<經 id="n549">KINH NHÂN DUYÊN QUANG MINH ĐỒNG TỬ Hán dịch: Đời Triệu Tống, Đại sư Thi Hộ. <卷 id="117591694">Quyển 1 Tôi nghe như vầy: Một thời, Đức Phật ở tại tinh xá Trúc lâm Ca-lan-đà, thuộc thành Vương xá. Trong thành ấy, có một trưởng giả tên Thiện Hiền, có nhiều của cải, tài sản quý báu, nhiều quyền lực. Trưởng giả này lại rất kính tin các ngoại đạo Ni-kiền-đà. Ông có người vợ đang mang thai. Vào một sáng, Đức Thế Tôn mặc ca-sa, mang bình bát vào thành Vương xá, lần lượt đi khất thực, do nhân duyên đã có, nên dần dần đến nhà của Trưởng giả Thiện Hiền. Trưởng giả thấy Thế Tôn đến gần nhà mình, liền nói với vợ: –Chúng ta nên tới chỗ Đức Thế Tôn. Nói xong, cùng vợ đến trước Đức Phật. Đến rồi, bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Con tên Thiện Hiền. Còn đây là vợ con. Vợ con mang thai, sắp đến ngày sinh. Người con sinh ra sẽ là nam hay nữ? Phật bảo: –Này Trưởng giả! Trong thai vợ ông chắc chắn là con trai. Sau khi sinh rồi, gia đình được giàu có thịnh vượng, an lành vào bậc nhất. Ở trong loài người được thọ hưởng phước trời. Sau đó, xuất gia học đạo trong pháp của ta, dứt các phiền não, chứng A-la-hán. Bấy giờ, Trưởng giả mới đặt vào trong bình bát đầy những thức ăn ngon, sạch, dâng lên Đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn nhận, rồi nói: –Nguyện cho người ban cho thức ăn này được nhiều điều thiện và an lạc. Nói xong, Đức Thế Tôn mang thức ăn ấy trở về chỗ ở. Phật đi chưa lâu, có một ngoại đạo, trước đây được Thiện Hiền tin kính. Ông ta thấy Thế Tôn, bèn nghó: “Có phải hôm nay Sa-môn Cù-đàm làm mất lòng tin của Trưởng giả đối với ta? Ta nên đến hỏi việc ấy, xem Sa-môn Cù-đàm đã đến nói gì?” Nghó vậy rồi, người ngoại đạo đến nhà của Trưởng giả và hỏi: –Này Trưởng giả! Sa-môn Cù-đàm cầu xin gì mà đến nhà ông? Lại nói điều gì? Trưởng giả đáp: –Thưa Thánh giả! Thầy con, vì vợ con mang thai nên con đến hỏi Sa-môn Cù-đàm, đứa con sắp sinh là nam hay nữ? Ngài bảo con: Chắc chắn sẽ sinh con trai. Đứa con sinh rồi, gia đình được giàu có thịnh vượng, an lành vào bậc nhất. Ở trong loài người thọ hưởng phước trời. Cuối cùng sẽ xuất gia, học đạo trong pháp của Ngài, chứng A-la-hán. Người ngoại đạo này vốn đoán tướng rất giỏi, nghe nói xong, liền lấy đá trắng sắp bày toán pháp, tính đếm xem việc ấy là thật hay giả. Bày tính rồi, biết việc ấy đúng như Phật nói, là thật, không giả dối. Người ngoại đạo dù biết ấy là thật, nhưng lại nghó: “Nếu ta nói sự thật thì Trưởng giả này chắc chắn tin kính Sa-môn Cù-đàm. Ta nên bảo Trưởng giả: Lời Sa-môn Cù-đàm nói có thật, có giả.” Ngoại đạo nghó xong, bảo vợ của Trưởng giả đến trước mặt, nắm lấy hai tay, xem chỉ tay và tướng mặt. Bấy giờ, Trưởng giả Thiện Hiền nói với ngoại đạo: –Thưa Thánh giả, Thầy con! Thầy đã tính rồi, vậy còn xem chỉ tay, tướng mặt làm gì? Người ngoại đạo nói: –Ta mới vừa tính xem lời Cù-đàm đã nói và tướng của vợ ông, biết việc này có chút phần chân thật, chút phần giả dối. Trưởng giả hỏi: –Thế nào là giả? Thế nào là thật? Ngoại đạo đáp: –Cù-đàm đã nói vợ ông sẽ sinh nam, đây là lời nói thật. Sinh rồi, gia đình giàu có thịnh vượng, đây cũng là thật. Nhưng khi sinh con, có chút ánh sáng lửa hội lại, người con này về sau chắc chắn hại gia đình ông. Lời nói: Được an lành vào bậc nhất, ở trong loài người thọ hưởng phước trời, ấy là dối trá. Này Trưởng giả! Ngươi có từng nghe: “Có người nào sống trong loài người mà thọ hưởng phước trời hay không?” Việc này là khó tin. Nói sẽ xuất gia trong giáo pháp của Cù-đàm, đây là nói thật. Do vì nhu cầu thiếu thốn cơm áo, sau chắc chắn cầu xuất gia theo Cù-đàm. Nói dứt các phiền não, chứng A-la-hán, đây là giả dối, vì trong pháp của Cù-đàm, chắc chắn không dứt được các phiền não, chứng quả Thánh. Lúc Trưởng giả Thiện Hiền nghe nói việc này, tâm nghi ngờ, không biết là thật hay giả, liền sinh buồn rầu. Ông bèn nói với ngoại đạo: –Thưa Thánh giả! Thầy con, việc này con phải nên làm thế nào? Ngoại đạo nói: –Trưởng giả nên làm cho đứa con sinh ra, sau xuất gia tu học trong giáo lý của ta, tức có thể học hết sự nghiệp. Trưởng giả, ta tuy nói như vậy, nhưng ông tự tính lấy. Người ngoại đạo kia nói rồi, liền ra khỏi nhà. Trưởng giả Thiện Hiền ngồi yên một chỗ, suy nghó rất kỹ: “Hiện nay ta không thể nào cố giữ, vì tất cả mà phải xả bỏ thôi! Phải bày mưu kế để phá bỏ thai.” Nghó xong, Trưởng giả Thiện Hiền liền đem thuốc độc xoa vào bụng vợ. Lúc Trưởng giả xoa thuốc bên phải, đứa con chuyển sang bên trái. Xoa thuốc bên trái, đứa con chuyển sang phải. Xoa khắp hết bụng thì đứa con hết chỗ chịu nổi. Do xoa thuốc độc nên vợ Trưởng giả chết. Thiện Hiền nghó: “Người mẹ đã chết, con cũng chết theo. Sau sẽ không còn người phá hoại gia đình ta, cũng không có người chứng được Thánh quả.” Bấy giờ, Trưởng giả thấy vợ đã chết, liền chảy nước mắt kêu khóc. Người làng xóm thân thuộc đến an ủi, thăm hỏi Trưởng giả Thiện Hiền: –Vợ ông vì sao bỗng nhiên mà chết? Trưởng giả kể lại: –Do bào thai hại, bỗng nhiên chết. Làng xóm thân thuộc hỏi thăm xong, ai về nhà nấy. Trưởng giả Thiện Hiền tự nghó: “Vợ ta chết rồi, chớ để trong nhà. Nên sắm các đồ tang lễ, rồi đưa xác ra rừng Thi-đà.” Nghó rồi, liền chuẩn bị các đồ tang lễ, sắp sửa đưa đi. Xóm làng thân thuộc biết vậy, lại đến nói với Trưởng giả: –Vợ ông chết rồi, khóc lóc làm gì mà tự mình sinh buồn khổ! Lúc ấy, Trưởng giả lấy áo quần, đủ các màu xanh, vàng, đỏ, trắng và các vật quý báu để trang trí, cùng quyến thuộc đưa xác đi, đến rừng Thi-đà. Lúc này, người đoán tướng khi trước là ngoại đạo Ni-kiền-đà, biết được việc ấy lòng rất vui mừng, liền mang lọng, cờ, trang sức oai nghiêm đi khắp các ngả tư đường trong thành Vương xá, nói với các ngoại đạo Ni-kiền-đà: –Các ông biết không? Trước đây Sa-môn Cù-đàm nói: “Vợ Trưởng giả Thiện Hiền sẽ sinh con trai. Sau khi đứa con sinh ra, gia đình sẽ giàu có thịnh vượng, an lành vào bậc nhất, ở trong loài người thọ hưởng phước trời. Về sau xuất gia học đạo trong pháp của ta, dứt các phiền não, chứng A-la-hán.” Lời nói ấy là giả dối, vì nay vợ Trưởng giả đã chết, con cũng chết theo. Các ông nên biết, ví như cây to đã chặt đứt gốc rồi, nhánh, lá, hoa, quả sao có thể sống? Các đám ngoại đạo nghe nói, lòng đều vui mừng. Những người có lòng tin thanh tịnh, biết Phật Thế Tôn có pháp chân thật, không chỗ nào là không biết, không thấy, không chỗ nào là không giải được, không chỗ nào là không rõ, luôn phát lòng thương rộng lớn phủ khắp thế gian, chỉ với một suy nghó là che chở, ban bố cho sự không sợ hãi, đã tròn đầy định tuệ cùng tu, đã thành tựu ba việc điều phục, đã qua khỏi bốn dòng phiền não của biển lớn, đã có thể an ổn ở trong hạnh bốn thần túc, đã đem bốn Nhiếp pháp thâu phục khắp chúng sinh. Trong đêm dài sinh tử, luôn nghó đến việc độ thoát, đã có thể thành tựu bốn Vô sở úy, dứt năm phần kết sử, đã ra khỏi năm đường, đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật, hết thảy đều viên mãn, đã đầy đủ sáu pháp Phật thường làm, hoa bảy Giác chi nở thành quả Tám chánh đạo, thành tựu Tam-ma-bát-để, chín hành thiện trước hết, mười Lực kiên cố, tiếng khen vang khắp mười phương thế giới. Đầy đủ ngàn thứ tự tại bậc nhất. Ngày ba lần và đêm ba lần, thường dùng mắt Phật để xem xét thế gian, thấy biết đúng đắn những luân chuyển trong chúng sinh. Các việc đã làm, nếu có chỗ nào thêm, chỗ nào bớt, chỗ nào có phiền não, chỗ nào chịu cực khổ, chỗ nào phá hại, chỗ nào có đủ các việc phiền não, cực khổ, hư hoại… Chỗ nào cần sắp đặt chút phần phương tiện, chỗ nào cần sắp đặt sức phương tiện lớn, chỗ nào cần sắp đặt các phương tiện, chỗ nào chúng sinh bị đọa trong cõi ác, chỗ nào chúng sinh được sinh lên cõi trời, chỗ nào chúng sinh được quả giải thoát, chỗ nào chúng sinh chưa trồng căn lành, làm cho trồng căn lành; chỗ nào chúng sinh đã trồng căn lành, làm cho được thành thục; chỗ nào chúng sinh thành thục rồi, làm cho được giải thoát. Công đức của Phật Thế Tôn đầy đủ như vậy, lời nói không thể giả dối, luôn lìa các lỗi lầm. Bấy giờ, Đức Thế Tôn xét biết rõ các nơi xảy ra sự việc, biết đã đến lúc cần phóng ánh sáng, nên từ trong miệng phóng ra các ánh sáng màu xanh, vàng, đỏ, trắng. Ánh sáng ấy soi khắp trên dưới, chiếu rõ bao nhiêu cảnh đời sống trong địa ngục: Có các địa ngục Hắc thằng, địa ngục Chúng hợp, địa ngục Hào khiếu, địa ngục Đại hào khiếu, địa ngục Viêm nhiệt, địa ngục Cực viêm nhiệt, địa ngục A-tỳ. Tám loại địa ngục nóng bức đó được ánh sáng chiếu đến, thảy đều trở thành mát mẻ. Còn có các địa ngục Pháo, địa ngục Pháo liệt, địa ngục A-trá-trá, địa ngục Ha-ha-thông, địa ngục Hổ-hổ-thông, địa ngục Hoa sen xanh, địa ngục Hoa sen đỏ, địa ngục Hoa sen hồng lớn. Tám địa ngục lạnh đó, khi ánh sáng ấy soi đến rồi, đều trở thành ấm áp. Nhờ năng lực nơi ánh sáng cao tột của Phật, các chúng sinh ở trong đó khi được tiếp xúc với ánh sáng ấy thì thân được lìa khổ, lòng sinh vui vẻ. Mỗi người tự nói: “Chúng ta do gây tội gì mà bị đọa vào địa ngục, ngày nay lại thấy được ánh sáng kỳ lạ này?” Khi các chúng sinh ở trong địa ngục phát tâm suy nghó thanh tịnh như vậy, Đức Thế Tôn lại vì lòng thương lớn, ở trong ánh sáng ấy biến hiện thêm các việc. Những chúng sinh trong địa ngục kia thấy được các sự việc do biến hóa lại nói: “Ngày nay chúng ta đã thấy các tướng biến hóa kỳ lạ ấy. Nếu ra khỏi chỗ này, không nên sinh lại trong cảnh giới ác nữa. Nhờ vào ánh sáng tối thắng của Phật, nên thân sẽ được lìa khổ não, tâm sinh an vui.” Nói vậy rồi, mỗi người phát lòng tin thanh tịnh tối thượng khiến cho nghiệp địa ngục kia thảy đều diệt hết, liền được thọ sinh vào hai cảnh giới trời, người. Chúng sinh trong địa ngục do lòng chân thật ấy nên được lợi ích như vậy. Ánh sáng của Phật lại chiếu lên đến cõi trời Tứ Thiên vương, trời Đao-lợi, trời Dạ-ma, trời Đâu-suất, trời Hóa lạc, trời Tha hóa tự tại, trời Phạm chúng, trời Phạm phụ, trời Đại phạm, trời Thiểu quang, trời Vô lượng quang, trời Quang âm, trời Thiểu tịnh, trời Vô lượng tịnh, trời Biến tịnh, trời Vô vân, trời Phước sinh, trời Quảng quả, trời Vô phiền, trời Vô nhiệt, trời Thiện kiến, trời Thiện hiện, trời Sắc cứu cánh. Ánh sáng soi đến các cõi trời, rồi từ trong ánh sáng ấy phát ra tiếng vô thường, khổ, không, vô ngã. Lại trong ánh sáng ấy, nói ra bài kệ: Ví như voi lớn lún trong bùn Dùng sức mạnh nên liền ra khỏi Lời Phật dạy, sức cũng mạnh lớn Có thể phá tan trận sinh tử. Nay đây chánh pháp khéo điều phục Xa lìa các lỗi lầm đã làm Chấm dứt luân hồi trong ba cõi Diệt sạch bến bờ khổ chúng sinh. Khi ấy, ánh sáng của Thế Tôn phóng ra đã chiếu khắp mọi nơi, soi đến khắp tam thiên đại thiên thế giới. Phật Thế Tôn tuy phóng một ánh sáng, nhưng khi quay trở lại thì ở mỗi chỗ lại khác nhau. Nếu Đức Thế Tôn muốn nói việc quá khứ thì ánh sáng ấy liền đi vào sau lưng Phật. Nếu muốn nói việc đời vị lai, ánh sáng ấy liền đi vào trước mặt Phật. Nếu muốn nói đến việc địa ngục, ánh sáng ấy đi vào nơi lòng bàn chân Phật. Hoặc muốn nói việc ngạ quỷ, ánh sáng liền đi vào theo ngón chân Phật. Muốn nói việc bàng sinh thì ánh sáng ấy đi vào lưng bàn chân Phật. Hoặc muốn nói việc trong cõi người, ánh sáng ấy liền đi vào nơi đầu gối Phật. Nếu muốn nói việc của Tiểu Chuyển luân vương, ánh sáng ấy đi vào lòng bàn tay trái của Phật. Nếu muốn nói đến việc Đại Chuyển luân vương, ánh sáng ấy đi vào lòng bàn tay phải của Phật. Nếu muốn nói việc trong cõi trời, ánh sáng ấy liền đi vào nơi rốn của Phật. Nếu muốn nói việc về Bồ-đề Thanh văn, ánh sáng ấy đi vào trong miệng Phật. Hoặc muốn nói việc về Bồ-đề Duyên giác, ánh sáng ấy đi vào nơi mi mắt của Phật. Nếu muốn nói về đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, ánh sáng ấy đi vào nơi đỉnh đầu Phật. Phật Thế Tôn đã phóng ra ánh sáng, chiếu khắp tam thiên đại thiên thế giới xong, ánh sáng ấy xoay chuyển rồi đi vào trong miệng của Thế Tôn. Bấy giờ, Tôn giả A-nan hầu bên Phật, thấy ánh sáng này liền chắp tay, bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Các loại ánh sáng có màu sắc đẹp đẽ trong sáng, cao tột này từ miệng Phật phóng ra, chiếu rực rỡ khắp thế giới. Vì nhân duyên gì mà có sự việc ấy? Nói lời này rồi, liền nói kệ khen ngợi: Ở thế gian Phật là bậc nhất An trụ chánh nhân và chân thật Ngài đã xa lìa nói hai lời Dứt trừ kiêu mạn và lỗi lầm. Như thương khư, ngó sen trong đời Phải có nhân duyên màu tự trắng Như Lai Tối Thắng Nhân Trung Tôn Phải có nhân duyên hiện ánh sáng. Như Lai dùng sức hạnh nguyện mình Hiện được thần thông và trí lớn Xem xét người nghe, vui nghe pháp Phật chủ cõi người muốn diễn bày. Đại ngưu vương trí lớn vắng lặng Ắt nói lời pháp thiện cao tột Như Lai giảng một lời thanh tịnh Trừ sạch được lưới nghi chúng sinh. Lại như núi chúa và biển lớn Nếu không nhân duyên không thể động Như Lai Chánh Giác Nhân Trung Tôn Không duyên, không hiện tướng ánh sáng Trí lớn xét kỹ về nguyên nhân Việc đáng nên làm đều phải ích Tùy chỗ mong cầu của chúng sinh Nên Như Lai hiện tướng ánh sáng. Đức Thế Tôn bảo Tôn giả A-nan: –Đúng vậy, đúng vậy! Này A-nan! Nên biết Đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác, nếu không có nhân duyên thì không phóng ra ánh sáng. Nay ta muốn đến rừng Thi-đà, ông đến bảo chúng Tỳ-kheo: “Như Lai sắp đến rừng Thi-đà, Tỳ-kheo các ông nên phát tâm dũng mãnh, mỗi người nên đắp ca-sa, theo hầu Như Lai, đến rừng Thi-đà.” Tôn giả A-nan vâng lời Phật dạy, đến chỗ các Tỳ-kheo nói: –Phật dạy các Tỳ-kheo: Như Lai sắp đến rừng Thi-đà. Các Tỳ-kheo nên phát tâm dũng mãnh, mỗi người đắp ca-sa, theo hầu Như Lai, đến rừng Thi-đà. Khi đó, Tôn giả A-nhã Kiều-trần-như, Mã Thắng, Phược-sáp-ba, Đại Danh, Bạt-nại-lý-ca, Xá-lợi Tử, Mục-kiền-liên, Ca-diếp, Mãn Xưng… cùng các chúng đại Thanh văn vâng lời Phật rồi, như oai nghi thường lệ, đắp ca-sa đi đến chỗ Phật. Bấy giờ, Đức Thế Tôn cùng với đại chúng vây quanh trước sau đến rừng Thi-đà. Nghóa là: Chúng điều phục vây quanh người khéo điều phục, chúng giải thoát vây quanh người giải thoát, chúng an ổn vây quanh người an ổn, chúng luật nghi vây quanh người luật nghi, chúng ứng cúng vây quanh người ứng cúng, chúng lìa tham vây quanh người lìa tham, chúng tướng tốt đoan nghiêm vây quanh người tướng tốt đoan nghiêm. Giống như chúng ngưu vây quanh ngưu vương, cũng như đàn voi vây quanh voi chúa, như các thú vây quanh sư tử chúa, như đàn ngỗng vây quanh ngỗng chúa, như chúng Kim sí điểu vây quanh Kim sí điểu chúa, như học chúng vây quanh Bà-la-môn, như người bệnh vây quanh thầy thuốc, như quân lính vây quanh tướng dũng mãnh, như của cải vây quanh người giàu có, như người buôn vây quanh thương chủ lớn, như nhiều người vây quanh người đứng đầu, như người hộ vệ vây quanh tiểu quốc vương, như ngàn Thiên tử vây quanh Chuyển luân vương, như các ngôi sao vây quanh Thiên tử mặt trăng, như ngàn ánh sáng vây quanh Thiên tử mặt trời, như chúng Càn-thát-bà vây quanh Thiên vương Trì Quốc, như chúng Cưu-bàn-trà vây quanh Thiên vương Tăng Trưởng, như chúng rồng vây quanh Thiên vương Quảng Mục, như chúng Dạ-xoa vây quanh Thiên vương Đa Văn, như chúng A-tu-la vây quanh A-tu-la vương Tỳ-ma Chất-đa-la, như cõi trời Tam thập tam vây quanh Thiên chủ Đế Thích, như Phạm chúng vây quanh Đại phạm vương, như cá Để-di-la xuất hiện trong biển lớn, như mây đen kéo đến sắp tuôn mưa lớn và các đám mây xung quanh đều giăng theo. Các căn của Như Lai đều nhu hòa và điều thuận khéo léo. Oai nghi trang nghiêm, các tướng không khiếm khuyết. Như voi chúa bảy chi tròn đầy, ngay thẳng, đứng vững trên đất bằng, lìa các lỗi lầm. Như Lai có đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, thân tướng tốt, thanh tịnh trang nghiêm, không ai hơn được, tròn sáng rực rỡ, chiếu đến khắp nơi, như trong ánh sáng của ngàn mặt trời. Lại như núi báu cao lộ ra ngoài, tất cả đều rực rỡ, hoàn hảo, với mười Lực, bốn Vô sở úy, ba Bất hộ, ba Niệm trụ và đại Bi… các pháp công đức thảy đều đầy đủ. Lúc đó, lại có vô số chúng Tỳ-kheo và vô số trăm ngàn người vây quanh nhiều vòng theo Phật đi đến rừng Thi-đà. Khi Phật đi có mười tám pháp rất đáng ca ngợi. Thế nào là mười tám? 1.Không sợ lửa. 2.Không sợ nước. 3.Không sợ sư tử. 4.Không sợ cọp. 5.Không sợ nạn biển. 6.Không sợ quân kẻ khác. 7.Không sợ giặc cướp. 8.Không sợ nạn vua. 9.Không sợ người ác. 10.Không sợ thuế các cửa đường qua sông. 11.Không sợ người. 12.Không sợ không phải người. 13.Không sợ phi thời. 14.Là mắt trời, tai trời thấy nghe như thật. 15.Là ánh sáng chiếu sáng rỡ, rộng lớn. 16.Là với pháp đều tự tại. 17.Là với người đều tự tại. 18.Là không bị khổ não, bệnh… Các pháp thiện ấy, khi Phật bước đi đều có đầy đủ. Bấy giờ, lại có vô số trăm ngàn người và trời đều tập trung theo Thế Tôn, đi đến rừng Thi-đà xem Phật Thế Tôn sẽ làm những gì. KINH NHÂN DUYÊN QUANG MINH ĐỒNG TỬ <卷 id="117591695">Quyển 2 Bấy giờ, trong thành Vương xá có hai Đồng tử, một người là dòng Bà-la-môn, người thứ hai dòng Sát-đế-lợi. Đồng tử dòng Sát-đế-lợi tên là Thọ Mạng. Hai Đồng tử này từ thành Vương xá đi ra, đang cùng đùa giỡn ở bên trái đường. Từ lâu, Đồng tử Thọ Mạng đã có lòng tin chân chánh. Đồng tử Bà-la-môn không có lòng tin chân chánh, bèn nói với Đồng tử Thọ Mạng: –Tôi nghe trước đây Thế Tôn nói: “Vợ của Trưởng giả Thiện Hiền sẽ sinh con trai, sau khi sinh rồi, gia đình sẽ giàu có thịnh vượng, an lành vào bậc nhất, ở trong loài người thọ hưởng phước trời. Về sau sẽ xuất gia học đạo trong pháp của Phật, dứt các phiền não, chứng A-la-hán.” Vợ của Thiện Hiền đã chết, con cũng chết theo. Thân thuộc của Trưởng giả đem xác đặt trong rừng Thi-đà. Không biết có phải Thế Tôn nói dối việc này hay không?” Lúc ấy, Đồng tử Thọ Mạng vì Đồng tử Bà-la-môn nói kệ ca ngợi: Mặt trời, sao, trăng có thể rơi Núi, đá, đất bay lên hư không Nước biển, vực sâu có thể khô Lời Phật nói quyết không giả dối. Đồng tử Bà-la-môn nghe kệ rồi, mới nói với Đồng tử Thọ Mạng: –Nếu bạn không tin, tôi cùng bạn đi đến rừng Thi-đà xem rõ sự việc này. Lúc này, Đức Thế Tôn từ thành Vương xá tiếp tục ra đi. Hai Đồng tử kia đang đùa giỡn bên trái đường. Đồng tử Thọ Mạng từ xa trông thấy Thế Tôn và đại chúng vây quanh, do căn lành đã có từ trước liền nói kệ ca ngợi: Đại Mâu-ni hiếm có Lìa các tướng loạn động Khắp đại chúng trời, người Tuần tự đi theo Phật. Gầm lên tiếng sư tử Phá các luận ngoại đạo Khéo dứt các lưới nghi Bậc tối thượng khó thấy. Phật đến rừng Thi-đà Tướng oai nghi thích nhìn Như gió thổi sạch tuyết Sáng lạnh khắp không gian. Đức Thích-ca Mâu-ni Biến hóa hiện ánh sáng Người thấy trong khoảnh khắc Theo đó được lợi ích. Bấy giờ quốc chủ nước Ma-già-đà, vua Tần-bà-sa-la, trước đã nghe Phật Thế Tôn nói: “Vợ của Trưởng giả Thiện Hiền sẽ sinh con trai, sau khi sinh rồi, gia đình giàu có thịnh vượng, an lành vào bậc nhất, ở trong loài người thọ hưởng phước trời. Về sau sẽ xuất gia học đạo trong pháp của Phật, dứt các phiền não, chứng A-la-hán. Vợ của Trưởng giả đã chết, thân thuộc đem xác đặt vào rừng Thi-đà. Nay Phật Thế Tôn cùng đại chúng vây quanh cũng đến rừng Thi-đà.” Vua nghe rồi, tự nghó: “Phật Thế Tôn, thầy ta, nếu không vì lợi ích thì không đến rừng Thi-đà. Không phải vợ của Thiện Hiền chết rồi mà sống lại được. Thế Tôn đến nơi ấy vì muốn làm các việc lợi ích. Ta nên đến đó xem!” Vua Tần-bà-sa-la nghó rồi, liền cùng với các đại thần, quyến thuộc, cung tần vây quanh cùng ra khỏi thành. Khi ra thành, hai Đồng tử kia vẫn còn đang đùa giỡn bên trái đường. Đồng tử Thọ Mạng từ xa trông thấy vua Tần-bà-sa-la, liền đến trước mặt, nói kệ ca ngợi: Quốc chủ Ma-già-đà tối thắng Quần thần hộ vệ ra khỏi thành Phát lòng tin thanh tịnh chắc chắn Tất cả mọi người đều vui mừng. Lúc ấy, Phật và tất cả đại chúng trời, người, vua Tần-bà-sa-la, Đồng tử Thọ Mạng… đều đi đến rừng Thi-đà. Bấy giờ, từ trong kim khẩu của Đức Thế Tôn phóng ra ánh sáng thanh tịnh chiếu khắp chúng hội. Người đoán tướng là ngoại đạo Ni-kiền-đà cũng có trong hội. Thấy Phật Thế Tôn phóng ra ánh sáng, liền nghó: “Sa-môn Cù-đàm hiện tướng ánh sáng ở trong đại chúng, lẽ nào con của Thiện Hiền chưa chết hay sao?” Nghó xong, ông ta nói với Trưởng giả Thiện Hiền: –Này Trưởng giả! Ta thấy Sa-môn Cù-đàm hiện bày tướng ánh sáng, ắt là con ông còn, không chết. Trưởng giả Thiện Hiền hỏi: –Thưa Thánh giả thầy con! Nếu việc này như vậy, con phải làm sao? Ngoại đạo bảo: –Trưởng giả! Nếu con ông còn thì nên cho vào tu học trong pháp của ta. Bấy giờ, Trưởng giả sắp hỏa táng người vợ, chất củi và các đồ tang lễ bên ngoài, đặt thi thể người chết ở trong rồi châm lửa đốt. Khi ngọn lửa đã cháy thì từ giữa rốn người vợ dần dần nứt, mọc ra một hoa sen, trong hoa sen ấy có một Đồng tử ngồi ngay thẳng, diện mạo tươi đẹp, sắc tướng khác thường. Lúc đó, vô số đại chúng trong chúng hội đều thấy tướng này, khen là chưa từng có. Những người chánh tín, nhớ lời Phật đã nói lúc trước là thành thật, không giả dối. Ngoại đạo Ni-kiền-đà thấy sự việc này, trong lòng buồn khổ, đứng yên lặng. Khi ấy, Đức Thế Tôn bảo Trưởng giả Thiện Hiền: –Ông đem Đồng tử này về giữ gìn, nuôi dưỡng. Ngoại đạo Ni-kiền-đà lén nhìn thái độ của Trưởng giả, rồi nói: –Trưởng giả! Trong lửa đốt xác chết, bỗng sinh ra Đồng tử. Tất cả việc này đều không phải điềm lành. Ông không nên mang đứa bé về nuôi dưỡng. Trưởng giả Thiện Hiền nghe lời, không bằng lòng nhận Đồng tử. Lúc này, Phật bảo Đồng tử Thọ Mạng: –Ông nên nhận Đồng tử này về giữ gìn, nuôi dưỡng. Đồng tử Thọ Mạng suy xét rồi bạch Phật: –Ở trong nhà của con không nơi nào chứa nhận. Giả như được đứa con này, không phải việc con nên làm. Sau khi vợ Thiện Hiền được hỏa táng xong. Phật dùng sức oai thần của ánh sáng, khiến lửa tự diệt tắt. Trong khoảnh khắc, bầu trời rơi tuyết nhỏ, tự nhiên trong lành, thâu sạch củi dư, làm sạch đất nơi hỏa táng. Trong lửa sinh ra một Đồng tử đứng vững vàng. Đức Thế Tôn bảo chúng hội và Đồng tử Thọ Mạng: –Các ông là người có lòng tin chân chánh, chớ học theo sự cuồng loạn khác thường của ngoại đạo, phải nên đứng vững trong suy nghó chân chánh. Đồng tử Thọ Mạng bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Con sinh trong dòng vua, cũng là dòng vua lâu đời, thân con thanh tịnh, như hương thơm ngưu đầu Chiên-đàn. Con thật không biết những việc cuồng loạn khác thường của ngoại đạo. Lúc ấy, Đức Thế Tôn lại bảo Trưởng giả Thiện Hiền: –Đồng tử này là con ông, ông nên đem về giữ gìn, nuôi dưỡng. Trưởng giả Thiện Hiền kia còn mang nặng những quan niệm xấu ác, không thực hành chánh đạo. Lúc đó lại lén nhìn ngoại đạo Ni-kiền-đà. Ngoại đạo nói: –Trưởng giả Thiện Hiền! Ông nên suy xét, Đồng tử này là di vật trong lửa còn sót lại, rất xui xẻo. Tuy lửa không đốt, nhưng tướng sao tốt được? Nếu đem về ở với ông, gia đình ông sẽ bị hư hoại, lại không hợp với mạng của ông, sẽ gây nhiều tổn hại, muốn làm việc gì đều không được thuận lợi, sau sẽ hối hận. Trưởng giả nghe ngoại đạo nói vậy, nên không bằng lòng nhận Đồng tử. Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo vua Tần-bà-sa-la: –Đại vương! Ông nên mang Đồng tử này về cung nuôi dưỡng. Vua Tần-bà-sa-la vâng lời Phật dạy, vội vàng đứng dậy, khom người xuống, đưa hai tay bồng Đồng tử, nhìn khắp đứa bé, rồi bạch Phật: –Con vâng lời Phật dạy, đem Đồng tử về cung, nhưng đặt tên Đồng tử là gì? Xin Phật Thế Tôn đặt cho. Phật bảo: –Đại vương! Đồng tử này được sinh từ trong lửa, nên đặt tên là Hỏa Quang Minh. Lúc ấy, Đức Thế Tôn ở trong đại chúng, đem Đồng tử giao phó cho vua Tần-bà-sa-la, lại quan sát kỹ để biết vua Tần-bà-sa-la và chúng hội, rồi tùy theo căn tánh, sở thích của họ mà giảng nói pháp. Các chúng hội này được nghe pháp rồi, có hơn trăm người phát khởi lòng tin chân thật trong sạch, cao tột. Có người chứng quả Tu-đà-hoàn, có người chứng quả Tư-đà-hàm, có người chứng quả A-na-hàm, có người chứng quả A-la-hán, có người đạt đến căn lành của noãn vị, có người đạt đến căn lành của đảnh vị, có người đạt đến căn lành của nhẫn vị, có người phát tâm Bồ-đề Thanh văn, có người phát tâm Bồ-đề Duyên giác, có người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, có người phát tâm quy y thâu nhận, có người phát tâm thọ trì giới luật. Với chúng hội như vậy, Phật đều đem sức của công đức và chánh pháp làm chúng được hòa hợp, tùy theo chỗ thích ứng đều được lợi ích. Khi ấy, vua Tần-bà-sa-la rời khỏi hội Phật, đem Đồng tử trở về cung vua. Đại vương triệu tập tám cung tần làm tám người mẹ: Hai người làm dưỡng mẫu để nuôi dưỡng. Hai người làm nhũ mẫu lo việc cho bú mớm. Hai người làm tịnh mẫu để tắm giặt. Hai người làm hý mẫu, để làm bạn học tập và vui chơi. Đại vương sai tám bà mẹ làm như vậy rồi giao Đồng tử cho họ nuôi, từ lúc còn bú mớm cho đến trưởng thành. Lúc ăn, lúc bú và các việc làm khác, suốt cả ngày đêm ân cần, nuôi dưỡng, vỗ về, thương yêu, không để thiếu sót. Dần đến khi trưởng thành, giống như một hoa sen đẹp từ trong ao trong sạch mọc lên, luôn luôn được thương yêu, giữ gìn như vậy cho đến sau này. Đồng tử Quang Minh có một người cậu họ, đem của cải đi ra ngoài buôn bán đã lâu, trải qua nhiều năm nay chưa quay trở về. Bỗng một bữa nọ, nghe người ngoài nói: “Em gái ông mang thai, Phật đã thọ ký, chắc chắn sẽ sinh con trai. Sau khi sinh rồi, gia đình giàu có thịnh vượng, an lành vào bậc nhất, ở trong cõi người thọ hưởng phước trời, sau đó xuất gia học đạo trong pháp của Phật, dứt các phiền não, chứng A-la-hán.” Người anh nghe nói như vậy, liền thâu góp của cải buôn bán, mang vác lặn lội từ xa trở về nhà mình. Về đến nhà, biết em đã chết, nên kêu buồn khóc lóc. Tự nghó: “Lúc trước, ở ngoài đã nghe Phật thọ ký, em ta chắc chắn sinh con trai, dứt các phiền não, chứng A-la-hán. Nay em ta đã chết, lời Phật nói là không thật. Chẳng lẽ Phật Thế Tôn cũng nói dối hay sao?” Nghó vậy rồi, tìm đến nhà hàng xóm hỏi han việc ấy. Hỏi: –Tôi đi buôn bán xa mới về. Trước đã nghe người nói: Em tôi mang thai, Phật đã thọ ký, chắc chắn sẽ sinh con trai. Sau khi sinh rồi, gia đình giàu có thịnh vượng, an lành vào bậc nhất, ở trong cõi người thọ hưởng phước trời, sau đó xuất gia học đạo trong pháp của Phật, dứt các phiền não, chứng A-la-hán. Tôi nghe nói vậy, vui mừng vội trở về. Kịp về đến nhà thì em tôi đã chết. Lời Phật nói vậy có phải là giả dối hay không? Người làng xóm vì người cậu họ của Đồng tử Quang Minh mà nói kệ: Trăng, sao có dưới đất Núi, đá bay lên không Biển lớn có thể khô Lời Phật thật, không dối. Người làng xóm nói kệ rồi, lại bảo với người cậu họ: –Lời Thế Tôn nói thật, không giả dối, nhưng em ông đã chết là có nguyên nhân. Trưởng giả Thiện Hiền tin theo lời ngoại đạo, nên tạo nghiệp giết hại. Do nguyên nhân giết hại mà em ông chết. Đồng tử Quang Minh có oai đức lớn, lửa không thể đốt cháy, người sinh ra từ trong hoa sen. Nay vua Tần-bà-sa-la đang nuôi dưỡng trong cung. Người làng xóm kể lại đầy đủ việc ấy cho người cậu. Người cậu nghe rồi, trở về nhà, nói với Trưởng giả Thiện Hiền: –Việc Trưởng giả làm là không theo pháp lý. Em gái tôi làm sao chết, tôi đã biết rõ. Em tôi mang thai, ông sắp bày mưu kế, sinh sản không tròn. Nguyên nhân ông dùng điều xấu ác, tin theo ngoại đạo, giết hại em tôi. Đồng tử Quang Minh có oai đức lớn, sinh ra từ trong hoa sen, lửa không thể đốt cháy, nay đang ở trong cung vua. Việc này thật phi lý. Ngày nay, ông hãy mau đến cung vua xin đem Đồng tử về thì việc này tốt, nếu không làm được vậy, ắt tôi cùng ông sẽ không còn hòa thuận. Tôi sẽ đem tro trắng đi rải nơi các ngả tư đường và khắp chốn, làm cho trắng đất, khiến mọi người sợ hãi, rồi tôi xướng lên: “Trưởng giả Thiện Hiền giết hại người nữ. Em tôi trước do nguyên nhân này nên bị giết. Đồng tử Quang Minh nay ở trong cung vua, nhà vua như vậy là làm việc không lợi ích.” Tôi sẽ rao việc này khắp nơi. Ông hãy tự tính toán, không nên để lại sự xấu hổ. Trưởng giả Thiện Hiền nghe nói xong, lòng sinh buồn rầu, tự mình suy nghó: –Như anh nói là thật, không phải dối. Nếu thật như vậy, ta thật xấu hổ. Nghó rồi, liền đến cung vua. Đến rồi, cung kính quỳ lạy, đem việc ấy tâu vua: –Thưa đại vương! Tôi quả thật không nghó kỹ, vua thật là cao tột. Nếu không đem được Đồng tử Quang Minh về, e vua bị chê bai. Xin vua cho tôi đem Đồng tử này về. Vua nói: –Này Trưởng giả! Lòng ta vốn không muốn giữ lấy Đồng tử này. Do Phật Thế Tôn giao phó cho ta. Nếu không phải Phật bảo, ta giữ lấy làm gì? Nếu ông muốn đem Đồng tử này về, nên đi đến chỗ Phật trình bày đầy đủ việc ấy. Trưởng giả Thiện Hiền liền ra khỏi cung vua, đến chỗ Phật, rồi bạch: –Con có người thân từ xa về, bảo con: Đồng tử Quang Minh ở nơi cung vua, trong ngày này phải mau đem Đồng tử về là tốt. Nếu không, người ấy không hòa thuận với con, sẽ đến ngả tư đường hô lên: “Trưởng giả Thiện Hiền giết hại người nữ. Em tôi trước do nguyên nhân này mà chết. Đồng tử Quang Minh nay ở trong cung vua, lúc ấy vua cũng không làm việc lợi ích.” Con vì việc này nên đã đi đến cung vua xin lại Đồng tử. Vua đáp: “Trước kia do Phật bảo ta đem về nuôi dưỡng.” Nay con đến đây xin Phật bảo vua trao lại Đồng tử cho con. Đức Thế Tôn biết việc ấy, xem xét biết Trưởng giả Thiện Hiền nếu không được Đồng tử này, trong lòng bị khổ não thúc ép, không đạt được ý này chắc chắn sẽ nôn huyết mà chết. Phật vì lòng thương rộng lớn làm việc cứu giúp, liền bảo Tôn giả A-nan: –Này A-nan! Ông có thể đến cung vua Tần-bà-sa-la nói lại như lời của ta: “Phật hỏi đại vương có được khỏe không? Nay có một việc xin vua nghe lời Phật dạy: Trưởng giả Thiện Hiền đến xin lại Đồng tử Quang Minh. Xin vua trao lại cho. Nếu Trưởng giả Thiện Hiền không nhận được Đồng tử, lòng bị buồn rầu thúc ép, ý này không đạt được, chắc chắn sẽ nôn huyết mà chết. Vua vì việc này, nên làm theo lời Phật dạy.” Tôn giả A-nan vâng theo sự chỉ dạy của Phật, liền đến cung vua Tần-bà-sa-la, gặp vua, rồi nói như lời Phật nói: –Phật thăm hỏi đại vương có được khỏe không? Nay có một việc xin vua nghe lời Phật dạy: Trưởng giả Thiện Hiền đến xin lại Đồng tử Quang Minh. Xin vua trao lại cho. Nếu Trưởng giả Thiện Hiền không nhận được Đồng tử, lòng bị buồn rầu thúc ép, ý này không đạt được, chắc chắn sẽ nôn huyết mà chết. Đại vương vì việc ấy, nên trao Đồng tử lại cho họ. Bấy giờ, vua Tần-bà-sa-la vâng lời Phật dạy, liền nói: –Tôn giả Đại đức! Xin trở về bạch Phật giúp con: Vua Tần-bà-sa-la cúi đầu dưới chân Thế Tôn, kính lời thăm hỏi Thế Tôn, con xin vâng theo lời Phật dạy. Tôn giả A-nan ra khỏi cung vua, trở về chỗ Phật, bạch Phật Thế Tôn đúng như lời vua. Lúc ấy, vua Tần-bà-sa-la liền kêu Trưởng giả Thiện Hiền đến, rồi nói: –Này Thiện Hiền! Đồng tử ấy được nuôi dưỡng, giữ gìn trong cung vua đã lâu. Tám bà mẹ chăm sóc, bú mớm theo từng lúc. Lòng ta thương yêu hơn là cha con. Tuy nay ta vâng lời Phật, trao lại cho ông, nhưng ông cũng sẽ theo như tâm ý của ta, mỗi ngày ba lần ông đưa Đồng tử vào cung, ta muốn gặp nó. Trưởng giả Thiện Hiền vâng lệnh vua, liền tâu: –Tôi vâng lệnh vua, không dám làm trái. Mỗi ngày ba lần sẽ đưa đến cung vua. Vua Tần-bà-sa-la liền lấy các thứ báu đẹp, trang nghiêm, vòng trang sức bằng ngà voi, để Đồng tử Quang Minh cỡi voi báu, cho riêng một người hầu theo làm bạn đưa đến nhà Trưởng giả Thiện Hiền. Sau đó, mỗi ngày ba lần, Trưởng giả đưa Đồng tử đến cung vua, vua tự mình xem kỹ, Đồng tử Quang Minh làm việc gì đều theo như pháp lý. Cho đến sau này, Trưởng giả Thiện Hiền qua đời, Đồng tử Quang Minh làm chủ nhà, tiếp nối sự nghiệp, lại chuyên cần, sáng suốt tin Phật, tin Pháp, tin Tỳ-kheo Tăng; quy y Phật, Pháp, Tăng. Ở nơi này, trước kia người cha là Trưởng giả Thiện Hiền đã tạo nghiệp giết hại, nay Trưởng giả Quang Minh vì cha tu làm việc phước. Trong nhà lúc nào cũng có đầy đủ bốn thứ để cúng dường, hầu Tăng chúng bốn phương. Cho đến vị lai, đối với người gom thu gìn giữ kho tàng chánh pháp của Thế Tôn, người cao tuổi đứng đầu trong các đại Thanh văn, cũng luôn lo việc cung cấp, cúng dường các thứ. Trưởng giả Quang Minh ở trong thành Vương xá, tu các phước nghiệp như vậy, đều vì cha mà làm việc lợi ích. Bấy giờ, có một khách buôn, trước là bạn cũ cùng buôn bán với Thiện Hiền, ở phương xa buôn bán lâu chưa về, nghó: Thiện Hiền hoàn toàn không làm nghiệp thiện. Nay lại nghe biết ông ta đã chết, có con tên Quang Minh. Trưởng giả Quang Minh tin Phật, Pháp, Tăng, quy y Tam bảo, làm việc đúng như lý. Người khách buôn nghe việc này rồi nghó thương Thiện Hiền, vui mừng cho Trưởng giả Quang Minh, liền đem hương tốt ngưu đầu chiên-đàn, tạo ra cái bát lớn chứa đầy vật báu, từ phương xa sai người đem đến nói: –Ý tôi mong mãi mãi làm kỷ niệm để nhớ không quên. Khi ấy, Trưởng giả Quang Minh liền đem câu thần chú ủng hộ cho họ. Câu chú ấy là: –Kế na tức tư thác dạ phược, thất thác dạ phược, yết lý ca thác kế na phược ngật lý hệ hằng. Đọc chú này xong, lại nói: –Bát báu này, hoặc Sa-môn, hoặc Bà-la-môn, hoặc người có các thứ thần thông oai lực lớn sẽ nhận nó. Nếu được như vậy nên vui. Chú nguyện rồi, liền mang bát ấy ra khỏi thành Vương xá. Trước tiên trồng một cây trụ lớn ở bên trái đường, rồi trang sức dây lụa, trên lại treo chuông rung, để cái bát ở dưới cây làm dấu hiệu. Bấy giờ có các ngoại đạo, như thường lệ, vào lúc sáng sớm, đi đến sông tắm rửa, lần lượt qua đường ấy, thấy bát báu này liền hỏi Trưởng giả Quang Minh: –Trưởng giả, ông đặt bát ở đây để làm gì? Trưởng giả Quang Minh đem nguyên nhân nói lại cho các ngoại đạo, các ngoại đạo nói: –Các vị Sa-môn Thích tử thanh tịnh, có thể nhận lãnh bát này, người không năng lực không thể nhận được. Ngoại đạo nói rồi, theo đường mình mà đi. Sau đó có các chúng Tỳ-kheo Đại đức cao tuổi, mang bát đi khất thực, vào thành Vương xá, thấy bên trái đường có bát báu ấy, mới hỏi Trưởng giả Quang Minh: –Ông để bát ở đây làm gì? Trưởng giả Quang Minh cũng đem nguyên nhân trả lời như trước. Các Tỳ-kheo nói: –Trưởng giả, bát báu này chúng tôi không thể nhận, nên đem dâng lên Phật để thêm lớn lợi lành, diệt các tội nhơ. Các Tỳ-kheo nói vậy xong, theo đường mình mà đi. KINH NHÂN DUYÊN QUANG MINH ĐỒNG TỬ <卷 id="117591696">Quyển 3 Bấy giờ, Tôn giả Thập Lực Ca-diếp đi đến chỗ để bát, thấy việc này rồi, nên đến nhà Trưởng giả Quang Minh, hỏi Trưởng giả: –Ông để bát báu ở bên trái đường làm gì? Trưởng giả Quang Minh đem nguyên nhân trước thưa với Tôn giả. Thập Lực Ca-diếp suy nghó: “Ta nghe trước kia Trưởng giả Thiện Hiền gây nghiệp giết hại vì tin ngoại đạo. Nay ở đây, Trưởng giả Quang Minh lại làm việc phước, ta không nên bỏ bát này mà đi, phải hiện sức thần làm cho Trưởng giả Quang Minh tròn đầy chí nguyện.” Nghó xong, liền dùng thần lực duỗi cánh tay phải, giống như lực só co duỗi cánh tay, chỉ trong khoảnh khắc, lấy bát báu kia đem về chỗ mình. Các Tỳ-kheo thấy Thập Lực Ca-diếp mang bát báu đến, đều cùng thưa hỏi: –Tôn giả, ông được bát này ở đâu? Thập Lực Ca-diếp đem việc trước nói lại cho các Tỳ-kheo. Các Tỳ-kheo thưa: –Tôn giả, ông vì bát này mà hiện thần lực, có đúng nghi pháp không? Thập Lực Ca-diếp nói với các Tỳ-kheo: –Ví như nghi pháp, hoặc không như nghi pháp, ta đã làm rồi, vậy biết làm sao đây? Các Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật. Phật bảo các Tỳ-kheo: –Nếu không đúng lúc, không đúng nơi và không lợi ích thì không được tự tiện hiện tướng thần lực. Hiện không đúng pháp sẽ sinh lỗi lầm. Bấy giờ, Đức Thế Tôn dùng thần lực hóa ra bốn bát: 1.Bát bằng vàng. 2.Bát bằng bạc. 3.Bát bằng phệ-lưu-ly. 4.Bát bằng phả-chi-ca. Hóa bốn bát rồi, lại hóa thêm bốn bát: 1.Bát thứ nhất bằng đá nhũ. 2.Bát thứ hai bằng đồng đỏ. 3.Bát thứ ba bằng đồng trắng. 4.Bát thứ tư bằng gỗ. Hóa xong, lần lượt đem bốn bát trước xếp bày. Bốn bát sau cũng xếp như vậy. Trong mỗi bát có đầy đủ thức ăn thơm ngon nhất, đem đặt một chỗ, các Tỳ-kheo tùy ý mà lấy, tùy người nên nhận. Khi Phật thu thần lực, bát lại biến mất. Cho đến về sau này, Trưởng giả Quang Minh hưởng phước ở cõi trời, hiện tướng an lành, những việc kỳ lạ luôn luôn xuất hiện. Khi ấy, đường ranh ở giữa cõi nước Chiêm-ba và thành Vương xá có cây trụ, trang sức bằng dây lụa, ở dưới có hai bát: Một bát bằng sắt, một bát bằng đất. Bát này trước đã chú nguyện, đặt ở giữa ranh giới hai nước. Không xa, có một trạm thu thuế. Các người buôn bán đem các vật đến nạp thuế cho vua. Có một người coi lấy thuế, đầy đủ con cái quyến thuộc, của cải tơ lụa, nhưng không làm việc thiện. Bỗng người ấy chết ở chỗ thu thuế, làm Dạ-xoa lớn ác, cũng ở nơi ấy giữ gìn trạm thuế. Một đêm, các người con nằm mộng thấy Dạ-xoa nói: –Hãy treo một cái chuông rung lớn trên trụ ranh giới ấy. Các người buôn bán đi qua trạm thuế, nếu có vật phải đóng thuế mà giấu không nạp, chuông ấy tự nhiên kêu lên, người lấy thuế biết được sẽ giữ họ lại kiểm soát, lấy được thuế rồi mới cho họ đi. Các người con thấy mộng rồi, sáng sớm cùng với thân thuộc đến chỗ trạm thuế, tìm thấy cây trụ ranh giới, bèn y theo mộng treo cái chuông rung ở trên. Bấy giờ, trong nước Chiêm-ba có một gia đình Bà-la-môn tên Mạn-ninh-đát-mộ, làm nghề mua bán. Một bữa nọ, vợ chồng cùng ngồi lại với nhau. Vợ bảo chồng: –Em ở nhà lo liệu việc trong nhà. Tiền bạc của chàng làm ra chỉ đủ tiêu dùng. Chẳng lẽ cứ như vậy hoài hay sao? Anh nên vào trong chợ, mua sợi bông vải thật tốt. Em sẽ dệt thành tấm vải đẹp, anh đem ra chợ bán, không lợi hơn hay sao? Bà-la-môn theo lời vợ nói, mua được sợi vải đem về. Vợ bèn sắp đặt khung dệt, dệt thành tấm vải mềm mại, tốt đẹp, không chê vào đâu được. Đường chỉ ngang dọc kỹ, đều, tinh xảo. Người vợ chăm chỉ dệt, đã thành một tấm vải tốt, bèn bảo chồng: –Tấm vải đã dệt xong, tốt đẹp, mềm mại, giá đáng ngàn vàng. Anh có thể đem ra chợ bán. Nếu có ai trả đúng giá ngàn vàng thì bán cho họ. Nếu không trả đủ giá ngàn vàng, tùy theo trường hợp, nên nói dịu dàng: “Ở đây, không ai làm được tấm vải tốt đẹp, tinh xảo này.” Xướng lên vậy rồi đem đến chỗ khác mà bán. Bấy giờ, Bà-la-môn Mạn-ninh-đát-mộ như lời vợ dặn, đem tấm vải tinh xảo này vào bán trong chợ. Rốt cuộc, không có người nào trả đúng ngàn vàng. Nhớ lời vợ, ông bèn xướng: –Trong thành lớn Chiêm-ba, không ai làm được tấm vải tinh xảo như vậy. Nói xong, đem về bàn với vợ: –Không có người nào trả đúng giá ấy. Nên đem đến nước khác bán, sẽ có người biết giá trị của nó. Nói rồi cùng nhau từ biệt. Khi ấy, Bà-la-môn đem một tấm vải đã từng mặc qua, cùng với tấm vải mới dệt giấu trong cán cây lọng, âm thầm đi theo những người buôn, dần dần ra khỏi nước mình. Vừa đến thành Vương xá, những người buôn đi qua giữa hai chỗ có trạm thuế. Đến chỗ ấy rồi, gom các vật lại để một chỗ. Lúc này, người lấy thuế lần lượt kiểm soát. Các người buôn đem các vật đóng thuế nạp lên cho vua. Trong đó chỉ có Bà-la-môn Mạn-ninh-đát-mộ, trước đã cất giấu tấm vải trong cái lọng, đứng ở một bên không chịu đem nạp thuế. Một bên của trạm thuế, trước đó đã trồng cây trụ ranh giới, trên treo cái chuông rung, tự nhiên chuông phát ra tiếng. Người thu thuế biết trong đoàn có người trốn thuế, bèn nói với chủ buôn: –Cái chuông rung trên cây trụ này không phải gió thổi động, không phải người lay động mà tự nhiên phát ra tiếng. Tôi biết trong đoàn của ông có người giấu vật, không đem nạp thuế phải không? Người thu thuế liền giữ họ lại kiểm soát, thấy trong đoàn này không có người nào giấu, trốn không nộp thuế. Các người buôn biết chắc không còn vật chưa nạp thuế muốn được tiếp tục đi. Cái linh lại phát ra tiếng, bốn lần như vậy, lại kiểm soát kỹ, cũng không tìm được người nào trốn thuế. Chủ buôn nói với người thu thuế: –Trong đoàn của tôi không có người nào trốn thuế, chắc là đoàn người khác đã lén đi trước rồi. Nói xong, liền cùng bàn với nhau: –Trong này, có một Bà-la-môn cất giấu vật không đóng thuế. Cuối cùng, người thu thuế kia đến chỗ người Bà-la-môn Mạn-ninh-đát-mộ nắm lại không thả ra, cố tìm vật trốn thuế. Bà-la-môn nói: –Vì sao ông nắm tay tôi? Ông đã thấy rõ thật không có vật trốn thuế. Tôi không giấu chút vật nào không nạp thuế. Nếu có thì đã đem đóng thuế rồi. Nói xong, cái chuông rung lại phát ra tiếng. Khi ấy, người thu thuế nhắm vào Bà-la-môn kiểm soát thật kỹ, rồi nói: –Bà-la-môn! Vì sao ông cố giấu vật, không chịu nạp thuế? Nay cái chuông rung này phát ra tiếng nhiều lần là việc kỳ lạ. Ông nên biết, dưới cây trụ ranh giới này có Thiên thần ủng hộ, ông nên đem vật ra nạp thuế, đừng làm việc xấu như vậy. Bà-la-môn nói: –Tôi tin là thật, có Thiên thần ủng hộ. Nói xong, lấy tấm vải tốt trong cán lọng ra, đưa cho người thu thuế và nói: –Đây là vật tôi trốn thuế. Ông hãy lấy nó đi. Người thu thuế nhận tấm vải này rồi nói với Bà-la-môn: –Không phải tôi nhận đem nạp cho vua, cũng không lấy cho tôi, mà là đem dâng cúng Thiên thần. Nói rồi, đem tấm vải treo lên cây trụ và nói với Bà-la-môn: –Tôi đã treo tấm vải dâng cho thần linh rồi. Nếu ông muốn lấy hãy tự lấy đi. Bà-la-môn liền lấy tấm vải đó, đem đến một chỗ vắng, cũng cất giấu trong cán lọng như trước, rồi tiếp tục đi dần vào thành Vương xá. Bà-la-môn đem tấm vải đó bày bán trong chợ, mong có người trả đúng giá ngàn vàng. Đi khắp, rốt cuộc không có ai trả đúng giá như vậy. Bà-la-môn xướng lên: –Trong thành lớn Vương xá không có người nào biết được giá trị của tấm vải tốt đẹp này. Lúc xướng như vậy, Trưởng giả Quang Minh đang cỡi voi báu, từ cung vua trở về nhà mình, bỗng nghe nói như thế, rất kinh ngạc, bèn dừng lại hỏi Bà-la-môn: –Vì sao ông nói lời chê bai người trong thành này? Bà-la-môn ấy không trả lời. Trưởng giả Quang Minh nói: –Ông nên nói rõ nguyên nhân của việc ấy. Bà-la-môn nói: –Tôi từ nước mình đem hai tấm vải tốt đẹp đến đây bán. Nếu có người trả đúng giá ngàn vàng thì tôi bán. Tôi đã đi khắp mà không có người nào trả đúng giá ấy. Trưởng giả Quang Minh nói: –Ông có thể đem đến để tôi xem kỹ. Bà-la-môn liền theo Trưởng giả về đến nhà, rồi lấy tấm vải đó cho Trưởng giả xem. Trưởng giả xem rồi liền nhận biết giá trị, bảo Bà-la-môn: –Hai tấm vải này một mới, một cũ. Cái cũ tôi trả ông giá năm trăm tiền vàng. Bà-la-môn nói: –Giá Trưởng giả trả chưa bán được. Trưởng giả Quang Minh nói: –Ta thấy tấm vải này cũ, phải giặt tẩy mới trở thành mới. Trưởng giả liền đem tấm vải cũ, ở trên lầu cao quăng từ trên không xuống, tấm vải ấy nặng, liền rơi xuống đất. Trưởng giả Quang Minh nói với Bà-la-môn: –Tôi muốn xem kỹ tấm vải mới còn lại. Bà-la-môn lấy tấm vải mới trao cho Trưởng giả. Trưởng giả xem xong, cũng làm như trước. Từ trên không quăng xuống, tấm vải ấy nhẹ, tốt nên từ từ mới xuống đến đất. Bà-la-môn sinh lòng kính trọng, nói: –Trưởng giả Quang Minh có oai lực lớn. Hai tấm vải tốt đẹp này, mới, cũ tôi đều dâng cho ông, không lấy giá ấy. Ông nên nhận lấy. Trưởng giả đáp: –Nhà tôi rất giàu có. Ông đã trải qua gian khổ, tôi không thể vô cớ nhận vật này của ông. Nay, tôi trả cho ông mỗi tấm ngàn vàng, ông đưa cho tôi hai tấm vải này. Bà-la-môn nhận được tiền vàng rồi trở về nhà. Trưởng giả Quang Minh lấy tấm vải cũ đem cho người ở. Sau lấy tấm vải mới làm khăn mới để dùng thường ngày. Trưởng giả dùng khăn rồi, sau đó đem phơi nắng. Bấy giờ, vua Tần-bà-sa-la cùng người hầu cận mới vừa lên cung điện, bỗng nhiên có gió mạnh thổi khăn ấy rơi xuống trước mặt vua. Vua Tần-bà-sa-la bảo người hầu cận: –Tấm vải tốt đẹp này từ đâu bay đến? Chỉ có hàng vương giả mới sử dụng nó. Người hầu cận tâu: –Tâu đại vương, thần đã từng nghe: Chuyển luân thánh vương bảy ngày sắp sửa lên ngôi, trời mưa vàng. Nay đại vương đã lên ngôi, trời mưa tấm vải tốt đẹp, không lâu sau cũng sẽ mưa vàng. Vua nói: –Các ngươi không biết. Ta nghe Phật thọ ký: Trưởng giả Quang Minh ở trong cõi người thọ hưởng phước trời. Tấm vải tốt đẹp này là vật của Quang Minh dùng, gió bay đến đây, có thể mời người ấy đến đây trao trả lại. Trưởng giả Quang Minh liền đến trước vật. Vua nói: –Trưởng giả, trước kia Phật thọ ký cho ông, ở trong cõi người thọ hưởng phước trời. Tấm vải tốt đẹp này là của ông, ta trả lại cho ông. Trưởng giả Quang Minh cúi mình đưa tay đón nhận tấm vải ấy. Nhận rồi, xem đúng là của mình, liền tâu vua: –Đây là khăn sạch tôi dùng ở nhà, mới vừa đem phơi nắng, gió bay đến đây. Việc ấy đúng là thật. Vua bảo Trưởng giả: –Phật thọ ký cho ông thọ hưởng phước trời, hiện tướng an lành. Lời Phật chắc thật, việc ấy đúng vậy. Lại nói với Trưởng giả: –Bây giờ tướng tốt của ông đã được như vậy, sao không mời vua đến nhà ông xem qua một lượt? Trưởng giả tâu: –Nay tôi may mắn, xin được mời vua đến nhà. Vua nói: –Trưởng giả! Ông nên về trước chuẩn bị các thức ăn uống. Trưởng giả tâu: –Đại vương! Người thọ hưởng phước trời, không cần làm mà tự nhiên có, rất may mắn mời vua đến nhà. Vua Tần-bà-sa-la cùng quần thần thân cận đến nhà Trưởng giả Quang Minh. Trưởng giả dẫn đường cho vua tới nhà mình. Vua thấy ở ngoài cửa có đứa tớ gái giữ cửa, tướng mạo rất xinh đẹp lạ thường, bèn dừng lại giây lát. Trưởng giả tâu: –Vì sao đại vương dừng lại đây mà không đi tiếp? Vua nói: –Trưởng giả, ta thấy vợ ông nên mới dừng lại đây. Trưởng giả đáp: –Đây là tớ gái giữ cửa, không phải vợ tôi. Vua đi tiếp đến cửa giữa, thấy một tớ gái giữ cửa, vua cũng dừng lại không đi tiếp. Trưởng giả tâu: –Vì sao vua lại dừng, không đi? Vua trả lời như trước. Trưởng giả tâu: –Đó không phải là vợ tôi, mà là đứa tớ gái giữ cửa giữa. Vua lại tiến vào cửa bên trong, thấy trên đất có báu ma-ni, nước chảy, cá và các loại côn trùng. Vua cho đó là cái ao, cũng dừng lại giây lát. Trưởng giả tâu: –Sao đại vương dừng ở đây không đi? Vua đáp: –Nơi đây có nước, nên ta không đi tiếp. Trưởng giả tâu: –Đại vương, nơi đây không có nước, chỗ đất này làm bằng báu ma-ni. Vua nói: –Trưởng giả, nếu là đất báu, sao có các tướng nước chảy, có cá và côn trùng. Trưởng giả tâu: –Đại vương, trên có chạm khắc hình bánh xe quay, cá và côn trùng… Do ánh sáng của báu ma-ni phản chiếu cho nên thấy như vậy. Vua nghe vậy nhưng chưa tin, liền rút chiếc nhẫn đeo tay của mình ném xuống đất. Chiếc nhẫn va vào đất phát ra tiếng, vua mới tin đó là đất báu ma-ni. Vua Tần-bà-sa-la vào nhà, ngồi trên tòa Sư tử, vợ của Trưởng giả ra bái chào vua, bỗng nhiên rơi nước mắt. Vua hỏi: –Trưởng giả, vì sao vợ ông thấy ta lại rơi nước mắt? Trưởng giả tâu: –Đại vương! Vợ tôi bái chào vua, đâu dám rơi nước mắt. Do vì vua mặc áo có hơi khói củi nên mắt cay mà chảy nước mắt. Đại vương, vậy nên người hưởng phước trời muốn ăn uống gì đều có báu như ý, tự nhiên hiện ra. Vua Tần-bà-sa-la ở nhà Trưởng giả đã bảy ngày, quên trở về cung điện. Khi ấy, các quan đồng liêu cùng đến chỗ Thái tử A-xà-thế tâu: –Đã bảy ngày vua ở nhà của Trưởng giả Quang Minh. Việc triều chính trong nước bị bỏ bê. Thái tử nên đến mời vua trở về cung. Thái tử A-xà-thế liền đến nhà Trưởng giả Quang Minh, tâu với vua cha: –Sao phụ vương không trở về cung? Việc lớn trong nước đã bị bỏ bê. Vua nói: –Ta ở một ngày nơi nhà này, việc trong nước ngươi há không thể làm thay ta sao? Thái tử tâu: –Phụ vương nên biết, đã bảy ngày ở nhà này rồi. Vua nghe nói, nhìn Trưởng giả Quang Minh, hỏi: –Có thật vậy không? Trưởng giả tâu: –Đúng vậy, thưa đại vương, đã qua bảy ngày rồi. Vua nói: –Trưởng giả, trong nhà của ông xem vào hiện tượng gì để phân biệt ngày đêm? Trưởng giả đáp: –Theo hoa khép, hoa nở để phân biệt ngày đêm. Theo tiếng chim lạ hót và chim không hót để phân biệt ngày đêm. Theo ánh sáng của châu báu ma-ni hiện và không hiện để phân biệt ngày đêm. Hoặc có hoa khép lại nhưng không phải đêm, có hoa nở nhưng không phải ngày. Ánh sáng của các báu không hiện ra nhưng không phải đêm, có ánh sáng của các báu hiện ra mà không phải ngày. Chim lạ yên lặng mà không phải đêm, có tiếng chim lạ hót nhưng không phải ngày. Vua Tần-bà-sa-la nghe việc này rồi, nói với Trưởng giả Quang Minh: –Ta tin lời Phật chân thật không dối. Phật đã nói: Ông ở trong loài người thọ hưởng phước trời. Việc ấy đúng như thật. Vua Tần-bà-sa-la nói xong, ra khỏi nhà Trưởng giả. Lúc Thái tử A-xà-thế sắp ra khỏi nhà của Trưởng giả Quang Minh, đã lén lấy một hạt châu ma-ni tên Phiến hằng, đưa cho người hầu giữ. Về lại cung vua rồi kêu người ấy đến bảo: –Ta đã đưa hạt châu ma-ni cho ngươi, ngươi nên mang đến đây. Ta muốn xem kỹ. Người hầu mở tay muốn dâng lên Thái tử, nhưng không thấy hạt châu ấy, liền tâu: –Không biết hạt châu ấy mất ở nơi nào. Lúc đó, thái tử liền lấy chùy đánh người hầu. Trưởng giả Quang Minh dùng phước lực cõi trời biết được việc ấy, bèn đến hỏi thái tử: –Vì sao lại lấy chùy đánh người hầu này? Thái tử đáp: –Vừa rồi, ở nhà ông, tôi lén lấy hạt châu ma-ni đưa cho kẻ hầu này, nay bỗng mất đi. Tôi đã lấy trộm, người này còn trộm lại. Tội ấy càng nặng, cho nên đánh bằng chùy. Trưởng giả tâu: –Ông lấy châu của tôi, không gọi đấy là trộm. Nay đã không thấy, cũng không phải là người khác trộm. Hạt châu này đã trở lại ở nhà tôi. Vì sao? Người hưởng phước trời mới có thể dùng được. Nếu thái tử muốn cần điều gì, tôi sẽ dâng cho, không tiếc gì cả. Thái tử A-xà-thế sinh lòng nghi ngờ, nghó: “Hiện nay đối với Trưởng giả này, ta chưa muốn lấy gì. Sau khi cha ta - vua Tần-bà-sa-la băng hà - ta mới mong cầu các tài sản vật báu của ông ta.” Nghó rồi, thái tử A-xà-thế cùng với Đề-bà-đạt-đa lập mưu hại chết vua cha. Sau khi giết cha rồi, tự làm lễ quán đảnh để lên ngôi. Khi lên ngôi, ông cho mời Trưởng giả Quang Minh đến và nói: –Trưởng giả là anh ta. Ta muốn đến ở nhà ông và hễ có chỗ nào cần, ông nên cung cấp cho ta. Trưởng giả Quang Minh suy nghó: “Vua Tần-bà-sa-la dùng chánh pháp trị đời. Người này hung ác, lại bạo ngược, giết phụ vương của mình, tự mình làm lễ quán đảnh để lên ngôi vua. Giờ ở trước ta nói ra lời kiêu mạn, muốn ở nhà ta, ta cũng nên thuận theo. Nếu làm trái, người này sẽ nhân đó hại cả gia tộc của ta.” Nghó rồi, liền tâu: –Đại vương! Tôi biết lòng đại vương có điều mong muốn. Mong rằng trước hết đại vương đến nhà tôi, hễ cần gì tùy ý lấy dùng. Sau tôi sẽ đến cung vua. Vua A-xà-thế nói: –Nếu được như vậy rất là tốt. Khi vua nghị bàn rồi, đến nhà Trưởng giả trước. Trưởng giả lại trở về cung vua. Trưởng giả có tướng đặc biệt an lành của hàng trời, người. Trưởng giả đi tới nơi nào, các kho vật báu cũng đều đến theo. Vua A-xà-thế ở nhà Trưởng giả, thấy kho châu báu bảy lần hiện ra, bảy lần biến mất. Thái tử nghó: “Các kho vật báu trong nhà này đều đi theo ông ấy, ta không thể có được. Ta nên bày mưu kế khác: Bèn sai một số người hung ác chở đầy một xe đưa đến nhà Trưởng giả Quang Minh để lấy trộm châu báu.” Số người ấy đến nơi rồi, bày kế để rình lấy trộm châu báu. Lúc ấy, Trưởng giả Quang Minh ở trên lầu cao có các hầu gái thân cận. Khi đó, các hầu gái thấy những người trong xe ấy, họ đã biết là kẻ hung ác, đến rình lấy trộm châu báu. Các hầu gái thấy rồi, cười chỉ họ mà nói: –Đây là kẻ trộm cắp hung ác. Trưởng giả nghe cười nói, bỗng hiểu rõ mọi việc. Các người trộm kia ẩn núp suốt đêm. Đến sáng sớm, nhiều người cùng thấy họ, đồng lòng xướng lên: –Vua A-xà-thế là người nghịch ác, giết hại phụ vương. Nay lại sai các người ác đến trộm cắp châu báu nhà Trưởng giả. Khi vua A-xà-thế biết việc này, sai người đến chỗ Trưởng giả Quang Minh và nói: –Vì sao Trưởng giả khinh chê người của ta? Trưởng giả Quang Minh biết ý vua, liền sai đuổi các người ác đi khỏi hết. Rồi Trưởng giả tự nghó: “Vua A-xà-thế rất nghịch ác, giết hại phụ vương. Có phải sau này cũng làm việc giết hại với ta không? Ta phải xả bỏ những gì đã có. Nhớ lời trước Phật đã thọ ký: Ở trong pháp Phật xuất gia học đạo, dứt các phiền não, chứng A-la-hán. Ta nên xuất gia theo Phật.” Nghó xong, liền đem kho báu làm các việc từ thiện, đem ban cho khắp cả, đem lợi lạc đến khắp mọi người. KINH NHÂN DUYÊN QUANG MINH ĐỒNG TỬ <卷 id="117591697">Quyển 4 Bấy giờ, Trưởng giả Quang Minh làm các việc từ thiện ban phát những lợi lạc với mọi người, nhưng không cho các người thân thuộc biết, làm xong việc, ông âm thầm đến chỗ Phật. Đến rồi, đầu mặt sát đất lễ chân Thế Tôn và bạch: –Xin Phật Thế Tôn ban cho con được lợi lành. Con muốn xuất gia, ở trong pháp Phật, thọ đầy đủ giới, làm Tỳ-kheo, tịnh tu phạm hạnh. Xin Phật mở lòng thương lớn thâu nhận con. Phật bảo: –Lành thay! Hãy đến trong pháp của ta và siêng tu phạm hạnh. Phật vừa nói xong, râu tóc Trưởng giả Quang Minh tự nhiên rụng, thành tướng Tỳ-kheo, thân đắp y Tăng-già-lê, bưng bình bát. Qua bảy ngày đêm, tâm ở trong sự suy nghó chân chánh sáng suốt tu phạm hạnh và những phép tắc oai nghi như người trăm tuổi hạ. Phật đem y Tăng-già-lê che trên đỉnh đầu Tỳ-kheo Quang Minh, các căn đều vắng lặng, một lòng ở trong chánh pháp. Bấy giờ, trong hư không có tiếng khen ngợi: –Ở vào thời có Phật, Tỳ-kheo Quang Minh tròn đầy ý nguyện, lại phát sinh ý chí mạnh mẽ chắc chắn, xem xét năm đường sinh tử luân hồi, xoay vần chuyển động không lúc nào ngừng. Các nghiệp của chúng sinh mỗi loài khác nhau, hiện rõ trong sự sống chết. Chỉ có chánh pháp của Phật mới có thể giải thoát. Quan sát vậy rồi thấy pháp bốn Đế, hiểu rõ sinh tử, xa lìa tưởng tham ái của ba cõi. Xem các vật báu vàng ròng cũng như đất bùn, dứt các phiền não, chứng quả A-la-hán, đều đầy đủ ba minh, sáu thông cao tột không ai bằng, bay đi trên hư không tự tại như ý. Tất cả tiếng khen và lợi dưỡng ở đời không tham đắm. Chư Thiên, Thích, Phạm đều đến cúng dường. Khi ấy, các chúng Tỳ-kheo trong hội thấy sự việc này sinh lòng nghi ngờ, cùng bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Tỳ-kheo Quang Minh này vì nhân duyên gì khi chưa xuất gia, ở trong cõi người thọ hưởng được phước trời. Vào trong pháp Phật, vừa mới xuất gia liền trừ tất cả phiền não, chứng A-la-hán? Phật bảo các Tỳ-kheo: –Tỳ-kheo Quang Minh này đời trước căn lành đã thuần thục, đã được lợi ích, chắc chắn như vậy. Cho nên Tỳ-kheo Quang Minh vì duyên thiện đó mà được quả như thế. Các Tỳ-kheo nên biết! Các quả báo của nghiệp đều do nguyên nhân tự mình làm ra, không phải được thành tựu do địa giới bên ngoài, cũng không phải do đất, nước, gió, lửa, không phải được thành tựu do các uẩn, xứ, giới. Thiện hay ác đều do nghiệp của chính mình mà nhận lấy quả báo. Bấy giờ, Đức Thế Tôn vì các Tỳ-kheo nói kệ khen ngợi: Tất cả chúng sinh đã tạo nghiệp Trải qua trăm kiếp cũng không mất Đến một lúc nhân duyên hòa hợp Sẽ theo đó nhận lấy quả báo. Phật bảo các Tỳ-kheo: –Các ông lắng nghe! Tỳ-kheo Quang Minh do nhân duyên nơi đời quá khứ, cách đây chín mươi mốt kiếp, có Phật ra đời hiệu là Tỳ-bà-thi gồm đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Đức Phật đó cùng với sáu trăm hai mươi vạn chúng Tỳ-kheo đi khắp trong thành của nước lớn Mãn-độ-ma-để, rồi ở lại một nơi. Vua của nước ấy tên là Mãn-độ-ma, rất tin chánh pháp, dùng chánh pháp trị nước. Đất nước rộng lớn, dân chúng hùng mạnh, giàu có, an ổn, không có các nạn bệnh khổ, đói khát, cũng không có chiến tranh oán hại, trộm cắp, sợ hãi. Muôn dân hòa thuận, đầy đủ tướng thiện. Trong thành ấy, có một Trưởng giả tên là Tích Tài, tin tưởng chánh pháp. Nhà giàu có, của báu vô lượng, ngang bằng Thiên vương Tỳ-sa-môn. Bấy giờ, Trưởng giả biết Như Lai Tỳ-bà-thi và chúng Tỳ-kheo đã đến trong thành, liền nghó: “Ta muốn mời Phật và chúng Tỳ-kheo để cúng dường các thức ăn uống và nhà ở trong ba tháng.” Nghó xong liền đến chỗ Phật, đầu mặt làm lễ dưới chân Phật, lui ra ngồi qua một bên. Phật Tỳ-bà-thi liền tùy theo ý Trưởng giả chỉ dạy pháp thiện lợi, giảng nói các điều quan trọng. Trưởng giả Tích Tài nghe chánh pháp rồi, từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa y phục ngay ngắn, chắp tay hướng về Phật và thưa: –Bạch Thế Tôn! Nay con thỉnh mời Phật và chúng Tỳ-kheo đến nhà con. Con xin cúng dường trong ba tháng các thức ăn uống và nhà ở. Tất cả các nhu cầu đều cung cấp đầy đủ. Xin Phật mở lòng thương nhận lời con thỉnh mời. Phật Tỳ-bà-thi im lặng. Trưởng giả Tích Tài thấy Phật im lặng, biết Phật đã nhận lời, lòng rất vui mừng, đầu mặt lễ sát chân Phật, ra khỏi hội Phật, trở về nhà mình. Lúc ấy, vua Mãn-độ-ma nghe Phật Tỳ-bà-thi và sáu trăm hai mươi vạn chúng Tỳ-kheo đến thành của nước mình, liền nghó: “Nay ta sẽ thỉnh mời Phật và chúng Tỳ-kheo về trong cung để cúng dường các thức ăn uống và nhà ở an cư trong ba tháng. Tất cả nhu cầu sẽ tùy theo mà cung cấp đủ.” Nghó xong, cùng quan hầu thân cận đến nơi Phật. Đến rồi, đầu mặt lễ sát chân Phật, rồi lui xuống ngồi một bên. Lúc ấy, Phật tùy theo ý muốn, chỉ dạy thiện lợi, giảng pháp chính yếu. Vua nghe rồi, từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay hướng về Phật, bạch: –Bạch Thế Tôn! Nay con thỉnh Phật và chúng Tỳ-kheo đến trong cung. Con xin cúng dường thức ăn uống trong ba tháng an cư. Tất cả nhu cầu ăn uống, y phục, thuốc thang, giường nằm, tùy theo đó mà cung cấp cúng dường đầy đủ. Xin Phật mở lòng lành thương xót nhận lời con thỉnh mời. Phật bảo: –Này đại vương! Ta đã nhận lời thỉnh mời của Trưởng giả Tích Tài trước rồi. Vua thưa: –Xin Phật đến cung, con xin cúng dường thức ăn uống. Con sẽ ra lệnh cho Trưởng giả Tích Tài. Phật bảo: –Đại vương! Theo pháp thì không nên làm trái lời đã thỉnh mời trước. Vua Mãn-độ-ma đầu mặt lễ sát chân Phật Tỳ-bà-thi, rồi từ hội Phật trở về cung, rồi sai sứ đến nhà Trưởng giả Tích Tài, truyền lệnh vua: –Ông nên biết! Vua đã thỉnh Phật Tỳ-bà-thi và chúng Tỳ-kheo trước. Ông có thể làm thức ăn cúng dường vào một ngày khác. Trưởng giả Tích Tài nói với sứ giả: –Xin vua xót thương, tôi đã thỉnh mời Phật và chúng Tỳ-kheo trước. Sứ giả trở về tâu vua. Vua lại sai sứ đến nói với Trưởng giả: –Nay ông ở trong nước ta, theo lý thì nên để cho ta thỉnh Phật trước. Trưởng giả nói với sứ giả: –Nếu đại vương nói ở trong nước vua, vua phải được thỉnh trước, về lý thật không đúng. Xin vua chớ nên gây trở ngại. Sứ giả trở về tâu lại như vậy. Vua lại sai sứ giả nói với Trưởng giả: –Nên biết! Giả như ngươi có thỉnh rồi, ta cũng không gây trở ngại. Nhưng nếu ngươi có thể làm thức ăn thơm ngon, Phật sẽ tự đến. Trưởng giả Tích Tài nghe nói, liền ngay đêm ấy, dùng củi thơm để đốt nấu làm ra các thứ thức ăn uống sạch sẽ, mùi vị thơm ngon. Vua Mãn-độ-ma ở trong cung cũng làm các thức ăn uống. Đến sáng sớm ngày hôm sau, trong nhà Trưởng giả đã trải bày giường tòa trang nghiêm tốt đẹp và những bình nước sạch. Sắp xếp xong rồi, sai người đến chỗ Phật, bạch với Phật: –Thức ăn uống đã làm xong, giờ ăn cũng đã đến. Xin Phật đến dự. Nay đã đúng lúc. Bấy giờ, Phật Tỳ-bà-thi cùng chúng Tỳ-kheo đúng giờ, đắp y, bưng bình bát đến nhà Trưởng giả Tích Tài, nhận sự cúng dường. Đến nơi, trước tiên Phật rửa chân, rồi ngồi trên tòa tốt đẹp nhất. Các chúng Tỳ-kheo mỗi người cũng đều rửa chân, ngồi theo thứ tự. Trưởng giả Tích Tài chắp tay cung kính, lễ sát chân Phật. Lễ rồi, tự bưng thức ăn thơm ngon dâng lên Phật Thế Tôn và lần lượt dâng đến các Tỳ-kheo. Phật và chúng Tỳ-kheo ăn xong, thâu lấy y bát, rửa tay sạch sẽ, lần lượt ngồi yên lặng. Trưởng giả Tích Tài cũng ngồi cung kính ở trước Phật, lắng nghe Phật nói pháp. Khi đó, Phật Tỳ-bà-thi tùy theo khả năng của Trưởng giả Tích Tài, chỉ dạy lợi hành, giảng nói pháp chính yếu. Trưởng giả nghe pháp rồi rất vui mừng, đảnh lễ sát chân Phật. Trưởng giả Tích Tài cúng dường xong rồi, Phật ra khỏi nhà ông ấy. Lúc này, vua Mãn-độ-ma còn ở trong cung làm thức ăn uống, muốn cho hơn Trưởng giả. Vua bảo cận thần: –Ở trong cung ta, quyến thuộc phi tần rất đông. Người nào làm thức ăn thơm ngon hảo hạng hơn Trưởng giả Tích Tài? Cận thần tâu: –Đại vương phải cấm các người bán củi. Trưởng giả sẽ không có củi để nấu được thức ăn ngon cúng dường Phật. Vua y như lời nói, ra lệnh cấm bán củi. Nếu người nào cố bán sẽ bị đuổi ra khỏi nước. Trưởng giả Tích Tài nghe có lệnh cấm bán củi, sinh lòng tức giận, nói: –Trong nhà của ta đã có gỗ thơm, còn cần gì củi, để đốt thân mình sao? Trưởng giả ở nhà, lấy gỗ hương và dùng dầu thơm đốt nấu làm thức ăn. Mùi thơm ấy tỏa khắp trong thành lớn. Vua Mãn-độ-ma nghe mùi thơm này, hỏi cận thần: –Mùi thơm này từ nơi nào bay đến? Cận thần thưa: –Mùi thơm này từ nhà của Trưởng giả Tích Tài, ông ấy đem gỗ thơm đốt nấu làm thức ăn uống nên các mùi thơm ấy bay đến nơi này. Vua nghe nói thế, biết Phật đã nhận lời thỉnh mời và đã đến nhà của Trưởng giả, liền buồn rầu bảo với cận thần: –Trong cung của ta sao không có gỗ thơm? Cận thần tâu: –Ngoài chợ không có gỗ thơm, làm sao ông ta có được? Đại vương nên biết! Trưởng giả Tích Tài nhà tuy giàu có nhưng không có con, sau khi qua đời sẽ không có người nối nghiệp, mọi thứ hiện có ở đấy sẽ thuộc về đại vương. Vua Mãn-độ-ma dù nghe nói vậy nhưng cũng không vui. Cận thần tâu: –Đại vương đừng nên buồn rầu. Người nên thỉnh mời Phật để cúng dường vào ngày khác như đã muốn. Thần sẽ có cách làm hơn Trưởng giả kia. Khi cận thần nói vậy rồi, vua liền ra lệnh những người ở trong thành Mãn-độ-ma-để, phải dọn sạch hết tất cả cát, đá, sỏi và các vật dơ nhớp, dùng nước thơm Chiên-đàn rảy cho thơm, đốt các hương thơm, đem các đồ quý báu, chân châu treo khắp nơi, trồng các cờ phướn, rải đủ các loại hoa, tất cả giống như vườn Hoan hỷ ở cõi trời không khác, luôn trong sáng, trang nghiêm đầy đủ các báu. Trang trí tòa ngồi rất rộng lớn, bằng đủ các thứ báu tốt, đầy đủ các thức ăn mùi thơm ngon thượng hạng, hương sắc trong sạch, mùi vị ngon như mùi vị tô-đà ở cõi trời. Thức ăn như vậy đáng nên cúng dường ba cõi trung tôn. Sắp đặt xong rồi, các cận thần tâu: –Thành lớn này trong ngoài đều sạch sẽ, các thứ đều trang nghiêm. Thức ăn hảo hạng đều đã làm xong. Xin vua thỉnh mời Phật về để cúng dường. Vua Mãn-độ-ma thấy việc này lòng rất vui mừng, bèn sai sứ giả đến chỗ Phật Tỳ-bà-thi, bạch với Phật: –Xin Phật đến dự bữa cơm đã làm xong. Nay là đúng lúc. Bấy giờ, Phật Tỳ-bà-thi và chúng Tỳ-kheo đắp y, bưng bình bát đến cung vua Mãn-độ-ma nhận sự cúng dường. Đến nơi, trước tiên Phật rửa chân, ngồi trên tòa tốt nhất và cao đẹp nhất. Các chúng Tỳ-kheo cũng rửa chân, ngồi theo thứ tự. Vua Mãn-độ-ma bưng bình báu an lành, từ Phật trở xuống, dâng nước rửa đều khắp. Nhờ thần lực của Phật, có rồng an lành đứng giữa hư không, cầm trăm cái lọng che trên đỉnh đầu Phật Thế Tôn và các Tỳ-kheo. Đại phu nhân của vua cầm quạt làm bằng các thứ vàng, châu báu trang nghiêm tốt đẹp đứng hầu một bên Phật. Các cung tần khác cũng cầm quạt báu, đứng hầu bên các Tỳ-kheo. Vua Mãn-độ-ma làm lễ dưới chân Phật. Lễ rồi, bưng thức ăn thơm ngon hảo hạng, kính dâng Thế Tôn, sau đó dâng đến các Tỳ-kheo. Khi ấy, Trưởng giả Tích Tài biết Phật cũng đến nơi vua Mãn-độ-ma mời thỉnh. Ông liền sai người đến đó, lén xem các việc được xếp bày, các thức ăn uống ngon dở ra sao. Người này đến chỗ vua, thấy hết các việc đẹp đẽ lạ kỳ như vậy nên quên, ở lại không về. Trưởng giả sai thêm người thứ hai đi, cũng lại không về. Cuối cùng Trưởng giả tự đi đến nơi ấy. Đến nơi, thấy các việc cúng dường thật đầy đủ, bèn nghó: “Trong cung vua được sắp đặt như vậy, không biết là do người nào làm? Nhà ta không có người nào làm được như vậy.” Nghó rồi, trở về nhà mình, nói với người giữ kho: –Ông có thể lấy vàng bạc, châu báu treo ở trên cửa, có người đến cầu xin gì thì cho, không cần dẫn vào đây, ta không muốn gặp. Trưởng giả Tích Tài nói xong, vào nhà, ngồi yên một chỗ, ưu sầu buồn bã. Bấy giờ, Thiên chủ Đế Thích dùng Thiên nhãn quan sát, thấy việc này rồi nghó: “Trong cõi này, Trưởng giả Tích Tài là người đã bố thí cúng dường Phật Tỳ-bà-thi, là thí chủ đứng hàng đầu, có lòng tin trong sáng. Ta nên biến thân mình để giúp đỡ ông ấy.” Nghó rồi, Thiên chủ Đế Thích ẩn thân hiện ra tướng Bà-la-môn, đến chỗ của Trưởng giả Tích Tài nói với người giữ cửa: –Ông vào nhà báo với Trưởng giả: Có Bà-la-môn, dòng Kiều-thi-ca đang ở ngoài cửa, muốn gặp Trưởng giả. Người giữ cửa nói: –Trưởng giả đã dặn: “Nếu có người đến xin, cần gì thì cho, không nên dẫn vào.” Ông là Bà-la-môn, nếu muốn gì, nên lấy đi, sao lại đòi gặp Trưởng giả? Bà-la-môn nói: –Ta không xin các thứ đồ vật, chỉ muốn xin gặp Trưởng giả. Ông nên vì tôi mau vào báo rõ. Người giữ cửa vào thưa: –Có một người Bà-la-môn dòng Kiều-thi-ca đang ở ngoài cửa, muốn gặp Trưởng giả. Trưởng giả bảo: –Ngươi có thể nói với Bà-la-môn: Nếu có xin gì nên lấy đi, sao lại đòi gặp ta? Người giữ cửa ra nói lại như vậy. Bà-la-môn lại nói: –Ta không xin gì. Chỉ muốn được gặp Trưởng giả. Người giữ cửa lại vào thưa Trưởng giả. Trưởng giả đồng ý cho người ấy vào gặp. Bà-la-môn vào rồi, nói với Trưởng giả: –Vì sao ông buồn rầu không vui? Có điều gì lo âu phải không? Lúc đó, Trưởng giả nói kệ: Ta không nói việc buồn Nói cũng không thể thoát Nếu làm ta thoát được Ta sẽ nói với ông. Bà-la-môn nói: –Ông hãy nói rõ nguyên nhân buồn rầu, tôi sẽ giải tỏa việc ấy cho ông. Trưởng giả Tích Tài nói hết nguyên nhân rồi, Thiên chủ Đế Thích liền thâu tướng Bà-la-môn, hiện trở lại thân của mình, nói với Trưởng giả: –Tôi là Thiên chủ Đế Thích. Tôi sẽ sai Thiên tử Tỳ-thủ-yết-ma đến giúp cho ông làm thức ăn thơm ngon để cúng dường Phật. Nói rồi, ẩn về cung trời, truyền lệnh cho Thiên tử Tỳ-thủ-yết-ma: –Ông đến nhà của Trưởng giả Tích Tài bí mật giúp làm thức ăn cúng dường Phật, không phải là tốt sao? Thiên tử vâng lệnh Thiên chủ Đế Thích, dùng thần lực xuống giúp đỡ cho Trưởng giả. Dùng sức thần thông biến thành rộng lớn, làm cho thảy đều trong sáng, xếp bày các thứ vật dụng châu báu thật trang nghiêm tốt đẹp, như cảnh ở cõi trời. Tòa báu giống cõi trời, thức ăn ngon cõi trời thảy đều đầy đủ. Có vua rồng Ái-la-phược-nỗ đứng trong hư không cầm trăm lọng che trên đỉnh đầu Phật. Các rồng an lành, mỗi con cầm một cái lọng che trên đỉnh đầu các Tỳ-kheo. Có đồng nữ cõi trời cầm quạt bằng vàng báu trang nghiêm cao tột đứng hầu bên Đức Phật. Các Thiên nữ khác cũng cầm quạt báu đứng bên các Tỳ-kheo. Bấy giờ, Trưởng giả Tích Tài bưng các thức ăn thơm ngon cung kính dâng lên Phật và chúng Tỳ-kheo. Lúc ấy, vua Mãn-độ-ma bảo sứ giả: –Ông đến nhà Trưởng giả Tích Tài, lén xem nhà ấy xếp bày thức ăn và các thứ trang nghiêm ra sao? Sứ giả vâng lệnh, đến nhà Trưởng giả, thấy hết các việc trang nghiêm, xem xong quên trở về. Vua lại sai người khác đi, cũng quên trở về. Thái tử đi, cũng không về. Cuối cùng, vua tự đến nơi ấy, lén đứng bên ngoài cửa. Bấy giờ, Phật Tỳ-bà-thi biết vua ở bên ngoài, mới bảo Trưởng giả Tích Tài: –Trước, ông nói lời không tốt với vua Mãn-độ-ma, ấy thật là tội lỗi. Nay vua ở ngoài cửa nhà ông, ông mau ra xin tạ tội. Trưởng giả liền ra ngoài, thấy vua rồi xin tạ tội, rước vua vào. Vua vào nhà, thấy các thức ăn thơm ngon, các thứ trang nghiêm tốt đẹp ở cõi trời. Thấy xong, đều quên hết các việc trước kia. Vua nói với Trưởng giả: –Ông đã cúng dường Phật các thứ cao tột như vậy. Nếu như mỗi ngày có thể cúng dường Phật và chúng Tỳ-kheo thì không có gì so sánh được. Trưởng giả Tích Tài lòng sinh thanh tịnh, lễ trước chân Phật, phát nguyện: –Xin cho con nhờ phước đức cúng dường Phật và chúng Tỳ-kheo, như là đã làm căn lành, đời sau sẽ được giàu có tự tại, đầy đủ tất cả. Sinh vào nơi nào trong cõi người cũng đều được thọ hưởng phước trời, không sinh lòng tham lam, xa lìa nghiệp tham, được pháp thiện lợi như ngày hôm nay. Ở trong chánh pháp của Phật, theo Phật xuất gia. Phát nguyện xong, Phật Tỳ-bà-thi và chúng Tỳ-kheo đến nhà Trưởng giả an cư trong ba tháng. Bấy giờ, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni bảo các Tỳ-kheo: –Ý các ông như thế nào? Lúc ở trong pháp hội của Phật Tỳ-bà-thi, Trưởng giả Tích Tài đâu phải người nào khác, nay chính là Tỳ-kheo Quang Minh. Vì khi ấy, nói lời không tốt với vua Mãn-độ-ma nên phải chịu quả báo: Trong năm trăm đời đều cùng mẹ bị lửa đốt. Cho đến đời này cũng lại như vậy. Nhưng do đời trước đã trồng căn lành, ở thời Phật Tỳ-bà-thi và phát nguyện lớn, nay đã thành thục, làm Trưởng giả giàu có, đầy đủ tất cả, ở trong cõi người thọ hưởng phước trời, làm việc thiện lợi cho đến các việc oai lực. Vào thời Phật Tỳ-bà-thi và cuối cùng đang ở trong pháp của ta xuất gia học đạo, dứt các phiền não, chứng A-la-hán. Các Tỳ-kheo! Do nhân duyên này, các ông nên biết, tất cả chúng sinh nếu tạo một nghiệp đen, chắc chắn phải chịu một quả báo đen. Nếu tạo một nghiệp trắng, chắc chắn sẽ nhận được một quả báo trắng. Vậy nên các Tỳ-kheo, Nghiệp nhân đen hoặc trắng, đều có một quả báo, chắc chắn không mất. Phải biết tất cả đều do mình đã làm ra. Tỳ-kheo các ông nên tu học như vậy. Phật giảng nói kinh này xong, các chúng Tỳ-kheo đã nghe Phật nói đều rất vui mừng, tin nhận, vâng làm. <卷 id="117591698">