượng. Được Đức Phật khen ngợi Khắp nghe danh hiệu Phật Các phương truyền danh ấy Cũng tự được nghe thấy Nếu ai nghe được danh Được diệt hết các tưởng. Đã diệt hết tưởng rồi Được thấy vô lượng Phật Có trí tuệ như vậy Hành nơi hạnh Bồ-đề. Vì lợi ích chúng sinh Nên cầu đức Bồ-đề Người hành trí tuệ ấy Được lợi ích như vậy. Lại được lợi ích khác Bởi hay trì kinh này Nếu có các phụ nữ Nhờ nghe, trì kinh này. Liền chuyển khỏi thân nữ Hay nói pháp cam lồ Lại không còn thọ nữa Thân nữ nhân như vậy. Đầy đủ các sắc đẹp Thành tựu tướng trang nghiêm Nếu nơi thắng kinh này Hiển bày công đức ấy. Sẽ được diệu quả đó Mau chóng chứng Bồ-đề Thường trong tất cả đời Thành tựu không sợ hãi. Nếu ai với kinh này Cảnh giới của Bồ-tát Thắng Tam-muội vô tận Mẹ tất cả Bồ-tát. Để mau chứng Bồ-đề Phải nên trì kinh này Họ được thân cận Phật Cũng gần Phật Bồ-đề. Lâu ngày thọ kinh này Được tịch diệt thắng diệu Bậc dũng kiện chỗ này Cõi Bồ-tát an trụ Thấy đèn đời chiếu sáng Giống như cát sông Hằng.  Vua Chuyển luân hay tạo đại lực Thấy Phật Thập Lực tâm tịch định Vô lượng trăm kệ để khen ngợi Được Thắng Tam-muội, Ly cấu địa. Bày vật vô đẳng cúng dường Phật Đại danh hiệu Đấng Nhân Trung Thượng Vứt bỏ ngôi vua như nhổ dãi Để tu Thắng phạm hạnh tối thượng. Xuất gia nơi Phật pháp thù thắng Được định Ly cấu tịch diệt này Đắc lời nói thù thắng, vi diệu Diễn thuyết nhiều ức kinh không ngớt. Pháp vi tế Không, Vô tướng, Nguyện Tịch thắng, Ly cấu, không các lậu Tự tánh không tịch, dứt ngôn ngữ Xuất định, thuyết pháp cho mọi người. Trí tuệ thậm thâm thường vô lượng Trí tuệ rộng lớn, nghóa vô biên Đắc Tam-muội thậm thâm này rồi Hay làm đèn sáng cho thế gian. Thường tu phạm hạnh, luôn trong sạch Không có tanh tao và ô uế Khiến vô lượng chúng sinh an trụ Khiến được tịch định, lìa các cấu. Thường được biện tài, chóng thông lợi Đa văn như biển, tuệ vô lượng Nói năng thượng diệu, đạt các pháp Nhờ trì thắng kinh tịch định này. Rõ biết các nghiệp và công xảo Thấy rõ luận lý và y dược Đạt đến tất cả bờ dũng kiện Nhờ trì tịch định Ly cấu này. Nơi các kệ luận và cười đùa Giỏi việc ca múa đến tột đỉnh Thường làm Pháp sư cho thế gian Nhờ trì tịch định Ly cấu này. Thường có các quyến thuộc thượng diệu Thường được tất cả thượng cúng dường Hay tu hạnh Bồ-đề thắng diệu Nhờ trì tịch định Ly cấu này. Tên độc buồn phiền bức bách tâm Bậc trí tuệ ấy không phiền này Luôn không bệnh tật, thường an ổn Nhờ trì tịch định Ly cấu vậy. Có các bệnh hoạn ở thế gian Tất cả bệnh thân và bệnh tâm Người ấy thường không bệnh hoạn ấy Nhờ trì tịch định Ly cấu này. Tất cả thân đau và tâm đau Hoặc là răng đau hay đầu đau Người trí thường không thống khổ này Nhờ trì tịch định Ly cấu này. Tâm có vô lượng khổ đau khác Từ ý ấy khởi thiêu đốt thân Họ không khi nào khởi phiền não Nhờ trì tịch định Ly cấu này. Giống như hư không không cấu nhiễm Tự tánh vô cấu thường thanh tịnh Tâm người ấy tịnh cũng như vậy Nhờ trì tịch định Ly cấu này. Cũng như ánh sáng của trời, trăng Phá trừ tăm tối thường thanh tịnh Tâm họ trong sáng cũng như vậy Nhờ trì tịch định Ly cấu này. Như người cầm nắm các màu sắc Vẽ lên hư không, không thể được Người ấy tâm tịnh như hư không Nhờ trì tịch định Ly cấu này. Giống như gió thổi khắp mười phương Du hành các cõi không đắm trước Tâm họ du hành giống như gió Không nhiễm thế gian được giải thoát. Gió thổi mau chóng không thể thấy Không bị lưới giăng, không trói buộc Chí ý người ấy sâu khó thấy Nhờ trì tịch định ly cấu này. Ảnh hiện trên vách không thể nắm Bóng hiện trong nước làm sao cầm Khi thân đạt được Tam-muội này Không ai biết được tâm người ấy. Chúng sinh trong mười phương thế giới Bao nhiêu lời nói vẫn tính được Khi thân đạt được Tam-muội này Không ai biết được tâm người ấy. Đạt được định tịch diệt như vậy Tâm họ không cấu, không nhiễm trước Chúng sinh ba cõi không ai bằng Chỉ trừ chư Phật, Tam giới tôn. Lìa tham ái dục, không nhiễm sắc Không bị tâm ngu đắm nữ nhân Khi đạt được thắng định như vậy Chứng thắng tịch diệt, không ô nhiễm. Đối với nam, nữ không luyến ái Không nhiễm vợ con và quyến thuộc Khi đạt được thắng định tịch diệt Tu hành thiện tịch không đắm nhiễm Đối với của cải không tham đắm Không mong sinh Thiên, không tiếc của Tâm ấy thanh tịnh không vọng tưởng Do được định này, nhiều lợi ích. Không vì sinh Thiên, tu phạm hạnh Người trí bố thí không mong báo Chỉ vì Bồ-đề tu phạm hạnh Nhờ được tịch định Ly cấu vậy. Không cầu ngôi vua, tu giới hạnh Nhiều người do đó tu phạm hạnh Vì lợi chúng sinh cầu Bồ-đề Dốc lòng thành tựu định này vậy. Đã bỏ các dục, tâm không não Hằng không mong cầu việc dâm dục Đoạn trừ dâm dục và cao mạn Do đạt được tịch định như vậy. Họ thường không bị sân nhuế hại Uế tâm sân não không hề sinh Thường dùng lòng Từ trừ sân hận Nhờ được thắng tịch định như vậy. Họ thường không bị ngu che tâm Chính nhờ trí tuệ đoạn vô minh Đạt được vô lượng vô ngại trí Đạt được lợi ấy nhờ định này. Dùng quán bất tịnh trừ ái dục Tâm Từ trừ sạch hết lòng sân Trí tuệ đoạn trừ lưới vô minh Được diệu định này soi thế gian. Không có ngủ nghỉ và giải đãi Không khởi phiền não và sân hận Hằng được giải thoát không tạp uế Được Tam-muội ấy có lợi này. Không bị xan tham làm bức não Tâm thường ưa thích việc tuệ thí Xả bỏ tất cả, ban niềm vui Nhờ người ấy hay trì Tam-muội. Đầy đủ oai thế không ai bằng Tất cả thường có lực đại thân Tất cả thế gian không ai bằng Nhờ Bồ-tát trì thắng định ấy. Cũng lại hay làm vua Chuyển luân Đầy đủ bảy báu, đi trên không Lúc đó tất cả đều quy phụng Bậc trí tuệ ấy được quả này. Sinh nhà hào quý, hiền tối thắng Của cải quyến thuộc đều giàu có Voi ngựa, xe cộ cùng xe báu Vàng bạc dồi dào đủ các báu. Hằng sinh quý tộc nhà giàu có Lần lượt như vậy sinh chỗ tốt Với Phật, Pháp, Tăng càng tin thích Sinh ở đâu người cũng kính yêu. Người không tín tâm ở Diêm-phù Thảy đều làm cho sinh chánh tín Khiến cho kiến lập tâm Bồ-đề Cũng lại khiến họ được đạo quả. Họ được Vô thượng Bồ-đề rồi Chuyển nói vô thượng diệu pháp luân Nếu ai biết được pháp họ thuyết Thảy đều đạt được Nhẫn vô sinh. Bồ-tát thường hành tâm từ ái Đều hay trưởng dưỡng các chúng sinh Hằng làm vô lượng thắng lợi ích Mở mắt chúng sinh, trừ tăm tối. Nếu Phật dạy dỗ một Bồ-tát Vô lượng trăm ngàn ức chúng sinh Đã trồng gốc thiện ở trong đó Nghe xong liền phát tâm Bồ-đề. Quốc độ lúc ấy chẳng luống qua Vì bậc trí phụng trì Phật pháp Phật tử Bồ-tát tùy chỗ ở Lợi ích vô lượng các chúng sinh. Hộ giới vô đẳng trì phạm hạnh Trong vô lượng kiếp tịnh Tam-muội Với thiền giải thoát thường quyết định Bồ-tát như vậy là Phật tử. Họ thường tu tập thắng thần túc Hay đến vô lượng các cõi Phật Đã nghe chánh pháp nơi Như Lai Tùy chỗ nghe được đều nhớ nghó. Nếu có Bồ-tát trụ Tổng trì Hay nói vô lượng Tu-đà-la Lại biết các chúng sinh quá khứ Vị lai, hiện tại cũng như vậy. Hiểu rõ sinh tử các hàm thức Cũng lại liễu đạt sự vị lai Không ai từ đó hướng theo kia Tìm hiểu đôi phần cũng không được. Một khi nghiệp chưa đến Tìm cầu cũng khó được Bồ-tát đại danh xưng Có thể hiểu rõ nó. Bậc tâm tịnh tối thắng An trụ nơi không tịch Nhờ Đại thừa vô lượng Chuyên chở các phẩm hạnh. Họ không thể nhớ nghó Còn có chúng sinh tưởng Bậc đại danh dự ấy Hãy ngộ pháp vô sinh. Dù vị ấy có nói Không chấp chúng sinh tưởng Ngộ được cảnh giới không Trụ nơi trí kiên cố. Nói rõ Tam-muội này Chỗ trụ của Phật pháp Không khởi nơi tư tưởng Là các nam và nữ… Quán sát các người nữ Mà ngồi nơi đạo tràng Đã ngồi nơi đạo tràng Phá hoại các ma quân. Nơi ma không chỗ thấy Hàng phục các ma quân Không thấy ma nữ đến Mà đến nơi ngã sở. Khi ngồi ở đạo tràng Trừ sạch tất cả tưởng Nhờ đoạn tất cả tưởng Chấn động khắp đại địa. Tu-di và biển cả Mười phương cũng như vậy Nơi mười phương cõi ấy Đều biết chúng sinh đó. Thần thông lực Bồ-tát Chấn động nơi đại địa Khi chấn động sáu cách Thì chứng đạo Bồ-đề. Tất cả pháp hữu vi Cùng với pháp vô vi Pháp ấy đều liễu đạt Chỉ có tiếng thuyết pháp. Không có ai biết được Đó là đạo chư Phật Nếu ai biết đạo này Gọi là Thế Gian Giải. Vì nhân duyên pháp sinh Vì nhân duyên pháp diệt Thể tánh của nhân duyên Đều thấu rõ như thật. Nếu học tất cả pháp Hiểu pháp không rốt ráo Liền biết đạo các pháp Cùng tận tất cả pháp. Vị ấy hành pháp đạo Bồ-tát cầu không được Vị ấy biết đạo này Chánh giác chẳng nghó bàn. Nếu biết tất cả đạo Liền đạt được cứu cánh Xa lìa nơi ác đạo Rõ biết tướng các pháp. Đã ngồi nơi đạo tràng Rống tiếng Đại sư tử Vô biên ức thế giới Ngôn âm đều trùm khắp. Lại rung động cõi ấy Thế Hùng Đại Danh Xưng Khéo độ các chúng sinh Là Thánh Điều Ngự Só. Đã chứng Thượng Bồ-đề Dưới cội cây Bồ-đề Vô lượng ức chúng sinh Người đáng độ đã độ. Sau đó mới biến hóa Hóa thành vô biên Phật Đi đến các cõi Phật Lợi ích các chúng sinh. Chư Phật hay an lập Vô lượng ức chúng sinh Các Như Lai ứng hóa Để thuyết pháp tối thắng. Đó là chân Đại thừa Gọi là trí Như Lai Khởi tín cho chúng sinh Để làm nhân thành Phật. Đó là chân Đại thừa Như Lai Tối diệu thừa Cung kính Đức Như Lai Càng cung kính Bồ-tát. Càng cung kính chư Phật Với Pháp, Tăng cũng vậy Muốn chứng thắng Bồ-đề Tâm ấy không hạ liệt. Kính phụng các Bồ-tát Tôn trọng Bậc dũng mãnh Mau được lên Chánh giác Không lâu thành Như Lai. Ở trong ngàn thế giới Bồ-tát đều đi đến Thấy được Bậc Mâu-ni Bồ-tát không sợ hãi. Dùng các vật quý báu Rải cúng Bậc Đại Hùng Cùng với Mạn-đà-la Vì vui cầu Bồ-đề. Trang nghiêm nơi pháp giới Để cầu công đức Phật Lưới báu dùng để che Cùng khắp cả mười phương. Treo các phướn thắng diệu Dựng ức cờ lọng báu Vô lượng thứ trang nghiêm Trang hoàng nơi thế giới. Biến làm đài gác đẹp Và dùng cung điện đẹp Hành lang rất tráng lệ Các báu vật xen kẽ. Cửa lầu và cung thất Đều làm hình bán nguyệt Với bình bằng tạp hương Đều dùng ngọc báu chế. Vô số các lò hương Đều tỏa đài mây đẹp Ở trong ngàn thế giới Hương xông rất đáng ưa. Nơi ấy mây hương khắp Mưa thứ mưa hương hoa Nếu có ai ngửi được Thành Phật Đại Đạo sư. Liền bỏ gai ái dục Cũng trừ bỏ sân não Đập nát lưới si mê Xa lìa các tăm tối. Đạt được thắng thần thông Cùng với Căn, Lực, Giác Các Thiền cùng giải thoát Đáng thọ của tín thí. Trải ra ức sàng tọa Dùng diệu y rải khắp Lưới báu che lên trên Dùng vòng hoa trang nghiêm. Các Bồ-tát vô úy Đại só dũng mãnh ngồi Thân đủ tướng trang nghiêm Đầy đủ các vẻ đẹp. Dùng các giường ngọc báu Trang nghiêm ở cõi này Biến làm các ao hoa Đầy nước tám công đức. Nếu ai uống nước ấy Xa lìa các hiểm nạn Mau xa lìa khát ái Là phước đức thế gian. Lại có thế giới khác Đại só đến tập hội Khen ngợi công đức Phật Đạo sư Thích Sư Tử. Nếu ai được nghe tiếng Hay thành Thế Đạo Sư Được sự chẳng nghó bàn Hay hiển thị kinh này. Hoa sen vàng sắc đẹp Cả ức cánh tròn đủ Bậc Diệu Giác tối tôn Ngồi đài hoa sen ấy. Cành lá bằng lưu ly Nhụy hoa bằng vàng ròng Giữa, ma-ni đức tạng Biến làm hằng ức hoa. Tỏa ra các hương thơm Người ngửi đều ưa thích Diệt trừ tất cả bệnh Sáu căn đều hoan hỷ. Tham ái và sân si Một lúc đều sạch hết Đã trừ các phiền não Quyết định được thành Phật. Hoa này phát tiếng hay Tán thán công đức Phật Cùng với Pháp và Tăng Tiếng lan khắp mười phương. Không môn và Vô tướng Và dùng pháp Vô nguyện Các chúng sinh nghe xong Đều được quả không thoái. Các âm thanh phát ra Lan đến ức thế giới Vô lượng chúng nghe được Liền phát tâm Bồ-đề. Hồng hạc và Khổng tước Anh võ và Uyên ương Phát ra tiếng thật hay Âm thanh Phật tối thượng. Dùng cây báu thắng diệu Biến hiện nơi cõi này Đoan nghiêm tối đệ nhất Treo vòng ngọc khắp nơi. Đầy đủ sự trang nghiêm Tất cả các cõi Phật Trong đó rất thù thắng Hiện ra ở cõi này. Đầy y báu, anh lạc Treo cây, các âm nhạc Hoa đẹp khiến tâm vui Tất cả luôn tung rải. Các diệu trang nghiêm này Chúng sinh được an lạc Chỗ Thích-ca trụ trì Do thần lực của Thánh. Chỉ lược nói như vậy Công đức Thích Sư Tử Bồ-tát đại danh xưng Nơi trí ấy không nghi. Nếu ai sinh tín tâm Hạnh ấy chẳng nghó bàn Tăng trưởng nơi trí tuệ Như sông đổ ra biển. Muốn biết lượng biển cả Ai biết số bao nhiêu Ta nói pháp Bồ-tát Đều là chẳng nghó bàn. Các Bồ-tát khó nghó An trụ như cõi này Diễn thuyết lời mỹ diệu Giống như cát sông Hằng. Trong vô lượng các kiếp Bồ-tát thường không chấp Nếu đoạn trừ chấp tướng Được gần gũi Bồ-đề. Giả sử pháp diệt tận Vẫn không hủy tịnh giới Nơi hạnh không tàn hại Đứng đầu chúng Bồ-tát. Chính là do ái dục Khiến giới bị khuyết lậu Đoạn trừ nơi dục tướng Đạt được định không thoái. Thường hành định tịch diệt Không đắm mùi vị định Không chấp, không phóng dật Không bị ô nhiễm đời. Vượt lên trên thế gian Hay đến các nước Phật Gọi là An lạc quốc Được thấy Phật Di-đà. Lại thấy các Bồ-tát Đầy đủ tướng trang nghiêm Đến bờ thần thông ấy Môn Tổng trì cứu cánh. Du hành ức thế giới Đầu mặt lạy chân Phật Lại hay chiếu ánh sáng Vô lượng các cõi Phật. Để trừ các tai hoạn Và phá các phiền não Đoạn trừ các trói buộc. Nhất sinh bổ xứ Phật. An lạc các chúng sinh Mãi không đọa ác đạo Các chúng sinh cõi ấy Đoạn trừ các ác đạo. Phật Di-đà cứu hộ Tu trì thế giới Phật Tu tập không phóng dật Số kiếp chẳng nghó bàn. Các ngươi chớ hoài nghi Sức tự tại Phật ấy Hay sinh tín tăng thượng Mau được sinh cõi ấy. Người nữ nghe tán thán Hay sinh tín tăng thượng Được chuyển thân nam tử Hãy đến ức cõi Phật. Na-do-tha ức cõi Bao nhiêu vật cúng dường Đều cúng tất cả Phật Không bằng một phần Từ. Thường tu hành giới định Vô lượng thiền giải thoát Tu ba môn giải thoát Mau thành Nhân Trung Thượng. Trong đời ác mạt pháp Nếu Bồ-tát trì giới Cúng Phật, thường từ bi Cúng ấy là tối thắng. Người này cúng chư Phật Quá khứ và hiện tại Bậc Tối Thắng vị lại Người trì giới đời ác. Mười phương Phật đều thấy Bồ-tát đời mạt pháp Hộ trì cấm giới Phật Người lành hay hộ pháp. Người nữ nghe khen cõi Phật kia Nếu sinh ý tín lạc tăng thượng Liền được thân nam tử thông tuệ Hay du hành đến ức cõi Phật. Trong na-do-tha ức cõi Phật Có bao nhiêu thứ cúng dường Phật Đều đem hết cúng dường chư Phật Không bằng phần nhỏ của tâm Từ. Tu trì giới cấm và Tam-muội Tu tập các Thiền bốn Vô lượng Cũng tu ba thứ môn giải thoát Mau chóng thành tựu Thế Vô Thượng. Cúng dường chư Phật thường thương thân Như cúng Phật này, đời khó sánh Nếu có Bồ-tát không bỏ giới Vào thời ác thế đời sau cùng. Người này cúng dường tất cả phật Chư Phật quá khứ và hiện tại Cùng với Bậc Tối Thắng vị lai Người trì cấm giới đời ác thế. Chư Phật mười phương thấy người ấy Nếu Bồ-tát đời sau ác thế Trì giới thanh tịnh Phật ngợi khen Đó là đệ tử hay hộ pháp. Bấy giờ Đức Phật bảo Đồng tử Nguyệt Quang: –Vào thời quá khứ, vô lượng vô số chẳng thể nghó bàn a-tăng-kỳ kiếp lâu xa, lúc ấy có Đức Phật hiệu Thanh Đức Như Lai, bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Này Đồng tử! Như Lai Thanh Đức ấy an trí vô lượng chẳng thể nghó bàn số chúng sinh hướng về quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, khiến cho chúng trời, người tu theo hạnh Phật, sau đó nhập Vô dư Niết-bàn. Này Đồng tử! Lúc đó có vị vua tên là Đức Âm. Vị vua ấy vào lúc sau khi Đức Như Lai Ứng Chánh Biến Tri nhập Niết-bàn, vì để cúng dường Đức Như Lai Thanh Đức nên lập tám mươi bốn ngàn vạn ức tháp. Trước mỗi tháp thắp trăm ngàn vạn na-do-tha đèn sáng, dùng tất cả kỹ nhạc, hương hoa vòng hoa báu, hương xoa hương bột, lại dùng tất cả y phục, lọng báu, tràng phan đặt ở trước tháp để cúng dường chư Phật Như Lai. Bấy giờ vua Đức Âm, ở chỗ tháp xá-lợi của Như Lai cúng dường xong, vì cúng dường tất cả nhạc cụ cho tám mươi trăm ngàn vạn ức na-do-tha chúng Đại Bồ-tát tập hội. Các Bồ-tát này đều là bậc Đại Pháp sư, khéo hay thuyết pháp, được vô lượng biện tài, khéo hay thị hiện vô lượng các pháp công đức chân thật. Này Đồng tử! Bấy giờ ở trong chúng có một Tỳ-kheo tên là An Ẩn Đức, ngồi ở trong hội ấy, tuổi còn rất trẻ, mặt đẹp tóc đen, trụ trong hạnh đồng chân hiền diệu, chưa từng hưởng thọ thú vui sắc dục, mới thọ cụ giới đầu mùa hạ. Này Đồng tử! Bấy giờ vua Đức Âm thỉnh chúng Đại Bồ-tát vì muốn đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật Bồ-tát tạng đại Đà-la-ni, phương tiện thiện xảo, tự tại vô ngại. Cho nên vào lúc nửa đêm, thỉnh chúng đại Bồ-tát, ở trước Đức Phật để làm pháp hội. Khi ấy, trăm ngàn vạn na-do-tha ngọn đèn đều được thắp sáng, quét dọn nhà cửa, rải các thứ hoa, trải các y đẹp. Bấy giờ, vua Đức Âm cùng với cung phi, hoàng hậu thể nữ, ở hậu cung và các phụ tướng, dân chúng và các quyến thuộc ở thành ấp, dùng các kỹ nhạc, cầm nắm hương xoa, hương bột, tràng hoa, y phục, tràng phan, bảo cái đều đem đến cúng dường tháp Phật. Khi cúng dường xong, vua cùng với tám vạn cung nhân đều lên điện cao để nghe pháp. Bấy giờ có vô lượng trời, người đến tập hội để nghe pháp. Khi ấy Tỳ-kheo An Ẩn Đức thấy trăm ngàn ức đèn cháy, chiếu sáng nơi nơi, nhìn thấy đại chúng hội, liền nghó rằng: “Ta cũng tu theo Đại thừa, mong cầu Tam-muội tất cả pháp thể tánh bình đẳng không hý luận. Nếu nay ta muốn được Tam-muội này, ta phải cúng dường tháp miếu của Đức Phật ấy. Nay ta nên làm sự cúng dường như vậy, khiến cho chúng Trời, Người, A-tu-la… sinh ra ý tưởng kỳ lạ, vui mừng nhảy nhót được ánh sáng pháp, khiến cho vật cúng dường của ta chiếu sáng, che khuất những vật cúng dường của vua ấy, làm cho nhà vua và các cung nhân quyến thuộc của vua thấy ta cúng dường thảy đều hoan hỷ.” Bấy giờ Bồ-tát An Ẩn Đức thấy đại chúng đứng ở trước tháp để nghe pháp, rồi liền ngay đêm đó ở trước tháp Phật lấy y quấn vào tay phải và lấy dầu xoa rồi đốt lên để cúng dường Phật. Khi ấy Bồ-tát An Ẩn Đức, trụ nơi đức tin tăng thượng vì cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nên đã đốt tay bên phải mà tâm vẫn bất động, nhan sắc không thay đổi. Này Đồng tử! Lúc Tỳ-kheo An Ẩn Đức đốt cánh tay thì đại địa chấn động, ánh sáng chiếu khắp vô lượng trăm ngàn, làm cho các ngọn đèn không còn chiếu sáng, vì ánh sáng của cánh tay đốt cháy chiếu khắp mười phương. Bấy giờ Bồ-tát An Ẩn Đức hết sức vui mừng nơi Tam-muội tất cả pháp thể tánh bình đẳng không hý luận, dùng ngôn từ lời lẽ biện chánh, mỹ diệu, hòa nhã mà ca tụng, khiến cho các đại chúng thảy đều nghe rõ. Khi ấy ở trong chúng, một vạn hai ngàn Thiên tử của cung trời Đao-lợi sinh tâm hoan hỷ bày các thứ cúng dường, đều đến hội này để nghe pháp. Bấy giờ vua Đức Âm ở trên lầu cao cùng với cung phi hoàng hậu, thể nữ ở hậu cung, thấy Tỳ-kheo An Ẩn Đức thiêu cánh tay phải, lửa hồng chiếu khắp mười phương, thấy rồi trong tâm suy nghó: “Tỳ-kheo này chắc đã có thần túc mới hiện sự thần biến hy hữu như vậy nên đối với thân mạng không hề luyến tiếc.” Khi ấy vua Đức Âm thấy Tỳ-kheo An Ẩn Đức có sự thần biến như vậy nên tâm sinh yêu mến, đem tâm tịnh tín và sức thiện căn đã huân tập của chính mình, cùng với hoàng hậu, cung phi tám vạn thể nữ, từ lầu cao ngàn tầm phóng mình xuống đất, vì muốn ra mắt Tỳ-kheo Bồ-tát này. Nhờ sức thiện căn cung kính nên được quả báo hiện tại, liền được Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Ma-hầu-la-già hộ trì không để rơi xuống. Nhờ lực hộ trì của Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Ma-hầu-la-già vậy nên vua Đức Âm và hậu phi, thể nữ, tuy rơi từ điện cao mà thân tâm vẫn không bị tổn thương, không mệt không sợ. Khi ấy vua Đức Âm, hai tay ôm cánh tay của Tỳ-kheo mà khóc lóc, kêu gào, tất cả đại chúng cũng lại như vậy. Vì họ thấy Tỳ-kheo An Ẩn Đức đốt cánh tay trông như vòng hoa Chiêm-ba. Cánh tay ấy lại nhỏ dài giống như mũi của voi chúa. Tất cả mọi người thấy rất kỳ lạ, nên không ai mà không than thở, khóc lóc, rơi lệ. Bấy giờ Tỳ-kheo An Ẩn Đức thấy vị Đại vương này cùng với mọi người thảy đều buồn khóc, áo não, nên nói với vua: –Này Đại vương! Tại sao lại buồn bã rơi lệ và mọi người đều khóc lóc như thế? Khi ấy vua Đức Âm dùng bài kệ để trả lời: Đại trí An Ẩn Đức Thông tuệ, Pháp sư giỏi Thấy ngài đốt thân phần Vì vậy nên buồn khóc. Dung nhan ngài đoan trang Giống như đống lửa cháy Thấy ngài hủy thân phần Nên tôi càng sầu não. Khi ngài đốt tay phải Chiếu sáng mười phương cõi Che khuất ánh các đèn Sao, trăng cũng không hiện. Đại địa đều chấn động Tâm ngài không lay động Tâm tôi càng cung kính Biết ngài bậc siêu phàm. Trên điện cao ngàn thước Cùng tám vạn cung nhân Chính tôi tự nhảy xuống Toàn thân chẳng hề gì. Lành thay! Bậc Tịnh trí Lành thay! Ý vô thượng Lành thay! Bậc Tinh tấn Lành thay! Bậc Đại tín. Lúc ngài đốt cánh tay Tâm ngài không lay động Đã phát tâm hoan hỷ Lại còn nói diệu pháp. Giống như mặt trăng rằm Như mặt trời trên không Như núi chúa Tu-di Đoan nghiêm cũng như vậy. Tôi phát nguyện như vậy Đầy đủ đại tinh tấn Nên bỏ thân luyến ái Vì lợi ích chúng sinh. Yêu pháp nên thương khóc Vui mừng được vô cấu Ngài đã hủy thân thể Nên tôi rất buồn rầu. Trời người đã cúng dường Vô biên thắng biện tài An Ẩn Đức bảo vua Liền nói bài kệ này: Chẳng vì thân không tay Gọi là thân khiếm khuyết Nếu ai không trì giới Gọi là thân khiếm khuyết. Dùng thân xú uế này Tôi cúng dường Như Lai Phước điền khó nghó bàn Thắp tất cả thế gian. Ba ngàn cõi có người Bảy báu nhiều như cát Ở chỗ Phật Thế Tôn Vì Bồ-đề nên thí. Tuy có việc cúng thí Cúng pháp lại cao hơn Nếu ai biết pháp không Mới xả bỏ thân mạng. Nay tôi nói lời thật Xin Đại vương lắng nghe Cùng với chúng hội này Tất cả nghe tôi nói. Nếu tôi quyết định rõ Được thành Bậc Vô Thượng Thật như vậy không dối Mặt đất sáu chấn động. Khi nói lời này rồi Đại địa liền chấn động Thấy việc hy hữu ấy Chư Thiên rất hoan hỷ. Trời, người vui mừng xong Liền phát tâm Bồ-đề Chúng vô lượng khó nghó Đều hướng Vô thượng trí. Tỳ-kheo An Ẩn Đức Lợi ích tất cả chúng An trí ức chúng sinh Nơi trí Phật vô thượng. Dùng lời thật pháp này Biết nó đều không thật Lời ấy nếu không dối Tay tôi lành như trước. Nếu thấy pháp này thật Tên An Ẩn cũng không Tìm kiếm khắp mười phương Vì không bất khả đắc. Các pháp như tiếng vang Tiếng phát ra trong ấy Tìm tiếng không thể có Biết các pháp như vậy. Người liễu đạt cứu cánh Nơi không, không sợ sệt Người ấy nói chân thật Tướng lửa không thể đốt. Các chúng sinh thế gian Trời, Người, Dạ-xoa, Rồng Oai lực Nhất thiết trí Đều khiến ngộ tịch định. Hoặc người hoặc là trời Bao khổ nạn thế gian Oai đức không thoái chuyển Tất cả mau hủy hoại. Khi nói lời ấy rồi Tay ngài lành như trước Tỳ-kheo An Ẩn Đức Thân tướng rất trang nghiêm. Ngàn ức số chư Thiên Đứng ở trên hư không Tín tâm, dùng hoa Mạn Rải trên thân Tỳ-kheo. Hoa rơi cao hơn người Lan khắp cõi Diêm-phù Ức na-do Thiên nữ Kỹ nhạc, các ca vịnh. Tỳ-kheo An Ẩn Đức Rống tiếng Đại sư tử Bậc Như Lai Mâu-ni Khiến hằng ức cõi Phật. Mỗi vị ở cõi mình Đại só thanh tịnh ấy Tỳ-kheo An Ẩn Đức Truyền nói tên của họ. Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni Nam, nữ Thanh tín só Trời, Rồng và Dạ-xoa Càn-thát và Khẩn-la. Họ nghe nghiệp quyết định An Ẩn được ly cấu Người tín tâm cầu đạo Số lượng như hằng sa. Tỳ-kheo An Ẩn Đức Thông tuệ, được tự tại Vì đối với trí Phật Đốt tay không lo sợ. Người ấy nơi ngàn cõi Biến thân như hằng sa Tay rực sáng chiếu khắp Giống như lửa kiếp tận. Mưa các thư hương bột Biến khắp tất cả cõi Rơi xuống nơi đại địa Chư Thiên đều tập hội. Tất cả vật cúng dường Trang nghiêm nơi cõi này Mặt đất đầy trân châu Cúng dường An Ẩn Đức. Tất cả các hoa báu Trang nghiêm nơi cõi này Rồng mưa trân châu đẹp Cúng dường An Ẩn Đức. Lại dùng tất cả báu Trang sức nơi cõi này Rồng mưa báu trang nghiêm Để cúng An Ẩn Đức. Thích Sư Tử tối thắng Ở tại núi Kỳ-xà Ở trước các Tỳ-kheo Rống lên tiếng sư tử. Ta là An Ẩn Đức Đức Âm là Di-lặc Trong ngàn ức kiếp ấy Cùng tu hạnh Bồ-đề. Khi thấy người trì giới An Ẩn Đức, trí tuệ Vô lượng các người nữ Đều biến làm người nam. Chư Phật đều thọ ký Hoàn toàn không hồ nghi Họ mau được thành tựu Chứng Thế trí tự nhiên. Nghe được kinh này xong Nói công đức quyết định Nơi mình không chấp trước, Nên học pháp như vậy. KINH NGUYỆT ĐĂNG TAM-MUỘI <卷 id="112589538">QUYỂN 8 Này Đồng tử! Do đó Đại Bồ-tát vì muốn cầu Tam-muội này nên cần phải tu thiện căn, thực hành Pháp thí, hoặc Tài thí. Nhờ sự bố thí này, dùng bốn sự hồi hướng để hồi hướng. Những gì là bốn? 1.Phương tiện thiện xảo của chư Phật quá khứ nên chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, con cũng nguyện được phương tiện quyền xảo ấy, dùng căn lành này hồi hướng quả Bồ-đề. Đó là sự hồi hướng thứ nhất. 2.Ở chỗ Thiện tri thức nghe nói về phương tiện thiện xảo như vậy nên thọ trì, đọc tụng rồi tu học theo. Nhờ phương tiện này khiến cho con được thành tựu Bồ-đề vô thượng. Con nguyện luôn luôn được gặp Thiện tri thức và dùng căn lành ấy để hồi hướng. Đó gọi là sự hồi hướng thứ hai. 3.Con nguyện tất cả của cải có được đều cùng thọ dụng với tất cả chúng sinh và dùng căn lành này để hồi hướng. Đó gọi là sự hồi hướng thứ ba. 4.Nguyện cho thân con trong lúc sinh ra bất cứ nơi đâu được tiền của, được Pháp bảo để nhiếp hộ, lợi ích tất cả chúng sinh, con nguyện thường được thân hình như vậy và dùng căn lành này để hồi hướng. Đó gọi là sự hồi hướng thứ tư. Này Đồng tử! Vì bốn sự hồi hướng này nên đem tất cả căn lành để hồi hướng. Lại nữa, này Đồng tử! Đại Bồ-tát vì cầu Tam-muội này, hoặc tại gia hay xuất gia, dùng tâm không dua nịnh quanh co, phụng sự người trì giới. Nếu ai hay trì Tam-muội này, hoặc xuất gia hay tại gia, nếu người ấy gặp kẻ bệnh khổ khốn đốn, thì đem máu thịt trong thân mình để làm cho họ hết khổ. Nếu có người thành tựu tín tâm tăng thượng, thì Bồ-tát dùng tâm bất động và tâm thanh tịnh để cấp thí cho họ. Này Đồng tử! Về thời quá khứ a-tăng-kỳ, vô lượng vô biên không thể xưng không thể lường số kiếp rộng lớn, chẳng thể nghó bàn, bấy giờ có một Đức Phật hiệu là Bất Khả Tư Nghì Nguyện Thắng Khởi Vương Phật Như Lai, Ứng Cúng Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Đức Phật Như Lai Ứng Chánh Biến Tri ấy, ngay ngày hôm đó thành bậc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Đức Phật biến ra vô lượng vô biên ứng hóa thân Chư Phật mà thuyết pháp, khéo điều phục vô lượng chúng sinh, an trí họ nơi đạo A-la-hán vô lậu, cũng lại kiến lập vô lượng chúng sinh nơi quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, được không thoái chuyển. Bất Khả Tư Nghì Nguyện Thắng Khởi Vương Phật Như Lai ấy, ngay ngày hôm đó tuổi thọ đã tận, liền nhập Vô dư Niết-bàn. Chánh pháp trụ ở thế gian tám vạn bốn ngàn ức na-do-tha trăm ngàn năm. Này Đồng tử! Đức Phật Bất Khả Tư Nghì Nguyện Thắng Khởi Vương ấy, sau khi chánh pháp diệt, vào thời mạt thế có vô lượng Tỳ-kheo chấp kiến. Các Tỳ-kheo ấy dối với các Tu-đa-la như vậy mà không ưa, không thích, không sinh lòng tin, phỉ báng, chê bai. Nếu có ai thọ trì được những kinh như vậy, liền bị các kẻ ác ấy bức não nơi thân, buông lời chê trách, thậm chí còn bị giết chết. Các ác Tỳ-kheo ấy, vì tham đắm lợi dưỡng và sự cung kính cho nên giết chết hai vạn Tỳ-kheo thọ trì kinh này. Này Đồng tử! Bấy giờ trong cõi Diêm-phù-đề này có một vị quốc vương tên là Trí Lực. Ông ta đã từng thọ trì chánh pháp, hộ trì chánh pháp, nguyện xưa thành tựu, đã từng ở chỗ các Đức Phật đời trước trồng các căn lành. Này Đồng tử! Thuở xưa ở trong Diêm-phù-đề này có một vị Pháp sư tên là Thật Ý, thọ trì kinh điển Tam-muội như vậy, đi vào cung vua làm bậc Thiện tri thức. Vì có lòng đại Bi nên hay cứu tế, lợi ích và thương xót chúng sinh. Vị vua ấy rất thích gặp Tỳ-kheo này để nghe lời pháp ngữ không bao giờ chán, nên đi đến chỗ Tỳ-kheo để phụng sự, thân cận và cúng dường, thưa hỏi thỉnh vấn những điều khó nghe, nói và vua có thể thọ trì, có thể trả lời khéo léo. Khi ấy, vị Tỳ-kheo này khéo hiểu ý nghóa rộng rãi và tóm lược về tướng thu nhiếp oai nghi các hạnh thảy đều đầy đủ; khéo hay thông đạt về ấm, giới, các nhập; khéo biết tất cả chúng sinh về sự hòa hợp, phân ly, ly rồi lại hợp; cũng biết oai nghi, các hạnh, tập tánh ưa thích của chúng sinh; khéo biết về căn lực, tinh tấn của chúng sinh; khéo biết tập tánh trí tuệ sai biệt; khéo biết sự tương ưng, bất tương ưng, ngôn ngữ thù đáp với nghóa quyết định, biện tài thâm diệu; cũng hay khéo biết điều phục chúng sinh, mỉm cười trước khi nói, ai thấy cũng ưa thích, xa lìa sự rối rắm, trong lòng rộng rãi, an trụ nơi tâm đại Bi tương ưng với bốn Vô lượng tâm như vậy, tất cả dị luận không thể phá hoại. Này Đồng tử! Bấy giờ vua Trí Lực có một người con gái tên là Trí Ý, tuổi mới mười sáu, nhan mạo tuyệt vời, hình sắc thù diệu, tư dung tròn đầy, chẳng thiếu thứ gì. Vị Tỳ-kheo Thật Ý là Đạo sư của vua, khi ấy, tứ đại của Tỳ-kheo này không được điều hòa, trên đầu gối chân mặt của Tỳ-kheo sinh một cái mụt đen nguy hiểm, khó trị cho lành, tất cả thầy thuốc đều bó tay. Khi ấy vua Trí Lực thấy vị Tỳ-kheo bị bệnh rất khốn khổ, sợ vị này bị chết nên khóc lóc rơi lệ. Các cung phi, hoàng hậu và tám vạn thể nữ cùng nhân dân trong thành ấp của nước, thái tử, các quan, quân chúng, tướng soái, lính giữ cửa và nô tỳ đi theo hai bên vua và đại chúng khác, thấy Tỳ-kheo này thảy đều khóc lóc. Này Đồng tử! Bấy giờ vua Trí Lực trước đây có người thân quyến mạng chung được sinh lên trời, trong giấc mộng hiện ra khuyên vua, nói rằng: –Vị Tỳ-kheo bị bệnh ấy cần phải lấy huyết tươi của đồng nữ chưa giao cấu mà rửa và thoa lên mụt, lại dùng thịt của đồng nữ ấy mà nấu canh, dùng các mùi vị trộn đều, rồi ăn với cơm thì bệnh sẽ lành. Nếu không có thứ thuốc ấy thì nhất định khó lành được. Khi vua Trí Lực thấy mộng như vậy, thức giấc thì trời sáng, liền đứng đậy đi vào hậu cung, tập họp các cung nhân lại, nhà vua nói rõ giấc mộng ấy rằng: –Ta thấy mộng ấy, ai là người có thể cho thuốc này cho Tỳ-kheo bị bệnh để vị Thiện tri thức này – bậc nói về thiện đạo được lành bệnh? Này Đồng tử! Bấy giờ tất cả cung nhân thể nữ trong và ngoài đều không dám hy sinh. Lúc ấy Trí Ý, nghe vua cha nói như vậy biết Tỳ-kheo bị bệnh đó cần thứ thuốc như vậy, nên hoan hỷ nghó rằng: –Như lời cha ta đã nói, hiện nay thân ta chưa từng giao hợp nên đem máu thịt tươi này dâng cho Tôn giả. Ở trong nội cung, ta là người nhỏ tuổi nhất, hết sức kính trọng vị Pháp sư A-xà-lê này, thân, khẩu, ý thanh tịnh, cầu trí vô nhiễm, nên đem máu thịt thân này dâng cho Pháp sư Vô Trước, rồi đem thịt của thân mình trộn đều với các mùi vị khác. Ta nên dâng thuốc cho Tỳ-kheo bị bệnh này để Đại sư của ta bệnh khổ tiêu trừ, bình phục như cũ. Bấy giờ công chúa Trí Ý liền dùng dao bén, hết lòng trụ nơi pháp, cắt thịt bắp vế của mình, máu tươi chảy ra, đem thịt tươi ấy, điều hòa các vị để nấu canh thịt, dùng bát vàng đựng máu trên thân, dâng cho vua. Nhà vua cho người mời vị Tỳ-kheo bệnh vào cung, ngồi trên ghế. Trước vua cha, cô ta lấy máu rửa mụt xong, lại thoa lên mụt cho vị Tỳ-kheo. Công chúa lại đem thứ thịt của mình hòa với các vị ngon khác nấu thành canh; vì để được phước nên dâng cúng cho Pháp sư. Khi ấy vị Tỳ-kheo này không biết, không hay, không nghi là có tội nên liền ăn vào. Vị Tỳ-kheo bệnh khi ăn món ăn ấy vào liền hết khổ hoạn. Bệnh khổ của Pháp sư đã hết, thân được an lạc nên vì vua Trí Lực nói diệu pháp thù thắng. Vì cầu Tam-muội này nên khiến cho một vạn ba ngàn các thể nữ ở trong cung vua… phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Bấy giờ vua Trí Lực liền nói bài kệ hỏi công chúa: Từ đâu con được thứ thuốc này Thịt người tươi ngon và máu nóng Để nấu canh ngon cho người bệnh Khiến Tỳ-kheo này được an lạc. Con bảo người nào đi giết ai Mà được thứ thịt tươi như thế Dùng các vị khác để hòa hợp Lại được máu sạch để thoa rửa. Khi Pháp sư ăn món ăn ấy Và dùng máu tươi thoa đắp mụt Trị lành tai hoạn ác như vậy Khiến cho Tôn giả được vui mừng. Nhờ vị Thiên thần bà con xưa Nói trong mộng ta lời như vầy: Nếu kiếm được thứ thuốc như vậy Mới chữa được bệnh Tỳ-kheo ấy. Phải dùng máu nóng nơi thân người Đắp rửa mụt độc của Pháp sư Điều hòa thịt người thật thơm ngon Rồi dâng lên cho vị ấy dùng. Tỳ-kheo chỉ dùng phương thuốc ấy Bệnh hoạn lập tức được tiêu trừ Chỉ có thuốc ấy mới cứu được Vua nên kiếm mau chớ chậm trễ. Ta tỉnh giấc rồi từ giường dậy Liền vào hậu cung nói lời ấy Tất cả cung nhân nghe nói xong Thảy đều lo sợ đứng im lặng. Lúc ấy ta lại bảo cung nhân Nếu ta làm được việc như vậy Bỏ máu thịt tươi của thân mình Hòa quyện với các vị ngon khác. Dùng thức ăn ấy dâng cho ngài Lại lấy máu sạch để rửa đắp Mụt ác tánh ấy của Tỳ-kheo Chỉ phương thuốc ấy mới trị lành. Nếu không dùng thứ thuốc như vậy Để trị mụt độc của Tỳ-kheo Pháp sư chắc chắn phải bị chết Bởi vì không có thứ thuốc ấy. Khi đó cung nhân nghe vậy rồi Thảy đều im lặng không dám nói Không ai làm được tuệ thí ấy Phương thuốc bằng máu thịt như vậy. Cho đến tất cả người ba cõi Đều không thể bỏ thịt thân mình Trong cung, lời ta đã vang khắp Im lặng không một ai hưởng ứng. Lòng ta kính trọng Tỳ-kheo này Mọi người ai cũng yêu thân mình Bởi họ luyến tiếc thân của họ Không thể cắt bỏ máu thịt mình. Lành thay! Con kiếm thuốc ở đâu Khi ta nghe rồi tâm hoan hỷ Nghe cha tôn trọng lời thắng diệu Tâm vua dũng mãnh không khiếp nhược. Đồng nữ Trí Ý thưa cha rằng: Mong cha lắng lòng nghe con nói Nhờ không ái luyến thân của mình Cũng không chấp trước nơi ngã tưởng Nên mới dũng mãnh bỏ thân mình Để cầu Vô thượng Bồ-đề vậy. Cúi mong vua cha lại lắng nghe Muốn kiếm thịt người không thể có Nên con liền cắt thịt đùi mình Điều hòa các vị dâng Pháp sư. Không giết người khác chẳng tử thi Cắt thân để làm lợi ích lớn Tỳ-kheo đã được hết bệnh khổ Con cũng sẽ được vô lượng phước. Vua liền hỏi: Khi con cắt thân Không thể chịu nỗi khổ bức bách Con mau đem thuốc đắp vết thương Chớ để thân mình bị thống khổ. Nghe lời vua cha, xót lòng nói: Cúi mong Đại vương hãy lắng nghe Nghe ân sâu ấy hành chánh pháp Nghiệp qủa như vậy chẳng nghó bàn. Con nghe cha nói lời vị trời Nên không luyến tiếc thân mạng mình Dùng tâm tín kính mà dâng cúng Cho nên tự cắt máu thịt tươi. Đem thân thể mình làm lợi ích Để trừ bệnh độc của Tỳ-kheo Nay con đã được vô lượng phước Đổi thân mong manh lấy thân chắc. Công chúa lại nói lời như vầy: Cúi mong phụ vương lại lắng nghe Nghe được thật pháp nguyện thọ trì Quán nghiệp quả ấy chẳng nghó bàn. Thuở xưa đã tạo nghiệp bất thiện Chúng sinh do si đọa ác đạo Thịt thân tiêu hết lành trở lại Cho nên nghiệp báo khó nghó bàn. Ban đầu chỉ có xương cốt tiêu Nháy mắt thịt thân hiệp trở lại Huống lại tạo tác các nghiệp thiện Tùy tâm mong muốn đều toại nguyện. Tuy cắt thịt thân không thấy đau Vết thương chảy máu cũng không khổ Nếu khi cắt đứt cả thân phần Nhờ trụ nơi pháp nên không đau. Con rất yêu thích nơi chánh pháp Cho nên cắt thịt để hiến dâng, Tất cả hữu vi giống như mộng Vết thương lành lại giống như xưa. Giống như hoa Ưu-đàm-bát-la Trải vô lượng kiếp mới xuất hiện Pháp sư Tỳ-kheo cũng như vậy Cõi Diêm-phù-đề một lần thấy. Chói sáng như đống vàng Diêm-phù Có ai ngắm nhìn mà thấy chán Pháp sư thật ý cũng như vậy Trời, người chiêm ngưỡng không biết chán. Ví như uống được ly nước mát Liền hết nóng bức vì khát nước Pháp sư Tỳ-kheo cũng như vậy Tiêu trừ khát ái cho chúng sinh. Con đem thịt mình dâng Pháp sư Và thí máu tươi nơi thân mình Trừ khổ tứ đại của Pháp sư Những điều con làm Phật khen ngợi. Bậc Thánh thành tựu đức tương ưng Và trụ vào định tối thắng ấy Con đã cúng dường Tỳ-kheo kia Mong phước thiện này được thành Phật. Như hương thơm phức thật đáng yêu Hương tùy thuận thời hơn chiên-đàn Diệu hương xông khắp đâu cũng có Người trì giới định cũng như vậy. Giống như Tu-di rất đoan nghiêm Chiếu khắp mười phương thật khả ái Rực sáng mặt đất và hư không Pháp sư trì giới cũng như vậy. Nếu ai thanh tịnh và tin thích Xây dựng bảo tháp rất thắng diệu Lại có người khác đến cúng dường Người tạo càng thêm phước tối thắng. Pháp sư thuyết pháp cũng như vậy Con nhờ tịnh tâm được an ổn Bỏ thịt, máu tươi của thân mình Nay con đã tạo tháp Chánh pháp. Nếu có tháp miếu sắp đổ nát Bậc trí gìn giữ không lay động, Nếu có người đến cúng dường tháp Khiến cho người ấy được thắng phước. Tỳ-kheo biết tháp pháp cũng vậy Con dùng thuốc hay trị bệnh ngài Ngài hay diễn thuyết pháp thắng diệu Dẫn chúng sinh đến đạo Vô thượng. Nếu như Tỳ-kheo Pháp sư chết Pháp ấy làm sao mà được nghe? Phụ vương nên biết Tỳ-kheo chết Liền mất đi Tam-ma-đề này. Pháp sư cũng như đèn tịnh diệu Trị lành phiền não của chúng sinh An trụ Tam-ma-đề rộng lớn Cứu tế chúng sinh trong đường ác. Việc làm Tỳ-kheo không thể lường Thường luôn an trụ tâm rộng lớn Đã khéo học cú nghóa quyết định Các dị luận không thể phá hoại. Ở trong vô lượng ức số kiếp Vónh viễn không còn thọ thân nữ Như Phật đã nói phải kính pháp Con đã cung kính vị Pháp sư. Thế giới Phật ấy như hằng sa Đầy khắp vật báu dâng Như Lai Nếu ai tịnh tâm cúng ngón chân Phước này hơn kia rất tối thắng. Như vậy nữ nhân sau khi chết Liền được trông thấy ngàn ức Phật Ở chỗ Phật ấy được xuất gia Thọ trì Thắng Tam-muội như vậy. Ở chỗ chư Phật Lưỡng Túc Tôn Cho đến sau khi Bát-niết-bàn Tất cả như vậy thường xuất gia Phật tử thanh tịnh không ô nhiễm. Cũng ở chỗ Như Lai Đăng Minh Trong pháp Phật đó tu phạm hạnh Lúc đó con được chuyển thân nữ Làm Đại Pháp sư nói thắng pháp. Vua Trí Lực ấy là Di-lặc Thường luôn dũng mãnh hộ trì pháp Pháp sư chính là Phật Nhiên Đăng Vương nữ thuở xưa là thân ta. Hay bỏ thân mình không luyến tiếc Công đức cúng dường Bậc Tự Tại Luôn luôn xa lìa tâm siễm khúc Để cầu được Tam-muội như vậy. Thấy Tỳ-kheo ấy bị bệnh khổ Lúc đó bao nhiêu người khóc lóc Tất cả thảy đều được không thoái Rốt ráo xa lìa các đường ác. Người ấy không còn các phiền não Xa lìa hủy báng và bệnh khổ Đầy đủ năm căn không tàn khuyết Tâm cũng không có các ưu sầu. Tất cả đều đoan nghiêm thù diệu Công đức oai thần thường chiếu sáng Ba hai tướng, trăm phước trang nghiêm Đều nhờ cúng dường người bệnh vậy. Ở trong pháp ta đều xuất gia Vào thời mạt thế sau cùng này Nếu thọ trì tạng Chánh pháp ta Họ sẽ được thấy ngàn ức Phật. Thọ trì cung kính pháp của ta Đó là nhiếp trì giống Bồ-đề Lợi ích rộng rãi các chúng sinh Sẽ thấy được Đức Phật A-súc. Nghe ta hành hạnh Thắng Bồ-đề Liền đạt được điều Thánh mến yêu Tất cả việc trang nghiêm thuở xưa Dâng hiến cúng dường các Như Lai. Tỳ-kheo đa văn trì cấm giới Thấy rồi tịnh tâm mà phụng sự Lại hay xa lìa các sân, mạn Hằng làm phước lớn thật tối thắng. Xa lìa tất cả sân, mạn rồi Cúng dường con ta, người hộ pháp Vô lượng ức kiếp lìa tăm tối Quyết không đọa vào các ác đạo. Tâm tranh tụng phải đọa ác đạo Tuy trì cấm giới và đa văn Cúng dường chư Phật rộng bố thí Yên tịnh thiền định chẳng ích gì. Bấy giờ, Trưởng lão A-nan từ tòa đứng dậy bày áo vai phải, gối phải quỳ xuống đất, chắp tay hướng Phật thưa rằng: –Bạch Thế Tôn! Con ở chỗ Đức Như Lai Ứng Chánh Biến Tri, có điều muốn thưa hỏi, mong Đức Như Lai cho phép; tùy theo sự thưa hỏi xin giải thích cho. Bấy giờ Phật bảo A-nan: –Ông hãy ngồi lại chỗ mình, Như Lai Bậc Ứng Chánh Biến Tri cho phép ông tùy ý hỏi, ta sẽ giải đáp để tâm ông được hoan hỷ. Khi ấy Trưởng lão A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Con xin vâng lời Bậc Tu-già-đa, con xin vâng lời Bậc Bà-già-bà đã cho phép con thưa hỏi. Bấy giờ Trưởng lão A-nan vui mừng thưa rằng: –Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên gì mỗi một Bồ-tát hành hạnh Bồ-tát bị chặt tay chân và cắt tai, mũi, hay móc hai mắt, chặt từng phần trong thân thể, gặp các thứ khổ như vậy thảy đều nhẫn chịu, mà không thoái chuyển quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác? Phật bảo: –Này A-nan! Nếu ông biết ta vì cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nên chịu đựng biết bao thống khổ thì ông không nỡ mở miệng huống chi là hỏi. Này A-nan! Giả sử có người từ chân đến đầu bỗng nhiên bốc cháy, lại có người khác đi đến chỗ người ấy mà nói rằng: “Này Trượng phu! Với thân thể bị lửa bốc cháy như vậy, vẫn hưởng thụ năm dục lạc, tùy ý thọ nhận ca múa vui chơi.” Phật bảo: –Này A-nan! Ý ông thế nào? Thân người ấy bị lửa bốc cháy hừng hực thì có thể tùy ý mà hưởng thọ sự ca múa, vui cười, đùa giỡn với năm thứ dục lạc chăng? A-nan bạch Phật: –Thưa không, bạch Thế Tôn! Đức Phật bảo: –Này A-nan! Lửa trên thân người ấy chưa tắt mà vẫn có thể hưởng thọ thú vui ngũ dục, ca múa, vui chơi. Như Lai thì không như vậy. Thuở xưa, lúc hành Bồ-tát hạnh, ta thấy chúng sinh ở ba đường ác thọ khổ và các nghèo nàn hoàn toàn chẳng có sự vui sướng. Này A-nan! Nếu thời quá khứ khi Bồ-tát tu hạnh Bồ-tát thành tựu giới không khuyết, giới không thủng, giới không lỗi, giới không tạp, giới không thủ, giới không động, giới không ô trược, giới không hoại, giới không thô thiển, giới không hiện tướng, giới không trái ngược, giới chánh trực, giới như lời thề trọng yếu, giới nhiếp hộ chúng sinh. Này A-nan! Đại Bồ-tát tu Bồ-tát hạnh Thành tựu các giới như vậy, không gặp sự chặt tay chân, cắt tai, mũi, chặt đầu, móc mắt và các bộ phận khác trong thân, cũng không thọ lãnh các khổ, mau chóng được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Này A-nan! Về thời quá khứ a-tăng-kỳ kiếp rộng lớn vô lượng, chẳng thể nghó bàn, không thể xưng, không thể lường, không có ngằn mé, lúc ấy có một Đức Phật hiệu là Bảo Liên Hoa Nguyệt Tịnh Khởi Vương Phật, Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Này A-nan! Đức Phật Bảo Liên Hoa Nguyệt Tịnh Khởi Vương ấy thọ đến chín mươi chín ức na-do-tha trăm ngàn kiếp. Đức Phật ấy trong suốt thời gian đó độ chín mươi ức trăm ngàn chúng sinh an trụ không thoái chuyển nơi Phật pháp. Này A-nan! Sau khi Đức Như Lai Bảo Liên Hoa Nguyệt Tịnh Khởi Vương Ứng cúng Chánh Biến Tri đã Bát-niết-bàn, lúc chánh pháp đã diệt, trong thời mạt pháp đối với Tu-đa-la này có vô lượng chúng sinh chán ghét, có vô lượng chúng sinh vứt bỏ, lúc ấy hết sức hãi hùng, lúc ách nạn lớn, lúc không có mưa, hay mưa nhiều, mưa không đúng thời, lúc đói kém, lúc tà kiến, lúc cầu mong ngoại đạo thuyết giáo, lúc ác thú, Dạ-xoa, lúc sấm sét, mưa đá, lúc hủy hoại Bồ-đề của Phật có bảy ngàn Bồ-tát ở thành ấp, đô thị của vua, tụ lạc của nhân dân, từ đó ra đi đến an trụ trong rừng Phổ Hiền, cùng với Pháp sư Thiện Hoa Nguyệt. Khi ấy vị Tỳ-kheo kia nói pháp môn Đà-la-ni cho mọi người nghe. Này A-nan! Pháp sư Thiện Hoa Nguyệt ấy vào một thời ở riêng một mình, tónh tọa, dùng Thiên nhãn giới, thanh tịnh hơn người thường, thấy nhiều ức Bồ-tát, trồng các căn lành ở thế giới của Đức Phật khác, lúc chết lại sinh chỗ này, nếu họ được nghe pháp môn Đà-la-ni này liền được không thoái chuyển đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Nếu họ không được nghe pháp môn Đà-la-ni này, liền bị thoái thất quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Khi ấy Pháp sư Thiện Hoa Nguyệt nghó như vậy xong liền từ Tam-muội đứng dậy đi đến chỗ chúng Đại Bồ-tát ấy nói rằng: –Này các thiện nam tử! Nay tôi muốn đến thành ấp, tụ lạc diễn nói pháp yếu cho chúng sinh. Bấy giờ chúng Đại Bồ-tát bạch Pháp sư Thiện Hoa Nguyệt: –Tất cả các Bồ-tát chúng tôi không muốn Nhân giả ra khỏi khu rừng này đi đến tụ lạc, thành ấp, đô thị của vua ấy. Vì sao? Vì có rất nhiều Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di ngã mạn trong thời tượng pháp, muốn sát hại người. Khi ấy Pháp sư Thiện Hoa Nguyệt thưa với chúng Bồ-tát: –Nếu tôi luyến tiếc thân mạng thì không thể gìn giữ các Phật pháp ở quá khứ, vị lai và hiện tại. Khi ấy Pháp sư liền nói bài kệ: Luôn luôn không trụ nơi ngã tưởng Mới hộ trì được pháp Như Lai Thắng Bồ-đề rộng lớn chư Phật Trong đời ác thế hay thị hiện. Nếu lìa tất cả chấp ngã tưởng Cũng lìa chúng sinh và thọ mạng Với các sắc, thanh, hương, vị, xúc Hãy sớm xa lìa hộ Phật pháp. Nếu cúng trăm ức na-do Phật Tín tâm thanh tịnh thí vật ngon Cũng thí đèn, vòng hoa, phướn lọng Cho đến hằng sa nhiều ức kiếp. Nên lúc mạt thế chánh pháp suy Khi Phật pháp sắp diệt như vậy Có thể hộ pháp một ngày đêm Công đức như vậy hơn người kia. Ta là Thánh sư tử loài người Lúc chánh pháp diệt mà không hộ Không thể gọi là cúng dường Phật Cũng không thể gọi kính Đạo sư. Các ngươi an lạc, tự lợi ích Khéo biết hộ vệ nơi thân mình Trong chánh pháp luật chớ phóng dật Nên thường an trụ, tu hạnh Từ. Hộ trì chánh giới không tạp loạn Thanh tịnh sáng ngời, không cấu uế Đó là cúng dường tất cả Phật Các Như Lai quá khứ, hiện tại. Bố thí pháp bảo, luôn tu nhẫn Tập định chỗ vắng, khéo điều phục Lìa các đấu tranh, hành nhân tốt Đi đến thành ấp, cứu chúng sinh. Thắng Tiên đại trí sắp Niết-bàn Có người thương khóc hoặc đảnh lễ Mong thấy rừng cây hương khả ái Bậc Trí chớ đi, cứu chúng tôi. Thuở xưa Đạo sư khắp mười phương Các căn tịch tónh, khéo điều phục Đi đến núi rừng chỗ tịch tónh Thẳng tới vô thượng thắng Bồ-đề. Lại hay khéo hành nhân Bồ-đề Tu tập phước đức và trí tuệ Ở rừng tùy thuận mà học tập Mong Đại Thánh oai đức chớ đi. Thân người tướng tốt thật vi diệu Đầu tóc xanh đen thật khả ái Da dẻ sáng ngời như núi vàng Chiếu diệu rực rỡ nơi đại địa. Tướng lông giữa mày rất khả ái Giống như ngọc báu ánh sáng trắng Chớ khiến người khác sinh đố kî Mất mạng vì Quốc chủ, Đại thần. Này A-nan! Lúc đó Pháp sư Thiện Hoa Nguyệt liền nói bài kệ với chúng Bồ-tát ấy: Các Như Lai ở thời quá khứ Bậc Nhất thiết chủng trí lậu tận Thảy đều lợi ích cho ba cõi Chứng quả Vô thượng thắng Bồ-đề. Vì cầu Bồ-đề tu nhân tốt Chứa nhóm phước đức và trí tuệ Học tập như vậy, thường tu hành Vì muốn cứu độ các chúng sinh. Tất cả nhiễu quanh Trí thần tiên Cúi đầu sát chân mà kính lễ Ngưỡng mộ, tán thán đều kêu gào Lớn tiếng khóc than rất bi thảm. Có người trên cao rơi xuống đất Chết ngất giống như cây lớn ngã Không nghe lời ngài, bị thoái chuyển Phước tiên vì lợi các chúng sinh. Tiên cầm y bát muốn giã từ Giống như sư tử chúa hùng mãnh Chẳng hề lưu tâm chuyện mất còn Bởi vì an trụ nơi pháp tánh. Chớ bảo ta sống trong núi rừng Tổn giảm căn lành của chúng sinh Ngài liền đi đến thành ấp ấy Vì muốn lợi ích các chúng sinh. Này A-nan! Bấy giờ Pháp sư Thiện Hoa Nguyệt liền đi đến thôn xóm, thành ấp, vì chúng sinh mà thuyết pháp. Vị Tỳ-kheo ấy vào lúc sáng sớm, khiến cho chín ức chúng sinh đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác trụ bất thoái chuyển. Sau đó, ngài thứ lớp du hành đi đến thành vua Trân Bảo, ngồi dưới cây Tất-bát-la. Khi vị Tỳ-kheo này ngồi thiền từ đêm cho đến sáng thì đi vào trong thành, làm cho ba mươi sáu ức chúng sinh đều không thoái chuyển ở nơi Phật pháp. Bấy giờ vị Tỳ-kheo ấy một ngày nọ không ăn, đi ra khỏi thành vua đến tháp thờ móng tay Phật, đứng tại đó một cách cung kính trong một ngày một đêm thì đến sáng sớm của đêm thứ hai Tỳ-kheo ấy vẫn chưa ăn, lại vào thành vua Trân Bảo, làm cho hai mươi ba ức chúng sinh an trụ trong Phật pháp không thoái chuyển. Ngày thứ hai vị ấy vẫn không ăn lại ra khỏi thành vua, đến tháp thờ móng tay Phật đứng suốt đêm ngày, khi đêm đã tàn, ngày sắp sáng, qua ngày thứ ba vẫn chưa ăn, lại vào thành vua an trí cho chín ức trăm ngàn chúng sinh ở trong Phật pháp được không thoái chuyển. Đến ngày thứ ba vị ấy vẫn không ăn, lại ra khỏi thành vua, đến tháp thờ móng tay Phật đứng suốt ngày đêm, hết đêm đến sáng, đến ngày thứ tư vẫn không ăn, lại vào thành vua Trân Bảo, an trí cho chín mươi trăm ngàn chúng sinh trụ nơi Phật pháp được bất thoái chuyển. Vào ngày thứ tư bỏ ăn, ra khỏi thành đến tháp thờ móng tay Phật đứng suốt ngày đêm, hết đêm đến sáng. Đến ngày thứ năm vẫn chưa ăn, lại vào thành vua, an trí cho tất cả người trong cung của Đại vương và dân chúng trong tụ lạc, thành ấp ấy ở trong Phật pháp mà không thoái chuyển. Ngày thứ năm không ăn, lại ra khỏi thành vua đến tháp thờ móng tay Phật, đứng suốt ngày đêm, hết đêm đến sáng. Đến ngày thứ sáu vẫn chưa ăn, khiến cho một ngàn người con của vua đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác đều không thoái chuyển, ngày thứ sáu không ăn, lại ra khỏi thành vua Trân Bảo, đến tháp thờ móng tay Phật đứng suốt ngày đêm, cung kính hết đêm đến sáng; đến ngày thứ bảy vẫn không ăn, đến cửa thành của vua. Bấy giờ có vị vua tên là Dũng Kiện Đắc, khi ấy nhà vua từ hậu cung đi ra, bước lên xe vàng, lan can bằng bạc trắng, chiên-đàn thật tốt làm càng xe, tỳ-lưu-ly làm bánh xe, bên trên có treo phướn, lọng, trang sức bằng phan báu, cây báu trang nghiêm. Các hàng lưới báu treo trên xe, có những tua lụa thòng xuống, có tám trăm đồng nữ nắm dây báu mà kéo xe báu. Các cô gái ấy đoan chánh, nhan sắc đẹp tuyệt vời, kẻ ngu thì say đắm, nhưng người trí thì không mê. Có tám vạn bốn ngàn Sát-lợi, quý tộc giàu có theo hầu ở sau xe, lại có tám vạn bốn ngàn Bà-la-môn quý tộc và tám vạn bốn ngàn trưởng giả quý tộc đều theo hầu ở sau, cũng có năm trăm ngọc nữ, đeo các ngọc báu trang nghiêm đi phía trước vua. Các cô gái ấy đồng lúc thấy vị Tỳ-kheo này nên được không thoái chuyển đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Sáu trăm tám mươi vạn cung nhân đều thấy vị Tỳ-kheo này nên cũng được không thoái chuyển đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Bấy giờ mọi người đều cởi các thứ anh lạc và giày da báu, bày áo vai phải, quỳ gối phải xuống đất, đều chắp tay hướng về phía Tỳ-kheo ấy đảnh lễ cung kính đứng phía trước. Khi ấy có một người nữ, nhờ đời trước đã trồng căn lành, liền xuống xe báu, bày áo vai phải, sửa lại y phục, quỳ gối phải xuống đất, chắp tay kính lễ vị Tỳ-kheo ấy xong liền nói bài kệ: Hôm nay hào quang chiếu cùng khắp Ở tại đô thành vua Trân bảo Chính là Tỳ-kheo đi vào thành Mọi người thảy đều đứng chiêm ngưỡng. Đoạn trừ tất cả lỗi ái dục Cũng lìa sân nhuế và ngu si Các trói buộc ganh ghét, vọng tưởng Tất cả thảy đều đoạn diệt hết. Bấy giờ đại vương Dũng Kiện Đắc Đang lúc dạo chơi không ai thấy Các con cùng với các quyến thuộc Tất cả không ai đi theo vua. Tỳ-kheo ở giữa chúng Đại vương Đoan nghiêm đặc biệt không ai bằng Giống như ngày rằm trăng tròn sáng Tất cả các sao đều vây quanh. Thân như khối vàng ròng trang nghiêm Lại như thợ giỏi làm tượng khéo, Giống như hoa đẹp cây báu nở Tỳ-kheo đoan nghiêm cũng như vậy. Lại như Đế Thích đại oai đức Thiên chủ ngàn mắt dạo hư không Đảnh núi Tu-di vua Đao-lợi Tỳ-kheo vào thành cũng như vậy. Giống như Phạm vương giữa Phạm chúng Lại như vua sinh Hóa lạc thiên Dạ-ma Dục giới rất đoan nghiêm Tỳ-kheo vào thành cũng như vậy. Như mặt trời chiếu diệu hư không Ngàn luồng ánh sáng trừ tăm tối Chiếu khắp tất cả mười phương cõi Tỳ-kheo vào thành cũng như vậy. Vô lượng kiếp đến rộng bố thí Hằng thường giữ giới không tạp uế Tu hành nhẫn nhục không ai bằng Dùng tướng nghiêm thân đẹp như vậy. Hay sinh tinh tấn, Thánh khen ngợi Thắng tâm dũng mãnh tu bốn Thiền Khởi trí đoạn trừ lưới phiền não Cho nên Tỳ-kheo chiếu thế gian. Phật hùng tối thượng giữa loài người Quá khứ đã từng mưa thắng pháp Vị lai, hiện tại cũng như vậy Đó là con thật của Pháp vương. Mong Tỳ-kheo này thường còn mãi Sắc thân chiếu sáng tất cả đời Thấy ngươi oai đức và tiếng tăm Che khuất uy vua không thể hiện. Chính tự thân ngươi chứng nơi pháp Thọ hành lời Phật khắp thế gian Chúng tôi mong bỏ thân nữ này Cũng sẽ được như Tỳ-kheo kia. Tất cả cô gái đều chắp tay Nói kệ, tung rãi các trang sức Vòng vàng thắng diệu, ngọc anh lạc Bông tai và kiềng vàng đeo cổ. Mạnh như Luân vương xem đại địa Dạo bốn thiên hạ, nghó đến con Sát-lợi, quốc vương và tứ tánh Đem tâm bình đẳng không thương ghét. Tỳ-kheo đã học Đà-la-ni Phân biệt căn lực học chánh đạo Giống như trăng rằm giữa các sao Cũng như mặt trời sáng chiếu diệu. Quy mạng Thập Lực, Bậc Điều Phục Dù cả trăm kiếp khen không hết Nói cả vô lượng ngàn ức kiếp Không thể được phần đức nhỏ. Nếu chuyển pháp luân, câu trí tuệ Khó thấy pháp vi tế, vô cấu Sa-môn, Ma, Phạm, Bà-la-môn Kính lễ y vương, không ai bằng. Cô nói kệ xong, người hoan hỷ Tung rải vàng ngọc, trải y báu Kế châu, anh lạc giá trăm ức Dâng cúng Tỳ-kheo vì Bồ-đề. Bấy giờ vua Dũng Kiện Đắc nghó rằng: –Tâm các cung nhân này đều thay đổi đã chống lại ta. Vì sao biết được? Vì tất cả họ đều cỡi ấn đeo tay và ngọc anh lạc, bày áo vai phải, gối phải quỳ xuống đất, chắp tay đảnh lễ Tỳ-kheo ấy. Khi ấy vua Dũng Kiện Đắc thấy Tỳ-kheo Thiện Hoa Nguyệt, dung mạo đoan chánh, tự thấy thân mình không sánh bằng, liền kinh sợ, lo vị ấy đoạt ngôi vua, nên hết sức phẫn nộ. Lúc ấy vị Tỳ-kheo này đứng trên đường của vua, bị bụi bay vào mắt, làm mắt chớp nháy. Khi ấy vua Dũng Kiện Đắc nghó như vầy: “Tỳ-kheo này có tâm ô nhiễm, đắm trước cung nhân của ta, nên nháy mắt hò hẹn, vậy ai có thể giết Tỳ-kheo này?” Lúc ấy vua Dũng Kiện Đắc có một ngàn con trai theo hầu ở sau, ông liền gọi đến bảo: –Này các con có thể giết Tỳ-kheo kia chăng? Ngàn người con trai của vua vì kính vị Tỳ-kheo ấy nên không nghe lời vua cha. Nhà vua suy nghó như vầy: “Các con vẫn không nghe theo lệnh của ta, nay ta một mình, không có bạn bè, vậy ai có thể giết được Tỳ-kheo kia?” Khi ấy nhà vua có người Chiên-đà-la tên là Nan-đề, thường hay tàn sát độc hại, hung bạo, chẳng biết thương tiếc. Nhà vua thấy Nan-đề nên hân hoan vui mừng nghó rằng: “Chắc chắn người này sẽ vì ta mà giết Tỳ-kheo kia, liền gọi đến.” Bấy giờ Nan-đề liền đến chỗ vua. Nhà vua bảo rằng: –Nay ngươi có thể giết Tỳ-kheo kia chăng? Nếu ngươi giết được người ấy ta sẽ phong chức, trọng thuởng. Nan-đề thưa: –Xin vâng, tâu Đại vương, Thần xin theo lệnh của vua, có thể giết được người ấy. Ngay ngày hôm đó Nan-đề liền giết vị Tỳ-kheo ấy. Nhà vua bảo với Nan-đề: –Ngươi nên biết rằng nay đã đúng lúc nên cầm dao bén cắt tay, chân, xẻo tai, mũi Tỳ-kheo kia, vì ông ta đã dùng tâm ô nhiễm ngắm nhìn cung nhân của ta. Hãy lấy móc sắt móc mắt ông ta. Khi ấy Nan-đề liền theo lệnh vua cầm dao bén chặt tay, xẻo tai, mũi và móc hai mắt của Tỳ-kheo. Nhà vua giết vị Tỳ-kheo xong liền vào vườn cây. Bấy giờ mọi người kêu khóc thảm thiết, lại đi vào trong thành vua Trân Bảo. Khi ấy vua Dũng Kiện Đắc, trong bảy ngày ở tại khu vườn, trong lòng không vui, không có cười giỡn, cũng không vui chơi, qua bảy ngày, nhà vua từ khu vườn đi ra, rồi lại vào thành, trên đường vua đi thì thấy thây của Tỳ-kheo này đã chết bảy ngày nằm ở trên đường, đã bảy ngày rồi mà hình sắc vẫn không thay đổi. Bấy giờ vua Dũng Kiện Đắc liền nghó: “Tỳ-kheo này chết đã bảy ngày rồi mà thần sắc vẫn không thay đổi, vậy đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác chắc chắn đã được không thoái chuyển. Không còn gì phải nghi nữa, ta đã tạo nghiệp ác, chắc chắn phải đọa vào địa ngục thọ khổ, không còn lâu nữa.” Khi nghó như vậy, có tám vạn bốn ngàn chư Thiên ở trên hư không, cùng nói: –Đúng vậy, này Đại vương, như điều vua nghó, như điều vua nói, vị Tỳ-kheo ấy đúng là vị không thoái chuyển đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Khi vua nghe lời ấy thì kinh hãi, run sợ, lông trên người dựng đứng, trong lòng hối hận. Bấy giờ vua Dũng Kiện Đắc trong lòng ưu sầu khổ não, tâm sinh hối hận, nên nói bài kệ: Ta bỏ ngôi vua và thành ấp Kim ngân, trân châu, ngọc ma-ni Ngu si không trí tạo nghiệp ác Ta nên cầm dao bén tự sát. Lúc xưa Pháp sư Thiện Hoa Nguyệt Ba hai tướng tốt rất trang nghiêm Vào thành vua, ánh sáng chiếu khắp Giống như trăng tròn, vua các sao. Ta bị ái dục làm hoặc loạn Thể nữ vây quanh ra khỏi thành Bước lên xe báu, Sát-lợi hầu Mắt đẹp đoan chánh ngài đi đến. Thể nữ thấy Tỳ-kheo hoan hỷ Với tâm hoan hỷ rải vòng vàng Tất cả người nữ đều chắp tay Nói kệ ca ngợi Tỳ-kheo ấy. Khi ta vui thích đi dạo chơi Sát-lợi vây quanh, ngồi xe báu Bỗng gặp người mắt đẹp đoan chánh Là Như Lai tử, đại oai đức. Khi ta thấy ngài, sinh ý ác Ganh ghét, sân hận tâm muốn hại Vì thấy Tỳ-kheo vào thành vua Các cung nữ nhìn ngài hoan hỷ. Hào quang chiếu khắp cả bốn phương Như trăng ra khỏi đám mây mù Mọi người đều phát tiếng nói lớn Thể nữ thấy ngài đều hoan hỷ. Lúc trước ta nói lời thô ác Ra lệnh cho cả ngàn người con Giết gấp Tỳ-kheo làm điều quấy Chính là đại oan gia của ta. Tất cả đồng tử đều trì giới Xót thương, ái niệm Tỳ-kheo ấy Thảy đều không theo lệnh của ta Lúc đó thân ta càng áo não. Thấy Tỳ-kheo trì tịnh giới ấy Trí tuệ tương ưng như cha lành Lúc đó ta giận nên bảo giết Không nghó A-tỳ, sau hối hận. Khi thấy Nan-đề đứng trên đường Làm người khổ não và độc hại Ta ra lệnh ác cho người đó Giết chết Tỳ-kheo như vòng hoa. Ở rừng Phổ Hiền rất đoan trang Các Tiên cao vót, hương thơm phức Các đại chúng ấy mất Pháp sư Giống như đứa con đã mất mẹ. Tỳ-kheo liền đến ở Hiền lâm Để lợi ích lớn cho mọi người Nay người đã vào thành vua này Mọi người đi theo đều khóc lớn. Hoa đẹp, tràng phan để bên phải Bên trái đoan nghiêm cũng như vậy Dùng các y đẹp trải trên đường Tỳ-kheo liền đứng nói diệu pháp. Ngài vào thành vua đã lâu rồi Đồ chúng chắc phải buồn thương lắm Lúc Phật pháp ngài chưa tận diệt Không để đoạn mất mạng của ngài. Giả sử có người oai thần lớn Tiếng tăm vang khắp cả mười phương Đầy đủ thế lực hơn đại địa Hào quang che khuất ba ngàn cõi. Thoát mũi tên khổ, lìa ưu sầu Được Thánh hoan hỷ, tương ưng pháp Hoặc họ thấy nghe còn ưu não Huống các thế gian không mê mờ. Pháp sư Hoa Nguyệt như núi chúa Ba hai tướng tốt thật trang nghiêm Như các cô gái tranh vòng hoa Làm cho đứt ra từng khúc đoạn. Ta tạo nghiệp bất thiện cực ác Đọa ngục A-tỳ không thể cứu Đã xa lìa chỗ của chư Phật Bởi vì cắt đứt thân Tỳ-kheo. Con cái, thân nhân chẳng cứu ta Phục tướng, quý tộc và tôi tớ Ta đã tạo nghiệp ác nặng ấy Tất cả mọi người không thể cứu. Tất cả Phật quá khứ, vị lai Và cả mười phương hiện bây giờ Đạo sư thập Lực lìa phiền não Tâm như Kim cương, con quy y. Thấy Tỳ-kheo ấy dứt từng phần Chư Thiên kêu khóc và sầu não Đến bảo các chúng Bồ-tát kia Tỳ-kheo Hoa Nguyệt bị vua giết. Bậc Pháp sư thông minh trí tuệ Đủ đại oai đức, tiếng vang lừng Bồ-tát an trú Đà-la-ni Nay bị giết chết ở thành vua. Trải vô lượng kiếp rộng bố thí Hộ giới bất động, không tạp uế Hay tu nhẫn nhục không ai bằng Nay bị giết chết ở thành vua. Từ vô lượng kiếp thường tinh tấn Thắng tâm tăng thượng tu tứ thiền Bậc trí tuệ hay đoạn phiền não Nay bị giết chết ở thành vua. Vứt bỏ tất cả thân yêu mến Cũng không quyến luyến về thọ mạng Từ rừng Phổ Hiền ngài đi ra Nay bị giết chết ở thành vua. Đại chúng trong rừng vào thành vua Lớn tiếng buồn khóc và kêu gào Thấy thân Tỳ-kheo đứt từng đoạn Tất cả chết ngất nằm dưới đất. Các Tỳ-kheo ấy hỏi vua rằng: Đại vương, Pháp sư có lỗi gì? Trì giới không khuyết tiếng tăm lớn Hay biết vô biên việc đời trước. Đối với Tổng trì được cứu cánh Khéo hiểu thế gian đều không tịch Vì các chúng sinh hiển vô tướng Xả bỏ tất cả các nguyện tưởng. Diễn thuyết tiếng vi diệu khả ái Các căn tịch tónh khéo điều phục Biết rõ quá khứ, việc đời trước Vượt trên tất cả các thế gian. Sẽ được trí tự nhiên của Phật Hết sức hy hữu với thế gian Mắt tịnh thấy rõ không chướng ngại Chính vì lòng Từ nên chiếu soi. Tham ái dâm dục rất ô uế Hay sinh khổ não, không lên trời Nếu người tạp dục lìa đa văn Gọi là người tổn giảm trí tuệ. Đam mê ái dục là người mù Hay làm thương hại cha mẹ mình Cũng lại hay hại người trì giới Cho nên cần phải vứt bỏ dục. Đại vương nếu huân tập ái dục Liền mất oai đức thắng tự tại Sẽ vào địa ngục thật độc ác Sinh nơi cực khổ rất hãi hùng. Giết hại Pháp sư, giỏi thông tuệ Tạo tác nghiệp ác lớn như vậy Nếu ai dốc chí cầu Bồ-đề Thì phải xa lìa ác như vậy. Sắc, thanh, hương, vị, xúc thù thắng Tâm ấy dũng mãnh hay vứt bỏ Thân, ý đều không, như huyễn hóa Mắt, tai, mũi, lưỡi cũng như vậy. Tu tập Thí, Giới không ai bằng Nhẫn nhục, Tinh tấn cũng như vậy Đã đạt Thiền định, Trí rốt ráo Hay làm lợi ích các chúng sinh. Tất cả thế gian các trời, người Hay đem lòng từ quán Như Lai Và mắt hay trừ tăm tối lớn Ngộ hiểu thượng Bồ-đề tối thắng. Hoan hỷ, tín tâm bỏ lầu gác Voi ngựa, xe cộ và giường chõng Tất cả xe tốt và trâu dê Các thành ấp, tụ lạc trong nước. Vứt bỏ ngôi vua và vàng bạc Trân châu, pha lê và san hô Đầu, mắt, vợ, con đều đem thí Để cầu Vô thượng Bồ-đề vậy. Hoan hỷ cúng dường không ai bằng Hoa đẹp, hương xoa và hương bột Các thứ tràng phan và phướn lọng Tiếng ca mỹ diệu các kỹ nhạc. Ở trong các hữu lìa nguyện tưởng Vì biết rõ ba cõi là không Đó là tướng mười Lực trang nghiêm Hào quang chiếu khắp cả mười phương. Hai cõi Sắc, Dục, không tham đắm Cùng với vô số sắc cũng vậy Nếu trụ Tổng trì của Bồ-tát Phải bỏ ba cõi như da rắn. Không có tưởng ngã, tưởng chúng sinh Cũng không tưởng nam và tưởng nữ Chuyên tu phạm hạnh không ô uế Vì Bồ-tát an trụ Tổng trì. Đều không tưởng việc có, việc không Tưởng an, không an cũng như vậy Chẳng phi số tưởng, chẳng số tưởng Vì trụ Tổng trì của Bồ-tát. Chẳng có, có tưởng thảy đều không Chẳng có mạng tưởng, chúng sinh tưởng Chẳng có tưởng thôn và tưởng thành Vì Bồ-tát an trụ Tổng trì. Chẳng phi tưởng tham, chẳng tưởng tham Chẳng phi tưởng sân, chẳng tưởng sân Chẳng phi tưởng si, chẳng tưởng si Vì trụ Tổng trì Bồ-tát vậy. Nơi các căn và các lực ấy Đạo phẩm thiền định đều không đắm Có thể vứt bỏ hết ba cõi Vì Bồ-tát an trụ Tổng trì. Không bị ô nhiễm bởi tham sân Cũng không si loạn, không dua nịnh Gặp Phật Thập Lực đem cúng dường Bậc Trí không mong sinh lên trời. Nghe pháp thâm diệu từ người khác Không sinh tất cả các nghi hoặc Như đồ đựng đầy dầu thanh tịnh Tướng tận, vô tận lý cũng vậy. Chính vì tham luyến nên sinh ái Cho nên gọi là đại phiền não Cũng vì sân hiềm nên sinh ghét Cho nên gọi là ác khủng bố. Bậc Trí xa lìa nhị biên này Cho nên hướng đến thắng Bồ-đề Được làm Thập Lực, Nhân Ngưu Vương Vượt lên tất cả các thế gian. Bỏ hết tất cả việc trong ngoài An trụ trong pháp tánh thật tế Hộ trì cấm giới thật thanh tịnh Không thủng, không thuyết, không uế trược. Đối với tịnh giới không xen tạp Cũng lại không pháp yết ma ấy Người trí vứt bỏ cả nhị biên Mới ngộ đại Bồ-đề vô thượng. KINH NGUYỆT ĐĂNG TAM-MUỘI <卷 id="112589539">QUYỂN 9 Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói bài kệ: Vào thuở xưa, lúc ta tu hành Làm vua hiệu là Dũng Kiện Đắc Bấy giờ có thành tên Trân bảo Nhà vua ra thành ngắm vườn cây. Ngồi trên xe báu gặp Tỳ-kheo Đoan chánh, đặc biệt rất vi diệu Ba hai tướng tốt tự trang nghiêm Ánh sáng chiếu khắp cả mười phương. Hiệu Thiện Hoa Nguyệt, đến các thành An trụ Từ bi, làm lợi ích Vì cứu chúng sinh nên vào thành Công đức, oai lực rất đoan nghiêm. Lúc đó sắc ta không bằng ngài Liền khởi tâm ghen ghét tăng thượng Bị ái dục vô minh trói buộc Sợ Tỳ-kheo ấy đoạt ngôi vua. Thuở ấy ta có ngàn người con Ngồi trên xe báu tháp tùng ta Dùng các mão quý để trang nghiêm Đi như các Thiên tử Đao-lợi. Năm trăm Thiên tử trong số ấy Đều mang hài ma-ni diệu bảo Trang nghiêm bằng mão báu anh lạc Có lưới vàng phủ lên trên xe. Có tám vạn thể nữ quyến thuộc Thảy đều tuyệt đẹp, thật diễm lệ Ngồi trên xe báu thấy Tỳ-kheo Đoan chánh giống như núi Tu-di. Họ thấy đều tưởng như cha mình Đồng phát tâm Vô thượng Bồ-đề Theo ngài để tu hạnh thanh tịnh Cởi ngọc anh lạc dâng Tỳ-kheo. Ta liền sinh tâm càng ganh ghét Và sinh tâm tức giận, uế trược Nhà vua mê loạn bảo các con: “Hãy giết Tỳ-kheo trước mặt ta”. Các con nghe cha bảo như vậy Hết sức buồn rầu thưa với cha: “Xin cha chớ nói lời như vậy Chúng con không thể giết vị ấy. Dù ai có giết hại chúng con Trải qua hằng sa nhiều ức kiếp Cũng không thể giết Pháp sư này Bởi nhờ ngài nên phát tâm đạo. Chính nhờ ngài con phát tâm này Con nguyện thành Phật Nhân Trung Thắng Người đến Bồ-đề không làm ác Chúng con đều là con của Phật.” Vua nghe các con nói như vậy Liền bảo kẻ hầu gọi Chiên-đà Gấp bảo đao phủ giết Tỳ-kheo Người đứng ở trước trong cung ta. Tức thì dẫn kẻ sát nhân vào Tên là Nan-đề rất bạo ác Tay cầm dao bén giết Tỳ-kheo Chặt thân của ngài thành tám khúc. Tỳ-kheo bị chém, thân không máu Chỗ chặt phóng ra ngàn ánh sáng Lại có vòng công đức cát tường Bỗng nhiên hiện ra trong thịt ngài. Khi làm điều cực ác vậy rồi Lúc đó ta đi dạo vườn cây Những việc ca múa đều không thích Vì nghó đến Pháp sư Hoa Nguyệt. Lúc ấy ta liền ra khỏi vườn Ta lại đi vào thành Trân bảo Khi ta lên xe đi đến đó Là chỗ giết chết vị Tỳ-kheo. Liền nghe tiếng gào trên không trung Vô lượng chư Thiên đang kêu khóc Đều bảo: “Vua ác tạo nghiệp nặng Chết đọa A-tỳ chịu khổ đau.” Khi vua nghe tiếng của chư Thiên Ôm lòng sầu não rất lo sợ Ta đã làm vô lượng tội nặng Bởi vì giết Tỳ-kheo Thiện Hoa. Như Lai đầy đủ vô lượng trí Ngài là con Phật, Bậc Tối Thắng Điều phục các căn, tâm tịch diệt Ta vì ái dục nên giết ngài. Có người thọ trì pháp Như Lai Khi Tạng chánh pháp bị hoại diệt Hay vì thế gian đốt đèn trí Ta vì ái dục, giết vị ấy. Là bậc Y vương của thế gian Trị bệnh phiền não cho chúng sinh Lại dùng cam lồ cứu thế gian Ta vì ái dục nên giết ngài. Đạo sư nắm giữ tạng Thắng pháp Chúng sinh tăm tối, thắp đèn sáng Bậc Pháp vương trì Đà-la-ni Ta vì ái dục nên giết ngài. Vì đời diễn nói thắng diệu pháp Thậm thâm vi diệu khó thấy được Nói rõ con đường đến đạo tràng Ta vì ái dục nên giết ngài. Trí ngài thanh tịnh, không uế tạp Ngưng tịnh, tịch diệt, hằng tại định Mắt mù ái dục, nên giết ngài Dục là nhân khổ cần phải bỏ. Các Đức Phật quá khứ, vị lai Và Nhân Trung Tôn ở hiện tại Công đức vô lượng như biển cả Mọi người chắp tay quy mạng ngài. Chết vào đường ác, ngục A-tỳ Không ai có thể cứu ta được Đã tạo tội, không tin nghiệp quả Bởi vì giết hại Đại Pháp sư. Than ôi! Tâm ác tạo nghiệp khổ Than ôi! Ngôi vua tự ngạo mạn Rốt cùng ngôi vua đâu chắc thật Hãy bỏ tất cả sống một mình. Trước không dục nhiễm, tu tịnh nghiệp Từ bi, ái ngữ, đúng con Phật Chỉ vì thương đời lìa các lỗi Ngài Thiện Hoa Nguyệt đi về đâu. Than ôi! Bậc Thánh đầy sức nhẫn Than ôi! Diệu sắc, đức tương ưng Không hề hý luận công đức tụ Nay ngài bỏ con đi về đâu? Nay con mới biết lời Đại tiên Thế gian vì dục nên bị hại Thân tâm nóng bức, nhân đường ác Biết như vậy rồi bỏ dục hành. Chết vào đường ác, trong địa ngục Không ai có thể cứu ta được Tạo ra nghiệp ác thật nặng nề Bởi vì giết hại Tỳ-kheo ấy. Bỏ ngôi vua lao nhọc, sợ hãi Phụng trì cấm giới tu phạm hạnh, Nay con nhờ ngài được tự tại Hoan hỷ, tịnh tâm dựng tháp lớn. Cúng dường bậc Trí tuệ vô não Kho tàng trí tuệ bậc tàm quý, Chớ để con đọa ba ác đạo Xa lìa tiếng ác và hủy báng. Phi, hậu, cung nhân, các thân thích Tể tướng tối cao và nô tỳ Sát-lợi, Trưởng giả cùng các quan Lúc đó vua khóc, nói họ rằng: Các khanh vì ta mau sửa soạn Các thứ hương hoa thật tốt tươi Y phục thượng diệu và dầu sữa Dùng để hỏa táng Tỳ-kheo này. Bây giờ các khanh mau chất lên Tất cả củi thơm thật thắng diệu Chiên-đàn theo mùa, nước trầm hương Tô-tỳ-lực-ca và long não. Trăm ngàn y phục tẩm dầu sữa Thảy đều quấn vào thân Tôn giả Ta dùng tín tâm thật tối thượng Dâng các vật quý báu cúng ngài. Nghe sắc lệnh đại vương ban bố, Tể tướng đệ nhất, dân trong thành Dùng các dầu thơm, tẩm gỗ hương Các thứ hương bột thật thắng diệu. Lấy nước hương bột rửa sạch ngài Lại dùng các hương tẩm thân ngài Dùng y dầu sữa quấn quanh thân Để thân ngài lên các gỗ thơm. Thân vi diệu Mâu-ni thuở xưa Ba hộc và sáu đấu xá-lợi Nhà vua đã làm tháp thắng diệu Cúng dường các thứ, luôn lễ bái. Vòng hương xoa, bột, trăm lời khen, Treo các linh đẹp và dù lọng Phi hậu, cung nhân và con cháu Từ đó ra thành đến chỗ ngài. Nhà vua mỗi ngày cúng ba lần Sau đó mới từ tháp trở về Vòng hoa tươi tốt để cúng dường Trang nghiêm bằng tràng phan, bảo cái. Bởi vua ngu si tạo các tội Ngay chỗ tháp ấy thành tâm sám Trải qua chín mươi lăm ức năm Luôn luôn sám hối không mệt mỏi. Trí tuệ có được rất thanh tịnh Kiên trì cấm giới không sứt mẻ Suốt ngày đêm thọ tám trai giới Hộ trì thanh tịnh không hủy phạm. Vua bị ngăn che bởi ái dục Tự thân tạo ra nghiệp bất thiện Thân hoại mạng chung đọa địa ngục Ở trong A-tỳ chịu cực khổ. Từ trước đến nay không được gặp Chín mươi lăm ức các Như Lai Trong chín mươi lăm ức kiếp ấy Sinh ra ở đời thường bị mù. Sáu mươi hai ức na-do kiếp Tuy có mắt sáng lại bị hư Lại trong một ức na-do kiếp Dù có mắt sáng lại bị mù. Cũng lại luôn bị chặt tay chân Và bị cắt tai, mũi, môi, lưỡi Sinh trong loài người na-do kiếp Sinh các chỗ khác, cũng như vậy. Nhà vua đã tạo vô lượng tội Ở các thế gian thường bị khổ Nếu ai muốn được sự an lạc Hãy nhớ đừng làm nghiệp ác nhỏ. Nhà vua tuy đã sám hối rồi Mà vẫn không thoát nghiệp đã tạo Đã tạo nghiệp ác như vậy rồi Sau chết phải đọa ngục A-tỳ. Chặt hết thân đầu và tứ chi Lại bị cắt tai và xẻo mũi Móc hai con mắt, nói không hết Vô lượng ức kiếp vì dục vậy. Tạo nhiều nghiệp ác, lúc mạng chung Sau bị xẻ thân, thí cho người Đó là chặt đầu và tay chân Bỏ vua, bỏ con vì Bồ-đề. Bỏ vợ thương yêu nhiều tiền của Cung nhân, thể nữ, voi và ngựa Xe chạy, thuyền chèo, các báu vật Vô lượng ức đời vì đại đạo. Vua Dũng Kiện Đắc là thân ta Xưa ngàn người con, Phật Hiền kiếp Phật Liên Hoa Thượng là Nguyệt Thị Đao phủ chính là Phật Tịch Vương. Cung nhân, phi hậu và dân thành Thân thích, bạn hữu và nô bộc Sát-lợi thắng diệu cùng chủ thành Tất cả người ấy, quyến thuộc ta. Nếu ai theo ta trì cấm giới Dùng tâm kính tín để cúng dường Tất cả thảy đều Bát-niết-bàn Nhờ tấm lòng tốt, chứng Bồ-đề. Đồng tử! Xưa ta vô lượng kiếp Được thấy Phật Ly Cấu Vô Não Tu theo hạnh Bồ-đề vô thượng Xưa kia còn chịu khổ như vậy. Nếu có Bồ-tát trụ Tổng trì Khéo tu hạnh Từ, luôn bất động Kẻ ấy không đọa các chỗ ác Cúng dường Phật Ly Cấu Vô Não. Nếu muốn thành Phật, làm Pháp vương Ba hai tướng tốt tự trang nghiêm Cần phải giữ giới không ô uế Luôn luôn thuyết pháp, trụ Tổng trì. Này Đồng tử! Nếu Bồ-tát nghó như vầy: “Nay ta làm sao có an lạc để chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác? Các Bồ-tát ấy nên an trụ vào tịnh giới tụ, đối với tất cả Bồ-tát khởi lên ý tưởng xem như thầy mình. Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói bài kệ: Nếu có Bồ-tát trụ giới tụ Dùng tâm lợi ích hành Bồ-đề Người ấy mau được sự lợi lạc Hay được Thượng nhẫn, làm Pháp vương. Thường dùng tâm hòa an, bất động Hằng thường tạo tác các nghiệp vui Sau đó được gặp nhiều Đức Phật Mau được Bồ-đề, lìa lưới nghi. Nghe ta dạy sự tối thắng ấy, Thấy các Tỳ-kheo trì tịnh giới Dùng tâm ngay thẳng để phụng sự Sau đó không lâu được định này. Nếu dùng hằng sa kho cất giấu Tràn đầy bảy báu ở trong đó Kho tàng ấy rộng lớn như vậy Giống như vô lượng hằng sa cõi. Nếu có Bồ-tát thích tuệ thí Suốt cả ngày đêm không gián đoạn Dũng mãnh bố thí không ngừng nghỉ Trải qua vô lượng hằng sa kiếp. Nhưng ai nghe được Tam-muội này Liền giữ tất cả kho Mâu-ni Đó là vô lượng khối phước đức Hơn bố thí trước, khó nghó bàn. Phước đức như vậy rộïng vô biên Hay diệt trừ được khổ thế gian Đó là công đức tụ tối thượng So với bố thí phước vô cùng. Tùy thuận Bồ-đề đệ nhất tạng Bồ-tát trí tuệ hay thọ trì Nếu ai nắm giữ Tam-muội này. Đủ của cải thù thắng Bồ-đề Đó là biển đa văn Phật pháp Phước đức người ấy khó cùng tận Với pháp thắng diệu khó nghó này Gọi là Bồ-tát chân hộ trì, Nếu ai hay nói định tịch diệt Bồ-đề người ấy liền tăng trưởng Chỉ trừ Thế sư Điều Ngự Só Đầy đủ đại Bi, Tự nhiên trí. Hay được vô lượng các công đức Phước đức thành tựu, ngày càng tăng Trong cõi tam thiên đại thiên ấy Không ai có thể so sánh được. Phước đức vị kia không ai bằng Bậc Trí khen ngợi cũng như vậy Nếu ai nghe được Tam-muội này Có thể thọ trì và đọc tụng. Vì cầu thắng Bồ-đề chư Phật Những người như vậy mới sánh bằng Phát sinh đa văn, giống như biển Phước đức người ấy không lường được. Thọ trì đọc tụng Tam-muội này Những người như vậy được phước đức Này Đồng tử! Nếu phước là sắc Tất cả thế giới không chứa hết. Cho nên, Đồng tử! Nếu Bồ-tát Mà muốn cúng dường tất cả Phật Bậc thanh tịnh, quá, hiện, vị lai Phải nên thọ trì Tam-muội này. Đó là Thắng Bồ-đề chư Phật Đồng tử! Ông nên tin lời ta Như Lai đã nói không thể khác Tất cả chư Phật không nói dối. Thuở xưa, khó nghó trong trăm kiếp Ta vì việc ấy, thân hao mòn Thường tu hạnh Bồ-đề thắng diệu Vì cầu được thắng định như vậy. Cho nên người phải thọ Pháp tạng Vô số kinh điển từ đó ra Phước đức ấy lớn khó nghó bàn Có thể đạt được trí chư Phật. Tất cả kinh điển, nó đứng đầu Sinh ra vô lượng các nghiệp lành Nói kinh này luôn luôn không sợ Ngằn mé pháp ấy bất khả đắc. Đập nát tam thiên thành ra bụi Có thể biết được số vi trần Thường nói trăm ngàn kinh khó nghó Không ai đo lường được người ấy. Các chúng sinh trong cõi Phật này Hơi thở vào ra có thể biết Bồ-tát thường diễn thuyết kinh này Không ai biết được đâu ngằn mé. Nếu quốc độ Phật như hằng sa Sáu đường chúng sinh ở trong đó Có thể biết được tâm của họ Điều kinh ấy nói ai biết được. Vô lượng các ức cõi thế giới Các biển cả, sông hồ cõi ấy Có thể biết vô số cát ấy Các pháp Ngài nói ai biết được. Chẻ một sợi lông thành trăm phần Đếm số giọt nước nhiều ức cõi Biết các biển nước trên thế giới Các lời Ngài nói không thể biết. Vô lượng ức kiếp trong thế giới Có bao nhiêu chúng sinh tất cả Nhiều như cát bụi vẫn biết được Điều kinh ấy nói không thể biết. Điều Ngài diễn thuyết không đoạn tuyệt Tất cả chúng sinh trong mười phương Âm thanh của họ đều tính được Không thể biết số Tu-đa-la. Ngôn từ cú nghóa đã khéo học Lại hay diễn thuyết tất cả pháp Trí tuệ rộng lớn và thông lợi Rõ biết thật pháp cùng hỏi đáp. Trí tuệ thông đạt nghóa sâu rộng Ngài thường biết tâm chẳng nghó bàn Biết hết tự thể tánh âm thanh Cho nên Ngài nói không chướng ngại. Gọi là Đại Pháp sư vô ngại Thuyết pháp cho đời không đắm trước Khéo học tập, hỏi đáp, giải thích Vì hiểu rõ Đệ nhất nghóa đế. Trong một câu, giải thích nhiều nghóa Nói chẳng nghó bàn, không trở ngại Đã học về cú nghóa vô ngại Diễn thuyết giữa chúng không bế tắt. Nếu ai thường trụ Tam-muội này Thành tựu vô úy không động chuyển Đã được pháp lực hành thắng hạnh Lợi lạc vô lượng ức chúng sinh. Như núi Tu-di đứng bất động Dẫu cho gió lớn vẫn không hoại Tỳ-kheo Pháp sư cũng như vậy Tất cả dị luận chẳng lung lay. Ba ngàn cõi đại thiên thế giới Bao nhiêu núi non ở trong đó Tất cả gió thổi có thể lay Tỳ-kheo trụ không, luôn bất động. Nếu ai cũng tương ứng với không Là chỗ trụ xứ Phật quyết định Nếu ai định biết các pháp không Tất cả dị luận không thể hơn. Các tà thuyết khác không thể động Tất cả ngoại luận không thể hoại Không ai xâm lăng, hủy nhục được Nhờ nói định tịch tónh như vậy. Người ấy cùng tận nơi pháp không Luôn luôn an trụ trí vô thượng Với tất cả pháp không nghi ngờ Nhờ trì Tam-muội tối thắng này. Được đạo phẩm, các lực không khó Thần túc với biện tài vô ngại Đạt được Thánh thông cũng như vậy Nhờ thọ trì, tụng niệm kinh này. Chết đây sinh kia đâu có khó Hay thấy trí tối thắng vô thượng Chẳng nghó bàn ức na-do Phật Ai trì kinh này đều thấy hết. Đối với tất cả chỗ chư Phật Được nghe định Ly cấu như vậy Thành tựu trí tối thắng tương ưng Đạt được tận cùng bốn biện tài. Nơi các cõi ba ngàn thế giới Từ chỗ thấp nhất đến đỉûnh cao Chư Thiên mến yêu chiếu Ma-ni Cùng với bảy báu thật sung mãn. Mười phương vô lượng các cõi Phật Từ dưới đất thấp đến đảnh cao Đều dẫy đầy vàng Diêm-phù-đàn Đem các báu này dâng Mâu-ni. Tất cả báu vật trong thế gian Qua vô lượng kiếp đem bố thí Dâng cúng Như Lai mãi không thôi Thâm tín là vì cầu Bồ-đề. Nếu có Tỳ-kheo yêu thích không Một lòng chắp tay mà lạy Phật So với phước đức rộng thí trước Phước ấy không bằng một phần nhỏ. Nếu ai có được nhiều của cải Tín tâm vì phước nên bố thí Để cầu Bồ-đề Phật vô đẳng Ta rõ thế gian mới so sánh. Nếu ai đối với Tam-muội này Nghe xong thọ trì bốn câu kệ Người ấy đã nhóm các công đức Phước trước trăm phần không bằng một. Bồ-tát tối thắng hành bố thí Chưa thể mau thành đạo Vô thượng Nếu nghe được định thù thắng này Mau chóng được Bồ-đề vô thượng. Nếu ai đạt được tạng trân bảo Đầy khắp vô lượng hằng sa cõi Vô số báu vật thật sung mãn Bồ-tát không cho là giàu có. Nếu đoạn khát ái, tu công đức Lại hay đạt được Tam-muội này Liền đủ tất cả vật để sống Kho tàng đầy ắp, của cải nhiều. Cho dù có được bốn thiên hạ Bậc trí chẳng lấy đó làm vui Nếu như được định ly cấu này Hoan hỷ, vui mừng, lợi chúng sinh. Bấy giờ, Đại Bồ-tát Di-lặc với đầy đủ áo mão, liền khen ngợi sự lợi ích của Tam-muội này, cũng vì Bồ-tát thời tương lai mà thọ trì, đọc tụng Tam-muội này thì sẽ được hoan hỷ, vì nó giúp thêm năng lực cho họ. Bồ-tát Di-lặc nói bài kệ rằng: Nếu ai hay trì pháp người trí Bậc công đức oai thế cứu hộ Có thể thọ trì nơi chư Phật Pháp nhãn thật vi diệu rộng lớn. Đời ác mạt thế nhiều tham sân Bỏ bất phóng dật, thường buông lung Đầy đủ thật nghóa thắng kinh điển Người nào có thể thọ trì được. Với các giới định, nhẫn, văn, tài Khéo học oai nghi để trang nghiêm Ưa thích pháp trí, cây giải thoát Thường mặc áo tàm quý tối thượng. Trì đại trí tuệ, thích xuất ly Chính là pháp Sơn vương đại địa Nhìn thấy thế gian không Đạo sư Dẫn họ đi đến Bồ-đề Phật. Họ đã điều phục, tâm tịch diệt Người ấy hướng đến Nhất thiết trí Không hướng chúng sinh, khiến điều phục Con Bậc Nhất Thiết Trí tối thắng. Tự chứng giải thoát, khiến đến bờ Nơi cành nhánh cây ái mà giải thoát Chúng sinh thường thùy miên, phóng dật Có thể khiến họ được giác ngộ. Với họ thường thích khéo điều phục Cũng thường ưa thích nơi pháp thí Không tương ưng với tâm tật đố Ưa làm tuệ thí, không keo kiết. Thấy các chúng sinh nghèo khốn khổ Thường khiến no đủ, sống dồi dào Đầy đủ công đức đệ nhất đạo Bậc Trí, tất cả luôn tu tập. Trống đại pháp Thắng diệu hết thảy Dùng tâm hoan hỷ đánh vang rền Đoạn trừ lưới nghi, rõ diệu pháp Trí tuệ kiên cố như Kim cương. Ở trong chúng trụ thắng Thánh pháp Luôn biết tâm ái dục chúng sinh Diễn thuyết pháp cam lồ tối thượng, Nghóa là Tu-đa-la cốt yếu. Mỗi một tự trụ Thắng thần thông Hay cho thế gian mắt Tối thắng Trừ bỏ tối tăm như mặt trời Hay sinh trí tuệ cũng như vậy. Hiển bày chân thật trừ sợ hãi Trí tuệ tăng thượng, tu thiền định Ngài nói pháp vi tế tối diệu Gọi lá tịch diệt thắng xuất ly. Mỗi một nghe nhận, kính người trí Kiến lập tín nghóa, phước tăng thượng Luôn biết Tạng thắng pháp thế gian Luôn luôn tuyên thuyết lời hay đẹp. Ngôn ngữ khéo léo đạt nghi thức Pháp này – chỗ nương đèn phát sáng Thường dùng thiện tâm lợi chúng sinh Tu hành pháp vi diệu tối thượng. Ngài trụ pháp đạo lìa trần nhiễm Và dùng tín tịch tónh lợi ích Lấy pháp giáo hóa các thế gian Được làm Đại Pháp vương tối thắng. Hay làm bậc Pháp vương Vô thượng Trụ nơi đệ nhất thật cung kính Thường hay hộ trì diệu chánh pháp Tùy thuận chuyển vận thắng pháp luân. Với kẻ ngu si tự phóng túng Xem thấy chúng sinh ái như vậy Thấy tâm mê loạn rơi đường hiểm Vào con đường ác khó thoát khỏi. Khởi tâm thanh tịnh đại Từ bi Nhờ đó hay trừ khổ thế gian Diễn thuyết đạo vi diệu tối thắng Đó là con đường tám Chánh đạo. Pháp ấy rất rộng và kiên cố Tạo ra thuyền Thắng pháp vô thượng Hay ở biên sinh tử phiền não Tế độ các thế gian sợ hãi. Quán đạo phẩm Không là áo giáp Làm vị thuyền trưởng rất dũng kiẹân Xa lìa sợ hãi thường an lạc An tríù chúng sinh thắng xứ ấy. Họ đã trì chú, hành oai nghi Giải thoát tất cả khổ bức bách Đạt đến thuật sáng, trí cứu cánh Bậc Trí hay biết dục chúng sinh. Thấy bệnh phiền não không chỗ về Các ác, tai hoạn não thế gian Liền đem pháp dược để điều trị Như pháp vì họ mà cứu chữa. Dùng các thắng thuyết trừ dị luận Ngôn từ vi diệu mà tự tại Biết các ngôn ngữ, đạt pháp nghóa Dũng mãnh trụ nơi thắng trí địa. Sức nhẫn nhục, trí tuệ đầy đủ Mặc áo giáp Từ bi kiên cố Bậc Thánh dùng tuệ vui người trí An trụ trong pháp không quanh co. Ngài là Bậc Tối Thắng ba cõi Đối với chúng sinh, được tự tại Thấy các chúng sinh theo đường ma Mê mờ đối với đường chân chánh. Đường ấy tối thượng, Thánh vô cấu Có thể hiển bày sự vô úy Vô lượng trăm ngàn na-do chúng Đi đến đường ấy, không buồn lo. Các ngài là đèn sáng cho đời Chỗ cứu, chỗ nương, là nhà cửa Chúng sinh sợ hãi, thí vô úy An ủi tất cả các chúng sinh. Thấy họ hằng trăm khổ bức bách Giống như người mù chẳng thấy gì Đốt lên đuốc pháp rất tối thắng Diễn thuyết hiển bày nghóa chân thật. Họ học nghề hay, lợi chúng sinh Hay được tiếng tăm và công đức An trụ nghề nghiệp đúng như pháp Khiến các chúng sinh được an lạc. Tất cả đều được đến bỉ ngạn Có thể làm Đạo sư Tối thắng Vì thương chúng sinh hướng Bồ-đề Khiến họ an trụ nơi vô úy. Mâu-ni luôn luôn không nhàm chán Đó là trí tuệ và phước đức Đã đến bờ Giới, Nhẫn, Thiền định An trụ pháp thậm thâm vi diệu. Đối với tha nhân không nhàm chán Diễn thuyết pháp tịch diệt tối thắng Giống như trời mưa khắp mặt đất Mưa pháp tràn đầy cũng như vậy. Nếu có chúng sinh đến chỗ ngài Cầu hiểu pháp sâu và danh nghóa Được ở chỗ ngài nghe pháp báu Hay trừ vô lượng vô biên khổ. Các nghi hoặc họ thật to lớn Liền dùng đao pháp mà cắt đứt Đến bờ Giới, Nhẫn và Tam-muội Biết chỗ ưa thích của chúng sinh. Đại só đã đạt trí cứu cánh Đã khéo hiểu biết dục quần sinh Quán sát tâm sở hành chúng sinh Như tâm sở hành nhất định biết. Nếu ai nghe lời bậc trí tuệ Khiến vô số chúng được tịnh nhãn Vượt qua bờ Thiền định, giải thoát Hay được an trụ đường chân thật. Hàng ức vô số các chúng ma Không thể biết được tâm hạnh họ Giống như dấu chim giữa hư không Mọi người đều không thể biết được. Điều phục tịch diệt, sức trí tuệ An trụ tối thượng trong Thánh pháp Tự tại đập phá các ma quân Ngộ hiểu thắng Bồ-đề tối thượng. Thường được đạt đến bờ thần thông Mau chóng đi đến trăm ngàn cõi Thấy được vô số ức Đức Phật Số lượng cũng như cát sông Hằng. Mắt tịnh không có các chướng ngại Đều thấy các Đạo sư mười phương Gìn giữ các căn không ô nhiễm Tự tại đi đến vô lượng cõi. Vì khiến mười phương các chúng sinh Một lúc đều thành bậc Đạo sư Ở trong vô lượng vô số kiếp Luôn luôn khen ngợi không đoạn tuyệt. Biện tài vô ngại không cùng tận Đức được khen ngợi cũng không cùng Với định Ly cấu vô đẳng này Nhờ trì tại tâm nên được vậy. Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại muốn hiển bày lợi ích công đức của Tam-muội này và nói về công hạnh ngày xưa của Bồ-tát, cũng để hiển hiện năng lực tăng trưởng của Đồng tử Nguyệt Quang, nói về bản duyên của chính mình bằng bài kệ: Đồng tử! Nay ông hãy lắng nghe Sở hành của ta trăm ngàn kiếp Cúng dường trăm ngàn các Như Lai Để cầu tịch định thù thắng vậy. Ở kiếp quá khứ khó nghó bàn Như số cát bụi hàng trăm cõi Ông nên biết điều ta vừa nói Có Phật hiệu là Chúng Tự Tại. Phật Như Lai ấy có quyến thuộc Đầy đủ sáu mươi ức ngàn người Thảy đều lậu tận, không phiền não Với tám giải thoát khéo quyết định. Lúc ấy tất cả các đại địa An ổn, giàu có, không ô trược Tất cả mọi người đều an lạc Du hành qua lại đầy vui thích. Giàu có của cải thật sung mãn Hưởng thọ các thú vui cõi trời Trì giới, điều phục, phiền não nhỏ Nhan sắc đoan chánh thích nhẫn nhục. Giống như Thiên tử ở cung trời Bậc Trí trì giới đủ công đức Vào lúc ấy có một vị vua Tiếng tăm vang lừng, tên Thiện Hoa. Khi ấy nhà vua có các con Cả thảy năm trăm, đủ niệm tuệ Bấy giờ nhà vua ở chỗ Phật Xả bỏ sáu trăm vạn vườn rừng. Cây, hoa, quả đẹp thật trang nghiêm Cúng Phật – Bậc Đại Bi tròn đủ Dựng chùa cả thảy sáu trăm vạn Chỗ kinh hành, sàng tọa cũng vậy. Ca-sa, y phục, ức trăm ngàn Trải chỗ kinh hành, nơi nghỉ ngơi Như vậy vô lượng trăm ngàn thứ Dâng cúng đầy đủ cho Sa-môn. Bấy giờ đức vua lòng tín kính Thảy đều dâng cúng Đấng Thiện Thệ Thành tựu tất cả phước đức lực Hình sắc đoan nghiêm thật khả ái. Đức vua thường tu Thập thiện đạo Chính mình và người đều an trụ Có trăm ngàn na-do-tha người Đi theo đức vua đến chỗ Phật. Tay cầm hoa đẹp và hương xoa Bảo cái, tràng phan và âm nhạc Cúng Phật, Bậc Thế Tôn tối thắng Chắp tay tại đỉnh mà đứng thẳng. Ngàn chúng Tỳ-kheo đứng im lặng Người, Trời, Tu-la, Rồng, Dạ-xoa Thảy đều cung kính mà nhìn Phật Lành thay! Đức Phật nói pháp gì? Mâu-ni Thế Tôn biết họ muốn Cũng biết tâm tối thượng đức vua Phật hay biết rõ đức tin họ Nên mới tuyên thuyết Tam-muội này. Khi Thiện Thệ diễn thuyết lời ấy Các núi, đại địa đều chuyển động Giây lát hư không mưa các hoa Trăm ngàn hoa sen mọc từ đất. Đã khéo rõ biết câu diệu nghóa Phật biết họ muốn nên ký thuyết Vì vua nói định tịch diệt này Xưa kia ngươi nghe chỗ phân biệt. Tất cả có, không do vọng tưởng Không như ngựa hoang, như bọt nước Như mây, điện xẹt đều không có, Tất cả vô ngã, vô chúng sinh. Pháp quá khứ, vị lai cũng không Không đi, không ở lìa xứ sở Thường không chắc thật, như huyễn thuật Tất cả thắng định như hư không. Không xanh, không vàng, không trắng đỏ Tên gọi không có như tiếng vang Nơi tâm lìa tâm, không tâm tánh Lìa các âm thanh mà không vô. Diễn thuyết cú nghóa mà không chấp Tuy lúc không nói, chữ chẳng không Văn tự cũng không đến các nơi Cũng lại không từ các nơi đến. Chữ ấy vô tận, kho vô tận Hoặc nói, hoặc không luôn vô tận Thường nói cú nghóa mà bất tận Ai biết như vậy được vô tận. Nếu biết pháp này là vô tận Họ thường hay nói pháp vô tận Tuy nói ngàn loại Tu-đa-la Hằng biết các pháp lìa văn tự. Trăm ngàn chư Phật đời quá khứ Cũng từng nói về trăm ngàn pháp Với tất cả pháp đều vô tận Pháp vô sở đắc nên vô tận. Nếu ai thuyết pháp cho người nghe Mà không chấp trước vào văn tự Pháp vốn vô ngã, vô chúng sinh Họ có thể thuyết đến vô tận. Bậc Trí diễn thuyết tất cả lời Không bị ngôn ngữ biến đổi tâm Biết các lời lẽ như tiếng vang Nên với lời nói không chấp trước. Dùng các ngôn âm nói pháp này Lời ấy khoảnh khắc liền tiêu diệt Các lời lẽ ấy tướng như vậy Tướng tất cả pháp cũng như vậy. Các pháp không tướng cũng lìa tướng Luôn luôn không tướng, tướng không tịch Không tịch, không dục, không thủ xả Cho nên tịch định bất khả đắc. Hữu vi, vô vi đều xa lìa Đại Tiên như vậy không phân biệt Xa lìa tất cả đường ác kiến Hiểu rõ các nẻo đều vô vi. Luôn luôn không nhiễm, không sân si Vì vậy tâm thể luôn tịch diệt Nhờ sức tối thượng Tam-muội này Cho nên biết được pháp ấy không. Như hư không, núi sông, hang suối, Nghe nói âm thanh vang thắng diệu Hữu vi lưu chuyển do duyên khởi Tất cả đời không, giống như huyễn. Trí lực ưa thích pháp công đức An trụ trí tuệ Tiên thần thông Phát ra ngôn ngữ rất thiện xảo Hay nói định tịch diệt như vậy. Chỗ nói giác quán, chỉ vọng tưởng Thế gian không thể đến cùng tận Bản tế xưa nay không có tướng Nhưng vì đạo nhân duyên vị lai. Tạo nghiệp không vì có chỗ sinh Tùy thượng, trung, hạ mới có sinh Tự tánh pháp này không hay biết Pháp Không, vô ngã cần phải biết. Nghiệp báo đen, trắng không hoại diệt Tự mình tạo tác mình tự nhận Nghiệp không thể đến ở nơi quả Nhưng nghiệp hay làm nhân tạo ra. Chư Phật diễn thuyết pháp Thế đế Quán hữu vi, vô vi như vậy Không có chân thật và ngã nhân Tướng tất cả thế gian như vậy. Tất cả các cõi đều hư vọng, Giống như huyễn hóa, trăng trong nước Không vô cũng như đống bọt nước Dùng tiếng hiển thuyết luôn tịch diệt. Tất cả đều bỏ, không đắm trước Trì giới, oai nghi cũng không chấp Không chấp nhẫn lực các chúng sinh Hành giả như vậy được tịch định. Tùy theo sự ưa thích của vua Như Lai ứng cơ mà diễn thuyết Vua nghe Thế Tôn thuyết pháp rồi Nên cùng quyến thuộc đều thọ giới. Đức vua được nghe Tam-muội này Vui mừng, nhảy nhót nói như vầy: “Lành thay, Bậc nói Tam-muội này Nên con quy y Phật Thế Tôn.” Lúc đó có tám vạn nhân chúng Nghe thể tánh pháp tối thắng này Diễn nói nghóa chân thật bậc nhất Thảy đều chứng được Nhẫn vô sinh. Chúng sinh không có sự sinh diệt Các pháp không sinh vốn không tịch Vua và quyến thuộc biết như vậy Thảy đều đạt được Nhẫn vô sinh. Bấy giờ Thiện Hoa bỏ ngôi vua Nương theo Phật pháp mà xuất gia Nhà vua có đến năm trăm con Thảy đều theo cha mà xuất gia. Khi vua và các con xuất gia Ngoài ra người khác nhiều vô lượng Tất cả vì cầu mong Phật pháp Cũng theo Phật pháp mà xuất gia. Như Lai tự tại dạy cho họ Đầy đủ cả thảy hai ngàn năm Vua với các con và quyến thuộc Trong hai ngàn năm tu pháp hạnh. Trải qua số năm tháng như vậy Đức Phật Thế Tôn nhập Niết-bàn Khi các Thanh văn đều diệt độ Chánh pháp về sau rất suy vi. Đức vua Thiện Hoa có con ngoan Tên là Phước Tuệ, đủ chánh tín Vua có Pháp sư làm Đạo sư Thọ trì định thắng tịch như vậy. Thông minh trí tuệ có niệm lực Vô lượng trăm ngàn người cúng dường Trăm ức chư Thiên đều theo hầu Đi đến nơi nào cũng khen ngợi. Lời nói êm dịu không thô tháo Điều phục, học giới khéo phòng hộ Âm thanh hòa nhã, lời khả ái Trí lực, Tổng trì đều đầy đủ. Được ca-sa đẹp cả trăm ức Tỳ-kheo hiệu là Danh Xưng Quang Phước lực vị ấy không ai bằng Vô lượng Tỳ-kheo sinh đố kî. Đầy đủ phước đức và sắc lực Cũng đủ trí tuệ và thần thông Hộ trì tịnh giới, sức thiền định Chỗ khởi sinh pháp lực Tỳ-kheo. Tại gia, xuất gia và bốn chúng Mọi người chiêm ngưỡng cùng yêu mến Nếu trong Phật pháp được niềm tin Kính tâm ái trọng mà cúng dường. Thuở xưa con quý vua Thiện Hoa Tên là Phước Tuệ, bậc tịnh tín Biết Tỳ-kheo ấy khởi tâm ác Ở bên thầy mình để hộ vệ. Thì có năm mươi vạn quân chúng Đều mặc áo giáp tay cầm cung Thường theo ủng hộ Pháp sư ấy Diễn thuyết Bồ-đề, hạnh tịch diệt. Ở trong đại chúng nói pháp này Là không, không ngã, không thọ mạng Nếu ai còn có sự chấp ngã Họ sẽ không thích Pháp sư nói. Chúng Tỳ-kheo không tin pháp không Tức thì đứng dậy tay cầm đao Rằng ngài nói dối, là phi pháp Giết đi sẽ được phước đức lớn. Pháp sư thấy dao không sợ hãi Nhờ ngài tư duy đến pháp Không Chẳng có chúng sinh để giết chết Không có ngã nhân, như vách đá. Tỳ-kheo Pháp sư liền chắp tay Mở miệng nói rằng: “Nam-mô Phật” Nếu nơi pháp Không thật không dối Khiến đao trở thành hoa Mạn-đà. Vì bậc hộ giới muốn như vậy Vừa nói, không trung liền mưa hoa Các núi, đại địa đều chấn động Đao liền biến thành hương hoa đẹp. Bấy giờ kẻ chấp kiến, cầm đao Chúng Tỳ-kheo ấy đều xấu hổ Khiến tay cầm đao không cử động Kinh hãi, hoảng sợ, rất hãi hùng. Còn ai có niềm tin nơi Phật Những người ưa thích nơi pháp Không Khóc lóc kêu gào tiếng thật lớn Tất cả y phục đều dâng cúng. Tỳ-kheo Pháp sư khởi lòng Từ Ở trước đại chúng nói lời rằng: “Nếu ai sân hận đối với ta Ta sẽ vì họ hành Bồ-đề.” Bạn bè theo pháp rất là ít Pháp sư luôn bị họ xâm hại Nghe xong những lời không vui ấy Năng lực nhẫn nhục càng thêm mạnh. Khi vị Pháp sư tám mươi tuổi Diễn thuyết tạng pháp Không Như Lai Vô lượng trăm ngàn Tỳ-kheo ác Nhờ sức của vua khiến thoái lui. Vị Pháp sư ấy vào lúc khác Lợi ích vô lượng trăm ngàn chúng Suy xét giới hạnh không sứt mẻ Tức thì đi đến chỗ Phước Tuệ. Vua thấy Pháp sư rất cung kính Liền hỏi Tỳ-kheo ấy lời rằng Đừng để bậc Đại sư của ta Tâm bị não loạn, không hoan hỷ. Ngài liền tâu rằng: Xin vua nghe Chỗ khởi sinh nhẫn lực chư Phật Nếu ở chỗ tôi nói lời ác Liền khởi thắng Từ tâm tăng thượng. Đã qua vô lượng trăm ngàn kiếp Trong thời quá khứ tu nhẫn nhục Tỳ-kheo Xưng Quang, chính là tôi Như Lai Thích-ca nói như vậy. Vào thuở xưa, vương tử Phước Tuệ Người ủng hộ Pháp sư Xưng Quang Luôn cả ngàn đời là bạn ta Ta đã thọ ký làm Từ tôn. Thuở xưa cúng dường Phật tự tại Người tạo chùa tháp thật thắng diệu Lúc đó vua Thiện Hoa xuất gia Được Phật gọi là Liên Hoa Thượng. Ta ở vô lượng trăm ngàn kiếp Thọ trì pháp tối thắng Như Lai Ta đã tích tập năng lực nhẫn Đồng tử! Ông nên tùy thuận học. Khi ta đã Bát-niết-bàn rồi Về sau khi chánh pháp diệt tận Tỳ-kheo ưa thích sách ngoại đạo Họ bèn hủy báng Thắng pháp ta. Thô tháo, vui đùa, không hổ thẹn Tham lam ăn uống không sợ tội Lại còn đắm trước nơi y bát Kẻ ấy hủy báng Thắng pháp ta. Thường thích đấu tranh, không biết ân Những kẻ bần cùng, dòng hạ liệt Ở trong pháp ta đi xuất gia Họ không ưa thích pháp tịch diệt. Thuận theo ý ma, mê chúng sinh Theo ma tự do mà chấp trước Kẻ phàm phu buông lung, tham dục Họ không thích nơi không, tịch diệt. Tại gia, xuất gia, cả bốn chúng Dua nịnh, ngu si, sinh tâm ác Tùy thuận những bạn ác như vậy Kẻ ấy mạt thế chê pháp không. Đồng tử! Ông đã nghe ta dạy Nên thường cúng dường Tăng Lan-nhã Bởi họ ưa thích sự không tịch Những người như vậy giữ Phật pháp. Trong Phật pháp ta chấp nhận họ Xuất gia thọ giới và Bồ-tát Tín thí đáng cúng, lìa ô nhiễm Người như vậy mới giữ Bồ-đề. Thậm chí vứt bỏ cả thân mạng Tu tập pháp Không, thích tịch diệt Nơi pháp Không ấy tâm tương ưng Thích ở Lan-nhã như nai rừng. Dùng tràng phan, lọng và hương hoa Đem đến cúng dường chỗ chư Phật Cúng dường Bậc công đức vô đẳng Mới mau đạt được Tam-muội này. Xây dựng tháp miếu đẹp vô cùng Dùng các vàng bạc mà sơn phết Tạo vô lượng thứ các hình tượng Vì nhân Bồ-đề khởi lòng Từ. Có bao nhiêu vật để cúng dường Bậc Tịnh diệu trong cõi trời, người Ông nên cầu mong cúng dường Phật Để cầu được trí Phật vô thượng. Phải nên như pháp quán chư Phật Là các Như Lai ở mười phương Bậc trụ pháp hiện tiền vô lượng Tất cả Phật tử cần chứng biết. Tâm thường lợi ích, thích bố thí Trì giới thanh tịnh, trụ sức nhẫn Thích hành nhẫn nhục và viễn ly Hay biết tất cả các pháp Không Tinh tấn, dũng mãnh, không giải đãi Siêng tu thiền định, giới, đa văn Trí tuệ hiểu rõ, thường thanh tịnh Không lâu thành bậc Đại từ bi. Dùng quán bất tịnh trừ tham nhiễm Sức từ đối trị được sân hận Dùng pháp nhân duyên phá ngu si Liền được đạo tối thắng vô thượng. Quán thân giống như đống bọt nước Tất cả đều không, chẳng chắc thật Quán thấy ngũ ấm đều là không Sẽ mau thành được trí tối thắng. Lìa chấp của tất cả ác kiến Không nương thọ mạng và ngã nhân Rõ biết tất cả các pháp Không Mau được thành bậc vua Mâu-ni. Với các lợi dưỡng không tham trước Không được lợi dưỡng cũng không buồn Nghe người khen chê tâm bất động Như núi Tu-di không lung lay. Bởi vì cầu pháp nên cung kính Chớ nên nghe xong, vội đáp lại An trụ tất cả hành xứ Phật Mau được du hành trăm thế giới. Với các thế gian đều bình đẳng Chớ sinh tâm sai biệt ghét, thương Cẩn thận chớ cầu lợi danh tiếng Mau được thành Bậc Thiên Nhân Sư. Luôn luôn khen ngợi công đức Phật Dùng câu, ngôn từ khen như thật Chúng sinh nghe lời khen ngợi ấy Nơi công đức Phật, sinh ưa thích. Cha mẹ sư trưởng và chúng sinh Tất cả như vậy đều cung kính Nhưng không tùy thuận theo ma lực Liền được ba mươi hai tướng tốt. Thường lìa tất cả nơi huyên náo Sống nơi rừng tịch tónh không nhàn Đã được tự lợi còn lợi tha Vì cầu giải thoát, mau hành đạo. Thường thích tu tập tâm Từ, Bi Đối với Hỷ, Xả cũng như vậy Điều phục, tịch diệt nên khen ngợi Mau được thành tựu lợi thế gian. Nếu ai muốn được định tịch diệt Hướng về đạo Vô thượng Bồ-đề Cẩn thận chớ gần ác tri thức Luôn luôn thân cận với người thiện. Cũng đừng mong muốn quả Thanh văn Cũng chớ thích sự tu hành ấy Chí dũng mãnh thích công đức Phật Mau được thành Phật cũng như ta. Luôn nói lời thanh tịnh chân thật Cẩn thận chớ nói dối, lời ác Thường nói lời khả ái, tốt đẹp Hay được Bồ-đề Phật tối thắng. Đối với thân mạng chớ luyến ái Cẩn thận chớ khen mình, chê người Hãy tự nhớ nghó công đức mình Chớ nhìn hành vi của kẻ người. Thường thích quán không và giải thoát Ở trong sáu đường chớ ưa thích Bỏ tất cả tướng, không còn gì Tâm thường an trụ nơi vô tướng. Thường hãy xa lìa với nhị biên Chớ có phân biệt có cùng không Quán các chúng sinh do nhân duyên Nếu ai biết vậy là Đại sư. Vứt bỏ tất cả hạnh ái dục Đoạn trừ tất cả tâm uế trược Cắt đứt tất cả sự si ám Được gọi Nhân sư tử tịch diệt. Luôn thích quán sát sự vô thường Lìa sự khổ vui trong các cõi Ô uế, bất tịnh và vô ngã Người tu như vậy là Nhân tôn. Phật là đèn sáng ở thế gian Nên nói chánh pháp thù thắng này Ngài cũng hàng phục các ma lực Đã đến thắng Bồ-đề vô thượng. Các công đức ta mới vừa nói Chỉ bày vô lượng trăm ngàn lối Cần phải bỏ lỗi, tu công đức Đồng tử! Như vậy sẽ thành Phật. KINH NGUYỆT ĐĂNG TAM-MUỘI <卷 id="112589540">QUYỂN 10 Này Đồng tử! Cho nên Bồ-tát cần phải có đầy đủ sự tu học thân giới. Sao gọi là Bồ-tát đầy đủ thân giới? Nếu Bồ-tát đầy đủ thân giới thì đối với tất cả pháp được trí vô ngại, đó là thân khéo tu hành. Nếu thân khéo tu hành thì đối với tất cả pháp được trí vô ngại cho nên gọi là Bồ-tát đầy đủ thân giới. Lại nữa, này Đồng tử! Nếu Bồ-tát đầy đủ thân giới, có thể thành tựu ba mươi hai tướng Đại nhân, được mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Trí vô ngại, mười tám pháp Bất cộng của Như Lai. Này Đồng tử! Đó gọi là Bồ-tát đầy đủ thân giới. Lại nữa, này Đồng tử! Bồ-tát đầy đủ thân giới có thể đạt được ba giải thoát môn. Những gì là ba? Đó là Không giải thoát môn, Vô tướng giải thoát môn và Vô nguyện giải thoát môn. Đó gọi là đầy đủ thân giới. Lại nữa, này Đồng tử! Nếu Bồ-tát đầy đủ thân giới có thể được đầy đủ bốn phạm trú. Những gì là bốn? Đó là niệm Từ đối với tất cả chúng sinh; với tâm Bi, Hỷ và Xả cũng lại như vậy. Đó gọi là Bồ-tát đầy đủ thân giới. Lại nữa, này Đồng tử! Sao gọi là Bồ-tát tu thân thiện hạnh? Đó là bốn Niệm xứ, bốn Chánh cần, bốn Như ý túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác phần, tám Thánh đạo phần. Đó gọi là Bồ-tát đầy đủ thân giới. Lại nữa, này Đồng tử! Nếu Bồ-tát đầy đủ thân giới có thể được bốn Thiền và bốn Chánh thọ, hay trụ vào đại Bi, được thiện giác quán, được giác quán tịch tiệt. Đó gọi là Bồ-tát đầy đủ thân giới. Lại nữa, này Đồng tử! Nếu Bồ-tát có đầy đủ thân giới thì luôn xa lìa sát sinh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ, nói hai lưỡi, nói lời ác, nói thêu dệt, tham, sân, tà kiến, mười nghiệp bất thiện, xa lìa sự lường cân trao đấu, lời nói điêu ngoa, lừa đảo về y phục. Đó là nguyên do đưa đến quan lại đâm chém, giết hại, trấn áp cột trói. Những tội tà ngụy, quanh co, hư vọng ấy, cùng đi đôi với lòng tham. Vậy phải xa lìa tất cả nghiệp ác, tự mình phải phòng hộ ngăn cấm, không tham, không thủ, đoạn trừ tất cả. Giống như chặt đứt đầu cây đa-la, làm cho đời vị lai không còn khởi sinh trở lại. Đồng tử nên biết! Bồ-tát hành pháp ấy là có đầy đủ thân giới. Này Đồng tử! Vào thuở quá khứ, trải qua số kiếp, chẳng thể nghó bàn, rộng lớn vô lượng vô biên, hai lần a-tăng-kỳ, bấy giờ có Đức Phật hiệu là Trí Quang Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Đức Phật sống đến sáu mươi ức năm. Bấy giờ có một vị vua hiệu là Thắng Tư Duy, cùng với tám vạn ức quyến thuộc đi đến chỗ Đức Như Lai Trí Quang, đảnh lễ dưới chân, nhiễu quanh bên phải ba vòng rồi lui về ngồi một chỗ. Bấy giờ Đức Như Lai Trí Quang liền dùng bài kệ nói về thân luật nghi: Giống như hư không, không cấu uế Tự tánh sáng trong, rốt ráo tịnh Thân giới trong sạch cũng như vậy Không thể dùng âm thanh diễn nói. Âm thanh và Không, không thể biết Cả hai như vậy cùng một tướng Nói về hư không, không tướng mạo Tướng ấy liền đồng với thân giới. Nếu biết giới ấy chỉ một tướng Họ liền đầy đủ giới luật nghi Trí tánh vô sinh, cảnh cũng tịch Trong chân vô lậu, hết vọng tưởng. Cũng không tham trước và ái dục Không khởi khát ái nơi tài sắc Nếu không thấy được các lỗi lầm Không bao giờ biết thân giới ấy. Nếu ai biết được giới vô lậu Họ liền không còn tái sinh nữa Nên biết pháp La-hán như vậy Không phải ngoại đạo mà biết được. Ở nơi ba cõi tâm sợ hãi Với dục mưu sinh không tham ái Không thích ngôi vua và của cải Họ mới đầy đủ thân giới này. Nay ta nói nghóa thân giới ấy Nghóa này Thanh giáo không thể nói Nếu ai biết được mẹ pháp này Người ấy thường hay trụ thân giới. Bậc Trí ưa thích nghóa gốc này Vì thích nghóa này nên ta nói Xa lìa nghóa sai là nghóa đúng Họ được gọi là trụ thân giới. Trong pháp chư Phật nói nghóa gì? Làm sao khéo léo biết nghóa ấy? Nếu có thể biết nghóa tương ưng Đó mới chính là trụ thân giới. Nếu ai quán sát nơi vô tướng Tất cả vô ngã, thảy đều không Người ấy không thể gọi không giới Vì họ tu học nơi chân lý. Xem tất cả hữu là phi hữu Người ấy thường trụ nơi phi hữu Nơi tất cả hữu, không đắm trước Người ấy hay chứng định Vô tướng. Nếu ai biết được pháp vô ngã Tự thể không vô, tánh phi hữu Không thể gọi người ấy không giới Vì đã học chân thật quyết định. Nếu ai biết được ngũ ấm không Các pháp tịch diệt, không thần ngã Người ấy được gọi bậc trì giới Thân họ không còn làm nghiệp ác. Người chấp tướng, không có luật nghi Vì còn ngã tưởng, tâm chấp trước Nếu thủ sắc tướng, người chấp trước Khởi sinh ái dục không luật nghi. Nếu thường tu học nơi thật tế Người ấy rốt ráo chân diệu pháp Họ không còn khởi sinh ái dục Không còn phạm giới đọa đường ác. Con kiến có thể động hư không Rung chuyển núi Tu-di kiên cố Nếu có người khéo học thật pháp Diệu sắc chư Thiên không thể động. Có thể dùng màu vẽ hư không Bàn tay có thể nắm thái hư Tất cả ái dục của các ma Không ai có thể làm lay động. Âm thanh nói ra có thể bắt Đá chìm dưới nước làm cho nổi Người học như vậy nơi giới thân Không ai biết được tâm niệm họ. Có bao nhiêu âm thanh tất cả Thảy đều chứa được trong hộp nhỏ Nếu ai trụ giới thân như vậy Không ai biết được chỗ họ ở. Bao nhiêu sấm sét và điện chớp Ánh mặt trời, trăng đều bắt được Nếu ai an trụ nơi thân giới Không ai biết tự tánh thân họ. Bao nhiêu vòng gió ở bốn phương Giăng lưới, bủa câu bắt lại được Nếu ai an trụ nơi thân giới Không ai biết được thân lượng họ. Nếu ai an trụ chế ngự tâm Chẳng phải cảnh giới các chúng sinh Ai khéo tu tập nơi thân giới Giống như hư không không thể nhiễm. Đường đi của gió khắp bốn phương Dấu chim hư không có thể thấy Thân lượng vị ấy không thể biết Và tâm sở hành cũng như vậy. Nếu ai trụ thân giới như vậy Họ không có các điều tội ác Xa lìa tất cả các phiền não Là nhờ học thân giới như vậy. Trụ nơi định tịch diệt thanh tịnh Không bị dao, lửa làm hại được Thân họ không thể nắm bắt được Là nhờ thường tu học thân giới. An trụ như vậy, không sợ hãi Tâm không lay động, không ganh ghét Xa lìa tất cả các hiểm nạn Nhờ tu học thân giới như vậy. Không sợ dao lửa và thuốc độc Cũng không sợ bị nạn nước lửa Xa lìa tất cả các nguy nạn Là nhờ tu học thân giới vậy. Không sợ mưa đá và trộm cướp Bao nhiêu tất cả những độc hại Nhờ họ lìa tất cả ngã tưởng Nhờ đã lìa tưởng nên không sợ. Xa lìa sợ hãi và âu lo Nhờ không sợ hãi, tâm bất động Tâm không động chuyển, nên không sợ Hằng ức chúng ma cũng không sợ. Nếu ở chỗ thân giới Bồ-tát Diễn thuyết, khai mở và hiển bày Nếu ai tu học thân giới này Hằng ức ma binh không thể động. Nếu ai muốn biết pháp chư Phật Nên biết trong đó không giới hạn Nếu ai tu học về thân giới Người ấy làm tháp của ba cõi. Nếu ai muốn biết Phật pháp này Chẳng thể nghó bàn chúng tịch diệt Nếu ai học thân giới như vậy Công hạnh kiên cố, mau thành Phật. Nếu ai muốn được pháp Đại tiên Được mười Lực Phật chẳng nghó bàn Nếu ai học thân giới như vậy Tu tập Phật lực đâu có khó. Mười tám pháp Bất cộng tối thắng Chỗ chư Phật Như Lai an trụ Nếu ai tu thân giới này Họ được pháp ấy đâu có khó. Nếu ở chỗ bảy Giác chi báu Cùng với Thần túc và Biện tài Nếu ai tu học thân giới này Được diệu quả ấy đâu có khó. Đối với Phạm trụ và Tứ thiền Cùng với ba thứ môn giải thoát An trụ giác quán và tịch diệt Người trụ thân giới được không khó. Bốn Niệm xứ cùng với Chánh cần Năm Căn, năm Lực của Đại tiên Cùng tám Chánh đạo vật báu Thánh Người trụ thân giới được không khó. Bao nhiêu pháp khác của chư Phật Không thể nghó bàn, không hạn lượng Họ được pháp ấy không khó khăn Nhờ học được thân giới như vậy. Được nghe thân giới như vậy rồi Vua đạt được lợi lạc tối thắng Hoan hỷ, nhảy nhót và vui sướng Trong Phật pháp ấy liền xuất gia. Xuất gia trải qua mười ức năm Tu hành phạm hạnh rất thanh tịnh Luôn luôn tu hành bốn Phạm trụ Lợi ích thế gian các trời, người. Khéo tu phạm trụ thanh tịnh rồi Liền được thân giới thù thắng vậy Lại thấy mười phương ức ngàn Phật Tu hành hạnh Bồ-đề như vậy. Xuất gia trong thắng pháp ấy rồi Tu hành tịnh phạm hạnh tối thắng Đầy đủ đa văn, diệu biện tài Gọi là Đại Pháp sư thông tuệ. Kiên trì cấm giới không khuyết lậu Giới thân thanh tịnh, không ô uế Đó là Thánh giới, vô lậu giới Nên biết Thánh giới là thường trụ. Đồng tử! Xưa ta tu Bồ-đề Bấy giờ hóa làm vua Thắng Tư Ông chớ có nghi là ai khác Nên biết chính là thân của ta. Đồng tử! Ông nên tùy thuận học An trụ thân giới thù thắng vậy, Nên đem tuyên thuyết cho mọi người Không lâu cũng sẽ được như ta. Này Đồng tử! Cho nên Bồ-tát phải tu hành thân nghiệp thanh tịnh. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát tu hành tịnh nghiệp, không sợ đọa vào địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ và cảnh giới của ma; cũng không sợ bị khổ ách nơi năm đường, tám nạn; lại cũng không sợ tai nạn nước, lửa, đao binh, thuốc độc, sư tử, cọp, beo, chồn, cáo, tê giác, voi, gấu; không bị tất cả ác thú, trùng độc ăn thịt; cũng lại không sợ nạn Nhân phi nhân làm hại. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát tu hành thân hạnh thanh tịnh, nếu muốn dùng tay nâng tam thiên đại thiên thế giới này lên cao từ một cây đa-la cho đến mười cây đa-la thì tùy theo ý muốn đều làm được cả. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát tịnh thân hạnh có thể đạt đến bờ kia, thần thông rốt ráo. Nhờ họ đạt được sức mạnh phước đức, thần túc nên được định tịch diệt, vô nhiễm tùy thuận, viễn ly, nhiếp thủ. Nhờ có thể nhập vào và nương nơi định này nên được vô lậu, thành tựu được con mắt vô ngại nơi tất cả thế gian. Sao gọi là Thần túc? Nghóa là tùy theo ý nghó mà có thể tạo ra oai lực tự tại, hiểu rõ không bị ngăn trệ, tùy theo ý muốn mà đều có thể thành tựu nên gọi là Thần túc. Lại nữa, này Đồng tử! Đại Bồ-tát trụ Thần túc có thể làm các việc thần biến. Đó là một có thể biến thành nhiều, nhiều có thể biến thành một, ẩn hay hiện đều tự tại; có thể đi xuyên qua vách đá, núi non, không bị trở ngại, như gió đi trên hư không; ngồi kiết già trên không trung giống như chim bay, đi dưới nước như đi trên đất; ẩn hay hiện trong đất như ở trong nước không khác; thân phát ra khói lửa, giống như đống lửa lớn; mặt trời mặt trăng có đại oai đức mà có thể sờ mó được và muốn làm thân to lớn, tự tại, vô ngại cho đến trời Phạm thiên. Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói bài kệ: Thần thông tự tại dạo mười phương Ở nơi vách đá và núi non Tùy ý xuyên qua không trở ngại Giống như chim bay theo chiều gió. Đi trên mặt đất như dưới nước Ẩn hiện tự tại, không chướng ngại Đi trên mặt nước không bị chìm Cũng giống như đi trên đất cứng. Một thân có thể hiện ngàn thân Nhiều thân vô lượng hiện thành một Tùy ý hiển hiện đủ màu sắc Bậc Trí vì độ các chúng sinh. Du hành không trung như chim bay Thân phun khói lửa như đống lửa Lại có thể toàn thân lưu xuất Nước hương thơm thanh tịnh mát mẻ. Bậc Trí ngồi thẳng trên mặt đất Có thể dùng tay sờ trời, trăng Đến chỗ Phạm thiên trong một niệm Diễn nói thắng pháp cho Phạm chúng. Ngàn vạn Phạm chúng nghe pháp xong Thích cầu vô thượng, được lợi lạc Lại hay đến các cõi trời khác Diễn thuyết pháp tối thắng cho họ. Nếu lúc vị ấy muốn thuyết pháp Liền làm chấn động đại thiên giới Lại khiến vô lượng ức cõi Phật Âm thanh vi diệu vang khắp nơi. Này Đồng tử! Cho nên Bồ-tát cần phải tu học thân hành thanh tịnh. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát tu hạnh thân hành thanh tịnh, với thiên nhó giới thanh tịnh nghe âm thanh xa hơn cõi người, hoặc địa ngục, súc sinh, cõi Diêm-ma-la, Thiên thượng và nhân gian, hoặc gần, hoặc xa đó gọi là Thiên nhó thông. Này Đồng tử! Bồ-tát cần phải tu học thân hành thanh tịnh. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát tu hành thân hạnh thanh tịnh thường có thể biết được tâm người khác, nếu họ có tâm dục thì như thật biết có tâm dục, nếu họ không có tâm dục thì như thật biết là không có tâm dục; nếu có tâm sân thì như thật biết là có tâm sân, nếu không có tâm sân thì như thật biết là không có tâm sân; nếu có tâm si thì như thật biết là có tâm si, nếu không có tâm si thì như thật biết là không có tâm si; có tâm chấp thủ thì như thật biết là có tâm chấp thủ, không có tâm chấp thủ thì như thật biết là không có tâm chấp thủ; nếu có tâm điên đảo thì như thật biết là có tâm điên đảo, còn nếu không có tâm điên đảo thì như thật biết là không có tâm điên đảo; nếu có tâm nhỏ nhoi thì như thật biết là có tâm nhỏ nhoi, nếu không có tâm nhỏ nhoi thì như thật biết là không có tâm nhỏ nhoi; nếu họ có tâm to lớn thì như thật biết là có tâm to lớn, họ không có tâm to lớn thì cũng như thật biết là họ không có tâm to lớn; nếu họ có tâm trong sáng thì như thật biết có tâm trong sáng, nếu họ không có tâm trong sáng thì như thật biết họ không có tâm trong sáng; nếu họ có tâm vô lượng thì như thật biết họ có tâm vô lượng, nếu họ có tâm hữu lượng thì như thật biết họ có tâm hữu lượng; nếu họ có tâm thu nhiếp thì như thật biết họ có tâm thu nhiếp, nếu họ không có tâm thu nhiếp thì như thật biết họ không có tâm thu nhiếp; nếu tâm họ loạn thì như thật biết tâm họ loạn, nếu tâm họ không loạn thì như thật biết tâm họ không loạn; nếu tâm họ định thì như thật biết tâm họ định, nếu tâm họ không định thì như thật biết tâm họ không định; nếu họ có tâm hướng thượng thì như thật biết tâm họ hướng thượng, nếu họ không có tâm hướng thượng thì như thật biết họ không có tâm hướng thượng; nếu họ có tâm giải thoát thì như thật biết họ có tâm giải thoát, nếu họ không có tâm giải thoát thì như thật biết là không có tâm giải thoát; nếu tâm họ vô học thì như thật biết tâm vô học, nếu tâm có học thì như thật biết tâm có học. Này Đồng tử! Đó gọi là Bồ-tát hiểu biết như thật về tâm chúng sinh khác. Lại nữa, này Đồng tử! Bồ-tát cần phải tu học thân hành thanh tịnh. Sao là Bồ-tát thân hành thanh tịnh? Đó là nhớ biết vô số việc kiếp trước, hoặc một đời, hai đời, ba đời cho đến mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, trăm đời, ngàn đời, vạn đời, mười vạn đời, trăm vạn đời, ngàn vạn đời, vạn vạn đời. Lại biết sự việc một kiếp, trăm kiếp cho đến ngàn vạn kiếp, biết kiếp thành, biết kiếp hoại, biết kiếp thành hoại, cho đến sự việc vô lượng kiếp thành hoại và biết trong kiếp ấy từng có chúng sinh tên như vậy, họ như vậy, sinh xứ như vậy, ăn uống như vậy, trường thọ như vậy, chết yểu như vậy, trụ lâu như vậy, kết thúc như vậy; biết sự chịu khổ như vậy, thọ vui như vậy, hoặc chết chỗ này, sinh chỗ kia, chết chỗ kia, sinh chỗ này, dáng mạo như vậy, quốc độ như vậy. Những việc kiếp trước như vậy thảy đều nhớ biết hết, đó gọi là Bồ-tát có Túc mạng trí thông. Lại nữa, này Đồng tử! Bồ-tát cần phải tu học thân hành thanh tịnh. Sao là Bồ-tát thân hành thanh tịnh? Đó là Thiên nhãn giới thanh tịnh thấy xa hơn người thường, thấy các chúng sinh sống chết qua lại, hoặc sắc đẹp, hoặc sắc xấu, hoặc đến đường thiện, hoặc đến đường ác, hoặc trụ thiện đạo, hoặc trụ ác đạo, hoặc khổ, hoặc vui, hoặc hơn, hoặc kém, như nghiệp tự mình tạo ra thảy đều biết rõ. Vì các chúng sinh này thành tựu thân ác hạnh, thành tựu khẩu ác hạnh, thành tựu ý ác hạnh, hủy báng Hiền thánh, do nhân duyên nghiệp tà kiến nên khi thân hoại mạng chung nên phải đọa vào địa ngục. Các chúng sinh nào nếu thành tựu thân thiện hạnh, thành tựu khẩu thiện hạnh, thành tựu ý thiện hạnh, không hủy báng Hiền thánh, nhờ có chánh kiến, nên khi thân hoại mạng chung, đi đến chỗ lành, sinh lên cõi trời. Này Đồng tử! Đó gọi là Bồ-tát có Thiên nhãn giới thanh tịnh thấy xa hơn người thường, thấy các chúng sinh sống chết qua lại, hoặc sắc đẹp, hoặc sắc xấu, hoặc đến đường lành, hoặc đến đường ác, hoặc ở trên đường lành, hoặc ở trên đường ác, hoặc khổ, hoặc vui, hoặc hơn hoặc kém, như nghiệp của chính mình thảy đều biết rõ. Đó gọi là Thiên nhãn thông. Lại nữa, này Đồng tử! Nếu Đại Bồ-tát tu hành thân hạnh thanh tịnh thì trong một niệm, trí tuệ tương ưng với ba đời, những điều hoặc biết, hoặc thấy, hoặc đắc, hoặc chứng cần phải rõ biết. Tất cả những điều ấy đều biết, đều thấy, đều đắc, đều chứng, thảy đều thấy rõ. Pháp ấy thế nào? Đó là vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sinh, sinh duyên lão tử ưu bi khổ não. Mười hai nhân duyên như vậy, nên biết, nên thấy, nên đắc, nên chứng cần phải rõ biết. Như vậy do vô minh diệt nên hành diệt, hành diệt nên thức diệt, thức diệt nên danh sắc diệt, danh sắc diệt nên lục nhập diệt, lục nhập diệt nên xúc diệt, xúc diệt nên thọ diệt, thọ diệt nên ái diệt, ái diệt nên thủ diệt, thủ diệt nên hữu diệt, hữu diệt nên sinh diệt, sinh diệt nên lão tử diệt, ưu bi khổ não tất cả đều diệt, phải thấy biết như thật, chứng đắc như thật, giác biết như thật. Đối với bốn Thánh đế cũng biết rõ như thật. Đó gọi là Lậu tận thông. Bấy giờ Đức Thế Tôn nói bài kệ: Bồ-tát đã hiện bày Thứ lớp các thần thông An trụ trong Tam-muội Có thể tùy ý đến. Khéo tu về nhó căn Được Thiên nhó siêu việt Tai họ nghe tất cả Pháp Đạo sư nói ra. Hay biết tâm chúng sinh Có dục hay lìa dục Có sân hay không sân Có si hay không si. Biết rõ việc kiếp trước Thuở xưa sống ở đâu Suốt cả ngàn ức kiếp Kho trí đều chiếu thấu. Khéo tu nơi nhãn căn Được Thiên nhãn siêu việt Dùng mắt xem chúng sinh Chết đây sinh ở kia. Một niệm đều biết hết Tâm niệm các chúng sinh Đều rõ biết như vậy Trí ấy khó nghó bàn. Này Đồng tử! Sao gọi là khẩu giới? –Nếu Đại Bồ-tát thành tựu khẩu giới thì được sáu mươi thứ âm thanh mỹ diệu, vô ngại, thanh tịnh, không thể nghó bàn. Đó gọi là khẩu giới. Lại nữa, này Đồng tử! Nếu Đại Bồ-tát có đầy đủ khẩu giới thì nói bất cứ điều gì cũng được mọi người tín thọ. Đó gọi là khẩu giới. Lại nữa, này Đồng tử! Đại Bồ-tát đầy đủ khẩu giới, được ba mươi hai tướng của Đại nhân, được mười Lực của Như Lai. Đó là trí lực về thị xứ, phi xứ; trí lực biết về nghiệp xứ nhân quả của các chúng sinh ở quá khứ, vị lai và hiện tại, biết các thiền định giải thoát Tam-muội chánh thọ; trí lực biết có phiền não, không phiền não; trí lực biết thọ mạng của người khác, biết căn tánh sai biệt các chúng sinh; trí lực biết chúng sinh có nhiều dục; trí lực biết vô lượng tâm tánh các chúng sinh; trí lực biết con đường đến tất cả xứ; trí lực biết túc mạng; trí lực biết sự sinh tử tất cả chúng sinh; trí lực biết lậu tận. Lại nữa, này Đồng tử! Nếu Đại Bồ-tát đầy đủ khẩu giới có thể được bốn Vô úy, mười tám pháp Bất cộng. Đó gọi là đầy đủ khẩu giới. Lại nữa, này Đồng tử! Nếu Đại Bồ-tát đầy đủ khẩu giới được ba giải thoát môn, được bốn Phạm trụ, đó gọi là đầy đủ khẩu giới. Lại nữa, này Đồng tử! Nói tóm lại, Đại Bồ-tát đầy đủ khẩu giới, là được bốn Niệm xứ, bốn Chánh cần, bốn Như ý túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác phần và tám Thánh đạo phần. Đó gọi là Bồ-tát đầy đủ khẩu giới. Lại nữa, Đồng tử! Nếu Đại Bồ-tát đầy đủ khẩu giới sẽ được đại Bi phạm trụ, được đại Xả phạm trụ, được an ổn giác, được tịch diệt giác. Đó là Bồ-tát đầy đủ khẩu giới. Lại nữa, này Đồng tử! Đại Bồ-tát đầy đủ khẩu giới thì được xa lìa vọng ngữ, nói hai lưỡi, nói lời ác, nói thêu dệt; đối với cha mẹ, sư trưởng, không nói lời thô lỗ, tất cả những lời xấu ác Bồ-tát thảy đều xa lìa. Bồ-tát còn rõ biết một cách như thật âm thanh như tiếng vang, như giấc mộng, như huyễn, như hóa, như sóng nắng, như bóng sáng; đối với tiếng vang cho đến bóng sáng này thảy đều không sở đắc, không phân biệt, không nắm giữ, không duyên theo, không chấp trước. Đó gọi là Bồ-tát đầy đủ khẩu giới. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát khẩu giới thanh tịnh, được tất cả lời Phật, được tất cả thần túc Phật, được tất cả thần thông Phật. Bấy giờ Đức Thế Tôn nói bài tụng: Nếu người tương ưng cùng khẩu giới Các Bồ-tát ấy sẽ đạt được Trí vô ngại tất cả các pháp Gọi là đầy đủ nơi khẩu giới. Nếu ai tương ưng cùng khẩu giới Đạt được ba hai tướng Đại nhân Được mười Lực Phật, Bất cộng pháp Gọi là bậc đầy đủ khẩu giới. Nếu ai tương ưng cùng khẩu giới Sẽ được tất cả các Phật pháp Là pháp chư Phật ta đã nói Gọi là bậc đầy đủ khẩu giới. Nếu ai tương ưng cùng khẩu giới Sẽ được Phạm trụ và biện tài Được pháp hy hữu chẳng nghó bàn Gọi là bậc đầy đủ khẩu giới. Nếu ai tương ưng cùng khẩu giới Được bốn Niệm xứ và Chánh cần Đủ bốn Thần túc, Căn và Lực Gọi là bậc đầy đủ khẩu giới. Nếu ai tương ưng cùng khẩu giới Sẽ được đại Xả, không sợ sệt Được lòng đại Bi, thanh tịnh trụ Gọi là bậc đầy đủ khẩu giới. Nếu ai tương ưng cùng khẩu giới Sẽ được an ổn giác thanh tịnh Và đạt được giác quán tịch tónh Gọi là bậc đầy đủ khẩu giới. Nếu ai tương ưng cùng khẩu giới Xa lìa nói dối và hai lưỡi Lại lìa ác khẩu và thêu dệt Gọi là bậc đầy đủ khẩu giới. Nếu ai tương ưng cùng khẩu giới Không bao giờ phỉ báng chánh pháp Cũng không hủy báng Đức Như Lai Gọi là bậc đầy đủ khẩu giới. Nếu ai tương ung cùng khẩu giới Đối với cha mẹ và sư trưởng Không làm phi pháp, lời thô ác Gọi là bậc đầy đủ khẩu giới. Nếu ai tương ưng cùng khẩu giới Miệng không bao giờ nói lời lỗi Họ đều lìa hết mọi lỗi lầm Gọi là bậc đầy đủ khẩu giới. Nếu ai tương ưng cùng khẩu giới Sẽ biết tiếng nói như tiếng vang Biết rõ âm thanh giống như mộng Gọi là bậc đầy đủ khẩu giới. Biết rõ vô ngã và thọ mạng Duyên khởi, hư vọng giống như mộng Người hay biết ngôn ngữ như vậy Gọi là bậc đầy đủ khẩu giới. Diệt đế không thật giống như mộng Bản thể Niết-bàn tánh như mộng Bồ-tát biết nói người như vậy Gọi là bậc đầy đủ khẩu giới. Các ngôn ngữ khác bất khả đắc Không có phân biệt, không chấp trước Không có phan duyên, không chấp thủ Gọi là bậc đầy đủ khẩu giới. Này Đồng tử! Sao gọi là ý giới? Nếu Đại Bồ-tát đầy đủ ý giới, sẽ được tất cả Phật pháp, được tất cả thần thông, tâm được giải thoát bất động. Nếu Đại Bồ-tát đầy đủ ý giới, sẽ được định Kim cang Tam-muội. Đó gọi là thành tựu ý giới. Lại nữa, này Đồng tử! Nếu Đại Bồ-tát đầy đủ ý giới sẽ được ánh sáng rực rỡ, đó gọi là đầy đủ ý giới. Nếu Đại Bồ-tát đầy đủ ý giới sẽ được sáu mươi thứ âm thanh tương ưng mỹ diệu, đó gọi là đầy đủ ý giới. Lại nữa, này Đồng tử! Nếu Đại Bồ-tát đầy đủ ý giới, sẽ được ba mươi hai tướng của Đại nhân, mười Lực, bốn Vô úy, Vô ngại trí, mười tám pháp Bất cộng. Đó gọi là đầy đủ ý giới. Lại nữa, này Đồng tử! Đại Bồ-tát đầy đủ ý giới, sẽ được ba môn giải thoát Không, Vô tướng và Vô nguyện. Đó là đầy đủ ý giới. Lại nữa, này Đồng tử! Đại Bồ-tát đầy đủ ý giới sẽ được bốn Phạm trụ: đại Từ, đại Bi, đại Hỷ và đại Xả. Đó gọi là đầy đủ ý giới. Lại nữa, này Đồng tử! Đại Bồ-tát đầy đủ ý giới sẽ được bốn Niệm xứ, bốn Chánh cần, bốn Như ý túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác phần và tám Chánh đạo phần. Đó gọi là đầy đủ ý giới. Lại nữa, này Đồng tử! Nếu Đại Bồ-tát đầy đủ ý giới được trụ nơi đại Bi, trụ nơi đại Xả, được giác an ổn, được giác tịch diệt, được lợi ích, được oai nghi, được thắng hạnh. Đó gọi là đầy đủ ý giới. Lại nữa, này Đồng tử! Nếu Đại Bồ-tát vứt bỏ tà kiến, không tương ưng với tà kiến, đoạn trừ sân nhuế, không tương ưng với sân nhuế, đoạn trừ xan tham, không tương ưng với xan tham, vứt bỏ giải đãi không tương ưng với giải đãi; đối với cha mẹ, sư trưởng, không khởi tâm quanh co, dua nịnh, tâm tham, sân, si; cũng không tương ưng với những tâm lý ấy, không bỏ tâm Bồ-đề, không bỏ tâm tín nhạo, tâm giác quán các xấu ác khác thảy đều xả ly, cũng không tương ưng với chúng. Đó gọi là đầy đủ ý giới. Bồ-tát phải khéo biết các pháp như huyễn thuật, như giấc mộng, như biến hóa, như sóng nắng, như tiếng vang, như bóng ánh sáng, không đến, không đi; cũng lại biết sự khổ như mộng, biết sự vô ngã như mộng, biết sự vô thường như mộng, biết chúng sinh như mộng, biết cái không như mộng, ý không sở đắc, không phân biệt, không dính mắc, không phan duyên, không chấp trước. Này Đồng tử! Đó gọi là Bồ-tát đầy đủ ý giới. Nếu Bồ-tát đầy đủ pháp ý giới thanh tịnh, liền xa lìa tất cả các nạn, được tất cả các Phật pháp chẳng thể nghó bàn, được tất cả thần thông của chư Phật, được tâm giải thoát bất động. Này Đồng tử! Đó gọi là đầy đủ ý giới. Bấy giờ Đức Thế Tôn nói bài tụng: Một lòng lắng nghe chớ loạn tưởng Đã nói ý giới tịnh không uế Được nghe pháp xong, khởi các hạnh Liền mau chứng ngộ được Bồ-đề. Bậc Trí nếu thọ trì ý giới Tịch tónh bậc nhất, luôn bất động Pháp Phật siêu việt chưa từng có Đó mới gọi là ý giới tịnh. Bậc Trí nếu thọ trì ý giới Tâm được giải thoát, thường bất động Được định tối thắng như Kim cang Đó mới gọi là ý giới tịnh. Bậc Trí nếu phát khởi như vậy Khen ngợi, diễn thuyết, rộng lợi ích Đạt được sáu mươi tiếng vi diệu Đó mới gọi là ý giới tịnh. Ý giới bậc Trí, thật cao tột Được ba hai tướng bậc Đại nhân Được mười Lực Phật, các công đức Đó mới gọi là thắng ý giới. Bậc Trí nếu thọ trì ý giới Đạt được biện tài và vô úy Được pháp siêu việt rất hy hữu Đó mới gọi là thắng ý giới. Bậc Trí nếu thọ trì ý giới Được bốn Niệm xứ và Thần túc Lại được Chánh cần và Căn, Lực Đó là nói về thắng ý giới. Bậc Trí nếu thọ trì ý giới Hay được bảy Giác chi thanh tịnh Cũng hay đạt được tám Thánh đạo Đó là nói về thắng ý giới. Bậc Trí nếu thọ trì ý giới Đạt được sự xả ly tối thắng Cùng với đại Bi tịnh vô cấu Đó là nói về thắng ý giới. Bậc Trí nếu thọ trì ý giới Được giác an ổn tịnh vô cấu Được giác viễn ly, các công đức Đó là nói về thắng ý giới. Bậc Trí nếu thọ trì ý giới Không tương ưng tất cả tà kiến Luôn luôn không khởi sân vô minh Đó mới gọi là ý giới tịnh. Nếu ai được đầy đủ ý giới Thậm chí khoảnh khắc không dua nịnh Không dối láo với cha mẹ, sư trưởng Đó là nói về ý giới tịnh. Bậc Trí nếu đầy đủ ý giới Các việc tham, sân đều xa lìa Pháp ngu si cũng đều đoạn trừ Đó là nói về thắng ý giới. Bậc Trí nếu đầy đủ ý giới Luôn luôn không bỏ tâm Bồ-đề Trí tâm quyết định không thể hoại Đó là nói về thắng ý giới. Bậc Trí nếu đầy đủ ý giới Nếu có tất cả các xấu ác Thảy đều xa lìa, không tương ưng Đó là nói về thắng ý giới. Tâm có thể vào pháp như huyễn Giống như giấc mộng và sóng nắng Cũng như bóng sáng và tiếng vang Đó là nói về thắng ý giới. Biết việc khổ não giống như mộng Cũng như vô thường, không, vô ngã Tâm ý hay biết việc vậy Đó là nói về thắng ý giới. Biết không chúng sinh, không thọ mạng Hiểu nhân duyên như bánh xe lăn Không từ đâu đến, chẳng về đâu Đó là nói về thắng ý giới. Tìm cầu ý ấy không thể được Cũng không phân biệt, không dính mắc Không có phan duyên, không chấp thủ Đó là nói về thắng ý giới. Đệ nhất nghóa đế giống như mộng Quán biết Niết-bàn cũng như vậy Bậc Trí nếu biết ý như vậy Đó là nói về thắng ý giới. Này Đồng tử! Sao gọi họ là nghiệp thanh tịnh? –Vì họ thấy ba cõi giống nhu mộng tưởng, nên họ nhàm chán ba cõi, không khởi tham ái. Đó gọi là nghiệp thanh tịnh. Sao gọi họ vượt qua phan duyên? –Vì họ biết ấm, giới và nhập giống như huyễn, nên xa lìa chúng. Sao gọi là biết rõ các ấm? –Nghóa là vì biết rõ các ấm giống như sóng nắng. Sao gọi là được các giới bình đẳng? –Nghóa là vì biết giới… như biến hóa nên xả bỏ chúng. Sao gọi là trừ bỏ các nhập? –Nghóa là vì các nhập như bóng ánh sáng nên trừ bỏ đi. Sao gọi là đoạn trừ khát ái? –Nghóa là vì đối với tất cả pháp không có sự phan duyên. Sao gọi là chứng Vô sinh nhẫn? –Vì đối với tất cả pháp không có sở đắc. Sao gọi là biết các nghiệp? –Nghóa là vì phát khởi tinh tấn, đoạn trừ các khổ. Sao gọi là hiển thị các nhân? –Nghóa là ấm như tiếng vang, không có sinh vậy. Sao gọi là không hoại đối với quả? –Nghóa là vì nghiệp quả giống như mộng nên không có hoại. Sao gọi là hiện thấy các pháp? –Nghóa là vì trong các pháp được Nhẫn vô sinh. Sao gọi là tu tập nơi đạo? –Nghóa là đối với tất cả pháp không có cái để tu. Sao gọi là gặp được chư Phật? –Nghóa là vì đầy đủ tất cả giới hạnh của chư Phật. Sao gọi là trí tuệ sáng suốt? –Nghóa là vì đối với tất cả pháp, được Nhẫn vô sinh. Sao gọi là vào các dục lạc của chúng sinh? –Nghóa là vì biết căn tánh trước sau các chúng sinh sai biệt. Sao gọi là đắc pháp trí? –Nghóa là đối với tất cả pháp vô sở đắc. Sao gọi là trí Vô ngại biện? –Nghóa là hay đạt được pháp thức như thật. Sao gọi là trí sai biệt khéo biết văn tự? –Nghóa là nhờ biết ba thứ ngôn ngữ sai biệt. Sao gọi là vượt qua các việc? –Nghóa là nhờ hiểu rõ vô sự. Sao gọi là biết về âm thanh? –Nghóa là nhờ trí nhập vào âm thanh như tiếng vang. Sao gọi là được hoan hỷ? –Nghóa là đối với tất cả pháp mà vô sở đắc, xa lìa khổ não, vứt bỏ gánh nặng mà được ra khỏi. Sao gọi là được sự ái hỷ? –Nghóa là đối với kẻ đi xin, khiến cho họ được hoan hỷ, biết lúc bố thí nên thấy được lợi ích. Sao gọi là giữ tâm ngay thẳng? –Nghóa là hay hiểu rõ về bốn Chân đế. Sao gọi là oai nghi ngay thẳng? –Nghóa là điều hòa thân quân bình. Sao gọi là xa lìa sắc tức giận? –Nghóa là đoạn trừ các lỗi sân hận. Sao gọi là sắc mặt thường vui vẻ? –Nghóa là khéo giữ giới cùng trú an ổn. Sao gọi là âm thanh mỹ diệu? –Nghóa là nói sự lợi ích cho người khác. Sao gọi là trước tiên nói lời an ủi? –Nghóa là trước tiên nói: “Lành thay!”, liền đứng dậy để nghênh tiếp. Sao gọi là không giải đãi? –Nghóa là không bỏ sự siêng năng. Sao gọi là cung kính bậc tôn trưởng? –Nghóa là kính nể bậc tôn trưởng, tưởng như là Thiện tri thức. Sao gọi là cúng dường bậc tôn trưởng? –Nghóa là theo lời dạy bậc tôn trưởng mà hầu hạ cúng dường. Sao gọi là sinh ra liền biết đủ? –Nghóa là đối với tất cả nhu cầu sinh sống đều không đắm trước. Sao gọi là cầu pháp thiện không chán? –Nghóa là chứa nhóm các thiện pháp. Sao gọi là đời sống thanh tịnh? –Nghóa là tùy nghi mà được, liền sinh lòng biết đủ, nếu không biết đủ liền sinh tâm quanh co, dua nịnh, khoa trương, dụ dỗ, sách động người khác, lấy lợi cầu lợi, những việc như vậy đều xả bỏ hết. Sao gọi là không lìa việc sống ở A-lan-nhã? –Nghóa là không bỏ sự siêng năng, thích ở một cách nhàn hạ và ở tòng lâm, hang núi, khe suối, ưa thích đối với pháp, không giao du với người tại gia và xuất gia, không thích lợi dưỡng, đoạn trừ khát ái và cảm thọ sự hỷ lạc của thiền định vậy. Sao gọi là trí trụ xứ từng địa vị, cấp bậc? –Đó là trí ở quả Thanh văn, trí ở quả Bích-chi-phật, trí trụ xứ Bồ-tát địa vậy. Sao gọi là nhớ mãi không quên? –Nghóa là nhớ vô thường, khổ, không và vô ngã. Sao gọi là được trí thiện xảo về ấm? –Nghóa là biết sự sai biệt của ấm, giới, nhập mà vô sở đắc. Sao gọi là chứng thần thông? –Nghóa là được bốn Thần túc, nên có thể biến hiện được. Sao gọi là diệt các phiền não? –Nghóa là đoạn trừ tham, sân, si. Sao gọi là đoạn trừ tập khí? –Nghóa là nhàm chán hành động ngu si quá khứ, không thích địa vị Thanh văn và Bích-chi-phật. Sao gọi là Chuyển Thắng hạnh? –Nghóa là hay khởi lên bốn Vô ngại biện, năng lực vô úy của Như Lai. Sao gọi là tu tập nhân? –Nghóa là đoạn trừ sự thương, ghét. Sao gọi là biết phương tiện phạm? –Nghóa là biết Ba-la-đề-mộc-xoa, biết Tỳ-ni, biết giới. Sao gọi là đoạn trừ các sự hối hận? –Nghóa là đối với các tội lỗi, phải chí thành sám hối, không còn tạo tội nữa, tu các thiện pháp. Sao gọi là đoạn trừ ái luyến? –Nghóa là nhổ sạch cành nhánh khát ái của ba cõi, phát sinh điều thiện chưa sinh, với điều thiện đã sinh đừng cho tiêu mất. Sao gọi là vượt qua các cõi? –Nghóa là đối với ba cõi mà không sở đắc, lại không hoài niệm, gọi là vượt qua các cõi. Sao gọi là minh đạt túc mạng? –Nghóa là nhớ biết sự việc đời quá khứ. Sao gọi là không nghi ngờ đối với nghiệp quả? –Nghóa là lìa các chấp thường, chấp đoạn. Sao gọi là tư duy về pháp? –Nghóa là suy nghó về pháp như thật. Sao gọi là huân tập đa văn? –Nghóa là tu tập, thọ trì tạng Thanh văn, tạng Bích-chi-phật, tạng Bồ-tát. Sao gọi là được trí tuệ lanh lợi? –Nghóa là quán trí vô sinh giống như giấc mộng. Sao gọi là ưa thích nơi trí? –Nghóa là thường huân tập trí tuệ. Sao gọi là trí tuệ thông đạt? –Nghóa là khởi sinh Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Sao gọi là được địa vị điều phục? –Nghóa là chỗ Bồ-tát đã tu học. Sao gọi là giống như núi? –Đó là không bỏ tâm Bồ-đề. Sao gọi là bất động? –Đó là vì không phân biệt nên không bị phiền não xâm đoạt. Sao gọi là không lay động? –Đó là đối với tất cả tướng, không duyên nơi niệm. Sao gọi là tướng không thoái? –Đó là đối với sáu pháp Ba-la-mật không bị tổn giảm, luôn luôn được thấy quốc độ chư Phật. Sao gọi là sinh ra pháp lành? –Đó là thân cận Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Sao gọi là nhàm chán nghiệp ác? –Đó là kiên trì cấm giới, không còn khởi ra điều ác. Sao gọi là không hành phiền não? –Đó là không khởi vô minh, hữu ái và sân hận. Sao gọi là không xả bỏ giới? –Đó là nhờ tin nhân quả, nên cung kính Như Lai. Sao gọi là phân biệt các thiền? –Đó là rõ biết tâm và thường dùng phương tiện thiện xảo để được nhất tâm. Sao gọi là biết tất cả dục lạc của chúng sinh? –Đó là biết căn tánh sai biệt. Sao gọi là trí khéo phân biệt chỗ sinh? –Đó là biết sự sai khác của năm đường. Sao gọi là trí vô biên? –Đó là tự nhiên biết về pháp thế gian và xuất thế gian. Sao gọi là trí thứ lớp về ngôn ngữ? –Đó là có thể biết về ngôn thuyết quyền xảo bí mật của Đức Như Lai. Sao gọi là vứt bỏ duyên tục? –Đó là thân tâm xa lìa mà xuất gia. Sao gọi là không thích ba cõi? –Đó là đối với ba cõi, thấy sự khổ đau tại đó một cách như thật. Sao gọi là không dùng tâm hạ liệt? –Đó là không vứt bỏ tâm, cho dù lúc nhập chánh thọ, vẫn không bỏ tâm. Sao gọi là đối với các pháp không chấp trước? –Đó là xả bỏ tâm ái dục đối với tất cả pháp. Sao gọi là nhiếp thọ chánh pháp? –Đó là hộ trì kinh điển như vậy của Phật thì gọi là nhiếp thọ chánh pháp. Sao gọi là thủ hộ chánh pháp? –Đó là đối với những chúng sinh hủy báng chánh pháp thì dùng pháp để hàng phục họ, gọi là hộ pháp. Sao gọi là tin nơi nghiệp báo? –Đó là đối với các nghiệp ác phải biết xấu hổ, xa lìa và tu tập thiện pháp. Sao gọi là biết luật phương tiện? –Đó là biết tự tánh phạm hay không phạm, biết phạm tánh tội hay không phạm. Sao gọi là diệt trừ các sự tranh cãi, chống trái? –Đó là vứt bỏ các việc huyên náo. Sao gọi là không chống trái? –Đó là không thích tất cả ngôn ngữ thế gian. Sao gọi là nhẫn địa? –Đó là nhẫn chịu sự bức não của thân tâm. Sao gọi là nhiếp thọ nơi nhẫn? –Đó là đối với những lời nói thô ác của kẻ khác thảy đều có thể nhẫn nhục, xả bỏ, không nghó đến. Sao gọi là lựa chọn nơi pháp? –Đó là biết sự sai biệt của ấm, giới, nhập, biết trợ đạo hữu lậu và trợ đạo thanh tịnh, vì đối với pháp ấy là vô sở đắc. Sao gọi là đối với pháp quyết định thiện xảo? –Đó là đối với tất cả pháp, không có ngôn thuyết. Sao gọi là trí khéo biết sự sai biệt của cú nghóa? –Đó là thông đạt tất cả các pháp. Sao gọi là trí thiện xảo xuất sinh pháp cú? –Đó là nói về pháp như thật. Sao gọi là trí biết về sự sai biệt của nghóa và phi nghóa? –Đó là biết pháp tánh không tăng không giảm. Sao gọi là trí tiền tế? –Đó là trí về nhân. Sao gọi là trí hậu tế? –Đó là trí về duyên. Sao gọi là trí bình đẳng ba đời? –Đó là đối với tất cả pháp sự, hiểu rõ không có sai biệt, an trụ pháp vô sự. Sao gọi là trí sai biệt về ba đời? –Đó là đối với pháp ba đời, không sở đắc, cũng không nhớ nghó. Sao gọi là tâm trụ? –Đó là không sở đắc nơi tâm. Sao gọi là thân trụ? –Đó là niệm xứ về thân, gọi là thân trụ. Sao gọi là gìn giữ oai nghi? –Đó là oai nghi không có thác loạn. Sao gọi là không hoại oai nghi? –Đó là che giấu việc thiện. Sao gọi là không phân biệt oai nghi? –Đó là lìa bỏ sự ưa thích tâm ác. Sao gọi là các căn đoan nghiêm? –Đó là nhờ tư lương về hướng đi của pháp có thể biết thời tiết mà nói pháp tương ưng, đối với pháp như thật, diễn thuyết như thật. Sao gọi là trí về thế đế? –Đó là khéo biết pháp quá khứ, vị lai, nên gọi là Thế trí. Sao gọi là giải thoát xả? –Đó là tùy theo tài sản có được mà sử dụng, không che giấu, không keo kiết. Sao gọi là thường đưa tay bố thí? –Đó là khéo sống với người cùng giới. Sao gọi là không có tâm keo kiết? –Đó là tín tâm, hết lòng bố thí. Sao gọi là xấu hổ? –Đó là xấu hổ về các việc bạo ác. Sao gọi là thẹn thùng? –Đó là hổ thẹn về các việc ngu si, độc hại. Sao gọi là ghét bỏ tâm ác? –Đó là biết pháp ngu si thì vứt bỏ, không tương ưng. Sao gọi là không bỏ hạnh Đầu-đà? –Đó là cần phải kiên cố, không thoái chuyển. Sao gọi là thọ trì tín nghóa? –Đó là làm đúng như sở thuyết. Sao gọi là khởi hạnh hoan hỷ? –Đó là nhớ nghó sự lợi ích của pháp thiện. Sao gọi là sống gần bậc tôn trưởng? –Đó là vứt bỏ sự kiêu mạn, xa lìa sự giải đãi. Sao gọi là hàng phục tâm kiêu mạn? –Đó là vì không có ngã nên không phan duyên. Sao gọi là nhiếp phục tâm? –Đó là trí nhớ nghó đến tất cả pháp lành nên không mất trí lợi ích. Sao gọi là tâm trí siêng năng? –Đó là trí biết quả báo của sự tinh tấn nên trí không thoái thất. Sao gọi là trí biết biện nghóa? –Đó là trí thông đạt như thật. Sao gọi là biết rõ về trí? –Đó là biết pháp thế gian, pháp xuất thế gian. Sao gọi là trí xa lìa phi trí? –Đó là đối với pháp như thật, xa lìa sự chấp giữ. Sao gọi là trí nhập tâm? –Đó là trí không sinh diệt. Sao gọi là trí thiện xảo phân biệt từng bộ phận? –Đó là trí phân minh sáng rõ. Sao gọi là trí biết các tiếng nói? –Đó là trí chỉ bày pháp như thật. Sao gọi là trí biết xứ sở? –Đó là trí nhập vào chỗ như thật. Sao gọi là trí phương tiện, quyết định nghóa? –Đó là phụng sự tất cả chư Phật, Bồ-tát và Thanh văn. Sao gọi là vứt bỏ sự phi nghóa? –Đó là khéo vượt qua các cõi. Sao gọi là thân cận người lành, cùng người lành làm việc? –Đó là thân cận chư Phật, Bồ-tát và Thanh văn. Sao gọi là xa lìa người ác? –Đó là xa lìa sự chấp ngã, giải đãi. Sao gọi là tu thiền phát sinh thông suốt? –Đó là lìa gia ái dục, không bỏ sự vui của thiền. Sao gọi là không đắm vào thiền vị? –Đó là muốn lìa ba cõi. Sao gọi là thần thông tự tại? –Đó là trụ vào năm thông khó nghó bàn của Phật pháp mà hiển bày vì người khác. Sao gọi là hiểu giả danh? –Đó là hiểu rõ danh không cứu cánh. Sao gọi là rõ biết sự trình bày của lời nói? –Đó là biết danh số, văn tự của thế tục đế. Sao gọi là vượt qua giả danh? –Đó là hiểu rõ trí không có ngôn thuyết. Sao gọi là lìa thế gian? –Đó là trước hết phải quán sát sự xấu ác của thế gian. Sao gọi là không thích danh lợi? –Đó là tự tánh thiểu dục. Sao gọi là không đắm tham lợi dưỡng? –Đó là không có các tham lam, mong cầu, xa lìa dục ác. Sao gọi là nghe người mắng chửi, không sinh tâm ghét giận? –Đó là biết bản thể các ấm và giới. Sao gọi là nghe khen thật đức của mình không sinh tâm vui mừng? –Đó là che giấu công đức thiện pháp, biết sự tội lỗi của lợi dưỡng. Sao gọi là không mong cung kính? –Đó là biết rõ bản thể nhân quả. Sao gọi là không được cung kính, tâm không giận ghét? –Đó là không xả bỏ tâm thiền định. Vì sao bị hủy nhục mà không giận? –Đó là quán sát thế gian, rõ biết nhân quả. Vì sao nghe khen ngợi mà không tự cao? –Vì xuất gia cầu pháp lành. Sao gọi là không có các lợi dưỡng, tâm không buồn rầu? –Đó là quan sát nghiệp đã làm ở kiếp trước. Sao gọi là không giao du với người đời? –Đó là không thích mưu sinh. Sao gọi là không thích ở chung với người xuất gia làm điều phi pháp? –Đó là thân cận với người sống như pháp, chứ không thân cận với người phi pháp. Sao gọi là xa lìa chỗ phi cảnh giới? –Đó là vứt bỏ năm cái (năm sự ngăn che). Sao gọi là trụ cảnh giới sở hành? –Đó là tu bốn Niệm xứ. Sao gọi là thành tựu pháp thức? –Đó là hộ trì pháp thức. Sao gọi là xa lìa phi pháp? –Đó là tự hộ trì thiện pháp. Sao gọi là không làm ô uế nhà người khác? –Đó là xa lìa thân quyến vì biết lỗi lầm. Sao gọi là hộ pháp? –Đó là đầy đủ sự cầu pháp, như pháp mà hành động. Sao gọi là ngồi im lặng, ít nói? –Đó là được trí tịch diệt. Sao gọi là thiện xảo việc hỏi và đáp? –Đó là trí tuệ tùy theo sự hỏi đều có thể trả lời tất cả. Sao gọi là hàng phục oán thù? –Đó là phân biệt, hiển thị pháp như thật, xa lìa việc chấp trước. Sao gọi là biết thời? –Đó là có thể phân biệt để biết năm tháng ngày giờ. Vì sao không thân cận với kẻ phàm ngu? –Đó là vì thấy pháp phàm ngu là tội lỗi. Vì sao không khinh chê kẻ bần tiện? –Vì đối với tất cả chúng sinh, khởi tâm bình đẳng. Vì sao phải dùng tiền của bố thí mau chóng cho kẻ nghèo khổ? –Vì có người đến xin liền dùng tài thí và pháp thí. Vì sao đối với người bần cùng có thể dùng thí vô ngại? –Đó là vì đối với các chúng sinh ấy, khởi lòng thương xót, theo ý người xin mà thí vật trong thân và ngoài thân. Vì sao phải cứu giúp kẻ phá giới? –Vì để họ trừ bỏ nghiệp phạm giới, an trụ trong tịnh giới. Sao gọi là làm việc lợi ích? –Vì hay trưởng dưỡng chúng sinh. Sao gọi là bi trí? –Vì hay thấy sự khổ não của chúng sinh ở đời vị lai. Sao gọi là nhiếp thọ nơi pháp? –Vì hay khiến chúng sinh nhập vào pháp như thật. Sao gọi là xả bỏ tài sản? –Đó là xả bỏ các ấm vì tài sản làm lớn mạnh chúng. Vì sao không kinh doanh tích tụ? –Vì nhàm chán đời sống, thấy sự chấp giữ là tội lỗi. Vì sao phải khen ngợi sự trì giới? –Vì khéo biết quả báo của sự trì giới. Vì sao lại chê trách sự phá giới? –Vì hiểu rõ lỗi lầm của sự phạm giới. Vì sao dùng tâm không gièm pha để phụng sự người trì giới? –Vì đối với người trì giới phải sinh tưởng nghó là khó gặp. Sao gọi là xả bỏ tất cả? –Vì khéo tín nhạo vậy. Sao gọi là thành tâm khuyến thỉnh sự tăng thượng tín? –Vì mong cầu sự lợi ích cho chúng sinh. Vì sao gọi là làm đúng như nói? –Vì đầy đủ sự tin nghe khéo léo, nên liền thực hành. Sao gọi là phụng sự Tỳ-kheo trí tuệ? –Vì để thưa hỏi việc thiện. Vì sao cùng người bàn luận, có thể sinh ra sự ưa thích? –Vì có chứng trí và giáo trí. Sao gọi là trí thí dụ? –Vì dùng thí dụ để hiểu rõ gốc ngọn của pháp tướng. Sao gọi là thiện xảo về tiền tế? –Vì tự biết được sự nghe nhiều của kiếp trước. Sao gọi là lấy thiện căn làm đầu? –Vì để khởi đức tin tăng thượng đối với Bồ-đề, vì để khuyến khích người khác. Sao gọi là thiện xảo phương tiện? –Đó là sám hối, tùy hỷ, khuyến khích những căn lành đã tạo thảy đều hồi hướng. Sao gọi là đoạn trừ hữu tướng? –Đó là quán sát các việc, thấy các pháp như mộng. Sao gọi là đoạn trừ đối với tưởng? –Đó là xa lìa tưởng điên đảo. Sao gọi là khéo quán sự tướng? –Đó là được trí vô tướng. Sao gọi là khéo nói các kinh? –Đó là hay hiển thị, ví dụ việc ấy là pháp thiện hay chẳng phải thiện. Sao gọi là phân biệt đối với đế? –Đó là đã diệt trừ vô minh rồi thì danh sắc không khởi lên. Sao gọi là chứng sự giải thoát? –Đó là được Kim cang Tam-muội, bất động, không phân biệt. Sao gọi là chỉ nói một lời? –Đó là nhàm chán ngoại đạo, chứng được trí vô sinh. Sao gọi là được sự vô úy? –Đó là biết sức mạnh của Phật pháp. Sao gọi là an trụ nơi giới? –Đó là giới Ba-la-đề-mộc-xoa ngăn cấm thân và miệng. Sao gọi là nhập vào Tam-muội? –Đó là không nhiễm ba cõi. Sao gọi là được trí tuệ? –Đó là khéo được trí vô công dụng. Sao gọi là thích ở một mình chỗ thanh vắng? –Đó là xa lìa lỗi lầm của sự ồn ào, thường không xả bỏ sự không nhàn. Sao gọi là thích ít bạn bè? –Đó là thiểu dục tri túc. Sao gọi là tâm không ô trược? –Đó là nhờ nhập thiền định, trừ các ngăn che. Sao gọi là xả bỏ các kiến? –Đó là xa lìa kiến chấp thủ. Sao gọi là được Đà-la-ni? –Đó là tùy theo pháp thấy được mà hiển bày như thật, không quên. Sao gọi là được trí tuệ sáng? –Đó là biết nhập tự tánh. Sao gọi là xứ? –Đó là xứ sở của tâm. Sao gọi là an trú? –Đó là chỗ ở của tín tâm. Sao gọi là hạnh? –Đó là trụ pháp tín hạnh. Sao gọi là biện trí? –Đó là biết biện luận về đạo. Sao gọi là nhân? –Đó là do vô minh sinh ra các hành. Sao gọi là tương ưng? –Đó là thích ứng với pháp giải thoát. Sao gọi là pháp? –Đó là đoạn trừ sự khát ái. Sao gọi là môn? –Đó là đoạn trừ các lỗi lầm. Sao gọi là đạo? –Đó là trí về vô thường, khổ, không, vô ngã. Sao gọi là địa? –Đó là mười loại cấp bậc vô nguyện. Sao gọi là xa lìa sự sinh? –Đó là pháp đoạn trừ sự sinh. Sao gọi là trí địa? –Đó là trí không quên. Sao gọi là xả bỏ sự vô tri? –Đó là đoạn trừ ngu si. Sao gọi là an trụ nơi trí? –Đó là trí vô sở trụ. Sao gọi là phương tiện địa? –Đó là tu ba mươi bảy pháp trợ Bồ-đề. Sao gọi là cảnh giới của Bồ-tát? –Đó là hành sáu pháp Ba-la-mật. Sao gọi là thân cận người lành? –Đó là gần gũi chư Phật. Sao gọi là xa lìa người ác? –Đó là xa lìa chấp kiến của ngoại đạo. Sao gọi là sở thuyết Như Lai? –Đó là trụ nơi trí lực Như Lai vì tự tánh giải thoát. Sao gọi là Phật địa? –Đó là được tất cả pháp thiện. Sao gọi là bậc Trí tùy hỷ? –Đó là sự tùy hỷ của chư Phật, Thanh văn, Bích-chi-phật ở quá khứ, vị lai và hiện tại. Sao gọi là sự hủy báng của kẻ ngu? –Đó là tất cả kẻ ngu không thể biết được. Sao gọi là Thanh văn không thể biết? –Đó là sự chẳng thể nghó bàn của Phật pháp. Sao gọi là ngoại đạo? –Đó là cái thấy phương tiện ngã mạn của ngoại đạo. Sao gọi là thu nhiếp về Như Lai? –Đó là điều khó có thể được của bậc Đại y vương. Sao gọi là mau được mười Lực? –Đó là siêng tu phương tiện. Sao gọi là tất cả chư Thiên cúng dường? –Đó là khéo có thể sinh ra tất cả sự vui. Sao gọi là Phạm vương lễ bái? –Đó là từ vị ấy sinh ra giải thoát. Sao gọi là rồng lễ bái? –Đó là có thể đoạn trừ tất cả ác đạo và các kiến chấp. Sao gọi là Dạ-xoa tùy hỷ? –Đó là ngăn che các đường ác. Sao gọi là Chân-đà-la tán thán? –Đó là hay đạt được sự hoan hỷ giải thoát. Sao gọi là Ma-hầu-la khen hay? –Đó là đoạn trừ sự sinh tử. Sao gọi là sự tu của Bồ-tát? –Đó là hay đạt được Nhất thiết trí. Sao gọi là chỗ mong cầu của bậc Trí? –Vì mong được địa vị không thoái chuyển. Sao gọi là được của cải vô thượng? –Đó là hay được quả báo của trời, người và sự giải thoát. Sao gọi là chẳng phải tài thí? –Đó là hay trừ tất cả bệnh phiền não. Sao gọi là thuốc hay để trị bệnh hoạn? –Đó là tiêu diệt tai hoạn tham, sân, si. Sao gọi là kho tàng trí tuệ? –Đó là thường thích tu tập trí tuệ. Sao gọi là vô tận biện? –Đó là thấy được trí như thật. Sao gọi là xa lìa sự ưu sầu? –Đó là biết khổ là hư vọng, nên trừ bỏ vì ngộ được vô ngã. Sao gọi là biết ba cõi? –Đó là biết rõ ba cõi như huyễn mộng. Sao gọi là ghe thuyền đưa qua bờ bên kia? –Đó là trí ưa thích nhập Bát-niết-bàn, tu vô thường, khổ, không, vô ngã. Sao gọi là vượt qua bốn dòng sông? –Đó là mau được Niết-bàn. Sao gọi là mong cầu danh tiếng? –Đó là được pháp rộng lớn. Sao gọi là tán dương công đức của Như Lai? –Đó là khen ngợi Bậc bố thí pháp được vô lượng công đức. Sao gọi là khen ngợi danh xưng của Đức Như Lai? –Đó là Bậc thí chủ bố thí tất cả công đức, giải thoát, an vui. Sao gọi là tán thán mười Lực? –Đó là khen ngợi bậc Đại pháp bảo chủ bố thí những pháp khó được. Sao gọi là công đức của Bồ-tát? –Đó là vị hay học pháp Tam-muội của kinh này. Sao gọi là lòng Từ diệt sân hận? –Vì đó là pháp đối trị sân hận. Sao gọi là Bi? –Đó là pháp diệt trừ khổ não của tất cả chúng sinh. Sao gọi là Hỷ? –Đó là đối với tất cả chúng sinh khởi sinh sự hoan hỷ. Sao gọi là Xả? –Đó là lòng bi vô duyên (không điều kiện), có thể làm được điều Phật làm. Sao gọi là an ủi người Đại thừa? –Đó là sở thích cầu tất cả Phật pháp, thảy đều có thể ban bố đầy đủ. Sao gọi là phát hạnh sư tử hống? –Đó là hay đạt được pháp tối thượng. Sao gọi là con đường trí tuệ của Phật? –Đó là không có chấp trước đối với tất cả pháp lành, mà vẫn được thiện pháp. Sao gọi là giải thoát tất cả chúng sinh? –Đó là có thể biết từ bờ bên này đến bờ bên kia. Sao gọi là đạt được trí Nhất thiết trí? –Đó là đoạn trừ tất cả pháp bất thiện, tập hợp tất cả pháp thiện và tất cả pháp giải thoát. Sao gọi là vườn hoa của Bồ-tát? –Đó là vị hay được sự hỷ lạc, tự thân an lạc, cũng khiến tất cả chúng sinh được an lạc. Sao gọi là hàng phục ma quân? –Đó là bậc hay được tất cả lực, hay diệt trừ tất cả phiền não. Sao gọi là an ổn hành dụng chú thuật? –Đó là hay dứt sạch tất cả khổ nạn. Sao gọi là thành tựu sự tốt đẹp? –Đó là hay đạt được tất cả quả báo. Sao gọi là ngăn ngừa oán địch? –Đó là đoạn trừ tất cả tà kiến và chấp thủ kiến. Sao gọi là hàng phục oan gia? –Đó là dùng chánh pháp để hàng phục các ngoại đạo. Sao gọi là được sự vô úy? –Đó là đối với tất cả pháp, hay khéo quán sát, huân tập. Sao gọi là cầu sức mạnh như thật? –Đó là cầu pháp lực không điên đảo. Sao gọi là tướng đầu tiên của mười tám pháp Bất cộng? –Đó là làm tất cả thiện pháp. Sao gọi là trang nghiêm Pháp thân? –Đó là được ba mươi hai tướng trang nghiêm. Sao gọi là thích sự giải thoát? –Đó là được pháp thiện phần đầu, phần giữa và phần cuối. Sao gọi là trưởng tử đáng yêu? –Đó là có thể đạt được các tài sản khác của cha lành chư Phật. Sao gọi là đầy đủ Phật trí? –Đó là chỉ nuôi lớn tất cả pháp thiện. Sao gọi là chẳng phải địa vị Bích-chi-phật? –Đó là có thể đạt được Phật pháp vô biên, tối thượng. Sao gọi là tâm thanh tịnh? –Đó là hay đoạn trừ tất cả sự cấu uế. Sao gọi là thân thanh tịnh? –Đó là diệt trừ tất cả bệnh hoạn. Sao gọi là thành tựu giải thoát môn? –Đó là quán sát vô thường, khổ, không, vô ngã và tịch diệt. Sao gọi là lìa các dục ô uế? –Đó là hay được pháp cú cam lồ. Sao gọi là lìa sự sân hận? –Đó là đạt được đại Từ, đại Bi. Sao gọi là chẳng phải hạng ngu si? –Đó là được sự sáng suốt như thật. Sao gọi là trí A-hàm? –Đó là trí biết nghiệp đã tạo của tất cả thế gian và xuất thế gian. Sao gọi là hay phát khởi sự sáng suốt? –Đó là tư duy, nhớ nghó hướng đến tất cả đường lành. Sao gọi là đoạn trừ vô minh? –Đó là tất cả sự nhớ nghó đưa đến phi thiện. Sao gọi là đầy đủ giải thoát? –Đó là được pháp của bậc Đại Thánh. Sao gọi là người tu thiền hoan hỷ? –Đó là có thể đạt được sự hỷ lạc nhất tâm. Sao gọi là mắt thấy? –Đó là thấy cái thật nghóa không thể thấy. Sao gọi là Thần thông biến hiện? –Đó là khéo tu pháp không chướng ngại. Sao gọi là Thần túc hiện tiền? –Đó là hay được trí không phân biệt, không có chướng ngại của tất cả pháp. Sao gọi là thích nghi Đà-la-ni? –Đó là hiểu rõ tất cả pháp, ở trong tất cả pháp có thể hướng đến Niết-bàn bình đẳng. Sao gọi là trì niệm? –Đó là diệt trừ tất cả tự tánh của phan duyên… Sao gọi là Như Lai trú trì? –Đó là trí tuệ sinh ra các công đức, không thể hủy hoại. Sao gọi là Đạo sư phương tiện quyền xảo? –Đó là khiến cho người khác hướng đến đại thành, an ổn, khoái lạc. Sao gọi là trí vi tế, giống như đầu sợi lông? –Đó là rõ biết điều khó có thể suy lường. Vì sao khó biết, khó có thể tương ưng? –Đó là điều từ xưa chưa từng có. Vì sao xa lìa văn tự? –Vì con đường ngôn ngữ là chẳng thể nắm bắt được. Sao gọi là âm thanh khó biết? –Đó là tất cả pháp không thể nghó bàn. Sao gọi là người trí mới có thể biết? –Đó là biết pháp là bảo vật vô giá. Sao gọi là đã biết điều phục, trí sở tri? –Đó là nói đúng như làm. Sao gọi là biết về thiểu dục? –Vì biết lỗi của đa dục. Sao gọi là dũng mãnh tinh tấn? –Vì biết không xả bỏ thời gian cần thiết. Sao gọi là ghi nhớ Tổng trì? –Vì tùy theo việc làm mà vẫn không mất. Sao gọi là cùng tận sự khổ? –Vì đoạn trừ tham, sân, si. Sao gọi là tất cả pháp không sinh? –Vì diệt hết tất cả thức, tất cả nguyện. Sao gọi là một lời diễn thuyết có thể biết tất cả các đường sinh tử? –Vì quán tất cả pháp giống như mộng huyễn, nên không chấp thủ. Này Đồng tử! Đó gọi là giải thích nghóa ba trăm cú pháp xong. Này Đồng tử! Đó là Tam-muội không hý luận, thể tánh bình đẳng của tất cả các pháp. Bấy giờ Đức Thế Tôn nói bài kệ: Trí Phật pháp vô lượng Diễn thuyết vô cùng tận Nói rộng các pháp xong Được tất cả công đức. Rộng lớn như hư không Pháp tướng ấy như vậy Là bảo vật cứu cánh Nên gọi là Phương Quảng. Hạnh chúng sinh vô biên Nên thuyết pháp cũng nhiều Nghóa A-hàm vô tận Nên gọi là phương tiện. Khi Đức Thế Tôn nói pháp này, vô lượng chúng sinh đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, vô lượng chúng sinh đối với Bồ-đề được không thoái chuyển, vô lượng chúng sinh phát tâm Bích-chi-phật, vô lượng chúng sinh chứng được ba quả. Lại nữa, cõi tam thiên đại thiên thế giới này chấn động sáu cách, trời mưa hương lạ, tung rải hoa trời, tấu lên trăm ngàn vạn thứ âm nhạc của chư Thiên trong hư không, mưa các Thiên y, từ từ rơi xuống, có tiếng nói như vầy: –Các chúng sinh này nhờ nghe pháp ấy nên được sự lợi ích lớn. Vì các chúng sinh ấy đối với vô lượng Đức Phật đã gieo trồng căn lành, nên nghe pháp này liền hoan hỷ, thọ trì, đọc tụng, biên chép, giải nói cho người khác, làm ruộng phước tối thượng thành tựu lợi ích cho tất cả chúng sinh. Tất cả chúng sinh này không đoạn mất hạt giống Phật. Các chúng sinh này quyết định có thể vì con đường Bồ-đề trước nhất, nghe pháp môn này khởi hạnh như thật. Bấy giờ Phật bảo A-nan: –Ông nên thọ trì pháp môn như vậy rồi đọc tụng, biên chép, rộng nói cho người khác. A-nan bạch Phật: –Kinh này tên gọi là gì và phụng trì như thế nào? Phật bảo A-nan: –Kinh này gọi là Nhập Vào Đại Bi, ông nên thọ trì. Lại có tên Tam-muội Bình Đẳng Tất Cả Pháp Thể Tánh Bình Đẳng Vô Hý Luận, ông nên thọ trì. A-nan bạch Phật: –Như lời Phật dạy, con xin thọ trì pháp môn ấy. Khi Phật nói kinh này xong, Đồng tử Nguyệt Quang vui mừng nhảy nhót. Bồ-tát A-dật-đa cùng với tám mươi ức na-do-tha Bồ-tát, Trưởng lão A-nan và bốn chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Thiên tử trời Tịnh cư, Phạm thiên vương, chủ thế giới Ta-bà, với Thiên Đế Thích, Tứ Thiên vương… chư Thiên nhân loại, chúng A-tu-la, nghe Phật dạy, hoan hỷ phụng hành. <卷 id="112589541">