<經 id="n410">KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG THẬP LUÂN Hán dịch: Mất tên người dịch. Phụ vào dịch phẩm đời Bắc Lương. <卷 id="117270402">Quyển 1 <詞 id="117270403">Phẩm 1: Mở đầu Tôi nghe như vầy: Một thời, Đức Phật ở tại núi Khư-la-đề-da, là trụ xứ của vị Tiên Mâu-ni, cùng với chúng đại Tỳ-kheo hội đủ, vô lượng, vô số chúng đại Thanh văn, vô lượng, vô số các vị Đại Bồ-tát không thể tính kể đã vân tập đến nghe Phật thuyết giảng kinh Nguyệt Tạng. Bấy giờ, phương Nam có mây hương lớn, mưa xuống những trận mưa hương lớn, có mây hoa lớn, mưa xuống những trận mưa hoa lớn, có vô lượng mây anh lạc, mưa xuống vô số trận mưa anh lạc, có mây y phục lớn, mưa xuống các trận mưa y phục lớn. Ở nơi núi Khư-la-đề-da, trú xứ của Tiên Mâu-ni, các trận mưa lớn ấy thảy đều đủ khắp. Các đám mây rợp lớn tuôn những cơn mưa hương, hoa, y phục, anh lạc, qua đó cũng nêu bày vô lượng, vô số pháp âm, như thế theo thứ lớp, cho đến nói rộng về đủ loại: Âm thanh nói về ba quy y. Âm thanh nói về Trì giới. Âm thanh nói về Nhẫn nhục. Âm thanh nói về Tinh tấn. Âm thanh nói về Thiền định, về Trí tuệ đầy đủ, về hàng phục bốn ma, về tiếng khen ngợi vang khắp ba cõi, về Tổng trì niệm định, về ba môn Giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện. Âm thanh nói về ly dục. Âm thanh nói về Sắc như bọt nước tụ lại, Thọ như bong bóng nước, Tưởng như ánh lửa cháy bùng, Hành như cây chuối, Thức như huyễn hóa. Âm thanh nói về vô thường, khổ, không, vô ngã. Âm thanh nói về sự hổ, thẹn. Âm thanh nói về niệm xứ. Âm thanh nói về bốn Tâm vô lượng Từ, Bi, Hỷ, Xả. Âm thanh nói về việc chứng đắc các pháp. Âm thanh nói về Niết-bàn. Âm thanh nói về chỗ rộng mở không còn chứa, giấu, che đậy. Âm thanh nói về ba thừa, nói về chuyển pháp luân, nói về sự thành tựu đầy đủ cho chúng sinh, nói về sự vượt qua ba cõi ác, nói về sáu pháp Ba-la-mật, nói về phương tiện quyền xảo cho đến gồm đủ mười Địa. Âm thanh nói về thần thông tự tại, nói về Đại thừa vô thượng diệu dụng, nói về Bất thoái chuyển, nói về pháp Nhẫn vô sinh, nói về sự hội nhập nơi biển Phật. Đại chúng có mặt nơi pháp hội đều thấy đủ loại cơn mưa, cũng nghe vô lượng âm thanh nói về các pháp, âm thanh nói về các thứ y phục theo ý để trang sức thích hợp. Lại thảy đều thấy trên hai tay của các vị kia đều có ngọc báu Như ý, mưa xuống các báu như ý, mỗi mỗi báu như ý đều phát ra hào quang sáng rực, trong hào quang ấy đều thấy tất cả chư Phật nơi hằng sa thế giới khắp mười phương. Mỗi chỗ ở của chư Phật ấy đều có các các vị Bồ-tát tự vây quanh. Nơi ánh hào quang rực rỡ kia lại thấy hết thế giới chư Phật khắp mười phương. Nếu có người bệnh, thân nhờ xúc chạm được với ánh hào quang thì các bệnh đều tiêu trừ. Chúng sinh nào bị trói buộc cùng sắp bị giết, thân nhờ xúc chạm nơi ánh hào quang ấy liền được giải thoát. Nếu thân làm việc ác, miệng nói lời ác, ý suy nghó ác, gặp ánh hào quang ấy chạm vào thân thì sẽ trừ được ba nghiệp ác. Nếu chúng sinh chịu mọi đói khát, gặp ánh hào quang ấy chạm vào thân thì đều được no đủ. Người nào mắc phải tội lỗi, bị đánh đập, chịu nhiều khổ bức, thiếu các thứ vật dụng, y phục, các loại anh lạc để trang sức, nếu gặp ánh hào quang ấy chạm đến thân, tùy theo chỗ nhớ nghó đều được đầy đủ. Nếu có những người sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói thêu dệt, nói hai lưỡi, nói lời thô ác, mắng nhiếc, gặp ánh hào quang ấy chạm vào thân thì những nghiệp ác như vậy đều được tiêu trừ. Nếu có các chúng sinh cầu không được nên khổ, gặp ánh hào quang ấy chạm vào thân thì đều thọ nhận sự an vui. Hào quang sáng tỏ thanh tịnh, không bị ngăn che do gió, mây, bụi bặm và các thứ cấu uế. Các sự khổ não, đắng cay, chua xót, các loại âm thanh bất thiện cho đến những xúc chạm xấu ác, gây sợ hãi đều được trừ diệt. Xa lìa các điều ác, tất cả tà kiến, hư dối, dua nịnh cũng đều dứt hết. Mọi thứ tham dục xấu ác thảy được loại bỏ, mọi điều an lạc thù thắng, vi diệu đều sinh khởi. Bấy giờ, chúng hội đều an định vững chắc khó lay động như mặt đất, tâm không đến đi, không thể hủy hoại. Đại chúng như vậy đạt được điều chưa từng có, đều tự hỏi: “Vì nhân duyên gì hôm nay chúng ta thân tướng như được khỏe khắn, được quý trọng, không thể tự kìm chế.” Lúc này, có một vị Đế thích tên là Tịnh Hữu, ở trong đại chúng chỗ ngồi không xa, liền từ tòa ngồi đứng dậy, sửa lại y phục, gối phải quỳ sát đất, chắp tay hướng về Đức Phật, nói kệ: Lời nói thật, thấy thật Bậc Mâu-ni an trú Ở lâu trong pháp hành Xin nguyện diễn nói pháp. Phật vì nhân duyên thật Diệt khổ cho chúng sinh Sao ở nơi chốn này Tuôn xuống các cơn mưa? Đại chúng đều vui mừng Tâm tin tưởng an lạc Giải bày những nghi ngờ Khiến ở trong Đại thừa. Thân vững chắc như đất Và tất cả trời, người Cùng thấy tướng như vậy Đại chúng đều sinh nghi. Trên hai tay xuất hiện Ngọc ma-ni tỏa sáng Tất cả những y phục Thân trang sức đầy đủ. Ruộng phước trong mười phương Xa lìa các tội lỗi Mọi khổ được chấm dứt Đều nhờ Bậc cứu đời. Tất cả các trời, người Không thể nêu nhân duyên Ai dùng sức thần thông Để đến nơi chốn này? Vì Phật, các Bồ-tát Chúng Phạm, Ma, Đế Thích Xin thuyết pháp cứu độ Nhân duyên của thần thông. Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Đế thích Tịnh Hữu: –Đúng vậy, đúng vậy! Nay ông lắng nghe, ta sẽ vì ông mà giảng nói: Đại Bồ-tát Địa Tạng ấy ở trong vô lượng a-tăng-kỳ kiếp, vì đời ác năm trược, muốn thành tựu đại nguyện cứu độ chúng sinh nên đến nơi này, cùng với tám mươi triệu na-do-tha trăm ngàn ức chúng Đại Bồ-tát hội đủ, tất cả đều muốn đến lễ bái cung kính cúng dường Như Lai, đều muốn được gặp đại chúng tập hội, đều muốn được nghe đại chúng khởi tâm tùy hủy. Bồ-tát Địa Tạng ấy làm vị Sa-môn, hiện sức thần thông biến hóa khắp nơi, đầy đủ việc đại trang nghiêm như vậy, cũng là công đức vô lượng không thể nghó bàn của Đức Như Lai, cũng gọi là kho tàng chính pháp của hàng Thanh văn, Bích-chi-phật, cũng gọi là bờ bãi báu lớn của giải thoát thật trí, cũng gọi là pháp của Bồ-tát cứu đời, cũng gọi là bậc thầy dẫn đường đến Niết-bàn. Giống như ngọc Như ý, chỗ cầu luôn được đầy đủ, cũng như chốn bãi báu mà tất cả người buôn nhắm đến, cũng như đất lành hay sinh cây tốt, cũng là thần khí của đại pháp Niết-bàn, cũng là bình đựng công đức thanh tịnh, cũng là chỗ ánh sáng mặt trời, mặt trăng chiếu đến, cũng là bó đuốc lớn soi sáng chốn tăm tối sâu dày, như mặt trăng mát mẻ diệt trừ được sự nóng bức của phiền não, như người không chân được xe như ý, như người tâm tán loạn được uống vị cam lồ, như người già yếu gặp được cây gậy, là chỗ căn bản của ruộng phước lớn, tâm xả không trở ngại, như dòng nước chảy sâu, cứu khổ chúng sinh không ngại gian khó như đến chỗ bạn thân, trừ lửa kết sử như mây lớn che trùm khắp, như nước sạch tẩy trừ được nhơ nhớp, như đến con đường hiểm ác thì hiện bày con đường chính, như người mỏi mệt thì được chỗ ngồi nằm an ổn, là chiếc cầu vượt qua bốn dòng sinh tử, cũng là thuyền lớn vô thượng vượt đến bờ giải thoát, là quả báo thù thắng vi diệu của ba căn lành. Là người bố thí pháp Đại thừa tối thượng. Trì giới không lay động như núi Tu-di. Tinh tấn khó hủy hoại như kim cang. Nhẫn nhục kiên cố như mặt đất, thâu giữ chính pháp, tâm không phân biệt hai tướng. Thiền định trang nghiêm như tràng hoa vi diệu. Trí tuệ sâu rộng dường như biển lớn. Tâm không chốn nương tựa giống như hư không. Phương tiện không đắm nhiễm như các hoa kết lại. Đối với ngoại đạo như sư tử chúa. Xa lìa phiền não như tê giác một sừng. Diệt các kết sử như rửa bụi nhơ. Có thể trừ mọi xú uế như gió thổi nhanh chóng. Giúp đỡ người bệnh như vị lương y. Tiêu trừ mọi thứ bệnh tật như phương thuốc vi diệu. Dứt các phiền não như cầm kiếm sắc. Vì người lo sợ làm bằng hữu tốt. Ngăn giữ kẻ thù như hào thành vững chắc. Hay trừ mọi sự khát như dòng nước trong mát. Cứu giúp cơn đói như uống quả ngọt. Cũng là y phục thù thắng đối với kẻ cơ hàn. Với những người bị nóng bức thì làm đám mây dày che kín. Đầy đủ quả báo của căn lành như vậy, thanh tịnh kiên cố không bị hủy hoại. Nơi chốn với màu sắc vi diệu thường sinh ưa thích. Ở trong đại chúng sinh tâm hổ thẹn, trừ các kết sử, hành trì thiền định. Nhân nơi bốn chính cần, bốn Nhiếp pháp để tạo sự hành hóa thuận hợp. Tâm địa nhẫn nhục như núi Tu-di. Thâu tóm sâu rộng như biển lớn kia. Thần túc tự tại vô ngại như hư không. Hàng phục các ma cùng mọi thứ kết sử tập nhiễm. Tu hành chính đạo vô lượng thiền định, cũng làm bờ bãi của Nhất thiết trí để chuyển pháp luân Vô tác thanh tịnh. Đại Bồ-tát Địa Tạng vì muốn đến đây nên trước tiên hiện điềm lành ấy, vì muốn cúng dường kính lễ ta nên đến nơi này. Đức Phật lại tán thán Bồ-tát Địa Tạng: –Ông từ phương Nam cùng với tám mươi triệu trăm ngàn na-do-tha Bồ-tát, dùng sức thần thông đi đến nơi này. Bấy giờ, tất cả chư vị Bồ-tát ấy đều hiện bày hình tướng Thanh văn ở trước Như Lai, đảnh lễ nơi chân Phật, nhiễu quanh bên phải ba vòng, chắp tay nói kệ: Thế Tôn tối thắng thầy dẫn đường Thường tu Từ bi, phát tâm thiện Hay sinh nhẫn nhục như mặt đất Giải thoát chúng sinh trừ sân hận. Đầy đủ các tướng tốt vó đại Thường hay trang nghiêm các cảnh giới Nên đủ tất cả các ruộng phước Tu tập tâm Từ nói lời thật. Đều đoạn trừ được các lưới mê Thường hay an trú vào chân thật Còn làm thanh tịnh cõi nước Phật Chúng sinh trong đó đủ căn lành. Nguyện muốn được độ đời ác trược Thành tựu đủ tất cả chúng sinh Sinh tâm kiên cố, siêng, tinh tấn Thoát vô lượng tội lỗi, khổ nạn. Thường tu việc khó, chốn nguy hiểm Vượt qua lỗi lầm vô lượng khổ Bố thí, trì giới, nhẫn, tinh tấn Tu tập thiền định cùng trí tuệ. Vô số chư Phật, chúng Bồ-tát Thanh văn đại chúng đều cúng dường Bệnh đói khát giúp đủ thuốc thang Giải thoát tất cả những ràng buộc. Ta từ xưa nay bỏ thân mạng Vì lợi chúng sinh, không tham tiếc Thường vì chính pháp nên xả thân Da, xương, máu thịt cho chúng sinh. Gặp chỗ an lạc đều lìa bỏ Thực hành Từ bi vì tất cả Lưới phiền não trói buộc chúng sinh Tu hành vắng lặng đều thoát khỏi. Đóng kín tất cả gốc sáu tình Thường hay xa lìa những tham dục Tu khổ, vô thường, không, vô ngã Cũng khéo quán sát trong thế gian. Các khổ do ái dục làm gốc Thảy làm khô cạn hết phiền não Do nghĩa này thâu giữ sáu căn Khéo đoạn trừ tất cả tham ái. Thường tu vô lượng môn Đại Bi Phổ cập nơi tất cả chúng sinh Ta quyết không bỏ gốc thệ nguyện Mà cũng không trú quả Bồ-đề. Tất cả chúng sinh tướng như như Cũng thấy hữu tình chịu khổ đau Vì chúng sinh tư duy như vậy Liền siêng năng tu hành dũng mãnh. Phát sinh tinh tấn, thí, giới, nhẫn Tu tập thiền định và trí tuệ Giống như mẹ chỉ có một con Đem hết lòng thương yêu nuôi dưỡng. Đối với chúng sinh Phật cũng vậy Thường hay cứu giúp cho tất cả Nên Như Lai mau chứng Bồ-đề Giải thoát tất cả vô lượng chúng. Phật xưa tu tập đạo Bồ-đề Thệ nguyện không bỏ một chúng sinh Luôn luôn an trú thí, giới, nhẫn Tinh tấn, thiền định tu trí tuệ. Thường hay ở trong chốn đời cuối Cầu Bồ-đề vô thượng tối tôn Nên cứu đời ở trong kiếp mạt Mau chứng đạo vô thượng tối thắng. Thu phục ma ác, chúng Dạ-xoa Loài rồng ác, quỷ thần cùng người Giống như kim cang đoạn kết sử Thường hay an trú trong Thánh đạo. Vì vô lượng chúng mà thọ ký Sẽ thành đạo Bồ-đề vô thượng Công đức tối thắng trí tuệ sáng Là đại tướng ruộng phước chân thật. Nơi vô lượng kiếp vì cứu đời Che phủ cho tất cả chúng sinh Trong mười phương cõi làm ruộng phước Tiếng tốt vang khắp mọi nơi chốn. Do đó tất cả chư Bồ-tát Đều hay từ bỏ việc riêng mình Phật dùng thần thông mà nhóm họp Cùng đến Thế Tôn Đại Mâu-ni. Nguyện xin Như Lai thường diễn thuyết Nếu được nghe đều rất vui mừng Đã nghe pháp rồi siêng tinh tấn Thường được tu học đạo Bồ-tát. Đều nhờ sức dũng mãnh của Phật Nên được mau gần đạo Bồ-đề Nay nhóm họp chưa từng nghe thấy Nên các vị đều đến hội đủ. Có mười ba ức chúng Dạ-xoa Làm việc tàn hại ăn máu thịt Mau bỏ nghiệp ác đến nơi này An trú đạo vô thượng tối thắng. Chứng được nhẫn nhục Đà-la-ni Chứng được thiền định pháp vi diệu Đạt được thần thông chứng lậu tận La-hán, Thế Tôn không chấp trước. Thường khéo tu tập bốn Vô lượng An trú ở trong bốn Nhiếp pháp Thường được bốn Biện tài tối thắng Lại hay tu tập các pháp nhẫn. Có được Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm Có được mắt trí tuệ hư không Có được các pháp Nhẫn vô sinh Đều do Thế Tôn đã thuyết pháp. Chế ngự tất cả các dị học Chín mươi sáu ngoại đạo tà kiến Hàng phục tất cả các ma oán Đều nhờ sức đại tướng cứu đời. Đóng cửa địa ngục, quỷ, súc sinh Lợi ích tất cả chúng trời, người Cho nên các chúng sinh chân thật Đều nhờ thần lực Phật đến nhóm. Mất mùa, bệnh dịch chốn binh đao Ngày nay đều được tiêu diệt hết Nếu bị mù tối mất đường chính Khiến chúng sinh ấy được giải thoát. Vô lượng phiền não và loạn động Đều được ở yên đạo Niết-bàn Khiến chúng sinh đều bỏ nghiệp cũ Đảnh lễ Như Lai đến nơi này. Vô lượng ức thế giới cõi Phật Đều là nơi an trú cứu đời Nghe tên gọi mười phương vô lượng Con nghe rồi nên đến nơi đây. Biển công đức Nhất thiết chủng trí Tướng chân thật được nghe như vậy Độ thoát tất cả các chúng sinh Nay con vui mừng nên kính lễ. Khiến con tăng trưởng đức vô lượng Cho nên nay cúi đầu đảnh lễ Ở trong trăm ngàn vạn ức kiếp Thường siêng tu tập hành bố thí. Nay con sẽ học phát thệ nguyện Nay con đến chỗ Phật thần thông Con sẽ tu học nơi đời ác Đạt đến đạo Bồ-đề tối thượng. Bấy giờ, Đại Bồ-tát Địa Tạng dùng ngàn thứ hoa trời, hoa, hương, anh lạc tung rải lên Đức Phật, chỗ rải hoa biến thành chiếc lọng báu. Khi ấy, Bồ-tát Địa Tạng ở trước Đức Phật lắng nghe lãnh thọ kinh pháp. Đại chúng nơi pháp hội đến đông đủ thấy Bồ-tát Địa Tạng liền sinh tưởng hiếm có, dùng các thứ hương hoa, chuỗi anh lạc, cờ phướn, lọng báu và các y phục tung rải lên trên chỗ Bồ-tát Địa Tạng, làm như vậy rồi nói: Chúng tôi vui thích vì được lợi tốt, nhờ thần lực của Đức Phật nên được thấy các bậc đại trượng phu như vậy, xin cung kính đảnh lễ, hỏi thăm. Bấy giờ lại có Đại Bồ-tát Khát Ngưỡng, từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y phục, gối bên phải quỳ sát đất, chắp tay hướng về Đức Phật, bạch: –Bạch Thế Tôn! Thiện nam ấy từ cõi Đức Phật nào đến nơi này, tu tập căn lành gì, mà có thể nói lên vô số lời tán thán công đức của chư Phật như vậy, con từ xưa đến nay chưa từng nghe thấy? Lúc này, Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Khát Ngưỡng: –Thôi thôi, này Đại só! Không nên hỏi như vậy. Tất cả đại chúng và các hàng trời, người, trừ chư Phật Như Lai, không ai có thể nhận biết hết về vô lượng công đức của thiện nam ấy. Hôm nay, Như Lai quyết sẽ nói rõ, do vì chúng trời, người si ám nên tự che lấp. Này thiện nam! Tộc tính tử ấy đã thành tựu công đức không thể nghó bàn về Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm, hội nhập nơi nẻo hành hóa của Như Lai, chứng vô lượng pháp nhẫn, đối với pháp của chư Phật luôn được tự tại, vào sâu nơi pháp nhẫn, vượt qua biển Nhất thiết trí. Thiện nam ấy dùng diệu dụng nơi Tam-muội Sư tử quang, bước lên đỉnh núi Tu-di của Nhất thiết trí, phá trừ các học phái ngoại đạo, cứu giúp chúng sinh, thảy đều an trú vào trong cõi Phật. Tùy theo quốc độ của Phật vào Tam-muội Trí, dùng diệu lực của Tam-muội ấy khiến cho tất cả chúng sinh nơi các quốc độ đều thấy chư Bồ-tát. Tùy theo quốc độ của chư Phật, vào Tam-muội Trí lạc, ở trong cõi nước ấy, tùy sự cúng dường hiện có mà cúng dường chư Phật. Tùy theo quốc độ của chư Phật, vào Tam-muội Thanh tịnh lạc, vào Tam-muội ấy rồi, đều thấy tất cả tội lỗi tai họa của ác dục ái, nhưng đối với tâm thì thanh tịnh, không đắm nhiễm. Tùy theo quốc độ của chư Phật, vào Tam-muội Hổ thẹn, ở trong quốc độ ấy, khiến cho các chúng sinh biết hổ thẹn, xa lìa các việc ác, không còn ngu muội. Tùy theo quốc độ của chư Phật, vào Tam-muội Thủy chử, cũng có thể khiến cho tất cả chúng sinh đều vào được định, cũng khiến các chúng sinh được túc mạng trí, có thể biết sự việc của đời trước, chết đây sinh kia, khéo trụ nơi thiền định. Tùy theo quốc độ của chư Phật, vào Tam-muội Vô ưu minh, có thể khiến cho tất cả chúng sinh xa lìa sự buồn sầu, ở trong quốc độ của Phật nhập Tam-muội Thần thông, cũng có thể khiến cho tất cả chúng sinh đều nhập Tam-muội Thần thông. Tùy theo quốc độ của chư Phật, vào Tam-muội Trí minh, cũng có thể khiến cho tất cả chúng sinh xa lìa ngu si, liền thấy tất cả cõi Phật nơi mười phương. Tùy theo quốc độ của chư Phật, vào Tam-muội Phật cự, cũng có thể khiến cho tất cả chúng sinh đều hướng về Tam bảo. Tùy theo quốc độ của chư Phật, vào Tam-muội Kim cang quang, vào Tam-muội ấy rồi, cũng có thể khiến cho tất cả cõi Phật, núi Thiết vi, núi Đại thiết vi cho đến núi chúa Tu-di, tất cả khe suối, sông, hồ, rừng, núi hiểm hóc đều hóa thành đất bằng phẳng như bàn tay, cũng khiến tất cả các loài thú ác, rắn độc cho đến dùng vật độc làm hại người thảy đều tiêu diệt. Tùy theo quốc độ của chư Phật, vào Tam-muội Trí lực hàng phục, khiến ma và quyến thuộc của chúng thảy đều khiếp sợ, quy y Tam bảo. Tùy theo quốc độ của chư Phật, vào Tam-muội Điện quang, cũng có thể khiến cho tất cả chúng sinh xa lìa sự sợ hãi về đời sau, được pháp an ổn. Tùy theo các quốc độ của chư Phật, vào Tam-muội Vị lạc, cũng có thể khiến cho tất cả chúng sinh theo chỗ suy nghó, mọi thứ ăn uống đều được đầy đủ. Tùy theo các quốc độ của chư Phật vào Tam-muội Tinh khí duyệt lạc, cũng có thể khiến cho tất cả chúng sinh được thân khỏe mạnh, xa lìa các bệnh khổ. Tùy theo các quốc độ của chư Phật, vào Tam-muội Lạc cụ, cũng có thể khiến cho tất cả chúng sinh đều được giường nằm, đồ ngồi, y phục, anh lạc, đầy đủ không thiếu vật gì, thuốc thang trị bệnh thân đều đoan nghiêm. Tùy theo quốc độ của chư Phật, vào Tam-muội Vô tránh trí, cũng có thể khiến cho tất cả chúng sinh thân được tráng kiện, đoan nghiêm, thù thắng, xa lìa tất cả oán thù trói buộc, đều nhận sự an lạc, đều ưa thích thực hành bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, tâm không tán loạn, đầy đủ trí tuệ vào sâu pháp tướng. Tùy theo quốc độ của chư Phật, vào Tam-muội Vô ưu bố, cũng có thể khiến cho tất cả chúng sinh đều được an lạc, tâm xa lìa lo sợ. Tùy theo quốc độ của chư Phật, vào Tam-muội Quang lạc, ở trong cõi Phật đó, tất cả chúng sinh đều đạt được trí vô ngại, xa lìa mọi việc. Tùy theo quốc độ của chư Phật, vào Tam-muội Thiện trụ kim cang, cũng có thể khiến cho tất cả chúng sinh được các căn đầy đủ, không bị thiếu khuyết, hư hoại. Tùy theo quốc độ của chư Phật, vào Tam-muội Quán tràng, cũng có thể khiến cho tất cả chúng sinh đều nhàm chán, xa lìa, dứt bỏ việc ác, giữ gìn mười điều thiện, được sinh vào cõi trời. Tùy theo quốc độ của chư Phật, vào Tam-muội Đại từ âm thanh, cũng có thể khiến cho tất cả chúng sinh đều cùng thương yêu phát khởi tâm Từ, được tâm không lo sợ, được tâm không phiền não… lại cùng nhớ nghó về tâm Bi. Tùy theo quốc độ của chư Phật, vào Tam-muội Tập phước xứ, cũng có thể khiến cho tất cả chúng sinh xa lìa sự tranh cãi, bệnh tật, đói kém, gió mưa không đúng thời, ăn uống khổ cực, đắng cay đủ vị thảy đều tiêu diệt. Bồ-tát Địa Tạng ấy đi đến quốc độ Phật, nhập Tam-muội Hải điện, ở trong cõi Phật đã đến đó, khiến tất cả đều biến thành đất báu, xa lìa các thứ cấu uế. Cây y phục, cây anh lạc, cây hoa quả làm trang nghiêm cảnh giới Phật. Vào lúc sáng sớm, nhập vào Tam-muội hằng hà sa thế giới, vì nhằm thành tựu đầy đủ cho mọi chúng sinh, từ thiền định đứng dậy, khiến vô lượng, vô biên thế giới chư Phật đối với đời xấu ác năm trược cứu độ đầy đủ chúng sinh đều không bỏ sót. Có thế giới Phật khi phát sinh đao binh thì Tộc tính tử ấy, vào lúc sáng sớm do diệu lực của việc nhập Tam-muội kia nên mọi thứ binh, đao thảy đều tiêu diệt. Tùy theo các cõi của chư Phật có bệnh dịch, cướp bóc sinh khởi giết hại chúng sinh cũng đều khiến cho mọi thứ đó tự nhiên tiêu trừ. Tùy theo các cõi của chư Phật, nếu bị mất mùa sinh ra đói kém, cơ cực, cũng đều khiến diệt trừ hết và chúng sinh nơi đó được ấm no đầy đủ. Tộc tính tử ấy dùng oai thần lực của Tam-muội nên có thể cứu giúp tất cả chúng sinh. Bồ-tát Địa Tạng đem công đức bất tư nghì tạo mọi thành tựu đầy đủ cho chúng sinh. Nơi vô lượng hằng hà sa trú xứ của chư Phật quá khứ đã phát tâm Đại Bi với thệ nguyện kiên cố nhằm hóa độ tất cả chúng sinh, uy lực trang nghiêm giống như sấm nổ rung động, trong chốc lát có thể cứu giúp vô lượng ức na-do-tha người đạt đầy đủ căn lành. Nếu có chúng sinh bị vô lượng ức các thứ khổ não, đói khát bức bách, xưng niệm danh hiệu Bồ-tát Địa Tạng thì đều có thể khiến cho các chúng sinh đó mọi thứ ăn uống đều đầy đủ, khổ não tiêu trừ, tiến đến đạo Niết-bàn, đạt được an lạc. Hoặc có chúng sinh thiếu thốn về y phục, mũ báu, anh lạc, thuốc thang chữa bệnh, các thứ đồ dùng…, nếu xưng niệm danh hiệu Bồ-tát Địa Tạng thì tùy theo ý muốn đều được đầy đủ, an trú vào đạo Niết-bàn, được an lạc bậc nhất. Hoặc có chúng sinh xa lìa tâm hỷ lạc, cùng với tâm không hỷ lạc tích tụ, nếu xưng niệm danh hiệu Bồ-tát Địa Tạng thì tất cả hỷ lạc đã mất đều trở về, chỗ không hỷ lạc thì xa lìa, theo chỗ ý ưa thích, có thể khiến an trú nơi Niết-bàn, được an lạc bậc nhất. Hoặc có chúng sinh thân tâm chịu nhiều khổ bệnh, nếu xưng niệm danh hiệu Bồ-tát Địa Tạng thì mọi khổ não của thân tâm đều được tiêu trừ, an trú vào đạo Niết-bàn, được an lạc bậc nhất. Hoặc có chúng sinh tâm hướng đến việc ác, nếu xưng niệm danh hiệu Bồ-tát Địa Tạng, một lòng quy y, tất khiến các chúng sinh ấy sinh tâm nhu hòa, nhẫn nhục, hổ thẹn, thành tâm sám hối, an trú vào Niết-bàn. Hoặc có chúng sinh bị lao tù trói buộc, gông cùm xiềng xích, chịu nhiều khổ cực, nếu xưng niệm danh hiệu Bồ-tát Địa Tạng, nhất tâm quy y, tất khiến các chúng sinh ấy đều được giải thoát, tự tại vô ngại, cho đến phải bị trói cột trong tù, bị đánh đập bằng roi gậy, nếu xưng niệm danh hiệu Bồ-tát Địa Tạng, một lòng quy y, cũng lại như vậy, đều được giải thoát, an trú vào Niết-bàn, được an lạc bậc nhất. Hoặc có chúng sinh các căn không đầy đủ, mệt mỏi, biếng nhác, điên cuồng, buông lung, quên mất bản tâm, tham lam, sân giận, ngu si, ganh tî, bủn xỉn, tà kiến, kiêu mạn, ưa ngủ nghỉ… các thứ xấu ác ấy đều bùng cháy mạnh mẽ, nếu xưng niệm danh hiệu Bồ-tát Địa Tạng, một lòng quy y thì mọi khổ như vậy đều được giải thoát, an trú vào Niết-bàn, được an lạc bậc nhất. Hoặc có chúng sinh bị dòng nước lớn cuốn trôi, lửa dữ thiêu đốt, hoặc thân rơi từ núi cao xuống đường hầm vách đá, hoặc từ nơi cây cối, phòng xá thân bị treo ngược, nhiều sự lo sợ như vậy, nếu xưng niệm danh hiệu Bồ-tát Địa Tạng, một lòng quy y thì mọi việc lo sợ đều tiêu tan, khiến được giải thoát, an trú vào Niết-bàn, đạt an lạc bậc nhất. Hoặc có chúng sinh bị các loại rắn độc, thú dữ làm hại, hoặc bị nọc độc, các thứ thuốc độc gây hại, nếu xưng niệm danh hiệu Bồ-tát Địa Tạng, một lòng quy y thì những lo sợ đó đều được giải thoát. Hoặc có chúng sinh bị loài A-ba-ma-la ngăn che làm hại, hoặc một ngày, hai ngày, ba ngày cho đến bốn ngày khiến tâm cuồng si, tán loạn, run sợ, điên đảo cho đến mất bản tâm, nếu xưng niệm danh hiệu Bồ-tát Địa Tạng, một lòng quy y, thiện nam, thiện nữ nào đối với sự lo sợ như vậy, đều được giải thoát, an trú vào Niết-bàn, đạt an lạc bậc nhất. Hoặc có chúng sinh bị các loài quỷ dữ La-sát, Cưu-bàn-trà, Phú-đơn-na, Ca-trá Phú-đơn-na bắt bớ, hoặc các thứ sư tử, hổ sói, các thú dữ đuổi bắt, hoặc nơi quân trận chiến đấu, bị giặc oán vây quanh, gặp địch sợ chết, tham sống, cầu an vui, có thể xưng niệm danh hiệu Bồ-tát Địa Tạng, một lòng quy y, những thiện nam, thiện nữ như vậy mau chóng xa lìa các khổ, trừ được hoạn nạn, an trú vào Niết-bàn, đạt an lạc bậc nhất. Hoặc có chúng sinh vì cầu được nghe nhiều hiểu rộng có lòng tin, thực hành trì giới, bố thí, thiền định, thần thông, giải thoát khỏi các thứ sắc, thanh, hương, vị, xúc, cầu đạt các công đức, các thứ nghề tinh xảo, hoa quả cây cối đều đầy đủ; vì tăng trưởng lợi ích về tài vật, thuốc thang, phòng nhà, vì khiến mưa thuận gió hòa, vì cầu nam, nữ, phương tiện tu phước, vì trừ lạnh, nóng, khiến được chính niệm, vì cầu những nhân duyên như vậy, nếu có thể xưng niệm danh hiệu Bồ-tát Địa Tạng, một lòng quy y thì thiện nam, thiện nữ này được uy đức lớn, đều có thể nêu bày chỗ mong cầu công đức của vô lượng chúng sinh. Ví như gieo trồng nơi đồng ruộng hoang kia, nếu xưng niệm danh hiệu Bồ-tát Địa Tạng, một lòng quy y, thảy đều biến thành quả vi diệu thù thắng. Vì sao? Vì thiện nam ấy ở trong vô lượng a-tăng-kỳ kiếp không thể tính kể về đời quá khứ nơi trước Như Lai phát nguyện kiên cố giống như đại địa, khiến tất cả chúng sinh đều được thọ dụng. Thiện nam ấy do diệu lực của công đức nên có thể khiến căn lành nơi mầm cây nhánh lá, cho đến hoa quả đều được tươi tốt, tăng trưởng, thành thục. Hoặc có chúng sinh gây tạo điều ác, không hành theo mười nghiệp thiện, nếu xưng niệm danh hiệu Bồ-tát Địa Tạng, một lòng quy y thì tất cả kết sử phiền não được tiêu trừ, xa lìa mười điều ác thành tựu mười điều thiện. Đối với chúng sinh phát tâm Từ bi, tâm lợi ích. Thiện nam ấy, do diệu lực nơi tinh tấn, trong chốc lát nơi vô lượng a-tăng-kỳ thế giới của chư Phật, trong mỗi mỗi cõi Phật, dùng thời gian ngắn đó cứu độ hằng hà sa a-tăng-kỳ chúng sinh, nhờ nơi tướng mạo nên thoát được xấu ác, thảy đều thành tựu công đức không thể nghó bàn. Thiện nam ấy đã dùng thệ lực kiên cố nên có thể thành tựu trọn vẹn cho tất cả chúng sinh. Như vậy Tộc tính tử đó, hoặc làm thân Phạm thiên để thành tựu chúng sinh, hoặc làm thân Tự tại thiên, Đại tự tại thiên, Ma-hê-thủ-la thiên, hoặc làm thân các Thiên vương nơi cõi trời Dục như làm thân Tha hóa tự tại thiên, Hóa lạc thiên, Đâu-suất-đà thiên, Diệm-ma thiên, thân Đế Thích, thân Tứ Thiên vương, hoặc làm thân Bồ-tát, hoặc làm thân Bích-chi-phật, hoặc làm thân Thanh văn, hoặc làm thân Chuyển luân thánh vương, hoặc làm thân Bà-la-môn, Sát-lợi, Tỳ-xá, Thủ-đà…. hoặc làm thân nam, nữ; hoặc làm thân thiếu niên, thiếu nữ; hoặc làm thân Càn-thát-bà, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, thân Thiên, Long, Dạ-xoa; hoặc làm thân La-sát, hoặc làm thân Cưu-bàn-trà, hoặc làm thân Tỳ-xá-xà, hoặc làm thân Phú-đơn-na, hoặc làm thân sư tử, cọp, sói, voi, ngựa, trâu, hoặc làm thân các loài chim, hoặc làm thân Diêm-la vương, hoặc làm thân ngục tốt, hoặc làm thân địa ngục, vì các chúng sinh thuyết giảng vô số các pháp, tùy theo họ chỉ rõ Tam thừa khiến an trú vào quả vị bất thoái chuyển. Thiện nam này đã thành tựu công đức không thể nghó bàn như vậy, dùng các báu giải thoát để tự trang nghiêm, cũng là mẹ của các pháp nơi Bồ-tát, hướng đến đại Niết-bàn vô thượng. Thiện nam! Nếu có người ở trong trăm kiếp, lễ bái, cung kính, cúng dường các vị Bồ-tát Văn-thù, Quan Thế Âm, Phổ Hiền, những bậc thượng thủ và hằng hà sa chư Đại Bồ-tát, cầu đạt sở nguyện, không như trong khoảnh khắc một bữa ăn, lễ bái, cung kính, cúng dường Bồ-tát Địa Tạng, công đức rất nhiều, sở nguyện mau chóng đạt được, thảy đều viên mãn. Vì sao? Vì Bồ-tát Địa Tạng ấy đối với tất cả chúng sinh có thể tạo lợi ích lớn là ngọc báu như ý. Thiện nam ấy vì nhằm cứu độ chúng sinh nên đã phát khởi toàn bộ kho báu Đại Bi vững mạnh, khiến cho tâm nguyện của tất cả chúng sinh đều được đầy đủ. Vì vậy thiện nam, thiện nữ nên cúng dường Bồ-tát Địa Tạng. Khi ấy, đại chúng từ mười phương đến đông đủ nơi pháp hội, các Đại Bồ-tát, chư vị Thanh văn, tất cả chúng Trời, Người, Dạ-xoa, Càn-thát-bà… đều từ chỗ ngồi đứng dậy, tùy sức cúng dường. Hoặc dùng vàng, bạc, châu báu tung rải lên chỗ Bồ-tát Địa Tạng, hoặc dùng vô số hoa báu, y phục, ngọc báu Ma-ni, vòng hoa, anh lạc, tơ lụa, cờ phướn, lọng báu cúng dường Bồ-tát Địa Tạng. Lại dùng vô lượng các thứ âm nhạc, đủ các lời tán thán để cúng dường Bồ-tát Địa Tạng. Lúc này, Đại Bồ-tát Địa Tạng lại đem sự cúng dường này để dâng lên Bậc Thiện Thệ, liền nói kệ: Trời, Người, Rồng, Thần, chỗ cúng dường Mười phương Bồ-tát vân tập đến Nghe Bậc cứu đời, công đức lớn Xin Phật nhận sự cúng dường này. Đại Bồ-tát Địa Tạng nói kệ rồi thì cung kính đảnh lễ nơi chân Phật. Đức Phật lại nói kệ: Người muốn khởi trí tịnh kiên cố Để dứt trừ phiền não chúng sinh Khiến chúng an lạc như tay báu Diệt trừ trói buộc như kim cang. Ông khởi Đại Bi thường tinh tấn Cúng dường Thế Tôn, Bậc Tối Thắng Tâm ấy như biển, cứu tất cả Độ các chúng sinh qua bờ kia. Bấy giờ, Đại Bồ-tát Địa Tạng làm lễ, đứng dậy bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Con xin sẽ cứu độ bốn cõi thiên hạ này, khiến bốn chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di luôn được tăng trưởng hộ niệm, tăng trưởng thọ mạng, khiến thân không tật bệnh, tăng trưởng sức lực, tiếng tốt làm tăng trưởng tài sản, bạn thân, quyến thuộc, tăng trưởng tín giới, đa văn, tăng trưởng các pháp bố thí, nhẫn nhục, phương tiện, giác ý và các Thánh đế, tăng trưởng nhập vào tất cả chính đạo của Đại thừa, tăng trưởng việc soi sáng pháp tướng chân thật, tăng trưởng việc thành tựu đầy đủ cho tất cả chúng sinh, làm tăng trưởng việc phát khởi tâm đại Từ, Bi, Hỷ, Xả, làm tăng trưởng vô lượng tất cả pháp tịnh, làm tăng trưởng danh xưng nghe khắp ba cõi, làm tăng trưởng các trận mưa pháp thấm nhuần ba cõi, làm tăng trưởng tất cả vật dùng nơi đại địa, làm tăng trưởng tất cả nghiệp lành nơi chúng sinh, làm tăng trưởng pháp khí với vô số phước đức, làm tăng trưởng trí tuệ đều được tỏa sáng, làm tăng trưởng sáu pháp Ba-la-mật là nẻo hành hóa của đạo, làm tăng trưởng năm thứ mắt, thông đạt vô ngại, làm tăng trưởng pháp quán đảnh, làm tăng trưởng Niết-bàn. Làm tăng trưởng uy đức chiếu sáng nơi tất cả pháp chưa từng có, phước đức đầy đủ, thọ ký nơi chú thuật, câu chương Đà-la-ni: Ta ở nơi hằng hà sa cõi Phật quá khứ, đều thọ trì thần chú như vậy. Làm tăng trưởng pháp bạch tịnh đầy đủ, làm tăng trưởng hạt giống, rễ thân, hoa quả nơi tất cả dược liệu, ngũ cốc. Làm tăng trưởng mây, mưa nơi đất, nước, gió, lửa. Làm tăng trưởng phước lạc, làm tăng trưởng tài vật, làm tăng trưởng vô lượng quả báo tối thắng, làm tăng trưởng cơ nghiệp. Thần chú, lợi ích này có thể trừ được tất cả khổ não trói buộc. Liền nói thần chú: –Súc phù, súc súc phù, a hàm súc phù, bà sá già la súc phù, am la súc phù, ni la súc phù, bà đồ la súc phù, a lư già súc phù, đạt ma súc phù, bà sá ma súc phù, bà đế da ni lê ha la súc phù, tỷ bà lư già xoa ma súc phù, ưa bà xá ma súc phù, na ma súc phù, đồ na bà mâu trí la na súc phù súc phù súc phù, tỳ ni lê dạ na súc phù, xa đa bà súc phù, bà già tu trí ma ê lê, tha di, xá di, già già la tư, già gia ma tư lê, sai lê, hề lệ, già la bà la bàế, ha lê ba la tỷ, ba già la ba đà nễ, la già đà nễ, ba la già già già ê lê, ma lê, y già tha tha hiên, tha khâu lâu, thát lê, xá lê, di lê ma xoa, đa xoa, cưu lê, di lê, ương hữu chi đa tỳ, át lê, kỳ lê, ba la kỳ lê, cửu sá khổ bà lê, chân kỳ chân, chân cầu lệ, hưu lâu hưu lâu hưu lâu, cưu lưu đâu di lê, di lê xoa, bà trà bà trà, la khuy khuy lê, lưu lưu lưu lâu lưu, bà bà đồ tỳ, thâu đàn nễ, tư bà ha, ma ha phục đà lâu già sa ni, thâu nễ tư bà ha, già lâu sa la ba ni thâu đàn nễ tư bà ha, già lâu sa điểu đồ ni thâu đàn nễ tư bà ha, tát bà ha xa ba lợi phú la đàn nễ tư bà ha, tát bà bà tư da tam ba đà nễ tư bà ha, tát bà đa tha già đa ha thái để tư bà ha, tát bà bồ đề tát đỏa a thái để a nậu vô địa để tư bà ha. Bạch Thế Tôn! Con đã thuyết thần chú ấy, oai đức chiếu sáng chưa từng có, nguồn gốc các thứ đức. Thọ ký nơi câu chương thần chú Đà-la-ni: Ta ở trong hằng hà sa cõi Phật thời quá khứ thọ trì thần chú này, làm tăng trưởng tất cả pháp bạch tịnh, làm tăng trưởng chủng tử thiện nơi rễ thân, cành, nhánh, lá, hoa, quả, thuốc thang, lúa gạo, làm tăng trưởng mưa thấm ướt nơi đất, nước, gió, lửa, làm tăng trưởng hỷ lạc, làm tăng trưởng tài vật, làm tăng trưởng sự vi diệu thù thắng, làm tăng trưởng sản nghiệp. Oai lực của thần chú này khéo có thể trói buộc, cũng gọi là khéo giải thoát. Đức Thế Tôn thuyết thần chú Đà-la-ni này cho các chúng đệ tử Thanh văn, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di nơi bốn cõi thiên hạ thảy đều được hộ niệm. Làm tăng trưởng tất cả tài vật sản nghiệp, làm tăng trưởng pháp Phật, có thể khiến được truyền bá rộng khắp, tam giới đều nhận được an lạc vô lượng. KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG THẬP LUÂN <卷 id="117270404">quyển 2 <詞 id="117270405">Phẩm 2: Chư Thiên nữ hỏi về bốn đại Bấy giờ, khi Bồ-tát Địa Tạng giảng thuyết rộng rãi kinh Đại Ký Biệt như vậy thì ở núi Khư-la-đề-da hiện đủ sáu thứ chấn động, tất cả âm nhạc không đánh mà tự vang lên, từ không trung mưa xuống nhiều hoa báu, tất cả đại chúng đều run sợ, nghó là việc hiếm có. Khi ấy, Thiên nữ Công Đức, Thiên nữ Công Đức Lạc, Thiên nữ Diệu Âm Thanh, Thiên tử Kiên Cố Địa Thần, Thiên tử Vị Tằng Hữu, Thiên tử Đại Quang Minh, những vị Thiên tử đó đều là bậc đứng đầu, cùng với một vạn tám ngàn quỷ thần đại tự tại khác từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay hướng về Đức Phật, thưa: –Thưa Thế Tôn! Thật là hiếm có! Thưa Bậc Thiện Thệ! Thật là hiếm có! Chúng con tuy ở nơi bốn đại đạt được năng lực tự tại mà không thể biết bốn pháp căn bản lớn ở thời ban đầu, thời giữa và thời cuối, các nhân duyên cùng nhau khởi diệt, không biết oán, ghét, không biết là thiện, bất thiện cho đến bạn lành. Nếu thiện nam đạt được Trí tuệ ba-la-mật sâu xa như vậy mới có thể phân biệt rõ ràng về thời đầu, giữa và cuối của bốn đại như thế cùng nhận biết các sự sinh diệt. Đức Phật nói: –Đúng vậy, đúng vậy! Này thiện nữ! Thiện nam ấy đạt được Trí tuệ ba-la-mật sâu xa nên hoàn toàn biết được bốn đại nơi thời đầu, giữa, cuối. Ví như thiện thần có ngọc như ý nên có thể làm tuôn vô lượng trận mưa báu, có lợi ích lớn. Lành thay, Thiên nữ! Thiện nam này lại có thể tuôn mưa vô lượng báu giác ý, đều bố thí khắp tất cả chúng sinh. Ví như bãi báu có thể hiện ra vô lượng các thứ châu báu, thiện nam này thành tựu đầy đủ nhiều loại giác ý, cũng lại như vậy. Ví như cây Ba-lợi-chất-đa-la, khi hoa mới nở màu sắc tuyệt đẹp. Như vậy, thiện nam ấy đã dùng vô lượng pháp Phật để tự trang nghiêm. Như sư tử chúa ở trong tất cả chúng sinh đều không sợ hãi. Thiện nam ấy cũng lại như vậy, đối với tất cả các loài cũng không sợ hãi. Ví như mặt trời mọc diệt trừ tất cả tối tăm. Như vậy, thiện nam ấy có thể diệt trừ tất cả các thứ tối tăm của kết sử dua nịnh nơi tất cả chúng sinh, cũng lại như vậy. Ví như mặt trăng chiếu khắp bốn châu thiên hạ, có thể khiến cho người mê lầm đạt được đạo chân chính. Thiện nam ấy cũng có thể làm cho người mê lầm chưa hội nhập nơi ba thừa, còn ở chốn sinh tử hoang vắng trở về nơi đạo chân chính, an trú trong ba thừa. Ví như đại địa có trăm loại lúa và các cây thuốc, tất cả chúng sinh nhờ đó mà được phát triển. Thiện nam ấy cũng vậy, tất cả trợ đạo và các pháp thiện khác đều được tăng trưởng. Ví như núi chúa Tu-di có năng lực hoàn toàn kiên cố, là nơi an trú cho tất cả, không hề tăng giảm. Thiện nam ấy cũng như vậy, an trú trong pháp của Phật mà không xả bỏ tất cả chúng sinh. Căn lành đều được kiên cố không bị thiếu khuyết, không bị hao mất. Ví như hư không, tất cả chúng sinh đến đi ra vào đều an trú ở đó. Thiện nam ấy cũng vậy. Tất cả chúng sinh cũng đều nương vào đó mà tăng trưởng vô lượng công đức. Bấy giờ, tất cả đại chúng nghe danh hiệu Bồ-tát Địa Tạng ấy đều sinh tâm vui mừng, đạt được điều chưa từng có, nên cung kính, tôn trọng, hoan hỷ, đều chiêm ngưỡng Bồ-tát Địa Tạng mắt không hề rời. Lúc này, muốn lập lại nghĩa trên, Đức Thế Tôn nói kệ: Công đức Đầu-đà đều hòa hợp Chúng Thanh văn tướng đều không khác Bồ-tát Địa Tạng chân Đại só Kính lễ Thế Tôn mà đến đây. Cứu thoát khổ não ba đường ác Vì kính Thế Tôn nên đến đây Chư Thiên tuôn mưa vô lượng loại Đều để cúng dường Đức Thế Tôn. Xem xét kỹ ở khắp bốn phương Lìa cấu, chiếu sáng trời Đế Thích Nhất tâm chắp tay hướng về Phật Đều muốn kính thỉnh Đức Thế Tôn. Ta nay muốn thấy đại chúng này Ngọc Ma-ni phát ra ánh sáng Tất cả ruộng phước thật rộng lớn Đều được thấy ánh sáng chiếu khắp. Thần thông Thế Tôn ánh sáng tỏa Nay vì ai mà lại hiển bày? Đại chúng cùng đến nơi Thế Tôn Địa Tạng đến đây, chân Phật tử. Lấy kho bảy báu bố thí khắp Kho châu báu Phật là không sợ Hạt giống tức là Đại Bồ-tát Là thương chủ của mọi chúng sinh. Chủ này sinh ra pháp Phật báu Biển công đức lớn nên tinh tấn Thể tính Đại Bi thật trong suốt Có thể cứu khổ cho chúng sinh. Ban cho các loài không sợ hãi Như mặt trăng hiển bày đạo chính Phát sinh căn lành như đại địa Như kim cang chặt đứt kết sử. Làm đại thí chủ giải thoát báu Như nước lớn xua các phiền não Như lọng che trùm phiền não đốt Cũng như lương y trừ các bệnh. Một khoảnh khắc tán thán Địa Tạng Hơn các Bồ-tát trăm ức kiếp Như vô lượng đức của bậc Trí Vì thế Địa Tạng tiếng vang khắp. Phiền não trói buộc các chúng sinh Đều khiến xa lìa được giải thoát Chứng đại Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm Vượt qua các thiền đến bờ giác. Mười hai nhân duyên đều thanh tịnh Trí tuệ rộng lớn như hư không Chúng sinh nơi vô lượng cõi Phật Đều diệt trừ hết các tăm tối. Chúng sinh an trú trong bốn Thiền Xét khắp cõi Phật tu các hạnh Khiến chúng sinh nhập vào Tam-muội Tất cả đều lìa lửa phiền não. Nghiệp ác chúng sinh nơi quá khứ Thường ở kiếp đao binh, bệnh dịch Nơi thế giới này nhận các khổ Thiện nam kia có thể cứu độ. Tất cả chúng sinh trong sáu đường Thường bị các khổ não bức bách Nên phải quy mạng Đức Địa Tạng Khiến các khổ nạn đều dứt hết. Chúng sinh lưu chuyển các nẻo khổ Cùng nhau khởi tranh chấp tàn hại Nếu quay về với Đức Địa Tạng Khiến kẻ tranh chấp thảy đều nhẫn. Rất lo sợ nơi ba đường ác Mong cầu không được thường khốn khổ Cũng nên quy mạng Đức Địa Tạng Tất cả đều diệt trừ sợ hãi. Nếu tu giữ giới và niệm, định Muốn được trí tuệ bậc Đa văn Đều nên quy mạng Đức Địa Tạng Tùy tâm mong cầu đều đầy đủ. Muốn được các công đức như vậy Dùng hạt giống phương tiện thiện xảo Đều nên quy mạng Đức Địa Tạng Mọi sở nguyện kia đều thành tựu. Ruộng phước chứa tất cả lúa, thuốc Cho đến muốn cầu các nam nữ Đều nên quy mạng Đức Địa Tạng Khiến thành tựu được các sở nguyện. Nếu muốn tu hạnh các công đức Tất cả hiện có nương vào đất Thuốc lúa tươi tốt cùng mượt mà Cũng nhờ Địa Tạng được tăng trưởng. Nghiệp kết phiền não làm chướng ngại Tạo mười điều ác nghiệp bất thiện Điều nên quy mạng Đức Địa Tạng Diệt trừ phiền não tội ác nặng. Dùng chính pháp giáo hóa chúng sinh Hiện đủ các hình tùy thời thuyết Tu tập bố thí các công đức Nhằm cứu chúng sinh phát Đại Bi. Giả sử đầy đủ trong trăm kiếp Không thể phân biệt công đức này Gọi là công đức của Tạng lớn Tất cả thảy đều nên cúng dường.  <詞 id="117270406">Phẩm 3: Phát vấn bản nghiệp đoạn kết Bấy giờ, Đại Bồ-tát Địa Tạng từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y phục, quỳ gối phải, chắp tay hướng về Đức Phật, thưa: –Bạch Thế Tôn! Nay con xin thưa hỏi đôi điều, kính xin Thế Tôn chấp nhận thuyết giảng cho con. Đức Phật nói: –Ông là trượng phu chân thiện, vì muốn hiển bày trí tuệ vô ngại cho chúng sinh, cũng khiến cho người khác làm đại trượng phu. Nếu có thể thưa hỏi, cứ tùy ý, chớ sinh nghi ngờ. Hôm nay, Như Lai sẽ thuyết giảng rõ khiến ông được vui vẻ. Khi ấy, Bồ-tát Địa Tạng dùng kệ để hỏi: Trải qua mười ba kiếp Tu hành ruộng phước Phật Đói khát cùng bệnh tật Tất khiến chúng sinh diệt. Vì hàng ức chư Phật Cúng dường không nghó bàn Nay gặp đạo tràng lớn Thanh tịnh chúng quy về. Sáng suốt dốc tinh cần Tất cả đến hội này Cùng một lúc vân tập Không có các trược ác. Đời xấu nhiều ganh ghét Làm ác bỏ hạnh tịnh Sao biết được việc ác Quấy nhiễu phá oai nghi. Đều cùng với ác nghịch Hủy báng pháp chân chính Chê bai các Hiền thánh Mê chấp nơi đoạn, thường. Tạo tác mười nghiệp ác Không sợ khổ đời sau Phá bỏ pháp ba thừa Dua nịnh hướng đường ác. Ngu si che mắt người Tham lam nhiều gian dối Làm sao chuyển pháp luân Từ bỏ các dua nịnh. Phiền não kết kim cang Làm sao đoạn trừ được Sao gọi là Tổng trì Nhẫn nhục nên nhu hòa. Việc này chưa từng có Khiến ta đời sau gặp Các nơi chưa từng thấy Như vậy đại chúng ấy. Thành tựu hạnh Đầu-đà Tu tập đạo Bồ-đề Làm sao ở nơi này Thành Phật chuyển pháp luân. Lúc này, Đức Phật bảo Bồ-tát Địa Tạng: –Lành thay, lành thay! Này thiện nam! Ở đời quá khứ, ông đã hỏi nghĩa này nơi hằng hà sa trú xứ của chư Phật, như vậy đối với pháp ông cũng được nghe, thành tựu đầy đủ hạnh công đức trí tuệ, dùng diệu lực của phương tiện để đưa chúng sinh qua bờ bên kia. Ông muốn cứu độ các chúng sinh khác đạt an lạc lợi ích, cũng khiến cho tất cả Đại Bồ-tát đầy đủ các phương tiện nơi kho báu vốn có, đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật nhằm làm viên mãn biển trí tuệ, quay về nơi quả vị cao quý, không rơi vào đường ác, làm cho ba ngôi báu hưng thịnh ở mười phương thế giới, pháp Phật được tồn tại lâu dài, vì ý nghĩa ấy nên hỏi Như Lai. Này thiện nam! Nay ông lắng nghe kỹ! Ta sẽ thuyết giảng cho ông. Bồ-tát Địa Tạng thưa: –Bạch Thế Tôn! Con nguyện muốn được nghe. Đức Phật nói: –Đây là Như Lai ở đời quá khứ với diệu lực từ thệ nguyện gốc thành tựu mười luân. Trong cõi nước như vậy, có năm thứ trược ở đời xấu ác, tất cả pháp tịnh đều giảm dần, xa lìa bảy Thánh tài và các bậc trí, bị lưới đoạn thường ngăn che, chuyển xe nơi cõi ác, không sợ đời sau, thường ở trong vô minh tối tăm, hành đầy đủ mười việc ác, tạo năm thứ ngũ nghịch, phỉ báng chính pháp, chê bai bậc Hiền thánh, xa lìa tất cả các công đức lành, tạo thành các việc ác. Nếu có thể ở nơi thế giới nhiễm xấu ác ấy khiến cho tất cả được an ổn, không còn sợ hãi, thành tựu được pháp tối thắng của bậc Thánh, có thể chuyển pháp luân, hàng phục các oán thù, tất cả đều được thâu phục, diệt trừ các phiền não cũng như kim cang khiến cho chúng sinh an trú vào ba thừa ở quả vị Bất thoái chuyển. Này thiện nam! Ví như có người xa lìa công đức, ở cõi nước, thế giới, hoặc trong cảnh giới của chính mình có quân binh nổi lên, bên ngoài nước lân cận đem quân lính đến xâm chiếm, nên lo sợ rối loạn, chống cự nhiều cách cho đến những thứ dua nịnh, gian trá, nói dối, có đủ loại bệnh, bị tối tăm che lấp không thấy rõ. Các đồng tử thì bị quỷ mî bắt lấy, bị mê hoặc do A-bát-ma-la, thân thể khô gầy, tâm bị loạn, các căn xấu xí, tay chân không đầy đủ, tài sản thường thiếu thốn, không có phước đức, không vì sự vui thích của tất cả, phần nhiều hướng đến ngoại đạo, phát sinh tà kiến, tâm ý điên đảo, hướng tới ba đường ác. Các quốc độ như thế nếu có nhiều các bậc cao niên, các quan viên lớn được dân chúng phụ giúp, chức tước và bổng lộc mà có thì tuần tự hưởng lấy, không giành hại lẫn nhau. Như vậy xây dựng một nước có nhiều luật pháp sáng suốt để trị phạt tạo an ổn cho dân chúng, tác động khiến trì giới, Từ bi, nhẫn nhục, oai nghi đầy đủ, chịu khó thực hành khổ hạnh, tất cả đều viên mãn, nhờ nhân duyên công đức như vậy nên các căn của chúng sinh được đầy đủ, thân thể cao lớn, oai đức tràn đầy, tướng tốt đoan nghiêm, thường được tất cả cung kính tôn trọng. Tâm tính nhân đức, Từ bi rộng lớn, thông minh nhiều trí tuệ, hoặc làm con trưởng giả hay làm con vua đều đầy đủ các công đức ấy. Nước nóng thơm hòa vào nước lạnh, ấm dùng để tắm rửa, mặc áo sạch mới, ánh sáng như báu, trên đỉnh đầu lại có các ngọc báu vàng ròng, vòng hoa cài, tay buộc các loại lụa trắng. Vòng hoa cài các báu bằng vàng, bạc, ngọc dùng làm vòng xuyến đeo tay, các loại vòng đeo, đủ các thứ báu như vậy để trang sức nơi thân mình, trước là để phục vụ chư Thiên, các Tiên và tất cả Đế Thích, đều được phép ngồi ở tòa cao. Như trước, vua cha lên đúng ngôi vị của vua rồi, tất cả vua rồng, trời Đế Thích, vua A-tu-la, vua Cưu-bàn-trà, các thứ chuông trống hiện có trước đây dùng cho vua cha, hôm nay nhận chức vị cũng đánh trống này, âm thanh ấy vang khắp các thành ấp. Hết thảy hàng Sát-lợi, Bà-la-môn, Tỳ-xá, Thủ-đà tắm rửa thân thể, mặc áo mới sạch sẽ, bằng các thứ lụa báu, cờ, lọng vàng, bạc, ma-ni, trân châu, xa cừ, san hô, lưu ly, mã não, tất cả châu báu vì vua mới đăng quang, thấy có các tướng an lành nên dâng lên đủ thứ. Bấy giờ, vua mới được thỉnh vào ngôi vị làm lễ quán đảnh, nhà vua giữ lại các quan cũ tùy theo khả năng, mỗi người đều chức chức vụ trông coi công việc. Hoặc trong nước có giặc nổi loạn và các nước lân cận đem quân binh xâm chiếm thì tùy theo oán địch đều phải diệt trừ hết, giữ gìn đất nước, không bị tàn phá, điều lành được tăng trưởng, bà con, họ hàng lại càng thân thiện hơn. Này thiện nam! Nếu có thể đạt được như vậy gọi là ở ngôi vị vua quán đảnh của Luân thứ nhất. Trong cõi nước đó được sống an lạc, điều phục các oán thù, giữ gìn thân mạng, cuộc sống ổn định, dài lâu. Đúng vậy, đúng vậy! Này thiện nam! Nếu người ở trong thế giới có đủ năm thứ ô trược xấu ác, xa lìa Phật đạo, nên các chúng sinh ở trong cõi ấy tâm nhiều giận dữ, tàn sát lẫn nhau, tất cả mọi người đều khổ não, tối tăm, ngu si, khởi chấp đoạn, thường, đủ các tranh tụng, tham lam, dua nịnh, ganh tî, gian dối, lừa gạt tạo đủ mười thứ ác. Chúng sinh do chấp giữ nên bị khổ não, rối loạn. Mọi người bị đủ các phiền não và tai họa, nên xa lìa Pháp nhãn sâu xa, bị các bệnh sân giận làm sợ hãi, tâm luôn lìa bỏ các pháp vị chân thật, vọng tưởng tán loạn, chê bai pháp lành, ưa thích ái nhiễm, thường bị phiền não và các thứ nhận biết sai lầm che lấp, nương theo sáu phái ngoại đạo làm tổn thương đến Thánh đạo, chạy theo ba đường ác. Các vị Đại Bồ-tát đã từng thân cận cúng dường vô lượng chư Phật ở quá khứ, chứng được biển lớn trí tuệ, an trú vào đạo hạnh của chư Phật, tất cả đều tập họp đến chỗ của ta. Ông nên thực hành hạnh bố thí thì có thể điều phục hoàn toàn, thành tựu khổ hạnh, xa lìa các ác, tu tập lâu ngày hành khổ khó làm của Phật, thường nhớ nghó đến kho tàng trí tuệ phước đức, đại Từ, Đại Bi trang nghiêm rộng khắp. Tất cả biển lớn về thiền định, Tổng trì, nhẫn nhục và các quả vị đều được đầy đủ, không sinh tâm dua nịnh, lừa dối, gian trá, thân thường hiền hòa, thành tựu nhẫn nhục, khéo tùy thuận để tạo mọi trang nghiêm đều gần gũi biển Nhất thiết trí, các sắc tươi đẹp, ánh sáng chiếu khắp nơi, vì tất cả hàng Thanh văn, Bích-chi-phật làm người dẫn đường, cũng vì tất cả chúng sinh sợ hãi sinh tử đều khiến được an ổn. Như các Đức Phật Câu-lưu-tôn, Phật Câu-na-hàm Mâu-ni, Phật Ca-diếp, các trưởng tử của Như Lai như vậy ở trong Hiền kiếp làm vị đứng đầu dùng nước thiền định trí tuệ tự tắm rửa, mặc áo hổ thẹn, là chỗ thực hành của vị đại Tiên tối thắng, cũng là giải thoát với vòng hoa công đức, cũng gọi là Nhất thiết chủng trí, vô sinh chân thật để tự trang nghiêm, thực hành ba điều thiện vì ba cõi làm mây dày che phủ. Trong đời quá khứ được an trú hoàn toàn nơi các cõi Phật, ngồi ở tòa Tam-muội Kim cang, cũng ở nơi trụ xứ của hàng Nhị thừa an tọa nơi tòa Tứ niệm xứ, cũng là tòa ngồi nơi trước kia Phật đã ngồi, ở nơi Nhất thiết trí an trú Bồ-đề có thể chuyển pháp luân, nối tiếp Tam bảo làm cho trường tồn, đánh trống pháp, phát ra âm thanh lớn, vang khắp ba cõi, nhờ âm thanh này khiến cho chư Thiên, loài Người, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân, Cưu-bàn-trà, Phú-đơn-na, Ca-trá Phú-đơn-na, Ngạ quỷ, Tỳ-xá-xà đều nhờ vào tướng vắng lặng của bốn Đế mà tự trang nghiêm. Ba chuyển và mười hai hành pháp luân trước kia chưa chuyển bây giờ sẽ chuyển. Tất cả Sa-môn, Bà-la-môn hoặc chư Thiên, ma, phạm đều không thể chuyển được, nay chuyển là nhằm tạo lợi ích an lạc cho chư Thiên và loài người. Này thiện nam! Đó gọi là chuyển pháp luân thứ nhất. Đời này và đời sau điều đúng điều sai đều nhận biết như thật, được an ổn không còn lo sợ, tất cả oán thù tự nhiên hàng phục. Biết đúng như thật có thể làm phạm luân thị hiện khắp nơi ở đời ác đủ năm thứ ô trược, các đệ tử chính là tiếng gầm của sư tử. Nếu gây nên năm tội nghịch, chúng sinh tạo nên mười điều ác, những người này đập tan các phiền não như kim cang đoạn trừ các hữu lậu, đạt được giải thoát, tùy theo sự mong muốn của họ an trú vào ba thừa, đạt được quả vị không thoái chuyển. Này thiện nam! Ví như có vị mới lên ngôi vua nhận phép quán đảnh, xét xem ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai được bao nhiêu đời có bấy nhiêu vị vua, dùng trí tuệ quán xét nhân của nghiệp, tất cả quả báo tùy theo tính tướng mà định vị chức tước cho họ, do ba nghiệp ấy khiến cho cõi nước đó được tăng trưởng an lạc, oán thù nơi nước lân cận đều được tiêu diệt. Những gì là ba? Như vua Quán đảnh Sát-lợi vì bảo vệ thân mạng nên chuẩn bị quân binh cùng chiến đấu với kẻ oán địch, trải qua các dinh, cung của vua và các cõi nước, tất cả mọi người dân đều được bổng lộc, tài sản, nghề nghiệp. Đó gọi là đại vương Quán đảnh thành tựu được chuyển luân lần thứ hai. Oán địch không thể xâm chiếm làm hại lần thứ hai, giữ gìn thân mạng sống lâu an ổn. Này thiện nam! Như Lai mới thành Phật đạt được trí vô thượng, ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai đều được các Pháp nhãn, cũng như ba đời chư Phật đều được Pháp nhãn nên tu tập chính pháp. Muốn quán xét tướng sai khác của nghiệp báo phải đầy đủ Pháp nhãn sâu xa, phân biệt nghiệp nhân, làm cho căn lành phát triển luôn được an ổn, khiến chúng sinh được vô lượng an lạc, cũng có thể làm cho các oán địch, ngoại đạo tự nhiên hàng phục. Những gì là ba nghiệp? Ngồi thiền, tụng kinh, điều hành việc Tăng chúng. Thế nào là ngồi thiền? Thiền có mười thứ. Những gì là mười? Biết rõ về thân. Biết thân là sáu nhập. Biết thân là ngã, ngã sở. Biết nghiệp nhân là nhân nên tự tại thọ sinh. Biết tất cả ái là vô minh tối tăm. Biết được sự thương yêu là không chân thật, tất cả đều là các duyên làm cho khổ não, liên tục lưu chuyển không ngừng. Những nhân duyên diệt đi thì tất cả đều diệt trừ. Thế nào là nghiệp lưu chuyển? Quán xét tất cả ba thứ hành nghiệp, đó là nghiệp lưu chuyển. Sinh tử không bến bờ ái do duyên mà có, gọi là phiền não lưu chuyển. Do duyên phiền não nên vô minh hòa hợp sinh ra danh sắc. Danh sắc hòa hợp do duyên nên sinh ra sáu nhập. Sáu nhập do duyên nên sinh ra xúc. Xúc do duyên nên sinh ra thọ. Thọ do duyên nên sinh ra hữu. Hữu do duyên nên sinh ra sinh. Sinh do duyên nên sinh ra lão bệnh tử khổ. Gọi là khổ lưu chuyển. Như vậy ba lưu chuyển đều từ ái sinh ra. Thế nào gọi là nghiệp do vô minh? Ái là nước thấm nhiễm. Vì muốn làm khô cạn hết ba dòng này nên thích quán xét vô thường gọi là vô thường nhẫn. Có năng lực quán xét vô thường, khổ, không, vô ngã, tin hiểu tất cả pháp do ngu si vô trí, như huyễn, như sóng nắng, như trăng trong nước, như mộng, Không, Vô tướng, Vô nguyện, vắng lặng, vô sinh, không, không có các tướng thường quán xét năm uẩn là Không, Vô tướng, Vô nguyện. Tùy thuận pháp nhẫn mà thích quán sát hơi thở ra vào, buộc niệm an ổn quán đếm số tăng dần, đến giảm dần. Quán trụ, quán diệt và quán trụ diệt. Trở lại quán sổ tức có hai loại ý và giác quán diệt ở nơi giác quán giữ tướng hơi thở ra vào đếm từ cao xuống thấp, ngừng lại nơi hơi thở ra vào để trừ bỏ giác quán. Quán hơi thở ra vào, giữ tướng mạo của nó. Quán trụ có hai thứ: Thấy tướng diệt tận có thể trú vào định. Diệt có hai loại diệt trừ các kết sử, làm thanh tịnh trong khi quán, tu hơi thở ra vào, quán xét năm ấm. Vì sao? Vì hơi thở ra vào này gọi là sắc thạnh ấm, cũng gọi là thạnh ấm nơi thọ, tưởng, hành, thức. Đó gọi làø năm thứ thạnh ấm với được các tướng không tương ưng. Lại có năm loại chẳng mới, chẳng cũ, chẳng có, chẳng tụ, chẳng nói. Như vậy dùng năm ấm này để quán sát ba loại nghiệp. Dùng ba loại nghiệp để quán diệt hoàn toàn. Lại quán sáu xứ có ngã, ngã sở, có nghiệp vô minh vì nhân ái thấm nhiễm, muốn diệt trừ hoàn toàn phải nhờ vào quán này. Đầy đủ bốn Niệm xứ, tu tập viên mãn bốn Niệm xứ, bốn chính cần, bốn Như ý túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác phần, tám Thánh đạo phần mới thành tựu mười tám pháp Bất cộng và nhẫn vô sinh, Nhất thiết trí, đầy đủ Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm, tu tập hơi thở ra vào, an trú nơi tám Tam-muội, thành tựu an trú vào xứ chính pháp. Nếu có thể tu tập các thiền định như vậy thì đã cúng dường tất cả chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai. Đó gọi là Phật tử từ miệng Phật sinh, từ chính pháp sinh. Người có năng lực khéo tu tập thiền định như thế hoặc là Đại só, các vị Bồ-tát hoặc bậc diệt hết các lậu, hàng Bích-chi-phật La-hán. Tu tập như thế gọi là Đại Bồ-tát có khả năng thành tựu pháp Bất cộng, đầy đủ Nhất thiết trí. Này thiện nam! Vị này chẳng bao lâu sẽ chứng quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác, ba đời Như Lai Thế Tôn được Pháp nhãn sâu xa, viên mãn hạnh nghiệp, quán xét quả báo, chúng sinh an trú ở mười thứ thiền định. Này thiện nam! Tức có thể chuyển như pháp Như Lai đã chuyển, vị ấy dùng thiền định để chuyển pháp luân. Này thiện nam! Làm thế nào để tu, tụng tập đối với Như Lai? Nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, ít lòng tin, căn lành rất mỏng, đối với chân lý thế gian, căn lành chưa được thuần thục, khiến cho chúng sinh đó đầu, giữa, cuối đêm, nhờ tu tập thiền định, vui vẻ mong cầu trí vô thượng. Bấy giờ, ta trú nơi Đại thừa, an ổn tu tập thiền định, đọc tụng, thọ trì, cúng dường đủ loại, tự đọc tụng dạy cho người đọc tụng, tự thuyết pháp dạy cho người thuyết pháp, tự cúng dường dạy cho người cúng dường, tự trú nơi Đại thừa cũng dạy cho người an trú nơi Đại thừa, cùng dạy bảo lẫn nhau để diệt trừ các phiền não, đạt được lợi lạc trong đạo vô thượng, cũng muốn diệt trừ vô lượng khổ não của chúng sinh, đạt được Niết-bàn không còn lo sợ. Nếu có chúng sinh mong cầu Bích-chi-phật thì thuyết pháp mười hai nhân duyên. Nếu có người cầu Thanh văn thì thuyết trăm ngàn bốn loại A-hàm và vô số A-tỳ-đàm khiến họ đọc tụng tu tập đúng như lời dạy. Đó gọi là Như Lai tu tập tụng pháp luân. Này thiện nam! Nếu có chúng sinh căn tính thấp kém, biếng nhác, trí tuệ ít, quên mất chính niệm, tham đắm chỗ ở, y phục, ăn mặc, bốn sự cúng dường, xa lìa các bạn lành, những chúng sinh này muốn phát khởi nhân duyên căn lành thì phải giáo hóa khuyến khích họ phục vụ chúng Tăng và pháp Phật, gần gũi các bậc Hòa thượng, A-xà-lê. Này thiện nam! Đó là an trú vào sự giáo hóa, làm việc phước đức của Như Lai. Như vậy, này thiện nam! Biết như thật đối với pháp tu tập về nghiệp. Đó gọi là pháp luân lần thứ hai của Phật, đầy đủ ba nghiệp thành tựu trọn vẹn cho chúng sinh, đạt được nơi an ổn không còn lo sợ. Tiếng gầm của sư tử có khả năng chuyển Phạm pháp luân khiến cho tất cả ngoại đạo đều hàng phục. Nên biết như thật về nhân duyên của chúng sinh. Này thiện nam! Ví như vua Sát-lợi được pháp Quán đảnh khéo quán sát Sa-môn, Bà-la-môn, Tỳ-xá, Thủ-đà, ai là hùng dũng có đầy đủ khả năng tài giỏi giữ gìn giới, biết phân biệt rõ có công đức, phương tiện trí tuệ, siêng năng tinh tấn, kiên cố không thoái chuyển, đầy đủ phước đức để trang nghiêm. Khi ấy, vua Sát-lợi làm lễ quán đảnh ở trong chúng, tùy theo tướng mạo đó mà cung cấp cho nước này những thứ: vàng, bạc, châu báu, kho lúa, gấm lụa, ruộng nhà, nô tỳ, kẻ hầu. Nếu có chúng sinh trì giới giống như người kia thì cũng được cung cấp đầy đủ không thiếu. Nếu có chúng sinh không trì giới, ít tinh tấn, biếng nhác, quên mất chính niệm, không có lòng thương xót, không biết quả báo, không sợ đời sau, muốn ở nơi bùn lầy, đại vương Sát-lợi quán đảnh như vậy tùy theo việc làm của họ để chỉ ra hình phạt mà vỗ về an ủi. Hoặc vì hình phạt mà giảng dạy. Hoặc vì hình phạt mà trói giam. Hoặc vì hình phạt về tài vật. Hoặc có cướp đoạt tài sản sự nghiệp thì dùng hình phạt bằng roi gậy. Hoặc có hình phạt cắt bỏ tay chân, hoặc hành quyết, có vô lượng sự giáo hóa như vậy. Đó gọi là đại vương Sát-lợi quán đảnh chuyển luân lần thứ ba, có năng lực làm tăng trưởng lợi ích cho cõi nước của mình hàng phục các ngoại đạo xấu ác, giữ gìn thân mạng khiến được sống lâu. Này thiện nam! Nếu đệ tử Thanh văn của ta xa lìa phước đức, phương tiện trí tuệ và các sự điều phục, quên mất chính niệm, tâm loạn động, buông lung thì nương tựa vào ta. Ta biết được tâm tính, tùy theo tướng mạo mà điều phục họ. Nếu có kẻ tự cao tự đại khó có thể điều phục, tâm không cung kính, không giữ gìn giới luật, vì để chính pháp trường tồn mà điều phục họ. Nếu phát sinh tâm vọng niệm thì giáo hóa khiến họ hối lỗi, nên bảo họ dùng hình phạt bằng cách đuổi đi, về sau trọn đời không cùng họ nói chuyện. Hoặc được ở trong Tăng chúng thì dùng hình phạt lễ bái, quở trách nhưng không được hưởng tài lợi của Tăng. Hoặc ở trước Tăng chúng, bốn vóc đảnh lễ sát đất, tự quy y sám hối lỗi lầm. Hoặc khi bị đuổi ra không cùng sống chung. Ta biết chúng sinh đủ các loại tâm tính. Tâm có chỗ hướng về để có thể phát sinh lòng tin hiểu, vì lợi ích của họ nên làm tiêu trừ các tối tăm, làm cạn kiệt dòng sinh tử để được an vui nơi Niết-bàn. Vì muốn điều phục chúng sinh phá giới nên ta thuyết giảng rộng rãi các kinh nói về những nỗi khổ ở địa ngục. Nếu có chúng sinh phát khởi lòng tin cung kính, ý thanh tịnh, tùy theo phương tiện tướng tính của người đó mà giảng thuyết về các căn lành, khiến họ đầy đủ việc lành mới đạt đến thành vô úy. Này thiện nam! Đó gọi là chuyển bánh xe lần thứ ba, như vậy là chuyển. Tùy theo chúng sinh kia mà đạt đến các sự hiểu biết, tu hành các nghiệp đầy đủ gốc thiện nên được an ổn đạt đến nơi không còn sợ hãi, như các vị Hiền thánh chuyển pháp luân của Phật thì ngoại đạo, oán địch tự nhiên hàng phục nên có thể gầm lên tiếng gầm của sư tử. Này thiện nam! Ví như đại vương Sát-lợi quán đảnh, dân chúng trong nước có bao nhiêu loại quy theo nẻo tà, thấy biết sai lầm, học hiểu sai lầm và xuất gia không chân chính. Hoặc đối với tướng lành mà chuyên cần tu tập như thế, vì vô lượng khổ nạn làm tổn hại chúng sinh nên vua đại quán đảnh dùng pháp cũ của vua trước để vì chúng sinh kia cho họ siêng năng tu học nhằm đoạn trừ, phá bỏ kiến chấp, dùng pháp thiện của vua trước để cai trị đất nước khiến họ tu hành. Đại vương Sát-lợi quán đảnh chế ra pháp luật, khiến tất cả chúng sinh đều đồng một tâm ý, cùng được điều phục, cùng được mong cầu, ưa thích và cùng quy về một hướng, đều hòa hợp tùy thuận với phép trị nước của vua trước, tuân lệnh lãnh nhận chiếu chỉ đều tùy thuận làm theo pháp nước. Bấy giờ, đại vương Sát-lợi quán đảnh, thường cùng ăn cơm, vui chơi với dân chúng, không nghi ngờ, tâm ý tin tưởng, cùng thực hành phép vua. Đó gọi là đại vương quán đảnh chuyển luân lần thứ tư. Nhờ nhân duyên như vậy, có khả năng khiến cho nước mình được tăng trưởng, ngăn cản được oán thù, tất cả đều hàng phục có thể bảo vệ đất nước, giữ gìn mạng sống. Này thiện nam! Như Lai Thế Tôn thấy các chúng sinh có bao nhiêu loại đi theo tà kiến, ưa thích tà nghiệp, thấy các chúng sinh do các duyên này nên ta vào đời quá khứ, chư Phật Như Lai, ở trước đại chúng khai thị giáo hóa vô số giáo pháp nhân quả của Đức Phật, giảng thuyết sáu pháp Ba-la-mật, tu hành chính đạo, giảng thuyết ba ngôi báu Phật, Pháp, Tăng và Thánh hiền, nhiều lần thị hiện các nghiệp báo, giáo hóa tạo lợi ích an lạc dẫn đường cho họ, khiến các tà kiến được hiểu rõ và bốn bộ chúng đều giải thoát, tu tập đầy đủ các hạnh lành, hòa nhã dịu dàng, giáo hóa theo bốn Niệm xứ. Đối với các pháp giải thoát, biết rõ đạo chân chính, đều được mừng vui khiến cho giáo pháp tồn tại lâu dài, ba ngôi báu hoàn toàn không đoạn dứt, cho đến bốn chính cần, bốn Như ý túc, năm Căn, năm Lực, bảy giác phần, tám Thánh đạo phần, tất cả thiền định, giải thoát tri kiến đều được tự tại du hóa vô ngại. Như vậy, này thiện nam! Đó là chuyển pháp luân lần thứ tư của Như Lai. Như Lai thành tựu pháp luân như vậy, nên khiến cho tất cả chúng sinh đều quay về và tu tập các nghiệp lành, đều thấy biết rõ, an ổn vui mừng, an trú vào quả vị không còn lo sợ. Vị Đại tiên thù thắng chứng được quả vị chuyển pháp luân của Phật, tất cả Sa-môn, Bà-la-môn, Ma, Phạm, chư Thiên không thể chuyển được. Đại tiên có thể diệt trừ thiên ma và ngoại đạo, ở trong bốn chúng gầm lên tiếng gầm của sư tử. Này thiện nam! Ví như đại vương quán đảnh có thể khiến cho nước mình và dân chúng nước khác, tự thấy nhan sắc của vợ mà tâm không chán, đối với sản nghiệp và các nhan sắc của người khác đều sinh tâm tham đắm, giữ gìn thành lũy và các vật, thôn ấp, cõi nước cho đến cung vương tất cả đều được binh lính tuần tra, canh gác cẩn thận kiên cố. Này thiện nam! Đó là Đại vương quán đảnh thứ năm chuyển luân chế ra luật cấm. Khi ấy, vua quán đảnh đã thành tựu các luân như vậy, có thể làm cho các oán thù, ngoại đạo đều được hàng phục, đất nước tăng trưởng, cứu giúp, hộ trì thân mạng. Này thiện nam! Như Lai Thế Tôn có thể khiến cho Ma vương Ba-tuần, chín mươi lăm học thuyết ngoại đạo tà kiến và hết thảy chúng sinh ở nơi tài sản và hành nghiệp của mình tâm không chán đủ. Cho đến các sự việc muốn hại Như Lai, như dùng hầm lửa để đốt, trộn thuốc độc vào cơm, xô đá núi nhằm đè bẹp, thả voi say, hoặc rút kiếm sắc bén ra… dùng những thứ như vậy để theo hại ta. Dùng bùn đất nhơ bôi lên Phật, hoặc dùng sự dâm dục để vu khống Như Lai. Hoặc nói chẳng phải là người, cũng chẳng phải là trượng phu. Những việc như vầy để phỉ báng hủy nhục, như nói lời hung ác mạ nhục Phật, Pháp, Tăng đều do các lợi dưỡng mà sinh tâm đố kî, chê bai Thanh văn. Như Lai Thế Tôn giữ gìn hoàn toàn sáu căn, an trú vào bốn Phạm xứ, dạy dỗ các Thanh văn về bốn Niệm xứ, bốn Biện tài, giảng thuyết cho Thanh văn về ba pháp môn Giải thoát. Như vậy Như Lai có rất nhiều pháp dạy hoặc pháp thế gian, pháp xuất thế gian, khiến cho tất cả biết đúng như thật. Này thiện nam! Đó gọi là chuyển pháp luân lần thứ năm của Như Lai. Như Lai thực hành chuyển pháp luân như vậy, dùng trí xuất thế gian khiến cho tất cả chúng sinh đều quay về nương tựa, đều cùng nhau có sản nghiệp, cùng thấy biết an ổn, vui mừng, không còn sợ sệt. Đó là nơi Đại tiên cao thắng chuyển pháp luân của Phật, Sa-môn, Bà-la-môn, các Phạm vương, Thiên ma, chư Thiên không thể chuyển được, đều có thể điều phục quân ma và các ngoại đạo. Ở trong bốn bộ chúng có thể gầm lên tiếng gầm của sư tử. KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG THẬP LUÂN <卷 id="117270407">quyển 3 <詞 id="117270408">Phẩm 4: Dụ quán đảnh Này thiện nam! Ví như đại vương Sát-lợi làm lễ quán đảnh, việc giữ gìn pháp chính yếu đều được đầy đủ, về sau cùng với thể nữ ở trong cung cùng giao tiếp, vui chơi năm dục, tự ý buông lung không kìm chế sáu căn, phóng túng ham thích hoan lạc. Đó gọi là luân thứ sáu của đại vương Sát-lợi quán đảnh. Các oán thù bên ngoài thảy đều hàng phục, tăng trưởng lợi ích cho đất nước, đời sống lâu dài. Này thiện nam! Như Lai Thế Tôn và Đại Bồ-tát cùng chúng Thanh văn tự bảo vệ vững chắc không còn lo sợ. Bấy giờ, Như Lai vào thiền thứ nhất, thứ hai, thứ ba cho đến thiền thứ tư, hội nhập vào Không xứ, Thức xứ, Bất dụng xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ, đều nhập vào Tam-muội Hành xứ của chư Phật. Lúc này, Như Lai nhập vào Tam-muội rồi, vô lượng ức triệu chúng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân, Ngạ quỷ, Tỳ-xá-xà, Phú-đơn-na, Ca-trá Phú-đơn-na, tâm ác độc xấu xa, ý ngang ngược không thương yêu, đối với các chúng sinh không khởi tâm Từ bi, cho rằng không có đời sau, nhưng họ nhìn thấy ta hội nhập vào tất cả Tam-muội Hành xứ của Phật, nên được niềm vui thù thắng, đối với Tam bảo đạt được sự phát khởi mạnh mẽ khiến họ ưa thích vui vẻ, tôn trọng, cung kính, được điều chưa từng có, xa lìa tất cả ác, tâm thành sám hối tất cả tội lỗi. Đối với tất cả các loài có vô lượng, vô số nghiệp chướng ngăn cản và phiền não làm chướng ngại đạo pháp, chỉ một thoáng đều được diệt sạch hết, công đức trí tuệ đầy đủ, quay lưng xa lìa sinh tử hướng đến Niết-bàn, tất cả đều hộ trì pháp của Phật. Đó là chuyển pháp luân lần thứ sáu của Như Lai. Như Lai thành tựu chuyển pháp luân như vậy nên đạt được thiền định Tam-muội giải thoát, đoạn trừ các phiền não của chúng sinh, dùng trí tuệ này diệt trừ các sự trói buộc đạt đến an ổn không còn lo sợ. Đại tiên cao thắng chuyển Phạm pháp luân, Sa-môn, Bà-la-môn, Ma, Phạm đều không thể chuyển được, tất cả oán thù, phiền não của ngoại đạo đều được hàng phục, ở trong bốn chúng gầm lên tiếng gầm của sư tử. Này thiện nam! Ví như đại vương Sát-lợi quán đảnh, tất cả những nơi đồng vắng, núi đồi, khe hang, ao, đầm suối, ruộng vườn, cây cối, xóm làng, thành thị, đất nước của mình, bốn loại quân binh, quán xem khắp cõi nước, ở trong dân gian nơi nào có sản nghiệp, những nơi ấy có nhiều nghi ngờ lo sợ, nếu có quân địch gây tai hại thì đại vương Sát-lợi tùy nơi chốn khuyên mọi người đều đồng lòng phòng hộ các thứ giặc oán địch giữ gìn toàn bộ đất nước mình, khiến được an lành. Đó là luân thứ bảy của đại vương Sát-lợi quán đảnh, các oán thù, ngoại đạo đều được hàng phục, tăng trưởng lợi ích cho đất nước mình, mạng sống lâu dài. Này thiện nam! Như Lai Thế Tôn giáo hóa khai thị Phật nhãn cho chúng sinh, tâm tham muốn biết đúng như thật là tâm tham muốn. Tâm giận dữ biết đúng như thật là tâm giận dữ. Tâm ngu si biết đúng như thật là tâm ngu si. Cũng biết chúng sinh vì các phiền não, bị các thứ bệnh tật, tùy theo việc làm của họ mà biết đúng như thật. Như Lai đều ở trong những chỗ như vậy, dùng phương tiện tinh tấn, uy lực tùy theo căn tính của từng loại chúng sinh mà dùng thuốc thiền định để diệt trừ các phiền não. Nếu có chúng sinh nhiều tham ái dùng pháp bất tịnh để giáo hóa. Nếu có chúng sinh có thể nhờ nơi bốn Phạm đường (bốn Tâm vô lượng) để giáo hóa khiến tu tập theo bốn Tâm vô lượng. Nếu có chúng sinh nhiều ngu si thì giáo hóa cho họ quán xét về nhân duyên. Nếu có chúng sinh cần tu pháp quán sổ tức thì dạy cho họ. Nếu có chúng sinh phải tu tập ba môn giải thoát thì giáo hóa cho họ. Nếu có chúng sinh cần tu thiền định thì dạy cho họ. Nếu có chúng sinh cần tu định vô sắc thì giáo hóa cho họ. Cho đến phải dùng Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm để diệt trừ các bệnh phiền não cho chúng sinh, cũng giáo hóa cho họ tu tập Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm. Vì sao? Vì không làm cho chúng sinh rơi vào bốn thứ ma khiến họ đạt tự tại, trừ bỏ cõi trời và người, cũng lại không khiến tất cả chúng sinh nhập vào các đường ác, để từ bỏ chủng tính Tam bảo. Này thiện nam! Như Lai có khả năng biết tất cả chốn đến. Đó gọi là chuyển pháp luân lần thứ bảy của Như Lai. Như Lai thành tựu pháp luân này, đạt đến quả vị an ổn, không còn lo sợ. Đại tiên cao thắng có thể chuyển pháp luân, còn tất cả Sa-môn, Bà-la-môn và các Ma, Phạm không thể chuyển được. Hết thảy mọi oán thù, các ngoại đạo khác đều được hàng phục, ở trong bốn chúng gầm lên tiếng gầm của sư tử. Này thiện nam! Ví như đại vương Sát-lợi quán đảnh vì các chúng sinh nhớ được dòng họ kiếp trước, chỗ sinh ra lúc còn nhỏ vui đùa, tắm rửa, nằm ngửa bú sữa, cào cấy nghịch ngợm, xoa bóp tay chân cho đến đùa giỡn trên bụi đất đều có người chăm sóc, học tập vô số kỹ thuật, đi đến nước khác, sớm tối tại chỗ ở cung kính hầu cận vua và các đại thần, làm thái tử cho đến nay được lên vương vị, làm đại vương thọ hưởng các thú vui tự tại không chướng ngại. Bấy giờ, các phương, bốn hướng, trên dưới có âm thanh lớn nói kệ tán thán phát nguyện, thường dùng chính pháp trị nước, không não hại chúng sinh, hộ trì đất nước, nên gọi là luân thứ tám của đại vương Sát-lợi quán đảnh. Đã thành tựu như vậy rồi, lúc ấy đại vương Sát-lợi quán đảnh có năng lực khiến tất cả oán địch ngoại đạo đều hàng phục, tự giữ gìn mạng sống khiến được tăng trưởng. Như vậy này thiện nam! Như Lai Thế Tôn ở trong đại chúng, quán thấy nhân duyên nơi đời sống kiếp trước đã sinh một lần, hai lần, ba lần cho đến vô lượng trăm ngàn ức lần sinh. Nhớ số kiếp thành, kiếp hoại, cho đến vô lượng ức kiếp, tất cả kiếp thành hoại ta đã sinh ở đó, dòng họ như vậy, tên tuổi như vậy, chỗ sinh ra như vậy, ăn như vậy, lãnh thọ như vậy, khổ vui như vậy, sống lâu như vậy, an trú như vậy, mạng sống không giới hạn như vậy, ở nơi kia sinh đến chỗ này, lại chết ở chỗ này sinh nơi chỗ kia, có thể biết hình tướng đó ở khắp nơi, phân biệt bao nhiêu loại nguồn gốc, đời sống và việc làm nơi đời trước. Đó là chuyển pháp luân lần thứ tám của Như Lai. Như Lai đã thành tựu pháp luân như vậy, được an ổn không còn lo sợ. Đại tiên tối thắng chuyển pháp luân, còn Sa-môn, Bà-la-môn, tất cả Ma, Phạm không thể chuyển. Tất cả oán địch, ngoại đạo đều được hàng phục, ở trong bốn chúng có năng lực gầm lên tiếng gầm của sư tử. Này thiện nam! Ví như đại vương Sát-lợi quán đảnh, dân chúng trong cõi nước ấy đều biết được nguồn gốc, dòng họ, bà con quyến thuộc đều tráng kiện, đầy đủ kỹ thuật, biết được các sự việc nghèo cùng, giàu có, đoan chính, xấu xí của họ, cho đến khi chết hoặc vì nghiệp của mình mà chết, hoặc bị hình phạt của Pháp vương giết chết, hoặc bị tàn sát lẫn nhau mà chết yểu, hoặc vì roi gậy trói nhốt trong tù, hoặc vì binh đao chiến đấu, hoặc vì tài vật, hoặc vì tham dục, hoặc vì sân giận, hoặc vì đói khát, hoặc vì tai họa của mình, hoặc vì già mà chết, hoặc vì trung niên, hoặc vì thơ ấu, hoặc tạo nghiệp thiện, hoặc làm việc ác. Tất cả sự chết đều được quán sát biết rõ nguồn gốc nhân duyên. Suy nghó như vậy, nếu có chúng sinh tự tạo nhân duyên lành là muốn sinh lên cõi trời. Hoặc có chúng sinh thực hành nhân duyên ác hướng về địa ngục. Tư duy như vậy, tu tập về thân làm lành, về miệng làm lành, về ý làm lành. Ta thường dùng phương tiện giáo hóa, thực hành bố thí, làm cho điều phục tùy thuận hạnh này thì lúc mạng chung sẽ sinh lên cõi trời, thường ở cõi lành xa lìa đường ác. Như vậy, đại vương Sát-lợi quán đảnh siêng năng tu tập tất cả các nghiệp lành ở thân, miệng, ý. Thực hành bố thí hoàn toàn về ăn uống, y áo, voi ngựa xe cộ để đi, đồ nằm, thuốc thang đủ các loại cần dùng, cho đến cung cấp nô tỳ và người hầu cận, xả bỏ đầu mắt, tay chân không luyến tiếc thân mạng, không còn sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói lời thô ác, nói hai lưỡi, nói lời thêu dệt, tham lam, sân hận, tà kiến. Như vậy, đại vương Sát-lợi quán đảnh có mười điều lợi ích, giữ gìn hoàn toàn nên được danh tiếng, tài sản, sự nghiệp, thân tướng tráng kiện, được nhiều quyến thuộc, ít bệnh, ít khổ não, được các trí của bậc Thánh, hướng đến cõi thiện đều được cung cấp cúng dường thân cận, tiếng khen vang khắp mười phương, tất cả đều đọc kệ tán thán, chư Thiên thần lớn đều đến hộ vệ, sau khi chết được sinh lên cõi trời. Đó gọi là luân thứ chín của đại vương Sát-lợi quán đảnh. Đã thành tựu luân như vậy rồi, tăng trưởng cõi nước, mạng sống kéo dài. Như vậy, này thiện nam! Như Lai Thế Tôn vì các chúng sinh biết được sự chết của người khác, biết đúng như thật về chết đây sinh kia. Nếu có chúng sinh gây tạo nghiệp bất thiện về thân, nghiệp bất thiện về miệng, nghiệp bất thiện về ý, phỉ báng bậc Hiền thánh, thấy biết điên đảo sai lầm, vì nghiệp nhân duyên thấy biết sai lầm này nên sau khi mạng chung rơi vào đường ác, sinh trong địa ngục, hoặc sinh vào loài súc sinh, ngạ quỷ. Nếu có chúng sinh thành tựu nghiệp thiện về thân, nghiệp thiện về miệng, nghiệp thiện về ý, không phỉ báng bậc Hiền thánh, đầy đủ thấy biết chân chính, vì thành tựu nghiệp nhân duyên thấy biết chân chính này mà sau khi chết được sinh vào đường lành nơi cõi trời. Sinh lên cõi trời rồi hoặc sinh trong loài người dứt trừ các phiền não trói buộc. Như vậy, Như Lai khéo biết các nhân duyên về nghiệp của chúng sinh. Như Lai ở nơi chúng sinh, có thể phát tâm đại Từ Đại Bi, thường siêng năng tinh tấn thị hiện ba loại thần thông, có thể làm cho chúng sinh an trú ở thế gian và phát lòng tin. Những gì là ba? Một là thần thông. Hai là thuyết pháp. Ba là biết tâm người khác. Vì ba loại thần thông này khiến cho chúng sinh an ổn ở thế gian, phát khởi tin tưởng pháp xuất thế gian, biết tất cả cõi, tất cả pháp hữu vi, tất cả việc thọ sinh đều được giải thoát. Đó là chuyển pháp luân lần thứ chín của Như Lai. Như Lai đã thành tựu pháp luân như vậy, được an ổn không còn lo sợ. Đại tiên tối thắng có thể chuyển pháp luân, còn tất cả Sa-môn, Bà-la-môn và các Ma, Phạm không thể chuyển được, hàng phục tất cả ngoại đạo, oán địch, ở trong chúng gầm lên tiếng gầm của sư tử. Này thiện nam! Đại vương Sát-lợi quán đảnh ở trong bốn cõi thiên hạ, vì tất cả chúng sinh bị bệnh khổ não mà từ bỏ vương vị, dùng đủ loại nước hương để tắm rửa, gội đầu, mặc áo sạch mới, ngồi ngay thẳng tư duy, nhằm diệt trừ tất cả bệnh khổ não cho chúng sinh khiến đều được giải thoát. Đại vương Sát-lợi quán đảnh này dùng các thứ hoa hương anh lạc và các thứ âm nhạc, tất cả hàng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già đều cúng dường, đồng thanh nói: Đại vương Sát-lợi quán đảnh này có nhiều công đức nên làm Chuyển luân vương thống lãnh bốn châu thiên hạ. Chúng ta nên đề cử vị vua này để thay đổi pháp xử trị đất nước. Bấy giờ, tất cả Thiên đế cho đến Ma-hầu-la-già cũng nói như vầy: Nên đề cử vị vua này làm vua trong bốn châu thiên hạ. Lúc ấy đại vương Sát-lợi đầy đủ bảy báu thống lãnh bốn châu thiên hạ làm Chuyển luân vương, có ngàn người con đều tráng kiện, tướng mạo đoan nghiêm có thể hàng phục oán địch, ngoại đạo, xuyên qua bốn biển làm an ổn cho mọi người hoàn toàn không còn hình phạt dao, gậy làm hại đúng như pháp mà thực hành để giảng dạy, tất cả đều lãnh thọ. Này thiện nam! Đó là đại luân thứ mười của vị Chuyển luân thánh vương. Nhờ năng lực này nên vua Chuyển luân thánh vương đều khiến cho bốn châu thiên hạ và tám vạn bốn ngàn biển, bãi, tu tập pháp lành, xây dựng, giữ gìn thân mạng dài lâu. Như vậy, này thiện nam! Như Lai từ khi mới phát tâm đến nay đối với thân mạng mình cho đến thân người khác, có bao nhiêu phiền não bệnh tật đều dùng nước trong sạch thiền định để tắm rửa, dùng pháp bảo đại Từ Đại Bi rưới trên đỉnh đầu, mặc áo hổ thẹn. Như Lai ở mười phương dùng năng lực của trí tuệ, thiền định, năng lực tinh tấn lớn, dùng vô lượng phương tiện định ý để quán sát, nên diệt trừ tất cả phiền não, hoạn nạn, lỗi lầm của chúng sinh. Như Phật Thế Tôn đã dạy như vậy: Bậc trí tuệ tối thắng, phước đức trang nghiêm, thực đáng làm pháp khí, ba môn Giải thoát, bốn Vô sở úy, mười tám pháp Bất cộng của mười phương Như Lai, tất cả pháp khí trí tuệ, Đại Bi, làm lợi ích cứu vớt tất cả khổ cho muôn loài. Phật là đại thương chủ độ thoát vô lượng khổ não cho chúng sinh, đạt an lạc Niết-bàn, nguyện lực của Phật đầy đủ, có thể thành tựu bình đẳng chính giác Pháp vương Vô thượng. Như vậy đầy đủ phước đức trí tuệ, tinh tấn dũng mãnh, quán sát chân thật rõ ràng bốn Chân đế, chứng đắc quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác. Đó gọi là Như Lai chuyển pháp luân thứ mười, có năng lực diệt sạch các phiền não căn bản. Này thiện nam! Ví như vua Chuyển luân thánh vương dạo chơi tự tại trong bốn châu thiên hạ. Như Lai cũng vậy, tâm được tự tại trong bốn Thiền, tu tập bốn định vô sắc, bốn phạm đường, đầy đủ bốn Biện tài, quán đúng bốn Đế, bốn Vô sở úy, mười Lực, mười tám pháp Bất cộng, ở trong Nhất thiết trí được diệu lực tự tại. Này thiện nam! Ví như vua Chuyển luân thánh vương đầy đủ bảy báu. Như Lai cũng vậy, đầy đủ bảy Giác ý. Này thiện nam! Vua Chuyển luân thánh vương đầy đủ ngàn con. Như Lai cũng có tất cả đại đệ tử Thanh văn, Kiều-trần-như là đệ tử đầu tiên và Tu-bạt-đà-la là vị đệ tử cuối cùng. Đúng là con ta từ miệng Phật sinh ra, từ pháp hóa sinh, đoạn trừ tất cả phiền não, tu tập tinh tấn dũng mãnh tứ phạm đường, giống như bốn thứ binh lực hàng phục các ma oán. Này thiện nam! Ví như vua Chuyển luân thánh vương, cai trị bốn châu thiên hạ có tám vạn bốn ngàn biển, bãi, đều tùy theo đó mà giảng dạy. Như Lai Thế Tôn cũng có trăm ức Diêm-phù-đề, trăm ức Cù-da-ni (Tây Ngưu hóa châu), trăm ức Phất-vu-đãi (Đông Thắng thần châu), trăm ức Uất-đan-việt (Bắc Câu-lâu), trăm ức biển, trăm ức núi chúa Tu-di, trăm ức Tứ Thiên vương, cho đến trăm ức Phi tưởng phi phi tưởng thiên, trăm ức núi Đại thiết vi, trăm ức núi Thiết vi. Đó là cõi Phật rộng lớn vô lượng, Như Lai đều tùy thuận giáo hóa tất cả. Này thiện nam! Đó gọi là chuyển pháp luân lần thứ mười của Như Lai. Như Lai thành tựu chuyển pháp luân như vậy, nếu ở trong đời ác đủ năm thứ ô trược, tất cả pháp công đức của Phật đều bị mất, xa lìa bảy Thánh tài và các bậc trí thức thì muốn trừ diệt những hoạn nạn, mê mờ phủ kín nơi ba đường ác, cho đến vô minh hắc ám của đời sau, thế gian cùng nhau làm mười điều ác, tạo năm tội nghịch, hủy báng chính pháp, xa lìa các pháp lành, đắm nhiễm pháp bất thiện. Như vậy thành tựu chuyển pháp luân Thứ mười của Đức Phật đến nơi chốn an ổn không còn lo sợ. Đại tiên Cao Thắng có thể chuyển bánh xe pháp. Tất cả Sa-môn, Bà-la-môn và các Ma, Phạm không thể chuyển được, diệt trừ tất cả oán địch ngoại đạo, dùng trí tuệ kim cang để cắt đứt phiền não của chúng sinh khiến chứng được ba thừa, không còn thoái chuyển. Ở trong bốn chúng có thể gầm lên tiếng gầm của sư tử. Bấy giờ, Đại Bồ-tát và tất cả đại Thanh văn, các chúng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Ngạ quỷ, Tỳ-xá-xà, Nhân phi nhân… tất cả đều tán thán: –Lành thay! Từ hư không tuôn các thứ mưa hoa, mưa hoa báu, mưa y phục, mưa hương thơm, đại địa đều chấn động đủ sáu cách. Khi Đức Phật thuyết giảng kinh Thập Luân như vậy, ở trong đại chúng có tám vạn bốn ngàn ức trăm ngàn triệu Đại Bồ-tát chứng được pháp Nhẫn vô sinh. Lại có vô lượng Đại Bồ-tát đạt được Đà-la-ni thiền định, nhẫn nhục sâu xa. Lại có vô lượng chúng sinh chưa phát tâm Bồ-đề nay đã phát tâm an trú vào quả vị không thoái chuyển. Lúc ấy, lại có vô lượng đại chúng đạt được pháp Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, tuần tự tu học chứng quả Sa-môn.  <詞 id="117270409">Phẩm 5: Tướng luân Bấy giờ, Đại phạm thiên tên là Thiên Tạng, vốn gieo trồng căn lành từ lâu, an trú vào Địa thứ mười là Đại Bồ-tát, hiện ở trong chúng hội, từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y phục, gối phải quỳ sát đất, dùng kệ thưa hỏi Đức Phật: Nay con cúi đầu thưa Biển công đức vô biên Nguyện xin Phật cho phép Đoạn trừ các nghi hoặc. Ngưỡng nguyện giữ công đức Trong pháp vị tối thượng Chúng sinh đều thích nghe Như vậy Đệ nhất nghĩa. Khi ấy, Đức Thế Tôn bảo Đại phạm Thiên Tạng: –Ông cứ tùy ý thưa hỏi, Như Lai Thế Tôn sẽ tùy theo lời hỏi để trả lời khiến ông được hoan hỷ chưa từng có. Bấy giờ, Đại phạm Thiên Tạng nói: –Kính vâng Thế Tôn! Rồi dùng kệ hỏi: Tu thiền định, trí tuệ An trú không buông lung Vì trú Đệ nhất nghĩa Mà ở nơi sinh tử. Siêng năng tu tụng kinh Vượt qua biển phiền não Thì sẽ chứng Bất thoái Hay rơi vào đường ác. Luôn dốc sức khuyến hóa Nhờ định hướng Niết-bàn Do ở trong sinh tử Bị rơi vào đường ác. Trí tuệ hàng Sát-lợi Nương theo mười luân này Vì ở nơi sinh tử Mà thành tựu Phật đạo. Tâm ác khó điều phục Phiền não nhiều tán loạn Làm sao được tịnh tâm Thiền, tụng mà giáo hóa. Đức Phật bảo Đại phạm Thiên Tạng: –Lành thay, lành thay! Ông đã có đầy đủ các hạnh ở nơi hằng hà sa cõi Phật đời quá khứ tu tập ba nghiệp, giữ tâm thiền định, thường siêng năng tụng kinh, điều hành các việc củaTăng chúng, làm Phật pháp hưng thịnh, xây dựng Tam bảo, như rường cột lớn lại có thể vì vô lượng chúng sinh mà hỏi Như Lai về nghĩa lý này. Nếu hàng thiện nam nương vào oai lực của luân thọ ký, ở chỗ Đức Phật thời quá khứ mà giảng nói, an trú nơi thần thông. Đó gọi là Như Lai tạo mọi thành tựu cho chúng sinh khiến họ chán lìa để diệt trừ bệnh phiền não, vì muốn làm viên mãn đạo pháp nơi ba thừa, nên từ mười phương cho đến hằng hà sa chư Phật hiện tại cũng giảng thuyết: Nương theo oai thần của luân thọ ký, nhằm thành tựu chúng sinh, khiến họ chán lìa, diệt trừ tất cả phiền não, chứng viên mãn đạo quả ba thừa, an trụ trong chính pháp. Ông ở đời quá khứ nghe được Đức Phật thuyết giảng. Ta cũng như vậy, nương theo oai thần của luân thọ ký, muốn thành tựu cho tất cả chúng sinh nên khiến họ chán lìa, diệt trừ các phiền não, chứng được đầy đủ pháp ba thừa. Cho nên Đại Phạm, ông nên lắng nghe kỹ, khéo suy niệm. Đại phạm Thiên Tạng thưa: –Kính vâng Đức Thế Tôn! Đức Phật nói: –Nếu có người nương theo mười luân bất thiện thì không đạt đầy đủ thiền định ở cõi Dục cũng không thể thành tựu căn lành ở cõi Dục, huống nữa là thành tựu tất cả thiền định ở cõi Sắc và cõi Vô sắc. Lại cũng không thể thành tựu pháp nơi ba thừa và các căn lành khác. Những gì là mười? Có người muốn tu các thiền định nhưng không đủ, có người muốn phá giới tạo thành pháp ác, sinh tâm điên đảo, cũng chấp trước các tướng lành, tâm ác khó điều phục nên không thuận theo Thánh hiền, các căn hết sức thô tháo nên không tạo đủ căn lành tốt đẹp, chỉ nói hai lưỡi, ưa thích tranh chấp, nói lời thô ác, thường nói lời nhục mạ, thích nói lời thêu dệt dối trá, sinh tâm tham lam, thấy người được lợi ích tâm nổi ganh ghét. Tất cả chúng sinh có tâm não hại tạo nhiều tà kiến cho là không có nhân quả. Này Đại phạm Thiên Tạng! Đầy đủ mười việc tuy muốn tu thiền định nhưng không thể thành tựu một chút điều lành ở cõi Dục, huống nữa là thành tựu căn lành ở cõi Sắc, cõi Vô sắc và pháp lành của ba thừa. Lại nữa, Đại Phạm! Lại có mười việc không thể chứng được thiền định. Đó là ưa thích ca hát, ưa thích lời nói, thích ngủ nhiều, mong cầu nhiều, ưa thích sắc đẹp, ưa thích hương hoa, ưa thích mùi vị, ưa thích âm thanh, ưa thích xúc chạm, ưa thích ngắm nhìn. Đại Phạm đó là mười điều không thể chứng đắc thiền định. Giả sử có đạt được liền mất đi, hoàn toàn không thể có. Chỉ dạy lòng tin được đàn việt bố thí, nhưng vì đó mà tâm sinh pháp ác. Nếu ở trong chúng có vua Sát-lợi nhiều tội lỗi, nhục mạ người khác, dùng dao gậy chật tay chân của họ, hoặc phạm vào tội lớn phải chịu khổ lâu dài. Hoặc bị bệnh, khi chết sinh vào đường ác cho đến địa ngục A-tỳ. Ví như A-lan-ca-lan, Uất-đầu-lam-phất, Điệt-số-câu-ca-lê, Đề-bà-đạt-đa, hủy phá những thiền định như vậy nên phải bị vào địa ngục A-tỳ chịu các tội nặng. Bấy giờ, Đức Phật bảo Tôn giả Kiều-trần-như: –Hôm nay, ta cho phép các Tỳ-kheo thanh tịnh thọ nhận các thứ tốt nhất như giường nằm, đồ ngồi, đầy đủ thức ăn ngon lạ có thể trừ tất cả các bệnh tật cho chúng sinh. Vì sao? Vì nếu Tỳ-kheo ngồi thiền không đủ các thời thì tất cả tâm xấu nổi lên làm tán loạn, chỉ nhớ tới các việc ác, không thể thành tựu thiền định, cho đến ở địa ngục A-tỳ chịu các tội báo. Nếu các duyên đầy đủ, tu tập các thiền định thì dễ thành tựu, tâm chuyên nhất, đã đạt rồi thì làm cho tăng trưởng. Tất cả pháp bất thiện và tâm tán loạn thì quán sát biết rõ không làm cho nó sinh khởi, hướng đến Niết-bàn, tới bờ bên kia. Nếu có người ngồi thiền chưa thuần thục, đầu, giữa, cuối đêm thường siêng năng tu tập, xa lìa ồn náo, ít ham thích, biết đủ, đối với tất cả kết sử khởi tâm đoạn trừ, tất cả tham dục, sân hận, kiêu mạn, tự cao, nói hai lưỡi, nói lời thô ác, nói dối những loại như vậy đều được từ bỏ, nên được thọ nhận sự cúng dường, cung kính của trăm ngàn triệu Tứ Thiên vương và Phạm thiên, huống gì là Bà-la-môn, Sát-lợi, Cư só, Tỳ-xá, Thủ-đà mà không cúng dường. Đức Thế Tôn nói kệ: Tu thiền diệt các kết Nghiệp khác không thể sinh Cho nên thiền thứ nhất Người trí nên cúng dường. Bấy giờ, Đại phạm Thiên Tạng thưa: –Bạch Thế Tôn! Nếu có Tỳ-kheo tu thiền định thì hàng Sát-lợi, đại thần có thể dùng hình phạt roi, gậy, ngói, đá chặt đứt thân hình của họ không? Đức Phật nói: –Này thiện nam! Như các Tỳ-kheo xuất gia tu pháp của Phật, cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa thì tất cả hàng Trời, Người, A-tu-la đều nên cúng dường. Nếu giữ gìn giới cấm thì không nên dùng hình phạt nhốt vào ngục, chặt đứt tay chân, cho đến giết chết, đều không nên dùng những pháp luật như thế. Vì sao? Vì ngoài các vị đa văn và bậc trì giới ra, còn có những Tỳ-kheo phá giới, ở trong giáo pháp của ta mà xuất gia, tạo các việc ác khác nào ung nhọt, chẳng phải Bà-la-môn mà tự cho là Bà-la-môn, chẳng phải phạm hạnh mà cho là phạm hạnh, bị thoái chuyển quên mất các quả vị chứng đắc của bậc Thánh. Vì các phiền não trói buộc quá chặt nên bị tổn hại. Lại các Tỳ-kheo xấu ác, phá giới có thể thị hiện giáo hóa cho Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân, được vô lượng kho tàng công đức châu báu. Nếu có người theo ta để xuất gia thì chúng sinh phải tạo mười tưởng thù thắng, được vô lượng, vô biên phước đức. Những gì là mười? Đó là có các chúng sinh được theo ta xuất gia nên nhớ tưởng niệm Phật. Vì do tâm thanh tịnh này mà được nhân duyên vui vẻ, không tin tất cả ngoại đạo khác, cho đến kinh sách của ngoại đạo. Nếu khi gặp được thì nên suy nghó kỹ về giới của Thánh, nhờ nhân duyên này mà đoạn trừ sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối cho đến không uống rượu, hội nhập thành Niết-bàn. Lại thấy có người theo ta xuất gia nên khởi tâm bố thí, vì nhân duyên này ở đời vị lai được giàu có vô cùng, khéo đi khéo hướng tới do cúng dường tối thắng nên thường được cung cấp đầy đủ, cho đến vào thành Niết-bàn không lo sợ. Lại thấy có người theo ta xuất gia tu pháp của Phật, dịu dàng chân thật, thường thực hành nhẫn nhục mà không sinh vội vàng, tâm không cuồng loạn, ưa thích chính pháp, thường thích nơi chốn vắng lặng, cho đến muốn nhập vào thành Niết-bàn dứt mọi sợ hãi. Nếu có chúng sinh phá giới, làm những việc phi pháp, oai nghi tồi tệ, thấy người như vậy nên nói nhỏ nhẹ đầy đủ lễ nghi. Do nhân duyên ấy, người đó đời sau sinh vào nhà giàu sang, có uy lực lớn, thường được tất cả mọi người chiêm ngưỡng cho đến nhập vào thành Niết-bàn. Này Đại phạm Thiên Tạng! Nếu theo pháp ta xuất gia, thực hành việc ác, Tỳ-kheo như vậy là mù tối không thấy, đây không phải Sa-môn mà tự xưng là Sa-môn, không phải là phạm hạnh mà tự xưng phạm hạnh, bị chìm đắm, đọa lạc, các phiền não làm hại. Tỳ-kheo tu hành pháp ác như thế còn có thể khai thị giáo hóa cho tất cả hàng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân đều được tất cả kho tàng công đức pháp thiện, làm người bạn lành. Tuy không ít muốn, biết đủ, nhưng cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, do nhân duyên này có thể làm tăng trưởng căn lành cho chúng sinh ở trong hàng trời, người, mà khai thị giáo hóa việc lành. Cho nên Tỳ-kheo theo ta xuất gia nếu trì giới hay phá giới, ta đều không cho phép, vua Chuyển luân thánh vương, đại thần, tể tướng, không được dùng hình phạt giam cầm, cắt bỏ tay chân, cho đến đoạn mạng, huống nữa là Tỳ-kheo phạm nhẹ tội phá giới, thiếu oai nghi. Tuy người đã chết, nhưng năng lực vẫn còn, như bò vàng, tuy bị chết người vẫn giữ lấy, cũng như xạ hương sau khi chết cũng còn hữu dụng làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Tỳ-kheo làm ác tuy phạm giới cấm, nhưng năng lực của người ấy còn có thể làm lợi ích cho vô lượng hàng trời, người. Ví như có người mua bán vào trong biển lớn, giết vô lượng chúng sinh, móc lấy mắt của họ rồi dùng trái A-ma-na giã nhỏ gấp năm lần hòa vào nhau thành một thứ thuốc tốt. Nếu có chúng sinh mắt mờ, không có mắt cho đến mù bẩm sinh thì dùng thuốc báu này bôi lên mắt, các bệnh được lành, đôi mắt trong sáng. Đúng vậy, đúng vậy! Nếu các Tỳ-kheo phá giới cấm, làm các việc ác ở trong pháp Phật, gọi là người đã chết nhưng cũng có thể làm cho những chúng sinh khác được Pháp nhãn trí tuệ thanh tịnh, có thể khiến cho người thấy còn được như vậy, huống nữa là khai thị giáo hóa đầy đủ các pháp. Này Đại phạm! Ví như đốt hương, thân hương tuy đã hết nhưng mùi thơm vẫn còn. Tỳ-kheo phá giới cũng lại như vậy, tự rơi vào đường ác nhưng vẫn làm cho căn lành của chúng sinh tăng trưởng. Tỳ-kheo làm ác vì không tin sự thiêu đốt, sau khi qua đời rơi vào ba đường ác, còn có thể khiến cho người khác được lợi ích lớn, chỉ rõ đạo Niết-bàn. Do nhân duyên này, tất cả cư só không nên chê bai khinh lờn Tỳ-kheo phá giới, đều được giữ gìn tôn trọng cúng dường, không cho phép dùng hình phạt nhốt giam thân họ, cho đến giết mạng sống. Chúng Tăng bốn phương nếu đến thời bố tát, tự tứ cho phép đuổi đi, không cùng làm tác pháp yết ma, những vật ăn uống, chỗ ngồi của Tăng chúng trong ba đời đều không cho dùng, nhưng đều không cho phép các vua, đại thần, dùng hình phạt roi, gậy, giam giữ cho đến giết mạng sống của họ. Khi ấy, Đức Thế Tôn nói kệ: Ngắm hoa cúc tuy héo Hơn hẳn các hoa khác Các Tỳ-kheo phá giới Cũng hơn hẳn ngoại đạo. Lại nữa, này Đại phạm Thiên Tạng! Có năm thứ tội nghịch là tội ác nhất. Những gì là năm? Đó là vì có tâm giết hại cha mẹ, A-la-hán, phá hoại sự hòa hợp của chúng Thanh văn cho đến với tâm ác làm thân Phật chảy máu. Như vậy gọi là năm tội nghịch. Nếu người làm năm tội nghịch, nếu người cứ tạo mỗi một tội nghịch thì không được xuất gia thọ giới Cụ túc, tức là phạm trọng tội phải đuổi đi. Nếu đã có các oai nghi của người xuất gia thì không nên dùng hình phạt roi, gậy cho đến giam nhốt. Lại có bốn tội nặng, giống như tội nghịch phạm vào tội căn bản. Thế nào là bốn? Giết Bích-chi-phật gọi là phạm căn bản của tội sát sinh. Làm ô nhiễm A-la-hán và Tỳ-kheo-ni gọi là phạm căn bản của tội tà dâm. Nếu có người đem tài vật cúng dường cho Phật, Pháp, Tăng mà tự ý lấy vật ấy sử dụng gọi là phạm căn bản của tội trộm cắp. Nếu có nhiều nhận thức sai lầm phá hoại Tỳ-kheo Tăng gọi là phạm căn bản của tội phá Tăng. Nếu có người ở trong bốn tội căn bản mà phạm mỗi một tội thì đều không cho phép xuất gia trong pháp của Phật. Giả sử đã xuất gia rồi cũng không được thọ giới Cụ túc. Nếu đã lãnh thọ giới Cụ túc liền đuổi khỏi Tăng chúng. Nhờ đã xuất gia và có phép tắc oai nghi thì không nên dùng roi, gậy, gông cùm để giết mạng sống. Như vậy đều phạm căn bản của tội chẳng phải tội nghịch. Có tội căn bản gọi là tội nghịch, còn có tội nghịch chẳng phải là tội căn bản. Có tội chẳng phải tội căn bản cũng chẳng phải là tội nghịch. Thế nào là tội nghịch cũng là tội căn bản? Nếu có người xuất gia lãnh thọ giới Cụ túc, thấy được đạo đế mà đoạn trừ mạng căn của họ gọi là tội nghịch cũng gọi là tội căn bản. Chúng sinh như vậy ở trong giới luật của ta nên đuổi đi. Thế nào là tội căn bản mà chẳng phải là tội nghịch? Nếu có người ở trong pháp của ta xuất gia, chúng sinh phàm phu như vậy làm hại mạng người, hoặc dùng thuốc độc, hoặc phá hoại thai người, gọi là tội căn bản chẳng phải là tội nghịch. Nếu có các vật ăn uống, nằm ngồi của Tăng bốn phương thì đều không được cùng nhau hưởng lợi dưỡng. Nếu có chúng sinh đối với Phật, Pháp, Tăng sinh tâm nghi ngờ, xuất gia ở trong ấy tự nói: Còn có Thế Tôn! Hoặc ở trong các loại tướng tốt mà sinh tâm nghi ngờ. Lại có người ở trong pháp thuyết giảng của Như Lai mà sinh tâm do dự. Đối với hàng Thanh văn, Bích-chi-phật cho đến Đại thừa, trong đó phỉ báng tội của họ, thấy người khác đọc tụng mà làm cản trở cho đến một bài kệ. Đây chẳng phải là tội căn bản, cũng chẳng phải là tội nghịch. Gọi là rất ác, gần với tội nghịch. Chúng sinh như vậy nếu không sám hối để trừ tội căn bản, hoàn toàn không cho xuất gia trong pháp của Phật. Giả sử đã xuất gia, thọ giới Cụ túc mà không sám hối lỗi lầm thì cũng đuổi ra khỏi chúng. Vì sao? Vì không tin chính pháp, hủy báng ba thừa, phá hoại mắt chính pháp, muốn diệt chính pháp, đoạn dứt ba ngôi báu, làm giảm bớt hàng trời, người, không được lợi ích rơi vào ba đường ác. Hai loại người này gọi là hủy báng chính pháp, chê bai Thánh hiền, chịu sống lâu ở địa ngục, đã chịu các nghiệp. Gọi là tội căn bản của giới trọng. Thế nào là phạm tội căn bản không có oai nghi? Nếu có Tỳ-kheo phạm giới dâm là tội căn bản, nếu giết người phàm phu thì phạm tội căn bản, đoạn trừ ba ngôi báu, vật không cho mà lấy là phạm tội căn bản, lời nói lừa dối là phạm tội căn bản. Ở trong bốn tội căn bản này nếu phạm một tội thì các Tỳ-kheo khi làm các tác pháp yết ma không cho tham dự. Những tài vật như thức ăn uống, đồ ngồi nằm của Tăng bốn phương đều không thọ dụng. Nhưng vua, đại thần, các quan không nên dùng hình phạt roi, gậy, giam cầm để đoạn dứt mạng sống. Đó gọi là thể, tính tướng của tội căn bản. Thế nào gọi là căn bản nơi tội trọng? Nếu người thực hành như vậy sau khi qua đời rơi vào ba đường ác, làm như vậy là căn bản của đại ác, cho nên gọi là tội căn bản. Ví như viên sắt nặng, tuy ném lên không trung nhưng tức khắc rơi trên mặt đất. Năm tội nghịch như thế, phạm vào bốn giới trọng và hai hạng chúng sinh hủy hoại chính pháp, phỉ báng chính pháp. Như vậy có mười một loại tội, nếu có người phạm mỗi một tội, sau khi qua đời đều rơi vào địa ngục A-tỳ. Cho nên làm tội nghịch thì phạm vào trọng tội căn bản, đều không cho phép độ người khác xuất gia, những người phạm tội nghịch như vậy, trong thân họ không diệt được các phiền não trói buộc để thành tựu thiền định, huống nữa là có thể vượt thoát và chứng được Bồ-tát. Sau khi mạng chung, chắc chắn rơi vào địa ngục chịu các khổ của đường ác. Nếu có thiện nam, thiện nữ nào nhờ lòng tin hiểu sâu xa quy y pháp của Phật, hướng đến quả vị Thanh văn, Bích-chi-phật và Đại thừa. Ở trong pháp của ta mà được xuất gia lãnh thọ giới Cụ túc, có nhiều lòng tin, giữ gìn bốn trọng tội căn bản, thường siêng năng tinh tấn dũng mãnh không ngừng nghỉ, luôn luôn ủng hộ Nhân phi nhân, hoàn toàn xứng đáng thọ nhận sự cúng dường của hàng trời, người. Ở trong ba thừa, tùy thời được an lạc. Vì sao? Vì chí cầu giải thoát cho đến khi xả bỏ thân mạng cũng không phạm giới. Vì sao? Ba loại chúng sinh này đều cầu Niết-bàn, tu tập nhân đó, y quy Thế Tôn, nương theo kinh luật, dựa vào đệ tử chân chính của Thanh văn. Nếu có chúng sinh phạm vào bốn giới trọng, chẳng phải là đệ tử của Phật, ta đã thị hiện giáo hóa pháp tướng sâu xa, tất cả là vô thường, khổ, không, vô ngã, vì lợi ích an lạc của chúng sinh nên giảng thuyết pháp Ba-la-đề-mộc-xoa. Như có người đối với kinh, luận, thiền định mờ mịt, không hiểu rõ, phá giới, chìm đắm thì bị rơi vào ba đường ác. Nếu có thiện nam hay thiện nữ ở trong pháp thanh tịnh Ba-la-đề-mộc-xoa này mà không phạm tội căn bản, ta là Thế Tôn của họ, họ là đệ tử của ta, tùy thuận theo lời dạy của ta mà an trú trong pháp của Phật, tất cả việc làm đều được thành tựu giới thân an ổn và các pháp lành, cũng có thể xây dựng lợi ích an lạc lớn cho hàng trời, người. –Bạch Thế Tôn! Những người như vậy thì đầy đủ tất cả thừa Thanh văn, Bích-chi-phật cho đến Đại thừa đều được khéo an trú. Vì sao? Vì giữ gìn giới căn bản và hết thảy chính pháp và các pháp hữu lậu, vô lậu, tất cả đều nhờ đó mà được thành tựu nên gọi là giới căn bản. Ví như nhờ đất mà tất cả vạn vật, trăm thứ cỏ, thuốc, lúa phát triển. Ví như khéo học bốn giới căn bản thì tất cả pháp lành nhờ đó được sinh. Ví như đất rộng lớn tất cả các núi, núi vua Thiết vi, núi vua Đại thiết vi, núi chúa Tu-di đều đứng vững trên đó. Khéo học bốn pháp căn bản như vậy Thanh văn, Bích-chi-phật cho đến Đại thừa vô thượng đều nương đó mà an trú. Ví như mặt đất lớn tất cả vạn vật đều nương vào đó mà sống. Như vậy người học bốn pháp căn bản này thì thiền định, giải thoát, Tổng trì cho đến quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác cũng nhờ đó mà thành tựu. Ví như mặt đất lớn các vật dơ, sạch đều chứa tất cả. Như vậy này thiện nam, thiện nữ khéo học bốn giới căn bản, trì giới, hủy phạm giới là pháp khí, là chẳng phải pháp khí đều được viên mãn đầy đủ. Tự quán sát kỹ không nói tội lỗi của người không tự cao, cũng không nhục mạ người khác, có thể làm tất cả biển pháp thiện, như mặt đất lớn là chỗ nương tựa của tất cả chúng sinh. Như vậy, này thiện nam, thiện nữ, có thể tu tập hoàn toàn bốn giới căn bản. Đối với tất cả sự giảng thuyết kinh luận của Như Lai đều ưa thích vui vẻ thọ trì, không sinh các loại tưởng phi pháp. Tất cả chúng sinh đều nương vào bốn Nhiếp pháp để sinh sống. Bấy giờ, Tôn giả Ưu-ba-ly từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y phục, chắp tay thưa Phật: –Bạch Thế Tôn! Nếu Thế Tôn nói như vậy là pháp khí và chẳng phải là pháp khí đều không quở trách thì ở đời vị lai, người ấy thực hành việc ác, Tỳ-kheo như vậy chẳng phải là Sa-môn mà làm Sa-môn, chẳng phải phạm hạnh mà làm phạm hạnh. Hôm nay, Như Lai phải nên quở trách tâm hạng người ấy và đuổi ra khỏi chúng? Đức Phật nói: –Ta đều không chấp nhận người thế tục quở trách. Lại có mười điều quở trách phi pháp tức bị tội nặng. Những gì là mười? Nếu có Tăng không hòa hợp, đứng trước vua của nước mà quở trách gọi là phi pháp. Nếu có Tăng không hòa hợp, ở trong chúng Bà-la-môn mà quở trách cũng gọi là phi pháp. Nếu có Tăng không hòa hợp, ở trong quyến thuộc của vua mà quở trách, gọi là phi pháp. Nếu có Tăng không hòa hợp đối với hàng Cư só mà quở trách, gọi là phi pháp. Nếu có Tăng không hòa hợp, trong hàng phụ nữ, trẻ em mà quở trách, gọi là phi pháp. Nếu có Tăng không hòa hợp, ở trước vị Tăng thanh tịnh mà quở trách, gọi là phi pháp. Nếu có Tăng không hòa hợp, ở trong chúng Tỳ-kheo-ni mà quở trách, gọi là phi pháp. Nếu có Tăng không hòa hợp, ở trước kẻ oán địch mà quở trách, gọi là phi pháp. Nếu có Tăng không hòa hợp, vì tâm sân giận mà cùng quở trách, gọi là phi pháp. Có mười điều phi pháp như vậy không nên quở trách. Giả sử được cử ít tội cũng không nên nhận cử tội. Nếu lại có quở trách ít mà đúng như lời Phật dạy thì không nên nhận cử tội người khác. Lại có mười điều quở trách phi pháp không nên nhận. Những gì là mười? Đó là nếu ngoại đạo đến quở trách cũng không nên nghe lời. Chẳng phải là cư só trì giới mà phạm tội nghịch chê bai chính pháp, hủy hoại bậc Hiền thánh, nếu khởi tâm cuồng tâm tán loạn, vì chư Thiên khác bố thí, cho là tịnh nhân của Tăng bốn phương. Nếu là Tỳ-kheo phạm giới này được cử tội đều không nên nhận. Đó gọi là mười điều quở trách phi pháp không được thọ nhận. Nếu có Tỳ-kheo làm các điều ác ở trong Tăng chúng, có vị Tỳ-kheo thanh tịnh đầy đủ oai nghi, đối với các điều phi pháp đều không làm, thành tựu năm pháp thì nên đảnh lễ vị Tăng đó. Các Tỳ-kheo ác nói: Hôm nay tôi muốn cử tội ông, là thật chứ không hư dối. Khi ấy, chẳng phải thời, với tâm Từ bi, hiền hòa mà nói: Vì muốn cho chính pháp của Phật tồn tại lâu dài và hưng thịnh. Nhưng tất cả pháp Phật, nếu cho phép ta giảng thuyết thì ta sẽ đúng như pháp cử tội ông. Người ấy nếu không cho phép, ta sẽ đảnh lễ Tỳ-kheo trì giới, ngồi trên tòa đó mà thưa: “Thưa Đại đức! Vị Tỳ-kheo này phạm những việc như vầy, dựa nơi năm pháp mà cử tội ông ta. Tỳ-kheo ngồi trên tòa nên suy nghó lời nói này đúng theo kinh, đúng theo luật nên dùng pháp diệt tránh để trừ diệt. Nếu phạm tội nặng nên dùng pháp trọng để trị, nếu phạm tội vừa nên dùng pháp vừa để trị, nếu phạm tội nhẹ thì dùng pháp nhẹ để trị, dạy cho họ sám hối lỗi lầm.” Tôn giả Ưu-ba-ly thưa Phật: –Thưa Thế Tôn! Nếu tạo các việc ác, Tỳ-kheo thật có tội lỗi. Hoặc dựa vào thế lực của cư só, hoặc dựa vào tài vật của người giàu có, hoặc dựa vào học vấn giỏi, hoặc dựa vào những ngôn từ biện bạch, hoặc dựa vào đệ tử. Đó là các thế lực. Tăng chúng phải cùng nhau hòa hợp nương vào kinh, nương vào luật, nương vào người có giới đức, không dùng ngôn ngữ mà dùng thế lực nên làm như thế nào? Đức Phật đáp: –Nên đến cung vua, đại thần, tể tướng đúng như pháp mà trị tội. Tôn giả Ưu-ba-ly thưa: –Bạch Thế Tôn! Tỳ-kheo làm những điều ác như thế, hoặc thế lực của tài vật, hoặc năng lực của sự hiểu rộng, hoặc năng lực của biện tài có thể khiến cho vua, đại thần trong nước vui vẻ. Hoặc có nhiều bè nhóm phi pháp thì nên bỏ chăng? Phật bảo: –Này Tôn giả Ưu-ba-ly! Nếu những việc chưa hiển bày thì nên bỏ qua, còn những việc đã rõ ràng thì Tăng nên nhanh chóng đuổi đi không nên cùng sống chung. Này Tôn giả Ưu-ba-ly! Ví như nhìn thấy lúa tẻ bị gốc cành lá của cỏ vức làm hại mà đau lòng, cỏ đó giống với lúa. Nếu chưa nhổ đi thì không thể phân biệt, vứt bỏ đi rồi ruộng lúa của nông phu sẽ tốt tươi vì đã trừ bỏ hết cỏ dại. Vì sao? Vì chỉ còn lúa. Này Tôn giả Ưu-ba-ly! Tỳ-kheo phá giới làm ác như vậy, nếu nương vào năng lực của cư só hoặc trong Tăng chúng, khi lỗi chưa hiện ra thì người không nên chỉ trích, những việc đã hiện ra rồi, chư Thiên liền quở trách, nên nói với Tăng chúng không nên che giấu. Nếu có Tỳ-kheo ác thì chúng Tăng nên mau chóng hòa hợp đuổi đi. Này Tôn giả Ưu-ba-ly! Ví như biển lớn không dung chứa các thây chết. Như vậy, các đệ tử Thanh văn của ta nếu dua nịnh phá giới, những người ác này không nên sống chung, cũng như vậy. Nếu có Tỳ-kheo phá giới được vua Sát-lợi và các vị hầu cận làm bè nhóm phi pháp, như vậy, Tỳ-kheo này được nương tựa vào tài vật của người giàu có, hiểu biết rộng, ngôn từ biện luận, nhờ những năng lực này làm tâm họ buông lung, ở trong Tăng chúng không sợ. Bấy giờ, Tỳ-kheo biết hổ thẹn, trì giới, tâm nghi ngờ không nên cùng tranh cãi, không nên che chở, không cùng làm bạn. Tỳ-kheo trì giới như vậy liền nói: Vua và đại thần của nước này nên đến nước khác. KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG THẬP LUÂN <卷 id="117270410">Quyển 4 <詞 id="117270411">Phẩm 6: Sát-lợi Chiên-đà-la hiện trí tướng Khi ấy, Bồ-tát Địa Tạng bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Là Sát-lợi Chiên-đà-la, phụ tướng Chiên-đà-la, căn lành ít, không chịu tin tưởng, dua nịnh, quanh co, ngu si mà tự xưng là kẻ nhiều trí, sinh tâm kiêu mạn, không sợ quả báo do nghiệp ác ở đời sau, xa lìa bạn lành cho đến hướng về địa ngục A-tỳ, vì tài lợi nên cùng với các Tỳ-kheo ác tạo bè nhóm phi pháp. Đức Phật nói: –Đúng vậy, đúng vậy! Này thiện nam! Ở đời vị lai, hạng Sát-lợi Chiên-đà-la cho đến hạng Bà-la-môn Chiên-đà-la, căn lành quá ít, không có lòng tin, dối trá dua nịnh. Là những kẻ ngu si mà hiện ra tướng trí tuệ, không nghe theo lời bạn lành, thật là người tối tăm mà tỏ vẻ là tướng hiểu biết, tâm thường nghi ngờ, không sợ đời sau, không giữ giới cấm, làm các việc sát sinh cho đến tà kiến, khinh khi, dối gạt người khác. Ở trong đời thường nói lời phỉ báng. Hạng Sát-lợi Chiên-đà-la, hạng Bà-la-môn Chiên-đà-la phá hoại, làm rối loạn pháp của Phật. Đối với pháp của ta mà được xuất gia thì thường hủy hoại, phá giới làm các hạnh ác, nhưng được hàng Sát-lợi, Bà-la-môn hết lòng cúng dường nhiều vật dụng, tiền tài nên tâm tham lam, đắm nhiễm, nói lời rỗng không, cho là thông hiểu về thọ mạng, đổi chác kiếm sống, ưa thích đọc tụng kinh điển ngoại đạo, khai khẩn đất đai trồng các loại cây, giữ gìn tiền bạc, tài sản, nhà cửa, nuôi dưỡng vợ con, hành chú thuật nói về thuốc tiên, tham ưa các vật như y phục, ăn uống, phá giới, làm các việc ác, đủ tiếng xấu như vậy, thật chẳng phải Sa-môn mà tự nói Sa-môn, thật chẳng phải phạm hạnh mà tự bảo là phạm hạnh, cho đến thọ nhận sự cung kính cúng dường của Sát-lợi, Bà-la-môn. Hạng Sát-lợi Chiên-đà-la, Bà-la-môn Chiên-đà-la ưa thích phá giới, xa lìa trì giới. Ở trong pháp của ta nếu thấy có người trì giới tu điều lành có thể nhường nhịn mọi người thì các bậc Học và Vô học tất cả đều hướng đến. Như vậy, các loại Tỳ-kheo đều không được cung kính, cúng dường, có nói ra điều gì cũng không chấp nhận. Này thiện nam! Ví như có người đến bãi báu, xả bỏ các báu ngọc xanh, ngọc báu xanh lớn của vua trời Đế Thích, vàng, bạc, ngọc quý đều xả bỏ hết, tức những vật báu quý giá đều bỏ để lấy thủy tinh. Nếu ở trong pháp của ta, người trì giới có công đức lớn, tâm thường khiêm nhường mà lại xả bỏ hết, chỉ nhận lấy kẻ phá giới làm việc ác, gây tạo việc ác, không sinh tâm hổ thẹn, xa lìa tất cả tâm đại Từ Đại Bi, trở lại giữ lấy những ruộng xấu, lãnh thọ lời dạy ấy. Người cúng dường làm các việc ác như vậy, thầy và đệ tử đều rơi vào địa ngục, tất cả đều luân chuyển trong mười đường ác. Sát-lợi Chiên-đà-la, Bà-la-môn Chiên-đà-la, Sa-môn Chiên-đà-la, đại thần Chiên-đà-la trước kia đã tu tập căn lành này đều tiêu diệt cho đến rơi vào địa ngục A-tỳ. Thế nào là thực hành mười điều ác, phá hủy giới cấm? Tỳ-kheo như vậy cho đến Sát-lợi Bà-la-môn, ưa thích nhận thức sai lầm, phỉ báng Tỳ-kheo thanh tịnh, ngu si dua nịnh, sai trái chê bai bậc Hiền thánh, cuồng loạn, mê hoặc thế gian, tham vật dụng ăn uống, tiền tài, cho đến lợi dưỡng, mong cầu tiếng khen nên tự chuốc lấy khổ vào thân, nhục mạ người khác, ganh tî, tạo loạn, chỉ vì lợi dưỡng, chớ chẳng bằng lòng tin, lãnh thọ lời người khác, từ bỏ, khiến xa rời pháp chân thật, đều không chứng được quả đạo, cũng không xa lìa tham dục, để diệt các kết sử, chỉ vì lợi dưỡng, không siêng năng làm những việc cúng dường, cho đến dua nịnh làm cuồng loạn mọi người, thật chẳng phải ruộng phước để hướng đến đạo. Khi ấy, Sát-lợi Chiên-đà-la, Bà-la-môn Chiên-đà-la, đối với Tỳ-kheo thanh tịnh không sinh tâm cung kính cho là hy hữu, hiện bày tâm điên đảo, không chịu cung kính cúng dường, chẳng tin hiểu thực hành lời dạy ấy, tức là không thể hộ trì Pháp nhãn, làm hưng thịnh ngôi Tam bảo. Khi ấy, quỷ thần, trời, rồng trong cõi nước đối với Tam bảo phát lòng tin sâu xa đều tỏ ra giận dữ đối với hạng Sát-lợi Bà-la-môn đó, cùng nhau nói: Các ông hãy xem kỹ hàng Sát-lợi, Chiên-đà-la, Sa-môn Chiên-đà-la, Bà-la-môn Chiên-đà-la, Đại thần Chiên-đà-la tất cả đều khởi tâm kiêu mạn đối với Tam bảo, diệt trừ các căn lành, gần gũi bạn ác, từ bỏ pháp lành, sẽ nhập vào đường ác. Hôm nay, chúng ta không ủng hộ hạng Bà-la-môn, Sát-lợi của cõi này. Tất cả hàng trời, rồng, quỷ thần đã từ bỏ, trong cõi nước ấy những bậc Pháp khí gánh vác ruộng phước đều sinh tâm từ bỏ. Nếu tất cả hàng trời thần cùng các bậc Pháp khí để làm ruộng phước, đối với hàng Sát-lợi, Chiên-đà-la đó sinh tâm xả bỏ rồi thì nơi cõi nước mình và cõi nước lân cận đều phát khởi nạn binh đao, đói khát, bệnh tật, sát hại lẫn nhau, không vui mừng trước những việc đáng ưa thích, tất cả đều từ bỏ. Tâm giận dữ, keo kiệt không thương xót, đối với tất cả chúng sinh không khởi tâm Từ bi, cùng tạo sát hại cho đến tà kiến, không có hổ thẹn. Tất cả chùa tháp, cho đến vật của Tăng chúng, thảy đều khiến tranh chấp về việc ăn uống, y phục, những đồ cúng dường, sân giận với mọi người xung quanh, gây hiềm khích, hoặc cùng với người chống đối khiến tự nhiên thoái lui. Hoặc khi muốn chết thì miệng lưỡi đều khít lại, không nói nên lời, hướng tới địa ngục. Lại nữa, này thiện nam! Sát-lợi Chiên-đà-la cho đến Bà-la-môn Chiên-đà-la, đều xa lìa tri thức thiện, khinh khi xem thường Tam bảo, không có tâm cung kính, không sợ đời sau. Đối với hàng Thanh văn được ít lòng tin mà cho là thông suốt, đối với kinh pháp của Bích-chi-phật và Đại thừa thì hủy báng không tin, không đọc tụng cho đến chỉ một bài kệ, không sinh tâm tin, đó gọi là hủy báng pháp. Hoặc có người ít lòng tin pháp của Bích-chi-phật và Đại thừa mà không tin pháp của Thanh văn, nhục mạ, quở trách cũng gọi là hủy báng chính pháp, cũng gọi là hủy báng kho tàng chính pháp của chư Phật nơi ba đời, đoạn trừ tám chính đạo, phá trừ vô lượng Pháp nhãn của chúng sinh. Nếu lại có người đối với chỗ giảng thuyết của Như Lai về Thanh văn thừa, Bích-chi-phật thừa cho đến Bồ-tát thừa mà làm chướng ngại. Hoặc che khuất hết tạng pháp cho đến một bài kệ cũng không cung kính đối với Tam bảo. Do nhân duyên này, khiến cho hàng trời, rồng, thiện thần bảo vệ đất nước, không có niềm tin, liền sân giận. Hạng Sát-lợi và các quan lại ấy lưỡi bị kết lại không nói được, chết bị đọa vào địa ngục A-tỳ. Lại nữa, này thiện nam! Nếu người trì giới, có công đức, ở trong nước đó có đầy đủ pháp khí, khéo hội nhập tâm xả, an trú vào nơi chốn vắng lặng, không thường xuyên đến các nhà tín thí, cũng không khinh khi, quở trách việc xấu ác của Tỳ-kheo và sự hiểu biết của họ, cũng không chỉ trích, quở trách người phá giới. Nhưng Tỳ-kheo làm ác đối với Tỳ-kheo trì giới thanh tịnh, lại sinh tâm hiềm khích, nói lời xảo trá, lừa dối. Đối với Sát-lợi đại thần, cho đến tất cả người dân nam nữ, lớn nhỏ trong nước, đều đứng trước họ mà chê bai. Hạng Sá-lợi Chiên-đà-la, đối với những vị trì giới thanh tịnh, tu tập đầy đủ công đức và tiếng tốt, cho Tỳ-kheo ấy thật là đệ tử của ta, thành tựu tất cả thiền định, giải thoát, vì phương tiện nói lời thiện xảo, liền nhục mạ, sinh sân giận, nói thô ác, lời nói bắt nạt làm cho tất cả đều khổ não. Hoặc bị cướp mất y bát, những đồ dùng, tọa cụ của Tăng bốn phương, khiến bị đuổi đi. Hoặc khi bị giam cầm, tìm cách sát hại họ. Này thiện nam! Hãy quán sát kỹ, những kẻ gần gũi Tỳ-kheo làm ác, gây ra bao tội lỗi cho đến rơi vào địa ngục A-tỳ. Nếu chúng sinh tạo năm tội nghịch và bốn tội căn bản, hủy báng bậc Hiền thánh, chê bai chính pháp thì vượt qua tất cả tội căn bản. Các Tỳ-kheo hành ác như vậy ta cũng không cho phép dùng hình phạt roi gậy, giam cầm cho đến giết mất mạng sống. Do nhân duyên này, nên bị tội báo lớn, huống nữa là người giữ gìn giới cấm vững chắc, thanh tịnh. Nếu có Tỳ-kheo ở trong tính của tội trọng, nếu phạm một tội, tuy là phạm tội trọng, Hòa thượng chúng Tăng cùng hòa hợp yết ma thì giới được thọ như có thêm uy lực. Ví như hương thơm ngào ngạt, tuy không còn nguyên chất, nhưng vẫn còn mùi thơm tỏa ra không thể khinh thường. Tỳ-kheo phá giới cũng vậy, cư só không có giới không nên xem thường. Tuy chẳng phải là pháp khí, ở trong giới luật của bậc Hiền thánh bị chìm đắm, lạc đường, bỏ mất pháp của người xuất gia, không được thọ dụng những vật của Tăng bốn phương, ở nơi chúng Tăng hòa hợp được thọ giới khác mới không phạm. Mùi hương của giới có nhiều uy lực cho nên không cho phép bạch y dùng hình phạt. Này thiện nam! Ở đời quá khứ, có nước tên là Ca-thy, vua hiệu là Phạm-ma-đạt-đa, bảo Chiên-đà-la: “Ở bên dưới núi Tuyết có voi chúa trắng sáu ngà gọi là Uất-ba-la hoa nhãn, các ông hãy nhổ ngà của voi chúa ấy, nếu không làm được, năm người các ông phải mất mạng.” Bấy giờ, Chiên-đà-la thương tiếc thân mạng, giả làm Sa-môn, hiện hình bên ngoài siêng năng, mặc áo ca-sa, đúng như lời vua bảo, đến chỗ voi chúa ở núi đó. Voi mẹ thấy ông ta đang giương cung tên bắn nên sinh tâm lo sợ, liền bảo voi chúa: “Ông thợ săn này, nay đến giương cung tên bắn, chẳng lẽ chúng ta sẽ mất mạng sao?” Bấy giờ, voi chúa thấy người cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, bèn nói kệ: Ở đó hằng sa Phật Cờ cùng làm pháp y Đều xả bỏ các ác Sao còn hại chúng sinh? Voi mẹ lại dùng kệ nói: Thân tuy mặc ca-sa Cầm nắm cung tên độc Chiên-đà-la làm ác Không có tâm thương xót. Voi chúa lại dùng kệ nói: Chắc chắn mặc ca-sa Lấy thương yêu làm gốc Quyết chắc quy y Phật Yêu thương các chúng sinh. Y này không còn nghi Ông nên giữ lấy tâm Mặc được pháp phục này Nhằm vượt bờ sinh tử. Khi ấy, Chiên-đà-la liền dùng mũi tên độc bắn vào voi chúa, voi mẹ thấy voi chúa đã trúng tên, thương xót gào lên, nói kệ: Mang y phục như vậy Nên quy y Đức Phật Oai nghi tuy vắng lặng Tâm ôm ác độc lớn. Nhanh chóng bỏ thân này Đoạn trừ mạng căn đó Oán thù nay diệt hết Họ bắn vào thân con. Voi chúa lại nói kệ: Dù mau bỏ thân mạng Không nên sinh tâm ác Tuy người kia tâm ác Giống như đệ tử Phật. Người trí không vì mình Vội vàng khởi tâm ác Thường nghó vì chúng sinh Tu hành nơi Bồ-đề. Voi chúa liền phát tâm Từ bi lớn tiếng hỏi người kia: Ông cầu vật gì? Người kia đáp: Muốn được ngà của voi. Voi chúa liền nhổ ngà, phát nguyện rộng lớn, nói kệ: Con nay dùng ngà trắng Cầu Phật nên cúng dường Không sân, không nuối tiếc Khiến diệt các phiền não. Này thiện nam! Ta ở đời xa xưa, từng thấy loài súc sinh, cầu đạo vô thượng nên làm như vậy, không tiếc thân mạng vì hộ trì pháp của Phật, hoàn toàn không hề đối với mặc ca-sa mà gây tạo trở ngại. Ở đời vị lai, hạng Sát-lợi Chiên-đà-la, Phụ tướng Chiên-đà-la, Sa-môn Chiên-đà-la, Cư só Chiên-đà-la, dùng tâm dua nịnh lừa dối thế gian, không sợ đời sau. Nếu người ở thế gian, mong cầu đạo vô thượng, nhập vào pháp của ta mà được xuất gia, các kẻ kia lại sinh tâm não hại, các đệ tử của ta nên thành pháp khí và không thành pháp khí. Do các kẻ ấy miệng nói lời ác, nhục mạ, dùng hình phạt roi gậy, bức ép người, đối với pháp của chư Phật quá khứ, hiện tại và vị lai phạm trọng tội, nên hướng đến địa ngục A-tỳ, đoạn trừ các căn lành, diệt hết lòng tin, xa lìa Nhất thiết trí. Ví như bậc Trượng phu, tuy không có mắt nhưng có thể giáo hóa người khác. Các đệ tử của ta cũng lại như vậy, tuy hủy phạm giới cấm, nhưng vẫn còn làm lợi ích cho chúng sinh ở thế gian. Nếu đến đời vị lai, vua Chiên-đà-la cho đến Cư só Chiên-đà-la, còn thấy ở trong pháp của ta mà xuất gia, hoặc thành pháp khí hay không thành pháp khí, quấy nhiễu tất cả đệ tử Thanh văn tức đối với vô lượng chư Phật nơi ba đời, tạo nhiều tội lỗi, diệt trừ tâm lành, khó được làm thân người, huống nữa là nhục mạ quả vị chính giác của Thanh văn, Bích-chi-phật, cho đến vô lượng công đức của Đại thừa. Này thiện nam! Ví như đời quá khứ, có nước tên là Bát-xà-la, vua hiệu là Thắng Quân. Bấy giờ, nước có kẻ phạm vương pháp, phải tội chết, vua ra lệnh bảo người giữ ngục dùng năm thứ trói buộc cột vào xe đáng sợ chở đến giữa vùng bãi tha ma khiến cho quỷ ác tới ăn thịt. Khi đó, người canh giữ ngục, làm đúng theo lời vua. Người bị tội kia nghe rồi liền cắt tóc, khoác áo ca-sa lên thân. Bấy giờ, người canh ngục, thi hành lệnh vua trói người bị tội vào chiếc xe đáng sợ đưa ra bãi tha ma. Lúc này, có La-sát tên Ác Nhẫn, cùng với năm ngàn La-sát đồng đi đến, thấy người bị trói buộc năm thứ ở nơi gò mả đã cạo bỏ râu tóc, khoác áo ca-sa lên thân. La-sát bèn nhiễu quanh bên phải người ấy, nói kệ: Nay có thể an ổn Ta trọn không hại ông Cắt tóc mặc ca-sa Khiến ta nhớ nghó Phật. La-sát con nói kệ: Mẹ trắng rất đói khát Cần phải ăn người này Ta được khỏi đói khát Thân tâm thật vui mừng. La-sát mẹ nói kệ đáp: Hằng sa các chư Phật Cờ phướn làm pháp giới Ở đây khởi tâm ác Sẽ đọa ngục A-tỳ. La-sát con cùng với quyến thuộc của chúng nhiễu quanh bên phải rồi nói kệ: Cha mẹ chúng ta cùng làm ác Thân, miệng, ý tạo nghiệp không lành Ta đã bỏ ác không hại ông Mặc áo ca-sa tướng giải thoát. Bấy giờ, có La-sát tên Ngưu Xỉ với năm trăm quyến thuộc đều vây quanh vùng gò mả, thấy người ấy bị trói mà cạo bỏ râu tóc, khoác ca-sa lên mình, bèn nhiễu bên phải nói kệ: Nương theo cờ phướn các bậc Thánh Ca-sa vắt cổ, là người này Ta vì người ấy mà cung kính Nguyện xin chớ sợ, không hại ông. La-sát con lại nói kệ: Nay mẹ nên biết thịt người ngon Cần phải ăn thịt và uống máu Tăng thêm sức lực được đầy đủ Thân thể tăng trưởng không còn sợ. La-sát mẹ vì con nói kệ: Tất cả thế gian đủ thứ vui Trời, Rồng, Dạ-xoa và La-sát Đều phải cung kính y nhuộm này Sẽ được đủ loại vui hơn hết. La-sát con cùng với quyến thuộc nhiễu quanh bên phải, cung kính nói kệ: Đều nên cung kính mà quy y Cắt bỏ râu tóc mặc ca-sa Ta ở quá khứ vô số kiếp Thấy Phật Thế Tôn cứu giúp đời. Lại có, La-sát thứ ba tên là Hoàng Phát, cũng có năm ngàn quyến thuộc đến vây quanh vùng gò mả hoang vắng, thấy người bị trói cắt bỏ râu tóc, khoác ca-sa lên thân, liền nhiễu quanh bên phải, nói kệ: Cờ phướn tiên nhân ta quy y Nếu có cúng dường được lợi lớn Vì y ca-sa nên cúng dường Cần phải đoạn trừ các trói buộc. La-sát con là Hoàng Đầu nói kệ: Ta được người này nên ăn liền Vua nước trừ bỏ nên đến đây Nên ăn thịt ấy rồi uống máu Mẹ bảo con phải nên cúng dường. La-sát mẹ vì con mình nói kệ: Người tướng như vậy ta chẳng ăn Nếu khởi tâm ác đau khổ lớn. La-sát con nhiễu quanh bên phải, nói kệ: Như vậy Đại Tiên phước điềm lớn Nên cúng dường lìa các trói buộc. Lại có, La-sát Đao Khẩu cùng với năm ngàn La-sát đến vùng gò mả hoang vắng, thấy người bị trói cắt bỏ râu tóc khoác áo ca-sa lên thân, liền nói kệ: Trừ bỏ sinh tử được Niết-bàn Mặc áo ca-sa không nên hại Nếu hại người này Phật quở trách Nên phải tôn trọng mà cúng dường. La-sát con nói kệ: Chúng con thường hút tinh khí người Ăn thịt người rồi lại uống máu Vì thế nên ăn chúng sinh này Khiến thân thể con thêm sức lực. La-sát mẹ vì con mình nói kệ: Nếu có sinh tâm muốn làm hại Người cạo râu tóc mặc ca-sa Tất đọa đường ác ngục A-tỳ Chịu vô lượng khổ thật lâu dài. La-sát con cùng với quyến thuộc của mình nhiễu quanh bên phải người mặc ca-sa, nói kệ: Con nay lo sợ khổ địa ngục Trọn không tâm ác hại mạng ông Chúng con đồng tâm sẽ thả ông Cũng cầu giải thoát khổ địa ngục. Khi đó, các La-sát liền mở dây trói cho người kia. Người bị trói đợi đến sáng mai mới đi tới chỗ vua. Nhà vua liền truyền lệnh khắp dân chúng trong nước, mọi người tập hợp, đều thưa thỉnh vua và các người hầu cận, các đại thần, trăm quan, người này được về đấy là việc chưa từng có. Nhà vua liền lập chiếu chỉ bảo khắp trong ngoài nước: Nơi nước ta có các vị đệ tử Thanh văn của Phật, hoặc thành pháp khí và không thành pháp khí, đối với chư vị ấy nếu người không khởi tâm cung kính hoặc tăng thêm hình phạt, vì nhân duyên ấy nên ta sẽ dùng hình phạt cho đến mất mạng. Này thiện nam! Vua ở cõi Diêm-phù-đề và Dạ-xoa ăn máu huyết người, tâm hung ác không biết thương xót, cho đến thấy người cạo bỏ râu tóc, khoác ca-sa lên thân hãy còn không khởi thêm tâm sát hại, huống chi là các chúng sinh khác, mà khởi tâm khinh khi, kiêu mạn! Ở đời vị lai có hạng Sát-lợi Chiên-đà-la, Cư só Chiên-đà-la làm các việc ác, lại có quỷ ác, đoạn trừ các căn lành nên hướng về địa ngục A-tỳ. Nếu ở trong pháp của ta, có thể xuất gia, hoặc thành pháp khí hoặc không thành pháp khí, cạo bỏ râu tóc, sẽ bị hạng ác kia đoạt mất mạng căn. Này thiện nam! Ví như ở đời quá khứ có vua tên là Phước Đức. Nếu có người phạm tội, cho đến dùng dây trói như trước. Bấy giờ, nhà vua không muốn cướp đi mạng sống của người đó. Có phụ tướng đại thần thưa: Nhà vua chớ buồn sầu. Hoặc giết người này, hoặc có thể làm cho vua bị tội lớn. Vị đại thần dùng trí tuệ của mình giao phó cho voi say. Lúc này, voi say tóm lấy hai chân của người bị tội muốn đạp xuống đất, liền thấy người này mặc y hoại sắc, voi say bèn đi chậm rải, bình an trên đất, không dám làm thương tổn, cùng quỳ trước người đó, dùng mũi ngửi chân rồi sinh tâm thương xót. Này thiện nam! Voi là súc sinh, rơi vào trong tám nạn, khi thấy người mặc áo hoại sắc hãy còn không tăng thêm ác sinh tâm làm hại! Cho đến đời vị lai, nếu có vua Chiên-đà-la thấy trong pháp của ta có người xuất gia, gánh vác pháp khí và không thành pháp khí, nên làm việc bức bách hoặc giết hại, hoặc tạo hành ấy thì miệng không nói nên lời, sau khi mạng chung chắc chắn rơi vào địa ngục A-tỳ. Này thiện nam! Đó gọi là luân thứ ba. Sát-lợi Chiên-đà-la, cho đến Cư só Chiên-đà-la, tuy ở đời quá khứ có gieo trồng căn lành, nhưng hiện tại tạo các nghiệp ác, nay bị tiêu diệt hết. Lại nữa, này thiện nam! Như có Sát-lợi Chiên-đà-la, cho đến cư só Chiên-đà-la, thấy người cúng dường những vật dụng như giường nằm, tọa cụ, đồ dùng cho Tăng chúng bốn phương. Cúng dường nơi tháp miếu, các thứ chỗ ở, vườn rừng, phòng nhà, ruộng vườn, tất cả người làm việc, bò, la, ngựa, các loại súc sinh, y áo, thuốc thang, thức ăn uống là những vật cần để sinh sống lại can thiệp vào Tỳ-kheo trì giới thanh tịnh có oai đức, biện tài, thông minh, lời nói thích hợp những vị ấy thì không được cung cấp. Còn các Tỳ-kheo phá giới hành theo điều ác, lại được họ cung cấp giường nệm, tọa cụ, những vật cần dùng, tha hồ buông lung thọ nhận, cùng với cư só ăn uống, sinh sống. Do nhân duyên ấy, Sát-lợi Chiên-đà-la, Cư só Chiên-đà-la lúc chết đều bị đọa vào địa ngục A-tỳ. Này thiện nam! Như có Sát-lợi Chiên-đà-la, Cư só Chiên-đà-la thấy có người ở trong pháp của ta xuất gia, các Pháp sư thuyết pháp hoặc pháp Thanh văn, Bích-chi-phật cho đến pháp Đại thừa, những hạng Chiên-đà-la kia đã phỉ báng nhục mạ, khinh khi chính pháp, làm khó dễ não hại Pháp sư. Vì nhân duyên này nên bị rơi vào địa ngục A-tỳ. Này thiện nam! Như có Sát-lợi Chiên-đà-la, Cư só Chiên-đà-la thấy người cúng dường các thứ: Cây hoa, cây quả, cây các vị, cây bóng che, cây hương thơm cho Tăng bốn phương và đệ tử Thanh văn của ta những vị trì giới, hiểu biết rộng, ngồi thiền, tụng kinh tu tập, hiện có các vật dụng cần cho đời sống, các kẻ xấu ác kia tự đoạt lấy hoặc bảo người khác đoạt lấy tự dùng hoặc bảo người khác dùng. Do nhân duyên này nên sau khi chết rơi vào địa ngục A-tỳ. Lại nữa, này thiện nam! Ở đời vị lai như có Sát-lợi Chiên-đà-la, Cư só Chiên-đà-la hủy hoại pháp của ta, nếu thấy có người nương vào pháp của ta mà xuất gia, đối với những người này các kẻ xấu ác kia luôn khởi tâm sân giận, nhục mạ, lại hủy báng sự thuyết giảng giáo pháp của ta, không có lòng tin, phá hủy chùa tháp, phòng nhà Tăng chúng, giết hại Tỳ-kheo. Như vậy, các lành trước kia đã tu tập nay đều tiêu mất. Khi sắp chết, tay chân đều đau đớn như lửa thiêu đốt, lưỡi của những kẻ xấu ác kia như bị thắt lại trong nhiều ngày, miệng không nói được, sau khi chết đọa vào địa ngục A-tỳ. Nếu gây tạo mười luân ác như vậy, chúng sinh làm ác khó được thọ thân người, huống nữa là được quả vị Thanh văn, Bích-chi-phật, cho đến thành tựu đầy đủ quả vị nơi Đại thừa. Tất cả chư Phật không thể cứu được. Này thiện nam! Ví như ép dầu, trong mỗi mỗi hạt mè đều có chất dầu như trùng, do nhiều lần ép mà lấy được nhiều dầu. Này thiện nam! Các ông nên xem người ép dầu, nơi một ngày đêm chắc chắn phải giết bao nhiêu chúng sinh. Hoặc lại có người, dùng mười luân này như người ép dầu. Cứ một luân, một ngày đêm ép hết ngàn hộc. Như vậy cho đến trọn ngàn năm thì ép người dầu này chịu biết bao nhiêu tội? Bồ-tát Địa Tạng thưa: –Bạch Thế Tôn! Rất nhiều! Vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ số. Những người ép ấy gây tạo nhiều tội như thế, không thể lường được tội của người này là bao nhiêu, chỉ có Phật mới có thể biết được. Đức Phật nói: –Này thiện nam! Ví như tội của mười luân bằng một nhà dâm nữ. Trong nhà đó có mười người nữ đều mong cầu dục. Nhà của mười dâm nữ như vậy, những tội đó bằng một nhà rượu. Mười nhà rượu như vậy một nhà bằng giết trẻ. Tội của mười nhà giết trẻ như vậy bằng mười luân của hàng Sát-lợi Chiên-đà-la, Cư só Chiên-đà-la. Ở trong mười luân tội bằng nơi một luân, trong một ngày một đêm. Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ: Tội mười luân bằng một nhà dâm Mười nhà dâm bằng một nhà rượu Tội mười nhà rượu bằng giết trẻ Mười nhà trẻ bằng một nhà vua. Đại Bồ-tát Địa Tạng bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Nếu có Sát-lợi chân thiện, phụ tướng đại thần chân thiện, Sa-môn chân thiện, Bà-la-môn chân thiện, Cư só chân thiện, tự bảo vệ mình và ủng hộ người khác, trong đời vị lai ủng hộ pháp Phật, giữ gìn, người nhận lãnh pháp khí và người không nhận lãnh pháp khí, cho đến giữ gìn người cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, người trì giới thanh tịnh có công đức thì cúng dường, cung kính tiếp nhận lời dạy, đối với pháp Thanh văn, Bích-chi-phật đều hộ trì, lắng nghe, bảo vệ, thọ trì pháp Đại thừa. Như người nghe, tin hiểu thọ trì pháp Đại thừa, trì giới, biết rộng, lời lẽ rõ ràng. Người này đối mặt với mọi người luôn vui vẻ, tâm từ hòa an vui, thưa hỏi nghĩa lý, cung kính thọ trì lời dạy, xa lìa kẻ phá giới, kẻ chẳng phải phạm hạnh, vật dụng của Tăng bốn phương tự ý ăn uống, trộm cắp dùng riêng, phung phí, không nương tựa giới luật, chạy theo mười luân ác xấu, cũng khiến lìa bỏ, không cùng làm mọi việc. Chỉ dẫn cho vua mới học phép trị nước của vua cũ, phép tắc nghi lễ, luật lệ của nhà nước, tiếp nối hạt giống Tam bảo để phát triển, thân gần tất cả bạn lành, tôn trọng làm theo chính pháp của vua trước. Đó gọi là Sát-lợi chân thiện, được bao nhiêu phước đức để diệt trừ bấy nhiêu tội chướng? Đức Phật nói: –Này thiện nam! Ví như bậc Trượng phu mong cầu xuất thế gian, gom góp các vật quý báu đầy cả cõi Diêm-phù-đề, hoặc gặp Phật xuất thế cùng với chúng đệ tử Thanh văn, vị này suốt ngày đêm, thực hành bố thí, tuần tự như thế cho đến ngàn năm, thường tu hạnh bố thí, cúng dường đủ loại. Này thiện nam! Như vậy, người hành bố thí được phước báo lớn chăng? Bồ-tát Địa Tạng bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Số phước đó là vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ không thể tính hết, phước này chỉ có Phật Thế Tôn mới biết được. Đức Phật nói: –Đúng vậy, đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Nếu có Sát-lợi chân thiện, xa lìa mười luân ác, có thể ngăn chận đoạn trừ các pháp ác như trên đã nói thì công đức người này gấp bội. Giả sử có người dùng hết bốn châu thiên hạ để xây dựng phòng nhà cho Tăng chúng bốn phương, các vật dụng như đồ ngồi, nằm, thuốc thang đều cúng dường đầy đủ, khiến trăm ngàn ức đệ tử Thanh văn và Đại Bồ-tát tu tập trọn vẹn vô lượng pháp môn, ngồi thiền, tụng kinh, giáo hóa, làm các việc thiện. Người như vậy có nhiều phước đức chăng? Hơn một ngàn năm tu tập hạnh bố thí, công đức cúng dường lại gấp bội hơn trước. Giả sử có người, ở trong bốn châu thiên hạ xây dựng hết phòng nhà cho Tăng chúng, các thứ như đồ nằm, ngồi, thuốc thang đều được cung cấp không thiếu, đủ cho trăm ngàn ức đệ tử Thanh văn và Bồ-tát tu tập các pháp môn làm việc thiện, ngồi thiền, tụng kinh, giáo hóa thì được bao nhiêu phước đức? –Bạch Thế Tôn! Phước đức người này đạt được là vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ số. Này thiện nam! Giả sử khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, vì xá-lợi nên khởi công xây dựng tháp miếu, đầy đủ như vậy thì công đức xây dựng tháp là vô lượng, phước báo này ngày đêm được tăng trưởng. Ở bốn phương xây dựng phòng nhà cho chúng Tăng, các vật dụng như đồ nằm, ngồi, thuốc thang, tất cả những việc cần dùng đều cung cấp đủ, nếu xây dựng tháp thì công đức gấp bội hơn trước. Giả sử nơi tam thiên đại thiên thế giới đầy hết các vị Bồ-tát, thành tựu sáu pháp Ba-la-mật nhiều như lúa, mè, tre, lau. Giả sử trong tam thiên đại thiên thế giới toàn là bậc Thanh văn, La-hán đủ tám pháp giải thoát, cũng nhiều như lúa, mè, tre, lau, rừng rậm, tất cả đều bị trói chặt giam nhốt trong đó, cho đến một kiếp. Lại có một người xuất hiện ở đời, vì nhân duyên tạo phước nên giải thoát cho các Bồ-tát và La-hán bị giam giữ mở trói, tắm rửa, lại cung cấp y áo, bình bát, phòng nhà, thức ăn uống, thuốc men, đầy đủ các đồ dùng nằm, ngồi, cho đến trăm ngàn vạn năm khi chư vị nhập Niết-bàn, lại lấy xá-lợi để cúng dường, mỗi một xá-lợi xây dựng tháp bằng bảy báu. Cúng dường tháp bảy báu như vậy đều dùng hương hoa các loại âm nhạc, tơ lụa, cờ phướn, lọng báu. Nếu lại có người vì Như Lai nên xây dựng tháp miếu cho đến đầy cả tam thiên đại thiên thế giới thì phước đức của người này đạt được trăm ngàn ức phần cũng không bằng công đức của người giải thoát cho người bị giam giữ. Sát-lợi chân thiện, Bà-la-môn chân thiện, Cư só chân thiện, Sa-môn chân thiện như vậy thì phước đức tăng trưởng vô lượng a-tăng-kỳ số. Trong đời mạt pháp, khi pháp sắp hoại diệt, có thể hộ trì mình và bảo vệ người khác. Ở đời vị lai thường hộ trì pháp Phật, cũng chính là hộ trì đệ tử Thanh văn của ta, người lãnh nhận pháp khí và không nhận lãnh pháp khí, cho đến người cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, đều không nên quấy nhiễu, não hại. Nếu có người thân cận cúng dường Thanh văn thừa thì cũng không được não loạn, cũng lại không nên phát nguyện ưa thích. Cúng dường Đại thừa thì hoàn toàn không khi dối, hủy phạm. Tu tập Bích-chi-phật thừa cũng tự gần gũi để cúng dường. Giữ gìn vững chắc pháp Đại thừa, an trú vào Đại thừa, đạt được công đức, phương tiện thiện xảo, biện tài thường an lạc. Thân cận thưa hỏi về nghĩa lý rồi thuận theo để hành trì, đối với tất cả Tỳ-kheo hành ác phải xa lìa, không nên cùng với Tăng bốn phương thọ hưởng lợi dưỡng, tự không đắm nhiễm nơi mười luân ác, cũng không giáo hóa người khác đắm nhiễm, tất cả tu tập đạo của vua trước, thực hành đầy đủ mười việc thiện, thường nên thân cận tri thức thiện để phát khởi Pháp nhãn. Như vậy Sát-lợi chân thiện này được phước đức vô lượng, vô biên, hoàn toàn không hư dối, hưởng được bổng lộc của dân nước. Các hàng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già và Phú-đơn-na… đều nghó đến, thường cùng nhau ủng hộ. Nếu có tất cả người có thể lãnh nhận ruộng phước thành tựu pháp khí thì đều được nhớ nghó, cùng nhau ủng hộ cho cõi nước được phát triển. Nếu cõi nước khác cũng khiến tăng trưởng, làm khô cạn các đường ác, tạo lợi ích cho hàng trời, người, giữ gìn mạng sống lâu dài, tự diệt các phiền não, cũng có thể diệt trừ tất cả phiền não của người khác, thành tựu Bồ-đề, đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật, xa lìa tất cả cõi ác, tùy thuận vô số lượt lưu chuyển trong sinh tử, ở nơi sinh tử mà không bị lôi cuốn, cấu nhiễm, thường được gặp bạn lành, tất cùng với chư Phật, Bồ-tát hành hợp, xa lìa bạn ác. Như vậy, chẳng bao lâu thành tựu cõi Phật, chứng được quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác. Khi ấy, tất cả vua trời và quyến thuộc, cho đến Tỳ-xá-xà, Đế Thích và các quyến thuộc, đều từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay hướng về Đức Phật, thưa: –Bạch Thế Tôn! Ở đời vị lai, có vua Sát-lợi chân thiện cho đến Cư só chân thiện, nếu có thể xa lìa mười luân ác, giữ gìn thân mình và hộ trì người khác, bảo vệ chính pháp, làm hưng thịnh ngôi Tam bảo khiến luôn phát triển, không bị đoạn diệt, viên mãn ba thừa, đối với lời dạy của Phật đều có thể tin hiểu, thọ trì, đúng như pháp cúng dường, pháp được nêu giảng của chư Phật hoàn toàn không che giấu thì quyến thuộc của chúng ta cùng vua Sát-lợi chân thiện, cho đến Cư só chân thiện, nên dùng mười pháp này để bảo vệ những người ấy khiến được tăng trưởng. Những gì là mười? Hộ trì mạng sống lâu dài, trọn không chết oan uổng. Diệt trừ các phi pháp, thường được ít bệnh, quyến thuộc an ổn, nhiều của cải sản, giàu có đầy đủ, tiếng khen vang xa, thân gần tri thức thiện, trí tuệ tăng trưởng. Như vậy, Sát-lợi chân thiện cho đến Cư só chân thiện xa lìa tất cả mười luân ác, đúng như lời Phật dạy nên dùng mười pháp thiện hộ trì để được tăng trưởng. Những gì là mười? Đó là các oán địch ngoại đạo không thể gây tổn hại, không ưa thích sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, tất cả bệnh khổ, tà kiến quy y sai lạc, tất cả nghi ngờ, dua nịnh, bạn ác, không có nguồn gốc thiện, chết yểu, chết oan, do Sát-lợi chân thiện có đầy đủ công đức, đúng như lời dạy nêu trên, nên tất cả đều diệt trừ. Sẽ dùng mười pháp thiện để hộ trì những người ấy. Lại nữa Thế Tôn, nếu Sát-lợi chân thiện đúng như lời nêu trên, tu tập thành tựu đầy đủ các công đức thì con sẽ dùng mười pháp này để hộ trì những người dân ở cõi nước của Sát-lợi. Những gì là mười? Sợ oán thù nước lân cận, sợ hàng phi nhân, sợ hạn hán, sợ mưa dầm, sợ gió chẳng phải thời, sợ ác tinh trá hình chẳng phải thời, sợ đói khát, sợ bệnh chết chẳng phải thời, sợ tà kiến sai lầm, tất cả đều được dứt trừ Sát-lợi chân thiện, đúng như lời nêu ở trên, có thể tu tập, chúng ta nên dùng mười pháp để bảo vệ đất nước và dân chúng. Bấy giờ, Đức Thế Tôn khen ngợi trời Đế Thích cho đến các vị Phú-đơn-na: –Lành thay, lành thay! Này thiện nam! Tất cả những việc ấy, đều là chỗ các ông nên làm. Khi ấy, Đại phạm Thiên Tạng từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y phục, quỳ gối phải sát đất, chắp tay thưa: –Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn cho phép con được thưa nói: Sát-lợi chân thiện này chứng được quả vị không thoái chuyển, chuyên tâm trì chú Đà-la-ni, nhờ ở quả vị không thoái chuyển và thần chú Đà-la-ni này, nên ở đời vị lai Sát-lợi chân thiện ấy làm cho các thứ oán địch nơi nước lân cận tự nhiên tan mất, thân, miệng, ý giới thành tựu, đạt được trí tuệ tối thắng, được tất cả người trí tán thán, xa lìa các pháp ác, thường tu tập pháp thiện, lìa xa tà kiến, bỏ quy y tà vạy, tinh tấn vững chắc, giáo hóa vô lượng chúng sinh, nên được trí tuệ tự tại, sáu pháp Ba-la-mật, cất giữ kho tàng châu báu đầy đủ, thêm tăng trưởng, xa lìa tất cả sân giận, keo kiệt và các ganh tî xấu ác, thường được hàng trời, người ủng hộ, chứng được tâm Bồ-đề không thoái chuyển, không xa lìa chúng sinh, được bốn Nhiếp pháp, không còn chỗ do dự để hỏi, thành tựu pháp khí, đầy đủ ruộng phước, thân cận Bồ-tát và hàng Thanh văn làm lợi ích cho tất cả. Sát-lợi chân thiện hoàn toàn ở quả vị không thoái chuyển, được công đức, diệu lực Đà-la-ni, ở đời vị lai được trí thù thắng, không còn bị chê trách, thường thân cận chư Phật và Bồ-tát. Bấy giờ, Đại phạm Thiên Tạng nói thần chú: –Đa xà tha, mâu ni trí lê, mâu na xá la bính, mâu ni di lê địa dạ, mạc đế lư xà tỳ xà lệ, mâu ni lật chi, a nật già di, tịch già la bát sai, ba la xá bát sai mật la bát sai, tảo la sa lật đế, đâu là nã lật lệ bát só, xoa lật bà lệ, cựu cựu nã di lệ, a bính xoa bà bà a, nhu a kỳ lê phạm mâu ni ba đà bính, tư bà ha. Đại phạm Thiên Tạng đọc thần chú rồi, bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Nguyện xin Thế Tôn tùy hỷ nơi Đà-la-ni này. Đức Phật bảo: –Lành thay, lành thay! Này Đại phạm! Ta rất hoan hỷ đối với thần chú ấy. Bấy giờ, mọi người trong chúng hội đều khen: –Lành thay! Đà-la-ni ấy đã được nêu bày. Lúc ấy, Phật bảo Tôn giả Đại Mục-kiền-liên, Đại Bồ-tát Di-lặc: –Các ông hãy nhận lãnh, thọ trì Đà-la-ni Bất thoái chuyển địa tâm ấy, tức có thể khiến cho hàng Sát-lợi chân thiện được an vui lợi ích. Vì để chuyển pháp luân, vì nhằm tạo tiếng tốt, vì nêu rõ oai đức, vì nhằm diệt trừ các tà kiến, vì để xây dựng chính kiến, vì giữ gìn Pháp nhãn, vì làm cho vô lượng chúng sinh được thành thục, vì khiến cho Đại thừa được vững bền, không bị thoái lui, vì nhằm đạt đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật. Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa trên nên nói kệ: Khi Đại phạm Thiên Tạng Thưa hỏi Đức Thế Tôn Các chúng sinh lợi căn Thiền định và đọc tụng. Dũng mãnh, siêng giáo hóa Bậc Sát-lợi trí tuệ Làm sao diệt phiền não Làm sao trụ Bất thoái? Phật trả lời cho ông Phạm tội trọng đọa lạc Tuy tâm có trong sáng Rơi địa ngục A-tỳ. Mười loại làm ác này Không có trí tu hành Thì diệt các gốc thiện Nhanh chóng đọa địa ngục. Thiền định diệt phiền não Chẳng riêng trí đa văn Nếu muốn được giải thoát Cần phải tu thiền định. Bậc trí thường tinh tấn Giữ gìn chính pháp ta Vì cung kính ca-sa Thoát khỏi biển phiền não. Thích sống ở rừng vắng Xa lìa năm tội nghịch Trì giới tu thiền định Thoát khỏi biển phiền não. Nếu có tin ba thừa Làm hưng khởi pháp Phật Cúng dường y ca-sa Được biển công đức lớn. Có thể điều phục tâm Không nói tội Tỳ-kheo Bậc Thánh tu ít dục Chứng được Lưỡng Túc Tôn. Xa lìa Tỳ-kheo ác Cung kính gần bậc Thánh Không ăn vật chúng Tăng Mau được quả Bồ-đề. Ba cõi được an vui Ba báu hiện ở đời Điều muốn được an lạc Nên cúng dường Tam bảo. Ba báu, Chiên-đà-la Sát-lợi tạo tội lỗi Chúng Tỳ-kheo xấu ác Mau chóng đọa địa ngục. Như vậy tội mười luân Bằng tội một dâm nữ Vì tội mười dâm này Cũng bằng một nhà rượu. Mười tội rượu như thế Bằng tội giết nhà trẻ Vì mười tội giết này Cũng bằng một vị vua. Có Sát-lợi chân thiện Cúng dường nơi chính pháp Ba thừa được hưng thịnh Sẽ được biển công đức. Đầy đủ bảy loại báu Khắp cả Diêm-phù-đề Dùng để cúng dường Phật Phước đó còn hơn nhiều. Cho đến bốn thiên hạ Dựng phòng cúng dường Tăng Phước đó tuy rất lớn Không bằng hộ chính pháp. Giả sử vì chư Phật Xây tháp miếu khắp nơi Phước đó tuy rất lớn Không bằng hộ trì pháp. La-hán, các Bồ-tát Mở trói mà cúng dường Thị hiện pháp của ta Phước đó hơn phước kia. Tu thiền ức ngàn kiếp Không được chư Phật hộ Nếu chính pháp không ẩn Chư Phật liền hộ niệm. Nếu Sát-lợi hiền thiện Xa lìa mười luân ác Hộ trì pháp của Phật Giữ gìn y ca-sa. Không hủy báng chính pháp Ta thuyết pháp ba thừa Nghe rồi nên cúng dường Là hộ trì pháp khí. Năm mặt trời cùng mọc Làm khô cạn biển lớn Nếu giữ gìn pháp ta Diệt trừ các phiền não. Ví như gió thổi mạnh Phá vỡ các ngọn núi Hộ trì pháp của ta Cũng diệt các phiền não. Ví như thủy tai khởi Hủy hoại khắp đại địa Nếu hộ trì chính pháp Cũng diệt các phiền não. Đời có ngọc như ý Làm mãn nguyện con người Nếu nơi pháp ba thừa Theo nguyện cũng đều đạt Ví như được bình báu Sẽ hết các khổ cực Phá phiền não như vậy Mau chứng đạo Bồ-đề Như trăng tròn mười lăm Chiếu sáng khắp hư không. Được trí tuệ như vậy Hộ chính pháp đầy đủ Hư không, không đối tượng Không vật cũng không tướng. Người giữ gìn chính pháp Bậc trí không còn nghi Mặt trời chiếu hư không Có thể diệt bóng tối Giữ gìn chính pháp này Thì được chiếu sáng khắp. KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG THẬP LUÂN <卷 id="117270412">Quyển 5 <詞 id="117270413">Phẩm 7: Các tướng lành Bấy giờ, Bồ-tát Kim Cang Tạng ở trong chúng hội, từ chỗ ngồi đứng dậy, bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, chắp tay dùng kệ thưa Phật: Hủy phá giới mất hạnh Đầu-đà Tạo tội nghịch chẳng phải ta diệt Thuyết pháp chư Phật đời quá khứ Người phá giới tịnh không vào chúng. Tất cả việc làm của Sa-môn Giống như đuốc cháy đều tiêu hết Ba cấu làm nhiễm rời giải thoát Hoàn toàn không được nhận cúng dường. Vật dụng sinh sống Tăng bốn phương Đều không nên lấy dù phần nhỏ Phạm tội căn bản của giới trọng Bị chúng xả bỏ như thây chết. Làm sao kinh này nói nhẫn nhục Với Tỳ-kheo ác khởi tâm Bi Chế, ngăn tất cả các hình phạt Lại khiến cúng dường Tỳ-kheo ác. Xưa ở trong kinh khác có nói Các ông phải nên tin Đại thừa Rất chân thật, Bồ-đề thù thắng Các ông nên phải lìa Nhị thừa. Ở trong kinh này nêu ba thừa Và các Căn, Lực, Giác, Đạo phần Thiền định giải thoát pháp ba thừa Nghe kỹ tin hiểu nhân giải thoát. Đây có bốn quả Thánh Sa-môn Ngoài kinh này không có Sa-môn Ba thừa đều cùng tám chính đạo Mong cầu giải thoát dốc tinh tấn. Nếu có Bậc trí các trời, người Bồ-tát Đại só đến nơi này Đại chúng ấy đều đã chứng đắc Như vậy Đại thừa của các người. Có thể thuyết giảng nghĩa chính pháp Người nghe được thì đạt lợi gì Phân biệt mười loại của Thanh văn Nói như thế ai không có lợi. Nếu có người nghe được pháp nào Làm sao có thể tăng trưởng được Lại có ai nghe mà giảm bớt Lại có người nghe đến già, chết. Các pháp hữu vi đều chán lìa Ngày đêm tu tập theo thiền định Khi nào sẽ chứng được giải thoát Thoát khỏi bốn dòng, gọi cứu đời. Đức Phật bảo Bồ-tát Kim Cang Tạng: –Này thiện nam! Lành thay, lành thay! Vì tạo lợi ích cho tất cả chúng sinh. Nếu là hàng trời, người thì không thể hỏi Như Lai như vậy. Này thiện nam! Hãy lắng nghe! Lắng nghe và khéo suy niệm. Ta sẽ giảng thuyết cho ông rõ. –Kính vâng Thế Tôn! Con nay muốn được nghe. –Này thiện nam! Lại có mười loại khó được thân người. Những gì là mười? Đó là không gieo trồng căn lành đời trước, chưa tu phước đức, tâm còn rối loạn, đi theo bạn ác, không sợ đời sau, đắm nhiễm tham dục, sân giận, ngu si, cuồng loạn, điên đảo, mất chân tâm, cho đến tà kiến. Đó là mười pháp khó đạt được thân người. Lại có mười pháp không nương vào nhân duyên, phạm tội căn bản, do phá giới nên rơi vào đường ác. Những gì là mười? Không nương tựa theo oai nghi, có dựa theo pháp của ta mà xuất gia, trong tâm không hoại, tu đạo hoại, tu đạo không hoại, trong tâm hoại. Hoặc có trong tâm, tu đạo đều hoại. Có giới hoại, nhận thức không hoại, có nhận thức hoại, giới không hoại. Có giới, nhận thức đều hoại. Có trong tâm, tu đạo, giữ giới nhận thức đều không hoại. Nếu theo bạn ác, không học theo oai nghi, tuy gặp được tri thức thiện mà lại ngu si như loài dê trắng, nghe pháp thiện rồi không thể thọ trì, cũng không giảng giải cho người khác, không biết thiện hay ác, không nương theo oai nghi, đầy đủ vô lượng mà không biết đủ. Do nhân duyên ấy, tâm thường tán loạn, gọi là không nương tựa nơi oai nghi, là nơi chốn của tất cả bệnh khổ não. Vì nhân duyên này nên tu tập các chú thuật. Nếu có dựa theo mười điều không oai nghi này thì phạm vào các trọng tội căn bản, tâm bồn chồn lo sợ, nên thường hổ thẹn, luôn không tạo việc ác. Như Lai vì muốn làm lợi ích cho những người này. Đó gọi là làm nhiễm ô đạo. Vì sao? Nếu làm những việc ác như thế cần phải sám hối, nguyện xin bỏ hết, hoàn toàn không che giấu, nếu có thể đạt như vậy khiến tội được tiêu trừ mà không tạo thêm nữa. Tuy tạo tất cả dụng cụ nằm ngồi, tạo cơ nghiệp cho chúng Tăng, nhưng không được sử dụng những vật cần dùng. Những người như vậy là đã thành tựu pháp khí. Như Lai vì họ giảng pháp Đại thừa, Bích-chi-phật, Thanh văn, là có sự việc như vậy. Hoặc gặp bậc Thiện tri thức trong hai đời, ba đời, tất cả nghiệp ác đều diệt sạch, đạt quả vị Thanh văn, Bích-chi-phật, cho đến hội nhập chính pháp sâu xa của Đại thừa. Như vậy, người này gọi là hoại giới, không gọi là hoại kiến. Nếu có người trong tâm hoại, hành không hoại, kiến không hoại, Như Lai vì những người này thuyết giảng về bốn Tâm vô lượng, cũng có thể lãnh thọ pháp khí Thanh văn và pháp khí của Bích-chi-phật. Hoặc có người hành hoại thể hoại thì ở trong Nhị thừa ấy pháp khí không thành. Như vậy, vì những chúng sinh này Như Lai giảng thuyết pháp Bố thí. Lại có người kiến hoại, giới không hoại. Như vậy, vì chúng sinh ấy mà giảng thuyết pháp mười hai nhân duyên, được xa lìa kiến hoại rồi, ở trong một thân được hội nhập pháp Thanh văn. Hoặc đổi thân được pháp Bích-chi-phật. Hoặc có người giới hoại kiến không hoại, ở trong pháp của bậc Thánh nhận lãnh pháp khí. Hoặc có người hoại đủ cả giới, kiến, hành và nội tâm, nhưng gặp tri thức thiện, do nhân duyên ấy nên Như Lai vì họ thuyết giảng pháp mười thiện. Hoặc có người ngu si theo bạn ác, không biết thiện, ác, Như Lai vì những người này mà dạy dỗ tụng tập. Hoặc có người bị tà kiến mê hoặc muốn cầu giải thoát, Như Lai liền dùng thừa Thanh văn, vì người ấy thuyết giảng pháp bốn Thánh đế. Hoặc có người phát khởi đoạn kiến, Như Lai vì họ mà giảng dạy pháp mười hai nhân duyên. Hoặc có người khởi thường kiến, Như Lai vì họ giảng dạy luân hồi sinh tử trong ba cõi. Biết pháp như thế, chết nơi này, sinh nơi kia, Như Lai vì họ mà giảng thuyết pháp Thanh văn. Như Lai quán sát trọn không nêu giảng hư dối. Hoặc có chúng sinh thành thục và không thành thục, tất cả đều dùng phương tiện để thông đạt không chướng ngại, về tất cả tội trọng, các tội nghịch… Hoặc có chúng sinh tạo tác không ích lợi, cho đến phá hủy Pháp nhãn thanh tịnh. Như vậy, Như Lai vì muốn làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, tùy thuận tất cả thừa Thanh văn, thừa Bích-chi-phật và thừa Bồ-tát. Nếu phỉ báng chính pháp, ngăn chận che giấu, không hiển bày, cho đến một bài kệ, những người như vậy gọi là hủy báng chính pháp, phá hoại tám chính đạo cũng gọi là hủy hoại Pháp nhãn của tất cả chúng sinh. Những người như vậy tức mất lợi lớn, cũng làm cho chúng sinh không có lợi ích. Dựa vào Tăng ngu si nên phỉ báng chính pháp. Lại nữa, này thiện nam! Có bốn loại Tăng. Những gì là bốn? Đó là Tăng Đệ nhất nghĩa, Tăng thanh tịnh, Tăng như loài dê câm và Tăng không biết hổ thẹn. Thế nào là Tăng Đệ nhất nghĩa? Chư Phật Thế Tôn, Đại Bồ-tát, Bích-chi-phật, ở trong tất cả pháp đều được tự tại, Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, bảy hạng người này gọi là Tăng Đệ nhất nghĩa. Còn có tại gia không có pháp phục, không thể thọ giới Cụ túc, Ba-la-đề-mộc-xoa, không được dự bố tát, tự tứ mà được quả Thánh, được quả Thánh rồi cũng gọi là Tăng Đệ nhất nghĩa. Thế nào gọi là Tăng thanh tịnh? Các vị có thể thọ giới Cụ túc, giữ gìn Ba-la-đề-mộc-xoa, đúng như luật tu hành, oai nghi không phạm gọi là Tăng thanh tịnh. Thế nào gọi là Tăng như loài dê câm? Không biết tội căn bản, không biết phạm - không phạm, không biết tội nặng nhẹ, không biết tội vi tế để sám hối, ngu si không thấy biết có tội để sợ hãi, cũng không nương theo tri thức thiện, trượng phu, không gần gũi tri thức thiện, trượng phu nên không thể thưa hỏi về nghĩa lý sâu xa trong kinh. Thế nào là thiện, ác? Thế nào là phạm tội nặng, nhẹ? Tu hành những việc gì là thiện, những việc gì là ác? Những người như vậy đều gọi là Tăng như loài dê câm. Thế nào gọi là Tăng không biết hổ thẹn? Nếu có người vì sự sống của mình mà đến ở trong pháp Phật, thọ giới Ba-la-đề-mộc-xoa, rồi Phạm, phá hòa hợp Tăng, không biết hổ thẹn, không sợ đời sau, bên trong chất chứa cấu uế, âm thanh luôn đầy đủ, các ngôn từ sắc sảo vững vàng, nhưng thường ôm lòng ganh tî, ngu si, kiêu mạn, xả bỏ ba nghiệp, chỉ vì lợi dưỡng, buông lung sáu căn, tham đắm vào năm dục sắc, thanh, hương, vị, xúc, phỉ báng chính pháp. Những người như vậy nương theo pháp của Như Lai mà tâm không biết hổ thẹn, nên gọi là Tăng không biết hổ thẹn. Thế nào là Tăng Đệ nhất nghĩa? Tuy có được Thánh đạo, ẩn mà không hiện. Nhân nơi tám chính đạo, có thể vượt khỏi phiền não và dòng chảy sinh tử trong ba cõi. Đó gọi là đạo chân thật. Vì sao? Vì chư Phật Thế Tôn, Duyên giác, A-la-hán, đoạn trừ mọi trói buộc nơi tất cả cõi, nên gọi là đạo chân chính. Lại, các Đại Bồ-tát tự tỉnh ngộ về lỗi lầm của mình, mong cầu tất cả pháp, được trí vô ngại mà không thủ chứng, vì chúng sinh nên chỉ rõ việc diệt trừ các kết sử. Nếu lại có người không thể thành tựu giới Ba-la-đề-mộc-xoa, gọi là nương theo Tăng Đệ nhất nghĩa và Tăng thanh tịnh. Nếu có phàm phu chân thiện cho đến chính kiến chân thiện và các phàm phu, dùng thần thông biến hóa thị hiện đạo chân chính. Những người như vậy đều gọi là có thể thị hiện đạo pháp, thứ hai là Tu-đà-hoàn, thứ ba là Tư-đà-hàm, thứ tư là A-na-hàm, thứ năm là Đại Bồ-tát an trú vào Địa thứ nhất cho đến trú vào Địa thứ mười, là bậc Nhất sinh bổ xứ. Những bậc như vậy gọi là chỉ rõ về đạo. Nếu lại có người thành tựu giới Ba-la-đề-mộc-xoa, gọi là nương theo đạo mà sinh hoạt. Đại Bồ-tát vì thâu phục tất cả chúng sinh cho thuần thục nên tu tập sáu pháp Ba-la-mật. Những vị như vậy gọi là thị hiện đạo, cũng gọi là dựa nơi đạo mà sinh hoạt, cũng gọi là diệt trừ các kết sử nơi đạo. Đó là ruộng phước của thế gian. Ngoài trừ những hạng này, còn lại đều gọi là làm cấu uế đạo, cũng gọi là ruộng phước xấu ác, dựa vào Tăng không biết hổ thẹn. Tăng như vậy, ở trong pháp Phật cũng gọi là thây chết, là thứ nên xả bỏ, nơi biển lớn của Tăng, cũng gọi là không thành tựu pháp khí, người ấy chẳng phải là đệ tử của Như Lai và Như Lai cũng chẳng phải là thầy họ. Lại có người không thành tựu pháp khí, xưng Phật là Thế Tôn của mình. Sau khi Như Lai diệt độ có lòng tin hướng về pháp, giới, Thánh tăng, tự mình không khởi nhận thức sai lầm, cũng không nêu lỗi của người khác, mà vì người giảng thuyết rộng rãi pháp của ta, không sinh chê bai, phát thệ nguyện chân chính đã làm ác rồi luôn luôn sám hối thì có thể diệt trừ vô lượng tội. Người có lòng tin như vậy đối với chín mươi lăm học phái ngoại đạo đều có thể hướng dẫn họ đến Niết-bàn. Chẳng phải vua Chuyển luân thánh vương có được công đức có thể sánh bằng. Vì ý nghĩa ấy nên Như Lai quán xét tất cả nghiệp căn bản của chúng sinh, nói lời như vầy: Do nhân duyên đó, ở trong pháp của ta xuất gia, cạo bỏ râu tóc, mặc ca-sa, không nên khởi tâm ác. Tất cả tâm đại Bi của chư Phật ở quá khứ, hiện tại, vị lai đều hộ trì người xuất gia mặc ca-sa như vậy. Vì thế, đối với tất cả người xuất gia mà khởi tâm ác thì giống như việc đã làm ác đối với chư Phật ở quá khứ, hiện tại, vị lai. Nếu lại có người phá giới, không thành tựu pháp khí, những người như vậy sẽ khởi ác kiến, cũng chê bai lỗi người khác. Ví như Sát-lợi chân thiện, phụ tướng chân thiện, đại thần chân thiện, Sa-môn chân thiện, Bà-la-môn chân thiện, Cư só chân thiện, Tỳ-xá, Thủ-đà chân thiện, hoăc nam, hoặc nữ không có cha mẹ ở thế gian, như A-la-hán không có đạo chân chính, không hướng về chính kiến, không tu thiện, ác, quả báo, không chứng đạt quả thì tất cả pháp đều không có nhân duyên. Hoặc có thuyết nói: Sắc giới là pháp thường còn, là không biến hoại, hoặc chấp cho cõi Vô sắc là pháp thường còn, không biến hoại. Hoặc giảng thuyết về khổ hạnh ngoại đạo, nằm dựa trên gai nhọn, dùng năm ngọn lửa thui, nướng thân thể, cho đó là bậc nhất. Hoặc chỉ thuyết thuần về thừa Thanh văn cho là đệ nhất, không thuyết về thừa Bích-chi-phật, cho đến phỉ báng pháp Đại thừa, che giấu tất cả, không thể hiển bày, khai thị phân biệt. Hoặc chỉ có một mực tin Đại thừa, chê bai thừa Thanh văn, thừa Bích-chi-phật. Hoặc có thuyết cho: Bố thí là đệ nhất, Trì giới cho đến Trí tuệ chẳng phải là đệ nhất. Hoặc có người nói: Giới là đệ nhất, Bố thí cho đến Trí tuệ chẳng phải là đệ nhất. Hoặc có thuyết nói: Nhẫn nhục là đệ nhất. Bố thí, Trì giới cho đến Trí tuệ chẳng phải là đệ nhất. Hoặc có người cho Thiền định là đệ nhất, Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn và Trí tuệ chẳng phải là đệ nhất. Hoặc có người cho Trí tuệ là đệ nhất, còn Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định chẳng phải là đệ nhất. Hoặc có người cho khổ hạnh của ngoại đạo là đệ nhất. Như vậy, này thiện nam! Các Tỳ-kheo phá giới thực hành việc ác đối với người thành tựu pháp khí, riêng sinh vô số thứ hủy báng. Người hướng đến ác kiến nói như vầy: Có người thấy biết điên đảo, phá hoại Sát-lợi chân thiện, tín, giới, văn, xả, trí tuệ đều phá bỏ tất cả. Phụ tướng chân thiện, Sa-môn chân thiện, Cư só chân thiện, Tỳ-xá Thủ-đà chân thiện, nam nữ chân thiện nơi tín giới, văn, xả, trí tuệ, các thứ như vậy đều bị phá hoại, gọi là Sát-lợi Chiên-đà-la, cho đến Cư só Chiên-đà-la, Tỳ-kheo phá giới tự đoạn mất căn lành cũng khiến cho Sát-lợi chân thiện mất đi căn lành cho đến bị đọa vào địa ngục. Này thiện nam! Ví như thây chết bị thối rữa, nếu đến gần thì rất hôi thối. Còn tự đến chỗ đó, mình hôi thối cũng khiến người khác hôi thối. Như vậy, Sát-lợi chân thiện nếu thân gần tri thức ác, Tỳ-kheo phá giới, đến gần họ tức sinh mùi hôi thối là ác kiến. Mùi hôi như thế khiến cho Sát-lợi dứt bỏ căn lành, hướng về địa ngục A-tỳ. Như vậy, phụ tướng chân thiện cho đến phụ nữ chân thiện thân gần Tỳ-kheo phá giới làm ác đều là Chiên-đà-la, đoạn trừ căn lành, hướng về địa ngục. Này thiện nam! Ông quán xét thì sẽ thấy thân cận Tỳ-kheo phá giới làm ác này là bỏ mất tất cả việc lành. Cho nên muốn chứng được Niết-bàn, đều nên gần gũi cúng dường để diệt các kết sử, tu học đạo ba thừa đầy đủ, chỉ rõ đạo, nên thân gần cúng dường đầy đủ trong tâm và tu đạo, hiểu biết đầy đủ, nên lãnh thọ đạo Thanh văn, Bích-chi-phật, không hủy báng bậc Hiền thánh, đối với Đại thừa cũng không hủy báng. Tùy theo chỗ mong cầu của mình mà tinh tấn ở trong ba thừa. Tùy theo sự phát nguyện của mình mà tu học Nhất thừa, không nên phỉ báng kinh điển Đại thừa, cho đến một câu, một bài kệ. Nếu có người phỉ báng thì không nên sống chung và gần gũi. Nếu có gần gũi sống chung tức là cùng hướng về địa ngục A-tỳ. Như vậy, này thiện nam! Ở trong ba thừa, tùy theo sở thích mà hướng đến Nhất thừa, muốn xa lìa được tất cả khổ, các hàng Thanh văn, thừa Bích-chi-phật đều nên tin sự thuyết pháp của Như Lai, nương theo Đại thừa để giảng thuyết các pháp, không nên phỉ báng, che giấu một câu một kệ, phải nên lắng nghe phát lời nguyện chân chính. Nếu có kẻ hủy báng chính pháp thì không nên sống chung, cũng không nên nương theo người ấy mà thưa hỏi, lãnh thọ giáo pháp. Nếu nghe pháp ở người ấy thì vì nhân duyên đó nên rơi vào địa ngục A-tỳ, chịu nhiều khổ não. Vì sao? Này thiện nam! Vì ta vốn là Bồ-tát, khi thực hành cầu đạo Vô thượng, nương theo thừa Thanh văn vì cầu một bài kệ, cho đến xả bỏ cả tay chân, đầu, mắt, tủy não nơi thân như vậy để cầu thừa Bích-chi-phật và cầu Phật thừa. Ta vốn là Bồ-tát, khi cầu đạo vô thượng cũng lại như vậy, vì một bài kệ mà bỏ tay chân, đầu mắt, tủy não, máu, thịt, da, xương nơi thân mạng, cho đến hoàn toàn thành tựu đạo Vô thượng. Pháp ba thừa này đều là sự thuyết giảng của hằng sa chư Phật nơi ba đời, năng lực thần thông luôn hộ trì vì thương xót chúng sinh và làm hưng thịnh Tam bảo không để đoạn tuyệt. Lại, ở đời vị lai nếu có Sát-lợi Chiên-đà-la, cho đến phụ nữ Chiên-đà-la, vì ngu si nên cho mình là trí, nhiều hành ác thô xấu, không sợ đời sau, làm các việc sát sinh cho đến tà kiến ganh tî, keo kiệt theo tri thức ác. Lại, ở nơi ba thừa mà không thành tựu pháp khí. Ở thừa Thanh văn mà ít nghe, ở thừa Bích-chi-phật cho đến Đại thừa, tất cả sự hộ trì của Đức Phật lại sinh hủy báng, ngăn che không làm cho hiển bày. Nếu ở pháp Đại thừa mà nghe ít, đối với hàng thừa Thanh văn, thừa Bích-chi-phật, được năng lực thần thông của chư Phật hộ trì mà sinh hủy báng chê bai, không tin pháp Đại thừa của ta, cũng có thể phân biệt nêu giảng về Đại thừa. Nếu nói ta lãnh thọ pháp Đại thừa không lãnh thọ Thanh văn, thừa Bích-chi-phật, vì mình ít năng lực, trí tuệ ngu si, cũng chính là diệu lực Đại Bi của chư Phật ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai, vì muốn làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Có hai loại hộ trì: Thứ nhất, vì muốn làm hưng thịnh Tam bảo, không để đoạn tuyệt nên xuất gia tu đạo, cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa. Thứ hai, nên thuyết giảng pháp bốn Đế, hướng về ba thừa. Hai loại như vậy mà Như Lai hộ trì, chẳng phải là Thanh văn, Bích-chi-phật có thể hộ trì, cho đến trăm ngàn Đế Thích, Phạm thiên cũng không thể hộ trì, trăm ngàn triệu Chuyển luân thánh vương cũng không thể hộ trì được. Lại có Sát-lợi Chiên-đà-la, nếu thấy có người ở trong pháp của ta mà xuất gia, đệ tử Thanh văn như vậy bị hình phạt giam cầm trong lao ngục đánh bằng roi, gậy cho đến giết chết. Đây là chỗ sâu xa của tất cả pháp được sự hộ trì của chư Phật và Bồ-tát, đều làm hủy hoại, rối loạn đạo chân chính nơi ba thừa, phỉ báng, che giấu. Những người như vậy không biết được pháp Đại thừa. Sát-lợi Chiên-đà-la này còn không thể nhận lãnh là pháp khí của Thanh văn huống nữa là Đại thừa. Lại có phụ nữ Chiên-đà-la, lừa dối người đời: Tự nói ta thực hành Đại thừa, vì ngu si, keo kiệt, tham lam, ganh ghét, hủy hoại pháp của Như Lai, tự cho ta nhanh chóng chứng Niết-bàn. Ở nơi chỗ Phật, Như Lai, Thế Tôn, sinh các tội lỗi như thế, cho tất cả Đại Bồ-tát, tất cả đệ tử Thanh văn thân cận của Đức Phật cũng đều phạm tội, khiến mạng sống ngắn ngủi, khổ não, các căn thiếu và tật nguyền, các chi không đầy đủ, thường nhiều bệnh tật. Sát-lợi Chiên-đà-la, cho đến phụ nữ Chiên-đà-la tạo các nghiệp ác, đều sinh hiểu biết điên đảo nên diệt trừ các căn lành. Tuy bố thí nhiều, nhưng ở trong hàng súc sinh lãnh chịu vô số thân theo quả báo. Ở đời vị lai, sau khi chết, hoàn toàn không sinh vào cõi Sắc để căn lành thành tựu trí tuệ vô ngại, cũng không thể chứng được Nhất thiết chủng trí, nhiều bệnh tật, lưỡi không thể nói, hướng về địa ngục. Cho nên Như Lai vì muốn tạo lợi ích cho Sát-lợi chân thiện được an lạc, cũng khiến cho phụ nữ chân thiện được lợi ích như trên. Vì nhân duyên này, không cho kẻ não loạn ở trong pháp của ta mà xuất gia. Lại nữa, nơi pháp của ta đã giảng thuyết, sinh tâm phỉ báng. Vì những việc ấy nên bị nhiều tội báo như trước đã nói. Tại sao? Vì mặc ca-sa là tướng giải thoát của chư Phật. Cho nên, hết thảy chư Phật hộ trì cờ pháp chân chính lớn của vị giải thoát nơi hàng Thanh văn, cũng là cờ của vị giải thoát nơi đệ nhất Đại thừa và Bích-chi-phật. Vì thế mong cầu giải thoát, trước hết nên đọc tụng, lắng nghe pháp của Thanh văn thừa, xa lìa tất cả bạn ác, gần gũi bạn lành, cung kính cúng dường, sau đấy đọc tụng kinh Phương Đẳng Đại thừa, sáu pháp Ba-la-mật, tất cả các việc làm ác đều tỏ bày đúng như pháp sám hối, phát đại nguyện rộng lớn, sau khi mạng chung ở đời sau có thể thành tựu pháp khí nơi Thanh văn, điều này như vậy, cũng là chủng tử của Bích-chi-phật, cho đến là chủng tử vô thượng của Đại thừa Bất thoái chuyển. Vì sao? Này thiện nam! Lại có mười loại nương theo luân, hoặc thành tựu luân rồi, Sát-lợi chân thiện cho đến phụ nữ chân thiện có thể thành tựu pháp khí của Bích-chi-phật, Đại thừa Bất thoái chuyển. Những gì là mười? Như vậy Sát-lợi chân thiện cho đến phụ nữ chân thiện tin có nghiệp báo, đầy đủ hổ thẹn, xa lìa tà kiến và bạn ác, trì giới, không sát sinh, không uống rượu, tâm Từ đối với chúng sinh, xa lìa sân giận não hại, đầy đủ tâm Bi, cứu giúp mọi thứ khốn khổ, chúng sinh thấp kém, khổ não được tâm vui vẻ, xa lìa lời nói hai lưỡi, lời nói dối, lời nói hoa mỹ, được tâm không tranh cãi, dứt trừ tâm tham lam keo kiệt, ganh tî, hoàn toàn không nương vào các tà kiến ngoại đạo khác, diệt trừ lưới nghi, được các tướng lành, phát tâm siêng năng, đứng vững trong tất cả pháp, mau chứng đạo vắng lặng, pháp hoan hỷ. Này thiện nam! Đây là nương theo mười luân. Sát-lợi chân thiện cho đến phụ nữ chân thiện thành tựu mười luân, mau chứng được pháp khí nơi Thanh văn, chủng tử của Bích-chi-phật và Đại thừa Bất thoái chuyển, gọi là nương theo mười luân, những luân như vậy đều giống Thanh văn và Bích-chi-phật. Bấy giờ, muốn nhắc lại nghĩa trên Đức Thế Tôn nói kệ: Thứ nhất ở trong chúng Cạo đầu mặc ca-sa Vì sao Tỳ-kheo ác Phá giới được cúng dường? Hủy phạm hạnh Đầu-đà Nói dối giữ tà kiến Chẳng phải khí, phá đạo Không nên dùng hình phạt. Nếu nghe pháp người kia Tin Niết-bàn vắng lặng Hoặc bậc được giải thoát Làm thuốc quý người kia. Ở trong các kinh khác Chỉ nói đạo Nhất thừa Bảo không có Nhị thừa Giải thoát Nhất thừa thôi. Lợi ích các chúng sinh Hết nghiệp báo phiền não Thường có tâm thương xót Sát-lợi ưa chính pháp. Bà-la-môn, Tỳ-xá Và Thủ-đà, tội cấu Muốn hại các Tỳ-kheo Tất hướng theo đường ác. Các chư Phật như vậy Giữ gìn áo nhiễm sắc Đạo giải thoát chư Phật Gọi là đệ nhất đạo. Mặc y phục giải thoát Nhanh chóng bỏ ác kiến Hướng đến đạo Niết-bàn Như thuốc men trị bệnh. Tuy phá nơi giới cấm Cũng diệt khổ người khác Ta không nghe cùng họ Trong chúng cùng Bồ-tát. Vì người khác thuyết pháp Người kia được đủ phước Xưng ta là Thế Tôn Quy y ba ngôi báu. Trừ bỏ các nghiệp ác Cũng thắng nơi ngoại đạo Ví như vua La-sát Người buôn vào sợ hãi. Nhổ một sợi lông ngựa Chắc qua biển khổ lớn Phá giới, xả tà ác Lìa phiền não La-sát. Nên hộ trì giải thoát Được chư Phật giữ gìn Người không hại phá giới Quyết bỏ các tội ác. Người có phước như vậy Muốn cầu đạo giải thoát Hộ trì khí, phi khí Giải thoát cũng không khó. Người không có uy lực Mê mờ nơi Thanh văn Không biết đến Duyên giác Mà thuyết giảng Đại thừa. Không rõ nơi Duyên giác Mà tán thán Đại thừa Người ấy phá lòng tin Đọc tụng kinh Đại thừa. Không hộ trì thừa khác Chỗ phạm thân, miệng, ý. Chỉ nói về đoạn kiến Phá hoại nơi chính pháp. Về sau được làm người Lại đọa ngục A-tỳ Quán chúng sinh như vậy Chớ có là phi khí. Hoặc hủy phạm giới cấm Không thương, lại dua nịnh Phải nên biết là nhân Miệng ác mà đoạn kiến. Chẳng Thanh văn, Duyên giác Cũng chẳng phải Đại thừa Hủy báng ba đời Phật Quyết chắc hướng A-tỳ. Dua nịnh mà trì giới Tâm loạn keo kiệt pháp Nhàm ác, tranh tham, ganh Gọi là hàng Thanh văn. Có trí ưa bố thí Phát khởi tướng sinh diệt Giữ tâm thường ở riêng Gọi là hàng Duyên giác. Trì giới không tiếc thân Giống như sư tử mạnh Chí cầu đạo tịch diệt Gọi là đạo Đại thừa. Giữ gìn pháp chân chính Khéo giảng thuyết chỉ bà. Được pháp nhẫn sâu xa Gọi là đạo Đại thừa. Pháp khí chẳng pháp khí Tâm thường hành bình đẳng Không nhiễm pháp thế gian Gọi là đạo Đại thừa. Nên gọi là ba thừa Người trí như pháp thuyết Giữ gìn Thanh văn ta Nhanh chóng thành chính giác. KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG THẬP LUÂN <卷 id="117270414">quyển 6 <詞 id="117270415">Phẩm 8: Sát-lợi y chỉ luân tướng Lại nữa, này thiện nam! Có mười loại nương tựa nơi hành luân, tất cả hàng Thanh văn, Bích-chi-phật, cho đến Như Lai cũng đều như nhau. Nếu có người nào thành tựu sự nương tựa ở nơi luân: Sát-lợi chân thiện cho đến phụ nữ chân thiện, đều mau đạt được pháp khí của Thanh văn và Bích-chi-phật, cũng có thể thành tựu được pháp khí của Như Lai. Những gì là mười? Đó là Sát-lợi chân thiện cho đến phụ nữ chân thiện, thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp đều thanh tịnh, tu tập giáo pháp có hổ có thẹn, chán thân ô uế của mình, sợ năm ấm phát khởi mạnh, thấy rõ sông lớn sinh tử, vượt qua bờ bên kia, ưa thích chỗ thanh vắng, xa lìa nơi ồn náo, không có tranh chấp, tâm không chê trách lỗi lầm của người khác, chế ngự các căn, tâm luôn nghó về định, quán sát nhân quả có thể thành tựu được thiền định hoàn hảo, luôn thu giữ tâm, hiểu rõ lẽ sinh diệt, như vậy thì có thể thành tựu được mười loại y chỉ luân (nương tựa nơi luân). Đó gọi là Sát-lợi chân thiện, cho đến phụ nữ chân thiện mau chóng thành tựu được Thanh văn và Bích-chi-phật, cũng đạt được Đại thừa không thoái chuyển. Như vậy, này thiện nam! Có thể thành tựu được thừa của Thanh văn và Bích-chi-phật thì nương tựa vào luân này, vượt qua các biển cả để hội nhập vào thành Niết-bàn. Thế nào là nương tựa nơi luân oai nghi? Thế nào gọi là nương tựa? Ta đã nương tựa vào năm ấm thọ nhận. Đó gọi là nương tựa. Đối với năm ấm đã thọ nhận mà có tưởng của mình là chắc chắn đã nương tựa. Thế nào gọi là oai nghi? nghĩa là có năm ấm oai nghi và có mười tám giới oai nghi, cho nên gọi là oai nghi. Thế nào gọi là luân? Là nhờ vào thần lực đã giữ gìn được lời dạy của chư Phật, đều gọi là luân và luân kiếm. Như vậy, hàng Thanh văn và Bích-chi-phật đều nương tựa luân này, mong cầu đạo Niết-bàn, nếu vướng mắc vào sự nương tựa ấy thì không gánh vác được pháp khí thanh tịnh của Đại thừa. Thế nào gọi là nương tựa? nghĩa là nương tựa vào năm ấm, mười tám giới, sinh tâm sợ hãi, nương tựa mà nhàm chán, xa lìa sự nương tựa đối với thân để mong cầu giải thoát, thoát khỏi các khổ đã thọ nhận năm ấm của mình, vì mong cầu cho tất cả chúng sinh được giải thoát, do vướng mắc vào sự thọ nhận của mình nên không kham nhận được pháp Đại thừa. Chỉ vì thân mình mà không vì thân chúng sinh thì không có tâm Đại Bi. Do nghĩa này nên không gánh vác được Đại thừa, cứ ở mãi trong sinh tử. Nên xả bỏ khổ đau khác, nhằm đoạn dứt phiền não của mình, mà không thể xả bỏ đầu, mắt, tay, chân, cho nên không gánh vác được pháp khí của Đại thừa, cũng không mong cầu luân của đạo Đại thừa, cũng không mong cầu luân của Phạm âm, cho nên không gánh vác được pháp khí của Đại thừa, chỉ đơn độc một mình, không có bạn bè mà hội nhập vào thành Niết-bàn. Do vậy, nếu có chúng sinh nào không nghe theo thừa Thanh văn và Bích-chi-phật, các hành không đầy đủ, căn lành không có sự thuần thục tinh tấn, nếu người này trước đã giảng nói pháp thì cả hai đều bị mắc tội, cũng là việc quấy nhiễu tất cả chư Phật, do ý nghĩa ấy, nếu có chúng sinh nào đối với thừa Thanh văn và Bích-chi-phật mà không thuần thục, thành tựu đầy đủ các căn lành, nếu lãnh hội kinh Đại thừa vi diệu mà người ấy ngu si, tự cho là mình có trí thì rơi vào đoạn kiến. Như vậy, người này giảng nói là không có nhân quả, không có nghiệp thiện, ác, đối với giáo pháp của ta sẽ làm hủy hoại, chẳng phải là pháp mà nói là pháp, chẳng phải là Sa-môn mà tự xưng là Sa-môn, chẳng phải là Tỳ-kheo mà tự nói là Tỳ-kheo, ngăn chận tất cả thừa Thanh văn và Bích-chi-phật khiến không lưu truyền được rộng rãi. Nếu đối với pháp của Thanh văn và Bích-chi-phật xuất gia thọ giới Tỳ-kheo, tích tập tất cả các căn lành, có thể gánh vác pháp khí và không gánh vác pháp khí, nơi các bậc Hữu học và Vô học, lời nói thiện xảo, biện tài không chướng ngại, đã chứng các quả, cho đến phàm phu chân thiện giữ gìn giới đầy đủ, đối với các nơi chốn tạo điều mạ lî, đoạt lấy y bát của người khác lại trói buộc, ngăn giữ. Chấp đoạn thường như vậy là La-sát trong cõi người. Có được thân người đã khó thà bị đọa nơi địa ngục, nhận chịu vô lượng tội chớ đừng thọ nhận thân người mà rơi vào kiến chấp đoạn, thường. Do đó luôn bị ngu si, miệng không nói được, thậm chí lúc mạng chung đã đi thẳng vào địa ngục A-tỳ. Làm thân người khó được, đối với vô số kiếp dù được thân người, ở trong cảnh giới của chư Phật, hay sinh vào đời năm trược, thân thường bệnh hoạn, miệng câm không thể nói, tai không thể nghe, nên các bệnh cứ bức bách thân ấy. Tâm chí tán loạn, không có cơm ăn, tài sản, sự nghiệp, xa lìa bậc Thiện tri thức, gây tạo đủ các việc xấu ác, làm những điều xấu ác, che lấp các tội nghịch đã tạo ra, nói điều đoạn kiến, làm não loạn các đệ tử Thanh văn của ta. Người giữ giới thanh tịnh, tu tập công đức mà bị đắm nhiễm vào việc xấu ác. Hoặc người căn cơ thấp kém, tinh tấn kém, lại không mong cầu thừa của Thanh văn và Bích-chi-phật, đối với Đại thừa sinh ra đoạn kiến, nhằm mong cầu thân người hãy còn khó được, huống chi là mong cầu thừa Thanh văn và Bích-chi-phật. Đối với Nhị thừa này còn không thể thực hành, huống chi lại có thể hiểu được Đại thừa sâu xa. Ví như bình đất đã bị các lỗ thủng, nếu đổ dầu, nước vào thì sẽ chảy hết không còn gì nữa. Vì sao? Vì đồ đựng này bị hư. Nếu có chúng sinh căn cơ không thuần thục thì cũng như vậy, giống như tướng của bình kia. Này thiện nam! Ví như người mù trước mặt hiện ra vô số loại báu, như người không có trí tuệ kiêu mạn, buông lung, cho đến theo đoạn kiến, nếu chỉ bày về Đại thừa rộng lớn cũng như vậy, không thể hiểu biết được. Ví như có người thân hình hôi hám, tuy đem các loại hương trầm thủy chiên-đàn, vô số dầu thoa thân cũng không thể nào làm thơm tho được. Không siêng năng mong cầu thừa Thanh văn và Bích-chi-phật cũng như vậy, không đoạn dứt nghiệp xấu ác cho đến tà kiến, nếu đem dầu thơm của Đại thừa thoa lên cũng không thể thơm được. Ví như đám ruộng khô, tuy gieo trồng hạt giống tốt nhưng không bao giờ mọc. Như vậy, không thể siêng năng mong cầu thừa Thanh văn và Bích-chi-phật, đối với năm dục ấy không sinh nhàm chán, người như vậy nếu đem pháp Đại thừa giảng nói cho họ thì không thể thành tựu. Ví như bình đựng thuốc độc, lấy đựng ít mật thì không dám uống. Nếu không thể tu tập theo thừa Thanh văn và Bích-chi-phật, cho đến Đại thừa, người cho là không có nhân quả, nếu muốn giảng nói kinh điển Đại thừa thì không thể làm cho người ấy lãnh hội và tu học. Như vậy, không thể tin hiểu thọ dụng, giống như bình thuốc độc đựng một ít mật. Không gánh vác được pháp khí của thừa Thanh văn và Bích-chi-phật cũng như vậy, mà nêm được mùi vị Đại thừa thì nên biết hai điều này không thể có, cũng như trước mặt người điên có đàn không, hầu, đàn tranh, ống sáo, trống, kèn, tấu các thứ âm nhạc thì cũng không thể nhận biết. Không thể siêng năng mong cầu thừa Thanh văn và Bích-chi-phật cũng như vậy, có nhiều tham dục, giận dữ, ngu si, thậm chí đối với thừa Thanh văn căn không thuần thục, nếu giảng nói pháp Đại thừa tất cũng không thể hiểu. Ví như người không mặc áo giáp mà xông vào chiến trận, sau khi đã vào rồi thì chắc chắn sẽ bị vô lượng khổ não. Không siêng năng mong cầu thừa Thanh văn và Bích-chi-phật cũng như vậy. Căn không thuần thục, nếu hiển bày Đại thừa thì cũng như thế, chắc chắn sẽ bị vô lượng khổ não. Cho nên, này thiện nam! Người có trí, trước hết quán sát chúng sinh và sau đó mới giảng nói giáo pháp nên đem tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả, đem tâm lợi ích, tâm không biếng nhác, đem tâm nhẫn nhục, tâm không buông lung, kiêu mạn, tâm không ganh ghét, tâm không tham tiếc, dùng tâm tu thiền định giảng nói giáo pháp cho người, cũng không làm cho người khác rơi vào nẻo ác, không có tâm như vậy. Vì thế Đức Như Lai có thể nhận biết tâm của người khác, cứu vớt chúng sinh, tùy theo luân ấy mà giảng nói giáo pháp, dùng sự trang nghiêm lớn để tự trang nghiêm. Nếu vì Đại Bồ-tát giảng nói giáo pháp, thường dùng Đại Bi làm nhân duyên, để dứt trừ tất cả kết sử của chúng sinh mà giảng nói giáo pháp, vượt khỏi biển cả sinh tử, đối với ba thừa đều khiến thành tựu được Nhất thừa mà giảng nói giáo pháp, hoàn toàn không muốn họ rơi vào sinh tử nên giảng nói giáo pháp, phân biệt năm ấm mà giảng nói giáo pháp, phân biệt sáu nhập mà giảng nói giáo pháp, phân biệt mười tám giới mà giảng nói giáo pháp, phân biệt con đường của Dục giới mà giảng nói giáo pháp, phân biệt con đường của Sắc giới và Vô Sắc giới mà giảng nói giáo pháp. Không vì đời này có, chẳng vì đời sau có, không vì thực hành có, không vì tâm tưởng có, không vì tâm hành có, không vì tâm suy nghó có, không vì vô minh có, cho đến không vì sinh, già, bệnh, chết có, không vì chúng sinh hành, vô hành mà giảng nói giáo pháp, cho đến hành và phi hành đều tịch tónh mà giảng nói giáo pháp, tất cả tưởng không sinh mà giảng nói giáo pháp. Thế nào gọi là hành? Hành nghĩa là chết chỗ này sinh chỗ kia. Nếu có thể che lấp chỗ sinh tử này gọi là diệt hành, là phi hành. Thế nào gọi là luân? Như ngọc báu Như ý có thể thâu giữ tất cả, chiếu khắp hư không, vượt qua các cõi nước. Quán sát các hành sinh diệt của thế gian, giống như huyễn hóa, không cùng với hàng Thanh văn và Bích-chi-phật, cho nên gọi là đoạn dứt tất cả hành luân. Thế nên, này thiện nam! Như Lai dùng tướng như vậy, vì các chúng sinh giảng nói vô số giáo pháp, cũng như hư không, không có phân biệt, cùng với vô lượng Tam-muội tự tại, hiện bày diệu dụng mà giảng nói giáo pháp. Bồ-tát dùng sự trang nghiêm lớn để tự trang nghiêm như thế, vì các chúng sinh giảng nói, sắc chẳng phải là không, xa lìa sắc cũng chẳng phải là không, cho đến thức chẳng phải là không, xa lìa thức cũng chẳng phải là không. Nhãn chẳng phải là không, xa lìa nhãn cũng chẳng phải là không. Cho đến ý chẳng phải là không, xa lìa ý cũng chẳng phải là không. Nhãn thức chẳng phải là không, xa lìa nhãn thức cũng chẳng phải là không. Ý thức chẳng phải là không, xa lìa ý thức cũng chẳng phải là không. Không vô biên xứ chẳng phải là không, xa lìa không vô biên xứ cũng chẳng phải là không. Thức vô biên xứ chẳng phải là không, xa lìa Thức vô biên xứ cũng chẳng phải là không. Vô sở hữu xứ chẳng phải là không, xa lìa Vô sở hữu xứ cũng chẳng phải là không. Phi tưởng phi phi tưởng xứ chẳng phải là không, xa lìa Phi tưởng phi phi tưởng xứ cũng chẳng phải là không. Bốn niệm xứ chẳng phải là không, xa lìa bốn Niệm xứ cũng chẳng phải là không. Đạo chẳng phải là không, xa lìa đạo cũng chẳng phải là không. Mười hai nhân duyên, ba pháp không phòng hộ, mười Lực, bốn Vô sở úy, mười tám pháp Bất cộng, đại Từ, Đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, cho đến Niết-bàn cũng chẳng phải là không, xa lìa Niết-bàn cũng chẳng phải là không. Đó gọi là tính, tướng quyết định của nghĩa lý chân thật theo trung đạo của Như Lai. Vì các chúng sinh khác mà phân biệt giảng nói các hành không sinh, nắm giữ chính pháp đầy khắp hư không, cho đến vô lượng thiền định, tất cả pháp tướng đều như ánh sáng của mặt trời soi chiếu rõ ràng, làm cho hội nhập vào ba thừa, chứng đắc Niết-bàn, khiến được giải thoát. Đại Bồ-tát giảng nói pháp như vậy, đã làm lợi ích bậc nhất cho chúng sinh, xét kỹ giáo pháp sâu xa này rồi, theo ý mong muốn ở trong ba thừa, tùy thuận tu tập vô số căn lành, được an trụ vào Nhất thừa, cũng không khiến tăng trưởng các pháp bất thiện, hành ấy kiên cố, không thoái lui nơi Niết-bàn. Đại Bồ-tát vì đoạn dứt vô lượng kiếp khổ sinh tử mà giảng nói giáo pháp, vì chúng sinh nương vào hàng Thanh văn và Bích-chi-phật, làm cho họ vượt qua bốn dòng chảy sinh tử. Đại Bồ-tát vì đoạn dứt bốn dòng chảy sinh tử cho tất cả chúng sinh mà giảng nói giáo pháp. Thừa Thanh văn và Bích-chi-phật chỉ vì đoạn dứt bốn dòng chảy sinh tử của mình mà giảng nói giáo pháp. Đại Bồ-tát vì đoạn dứt bệnh phiền não cho chúng sinh, nên giảng nói giáo pháp. Hàng Thanh văn, Duyên giác vì đoạn dứt phiền não của mình nên giảng nói giáo pháp. Đại Bồ-tát vì đoạn dứt sạch mọi nghiệp phiền não tập sử của chúng sinh mà giảng nói giáo pháp. Hàng Thanh văn, Duyên giác tuy đoạn dứt phiền não tập hữu chưa rốt ráo nhưng cũng giảng nói giáo pháp. Đại Bồ-tát vì làm cho các chúng sinh đạt được quả báo của Đại Bi, nên giảng nói giáo pháp. Hàng Thanh văn, Duyên giác xa lìa Đại Bi mà giảng nói giáo pháp. Đại Bồ-tát vì thương xót các chúng sinh mà giảng nói giáo pháp. Hàng Thanh văn, Duyên giác tuy giảng nói giáo pháp nhưng không có tâm thương xót, làm lợi ích. Đại Bồ-tát vì diệt trừ các khổ não độc hại của chúng sinh, nên giảng nói giáo pháp. Hàng Thanh văn, Duyên giác chỉ diệt được khổ của mình mà giảng nói giáo pháp. Đại Bồ-tát vì làm viên mãn tất cả pháp vị mà giảng nói giáo pháp. Hàng Thanh văn, Duyên giác tự làm viên mãn pháp của mình mà giảng nói giáo pháp. Đại Bồ-tát vì tất cả chúng sinh được pháp chiếu sáng, thành tựu được ánh sáng lớn, nên giảng nói giáo pháp. Hàng Thanh văn, Duyên giác chỉ vì tự được chỗ chiếu sáng của giáo pháp, không vì chúng sinh giảng nói pháp tướng. Này thiện nam! Đó gọi là nói sơ lược, diệt trừ tất cả vô minh, tối tăm lớn, đạt được ánh sáng lớn, vì muốn thành tựu Nhất thiết chủng trí, thảy đều giác ngộ, cho đến vì phân biệt nói pháp cho người khác. Hàng Thanh văn, Duyên giác vì muốn diệt vô minh ám chướng của mình, tự chiếu sáng bên trong mà đạt được giác ngộ. Này thiện nam! Hàng Thanh văn, Duyên giác không vì chúng sinh mà sinh chán ghét điều ác, không vì thương xót mà cứu giúp độ thoát cho người khác, không phải đối với người khác làm cho họ được danh tiếng, tuyên dương, tán thán, không thích người khác sinh tâm dua nịnh, chỉ tự giữ mình, không giữ đối với người khác, không làm cho tất cả chúng sinh an lạc. Hàng Thanh văn, Duyên giác nếu thấy người khác có lỗi lầm vi tế, tất biết chắc phát khởi tội nơi thân, khẩu và ý nghiệp. Này thiện nam! Đại Bồ-tát an trụ vào Đại thừa, đều thương xót cứu giúp hết thảy mọi người, thậm chí không thấy lỗi lầm nơi thân, khẩu và ý nghiệp của chúng sinh. Này thiện nam! Nếu có chúng sinh miệng phát ra lời thô ác, ngu si tự cho là trí tuệ, thậm chí không xa lìa tà kiến, vì mong cầu lợi dưỡng của người khác mà sinh tâm chán ghét, tham đắm chấp vướng, khen ngợi mình mà khinh chê người khác, không thể giữ gìn thân, miệng và ý nghiệp, tâm luôn nghó ác không có thương xót, ưa thích não loạn, chọn lựa ruộng phước. Hoặc có người nương theo giáo pháp của ta mà xuất gia, không thấy lỗi mình, chê bai mạ lî, tâm luôn tán loạn, không tự xét mình, luôn nhớ nghó chê trách lỗi lầm của người khác. Đối với người Đại thừa, tuy sinh nguyện vui vẻ, nhưng tâm không tịch tónh, tâm dấy khởi điều xấu ác, luôn xa lìa mọi người, tự khen ngợi lời nói của mình đã phát ra: Mình là Đại thừa, cũng chỉ dạy người khác đọc tụng, nhằm chỉ tự khen ngợi mình, chẳng chê bai người khác. Do vì nghĩa này nên khen ngợi Đại thừa, không tự điều phục mình, đối với đạo Đại thừa, nhằm chỉ dạy người khác tu hành Đại thừa, liền nói: Mình là Đại thừa. Ví như luật sư hành theo điều ác mà chỉ dạy mọi người, nói dua nịnh như thế, khó đạt được thân người, cũng bỏ mất thừa Thanh văn và Bích-chi-phật, luôn hướng đến nẻo xấu ác, không muốn gần gũi các bậc trí thức, vì ca ngợi lời này, tạo tiếng gầm của sư tử: Ta là Đại thừa. Này thiện nam! Ví như da sư tử đắp trên lừa, tự cho là sư tử, có người đứng ở xa nhìn thấy cũng gọi là sư tử. Khi lừa chưa cất tiếng kêu thì không thể phân biệt, khi đã phát ra tiếng rồi thì dù xa hay gần đều nhận biết được đó chẳng phải là sư tử thật. Những người nhìn thấy đều cho: Con lừa xấu ác này chẳng phải là sư tử. Nay những điều ta đã giảng nói cũng đều giống như vậy. Nếu tạo mười điều ác thì đốt cháy, diệt hết hạt giống của con người, chẳng phải là pháp khí của hàng Thanh văn và Bích-chi-phật, nên phá hoại hạt giống, ngu si dối gạt, nói với người khác ta là Đại thừa. Này thiện nam! Ví như có người không có tay chân mà muốn ra chiến trận thì không thể thực hiện được. Người phá giới cũng như vậy, muốn chiến đấu cùng với kết sử phiền não, ta nói người này hoàn toàn không có quả báo. Người hủy phạm giới cấm, làm việc ác, ở bất cứ nơi nào cũng không thành tựu được pháp khí. Nếu tự nói ta là Đại thừa, có thể phá trừ nơi trận chiến lớn là phiền não của tất cả chúng sinh, cũng làm cho chúng sinh an trụ vào tám con đường chân chính, hội nhập vào thành vô úy, là điều không thể có. Vì sao? Vì nếu có chúng sinh oai nghi thanh tịnh, hổ thẹn biết đủ, lo sợ đời sau, xa lìa tất cả các pháp bất thiện, ưa thích tất cả các công đức thiện, đối với chúng sinh luôn khởi tâm Đại Bi, cũng có thể cứu vớt tất cả khổ não nguy khốn, cứu giúp các sự sợ hãi nơi sinh tử của chúng sinh, không vướng vào sự vui vẻ của mình và sự vui vẻ của người khác, thường siêng năng tinh tấn, chuyên nhớ nghó không xả bỏ, tâm ưa thích thiền định, dứt trừ sự dua nịnh, tà hoặc, luống dối, nhận biết được nghiệp và quả báo của nghiệp một cách hoàn hảo, không đắm nơi năm dục, tám pháp của thế gian đều không nhiễm vướng, ưa thích quán sát-năm ấm, mười tám giới, như cứu lửa đang cháy trên đầu, như cứu lửa đang cháy y phục, an trụ vào hạt giống của Thanh văn, có tướng như vậy thì gọi là thừa Thanh văn, đối với Đại thừa đã không kham nhận gánh vác. Thừa Bích-chi-phật lại có tướng gì? Nếu người đầy đủ pháp cam lồ thượng vị thì có thể luôn quán sát sự thọ nhận các tướng của năm ấm sinh diệt, quán rõ các pháp đều do nhân duyên sinh, cũng nhận biết là tướng diệt, người như vậy thì không thể gánh vác được Đại thừa, cũng không thể thành tựu được pháp khí của Đại thừa. Bấy giờ, Đức Như Lai nhằm lập lại ý nghĩa này nên nói kệ: Sát-lợi nương mười loại Bà-la-môn, Thủ-đà Nếu tu hạnh chân thiện Gánh pháp khí Thanh văn. Và thừa Bích-chi-phật Ba nghiệp đều thanh tịnh Chế ngự nơi các căn Nói ra lời hòa nhã. Quán sát rõ các ấm Giới, nhập cũng như vậy Ưa thích nơi thanh vắng Trí tuệ quán nhân duyên. Luôn thâu giữ các căn Nương tựa mười luân ấy Các quả không hủy hoại Là gánh vác pháp khí. Nghó vượt qua biển Hữu Thực hành theo ba luân Không nương theo kết sử Gần pháp môn giải thoát. Không trụ pháp Đại thừa Không đủ luân lớn, vượt Chẳng siêng cầu Đại thừa Những người căn thấp kém. Nếu có người ngu si Luôn ôm tâm biếng nhác Là chẳng phải Đại thừa Không kham nhận pháp lớn. Một mình cầu giải thoát Si, nịnh, không thương xót Thường hành theo đoạn kiến Người ấy đến đường ác. Xả bỏ hết chính pháp Mà giảng nói phi pháp Đoạn ngăn đạo ba thừa Bỏ giới, ái dục đủ. Não hại pháp Hiền thánh Vì ném áo ca-sa Chê bai và phỉ báng Tự hủy hoại thân mình. Vì muốn sửa thân người Không bịt miệng mà chết Thường gặp được chư Phật Hiển bày pháp ba thừa. Muốn hưng thịnh ba thừa Và cùng người phân biệt Hoan hỷ mà hiển bày Tất thành Phật không nghi. Phá giới mà ganh ghét Khen mình, chê người khác Bậc trí đã xả bỏ Đạt Phật, ba cõi quý. Thuyết pháp theo tâm Bi Thuận theo tâm ưa thích Nêu bày đủ ba thừa Tất thành Phật không nghi. Thuyết pháp như hư không Tâm đều không chỗ nương Ấm, giới, nhập đều không Không nghi sẽ thành Phật. Hung ác ưa phá giới Nếu nghe khen Đại thừa Dối xưng là Bồ-tát Lừa đội lớp sư tử. Ta nói cho đại chúng Muốn chứng đắc Bồ-tát Giữ gìn mười điều thiện Chớ hủy hoại pháp ta. Ta nói nơi kinh khác Hạnh Bồ-đề đệ nhất Lìa Thanh văn, Duyên giác Nói chúng sinh thanh tịnh. Từng cúng dường ức Phật Diệt tâm ác, giải thoát Ta đã nghe điều ấy Chỉ một thừa không hai. Nói cho chúng ba thừa Có người trụ Thanh văn Tâm tạo nhiều phiền não Không gánh vác pháp khí. Đã trụ vào Duyên giác Ngu tối nơi thắng pháp Không gánh pháp Đại thừa Tùy thuận chỗ muốn nói. Khổ hạnh nghe giải thoát Bị đọa vào đường ác Lạnh nhiều mà uống sữa Trọn không thể hết bệnh. Pháp Thanh văn cũng vậy Tâm cuồng nói đoạn kiến Trước nên quán sát kỹ Sau đó mới nói pháp. Đức Thế Tôn nói kệ rồi, ở trong đại chúng có vô lượng trăm ngàn người, phần nhiều là chúng sinh hoàn toàn loạn tâm, đoạn trừ căn lành, nói không có nhân quả, hướng đến nẻo ác, nay chứng được chính kiến, ở trước Đức Thế Tôn tỏ bày tâm ăn năn, sám hối, bạch Đức Phật: –Chúng con ở trong giáo pháp của Như Lai, tu tập lâu nơi thừa Thanh văn, gieo trồng các căn lành, nhưng không thành tựu được pháp khí Thanh văn, rồi lại mong cầu thừa Bích-chi-phật, ngu si không hiểu rõ, dấy khởi đoạn kiến, thọ chịu vô lượng tội. Hôm nay chúng con đều ở trước Đức Thế Tôn, thành tâm tỏ bày ăn năn, nguyện xin Thế Tôn thương xót nhận lời sám hối của chúng con, dứt sạch nguồn gốc của tội lỗi, không còn thọ nhận quả báo xấu ác, trở lại tu tập căn lành, mong cầu thừa Thanh văn. Đức Phật khen: –Lành thay, lành thay! Này thiện nam! Các ông có thể phát lồ, thành tâm tỏ bày ăn năn, ở trong pháp của ta đã nói: Có hai hạng người đạt được không phạm tội: Một là vốn không làm điều ác. Hai là làm ác rồi lại tỏ bày ăn năn. Hai hạng người này đều được thanh tịnh. Khi ấy, Đức Thế Tôn vì vô lượng trăm ngàn chúng sinh, thuận theo tâm họ mà giảng nói pháp Tứ thánh đế, có người đạt được pháp nhẫn, có người đạt được pháp đệ nhất thế gian, đạt được quả Tu-đà-hoàn, đạt được quả Tư-đà-hàm, đạt được quả A-na-hàm. Lại có tám vạn bốn ngàn Tỳ-kheo không còn thọ nhận các pháp, lậu được dứt sạch, tâm đã giải thoát, chứng đắc quả A-la-hán. Bấy giờ, trong chúng hội lại có bảy mươi lăm vô số trăm ngàn người rơi vào đoạn kiến, dứt các căn lành, hướng đến nẻo xấu ác, được trở lại với chính kiến, đều ở trước Đức Phật tự mình quy y phát lồ, thành tâm hối cải, thưa như vầy: –Chúng con vốn đã gieo trồng nhân duyên nơi Bích-chi-phật, nhưng không thể thành tựu, hôm nay lãnh hội được pháp Đại thừa, sinh tâm vui mừng, chúng con do ngu si đã dấy khởi đoạn kiến, cho không có nhân quả, do nhân duyên ấy đã tạo tác vô lượng nghiệp nơi thân, khẩu, ý và các nghiệp xấu ác khác, vì vậy nên trong nhiều kiếp, thường bị đọa vào đường dữ, thọ nhận vô lượng khổ đau. Hôm nay trước Đức Thế Tôn, đều bày tỏ chí tâm ăn năn, không dám che giấu, vì muốn được đầy đủ thừa Duyên giác, thuận theo tâm ấy, giảng nói chứng đắc Tam-muội ánh sáng, không còn thoái chuyển nơi thừa Bích-chi-phật. Lúc này, trong chúng hội lại có tám mươi na-do-tha trăm ngàn chúng sinh, lưỡi không thể nói, vì ở trong quá khứ đã phỉ báng vô lượng hằng hà sa chư Phật giảng nói chính pháp, cho đến phỉ báng chỉ một câu hoặc một bài kệ, do nghiệp tạo tội lỗi ấy nên không thể tỏ bày ăn năn, nhờ thần lực của Đức Phật khiến hôm nay đều có thể nói được. Đức Thế Tôn nhận biết như vậy nên hỏi: –Đời trước các ông đã tạo nghiệp ác gì, nay ở trong chúng hội này, miệng không thể nói được? Đáp: –Chúng con đã ở trong giáo pháp của Đức Phật Tỳ-bà-thi nơi quá khứ, phỉ báng Đại thừa, hoặc có lúc phỉ báng thừa Thanh văn, hoặc còn phỉ báng thừa Bích-chi-phật, do nhân duyên nơi tội báo của các nghiệp chướng ấy, nên ở trong chín mươi mốt kiếp bị đọa vào sinh tử, luôn ở nơi địa ngục, cùng thọ thân ngạ quỷ, miệng không thể nói, nhận chịu khổ não lớn. Từ xưa đến nay, làm được thân người là nhờ thần lực của Phật, hiện giờ nói được, đều nhờ thần lực của Phật, nên đạt được trí túc mạng, có thể nhận biết được tất cả nhân duyên của nghiệp ác đã tạo ở quá khứ. Có người nói ở chỗ Đức Phật Thi-khí, Đức Phật Tùy Diệp, Đức Phật Câu-lưu-tôn, Đức Phật Câu-na-hàm Mâu-ni, Đức Phật Ca-diếp, phỉ báng chính pháp, cho đến chỉ một câu hay một bài kệ. Đều nhờ thần lực của Phật nên nhận biết tất cả nghiệp chướng xấu ác đã gây tạo ở quá khứ thảy đều rõ ràng. Bấy giờ, trong chúng hội có vô lượng trăm ngàn Thanh văn, vô lượng trăm ngàn Đại Bồ-tát, từ nơi tòa ngồi đứng dậy, đến trước Đức Phật tỏ bày ăn năn: –Chúng con đều ở trong vô lượng giáo pháp của chư Phật nơi quá khứ, hoặc gánh vác pháp khí và không gánh vác pháp khí, các chúng Thanh văn phần nhiều sinh khởi quở trách, tự chê bai, khinh thường, phỉ báng, tăng thêm điều ác, ngăn chận điều thiện, do nghiệp chướng này nên bị đọa vào ba đường ác, chịu đủ mọi sự thống khổ. Tuy đã cúng dường chư Phật quá khứ và chúng Đại Bồ-tát, thậm chí tỏ bày hối cải, thọ giữ giới cấm, lãnh hội được pháp Phật, tự học hỏi lời dạy của người khác, nhưng do nghiệp chướng phỉ báng còn sót lại nên không thể đạt đến Niết-bàn tịch tónh và thiền định an ổn, vì nhân duyên tội lỗi như vậy, hôm nay hướng về Đức Thế Tôn, tự quy y, phát lồ thành tâm sám hối. Lại nói như vầy: –Chúng con đối với các đệ tử Thanh văn của Như Lai, chiếm đoạt tài sản, sự nghiệp và các thức ăn uống, hoặc giam nhốt vào lao ngục, do nghiệp này nên bị đọa vào trong ba đường ác, chịu khổ não lớn, chúng con tuy ở trước chư Phật Thế Tôn và Đại Bồ-tát nơi quá khứ, tỏ bày ăn năn, thọ giữ đọc tụng vô số giới cấm, song do nhân duyên của nghiệp chướng còn sót lại nên không thể đạt được Niết-bàn vắng lặng và thiền định an lạc. Hôm nay, ở trước Đức Thế Tôn, ăn năn bày tỏ tất cả nghiệp còn lại và vô lượng tội chướng, nguyện xin Thế Tôn nhận lời sám hối của chúng con, dứt trừ tất cả khổ não nơi ba đường ác, từ nay về sau nguyện được thần lực của Phật gia hộ khiến chúng con được tùy ý ưa thích không chướng ngại, chứng đắc Niết-bàn và thiền định an lạc. Đức Thế Tôn bảo các Thanh văn và Đại Bồ-tát: –Đây là nghiệp chướng nơi năm tội nghịch còn sót lại nhưng chỉ có tên gọi, không có pháp chân thật, đều do não loạn đệ tử Thanh văn, có thể sinh tội nặng. Vì sao? Vì các Tỳ-kheo xấu ác này phá hủy giới cấm, vẫn có thể làm cho vô lượng trăm ngàn na-do-tha người khác được kho tàng châu báu lớn. Huống chi là đối với người giữ gìn giới thanh tịnh làm hưng khởi ba ngôi báu, lại phát sinh não loạn, đó gọi là đoạn tuyệt hạt giống Tam bảo, gây tạo đủ nghiệp xấu ác, cũng gọi là hủy hoại tất cả Pháp nhãn của chúng sinh và chê bai chính pháp của Phật. Nếu thấy người nào nương theo ta xuất gia để não loạn, là nghiệp chướng hơn các tội nghịch. Hôm nay, ta đem tâm Từ bi thương xót các ông, nghiệp chướng như vậy hãy lắng nghe mà sám hối, vónh viễn dứt hết không còn. Ở trong Hiền kiếp có một ngàn Đức Phật ra đời, các ông ở chỗ ấy cũng đều tỏ bày sám hối, hoàn toàn không dấy khởi phỉ báng chính pháp, Đức Phật sau cùng, hiệu là Lâu-chí Như Lai, Ứng Cúng, Chí Chân Đẳng chính Giác, các ông ở nơi Đức Phật ấy thảy đều tỏ bày sám hối tất cả tội chướng hoàn toàn diệt hết. Khi ấy, các Bồ-tát và đại Thanh văn đều cùng nhau bạch Phật: –Kính thưa Thế Tôn! Chúng con xin y theo lời dạy tu hành, chúng con ở trong Hiền kiếp dù bị đọa vào ba đường ác và địa ngục A-tỳ, chịu vô số khổ não vẫn có thể kham chịu được, huống chi là ở chỗ Như Lai Lâu-chí ấy. Hôm nay chúng con sám hối khiến đạt được chính kiến, hiểu rõ các tà kiến, các tội nghiệp chướng đều tiêu trừ hết. Khi ấy, Đức Thế Tôn khen ngợi các Thanh văn và Đại Bồ-tát: –Lành thay, lành thay! Các ông có thể dũng mãnh tinh tấn như vậy, làm cho nghiệp xấu ác đời trước đều tiêu trừ hết, có thể phát sinh tin hiểu bậc nhất, cung kính gặp được chư Phật, chứng đắc các Tam-muội, trừ bỏ kết sử, đạt quả A-la-hán. Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Đại Bồ-tát Kim Cang Tạng: –Này thiện nam! Ta dùng Phật nhãn quán sát thấy rõ, vô lượng, vô số a-tăng-kỳ trăm ngàn na-do-tha chúng sinh, Sát-lợi Chiên-đà-la, thậm chí nam nữ Chiên-đà-la, ở đời vị lai, ít gieo trồng căn lành mà đạt được thân người, bị tri thức ác phá hoại, đối với giáo pháp sâu xa không sinh tin hiểu ưa thích, phần nhiều khởi tâm chê bai ở nơi giáo pháp sáng tỏ gồm đủ thừa Thanh văn và Bích-chi-phật, đã ngăn đoạn hoặc còn ngăn đoạn cả pháp Đại thừa, đối với đệ tử Thanh văn của ta, thành tựu pháp khí hay không thành tựu pháp khí, như trên đã nói. Do ngu si tự cho là trí tuệ, cho nên hoàn toàn chìm mất, vô số trăm ngàn kiếp ở trong địa ngục chịu vô lượng khổ như trước đã nói. Những người ấy tuy đạt được thân người, thà thọ nhận những tội lớn nơi địa ngục A-tỳ, quyết không thọ thân người lại phỉ báng chính pháp này. Vì sao? Vì thuận theo tri thức ác, kiêu mạn, buông lung, luôn tạo những nghiệp ác như vậy, hoàn toàn không vượt qua được dòng chảy của sinh tử đến bờ bên kia, trôi nổi nơi bốn dòng, thọ chịu khổ não lớn. Ngay khi ấy có bậc đại trí rơi lệ, nói như vầy: –Xem xét các chúng sinh khó đạt được thân người, vì xa lìa lòng tin và thệ nguyện lớn, xa rời tâm, tướng, lìa chính kiến, lìa bậc Thiện tri thức, lìa thời cơ, lìa xứ sở, xa lìa trì giới, thiền định, trí tuệ, những chúng sinh như vậy do ngu si nên kiêu mạn, tự buông lung, do chê bai hủy hoại giáo pháp của Phật như thế, như trên đã nói. Bạch Thế Tôn! Ngày hôm nay con ở trước Đức Phật, phát thệ nguyện, chúng con tuy ở nơi sinh tử cũng không hủy hoại chính pháp, nguyện ở trong giáo pháp của chư Phật vào đời vị lai không làm đoạn mất Tam bảo. Bấy giờ, có Đại só trí tuệ sáng suốt, từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay phát lời thề: –Chúng con tuy ở nơi sinh tử không đạt được pháp nhẫn, từ nay trở đi, trong thời gian ấy nguyện không thọ thân, không làm phụ tá, quan lớn, thậm chí làm chủ nơi làng xóm, thành ấp… không làm quốc sư ở trong quân đội treo cờ tướng soái suốt đêm ngày, không làm chủ cúng tế của khách thương buôn bán, không làm cư só, không làm thứ dân, không làm gián đoạn mọi việc, hoặc không đạt được pháp nhẫn, không ở chỗ chúng sinh tự tại, nếu làm những việc này thì đối với pháp của Phật gọi là nhân duyên nặng, chắc chắn sẽ bị đọa vào địa ngục A-tỳ. Tất cả đại chúng, Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân đều rơi lệ, bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Chúng con trước đây đã ở trong sinh tử tạo mọi nghiệp xấu ác, hoặc thân nghiệp, hoặc khẩu nghiệp, hoặc ý nghiệp, nhiều chỗ đã tạo tác, hoặc tùy hỷ. Hôm nay, trước Đức Phật, đều xin tỏ bày hết thảy, ăn năn dứt trừ không dám làm nữa, đến lần thứ hai, lần thứ ba cũng như vậy, không trở lại nơi sinh tử, thuận theo tri thức thiện, cũng nguyện cho thân của chúng con không tạo nghiệp xấu ác như trên đã nói. Khi ấy, Đức Phật bảo các đại chúng: –Lành thay, lành thay! Này thiện nam! Các vị có thể lo sợ nơi đời sau muốn vượt qua các dòng khổ sinh tử nhằm hội nhập vào thành lớn Niết-bàn vô úy, nên phát thệ nguyện này. Này thiện nam! Đầy đủ mười pháp thì thành tựu được pháp nhẫn không nhiễm đắm. Này thiện nam! Đại Bồ-tát không chấp thân bên trong, không chấp thân bên ngoài, không chấp thân trong ngoài, không chấp thân ở quá khứ, hiện tại, vị lai, đó gọi là Bồ-tát bắt đầu đạt được pháp Nhẫn vô sinh. Lại nữa, không chấp thọ thân bên trong, không chấp thọ thân bên ngoài, không chấp thọ thân trong ngoài, không chấp thọ thân ở quá khứ, hiện tại, vị lai, thậm chí không chấp tưởng, hành không chấp thức bên trong, không chấp thức bên ngoài, không chấp thức trong ngoài, không chấp thức ở quá khứ, hiện tại, vị lai, không chấp đời trước, không chấp đời này, không chấp đời sau, không chấp cõi Sắc, không chấp cõi Vô sắc, đó gọi là Đại Bồ-tát thành tựu đầy đủ mười pháp đạt được pháp Nhẫn vô sinh. Nếu có thể như vậy thì đúng với pháp Đức Như Lai đã giảng nói. Ngay khi ấy, có bảy mươi hai ức na-do-tha trăm ngàn Bồ-tát chứng đắc pháp Nhẫn vô sinh, có tám vạn bốn ngàn na-do-tha Bồ-tát đều đạt được thuận nhẫn, vô lượng na-do-tha trăm ngàn Thanh văn đoạn dứt các kiết lậu, chứng được A-la-hán, có vô lượng na-do-tha trăm ngàn chúng sinh chưa phát tâm Bồ-đề nay đều phát tâm, lại có vô lượng chúng sinh cũng được phát tâm cầu đạt quả vị Bích-chi-phật. Bấy giờ, Đức Phật bảo Bồ-tát Kim Cang Tạng: –Có chúng sinh nào thành tựu được pháp nhẫn thì được ngôi vị của Chuyển luân thánh vương, thọ pháp quán đảnh, sẽ có được thức ăn uống, vô lượng của cải và sự nghiệp, ngoài ra những chúng sinh khác không đạt được pháp nhẫn, cũng không thể đạt được ngôi vị của Chuyển luân thánh vương thọ pháp quán đảnh. Bồ-tát Kim Cang Tạng bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Làm vua Sát-lợi thọ pháp quán đảnh, không đạt được pháp nhẫn, làm sao có được thức ăn uống, tài sản và sự nghiệp? Đức Phật bảo: –Vua thọ pháp quán đảnh, tuy không đạt được pháp nhẫn mà có thể thành tựu được mười điều thiện, ta cũng thọ ký làm quốc chủ, được thức ăn uống, tài sản, sự nghiệp, tùy ý tự tại. Này thiện nam! Vua Sát-lợi thọ pháp quán đảnh, nếu không đạt được pháp nhẫn, lại không tu tập đầy đủ mười điều thiện thì gọi là Sát-lợi Chiên-đà-la, ngu si như vậy sẽ hủy phá pháp Phật sâu xa, đoạn dứt dòng Tam bảo, làm nhiễu loạn đệ tử Thanh văn, cũng làm vô lượng, vô số cách giáng chức xử phạt để chiếm đoạt tài vật cơ nghiệp, phỉ báng pháp lành, tâm che giấu, không dám hiện bày, hoặc đoạt lấy vật của chùa chiền, hoặc vật của Tăng chúng, người như vậy đều hướng đến địa ngục A-tỳ. Bồ-tát Kim Cang Tạng bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Nếu vua Sát-lợi thọ pháp quán đảnh không đạt được pháp nhẫn, lại không tu tập đầy đủ mười điều thiện chắc chắn sẽ không tránh được đường ác chăng? Đức Phật bảo: –Giả sử vua dòng Sát-lợi thọ pháp quán đảnh không đạt được pháp nhẫn, lại không tu tập mười điều thiện, có thể thành tựu được tín lực, quy y Tam bảo, không phỉ báng chính pháp, thậm chí một câu hay một bài kệ cũng không làm nhiễu loạn đệ tử Thanh văn, người giữ giới thanh tịnh có đức, không trộm lấy vật của Đức Phật và vật của chúng Tăng. Nếu thấy có người nhiễu loạn Tỳ-kheo như vậy, lại còn chiếm đoạt vật của Phật và vật của chúng Tăng, có thể ngăn cản khiến không xâm chiếm, luôn lãnh thọ thuận theo pháp chân thật, đối với Tam bảo luôn cúng dường, gần gũi, người này quán Tỳ-kheo thanh tịnh đạt được nguyện kiên cố, đối với tâm Đại thừa không nghi ngờ, cũng có thể thành tựu được Đại thừa nơi chúng sinh, cũng lập vững lòng tin chính pháp nơi Đại thừa. Vua Sát-lợi thọ pháp quán đảnh như vậy, đời trước đã ở chỗ các Đức Như Lai, ở nơi thành ấp ấy được nhiều của cải, ta cũng biết không thể rơi vào đường ác, nếu muốn mong cầu, diệt trừ tất cả điều ác, nên tu hành chính pháp như thế, dù ở đời quá khứ đã tạo tác nghiệp ác thảy đều diệt hết. KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG THẬP LUÂN <卷 id="117270416">Quyển 7 <詞 id="117270417">Phẩm 9: Xa lìa sự ganh ghét Bấy giờ, Bồ-tát Kim Cang Tạng bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát đối với thừa Thanh văn và Bích-chi-phật không sinh nghi, ghét? Đối với các Bồ-tát khác cũng không sinh xem thường? Thế nào là ở trong chúng Thanh văn của Như Lai thành tựu pháp khí hay không thành tựu pháp khí, đều không chê trách, đối với Đại thừa luôn tu hành hoàn hảo? Làm thế nào để đạt được trí tuệ sáng suốt, đạt tất cả Tam-muội, các Đà-la-ni và các địa nhẫn? Làm thế nào đạt được pháp tăng tiến không thoái lui? Làm thế nào luôn đạt được tri thức thiện? Làm thế nào không xa lìa giáo pháp của Phật, cúng dường chúng Tăng và các Bồ-tát? Làm thế nào đối với căn lành không sinh nhàm chán? Đối với hạnh nguyện của Bồ-tát làm thế nào để không hề chán đủ? Đức Phật bảo Bồ-tát Kim Cang Tạng: –Này thiện nam! Đại Bồ-tát có mười loại luân. Nếu có thể thành tựu được các luân như vậy thì đối với thừa Thanh văn và Bích-chi-phật đều không xem thường, cho đến đối với thừa Bồ-tát cũng không xem thường. Nếu ở trong chúng Thanh văn của Như Lai, thành tựu pháp khí hay không thành tựu pháp khí, đều không nghi, ghét, thường đạt được pháp luân tiến tới không thoái lui, đối với Đại thừa cũng được tăng trưởng không thiếu sót, luôn đạt được thiền định, các Tổng trì và các địa nhẫn, không xa rời pháp của Đức Phật, cúng dường chúng Tăng và các Bồ-tát, mong cầu căn lành đều không chán đủ, được thanh tịnh vững chắc, phát vô lượng hạnh nguyện, dù quá khứ đã tạo tác các nghiệp xấu ác, đều nhờ trí địa kim cang của bậc Hiền thánh làm cho bặt dứt, đạt được Niết-bàn. Tất cả nghiệp xấu ác đã gây nơi hiện tại, thảy đều dứt sạch không tạo tác nữa, có thể mau thành tựu pháp luân vô thượng, được ngọc báu bảy Giác chi không chán đủ, có thể dứt trừ tất cả các kết sử đã gắn liền với chúng sinh. Này thiện nam! Ví như Chuyển luân thánh vương, nếu muốn du hành thì xe báu đi trước nhất, còn các báu khác đều đi theo sau, có thể diệt trừ các thứ ác, trược của tất cả chúng sinh trong bốn châu thiên hạ, cũng làm cho tất cả mọi người nơi bốn châu thiên hạ thân tâm đều thọ hưởng vui sướng. Đại Bồ-tát cũng lại như vậy. Nếu thành tựu đầy đủ mười luân, đối với thừa Thanh văn không sinh xem thường, cho đến tất cả chúng sinh cũng đều nương tựa để tồn tại. Này thiện nam! Ví như xe lớn đầy đủ bốn bánh, nhiều người nương theo xe này đi trên đường thẳng, hai bên đường có sỏi đá, các cây cối, thậm chí các cành nhánh hoa quả đều bị xe cán nghiền, thảy đều tiêu diệt. Như thế Đại Bồ-tát vì các chúng sinh, nếu còn tất cả tội chướng nơi chính pháp đều nghiền nát, diệt hết, khiến cho không còn thọ nhận quả báo. Này thiện nam! Ví như vòng kiếm sắc đều có thể chặt đứt đầu của oán địch, đã chặt đứt tay chân nơi thân thể tất không còn cử động. Đại Bồ-tát nếu có thể thành tựu đầy đủ mười luân như vậy thì tất cả sáu nẻo, các ác nơi Dục giới, thảy đều đoạn trừ, làm cho dứt hết không còn thọ nhận quả báo khác. Này thiện nam! Ví như lúc năm mặt trời xuất hiện thì tất cả đại địa trong bốn cõi thiên hạ, những chỗ có nước đều bị khô cạn. Đại Bồ-tát thành tựu đầy đủ mười luân như vậy có thể dứt sạch các tội của nghiệp chướng và báo chướng cho chúng sinh, nguồn gốc của các khổ não đều tiêu diệt. Ví như khi tai nạn về gió khởi lên, trong chốc lát gió lớn ở bốn phương cùng thổi mạnh, có thể thổi bay tảng đá to, các ngọn núi đều thành vi trần. Đại Bồ-tát thành tựu mười luân như vậy, vì các chúng sinh nương tựa cùng nhau, làm cho bốn ngọn núi kết sử điên đảo và các nghiệp chướng, tội nặng đều diệt trừ, dứt hết nguồn gốc của khổ đau khiến không còn sót. Này thiện nam! Ví như sư tử vương, nếu lúc gầm lên thì tất cả các loài súc sinh và các chúng sinh thảy đều sợ hãi. Đại Bồ-tát ấy cũng như vậy, cho đến hàng ngoại đạo và các học phái khác, tri thức ác đều kinh sợ quên mất lời biện luận. Này thiện nam! Ví như Thích Đề-hoàn Nhân đem quân binh trước sau vây quanh, tay cầm chày kim cang đánh bại A-tu-la. Đại Bồ-tát thành tựu mười luân cũng như vậy, tất cả quyến thuộc của ngoại đạo tà kiến, tri thức ác đều bị trừ diệt. Này thiện nam! Ví như ngọc báu Như ý, được treo nơi ngọn cờ, từ trên cao mưa xuống vô số vật báu. Đại Bồ-tát thành tựu mười luân như vậy, có thể giữ gìn cờ trì giới, mưa xuống các trận mưa pháp, ban cho vô lượng chúng sinh. Này thiện nam! Ví như chốn u ám về đêm khi ánh sáng của mặt trăng xuất hiện thì diệt hết tất cả sự tối tăm. Nếu có các chúng sinh mê mờ, quên mất đường đi, tức khiến họ thấy được đường chính. Đại Bồ-tát thành tựu mười luân cũng như vậy. Chúng sinh bị vô minh tối tăm ngăn che nên bỏ mất tám con đường chân chính, Đại Bồ-tát cũng giảng nói vô số giáo pháp cho họ, làm cho ánh sáng ấy chiếu soi tận cùng các khổ, chỉ bày tám con đường chính. Này thiện nam! Ví như mặt trời lúc mới ló dạng, tất cả lúa thóc thảy đều tăng trưởng, các đóa hoa đua nở và các cây thuốc đều được thành tựu, làm tan băng tuyết trên núi chảy xuống đầy tràn các sông, dần dần chảy ra biển cả. Đại Bồ-tát thành tựu đầy đủ mười luân cũng như vậy, điều phục được giới, tâm Từ bi giảng nói vô lượng giáo pháp cho các chúng sinh, có thể phát sinh căn lành và vô số hoa quả, khiến tất cả kết sử nơi nghiệp báo xấu ác và núi tà kiến thảy đều tiêu trừ, cho đến chứng đắc Niết-bàn rốt ráo, đối với tất cả quả vị vi diệu đều đạt được vô lượng. Nhờ tín, giới, thí, nghe, giúp cho trí tuệ đạt được vô lượng Tam-muội, lần lượt như vậy, giống như sông lớn chảy dần tràn đầy, nhờ dần tràn đầy nên có thể làm cho chúng sinh hội nhập vào thành Niết-bàn vô úy. Này thiện nam! Thế nào gọi là mười loại luân của Đại Bồ-tát? Đó là mười điều thiện. Bồ-tát thành tựu mười loại luân này, mới có thể tạo mọi thành tựu đầy đủ cho tất cả chúng sinh. Bồ-tát do xa lìa sự sát sinh nên có thể làm cho tất cả chúng sinh không sợ không hãi, không còn tất cả ưu sầu khổ não, căn lành thành tựu, quả báo đầy đủ. Nếu ở đời trước đã lưu chuyển nơi sáu đường, chìm đắm trong dòng sông sinh tử, nhờ nhân duyên không sát sinh này, nên mọi tạo nghiệp xấu ác kia, tất cả các phiền não nơi thân, khẩu, ý, có thể làm cho chúng sinh bị chướng ngại đối với chính pháp, tự mình làm hay chỉ dạy người khác làm, thậm chí thấy người khác làm đều tùy hỷ, nếu thọ nhận giữ gìn luân không sát hại như vậy, thảy đều nghiền nát tất cả tội báo chướng ngại của nghiệp ác khiến không còn sót. Cũng nhờ nhân duyên không sát sinh, nên có thể khiến cho tất cả chư Thiên và loài người đều sinh ưa thích, không còn nghi ngờ, thọ mạng sẽ được dài lâu, sau khi lâm chung, đã có vợ con và quyến thuộc yêu mến thảy đều vây quanh, thân không thọ nhận sự đau khổ, thậm chí thần thức ra đi không trở lại nữa, hoàn toàn không thấy vua Diêm-la và các ngục tốt. Hoặc khi lâm chung gặp tri thức thiện, thanh tịnh giữ giới, tâm ưa thích ruộng phước, xả bỏ thân này rồi được sinh vào trong loài người, các căn lanh lợi thông minh, lại gặp tri thức thiện, giữ giới thanh tịnh, luôn ưa thích ruộng phước, đoạn trừ các việc xấu ác, chỉ mong cầu tất cả hạnh của Đại Bồ-tát, nhập vào biển trí sâu xa, đạt được đạo Bồ-đề. Những chốn sinh ra, thường tránh xa các cõi binh đao, các cõi nước xấu ác, tuổi thọ mạng sống được tăng trưởng, ở nơi nước thanh tịnh tự tại, lìa mọi sự kinh sợ, như tuổi thọ của Đức Phật kia là vô lượng, vô biên, cũng có thể tạo được thọ mạng như thế, vì các chúng sinh giảng nói giáo pháp, hóa độ, thậm chí sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn chính pháp cũng trụ lâu như vậy. Này thiện nam! Đó gọi là bánh xe thứ nhất của Đại Bồ-tát. Nếu Đại Bồ-tát thành tựu được luân này, đối với thừa Thanh văn và Bích-chi-phật không còn thiếu sót, đối với tất cả đệ tử Thanh văn của Như Lai cũng không thiếu sót, không thoái lui nơi Đại thừa, tất cả Tam-muội, các Đà-la-ni và các nhẫn… đều đạt đến tất cả địa tự tại, luôn thuận theo tri thức thiện, chư Phật và Bồ-tát để lãnh hội chính pháp, cúng dường chúng Tăng, gieo trồng các căn lành, luôn không chán đủ, tu tập tất cả hạnh nguyện của Bồ-tát cũng không biết chán. Vì sao? Vì chư Phật quá khứ, đối với mười ác này thảy đều xa lìa, mỗi mỗi nghiệp ác bất thiện cũng không khen ngợi, vì vậy cho nên, này thiện nam! Đối với mười điều thiện ấy có thể giữ gìn một nghiệp thiện, nhờ tướng như thế nên có thể đạt được quả báo, như trước đã nói. Lại nữa, này thiện nam! Đại Bồ-tát tu hành không trộm cắp, có thể ban cho tất cả chúng sinh, không kinh không hãi không sợ, cũng không sầu não, mình đã có các vật dụng ăn uống, thân thể, tài sản, sự nghiệp của pháp, thường mong cầu tất cả sự lợi ích như pháp, không mong muốn điều phi pháp, nhờ quả báo của hạnh nghiệp nơi căn lành ấy. Giả sử trước kia từng lưu chuyển trong sáu nẻo, chìm đắm nơi dòng sông sinh tử, nhờ năng lực không trộm cắp này, cho nên thân, khẩu, ý nghiệp dù đã gây tạo các tội lỗi có thể làm chướng ngại chính pháp, cho đến tài sản sự nghiệp đều cản trở, hoặc tự mình làm, hoặc sai người khác làm, hoặc thấy làm vui theo, nhờ luân không trộm cắp ấy, khiến thảy đều trừ diệt, không còn sót. Cũng làm cho chúng trời, người ưa thích, không còn nghi ngờ, cho đến khi lâm chung, vợ con quyến thuộc tất cả đều vây quanh, đưa tiễn, thân không thọ nhận các sự đau khổ. Sau khi mạng chung thần thức được vãng sinh, không gặp vua Diêm-la và các ngục tốt, luôn gặp các bậc Thiện tri thức, đáng mến, giữ giới thanh tịnh, tâm ưa thích ruộng phước, xa lìa tất cả pháp xấu ác, thành tựu đầy đủ tất cả vô lượng pháp lành, tùy theo chỗ đã sinh ra đều đạt được nhiều tài sản, sự nghiệp. Có của cải và sự nghiệp rồi, tất xa lìa mọi sự sợ hãi, không có các nạn về lửa, nước, giặc cướp, có thể đạt đến quả vị Bồ-đề, đạt được các báu, đầy đủ cây báu trang nghiêm cõi Phật, không có ngã và ngã sở, không chấp lấy, không đắm nhiễm, thành tựu tất cả hạnh nghiệp của chúng sinh, không còn ngã sở, không có đối tượng nhận lãnh, không thọ mạng, không chúng sinh, thảy đều thâu tóm nơi cõi nước của Phật ấy. Này thiện nam! Đó gọi là luân thứ hai của Đại Bồ-tát. Nếu Bồ-tát có thể thành tựu được luân này, đối với thừa Thanh văn và Bích-chi-phật đều không vướng mắc, cho đến đệ tử Thanh văn của Như Lai cũng không hiềm nghi, tự mình đối với luân của Đại thừa đều không nhàm chán, đạt được tất cả các pháp môn Tam-muội và Đà-la-ni, nhẫn địa, cũng không xả bỏ tất cả thệ nguyện. Lại nữa, này thiện nam! Đại Bồ-tát thân hoàn toàn xa lìa tà dâm. Tất cả chúng sinh đều bị dâm dục lôi cuốn làm chìm đắm, Bồ-tát có thể ban cho họ sự không sợ hãi, không ganh ghét, không giận dữ não hại. Đối với nhan sắc của vợ mình luôn sinh biết đủ, không mong muốn điều phi pháp, nhờ năng lực nơi quả báo của căn lành này, cho nên dù đời trước có quả báo do tà dâm, phải sinh tử nơi sáu nẻo, lưu chuyển trong các cõi, tự mình làm hoặc bảo người khác làm, hoặc thấy làm vui theo, đều khiến xa lìa luân tà dâm, nghiền nát, đoạn trừ hẳn nghiệp xấu ác không còn sót, cho đến thành tựu đạo quả Bồ-đề, sinh vào cõi tịnh, nơi không có người nữ, thanh tịnh bậc nhất, các chúng sinh nơi cõi ấy đều từ hóa sinh, không phải do từ cha mẹ hòa hợp thọ thân. Này thiện nam! Đó gọi là luân thứ ba của Đại Bồ-tát. Đại Bồ-tát thành tựu được luân này, hoàn toàn không xả bỏ tất cả hạnh nguyện. Lại nữa, này thiện nam! Đại Bồ-tát trọn đời xa lìa các lời nói hư vọng, luôn nói lời thuận hợp. Do nhân duyên ấy nên được hàng trời, người hoan hỷ, sớm đạt được Bồ-đề, không dua nịnh chúng sinh, sinh vào nước ấy, lời nói luôn chân thật, không có giả dối. Đó gọi là luân thứ tư của Đại Bồ-tát. Bồ-tát thành tựu được luân này, cho đến khi chứng đắc đạo quả Bồ-đề, luôn mong cầu tất cả hạnh nguyện của Bồ-tát không chán đủ, hoàn toàn chẳng hề xả bỏ. Lại nữa, này thiện nam! Đại Bồ-tát đối với cả đời mình không nói hai lưỡi, do nhờ căn lành này nên thành tựu được đạo Bồ-đề, điều phục chúng sinh, tu tập theo sáu pháp hòa kính, sinh vào cõi nước ấy, đều cùng một lòng cung kính với nhau, không có sai trái, tu tập pháp chân thật. Này thiện nam! Đó gọi là luân thứ năm của Đại Bồ-tát. Đại Bồ-tát thành tựu được luân này, luôn mong cầu hạnh nguyện của Bồ-tát không biết nhàm chán, trọn đời không xả bỏ. Lại nữa, này thiện nam! Đại Bồ-tát xa lìa ác khẩu, cho đến thành tựu được quả Bồ-đề, tai hoàn toàn không nghe những việc không vừa ý, luôn sinh vào nước của chư Phật, thường nghe tiếng hòa nhã của vô số người và âm thanh vi diệu, nghe tiếng các pháp đầy khắp cõi Phật, tâm niệm thành tựu Phạm âm thanh tịnh sâu xa, chúng sinh như vậy được sinh vào cõi Phật. Này thiện nam! Đó gọi là luân thứ sáu của Đại Bồ-tát. Bồ-tát thành tựu được luân này, từ lúc mới phát tâm cho đến khi thành Phật, thường mong cầu tất cả hạnh nguyện của Bồ-tát, không biết chán đủ, trọn không xả bỏ. Lại nữa, này thiện nam! Đại Bồ-tát, đối với thân mạng của đời mình luôn xa lìa lời nói thêu dệt, cho đến đạt đạo quả Bồ-đề, thường ở cõi nước của Phật, nghe trăm ngàn pháp âm của các Đại Bồ-tát đầy khắp cảnh giới, luôn xa lìa tất cả lời nói thêu dệt, thành tựu vô lượng lời nói pháp thiện, chúng sinh như vậy đều sinh vào cõi nước Đức Phật ấy. Này thiện nam! Đó gọi là luân thứ bảy của Đại Bồ-tát. Bồ-tát thành tựu được luân này, cho đến đạo quả Bồ-đề, luôn mong cầu tất cả hạnh nguyện của Bồ-tát không nhàm chán, trọn đời không xả bỏ. Lại nữa, này thiện nam! Đại Bồ-tát đối với thân mình xa lìa tham dục, cho đến đạt đạo Bồ-đề, thường sinh vào nước thanh tịnh, đất bằng phẳng như lòng bàn tay, đầy đủ các thứ báu, cũng lấy cây báu làm trang nghiêm cõi ấy, lại có bao nhiêu thứ y báu quý giá, anh lạc, cờ phướn, dây vàng, chuỗi ngọc, trong thế giới ấy có vô số cây báu nối kết đan xen tạo nên vẻ tráng lệ. Chúng sinh nơi cõi nước ấy xa lìa sự cao ngạo, ngã mạn, dáng mạo đoan trang, các căn đầy đủ, tâm ấy bình đẳng, chúng sinh như vậy đều sinh vào cõi nước ấy. Này thiện nam! Đó gọi là luân thứ tám của Đại Bồ-tát. Bồ-tát thành tựu được luân này, cho đến đạt đạo quả Bồ-đề, luôn mong cầu tất cả hạnh nguyện của Bồ-tát không nhàm chán, trọn không xả bỏ. Lại nữa, này thiện nam! Đại Bồ-tát đối với cả đời mình luôn xa lìa sự giận dữ, cho đến đạt đạo quả Bồ-đề đều dứt trừ tất cả phiền não cấu uế, mây bụi, gió dữ. Ở trong nước thanh tịnh ấy không còn các thứ uế trược, đoạn trừ kiêu mạn. Sinh vào cõi nước kia rồi, thân hình đẹp đẽ, tướng tốt bậc nhất, các căn đầy đủ, dùng thiền định, Từ bi để trang nghiêm nơi mình, những chúng sinh như vậy đều sinh vào cõi nước ấy. Này thiện nam! Đó là luân thứ chín của Đại Bồ-tát. Bồ-tát thành tựu được luân này cho đến khi chứng đắc đạo quả Bồ-đề, luôn mong cầu làm mọi hạnh nguyện của Bồ-tát, không hề nhàm chán, trọn đời không xả bỏ. Lại nữa, này thiện nam! Đại Bồ-tát nơi trọn đời mình luôn xa mọi tà kiến, lại có thể do xa lìa luân tà kiến này, khiến chư Thiên và loài người ưa thích. Nếu có chúng sinh luân hồi trong sáu nẻo, chìm đắm nơi dòng sâu sinh tử, những người này dấy khởi tất cả nghiệp chướng và phiền não chướng nơi thân, khẩu và ý, làm chướng ngại chính pháp, hoặc tự mình làm, hoặc dạy người khác làm, hoặc thấy làm vui theo, nhờ xa lìa luân tà kiến này, nên đoạn dứt hết mọi nghiệp buộc trói, khiến không còn sót, lúc lâm chung, vợ con, quyến thuộc vây quanh, thân không còn thọ nhận các khổ, thần thức được vãng sinh, hoàn toàn không gặp vua Diêm-la và các ngục tốt, thường gặp tri thức thiện, giữ giới thanh tịnh, tâm ưa thích ruộng phước, thường sinh lòng tin chân chính. Sau khi mạng chung, được sinh vào trong loài người, cũng gặp bậc Thiện tri thức và các bậc giữ giới, tạo ruộng phước, nương tựa vào đó đạt được chính kiến, được bậc Thiện tri thức trao truyền, chỉ dạy, tu tập pháp lành, thường xa lìa các pháp bất thiện, các căn lành được thành tựu đầy đủ, theo đúng con đường của Bồ-tát đã thực hành tu tập. Nhờ nhân duyên này có thể vượt qua tất cả các cõi của chúng sinh, hội nhập vào biển lớn chính pháp của Đại thừa, cho đến chứng đắc đạo quả Bồ-đề, tất cả lưới nghi và các kiến chấp về đoạn, thường đều xa lìa, kiến chấp về ngã và ngã sở cũng lìa bỏ. Những chúng sinh như vậy đều sinh vào cõi nước ấy, thọ mạng vô lượng, đều đồng một pháp vị, đều là Đại thừa, từ bỏ thừa Thanh văn và Bích-chi-phật. Các loại thiên ma, tất cả ngoại đạo quyến thuộc của ma thảy đều đã lìa hẳn. Sinh vào trong cõi nước kia, thọ mạng của Đức Phật ấy là vô lượng, vô biên, luôn ở trong cõi ấy làm Phật sự, sau khi Bát-Niết-bàn, khiến cho chính pháp trụ lâu ở đời, không còn tổn giảm, mà càng thêm sáng tỏ, hưng khởi thảy đều một vị. Này thiện nam! Đó là luân thứ mười của Đại Bồ-tát. Nếu Đại Bồ-tát thành tựu được luân này, đối với thừa Thanh văn và Bích-chi-phật không sinh lòng ganh ghét, đối với người của Nhị thừa cũng không chê trách, cho đến Đại thừa cũng vậy, đối với người Đại thừa làm hưng thịnh Tam bảo, đối với đệ tử Thanh văn của Như Lai, người thành tựu pháp khí hay không thành tựu pháp khí, cũng không hiềm khích. Có thể làm trang nghiêm Đại thừa, tất cả Tam-muội, các Đà-la-ni cho đến nhẫn địa cũng luôn được tu học, chứng đắc pháp thắng tiến, không xa lìa chư Phật và Đại Bồ-tát, bậc Thiện tri thức… lắng nghe và thọ nhận giáo pháp, ưa thích cúng dường Tăng chúng, tâm không nhàm chán, mong cầu các căn lành, trọn đời không bỏ. Bồ-tát thực hành sáu pháp Ba-la-mật cũng không nhàm chán. Này thiện nam! Nếu có thể thành tựu đầy đủ mười luân này thì Đại Bồ-tát sớm thành tựu đạo quả Vô thượng chính chân. Vì sao? Vì đối với chư Phật ở đời quá khứ, tu tập mười điều thiện, xa lìa tất cả điều ác, có thể hiện rõ vô số nhân duyên quả báo, vô lượng hình tướng như vậy, đầy đủ đạo quả Bồ-đề, đều đoạn dứt tất cả phiền não kết sử, làm khô cạn ba ác, khiến không còn sót, do đó mới có thể nối tiếp dòng Tam bảo, trụ lâu ở đời, luôn được hưng thịnh, khiến thân không còn thọ nhận nơi ba cõi, hướng đến Niết-bàn, vì đoạn trừ năm ấm, sáu nhập, mười tám giới, hội nhập vào thành vô úy, đều nhờ nhân duyên xa lìa mười điều ác, đầy đủ quả báo như trên đã nói. Do ý nghĩa ấy, cho nên này thiện nam! Nếu đối với mười điều thiện ấy không tu tập một điều, mà mong cầu Phật đạo, lại nói ta là Đại thừa, đều ứng hợp với Bồ-đề vô thượng, người như vậy là đại vọng ngữ, phần nhiều làm theo sự dua nịnh và vô số khi dối, ở nơi trụ xứ của chư Phật có thể đoạn trừ tất cả căn lành của chúng sinh, hướng đến ba ác. Do đó, này thiện nam! Dòng họ Sát-lợi lớn đầy đủ mười điều thiện, đại gia Bà-la-môn, trời Tứ Thiên vương, cho đến trời Phi tưởng phi phi tưởng, Thanh văn thừa, Bích-chi-phật thừa đều tu hành mười điều thiện đạt công đức như vậy, đều có thể thành tựu đầy đủ đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác. Này thiện nam! Nhờ mười điều thiện này mà trang nghiêm thân mình, mong cầu quả vô thượng, tu học Đại thừa, chóng thành tựu được Phật đạo, có thể an lập cho tất cả xứ sở của căn lành công đức. Nếu có thể giữ gìn mười điều thiện thì đối với căn lành nơi thệ nguyện đều đạt đầy đủ, thành tựu đạo quả Vô thượng. Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn nhắc lại sự việc trên, liền nói kệ: Do giác ngộ mười luân Nhằm lìa tất cả khổ Không ganh ghét Thanh văn Chê người mặc ca-sa. Thuận theo thừa Duyên giác Tâm tin siêng tinh tấn An lạc các chúng sinh Nhận lãnh việc Đại thừa. Tất cả các Duyên giác Hiểu rõ pháp tối thắng Tu Phật đạo thanh tịnh Mau chứng đắc Bồ-đề. Xa lìa sự sát sinh Trời, người đều thường, nghó Đời đời thêm tuổi thọ Khéo tu nghiệp không hại. Sinh bất cứ nơi nào Luôn ưa thích pháp Phật Gần gũi Bậc Thế Tôn Mau chứng đắc Bồ-đề. Xa lìa sự trộm cướp Cung kính các bậc trí Diệt trừ các tham lam Giữ gìn giới không trộm Ở đâu cũng giàu có Làm thí chủ người khác Được cõi nước thanh tịnh Trang nghiêm bằng các báu. Trừ diệt phiền não uế Làm khô cạn ái dục Xa lìa sự tà dâm Sinh vào nước thanh tịnh. Vónh viễn lìa bùn nhơ Giải thoát hết chúng sinh Hội nhập vào Đại thừa Do xa lìa tà dâm. Muốn đạt được Thánh trí Khen ngợi lời nói thật Xả bỏ lời dối trá Diệt trừ các khổ não. Hoàn toàn nói chân thật Thường gặp các Đức Phật Mau thành tựu Bồ-đề Xa lìa lời nói dối. Gánh vác pháp khí Phật Không còn nói hai chiều Luôn hiểu được chư Phật Dứt bỏ các đoạn kiến. Bậc Thánh không đắm nhiễm Được Biện tài, Tổng trì Biết biển pháp sâu xa Không lâu được Bồ-đề. Thường nói lời nhu hòa Xa lìa mọi ác khẩu Chỗ chúng sinh ưa thích Diệt trừ nghiệp đời trước. Khiến chúng sinh vui vẻ Tướng pháp của Bồ-tát Biết rõ hạnh chư Phật Nhập vào Địa thứ mười. Người trí thích cung kính Xa lìa lời thêu dệt Đầy đủ năm công đức Giảng nói đều hiểu rõ. Muốn nghe bậc hiền dạy Và mong cầu Thánh đạo Cúng dường biển chư Phật Mau được Nhất thiết trí. Nhất tâm trừ tham dục Không hủy hoại chính pháp Cúng dường áo ca-sa Làm hưng thịnh ba thừa. Luôn sinh nước thanh tịnh An trụ nơi chính pháp Đạt được diệu trí kia Thừa vô thượng bậc nhất. Luôn thực hành tâm Từ Xa lìa các giận dữ Mau đạt được thiền định Chí mến hạnh Thánh hiền. Sinh nơi nước thanh tịnh Lìa bỏ mọi lỗi lầm An trụ nơi chư Phật Dứt hết các giận dữ. Chăm chú tu thuần thục Xa lìa các tà kiến Hiển bày đạo ba thừa Gọi là cúng dường pháp. Tránh khỏi nẻo xấu ác Giải thoát gặp Thánh hiền Đầy đủ hạnh Bồ-tát Chứng đắc trí tối thượng. Giảng nói pháp an trụ Thành tựu được Bồ-đề Tam-muội, Tổng trì, nhẫn Đều nhờ mười điều thiện. Đầy đủ luân oai đức Nghiền nát con đường ác Diệt hết nghiệp phiền não Mau thành tựu chính pháp.  <詞 id="117270418">Phẩm 10: Bố thí Lại nữa, này thiện nam! Nếu Đại Bồ-tát thành tựu mười luân này, từ lúc mới phát tâm đều xả bỏ tất cả năm dục, vượt hơn tất cả hàng Thanh văn và Bích-chi-phật, cũng có thể vì hàng Nhị thừa đó mà làm ruộng phước. Những gì là mười? Thường thực hành bố thí, đó là các thứ như thức ăn uống, y phục, voi, ngựa, xe cộ, cho đến thân thể, tay chân, đầu mắt, tủy não, tai mũi da xương, máu thịt, tất cả đều xả bỏ. Khi thực hành bố thí không chấp thân mạng, cũng không vì mình mà mong cầu pháp thế gian và pháp xuất thế gian, luôn nhớ nghó sự giải thoát cho tất cả chúng sinh. Tu tập đại Từ Đại Bi, trí tuệ theo phương tiện thiện xảo. Tâm bố thí đối với các chúng sinh như vậy, làm cho tất cả đều được an lạc nên bố thí, vì diệt hết tất cả kết sử của chúng sinh nên bố thí, không thọ nhận đời sau nên bố thí, tâm cao thượng nên bố thí, tâm không ganh ghét nên bố thí, cho đến đối với kẻ thấp hèn nhất cũng bố thí như vậy, không mong báo đáp nên bố thí, không mong cầu Thanh văn và Bích-chi-phật nên bố thí, mong cầu Nhất thiết chủng trí nên bố thí, kể cả đối với một người cũng thường tu hành bố thí như vậy. Đó gọi là tâm bố thí của Đại Bồ-tát, thành tựu luân thứ nhất của pháp bố thí trang nghiêm. Bồ-tát từ khi mới phát tâm như thế, có thể vì tất cả hàng Thanh văn và Bích-chi-phật làm ruộng phước lớn, phải nên giữ gìn, cung kính cúng dường. Vì sao? Vì tất cả Thanh văn và Bích-chi-phật chỉ chấm dứt thân mình, không còn đọa vào ba đường, chỉ làm lợi ích cho mình, không chỉ dạy người khác tu hành bố thí. Đại Bồ-tát vì đoạn dứt tất cả khổ não của chúng sinh, bằng tâm Từ bi rộng lớn thương xót mà bố thí, cho nên có thể vì hàng Thanh văn và Bích-chi-phật mà làm ruộng phước, không phải vì mình mong cầu quả báo, chỉ nhằm tạo an lạc tối thượng bậc nhất, nên luôn thực hành bố thí, hoàn toàn không đắm nhiễm vào năm thứ dục lạc sinh tử của hàng trời, người nên tu hành bố thí tạo lợi ích cho tất cả chúng sinh, không nghó đến thân mình đã nhận chịu nhiều điều thiện ác, nên tu hạnh bố thí, vì đoạn dứt tất cả khổ báo của chúng sinh nên tu hạnh bố thí. Bồ-tát thực hành pháp Bố thí ba-la-mật như vậy, nên có thể gánh vác, làm ruộng phước cho hàng Thanh văn và Bích-chi-phật. Nếu không đắm nhiễm theo năm dục của thế gian, vì nhằm làm đầy đủ đại Từ Đại Bi nên có thể bố thí như vậy. Đó gọi là Đại Bồ-tát, cũng gọi là ruộng phước của hàng Thanh văn và Bích-chi-phật. Giả sử tu hạnh bố thí vô lượng, nếu không đoạn dứt năm dục ở thế gian thì không gọi là bố thí, cũng không gọi là Bồ-tát, không thể làm ruộng phước lớn cho hàng Thanh văn và Bích-chi-phật, không gọi là dấu ấn của bậc Hiền thánh. Do đó phải đoạn trừ năm thứ dục, không còn nhiễm đắm mà bố thí, nếu nhiễm vào năm thứ dục thì không gọi là Bồ-tát, cũng không gọi là ruộng phước. Người bố thí như vậy không thể diệt trừ phần ít phiền não, huống chi là diệt trừ tất cả mọi thứ kết tập. Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn nêu rõ lại sự việc trên nên nói kệ: Thành tựu luân bố thí Bậc trí tâm thanh tịnh Lìa hết năm thứ dục Khiến chúng sinh an lạc. Thậm chí bố thí ít Đều vì trừ các khổ Không thọ nhận quả báo Đạt được ruộng phước trên. Tuy bố thí rất nhiều Nhưng không lìa năm dục Thí chẳng phải ấn Thánh Chẳng vào quyết định tụ. Bỏ dục, hành bố thí Thí ít mà quả nhiều Thanh văn, Bích-chi-phật Đều nhờ ruộng phước ấy. Cho nên phải lìa dục Thường được thí thanh tịnh An lạc các chúng sinh Là ruộng phước chân thật. Lại nữa, này thiện nam! Đại Bồ-tát có mười loại luân pháp bố thí, nếu có thể thành tựu mười loại luân pháp bố thí, sớm đạt được Tam-muội ánh sáng, có thể vì tất cả hàng Thanh văn và Bích-chi-phật làm ruộng phước lớn. Những gì là mười? Đó là nương tựa vào pháp của Phật, nương tựa vào pháp của Thanh văn, nương tựa vào pháp của Bích-chi-phật, nương tựa vào pháp Đại thừa, nương tựa vào pháp thế gian và xuất thế gian, nương tựa vào pháp hữu lậu và vô lậu, cung kính, tôn trọng, lãnh thọ tất cả, tùy thuận giữ gìn, giảng nói rộng cho người khác. Hoặc nói cho hàng Thanh văn, nên nói về pháp bốn Đế, Niết-bàn rốt ráo, không có tâm ganh ghét, kiêu mạn, không vì lợi dưỡng mà khen ngợi tất cả, cũng không tự đề cao mình, không khinh chê người khác, đối với tất cả chúng sinh luôn khởi tâm Từ bi lớn, phân biệt giảng nói rõ ràng, không nói pháp của Bích-chi-phật cùng với pháp Đại thừa. Hoặc nói pháp cho hàng Bích-chi-phật, nên nói pháp mười hai nhân duyên, xa lìa sinh, già, bệnh, chết, dứt hết các khổ, cũng không nói các pháp của Tiểu thừa, Thanh văn, Bồ-tát. Hoặc nói pháp cho hàng Đại thừa, nên nói sáu pháp Ba-la-mật, đầy đủ các hạnh, chứng đắc đạo vô thượng, cũng không nói pháp của Thanh văn và Bích-chi-phật. Chỉ thuận theo căn cơ ứng hợp của các chúng sinh tu hành mà giảng nói cho họ. Đối với lời giảng dạy của Đức Như Lai, kể cả một câu hay một bài kệ đều cung kính tôn trọng, trọn đời không hủy báng, cũng không ẩn giấu để làm chướng ngại. Đối với người giảng nói giáo pháp đều xem như là bậc Thế Tôn, đối với người nghe pháp đều coi như người đang bệnh, đối với chính pháp đều quý như vị thuốc hay, xả bỏ năm thứ dục, nhằm giảng nói giáo pháp luôn bình đẳng, không chấp tướng. Này thiện nam! Đó gọi là mười thứ luân pháp bố thí của Đại Bồ-tát. Nếu Bồ-tát thành tựu mười thứ luân pháp bố thí như vậy, liền mau đạt được Tam-muội ánh sáng, có thể làm ruộng phước lớn cho tất cả hàng Thanh văn và Bích-chi-phật, luôn vì tất cả mà giữ gìn cúng dường. Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn nêu rõ lại sự việc trên, liền dùng kệ: Bậc trí tu pháp thí Giảng nói về ba thừa Người không gánh pháp khí Cũng không hủy báng pháp. Thanh văn và Duyên giác Mọi người đều tu tập Bích-chi-phật lợi trí Chỉ dạy vào Đại thừa. Vì thành tựu pháp khí Không nói vọng, phi pháp Tùy các căn lợi, độn Dần dần dạy tiến tới. Cung kính đối với pháp Tin nhận không hủy báng Có thể nói giáo pháp Cúng dường Đức Thế Tôn. Những chúng sinh nghe pháp Đều diệt hết phiền não Không tham đắm tiếng khen Và lợi dưỡng nói pháp.  <詞 id="117270419">Phẩm 11: Trì giới Lại nữa, này thiện nam! Đại Bồ-tát phát tâm đạt được luân giới đầy đủ trang nghiêm, nếu thành tựu luân này, từ lúc mới phát tâm xa lìa năm thứ dục, đối với trong hàng Thanh văn và Bích-chi-phật làm ruộng phước lớn, tối thắng bậc nhất, đều nên cúng dường và giữ gìn nó. Đại Bồ-tát làm thế nào để trang nghiêm luân giới? Này thiện nam! Đại Bồ-tát có thể xuất gia thọ giới Tỳ-kheo, thành tựu đầy đủ giới Ba-la-đề-mộc-xoa, không cùng với hàng Thanh văn và Bích-chi-phật. Nếu Bồ-tát không dùng giới này để có thể dứt trừ các phiền não, tất cả tà kiến cho chúng sinh thì không gọi là Đại Bồ-tát, cũng không gọi là ruộng phước lớn của hàng Thanh văn và Bích-chi-phật. Này thiện nam! Nếu Đại Bồ-tát, đối với tất cả chúng sinh tâm thường bình đẳng, giữ gìn giới thanh tịnh, chí nguyện vững chắc, tâm không lay chuyển, tâm thường chuyên nhất, không sinh vọng tưởng, nếu thấy giữ giới hay phá giới, tham lam hay bố thí, thượng, trung hay hạ… vô lượng chúng sinh có ngần ấy thứ giận dữ, não hại, đi, đứng, nằm, ngồi, ở trong ba cõi, ấm, nhập, các giới mà không phân biệt. Giữ giới như vậy, không chấp vào cõi Dục để giữ giới, không chấp vào cõi Sắc và cõi Vô sắc để giữ giới, không phân biệt quán sát giữ giới có tưởng không tưởng, không vì đạt đến không đạt đến mà giữ giới. Này thiện nam! Đại Bồ-tát dùng hình tướng như vậy, phát tâm đạt được luân giới thanh tịnh trang nghiêm lớn, từ lúc mới phát tâm luôn luôn xa lìa năm thứ dục. Đại Bồ-tát như thế thì có thể làm ruộng phước lớn cho hàng Thanh văn và Bích-chi-phật, cũng khiến cho chúng sinh luôn giữ gìn cúng dường. Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn nhắc lại sự việc trên nên nói kệ: Ưu-bà-tắc luật nghi Trụ vào giới giải thoát Tuy cùng với Nhị thừa Không gọi là xe lớn. Nếu tu tập pháp không Không nương theo thế gian Cũng không nương các cõi Bậc trí giữ tịnh giới. Không chấp vào giới tướng Thanh tịnh lìa các lậu Người giữ giới như vậy Là ruộng phước tối thắng.  <詞 id="117270420">Phẩm 12: Nhẫn nhục Lại nữa, này thiện nam! Thế nào gọi là Đại Bồ-tát phát tâm đạt được luân Nhẫn đầy đủ trang nghiêm? Nếu Bồ-tát thành tựu luân này thì từ lúc mới phát tâm có thể xa lìa năm thứ dục, mới gánh vác, làm ruộng phước lớn cho hàng Thanh văn và Bích-chi-phật, cũng làm cho chúng sinh luôn tôn trọng, giữ gìn, cung kính, cúng dường. Này thiện nam! Đại Bồ-tát nhẫn nhục có hai loại: Một là thế gian, hai là xuất thế gian. Lại nữa, Bồ-tát có nhẫn nhục hữu lậu thọ nhận các cõi, cũng không thể không nghó tưởng về chúng sinh, nương tựa vào quả báo, nương tựa vào công đức, cũng gọi là nhẫn nhục trụ nơi sắc, thanh, hương, vị, xúc, cũng gọi là nhẫn yếu kém, không có đối tượng kham nhẫn để hiển bày tâm Bi đối với chúng sinh mà tu hạnh nhẫn nhục. Đó chỉ là vui theo điều ấy mà nhẫn nhục, không vì sự an lạc của chúng sinh nên nhẫn nhục. Người nhẫn nhục như vậy thì đồng với hàng Thanh văn và Bích-chi-phật, chẳng phải là sự trang nghiêm lớn, cũng chẳng phải là Bồ-tát, chỉ có giả danh. Bồ-tát như vậy hoàn toàn không thể gánh vác, làm ruộng phước lớn cho hàng Thanh văn và Bích-chi-phật. Đó gọi là luân nhẫn nhục thế gian của Bồ-tát. Thế nào gọi là nhẫn xuất thế gian trang nghiêm lớn của Bồ-tát? Đó là vì các chúng sinh nên tu hạnh nhẫn nhục, không có nhiễm chấp. Nếu đối với tất cả sự việc đã tạo tác: lời nói, tướng mạo, âm thanh, danh tự, trụ xứ của bậc Thánh, thảy đều tùy thuận, nên không xả bỏ ba kiết, ba thọ, ba tướng, ba đời, ba cõi, ba nghiệp những việc như vậy đều không nương tựa, tâm luôn tịch tónh, tu hạnh nhẫn nhục. Đó gọi là luân nhẫn nhục xuất thế gian của Bồ-tát. Này thiện nam! Đại Bồ-tát thành tựu luân nhẫn nhục trang nghiêm lớn như vậy, từ lúc mới phát tâm luôn xa lìa năm thứ dục, các Đại Bồ-tát này có thể làm ruộng phước lớn cho hàng Thanh văn và Bích-chi-phật, được tất cả chúng sinh giữ gìn và cúng dường. Bấy giờ, Đức Thế Tôn nhằm nêu lại các sự việc trên, nên nói kệ: Nhẫn nhục có hai loại Hữu tướng và vô tướng Tu nhẫn nhục hữu tướng Người trí không quý trọng. Hữu tướng nói ba nghiệp Liền nương vào nhẫn tu Gọi là nhẫn hữu lậu Chẳng phải tướng đại nhân. Ở trong bốn điên đảo Tu nhẫn nhục không vướng Ba nghiệp đều thanh tịnh Nhẫn này là tối thắng. Diệt trừ tất cả hành Không nương tướng, vô tướng Tâm giống như hư không Đây là nhẫn tối thắng. Chúng sinh đều một tướng Các pháp không, vắng lặng Tâm đều không đắm chấp Nhẫn này lợi rất lớn. KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG THẬP LUÂN <卷 id="117270421">Quyển 8 <詞 id="117270422">Phẩm 13: Tinh tấn Lại nữa, này thiện nam! Đại Bồ-tát thành tựu luân tinh tấn trang nghiêm lớn, từ lúc mới phát tâm đã xa lìa năm thứ dục, có thể làm ruộng phước cho hàng Thanh văn và Bích-chi-phật, cũng khiến cho tất cả chúng sinh luôn giữ gìn và cúng dường. Này thiện nam! Đại Bồ-tát tinh tấn có hai loại: Một là thế gian, hai là xuất thế gian. Tinh tấn theo thế gian có ba loại: Một là tinh tấn tu phước, hai là tinh tấn dũng mãnh về trì giới, thiền định, ba là duyên vào hữu lậu và các chúng sinh, nương vào quả báo, vào trụ xứ của hành phước. Đó gọi là tinh tấn thế gian, chẳng phải là lớn lao. Lại nữa, Đại Bồ-tát đối với tất cả chúng sinh tâm luôn bình đẳng, chính vì diệt trừ nghiệp kết phiền não mà siêng năng tinh tấn. Đối với bậc Thánh vô lậu không lấy, không bỏ, cũng không nương tựa, tâm không tạp uế, cũng không loạn tưởng, giữ giới hay phá giới, siêng năng hay biếng nhác, bố thí hay keo kiệt, tâm ghét hay tâm Từ, tất cả các tướng như vậy đều bình đẳng, tu hành tinh tấn, không ở nơi ba cõi dấy khởi vô số tưởng. Đối với các chúng sinh, hoặc lãnh hội ngôn ngữ, hoặc nhận biết về nơi chốn tạo nghiệp. Đối với ấm, giới, nhập đều không có chấp tưởng mà tu tinh tấn. Không nương vào cõi Dục, không chấp vào cõi Sắc, cõi Vô sắc, không phát sinh tưởng điên đảo và không điên đảo mà tu hành tinh tấn. Không chấp tất cả hành, không nương vào ba loại phước mà siêng năng tinh tấn. Đại Bồ-tát thành tựu luân trang nghiêm lớn như vậy từ lúc mới phát tâm đã xa lìa năm thứ dục, gọi là Đại, cũng có thể gánh vác, làm ruộng phước lớn cho hàng Thanh văn và Bích-chi-phật, khiến các chúng sinh luôn giữ gìn, cúng dường. Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn nhắc lại sự việc trên nên nói kệ: Chấp trước sáu căn trần Ngu tối nơi bốn dòng Tinh tấn luôn dũng mãnh Bậc trí còn chê trách. Tinh tấn nơi cảnh giới Hoàn toàn chấp hữu lậu Không gọi là ruộng phước Cũng chẳng gọi là lớn. Bậc trí siêng tinh tấn Diệt trừ tất cả chấp Tâm không chỗ nương tựa Đó gọi là ruộng phước. Không chấp danh và sắc Làm chỗ nương chúng sinh Dũng mãnh lìa các ấm Đó gọi là ruộng phước. Chiếu sáng nơi tối tăm Vượt thẳng đến bờ kia Luân tinh tấn như vậy Dứt phiền não trói buộc.  <詞 id="117270423">Phẩm 14: Thiền định Lại nữa, này thiện nam! Đại Bồ-tát có luân thiền định trang nghiêm lớn. Nếu Bồ-tát thành tựu luân này, từ lúc mới phát tâm đã đoạn trừ năm thứ dục, gánh vác, làm ruộng phước cho hàng Thanh văn và Bích-chi-phật, khiến cho tất cả chúng sinh đều giữ gìn, cúng dường. Này thiện nam! Đại Bồ-tát tu thiền định có hai loại: Một là thế gian, hai là xuất thế gian. Thế nào gọi là Bồ-tát tu tập thiền định thế gian? Nếu Bồ-tát nương vào tướng của năm ấm, dựa vào cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc mà tu thiền định, nương vào ba cửa Giải thoát, bốn Niệm xứ, bốn chính cần, bốn Như ý túc, năm Căn, năm Lực, bảy phần Bồ-đề và tám Thánh đạo, cho đến đất, nước, gió, lửa, không, thức… đều nương tựa vào đó mà sinh chấp trước. Tu thiền định như vậy gọi là Bồ-tát tu thiền định thế gian, cũng đồng với tất cả hàng Thanh văn và Bích-chi-phật, không được gọi là Đại. Thế nào gọi là Bồ-tát tu tập thiền định xuất thế gian? Này thiện nam! Đó là Bồ-tát có khả năng phóng ra ánh sáng lớn xuất thế gian, không chấp vướng nơi bốn Niệm xứ, bốn chính cần, bốn Như ý túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác chi, tám Thánh đạo, các pháp như vậy đều không nương tựa mà tu tập thiền định, cho đến giới thân, khẩu, ý, ba cửa giải thoát, ấm, giới, nhập, ba thọ, bốn đại, không xứ, thức xứ, không dụng xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ, đời này, đời sau đều xa lìa cả, vắng lặng không nương vào “Không” và “Đại không”. Đó gọi là Đại Bồ-tát tu tập thiền định xuất thế gian. Này thiện nam! Nhờ tướng ấy, nên Đại Bồ-tát có thể thành tựu luân thiền định trang nghiêm lớn, từ lúc mới phát tâm đã xa lìa năm thứ dục, gánh vác làm ruộng phước cho hàng Thanh văn và Bích-chi-phật, cũng khiến cho tất cả chúng sinh luôn giữ gìn, cúng dường. Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn nêu rõ sự việc trên, nên dùng kệ: Vì xả bỏ gánh nặng Tu thiền định hữu tướng Chỉ tự đoạn kết sử Không gọi là bậc trí. Tu thiền định chấp trước Nương tựa vào giải thoát Chấp giữ bờ bên kia Không làm lợi chúng sinh. Nếu bỏ gánh nặng xuống Nhằm làm lợi chúng sinh Trừ kết sử, tu định Là Bậc trí chân thật. Nếu đoạn dứt hữu ái Tạo lợi ích chúng sinh Tu thiền định vô tướng Đó mới gọi là đại. Dứt trói buộc chúng sinh Khiến thế gian vô úy Thanh tịnh tu thiền định Đó mới gọi là đại.  <詞 id="117270424">Phẩm 15: Trí tuệ Lại nữa, này thiện nam! Đại Bồ-tát có luân trí tuệ trang nghiêm lớn. Nếu có thể thành tựu luân trí tuệ trang nghiêm lớn như vậy, từ lúc mới phát tâm đã xa lìa năm thứ dục, có thể gánh vác, làm ruộng phước lớn cho hàng Thanh văn và Bích-chi-phật, cũng khiến cho tất cả chúng sinh giữ gìn và cúng dường. Này thiện nam! Đại Bồ-tát có hai thứ trí tuệ: Một là thế gian, hai là xuất thế gian. Thế nào gọi là trí tuệ thế gian? Đó là Bồ-tát nương vào sự đọc tụng, nhằm diệt trừ ngu si, làm ánh sáng lớn cho tất cả chúng sinh, Như Lai đã giảng nói vô số, vô lượng giáo pháp. Đối với thừa Thanh văn đều được lãnh thọ, tự mình ghi chép, dạy người khác ghi chép, tự mình đọc tụng, dạy người khác đọc tụng, hoặc giảng nói pháp của Bích-chi-phật và Đại thừa, đều tùy thuận tin nhận tất cả. Hoặc tự mình đọc tụng, chỉ dạy cho người khác đọc tụng, tự mình ghi chép cũng dạy cho người khác ghi chép, có thể giảng nói nghĩa lý, hiển bày diệu nghĩa sâu rộng cho chúng sinh, đọc tụng kinh pháp, mong cầu được vô lậu và hiểu rõ vị nơi tám con đường Thánh mà không mong cầu trí tuệ tịch tónh, tâm còn chấp tướng, nên gọi là luân trí tuệ thế gian của Bồ-tát, sánh bằng với hàng Thanh văn và Bích-chi-phật, không thể gọi là Đại Bồ-tát. Thế nào gọi là luân trí tuệ xuất thế gian? Là khi Đại Bồ-tát tu đạo, tùy thuận tinh tấn thực hành đọc tụng, tu tập, đối với tướng ấy không giữ, không chấp, không nhớ nghó, không tư duy, thực hành như vậy chẳng phải là tâm thấp kém, giống như hư không đồng vắng lặng, quán pháp bình đẳng đều không chấp trước, cũng không bị trói buộc, không sinh, không diệt, tâm không thoái chuyển. Thường thực hành bình đẳng các pháp nơi Thật tế, vào sâu nơi thiền định, đạt được pháp Nhẫn vô sinh, không chấp các tướng, tâm không tăng, không giảm, không nương vào các địa cũng không an trụ vào trí tuệ. Nếu Bồ-tát đạt đầy đủ trí tuệ như vậy, gọi là trí tuệ xuất thế gian của Bồ-tát. Có thể thực hành như vậy thì mới thành tựu luân trí tuệ trang nghiêm lớn, từ lúc mới phát tâm đã không đắm nhiễm vào năm thứ dục, cũng có thể gánh vác, làm ruộng phước cho hàng Thanh văn và Bích-chi-phật, khiến tất cả chúng sinh đều giữ gìn và cúng dường. Lại nữa, này thiện nam! Đại Bồ-tát có luân trang nghiêm lớn. Nếu Bồ-tát thành tựu luân trang nghiêm lớn này, từ lúc mới phát tâm đã đoạn trừ năm thứ dục, có thể gánh vác, làm ruộng phước lớn cho hàng Thanh văn và Bích-chi-phật, cũng khiến cho tất cả chúng sinh đều giữ gìn, cúng dường. Này thiện nam! Bồ-tát thị hiện phương tiện có hai loại: Một là thế gian, hai là xuất thế gian. Thế nào gọi là phương tiện thế gian của Bồ-tát? Tức là tự mình và người khác thường mang tâm kia, đây, dùng vô số phương thức để thành tựu chúng sinh, có thể hiện ra ngần ấy loại thân như vậy, hoặc hiện thân Phật, hoặc hiện thân Bích-chi-phật, hoặc hiện thân Thanh văn, hoặc hiện thân cha mẹ, tùy theo căn cơ thích hợp đã nhận thấy mà hiện hình như vậy. Như có người bệnh và người thăm bệnh, biết được bệnh nặng không thể cứu chữa, tất cả đều sợ hãi, thậm chí phải chết, Bồ tát đều dùng phương tiện cứu chữa, khiến được giải thoát, thường thực hành bốn Nhiếp pháp, thành tựu cho chúng sinh, an trụ nơi Đại thừa. Nếu hàng Thanh văn và Bích-chi-phật không thể gánh vác được pháp Đại thừa vì căn khí không thuần thục, tức ở trong pháp Nhị thừa, khuyến khích giúp họ tu tập pháp sâu xa vi diệu ấy, khai mở hiển bày Đệ nhất nghĩa đế, vượt khỏi cảnh giới điên đảo của hàng phàm phu, nương vào bốn chỗ dựa đầy đủ bốn Biện tài, bốn Niệm xứ, bốn chính cần, bốn Như ý túc, năm Căn, năm Lực, bảy phần Bồ-đề, tám Thánh đạo, trụ vào việc lành mà giữ đạo, nhập vào trí đạo phương tiện để thành tựu cho chúng sinh. Nếu các chúng sinh cầu theo danh tiếng, đắm nhiễm nơi lợi dưỡng, các căn lay động, không thành tựu căn lành Niết-bàn, những người như vậy thì nên chỉ dạy cho họ đọc tụng giáo pháp của Như Lai đã giảng nói về thừa Thanh văn và Bích-chi-phật, thành tựu công đức bố thí đủ loại, chỉ dạy khuyến trợ. Nếu có chúng sinh phần nhiều dấy khởi sân giận, tâm ấy rất xấu ác, không có Từ bi thì chỉ dạy họ tu tập, thực hành, thành tựu bốn Tâm vô lượng. Nếu thấy chúng sinh biếng nhác thì chỉ dạy làm cho siêng năng, chúng sinh có nhiều giận dữ, chỉ dạy thực hành nhẫn nhục, chúng sinh với tâm tán loạn, chỉ dạy khiến hành trì thiền định, chúng sinh ngu si thì giảng nói chính pháp, giáo hóa họ tu tập trí tuệ để được thành tựu. Nếu có chúng sinh không nơi nương tựa, tâm không cung kính thì dẫn dạy, mở bày chỉ rõ giúp họ quy y Tam bảo. Những sự chỉ dạy như vậy làm cho họ biết tu tập giới Ưu-bà-tắc, cũng chỉ dạy tám giới trai pháp. Hoặc có chúng sinh dùng vô số kỹ thuật hành tạo các việc, để giáo hóa những loại chúng sinh đều được thành tựu như vậy, vô số Bồ-tát đã hành trì trí tuệ phương tiện thế gian. Đại Bồ-tát thành tựu luân trí tuệ phương tiện như vậy, dùng các kinh luận làm phương thức, điều kiện để hàng phục tất cả luân trí khổ hạnh của các ngoại đạo, tà giáo. Đó gọi là Đại Bồ-tát, thành tựu trí tuệ phương tiện thế gian, cùng hợp với tất cả hàng Thanh văn và Bích-chi-phật. Này thiện nam! Nếu có Bồ-tát không nương vào bậc thầy sáng suốt, cũng không dựa nơi bậc Thiện tri thức, đó là hạng người theo hình tướng thế gian để đắm nhiễm, tự mê hoặc mình, Bồ-tát như vậy thì không thể an trụ vào luân trí tuệ phương tiện xuất thế gian, không gọi là ruộng phước, cũng không thể khéo nhận biết các hành của chúng sinh. Nếu thấy chúng sinh không thành tựu pháp khí và hàng Thanh văn, Bích-chi-phật căn không thuần thục, lúc đó, đối với các người ấy mà hiển bày Đại thừa thì gọi là ngu si, không có phương tiện thiện xảo mà chỉ dạy người theo Đại thừa tức khiến họ bỏ đạo Bồ-tát, tu tập theo pháp Thanh văn và Bích-chi-phật. Đó là sự sai lầm vì không biết được căn cơ của mọi người. Nếu thấy hàng Bích-chi-phật, chỉ dạy khiến xả bỏ, lại tu tập theo thừa Thanh văn, tức không biết rõ căn cơ của chúng sinh nên giảng nói pháp không thích hợp. Có lỗi lầm như vậy thì bị rơi vào tội lỗi. Nếu thấy hàng Thanh văn nhàm chán nơi sinh tử, vì họ giảng nói về quả báo ưa chấp sinh tử nơi ba cõi của thế gian, là cũng không biết rõ căn cơ của chúng sinh mà giảng nói pháp không thích ứng. Những lỗi lầm như vậy thì bị rơi vào lỗi lầm. Nếu có chúng sinh không dứt bỏ sát sinh và trộm cắp, cho đến không dứt trừ tà kiến, làm đủ mười điều xấu ác, không có căn lành, thấy rõ như vậy mà hiển bày giáo pháp sâu xa của Bồ-tát Đại thừa, lại không giảng nói về quả báo ở đường ác, chịu khổ sinh tử, luân hồi trong các nẻo, tức cũng không biết rõ căn cơ của chúng sinh nên nói pháp hư dối, bị rơi vào chỗ lỗi lầm, cũng gọi là người ngu si, không có trí tuệ phương tiện. Nếu thấy người hay trì giới mà nói pháp bố thí, người siêng tinh tấn mà nói trì giới, người biết nhẫn nhục mà nói tinh tấn, người thích thiền định mà nói nhẫn nhục, người có trí tuệ mà nói thiền định. Đó gọi là Bồ-tát ngu si, không có luân trí tuệ phương tiện thiện xảo, cũng gọi là trí thế gian, luôn với tất cả hàng Thanh văn và Bích-chi-phật, cũng không có thể gọi là đại. Thế nào gọi là luân trí tuệ phương tiện xuất thế gian của Đại Bồ-tát? Nếu các Bồ-tát đã hành trì các việc, đều vì người khác, không nghó đến thân mình, nên tạo ngần ấy loại phương thức, cho đến đều nhằm ban cho mọi người như trước đã nói. Nếu có lợi mình đều đem ban cho người khác, biết người gánh vác pháp khí mà giảng nói chính pháp, lần lượt chỉ dạy cho thừa Thanh văn, Bích-chi-phật, thấy rõ người nơi thừa Bích-chi-phật rồi chỉ dạy khiến dần dần tu tập Đại thừa. Cũng không vì hàng Thanh văn căn cơ không thuần thục mà giảng nói về sự ưa thích pháp sinh tử, vì có sát sinh cho đến tà kiến mà giảng nói chỗ hướng tới sinh tử của pháp Thanh văn. Nếu người thích tu bố thí nên vì họ giảng nói về sự thiện xảo vô thượng, cho đến người ưa thích trí tuệ thì nên giảng nói trí đạo vô lậu của bậc Hiền thánh. Dùng trí tuệ này mà giáo hóa chúng sinh, không chấp tướng chúng sinh và tướng trí tuệ. Đó gọi là luân trí tuệ phương tiện trang nghiêm lớn lao xuất thế gian của Đại Bồ-tát. Nếu Đại Bồ-tát thành tựu luân này, từ lúc mới phát tâm đã đoạn năm thứ dục, gọi là Đại Bồ-tát có thể gánh vác, làm ruộng phước lớn cho hàng Thanh văn và Bích-chi-phật, cũng khiến cho tất cả chúng sinh giữ gìn và cúng dường. Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn nhắc lại sự việc trên nên nói kệ: Nên nói đạo Nhất thừa Mà phân làm Nhị thừa Tức là mắt khi dối Không gọi độ chúng sinh. Chắc chắn rơi đường tà Chỉ bày thừa thấp kém Tức gọi là ngu si Không gọi đó là đại. Người hướng đến Nhất thừa Vì muốn nghe chính pháp Nên ở trong sinh tử Bậc trí đã giảng nói. Tâm thiền định chắc chắn Tùy thuận mà giáo hóa Đó gọi là phương tiện Bậc trí đã khen ngợi. Một lòng theo Thanh văn Làm cho sinh nhàm chán Người gánh vác pháp khí Chỉ dạy theo Đại thừa. Lại nữa, này thiện nam! Đại Bồ-tát nắm giữ pháp Từ bi mà tạo luân trang nghiêm không chấp tướng chúng sinh. Vì sao? Vì nắm giữ tâm Từ đối với chúng sinh mà làm trang nghiêm, gọi là hành theo Thanh văn và Bích-chi-phật, không thể làm trang nghiêm đạo Đại thừa. Hàng Thanh văn và Bích-chi-phật tu tập tâm Từ, chỉ tự độ mình, không làm lợi ích cho người khác, tự điều phục mình, diệt nghiệp kết sử, dứt hết các phiền não rồi đạt được Niết-bàn. Vì ngã, nhân và chúng sinh mà tu tập tâm Từ, đối với chúng sinh khác tâm luôn xả bỏ, nên không gọi là làm trang nghiêm luân lớn, chỉ đoạn trừ phiền não của mình, không thể dứt trừ các phiền não của người khác. Đại Bồ-tát thì không như vậy, luôn khiến tất cả chúng sinh tu hành tâm Từ, làm trang nghiêm đại Từ, nên gọi là đại. Bồ-tát không nương tựa vào từ, không nương tựa vào ấm, giới, nhập để tu tập hành Từ. Không nương vào bốn Niệm xứ, bốn chính cần, bốn Như ý túc, năm Căn, năm Lực, bảy phần Bồ-đề, tám Thánh đạo mà tu tập hành Từ. Không nương vào cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc mà tu hành tâm Từ. Không nương vào đời này, đời sau mà tu hành tâm Từ. Không nương vào bờ bên này mà tu hành tâm Từ. Không nương vào bờ bên kia mà tu hành tâm Từ. Không phải vì không đến mà tu hành tâm Từ. Đại Bồ-tát chỉ duyên vào pháp mà tu hành tâm Từ, đây không phải là nẻo hành trì của hàng Thanh văn và Bích-chi-phật, chỉ có Đại Bồ-tát mới có thể thành tựu luân duyên theo pháp từ trang nghiêm lớn như vậy. Bồ-tát từ lúc mới phát tâm đã xa lìa năm thứ dục, Đại Bồ-tát như thế mới có thể gánh vác, làm ruộng phước lớn cho hàng Thanh văn và Bích-chi-phật, cũng làm cho tất cả chúng sinh giữ gìn và cúng dường. Lại nữa, này thiện nam! Đại Bồ-tát tu tập luân đại Bi, từ lúc mới phát tâm đã xa lìa năm thứ dục, gọi là Đại Bồ-tát gánh vác, làm ruộng phước lớn cho hàng Thanh văn và Bích-chi-phật, cũng khiến cho tất cả chúng sinh luôn giữ gìn, cúng dường. Vì sao? Vì tất cả Thanh văn và Bích-chi-phật chỉ làm lợi mình mà tu tập tâm Bi, còn Đại Bồ-tát thì không như vậy. Đại Bồ-tát đã quên bản thân mình mà làm cho tất cả chúng sinh tu hành tâm Bi, nên mới gánh vác, làm ruộng phước lớn cho tất cả chúng sinh. Có thể khiến người khác tu bốn Nhiếp pháp, vì giáo hóa chúng sinh, cho đến xả bỏ tay chân, thân mạng và tài vật của mình, đem tâm Đại Bi ấy nhằm tạo an lạc cho các chúng sinh. Cũng không thủ đắc tướng chúng sinh, không thủ đắc tướng bố thí, không thủ đắc nơi tướng thọ nhận, cho đến không thủ đắc tướng quả báo của Bố thí. Khi thực hành Bố thí ba-la-mật, không chấp tướng thực hành, tướng Ái ngữ, Lợi ích và Đồng sự. Tuy thực hành bốn Nhiếp pháp nhưng không chấp tướng, luôn đem tâm tối thắng, tâm đệ nhất, tâm vắng lặng, cho đến vô lượng, vô số tâm, không thực hành theo tâm của ấm, giới, nhập, tâm không lay động, luôn an trụ, làm trang nghiêm tâm Đại Bi vắng lặng để giáo hóa chúng sinh. Này thiện nam! Nhờ tướng này nên có thể trang nghiêm lớn, không cùng hợp với tất cả hàng Thanh văn và Bích-chi-phật. Đại Bồ-tát thành tựu đầy đủ luân Đại Bi này, từ lúc mới phát tâm đã đoạn trừ năm thứ dục, có thể gánh vác, làm ruộng phước lớn cho hàng Thanh văn và Bích-chi-phật, luôn khiến cho tất cả chúng sinh giữ gìn và cúng dường. Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn nói rõ lại sự việc trên nên dùng kệ: Pháp này khó nghó bàn Sâu xa như hư không Vô sắc không chỗ trụ Thành tựu tâm Đại Bi. Luôn thực hành Đầu-đà Trí Bồ-tát tối thượng Lực Đại Bi dũng mãnh Vượt hơn tất cả người. Chúng sinh không chỗ dựa Bị sinh tử ràng buộc Muốn giải thoát khắp cả Nước Đại Bi tẩy trừ. Khô cạn biển sinh tử Chẳng phải địa Thanh văn Và cùng thừa Duyên giác Bồ-tát đã thương xót. Tham dục, giận, ngu si Chúng sinh vào đường ác Nhờ nước Đại Bi này Rửa sạch khổ chúng sinh. Lại nữa, này thiện nam! Lại có vô lượng, vô biên vô số các loại luân trang nghiêm lớn sai khác như: Âm thanh, Biện tài, tất cả Tam-muội, Tổng trì, Nhẫn nhục đầy khắp hư không. Đại Bồ-tát nếu thành tựu được luân này, từ lúc mới phát tâm đã đoạn trừ năm thứ dục, có thể gánh vác, làm ruộng phước lớn cho hàng Thanh văn và Bích-chi-phật, khiến cho tất cả chúng sinh đều giữ gìn, cúng dường. Thế nào gọi là Đại Bồ-tát có vô lượng, vô biên vô số luân trang nghiêm lớn, sai khác như âm thanh, biện tài, tất cả Tam-muội, Tổng trì, nhẫn nhục đầy khắp hư không? Đó là Bồ-tát chiếu sáng tất cả pháp, giống như ánh sáng của mặt trăng chiếu khắp thiên hạ, không tướng, không nương tựa, tâm không bị đắm nhiễm. Đối với các Tam-muội thân tâm không lay động. Mắt, nhãn xúc nhãn thức đều không lay động. Nếu mắt duyên nơi xúc bên trong thì sinh ra ba thọ: Khổ thọ, lạc thọ và không khổ không lạc thọ, nên phát sinh tâm vắng lặng cùng với tâm vô sinh. Tai, mũi, lưỡi, thân cho đến tâm, ý, ý thức vô sinh cũng đều như vậy, có thể sinh ra ba thọ, tâm tịch tónh, tâm vô sinh. Tất cả ấm, giới, nhập trong ba đời cũng đều vô sinh, không có lay động, ba cõi, ba hành, ba giới, ba thừa, ba giải thoát, ba căn, ba xúc, tâm cũng vắng lặng, tâm vô sinh, tất cả đều không chỗ trụ, đều thực hành Bố thí ba-la-mật vô tướng, cho đến Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ ba-la-mật đều an trụ vào tịch diệt, tâm không loạn động. Bốn Niệm xứ, bốn chính cần, bốn Như ý túc, năm Căn, năm Lực, bảy phần Bồ-đề, tám Thánh đạo đều an trụ không lay động, trụ vào định thứ chín cũng không lay động, cho đến tướng ba hành, như và bất như cũng đều không lay động. Biết tất cả pháp đều không bị chướng ngại, an trụ vào tám con đường Thánh, cảnh giới và không phải cảnh giới, có chấp thủ và không chấp thủ, hữu lậu, vô lậu, có bờ bên này bên kia, không có bờ bên này bên kia, không lớn không nhỏ, có tạo tác không có tạo tác, có thiện có ác, hữu ký vô ký, đối với tất cả mọi nơi tâm đều không lay động. Như thế mới có thể làm phương tiện lớn phát khởi tâm đại Từ Đại Bi để giáo hóa chúng sinh, giữ gìn ba thừa và bốn Vô úy, phân biệt mười Địa cho đến mười tám pháp Bất cộng, đối với tất cả mọi nơi đều an trụ không tạo tác, không dấy khởi, tâm luôn an trụ, giữ tướng nơi ba thọ thảy đều vắng lặng. Đại Bồ-tát xa lìa tất cả tướng, đạt được mắt như hư không, đạt Tam-muội Hỏa quang chiếu minh và tất cả Tam-muội vua, cùng với luân phương tiện trang nghiêm lớn. Nếu Bồ-tát an trụ nơi Tam-muội ấy thì có thể diệt trừ các nghiệp khổ nơi ba đường ác ở quá khứ, diệt hết không còn sót. Này thiện nam! Ví như năm mặt trời xuất hiện cùng một lúc thì tất cả dòng nước, sông, ao và các biển, nước trong bốn biển thảy đều khô cạn. Đại Bồ-tát cũng vậy, nhờ vô lượng, vô biên vô số luân trang nghiêm lớn như ví dụ, lời nói thiện xảo, biện tài, tất cả Tam-muội, Tổng trì, nhẫn nhục đầy khắp hư không. Nếu Bồ-tát thành tựu luân này, diệt hết phiền não nơi ba cõi, trừ các nẻo ác, đối với các nghiệp chướng đã tạo nơi đời quá khứ vónh viễn không còn sót. Này thiện nam! Ví như thế giới khi kiếp sắp tận thì bốn cõi thiên hạ, tám vạn bốn ngàn các sông ngòi cùng với tất cả các núi trong bốn cõi thiên hạ đều tan hoại, tiêu diệt vónh viễn không còn nữa. Này thiện nam! Đại Bồ-tát cũng lại như vậy. Thành tựu tất cả luân Tam-muội, các Đà-la-ni, nhẫn nhục, có thể diệt trừ nghiệp ác đã tạo ở đời trước, cho đến tất cả các nẻo ác trong ba cõi đều dứt trừ không còn sót. Này thiện nam! Ví như khắp hư không tất cả đều tối đen, khi mặt trời xuất hiện thì mọi sự tối tăm đó đều tiêu diệt. Đại Bồ-tát cũng vậy, nếu có thể thành tựu luân trang nghiêm lớn này, cho đến tất cả luân Tam-muội, Tổng trì, Nhẫn nhục thì các sự tối tăm điên đảo của thân mình và người khác thảy đều tiêu diệt. Mặt trời trí tuệ vô biên như hư không cũng vậy, đều có thể tiêu diệt các nghiệp ác bất thiện ở đời trước, vónh viễn không còn nữa. Bồ-tát này không thuận theo tri thức ác, thường gần gũi chư Phật, lãnh hội chính pháp, cho đến không xa lìa các hạnh của Bồ-tát, ở trong giấc mộng tâm luôn nhớ nghó Phật. Thế nào là Đại Bồ-tát tạo luân trang nghiêm lớn gồm vô lượng, vô biên vô số những thứ: lời nói, âm thanh, biện tài, tất cả Tam-muội, Tổng trì, nhẫn nhục đầy khắp hư không? Đại Bồ-tát nhập vào thiền thứ nhất cho đến thiền thứ tư, rồi nhập vào Không xứ cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ, nhập vào đầy đủ Định diệt tận cho đến đầy đủ diệt ba hành tâm, tâm không lay động, tưởng, xúc, ý, hành vắng lặng, đều không lay động, hoặc an trụ một ngày một đêm, cho đến bảy ngày bảy đêm, ở trong thiền định Tam-muội cũng trụ vào Đệ nhất nghĩa không, các lỗ chân lông nơi thân phát ra khí nóng thiêu cháy các củi khô là nghiệp kết sử, lần lượt như vậy thì đạt được chính niệm sâu xa, khiến toàn thân được hỷ lạc. Ví như Thiên tử Tự Tại nhập vào Tam-muội Hiện nhất thiết hỷ lạc. Nhập vào Tam-muội này rồi thì tất cả lỗ chân lông nơi thân đều cảm thọ sự hỷ lạc. Tướng hỷ lạc như vậy, xúc chạm nơi thân của Bồ-tát, tự mình nhớ niệm Phật, niệm Phật rồi liền thấy Phật, không có tướng gì khác. Nếu niệm một Đức Phật thấy một Đức Phật. Nếu niệm vô lượng Đức Phật thấy vô lượng Đức Phật. Nếu niệm một phần thân Đức Phật thì thấy một phần thân Phật, nếu niệm vô biên thân Phật thì thấy vô biên thân Phật. Nếu quán thân mình thành tướng Phật thì thấy thân mình đồng với tướng tốt của Phật, trang nghiêm đầy đủ. Nếu quán thân người khác thành tướng Phật thì thấy thân người khác đồng với tướng tốt của Phật, trang nghiêm đầy đủ. Nếu muốn quán chúng sinh đều thành tướng Phật thì tùy theo chỗ quán sát thân tướng của Phật, không thấy gì khác. Tâm đã khởi niệm đều là thật không phải hư vọng, nhận biết các pháp như huyễn, giống như ảnh trong nước, đều xem ba thọ, ba hành vónh viễn không còn nữa. Quán như vậy rồi, nhập vào Định diệt tận, thọ nhận thiền duyệt thực hoặc một tuần, hai tuần, ba tuần cho đến bảy tuần, hoặc mười ngày, mười lăm ngày, như vậy cho đến trăm ngàn vạn ức kiếp, trở lại quán không nơi thật đế, như trước niệm Phật, thành tựu quán này rồi. Này thiện nam! Nhờ tướng vô lượng, vô biên vô số luân gồm các loại như: lời nói, âm thanh, biện tài, tất cả Tam-muội, Tổng trì, nhẫn nhục như vậy đầy khắp hư không. Bồ-tát thành tựu luân như vậy rồi, nên đoạn trừ năm thứ dục, tất cả nghiệp ác ở quá khứ nơi ba cõi, sáu đường đều tiêu trừ, khiến không còn sót, có thể gánh vác, làm ruộng phước lớn cho hàng Thanh văn và Bích-chi-phật, cũng khiến cho tất cả chúng sinh đều giữ gìn, cúng dường, lìa bốn thứ điên đảo, ngu si, tối tăm, không thuận theo các tri thức ác, thường gần gũi chư Phật, được nghe chính pháp, cho đến trong giấc mộng cũng đều thấy Phật, lãnh hội giáo pháp, cúng dường chúng Tăng, đối với tất cả nẻo hành trì của Bồ-tát, mau chóng thành tựu đạo quả Bồ-đề vô thượng, đạt được cõi Phật thanh tịnh, nơi cõi Phật ấy, tất cả chúng sinh thảy đều hóa sinh, có đủ tướng tốt như Phật, an trụ nơi Đại thừa, không còn các kết sử. Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn nói lại sự việc trên nên dùng kệ: Người gánh vác pháp khí Diệt trừ các kết sử Trụ vào lòng tin thiện Đều không còn nghi ngờ. Nhằm dứt trừ trói buộc Mà tạo trang nghiêm lớn Tu học các thiền định Trí tuệ không nghó bàn. Tu học các phước đức Quán tịch diệt đệ nhất Nhờ trí niệm Phật này Diệt hết tất cả ác. Tướng cùng với vô tướng Dùng pháp “Không” để diệt Bặt dứt hẳn đường ác Luôn gặp được chư Phật. Tu học các pháp lành Cúng dường tất cả Phật Sớm thành tựu chính giác Nhờ tu tập không tướng. Làm bạn với chúng sinh Trừ bỏ các kết sử Là ruộng phước thanh tịnh Mau chứng được Bồ-đề. Chúng sinh thành tướng Phật Đầy khắp cả thế giới Vì mong cầu Phật đạo Nên xa lìa Nhị thừa. Khi Đức Phật giảng nói pháp này, có vô lượng, vô số Bồ-tát vốn đã từng nghe chính pháp niệm Phật, nếu bị quên mất thì hôm nay đều đạt được trở lại. Có vô lượng chúng sinh nghe pháp niệm Phật này, đạt được trăm ngàn Tam-muội, đều nhập vào tất cả Tam-muội phương tiện, đạt được ức niệm vòng hoa Tổng trì. Có vô lượng chúng sinh đều nương vào Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm, cho đến thành tựu được Tam-muội Điện quang, đạt được tất cả pháp chiếu sáng, chứng được pháp Nhẫn vô sinh, xa lìa trần cấu, chứng đắc Pháp nhãn thanh tịnh. Lại có vô lượng chúng sinh đạt được quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, quả A-la-hán. Có vô lượng chúng sinh đều mong cầu được xuất gia trong giáo pháp của Phật. Có vô lượng chúng sinh nương vào mười điều thiện, có người phát tâm theo hàng Thanh văn, có người phát tâm theo Bích-chi-phật, có người phát tâm Vô thượng chính đẳng chính giác, có người chứng đắc quả vị Bất thoái. Có vô lượng chúng sinh đạt được chính kiến thế gian, nhờ nhân duyên chính kiến nên đoạn dứt kết sử trong đường xấu ác, đều được sinh nơi cõi trời, cõi người, quy y Tam bảo, xả bỏ năm thứ dục, được xuất gia nơi giáo pháp của Phật, xa lìa tất cả tà kiến, đạt được lòng tin thanh tịnh. Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Kim Cang Tạng: –Này thiện nam! Ông nên đem pháp luân không thoái chuyển này thọ ký cho Bồ-tát Địa Tạng. Nếu có chúng sinh đọc tụng kinh này, giảng nói rõ cho người khác, an trụ vào chính pháp, sẽ được sự ủng hộ của mười pháp. Những gì là mười? Đó là ủng hộ tất cả tài vật, xa lìa tất cả oán địch, tất cả tà kiến, mọi sự nương tựa sai lạc vào mười điều ác, tất cả tội lỗi của thân, tất cả tội lỗi của miệng, tất cả điều phỉ báng, xa lìa tất cả những sự phá giới, tất cả bệnh nặng, tất cả sự chết rủi ro. Chúng sinh như thế khi lâm chung đều thấy được chư Phật, được sinh lên cõi trời. Nếu có chúng sinh đọc tụng kinh này thì sẽ được sự ủng hộ của mười pháp như vậy. Đó gọi là kho báu của chư Phật. Đức Phật giảng nói kinh này xong, bốn bộ chúng, chư Thiên, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân, Bồ-tát Địa Tạng… nghe kinh, thảy đều hoan hỷ phụng hành. <卷 id="117270425">