<經 id="n635">KINH HOẰNG ĐẠO QUẢNG HIỂN TAM-MUỘI Hán dịch: Đời Tây Tấn, Tam tạng Trúc Pháp Hộ, người nước Nguyệt Chi. <卷 id="104089295">Quyển 1 <詞 id="104089296">Phẩm 1: ĐƯỢC TRÍ TÂM RỘNG LỚN Nghe như vầy: Một thời, Đức Phật du hóa tại đỉnh núi Thứu sơn, thuộc nước Vương xá, cùng chúng đại Tỳ-kheo gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị, cùng với tám ngàn Bồ-tát. Bấy giờ, Đức Thế Tôn vì vô số trăm ngàn đồ chúng vây quanh mà thuyết pháp. Khi ấy, có vị Long vương tên là A-nậu-đạt (nhà Tấn gọi là Vô Nhiệt), đời trước đã tạo gốc đức, tu hạnh Bồ-tát, vững trụ nơi Đại thừa, thực hành đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật, dùng tướng đủ đầy, siêng năng cứu giúp chúng sinh, hóa độ vô cùng; đã từng hầu hạ chín mươi sáu ức các Đức Phật, chứa nhóm công đức, không sao kể xiết; dùng phương tiện quyền xảo, hiện khắp ở năm đường, trừ các ngu tối, khiến cho họ tu hạnh vô dục của Bồ-tát; ôm lòng Từ, Bi, Hỷ, Xả, cứu giúp tất cả; vì xót thương các loại tội ác, nên hiện làm loài rồng hóa độ loài rồng đến vô số hằng ức, khiến chúng thoát khỏi hành động tai ương; vị này tự sống dưới ao, dẫn dắt các quyến thuộc có tới tám ngàn vạn chúng, lại dẫn mười bốn vạn thể nữ vây quanh cùng đi theo để ca hát, âm thanh hòa nhã, làm loài rồng cảm động, giúp thêm oai đức, thần thông biến hóa tự do…. Lúc này, vị Long vương ấy mang các thứ hoa, hương tốt đẹp nhất, cầm cờ phướn, lọng đi đến chỗ Đức Thế Tôn. Khi đến nơi cúi đầu, đảnh lễ, cung kính, hỏi thăm Đức Như Lai, xong rồi, cầm đủ các loại hương hoa quý báu, phướn lọng năm màu, lại tấu cả âm nhạc, với lòng sung sướng, ý cung kính, cùng với quyến thuộc và các thể nữ cùng đến trước Đức Phật, quỳ dài, chắp tay ngay thẳng, bạch Đức Phật: –Chúng con muốn hỏi Như Lai, là Bậc Vô Trước, Bình Đẳng, Tối Chánh Giác, về việc Bồ-tát nên hành đạo như thế nào? Nếu Thế Tôn cho phép, con mới dám hỏi. Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Long vương: –Tùy ý ông muốn hỏi gì thì hỏi, chớ ngại. Như Lai Chí Chân Chánh Đẳng Chánh Giác, sẽ giải thích. Bấy giờ A-nậu-đạt được sức oai thần của Thế Tôn chấp thuận cho hỏi, trong lòng hân hoan, liền bạch Đức Phật: –Thưa Thiên Sư Tối Tôn! Bậc Thánh dẫn đường trong loài người, mạnh như sư tử, cảm biến vô lượng; con hỏi Như Lai và cùng khắp chúng sinh; cũng vì Đại só Bồ-tát làm thầy thế gian, vượt qua pháp thế tục, chí hạnh thanh tịnh, biết rõ nhân duyên, tế độ quần sinh, làm người bạn không thưa thỉnh; tâm Như Lai cứu độ tất cả, để được an ổn; dụ dẫn, vỗ về để được an lập; Như Lai nắm giữ vô úy, mười lực, hàng phục các ma, hàng phục ngoại đạo; tâm không có hạnh ô uế, mặc áo giáp đại đức, kim cang vững bền, chí không mệt mỏi, nhân duyên tích đức, không thể kể lường; Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ đã đầy đủ; tâm bình đẳng với tất cả, đoạn trừ tưởng vô uế, vứt bỏ hai kiến, dùng trí siêu việt, hiểu pháp nhân duyên đã nhập pháp yếu thâm áo khó vào, xa lìa Thanh văn, Duyên giác, một niệm cũng không bỏ Đại thừa, tâm Nhất thiết trí; ý hạnh kiên cường, thường được tự tại, thân sạch không nhơ, xán lạn rực rỡ, chí như hư không, vô số các kiếp, tâm không mệt mỏi, đạt được Tổng trì, từ bỏ tham nhơ, cao ngạo, xem thường, bình đẳng như Thiện Thệ, Không, Vô tướng, Vô nguyện, xem việc đã qua như mộng ảo, như bóng, như tiếng vang, như ngựa hoang, như trăng dưới nước; đối với các pháp ấy đều hiểu như nhau, không động, coi trọng lời dạy Tam bảo, tôn thờ, kính trọng, chuyển bánh xe pháp, không chỗ chướng ngại, vui mừng, tin thích, đều tự đạt được; như hoa Ưu-đàm, hằng ức năm mới nở, chí Như Lai thanh tịnh, an nhiên sống một mình, đầy đủ các tướng; thuở xưa, Như Lai đã cung kính, các Đại só Hiền minh, Như Lai huân tu thượng nghóa, trụ pháp mới được như vậy nên Long vương vì các vị Chánh só ấy xin hỏi Như Lai. Cúi mong, Như Lai Chí Chân Chánh Đẳng Chánh Giác, giải nói các việc làm của Bồ-tát Đại só, được pháp môn du hý, nhập Kim cang đức, đạt được quả sâu xa, khiến cho người tu chứng được Tổng trì. Dùng hạnh bốn Đế mà tùy thuận, hóa độ, hàng Thanh văn, làm cho họ hiểu được chân lý cốt yếu, dắt dẫn chứng Duyên giác trong sạch khởi nhân duyên, khen cho một lòng mà được Đẳng chánh giác. Muốn đạt được các pháp, phải đi vào Đại thừa. Nhờ vào được Đại thừa, mới có thể hàng phục ma oán, làm tiêu tan những nghi ngờ những phiền não, vượt qua những tội khổ. Biết mọi ý chí hành động của tất cả chúng sinh, chứa nhóm biện tài tối thượng, tung rải diễn giảng các pháp, tùy tất cả những mong ước mà hóa hiện đều họ ưa thích. Lành thay! Bạch Thế Tôn! Đức Như Lai, Bậc Vô Trước, Bình Đẳng, Chánh Giác; vì các bậc Đại só Hiền minh, nên diễn nói cùng khắp; làm cho các Bồ-tát, đạt được trí lực, hàng phục tâm tự đại của mình, được pháp thượng lực, hiểu rõ hành động tai ương nên không tạo tác; làm cho các vị được sức mạnh bố thí, không tham tiếc vật mình có được, cho mà không mong báo đáp; lại làm cho các vị được sức mạnh trì giới, trừ hết các tội, vượt qua các nguyện; làm cho có được sức mạnh nhẫn nhục đối với các pháp khổ, ở nơi thọ sinh, không tiếc thân mạng, làm cho được sức mạnh tinh tấn, gom chứa các gốc đức, chí thường không mỏi. Làm cho được sức mạnh của định, khéo ở chỗ vắng vẻ, hiểu rõ yếu hạnh của định. Làm cho được sức mạnh của tuệ mà vượt qua tà kiến, nghi hoặc mờ mịt; biết dùng phương tiện quyền xảo để tế độ chúng sinh, khuyến trợ rõ ràng, đạt năm thông đầy đủ, Thiên nhãn không giới hạn, biết tâm, nghe suốt, thần túc, biết được kiếp quá khứ. Nhờ đó, việc du hóa đạt quả vui đại Biện tài. Biện tài về nghóa của câu, nói không bao giờ cùng tận, khiến được Tổng trì, tâm không hoảng hốt, làm cho mau đạt được chánh định Hải ấn Tam-muội, tiến tới, tùy theo quả Phổ trí, đồng một vị, được chí định của Phật, đời sống an vui, vónh viễn phụng thờ bậc tôn quý, mà không bị ngăn che, chướng ngại, mau đạt được định pháp chí, tinh tấn định ý, nghe pháp lâu dài, hoàn toàn không hạn chế và chướng ngại. Tôn sùng ý định mọi người, khiến cho tất cả chúng sinh tôn thờ sự không thoái lui, được chí định thí, pháp thí, của cải thế tục, không có tiếc nuối, đầy đủ về giới, thực hành nhớ nghó vắng lặng, để mau thành Phật, tâm không hề quên chí định sinh lên trời, thường nhớ đến cõi trời Đâu-suất, Nhất sinh bổ xứ, lòng thích thú hạnh thanh cao cho Bồ-tát. Long vương đã hỏi xong các nghi vấn, trong lòng vui mừng hớn hở, lại dùng bài tán tụng để hỏi tiếp Đức Thế Tôn: Xin Đại nhân nói nghóa hiện thế Đức hạnh mà Bồ-tát đã nhập Chí khí nội tánh, chỗ cần tu Hưng phát đạo gì, làm sao hành? Thuận theo lòng Từ, hành nhập Bi Ý nghó luôn cứu độ chúng sinh Định trí hằng hóa, khiến trong sạch Mong ngài xót thương, mà rộng nói? Dạy chúng con ngưng và dứt ý Căn, Lực, Thần túc hành như vậy, Nói đạo Thất giác, chỉ mọi người Xin nói đức ấy để phụng trì. Bố thí, trì giới, đầy đủ đức Nhẫn lực, hành thiện và tinh tấn Nhân duyên, trí tuệ, chuyển vô lượng Làm sao độ chúng, mong Phật nói? Biện tài thông đạt, khỏi ngu tối Chí hạnh xét rõ, thường thanh tịnh Các việc khởi sinh, liền biết rõ Mong Phật nói cho các Bồ-tát Đức tánh hân hoan, báo niềm vui Bảy thứ Thánh tài là hạnh cao Thích sự ở nhàn và tu tịnh Cúi mong từ tôn, rộng nói cho. Hạnh biện tài đủ, làm sao được Tổng trì sâu xa, mãi an trụ Hoằng dương chánh pháp không hề dứt Nghe xong phụng hành mãi không quên Niết-bàn trong sạch mà hành quán Ý hiểu sâu xa, trí rộng lớn Trí tuệ khó đầy, đức vô biên Hiểu làm thế nào, hợp Bồ-tát. Chế ngự ma lực cùng ý oán Hủy hoại ngoại đạo, các loại tà Đức dũng khó động như núi lớn Trăng sáng cùng tột, rộng thuyết pháp Hiểu không, Vô tướng, tánh sở tại Hiểu rõ ngựa hoang và pháp huyễn Thể hình mộng tưởng cho là không Cúi mong Thế Tôn nói cho con. Bấy giờ Đức Thế Tôn mới bảo Long vương: –Lành thay, lành thay! Thật vui không gì bằng, nên mới tự phát tâm, hỏi Đức Như Lai những nghi ngờ. Nay ông đã thưa hỏi được, là nhờ công đức đời trước, đã hiện rõ lòng Từ bi, vì các bạn hữu thân thiết, không sợ sinh tử, chẳng đoạn Tam bảo; mối nghi của Long vương là như thế! Vậy hãy lắng nghe và khéo suy nghó, ta sẽ nói rộng, về những việc, Bồ-tát Đại só cần phải tu hành, bên này bên kia vô hạn, được quả pháp tối quan trọng. Khi ấy Long vương thưa: –Hết sức tốt đẹp, thưa Thế Tôn! Con rất thích nghe, nghe xong, suy nghó, rồi thọ trì, tuyên bố cho mười phương, khuyên nhau tinh tấn, không hề mệt mỏi. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Long vương: –Có một hạnh pháp, Bồ-tát thực hành thì đầy đủ tướng tốt, được các Phật pháp. Những gì là một? Đó là khởi lên ý đạo, không bỏ chúng sinh, gọi đó là một hạnh, đạt được các Phật pháp. Lại có ba mươi hai việc tâm trí được cùng khắp, cần phải siêng năng, ưa thích tu hành, chuyên ý mà thực tập. Sao gọi là ba mươi hai việc? Đó là tu tập, chế ngự nội tánh, giữ chí cao tột, thực hành lòng đại Từ, tâm đại Bi vững chắc, chí nguyện không nhàm chán, phát khởi tinh tấn, đầy đủ sức mạnh, đạo đức to lớn, lại có thế lực vượt cao, yên lặng không phiền, nhẫn nhục, vì chúng sinh, tập gần bạn lành, chuyên làm việc pháp, chế ngự quyền hóa, thực hành đức nhẫn đầy dủ, thích việc giữ giới, không có ý tưởng dua nịnh, dứt sạch, giả dối, lời nói và hành động tương ưng nhau, tâm biết báo đền, thường có sắc xấu hổ, tự biết thẹn thùng, đã điều hòa được sự vui mừng hân hoan, căn hạnh cho đến niềm tin, đã chế ngự ý, gìn giữ công đức, chí xa lìa con đường nhỏ, thích hoằng dương hạnh Đại thừa, quán xem tất cả việc Tam bảo, khiến không đoạn mất. Này Long vương! Đó gọi là ba mươi hai pháp, Bồ-tát làm vậy, sẽ được tâm trí rộng lớn. Lại nữa, này Long vương! Có mười sáu việc, làm tăng tiến trí lực rộng lớn. Sao gọi là có mười sáu việc làm tăng tiến trí lực rộng lớn? Đó là thi hành các sự ban cho cứu tế, đầy đủ giới không khuyết, nhẫn nhịn điều đáng nhẫn, tinh tấn đối với quả cao cả, đặt thiền định trong các hành, đã đầy trí tuệ, tín hạnh đầy đủ, cúng dường hầu hạ Như Lai, vui chơi chỗ an tịnh, thích nhàn hạ, đầy đủ sáu pháp kiên cố. Có mười điều thiện tối thượng, trang nghiêm thân khẩu ý, đức đầy đủ, hạnh tiết thao, biết đủ, thích vắng vẻ, ba thân khuyên người, tu định quán cao tột, đầy đủ các đức. Đó gọi là mười sáu việc để thực hành pháp, làm ứng hiện tướng tốt đẹp và phước lành, diễn nói tâm đại trí, hiện ra giữ gìn Phật ở đời, tự do lưu truyền, hóa độ. Lại nữa, này Long vương! Tâm trí rộng lớn ấy, nhờ hai mươi hai việc mà trừ tà chấp được nhanh chóng, rồi dùng chí Đại thừa ấy, để tu trí rộng lớn. Sao gọi là hai mươi hai việc? Đó là vượt qua tâm ý của Thanh văn, Duyên giác, hạ thấp lòng cống cao, vô ngã, tự đại, tiêu trừ việc dua nịnh, chận đứng đủ loại lời nói thế tục; xa lìa, vứt bỏ không phải giới; nhổ gốc giận dữ, thoát khỏi việc của ma; trừ bỏ sự ngăn che, trở ngại; không quên lời thầy dạy, để diệt trừ tội lỗi; tự xét mình, thêm tình thương, không bàn việc quấy của người, tập xa lìa bạn ác, xa kẻ nghịch, thương người thiện, bỏ những gì không phải Lục độ; lại vứt bỏ tâm tham tiếc; thanh tịnh các giới cấm, trừ bỏ mọi tranh tụng, xa lìa sự lười biếng, với mê mờ, tự làm cho ngay thẳng, xả bỏ các sự vô tri, vứt bỏ sự không tiện lợi, vứt bỏ ác hạnh. Đó gọi là Bồ-tát trí rộng, trừ bỏ hai mươi hai tà chấp, mau đạt được sự quyền biến của trí tuệ, vónh viễn không còn lười biếng, thoái lui. Lại nữa, này Long vương! Có hai mươi hai việc hăng hái; nếu siêng năng tùy thuận làm theo, sẽ được tâm trí rộng lớn, không gì hơn được, làm cho các ma Ba-tuần và quen thuộc của ma, cùng ngoại đạo, đều bị hàng phục. Sao gọi là hai mươi hai việc hăng hái? Vượt qua giới, hăng hái để đạt định; cũng hăng hái vượt qua trí, mà được tuệ hành; hăng hái vượt qua quyền hóa, cũng vượt qua tâm đại Từ, hăng hái vượt qua đại Bi. Nói tóm lại, vượt qua không, tướng, nguyện, ngã, nhân, thọ, mạng; vượt qua, những xa lìa các kiến chấp và nhân duyên phát sinh; vượt qua tâm tự tịnh, nhờ sự giác ngộ của Thần thánh; vượt qua sự nhớ nghó của thức là nên thấy hay không nên thấy; vượt qua hạnh vững chắc của Đại Kim cang. Này Long vương! Đó là hai mươi hai pháp hăng hái để tâm trí rộng lớn, làm cho tất cả chúng ma và thân quyến của chúng, cùng ngoại đạo tà vạy, không còn được tự tại, đều bị hàng phục, không dám chống lại. Lại nữa, này Long vương! Trí tâm rộng lớn ấy phải nương vào hai hành xứ, mới đạt đến tâm trí rộng lớn. Những gì là hai? Như lời đã nói, tu đúng hành xứ; các gốc công đức, quán đạo hành xứ. Đó là hai hành xứ, làm cho tâm trí rộng lớn. Lại có hai việc làm tâm rộng lớn, không thể hủy hoại. Những gì là hai? Đối với chúng sinh không có tâm đổi khác; đối với các tai ương, cứu giúp bằng tâm đại Bi. Đó là hai việc, làm trí rộng lớn, không thể hủy hoại. Lại nữa, này Long vương! Tâm trí rộng lớn ấy, có hai thứ pháp, mà không có gì vượt qua; bè đảng của sinh tử và chúng Thanh văn, cùng với các Duyên giác, không thể vượt hơn. Những gì là hai? Nắm giữ quyền biến phương tiện, đi sâu vào trí tuệ. Đó là hai việc, hai pháp, làm trí rộng lớn. Lại nữa có hai việc, ngăn chận trí tâm rộng lớn. Những gì là hai? Xử sự không có tâm nghi ngờ, ngưng trệ; nơi nơi không an vui, muốn các an vui của thế tục. Đó là hai việc, ngăn chận tâm trí rộng lớn. Lại có hai việc, giúp đạt được trí tâm rộng lớn. Những gì là hai? Không lưu ý địa vị tu hành của Thanh văn, Duyên giác; chỉ quán sát cái đức vô cùng tốt đẹp của Đại thừa. Đó là hai việc, giúp đạt được tâm trí rộng lớn. Lại có hai việc, làm tổn hại trí rộng lớn. Những gì là hai? Tâm thường cho mình có nhiều tài nhưng lại ôm lòng nịnh hót bên trong. Đó là hai việc, làm tổn hại tâm trí rộng lớn. Lại có hai việc, không làm tổn hại trí rộng lớn. Những gì là hai? Chuyên tu tín tâm ngay thẳng; hành động dua nịnh. Đó là hai việc, không làm tổn hại trí rộng lớn. Lại có bốn việc, ngăn che trí tâm rộng lớn. Những gì là bốn? Thường làm loạn chánh pháp; đối với các Bồ-tát, Đại só Hiền minh, không có lòng tôn thờ; thường không biết sự cung kính, không hiểu được việc của ma. Đó là bốn việc, làm ngăn che trí tâm rộng lớn. Lại có bốn việc, không ngăn che được tâm trí rộng lớn. Những gì là bốn? Giữ gìn chánh pháp; nghe pháp rồi cung kính thọ trì; tôn trọng Bồ-tát như là Thế Tôn; thường biết được việc của ma. Đó là bốn việc, không làm ngăn che tâm trí. Lại có năm việc, đưa đến trí tâm rộng lớn. Những gì là năm? Việc mình làm không có mong cầu; với sinh tử và hữu lậu thì dùng giới đức; không xả bỏ tất cả mà luôn có lòng đại Bi; ghét và yêu không hai, ban cho cả thân mạng; đem tài - lợi - tuệ ban cho khắp, lấy đó làm pháp cúng dường. Đó là năm việc, để được trí rộng lớn. Lại có năm việc, để làm tiến triển trí tâm rộng lớn. Những gì là năm? Bắt chước Thiện tri thức; không sợ sinh tử; chí cao xa, không bị ngăn che; bỏ tâm phi thời; cầu trí chư Phật. Đó là năm việc, phát triển trí tâm rộng lớn. Lại có năm việc, làm tồn tại trí tâm rộng lớn, vượt qua sự nhớ nghó của các Thanh văn, Duyên giác. Những gì là năm? Vượt qua sự giải thoát của Thanh văn; vượt qua sự giải thoát của Duyên giác; vượt qua trí tâm mọi người; vượt qua các chấp ngã; vượt qua sự trói buộc của tập. Đó là năm việc, vượt qua các pháp hành. Lại có năm việc, làm cho trí tâm rộng lớn có sự vui mừng. Những gì là năm? Vui mừng vượt qua ác đạo; vui mừng suy xét trí rộng lớn; vui mừng đầy đủ giác tuệ; vui mừng giữ giới không nhàm chán; vui mừng hiểu các hạnh. Đó là năm sự vui mừng của trí tuệ rộng lớn. Lại có năm việc, phát khởi trí tâm rộng lớn, được năm Lực giúp đỡ, không chìm đắm trong sinh tử. Những gì là năm? Đó là: Dùng nhẫn lực để không có sự oán hận; nhờ đức lực để có thể đầy đủ các nguyện; nhờ trí lực để hàng phục tánh tự tại của mình; nhờ tuệ lực để siêng năng nghe nhiều; nhờ vô úy lực để vượt qua các sự kiếp nhược. Đó là năm việc, nhờ các lực chưa đến giúp đỡ. Lại có năm việc, làm cho trí tâm rộng lớn được ngay năm sự trong sạch. Những gì là năm? Xa lìa cho hạnh ô uế, được trong sạch; các người đọa lạc, nhờ các căn không mê hoặc, nên được trong sạch; tùy thuận vào mọi lúc, mà quán trong sạch; thực hành cho được bình đẳng, quyền biến đạo trong sạch; chuyển hóa được tất cả các pháp, trở thành trong sạch. Đó là năm việc trong sạch của trí rộng lớn. Lại có năm việc, để được trí sáng rộng lớn. Những gì là năm? Đó là: Hiểu rõ vô dục; hiểu rõ tâm mình, tâm người; hiểu rõ năm cú; hiểu rõ được tuệ hành; mắt sáng vô ngại. Đó là năm việc đưa đến trí sáng rộng lớn. Lại có năm việc, làm cho trí tâm rộng khắp. Những gì là năm? Đó là: Năm giống, năm gốc, năm cành, năm nhánh, năm lá, năm hoa, năm quả. –Sao gọi là năm giống? Đó là nhật tu, chí tu; để tịnh nội tâm; bình đẳng quán sát người và vật; cầu tập hạnh giải thoát; quyền biến rộng rãi. Đó là năm giống. –Sao gọi là năm gốc? Đó là nhờ đại Từ bi, nên đối với gốc đức không nhàm chán, khuyên chúng sinh tiến tới, khiến họ thoát khỏi tiểu thừa, tâm chí không rơi vào các đường khác. Đó là gốc. –Sao gọi là năm cành? Đó là hiểu phương tiện quyền xảo, trí tuệ cứu giúp vô cùng, dẫn đường chỉ nẻo mọi người, giữ gìn chánh pháp, bình đẳng quán sát sự mừng và giận. Đó là năm cành. –Sao gọi là năm nhánh? Đó là Bố thí rốt ráo, Trì giới rốt ráo, Nhẫn nhục rốt ráo, Tinh tấn rốt ráo, Thiền định rốt ráo, đó là năm nhánh. –Sao gọi là năm lá? Ưa thích nghe giới, mong cầu ở chỗ sạch không, ý muốn xuất gia, tâm theo giống Phật, vui trong vô ngại. Đó là năm lá. –Sao gọi là năm hoa? Được đầy đủ tướng tốt, nhờ chứa đầy công đức; đầy đủ các vẻ đẹp nhờ bố thí tất cả; đầy đủ bảy Giác tài vì tâm không xen tạp; có biện tài hiển lộ, vì không che giấu pháp; thấu đạt Tổng trì, nhờ nghe mà không quên. Đó là năm hoa. –Sao gọi là năm quả? Đạt được giới quả; được độ quả; đạt Duyên giác quả; lại được quả không thoái chuyển của Bồ-tát; được quả Phật pháp. Đó là năm quả. Này Long vương! Đó là ba mươi lăm việc, làm cho trí rộng lớn, cây đạo của Bồ-tát tươi tốt. Nếu ai tu được như vậy, thành Phật không khó. Đức Phật bảo Long vương: –Nếu có Bồ-tát, muốn thọ trì trí tâm rộng lớn này; muốn trồng cây thâm diệu, hiển hiện rõ câu yếu hạnh; cần phải siêng năng tăng sự tu tập về cây báu trí rộng lớn này. Như vậy, này Long vương! Ta thấy tất cả các pháp công đức, không cái nào mà không có nghóa, của cấy báu này cả! Các vị phát tâm với đạo Vô thượng chánh chân, đều nhờ câu chủ yếu của cây báu trí rộng này. Ví như Long vương muốn lựa chọn trồng giống cây thì nên biết gốc, cành, nhánh, lá, hoa, quả của cây có sinh trưởng tốt hay không. Cũng như vậy, này Long vương! Nếu có người có thể thọ trì giống trí tâm rộng lớn này, họ sẽ đạt được ba mươi bảy phẩm, pháp tối thượng tuệ của chư Phật, Hiền thánh. Cho nên, này Long vương! Muốn nhập vào trí rộng lớn, phải thực hành công đức; muốn chuyển pháp luân, phải thọ trì nó, siêng tu, đọc tụng, chuyên tâm thực tập, rộng vì tất cả chúng sinh mà trình bày cho rõ. Như vậy, Long vương! Nên siêng năng, thọ học, pháp môn này. Ngay khi Đức Phật thuyết phẩm Pháp ngữ, của trí tâm rộng lớn này; có bảy vạn hai ngàn chúng loài rồng, đều phát tâm với đạo Vô thượng chánh chân. Thái tử của Long vương, cùng với một vạn bốn ngàn các thể nữ, cũng đều được pháp Nhẫn nhu thuận; năm ngàn vị Bồ-tát, nương theo gốc công đức có ở đời trước đều được pháp nhẫn. Bấy giờ A-nậu-đạt, cùng các Long vương khác, cùng các quyến thuộc, nương vào thần lực chính mình, bay lên hư không, làm thành đám mây hương, phút chốc lan tỏa khắp, hương thơm hòa cùng với bột chiên-đàn, tạo thành cơn mưa nhỏ, mưa hương trên Đức Như Lai và chúng hội; và lại hóa làm các châu ngọc quý lạ, che kín các giao lộ, rồi tiếp tục che khắp cảnh giới cả nước Vương xá, làm cho mọi người đều vui mừng; ở trên hư không lúc này có đủ lời ca tụng Đức Như Lai Chí Chân; người đã chứa nhóm vô số điều tốt đẹp, Thánh đức vô lượng; người đứng riêng trên trời mây, hiện nữa thân, rực sáng cả hư không. Tất cả chúng hội, không ai mà không thấy điều ấy.  <詞 id="104089297">Phẩm 2: THANH TỊNH ĐẠO Bấy giờ Long vương, lại bạch Đức Phật: –Thật chưa từng có! Đúng vậy, thưa Thế Tôn, nếu Đức Như Lai, rộng vì chúng sinh, nói về tâm đạo thế tục và tâm trí rộng lớn hành đức sở ưng. Lại nữa, thưa Thế Tôn, Như Lai là Bậc Vô Trước, Bình Đẳng, Chánh Giác; xin Thế Tôn diễn nói về hạnh của Bồ-tát tu hành thuần tịnh, hiền minh, là do đâu mà được đạo thanh tịnh, khiến cho kết cuộc, mãi mãi không ô uế, không có sự biếng lười, không mệt mỏi, không thoái chí; đến khi đạt được mười Lực, bốn Vô sở úy, được đầy đủ pháp của chư Phật. Khi ấy, Đức Thế Tôn bảo A-nậu-đạt: –Lành thay, Long vương! Hãy suy nghó cho kỹ, ta sẽ rộng nói về đạo phẩm thanh tịnh của Bồ-tát Đại só. Long vương A-nậu-đạt thưa: –Hết sức tốt, thưa Thế Tôn, Rất mong được chỉ dạy; xin Thế Tôn nói cho. Bấy giờ Thế Tôn bảo Long vương: –Bồ-tát tu hành, có tám con đường ngay thẳng, cần phải thọ trì. Những gì là tám? Đó là: 1.Con đường Lục độ vô cực. 2.Con đường thực hành việc báo ân. 3.Con đường ngũ thông. 4.Con đường Tứ đẳng. 5.Con đường tám Chánh. 6.Con đường bình đẳng với chúng sinh. 7.Con đường ba giải thoát. 8.Con đường nhập pháp Nhẫn. Như vậy, này Long vương! Đó là tám con đường chánh hạnh của Bồ-tát. Sao gọi là con đường Độ vô cực của Bồ-tát? Con đường Độ vô cực là, khi bố thí khuyên người đó mở trí rộng lớn. Vì sao phải như vậy? Không phải không khuyên bố thí mà thành trí rộng lớn; kỳ thật nhờ khuyến trợ ở gốc đức mà được tên gọi là Bố thí độ rốt ráo. Vả lại, thực hành Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định và Trí tuệ, cũng là để khuyến trợ tâm rộng lớn này, mới được tên gọi là Trí tuệ độ rốt ráo. Đó gọi là con đường Độ vô cực của Bồ-tát. Ân của người hành đạo, bao gồm sự thọ nhận của tất cả chúng sinh. Vì sao? Vì Bồ-tát ấy diễn giải, chỉ bày pháp độ. Bồ-tát thi ân bao trùm tất cả; lại dùng bốn ân mà thuyết pháp rộng rãi, khiến cho chúng sinh tùy thuận lãnh thọ các giới. Đó là con đường bốn ân. Con đường Thần túc là, thấy khắp các cõi Phật, với Thiên nhãn thấy suốt đến hết tất cả loài chúng sinh. Lại thấy chư Phật Thế Tôn ở mười phương, có đệ tử vây quanh. Đều thấy được như vậy. Đối với các cõi Phật, dùng Thiên nhãn, những điều cần đạt được ta đã đạt được. Lại nữa, dùng Thiên nhó, nghe những lời của chư Phật, nghe xong thì thọ trì. Ở chỗ chúng sinh và các loại người đều hiểu rõ, đều biết hết, rồi tùy thuận mà thuyết pháp, biết được đời trước. Không quên công đức mà đời trước đã tạo. Lại có đầy đủ Thần túc, vượt qua vô số cõi nước của chư Phật. Người nào cần thần túc để được cứu độ, liền dùng tần túc rộng lớn mà độ thoát cho họ. Đó là con đường cảm ứng của thần túc. Lại nữa, sao gọi là con đường Tứ đẳng phải đi? Đó là, tùy theo ý chí tu hành phạm hạnh trong sạch, hợp cùng các sắc tướng khác Thiên tử, biết ý hạnh của họ, mà tùy thuận giáo hóa; đó chính là Từ, Bi, Hỷ, Hộ (xả), dùng đạo để tạo dựng, khiến cho chúng sinh được độ. Đó gọi là con đường Tứ đẳng hành của Bồ-tát. Với tám Chánh đạo đều phải làm tất cả, Thanh văn cũng từ đó, Duyên giác nương vào đó, Đại thừa cũng vậy. Đó gọi là con đường ngay thẳng tám nhánh của Hiền thánh. Sao gọi là con đường giữ tâm bình đẳng với các chúng sinh? Đối với các suy nghó: Làm vậy thì tốt hay không làm vậy là tốt? Làm thế kia thì được, làm thế này thì không nên? Người này có đức hiền, người kia không phải là kẻ có phước? Điều đó rất nên làm, điều này lại không nên? Bồ-tát thực hành bình đẳng, nên trừ hết những ý ấy. Đó gọi là con đường giữ tâm bình đẳng đối với các chúng sinh. Sao gọi là con đường ba cửa giải thoát của Bồ-tát? Nhờ đạt được Không, mà đoạn trừ được các vọng kiến. Nhờ được Vô tướng mà trừ bỏ được các niệm tưởng nên hay không nên. Nhờ Vô nguyện mà vónh viễn xa lìa ba cõi. Đó gọi là con đường ba cửa giải thoát của Bồ-tát. Sao gọi là con đường đưa đến pháp nhẫn? Đó là: Bồ-tát thọ lãnh lễ bái; Bồ-tát phải tự giác hành động tương ưng với nhẫn; để được chư Phật Thế Tôn quyết định thọ ký, để được đạo ý Vô thượng chánh chân. Đó gọi là Bồ-tát không khởi còn đường nhẫn; Bồ-tát đạt được tám con đường ngay thẳng này; thì sự hoằng hóa, lưu truyền, ban cho phương tiện dẫn dắt chúng sinh sẽ không ngại. Khi Đức Phật nói tám Chánh đạo xong; có hai vạn bốn ngàn Trời, Rồng và Người đều đạt được tám đạo hạnh này. Do đó, này Long vương! Bồ-tát nhờ tám con đường chánh trực này, nên cùng về một chỗ. Không ai bằng được, không ai có thể so sánh với Bồ-tát này, cũng không có ai làm bạn; một mình đi trong ba cõi, nhờ giữ tâm trong sạch, tu hạnh trí tuệ, nên tự mình sẽ chứng được đạo quả, sáng suốt đạt các pháp, nhưng vẫn biết nó vốn là không. Đó gọi là Như Lai. Này Long vương! Đó là tám con đường ngay thẳng. Vì tất cả các phàm phu, tất cả hành động của chúng sinh mà khởi lên các ngôn thuyết, nói lời cốt yếu, bình đẳng bốn bề, không nói dối, nói lời chưa ai nói. Sao gọi là đối với đạo này thanh tịnh? Vì đạo quả không nhơ, không có bụi bặm. Đạo này không tì vết, vốn không nhớ nghó vậy. Đạo này trí tuệ luôn chiếu sáng vậy. Đạo này không chìm đắm, vốn thanh tịnh vậy. Đạo luôn không sinh, vì không chỗ diệt vậy. Đạo vónh viễn vốn như không, vì không hiện hữu vậy. Đạo không nhơ bẩn, vì ba cõi trong sạch. Đạo này vắng lặng, vì vượt quá hạnh phàm phu vậy. Đạo không thể đến được, vì không có đi vậy. Đạo không có chỗ đến, vì không từ đâu lại. Đạo luôn luôn vô trụ, vì vượt qua các ham muốn. Đạo không có nơi chốn, vượt trên cái thấy mọi người. Đạo không ai hơn được, vì vượt qua các ma. Đạo lớn bao trùm tất cả, nên ngoại đạo không thể theo kịp. Đạo vónh viễn xa lìa vọng chấp, vì tự nó lớn vậy. Đạo không chỗ hình dung nên không vào được. Đạo này rất xa, nên hy vọng vậy. Đạo là xa lìa vónh viễn, vượt trên hạnh phàm phu. Đạo có thể đưa đến quả chứng, vì người tu hành. Đạo là vận hành, nên phải siêng năng tu học. Đạo rất bình thản, trụ nơi chánh kiến. Đạo không ngăn trở, đừng hủy phạm. Đạo này vô ngại, vì bình đẳng chánh hạnh. Đạo này không bẩn, vì sạch ba độc. Đạo này trong sạch, vì hoàn toàn không chìm đắm. Đó gọi là sự trong sạch của Bồ-tát đạo; nếu Bồ-tát này đối với đạo trong sạch, chuyên cần tinh tấn tu học, lại thực hành tương ưng, thì vị ấy, đối với pháp tánh, tất sẽ được trong sạch; ngã tánh cũng được trong sạch, cũng sẽ vượt qua; nhờ pháp tánh tịnh, nên số tánh tịnh; nhờ số tánh tịnh, nên vô số tánh tịnh; nhờ vô số tịnh, nên được tam giới tịnh; nhờ tam giới tịnh, nên tánh của nhãn thức tịnh; nhờ nhãn thức tịnh, nên tánh của ý thức tịnh; nhờ ý thức tịnh, nên tánh không tịnh; nhờ tánh không tịnh, nên các pháp tánh tịnh. Nhờ được thanh tịnh, nên các pháp thảy đều thanh tịnh như hư không. Nhờ không… thanh tịnh, nên chúng sinh thanh tịnh. Nhờ tất cả thanh tịnh nên liền thấy không có hai, cũng không chấp vào hai. Nhờ không có hai thanh tịnh nên đạo thanh tịnh. Vì vậy nên nói đó là đạo thanh tịnh. Vị ấy không có các nhớ nghó, cũng không nhớ nghó về đạo; các nhớ nghó ấy đều thanh tịnh, giống như Niết-bàn; với vị ấy hoàn toàn, không có cái gọi là không nhớ nghó, nên không có chỗ nhớ nghó, không có người nhớ nghó về đạo, cũng không có ý thức nhớ nghó. Đạo này hoàn toàn không có hành động của tâm ý thức, do đó, nên nói đó là đạo thanh tịnh. Khi nói pháp Đạo phẩm thanh tịnh này, có hai vạn trời và người đều được pháp Nhẫn. Bấy giờ A-nậu-đạt, lại bạch Đức Phật: –Bạch Thế Tôn! Bồ-tát Đại só tu sự thanh tịnh này như thế nào để hướng đến đạo? Thánh tôn bảo: –Này Long vương! Bồ-tát Đại só muốn thực hành đạo ý thanh tịnh này, cần phải hiểu tịnh hạnh, phải khiến cho thân, khẩu, ý thanh tịnh. Thế nào là thân thanh tịnh? Thân mình đã là không, nên hiểu các thân khác cũng là không. Thân mình vắng lặng, nên hiểu các thân khác cũng vắng lặng. Thân mình đã giải thoát, nên hiểu các thân khác cũng giải thoát. Thân biếng nhác kiêu ngạo; nên hiểu các thân khác cũng biếng nhác. Thân như bóng hình, nên biết các thân khác cũng như bóng hình. Đó gọi là đạo thanh tịnh của Bồ-tát. Lại nữa, sao gọi là thân tịnh, thân hành vô sinh? Đó là vị ấy, vì có sinh tử quán với vô sinh. Tuy là vô sinh nhưng đồng với sinh tử. Như vậy, vị ấy biết thân thì cũng hiểu thân hành. Sao gọi là thân hành? Đó là pháp khứ lai sinh, pháp đến vô tận, pháp thấy tại ảnh, pháp hoàn toàn vô tận; cái vô tận ấy, gọi là thân hành. Lại nữa, pháp của thân, do nhân duyên hội hợp. Cái nhân duyên ấy thì rỗng, không tướng, đương nhiên là không nhớ nghó. Như vậy, này Long vương! Quán tượng pháp này, gọi là thân tịnh. Lại nữa, nếu thân Như Lai vô lậu, không rơi vào ba cõi. Quán thân vô lậu, như như vốn không. Nhờ thân vô lậu, nên không rơi vào ba cõi. Thân vô lậu ấy hay nhập vào sinh tử, ngằn mé của vô lậu là không mệt mỏi, xả bỏ, thoái lui. Nhờ thân vô lậu mà hiện ra sắc thân. Hiện như vậy rồi, cũng không nhớ nghó pháp vốn diệt thân. Thanh tịnh như thân của Như Lai, nên thân của chúng sinh thanh tịnh, thân mình cũng thanh tịnh, giống như vốn là không vậy. Đó gọi là Bồ-tát hạnh cần phải thanh tịnh. Thế nào là lời nói phải thanh tịnh? Lời nói của tất cả kẻ hiền hay ngu đều thanh tịnh. Vì sao? Vì tướng bình đẳng vậy. Phàm phu sức yếu, say đắm âm thanh; cái tin không thật chính xác buồn vui vô thường, thích nơi điên đảo; xem xét kỹ chúng sinh vốn không, hoàn toàn không có dâm, nộ, si, dục. Sao lại như vậy? Vì tạm dùng các chữ để nói, âm thanh có phát ra cũng đều là thanh tịnh. Không dục, nhuế, ngu, cũng không dính vào đó. Vì vậy, nên nói, tất cả lời nói đều thanh tịnh, dùng lời để mà nói. Sao gọi là nói? Vì dục, nhuế, si mà nói chăng? Vì các ô nhiễm mà nói chăng? Người nói không dính mắc; không dính mắc ở mắt, tai, mũi, miệng, thân, tâm. Nói rằng hình tượng gió, khi nó động thì phát ra âm thanh. Nhân duyên hội hợp tai liền nghe âm thanh. Lời nói như tiếng vang; lời nói của người hiền, kẻ ngu đều như tiếng vang. Ai cũng có thể nói được, không phải trụ ở trong, cũng không phải phát ra ở ngoài, cũng chẳng phải ở giữa mà không thể được; nó vốn trụ nơi chỗ nhớ nghó niệm và chỗ của hành động. Người phát ra lời nói cùng với chỗ niệm tưởng là vô trụ, vô tưởng. Do đó, này Long vương! Lời nói của Như Lai cũng với âm thanh của tất cả chúng sinh, đều là không, chẳng chân thật làm tổn hại pháp này vậy! Long vương thưa: –Bạch Thế Tôn! Lời nói của Như Lai là không chính xác sao? Đức Phật bảo: –Này Long vương! Như Lai biết rõ chân lý. Vì sao? Vì Như Lai là chân lý, hiểu biết các pháp chẳng chân, chẳng thật. Lại nữa, này Long vương! Lời của Như Lai nói ra, âm thanh tùy theo văn tự, là để đáp lại tất cả âm thanh của thế gian. Cho nên chúng sinh cũng có thể chuyển xe pháp, mà cũng không biết tùy thuận nghóa của pháp. Vì dùng để đáp ứng nên mới có hành động, tùy thuận vào việc, diệt hết các khổ, nên hiểu rõ các pháp. Hiểu được như vậy, âm thanh của chúng sinh đã là không chỗ trụ; tại các phiền não mà thường có sự nhàn tịnh, hiện ra lời muốn nói, đắm trước cái vô trước; tiếng nói thành lời, là giảng luận đàm thoại. Nếu người như pháp, không có sai phạm. Đó gọi là lời thanh tịnh của Bồ-tát. Sao gọi là tâm Bồ-tát là thanh tịnh? Tâm đó là gốc, không thể nhiễm ố. Vì sao? Vì tâm vốn thanh tịnh vậy. Cho nên nói lòng dục ô uế, xấu xa; Bồ-tát đối với tâm ấy không có chỗ dính mắc; hiểu rõ quyền biến của tâm đối với nó vốn thanh tịnh. Lại nữa, tâm hành không chọn gốc đức, gốc đức ấy lại biết rõ gốc tâm; dùng tâm hành này thương yêu chúng sinh, rõ biết nó là không, vô ngã, vô nhân. Gốc đức của tâm ấy, giúp xem xét nơi đạo, biết đạo kia bình đẳng. Người xem xét như vậy, gọi là tâm tịnh. Đem tâm tịnh này, so cùng với các việc dâm, nhuế, ngu là đồng nhau, nhưng vónh viễn không nhận sự ô uế của dâm, nộ, si, đồng hành động mà không dính mắc vào các ô uế. Đó gọi là ba sự thanh tịnh của thân Bồ-tát. Khi Đức Phật nói Pháp đạo phẩm thanh tịnh này, có ba vạn các Bồ-tát đạt được Bổ sinh xứ.  <詞 id="104089298">Phẩm 3: ĐẠO VÔ TẬP Lại nữa, này Long vương! Vị Bồ-tát ấy nhờ tâm sáng này, sinh nơi dục giới; nhưng tại hình giới, ở chung với chư Thiên, giữa chúng Phạm thiên cùng an nhiên tốt đẹp; ở tại đó, hoặc động hoặc tónh không ai hơn được. Lại nữa, Bồ-tát ấy hay hàng phục chư Thiên, dùng phương tiện để hóa độ, hoặc sinh ở Sắc giới, mà ở tại Dục giới, như đang có gia đình, cùng chúng sinh vây quanh, hoặc ngồi hoặc đứng; vị ấy không ở chung với chúng sinh ngã mạn, lười biếng, cũng không tự xem thường. Vị ấy nhờ đó, tịnh các định, chánh thọ, hoàn toàn dùng định tự thân, không theo định bên ngoài. Vì sao? Vì Bồ-tát ấy dùng phương tiện quyền xảo nên tâm thanh tịnh. Này Long vương! Nếu Bồ-tát, hiểu biết hạnh thanh tịnh, phải tu hành thanh tịnh, rồi mới tập đạo. Như vậy, này Long vương! Bồ-tát không tập, để cầu đạo tập; nhờ không tập, vô tập, dùng tập tưởng đạo, cũng không tập; đối với sự tu tập, để mong cầu đạo, cũng không cầu tập; hiểu rõ đạo tập, không tập sở sinh, mong cầu đạo tập; không tập hành diệt, mà làm đạo tập, cũng không cầu tập, để làm đạo tập. Không tập vô tập làm đạo tập; không tập sự chấp hay xả đế, tập đạo tập. Không có ngã, nhân và thọ giả; không có thân vô thường; không có thân tánh khổ; không có thân hữu ngã; không có thân mộng, huyễn, ngựa hoang, như bóng nắng, tiếng vang; cũng không có thân Không, Vô tướng, Vô nguyện; không có thân, vì pháp vô dục, hành tập đạo. Nói tóm lại, thân tánh tốt của các hữu tình, cũng không hưng khởi mười hai nhân duyên, cho đến pháp vô dục, già, chết; không số vô số; đạo tập vô nhị; bất tục, vô tục; bất lậu, vô lậu; bất phạm, vô phạm; tập của không hai để cầu đạo tập. Lại nữa, các pháp, tập của vô tập là đạo vô tập. Đó gọi là tập đạo tập, bất tập. Ví như hư không, vô tập cũng không là vô tập. Phải tập như vậy, gọi là đạo vô tập, vô tướng, vô nguyện. Vị ấy không tạo tập, cũng chẳng vô tập. Phải tập như vậy, không ngẫu nhiên, chẳng tình cờ, vì các pháp là vô trụ. Siêng tập như vậy mới đúng đạo tập. Ngay khi Đức Phật Thế Tôn thuyết hạnh thanh tịnh này, là Pháp đạo phẩm vô sở tập; có ba vạn hai ngàn vị trời và người ở thế gian, đều được nhẫn của pháp lạc, không từ đau sinh ra; có năm vạn trời và người, từ xưa không phát tâm Bồ-tát nay đều phát tâm với đạo Vô thượng Chánh giác. Có bảy vạn Bồ-tát chứng được pháp Nhẫn. Bấy giờ tất cả hội chúng đồng lòng nói: –Bạch Thế Tôn! Nếu có tộc tánh nam và tộc tánh nữ được nghe pháp vô tập, đạo phẩm thanh tịnh này. Nếu nghe xong mà tâm ý không hoảng sợ, không bỏ, không thoái lui, tức họ đều thọ tập đạo Vô thượng chánh chân của Như Lai, họ sẽ chuyển được xe pháp mà chư Phật đã chuyển. Lại nữa, bạch Thế Tôn! Các Bồ-tát ấy đều được đạo ý Vô thượng chánh chân; vì vô lượng người mà phân bố pháp này, cũng lại sẽ ngồi tòa Sư tử, ở nơi trên trời, dưới trời, trong nhân gian, rống lên thật lớn tiếng sư tử, giống như hiện nay Đức Như Lai đã làm, để hàng phục chúng ma, xô ngã ngoại đạo, hiển hiện cái lọng của cây pháp, thắp sáng đuốc pháp, trống pháp vang rền như sấm sét, làm tuôn mưa pháp. Bấy giờ, Đức Thế Tôn thấy các chúng sinh, rồng thần, người chẳng phải người và bốn chúng, nghe pháp được nói ra ấy, không ai mà không vui sướng. Do đó, Đức Như Lai vì A-nậu-đạt muốn diễn rộng lại nghóa này, nên nói bài kệ: Đạo chẳng tập mà được Và không khởi tập tưởng Hành đạo ấy thêm sức Xa lìa tập - niệm - hành Không mong cầu tập đạo Trừ sạch các tưởng khác Đạo hoàn toàn không tập Trong sạch tựa trăng sáng. Nếu ai khởi tập tưởng Không xứ cũng không tập Đã qua vô tập xứ Chứng được đạo tối thượng. Đạo là niệm vô ngã Cũng không cùng rỗng, tập Đạo này không có hai An lành mà vô thượng. Thọ mạng cũng như vậy Không người và lời nói Đạo này không có người Không mạng, cũng không trụ. Các người có tập đạo Muốn trụ nơi trống không Họ cánh xa đường Thánh Vì không đúng đạo tập. Đạo cũng không có không Vì xa bỏ hữu tập Như gốc đồng một tướng Vốn không, không với không. Đạo là không khởi tướng Cũng không có diệt tướng Không khởi cũng không diệt Đó mới là đạo tập. Giọng ta giống như huyễn Hiểu tưởng, phải như vậy Giữ tưởng, hành sở tập Đạo từ đâu sinh ra? Đạo là vượt khởi đời Nó không có thân tập Cũng không diệt thân hành Mới đạt được ở tập. Là nhà của thân căn Vốn không chỗ rộng nói Nó không có mong cầu Chẳng gì, không đạt được. Người thực tập đạo này Nên như như gốc không Như vốn biết gốc không Đó là đúng đạo tập. Các pháp vốn là không Sự hiểu giống như huyễn Hiểu, hành được như vậy Mới đúng là tập đạo. Nếu ai không đến đạo Việc làm như chẳng trụ Không thể dứt việc làm Phật pháp không nhờ đạo. Nếu như đã tập đạo Cùng với sự không tập Đã diễn nói như vậy Nhờ trụ nơi gốc không. Đạo khác có giới hạn Là chỗ nương Tiểu thừa Đây là đạo Vô thượng Chỗ khởi ra Đại thừa. Ai hưng khởi đạo này Để đạt được không trụ Đó là rõ hạnh đức Có thể hợp đạo tập. Đạo chánh mà không hiểm Ngay thẳng lại bình thản Cần làm gần đạo này Vónh viễn lìa tà đạo. Nếu như vậy, Long vương Tự ở trong cung mình Bất động nơi xứ sở Trút mưa đầy biển cả. Đại só cũng như vậy Tập đạo như đã làm Pháp thân mà không động Có thể đầy biển trí. Lại như, này Long vương Ở trên mặt đất rộng Dùng mưa rưới đầy khắp Mà thân không dính ướt Đức Bồ-tát cũng vậy Thực hành sở tập này Rưới pháp khắp chúng sinh Trong lòng không dính mắc. Cũng vậy, A-nậu-đạt Long vương! Đại thần biến Đạo đức lớn như vậy Cảm động khắp mười phương. Chúng sinh đạo tà kiến Tùy thuộc vào chấp kiến Người trụ nơi đạo này Tùy thuận độ vô vi. Đã trụ nơi đạo này Quả Bồ-tát to lớn Hàng phục ma Ba-tuần Cùng với tà ngoại đạo. Đắc đạo như Chân Như Như đạo không lay động Vượt qua các pháp tục Cũng giống như hoa sen. Tâm đạo không có ngu Là hành vi dừng trụ Ngàn số các chúng sinh Hóa độ lập nên đạo. Vì thường ở đạo này Cho đến được năm tuần Thần túc các cảm động Vì chúng, rộng nói pháp. Các việc đều thanh tịnh Thân, miệng, cùng với ý Nên mong đường Hiền thánh Nhân tánh không thể biết. Hạnh nhẫn là không chấp Ai làm sẽ đến đích Sẽ đến chỗ Như Lai Chỉ dẫn các chúng sinh. Sinh tử đã chấm dứt Chỗ ấy là Như Lai Tương tự như đến đó Thật ra không chỗ đến. Chỗ chúng sinh đến được Phải nhớ chỗ cao kia Học đạo Phật, tối thượng Rong chơi bằng pháp huyễn. Làm vậy là tập đạo Chỗ tập đúng như đạo Là hạnh nghi các đức Được chư Phật khen ngợi. Đức ấy không cùng tận Trọn, không bao giờ hết Người tập đạo như vậy Không tập, cũng không trụ. Nơi ấy không ác ma Hoàn toàn hành không chấp Ai thuận theo đạo này Không khởi cũng không diệt. Đã được ý chí hạnh Tổng trì đại biện tài Tuệ trí và giới nhẫn Mãi tăng tiến như biển. Thân, miệng, uế không còn Tâm sáng đến trong sạch Uế tiêu sạch dấu vết Người tu theo đạo ấy Được chứng đắc trí đạt Chỗ thực tập thâm diệu Tuệ khó động, không khởi Giữ tập, đó là đạo. Các Bậc Tối Chánh Giác Quá khứ và tương lai Hiện tại cũng như vậy Đạo đặt ra, đời tựa. Ngài đã lìa các nạn Gặp đời nhiều tai nạn Mãi làm đệ tử Phật Ai nghe được pháp này Tốt thay! Các chúng sinh Rất tốt nghe pháp này Ứng Chân thờ Như Lai Nên ưa thích kinh này. Nếu hiểu đạo tập này Hãy đoạn các tình thái Đức đầy, các tướng đủ Được làm tướng ba cõi. KINH HOẰNG ĐẠO QUẢNG HIỂN TAM-MUỘI <卷 id="104089299">Quyển 2 <詞 id="104089300">Phẩm 4: THỈNH NHƯ LAI Khi ấy A-nậu-đạt, tự mình cùng với các quyến thuộc, cúi lạy Đức Thế Tôn, quỳ gối chắp tay bạch Đức Phật: –Xin thỉnh Thiên Tôn, hạ cố oai thần, đi đến ao lớn Vô nhiệt, an trụ ba tháng, để chúng con đem lòng thành cúng dường Thánh Tôn, cúng dường các Bồ-tát biện quả thần thông cùng với các đệ tử lớn của Thánh Tôn; mong Đức Phật thương xót, chấp nhận sự thỉnh cầu của con. Vì sao? Vì chúng con cúng dường là để hướng đến Bậc Chí Chân Chánh Giác, vậy có phù hợp với nghi thức của Như Lai không? Cúi mong được nghe Đấng vắng lặng, cao tột chỉ dạy cho chúng con dùng pháp nào để cúng dường cho phù hợp; chúng con suy nghó rằng, được nghe lại hình tượng pháp cúng dường như vậy sẽ khiến tâm luôn an lạc. Đó có phải là cách phụng thờ Tam bảo không? Đức Thế Tôn không nhận sự thỉnh cầu ấy. Long vương lại thỉnh hai tháng, nhưng Đức Như Lai vẫn không nhận. Long vương lại thỉnh một tháng, nhưng Đức Thế Tôn vẫn không nhận. Long vương lại thỉnh nửa tháng, Đức Thế Tôn im lặng nhận lời. Khi ấy Long vương cùng với quyến thuộc tùy tùng, thấy Đức Thế Tôn đã nhận lời, nên hân hoan sung sướng, liền sinh lòng lành, nhiễu quanh Phật ba vòng, nổi mây, ùn sấm chớp, mưa tuôn khắp mặt đất, bỗng nhiên, trong khoảng khắc, họ đều bay về cung điện của mình. Khi A-nậu-đạt đến ngồi nơi chánh điện của mình, liền cho gọi năm trăm trưởng tử. Tên các trưởng tử là: Thiện Nha, Thiện Thí, Thiện Ý, Thiện Minh, Năng Diệt, Tịch Tướng, Cảm Động, Đại Oai, Cam Oai, Cam Quyền, Cam Đức, Phổ Xưng, Oai Dũng, Trì Mật, Nhẫn Lực, Hành Tường… Năm trăm trưởng tử như vậy thuở xưa đã trồng đạo Vô thượng chánh chân rồi. Long vương liền bảo với họ: –Này các con! Nay ta đã thỉnh Đức Như Lai, là Bậc Vô Trước, Bình Đẳng, Chánh Giác và chúng Bồ-tát, cùng các đệ tử của Ngài, suốt trong nửa tháng. Đức Thế Tôn Chánh Giác đã dủ lòng đại Bi, thương xót, khởi lòng thương rộng lớn, chấp nhận lời thỉnh cầu của ta. Vậy các ngươi nên một lòng, cùng nhau siêng năng, hết lòng cung kính Đức Thế Tôn, Như Lai Chí Chân; siêng năng nhớ nghó đến vô thường, mỗi người phải vắng lặng, khiêm nhường, cung kính, ở đây chờ đợi Đức Như Lai; cần phải xả bỏ tâm ý dâm dục và những thú vui của loài rồng; trừ bỏ tham, nộ, hại; lìa dục, sắc, thanh, hương, vị, vật trơn mịn. Vì sao vậy? Vì Đức Thế Tôn nhờ vô dục mà được an lành, tốt đẹp, nhân từ, tao nhã, suy xét rõ ràng, tùy thuận điều phục và vắng lặng; hiển lộ đầy đủ các đức, có người hầu đi theo vây quanh, vô lượng nghi dung; tất cả đều nhờ thực hành các giới chân chánh của chư Phật mà có. Vì vậy, các ngươi trong nửa tháng này, không được vào cung điện, phải trừ bỏ những nhớ nghó về dâm, nhuế, ngu si. Lại nữa, khi Đức Như Lai tuyên giảng chánh pháp, chắc chắn có các Bồ-tát thần thông, Thích, Phạm, Thiên tử, trì thế túc tịnh ở các phương khác sẽ đồng đến dự hội. Các ngươi phải siêng nhớ nghó, tập hợp các hiền thần, nghiêm sức cho rực rỡ, chớ có làm biếng, để các hội chúng, thấy xong, vui mừng nhảy nhót. Đó mới là chân chánh cúng dường Đức Như Lai. Khi A-nậu-đạt đã ra lệnh xong liền vì Đức Như Lai, trong ao Vô nhiệt, dưới núi Tuyết sơn, hóa làm một tòa tịnh lưu ly, thật hoàn hảo, cao rộng đến bảy trăm do-tuần, rất đặc biệt và kỳ lạ, chung quanh thật đẹp; đặt tám vạn bốn ngàn các báu đủ loại, xen kẽ với những cây báu lạ, dùng các ngọc ngà châu báu để trang sức, có ánh sáng đẹp, trăm sắc tinh vi rực rỡ, tỏa ra hương thơm. Ở giữa các cây, hóa làm tám vạn bốn ngàn nhà bằng bảy báu, ánh sáng các ngọc báu phản chiếu thật đẹp, không có gì sánh bằng. Đặt ở mười vạn giao lộ, những lá phướn thêu, những xâu các ngọc trân châu đỏ đẹp lạ lùng, thòng xuống. Ở trên các điện có tòa Sư tử, gồm cả thảy tám vạn bốn ngàn tòa, tất cả đều cao rộng, trải lên trên sàng tọa những tấm dạ đủ màu, tuyệt đẹp, vô giá. Đặt ở các giao lộ, đủ các loại báu. Ở trên điện đường, có hai ngàn thể nữ loài rồng, hình sắc tuyệt đẹp, dáng vẻ đẹp vô cùng, sắc mặt rạng rỡ như hoa, miệng tỏa mùi hương thơm, tay cầm đủ các loại hoa, hương bột, hương xoa; tấu các kỹ nhạc, ca vịnh công đức của Phật, làm cho chúng hội thật vui vẻ. Ở trên hư không, hóa làm lọng báu lớn, bao trùm cả ngàn do-tuần. Châu ngọc chạm trổ trong lọng báu ấy, có vô số màu sắc, treo phướn làm bằng lụa đẹp, giữa phướn lụa ấy, treo các chuông linh báu, phong cảnh điều hòa, âm nhạc du dương. Khi Long vương dọn món ăn trăm vị, chuẩn bị đầy đủ, các việc biến hóa đã xong, ông cùng với quyến thuộc, cung kính chắp tay, hướng về Đức Phật quỳ gối; từ xa thưa Đức Thế Tôn với ý cung thỉnh, dùng bài tụng ngợi khen: Kho tuệ, trí lớn, tích lũy đức Tuệ đạt, không đắm, khéo dẫn chúng Tuệ lớn lan khắp, không chướng ngại Sức tuệ tột đỉnh, giáng thần quang. Hiểu tuệ, tâm hành, chỉ Đại nhân Xem xét mười phương, loài chúng sinh Thần Tôn tối thượng, nhận con thỉnh Nhớ nghó xót thương, đến đúng thời. Biết đủ không tham, sống giản dị Phước nhiều, kỹ xét, Thánh Đạo Sư Làm tốt, thật tin, biết ý chúng Thời gian đã đến, xin hạ cố. Đức Phật vang khắp, hạnh bằng vua Làm bạn, không thỉnh khởi niệm khắp Chí nhân, thanh tịnh, như hư không Con chuẩn bị xong, chờ Thần Tôn. Oai ngự mười phương, cứu giúp đời Phật sự mười tám đều có đủ Độ chúng đứng đầu, hạnh Từ bi Nguyện Phật cùng chúng, thời đã đến. Sắc tốt thẳng ngay, thân tướng đẹp Ngọc quý đủ thứ, hoa trăm màu Tâm Phật vui vẻ, ban tuệ pháp Bậc Thượng Đại Nhân, xin xét thời. Tiếng Phạm thanh tịnh, như sấm sét Loan phụng reo mừng, sư tử bước Đầy đủ diệu âm, ai cũng thích Mọi người hy vọng được nhìn thấy. Ba ngàn cõi Phật không đâu bằng Không ai biết được tâm Như Lai Thánh tôn thấy rõ hạnh chúng sinh Việc tu, thường đúng thời mới dạy. Biết lúc phổ độ, Phật quyền biến Thấu rõ chúng sinh có Thánh thệ Xét kỹ hành động, bằng mắt sáng Oai thần đầy đủ, nguyện chiếu soi. Chúng sinh thảy đều rất khát ngưỡng Mười lực, giữ oai thế, không mạn Đức của Đại Nhân mạnh mẽ thế Tánh Thánh xót thương hơn thế nữa. Hổ thẹn, đầy đủ đức cao tột Nến cứu vớt chúng sinh vô biên Thầy bạn vô song, cùng cứu đời Lòng thương giáo hóa vô số rồng. Ở đời, oai đức rộng, cứu tế Biết rõ các hành nên như ý Khai mở chỉ đường, chỉ Thiên Tôn Thần túc nhẹ nhàng xin đến dự. Bấy giờ, Đức Thế Tôn biết A-nậu-đạt thỉnh nguyện, thời gian đã đến liền bảo các Tỳ-kheo, đắp y, ôm bát cùng đến phó hội. Long vương Vô Nhiệt quỳ gối từ xa, thưa: –Chư Tôn đã chấp nhận con cúng dường nửa tháng, vậy bây giờ xin Chư vị quang lâm. Bấy giờ, tám vạn bốn ngàn vị Bồ-tát đều là những bậc Đại thần thông, đức đầy, quả đủ cùng hai ngàn đệ tử cũng là bậc Thần túc cao tột theo hầu; tất cả nhiễu quanh Đức Thế Tôn, rồi ra đi. Đức Như Lai Chí Chân từ đỉnh núi Thứu, bỗng bay lên hư không, dùng thần lực mà đi, toàn sắc thân của Phật phóng ra vô số trăm ngàn ánh sáng, chiếu khắp tam thiên đại thiên cảnh giới, chỗ nào cũng rực sáng. Các trời của cõi Dục và cõi Sắc, đều thấy Đức Thế Tôn, phát ra vô số ánh sáng, bay lên hư không; nên tự bảo nhau: –Đức Thần tôn đi đến chỗ vua Vô Nhiệt, sắp đem pháp giáo hóa, diễn nói nghóa sâu xa rốt ráo. Vì vậy nên mới có đại chúng vây quanh. Ngay trong nữa tháng ấy, nhiều chúng của các trời, số đến trăm ngàn, được thấy Đức Thế Tôn và được nghe thuyết pháp. Họ lại được xem thấy, sự cảm biến trang nghiêm, do vua Vô Nhiệt tạo ra, nên khiến Đức Thế Tôn mới đi đến nơi đó. Khi ấy, các Thiên tử ai cũng khởi ý nghó cúng dường Đức Như Lai; hoặc muốn rải hoa, hoặc làm mưa danh hương, hoặc tấu nhạc trời để ca ngợi công đức của Phật, hoặc treo đủ các loại cờ, phướn, lọng, hoặc kết dải lụa năm màu đi theo Đức Như Lai. Thân Đức Thế Tôn chiếu sáng rực rỡ, hơn cả ánh sáng của mặt trời, mặt trăng, tinh tú và cả ánh sáng của các trời; oai thần của Đức Thánh Phật, chiếu sáng vô lượng; căn, định đều vắng lặng, dáng đi an ổn phúc lành; Thích, Phạm, Tứ Thiên, biến hiện các thứ oai lực, phụng kính, hầu hạ, theo sau Đức Như Lai. Bấy giờ, Thánh Tôn đến dưới Tuyết sơn, đứng ở phía bên phải, bảo Hiền giả Đại Mục-kiền-liên: –Ông hãy đến cung điện, là chỗ ở của vua Vô Nhiệt và bảo rằng: “Đức Như Lai đã đến, đúng lúc, mời Đức Thế Tôn vào.” Hiền giả Đại Mục-kiền-liên vâng theo Thánh chỉ, bay ngay vào ao lớn Vô nhiệt, hiện nơi hư không, cách mặt đất bảy trượng, hóa thân giống như vua Kim sí điểu, đứng trên cung điện Long vương A-nậu-đạt, bảo với Long vương: –Đức Như Lai đã đến. Các Long chúng và các thể nữ… không ai mà không ngạc nhiên kinh hoàng, hoảng sợ; lông trong người dựng đứng, chạy trốn bốn hướng, cùng bảo nhau rằng: –Ao này từ xưa không có chim Kim sí điểu, vậy chim này từ đâu đến? Khi ấy, A-nậu-đạt bảo các người trong cung, thái tử, quyến thuộc và an ủi họ: –Các ngươi hãy an tâm, đừng hoảng, đừng sợ! Đó là Hiền giả Đại Mục-kiền-liên, vâng lời Đức Như Lai, nên hiện thần biến ấy. Hiền giả Mục-kiền-liên đến đó bảo xong, trở về chỗ Đức Thế Tôn. Lúc này, A-nậu-đạt liền cùng với các người con, thần dân, phu nhân, thể nữ, toàn thể người lớn nhỏ trong cung, cùng vây quanh, họ đều dâng hoa đẹp, hương bột thơm và các thứ hương thoa; cờ phướn, lọng, ca xướng, các thứ âm nhạc, hòa điệu nhịp nhàng, cùng đến nghinh rước Đức Chánh Giác. Bấy giờ, Đức Thế Tôn cùng với các Bồ-tát, các đệ tử, các trời, rồng, các tôn thần vây quanh, đi đến cung điện Vô nhiệt, nơi đặt sẵn các tòa cao rộng. Đức Như Lai đến rồi ngồi vào tòa Sư tử cao rộng ấy. Tiếp theo là các Bồ-tát, sau đó là các chúng đệ tử đều ngồi vào chỗ của mình. Long vương xem thấy Đức Thế Tôn và các Bồ-tát, chúng hội đệ tử đã an tọa xong, trong lòng hứng khởi vui sướng vô cùng, liền cùng mọi người trong cung, tự tay bưng dọn đầy đủ những món ngon bổ hơn thế gian, mời dâng trăm thứ ngon lạ có hương vị trời; hết lòng cúng dường Phật, đệ tử và các chúng hội, để mong mọi người đều no đủ. Khi Đức Thế Tôn, Bồ-tát và các đệ tử đã ăn uống xong, lau tay, rửa bát, cũng đã hoàn tất; lúc ấy A-nậu-đạt mới thưa với Đức Như Lai, xin Đức Như Lai thuyết pháp. Bấy giờ là sau giờ ngọ, Đức Thế Tôn ra khỏi thiền định, ngồi ngay thẳng để nói pháp. Chúng hội đến dự ngót cả ngàn do-tuần, từ khắp nơi đến, đứng đầy cả hư không, không có kẻ hở, trời, rồng, quỷ thần và người chẳng phải người, vây quanh Đức Chí Chân Chánh Giác. Mọi người trong hội thảy đều vui mừng.  <詞 id="104089301">Phẩm 5: HẠNH VÔ DỤC Bấy giờ, Long vương với sắc mặt hân hoan, đến phía trước, quỳ gối, bạch Đức Phật: –Cúi mong Đức Thế Tôn nói pháp, cho chúng hội này được nghe; khiến cho tất cả thoát khỏi sinh tử; vónh viễn trừ bỏ các khổ do sự chấp vào tướng năm ấm; các hành vi trần lao, mê mờ nhơ bẩn; khiến cho chúng con mãi mãi không còn ý ba độc trói buộc và các chúng loài rồng được dứt bỏ sự tà vạy, u tối, ẩn nấp trong tâm ý họ, khiến họ đạt đến chỗ tốt lành, làm cho ai nấy đều vui mừng, tu hạnh Bồ-tát sâu xa, dù sau này Đức Như Lai có còn tại thế hay đã diệt độ; hãy khiến cho chúng con, ở tại đất nước mình, ra sức bảo vệ và gìn giữ chánh pháp. Bấy giờ, Đức Thế Tôn khen ngợi Long vương: –Lành thay! Lành thay! Này A-nậu-đạt! Hãy lắng nghe nghóa này cho kỹ, siêng năng nhớ nghó, để trình bày chỉ vẽ cho mọi người. Ta sẽ nói cho, khiến chúng hội này, nhiều người sẽ thoát khỏi tội khổ, nhổ tận gốc những ý tưởng lôïn xộn, còn nghi ngờ trong tâm khiến cho họ hiểu được trí rộng khắp để thoát khỏi ba cõi. Khi ấy Long vương thưa: –Lành thay! Thưa Thế Tôn! Mong Thế Tôn giảng nói, chúng con xin cúi đầu nhận lãnh. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Long vương: –Có một pháp hạnh mà Bồ-tát nếu làm thì trời, người hết sức cung kính. Pháp đó là gì? Đó là quyết chí tu hành pháp sâu xa để thực hành vô dục. –Sao gọi là tu hành pháp sâu xa để thực hành vô dục? Này Long vương! Bồ-tát nương và tùy thuận vào nhân duyên mà không lìa ranh giới của hai kiến chấp. Người biết có và không, thấy được các pháp. Còn chấp vào nhân duyên, không thấy có pháp, không do duyên sinh, kẻ ấy nghó: Pháp dựa vào nhân duyên, không dựa vào nhân duyên, nên không nương vào ma. Người nương vào duyên, kẻ ấy không nói “Tôi”, cũng không nói “Ta”. Vả lại, pháp dựa vào trong duyên, nên không có “Ngã” và “Ngã sở”, cái dựa vào duyên thì không có chủ, cũng không nắm bắt được. Ai theo thuận duyên, phát sinh sự hiểu rõ, mau đạt được ý niệm về bốn thứ để dựa vào. Sao gọi là bốn? Đó là: 1.Dựa vào nghóa cùng tột, không dựa vào văn. 2.Dựa vào tuệ hành, không dựa vào thức niệm. 3.Dựa vào thuận nghóa kinh, không dựa vào phan duyên. 4.Dựa vào pháp, không dựa vào người. Sao gọi là nghóa? Những gì là tuệ? Sao là thuận nghóa? Sao là niệm pháp? Nghóa tức là nghóa của Không; không nhận vọng kiến là nghóa của Vô tướng; không chấp vào niệm thức, là nghóa Vô nguyện; không chấp vào ba cõi là nghóa vô số. Không chấp vào pháp số. Vả lại nghóa ấy, đối với pháp, phi pháp vốn không có hai; âm thanh là vô đắc; niệm tưởng là vô niệm; với pháp xứ thì vô trụ; vì vô nhân nên thọ mạng; âm thanh ngôn ngữ là không chỗ có. Vả lại, là nghóa, pháp nghóa ấy là nghóa vô dục. –Sao gọi là Bồ-tát làm pháp nghóa? Đó là nghóa không có sắc của con mắt, tiếng của lỗ tai, hương của mũi, vị của lưỡi, xúc của thân, pháp của tâm. Đó là nghóa không sinh sắc; nghóa không giảm sắc; nghóa không vì thống, tưởng, hành, thức; nghóa không có hành thức sinh diệt; nghóa không có sự ham muốn sắc, vô sắc; nghóa không có ý muốn về sắc và vô sắc sinh diệt; nghóa không ngã; nghóa không có ngã kiến dính mắc vào; nghóa không có nhập; nghóa không chấp vào nhân kiến; nghóa không chấp vào có thân Phật; nghóa không chấp vào chữ pháp. Không tính số thực có chấp vào nghóa; cũng lại không có nghóa chấp thí, giới, nhãn, tấn, định, trí; hiểu nghóa nhập vào tất cả các pháp. Đó gọi là Bồ-tát làm pháp nghóa, nhờ theo nghóa này mà không thoái lui. Đó gọi là nghóa. –Sao gọi là Tuệ? Đó là Khổ không sinh tuệ, tập không nhớ nghó tuệ, tận hết các tuệ, Đạo không chí tuệ. Đối với pháp huyễn của ấm, các tánh, pháp tánh không hủy hoại tuệ. Đối với các tình, không giữ là tuệ, hiểu nhập vào các pháp, rõ biết chúng sinh, căn đầy tuệ đủ, ý chí nhớ nghó không quên; đối với các chánh ý, không ý không nhớ nghó; đối với các đoạn ý, là thiện và bất thiện như nhau; đối với các thần túc, thân tâm tạo ra tuệ. Lại nữa, đối với các căn, rõ biết tuệ nặng hay nhẹ; đối với giác ý, biết các pháp tuệ; nhưng đối với các lực, để điều phục tuệ. Đạo là vô số đối với tuệ diệt tịch; quán tuệ biệt pháp, khởi thủy không sinh tuệ, vị lai không chí tuệ, ở giữa không trụ tuệ; đối với thân là hình tượng tuệ. Nói tuệ là tiếng vang, pháp tâm tuệ huyễn. Đó là Bồ-tát rõ biết trí tuệ. Lại nữa, sao gọi là thuận đạo nghóa kinh? Nhờ nhân duyên này phát sinh mà hành giả diệt được ngu si, diệt được lão tử, vô ngã. Nhưng đối với vô ngã, nhân và thọ mạng thì phải hiểu rõ về các vật. Nếu Như Lai có ngã, đều chẳng phải là chân pháp. Song đối với ba môn giải thoát, bình đẳng với ba đời, cầu ba vô trước. Đó là các pháp, thấy nó hoàn toàn vô sinh. Người quán rõ và hiểu biết, sẽ dứt lìa hết tình cảm thế tục. Bồ-tát đạt đến trí tuệ không cùng, nên đối với các ý niệm, không còn nghi hoặc, nhập vào được hạnh này gọi là thuận nghóa. Nó không đi về đâu, cũng chẳng từ đâu đến. Niết-bàn vô vi cũng không có từ đâu đến. Đó gọi là Thuận nghóa. –Sao gọi là như pháp? Nếu các Đức Như Lai xuất hiện hay không xuất hiện, thì Pháp thân vẫn thường trụ. Đó gọi là Như Lai. Như như vốn không, không tăng giảm, chẳng hai, không hai, chân tế pháp tánh, gọi đó là Như pháp. Không hủy pháp hành báo, hay không hành báo, gọi đó là Như pháp. Người tu Đại thừa, nhờ Lục độ mà được Vô cực. Duyên giác một thừa, theo nhân duyên mà giải thoát. Thừa Thanh văn nương âm thanh mà giải thoát. Đó gọi là Như pháp. Bố thí thì được phước lớn; giữ giới được sinh lên cõi trời; rộng nghe được trí nhiều; nhớ nghó thiền định thì được giải thoát. Đó gọi là Như pháp. Vì không tu hạnh đó nên có sinh tử, tu hành thuần thục thì đạt được sự vô vi. Như pháp là vậy. Kẻ ngu dùng sức mạnh của dục; kẻ trí dùng sức mạnh của tuệ. Đó gọi là Như pháp. Tất cả pháp ấy đều nương pháp tánh. Như vậy, này Long vương! Chúng nương dựa nhân duyên mà sinh khởi. Cho nên, cần phải có được sự nhớ nghó về bốn thứ để dựa vào. Vì dựa vào nhân duyên, nên mới không dựa vào sự đoạn chấp có không. Đó gọi là: Người nào thấy nhân duyên khởi là người ấy thấy các pháp; ai thấy pháp, người ấy thấy Như Lai. –Sao gọi là nhân duyên? Này Long vương! Bình đẳng phát khởi, hay không phát khởi đối với pháp và phi pháp. Bình đẳng mà không chấp vào. Vả lại, Như Lai thì không chấp vào pháp duyên khởi cũng không có pháp khởi, không thể được. Người biết được pháp ấy tức là Như Lai. Với nhân duyên khởi, dùng Tuệ nhãn thấy được; Tuệ nhãn thấy được tức là thấy các pháp. Người thấy các pháp, tức là Như Lai. Đó gọi là: Ai thấy được nhân duyên khởi thì thấy pháp, ai thấy pháp thì thấy Như Lai. Lại nữa, Như Lai nhờ pháp mà thấy pháp. Như vậy, này Long vương! Nếu dùng pháp này tu hành tương ứng để giải thoát, người đó, được gọi là Bồ-tát không có hạnh dục. Này Long vương, Bồ-tát vô dục, không làm theo thói quen của dục, vui thích việc Hiền thánh, bỏ điều không phải Hiền thánh, siêng năng, ưa thích được ở vào dòng Hiền thánh, rộng rãi sai khiến các tuệ, vì pháp mà tạo sự giữ gìn; tu sự nghe nhiều, chí nhớ không quên, không bỏ giới thân, trí thân không nghiêng ngã, định thân không dao động; đối với tuệ, thân khéo trụ vững vàng; giải thoát tuệ kiến, thân vững vàng khó chuyển. Nhờ đó, giải thoát tuệ kiến vậy. Lại nữa, này Long vương! Bồ-tát vô dục, được vô số chánh pháp độ nghóa của Phật, cũng có đầy đủ vô số yếu tuệ của chư Phật, lại được quả biện tài vô tận của chư Phật, được thông vô lượng thần túc của chư Phật. Nhân đó, đưa đến vô số hiểu biết quyền xảo của chư Phật vào khắp vô lượng hạnh của chúng sinh, vượt qua vô số cõi nước của chư Phật; nhờ đó thấy rõ vô số trăm ngàn Đức Như Lai, có duyên nghe được vô số các pháp, đạt được vô số nghóa, vô số tuệ, hiểu vô số hạnh và độ vô số chúng. Như vậy, này Long vương! Bồ-tát vô dục, thường nên trong sạch, tiêu trừ hết các ô uế để công đức vô lượng; tự do, không có chỗ dính mắc đối với ba cõi. Vì sao? Vì vô dục ấy, từ tâm sinh ra. Có ba việc từ tâm sinh ra. Những gì là ba? Đó là từ tâm dục sinh; từ tâm ái sinh; do tâm sinh khởi. Lại có ba thứ sinh quán nơi sinh khởi. Lại quán sự sinh khởi. Lại quán sở hành, quán tâm vô xứ. Lại có ba sinh: Diệt tịch chuyên nhất, hiểu rõ nơi quán như pháp tùy hành. Lại có ba sinh: Đức đủ nhân điều, dùng làm tịch tónh, từ hạnh chuyên cần sinh. Lại có ba việc: Từ nơi hạnh ngay thẳng, không có dua nịnh, nhân từ điều nhẫn. Lại có ba việc: Không đắùm chìm nghi ngờ; thuận theo thiện, không thô tháo; chí đủ, sống đơn giản. Lại có ba việc: Từ không sinh, lại từ vô tướng, cũng từ vô nguyện. Lại có ba việc: Từ tâm sinh ra các pháp vô thường; các pháp đều khổ cũng do tâm sinh; các pháp vô ngã cũng từ tâm sinh. Lại có ba việc từ tâm sinh ra: các pháp vô thường, các pháp vô ngã, diệt tận vô vi; tất cả đều từ tâm sinh ra. Như vậy, này Long vương! Bồ-tát đẳng diệt cũng do tâm sinh. Đó là các vị ấy không xả bỏ trí tâm rộng khắp, thức hành bình đẳng với tất cả. Vì lòng đại Từ, nên không bỏ chúng sinh. Vì lòng đại Bi, nên không nhàm chán sinh tử. Vì lòng đại Hỷ, nên bình đẳng xa lìa sự mừng, giận. Vì quyết bảo vệ, nên có tuệ thí, mà không mong báo đáp. Vì các giới, học, hạnh, đức, nghóa đầy đủ; nên bên trong tránh được lỗi của mình, không nói chuyện xấu của kẻ khác. Hay nhẫn chịu các hạnh không tốt của chúng sinh. Muốn làm cho người khác tâm vững chắc như kim cương, hợp tập các điều lành làm gốc của các đức hạnh, không tiếc thân mạng, đạt được đến tất cả định chánh thọ, tâm không mệt mỏi; không vì chánh thọ mà có chỗ sinh, hiểu trí, dùng quyền xảo tùy thuận chúng sinh, dùng tuệ chân thật, độ thoát các chí. Người muốn đạt được Thanh văn thừa. Duyên giác thừa thì hiển hiện sự nhớ nghó Phật pháp, cầu các Phật pháp. Vì hay nhẫn chịu các khổ, nên rộng nói pháp; đừng vì lợi dưỡng mà cung kính, nên coi thường vứt bỏ; chí đủ, không nhàm chán các tướng đức hạnh; đầy đủ trí tuệ, học rộng nghe nhiều. Học tập theo bạn lành, nên gặp Thiện tri thức; vì khiêm nhường, cung kính, nên được hạnh khiêm cung; vì hàng phục tâm tự đại, nên chế ngự được tâm tự đại. Vì chí hạnh đầy đủ, nên ý hạnh đầy đủ; vì không có dua nịnh nên xa lìa dua nịnh. Vì nói và làm phù hợp nhau, nên không bị khinh khi. Vì tu hành thành tín, nên nói lời chân thật. Vì lìa các sự lừa dối, nên diệt trừ lời nói dối; vì để sinh tâm thành tín, nên tâm luôn thành tín. Như vậy, này Long vương! Nếu có Bồ-tát nào sinh tâm này, gọi đó là vô dục. Lại nữa, này Long vương! Bồ-tát vô dục thì ma không thể tự tiện hạn chế. Vì sao? Vì Bồ-tát ấy, tương ưng với sự vô hạn, cũng không hành pháp có hạn. Sao gọi là pháp hạn? Dục, dâm, tức giận, si là pháp hữu hạn. Bồ-tát đối với chúng, không có chỗ dính mắc. Vì vậy, mà gọi Bồ-tát ấy, là vô hạn. Thanh văn thừa, Duyên giác thừa đều là hữu hạn. Bồ-tát trụ nơi phổ trí tâm rộng khắp, nên ma hoàn toàn không thể tự tiện hạn chế. Hữu niệm, vô niệm tưởng niệm là hữu hạn. Bồ-tát nhờ lìa các tương ưng của niệm, nên ma không thể tự tiện hạn chế. Như vậy, này Long vương! Có hai việc ma, mà Bồ-tát cần phải biết rõ, cần phải xa lìa. –Hai việc đó là gì? Đối với thầy bạn, đã không có tâm kính trọng mà còn tự đại, cống cao, khinh người. Đó là hai việc. Lại có hai việc của ma: Đó là bỏ kho tàng sáu pháp Ba-la-mật của Bồ-tát; tâm trở lại ưa thích thực hành các pháp của Thanh văn và Duyên giác. Lại có hai việc. Những gì gọi là hai? Đó là: Không có trí tuệ mà muốn làm việc quyền xảo; ưa thích sống gần cùng các chúng sinh đạo lạc, vọng kiến. Lại có hai việc: Nghe ít, trí kém mà tự cho là đạt được trí tuệ. Tuy có thông hiểu rộng rãi nhưng lại tự đại. Lại có hai việc: Đức độ ít ỏi, mà mong được tôn quý. Hoặc tu đức hạnh mà lại thích Tiểu thừa. Lại có hai việc: Không bảo vệ chánh pháp, không cứu giúp chúng sinh. Lại có hai việc: Chí không thích học tập theo các Bồ-tát và tụ hội với chúng có trí sáng thông đạt. Chuyên làm việc bài bác, chê bai các Bồ-tát thanh cao, nhiều lần chủ tâm khởi sự ngăn che, làm trở ngại Pháp sư, làm chướng ngại sự giáo huấn của thầy, lại còn nhiều dua nịnh. Lại có hai việc của ma: Bỏ các gốc đức, tâm còn lại toàn điều vô đức. Lại có hai việc: Tuy ở chỗ an nhàn, nhưng vẫn mong tưởng đến tham sân si; ý thường náo loạn; nếu du hành trong các thôn ấp, tâm sinh tham lợi. Lại có hai việc: Với loại phi nhân, lại nói pháp căn bản sâu xa, với người cần nói pháp thì lại không nói. Lại có hai việc: Không hiểu việc của ma, xa lìa trí rộng khắp, ý thường thác loạn. Như vậy, này Long vương! Sắc tướng các việc của ma là như vậy. Bồ-tát vô dục vónh viễn không có các việc ấy. Lại nữa, này Long vương! Nếu có Bồ-tát, tu hành trong sạch thì phải vô dục; phải đạt đến mười sáu đại lực của Bồ-tát. Nhờ các lực này nên hàng phục, chế ngự ý chí mình mà hóa độ chúng sinh. Những gì là mười sáu đại lực của Bồ-tát? –Đó là: Chí lực, ý lực, hành lực, tàm lực, cường lực, trì lực, tuệ lực, đức lực, biện lực, sắc lực, thân lực, tài lực, tâm lực, thần lực, hoằng pháp lực, hàng phục chư ma lực. Bồ-tát vô dục được mười sáu lực lớn này. Sao gọi Bồ-tát là Chí lực? –Này Long vương! Bồ-tát chí lực có thể ngắm xem tất cả Tổng trì, do chư Phật nói ra. Đó gọi là Chí lực. Ý của Bồ-tát này tương ưng với hạnh của chư Phật; đối với chúng sinh, không bị đoạn trừ chướng ngại. Đó là Ý lực. Có thể đạt được tất cả âm thanh nói ra, hiểu rõ các nghóa. Đó là Hành lực. Lìa các việc ác, hưng khởi các pháp đức. Đó gọi là Tàm lực. Gặp tất cả những tai nạn, vẫn không làm điều phi pháp. Đó gọi là Cường lực. Dù có ức ngàn ma binh, vẫn không dám làm trái lại. Đó là Trí lực. Thông đạt giữ gìn pháp, bình đẳng chỉ bày cùng học, không làm cho quên. Đó là Trì lực. Không chấp, không quên, đối với trăm ngàn kiếp; những điều nói ra không ngại, không đoạn, tùy ý mà hiểu các pháp. Đó là Biện lực. Nếu có các Thích, Phạm và Tứ Thiên vương đi đến, Bồ-tát vẫn im lặng, không đổi sắc. Đó là Đoạn chánh lực. Nếu có mong ước được vật báu trên đầu, mới nghó đã liền có. Đó là Tài lực. Hơn các ngoại đạo, độc tôn giữa mọi người. Đó là Thân lực. Với tâm chúng sinh, có thể được nhất tâm. Biết tâm chúng sinh mà thuận hành hóa độ. Đó là Tâm lực. Nếu chúng sinh, cần dùng thần túc để hóa độ, thì hiện thần biến để cho chúng thấy. Đó là Thần túc lực. Nếu có thuyết pháp, để mọi người nghe, thì không nói nửa chừng. Họ nghe và làm theo, nên trừ hết các khổ. Đó là Hoằng pháp lực. Nếu khi thiền định, chánh thọ, thì vâng theo chỉ giáo của Phật, được pháp hạnh Hiền thánh. Đó là Hàng ma lực. Đó gọi là mười sáu đại lực của Bồ-tát. Nếu có người tu hành, tâm chí mong ước mười sáu lực này, mà muốn thành tựu thì phải tu vô dục. Này Long vương! Ví như tất cả dòng nước đều chảy về biển cả. Các hạnh của đạo pháp, ba mươi bảy phẩm đều trở về vô dục. Lại nữa, này Long vương! Các cây cỏ thuốc, đều sống trên đất. Các pháp thiện hạnh đều nhờ vô dục. Này Long vương! Ví như chúng sinh yêu thích Chuyển luân thánh vương; nếu có Bồ-tát vô dục, thì các trời, loài rồng, quỷ, người ở thế gian đều ưa thích. Bấy giờ Đức Thế Tôn vì A-nậu-đạt và các thái tử nói bài kệ tụng: Dục là tuệ Bồ-tát Chí mong cầu Phật đạo Phải nên lìa pháp uế Thường siêng hành vô dục. Tuệ giải pháp nhân duyên Không dựa vào cái thấy Thấy pháp do nhân duyên Không duyên, không có pháp. Duyên sinh đó không sinh Nên chẳng phải tự nhiên Duyên lành ấy cũng không Biết không, nên vô dục. Chấp duyên mà vô tướng Thoát nguyện, tịch lại tịch Đạm bạc như ngu dại Nơi ấy ma không hại. Thấy pháp, không chấp duyên Với mình, không tôi, ta Nếu không ta, không người Biết đó là vô dục. Không chủ, không gìn giữ Không lấy, cũng không bỏ Giải thoát không giữ, bỏ Lìa dục, thường hiểu pháp. Quán nghóa, không trang sức Tuệ hành thoát khỏi thức Hiểu rõ thuận nghóa kinh Nương pháp không vì người. Nghóa không là pháp Phật Giải thoát, không tướng nguyện Không dựa vào thấy, nghó Ấy nghóa là vô dục. Với pháp không có hai Âm thanh không thể được Dùng pháp khó lay động Không nhập nghóa, vô dục Nghóa pháp, nghóa vô dục. Mắt, tai, không sắc, thanh Mũi, miệng, lìa hương vị Thân tâm không cánh (xúc) pháp, Không sắc sinh oai nghi Cũng không lìa thống, tưởng Cũng không nghóa thức trụ Được vậy, hợp nghóa pháp. Không trụ nghóa ba cõi Cũng không nghóa tôi, ta Thế Tôn không sắc thân Không chữ, nghóa nói pháp, Chấp số nghóa phi pháp Thứ yếu, không nên làm Chẳng giới, nhẫn, tấn, định Tuệ, vô ngã, Thế Tôn. Các pháp, hiểu vô nghóa Trí, gọi là pháp yếu Với nghóa, khác phi nghóa Vô dục là Phật pháp. Vô sinh biết trí tuệ Không khởi diệt có, không Không sinh cũng không diệt Như vậy cần phải tập. Biết tiếng ta, như huyễn Biết nó như pháp tánh Hiểu bên trong, như không Rõ vậy là vô dục. Biết pháp đi về đâu Biết rõ tâm chúng sinh Dứt niệm để chánh ý Vô dục, được tuệ này. Ý đoạn, không có hai Thần túc, tâm bay cao Nhờ lực, nên không ngạo Biết ngăn chận các căn, Giác định hiểu nhờ trí Biết rõ tám đường thẳng Tuệ quán nơi diệt, hành Biết chỗ pháp đi về. Pháp, vốn không có sinh Tương lai thì chưa đến Pháp hiện tại, không dừng Vô dục, biết như vậy. Thân vốn không kiên cố Nói không, như tiếng vang Tâm huyễn, giống như gió Vô dục, hiểu như vậy. Biết nói thuận nghóa kinh Hiểu rõ nơi nhân duyên Diệt gốc si sinh tử Vô dục, là nghóa tuệ. Không ngã, nhân, thọ mạng Hiểu rõ pháp, phi pháp Nhờ thoát khỏi ba môn Đã nói không, đừng chấp. Vô sinh thấy Diệt, Đạo Tập tuệ như hạnh tục Không theo tâm ý sinh Vô dục, biết hạnh này. Pháp tánh luôn trụ vậy Phật hưng và diệt độ Không hai; hiểu, không hiểu Vô dục, biết pháp này Tích chứa như bản tế Nó chứa đủ các pháp Chứa không và nhân tế Vô dục, được trí này. Pháp tánh thường an trụ Biết khởi, như diệt độ Không biết, cho là hai Pháp vô dục, như vậy. Không hai, tốt, không tốt Biết pháp không tội báo Phật pháp không từ ngoài Từ hạnh vượt vô cực (rốt ráo). Nhờ lìa nhân Duyên giác Tiếng giải thoát Thanh văn Tuệ trí được giàu lớn Giữ giới được sinh Thiên. Nghe nhiều được trí tuệ Giữ ý, độ chúng sinh Đến Thánh cũng giữ ý Pháp vô dục, như vậy. Lực, thường chuyển các dục Trí tuệ, đến pháp tồn Bình đẳng nghó các pháp Pháp tánh thường không được. Biết rõ nhân duyên khởi Nên đạt bốn đức hạnh Biết nghóa cùng với pháp Thuận nghóa, biết vô dục. Quán duyên, nên thấy pháp Nhờ pháp, thấy Thế Tôn Bình đẳng pháp khởi, diệt Vô dục, hiểu tôn pháp. Dấu nhân duyên không có Pháp âm thanh không chữ Pháp ấy, thấy gốc không Thánh gọi là Như Lai. Dùng tuệ thấy nhân duyên Không thấy, chẳng thấy pháp Tuệ sáng, rõ nhân duyên Gọi là thấy Thế Tôn. Nếu cầu hạnh vô dục Yêu thích các Hiền thánh. Pháp tánh hoại, không bỏ Vẫn giữ giống Hiền thánh Thường hộ chánh pháp Phật Vô dục, nghe không quên Không lìa bỏ căn giới Với định được bất động. Biết thân, tuệ không động Thường trụ thân giải thoát Tuệ giải thoát sở kiến Vô dục thường an trụ. Người hiểu các Phật pháp Vô lượng các Thánh đạo Được đủ thần túc Phật Hiểu đạt tất cả hạnh. Biết hạnh tình ý chúng Bỗng nhiên dạo các cõi Được thấy các Như Lai Nghe chư Phật thuyết pháp. Nghe rồi hiểu rõ nghóa Bày cho vô lượng người Biết được ức số hạnh Chí được hướng vô số. Vô dục thường tự tại Hàng tâm nhập công đức Phục ý kiến vô dục Trọn chẳng đổi đời này. Tâm đã thoát các ấm Biết rõ chỗ khởi diệt Quán diệt không chỗ có Sở tập cũng là không. Tánh nghe, chỗ tâm hành Không dối, thường ngay thẳng Không nịnh điều nhân thiện Đức vô dục như thế. Giải thoát, Không, Tướng, Nguyện Hiểu khổ, biết sinh tử Pháp vô ngã luôn vắng Vô dục từ tâm hạnh. Phổ trí tâm đẳng Từ Dùng Bi độ chúng sinh Vui không chán sinh tử Giữ hạnh thật vô biên. Đã cho không mong trả Tự xét, lập các hạnh Nhẫn nại, tốt, không tốt Mong cứu thoát chúng sinh. Siêng năng cần tu đức Không tính đến thân mạng Tiếp theo biết các định. Cũng không tùy theo định Tuệ định, đại tinh tấn Với số, không rối rắm Bốn Đế độ Thanh văn Trí không chí diệt độ. Vô dục đời gặp Phật Họ có các pháp này Ma không biết họ hành Pháp an trụ biết vậy. Vô dục thật không cùng Hiểu là gốc tham cấu Lìa dục đó không tưởng Ma không biết nơi nào. Nếu có tưởng, tôi, ta Họ tự khởi việc ma Như vậy vượt các hành Các ma không thể biết. Vô dục, chí không quên Việc làm thường thanh tịnh Vô dục, không ý chí Hạnh hổ thẹn không hoại. Nhờ nghe hạnh vô dục Đẹp tuệ kính Như Lai Họ trụ, như pháp trụ Đó nên như Thế Tôn. Chư Phật, Bậc mười lực Bồ-tát muốn phụng thờ Nghe hạnh vô dục này Ý siêng, thường thọ trì. Người nghe vô dục này Tin, thích rộng phụng hành Họ thường được vô dục Được quả Phật không lâu. Thánh nhờ vô dục này Được vô cùng trong sạch Vô dục được thành Phật Hóa độ vô biên chúng. Phật: Khứ, lai, hiện tại Đã được các tướng đẹp Cũng từ vô dục này Và cũng hành pháp này. Khi ấy Đức Thế Tôn thuyết pháp về phẩm Vô Dục này, có bốn vạn hai ngàn trời, rồng, quỷ thần và Nhân phi nhân ở trong hội đều phát đạo ý Vô thượng chánh chân. Có một vạn hai ngàn người được Nhẫn bất khởi; lại có tám ngàn người được Nhẫn nhu thuận; ba vạn hai ngàn trời, người, quỷ thần và rồng được xa lìa trần cấu đều sinh Pháp nhãn. Lại có tám ngàn người được hạnh lìa dục. Tám ngàn Tỳ-kheo dứt sạch hết lậu. Ngay lúc ấy, tam thiên đại thiên thế giới chấn động sáu cách, cùng khắp mười phương bỗng nhiên rực sáng. Trong ao Vô nhiệt, dưới núi Tuyết, khắp chung quanh đều hiện những điều chưa từng nghe thấy. Diệu hoa đẹp rực sáng đến tận đầu gối. Ở trong nước ao sinh ra nhiều việc khác thường, hoa sen tươi đẹp, lớn như bánh xe, ở trong hoa ấy, có nhiều hương thơm, có vô số sắc hoa, với trăm ngàn các loại. Tất cả đều do oai thần của Phật hiện ra; vì pháp này mà khởi tâm cúng dường để làm vui lòng Long vương Vô Nhiệt vậy. KINH HOẰNG ĐẠO QUẢNG HIỂN TAM-MUỘI <卷 id="104089302">Quyển 3 <詞 id="104089303">Phẩm 6: LÒNG TIN GẶP PHÁP Bấy giờ, Long vương A-nậu-đạt trong lòng rất vui vẻ, cùng với năm trăm thái tử của Long vương, nhờ đời trước đã phát tâm đạo Vô thượng chánh chân; hôm nay nghe Đức Phật dạy như vậy, tất cả liền được pháp Nhẫn nhu nhuận, lòng mừng khôn xiết, đều muốn được cúng dường, liền vì Đức Như Lai trang hoàng các lọng báu, che trên Đức Thế Tôn, đồng thời thưa Đức Thế Tôn: –Đức Thánh Sư Như Lai Chí Chân Chánh Giác đã vì chúng con mà xuất hiện ở đời. Vì sao? Vì khiến cho chúng con được nghe đạo phẩm Phổ tín. Khi được nghe xong, ý không mệt mỏi, không còn biếng nhác thoái lui, cũng không còn hoảng sợ, nghe rồi, càng thêm chuyên tâm tập làm, thích nghe không chán tượng pháp như vậy. Lại nữa, cúi mong Như Lai giải nói cho con: “Tại sao Bồ-tát được gặp Thế Tôn?” Đức Như Lai đáp: –Này các Hiền giả! Hãy siêng nhớ nghó, lắng nghe, ta sẽ nói cho. Các Thái tử thưa: –Thưa vâng! Chúng con xin được lắng nghe. Các Thượng só ấy sẽ vâng theo lời dạy của Thế Tôn. Đức Như Lai bảo: –Này Hiền giả Thọ Tín! Ai gieo trồng đức tin sẽ được gặp Phật. –Sao gọi là tin? Tin là Chánh só tu theo các pháp sáng, phụng thờ trước nhất. –Sao gọi là pháp sáng? Đó là nương nơi pháp mà hành, không lìa gốc đức, ưa thích tập theo người hiền, hâm mộ tùy thuận Thánh chúng, siêng năng tâm thọ tín, chí không mệt mỏi, suy nghó và siêng năng nghe pháp để loại trừ sự ngăn che của ấm, tùy thuận tu tập với đạo được pháp lợi dưỡng bố thí cùng khắp, đem giới cho người không có giới; bình đẳng tế độ các người nóng nảy giận dữ, nhưng thường ưa thích siêng cầu Phổ trí, tâm không lười biếng, thoái lui, tin Phật mãi mãi, chưa từng loạn pháp, ưa thích Thánh chúng, chí đạo dù khó cũng siêng năng, vui thích chánh chân, xa lìa sự cao ngạo, tự hạ thấp mình trước mọi người, thường có tâm bình đẳng, không dính mắc vào các cảnh giới; trọn bỏ thân mạng, không làm điều ác, tu tập đức tin chân thật; lời nói và việc làm đi đôi nhau, vượt qua chỗ chìm đắm, tâm không nhơ bẩn, hành động của thân, miệng, ý thuận theo lời dạy của Hiền thánh, rõ biết mọi việc, được sự trong sạch, biết đủ không tham, việc làm trong sạch, hiển nhập trí huyễn, tập cầu tuệ căn, dựa vào và tùy thuận bảy Thánh tài, tu niệm thành tín; đã đầy đủ Căn, Lực mà hành chánh kiến; đã thọ giáo thầy bạn thì khiêm nhường, lễ kính, sống đời giản dị; thường đến pháp hội; tâm không nhàm chán thoái bước đối với tai họa sinh tử; hiện ra đức vô vi, siêng năng tinh tấn, cầu được Phổ trí, để hoằng hóa đạo. Đối với pháp của Như Lai, hết lòng ưa thích xuất gia, tu vô số các phạm hạnh thanh tịnh, tạo lập Từ bi, cứu độ chúng sinh, chí mong được báo đền. Đối với người có báo ân và không báo ân đều bình đẳng đón tiếp, che chở; tâm không thương, ghét, không nghó điều lợi cho mình, luôn cung kính kẻ khác, tu hạnh nhẫn nhục, đều cho là đầy đủ, tự thấy mình không có điều ác, không nói sau lưng người khác, nội tâm đã vắng lặng, ý chí thích ở chỗ an nhàn, tâm thích sự vắng vẻ, luôn nhớ nghó đến tập pháp, vốn không tranh tụng; thấy lỗi của người cũng là lỗi của mình, cầu giới đầy đủ, tập hợp định hạnh, siêng năng, kính cẩn đối với đạo. Đó gọi là Hiền giả đã hành động thích ứng tục tín thọ tín như vậy. Đó gọi là cùng gặp Phật xuất thế. Lại nữa, này các Hiền giả! Nếu ở thế tục, tạo tín không quên. Đó gọi là khởi tín tâm, gặp Phật xuất thế. Lại nữa, này các Hiền giả! Sao gọi là tục tín? –Người có tín tâm, tin các pháp là Không, để lìa vọng kiến. Tin biết các pháp, chính là Vô tướng, để lìa niệm tương ưng. Tin biết các pháp thảy đều Vô nguyện, không có đến, đi. Tin biết các pháp vô thức, vô niệm, yên lặng thân miệng ý, vắng bặt hữu thức. Tin biết các pháp, để lìa dục. Không có ngã, nhân, thọ mạng. Tin biết các pháp. Tin biết vốn không có, đến đi tự nhiên. Tin biết các pháp là chân tế, không dấu vết, vốn như không có dấu vết. Tin biết các pháp rồi, thảy đều tự nhiên, bình đẳng như hư không. Tin biết các pháp để dựa vào pháp tánh. Tin biết các pháp bình đẳng ba đời. Tin biết các pháp, dục xứ, tà kiến, thảy đều diệt tận. Tin pháp không chìm đắm để lìa gốc si mê, vốn không trong sạch. Tin biết các pháp, tâm luôn trong sạch, cũng không làm hưng khởi các nhơ của sự ham muốn khác. Tin biết các pháp không có chỗ quán kiến. Tin các pháp là sự giúp đỡ v.v… dứt lìa các hành. Tin pháp là vô ngã, để vượt qua vui mừng hờn giận. Tin các pháp vô tâm, vô hình tướng, nên không thể bắt được. Tin các pháp là giả dối, như nắm tay không, đem dụ trẻ con. Tin pháp không dối, không có trên dưới, không chỗ lấy, bỏ. Tin các pháp trống không, giống như cây chuối. Tin pháp tự do, như thường vắng lặng. Tin pháp không thẩm xét, không trụ ba nơi. Tin pháp hoàn toàn không, không có chỗ sinh ra. Tin pháp như hư không vì bình đẳng vô số. Tin biết các pháp giống như Niết-bàn, mình luôn vắng lặng. Như vậy, này Hiền giả! Với người thế tục, hưng khởi lòng tin này. Đó gọi là tạo niềm tin để gặp Phật pháp. Lại nữa, này Hiền giả! Người có niềm tin, gặp được tên gọi Phật pháp. Đó được gọi là các pháp hoàn toàn không khởi. Vì sao? Vì không phải do sắc sinh ra, không sắc, không sinh, do tập hóa chuyển. Không phải thống, tưởng, hành, thức; không phải thức khởi; không phải do mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Không khởi chuyển tập; không phải do thân khởi chuyển, không si mê có không; không sinh, lão, tử. Vì khởi có không, như vậy gọi là gặp Phật xuất thế; không khởi có sinh, cũng không khởi có diệt. Lại nữa, không khởi tập đối với không, diệt. Không nhờ chánh ý, không có tập chí ý mà gặp Phật xuất thế. Nói tóm lại, cũng không nhờ ba mươi bảy Đạo phẩm pháp, khởi hay không khởi tập; cũng không dùng tập vô sinh của đạo; không nhờ khởi tuệ, cũng không diệt tuệ. Chẳng tuệ, không tuệ, tập không có hai mà gặp Phật xuất thế. Khi Đức Phật đang nói về phẩm, nhờ đức tin mà gặp Phật xuất thế, Long vương Vô Nhiệt và năm trăm thái tử đều được pháp Nhẫn nhu thuận. Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói bài tụng: Tín tâm, được gặp Phật Mà tập nơi bất sinh Ai không phát tín tâm Không gặp Phật ở đời. Tu tín là cao tột Đạt đến pháp thanh tịnh Hành nghiệp có báo ứng Không chống trái việc tu. Tin tập các Hiền thánh Siêng tu, thường lễ kính Tâm không có biếng lười Do tín này làm ra. Siêng đi nghe thuyết pháp Ấm cái, không thể động Từ tín đến được đạo Thực hành hạnh Nhu thuận. Nhờ pháp được tiền của Chuyển ban cho khắp nơi Giữ giới và phá giới Hành tín nên cho đều. Vui với người giận dữ Đạo tâm không lười biếng Siêng cầu pháp Đại thừa Tín, vui đến mọi người. Lìa hẳn mọi cao ngạo Chí luôn tự khiêm nhường Chỗ ở không đắm chìm Lập tướng tín, như vậy. Chí tín, không tiếc thân Trọn không tạo ác hạnh Giữ lành, không nói dối Nói, làm thường hợp nhau. Tín vui không giới hạn Thích hành nơi vô tâm Thân, miệng, ý trong sạch Tập theo Thánh, che chở. Có hạnh tín tâm sạch Thường được tuệ dẫn dắt Biết căn bản của thân Cầu hỏi, và nói ra. Đẳng niệm nơi bảy tài Được lực, căn đầy đủ Lìa hẳn các tà kiến Chí thường tập Đẳng hạnh. Lễ bái, có tâm vui Kính thờ như thầy mình Tâm chứa tốt, khiêm cung Tri túc, không thay đổi. Trong tâm thường vô niệm Chí nguyện nơi đạo pháp Có người chán sinh tử Dẫn, chỉ, đức vô vi. Giải thoát việc đang làm Thường cầu tâm vui vẻ Mau lìa khỏi đời này Tu phạm hạnh không mỏi. Nhớ nghó các chúng sinh Cứu họ không mong lợi Báo đáp ân đã thọ Vui tín nên cần cầu. Không vui vì lợi mình Không ghét người được cúng Tâm nhân, nhẫn đầy đủ Không nịnh, sống chất trực. Hành tín tự mình thấy Không nói xấu lỗi người Căn lặng, tánh an nhiên Chí ưa ở cảnh nhàn, Trong tâm không huyên náo Cố gắng lo làm ân Nghịch ý cũng không cãi Chỉ biết, sửa lỗi mình. Cần cầu đủ giới hạnh Chuyên tập nơi đạo định Thích tín, ưa hạnh vui Tướng người tín như vậy. Ai vượt qua tục tín? Thực hành và hiểu nó Cùng pháp không tranh cãi Điều Phật dạy sâu xa. Thành tín, tin nơi không Họ không có các kiến Các pháp không có tướng Không ý, lìa nhớ nghó, Sẽ dứt lìa các niệm Hiểu rõ việc đi đến Pháp vốn không người tạo Không có nơi thân tâm. Tín là pháp vô dục Lìa ngã, nhân, thọ mạng Người tin, hiểu vốn không Được đến chỗ không hai. Nó vốn không chứa nhóm Thể không như hư không Chư pháp, tín cũng vậy Liền đồng với pháp tánh. Bình đẳng với ba đời Các pháp không có lậu Dục xứ cùng với tham Ưa tin không thọ kiến. Các pháp không có đắm Nó vốn sáng, trong sạch Khách dục không thể che Tâm không có chỗ trụ. Các pháp không thể thấy Nhân duyên mà không khởi Thường quán nơi hạnh cao Không trụ thọ chỗ dở, Không hợp cũng không lìa Giải thoát, đồng không hợp Tin thích nơi pháp không Kẻ ngu bị mê hoặc. Đạm bạc, ý không khởi Dối trá như cây chuối Miệng nói, vẫn tự nhiên Không bỏ, cũng không lấy. Các pháp không chỗ có Cái thấy cũng không cần Pháp thấy như hư không Đẳng duyên nhiều vô số. Các pháp như Niết-bàn Vốn không, không thể thấy Tin thích mà thực hành Hiểu rõ thân hư không. Ai có tín như vậy Bồ-tát và người phàm Đều sẽ được gặp Phật Việc làm không có ác. Không vì tạo sắc hạnh Được gặp Phật ra đời Không sắc, không có chỗ Không đến, cũng không đi, Với sắc, không có sinh Không diệt, cũng không trụ Đương lai không chỗ đến Gặp Phật rộng nói pháp. Năm ấm cũng như vậy Hóa, tập, chuyển, vô sinh Gặp Phật đang thuyết pháp Tuệ đạt, các Bồ-tát, Thân họ và hữu tình Cũng tập, nhờ vô sinh Phật hưng nhờ vô sinh Thường cứu kẻ đạo lạc. Si vốn không có sinh Sinh tử, cũng như thế Duyên này như vốn không Từ pháp mà có Phật, Không khởi, không có sinh Không diệt, không có trụ Nhờ đó, biết vô xứ Xứ cũng không thể thấy. Nó cũng không tự sinh Cùng Phật mà rộng nói Vô chí, không có trụ Đó cũng do Phật chuyển. Các loài cũng như vậy Phật chủng thuận như pháp Loại ấy cũng khởi không Như Phật mà xuất hiện. Nếu ai làm như vậy Phật hiện vì người ấy Ưa tin đại chúng này Thật không có hạn lượng.  <詞 id="104089304">Phẩm 7: CHUYỂN BÁNH XE PHÁP Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại bảo các thái tử… –Lại nữa, này các Hiền giả! Sao gọi là Bồ-tát được chuyển xe pháp, đó là nói theo ý nghóa tượng pháp như vậy để thọ trì không quean mà tu hành. Các hữu tình không phát khởi ý đại Bi, nhưng vì hưng khởi Phổ trí, tùy thuận mong ước của mọi người, nên mới thuyết pháp rộng rãi tuyên bố, mở bày chí không mệt mỏi, vứt bỏ lợi dưỡng, khuyên nên nhớ nghó thuận thời, thọ trì gìn giữ tu hạnh. Đó gọi là Bồ-tát chuyển pháp luân. Lại nữa, nếu Như Lai đã chuyển xe pháp, nhưng xe pháp của Như Lai là hành tượng nhập đức, nên phân tích trình bày; không dùng khởi pháp, cũng không diệt pháp, không dùng hành pháp của kẻ phàm phu thấp hèn, lại cũng không dùng pháp của Hiền thánh để chuyển bánh xe pháp. Lại nữa, bánh xe pháp ấy, không cắt đứt nửa chừng, bình đẳng dứt hết tốt xấu. Vị ấy nhờ vậy, nên xe pháp không bị cắt đứt. Lại nữa, bánh xe pháp ấy, khởi lên do nhân duyên; chẳng khởi, không khởi, nhưng có sự chuyển vận. Vì lý do ấy, nên bánh xe pháp không khởi chuyển. Lại nữa, bánh xe pháp ấy, không dùng mắt, sắc, tai, âm thanh, mũi, hương, lưỡi, vị, thân, cánh, tâm pháp, các tình mà chuyển; nó tùy theo hữu duyên chuyển; vì lý do ấy không có hai loại bánh xe pháp. Nếu có hai thì chẳng phải bánh xe pháp. Lại nữa, bánh xe pháp ấy, cũng không dính mắc vào quá khứ, đương lai, hiện tại mà chuyển. Đó là bánh xe không chấp trước. Lại nữa, bánh xe pháp ấy, không do ngã kiến chuyển, chẳng phải do nhân, mạng thọ, chỗ trụ mà chuyển. Đó gọi là bánh xe Không. Lại nữa, bánh xe pháp ấy, không do thức, hành, tướng, diệt niệm mà chuyển. Đó là bánh xe Vô tướng. Lại nữa, bánh xe pháp ấy, không phải mong ước đối với Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới mà chuyển. Đó là bánh xe Vô nguyện. Lại nữa, bánh xe pháp ấy, không tính toán chúng sinh có sai khác mà chuyển. Không ở nơi hai pháp; đó là pháp của người phàm; là pháp Thánh giới; là pháp Thanh văn; là pháp Duyên giác; là pháp Bồ-tát; là pháp của Phật. Vì vậy gọi vị ấy là bánh xe không đổi khác. Lại nữa, bánh xe pháp ấy, không dùng bánh xe pháp có trụ mà chuyển. Vì vậy, nên gọi là bánh xe không trụ vậy. Tên của bánh xe pháp thế nào? –Này chư Hiền! Vì bánh xe pháp chánh chân, chắc thật, thường không hủy hoại vậy. Nghóa cơ bản của chữ bánh xe là bình đẳng ba đời, vì bánh xe không nơi chốn. Vì các tập kiến xứ, nhờ bình đẳng vượt qua, bánh xe trong sáng, hiu quạnh; thân tâm không đắm trước, không thể thấy bánh xe. Vì ý thức xa lìa, nên không có khe hở của bánh xe, không ở nơi năm đường. Xét kỹ về bánh xe. Không có chân đế hiển hiện. Bánh xe của sự thực hành tín tâm, bình đẳng giáo hóa chúng sinh, vì không lừa dối vậy. Bánh xe là không thể tận, vì chữ, không chữ vậy. Bánh xe của pháp tánh, bởi vì các pháp đều nương nhờ pháp tánh vậy. Bánh xe vốn chứa chân đế, vốn không chứa vậy. Bánh xe hoàn toàn không, như vốn không vậy. Không chỗ tạo ra bánh xe, vì không nhớ nghó đến các lậu. Bánh xe vô số, dẫn đến chí Thánh. Bánh xe như hư không, vì thấy rõ bên trong. Bánh xe không tướng, vì không nhớ nghó bên ngoài. Bánh xe vô nguyện, vì không có trong va ngoài. Bánh xe không thể được, tu để vượt qua. Lại nữa, này các Hiền giả! Đức Như Lai dùng bánh xe pháp này, chuyển vận các ý hành của chúng sinh. Chuyển mà không chuyển. Nó không thể nắm bắt, vì pháp không có chỗ để xả. Bấy giờ, Đức Thế Tôn, khi giảng nói phẩm Chuyển bánh xe pháp này; thì trời, rồng, quỷ, người và các loại thần, trong lòng vô cùng hân hoan sung sướng, phát ra ánh sáng, ca tụng pháp ấy của Đức Như Lai. Đồng thanh ngợi khen: –Lành thay Thế Tôn! Thật là khó gặp! Như Lai đã chỉ bày, chuyển nói bánh xe pháp này. Người nghe phụng hành phải phù hợp với bánh xe pháp. Pháp này tên gọi là bánh xe chuyển hư không. Các Đức Phật quá khứ và đương lai, cùng Phật hiện tại đều thờ pháp này mà thành. Nếu ai có lòng tin, thì sẽ được độ thoát. Những người thực hành pháp này, ta nói là đã ngang bằng với Thế Tôn. Ta sẽ thay họ khuyên giúp cho các chúng sinh, để họ hưng khởi tâm này. Còn ai muốn nghe phẩm bánh xe pháp này; nghe rồi nên cầu đạo hạnh cơ bản này, họ cũng không lâu sẽ được chuyển bánh xe pháp. Bấy giờ, trong chúng nghe Đức Phật thuyết như vậy; có một vạn Thiên tử đều phát đạo ý Vô thượng Chánh chân; năm ngàn Bồ-tát mau được pháp Nhẫn. Lúc này Đức Thế Tôn bảo các vị Hiền giả: –Này các Chánh só! Ai gìn giữ chánh pháp, thọ trì chánh pháp, làm chánh pháp lớn mạnh, đó gọi là bảo vệ pháp. Vì sao? Vì đối với vị hành giả ấy, vónh viễn không bị hủy diệt, dù trời hay người đời, trọn không thể địch nổi vị ấy. Bấy giờ, Vô Ưu đến trước Đức Phật, bạch: –Lại nữa, thưa Thế Tôn! Nếu vị Chánh só ấy, dùng pháp như vậy, mà được Tối giác; vậy vị ấy vốn có sự mê hoặc? Vả lại, hình tượng các Chánh só như vậy, nên phải cùng nhau ủng hộ. Sở dó ủng hộ, là khiến cho các vị Chánh só ấy mau phù hợp với pháp Đại thừa này; các vị ấy đều đã hành như vậy sẽ được chuyển bánh xe pháp. Lại có thể hiểu biết được pháp đại minh. Thưa Thế Tôn! Cho nên, Thế Tôn mới vì những người ấy, mà dạy pháp cơ bản chính là ủng hộ họ, khiến họ phát Đại thừa. Và cũng để bảo vệ cho Pháp sư an lạc, kính lễ, thuận nghe giới cấm. Bấy giờ, Đức Thế Tôn khen ngợi con của Long vương là Vô Ưu rằng: –Lành thay! Lành thay! Này Chánh só Vô Ưu! Các người phát Đại thừa, vì các Pháp sư cho nên an tâm ủng hộ. Đó gọi là bảo vệ pháp. Vì các Pháp sư làm chánh pháp lớn mạnh nên phải bảo vệ gìn giữ chánh pháp. Lại nữa, này Vô Ưu! Người bảo vệ chánh pháp có mười công đức. Những gì là mười? –Đó là: 1.Không có tánh tự đại, hàng phục sự cao ngạo. 2.Thực hành cung kính. 3.Không có hạnh dối trá. 4.Siêng suy nghó, yêu thích pháp. 5.Chí ưa tập theo pháp. 6.Ý thường xuyên tùy pháp. 7.Hành quán nơi pháp. 8.Ưa thích nói pháp. 9.Thích tu hành pháp. 10.Đến nơi nào cũng tùy thuận thuyết pháp. Đó là mười hạnh nhờ bảo vệ chánh pháp. Lại nữa, này Vô Ưu! Cũng có mười việc hầu hạ, để bảo vệ chánh pháp. Những gì là mười? 1.Tộc tánh nam và tộc tánh nữ nghe Pháp sư đến, đã từ xa lễ bái. 2.Suy nghó ưa thích được hầu hạ. 3.Pháp sư đến, liền kính yêu. 4.Cung cấp những nhu cầu về y phục, ẩm thực. 5.Hộ trợ các việc. 6.Đi đến đâu cũng khiêm nhường cung kính. 7.Nghe theo lời Pháp sư dạy, để nói cho người đồng học. 8.Ngăn chặn người nói xấu. 9.Thường Thích-ca tụng khen ngợi. 10.Làm cho tiếng tốt của Pháp sư được lan xa. Đó là mười việc hầu hạ để bảo vệ chánh pháp. Lại nữa, này Vô Ưu! Có bốn điều cần ban cho, để bảo vệ chánh pháp. Những gì là bốn? 1.Dùng bút mực, lụa trắng cung cấp cho Pháp sư. 2.Dùng y phục, ẩm thực, giường nằm, thuốc men để cúng dường. 3.Nếu theo Pháp sư để nghe thuyết pháp, thì dùng tâm không dối trá để khen ngợi. 4.Nghe rồi thì nhận lãnh gìn giữ, rộng nói cho người khác. Đó là bốn việc cần ban cho để bảo vệ chánh pháp. Lại nữa, này Vô Ưu! Có bốn việc sáng suốt tiến tới để giữ gìn chánh pháp. Những gì là bốn? –Đó là: 1.Sáng suốt tiến tới sự cầu pháp. 2.Siêng năng rộng rãi giảng nói pháp. 3.Cung kính và đủ lễ Pháp sư. 4.Nếu có người pháp bỏ chánh pháp, dùng chánh pháp và sự tinh tấn để hàng phục họ. Đó là bốn sự tinh tấn, để giữ gìn chánh pháp. Bấy giờ, năm trăm thái tử của A-nậu-đạt, nghe Đức Phật dạy như vậy, lòng vui mừng sung sướng, ưa thích vô lượng, cùng nhau thưa: –Những điều Đức Như Lai đã dạy, thật là hay không gì bằng, đã giải trừ các hồ nghi của chúng con. Chúng con dùng cung điện và các quan cùng quyến thuộc của mình, dâng lên Đức Phật và cung cấp những vật cần dùng, dùng tâm kính thuận để thưa lại: Từ nay, Đức Thế Tôn ân cần thọ hóa, mãi không mệt mỏi, cho đến lúc Đức Như Lai đã nhập Niết-bàn. Điều Đức Phật đã dạy, là biểu tượng của pháp báu. Chúng con phải cùng nhau kính thọ phẩm kinh quan trọng này, cầu mong thông đạt, khuyên nhau cố gắng tu hành. Vì vậy, thưa Thế Tôn! Chúng con xin hết lòng phát nguyện. Lại nữa, nếu sau khi Đức Như Lai đã nhập Niết-bàn, chúng con, đối với Đức Thánh Tôn, ở tại đất nước mình, cùng nhau đồng tâm cúng dường xá-lợi, hộ trì phụng thờ, lễ kính cho đến lúc không còn hiện hữu. Bấy giờ Hiền giả Ca-diếp, bậc kỳ túc bảo các thái tử: –Này các Hiền giả! Chư vị nói là chỉ riêng một mình các vị được cúng dường thân thần xá-lợi của Đức Như Lai. Những lời nói của quý vị, làm mất hết các gốc đức của chúng sinh, ngăn che sự thanh tịnh sáng suốt, làm mờ đạo chí hóa nên mới nói như vậy. Vì sao? Vì Đức Như Lai vốn đã phát nguyện sẽ làm cho xá-lợi được ban cho khắp, giống như hạt cải, vì các chúng sinh rủ lòng đại Bi; sao các vị lại muốn cúng dường một mình? Các Chánh só ấy, liền trả lời Hiền giả Đại Ca-diếp: –Thưa Tôn giả Ca-diếp! Tôn giả đừng dùng trí hữu hạn của Thanh văn mà hạn chế trí tuệ minh đạt vô cùng sâu xa của Đức Như Lai! Vì sao? Vì Đức Như Lai có Phổ trí tâm thấy tất cả nơi; Như Lai dùng thần túc, cảm động biến hóa. Nếu Như Lai khởi niệm, có thể khiến cho các cung điện của trời, rồng, quỷ thần, ở tam thiên đại thiên thế giới đều có thể hoàn toàn là chỗ đặt để xá-lợi của Phật; khiến cho ai nấy cũng đều nghó rằng: “Riêng ta mới là người cúng dường xá-lợi của Đức Như Lai, người khác thì không được.” Lại nữa, này Tôn giả Ca-diếp! Đức Thế Tôn sau khi nhập Niết-bàn, tùy tâm chúng sinh mà có sự đặt để, phụng thờ xá-lợi. Lại nữa, thưa Tôn giả Ca-diếp! Nếu Đức Như Lai, ở nơi trời Sắc cứu cánh, tạo chỗ đặt để xá-lợi, giống như hạt cải thì cũng có thể làm cho ánh sáng chiếu khắp trong cõi trời đất ấy. Đó là sức cảm động, oai thần biến hóa của Đức Phật Thế Tôn vậy.  <詞 id="104089305">Phẩm 8: GIẢI QUYẾT CÁC NGHI NẠN Bấy giờ, Hiền giả Tu-bồ-đề bảo: –Này các Tộc tánh tử! Vả lại, Đức Như Lai có diệt độ chăng? –Thưa Tôn giả Tu-bồ-đề! Ngay lúc khởi sinh đã có sự diệt độ. Tôn giả Tu-bồ-đề hỏi: –Này các Tộc tánh tử! Vậy Đức Như Lai có sinh chăng? Thưa rằng: –Đức Như Lai vốn không sinh, không sinh mà sinh. Tôn giả Tu-bồ-đề hỏi: –Như như vốn không, không sinh, chẳng sinh, hoàn toàn không sinh chăng? –Đúng vậy, thưa Tu-bồ-đề! Sự sinh của Đức Phật, đúng là vốn không, nên không có sinh. Tôn giả Tu-bồ-đề hỏi: –Sự sinh của Đức Phật như vậy, thì sự diệt thế nào? Thưa rằng: –Sự diệt cũng lại như vậy, như như vốn không; sinh nơi vô sinh, Niết-bàn diệt độ, cũng là vốn không. –Thưa Tôn giả Tu-bồ-đề! Không khởi mà sinh, thì diệt độ cũng vậy. Sự diệt như vậy, cũng là vốn không. Khi nói lời ấy, ở nơi vực sâu trong ao Vô nhiệt, hiện ra một bông sen lớn, giống như bánh xe, với vô số vô lượng, những màu sắc khác nhau; dùng các báu và ngọc danh tiếng để trang sức thành ánh sáng. Ở giữa các hoa, có một bông sen lớn, màu sắc rực rỡ, hiện sự tốt đẹp lạ thường, bay vút lên cao. Hiền giả A-nan ở trong ao lớn Vô nhiệt, thấy sự biến hóa lạ lùng như vậy, liền thưa hỏi Đức Thế Tôn: –Nay có sự biến hóa này, là ứng hiện điềm lành gì, mà khởi lên sự cảm động như vậy? Đức Như Lai đáp: –Này A-nan! Hãy thong thả, rồi sẽ tự thấy. Đức Phật mới nói xong, bỗng từ phương dưới, cho đến cõi Bảo sức thế giới của Đức Như Lai Bảo Anh, sáu vạn Bồ-tát cùng Bồ-tát Nhuyến Thủ, bỗng nhiên nhảy lên, di chuyển khỏi cõi Năng nhân, bay đến ao lớn Vô nhiệt; tất cả đều hiện trên tòa sen lớn thật đẹp đó. Đồng tử Nhuyến Thủ liện ngồi ở tòa sen cao rộng. Bấy giờ, chúng hội thảy đều thấy rõ, ngạc nhiên và kinh hoàng! Khi ấy, A-nậu-đạt và các Bồ-tát, Thích, Phạm, Trì Thế đều đến nhóm họp; các chúng thảy đều chắp tay cúi đầu đảnh lễ. Đồng tử Nhuyến Thủ lui ra, đứng trong hư không, cùng cầm lọng giao lộ bằng ngọc báu. Cùng với Đồng tử Nhuyến Thủ, các Bồ-tát đang ngồi trên tòa sen, cũng đồng thời vọt lên hư không, cách mặt đất rất xa. Ở trên hư không ấy, làm mưa những hoa sen thật đẹp chưa từng thấy, để cúng dường Đức Như Lai. Từ trong các hoa, lại có tiếng phát ra: –Đức Như Lai Bảo Anh thăm hỏi Đức Thế Tôn, sự đi lại có được vô lượng tốt đẹp, cơ thể có được khỏe mạnh, thần lực có được an hòa chăng? Tiếng ấy lại nói tiếp: –Đồng tử Nhuyến Thủ và các Bồ-tát, gồm sáu vạn người, cùng đến cõi Nhẫn, đi đến ao sâu của Long vương Vô Nhiệt để xem sự biến hóa cảm ứng ấy. Lại có ý thích muốn được nghe Long vương, hỏi về Đạo phẩm trang sức nhập vào trong pháp căn bản để nói; xin Đức Thế Tôn rộng khuyến pháp ngôn khiến cho mọi người có sự mừng vui. Bấy giờ, Đồng tử Nhuyến Thủ và các Bồ-tát, từ hư không đi xuống, đến chỗ Bậc Chánh Giác, cúi đầu lạy Đức Như Lai, lòng mừng rõ cung kính, đứng trước Đức Thế Tôn. Khi ấy, Bậc Thiên Sư mới bảo Nhuyến Thủ: –Đồng tử đến đấy à? Vì mong ước điều gì mà cùng các Bồ-tát đến đây? Nhuyến Thủ bạch Đức Phật: –Thưa Thế Tôn! Chúng con ở tại thế giới Bảo sức, cõi của Phật Như Lai Bảo Anh, được nghe Đức Như Lai Năng Nhân Chí Chân rủ lòng thương xót đến mười phương chúng sinh, diễn nói pháp yếu này. Vì nghe pháp ấy, nên từ cõi kia, mới đi đến đây hầu hạ, lễ bái Đức Thiên Sư, nhờ đó mà được nghe Đức Như Lai giảng pháp. Tôn giả Ca-diếp bạch Đức Phật: –Có phải các Đại só này, ở gần cõi Phật Thế Tôn Bảo Anh, thuộc thế giới Bảo sức, rồi bỗng nhiên đi đến đây chăng? Nhuyến Thủ đáp: –Thưa vâng! Như Tôn giả Ca-diếp khi nhập định, với năng lực thần túc và phi hành cao tột; dù cho đến lúc mạng chung, rồi diệt độ ở trong đó, vẫn không thể đến cõi ấy được. Vì cảnh giới của nước ấy rất xa vậy. Đức Phật bảo Tôn giả Ca-diếp: –Cõi ấy, cách nơi đây, trải qua sáu mươi hằng sa cõi Phật, mới đến cõi Phật Như Lai Bảo Anh. Tôn giả nói tiếp: –Qúy vị, từ cõi ấy đến đây, thời gian bao lâu? Đáp rằng: –Thật lâu! Như tuổi cao, lậu tận, ý được giải thoát của Tôn giả vậy. Tôn giả Đại Ca-diếp nói: –Thật chưa từng có. Quả vậy, thì này Nhuyến Thủ! Thần túc của các Chánh só này là như vậy sao? Nhuyến Thủ lại nói: –Tôn giả tuổi cao, lậu tận, ý giải thoát; thời gian lâu bao nhiêu? Đáp rằng: –Như trong khoảng khắc của sự chuyển ý. Lại nói: –Tôn giả tuổi cao đã giải thoát chăng? Đáp rằng: –Đã giải thoát. Nhuyến Thủ lại hỏi: –Ai buộc tâm mình mà có sự giải thoát? Đáp rằng: –Này Nhuyến Thủ! Vì tâm có cột, mở; chẳng phải sự giải thoát là có mở, để đạt tuệ kiến. Hỏi rằng: –Thưa Tôn giả Ca-diếp! Nếu tâm không cột, cần gì phải mở? Tôn giả Ca-diếp đáp: –Biết tâm không cột, thì đó là mở. Hỏi: –Thưa Tôn giả Ca-diếp! Dùng những tâm gì, mà gọi là biết tâm? Dùng tâm quá khứ chăng? Dùng đương lai hay hiện tại? Tâm quá khứ đã diệt mất, tâm đương lai chưa đến, tâm hiện tại thì không dừng. Vậy dùng những tâm gì, mà biết tâm mình? Đáp rằng: –Tâm đã diệt ấy! Này Nhuyến Thủ! Tức không có sự toan tính của thân tâm. –Này Hiền giả! Tâm biết diệt chăng? –Tâm diệt rồi, thì không thể biết được. –Khi đạt đến đó hoàn toàn diệt hết tâm. Nó vónh viễn không có thân thức để được. –Thật là bậc Đại Biện Tài. Này Đồng tử Nhuyến Thủ! Chúng tôi thấp kém, đâu có thể ứng đáp được những lời biện luận cao tột. Nhuyến Thủ lại nói: –Vì sao? Này Tôn giả Ca-diếp! Tiếng vang lẽ nào có ngôn từ chăng? –Không, này Đồng tử! Là nhân duyên khởi vậy. –Không nói chăng? Thưa Đại Ca-diếp! Tất cả âm thanh giống như tiếng vang chăng? –Đúng vậy. Nhuyến Thủ lại nói: –Âm vang lời nói có thể đạt đến chăng? –Không thể đạt đến. Lại nói: –Đúng vậy, thưa Đại Ca-diếp! Bồ-tát sử dụng biện tài quyền xảo, không thể nghó bàn, cũng không cắt đứt. Nếu Trưởng lão hỏi, từ kiếp này đến kiếp khác về cơ biện của Bồ-tát thì khó mà cùng tận. Bấy giờ, Tôn giả Ca-diếp bạch Đức Phật: –Cúi mong Đức Thế Tôn, gia khuyến cho Nhuyến Thủ, hãy vì đại chúng này mà rộng giảng thuyết pháp, khiến cho các chúng hội mãi mãi được an ổn, khiến cho tất cả được pháp yếu rực sáng. Khi ấy, ở trong chúng, có một Đại Bồ-tát, tên là Trí Tích hỏi Đồng tử Nhuyến Thủ: –Này Đồng tử! Vì sao Trưởng lão Ca-diếp tuổi cao, kỳ cựu mà lời nói khiếp nhược, thấp kém như vậy? Sao vẫn gọi Trưởng lão là tuổi cao? Đồng tử Nhuyến Thủ đáp: –Vì Trưởng lão là Thanh văn, cho nên mới biện luận không quả quyết. Trí Tích lại hỏi: –Có phải Trưởng lão không biết phát tâm Đại thừa chăng? –Hoàn toàn không phải vậy. Vì Trưởng lão chỉ dùng sự giải thoát của Thanh văn thừa. Hỏi: –Lại nữa, này Nhuyến Thủ! Vì sao gọi là Thanh văn thừa? Nhuyến Thủ đáp: –Này Tộc tánh tử! Đức Thế Tôn là Bậc Năng Nhân, tùy theo các chúng sinh mà lập ra ba thừa giáo, phô diễn sự nói pháp. Có hạnh Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Đại thừa. Vì sao? Vì chúng sinh ý mang nhiều tham, chí khí thì thấp kém, nên mới nói ba hạnh. Trí Tích lại hỏi: –Này Nhuyến Thủ! Vì sao Không, Vô tướng, Vô nguyện, hoàn toàn không có hạn lượng? Sao lại giới hạn chỉ có ba thừa? Đáp rằng: –Này Tộc tánh tử! Đó là các Đức Như Lai sử dụng quyền xảo, cho Không, Vô tướng, Vô nguyện, không có hạn lượng. Vì các chúng sinh hay dính mắc vào giới hạn, nên nói có hạn lượng; nhưng hoàn toàn không có giới hạn đối với người không giới hạn. Hỏi: –Lại nữa, này Nhuyến Thủ! Chúng tôi có thể thoái lui, để vónh viễn không cùng chúng sinh tâm chí thấp hèn hội hợp. Nhuyến Thủ đáp: –Này các Tộc tánh tử! Hãy kiên nhẫn, nên theo Long vương Vô Nhiệt, để nghe trí tuệ biện tài và vô lượng pháp. Kỳ lão Ca-diếp hỏi Trí Tích: –Thế nào, thưa Chánh só! Như cõi Phật Như Lai Bảo Anh, Ngài sẽ nói pháp thế nào? Trí Tích đáp: –Chỉ có một pháp vị. Từ một pháp, tiếng nói sẽ diễn xuất vô lượng pháp nghóa; chỉ luận về pháp không thoái chuyển của Bồ-tát, luận về yếu hạnh thâm sâu mầu nhiệm của chư Phật. Từ đó, giữ lấy giải thoát, không do các chúng xen tạp, nương nơi Phổ trí, hoàn toàn không có sự giải thoát nào khác, mãi mãi giảng về lời bàn thanh tịnh, thuần thục của Bồ-tát. Những vị ấy hoàn toàn không có hạnh khiếp nhược. Bấy giờ, A-nậu-đạt hỏi Nhuyến Thủ: –Nhân tôn Nhuyến Thủ đến đây để hầu hạ Như Lai. Vậy có bao nhiêu hình tượng để quán Đức Như Lai? Dùng sắc để quán chăng? Hay dùng thống (thọ), tưởng, hành, thức để quán Đức Như Lai? Đáp rằng: –Chẳng phải vậy. Lại hỏi: –Nói một cách tóm lược, đó là dùng sắc khổ để quán chăng? Hay thống, tưởng, hành, thức khổ để quán chăng? Diệt sắc, thống, tưởng, hành, thức để quán chăng? Dùng hạnh Không, Vô tướng, Vô nguyện quán Như Lai chăng? Trả lời: –Chẳng phải vậy. Lại hỏi: –Có phải là dùng quá khứ, vị lai, hiện tại, tướng tốt, mắt thịt, mắt thánh, mặt tuệ để quán Như Lai chăng? Đáp rằng: –Chẳng phải vậy! Hỏi: –Thế nào Nhuyến Thủ! Dùng những tướng gì để quán Như Lai? Đáp: –Này Long vương! Quán Đức Như Lai, phải như Đức Như Lai. Lại hỏi: –Này Nhuyến Thủ! Như Lai là thế nào? Đáp: –Như Lai là Vô đẳng chi đẳng, sự bình đẳng không thể thấy, vì Như Lai là vô song, nên rất tươi đẹp. Này Long vương! Như Lai là Bậc tôn quý, không cùng, không phải ngẫu nhiên Ngài vô song, không thể so sánh hay ví dụ, không trù lượng, không ai bằng, không thể so sánh, cũng không sắc tướng, Ngài không có hình tượng, không hình, không ảnh, không danh, không tự, không nói, không thọ. Này Long vương! Như Lai là như vậy. Nên xem xét như vậy để quán Như Lai. Cũng không dùng mắt thịt, mắt thánh, mắt tuệ để quán Như Lai. Vì sao? Vì dùng mắt thịt để thấy cho rõ; nhưng Như Lai thì không tối, không sáng, cho nên không thể dùng mắt thịt để quán. Lại nữa, mắt Thánh thì có tướng tạo ra, mà Như Lai thì bình đẳng, vượt qua tất cả, không đứng yên; cho nên không thể dùng mắt Thánh để quán. Lại nữa, mắt Tuệ thì vốn biết là vô tướng, nhưng Như Lai thì đối với chúng, hoàn toàn không có; cho nên không thể dùng mắt Tuệ để quán. Này Nhuyến Thủ! Thế nào là quán Đức Như Lai để được thanh tịnh? Đáp: –Này Long vương! Ai biết nhãn, thức, tâm không có khởi; lại biết sắc, thức, tâm không khởi diệt. Ai quán như vậy là quán Như Lai và sẽ được thanh tịnh. Bấy giờ, các Bồ-tát ở cõi Bảo sức của Như Lai Bảo Anh đến dự, đạt được điều chưa từng có, nên thảy đều vui vẻ và nói: –Thật là sự nhiệm mầu, sung sướng! Các chúng sinh này khéo gặp Đức Như Lai, nghe được Long vương hỏi về phẩm Giải quyết hồ nghi như vậy. Nghe rồi vui mừng, tin, thọ, không sợ, không hãi, không còn lo ngại gì, lại thêm thọ trì, đọc tụng, chỉ bày, ban cho. Chánh só như vậy, nên ở trong nhà tuệ. Chúng tôi từ Đức Thế Tôn Bất Không đến đây, được nghe về tượng pháp cơ bản vô cực này. Lại nữa, bạch Thế Tôn! Pháp này nếu được lan đến làng xóm, quốc gia nào thì nên biết nơi đó, Đức Như Lai mãi còn, trọn không diệt độ, chánh pháp không hủy hoại, việc đạo hóa sẽ thịnh vượng. Vì sao vậy? –Vì pháp phẩm này, có thể hành phục ma quân, chế ngự các ngoại đạo. Bấy giờ, A-nậu-đạt bảo Nhuyến Thủ: –Đồng tử Nhuyến Thủ là người khéo tu hành. Bồ-tát này được nghe pháp ấy, được thành Phật không khó, tự mình tiến bộ, khuyên hóa người khác, chuyên cần với đạo không mệt mỏi. –Sao gọi là Bồ-tát cần tu hạnh lành? Nhuyến Thủ đáp: –Này Long vương! Như hạnh tham lam không có, hạnh ban cho cũng không, hiểu được như vậy, gọi là hạnh lành. Nói tóm lại, không có giới cùng với giới; ôm lòng sân hận với nhẫn nhục; lười biếng thoái lui với tinh tấn; loạn ý với nhất tâm, Như sự ngu là không thì trí tuệ cũng không. Đối với những việc ấy bình đẳng, gọi là hạnh lành. Lại nữa, này Long vương! Như sự dâm dục, giận tức, ngu si là không; sự không dâm dục, giận tức, ngu si, cũng không. Như hạnh tham dự vào sự việc là không, sự không tạp loạn cũng không. Đối với những hạnh ấy, gọi là hạnh lành. Lại nữa, này Long vương! Như hành tám vạn bốn ngàn là không, sự chánh chân giải thoát của Hiền thánh cũng là không. Đối với những hạnh ấy, gọi là hạnh lành. Lại nữa, này Long vương! Nếu có các bậc Minh hiền tu Bồ-tát hạnh; không hành, không chẳng hành, cũng không thấy hành, không có mê hoặc hành, cũng không có niệm hành, lại không biết hành. Những hạnh như vậy, gọi là hạnh lành. Long vương Vô Nhiệt hỏi Nhuyến Thủ: –Đồøng tử! Bồ-tát hành thế nào đối với vô sở hành? Đáp rằng: –Này Long vương! Từ lúc mới phát tâm hành Bồ-tát đạo đến lúc thành Phật, công đức đã làm đều do việc làm đầu tiên, chứ hành không sinh, hành không nơi nhận lãnh, hành không bỏ hay giữ, không có hành hiềm khích; hành lại không dính mắc, cũng không hành chân thật, không hành có hạn, cũng hành không mê hoặc, lại không hành dâm, hành không chỗ tạo ra, cũng không gìn giữ hành, hành không suy xét kỹ, cũng không hành tận đáy. Đó gọi là Bồ-tát hành mà không hành. Nếu Bồ-tát dùng hành không sinh, không hành, chẳng hành, được ba mươi bảy phẩm, không có chỗ tạo tác, dùng trí tuệ để giải thoát, vónh viễn giải thoát đối với sự giải thoát, không vượt qua hai bên, rõ biết bản tế mà vẫn không giữ sự chứng đắc. Bồ-tát làm như vậy, gọi là Bồ-tát được nhẫn bất khởi. Hành như vậy gọi là hạnh lành. Khi nói lời ấy, có ba vạn bốn ngàn trời, rồng, quỷ thần, Bồ-tát là những người tu hành đều được Nhẫn vô tùng sinh pháp lạc. KINH HOẰNG ĐẠO QUẢNG HIỂN TAM-MUỘI <卷 id="104089306">Quyển 4 <詞 id="104089307">Phẩm 9: PHÁP NHẪN KHÔNG KHỞI Bấy giờ A-nậu-đạt hỏi Nhuyến Thủ: –Làm sao để được pháp Nhẫn không khởi? Nhuyến Thủ đáp: –Nhẫn không sinh nơi sắc, thống (thọ), tưởng, hành, thức. Đó gọi là Bồ-tát được Nhẫn không khởi. Lại nữa, này Long vương! Bồ-tát đã được pháp Nhẫn không khởi, thấy chúng sinh bình đẳng, nên được nhẫn này. Bình đẳng thấy các chúng sinh kia, như nó sinh ra. Bình đẳng thấy chúng sinh, cũng không có sinh. Bình đẳng nhìn thấy chúng sinh như tự nhiên. Bình đẳng nhìn thấy tất cả như tướng của chúng, cũng không cùng chúng mà thấy bình đẳng. Đó gọi là Bồ-tát bình đẳng thấy nhẫn không. –Sao gọi là không? Mắt để biết sắc, tai để biết tiếng, mũi biết hương, miệng biết vị, thân biết cánh (xúc), tâm biết thọ pháp. Nếu như các tình không, thì nhẫn cũng không; nhẫn quá khứ cũng không, nhẫn hiện tại cũng không. Sự nhẫn như không, chúng sinh cũng không. –Sao gọi là không? Vì dục là không; tức giận, ngu si là không. Như chúng sinh không, thì sự điên đảo cũng không; ham muốn nhơ bẩn khởi và diệt cũng đều là không. Làm trí hạnh như vậy, gọi là Bồ-tát hạnh. Nếu ai không khởi pháp Nhẫn, bình đẳng đối với các chúng sinh, là đã hướng đến giải thoát. Vì sao như vậy? Vì Bồ-tát kia nghó rằng: “Nếu nó đã không, cho đến cái dơ của ngã và các chúng sinh là không, là không chỗ có; chế ngự dục như vậy, dục ấy đã giải thoát, ngay căn bản mình không có tất cả chúng sinh.” Nhẫn như vậy, là tự tại đối với dục, là đã thoát khỏi dục, căn vắng lặng không nơi chốn, nó vónh viễn không diệt, không giải thoát, chẳng giải thoát, cũng không chứng đắc, để được giải thoát vậy. Nếu người ấy vónh viễn giải thoát, cho nên đó cũng được tự nhiên trụ xứ. Lại nữa, này Long vương! Nếu có Bồ-tát, thực hành tương ưng nhẫn nhục thì cứu độ tất cả, không thấy khó nhọc. Vì sao? Vì thấy các chúng sinh hoàn toàn, vốn không bị trói buộc, ngay căn bản đã tự giải thoát. Vị ấy lại nghó như vầy: “Các chúng sinh này đều dính mắc vào một dục. Hành giả không chìm đắm nên giải thoát pháp bổn; tất cả chúng sinh dính mắc vào những suy nghó vọng tưởng không thật, Bồ-tát hiểu nó, nên hoàn toàn không dính mắc, nên đã giải thoát pháp bổn.” Lại nữa, này Long vương! Nếu Bồ-tát được pháp Nhẫn không khởi, tuy chưa đạt được chỗ yếu hạnh của Phật; nhưng Bồ-tát ấy không trụ nơi học và vô học của phàm phu, nhập khắp các nơi, tu tập cứu độ không mỏi; không ở chỗ dục mà có hạnh dâm; ở chỗ sân hận lại không sân hận; ở chỗ si mê mà không si mê. Không ở những chỗ ấy, trụ nơi vô dục, lìa bỏ các dục lạc, chế ngự tâm tánh, để dẫn hóa chúng sinh. Nhờ tự mình không có ham muốn nhơ bẩn, không tham đắm vào các việc làm ô uế; nên đối với cõi ma hay cõi Phật, đều có tướng tự nhiên mà không nghi hoặc. Cũng không nhớ nghó chỗ pháp tánh, hiện khắp các cõi chúng sinh, rõ biết các nơi, nơi pháp và nơi phi pháp; hiểu nhập hành xứ, dùng tuệ để quán; đối với chỗ của hành và chỗ của sinh tử, cũng không sinh tử, nhập theo sinh tử; các chỗ sở tại đều tạo gốc đức, giữ sự thanh tịnh, không hề mệt mỏi, hiểu rõ sinh tử, nhưng không sinh tử; không nương vào Hiền thánh, tự tu giải thoát. Bấy giờ A-nậu-đạt bảo Nhuyến Thủ: –Như lời Nhuyến Thủ đã nói: Bồ-tát không dùng tu mà hướng tới giải thoát. Người biết rõ sự học này, đó là Bồ-tát tu để hướng tới giải thoát. –Sao gọi là Bồ-tát tu để hướng tới giải thoát? Nhuyến Thủ đáp: –Nhờ được không thoái chuyển, nên gọi là Bồ-tát tu để hướng tới giải thoát. Lại nữa, này Long vương! Bồ-tát hiểu biết: “Có nhớ nghó là chưa giải thoát; vì tùy theo các nhớ nghó của chúng sinh mà tạo ra sự tinh tấn để chuyển hóa thành không nhớ nghó. Lời nói còn có sự tôi, ta, cũng là chưa giải thoát.” Lại nữa, này Long vương! Bồ-tát ấy đã không tôi, ta, lại hướng đến các loại chúng sinh bị trói buộc, nhằm khởi lòng đại Bi, để độ thoát họ; tức vị ấy đã thấy sự sinh tử, hoàn toàn không có sinh tử. Sinh các chỗ sinh, chính nó không sinh. Chúng sinh không sinh đều thấy như nhau. Vì các chúng sinh chìm đắm và ỷ lại, nên sinh ra có thân, nhưng vónh viễn không có sự sinh ra, cũng không có kết thúc. Đó là Bồ-tát trí tuệ cần tu để hướng tới giải thoát; nắm sự quyền biến, trở lại trụ nơi sinh tử; hiện tại chỗ đã sinh ra là nơi thọ thân; tế độ sự ngu tối, dẫn đường bằng trí tuệ, để được thoát khỏi tội khổ. Bồ-tát nhờ dùng Không, nên phù hợp với sự vắng lặng, để hướng đến giải thoát; dùng quyền xảo mà trở lại sinh tử, vì các chúng sinh, nên hưng phát lòng đại Bi. Bồ-tát nhờ Vô tướng, tu hành hướng đến giải thoát; dùng quyền biến rộng rãi mà tuần hoàn rong chơi trong sinh tử, hướng đến các tùy niệm của chúng sinh, mà khởi lòng đại Bi. Bồ-tát nhờ Vô nguyện, tu hành hướng đến giải thoát, giữ sự quyền biến mà tuần hoàn, trở lại trụ nơi sinh tử, vì sự tùy nguyện của các loại chúng sinh, hướng đến sự phát tâm đại Bi, hóa hạnh Vô nguyện để giải thoát chăng? Này Long vương! Bồ-tát hiểu việc nhập pháp không chỗ có, để không bỏ chúng sinh, nhập nơi vô ngã, nhân và thọ mạng, không làm mất đạo tràng; hiểu việc nhập vô lượng quả, đạt được ba mươi hai tướng của Đại nhân, cuối cùng là hoàn toàn vắng lặng, chẳng có gì mà không vắng lặng; cũng không náo loạn, bình đẳng vượt qua các hành; không có tâm, ý, thức; không trái với bản nguyện, vượt lên Phổ trí tâm, bình đẳng xa lìa các nhớ nghó, tìm đủ cách hiểu các thứ ý hạnh của chúng sinh, đạt được bậc Hiền thánh và chẳng phải Hiền thánh. Siêng năng dùng sự sáng suốt tiến tới lập Thánh pháp chân chánh, không có hạnh dâm dật, lập chí không xả bỏ, với người vắng lặng hay không vắng lặng thảy đều tế độ; không nhớ nghó, chẳng nhớ nghó, với người không ngay thẳng; dùng sự trang sức, nghiêm chỉnh cõi Phật để an lập họ, vượt qua thế tục, hướng đến giải thoát; giải thoát mà không lìa thế tục. Như vậy, này Long vương! Nhờ dùng trí quyền xảo mà có định của Hiền thánh. Đó là Bồ-tát cần tu hành, để hướng đến giải thoát. Này Long vương! Ví như hạnh của Thanh văn, tu hành cần hướng đến giải thoát gọi là Vãng hoàn (qua lại), để thành đạo nghiệp, không thể tiến tới, để phát tâm vô thượng, kiến lập đại Bi, hóa độ chúng sinh. Như thế Bồ-tát cũng phải tu hành giải thoát không còn lay động, thành không thoái chuyển, vậy có Vãng hoàn chăng? Này Long vương! Tu hành cần hướng tới giải thoát, không còn nghi ngờ, sẽ được qủa chí đạo. Lại như Bồ-tát, tu hành cần hướng đến giải thoát, hoàn toàn không quên qủa vị của Thanh văn, để thọ đạo Bồ-tát, vì Thanh văn này, tu hành cần hướng đến giải thoát là có giới hạn. Như vị Bồ-tát thì hoàn toàn không có giới hạn. Này Long vương! Ví như có hai người dân thường, ở trên đỉnh núi cao, muốn tự nhảy xuống. Trong đó, một người, thì sức khỏe hùng dũng, quyền xảo, sách lược thông thạo, luyện tập cơ nghi từ trước, hiểu rõ các sự biến hóa, không việc gì mà không thông suốt. Từ trên đỉnh núi mà tự nhảy xuống, cũng như bỗng nhiên lại qua đứng ở đỉnh núi khác. Nhờ có thế lực dũng mãnh, tráng kiện, nên thân người ấy, bay cao, hết sức nhanh nhẹn, nhẹ nhàng; kết quả do sức mạnh mà được, khiến cho người ấy không rớt, cũng không đứng nguyên chỗ. Còn người thứ hai, vì ý chí khiếp nhược, cũng không có quyền mưu, ở trên đỉnh núi, tự mình không thể nào nhảy xuống được. Như vậy, này Long vương! Vị Bồ-tát ấy, đối với Không, Vô tướng, Vô nguyện, quán thấy các pháp, không sinh các ý nghó. Quán như vậy xong, lại có thể dùng năng lực của trí tuệ quyền xảo, vì các chúng sinh, trụ Phổ trí tâm. Người trên đỉnh núi cao đó, gọi là người có vô số trí tuệ rộng lớn, hiện rõ sức lớn mạnh, lấy đó dụ cho Bồ-tát thực hành trí tuệ quyền xảo vậy. Vị Bồ-tát tu hành trí tuệ quyền xảo, không có nơi sinh tử, không trụ vô vi. Đó là Bồ-tát mặc áo giáp Phổ trí, nhập vào sinh tử để cứu độ chúng sinh, khiến họ phát hạnh Đại thừa của Bồ-tát. Còn người yếu kém, đứng trên đỉnh núi kia, không thể nhảy xuống, ví như hàng Thanh văn, vì không vào sinh tử, nên vô ích đối với chúng sinh. Như vậy, này Long vương! Nếu có Bồ-tát, nghe phẩm yếu hạnh tuệ giải thoát này, thì tâm họ đối với Đức Thế Tôn sẽ được vững chắc; đối với đạo ý Vô thượng Chánh chân, mau chứng quả Phật cứu giúp ba cõi. Khi Đức Phật nói pháp này rồi, các Bồ-tát ở trong hội, gồm bảy ngàn người, đạt được không thoái chuyển.  <詞 id="104089308">Phẩm 10: CÁC PHÁP YẾU Khi ấy, Thái tử của Long vương A-nậu-đạt, tên là Cảm Động, đến trước Đức Phật: –Bạch Thế Tôn! Nay con dùng tâm vô tham, tự quy Tam Tôn, con muốn khiến cho kinh này được tồn tại lâu dài ở đời, để hộ trì chánh pháp. Thưa Thế Tôn! Chí con phát đạo ý Vô thượng Chánh chân, nguyện tạo hạnh này là muốn được thành tựu, được rõ bản tâm, sáng tỏ gốc đạo và các gốc pháp. Nhờ đó, được thành Chánh giác tối cao của phật, rồi con sẽ tuyên giảng đạo rộng rãi để hóa độ chúng sinh. Lại nữa, thưa Thế Tôn! Nếu các Bồ-tát nghe phẩm pháp Đại Đạo Thanh Tịnh này mà không tinh thích, không phụng hành; thì nên biết, các Bồ-tát ấy đã bị ma sai khiến, họ cũng không mau gần được hạnh Phổ trí tâm. Vì sao? Vì từ phẩm pháp yếu nghóa nầy của Thế Tôn, sinh ra Bồ-tát. Nhờ đó, được thành Phật và hàng phục ma, ngoại đạo. Các Đức Phật ở quá khứ, vị lai và hiện tại, đều do pháp này mà thành Chánh giác. Bấy giờ, Hiền giả Tu-bồ-đề bảo thái tử Cảm Động: –Đúng như vậy! Hiền giả hiểu rõ gốc tâm, sáng tỏ tận gốc đạo và cả các gốc pháp. Nếu để thành người giác ngộ các pháp, vậy phải dùng gốc tâm gì, để được biết rõ? Đáp: –Gốc ấy, thưa Tu-bồ-đề! Là các gốc lấy tâm làm gốc. Tu-bồ-đề hỏi: –Tâm là gốc của cái gì? Đáp: –Tâm là gốc của dâm, nộ, si. Tu-bồ-đề hỏi: –Dâm, nộ, si là gốc của cái gì? Đáp: –Lấy nhớ nghó và không nhớ nghó làm gốc. Tu-bồ-đề hỏi: –Này Hiền giả! Thế thì gốc của dâm, nộ, si là từ không nhớ nghó khởi sinh sao? –Thưa Tu-bồ-đề! Gốc của dâm, nộ, si; không từ nhớ nghó, chẳng từ nhớ nghó, nó cũng không sinh. Lại nữa, cái gốc ấy lấy không khởi làm gốc. Thưa Tu-bồ-đề! Điều có thể nói, đó là gốc của tâm gì? Vì gốc của tâm, nó vốn thanh tịnh, gọi đó là gốc tâm. Như nó vốn thanh tịnh, nó sẽ không có dâm dục, nhuế nộ và si cấu? Đáp: –Này Tộc tánh tử! Dục sinh khởi, cái sinh ấy từ đâu sinh, mà luôn sinh mãi, không gián đoạn sao? –Thưa Tu-bồ-đề! Cái dục sẽ sinh, nên đã được sinh, sinh mãi, đối với bản tâm, không có dính vào sinh. Thưa Tu-bồ-đề, nếu tâm gốc ấy, có sự dính vào thì hoàn toàn không đạt đến sự thanh tịnh. Cho nên gốc của tâm hoàn toàn không có sự dính mắc. Do đó biết rằng dục cũng là trong sạch. Tu-bồ-đề nói: –Này Tộc tánh tử! Làm sao để biết rõ dục? –Do sự khởi sinh của nhân duyên. Nếu không có nhân duyên thì không có sinh khởi. Thưa Tu-bồ-đề! Người tu về nhớ nghó trong sạch, biết rõ dục không có. Tu-bồ-đề hỏi: –Lại nữa, này Tộc tánh tử! Vì sao Bồ-tát phải tu về nhớ nghó trong sạch? –Thưa Tu-bồ-đề! Bồ-tát đối với hành mà tu các hạnh. Đó là Bồ-tát tu tịnh hạnh vậy. Thưa Tu-bồ-đề! Nếu có Bồ-tát hoàn toàn vì chúng sinh, mặc áo giáp đại đức, hóa độ đến Niết-bàn. Đó là Bồ-tát tu hạnh nhớ nghó trong sạch. Thưa Tu-bồ-đề! Bồ-tát ấy vì các Thanh văn và Duyên Nhất giác, tùy thuận mà thuyết pháp, nhưng không cho đó là sự hóa độ. Đó là Bồ-tát tu hạnh nhớ nghó trong sạch. Thưa Tu-bồ-đề! Lại nữa, Bồ-tát ấy tự mình vắng bặc các dục, làm cho dục của chúng sinh được thanh tịnh. Đó gọi là Bồ-tát tu hạnh trong sạch. Lại nữa, thưa Tôn giả Tu-bồ-đề! Bồ-tát ấy ngay tại nơi nhớ nghó trong sạch mà thấy không tu. Lại đối với bất tịnh mà thấy tu tịnh. Đó gọi là Bồ-tát tu hạnh trong sạch. Bấy giờ, Tôn giả Tu-bồ-đề nói với thái tử của Long vương Cảm Động: Lại nữa, này Tộc tánh tử! Thế nào là Bồ-tát đối với tịnh mà thấy không tu? Với người không tu mà thấy tu nhớ nghó trong sạch? Đáp: –Thưa Tôn giả Tu-bồ-đề! Người tu nhớ nghó trong sạch, là tu con mắt đối với sắc, lỗ tai với tiếng, mũi với hương, lưỡi với vị. Thân đối với cánh (xúc) tâm đối với pháp kiến sở thọ, thảy đều không tu, pháp tánh không hai đó là tu, không đắm trước ba cõi, gọi là Bồ-tát trụ. Trụ nơi phương tiện khéo léo, gọi đó là tu nhớ nghó. Thưa Tôn giả Tu-bồ-đề! Bồ-tát thực hành hạnh này gọi là tu hạnh nhớ nghó trong sạch. Bấy giờ, Đức Thế Tôn khen ngợi Thái tử: –Lành thay! Lành thay! Như lời Chánh só Cảm Động đã nói, tu sự trong sạch là như vậy. Đã là Bồ-tát thì cần phải tu hạnh trong sạch. Nay như lời thái tử đã nói, đều là nhờ oai thần của Phật. Nếu có Bồ-tát tu hành như vậy, mới là chấn hưng hạnh của Đại thừa. Nên biết, những vị ấy có trí rộng khắp vững chắc. Khi ấy, thái tử Cảm Động, bạch Đức Phật: –Bạch Thế Tôn! Thế nào là Bồ-tát được tâm vô dục, cần phải tự quy Phật? Đức Phật bảo: –Này Tộc tánh tử! Nếu có Bồ-tát, biết rõ các pháp là không ngã, không nhân, không thọ mạng, không sắc, không tưởng, cũng không pháp tướng, không ở trong pháp tánh mà thấy Như Lai. Bồ-tát như vậy là tương ương với vô dục, tự quy mạng Phật. Như pháp của Như Lai, ấy là pháp tánh, như pháp tánh ấy, là sự phổ biến cùng khắp. Nếu đạt được pháp của pháp tánh ấy, thì biết các pháp. Đó gọi là Bồ-tát, dùng tâm vô dục, tương ưng với tự quy Pháp. Cái pháp tánh ấy, nó là vô số tập; cái vô số tập ấy, chính là Thanh văn. Lại như Bồ-tát, đều thấy vô số, ở nơi vô số, mà không có vô số, nó cũng là không hai. Đó gọi là Bồ-tát, dùng tâm vô dục tương ưng với tự quy Chúng. Khi Đức Phật nói lời ấy, thái tử Cảm Động đạt được Nhẫn nhu thuận. Những người đến dự hội; các trời ở cõi Sắc, cõi Dục, các loài Rồng, Người, nghe phẩm pháp này là hai vạn chúng, thảy đều phát đạo ý Vô thượng Chánh chân.  <詞 id="104089309">Phẩm 11: THỌ PHONG BÁI Bấy giờ, Long vương A-nậu-đạt cùng với phu nhân, thái tử và quyến thuộc trong cung, cùng vây quanh, mỗi người đều tự quay về với Tam tôn; họ dùng tất cả nhà cửa, cung điện và cả những vật có được ở trong ao của mình, đem cúng dường Đức Thế Tôn và Tỳ-kheo Tăng, để làm tinh xá, rồi họ lại nói: –Nay con đứng trước Đức Thế Tôn, xin phát khởi nguyện này: Từ ao lớn này chảy ra bốn sông, đầy khắp bốn biển. Thưa Thế Tôn! Từ dòng nước của bốn biển, nếu có rồng, quỷ, người, chim bay, thú chạy, loài hai chân, bốn chân đã có sinh mạng, khi uống nước này; xin nguyện cho tất cả đều phát đạo ý Vô thượng Chánh chân. Nếu ai, trước đây chưa phát tâm, thì khi uống nước này rồi, khiến mau thành tựu hạnh, mau ngồi tòa Phật, hàng phục ma chúng và các ngoại đạo. Khi ấy, Đức Thế Tôn mỉm cười. Pháp của chư Phật, khi mỉm cười, thì từ miệng phóng ra ánh sáng năm màu, xán lạn, chói lọi với vô số ánh sáng, chiếu khắp mười phương, khắp vô số cõi Phật. Ánh sáng ấy, sáng hơn cả mặt trời, mặt trăng, ngọc báu; sáng cả núi Tu-di, cả các trời, các cung ma và cung điện của Thích, Phạm; tất cả ánh sáng của trời đều bị mờ, không sáng kịp. Bấy giờ vô số ức ngàn chúng trời không ai mà không vui mừng, phát nguyện được Thánh giác. Ánh sáng ấy chiếu tới A-tỳ, tới các địa ngục lớn. Ai thấy được ánh sáng ấy, liền thoát khỏi các khổ, đều được đạo ý Vô thượng Chánh chân. Ánh sáng ấy trở lại, vây quanh Đức Thế Tôn, đến vô số lần, rồi nhập vào đỉnh của Thế Tôn. Bấy giờ, Hiền giả Phi Kỳ (đời Tấn gọi là Biện Kỳ) thấy ánh sáng ấy, liền từ tòa đứng dậy, sửa lại y phục, vạch vai áo bên phải, hướng về Đức Phật, quỳ gối, cung kính, khen tụng Đức Thế Tôn bằng bài kệ: Sắc Phật vô lượng, thấy liền vui Người hùng tối cao, là Thế Tôn Diệt trừ tăm tối, khởi đại minh Nắm giữ oai thần, ý nói cười? Trăm phước ca ngợi, đầy bảy báu Được trí quang minh, diễn tuệ hành Pháp giảng cao tột, chỉ pháp vương Nay Thế Tôn cười, điềm lành gì? Thấy rõ, chân thật, luôn ưa tin Căn định, vắng lặng, người cung kính Hóa độ tất cả, nhờ tịch nhiên Đức Phật vô cùng, vì sao cười? Tiếng Phạm trong suốt, rất êm dịu Âm diệu tao nhã hơn các nhạc Âm thanh đầy đủ, không khuyết giảm Giải thích vì sao Phật mỉm cười? Biết minh giải thoát, nên tuệ độ Thường hành trong sạch, ưa đạm bạc Khéo hiểu các hành, đủ Phổ trí Đạo vương Hiền thánh, nói nghóa cười? Trí hiện thông đạt, tuệ vô cùng Sức đang vô lượng, thần túc đủ Mười lực đã đầy, cảm động khắp Vì sao Thiên sư hiện mỉm cười? Thân sáng vô số, chiếu nơi tốt Ngàn ánh sáng lớn, không thể che Hơn cả trời, trăng và ngọc sáng Hào quang oai Thánh, không ai bằng Đầy đủ công đức như biển cả Thuận hóa Bồ-tát, dùng trí sáng Trí tuệ vô cùng, giải các nghi Xin nói vì sao Phật mỉm cười? Phật độ ba cõi, không cùng tận Khéo dẫn chúng sinh trừ các dơ Làm sạch dục bẩn, thành vô dục Thiên nhan mỉm cười là vì ai? Như Lai làm cho người cảm động Chấn động Trời, Rồng, các Quỷ thần Cúi đầu đảnh lễ Đấng Pháp vương Mong nói ý cười, giải các nghi! Bấy giờ, Đức Phật bảo Hiền giả Biện Từ là bậc cao niên: –Ông có thấy A-nậu-đạt, vì cúng dường Đức Như Lai, nên tạo ra sự nghiêm sức này chăng? Đáp: –Bạch Thế Tôn! Con đã thấy. Lại nói: –Vị Long vương này đối với chín mươi sáu ức các Đức Phật đã gieo trồng gốc đức, nên nay được thọ phong bái. Như đời trước của Ta, được Đức Thế Tôn Định Quang thọ ký: “Đời đương lai, ông sẽ được thành Phật, hiệu là Như Lai Năng Nhân, là Bậc Vô Trước, Bình Đẳng, Chánh Giác, thông hạnh đầy đủ, là chúng thần tối cao, vô thượng pháp ngự, là Thiên nhân sư, hiệu là Phật, Thế Tôn.” Bấy giờ, Long vương là người con của trưởng giả Tỷ-thủ-đà-lai (đời Tấn gọi là Tịnh Ý), nghe ta được thọ ký, nên liền phát nguyện: “Hãy khiến cho con đời sau cũng được thọ ký như vị Phạm chí này và đã được Phật Định Quang thọ ký.” Con của Trưởng giả Tịnh Ý lúc đó, chính là A-nậu-đạt vậy. Lại nữa, vị Long vương này vào thời hiền kiếp, ở trong ao này, trang nghiêm các thứ châu báu tốt đẹp, giống như các cung điện cõi trời, rồi đem dâng cúng ngàn Đức Phật ở thời hiền kiếp. Các Đức Như Lai ấy đều biết ý của Long vương, các Ngài đều nói phẩm Pháp thanh tịnh này. Mọi người đều ngồi nơi đây, cũng như bây giờ vậy. Lại giống như trước, Phật Câu-lâu-tần, Văn-ni Ca-diếp, đồng ngồi ở tòa Sư tử này và sau cùng là Đức Như Lai Lâu-chí, cũng sẽ chuyển nói yếu nghóa của phẩm pháp này. Long vương Vô Nhiệt sẽ cúng dường một ngàn Đức Phật ở thời hiền kiếp để được theo nghe pháp này. Chúng hội của chư Phật cũng giống như bây giờ. Long vương A-nậu-đạt, về sau vô số đời hầu hạ các Đức Như Lai, cung kính các vị Chánh giác, tu hành phạm hạnh, thường hộ chánh pháp, khuyến tấn các Bồ-tát. Sau đó, bảy trăm vô số kiếp sẽ được thành Phật, hiệu là Như Lai A-nậu-đạt, Bậc Vô Trước, Bình Đẳng, Chánh Giác, Thông hạnh đầy đủ, Vô thượng pháp ngự, Thiên Nhân Sư, là Phật, Thế Tôn. Như vậy, này Hiền giả! Khi Như Lai Vô Nhiệt được thành Phật, nhân dân ở đó đều không tham dâm, không giận dữ, không ngu si; hoàn toàn không xâm hại nhau, không nói xấu nhau. Vì sao? Vì các chúng sinh ấy, chí hạnh đã đầy đủ. Như vậy, này Hiền giả! Phật A-nậu-đạt, Bậc Như Lai Chí Chân sẽ thọ tám mươi ức năm. Chúng đệ tử của Ngài cũng thọ tám mươi ức năm. Hội đầu tiên của Phật đều là thanh tịnh. Từ đầu đến cuối giống nhau, không bị khuyết giảm. Có tới trăm ngàn hội như vậy, sẽ có Bồ-tát Thông Biện Thọ Quyết, bốn mươi ức người thảy đều tập hội. Lại nữa, các Bồ-tát hành giả phát tâm, không thể tính được. Khi Như Lai Vô Nhiệt sắp thành Phật, cõi nước đó trong sạch, đất đai toàn màu xanh sậm của lưu ly vàng cõi trời xen kẽ với các báu dùng để trang sức, dùng các minh châu để làm lầu gác và chỗ kinh hành. Chúng sinh cõi đó, nếu nghó đến ăn, liền có món ăn trăm vị; họ đều đạt được năm thông. Nhân dân sống ở cõi ấy, dùng những châu báu kỳ lạ; y phục, ẩm thực, tự do vui thích, tất cả giống như trên cõi trời Đâu-thuật thứ tư. Họ không có hai niệm, lại không có tâm tham dục, không hạnh dâm. Các chúng sinh này tự tìm thú vui nơi pháp lạc. Nhân dân và cõi nước hoàn toàn không có những ham muốn xấu xa. Nếu Đức Như Lai ấy mở trận mưa pháp, thì hoàn toàn không có ý gì phải lo lắng, sẽ có vô số oai thần biến hóa để giúp diễn thuyết, hóa độ rộng lớn; trình bày kinh pháp, hoàn toàn không chút khó khăn. Phật vừa mới thuyết pháp thì chúng sinh liền được độ thoát. –Vì sao? Vì tất cả chúng sinh ấy, tâm chí đều đã được thuần thục. Lại nữa, Đức Như Lai ấy, tự mình đối với tam thiên đại thiên thế giới, chỉ dùng một pháp để giáo hóa, ngoài ra không có đạo nào khác. Lại nữa, nếu khi Đức Như Lai muốn mở hội chúng, Ngài liền dùng thân phóng hào quang, làm cả cõi đều rực sáng. Nhân dân cõi đó vừa thấy liền có ý nghó: “Đức Thế Tôn Thánh Giác sắp diễn pháp để giáo hóa, cho nên mới phóng hào quang như vậy.” Và họ sẽ nương theo thần túc của Phật thánh, bay đến chỗ Phật, để nghe pháp. Lại nữa, Đức Như Lai ấy hoàn toàn không có sự bất định, nương theo thần lực của Đại thánh, bỗng bay lên không trung, cách mặt đất bảy trượng, tự nhiên ngồi trên tòa Sư tử, rộng vì chúng hội diễn giảng pháp mầu; mọi người đều thấy Phật, ví như khi xem thấy cung điện, mặt trời, mặt trăng ánh sáng lan khắp vậy. Chúng sinh nhờ trồng đức, cho nên được sinh đến cõi này. Nhân dân nước ấy trông thấy tòa Sư tử của Đức Thế Tôn lơ lững trong hư không mà không có chỗ dính mắc, liền hiểu các pháp cũng không, không dính mắc. Ngay lúc đó tất cả đều đạt được pháp Nhẫn. Đức Như Lai ấy, chỉ nói pháp môn nhập vào Kim cang định; vì không có lời lẽ tạp nhạp của Thanh văn, Duyên giác, cho nên Ngài chỉ diễn Kim cang định. Ví như kim cương có thể chạm bất cứ nơi nào, không vật gì mà không bị nó hàng phục. Những điều thuyết pháp của Đức Như Lai ấy, cũng như kim cương nó đập nát các nghi ngờ do đắm chìm nơi các kiến. Như vậy, này Hiền giả! Đức Phật A-nậu-đạt nếu muốn hiện Niết-bàn; thế giới ấy sẽ có Bồ-tát đáng kính, tên là Trì Nguyện, được Ngài thọ ký, sau đó, Ngài mới nhập Niết-bàn. Khi Đức Phật vừa mới nhập Niết-bàn, Bồ-tát Trì Nguyện liền được quả Tối chánh giác Vô thượng, làm Phật bổ xứ, hiệu là Như Lai Đẳng Thế, là Bậc Vô Trước, Bình Đẳng, Chánh Giác, cõi Phật có Bồ-tát thần thông và chúng đệ tử cao tột, chúng hội nhiều hay ít, giống như Phật A-nậu-đạt. Bấy giờ, thái tử của Long vương A-nậu-đạt, tên là Đương Tín, với tâm cung kính, mừng vui, dùng ngọc báu minh châu, đan kết thành lọng báu, dâng lên Đức Như Lai, rồi lại chắp tay bạch Đức Phật: –Lúc đó ai là Bồ-tát Trì Nguyện? Bấy giờ, Đức Thế Tôn biết được ý của thái tử Đương Tín, con của Long vương liền bảo Tôn giả A-nan: –Bồ-tát Đại só Trì Nguyện lúc ấy sẽ là Phật Bổ Xứ, nay chính là Đương Tín, con của Long vương vậy. Đức Như Lai A-nậu-đạt vừa mới diệt độ, Bồ-tát Trì Nguyện liền thay ngôi Phật. Lại nữa, Đức Như Lai Đẳng Thế, Bậc Vô Trước, Bình Đẳng, Chánh Giác vừa mới thành Phật cũng liền chuyển nói điểm chánh yếu của phẩm pháp này. Ngay khi Đức Phật nói phẩm Phong Bái (thọ ký) này, có bốn vạn Bồ-tát đạt được Nhẫn không từ đâu sinh. Các Bồ-tát, Thích, Phạm, giữ đời, trời, rồng, quỷ thần, từ mười phương thế giới đến dự hội, khi nghe Đức Phật nói pháp Phong bái này rồi, thảy đều hoan hỷ, trong lòng hớn hở, liền sinh tâm tin thích, năm vóc cúi lạy Đức Phật, rồi trở về cung điện của mình, Long vương A-nậu-đạt cùng với các thái tử quyến thuộc vây quanh, ra lệnh cho Long tượng vương Y-la-man: –Hãy vì Đức Như Lai, tạo ra giao lộ, xe báu đẹp lạ, làm cho rộng lớn, hết sức đẹp đẽ, để đem dâng lên Đức Chánh Giác Chí Chân. Long tượng vương liền vâng lệnh, liền vì Đức Như Lai hóa làm xe giao lộ bằng ngọc bảy báu, rất cao rộng, trang nghiêm. Đức Thế Tôn, Bồ-tát và các đệ tử đều ngồi lên xe. Long vương Vô Nhiệt, thái tử và quyến thuộc, trong lòng cung kính, cùng nhau đưa tay, đẩy xe từ trong cung điện ra khỏi ao lớn. Đức Như Lai dùng thần chỉ, bay nhanh lên núi Thứu.  <詞 id="104089310">Phẩm 12: CHÚC LỤY PHÁP TẠNG Bấy giờ, Đức Như Lai về đến núi Thứu rồi, liền bảo Bồ-tát Từ Thị, Đồng tử Nhuyến Thủ và chúng Bồ-tát: –Này các Tộc tánh tử! Nên đem đạo phẩm thưa hỏi của A-nậu-đạt này, kính trọng trình bày rộng rãi, khiến cho người chưa nghe thì được nghe. Bồ-tát Từ Thị và Nhuyến Thủ cùng bạch Đức Phật: –Cúi mong Đức Như Lai rủ lòng Từ bi nói cho. Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền phóng ra hào quang, sắc của hào quang vô số màu, trời đất chấn động sáu cách. Hào quang chói sáng khắp cả mười phương. Các vị Bồ-tát đáng kính, đầy đủ thần thông ở mười phương cõi Phật liền tìm ánh sáng bay đến. Họ đều cúi lạy Đức Phật, rồi ngồi vào tòa. Vua A-xà-thế, phu nhân, thể nữ, thái tử và quyến thuộc, cùng thần dân, trưởng giả, cư só, Phạm chí, học giả cả nước, thấy ánh sáng này, lại nghe Đức Như Lai vừa từ ao Vô nhiệt trở về, họ đều bỏ công việc đang làm để đến núi Thứu. Họ đến trước Đức Thế Tôn, nghiêm túc cung kính, chắp tay, đảnh lễ, thăm hỏi Đức Như Lai sức khỏe có dồi dào chăng? Hỏi rồi liền thoái lui, ngồi nhìn Đức Phật mà không thấy chán. Ánh sáng từ thân của Đức Như Lai, chiếu sáng khắp vô cùng thế giới, các cõi trời, các địa ngục, chúng sinh nơi tăm tối, không đâu mà không có ánh sáng chiếu đến, tại các địa ngục đều rực ánh sáng. Hào quang ấy lại phát ra tiếng nói: –Đức Như Lai Năng Nhân, ở tại ao Vô nhiệt, rộng nói yếu pháp Đạo phẩm thanh tịnh. Nay Thế Tôn trở về Thứu sơn, lại tiếp tục trình bày, diễn nói để giáo hóa. Tiếng nói ấy, thấu đến các địa ngục. Các loại chúng sinh, ở địa ngục trong mười phương, đã bị thống khổ, tức thì được thoát khổ. Họ từ xa đều thấy Đức Phật và các chúng hội, nên tự xót thương, than thở: –Than ôi! Đức Thế Tôn! Chúng con thọ nhận sự đau khổ này, bị sự chua xót trong vô số địa ngục, lửa bốc cháy sáu bề, thiêu đốt khổ hại, dao nhọn cắt thân thành vạn mảnh, bị nạn nước đồng sôi, đủ các thứ biến hóa, các khổ thay nhau bức bách, chẳng thấy mặt trời, mặt trăng đâu cả. Lành thay! Bạch Thế Tôn! Được kính thờ Đức Như Lai, được nhờ đạo hóa của Phật, nên được thoát ba khổ. Chúng con đời trước, tuy gặp chư Phật, không thọ pháp hóa, nên mới bị các khổ này. Mong nhờ Đức Như Lai, đã thuyết pháp phẩm, khiến cho các tội lớn của chúng con trở thành nhẹ nhàng. Ngay khi ấy, tất cả chúng sinh, ở địa ngục trong mười phương, có đến một vạn ức ngàn người, đều phát đạo ý Vô thượng Chánh chân. Từ xa, vâng theo lời Phật Thánh, cùng nhau nói: –Tất cả nỗi khổ đau vốn là trong sạch. Ai hiểu nguồn gốc thì không điên đảo. Chúng con chỉ ngồi, mà không hiểu rõ, cho nên mới chịu vô số các khổ, trong các địa ngục. Mong Thế Tôn khiến cho tất cả chúng sinh, mau hiểu được chánh chân. Bấy giờ, Đức Phật bảo Bồ-tát Từ Thị, Đồng tử Nhuyến Thủ và Tôn giả A-nan: –Này các Tộc tánh tử! Nên siêng năng thọ trì những điều căn bản đã nói của kinh này, gìn giữ, đọc tụng, lưu truyền rộng rãi. Vì người học hỏi mà diễn nói pháp này; bảo cho bốn chúng càng để tâm tu tập. Đây là hạnh quan trọng của tuệ, là sự tích chứa bàn bạc của câu nghóa. Nếu tộc tánh nam và tộc tánh nữ, phát tâm vui vẻ, ưa thích kinh này, nên vì họ mà giải thích sự thâm sâu mầu nhiệm, tàng chứa các nghóa sâu kín của nó. Đây là ngôi nhà đầu tiên của đạo, là chỗ quay về của các kinh, là sự tích chứa quan trọng của chư Phật, nó vi diệu vô lượng. Nếu khi truyền trao kinh này, hãy làm cho câu, chữ rõ ràng, rành mạch không thêm bớt. Lại nữa, cũng tùy theo tộc tánh! Hoặc là hiền nam hay nữ, nếu ở thời quá khứ, với hằng sa chư Phật, đã làm công đức, thực hành đủ các thứ bố thí, thọ trì tụng những điều Phật đã thuyết pháp, nhất nhất phải chuyên tập, luôn luôn, siêng năng phụng hành. Hoặc lại có người Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định và Trí tuệ; thực hành sáu pháp Ba-la-mật này, trải qua ức trăm ngàn kiếp, hầu hạ chư Phật và các đệ tử của các Ngài bằng quần áo, đồ ăn uống, giường nằm, thuốc men, hương hoa, các loại âm nhạc, dâng cúng các nhu cầu. Lại tạo tinh xá, chỗ kinh hành. Hầu hạ cung kính như vậy mà không hề tính toán, cho đến lúc các Đức Thế Tôn đã vui Niết-bàn. Rồi vì các Đức Như Lai, lại dựng tháp bảy báu, cúng dường tháp của các Đức Như Lai bằng hương hoa, các loại âm nhạc, dải lụa màu, cờ phướn, lọng, lại thêm đốt hương, thắp đèn; lại treo các ngọc báu dạ quang, minh nguyệt…. Cúng dường như vậy, nhiều vô số kể. Người đã làm, nếu tập hội các đức hạnh như đã kể, cũng hoàn toàn không bằng tộc tánh nam hay nữ, đã được một lần nghe Long vương A-nậu-đạt, hỏi về ý nghóa phẩm pháp, để giải quyết các hồ nghi. Vì sao? Vì pháp tạng này, sinh ra trí tuệ cùng tột, là yếu hạnh quan trọng của chư Phật và Bồ-tát. Huống chi, vị ấy lại phụng thờ, gìn giữ, tụng và đọc. Nhờ không có tâm hồ nghi nên hiểu rõ sự thâm diệu. Lại đem điều nghe được trình bày lưu truyền, các công đức của người ấy, không thể so lường được. Bấy giờ Bồ-tát Từ Thị, Đồng tử Nhuyến Thủ và Hiền giả A-nan đều bạch Đức Phật: –Thật là chưa từng có! Đúng vậy, thưa Thế Tôn! Nếu Đức Như Lai đem lòng lành đến cho tất cả, làm họ phát khởi lòng thương rộng lớn; và vì quá khứ, vị lai, hiện tại của các Bồ-tát, các hành giả, trời, rồng, quỷ thần, các chúng sinh trong mười phương mà rộng nói ý nghóa về đạo phẩm vô cùng thanh tịnh của pháp này. Lại nữa, bạch Thế Tôn! Nếu tộc tánh nam và tộc tánh nữ, được nghe kinh về Long vương A-nậu-đạt thưa hỏi để giả quyết hồ nghi này mà không liền thọ trì, luyện tập, đọc tụng, không tuyên bố rộng rãi cho các người tập học, cũng không khởi tâm khuyến trợ họ thì nên biết tộc tánh nam và tộc tánh nữ ấy đã bị chúng ma, quyến thuộc của ma và tà vạy ngoại đạo sai khiến sẽ luôn ở trong lưới hồ nghi trói buộc. Bấy giờ, Đức Phật khen ngợi: –Vui thay lời nói ấy! Các ông hãy khuyến dụ, khích lệ tất cả, khiến cho họ tập pháp này, làm cho họ thực hành đúng như vậy. Đức Như Lai lại nói: –Nên lấy kinh này luôn vì bốn chúng mà tuyên bố rộng rãi. Bấy giờ, Bồ-tát Từ Thị, Đồng tử Nhuyến Thủ, Hiền giả A-nan, bạch Đức Phật: –Thưa vâng! Bạch Thế Tôn! Chúng con sẽ thọ trì, trình bày, lưu truyền và diễn giảng pháp này. Lại nữa, bạch Thế Tôn! Kinh này tên gọi là gì? Làm sao để phụng hành? Đức Thế Tôn dạy rằng: –Này các Tộc tánh! Kinh này, tên gọi là Long vương A-nậu-đạt, thưa hỏi để giải quyết các hồ nghi, phẩm pháp thanh tịnh. Cũng có tên Hoằng Đạo Quảng Hiển Định Ý. Phải siêng năng thọ trì nghóa quan trọng của kinh này. Lại nữa, này các Tộc tánh tử! Đạo phẩm này là ngọc báu vì nó bảo về gìn giữ biển sâu thẩm của các pháp. Bồ-tát Từ Thị, Đồng tử Nhuyến Thủ và các Bồ-tát thần thông đã đến dự hội; các Thích, Phạm giữ đời, trời, rồng, quỷ, thần, cùng cất tiếng bạch Đức Phật: –Thật hay! Thưa Như Lai! Chúng con rất thích nói pháp này. Bạch Thế Tôn! Chúng con sẽ ở tại xóm làng, cõi nước, huyện ấp; để có người thực hành pháp này, chúng con sẽ cùng nhau suốt đời bảo vệ và giữ gìn họ. Nếu có ai nghe pháp này, chúng con sẽ làm cho họ không bị tà vạy sai khiến. Chúng con cũng sẽ nhận giữ gìn kinh này, khiến cho kinh được lưu truyền rộng rãi, thường không gián đoạn. Đức Phật khen ngợi Bồ-tát Từ Thị, Đồng tử Nhuyến Thủ và các Bồ-tát: –Lành thay! Này các Tộc tánh tử! Các ông đã nói, là sẽ khuyến khích và hỗ trợ các Bồ-tát hữu học ở thời vị lai, thật hết sức tốt đẹp. Đức Phật nói như vậy xong, mười phương các Bồ-tát thần thông đến dự hội, có tới bảy vạn hai ngàn người đều mau được Hiển định; năm vạn bốn ngàn trời, rồng, quỷ và người đều phát đạo ý Chánh chân Vô thượng; năm ngàn trời, người được sinh Pháp nhãn. Long vương A-nậu-đạt, Bồ-tát Từ Thị, Đồng tử Nhuyến Thủ, tất cả Bồ-tát, Hiền giả A-nan, bốn chúng đến dự hội và các trời, rồng, các loại quỷ thần, người và chẳng phải người, nghe Đức Phật thuyết như vậy, ai cũng vui mừng, cúi lạy dưới chân Đức Phật, rồi ra về. <卷 id="104089311">