<經 id="n411">KINH ĐẠI THỪA ĐẠI TẬP ĐỊA TẠNG THẬP LUÂN Hán dịch: Tam tạng Pháp sư Huyền Trang. <卷 id="117270427">Quyển 1 <詞 id="117270428">Phẩm 1: Tựa Tôi nghe như vầy: Một thời, Đức Thế Tôn cùng với đại chúng Tỳ-kheo, vô số chúng đại Thanh văn Tăng và chúng Đại Bồ-tát, vô số chúng Đại Bồ-tát Tăng trụ tại núi Khư-la-đế-da, trú xứ của chư Tiên ẩn só. Sau khi Phật thuyết kinh Nguyệt Tạng xong, ở phương Nam nổi lên vầng mây hương lớn, làm mưa hương thơm lớn; nổi lên vầng mây hoa lớn, làm mưa hoa lớn; nổi lên vầng mây đồ trang sức quý báu tốt đẹp lớn, làm mưa đồ trang sức quý báu tốt đẹp lớn; nổi lên vầng mây y phục xinh đẹp lớn, làm mưa y phục xinh đẹp lớn. Các vầng mây, trận mưa này đầy khắp núi ấy, đầy khắp trú xứ của chư Tiên ẩn só. Từ các hương hoa, vật trang sức quý báu, y phục đó phát ra hàng trăm ngàn âm thanh thuyết pháp vi diệu như: Âm thanh quy kính Tam bảo, âm thanh thọ trì học xứ, âm thanh nhẫn nhục nhu hòa, âm thanh tinh tấn dũng mãnh, âm thanh hàng phục bốn ma, âm thanh hướng đến trí tuệ, âm thanh danh xưng rộng lớn vang khắp ba cõi, âm thanh khuyên tu pháp niệm định Tổng trì thù thắng, âm thanh không vô tướng vô nguyện, âm thanh nhàm chán xa lìa tham dục, âm thanh sắc như bọt nước, âm thanh thọ như bong bóng nước, âm thanh tưởng như bóng nắng, âm thanh hành như thân cây chuối, âm thanh thức như việc huyễn hóa, âm thanh vô thường vô ngã không, âm thanh hổ thẹn, âm thanh xa lìa, âm thanh hộ niệm, âm thanh Từ, Bi, Hỷ, Xả, âm thanh chứng đắc các pháp, âm thanh Niết-bàn sinh Thiên, âm thanh hướng đến ba thừa, âm thanh chuyển đại pháp luân, âm thanh mưa pháp lớn, âm thanh giáo hóa hữu tình, âm thanh độ thoát ba đường ác, âm thanh tu tập viên mãn sáu pháp Ba-la-mật, âm thanh phương tiện thiện xảo, âm thanh hướng đến mười Địa, âm thanh thần thông diệu dụng, âm thanh Đại thừa diệu dụng vô thượng thanh tịnh, âm thanh quả vị không thoái chuyển, âm thanh pháp Nhẫn vô sinh, âm thanh quả vị thọ pháp quán đảnh, âm thanh hướng vào biển lớn của tất cả chư Phật. Bấy giờ, tất cả đại chúng đến dự hội đều thấy các vầng mây, trận mưa như vậy, cũng đều nghe các âm thanh thuyết pháp như vậy. Tùy theo ý muốn, mỗi người đều được các loại trang sức ở nơi thân như Hương hoa, đồ trang sức quý báu, y phục và hai tay đều cầm hạt châu như ý. Từ trong mỗi hạt châu như ý này mưa ra các vật báu, cũng từ trong mỗi hạt châu như ý lại phóng ra các ánh sáng. Nhờ ánh sáng đó, mỗi mỗi chúng sinh đều thấy hằng hà sa số cõi Phật trong mười phương. Lại nữa, nhờ ánh sáng đó, chúng sinh thấy các cõi Phật, mỗi Đức Thế Tôn đều có vô lượng chúng hội cung kính vây quanh. Lại nhờ ánh sáng đó, chúng sinh thấy các cõi Phật. Tất cả hữu tình nếu ai có bệnh, nhờ ánh sáng này chiếu đến, các bệnh đều tiêu trừ. Nếu ai bị giết hại và bị ngục tù, nhờ ánh sáng này chiếu đến đều được thoát khỏi. Chúng sinh nào thân, miệng, ý nặng nề ô uế, nhờ ánh sáng này đều được nhẹ nhàng, thanh tịnh, những người đói khát đều được no đủ. Những người bị các hình phạt bức bách, nhờ ánh sáng này đều được xa lìa đau khổ. Những người thiếu y phục, đồ trang sức quý, châu báu, của báu, nhờ ánh sáng này chiếu đến đều được đầy đủ như ý. Các hữu tình nào ưa thích sát sinh, cho đến ưa thích tà kiến, nhờ ánh sáng này chiếu đến đều được ưa muốn xa lìa sát sinh cho đến xa lìa tà kiến. Các hữu tình nào vì mong cầu các thứ không được nên đau khổ bức bách, nhờ ánh sáng này chiếu đến cũng đều được như ý. Lại nhờ ánh sáng này, mà thấy các cõi Phật, tất cả hữu tình chịu các khổ, đều được dừng nghỉ, đều được vui vẻ hưởng các thú vui. Lại thấy trong các cõi Phật như vậy, nhờ ánh sáng đó chiếu đến mà được xa lìa tất cả đám mây mờ, sương mù, âm thanh kinh hồn của gió lớn, mưa to và các mùi hôi, vị đắng cay, xúc chạm vật rùng rợn, xa lìa tất cả nghiệp ác, lời nói xấu ác, ý nghó ác, không theo tà kiến ngoại đạo, không lạnh, không nóng, an tịnh, thản nhiên như đất bằng, như lòng bàn tay, đầy đủ các thú vui ở nơi đó. Khi ấy, chúng hội đều ngạc nhiên, mặt đất càng thêm cứng chắc, khó mà lay chuyển được. Mọi người thấy điều này đều kinh ngạc, nghi ngờ không biết do đâu mà hiện ra tướng này. Ở trong chúng hội có trời Đế Thích tên là Vô Cấu Sinh, ngồi cách Đức Thế Tôn không xa, liền đứng dậy đảnh lễ Thế Tôn, chắp tay hướng đến Phật nói kệ: Nói, thấy đều chân thật Bậc Thiện Trụ Mâu-ni Vì chúng sinh thuyết giảng Pháp cứu cánh chắc thật Khiến các loài hữu tình Diệt khổ và nhân khổ Ở đây do duyên nào Hiện các vầng mây mưa. Làm cả chúng vui mừng Đều sinh tâm tịnh tín Và hướng đến Đại thừa Thoát nghi, sinh chính kiến. Thân trời, người, đại chúng Mặt đất thêm bền chắc Không thể lay động được Tướng này do duyên nào? Châu hiện trong hai tay Mưa báu phóng ánh sáng Chiếu mười phương diệt tội Hết khổ được an vui. Đạo sư do duyên nào Làm cả chúng được thấy Các loại vòng hương hoa Trang sức nơi thân mình. Trời người đều do dự Không biết do duyên nào? Có ai sắp đến đây Hiện thần thông, oai lực Đó là Phật, Bồ-tát Hay Phạm, Ma, Đế Thích? Nguyện xin Đức Đạo Sư Giảng thuyết cho đại chúng. Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo trời Đế Thích Vô Cấu Sinh: –Các ông nên biết! Có Đại Bồ-tát tên là Địa Tạng đã trải qua vô lượng, vô số đại kiếp, ở đời năm trược xấu ác, không có Phật ra đời để giáo hóa hữu tình. Hôm nay, cùng tám mươi trăm ngàn na-dữu-đa tần-bạt-la Bồ-tát sắp đến đây kính lễ, thân cận, cúng dường ta. Vì thấy đại chúng trong chúng hội tùy hỷ nên Bồ-tát cùng các quyến thuộc hóa làm Thanh văn sắp đến đây, dùng thần thông oai lực hiện các biến hóa này. Đại Bồ-tát Địa Tạng đây có vô lượng, vô số công đức thù thắng trang nghiêm không thể nghó bàn, tất cả thế gian Thanh văn, Độc giác, không ai có thể sánh bằng. Đại Bồ-tát này, là kho tàng chứa các công đức vi diệu, là nơi sinh ra các trân bảo giải thoát, là con mắt sáng trong của các Bồ-tát, là người dẫn đường đi đến Niết-bàn, là như hạt châu như ý mưa xuống các châu báu, tùy theo mong cầu mà làm cho đầy đủ, như các thương nhân đi nhặt của báu trên đảo, là có thể làm sinh trưởng ruộng tốt căn lành, có thể tích chứa nhiều pháp an lạc, giải thoát; là bình tốt trút ra công đức vi diệu, khi chiếu đến người làm thiện như ánh sáng mặt trời, khi chiếu đến người lạc đường cũng như đuốc sáng, lại trừ nhiệt phiền não như ánh trăng dịu mát, như người bị què được xe, như người đi xa chuẩn bị đầy đủ hành lý, lương thực, như người lạc đường gặp được người chỉ dẫn, như người cuồng loạn được uống thuốc hay, như người bệnh tật gặp thầy thuốc giỏi, như người già yếu nương nhờ vào cây gậy, như người mệt mỏi được nghỉ ở giường cao, như cây cầu để vượt qua bốn dòng nước, như thuyền bè để đi đến bờ kia. Quả báo thù thắng của ba căn lành này là kết quả tương ưng từ cái gốc của ba căn lành ấy, thường thực hành bố thí như bánh xe luôn quay chuyển, kiên trì giữ giới như núi Diệu cao, tinh tấn khó làm thoái lui như kim cang báu, nhẫn nhục không lay động như mặt đất, thiền định thâm sâu như kho tàng bí mật, định trang nghiêm như tràng hoa đẹp, trí tuệ sâu rộng như biển cả, không đắm nhiễm như hư không rộng lớn, diệu quả cận nhân như hoa và lá, điều phục ngoại đạo như Sư tử vương, dẹp tan các thiên ma như Đại long tượng, chặt đứt giặc phiền não như cây kiếm thần, chán sự ồn náo như người tu Độc giác thừa, tẩy sạch cấu bẩn phiền não như nước trong sạch, có thể tẩy trừ ô uế như gió thổi mạnh, chặt đứt các trói buộc như dao kiếm bén, che chở cho người sợ hãi như thân thuộc bạn bè, đề phòng các oán địch như hào như thành, cứu các ách nạn như cha mẹ, che chở cho những người khiếp sợ hèn hạ như rừng cây, như mùa Hạ đi xa được núp vào bóng cây to, cho người nóng khát được uống nước trong mát, cho người đói quả ngon ngọt, cho áo quần đối với người thiếu y phục, làm đám mây che mát cho người nóng bức, cho người nghèo có châu như ý, làm nơi nương tựa cho người sợ hãi, làm trận mưa thấm ướt đất cho người cày cấy, làm cho nước đục trở nên trong bằng châu Nguyệt ái, làm cho căn lành của các hữu tình không bị hư hoại, hiện cảnh giới tốt đẹp làm cho mọi người vui thích, khuyên các hữu tình biết phát triển sự hổ thẹn, làm cho người cầu phước tuệ được đầy đủ trang nghiêm, hay trừ phiền não như thuốc xổ, có thâu tóm tâm tán loại như cảnh giới thiền định, biện tài vô ngại như bánh xe nước, thu thúc tâm và nắm giữ công việc như xem diệu sắc, nhẫn nhục kiên cố như núi Diệu cao, Tổng trì sâu rộng như biển cả, thần túc vô ngại như hư không, diệt trừ tất cả những tập khí mê mờ che lấp như ánh nắng mặt trời làm tan lớp băng mỏng, thường đến đảo tónh lự quý báu vô sắc chính đạo trí Nhất thiết trí, đạt được vô công dụng chuyển pháp luân. Này thiện nam! Đại Bồ-tát Địa Tạng này đầy đủ vô lượng, vô số công đức thù thắng chẳng thể nghó bàn như vậy, đã cùng các quyến thuộc muốn đến đây, đã hiện ra trước các tướng thần thông như trên. Đức Thế Tôn nói về các công đức của Bồ-tát Địa Tạng rồi, bấy giờ Đại Bồ-tát Địa Tạng cùng với tám mươi trăm ngàn vô số Bồ-tát dùng oai lực thần thông hiện tướng Thanh văn từ phương Nam đến đứng trước Phật, cùng các quyến thuộc cung kính đảnh lễ dưới chân Thế Tôn, nhiễu quanh bên phải ba vòng rồi đến trước Như Lai chắp tay nói kệ khen ngợi: Đạo Sư Lưỡng Túc Tôn Tâm Từ thường che khắp An nhẫn như đại địa Trừ hết tâm sân hận. Đủ tướng tốt thù thắng Trang nghiêm các cõi Phật Hay dùng tâm Từ bi Ban rải thế gian. Cắt đứt các lưới ái An trụ đúng như thật Bỏ các cõi thanh tịnh Độ chúng sinh ô nhiễm. Nguyện giáo hóa cõi uế Thành thục chúng sinh ác Tinh tấn thêm bền vững Từ lâu tu hạnh khổ. Từ lâu tu khổ hạnh Ai nghe cũng kinh sợ Tu hạnh thí, giới, nhẫn Và tinh tấn, định, tuệ. Từng cúng dường vô lượng Phật, Bồ-tát, Thanh văn Và cứu giúp hữu tình Xả bỏ nhiều thân mạng. Hạnh nguyện vì chính pháp Bỏ nhiều xương máu thịt Quên niềm vui của mình Thương xót các hữu tình. Thường vì các chúng sinh Siêng tu đoạn lưới mê Khéo hộ trì sáu căn Thường xa lìa các dục. Quán hữu vi vô thường Khổ, không, vô ngã tính Các nghiệp khổ tăng trưởng Đều do nhân tham ái. Nên trước tiên sáu căn Là đoạn hẳn tham dục Đối với khắp hữu tình Thường an trụ Đại Bi. Tuy đắc đạo thù thắng Nhưng không bỏ bản nguyện Thấy các loài hữu tình Chịu các khổ bức bách. Liền siêng năng tinh tấn Dũng mãnh để cứu độ Khiến siêng tu thí, giới Nhẫn, tinh tấn, định, tuệ. Như mẹ với con một Thương yêu lo nuôi dưỡng Nguyện với loài hữu tình Tâm Từ ban bố khắp. Nên mau chứng Bồ-đề Độ thoát vô lượng chúng Tu hành hạnh Bồ-tát Đều vì các chúng sinh. Nay đối với hữu tình Không xả bỏ sáu Độ Xưa nguyện đời mạt pháp Mong cầu đạo vô thượng. Nay vào đời mạt thế Mau thành Vô thượng giác Điều phục các ác kiến Trời, Rồng, Người, Dạ-xoa. An trụ đoạn các hoặc Như Thánh đạo kim cang Thọ ký nhiều hữu tình Chứng đắc đạo thù thắng. Dẫn đường các La-hán Ruộng phước lành tối thượng Thế Tôn không ai bằng Che khắp các chúng sinh. Vô lượng các tiếng khen Vang khắp mười phương cõi Vì thế các Bồ-tát Đã làm xong việc mình. Đều cùng đến quy y Dưới chân Đại Mâu-ni Nghe thuyết pháp vi diệu Đều sinh tâm hoan hỷ. Tăng thêm sự tinh tấn Tu tập hạnh Bồ-tát Nhờ pháp lực Đạo sư Đều mau chứng Bồ-đề. Nên nay Bậc Đạo Sư Tập hợp chưa từng có Mười ba triệu Dược-xoa Thường ăn các máu thịt. Đều bỏ nghiệp ác ấy Mau đến đạo Bồ-đề Đắc Tổng trì thù thắng An nhẫn và tónh lự. Đoạn hẳn các lậu, hoặc Bậc Ứng Cúng thế gian Tu tập bốn Vô lượng An trụ bốn Nhiếp pháp. Đạt được bốn Biện tài An trụ trong hạnh nhẫn Chứng đắc định kiện hành Có tuệ nhãn vi diệu. An trụ Vô sinh nhẫn Đều do lực Đạo sư Thế Tôn, đại oai đức Diệt trừ các ma oán. Hàng phục các ngoại đạo Chín mươi lăm loài khác Tận địa ngục, súc sinh Ngạ quỷ, Phi nhân, Thiên Nên hữu tình chân thật Đều quy y Thế Tôn. Nay dứt trừ đao binh Bệnh dịch, giặc, đói khát Độ kẻ mất chính đạo Các chúng sinh đui mù. Các phiền não cuồng loạn Đều tịch tónh an lạc Nên con bỏ các duyên Đến lễ kính Thế Tôn. Vô biên các cõi Phật Các Đạo sư hiện tại Đều khen ngợi Thế Tôn Người nào nghe cũng đến. Con nghe Đấng Biến Tri Đức chân thật vô biên Độ thoát các hữu tình Tâm hoan hỷ lễ kính. Đã tu vô lượng phước Nay được lễ Thế Tôn Nghiệp trong vô lượng kiếp Thường tu tập cúng dường. Nay con học Thế Tôn Phát thệ nguyện như vậy Trong cõi uế trược này Chứng đắc quả Vô thượng. Bồ-tát Địa Tạng dùng bài tụng vi diệu này khen ngợi và lễ Phật rồi, Ông cùng các quyến thuộc đem các thứ hoa, hương thơm, đồ trang sức quý báu ở cõi trời tung rải lên Đức Phật. Các thứ ấy biến thành lọng báu lơ lững giữa hư không. Sau đó muốn nghe pháp nên tất cả đều ngồi trang nghiêm trước Phật. Khi ấy, tất cả người trong hội đã được thấy Bồ-tát Địa Tạng rồi, cho đó là điều kỳ lạ chưa từng có nên đều đem các loại hương, hoa thơm đẹp, đồ trang sức quý báu, y phục, cờ phướn, lọng báu dâng rải để cúng dường Bồ-tát Địa Tạng và thưa: –Hôm nay, chúng con rất vui mừng được ích lợi lớn. Nhờ thần lực của Phật nên chúng con được chiêm ngưỡng, đảnh lễ, cung kính cúng dường bậc Đại só này. Khi ấy, trong chúng hội có Đại Bồ-tát tên là Hảo Nghi Vấn, đứng dậy sửa y phục, bày áo vai phải, gối phải chấm đất, làm lễ dưới chân Phật, chắp tay thưa: –Bạch Thế Tôn! Thiện nam này từ đâu đến đây? Ở cõi Phật nào đến? Cách đây gần hay xa? Thành tựu những công đức căn lành gì mà được Thế Tôn hết lời khen ngợi? Vị ấy lại tán thán biển giáo pháp công đức không thể nghó bàn của Phật. Chúng con xưa nay chưa từng nghe thấy, nguyện xin ngài nói cho chúng con. Đức Thế Tôn bảo: –Thôi đi, thiện nam! Công đức căn lành của Bồ-tát Địa Tạng này, tất cả đại chúng, trời, người trong thế gian đều không thể đo lường được sự sâu cạn. Nếu các ông nghe Như Lai giảng thuyết về công đức căn lành của bậc Bồ-tát này thì tất cả đại chúng trời, người, trong thế gian đều mờ mịt hoặc không tin hiểu. Bồ-tát Hảo Nghi Vấn lại thưa: –Nguyện xin Như Lai thương xót giảng thuyết cho chúng con. Phật nói: –Hãy lắng nghe, suy nghó kỹ, ta sẽ vì ông mà giảng thuyết sơ lược: Vị Bồ-tát này thành tựu vô lượng công đức thù thắng không thể nghó bàn, có thể an trụ định thù thắng Thủ-lăng-già-ma, hoàn toàn ngộ nhập cảnh giới Như Lai, đã chứng đắc pháp Nhẫn vô sinh tối thắng. Đối với các pháp chư Phật đã được tự tại, có khả năng chứng đắc quả vị Nhất thiết trí, có thể vượt qua biển Nhất thiết trí, có thể an trụ định Sư tử phấn tấn tràng, có thể leo lên núi Nhất thiết trí, có thể bẻ gãy tà luận của ngoại đạo. Vì muốn giáo hóa tất cả hữu tình nên an trụ ở tất cả cõi Phật. Vị Đại só này tùy theo các cõi Phật mà an trụ, tùy theo các Tam-ma-địa mà an trụ, phát sinh vô lượng công đức thù thắng, thành tựu sự giáo hóa vô lượng hữu tình. Vị Đại só này tùy theo chỗ trụ các cõi Phật như vậy, nên có thể nhập định Phát trí, nhờ oai lực của định này làm cho tất cả hữu tình ở cõi Phật kia đều có thể thấy các cảnh giới hiện hành của các Tam-ma-địa. Tùy theo chỗ trụ các cõi Phật như vậy, nên có thể nhập định Cụ túc vô biên trí, nhờ oai lực của định này làm cho tất cả hữu tình ở cõi Phật kia, tùy theo khả năng, có thể đem vô lượng vật thượng diệu để cung kính cúng dường chư Phật Thế Tôn. Tùy theo chỗ trụ các cõi Phật như vậy, nên có thể nhập định Cụ túc thanh tịnh trí, nhờ oai lực của định này làm cho tất cả hữu tình ở cõi Phật kia, đều thấy được các cảnh giới cõi Dục có vô lượng tội lỗi nhờ vậy mà tâm được thanh tịnh. Tùy theo chỗ trụ các cõi Phật như vậy, nên có thể nhập định Cụ túc tàm quý trí, nhờ oai lực của định này làm cho tất cả hữu tình ở cõi Phật kia đều được đầy đủ sự hổ thẹn tăng thượng, xa lìa các pháp ác, tâm không quên mất. Tùy theo chỗ trụ các cõi Phật như vậy, nên có thể nhập định Cụ túc chư thừa minh, nhờ oai lực của định này làm cho tất cả hữu tình ở cõi Phật kia đều được các thần thông thiện xảo như: Thiên nhãn trí thông, túc trụ trí thông, tử sinh trí thông, hiểu rõ nhân quả đời này, đời sau. Tùy theo chỗ trụ các cõi Phật như vậy, nên có thể nhập định Vô ưu thân thông minh, nhờ oai lực của định này làm cho tất cả hữu tình ở cõi Phật kia, đều xa lìa tất cả buồn rầu mê muội. Tùy theo chỗ trụ các cõi Phật như vậy, nên có thể nhập định Cụ túc thắng thông minh, nhờ oai lực của định này làm cho tất cả hữu tình ở cõi Phật kia, đều được đầy đủ thần thông thiện xảo. Tùy theo chỗ trụ các cõi Phật như vậy, nên có thể nhập định Phổ chiếu chư thế gian, do oai lực của định này làm cho các cõi nước ở mười phương xa lìa các mê muội và làm cho tất cả hữu tình ở cõi Phật kia, đều thấy khắp các cõi Phật trong mười phương. Tùy theo chỗ trụ các cõi Phật như vậy, nên có thể nhập định Chư Phật đăng cự minh, do oai lực của định này làm cho tất cả hữu tình ở cõi Phật kia, bỏ tà quy chính, quy y Tam bảo. Tùy theo chỗ trụ các cõi Phật như vậy, nên có thể nhập định Kim cang quang, do oai lực của định này làm cho tất cả núi Tiểu luân vi, núi Đại luân vi, núi Tô-mê-tô và các núi khác, khe, suối, ngòi, hang, ngói, sỏi, gai độc, cỏ cây xấu nhơ ở cõi Phật kia, đều không hiện ra; làm cho tất cả các thứ độc hại, các loài thú dữ, trùng độc, tai họa, ôn dịch, mê muội, cấu bẩn, hôi hám bất tịnh ở cõi Phật kia đều diệt sạch; làm cho mặt đất ở cõi Phật kia, bằng phẳng như lòng bàn tay, các vật tốt đẹp tự nhiên hiện ra, được các tướng thanh tịnh, thù thắng trang nghiêm. Tùy theo chỗ trụ các cõi Phật như vậy, nên có thể nhập định Trí lực nan tồi phục, do oai lực của định này làm cho tất cả Ma vương và các quyến thuộc ở cõi Phật kia đều kinh sợ, quy y Tam bảo. Tùy theo chỗ trụ các cõi Phật như vậy, nên có thể nhập định Điện quang minh, do oai lực của định này làm cho tất cả hữu tình ở cõi Phật kia, đều xa lìa mọi lo sợ ở đời sau, được pháp an vui. Tùy theo chỗ trụ các cõi Phật như vậy, nên có thể nhập định Cụ túc thượng diệu vị, do oai lực của định này làm cho tất cả hữu tình ở cõi Phật kia, tùy theo ý nghó mà được ăn uống đầy đủ. Tùy theo chỗ trụ các cõi Phật như vậy, nên có thể nhập định Cụ túc thắng tinh khí, do oai lực của định này làm cho tất cả hữu tình ở cõi Phật kia, đều được tăng thêm sức lực, lìa các bệnh khổ. Tùy theo chỗ trụ các cõi Phật như vậy, nên có thể nhập định Thượng diệu chư tư cụ, do oai lực của định này làm cho tất cả hữu tình ở cõi Phật kia, tùy theo ý thích đều được giường, tòa, đồ nằm, y phục, đồ trang sức quý báu, các vật dụng không thiếu thứ gì, mọi vật đều tốt đẹp, quý giá, rất đáng ưa thích. Tùy theo chỗ trụ các cõi Phật như vậy, nên có thể nhập định Vô tránh trí, do oai lực của định này làm cho tất cả hữu tình ở cõi Phật kia, thân tâm mạnh mẽ, xa lìa tất cả oán ghét trói buộc, được hòa thuận, vui chơi khoái lạc, đầy đủ bố thí, trì giới, an nhẫn, dũng mãnh, tinh tấn, tâm không tán loạn, thành tựu trí tuệ. Tùy theo chỗ trụ các cõi Phật như vậy, nên có thể nhập định Năng dẫn thắng dũng dược, do oai lực của định này làm cho tất cả hữu tình ở cõi Phật kia, đều hưởng được vô lượng sự hoan hỷ thắng diệu. Tùy theo chỗ trụ các cõi Phật như vậy, nên có thể nhập định Cụ túc thế lộ quang, do oai lực của định này làm cho tất cả hữu tình ở cõi Phật kia, đều được trí vô ngại, có thể tu tập đủ các nghiệp thanh tịnh. Tùy theo chỗ trụ các cõi Phật như vậy, nên có thể nhập định Thiện trụ thắng kim cang, do oai lực của định này làm cho tất cả hữu tình ở cõi Phật kia, đều được các căn đầy đủ không thiếu, thường ưa thích hạnh viễn ly, tâm được vắng lặng. Tùy theo chỗ trụ các cõi Phật như vậy, nên có thể nhập định Tăng thượng quán thắng tràng, do oai lực của định này làm cho tất cả hữu tình ở cõi Phật kia, đều rất chán ghét, tự trách nghiệp ác tội lỗi của mình, đều khéo hộ trì mười nghiệp thiện đạo là đường sinh lên cõi trời. Tùy theo chỗ trụ các cõi Phật như vậy, nên có thể nhập định Cụ túc Từ bi thanh, do oai lực của định này làm cho tất cả hữu tình ở cõi Phật kia, đều phát tâm Từ, tâm Bi, không tâm oán hại, tâm bình đẳng với tất cả, tâm làm lợi ích an lạc cho nhau. Tùy theo chỗ trụ các cõi Phật như vậy, nên có thể nhập định Dẫn tập chư phước đức, do oai lực của định này làm cho tất cả hữu tình ở cõi Phật kia, xa lìa các sự đấu tranh, các bệnh tật, đói khát, gió mưa trái thời, khổ nhọc, đắng cay, các cảm giác khó chịu đều được tiêu trừ. Đại só như vậy, tùy theo chỗ trụ quốc độ chư Phật như vậy, nên có thể nhập vào định Hải điện quang, do oai lực của định này làm cho mặt đất của cõi Phật kia đều do các loại châu báu tạo thành, xa lìa tất cả tội lỗi. Các loại cây báu, cây y phục, cây đồ dùng, các cây anh lạc, cây hoa, cây quả, cây âm nhạc, vô lượng các nhạc cụ được trang nghiêm khắp nơi ở cõi Phật kia. Nói tóm lại, vị thiện nam này mỗi ngày vào buổi sáng, vì muốn giáo hóa các hữu tình nên nhập vô số các định, xuất định đi khắp quốc độ chư Phật trong mười phương, thành tựu việc giáo hóa tất cả hữu tình, tùy theo căn cơ chúng sinh mà làm lợi ích an lạc. Vị thiện nam này đã ở trong vô lượng, vô số đại kiếp, đã vào đời năm trược xấu ác, không có Phật ở đời giáo hóa hữu tình, lại ở trong đời vị lai còn hơn số đó nữa. Hoặc có thế giới vào kiếp đao binh nổi lên giết hại các hữu tình, vị thiện nam này thấy sự việc như vậy, vào lúc sáng sớm dùng oai lực các định diệt trừ kiếp đao binh, làm cho các hữu tình thương mến lẫn nhau. Hoặc có thế giới vào kiếp dịch bệnh nổi lên làm hại các hữu tình, thiện nam này thấy việc như thế nên vào sáng sớm dùng oai lực các định trừ diệt kiếp dịch bệnh, làm cho các hữu tình đều được an vui. Hoặc có thế giới vào kiếp đói khát nổi lên làm hại các hữu tình, thiện nam này thấy việc như vậy nên vào lúc sáng sớm dùng oai lực các định trừ diệt kiếp đói khát, làm cho các hữu tình đều được no đủ. Vị thiện nam này dùng oai lực các định làm vô lượng, vô biên không thể nghó bàn các việc lợi ích an lạc cho các hữu tình như vậy. Thiện nam này thành tựu đầy đủ vô lượng, vô số công đức thù thắng không thể nghó bàn, thường siêng năng tinh tấn làm lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình, từng ở trong vô lượng, vô số hằng hà sa cõi Phật Thế Tôn thời quá khứ, vì muốn giáo hóa làm lợi ích an lạc cho các hữu tình nên phát thệ nguyện Đại Bi kiên cố dũng mãnh tinh tấn vô tận khó có thể phá hoại. Do thệ nguyện Đại Bi kiên cố dũng mãnh tinh tấn vô tận khó có thể phá hoại này mà làm cho uy lực tăng trưởng, trong một ngày đêm hoặc trong một bữa ăn có thể độ vô lượng trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa các loại hữu tình có thể làm cho họ được giải thoát mọi điều lo buồn, khổ não và làm cho họ thỏa mãn đầy đủ tất cả ý nguyện mong cầu như pháp. Trụ ở nơi nào, nếu các hữu tình vì mong cầu các thứ, mà bị buồn khổ bức bách, có thể chí tâm niệm danh hiệu, đọc tụng, quy kính, cúng dường Đại Bồ-tát Địa Tạng thì đều được tất cả như mong cầu, xa lìa được các buồn khổ, tùy theo nghiệp tương ưng mà được sinh cõi trời hay Niết-bàn. Trụ ở nơi nào, nếu các hữu tình bị nạn đói bức bách, có thể chí tâm xưng niệm danh hiệu, đọc tụng, quy kính, cúng dường Đại Bồ-tát Địa Tạng thì đều được đầy đủ tất cả thức ăn uống như mong cầu. Tùy theo nghiệp tương ưng mà được sinh cõi trời hay Niết-bàn. Trụ ở nơi nào, nếu các hữu tình thiếu thốn các thứ y phục, đồ trang sức quý báu, thuốc men, giường nằm và các vật dụng, mà có thể chí tâm xưng niệm danh hiệu, đọc tụng, quy kính, cúng dường Đại Bồ-tát Địa Tạng thì đều được đầy đủ tất cả y phục, đồ trang sức quý báu, thuốc men, giường nằm và các vật dụng như mong cầu. Tùy theo nghiệp tương ưng mà được sinh cõi trời hay được Niết-bàn. Trụ ở nơi nào, nếu các hữu tình muốn ái lạc mà phải xa lìa, còn oán ghét thì lại tụ họp, mà có thể chí tâm xưng niệm danh hiệu, đọc tụng, quy kính, cúng dường Đại Bồ-tát Địa Tạng thì tất cả những điều ái lạc sẽ được tụ họp, những oán ghét thì xa lìa. Tùy theo nghiệp tương ưng mà được sinh cõi trời hay Niết-bàn. Trụ ở nơi nào, nếu các hữu tình thân tâm buồn khổ, nhiều bệnh làm cho đau đớn, mà có thể chí tâm xưng niệm danh hiệu, đọc tụng, quy kính, cúng dường Đại Bồ-tát Địa Tạng thì tất cả đều được thân tâm an lạc, các bệnh tiêu trừ. Tùy theo nghiệp tương ưng mà được sinh cõi trời hay Niết-bàn. Trụ ở nơi nào, nếu các hữu tình chống trái nhau gây ra các việc đấu tranh, mà có thể chí tâm xưng niệm danh hiệu, đọc tụng, quy kính, cúng dường Đại Bồ-tát Địa Tạng thì tất cả đều bỏ tâm độc hại, hòa hợp với nhau, vui vẻ, nhẫn chịu nhau, lần lần hối lỗi, hổ thẹn, có tâm Từ với nhau. Tùy theo nghiệp tương ưng mà được sinh cõi trời hay Niết-bàn. Trụ ở nơi nào, nếu các hữu tình bị nhốt trong lao ngục, bị gồng cùm, xiềng xích trói thân, chịu đủ các khổ, mà có thể chí tâm xưng niệm danh hiệu, đọc tụng, quy kính, cúng dường Đại Bồ-tát Địa Tạng thì tất cả đều được thoát khỏi lao ngục, xiềng xích, gông cùm, được tự do vui vẻ. Tùy theo nghiệp tương ưng mà được sinh cõi trời hay Niết-bàn. Trụ ở nơi nào, nếu các hữu tình đang bị tù, bị đánh đập bằng roi vọt, tra khảo rất đau đớn, sắp bị giết hại, mà có thể chí tâm xưng niệm danh hiệu, đọc tụng, quy kính, cúng dường Đại Bồ-tát Địa Tạng thì tất cả đều được thoát khỏi tù tội, thoát khỏi sự đánh đập bằng roi vọt, khỏi bị giết hại. Tùy theo nghiệp tương ưng mà được sinh cõi trời hay Niết-bàn. Trụ ở nơi nào, nếu các hữu tình thân tâm mệt mỏi, khí lực suy yếu, mà có thể chí tâm xưng niệm danh hiệu, đọc tụng, quy kính, cúng dường Đại Bồ-tát Địa Tạng thì tất cả đều được thân tâm thoải mái, khí lực mạnh mẽ. Tùy theo nghiệp tương ưng mà được sinh cõi trời hay Niết-bàn. Trụ ở nơi nào, nếu các hữu tình với các căn không đủ, hoặc bị tổn hại, mà có thể chí tâm xưng niệm danh hiệu, đọc tụng, quy kính, cúng dường Đại Bồ-tát Địa Tạng thì tất cả đều được các căn đầy đủ, không bị tổn hại. Tùy theo nghiệp tương ưng mà được sinh cõi trời hay Niết-bàn. Trụ ở nơi nào, nếu các hữu tình tâm loạn điên cuồng, bị ma quỷ làm mê mờ, mà có thể chí tâm xưng niệm danh hiệu, đọc tụng, quy kính, cúng dường Đại Bồ-tát Địa Tạng thì tất cả đều được tâm không cuồng loạn, lìa các quấy nhiễu. Tùy theo nghiệp tương ưng mà được sinh cõi trời hay Niết-bàn. Trụ ở nơi nào, nếu các hữu tình bị tham dục, sân giận, ngu si, phẩn nộ, tham lam keo kiệt, ganh ghét, kiêu mạn, ác kiến, tùy miên, buông lung, nghi ngờ luôn cháy hừng hực, làm não loạn thân tâm, thường không an lạc, mà có thể chí tâm xưng niệm danh hiệu, đọc tụng, quy kính, cúng dường Đại Bồ-tát Địa Tạng thì tất cả đều được xa lìa tham dục, thân tâm được an lạc. Tùy theo nghiệp tương ưng mà được sinh cõi trời hay Niết-bàn. Trụ ở nơi nào, nếu các hữu tình bị lửa thiêu đốt, bị nước cuốc trôi, bị gió thổi bay, hoặc ở trên núi cao, cây cao, nhà cao, bị té rơi xuống, rất sợ hãi kinh hoàng, mà có thể chí tâm xưng niệm danh hiệu, đọc tụng, quy kính, cúng dường Đại Bồ-tát Địa Tạng thì tất cả đều được thoát khỏi ách nạn, được an ổn, không bị tổn hại. Tùy theo nghiệp tương ưng mà được sinh cõi trời hay Niết-bàn. Trụ ở nơi nào, nếu các hữu tình bị các rắn độc, trùng độc đốt chích, hoặc bị trúng các thuốc độc, mà có thể chí tâm xưng niệm danh hiệu, đọc tụng, quy kính, cúng dường Đại Bồ-tát Địa Tạng thì tất cả đều được xa lìa các thứ làm khổ hại đó. Tùy theo nghiệp tương ưng mà được sinh cõi trời hay Niết-bàn. Trụ ở nơi nào, nếu các hữu tình bị ác quỷ bắt làm cho bị bệnh, hoặc hàng ngày phát bệnh, hoặc cách ngày phát, hoặc ba bốn ngày phát một lần, hoặc làm cho thân tâm cuồng loạn, run rẩy, mê muội không biết gì, mà có thể chí tâm xưng niệm danh hiệu, đọc tụng, quy kính, cúng dường Đại Bồ-tát Địa Tạng thì tất cả đều được thoát khỏi, thân tâm an ổn, không còn sợ hãi. Tùy theo nghiệp tương ưng mà được sinh cõi trời hay Niết-bàn. Trụ ở nơi nào, nếu các hữu tình bị các quỷ Dược-xoa, La-sát, Ngạ quỷ, quỷ Tất-xá-già, quỷ Bố-đát-na, quỷ Cưu-bàn-trà, quỷ Yết-tra bố-đát-na, quỷ hút tinh khí và các ác thú: cọp, sói, sư tử; các chú thuật yếm độc, giặc thù, quân trận và các việc sợ hãi khác quấy nhiễu, làm cho thân tâm kinh hoàng, khiếp sợ, mất thân mạng, sợ chết, tham sống, chán khổ, cầu vui, mà có thể chí tâm xưng niệm danh hiệu, đọc tụng, quy kính, cúng dường Đại Bồ-tát Địa Tạng thì tất cả đều được xa lìa các sợ hãi, được bảo toàn thân mạng. Tùy theo nghiệp tương ưng mà được sinh cõi trời hay Niết-bàn. Trụ ở nơi nào, nếu các hữu tình hoặc vì nghe nhiều, hoặc vì tịnh tín, hoặc vì tịnh giới, hoặc vì tịnh lự, hoặc vì thần thông, hoặc vì Bát-nhã, hoặc vì giải thoát, hoặc vì sắc đẹp, hoặc vì tiếng hay, hoặc vì hương thơm, hoặc vì vị ngon, hoặc vì xúc chạm êm ái, hoặc vì lợi dưỡng, hoặc vì tiếng khen, hoặc vì công đức, hoặc vì khéo léo, hoặc vì hoa quả, hoặc vì rừng cây, hoặc vì giường tòa, hoặc vì đồ nằm, hoặc vì đường đi, hoặc vì của cải, hoặc vì thuốc men, hoặc vì nhà cửa, hoặc vì tôi tớ, hoặc vì hình sắc, hoặc vì mưa ngọt, hoặc vì mong cầu nước, hoặc vì cấy gặt, hoặc vì quạt phẩy, hoặc vì gió mát, hoặc vì cầu lửa, hoặc vì xe cộ, hoặc vì nam nữ, hoặc vì phương tiện, hoặc vì tu phước, hoặc vì ấm áp, hoặc vì mát mẻ, hoặc vì nhớ nghó, hoặc vì các việc lợi ích của thế gian và xuất thế gian, trong lúc tìm cầu các việc ấy mà bị buồn khổ bức bách, mà có thể chí tâm xưng niệm danh hiệu, đọc tụng, quy kính, cúng dường Đại Bồ-tát Địa Tạng, vị thiện nam với công đức, định lực, thần thông thù thắng sẽ làm cho tất cả đều xa lìa buồn khổ, thỏa mãn ý nguyện. Tùy theo nghiệp tương ưng mà được sinh cõi trời hay Niết-bàn. Trụ ở nơi nào, nếu các hữu tình gieo các hạt giống ở ruộng hoang hoặc ruộng tốt, hoặc siêng năng làm việc, hoặc không làm việc, mà có thể chí tâm xưng niệm danh hiệu, đọc tụng, quy kính, cúng dường Đại Bồ-tát Địa Tạng, vị thiện nam này với công đức, định lực, thần thông thù thắng của mình sẽ làm cho tất cả cây trái đều được mùa. Vì sao? Vì thiện nam này từng trải qua vô lượng, vô số đại kiếp, ở vô số cõi Phật Thế Tôn thời quá khứ phát đại thệ nguyện kiên cố, tinh tấn, do oai lực của nguyện này và vì muốn giáo hóa các hữu tình nên thường thống lónh tất cả đại địa, thường nắm giữ tất cả hạt giống, thường làm cho tất cả hữu tình tùy ý sử dụng. Năng lực thần thông của vị thiện nam này hay làm cho tất cả cây cỏ, gốc rễ, mầm, cọng, cành, lá, hoa, quả ở khắp đại địa đều sinh trưởng từ mầm non, hoa quả tươi tốt, trái chín mọng, hương vị thơm ngọt. Trụ ở nơi nào, nếu các hữu tình đầy dẫy tham, sân, si, tạo ra mười nghiệp ác: Sát sinh, hoặc không cho mà lấy, hoặc tham dục tà hạnh, hoặc nói dối trá, hoặc nói thô ác, hoặc nói lời ly gián, hoặc nói lời tạp uế, hoặc tham, hoặc sân, hoặc tà kiến, mà có thể chí tâm xưng niệm danh hiệu, đọc tụng, quy kính, cúng dường Đại Bồ-tát Địa Tạng thì tất cả phiền não đều tiêu trừ, xa lìa mười điều ác, thành tựu mười điều lành, đối với các chúng sinh khởi phát tâm Từ bi, làm lợi ích. Vị thiện nam này với thành tựu công đức, định lực, thần thông, dũng mãnh, tinh tấn như vậy, chỉ trong khoảng một bữa ăn có thể ở vô lượng, vô số cõi Phật, ở mỗi quốc độ trong khoảng một bữa ăn đều có thể độ thoát, giáo hóa vô lượng, vô số căng-già-sa hữu tình, làm cho chúng xa lìa các khổ, đều được an vui. Tùy theo nghiệp tương ưng mà được sinh cõi trời hay Niết-bàn. Vị thiện nam này, thành tựu các pháp công đức không thể nghó bàn như ta đã nói, thệ nguyện kiên cố, dũng mãnh, tinh tấn, vì muốn giáo hóa các hữu tình, nên ở trong mười phương, hoặc có khi hiện làm thân Đại phạm vương, tùy theo căn cơ thuyết pháp cho các hữu tình, hoặc lại hiện làm thân Đại tự tại thiên, hoặc làm thân Tha hóa tự tại thiên ở cõi Dục, hoặc làm thân Lạc biến hóa thiên, hoặc làm thân Đổ-sử-đa thiên, hoặc làm thân Dạ-ma thiên, hoặc làm thân Đế Thích thiên, hoặc làm thân Tứ đại Thiên vương, hoặc làm thân Phật, hoặc làm thân Bồ-tát, hoặc làm thân Độc giác, hoặc làm thân Thanh văn, hoặc làm thân Chuyển luân vương, hoặc làm thân Sát-đế-lợi, hoặc làm thân Bà-la-môn, hoặc làm thân Phiệt-xá, hoặc làm thân Mậu-đạt-la, hoặc làm thân trượng phu, hoặc làm thân phụ nữ, hoặc làm thân đồng nam, hoặc làm thân đồng nữ, hoặc làm thân Kiền-đạt-phược, hoặc làm thân A-tố-lạc, hoặc làm thân Khẩn-nại-lạc, hoặc làm thân Mạt-hô-lạc-già, hoặc làm thân rồng, hoặc làm thân Dược-xoa, hoặc làm thân La-sát, hoặc làm thân Cưu-bàn-trà, hoặc làm thân Tất-xá-già, hoặc làm thân Ngạ quỷ, hoặc làm thân Bố-đát-na, hoặc làm thân Yết-tra bố-đát-na, hoặc làm thân quỷ Áo-xà-ha-lạc, hoặc làm thân sư tử, hoặc làm thân hương tượng, hoặc làm thân ngựa, hoặc làm thân trâu, hoặc làm thân các loại cầm thú, hoặc làm thân Diệm-Ma vương, hoặc làm thân ngục tốt, hoặc làm thân các hữu tình trong địa ngục, hiện vô lượng, vô số các loại thân như vậy, tùy theo căn cơ mà thuyết pháp cho các hữu tình, tùy theo nhân duyên mà hướng dẫn vào ba thừa, đạt quả vị không thoái chuyển. Này thiện nam! Vị Đại só này thành tựu các pháp công đức không thể nghó bàn như vậy, là nơi ẩn chứa các công đức thù thắng, là nơi sinh ra các trân bảo giải thoát, là con mắt sáng trong của các Bồ-tát, là thương nhân dẫn đầu trên đường đi đến Niết-bàn, như vậy cho đến đạt được chuyển đại pháp luân vô công dụng như đã nói rộng ở trước. Này thiện nam! Giả sử có người vì mong cầu sở nguyện mà chí tâm quy y, xưng niệm danh hiệu, đọc tụng, lễ bái, cúng dường các vị Bồ-tát thượng thủ trong vô số các Đại Bồ-tát như Di-lặc, Diệu Cát Tường, Quán Tự Tại, Phổ Hiền, trải qua trăm kiếp không bằng người chí tâm quy y, xưng niệm danh hiệu, đọc tụng, lễ bái, cúng dường Đại Bồ-tát Địa Tạng trong một bữa ăn, sở nguyện sẽ mau thành tựu viên mãn. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát Địa Tạng làm lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình, làm cho sở nguyện của các hữu tình được viên mãn như ngọc châu như ý, cũng như kho tàng vậy. Vị Đại só này vì muốn giáo hóa cho các hữu tình nên đã từ lâu tu tập đại Bi, đại nguyện, kiên cố, dũng mãnh, tinh tấn hơn các Bồ-tát. Do đó, các ông nên cúng dường Bồ-tát Địa Tạng. Bấy giờ, đại chúng trong hội đến từ mười phương gồm tất cả Đại Bồ-tát và các Thanh văn, Trời, Người, Dược-xoa, Kiền-đạt-phược đều rời khỏi chỗ ngồi, tùy theo khả năng của mình đem các loại vàng bạc, châu báu, hoa hương… tung rải lên cúng dường Đại Bồ-tát Địa Tạng. Lại đem các loại y phục tốt đẹp nhất, châu Ma-ni bảo, trân châu, tràng hoa trân châu, anh lạc, vàng, bạc, lụa tốt, phướn, lọng dâng lên Đại Bồ-tát Địa Tạng. Lại đem vô lượng âm nhạc hay nhất, các bài tán tụng cung kính cúng dường Bồ-tát Địa Tạng. Bấy giờ, Đại Bồ-tát Địa Tạng đem các vật cúng dường tốt nhất này dâng lên Thế Tôn, nói bài tụng: Trời, Người, Rồng, Thần đều cúng dường Mười phương Bồ-tát đều đến dâng Bậc cứu thế có công đức lớn Xin nhận con-cúng dường tối thắng. Đại Bồ-tát Địa Tạng nói xong bài tụng, rồi đảnh lễ dưới chân Phật. Lúc ấy, Thế Tôn lại nói bài tụng: Phát tâm thanh tịnh, tuệ kiên cố Diệt vô lượng khổ các hữu tình Cúng dường thượng diệu như tay báu Hay đoạn lưới nghi như kim cang. Sinh trí tuệ, Đại Bi, tinh tấn Đem dâng cúng dường Đức Thế Tôn Dùng biển trí cứu khổ chúng sinh Lên cõi bờ giác không sợ hãi. Bấy giờ, Đại Bồ-tát Địa Tạng liền từ tòa ngồi đứng dậy, bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Con sẽ tế độ bốn châu này. Đệ tử của Thế Tôn gồm tất cả Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, con sẽ làm cho tất cả đều được tăng trưởng nhớ nghó, tăng trưởng sự giữ gìn nhớ nghó, tăng trưởng thọ mạng, tăng trưởng thân thể, tăng trưởng không bệnh, tăng trưởng sức lực, tăng trưởng tiếng khen, tăng trưởng vật dụng, tăng trưởng bạn bè, tăng trưởng đệ tử, tăng trưởng tịnh giới, tăng trưởng đa văn, tăng trưởng tuệ xả, tăng trưởng thiền định, tăng trưởng an nhẫn, tăng trưởng phương tiện, tăng trưởng ánh sáng Thánh đế giác phần, tăng trưởng hướng đến chính đạo Đại thừa, tăng trưởng ánh sáng pháp, tăng trưởng giáo hóa hữu tình, tăng trưởng đại Từ Đại Bi, tăng trưởng tất cả bạch pháp, tăng trưởng tiếng tốt vang khắp ba cõi, tăng trưởng mưa pháp thấm nhuần ba cõi, tăng trưởng tinh khí chất bổ khắp đại địa, tăng trưởng tinh thần làm việc của tất cả chúng sinh, tăng trưởng tinh thần khéo thực hành chính pháp, tăng trưởng trí tuệ sáng suốt, tăng trưởng diệu hạnh sáu pháp Ba-la-mật, tăng trưởng ngũ nhãn, tăng trưởng quán đảnh, tăng trưởng sinh Thiên, Niết-bàn, nghĩa là dùng bài minh chú Tổng trì tên là Cụ túc thủy hỏa kiên tường quang minh đại ký. Con ở trong vô số cõi Phật Thế Tôn vào thời quá khứ, thân cận thọ trì Đà-la-ni này, nên có thể làm tăng trưởng tất cả bạch pháp, tăng trưởng tất cả hạt giống, gốc rễ, mầm, cọng, cành, lá, hoa, quả, tinh khí chất bổ, thuốc thang, ngũ cốc, tăng trưởng mưa thấm nhuần, tăng trưởng đất, nước, gió, lửa có lợi ích, tăng trưởng an vui, tăng trưởng của báu, tăng trưởng sức lực, tăng trưởng tất cả vật thọ dụng. Đà-la-ni này có thể làm cho tất cả trí tuệ sắc bén, phá tan giặc phiền não, liền nói thần chú: Sấm bồ, sấm bồ, sấm sấm bồ, a ca xá sấm bồ, phược yết lạc sấm bồ, am bạt lạc sấm bồ, phiệt la sấm bồ, phạt chiết lạc sấm bồ, a lộ ca sấm bồ, điều ma sấm bồ, tát đế ma sấm bồ, tát đế nật ha la sấm bồ, tỳ bà lộ ca sáp bà sấm bồ, ô ba đạm ma sấm bồ, nại dã na sấm bồ, bát thích nhạ tam mâu để thích noa sấm bồ, sát noa sấm bồ, tỳ thấp bà lê dạ sấm bồ, xá tát đa lạp bà sấm bồ, tỳ a trà tố tra mạt ê lệ, điều mê, đạm mê, phạt yết lạc tế, phạt yết lạc mạc tứ lệ, xí lệ, tỳ lệ, yết thích bà bạt la phạt thích đế, di lệ, bát lạp tiết, bát thích giá la phạn đát nê, hạt thích đát nê, bá la, giá giá giá giá, di lệ, nhị lệ, ê yết tha, thác khê, thác củ lô, thát lộc, thát lộc, nhị lê, ma trán, đản trán, củ lệ, nhị lệ lệ, áng củ chi đa ty,ø át lê, kỳ lê, ba la kỳ lê, củ tra khổ mạt lệ, đôn kỳ, đôn kỳ, đôn cụ lệ, hử lô, hử lô, hử lô, củ lô tốt đô nhị lệ, nhị lý đệ, nhị lý trán, bạn trà đà, yết la di lê, hử lô, hử lỗ lô. Khéo thuyết làm sạch trần cấu Khéo thuyết trừ sạch đấu tranh Khéo thuyết làm sạch tâm xấu ác Khéo thuyết làm sạch hạt giống xấu Khéo thuyết trừ sạch mùi vị hôi Khéo thuyết trừ sạch hơi ô uế Khéo thuyết làm đầy các hy vọng Khéo thuyết thuyết mùa màng đều no đủ Khéo thuyết thuyết khiến cho tất cả Phật Như Lai, Thế Tôn đều gia hộ Khéo thuyết có thể khiến tất cả Bồ-tát đều tùy hỷ gia hộ. Bạch Thế Tôn, đó là thần chú Tổng trì Cụ túc thủy hỏa cát tường quang minh đại ký. Con đã ở vô số cõi Phật Thế Tôn thời quá khứ được thân cận, phụng sự, thọ trì Đà-la-ni này, nên có thể làm tăng trưởng tất cả bạch pháp, nói rộng cho đến làm tăng trưởng tất cả vật dụng. Bạch Thế Tôn! Đà-la-ni này có thể tế độ khắp bốn châu này, làm cho tất cả đệ tử của Thế Tôn Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di đều được tăng trưởng sự nhớ nghó, nói rộng cho đến tăng trưởng tất cả vật dụng riêng tư. Đà-la-ni này có làm cho Thánh giáo cam lồ của Thế Tôn được hưng thịnh, trụ lâu ở đời, làm lợi ích an lạc cho chúng sinh trong ba cõi. Đại Bồ-tát Địa Tạng giảng thuyết thần chú Tổng trì Đại ký như vậy xong thì khi ấy núi Khư-la-đế-da đều chấn động, vô số thiên nhạc không đánh mà tự kêu, mưa vô lượng các loại hương hoa thơm đẹp và trân bảo cõi trời. Tất cả chúng hội đều kinh ngạc, vui mừng, cho là việc kỳ lạ chưa từng có. Lúc ấy, trong hội có Thiên nữ Đại Cát Tường, Thiên nữ Cụ Đại Cát Tường, Thiên nữ Đại Trì Diệu Âm, Thiên nữ Đại Kiên Cố, Thiên nữ Cụ Đại Thủy, Thiên nữ Phóng Đại Quang làm người đứng đầu trong tổng số một vạn tám ngàn Thiên nữ, đối với bốn đại chủng đều được tự tại, rời khỏi chỗ ngồi, cúi đầu đảnh lễ dưới chân Phật, chắp tay cung kính bạch Phật: –Thật là hy hữu, bạch Đại đức! Thật là kỳ diệu, bạch Thế Tôn! Chúng con tuy đối với bốn đại chủng đã được tự tại nhưng không thể biết tướng sinh diệt, trái thuận, đầu giữa cuối của bốn đại chủng này. Vị Đại só này đã đắc Bát-nhã ba-la-mật thâm diệu vi tế, có thể hiểu biết rõ tướng sinh diệt, trái thuận, đầu giữa cuối của bốn đại chủng này. Phật nói: –Đúng vậy, đúng vậy! Này Thiên nữ! Vị thiện nam này đã đắc Bát-nhã ba-la-mật thâm diệu vi tế, có thể biết rõ tướng sinh diệt, trái thuận, đầu giữa cuối của bốn đại chủng. Thiên nữ nên biết: Ví như hạt châu Như ý đầy đủ các đức, có thể mưa xuống các loại châu báu tốt nhất cho các chúng sinh. Thiện nam này cũng vậy, có thể mưa xuống các trân bảo giác chi cho các chúng sinh, như đảo châu báu có đủ các loại trân bảo ở trên đó. Thiện nam này cũng như vậy, thành tựu các trân bảo giác chi như các loại hương hoa thơm đẹp, trang sức ở cõi trời Ba-lợi-chất-đa-la thọ. Thiện nam này cũng như vậy, tự trang nghiêm bằng đủ các loại trân bảo Phật pháp vi diệu, như sư tử chúa, tất cả các loài thú đều khiếp phục. Thiện nam này cũng vậy, tất cả chúng sinh đều khiếp phục. Ví như mặt trời chiếu sáng, có thể diệt trừ tất cả bóng tối thế gian. Thiện nam này cũng vậy, có thể diệt trừ tất cả ác kiến, vô minh, mê muội của chúng sinh. Ví như mặt trăng sáng ban đêm, có thể làm cho tất cả chúng sinh lạc đường đi đúng đường bằng phẳng, tùy theo ý muốn đến nơi nào cũng đều đến được. Thiện nam này cũng vậy, ở trong đêm tối vô minh, có thể chỉ dẫn cho tất cả chúng sinh mê mờ đạo ba thừa, đang giong ruổi trong cánh đồng sinh tử, biết đi đúng đường ba thừa, tùy theo sự sở thích mà dùng phương tiện hướng dẫn làm cho được ra khỏi. Ví như đại địa là nơi nương tựa của tất cả chúng sinh, hạt giống, cây cỏ, núi non, lúa. Thiện nam này cũng vậy, là nơi nương tựa của tất cả pháp Bồ-đề phần thù thắng. Ví như núi Đại bảo diệu cao đứng vững, kiên cố, không lở, không khuyết. Thiện nam này cũng vậy, khéo an trụ tất cả pháp Bất cộng của Phật. Do không xả bỏ các chúng sinh nên gọi là không khuyết, tất cả căn lành đều đem ban cho các chúng sinh nên gọi là không lở. Ví như hư không, tất cả chúng sinh đều thọ hưởng, thiện nam này cũng vậy, tất cả chúng sinh cũng đều thọ hưởng được. Thiện nam này thành tựu vô lượng, vô biên các pháp công đức như vậy. Đại Bồ-tát Địa Tạng Đầy đủ các công đức Hiện sắc tướng Thanh văn Đến đảnh lễ Đại Sư. Ban vui cho chúng sinh Cứu thoát khổ ba cõi Mưa vô lượng đồ vật Đem cúng dường Đại Sư. Thiên đế Vô Cấu Sinh Quán sát khắp bốn phương Đứng chắp tay cung kính Khen ngợi, thỉnh Đại Sư. Ta thấy ngọc ma-ni Của chư Phật Thế Tôn Chiếu sáng các cõi Phật Tất cả đều sáng tỏ. Sáu thông chiếu thế gian Nay sẽ đến hội này Là Bồ-tát Địa Tạng Hiện oai nghi xuất gia. Ẩn chứa Thất thánh tài Âm thanh Vô Úy Phật Các Bồ-tát Thắng Tràng Dẫn đường cho chúng sinh. Chỗ nương báu giải thoát Biển phước đức tinh tấn Tâm Từ bi thông sáng Cứu khổ các hữu tình. Làm bảo vệ người sợ Như trăng sáng soi đường Như đất sinh căn lành Như kim cang phá mê Ban cho báu giải thoát Như nước trôi lậu, hoặc Lửa phiền não sẽ hết Như thầy thuốc chữa bệnh. Một ngày niệm Địa Tạng Công đức được vang ra Trong vô biên số kiếp Khen công đức Trí giả. Giải thoát các chúng sinh Khỏi trói buộc phiền não Đến các định kiện hành Bờ kia của các định. Mười hai duyên thanh tịnh Các trí như hư không Trừ mê muội hữu tình Ở vô biên cõi Phật. Tùy quốc độ nhập định Vào dòng bốn Tónh lự Làm cho khắp hữu tình Nhập định, trừ lửa hoặc. Chúng sinh nhiều nghiệp ác Đao binh, bệnh, đói khát Tai họa dù ở đâu Cũng làm cho giải thoát. Chúng sinh trong năm đường Bị các khổ bức bách Quy kính Đức Địa Tạng Các khổ đều tiêu trừ. Chúng sinh khổ xoay vần Lần lượt sát hại nhau Quy kính Đức Địa Tạng Đều trụ tâm nhẫn, từ. Lo sợ mười hai duyên Nơi các khổ nối nhau Quy kính Đức Địa Tạng Đều an trụ không sợ. Nếu thích tu các phước chính niệm, giới, văn, tuệ Quy kính Đức Địa Tạng Mong cầu đều đầy đủ. Ưa thích các công đức Thuốc hay, hạt giống tốt Quy kính Đức Địa Tạng Mong cầu đều đầy đủ. Mong cầu thuốc, ruộng lúa Áo, đầy tớ, nam, nữ Quy kính Đức Địa Tạng Mong cầu đều đầy đủ. Các đức đều tương ưng Như đất có khả năng Làm chỗ gieo hạt giống Thấm nhuần và tươi tốt. Bị các phiền não che Ưa làm mười nghiệp ác Quy kính Đức Địa Tạng Phiền não đều tiêu trừ. Hiện làm các thân tướng Thuyết pháp cho chúng sinh Đầy đủ công đức thí Thương xót các chúng sinh. Giả sử trong trăm kiếp Khen ngợi công đức ngài Cũng không thể nói hết Do đó nên cúng dường. KINH ĐẠI THỪA ĐẠI TẬP ĐỊA TẠNG THẬP LUÂN <卷 id="117270429">Quyển 2 <詞 id="117270430">Phẩm 2: Thập Luân Bấy giờ, Đại Bồ-tát Địa Tạng rời khỏi chỗ ngồi, sửa y áo, đảnh lễ dưới chân Phật, bày một vai áo, gối phải chấm đất, chắp tay cung kính bạch Phật: Con xin hỏi Thế Tôn Biển công đức vô lượng Nguyện xin Phật nhận lời Giải thích để trừ nghi. Thế Tôn bảo: –Ông thật là bậc Đại só, hiểu biết tất cả pháp không chướng ngại vì muốn làm lợi ích cho hữu tình nên cố thưa hỏi Như Lai. Tùy theo câu hỏi của ông, ta sẽ phân biệt giải nói để cho ông được hoan hỷ. Lúc đó, Đại Bồ-tát Địa Tạng dùng kệ thưa hỏi: Con trong mười ba kiếp Đã siêng tu khổ hạnh Vì tất cả hữu tình Trừ ba tai, năm trược. Ở vô số cõi Phật Vô biên sự cúng dường Từng gặp đại hội lớn Chúng hòa hợp tịnh tín. Thông minh, siêng tinh tấn Đều cùng đến hội họp Chưa từng thấy như vậy Không có chúng xấu ác. Vì sao cõi Phật này Dơ bẩn, không sạch đẹp Bậc trí đều xa lìa. Ở chung người làm ác Tạo nhiều tội vô gián Phỉ báng chính pháp Phật Hủy Thánh, sinh ác kiến. Giảng sai luận đoạn, thường Tạo đủ mười nghiệp ác Không sợ khổ đời sau Phần nhiều xa ba thừa. Hướng đường ác xấu xa Bị vô minh che mắt Nhiều tham, ganh, gian lận Làm sao chuyển pháp luân. Độ các chúng sinh này Làm sao phá tương tục Phiền não như kim cang Làm sao được Tổng trì. Để có nhẫn như vậy Nay con gặp Đạo Sư Hội lớn thật hy hữu Chưa từng thấy nơi khác. Đủ công đức Đầu-đà Thật nhiều các công đức Siêng tu đạo Bồ-tát Làm sao giảng pháp Phật Nơi những chúng ngu này. Thế Tôn bảo: –Lành thay, lành thay! Thiện nam! Ông đã ở trong vô số cõi Phật đời quá khứ vào thời năm trược xấu ác, đã từng thưa hỏi chư Phật Thế Tôn về vô số nghĩa lý giáo pháp. Lúc ông thưa hỏi nghĩa lý giáo pháp này, ông đã chịu khổ nhọc, đã thông đạt hoàn toàn, đã đến bờ kia, các hạnh đã viên mãn, đã được phương tiện diệu trí thiện xảo. Nay vì muốn giáo hóa tất cả hữu tình, làm cho được lợi ích an lạc; vì muốn làm cho tất cả Đại Bồ-tát, được kho tàng Thánh hạnh phương tiện thiện xảo để thực hành sáu pháp Ba-la-mật, giáo hóa tất cả hữu tình được thắng hạnh trí Nhất thiết trí, biển lớn công đức mau được viên mãn; vì muốn chuyển những hành động hung ác của tất cả vua Sát-đế-lợi, làm cho không đọa trong ba đường ác; vì muốn làm cho dòng giống oai đức Tam bảo ở cõi này hưng thịnh, trụ lâu ở đời, mà nay Bồ-tát Địa Tạng lại hỏi Như Lai về nghĩa lý giáo pháp như vậy. Các ông hãy lắng nghe, lắng nghe và suy nghó cho kỹ, ta sẽ phân biệt giảng nói cho các ông! Bồ-tát Địa Tạng thưa: –Bạch Thế Tôn! Con nguyện xin muốn nghe. Bấy giờ, Phật bảo Đại Bồ-tát Địa Tạng: –Thiện nam! Như Lai nhờ sức bản nguyện nên đã thành tựu mười Phật luân. Ở cõi Phật này, vào đời năm trược xấu ác tất cả hữu tình đều giảm mất pháp thiện bạch tịnh, thiếu mất vật báu Thất thánh tài, xa lìa tất cả trí giả thông minh, bị lưới chấp đoạn, thường che phủ, thường ưa cưỡi xe đi đến các cõi ác, không sợ khổ đời sau, thường ở nơi vô minh hắc ám nặng nề, tạo đủ mười loại nghiệp đạo bất thiện, tạo năm tội vô gián, phỉ báng chính pháp, hủy nhục Hiền thánh, xa lìa các pháp thiện, làm đủ các pháp ác. Ta ở trong cõi uế tạp như vậy mà được trụ an ổn, được không sợ hãi, được không kinh khiếp, ta tự xưng ngôi vị Đại Tiên tôn quý, chuyển Phật luân, hàng phục tà luận của thiên ma ngoại đạo, diệt trừ phiền não rắn chắc như kim cang của tất cả chúng sinh, tùy theo ý muốn, hướng dẫn tất cả chúng sinh, có năng lực làm cho họ được trụ quả vị ba thừa không thoái chuyển. Này thiện nam! Ví như có một đất nước gặp thời ngôi vua bị sụp đổ, trong nước tất cả dân chúng bày ra quân trận, hai bên giết hại lẫn nhau, gây ra rối loạn, lo sợ, dân chúng không an, xảy ra vô lượng cuộc đấu tranh chống đối, lấn hiếp nhau, dối trá, thô ác, ly gián, vu khống, các loại bệnh tật, mù lòa, mê mờ, lạnh nóng, bệnh hủi, động kinh, khô khát, ăn uống không tiêu tâm cuồng loạn, các căn không đủ, các bộ phận thân thể thiếu khuyết, thiếu thốn y phục, thức ăn, đồ dùng, tất cả vật sở hữu đều không vừa ý, các loại hữu tình quy y các tà thần ngoại đạo, ác kiến, ác tâm, ác ý đều mạnh mẽ, bỏ mất chính đạo, sẽ đọa vào đường ác. Lúc đó, trong nước ấy có các vị Trưởng lão thông minh, đa trí, học rộng, thư thái, oai nghiêm đáng kính, bàn luận với nhau tìm các mưu kế, liền triệu tập dân chúng trong cả nước cùng nhau tiến cử tìm một vương tử, trước hết phải đầy đủ các đức tính: Bố thí, điều phục, tịch tónh, trì giới, tinh tấn, dũng mãnh, thực hành các hạnh khổ khó làm, đầy đủ các tướng phước đức thù thắng, các căn đầy đủ, các phần thân thể không thiếu, hình tướng cao lớn, tướng tốt trang nghiêm, dung mạo đẹp đẽ bậc nhất, thường được tất cả mọi người tôn trọng cung kính, binh lính và muôn dân đều thương mến, bản tính thuần hậu, chất phác, có lòng Từ bi, học rộng, nhiều tài, biết các nghề nghiệp, dùng nhu hòa nhẫn nhục trang nghiêm cho tâm mình, là con của hậu phi, dùng các hương thơm để xông, nước trong sạch điều hòa lạnh nóng để tắm, mặc các y phục tốt đẹp, được xông hương, được trang sức các châu báu, bảo châu ma-ni kết vào búi tóc, vàng ngọc, vòng hoa được trang sức trên mũ, tơ lụa trắng mỏng quấn trên tóc. Lại dùng các loại ma-ni trân châu, vàng bạc làm thành vòng ngọc châu đeo tai, vòng anh lạc đeo tay, nhẫn và đồ trang sức đầy trên thân, chân mang hài dệt bằng các thứ báu, đỉnh đầu được che bằng lọng báu, an trí chỗ tòa ngồi, nơi ngày xưa các vị Tiên nhân hộ trì, được đưa vào trong đại điện xinh đẹp do các vị Thiên đế hộ trì, Tiên vương tự mình bước lên bảo tòa, tiếp nối ngôi vua, đánh chuông trống lớn để tất cả Thiên đế, Long đế, Dược-xoa đế, Mạc-hô-lạc-già thần đế, A-tố-lạc đế, Cưu-bàn-trà đế đến hộ trì. Âm thanh của chuông trống ấy vang khắp các cõi nước, đến dòng Sát-đế-lợi và bốn dòng họ lớn, vô lượng dân chúng tắm rửa thân thể, mặc y phục sạch sẽ, cầm các loại cờ, lọng, lụa là quý báu, ma-ni, trân châu, vàng bạc, vỏ ốc ngọc bích, san hô, lưu ly, vô lượng trân bảo có màu sắc tốt đẹp khác nhau, dâng lên vị vua mới, tâu trình, khen ngợi những lời tốt đẹp: “Vua là bậc quý tộc tịnh hạnh, học rộng, nhiều tài.” Các Bà-la-môn dùng vô lượng bài tán tụng, ca vịnh hay khen ngợi oai đức nhà vua, dùng lời tốt chú nguyện cho nhà vua, đem các vật tốt lành tung rải lên đảnh vua: “Vua là dòng tộc quý tộc trước đây được Tiên vương quý trọng, học rộng, nhiều tài nghệ, tính chất trực hiền minh, tùy khả năng mà ttrao cho các chức vị quan, xử lý các việc nước, làm cho các bên đánh nhau ở trong nước trước kia, nay đều chấm dứt, cũng làm cho tất cả oán địch, bạn ác làm hại đều tiêu diệt, trừ bỏ tất cả phẩm chất xấu trong nước, tăng trưởng tất cả phẩm chất tốt trong nước.” Này thiện nam! Đại vương Quán Đảnh dòng Sát-đế-lợi thành tựu vương luân thứ nhất như vậy. Do vương luân này nên ở trong đất nước mình được an lạc, có thể điều phục tất cả oán địch, bạn ác, khéo giữ gìn thân thể làm tăng tuổi thọ. Này thiện nam! Khi cõi nước không có Phật ra đời cũng vậy, có nhiều tạp nhiễm, năm trược xấu ác, tất cả chúng sinh trong đó tâm bị phiền não trói buộc, tạo tác hai phe đánh nhau đau khổ bức bách, quấy rối, ngu mê không an, sinh ra vô lượng chấp trước đoạn thường, đấu tranh chống trái, khinh miệt lẫn nhau, phát sinh tham, sân, si, lời nói lừa gạt làm đủ mười nghiệp đạo bất thiện. Hữu tình chấp trước, quấy nhiễu thế giới, có đủ các phiền não bệnh tật, thiếu con mắt chính pháp, giận dữ não loạn, thường không tư duy chính pháp chân thật, bỏ mùi vị chính pháp, chê bai hạnh thiện, ít hưởng được vị ngon hỷ lạc, thường bị các lưới phiền não che phủ, theo sáu ngoại đạo tà sư, mê mờ chính đạo, hướng đến ba đường ác. Ở trong cõi đó có các Đại Bồ-tát đã ở đời quá khứ thân cận cúng dường vô lượng chư Phật, đã thâm nhập biển công đức lớn của chư Phật, đã trụ vào chỗ hành đạo xưa kia của chư Phật, đều hội họp đến chỗ ta cùng bảo với ta: “Ông ở vào đời quá khứ đã tu tập vô lượng hạnh bố thí, điều phục tịch tónh, trì giới, tinh tấn dũng mãnh, hạnh khổ khó làm, tất cả đều viên mãn. Các phương tiện phước tuệ vi diệu, đại Từ bi cùng trang nghiêm kho tàng công đức lớn là biển lớn công đức viên mãn của tất cả định, Tổng trì, an nhẫn các địa, không quanh co, không, lừa dối, thân hình cao lớn, tướng tốt viên mãn, nhẫn nhục nhu hòa, đoan chính thù thắng, không dựa vào người khác khi tu đạo Bồ-đề đã được viên mãn tất cả biển trí, thành tựu tướng mạo tốt đẹp tối thắng, có thể làm đại Đạo sư cho tất cả Thanh văn, Độc giác, cũng có thể làm bạn thân cận an ủi cho tất cả chúng sinh lo sợ sinh tử, lấy vô lượng công đức đại Từ Đại Bi để trang nghiêm, là con của Yết-lạc-ca Tôn-đà, Yết-nặc-ca Mâu-ni, Như Lai Ca-diếp-ba. Ở Hiền kiếp này sẽ được làm Phật, làm vị thượng thủ trong tất cả Đại Bồ-tát, đem các công đức, các loại hương xông thơm, các loại nước thanh tịnh để tắm rửa, mặc áo hổ thẹn, lấy thanh tịnh pháp giới làm ngọc châu trong búi tóc, trang sức trên mũ là cảnh giới chư Phật và các vòng hoa lớn được buộc bằng tơ trắng mỏng giải thoát thù diệu. Lại dùng các loại trân bảo công đức trí Nhất thiết trí, pháp Nhẫn vô sinh để tự trang nghiêm, lấy Từ, Bi, Hỷ, Xả làm phước báo bao trùm ba cõi, lấy ba diệu hạnh Thánh nhân viên mãn làm lọng báu, đặt ở tòa kim cang định, nơi ngày xưa chư Phật thiên tiên hộ trì, hiện vào tất cả Thanh văn, Độc giác, cung kính, hộ trì bốn loại niệm trụ. Ngồi ở tòa trước chư Phật, chứng đắc quả vị Nhất thiết trí, đạo Vô thượng chính giác, làm cho tất cả hạt giống Tam bảo không đoạn tuyệt, chuyển pháp luân, đánh chuông trống pháp, âm thanh diệu pháp vang khắp ba cõi, làm cho chư Thiên, Long, Dược-xoa, La-sát, A-tố-lạc, Yết-lộ-trà, Khẩn-nại-lạc, Mạc-hô-lạc-ca, Cưu-bàn-trà, Di-lệ-đa, Tất-xá-da, Bố-đát-na, Yết-tra bố-đát-na, Nhân, phi nhân đều thông suốt bốn Thánh đế, tam chuyển pháp luân mười hai hành tướng mà tất cả Sa-môn hoặc Bà-la-môn, chư Thiên, Ma, Phạm vương, Nhân, phi nhân khắp thế gian không ai có thể chuyển được, vì muốn làm lợi ích an lạc cho vô lượng trời, người ở thế gian, muốn làm cho được lợi ích thù thắng nên xưa chưa chuyển mà nay chuyển. Này thiện nam! Ta thành tựu Phật luân thứ nhất như vậy. Do Phật luân này nên hiểu biết như thật đời này, đời sau, chỗ này, chỗ kia, được trụ an ổn, được không kinh sợ, được không khiếp hãi, điều phục các tà luận của thiên ma, ngoại đạo, chuyển đại phạm luân thành đại phạm hạnh. Khi ở thế giới tạp nhiễm năm trược xấu ác này, giữa đại chúng, ta sẽ rống tiếng rống sư tử, diệt trừ năm nghiệp vô gián của các hữu tình, nói rộng ra là cho đến các căn bất thiện, dẹp tan tất cả phiền não, tập khí tương tục vững chắc như kim cương của tất cả chúng sinh, thành tựu diệu quả giải thoát, đoạn tận tất cả các lậu, rồi tùy theo ý thích mà hướng dẫn tất cả chúng sinh có năng lực an trụ ba thừa, đạt quả vị không thoái chuyển. Này thiện nam! Như Đại vương Quán Đảnh dòng Sát-đế-lợi mới lên ngôi vua, thọ nhận chức vua rồi xem xét phép tắc của các vua đời quá khứ, vị lai, hiện tại. Ở trong vòng các vương nghiệp ấy, dùng trí khéo quán sát nhân và quả, tùy theo chỗ thích hợp thành lập tất cả các bộ phận quan chức, phò tá, làm tốt ba loại nghiệp luân cho tất cả muôn dân, kể cả người ngu kẻ trí trong thành, ấp. Do nghiệp luân này, binh só, dân chúng ngày đêm được thọ dụng các vật vừa ý, càng thêm vui vẻ, có thể tiêu trừ tất cả oán địch, bạn ác. Những gì là ba loại nghiệp luân? 1.Kiến lập đế vương nghiệp luân. nghĩa là dạy tốt việc tập luyện quân trận, chiến đấu, để đánh các binh chúng khác, chăm lo cho muôn dân. 2.Kiến lập điền trạch nghiệp luân. nghĩa là dạy tốt việc tạo lập nhà cửa, làm nông, làm cho được an ổn, ăn uống no đủ. 3.Kiến lập tài bảo nghiệp luân. nghĩa là dạy tốt việc công thương kỹ nghệ, làm được các loại đồ riêng tư quý báu, làm ra tài sản để tùy ý mà thọ dụng càng thêm vui thích. Này thiện nam! Đại vương Quán Đảnh dòng Sát-đế-lợi thành tựu vương luân thứ hai như vậy. Do vương luân này, đất nước mình được an lạc, có thể điều phục tất cả oán địch, bạn ác, khéo giữ gìn thân, làm tăng tuổi thọ. Này thiện nam! Như Lai khi mới thành Phật quả, đắc Vô thượng trí cũng vậy, Pháp nhãn quán sát chư Phật đời quá khứ, vị lai, hiện tại, dùng trí tuệ khéo quán sát rõ ràng về các nghiệp phải chịu quả báo do nhân của nó, kiến lập ba loại nghiệp luân để giáo hóa tất cả hữu tình. Do nghiệp luân này mà có thể làm cho Pháp nhãn dòng giống Tam bảo thường không đoạn diệt, chính pháp vô thượng được lưu thông hưng thịnh, làm cho các hữu tình được Niết-bàn, sinh Thiên an lạc và làm cho tất cả tà luận ngoại đạo không thể chế phục Pháp nhãn chân chính của ta, mà ngược lại ta có thể y như pháp bẻ gãy tà luận kia. Này thiện nam! Những gì là ba nghiệp luân? Một là, kiến lập tu định nghiệp luân. Hai là, kiến lập tập tụng nghiệp luân. Ba là, kiến lập doanh phước nghiệp luân. Này thiện nam! Thế nào là nghiệp luân tu định của Như Lai? Định có mười loại. Thế nào là mười? nghĩa là quán sát kỹ sáu loại cảnh giới ở thức thân, các cõi, chấp ngã, ngã sở, lấy đó làm nhân, nghiệp là ruộng tốt, che phủ bằng vô minh, ái là ẩm ướt, không có tự tại, nương tựa vào cái khác mà có, lệ thuộc và các duyên mà thành. Vì muốn đoạn trừ ba loại lưu chuyển nghiệp, phiền não, khổ nên quán sát như vậy. Thế nào là nghiệp lưu? nghĩa là sở hành các hạnh của các hữu tình, nếu các hạnh này do vô minh và ái làm nhân, có thể sinh các hữu, gọi là phiền não lưu. Nếu do phiền não thức làm nhân, các duyên hòa hợp, sinh khởi danh sắc; nếu danh sắc làm nhân, các duyên hòa hợp, phát sinh lục xứ; nếu lục xứ làm nhân, các duyên hòa hợp, xúc, thọ, hậu hữu, sinh, lão, tử lần lượt phát sinh. Đó gọi là nghiệp lưu. Ba nghiệp lưu này như vậy là ruộng tốt, vô minh là nhân, ái là ẩm ướt nên đối với năm thủ uẩn phải quán là vô thường, khổ, vô ngã, ngu độn, ù lì, không nhạy bén, như huyễn, như sóng nắng, như trăng dưới nước, như việc thấy trong mộng, không vô sở hữu, vô tướng, vô nguyện, không có tạo tác, không sinh, không khởi, không xuất, không hình tượng, tịch tónh viễn ly, không có sự phát sinh. Đối với năm thủ uẩn quán sát như vậy có thể thuận không nhẫn, thuận vô tướng nhẫn, thuận vô nguyện nhẫn. Vì muốn tùy thuận nên quán năm thủ uẩn. Lại dùng phương tiện tu quán hơi thở ra vào, tức là tu tập giữ niệm đến đi. Thế nào là do niệm quán sát như thật hơi thở vào, hơi thở ra? nghĩa là quán sát như thật Sổ, Tùy, Chỉ, Quán, Chuyển, Tịnh. Nên biết ở đó, Sổ có thể tạo tác hai việc: Một là, có thể làm chỗ nhất tâm của các tầm xứ nương trú. Hai là, có thể nắm lấy tướng hơi thở ra vào. Tùy có thể tạo tác hai việc: Một là, nương vào xuấy ly, xả các tầm xứ. Hai là, có thể khéo nắm giữ tướng hơi thở ra vào. Chỉ có thể tạo tác hai việc: Một là, có thể biểu hiện, sự ngưng hơi thở ra vào. Hai là, có thể an trụ Tam-ma-địa thù thắng. Quán có thể tạo tác hai việc: Một là, có thể hiện bày châm dứt hơi thở ra vào. Hai là, có thể an trụ quán sát sai biệt pháp tâm, tâm sở. Chuyển có thể tạo tác hai việc: Một là, có thể dùng phương tiện xả các thủ uẩn. Hai là, có thể dùng phương tiện hướng đến Thánh địa. Tịnh có thể tạo tác hai việc: Một là, có thể xả bỏ kết sử. Hai là, có thể được kiến tịnh. Sáu loại phương tiện như vậy, là tu tập quán sát hơi thở ra vào, liền có thể tùy thuận quán năm thủ uẩn. Vì sao? Vì tự tính hơi thở ra vào như vậy gọi là sắc thủ uẩn, lãnh nạp hơi thở ra vào như vậy gọi là thọ thủ uẩn, nắm lấy tướng hơi thở ra vào như vậy gọi là tưởng thủ uẩn, tạo tác hơi thở ra vào như vậy gọi là hành thủ uẩn, hiểu rõ phân biệt hơi thở ra vào như vậy gọi là thức thủ uẩn. Nói năm thủ uẩn như vậy, mỗi một chúng đều sai khác không giống nhau, thay đổi, thay đổi mãi, chẳng phải như cũ nên không dừng lại, không tích chứa, không thể nói được. Quán sát năm thủ uẩn như vậy có thể trừ được ba hành. Nếu có thể tùy quán rốt ráo như vậy thì đoạn tận ba hành, từ đó có thể tùy quán rốt ráo sáu loại cảnh giới ở thức, thân các cõi; nghiệp, chấp ngã, ngã sở, với vô minh, ái là nhân, là ruộng tốt, là sự che lấp, là thấm nhuần, tất cả đều dứt trừ. Tu tập bốn Niệm trụ như vậy đều được viên mãn, cho đến tu tập tám Thánh đạo đều được viên mãn. Cho đến tu tập mười tám pháp Bất cộng Phật như vậy cũng đều được viên mãn, cho đến tu tất cả Tam-ma-địa, pháp Nhẫn vô sinh, Thủ-lăng-già Tam-ma-địa đều được viên mãn. Tu tập nắm giữ nghĩa lý đến đi, nhập các tónh lự như vậy, gọi là hữu tình trụ thắng nghĩa chính pháp, gọi là chân thật tu tập tónh lự, gọi là chân thật cúng dường chư Phật Thế Tôn ba đời, gọi là con trong tâm tất cả chư Phật, từ miệng Phật sinh, từ pháp thành tựu, từ pháp hóa sinh. Hoặc có Bồ-tát tu tập như vậy dần dần đến thoái chuyển, cho đến dứt hết lậu thành A-la-hán, đủ sáu thần thông; hoặc có Bồ-tát tu tập như vậy dần dần tăng trưởng công đức viên mãn, thành Đại Bồ-tát, cho đến tu tập mười tám pháp Bất cộng của Phật tu tập, Nhất thiết chủng trí cũng đều được viên mãn. Vị này không bao lâu sẽ đắc Bồ-đề vô thượng. Này thiện nam! Ta dùng trí tuệ quán sát các nghiệp phải chịu quả báo do nhân của nó đưa đến quán sát Pháp nhãn chư Phật ba đời để an vui hữu tình, hướng dẫn hữu tình tu tập mười nghiệp luân tu định này. Này thiện nam! Đó gọi là nghiệp luân tu định của Như Lai. Này thiện nam! Thế nào là nghiệp luân tập tụng của Như Lai? nghĩa là các Tỳ-kheo, hoặc Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, hoặc các thiện nam, tín nữ có tịnh tín mà căn lành ít ỏi, nương vào tục đế, căn cơ chưa thành thục, ta sẽ hướng dẫn các hữu tình này làm cho họ tập tụng, đầu đêm cuối đêm tinh tấn không biếng nhác. Hoặc có các hữu tình mong cầu trí vô thượng, ta sẽ hướng dẫn họ thuần tịnh Đại thừa, làm cho họ tự đọc hoặc dạy người khác đọc, làm cho họ tự tụng hoặc dạy người khác tụng, làm cho họ tự giảng thuyết hoặc dạy người khác giảng thuyết, làm cho họ tự tu tập Đại thừa hoặc dạy người khác tu tập, làm cho phiền não của mình và của người khác đều diệt trừ, làm cho họ chứng đắc trí vô thượng, đoạn trừ khổ cho tất cả hữu tình, chứng nhập thành Vô úy. Nếu các hữu tình mong cầu thừa Duyên giác, ta sẽ đưa ra các pháp duyên khởi để họ tụng tập. Nếu các hữu tình mong cầu thừa Thanh văn, ta sẽ hướng dẫn trăm ngàn bài tụng Tứ A-cấp-ma (Tứ A-hàm), trăm ngàn bài tụng Tỳ-nại-da, trăm ngàn bài tụng A-tỳ-đạt-ma và Tỳ-bà-sa để họ tập tụng. Này thiện nam! Đó gọi là tập tụng nghiệp luân Như Lai. Này thiện nam! Thế nào là nghiệp luân doanh phước của Như Lai? nghĩa là nếu có các hữu tình căn cơ ngu độn, chưa trồng căn lành, trí tuệ yếu kém, biếng nhác, mất sự suy nghó, đắm nhiễm các loại vật dụng, xa lìa bạn lành, ta sẽ hướng dẫn các hữu tình này làm cho họ được nhiều phước nghiệp, nghĩa là làm cho họ tu tập và thực hành các việc Phật, Pháp, Tăng và các việc gần gũi với lời dạy, với quy củ đúng đắn của thầy. Này thiện nam! Đó là nghiệp luân doanh phước của Như Lai. Này thiện nam! Ta thành tựu Phật luân thứ hai như vậy. Do Phật luân này mà ta dùng trí nghiệp vô thượng ba đời để hiểu biết như thật các nghiệp pháp, thọ nhận quả báo của tất cả hữu tình, rồi tùy theo sở thích, lập ba nghiệp luân thành thục giáo hóa tất cả hữu tình được trụ an ổn, được không kinh sợ, được không khiếp hãi, bẻ gãy các tà luận của thiên ma ngoại đạo, chuyển đại pháp luân, thành tựu đại phạm hạnh, hiểu biết như thật nhân quả của chúng sinh. Này thiện nam! Như Đại vương Quán Đảnh thuộc dòng Sát-đế-lợi, thành tựu trí thiện xảo, quán sát tất cả Sa-môn, Bà-la-môn, Sát-đế-lợi, Phệ-xá, Miệt-đạt-la, về các loại công đức, sự học rộng, sự dõng mãnh, kỹ nghệ tài giỏi. Nếu các chúng sinh có nhiều công đức, thành tựu trí thiện xảo, tinh tấn dũng mãnh, kiên cố không thoái chuyển, dùng đủ các phước đức để tự trang nghiêm thì Đại vương Quán Đảnh dòng Sát-đế-lợi này, sẽ tùy theo nhu cầu của họ, mà cung cấp trân bảo, tài vật, thóc lúa, ruộng vườn, nhà cửa, nô tỳ. Ở trong nước mình, nếu các chúng sinh đức mỏng, kỹ nghệ thấp kém, công nghiệp non yếu, Đại vương Quán Đảnh dòng Sát-đế-lợi này sẽ tùy theo sở thích mà giúp đỡ thêm. Ở trong nước mình, nếu các chúng sinh công đức ít ỏi, không tinh tấn, giải đãi, lười biếng, quên mất chính niệm, không có tâm Từ bi, không biết báo ân, không sợ đời sau khổ, chìm trong bùn gia đình, tích chứa các hạnh ác thì Đại vương Quán Đảnh dòng Sát-đế-lợi này sẽ tùy theo tội lỗi mà dùng các hình thức trách phạt thích hợp, hoặc dùng lời dạy bảo, quở trách, hoặc thu lấy trân bảo, hoặc thu lấy tài sản, nghề nghiệp thọ dụng như ý, hoặc đánh phạt bằng roi, cây, hoặc giam cầm trong lao ngục, hoặc chặt tay chân, hoặc chém đầu. Tùy theo tội lỗi như vậy mà dùng vô lượng hình phạt thích ứng. Này thiện nam, Đại vương Quán Đảnh dòng Sát-đế-lợi thành tựu vương luân thứ ba. Do luân vương này, mà làm cho đất nước mình càng thêm an lạc, có thể điều phục tất cả oán địch, bạn ác, khéo giữ gìn thân, tăng thêm tuổi thọ. Này thiện nam! Như Lai thành tựu trí thiện xảo cũng vậy, biết căn cơ các đệ tử nào xa lìa phước tuệ, trí phương tiện thiện xảo, bố thí, điều phục, tịch tónh, mất niệm, loạn tâm, đến chỗ ta, quy y ta, ta đã biết rõ căn cơ, sở thích, tùy miên, thắng giải của họ, ta sẽ dùng pháp Tỳ-nại-da trị phạt cho thích hợp với họ. Các chúng sinh nào tính tình ngang bướng, không phụng trì các học xứ, ta vì muốn làm cho Thánh giáo trụ lâu ở đời, nên làm nhiều cách: Hoặc chế ra cách trị phạt bằng ức niệm, hoặc bằng lời răn dạy, quở trách làm cho sợ hãi, hoặc tạm đuổi, hoặc phân tách làm cho quy phục, thành thật lễ bái, hoặc không cùng nói chuyện, không cùng lợi dưỡng, hoặc như trải cỏ, hoặc lại diệt tẫn. Ta dùng diệu trí biết căn cơ, sở thích, tùy miên, thắng giải của các hữu tình Bổ-đặc-già-la (nhiều lần luân hồi qua các cõi), tùy theo tội mà trị phạt thích ứng. Vì muốn làm cho họ phá tan vô minh hắc ám đã tích chứa nhiều, làm khô kiệt các dòng thác phiền não, làm cho họ được sinh vào chỗ an vui của cõi trời, Niết-bàn, vì muốn cho các Bổ-đặc-già-la làm điều ác được điều phục, nên tùy theo tội mà dùng pháp trị phạt thích ứng, quán sát nói nhỏ, nói lớn khác nhau, tùy theo tội lỗi mà đưa ra hình thức trị phạt những người làm điều xấu ác. Ta dùng diệu trí biết các hữu tình, thành tựu đầy đủ lòng tin kính tăng thượng, ý lạc thuần tịnh, tùy theo căn cơ ta thuyết các pháp thiện sai khác để họ tu học, cho đến làm cho họ viên mãn tất cả căn lành, vào thành Vô úy. Này thiện nam! Ta thành tựu Phật luân thứ ba như vậy. Do Phật luân này, ta biết căn cơ, sở thích, tùy miên, thắng giải, sự nhận lấy các nghiệp pháp của các hữu tình Bổ-đặc-già-la, tùy theo căn cơ đều được lợi ích an lạc, được sống an ổn, được không sợ hãi, được không kinh khiếp, tự xưng: “Ta được ngôi vị đại Tiên tôn quý”, chuyển Phật luân, bẻ gãy các tà luận của thiên ma ngoại đạo, ở giữa đại chúng cất tiếng rống sư tử. Này thiện nam! Như Đại vương Quán Đảnh dòng Sát-đế-lợi biết trong nước mình có vô lượng hữu tình Bổ-đặc-già-la quy y đủ các tà thần ngoại đạo, phát sinh tà tín và tà kiến, học theo giới cấm tà đạo, chấp trước vào sự tu tập tà vạy theo tướng cát hung, chịu các khổ, không có lợi ích, Đại vương biết vậy nên thường triệu tập họ, dùng chính pháp trị nước của Tiên vương để khai ngộ, chỉ dạy, nhắc nhở, làm cho họ xả bỏ những tà kiến điên đảo, tu học pháp chính trực xưa của Tiên vương, làm cho tất cả hữu tình trong nước mình đồng tâm một hướng quy về theo chính pháp của Tiên vương, cùng nhau vâng theo chiếu mạng, tùy thuận phụng hành, cả nước hòa đồng, làm việc nên làm. Khi ấy, Đại vương Quán Đảnh dòng Sát-đế-lợi thường tập hợp các quần thần, cùng vui mừng thọ hưởng khoái lạc, vui chơi du ngoạn, không nghi ngờ nhau, cùng mưu bàn việc nước. Này thiện nam, Đại vương Quán Đảnh dòng Sát-đế-lợi thành tựu vương luân thứ tư như vậy. Do vương luân này, làm cho đất nước mình càng thêm an lạc, có thể điều phục tất cả oán địch, bạn ác, giữ gìn thân, làm cho tăng tuổi thọ. Này thiện nam! Như Lai thành tựu trí thiện xảo thắng giải cũng vậy, thấy các tà quy, tà kiến, tà ý lạc trong thế gian, đắm trước tà pháp, thực hành tà nghiệp, do nhân duyên này mà chịu vô lượng khổ. Biết như vậy rồi, Như Lai thường triệu tập đại chúng, đem các pháp nhân quả, chủng tính Tam bảo, sáu pháp Ba-la-mật, Du-già, ba luật nghi… của chư Phật Thế Tôn trong quá khứ khai ngộ, chỉ bày, giải rõ cho tất cả chúng hội, làm cho họ được giải thoát các tà kiến điên đảo mà kiến lập chính kiến, an trú vào mười điều thiện là chính đạo vốn có từ lâu, làm cho các hữu tình thường cùng tu tập pháp tùy pháp hành, phương tiện dẫn thâu nhân quả đẳng lưu, làm cho các hữu tình, bốn chúng hòa hợp, cùng tu tất cả thiện hạnh thù thắng, cùng hành dụng bốn Niệm trụ. Ở trong các đạo phẩm giải thoát tri kiến Tam-ma-địa được hoan hỷ thọ lạc, làm cho Thánh giáo trụ lâu ở đời, tiếp nối dòng giống Tam bảo không để đoạn tuyệt, rồi cùng diệu dụng bốn chính cần, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác chi, tám Thánh đạo, ở trong các đạo phẩm giải thoát Tri kiến của vô số Tam-ma-địa thù thắng được hoan hỷ thọ lạc. Này thiện nam! Ta thành tựu Phật luân thứ tư như vậy. Nhờ Phật luân này mà biết được các thắng giải, chỗ hướng về, sở thích, sự nhận lấy các pháp nghiệp của các hữu tình Bổ-đặc-già-la, rồi tùy theo căn cơ làm cho chúng được lợi ích an lạc, được sống an ổn, được không kinh sợ, được không khiếp hãi, tự xưng: “Ta được ngôi vị Đại Tiên tôn quý”, chuyển Phật luân, bẻ gãy các tà luận của thiên ma ngoại đạo, ở giữa đại chúng cất tiếng rống sư tử. Này thiện nam! Như Đại vương Quán Đảnh dòng Sát-đế-lợi, biết trong đất nước mình hoặc nước khác có vô lượng hữu tình Bổ-đặc-già-la, đối với tài sản, sắc đẹp của mình thì đam mê không chán; đối với tài sản, sắc đẹp của người khác thì tham cầu chiếm giữ, cho nên vua liền lập thành quách, thôn xóm, đồ binh cung nỏ, lính canh trong làng nước, cung vua, nói rộng cho đến xá-la anh vũ cũng phải có đủ dụng cụ để phòng thủ để không bị tổn mất. Này thiện nam, Đại vương Quán Đảnh dòng Sát-đế-lợi thành tựu vương luân thứ năm như vậy. Nhờ vương luân này, làm cho đất nước mình càng thêm phát triển và an lạc, có thể điều phục tất cả oán địch, bạn ác, giữ gìn thân, làm cho tăng tuổi thọ. Này thiện nam! Như Lai thành tựu thắng trí cũng vậy, biết các tính, biết các ma ác, biết chín mươi lăm chúng ngoại đạo tà kiến và vô lượng chúng ma ngoại đạo khác, biết các hữu tình đối với tài sản, sắc đẹp của mình thì đam mê không chán, đối với tài sản, sắc đẹp của người khác thì tham cầu muốn đoạt, đối với bản thân ta và đồ chúng của ta thì sinh tâm ganh ghét ta làm hại. Giả sử thiết đặt thức ăn ngon nhưng bỏ thuốc độc vào, làm hầm lửa để giường tòa ở trên ngụy trang, hoặc xô đá từ trên núi xuống, hoặc thả voi say, cầm kiếm đuổi rượt, làm tan nát như bụi, hủy báng hành dâm dục, hủy báng người này không phải nam hoặc cho là phi nhân, hoặc cho là huyễn hóa, do các điều ác này mà phỉ báng nhau. Đối với Phật, Pháp, Tăng cũng sinh vô lượng các thứ phỉ báng, chửi mắng, hủy nhục. Các Thanh văn đệ tử của ta an trụ gần đây nhưng do ganh ghét mà sinh tâm hủy báng. Biết như vậy rồi, Như Lai khéo giữ gìn sáu căn, nương vào bốn phạm trụ, đầy đủ bốn Biện tài, giảng thuyết chính pháp cho các Thanh văn, an vị trong ba môn giải thoát thanh tịnh. Ta dùng trí tuệ biết các tính pháp thế gian, xuất thế gian như vậy. Ta rõ biết như thật vô lượng các tính sai khác của tất cả chúng sinh, tùy theo căn cơ mà làm lợi ích. Này thiện nam! Ta thành tựu Phật luân thứ năm như vậy, nhờ Phật luân này, mà dùng thắng trí biết được các tính thế gian, xuất thế gian, biết vô lượng các tính sai khác của các hữu tình Bổ-đặc-già-la, rồi tùy theo căn cơ mà làm cho họ được lợi ích an lạc, được sống an ổn, được không kinh sợ, được không khiếp hãi, tự xưng: “Ta được ngôi vị Đại Tiên tôn quý”, chuyển Phật luân, bẻ gãy các tà luận của thiên ma, ngoại đạo, ở giữa đại chúng cất tiếng rống sư tử. Này thiện nam! Như Đại vương Quán Đảnh dòng Sát-đế-lợi cho thiếp lập tất cả thành quách kiên cố, thôn phường, đồ binh, giáo mác, lính canh, thành ấp, cung vua, nói rộng cho đến xá-la anh vũ cũng đã phòng thủ đầy đủ thì ở trong cung các quyến thuộc, cung phi mỹ nữ sẽ được vây quanh vui chơi, thọ hưởng năm dục lạc, buông lung sáu căn, thọ hưởng đủ các thú vui hỷ lạc. Này thiện nam, Đại vương Quán Đảnh dòng Sát-đế-lợi thành tựu vương luân thứ sáu như vậy. Nhờ vương luân này, mà làm cho đất nước mình càng thêm an lạc, có thể điều phục tất cả oán địch, bạn ác, giữ gìn thân, làm tăng thêm tuổi thọ. Này thiện nam! Như Lai cũng vậy thiếp lập Thánh giáo kiên cố, tổ chức các việc phòng thủ cho tất cả các Đại Bồ-tát và đại Thanh văn, sau đó liền nhập tónh lự thứ nhất cho đến nhập tónh lự thứ tư, rồi nhập định vô biên hư không xứ, nói rộng cho đến nhập định phi tưởng phi phi tưởng, cứ như vậy cho đến nhập định Nhất thiết Phật sở hành. Như Lai nhập định này rồi, vô lượng trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa Thiên, Long, Dược-xoa, La-sát, Kiền-đạt-phược, A-tố-lạc, Yết-lộ-trà, Khẩn-nại-lạc, Mạc-hô-lạc-già, Di-hiếp-đa Tất-xá-già, Bố-đát-na, Yết-tra Bố-đát-na đối với các chúng sinh thường ôm lòng độc ác, làm tổn hại, không có lòng Từ bi, không sợ hãi khổ đời sau, vậy mà thấy ta nhập định Nhất thiết Phật sở hành, tất cả đều rất hoan hỷ đối với ta, phát tâm tịnh tín đối với Tam bảo, đều rất hoan hỷ phát lòng tịnh tín tôn trọng cung kính, chưa từng có, đối với tất cả việc ác biết hổ thẹn phát tâm sám hối, nguyện chấm dứt. Do nhân duyên như vậy, mà trong khoảng một sát-na, vô lượng, vô số các phiền não chướng, nghiệp chướng, pháp chướng đều được tiêu trừ, vô lượng, vô số hành trang phước tuệ, đều được viên mãn, đều xa lìa sinh tử, hướng đến Niết-bàn, hộ trì chính pháp vô thượng của Như Lai. Này thiện nam! Ta thành tựu Phật luân thứ sáu như vậy. Nhờ Phật luân này, mà Như Lai diệu dụng vô lượng trăm ngàn tónh lự giải thoát, đẳng trì, đẳng chí thâm sâu vi diệu, dùng trí thanh tịnh tùy thuận chuyển đổi, diệt trừ vô lượng phiền não của các hữu tình, tùy theo căn cơ mà làm lợi ích an lạc, được sống an ổn, được không kinh sợ, được không khiếp hãi, tự xưng: “Ta được ngôi vị Đại Tiên tôn quý”, chuyển Phật luân, bẻ gãy các tà luận của thiên ma ngoại đạo, ở giữa đại chúng cất tiếng gầm sư tử. Này thiện nam! Như Đại vương Quán Đảnh dòng Sát-đế-lợi, đã cùng các quần thần thống lónh bốn binh chúng tuần canh quán sát khắp thành ấp, làng xóm, núi sông, khe suối, vườn ruộng, vũng, ao, sông, đồng ruộng, rừng, khắp đất nước mình, ở nơi nào trong nước gặp hiểm trở, nhiều tai nạn, không thể làm ăn, có lo âu, có sợ hãi, chịu đựng ngoại cảnh, oán địch, bạn ác, phải chạy trốn, ẩn nấp, Đại vương Quán Đảnh dòng Sát-đế-lợi này sẽ tùy theo sức mình dùng phương cách ổn định, sửa sang, phòng thủ vững chắc, làm cho các nơi bình yên, không còn hoạn nạn nữa, có thể làm ăn, không còn lo âu, không còn sợ hãi ngoại cảnh, oán địch, bạn ác ngăn chận, không phải chạy trốn, ẩn nấp nữa, an ủi tất cả dân chúng trong nước mình, làm cho họ đều xa lìa các khổ, hưởng các thú vui. Này thiện nam! Đại vương Quán Đảnh dòng Sát-đế-lợi thành tựu vương luân thứ bảy như vậy. Nhờ vương luân này làm cho nước mình ngày càng an lạc, có thể điều phục tất cả oán địch, bạn ác, khéo giữ gìn thân, làm tăng tuổi thọ. Này thiện nam! Như Lai cũng vậy dùng Phật nhãn của mình, rõ biết như thật tất cả hữu tình Bổ-đặc-già-la có tâm tham, sân, si hiểu biết như thật các bệnh phiền não của các hữu tình hành bệnh sai khác. Như Lai biết rồi liền sinh ra vô lượng năng lực dũng mãnh, tinh tấn, rồi tùy theo căn cơ mà đưa ra phương thuốc tu định vi diệu làm cho các hữu tình siêng năng tinh tấn tu học để diệt trừ bệnh phiền não. Hữu tình nào nên tu quán bất tịnh để diệt trừ bệnh phiền não, liền trao cho phương thuốc tu quán bất tịnh; các hữu tình nào nên tu phạm trụ để diệt trừ bệnh phiền não thì liền trao cho phương thuốc tu tập phạm trụ; các hữu tình nào nên tu quán duyên khởi để diệt trừ bệnh phiền não thì liền trao cho phương thuốc tu quán duyên khởi; các hữu tình nào nên tu quán hơi thở để diệt trừ bệnh phiền não thì liền trao cho phương thuốc tu quán hơi thở; các hữu tình nào nên tu quán ba môn giải thoát để diệt trừ bệnh phiền não thì liền trao cho phương thuốc tu quán ba môn giải thoát; các hữu tình nào nên tu tónh lự để diệt trừ bệnh phiền não thì liền trao cho phương thuốc tu tónh lự; các hữu tình nào nên tu vô sắc để diệt trừ bệnh phiền não thì liền trao cho phương thuốc tu vô sắc; cho đến các hữu tình nào nên tu các Tam-ma-địa Thủ-lăng-già-ma để diệt trừ bệnh phiền não thì liền trao cho phương thuốc tu các Tam-ma-địa Thủ-lăng-già-ma. Sở dó Như Lai trao cho các hữu tình thuốc pháp như vậy là vì: Không muốn làm cho tất cả hữu tình được giáo hóa bị bốn ma oán, thu phục; không muốn làm cho tất cả hữu tình được giáo hóa xoay lưng với Nhân thiên thừa, hướng đến các đường ác; không muốn làm cho ba ngôi Tam bảo, Pháp nhãn vô thượng của Như Lai mau hoại diệt. Nhờ đó Như Lai trao cho các hữu tình thuốc pháp này. Này thiện nam! Ta thành tựu Phật luân thứ bảy như vậy. Nhờ Phật luân này, mà Như Lai đã dùng trí hạnh vô thượng biến hành để trao cho các chúng sinh, đủ các loại thuốc pháp, làm cho chúng sinh siêng năng tu học để diệt trừ bệnh phiền não, để được sống an ổn, được không khiếp sợ, được không kinh hãi, tự xưng: “Ta được ngôi vị Đại Tiên tôn quý”, chuyển Phật luân, bẻ gãy các tà luận cởi mở Thiên ma ngoại đạo, ở giữa đại chúng cất tiếng rống sư tử. Này thiện nam! Như Đại vương Quán Đảnh dòng Sát-đế-lợi nhớ lại những việc chủng tính sơ sinh vui đùa, khi xưa lúc còn nhỏ của mình và người. nghĩa là nhớ lại khi mình và người ở nơi đó, lúc mới sinh, tắm rửa, ẳm bồng, bú mớm, vỗ về thân thể, cho đến vui chơi hoặc đùa giỡn, bốc tro đất hoặc cùng với người hầu rong chơi khắp nơi, hoặc học tập kỹ nghệ, hoặc làm các nghề nghiệp, hoặc đi đến nước khác sớm tối dừng nghỉ, hoặc phụng sự vua, hoặc giải quyết sự việc cho vua, hoặc làm thái tử, hoặc lên ngôi vua, được quyền lực lớn, thọ dụng vui chơi, danh tiếng vang khắp các nơi. Nghó việc này rồi, tuân theo chính pháp của Tiên vương, chăm sóc nuôi dưỡng muôn dân trong nước, gìn giữ nước mình, không xâm phạm ranh giới nước người. Này thiện nam! Đại vương Quán Đảnh dòng Sát-đế-lợi thành tựu vương luân thứ tám như vậy. Do vương luân này, làm cho đất nước mình ngày càng an lạc, có thể điều phục tất cả oán địch, bạn ác, khéo giữ gìn thân, làm cho tăng tuổi thọ. Này thiện nam! Như Lai cũng vậy, ở giữa đại chúng nhớ nghó vô lượng các việc đời trước của mình và người, như các việc trong một đời, hoặc hai đời, hoặc ba đời, cho đến vô lượng trăm ngàn đời, hoặc nghó đến kiếp thành, hoặc nghó đến kiếp hoại, hoặc nghó đến vô lượng kiếp thành, kiếp hoại đã từng ở nơi đó trong đời quá khứ, tên gọi như vậy, dòng họ như vậy, chủng loại như vậy, ăn uống như vậy, lãnh nạp khổ thọ, lạc thọ như vậy, tuổi thọ như vậy, sống lâu ở đời như vậy, đời sống khó khổ ngoài biên giới như vậy, chết từ chỗ kia sinh đến nơi này, chết từ nơi này sinh đến chỗ kia, nhớ nghó vô lượng, vô biên các việc đời trước như vậy, tùy theo căn tính sai khác của chúng sinh mà Như Lai thuyết giảng chính pháp làm lợi ích cho họ. Này thiện nam! Ta thành tựu Phật luân thứ tám như vậy. Do Phật luân này, mà Như Lai làm lợi ích an lạc cho vô lượng hữu tình được sống an lạc, được không kinh sợ, được không khiếp hãi, tự xưng: “Ta được ngôi vị Đại Tiên tôn quý”, chuyển Phật luân, bẻ gãy các tà luận của thiên ma ngoại đạo, ở giữa đại chúng cất tiếng rống sư tử. Này thiện nam! Như Đại vương Quán Đảnh dòng Sát-đế-lợi, tùy niệm tự quán sát dòng họ, kỹ thuật của các hữu tình trong nước mình cho đến các sự nghiệp chết nơi này sinh chỗ kia, nhân quả tốt xấu, sai khác không đồng, biết hữu tình kia sinh vào nhà như vậy, thân thể khỏe mạnh hoặc yếu đuối, đối với các thứ kỹ thuật đã học hay chưa học, làm nghề nghiệp lương thiện hay xấu ác, giàu sang hay nghèo hèn, xinh đẹp hay xấu xí, đủ các loại việc như thế cho đến việc qua đời: Như có người nghiệp chưa hết mà chết, hoặc có người nghiệp hết rồi chết, hoặc phạm pháp vua bị hình phạt mà chết, hoặc lần lượt sát hại nhau mà chết, hoặc bị roi gậy đánh đập mà chết, hoặc bị trói nhốt kín trong nhà tù mà chết, hoặc do học tập kỹ thuật mà chết, hoặc do bị giết ở chiến trận mà chết, hoặc do đấu tranh xô xát nhau mà chết, hoặc do tham lam bỏn xẻn tài sản mà chết, hoặc do say đắm sắc dục mà chết, hoặc do sân giận uất ức mà chết, hoặc do mệt nhọc khốn đốn mà chết, hoặc do đói khát tuyệt vọng mà chết, hoặc có lỗi mà chết, hoặc không lỗi mà chết, hoặc già chết, hoặc trung niên chết, hoặc còn nhỏ chết, hoặc làm các nghiệp lành mà chết, hoặc làm các nghiệp ác mà chết; biết các hữu tình làm việc thiện, sau khi qua đời sẽ sinh vào cõi thiện, biết các hữu tình làm việc ác, sau khi qua đời sẽ sinh vào cõi ác. Biết các việc này rồi, lại tự suy nghó: “Ta sẽ siêng năng tu tập thân làm việc thiện, miệng nói lời thiện, ý nghó điều thiện.” Ta sẽ dùng các phương tiện tu hành bố thí, tịch tónh điều phục, sau khi qua đời sẽ sinh vào cõi thiện, không đọa vào cõi ác. Đại vương Quán Đảnh dòng Sát-đế-lợi này suy nghó như vậy rồi, dũng mãnh tinh tấn, tu tập ba nghiệp thiện về thân, miệng, ý, thường hành bố thí tất cả vô sở hữu, như thức ăn uống, y phục, voi, ngựa, xe cộ, đồ nằm, thuốc men, phòng nhà, đèn đuốc và các vật dụng khác, nô tỳ, nô bộc, các loại trân bảo, đầu mắt tay chân, cho đến thân mạng đều không hối tiếc, đồng thời xa lìa sát sinh, xa lìa không cho mà lấy, xa lìa dục tà hạnh, xa lìa lời nói dối, xa lìa nói lời thô ác, xa lìa nói lời ly gián, xa lìa lời nói tạp uế, xa lìa các tham dục, xa lìa các sân giận, xa lìa các tà kiến. Do nhân duyên này, Đại vương Quán Đảnh dòng Sát-đế-lợi sẽ được mười công đức lợi ích thù thắng. Thế nào là mười? 1.Đầy đủ tiếng khen lớn. 2.Đầy đủ tài bảo lớn. 3.Đầy đủ sắc tướng tốt đẹp. 4.Đầy đủ nhiều quyến thuộc. 5.Ít bệnh, ít phiền não. 6.Bạn bè, quyến thuộc thông minh học rộng. 7.Thân cận cúng dường bậc chính chí chính hạnh. 8.Tiếng khen tốt đẹp vang khắp mười phương. 9.Oai đức lớn, trời thần thường theo hộ vệ. 10.Sau khi qua đời sẽ sinh lên cõi trời, thường ở cõi thiện, cõi nước an vui. Này thiện nam! Đại vương Quán Đảnh dòng Sát-đế-lợi thành tựu vương luân thứ chín như vậy. Do vương luân này, làm cho đất nước mình ngày càng an lạc, có thể điều phục tất cả oán địch, bạn ác, khéo giữ gìn thân, tăng thêm tuổi thọ. Này thiện nam! Như Lai cũng vậy, rõ hiểu biết như thật các việc sinh tử của tất cả hữu tình, nghĩa là biết như thật các hữu tình nào thân làm việc ác, miệng nói lời ác, ý nghó việc ác, phỉ báng Hiền thánh, đủ các tà kiến, nghiệp nhân tà kiến, sau khi qua đời đọa vào các đường ác, hoặc sinh vào địa ngục, hoặc sinh vào súc sinh, hoặc sinh vào ngạ quỷ. Các hữu tình nào thân làm việc thiện, miệng nói lời thiện, ý nghó điều thiện, không phỉ báng Hiền thánh, đầy đủ chính kiến, nghiệp nhân chính kiến, sau khi qua đời, sinh lên các cõi thiện, hoặc sinh lên cõi trời, hoặc sinh trong loài người, hoặc đoạn tận các lậu. Như Lai biết rõ như thật vậy rồi, đối với chúng sinh đó, phát sinh tâm đại Từ bi, dũng mãnh, tinh tấn, hiện ba thần biến làm cho chúng sinh đó hướng về Phật pháp, rồi hướng dẫn giáo hóa, đặt niềm tin vào pháp thế gian, xuất thế gian. Thế nào là ba? 1.Thần thông biến hiện. 2.Ký thuyết biến hiện. 3.Giáo giới biến hiện. Do oai lực của ba biến hiện này, mà các hữu tình được khuyến khích, răn dạy khiến họ phát sinh, an trú niềm tin thế gian, xuất thế gian, làm cho họ được giải thoát khỏi tất cả đường sinh tử. Này thiện nam! Ta thành tựu Phật luân thứ chín như vậy. Nhờ Phật luân này mà làm được nhiều lợi ích an lạc cho vô lượng hữu tình, giúp họ được sống an ổn, được không kinh sợ, được không khiếp hãi, tự xưng: “Ta được ngôi vị Đại Tiên tôn quý”, chuyển Phật luân, bẻ gãy các tà luận của Thiên ma ngoại đạo, ở giữa đại chúng cất tiếng rống sư tử. Này thiện nam! Như Đại vương Quán Đảnh dòng Sát-đế-lợi, vì muốn diệt trừ thân bệnh cho vô lượng hữu tình khắp bốn châu nên xả bỏ ngôi vua, dùng các loại nước thơm tắm gội thân thể, mặc y phục sạch sẽ, ngồi ngay thẳng tư duy, dùng tâm bình đẳng Từ bi hộ niệm các chúng sinh, làm cho họ thoát khỏi tất cả bệnh tật, dùng các thứ hương hoa, kỹ nhạc và các vật dụng khác để cúng dường cho tất cả Thiên thần có oai đức lớn. Lúc bấy giờ, tất cả Thiên đế, Long đế, cho đến Mạc-hô-lạc-già thần đế biết việc này rồi nên cùng bàn luận với nhau: “Đại vương Quán Đảnh dòng Sát-đế-lợi này đầy đủ các công đức, có oai thần lớn, làm Luân vương thống lónh bốn châu, chúng ta nên cùng nhau đến kiến lập lại vương vị, thống lónh bốn châu, làm cho các chúng sinh không bệnh tật, được an lạc.” Bàn xong, các Thiên đế cho đến Mạc-hô-lạc-già thần đế cùng nhau kiến lập lại ngôi vị Chuyển luân vương cho Đại vương Quán Đảnh dòng Sát-đế-lợi, có đầy đủ bảy báu, thống lónh bốn đại châu làm cho họ đều được tự tại, có đầy đủ ngàn con mạnh mẽ xinh đẹp, có thể diệt trừ oán địch, gìn giữ đất đai của vua đến cùng tận biên giới, không có hình phạt dao gậy, đều tu chính pháp, thọ hưởng an lạc. Này thiện nam! Đại vương Quán Đảnh dòng Sát-đế-lợi thành tựu vương luân thứ mười như vậy. Nhờ vương luân này, mà ở trong bốn đại châu và tám vạn bốn ngàn đảo nhỏ đã hướng dẫn các hữu tình trong cõi nước của mình tu tập mười nghiệp thiện đạo, khéo giữ gìn thân, làm tăng tuổi thọ. Sau khi qua đời sẽ sinh lên cõi trời, thọ hưởng các thú vui thù thắng. Này thiện nam! Như Lai thuở xưa cũng vậy, lúc còn ở quả vị Bồ-tát, biết thân mình và người có vô lượng các bệnh phiền não, dùng nước hương định tắm rửa thân thể và dùng pháp chân thật đại Từ Đại Bi để gội đầu, mặc áo hổ thẹn. Tất cả chư Phật Thế Tôn trong mười phương dùng các tónh lự đẳng trì, tinh tấn phương tiện, trí tuệ, Từ bi để hộ niệm và đều nói: “Vị Đại só này là bậc Bảo khí phước tuệ trang nghiêm có thể chứa đựng ba loại bất hộ, bốn Vô sở úy, mười Lực Như Lai và mười tám pháp Bất cộng của Phật, có thể chứng đắc trí Nhất thiết trí vô thượng, tràn đầy đại Từ Đại Bi, thường ưa làm lợi lạc cho tất cả chúng sinh, là người thương nhân dẫn đầu trên con đường tìm cầu Phật bảo, có thể cứu các khổ sinh tử cho hữu tình, có thể ban cho hữu tình niềm vui lớn Niết-bàn. Tất cả chư Phật Thế Tôn chúng ta nên dùng lời chân thật và bản nguyện của mình làm cho vị Đại só này thành Như Lai Ứng chính Đẳng Giác, chứng đắc pháp Vô thượng, làm đại Pháp vương.” Khi ấy, ta nương vào oai lực phước tuệ dũng mãnh tinh tấn, hiểu biết như thật bốn Thánh đế, chứng đắc Vô thượng chính đẳng chính giác. Này thiện nam! Như Chuyển luân vương thống lónh bốn châu lớn đều được tự tại thì Như Lai đối với bốn Tónh lự, bốn định Vô sắc, bốn phạm trụ, bốn Vô ngại giải, bốn Thánh đế quán, bốn Vô sở úy, mười Lực Như Lai và mười tám pháp Bất cộng của Phật, Nhất thiết chủng trí cũng đều được tự tại. Như Chuyển luân vương đầy đủ bảy báu thì Như Lai cũng thành tựu bảy phần Bồ-đề báu. Như Chuyển luân vương đầy đủ ngàn con khỏe mạnh, đẹp đẽ, có thể điều phục oán địch thì Như Lai có A-nhã-đa Kiều-trần-na là người đệ tử đầu tiên, Tô-bạt-đà-la Tô-thứ-đa là đệ tử cuối cùng, có các Đại Thanh văn từ tâm Phật sinh, từ miệng Phật sinh, từ pháp hóa sinh, được phần pháp Phật, đoạn tận các lậu, gọi là dũng mãnh, đầy đủ bốn phạm trụ, gọi là đoan chính, có thể điều phục tất cả luận thuyết của Thiên ma ngoại đạo, oán địch. Như Chuyển luân vương giáo hóa đến tám vạn bốn ngàn đảo nhỏ thì Như Lai ở trong trăm câu-chi châu Nam Thiệm-bộ, ở trong trăm câu-chi châu Tây Cù-đà-ni, ở trong trăm câu-chi châu Đông Tỳ-đề-ha, ở trong trăm câu-chi châu Bắc Câu-lô, ở trong trăm câu-chi các biển lớn, ở trong trăm câu-chi các núi Diệu cao, ở trong trăm câu-chi Tứ đại Thiên vương, ở trong trăm câu-chi cho đến trời Phi tưởng phi phi tưởng, ở trong trăm câu-chi núi đại Luân vi, ở trong tất cả cõi nước cao rộng này thuyết pháp giáo hóa đều được tự tại. Này thiện nam! Ta thành tựu Phật luân thứ mười như vậy. Nhờ Phật luân này, nên biết như thật thân mình, thân người, sự đoạn tận các lậu, đem lợi ích an lạc cho vô lượng hữu tình được sống an ổn, được không kinh sợ, được không khiếp hãi, tự xưng: “Ta được ngôi vị Đại Tiên tôn quý”, chuyển Phật luân, bẻ gãy các tà luận của thiên ma ngoại đạo, ở giữa đại chúng cất tiếng rống sư tử. Này thiện nam! Ta thành tựu mười Phật luân như vậy, là do năng lực của bản nguyện cho nên dù ở cõi Phật này vào đời năm trược xấu ác, tất cả hữu tình làm tổn mất các pháp thiện thanh tịnh, thiếu mất bảy Thánh tài quý báu, xa lìa tất cả bậc trí tuệ thông minh, bị lưới đoạn thường ngăn che bao phủ, thường ưa thích cỡi xe vào các đường ác, không biết sợ hãi đau khổ đời sau, thường ở nơi hắc ám vô minh nặng nề, có đủ mười nghiệp ác, tạo năm tội vô gián, phỉ báng chính pháp, hủy nhục Hiền thánh, xa lìa các pháp thiện, đầy các pháp ác. Ta ở trong cõi ấy thành tựu được mười Phật luân như vậy nên được sống an ổn, được không kinh sợ, được không khiếp hãi, tự xưng: “Ta được ngôi vị Đại Tiên tôn quý”, chuyển Phật luân, bẻ gãy các tà luận của Thiên ma ngoại đạo, trừ diệt tất cả phiền não rắn chắc như kim cương của các hữu tình, tùy theo ý thích hướng dẫn tất cả chúng sinh có năng lực, làm cho họ an trụ ba thừa, đạt ngôi vị không thoái chuyển. Khi ấy, tất cả Đại Bồ-tát, tất cả Thanh văn, tất cả Trời, Rồng, nói rộng cho đến tất cả Yết-tra bố-đát-na, nhân, phi nhân trong hội đều rất vui mừng, đồng xướng lên: “Lành thay!” Trời mưa hương lớn, mưa hoa lớn, mưa châu báu lớn, mưa y phục lớn, tất cả đại địa đều chấn động. Nghe Phật thuyết mười Phật luân như vậy, ở trong chúng hội có tám mươi bốn trăm ngàn na-dữu-đa Đại Bồ-tát đắc pháp Nhẫn vô sinh; Lại có vô lượng Đại Bồ-tát đắc các pháp nhẫn Đà-la-ni, Tam-ma-địa; lại có vô lượng, vô số hữu tình phát khởi tâm Vô thượng chính đẳng chính giác được không thoái chuyển; lại có vô lượng, vô số hữu tình đạt được quả chứng. KINH ĐẠI THỪA ĐẠI TẬP ĐỊA TẠNG THẬP LUÂN <卷 id="117270431">Quyển 3 <詞 id="117270432">Phẩm 3: Vô Y Hành (Phần 1) Bấy giờ, trong chúng hội có có một vị Đại phạm thiên tên là Thiên Tạng, từ lâu đã gieo trồng căn lành, trụ vào Địa thứ mười, đầy đủ oai đức của Đại Bồ-tát, từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay lễ Phật, nói bài tụng: Biển tuệ chứa công đức Nay con muốn thưa hỏi Nguyện xin Phật thương xót Giải trừ nghi cho con. Nay chúng con khát ngưỡng Vị thắng pháp đức tạng thắng Và vị nghĩa tối thượng Cả chúng đều muốn nghe. Phật bảo Đại phạm thiên Thiên Tạng: –Như Lai cho phép ông được hỏi, tùy theo câu hỏi mà trả lời để làm cho ông hoan hỷ. Đại phạm thiên thưa: –Xin vâng, bạch Thế Tôn! Đại Phạm Thiên nói bài tụng thưa hỏi: Bậc thông tuệ tu định An trú không buông lung Là trụ thắng nghĩa đế Là chỗ dựa sinh tử. Ngày đêm nơi nghĩa pháp Tinh cần tu tụng tập Là vượt biển phiền não Là hết đọa đường ác. Dũng mãnh tu phước đức Tu định, hướng Niết-bàn Ở trong đường sinh tử Đọa hết trong đường ác. Sát-đế-lợi thông tuệ Thành tựu mười vương luân Chìm đắm trong sinh tử Được chứng đắc quả Phật. Tâm tạp nhiễm khó phục Phiền não luôn quấy nhiễu Làm sao tâm được tịnh Tu định đắc công đức. Bấy giờ, Thế Tôn bảo Đại phạm thiên Thiên Tạng: –Lành thay, lành thay! Ông thật biện tài mới có thể hỏi ta nghĩa này, đối với pháp này ông đã chịu khó học, đối với các hạnh này ông đã được viên mãn. Ở vô số cõi Phật Thế Tôn thời quá khứ, ông đã siêng tu ba nghiệp, làm chính pháp hưng thịnh, tiếp nối dòng giống Tam bảo. Nay vì lợi ích cho vô lượng chúng sinh lại hỏi Như Lai ý nghĩa thâm sâu như vậy. Này thiện nam! Có pháp Đại ký biệt gọi là pháp vô y hành. Tất cả chư Phật Thế Tôn đời quá khứ vì muốn giáo hóa các hữu tình làm cho họ nhàm chán, xa lìa pháp sinh tử, làm cho họ đoạn trừ nghiệp phiền não, làm cho mau viên mãn ba thừa, nên giảng thuyết, gìn giữ pháp Đại ký biệt vô y hành. Chư Phật Thế Tôn khắp mười phương trong hiện tại cũng vì muốn giáo hóa các hữu tình làm cho họ nhàm chán xa lìa pháp sinh tử, làm cho họ đoạn trừ nghiệp phiền não, làm cho mau viên mãn ba thừa, nên giảng thuyết gìn giữ pháp Đại ký biệt vô y hành này. Tất cả chư Phật Thế Tôn đời vị lai cũng vì giáo hóa các hữu tình, làm cho họ nhàm chán xa lìa pháp sinh tử, làm cho họ đoạn trừ nghiệp phiền não, làm cho mau viên mãn ba thừa, nên giảng thuyết, giữ gìn pháp Đại ký biệt vô y hành này. Vào thời quá khứ, ông đã được nghe các Như Lai nói pháp Đại ký biệt vô y hành này. Ta ở trong hiện tại này cũng vì giáo hóa các hữu tình, làm cho họ nhàm chán xa lìa pháp sinh tử, làm cho họ đoạn trừ nghiệp phiền não, làm cho mau viên mãn ba thừa, nên giảng thuyết giữ gìn pháp Đại ký biệt vô y hành này. Ông nên lắng nghe, suy nghó cho kỹ, ta sẽ vì ông phân biệt giảng giải. Lúc bấy giờ Đại phạm thiên Thiên Tạng thưa: –Bạch Thế Tôn! Con xin muốn nghe. Phật nói: –Này Đại phạm! Có mười pháp vô y hành. Người nào tu định mà còn một hạnh thì không thể thành tựu căn lành ở Dục giới, giả sử trước kia đã thành tựu thì nay cũng lại mất đi, làm gì có thể thành tựu định cõi Sắc, Vô sắc, cho đến ba thừa dù đã thành tựu Nhất thừa. Những gì là mười? 1.Ở đời có một hạng người tuy muốn tu định nhưng thiếu tư duyên hỗ trợ nên sự tìm cầu chỉ thêm nhiễu loạn. 2.Lại có một hạng người tuy muốn tu định nhưng phạm giới, làm các việc ác. 3.Lại có một hạng người tuy muốn tu định nhưng tà kiến điên đảo, vọng chấp tốt xấu, thân tâm cứng cõi. 4.Lại có hạng người tuy muốn tu định nhưng tâm loạn động, không thuận theo Hiền thánh, các căn vọng động. 5.Lại có hạng người tuy muốn tu định nhưng nói lời ly gián, phá rối hai bên. 6.Lại có hạng người tuy muốn tu định nhưng nói lời thô ác, hủy nhục Hiền thánh. 7.Lại có hạng người tuy muốn tu định nhưng nói lời tạp uế và lời dối trá. 8.Lại có hạng người tuy muốn tu định nhưng ôm lòng tham lam, ganh ghét đối với cái được của người: Như được lợi dưỡng, cung kính thì tâm không vui mừng. 9.Lại có hạng người tuy muốn tu định nhưng ôm lòng sân giận, đối với các hữu tình thường ganh ghét với họ. 10.Lại có hạng người tuy muốn tu định nhưng ôm giữ tà kiến, bác bỏ nhân quả. Này Đại phạm! Ông nên biết, đó là mười pháp vô y hành. Người tu định nào mà còn một pháp thì không thể thành tựu được căn lành ở Dục giới, giả sử trước đây có thành tựu thì nay cũng mất, làm sao có thể thành tựu định sắc, vô sắc, cho đến ba thừa dù đã thành tựu Nhất thừa. Lại nữa, này Đại Phạm! Lại có mười pháp vô y hành. Người nào tu định mà còn có một pháp thì cuối cùng không thể thành tựu các Tam-ma-địa, giả sử trước đây thành tựu thì nay giảm mất. Những gì là mười? 1.Tham đắm sự nghiệp. 2.Tham đắm đàm luận. 3.Tham đắm ngủ nghỉ. 4.Tham đắm mưu cầu. 5.Tham đắm sắc đẹp. 6.Tham đắm tiếng hay. 7.Tham đắm hương phấn. 8.Tham đắm vị ngon. 9.Tham đắm xúc chạm êm ái. 10.Tham đắm tầm tứ. Này Đại Phạm, ông nên biết, đó là mười pháp vô y hành. Người tu định nào mà còn có một pháp, cuối cùng không thể thành tựu các Tam-ma-địa, giả sử trước đây thành tựu thì nay giảm mất. Nếu không thể thành tựu các Tam-ma-địa thì tuy có tu tập các thiện pháp khác, nhưng do nhân duyên mong cầu thọ dụng vật của tín thí, mà phát sinh tâm, tâm sở nên dễ phạm các tội lỗi đối với các quốc vương, đại thần, bị quở trách hoặc bị đánh đập, hoặc bị chặt tay chân. Do nhân duyên này, mà bị bệnh nặng, thường chịu đau khổ, hoặc bệnh mau qua đời, đọa vào một trong ba đường ác, cho đến sinh vào địa ngục Vô gián, như Ôn-đạt-lạc-ca, A-la-trà-để-sa, Cù-ba-lý-ca, Đề-bà-đạt-đa. Những người như vậy bị thoái mất tónh lự, cho đến đọa vào địa ngục Vô gián, chịu vô lượng khổ lớn, khó chịu đựng được. Bấy giờ, Thế Tôn bảo A-nhã-đa Kiều-trần-na: –Ta sẽ cho phép các ông Tỳ-kheo tu định ở nơi thanh vắng, ở phòng xá tốt nhất, đồ nằm tốt nhất, thức ăn uống tốt nhất, tất cả việc Tăng chúng đều nên buông xả. Vì sao? Vì các người tu định nếu thiếu các duyên hỗ trợ thì sẽ phát sinh những điều ác cho tâm, tâm sở, không thể thành tựu các Tam-ma-địa, cho đến bị đọa vào địa ngục Vô gián, chịu vô lượng khổ lớn khó chịu đựng. Các vị tu định nếu có đầy đủ các duyên hỗ trợ thì các Tam-ma-địa chưa thành tựu nay sẽ thành tựu, nếu trước đây đã thành tựu thì hoàn toàn không thối mất. Do vậy mà không sinh các pháp ác, nói rộng cho đến tầm, tứ bất thiện, được sinh lên cõi trời, chứng đắc Niết-bàn. Người tu định nếu chưa thành tựu các Tam-ma-địa thì đầu đêm, cuối đêm nên bỏ ngủ nghỉ mà tinh tấn tu học, xa lìa chỗ ồn ào, ít ham muốn, biết đủ, không luyến tiếc, tất cả tham lam, sân giận, che giấu, não hại, kiêu mạn, cao ngạo, tham lam keo kiệt, ganh ghét, nói lời ly gián, nói lời thô ác, nói dối, nói lời tạp uế, vui chơi, buông lung, tất cả đều phải xa lìa. Người thực hành như vậy đều được Thích, Phạm, Hộ thế, Tứ Thiên vương, Chuyển luân vương… khen ngợi, lễ bái, cung kính, phụng sự, cúng dường trăm ngàn na-dữu-đa đồ vật, huống chi là Sát-đế-lợi, Bà-la-môn, Phệ-xá, Miệt-đạt-la,… Người chưa đắc định còn được các sự khen ngợi, lễ bái, cung kính, phụng sự, cúng dường, huống chi là người đã chứng đắc Tam-ma-địa. Bấy giờ, Thế Tôn nói bài tụng: Tu định nên đoạn hoặc Và các nghiệp khó đoạn Nên tu định trên hết Bậc trí phải cúng dường. Lúc ấy, Đại phạm thiên Thiên Tạng thưa: –Bạch Thế Tôn! Người xuất gia trong Phật pháp, có thể bị Sát-đế-lợi, đại thần, quan tể tướng dùng roi, gậy… đánh đập vào thân, hoặc nhốt trong lao ngục, hoặc là quở trách, hoặc chặt tay chân, hoặc đoạn mạng sống, điều đó được hay không được? Phật bảo Đại phạm thiên Thiên Tạng: –Này thiện nam! Các hữu tình nào ở trong pháp của ta mà xuất gia cho đến cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, hoặc trì giới, hoặc phá giới, thậm chí không có giới pháp, tất cả Trời, Người, A-tố-lạc… nương vào chính pháp thế tục, dùng roi gậy đánh đập, tra khảo, hoặc nhốt vào lao ngục, hoặc quở mắng, hoặc chặt tay chân, hoặc đoạt mạng sống còn không được, huống chi là nương vào phi pháp. Vì sao? Vì trừ tất cả người trì giới, đa văn ra, những người xuất gia ở trong chính pháp ta, nếu có kẻ phá giới, làm các pháp ác, bên trong mục nát như ốc sên, hôi nhơ, thật chẳng phải Sa-môn mà tự xưng là Sa-môn, thật chẳng phải là phạm hạnh mà tự xưng là phạm hạnh, thường bị các phiền não điều phục làm cho điên đảo che mờ. Các Tỳ-kheo xấu ác, phá giới như vậy nhưng còn có thể hướng dẫn cho tất cả Thiên, Long, Dược-xoa, Kiền-đạt-phược, A-tố-lạc, Yết-lộ-trà, Khẩn-nại-lạc, Mạc-hộ-lạc-già, Nhân phi nhân được vô lượng kho tàng công đức trân bảo. Lại nữa, này thiện nam! Ở trong giáo pháp của ta mà xuất gia, tuy phá giới nhưng các hữu tình lại luôn thấy hình tướng người xuất gia đó, nên sẽ phát sinh mười tư duy thù thắng, sẽ được vô lượng công đức báu. Những gì là mười? nghĩa là ở trong giáo pháp của ta mà làm người xuất gia, tuy phá giới, nhưng các hữu tình nhìn thấy sinh tư duy thù thắng, ân cần, cung kính nghó đến Phật: Do nhân duyên này mà hoàn toàn không tin theo, quy kính các ngoại đạo, tà sư, sách vở, đồ chúng, cho đến có thể nhập vào thành đại Niết-bàn, không còn các sợ hãi. Hoặc có người thấy rồi phát sinh tư duy thù thắng, nhớ nghó đến Thánh giới, do đó có thể xa lìa sát sinh, xa lìa sự lấy của không cho, xa lìa dục tà hạnh, xa lìa nói dối, xa lìa uống các thứ rượu, không sống chỗ buông lung cho đến có thể vào thành đại Niết-bàn, không còn các sợ hãi. Hoặc có người thấy rồi sinh tư duy thù thắng, nghó đến bố thí, do đó được quả vị giàu có, thân cận cúng dường bậc chính chí chính hạnh, cho đến có thể nhập vào thành đại Niết-bàn, không còn các sợ hãi. Hoặc có người thấy rồi sinh tư duy thù thắng, nghó đến nhẫn nhục, nhu hòa, chính trực, do đó, liền có thể xa lìa lời nói ly gián, thô ác, tạp uế, sân hận, cho đến có thể nhập vào thành đại Niết-bàn, không còn các sợ hãi. Hoặc có người thấy rồi sinh tư duy thù thắng, nghó đến xuất gia, tinh tấn tu hành, do đó có thể từ bỏ gia đình, hướng đến đời sống không gia đình, dũng mãnh tinh tấn tu các hạnh thù thắng, cho đến có thể nhập vào thành đại Niết-bàn, không còn các sợ hãi. Hoặc có người thấy rồi sinh tư duy thù thắng, nghó đến tónh lự, đẳng chí, xa lìa tâm tán loạn, do đó thích ở nơi núi rừng vắng vẻ, ngày đêm tinh tấn tu hành các định, cho đến có thể nhập vào thành đại Niết-bàn, không còn các sợ hãi. Hoặc có người thấy rồi sinh tư duy thù thắng, nghó đến trí tuệ, do đó ưa thích nghe, đọc tụng chính pháp, cho đến có thể nhập vào thành đại Niết-bàn, không còn các sợ hãi. Hoặc có người thấy rồi sinh tư duy thù thắng, nghó đến gieo trồng thiện căn xuất ly, lời nói nhu hòa, ân thưa hỏi, cho đến lễ sát chân, do đó được sinh vào nhà tôn quý, có uy lực lớn, được vô lượng hữu tình chiêm ngưỡng, cho đến có thể nhập vào thành đại Niết-bàn, không còn các sợ hãi. (Trong Tạng chỉ thấy có tám tư duy) Này thiện nam! Ở trong giáo pháp của ta mà xuất gia, tuy phá giới nhưng các hữu tình nhìn thấy được hình tướng người ấy mà phát sinh mười tư duy thù thắng này thì sẽ được vô lượng công đức báu. Do đó, tất cả vua Sát-đế-lợi, đại thần, tể tướng dẫu có dùng roi gậy đánh đập, tra khảo, hoặc nhốt trong lao ngục, hoặc quở trách, hoặc chặt tay chân, hoặc đoạt mạng sống, quyết định không làm được. Lại nữa, này Đại phạm! Nếu có người nương theo ta mà xuất gia, bị phạm giới làm hạnh ác, bên trong mục nát như ốc sên, hôi dơ, thật chẳng phải Sa-môn mà tự xưng là Sa-môn, thật chẳng phải là phạm hạnh mà tự xưng là phạm hạnh, thường bị các phiền não đánh bại làm cho điên đảo mê mờ. Bí-sô như vậy tuy phá giới, làm các hạnh xấu ác nhưng lại biết làm người bạn lành hiểu biết chỉ bày kho tàng vô lượng công đức cho tất cả Thiên, Long, Dược-xoa, Kiền-đạt-phược, A-tố-lạc, Yết-lộ-trà, Khẩn-nại-lạc, Mạc-hộ-lạc-già, Nhân phi nhân… Bí-sô như vậy, tuy chẳng phải bậc Pháp khí nhưng cạo tóc, mặc áo ca-sa, oai nghi đi đứng giống như các Hiền thánh. Nhờ thấy vị ấy, các căn lành của vô lượng hữu tình đều sinh trưởng, lại có thể chỉ bày cho vô lượng hữu tình hướng đến con đường chính, sinh cõi trời, Niết-bàn. Vì vậy, nương theo ta mà xuất gia hoặc trì giới, hoặc phá giới cho đến không có giới pháp, ta còn không để cho Chuyển luân thánh vương, các quốc vương, các đại thần nương vào chính pháp thế gian dùng roi gậy đánh đập, tra khảo thân họ, hoặc nhốt vào lao ngục, hoặc mắng chửi, hoặc chặt tay chân, hoặc đoạn mạng sống của họ, huống chi là nương vào phi pháp. Này Đại phạm! Như vậy Bí-sô phá giới làm việc ác, tuy ở trong pháp Tỳ-nại-da của ta là thây chết, nhưng vẫn còn một chút thế lực, giới đức của người xuất gia. Ví như con bò, con xạ, sau khi chết tuy là cái xác chết của loài súc sinh, không còn biết gì, nhưng da bò có màu vàng và xạ thì có hương thơm, có thể làm lợi ích lớn cho vô lượng, vô biên hữu tình. Bí-sô phá giới cũng vậy, tuy ở trong pháp Tỳ-nại-da của ta là thây chết, nhưng vẫn còn một chút uy lực, giới đức của người xuất gia, có thể làm lợi ích lớn cho vô lượng, vô biên hữu tình. Ví như người đi buôn, vào trong biển lớn, giết một loài trong vô lượng chúng sinh, móc lấy con mắt, đem trái mạt-đạt-na giã nát, trộn lại chế thành thuốc chữa mắt quý báu. Các hữu tình nào bị mù không thấy, cho đến mù khi mới sinh ra, đem thuốc báu này bôi vào mắt người ấy, hoạn nạn đều tiêu trừ, mắt được sáng lại. Bí-sô phá giới cũng vậy, tuy ở trong pháp Tỳ-nại-da của ta là thây chết, nhưng có oai nghi hình tướng xuất gia, có thể làm cho vô lượng, vô biên hữu tình vừa được thấy họ vẫn còn gặt được Pháp nhãn trí tuệ thanh tịnh, huống chi là còn có thể giảng thuyết chính pháp cho người khác. Này Đại phạm! Ví như đốt hương, tuy xác hương bị cháy nhưng hương thơm vẫn tỏa ngát, làm cho người khác được thơm. Bí-sô phá giới cũng vậy, do phá giới nên chẳng phải là ruộng phước tốt, tuy ngày đêm thường bị của tín thí thiêu đốt, sau khi mạng chung tất sẽ đọa vào ba đường ác nhưng nhờ làm lợi ích lớn cho vô lượng, vô biên hữu tình, nghĩa là làm cho nhiều người được ngửi hương thơm nên được sinh cõi trời, Niết-bàn. Vì thế, này Đại phạm! Bí-sô phá giới như vậy, làm việc xấu ác, nhưng Cư só thì vẫn giữ tâm cung kính cúng dường. Ta hoàn toàn không cho các người tại gia, dùng roi gậy đánh đập, tra khảo thân thể hoặc nhốt trong lao ngục, hoặc chửi mắng, hoặc chặt tay chân, hoặc đoạn mạng sống. Ta chỉ cho Tăng chúng thanh tịnh kia khi Bồ-tát hoặc tự tứ, đuổi những vị đó ra khỏi, không cho thọ dụng tất cả những vật dụng cúng dường bốn phương Tăng như thức ăn uống, vật dụng tư riêng. Khi làm tất cả việc Tỳ-nại-da của Sa-môn, phải đuổi các vị đó ra khỏi, không cho ở trong chúng, nhưng ta không cho dùng roi gậy đánh đập, trói buộc, đoạn mạng sống. Bấy giờ, Thế Tôn nói bài tụng: Hoa chiêm-bát-ca tuy héo tàn Nhưng mùi thơm hơn các hoa khác Bí-sô phá giới làm hạnh ác Cũng còn hơn các chúng ngoại đạo. Lại nữa, này Đại phạm! Có năm nghiệp ác, đó là những tội lớn đọa địa vô gián. Những gì là năm? 1.Cố ý giết cha. 2.Cố ý giết mẹ. 3.Cố ý giết A-la-hán. 4.Tà kiến điên đảo, phá Thanh văn tăng. 5.Tâm ác làm thân Phật ra máu. Đó là năm tội, gọi là nghiệp ác tội lớn vô gián. Nếu người nào bị một trong năm tội vô gián này thì không được xuất gia và thọ giới Cụ túc. Nếu cho xuất gia hoặc thọ giới Cụ túc thì họ sẽ phạm tội, nên đuổi người đó ra khỏi pháp của ta. Người như vậy nhưng do có oai nghi hình tướng xuất gia, nên ta cũng không cho dùng roi gậy đánh đập, hoặc nhốt trong lao ngục, hoặc chửi mắng, hoặc chặt tay chân, hoặc đoạn mạng sống. Lại có bốn tội căn bản nghiệp ác lớn, gần với tội vô gián. Những gì là bốn? 1.Sinh tâm bất thiện, sát hại Độc giác, là tội căn bản nghiệp ác lớn do giết hại sinh mạng 2.Tà hạnh với A-la-hán, Bí-sô ni hay tăng, là tội căn bản nghiệp ác lớn do dục tà hạnh 3.Lạm dụng tài vật cúng dường Tam bảo, là tội căn bản nghiệp ác lớn do lấy vật không cho 4.Nhận thức điên đảo, phá hoại sự hòa hợp Tăng chúng, là tội căn bản nghiệp ác lớn do nói dối. Người nào phạm một trong bốn tội căn bản nghiệp ác lớn gần tội vô gián này thì không được xuất gia và thọ giới Cụ túc. Nếu cho họ xuất gia hoặc thọ giới Cụ túc thì họ sẽ mắc tội, nên đuổi người đó ra khỏi pháp của ta. Người như vậy nhưng do có oai nghi hình tướng xuất gia và thọ giới Cụ túc, nên ta cũng không cho dùng roi gậy đánh đập, hoặc nhốt trong lao ngục, hoặc quở mắng, hoặc chặt tay chân, hoặc đoạn mạng sống. Như vậy, hoặc có tội căn bản chẳng phải tội vô gián, có tội vô gián chẳng phải tội căn bản, có tội căn bản vừa là tội vô gián, có tội chẳng phải là tội căn bản cũng chẳng phải tội vô gián. Thế nào là tội căn bản vừa là tội vô gián? nghĩa là trước đã xuất gia thọ giới Cụ túc trong pháp của ta, cố ý giết người đã đạt đến cứu cánh kiến đế (đã chứng ngộ chân lý rốt ráo), như vậy gọi là tội căn bản vừa là tội vô gián. Ở trong pháp Tỳ-nại-da của ta, người này nên đuổi mau. Thế nào gọi là tội căn bản chẳng phải tội vô gián? nghĩa là trước đã xuất gia thọ giới Cụ túc trong giáo pháp của ta, do cố ý giết hại người phàm phu, hoặc dùng phương cách cho người uống thuốc độc, hoặc làm trục thai. Như vậy, gọi là tội căn bản chẳng phải tội vô gián. Người này chẳng nên cho ở chung với Tăng và không cho thọ dụng các vật cúng dường bốn phương Tăng. Thế nào là tội vô gián chẳng phải tội căn bản? nghĩa là có người hoặc thọ tam quy, hoặc thọ năm giới, hoặc thọ mười giới, hoặc tạo một tội trong năm tội vô gián. Như vậy là tội vô gián chẳng phải tội căn bản. Người như vậy không nên cho xuất gia và thọ giới Cụ túc. Nếu cho họ xuất gia và thọ giới Cụ túc thì họ bị mắc tội, nên đuổi người ấy ra khỏi giáo pháp của ta. Thế nào gọi là chẳng phải là tội căn bản, cũng chẳng phải tội vô gián? nghĩa là có người hoặc thọ tam quy, hoặc thọ năm giới, sinh tâm nghi ngờ Phật, Pháp, Tăng, hoặc quy y theo thầy ngoại đạo, hoặc chấp vào các tướng tốt xấu, hoặc ít hoặc nhiều cúng tế quỷ thần; Hoặc lại có người đối với chính pháp chư Như Lai thuyết, hoặc chính pháp tương ưng với Thanh văn thừa, hoặc chính pháp tương ưng với Độc giác thừa, hoặc chính pháp tương ưng với Đại thừa mà phỉ báng, ngăn chận, tự mình không tin nhận, còn làm cho người khác nhàm chán, gây chướng ngại người khác đọc tụng ghi chép, thậm chí gây trở ngại một bài tụng chính pháp. Như vậy, gọi là chẳng phải tội căn bản, cũng chẳng phải tội vô gián, nhưng sinh nghiệp ác đại tội, gần với tội vô gián. Người này nếu chưa sám hối trừ diệt nghiệp ác tội lớn như vậy thì không cho xuất gia và thọ giới Cụ túc. Nếu cho xuất gia và thọ giới Cụ túc thì họ liền mắc tội, nên đuổi người ấy ra khỏi pháp của ta. Nếu đã xuất gia và thọ giới Cụ túc mà phạm tội như vậy, lại không sám hối thì ở trong pháp Tỳ-nại-da của ta, người này nên mau đuổi đi. Vì sao? Vì hai hạng người này có hành động như phá hoại con mắt chính pháp, có hành động che tắt ngọn đèn chính pháp, có hành động đoạn tuyệt hạt giống Tam bảo, làm cho chư Thiên và người làm theo những việc vô nghĩa, hạnh khổ, không có lợi ích, đọa vào các đường ác. Hai hạng người này tự mình phỉ báng chính pháp, lại còn khiến người khác phỉ báng chính pháp, phỉ báng Hiền thánh, sau khi qua đời sẽ đọa vào địa ngục Vô gián, trải qua nhiều kiếp phải chịu khổ, không thể thoát khỏi. Lại nữa, này Đại phạm! Hoặc có pháp thuộc về giá tội, vô y hành; hoặc có pháp thuộc về tính tội, vô y hành; ở trong tính tội hoặc có pháp căn bản không nên làm theo. Thế nào là pháp căn bản vô y hành? nghĩa là có Bí-sô nào làm việc phi phạm hạnh, phạm tội căn bản, hoặc do cố ý giết mạng sống người phàm phu, phạm tội căn bản; hoặc lấy trộm vật chẳng phải của Tam bảo, phạm tội căn bản; hoặc đại vọng ngữ, phạm tội căn bản; hoặc có Bí-sô nào phạm một tội trong bốn tội căn bản thì sự nghiệp mà các Bí-sô làm đều phải nhận sự thiết phục, tất cả vật cúng dường bốn phương Tăng đều không cho thọ dụng, nhưng không được dùng roi gậy đánh đập, hoặc nhốt trong lao ngục, hoặc quở mắng, hoặc chặt tay chân, hoặc đoạn mạng sống. Như vậy, gọi là trọng tội căn bản thuộc về tính tội vô y hành. Thế nào gọi là tội căn bản? nghĩa là người nào phạm bốn pháp này, sau khi qua đời sẽ đọa vào các đường ác, đó là tội căn bản đọa các đường ác. Vì vậy gọi là tội căn bản. Thế nên tội căn bản vô gián và gần vô gián là đại tội nghiệp ác cực nặng vô y hành. Này thiện nam! Ví như hòn sắt, chì, thiếc, ném vào hư không, không thể dừng lâu, nhất định sẽ mau rơi xuống đất. Tạo bốn tội căn bản, năm tội vô gián và gần vô gián, phỉ báng chính pháp, nghi ngờ Tam bảo, hai hạng người phạm tội này cũng vậy. Người nào phạm một tội trong mười một tội này, sau khi qua đời, không có gì ngăn chận được, nhất định sinh vào đại địa ngục Vô gián, chịu các khổ sở rất đau đớn nên gọi là nghiệp ác đại tội cực trọng vô y hành. Bổ-đặc-già-la nào phạm tội nghiệp ác cực trọng vô y hành này, đối với thân này nhất định không thể đoạn tận các phiền não, còn không thể thành tựu các Tam-ma-địa, làm sao có thể hướng nhập tính chính ly sinh. Người ấy qua đời nhất định sinh vào địa ngục, chịu các khổ lớn. Lại nữa, này Đại phạm! Nếu có thiện nam, thiện nữ nào với lòng tin thanh tịnh, quy y giáo pháp của ta, hoặc hướng đến thừa Thanh văn, hoặc hướng đến thừa Độc giác, hoặc hướng đến Đại thừa, mà có lòng tin thanh tịnh xuất gia thọ giới Cụ túc, ở trong pháp của ta đối với các học xứ hết lòng kính trọng, đối với bốn giới tội tính căn bản kiên cố thì dũng mãnh tinh tấn giữ gìn. Người như vậy thường được tất cả nhân, phi nhân theo ủng hộ, gọi là không dối nhận vật cúng dường của trời, người, đối với ba thừa tùy theo ưa thích mà mau có thể hướng nhập thành biện cứu cánh. Vì vậy, người chân thật mong cầu Niết-bàn thà xả bỏ thân mạng chứ hoàn toàn không hủy phạm bốn pháp này. Vì sao? Vì các hữu tình cần phải nhờ ba nhân sau đây mới được Niết-bàn an vui. 1.Nương vào Như Lai làm nhân. 2.Nương vào Thánh giáo của ta làm nhân. 3.Nương vào đệ tử của ta làm nhân. Các loại hữu tình nào nương vào ba nhân này siêng năng tu tập sẽ được Niết-bàn an vui. Người nào phạm bốn pháp này thì ta chẳng phải là thầy họ, họ chẳng phải đệ tử của ta. Người nào phạm bốn pháp này thì trái vượt giáo pháp thâm sâu rộng lớn mà ta đã tuyên thuyết như: Vô thường, khổ, không, vô ngã, pháp biệt giải thoát tương ưng với lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình. Nếu vượt qua giáo pháp biệt giải thoát này thì đối với tất cả tónh lự, đẳng trì đều mờ mịt không thể nhập được, sẽ bị các phiền não, nghiệp ác trói buộc, cũng chẳng phải là pháp khí trong ba thừa, sẽ đọa vào đường ác chịu các khổ lớn. Nếu thiện nam, thiện nữ nào đối với giáo pháp biệt giải thoát của ta thuyết ra, chế ra để ngăn ngừa bốn trọng tội căn bản mà thanh tịnh không phạm thì ta là thầy họ, họ là đệ tử của ta, sẽ tùy thuận lời dạy của ta mà an trú hoàn toàn trong giáo pháp của ta, tất cả việc làm cũng đều được thành tựu viên mãn. Vị này an trú hoàn toàn trong giới nên gọi là an trụ hoàn toàn trong tất cả thiện pháp, hoặc gọi là an trú hoàn toàn Thanh văn thừa, hoặc gọi là an trú hoàn toàn Độc giác thừa, hoặc gọi là an trú hoàn toàn ở Đại thừa. Vì sao? Vì nếu ai có thể hộ trì bốn pháp căn bản thuộc tính tội này thì nên biết vị đó đã tạo lập tất cả thiện pháp thắng nhân hữu lậu vô lậu. Vì thế, hộ trì bốn pháp này gọi là căn bản của tất cả thiện pháp. Như nương vào đại địa, tất cả cây, cỏ, vườn, rừng đều được sinh trưởng; cũng vậy, nương vào sự hộ trì hoàn hảo bốn giới căn bản, tất cả thiện pháp đều được sinh trưởng. Như nương vào đại địa, tất cả các núi: Núi Tiểu luân vi, núi Đại luân vi, núi Diệu cao đều được đứng vững; cũng vậy, nương vào sự hộ trì hoàn hảo bốn giới căn bản, các thừa Thanh văn, thừa Độc giác, Đại thừa Vô thượng đều được an trú. Như nương vào đại địa sẽ tìm được tất cả vị ngon của thế gian; cũng vậy, nương vào sự hộ trì hoàn hảo bốn giới căn bản sẽ tìm cầu được tất cả niệm, định, Tổng trì, an nhẫn, Thánh đạo cho đến Vô thượng chính đẳng chính giác. Lại như đại địa, đối với các pháp tịnh, bất tịnh đều được giữ gìn bình đẳng, sự hộ trì hoàn hảo bốn giới căn bản của các thiện nam, thiện nữ cũng như vậy, đối với bậc Pháp khí hoặc chẳng phải pháp khí đều bình đẳng, không chê bai, không khinh lờn, không tự cao, không quở trách, nêu tội, có thể làm nơi phát sinh của tất cả thiện pháp. Lại như đại địa, tất cả hữu tình đều thọ dụng để được sinh sống tồn tại; sự hộ trì hoàn hảo bốn giới căn bản của các thiện nam, thiện nữ cũng như vậy, đối với chính pháp do chư Như Lai giảng thuyết, sinh trưởng lòng tin thanh tịnh, hoan hỷ, đối với các hữu tình không có tưởng sai biệt, dùng bốn Nhiếp pháp bình đẳng thu nhận, tất cả hữu tình đều cùng nhau nương vào pháp này, thọ dụng pháp lạc này để được sinh sống tồn tại. Lúc bấy giờ, Tôn giả Ưu-ba-ly nghe Phật giảng thuyết liền rời khỏi tòa, sửa y phục, đảnh lễ sát chân Phật, bày áo vai phải, gối phải chấm đất, chắp tay cung kính thưa: –Bạch Thế Tôn! Như lời Phật nói: Hộ trì hoàn hảo bốn giới căn bản các thiện nam, thiện nữ đối với bậc Pháp khí và chẳng phải pháp khí ấy tâm đều bình đẳng, không chê bai, không khinh lờn, không cao ngạo, không quở trách, nêu tội. Nếu như vậy thì ở đời vị lai có các Bí-sô phá giới làm việc ác, thật chẳng phải Sa-môn mà tự xưng là Sa-môn, thật chẳng phải là phạm hạnh mà tự xưng là phạm hạnh, các Bí-sô tăng đối với người này nên làm cách nào quở trách, nêu tội hay đuổi đi? Phật bảo Tôn giả Ưu-ba-ly: –Ta hoàn toàn không cho người thế tục ngoại đạo nêu tội Bí-sô phạm tội. Ta còn không cho các Bí-sô tăng không nương vào pháp mà nêu tội, quở trách, nêu tội Bí-sô phá giới, huống chi là đuổi đi. Không nương vào pháp mà nêu tội, quở trách, nêu tội Bí-sô phá giới hoặc đuổi đi thì liền mắc tội lớn. Này Ưu-ba-ly! Ông nên biết, có mười phi pháp nêu tội, quở trách, nêu tội Bí-sô phá giới liền mắc tội lớn, những người có trí đều không nên làm. Những gì là mười? 1.Tăng chúng không hòa, mà ở trước quốc vương, nêu tội quở trách, Bí-sô phá giới. 2.Tăng chúng không hòa, mà ở trước chúng Phạm chí lại, nêu tội quở trách, Bí-sô phá giới. 3.Tăng chúng không hòa, mà ở trước chúng tể quan lại, nêu tội quở trách, Bí-sô phá giới. 4.Tăng chúng không hòa, mà ở trước các Trưởng giả, Cư só lại, nêu tội quở trách, Bí-sô phá giới. 5.Ở trước các người nữ mà nêu tội, quở trách, Bí-sô phá giới. 6.Ở trước các người nam mà nêu tội, quở trách, Bí-sô phá giới. 7.Ở trước các người tịnh nhân mà nêu tội, quở trách, Bí-sô phá giới. 8.Ở trước nhiều Bí-sô, Bí-sô-ni mà nêu tội, quở trách, Bí-sô phá giới. 9.Ở trước người oán ghét mà nêu tội, quở trách, Bí-sô phá giới. 10.Ôm lòng tức giận mà nêu tội, quở trách, Bí-sô phá giới. Mười loại này gọi là nêu tội, quở trách phi pháp, Bí-sô phá giới liền mắc tội lớn. Nếu nương vào sự thật mà quở trách, nêu tội còn không nên làm, huống chi là không sự thật. Những người nào làm đều mắc tội lớn. Lại còn có mười loại nêu tội, quở trách phi pháp, Bí-sô phá giới liền mắc tội lớn, những người có trí không nên làm. Những gì là mười? 1.Các ngoại đạo khác quở trách, nêu tội Bí-sô. 2.Bạch y tại gia không giữ giới cấm mà quở trách, nêu tội Bí-sô. 3.Người tạo tội vô gián mà quở trách, nêu tội Bí-sô. 4.Người phỉ báng chính pháp mà quở trách, nêu tội Bí-sô. 5.Người hủy nhục Hiền thánh mà quở trách, nêu tội Bí-sô. 6.Người si cuồng loạn tâm mà quở trách, nêu tội Bí-sô. 7.Người bị khổ não ràng buộc mà quở trách, nêu tội Bí-sô. 8.Tịnh nhân bốn phương tăng mà quở trách, nêu tội Bí-sô. 9.Người giữ vườn rừng mà quở trách, nêu tội Bí-sô. 10.Bí-sô bị phạt mà quở trách, nêu tội Bí-sô. Mười loại quở trách, nêu tội phi pháp Bí-sô phá giới này liền mắc tội lớn. Nếu nương vào sự thật mà quở trách, nêu tội cũng không nên làm, huống chi là không sự thật. Những người nào làm theo cũng đều mắc tội lớn. Lại nữa, này Ưu-ba-ly! Nếu Bí-sô nào hủy phạm giới cấm lại ở chung với Tăng, mà ở trong chúng Tăng có Bí-sô khác oai nghi phép tắc đều đầy đủ, tất cả năm đức đều viên mãn thì nên rời chỗ ngồi, sửa y phục, cung kính đảnh lễ Bí-sô tăng, rồi đến trước Bí-sô phá giới cầu xin cho nêu tội, thưa như vầy: –Trưởng giả nhớ cho, tôi muốn nêu tội trưởng giả, sự thật chớ chẳng phải hư dối, đúng thời chớ chẳng phải phi thời, nói nhu hòa chớ chẳng phải nói thô ác, tâm Từ chớ không phải sân giận, lợi ích chớ chẳng phải tổn giảm, vì làm cho con mắt pháp, ngọn đèn pháp của Như Lai trụ lâu, hưng thịnh. Trưởng giả nên nghe cho, tôi sẽ như pháp nêu tội trưởng giả. Nếu người ấy chịu, liền nên như pháp, như thật nêu tội. Nếu người ấy không nghe thì nên đảnh lễ vị Tăng Thượng tọa, cung kính thưa: –Bí-sô này phạm lỗi như vậy, con nương vào năm pháp như thật nêu tội vị ấy. Khi ấy vị Bí-sô Thượng tọa trong chúng Tăng nên xem xét kỹ người nêu tội, người bị nêu tội và việc phạm tội, thật giả, nặng nhẹ thế nào rồi, dựa vào Tỳ-nại-da (Luật) và Tố-đát-lãm để dùng phương tiện tra hỏi, khuyên lơn, quở trách, dùng bảy pháp thích ứng diệt trừ. Nếu phạm tội nặng nên trị phạt nặng, nếu phạm tội vừa nên trị phạt vừa, nếu phạm tội nhẹ nên trị phạt nhẹ, làm cho họ hổ thẹn, biết sám hối tội đã phạm. Bấy giờ, Ưu-ba-ly lại thưa: –Bạch Thế Tôn! Nếu Bí-sô thật có tạo tội lỗi, ỷ vào thế lực của bạch y hoặc thế lực tài bảo, hoặc thế lực đa văn, hoặc thế lực biện tài, hoặc thế lực đệ tử, dùng các thế lực như vậy lăng nhục, chống cự Tăng chúng, Bí-sô Thượng tọa đem kinh, luật, luận như pháp dạy bảo mà họ không thuận theo, Bí-sô như vậy làm sao trị phạt? Phật bảo: –Này Ưu-ba-ly! Bí-sô Thượng tọa thông hiểu ba tạng nên cùng với Tăng chúng sai người đi thưa với quốc vương, đại thần hỗ trợ oai lực, sau đó mới như thật nương theo pháp trị phạt. Khi ấy, Ưu-ba-ly lại thưa: –Bạch Thế Tôn! Nếu Bí-sô tạo tội lỗi kia dùng thế lực tài bảo, hoặc thế lực đa văn, hoặc thế lực biện tài, hoặc dùng các thế lực phương tiện khéo léo, làm cho quốc vương, đại thần kia vui vẻ hùa theo việc phá giới phi pháp của họ, dung túng tội lỗi của Bí-sô xấu ác này, không cho y pháp như thật trị phạt. Lúc này, chúng Tăng nên làm thế nào? Phật bảo: –Này Ưu-ba-ly! Nếu Bí-sô kia làm theo pháp không nên làm, ở trong Tăng chúng nếu tướng tội thô trọng chưa biểu lộ rõ thì khi ấy Tăng chúng nên tạm thời để qua một bên. Nếu Bí-sô kia làm theo pháp không nên làm, nếu ở trong Tăng chúng nếu tướng tội thô trọng đã biểu lộ ra thì lúc ấy Tăng chúng nên hòa hợp y theo pháp đuổi ra khỏi Phật pháp. Này Ưu-ba-ly! Ví như cỏ lúa ở trong ruộng lúa, mầm, cọng, nhánh, lá đều giống như cây lúa nhưng gây hại cho lúa. Khi cây cỏ chưa trổ bông, người nông phu tạm thời để đó, khi trổ bông rồi, người nông phu sợ cỏ làm hư lúa nên nhổ sạch gốc rễ, vứt ra khỏi ruộng. Bí-sô phá giới làm việc không nên làm cũng vậy, ỷ vào các thế lực bạch y, ở trong Tăng chúng, oai nghi, hình tướng giống như Tăng nhưng làm tổn hại thanh danh chúng Tăng, cho đến lúc thiện thần chưa phát giác ra, ở giữa Tăng chúng tướng tội thô nặng chưa biểu lộ ra thì Tăng chúng nên tạm thời để đó. Nếu vị ấy ở giữa Tăng chúng, các Thiện thần đã phát giác ra, tướng tội thô trọng đã biểu lộ ra thì Tăng chúng nên cùng hòa hợp, y pháp đuổi họ ra khỏi Phật pháp. Này Ưu-ba-ly! Ví như biển cả không chứa thây chết, chúng đệ tử Thanh văn tăng của ta cũng vậy, không cho thây chết Bí-sô làm việc ác phá giới ở chung. Bấy giờ Ưu-ba-ly lại thưa: –Bạch Thế Tôn! Nếu Bí-sô làm việc ác phá giới kia, bị chúng Tăng hòa hợp đuổi đi rồi, nhưng Bí-sô ác kia lại dùng thế lực tài bảo, hoặc thế lực đa văn, hoặc thế lực biện tài, hoặc dùng các thế lực phương tiện khéo léo làm cho quốc vương, đại thần kia vui vẻ hùa theo việc phá giới phi pháp của họ, dùng các thế lực ấy áp bức chúng Tăng để cho Bí-sô phá giới ấy trở lại sống chung với chúng Tăng, bấy giờ Tăng chúng nên làm thế nào? Phật nói: –Này Ưu-ba-ly! Bấy giờ trong Tăng chúng có Bí-sô trì giới, biết hổ thẹn, vì giữ giới nên không sân giận mắng chửi Bí-sô phá giới, sẽ đứng ra thưa với quốc vương, đại thần, còn nếu sợ sự áp bức không nói được thì nên bỏ chỗ ấy đi đến nơi khác. KINH ĐẠI THỪA ĐẠI TẬP ĐỊA TẠNG THẬP LUÂN <卷 id="117270433">Quyển 4 <詞 id="117270434">Phẩm 3: Vô Y Hành (Phần 2) Lúc bấy giờ, Đại Bồ-tát Địa Tạng lại thưa Phật: –Bạch Thế Tôn! Giả như có cõi nước vào thời năm trược xấu ác không có Phật ra đời, chúng sinh trong cõi đó bị phiền não thiếu đốt, quen làm các hạnh xấu, ngu si, hung ác, khó có thể giáo hóa, dẫn dắt được, đó là vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la, Tể quan Chiên-trà-la, Cư só Chiên-trà-la, Trưởng giả Chiên-trà-la, Sa-môn Chiên-trà-la, Bà-la-môn Chiên-trà-la những người này căn lành ít ỏi, lại không có lòng tin, dua nịnh, ngu si, ngã mạn, cho mình thông minh, không thấy, không sợ quả khổ đời sau, lánh xa Thiện tri thức, thậm chí còn hướng vào địa ngục Vô gián. Những người này chỉ vì của cải mà kết bè đảng với các Bí-sô phá giới làm việc xấu ác, hỗ trợ nhau làm việc phi pháp, nhất định đều hướng đến địa ngục Vô gián. Nếu có việc này, ta sẽ đến trụ nơi đó, đem giáo pháp của Phật Thế Tôn Như Lai, làm lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình để tất cả đều được pháp vị giải thoát tối thượng vi diệu, dùng phương tiện giáo hóa, hướng dẫn họ thực hành theo. Ta sẽ cứu giúp vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la cho đến Bà-la-môn Chiên-trà-la này, làm cho họ không hướng đến địa ngục Vô gián. Bấy giờ, Phật bảo Đại Bồ-tát Địa Tạng: –Này thiện nam! Ở cõi Phật này, vào thời vị lai sẽ có các chúng sinh bị phiền não thiêu đốt, quen làm các việc xấu, ngu si, rất hung ác, khó có thể giáo hóa hướng dẫn, đó là vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la, Tể quan Chiên-trà-la, Cư só Chiên-trà-la, Trưởng giả Chiên-trà-la, Sa-môn Chiên-trà-la, Bà-la-môn Chiên-trà-la những người này căn lành ít ỏi, lại không có lòng tin, dua nịnh, ngu si, ngã mạn, cho mình thông minh, lánh xa Thiện tri thức, lời nói không chân thật, không thuận theo lời dạy Thiện tri thức, thường phỉ báng, mắng chửi, hủy nhục giáo pháp chân chính, do dự, nhận thức điên đảo, không thấy, không lo sợ quả báo đời sau, thường vui và gần gũi làm theo các luật nghi xấu ác, ưa làm việc sát sinh cho đến những tà kiến, lừa dối thế gian, làm cho mình và người đều tổn hại, từ vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la cho đến Bà-la-môn Chiên-trà-la này làm hoại loạn chính pháp của ta. Xuất gia ở trong chính pháp của ta mà phá hủy giới cấm, ưa kinh doanh nghề nghiệp thế tục. Sát-đế-lợi cho đến Bà-la-môn… kia nếu được cung kính cúng dường thì tham lam lợi dưỡng, mong cầu của cải, lời nói ra mà không thực hành, đem thư từ qua lại, buôn bán, đổi chác, ưa đọc các loại sách vở ở đời, kinh doanh tích chứa của báu, làm ruộng, trồng trọt, gìn giữ vườn nhà, vợ con, tôi tớ, quen làm bói quẻ, bùa chú, dùng chú thuật điều khiển ma quỷ, xem tướng tốt xấu, điều chế thuốc thang để trị bệnh, mong cầu của cải để nuôi sống thân mạng hoặc tham đắm thức ăn, y phục, đồ trang sức báu, siêng kinh doanh công việc thế tục mà hủy phạm giới cấm, làm các việc ác, tiếng nói vang như loa, hành động như chó, thật chẳng phải Sa-môn tự xưng là Sa-môn, thật chẳng phải phạm hạnh tự xưng là phạm hạnh. Sát-đế-lợi Chiên-trà-la cho đến Bà-la-môn Chiên-trà-la kia ưa thân cận, cung kính, cúng dường, lắng nghe, lãnh thọ lời dạy của họ. Người phá giới này ưa thân cận, cung kính, cúng dường, lắng nghe, lãnh thọ giáo pháp với Sát-đế-lợi Chiên-trà-la cho đến Bà-la-môn Chiên-trà-la. Nếu thấy co người đã xuất gia ở trong giáo pháp của ta đầy đủ giới đức, tinh tấn tu hành, học hạnh Vô học, cho đến về sau chứng đắc quả vị Tối thượng thì Sát-đế-lợi Chiên-trà-la cho đến Bà-la-môn Chiên-trà-la kia trở lại sinh tâm ganh ghét, không ưa thân cận, cung kính, cúng dường, lắng nghe, lãnh thọ lời dạy bảo của các vị ấy nữa! Này thiện nam! Ví như có người đi vào hòn đảo báu, vứt bỏ các thứ vàng bạc, trân châu, hoa sen hồng, phiệt-lưu-ly, các thứ châu báu có giá trị lớn mà lấy châu ca-giá. Ở cõi Phật này vào đời vị lai có Sát-đế-lợi Chiên-trà-la cho đến Bà-la-môn Chiên-trà-la cũng như vậy. Vào trong đảo báu chính pháp của ta mà bỏ các nghĩa đế thù thắng: Đầy đủ giới đức, đầy đủ sự hổ thẹn, học bậc Vô học và Thiện tri thức, tinh tấn tu học sáu pháp Ba-la-mật, đủ các công đức của người đệ tử chân chính; lại ôm lấy các việc phá giới, ưa làm các việc ác, không biết hổ thẹn, lời nói thô tháo, thân tâm kiêu ngạo, xa lìa các bạch pháp, không có tâm Từ bi. Đối với Bí-sô xấu ác cho là ruộng phước, cung kính, cúng dường, lắng nghe lời dạy của họ. Thầy và đệ tử xấu ác như vậy nhất định đều hướng đến địa ngục Vô gián. Này thiện nam! Có mười luân ác, vào đời vị lai ở cõi nước này, các vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la, Tể quan Chiên-trà-la, Cư só Chiên-trà-la, Trưởng giả Chiên-trà-la, Sa-môn Chiên-trà-la, Bà-la-môn Chiên-trà-la, những người này đối với mười luân ác, hoặc có một hoặc có tất cả mười luân ác này thì tất cả căn lành đã tu tập trước đây đều bị thiêu hủy thành tro bụi, không bao lâu sẽ bị thiếu khuyết các bộ phận thân thể, trong nhiều ngày lưỡi bị cứng không nói được, thọ lấy các thống khổ bức bách khó mà chịu nổi, sau khi qua đời nhất định sinh vào địa ngục Vô gián. Những gì là mười? Bí-sô làm việc ác phá giới này nói với các vị Sát-đế-lợi, Tể quan nhiễm thọ ác kiến những lời phỉ báng các Bí-sô thanh tịnh đang ở nơi thanh vắng: “Các Nhân giả! Bí-sô này ngu si hèn hạ, trá hiện hình tướng để lừa gạt thế gian, vì mong cầu ăn uống, y phục, lợi dưỡng, cung kính, danh dự nên khen mình chê người, ganh ghét, đua tranh, tham loạn, đắm trong danh lợi không biết nhàm chán. Hãy gạt bỏ đi, chớ nên tin theo lời họ nói. Các Bí-sô này chuyên nói dối, xa lìa pháp chân thật. Các người này đều không đắc đạo quả, cũng không xa lìa dục, đoạn tận các lậu, chỉ vì lợi dưỡng, cung kính, danh dự mà ở nơi thanh vắng, tự hiện có oai đức. Các ông cẩn thận, chớ nên cung kính, cúng dường, phụng sự những kẻ dối gạt, chẳng phải ruộng phước chân thật, chẳng phải người hành đạo.” Khi ấy, Sát-đế-lợi Chiên-trà-la cho đến Bà-la-môn Chiên-trà-la đối với các Bí-sô thanh tịnh đang ở nơi thanh vắng đã không phát sinh lòng tin tưởng chân thật hiếm có, không cung kính mà lại còn khinh miệt, không thích thân cận, phụng sự, cúng dường, không ghi nhận những lời các vị ấy nói. Khinh thường, hủy báng các Bí-sô thanh tịnh ở nơi thanh vắng như vậy tức là khinh thường, hủy báng tất cả dòng giống Pháp nhãn Tam bảo. Bấy giờ, trong nước ấy có chư Thiên, Long, Dược-xoa kính tin Tam bảo không lay động, đối với Sát-đế-lợi Chiên-trà-la cho đến Bà-la-môn Chiên-trà-la sinh lòng sân giận, bàn bạc với nhau: “Các vị hãy xem các hàng vua Sát-đế-lợi, Tể quan, Cư só, Trưởng giả, Sa-môn, Bà-la-môn Chiên-trà-la này đều khinh thường, hủy báng tất cả dòng giống Pháp nhãn Tam bảo, như vậy căn lành sẽ tổn giảm. Do nghe theo bạn ác, tạo các nghiệp tội nên sẽ đọa vào đường ác. Từ nay chúng ta chớ nên ủng hộ hàng Sát-đế-lợi. Chiên-trà-la này ở bất cứ thành ấp nào trên đất nước của họ.” Nói vậy rồi, tất cả Thiên, Long, Dược-xoa, Thần đều bỏ đi, không ủng hộ Sát-đế-lợi… Chiên-trà-la ở bất cứ thành ấp nào trên đất nước của họ nữa. Tất cả các pháp khí, ruộng phước chân thật ở trong nước ấy đều ra khỏi nước. Nếu có vị nào ở lại cũng bỏ lơ, không còn hộ niệm. Bấy giờ, do chư Thiên, Long, Dược-xoa, Thần và các pháp khí, ruộng phước chân thật, đối với Sát-đế-lợi, Chiên-trà-la ở các thành ấp, trên đất nước không còn hộ vệ, không còn hộ niệm, nên trong nước ấy xảy ra việc hai bên bày ra quân trận đấu tranh, giết hại nhau, bệnh tật, ôn dịch, đói kém nhân đó nổi lên. Khi ấy các Sát-đế-lợi Chiên-trà-la cho đến Bà-la-môn Chiên-trà-la kia cùng tất cả dân chúng trong nước đều không vui. Trước đây, thương yêu vui vẻ, nay đều xa lìa, bạn bè quyến thuộc trở lại sân giận nhau, mưu toan nghi ngờ nhau, không có lòng Từ bi, ganh ghét, tham lam, keo kiệt, các điều ác lại phát sinh, nghĩa là sát sinh cho đến tà kiến, không biết hổ thẹn là gì, tiêu dùng tất cả vật của chùa tháp, vật của chúng Tăng, chưa bao giờ biết hối lỗi. Hàng vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la thì oán ghét các bậc Trung hiền, ưa thích những kẻ dua nịnh, làm cho quan dân xâm đoạt, giết hại nhau, sân giận, kết oán, tạo ra các cuộc đấu tranh. Khi giao chiến với các nước lân cận khác, quân só nhụt chí bị thua trận. Hàng vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la, Tể quan, Cư só, Trưởng giả, Sa-môn, Bà-la-môn Chiên-trà-la không bao lâu thân thể sẽ bị thiếu khuyết, trong nhiều ngày đêm lưỡi bị cứng không nói được, thọ lấy đau khổ bức bách khó chịu nổi, sau khi qua đời nhất định sẽ sinh vào địa ngục Vô gián. Lại nữa, này thiện nam! Có vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la, Tể quan, Cư só, Trưởng giả, Sa-môn, Bà-la-môn Chiên-trà-la vì làm theo bạn ác nên căn lành ít ỏi, lại dua nịnh, ngu si, ngã mạn cho mình là thông minh, đối với Tam bảo, tâm không thanh tịnh, không thấy, không sợ quả khổ đời sau. Có hạng người, có chút lòng tin đối với thừa Thanh văn, thật là ngu si mà tự cho là thông minh, đối với pháp Duyên giác thừa và pháp Đại thừa do ta thuyết ra thì chê bai phỉ báng, không cho chúng sinh thọ trì, đọc tụng dù chỉ một bài tụng. Lại có hạng người, có chút lòng tin đối với thừa Duyên giác, thật là ngu si mà tự cho là thông minh, đối với pháp Thanh văn thừa và pháp Đại thừa do ta thuyết ra thì chê bai phỉ báng, không cho chúng sinh thọ trì, đọc tụng dù chỉ một bài tụng. Lại có hạng người, có chút lòng tin đối với pháp Đại thừa, thật là ngu si mà tự cho là thông minh, đối với pháp Thanh văn thừa và pháp Duyên giác thừa do ta thuyết ra thì chê bai phỉ báng, không cho chúng sinh thọ trì, đọc tụng dù chỉ một bài tụng. Những người như vậy gọi là hủy báng chính pháp của Phật, cũng là trái nghịch với chư Phật ba đời, phá hủy, thiêu đốt tất cả tạng pháp ba đời của chư Phật, làm cho thành tro bụi, đoạn diệt tất cả tám Thánh đạo, hủy hoại mắt pháp vô lượng của chúng sinh. Những Sát-đế-lợi Chiên-trà-la cho đến Sa-môn, Bà-la-môn Chiên-trà-la nào đối với pháp Thanh văn thừa, pháp Duyên giác thừa và pháp Đại thừa do Phật thuyết ra, mà làm chướng ngại, ngăn chặn, làm cho hủy diệt, cho đến một bài tụng cũng không còn thì nên biết người này là kẻ không cung kính tất cả dòng giống Pháp nhãn Tam bảo. Do nhân duyên này khiến cho tất cả các vị hộ vệ đất nước, như chư Thiên, Long, Dược-xoa, Thần… càng tin kính Tam bảo, không hề lay động, còn đối với Sát-đế-lợi Chiên-trà-la cho đến Sa-môn, Bà-la-môn Chiên-trà-la thì sinh tâm giận dữ, nói rộng là các Sát-đế-lợi Chiên-trà-la, Tể quan, Cư só, Trưởng giả, Sa-môn, Bà-la-môn Chiên-trà-la kia không bao lâu thân thể sẽ bị thiếu khuyết, trong nhiều ngày lưỡi bị cứng không nói được, thọ lấy các khổ sở, đau đớn khó chịu nổi, sau khi qua đời nhất định sinh vào địa ngục Vô gián. Lại nữa, này thiện nam! Có vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la, Tể quan, Cư só, Trưởng giả, Sa-môn, Bà-la-môn Chiên-trà-la tùy thuận làm theo các Bí-sô xấu ác phá giới (nói rộng như trên). Ở nước ấy có các bậc Pháp khí, là ruộng phước chân thật mà đối với các Sát-đế-lợi Chiên-trà-la đều bỏ lơ, không hộ niệm. Tuy ở nước ấy nhưng cũng có Sát-đế-lợi nương theo pháp mà trụ, không thích cuộc sống thế gian, cũng không thường đến nhà thí chủ, nếu có đến cũng lo giữ gìn lời nói, dẫu có nói cũng không bao giờ hư dối; hoàn toàn không đối mặt với người tại gia để chê bai, hủy báng những người phá giới. Đối với các Bí-sô xấu ác phá giới, hoàn toàn không khinh thường nhưng liền cho dò xét, cũng không hiện tướng để nêu điều sai trái của họ, thường thân cận bậc phước điền, xa lìa những người phá giới. Ngược lại các Bí-sô xấu ác phá giới kia, đối với bậc trì giới chân chính thì lại sân giận, khinh thường, hủy báng, lăng nhục, trước mặt các Sát-đế-lợi Chiên-trà-la cho đến Sa-môn, Bà-la-môn Chiên-trà-la, nam, nữ lớn nhỏ tại gia thì nói những lời dối gạt, dua nịnh, chê bai, phỉ báng các vị trì giới này, làm cho Sát-đế-lợi Chiên-trà-la cho đến Sa-môn, Bà-la-môn Chiên-trà-la đối với các Bí-sô đệ tử của ta ít đòi hỏi, biết đủ, trì giới, đa văn, biện tài vô ngại sinh tâm sân giận, nói những lời thô lỗ, mắng chửi, bức bách, làm cho tâm buồn rầu, thân không an ổn, hoặc chiếm đoạt y bát và các vật dụng làm cho bị thiếu thốn, hoặc chiếm đoạt vật của bốn phương Tăng không cho thọ dụng, hoặc giam nhốt trong lao ngục, gông cùm, tra khảo khổ sở, hoặc cắt các phần của thân thể, hoặc chặt đầu. Này thiện nam! Các ông nên xem các vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la cho đến các người Sa-môn, Bà-la-môn Chiên-trà-la này thân cận với Bí-sô phá giới làm việc ác, gây nên các tội lớn như vậy, tất sẽ đọa vào địa ngục Vô gián. Các chúng sinh nào tạo năm tội vô gián hoặc phạm giới trọng, hoặc gần với tính tội vô gián, giá tội còn nhẹ, các vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la cho đến những người Sa-môn, Bà-la-môn Chiên-trà-la như vậy thân gần kẻ phá giới, là phạm trọng tội, trái pháp. Này thiện nam! Bí-sô phá giới làm hạnh xấu ác, tuy phạm trọng tội việt pháp như vậy, nhưng nương vào giáo pháp của ta, cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, đi đứng oai nghi đồng với các bậc Hiền thánh, ta còn không cho vua, quan, các người tại gia nương vào pháp thế tục dùng roi gậy… đánh đập người ấy, hoặc giam nhốt trong lao ngục, hoặc lại quở mắng, hoặc cắt những phần thân thể, hoặc đoạn mạng sống, huống chi là nương vào việc phi pháp. Vua, quan, các người tại gia nếu làm việc này liền mắc tội lớn, nhất định sẽ đọa vào địa ngục Vô gián. Đối với Bí-sô phá giới làm hạnh xấu ác còn không nên trách phạt như vậy, huống chi là người trì giới chân chính làm việc thiện. Này thiện nam! Bí-sô nào phạm một tội trong các tội nặng căn bản, thuộc tính tội, tuy gọi là Bí-sô phá giới làm hạnh xấu ác nhưng đối với luật nghi đã thọ ở trong Tăng chúng đã hòa hợp với các vị thân giáo vẫn không mất hết, cho đến không bỏ hết các học giới, nên vẫn còn phảng phất hương thơm của bạch pháp; quốc vương, đại thần, các người tại gia không có luật nghi không nên khinh mạn và trách phạt. Bí-sô này, tuy chẳng phải là pháp khí, bỏ mất Thánh pháp, làm ô uế chúng thanh tịnh, phá hoại tất cả pháp sự của Sa-môn, không được thọ dụng vật bốn phương tăng, nhưng đối với luật nghi đã thọ ở trong Tăng chúng đã hòa hợp với các vị thân giáo, vẫn không mất hết nên còn hơn tất cả người tại gia bạch y. Người phạm tính tội còn nên như vậy, huống là phạm các giá tội nhỏ khác. Vì vậy, không cho quốc vương, đại thần, các người tại gia khinh mạn, trách phạt. Vì sao? Này thiện nam! Vào thời quá khứ có vua nước Ca-sa tên là Phạm Thọ, bảo người Chiên-trà-la (đồ tể): Có voi chúa lớn tên là Thanh Liên Mục, có đủ sáu ngà, sống ở ven núi Tuyết sơn, ngươi hãy đến đó nhổ ngà voi đem về cho ta. Nếu không được, năm người các ngươi nhất định sẽ chết. Khi ấy, bọn Chiên-trà-la vì muốn bảo toàn mạng sống nên cầm cung tên, mặc áo ca-sa đỏ giả làm hình tướng Sa-môn, đi đến núi Tuyết sơn, chỗ có voi chúa. Lúc ấy, voi cái trông thấy từ xa có người cầm cung tên đi đến thì kinh sợ, chạy đến chỗ voi chúa thưa: Bạch đại vương! Hiện giờ có người đang rút tên, giương cung đi từ từ hướng về phía chúng ta. Chẳng lẽ chúng ta sắp mất mạng sao? Nghe nói, voi chúa đưa mắt nhìn và thấy một người cạo tóc, mặc áo ca-sa, liền nói bài tụng bảo voi cái: Những người mặc ca-sa Là pháp tướng chư Phật Người này xa điều ác Ắt không hại chúng sinh. Khi ấy, voi cái dùng kệ đáp: Tuy biết là pháp phục Nhưng tay cầm cung tên Tức bọn người xấu xa Thích ác, không Từ bi. Voi chúa lại nói kệ: Thấy tướng áo ca-sa Biết là gốc Từ bi Chắc đã quy y Phật Thương xót các chúng sinh. Nàng chớ nên hoài nghi Mà hãy mau nhiếp tâm Người mặc pháp y này Muốn vượt biển sinh tử. Người xấu ác lúc này đã lấy tên độc, giương cung bắn ngay tim voi chúa. Thấy vậy, voi cái kêu khóc thảm thiết, nói bài tụng: Người mặc pháp phục này Là đã quy y Phật Oai nghi tuy tịch tónh Nhưng ôm lòng xấu ác, Nên mau đạp người ấy Làm cho hắn chết đi Trả hết thù oán này Vì bắn vào voi chúa. Voi chúa lớn nói bài tụng đáp lại: Thà mau bỏ thân mạng Không nên sinh tâm ác Người kia tuy gian trá Nhưng còn giống con Phật. Người trí không vì sống Mà mất tâm thanh tịnh Muốn độ các hữu tình Phải tu hạnh Bồ-đề. Khi ấy, voi chúa lớn sinh tâm thương xót, đi đến chỗ bọn người xấu ác, hỏi: Các ông cần muốn gì? Người kia đáp: Tôi muốn được ngà của ngươi. Voi chúa liền vui vẻ nhổ ngà của mình, bố thí cho người xấu ác kia nói bài tụng: Tôi đem ngà trắng bố thí ông Không uất, không hận không tham tiếc Phước bố thí này, nguyện thành Phật Diệt bệnh phiền não cho chúng sinh. Này thiện nam! Nên biết, vào thời quá khứ, voi chúa này tuy thọ thân súc sinh, không an vui, nhưng vì mong cầu quả Vô thượng chính giác nên xả thân mạng không hối tiếc, cung kính tôn trọng người mặc áo ca-sa, tuy biết người kia là đối thủ mà không báo oán. Tuy nhiên, đời vị lai có vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la, Tể quan, Cư só, Trưởng giả, Sa-môn, Bà-la-môn, những Chiên-trà-la này thật là ngu si, ngã mạn cho là thông minh, dua nịnh, lừa dối thế gian, không thấy, không sợ quả khổ đời sau, đối với người quy y, xuất gia theo chính pháp của ta, hoặc là bậc Pháp khí, hoặc chẳng phải bậc Pháp khí thì làm não loạn, quở mắng hoặc dùng roi gậy đánh đập vào thân, hoặc nhốt trong lao ngục, cho đến đoạn cả mạng sống. Những người này ở trong tất cả các đời quá khứ, vị lai, hiện tại phạm các tội lớn, nhất định sẽ đọa vào địa ngục Vô gián, mất hết căn lành bị thiêu đốt liên tục, bị tất cả người trí xa lánh. Người ấy đã tạo ra tội nặng như vậy, lại kiêu mạn, lừa dối thế gian, tự xưng: “Chúng ta cũng cầu quả Bồ-đề vô thượng, ta là bậc Đại thừa, sẽ được làm Phật.” Ở đời vị lai, có vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la, Tể quan, Cư só, Trưởng giả, Sa-môn, Bà-la-môn Chiên-trà-la cũng vậy, đối với người quy y xuất gia theo chính pháp của ta, hoặc là bậc Pháp khí, hoặc chẳng phải bậc Pháp khí thì làm não loạn, quở mắng, hoặc dùng dao gậy đánh đập vào thân, hoặc nhốt trong lao ngục, cho đến đoạn mạng sống, những người này ở trong tất cả các đời quá khứ, vị lai, hiện tại phạm các tội lớn, nhất định sẽ đọa vào địa ngục Vô gián, mất hết căn lành, bị thiêu đốt liên tục, bị tất cả người trí xa lánh. Người ấy đã tạo ra tội nặng như vậy, lại kiêu mạn, lừa dối thế gian, tự xưng: “Chúng ta cũng cầu quả Bồ-đề vô thượng, ta là bậc Đại thừa, sẽ được làm Phật.” Những người ấy, do làm não loạn người xuất gia nên làm người hạ tiện còn khó được, huống chi là có thể chứng đắc quả Bồ-đề của Nhị thừa, còn quả Vô thượng Đại thừa thì dứt khoát không thể dự phần. Lại nữa, này thiện nam! Vào đời quá khứ có nước tên là Bàn-giá-la, vua hiệu là Thắng Quân thống lónh cõi nước ấy. Khi ấy, trong nước có một gò đất lớn tên là Yết-lam-bà, thật là đáng sợ, rất nhiều quỷ Dược-xoa, La-sát ở đó. Người nào trông thấy đều kinh sợ, dựng tóc gáy. Bấy giờ, trong nước có người bị tội đáng chết, vua sai quan cai ngục trói năm phần thân thể kẻ ấy, rồi đem ném vào gò đất lớn Yết-lam-bà để cho các quỷ ác ăn thịt. Tội nhân nghe vậy, vì muốn bảo toàn mạng sống nên cạo bỏ râu tóc, tìm áo ca-sa. Người ấy tìm được một miếng, tự quấn vào cổ. Khi quan cai ngục y theo lệnh vua, trói năm phần thân thể tội nhân đem bỏ nơi gò đất rồi trở về. Đến nửa đêm có quỷ mẹ La-sát tên là Đao Kiếm Nhãn cùng với năm ngàn quyến thuộc đi vào gò đất ấy, tội nhân trông thấy rất sợ hãi. Bấy giờ, La-sát mẹ thấy có người bị trói năm phần thân thể, cạo bỏ râu tóc, quấn mảnh ca-sa đỏ dưới cổ liền đi nhiễu quanh bên phải, tôn trọng, đảnh lễ, chắp tay, cung kính nói bài tụng: Ông hãy tự an vui Tôi không làm hại ông Thấy cạo tóc, nhuộm y Làm tôi nghó đến Phật. Khi ấy, La-sát con thưa với mẹ: Mẹ ơi! Con đói khát Thân tâm thật khó chịu Xin ăn thịt người này Hết khổ, thân tâm vui. La-sát mẹ liền bảo con: Mặc áo ca-sa Phật Là y tướng giải thoát Sinh tâm ác với họ Nhất định đọa vô gián. Nghe vậy, La-sát con cùng các quyến thuộc, nhiễu quanh bên phải người ấy, tôn trọng, đảnh lễ, chắp tay cung kính, nói bài tụng: Sám hối người nhuộm y Tôi thà với cha mẹ Tạo thân, miệng, ý ác Với ông quyết không hại. Bấy giờ, lại có La-sát mẹ tên là Lư-loa-sỉ, cũng có năm ngàn quyến thuộc vây quanh, đi vào gò đất ấy. La-sát mẹ cũng thấy người kia bị trói năm phần thân thể, cạo râu tóc, quấn mảnh ca-sa đỏ dưới cổ, liền đi nhiễu quanh bên phải, tôn trọng đảnh lễ, chắp tay cung kính nói bài tụng: Ông chớ có sợ tôi Cổ ông quấn pháp phục Là y tướng của Phật Tôi đảnh lễ cúng dường. Khi ấy, La-sát con thưa mẹ: Máu thịt người ngon ngọt Xin mẹ cho con ăn Để tăng sức thân tâm Dũng mãnh không biết sợ. La-sát mẹ liền bảo con: Hàng trời, người vui sướng Do cung kính xuất gia Cúng dường người quấn y Được vô lượng an vui. Nghe vậy, La-sát con cùng các quyến thuộc nhiễu quanh bên phải người ấy, tôn trọng, đảnh lễ, chắp tay cung kính nói bài tụng: Tôi cung kính đảnh lễ Người cạo tóc nhuộm y Nguyện ở đời vị lai Thấy Phật sinh tín tâm. Khi ấy, lại có La-sát mẹ tên là Tông-man-phát, cũng có năm ngàn quyến thuộc vây quanh đi vào gò đất. La-sát mẹ cũng thấy người này bị trói năm phần thân thể, cạo râu tóc, quấn mảnh ca-sa đỏ dưới cổ, liền nhiễu quanh bên phải, tôn trọng, đảnh lễ, chắp tay cung kính nói bài tụng: Tướng y ca-sa Phật Người trí nên phụng sự Nếu hay tu cúng dường Ắt đoạn các trói buộc. Lúc đó, La-sát con thưa mẹ: Thân máu thịt người này Là thức ăn quốc vương Xin cho con ăn nuốt Có sức phụng sự mẹ. La-sát mẹ liền bảo: Người nhuộm y thế này Con chẳng nên ăn họ Khởi tâm ác với họ Sẽ chịu khổ rất lớn. Nghe vậy, La-sát con cùng các quyến thuộc nhiễu quanh bên phải người ấy, tôn trọng, đảnh lễ, chắp tay cung kính, nói bài kệ: Ông là dòng giống Phật Là ruộng phước tốt lành Nên tôi tu cúng dường Nguyện dứt các trói buộc. Khi ấy, có La-sát mẹ tên là Đao Kiếm Khẩu, cũng có năm ngàn quyến thuộc vây quanh, đi vào gò đất. La-sát mẹ cũng thấy người này bị trói năm phần thân thể, cạo râu tóc, quấn mảnh ca-sa đỏ dưới cổ, liền nhiễu quanh bên phải, tôn trọng, đảnh lễ, chắp tay cung kính nói kệ: Nay ông mặc pháp y Ắt hướng đến Niết-bàn Nên tôi không hại ông Sợ chư Phật quở trách. Khi ấy, La-sát con thưa với mẹ: Con thường hút tinh khí Ăn uống máu thịt người Cho con ăn người này Sức lực được đầy đủ. La-sát mẹ bảo con: Hại người mặc ca-sa Và cạo bỏ râu tóc Ắt đọa ngục vô gián Chịu khổ lớn lâu dài. Nghe vậy, La-sát con cùng các quyến thuộc nhiễu quanh bên phải người ấy, tôn trọng, đảnh lễ, chắp tay cung kính, nói kệ: Chúng tôi sợ địa ngục Nên không dám hại ông Sẽ mở trói cho ông Nguyện thoát khổ địa ngục. Bấy giờ, mẹ con La-sát cùng quyến thuộc đều phát tâm Từ, mở trói cho người ấy, sám hối tạ lỗi, thăm hỏi vui vẻ, thả cho về. Sáng sớm, người ấy đi nhanh đến chỗ vua, trình bày đầy đủ việc này lên vua. Vua Thắng Quân và các quyến thuộc nghe sự việc này đều kinh ngạc, vui mừng cho là việc chưa từng có, liền lập quy chế truyền lệnh bảo những người trong nước: “Từ nay về sau, ở trong nước ta, nếu có đệ tử của Phật hoặc người trì giới, hoặc người phá giới, thậm chí cho đến người không có giới pháp mà chỉ cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, nếu người nào xâm phạm làm hại người ấy sẽ trị phạt bằng tội chết.” Do nhân duyên này, mọi người mến mộ oai đức, dần dần đều quy kính vua Thiệm-bộ châu, đều cùng nhau thành tâm quy y cung kính Tam bảo. Này thiện nam! Nên biết, La-sát này vào thời quá khứ tuy thọ thân ngạ quỷ không an vui, hút tinh khí của người, ăn uống máu thịt, tâm ác luôn bừng cháy, không có Từ bi mà khi thấy người không có giới đức, chỉ cạo bỏ râu tóc, dùng mảnh ca-sa buộc dưới cổ, liền nhiễu quanh bên phải, tôn trọng, đảnh lễ, cung kính, khen ngợi, không có tâm làm tổn hại. Tuy nhiên vào đời vị lai sẽ có vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la, Tể quan, Cư só, Trưởng giả, Sa-môn, Bà-la-môn Chiên-trà-la những người này ôm lòng độc ác, không có lòng Từ thương xót, gây tạo tội lớn, đối với Dạ-xoa, La-sát ngu si, ngạo mạn, mất hết căn lành, đối với người xuất gia theo giáo pháp của ta hoặc là bậc Pháp khí, hoặc chẳng phải là bậc Pháp khí, cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa thì không cung kính, làm não loạn, quở mắng, hoặc dùng roi gậy đánh đập, hoặc nhốt vào lao ngục cho đến đoạn cả mạng sống. Người này ở trong tất cả các cõi Phật đời quá khứ, vị lai, hiện tại phạm các tội lớn, đoạn mất căn lành, bị thiêu đốt liên tục, bị tất cả người trí xa lánh, nhất định sẽ sinh vào địa ngục Vô gián. Lại nữa, này thiện nam! Xưa có quốc vương tên là Siêu Phước Đức, có người phạm tội đáng tử hình, biết tính vua nhân từ không nỡ đoạn mạng sống, nên một đại thần có trí tuệ, nhiều mưu kế, đến trước vua tâu: Xin ngài chớ có ưu buồn, thần sẽ không làm cho vua mắc tội sát sinh, không giao cho đao phủ giết người này. Vị đại thần có trí tuệ mới dẫn người phạm tội đến con voi say hung dữ. Lúc đó, voi say hung dữ dùng vòi cuốn lấy hai chân tội nhân đưa lên hư không, đem hết sức lực muốn đập xuống đất, bỗng thấy người này mặc áo màu đỏ, là áo ca-sa nên sinh tâm tịnh tín, liền đặt người phạm tội xuống đất từ từ, gào khóc, sám hối tạ lỗi, quỳ xuống trước mặt, để vòi sát chân, tâm cung kính chiêm ngưỡng người ấy. Thấy vậy, đại thần chạy về tâu vua. Nghe nói, nhà vua kinh ngạc cho là việc chưa từng có, liền sắc lệnh cho muôn dân trong nước đều phải tôn kính Tam bảo. Nhân đó, vua Thiệm-bộ châu từ bỏ sát sinh. Này thiện nam! Nên biết, voi say này vào thời quá khứ tuy thọ thân súc sinh không được an lạc nhưng tôn kính áo ca-sa, không gây nghiệp ác. Tuy nhiên, vào đời vị lai sẽ có vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la, Tể quan, Cư só, Trưởng giả, Sa-môn, Bà-la-môn Chiên-trà-la những người này thường ôm lòng độc ác, không có lòng Từ thương xót, gây tạo tội lỗi hơn voi say độc ác, ngu si, ngạo mạn, đoạn mất căn lành, đối với người xuất gia theo giáo pháp của ta, hoặc là bậc Pháp khí, hoặc chẳng phải bậc Pháp khí, cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa thì không cung kính, làm não loạn, quở mắng, hoặc dùng roi gậy đánh đập, hoặc nhốt vào lao ngục cho đến đoạn mạng sống. Người này ở trong tất cả cõi Phật đời quá khứ, vị lai, hiện tại phạm các tội lớn, đoạn mất căn lành, bị thiêu đốt liên tục, bị các người trí xa lánh, nhất định sẽ sinh vào địa ngục Vô gián. Vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la cho đến Sa-môn, Bà-la-môn… những người Chiên-trà-la này thành tựu luân ác thứ ba như vậy. Do nhân duyên này làm cho những vị ủng hộ đất nước như tất cả Trời, Rồng, Dược-xoa, Thần… càng tin kính Tam bảo, không chút dao động, đối với vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la cho đến Sa-môn, Bà-la-môn Chiên-trà-la những người này sinh tâm sân giận, nói rộng như trước. Vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la, Tể quan, Cư só, Trưởng giả, Sa-môn, Bà-la-môn Chiên-trà-la những người này không bao lâu thân thể sẽ bị thiếu khuyết, trong nhiều ngày lưỡi sẽ bị cứng, không nói được, thọ lấy các khổ sở, đau đớn khó chịu nổi, sau khi qua đời nhất định sinh vào địa ngục Vô gián. Lại nữa, này thiện nam! Vào đời vị lai, ở cõi Phật này có vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la, Tể quan, Cư só, Trưởng giả, Sa-môn, Bà-la-môn Chiên-trà-la những người này theo bạn xấu ác, căn lành ít ỏi, nói rộng cho đến không thấy, không sợ quả khổ đời sau, thấy vật cúng dường cho bốn phương Tăng, nghĩa là các chùa, thất, hoặc vật của chùa, thất, hoặc các vườn rừng, hoặc là vật của vườn rừng, hoặc các trang trại, ruộng đất, hoặc vật của các trang trại, ruộng đất, hoặc lạm dụng của thiện nam, tín nữ, hoặc lạm dụng các loại súc vật, hoặc lấy y phục, thức ăn uống, hoặc lấy giường tòa, đồ nằm, hoặc lấy thuốc men, hoặc lấy các loại vật dụng. Các vật cúng dường bốn phương Tăng như vậy, các vị đầy đủ giới, phước đức, tinh tấn tu hành, học hạnh Vô học, cho đến chứng đắc quả vị tối thượng, các vị Bí-sô thanh tịnh xứng đáng thọ dụng. Nhưng những người Sát-đế-lợi Chiên-trà-la cho đến Sa-môn, Bà-la-môn Chiên-trà-la này dùng thế lực chiếm đoạt, không cho Bí-sô thanh tịnh đủ giới thọ dụng, ngược lại còn đem cho Bí-sô phá giới làm những việc xấu ác kinh doanh tại gia các việc thế tục, họ cùng nhau thọ dụng hoặc thọ dụng một mình, hoặc cùng với người thế tục thọ dụng. Do nhân duyên này làm cho tất cả Trời, Rồng, Dược-xoa ủng hộ đất nước, tin kính Tam bảo không lay động, đối với vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la cho đến Sa-môn, Bà-la-môn Chiên-trà-la những người này sinh tâm sân giận, nói rộng như trước. Vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la, Tể quan, Cư só, Trưởng giả, Sa-môn, Bà-la-môn Chiên-trà-la những người này không bao lâu thân thể sẽ thiếu khuyết, trong nhiều ngày lưỡi sẽ bị cứng không nói được, thọ lấy các khổ sở, đau đớn khó chịu nổi, sau khi qua đời nhất định sinh vào địa ngục Vô gián. Lại nữa, này thiện nam! Vào đời vị lai trong cõi Phật này có vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la, Tể quan, Cư só, Trưởng giả, Sa-môn, Bà-la-môn Chiên-trà-la những người này theo bạn ác, căn lành ít ỏi, nói rộng cho đến không thấy, không sợ quả khổ đời sau, thấy người xuất gia trong chính pháp của ta thông minh, học rộng, đầy đủ, hoặc có thể truyền bá pháp Thanh văn thừa, hoặc có thể truyền bá pháp Độc giác thừa, hoặc có thể truyền bá pháp Vô thượng thừa, làm cho pháp được lưu truyền rộng khắp, đem lại lợi lạc cho chúng hữu tình. Các người kia đối với các vị Pháp sư này, quở mắng, hủy nhục, phỉ báng, khinh thường, lừa dối, làm bức bách, não loạn Pháp sư, gây chướng ngại chính pháp. Do nhân duyên này làm cho tất cả các vị ủng hộ đất nước, như Trời, Rồng, Dược-xoa càng tin kính Tam bảo không lay động, còn đối với vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la cho đến Sa-môn, Bà-la-môn Chiên-trà-la thì sinh tâm giận dữ, nói rộng như trước. Vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la, Tể quan, Cư só, Trưởng giả, Sa-môn, Bà-la-môn Chiên-trà-la những người này không bao lâu thân thể sẽ bị thiếu khuyết, trong nhiều ngày lưỡi sẽ bị cứng không nói được, thọ lấy các khổ, đau đớn khó chịu nổi, sau khi qua đời nhất định sẽ sinh vào địa ngục Vô gián. Lại nữa, này thiện nam! Vào đời vị lai, trong cõi nước này có vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la, Tể quan, Cư só, Trưởng giả, Sa-môn, Bà-la-môn Chiên-trà-la, những người này theo bạn ác, căn lành ít ỏi, nói rộng cho đến không thấy, không sợ quả khổ đời sau, thấy có vật cúng dường bốn phương Tăng: chùa, thất, trang trại, ruộng đất, người, súc vật, của cải, vật báu, bông hoa, cây ăn trái, cây thuốc nhuộm, cây bóng mát, cây thuốc thơm và các loại vật dụng khác, mà chỉ các đệ tử có đầy đủ giới, phước đức, tinh tấn tu hành, học hạnh Vô học cho đến chứng đắc quả vị Tối thượng, các Bí-sô thanh tịnh mới xứng đáng thọ dụng. Nhưng vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la cho đến Sa-môn, Bà-la-môn Chiên-trà-la này dùng thế lực mạnh chiếm đoạt, hoặc tự mình chiếm đoạt, hoặc bảo người khác chiếm đoạt, hoặc tự thọ dụng, hoặc cho người khác thọ dụng. Do nhân duyên này làm cho chư vị ủng hộ đất nước: Trời, Rồng, Dược-xoa càng tin kính Tam bảo không lay động, còn đối với vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la cho đến Sa-môn, Bà-la-môn Chiên-trà-la thì sinh tâm sân giận, nói rộng như trước. Vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la, Tể quan, Cư só, Trưởng giả, Sa-môn, Bà-la-môn Chiên-trà-la kia không bao lâu thân thể sẽ bị thiếu khuyết, trong nhiều ngày lưỡi bị cứng không nói được, thọ lấy các khổ sở, đau đớn khó chịu nổi, sau khi qua đời nhất định sinh vào địa ngục Vô gián. Lại nữa, này thiện nam! Vào đời vị lai, ở cõi Phật này có vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la, Tể quan, Cư só, Trưởng giả, Sa-môn, Bà-la-môn Chiên-trà-la, những người này căn lành ít ỏi, không có tín tâm, dua nịnh, ngu si, ngã mạn cho mình là thông minh, nói không chân thật, xa lìa bạn lành, theo bạn ác, đối với Thánh pháp thì nghi ngờ, không thấy, không sợ quả khổ đời sau, thường thích tập tành gần gũi các luật nghi xấu ác, ưa làm các việc sát sinh cho đến tà kiến, ngạo mạn, dối gạt thế gian, tự xưng ta là người giữ luật nghi. Vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la cho đến Sa-môn, Bà-la-môn Chiên-trà-la này, dùng nhiều phương cách hủy diệt chính pháp của ta, đối với người xuất gia theo giáo pháp của ta thì sinh tâm giận dữ, quở mắng, hủy nhục, đánh đập, bắt nhốt, cắt bỏ tay chân, các phần thân thể cho đến đoạn mạng sống, không tin nhận giáo pháp của ta nói ra, phá hoại tháp và các chùa, thất, bức bách và đuổi các Bí-sô về với thế tục, gây cản trở việc cạo tóc, mặc áo ca-sa, sai khiến các việc giống như nô bộc. Do nhân duyên này làm cho chư vị ủng hộ đất nước: Trời, Rồng, Dược-xoa càng tin kính Tam bảo không lay động, còn đối với vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la cho đến Sa-môn, Bà-la-môn Chiên-trà-la thì sinh tâm sân giận, nói rộng như trước. Vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la, Tể quan, Cư só, Trưởng giả, Sa-môn, Bà-la-môn Chiên-trà-la không bao lâu thân thể sẽ bị thiếu khuyết, trong nhiều ngày lưỡi bị cứng không nói được, thọ lấy các khổ sở, đau đớn khó chịu nổi, sau khi qua đời nhất định sinh vào địa ngục Vô gián. Này thiện nam! Các vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la, Tể quan, Cư só, Trưởng giả, Sa-môn, Bà-la-môn Chiên-trà-la đối với mười luân ác đã nói trên, hoặc có một luân hoặc có đủ cả thì tất cả căn lành đã tu tập trước đây đều bị thiêu hủy như tro bụi, không bao lâu thân thể sẽ bị thiếu khuyết, trong nhiều ngày lưỡi bị cứng không nói được, thọ lấy các khổ, đau đớn khó chịu nổi, sau khi qua đời nhất định sinh vào địa ngục Vô gián. Vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la, Tể quan, Cư só, Trưởng giả, Sa-môn, Bà-la-môn Chiên-trà-la, những người này vào đời vị lai làm người hạ tiện còn khó được, huống chi là có thể chứng quả Nhị thừa, còn quả Vô thượng Đại thừa thì dứt khoát không thể nào dư phần. Người ác như vậy danh từ Đại thừa còn khó nghe được, huống chi là có thể chứng quả Vô thượng. Người này cuối cùng chỉ làm tổn hại mình, tổn hại người khác, tất cả chư Phật đều không thể cứu được. Này thiện nam! Ví như người làm nghề ép dầu mè, mỗi hạt mè đều có sâu, khi dùng bánh xe ép thì dầu chảy ra, ông thử xét xem người ép dầu này mỗi ngày đêm giết biết bao nhiêu là sinh mạng? Giả sử người ép dầu này dùng mười bánh xe ép liên tục suốt một ngày đêm, trong mỗi bánh xe ép dầu có số lượng mè đến ngàn hộc như vậy, liên tục ép dầu đến một ngàn năm, ông xem người ép dầu giết biết bao nhiêu là sinh mạng, mắc tội nghiệp sát sinh có nhiều không? Đại Bồ-tát Địa Tạng thưa: –Bạch Thế Tôn! Rất nhiều! Người này đã giết vô lượng, vô biên, mắc nghiệp tội không thể nói hết, dùng toán số ví dụ cũng không thể được, chỉ có Phật mới hiểu biết, ngoài ra không ai biết được. Phật bảo: –Này thiện nam! Ví như có người vì ham nhiều của cải nên lập ra mười nhà dâm, trong mỗi nhà dâm chứa một ngàn dâm nữ, mỗi dâm nữ trang sức mỗi cách, làm nhiều người đam mê, thường làm việc dâm dục. Như vậy liên tục làm đến một ngàn năm, người này mắc tội không thể tính đếm, dùng toán số ví dụ cũng không thể được. Một nhà dâm mắc nghiệp tội bằng tội của người dùng mười bánh xe ép dầu đã nói ở trước. Lại nữa, này thiện nam! Ví như có người vì ham muốn của cải, lập ra mười quán rượu, trong mỗi quán rượu trưng bày đủ thứ, bằng nhiều cách chiêu dụ đến một ngàn người say đắm rượu, uống nhiều, vui chơi suốt ngày đêm không nghỉ. Như vậy liên tục đến một ngàn năm, người này mắc tội không thể nói, tính đếm, dùng toán số ví dụ cũng không thể được. Nghiệp tội của một quán rượu bằng tội của mười nhà dâm đã nói ở trước. Lại nữa, này thiện nam! Ví như có người vì ham muốn của cải lập ra mười nhà đồ tể, một ngày đêm mỗi nhà đồ tể giết hại đến một ngàn súc sinh như trâu, dê, lạc đà, nai, gà, chó… Liên tục giết hại như vậy đến một ngàn năm, người này mắc tội không thể nói, tính đếm, dùng toán số ví dụ cũng không thể được. Nghiệp tội của một nhà đồ tể bằng tội của mười quán rượu đã nói ở trước. Vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la cho đến Sa-môn, Bà-la-môn Chiên-trà-la những người này trong một ngày đêm nếu phạm một luân trong mười luân ác ở trước thì mắc tội bằng tội của mười nhà đồ tể đã nói ở trước. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nói bài tụng: Tội mười xe ép dầu Bằng mở một nhà dâm Lập ra mười nhà dâm Bằng mở một quán rượu Tội lập mười quán rượu Bằng một nhà đồ tể Lập mười nhà đồ tể Tội bằng một luân ác. KINH ĐẠI THỪA ĐẠI TẬP ĐỊA TẠNG THẬP LUÂN <卷 id="117270435">Quyển 5 <詞 id="117270436">Phẩm 3: Vô Y Hành (Phần 3) Lúc bấy giờ, Đại Bồ-tát Địa Tạng hỏi: –Bạch Thế Tôn! Nếu có Sát-đế-lợi chân thiện, Tể quan chân thiện, Cư só chân thiện, Trưởng giả chân thiện, Sa-môn chân thiện, Bà-la-môn chân thiện, những người này bảo hộ tốt cho mình, cũng bảo hộ tốt cho người khác, bảo hộ tốt cho đời sau, khéo ủng hộ Phật pháp. Đối với người xuất gia hoặc là bậc Pháp khí, hoặc chẳng phải là bậc Pháp khí, cho đến không có giới, chỉ cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa thì khéo bảo hộ, cung kính, ủng hộ, cúng dường khắp. Lại bảo hộ tốt pháp Thanh văn thừa, pháp Duyên giác thừa và pháp Đại thừa, cung kính lắng nghe, tin nhận cúng dường. Đối với các vị an trú Đại thừa, đầy đủ giới phước đức, tinh tấn tu hành cho đến hàng Bổ-đặc-già-la cũng đều khéo giữ gìn, hỗ trợ oai lực của họ, thưa hỏi, lắng nghe, lãnh thọ, vui vẻ bàn luận, xa lìa Bí-sô phá giới, làm hạnh xấu ác. Đối với các vật cúng dường bốn phương Tăng hoàn toàn không để cho người phi pháp thọ dụng hao phí mà siêng năng gìn giữ. Đối với chùa tháp và vật chúng Tăng hoàn toàn không tự mình đoạt lấy, hoặc bảo người khác đoạt lấy; tự mình không thọ dùng, cũng không bảo người khác thọ dùng. Đối với người giảng thuyết giáo pháp ba thừa thì cung kính cúng dường, ủng hộ, không để cho người khác phỉ báng, hủy nhục; tôn trọng, an ủi các người xuất gia, tin nhận, hộ trì giáo pháp do Phật thuyết ra, hoàn toàn không phá hoại chùa tháp, luôn luôn hộ trì phòng xá Tăng chúng. Đối với người xuất gia cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa hoàn toàn không làm tổn hại họ. Đối với mười luân ác mình không đắm nhiễm và thường khuyên người khác xa lìa, học đầy đủ chính sách trị quốc của Tiên vương, tiếp nối dòng giống Tam bảo làm cho hưng thịnh, thường ưa thân gần Thiện tri thức, lòng từ vỗ về chăm sóc tất cả dân chúng trong nước, tùy theo chỗ ưa thích mà tìm cách giáo hóa, dẫn dắt làm cho họ bỏ tà đạo, tu hành theo chính pháp. Vua Sát-đế-lợi chân thiện cho đến Bà-la-môn chân thiện như vậy, sẽ được bao nhiêu phước đức và diệt trừ bao nhiêu, nghiệp tội? Phật bảo: –Này thiện nam! Giả sử có người xuất hiện ở thế gian, đầy đủ oai lực, vào đầu ngày dùng bảy thứ báu tích chứa đầy cõi Thiệm-bộ châu, đem cúng dường chư Phật và chúng đệ; giữa ngày cũng dùng bảy thứ báu tích chứa đầy cõi Thiệm-bộ châu, đem cúng dường chư Phật và chúng đệ tử; cuối ngày cũng dùng bảy thứ báu tích chứa đầy cõi Thiệm-bộ châu, đem cúng dường chư Phật và chúng đệ tử. Ngày ngày liên tục cúng dường như vậy cho đến trăm ngàn năm, phước đức người đó có nhiều không? Đại Bồ-tát Địa Tạng thưa: –Bạch Thế Tôn! Rất nhiều! Rất nhiều! Người đó tích chứa phước đức vô lượng, vô biên không thể tính đếm, dùng ví dụ toán số cũng không thể được, chỉ có Phật mới biết, ngoài ra không ai có thể biết. Phật nói: –Này thiện nam! Đúng vậy, đúng vậy! Đúng như lời ông nói! Nếu có vua Sát-đế-lợi chân thiện cho đến Bà-la-môn chân thiện nào, đối với mười luân ác mà tự mình không đắm nhiễm, lại thường khuyên người xa lìa mười luân ác thì được phước đức còn hơn phước tích chứa vô lượng, vô biên không thể tính đếm như đã nói ở trước. Lại nữa, này thiện nam! Giả sử có người xuất hiện ở thế gian, đầy đủ oai lực lớn, cất chùa đẹp cúng dường bốn phương Tăng, chùa đó rộng lớn bằng bốn đại châu, có đầy đủ phòng xá, giường nằm, y phục, thức ăn uống, thuốc men, đồ dùng tốt nhất để cho chúng đại đệ tử Thanh văn, Bồ-tát của chư Như Lai an trú trong đó, mà tinh tấn tu hành các pháp thiện, ngày đêm không biếng nhác, trải qua trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa năm, cung cấp cúng dường liên tục không gián đoạn, người này tích chứa phước đức có nhiều không? Đại Bồ-tát Địa Tạng thưa: –Bạch Thế Tôn! Rất nhiều! Người này tích chứa phước đức vô lượng, vô biên không thể tính đếm, dùng toán số, ví dụ cũng không thể được, chỉ có Phật mới biết, ngoài ra không ai có thể biết được. Phật nói: –Này thiện nam! Đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời ông nói! Lại nữa, này thiện nam! Giả sử có người xuất hiện ở thế gian, đầy đủ oai lực lớn, cất chùa đẹp cúng dường bốn phương Tăng, chùa đó rộng lớn bằng mười bốn đại châu, có đầy đủ phòng xá, giường nằm, y phục, thức ăn uống, thuốc thang, đồ dùng tốt nhất để cho chúng đại đệ tử Thanh văn, Bồ-tát của chư Như Lai an trú trong đó, mà tinh tấn tu hành các pháp thiện, ngày đêm không biếng nhác, trải qua trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa năm, cung cấp cúng dường liên tục không gián đoạn thì người này tích chứa phước đức như vậy có nhiều không? Đại Bồ-tát Địa Tạng thưa: –Bạch Thế Tôn! Rất nhiều, rất nhiều! Người này tích chứa phước đức vô lượng, vô biên không thể tính đếm, dùng toán số, ví dụ cũng không thể được. Chỉ có Phật mới biết được, ngoài ra không ai biết. Phật nói: –Này thiện nam! Đúng vậy, đúng vậy. Đúng như lời ông nói! Lại nữa, này thiện nam! Giả sử có người xuất hiện ở thế gian, đầy đủ oai lực lớn, xây tháp thờ xá-lợi của Phật, cao rộng, tốt đẹp bằng tam thiên đại thiên thế giới như đã nói ở trước… phước xây chùa cúng dường bốn phương Tăng đem so với phước xây tháp thờ xá-lợi của Phật thì không bằng một phần trăm, không bằng một phần ngàn, cũng không bằng một phần trăm ngàn, cũng không bằng một phần câu-chi, cũng không bằng một phần na-dữu-đa, phần toán, phần số, phần kế, phần dụ, cho đến cũng không bằng một phần ô-ba-ni-sát. Lại nữa, này thiện nam! Giả sử có những người chứng đắc Ba-la-mật-đa, đầy đủ tám giải thoát, tónh lự, đẳng chí, những đại A-la-hán này nhiều như lúa, cỏ, gai, tre, mía, vườn, rừng, đầy khắp tam thiên đại thiên thế giới, nhưng tất cả đều bị trói chặt năm phần thân thể, trải qua trăm ngàn năm, khi ấy có một người xuất hiện ở thế gian, đầy đủ oai lực lớn, ưa làm việc phước đức, mở trói cho tất cả các vị A-la-hán đó rồi, dùng nước thơm tắm gội, cúng dường y bát, trải qua ngàn năm cung cấp phòng nhà, giường tòa, y phục, thức ăn uống, thuốc thang và các vật dụng tốt đẹp nhất. Khi các vị A-la-hán này nhập Niết-bàn thì hỏa táng, cúng dường, thâu nhặt xá-lợi, dùng bảy thứ báu tốt nhất để xây tháp, bên trong để xá-lợi, lại đem cờ phướn, lọng báu, hương hoa, kỹ nhạc mà cúng dường. Phước xây tháp thờ xá-lợi của Phật như nói ở trước, đem so với phước mở trói các vị A-la-hán và cúng dường thì không bằng một phần trăm, không bằng một phần ngàn, cũng không bằng một phần trăm ngàn, cũng không bằng một phần câu-chi, cũng không bằng một phần na-dữu-đa, phần toán, phần số, phần kế, phần dụ, cho đến cũng không bằng một phần ô-ba-ni-sát. Này thiện nam! Nếu có vua Sát-đế-lợi chân thiện cho đến Bà-la-môn chân thiện nào, tự mình không tập nhiễm mười luân ác, lại thường khuyên người xa lìa mười luân ác thì sẽ được phước đức nhiều hơn phước đức đã nói ở trước vô lượng, vô biên không thể tính đếm. Phát sinh được bao nhiêu phước như vậy thì cũng diệt được bấy nhiêu tội. Này thiện nam! Vua Sát-đế-lợi chân thiện và các Tể quan, Cư só, Trưởng giả, Sa-môn, Bà-la-môn chân thiện nào, vào đời vị lai, sau năm trăm năm lúc chính pháp sắp diệt, có thể hộ trì tốt mắt chính pháp của ta, có thể bảo hộ tốt cho mình, bảo hộ tốt cho người khác, bảo hộ tốt đời sau, bảo hộ tốt giáo pháp của ta. Đối với đệ tử xuất gia hoặc là bậc Pháp khí, hoặc chẳng phải là bậc Pháp khí, cho đến không có giới pháp, chỉ cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, cũng đều phải bảo hộ đầy đủ, cung kính, cúng dường, không làm tổn hại, lại có thể bảo hộ tốt chính pháp ba thừa. Trong khi lắng nghe, lãnh thọ, cúng dường pháp Thanh văn thừa thì đối với pháp Độc giác thừa và pháp Đại thừa không được sinh tâm phỉ báng, cũng không ganh ghét người tu Độc giác và Đại thừa. Lúc lắng nghe, lãnh thọ, cúng dường pháp Độc giác thừa thì đối với pháp Thanh văn thừa và pháp Đại thừa không được sinh tâm phỉ báng, cũng không ganh ghét người tu Thanh văn thừa và Đại thừa. Lúc lắng nghe, lãnh thọ, cúng dường pháp Đại thừa thì đối với pháp Thanh văn thừa và pháp Độc giác thừa không được sinh tâm phỉ báng, cũng không ganh ghét người tu Thanh văn thừa và Độc giác thừa. Người này không mong cầu chứng đắc pháp Thanh văn thừa, Độc giác thừa, mà chỉ hướng đến mong cầu chứng đắc chính pháp Đại thừa. An trú trong Đại thừa, đầy đủ giới phước đức, tinh tấn tu hành cho đến an trụ quả vị Bổ-đặc-lặc-già-la cũng thường nên thân cận, phụng sự, tôn kính, cúng dường, thưa hỏi, lắng nghe, lãnh thọ, xa lìa Bí-sô phá giới làm hạnh xấu ác. Đối với các vật cúng dường bốn phương Tăng, hoàn toàn không để cho người phi pháp sử dụng hao phí, mà phải siêng năng gìn giữ. Đối với chùa tháp và vô số các vật cúng dường hoàn toàn không đoạt lấy; cũng không dạy người khác đoạt lấy; không tự sử dụng, cũng không dạy người khác sử dụng. Đối với người thuyết giảng giáo pháp ba thừa thì cung kính, cúng dường, đem năng lực mình bảo hộ, không để người khác phỉ báng, hủy nhục, phải tôn trọng, an ủi các người xuất gia, tin hiểu, bảo hộ thọ trì Thánh giáo của Như Lai, hoàn toàn không phá hoại chùa tháp, phải luôn ủng hộ, giữ gìn chùa của bốn phương Tăng. Đối với các đệ tử xuất gia của ta hoàn toàn không được hủy phạm, không bắt buộc phải hoàn tục, không đắm nhiễm mười luân ác và thường xuyên khuyên người khác xa lìa mười luân ác, tự mình học chính sách trị nước của Tiên vương, thực hành mười nghiệp đạo thiện, giáo hóa thế gian, thường phải gần gũi các bậc Thiện tri thức, nối tiếp dòng giống Tam bảo làm cho hưng thịnh, bảo hộ tốt mắt chính pháp không cho đoạn diệt. Như vậy, Sát-đế-lợi chân thiện cho đến Bà-la-môn chân thiện, do đầy đủ các công đức này mà danh tiếng không hư vọng, được thọ nhận bổng lộc của dân chúng trong nước, tất cả Trời, Rồng, Dược-xoa, Quỷ thần cho đến Yết-tra bố-đát-na… đều sinh tâm vui mừng, thương xót, ủng hộ, tất cả bậc Pháp khí là ruộng phước chân thật, cũng sinh hoan hỷ, Từ bi hộ niệm. Do nhân duyên này làm cho đất nước và các hữu tình phát triển, hưng thịnh, an lạc, phồn vinh. Quân lính các nước lân cận không thể chiếm lấn, giết hại, mà còn kính phục, mến mộ hiền đức, tự đến xin quy hàng. Nhờ siêng năng tu tập nghiệp thiện này nên chấm dứt đường ác, tăng trưởng nhân trời người, bảo hộ thân mạng làm cho được sống lâu, tự mình diệt trừ các phiền não, cũng khiến cho người diệt trừ, gìn giữ đạo Bồ-đề, hành sáu pháp Ba-la-mật, phá trừ tất cả tà kiến, đường ác, không bao lâu thoát khỏi biển sinh tử, thường xa các bạn ác, gần gũi các bạn lành, sinh ở nơi nào cũng thường gặp chư Phật, Bồ-tát cung kính cúng dường, chưa từng rời bỏ, không bao lâu tùy tâm ưa thích từng mỗi người đều an trụ cõi Phật, chứng đắc đạo Vô thượng chính đẳng chính giác. Lúc bấy giờ trong chúng hội, tất cả Thiên đế và các quyến thuộc, cho đến tất cả Tất-xá-giá-đế và quyến thuộc đều đứng dậy đảnh lễ sát chân Phật, chắp tay cung kính thưa: –Bạch Thế Tôn! Ở cõi Phật này vào đời vị lai, sau năm trăm năm, lúc chính pháp sắp diệt, các vua Sát-đế-lợi chân thiện cho đến Bà-la-môn chân thiện nào, tự xa lìa mười luân ác, hoặc khuyên người khác xa lìa mười luân ác, bảo hộ mình và người, bảo hộ đời sau, hộ trì chính pháp, nối tiếp dòng giống Tam bảo, làm cho hưng thịnh, không để đoạn diệt. Tóm lại là như Phật đã nói ở trước, những người này đối với giáo pháp ba thừa cung kính lắng nghe, lãnh thọ, hoàn toàn không che giấu, đối với người tu ba thừa thì ủng hộ, cúng dường, không quấy nhiễu, đối với vật của Tam bảo thì siêng năng gìn giữ không để hao phí thì quyến thuộc chúng con sẽ đem hết năng lực ủng hộ vua Sát-đế-lợi chân thiện cho đến Bà-la-môn chân thiện làm cho mười pháp tăng trưởng. Mười pháp đó là: 1.Tuổi thọ tăng trưởng. 2.Không có hoạn nạn không tăng trưởng. 3.Không có bệnh tật không tăng trưởng. 4.Quyến thuộc tăng trưởng. 5.Của cải tăng trưởng. 6.Vật dụng tăng trưởng. 7.Quyền lực tăng trưởng. 8.Tiếng khen tăng trưởng. 9.Bạn lành tăng trưởng. 10.Trí tuệ tăng trưởng. Bạch Thế Tôn! Vua Sát-đế-lợi chân thiện cho đến Bà-la-môn chân thiện kia, tự mình xa lìa mười luân ác, khuyên người xa lìa mười luân ác, đầy đủ các công đức như nói ở trước, chúng con ủng hộ người ấy, nhất định họ sẽ được tăng trưởng mười pháp trên. Lại nữa, bạch Thế Tôn! Nếu có vua Sát-đế-lợi chân thiện cho đến Bà-la-môn chân thiện nào thành tựu công đức như đã nói ở trước, quyến thuộc chúng con sẽ đem năng lực ủng hộ, làm cho họ xa lìa mười pháp sau. Mười pháp đó là: 1.Xa lìa tất cả oan gia thù địch. 2.Xa lìa tất cả cảnh chẳng đáng ưa thích: sắc, thanh, hương, vị, xúc. 3.Xa lìa tất cả tật bệnh, ghẻ lở. 4.Xa lìa tất cả ác kiến tà chấp. 5.Xa lìa sự quay về nương vào tất cả tà vọng. 6.Xa lìa tất cả tai họa yêu quái. 7.Xa lìa tất cả nghề nghiệp xấu ác. 8.Xa lìa tất cả những hiểu biết xấu ác. 9.Xa lìa tất cả nhà ở chỗ bùn nhơ. 10.Xa lìa tất cả nạn chết yểu trái thời. Bạch Thế Tôn! Sát-đế-lợi chân thiện cho đến Bà-la-môn chân thiện kia nếu thành tựu các công đức đã nói ở trước, chúng con sẽ ủng hộ người ấy, nhất định họ sẽ được xa lìa mười pháp trên. Lại nữa, bạch Thế Tôn! Nếu có Sát-đế-lợi chân thiện nào tu tập đầy đủ các công đức như đã nói ở trước và được viên mãn thì quyến thuộc chúng con sẽ siêng năng ủng hộ, làm cho nhà vua cùng các quyến thuộc và tất cả muôn dân trong nước ấy được xa lìa mười pháp. Những gì là mười pháp? 1.Xa lìa tất cả giặc oán thù ngoài nước. 2.Xa lìa tất cả người oán thù trong nước. 3.Xa lìa tất cả quỷ thần hung ác. 4.Xa lìa tất cả nạn hạn hán. 5.Xa lìa tất cả các nạn lụt lội. 6.Xa lìa tất cả tai hại về nóng, lạnh, mưa to gió lớn trái trời, sương muối, mưa đá. 7.Xa lìa tất cả sao xấu biến quái. 8.Xa lìa tất cả đói khát mất mùa. 9.Xa lìa tất cả bệnh chết trái trời. 10.Xa lìa tất cả ác kiến, tà chấp. Bạch Thế Tôn! Nếu vua Sát-đế-lợi chân thiện kia tu tập đầy đủ các công đức như đã nói ở trước và được viên mãn thì quyến thuộc chúng con sẽ siêng năng ủng hộ, làm cho vua đó cùng quyến thuộc và tất cả dân chúng trong nước ấy nhất định được xa lìa mười pháp trên. Bấy giờ, Đức Thế Tôn khen ngợi các Thiên đế và quyến thuộc của họ, cho đến tất cả Tất-xá-giá-đế và quyến thuộc của họ: –Lành thay, lành thay! Các ông đã phát được thệ nguyện như vậy, việc này các ông hoàn toàn nên làm. Nhờ nhân duyên này làm cho các ông được an lạc lâu dài. Lúc bấy, giờ Đại phạm Thiên Tạng lại thưa Phật: –Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn cho phép con vì tất cả vua Sát-đế-lợi chân thiện ở cõi nước này vào đời vị lai mà nói thần chú: “Hộ quốc bất thoái luân tâm đại Đà-la-ni”. Nhờ năng lực của thần chú “Hộ quốc bất thoái luân tâm đại Đà-la-ni” này, làm cho tất cả vua Sát-đế-lợi chân thiện ở cõi nước này vào đời vị lai không bị tất cả giặc oán thù, bạn xấu ác chế phục, có thể làm cho tất cả giặc oán thù, bạn xấu ác tự nhiên thoái chuyển, khéo léo gìn giữ tốt ba nghiệp thân, miệng, ý, thường được các người trí khen ngợi, xa lìa các điều ác, hay làm các việc lành, thường xa lìa tất cả ngoại đạo, tà giáo. Đối với Đại thừa luôn luôn tinh tấn tu hành, dũng mãnh, kiên cố, có khả năng giáo hóa vô lượng hữu tình, không nương vào người khác, tự nhiên và khéo léo để có thể tu hành đủ sáu pháp Ba-la-mật quý báu thâm sâu, xa lìa tất cả sân giận, tham lam, ganh ghét, phiền não trói buộc, thường được tất cả nhân, phi nhân cung kính hộ niệm, những gì đã có được đều không quên mất, không bỏ các hữu tình, ưa hành bốn Nhiếp pháp, không xa lìa pháp khí phước điền. Phật bảo Thiên Tạng: –Ta cho phép các ông vì tất cả vua Sát-đế-lợi chân thiện ở cõi nước này vào đời vị lai mà nói thần chú: “Hộ quốc bất thoái luân tâm đại Đà-la-ni”. Nhờ thần lực của chú này làm cho tất cả vua Sát-đế-lợi chân thiện ở cõi nước này vào đời vị lai không bị giặc oán thù, bạn xấu ác chế phục, nói rộng ra cho đến không xa lìa hết thảy chư Phật và đệ tử của Phật. Lúc ấy, Đại phạm Thiên Tạng liền nói thần chú “Hộ quốc bất thoái luân tâm đại Đà-la-ni”: –Đát điệt tha mâu ni vị lộc, mâu na yết lạp phiệt, mâu ni hột lê đạt duệ, mâu ni lô ha tì triết lệ, mâu na hạt lật chế, mâu ni cấp mê, thúc ngật la bác sai, bát la xa bác sai, mật la bác sai, tao thích bà hột lật đế, đố thích noa hột lật triết lệ, bát đát la xoa hột lật đế, cụ cụ noa mật lệ, ba phiệt xoa tát lệ, át nộ ha kỳ nê phiệt, mâu ni bát tháp phiệt, ta ha. Đại phạm Thiên Tạng nói bài chú này rồi lại bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn và đại chúng tùy hỷ với thần chú đại Đà-la-ni mà con vừa nói. Đức Thế Tôn bảo: –Lành thay, lành thay! Tất cả đại chúng cũng đồng nói: –Lành thay, lành thay! Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Tôn giả Đại Mục-kiền-liên và Đại Bồ-tát Di-lặc: –Này thiện nam! Các ông đều nên thọ trì, gìn giữ thần chú: “Hộ quốc bất thoái luân tâm đại Đà-la-ni” của Đại phạm Thiên Tạng vừa nói, truyền lại cho tất cả vua Sát-đế-lợi chân thiện ở cõi nước này vào đời vị lai để tự họ lãnh thọ, hộ trì và làm cho lưu truyền rộng rãi. Nhờ nhân duyên này, mà các vua Sát-đế-lợi chân thiện kia cùng các quyến thuộc và tất cả muôn dân trong nước ấy được lợi ích an lạc, thường chuyển bánh xe chính pháp, danh tiếng vang xa, oai đức lừng lẫy, diệt trừ tà kiến, thiết lập chính kiến, giữ gìn mắt chính pháp, nối tiếp hạt giống Tam bảo làm cho hưng thịnh, không để bị diệt, giáo hóa vô lượng, vô biên hữu tình được an trú trong Đại thừa, có đức tin vững chắc, viên mãn lâu dài, có thể tu đủ sáu pháp Ba-la-mật, diệt trừ chướng ngại, mau đến cứu cánh. Nói rồi, Đức Thế Tôn muốn làm rõ lại nghĩa này nên nói kệ: Khi Đại phạm Thiên Tạng Thưa hỏi Lưỡng Túc Tôn Lợi căn các hữu tình Ưa tu phước, định, tụng. Thành tựu pháp tuệ vương Vươn lên hay chìm đắm Trong ba việc tu tập Trừ hoặc không thoái chuyển. Thế Tôn bảo Thiên Tạng: Nếu phạm vô y hành Tuy Giác tuệ nhạy bén Vẫn đọa ngục vô gián. Có trí không chân chính Ưa hành mười luân ác Đoạn mất các căn lành Cũng mau đến địa ngục. Thiền định diệt phiền não Không nghe việc phước tụng Vì muốn cầu Niết-bàn Thường nên tu tónh lự. Bậc trí siêng tinh tấn Hộ trì chính pháp ta Do tin kính ca-sa Vượt qua biển phiền não. Ưa ở chỗ thanh vắng Nhưng không xa đồng loại Kính trì giới, tu định Vượt qua biển các cõi Tin kính khắp ba thừa Làm chính pháp hưng thịnh. Cúng dường người nhuộm y Thành tựu biển công đức Thâu phục tâm khó điều Không nêu tội Bí-sô. Tu Thánh chúng, biết đủ Sẽ thành Lưỡng Túc Tôn Xa lìa Bí-sô ác Thân cận bậc Thánh hạnh. Không lạm dụng vật Tăng Mau chứng quả Bồ-đề An lạc trong ba cõi Hoàn toàn nhờ Tam bảo. Người mong cầu an lạc Thường cúng dường Tam bảo Cấp cho Trà-la vương Kết bạn Bí-sô ác. Có lỗi với Tam bảo Mau đọa ngục vô gián Tội mười xe ép dầu Bằng tội một nhà dâm. Tội mười nhà dâm kia Bằng tội một quán rượu Tội đặt một quán rượu Bằng một người đồ tể Tạo mười nhà đồ tể Bằng một tội vua ác. Các quốc vương chân thiện Làm hưng thịnh chính pháp Cúng dường khắp ba thừa Thành tựu biển công đức. Bảy báu đầy Thiệm-bộ Cúng dường Phật và Tăng Phước người đó tích chứa Không bằng hộ Phật pháp. Cất chùa cúng Phật, Tăng Lớn bằng mười bốn châu Phước người đó tích chứa Không bằng hộ Phật pháp. Xây tháp thờ xá-lợi Lớn bằng ba ngàn cõi Phước người đó tích chứa Không bằng hộ Phật pháp. Mở trói A-la-hán Cúng dường, cung cấp đủ Không chướng ngại chính pháp Phước này hơn phước kia. Trong ngàn câu-chi kiếp Người trí siêng tu định Phát sinh tuệ thù thắng Không bằng hộ chính pháp. Các quốc vương chân thiện Xa lìa mười luân ác Hộ trì chính pháp ta Và người mặc ca-sa. Không phỉ báng pháp ta Người và pháp ba thừa Nghe pháp cúng dường khắp Hộ trì người thuyết pháp. Không hao vật Tam bảo Không ngăn mặc ca-sa Kính bậc khí, chẳng khí Phước hơn, không ai bằng. Như năm mặt trời hiện Biển lớn đều khô cạn Hộ chính pháp như vậy Làm khô cạn phiền não. Như lúc có phong tai Các núi đều hư hoại Hộ chính pháp như vậy Mau diệt trừ phiền não. Như lúc nạn thủy tai Đại địa đều cuốn trôi Hộ chính pháp như vậy Làm hoại quả không ưa. Như hạt châu như ý Tùy sở nguyện viên mãn Pháp ba thừa như vậy Làm mãn nguyện chúng sinh. Như gặp được bình báu Hết nghèo, được giàu có Gặp Phật pháp như vậy Diệt hoặc, chứng Bồ-đề. Như ánh trăng ngày rằm Chiếu sáng khắp hư không Người hộ chính pháp này Trí tuệ thông pháp giới. Như hư không bình đẳng Không vật, không hình tướng Người hộ chính pháp này Biết các pháp một vị. Như ánh sáng mặt trời Trừ bóng tối thế gian Người hộ chính pháp này Thường chiếu khắp thế gian.  <詞 id="117270437">Phẩm 4: Hữu Y Hành (Phần 1) Lúc bấy giờ, ở giữa chúng hội Đại Bồ-tát Kim Cang Tạng từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ sát chân Phật, bày một vai áo, gối phải sát đất, chắp tay cung kính, nói bài tụng: Xưa nói phá giới mất thanh tịnh Chẳng phải Hiền thánh hay đệ tử Với pháp mà Sa-môn vứt bỏ Không được ở trong chúng thanh tịnh. Bị ba cấu uế diệt mất đạo Không thể tiêu dùng vật cúng dường Đối với vật cúng bốn phương Tăng Ta cũng không cho nhận chút phần. Phạm một trong bốn tội căn bản Chúng gạt bỏ như thây trong biển Nay vì sao nói Bí-sô ác Nên nhẫn, phải thương, chớ trách phạt? Lại phải siêng cúng dường người đó Chớ sinh tâm xấu, nên thương xót Cung kính lắng nghe lời thuyết pháp Sẽ được phước đức, tuệ Đại Bi. Các kinh nói sáu thông cứu thế Đại thừa các ông phải nên tin Đạo Bồ-đề chân chính vi diệu Đường giải thoát nên bỏ Nhị thừa. Nay vì sao lại nói ba thừa Khuyên lãnh thọ tu cúng dường khắp Căn lực giác đạo quả Sa-môn Trong kinh này có gì khác không? Không gì bằng tám chi Thánh đạo Ba thừa đều tu theo pháp này Mong cầu giải thoát siêng tinh tấn Tùy theo sở nguyện chứng Bồ-đề. Nên chăm sóc đến chúng hữu tình Xưa nay dạy bảo không sai trái Làm cho trời, người, chư Bồ-tát Hiểu rõ, hoan hỷ, chứng chân thật. Nghe pháp Đại thừa, ai có ích Nghe pháp Đại thừa, ai tổn giảm Mười pháp giải thoát Thanh văn thừa Nghe pháp ai tổn, ai có ích. Người nào nghe pháp liền thăng tiến Người nào nghe pháp lại trầm trệ Làm sao chán ghét pháp hữu vi Để mau khô cạn dòng lão tử. Ngày đêm siêng tu các pháp thiện Nương diệu lý và pháp thừa nào Để vượt bốn bộc lưu sâu rộng Giảng thuyết chính pháp cứu quần sinh. Phật bảo Đại Bồ-tát Kim Cang Tạng: –Lành thay, lành thay! Thiện nam! Nay ông vì muốn làm lợi ích an lạc cho vô lượng hữu tình và làm lợi ích lớn cho chư Thiên, Người, A-tố-lạc… mà thưa hỏi Như Lai nghĩa thâm sâu này. Ông nên lắng nghe, suy nghó kỹ, ta sẽ phân biệt giải rõ cho. Bồ-tát Kim Cang Tạng thưa: –Bạch Thế Tôn! Con rất muốn được nghe. Phật bảo: –Này thiện nam! Có mười loại hữu tình luân hồi trong sinh tử, khó được làm người. Mười loại đó là: 1.Không gieo căn lành. 2.Chưa tu nghiệp phước lành. 3.Luôn luôn bị tạp nhiễm. 4.Làm theo bạn ác. 5.Không thấy, không sợ quả khổ đời sau. 6.Tham dục mạnh mẽ. 7.Sân giận dữ dội. 8.Ngu si vô cùng. 9.Tâm mê mờ cuồng loạn. 10.Chấp tà kiến ác. Mười điều này làm nhân cho pháp Vô y hành, khiến cho các chúng sinh hủy phạm giới cấm, phạm tội căn bản, đọa các đường ác. Những gì là mười pháp không nên làm theo? 1.Người xuất gia trong giáo pháp ta có gia hạnh hoại, ý lạc bất hoại. 2.Có ý lạc hoại, gia hạnh bất hoại. 3.Có gia hạnh, ý lạc đều hoại. 4.Hoặc có giới hoại, kiến bất hoại. 5.Có kiến hoại, giới bất hoại. 6.Hoặc giới, kiến đều hoại. 7.Hoặc đối với gia hạnh, ý lạc, giới, kiến tuy đều bất hoại, nhưng chỉ vì nương theo bạn ác mà làm các pháp Vô y hành. 8.Hoặc tuy nương theo bạn lành, nhưng vì ngu si cũng như dê câm, nên đối với các sự việc đều không phân biệt, nghe bạn lành nói pháp thiện hay bất thiện đều không thể lãnh thọ, ghi nhớ, không thể hiểu rõ nghĩa thiện hay bất thiện, do đó làm các pháp Vô y hành. 9.Hoặc đối với các loại tài vật quý báu có đầy đủ vẫn không nhàm chán tìm cầu nên tâm mê loạn, làm các pháp không nên làm theo. 10.Hoặc bị bệnh tật bức bách làm khổ não, liền tìm cầu các pháp cúng tế, chú thuật, do đó làm các pháp không nên làm theo. Mười loại nhân Vô y hành như vậy khiến cho các chúng sinh phạm tội căn bản. Ở trong pháp này chẳng phải là bậc Hiền thánh, hủy phạm giới cấm, mới đọa vào các đường ác. Này thiện nam! Nếu có Bổ-lặc-già-la, người nào gia hạnh hoại, ý lạc bất hoại tùy theo gặp một loại nhân Vô y hành nên làm theo, phạm phải tội căn bản, liền sợ hãi, xấu hổ mà xả bỏ, không thường làm các hạnh ác. Vì lợi ích của họ nên Như Lai giảng thuyết về Sa-môn ô đạo. Vì sao? Vì những người ấy đã tạo ra các nghiệp ác nặng như vậy rồi, liền phát lồ không dám che giấu, biết xấu hổ mà sám hối. Nhờ sám hối nên tội được tiêu trừ, chấm dứt không gây ra nữa. Tuy đối với tất cả pháp sự của Sa-môn đều nên đuổi khỏi, đều không cho dùng vật dụng riêng tư, nhưng do người ấy ở trong ba thừa thành tựu pháp khí nên Như Lai thương xót thuyết pháp Thanh văn thừa cho họ, hoặc thuyết pháp Duyên giác thừa, hoặc thuyết pháp Vô thượng thừa cho họ. Nhờ đó, người ấy khi sinh qua đời thứ hai, thứ ba sẽ phát nguyện chân chính, gặp được bạn lành, tất cả nghiệp chướng đều tiêu trừ, hoặc chứng đắc quả Thanh văn thừa, hoặc chứng đắc quả Duyên giác thừa để nhập Niết-bàn, hoặc ngộ nhập lý Vô thượng thừa thâm sâu, rộng lớn. Như vậy giới hoại, kiến bất hoại nên biết cũng vậy. Như vậy người nào ý lạc hoại, gia hạnh bất hoại, vì lợi ích của họ nên Như Lai vui vẻ thuyết pháp cầu bốn phạm trụ. Vị ấy là bậc Thanh văn thừa, hoặc là bậc Duyên giác thừa. Người nào gia hạnh, ý lạc đều hoại, đối với các thừa đều chẳng phải là bậc Pháp khí, vì lợi ích của họ nên Như Lai vui vẻ thuyết pháp bố thí. Người nào kiến hoại, giới bất hoại, vì lợi ích của họ nên Như Lai thuyết pháp duyên khởi, làm cho họ xả bỏ ác kiến, ngay đời này có thể nhập pháp Thanh văn hoặc pháp Duyên giác, hoặc đời khác mới có thể ngộ nhập. Người nào giới, kiến đều hoại, đối với Thánh pháp cũng không thành tựu, vì lợi ích của họ nên Như Lai vui vẻ thuyết pháp bố thí. Người nào gia hạnh, ý lạc, giới, kiến bất hoại mà lại nương theo việc làm của bạn ác, vì lợi ích của họ nên Như Lai vui vẻ giảng thuyết pháp mười nghiệp đạo thiện. Người nào tuy nương theo việc làm của bạn lành, nhưng lại ngu độn như dê câm, không thể lãnh thọ pháp thiện hay bất thiện, vì lợi ích của họ nên Như Lai vui vẻ thuyết giảng pháp tập tụng. Nếu bị các thứ tham lam, bệnh tật bức bách, hoặc bị các kiến thú làm mê hoặc thì Như Lai vì lợi ích cho chúng hữu tình đều làm như vậy. Đối với người cầu giải thoát thì chỉ dạy làm cho họ ra khỏi đường sinh tử; Đối với Thanh văn thừa thì giảng pháp Tứ Thánh đế; Đối với người luận về đoạn kiến thì giảng pháp duyên khởi, đối với người luận về thường kiến thì thuyết các pháp vô thường để thấy cúng dường trôi lăn khắp các nẻo trong ba cõi, chết nơi này, sinh nơi kia như bàn quay của người thợ gốm, qua lại không dứt. Này thiện nam! Như Lai không có nói danh tự, không có nói âm thanh, cũng không có nói quả chứng mà tất cả đều vì sự giáo hóa hữu tình. Vì vậy, tất cả lời hủy báng chính pháp do Như Lai thuyết ra tức là hủy hoại con mắt chính pháp của các hữu tình. Tội ấy còn hơn các tội vô gián, mắc vô lượng tội nặng như tội vô gián. Nếu có người ở trong chính pháp của ta vì muốn làm lợi lạc cho tất cả các hữu tình mà thuyết chính pháp, nghĩa là nương vào Thanh văn thừa mà thuyết chính pháp, hoặc nương vào Duyên giác thừa mà thuyết chính pháp, hoặc nương vào Đại thừa mà thuyết chính pháp, nhưng lại có người phỉ báng, ngăn chặn, làm chướng ngại cho đến một bài tụng cũng ngăn cản thì nên biết đó là kẻ phỉ báng chính pháp, cũng gọi là kẻ hủy diệt tám Thánh đạo, cũng gọi là kẻ phá hoại con mắt chính pháp của tất cả hữu tình. Người như vậy tự mình đã quen làm việc không có lợi ích, cũng làm cho tất cả hữu tình quen làm việc không có lợi ích. Người này dựa theo các vị Tăng không biết hổ thẹn, như vậy là hủy báng chính pháp của Như Lai. Lại nữa, thiện nam! Có bốn hạng Tăng: 1.Tăng thắng nghĩa. 2.Tăng thế tục. 3.Tăng như dê câm. 4.Tăng không biết hổ thẹn. Thế nào là Tăng thắng nghĩa? nghĩa là Phật Thế Tôn hoặc chư Đại Bồ-tát có oai đức tôn quý, đối với tất cả pháp đều được tự tại; hoặc Độc giác, hoặc A-la-hán, hoặc Bất hoàn, hoặc Nhất lai, hoặc Dự lưu, bảy bậc này thuộc Tăng thắng nghĩa. Nếu các hữu tình có hình tướng tại gia, không cạo bỏ râu tóc, không mặc áo ca-sa, tuy không được thọ tất cả các giới biệt giải thoát của hàng xuất gia, tất cả các yết-ma, bố tát, tự tứ đều không được dự, nhưng có Thánh pháp, chứng đắc quả Thánh, nên cũng thuộc Tăng thắng nghĩa. Thế nào là Tăng thế tục? nghĩa là những vị cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, thọ đầy đủ các giới biệt giải thoát của hàng xuất gia, gọi là Tăng thế tục. Thế nào gọi là Tăng như dê câm? nghĩa là những vị không biết rõ các tội căn bản phạm hay không phạm, không biết các tội phạm nặng hay nhẹ, không biết tùy phạm nhỏ, tội lỗi nhỏ, không biết phát lồ sám hối tội đã phạm, ngu si mê muội, không biết không sợ tội lỗi nhỏ, không nương theo bậc Hiền só thông minh, không khi nào đi đến gần gũi các bậc Đa văn thông minh để, phụng sự, cũng không thường cung kính thưa hỏi thế nào là thiện, thế nào là bất thiện, thế nào là có tội, thế nào là vô tội, tu như thế nào là đúng, làm như thế nào là sai? Tất cả những người này thuộc Tăng như dê câm, gọi đó là Tăng như dê câm. Thế nào là Tăng không biết hổ thẹn? nghĩa là có hữu tình vì mạng sống mà quy y, cầu xuất gia trong pháp của ta, được xuất gia rồi đối với giới biệt giải thoát đã thọ trì lại hủy phạm, không biết hổ thẹn, không thấy không sợ quả khổ đời sau, trong tâm thối nát như ốc sên hôi nhơ, tiếng nói như loa, việc làm như chó, ưa nói dối, không có một lời chân thật, tham lam keo kiệt, ganh ghét, ngu si, kiêu mạn, xa lìa ba nghiệp tốt, tham đắm vào lợi dưỡng, cung kính hảo danh, đam mê sáu trần, ưa thích dâm dật, ham muốn sắc đẹp, tiếng hay, hương thơm, vị ngon, sự xúc chạm. Tất cả những người như vậy thuộc Tăng không biết hổ thẹn, sẽ huỷ báng chính pháp, gọi chung là Tăng không biết hổ thẹn. Này thiện nam! Tăng thắng nghĩa ở đây cũng thuộc Sa-môn thắng đạo. Nói thắng đạo nghĩa là có thể nương theo tám chi Thánh đạo, tự mình giải thoát khỏi tất cả dòng chảy phiền não, cũng làm cho người khác giải thoát. Điều này nghĩa là như thế nào? nghĩa là Phật Thế Tôn, Độc giác, A-la-hán, ba bậc này đã dứt bỏ tất cả quyến thuộc nên gọi là thắng đạo. Lại có chúng Đại Bồ-tát không nhờ vào các duyên khác, đối với tất cả pháp đều thấy biết không bị chướng ngại, giáo hóa làm lợi lạc cho tất cả hữu tình cũng thuộc Sa-môn thắng đạo. Tăng thắng nghĩa và Tăng thế tục ở trong hoặc hữu, cũng là thuộc Sa-môn thị đạo. Hoặc có hàng phàm phu chân thiện, thành tựu giới biệt giải thoát cho đến đầy đủ chính kiến thế gian, do có sự biện tài vô ngại nên chư vị đó có thể giảng thuyết, chỉ dạy các Thánh pháp cho mọi người. Nên biết hạng người này là hạng Sa-môn thị đạo thấp nhất, hạng chứng quả Dự lưu là thứ hai, hạng chứng quả Nhất lai là thứ ba, hạng chứng quả Bất hoàn là thứ tư. Lại có chúng Đại Bồ-tát là thứ năm, nghĩa là trụ Địa thứ nhất đến Địa thứ mười, cho đến an trụ thân sau cùng, tất cả đều thuộc Sa-môn thị đạo. Hoặc có vị thành tựu giới biệt giải thoát, oai nghi phép tắc thanh tịnh, hoàn thiện, đó là thuộc về Sa-môn mạng đạo. Vì sống có đạo đức, phép tắc nên gọi là mạng đạo. Lại có chúng Đại Bồ-tát vì muốn giáo hóa làm lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình, nên tu hành viên mãn sáu pháp Ba-la-mật, cũng gọi là mạng đạo. Ba hạng Sa-môn: Thắng đạo, thị đạo, mạng đạo, như vậy được gọi là ruộng phước chân thật của thế gian. Các hạng Sa-môn khác gọi là ô đạo, tuy chẳng phải chân thật cũng được ở trong số bậc Phước điền. Hoặc có người nương theo các vị Tăng không biết hổ thẹn, ở trong chính pháp Tỳ-nại-da của ta gọi là tử thi, chúng thanh tịnh nên sẽ tẩn khí chẳng phải là bậc Pháp khí. Ta không phải là Đại sư của người ấy, người ấy cũng chẳng phải là đệ tử của ta. Hoặc có vị Tăng không biết xấu hổ, không xứng đáng là bậc Pháp khí nhưng xưng ta là thầy, đối với xá-lợi và hình tượng của ta sinh tâm tin kính sâu xa, đối với Thánh giáo, giới pháp của ta cũng sinh tâm tin kính sâu xa, tự mình đã không chấp các tà kiến, cũng không làm cho người khác chấp vào các tà kiến, có thể giảng thuyết chính pháp của ta cho mọi người, khen ngợi tán thán mà không sinh tâm hủy báng, thường phát nguyện chân chính tùy theo tội đã phạm mà chừa bỏ, phát lồ sám hối, nên các nghiệp chướng đều có thể tiêu trừ. Nên biết, hạng người này tin kính oai lực giới pháp Tam bảo, vượt hơn chín mươi lăm ngoại đạo đến hàng trăm ngàn lần, nhưng vẫn không thể mau đến thành Niết-bàn. Chuyển luân thánh vương còn không thể sánh bằng, huống chi là các loài hữu tình khác. Do nghĩa này nên Như Lai quán sát tất cả hữu tình, tướng của các nghiệp pháp thọ khác nhau, rồi nói như vầy: –Những người ở trong giáo pháp của ta, cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, ta hoàn toàn không cho Sát-đế-lợi hủy nhục, quở trách. Nếu ai hủy nhục, trách phạt tất cả người xuất gia thì mắc tội như đã nói rõ ở trên. Lại có người nương theo giáo pháp của ta, bỏ tục xuất gia, cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, liền được tất cả chư Phật trong ba đời quá khứ, vị lai, hiện tại Từ bi hộ niệm. Người có oai nghi, hình tướng pháp phục ca-sa cũng được chư Phật Thế Tôn trong ba đời quá khứ, vị lai, hiện tại Từ bi bảo hộ. Vì thế, khinh thường, hủy nhục người xuất gia, người đã cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, tức là khinh thường, hủy nhục tất cả chư Phật Thế Tôn trong ba đời quá khứ, vị lai, hiện tại. Do đó, người có trí tuệ chán sợ các khổ, ưa thích mong cầu Niết-bàn an lạc nhân thiên thì không nên khinh thường, hủy nhục người bỏ tục xuất gia, cạo tóc, mặc ca-sa. Lại có những vị Tăng không biết xấu hổ, phá hủy giới cấm, không xứng đáng là bậc Pháp khí Hiền thánh của ba thừa, tự mình chấp chặt các tà kiến, lại hay làm cho người khác chấp vào các tà kiến. nghĩa là: Cho Sát-đế-lợi chân thiện, Tể quan chân thiện, Cư só chân thiện, Trưởng giả chân thiện, Sa-môn chân thiện, Bà-la-môn chân thiện, Phiệt-xá chân thiện, Mậu-đạt-la chân thiện, hoặc nam, hoặc nữ đều nói: Các thế gian không có cha, không có mẹ, cho đến không có nghiệp thiện, nghiệp ác, quả báo, không có khả năng chứng đắc Thánh quả, tất cả các pháp không do nhân mà sinh. Hoặc chấp rằng: Sắc giới là thường, không biến hoại; hoặc chấp Vô sắc giới là thường, không có biến hoại; hoặc chấp ngoại đạo tu các pháp khổ hạnh được rốt ráo thanh tịnh; hoặc chấp chỉ có Thanh văn thừa được rốt ráo thanh tịnh, chứ chẳng phải Độc giác thừa, cũng chẳng phải Đại thừa. Đối với Thanh văn thừa thì tin kính, khen ngợi, giảng thuyết, chỉ dạy, còn đối với Độc giác thừa và Đại thừa thì phỉ báng, khinh chê, làm chướng ngại, che lấp không cho luu thông rộng rãi. Hoặc chấp chỉ có Độc giác thừa được rốt ráo thanh tịnh, chứ Thanh văn thừa, Đại thừa đều không được. Đối với Độc giác thừa thì tin kính, khen ngợi, giảng thuyết, chỉ dạy, còn đối với Thanh văn thừa và Đại thừa thì phỉ báng, khinh chê, làm chướng ngại, che lấp, không làm cho lưu thông rộng rãi. Hoặc chấp chỉ có Đại thừa mới được rốt ráo thanh tịnh, chứ Thanh văn thừa, Độc giác thừa đều không được. Đối với pháp Đại thừa, tự mình tin kính và dạy bảo người khác tin kính, tự mình cung kính và dạy bảo người khác cung kính, tự mình khen ngợi và dạy bảo người khác khen ngợi, tự mình ghi chép và bảo người khác ghi chép, tự mình đọc tụng và dạy bảo người khác đọc tụng, tự mình lắng nghe và dạy bảo người khác lắng nghe, tự mình tư duy và dạy bảo người khác tư duy. Đối với các hữu tình khác hoặc là bậc Pháp khí, hoặc chẳng phải là bậc Pháp khí đều vì họ mà giảng thuyết, chỉ dạy, giải thích giáo nghĩa pháp Đại thừa thâm sâu vi diệu. Còn đối với Thanh văn thừa và Độc giác thừa thì phỉ báng, khinh chê làm chướng ngại che lấp, không cho lưu thông rộng rãi, tự mình không sinh lòng tin kính, còn làm chướng ngại người khác sinh lòng tin; tự mình không cung kính, còn làm chướng ngại người khác cung kính; tự mình không khen ngợi, còn làm chướng ngại người khác khen ngợi; tự mình không ghi chép, còn làm chướng ngại người khác ghi chép; tự mình không đọc tụng, lắng nghe, suy nghó, còn làm chướng ngại người khác đọc tụng, lắng nghe, suy nghó; không ưa giảng thuyết, chỉ dạy, giải thích giáo nghĩa pháp ba thừa. Hoặc chấp chỉ có tu bố thí mới được rốt ráo thanh tịnh, chứ chẳng phải tu giới, nhẫn, cho đến chẳng phải tu tuệ mà được. Hoặc chấp chỉ có tu cấm giới mới được rốt ráo thanh tịnh, chứ chẳng phải tu bố thí, nhẫn, cho đến chẳng phải tu tuệ mà được. Hoặc chấp chỉ có tu nhẫn nhục mới được rốt ráo thanh tịnh, chứ chẳng phải tu bố thí, trì giới, cho đến chẳng phải tu tuệ mà được. Hoặc chấp chỉ có tu tinh tấn mới được rốt ráo thanh tịnh, chứ chẳng phải tu bố thí, trì giới, cho đến chẳng phải tu tuệ mà được. Hoặc chấp chỉ có tu tónh lự mới được rốt ráo thanh tịnh, chứ chẳng phải tu bố thí, trì giới, cho đến chẳng phải tu tuệ mà được. Hoặc chấp chỉ có tu tuệ mới được rốt ráo thanh tịnh, chứ chẳng phải tu bố thí, trì giới, cho đến chẳng phải tu định mà được. Hoặc chấp chỉ có trí học tập các nghề nghiệp thế gian mới được rốt ráo thanh tịnh. Hoặc chấp rằng chỉ có tu các hạnh: Gieo mình vào nơi hiểm trở, lăn vào ngọn lửa, nhịn đói mới được rốt ráo thanh tịnh. Này thiện nam! Bí-sô phá giới làm hạnh ác này chẳng phải là bậc Pháp khí, dùng các thứ làm mê hoặc các hữu tình, mê hoặc các bậc Pháp khí chân thiện, làm cho họ chấp vào tà kiến. Do bị tà kiến điên đảo nên họ phá hoại vua Sát-đế-lợi chân thiện cho đến Miệt đạt la chân thiện, hoặc nam hoặc nữ có lòng tin, giới, văn, xả, tuệ thanh tịnh, chuyển các vị Sát-đế-lợi thành Chiên-trà-la, cho đến Phiệt-xá, Miệt-đạt-la… thành Chiên-trà-la. Bí-sô phá giới và Sát-đế-lợi Chiên-trà-la này chẳng phải là bậc Pháp khí, thầy và đệ tử đều mất căn lành, cho đến sẽ đọa vào địa ngục Vô gián. Này thiện nam! Như thây chết sình trướng, hôi thối, những người đến gần đều bị mùi hôi ấy xông nhiễm vào, tùy theo chỗ tiếp xúc với tử thi hôi thối mà bị mùi hôi xông nhiễm. Cũng vậy, Sát-đế-lợi chân thiện cho đến Miệt-đạt-la chân thiện, hoặc nam hoặc nữ tùy theo sự thân cận Bí-sô phá giới làm hạnh xấu ác, chẳng phải là bậc Pháp khí, hoặc giao du, hoặc ở chung, hoặc cùng làm việc, tùy theo đó mà bị mùi hôi ác kiến xông nhiễm. Như vậy, làm cho Sát-đế-lợi chân thiện kia, cho đến Miệt-đạt-la chân thiện, hoặc nam hoặc nữ thoái lui lòng tin, giới, văn, xả, tuệ thanh tịnh thành Chiên-trà-la, thầy và đệ tử đều đoạn mất căn lành, cho đến sẽ đọa vào địa ngục Vô gián. KINH ĐẠI THỪA ĐẠI TẬP ĐỊA TẠNG THẬP LUÂN <卷 id="117270438">Quyển 6 <詞 id="117270439">Phẩm 4: Hữu Y Hành (Phần 2) Này thiện nam! Ông xem các vị Sát-đế-lợi và vô lượng hữu tình này gần gũi những người phá giới, làm việc xấu ác, chẳng phải là bậc Pháp khí, ở trong Tăng sẽ bỏ mất tất cả những pháp lành đã có, cho đến sẽ đọa vào địa ngục Vô gián. Vì vậy, muốn được sinh cõi trời, chứng quả Niết-bàn an vui thù thắng đều phải gần gũi phụng sự, cúng dường các vị Sa-môn thắng đạo, thưa hỏi, lắng nghe giáo pháp ba thừa, hoặc mong cầu Sa-môn thị đạo, mạng đạo. Nếu không gặp ba hạnh Sa-môn này thì mong cầu Sa-môn ô đạo. Tuy hạng Sa-môn này phá giới nhưng có chính kiến, đầy đủ ý lạc và gia hạnh nên vẫn có thể đến thân cận, phụng sự, cúng dường, thưa hỏi, lắng nghe giáo pháp ba thừa. Không nên thân cận phụng sự, cúng dường người có gia hạnh, ý lạc, kiến hoại. Tuy hạng Sa-môn kia hoại giới nhưng không có tà kiến, đầy đủ ý lạc, gia hạnh, kiến, nên vẫn có thể đến thưa hỏi, lắng nghe pháp Thanh văn thừa, Độc giác thừa, Đại thừa mà không nên khinh chê, tùy theo ý thích phát nguyện tinh tấn học một trong ba thừa, không khinh chê các thừa khác. Nếu người nào khinh chê Nhất thừa cho đến một bài tụng trong ba thừa thì không nên thân cận, giao tiếp, hoặc cùng ở chung, cùng làm việc. Nếu thân cận hoặc giao tiếp, cùng ở chung, cùng làm việc nhất định đều sẽ đọa vào địa ngục Vô gián. Này thiện nam! Vì thế, nếu người nào muốn nương theo một trong ba thừa để mong cầu ra khỏi sinh tử, nhàm chán đau khổ, ưa thích an lạc thì nên nương vào chính pháp Như Lai giảng thuyết, hoặc nương vào chính pháp giảng thuyết của Thanh văn thừa, hoặc nương vào chính pháp giảng thuyết của Độc giác thừa, hoặc nương vào chính pháp giảng thuyết của Đại thừa và phải có lòng tin kính sâu rộng, chớ sinh tâm phỉ báng làm chướng ngại, che mờ dù chỉ một bài tụng, phải thường xuyên cung kính, đọc tụng, lắng nghe giáo pháp và phát nguyện chân chính, kiên cố để mong cầu chứng đắc. Nếu ai chỉ phỉ báng một pháp nào đó trong ba thừa thì không nên ở chung dù chỉ một đêm, không nên thân cận, thưa hỏi giáo pháp. Các hữu tình nào phỉ báng một trong ba thừa, hoặc là thân cận, thưa hỏi, lãnh thọ người phỉ báng ba thừa, do nhân duyên đó chắc chắn sẽ đọa vào địa ngục Vô gián, chịu khổ não lớn, không có thời kỳ ra khỏi. Vì sao? Này thiện nam! Vì ở đời quá khứ, khi ta tinh tấn tu hạnh Bồ-tát, để mong cầu chứng đắc trí Vô thượng; hoặc vì mong cầu mà nương vào chính pháp giảng thuyết của Thanh văn thừa cho dù một bài tụng mà phải xả bỏ thân mình, tay, chân, máu, thịt, da, xương, đầu, mắt, tủy, não; hoặc vì mong cầu mà nương vào chính pháp giảng thuyết của Độc giác thừa, cho dù một bài tụng mà phải xả bỏ thân mình, tay, chân, máu, thịt, da, xương, đầu, mắt, tủy, não; hoặc vì mong cầu mà nương vào chính pháp giảng thuyết của Đại thừa cho dù một bài tụng mà phải xả bỏ thân mình, tay, chân, máu, thịt, da, xương, đầu, mắt, tủy, não. Ta chịu khổ nhọc như vậy là để mong cầu dù chỉ một bài tụng trong ba thừa rồi sinh tâm hoan hỷ, cung kính, lãnh thọ, gìn giữ, đúng như pháp mà tu hành, không lúc nào tạm bỏ, trải qua vô lượng kiếp tu tập tất cả hạnh khổ khó làm mới chứng được quả thắng trí vô thượng cứu cánh. Cũng vì lợi ích an lạc cho các hữu tình mà giảng thuyết chỉ bày chính pháp ba thừa, vì nghĩa này nên không được phỉ báng làm chướng ngại, ngăn che, cho dù một bài tụng mà thường phải cung kính, đọc tụng, lắng nghe, phát nguyện chân chính, kiên cố, mong cầu chứng đắc. Này thiện nam! chính pháp giải thoát của ba thừa như vậy, tất cả hằng hà sa số chư Phật trong quá khứ, hiện tại, vị lai đều giảng thuyết, đều dùng đại lực oai thần hộ trì. Vì muốn cứu giúp khổ lớn sinh tử của tất cả hữu tình, vì muốn làm cho hạt giống Tam bảo hưng thịnh, không để đoạn tuyệt nên đối với chính pháp ba thừa này phải tin kính, chớ hủy báng, chớ làm chướng ngại, ngăn che. Nếu phỉ báng, làm chướng ngại, ngăn che chính pháp ba thừa này dù chỉ một bài tụng thì nhất định sẽ đọa vào địa ngục Vô gián. Lại nữa, này thiện nam! Vào đời vị lai, ở cõi Phật này có hạng Sát-đế-lợi Chiên-trà-la, Tể quan Chiên-trà-la, Cư só Chiên-trà-la, Trưởng giả Chiên-trà-la, Sa-môn Chiên-trà-la, Bà-la-môn Chiên-trà-la, Phiệt-xá Chiên-trà-la, Mậu-đạt-la Chiên-trà-la, hoặc nam, hoặc nữ chúng dua nịnh, dối trá, ngu si, kiêu mạn, cho mình là thông minh, tính hung dữ, bạo ngược, không thấy không sợ quả khổ đời sau, ưa thích sát sinh cho đến tà kiến, ganh tî, tham lam keo kiệt, oán ghét bạn lành, thân gần bạn ác, chẳng phải là pháp khí của bậc Hiền thánh ba thừa. Hoặc là hạng người ít nghe và tu tập pháp Thanh văn thừa, nên đối với pháp Độc giác thừa, Vô thượng thừa được chư Phật hộ trì thì phỉ báng, khinh chê, làm chướng ngại, che mờ, không cho lưu thông rộng rãi. Hoặc là hạng người ít nghe và tu tập pháp Độc giác thừa, nên đối với pháp Thanh văn thừa, Vô thượng thừa được chư Phật hộ trì thì phỉ báng, khinh chê, làm chướng ngại, che mờ, không cho lưu thông rộng rãi. Hoặc là hạng người ít nghe và tu tập pháp Vô thượng thừa nên đối với pháp Thanh văn thừa, Độc giác thừa được chư Phật hộ trì thì phỉ báng, khinh chê, làm chướng ngại, che mờ, không cho lưu thông rộng rãi. Vì cầu danh lợi mà những hạng người đó nói: “Ta là Đại thừa, là người thuộc về Đại thừa, chỉ thích nghe, tu tập, thọ trì Đại thừa, không thích pháp Thanh văn thừa, Độc giác thừa, không thích thân cận người học Nhị thừa.” Những người dối xưng là Đại thừa như vậy là do ngu si, kiêu mạn, ỷ thế lực. Như vậy là hủy báng, là chướng ngại, che mờ chính pháp ba thừa, không làm cho lưu truyền, ganh ghét đố kî người tu học giáo pháp ba thừa, phỉ báng hủy nhục, làm cho không có oai lực. Này thiện nam! Tất cả chư Phật Thế Tôn và chư Đại Bồ-tát trong đời quá khứ, hiện tại, vị lai vì muốn làm lợi lạc cho tất cả hữu tình nên dùng lực Đại Bi hộ trì hai việc: Một là: Muốn làm hưng thịnh dòng giống Tam bảo, không để đoạn tuyệt, bỏ tục xuất gia, cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa. Hai là: Giáo pháp ba thừa tương ưng với pháp bốn Thánh đế. Đó là hai việc, chỉ Phật Thế Tôn và chư Đại Bồ-tát khéo léo hộ trì, chẳng phải các Thanh văn, Độc giác, cũng chẳng phải trăm ngàn vô số Đại phạm Thiên vương và Thiên vương Đế Thích, Chuyển luân vương bốn đại châu mà có thể hộ trì được! Ở đời vị lai, trong cõi Phật này có vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la do nương pháp của ta mà được xuất gia, cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, tìm cách dò xét những lỗi lầm sai phạm của người khác, dùng các cách quở trách, hủy nhục hoặc dùng roi gậy đánh đập, hoặc nhốt trong lao ngục, hoặc đoạt lấy của cải, hoặc lột áo ca-sa bắt hoàn tục, làm các việc thế tục, hoặc đuổi đi quân dịch, hoặc lạm dụng sai khiến, hoặc không cho ăn uống, hoặc hại thân mạng. Vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la ấy, do ngu si, kiêu mạn, ỷ thế lực, hủy nhục, trách phạt các vị tu hành, chư Phật, Bồ-tát sẽ dùng sức Đại Bi hộ trì các đệ tử của ta. Họ phỉ báng, hủy diệt giáo pháp, chư Phật, Bồ-tát sẽ dùng sức Đại Bi hộ trì giáo pháp thâm diệu của ta. Chư Phật, Bồ-tát ba đời cũng sẽ hộ trì chính pháp ba thừa mà bọn chúng đã làm chướng ngại, che mờ, không cho lưu thông rộng rãi. Có vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la cho đến Phiệt-xá, Mậu-đạt-la Chiên-trà-la, hoặc nam hoặc nữ vì ngu si, kiêu mạn, tự xưng là Đại thừa, những người ấy chẳng phải là pháp khí Nhị thừa Thanh văn, Độc giác, làm gì có thể là pháp khí Đại thừa Vô thượng. Họ chỉ vì cầu lợi dưỡng, cung kính hảo danh tự mà dối gạt thế gian, ngu si tự nói: “Chúng tôi là người Đại thừa, hủy báng chính pháp hai thừa của Như Lai.” Những người này do ngu si, lừa gạt, kiêu mạn, ganh ghét, tham lam keo kiệt, phá hủy Pháp nhãn của ta, cố làm cho mau ẩn mất. Những người ấy đối với tất cả chư Phật trong ba đời phạm nhiều tội lỗi lớn, đối với tất cả Bồ-tát trong ba đời cũng phạm nhiều tội lỗi lớn, đối với tất cả Thanh văn trong ba đời cũng phạm nhiều tội lỗi lớn, không bao lâu sẽ thiếu khuyết thân thể, mắc các bệnh nặng. Vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la cho đến Phiệt-xá, Mậu-đạt-la Chiên-trà-la, hoặc nam hoặc nữ, những người này do tạo nghiệp ác, khởi tà kiến điên đảo nên tổn mất tất cả căn lành đã có. Mặc dù vào đời vị lai sẽ sinh vào ngạ quỷ, súc sinh nhưng vẫn hưởng được phước lạc vì có lúc đã tu tập nhiều phước bố thí. Tuy nhiên, thân ấy sẽ không thể phát sinh căn lành ở cõi Sắc, Vô sắc, dù là chút ít làm gì có thể gieo trồng chủng tử căn lành trí Nhất thiết trí vô công dụng khởi của Thanh văn, Độc giác và Vô thượng thừa! Lại còn làm cho lưỡi của mình bị bệnh trong nhiều ngày, bị tê cứng không nói được, chịu các khổ sở, đau đớn, khó chịu nổi, sau khi chết nhất định sẽ sinh vào đại địa ngục Vô gián. Vì thế, Như Lai Từ bi thương xót tất cả vua Sát-đế-lợi chân thiện cho đến Mậu-đạt-la chân thiện, hoặc nam hoặc nữ… làm cho họ luôn luôn được lợi ích an lạc. Như Lai thường xuyên ân cần nhắc nhở, dạy bảo: Các ngươi nên nương theo chính pháp của ta, đã cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa thì cẩn thận chớ làm não loạn, trách mắng, quở phạt người xuất gia. Đối với chính pháp ba thừa ta đã giảng dạy, thận trọng chớ có hủy báng, làm chướng ngại, che lấp. Nếu trái lời ta dạy mà cố ý làm thì sẽ mắc tội báo như đã nói rõ ở trước. Vì sao? Vì người nương theo giáo pháp của ta, cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa đỏ, có hình tướng xuất gia, chính là người được chư Phật Bồ-tát trong ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai dùng thần lực Đại Bi hộ trì. Hình tướng oai nghi xuất gia, cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa đỏ là tướng giải thoát của các bậc Hiền thánh, cũng là tướng pháp vị giải thoát của tất cả hàng Thanh văn thừa thọ dụng, cũng là tướng pháp vị giải thoát của tất cả hàng Độc giác thừa thọ dụng, cũng là tướng pháp vị giải thoát của tất cả hàng Đại thừa thọ dụng. chính pháp ba thừa do Như Lai giảng thuyết được chư Phật Bồ-tát trong ba đời dùng thần lực Đại Bi hộ trì, là chỗ nương tựa để giải thoát của chư Hiền thánh, cũng là chỗ nương tựa của tất cả Thanh văn thừa thọ dụng để được pháp vị giải thoát, cũng là chỗ nương tựa của tất cả Độc giác thừa thọ dụng để được pháp vị giải thoát, cũng là chỗ nương tựa của tất cả Đại thừa thọ dụng để được pháp vị giải thoát. Này thiện nam! Do nghĩa này nên người mong cầu giải thoát phải thân cận, cung kính, cúng dường những người nương theo chính pháp của ta, những người đã cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa đỏ làm người xuất gia, trước phải tin kính giáo pháp Thanh văn thừa, hoặc tự mình nghe, lãnh thọ, dạy người khác nghe, lãnh thọ; hoặc tự mình đọc tụng, dạy người khác đọc tụng; hoặc tự mình biên chép, dạy người khác biên chép, hoặc tự mình ban bố, dạy người khác ban bố; hoặc tự mình giảng thuyết, dạy người khác giảng thuyết, suy nghó mà tu hành làm cho lưu truyền rộng khắp. Cũng vậy, nên tin kính pháp Độc giác thừa, hoặc tự mình nghe, lãnh thọ, dạy người khác nghe, lãnh thọ; hoặc tự mình đọc tụng, dạy người khác đọc tụng; hoặc tự mình biên chép, dạy người khác biên chép, hoặc tự mình ban bố, dạy người khác ban bố; hoặc tự mình giảng thuyết, dạy người khác giảng thuyết, suy nghó mà tu hành làm cho lưu truyền rộng khắp. Cũng vậy, nên tin kính pháp Đại thừa, hoặc tự mình nghe, lãnh thọ, dạy người khác nghe, lãnh thọ; hoặc tự mình đọc tụng, dạy người khác đọc tụng; hoặc tự mình biên chép, dạy người khác biên chép, hoặc tự mình ban bố, dạy người khác ban bố; hoặc tự mình giảng thuyết, dạy người khác giảng thuyết, suy nghó mà tu hành làm cho lưu truyền rộng khắp. Nếu chẳng phải bậc Pháp khí thì tự mình không nên nghe, cũng không được dạy người khác nghe, cho đến như đã nói rõ ở trước. Cũng nên xa lìa tất cả pháp ác, phải bỏ bạn ác, gần bạn lành, phải siêng năng tu tập sáu pháp Ba-la-mật, thường sám hối tất cả nghiệp ác, nên tùy theo chỗ thích ứng mà phát hạnh nguyện chân chính. Nếu có thể được như vậy thì ngay đời này sẽ được thành tựu pháp khí Thanh văn thừa, hoặc không thoái hạt giống Độc giác thừa, hoặc không thoái hạt giống Đại thừa. Thế nên phải tu tập cả ba thừa không nên kiêu ngạo tự xưng là Đại thừa, phỉ báng pháp Thanh văn, Độc giác thừa. Lúc đầu, ta chỉ vì pháp khí Đại thừa mà kiên chí tu hành, nói lời như vầy: “Chỉ tu theo Đại thừa mới có thể được rốt ráo”. Thế nên Như Lai nói xưa nay không trái nhau. Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn giải rõ lại nghĩa này nên nói kệ: Ở trước các đại chúng Kim Cang Tạng hỏi ta Vì sao khuyên cúng dường Bí-sô ác phá giới. Mất công đức Đầu-đà Si mê chấp ác kiến Ô đạo chẳng pháp khí Mà không cho trách phạt. Lại nghe người ấy thuyết Pháp vi diệu ba thừa Thuốc lành chân giải thoát Hướng Niết-bàn tịch tónh. Vì sao kinh khác nói Chỉ Đại thừa giải thoát Ngăn học pháp Nhị thừa Nay lại nói ba thừa. Thương xót các hữu tình Làm cho bỏ nghiệp ác Được lợi ích an lạc Xin giải nghi cho con. Vì ích Sát-đế-lợi Cho đến Mậu-đạt-la Không não loạn Bí-sô Sợ họ mắc tội lớn. Cạo tóc, mặc ca-sa Là tướng pháp nhà Phật Chư Phật thường hộ trì Áo của đạo giải thoát. Tuy phá các luật nghi Chẳng phải ngăn giải thoát Hay xả các ác kiến Sẽ mau đến Niết-bàn. Như thuốc tốt bị hư Còn có thể trị bệnh Phá luật nghi như vậy Cũng diệt khổ cho người. Không cho Bí-sô kia Cùng bố tát, yết-ma Được thuyết pháp cho người Đều được phước không nghi. Nếu quy kính Tam bảo Tôn ta làm Đại sư Hay bỏ các điều ác Còn hơn các ngoại đạo. Như vào đảo La-sát Các thương nhân sợ hãi Mỗi người cầm sợi lông Qua biển được khỏi nạn. Cũng vậy người phá giới Lìa được các tà kiến Do lòng tin làm nhân Thoát La-sát phiền não. Tướng giải thoát như vậy Chư Phật đều hộ trì Không não người phá giới Hay lìa các ác kiến. Những người thích phước nhiều Vui cầu chân giải thoát Hộ pháp khí, chẳng khí Chứng giải thoát không khó. Si mạn xưng Đại thừa Không có lực trí tuệ Pháp Nhị thừa còn mê Huống là hiểu Đại thừa. Ví như mắt mù lòa Không thể thấy hình sắc Cũng vậy mất đức tin Không thể hiểu Đại thừa. Không thể uống ao sông Làm sao uống biển cả? Không tập pháp Nhị thừa Làm sao học Đại thừa? Trước tin pháp Nhị thừa Sau mới tin Đại thừa Tụng Đại thừa, không tin Nói rỗng không, không ích. Bên trong ôm đoạn kiến Vọng xưng là Đại thừa Không giữ gìn ba nghiệp Làm hoại chính pháp ta. Người này sau khi chết Nhất định đọa Vô gián Nên quán căn cơ thuyết Chớ vì kẻ chẳng khí. Kiêu ngạo không Từ bi Hung ác, chí thấp kém Người trí phải nên biết Người này hoại đoạn kiến. Không Thanh văn, Duyên giác Cũng chẳng phải Đại thừa Lừa dối, phỉ báng Phật Tất đọa ngục Vô gián. Trì giới, ưa ồn ào Bỏn xẻn pháp, sợ khổ Người trí phải biết rõ Đó là Thanh văn thừa. Bố thí quán sinh diệt Ưa ở nơi thanh vắng Người trí nên biết rõ Đó là Độc giác thừa. Đầy đủ các căn lành Gìn giữ gốc Từ bi Ưa giáo hóa lợi sinh Đó gọi là Đại thừa. Giữ giới bỏ thân mạng Không não hại chúng sinh Tinh tấn cầu pháp không Nên biết là Đại thừa. Tâm kham nhẫn các pháp Nói rõ không che giấu Thường vui thích các pháp Nên biết là Đại thừa. Pháp khí, chẳng pháp khí Tâm bình đẳng lợi lạc Không nhiễm pháp thế tục Nên biết là Đại thừa. Thế nên người có trí Cung kính thuyết ba thừa Không làm não chúng Tăng Mau thành Vô thượng giác. Lại nữa, này thiện nam! Nếu có Sát-đế-lợi chân thiện, Tể quan chân thiện, Cư só chân thiện, Trưởng giả chân thiện, Sa-môn chân thiện, Bà-la-môn chân thiện, Phiệt-xá chân thiện, Mậu-đạt-la chân thiện, hoặc nam hoặc nữ nào mà thành tựu mười luân nên làm theo thì ngay trong đời hiện tại có thể mau gieo trồng hạt giống Thanh văn thừa, làm cho không thoái chuyển, hoặc ngay trong đời này thành tựu pháp khí bậc Thánh Thanh văn thừa, chứ chẳng phải pháp khí bậc Thánh Độc giác thừa, Đại thừa. Những gì là mười? 1.Đầy đủ đức tin thanh tịnh: nghĩa là tin có nghiệp quả đối với tất cả thiện ác. 2.Đầy đủ sự hổ thẹn: nghĩa là xa lìa tất cả bạn ác, ác kiến. 3.An trụ trong luật nghi: nghĩa là tránh xa sát sinh cho đến uống rượu. 4.An trú tâm Từ: nghĩa là xa lìa tất cả sân giận làm não loạn. 5.An trú tâm Bi: nghĩa là cứu giúp tất cả hữu tình yếu đuối. 6.An trú tâm Hỷ: nghĩa là xa lìa tất cả bốn nghiệp ác về lời nói. 7.An trú tâm Xả: nghĩa là xa lìa tất cả tính tham lam keo kiệt, ganh ghét. 8.Quy y chân chính hoàn thiện: nghĩa là xa lìa tất cả vọng chấp, tốt xấu, hoàn toàn không quy y tà thần, ngoại đạo. 9.Đầy đủ đức tinh tấn: nghĩa là kiên cố, dũng mãnh tu tập các pháp lành. 10.Thích ưa thiền định: nghĩa là suy nghó tìm cầu nghĩa giáo pháp, vui thích không biết mỏi mệt. Này thiện nam! Nếu có Sát-đế-lợi chân thiện cho đến Mậu-đạt-la chân thiện, hoặc nam hoặc nữ thành tựu được mười loại Hữu y hành này thì ngay trong đời này có thể mau gieo trồng hạt giống Thanh văn thừa, làm cho không lui mất. Hoặc ngay trong đời này, chứng Thánh pháp của Thanh văn thừa, thành tựu pháp khí bậc Thánh Thanh văn thừa, chứ chẳng phải chứng Thánh pháp Độc giác, Đại thừa; chứ chẳng phải thành tựu pháp khí bậc Thánh Độc giác, Đại thừa. Nên biết trong đó, Độc giác và Đại thừa đều như trước đã nói. Này thiện nam! Mười luân Hữu y hành này, tất cả Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, chư Phật Như Lai đều cùng có. Này thiện nam! Lại có mười luân Hữu y hành, không có ở Thanh văn mà chỉ có ở các bậc Độc giác, Bồ-tát, Như Lai. Nếu có Sát-đế-lợi chân thiện cho đến Mậu-đạt-la chân thiện… hoặc nam hoặc nữ nào thành tựu mười luân Hữu y hành này thì ngay trong đời này có thể mau gieo trồng hạt giống Độc giác thừa, khiến cho không lui mất. Hoặc ngay trong đời này chứng Thánh pháp của Độc giác thừa, thành tựu pháp khí bậc Thánh Độc giác thừa. Những gì là mười? 1.Tu hành thanh tịnh các nghiệp về thân, miệng, ý. 2.Đầy đủ sự hổ thẹn, nhàm chán thân mình. 3.Đối với năm thủ uẩn rất lo sợ. 4.Thấy dòng sông sinh tử rất khó vượt qua. 5.Thường ưa chỗ vắng vẻ, xa lìa nơi ồn ào. 6.Ưa thích cảnh chùa chiền không chê lỗi người. 7.Gìn giữ các căn, tâm thường tịch tónh. 8.Khéo quán sát kỹ về nhân quả duyên khởi. 9.Thường siêng năng vui vẻ tu tập đẳng trì tónh lự. 10.Đối với pháp tập khởi hay khéo diệt trừ. Này thiện nam! Nếu có Sát-đế-lợi chân thiện cho đến Mậu-đạt-la chân thiện, hoặc nam hoặc nữ nào thành tựu mười luân Hữu y hành này thì ngay trong đời này có thể mau gieo trồng hạt giống Độc giác thừa, khiến cho không lui mất, hoặc ngay trong đời này chứng Thánh pháp của Độc giác thừa, thành tựu pháp khí bậc Thánh Độc giác thừa. Này thiện nam! Đó gọi là luân Hữu y hành của tất cả Thanh văn, Độc giác. Tất cả Thanh văn và Độc giác nương vào luân này để mau có thể vượt qua biển lớn ba cõi, mau hướng đến thành Niết-bàn. Này thiện nam! Hữu y hành luân, “Hữu y hành” nghĩa là thế nào? Hữu y: Hữu là có chấp thủ, có ngã sở; Y là có sự thu nhận, có sự ràng buộc; Hành là hành uẩn, hành giới, hành xứ là hành có sự hệ thuộc; Luân là luân giáo thọ, giáo giới, như bánh xe của Chuyển luân vương hoặc thủ hành luân. Tất cả Thanh văn, Độc giác như vậy nương vào luân này để mong cầu đạo Niết-bàn, nên hai hạng này chẳng phải là bậc Pháp khí Đại thừa. Vì sao? Vì hai hạng đó chỉ nương vào hạnh thấp kém nên chẳng phải là bậc Pháp khí Đại thừa. Do vị đó tự mình chấp lấy các hành uẩn, kinh sợ, nhàm chán mà mong cầu giải thoát tất cả buồn khổ cho riêng mình, chứ không phải tu hành để mong cầu giải thoát cho tất cả hữu tình nên chẳng phải là bậc Pháp khí Đại thừa. Do vị đó tự mình nương vào các hành giới, kinh sợ, nhàm chán mà mong cầu giải thoát tất cả buồn khổ cho riêng mình, chứ không phải tu hành để mong cầu giải thoát cho tất cả hữu tình nên chẳng phải là bậc Pháp khí Đại thừa. Do vị đó thọ nhận các hành xứ, kinh sợ, nhàm chán mà mong cầu giải thoát tất cả buồn khổ cho riêng mình, chứ không phải tu hành để mong cầu giải thoát cho tất cả hữu tình nên chẳng phải là bậc Pháp khí Đại thừa. Do vị đó lệ thuộc hữu, lệ thuộc hành, đối với các hữu tình không vui vẻ thọ nhận, không có tâm Từ bi, có lệ thuộc nên chẳng phải là bậc Pháp khí Đại thừa. Do vị đó thấy người khác chịu đủ các khổ bỏ đi mà không chịu cứu, chỉ mong cầu giải thoát cho bản thân mình nên chẳng phải là bậc Pháp khí Đại thừa. Do vị đó chỉ muốn diệt trừ phiền não căn bản cho riêng mình mà không vui thích diệt trừ phiền não cho tất cả hữu tình nên chẳng phải là bậc Pháp khí Đại thừa. Do vị đó không có khả năng cỡi xe Đại thừa hướng đến Bồ-đề, nên chẳng phải là bậc Pháp khí Đại thừa. Do vị đó không thể theo bánh xe pháp lớn hướng đến Bồ-đề, nên chẳng phải là bậc Pháp khí Đại thừa. Do vị đó thích tu riêng một mình, không có bạn tu hành đồng đến thành Niết-bàn, nên chẳng phải là bậc Pháp khí Đại thừa. Này thiện nam! Các chúng sinh nào đối với pháp Thanh văn thừa, Độc giác thừa chưa lập công khó nhọc, chưa siêng năng tu học thì chúng sinh đó căn cơ chưa thuần thục, còn thấp kém, ít tinh tấn. Nếu họ giảng thuyết chính pháp Đại thừa thâm sâu vi diệu thì hai bên - người giảng và người nghe đều mắc tội lớn, cũng là trái nghịch với tất cả chư Phật. Vì sao? Vì các chúng sinh ấy đối với pháp Thanh văn thừa, Độc giác thừa chưa lập công khó nhọc, chưa siêng năng tu học, căn cơ chưa thuần thục, còn thấp kém, ít tinh tấn, mà liền được nghe, đã lãnh thọ chính pháp Đại thừa thâm sâu vi diệu! Các chúng sinh như vậy, thật là ngu si mà tự cho mình là thông suốt, tưởng đã phá tan, diệt trừ các điên đảo, vọng chấp là không có nhân, đối với các nghiệp quả phát sinh tưởng đã đoạn diệt, bác bỏ tất cả, cho là không có điều thiện để làm, điều ác để tạo nghiệp, nói bậy về Đại thừa, phá hoại, làm rối loạn chính pháp của ta, phi pháp nói là chính pháp, chính pháp nói là phi pháp, thật chẳng phải Sa-môn nói là Sa-môn, thật là Sa-môn nói chẳng phải Sa-môn; thật chẳng phải Tỳ-nại-da nói là Tỳ-nại-da, thật là Tỳ-nại-da nói là chẳng phải Tỳ-nại-da. Do tâm họ ngu si, điên đảo, cao ngạo, ngã mạn, ganh ghét bạn bè, nên đối với pháp Đại thừa thì ủng hộ, khen ngợi, làm cho lưu truyền rộng rãi, còn đối với pháp Thanh văn thừa, Độc giác thừa thì phỉ báng, làm chướng ngại, không lưu truyền rộng rãi. Không thể nương vào Thanh văn thừa, hoặc Độc giác thừa, hoặc Vô thượng thừa như thật mà bỏ thế tục xuất gia, thọ giới Cụ túc, thành tựu tính Bí-sô, cũng không thể như thật mà tu tập tất cả nhân duyên pháp thiện. Đối với đệ tử của ta, hoặc là bậc Pháp khí, hoặc chẳng phải bậc Pháp khí, nghĩa là người siêng năng tu hành hạnh Hữu học, hạnh Vô học, cho đến chứng đắc quả sau cùng, hoặc là phàm phu chân thiện trì giới, phá giới, không có giới thì họ cũng dùng đủ cách mắng nhiếc, quở trách, làm não loạn, hoặc đoạt lấy y bát của người khác, không cho thọ dùng các vật dụng, trói buộc, giam nhốt như vậy mà nói đoạn diệt, bác bỏ tất cả, không cho là có nhân quả. Tuy hiện tại họ ở trong loài người nhưng thật là La-sát, vào đời vị lai dù vô số đại kiếp cũng khó được trở lại thân người. Thà ở trong địa ngục chịu vô lượng khổ chứ không làm người sinh đoạn kiến. Người ngu si này, không bao lâu thân thể sẽ bị thiếu khuyết, trong nhiều ngày lưỡi bị cứng, không thể nói được, chịu các khổ sở, đau đớn khó chịu nổi, sau khi qua đời, nhất định đọa vào ngục Vô gián. Ở trong các đường ác xoay vần qua lại, thọ lấy các khổ, khó có thể cứu vớt, hàng trăm ngàn kiếp khó trở lại thân người. Tuy đã trải qua vô lượng, vô số kiếp, rồi có thể trở lại được làm người nhưng sinh trong đời năm trược, vào thời kỳ không có Phật, sinh ra bị mù, điếc, câm, ngọng, không có lưỡi, các thứ bệnh nặng luôn làm đau khổ bức bách, hoặc thân hôi nhơ, người không muốn nhìn đến, lời nói chậm chạp, vụng về, khó nghe, tâm thường mê loạn, không hiểu gì hết, sinh vào nhà nghèo cùng, thiếu thốn, không gặp bạn lành, làm theo bạn ác, thích tạo nghiệp ác, ưa chấp ác kiến, tạo tội vô gián để trở lại đọa vào ngục vô gián, luân hồi trong đường ác, khó có thời kỳ ra khỏi. Người ngu si chấp đoạn diệt như vậy sẽ, làm hư hoại, hủy diệt chính pháp của ta, làm bức bách, xúc não, trách phạt các đệ tử trì giới, phá giới, không có giới của ta, làm cho họ không an tâm tu hành các điều thiện. Do nhân duyên này mà hàng trăm ngàn kiếp cứ chìm đắm trong các đường ác, từ chỗ đen tối này đến chỗ đen tối khác, khó có thời kỳ ra khỏi. Những chúng sinh mắc tội báo như vậy là vì chưa mong cầu nghe, tu tập pháp Thanh văn, Độc giác thừa, mà trước hết lại mong cầu nghe, tu tập chính pháp Đại thừa thâm sâu vi diệu. Người ngu si chấp đoạn như vậy sinh làm người thấp kém còn khó được, huống chi là thành bậc Pháp khí Hiền thánh, còn không thể chứng được Niết-bàn của Thanh văn, Độc giác, huống là được đạo Vô thượng chính đẳng chính giác thâm sâu rộng lớn. Những chúng sinh mắc lỗi lầm như vậy đều do chưa học pháp Thanh văn thừa, Độc giác thừa mà trước đã học Đại thừa. Này thiện nam! Ví như cái bình sành bị nhiều lằn nứt, nên đựng các thứ dầu, sữa đều bị rỉ chảy. Hai thứ: Bình đựng và chất chứa trong đó đều bị hoại mất. Vì sao? Vì bình đựng đã bị hư hoại. Chúng sinh này đối với pháp Thanh văn thừa, Độc giác thừa chưa chịu khó nhọc và siêng năng tu học, căn cơ chưa thuần thục, còn thấp kém, ít tinh tấn. Nếu thuyết giảng chính pháp Đại thừa thâm sâu vi diệu thì người giảng thuyết, người nghe đều mắc tội lớn, cũng là việc làm trái nghịch tất cả chư Phật, mắc tội lỗi như đã nói rộng ở trước. Ví như kho tích chứa tài sản của báu ở đời bị sụp lở, tất cả đều tan mất. Những chúng sinh như vậy đối với pháp Nhị thừa phỉ báng không tin, không chịu tu học mà lại giảng thuyết Đại thừa cho họ, nên hiểu biết sẽ không đúng như thật, do đó tạo tội xoay vần không dứt. Ví như ghe thuyền lủng rỉ nhiều chỗ, không thể chuyên chở qua biển lớn được. Chúng sinh như vậy phần nhiều tham lam, ganh ghét, đối với pháp Nhị thừa chưa từng tu học, vọng xưng là Đại thừa, ôm chấp đoạn kiến, kiêu mạn, dua nịnh, thành thân rỉ lậu, không thể nương cậy để vào biển Nhất thiết trí. Ví như người mù mắt, không thể thấy rõ các thứ trân bảo. Chúng sinh này cũng vậy, kiêu mạn, buông lung, chấp trước kiến không, không học Nhị thừa, mù mờ không có mắt trí tuệ, nên không thể thấy rõ trân bảo công đức Đại thừa vô thượng. Ví như có người thân bị hôi nhơ, tuy dùng các thứ hương thơm tốt nhất để thoa nhưng hoàn toàn không thể làm cho thân thể sạch thơm được. Chúng sinh này cũng vậy, ngu si, kiêu mạn, đối với pháp Nhị thừa không siêng năng tu tập, không bỏ sát sinh cho đến tà kiến. Tuy siêng năng nghe, lãnh thọ Đại thừa vô thượng nhưng hoàn toàn không hiểu được chính pháp thâm sâu. Ví như ruộng đá, tuy gieo trồng giống tốt, gia công đầu tư vào ruộng, nhưng hoàn toàn không thu hoạch được. Cũng vậy, chúng sinh đối với pháp Nhị thừa kiêu mạn, biếng nhác, không siêng năng tu tập, chỉ tham cầu năm món dục lạc không biết mỏi mệt nhàm chán, tuy đối với bản thân có gieo hạt giống Đại thừa, siêng năng tinh tấn chịu khổ, nhưng hoàn toàn không thể thành tựu. Ví như cái hũ, trước đã đựng thuốc độc, sau bỏ vào ít đường phèn, đường ấy không thể ăn được. Cũng vậy, chúng sinh này đối với pháp Nhị thừa không chịu tu học, chấp cho là không có nhân, nếu để họ thuyết giảng Đại thừa thì hoàn toàn không thể thành tựu lợi ích cho mình và cho người. Ví như cái hũ, trước đây đựng đường phèn, sau bỏ ít thuốc độc, cũng không thể dùng được. Cũng vậy, chúng sinh tinh tấn tu học chính pháp Nhị thừa, chưa được thành tựu, nếu phải thuyết giảng Đại thừa cho họ thì cả hai đều mất. Ví như người ngu si, tâm cuồng loạn mà trổi các âm nhạc cho họ nghe thì họ không thể hiểu biết được. Cũng vậy, chúng sinh đối với chính pháp Nhị thừa chưa từng tu học, bị phiền não, tham, sân, si mạnh mẽ khuấy rối, chấp trước cho là không có nhân và chấp đoạn diệt, căn cơ chưa thuần thục mà thuyết giảng Đại thừa cho họ nghe, dù trải qua nhiều thời gian nhưng cũng không thể hiểu rõ được. Ví như có người không mặc áo giáp, đội mũ giáp, không cầm dao gậy mà xông ngay vào chiến trận, ắt sẽ bị thương, chịu các đau khổ. Cũng vậy, chúng sinh này đối với chính pháp Nhị thừa chưa từng tu học, trí tuệ thấp kém, căn khí chưa thành thục mà thuyết giảng Đại thừa cho họ nghe, ắt sẽ sinh tâm vọng chấp, do đó, dần dần tạo các nghiệp ác không dứt. Người ngu si này không bao lâu thân thể sẽ bị thiếu khuyết, nhiều ngày lưỡi sẽ khô cứng không nói được, chịu các khổ sở, đau đớn khó chịu nổi, sau khi qua đời nhất định sẽ đọa vào địa ngục Vô gián, lưu chuyển qua lại trong các đường ác. Nên biết nói rộng ra theo thứ tự cũng như trước. Này thiện nam! Thế cho nên người trí trước phải quán sát hết thảy tâm của chúng sinh, rồi sau đó mới giảng thuyết chính pháp. Trước phải phát sinh tâm Từ, tâm Bi, tâm Hỷ, tâm làm lợi ích, tâm không biếng nhác, tâm nhẫn nhục, tâm không kiêu mạn, tâm không ganh ghét, tâm không tham lam keo kiệt, tâm thiền định, sau đó mới giảng thuyết chính pháp cho họ nghe, hoàn toàn không làm cho các chúng sinh do nghe giáo pháp mà lưu chuyển trong sinh tử, đọa vào đường hiểm nạn lớn. Thế nên, Như Lai hiểu biết rõ tâm tướng của tất cả chúng sinh, dùng hành luân vô trần cấu, hành luân vô thủ mà thuyết chính pháp cho họ. Tất cả chúng Đại Bồ-tát với đầy đủ giáp trụ giảng thuyết chính pháp cho chúng sinh cũng như vậy, thương xót, làm cho họ diệt trừ các phiền não, làm cho họ vượt ra khỏi biển ba cõi, làm cho tất cả chúng sinh tùy theo tâm ưa thích mà hướng đến Nhất thừa trong ba thừa và mau được viên mãn. Giảng thuyết chính pháp cho họ nghe, hoàn toàn không làm cho họ lưu chuyển trong sinh tử, đọa vào hiểm nạn lớn. Thế nào gọi là hành luân vô trần cấu? Vô trần cấu nghĩa là lúc thuyết pháp, không vì có uẩn, không vì có xứ, không vì có giới, không vì có Dục giới, không vì có Sắc giới, không vì có Vô sắc giới, không vì có đời này, không vì có đời khác, không vì có các hành, không vì có thọ, không vì có tưởng, không vì có tư, không vì có xúc, không vì có tác ý, không vì có vô minh cho đến không vì có lão tử, không vì có hành và bất hành mà giảng thuyết chính pháp cho các chúng sinh. Chỉ vì tất cả uẩn, xứ, giới nói rộng cho đến hành và bất hành đều vắng lặng mà giảng thuyết chính pháp cho các chúng sinh, do nghĩa này nên gọi là vô trần cấu. Hành nghĩa là vì có thể đoạn hẳn chết ở đây sinh ở kia, mà giảng thuyết chính pháp cho các chúng sinh, vì có thể đoạn hẳn các uẩn, xứ, giới, nói rộng cho đến đoạn hẳn hành và bất hành mà giảng thuyết chính pháp cho chúng sinh, đó gọi là hành. Luân, nghĩa là như ánh trăng rằm mát dịu chiếu sáng và tỏa khắp không gian, soi tỏ tất cả cảnh vật không bị chướng ngại. Tất cả thần thông, Ký thuyết, dạy bảo ba loại luân thù thắng của Như lai và các Bồ tát cũng vậy, có tác dụng vô ngại, đi khắp các thế giới để giáo hóa và làm lợi lạc cho tất cả chúng sinh, làm cho các chúng sinh cùng quy về một đường. Điều này tất cả chúng sinh ở đời không có được, tất cả Thanh văn, Độc giác cũng không làm được, chỉ có Phật và Bồ-tát mới có thể làm cho chúng sinh diệt trừ các khổ não sinh tử, chứng đắc quả Niết-bàn an vui, đó gọi là Luân. Như vậy gọi chung là hành luân vô trần cấu của chư Phật Bồ-tát. Thế nào gọi là hành luân không chấp thủ? nghĩa là đối với các pháp không mắc chướng ngại, giống như ánh sáng mặt trời chiếu khắp tất cả. Các bậc Pháp khí ba thừa tùy theo căn cơ chúng sinh mà giảng thuyết chính pháp, không có sự chấp trước nào cả. nghĩa là chư Như Lai chỉ vì các chúng sinh mà giảng thuyết giáo pháp như vậy. Giống như hư không, không có tướng sai khác, dùng vô lượng định trụ trì trang nghiêm hay diệu dụng tự tại, mà giảng thuyết chính pháp vi diệu cho các chúng sinh, không có sự chấp trước nào cả. Tất cả chúng Đại Bồ-tát đầy đủ đại giáp trụ, khi giảng thuyết giáo pháp cho mọi người cũng lại như vậy. nghĩa là: Lúc giảng thuyết: Các pháp chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải là không của sắc, chẳng phải lìa không của sắc, cho đến chẳng phải là không của thức, chẳng phải lìa không của thức; Chẳng phải là không của nhãn, chẳng phải lìa không của nhãn, cho đến chẳng phải là không của ý, chẳng phải lìa không của ý. Chẳng phải là không của sắc, chẳng phải lìa không của sắc, cho đến chẳng phải là không của pháp, chẳng phải lìa không của pháp; chẳng phải là không của nhãn thức, chẳng phải lìa không của nhãn thức; cho đến chẳng phải là không của ý thức, chẳng phải lìa không của ý thức, Chẳng phải là không của Dục giới, chẳng phải lìa không của Dục giới; cho đến chẳng phải là không của hư không vô biên xứ, chẳng phải lìa không của hư không vô biên xứ; Chẳng phải là không của thức vô biên xứ, chẳng phải lìa không của thức vô biên xứ. Chẳng phải là không của vô sở hữu xứ, chẳng phải lìa không của vô sở hữu xứ. Chẳng phải là không của phi tưởng phi phi tưởng xứ, chẳng phải lìa không của phi tưởng phi phi tưởng xứ. Chẳng phải là không của bốn Niệm trụ, chẳng phải lìa không của bốn Niệm trụ. Cho đến chẳng phải là không của tám chi Thánh đạo, chẳng phải lìa không của tám chi Thánh đạo. Chẳng phải là không của pháp duyên khởi, chẳng phải lìa không của pháp duyên khởi. Chẳng phải là không của ba bất hộ, chẳng phải lìa không của ba bất hộ. Chẳng phải là không của bốn Vô sở úy, chẳng phải lìa không của bốn Vô sở úy. Chẳng phải là không của mười Lực, chẳng phải lìa không của mười Lực. Chẳng phải là không của mười tám pháp Bất cộng, chẳng phải lìa không của mười tám pháp Bất cộng. Chẳng phải là không của đại Từ, Đại Bi, đại Hỷ, đại Xả; chẳng phải lìa không của đại Từ, Đại Bi, đại Hỷ, đại Xả. Chẳng phải là không của Niết-bàn, chẳng phải lìa không của Niết-bàn. Đó là Như Lai và các Bồ-tát vì các chúng sinh mà ở trong đó giảng thuyết chính pháp vi diệu. Này thiện nam! Như vậy, Như Lai vì các chúng sinh dùng hành luân vô trần cấu thuyết pháp như ánh trăng tròn chiếu sáng tỏa diệu khắp không gian, thấu suốt cảnh vật không bị chướng ngại như trên đã nói. Lại dùng hành luân vô thủ giảng thuyết chính pháp vi diệu, đối với tất cả pháp không bị chướng ngại, giống như mặt trời chiếu soi tất cả. Bậc Pháp khí trong ba thừa phải tùy theo căn cơ của chúng sinh mà giảng thuyết chính pháp không có sự chấp trước. nghĩa là các Đức Như Lai giảng thuyết giáo pháp như vậy chỉ vì các chúng sinh, giống như hư không không có tướng sai khác, dùng vô lượng định trụ trì trang nghiêm diệu dụng tự tại, vì các chúng sinh mà giảng thuyết chính pháp vi diệu không có sự chấp trước nào, làm cho các chúng sinh tùy sở thích mà hướng đến ba thừa. Tất cả chúng Đại Bồ-tát đầy đủ đại giáp trụ, khi giảng thuyết giáo pháp cho mọi người cũng lại như vậy, làm cho các chúng sinh nghe giáo pháp thâm sâu thù thắng này rồi, ở trong ba thừa tùy theo sở thích mà hướng đến nhất thừa, các căn lành đều được thành tựu, an trú vào nhất thừa tốt nhất, hoàn toàn không làm cho người đó ở trong sinh tử tăng trưởng nhiều điều ác, bất thiện, còn đối với Niết-bàn thì vững chắc không thoái lui. Này thiện nam! Đại Bồ-tát vì muốn dứt trừ dòng sinh tử cho vô lượng, vô số chúng sinh mà thuyết pháp cho họ. Hàng Thanh văn, Duyên giác vì muốn dứt trừ dòng sinh tử của mình mà thuyết pháp cho họ. Đại Bồ-tát vì làm cho vô lượng, vô số chúng sinh vượt qua bốn bộc lưu mà thuyết pháp cho họ. Hàng Thanh văn, Duyên giác chỉ vì muốn làm cho mình vượt qua bốn bộc lưu mà giảng thuyết giáo pháp cho họ. Đại Bồ-tát vì muốn diệt trừ các bệnh phiền não cho vô lượng, vô số chúng sinh mà giảng thuyết giáo pháp cho họ. Hàng Thanh văn, Độc giác vì muốn diệt trừ các bệnh phiền não cho mình mà giảng thuyết giáo pháp cho chúng sinh. Đại Bồ-tát vì muốn dứt trừ các uẩn, phiền não, tập khí, tương tục của chúng sinh, làm cho đoạn trừ hết, không còn sót lại mà giảng thuyết giáo pháp cho họ. Hàng Thanh văn, Độc giác chỉ vì muốn tự mình đoạn trừ các uẩn, phiền não, tập khí, tương tục còn dư lại chưa đoạn hết mà giảng thuyết giáo pháp cho chúng sinh. Đại Bồ-tát vì muốn thành tựu quả Đại Bi đẳng lưu mà Đại Bi là nhân nên giảng thuyết giáo pháp cho họ. Hàng Thanh văn, Độc giác không vì quả Đại Bi nên không có nhân Đại Bi mà giảng thuyết giáo pháp cho chúng sinh. Đại Bồ-tát nhớ nghó các chúng sinh nên thuyết pháp cho họ. Hàng Thanh văn, Độc giác không nhớ nghó đến các chúng sinh mà thuyết pháp cho họ. Đại Bồ-tát vì muốn làm ngừng khổ đau của tất cả chúng sinh mà giảng thuyết chính pháp cho họ. Hàng Thanh văn, Độc giác chỉ vì muốn làm ngừng khổ đau cho mình mà giảng thuyết chính pháp cho chúng sinh. Đại Bồ-tát vì muốn tất cả chúng sinh được viên mãn pháp vị mà giảng thuyết chính pháp cho họ. Hàng Thanh văn, Độc giác chỉ vì bản thân mình được viên mãn pháp vị mà giảng thuyết chính pháp cho chúng sinh. Đại Bồ-tát vì muốn làm cho các chúng sinh thông suốt thắng pháp mà giảng thuyết chính pháp cho họ. Hàng Thanh văn, Độc giác chỉ vì muốn mình được thông suốt thắng pháp mà giảng thuyết chính pháp cho chúng sinh. Này thiện nam! Nói tóm lại, Đại Bồ-tát có vô lượng luật nghi, vì muốn diệt trừ bóng tối vô minh lớn, sự sợ hãi lớn, tất cả sự suy tổn của chúng sinh, được ánh sáng lớn và tiếng khen lớn, thật sự giác ngộ trí Nhất thiết trí nên thuyết pháp cho họ. Hàng Thanh văn, Độc giác có ít luật nghi, chỉ vì diệt trừ bóng tối vô minh cho bản thân, được ánh sáng nhỏ và ít tiếng khen, giác ngộ chút ít phần như thật pháp trí mà thuyết pháp cho chúng sinh. Này thiện nam! Thanh văn, Độc giác không có tâm thật sự nhớ nghó đến chúng sinh, không có thật lòng thương xót chúng sinh, không có tâm thật sự không khinh thường chúng sinh, không có tâm thật sự làm lợi ích cho chúng sinh, không có tâm thật sự cứu giúp chúng sinh, không có tâm thật sự tiến cử người khác, không có tâm thật sự muốn khen ngợi người khác, không có tâm thật sự không dua nịnh mà khen ngợi người khác, không có tâm không luyến tiếc thân mình làm cho người khác an vui, không có tâm không khởi sai lầm về ba nghiệp thân, miệng, ý đối với người khác. Này thiện nam! Người an trú Đại thừa không có tâm thật sự nghó nhớ đến bản thân mình, nói rộng cho đến không có tâm phát khởi sai lầm về ba nghiệp thân, miệng, ý đối với người khác. KINH ĐẠI THỪA ĐẠI TẬP ĐỊA TẠNG THẬP LUÂN <卷 id="117270440">Quyển 7 <詞 id="117270441">Phẩm 4: Hữu Y Hành (Phần 3) Lại nữa, này thiện nam! Có các chúng sinh bẩm tính hung bạo, lời nói hung ác, thật là ngu si, ngã mạn, tự cho là thông minh, không trừ bỏ sát sinh cho đến tà kiến. Đối với người được lợi dưỡng, cung kính, có tiếng khen ở đời thì ganh ghét, thường tự tìm mọi cách để cầu lợi dưỡng, cung kính, tiếng khen ở đời không biết mỏi mệt, thường khen ngợi mình, khinh chê người, không phòng ngừa, giữ gìn ba nghiệp thân, ngữ, ý, ưa làm tất cả điều ác, ôm lòng độc ác, không có lòng Từ bi, không biết hổ thẹn, ưa làm não loạn người khác; đối với các bậc phước điền ưa so lòng hơn thua; đối với các người xuất gia, quy y trong giáo pháp của ta thì ưa tìm vết xấu của họ; vừa được chút ít hình tướng, không chịu xem xét hư thật thế nào mà liền khinh chê, quở mắng, trách phạt. Tâm ấy ương ngạnh, mê loạn, bướng bỉnh, tàn ác, thường ưa làm não loạn các người xuất gia, không xét lỗi của mình mà cứ nghó đến việc quở trách lỗi lầm của người khác. Khi được nghe tán thán công đức của Đại thừa, tuy có phát khởi ý chí mong cầu, nhưng tâm ưa làm các việc ác lớn, chưa từng tịch tónh, chỉ biết làm mê hoặc người khác. Đối với pháp Đại thừa, hiện tại tự mình lắng nghe, dạy người khác lắng nghe; hiện tại tự mình đọc tụng, dạy người khác đọc tụng, tự đề cao mình lấn hiếp kẻ khác; đối với pháp Đại thừa thì cung kính khen ngợi. Đối với các hạnh, cảnh giới của Đại thừa, tự mình chưa từng tu học, chưa có thể hiểu biết mà tự xưng ta là Đại thừa, khuyên dụ người khác theo mình tu học, mưu cầu danh lợi để tự sinh sống. Ví như vị thầy giữ luật mà lại phá giới, làm ác, tự mình phạm giới, ưa làm việc ác, vì danh lợi nên khuyến dụ người khác siêng năng tu học tạng luật. Dua ninh, lừa dối chúng sinh như vậy, làm thân người hạ tiện còn khó được, làm lui mất đường thiện đi đến Niết-bàn Nhị thừa, huống chi là đắc Đại thừa, hoàn toàn không có việc này, mà sẽ đọa vào đường ác, khó có thời kỳ ra khỏi. Những người có trí không nên thân cận gần gũi người như vậy. Người ở giữa đại chúng mà không biết hổ thẹn, tự xưng là Đại thừa như sư tử rống, vì danh lợi nên dụ người ngu si cuồng loạn làm thân với mình, để cùng nhau kết bè đảng. Ví như con lừa đội lốt sư tử, liền tự cho mình là sư tử, có người trông thấy cho là sư tử thật, khi đến gần nghe tiếng kêu mới biết là lừa, họ cùng la lên: “Đây chẳng phải là sư tử, ăn những đồ dơ bẩn, thật là con lừa dơ xấu”, rồi quở mắng đủ thứ và bỏ đi. Ta nói hạng người này thường ưa làm mười nghiệp đạo ác, đốt cháy tất cả hạt giống trời người, pháp Thanh văn, Độc giác thừa còn thoái lui, huống chi là Đại thừa làm sao có thể thành tựu bậc Pháp khí. Người ngu si, kiêu mạn tự xưng là Đại thừa, dối gạt người khác để chiêu tập lợi dưỡng. Ví như người không có chân tay, bị trở ngại, chậm chạp mà muốn vào trận lớn đánh nhau, dù có cố gắng cũng không thể nào chiến thắng. Người giả xưng Đại thừa cũng như vậy, có tay lòng tin, có chân giữ giới cũng không trọn vẹn, tự mình còn không phòng giữ được các nghiệp mà muốn đánh nhau với giặc phiền não thì dù có cố gắng cũng không thể nào chiến thắng được. Ta nói những người này không giữ gìn được ba nghiệp, hay làm việc ác, vọng xưng Đại thừa; đối với ba thừa thật chẳng phải là pháp khí mà muốn phá hoại giặc phiền não kiên cố, mạnh mẽ của tất cả chúng sinh, muốn hiển thị tám chi Thánh đạo cho tất cả chúng sinh, làm cho họ được vào thành Niết-bàn không còn sợ hãi thì hoàn toàn không thể được. Vì sao? Này thiện nam! Vì bậc Đại thừa thọ trì luật nghi thanh tịnh bậc nhất, tu hành hạnh thiện vi diệu bậc nhất, đầy đủ sự hổ thẹn kiên cố bậc nhất, thấy rõ nên rất sợ quả khổ đời sau, xa lìa tất cả pháp ác, thường ưa tu hành tất cả pháp thiện, tâm Từ bi ban khắp tất cả hữu tình, thường làm lợi ích an lạc, cứu giúp khắp tất cả chúng sinh vượt qua các đau khổ ách nạn sinh tử, không trông mong cho bản thân mình được an lạc, mà chỉ cầu mong cho tất cả chúng sinh được an lạc. Như vậy mới gọi là người an trụ vào Đại thừa. Này thiện nam! Những tướng nào gọi là Thanh văn thừa? Đó là các chúng sinh thường siêng năng tinh tấn an trú chính niệm, ưa định đẳng dẫn, xa lìa các dua nịnh, tin hiểu nghiệp quả báo, không tham đắm năm món dục lạc ở đời, không bị tám pháp thế tục làm nhiễm, tu tập việc thiện mạnh mẽ như cứu lửa đang cháy trên đầu mình, thường quán xét kỹ các uẩn, xứ, giới, thường ưa an trú trong dòng giống Thánh. Người đầy đủ những tướng này gọi là bậc Thanh văn thừa. Những chúng sinh như vậy còn chưa thành tựu pháp khí Độc giác thừa thì làm sao có thể thành tựu pháp khí Đại thừa. Này thiện nam! Có những tướng nào gọi là Độc giác thừa? Đó là các chúng sinh có đầy đủ tất cả công đức của Thanh văn thừa đã nói ở trên, đối với năm thủ uẩn kia phải thường an trú trong các pháp quán vô thường, phải thường an trú trong các pháp quán sinh diệt, ở trong tất cả pháp duyên sinh nên quán sát kỹ đều là pháp diệt. Người đầy đủ những tướng này gọi là Độc giác thừa. Chúng sinh như vậy chẳng phải là pháp khí Đại thừa. Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn làm rõ lại nghĩa này mà nói bài tụng: Nếu bậc Sát-đế-lợi chân thiện Cho đến Mậu-đạt-la chân thiện Tu tập tin theo mười y luân Mau thành pháp khí Thanh văn thừa. Ba nghiệp thanh tịnh cầu Độc giác Đầy đủ hổ thẹn sợ các uẩn Biết lỗi, ưa ở nơi thanh vắng Gìn giữ các căn, tâm tịch tónh Tu tónh lự, quán pháp duyên khởi Khéo quán sát các uẩn, giới, xứ Đủ mười luân hữu y hành này Pháp khí Thắng thừa độ biển hữu. Tu cả Nhị thừa và Tam thừa Cầu cho mình thoát khổ phiền não Không độ hữu tình, không bỏ tập Người này chẳng phải khí Đại thừa. Ngu si, biếng nhác, căn thấp kém Đối pháp Nhị thừa không siêng tu Nhất định không đủ luân Đại thừa Nên chẳng phải pháp khí Đại thừa. Ngu si cầu giải thoát riêng mình Chí thấp kém hành không Từ bi Ưa chấp đoạn kiến, hướng đường ác. Xả bỏ chính pháp, nói phi pháp Không trì luật, phỉ báng Nhị thừa Thọ giới Cụ túc, xưng Đại thừa Mê hoặc chúng sinh phá pháp ta. Do nhân này, khó được thân người Não loạn pháp ta và Hiền thánh Trách phạt người mặc ca-sa đỏ Quở mắng, ngăn đoạt các y bát. Lui mất đường trời người lâu dài Thế nên muốn được lại thân người Không do bệnh lưỡi mà mất mạng Thường ưa đích thân gặp chư Phật. Nên truyền khắp chính pháp ba thừa Muốn được tối thượng trong ba thừa Nên quán sát kỹ pháp ba thừa Vui vẻ chỉ dạy khắp mọi người. Quyết định thành Phật không còn nghi Phá giới, tham, ganh ghét, kiêu mạn Khen mình, chê người, xưng Đại thừa Xa người ác đó, nương kẻ trí. Quyết định thành Phật độ ba cõi Pháp khí ba thừa tùy căn cơ Từ bi mà thuyết pháp ba thừa Tùy nguyện viên mãn, không ganh, tham. Sẽ được thành Phật, không nghi ngờ Biết uẩn, xứ, giới đều vắng lặng Như hư không, không chỗ nương trú Thuyết pháp giáo hóa các hữu tình. Sẽ được trí diệu giác vô biên Phá giới, tâm ưa nghó điều ác Nghe công đức Đại thừa thù thắng Xưng là Đại thừa vì danh lợi. Như lừa đội lốt da sư tử Nay ta bảo tất cả đại chúng Nếu muốn mau được đạo thù thắng Nên tu tập tốt mười nghiệp thiện. Hộ trì pháp ta, chớ phá hoại Khi xưa ta thuyết các Khế kinh Cầu Đại giác nên hành Đại thừa Xa lìa Thanh văn, Độc giác thừa. Vì thanh tịnh nên nói pháp này Từng cúng vô lượng câu-chi Phật Dứt ác, siêng tu, tâm thanh tịnh Ta vì khuyên chúng sinh tinh tấn. Nên nói Nhất thừa, không có hai Nay chúng đầy đủ khí ba thừa Chỉ có thể trú Thanh văn thừa Tâm rất lo sợ nhiều sự nghiệp. Chẳng phải khí Bồ-đề thượng diệu Kẻ si ưa Độc giác thanh vắng Chẳng phải khí Bồ-đề thượng diệu Có thể an trú trí thượng diệu. Tùy theo sở thích thuyết ba thừa Đủ công đức tịnh, ưa giải thoát Nghe nói Đại thừa đọa đường ác Như bệnh có đàm, bày uống sữa. Bệnh không lành, tăng thêm độc hại Vậy chẳng phải khí Thanh văn thừa Nghe thuyết Đại thừa, tâm mê loạn Liền sinh đoạn kiến, đọa cõi ác Thuyết pháp cần xét kỹ căn cơ.  <詞 id="117270442">Phẩm 5: Sám Hối Thế Tôn nói bài tụng này rồi, lúc bấy giờ ở trong chúng hội có vô lượng trăm ngàn chúng sinh từng hiểu lầm khi nghe pháp, phát sinh sai lầm về giải không, cho là không có nhân quả, đoạn mất căn lành, đọa các đường ác, nghe Phật giảng thuyết kinh này trở lại được chính kiến, liền rời khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ sát chân Phật, ở trước Đức Thế Tôn rất hổ thẹn, chí thành sám hối, chắp tay, cung kính bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Chúng con vốn ở trong Thanh văn thừa, đã từng gieo trồng căn lành, nhưng chưa thành tựu pháp khí Thanh văn thừa, sau lại gặp nghe pháp Độc giác thừa thì mê muội không hiểu rõ, liền phát sinh kiến không, cho là không có nhân quả. Do nhân duyên này, chúng con tạo vô lượng nghiệp về thân, miệng, ý nên trải qua các đường ác. Nay chúng con ở trước Đức Thế Tôn nghe giảng thuyết kinh này, trở lại được chính kiến nên rất hổ thẹn, phát lồ xin sám hối, không dám che giấu, nguyện được diệt trừ tất cả. Từ nay trở đi, vónh viễn không dám phạm lại và đề phòng nghiệp chướng, tội lỗi sắp đến. Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn thương xót, cứu giúp làm cho tội lỗi chúng con đều được tiêu diệt, vào đời vị lai, vónh viễn không dám phạm lại. Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn thương xót, cứu giúp chúng con khỏi những quả khổ trong đường ác vào đời sau. Nay chúng con nguyện quay về thọ trì, trước hết tu tập hạnh Thanh văn thừa. Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn thương xót, dạy bảo cho chúng con. Đức Thế Tôn bảo: –Lành thay, lành thay! Các ông biết hổ thẹn đến như vậy mà phát lồ cầu xin sám hối. Trong giáo pháp của ta có hai hạng người gọi là không phạm tội: 1.Người bẩm tính trong sạch, từ xưa đến nay không phạm tội. 2.Người phạm tội rồi biết hổ thẹn, phát lồ cầu xin sám hối. Ở trong giáo pháp của ta, hai hạng người này gọi là dũng mãnh được thanh tịnh. Lúc đó, Đức Thế Tôn tùy theo ưa thích của mỗi người mà dùng phương tiện thuyết pháp bốn Thánh đế. Những chúng sinh kia ở trong chúng hội có người được nhẫn bậc hạ, có người được nhẫn bậc trung, có người được nhẫn bậc thượng, có người được pháp đệ nhất thế gian, có người được quả Dự lưu, có người được quả Nhất lai, có người được quả Bất hoàn. Trong đó, có tám vạn bốn ngàn Bí-sô các lậu được diệt sạch, tâm được giải thoát, hoàn toàn thanh tịnh, thành bậc A-la-hán, vui mừng lễ Phật, trở về chỗ cũ. Lúc ấy, trong chúng hội có năm mươi bảy trăm ngàn na-dữu-đa chúng sinh từng hiểu lầm khi nghe pháp, phát sinh ra sai lầm về giải không, cho là không có nhân quả, diệt sạch căn lành, hướng đến các đường ác, nghe thuyết kinh này rồi được chính kiến trở lại, liền rời khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ sát chân Phật, ở trước Đức Thế Tôn rất hổ thẹn, chí thành cầu xin sám hối, chắp tay cung kính bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Chúng con vốn ở trong Độc giác thừa, từng gieo trồng căn lành nhưng chưa có khả năng thành tựu pháp khí Độc giác thừa. Về sau, chúng con lại gặp nghe giảng thuyết Đại thừa, tuy có tâm ưa mến nhưng không thể hiểu rõ bởi ngu si, tối tăm, nghi ngờ, liền phát sinh kiến không, cho là không có nhân quả. Do nhân duyên này chúng con tạo vô lượng nghiệp tội về thân, miệng, ý, mang nghiệp duyên này mà đọa trong các đường ác vô lượng kiếp, chịu các thứ đau đớn, khổ sở, khó chịu nổi. Nay chúng con ở trước Đức Thế Tôn, nghe giảng thuyết kinh này được chính kiến trở lại, rất hổ thẹn, phát lồ xin sám hối, không dám che giấu, nguyện diệt trừ tất cả. Từ nay trở đi, vónh viễn không dám làm lại, để ngăn ngừa nghiệp chướng tội lỗi về sau. Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn thương xót cứu giúp, làm cho tội lỗi của chúng con đều được tiêu trừ, vào đời vị lai vónh viễn không dám phạm lại. Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn thương xót, cứu giúp, nhổ sạch những quả khổ đường ác về sau của chúng con. Nay chúng con nguyện xin quay về thọ trì, trước hết tu tập hạnh Độc giác thừa. Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn thương xót chỉ bày cho chúng con. Đức Thế Tôn bảo: –Lành thay, lành thay! Các ông đã hổ thẹn như vậy mà phát lồ xin sám hối. Ở trong giáo pháp của ta, có hai hạng người gọi là không phạm tội: 1.Người có bản tính trong sạch, xưa nay không phạm tội. 2.Người phạm tội rồi biết hổ thẹn, phát lồ xin sám hối. Trong giáo pháp của ta, hai hạng người này gọi là dũng mãnh được thanh tịnh. Lúc ấy, Đức Thế Tôn tùy theo căn cơ của mọi người mà dùng phương tiện thuyết các pháp duyên khởi, làm cho tất cả chúng sinh tu tập Duyên giác thừa kia, dần dần viên mãn, đều được chứng đắc định tràng tướng duyên, đối với Độc giác thừa đã được không thoái chuyển thì vui mừng làm lễ Phật rồi trở về chỗ cũ. Lúc bấy giờ, trong chúng hội lại có tám mươi trăm ngàn na-dữu-đa chúng sinh, đã từng ở trong giáo pháp của chư Phật vào thời quá khứ hủy báng lời Phật dạy, cho đến một bài tụng. Do nhân duyên này đọa vào các đường ác, chịu các quả khổ; lúc mới trở lại được làm thân người thì bị câm, ngọng, lưỡi thường bệnh hoạn tê cứng, không thể nói được, nghe giảng thuyết kinh này rồi được chính kiến trở lại, rời khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ sát chân Phật, ở trước Thế Tôn rất hổ thẹn, chí thành sám hối nghiệp ác đời trước, chắp tay cung kính chiêm ngưỡng tôn nhan Thế Tôn, nhờ thần lực của Phật, tất cả mọi người đều nói được. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn biết mà vẫn hỏi: –Đời trước các ông tạo nghiệp ác gì mà nay ở trong chúng đây không thể nói được? Các người kia cùng lúc thưa Phật, trong đó có một hạng người thưa như vầy: –Bạch Thế Tôn! Khi xưa chúng con ở trong giáo pháp của Đức Như Lai Tỳ-bát-thi, hoặc dùng lời phỉ báng chính pháp Đại thừa, hoặc dùng lời phỉ báng pháp Độc giác thừa, hoặc dùng lời phỉ báng pháp Thanh văn thừa, cho đến một bài tụng. Do báo chướng của nghiệp ác này nên chúng con trôi lăn trong sinh tử chín mươi mốt kiếp, thường ở trong địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, bị câm, ngọng, không có lưỡi, hoàn toàn không thể nói được, nhận lấy các khổ sở, đau đớn bức bách khó chịu nổi. Như đời này dù lại được làm thân người nhưng còn câm, ngọng, lưỡi thường bị bệnh tật tê cứng. Nhờ thần lực của Phật mới có thể nói được, mới có thể nghó nhớ được nguyên nhân các báo chướng của nghiệp ác đời quá khứ của mình. Lại có một hạng chúng sinh thưa như vầy: –Bạch Thế Tôn! Khi xưa chúng con ở trong giáo pháp của Đức Như Lai Thi-khí, dùng lời phỉ báng chính pháp Đại thừa rồi tùy theo bản duyên đã nói rộng như ở trước. Lại có một hạng chúng sinh thưa như vầy: –Bạch Thế Tôn! Khi xưa, chúng con ở trong giáo pháp của Như Lai Tỳ-nhiếp-phù, dùng lời phỉ báng chính pháp Đại thừa rồi tùy theo bản duyên đã nói rộng như ở trước. Lại có một hạng chúng sinh thưa như vầy: –Bạch Thế Tôn! Khi xưa, chúng con ở trong giáo pháp của Như Lai Yết-lạc-ca Tôn-đà, dùng lời phỉ báng chính pháp Đại thừa rồi tùy theo bản duyên đã nói rộng như ở trước. Lại có một hạng chúng sinh thưa như vầy: –Bạch Thế Tôn! Khi xưa, chúng con ở trong giáo pháp của Như Lai Yết-nặc-ca Mâu-ni, dùng lời phỉ báng chính pháp Đại thừa… rồi tùy theo bản duyên đã nói rộng như ở trước. Lại có một hạng chúng sinh thưa như vầy: –Bạch Thế Tôn! Khi xưa, chúng con ở trong giáo pháp của Như Lai Ca-diếp-ba, hoặc dùng lời phỉ báng chính pháp Đại thừa, hoặc dùng lời phỉ báng pháp Độc giác thừa, hoặc dùng lời phỉ báng pháp Thanh văn thừa, cho đến một bài tụng. Do báo chướng của nghiệp ác này, chúng con từ trước đến nay trôi lăn trong sinh tử, thường ở địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, bị câm, ngọng, không có lưỡi, hoàn toàn không thể nói được, nhận lấy các khổ sở, đau đớn bức bách khó chịu nổi. Đời này, chúng con mới trở lại làm thân người mà còn bị câm, ngọng, lưỡi thường bệnh tật tê cứng, nhờ thần lực của Phật mới có thể nói được, mới có thể nghó nhớ nguyên nhân các báo chướng của nghiệp ác đời quá khứ của mình. Hôm nay chúng con được ở trước Đức Thế Tôn nghe giảng thuyết kinh này liền được chính kiến, rất hổ thẹn, phát lồ xin sám hối, không dám che giấu, nguyện được diệt trừ tất cả. Từ nay trở đi, vónh viễn không dám phạm lại, để ngăn ngừa những tội lỗi về sau. Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn thương xót cứu giúp, làm cho tội lỗi của chúng con đều được tiêu trừ, vào đời vị lai vónh viễn không dám tái phạm. Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn thương xót cứu giúp, nhổ sạch những quả khổ trong đường ác vào đời vị lai của chúng con. Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn thương xót giảng thuyết chính pháp cho chúng con. Đức Thế Tôn bảo: –Lành thay, lành thay! Các ông đã biết hổ thẹn phát lồ xin sám hối như vậy. Ở trong chính pháp của ta có hai hạng người gọi là không phạm tội: 1.Hạng người xưa nay bản tính trong sạch, không phạm tội. 2.Hạng người phạm rồi biết hổ thẹn phát lồ xin sám hối. Ở trong pháp của ta, hai hạng người này gọi là dõng mãnh được thanh tịnh. Lúc ấy, tùy theo sự ưa thích của mỗi người, Đức Thế Tôn dùng nhiều phương tiện giảng thuyết chính pháp, mỗi người tùy theo sở thích đều được lợi ích, vui mừng lễ Phật, trở về chỗ cũ. Lúc bấy giờ, trong chúng hội có vô lượng trăm ngàn Thanh văn và vô lượng trăm ngàn na-dữu-đa Bồ-tát nghe Phật giảng thuyết kinh này, liền nhớ nghó các báo chướng của nghiệp ác đã tạo khi xưa, liền rời khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ sát chân Phật, ở trước Đức Thế Tôn, rất hổ thẹn, chí thành sám hối, chắp tay cung kính thưa: –Bạch Thế Tôn! Chúng con nghó nhớ khi xưa đã từng ở trong giáo pháp của vô lượng chư Phật và đã nói lời: “Chúng con đối với các đệ tử của chư Phật kia hoặc là bậc Pháp khí, hoặc chẳng phải bậc Pháp khí gây nhiều hành động sân giận, quở mắng, hủy nhục, chê trách, khinh khi và phỉ báng đủ cách, che giấu điều thiện, phơi bày điều ác của người. Do nhân duyên báo chướng của nghiệp ác này, mà chúng con trải qua vô lượng kiếp bị đọa vào các đường ác, chịu các khổ lớn bức bách khó nhẫn. Sau đó được gặp vô lượng chư Phật, chúng con đều đã thân cận phụng sự cúng dường; lại được gặp vô lượng chúng Đại Bồ-tát, chúng con cũng đều thân cận phụng sự cúng dường. Ở trước mỗi Đức Phật, mỗi vị Đại Bồ-tát chúng con đều rất hổ thẹn, phát lồ xin sám hối các chướng của nghiệp ác. Ở chỗ các Đức Phật, các vị Đại Bồ-tát, chúng con đều lắng nghe, lãnh thọ vô lượng pháp môn, siêng năng hộ trì tu học vô lượng hạnh khổ khó làm. Do nghiệp chướng kia chưa hết, còn dư lại, làm cho chúng con chưa có thể chứng đắc Niết-bàn an vui, chưa thể chứng đắc công đức thù thắng của môn Tam-ma-địa.” Hôm nay, chúng con ở trước Đức Thế Tôn nghe giảng thuyết kinh này, liền rất hổ thẹn, phát lồ xin sám hối, không dám che giấu, nguyện xin diệt trừ tất cả. Từ nay trở đi, vónh viễn không dám làm lại để ngăn ngừa tội chướng về sau của chúng con. Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn thương xót cứu giúp, làm cho tội lỗi của chúng con được diệt trừ, đời sau không phạm lại nữa. Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn thương xót cứu giúp, nhổ sạch khổ báo trong đường ác vào đời vị lai của chúng con. Hôm nay, chúng con nương nhờ thần lực của Phật, nguyện tùy theo sở thích mà mau chứng đắc Niết-bàn an lạc, hoặc có thể chứng đắc công đức thù thắng môn Tam-ma-địa. Lại có hạng người thưa như vầy: –Chúng con đối với đệ tử của chư Phật kia hoặc là bậc Pháp khí, hoặc chẳng phải bậc Pháp khí mà đã dùng lời thô ác, lấn hiếp, bức bách họ. Do tội chướng của nghiệp ác này, mà chúng con phải trải qua vô lượng kiếp đọa vào các đường ác. Nên biết, cứ thế trước sau như đã nói rộng ở trước Lại có hạng người nói: –Chúng con đối với đệ tử của chư Phật kia, hoặc là bậc Pháp khí, hoặc chẳng phải bậc Pháp khí đã đánh đập, làm tổn thương. Do chướng của nghiệp ác này, mà trải qua vô lượng kiếp, chúng con bị đọa vào các đường ác. Nên biết, cứ thế trước sau như đã nói rộng ở trước Lại có hạng người nói: –Chúng con đối với đệ tử của chư Phật kia, hoặc là bậc Pháp khí, hoặc chẳng phải bậc Pháp khí đã đoạt lấy y bát của người. Do chướng của nghiệp ác này, mà chúng con trải qua vô lượng kiếp bị đọa vào các đường ác. Nên biết, cứ thế trước sau nói rộng như ở trước. Lại có hạng người nói: –Chúng con đối với đệ tử của chư Phật kia, hoặc là bậc Pháp khí, hoặc chẳng phải bậc Pháp khí đã chiếm lấy các vật dụng và không cho ăn uống. Do chướng của nghiệp ác này, mà chúng con trải qua vô lượng kiếp bị đọa vào các đường ác. Nên biết cứ thế thứ lớp nói rộng như ở trước. Lại có hạng người nói: –Chúng con đối với đệ tử xuất gia của vô lượng chư Phật kia - hoặc là bậc Pháp khí, hoặc chẳng phải bậc Pháp khí đã bắt lột áo ca-sa, trở về thế tục, đóng thuế, đi quân dịch. Do chướng của nghiệp ác này, mà chúng con trải qua vô lượng kiếp bị đọa vào các đường ác. Nên biết cứ thế thứ lớp nói rộng như ở trước. Lại có hạng người nói: –Chúng con đối với đệ tử xuất gia của vô lượng chư Phật kia –hoặc là bậc Pháp khí, hoặc chẳng phải bậc Pháp khí; hoặc phạm tội, hoặc không phạm tội đã trói buộc, gông cùm, giam nhốt trong lao ngục. Do chướng của nghiệp ác này nên chúng con trải qua vô lượng kiếp phải đọa vào các đường ác. Nên biết cứ thế thứ lớp nói rộng như ở trước. Lại có hạng người nói: –Chúng con đối với đệ tử xuất gia của vô lượng chư Phật kia -hoặc là bậc Pháp khí, hoặc chẳng phải bậc Pháp khí đã khởi tâm khinh mạn, làm não loạn nhiều cách, làm cho họ không an vui. Do chướng của nghiệp ác này, nên chúng con trải qua vô lượng kiếp phải thọ lấy các khổ lớn bức bách khó chịu nổi. Sau đó gặp được vô lượng chư Phật, đều đã thân cận, phụng sự, cúng dường; lại gặp được vô lượng chúng Đại Bồ-tát cũng đều thân cận, phụng sự, cúng dường. Trước mỗi Đức Phật, mỗi vị Đại Bồ-tát đều rất hổ thẹn, phát lồ xin sám hối các chướng của nghiệp ác. Ở chỗ các Đức Phật, các vị Đại Bồ-tát đều được nghe và lãnh thọ vô lượng pháp môn, siêng năng hộ trì, tu học vô lượng hạnh khổ khó làm. Do nghiệp chướng kia chưa hết, còn sót lại, làm cho chúng con chưa thể chứng đắc Niết-bàn an vui và chưa thể chứng đắc công đức thù thắng môn Tam-ma-địa. Nay chúng con ở trước Đức Thế Tôn nghe giảng thuyết kinh này lại rất hổ thẹn, phát lồ xin sám hối, không dám che giấu, nguyện xin diệt trừ tất cả. Từ này trở đi, vónh viễn không dám làm lại, để ngăn ngừa tội chướng về sau. Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn thương xót cứu giúp, làm cho tội lỗi của chúng con đều được tiêu diệt, vào đời vị lai vónh viễn không dám tái phạm. Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn thương xót cứu giúp, nhổ sạch khổ báo đường ác, vào đời vị lai của chúng con. Nay chúng con nương nhờ thần lực của Phật, tùy theo sở nguyện ưa thích để được mau chứng đắc Niết-bàn an vui, hoặc có thể chứng đắc công đức thù thắng của môn Tam-ma-địa. Lúc ấy, Đức Thế Tôn bảo khắp chúng Bồ-tát, Thanh văn: –Lành thay, lành thay! Các ông đã hổ thẹn mà phát lồ cầu xin sám hối như vậy. Có hai hạng người gọi là không phạm tội: 1.Hạng người từ xưa đến nay bản tính trong sạch, không phạm lỗi. 2.Hạng người phạm tội rồi, biết hổ thẹn phát lồ xin sám hối. Ở trong giáo pháp của ta, hai hạng người này gọi là dũng mãnh mẽ được thanh tịnh. Lại nữa, này thiện nam! Tội làm não loạn đệ tử của Phật như vậy, so sánh với tội gần tội vô gián đã nói ở trước thì tội kia chỉ có tên nhưng chưa đủ để kết tội. Song, tội làm não loạn đệ tử của Phật còn hơn năm tội vô gián nói ở trước vô lượng lần. Vì sao? Vì nếu các Bí-sô phá giới, làm các pháp ác, nhưng còn có thể chỉ bày dẫn dắt cho vô lượng trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa chúng sinh không đi con đường điên đảo, mà hướng đến Niết-bàn an vui, làm chỗ cất chứa công đức trân bảo lớn cho chúng sinh như nói rộng ở trước, huống chi là người hành trì giới cấm, tu tập pháp thiện. Vì nghĩa này, nếu có người nào làm não loạn các chúng đệ tử xuất gia của Phật thì nên biết đó là đoạn diệt hạt giống Tam bảo, cũng gọi là phá hoại con mắt pháp của tất cả chúng sinh, cũng là hủy diệt chính pháp mà ta đã siêng năng chịu khổ lâu dài mới được, đó là điều tổn hại lớn cho các chúng sinh. Vì thế, tội làm não loạn đệ tử của Phật hơn năm tội vô gián đã nói ở trước gấp vô lượng lần. Thế nên hôm nay các ông ở trước ta chí thành phát tâm làm cho sự hổ thẹn tăng thượng, dốc lòng khẩn thiết phát lồ cầu xin sám hối các chướng của nghiệp ác đã tạo đời trước. Nay ta thương xót tiếp độ các ông, làm cho chướng của nghiệp ác của các ông dần dần được tiêu diệt. Ở cõi Phật này, trong đại Hiền kiếp có ngàn Đức Như Lai xuất hiện ở đời, trước các Đức Như Lai kia các ông cũng phải chí thành phát lồ, cầu xin sám hối các chướng của nghiệp ác để ngăn ngừa các tội lỗi về sau. Ngàn Đức Như Lai trong Hiền kiếp này, Đức Như Lai sau cùng tên là Như Lai Lô-chí đủ mười danh hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, chính Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Các ông ở trước Phật Lô-chí kia cũng phải chí thành phát lồ xin sám hối các nghiệp chướng ác mới được diệt sạch, không còn sót lại. Lúc ấy, các chúng Thanh văn và Bồ-tát đều thưa Phật: –Bạch Thế Tôn! Chúng con xét kỹ: Vào thời Phật Lô-chí sau cùng ấy mới được chính kiến, mới xa lìa các tà kiến, mới diệt sạch các chướng của nghiệp ác, không còn sót lại, giải thoát tất cả khổ não. Nếu để cho chúng con vào thời đại Hiền kiếp thường ở trong đại địa ngục Vô gián, thường chịu các thứ đau khổ bức bách thì chúng con cũng có thể nhẫn chịu được. Đức Thế Tôn bảo: –Lành thay, lành thay! Các ông mới có khả năng dũng mãnh như vậy. Do sức thệ nguyện tinh tấn kiên cố của mình, các ông ở trước Phật Lô-chí kia, các chướng của nghiệp ác tích tập đời trước nhất định đều được diệt trừ, nhất định phát sinh lòng tin kính tăng thượng, thân cận cúng dường Như Lai Lô-chí, nhất định vónh viễn sẽ diệt trừ tất cả phiền não, thành A-la-hán, hoặc nhất định sẽ chứng đắc công đức thù thắng của môn Tam-ma-địa. Khi ấy, các chúng Thanh văn và Bồ-tát vui mừng lễ Phật, trở về chỗ cũ. Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Đại Bồ-tát Kim Cang Tạng: –Này thiện nam! Ta dùng Phật nhãn quán sát khắp thế gian thấy cõi Phật này vào đời vị lai có vô lượng, vô số trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa Sát-đế-lợi Chiên-trà-la, Tể quan Chiên-trà-la, Cư só Chiên-trà-la, Trưởng giả Chiên-trà-la, Sa-môn Chiên-trà-la, Bà-la-môn Chiên-trà-la, Phiệt-xá Chiên-trà-la, Mậu-đạt-la Chiên-trà-la, hoặc người nam, hoặc người nữ có gieo trồng chút ít căn lành, tuy được làm người mà theo bạn ác, phát sinh các tà kiến, làm các điều ác, phá hoại chính pháp thâm sâu vô thượng của ta. Đối với giáo pháp của ta giảng thuyết không làm hưng thịnh mà còn diệt đi sự hưng thịnh, không tin kính, ưa thích, hoặc đối với chính pháp tương ưng với Thanh văn thừa do ta thuyết ra thì phỉ báng, khinh chê, làm chướng ngại, ngăn che, không cho lưu truyền rộng rãi; hoặc đối với lời giảng thuyết chính pháp của ta tương ưng với Độc giác thừa thì phỉ báng, khinh chê, làm chướng ngại, ngăn che, không cho lưu truyền rộng rãi; hoặc đối với lời giảng thuyết chính pháp của ta tương ưng với Vô thượng thừa thì phỉ báng, khinh chê, làm chướng ngại, ngăn che, không cho lưu truyền rộng rãi; hoặc đối với các người xuất gia quy y ta, hoặc là bậc Pháp khí, hoặc chẳng phải bậc Pháp khí thì gây ra nhiều hành động sân giận, quở mắng, hủy nhục, chê trách, khinh khi, phỉ báng đủ cách, che giấu điều thiện, hiển bày việc ác của người, nói rộng ra cho đến khinh mạn, làm xúc não đủ cách. Các người này chẳng phải là pháp khí bậc Thánh, mà thật là ngu si ngã mạn tự cho mình là thông minh. Từ đây, sau khi qua đời đọa vào các đường ác, chịu vô lượng các khổ dữ dội, tột độ khó chịu nổi. Trải qua vô lượng trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa kiếp khó được trở lại thân người. Nói rộng như ở trước. Này thiện nam! Các chúng sinh như vậy thà ở trong đại địa ngục Vô gián chịu các khổ lớn, chứ không thọ lấy thân người hèn mọn, cao ngạo, kiêu mạn, theo bạn bè xấu ác mà tạo các nghiệp ác bất thiện để rồi trôi lăn trong sinh tử, khó có thể cứu vớt được, thường ở trong sinh tử mà chịu các đau khổ. Lúc bấy giờ, trong chúng hội có vô lượng, vô số hữu tình có trí tuệ lớn, rời khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ sát chân Phật, chắp tay hướng đến Phật, rơi lệ khóc mà bạch: –Bạch Thế Tôn! Con quán sát chúng sinh ở thế gian này tuy được thân người là khó nhưng xa lìa chính tín, xa lìa chính nguyện, xa lìa chính ý lạc, xa lìa chính kiến, xa lìa bạn tốt, xa lìa thời gian tốt, xa lìa chỗ ở tốt, xa lìa tịnh giới, xa lìa chính định, xa lìa chính tuệ. Các chúng sinh như vậy tuy được thân người khó nhưng do lực ngu si kiêu mạn nên tạo các tội nặng như đã nói ở trước, phỉ báng chính pháp của Đức Thế Tôn giảng thuyết, gây não hại đệ tử xuất gia của Đức Thế Tôn. Hôm nay, chúng con ở trước Đức Thế Tôn chí thành phát thệ nguyện chân chính: “Chúng con từ hôm nay trôi lăn trong sinh tử cho đến đời vị lai lúc chưa được giải thoát, nguyện không gặp duyên ác này, quyết định không tạo tội nặng như vậy. Hoàn toàn không phỉ báng chính pháp của chư Phật, cũng không làm não loạn các người xuất gia, quyết không khoét con mắt pháp của chúng sinh, cũng không đoạn diệt dòng giống Tam bảo. Nguyện xin Đức Thế Tôn thương xót chứng giám lời thệ nguyện này của chúng con.” Khi ấy, trong chúng hội lại có vô lượng trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa hữu tình thông minh, có trí tuệ rời khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ sát chân Phật, chắp tay cung kính thưa: –Bạch Thế Tôn! Nay chúng con đứng trước Đức Thế Tôn chí thành phát thệ nguyện chân chính: “Chúng con từ hôm nay trôi lăn trong sinh tử cho đến đời vị lai, lúc chưa được pháp nhẫn, trong khoảng thời gian đó nguyện thường không ở các ngôi vị đế vương; nguyện thường không ở các quả vị Tể quan. Nguyện thường không ở các quả vị Quốc sư; nguyện thường không làm trưởng nơi thành ấp, xóm làng, đồn bót canh gác; nguyện thường không làm các quả vị quân tướng nhân; nguyện thường không làm các quả vị thương; nguyện thường không làm chủ nơi miếu am thờ tự; nguyện thường không làm chủ quả vị Trưởng giả, Cư só, Sa-môn; nguyện thường không ở các quả vị sư trưởng; nguyện thường không ở các quả vị gia trưởng; nguyện thường không làm quả vị xử đoán các việc. Cho đến đời vị lai, lúc chưa được pháp nhẫn, nguyện thường không ở tất cả các ngôi vị giàu có tôn quý. Nếu chúng con ở các quả vị này thì đối với Phật pháp gọi là nhân duyên ác, tạo các tội nặng, hủy báng chính pháp của chư Phật giảng thuyết, gây não hại đệ tử xuất gia của chư Phật, ắt phải làm hư hoại con mắt pháp của chúng sinh, cũng làm tiêu diệt dòng giống Tam bảo, cũng làm não hại vô lượng hữu tình. Do đó nhất định sẽ đọa vào địa ngục Vô gián, lưu chuyển trong đường ác, khó có thời kỳ ra khỏi.” Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn thương xót chứng giám cho lời phát nguyện như vậy của chúng con. Lúc bấy giờ, tất cả đại chúng đến dự hội như: Trời, Rồng, Dược-xoa, Kiền-đạt-phược, Nhân phi nhân… đều rời khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ sát chân Phật, kêu gào, khóc lóc thảm khiết, chắp tay cung kính bạch: –Bạch Thế Tôn! Từ vô thỉ đến nay, chúng con trôi lăn trong sinh tử, ngu si kiêu mạn, tạo các nghiệp ác, hoặc tạo nghiệp ác về thân, hoặc tạo nghiệp ác về lời nói, hoặc tạo nghiệp ác về ý, tự mình làm hoặc dạy người khác làm, thấy nghe đều vui theo… Các tội ác như vậy, ngày nay chúng con ở trước Phật rất lấy làm hổ thẹn, phát lồ cầu xin sám hối, không dám che giấu, nguyện xin diệt trừ tất cả, từ nay trở đi, vónh viễn không dám phạm lại để phòng ngừa những tội lỗi về sau. (Nói như vậy đến lần thứ hai, lần thứ ba) Chúng con chí thành phát thệ nguyện chân chính: “Từ nay cho đến lúc sinh ra ở đời vị lai, trong khoảng thời gian đó thường nguyện không gặp các bạn ác, cũng nguyện không gặp các nhân duyên xấu ác. Giả sử có gặp thì nguyện không thuận theo, quyết định không tạo các nghiệp tội ác đã nói ở trước, chớ để chúng con chịu lấy khổ lâu dài.” Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn thương xót chứng giám cho lời phát nguyện như vậy của chúng con. Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn bảo tất cả đại chúng đến trong hội: –Lành thay, lành thay! Các ông đã thấy rõ về khổ sở đời sau, lo sợ mà phát lồ sám hối. Nay các ông muốn vượt qua dòng sinh tử rộng lớn, muốn vào thành Niết-bàn vô úy mà phát nguyện như vậy. Này thiện nam! Có mười pháp có thể làm cho Đại Bồ-tát được pháp nhẫn chính lộ vô tội. Mười pháp đó là: Này thiện nam! Nếu các Đại Bồ-tát nào không tham đắm nội thân, không tham đắm ngoại thân, không tham đắm nội ngoại thân, không tham đắm thân quá khứ, không tham đắm thân hiện tại, không tham đắm thân vị lai, đó là pháp thứ nhất có thể làm cho Đại Bồ-tát đạt được pháp nhẫn chính lộ vô tội. Này thiện nam! Các Đại Bồ-tát nào không tham đắm nội thoÏ, không tham đắm ngoại thọ, không tham đắm nội ngoại thọ, không tham đắm thọ quá khứ, không tham đắm thọ hiện tại, không tham đắm thọ vị lai, đó là pháp thứ hai có thể làm cho Đại Bồ-tát đạt được pháp nhẫn chính lộ vô tội. Này thiện nam! Các Đại Bồ-tát nào không tham đắm nội tưởng, không tham đắm ngoại tưởngï, không tham đắm nội ngoại tưởng, không tham đắm tưởng quá khứ, không tham đắm tưởng hiện tại, không tham đắm tưởng vị lai, đó là pháp thứ ba có thể làm cho Đại Bồ-tát đạt được pháp nhẫn chính lộ vô tội. Này thiện nam! Các Đại Bồ-tát nào không tham đắm nội hành, không tham đắm ngoại hành, không tham đắm nội ngoại hành, không tham đắm hành quá khứ, không tham đắm hành hiện tại, không tham đắm hành vị lai, đó là pháp thứ tư có thể làm cho Đại Bồ-tát đạt được pháp nhẫn chính lộ vô tội. Này thiện nam! Các Đại Bồ-tát nào không tham đắm nội thức, không tham đắm ngoại thức, không tham đắm nội ngoại thức, không tham đắm thức quá khứ, không tham đắm thức hiện tại, không tham đắm thức vị lai, đó là pháp thứ năm có thể làm cho Đại Bồ-tát đạt được pháp nhẫn chính lộ vô tội. Này thiện nam! Các Đại Bồ-tát nào không tham đắm đời này, đó gọi là pháp thứ sáu có thể làm cho Đại Bồ-tát đạt được pháp nhẫn chính lộ vô tội. Này thiện nam! Các Đại Bồ-tát nào không tham đắm đời khác, đó gọi là pháp thứ bảy có thể làm cho Đại Bồ-tát đạt được pháp nhẫn chính lộ vô tội. Này thiện nam! Các Đại Bồ-tát nào không tham đắm cõi dục, đó gọi là pháp thứ tám có thể làm cho Đại Bồ-tát đạt được pháp nhẫn chính lộ vô tội. Này thiện nam! Các Đại Bồ-tát nào không tham đắm cõi Sắc, đó gọi là pháp thứ chín có thể làm cho Đại Bồ-tát đạt được pháp nhẫn chính lộ vô tội Này thiện nam! Các Đại Bồ-tát nào không tham đắm cõi Vô sắc, đó gọi là pháp thứ mười có thể làm cho Đại Bồ-tát đạt được pháp nhẫn chính lộ vô tội Này thiện nam! Đó gọi là mười pháp có thể làm cho Đại Bồ-tát đạt được pháp nhẫn chính lộ vô tội. Khi Đức Thế Tôn giảng thuyết pháp này cho đại chúng, ở trong chúng hội có bảy mươi hai trăm ngàn câu-chi Đại Bồ-tát đồng một lúc chứng đắc pháp Nhẫn vô sinh. Lại có tám mươi bốn trăm ngàn na-dữu-đa Bồ-tát chứng đắc tùy thuận pháp nhẫn. Lại có vô lượng trăm ngàn Thanh văn vónh viễn đoạn diệt tất cả phiền não, thành bậc A-la-hán. Lại có trăm ngàn na-dữu-đa chúng sinh trước chưa phát tâm, nay phát tâm Vô thượng chính đẳng chính giác an trụ quả vị không thoái chuyển ở trí Như Lai. Lại có vô lượng, vô số chúng sinh trước chưa phát tâm, nay mới phát tâm Độc giác thừa. Lại có vô lượng, vô số chúng sinh trước chưa phát tâm, ngày nay mới phát tâm Thanh văn thừa. Bấy giờ, Thế Tôn lại bảo đại chúng: –Nếu các hữu tình đã đắc pháp nhẫn thì ta cho phép được ở ngôi vua Sát-đế-lợi quán đảnh, thọ hưởng tài nghiệp lớn và các quả vị tôn quý khác, các hữu tình khác thì không được. Bồ-tát Kim Cang Tạng bạch: –Bạch Thế Tôn! Nếu các hữu tình chưa đắc pháp nhẫn thì chắc chắn cho phép hay không chắc chắn cho phép họ được ở ngôi vua Sát-đế-lợi quán đảnh để thọ hưởng tài nghiệp lớn và các quả vị tôn quý khác? Thế Tôn nói: –Nếu các hữu tình chưa đắc pháp nhẫn mà có thực hành mười nghiệp thiện đạo, cũng khuyên chúng sinh thực hành thì ta cho phép họ được ở ngôi vua Sát-đế-lợi quán đảnh thọ hưởng tài nghiệp lớn và các quả vị tôn quý khác. Nếu các hữu tình chưa đắc pháp nhẫn, cũng không thực hành mười nghiệp thiện đạo và khuyên chúng sinh cũng đừng siêng năng thực hành, mà dùng thế lực mạnh để ở ngôi vua Sát-đế-lợi quán đảnh thọ hưởng tài nghiệp lớn và các quả vị giàu sang tôn quý Chiên-trà-la khác. Họ là hàng ngu si, kiêu mạn, phá rối, hủy hoại chính pháp thâm sâu của ta, muốn dập tắt ngọn đèn chính pháp, đoạn diệt dòng giống Tam bảo. Đối với chúng đệ tử xuất gia của ta thì làm não loạn đủ cách như: Đánh đập, tra khảo hình phạt, đoạt y bát, cơ nghiệp, tài sản của người, bắt hoàn tục, đóng thuế, đi quân dịch, hoặc trói nhốt trong lao ngục cho đến đoạn mạng sống. Đối với nghĩa lý chính pháp vi diệu do ta giảng thuyết thì phỉ báng khinh chê, làm chướng ngại, ngăn che, không cho lưu truyền rộng rãi, cướp đoạt vật của chùa và vật chúng Tăng. Những người như vậy đều sẽ đọa vào địa ngục Vô gián, chịu lấy các thứ khổ dữ dội, lưu chuyển trong các đường ác, khó có thời kỳ ra khỏi. Khi ấy, Bồ-tát Kim Cang Tạng lại thưa: –Bạch Thế Tôn! Đối với các hữu tình chưa được pháp nhẫn, cũng không thực hành mười nghiệp thiện đạo và khuyên chúng sinh cũng đừng siêng năng thực hành, mà dùng thế lực mạnh để ở ngôi vua Sát-đế-lợi quán đảnh thọ hưởng tài nghiệp lớn và các quả vị giàu sang tôn quý khác thì có chút ít biệt duyên nào để làm phương tiện cứu giúp cho người đó khỏi đọa vào địa ngục Vô gián và các đường ác, khỏi chịu các khổ không? Đức Thế Tôn bảo: –Cũng có biệt duyên để làm phương tiện cứu giúp họ, nghĩa là có chúng sinh ở ngôi vua Sát-đế-lợi quán đảnh và các quả vị giàu sang tôn quý khác, tuy chưa thành tựu mười nghiệp thiện đạo, pháp nhẫn, nhưng có sức tin, tôn kính Tam bảo, đối với chính pháp giải thoát tương ưng với ba thừa mà Phật giảng thuyết, cho đến một bài tụng, hoàn toàn không phỉ báng, không làm chướng ngại, ngăn che, không cản trở việc cho lưu truyền rộng rãi. Đối với các đệ tử xuất gia của Phật người trì giới hay phá giới, cho đến không có giới, chỉ cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, đều không làm não loạn, đánh đập, trách phạt, chiếm đoạt y bát, cơ nghiệp, tài sản của người, bắt hoàn tục, đóng thuế, đi quân dịch, trói nhốt trong lao ngục, cho đến đoạn mạng sống, cũng không chiếm đoạt vật của chùa, tháp và vật của Tăng chúng, ngăn cản, điều phục những người hung ác, không để cho họ làm não loạn các vị xuất gia, xâm đoạt tài vật Tam bảo. Đối với giáo pháp giải thoát tương ưng với ba thừa do Phật thuyết ra thì cung kính lãnh thọ, nghe rồi tinh tấn tu hành tùy pháp mà hành đúng pháp. Đối với các đệ tử Hiền thánh ba thừa của ta thì cung kính, cúng dường, thân cận, phụng sự. Ở trong Đại thừa lập thệ nguyện kiên cố, tâm hoàn toàn không nghi ngờ, thoái lui, cũng thường khuyên bảo, hướng dẫn chúng sinh tin thọ tu học pháp Đại thừa. Vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la này và các vị Chiên-trà-la phú quý khác, chư Phật quá khứ đều đã cho phép ở ngôi vị đế vương và các quả vị tôn quý khác, tuy thọ hưởng các tài nghiệp lớn của đất nước, thành ấp, xóm làng nhưng được thoát khỏi đọa vào địa ngục Vô gián và các đường ác khác. Ta cũng cho phép ở ngôi vị đế vương và các ngôi vị tôn quý khác, tuy được thọ hưởng tài nghiệp đất nước, thành ấp, xóm làng nhưng cũng khỏi đọa vào địa ngục Vô gián và các đường ác. Nếu các hữu tình muốn sám hối trừ diệt tất cả các nghiệp chướng ác, không còn sót lại thì đối với pháp môn do ta thuyết này nên chuyên cần tu học, chớ nên bỏ mất. Đại chúng ở đây nếu biết hổ thẹn, sám hối các nghiệp ác thì tất cả nghiệp ác đã tạo trong đời trước đều được tiêu trừ, không còn sót lại. KINH ĐẠI THỪA ĐẠI TẬP ĐỊA TẠNG THẬP LUÂN <卷 id="117270443">Quyển 8 <詞 id="117270444">Phẩm 6: Thiện nghiệp đạo (Phần 1) Lúc bấy giờ, Đại Bồ-tát Kim Cang Tạng bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát làm thế nào đối với Thanh văn thừa không bị lầm lạc? Làm thế nào đối với người theo Thanh văn thừa không bị lầm lạc? Làm thế nào đối với Độc giác thừa không bị lầm lạc? Làm thế nào đối với người theo Độc giác thừa không bị lầm lạc? Làm thế nào đối với Đại thừa không bị lầm lạc? Làm thế nào đối với người theo Đại thừa không bị lầm lạc? Làm thế nào để có thể hưng thịnh dòng giống Tam bảo? Làm thế nào đối với đệ tử xuất gia của chư Như Lai, hoặc là bậc Pháp khí, hoặc chẳng phải bậc Pháp khí, cho đến tất cả những người chỉ đắp một mảnh ca-sa, cạo bỏ râu tóc, không bị lầm lạc? Làm thế nào đối với pháp Đại thừa thường được tiến tới, không thoái lui? Làm thế nào phước tuệ thù thắng thường được tăng trưởng? Làm thế nào đối với tất cả các định, các Đà-la-ni, các nhẫn, các địa mau được tự tại, không thoái chuyển? Làm thế nào thường được gặp các Thiện tri thức và làm theo họ? Làm thế nào thường gặp tất cả chư Phật và các đệ tử Bồ-tát, Thanh văn, được nghe giáo pháp và thân cận cúng dường chúng Tăng? Làm thế nào đối với các căn lành thường tinh tấn mong cầu tâm không nhàm chán? Làm thế nào đối với các hạnh nguyện Bồ-đề tâm không biết chán mỏi? Lúc ấy, Thế Tôn bảo Đại Bồ-tát Kim Cang Tạng: –Này thiện nam! Đại Bồ-tát có mười luân, nếu Đại Bồ-tát nào thành tựu được mười luân này thì đối với Thanh văn thừa không bị lầm lạc, đối với người theo Thanh văn thừa không bị lầm lạc. Đối với Độc giác thừa không bị lầm lạc, đối với người theo Độc giác thừa không bị lầm lạc. Đối với Đại thừa không bị lầm lạc, đối với người theo Đại thừa không bị lầm lạc. Luôn làm hưng thịnh dòng giống Tam bảo. Đối với đệ tử xuất gia của chư Như Lai, hoặc là bậc Pháp khí, hoặc chẳng phải bậc Pháp khí, cho đến tất cả những người chỉ đắp một mảnh ca-sa, cạo bỏ râu tóc, đều không bị lầm lạc. Đối với pháp Đại thừa thường được tiến tới, không có thoái lui. Phước tuệ thù thắng thường được tăng trưởng. Đối với tất cả các định, các Đà-la-ni, các nhẫn, các địa đều mau được tự tại, không bị thoái chuyển. Thường được gặp các Thiện tri thức và làm theo họ. Thường được gặp tất cả chư Phật và các đệ tử, Bồ-tát, Thanh văn, được nghe giáo pháp và thân cận cúng dường chúng Tăng. Đối với các căn lành thường tinh tấn mong cầu tâm không nhàm chán. Đối với các hạnh nguyện Bồ-đề tâm luôn không nhàm chán. Thường dùng pháp trí của bậc Thánh vững chắc như kim cang để bẻ gãy tất cả nghiệp ác bất thiện đã tạo ra từ trước, làm cho tiêu diệt hết không còn sót lại, không thọ quả báo. Lại cũng không tạo các nghiệp ác bất thiện mới, không nhàm chán, mau chứng đắc pháp luân vô thượng. Thường khuyến tu tập bảy báu Giác phần không nhàm chán. Thường hay diệt trừ tất cả bệnh phiền não cho tất cả chúng sinh không mỏi mệt, tất cả chúng sinh nương vào đấy mà sống còn. Này thiện nam! Như vua Chuyển luân có đầy đủ bảy báu, khi ra đi có xe báu dẫn đường đi trước, các báu khác theo sau, xem xét bốn đại châu, có thể diệt trừ ô uế trong thân tâm của tất cả chúng sinh, có thể làm tăng trưởng thân tâm an lạc cho tất cả chúng sinh. Đại Bồ-tát cũng như vậy, khi thành tựu mười luân, đối với Thanh văn thừa không bị lầm lạc. Nói rộng ra cho đến tất cả chúng sinh nương vào đây mà sống còn. Này thiện nam! Ví như xe lớn có đầy đủ bốn bánh, chở được rất nhiều người chạy trên đường lớn. Trên con đường đó có khối đất, ngói, gạch, cỏ, cây, gốc rễ, cành lá, hoa quả đều bị bánh xe lăn qua, tất cả đều tan vỡ, không còn tác dụng. Đại Bồ-tát cũng như vậy, khi thành tựu mười luân có thể dẹp tan các phiền não chướng, các hữu tình chướng, tất cả pháp chướng, làm cho không thọ lấy quả báo. Này thiện nam! Ví như bánh xe kiếm bén vừa phóng tới là có thể chém đầu và các bộ phận thân thể kẻ địch, làm cho kẻ địch không còn hoạt động được. Đại Bồ-tát cũng như vậy, khi thành tựu mười luân, có thể phá tan tất cả khổ lớn sinh tử trong năm đường lao ngục, vónh viễn diệt trừ tất cả nghiệp ác phiền não, làm cho không thọ lấy quả báo. Này thiện nam! Ví như khi nạn hỏa khởi lên, năm mặt trời xuất hiện, khắp bốn đại châu tất cả sông biển, những nơi có nước đều khô cạn hết. Đại Bồ-tát cũng như vậy, khi thành tựu mười luân thì tất cả bốn nhân các phiền não chướng, các hữu tình chướng, nhất thiết pháp chướng, căn bản khổ báo đều khô cạn hết. Này thiện nam! Như phong tai khởi lên, bốn phương gió mạnh nổi lên đồng thời làm cho tất cả các núi lớn, nhỏ và đại địa khắp thế giới đều tan hoại hết. Đại Bồ-tát cũng như vậy, khi thành tựu mười luân thì các núi của bốn điên đảo, của kiêu mạn ở thế gian đều hoại diệt, tất cả các phiền não chướng, các hữu tình chướng, nhất thiết pháp chướng, căn bản khổ báo của chúng sinh cũng đều tiêu diệt. Này thiện nam! Như sư tử chúa rống lên một tiếng thì tất cả loài cầm thú đều kinh sợ, rụng rời bay đi, chạy trốn không dám động đậy. Đại Bồ-tát cũng như vậy, khi thành tựu mười luân, phát ra pháp âm làm chấn động, cho đến tất cả ngoại đạo, tà giáo, bạn ác đều sợ hãi, quên mất biện thuyết, không dám chống cự lại. Này thiện nam! Như Thiên đế Thích khi sắp đánh nhau với A-tố-lạc, quân của Thiên đế vây quanh, tay cầm kim cang tiến vào trận, các A-tố-lạc đều kinh sợ, bỏ chạy tán loạn. Đại Bồ-tát cũng như vậy, khi thành tựu mười luân thì tất cả ngoại đạo, tà giáo, tà kiến điên đảo, bạn ác đều kinh sợ bỏ chạy tán loạn. Này thiện nam! Như châu như ý treo trên cờ cao, có thể mưa xuống các loại châu báu tốt đẹp cung cấp cho tất cả người nghèo. Đại Bồ-tát cũng như vậy, khi thành tựu mười luân, ở trên cờ tịnh giới mưa pháp lớn cho tất cả vô lượng chúng sinh. Này thiện nam! Như đêm khuya tăm tối, không thấy gì nên dễ bị lạc đường, khi trăng tròn xuất hiện, bóng tối liền mất, những người lạc đường đều tìm thấy đường phải đi. Đại Bồ-tát cũng như vậy, khi thành tựu mười luân, nếu các chúng sinh vì vô minh mê mờ, mà quên mất tám chi Thánh đạo thì Bồ-tát tùy theo căn cơ mà thuyết pháp cho họ, làm cho họ trừ diệt vô minh mê mờ, phát sinh ánh sáng chính pháp, chỉ bày rõ tám chi Thánh đạo, làm cho đoạn trừ các lậu, dứt hết các khổ. Này thiện nam! Như khi mặt trời xuất hiện ở thế gian thì tất cả mầm lúa đều phát triển, tất cả hoa lá đều tươi tốt, tất cả các thứ hôi dơ đều tiêu trừ, các loại ngũ cốc, cây ăn quả, cây cỏ đều có kết quả, núi tuyết đều tan chảy, các sông đầy tràn, dần dần chảy ra biển làm đầy biển cả. Đại Bồ-tát cũng như vậy, khi thành tựu mười luân nương vào bố thí tăng thượng, điều phục, tịch tónh, trì giới, an nhẫn, tinh tấn, tónh lự, Bát-nhã, phương tiện Từ bi, biện tài, công đức thảy đều hưng thịnh, thuyết giảng chính pháp cho các chúng sinh. Do oai lực ánh sáng chính pháp, làm cho các mầm lúa căn lành tăng thượng của các chúng sinh đều phát triển, các hoa lá diệu hạnh tăng thượng đều tươi tốt, các thứ phiền não, nghiệp ác, hạnh ác đều tiêu trừ, các loài ngũ cốc, cây ăn trái, cây cỏ hướng đến Niết-bàn đều có kết quả. Các núi kiêu mạn, tà kiến đều tan chảy, các sông chính tín, giới, văn, xả, tuệ và các định đều tràn đầy, dần dần chảy đầy biển lớn Niết-bàn, làm cho các hữu tình tùy theo ý thích mà hướng đến thành trì Niết-bàn vô úy. Này thiện nam! Thế nào là mười luân của Đại Bồ-tát? Này thiện nam! Mười luân này chẳng phải pháp nào khác, nên biết đó là mười nghiệp đạo thiện. Nếu thành tựu mười luân này thì được gọi là Đại Bồ-tát, đối với tất cả điều ác đều có thể thoát khỏi, tất cả pháp thiện đều tùy ý được thành tựu, mau có thể làm đầy biển lớn Niết-bàn, dùng ánh sáng đại trí phương tiện thiện xảo để giáo hóa tất cả các loài chúng sinh, làm cho họ đều được lợi ích an lạc. Vì sao? Này thiện nam! Vì tất cả chư Phật Thế Tôn đời quá khứ đều xa lìa mười nghiệp ác đạo, đều khen ngợi tán thán mười nghiệp thiện đạo này nên được phước báo. Vì vậy, nếu có thể đối với mười nghiệp thiện đạo do ta thuyết ra mà giữ gìn cho đến khi qua đời, hoàn toàn không dám phạm thì chắc chắn sẽ được tất cả phước báo thù thắng như đã nói từ trước đến nay. Này thiện nam! Nếu Đại Bồ-tát nào có thể suốt đời xa lìa sát sinh, tức là ban cho các chúng sinh sự không kinh sợ, không sợ hãi, làm cho các chúng sinh không buồn khổ, không còn sợ hãi. Nhờ đó mà căn lành sẽ mau được thành tựu. Chúng sinh từ bao đời trước trôi lăn trong năm đường, chìm đắm trong biển sinh tử là do sát sinh. Thân, ngữ, ý tạo ra các chướng của nghiệp ác, các phiền não chướng, các hữu tình chướng, tất cả pháp chướng, các thọ mạng chướng, hoặc tự mình làm hay dạy người khác làm, hoặc thấy nghe đều đồng lòng vui vẻ. Do xa lìa luân sát sinh này nên chuyển đổi hết các hoặc nghiệp, không còn sót lại, không thọ quả báo. Ở đời này, được trời người thương mến, không lo nghó, thân tâm an lạc, được sống lâu. Khi lâm chung, thân tâm không bị buồn khổ, bức bách do sự luyến ái của vợ con quyến thuộc quấy nhiễu; cũng không bị vua Diêm-la quấy nhiễu làm cho sợ hãi, chỉ thấy điều vừa ý và là gặp bậc Thiện tri thức, phước điền chân thật, thành tựu thiện pháp, giới đức, thân tâm vui vẻ, phát sinh lòng tin kính sâu xa. Sau khi qua đời, sinh lại làm người thì các căn đầy đủ, thân thể vẹn toàn, sinh ra ở đâu cũng không có bệnh, sống lâu, được thân xinh đẹp, thông minh, được an ổn, hỷ lạc. Lại gặp điều vừa ý, là bậc Thiện tri thức, phước điền chân thật, thành tựu đầy đủ giới đức, nương theo vị ấy mà tu học, xa lìa sát sinh, có thể đoạn trừ tất cả pháp bất thiện, thành tựu tất cả pháp thiện thù thắng, mong cầu tất cả nghĩa pháp Đại thừa, có thể tu tất cả hạnh nguyện Bồ-tát, dần dần nhập vào biển trí mênh mông, cho đến chứng đắc đạo quả vô thượng: Sẽ được ở cõi Phật, xa lìa các binh khí, không có tên oán hại, đấu tranh; dứt hết các điều sợ hãi, được an ổn, hỷ lạc; tất cả đều không bệnh, sống lâu. Hữu tình như thế thì được sinh vào cõi nước ấy. Thọ mạng Như lai vô lượng, vô biên, nhưng vì các hữu tình mà tùy cơ thuyết pháp để sau khi nhập Niết-bàn, chính pháp tồn tại lâu dài, làm lợi ích an lạc cho vô lượng hữu tình. Này thiện nam! Đó gọi là luân thứ nhất xa lìa sát sinh của Đại Bồ-tát. Đại Bồ-tát nào thành tựu luân này, đối với Thanh văn thừa không bị lầm lạc, đối với người theo Thanh văn thừa không bị lầm lạc; đối với Độc giác thừa không bị lầm lạc, đối với người theo Độc giác thừa không bị lầm lạc; đối với Đại thừa không bị lầm lạc, đối với người theo Đại thừa không bị lầm lạc; luôn làm hưng thịnh dòng giống Tam bảo; đối với các đệ tử xuất gia của Như Lai, hoặc là bậc Pháp khí, hoặc chẳng phải là bậc Pháp khí, cho đến những người chỉ đắp một mảnh ca-sa, cạo bỏ râu tóc cũng đều không bị lầm lạc; ở trong pháp Đại thừa thường được tiến tới mà không bị thoái chuyển, phước tuệ thù thắng thường được tăng trưởng; đối với tất cả các định, các Đà-la-ni, các nhẫn, các Địa thì mau được tự tại, không bị thoái chuyển; thường được gặp bạn lành và tu tập theo; thường được gặp tất cả chư Phật cùng các đệ tử Thanh văn, Bồ-tát, được nghe pháp, thân cận cúng dường chúng Tăng; đối với các căn lành thường tinh tấn mong cầu không nhàm chán, thường phát tâm Bồ-đề, tu các hạnh nguyện không chán mỏi, được phước báo như đã nói rộng ở trước. Này thiện nam! Đại Bồ-tát nào có thể suốt đời xa lìa hành động của không cho mà lấy, tức là ban cho tất cả chúng sinh sự không kinh sợ, không sợ hãi, không phiền não, cũng không khuấy động, vui vẻ bằng lòng với tài lợi có được như pháp của mình, hoàn toàn không mong cầu tài lợi phi pháp. Do đó, căn lành sẽ mau được thành tựu. Chúng sinh từ bao đời trước trôi lăn trong năm đường, chìm đắm trong biển sinh tử là do tham lấy của không cho. Thân, ngữ, ý tạo ra các chướng của nghiệp ác, các phiền não chướng, các hữu tình chướng, tất cả pháp chướng, các tài bảo chướng, tự mình làm hay dạy người khác làm, thấy nghe đều tùy hỷ. Do xa lìa luân tham lấy của không cho này nên chuyển hết mọi hoặc nghiệp, không còn sót lại, không thọ quả báo. Ở đời này, được trời người thương mến, không lo nghó, thân tâm an lạc, tài bảo đầy đủ. Khi lâm chung, thân tâm không bị buồn khổ, bức bách do sự luyến ái của vợ con, quyến thuộc quấy nhiễu; cũng không bị vua Diêm-ma quấy nhiễu làm cho sợ hãi, mà chỉ thấy điều vừa y là gặp những vị Thiện tri thức, phước điền chân thật, thành tựu đầy đủ thiện pháp giới đức, thân tâm vui vẻ, phát sinh lòng tin kính sâu xa. Sau khi qua đời, sinh lại làm người thì các căn đầy đủ, thân thể vẹn toàn, sinh ra nơi nào cũng đầy đủ tài bảo, được thân xinh đẹp, thông minh, an ổn, hỷ lạc, tài bảo không thuộc về năm nhà, lại gặp điều vừa ý là gặp những vị Thiện tri thức, phước điền chân thật, thành tựu đầy đủ thiện pháp giới đức, nương theo vị ấy mà tu học, xa lìa nghiệp tham lấy của không cho, đoạn tất cả các pháp bất thiện, có thể thành tựu tất cả pháp thiện thù thắng, luôn mong cầu tất cả giáo nghĩa Đại thừa, tu tất cả hạnh nguyện Bồ-tát, dần dần nhập vào biển trí mênh mông, cho đến chứng đắc Bồ-đề vô thượng; Sẽ được ở cõi Phật, được trang nghiêm bằng các châu báu, cây báu, ao báu, đền đài báu đều đầy khắp, xa lìa ngã, ngã sở, không bị lệ thuộc gì, đầy đủ tất cả vật trang sức. Hữu tình như vậy thì được sinh vào cõi nước ấy. Thọ mạng Như lai vô lượng, nhưng vì các chúng sinh mà tùy cơ thuyết pháp để sau khi nhập Niết-bàn, chính pháp được tồn tại lâu dài ở đời, làm lợi ích an lạc cho vô lượng hữu tình. Này thiện nam! Đó gọi là luân thứ hai xa lìa không cho mà lấy của Đại Bồ-tát. Đại Bồ-tát nào thành tựu luân này, đối với Thanh văn thừa không bị lầm lạc, đối với người theo Thanh văn thừa không bị lầm lạc; đối với Độc giác thừa không bị lầm lạc, đối với người theo Độc giác thừa không bị lầm lạc; đối với Đại thừa không bị lầm lạc, đối với người theo Đại thừa không bị lầm lạc. Luôn làm hưng thịnh dòng giống Tam bảo; đối với các đệ tử xuất gia của Như Lai, hoặc là bậc Pháp khí, hoặc chẳng phải là bậc Pháp khí, cho đến những người chỉ đắp một mảnh ca-sa, cạo bỏ râu tóc, cũng đều không bị lầm lạc. Ở trong pháp Đại thừa thường được tiến tới mà không thoái chuyển, phước tuệ thù thắng thường được tăng trưởng; đối với tất cả các định, các Đà-la-ni, các nhẫn, các địa thì mau được tự tại, không bị thoái chuyển; thường được gặp bạn lành để tu tập theo; thường được gặp tất cả chư Phật cùng các đệ tử Thanh văn, Bồ-tát, được nghe pháp, thân cận, cúng dường chúng Tăng; đối với các căn lành thường tinh tấn mong cầu không nhàm chán, thường phát tâm Bồ-đề, tu các hạnh nguyện không chán mỏi, được phước báo như đã nói rộng ở trước. Này thiện nam! Đại Bồ-tát nào có thể trọn đời xa lìa tà hạnh ham muốn, tức là ban cho tất cả chúng sinh đang bị trôi nổi trong biển dục sự không lo sợ, không sợ hãi, không ghen ghét, không oán hại, không bị phiền não, cũng không quấy động, bằng lòng vui vẻ với vợ mình, hoàn toàn không mong cầu sắc dục phi pháp. Do đó, căn lành sẽ mau được thành thục. Chúng sinh từ bao đời trước trôi lăn trong năm đường, chìm đắm trong biển sinh tử là do tà hạnh ham muốn. Thân, ngữ, ý tạo ra các chướng của nghiệp ác, các phiền não chướng, các hữu tình chướng, tất cả pháp chướng và những chướng ngại về gia đình, tự mình làm hoặc dạy người khác làm, thấy nghe đều đồng lòng vui vẻ. Do xa lìa luân tà hạnh ham muốn này mà chuyển hóa hết các hoặc nghiệp, không còn sót lại, không thọ quả báo. Ở đời này, được trời người thương mến, không lo nghó, thân tâm được an lạc, thê thiếp trinh lương. Khi lâm chung, thân tâm không bị buồn khổ bức bách vì sự luyến ái của vợ con, quyến thuộc quấy nhiễu; cũng không bị vua Diêm-ma quấy nhiễu làm cho sợ hãi, mà chỉ thấy những điều vừa ý và những vị đầy đủ giới, phước đức, thành thục các pháp thiện, là ruộng phước chân thật làm bạn lành, thân tâm vui vẻ, pháp sinh lòng tin kính sâu xa. Sau khi qua đời, sinh lại làm người thì các căn đầy đủ, thân thể vẹn toàn, sinh ra nơi nào cũng đầy đủ các quyến thuộc xinh đẹp thông minh, được an ổn hỷ lạc. Lại gặp điều vừa ý là gặp những vị Thiện tri thức, phước điền chân thật, thành tựu đầy đủ thiện pháp giới đức, nương theo vị ấy mà tu học, xa lìa tà hạnh ham muốn, đoạn trừ tất cả pháp ác, có thể thành tựu tất cả pháp thiện thù thắng, mong cầu tất cả giáo nghĩa Đại thừa, có thể tu tất cả hạnh nguyện Bồ-tát, dần dần nhập vào biển trí mênh mông, cho đến chứng đắc quả Bồ-đề vô thượng, sẽ được ở cõi Phật, không có người nữ, xa lìa dâm dục, đầy đủ phạm hạnh đệ nhất. Hữu tình như thế thì đến sinh đến ở cõi nước ấy, tất cả hữu tình đều do hóa sinh, không ở trong bào thai hôi hám dơ bẩn. Thọ mạng Như lai vô lượng, vô biên, nhưng vì các hữu tình mà tùy cơ thuyết pháp, để sau khi nhập Niết-bàn, chính pháp được trụ lâu ở đời, làm lợi ích an lạc cho vô lượng hữu tình. Này thiện nam! Đó gọi là luân thứ ba xa lìa ham muốn tà hạnh của Đại Bồ-tát. Đại Bồ-tát nào thành tựu luân này thì đối với Thanh văn thừa không bị lầm lạc, đối với người theo Thanh văn thừa không bị lầm lạc; đối với Độc giác thừa không bị lầm lạc, đối với người theo Độc giác thừa không bị lầm lạc; đối với Đại thừa không bị lầm lạc, đối với người theo Đại thừa không bị lầm lạc. Luôn làm hưng thịnh dòng giống Tam bảo; đối với các đệ tử xuất gia của Như Lai, hoặc là bậc Pháp khí, hoặc chẳng phải là bậc Pháp khí, cho đến những người chỉ đắp một mảnh ca-sa, cạo bỏ râu tóc cũng đều không bị lầm lạc. Ở trong pháp Đại thừa thường được tiến tới mà không bị thoái chuyển, phước tuệ thù thắng thường được tăng trưởng; đối với tất cả các định, các Đà-la-ni, các nhẫn, các địa thì mau được tự tại, không bị thoái chuyển; thường được gặp các bạn lành để tu tập theo; thường được gặp tất cả chư Phật cùng các đệ tử Thanh văn, Bồ-tát, được nghe pháp, thân cận, cúng dường chúng Tăng. Đối với các căn lành thường tinh tấn mong cầu không nhàm chán, thường phát tâm Bồ-đề, tu các hạnh nguyện không chán mỏi, được phước báo như đã nói rộng ở trước. Lại nữa, này thiện nam! Nếu Đại Bồ-tát nào có thể suốt đời xa lìa lời nói dối thì được tất cả chúng sinh kính mến, lời nói ra đều thành thật, người nghe đều tin kính, không nghi ngờ. Do đó, căn lành sẽ mau được thành thục. Chúng sinh từ bao đời trước trôi lăn trong năm đường, chìm đắm trong biển sinh tử là do nói dối. Thân, ngữ, ý tạo ra các chướng của nghiệp ác, các phiền não chướng, các hữu tình chướng, tất cả pháp chướng, làm chướng ngại sự tin tưởng vào lời nói, tự mình làm hay dạy người khác làm, thấy nghe đều đồng lòng vui vẻ. Do xa lìa luân nói dối này nên chuyển hóa hết các hoặc nghiệp, không còn sót lại, không thọ quả báo. Ngay trong đời này, được trời người thương mến, không lo nghó, thân tâm an lạc, lời nói ra được mọi người tin theo. Khi lâm chung, thân tâm không bị buồn khổ bức bách do sự luyến ái của vợ con, quyến thuộc quấy nhiễu; cũng không bị vua Diêm-ma quấy nhiễu làm cho sợ hãi, mà chỉ thấy những điều vừa ý và làm bậc Thiện tri thức, phước điền chân thật, thành tựu đầy đủ thiện pháp giới đức, thân tâm vui vẻ, phát sinh lòng tin kính sâu xa. Sau khi qua đời, sinh lại làm người thì các căn đầy đủ, thân thể vẹn toàn, sinh ra ở đâu cũng nói lời thành thật, được thân xinh đẹp, thông minh, an ổn hỷ lạc. Lại gặp điều vừa ý và làm bậc Thiện tri thức, phước điền chân thật, thành tựu đầy đủ thiện pháp giới đức, nương theo vị ấy mà tu học, xa lìa lời nói dối, đoạn trừ tất cả pháp ác, có thể thành tựu tất cả pháp thiện thù thắng, mong cầu tất cả giáo nghĩa Đại thừa, có thể tu tất cả hạnh nguyện Bồ-tát, dần dần nhập vào biển trí sâu rộng, cho đến chứng đắc quả Bồ-đề vô thượng, sẽ được ở cõi Phật, mọi thứ đều chân thật, xa lìa sự dối trá, được trang nghiêm bằng các loại hương thơm, các vật tinh khiết, không dua nịnh, không dối gạt, tâm hạnh chân chính, mong cầu các pháp thiện thuần tịnh. Hữu tình như thế thì sinh vào cõi nước ấy, được trang nghiêm bằng các loại hương thơm, y phục đẹp, đồ trang sức báu. Thọ mạng Như lai vô lượng, vô biên, nhưng vì các hữu tình mà tùy cơ thuyết pháp, để sau khi nhập Niết-bàn, chính pháp được trụ lâu ở đời, làm lợi ích an lạc cho vô lượng hữu tình. Này thiện nam! Đó gọi là luân thứ tư xa lìa lời nói dối của Đại Bồ-tát. Đại Bồ-tát nào thành tựu luân này, đối với Thanh văn thừa không bị lầm lạc, đối với người theo Thanh văn thừa không bị lầm lạc; đối với Độc giác thừa không bị lầm lạc, đối với người theo Độc giác thừa không bị lầm lạc; đối với Đại thừa không bị lầm lạc, đối với người theo Đại thừa không bị lầm lạc. Luôn làm hưng thịnh dòng giống Tam bảo; đối với các đệ tử xuất gia của Như Lai, hoặc là bậc Pháp khí, hoặc chẳng phải là bậc Pháp khí, cho đến những vị chỉ đắp một mảnh ca-sa, cạo bỏ râu tóc cũng đều không bị lầm lạc. Ở trong pháp Đại thừa thường được tiến tới mà không bị thoái chuyển, phước tuệ thù thắng thường được tăng trưởng; đối với tất cả các định, các Đà-la-ni, các nhẫn, các địa thì mau được tự tại, không bị thoái chuyển, thường được gặp các bạn lành để tu tập theo; thường được gặp tất cả chư Phật cùng các đệ tử Thanh văn, Bồ-tát, được nghe pháp, thân cận, cúng dường chúng Tăng; đối với các căn lành thường tinh tấn mong cầu không nhàm chán, thường phát tâm Bồ-đề, tu các hạnh nguyện không chán mỏi, được phước báo như đã nói rộng ở trước. Lại nữa, này thiện nam! Đại Bồ-tát nào có thể suốt đời xa lìa lời nói ly gián thì được tất cả mọi người kính mến, lời nói ra đều làm cho hòa thuận, người nghe đều tin kính, không nghi ngờ. Do đó căn lành sẽ mau được thành thục. Chúng sinh từ bao đời trước trôi lăn trong năm đường, chìm đắm trong biển sinh tử là do nói lời ly gián. Thân, ngữ, ý tạo ra các chướng của nghiệp ác, các phiền não chướng, các hữu tình chướng, tất cả pháp chướng, làm chướng ngại sự hòa kính, tự mình làm hay dạy người khác làm, thấy nghe đều đồng lòng vui vẻ. Do xa lìa luân nói ly gián này nên chuyển hóa hết mọi hoặc nghiệp, không còn sót lại, không thọ quả báo. Ở đời này, được trời người thương mến, không lo nghó, thân tâm an lạc, lời nói nào cũng làm cho hòa thuận. Khi lâm chung, thân tâm không bị buồn khổ bức bách bởi sự luyến ái của vợ con, quyến thuộc quấy nhiễu; cũng không bị vua Diêm-ma quấy nhiễu làm cho sợ hãi, mà chỉ thấy những điều vừa ý và gặp bậc Thiện tri thức, phước điền chân thật, thành tựu đầy đủ thiện pháp giới đức, thân tâm vui vẻ, phát sinh lòng tin kính sâu xa. Sau khi qua đời, sinh lại làm người thì các căn đầy đủ, thân thể vẹn toàn, sinh ra nơi nào cũng nói lời hòa thuận, đẹp đẽ, thông minh, được an ổn hỷ lạc. Lại gặp điều vừa ý, gặp bậc Thiện tri thức, phước điền chân thật, thành tựu đầy đủ thiện pháp giới đức, nương theo vị ấy mà tu học, xa lìa lời nói ly gián, có thể đoạn hết các pháp ác, thành tựu mọi pháp thiện thù thắng, mong cầu tất cả giáo nghĩa Đại thừa, có thể tu tất cả hạnh nguyện Bồ-tát, dần dần nhập vào biển trí sâu rộng, cho đến chứng đắc quả Bồ-đề vô thượng, sẽ được ở cõi Phật, tất cả đều kiên cố, khó có thể phá hoại, được trang nghiêm bằng các vật tốt đẹp, không chống trái, không cạnh tranh, khéo hòa hợp các cuộc tranh tụng, mong cầu các pháp thiện chân thật. Hữu tình như thế thì đến sinh vào cõi nước ấy, thường tu pháp hòa kính, lắng nghe chính pháp. Thọ mạng Như lai vô lượng, nhưng vì các hữu tình mà tùy cơ thuyết pháp, để sau khi nhập Niết-bàn, chính pháp được trụ lâu ở đời, làm lợi ích an lạc cho vô lượng hữu tình. Này thiện nam! Đó gọi là luân thứ năm xa lìa lời nói ly gián của Đại Bồ-tát. Đại Bồ-tát nào thành tựu luân này, đối với Thanh văn thừa không bị lầm lạc, đối với người theo Thanh văn thừa không bị lầm lạc; đối với Độc giác thừa không bị lầm lạc, đối với người theo Độc giác thừa không bị lầm lạc; đối với Đại thừa không bị lầm lạc, đối với người theo Đại thừa không bị lầm lạc. Luôn làm hưng thịnh dòng giống Tam bảo; đối với các đệ tử xuất gia của Như Lai, hoặc là bậc Pháp khí, hoặc chẳng phải là bậc Pháp khí, cho đến những vị chỉ đắp một mảnh ca-sa, cạo bỏ râu tóc đều không bị lầm lạc. Ở trong pháp Đại thừa thường được tiến tới mà không thoái chuyển, phước tuệ thù thắng thường được tăng trưởng; đối với tất cả các định, các Đà-la-ni, các nhẫn, các địa thì mau được tự tại, không bị thoái chuyển; thường được gặp các bạn lành để tu tập theo; thường được gặp tất cả chư Phật và các đệ tử Thanh văn, Bồ-tát, được nghe pháp, thân cận, cúng dường chúng Tăng; đối với các căn lành thường tinh tấn mong cầu không nhàm chán, thường phát tâm Bồ-đề, tu các hạnh nguyện mà không chán mỏi, được phước báo như đã nói rộng ở trước. Lại nữa, này thiện nam! Đại Bồ-tát nào có thể suốt đời xa lìa lời nói thô ác thì được mọi người thương mến, lời nói ra đều làm cho vui vẻ, ai nghe cũng tin kính, không nghi ngờ. Do đó căn lành sẽ mau được thành thục. Chúng sinh từ bao đời trước trôi lăn trong năm đường, chìm đắm trong biển sinh tử là do lời nói thô ác. Thân, ngữ, ý tạo ra các chướng của nghiệp ác, các phiền não chướng, các hữu tình chướng, tất cả pháp chướng, làm chướng ngại lời nói nhu hòa, tự mình làm hay dạy người khác làm, thấy nghe đều một lòng vui vẻ. Do xa lìa luân nói thô ác này nên chuyển hóa hết mọi hoặc nghiệp, không còn sót lại, không thọ quả báo. Ở đời này, được trời người kính mến, không lo nghó, thân tâm an lạc, lời nói ra đều làm cho người vui vẻ. Khi lâm chung, thân tâm không bị buồn khổ bức bách do sự luyến ái của vợ con, quyến thuộc quấy nhiễu, cũng không bị vua Diêm-ma quấy nhiễu làm cho sợ hãi, mà chỉ thấy những điều vừa ý và là gặp những vị Thiện tri thức, phước điền chân thật, thành tựu đầy đủ thiện pháp giới đức, thân tâm vui vẻ, phát sinh lòng tin kính sâu xa. Sau khi qua đời, sinh lại làm người thì các căn đầy đủ, thân thể vẹn toàn, sinh ra nơi nào cũng nói lời nhu hòa, thân xinh đẹp, thông minh, được an ổn hỷ lạc. Lại gặp điều vừa ý, là gặp những vị Thiện tri thức, phước điền chân thật, thành tựu đầy đủ thiện pháp giới đức, nương theo vị ấy mà tu học, xa lìa lời nói thô ác, có thể đoạn hết các pháp ác, thành tựu tất cả pháp thiện thù thắng, mong cầu tất cả giáo nghĩa Đại thừa, có thể tu tất cả hạnh nguyện Bồ-tát, dần dần nhập vào biển trí sâu rộng, cho đến chứng đắc quả Bồ-đề vô thượng, sẽ được ở cõi Phật, xa lìa tất cả âm thanh không vừa ý, lại có các âm thanh thượng diệu, như ý, hòa nhã, âm thanh của âm nhạc, âm thanh của sự kiết tập kinh điển vang khắp cõi nước ấy, có đầy đủ phạm âm niệm tuệ trong suốt, nhu hòa. Hữu tình như thế thì sinh đến ở cõi nước đó, thường dùng lời nói hòa nhã để sách tấn nhau. Thọ mạng Như lai vô lượng, nhưng vì các hữu tình mà tùy cơ thuyết pháp, để sau khi nhập Niết-bàn, chính pháp được trụ lâu ở đời, làm lợi ích an lạc cho vô lượng hữu tình. Này thiện nam! Đó gọi là luân thứ sáu xa lìa lời nói thô ác của Đại Bồ-tát. Đại Bồ-tát nào thành tựu luân này, đối với Thanh văn thừa không bị lầm lạc, đối với người theo Thanh văn thừa không bị lầm lạc; đối với Độc giác thừa không bị lầm lạc, đối với người theo Độc giác thừa không bị lầm lạc; đối với Đại thừa không bị lầm lạc, đối với người theo Đại thừa không bị lầm lạc. Luôn làm hưng thịnh dòng giống Tam bảo; đối với các đệ tử xuất gia của Như Lai, hoặc là bậc Pháp khí, hoặc chẳng phải là bậc Pháp khí, cho đến những vị chỉ đắp một mảnh ca-sa, cạo bỏ râu tóc đều không bị lầm lạc. Ở trong pháp Đại thừa thường được tiến tới, không bị thoái chuyển, phước tuệ thù thắng thường được tăng trưởng; đối với tất cả các định, các Đà-la-ni, các nhẫn, các địa thì mau được tự tại, không bị thoái chuyển; thường được gặp các bạn lành để tu tập theo; thường được gặp tất cả chư Phật và các đệ tử Thanh văn, Bồ-tát, được nghe pháp, thân cận, cúng dường chúng Tăng; đối với các căn lành thường tinh tấn mong cầu không nhàm chán, thường phát tâm Bồ-đề, tu các hạnh nguyện mà không chán mỏi, được phước báo như đã nói rộng ở trước. Lại nữa, này thiện nam! Đại Bồ-tát nào có thể suốt đời xa lìa lời nói tạp uế thì được mọi người kính mến, lời nói ra đều có ý nghĩa, ai nghe cũng tin kính, không nghi ngờ. Do đó, căn lành sẽ mau được thành tựu. Chúng sinh từ bao đời trước trôi lăn trong năm đường, chìm đắm trong biển sinh tử là do lời nói tạp uế. Thân, ngữ, ý tạo ra các chướng của nghiệp ác, các phiền não chướng, các hữu tình chướng, tất cả pháp chướng, làm chướng ngại lời nói có ý nghĩa, tự mình làm hay dạy người khác làm, thấy nghe đều đồng lòng vui vẻ. Do xa lìa luân nói tạp uế này nên chuyển hóa hết mọi hoặc nghiệp, không còn sót lại, không thọ quả báo. Ở đời này, được trời người kính mến, không lo nghó, thân tâm an lạc, lời nói ra đều có ý nghĩa. Khi lâm chung, thân tâm không bị buồn khổ bức bách do sự luyến ái của vợ con, quyến thuộc quấy nhiễu, cũng không bị vua Diêm-ma quấy nhiễu làm cho sợ hãi, mà chỉ thấy những điều vừa ý, gặp những vị phước điền chân thật, là bậc Thiện tri thức, thành tựu đầy đủ thiện pháp, giới đức, thân tâm vui vẻ, phát sinh lòng tin kính sâu xa. Sau khi qua đời, sinh lại làm người, các căn đầy đủ, thân thể vẹn toàn, sinh ra ở đâu cũng nói lời có ích, thân xinh đẹp, thông minh, được an ổn hỷ lạc. Lại gặp điều vừa ý, gặp những vị phước điền chân thật, là bậc Thiện tri thức, thành tựu đầy đủ thiện pháp, giới đức, nương theo vị ấy mà tu học, xa lìa lời nói tạp uế, có thể đoạn hết các pháp ác, thành tựu tất cả pháp thiện thù thắng, cầu học mọi giáo nghĩa Đại thừa, tu tập tất cả hạnh nguyện Bồ-tát, dần dần nhập vào biển trí sâu rộng, cho đến chứng đắc quả Bồ-đề vô thượng, sẽ được ở cõi Phật, xa lìa tất cả âm thanh không có ý nghĩa, mà lại có các âm thanh giảng pháp vi diệu của Bồ-tát vang khắp cả nước ấy, thành tựu vô biên đại nguyện, diệu trí, có khả năng giảng thuyết tốt các giáo nghĩa của chính pháp. Hữu tình như vậy đến sinh ở cõi nước ấy. Thọ mạng Như lai vô lượng, nhưng vì các hữu tình mà tùy cơ thuyết pháp, để sau khi nhập Niết-bàn, chính pháp được trụ lâu ở đời, làm lợi ích an lạc cho vô lượng hữu tình. Này thiện nam! Đó gọi là luân thứ bảy xa lìa lời nói tạp uế của Đại Bồ-tát. Đại Bồ-tát nào thành tựu luân này, đối với Thanh văn thừa không bị lầm lạc, đối với người theo Thanh văn thừa không bị lầm lạc; đối với Độc giác thừa không bị lầm lạc, đối với người theo Độc giác thừa không bị lầm lạc; đối với Đại thừa không bị lầm lạc, đối với người theo Đại thừa không bị lầm lạc. Luôn làm hưng thịnh dòng giống Tam bảo; đối với các đệ tử xuất gia của Như Lai, hoặc là bậc Pháp khí, hoặc chẳng phải là bậc Pháp khí, cho đến những vị chỉ đắp một mảnh ca-sa, cạo bỏ râu tóc đều không bị lầm lạc. Ở trong pháp Đại thừa thường được tiến tới mà không bị thoái chuyển, phước tuệ thù thắng thường được tăng trưởng, đối với tất cả các định, các Đà-la-ni, các nhẫn, các địa thì mau được tự tại, không bị thoái chuyển; thường được gặp các bạn lành để tu tập theo; thường được gặp tất cả Phật và các đệ tử Thanh văn, Bồ-tát, được nghe pháp, thân cận, cúng dường chúng Tăng; đối với các căn lành thường tinh tấn mong cầu không nhàm chán, thường phát tâm Bồ-đề, tu các hạnh nguyện mà không chán mỏi, được phước báo như đã nói rộng ở trước. Lại nữa, này thiện nam! Đại Bồ-tát nào có thể suốt đời xa lìa tham dục thì được tất cả mọi người kính mến, tâm được thanh tịnh, xa lìa mọi cấu nhiễm. Do đó, căn lành sẽ mau được thành tựu. Chúng sinh từ bao đời trước trôi lăn trong năm đường, chìm đắm trong biển sinh tử là do tham dục. Thân, ngữ, ý tạo ra các chướng của nghiệp ác, các phiền não chướng, các hữu tình chướng, tất cả pháp chướng, làm chướng ngại sự không tham, tự mình làm hay dạy người khác làm, thấy nghe đều một lòng vui vẻ. Do xa lìa luân tham dục này nên chuyển hóa hết mọi hoặc nghiệp, không còn sót lại, không thọ quả báo. Ở đời này, được trời người kính mến, không lo nghó, thân tâm an lạc, thanh tịnh, lìa các cấu nhiễm. Khi lâm chung, thân tâm không bị buồn khổ bức bách do sự luyến ái của vợ con, quyến thuộc quấy nhiễu; cũng không bị vua Diêm-ma quấy nhiễu làm cho sợ hãi, mà chỉ thấy những điều vừa ý, gặp những vị phước điền chân thật, là bậc Thiện tri thức, thành tựu đầy đủ thiện pháp, giới đức, thân tâm vui vẻ, phát sinh lòng tin kính sâu xa. Sau khi qua đời, sinh lại làm người thì các căn đầy đủ, thân thể vẹn toàn, sinh ra nơi nào tâm cũng được thanh tịnh, xa lìa mọi cấu nhiễm, được xinh đẹp, thông minh, được an ổn hỷ lạc. Lại gặp điều vừa ý, gặp những vị phước điền chân thật, là bậc Thiện tri thức, thành tựu đầy đủ thiện pháp, giới đức, nương theo vị ấy mà tu học, xa lìa tham dục, có thể đoạn trừ hết các pháp ác, thành tựu tất cả pháp thiện thù thắng, có thể mong cầu mọi giáo nghĩa Đại thừa, có thể tu tập tất cả hạnh nguyện Bồ-tát, dần dần nhập vào biển trí sâu rộng, cho đến chứng đắc quả Bồ-đề vô thượng, sẽ được ở cõi Phật, mặt đất bằng phẳng như lòng bàn tay, đầy dẫy các châu báu, được trang nghiêm bắng các hàng cây báu, các y phục báu, đồ trang sức báu, cờ lọng báu, các cây giăng lưới báu bằng vàng bạc, trân châu ở khắp nơi thật là ưa thích. Lại xa lìa kiêu mạn, dung mạo xinh đẹp, các căn đầy đủ, tâm bình đẳng. Chúng sinh như thế thì đến sinh vào cõi nước đó, không tham lam, được trang nghiêm bằng đầy đủ các công đức. Thọ mạng Như lai vô lượng, nhưng vì các hữu tình mà tùy cơ thuyết pháp, để sau khi nhập Niết-bàn, chính pháp được trụ lâu ở đời, làm lợi ích an lạc cho vô lượng hữu tình. Này thiện nam! Đó gọi là luân thứ tám xa lìa tham dục của Đại Bồ-tát. Đại Bồ-tát nào thành tựu luân này, đối với Thanh văn thừa không bị lầm lạc, đối với người theo Thanh văn thừa không bị lầm lạc; đối với Độc giác thừa không bị lầm lạc, đối với người theo Độc giác thừa không bị lầm lạc; đối với Đại thừa không bị lầm lạc, đối với người theo Đại thừa không bị lầm lạc. Luôn làm hưng thịnh dòng giống Tam bảo; đối với các đệ tử xuất gia của Như Lai, hoặc là bậc Pháp khí, hoặc chẳng phải là bậc Pháp khí, cho đến những vị chỉ đắp một mảnh ca-sa, cạo bỏ râu tóc đều không bị lầm lạc. Ở trong pháp Đại thừa thường được tiến tới, không bị thoái chuyển, phước tuệ thù thắng thường được tăng trưởng; đối với tất cả các định, các Đà-la-ni, các nhẫn, các địa thì mau được tự tại, không bị thoái chuyển; thường được gặp các bạn lành để tu tập theo; thường được gặp tất cả Phật và các đệ tử Thanh văn, Bồ-tát, được nghe pháp, thân cận, cúng dường chúng Tăng; đối với các căn lành thường tinh tấn mong cầu không nhàm chán, thường phát tâm Bồ-đề, tu các hạnh nguyện mà không chán mỏi, được phước báo như đã nói rộng ở trước. KINH ĐẠI THỪA ĐẠI TẬP ĐỊA TẠNG THẬP LUÂN <卷 id="117270445">Quyển 9 <詞 id="117270446">Phẩm 6: Thiện Nghiệp Đạo (Phần 2) Lại nữa, này thiện nam! Nếu Đại Bồ-tát nào có thể suốt đời xa lìa sân hận thì được tất cả chúng sinh thương yêu, tâm vị ấy thanh tịnh, lìa hết mọi cấu uế. Do đó, căn lành sẽ dần dần được thành tựu. Chúng sinh từ bao đời trước trôi lăn trong năm đường, chìm đắm mãi trong biển sinh tử luân hồi là do sân hận tạo nên. Thân, miệng, ý tạo ra không biết bao nhiêu các chướng của nghiệp ác, các phiền não chướng, các hữu tình chướng, tất cả pháp chướng và vô minh chướng, tự mình làm hay dạy người khác làm, thấy nghe đều một lòng vui vẻ. Do xa lìa luân sân hận này nên chuyển hóa hết mọi hoặc nghiệp, không còn sót lại, không thọ quả báo. Ở đời này, được trời người thương mến, không còn lo nghó. Tâm vị ấy thanh tịnh, lìa mọi cấu uế, nên khi lâm chung, thân tâm không bị buồn khổ bức bách do sự luyến ái của vợ con, quyến thuộc quấy nhiễu; cũng không bị vua Diêm-ma quấy nhiễu làm cho sợ hãi, mà chỉ thấy những điều vừa ý thành tựu đầy đủ giới đức thiện pháp, làm bậc Thiện tri thức, phước điền chân thật, thân tâm vui vẻ, phát sinh lòng tin kính sâu xa. Sau khi qua đời, sinh lại làm người thì các căn đầy đủ, thân thể vẹn toàn, sinh ra ở đâu tâm người ấy cũng được thanh tịnh, xa lìa mọi cấu uế, thân lại được xinh đẹp, thông minh, gặp mọi điều an ổn hỷ lạc. Lại gặp được những điều vừa ý thành tựu đầy đủ giới đức thiện pháp, làm bậc Thiện tri thức, phước điền chân thật, nương theo đó mà tu học, xa lìa các pháp sân hận. Như thế mới có thể đoạn trừ hết các pháp ác, thành tựu tất cả pháp thiện thù thắng. Vị ấy có thể tìm cầu tất cả giáo nghĩa Đại thừa, có thể tu tập tất cả hạnh nguyện Bồ-tát, dần dần nhập vào biển trí mênh mông, cho đến chứng đắc quả Bồ-đề vô thượng, sẽ được ở cõi Phật, xa lìa hết các uế trược, như gió, mây, uất khí, bụi trần cùng các vật dơ xấu, được các châu báu trang nghiêm, rất là ưa thích. Tâm không còn kiêu mạn, dung mạo đoan chính, uy nghiêm, các căn không thiếu khuyết, tâm thường tịch tónh. Các hữu tình như vậy thì được sinh vào cõi nước đó, được trang nghiêm đầy đủ bằng các công đức Từ bi. Thọ mạng Như lai vô lượng, nhưng vì các hữu tình mà tùy cơ thuyết pháp, để sau khi nhập Niết-bàn, chính pháp được trụ lâu ở đời, làm lợi ích an lạc cho vô lượng hữu tình. Này thiện nam! Đó gọi là luân thứ chín xa lìa sân giận của Đại Bồ-tát. Đại Bồ-tát nào thành tựu luân này, đối với Thanh văn thừa không còn lầm lạc, đối với người theo Thanh văn thừa không còn lầm lạc; đối với Độc giác thừa không còn lầm lạc, đối với người theo Độc giác thừa không còn lầm lạc; đối với Đại thừa không còn lầm lạc, đối với người theo Đại thừa không còn lầm lạc. Luôn làm hưng thịnh dòng giống Tam bảo; đối với các đệ tử xuất gia của Như Lai, hoặc là bậc Pháp khí, hoặc chẳng phải là bậc Pháp khí, cho đến những vị chỉ đắp một mảnh ca-sa, cạo bỏ râu tóc đều không còn lầm lạc. Ở trong pháp Đại thừa thường được tiến tới mà không có thoái chuyển, phước tuệ thù thắng thường được tăng trưởng; đối với tất cả các định, các Đà-la-ni, các nhẫn, các địa thì mau được tự tại, không có thoái chuyển; thường được gặp các bạn lành để cùng tùy thuận tu hành theo; thường được thấy tất cả chư Phật và các đệ tử Thanh văn, Bồ-tát; thường được nghe giáo pháp, được gần gũi cúng dường chúng Tăng; đối với các căn lành thường tinh tấn mong cầu mà tâm không nhàm chán, thường phát tâm Bồ-đề, tu các hạnh nguyện mà không hề chán mỏi. Các quả báo đạt được như đã nói rộng ở trước. Lại nữa, này thiện nam! Nếu Đại Bồ-tát nào có thể trọn đời xa lìa các tà kiến thì được tất cả chúng sinh thương yêu, tâm vị ấy được thanh tịnh, xa lìa mọi sự phân biệt, tà vọng. Do đó mà căn lành mau được thành thục. Chúng sinh nhiều đời luân chuyển trong năm đường, đắm chìm trong biển sinh tử, cũng do nhân là tà kiến mà ra. Thân, ngữ, ý tạo ra các chướng của nghiệp ác, phiền não chướng, các hữu tình chướng, cùng tất cả pháp chướng làm chướng ngại chính kiến. Tự mình làm hay dạy người khác làm, thấy nghe đều đồng lòng vui vẻ. Do xa lìa các bánh xe tà kiến này, mà diệt trừ hết phiền não, không còn thọ quả báo. Ở đời này, được trời người thương mến, không còn lo nghó, thân tâm đều được an ổn. Tâm vị ấy thanh tịnh, lìa xa mọi tà kiến phân biệt. Khi lâm chung, thân và tâm không bị các sự buồn khổ bức bách, không bị sự luyến ái của vợ con, quyến thuộc quấy nhiễu; cũng không bị vua Diêm-ma quấy nhiễu làm cho sợ hãi, mà chỉ thấy những điều vừa ý thành tựu đầy đủ giới đức thiện pháp, làm bậc Thiện tri thức, phước điền chân thật, thân tâm vui vẻ, phát sinh lòng tin kính sâu xa. Khi qua đời, nếu trở lại trong cõi người thì các căn đầy đủ, thân thể vẹn toàn, sinh ra nơi nào tâm người ấy cũng được thanh tịnh, xa lìa các tà kiến phân biệt, được thân xinh đẹp, thông minh, an ổn, hỷ lạc. Lại được gặp những điều vừa ý thành tựu đầy đủ giới đức thiện pháp, làm bậc Thiện tri thức, phước điền chân thật, nương theo đó mà tu học, xa lìa hết tà kiến, đoạn trừ tất cả pháp ác, thành tựu tất cả pháp thiện thù thắng, cầu học mọi giáo nghĩa Đại thừa, có thể tu tập tất cả hạnh nguyện Bồ-tát, dần dần nhập vào trong biển lớn Đại thừa, cho đến chứng đắc quả Bồ-đề vô thượng. Vào ở cõi Phật, xa lìa các nhân pháp Nhị thừa Thanh văn, Độc giác, xa lìa các đồ chúng trong cõi thiên ma, xa lìa tất cả những bè đảng ngoại đạo, được các châu báu trang nghiêm rất là ưa thích, xa lìa mọi điều cát hung, vọng chấp, thường kiến, đoạn kiến, ngã và ngã sở kiến. Các loại hữu tình như vậy thì được sinh vào cõi nước ấy, được tuổi thọ lâu dài, được thọ dụng một vị, gọi là vị Đại thừa. Thọ mạng Như lai vô lượng, nhưng vì các hữu tình mà tùy cơ thuyết pháp, đề sau khi nhập Niết-bàn, chính pháp vẫn được trụ lâu ở đời, đem lại lợi ích an lạc cho vô lượng hữu tình. Thánh giáo chỉ có một vị, không chống trái nhau, được lưu truyền rộng rãi, xa lìa các chướng nạn. Này thiện nam! Đó gọi là luân thứ mười xa lìa tà kiến của Đại Bồ-tát. Đại Bồ-tát nào thành tựu luân này, đối với Thanh văn thừa không bị lầm lạc, đối với người theo Thanh văn thừa không bị lầm lạc; đối với Độc giác thừa không bị lầm lạc, đối với người theo Độc giác thừa không bị lầm lạc; đối với Đại thừa không bị lầm lạc, đối với người theo Đại thừa không bị lầm lạc. Luôn làm hưng thịnh dòng giống Tam bảo; đối với hàng đệ tử xuất gia của Như Lai, hoặc là bậc Pháp khí, hoặc chẳng phải là bậc Pháp khí, cho đến những vị chỉ đắp một mảnh ca-sa, cạo bỏ râu tóc đều không bị lầm lạc. Ở trong pháp Đại thừa thường được tiến tới mà không thoái chuyển, phước tuệ thù thắng thường được tăng trưởng; đối với tất cả các định, các Đà-la-ni, các nhẫn, các địa thì mau được tự tại, không có thoái chuyển; thường được gặp các bạn lành để cùng tùy thuận tu hành; thường được thấy tất cả chư Phật và các đệ tử Thanh văn, Bồ-tát, được nghe giáo pháp, được gần gũi cúng dường chúng Tăng; đối với các căn lành thường tinh tấn mong cầu mà tâm không nhàm chán, thường phát tâm Bồ-đề, tu các hạnh nguyện sáu pháp Ba-la-mật mà không hề chán mỏi. Các quả báo đạt được như đã nói rộng ở trước. Này thiện nam! Đại Bồ-tát nào thành tựu được mười pháp luân như vậy, có thể mau chứng đắc quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Vì sao? Vì ở đời quá khứ, tất cả Như Lai Ứng chính Đẳng Giác đều xa lìa mười nghiệp ác đạo, đều khen ngợi tán thán mười nghiệp thiện đạo này mà được phước báo, vì muốn trưởng dưỡng tất cả chúng sinh đều được lợi ích an lạc trong đạo Bồ-đề, vì muốn diệt trừ tất cả khổ phiền não cho chúng sinh, không còn một chút mảy may nào, vì muốn làm khô cạn ba đường ác, vì muốn làm hưng thịnh dòng giống Tam bảo, vì muốn đoạn trừ hữu trong tam giới, vì muốn chấm dứt uẩn, xứ, giới, vì muốn làm cho tất cả chúng sinh mau vào thành Niết-bàn vô úy, xa lìa mười nghiệp đạo bất thiện như đã nói rộng ở trên thì sẽ được phước báo. Vì thế, này thiện nam! Nếu không mong cầu một cách chân thật mười nghiệp thiện đạo như vậy để chứng thành quả Phật và cũng không chân thật giữ gìn một nghiệp thiện đạo nào, đến khi mạng chung mà tự xưng rằng: “Ta là bậc chân thật hành pháp Đại thừa, ta cầu Vô thượng chính đẳng chính giác” thì nên biết người như thế là đại dối gạt, là đại vọng ngữ. Ở trước chư Phật Thế Tôn khắp mười phương thế giới làm mê hoặc thế gian mà không biết hổ thẹn, nói các pháp là không, là đoạn kiến để dụ dỗ, lừa dối người ngu si, đến khi qua đời sẽ đọa vào đường ác. Này thiện nam! Nếu chỉ dùng lời nói hoặc chỉ nghe biết, không do tu hành mười nghiệp thiện đạo mà có thể đắc Niết-bàn Bồ-đề ở trong một kiếp, hoặc trong chừng một niệm, mà có thể làm cho vô lượng chúng sinh ở khắp các cõi nước trong mười phương cũng đều chứng quả Bồ-đề Niết-bàn là điều không thể có. Vì sao? Vì mười nghiệp thiện đạo là căn bản của Đại thừa, là nhân của Bồ-đề, là bậc thềm của cái thang vững chắc để chứng nhập Niết-bàn. Này thiện nam! Nếu chỉ phát tâm, phát thệ nguyện lực, không do tu hành mười nghiệp thiện đạo, mà lại có thể đắc quả Bồ-đề Niết-bàn ở trong một kiếp, hoặc trong một niệm, mà có thể làm cho vô lượng chúng sinh ở khắp các cõi nước trong mười phương đều chứng quả chính giác, nhập Niết-bàn là điều không thể có. Vì sao? Vì mười nghiệp thiện đạo là căn bản các quả báo công đức thù thắng của thế gian và xuất thế gian. Này thiện nam! Nếu không tu hành mười nghiệp thiện đạo, dù có trải qua vô số kiếp ở các cõi nước khắp mười phương, tự xưng là Đại thừa, hoặc nói, hoặc nghe, hoặc chỉ phát tâm, hoặc phát thệ nguyện thì hoàn toàn không thể chứng Bồ-đề Niết-bàn, cũng không thể làm cho người khác thoát được khổ sinh tử. Này thiện nam! Cần phải tu hành mười nghiệp thiện đạo. Ở thế gian có các Sát-đế-lợi, Bà-la-môn giàu sang quyền lực, Tứ đại Thiên vương cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ, hoặc Thanh văn thừa, hoặc Độc giác thừa, cho đến Vô thượng chính đẳng chính giác đều là do tu hành mười nghiệp thiện đạo mà thọ các phẩm loại sai khác như vậy. Thế nên thiện nam! Nếu muốn mau chóng viên mãn đại nguyện Vô thượng chính đẳng chính giác thì cần phải tu mười nghiệp thiện đạo này để tự trang nghiêm, chứ chẳng phải do mười pháp ác, phi luật nghi mà có thể đạt được. Hoặc mong cầu mau ngộ nhập vào cảnh giới Đại thừa, mau chứng Vô thượng chính đẳng chính giác, mau viên mãn tất cả pháp thiện thì trước hết phải nên hộ trì mười nghiệp thiện đạo. Vì sao? Vì mười nghiệp thiện đạo này có thể tạo lập căn bản công đức của các pháp thiện, là nhân cho mọi quả báo thù thắng của thế gian và xuất thế gian, do đó phải tu hành mười nghiệp thiện đạo. Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn làm rõ nghĩa trên nên nói kệ: Muốn trừ tất cả khổ Chứng đạo quả Bồ-đề Nên tu mười nghiệp thiện Tinh cần, chớ buông lung. Đối với pháp ba thừa Cùng các người theo pháp Tất cả người xuất gia Đều chớ nên lầm lạc. Tin, thọ, hành Đại thừa Lợi lạc khắp quần sinh Ngộ thắng pháp tịnh độ Mau chứng đại Bồ-đề. Nếu xa lìa sát sinh Được mọi người yêu kính Không bệnh, được trường thọ An vui, không tổn hại. Sinh ra ở nơi nào Thường ưa làm Phật sự Thường gặp Phật, Pháp, Tăng Mau thành Vô thượng giác. Nếu xa lìa trộm cắp Người trí đều tôn kính Dứt trừ nghiệp tham lam Được sinh chỗ vô tham. Đời đời thường giàu có Làm bậc đại thí chủ Đầy đủ các châu báu Tốt đẹp như nước Phật. Nếu lìa dục tà hạnh Diệt phiền não xấu ác Làm khô biển tham ái Mau đến cõi Phật tịnh. Cứu độ các chúng sinh Ra khỏi bùn nhơ dục An trú nơi Đại thừa Tinh cần tu phạm hạnh. Xa lìa lời hư dối Được Thánh trí tự tại Thường nói lời thành thật Diệt hết khổ hư vọng. Một lời là chứng thật Thường gặp Phật, Pháp, Tăng Mau đến quả Bồ-đề Khuyên tu chớ vọng ngữ. Xa lìa lời ly gián Thành tựu muôn pháp lành Thường gặp Phật, Pháp, Tăng Không còn bị đoạn diệt. Đắc quả Vô nhiễm trước Đà-la-ni bảo tạng Vào sâu trong biển pháp Mau chứng Vô thượng giác. Nếu lìa lời thô ác Thường nói lời nhu hòa Chúng sinh đều kính mến Diệt hết nghiệp đời trước. Khiến ai thấy cũng vui Thành Bồ-tát Đạo sư Biết muôn việc của Phật Vượt qua Địa thứ mười. Không nói lời tạp uế Người trí đều tôn kính Vì người khác mà nói Có đủ năm công đức. Thường lắng nghe lời Thánh Vui mừng cầu Thánh đạo Biển chư Phật viên mãn Mau được Nhất thiết trí. Nếu lìa hết tham dục Không chê bai Thánh giáo Cúng dường áo ca-sa Phát huy pháp ba thừa. Liền sinh về tịnh độ Chỗ ở bậc Đạo sư Nương nơi Vô thượng thừa Mau được trí tối thắng. Nếu xa lìa sân hận Một lòng tu tâm Từ Mau chứng đắc Đẳng trì Thích đến chỗ Thánh chúng. Sẽ sinh về cõi Phật Xa lìa các tội ác Ở đó chứng Bồ-đề Xa lìa lòng sân hận. Nếu dứt sạch tà kiến Thuần tu tâm tịnh tín Vui khai thị ba thừa Cúng dường khắp chư Phật. Thoát hẳn các đường ác Gặp được chư Thánh hiền Đủ các đức Bồ-tát Đạt được trí Vô thượng. Ta nói mười nghiệp thiện Hướng Bồ-đề tối thắng Sinh trưởng các đẳng trì Đà-la-ni nhẫn địa. Luân này oai đức lớn Diệt hết mọi đường ác Phá hoại muôn chướng nghiệp Mau thành đạo Bồ-đề.  <詞 id="117270447">Phẩm 7: Phước Điền Tướng (Phần 1) Lại nữa, này thiện nam! Đại Bồ-tát có mười luân: Mười tài thí đại giáp trụ. Đại Bồ-tát nào thành tựu luân này, từ khi mới phát tâm có thể đoạn trừ hết thảy năm dục, vượt hơn cả các hàng Thanh văn, Độc giác, làm ruộng phước lớn cho tất cả Thanh văn, Độc giác. Các hàng Thanh văn, Độc giác đều nên cúng dường, phụng sự, giữ gìn. Những gì là mười? Đó là bố thí các loại thức ăn uống, y phục, đồ trang sức quý báu, voi, ngựa, xe cộ cùng với tay, chân, tai, mũi, đầu, mắt, tủy, não, xương cốt, da thịt, máu mủ, quốc gia, thành ấp, vợ con, tôi tớ, ruộng vườn, nhà cửa như thế, mỗi khi bố thí đều không luyến tiếc thân mạng, không vì mong cầu sự an vui ở thế gian và xuất thế gian mà mình phát tâm bố thí, chỉ vì muốn cho tất cả chúng hữu tình phải nuôi lớn mầm đại Từ, đại Bi mà phát tâm bố thí. Vì muốn chúng sinh phát khởi phương tiện thiện xảo, trí tuệ thù thắng nên phát tâm bố thí. Vì muốn làm cho tất cả chúng hữu tình được an lạc nên phát tâm bố thí. Vì muốn trừ diệt mọi khổ não cho chúng hữu tình nên phát tâm bố thí. Cũng không vì tâm muốn hơn người, tâm hung dữ, tâm ganh ghét, tâm keo kiệt mà bố thí; đối với các vật thí, dù nhiều hay ít, cho đến một bữa ăn, cũng không vì mong cầu phước báo cho mình mà phát tâm bố thí. Cũng không mong cầu quả vị Thanh văn mà phát tâm bố thí, cũng không mong cầu quả vị Độc giác mà phát tâm bố thí. Đối với các vật thí hoặc nhiều hoặc ít, cho đến một bữa ăn chỉ vì mong cầu Nhất thiết chủng trí mà phát tâm bố thí. Này thiện nam! Đại Bồ-tát nào thành tựu luân: Mười tài thí đại giáp trụ như thế từ khi mới phát tâm thì có thể đoạn trừ tất cả năm dục lạc, vượt hơn hàng Thanh văn, Độc giác, làm ruộng phước lớn cho hàng Thanh văn, Độc giác. Tất cả hàng Thanh văn, Độc giác đều nên cúng dường, phụng sự, giữ gìn. Vì sao? Vì hàng Thanh văn, Độc giác phát tâm bố thí không có đại Từ bi, chỉ vì muốn xả bỏ nghèo cùng cho tự thân mình, muốn mình thoát khỏi các khổ não, muốn cho mình được an lạc, muốn cho mình chứng đắc đạo quả Niết-bàn, chứ không vì tất cả chúng hữu tình mà làm bố thí. Còn Đại Bồ-tát phát tâm bố thí thì có đại Từ bi, vì muốn cho chúng hữu tình xa lìa bần cùng, muốn cho chúng hữu tình thoát khỏi mọi khổ não, muốn cho chúng hữu tình được an lạc tự tại, muốn cho chúng hữu tình chứng đạo quả Niết-bàn. Đó là không vì tự thân mà phát tâm bố thí. Do nghĩa này, nên vượt hơn hàng Thanh văn, Độc giác, lại vì muốn làm ruộng phước lớn cho hàng Thanh văn, Độc giác, tất cả hàng Thanh văn, Độc giác đều nên cúng dường, phụng sự, giữ gìn. Khi Đại Bồ-tát tu pháp tài thí Ba-la-mật, đối với mọi thú vui năm dục, tâm không đắm nhiễm, không tự mình hưởng thọ đầy đủ các pháp an lạc, mà đem bố thí hết cho chúng hữu tình, đem tâm giúp đỡ tất cả chúng hữu tình, đem tâm nhẫn chịu tất cả khổ não của mọi loài, đem tâm diệt khổ cho tất cả hữu tình, đem tâm làm an vui cho mọi người và đem tâm đại Niết-bàn cho các loài hữu tình mà bố thí. Do ý nghĩa này, nên vượt hơn các hàng Thanh văn, Độc giác, làm ruộng phước lớn cho khắp hàng Thanh văn, Độc giác, tất cả hàng Thanh văn, Độc giác nên cúng dường, phụng sự, giữ gìn. Này thiện nam! Nếu đối với năm dục mà tâm không đắm nhiễm, đem tâm đại Từ bi mà bố thí như thế thì gọi là Đại Bồ-tát, cũng gọi là ruộng phước chân thật của tất cả Thanh văn, Độc giác. Nếu không đoạn trừ năm dục ở thế gian, không có đại Từ bi khi bố thí thì tuy xả bỏ vô lượng, vô biên tài vật cũng không được gọi là Đại Bồ-tát, cũng chẳng phải là ruộng phước chân thật của tất cả Thanh văn, Độc giác, không được ấn chứng vào quả vị Thánh. Cho nên phải đoạn trừ năm dục ở thế gian và phải có đầy đủ tâm đại Từ bi để làm bố thí. Nếu không như thế mà làm bố thí thì chẳng phải là Bồ-tát, chẳng phải là ruộng phước chân thật. Này thiện nam! Đem tâm nhiễm trước các thứ năm dục mà hành luân bố thí không thể diệt trừ một chút phần phiền não của bản thân mình, làm sao có thể diệt trừ vô lượng các khổ não của tất cả chúng sinh! Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn nói rõ lại nghĩa trên, nên đọc bài kệ: Thành tựu tài thí luân Người trí tịnh ý lạc Xa lìa hết năm dục An lạc chúng hữu tình. Vì an lạc chúng sinh Không tự cầu quả báo Dầu chỉ thí chút phần Là ruộng phước chân thật. Tuy bố thí rất nhiều Mà dựa vào năm dục Chẳng thể vào đạo Thánh Trụ trong tụ bất định. Tuy làm việc thí ít Mà không dựa năm dục Là ruộng phước chân thật Của Thanh văn, Độc giác. Nên phải bỏ năm Dục giới Thường hành thí thanh tịnh An lạc chúng hữu tình Thành ruộng phước chân thật. Lại nữa, này thiện nam! Đại Bồ-tát có luân: Mười pháp thí đại giáp trụ. Nếu Đại Bồ-tát nào thành tựu luân này từ khi mới phát tâm thì có thể đoạn trừ tất cả năm dục, mau có thể đắc định Nhật đăng quang, vượt qua các hàng Thanh văn, Độc giác, làm ruộng phước lớn cho tất cả Thanh văn, Độc giác. Các hàng Thanh văn, Độc giác đều nên cúng dường, phụng sự, giữ gìn. Thế nào là mười? Đó là chính pháp do chư Như Lai thuyết ra: Hoặc là chính pháp tương ưng với Thanh văn thừa, hoặc chính pháp tương ưng với Độc giác thừa, hoặc chính pháp tương ưng với Đại thừa, hoặc pháp thế gian, hoặc pháp xuất thế gian, hoặc pháp hữu lậu, hoặc pháp vô lậu, hoặc pháp hữu vi, hoặc pháp vô vi, hoặc pháp bất nhị. Đại Bồ-tát đối với mười pháp này phải có lòng tin kính sâu xa, lắng nghe tất cả rồi tùy theo khả năng mà suy xét lãnh thọ, suy nghó quán sát đến chỗ rốt ráo thông suốt, tùy theo sự ưa thích mà diễn thuyết cho người khác. Lúc thuyết pháp không có tâm ganh ghét, tâm bỏn xẻn, tâm kiêu mạn, tâm không cầu lợi, tâm không khinh người, tâm không cao ngạo, mà phải có tâm cung kính, có tâm làm lợi ích khắp cùng, có tâm đại Từ, có tâm Đại Bi. Nói pháp Thanh văn cho hàng Thanh văn, không nói pháp Độc giác thừa hoặc Đại thừa cho họ. Thuyết pháp Độc giác cho hàng Độc giác, chứ không thuyết pháp Thanh văn hay Đại thừa cho họ. Đối với hàng Đại thừa, thuyết pháp Đại thừa, không thuyết các pháp Thanh văn hay Độc giác thừa cho họ. Tùy theo căn cơ của các chúng sinh mà thuyết chính pháp cho họ. Nếu không có căn cơ thì không nói pháp. Đối với hàng Đại thừa, hoàn toàn không khuyên tu hạnh Độc giác, hạnh Thanh văn. Còn đối với hàng Độc giác, có lúc cũng khuyên họ tu hạnh Đại thừa. Đối với hàng Thanh văn, có lúc khuyên tu theo hạnh Độc giác thừa, hoặc khuyên tu hạnh Đại thừa. Đối với những lời thuyết pháp của Đức Như Lai, cho đến một bài tụng, thậm chí nửa câu, cũng đều tin kính sâu xa, hoàn toàn không phỉ báng, làm chướng ngại, vùi lấp. Đối với vị Pháp sư thuyết pháp tưởng như Đức Thế Tôn, với đại chúng nghe pháp tưởng như người bệnh, với pháp được nghe tưởng là lương dược, đoạn trừ năm dục, không còn mong cầu mà tuyên thuyết chính pháp. Này thiện nam! Đó gọi là luân: Mười pháp thí đại giáp trụ của Đại Bồ-tát. Nếu Đại Bồ-tát nào thành tựu được luân này thì có thể đoạn trừ hết năm dục, mau chứng được định Nhật đăng quang, vượt xa hàng Thanh văn, Độc giác, làm ruộng phước lớn cho tất cả Thanh văn, Độc giác, các hàng Thanh văn, Độc giác đều nên cúng dường, phụng sự, giữ gìn. Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn làm rõ nghĩa này nên nói kệ: Bậc trí tu pháp thí Tùy cơ nói ba thừa Không thuyết các thừa khác Sợ nghe hủy báng pháp. Đúng căn cơ thuyết pháp Chẳng phải thì không thuyết Tùy theo sự ưa thích Khuyên tu khiến vui vẻ. Trọn không khuyến Đại thừa Chỉ khiến tu Nhị thừa Hoặc lúc khuyên Nhị thừa Tiến dần lên Thượng thừa. Thường cung kính nghe pháp Tin sâu, không hủy báng Cúng dường đến Pháp sư Tưởng như Bậc Thế Tôn. Khuyên nghe thuốc diệu pháp Để trừ bệnh não phiền Bỏ lợi dưỡng, danh dự Mà tuyên bày chính pháp. Lại nữa, này thiện nam! Đại Bồ-tát lại có luân: Tịnh giới đại giáp trụ. Nếu Đại Bồ-tát nào thành tựu luân này từ lúc mới phát tâm thì có thể đoạn trừ hết năm dục, vượt hơn tất cả Thanh văn, Độc giác, làm ruộng phước lớn cho tất cả Thanh văn, Độc giác, hàng Thanh văn, Độc giác đều nên cúng dường, phụng sự, giữ gìn. Thế nào là luân: Tịnh giới đại giáp trụ? Này thiện nam! Tịnh giới của Bồ-tát có hai tướng: Một là Cộng. Hai là Bất cộng. Thế nào là luân Cộng tịnh giới của Bồ-tát? Đó là các luật nghi đã thọ của hàng tại gia cận sự, cận trụ, hoặc giới biệt giải thoát của hàng xuất gia và thọ giới Cụ túc. Luật nghi, giới biệt giải thoát như vậy gọi là luân Cộng tịnh giới của Bồ-tát, cùng chung với hàng Thanh văn, Độc giác thừa. Bậc Bồ-tát không do luân tịnh giới này mà có thể trừ được tất cả phiền não, ác kiến và có thể giải thoát nghiệp chướng sinh tử. Đây không gọi là luân đại giáp trụ, cũng không do đấy mà gọi là Đại Bồ-tát và cũng không gọi đây là ruộng phước chân thật của tất cả Thanh văn, Độc giác. Thế nào là luân Bất cộng tịnh giới đại giáp trụ của Bồ-tát? Đó là các Bồ-tát đối với chúng hữu tình ở khắp mười phương đều khởi tâm bình đẳng, không quấy nhiễu, không oán hận mà hộ trì tịnh giới. Đối với tất cả người trì giới, kẻ phạm giới, người bố thí, kẻ tham lam bỏn xẻn, người Từ bi, kẻ sân hận, người tinh tấn, kẻ lười biếng, các hữu tình thượng, trung, hạ, Bồ-tát đều đem tâm không sai biệt, tưởng không sai biệt mà hộ trì tịnh giới. Đối với các hữu tình trong tam giới, không hề sân giận, cũng không làm các hạnh ác mà chỉ hộ trì tịnh giới. Đối với uẩn, giới, xứ trong ba cõi, không có sự phân biệt mà chỉ hộ trì tịnh giới. Cũng không nương theo Dục giới mà hộ trì tịnh giới, cũng không nương theo Sắc giới mà hộ trì tịnh giới, không nương theo Vô sắc giới mà hộ trì tịnh giới; không quán tất cả quả báo của các cõi mà hộ trì tịnh giới; không nương theo tất cả cái được và cái không được mà hộ trì tịnh giới; không nương theo các hành mà hộ trì tịnh giới. Đó gọi là luân Bất cộng tịnh giới đại giáp trụ của Bồ-tát. Này thiện nam! Nếu Đại Bồ-tát nào thành tựu được luân Tịnh giới đại giáp trụ này từ khi mới phát tâm thì có thể đoạn trừ tất cả năm dục, nên gọi là Đại Bồ-tát, vượt trên tất cả Thanh văn, Độc giác, làm ruộng phước lớn cho hàng Thanh văn, Độc giác, tất cả hàng Thanh văn, Độc giác đều nên cúng dường, phụng sự, giữ gìn. Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói bài tụng để làm rõ nghĩa trên: Luật nghi hàng tại gia Biệt giải thoát xuất gia Cùng chung cho Nhị thừa Không gọi Ma-ha-tát. Bậc trí tu pháp không Không nương theo thế gian Cũng không nương các cõi Mà hộ trì tịnh giới. Trì giới lìa chấp tướng Không nhiễm, không các lậu Hộ trì giới như thế Là ruộng phước chân thật. Lại nữa, này thiện nam! Đại Bồ-tát còn có luân: An nhẫn đại giáp trụ. Đại Bồ-tát nào thành tựu được luân này từ khi mới phát tâm thì có thể đoạn trừ hết năm dục, vượt trên hàng Thanh văn, Độc giác, làm ruộng phước lớn cho tất cả hàng Thanh văn, Độc giác. Hàng Thanh văn, Độc giác đều nên cúng dường, phụng sự, giữ gìn. Thế nào là luân An nhẫn đại giáp trụ? Này thiện nam! An nhẫn của Bồ-tát có hai tướng: Một là: Thế gian. Hai là: Xuất thế gian. Thế nào là luân An nhẫn thế gian của Bồ-tát? Đó là nhẫn hữu lậu: Là nhẫn phát sinh do duyên theo chúng hữu tình, có chấp thủ, có tướng, do nương theo quả báo, nương theo các phước nghiệp, nhẫn phát sinh do nương theo sắc, thanh, hương, vị, xúc của bản thân. Đó còn là nhẫn hữu phát thú, nhẫn vô kham năng, nhẫn lực luy liệt, nhẫn khí chúng sinh, nhẫn hữu cuống trá, nhẫn kiều duyệt tha, nhẫn không làm lợi lạc cho chúng hữu tình. Đó gọi là An nhẫn thuộc thế gian của Bồ-tát. An nhẫn như vậy cùng chung với hàng Thanh văn, Độc giác. Đây không thể gọi là luân đại giáp trụ, cũng không do đây mà gọi là Đại Bồ-tát, hay là ruộng phước chân thật cho hàng Thanh văn, Độc giác. Thế nào là luân An nhẫn xuất thế gian đại giáp trụ của Bồ-tát? Đó là nhẫn vô lậu. Tất cả đại pháp quang minh bậc Hiền thánh vì lợi lạc cho các chúng hữu tình mà an nhẫn không dích mắc, đoạn trừ hẳn tất cả sự nghiệp. Ngôn ngữ, nhân tướng, văn tự, âm thanh, việc làm đều hành theo an nhẫn. Tu hạnh nhẫn này có thể đoạn trừ tam kết, tam thọ, tam tướng, tam thế, tam hữu, tam hành, tam bất căn lành, tứ chủng bộc lưu, tứ ách, tứ thủ, tứ chủng thân hệ. Khi tu các hạnh nhẫn này thì tâm ý được an định, đó gọi là luân An nhẫn xuất thế gian đại giáp trụ của Bồ-tát. Này thiện nam! Nếu Đại Bồ-tát nào thành tựu được luân An nhẫn đại giáp trụ này từ lúc mới phát tâm thì có thể đoạn trừ hết năm dục nên gọi là Đại Bồ-tát, vượt xa hàng Thanh văn, Độc giác, làm ruộng phước lớn cho hàng Thanh văn, Độc giác. Tất cả hàng Thanh văn, Độc giác đều nên cúng dường, phụng sự, giữ gìn. Bấy giờ, Đức Thế Tôn dùng bài tụng để nói rõ nghĩa trên: An nhẫn có hai loại Là hữu tướng, vô tướng Nhẫn hữu tướng chấp giữ Bậc trí không khen ngợi. Tu nhẫn nương tam hành Nương theo uẩn, giới, xứ Đó là nhẫn hữu lậu Chẳng phải tướng Bồ-tát. Để diệt bốn điên đảo Tu nhẫn vô nhiễm trước Tịch tónh cùng tam hành Nhẫn này được ngợi khen. Muôn hạnh đều an tịnh Lìa tất cả phân biệt Bình đẳng như hư không Nhẫn này nên khen ngợi. Muôn pháp quy về một Không, vô tướng, tịch diệt Tâm không chỗ dích mắc Nhẫn này lợi ích lớn. Lại nữa, này thiện nam! Đại Bồ-tát có luân Tinh tấn đại giáp trụ. Nếu Đại Bồ-tát nào thành tựu được luân này từ khi mới phát tâm thì có thể đoạn trừ được năm dục, vượt xa hàng Thanh văn, Độc giác, làm ruộng phước lớn cho hàng Thanh văn, Độc giác. Tất cả hàng Thanh văn, Độc giác đều nên cúng dường, phụng sự, giữ gìn. Thế nào là luân Tinh tấn đại giáp trụ? Này thiện nam! Tinh tấn của Bồ-tát có hai tướng: Một là: Thế gian. Hai là: Xuất thế gian. Thế nào là luân Tinh tấn thế gian của Bồ-tát? Đó là các Bồ-tát tinh tấn dũng mãnh, chuyên cần tu ba loại phước nghiệp thế gian. Ba loại đó là: 1.Thí phước nghiệp sự. 2.Giới phước nghiệp sự. 3.Tu phước nghiệp sự. Pháp tu này là ba loại tinh tấn. Tinh tấn như vậy là duyên theo các chúng sinh hữu lậu chấp thủ, là nương theo các quả báo, là nương theo các phước nghiệp. Đây gọi là Tinh tấn thế gian của Bồ-tát. Tinh tấn này cùng chung với hàng Thanh văn, Độc giác nên không gọi là luân đại giáp trụ, cũng không vì thế mà gọi là Đại Bồ-tát, là ruộng phước chân thật của tất cả hàng Thanh văn, Độc giác. Thế nào gọi là luân Tinh tấn xuất thế gian đại giáp trụ của Bồ-tát? nghĩa là Bồ-tát này dũng mãnh tinh tấn, đối với tất cả chúng sinh đều bình đẳng phát tâm, trừ hết mọi nghiệp khổ phiền não cho họ. Tinh tấn như thế được tất cả Hiền thánh khen ngợi, là vô lậu, là không chấp thủ, là không chỗ sở trú. Đối với tất cả người tinh tấn, kẻ biếng nhác, người bố thí, kẻ tham lam keo kiệt, người trì giới, kẻ phá giới, người Từ bi, kẻ sân hận, các chúng sinh thượng, trung, hạ đều không đem tâm phân biệt, không có tưởng phân biệt mà chỉ dũng mãnh tinh tấn. Đối với chúng sinh trong tam giới đều bình đẳng không hai, vì họ mà từ lời nói, việc làm, suy nghó đều nương vào chỗ không chấp trước mà dũng mãnh tinh tấn. Đối với uẩn, xứ, giới trong tam hữu cũng đều tinh tấn dũng mãnh, không phân biệt, không nương theo Dục giới mà tinh tấn dũng mãnh, không nương theo Sắc giới mà tinh tấn dũng mãnh, không nương theo Vô sắc giới mà tinh tấn dũng mãnh, không quán tất cả quả báo của các cõi mà tinh tấn dũng mãnh, không nương theo tất cả cái được và cái không được mà tinh tấn dũng mãnh, không nương theo các hạnh mà tinh tấn dũng mãnh, không nương theo ba loại phước nghiệp sự ở thế gian mà tinh tấn dũng mãnh. Vì muốn đầy đủ ba phước nghiệp sự xuất thế mà tinh tấn dũng mãnh. Đó gọi là luân Tinh tấn xuất thế gian đại giáp trụ của Bồ-tát. Này thiện nam! Nếu Đại Bồ-tát nào thành tựu được luân Tinh tấn đại giáp trụ này từ khi mới phát tâm thì có thể đoạn trừ hết năm dục, được gọi là Đại Bồ-tát, vượt trên hàng Thanh văn, Độc giác, làm ruộng phước lớn cho hàng Thanh văn, Độc giác. Tất cả hàng Thanh văn, Độc giác đều nên cúng dường, phụng sự, giữ gìn. Bấy giờ, Đức Thế Tôn dùng bài kệ để làm rõ nghĩa này: Nơi sáu căn nhiễm trước Chìm nổi theo năm dòng Tuy tinh tấn dũng mãnh Người trí đều chán xa. Duyên chúng sinh tinh tấn Hữu lậu và chấp thủ Chẳng phải ruộng phước thật Không gọi Ma-ha-tát. Bậc trí siêng tinh tấn Xa lìa mọi nhiễm trước Tâm không bị lệ thuộc Là ruộng phước chân thật. Không dính mắc danh sắc Lìa các uẩn, xứ, giới Làm chỗ nương cho chúng Gọi là Ma-ha-tát. Giữa đời như trăng (dưới) nước Luân tinh tấn rốt ráo Có thể đoạn trừ hết Phiền não của chúng sinh. Lại nữa, này thiện nam! Đại Bồ-tát có luân Tónh lự đại giáp trụ. Nếu Đại Bồ-tát nào thành tựu được luân này từ lúc mới phát tâm thì có thể đoạn trừ được năm dục, vượt xa hàng Thanh văn, Độc giác, làm ruộng phước lớn cho hàng Thanh văn, Độc giác. Tất cả hàng Thanh văn, Độc giác đều nên cúng dường, phụng sự, giữ gìn. Thế nào là luân Tónh lự đại giáp trụ? Này thiện nam! Tónh lự của Bồ-tát có hai tướng: Một là: Thế gian; hai là: xuất thế gian. Thế nào là luân Tónh lự thế gian của Bồ-tát? nghĩa là các Bồ-tát phải nương theo các uẩn mà tu tập tónh lự, nương vào các giới mà tu tập tónh lự, nương vào các xứ mà tu tập tónh lự, nương vào Dục giới mà tu tập tónh lự, nương vào Sắc giới mà tu tập tónh lự, nương vào Vô sắc giới mà tu tập tónh lự, nương vào ba luật nghi mà tu tập tónh lự, nương vào ba giải thoát mà tu tập tónh lự, nương vào bốn Niệm trụ mà tu tập tónh lự, nương vào bốn chính đoạn mà tu tập tónh lự, nương vào bốn Thần túc mà tu tập tónh lự, nương vào năm căn mà tu tập tónh lự, nương vào năm lực mà tu tập tónh lự, nương vào bảy Giác chi mà tu tập tónh lự, nương vào tám chi Thánh đạo mà tu tập tónh lự, nương vào địa giới mà tu tập tónh lự, nương vào thủy giới mà tu tập tónh lự, nương vào hỏa giới mà tu tập tónh lự, nương vào phong giới mà tu tập tónh lự, nương vào không giới mà tu tập tónh lự, nương vào thức giới mà tu tập tónh lự, nương vào lạc thọ mà tu tập tónh lự, nương vào khổ thọ mà tu tập tónh lự, nương vào bất khổ bất lạc thọ mà tu tập tónh lự, nương vào hư không vô biên xứ mà tu tập tónh lự, nương vào thức vô biên xứ mà tu tập tónh lự, nương vào vô sở hữu xứ mà tu tập tónh lự, nương vào phi tưởng phi phi tưởng xứ mà tu tập tónh lự, nương vào đời này mà tu tập tónh lự, nương vào đời khác mà tu tập tónh lự, nương vào tiểu tưởng mà tu tập tónh lự, nương vào đại tưởng mà tu tập tónh lự, nương vào vô lượng tưởng mà tu tập tónh lự. Tónh lự như thế là hữu lậu, là có chấp thủ, là có chỗ nương theo, gọi là Tónh lự thế gian của Bồ-tát. Tónh lự này cùng chung với hàng Thanh văn, Độc giác. Đây không thể gọi là luân đại giáp trụ, cũng không gọi là Đại Bồ-tát, là ruộng phước chân thật của tất cả hàng Thanh văn, Độc giác. Thế nào là luân Tónh lự xuất thế gian đại giáp trụ của Bồ-tát? nghĩa là Bồ-tát đã xa lìa các uẩn mà tu tập tónh lự, xa lìa các giới mà tu tập tónh lự, xa lìa các xứ mà tu tập tónh lự, xa lìa Dục giới mà tu tập tónh lự, xa lìa Sắc giới mà tu tập tónh lự, xa lìa Vô sắc giới mà tu tập tónh lự, xa lìa ba luật nghi mà tu tập tónh lự, xa lìa ba giải thoát mà tu tập tónh lự, xa lìa bốn Niệm trụ mà tu tập tónh lự, xa lìa bốn chính đoạn mà tu tập tónh lự, xa lìa bốn Thần túc mà tu tập tónh lự, xa lìa năm căn mà tu tập tónh lự, xa lìa năm lực mà tu tập tónh lự, xa lìa bảy Giác chi mà tu tập tónh lự, xa lìa tám chi Thánh đạo mà tu tập tónh lự, xa lìa địa giới mà tu tập tónh lự, xa lìa thủy giới mà tu tập tónh lự, xa lìa hỏa giới mà tu tập tónh lự, xa lìa phong giới mà tu tập tónh lự, xa lìa không giới mà tu tập tónh lự, xa lìa thức giới mà tu tập tónh lự, xa lìa lạc thọ mà tu tập tónh lự, xa lìa khổ thọ mà tu tập tónh lự, xa lìa bất khổ bất lạc thọ mà tu tập tónh lự, xa lìa hư không vô biên xứ mà tu tập tónh lự, nương vào thức vô biên xứ mà tu tập tónh lự, nương vào vô sở hữu xứ mà tu tập tónh lự, nương vào phi tưởng phi phi tưởng xứ mà tu tập tónh lự, nương vào đời này mà tu tập tónh lự, nương vào đời khác mà tu tập tónh lự, nương vào tiểu tưởng mà tu tập tónh lự, nương vào đại tưởng mà tu tập tónh lự, nương vào vô lượng tưởng mà tu tập tónh lự. Tónh lự như thế mới có thể phát ánh sáng rộng lớn của chư Hiền thánh, là vô lậu, là không chấp thủ, là không có chỗ nương theo. Đó gọi là luân Tónh lự xuất thế gian đại giáp trụ của Bồ-tát. Này thiện nam! Nếu Đại Bồ-tát nào thành tựu luân Tónh lự đại giáp trụ này từ khi mới phát tâm thì có thể đoạn trừ hết năm dục, được gọi là Đại Bồ-tát, vượt xa hàng Thanh văn, Độc giác, làm ruộng phước lớn cho hàng Thanh văn, Độc giác. Tất cả hàng Thanh văn, Độc giác đều nên cúng dường, phụng sự, giữ gìn. Bấy giờ, Đức Thế Tôn tuyên nói bài tụng để làm rõ nghĩa trên: Vì mình bỏ nguyện lớn Tu dẫu có đắc định Đoạn phiền não riêng mình Chẳng phải bậc trí chân! Quán chiếu phải nương theo Cầu giải thoát tu định Chấp trước bờ này kia Chẳng lợi ích hữu tình. Vì lợi lạc mọi loài Tu định, bỏ gánh nặng Diệt hết mọi não phiền Là bậc chân trí vậy. Vì lợi khắp chúng sinh Tu định, không chấp trước Chấm dứt mọi khát ái Đó là bậc Đại tuệ. Vì giải thoát trói buộc Trụ được thành Vô úy Tu định được vắng lặng Thật là Đại Bồ-tát. KINH ĐẠI THỪA ĐẠI TẬP ĐỊA TẠNG THẬP LUÂN <卷 id="117270448">Quyển 10 <詞 id="117270449">Phẩm 7: Phước Điền Tướng (Phần 2) Lại nữa, này thiện nam! Đại Bồ-tát có luân Bát-nhã đại giáp trụ. Nếu Đại Bồ-tát nào thành tựu được luân này từ lúc mới phát tâm thì có thể đoạn trừ hết năm dục, vượt hơn cả hàng Thanh văn, Độc giác, làm ruộng phước lớn cho hàng Thanh văn, Độc giác. Tất cả hàng Thanh văn, Độc giác đều nên cúng dường, phụng sự, hộ trì. Thế nào gọi là luân Bát-nhã đại giáp trụ của Bồ-tát? Này thiện nam! Bát-nhã của Bồ-tát có hai tướng: Một là: Thế gian; hai là: Xuất thế gian. Thế nào là Bát-nhã thế gian của Bồ-tát? nghĩa là chư Bồ-tát chỉ nương vào sự đọc tụng, ghi chép, lắng nghe rồi diễn thuyết chính pháp ba thừa cho mọi người, vì muốn diệt trừ vô minh hắc ám cho tất cả chúng sinh, muốn cầu sự phát sinh trí tuệ quang minh cho tất cả chúng sinh. nghĩa là, đối với chính pháp Như Lai thuyết ra tương ưng với Thanh văn thừa đều phải chuyên cần đọc tụng, lắng nghe, ghi chép, giảng thuyết cho người và khuyên nên tu hành. Hoặc là đối với chính pháp của Như Lai thuyết ra tương ưng với Độc giác thừa đều phải tinh cần đọc tụng, lắng nghe, ghi chép, giảng thuyết cho người và khuyên nên tu tập. Hoặc đối với chính pháp của Như Lai thuyết ra tương ưng với Vô thượng thừa đều phải tinh cần đọc tụng, lắng nghe, ghi chép, giảng thuyết cho người và khuyên cùng tu tập. Không cầu đạo vô lậu của bậc Hiền thánh, không cầu Thánh đạo, không cầu sự giáo hóa giải thoát của Thánh đạo, không hành Bát-nhã chân thật tịch tónh, chỉ thường thực hành theo Bát-nhã hữu kiến, hữu tướng. Như thế là Bát-nhã có chấp trước, có chấp thủ. Đó là Bát-nhã thế gian của Bồ-tát. Bát-nhã này chung đồng với Thanh văn và Độc giác thừa. Đây không thể gọi là luân đại giáp trụ, cũng không gọi là Đại Bồ-tát, cũng không gọi là ruộng phước chân thật cho tất cả hàng Thanh văn, Độc giác. Thế nào gọi là luân Bát-nhã xuất thế gian đại giáp trụ của Bồ-tát? nghĩa là các Bồ-tát lúc tinh cần tu tập đạo quả Bồ-đề, phải tùy theo khả năng mà đọc tụng, lắng nghe, ghi chép, giảng nói chính pháp ba thừa cho người nghe, nhưng trong đó phải nương vô sở đắc làm phương tiện mà an trú, cũng không có sự hành động, không có sự tư duy, không có căn bản, dùng tâm như hư không, tâm tịch tónh khắp cả, tâm không chấp trước, tuệ không tăng giảm, tâm không sinh diệt, tâm không thoái chuyển, tâm pháp bình đẳng, tâm chân như, tâm thật tế, tâm pháp giới, tâm vô ngã, tâm không phân biệt, tâm tịch diệt an nhẫn, lìa hết mọi sự phân biệt, khéo léo an trụ vào địa vô thành hoại, khéo léo an trụ vào địa không trụ, không chấp trước tuệ thắng diệu. Đó là Bát-nhã không chấp giữ, không dính mắc, là luân Bát-nhã xuất thế gian đại giáp trụ của Bồ-tát. Này thiện nam! Đại Bồ-tát nào thành tựu luân Bát-nhã đại giáp trụ này từ lúc mới phát tâm, có thể đoạn trừ hết năm dục nên gọi là Đại Bồ-tát, vượt hơn cả hàng Thanh văn, Độc giác, làm ruộng phước lớn cho tất cả hàng Thanh văn, Độc giác. Hàng Thanh văn, Độc giác đều nên cúng dường, phụng sự, hộ trì. Lại nữa, này thiện nam! Đại Bồ-tát còn có luân: Phương tiện thiện xảo đại giáp trụ. Đại Bồ-tát nào thành tựu được luân này từ lúc mới phát tâm, có thể đoạn trừ hết năm dục, vượt hơn hàng Thanh văn, Độc giác, làm ruộng phước lớn cho hàng Thanh văn, Độc giác. Tất cả hàng Thanh văn, Độc giác đều nên cúng dường, phụng sự, hộ trì. Thế nào là luân Phương tiện thiện xảo đại giáp trụ của Bồ-tát? Này thiện nam! Phương tiện thiện xảo của Bồ-tát có hai tướng: Một là: Thế gian; hai là: Xuất thế gian. Thế nào gọi là Phương tiện thiện xảo thế gian của Bồ-tát? nghĩa là chư Bồ-tát hoặc vì tự lợi, hoặc vì lợi tha, hoặc vì lợi cả hai, thường phân biệt kia đây, thị hiện các thứ kỹ thuật khéo léo, làm cho mình và người khác đều thành thục, rồi lấy đó mà phụng sự, cúng dường hoặc chư Phật Thế Tôn, hoặc chư Bồ-tát, hoặc hàng Thanh văn, Độc giác, hoặc cha mẹ, hoặc cho người bệnh, hoặc cho người già yếu không nơi nương tựa. Hoặc thấy người gặp ách nạn sắp bị hại chịu khổ nhọc thì dùng các phương tiện mà cứu giúp, lấy bốn Nhiếp pháp mà giáo hóa hữu tình. Chư Bồ-tát này tự tại trong Đại thừa, đối với hàng Thanh văn, Độc giác chẳng phải là bậc Đại thừa, hoặc đối với hàng Thanh văn, Độc giác có căn cơ chưa thành thục thì nói giáo pháp vi diệu thâm sâu, làm cho họ tu tập theo. Hoặc khuyên siêng tu các tónh lự của chư Thánh, hoặc là khai thị nghĩa đế tối thắng, khuyên tu hành để vượt qua bốn điên đảo, giác ngộ bốn chủng loại pháp tính không đọa, hoặc có thể nhập bốn vô ngại giải, để trở lại khuyên an trụ bốn Niệm trụ, bốn chính đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác chi, tám chi Thánh đạo, đạo và đạo quả hữu dư vô dư, đạt đến trí tuệ quyền xảo, khiến cho đều được thành thục. Hoặc có chúng hữu tình tham cầu danh xưng, lợi dưỡng phú quý, các căn còn loạn động, căn lành chưa thành thục thì khuyên họ đọc tụng kinh A-cấp-ma và Tỳ-nại-da, A-tỳ-đạt-ma, hoặc khuyên đọc tụng các luận giải thoát khác của Phật thuyết ra để làm cho thành thục. Nếu hữu tình không thích bố thí thì khuyên họ nên xả bỏ mọi tài vật quý giá, để được thành thục. Nếu có hữu tình bạo ác không có lòng nhân thì khuyên họ tu pháp bốn phạm trụ. Hoặc có hữu tình nhiều sân giận thì khuyên họ tu pháp nhẫn; hoặc có hữu tình thường biếng nhác thì khuyên tu tinh tấn; hoặc có hữu tình tâm nhiều tán loạn thì khuyên tu pháp tónh lự; hoặc với hữu tình có đầy đủ ác trí thì thuyết chính pháp cho họ, nghĩa là dùng phương tiện dạy bảo, ghi chép làm cho họ được thành thục. Hoặc có hữu tình không kính tin Tam bảo, có đủ các pháp Vô y hành thì khuyên thọ tam quy, làm cho họ kính tin Tam bảo, hoặc khuyên thọ luật nghi giới làm cận sự, hoặc khuyên thọ luật nghi giới làm cận trụ, khiến cho họ được thành thục, hoặc khuyên tu tập theo các loại nghề nghiệp công xảo kỹ thuật khiến cho họ được thành thục. Chư Đại Bồ-tát như thế, dùng vô số phương tiện thiện xảo thế gian, dùng các loại sách vở kỹ thuật, nghề nghiệp khéo léo để cho mọi người gia hành tinh tấn các phương tiện thiện xảo ấy mà bẻ gãy các học thuyết của ngoại đạo. Như thế gọi là Phương tiện thiện xảo thế gian của Bồ-tát. Phương tiện thiện xảo này cùng chung với hàng Thanh văn, Độc giác, cũng là các nhân nương nhờ của Phật pháp, cũng là chỗ nương nhờ của các hạnh thiện xảo, cũng là pháp thiện xảo xoay vần không diệt, không thoái chuyển. Lại nữa, này thiện nam! Nếu các Bồ-tát không nương theo bậc minh sư, không cùng bạn lành tu hành các pháp phương tiện thiện xảo thế gian thì các Bồ-tát này đối với các phương tiện thiện xảo thế gian sẽ ngu muội hướng về nẻo ác, không thể tùy thuận an trụ trí phương tiện thiện xảo xuất thế gian, cũng không là ruộng phước chân thật cho tất cả, không thể biết rõ được căn hạnh sai khác của chúng hữu tình. Do ngu muội về phương tiện thiện xảo nên đối với hàng Thanh văn và Độc giác không có khả năng là bậc Đại thừa và đối với người chưa thành thục được căn khí Đại thừa thì lại nói pháp Đại thừa cho họ tu học. Còn đối với hữu tình có khả năng là bậc Đại thừa thì lại giảng nói pháp của hàng Thanh văn và Độc giác, làm cho họ tu học theo hạnh của hàng Thanh văn, Độc giác. Đối với hữu tình có khả năng là bậc Độc giác lại nói pháp hàng Thanh văn, làm cho họ tu theo hạnh của hàng Thanh văn. Còn đối với hữu tình có khả năng là bậc Thanh văn thì nói pháp sinh tử để cho họ yêu mến tham đắm mà không nói pháp nhàm chán sinh tử. Lại nữa, vì ngu mê nơi phương tiện thiện xảo, nếu các chúng hữu tình thích làm việc sát sinh, nói rộng cho đến chấp trước tà kiến thì lại tuyên nói pháp Đại thừa thâm sâu cho họ, chớ không tuyên nói các quả báo khổ đau sinh tử lưu chuyển, chết đây sinh kia để cho họ lo sợ mà lìa xa các pháp ác. Lại nữa, vì ngu mê nơi phương tiện thiện xảo, cho đến nếu các hữu tình thích tu tịnh giới thì lại khuyên tu bố thí, hoặc chúng hữu tình ưa tu an nhẫn thì lại khuyên bỏ an nhẫn mà tu tịnh giới, hoặc chúng hữu tình thích tu tinh tấn lại khuyên bỏ tinh tấn mà tu an nhẫn, hoặc chúng hữu tình thích tu tónh lự lại khuyên bỏ tónh lự mà tu tinh tấn, hoặc chúng hữu tình thích tu Bát-nhã lại khuyên bỏ Bát-nhã mà tu tónh lự. Các Bồ-tát như thế vì ngu mê đối với phương tiện thiện xảo thế gian nên không thể làm lợi lạc cho chúng hữu tình một cách chân thật, làm ác tri thức của các hữu tình, phương tiện thiện xảo này còn nương vào chỗ sở đắc và chỗ chấp trước. Như thế gọi là phương tiện thiện xảo thế gian của Bồ-tát. Phương tiện thiện xảo thế gian như vậy cùng chung với hàng Thanh văn và Độc giác, không gọi là luân đại giáp trụ, cũng không gọi là Đại Bồ-tát và cũng không là ruộng phước chân thật của tất cả Thanh văn, Độc giác. Thế nào gọi là Phương tiện thiện xảo xuất thế gian đại giáp trụ của Bồ-tát? nghĩa là chư Bồ-tát vì lợi tha mà không vì tự lợi, chỉ bày các kỹ thuật khéo léo để cho mọi người thành thục mà phụng sự, cúng dường hoặc chư Phật Thế Tôn, hoặc chư Bồ-tát, hoặc các Thanh văn, Độc giác, hoặc cha mẹ, hoặc người bệnh, hoặc người già yếu không nơi nương tựa. Nếu thấy người gặp ách nạn, sắp bị hại thì chẳng ngại dùng các phương tiện khó khăn để cứu giúp họ, lấy bốn Nhiếp pháp mà giáo hóa chúng hữu tình, tùy theo ý thích, tùy theo căn tính của chúng hữu tình mà giảng nói chính pháp. Lại có thể dần dần khuyên hàng Thanh văn tu pháp Độc giác thừa, khuyên hàng Độc giác tu theo pháp Đại thừa. Nếu hàng Thanh văn và Độc giác, căn tính chưa thành thục thì thuyết pháp chán xa khổ sinh tử, để cho họ tu pháp nhàm chán sinh tử, ưa cầu Niết-bàn. Hoặc có chúng hữu tình ưa thích sát sinh, nói rộng cho đến ưa chấp trước tà kiến thì tùy theo căn tính của họ hoặc là giảng nói các quả báo đau khổ sinh tử luân chuyển, chết đây sinh kia làm cho họ chán sợ mà xa lìa pháp ác, hoặc là tuyên giảng chính pháp tương ưng với Thanh văn thừa, hoặc là tuyên giảng chính pháp tương ưng với Độc giác thừa, hoặc là giảng thuyết các pháp gần với Vô thượng thừa làm cho họ dần dần tu học theo. Hoặc có chúng hữu tình ưa làm việc bố thí thì nói các tịnh giới tối thượng thọ trì làm cho họ tu học. Nói rộng cho đến hoặc có chúng hữu tình ham thích tu tónh lự thì thuyết pháp Bát-nhã Thánh đạo vô lậu thù thắng làm cho họ tu tập theo. Phương tiện thiện xảo này không có sở đắc, cũng không có chỗ chấp trước để nương. Như thế gọi là luân Phương tiện thiện xảo xuất thế gian đại giáp trụ của Bồ-tát. Này thiện nam! Đại Bồ-tát nào thành tựu được luân Phương tiện thiện xảo đại giáp trụ này từ lúc mới phát tâm thì có thể đoạn trừ hết năm dục, nên gọi là Đại Bồ-tát, vượt xa các hàng Thanh văn, Độc giác, làm ruộng phước lớn cho tất cả Thanh văn, Độc giác. Hàng Thanh văn, Độc giác nên cúng dường, phụng sự, hộ trì. Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn làm rõ nghĩa trên mà nói kệ: Sự tu tuệ có hai Thế gian và xuất thế Chấp trước là thế gian Lìa chấp là xuất thế. Tu phương tiện thiện xảo Nương hai pháp sai biệt Sở đắc là thế gian Vô sở đắc: Xuất thế. Nếu chỉ nói Nhất thừa Đó là thuyết pháp xấu Không thể tự thành thục Cũng không thể độ người. Với người chuyên làm ác Thuyết giáo pháp ba thừa Đó là vì ngu si Không gọi Ma-ha-tát. Có thể học ba thừa Vui cầu nghe chính pháp Mà thuyết ưa sinh tử Chẳng phải tướng kẻ trí. Chuyên tâm tư duy kỹ Tùy căn cơ giáo hóa Phương tiện thiện xảo này Được bậc trí tán thán. Chúng sinh tuy có ác Có thể vào ba thừa Tùy căn cơ dạy bảo Khiến giải thoát được ác. Lại nữa, này thiện nam! Đại Bồ-tát lại có luân: Đại từ đại giáp trụ. Đại Bồ-tát nào thành tựu được luân này từ lúc mới phát tâm có thể đoạn trừ hết năm dục, vượt xa hàng Thanh văn, Độc giác, làm ruộng phước lớn cho hàng Thanh văn, Độc giác. Tất cả hàng Thanh văn, Độc giác đều nên cúng dường, phụng sự, hộ trì. Thế nào là luân Đại từ đại giáp trụ của Bồ-tát? Này thiện nam! Từ có hai nghĩa: Pháp duyên từ và hữu tình duyên từ. Pháp duyên từ cũng gọi là đại Từ, là đại giáp trụ. Hữu tình duyên từ không gọi là đại Từ, cũng chẳng phải là đại giáp trụ. Vì sao? Vì hữu tình duyên từ cùng chung với pháp Thanh văn, Độc giác. Thanh văn, Độc giác chỉ tự lợi, không vì chúng hữu tình mà tinh cần tu tập hữu tình duyên từ. Hàng Thanh văn, Độc giác chỉ tự tìm cầu nơi yên tónh, tự tìm Niết-bàn cho riêng mình, diệt trừ các hoặc và các kết sử cho riêng mình, chứ không vì chúng hữu tình mà tinh tấn tu tập hữu tình duyên từ. Vì thế mà pháp từ này không gọi là đại Từ, chẳng phải là đại giáp trụ. Còn pháp duyên từ thì không cùng chung với Thanh văn, Độc giác, chỉ có hàng Đại Bồ-tát mới có thể tu hành. Đại Bồ-tát vì làm lợi lạc cho tất cả chúng sinh mà tinh tấn tu tập pháp duyên từ này. Đại Bồ-tát vì làm cho chúng hữu tình tu tịch diệt và đắc Niết-bàn, diệt hết phiền não trói buộc mà tinh cần tu tập pháp duyên từ này. Do vậy, pháp từ này gọi là đại Từ, là đại giáp trụ. Các Bồ-tát tu pháp duyên Từ, không nương theo các uẩn, không nương theo các xứ, không nương theo các giới, không nương theo niệm trụ, cho đến không nương theo tám chi Thánh đạo, không nương theo Dục giới, không nương theo Sắc giới, không nương theo Vô sắc giới, không nương theo đời này, không nương theo đời khác, không nương theo bờ này, không nương theo bờ khác, không nương theo cái được, không nương theo cái không được. Bồ-tát tu pháp duyên Từ như vậy là vượt qua quả vị của hàng Thanh văn, Độc giác. Đó là luân: Pháp duyên đại Từ đại giáp trụ của Bồ-tát. Này thiện nam! Đại Bồ-tát nào thành tựu luân Đại từ đại giáp trụ này, từ lúc mới phát tâm, có thể đoạn trừ hết năm dục, được gọi là Đại Bồ-tát, vượt qua tất cả hàng Thanh văn, Độc giác, làm ruộng phước lớn cho hàng Thanh văn, Độc giác. Tất cả hàng Thanh văn, Độc giác đều nên cúng dường, phụng sự, hộ trì. Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn làm rõ lại nghĩa trên mà nói kệ: Thanh văn và Độc giác Tu hữu tình duyên Từ Bị mắc mười ba lỗi Chỉ cầu lợi riêng mình. Các bậc Đại Bồ-tát Vì khắp loài hữu tình Tu đại Từ bất cộng Tâm lìa mười ba lỗi. Tâm trừ mười ba cấu Để đạt đến Bồ-đề Tu pháp duyên đại Từ Thành phước điền không xa. An trụ mười ba lực Vượt qua muôn hữu tình Cũng như sư tử vương Vượt hơn các cầm thú. Hàng phục mười ba oán Lìa chấp đoạn, chấp thường Tâm không còn cấu nhiễm Mau đắc quả Bồ-đề. Lại nữa, này thiện nam! Đại Bồ-tát lại có luân: Đại Bi đại giáp trụ. Đại Bồ-tát nào thành tựu được luân này, từ lúc mới phát tâm có thể đoạn trừ hết năm dục, vượt xa hàng Thanh văn, Độc giác, làm ruộng phước lớn cho tất cả Thanh văn, Độc giác. Hàng Thanh văn, Độc giác đều nên cúng dường, phụng sự, hộ trì. Vì sao? Vì tất cả Thanh văn, Độc giác chỉ mong cầu lợi lạc cho tự thân mà tu hạnh Đại Bi, không muốn cho tất cả chúng hữu tình được cùng lợi lạc mà tu hạnh Đại Bi. Đại Bồ-tát thì không vì lợi lạc cho mình mà tu hạnh Đại Bi, chỉ muốn đem lợi lạc cho khắp quần sinh mà tu hạnh Đại Bi. Vì vậy, Bồ-tát thành tựu luân Đại bi đại giáp trụ này, vượt hơn hàng Thanh văn, Độc giác, làm ruộng phước lớn cho hàng Thanh văn, Độc giác. Tất cả hàng Thanh văn, Độc giác nên cúng dường, phụng sự, hộ trì. Đại Bồ-tát vì muốn đem lại lợi ích cho chúng hữu tình, nên tu hành bốn Nhiếp pháp một cách thành thục, nghĩa là do Đại Bi mà làm lợi lạc cho chúng hữu tình nên hành pháp bố thí nhiếp: là có thể xả bỏ hết tài vật, trân bảo, cầm thú, kẻ ở, nước nhà, vợ con, cho đến thân mạng cũng không hề tiếc. Do thực hành mà không dính mắc nên không thấy tất cả chúng hữu tình được giáo hóa, cũng không thấy người ban cho, không thấy người thọ nhận, cũng không thấy vật ban cho, không thấy hành động ban cho, cũng không thấy phước báo có được do ban cho, cho đến không thấy hành động không dính mắc. Cũng vậy, do Đại Bi làm lợi lạc cho chúng hữu tình, nên hành pháp Ái ngữ nhiếp, hành Lợi hành nhiếp, hành Đồng sự nhiếp. Tùy theo chỗ thích ứng rộng nói như trên, cho đến không thấy hành, không dính mắc. Đại Bồ-tát này thường dùng tâm có thể điều phục tối thắng, tâm có thể tịch tónh tối thắng, tâm vô số lượng tối thắng, tâm không hành các pháp uẩn, giới, xứ tối thắng, nên phát sinh luân Đại Bi đại giáp trụ không động, không trụ, giáo hóa chúng sinh đến chỗ thành thục mà không mệt mỏi. Như thế gọi là luân Đại Bi đại giáp trụ của Bồ-tát, không cùng chung với tất cả hàng Thanh văn, Độc giác. Này thiện nam! Đại Bồ-tát nào thành tựu luân Đại Bi đại giáp trụ này, từ lúc mới phát tâm, có thể đoạn trừ hết năm dục, nên gọi là Đại Bồ-tát, vượt xa hàng Thanh văn, Độc giác, làm ruộng phước lớn cho tất cả hàng Thanh văn, Độc giác. Hàng Thanh văn, Độc giác đều nên cúng dường, phụng sự, hộ trì. Bấy giờ, Đức Thế Tôn làm rõ lại nghĩa trên mà nói kệ: Pháp vi diệu sâu xa Thành tựu tâm Đại Bi Khó lường như hư không Không sắc, không an trụ. Bồ-tát thường tinh tấn Đủ công đức Đầu-đà Thắng trí thành Đại Bi Dũng mãnh vượt thế gian. Hữu tình không nơi nương Ràng buộc khổ sinh tử Tắm gội nước Đại Bi Khiến xa lìa các khổ. Bồ-tát hành Đại Bi Làm cạn biển sinh tử Chẳng phải việc Thanh văn Cùng Độc giác đã làm. Chúng sinh vì tham sân Mê lầm phải đọa ác Dùng nước Đại Bi rửa Thoát khổ, được an vui. Lại nữa, này thiện nam! Đại Bồ-tát lại có luân: Đại nhẫn đại giáp trụ năng dẫn biến mãn hư không, vô lượng, vô biên quảng đại chúng cụ từ vô ngại giải nhất thiết Phật pháp, chư Tam-ma-địa, chư Đà-la-ni kiên cố. Đại Bồ-tát nào thành tựu được luân này, từ lúc mới phát tâm có thể đoạn trừ hết năm dục, vượt qua hàng Thanh văn, Độc giác, làm ruộng phước lớn cho hàng Thanh văn, Độc giác. Tất cả hàng Thanh văn, Độc giác đều nên cúng dường, phụng sự, hộ trì. Thế nào là luân Đại nhẫn đại giáp trụ năng dẫn biến mãn hư không, vô lượng, vô biên quảng đại chúng cụ từ vô ngại giải nhất thiết Phật pháp, chư Tam-ma-địa, chư Đà-la-ni kiên cố? nghĩa là chư Bồ-tát đối với tất cả pháp đều suy xét rõ ràng, sâu xa như mặt trăng sáng tỏ chiếu khắp cả hư không, tâm bình đẳng không nương, không tướng, không trụ, cũng không nhiễm. Đối với tất cả các pháp Tam-ma-địa, Đà-la-ni tâm không lệ thuộc theo; đối với các nhãn sắc, nhãn thức, nhãn xúc ý không nhiễm trước, tâm không lệ thuộc. Do nhãn xúc làm duyên, sinh ra ba thọ: Hoặc lạc thọ, hoặc khổ thọ, hoặc không khổ không lạc thọ thì tâm thường tịch định, không bị sự vướng mắc. Đối với các nhó thanh, nhó thức, nhó xúc; đối với các tỷ hương, tỷ thức, tỷ xúc; đối với các thiệt vị, thiệt thức, thiệt xúc; đối với các thân xúc, thân thức, thân xúc; đối với các ý pháp, ý thức, ý xúc, nói rộng cũng như trên. Đối với tất cả tâm, ý, thức, tâm thường tịnh định, không bị vướng mắc. Từ tâm, ý, thức sinh ra ba thọ: Hoặc lạc thọ, hoặc khổ thọ, hoặc không khổ không lạc thọ thì tâm vẫn thường tịch định, không bị vướng mắc. Đối với các uẩn, giới, xứ trong ba đời đều không bị vướng mắc, tâm không lệ thuộc. Đối với tất cả phẩm loại của ba giới, ba hành, ba xúc, ba thọ, ba căn, ba thừa, ba luật nghi, ba giải thoát, tâm đều tịch tónh, không trụ, không tướng, không bị vướng mắc, bình đẳng mà an trụ. Đối với tất cả bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tónh lự, Bát-nhã ba-la-mật đa tâm không lệ thuộc theo, tịch tónh mà an trụ. Cũng vậy, đối với bốn Niệm trụ, bốn chính đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác chi, tám Thánh đạo tâm đều không lệ thuộc theo, tịch tónh mà an trụ. Đối với tất cả trước sau chín định tâm không lệ thuộc theo, tịch tónh mà an trụ. Lại đối với những tác dụng do ba hành không chướng ngại, pháp trí, đạo chi, đạo thể đưa đến đều không bị vướng mắc, tâm không lệ thuộc. Đối với A-lại-da, chẳng phải A-lại-da; hữu thủ, vô thủ; hữu lậu, vô lậu; bờ này, bờ kia; nhỏ, lớn, vô lượng; làm, không làm; thiện, ác, vô ký tâm đều không lệ thuộc, tịch tónh mà an trụ. Đối với tất cả đại Từ Đại Bi, phương tiện thiện xảo giáo hóa hữu tình, cho đến mười Địa, ba bất hộ, bốn Vô sở úy, cho đến mười tám pháp Bất cộng của Phật đều không bị vướng mắc, tâm không bị lệ thuộc, tịch tónh mà an trụ. Do luân này nên Đại Bồ-tát có thể dứt trừ hẳn tội lỗi của ba thọ, đoạn trừ hẳn tất cả mọi phân biệt, xa lìa hẳn tất cả pháp tướng lại có thể an trú luân: Phương tiện thiện xảo đại giáp trụ năng dẫn nhất thiết hư không nhãn đảnh chư Tam-ma-địa, chư Đà-la-ni. Bồ-tát an trụ luân này nên tất cả các nghiệp sinh tử trong các đường, các cõi, các việc xấu ác bất thiện, những cảnh giới đau khổ trong đường ác, từ quá khứ đến nay chưa dứt trừ hết đều có thể đoạn trừ tất cả, không còn sót lại, không thọ quả báo. Này thiện nam! Ví như thế giới lúc hỏa tai khởi lên, năm mặt trời xuất hiện thì tất cả nước trong ao nhỏ, ao lớn, sông nhỏ, sông lớn, biển nhỏ, biển lớn của thế gian đều khô cạn hết, không còn giọt nào. Cũng vậy, Bồ-tát khi thành tựu luân: Đại nhẫn đại giáp trụ năng dẫn biến mãn hư không, vô lượng, vô biên quảng đại chúng cụ từ vô ngại giải nhất thiết Phật pháp, chư Tam-ma-địa, chư Đà-la-ni kiên cố thì có thể an trụ luân: Phương tiện thiện xảo đại giáp trụ năng dẫn nhất thiết hư không nhãn đảnh chư Tam-ma-địa, chư Đà-la-ni. Do đó, tất cả các nghiệp sinh tử trong các đường, các cõi, các việc xấu ác bất thiện, những cảnh giới đau khổ trong đường ác, từ quá khứ đến nay chưa dứt trừ hết đều có thể đoạn trừ tất cả, không còn sót lại, không thọ quả báo. Này thiện nam! Ví như thế giới khi thủy tai khởi lên thì tam thiên đại thiên thế giới, các thế giới nhỏ, bốn đại châu, tám vạn đảo nhỏ, núi Diệu cao và các núi đều bị chìm đắm trong biển nước, tan hoại không còn gì cả. Cũng vậy, khi Bồ-tát thành tựu luân: Đại nhẫn đại giáp trụ năng dẫn biến mãn hư không, vô lượng, vô biên quảng đại chúng cụ từ vô ngại giải nhất thiết Phật pháp, chư Tam-ma-địa, chư Đà-la-ni kiên cố thì có thể an trụ luân: Phương tiện thiện xảo đại giáp trụ năng dẫn nhất thiết hư không nhãn đảnh chư Tam-ma-địa, chư Đà-la-ni. Do đó, tất cả các nghiệp sinh tử trong các đường, các cõi, các việc xấu ác bất thiện, những cảnh giới đau khổ trong đường ác, từ quá khứ đến nay chưa dứt trừ hết đều có thể đoạn trừ tất cả, không còn sót lại, không thọ quả báo. Này thiện nam! Ví như bóng tối bao trùm khắp không gian, khi mặt trời xuất hiện, bóng tối biến mất. Cũng vậy, Bồ-tát khi thành tựu luân: Đại nhẫn đại giáp trụ năng dẫn biến mãn hư không, vô lượng, vô biên quảng đại chúng cụ từ vô ngại giải nhất thiết Phật pháp, chư Tam-ma-địa, chư Đà-la-ni kiên cố thì có thể an trụ luân: Phương tiện thiện xảo đại giáp trụ năng dẫn nhất thiết hư không nhãn đảnh chư Tam-ma-địa, chư Đà-la-ni. Do đó, mà phát sinh mặt trời trí tuệ vô biên hư không, có thể đoạn trừ hẳn bốn điên đảo, vô minh tăm tối của thân mình, làm cho tất cả các nghiệp sinh tử trong các đường, các cõi, các việc xấu ác bất thiện, những cảnh giới đau khổ trong đường ác, từ quá khứ đến nay chưa dứt trừ hết đều có thể đoạn trừ tất cả, không còn sót lại, không thọ quả báo. Do đó, nên đối với chư Phật pháp càng thêm tự tại, thường không thoái chuyển, không làm theo bạn ác, thường được gặp tất cả chư Phật và các đệ tử Thanh văn, Bồ-tát, được nghe giáo pháp, thân cận cúng dường chúng Tăng, đối với các công đức không nhàm chán, cho đến đạo Bồ-đề không để gián đoạn. Lại thường không xa lìa sự nhớ nghó niệm Phật, cho đến trong mộng cũng không tạm quên. Này thiện nam! Thế nào là luân: Đại nhẫn đại giáp trụ năng dẫn biến mãn hư không, vô lượng, vô biên quảng đại chúng cụ từ vô ngại giải nhất thiết Phật pháp, chư Tam-ma-địa, chư Đà-la-ni kiên cố của Đại Bồ-tát? nghĩa là các Bồ-tát nhập thiền thứ nhất cho đến thiền thứ tư, nhập vô biên hư không xứ, cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ, nhập diệt thọ tưởng định. An trụ trong định này thì tất cả ba thọ, ba hành đều đoạn diệt, tâm không lệ thuộc theo, các thọ, tưởng, tư, xúc, tác ý đều đoạn trừ. An trú trong định này, hoặc một ngày đêm cho đến bốn mươi chín ngày đêm thọ thức ăn định vị. Từ định này xuất ra, tâm được tịch tónh, không bị vướng mắc, tự nhiên vui vẻ mà an trụ. Lại nhập định Thắng nghĩa cứu cánh không, trụ trong định này, tâm được bình đẳng, không bị vướng mắc, cũng như hư không, các lỗ chân lông nơi thân xuất ra mồ hôi giống như sao Mão, diệt trừ tất cả những hơi nước cát phược. Từ định này xuất ra, được nhớ nghó chân chính, hỷ lạc tối thắng, sung mãn khắp thân. Như Thiên tử ở cõi trời Đại tự tại, khi nhập định Hiện nhất thiết lạc thì các lỗ chân lông nơi thân cũng đều hưởng thọ lạc. Cũng vậy, Bồ-tát khi cảm giác lạc tiếp xúc thân mình, liền nghó nhớ niệm Phật. Do nghó nhớ Phật nên chỉ thấy Phật, không thấy tướng nào khác. Khi Bồ-tát nghó đến một Đức Phật, liền thấy một Đức Phật. Nếu nghó đến nhiều Đức Phật, liền thấy nhiều Đức Phật. Nếu nghó đến Phật thân tướng nhỏ, liền thấy Phật thân tướng nhỏ. Nếu nghó đến Phật thân tướng lớn, liền thấy Phật thân tướng lớn. Nếu nghó đến Phật vô lượng thân, liền thấy Phật vô lượng thân. Nếu nghó đến thân mình là thân tướng Phật, liền thấy thân mình đồng với thân Phật, các tướng đều viên mãn. Nếu nghó đến thân khác là thân tướng Phật, liền thấy thân khác cũng đồng với thân Phật, các tướng đều viên mãn. Nếu nghó đến tất cả hữu tình, phi tình có sắc tướng là thân tướng Phật, liền thấy tất cả hữu tình, phi tình có sắc tướng đồng với thân Phật, các tướng đều viên mãn, không thấy mọi sắc tướng nào khác. Khi ấy, Bồ-tát liền nghó: “Tất cả các pháp, tất cả sắc tướng đều như huyễn. Đó là chắc thật, không hư vọng. Ta nên đoạn trừ hết thảy ba thọ, ba hành, làm cho không còn sót lại.” Nghó vậy rồi, Bồ-tát nhập Diệt tận định. An trụ trong định này, nếu tâm có mong mỏi điều gì đều đoạn diệt hết, thọ thức ăn định vị, hoặc trong một tuần, hoặc hai tuần, ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám, chín, mười tuần, hoặc trải qua vô lượng trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa kiếp, tùy theo năng lực mà có thể an trụ ở định này, thọ thức ăn định vị. Từ định này xuất ra, tâm được tịch tónh, không bị vướng mắc, tự nhiên mà an trụ. Lại nhập vào định Thắng nghĩa cứu cánh không, nói rộng như trước, cho đến khi nghó nhớ thân tướng của Phật xong, biết tất cả pháp, tất cả sắc tướng đều như huyễn. Đó là chắc thật, không hư vọng. Này thiện nam! Đó là luân: Đại nhẫn đại giáp trụ năng dẫn biến mãn hư không, vô lượng, vô biên quảng đại chúng cụ từ vô ngại giải nhất thiết Phật pháp, chư Tam-ma-địa, chư Đà-la-ni kiên cố của Đại Bồ-tát. Đại Bồ-tát nào thành tựu được luân này thì có thể an trụ luân: Phương tiện thiện xảo đại giáp trụ năng dẫn nhất thiết hư không nhãn đảnh chư Tam-ma-địa, chư Đà-la-ni. Trụ vào luân này, nên có thể phát sinh mặt trời trí tuệ vô biên hư không, có thể đoạn trừ hẳn bốn điên đảo, vô minh tăm tối của chính mình, làm cho tất cả các nghiệp sinh tử trong các đường, các cõi, các việc xấu ác bất thiện, những cảnh giới đau khổ trong đường ác, từ quá khứ đến nay chưa dứt trừ hết đều có thể đoạn trừ tất cả, không còn sót lại, không thọ quả báo. Này thiện nam! Đại Bồ-tát nào thành tựu luân này, từ lúc mới phát tâm có thể đoạn trừ hết năm dục, vượt xa hàng Thanh văn, Độc giác, làm ruộng phước lớn cho hàng Thanh văn, Độc giác. Tất cả hàng Thanh văn, Độc giác đều nên cúng dường, phụng sự, hộ trì. Do luân này, nên đối với Phật pháp được tăng trưởng tự tại, không bị thoái chuyển, không làm theo bạn ác, thường được gặp tất cả chư Phật và các đệ tử Thanh văn, Bồ-tát, thường được nghe pháp, thân cận cúng dường chúng Tăng, không biết nhàm chán, tạo lập công đức, cho đến đạo Bồ-đề không hề gián đoạn. Lại thường nhớ nghó niệm Phật, dù là ở trong mộng vẫn không tạm quên. Do đó, phước đức trí tuệ của Bồ-tát mau được viên mãn, chẳng bao lâu sẽ được an trụ nơi cõi Phật thanh tịnh, chứng đắc Vô thượng chính đẳng Bồ-đề. Ở nơi cõi Phật đó, tất cả hữu tình đều là hóa sinh nên sắc tướng như Phật, phiền não mỏng ít, an trụ trong Đại thừa. Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn làm rõ nghĩa trên mà nói kệ: Muốn thành tựu pháp khí Đoạn trừ hết phiền não Thường nhập vào chân không Muôn việc không khó làm. Đoạn trừ mọi buộc ràng Nên chuyên tu Đẳng trì Tương ưng công đức định Ắt đạt tuệ khó lường. Tu tónh lự vô sắc Diệt định quán chân không Thắng trí nghó nhớ Phật Diệt hết tất cả ác. Tất cả pháp hữu vô Phá bằng quán chân không Xa lìa các đường ác Thường được gặp chư Phật. Khéo tu quán chân không Siêng học các pháp thiện Cúng dường hết thảy Phật Mau chứng thành đạo quả. Làm bạn với hữu tình Trừ diệt bệnh phiền não Mau trụ nước Phật tịnh Chứng đạo quả Bồ-đề. Chúng sinh tướng như Phật Ở khắp các quốc độ Đều mong cầu Phật thừa Lìa Độc giác, Thanh văn.  <詞 id="117270450">Phẩm 8: Hoạch Ích Chúc Lụy Lúc Phật thuyết đại pháp môn này, trong chúng hội có hằng hà sa chư Đại Bồ-tát đã từng niệm Phật, tư duy tu tập trong nhiều đời ở quá khứ, nay nghe Phật nói các phương tiện về niệm Phật tu quán, liền được chứng đắc môn Niệm Phật Tam-ma-địa. Lại có vô lượng, vô biên chúng sinh nghe Phật thuyết pháp xong đều đắc môn Đà-la-ni Nhất thiết định mạng hoa man. Lại có vô lượng, vô biên chúng sinh nghe Phật thuyết pháp đều đắc môn Đà-la-ni Nhất thiết Thủ-lăng-già-ma Điện quang y chỉ. Lại có vô số chúng sinh nghe Phật thuyết pháp liền được Nhất thiết pháp tự tại chuyển quang minh y chỉ thuận nhẫn. Lại có vô lượng, vô biên chúng sinh nghe Phật thuyết pháp liền xa lìa trần cấu, ở trong các pháp sinh Pháp nhãn thanh tịnh, đắc quả Dự lưu. Lại có vô lượng, vô biên chúng sinh nghe Phật thuyết pháp đắc quả Nhất lai. Lại có vô lượng, vô biên chúng sinh nghe Phật thuyết pháp liền chứng quả Bất hoàn. Lại có vô lượng, vô biên chúng sinh nghe Phật thuyết pháp liền chứng quả A-la-hán tối thượng. Lại có vô lượng, vô biên chúng sinh nghe Phật thuyết pháp liền mong cầu được ra khỏi cõi lao ngục trong tam giới, để theo Phật xuất gia, hướng vào chính pháp. Lại có vô lượng, vô biên chúng sinh nghe Phật thuyết pháp, suốt đời an trụ trong mười nghiệp thiện đạo, nương theo Thanh văn thừa, phát tâm không thoái chuyển. Lại có vô lượng, vô biên chúng sinh nghe Phật thuyết pháp, an trụ trong mười nghiệp thiện đạo, nương theo pháp Đại thừa phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, không còn thoái chuyển. Lại có vô lượng, vô biên chúng sinh nghe Phật thuyết pháp, đắc chính kiến thế gian. Do chính kiến này nên trừ diệt hết các nhân đưa đến cõi ác cùng các phiền não nghiệp ác, tăng trưởng tất cả các nhân hướng đến cõi thiện và chính nguyện thiện nghiệp. Lại có vô lượng, vô biên chúng sinh nghe Phật thuyết pháp liền thọ tam quy y, an trụ trong tịnh giới cận trụ, cận sự, ưa thích cúng dường chư Phật, thích nghe giáo pháp, thích phụng sự chư Tăng, ngày đêm chuyên cần không hề bỏ phế. Lại có vô lượng, vô biên chúng sinh nghe Phật thuyết pháp liền xa lìa tất cả tà thú, tà quy, ý ác, nghiệp ác, ở trong pháp Phật có lòng tin vững chắc, lìa bỏ thế tục mà thanh tịnh xuất gia. Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Đại Bồ-tát Hư Không Tạng: –Này thiện nam! Nay ta đem pháp môn Địa tạng thập luân đại ký này phó chúc cho ông, ông nên thọ trì làm cho lưu truyền rộng khắp. Nếu có chúng sinh nào đối với pháp môn này có thể đọc tụng, suy nghó nghĩa lý, giảng cho người nghe an trụ chính hạnh thì ông nên dùng mười pháp sau để hộ trì họ, làm cho họ được an lạc, lợi ích lâu dài. Mười pháp đó là: 1.Bảo vệ tất cả tài vật quả vị của người ấy, không cho hao tổn, thiếu thốn. 2.Bảo vệ không để cho oán thù xâm hại đến người ấy. 3.Bảo vệ để khiến cho người ấy xả bỏ hết tà kiến, tà quy, mười nghiệp đạo ác. 4.Bảo vệ người đó thoát khỏi mọi sự trách phạt về thân, ngữ. 5.Bảo vệ, ngăn chận tất cả những lời hủy báng khinh lờn. 6.Bảo vệ để người ấy không phạm tất cả các giới điều. 7.Hộ trì cho người ấy trừ diệt tất cả loài phi nhân quấy nhiễu, tứ đại chống trái, lão bệnh phi thời. 8.Bảo vệ để người ấy không gặp tất cả những tai nạn phi thời, phi lý làm cho chết yểu. 9.Hộ trì người ấy khi lâm chung được thấy tất cả sắc tướng của Phật. 10.Hộ trì cho người ấy sau khi mạng chung được sinh vào cõi thiện, gặp nhiều lợi ích an vui. Này thiện nam! Nếu có chúng hữu tình nào đối với pháp môn này, có thể đọc tụng, suy nghó nghĩa lý, giải nói cho người trụ vào trong chính hạnh thì ông nên dùng mười pháp trên đây để hộ trì làm cho họ thường được lợi ích an lạc. Bấy giờ, Đại Bồ-tát Hư Không Tạng bạch Phật: –Xin vâng Thế Tôn! Con sẽ thọ trì pháp môn này và làm cho lưu truyền rộng khắp. Nếu có chúng sinh nào có thể đọc tụng, suy nghó nghĩa lý kinh này, diễn thuyết cho người nghe được an trụ chính hạnh thì con sẽ dùng mười pháp trên để hộ, làm cho họ thường được nhiều lợi ích an lạc. Khi Đức Thế Tôn thuyết kinh xong, trong chúng hội, Đại Bồ-tát Hư Không Tạng, Đại Bồ-tát Địa Tạng, Đại Bồ-tát Kim Cang Tạng, Đại Bồ-tát Hảo Nghi Vấn, các vị Thiên Tạng, Đại Phạm và các Trời, Rồng, Dược-xoa, Kiền-đạt-phược, A-tố-lạc, Yết-lộ-trà, Khẩn-nại-lạc, Mạc-hô-lạc-già, Nhân phi nhân tất cả đại chúng nghe Phật thuyết pháp đều rất hoan hỷ tin tưởng, thọ lãnh phụng hành.