<經 id="n639">KINH NGUYỆT ĐĂNG TAM-MUỘI Hán dịch: Đời Cao Tề, Tam tạng Na-liên-đề-da-xá, người nước Thiên Trúc. <卷 id="104089325">Quyển 1 Tôi nghe như vầy: Một thời Bà-già-bà ở tại núi Kỳ-xà-quật, thuộc thành Vương xá, cùng với đại chúng Tỳ-kheo là năm ngàn người và tám mươi na-do-tha Bồ-tát, đều là những vị Nhất sinh bổ xứ, trong đó Bồ-tát Ma-ha-tát A-thị-đa là đứng đầu. Vua Tứ thiên, vua Thích thiên, vua Đại Phạm thiên là chủ của thế giới Ta-bà cùng với chư Thiên phước đức tăng thượng khác, A-tu-la nương oai thế tăng thượng, Long vương, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân… vây quanh trước sau chiêm ngưỡng Đức Như Lai. Khi ấy trong chúng Bồ-tát có một Bồ-tát tên là Đồng tử Nguyệt Quang, ở trong quá khứ đã từng cúng dường chư Phật, trồng các căn lành, tự biết được kiếp trước, tin thích Đại thừa, an trụ Đại thừa, tương ưng với lòng đại Bi, từ chỗ ngồi đứng dậy bày áo vai phải, gối phải quỳ xuống đất, bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Nay con có điều muốn thưa hỏi, cúi mong Thế Tôn cho phép, để con được trừ bỏ nghi kết trong lòng. Phật bảo: –Này Đồng tử! Tùy ý ông cứ hỏi bất cứ điều gì, ta sẽ giải thích cho, để ông được hoan hỷ. Ta là Bậc Nhất Thiết Trí, Nhất Thiết Tri Kiến, ở trong tất cả pháp có sức vô úy, mà được tự tại và tương ưng với tri kiến giải thoát không chướng ngại. Này Đồng tử! Như Lai không có điều gì mà không biết, không có điều gì mà không thấy, không có điều gì mà không chứng, không có điều gì mà không phân minh, biết được vô lượng, vô biên thế giới. Này Đồng tử! chư Phật Thế Tôn đối với tất cả các chỗ thưa hỏi đều có thể tùy thuận giải đáp, khiến mọi người được hoan hỷ. Bấy giờ Đồng tử dùng kệ để hỏi rằng: Các Đức Phật làm những hạnh gì? Vì hay thương đời phóng quang minh Có thể đắc trí khó nghó bàn Cúi mong cứu hộ giải thích cho. Hạnh gì nói được pháp cao này? Cõi người, Ngưu vương, Thiên cung kính Trí tối thượng không thể đo lường Mong Phật vì con khéo phân biệt. Con vì tin sâu nên thưa hỏi Chân thật không có tâm quanh co Không ai có thể chứng biết con Chỉ có Nhân Tôn mới thấy rõ. Con có lạc tâm rộng thù thắng Sư tử họ Thích biết hạnh con Tâm con không vướng ngôn ngữ vậy Mong Phật vì con nói trợ đạo. Pháp gì hay đưa chư Phật đến Mà được tăng trưởng trí vô biên Nơi tất cả pháp đến bờ kia Mong Phật vì con khéo tuyên nói. Mong nói pháp hạnh con trưởng dưỡng Khiến được thành tựu trí minh lợi Thâm tâm trì giới không hủy phạm Xa lìa tất cả các sợ hãi. Làm sao nơi giới mà không bỏ? Làm sao nơi tuệ mà không giảm? Làm sao an trụ A-lan-nhã? Làm sao để được tăng trí tuệ? Làm sao vào được pháp thắng diệu, Thích giữ cấm giới không hối hận? Làm sao với giới không khuyết tổn? Làm sao để được ba nghiệp tịnh? Làm sao biết được tánh hữu vi, Tâm không nhiễm uế, đến Phật đạo? Làm sao để được thân nghiệp tịnh, Làm sao trừ được miệng, ý ác? Làm sao lìa được tâm tạp nhiễm? Cúi mong Thế Tôn nói cho con. Bấy giờ, Phật bảo Đồng tử Nguyệt Quang: –Nếu Đại Bồ-tát tương ưng với một pháp thì mau chóng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, các pháp như vậy cũng đều được thành tựu tức khắc. Thế nào là một pháp? Nếu Đại Bồ-tát đối với chúng sinh khởi tâm bình đẳng, tâm cứu hộ, tâm vô ngại, tâm không độc. Đó là tương ưng với một pháp, mau chóng thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, có thể đạt được sự lợi ích của công đức như vậy. Khi ấy Đức Thế Tôn nói bài kệ: Nếu ai thọ trì một pháp này Hay thuận Bồ-tát chánh tu hành Do nhờ công đức của pháp này Mau được thành tựu đạo Vô thượng. Nơi tất cả xứ, tâm vô ngại Bồ-tát dũng mãnh mới làm được Không hề khởi tư tưởng yêu ghét Như vậy sẽ được diệu công đức. Nếu có thể tu tâm bình đẳng Thì sẽ chứng được quả bình đẳng Pháp hành như vậy đều bình đẳng Sẽ được tướng bàn chân bằng phẳng. Người tu bình đẳng lìa tâm sân Hay trừ tất cả phiền não chướng Do nhân duyên ấy bàn chân bằng Nên được màu hoa sen dưới chân. Một mình hiển hiện ở mười phương Phước đức sáng ngời khắp cõi Phật Thì được bước lên Tịch diệt địa Điều phục vô lượng các chúng sinh. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát đối với tất cả chúng sinh khởi tâm bình đẳng, tâm cứu hộ, tâm vô ngại, tâm không độc, làm con mắt cho thế gian, chứng được Tam-muội, gọi là Tam-muội thể tánh các pháp bình đẳng không hý luận. Từ Tam-muội ấy thành tựu mười pháp. Những gì là mười? Thân giới. Khẩu giới. Ý giới. Nghiệp thanh tịnh. Vượt qua các nhân duyên. Hiểu rõ các ấm. Được cõi nước bình đẳng. Trừ các tướng nhập. Đoạn diệt các ái. Chứng được vô sinh. Lại có mười pháp: Nhập tánh các pháp. Hiển bày các nhân. Không hoại các quả. Hiện thấy các pháp. Tu tập chánh đạo. Cùng Phật đồng sinh. Trí tuệ sáng thông. Nhận trí ưa thích của chúng sinh. Đạt được Pháp trí. Nhập trí vô ngại biện. Lại có mười pháp: Trí khéo biết văn tự. Đã vượt qua các Pháp sự. Đắc trí âm thanh. Ở trong cõi giới bình đẳng. Đắc cõi giới bình đẳng, tâm sinh vui thích. Đắc nơi hỷ phần. Được tâm không quanh co. Oai nghi điều phục. Được tâm chất trực. Nhan sắc không sân hận. Lại có mười pháp: Mặt thường vui vẻ. Lời nói hòa nhã. Trước tiên luôn thăm hỏi. Thường không làm biếng. Cung kính bậc tôn trưởng. Cúng dường bậc tôn trưởng. Đời sống tri túc. Tu điều thiện không chán. Thanh tịnh sự tà mạng. An trụ nơi thanh vắng. Lại có mười pháp: Trí an trụ khắp nơi. Chánh niệm không quên. Được trí ấm phương tiện. Trí giới phương tiện. Trí nhập phương tiện. Chứng các thần thông. Diệt các phiền não. Đoạn trừ tập khí. Tâm thường dũng mãnh. Trụ nơi pháp quán bất tịnh. Lại có mười pháp: Biết phương tiện phạm. Đoạn diệt dòng chảy các cõi. Đoạn các kết sử. Đã vượt qua các cõi. Khéo biết kiếp trước. Không nghi nghiệp quả. Tư duy đối với pháp. Mong cầu đa văn. Được trí lanh lợi. Được bậc điều phục. Lại có mười pháp: Không ỷ lại sự trì giới. Không vọng tưởng phân biệt. Không có khinh tháo. Trụ nơi không thoái. Xuất sinh pháp lành. Nhàm chán pháp ác. Không tạo phiền não. Không xả bỏ sự học. Phân biệt các thiền định. Được trí ưa thích của tất cả chúng sinh. Lại có mười pháp: Khéo phân biệt sinh xứ. Được trí cùng tận. Trí khéo biết ngôn ngữ. Xả bỏ duyên tục. Nhàm chán ba cõi. Không khởi tâm hạ liệt. Không đắm trước các pháp. Nhiếp thọ chánh pháp. Thủ hộ chánh pháp. Biết luật phương tiện. Lại có mười pháp: Diệt trừ các sự tranh cãi. Không chống trái. Không tranh tụng, đánh nhau. Nhẫn bình đẳng. Đắc nhẫn địa. Tự thâu nhiếp nơi nhẫn. Khéo chọn các pháp Tâm thích giới đầy đủ. Phương tiện quyết định, khéo hỏi và đáp. Trí khéo phân biệt cú nghóa. Lại có mười pháp: Trí phương tiện đối với pháp xuất sinh. Phát sinh trí khéo biết nghóa và phi nghóa. Trí về đời trước. Trí về đời sau. Trí hiện tại. Trí ba đời bình đẳng. Trí khéo biết tam luân. Tâm an trụ. Thân an trụ Khéo gìn giữ oai nghi. Lại có mười pháp: Không hủy hoại oai nghi. Phân biệt oai nghi. Oai nghi đoan nghiêm, tao nhã. Khéo hiểu và nói về nghóa lý. Đắc thế trí. Thích bố thí, không xan tham. Tự tay bố thí. Thường bố thí không ngừng. Cho tất cả. Có tâm xấu hổ. Lại có mười pháp: Có tâm biết thẹn. Xả bỏ tâm ác. Không bỏ hạnh Đầu-đà. Đối với đức tin không hề bị che lấp. Thường hành hỷ hạnh. Đem chỗ mình ngồi dâng cho các bậc tôn trưởng. Xả bỏ tâm kiêu mạn. Khéo nhiếp tâm. Khéo biết tâm tương ưng. Khéo biết tâm sinh khởi. Lại có mười pháp: Khéo biết nghóa trí. Khéo biết pháp trí. Xa lìa vô trí. Khéo nhập vào tâm vi tế. Biết tự tánh của tâm. Khéo biết pháp phương tiện tới lui. Khéo biết tất cả trí ngôn ngữ. Khéo đắc từ ngữ sai biệt vô ngại. Đắc trí phương tiện quyết định nghóa. Xả bỏ điều chẳng phải nghóa lý. Lại có mười pháp: Thân cận người lành. Cùng làm việc với họ. Nghe theo lời dạy của họ. Xa lìa người ác. Thông suốt việc tu thiền. Không đắm trước thiền vị. Thần thông du hý. Đạt được trí thế gian. Xa lìa sự phô trương giả danh. Không chán lìa hữu vi. Lại có mười pháp: Được lợi không mừng. Gặp suy thoái không buồn. Được khen không vui. Bị chê không lo. Được tôn vinh vẫn không thích. Bị hủy báng vẫn không nản. Không khổ. Không vui. Không thân cận người tại gia. Không ở trong Tăng chúng. Lại có mười pháp: Bỏ sự không cung kính. Thực hành sự cung kính. Đầy đủ lễ nghi. Bỏ tâm không lễ nghi. Không bị nhiễm ô nhà thế tục. Gìn giữ Phật pháp. Yên lặng, ít nói. Lời nói, hành động không thô tháo. Cung người đàm luận, khéo dùng phương tiện. Hàng phục các oán thù. Lại có mười pháp: Khéo biết thời tiết. Đối với các người phàm phu có tưởng không thể biết Không khởi tâm khinh người nghèo hèn. Có người xin liền cho. Với các người nghèo khổ cứ để họ xin, đừng gây chướng ngại. Không khởi tâm ghen ghét người phá giới. Có ý nghó muốn cứu người khác. Khéo biết việc mình làm. Nhiếp thọ chánh pháp. Xả bỏ của cải. Lại có mười pháp: Không kinh doanh, tích tụ. Khen ngợi người trì giới. Chê trách người phạm giới. Cung kính sự phụng trì giới, không có tâm dối láo. Tất cả vật sở hữu đều có thể đem cho. Thành tâm khuyến thỉnh. Nói thế nào làm thế ấy. Tôn thờ người trí. Đối với các pháp quyết định, hết lòng ưa thích tu hành. Được trí ví dụ. Lại có mười pháp: Phương tiện đối với đời trước. Lấy việc tu thiện làm đầu. Có các phương tiện. Đoạn trừ các tướng Xả bỏ các tưởng. Khéo biết sự tướng. Hay diễn nói các kinh. Khéo đắc phương tiện nơi các việc thuận, nghịch. Quyết định đối với chân lý. Chứng được giải thoát. Lại có mười pháp: Lời nói chân thật, ngay thẳng. Hiển lộ trí tự tánh. Lời nói không nghi ngờ Đưa tưởng về không. Tu nơi Vô tướng. Biết tánh Vô nguyện. Đắc bốn Vô úy. Kiên cố đối với giới. Nhập vào chánh đạo tròn đủ. Đạt được trí tuệ. Lại có mười pháp: Buộc tư tưởng vào một duyên. Ít bận tâm về người thân. Không khởi tâm ô trược. Xả bỏ các kiến. Đắc Đà-la-ni. Đắc trí. Đắc sự sáng suốt. An trụ. Trụ trì. Chánh cần. Này Đồng tử! Đó gọi là Đại Bồ-tát từ Tam-muội các pháp thể tánh bình đẳng không hý luận ấy, thành tựu các công đức lợi lạc như vậy. Này Đồng tử! Tam-muội như vậy gọi là nhân, gọi là tương ưng, gọi là giáo huấn, gọi là pháp môn, gọi là làm, gọi là đạo hạnh, gọi là không nghi, gọi là Đạo sư, gọi là hành thuận nhẫn, gọi là nhẫn địa, gọi là trừ bỏ sự không nhẫn, gọi là trí địa, gọi là xa lìa vô tri, gọi là kiến lập nơi trí, gọi là phương tiện địa, gọi là Bồ-tát du hành, gọi là thân cận thắng trượng phu, gọi là xa lìa kẻ ác, gọi là Như Lai nói về Phật địa, gọi là người trí tùy hỷ, gọi là kẻ ngu vứt bỏ, gọi là Thanh văn khó biết, gọi là không phải địa vị của ngoại đạo, gọi là chỗ thâu nhiếp của Như Lai, gọi là chỗ rõ biết của Đấng Thập Lực, gọi là chư Thiên cúng dường, gọi là Phạm vương lễ bái, gọi là Đế Thích đi theo sau, gọi là rồng, thần cúi lạy, gọi là Dạ-xoa tùy hỷ, gọi là Khẩn-đà-la khen ngợi, gọi là Ma-hầu-la-già xưng dương, gọi là chỗ tu của Bồ-tát, gọi là chỗ mong cầu của bậc trí, gọi là được đạo Vô thượng, gọi là chẳng phải bố thí tài vật, gọi là thuốc trừ bệnh phiền não của chúng sinh, gọi là kho trí, gọi là Biện tài vô tận, gọi là xuất sinh các lời dạy, gọi là trừ các bệnh khổ, gọi là biết ba cõi, gọi là thuyền bè đưa người, gọi là thuyền chở qua bốn dòng nước, gọi là phát sinh danh dự, gọi là Như Lai tán thán, gọi là sự lợi ích của Như Lai, gọi là hào quang khen ngợi của Đấng Thập Lực, gọi là xuất sinh đạo đức của Bồ-tát, gọi là lòng Từ diệt trừ sự tức giận, gọi là lòng Bi dứt trừ sự não hại, gọi là tâm hoan hỷ tịch tónh, gọi là người xả bỏ buồn rầu, gọi là hơi thở sống động của người Đại thừa, gọi là có thể rống tiếng sư tử, gọi là Phật đạo, gọi là tất cả Pháp ấn, gọi là dẫn đạo Nhất thiết trí, gọi là khu vườn du hý của Bồ-tát, gọi là sự phá tan ma quân, gọi là đường an toàn, gọi là thành tựu các nghóa tốt lành, gọi là ngăn chận kẻ thù địch, gọi là dùng pháp hàng phục oán thù, gọi là sự vô úy chân thật, gọi là sức mạnh không vọng cầu như thật, gọi là cội gốc của mười tám Bất cộng pháp, gọi là trang nghiêm Pháp thân, gọi là oai lực của các hành, gọi là trang nghiêm Phật tuệ, gọi là bỏ các trói buộc của ái, gọi là trưởng tử của Phật vui mừng, gọi là trí Phật tròn đủ, gọi là không phải địa vị của Bích-chi-phật, gọi là tâm thanh tịnh, gọi là thân thanh tịnh, gọi là thành tựu giải thoát, gọi là không có các tạp dục, gọi là không có các tạp nhuế, gọi là không phải địa vị ngu si, gọi là trí A-hàm, gọi là có thể sinh khởi các kỹ thuật, gọi là trừ các vô minh, gọi là giải thoát tròn đầy, gọi là sự vui mừng của người thiền định, gọi là con mắt cần thiết để người thấy, gọi là thần thông du hý, gọi là có thể hiện bày thần túc, gọi là Văn trì Đà-la-ni, gọi là nhớ nghó và thọ trì không quên, gọi là sự gia trì của chư Phật, gọi là phương tiện của Đạo sư, gọi là sự không tương ưng, vi tế khó biết, gọi là xả bỏ văn tự, gọi là biết sâu nghóa trí, gọi là trí của tri kiến, gọi là trí phân biệt, gọi là trí bất khả ngôn thuyết, gọi là trí có thể điều phục sự sai, gọi là trí người chất trực, gọi là trí thiểu dục, gọi là tinh tấn nhiếp trì, gọi là có thể gìn giữ không quên, gọi là có thể tiêu trừ các khổ, gọi là các pháp vô sinh, gọi là một lời diễn thuyết có thể biết được sự sinh diệt trong các loài. Đó gọi là Tam-muội tất cả pháp thể tánh bình đẳng không hý luận. Khi Phật nơi pháp môn này, trong hội có tám mươi na-do-tha người, trời được Vô sinh pháp nhẫn, chín mươi hai na-do-tha trời, người được Nhẫn tùy âm thanh, bảy mươi sáu na-do-tha người, trời được Thuận nhẫn, sáu vạn người, trời được xa lìa trần cấu được Pháp nhãn thanh tịnh, một ngàn vị Tỳ-kheo hết các hữu lậu, tâm được giải thoát, hai trăm năm mươi Tỳ-kheo-ni hết các hữu lậu, tâm được giải thoát, năm trăm Ưu-bà-tắc được quả A-na-hàm, tám trăm Ưu-bà-di được quả Tư-dà-hàm. Bấy giờ tam thiên đại thiên thế giới chấn động sáu cách, đó là: Động biến động, đẳng biến động; dũng biến dũng, đẳng biến dũng; khởi biến khởi, đẳng biến khởi; hống biến hống, đẳng biến hống; chấn biến chấn, đẳng biến chấn; giác biến giác, đẳng biến giác. Vọt lên ở Đông thì chìm mất ở Tây; vọt lên ở Tây thì chìm mất ở Đông; vọt lên ở Nam thì chìm mất ở Bắc; vọt lên ở Bắc thì chìm mất ở Nam; vọt lên ở giữa thì chìm mất ở một bên; vọt lên ở một bên thì chìm mất ở giữa. Nhờ pháp lực nên bỗng nhiên khởi lên ánh sáng chưa từng có, có thể chiếu sáng ở những nơi tăm tối xa xôi, cho đến địa ngục A-tỳ, không chỗ nào không rực sáng. Lúc ấy, khoảng giữa núi Thiết vi của thế giới, chúng sinh tăm tối lại được thấy nhau, thảy đều kinh ngạc nói rằng: –Tại sao ở đây bỗng nhiên có những người này? Bấy giờ Đức Thế Tôn nói bài kệ: Ta nhớ kiếp xưa sáu vạn Phật Vốn sống ở tại núi Kỳ-xà Khi ta cầu đạo thời quá khứ Theo các Thế Tôn nghe định này. Lúc đó sáu ức Phật sau cùng Vì thế gian nên phóng ánh sáng Tên là Phật Ta-la Thọ Vương Ta theo vị ấy hỏi định này. Lúc ấy ta sinh dòng Sát-lợi Là Bậc Tối Tôn giữa các vua Có đến năm trăm các người con Đầy đủ tất cả các tài nghệ. Lúc ta là Vô Thượng Tôn ấy Tạo dựng Già lam đến ức kiếp Toàn dùng đại chiên-đàn thắng diệu Xen lẫn vàng bạc và các báu. Lúc ta làm vua, người yêu kính Tên là vua Tỳ-sa-mô-đạt Rộng bày nhiều thứ cúng dường Phật Trọn một vạn tám trăm ức năm. Lúc đó Lưỡng Túc Tôn tối thắng Danh hiệu là Ta-la Thọ Vương Trong suốt bảy ức sáu ngàn năm Sống ở thế gian hoằng hóa đạo. Có tám mươi ức các Thanh văn Ba Minh, sáu Thông thường tại định Thân cuối cùng ở trong lậu tận Thánh chúng như vậy không hủy báng. Ta dâng các thứ thật tối thắng Cúng dường bậc độ các ác thú Vì muốn lợi ích các người, trời Cho nên mới cầu Tam-muội này. Ta cùng vợ con đều xuất gia Giữ lời Phật dạy không ai bằng Trong một ngàn bốn vạn ức năm Ta thường thưa hỏi Tam-muội này. Tám vạn na-do kệ xưng tán Kệ tụng khác nhau tám ức triệu Phật ấy đem ra dạy mọi người Một phẩm duy nhất luận định này. Đầu, mắt, tay chân cùng vợ con Các thứ trân bảo và ẩm thực Tất cả của cải đều bỏ hết Vì để cầu Tam-muội như vậy. Nhớ xưa trăm ức các Như Lai Lại có hằng hà sa số Phật Chư Phật sống tại núi Kỳ-xà Tuyên thuyết định thắng tịch như vậy. Đồng một danh hiệu là Thích-ca Con Phật đồng tên La-hầu-la Thị giả đồng tên là Hoan Hỷ Vương thành đồng tên Ca-tỳ-la. Bậc trí tuệ đệ nhất ở đời Đồng tên Mục-liên, Xá-lợi-phất Thế giới cùng tên là Ta-bà Chư Phật đều sinh đời ác trược. Ta dùng phẩm vật dâng Thế Tôn Vì muốn thực hành hạnh Bồ-đề Các vật cúng dường đều dâng lên Vì muốn trì tụng chánh định này. Phát tu thắng hạnh được định này Đắc định này hành dụng vô lượng Bậc an trụ tất cả đức hạnh Được Tam-muội này chẳng khó khăn. Không đắm các vị, lìa náo động Không gần thế tục, không ganh ghét An trụ đại Bi, lìa sân hận Được Tam-muội này chẳng khó khăn. Xa tục không sợ mất lợi danh Thanh tịnh tà mạng không phiền não Với giới trong sáng không sợ hãi Được Tam-muội này đâu khó khăn. Tinh tấn, dũng mãnh thường không nghỉ Ưa thích nhàn tịnh hành Đầu-đà An trụ vô ngã, diệu pháp nhẫn Được Tam-muội này đâu khó khăn. Khéo điều phục tâm không hý luận An trụ oai nghi, tất cả hạnh Thích hành bố thí không keo kiệt Được Tam-muội này đâu khó khăn. Các tướng tốt đẹp của Như Lai Cùng với mười tám pháp Bất cộng Lực, Vô úy thảy được không khó Bởi hay thọ trì định này vậy. Mắt Phật nhìn thấy các chúng sinh Giả sử một lúc đều thành Phật Mỗi Đức Phật ấy có thọ mạng Ngàn vạn ức kiếp khó nghó được. Mỗi Phật đều có vô lượng đầu Giống như số cát trong biển cả Mỗi đầu đều có vô lượng lưỡi Số lượng cũng như cát đại hải. Cứ mỗi một lưỡi đều xưng dương Công đức một bài kệ trì định Nói một phần nhỏ không hết được Huống chi biên chép và thọ trì. Nếu có thuận định, đức Đầu-đà Thiên, A-tu-la, Quỷ hộ trì Và các vị vua thường theo hầu Do trì tịch định khó thấy này. Vì có vô biên vô ngại biện Tuyên thuyết vô lượng trăm ngàn kinh Trong mọi thời gian thường không dứt Vì trì kinh này, nghe tạng này. Nếu muốn được thấy Phật Di-đà Cùng với thế giới an lạc kia Sau này đời ác rất đáng sợ Cần phải nghe trì Tam-muội này. Ta nay vì ông mà phó chúc: Nhân Trung Tôn ta, tự khuyên ông Sau ta Niết-bàn, lúc mạt thế Phải nên nghe, trì Tam-muội này. Tất cả chư Phật ở mười phương Trong đời quá khứ và hiện tại Các vị đều học Tam-muội này Được đến vô vi, Phật Bồ-đề. Này Đồng tử! vì nghóa này nên nếu có Đại Bồ-tát, muốn ở trong công đức chân thật của Như Lai mà khai thị biện thuyết nghóa lý của danh hiệu không thể cùng tận. Tất cả những điều được Phật nói ra, nay ngươi phải nên đọc tụng thọ trì, vì người khác rộng nói Tam-muội như vậy. Này Đồng tử! Sao gọi là công đức chân thật của danh hiệu Như Lai? Nếu Đại Bồ-tát trụ nơi thanh vắng, hoặc nơi nhàn tịnh dưới gốc cây, một mình ngồi im lặng, phải học như vầy: Đức Như Lai, Bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, tích tập công đức thắng diệu của Như Lai, tu các thiện căn mà không hoại mất, dùng sức đại nhẫn, được các tướng tốt và các vẻ đẹp để tự trang nghiêm thân, là sắc khả ái thuộc loại bậc nhất, người xem không chán, kính tin, yêu thích. Với các bậc trí tuệ không ai có thể hơn được, năng lực chẳng thể hoại, hóa độ các chúng sinh, là cha của Bồ-tát, vua của Hiền thánh, là Đạo sư hướng tới Niết-bàn, trí tuệ vô biên, biện tài vô lượng, Phạm âm thanh nhã, âm thanh lời lẽ thông suốt, tướng tốt hy hữu. Người có mắt chiêm ngưỡng, tùy ý quán nhìn, muốn không xem nữa nhưng vẫn không được. Được thân không ai bằng, không bị dục nhiễm, không bị sắc nhiễm, hơn cả vô sắc giới, xa lìa các khổ, vứt bỏ các pháp, giải thoát các cõi, chẳng nhập tương ưng, đoạn trừ các trói buộc, sạch hết khát ái, vượt qua bốn dòng sông, trí tuệ tròn đầy, an trú Niết-bàn, ở nơi thật tế. Này Đồng tử! Đó là ta nói rõ công đức chân thật của Như Lai. Đại Bồ-tát trú nơi Tam-muội ấy thì có thể đạt được công đức chân thật của Như Lai. Nếu mở bày và diễn nói về danh nghóa của nó thì không bao giờ cùng tận tất cả những điều chư Phật nói ra. Bấy giờ Đức Thế Tôn nói bài kệ: Nơi vô lượng số trong ngàn kiếp Công đức Như Lai khó nói hết Từ lâu huân tập nhiều thiện căn Để cầu được thắng định như vậy. Thân mỹ nữ trang nghiêm vi diệu Sắc đáng yêu tối thượng lạ lùng Xưa ta quyết thí, lòng không dối Để cầu được thắng định như vậy. Bỏ cả tài sản và tôi tớ Ma-ni đại bảo và vàng bạc Dùng tâm thắng thượng mà bố thí Vì để cầu Tam-muội như vậy. Dùng ngọc báu ma-ni, anh lạc Mão trời, ấn tay và dây vàng Xưa từng dâng thí các Đạo Sư Để cầu được thắng định như vậy. Các diệu hương hoa, vô lượng quả Đều là hương Kiền-đà-bà-sư Ta dùng hoa ấy rải tháp Phật Tâm thắng diệu, thuần chí tăng thượng. Ta dùng vô lượng các pháp thí Hoan hỷ khai đạo các chúng sinh Với các danh văn và lợi dưỡng Ta không hề khởi tâm nơi ấy như vậy. Xưa ta huân tập đức Đầu-đà Một mình dưới cây, im không nói Từ bi vô lượng thương chúng sinh Để cầu quả Bồ-đề vô thượng. Với người đồng giới không cạnh tranh Thường nói yêu thương, giọng êm dịu Ngôn từ nhỏ nhẹ, người thích nghe Mọi người nhìn thấy không nhàm chán. Sống ở Tha-xá-ly-gia-xan Vô lượng ức đời không ganh ghét Hoan hỷ, thường tự đi khất thực Các nơi mời thỉnh đều vứt bỏ. Nếu ai nghe nhiều, hay thọ trì Nơi bốn câu kệ Tam-muội này Như vậy tức là cúng dường ta Đem tâm thù thắng mà tôn kính. Xưa ta hành các thứ bố thí Với giới mãi mãi không vi phạm Dùng vô lượng thứ cúng dường Phật Để cầu mong tịch định như vậy. Ta ở trong vô lượng thế giới Đầy ngọc Ma-ni đem thí khắp Nghe Tam-muội này trì bài kệ Phước ấy lớn hơn không thể lường. Nếu có tất cả các loại hoa Và các diệu hương rất hy hữu Cúng dường tất cả các Như Lai Thích tu thiện căn vô lượng kiếp. Các kỹ nhạc có trên thế gian Ẩm thực ngon bổ và y báu Tâm tăng thượng trong vô lượng kiếp Thường đem cúng dường các Thập Lực. Nếu ai hưng khởi nguyện Bồ-đề Sẽ được Đại Pháp vương vô thượng Nếu ai với kinh Tam-muội này Nghe một bài kệ, phước hơn kia. Trong dòng sông Hằng bao nhiêu cát Bao nhiêu kiếp số nói lợi ấy Phô diễn đức ấy không cùng tận Nhờ thọ trì vô lượng phước định. Này Đồng tử! Chính vì nghóa này nên Đại Bồ-tát cần phải chí tâm thọ trì, đọc tụng, diễn thuyết cho người khác, phân biệt, hiển bày, giáo hóa rộng khắp, cho chúng sinh tu Tam-muội này. Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói bài kệ: Chỗ Phật kia ta nghe như vầy Được lợi ích vô thượng thắng diệu Cho nên nay ta nói cho ông Thắng Tam-muội chư Phật từng nói. Chỗ bảy ức ba ngàn vạn Phật Thời quá khứ ta từng cúng dường Tất cả các Đức Như Lai ấy Cũng nói Tu-đa-la như vậy. Nhờ đó mới vào tâm đại Bi Cho nên nói rõ Tam-muội này Nếu có người tập học, nghe nhiều Được trí Như Lai sẽ không khó. Nếu có thể vào thời mạt thế Đạo sư thế gian đã diệt độ Có kẻ báng pháp, Tỳ-kheo ác Với người đa văn, không ưa thích. Tuy nói giới pháp để mưu sinh Nhưng mình không thích hành giới pháp Tuy nói thiền định để mưu sinh Nhưng mình không thích hành thiền định. Tuy nói trí tuệ để mưu sinh Nhưng mình không thích hành trí tuệ Tuy nói giải thoát để mưu sinh Nhưng mình không thích hành giải thoát. Tuy nói tri kiến để mưu sinh Nhưng mình không thích hành tri kiến Như người miệng nói hương chiên-đàn Là hương tối thượng trong các hương Có người hỏi kẻ nói hương ấy: “Ông biết thứ hương ông đã nói?” Đáp rằng: “Tôi thật không nghe hương Chỉ nhờ nói hương để mưu sống.” Sau Phật diệt độ, đời ác thế Có các Tỳ-kheo không giữ giới Chỉ nói giới pháp để mưu sinh Tự mình không thể hành giới pháp. Sau Phật diệt độ, đời ác thế Có các Tỳ-kheo không thiền định Tuy nói pháp định để mưu sinh Tự mình không thể hành pháp định. Sau Phật diệt độ, đời ác thế Có các Tỳ-kheo không pháp tuệ Tuy nói pháp tuệ để mưu sinh Tự mình không thể hành pháp tuệ. Sau Phật diệt độ, đời ác thế Có các Tỳ-kheo không giải thoát Tuy nói giải thoát để mưu sinh Tự mình không thể hành pháp giải thoát. Sau Phật diệt độ, đời ác thế Có các Tỳ-kheo không tri kiến Tuy nói tri kiến để mưu sinh Tự mình không hành pháp tri kiến. Ví như kẻ nghèo bị người khinh Sau đó phú quý người cung kính Người, Trời, Rồng, Quỷ, Cưu-bàn-trà Quyết không cúng dường người không định. Nếu được Tam-muội vi diệu địa Bậc trí liền được kho trí rộng Được các hàng trời, người cung kính Hay dùng thượng thí, cho chúng sinh. Ta nghe được lợi ích như vậy Hết sức cao tột, Phật nói ra Thân thuộc, tài sản đều xả hết Vì muốn nghe nói Tam-muội này. Đồng tử Nguyệt Quang tâm hoan hỷ Chắp tay hướng Phật nói lời rằng: “Sau khi Phật tiên đã diệt độ Con xin hộ trì thắng pháp Phật. Với thân mạng mình hay thí xả Cùng các thú vui ở thế gian Sau này đời ác thật hãi hùng Con hộ trì định thắng diệu này. Con thấy thế gian khổ vô lượng Khởi tâm đại Bi mà cứu họ Với họ, lại khởi tâm đại Bi Nói họ nghe thắng Tam-muội này”. Trong chúng, năm trăm người đều đứng Cũng xin hộ trì Tam-muội này Khi ấy Đồng tử là thượng thủ Cùng trì Tam-muội thù thắng này. Bấy giờ Đồng tử Nguyệt Quang bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Gọi Tam-muội ấy thế nào cho đúng? Phật bảo: –Này Đồng tử! Hãy lắng nghe! Hãy lắng nghe! Ta sẽ nói cho. Đó là: Có thể vắng lặng nơi tâm. Tâm không khởi lên. Trí không hòa hợp. Bỏ gánh nặng xuống. Được trí Như Lai. Thành oai lực của Phật. Điều trị sự đắm trước dục. Diệt trừ sân nhuế. Đoạn trừ ngu si. Trụ tâm tương ưng. Xả tâm không trụ Ưa thích thiện pháp. Tước đoạt hữu vi. An trụ chánh tín. Đêm vẫn tỉnh thức. Không bỏ thiền định. Tăng trưởng thiện căn. Không thích sự sinh. Không tạo các nghiệp. Không chấp nội nhập. Không chấp ngoại nhập. Không khen thân mình. Không chê người khác Không ở nhà thế tục. Giới hạnh thuần thục. Không khinh chê ai. Có đại phước đức. Tự tri. Không khinh tháo. An trụ oai nghi. Bỏ lời nói thô ác. Không có tâm sân hận. Cứu hộ mọi người. Che chở Thiện tri thức. Hộ trì lời bí mật. Không sinh tâm độc hại đối với các chúng sinh. Không não loạn người trì giới. Luôn nói lời êm dịu. Không nương vào ba cõi. Thuận nhẫn nơi Nhất thiết trí. Bấy giờ Đức Thế Tôn nói bài kệ: Ta đã từng mở cửa cam lồ Ta đã nói tự tánh các pháp Ta đã chỉ lỗi lầm sinh tử Ta mở bày lợi ích Niết-bàn. Ta đã dạy lìa ác tri thức Phải thường thân cận Thiện tri thức Lìa các huyên náo, ở tịch tónh Thường tu tâm Từ không gián đoạn. Phải thường hộ trì giới thanh tịnh Hoan hỷ ưa thích hạnh Đầu-đà Nếu thường huân tập nơi tuệ xả Được Tam-muội này sẽ không khó. Người ấy hay được tịch diệt địa Quyết không rơi vào hàng Thanh văn Nhất định sẽ chứng trí tuệ Phật Liền được vô lượng công đức Phật. Thấy các chúng sinh có trí tuệ Vì họ chỉ bày, thuyết Phật tuệ Nếu ai hay cầu trí vô thượng Được Tam-muội này đâu có khó. Hoặc vì ăn, khởi tâm ganh ghét Nên biết ăn rồi, thành bất tịnh Dụng công vô lượng mới được thành Nếu quán sâu vậy mới đắc định. Không vật nào đem định này tới Chỉ do tịnh giới mới sinh ra Thể tánh chư pháp thường tịch diệt Phàm phu vô trí không thể hiểu. Nếu ai trụ tâm nơi tịch định Người ấy luôn luôn thường có Phật Nhân tôn hằng thấy các chúng sinh Thường tu định tịch diệt như vậy. Nhớ nghó tướng tốt, đức hạnh Phật Hay khiến các căn không loạn động Tâm không mê loạn hợp với pháp Được nghe, được trí như biển cả. Bậc trí trụ nơi Tam-muội này Nhiếp niệm hành nơi chỗ kinh hành Hay thấy ngàn ức chư Như Lai Cũng gặp vô lượng hằng sa Phật. Nếu người trong tâm có mê hoặc Ở trong Phật pháp bị hạn lượng Ở trong vô lượng không hạn lượng Các Đức Như Lai khó nghó bàn. Tất cả thế gian không ai bằng Huống lại có người hơn người ấy Các trí, các đức đều tương ưng Người ấy không nghi sẽ thành Phật. Được thân Như Lai sắc vàng tía Tất cả đoan trang để gần đời Duyên nơi tâm an trụ như vậy Mới gọi là Bồ-tát đắc định. Nhờ nương tướng Phật là hữu tác Hay trừ tất cả tưởng hữu tướng Sau đó an trụ nơi vô tướng Mới thấu đạt được các pháp không. Có thể an trụ nơi Pháp thân Biết tất cả hữu nhưng vô hữu Đã tu tập tướng vô hữu rồi Sau đó quán Phật không sắc thân. Nay ta vì ông nên khéo nói Người người hướng đến chỗ như vậy Nghóa là giác biết các sự duyên Vô lượng suy nghó thường không dứt. Nếu ai hay sinh tâm như vậy Niệm tướng tốt và trí tuệ Phật Người có thể tu niệm như vậy Một lòng hướng về không thoái chuyển. Hoặc đi, hoặc ngồi, hoặc kinh hành Không nghi hoặc nơi trí chư Phật Được không nghi rồi phát nguyện rằng: Khiến con được Phật Tam Giới Tôn Chắc sẽ gặp được các Như Lai Vào trong Phật pháp được phân minh Nơi Tam-muội này mà khởi lên Cúi đầu đảnh lễ mười phương Phật Thân, miệng và ý đều thanh tịnh Tán thán chư Phật thường không dứt. Thường tu như vậy nhớ tướng Phật Ngày đêm hằng thấy các Như Lai. Gặp lúc sắp chết, bệnh ngặt nghèo Bệnh đau bức bách không chịu nổi Niệm Phật Tam-muội thường không xả Không để khổ thống đoạt nhất tâm. Người ấy vì tự biết pháp này Nên biết tất cả các pháp không Nhờ trụ các giáo môn như vậy Với Bồ-tát hạnh không chán ghét. Được nghe lợi ích như vậy rồi Cầu trí vô đẳng của Như Lai Sau đó không sinh tâm hối tiếc Bồ-đề tối thượng không đạt được. Nay ta vì ông nói vô lượng Ông đối pháp này nếu không thành Như người tuy giữ thuốc diệu mầu Tự thân mình bệnh không thể trị. Cho nên cần phải biết lựa chọn Nghóa là cầu Tam-muội thù thắng Giới, văn, bố thí thường tu tập Được Tam-muội này sẽ không khó. KINH NGUYỆT ĐĂNG TAM-MUỘI <卷 id="104089326">QUYỂN 2 Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo đồng tử Nguyệt Quang: –Vào thời quá khứ lâu xa, hơn a-tăng-kỳ kiếp vô lượng vô biên không thể nghó bàn, khi ấy có Đức Phật hiệu là Thanh Đức Như Lai, Bậc Ứng cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn xuất hiện ở đời. Này Đồng tử! Bấy giờ Thanh Đức Như Lai Ứng Chánh Biến, hội chúng đầu tiên của Đức Phật ấy tập hợp tám ức Thanh văn, đều là các bậc A-la-hán, lậu hoặc đã hết, đạt được tự lợi, sạch hết hữu kết, nương nơi chánh giáo, tâm khéo giải thoát, có thể đạt được tất cả tâm tự tại. Hội chúng thứ hai gồm có bảy ức chúng, hội chúng thứ ba gồm có sáu ức chúng. Tất cả những vị đó đều là Đại A-la-hán, các lậu hoặc đã tận, đạt được tự lợi, sạch hết các kết, nương vào chánh giáo, tâm khéo giải thoát, có thể đạt đến tất cả tâm tự tại. Này Đồng tử! Bấy giờ Đức Phật ấy thọ bốn vạn năm, lúc ấy Diêm-phù-đề được an ổn, giàu có, sung sướng, dân chúng phồn thịnh, khắp nơi sung mãn. Này Đồng tử! Bấy giờ ở Diêm-phù-đề có hai vị đại vương, một vị tên là Kiên Cố Lực, vị thứ hai tên là Đại Lực. Hai vị đại vương này mỗi người thống lãnh một nửa cõi Diêm-phù-đề. Lãnh thổ của hai vua an ổn, giàu có, sung sướng, dân chúng phồn thịnh, khắp nơi sung mãn. Khi ấy Như Lai Thanh Đức xuất hiện ở đời tại nước của vua Đại Lực. Này Đồng tử! Bấy giờ vua Đại Lực thỉnh Như Lai Thanh Đức và Tỳ-kheo tăng tròn một ngàn năm. Vị vua ấy đem tất cả sự tùy thuận thanh tịnh, không lỗi lầm, dùng tất cả y phục, ẩm thực, ngọa cụ, thuốc thang, mà cúng dường. Này Đồng tử! Đức Như Lai Thanh Đức và Tăng chúng Thanh văn được nhiều lợi dưỡng, cung kính tán thán. Lúc đó có các Bà-la-môn, các trưởng giả, tịnh tín đối với Đức Như Lai Thanh Đức và Tỳ-kheo tăng liền phát ý dũng mãnh, học vua Đại Lực cách cúng dường. Nghóa là dùng tiền của thế gian làm vật cúng dường thù thắng thì người ấy không biết cách thực hành cúng dường. Vậy thực hành cúng dường bằng cách nào? –Đó là thọ trì năm giới, tám giới, xuất gia đi đến chỗ Đức Phật, thân cận thưa hỏi để thấy pháp nhẫn sâu xa. Này Đồng tử! Lúc đó Như Lai Thanh Đức nghó như vầy: “Các chúng sinh này ý chí hạ liệt, không thể thọ trì năm giới, tám giới, xuất gia đến chỗ Phật thân cận, thưa hỏi để thấy pháp nhẫn sâu xa, tu các phạm hạnh tịch tónh, viễn ly, thọ giới cụ túc, được phần Tỳ-kheo và đem thiện căn rốt ráo thọ hành. Tịch diệt như vậy thì nhạc cụ, diệu lạc vô thượng thảy đều xa lìa, chỉ dùng của cải thế gian để cúng dường ta. Các chúng sinh này chỉ mong sự vui nhỏ mà cho là vui cùng tột. Các chúng sinh này chỉ trọng pháp hiện tại và pháp đời sau mà không thể yêu quý căn lành cứu cánh. Sao gọi là coi trọng pháp hiện tại? Đó là ưa thích ngũ dục. Sao gọi là quý trọng căn lành đời sau? Đó là ưa thích sinh lên trời. Sao gọi là căn lành cứu cánh? Đó là sự thanh tịnh cứu cánh, tốt đẹp cứu cánh, phạm hạnh cứu cánh, cùng tận cứu cánh, tối hậu cứu cánh, Niết-bàn cứu cánh. Nay ta muốn nói pháp như vậy khiến cho chúng này sinh hạnh bố thí, không vì sự cúng dường tối thắng cứu cánh, chỉ vì hạnh vô thượng mà cúng dường ta.” Này Đồng tử! Lúc ấy Như Lai Thanh Đức muốn giác ngộ cho vua Đại Lực và các trưởng giả Bà-la-môn đó… nên nói bài kệ: Nếu người hành bố thí tài thực Còn tâm bỉ thử không kính nhau Việc làm như vậy không đáng khen Chư Phật, bậc Trí đã xa lìa. Nếu nói bậc Trí tuệ vô ngã Thắng nhân như vậy nên phụng sự Nơi Thánh đế ấy tin bất động Phụng kính như vậy Phật mới khen. Nếu đem tài thực mà dâng thí Chỉ được ít lợi nơi hiện tại Có thể xa lìa thí như vậy Người ấy thành tựu hạnh xuất gia. Nếu ai hay khởi tâm không của Lại hay hiển thị pháp không của Cũng hay tịnh tín người không của Người đó mau thành đạo Vô thượng. Không có ở trong năm dục lạc Với vợ và con sinh ái trước Kẻ ngu mãi sống ở trong nhà Người đó đâu hay được lậu tận. Nhàm chán năm dục như hầm lửa Hay lìa ái nhiễm với vợ con Sợ hãi cư gia cầu ra khỏi Thành tựu Bồ-đề mới không khó. Không có chư Như Lai quá khứ Cùng với hiện tại và vị lai Thường ở tại gia, sống trong dục Mà có thể đắc đạo thắng diệu. Vứt bỏ ngôi vua như nước miếng Sống nơi xa lìa, chỗ thanh nhàn Đoạn trừ phiền não, hàng phục ma Ngộ rõ đạo vô vi ly cấu. Nếu hằng sa đời rất hùng mạnh Ngàn vạn ức năm mà cúng dường Có thể chán sợ ở tại gia Công đức như vậy mới tối thượng. Chẳng phải ẩm thực và y phục Các diệu hoa hương và hương xoa Những thứ như vậy cúng dường Phật Như kẻ xuất gia phụng hành pháp. Nếu ai thích cầu đạo Bồ-đề Hay lợi chúng sinh, chán thế gian Hướng đến không nhàn đi bảy bước Phước báo như vậy mới tối thượng. Này Đồng tử! Khi vua Đại Lực nghe Như Lai Thanh Đức, Bậc Ứng Chánh Biến Tri nói về nghóa lợi của sự xuất gia tu hành như vậy xong, lại suy nghó rằng: “Như ta đã hiểu nghóa lý lời Phật dạy, Đức Như Lai chẳng phải nói Đàn ba-la-mật để được thanh tịnh cứu cánh, tốt lành cứu cánh, phạm hạnh cứu cánh, tận cùng cứu cánh, tối hậu cứu cánh, Niết-bàn cứu cánh.” Vua Đại Lực lại nghó như vầy: “Không phải sống tại gia mà có thể đắc sự tu hành vô thượng, đắc sự lợi lạc, tu hành vô thượng, nhưng ta hiện nay xa lìa hạnh này. Nay ta cần phải cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, xuất gia hành đạo!” Này Đồng tử! Khi ấy vua Đại Lực cùng với quyến thuộc là tám vạn người vây quanh trước sau, đến chỗ Đức Phật Thanh Đức, đảnh lễ dưới chân, nhiễu bên phải ba vòng, rồi ngồi sang một bên. Này Đồng tử! Bấy giờ Như Lai Thanh Đức biết vua Đại Lực cùng với quyến thuộc trong tâm có sự ưa thích liền vì họ phân biệt, chỉ bày, tuyên nói Tam-muội tất cả các pháp thể tánh bình đẳng không có hý luận. Này Đồng tử! Khi vua Đại Lực nghe Tam-muội này, vui mừng khôn xiết, trong lòng hết sức yêu thích, liền ở chỗ Đức Phật Thanh Đức xả bỏ ngôi vua, chánh tín xuất gia, cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y. Khi vua đã xuất gia, thì có thể rộng nghe, đọc tụng, nhớ nghó, gìn giữ, phân biệt nghóa lý, tu hành tương ưng với Tam-muội này. Nhờ căn lành này, nên ở trong hai ức kiếp không đọa ác đạo, tuần tự được lại gặp hai ức chư Phật, ở trong Phật pháp thường được xuất gia, ở nơi mỗi mỗi Đức Phật, vua thính thọ, đọc tụng, phân biệt nghóa lý, tu hành tương ưng với Tam-muội này. Nhờ căn lành này nên tuần tự tròn một trăm ức kiếp được thành Phật đạo, hiệu là Như Lai Trí Dũng, Bậc Ứng Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, làm lợi ích vô lượng, vô biên chúng sinh, sau đó mới nhập Bát-niết-bàn. Này Đồng tử! Ông hãy quán thần lực của Tam-muội này thì có thể khiến cho Bồ-tát chiêu cảm được trí Phật. Này Đồng tử! Vua Đại Lực ấy đã dẫn tám vạn quyến thuộc đến nghe Tam-muội này, làm cho họ vui mừng vô hạn, tâm rất ưa thích. Họ cũng theo vua, chánh tín xuất gia, cạo bỏ râu tóc, thân mặc pháp y. Các người xuất gia ấy nghe Tam-muội này thì liền đọc tụng, thọ trì, phân biệt, giải thuyết, tu hành tương ưng. Nhờ căn lành này nên ở trong hai ức kiếp không đọa ác đạo. Trong mỗi mỗi kiếp họ gặp một ngàn vạn Đức Phật, ở chỗ các Đức Phật ấy thường được xuất gia. Đã xuất gia rồi nghe Tam-muội này thì đọc tụng, thọ trì, ứng dụng trong sự tu hành. Nhờ căn lành này nên sau đó tròn một trăm ngàn kiếp mỗi vị ở mỗi thế giới đều thành Phật đạo, đồng một danh hiệu là Như Lai Kiên Cố Dũng Kiện, Bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, làm lợi ích cho vô lượng chúng sinh rồi sau đó các Ngài mới nhập Vô dư Niết-bàn. Này Đồng tử! Tam-muội này có đại oai lực như vậy, hay khiến cho các Bồ-tát đạt đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Bấy giờ Đức Thế Tôn muốn nói lại nghóa này nên nói bài kệ: Ta nhớ đời quá khứ lâu xa Chẳng nghó bàn kiếp có Đức Phật Hay làm lợi lạc cho chúng sinh Hiệu là Thanh Đức Đại Tiên Tôn. Hội đầu tập chúng tròn tám ức Đều là các đệ tử Thanh văn Hội hai tập chúng số bảy ức Hội ba sáu ức A-la-hán. Đã sạch hết lậu, không phiền não Các sức thần thông đã rốt ráo Đức Phật sống đến bốn vạn tuổi Thế giới quốc độ rất nghiêm tịnh. Cõi Diêm-phù-đề có hai vua Tên là Đại Lực, Kiên Cố Lực Lãnh thổ của hai vị vua này Mỗi vua thống lónh nửa Diêm-phù. Phật sinh trong nước vua Đại Lực Các vị trời, người dâng cúng dường Nhà vua tịnh tín nơi Đức Phật Cung kính cúng dường tròn ngàn năm. Vô lượng dân chúng học theo vua Cúng dường Đức Như Lai các thứ Dùng của cải đời phi pháp cúng Phật và Thanh văn đều đầy đủ. Bấy giờ Thế Tôn mới nghó rằng: “Ta nói pháp này để bỏ dục Sẽ khiến nhà vua sinh nhàm chán Ở trong pháp ta mà xuất gia”. Khi ấy Nhân Tôn nói kệ rằng: “Vứt bỏ pháp ác là Phật giáo Tại gia lỗi nhiều, đủ các khổ Tu hành như pháp là cúng Phật”. Khi vua nghe nói kệ như vậy Đến chỗ thanh vắng nghó như vầy: “Nay ta không thể ở gia đình Mà làm pháp cúng dường tối thắng”. Liền bỏ ngôi vua như nhổ đàm Cùng với tám vạn các quyến thuộc Đồng lúc đi đến chỗ Đức Phật Đầu mặt đảnh lễ đứng trước Phật. Phật biết tâm họ đều ưa thích Nên nói định tịch diệt khó thấy Họ nghe, ái kính và vui mừng Mọi người hoan hỷ liền xuất gia. Khi xuất gia rồi với định này Đọc tụng, thọ trì, rộng phân biệt Lần lượt trong số hai ức kiếp Chưa từng đọa lạc ba đường ác. Vị ấy nhờ các thiện nghiệp này Được thấy trăm ức các Như Lai Ở trong Phật pháp thường xuất gia Tuyên thuyết Tam-muội thù thắng này. Về sau họ sẽ được thành Phật Đồng hiệu: Kiên Cố Đại Tinh Tấn Lợi ích vô lượng ức chúng sinh Sau nhập Niết-bàn như lửa tắt. Vào thuở xa xưa vua Đại Lực Thành Phật từ lâu hiệu Trí Dũng Lợi ích vô lượng trăm ức chúng Chứng Bồ-đề rồi nhập Niết-bàn. Đã nghe lợi ích lớn như vậy Mạt thế trì kinh, Phật khen ngợi Nếu hay phụng trì Phật pháp tạng Họ sẽ mau chóng thành Thế Tôn. Này Đồng tử! Đó là Đại Bồ-tát vì yêu thích định này nên phải tu tập định này trước tiên. Này Đồng tử! Vì sao Bồ-tát đối với Tam-muội này phải tu trước tiên? Này Đồng tử! Đại Bồ-tát dùng tâm đại Bi làm đầu. Nếu Phật ở tại thế hay Phật đã diệt độ, thường xuyên cúng dường, đó là: Vòng hoa, hương bột, hương xoa, dù lọng báu, âm thanh, ca múa, hát xướng, kỹ nhạc, y phục, ẩm thực, thuốc thang, chữa bệnh. Dùng căn lành này đều để hồi hướng Tam-muội như vậy. Lại không mong cầu các việc khác mà để cúng dường Phật, không cầu sắc đẹp, không cầu tiền của, không vì sinh lên trời, không cầu quyến thuộc, chỉ niệm pháp Tam-muội này. Bồ-tát ấy vẫn ở trong pháp, không thấy có Phật, huống lại ngoài pháp mà thấy có Phật sao! Cho nên, này Đồng tử! Đó là cúng dường Phật chân chánh mà cũng không thấy có Phật để thành, không chấp ngã tưởng, không cầu quả báo. Bồ-tát ấy Tam luân thanh tịnh, dùng vòng hoa, hương bột, hương xoa, phan, lọng, dù báu, âm thanh, ca múa, hát xướng, kỹ nhạc, y phục, ẩm thực, thuốc thang, chữa bệnh… cúng dường Đức Như Lai để hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Nhờ căn lành này nên được công đức không thể nghó bàn, quả báo không thể nghó bàn. Được Tam-muội này nên mau thành tựu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói bài kệ: Nếu ai dâng hương Vô Biên Trí Hay được vô lượng quả báo hương Trong ngàn vạn kiếp lìa đường ác Hoàn toàn không có các xú uế, Trong ngàn vạn kiếp hành thắng hạnh Cúng dường trăm vạn ức Như Lai Thành Phật đạt được thắng giới hương. Nếu lại rõ hiểu không chúng sinh Thí hương, nhận hương cả hai không Nếu hay khởi tâm thí như vậy Sẽ được Thuận nhẫn thắng nhu nhuyến. Nếu người tu nhẫn tăng thượng này Bị người cắt thân giống như trước Trong ngàn vạn ức hằng sa kiếp Nhưng tâm kiên cố không thoái chuyển. Vì sao mà được gọi là Nhẫn? Vì sao lại gọi là Tùy thuận? Vì sao được gọi Không thoái chuyển? Vì sao lại gọi là Bồ-tát? Tự tánh hân hoan không ngã chấp Vì không ngã tưởng, không phiền não Hay biết các pháp đều tận diệt Do nhân duyên này gọi là Nhẫn. Điều chư Phật học, tùy thuận học Người trí như pháp thường tu hành Biết pháp chư Phật không nghi hoặc Cho nên được gọi là Tùy thuận. Nếu tu hành lúc đời có ma Hiện làm thân Phật nói lời rằng: Phật đạo khó được, làm Thanh văn Không chịu tín thọ là Không thoái. Giác ngộ các chúng sinh ác kiến Họ không thể chứng đạo cam lồ Khuyên bỏ ác đạo, trụ thiện đạo Cho nên được gọi là Bồ-tát. Người nhẫn trụ nơi đạo tùy thuận Nhờ không ngã pháp, khiến khai ngộ Cho đến trong mộng không khởi niệm Còn có chúng sinh, tưởng thọ mạng, Nếu ma vô lượng như hằng sa Hóa làm thân Phật đến chỗ ta Hoặc nói trong thân có thần ngã Liền nói Vô ngã, ngươi “phi Phật”. Nhờ trí liễu đạt các pháp “Không”. Biết rồi không sống cùng phiền não Do hý luận nên nói là Có Thấy rồi vắng lặng, hành thế gian. Ví như người đời đã sinh con Tùy ý của mình đặt tên gọi Tìm tên khắp nơi cũng không có Nên biết tên ấy không chỗ đến. Lập danh Bồ-tát cũng như vậy Bồ-tát khắp nơi không thể tìm Cho đến thật tế cầu không được Người biết như vậy gọi Bồ-tát. Giả như trong biển đốt lửa cháy Bồ-tát không hề khởi thân kiến Bồ-tát được trụ sơ phát tâm Đoạn sạch ác kiến, hết phiền não. Không thấy có các pháp sinh diệt, Gọi là Chúng sinh và Thọ mạng Thể các pháp không, giống như huyễn Việc này ngoại đạo không thể biết. Hoặc sinh tham trước việc ăn uống Khởi tâm luyến tiếc nơi y bát Cùng với trạo cử và khinh tháo Thì không thể biết Phật Bồ-đề. Ham thích ngủ nghỉ và lười biếng Gian ngụy, hung bạo không thu nhiếp Không lòng tịnh tín nơi chư Phật Thì không thể biết Phật Bồ-đề. Hủy phá giới cấm không hổ thẹn Ở trong Phật pháp không uy tín Không kính các phạm hạnh đồng tu Thì không thể biết Phật Bồ-đề. Không hủy tịnh giới, có hổ thẹn Ở trong Phật pháp rất ưa thích Hay cung kính người đồng phạm hạnh Thì mới biết được thắng Bồ-đề. Lấy cảnh giới Thánh làm niệm xứ Hoan hỷ chính là giường, ngọa cụ Lấy thiền làm cơm, định làm canh Như vậy mới biết Phật Bồ-đề. Vô ngã, nhẫn là chỗ kinh hành Ở trong rừng không hành chánh niệm Hương hoa thất giác rất đáng yêu Ngửi xong liền thành đạo Vô thượng. Thể đạo Bồ-tát chỗ tu hành Không phải việc làm của người khác Gọi là Thanh văn và Duyên giác Chỉ có người trí không tham đắm. Ví thọ mạng ta rất lâu dài Như cát sông Hằng, vô lượng kiếp Nối sợi lông Phật đức vô tận Chút đức của Phật nói không hết. Nếu nghe lợi ích lớn như vậy Không sợ những điều Thế Tôn nói Mau tự dạy người giữ định này Được Bồ-đề vô thượng không khó. Này Đồng tử! Cho nên Đại Bồ-tát phải biết nhập vào ba pháp nhẫn một cách khéo léo. Đó là biết nhẫn thứ nhất, nhẫn thứ hai và nhẫn thứ ba. Trong nhẫn này phải biết một cách khéo léo. Lại đối với trí ấy cũng phải biết một cách khéo léo. Vì sao? Vì nếu Đại Bồ-tát đối với trong Nhẫn trí mà biết một cách khéo léo thì Đại Bồ-tát ấy mau được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Cho nên, này Đồng tử! Đại Bồ-tát nếu cầu mau chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì cần phải thọ trì ba môn pháp nhẫn này, thọ trì rồi phân biệt, nói rộng cho người khác nghe, làm lợi ích an lạc vô lượng chúng sinh, cứu giúp thế gian, làm lợi ích an lạc chư Thiên và loài người. Bấy giờ, Đức Thế Tôn vì Đồng tử Nguyệt Quang liền nói câu kệ tụng pháp môn nhập vào ba nhẫn này: Đối với chúng sinh không tranh cãi Miệng không nói ra lời vô ích Thường hay an trụ pháp lợi sinh Gọi đó tên là Nhẫn đầu tiên. Biết tất cả pháp giống như huyễn Liền nơi tướng này không chấp thủ Hay ở trong trí không tăng giảm Nên gọi là Thắng nhẫn đầu tiên. Đã tu học các Tu-đa-la Trí và khéo nói hằng tương ưng Không nghi hoặc trí Phật vô lượng Đó gọi là Thắng nhẫn đầu tiên. Nếu nghe tất cả, khéo thuyết pháp Giống như Phật thuyết không có nghi Hay tin tất cả, các pháp Phật Đó gọi là Thắng nhẫn đầu tiên. Với kinh liễu nghóa thường tuyên diễn Diễn thuyết như chỗ Phật đã nói Nếu nói: Ngã, nhân và chúng sinh Liền biết phương tiện mà tiếp dẫn. Các dị kiến của nhiều ngoại đạo Với họ, tâm Bồ-tát không đôïng Lại đối vơi họ càng xót thương Gọi là tướng Thắng nhẫn thứ hai. Các Đà-la-ni đến trước mặt Với môn Tổng trì không nghi hoặc Những lời nói ra đều chân thật Gọi là tướng Thắng nhẫn thứ hai. Giả sử tướng bốn đại chuyển biến Đó là đất, nước, gió và lửa Với Bồ-đề Phật vẫn không lùi Gọi là tướng Thắng nhẫn thứ hai. Các nghề công xảo ở thế gian Bồ-tát thảy đều khéo tu học Không thấy có người giỏi hơn mình Gọi là tướng Thắng nhẫn thứ ba. Sức Xa-ma-tha được điều phục Núi Tỳ-bà-xá-na bất động Tất cả chúng sinh không thể khinh Gọi là tướng Thắng nhẫn thứ ba. Những lời nói ra thường tại định Đi, đứng, nằm, ngồi luôn thanh tịnh Chánh định kiên cố đến bờ kia Gọi là tướng Thắng nhẫn thứ ba. Trụ nơi chánh định được thần thông Đến nhiều cõi Phật để thuyết pháp Sức thần túc bậc Trí không giảm Gọi là tướng Thắng nhẫn thứ ba. Hoặc khi tu tịch định như vậy Tất cả các loại quần sinh khác Không thể biết ngằn mé tâm họ Gọi là tướng Thắng nhẫn thứ ba. Giả sử các chúng sinh thế giới Cùng lúc thành Phật diễn nói pháp Người đó đều hay thọ lãnh hết Gọi là tướng Thắng nhẫn thứ ba. Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn phương phụ Hai phương Trên, Dưới cũng như vậy Ở trong các phương đều thấy Phật Gọi là tướng Thắng nhẫn thứ ba. Có thể biến hiện vô lượng thân Tất cả đều có sắc vàng ròng Đến vô lượng cõi để thuyết pháp Gọi là tướng Thắng nhẫn thứ ba. Các cõi Diêm-phù, thế giới Phật Tất cả đều thấy hình Bồ-tát Chư Thiên và người đều hay biết Gọi là tướng Thắng nhẫn thứ ba. Trong pháp chư Phật, chỗ Phật hành Có các oai nghi của Đạo sư Bậc Trí có thể khéo tu tập Gọi là tướng Thắng nhẫn thứ ba. Có các chúng sinh trong thế giới Đều đến khen ngợi Bồ-tát này Bồ-tát với họ tâm hân hoan Là chưa tu học nơi trí Phật. Có các chúng sinh trong thế giới Mắng nhiếc, hủy báng Bồ-tát này Với họ, nếu khởi tâm sân hân Nên biết chưa tu học trí Phật. Nếu được lợi dưỡng tâm không mừng Khi bị chống trái không buồn khổ Tâm mình an trụ giống như núi Gọi là tướng Thắng nhẫn thứ ba. Một là tùy thuận âm thanh nhẫn Hai là tư duy tùy thuận nhẫn Ba là nhẫn tu tập vô sinh Học ba nhẫn này được Bồ-đề. Nếu nơi ba Thắng nhẫn như vậy Bồ-tát nào có thể đắc được Thiện Thệ khi thấy Bồ-tát ấy Liền thọ ký Vô thượng Bồ-đề. Nếu ai một mình nghe thọ ký Số ức chúng sinh không nghó bàn Đều phát tâm Vô thượng Bồ-đề: Ta cần phải làm Nhân trung tôn. Nghe nói tiếng thọ ký như vậy Tức thời đại địa sáu chấn động Hào quang chiếu khắp mười phương cõi Mưa hoa thắng diệu nhiều vô lượng. Nếu nơi ba Thắng nhẫn như vậy Chỉ có Bồ-tát mới đạt được Lại không còn thấy có chúng sinh Nơi đó sinh diệt cũng như vậy. Nếu nói ba Thắng nhẫn như vậy Chỉ có Bồ-tát mới được vậy Đã già, hiện già đều không thấy An trú trong pháp được như vậy. Bồ-tát biết rõ các thứ pháp Thể tánh không tịch giống như huyễn “Không” ấy cũng lại chẳng sinh diệt Vì thể các pháp vốn không tịch. Nếu có chúng sinh đến cung kính Lễ bái, tôn trọng và cúng dường Với họ Bồ-tát không ái kiến Vì thâm đạt thể tánh thế gian. Nếu có chúng sinh lại đánh mắng Với họ, Bồ-tát không khinh ghét Lại khởi lòng Từ với người ấy Vì muốn khiến họ được giải thoát. Nếu dùng dao gậy và ngói đá Với họ trong lòng không tức giận An trụ trong pháp nhẫn vô ngã Bồ-tát không sợ, khởi sân hận. Bồ-tát rõ biết vô số pháp Thể tánh không tịch, giống như huyễn Nếu hay an trụ trong pháp này Làm Bậc cúng dường cho trời, người . Có người tay cầm dao bén nhọn Cắt đứt từng phần cơ thể ta Tâm hay nhẫn chịu không tức giận Thêm lớn tình thương, trước không hoại. Khi dùng dao cắt từng chi tiết Bồ-tát liền sinh ý nghó này: “Nếu ngươi chưa chứng đạo Bồ-đề Ta nguyện chớ chứng được Niết-bàn”. Nhẫn lực như vậy tối vô thượng Vì nhờ an trụ nhẫn vô ngã Là đại danh xưng các Bồ-tát Tu tập vô lượng na-do kiếp. Lại hơn số ấy như hằng sa Vẫn chưa thể chứng được Bồ-đề Ngay trong lúc đó tu hạnh Phật Huống là giác trí đâu thể nói. Dù nói ức kiếp chẳng nghó bàn Đức hiệu của Phật vô cùng tận Khéo an trụ nơi nhẫn vô ngã Là đại danh xưng các Bồ-tát. Nếu muốn hay biết được Bồ-đề Cần phải trụ nơi diệu trí tụ Nếu tu pháp nhẫn chư Phật dạy Được Thắng Bồ-đề sẽ không khó. Bấy giờ, Đức Phật bảo Đồng tử Nguyệt Quang: –Vào thời quá khứ rộng lớn lâu xa hơn a-tăng-kỳ kiếp, vô lượng vô số không thể nghó bàn, khi ấy có Đức Phật tên là Vô Sở Hữu Khởi Như Lai, Bậc Ứng Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn xuất hiện ở đời. Sao gọi là Như Lai Vô Sở Hữu Khởi, Bậc Ứng Chánh Biến Tri? Này Đồng tử! Khi Đức Phật này sinh ra thường bay trong hư không cao đến bảy cây Đa-la, bước bảy bước mà nói rằng: “Tất cả các pháp đều vô sở hữu! Tất cả các pháp đều vô sở hữu!” Tiếng nói vang khắp tam thiên đại thiên thế giới. Khi ấy Địa thần từ từ loan truyền nhau biết. Cho đến trời Phạm thiên rằng: “Trong thế giới này có Phật ra đời, hiệu là Như Lai Vô Sở Hữu Khởi, Bậc Ứng Chánh Biến Tri. Lúc mới sinh, bước đi bảy bước ở trên hư không, nói rằng: “Tất cả các pháp đều vô sở hữu!” Này Đồng tử! Do nhân duyên đó nên hiệu của Phật là Vô Sở Hữu Khởi. Khi Đức Phật ấy thành Chánh giác, tất cả cây cối, rừng rậm, cỏ thuốc đều phát ra tiếng nói: “Tất cả các pháp đều vô sở hữu!” Này Đồng tử! Thế giới lúc ấy đều phát ra các âm thanh cũng nói rằng: “Tất cả các pháp đều vô sở hữu!” Này Đồng tử! Bấy giờ Đức Như Lai Vô Sở Hữu Khởi khi đang thuyết pháp có một vị vương tử tên là Tư Duy Đại Bi, hình mạo đoan chánh, ai cũng yêu thích, tâm hành điều hòa, nhu nhuyến. Này Đồng tử! Khi ấy vương tử đi đến chỗ Đức Như Lai Vô Sở Hữu Khởi, đảnh lễ dưới chân, nhiễu quanh ba vòng, rồi lui về ngồi một bên. Bấy giờ Đức Như Lai Vô Sở Hữu Khởi biết vương tử Tư Duy Đại Bi thâm tâm ưa thích liền nói: “Tam-muội thể tánh tất cả pháp bình đẳng không hý luận.” Vị vương tử nghe xong, được tâm tịnh tín, xuất gia hành đạo, cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa. Khi đã xuất gia, vương tử đọc tụng, thọ trì, vì người khác phân biệt, hiển bày rộng rãi Tam-muội này. Nhờ căn lành này nên vương tử ấy trong hai mươi kiếp không đọa ác đạo, cứ trong mỗi kiếp gặp được hai ức Đức Phật, hơn hai mươi kiếp thì được thành Phật đạo, hiệu là Như Lai Thiện Tư Nghóa, Bậc Ứng Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn xuất hiện ở đời. Này Đồng tử! Ông nên quán thấy Tam-muội này có oai lực ấy có thể khiến cho Bồ-tát chiêu cảm được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát nên an trụ trong pháp Nhẫn sâu xa ấy. Vì sao Đại Bồ-tát có thể an trụ trong pháp Nhẫn sâu xa? Này Đồng tử! Đại Bồ-tát nên quán như vầy: Tất cả pháp giống như huyễn hóa, như mộng, như ngựa hoang, như tiếng vang, như ánh nắng, như trăng dưới nước, như tánh của hư không; nên biết như vậy. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát nếu quán như thật về tất cả pháp như huyễn hóa, như mộng, như ngựa hoang, như tiếng vang, như ánh nắng, như trăng dưới nước, như tánh của hư không. Đó gọi là Đại Bồ-tát an trụ Nhẫn sâu xa. Nếu thành tựu được Nhẫn sâu xa, Bồ-tát ở nơi pháp nhiễm mà không nhiễm, ở nơi pháp sân mà không sân, ở nơi pháp si mà không si. Vì sao? Vì Bồ-tát này không thấy nơi pháp, cũng vô sở đắc, không thấy người ô nhiễm, không thấy nghiệp ô nhiễm, không thấy người sân, không thấy việc sân, không thấy nghiệp sân, không thấy người si, không thấy việc si, không thấy nghiệp si. Đại Bồ-tát đối với pháp như vậy đều không chỗ thấy, đều không chỗ đắc. Đó là hoặc nhiễm, hoặc sân, hoặc si. Bồ-tát ấy vì không chỗ thấy, nên liền không chỗ bị nhiễm, không chỗ sân, không chỗ si. Bồ-tát ấy như thật không nhiễm, không sân, không si, nên tâm không điên đảo, được gọi là định, gọi là không hý luận, gọi là đáo bỉ ngạn, gọi là đất bằng, gọi là đến chỗ an ổn, gọi là đến chỗ vô úy, gọi là thanh lương, gọi là trì giới, gọi là bậc trí, gọi là bậc tuệ, gọi là phước đức, gọi là thần túc, gọi là nhớ nghó, gọi là thọ trì, gọi là trí tuệ, gọi là người ra đi, gọi là người hổ thẹn, gọi là người tín nghóa, gọi là người công đức Đầu-đà, gọi là người không đắm trước nữ sắc, gọi là người không nhiễm trước, gọi là bậc Ưùng cúng, gọi là người đã dứt sạch các lậu hoặc, gọi là người tự tại không phiền não, gọi là tâm người giải thoát, gọi là tuệ người giải thoát, gọi là người điều phục, gọi là Đại long, gọi là việc làm đã xong, gọi là không còn gì để làm nữa, gọi là xả bỏ gánh nặng, gọi là đã được tự lợi, gọi là sạch hết hữu kết, gọi là nương chánh giáo, tâm khéo giải thoát, gọi là đến tất cả tâm tự tại, gọi là Sa-môn, gọi là Bà-la-môn, gọi là người tắm rửa, gọi là người đã qua sông, gọi là bậc biết rõ ràng sáng suốt, gọi là người nghe, gọi là Phật tử, gọi là Thích tử, gọi là người vứt bỏ gai góc, gọi là người vượt qua hầm hố, gọi là người nhổ tên độc, gọi là người không nóng, gọi là người không còn bụi bặm, gọi là Tỳ-kheo không ngăn che, trói buộc, gọi là Trượng phu, gọi là Thiện trượng phu, gọi là Thắng trượng phu, gọi là Đại trượng phu, gọi là Sư tử trượng phu, gọi là Đại long trượng phu, gọi là Ngưu vương trượng phu, gọi là Khéo điều phục trượng phu, gọi là Dũng kiện trượng phu, gọi là Trượng phu gánh vác, gọi là Tinh tấn trượng phu, gọi là Hung dữ trượng phu, gọi là Như hoa trượng phu, gọi là Liên hoa trượng phu, gọi là Phân-đà-lợi trượng phu, gọi là Điều ngự trượng phu, gọi là Mặt trăng trượng phu, gọi là Mặt trời trượng phu, gọi là tác nghiệp trượng phu, gọi là Lưỡng túc trung thượng, gọi là tận cùng bờ trí, gọi là hơn bậc Đa văn tối thắng, gọi là đã tu phạm hạnh, gọi là việc làm rốt ráo, gọi là không nhiễm tất cả điều ác. Bấy giờ Đức Thế Tôn nói bài kệ tụng: Khi kiếp tận, ta họa Thế giới trở thành không Như trước, sau cũng vậy Ví các pháp cũng thế. Xem khởi tạo thế gian Đều như trụ trên nước Như dưới trên cũng vậy Các pháp cũng như thế. Như bầu trời không mây Bỗng nhiên nổi âm u Biết nó từ đâu sinh Các pháp cũng như thế. Như Lai Niết-bàn rồi Ý tưởng thấy hình Phật Như trước, sau cũng vậy Các pháp cũng như thế. Giống như đống bọt nước Bập bềnh trên dòng thác Thấy nó không chắc thật Các pháp cũng như thế. Như trời mưa trên nước Bọt nước nổi nơi nơi Sinh đâu liền diệt đó Các pháp cũng như thế. Ví như trong ngày xuân Ánh sáng chiếu rực rỡ Bóng nắng giống như nước Các pháp cũng như vậy. Như bẹ thân cây chuối Nếu chặt tìm chỗ cứng Trong ngoài đều không chắc Các pháp cũng như vậy. Như huyễn, tạo nhiều thân Là nam, nữ, voi, ngựa Tướng ấy chẳng chân thật Các pháp cũng như thế. Ví như có đồng nữ Đêm nằm mộng sinh con Sống mừng, chết ưu khổ Các pháp cũng như vậy. Như người mộng hành dâm Tỉnh giấc chẳng thấy gì Ngu si trọn chẳng được Các pháp cũng như vậy. Như trăng sáng bầu trời Bóng hiện nơi ao sạch Mặt trăng đâu vào nước Các pháp cũng như vậy. Như người tự ưa thích Lấy kiếng soi mặt mình Bóng gương chẳng thể nắm Các pháp cũng như vậy. Như ngựa hoang thấy nước Người ngu muốn đến uống Không thật, sao cứu khát! Các pháp cũng như vậy. Như người ở hang núi Tiếng ca khóc, nói cười Tiếng vang chẳng thể cầm Các pháp cũng như vậy. Như bảng cấm các nước Thiện ác theo đó làm Không ngôn giáo chẳng có Các pháp cũng như vậy. Như người uống rượu say Thấy mặt đất xoay chuyển Kỳ thật đất chẳng động Các pháp cũng như thế. Pháp duyên khởi không có Không có lại chẳng có Người phân biệt có không Tức là khổ không diệt. Nơi “có” không phân biệt Tranh luận tịnh, bất tịnh Xa lìa hai bên ấy Bậc Trí trụ trung đạo. Quán thân lúc ban đầu Nơi thân, không tưởng thân Nếu hay biết như vậy Chính là tánh vô vi. Mắt, tai, mũi vô hạn Lưỡi, thân, ý cũng vậy Người phân biệt nơi căn Thì không dùng Thánh đạo. Với các căn vô hạn Thể ngoan không, vô ký Muốn mong vui Niết-bàn Phải tu nghiệp Thánh đạo. Diễn thuyết bốn Niệm xứ Ngu bảo thân chứng mạn Thân chứng không ngã mạn Vì hay diệt các mạn. Diễn thuyết về bốn Thiền Ngu bảo đắc thiền hành Người diệt mê không mạn Nhờ tuệ quán đoạn mạn. Diễn thuyết bốn Chân đế Kẻ ngu bảo thấy Đế Thấy thật thì không mạn Thế Tôn nói như vậy. Tuy đọc hết các kinh Ỷ đa văn, hủy giới Đa văn không thể cứu Phá giới khổ địa ngục, Tự thị việc trì giới Mà không học đa văn Phước báo trì giới hết Trở lại thọ các khổ, Đa văn cùng trì giới Cả hai không ỷ lại. Khinh mạn người phước mỏng Do đó sinh các khổ Mạn là gốc các khổ Các Đạo sư đã nói Có mạn khổ tăng trưởng Lìa mạn khổ liền diệt. Đời tuy tu Tam-muội Mà không lìa ngã tưởng Lỗi lầm lại khởi lên Giống như Ưu-điệt-ca. Nếu tu sự vô ngã Trong đó sinh vui mừng Là nhân vui Niết-bàn Chẳng do pháp thế gian. Như bị lũ giặc vây Vì sống, muốn chạy trốn Không chân, không thể chạy Liền bị giặc giết hại. Kẻ si phá giới vậy Muốn ra khỏi thế gian Không giới, không thể đi Bị lão, bệnh, tử giết. Như giặc mạnh cầm đao Cướp giật hại khắp nơi Phiền não cũng như vậy Hại căn lành chúng sinh. Nhiều người nói ấm không Không biết ấm vô ngã Nếu hỏi ấm có không Nhăn mày, giận đối đáp. Nếu biết ấm vô ngã Nghe chửi, tâm không giận Mê hoặc buộc, thuộc ma Ngộ không, không phẫn nộ. Như người bệnh, thân đau Nhiều năm khổ bức não Bệnh này qua nhiều năm Muốn tìm thuốc chữa lành. Người ấy hỏi nhiều nơi Liền gặp được thầy hay Thầy thương cho thuốc tốt Bảo uống, sẽ lành bệnh. Người ấy được thuốc hay Không uống, bệnh không lành Không phải lỗi thầy thuốc Nên biết lỗi người bệnh. Nơi pháp này xuất gia Đọc tụng Đạo phẩm giáo Nói và làm không giống Làm sao được giải thoát? Thể tánh các pháp không Con Phật quán việc ấy Tất cả hữu đều không Ngoại đạo không hề có. Trí ngu không tranh nhau Dũng mãnh nên lìa bỏ Bị mắng không trả thù Pháp ngu ngươi chớ ghét. Trí, không ngu qua lại Khéo biết tánh huân tập Tuy lại cùng thân nhau Sau trở thành oán ghét. Trí không thân với ngu Biết chí họ không bền Thể tánh tự phá hoại Đừng làm bạn với ngu. Nếu nghe lời như pháp Người hủy giới không vui Tự nhiên khởi sân hận Nên biết là người ngu. Người ngu hợp người ngu Như phân trộn với phân Trí với trí cùng ở Như hợp hai đề hồ. Không xét lỗi thế gian Không tin vào nhân quả Không tin lời Phật dạy Ở đời bị xa lìa. Bần cùng không của cải Không sống, cầu xuất gia Đã xuất gia pháp ta Lại tham trước y, bát, Họ gần ác tri thức Phá hủy cấm giới ta. Không tự quán việc mình Trong tâm không an trú Ngày đêm sống phi pháp Làm ác không biết chán. Thân tâm luôn phóng dật Miệng thường nói lời thô Luôn rình mò lỗi người Thấy rồi nói người khác. Tự che lỗi của mình Là tướng rất ngu si Người ngu ham ăn uống Không thể biết độ lượng. Nhờ Phật được ăn uống Vẫn không tâm báo đền Được món ăn thượng diệu Không đúng với pháp ấy Ngược lại ăn bị hại Như voi ăn sen bùn. Tất cả món thượng vị Người trí tuy ăn vào Căn vắng lặng không tham Chọn món ăn như pháp. Tuy có người trí sáng Hỏi kẻ ngu đâu đến? Không thân luyến với họ Chỉ khởi lòng xót thương. Người trí lợi kẻ ngu Kẻ ngu làm suy tổn Ta thấy lỗi này rồi Như nai ở chỗ vắng. Người trí thấy lỗi này Không ở chung với ngu Nếu lui tới kẻ ngu Mất trời huống Bồ-đề.(<註 n="3"/>) Người trí thường Từ bi Từ, Bi hợp với hỷ Thường Xả tất cả hữu Tu định, chứng Bồ-đề. Ngộ đạo, trừ lo sợ Thấy người già chết khổ Nên khởi lòng xót thương Nói lời hợp chân nghóa. Nếu người biết Phật pháp Lìa ngôn thuyết Thánh đế Nếu ai nghe pháp này Lìa tham thực, Thánh thương. Này Đồng tử! Vì nghóa lý đó nên muốn được thành tựu hạnh kiên cố, Bồ-tát nên học như vậy. Vì sao? Này Đồng tử! Nhờ hạnh kiên cố nên Bồ-tát đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác không khó khăn, huống gì là Tam-muội này vậy. Bấy giờ Đồng tử Nguyệt Quang bạch Phật: –Hy hữu thay Thế Tôn! Như Lai, Bậc Ứng Chánh Biến Tri đã khéo nói về hạnh kiên cố này để nhập vào pháp Tam-muội ấy. Ngài đã khéo nói, khéo kiến lập tất cả sở học Bồ-tát. Đó chính là tất cả hành xứ của Như Lai, không phải là địa vị của Thanh văn, Bích-chi-phật làm được, huống gì là ngoại đạo! Bạch Thế Tôn! Nay con sẽ trụ hạnh kiên cố này. Vì sao? Vì con muốn sở học như Phật. Nay con muốn học vì con muốn biết quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác ấy. Con muốn phá hoại ma Ba-tuần và quyến thuộc của chúng. Con muốn giải thoát tất cả khổ cho chúng sinh. Cúi mong Đức Như Lai và Tỳ-kheo tăng cùng các quyến thuộc chứng minh, chấp nhận sự thỉnh cầu của con, là vì thương xót con. Bấy giờ Đức Như Lai và Tỳ-kheo tăng im lặng chấp nhận. Đồng tử Nguyệt Quang thỉnh Phật và Tỳ-kheo tăng sáng ngày mai đến thọ thực và được Phật chấp nhận. Bấy giờ Đồng tử Nguyệt Quang đã được Đức Như Lai chấp nhận sự cúng dường nên vui mừng khôn xiết, hạnh sâu xa, liền từ tòa đứng dậy, bày áo vai bên phải, đảnh lễ dưới chân Đức Phật, nhiễu quanh bên phải ba vòng rồi cáo từ ra về. Bấy giờ Đồng tử Nguyệt Quang hướng về thành Vương xá để trở về nhà mình. Về đến nhà thì ngay đêm ấy liền chuẩn bị các thứ ẩm thực thượng vị nhiều vô số. Tại thành Vương xá, nơi nơi đều treo lụa năm màu, rải các loại hoa, dựng tràng phướn lọng, đốt các hương thơm, bố thí các mùng màn, quét sạch đường sá, vứt bỏ ngói gạch. Tại ngã tư đường rưới nước làm cho sạch sẽ, rải tung bột chiên-đàn và các loại quý báu khắp nơi; lại tung các loại hoa, các thứ hoa báu xen kẻ trên mặt đất giống như hình vẽ; lại dùng vô lượng vật dụng chạm trổ, trang nghiêm các nẻo đường. Trong thành, khắp nơi đều có hoa Ưu-bát-la, hoa Câu-vật-đà, hoa Bát-đầu-ma, hoa Phân-đà-lợi. Ở trong nhà toàn dùng chiên-đàn ngưu đầu rải quanh, dùng các thứ trang nghiêm, giăng các trướng báu. Vì Đức Phật Thế Tôn mà Đồng tử bày những món ăn thượng vị. Khi Đồng tử làm những việc trang nghiêm thành quách, đường sá, nhà cửa như vậy, bày các vật cúng dường suốt đêm đầy đủ đến lúc sáng sớm, cùng với tám mươi na-do-tha Bồ-tát, mà Bồ-tát A-dật-đa-làm thượng thủ. Các vị ấy là Bồ-tát Quán Thế Âm, Bồ-tát Đại Thế Chí, Bồ-tát Hương Thượng, Bồ-tát Bảo Tràng, Bồ-tát Man Thắng, Đồng tử Bồ-tát Văn-thù Sư Lợi, Bồ-tát Dũng Kiện Quân, Bồ-tát Diệu Tý, Bồ-tát Bảo Hoa, Bồ-tát Bất Hư Hiện. Các Đại Bồ-tát như vậy đối với các Bồ-tát khác làm bậc Thượng thủ, cùng các chúng Đại Bồ-tát như vậy, vây quanh trước sau, ra khỏi đại thành Vương xá, đến chỗ Đức Như Lai, sửa lại y phục, đầu mặt đảnh lễ, nhiễu quanh bên phải ba vòng, bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Đã đến giờ thọ thực, trai soạn đã dọn xong, mong Thế Tôn hạ cố vào thành Vương xá đến nhà con, vì lòng xót thương mà thọ nhận sự cúng dường của con. Bấy giờ Đức Thế Tôn, trước đó đã đắp y, cầm bát, cùng Đại Tỳ-kheo cả thảy đến trăm ngàn vị, vô lượng trăm ngàn ức na-do-tha Đại Bồ-tát, Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già… vô lượng trăm ngàn vị đồng tử đã thiết lễ cúng dường, cung kính tán thán đại oai lực của Phật, đại thần túc của Phật, đại biến hiện của Phật, đại oai nghi của Phật, đã phóng ra trăm ngàn vạn ức na-do-tha ánh sáng, tấu lên trăm ngàn loại kỹ nhạc, mưa các thứ hoa trời. Vì thọ nhận sự cúng dường của Đồng tử Nguyệt Quang, nên Đức Phật vào thành Vương xá. Đức Phật với sự tích tập vô lượng căn lành từ lâu, nên lúc bàn chân có bánh xe ngàn căm bước vào thành thì hiện ra vô số sự thần biến chưa từng có. Chư Phật Như Lai, nếu khi vào thành, pháp như vậy là đều hiện sự thần biến ấy. (Nay các ông hãy lắng nghe, ta sẽ vì các ông mà nói).(<註 n="4"/>) Khi Đức Phật vào thành, có thần đức nói kệ tụng rằng: Đại Tiên vào thành vua Chân Ngài bước vào thành Oai lực động đại địa Chúng sinh đều hoan hỷ. Các người thiếu ăn uống Được lìa khổ đói khát Thân ấy đều no đủ Nhờ Phật vào cổng thành. Người điếc, đui, câm, ngọng Kẻ bần cùng, phước mỏng Các căn đều đầy đủ Nhờ Phật vào cổng thành. Ngạ quỷ cõi Diêm-la Ăn đờm, mủ, phân, tiểu Được món ăn của trời Nhờ Phật bước vào thành. Các núi và núi báu Các thứ hoa quả rừng Khom mình hướng về Ngài Nhờ Phật bước vào thành. Biển cả, thành, tụ, ấp Đất có sáu chấn động Không bức não chúng sinh Nhờ Phật bước vào thành. Người, Trời, Cưu-bàn-trà Hoan hỷ ở không trung Cầm lọng báu che Phật Phát tâm đại Bồ-đề. Các âm nhạc không đánh Tự nhiên phát tiếng hay Mọi ngươi đều hoan hỷ Nhờ Phật bước vào thành. Trăm ngàn vạn ức cây Dâng Phật đủ hoa quả Chư Thiên đứng giữa không Chẳng phải người bày cúng. Trăm ngàn các Ngưu vương Vua thú, sư tử rống Voi, ngựa đều cúi lạy Nhờ Phật bước vào thành. Các đại vương trong nước Thấy Thế Tôn Thập Lực Đạo sư sắc thắng diệu Hoan hỷ nên đảnh lễ. Mọi người tâm mừng khen Hoặc tung các diệu hoa Chắp mười ngón tay lại Khen Phật là đại Bi. Hoặc tung các anh lạc Ấn Cừ tý kim ngân Hoặc tung lên sư tử Phát tâm đại Bồ-đề. Người nữ dâng tóc vàng Hoặc rải các hoa thơm Hoặc cởi vàng, anh lạc Trang điểm nơi thân thể. Có người tung hoa vàng Các vật để trang sức Tuy bỏ không một lòng Mong cầu chư Phật đạo. Dân chúng mặc y đẹp Hoặc lại rải đảnh châu Và giăng các lưới báu Vì Phật vào cổng thành. Nếu người bệnh khổ bức Cung tên ưu sầu bắn Tất cả đều an lạc Nhờ oai đức Đạo Sư. Câu-sí-la, anh võ Khổng tước và Tần-già… Các chim trong không trung Phát tiếng hay, hòa nhã. Các chim tâm vui mừng Khi phát diệu âm này Diệt được người tu hành Phiền não, tham, sân, si. Vô lượng ức chúng sinh Nghe tiếng được thuận nhẫn Làm Thánh thọ ký họ Vị lai đều thành Phật. Thấy thân Phật Thập Lực Chúng sinh thích trí Phật Con làm sao để được Phật biết muốn thọ ký. Mỗi lỗ chân lông Phật Phóng trăm ngàn ánh sáng Chiếu khắp các cõi Phật Do Phổ Nhãn vào thành. Trời, trăng bị khuất lấp Lửa trời ma-ni báu Các ánh sáng không hiện. Vì Phật vào cửa thành. Trăm ngàn hoa sen nở Ngàn cánh ra khỏi bùn Đấng Thập Lực bước lên Cùng chúng dạo khắp thành. Đường đi thật sạch sẽ Toàn trải bằng hương quý Khắp thành đốt hương thơm Mùi thơm rất đáng yêu. Đường sá thật tráng lệ Trừ khử hết ngói, gạch Nhờ công đức Thập Lực Đủ các thứ hương hoa. Trăm ngàn ác Dạ-xoa Thấy thân Phật sắc vàng Khởi tâm đại Bi mẫn Tịnh tâm quy y Phật. Các Thiên cung trống không Đều đến chiêm ngưỡng Phật Hư không mưa các hoa Khi Phật vào thắng thành. Nếu có người rải hoa Chỗ đức Nhân Thiên Sư Thành lọng hoa che Phật Thân trang nghiêm tốt đẹp. Người, Trời và Tu-la… Thấy Phật, Bậc Thập Lực Tâm hoan hỷ vui mừng Chưa từng có nhàm chán. Bên phải trăm ngàn Phạm Bên trái trời Đế Thích Vô số trời trong không Cung kính Tam Giới Tôn. Khi Phật thần biến xong Khai thị thắng diệu pháp Trăm ngàn chúng nghe xong Phát tâm đại Bồ-đề. Tướng tốt, hoa làm thân Như sao đầy bầu trời Phật đi đường của vua Như trăng tròn trên trời. Như báu tịnh ma-ni Trong sạch, không tỳ vết Phóng ánh sáng mười phương Cõi Phật chiếu cũng vậy. Các vị trời vây quanh Nhân Tôn vào thành vua Đi trên đất như vẻ Vào nhà của Nguyệt Quang. Thành quách đều trang nghiêm Trăm ngàn ức phướn lọng Chiên-đàn rải mặt đất Tung hoa để trang nghiêm. Đi Phật đi trên đường Phát lòng thương rộng lớn Miệng phóng vô lượng quang Tỏa hương mà thuyết pháp. Thấy thân Phật liền vui Hoan hỷ chẳng nghó bàn Khi nào chúng ta được Cúng dường Bậc Pháp Vương. Vô lượng người phát tâm: “Sáng mai ta thỉnh Phật Bậc thương đời cứu độ Rất lâu khó gặp được”. Hoặc dọn sạch đường thành Thắng diệu tự trang nghiêm Đủ các hoa, anh lạc Cúng Phật, vì Bồ-đề. Hoặc vòng hoa Chiêm-ba Bà-sư, Mục-đa-già Hoặc là giăng vải lụa Phát chí tâm thuần nhất. Hoặc tại gia, tâm tịnh Y đẹp tự trang nghiêm Dùng lụa đẹp, các hoa Cúng dường chúng Tỳ-kheo. Với hoa Ưu-bát-la Lại tung hoa Diệu kim Các thứ báu ma-ni Hoặc tung bột chiên-đàn. Hiện các việc hy hữu Không thể tính số lượng Khi Phật đi vào thành Nhiều người phát tâm đạo. Không phiền não thấy đế Trời Thiện hiện, Thiện kiến A-ca-ni ly dục Tất cả đến xem Phật. Thân ngọt ngào quả lớn Trăm na-do-tha chúng Như ma-ni chiếu sáng Đều đến chiêm ngưỡng Phật. Vô số Tịnh Thiên tử Và các trời Thiểu tịnh Vô lượng Tịnh Thiên tử Đều đến xem Đại Tiên. Các Thiên tử Thiểu quang Và trời Vô lượng quang Các Thiên tử Quang âm… Cũng đều đến xem Phật. Thiên tử trời Phạm phụ Cùng với trời Phạm chúng Các định tạng Đại phạm… Đều đến xem Thế Tôn. Tha hóa Thiên hoan hỷ Hóa lạc Thiên thiện tâm Chúng Đâu-suất, Diêm-ma Thiên vương Tam thập tam, Bốn phương bốn Thiên vương Tài chủ Tỳ-lâu-lặc Ác Nhãn Đề-lại-tra Liền đến lễ kính Phật. Vua Dạ-xoa đại lực Cùng quyến thuộc tâm tịnh Cùng thân tộc trên không Mưa các diệu hoa trời. Hằng Túy cầm hoa trời Nắm các thứ vòng hoa Cùng quyến tộc hoan hỷ Cúng dường Thắng trượng phu. Bách Khí Túc Dạ-xoa Cùng vợ và quyến thuộc Tự tấu âm nhạc hay Cúng dường Đức Như Lai. Vui mừng say sưa hát Là vua Khẩn-na-la Sống ở đỉnh Hương sơn Vui mừng đến tập hội. Bà-nhã Thiểm-bà-lợi La-hầu Tỳ-ma-chất Cùng đại oai đức khác Mưa các loại vật báu. Hơn vô lượng La-sát Nhiều chúng đang vây quanh Đều cầm các diệu hoa Cung kính tung lên Phật. Đại Long vương A-nậu Nữ thiện học âm nhạc Tấu trăm thứ tiếng hay Thành tâm cúng dường Phật. Năm trăm Nậu Long tử Cầu trí Bồ-đề rộng Cùng quyến thuộc vây quanh Đều cúng Vô thượng tôn. Long vương A-ba-la Chắp tay hướng về Phật Cầm trân châu Long thắng Trên không cúng dường Phật. Long vương Mục-chân-đà Nỗi vui mừng khôn xiết Tung các áo đẹp quý Tịnh tâm mà cúng dường. Họ khởi tâm kính Phật Niệm vô lượng công đức Các thân quyến vây quanh Đều đến khen ngợi Phật. Nan-đà, Bạt-nan-đà Đức-xoa, Hắc-cù-đàm Cùng quyến thuộc đến Phật Quỳ gối lạy Thiện Thệ. Long vương Y-la-bát Trăm quyến thuộc khóc lóc Nhớ nghó Phật Ca-diếp Chán ghét sự thọ sinh. Xưa ta mãi nghi hoặc Phá Tiểu Y Lan Diệp Nên sinh nơi nạn xứ Không thể biết Phật pháp. Rất ghét thân rắn này Muốn mau bỏ loài rồng Biết được pháp thanh lương Đã đạt được đạo tràng. Hằng ngàn Long vương khác Hải long, Ma-na-tư Đem áo rồng thượng diệu Đến dâng Nhân Trung Tôn. Điều-đạt ném đá Phật Dạ-xoa trú hư không Tên là Kim-tỳ-la Cung kính đến trước Phật. Thành A-tra Dạ-xoa Đại Dạ-xoa Không Thiên Giao hẹn cùng tập hội Cúng dường Bậc Đại Tiên. Dạ-xoa Khôi Mao Châm A-tra-bà đáng sợ Tuyết sơn, Đà-đa-sơn Lừa Dạ-xoa quy Phật. Các thân hình khác nhau Mặc áo rách đáng sợ Quỷ Đa-na-do-tha Dâng vật quý cúng Phật. Kim sí điểu Thực Hải Biến thành Bà-la-môn Mão báu tự trang nghiêm Trên hư không lạy Phật. Các thành ở Diêm-phù Tất cả trời Đại lâm Thần của thành đồng đến Cúng dường Thế Gian Giải. Vô lượng Lâm thiên đến Cùng với các thọ thần Cùng tất cả thần sông Vân tập đến Pháp vương. Thần núi Phong Nham Lãnh Trời Đội Phụ cùng đến Thần suối với ao hồ… Cùng Hải thần vui đến. Trời, Người, Quỷ, Tu-la Ca-lâu với Cưu-bàn… Ngạ quỷ, Phú-đơn-na Đều đến cúng dường Phật. Chư Thiên, chúng Tu-la Ly mạn, đều cúng dường Thấy Phật vào Vương thành Nhìn mãi mà không chán. Hơn tu Bồ-tát hạnh Cúng dường Phật Thế Tôn Phật làm tịnh nghiệp này Chúng sinh nhìn không chán. Núi Tu-di luân thảy Và các núi Diêm-phù Không thể làm chướng ngại Chư Phật chiếu sáng khắp. Các biển Ta-bà này Đất đai đều bằng phẳng Cõi Phật đều biến khắp Rải các hoa khắp đầy. Trăm ngàn các ánh sáng Phóng dưới chân Pháp vương Địa ngục đều mát mẻ Trừ khổ được an lạc. Đấng Thập Lực thuyết pháp Trời, người được tâm tịnh Vô lượng trăm ngàn chúng Quyết định nơi Phật đạo. Vô đẳng đẳng vào thành Hiện sự thần biến này Vô lượng trăm ngàn kiếp Phật nói vãn không cùng. Thắng đức tụ như vậy Ngưu vương vượt bờ kia Tất cả đức cứu cánh Cúi lạy Phật phước điền. Bấy giờ Đức Thế Tôn cùng các Tỳ-kheo vây quanh trước sau, đi đến chỗ ở của Đồng tử Nguyệt Quang, ngồi lên tòa đã đặt sẵn. Các Tỳ-kheo thứ lớp ngồi xong, khi ấy Đồng tử Nguyệt Quang biết Đức Phật, Bồ-tát, Tỳ-kheo đã ngồi xong, tự tay bưng dọn các món ăn tuyệt hảo. Đó là: Khư-thiền-ni, Bồ-thiền-ni, Lê-kha-na, Chư-sa-ni… Lại đem nước uống, dùng thức ăn trăm vị, làm cho Đức Như Lai và đại chúng được no đủ. Khi thấy chư Tôn đã no đủ, Đồng tử vui mừng nhảy nhót, hết sức hân hoan. Đức Phật và đại chúng đã thọ thực xong, cất bát, rửa tay. Đồng tử dùng y giá trị vạn ức dâng lên Như Lai. Chúng Tỳ-kheo tùy theo thứ lớp: Thượng, trung hay hạ, đồng tử đều thứ lớp dâng cúng. Bấy giờ Đồng tử Nguyệt Quang dâng y lên Phật và Tăng xong, bày áo vai bên phải, quỳ gối phải xuống đất, chắp tay đảnh lễ, đứng trước Đức Phật, im lặng, nói bài kệ để hỏi Đức Thế Tôn: Bồ-tát, bậc Trí làm hạnh gì Thường hay biết rõ các pháp tánh? Làm sao thay vào nghiệp đã tạo? Cúi mong Đạo Sư nói cho con. Làm sao biết được kiếp quá khứ? Làm sao không vào bào thai nữa? Làm sao để được chúng không hoại? Làm sao để được vô lượng biện? Định tuệ Vô thượng Lưỡng Túc Tôn? Như điều con hỏi xin Phật nói Biết được tâm hạnh các chúng sinh Với tất cả pháp không còn nghi. Phật biết thể tánh tất cả pháp Pháp lìa ngôn ngữ, dùng ngôn thuyết Như sư tử hống, dã can sợ Phật hàng ngoại đạo cũng như vậy Biết việc làm của chúng sinh Thông đạt các pháp đến bờ kia Trí tuệ vô ngại, cảnh giới tịnh Cúi mong Thế Tôn nói cho con Biết đời quá khứ và vị lai Với đời hiện tại Phật biết rõ Trí vô ngại ba đời biết được Cho nên con hỏi Thích sư tử Các Phật pháp tất cả ba đời Thế Tôn Pháp vương đều biết rõ Với thể tánh pháp khéo giác ngộ Cho nên con hỏi Đại trí hải Hay lìa tất cả lỗi các pháp Vì hay đoạn trừ tâm ô uế Cắt đứt tất cả dây si uế Mong Phật nói cho hạnh Bồ-đề Mà Phật đạt được các pháp tướng Như tướng sở đắc nói cho con Con nghe pháp tương như vậy rồi Nương tướng đã nghe hành Bồ-đề Hành tướng chúng sinh nhiều sai biệt Con làm hạnh gì để hiểu được? Mong nói cho con pháp nhập hạnh Con nhờ nghe được nên mới biết Tất cả các pháp đều sai biệt Thế thì không tịch, tánh xa lìa Bồ-đề làm sao hay biện chứng? Mong nói cho con pháp mẫu này Với tất cả pháp đến bờ kia Ngôn thuyết pháp cú đã tu học Chính mình không nghi trừ nghi người Vì con hiển thị Bồ-đề Phật. KINH NGUYỆT ĐĂNG TAM-MUỘI <卷 id="104089327">QUYỂN 3 Bấy giờ Đức Thế Tôn biết Đồng tử Nguyệt Quang trong lòng thầm nghó, nên nói kệ dạy rằng: –Nếu Bồ-tát tương ưng với một pháp thì đều có thể đạt được công đức tối thắng, mau chóng thành tựu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Sao gọi là một pháp? Này Đồng tử! Đó là, nếu Bồ-tát đối với thể tánh của tất cả pháp, mà rõ biết như thật. Này Đồng tử! Sao gọi là đối với thể tánh tất cả pháp mà rõ biết như thật? –Nghóa là tất cả pháp xa lìa danh tự, xa lìa âm thanh, xa lìa ngôn ngữ, xa lìa văn tự, xa lìa sinh diệt, tướng của nhân, tướng của duyên, tướng của phan duyên. Đó gọi là vô tướng, xa lìa nơi tướng, chẳng phải tâm xa lìa nơi tâm mà biết các pháp. Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói bài kệ: Các pháp chỉ nói một Đó là pháp vô tướng Là bậc Trí nói ra Như thật mà rõ biết. Nếu nói pháp như vậy Bồ-tát mới rõ biết Liền được Vô ngại biện Nói ức Tu-đa-la. Được Đạo sư gia hộ Hiển thị nơi thật tế Không phân biệt giả danh Không có điều để nói. Dùng một biết tất cả Dùng tất cả biết một Tuy có các ngôn thuyết Nhưng không khởi kiêu mạn. Tâm ấy hay biết rõ Tất cả pháp không tên Tùy thuận học các tên Mà diễn thuyết chân thật. Các âm thanh nghe được Biết rõ gốc âm thanh Biết rõ nguồn gốc rồi Không bị nhiễm âm thanh. Biết ngằn mé âm thanh Tướng các pháp cũng vậy Nếu hay hiểu một pháp Không còn đi đầu thai. Tất cả pháp không sinh Rõ biết vô sinh này Biết sinh nói kẻ sinh Thì biết được kiếp trước. Nếu đối với kiếp trước Biết được tạo nghiệp gì Nếu thường biết nghiệp tạo Được quyến thuộc kiên cố. Nếu nơi pháp không này Bồ-tát hay biết rõ Không có gì không biết Chẳng phải bờ phiền não. Nơi cõi chẳng phiền não Phàm phu vọng phân biệt Cho nên trong ức kiếp Mãi lưu chuyển sinh tử. Không thể biết vọng tưởng Giống như Đại Đạo Sư Vì không tạo ác nghiệp Nên không đọa ác đạo. Vì các phàm phu này Không thể biết nghóa này Mới khởi tâm hủy báng Pháp diệt khổ như vậy. Các pháp không thể được Chẳng không các pháp tưởng Nếu hay biết như vậy Tưởng ấy cũng không thấy. Ta biết tưởng như vậy Phàm phu vọng phân biệt Nơi pháp lìa phân biệt Người trí không mê hoặc. Đó là cõi bậc Trí Chẳng phải cảnh giới ngu Là việc làm Bồ-tát Là không, không phân biệt. Đó là Bồ-tát địa Việc làm của Phật tử Phật pháp diệu trang nghiêm Gọi là tịch diệt không. Tất cả Bồ-tát này Đoạn tập khí các cõi Không bị sắc hủy hoại An trụ nơi Phật tánh. Tất cả pháp không trụ Vì không có trụ xứ Nếu ai biết như vậy Được Bồ-đề không khó. Tu Thí, Giới, Văn, Nhẫn Tập gần Thiện tri thức Nếu ai biết nghiệp này Mau chứng đạo Bồ-đề. Người này thường được chư Thiên kính Càn-thát, Dạ-xoa và Ma-hầu Rồng, Quỷ, La-sát, Khẩn-na-la Tất cả thường đến cúng Bồ-tát. Hằng được chư Phật hết lời khen Đem lại lợi ích các thế gian Trí tuệ tương tục, thích tịch diệt Bồ-tát thắng diệu thương xót thân. Nếu có Bồ-tát hay biết không Lợi ích vô lượng ức chúng sinh Trong chúng nhu hòa, diễn thuyết pháp Người nghe vui thích nên ái kính. Trí tuệ rộng lớn càng thêm sáng Nhờ trí tuệ này hay thấy Phật Cũng thấy cõi tịnh diệu trang nghiêm Nghe nhận điều chư Phật thuyết pháp. Biết tất cả pháp như huyễn hóa Giống như hư không, tự tánh không Hay biết thể tánh là không vô Hành dụng như vậy, không ô nhiễm. Có người tu hành Bồ-tát hạnh Ở trong các việc không đắm trước Biết tất cả pháp như biến hóa Nhưng với các cõi hiện biến hóa. Hay vì chư Phật làm Phật sự Thể tánh huyễn pháp không đến, đi Tùy nguyện quá khứ được lợi ích Là người hay an trụ Bồ-đề. Hằng nhớ ân tất cả Như Lai Mong nối giống Phật, không đoạn tuyệt Được thân tịnh diệu và sáng rỡ Được thành tựu ba mươi hai tướng tốt. Vô lượng thứ lợi ích khác nữa Hành thắng Bồ-đề sẽ đắc quả Thành tựu đại lực, không thể động Oai đức các vua không thể bằng. Phước đức tròn đủ, rất đoan nghiêm Phước và công đức, oai quang chiếu Chư Thiên thấy oai không dám nhìn Là người trí tuệ hành Phật pháp. Trụ nơi tâm Bồ-đề kiên cố Cùng các chúng sinh làm bạn lành Người ấy không còn các tối tăm Hiển bày đạo Bồ-đề diệu thắng. Lìa đường ngôn ngữ, không còn dục Các pháp vắng lặng như hư không Có người biết được nghiệp như vậy Thành tựu vô lượng thắng biện tài. Diễn thuyết trăm ngàn Tu-đa-la Chỉ bày nghóa vi tế pháp ấy Bậc Trí luôn thành vô ngại tuệ Hay biết thể tánh pháp vi tế. Thường khéo biết chúng sinh tín tâm Học tập tất cả âm ngôn ngữ Vì người chỉ bày lý nhân quả Hay được việc thắng diệu như trên. Trì đủ các lực không giảm thiểu Bậc phạm hạnh vào chúng không sợ Hằng nhớ gìn giữ không quên mất Vì luôn khéo rõ biết pháp tánh. Tai không nghe lời, không ái ngữ Thường luôn nghe nhận tiếng an vui Miệng thường tuyên nói lời đẹp lòng Người đó khéo biết pháp tánh vậy. Hằng niệm trí tuệ đều thành tựu Trong lòng thanh tịnh không uế trược Nói trăm ngàn kinh không ngừng trệ Hễ có diễn thuyết không hư ngụy. Phân minh câu chữ rồi tu học Khéo hiểu ngàn ức các ngữ ngôn Nghóa thú, danh từ đều khéo hiểu Nhờ ngộ pháp tánh, có đức ấy. Dạ-xoa, La-sát, Thiên, Tu-la Ca-lâu, Khẩn-na, Ma-hầu-trà Được tám bộ chúng thường kính yêu Bởi nhờ ngộ giải pháp tánh vậy. Chúng thần ác tâm Tỳ-xá-xà Uống máu, ăn thịt rất độc hại Có người thọ trì tịch định này Thì họ thường theo làm hộ vệ. Nghe lời rộng lớn bậc Trí giả Trong lòng hoan hỷ, lông dựng đứng Với Bồ-đề ấy thường vui kính Được phước rộng lớn khó nghó bàn. Phước báo như vậy khó biết được Trong trăm ngàn kiếp nói không hết Hộ trì Pháp bảo tạng Thiện Thệ Vô lượng vô biên vô số kể. Liền đem cúng dường tất cả Phật Các Thế Tôn quá khứ, vị lai Cùng với hiện tại khắp mười phương Vì có thể tuyên thuyết tịch định. Nếu ai vì ưa thích phước đức Cúng dường Đấng Thập Lực Đại Bi Vô lượng vô số ức chư Phật Thời gian như cát trong biển cả. Lại có người khác thích phước đức Nơi thắng nghóa này trì bài kệ Vào lúc kiếp tận thời ác thế Phước đức như vậy rất thù thắng. Nếu ai có thể nghe bài kệ Người ấy liền cúng tất cả Phật Vào đời sau cùng, thời ác thế Đó là cúng dường trên tất cả. Người ấy liền được lợi ích lớn Thọ nhận cung kính của thế gian Các Thập Lực sinh con tối thắng Với Ngài mãi mãi đem cúng dường. Ngài thấy ta ở núi Kỳ-xà Ta liền được thọ ký Bồ-đề Ta đã phó chúc Di-lặc Tôn Phật kia cũng riêng thọ ký rằng: Người ấy lại làm Phật Di-đà Vì nói vô lượng thắng lợi ích Hoặc lại đi đến nước An lạc Lại muốn thích thấy Phật A-súc. Vô lượng vô biên trăm ngàn kiếp Người ấy không đọa các ác đạo Nơi Bồ-đề này hành thắng hạnh Thành tựu vô lượng các khoái lạc. Công đức vô lượng, lợi ích lớn Nay ta đã tuyên thuyết như vậy Nếu muốn được công đức như ta Nên trì kinh này đời sau cùng. Này Đồng tử! Vì nghóa lý ấy cho nên Đại Bồ-tát có thể biết thể tánh các pháp chẳng thể nghó bàn như vậy sẽ được công đức lợi lạc như thế, khen ngợi công đức chân thật của Như Lai, không hủy báng Như Lai là lời nói không chân thật. Vì sao? Vì Như Lai đã đắc các pháp là chỗ biết của đời, người này biết như thật đối với pháp ấy, cũng biết vô lượng công đức của Như Lai, có thể biết như thật về Phật pháp chẳng nghó bàn. Vì sao? Này Đồng tử! Đức Phật có vô lượng, vô biên công đức không thể nghó bàn, xa lìa nơi tâm. Chính vì nghóa này nên những người khác không thể nghó bàn, không thể so sánh. Vì sao? Này Đồng tử! Vì tâm không có tánh, lại không có hình sắc, không thể nhìn thấy. Này Đồng tử! Thể tánh của tâm như vậy, tức là thể tánh công đức của Phật, thể tánh công đức của Phật như vậy, chính là thể tánh của tất cả các pháp. Chính vì nghóa ấy, này Đồng tử! Nếu Bồ-tát nói và rõ biết như thật về nghóa thể tánh của tất cả pháp, đó là Bồ-tát vắng lặng nơi tâm, khéo hiểu ba cõi, xa rời thiện căn, biết rõ như thật, tri kiến như thật, nói như thật, không có nói khác, tùy theo lời nói mà thực hành, không có chấp trước, vượt qua tất cả cảnh giới các phiền não, vượt qua Dục giới, Sắc giới, giải thoát khỏi vô sắc giới, vượt qua cảnh giới của tên gọi, vượt qua cảnh giới âm thanh, khéo rõ biết và xa lìa pháp văn tự, khéo rõ trí phân biệt văn tự, khéo hiểu lìa pháp ngôn ngữ, rõ biết văn tự, giỏi về văn tự, khéo nơi văn tự trí sai biệt, rộng biết trí văn tự, khéo hiểu trí sai biệt tất cả pháp, khéo đối với tất cả pháp rộng lớn bằng trí sai biệt, khéo phân biệt tất cả xứ bằng trí về pháp, cùng tương ưng với Phật pháp chẳng thể nghó bàn, Ma vương Ba-tuần và các ma dân, không thể phá hoại. Khi Đức Phật nói pháp này, có tám ức na-do-tha các trời, người… được pháp Nhẫn tu vô ngại, tất cả đều được chư Phật thọ ký quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác trải qua bốn trăm tám mươi vạn a-tăng-kỳ kiếp chứng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, các thứ danh hiệu, quốc độ khác nhau, nhưng thọ mạng thì giống nhau. Bấy giờ Đức Thế Tôn nói bài kệ: Nếu có các Bồ-tát trí tuệ Hướng đến đạo Bồ-đề thắng diệu Các ngôn thuyết giỏi nơi thắng nghóa Hay hành thể tánh tất cả pháp. Miệng thường tuyên thuyết lời chân thật Khen thật Đức Phật nên diễn nói Hay biết tất cả pháp chư Phật Ba cõi tôn kính không còn nghi. Tất cả các pháp đồng một nghóa Nhờ pháp Không nên biết như thật Chúng không có các tướng dị biệt Với một nghóa này đã tu học. Không tưởng phân biệt, tưởng phân biệt Tưởng chúng sinh, thọ mạng, ngã, nhân Tưởng tận và vô tận như vậy Đoạn các tưởng này không còn sót. Không thấy Như Lai có sắc tướng Bởi biết các pháp tự tánh không Cũng không có tướng đẹp tùy hình Vì đã đoạn tất cả điên đảo. Tất cả chư Phật khó nghó bàn Xa lìa nơi tâm, thể tịch diệt Nếu ai có thể biết như vậy Mới thấy Vô Thượng Lưỡng Túc Tôn. Nếu ai hay biết tưởng thần ngã Trong đó phát sinh thắng trí tuệ Biết được các pháp như vậy rồi Liền đắc cái gọi thanh tịnh nhãn. Người ấy không có các chướng ngại Đại trí biết rõ đạo xuất ly Sung mãn, đầy đủ hai loại nhân Không có tất cả các mong ước. Với chỗ chân thật, thấy như thật Không có tất cả lời không thật Người ấy có đủ các ngôn luận Tùy thuận tất cả pháp nghi thức. Người trí vượt ra khỏi Dục giới Vượt Sắc, Vô sắc, chốn phiền não Hay lìa nhiễm trước nơi ba cõi Hành ở thế gian, lợi chúng sinh. Vượt lên tất cả các danh tự Và vượt âm thanh thể tánh không Tuy diễn thuyết pháp đã lâu xa Đối với ngôn thuyết không nương trú. Xa lìa các tưởng và hý luận Đoạn trừ điên đảo các ác kiến Đối với trí tuệ, khéo quyết định Người ấy dũng mãnh hành như không. Nếu ma nhiều ức na-do-tha Vì để loạn ý nói lời rằng: Ai hay chiếu sáng ma quân này Không theo ma lực, tự tại nhiếp. Vứt bỏ tất cả các việc ma Giới hạnh thanh tịnh, không phiền não Nếu ai vui sâu với Thiền lạc Thì có thể biết thế gian Không. Nếu nói ngũ ấm là thế gian Đã biết pháp ấy thể không tịch Đã không có diệt cũng không sinh Tất cả các pháp như hư không. Thà phải vứt bỏ thân mạng mình Trọn không hủy phạm lời Như Lai Hộ trì nơi giới đến bờ kia Tùy theo sở nguyện được vãng sinh. Du hành vô lượng các cõi Phật Gặp nhiều na-do-tha ức Phật Trọn không mong ước sinh lên trời Xa lìa tất cả ước nguyện vui. Người ấy không bỏ sự tinh tấn Trong thời gian ngắn hành pháp hạnh Ở trong mười phương chỗ chư Phật Khéo hay ca vịnh và xưng tán. Khi ấy thân Đồng tử Nguyệt Quang Được nghe định tịch diệt như vậy Vứt bỏ tất cả sự lợi dưỡng Tu hành pháp chư Phật khen ngợi. Nếu có muốn được trí tự nhiên Ta vì tất cả người thế gian. Cần phải học Thắng Tam-muội này Nếu học như vậy hơn trời, người. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Đồng tử Nguyệt Quang: –Này Đồng tử! Đại Bồ-tát đối với trí Tam-muội nói rõ này, cần phải khéo tu tập, vì người khác hiển bày. Này Đồng tử! Thế nào là hiển bày? Đó là đối với tất cả pháp, khởi tâm bình đẳng, không có bỉ thử, không có phân biệt, không có không phân biệt, không tạo, không khởi, không sinh, không diệt, tất cả vọng tưởng phân biệt, nhớ nghó, khởi tưởng, thảy đều dứt trừ, chỗ tâm phan duyên, chỗ ý suy nghó và các giả danh cũng đều đoạn trừ, cũng đoạn trừ tất cả các giác quán ác, đối với ấm giới, nhập, không có tự tánh, đoạn trừ tham, sân, si. Đó gọi là: Niệm tuệ giải thoát, tàm, quý, kiên cố, nghi quỹ tu hành ứng hợp với hành xứ. Đó là chỗ không nhàn, chỗ trí tuệ, dứt hẳn đến, đi, tất cả sở học Bồ-tát, là tất cả hành xứ Như Lai, thành tựu tất cả công đức. Này Đồng tử! Đó gọi là hiển thuyết về Tam-muội này vậy. Nếu ai có thể hiển thuyết về Tam-muội như vậy, liền không xa lìa các định, tâm ấy không mất tất cả Tam-muội, không có mê hoặc, khởi tâm đại Bi, làm lợi ích vô lượng, vô biên chúng sinh. Ngay lúc đó Đức Thế Tôn nói bài kệ: Bình đẳng, không hiểm trở Tịch lặng mầu khó thấy Đoạn trừ tất cả tưởng Nên gọi là Tam-muội. Không vọng tưởng phân biệt Lìa kiến không thể giữ Tâm ấy chẳng thể nắm Đó gọi là Tam-muội. An trụ định như thật Không giữ tất cả pháp Vì như thật không thủ Nên nói định Tịch diệt. Pháp không có mảy may Cũng không chút khả đắc Vì không chút khả đắc Nên gọi là Tam-muội. Hữu đắc hay vô đắc Đó gọi là vọng tưởng Lìa phân biệt nơi pháp Nên gọi là Tam-muội. Nhờ tiếng nên nói nghó Tiếng này chẳng thật có Giống như tiếng dội lại Lại giống như hư không. Chúng sinh vô sở trụ Chỗ trụ bất khả đắc Tiếng đắc cùng bất đắc Tự tánh bất khả đắc. Hoặc bỏ, hoặc đọa lạc Bỏ đạo bất khả đắc Tiếng bỏ cùng không bỏ Nơi đạo biết như vậy. Còn có định là thủ Còn không định cũng vậy Vô trước hành Bồ-đề Chứng Thánh đạo cũng thế. Địa bình đẳng lìa hiểm Định tuệ này vô tướng Phật tử tu tập nó Khéo tu định tương ưng. Văn tự chẳng có thể Vào nghóa thú sâu này Bỏ các việc ngôn ngữ Lược định vô sở thủ. Bồ-tát được định này Như nói trụ tương ưng Dù lửa thiêu thế giới Trong ấy không bị cháy. Vô lượng kiếp hỏa thiêu Như hư không, không cháy Nếu biết pháp như không Người ấy lửa không đốt. Nếu khi thiêu cõi Phật Trong định phát nguyện này Diệt sạch hết lửa ấy Người và đất không hoại. Thần túc ấy vô biên Đạo hư không không ngại Tùy học định mà trụ Bồ-tát gặt công đức Hoặc sinh hoặc biến mất Không khởi cũng không diệt Nếu hay biết như vậy Được định này không khó. Thế gian có sinh diệt Chỗ Như Lai đã nói Nếu hay biết định này Nên biết thân cận đời. Nơi thế gian không nhiễm Thế pháp không thể ngại Thân nếu không chướng ngại Qua lại cõi chư Phật. Thường thấy nơi tịnh độ Và thấy Đạo sư đời Nên được nghe chánh pháp Diễn thuyết tại các cõi. Cũng không khởi vô tri Vào lúc nói pháp tánh Hay thông đạt các pháp Như tùy theo pháp tánh. Diễn thuyết trong ức kiếp Biện tài không đoạn tuyệt Hay biến làm nhiều thân Các Bồ-tát khác nữa. Biến hóa các Bồ-tát Qua lại các cõi Phật Trên hoa sen ngàn cánh Kiết già mà an tọa. Hiển thị Bồ-đề Phật Tu-đa-la Tổng trì Cùng hằng ức kinh khác Nhờ tu tập Tịch định. Chỉ trừ bất thoái chuyển Người chẳng nghó bàn khác Không thể hết biện tài Hiển thị Bồ-đề Phật. Bỏ đi các lầu gác Các thứ báu nghiêm sức Tung rải các diệu hoa Hương thơm thật đáng ưa. Tung rải các hương bột Cùng đốt các hương thơm Hoặc tung vô lượng báu Vì chứng được Bồ-đề. Bồ-tát bậc cứu tế Vô lượng đức như vậy Đoạn trừ các phiền não Đạt thần túc thù thắng. Không khởi sinh phiền não Thanh tịnh thật chói sáng Vô vi không thể hoại Là cảnh giới Bồ-tát. Tịch tónh, càng tịch tónh Lìa não, không phiền não Vượt qua sự hý luận Thích pháp không hý luận. Văn tự không thể vào Vì các pháp vô tướng Trí biết chỉ âm thanh Cho nên gọi là định. Thắng tịch diệt vô tận Vô công dụng, không thấy Tất cả cảnh giới Phật Thật tế không nhà cửa. Theo chư Phật tu học Tự tánh tất cả pháp Học công đức Phật này Được công đức cứu cánh. Chẳng đây cũng chẳng kia Bản tế không phân biệt Cho nên tất cả Phật Đạt công đức bờ kia. Với vị lai không bỏ Vì đã biết pháp tánh Vô công dụng hý luận Đạt công đức bờ kia. Bấy giờ Đồng tử Nguyệt Quang bạch Đức Phật: –Hy hữu thay! Bạch Thế Tôn! Như Lai, Bậc Ứng Cúng Chánh Biến Tri, mới có thể khéo nói về thể tánh bình đẳng của tất cả các pháp. Đó là nói về thể tánh bình đẳng của tất cả các pháp mà Bồ-tát phải học. Nếu Bồ-tát có thể tu học Tam-muội đã được nói ra ấy, sẽ mau chóng chứng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Bạch Thế Tôn! Con lại muốn nói! Bạch Như Lai! Con lại muốn nói. Bạch Thiện Thệ! Con muốn nói một phần nhỏ. Đức Phật nói: –Này Đồng tử! Nếu muốn nói cứ nói. Bấy giờ Đồng tử Nguyệt Quang, ở trước Đức Phật, chắp tay hướng về Đức Phật, xưng dương thật đức bằng bài kệ khen ngợi: Thấy sinh, bị già, bệnh chết, khổ Tham sân và si thường mê hoặc Xưa Phật đã phát tâm Bồ-đề Mong thành Chánh giác mở các trói. Lành thay, vô lượng kiếp tu hành Bố thí, điều phục, ngăn các lỗi Trì giới, Nhẫn nhục, siêng Tinh tấn Khéo tu Thiền định và Trí tuệ. Vì không hy vọng, bỏ ngôi vua Vợ con, của cải đều bỏ hết Đầu, mắt, tay chân và thọ mạng Tâm ấy ban đầu không mệt mỏi. Cấm giới trong sáng, sạch không nhơ Vứt bỏ thân mạng thường hộ trì Khéo hay cấm chế thân, miệng, ý Quy mạng Thiện Thệ, điều phục tâm. An trụ trí tuệ trong sức nhẫn Dù bị cắt thân, không phẫn nộ Nhờ lòng từ máu biến thành sữa Quy mạng Như Lai, rất kỳ đặc. Thành tựu oai lực, trụ Thập lực Dùng trí vô lượng rõ các pháp Phật đem lòng thương đến thế gian Cứu độ lợi ích các cõi khác. Đã biết bản thể các pháp không Thấy các thế gian đều hư vọng Ngộ đạo khế hội tánh vô ngã Biết giải thoát ấy, không chỗ thoát. Xa lìa phiền não và phóng dật Hàng phục ma lực và ma quân Biết đạo vô cấu, trí vô ngại Nói pháp thanh tịnh, vô ngại tịch. Giả sử tinh tú trên trời rớt Đất biển thành ấp đều hoại diệt Hư không, vô vi tánh đổi khác Như Lai hoàn toàn không nói dối. Thấy sự khổ não các chúng sinh An trụ, đắm trước trong phân biệt Vì họ hiển bày lìa đắm trước Gọi là tịch diệt, không thậm thâm. Chẳng thể nghó bàn vô số kiếp Đại hùng dũng mãnh, học từ lâu Tu học tất cả, không đắm trước Nên Phật không có các lỗi lầm. Phật đã tu học tất cả pháp Như pháp sở đắc vì người nói Đó chẳng phải phàm phu, ngu si Lại chẳng phải tất cả ngoại đạo. Tâm thường an trụ nơi ngã tưởng Gọi là các phàm phu lỗi lầm Nếu hay biết được pháp vô ngã Không có tất cả các lỗi lầm. Đại hùng đã nói lời chân thật Hằng thường an trụ nơi thật pháp An trụ thật pháp như vậy rồi Lại hay diễn thuyết lời chân thật. Quá khứ từng tu hạnh chân thật Mới hay xứng đáng nơi bản nguyện Đạt được diệu quả báu chân thật Nhờ vậy hay nói lời chân thật. Đã hành hạnh chân thật đầy đủ Khéo hay biết được chân thật tế Đã tu hạnh chân thật như vậy Quy mạng Nhân tôn đại trí tuệ. Trí Ngài tối thắng không ai bằng Trí tuệ đầy đủ, rất sáng rạng Cuối cùng đạt được thắng trí tuệ Quy mạng bậc Trí tuệ ngôn thuyết. Hay cùng chúng sinh làm bạn hữu Từ lâu tu tập tâm Từ bi Hay khéo an trụ nơi bất động Bất động giống như núi Tu-di. Làm thầy trời, người, đầy đức lớn Giáo thọ Đại chúng, các quần sinh Thiện Thệ thắng trí tuệ thậm thâm Trong chúng vô úy, làm chấn động. Sư tử rống vô úy như vậy Như vua sư tử oai hùng mãnh Hàng phục tất cả các ngoại đạo Giống như sư tử vồ chồn hoang. Đại hùng điều phục kẻ không điều Điều phục lại hay khéo điều ngự Hay khiến thành tựu làm thiện hữu An trụ kiên cố mà không hoại. Thấy các chúng sinh kia khổ não Nương vào hoàn toàn nơi ngã kiến Vì họ diễn xướng pháp vô ngã Không có tham ái và không ái. Người phàm phu ngu si không học Nương nơi hiểm nạn, đường không lành Vì họ hiển thị đạo chân thật Đó là hướng đến đường Niết-bàn. Nếu ai đắm trước vào ngã tưởng Người ấy liền sống rất khổ não Bởi vì không hiểu pháp vô ngã Là có thể diệt trừ khổ não. Trong kiếp số chẳng thể nghó bàn Đại trí từ lâu từng tu học Tu học xa lìa đắm trước rồi Cho nên không có các tội lỗi. Diễn thuyết các pháp cú lìa tội Thế Tôn xa lìa các lỗi lầm Khéo nói lời chân thật vi diệu Miệng thường giải thoát trăm điều sợ. Vô lượng na-do trăm ngàn, ức Thiên, Long, Dạ-xoa giữa hư không Ưa thích pháp Tối thánh vô thượng Người nghe ai cũng hợp nghóa chân. Lời Như Lai hoan hỷ, thiện mỹ Ôn hòa, hợp thời, vừa lòng người Tiếng hòa hợp, vi diệu vô lượng Thương xót giải thoát vô số người. Âm thanh kỹ nhạc. trăm ngàn loại Một lúc tấu lên tiếng hòa hợp Là tiếng vui thích ở cõi trời Một tiếng Như Lai bao trùm khắp. Các loại chim Ca-lăng-tần-già Đồng lúc cùng phát tiếng vi diệu Hay khiến người khác sinh vui thích Gặp âm thanh Phật chẳng thể sánh. Tấu lên âm nhạc của hoan hỷ Khéo hợp tất cả các cung đàn Thổi loa, trống, sáo, đàn, không hầu Gặp âm thanh Phật, đều không hiện. Tiếng ca múa vua Khẩn-na-la Đã từng khéo học trăm ngàn nhạc Nếu ai nghe được đều hoan hỷ Gặp âm thanh Phật đều không hiện. Tiếng Câu sí, Anh vũ, Xá-lợi Khổng tước, Ai loan và Uyên ương Có tất cả tiếng chim hay ấy Gặp âm thanh Phật đều không hiện. Tiếng mỹ diệu, vui thích, khả ái Những ca vịnh hay ở thế gian Dồn tất cả lại đồng tấu lên Tiếng Phật Tối Thắng vượt hơn chúng. Chư Thiên, Dạ-xoa, vua Tu-la Tất cả quần sinh trong ba cõi Thân Phật thượng diệu và tối thắng Phật phóng hào quang liền che hết. Sắc thân Như lai như hoa nở Với tất cả tướng tốt rực sáng Sinh ra quả phước rất thanh tịnh Hào quang chiếu sáng khắp mười phương. Tiếng ốc, tiếng trống và tiêu sáo Tiếng hay đồng, bạc, sinh và tiêu Các âm như vậy cùng hòa hợp Không bằng một phần trăm tiếng Phật. Càn-thát, Tu-la và Ma-hầu Các tiếng hay ho của Dạ-xoa Cùng với tiếng hay khắp ba cõi Với Phật trăm phần không bằng một. Tất cả ánh sáng của Phạm thiên Và các thân sáng trời Hữu đảnh Thế Tôn nếu phóng ánh hào quang Sáng kia không bằng một phần trăm. Thân, khẩu, ý nghiệp đều thanh tịnh Vì Bố thí tịnh, đời không nhiễm Bảo tụ công đức Nhân Trung Vương Công đức tự nhiên không ai bằng. Tán thán Thập Lực lời thật xong Đồng tử vui mừng nói như vầy: “Vì con cúng dường pháp vương, Phật Nguyện phước này thành Thích-ca Văn”. Phật biết tịnh hạnh tối thắng kia Thiện Thệ bấy giờ liền mỉm cười Di-lặc thấy Phật cười, thưa hỏi Cúi mong Nhân Tôn nói duyên cớ. Bấy giờ đại địa sáu chấn động Trời, Rồng hoan hỷ giữa hư không Hân hoan chiêm ngưỡng Lưỡng Túc Tôn Xin Phật nói cho nhân duyên cười. Trí tuệ chư Phật đã rõ biết Chẳng phải Thanh văn đệ tử Phật Nay an trú ai đạo Tối thắng? Xin Ngài xót thương, nói cho con. Ngoại trừ Đức Mâu-ni, từ bi Tất cả thế gian, ai làm được Có thể trao cho quả Pháp vương Xin Phật thọ ký quả Bồ-đề. Nay con khéo hỏi Thế Đạo Sư Thích-ca, Ngưu vương, đại oai đức Đã đến bờ, trí tuệ quang minh Đoạn trừ tham, sân, si ô uế. Không thể nghó bàn hằng sa ức Kiếp số Đạo Sư đã tu hành Để cầu hạnh Bồ-đề thắng diệu Vì nhân duyên gì hiện mỉm cười? Hay bỏ thân mình với tay chân Vợ con, quyến thuộc người thân yêu Thường hay tu hành Thắng hạnh này Cho nên con hỏi Đấng Mâu-ni? Voi, ngựa, xe cộ và trâu, dê Nô tỳ, ma-ni, trân châu vàng Không thấy sở hữu các vật báu Khi hành Bồ-đề mà không bỏ. Trí ấy tối thắng, đều hiển hiện Biết các việc làm của chúng sinh Tín tâm, tánh dục đã khéo biết Xin nói duyên gì hiện mỉm cười? Ai từng cúng dường Nhân Trung Tôn? Nay ai thành tựu lợi lạc lớn? Ai có thể hành việc Phật hành? Vì ai mà hiện sự mỉm cười? Mặt đất bấy giờ sáu chấn động Ức hoa sen đẹp mọc từ đất Hoa này chiếu sáng đủ ức cánh Sắc vàng rực sáng thật khả ái. Phật tử ngồi trên hoa sen kia Bồ-tát đại thần thông bậc nhất Vô lượng Pháp sư đến vân tập Cho nên con mới hỏi như vậy. Đánh trống, khua linh, thổi tù và Kỹ nhạc ức số như hằng sa Những loại âm nhạc nhiều như vậy Trong đó, tiếng Phật tối thắng diệu. Câu sí, Tần-già, ngỗng và hạc Các chim cùng lúc đến vân tập Đồng thời hót lên tiếng thật hay Không thể sánh bằng âm thanh Phật. Ai từng bố thí, trì giới cấm Tu tập trong vô lượng ức kiếp Ai lại cúng dường Nhân Trung Tôn? Mâu-ni vì ai hiện mỉm cười? Ai xưa khởi tâm đại cung kính Đã từng thưa hỏi Lưỡng Túc Tôn Nhờ nhân duyên gì được Bồ-đề Mà nay hiện sự mỉm cười này? Tất cả Đấng Thập Lực quá khứ Ở đời hiện tại cùng vị lai Đạo sư trời, người đều biết rõ Cho nên con hỏi Bậc Nhân Trung. Rõ biết thứ lớp tâm chúng sinh Với thần túc Phật không suy giảm Lại biết tâm ưa thích chúng sinh Cho nên con hỏi Mâu-ni sư. Tu hành hạnh tối thắng vô thượng Nhờ pháp tương ưng đã khéo học Đạo Bồ-đề Phật làm sao được? Cho nên con hỏi Lưỡng Túc Tôn. Các pháp vi tế khó thấy được Không tịch khó gọi, khó nghó bàn Tu hành sở hành của Thập Lực Cho nên con hỏi Thế Đại Sư. Có thể khéo tu tâm Từ bi Nơi chỗ chúng sinh chẳng nghó bàn Thường không khởi các chúng sinh tưởng Cho nên con hỏi Lưỡng Túc Tôn. Cảnh giới sở hành khó nghó bàn Nơi ngằn mé ấy bất khả đắc Đã vượt qua được cảnh giới tâm Cho nên con hỏi Lưỡng Túc Tôn. Bố thí, trì giới rốt ráo rồi Bậc trí sáng trong rõ ba đời Xa lìa tất cả các tội ác Vì nghóa lý gì hiện mỉm cười? Xá-lợi, Mục-liên, Cư-luật-đa Và đệ tử khác các Như Lai Chẳng phải là việc làm của họ Chỉ cảnh giới Phật tối vô thượng. Nơi tất cả pháp đến bỉ ngạn Sở học các cõi đã cứu cánh Đạo Sư phát sinh lòng thương lớn Tiếng tuyên xướng vi diệu bậc nhất. Vô lượng a-tăng kiếp quá khứ Cũng từng hỏi nghóa lý như vậy Được làm người thân Đấng Cứu Thế Nay đã chứng quả nói cho con. Dạ-xoa, La-sát, Rồng, Bàn-trà Chiêm ngưỡng Lưỡng Túc Tôn tối thắng Tất cả cung kính đứng chắp tay Đều hỏi Thế Tôn vì sao cười. Nhiều chúng Bồ-tát đều vân tập Thần thông đầy đủ, nhiều ức cõi Tâm Như Lai sinh Tối trưởng tử Tất cả cung kính đều chắp tay. Đạo Sư Thế Tôn chẳng duyên cớ Trượng phu tối thắng hiện mỉm cười Ngôn ngữ vi diệu, âm thanh trống Vì nhân duyên gì hiện mỉm cười? Bồ-tát Hương Tượng phương Đông đến Từ thế giới của Phật A-súc Vô số chúng Bồ-tát vây quanh Vì hỏi Thích-ca nên đến đây Lại nữa, Diệu thế giới An lạc Bồ-tát Quán Âm, Đại Thế Chí Vô số chúng Bồ-tát vây quanh Đến hỏi Lưỡng Túc Thích Sư Tử. Vô lượng ức chỗ Phật quá khứ Cúng dường vô biên các Như Lai Giống như số cát trong biển cả Vì hành thắng Bồ-đề vô thượng. Chỗ tất cả chư Phật khen ngợi Công đức Bồ-tát đã cứu cánh Mười phương thế giới đều nghe biết Văn-thù-sư-lợi đứng chắp tay. Du hành qua vô số cõi Phật Đệ tử lớn như vậy khó thấy Công đức Phật tử đã khéo học Tất cả chắp tay đứng cung kính. Căn, khí tối thắng không ai bằng Bậc điều phục nhu nhuyến như vậy Thọ trì tất cả tạng Phật pháp Xin Phật tuyên thuyết lời hòa diệu. Thế Tôn Đạo Sư đâu vô cớ Trượng phu tối thắng hiện mỉm cười Tiếng trống vi diệu xin diễn thuyết Vì nhân duyên gì hiện mỉm cười? Câu sí, chim yến, ngỗng, khổng tước Tiếng rống Ngưu vương như sấm sét Xin phát nhạc trời âm tuyệt diệu Cúi mong diễn thuyết tiếng thêm vui. Khéo tập Từ bi lìa các lỗi Trí tuệ hiện tiền đoạn ngu si Hiểu nghóa chân thật lìa văn tự Trong trăm ngàn kiếp đã tu trì. Quyết định không tịch biết các hữu Hiển bày các cú nghóa khổ diệt Phá hoại tất cả trí ngoại đạo Không vô chúng sinh và thọ mạng. Chư Phật tu hành trăm ngàn hạnh Trăm ngàn thứ phước để trang nghiêm Trăm ngàn chư Thiên đều khen ngợi Trăm ngàn Phạm thiên cũng như vậy. Dạ-xoa, La-sát đều tịnh tâm Ma-hầu, Kim sí, Rồng hoan hỷ Miệng thường tuyên thuyết không chướng ngại Chỗ khởi của nghiệp quả tịnh diệu. Tất cả chư Phật đã diệt độ Cùng với hiện tại, đời vị lai Rõ biết tất cả không chướng ngại Từ chỗ sinh ra các công đức. Đại hải, đại địa và các núi Tất cả thảy đều sáu chấn động Chư Thiên, Tu-la, Rồng, La-hầu Rải các hoa hương rất thắng diệu. Đoạn trừ tham, sân và hôn, mạn Liễm thúc tâm ý đều thanh tịnh Âm thanh tịch tónh, gọi vô tướng Đại Thánh, sư tử rống như vậy. Đầy đủ biện tài, danh xưng lớn Nơi mắt nơi pháp khéo bình đẳng Thế gian ai bằng, ai qua nổi Cúi mong Đại Bi nói nghóa cười? Câu sí, Tần-già và Khổng tước Mạng mạng các chim, âm thanh diệu Cùng lúc hót lên thật khả ái Chẳng thể bằng một âm của Phật. Trống lớn, chiêng vàng, các trống nhỏ Tù và, tiêu, sáo, đàn không hầu Ngàn thứ âm nhạc đồng tấu lên Một âm của Phật cũng hơn xa. Ngàn thứ âm nhạc cõi trời hay Và tiếng ca hay các Thiên nữ Hợp lại cùng hát, người yêu thích Một lời của Phật cũng hơn xa. Đạo Sư của đời dùng một âm Tùy sức tín tâm hiểu khác nhau Tất cả đều bảo Phật vì mình Mong đại Sa-môn nói duyên cười? Diệu âm thinh chư Thiên và Rồng Ca-lầu, Càn-thát, Tỳ-xá-xà Chúng nó không thể diệt phiền não Chỉ âm thanh Phật hay đoạn trừ. Tuy lại khởi ái tâm, không nhiễm Hành Từ liền được lìa lỗi sân Hay sinh trí tuệ, lìa ngu si Người được như vậy, lìa các cấu. Tiếng Phật không thoát ra ngoài chúng Hay đoạn trăm thứ các nghi ngờ Với âm thanh ấy không cao, thấp Diệu âm Mâu-ni tịch bình đẳng. Giả sử cõi ba ngàn tan nát Một niệm biển cả đều khô cạn Trời, trăng có thể rơi xuống đất Thế Hùng hoàn toàn không nói dối. Sáu mươi loại ngữ ngôn thanh tịnh Tiếng rống rất hay, không sợ hãi Tiếng Phạm Như Lai xin nói cho Tịch Tónh nhân gì hiện mỉm cười? Tất cả quần sinh trong ba cõi Có thể rõ biết việc làm ấy Quá khứ, hiện tại và vị lai Xin Nhân Tôn nói vì sao cười? Tất cả Như Lai, Bậc Đại Bi Ở trong các lực được cứu cánh Nhan sắc Như Lai như trăng rằm Đâu phải vô cớ hiện mỉm cười? Ngay khi ấy Đức Thế Tôn nói bài kệ tụng để trả lời Đại Bồ-tát Di-lặc: Đúng như Đồng tử Nguyệt Quang ấy Tán thán Như Lai không ai bằng Tán thán Như Lai như vậy rồi Sau lại vì đời được khen ngợi. Ngày xưa ở thành Vương xá này Đã từng xem thấy nhiều ức Phật Nơi chỗ Phật ấy thường thưa hỏi Định tịch diệt, thắng diệu như vậy. Khi tu hành đạo hạnh Bồ-đề Trong tất cả đời làm con ta Thường hay đầy đủ vô ngại biện Thường hằng an trụ nơi phạm hạnh. Người ấy lúc đời cuối, hãi hùng Chỉ có Di-lặc mới chứng biết Trong tất cả thời trụ phạm hạnh Hay phân biệt rộng Tam-muội này. Muốn cầu Tam-muội thù thắng này Khen đạo đang hành, sẽ đạt được Vô lượng ức Phật đều nhiếp thọ Cúng dường Đại Đạo Sư tối thắng. Ta ở trong trí nên ký thuyết Nơi hạnh thù Thắng Nguyệt Quang này Ở thời cuối cùng, không chướng ngại Nơi phạm hạnh ấy và thọ mạng. Biết được ngàn ức các Như Lai Như xem quả xoài trong bàn tay Lại trải qua hằng sa số ấy Ở đời vị lai tu cúng dường. Chư Thiên và Rồng có tám ức Chúng Dạ-xoa có bảy ngàn ức Vị lai cúng dường Lưỡng Túc Tôn Bọn họ đều có thể hộ giúp. Được nghe thọ ký như vậy rồi Hoan hỷ, yêu thích đều sung mãn Nguyệt Quang bay cao bảy Đa-la Đứng trên hư không, lời hy hữu: Ô hay, Phật nói không gì hơn An trụ trí giải thoát thần thông Nhờ an trụ thắng trí quyết định Tất cả dị luận không thể phá. Xa lìa hai bên, chứng giải thoát Quán sát sự việc, không đắm trước Ở trong ba cõi, trí vô ngại, Hoàn toàn không có các hý luận. Tất cả hý luận mà không nhiễm Giác quán các kiến đều đoạn trừ Khéo tu nơi đạo, không nương tựa Không bị người phá, không chống người. Lại nơi ba cõi không nương tựa Đoạn trừ các kết, hành thanh tịnh Dây ái trói buộc đều xa lìa Các hữu tương tục đều diệt sạch. Hiểu rõ tự thể tánh phi hữu Thuyết pháp ly ngôn đều biết rõ Kẻ vô trí nơi điên đảo ấy Như sư tử rống bắt dã can. Nay Phật vì hiện Diệu pháp tạng Con nay đạt được Diệu bảo tụ Đoạn trừ tất cả các đường ác Nay con được định Phật không nghi. Sắc vàng trăm phước, tay trang nghiêm Xin đem tay báu xoa đầu con Đối với trời, người trước đại chúng Cúi mong Nhân Tôn quán đảnh con. Con nhớ quá khứ lúc tu hành Nơi cờ sư tử trong Phật pháp Nơi có Tỳ-kheo rất thông duệ Tên gọi Hiền Thí làm Pháp sư. Con làm vương tử, tên Hiệt Tuệ Thân gặp bệnh khổ rất nguy khốn Lúc đức Hiền Thí làm Pháp sư Nhu nhuyến, ngay thẳng, đầy đức tốt. Năm trăm lương y, không giảm thiểu Thảy đều đi đến trị cho con Quyến thuộc, thân thích đều sầu lo. Bấy giờ Đại Sư nghe con bệnh Liền đến chỗ con mà thăm hỏi Hiền Thí liền sinh tâm xót thương Vì con mà thuyết Tam-muội này. Con được nghe Tam-muội này rồi Không cần của cải, tâm ưa thích Nhờ rõ biết thể tánh các pháp Lúc ấy bệnh khổ liền tiêu trừ. Tỳ-kheo thực hành hạnh Bồ-đề Được thành Phật đạo hiệu Nhiên Đăng Khi xưa ta, vương tử Hiệt Tuệ Nhờ Tam-muội này trừ khổ não. Do nhân duyên ấy nên đồng tử Ta nhớ việc này nên dặn ngươi Nhẫn sự mắng nhiếc và hủy nhục Thọ trì, đọc tụng định như vậy. Tỳ-kheo mạt thế có vô lượng Phóng dật, phá giới nhiều keo kiết Đắm trước y bát, ưa làm ác Khởi tâm bài báng Tam-muội này. Tật đố, khinh tháo, thả các căn Sống nhà thế tục vì tham lợi Thường nương quán Sổ tức kiếm sống Nên họ hủy báng Tam-muội này. Buông tay, duỗi chân, mặc tình láo Đi chạy nói cười tự ngắm bóng Bạn bè múa tay, tùy theo đường đi Nếu vào tụ lạc hiện tướng lạ. Như vậy chẳng hợp nghi thức người Ngày đêm đam mê nơi đồng nữ Nơi sắc, thanh ấy, thường đắm trước Dạo chơi thôn ấp hiện tướng này. Tâm thường ưa thích sự ăn ngon Cười đùa, ca múa và âm nhạc Mua bán đổi chác thường cầu lợi Ưa thích uống rượu và cỡi ngựa. Ham thêm cất chứa nhiều ẩm thực Chết rồi đọa lạc ba đường ác Chuyên lo khai khẩn và cày ruộng Bảo trì tự kỷ nơi trú xứ. Nghe người khác dạy, truyền thơ tín Vứt bỏ giới cấm và oai nghi Thân cận bạch y, trái lời Phật Hủy phá cấm giới, trụ ác đạo. Làm Phật thường không khen ngợi nghiệp Đó là lường cân, hay lừa dối Tạo tác các nghiệp ác như vậy Vì ác hạnh này, đọa ác đạo. Có nhiều của cải vàng với ngọc Vứt bỏ người thân mà xuất gia Không thể an trụ tu tịnh giới Trở lại mua bán, tạo nghiệp xấu. Trâu, ngựa, đực mái cùng trứng sữa Chỉ ỷ tiền, lúa là hơn hết Vì sao xuất gia, cạo râu tóc Mà không giữ giới và nghi thức? Thời quá khứ ta hành Bồ-đề Ở trong ngàn kiếp tu khổ hạnh Để cầu định tịch diệt như vậy Người ngu nghe vậy liền chê cười. Hành phi phạm hạnh thích nói dối Thường tham lợi dưỡng rơi ác đạo Mặc áo phạm hạnh để dối đời Hủy báng giới, định, nói phi pháp. Đây, kia thay nhau cùng phá hoại Không thể đúng pháp cầu lợi dưỡng Chỉ muốn tìm lỗi lầm của nhau Chết rồi đọa lạc ba đường ác. Trong trăm ngàn người không được một Là người có thể trụ nhẫn nhục Bè đảng, đấu tranh, vô lượng người Vứt bỏ nhẫn nhục, thường giận nhau. Đều tự xưng tán là Bồ-tát Muốn tiếng tăm mình lan các nước Nếu được hư danh tự vui mừng Còn không khéo làm, huống chi đạo! Ta từng không nghe cũng không thấy Người dục lạc không có tịnh hạnh Bài báng pháp này, không hâm mộ Sao thể đạt được đạo Bồ-đề? Không mưu sinh, nên xuất gia Không cầu tất cả Bồ-đề phật Người ngu an trụ trong ngã kiến Nghe nói vô ngã liền kinh sợ. Đây, kia cùng nhau hằng tranh luận Ngã mạn, tự cao, xâm lấn nhau Tự cho mình đúng, người khác sai Thường làm bất thiện, vọng hoan hỷ. Thành tựu các công đức tịnh giới An trụ tâm Từ, hành nhẫn nhục Điều phục, nhu nhuyến và thuần thiện Những thiện nhân ấy đều bị khinh. Nếu ai đương lai khởi tâm ác Hết sức chống lại điều bất thiện Ưa thích đấu tranh, làm phi pháp Bọn họ lúc đó được cúng dường. Ta nay cùng khéo khuyên bảo ông Với ta ông nên sinh tịnh tín Chỗ Như Lai ấy đã thuyết giáo Bọn người ác ấy chớ thân cận. Kẻ lắm tham ái và sân nhiều Người nhiều ngu si và hôn mạn Không hổ, không thẹn, không điều phục Với họ, ông mau khởi sức nhẫn. Nay ta đã nói vô lượng đức Tỳ-kheo nơi đó không an trụ Đâu phải miệng nói, được Bồ-đề Cần phải kiên cố làm mới được. KINH NGUYỆT ĐĂNG TAM-MUỘI <卷 id="104089328">QUYỂN 4 Bấy giờ Bà-già-bà, ở trong đại chúng chỉ giáo việc lợi lạc rồi, liền từ tòa đứng dậy, đi đến thành Vương xá vào núi Kỳ-xà-quật trải tòa mà ngồi. Các chúng Tỳ-kheo và chư Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, vây quanh trước sau. Bấy giờ Đồng tử Nguyệt Quang cùng tám trăm ức người và Thiên, Long, tám bộ quỷ thần… với mười na-do-tha các chúng Bồ-tát ở thế giới khác, cầm các vòng hoa báu, hương xoa, hương bột, y phục, phướn hoa, các thứ âm nhạc, dựng lên dù lọng, treo các phướn lụa, ra khỏi thành Vương xá, hướng đến núi Kỳ-xà-quật, đi đến chỗ Đức Như Lai, đầu mặt đảnh lễ dưới chân, nhiễu quanh nhiều lần, dùng các hương hoa, y phục, bảo cái, tràng phan, tấu các âm nhạc, thiết bày sự đại cúng dường. Khi đã cúng dường xong, cúi đầu cung kính, vì để hỏi pháp, nên ngồi qua một bên. Bấy giờ Đồng tử Nguyệt Quang nói như vầy: –Con đối với Đức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri có điều muốn thưa hỏi, cúi mong Như Lai cho phép. Khi ấy Đức Thế Tôn bảo Đồng tử: –Như Lai Ứng Chánh Biến Tri, cho phép ông muốn hỏi gì cứ hỏi! Điều ông hỏi sẽ đem lại lợi ích cho vô lượng chúng sinh. Ta sẽ phân biệt, giải thích để tâm ông được hoan hỷ. Bấy giờ Đồng tử Nguyệt Quang được Phật cho phép liền bạch rằng: –Đại Bồ-tát thành tựu bao nhiêu pháp, mới có thể được Tam-muội tất cả pháp thể tánh bình đẳng không hý luận như vậy? Khi ấy Phật bảo Đồng tử Nguyệt Quang: –Đại Bồ-tát thành tựu bốn pháp mới có thể được Tam-muội tất cả pháp bình đẳng không hý luận như vậy? Những gì là bốn? 1.Khéo học sự nhu nhuyến, đồng ở an ổn, đạt đến chỗ điều phục, có thể nhẫn được sự hủy nhục, thấy pháp, trừ ngã mạn, đó là pháp đầu tiên. Bồ-tát nếu có thể thành tựu như vậy thì liền có thể đạt được Tam-muội tất cả pháp thể tánh bình đẳng không hý luận như vậy. 2.Lại nữa, này Đồng tử! Đại Bồ-tát thành tựu, giới thiện, giới thanh tịnh, giới thanh tịnh thiện đệ nhất, giới không uế trược, giới không khiếm khuyết, giới không thủng lậu, giới không xen tạp, giới vô định sắc, giới tự tại, giới không chỗ nương thể chê trách, giới không thoái lui, rơi rớt, giới không nương tựa, giới không thủ trước, giới vô sở đắc, giới Thánh khen ngợi, giới bậc Trí khen ngợi. Này Đồng tử! Đó là pháp thứ hai, Bồ-tát đầy đủ pháp này, có thể đạt được Tam-muội thể tánh bình đẳng của tất cả các pháp không hý luận. 3.Lại nữa, này Đồng tử! Đại Bồ-tát sợ ba cõi nên khởi tâm sợ hãi, vì nhàm chán ba cõi nên khởi tâm không nhiễm ô, vì không đắm trước ba cõi nên khởi tâm cấp bách, vì để giải thoát khổ ba cõi cho chúng sinh nên khởi tâm đại Bi, vì hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nên phát tâm đại tinh tấn. Này Đồng tử! Đó là pháp thứ ba. Bồ-tát thành tựu như vậy, mới có thể đạt được Tam-muội tất cả pháp thể tánh bình đẳng không hý luận. 4.Lại nữa, này Đồng tử! Đại Bồ-tát cầu sự nghe nhiều, không bao giờ chán, vì tôn trọng pháp nên không cầu tài lợi, vì tôn trọng trí tuệ nên không cầu tiếng tăm, tùy theo chỗ nghe, rồi thọ trì, đem nói rộng cho người khác, hiển bày nghóa lý ấy, vì lòng xót thương nên không vì người thân thuộc Bồ-tát lại nghó như vầy: “Làm sao trước hết có thể khiến chúng sinh nghe pháp thì đối với Vô thượng Bồ-đề, họ mau chóng được không thoái chuyển.” Đó là pháp thứ tư. Bồ-tát thành tựu như vậy có thể được Tam-muội thể tánh tất cả pháp bình đẳng, không hý luận. Đồng tử nên biết! Pháp môn Tam-muội này được vô lượng chư Phật đã diễn thuyết, vô lượng chư Phật khen ngợi, vô lượng chư Phật hiển thị, vô lượng chư Phật tu tập. Bấy giờ Đức Thế Tôn nói bài kệ: Ta nhớ vô số, vô biên kiếp Có Phật hiệu là Âm Thanh Thân Đức Như Lai Âm Thanh Thân ấy Ở đời thọ mạng sáu ngàn năm. Tiếp theo Phật ấy lại có Phật Tên Trí Tự Tại, đời mến yêu Đức Trí Tự Tại, Chánh Biến Tri Thọ mạng một vạn hai ngàn tuổi. Tiếp theo Phật ấy có Đức Phật Oai Đức Tự Tại, thế lực lớn Đức Phật Oai đức, Nhân Trung Tôn Thọ mạng bảy vạn sáu ngàn tuổi. Tiếp theo Phật ấy lại có Phật Hiệu Đại Tự Tại, trí Tự nhiên Đức Đại Tự Tại, thầy, trời, người Thọ mạng trọn cả ngàn vạn năm. Tiếp theo Đức Phật lại có Phật Tên Phật ấy là Phạm Thanh Sư Đức Phật Phạm Thanh, Lưỡng Túc Tôn Thọ mạng trọn cả một ức năm. Tiếp theo Đức Phật lại có Phật Hiệu Chúng Tự Tại, Tối Thắng Ly Đức Chúng Tự Tại, Bậc Vô Tỷ Thọ mạng trọn cả sáu ức năm. Tiếp theo Đức Phật lại có Phật Tên Phật ấy là Thanh Tự Tại Đức Thanh Tự Tại, Bà-già-bà Thọ mạng trọn cả ngàn vạn năm. Tiếp theo Đức Phật lại có Phật Hiệu là Thanh Thượng, đèn soi đời Đức Phật Thanh Thượng, Thế Đạo Sư Thọ mạng một vạn bốn ngàn năm. Tiếp theo Đức Phật lại có Phật Hiệu Mãn Nguyệt Diện, danh rộng khắp Đức Mãn Nguyệt Diện, danh rộng khắp Ở đời thọ mạng một ngày đêm. Tiếp theo Đức Phật lại có Phật Tên Phật ấy là Nhật Diện Mãn Đức Phật Nhật Diện, Bậc Vô Tỷ Thọ mạng một vạn tám ngàn năm. Tiếp theo Đức Phật lại có Phật Hiệu Phật ấy là Phạm Diện Thân Đức Phạm Diện Thân, Lưỡng Túc Tôn Thọ mạng hai vạn ba ngàn tuổi. Tiếp theo Phật ấy lại có Phật Tên Phật ấy là Phạm-bà-tâåu Đức Phạm-bà-tẩu, Thiên Nhân Sư Thọ mạng một vạn tám ngàn tuổi. Các Phật như vậy, cùng một kiếp Con số hai trăm Thế Đạo Sư Nay ông nghe ta nói tên Phật Đều là bạn thân trong ba cõi. Phật Vô Hủy Thân, Phật Phổ Âm Phật Biến Oai Đức, Phật Biến Thanh Phật Thanh Cúng Dường, Phật Danh Thanh Phật Thanh Thân Dũng, Thanh Thân Tịnh. Phật Trí Khởi, Trí Tri Thiện Thính Trí Quang Ánh Tế, Trí Đẳng Khởi Phật Trí Diễm Tụ, Phật Trí Dũng Phật Phạm Thượng, Phạm Mạng, Phạm Thiện Phật Thiện Phạm Thiên, Thắng Phạm Thanh Phật Phạm Âm, Phạm Thiên, Phạm Thí Phật Oai Lực, Oai Chủ, Thiện Oai Phật Oai Đức, Tự Tại, Khởi Oai. Phật Oai Đức Nhãn, Phật Thiện Thắng Bố Thượng, Bố Tuệ, Thiện Khả Bố Phật Khả Bố Diện, Phật Bố Khởi Phật Khả Bố, Bố Thượng, Kiến Thật Thiện Nhãn, Nguyệt Thượng, Thắng Đạo Sư Phật Thâm Viễn Âm, Vô Biên Âm Phật Tịnh Âm, Tự Tại Tịnh Âm Phật Vô Lượng Âm, Thiện Hiện Thanh Phật Ma Lực Âm, Hoại Thiện Nhãn Phật Thiện Nhãn, Tịnh Diện, Tịnh Nhãn Phật Vô Lượng Nhãn, Phật Phổ Nhãn Phật Thiện Phổ Nhãn, Phật Thắng Nhãn Phật Nhãn Ánh Tế, Phật Bất Hủy Phật Điều Phục Thượng, Phật Điều Phục Phật Thiện Điều Tâm, Phật Thiện Điều Phật Tịnh Căn, Tịch Ý, Tịch Thượng Tịch Đức, Cực Tịch, Đáo Bỉ Ngạn Bậc Như Lai Tịch Tâm, Vô Thượng Phật Trụ Biên Tịch, Thiện Điều Tâm Phật Thiện Điều, Tịch Căn, Định Ý Phật Tịch Thượng, Tịch Đức, Xí Thạnh Phật Độ Tịch, Bỉ Ngạn, Định Dũng Phật Chúng Nhân-đà-la, Vương Chúng Phật Chúng Tự Tại, Ánh Tế Chúng. Chúng Thắng Tịnh Trí, Đại Chúng Chủ Phật Chúng Chủ, Dũng Kiện Đại Chúng Chánh Biến Tri Thắng Chúng Giải Thoát. Phật Kiến Pháp, Pháp Tràng, Pháp Khởi Phật Pháp Thể, Tánh Khởi, Pháp Lực Phật Pháp Phật, Diệu Pháp, Dũng Kiện Phật Tự Tánh Pháp Khởi Quyết Định. Như Phật Tự Tánh Pháp Khởi này Gồm có tám ức, cùng một tên Phật này xuất hiện kiếp thứ hai. Các Như Lai này ta từng cúng. Phật Tự Tánh Pháp Khởi, Quyết Định Nếu ai được nghe tên của Ngài Nghe xong, thọ trì, được tịnh nghiệp Thì mau đạt được Tam-muội này. Ta nay đã nói vua Mâu-ni Sau Đức Phật đó có Phật khác Vô số kiếp không thể nghó bàn Phật hiệu Thiện Thắng, Phật Âm Vương. Đức Thiện Thắng Vương Như Lai ấy Thọ mạng bảy vạn sáu ngàn năm Hội đầu tiên của Như Lai này Có chúng La-hán ba mươi ức. Sáu Thông, ba Minh, căn điều phục Đủ đại oai đức, bốn Thần túc Thọ thân cuối cùng hết các lậu Không bị nhiễm ô bởi tám pháp. Bấy giờ lại có chúng Bồ-tát Gồm có cả thảy vạn vạn ức Được sáu thần thông, đủ biện tài Học không rốt ráo nơi các pháp. Dùng sức thần thông, dạo ức cõi Lần lượt giáo hóa hơn hằng sa Hỏi các Như Lai chỗ hành đạo Trở về trú nơi thế giới mình. Thông suốt tất cả Tu-đa-la Du hành thế giới làm đèn sáng Đó là Phật tử đại thần lực Vì lợi chúng sinh đi các nước. Xa lìa xú uế, hành phạm hạnh Không vì dục lạc tạo các ác Thường làm chư Thiên được vui sướng Ở trong các cõi không nương tựa. Ở chỗ nhàn hạ thường khất thực Ở nơi không tịch, hành Đầu-đà Nghe nhiều, khéo nói, phước đức lớn Ở nơi ba cõi không đắm trước. Vui nơi thiền định, không sợ hãi Nơi nghóa quyết định, được biện tài Nơi nghóa câu, từ đã khéo học Chỗ hỏi Phật tử điều rốt ráo. Nhiếp hộ tất cả các nghiệp thiện Nơi vô lượng kiếp tu hành xong Thường được chư Phật đều khen ngợi Diễn thuyết cú nghóa đạo giải thoát. Trì giới thanh tịnh, không ô nhiễm Như xe trong nước không đắm trước Ở nơi ba cõi thường nhàm chán Không bị thế pháp làm nhiễm ô. Tâm ấy thanh tịnh, nghiệp thanh tịnh Ít muốn, biết đủ, đầy oai nghi Tương lai an trụ trong Thánh đức Cũng trụ ba Minh, đạo thù thắng. Cần phải tu hành, không phải nói Tự an trụ pháp, vì người nói Vì các Như Lai khéo nhiếp thọ Giao phó tất cả tạng Phật pháp. Ở trong ba cõi sinh sợ hãi Dùng tâm tịch tónh, thường tu định Thường được gia hộ bởi chư Phật Nói ngàn ức loại Tu-đa-la. Nếu nói ức loại Tu-đa-la Xa lìa tất cả thế gian giáo Tin nơi không tịch, nói nghóa sâu Tiếng tăm vô lượng, đức như biển. Đồng tử! Ta ở vô lượng kiếp Thường khen ngợi họ không gián đoạn Nay ta chỉ nói một phần nhỏ Giống như giọt nước trong biển cả. Khi ấy Phật Thiện Thắng Âm Vương Nói định tối thắng tịch diệt này Lúc đó cõi tam thiên đại thiên Chư Thiên và người đều đông đủ. Khi Đức Phật nói tịch định này Lúc đó đại địa sáu chấn động Số chúng trời, người như hằng sa An trụ không thoái đạo Bồ-đề. Có Nhân Trung Tôn, Vương tối thượng Hiệu Công Đức Lực, đại oai thần Có cả thảy năm trăm người con Nhan mạo đoan chánh, rất đẹp đẽ. Có tám ức phu nhân mỹ diệu Đều là quyến thuộc trong cung vua Vua Công Đức ấy sinh con gái Cả thảy một ngàn bốn trăm ức. Vua ấy, ngày mười lăm tháng tám Liền muốn thọ trì Bát trai giới Cùng với tám ức na-do người Đồng thời đi đến chỗ Như Lai. Cúi lạy Lưỡng Túc Tôn Vô Thượng Liền ở trước Phật, ngồi một bên Như Lai biết tâm vua ưa thích Ngài liền nói Thắng Tam-muội này. Đức vua nghe xong Tam-muội ấy Vứt bỏ ngôi vua như nhổ dãi Cùng bỏ tất cả người thân ái Ở chỗ Đức Phật mà xuất gia. Phu nhân hậu cung, con thuận thảo Và các cung nữ đều xuất gia Quyến thuộc hậu cung và thân tộc Bảy mươi sáu vạn na-do-tha. Vợ con đức vua đã xuất gia An trụ dũng mãnh thường tinh tấn Kinh hành không nghỉ tròn tám năm Trong khi kinh hành thì mạng chung. Đại Thánh Vương này mạng chung rồi Sinh lại nước mình nơi cung vua Bỗng nhiên hóa sinh, không thai nhiễm Bấy giờ Như Lai còn tại thế. Vua cha tên là Kiên Cố Lực Mẹ vua tên là Đại Trí Tuệ Nhà vua sinh rồi thưa phụ mẫu Phật Thắng Âm Vương trụ thế chăng? Khi ấy Như Lai Thắng Âm Vương Từng nói cho ta Thắng Tam-muội Chẳng phải nhân duyên, chẳng vô duyên Ở trong các cõi chỉ nói một. Là ấn khởi tánh tất cả pháp Nói ra vạn ức Tu-đa-la Tài sản vô thượng của Bồ-tát Nay Phật vẫn nói Tam-muội chăng? Thuyết pháp không hoại nơi nhân quả Hay tu tám Thánh đạo tối thắng Trí tuệ Như Lai thấy thế gian Rõ biết các pháp nhập Thánh đế. Thân nghiệp, khẩu nghiệp đều thanh tịnh Ý nghiệp thanh tịnh, tri kiến tịnh Vượt qua tất cả các phan duyên Phật ấy vẫn nói Tam-muội chăng? Hay biết các ấm, giới bình đẳng Xa lìa tất cả tướng các nhập Chứng nơi nhẫn tịch diệt, vô sinh Phật này vẫn nói Tam-muội chăng? Biện tài vô ngại, nhập tịch trí Thấu hiểu văn tự, trí sai biệt Có thể vượt lên các chấp trước Phật ấy vẫn nói Tam-muội chăng? Biết các âm thanh được hân hoan Gặp chư Phật rồi vui khôn xiết Được con đường Thánh thẳng, nhu nhuyến Phật vẫn nói Tam-muội này chăng? Không khởi sân hận, thường thuận hòa Nói lời hay đẹp, luôn mỉm cười Thấy các chúng sinh, trước an ủi Phật vẫn nói Tam-muội này chăng? Cung kính Tôn trưởng, không giải đãi Lễ bái cúng dường mãi chiêm ngưỡng Thân mình thanh tịnh, đủ bạch pháp Pháp vương vẫn nói Tam-muội chăng? Nơi các bạch pháp thường không chán Sống nơi không nhàn lìa tà mạng Nhớ nghó các địa không quên mất Pháp vương vẫn nói Tam-muội chăng? Nơi ấm, trí thiện xảo, thần thông Xa lìa phiền não bậc điều phục Hay đoạn phàm phu, nói lời đạo Pháp vương vẫn nói Tam-muội chăng? Thường hay siêng tu các thắng hạnh Xa lìa phạm giới, biết trì, phạm Và lìa tất cả các ái thân Pháp vương vẫn nói Tam-muội chăng? Vượt qua tất cả các hữu sinh Tự biết kiếp trước lìa các nghi Trong lòng kính pháp, nghe Tổng trì Nay Phật vẫn nói Tam-muội chăng? Pháp sinh thắng trí tuệ lợi lạc Tin thích bất động như núi chúa Được môn Tổng trì không thoái chuyển Thế Thân vẫn nói Tam-muội chăng? Thường cầu tất cả pháp bạch tịnh Ở trong ác pháp thường xa lìa Tâm không du nhập bạn phiền não Như Lai vẫn nói pháp này chăng? Các học cứu cánh, được tự tại Nơi các thiền định đã cùng tột Trí tuệ hay khiến tin, hoan hỷ Mâu-ni vẫn còn thuyết pháp chăng? Tăng trưởng trí Thắng trí, sinh trí Trí tuệ vô lượng, trí bình đẳng Trí tùy sinh biết nơi các thú Vua Mâu-ni thuyết thắng pháp này. Tín tâm xuất gia bỏ thế tục Không đắm ba cõi, không nương tựa Điều phục tâm mình khiến hân hoan Là Phật nói Thắng Bồ-đề này. Ở trong các pháp không chấp trước Thường hay thọ trì tất cả pháp Nơi các nghiệp quả tin bất động Thế Tôn tối thắng nói pháp này. Trí quả báo, giới luật trì, phạm Diệt trừ tất cả các tranh luận Hay nói không trái, không tranh cãi Mâu-ni Lưỡng Túc, nói pháp này. Thọ trì nhẫn nhục không sân hận Thiện xảo nơi các sự hỏi đáp Trí sai biệt biết các pháp cú Thế Tôn Đại Bi nói pháp này. Biết ngằn mé quá khứ, vị lai Hay biết tánh Phật pháp ba đời Trí phần đoạn biết được ba đời Thế Tôn tự nhiên nói pháp này. Thường hay trụ tâm vào một chỗ Thường hay an thân nơi Thánh địa Nơi các oai nghi thường không đổi Nhân Trung Ngưu vương nói pháp này. Có hổ, có thẹn, tự trang nghiêm Biết được thế gian, đúng thời nói Tất cả thường duỗi tay bố thí Thế Thân Vô Thượng nói pháp này. Thường hay nhiếp tâm có hổ thẹn Cũng luôn xa lìa ác, bất thiện Đầu-đà tùy thuận, thường khất thực Bậc Mâu-ni Vương nói thắng pháp. Tâm thường hổ thẹn, thường hân hoan Cúng dường Thế Tôn, hằng cung kính Xa lìa kiêu mạn, tu lễ bái Như Lai nói pháp thắng diệu này. Ngăn tâm hạ liệt, khiến an nhàn Tự hay đo lường ngằn mé trí Xa lìa vô tri, các chướng ngại Thắng nhân như vậy nói pháp này. Hay nhập tâm trí, ngôn ngữ trí Quyết định hay biết các ngôn từ Xa lìa tất cả việc không lợi Như Lai Pháp Vương nói pháp này. Thường được thân cận Thiện tri thức Xa lìa tất cả người bất thiện Thường được tin Phật, không phóng dật Mâu-ni nói pháp Vô thượng này. Biết đời giả danh, chỉ ngôn thuyết Thường chán tất cả khổ thế gian Với lợi, được, mất không mừng, lo Mâu-ni nói pháp tối thắng này. Nếu được cung kính, không tự cao Không được cung kính, tâm buông xả Nếu được xưng tán, tâm không mừng Là Thế Gian Sư nói pháp này. Thường bỏ tất cả các ác đạo Không giao thông với người thế tục Nơi chúng xuất gia không liên can Bậc Trí Tự Nhiên nói pháp này. Người dũng xa lìa chỗ làm sai Thường an trụ nơi việc Phật làm Đầy đủ oai nghi, tâm điều phục Đó là gốc pháp Phật đã nói. Thường xa tất cả pháp phàm ngu Cũng lìa các pháp nhà ô uế Thường hộ tất cả các Phật pháp Pháp này được nói bởi Đại Trí. Ít nói, tốt đẹp khéo tương ưng Đối với người thường nói nhỏ nhẹ Như pháp hàng phục các oán địch Mặt trời giáo pháp Đại trí tuệ. Biết thời, tiết lượng việc ăn uống Cẩn thận chớ tin pháp phàm phu Nếu gặp duyên khổ, tâm không buồn Là giáo pháp thiện thắng của Như Lai. Nếu thấy người tham được của cải Thấy người phá giới khởi lòng thương Dùng lòng Từ mẫn để khai hóa Đó là Thắng pháp Như Lai dạy. Thường dùng pháp nhiếp hóa chúng sinh Và bỏ tất cả các tài sản Đối với tám pháp không chứa nhóm Như Lai Đại Thánh đã dạy vậy. Khen người trì giới, trách phá giới Kiên trì tịnh giới không dối trá Không chứa của cải, thường xả bỏ Là giáo pháp tối thắng Như Lai. Hết lòng thưa hỏi các Sư trưởng Tùy theo lời dạy đều làm theo Thường hay thân cận các Pháp sư Giáo pháp tối thắng Như Lai vậy. Tâm thường ưa thích, hằng cung kính Cũng thường an trụ nơi chánh kiến Nơi các thiện nghiệp hay quyết định Giáo pháp tối thắng Như Lai vậy. Tạo các thiện hạnh là trên hết Phương tiện thiện xảo, vứt bỏ tướng Xa lìa nơi tưởng và việc tưởng Giáo pháp vô thượng của Như Lai. Với Tu-đa-la hay rõ biết Cú nghóa chân thật khéo tu học Chứng trí giải thoát thường thiện xảo Là tối thắng giáo của Như Lai. Mở miệng nói ra lời chánh ngữ Tâm, cảnh tương xưng lời quyết định Tuyên nói điều gì không nghi ngờ Là tối thắng giáo của Như Lai. Thường nên tu tập các pháp không An trụ sức giới, không sợ hãi Du hành tất cả nơi tịch định Là tối thắng giáo của Như Lai. Không cầu thân ái và lợi dưỡng Trong lòng không có các quanh co Xa lìa tất cả các ác kiến Là tối thắng giáo của Như Lai. Nơi Đà-la-ni được thắng biện Trí tuệ chiếu sáng, rộng vô biên Thuyết pháp không dứt, biện tài tịnh Là tối thắng giáo của Như Lai. Nơi bốn pháp môn tụ tập lâu Hay nhập vào hạnh tối hiền thiện Với lời Phật dạy, vâng tu hành Là tối thắng giáo của Như Lai. Nơi lời Phật dạy tùy thuận nhẫn An trụ nhẫn ấy lìa các lỗi Xa lìa phi trí, trụ nơi trí Là tối thắng giáo của Như Lai. Nhờ trí trụ nơi phương tiện địa Tụ tập hạnh thiện xảo Bồ-tát Làm chỗ tu hành của Trượng phu Là tối thắng giáo của chư Phật. Thường lìa phương tiện không đúng pháp Như Lai nói đó là Phật địa Nếu có trí tuệ, Phật tùy hỷ Là tối thắng giáo của Như Lai. Phật địa rộng lớn chẳng hai thừa Phàm ngu không trí sinh hủy báng Người trí được chư Phật nhiếp thọ Là tối thắng giáo của Như Lai. Như Lai khéo biết pháp môn này Chư Thiên cung kính nên cúng dường Ngàn ức Phạm chúng thường tùy hỷ Như Lai vẫn nói Tam-muội chăng? Vô lượng trời, rồng thường lễ bái Khẩn-na, Kim sí thường tán thán Dưới cây Bồ-đề đã chứng đắc Như Lai vẫn nói Tam-muội chăng? Thường vì chỗ người trí mong cầu Chính là tài sản thiện thắng pháp Chẳng phải tài thí vui bậc nhất Như Lai vẫn nói Tam-muội chăng? Kho tàng trí tuệ nói không cùng Có thể nói ức kinh vi diệu Khéo biết ba cõi trí như thật Như Lai vẫn nói Tam-muội chăng? Nói về thuyền bè qua bờ kia Không bị bốn giòng làm trôi nổi Khiến cho tiếng tăm được tăng trưởng Cho nên nói định Tam-muội này. Tán thán mười loại lực tối thắng Và khen Nhân trung Đại Ngưu Vương Công đức Bồ-tát nhiều vô tận Chính nhờ được Tam-muội này vậy. Nói về tâm Từ, trừ sân hận Làm người đại Bi, đại Hỷ, Xả Nơi bậc Đại thừa được sức sống Chính nhờ nói Tam-muội này vậy. Làm sư tử hống nói Thắng hạnh Đó là trí Phật, thắng A-hàm Ấn thể tánh tất cả các pháp Tam-muội như vậy Phật đã nói. Chiêu tập trí Nhất thiết chủng trí Là khu vườn người cầu Bồ-đề Nó hay phá hoại chúng ma quân Gọi là Phật nói Định thắng tịch. Hay sinh công đức của Chánh giác Là Ấn tự tánh tất cả pháp Ấn Diệu pháp, vô sinh, tịch diệt Đạo Sư đã nói Thắng Tam-muội. Với người trụ pháp làm đèn sáng Ở trong oán thù mà không thù Như pháp hàng phục các ma quân Đạo Sư nói Thắng Tam-muội này. Hiển thị sự biện tài vô ngại Các Lực giải thoát và các Căn Mười tám pháp Bất cộng tối thắng Do Tam-muội ấy được pháp này. Cầu mong thật pháp Bậc Thập Lực Bản nhân thắng trí của chư Phật Phật Đại Trượng Phu đã thuyết pháp Vì xót thương, cứu hộ thế gian. Phật tử tối thắng đã nhiếp thọ Người cầu giải thoát còn dục lạc Nghe tịch tónh này khó thấy định Là điều yêu thích các Phật tử. Các Phật đầy đủ sự trí tuệ Trí tuệ Bồ-tát khởi tâm cầu Trong tâm thanh tịnh không phiền não Nên tu định tịch diệt như vậy. Thân nghiệp thanh tịnh, miệng cũng vậy Như Lai chỉ bày cửa giải thoát Không có tạp uế, ái dục trói Cần phải siêng tu Tam-muội này. Không sinh tham ái và sân nhuế Mau chóng đạt được Đại trí tuệ Hay khởi ánh sáng diệt vô minh Cho nên phải tu định tịch diệt. Người cầu giải thoát được viên mãn Người cầu Tam-muội liền đạt được Lìa sự khen chê, mắt Như Lai Cần phải tu tập Tam-muội này. Thần thông du hành nhiều cõi Phật Thần túc thấy công đức chư Phật Đà-la-ni môn được không khó Cần tu định thắng tịch như vậy. Gia trì niệm căn, được Bồ-đề Cũng hay gia trì thấy nhiều Phật Dùng trí vi tế nói vô sinh Tu Tam-muội này được không khó. Hành không đúng pháp khó giác ngộ Nhờ xa lìa tất cả văn tự Không dùng âm thanh mà hiểu rõ Không từng nghe định nên không biết. Trí tuệ Bồ-tát đã hiểu rõ Như Pháp Vương nói mà hay biết Tịch diệt không hủy đo lường được Chỉ vì cứu độ thế gian vậy. Dũng mãnh, tinh tấn khéo gìn giữ Kiên cố hộ niệm hằng không mất Trí tuệ dứt khổ và diệt trí Phật vẫn nói Tam-muội này chăng? Diễn thuyết tất cả pháp không sinh Cũng nói tất cả các cõi sinh Chư Phật Như Lai diệu trí tuệ Phật vẫn nói Tam-muội này chăng? Pháp này Đồng tử đã hiển thị Tám mươi ức ngàn na-do-tha Được âm thanh nhẫn, thắng, tùy thuận Không thoái chuyển với Thắng Bồ-đề. Vua Kiên Cố Lực bảo con rằng: “Đức Phật Thế Tôn nay vẫn còn”. Vua hỏi Đồng tử như thế này: “Con ở chỗ nào nghe pháp này?” Con thưa: Lắng nghe Sát-lợi vương, Con từng gặp được mười ức Phật Cứ trong mỗi kiếp đều cúng dường Thưa hỏi đầy đủ tịch định này. Đã qua trong chín mươi bốn kiếp Thường được hiểu rõ trí túc mạng Từ đó không sinh trong bào thai Chính nhờ tu sức Tam-muội này. Ở chỗ Đức Phật hằng nghe pháp Nghe rồi thâm tín mà tu tập Con thường tin kiên cố như vầy Chắc chứng Bồ-đề quyết không nghi. Khi thọ trì, đọc tụng Tam-muội Nếu có người đến hỏi với con Cho đến trong mộng, không nghi hoặc Cần phải thành tựu đạo Vô thượng. Con nhờ đó được không tham ái Tự biết quyết định sẽ thành Phật Cũng thường sinh ưa thích như vầy: Không biết khi nào được Bồ-đề? Vì học thọ trì Thắng Tam-muội Nếu có Tỳ-kheo dạy cho con Con sinh cung kính với người đó Cũng như cung kính với chư Phật. Người kia dạy con một bài kệ Khi tu hành thuận nhẫn Bồ-tát Lòng thành chiêm ngưỡng như thầy hay Khiêm hạ cung kính mà cúng dường. Chỗ Tỳ-kheo trung niên, già, trẻ Hổ thẹn, khiêm hạ sinh cung kính Cung kính nơi ấy được danh xưng Đời sau phước đức, đang tăng trưởng. Với chuyện tranh cãi, không ưa thích Lúc đó con an trụ thiểu sự Rõ biết ác nghiệp sinh ác đạo Biết được thiện nghiệp sinh thiện đạo. Không nên nói pháp kẻ phóng dật Với họ nghe toàn lời thô bỉ Cũng tự suy tư nghiệp ác mình Đã tạo nghiệp rồi không hề mất. Lúc đó con không sân, không mạn Phật nói nhẫn lực siêng tu hành Chư Phật luôn luôn khen sự nhẫn Tu nhẫn dễ được đạo Bồ-đề. Con vốn trì giới luôn thanh tịnh Cũng khiến chúng sinh trụ tịnh giới Luôn luôn tán thán giới tối thượng Do sống tịnh giới, người tín thọ. Luôn luôn khen ngợi chỗ nhàn tịnh Cũng tự an trụ trì tịnh giới Khuyên người tu hành tám trai giới Cũng lại dạy người học Bồ-đề. Khuyên người tu tập tịnh phạm hạnh Cũng lại dạy họ trụ nghóa pháp Vì họ hiển bày đạo Bồ-đề Sau khi mạng chung thấy nhiều Phật. Con nhớ khi ở kiếp quá khứ Có Phật hiệu là Diệu Thanh Nhân Trước Đức Phật ấy phát nguyện lớn Hằng trụ sức nhẫn không lay động. Khi xưa phát thề sâu như vậy Trải qua tám ức bốn vạn năm Khi ma hủy báng đến ma nhục Tâm con như trước không biến động. Bấy giờ hàng phục ma quân xong Biết sức từ nhẫn con kiên cố Đem tâm thanh tịnh lạy dưới chân Năm trăm chúng phát tâm Bồ-đề. Thời quá khứ con không keo kiệt Luôn luôn tán thán hạnh bố thí Giàu có của cải có tiếng tăm Gặp thời đói kém làm thí chủ. Nếu có Tỳ-kheo trì định này Có thể tu tập, nói cho người Liền tự thường hằng cúng dường họ Nhờ có tâm này khiến thành Phật. Lúc con có nghiệp vô thượng ấy Thấy Phật Thế Tôn, Nhân Trung Tôn Đời đời thường thọ giới Cụ túc Được làm Tỳ-kheo, nghe Pháp sư. Con thường thích tu hạnh Đầu-đà Cũng ở rừng Lan-nhã không tịch Không vì ăn uống mà dối láo Được một phần nhỏ, đều thấy đủ. Mọi lúc con không hề ganh ghét Con thường không đắm trước tại gia Không đắm trước nhà, không ganh ghét Ưa thích nhàn tịnh, không thoái lui. Lúc đó con luôn hành hạnh Từ Nếu bị chửi mắng không sân hận Dùng tâm Từ bi, khéo điều phục Vòng hoa danh tiếng khắp mười phương. Thường tập thiểu dục mà tri túc Thích sự khổ hạnh, tu nhàn tịnh Cũng thường khất thực, không mệt mỏi Thệ nguyện kiên cố không lay động. Tập hành tín tâm, thường thanh tịnh Ở chỗ Như Lai tín thăng thượng Bởi nhờ tin Phật có lợi lạc Các căn không khuyết thường đoan chánh. Như điều Phật nói liền thực hành Thành tựu hạnh kiên cố như vậy Hạnh kiên cố này có lợi gì? Chư Thiên cúng dường vui khuyến thỉnh. Con đã nói công đức diễn thuyết Thượng đức thế gian và đức khác Nếu có người trí nên tu học Làm người hành đạo cầu Bồ-đề. Nay con hằng nhớ hạnh khó làm Mà thuở xưa kia thường tu tập Nếu nay diễn thuyết thời gian lâu Cùng họ theo đến chỗ Đức Phật. Bồ-tát thắng trí đạt lợi này Đạt được đầy đủ năm thần thông Nhờ sức thần túc đến chỗ Phật Cùng Phạm thiên vương cả ngàn vạn. Vua Kiên Cố Lực tâm hoan hỷ Cùng các quyến thuộc, ức vạn chúng Đồng đi đến chỗ Đức Như Lai Đảnh lễ dưới chân đứng trước Phật. Khi Phật biết tâm vua hoan hỷ Liền nói cho vua Tam-muội này Đức vua nghe Tam-muội này xong Vứt bỏ ngôi vua mà xuất gia. Vua đã xuất gia, với định này Thọ trì đọc tụng, nói cho người Mãi về sau, hơn sáu mươi kiếp Thành Phật hiệu là Liên Hoa Thượng. Vua có sáu trăm ức quyến thuộc Đồng lúc theo vua đến chỗ Phật Họ nghe Thắng Tam-muội như vậy Vui mừng vô hạn cũng xuất gia. Họ xuất gia rồi, với định này Thọ trì, đọc tụng, nói cho người Hơn sáu mươi na-do-tha kiếp Cùng trong một kiếp đều thành Phật. Hiệu Phật Thiện Điều Phục Trí Thượng Vô lượng người, trời cùng cúng dường Mỗi một Đức Phật tiếng tăm lớn Độ thoát chúng sinh hằng hà sa. Vua Kiên Cố Lực là thân ta Tu hành hạnh Bồ-đề thắng diệu Thuở xưa ta có năm trăm con Bọn họ sau này làm hộ pháp. Nơi ngàn ức kiếp ta như vậy Dũng mãnh tinh tấn, lìa giải đãi Chuyên tâm cầu Thắng Tam-muội này Chính là Vô thượng Bồ-đề vậy. Đồng tử! Nếu có các Bồ-tát Muốn đạt được như thắng định này Tinh tấn, dũng mãnh, không tiếc mạng Cần phải học ta siêng tinh tấn. KINH NGUYỆT ĐĂNG TAM-MUỘI <卷 id="104089329">QUYỂN 5 Đức Phật lại bảo Đồng tử Nguyệt Quang: –Nếu Đại Bồ-tát đối với kinh điển Tam-muội này mà thọ trì, đọc tụng, vì người giải thuyết như pháp tu hành thì sẽ được bốn công đức. Những gì là bốn? 1.Thành tựu đầy đủ phước đức. 2.Không bị oan gia làm hại. 3.Thành tựu trí tuệ vô biên. 4.Thành tựu vô lượng biện tài. Này Đồng tử! Nếu có Đại Bồ-tát có thể đối với kinh điển của Tam-muội này mà thọ trì, đọc tụng, hộ niệm, tư duy, rộng nói cho người khác thì sẽ đạt được bốn loại công đức như vậy. Bấy giờ Đức Thế Tôn nói bài kệ: Phước đức thành tựu hằng đầy đủ Ở trong mọi lúc thường không đoạn Nhờ thọ trì Tam-muội như vậy Đạt được cảnh giới chư Như Lai. Công đức dũng kiện được gìn giữ Ở trong mọi lúc thường thành tựu Tu hành định thắng tịch như vậy Đạt được thắng Bồ-đề vô thượng. Sẽ không có tất cả oán địch Thường không bị oán địch làm hại Thành tựu trí tuệ đều viên mãn Ở trong mọi lúc thường không đoạn. Người ấy thành tựu trí vô lượng Cũng lại đầy đủ tuệ vô biên Vô lượng, vô biên thắng biện tài Vì nhờ thọ trì thắng định vậy. Thành tựu đầy đủ phước đức tụ Cũng thành hạnh Bồ-tát thắng diệu Không có tất cả các oán địch Nhờ trì thắng định tịch diệt này. Trí tuệ rộng lớn thật vô biên Cũng thành vô biên thắng biện tài Âm thanh mỹ diệu thật đáng ưa Nhờ nói thắng định như thế đó. Được bậc trí bạn lành mến yêu Có thể tuyên thuyết về tự nghóa Mọi người đều biết kho phước này Nhờ tuyên thuyết thắng định như vậy. Được lợi dưỡng lớn, y phục đẹp Cũng được món ăn rất thắng diệu Nhan mạo đoan chánh thật khả ái Nhờ thọ trì tịch định như vậy. Thấy nhiều chư Phật bạn thế gian Dùng vật tuyệt hảo cúng chư Phật Không có tất cả các chướng nạn Nhờ trì thắng định như vậy đó. Ở trước Đức Phật mà tán thán Tâm vui nói hằng trăm diệu kệ Nơi trí tuệ ấy không hao tổn Vì nhờ nói tịch định như vậy. Thế Tôn Thập Lực ngồi ở trước Tướng tốt trang nghiêm thân khả ái Trong sạch thanh tịnh như núi vàng Nhờ tu thắng định như vậy đó. Trí ấy chưa từng có tổn giảm Trí tuệ đa văn cũng sung mãn Thành tựu đại pháp tạng tối thắng Nhờ nói Tam-muội như vậy đó. Trí tuệ rộng lớn, không hạn lượng Nhiều hằng trăm kiếp nói không hết Nghe tịnh định sâu xa như vậy Như lời Phật dạy mà an trụ. Không sinh tất cả các nạn xứ Phật tử như vậy luôn làm vua Trị nước như pháp, thường an ổn Nhờ thọ trì thắng định như vậy. Vô lượng vô biên ức số kiếp Thập Lực nói công đức lợi lạc Dù nói phần nhỏ cũng không hết Giống như giọt nước trong biển cả. Bấy giờ Đồng tử rất hân hoan Liền từ tòa, sửa y, đứng dậy Chắp mười ngón tay hướng Đức Phật Hết sức hoan hỷ tán thán rằng: Thế Tôn, Đại Hùng rất kỳ đặc Vì thân với đời, làm ánh sáng Bậc Đại Mâu-ni nói công đức Hiển thị thắng lợi ích như vậy. Đại Thánh Thế Hùng nói cho con Mong Phật xót thương cứu hộ con Người nào có thể đời mạt thế Lắng nghe Tu-đa-la như vậy? Ca-lăng, Tần-già, tiếng diệu âm Sấm sét sâu xa, tiếng hân hoan Đầy đủ vô lượng thắng trí tuệ Phật bảo Đồng tử Nguyệt Quang rằng: “Nay ông lắng nghe, ta sẽ nói Hạnh vi diệu, tối thắng, vô thượng Nếu người muốn thọ trì nơi pháp Lắng nghe kinh Tam-muội như vậy. Hết lòng cúng dường tất cả Phật Dùng tâm thanh tịnh cầu trí Phật Lại nên tu tập tâm Từ bi Lắng nghe Tu-đa-la như vậy. Thành tựu Đầu-đà lìa lỗi lầm Tu hạnh tịch tónh, rừng công đức An trụ trí thượng diệu đại thắng Lắng nghe thọ trì kinh Tam-muội. Các chúng sinh làm điều ác hạnh Cùng với người hủy phá cấm giới Các bọn Tỳ-kheo ác như thế Không thể nghe kinh Tam-muội này. Dũng mãnh tu hành các phạm hạnh Tâm ấy không có các uế trược Thường được chư Phật đều gia hộ Kinh này sẽ trao tay người ấy. Nếu ai đối với vô lượng Phật Hầu hạ, cung kính tu cúng dường Người ấy khi sinh đời mạt thế Kinh này sẽ đến tay người đó. Nếu ai đối với đời quá khứ Ở trong ngoại đạo, làm hạnh ác Người ấy nghe Tu-đa-la này Trong tâm không vui, sinh ganh ghét. Ở trong Phật pháp được xuất gia Không vì Niết-bàn cầu sinh sống Vì tham, tật đố tự trói buộc Nên mới bài báng kinh điển Phật. Tham đắm nhà người, sinh keo kiệt Nên bị ma Ba-tuần sai xử Chuyên cầu lợi dưỡng phá cấm giới Ở trong Phật pháp ắt không tin. Bởi kiếp trước không trồng căn lành Chưa được trí tuệ sinh kiêu mạn Nương vào ngã kiến, phàm phu ngu Tâm cũng không tin đời mạt thế. Nơi thế gian này, trong thiền định, Liền bảo đã được tưởng chứng quả Cho mình La-hán, nhận cúng dường Họ sẽ hủy báng thắng Bồ-đề. Tất cả những chỗ ở Diêm-phù Hủy báng tất cả tháp miếu Phật Nếu ai hủy báng Bồ-đề Phật Mắc tội to lớn hơn người kia. Nếu ai sát hại A-la-hán Tội ấy vô lượng, vô biên số Nếu ai hủy báng Tu-đa-la Mắc phải tội báo hơn người kia. Ai hay với kinh, tâm dũng mãnh Ở thời mạt thế trong ác trược Khi chánh giới, chánh pháp hủy hoại Nói rõ Tu-đa-la như vậy. Đồng tử buồn khóc, rồi đứng dậy Vòng tay, cúi đầu phát nguyện rằng: Sáng nay con nơi Sư Tử Hống Ở trước Pháp Vương, Bậc Tối Thắng, Sau khi Đức Như Lai diệt độ Con ở thời ác thế, mạt thế Xả bỏ thân mạng không tiếc nuối Hoằng dương Tu-đa-la như vậy. Hay nhẫn kẻ ngu, nói lời đạo Hủy báng không thật, rất tổn nhục Chửi mắng, khinh khi và khủng bố Dũng mãnh tinh tấn mà nhẫn thọ. Trừ khử tất cả các nghiệp ác Ở đời quá khứ đã tạo ra Trong lòng không sinh sự sân hận Ắt sẽ an trụ trong Phật pháp. Tay sắc vàng Diêm-phù tịnh diệu Xoa trên đảnh Đồng tử Nguyệt Quang Như Lai phát ra tiếng hòa nhã: “Đồng tử Nguyệt Quang đại oai đức”. Nay ta đang gia hộ cho ông Ở đời mạt thế về sau này Không để ông bị các chướng nạn Mạng khó phạm hạnh các chướng ngại. Lại có người khác nhất thời khởi Tỳ-kheo trì pháp tám trăm người Tự nói: “Ta ở đời mạt thế Ắt sẽ hộ trì kinh điển này”. Bấy giờ nhiều ức Dạ-xoa, Rồng Tức thì từ tòa mà đứng dậy Lại có tám na-do-tha khác Thưa thỉnh Thế Tôn lời như vầy: Chúng con ở chỗ Tỳ-kheo này Vừa nói từ tòa mà đứng dậy Vào thời mạt thế, đời ác thế Con quyết ủng hộ Tỳ-kheo ấy. Nên biết khi nói kinh như vầy Bởi nhờ thần lực Phật gia hộ Tất cả hằng hà sa số cõi Vô lượng cõi Phật đều chấn động. Tùy chỗ chấn động các thế giới Tùy chỗ ứng hóa thành nhiều Phật Do Phật Thích-ca biến hóa ra Diễn thuyết Tu-đa-la như vậy. Tất cả hiện có các cõi Phật Ức chúng sinh không thể nghó bàn Đều được lắng nghe thắng pháp này An trụ trí Như Lai chư Phật. Ở trong cõi Phật, thế giới này Số có chín ức chúng chư Thiên Tất cả đều phát tâm Bồ-đề Liền ở chỗ Phật rải diệu hoa. Có các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni Ưu-ba-bà-tố, Ưu-bà-di Số đến bảy ức sáu ngàn vạn Đều được nghe Tu-đa-la này. Đức Mâu-ni vương thọ ký họ Ắt sẽ thấy Lưỡng Túc Tôn ấy Số lượng giống như hằng hà sa Đều được tu tập hạnh Bồ-đề. Cúng dường cung kính chư Phật ấy Vì để cầu trí tuệ Như Lai Đều hay ở chỗ chư Phật kia Được nghe diệu kinh điển như vậy. Trải qua trong số tám ức kiếp Đều sẽ được thành Bậc Như Lai Bậc phước đức ấy trong một kiếp Độ thoát chúng sinh khiến an lạc. Ở chỗ Đức Như Lai Di-lặc Đặt bày thắng cúng dường vô thượng Khéo trì chân diệu pháp Phật ấy Đều được vãng sinh nước An lạc. Đức Như Lai lìa cấu uế đó Tên của Phật là A-di-đà Nơi ấy rộng bày thắng cúng dường Để cầu Bồ-đề vô thượng vậy. Trải qua bảy mươi a-tăng-kỳ Đầy đủ trong số kiếp như vậy Không rơi vào tất cả ác đạo Được nghe Thắng kinh điển như vậy. Nếu ai về sau, đời vị lai Lắng nghe Tu-đa-la như vậy Nghe xong, khóc lóc mà rơi lệ Ta đã cúng dường nơi người ấy. Nay ta khuyên bảo cho tất cả Những người hiện tại ở trước ta Do đây nên được đạo Bồ-đề Vì vậy phó chúc kinh điển này. Cho nên, này Đồng tử! Đại Bồ-tát nếu muốn cầu Tam-muội như vậy, pháp chẳng nghó bàn chư Phật đã nói như vậy cần phải biết một cách khéo léo, đối với pháp Phật chẳng nghó bàn, cần phải thưa hỏi, cần phải thâm tín pháp Phật chẳng nghó bàn, cần phải thiện xảo, cầu pháp Phật chẳng nghó bàn. Nghe pháp Phật chẳng nghó bàn chớ ôm lòng sợ hãi, chớ tăng thêm sự sợ hãi, chớ luôn luôn sợ hãi. Bấy giờ Đồng tử Nguyệt Quang thưa Đức Phật: –Bạch Thế Tôn! Thế nào là Bồ-tát đối với pháp Phật chẳng nghó bàn cần phải biết một cách khéo léo? Thế nào là đối với pháp Phật chẳng nghó bàn cần phải cầu thỉnh, thưa hỏi? Thế nào là đối với pháp Phật chẳng nghó bàn cần phải thâm tín thanh tịnh? Thế nào là nghe pháp Phật chẳng nghó bàn không sinh sợ hãi, mãi không sợ hãi? Bấy giờ có con của Càn-thát-bà tên là Ban-giá-thi-khí, cùng với năm trăm người con khác của Càn-thát-bà, đồng lúc đem âm nhạc, nhiều loại nhạc khí, đi theo sau Đức Phật, muốn tấu lên cúng dường Đức Phật. Bấy giờ Ban-giá-thi-khí, nghó như vầy: “Như ta trước đây đối với Đế Thích Kiều-thi-ca và trời Tam thập tam đã bày biện cúng dường. Nay ta nên đem ca vịnh, âm nhạc cúng dường Đức Như Lai, Bậc Thiên Trung Thiên, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri.” Khi ấy Ban-giá-thi-khí, con của Càn-thát-bà, cùng với năm trăm người con khác của Càn-thát-bà đều cùng lúc đánh đàn lưu ly, tấu lên lời ca vi diệu. Bấy giờ Đức Thế Tôn nghó như vầy: “Ta dùng thần lực du hý vô tác, khiến cho Đồng tử Nguyệt Quang ấy ở trong pháp Phật chẳng nghó bàn, được trụ nhất tâm. Lại khiến cho con của Càn-thát-bà là Ban-giá-thi-khí… nhạc khí và âm thanh ca hát của họ, làm cho hiện ra sự thù diệu.” Khi ấy Đức Phật dùng thần lực nên khiến cho năm trăm âm nhạc, khéo tương xứng hòa nhã, phát ra âm thanh vô dục, âm thanh thuận với pháp, âm thanh phù hợp với pháp. Đó gọi là tương ưng với pháp Phật chẳng nghó bàn. Bài kệ nói rằng: Trên một sợi lông, hiện nhiều Phật Con số giống như cát sông Hằng Quốc độ cõi Phật cũng như vậy Thể cõi Phật ấy: Không, Vô tướng. Trên đầu sợi lông, hiện năm đường Đó là: Địa ngục, các súc sinh Với các ngạ quỷ và trời, người Thảy đều mát mẻ, không bức não. Nơi lỗ lông kia hiện biển, ao Cùng các dòng sông và giếng, suối Thảy đều không bức hại lẫn nhau Gọi là Phật pháp chẳng nghó bàn. Trên một đầu lông hiện các núi Chiết-ca-bà-la và Tu-di Mục-chân-lân-đà, Đại mục-chân Đó là Phật pháp chẳng nghó bàn. Trên đầu sợi lông hiện địa ngục Tiêu nhiệt, Hàn băng và Phẩn niệu Có các chúng sinh sống ở đó Thọ lãnh vô lượng sự khổ não. Trên đầu sợi lông, hiện Thiên cung Cung đẹp, rộng lớn, sáu mươi dặm Lông chứa chư Thiên số vô lượng. Chứa đủ chư Thiên rất khoái lạc Trên đầu lông ấy, Phật xuất thế Trong đó Phật pháp rất thạnh vượng Người không trí tuệ không thể thấy Túc nghiệp như vậy hành bất tịnh. Trên đầu lông, nghe Phật Niết-bàn Hoặc lại nghe rằng pháp diệt tận Trên đầu sợi lông hoặc lại nghe Nay Phật hiện tại đang thuyết pháp. Hoặc lại có người trên sợi lông Cho: Thọ mạng mình vô cùng tận Hoặc trên đầu lông, nghe mạng yểu Sinh ra liền diệt, chẳng lâu dài. Hoặc lại nơi lông, tưởng như vầy: Ta được thấy Phật, bày cúng dường Phật cũng không hiện, không cúng dường Nghó tâm mình tưởng mà hoan hỷ. Giống như có người ở trong mộng Đam mê năm dục, hưởng khoái lạc Thức rồi không thấy sự dục lạc Chỉ vì trong mộng, vọng thấy vậy. Cái thấy, cái nghe, nhớ nghó pháp Giống như mộng tưởng, không chân thật Nếu ai chứng được Tam-muội này Đều hay biết rõ pháp như vậy. Ở trong thế gian hằng thọ lạc Gọi yêu, không yêu, không tham trước Thường hay ưa thích ở núi rừng Hằng thọ cái vui như Sa-môn Nếu ai không có các chấp trước Xa lìa tất cả các ngã sở Du hành thế gian như tê giác Như gió trên trời không chướng ngại. Tu tập nơi đạo, khởi thật trí Tất cả các pháp không, vô ngã Nếu ai hay tu pháp như vậy Người ấy biện tài vô cùng tận. Người này mãi thọ sự khoái lạc Trong lòng không đắm việc thế gian Tâm ấy giống như gió trên trời Với yêu, không yêu, không đắm trước. Với người không yêu, khó sống chung Với người thân ái khó xa lìa Vứt bỏ hai loại bạn như vậy Chuyên cầu chánh pháp là người vui. Nếu ai lắng nghe, tham ái khởi Người ấy sẽ khởi tâm sân hận Bị ngu, si, hôn, mạn trói buộc Vì lực ngã mạn nên khổ não. Nếu ai hay trụ nơi bình đẳng Khéo hay khiêm hạ, không cao mạn Yêu hay không yêu khéo giải thoát Người ấy thường sống hạnh hoan hỷ. An trụ nơi giới, khéo thanh tịnh Nhờ tâm vô cấu, vui Thiền định Hằng thường thích sống trong núi rừng Người ấy mãi lìa các lưới nghi. Nếu ai nghi hoặc, có điên đảo Ngu si mãi thích các dục lạc Giống như chim Thứu tham thi thể Người ấy tự mình theo ma lực. Khi nói kệ xong, Đồng tử Nguyệt Quang ở trong Phật pháp thậm thâm chẳng nghó bàn được an trụ nhất tâm, có thể diễn thuyết Tu-đa-la. Bấy giờ Càn-thát-bà Ban-giá-thi-khí… được âm thanh Nhẫn tùy thuận, vô lượng, vô biên chúng sinh phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, vô lượng chúng sinh ở trong trời, người đều được an ổn, lợi ích. Bấy giờ Đức Phật bảo Đồng tử Nguyệt Quang: –Đại Bồ-tát đối với các pháp lợi lạc công đức thiện căn cần phải khéo quyết định, không nên nhiều việc, nên lìa ác tri thức, cần nương vào Thiện tri thức khéo biết chỗ thưa hỏi thích ứng, vui thích nghe pháp không hề nhàm chán cần phải hoan hỷ, cần phải cầu pháp, thường nhiếp nơi pháp, nên nói chánh pháp, cần phải khéo léo thưa hỏi Bồ-tát, đối với Bồ-tát nên nghó đó là thầy của mình, đối với Pháp sư cần phải tôn trọng tưởng như thầy mình. Này Đồng tử! Nếu có Bồ-tát có thể thọ trì và thực hành pháp này thì người ấy được đầy đủ biện tài chẳng nghó bàn, được niềm tin, thâm nhập vào biển Phật pháp chẳng thể nghó bàn, ở trong người và trời có thể làm đèn sáng. Bấy giờ Đức Thế Tôn nói bài kệ: Ở thời quá khứ nhiều ức kiếp Không thể đo lường, chẳng nghó bàn Bấy giờ có Phật, Lưỡng Túc Tôn Hiệu Nhân-đà-la Phan Tràng Vương. Lúc đó Phật nói Tam-muội này Rằng không chúng sinh, không thọ mạng Giống như bọt nước và điện chớp Các pháp cũng như trăng dưới nước. Thọ mạng chúng sinh chẳng thể nắm Mất ở cõi này, sinh cõi khác Những nghiệp đã làm không hề mất Nghiệp báo trắng, đen cũng không mất. Nhân quả tương ưng, thắng pháp môn Cảnh giới Phật vi tế khó thấy Văn tự, cú nghóa chẳng thể nắm Diệu Bồ-đề này Phật đã nói. Đại trí tuệ tích tụ Tổng trì Ức na-do-tha Kinh từ định xuất Vô số chư Phật đã hành đạo Như Tam-muội này là Phật nói. Khéo hay hoại diệt các bệnh hoạn Chúng Bồ-tát tích tập công đức Tất cả chư Phật đều khen ngợi Hằng ức chư Thiên đều cúng dường. Nơi các phàm phu nói lời thật Thường lìa tất cả pháp ngoại đạo Chư Phật ngợi khen giới thù thắng Như điện trong không khó nắm bắt. Vô lượng ức chỗ Phật quá khứ Bậc trí tu hành nơi giới, thí Phải sớm xa lìa ác tri thức Được của cha truyền thật vô thượng. Nếu có Tỳ-kheo là Pháp sư Tuệ Nhật Tử tu hành phạm hạnh Nghe được pháp này mà tùy thuận Phát tâm Bồ-đề thật tối thượng. Đức Phật Nhân-đà-la Phan Tràng Bảo Tỳ-kheo Pháp sư kia rằng: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo! Khó thứ nhất Đối với Bồ-đề phát tâm khó Giữ giới giống như ngọc ma-ni Thân gần bạn lành, thuận Bồ-đề Với ác tri thức, luôn xa lìa Mau được quả Vô thượng Bồ-đề. Xưa kia ở cõi Diêm-phù này Hai con trưởng giả không phóng dật Ở trong Phật pháp mà xuất gia Giống như tê giác sống núi rừng. Đạt được bốn Thiền, có thần thông Giỏi các kệ luận, không sợ hãi Đất và hư không đều biết rõ Đi trên hư không như chim bay. An trụ ở trong chốn Hàn lâm Rừng hoa tươi tốt, rất kỳ đặc Tất cả chim lạ đều bay đến Hai trưởng giả tử cùng nói chuyện. Bây giờ có vua đang đi săn Nghe tiếng nói chuyện liền đi đến Đức vua cung kính lắng nghe pháp Đối với Pháp sư thêm ái kính. Đức vua cùng nhau đến thăm hỏi Nói lời ấy rồi, ngồi ở trước Nhà vua có rất nhiều quyến thuộc Đi theo nhà vua sáu ức người. Một trong hai vị là Pháp sư Thấy vua bảo rằng: Hãy lắng nghe! Chư Phật ra đời rất khó gặp Cúi mong đại vương chớ phóng dật. Thọ mạng quá nhanh, chẳng dừng lâu Như nước trên núi đổ xuống biển Bị già, bệnh, chết làm bức bách Không ai cứu được, nghiệp như mình. Cúi mong đại vương giữ chánh pháp Kiến lập pháp chư Phật Thập Lực Về sau mạt thế, đời ác trược Cần phải trụ đó như bạn pháp. Như vậy vô lượng, người thông tuệ Vì lòng Từ nên nói với vua Vua và sáu ức các quyến thuộc Đều phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Khi vua nghe Tịnh pháp cú này Lời vi diệu, tịch diệt, nhu nhuyến Thiện tâm vui sướng mà ái lạc Đầu mặt lễ kính rồi tạ từ. Khi ấy vô lượng Tỳ-kheo khác Vì lợi dưỡng nên vào cung vua Vua biết bọn họ hạnh không chánh Với người có đức, không cung kính. Pháp Đạo sư quá khứ khó diệt Thời vị lai ác thế tăng trưởng Con người đạo đức rất là ít Có nhiều vô lượng kẻ phóng dật. Các Tỳ-kheo cang cường, xan, mạn Vì cầu lợi dưỡng, đắm các kiến Ở trong Phật pháp không hiểu chánh Đem các phi pháp nói cho vua Cần phải giết chết Pháp sư kia Vì nói với vua pháp Không, Đoạn Khuyên vua và tôi tu Không, Đoạn Chẳng chỉ cho vua chân Niết-bàn Nơi nghiệp báo ấy đều tán hoại Kẻ nịnh nói ấm vốn không vô. Nếu có thể giết Pháp sư ấy Sẽ khiến đại pháp được lâu dài Bấy giờ thường có Thần hộ vua Thiện tri thức quá khứ của vua. Luôn luôn giúp vua lìa các ác Trời ấy nói vua lời như vầy: Vua cẩn thận chớ khởi tâm ấy Lời ác tri thức rất đáng sợ. Chớ đối với Pháp sư thông tuệ Nghe lời người ác mà giết hại! Đại vương lẽ nào chẳng nhớ lại Tỳ-kheo giữa rừng đã nói rằng: Về sau mạt thế, thời ác trược Vua nên an trụ bạn như pháp Trời vì đức vua nói lời thật Nơi pháp chư Phật chớ xa lìa. Nhà vua lại có người em ác Ở tại biên cương giữ cõi nước Lúc Tỳ-kheo ác đến giáo hóa Bảo giết Pháp sư nói: Không, Đoạn. Khuyến ta thuở xưa từng tu hành Không muốn cho ta cầu Niết-bàn Đại vương anh ngài rất ngu, ác Trong lòng không muốn để ngài sống. Có hai Tỳ-kheo là ác sư Dùng sức thần thông bay lên không Vì ta biết được sẽ đến đây Nay đã nói hết cho đại vương. Ngài nên giết ngay hai tà sư Như vậy kịp thời, sau khỏi hối Vương đệ tức thời liền cầm gậy Theo lời người ác nên đến đó. Cùng với tất cả các quân chúng Đi đến trong rừng chỗ Tỳ-kheo Ở rừng ấy có Rồng, Dạ-xoa Biết em của vua ác tâm đến. Mưa cát, gạch, đá rất hãi hùng Vua và binh chúng đều chết sạch Nay phải thấy lời ác tri thức Diệt sạch chúng đại vương như vậy. Nơi chỗ Pháp sư, khởi tâm sân Trong sáu mươi đời đọa A-tỳ Khi ấy ác Tỳ-kheo chấp trước Khuyến hóa Sát-lợi vương như vậy. Về sau suốt cả mười ức đời Chịu vô lượng khổ ở địa ngục Vị trời khuyên dẫn đức vua ấy Và các người ủng hộ Pháp sư. Thấy được hằng hà sa số Phật Hầu Phật, cúng dường và tu hành Quyến thuộc của vua đủ sáu ức Đều đi theo vua để nghe pháp. Và họ đã phát được đạo tâm Thế giới khác nhau được thành Phật Đức Phật thọ mạng nhiều ức năm Trí tuệ vô đẳng, chẳng nghó bàn. Chư vị đều tu Tam-muội này Nói xong, thảy đều Bát-niết-bàn Được nghe trí thắng diệu như vậy Tích tập pháp công đức tịnh giới Dũng mãnh, tinh tấn, không phóng dật Thường xa tất cả ác tri thức. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát phải không đắm trước thân, có thể vứt bỏ mạng sống. Vì sao? Này Đồng tử! Nếu đắm trước thân thì tạo nghiệp bất thiện, cho nên, Bồ-tát phải biết sắc thân và Pháp thân. Vì sao? Vì Pháp thân của chư Phật chẳng thuộc về Sắc thân. Đức Phật dùng Pháp thân hiển hiện, chẳng phải Sắc thân vậy. Này Đồng tử! Cho nên Đại Bồ-tát muốn hành hạnh Phật, muốn cầu thân của Như Lai, muốn cầu trí Như Lai, muốn biết thân Như Lai, muốn biết trí Như Lai, đối với kinh điển của Tam-muội này cần phải thọ trì, đọc tụng, rộng nói cho người khác, tu tập tương ưng. Này Đồng tử! Thân của Như Lai xuất sinh vô lượng phước đức. Đức Như Lai chỉ nói một nghóa, nghóa là các pháp từ nhân sinh ra, là lìa các tướng, vì sâu xa vậy; pháp không hạn lượng, vì không ngằn mé vậy; pháp không có tướng, vì không tánh tướng; pháp không có tướng, vì lìa các tướng; pháp không lay động, vì khéo an trụ; pháp không có hai, vì chỉ có một tướng; pháp không thể thấy, vì vượt qua cảnh giới của mắt; pháp không thể suy nghó vì vượt qua lónh vực của tâm; pháp không động chuyển, vì lìa hý luận; pháp không thể nói, vì vượt qua âm thanh; pháp không có chỗ ở, vì lìa nhà cửa; pháp không có hang, nhà, vì lìa ngôn âm; pháp không có chỗ dựa, vì vượt qua các kiến; pháp không có các lậu, vì vượt qua các quả báo; vì tâm kiên cố, nên lìa các dục; vì tâm bất hoại, nên lìa các sân hận; nhờ chánh trí kiên cố, nên vượt qua các si mê; có điều để nói, vì các pháp là không; không có sinh, vì đoạn các sự sinh, vì vô thường, chỉ có ngôn thuyết; vì thoát ly khỏi âm thanh, nên tịch diệt nơi âm thanh; có âm thanh, vì tư tưởng vậy; đồng tư tưởng vì hòa hợp; lìa thế tục vì đệ nhất nghóa đế; dùng sự mát mẻ mà lìa sự nóng bức não; vì Đệ nhất nghóa đế, nên dùng lời như thật; không nhiệt não vì nhờ Niết-bàn vậy; nhờ không thể phá hoại, nên không ai hơn được; vì không thủ trước, nên diệt trừ nghóa hý luận; vì không hý luận nên lìa phan duyên; vì không có ngằn mé, nên chỉ nói phước; vì không có vi trần nên nói vi tế; thứ lớp đại thần thông, do bản nghiệp xuất sinh, vì được năng lực tự do tự tại; không phá hoại được, vì nó kiên thật; vì không có ngằn mé, nên gọi là vô tận; vì to lớn nói đại Bi bản nghiệp vậy. Đó là thân của Đức Như Lai. Bấy giờ Đức Thế Tôn nói bài kệ: Nếu ai muốn thấy thế gian thân Và biết thân Phật làm thế nào? Với Tam-muội này đã tu tập Liền hay biết được thân Như Lai. Phật từ phước đức mà sinh ra Thân Phật thanh tịnh rất sáng rạng Tướng Phật bình đẳng như hư không Các thứ sai biệt, bất khả đắc. Bồ-đề chư Phật đã như vậy Tướng trạng, diện mạo cũng như vậy Tướng trạng, diện mạo không thể được Thân tướng Như Lai cũng như thế. Tướng mạo Bồ-đề cùng với thân Thế giới chư Phật cũng như vậy Các lực, các thiền, các giải thoát Như vậy đều đồng chỉ một tướng. Thể tánh chư Phật là như đây Như Lai Thế Thân cũng như vậy Không ai có thể thấy được Phật Mắt thịt làm sao thấy Chánh giác? Vô lượng số người nói như vậy Ta từng được thấy các Đức Phật Thân tuyệt đẹp, sắc vàng tuyệt diệu Đều chiếu sáng tất cả thế gian. Được chư Phật Như Lai gia bị Nhờ sức Ngài nên có thần thông Liền có thể thấy được thân Phật Các thứ tướng tốt tự trang nghiêm. Tùy tướng cao lớn mà thị hiện Thế gian không thể thấy tướng Ngài Nếu ai hay biết thân tướng ấy Phật với thế gian không sai khác. Nếu ai hay biết thân lượng Phật Nghóa là tất cả các Như Lai Thân Phật không thân, không sai khác Người và Tu-la cũng như vậy. Tất cả các tâm đều không tịch Thọ các quả báo tướng cũng vậy Tướng mạo danh sắc đã như vậy Đầy đủ thanh tịnh, có ánh sáng. Không có ai hay biết Tu định tịch tónh này Chỉ Bậc Thế Gian Thân Ức kiếp tu khó nghó. Vô lượng pháp bạch tịnh Từ Tam-muội này có Nhờ sức báo định này Không ai thấy thân ta. Nếu có tâm như vậy Danh sắc cũng như thế Tâm loại không giống nhau Tướng danh, sắc cũng vậy. Nếu dùng tưởng thô lớn Danh sắc tùy thuộc nó Danh sắc hoặc thô, tế Đều do tưởng nghó sinh. Nếu người tưởng vi tế Danh, sắc cũng như vậy Danh sắc không đắm trước Thân tâm ấy chiếu sáng. Ta nhớ đời quá khứ Bảy mươi a-tăng-kỳ Ba loại ác tưởng này Từ gốc chưa từng khởi. Nhờ dùng tâm vô lậu Ức kiếp chẳng nghó bàn Vì lợi ích chúng sinh Họ không thấy thân ta. Nếu ai dùng vật này Tâm ý được xả bỏ Người này với vật kia Liền không cùng hòa hợp. Tâm ta được giải thoát Trong tất cả vật dụng Hay biết được tánh mình Nên khởi sinh trí tuệ. Với ngàn ức cõi Phật Trong đó ta hiện hóa Vì chúng sinh thuyết pháp Cho nên không thể thấy. Không tướng, không hình mạo Giống như nơi hư không Thân ta không thể nói Vì đoạn đường ngôn ngữ. Pháp thân rất hùng mãnh Thân ấy từ pháp sinh Chưa từng có sắc thân Nói đó chính là Phật. Nếu nói về thân này Nghe xong liền hoan hỷ Các ma Ba-tuần kia Không thể làm gì được. Nghe pháp thâm diệu này Mà không sinh hoảng sợ Không vì sự sinh sống Phỉ báng Bồ-đề Phật. Ngàn ức Tu-đa-la Trí như thật diễn thuyết Vì chúng sinh chiếu sáng Nơi nơi đều đến đích. Này Đồng tử! Đó là Như Lai Ứng Chánh Biến Tri, nếu muốn biết nghiệp tướng sắc thân của Như Lai, hoàn toàn không thể biết được hoặc xanh, hoặc sắc xanh, hoặc tương tự xanh, hoặc tướng mạo xanh; hoặc vàng, hoặc sắc vàng, hoặc tương tự vàng, hoặc tướng mạo vàng; hoặc đỏ, hoặc sắc đỏ, hoặc tương tự đỏ, hoặc tướng mạo đỏ; hoặc trắng, hoặc sắc trắng, hoặc tương tự trắng, hoặc tướng mạo trắng; hoặc hồng tía, hoặc sắc hồng tía, hoặc tương tự hồng tía, hoặc tướng mạo hồng tía; hoặc pha lê, hoặc màu pha lê, hoặc tương tự pha lê, hoặc tướng mạo pha lê; hoặc lửa, hoặc sắc lửa, hoặc tương tự lửa, hoặc tướng mạo lửa; hoặc vàng bạc, hoặc sắc vàng, hoặc tương tự vàng, hoặc tướng mạo vàng; hoặc như điện chớp, hoặc sắc như điện chớp, hoặc tương tự điện chớp, hoặc tướng mạo như điện chớp; hoặc tươi sáng, hoặc sắc tươi sáng, hoặc tương tự tươi sáng, hoặc tướng mạo tươi sáng; hoặc Tỳ-lưu-ly, hoặc sắc Tỳ-lưu-ly, hoặc tương tự Tỳ-lưu-ly, hoặc tướng mạo Tỳ-lưu-ly; hoặc trời, hoặc sắc của trời, hoặc tương tự trời, hoặc tướng mạo trời; hoặc Phạm, hoặc sắc Phạm, hoặc tương tự Phạm, hoặc tướng mạo Phạm. Này Đồng tử! Đó là thân của Như Lai. Tất cả thân tướng của Như Lai không thể lường được, vì không thể nghó bàn, cũng không thể nói được. Sắc thân đã thành tựu, chư Thiên, người đời không thể suy lường được, là dài, ngắn, rộng hẹp, tất cả loại như vậy, không có hạn lượng, bằng nhau, chẳng thể nghó bàn. Những loại như vậy, không thể đếm được. Bấy giờ Đức Thế Tôn nói bài tụng: Trong tất cả thế giới Tất cả các vi trần Cùng với nguồn ao suối Bao nhiêu nước biển cả. Dẫu toán thuật có giỏi Không thể biết hết được Cũng không biết số bụi Cùng với số giọt nước. Đức Như Lai Đạo Sư Nói ví dụ ấy rồi Số giọt nước vô hạn Số bụi cũng như vậy. Ta thấy các chúng sinh Nhiều như số bụi ấy Phát tâm và khởi tín Trong một lúc đều biết. Nếu nơi tự thân ta Hiển hiện sắc da ngoài Các chúng sinh tín dục Không ví dụ biết được. Hoặc tướng cùng với nghiệp Sắc tượng ấy như vậy Không ai biết được Phật Tướng ta đúng như vậy. Phật xa lìa nơi tướng Hiển bày nơi Pháp thân Thậm thâm, không hạn lượng Là Phật, chẳng nghó bàn. Chánh giác chẳng nghó bàn Thân Như Lai cũng thế Pháp thân không nghó bàn Vì hiển bày Pháp thân. Tâm nghiệp không thể biết Thân này không thể nghó Cùng với thân tướng ấy Đều không thể đo lường. Pháp ấy vô hạn lượng Ức kiếp đã tu tập Được thân khó nghó này Phát ánh sáng thanh tịnh. Chúng sinh không thể nắm Nắm lấy không thể được Cho nên thân Như Lai Khó lường, không thể nghó. Với các pháp vô lượng Mà nắm nơi hạn lượng Trong pháp không phân biệt Phật không có phân biệt. Nơi phân biệt hạn lượng Nói về không phân biệt Tuy nghó không phân biệt Phật ấy không nghó bàn. Vô hạn như hư không Không thể đo lường được Thân Phật cũng như vậy Giống như bầu Thái hư. Nếu có các Phật tử Như thật biết thân ta Thì sẽ được thành Phật Chẳng nghó bàn trên đời. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát có bốn thứ ngôn luận không thể nghó bàn và sự diễn thuyết cũng không thể nghó bàn, khó thể cùng tận. Những gì là bốn? 1.Ngôn luận các hành không thể nghó bàn. 2.Ngôn luận quở trách hữu vi không thể nghó bàn. 3.Ngôn luận trợ giúp phiền não không thể nghó bàn. 4.Ngôn luận thanh tịnh không thể nghó bàn. Này Đồng tử! Đó là bốn loại ngôn luận không thể nghó bàn của Bồ-tát và sự diễn thuyết cũng không thể nghó bàn, khó thể cùng tận. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại pháp. Những gì là bốn? 1.Pháp các hành chẳng thể nghó bàn. 2.Pháp quở trách hữu vi chẳng thể nghó bàn. 3.Pháp phiền não chẳng thể nghó bàn. 4.Pháp thanh tịnh chẳng thể nghó bàn. Đó là bốn loại. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại tương ưng. Những gì là bốn? 1.Các hành tương ưng chẳng thể nghó bàn. 2.Tương ưng sự trách mắng hữu vi chẳng thể nghó bàn. 3.Tương ưng phiền não chẳng thể nghó bàn. 4.Tương ưng thanh tịnh chẳng thể nghó bàn. Đó là bốn loại. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn cửa. Những gì là bốn? 1.Cửa các hành chẳng thể nghó bàn. 2.Cửa chê trách hữu vi chẳng thể nghó bàn. 3.Cửa phiền não chẳng thể nghó bàn. 4.Cửa thanh tịnh chẳng thể nghó bàn. Đó là bốn loại cửa. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại hành thuyết. Những gì là bốn? 1.Hành thuyết về các hành chẳng thể nghó bàn. 2.Hành thuyết về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghó bàn. 3.Hành thuyết về phiền não chẳng thể nghó bàn. 4.Hành thuyết về thanh tịnh chẳng thể nghó bàn. Đó là bốn loại hành thuyết. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn thứ âm thanh. Những gì là bốn? 1.Âm thanh về các hành chẳng thể nghó bàn. 2.Âm thanh chê trách hữu vi chẳng thể nghó bàn. 3.Âm thanh về phiền não chẳng thể nghó bàn. 4.Âm thanh về sự thanh tịnh chẳng thể nghó bàn. Đó là bốn loại âm thanh. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn thứ tiếng. Những gì là bốn? 1.Tiếng về các hành chẳng thể nghó bàn. 2.Tiếng chê trách về hữu vi chẳng thể nghó bàn. 3.Tiếng phiền não chẳng thể nghó bàn. 4.Tiếng thanh tịnh chẳng thể nghó bàn. Đó là bốn loại tiếng. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại ngôn ngữ đạo. Những gì là bốn? 1.Ngôn ngữ đạo các hành chẳng thể nghó bàn. 2.Ngôn ngữ đạo chê trách hữu vi chẳng thể nghó bàn. 3.Ngôn ngữ về phiền não chẳng thể nghó bàn. 4.Ngôn ngữ đạo về sự thanh tịnh chẳng thể nghó bàn. Đó là bốn loại ngôn ngữ đạo. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn thứ mật thuyết quyền xảo. Những gì là bốn? 1.Mật thuyết quyền xảo về các hành chẳng thể nghó bàn. 2.Mật thuyết quyền xảo về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghó bàn. 3.Mật thuyết quyền xảo về phiền não chẳng thể nghó bàn. 4.Mật thuyết quyền xảo về sự thanh tịnh chẳng thể nghó bàn. Đó là bốn loại mật thuyết quyền xảo. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn thứ biết về chư Thiên. Những gì là bốn? 1.Biết các hành chư Thiên chẳng thể nghó bàn. 2.Biết sự chê trách hữu vi chư Thiên chẳng thể nghó bàn. 3.Biết sự phiền não chư Thiên chẳng thể nghó bàn. 4.Biết sự thanh tịnh chư Thiên chẳng thể nghó bàn. Đó là bốn loại biết về chư Thiên. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn thứ thấy biết đối với người. Những gì là bốn? 1.Biết các hành của người chẳng thể nghó bàn. 2.Biết chê trách hữu vi đối với người chẳng thể nghó bàn. 3.Biết phiền não đối với người chẳng thể nghó bàn. 4.Biết sự thanh tịnh của người chẳng thể nghó bàn. Đó là bốn loại biết đối với người. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn thứ biết về danh tự. Những gì là bốn? 1.Biết danh tự các hành chẳng thể nghó bàn. 2.Biết danh tự về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghó bàn. 3.Biết danh tự phiền não chẳng thể nghó bàn. 4.Biết danh tự về sự thanh tịnh chẳng thể nghó bàn. Đó là bốn loại biết về danh tự. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại biện tài. Những gì là bốn? 1.Biện tài về các hành chẳng thể nghó bàn. 2.Biện tài về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghó bàn. 3.Biện tài về phiền não chẳng thể nghó bàn. 4.Biện tài về sự thanh tịnh chẳng thể nghó bàn. Đó là bốn loại biện tài. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn thứ quyết định. Những gì là bốn? 1.Quyết định các hành chẳng thể nghó bàn. 2.Quyết định về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghó bàn. 3.Quyết định về phiền não chẳng thể nghó bàn. 4.Quyết định về sự thanh tịnh chẳng thể nghó bàn. Đó là bốn loại quyết định. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại nhập. Những gì là bốn? 1.Nhập các hành chẳng thể nghó bàn. 2.Nhập chê trách hữu vi chẳng thể nghó bàn. 3.Nhập phiền não chẳng thể nghó bàn. 4.Nhập thanh tịnh chẳng thể nghó bàn. Đó là bốn thứ nhập. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn thứ độ. Những gì là bốn? 1.Độ các hành chẳng thể nghó bàn. 2.Độ chê trách hữu vi chẳng thể nghó bàn. 3.Độ phiền não chẳng thể nghó bàn. 4.Độ thanh tịnh chẳng thể nghó bàn. Đó là bốn thứ độ thoát. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại Kim cang cú. Những gì là bốn? 1.Kim cang cú các hành chẳng thể nghó bàn. 2.Kim cang cú sự chê trách hữu vi chẳng thể nghó bàn. 3.Kim cang cú phiền não chẳng thể nghó bàn. 4.Kim cang cú thanh tịnh chẳng thể nghó bàn. Đó là bốn loại câu kim cang. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn chú thuật cú. Những gì là bốn? 1.Chú thuật cú về các hành chẳng thể nghó bàn. 2.Chú thuật cú về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghó bàn. 3.Chú thuật cú về phiền não chẳng thể nghó bàn. 4.Chú thuật cú về thanh tịnh chẳng thể nghó bàn. Đó là bốn loại câu chú thuật. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn thứ ra khỏi. Những gì là bốn? 1.Ra khỏi các hành chẳng thể nghó bàn. 2.Ra khỏi sự chê trách hữu vi chẳng thể nghó bàn. 3.Ra khỏi phiền não chẳng thể nghó bàn. 4.Ra khỏi thanh tịnh chẳng thể nghó bàn. Đó là bốn thứ ra khỏi. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn thứ Tu-đa-la cú. Những gì là bốn? 1.Tu-đa-la cú về các hành chẳng thể nghó bàn. 2.Tu-đa-la cú về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghó bàn. 3.Tu-đa-la cú về phiền não chẳng thể nghó bàn. 4.Tu-đa-la cú về thanh tịnh chẳng thể nghó bàn. Đó là bốn loại câu Tu-đa-la. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại Từ cú. Những gì là bốn? 1.Từ cú về các hành chẳng thể nghó bàn. 2.Từ cú về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghó bàn. 3.Từ cú về phiền não chẳng thể nghó bàn. 4.Từ cú về sự thanh tịnh chẳng thể nghó bàn. Đó là bốn loại Từ cú. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại Thi thiết cú. Những gì là bốn? 1.Thi thiết cú về các hành chẳng thể nghó bàn. 2.Thi thiết cú về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghó bàn. 3.Thi thiết cú về phiền não chẳng thể nghó bàn. 4.Thi thiết cú về thanh tịnh chẳng thể nghó bàn. Đó là bốn loại Thi thiết cú. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại Minh cú. Những gì là bốn? 1.Minh cú về các hành chẳng thể nghó bàn. 2.Minh cú về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghó bàn. 3.Minh cú về phiền não chẳng thể nghó bàn. 4.Minh cú về thanh tịnh chẳng thể nghó bàn. Đó là bốn loại Minh cú. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại Tín nghóa cú. Những gì là bốn? 1.Tín nghóa cú về các hành chẳng thể nghó bàn. 2.Tín nghóa cú về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghó bàn. 3.Tín nghóa cú về phiền não chẳng thể nghó bàn. 4.Tín nghóa cú về thanh tịnh chẳng thể nghó bàn. Đó là bốn loại Tín nghóa cú. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại hành cú. Những gì là bốn? 1.Hành cú về các hành chẳng thể nghó bàn. 2.Hành cú về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghó bàn. 3.Hành cú về phiền não chẳng thể nghó bàn. 4.Hành cú về thanh tịnh chẳng thể nghó bàn. Đó là bốn loại Hành cú. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại Bất tư nghì cú. Những gì là bốn? 1.Bất tư nghì cú các hành chẳng thể nghó bàn. 2.Bất tư nghì cú về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghó bàn. 3.Bất tư nghì cú về phiền não chẳng thể nghó bàn. 4.Bất tư nghì cú về thanh tịnh chẳng thể nghó bàn. Đó là bốn loại chẳng thể nghó bàn cú. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại vô biên cú. Những gì là bốn? 1.Vô biên cú về các hành chẳng thể nghó bàn. 2.Vô biên cú về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghó bàn. 3.Vô biên cú về phiền não chẳng thể nghó bàn. 4.Vô biên cú về thanh tịnh chẳng thể nghó bàn. Đó là bốn loại Vô biên cú. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại Vô hạn lượng cú. Những gì là bốn? 1.Vô hạn lượng cú về các hành chẳng thể nghó bàn. 2.Vô hạn lượng cú về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghó bàn. 3.Vô hạn lượng cú về phiền não chẳng thể nghó bàn. 4.Vô hạn lượng cú về thanh tịnh chẳng thể nghó bàn. Đó là bốn loại Vô hạn lượng cú. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại Vô cùng cú. Những gì là bốn? 1.Vô cùng cú về các hành chẳng thể nghó bàn. 2.Vô cùng cú về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghó bàn. 3.Vô cùng cú về phiền não chẳng thể nghó bàn. 4.Vô cùng cú về thanh tịnh chẳng thể nghó bàn. Đó là bốn loại vô cùng cú. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại Bất khả xưng cú. Những gì là bốn? 1.Bất khả xưng cú về các hành chẳng thể nghó bàn. 2.Bất khả xưng cú về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghó bàn. 3.Bất khả xưng cú về phiền não chẳng thể nghó bàn. 4.Bất khả xưng cú về thanh tịnh chẳng thể nghó bàn. Đó là bốn loại Bất khả xưng cú. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại A-tăng-kỳ cú. Những gì là bốn? 1.A-tăng-kỳ cú về các hành chẳng thể nghó bàn. 2.A-tăng-kỳ cú về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghó bàn. 3.A-tăng-kỳ cú về phiền não chẳng thể nghó bàn. 4.A-tăng-kỳ cú về thanh tịnh chẳng thể nghó bàn. Đó là bốn loại a-tăng-kỳ cú. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại Vô lượng cú. Những gì là bốn? 1.Vô lượng cú về các hành chẳng thể nghó bàn. 2.Vô lượng cú về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghó bàn. 3.Vô lượng cú về phiền não chẳng thể nghó bàn. 4.Vô lượng cú về thanh tịnh chẳng thể nghó bàn. Đó là bốn loại Vô lượng cú. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại câu không thể đo lường. Những gì là bốn? 1.Câu không thể đo lường về các hành chẳng thể nghó bàn. 2.Câu không thể đo lường về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghó bàn. 3.Câu không thể đo lường về phiền não chẳng thể nghó bàn. 4.Câu không thể đo lường về thanh tịnh chẳng thể nghó bàn. Đó là bốn loại câu không thể đo lường. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại câu không hành. Những gì là bốn? 1.Câu không hành về các hành chẳng thể nghó bàn. 2.Câu không hành về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghó bàn. 3.Câu không hành về phiền não chẳng thể nghó bàn. 4.Câu không hành về thanh tịnh chẳng thể nghó bàn. Đó là bốn loại câu không hành. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại câu trí. Những gì là bốn? 1.Câu trí về các hành chẳng thể nghó bàn. 2.Câu trí về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghó bàn. 3.Câu trí về phiền não chẳng thể nghó bàn. 4.Câu trí về thanh tịnh chẳng thể nghó bàn. Đó là bốn loại câu trí. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại trí tụ. Những gì là bốn? 1.Trí tụ về các hành chẳng thể nghó bàn. 2.Trí tụ về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghó bàn. 3.Trí tụ về phiền não chẳng thể nghó bàn. 4.Trí tụ về thanh tịnh chẳng thể nghó bàn. Đó là bốn loại trí tụ. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại trí tánh. Những gì là bốn? 1.Trí tánh về các hành chẳng thể nghó bàn. 2.Trí tánh về chê trách hữu vi chẳng thể nghó bàn. 3.Trí tánh về phiền não chẳng thể nghó bàn. 4.Trí tánh về thanh tịnh chẳng thể nghó bàn. Đó là bốn loại trí tánh. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại biện tụ. Những gì là bốn? 1.Biện tụ về các hành chẳng thể nghó bàn. 2.Biện tụ về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghó bàn. 3.Biện tụ về phiền não chẳng thể nghó bàn. 4.Biện tụ về thanh tịnh chẳng thể nghó bàn. Đó là bốn loại biện tụ. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại biện tánh. Những gì là bốn? 1.Biện tánh về các hành chẳng thể nghó bàn. 2.Biện tánh về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghó bàn. 3.Biện tánh về phiền não chẳng thể nghó bàn. 4.Biện tánh về thanh tịnh chẳng thể nghó bàn. Đó là bốn loại biện tánh. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại Tu-đa-la. Những gì là bốn? 1.Tu-đa-la về các hành chẳng thể nghó bàn. 2.Tu-đa-la về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghó bàn. 3.Tu-đa-la về phiền não chẳng thể nghó bàn. 4.Tu-đa-la về thanh tịnh chẳng thể nghó bàn. Đó là bốn loại Tu-đa-la. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại Tu-đa-la tụ. Những gì là bốn? 1.Tu-đa-la tụ về các hành chẳng thể nghó bàn. 2.Tu-đa-la tụ về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghó bàn. 3.Tu-đa-la tụ về phiền não chẳng thể nghó bàn. 4.Tu-đa-la tụ về thanh tịnh chẳng thể nghó bàn. Đó là bốn loại Tu-đa-la tụ. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại Đa văn. Những gì là bốn? 1.Đa văn về các hành chẳng thể nghó bàn. 2.Đa văn về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghó bàn. 3.Đa văn về phiền não chẳng thể nghó bàn. 4.Đa văn về thanh tịnh chẳng thể nghó bàn. Đó là bốn loại Đa văn. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn thứ tài sản. Những gì là bốn? 1.Tài sản về các hành chẳng thể nghó bàn. 2.Tài sản về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghó bàn. 3.Tài sản về phiền não chẳng thể nghó bàn. 4.Tài sản về thanh tịnh chẳng thể nghó bàn. Đó là bốn loại tài sản. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn thứ học. Những gì là bốn? 1.Học về các hành chẳng thể nghó bàn. 2.Học về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghó bàn. 3.Học về phiền não chẳng thể nghó bàn. 4.Học về thanh tịnh chẳng thể nghó bàn. Đó là bốn loại học. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn thứ cảnh giới. Những gì là bốn? 1.Cảnh giới các hành chẳng thể nghó bàn. 2.Cảnh giới sự chê trách hữu vi chẳng thể nghó bàn. 3.Cảnh giới phiền não chẳng thể nghó bàn. 4.Cảnh giới thanh tịnh chẳng thể nghó bàn. Đó là bốn loại cảnh giới. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn thứ nghiệp. Những gì là bốn? 1.Nghiệp về các hành chẳng thể nghó bàn. 2.Nghiệp về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghó bàn. 3.Nghiệp về phiền não chẳng thể nghó bàn. 4.Nghiệp về thanh tịnh chẳng thể nghó bàn. Đó là bốn loại nghiệp. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn thứ an trụ. Những gì là bốn? 1.An trụ các hành chẳng thể nghó bàn. 2.An trụ sự chê trách hữu vi chẳng thể nghó bàn. 3.An trụ phiền não chẳng thể nghó bàn. 4.An trụ sự thanh tịnh chẳng thể nghó bàn. Đó là bốn loại an trụ. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn thứ tu đạo. Những gì là bốn? 1.Tu đạo về các hành chẳng thể nghó bàn. 2.Tu đạo về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghó bàn. 3.Tu đạo về phiền não chẳng thể nghó bàn. 4.Tu đạo về thanh tịnh chẳng thể nghó bàn. Đó là bốn loại tu đạo. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại trí đoạn phiền não. Những gì là bốn? 1.Trí đoạn phiền não về các hành chẳng thể nghó bàn. 2.Trí đoạn phiền não về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghó bàn. 3.Trí đoạn phiền não về phiền não chẳng thể nghó bàn. 4.Trí đoạn phiền não về thanh tịnh chẳng thể nghó bàn. Đó là bốn loại trí đoạn phiền não. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn thứ trí phiền não. Những gì là bốn? 1.Trí phiền não về các hành chẳng thể nghó bàn. 2.Trí phiền não về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghó bàn. 3.Trí phiền não về phiền não chẳng thể nghó bàn. 4.Trí phiền não về thanh tịnh chẳng thể nghó bàn. Đó là bốn loại trí phiền não. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại trí ác đạo. Những gì là bốn? 1.Trí ác đạo về các hành chẳng thể nghó bàn. 2.Trí ác đạo về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghó bàn. 3.Trí ác đạo về phiền não chẳng thể nghó bàn. 4.Trí ác đạo về thanh tịnh chẳng thể nghó bàn. Đó là bốn loại trí ác đạo. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại trí chẳng phải trí. Những gì là bốn? 1.Trí chẳng phải trí về các hành chẳng thể nghó bàn. 2.Trí chẳng phải trí về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghó bàn. 3.Trí chẳng phải trí về phiền não chẳng thể nghó bàn. 4.Trí chẳng phải trí về thanh tịnh chẳng thể nghó bàn. Đó là bốn loại trí chẳng phải trí. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn thứ trí tất định. Những gì là bốn? 1.Trí tất định về các hành chẳng thể nghó bàn. 2.Trí tất định về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghó bàn. 3.Trí tất định về phiền não chẳng thể nghó bàn. 4.Trí tất định về thanh tịnh chẳng thể nghó bàn. Đó là bốn loại trí tất định. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại trí không sai mất. Những gì là bốn? 1.Trí không sai mất về các hành chẳng thể nghó bàn. 2.Trí không sai mất về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghó bàn. 3.Trí không sai mất về phiền não chẳng thể nghó bàn. 4.Trí không sai mất về thanh tịnh chẳng thể nghó bàn. Đó là bốn loại trí không sai mất. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại trí vô minh. Những gì là bốn? 1.Trí vô minh về các hành chẳng thể nghó bàn. 2.Trí vô minh về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghó bàn. 3.Trí vô minh về phiền não chẳng thể nghó bàn. 4.Trí vô minh về thanh tịnh chẳng thể nghó bàn. Đó là bốn loại trí vô minh. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại khổ trí. Những gì là bốn? 1.Khổ trí về các hành chẳng thể nghó bàn. 2.Khổ trí về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghó bàn. 3.Khổ trí về phiền não chẳng thể nghó bàn. 4.Khổ trí về thanh tịnh chẳng thể nghó bàn. Đó là bốn loại khổ trí. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại trí lo buồn. Những gì là bốn? 1.Trí lo buồn về các hành chẳng thể nghó bàn. 2.Trí lo buồn về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghó bàn. 3.Trí lo buồn về phiền não chẳng thể nghó bàn. 4.Trí lo buồn về thanh tịnh chẳng thể nghó bàn. Đó là bốn loại trí lo buồn. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại trí về nghèo khổ. Những gì là bốn? 1.Trí nghèo khổ về các hành chẳng thể nghó bàn. 2.Trí nghèo khổ về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghó bàn. 3.Trí nghèo khổ về phiền não chẳng thể nghó bàn. 4.Trí nghèo khổ về thanh tịnh chẳng thể nghó bàn. Đó là bốn loại trí nghèo khổ. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại sinh trí chẳng thể nghó bàn. Những gì là bốn? 1.Sinh trí về các hành chẳng thể nghó bàn. 2.Sinh trí về trách mắng hữu vi chẳng thể nghó bàn. 3.Sinh trí về phiền não chẳng thể nghó bàn. 4.Sinh trí về thanh tịnh chẳng thể nghó bàn. Đó là bốn loại sinh trí. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại nội trí. Những gì là bốn? 1.Nội trí về các hành chẳng thể nghó bàn. 2.Nội trí về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghó bàn. 3.Nội trí về phiền não chẳng thể nghó bàn. 4.Nội trí về thanh tịnh chẳng thể nghó bàn. Đó là bốn loại nội trí. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại ngoại trí. Những gì là bốn? 1.Ngoại trí về các hành chẳng thể nghó bàn. 2.Ngoại trí về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghó bàn. 3.Ngoại trí về phiền não chẳng thể nghó bàn. 4.Ngoại trí về thanh tịnh chẳng thể nghó bàn. Đó là bốn loại Ngoại trí. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại trí xấu hổ. Những gì là bốn? 1.Trí xấu hổ về các hành chẳng thể nghó bàn. 2.Trí xấu hổ về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghó bàn. 3.Trí xấu hổ về phiền não chẳng thể nghó bàn. 4.Trí xấu hổ về thanh tịnh chẳng thể nghó bàn. Đó là bốn loại trí xấu hổ. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại trí thẹn thùng. Những gì là bốn? 1.Trí thẹn thùng về các hành chẳng thể nghó bàn. 2.Trí thẹn thùng về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghó bàn. 3.Trí thẹn thùng về phiền não chẳng thể nghó bàn. 4.Trí thẹn thùng về thanh tịnh chẳng thể nghó bàn. Đó là bốn loại trí thẹn thùng. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại thật trí chẳng thể nghó bàn. Những gì là bốn? 1.Thật trí về các hành chẳng thể nghó bàn. 2.Thật trí về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghó bàn. 3.Thật trí về phiền não chẳng thể nghó bàn. 4.Thật trí về thanh tịnh chẳng thể nghó bàn. Đó là bốn loại thật trí. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại trí tu tập. Những gì là bốn? 1.Trí tu tập về các hành chẳng thể nghó bàn. 2.Trí tu tập về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghó bàn. 3.Trí tu tập về phiền não chẳng thể nghó bàn. 4.Trí tu tập về thanh tịnh chẳng thể nghó bàn. Đó là bốn loại trí tu tập. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn thứ sự trí. Những gì là bốn? 1.Sự trí về các hành chẳng thể nghó bàn. 2.Sự trí về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghó bàn. 3.Sự trí về phiền não chẳng thể nghó bàn. 4.Sự trí về thanh tịnh chẳng thể nghó bàn. Đó là bốn loại sự trí. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại trí về Phú-già-la (Bổ-đặc-già-la). Những gì là bốn? 1.Trí Phú-già-la về các hành chẳng thể nghó bàn. 2.Trí Phú-già-la về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghó bàn. 3.Trí Phú-già-la về phiền não chẳng thể nghó bàn. 4.Trí Phú-già-la về thanh tịnh chẳng thể nghó bàn. Đó là bốn loại trí Phú-già-la. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn thứ trí chấp trước. Những gì là bốn? 1.Trí chấp trước về các hành chẳng thể nghó bàn. 2.Trí chấp trước về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghó bàn. 3.Trí chấp trước về phiền não chẳng thể nghó bàn. 4.Trí chấp trước về thanh tịnh chẳng thể nghó bàn. Này Đồng tử! Đó là bốn loại trí chấp trước chẳng thể nghó bàn và sự diễn thuyết cũng chẳng thể nghó bàn, không thể nói hết. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại trí lìa ác đạo. Những gì là bốn? 1.Trí lìa ác đạo về các hành chẳng thể nghó bàn. 2.Trí lìa ác đạo về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghó bàn. 3.Trí lìa ác đạo về phiền não chẳng thể nghó bàn. 4.Trí lìa ác đạo về thanh tịnh chẳng thể nghó bàn. Đó là bốn loại trí lìa ác đạo. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại trí đoạn trừ vô minh. Những gì là bốn? 1.Trí đoạn trừ vô minh về các hành chẳng thể nghó bàn. 2.Trí đoạn trừ vô minh về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghó bàn. 3.Trí đoạn trừ vô minh về phiền não chẳng thể nghó bàn. 4.Trí đoạn trừ vô minh về thanh tịnh chẳng thể nghó bàn. Đó là bốn loại trí đoạn trừ vô minh. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn thứ Đà-la-ni chẳng thể nghó bàn và sự diễn thuyết cũng chẳng thể nghó bàn, nói không bao giờ hết. Những gì là bốn? 1.Ngôn thuyết về các hành chẳng thể nghó bàn, trí ở trong đó gọi là Đà-la-ni thứ nhất. 2.Ngôn thuyết về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghó bàn, trí ở trong đó gọi là Đà-la-ni thứ hai. 3.Ngôn thuyết hỗ trợ phiền não chẳng thể nghó bàn, trí ở trong đó gọi là Đà-la-ni thứ ba. 4.Ngôn thuyết hỗ trợ thanh tịnh chẳng thể nghó bàn, trí ở trong đó gọi là Đà-la-ni thứ tư. Đó là bốn loại chẳng thể nghó bàn, cùng với sự diễn thuyết cũng chẳng thể nghó bàn, nói không bao giờ hết. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại pháp Đà-la-ni. Những gì là bốn? 1.Pháp các hành chẳng thể nghó bàn, trí ở trong đó gọi là Đà-la-ni thứ nhất. 2.Pháp chê trách hữu vi chẳng thể nghó bàn, trí ở trong đó gọi là Đà-la-ni thứ hai. 3.Pháp phiền não chẳng thể nghó bàn, trí ở trong đó gọi là Đà-la-ni thứ ba. 4.Pháp thanh tịnh chẳng thể nghó bàn, trí ở trong đó gọi là Đà-la-ni thứ tư. Này Đồng tử! Đó là bốn loại Đà-la-ni chẳng thể nghó bàn, cùng với sự diễn thuyết cũng chẳng thể nghó bàn, nói không sao hết. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại tương ưng Đà-la-ni. Những gì là bốn? 1.Tương ưng các hành chẳng thể nghó bàn, trí ở trong đó gọi là Đà-la-ni thứ nhất. 2.Tương ưng sự chê trách hữu vi chẳng thể nghó bàn, trí ở trong đó gọi là Đà-la-ni thứ hai. 3.Tương ưng phiền não chẳng thể nghó bàn, trí ở trong đó gọi là Đà-la-ni thứ ba. 4.Tương ưng thanh tịnh chẳng thể nghó bàn, trí ở trong đó gọi là Đà-la-ni thứ tư. Này Đồng tử! Đó là bốn thứ Đà-la-ni chẳng thể nghó bàn, cùng với sự giảng thuyết chẳng thể nghó bàn, nói không bao giờ hết. Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại Đà-la-ni môn. Những gì là bốn? 1.Môn về các hành chẳng thể nghó bàn, trí ở trong đó gọi là Đà-la-ni thứ nhất. 2.Môn về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghó bàn, trí ở trong đó gọi là Đà-la-ni thứ hai. 3.Môn về phiền não chẳng thể nghó bàn, trí ở trong đó gọi là Đà-la-ni thứ ba. 4.Môn về thanh tịnh chẳng thể nghó bàn, trí ở trong đó gọi là Đà-la-ni thứ tư. Này Đồng tử! Đó là bốn loại Đà-la-ni môn chẳng thể nghó bàn và sự diễn thuyết cũng chẳng thể nghó bàn, nói không bao giờ hết, cho đến trí đoạn trừ vô minh, đều có bốn loại Đà-la-ni chẳng thể nghó bàn, cùng với sự diễn thuyết cũng chẳng thể nghó bàn, nói không bao giờ hết, giống như đã nói ở trên. Này Đồng tử! Đà-la-ni này chính là trí tuệ. Trí tuệ như vậy có thể rõ biết tất cả các pháp, chỉ có danh tự, cho nên gọi là trí pháp vô ngại. Trí pháp như vậy, có thể thấu đạt ngôn nên gọi là Nghóa vô ngại. Trí pháp như vậy, hay biết ngôn từ sai biệt của các pháp nên gọi là Từ vô ngại, hoặc nói văn tự ấy, hoặc hiển thị, hoặc thi thiết, hoặc thứ lớp không đoạn, hoặc mở rõ, hoặc rộng phân biệt, hoặc khai thị làm cho đơn giản, hoặc bình đẳng chỉ khắp, lời lẽ không bị nuốt, không rít rắm, không ú ớ, không khiếp nhược, lời nói không đắm trước, ngôn từ phóng khoáng, vượt trên sự phóng khoáng gọi là Nhạo thuyết vô ngại. Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói bài kệ: Chỗ hiện bày ngôn âm Phát thanh cũng như vậy Như sự xuất âm thanh Trí Phật cũng như vậy. Tất cả trí chư Phật Tiếng nói ra cũng thế Sự thi thiết như vậy Ánh sáng tiếng cũng thế. Ánh sáng tiếng như vậy Tên giới cũng như thế Danh tự giới như thế Tên Phật cũng như thế. Danh hiệu Phật như thế Công đức Phật cũng vậy Ta biết một chúng sinh Biết họ bao tên gọi. Vô lượng ngữ ngôn Phật Trước ta đã tuyên thuyết Tên giới cùng tên Phật Tên chúng sinh cũng vậy. Hữu vi nhiều lầm lỗi Đức Niết-bàn cũng thế Phật lợi ích như vậy Dùng ví dụ hiển bày. Có tất cả chúng sinh Đã phát tâm hiển thị Một sợi lông Đạo Sư Phát ánh sáng cũng vậy. Tất cả các chúng sinh Danh hiệu và tín dục Như Lai vượt trên chúng Dùng tiếng, thân thuyết pháp. Tên tất cả chúng sinh Hiển thị một chúng sinh Như vậy tên một người Hiển thị các chúng sinh. Tất cả bình đẳng nhập Chánh giác dạy như vậy Nói vô lượng danh tự Vì các Bồ-tát vậy. Sao nay ta có thể Nói ức vô số kinh Thọ trì kinh điển này Hiển bày không khiếp nhược. Nơi chúng vô ngại biện Diễn thuyết ức kinh điển Như hư không vô biên Biện tài cũng như vậy. Công đức Bồ-tát này Thanh tịnh dẫn chúng sinh Thọ trì kinh điển này Thành được trí vô tận. Luôn luôn hiển thị nói Nơi pháp hay tín thọ Tăng trưởng trí tuệ ấy Giống như cây núi Tuyết. Này Đồng tử! Bồ-tát này hành pháp vô ngại, ở nơi pháp thấy pháp mà được an trụ. Này Đồng tử! Sao gọi là Đại Bồ-tát hành pháp vô ngại, ở nơi pháp thấy pháp nên được an trụ? Này Đồng tử! Đại Bồ-tát này biết chẳng phải sắc không khác với sắc mà nói pháp, biết chẳng phải sắc chẳng khác sắc mà có thể hay tu hành, biết chẳng phải sắc chẳng khác sắc mà cầu Bồ-đề, biết chẳng phải sắc chẳng khác sắc nên giáo hóa chúng sinh, biết chẳng phải sắc chẳng khác sắc mà thấy Như Lai, chỉ không hoại nơi sắc mà thấy Như Lai. Chẳng phải khác sắc, chẳng phải khác tánh sắc mà thấy Như Lai, sắc và tánh sắc cùng với Như Lai bình đẳng, không có hai. Nếu ai có thể thấy các pháp như vậy, gọi là hành pháp vô ngại; thức, tưởng, thọ, hành cũng lại như vậy. Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói bài kệ: Nhờ sắc hiển Bồ-đề Nhờ Bồ-đề hiển sắc Thì không có tương tự Tối thắng đã nói rõ. Phật nói sắc tướng thô Tánh sắc rất thâm áo Sắc ngang với Bồ-đề Sai biệt không thể được. Như Niết-bàn thậm thâm Nhờ tiếng mà tuyên thuyết Niết-bàn bất khả đắc Nói năng cũng như vậy. Âm thanh và lời nói Cả hai bất khả đắc Trong pháp không như vậy Niết-bàn bất khả đắc. Nói Niết-bàn tịch diệt Tịch diệt không thể được Tất cả pháp không sinh Như trước sau cũng vậy Thể tánh tất cả pháp Niết-bàn cùng tương tự Người biết chân xuất gia Cùng tương ưng Phật pháp Nếu thấy sắc thân Phật Nói đã thấy Như Lai Thân ta chẳng sắc tượng Không thể thấy Ngài được. Biết được tự tánh sắc Sắc tướng ấy như vậy Ai biết được tánh sắc Là hiển thị thân lớn. Các ngũ ấm như vậy Ta đã biết tướng mạo Đạt tự thể tánh pháp An trụ nơi Pháp thân. An trụ Pháp thân rồi Thuyết pháp cho chúng sinh Pháp vi diệu Như Lai Không thể dùng lời nói. Lý sâu không thể biết Nghe Bậc Chánh Giác nói Chỉ âm thanh ngôn ngữ Ta đã được Sơ quả. Nếu trừ tất cả tưởng Xa lìa việc hý luận Nếu không có hữu tưởng Thì thấy Thế Đại Sư. Nếu ai hay biết Không Liền biết được sắc tướng Không có khác nói không Riêng có tự tánh sắc. Nếu ai biết được sắc Thì có thể biết Không Nếu ai ngộ được Không Thì biết được tịch diệt. Nếu ai biết được sắc Là sắc tướng như vậy Không bị ức ma loạn Thoái chuyển quả Bồ-đề. Ai không biết đạo này Đắm trước sẽ thoái bước Phi vật chấp tưởng vật Vật chấp tưởng phi vật. Cuồng vì gần tài lợi Thoái thất ở trong pháp Phi quả chấp tưởng quả Quên mất pháp Sa-môn. Giải đãi, ít tinh tấn Mà không trụ giới tụ Không đúng người hành pháp Đó là trái lời Phật. Hoặc lại có người nói: Tôi hành nơi Bồ-đề Người không tuệ khó dạy Chẳng cung kính lẫn nhau, Mong cầu danh tiếng tốt Không khéo trụ giới cấm Mãi nghó lúc nào được Danh tiếng lan khắp nơi. Chỉ vì cầu lợi dưỡng Tụ tập thật nhiều người Ngạo mạn, cùng phóng dật Chuyên tâm tìm cầu lợi Ưa sống nhà bạch y Vì cung kính lợi dưỡng Tạo chùa và tháp miếu Họ đều vì danh lợi. Dựa vào tâm chấp trước Thường thèm khát ái dục Chuyên tạo nghiệp thế tục Sống trong cảnh giới ma Nói với người bạch y: “Ái dục như lửa cháy” Nếu vào nhà thế tục Thường để ý người nữ. Bạch y đối người này Thường nghó là Đại sư Rình mò việc người chồng Cùng phụ nữ nhiễm hợp Nhà ấy dùng đồ ngon Cung cấp Tỳ-kheo này Lại ở chỗ vợ người Tưởng như vợ của mình. Bạch y ở chỗ vợ Vẫn không sinh ganh ghét Mà Tỳ-kheo xuất gia Sinh ganh ghét vợ người. Người tục ở nhà mình Khéo gìn giữ năm giới Huống đã được xuất gia Bỏ tất cả giới cấm. Nhạc cụ của âm nhạc Dùng để cúng dường ta Hành cúng dường tối thắng Mạt thế chẳng thành tựu. Tự phá các cấm giới Thấy người trì giới luật Nói với người thế gian Người ấy nào khác ta. Nghe khen người giữ giới Phá giới, làm việc ác Nghe nói chân Phật pháp Bảo chẳng phải Phật nói. Tâm không có hổ thẹn Đánh mất của Sa-môn Nếu khuyên lời chân thật Bài báng lời ta nói. Giới không được trọn vẹn Vứt bỏ đạo giáo ta Hủy báng nơi chánh pháp Ngục A-tỳ là nhà. Ta chưa từng thấy nghe Tu tập hạnh như vậy Ngu si sống kẻ ác Hay đạt được trí Phật. Các người gièm pha ấy Nhiều quanh co dối trá Ta biết rõ người ấy Trí biết hằng không dứt. Nếu ta trong một kiếp Nói các lỗi lầm họ Tự cho là Bồ-tát Chỉ nói được phần nhỏ. Đồng tử! Ông nên biết Ác nào họ cũng làm Về sau đời mạt thế Cẩn thận chớ làm bạn. Dùng tâm không loạn động Dẫn dắt cùng trò chuyện Vâng làm mà cúng dường Vì để cầu Phật đạo. Nên hỏi sự buồn lo Nếu là bậc Kỳ túc Nên cúng dường cung kính Đầu mặt lạy dưới chân. Chớ tìm lỗi của người Họ sẽ đến đạo tràng Chớ sinh ý sân hận Thường khởi tâm Từ bi. Nếu thấy lỗi vị ấy Đừng đối mặt nói lỗi Thường nghó việc đã làm Sẽ được quả như thế. Nếu ở chỗ trẻ, già Lúc nói thường mỉm cười Phát ngôn, trước thăm hỏi Diệt trừ tâm ngạo mạn. Y phục và ẩm thực Thường đem dâng cúng dường Làm tâm thí như vậy Tất cả sẽ thành Phật. Nếu thỉnh hỏi Trưởng túc Vì mong cầu pháp thí Trước nên nói như vầy: “Tôi học tập ít ỏi”. Rồi lại nói như vầy: Các vị, bậc Trí tuệ Ở trước bậc Đại nhân Tôi đâu dám tuyên thuyết. Khi nói chớ vội vàng Xem pháp khí hay không Đã thấy căn khí rồi Không hỏi cũng cứ nói. Nếu ở trong đại chúng Thấy người phá giới cấm Chớ khen đức trì giới Nên khen hạnh bố thí. Nếu thấy người thiểu dục Cùng trì giới tương ưng Nên khởi tâm đại Từ Khen thiểu dục, trì giới. Nếu phá ít cấm giới Người trì tịnh giới nhiều Được bè bạn tối thắng Liền khen ngợi trì giới. Trước quán sát đại chúng Đều ưa các pháp lành Có bao nhiêu thiện pháp Nên khen ngợi tất cả. Thí, giới, đa văn, nhẫn Tinh tấn và thiểu dục Tri túc, hạnh viễn ly Hiển thị pháp như vậy. Tán thán pháp như vậy Nói rõ đạo thế tục Các việc không xót thương Lòng từ chớ sân hận. Ở chỗ không, thiền lạc Xa lìa chúng huyên náo Ngươi nên khen đức ấy Tên gọi Tổng trì môn. Thường thích chỗ không nhàn Chớ chuyên làm nghiệp thí Một lòng tu an tọa Chớ bảo giới tối thắng. Đã trụ tịnh giới rồi Hay tích tập đa văn Vì cầu Tam-muội này Thường cúng dường xá-lợi. Hay dùng lọng tràng phan Vòng hoa, hương xoa, bột Vì cầu tịch định này Nên cúng dường chư Phật. Dùng kỹ nhạc tuyệt diệu Ca hay cùng hòa tấu Để cúng xá-lợi Phật Tâm dũng kiện oai mãnh. Tất cả các vòng hoa Tất cả hương, y phục Đều đem cúng dường Phật Để cầu trí Phật vậy. Các phước phần chúng sinh Bình đẳng thí tất cả Để cầu trí vô ngại Là chư Phật vô thượng. Ta từng ở trước Phật Đặt bày cúng vô số Dùng tâm không thiên lệch Để cầu tịch định này. Phật ra đời khó gặp Được thân người cũng khó Tín Phật pháp cũng khó Xuất gia đủ giới khó. Nay ngươi được gặp Phật Đã phát tâm Bồ-đề Chớ bỏ nguyện kiên cố An trụ nơi hạnh lành. Nếu thọ trì kinh này Vào thời sau mạt thế Mau được vô ngại biện Thọ trì không quên mất. Thọ trì một bài kệ Phước tụ khó nghó bàn Huống lại thọ trì hết Như nghóa thọ đầy đủ. Chúng sinh đều thành Phật Dũng mãnh đều cúng dường Cung kính và tôn trọng Hết số kiếp chúng sinh. Nếu ở Tam-muội này Thọ trì một bài kệ So với công đức trước Mười sáu không bằng một. Ta biết trí tuệ Phật Lợi ích chẳng nghó bàn Thọ trì Tam-muội này Sở hành tất cả Phật. (<註 n="5"/>*) <釋 n="1">*(*) Tên của hai mươi vị Bồ-tát này, bản chữ Hán không chấm câu, ở đây tạm ghi từng tên như vậy. (Chú thích của người dịch). () Thứ tự số đếm giữ nguyên bản.  Sinh Thiên còn khó huống chi được quả Bồ-đề. () Trong đoạn văn tường thuật lại xuất hiện câu thoại trực tiếp. (ĐT.15, p.559b). <釋 n="5">** Số kinh 639 này gồm 10 quyển, trong tập LSPBĐTK 60: từ Q.1-5; tập LSPBĐTK 61: từ Q.6-10.