<經 id="n404">KINH ĐẠI TẬP những điều BỒ-TÁT Hư Không tạng hỏi Phật Hán dịch: Đời Đường, Tam tạng Sa-môn Bất Không. <卷 id="117270380">Quyển 1 Tôi nghe như vầy: Một thời, Đức Thế Tôn ngự tại đạo tràng Bảo trang nghiêm, là cảnh giới của Như Lai. Đạo tràng này nhờ sự hộ trì của chư Phật nên đã chứa nhóm hành trang của phước đức vó đại thành tựu các hạnh nguyện bao la, là cung điện trú xứ của hàng Bồ-tát, là nơi để diễn nói pháp thâm diệu vô biên, cũng là cảnh giới của trí tuệ vô ngại, của thần thông tự tại nơi Đức Như Lai, có thể phát sinh niệm tuệ khéo léo rộng lớn, là nơi hội nhập vào nẻo hành hóa của trí Vô sở hữu, khen ngợi công đức thù thắng vô lượng ở tận cùng đời vị lai, Đức Thế Tôn hiện chứng tất cả pháp bình đẳng, tự tại, khéo chuyển bánh xe pháp thanh tịnh vô thượng, thu phục giáo hóa tất cả chúng đệ tử, hiểu rõ về ý muốn của hết thảy chúng sinh, cùng căn cơ giải thoát, đoạn trừ mọi thứ phiền não trói buộc cho họ, đảm nhiệm việc thực hành không ngừng nghỉ đối với các Phật sự. Nơi đây, Đức Thế Tôn cùng với chúng đại Tỳ-kheo gồm sáu trăm vạn người hội đủ. Chư vị Tỳ-kheo này đều là hàng Pháp vương tử của Như Lai, tâm và tuệ hoàn toàn giải thoát, đã đoạn trừ tất cả phiền não trói buộc, diễn nói thông suốt hết thảy pháp sâu xa của Đức Phật, lại có thể thấu đạt các pháp vô tướng, đầy đủ oai nghi đoan nghiêm, đặc biệt, là nơi làm tăng trưởng ruộng phước lớn, khéo an trụ nơi giáo pháp của Đức Thế Tôn. Lại có chúng Đại Bồ-tát, số lượng là không thể nghó bàn, không thể ví dụ, không thể nói hết, từ các cõi Phật đều vân tập đến pháp hội. Trong khoảnh khắc một sát-na, hàng Bồ-tát ấy tự tại đi qua vô số cõi Phật để cúng dường tất cả các Đức Như Lai, thỉnh cầu chư Phật thuyết pháp và nghe pháp không hề mệt mỏi, thường tạo mọi thành tựu đầy đủ cho các loài hữu tình, dùng những phương tiện thiện xảo để có thể đạt đến nẻo giải thoát thanh tịnh bậc nhất, an trú nơi biện tài vô ngại, vượt qua hết thảy mọi phân biệt, hý luận, chứng đắc quả vị gần với trí Nhất thiết trí. Danh hiệu của chư vị là Bồ-tát Điện Thiên, Bồ-tát Chiến Thắng, Bồ-tát Biến Chiếu, Bồ-tát Dũng Kiện, Bồ-tát Tồi Nghi, Bồ-tát Phấn Tấn, Bồ-tát Quan Sát Nhãn, Bồ-tát Thường Thư Thủ, cùng với hàng Đại Bồ-tát thượng thủ như vậy hội đủ. Bấy giờ, vì hàng Đại Bồ-tát, Đức Thế Tôn đã tập hợp tất cả đại chúng ở lâu đài báu trụ giữa hư không để giảng nói pháp vi diệu. Lâu đài ấy hết mực trang nghiêm thù thắng, giống như cõi Phật Nhất Bảo Trang Nghiêm trong thế giới Đại trang nghiêm, chúng Bồ-tát đều thấy mình an tọa trong lâu đài đó. Lúc này, tất cả hình sắc, trong tam thiên đại thiên thế giới, như núi Tô-mê-lô, núi Luân vi, núi Đại luân vi, châu Thiệm-bộ…, các xóm làng, thành ấp, sông ngòi, suối khe, ao hồ, biển cả, rừng rậm, cỏ cây cùng mọi thứ cung điện cư trú nơi đại địa đều bị che khuất. Hết thảy các loại hình ảnh, màu sắc từ cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc, cho đến trời Hữu Đảnh, cùng cung điện của chư Thiên, của chúng sinh thảy đều không hiện ra. Giống như sau kiếp bị tai họa lửa thiêu đốt, đại địa cháy tan, chỉ còn là hư không, trong ấy không có một đối tượng nào để mắt có thể nhìn thấy. Ở đây cũng vậy, cả tam thiên đại thiên thế giới không còn có màu sắc, hình ảnh nào để mắt của các chúng sinh nhìn ngắm, chỉ trừ hàng Thanh văn, Bồ-tát, chúng trời, rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà… nơi pháp hội trong đạo tràng Bảo trang nghiêm thì mọi hình tướng đều hiển hiện rõ ràng. Lại nữa, nơi đạo tràng này có tòa Sư tử tự nhiên vọt lên, cao rộng hàng vạn do-tuần, phát ra ánh sáng thanh tịnh, chiếu tỏa khắp tam thiên đại thiên thế giới, che khuất ánh sáng của mặt trời, mặt trăng, trời Đế Thích, Phạm Thiên và trời Hộ Thế. Khi Đức Phật an tọa trên tòa ấy thì đại chúng thấy được tướng kỳ diệu, đặc biệt của Đức Như Lai, nên rất đỗi vui mừng, khen ngợi là điều chưa từng có, bảo nhau: –Lâu đài hết sức trang nghiêm thù thắng, với vô số sự sai biệt khéo léo như vậy, giả sử chúng ta có sống trọn một kiếp cũng không thể nêu bày hết. Bấy giờ, nương vào oai thần của Đức Phật, từ lâu đài báu, Tôn giả Xá-lợi Tử đứng dậy, trụ giữa hư không, sửa lại y phục bày vai bên phải, quỳ gối chắp tay, thưa: –Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà trước tiên hiện ra điềm lành này? Những màu sắc, hình ảnh trong tam thiên đại thiên thế giới đều bị che khuất nên rỗng lặng như hư không, chỉ có lâu đài Bảo trang nghiêm nơi chúng hội cư trú này thì vẫn tự nhiên hiện bày? Đức Phật bảo Tôn giả Xá-lợi Tử: –Này Tôn giả Xá-lợi Tử! Ông nay tất có thấy lâu đài báu này chăng? –Bạch Thế Tôn! Con nay đã thấy. –Này Tôn giả! Ông có thể khen ngợi hết công đức của lâu đài báu này? –Bạch Thế Tôn! Suốt đời con cũng không thể khen ngợi hết công đức chân thật ấy. –Đúng vậy, này Tôn giả Xá-lợi Tử! Có thế giới tên là Đại trang nghiêm, trong thế giới ấy có lâu đài báu, vi diệu, cùng với tất cả đại chúng nơi pháp hội đều trụ giữa hư không. Hôm nay, lâu đài ấy đã hiện ra ở đây. –Bạch Thế Tôn! Thế giới Đại trang nghiêm đó hiện ở đâu? Đức Phật bảo: –Về phương Đông cách cõi này với số lượng cõi Phật nhiều như số vi trần trong tám thế giới Phật, có thế giới tên là Đại trang nghiêm, Đức Phật nơi cõi ấy hiệu là Nhất Bảo Trang Nghiêm gồm đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, chính Biến Tri, Mịnh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, hiện đang thuyết pháp. Này Tôn giả Xá-lợi Tử! Do nhân duyên gì thế giới ấy được gọi là Đại trang nghiêm? Vì trong thế giới ấy có những sự việc vô cùng trang nghiêm, thù thắng, nếu ta sống ở đời trong một kiếp cũng không thể nói hết về sự trang nghiêm kia, do đấy nên gọi là Đại trang nghiêm. Lại do nhân duyên gì danh hiệu Phật là Nhất Bảo Trang Nghiêm? Vì Đức Phật ở cõi ấy thường dạy: “Chỉ dùng tâm đại Bồ-đề mà làm ngọc báu”, cho nên hiệu là Nhất Bảo Trang Nghiêm. Khi thuyết pháp, Đức Phật Nhất Bảo Trang Nghiêm cùng hàng Bồ-tát đều ngồi trên tòa Sư tử nơi lâu đài báu và vụt lên hư không cao bằng tám mươi ức cây Đa-la, vì hàng Bồ-tát, Đức Phật giảng nói “Pháp ấn hư không thanh tịnh”. Này thiện nam! Thế nào là Pháp ấn hư không thanh tịnh? Đó là tất cả các pháp đều “Lìa tính, không tính”. Thế nào là lìa tính, không tính? nghĩa là tất cả pháp không có biểu hiện. Thế nào gọi là không có biểu hiện? Đó là tất cả các pháp không hiển bày rõ ràng? Thế nào là không hiển bày rõ ràng? Tức tất cả các pháp đều xa lìa mọi duyên hợp, phân biệt. Thế nào là không duyên hợp, phân biệt? nghĩa là tướng của tất cả các pháp là vắng lặng. Thế nào là tướng vắng lặng? Ấy là tất cả các pháp không có hai tướng. Thế nào là không có hai tướng? nghĩa là tất cả các pháp đều xa lìa mọi dị biệt. Thế nào là không dị biệt? Đó là tất cả các pháp đều nhập vào tướng nhất đạo. Thế nào gọi là nhập vào tướng nhất đạo? nghĩa là tự tướng, tự tính của tất cả pháp đều thanh tịnh. Thế nào là tự tướng tự tính đều thanh tịnh? Ấy là tất cả các pháp đều siêu vượt cả ba đời. Thế nào là siêu vượt cả ba đời? Tức tất cả các pháp không có nơi chốn nương tựa. Thế nào là không có nơi chốn nương tựa? Đó là tất cả các pháp không có ảnh tượng. Thế nào là không có ảnh tượng? nghĩa là tất cả các pháp đều vượt qua mọi cảnh giới. Thế nào là vượt qua các cảnh giới? Tức tất cả các pháp trong, ngoài đều thanh tịnh. Thế nào là trong ngoài đều thanh tịnh? Đó là tính của tất cả các pháp là không tạp nhiễm. Thế nào là không tạp nhiễm? nghĩa là tính của tất cả các pháp đều tịch tónh. Thế nào là tính tịch tónh? Ấy là tất cả các pháp đều xa lìa tâm, ý, thức. Thế nào là xa lìa tâm, ý, thức? nghĩa là tất cả các pháp đều lìa khỏi tướng, vốn không sinh. Thế nào là lìa khỏi tướng, vốn không sinh? Đó là tất cả các pháp không có ngã. Thế nào là không có ngã? Tức tất cả các pháp không có chủ tể. Thế nào là không có chủ tể? Ấy là tính của tất cả các pháp là vô ngã? Thế nào là tính vô ngã? Đó là tất cả các pháp xưa nay vốn thanh tịnh. Thế nào là xưa nay vốn thanh tịnh? nghĩa là tất cả các pháp vốn không có Niết-bàn. Thế nào là không có Niết-bàn? Ấy là tính của tất cả các pháp đều như huyễn. Thế nào là tính như huyễn? nghĩa là tất cả các pháp không chân thật. Thế nào là không chân thật? Tức tất cả các pháp không có tướng tạo tác. Thế nào là không có tướng tạo tác? nghĩa là tất cả các pháp đều xa lìa tướng thân, tâm. Thế nào là xa lìa tướng thân, tâm? Đó là tất cả các pháp đều lìa tướng và vô tướng. Thế nào là lìa tướng và vô tướng? nghĩa là tất cả các pháp tự tướng là chẳng động. Thế nào là tự tướng chẳng động? Tức tất cả các pháp không có đối tượng được y cứ. Thế nào là không có đối tượng được y cứ? Đó là tất cả các pháp đều không có nơi duyên dựa. Thế nào là không có nơi duyên dựa? nghĩa là tất cả các pháp đều xa lìa A-lại-da. Này Tôn giả Xá-lợi Tử! Đức Như Lai Nhất Bảo Trang Nghiêm đã giảng nói ba mươi hai pháp ấn thanh tịnh như hư không cho hàng Bồ-tát. Lúc ấy, vô lượng Bồ-tát biết rõ tính của các pháp ngang bằng với hư không nên đều chứng đắc “Trí nhẫn tự tại thanh tịnh”. Này Tôn giả Xá-lợi Tử! Trong thế giới Đại trang nghiêm kia, hàng Bồ-tát đã dùng bố thí để trang nghiêm, nơi vô lượng kiếp tùy thuận mà xả bỏ. Dùng tịnh giới để trang nghiêm nên thân tâm được thanh tịnh, không có các điều nhơ uế. Dùng nhẫn nhục để trang nghiêm nên đối với các chúng sinh không có tâm làm hại. Dùng tinh tấn để trang nghiêm, nên chứa nhóm mọi hành trang của tất cả các pháp. Dùng tónh lự để trang nghiêm, nên tự tại đối với tất cả các pháp Tam-muội Giải thoát. Dùng trí tuệ để trang nghiêm nên xa lìa tất cả phiền não trói buộc. Dùng đại Từ để trang nghiêm nên cứu giúp hết thảy chúng sinh. Dùng Đại Bi để trang nghiêm nên không rời bỏ mọi loài hữu tình. Dùng đại Hỷ để trang nghiêm nên luôn hoan hỷ đối với muôn vật. Dùng đại Xả để trang nghiêm nên bình đẳng đối với hết thảy chúng sinh không thương không ghét. Lại nữa, này Tôn giả Xá-lợi Tử! Trong thế giới của Đức Như Lai Nhất Bảo Trang Nghiêm có Đại Bồ-tát tên là Đại Hư Không Tạng. Bồ-tát này dùng phước đức và oai lực lớn để tự trang nghiêm nên chứng đắc trí vô ngại. Dùng tướng tốt để trang nghiêm thân. Dùng biện tài để trang nghiêm lời nói. Dùng định thù thắng để trang nghiêm nơi tâm. Dùng kiến văn về Tổng trì để trang nghiêm niệm. Dùng tâm Xả bình đẳng để trang nghiêm đạo chân thật. Dùng tuệ để trang nghiêm sự an lạc nơi các cõi. Dùng gia hành, thắng tấn để trang nghiêm tâm an vui tăng thượng, đối với tất cả các pháp không còn nghi hoặc. Dùng thần túc để trang nghiêm các thần thông tự tại diệu dụng. Dùng phước đức để trang nghiêm nên đạt được bàn tay công đức báu thường hay bố thí. Dùng trí để trang nghiêm nên phân biệt rõ về vô số ý muốn của chúng sinh. Dùng tính giác để trang nghiêm nên khiến tất cả loài hữu tình chứng ngộ pháp thù thắng. Dùng mắt để trang nghiêm nên được năm mắt thanh tịnh. Dùng tai để trang nghiêm nên lãnh hội được ý nghĩa của các pháp như âm vang ứng hợp. Dùng biện tài vô ngại để trang nghiêm nên pháp, nghĩa, từ, biện được nêu bày là vô tận. Dùng lực để trang nghiêm nên chứng đắc mười Lực của Đức Phật, dẹp tan các ma oán. Dùng vô úy để trang nghiêm nên bẻ gãy các luận thuyết của ngoại đạo, không hề bị khuất phục. Dùng công đức để trang nghiêm nên đạt được vô biên công đức của Phật. Dùng pháp để trang nghiêm nên từ các lỗ chân lông nơi thân đều diễn nói pháp như tiếng vang. Dùng sự sáng tỏ để trang nghiêm nên có thể thấy được kho pháp của tất cả chư Phật. Dùng hào quang để trang nghiêm nên chiếu soi đến tất cả các cõi Phật. Dùng tâm ghi nhớ để trang nghiêm nên không có sai lầm. Dùng sự dạy bảo để trang nghiêm nên thực hành đúng như lời nói. Dùng thần thông “thần cảnh” để trang nghiêm nên biến hiện được tất cả các loại hình tướng. Dùng sự khen ngợi của hết thảy chư Phật để trang nghiêm nên an trụ tự tại, không bị lệ thuộc. Dùng tất cả các pháp lành để trang nghiêm nên hội nhập cảnh giới của tất cả pháp Phật. Này Tôn giả Xá-lợi Tử! Bồ-tát Đại Hư Không Tạng đã thành tựu vô lượng công đức như thế. Bồ-tát ấy cùng với các Bồ-tát khác muốn đến thế giới Ta-bà này để chiêm ngưỡng, cung kính lễ bái, hầu hạ, cúng dường Như Lai, cũng là để phân biệt pháp môn vi diệu nơi chúng hội “Đại tập” này, khiến cho chư vị Bồ-tát khắp mười phương đã vân tập đến đây, đều hoan hỷ phát khởi lòng tin thanh tịnh, tất cả đều dốc lòng thâu nhận giữ gìn chính pháp. Bấy giờ, Bồ-tát Đại Hư Không Tạng cùng với mười hai ức Bồ-tát tuần tự vây quanh, nhất tâm chiêm ngưỡng Đức Như Lai Nhất Bảo Trang Nghiêm, thưa: –Bạch Thế Tôn! Hôm nay, con muốn đến thế giới Sa-ha (Ta-bà) để lễ bái, cúng dường Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, xin Thế Tôn chấp nhận. Đức Phật Nhất Bảo Trang Nghiêm nói: –Hiện tại thật là đúng lúc. Ông nên đến thế giới đó. Ngay lúc ấy, Bồ-tát Đại Hư Không Tạng và chư vị Bồ-tát cung kính đảnh lễ ngang chân Đức Thế Tôn Nhất Bảo Trang Nghiêm, xong liền nghó: “Nên nương vào thần thông “Du hý vô hành của Đức Như Lai”. Tức thì chỉ trong khoảng một niệm, Bồ-tát Đại Hư Không Tạng cùng chúng Bồ-tát đã biến mất ở cõi này, hiện đến đạo tràng Bảo trang nghiêm nơi thế giới Ta-bà, trụ giữa hư không tung rải xuống như mưa các loại hoa hương vi diệu của thế giới Đại trang nghiêm như hương bột, hương xoa, phướn, lọng, tơ lụa, vô số các loại hoa như: Hoa nguyệt, hoa đại nguyệt, hoa diệu thù thắng, hoa nhật nguyệt quang, hoa nhật đăng, hoa nhật tinh, hoa ái, hoa đại ái, hoa chiếu diệu, hoa ta-thát-la, hoa thắng diệu ta-thát-la, hoa biến vô cấu, hoa thanh tịnh vô cấu, hoa kim quang chiếu diệu, hoa hư không chiếu diệu, hoa đại bạch hương chiếu xúc, hoa bạch diệp thiên nhụy, hoa trừ ưu, hoa tác hỷ, hoa thiên sở tán, hoa long, hoa an lạc sinh hỷ, hoa thiền chi, hoa linh thân khoái lạc, hoa linh tâm hoan hỷ, hoa hương biến tam thiên thế giới, hoa tức trừ chúng bệnh, hoa diệu oai đức trang nghiêm, hoa lưu xuất vô biên phước đức, hoa chiếu xúc thập phương Bồ-tát. Các loại hoa tươi đẹp như vậy được mưa xuống đạo tràng Bảo trang nghiêm, lớp lớp chồng chất và hiện bày khắp tam thiên đại thiên thế giới. Khi ấy, đại chúng trông thấy các thứ hoa như thế, bèn thưa: –Bạch Thế Tôn! Các loại hoa và âm nhạc thù thắng như vậy từ trước đến nay chúng con chưa từng thấy, chưa từng được nghe. Thế thì chúng từ đâu mà đến? Kính xin Như Lai chỉ dạy. Đức Phật bảo: –Đó là Bồ-tát Đại Hư Không Tạng từ nơi thế giới Đại trang nghiêm đến đây, trụ giữa hư không, trước là tung rải vô số các loại hoa đẹp, lạ như thế để cúng dường Như Lai và kinh này. Lúc ấy, Bồ-tát Đại Hư Không Tạng cùng với chúng Bồ-tát của thế giới Đại trang nghiêm từ hư không đi xuống đảnh lễ dưới chân Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, nhiễu quanh ba vòng, rồi đứng qua một bên, thưa: –Bạch Thế Tôn! Đức Như Lai Nhất Bảo Trang Nghiêm có lời vấn an Đức Thế Tôn ít bệnh, ít phiền, mọi sinh hoạt, hành hóa đều ung dung an lạc chăng? Ở đây có mười hai ức Bồ-tát, chư vị từ xưa đã từng được Đức Thế Tôn giáo hóa dẫn dắt, hiện cùng với con đến thế giới Ta-bà này vì muốn được nghe kinh Đại Tập. Đức Như Lai Nhất Bảo Trang Nghiêm vì muốn cho hàng Bồ-tát luôn được tự tại đối với tất cả pháp, thành tựu pháp Đại thừa. Cúi xin Đức Thế Tôn thương xót mà chấp nhận giảng nói pháp vi diệu cho chúng con. Sau đấy, Bồ-tát Đại Hư Không Tạng liền hiện ra lọng báu ở giữa hư không được trang hoàng bằng các thứ báu, che trên đỉnh đầu Đức Như Lai, tỏa ánh sáng rực rỡ chiếu khắp mười phương. Lại hiện ra tòa ngồi như tòa Sư tử của Đức Thế Tôn, tòa ấy cao rộng một vạn do-tuần, lúc này, Bồ-tát Đại Hư Không Tạng ở nơi tòa kia chắp tay nói kệ tán thán Phật: Bậc trí diệu, công đức, pháp thắng Thanh tịnh không nhơ, không giới hạn Bình đẳng, vắng lặng như hư không Kính lễ bậc sâu xa tối thượng. Hiện bày thân tướng, sắc vi diệu Chẳng lìa Pháp thân, hiện thân này Vì lòng Từ bi thương chúng sinh Hiện khắp tướng trăm phước trang nghiêm. Xa lìa âm thanh, không nghe, thấy Dứt các ngôn từ, chẳng nêu bày Rõ tính ngôn ngữ như tiếng vang Do tâm Đại Bi mà diễn nói. Đối với hữu tình, tâm bình đẳng Biết tâm như huyễn, không tự tính Thấu tỏ tâm, hành không hướng xét Bình đẳng rốt ráo, tâm là tâm. Thị hiện tất cả độ chúng sinh Thân hình Thiên Thệ vượt mọi tướng Dùng công đức chỗ dựa nhiệm mầu Theo căn cơ hợp mà hiện thân. Pháp là vô tướng, Phật cũng vậy Chẳng đắm nhiễm pháp, lìa phân biệt Biết pháp có thể cứu muôn loài Tùy nghi thuyết pháp không gián đoạn. Đại chúng đều cùng quán thân Phật Sắc tướng Phật hiện đều sai khác Thế Tôn đã lìa tưởng thân, tâm Thuận hiện đều khiến chúng hoan hỷ. Do duyên hòa hợp, các pháp sinh Hư vọng phân biệt, chẳng phải thật Biết tất cả pháp đều như vậy Thành tựu chính giác, chứng Niết-bàn. Đã đoạn phân biệt, lìa kiến chấp Đạt nẻo vắng lặng, không tự tính Tuy biết tính các pháp thanh tịnh Giải thoát nghiệp quả không sai trái. Pháp không chúng sinh, thọ và nhân Tónh như hư không, lìa tên gọi Rõ chúng sinh ấy thật chẳng có Đều khiến chứng nhập pháp cam lộ. Tu trăm ức kiếp hạnh khó lường Tinh tấn cầu đạt đạo Vô thượng Do nhân duyên này được thành tựu Chứng quả Niết-bàn chốn không hành. Tỏ ngộ các pháp tính không khác Nơi thượng, trung, hạ đều bình đẳng Trụ “Trí bình đẳng” không phân biệt Nên tâm chư Phật thường an định. Biết uẩn, xứ, giới đều như huyễn Ba cõi như trăng hiện đáy nước Hữu tình như mộng, tính chẳng thật Nói pháp như thế chẳng phải chân. Tục đế nói thành Vô thượng giác Không thể nêu tướng “được”, “chẳng được” Bồ-đề và pháp cũng “chẳng được” Tướng “chuyển” “vô chuyển” không chỗ chuyển. Đưa mình và người tới bờ kia Giải thoát tất cả mọi trói buộc Khiến thảy đều đến với Đại thừa Cùng chứng đắc Niết-bàn an lạc. Hữu tình không sinh cũng không diệt Chúng sinh xưa nay thường thanh tịnh Tự tính mọi loài, tướng như huyễn Hữu tình đã chứng quả Bồ-đề. Sắc như hư không, không phát sinh Tất cả thế gian cũng như vậy Là pháp vô sắc, lìa sắc tướng Do biết ý nghĩa sắc vắng lặng. Dùng dụ tán dương công Đức Phật Như thỉnh, nghe, khen đều đắm nhiễm Công đức của Phật như hư không Như thế mới thật khen ngợi Phật. Lễ bậc giác ngộ cho chúng sinh Không “quán”, không “tâm” và “vô đắc” Chỉ có chư Phật khen ngợi Phật Con lạy đấng Như Như, đức thật. Biết rõ hữu tình không “ngã”, “nhân” Pháp giới chư Phật đồng một hướng Đã thấu các pháp lìa tướng dục Nên con cúng dường Đấng Bình Đẳng. Khi Bồ-tát Đại Hư Không Tạng nói kệ xong, lập tức mọi lâu đài báu nơi đạo tràng Bảo Trang Nghiêm hiện đủ sáu cách chấn động, trong hư không có tiếng nói: –Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ở trong vô số ức na-do-tha trăm ngàn kiếp đã tích chứa pháp Vô thượng chính đẳng chính giác. Bồ-tát Đại Hư Không Tạng này đã dùng lời kệ vi diệu tất có thể khen ngợi. Này thiện nam! Nếu ở trong mộng hãy còn chưa từng được nghe, huống hồ là được thấy. Nếu thiện nam, thiện nữ nào nghe bài kệ này, có thể phát sinh niềm tin, hiểu rõ về nghĩa lý rồi tu hành, nên biết người ấy lần lượt không bao lâu sẽ gầm lên tiếng gầm của sư tử như Bồ-tát Đại Hư Không Tạng. Khi ấy, Bồ-tát Đại Hư Không Tạng thưa: –Bạch Thế Tôn! Vì muốn được nghe kinh Đại Tập nên con đến thế giới Ta-bà này để chiêm ngưỡng, lễ bái, cúng dường và nghe Đức Thế Tôn thuyết pháp. Hôm nay, trong chúng hội này, hàng Đại só đều có tâm nghi ngờ nơi pháp. Cúi xin Đức Thế Tôn làm cho chư vị phát sinh tuệ quyết định để hiểu rõ các pháp. Lành thay! Bạch Thế Tôn! Hôm nay, con muốn được hỏi về ý nghĩa quyết định. Kính xin Như Lai ban cho chút ít phương tiện. Vì sao Đức Thế Tôn là bậc Trí vô ngại, biết rõ về mọi căn trí thuần thục của tất cả chúng sinh. Đức Thế Tôn là Bậc đạt trí tuệ xa lìa bao thứ tối tăm, là Bậc hiểu rõ mọi nghĩa lý, khéo phân biệt về các nghĩa, câu cú; là Bậc biết thời, luôn thọ ký đúng lúc; là Bậc biết rõ về cơ duyên tùy nghi giảng nói pháp cho muôn loài; là Bậc diệu dụng, hằng tự tại đối với các thần thông; là Bậc quan sát thanh tịnh, do hiểu rõ tâm niệm và sự tạo tác của mọi chúng sinh như trong lòng bàn tay; là Bậc tối thắng, vì không ai có thể thấy được đảnh tướng; là Bậc dũng mãnh, vì trong tam thiên đại thiên thế giới mọi loài đều quy phục; là bậc Như nhiên, vì không có thầy mà chứng ngộ tất cả các pháp; là bậc Đạo sư, chỉ bày nẻo chân chính nơi các con đường; là bậc Đại lương y dùng thuốc cam lộ để chấm dứt bao thứ bệnh khổ về mê lầm trói buộc của chúng sinh; là bậc có uy lực lớn, chứng đắc về “thị xứ”, “phi xứ” và “ba minh”; là bậc Đại vô úy, đối với các hàng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên, ma, Phạm nơi tất cả thế gian, đã gầm lên tiếng gầm của sư tử, không hề sợ hãi, là bậc thành tựu pháp Bất cộng, chứng đắc trí vô ngại trong ba đời, thân, miệng, ý đều thanh tịnh với các pháp Tam-ma-bát-để (Định), giải thoát tri kiến cùng pháp Bất cộng…; là Bậc an trụ nơi đại Từ, đối với các loài hữu tình, dùng tuệ không chướng ngại để quán xét bình đẳng như hư không; là Bậc an trú nơi đại Bi, dùng tuệ bình đẳng, không lay động đối với những hành tốt, xấu, khổ, vui của chúng sinh; là Bậc an trú trong đại Hỷ, thực hành thiền định, giải thoát đến bờ bến kia; là Bậc an trú trong đại Xả, tâm không thương ghét như hư không; là Bậc trụ nơi bình đẳng, hội nhập vào trí bình đẳng của tất cả Như Lai; là Bậc không mong cầu, trí tuệ đầy đủ, xa lìa mọi thứ danh, lợi; là Bậc đạt Nhất thiết trí, năm mắt thanh tịnh, nhận biết về tất cả pháp đều được rốt ráo? Con biết rõ Đức Thế Tôn đã thành tựu vô lượng, vô biên công đức như vậy. Hôm nay, chúng con do ưa thích pháp này nên muốn thưa hỏi, khiến cho chúng sinh đối với pháp bình đẳng ấy dùng phương tiện để phát sinh trí Nhất thiết trí. Phật bảo Bồ-tát Đại Hư Không Tạng: –Lành thay, lành thay! Hàng chính só các ông đã được hằng hà sa chư Phật thọ ký. Hôm nay, các ông tùy ý thưa hỏi, Như Lai sẽ giảng nói rõ khiến cho chư vị được hoan hỷ. Lúc ấy, trong chúng hội có Đại Bồ-tát tên là Công Đức Vương Quang Minh, hỏi Bồ-tát Đại Hư Không Tạng: –Thưa nhân giả! Vì nhân duyên gì mà nhân giả định thưa hỏi Đức Như Lai? Bồ-tát Đại Hư Không Tạng liền nói kệ đáp: Tâm bình đẳng đối với chúng sinh Tâm vi diệu an trụ bờ giác Tâm ngộ, tâm không, đạt diệu lý Nên tôi thưa hỏi Đức Thế Tôn. Bậc thanh tịnh dứt sạch tối tăm Tất cả nghi ngờ đều đã đoạn Vì khiến quyết định được giải thoát Nên tôi thưa hỏi Đức Thế Tôn. Biết ngã, vô ngã đều thanh tịnh Thường trụ vô ngã, lợi muôn loài Giải thoát ngã kiến buộc hữu tình Vì điều này nên tôi thưa hỏi. Oai nghi khéo trụ nơi tịnh giới Tâm ý thanh tịnh cùng hư không Kiên cố, bất động như Tu-di Vậy nên tôi hỏi bậc Công đức. Tinh tấn, dũng mãnh, không thoái lui Dẹp hết ngã mạn và ma oán Dứt sạch phiền não mình và người Nên tôi thưa hỏi đấng Đoan nghiêm. Thích nghe thí, giới, nhẫn, tinh tấn Thiền định, giải thoát, các thần thông Tuệ, minh thường thanh tịnh thù thắng Nên tôi thưa hỏi nghĩa Thanh tịnh. An trụ Không, Vô tướng, Vô nguyện Thị hiện sinh tử hoặc Niết-bàn Không sinh, không trụ, chẳng đến, đi Nên tôi thưa hỏi trí Thanh tịnh. Thấy biết sâu xa không giới hạn Thanh văn, Duyên giác, các chúng khác Không thể nêu hỏi và xét lường Tôi vì như vậy hỏi Thế Tôn. Ưa thích, thông đạt nơi chính pháp Pháp, chẳng phải pháp đều không chấp Đối với pháp thiện tâm không loạn Nên tôi thưa hỏi pháp của Phật. Không đoạn trừ Phật chủng, Hiền thánh Giữ gìn chính pháp và Tăng bảo Được chư Phật ba đời khen ngợi Nên tôi hỏi Đấng biển công đức. Bồ-tát Đại Hư Không Tạng dùng kệ đáp Bồ-tát Công Đức Vương Quang Minh xong, thưa với Phật: –Bạch Thế Tôn! Thế nào là Bồ-tát tu hành Bố thí ba-la-mật giống như hư không? Thế nào là Bồ-tát tu các hành Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ ba-la-mật giống như hư không? Thế nào là tu hành hai loại trang nghiêm là phước đức và trí tuệ như hư không? Thế nào là Bồ-tát không xa lìa mà luôn nhớ nghó về Phật, Pháp, Tăng, Xả, Giới, Thiên? Thế nào là Bồ-tát tu tập các hành về Niết-bàn? Thế nào là Bồ-tát biết rõ về hành tướng của tất cả chúng sinh? Thế nào là có thể giữ gìn kho báu của pháp Phật, biết đúng như thật về Như Lai Đẳng giác, về tính và tướng của các pháp? Thế nào là Bồ-tát khéo nhận biết về bản tính thanh tịnh của chúng sinh để tạo cho họ mọi thành tựu đầy đủ? Thế nào là Bồ-tát tương ưng đúng như lý để tu tập pháp Phật đạt được rốt ráo? Thế nào là Bồ-tát chứng đắc thần thông bất hoại, tự tại đối với tất cả các pháp? Thế nào là Bồ-tát an trú trong diệu lý sâu xa của pháp Phật, tất cả hàng Thanh văn và Bích-chi-phật không thể lường xét? Thế nào là Bồ-tát nhập vào “Trí duyên khởi thiện xảo”, xa lìa tất cả biên kiến? Thế nào là Bồ-tát dùng ấn của Như Lai để ấn chứng pháp Chân như, không làm gián đoạn “Trí thiện xảo”? Thế nào là Bồ-tát nhập vào diệu lý của pháp giới, thấy rõ hết thảy các pháp là một tính bình đẳng, hỗ tương hiện bày khắp? Thế nào là Bồ-tát tâm ý luôn an lạc bền vững như kim cang, đối với pháp Đại thừa chẳng mảy may dao động? Thế nào là Bồ-tát ở nơi cảnh giới của mình luôn được thanh tịnh như cảnh giới của Phật? Thế nào là Bồ-tát chứng đắc Đà-la-ni, “không quên việc thực hành chính pháp”? Thế nào là Bồ-tát đạt được sức hộ trì của Như Lai về biện tài vô ngại? Thế nào là Bồ-tát luôn có được tự tại trong sinh tử? Thế nào là Bồ-tát hàng phục mọi thứ oán địch, vượt khỏi bốn ma? Thế nào là Bồ-tát chứa nhóm vô lượng phước đức hành trang, làm nơi nương tựa cho mọi chúng sinh? Thế nào là Bồ-tát sinh trong đời không có Phật, vì muôn loài mà làm việc Phật? Thế nào là Bồ-tát chứng đắc Tam-muội Hải ấn, không đắm nhiễm nơi tâm hành của tất cả hữu tình? Thế nào là Bồ-tát không chấp trước, tâm như gió giữa hư không, chẳng bị chướng ngại? Thế nào là Bồ-tát khéo nhận biết các phương pháp tu hành, xa lìa si ám, đạt được ánh sáng trí tuệ, chứng đắc trí tự nhiên, không nhờ vào người khác, nhanh chóng đạt đến trí Nhất thiết trí của bậc Đại thừa? Khi ấy, Phật bảo Bồ-tát Đại Hư Không Tạng: –Lành thay, lành thay! Này bậc Đại só! Hôm nay, ông có thể khéo thưa hỏi Như Lai về nghĩa lý sâu xa như vậy, vì chúng sinh mà nêu bày các câu hỏi như thế. Ông có thể thấu đạt về pháp của hết thảy chư Phật, đã từng cúng dường, phụng sự vô lượng chư Phật trong quá khứ, đã ở nơi trú xứ của chư Phật vun trồng căn lành, mặc áo giáp tinh tấn cầu pháp không hề chán bỏ, dùng gươm trí tuệ ra khỏi cảnh giới của ma, thường vui thích tạo lợi ích cho tất cả chúng sinh, vượt khỏi tám pháp khen, chê… của thế gian, tâm bình đẳng như hư không, từ lâu đã tích tập trí Nhất thiết trí, công đức của Đại só thật không có giới hạn, đã từng thưa hỏi nghĩa lý này nơi vô số chư Phật đời quá khứ. Cho nên, này Bồ-tát Đại Hư Không Tạng! Ông hãy lắng nghe và khéo suy nghó. Vì ông, Như Lai sẽ phân biệt, giảng nói về công đức của hàng Đại Bồ-tát đã đạt được để chứng đắc trí Nhất thiết trí của Đại thừa. Bồ-tát Đại Hư Không Tạng thưa: –Bạch Thế Tôn! Con xin được lãnh hội. Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Hư Không Tạng: –Này thiện nam! Bồ-tát thành tựu bốn pháp thì tu hành Bố thí ba-la-mật như hư không. Những gì là bốn pháp? Đó là: 1.Do ngã thanh tịnh nên chúng sinh thanh tịnh. 2.Do chúng sinh thanh tịnh nên bố thí thanh tịnh. 3.Do bố thí thanh tịnh nên hồi hướng thanh tịnh. 4.Do hồi hướng thanh tịnh nên Bồ-đề thanh tịnh. Này thiện nam! Đó là bốn pháp mà Bồ-tát cần thành tựu thì tu hành bố thí như hư không. Lại nữa, nếu Bồ-tát thành tựu tám pháp thì có thể tu hành Bố thí ba-la-mật thanh tịnh. Đó là: Dùng ngã thanh tịnh, ngã sở thanh tịnh, nhân thanh tịnh, kiến thanh tịnh, tướng thanh tịnh, dị tướng thanh tịnh, tâm chẳng mong quả báo thanh tịnh và tâm bình đẳng như hư không thanh tịnh để bố thí. Đó là tám pháp mà Bồ-tát phải thành tựu thì có thể tu hành Bố thí ba-la-mật thanh tịnh. Này thiện nam! Như hư không, không có biên vực, sự thực hành bố thí vô hạn của Bồ-tát cũng vậy. Như hư không rộng lớn không bị chướng ngại, hành bố thí hồi hướng của Bồ-tát cũng như vậy. Như hư không, không có màu sắc, sự xa lìa sắc tướng, hành bố thí của Bồ-tát cũng vậy. Như hư không, không có sự thọ nhận, sự xa lìa thọ nhận, hành bố thí của Bồ-tát cũng vậy. Như hư không không nhiễm vướng, sự xa lìa nhiễm đắm hành bố thí của Bồ-tát cũng vậy. Như hư không, chẳng có tạo tác, sự xa lìa pháp hữu vi, bố thí của Bồ-tát cũng vậy. Như hư không, không có thức, tưởng, sự xa lìa thức, tưởng, hành bố thí của Bồ-tát cũng vậy. Như hư không hiện bày khắp các cõi Phật tâm Từ bi lớn của Bồ-tát hành bố thí duyên khắp hết thảy chúng sinh nơi quốc độ của tất cả chư Phật cũng vậy. Như hư không, không cùng tận, Bồ-tát hành bố thí, hồi hướng không để mất hạt giống Tam bảo cũng vậy. Như hư không, không tối tăm, sự thực hành bố thí, xa lìa phiền não tối tăm của Bồ-tát cũng vậy. Như hư không, không hiện bày các tướng, sự thực hành bố thí với tâm thanh tịnh của Bồ-tát cũng vậy. Như hư không, hàm chứa hết tất cả, sự thực hành bố thí, thu tóm khắp hết thảy chúng sinh của Bồ-tát cũng vậy. Lại như nhà ảo thuật thể hiện sự biến hóa mà tâm họ không phân biệt, không mong cầu sự báo đáp, Bồ-tát hành bố thí cũng vậy, đều xem tất cả như huyễn hóa, xa lìa mọi chủ thể và đối tượng, không mong cầu quả báo. Này thiện nam! Bồ-tát hành bố thí, dùng trí tuệ tối thắng để dứt trừ các phiền não, dùng trí tuệ phương tiện nên không xa lìa muôn loài. Đó là Bồ-tát hành Bố thí ba-la-mật giống như hư không. Bấy giờ, Đại Bồ-tát Đăng Thủ, từ trong chúng hội, đứng dậy thưa Phật: –Bạch Thế Tôn! Bậc Đại Bồ-tát dùng những tướng gì để tu hành Bố thí ba-la-mật như vậy? Phật nói: –Này thiện nam! Đại Bồ-tát nên dùng vô tướng để tu hành Bố thí ba-la-mật như vậy. Vì sao? Vì tất cả các pháp không có thân tướng, vì thân tướng thanh tịnh; không có tướng chúng sinh, vì tướng chúng sinh thanh tịnh; không có tướng của pháp, vì tướng pháp thanh tịnh; không có tướng của trí, vì tướng của trí thanh tịnh; không có tướng của tuệ, vì tướng của tuệ thanh tịnh; không có tướng của tâm, vì tướng của tâm thanh tịnh; không có tướng của thế gian, vì tướng của thế gian thanh tịnh; không có tướng của sắc, vì tướng của sắc thanh tịnh; không có tướng của kiến, vì tướng của kiến thanh tịnh; như vậy cho đến không tối, không sáng… xa lìa tất cả mọi tướng, là vô tướng, rốt ráo nơi mọi giới hạn, đạt được nhẫn vô tận, được Như Lai thọ ký chắc chắn trụ ở ngôi vị chính giác, dùng ấn “Bất thoái” để ấn chứng, được pháp quán đỉnh của Phật, thành tựu tất cả pháp bình đẳng của chư Phật, biết rõ mọi hành tướng của hết thảy chúng sinh, Bồ-tát nên dùng các hạnh như thế để tu hành Bố thí ba-la-mật. Lúc Đức Phật thuyết giảng pháp này xong, có một vạn sáu ngàn Bồ-tát ở trong các pháp thấy được pháp tính giống như hư không, chứng đạt pháp Nhẫn vô sinh. Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ: Tâm thường thanh tịnh hành bố thí Cầu Bồ-đề, không mong quả báo Hoan hỷ bố thí, không hối tiếc Là thí vi diệu, đạt giải thoát. Bậc trí biết pháp đều như huyễn Không tiếc thân mạng và tài sản Những vật dụng khác đều không tham Chí nguyện, Bồ-đề tâm quyết định. Bình đẳng bố thí, không thương, ghét Không hề thoái chuyển, luôn tinh tấn Do quán các pháp như hư không Nên chẳng vui mừng, không chán bỏ. Biết tính, tướng pháp vốn thanh tịnh Bồ-đề, bố thí cũng như vậy Vì chỗ bố thí không tham đắm Nên thường xả bỏ mọi hý luận. Bình đẳng bố thí, lìa suy xét Không hề phân biệt thượng, trung, hạ Tâm ý thanh tịnh không nhơ bẩn Đạt được tuệ, thí, không mong cầu. Biết thân huyễn hóa, chẳng thường còn Tài sản không chắc như mộng, chớp Khởi tâm Từ bi thương thế gian Thực hành bố thí không nhiễm vướng. Hành thí vô ngã phiền não sạch Liền được tạo lập nơi pháp Phật Ma vương không thể quấy phá được Bố thí như thế thật khó lường. Bậc Mười Lực giảng nói tâm thí Nên trụ ở giới hạnh thanh tịnh Do vậy khéo tu, đạt tịch tónh Trí tuệ mới mau được viên mãn. Thí, giới và tâm đều thanh tịnh Phiền não diệt hết, không còn sinh Mình và mọi người đều lợi ích Đạt an lạc Niết-bàn vô vi. Vì trừ tham kết hành bố thí Do vậy, không đắm cũng không nhiễm Nhờ đó không còn các khổ não Đạt được nhân Bồ-đề thanh tịnh. Tâm bố thí không hề thoái chuyển Nhân đấy thấy được tính Bồ-tát Đã thấy đức thanh tịnh Bồ-đề Nên hóa độ được vô lượng chúng. KINH ĐẠI TẬP những điều BỒ-TÁT Hư Không tạng hỏi Phật <卷 id="117270381">Quyển 2 Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại bảo tại Bồ-tát Đại Hư Không Tạng: –Bồ-tát thành tựu bốn pháp để tu hành tịnh Giới ba-la-mật giống như hư không. Những gì là bốn? nghĩa là: Biết thân như hình bóng, biết âm thanh như tiếng vang trong hang sâu, biết tâm như huyễn hóa, biết tuệ như hư không. Đó là bốn pháp mà Bồ-tát thành tựu để tu hành tịnh Giới ba-la-mật giống như hư không. Lại nữa, nếu Bồ-tát thành tựu tám pháp thì có thể tu hành thanh tịnh tịnh Giới ba-la-mật. Những gì là tám? nghĩa là: Vì không xa lìa tâm Bồ-đề nên giới được thanh tịnh. Xa lìa tâm Thanh văn, Duyên giác được tâm không giới hạn nên giới được thanh tịnh. Không xả bỏ tất cả các học xứ nên trí tuệ được thanh tịnh. Thọ sinh vào tất cả các cõi nên Nguyện được thanh tịnh. Thực hành không biếng nhác đối với Giới, an nhiên không tạo tác nên hạnh được thanh tịnh. Hồi hướng đến Bồ-đề nên Tâm ma được thanh tịnh. Tâm không bị khổ não thiêu đốt nên phiền não được thanh tịnh. Đại nguyện viên mãn nên Bồ-đề được thanh tịnh. Đó là tám pháp mà Bồ-tát thành tựu thì có thể tu hành thanh tịnh tịnh Giới ba-la-mật. Này thiện nam! Như hư không thanh tịnh, Bồ-tát trì giới cũng thanh tịnh như vậy. Như hư không không nhơ uế, Bồ-tát trì giới cũng không bị nhơ uế như vậy. Như hư không vắng lặng, Bồ-tát trì giới cũng vắng lặng như vậy. Như hư không không có giới hạn, Bồ-tát trì giới cũng không có giới hạn như vậy. Như hư không không bị ràng buộc, Bồ-tát trì giới cũng không bị ràng buộc như vậy. Như hư không chẳng hề vướng mắc, Bồ-tát trì giới lìa mọi vướng mắc cũng vậy. Như hư không không thể chứa nhóm, Bồ-tát trì giới không tích tập cũng vậy. Như hư không chẳng xa lìa tính, Bồ-tát trì giới cũng vậy. Như tính hư không là thường, còn, Bồ-tát trì giới cũng vậy. Như hư không rốt ráo không cùng tận, Bồ-tát trì giới cũng vậy. Như hư không chẳng có hình tướng, Bồ-tát trì giới cũng vậy. Như hư không chẳng có đến, đi, Bồ-tát trì giới cũng vậy. Như hư không dứt mọi hý luận, Bồ-tát trì giới cũng vậy. Như hư không xa lìa các lậu, Bồ-tát trì giới cũng vậy. Như hư không chẳng tạo tác, Bồ-tát trì giới cũng vậy. Như hư không chẳng biến đổi, Bồ-tát trì giới cũng vậy. Như hư không chẳng phân biệt, Bồ-tát trì giới cũng vậy. Như hư không hiện bày khắp nơi, Bồ-tát trì giới cũng vậy. Như hư không không bị hủy hoại, Bồ-tát trì giới cũng vậy. Như hư không chẳng có cao thấp, Bồ-tát trì giới cũng vậy. Như hư không tính xa lìa mọi ô nhiễm, Bồ-tát trì giới cũng vậy. Này thiện nam! Đó là Bồ-tát tu hành tịnh Giới Ba-la-mật giống như hư không. Khi ấy, Đức Thế Tôn nói kệ: Trì giới, tâm thanh tịnh không nhơ Diệt trừ phiền não, không chấp giữ Nghiệp thân, miệng, ý không lỗi lầm Tất cả luật nghi đều đầy đủ. Bậc trí chẳng kiêu mạn vì giới Tâm thường vắng lặng không tán loạn Bậc trí thường nương tâm Bồ-đề Nên tâm ý không hề ô nhiễm. Xa lìa các nghiệp, không lo nghó Như vậy không còn sự phân biệt Từ bỏ màu xanh, vàng, đỏ, trắng Cũng không trụ vào nẻo danh sắc. Tâm không lấy, bỏ, không đắm nhiễm Ví như hư không, chẳng chướng ngại Giới này bậc trí đã tán thán Không khen ngợi văn chương, nghĩa lý. Nhờ giữ giới này tâm tịch tónh Khiến các phiền não được thanh tịnh Đạt đến tận cùng nơi Chỉ Quán Tự nhiên hiển hiện được giải thoát. Bậc Thánh cởi bỏ hết trói buộc Đều được an trú nơi Tịnh giới Nên giới là giải thoát bậc nhất Là pháp căn bản của Bồ-đề. Các bậc Đầu-đà nơi thanh vắng Ít muốn, biết đủ, dứt mong cầu Xa lìa náo nhiệt, trụ thiền định Tâm sạch phiền não được khinh an. Như vậy, Tịnh giới là căn bản Tư duy pháp thanh tịnh giải thoát Nên dùng Tịnh giới làm trang nghiêm Tất cả các nẻo đều an lạc. Xa lìa hết thảy sự tán loạn Trừ diệt phiền não và kiến chấp Lòng từ ban khắp như hư không Đoạn trừ chấp thủ, khiến thanh tịnh. Nên chắc chắn đạt quả giác ngộ Đối với Bồ-đề không phân biệt Bậc trí nếu đủ đức như vậy Đều nhờ Tịnh giới đến bờ kia. Này thiện nam! Nếu Bồ-tát thành tựu bốn pháp thì tu hạnh Nhẫn nhục ba-la-mật như hư không. Thế nào là bốn? nghĩa là bị người khác mắng nhiếc không nói lại vì biết rõ lời nói như hư không. Bị người khác đánh không đánh lại, vì biết thân như hư không. Bị người khác giận không giận lại, vì biết tâm như hư không. Bị người khác trêu chọc không đáp trả, do biết tâm ý như hư không. Đó là bốn pháp mà Bồ-tát thành tựu thì tu hạnh Nhẫn nhục ba-la-mật như hư không. Lại nữa, nếu Bồ-tát nào thành tựu tám pháp thì có thể tu hành thanh tịnh Nhẫn nhục ba-la-mật. Thế nào là tám? nghĩa là đối với chúng sinh, tâm không có giới hạn giống như hư không, nên tu hành nhẫn nhục được thanh tịnh. Đối với các sự lợi dưỡng không sinh tham đắm như hư không, nên tu hành nhẫn nhục được thanh tịnh. Đối với việc làm lợi ích cho chúng sinh thì bình đẳng như hư không, nên tu hành nhẫn nhục được thanh tịnh. Thân tâm không thể bị hủy hoại như hư không, nên tu hành nhẫn nhục được thanh tịnh. Xa lìa các phiền não như hư không, nên tu hành nhẫn nhục được thanh tịnh. Xa lìa cảnh của đối tượng được quan sát như hư không nên tu hành nhẫn nhục được thanh tịnh. Quan sát tính của các pháp không sinh không diệt như hư không nên tu hành nhẫn nhục được thanh tịnh. Đối với cõi Sắc và cõi Vô sắc dùng lòng từ duyên khắp giống như hư không, nên tu hành nhẫn nhục được thanh tịnh. Đó là tám pháp mà Bồ-tát thành tựu thì có thể tu hành thanh tịnh Nhẫn nhục ba-la-mật như hư không. Này thiện nam! Lại có tám pháp, có thể quan sát kỹ lưỡng để tu hành Nhẫn nhục ba-la-mật. Thế nào là tám? Đó là nhẫn nhục tính không nên không hủy bỏ các tri kiến. Nhẫn nhục vô tướng nên không bị các tướng chi phối. Nhẫn nhục vô nguyện nên không bỏ tâm Bồ-đề. Nhẫn nhục vô hành nên không đoạn tận pháp hữu vi. Nhẫn nhục vô sinh nên không trụ vào pháp vô vi. Nhẫn nhục không dấy khởi nên không trụ vào pháp sinh diệt. Nhẫn nhục không hữu tình nên không hủy hoại thể tính. Nhẫn nhục như như nên không từ bỏ ba đời. Như vậy, này thiện nam! Đó là tám pháp nhẫn nhục, nếu quan sát kỹ lưỡng thì có thể tu hành Nhẫn nhục ba-la-mật. Lại nữa, này thiện nam! Khi tu hành Nhẫn nhục ba-la-mật, nếu bị ai mắng nhiếc, chê bai mà ta phải chịu đựng thì gọi là ngã nhẫn nhục, không phải là Nhẫn nhục ba-la-mật. Nếu thấy người mắng nhiếc và cách thức mắng nhiếc mà ta phải chịu đựng, gọi là ngã nhẫn nhục, chẳng phải là Nhẫn nhục ba-la-mật. An trú vào hạnh không tranh cãi là âm thanh nhẫn nhục, chẳng phải là Nhẫn nhục ba-la-mật. Thực hành gia hạnh đúng đắn, ta và người đều không. Tư duy, chịu đựng, ta và người đều vô thường. Tư duy, chịu đựng như vậy gọi là nhẫn nhục được sắp đặt, chẳng phải là Nhẫn nhục ba-la-mật. Này thiện nam! Tất cả đều không có chủ thể thực hành và đối tượng được thực hành. Như có người cầm búa bén, vào rừng Đại sa-la để chặt mé cành nhánh, cây cối không hề suy nghó người kia là chủ thể chặt và cây cối là đối tượng bị chặt, đều không sinh thương ghét. Này thiện nam! Bậc Đại Bồ-tát khi thực hành Nhẫn nhục ba-la-mật, cũng không có thương ghét như vậy, không có chủ thể phân biệt và đối tượng được phân biệt. Đó là Bồ-tát tu hành Nhẫn nhục ba-la-mật giống như hư không. Khi ấy, Đức Thế Tôn nói kệ: Đạt được Nhẫn vô sinh thanh tịnh Tâm ý thuần thục, không nhiễm trần Trong, ngoài vắng lặng, không nương tựa Tâm tịnh nhẫn nhục như hư không. Thân ấy như ảnh như cỏ cây Tâm hình như huyễn, không chân thật Pháp này tính không chẳng thể thấy Thân tâm biến đổi giống như thế. Dù có khen chê chẳng vui, buồn Không còn phân biệt, không cao thấp Biết nhẫn như đất, như then cửa Y theo nhẫn nhục, độ chúng sinh. Tuy biết tính các pháp là không Không nhân, không ngã, không thọ mạng Chẳng trái nhân duyên và tạo tác Nhẫn này hạnh chân thật bậc nhất. Nghe lời nói ác không giận dữ Biết tính ngôn ngữ như hư không Tu tập thân tâm cũng như vậy Nên dạy chúng sinh tu nhẫn này. Này thiện nam! Thế nào là Bồ-tát tu hành Tinh tấn ba-la-mật như hư không? Nếu Bồ-tát thành tựu bốn pháp thì tu hành Tinh tấn ba-la-mật như hư không. Những gì là bốn? nghĩa là siêng năng tu tập các căn lành, biết tất cả các pháp chưa trọn vẹn, ở chỗ chư Phật thực hành sự cúng dường lớn nên hiểu rõ thân Như Lai là bình đẳng. Thường ưa thích làm cho vô lượng chúng sinh được thành tựu, nên biết tất cả hữu tình là không thủ đắc. Theo chư Phật thọ trì chính pháp nên không thấy tính chất chán lìa của các pháp. Đó là bốn pháp mà Bồ-tát thành tựu thì tu hành Tinh tấn ba-la-mật như hư không. Lại nữa, này thiện nam! Nếu Bồ-tát thành tựu tám pháp thì có thể tu hành Tinh tấn ba-la-mật thanh tịnh. Những gì là tám? Do trang nghiêm thân để siêng tu tinh tấn nên biết thân như hình ảnh, không chấp thủ. Do trang nghiêm ngữ để siêng tu tinh tấn nên biết tính của ngôn ngữ như sương, không chấp thủ. Do trang nghiêm tâm để siêng tu tinh tấn nên đạt được thiền định, biết tâm là không phân biệt. Vì đầy đủ các phần Ba-la-mật để siêng tu tinh tấn nên tuần tự tu tập, tư duy, không chấp thủ. Do thành tựu tất cả pháp phần Bồ-đề để siêng tu tinh tấn nên tư duy về tính tướng của Bồ-đề, không chấp thủ. Vì làm thanh tịnh cõi Phật để siêng tu tinh tấn nên biết các cõi Phật đều như hư không, không thủ đắc. Vì làm cho tất cả những điều đã nghe đều được thọ trì để siêng tu tinh tấn nên biết được các pháp đã nghe như tiếng vang, hoàn toàn không chấp thủ. Vì thành tựu tất cả pháp Phật để siêng tu tinh tấn nên biết pháp giới bình đẳng, một tướng, tư duy không chấp giữ. Đó là tám pháp mà Bồ-tát thành tựu thì tu hành Tinh tấn ba-la-mật thanh tịnh. Này thiện nam! Bồ-tát có hai loại tinh tấn, là “Tinh tấn gia hạnh” và “Tinh tấn hạn tề”. Dùng “Tinh tấn gia hạnh” để thúc đẩy nơi thân, miệng, ý, tu tập thành tựu tất cả các pháp lành nên không có chỗ trụ, tư duy không thủ đắc. Dùng “Tinh tấn hạn tề” để trụ vào chỗ không xuất không nhập, nên tùy thuận nơi pháp giới không đến, không đi, như hư không, không thủ đắc. Như hư không không có màu sắc, Bồ-tát tinh tấn làm cho các chúng sinh được thành tựu sự tu tập cũng vậy, nương vào pháp của chư Phật để thành tựu tất cả các việc của chúng sinh. Như hư không hàm chứa tất cả các màu sắc, Bồ-tát tinh tấn cũng bao hàm khắp tất cả chúng sinh, làm cho họ xa lìa tất cả kiến chấp cũng vậy. Như các cỏ cây sinh trưởng không rễ không gốc trong hư không, Bồ-tát tinh tấn làm cho tất cả Phật pháp được tăng trưởng, không chấp ngã, kiến cũng vậy. Như hư không bao trùm khắp nơi mà không dao động, Bồ-tát tinh tấn đối với tất cả pháp lành cũng không lay động như vậy. Như hư không đồng thời hiện ra các loại màu sắc, Bồ-tát tinh tấn, bình đẳng vì các chúng sinh mà thị hiện tu tập tư duy bình đẳng, cũng không phân biệt như vậy. Này thiện nam! Đó là Bồ-tát tu tập Tinh tấn ba-la-mật như hư không. Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ: Dũng mãnh phát sinh lực tinh tấn Không tiếc thân mạng và tài sản Thực hành oai đức đại Bồ-đề Thường tạo lợi ích các chúng sinh. Từ xưa đã tu các công đức Luôn tu tập không hề mệt mỏi Thích làm cho chúng sinh giải thoát Hằng cúng dường các Đức Như Lai. Nguyện được đến vô số cõi Phật Phá trừ tất cả các ma ác Thường ưa bố thí khắp mọi người Thường ưa hộ trì giới thanh tịnh. Luôn ưa ban phát tâm Từ bi Luôn siêng tu tập các căn lành Tư duy vô lượng tâm thiền định Dùng trí tuệ lớn để quan sát. Tâm từ vô lượng, bỏ giận dữ Tu hành các công đức lợi ích Đối với thân mạng không tham tiếc Hoàn toàn thoát khỏi các phiền não. Thường tu vô ngã, không, giải thoát Lìa tướng, vô tướng, oai đức lớn Lìa hẳn kiến chấp, tu Bồ-đề Quán tự tính như huyễn, sóng nắng. Ưa nói pháp không, bặt suy nghó Nương hạnh thanh tịnh, đọc kinh điển Pháp và không pháp thảy đều quên Không bỏ âm thanh và văn tự. Diễn nói kinh điển ở thế gian Khen ngợi công Đức Phật vô lượng Tâm hành chúng sinh rất khó lường Bậc trí nên tinh tấn dũng mãnh. Biết rõ căn tính các hữu tình Chẳng vướng mắc sinh và không sinh Thường dùng tâm tinh tấn vô biên Độ chúng sinh bằng pháp thanh tịnh. Này thiện nam! Thế nào là Bồ-tát tu hành Thiền định ba-la-mật như hư không? Nếu Bồ-tát thành tựu bốn pháp thì tu hành Thiền định ba-la-mật như hư không. Những gì là bốn? nghĩa là an trụ tâm ở bên trong thì nội tâm không chấp giữ, bên ngoài thì chế ngự nên tâm không phân biệt. Do tự tâm bình đẳng nên biết tâm của tất cả chúng sinh cũng bình đẳng. Tâm ấy và sự tư duy chứng biết bình đẳng đều như huyễn hóa. Đó là bốn pháp mà Bồ-tát thành tựu thì tu hành Thiền định ba-la-mật như hư không. Lại nữa, này thiện nam! Nếu Bồ-tát thành tựu tám pháp thì có thể tu hành Thiền định ba-la-mật thanh tịnh. Những gì là tám? nghĩa là không nương vào uẩn, xứ, giới mà tu thiền định. Không nương vào đời này, đời khác mà tu hành thiền định. Không nương vào cõi Dục, sắc và vô sắc mà tu hành thiền định. Đó là tám pháp mà Bồ-tát thành tựu thì có thể tu hành Thiền định ba-la-mật thanh tịnh như hư không. Lại nữa, này thiện nam! Bồ-tát tu hành Thiền định thanh tịnh với tâm chuyên chú. Thế nào là chuyên chú? nghĩa là đối với danh tự của pháp không thêm, không bớt, không biến đổi, không sai khác, không tổn hại, không lợi ích, không lấy, không bỏ, không sáng, không tối, không phân biệt, chẳng phải không phân biệt, không tưởng, không tác ý, không một, không hai, chẳng phải không một, cũng chẳng phải không hai, không dao động, không suy nghó, không hý luận, không chứa nhóm cũng chẳng phải không chứa nhóm, không tư duy về tất cả tướng, tâm không trụ vào đâu, đó gọi là chuyên chú. Tâm chuyên chú không tán loạn, xa lìa sắc, mắt và nhãn thức nên tự tướng thanh tịnh. Tâm quán hạnh chuyên chú không tán loạn, xa lìa âm thanh, tai và nhó thức nên tự tướng thanh tịnh. Tâm chuyên chú không tán loạn, xa lìa hương, mũi và tỷ thức nên tự tướng thanh tịnh. Tâm chuyên chú không tán loạn, xa lìa vị, lưỡi và thiệt thức nên tự tướng thanh tịnh. Tâm chuyên chú không tán loạn, xa lìa sự xúc chạm, thân và thân thức nên tự tướng thanh tịnh. Tâm chuyên chú không tán loạn xa lìa pháp trần, ý và ý thức nên tự tướng thanh tịnh. Này thiện nam! Như hư không, không bị cháy vào kiếp thiêu, không bị ướt lúc có tai nạn về nước, Bồ-tát tu hành thiền định cũng vậy, không bị tất cả các thứ lửa phiền não thiêu đốt, hết thảy các pháp Tam-muội giải thoát, sự cuốn trôi của các loại nước thiền định thường không xen tạp khiến cho chúng sinh bị loạn động, an trú trong thiền định nhưng không chấp vướng nơi cảnh giới ấy, xuất định cũng không bị chướng ngại, đối với các bậc Thánh thường hiện tịch tónh, còn đối với chỗ loạn động của phàm phu thì luôn khiến họ an trụ trong định, bình đẳng để giáo hóa. Đối với người tâm không bình đẳng thì thuyết pháp để dẫn dắt, không thấy có bình đẳng và không bình đẳng, đối với bình đẳng và không bình đẳng cũng chẳng chống trái, tâm không hề bị chướng ngại như hư không. Đó gọi là người tu thiền định, cũng gọi là người tu thiền định nơi trí tuệ tối thắng hay người tu thiền định không trụ vào thức. Do thiền định này mà Bồ-tát đạt được thiền định vô trụ, giống như hư không. Khi ấy, Đức Thế Tôn nói kệ: Hộ trì các căn tu thiền định Luôn định không chấp nơi hữu tình Bình đẳng dẫn dắt cứu thế gian Đối với trong, ngoài thường an trú. Không nương vào uẩn, xứ và giới Xa lìa cảnh giới, trụ vắng lặng Tâm bậc trí thường ở trong định Đối với tất cả đều bình đẳng. Biết rõ pháp giới không cao thấp Thấy tâm và ý đều tịch tónh Vì muốn thành tựu cho thế gian Thị hiện thiền định và biến đổi. Nhưng không biến đổi và thiền định Tâm được tự tại cũng như vậy Hiện ra cảnh thiền định vô sắc Thị hiện cõi Dục cũng như thế. Đều vì thành tựu các chúng sinh Mà không chấp giữ nơi hữu tình Cảnh giới như hư không, huyễn hóa Sóng nắng, nước, trăng, mộng và mây. Biết rõ thiền định và thế gian Chuyển tâm chúng sinh thành trí tuệ Không thể ngăn che tâm của họ Mới được phát sinh tâm tự tại. Thấu rõ thiền định và thần thông Trải qua vô số ức cõi nước Có thể cúng dường khắp chư Phật Đoạn trừ hết phiền não, ngu si. Điều phục các căn, ý tónh lặng Chứng đắc thiền định không phân biệt Thế gian và ý đều thanh tịnh Trí, lực luôn an định như vậy. Tâm không phân biệt trụ bình đẳng Nên gọi bình đẳng đều vô tướng Đối với bình đẳng không chấp giữ Đó gọi là người đạt thiền định. Này thiện nam! Thế nào là Bồ-tát tu hành Trí tuệ ba-la-mật như hư không? Nếu Bồ-tát thành tựu bốn pháp thì tu hành Trí tuệ ba-la-mật như hư không. Những gì là bốn? nghĩa là do hư không thanh tịnh nên tất cả chúng sinh thanh tịnh. Do trí thanh tịnh nên tất cả thức thanh tịnh. Do pháp giới thanh tịnh nên ngã, nhân, chúng sinh và thọ giả đều được thanh tịnh. Do nghĩa thanh tịnh nên tất cả văn tự được thanh tịnh. Đó là bốn pháp mà Bồ-tát cần thành tựu để tu hành Trí tuệ ba-la-mật như hư không. Lại nữa, này thiện nam! Nếu Bồ-tát thành tựu tám pháp thì có thể tu hành Trí tuệ ba-la-mật thanh tịnh. Những gì là tám? nghĩa là siêng năng tích tập tất cả pháp lành mà không chấp thường. Siêng năng đoạn trừ tất cả pháp ác mà không chấp đoạn. Biết rõ về pháp duyên khởi mà không trái với pháp Nhẫn vô sinh. Hiện bày bốn vô ngại giải mà không chấp vào đấy. Khéo có thể chọn lựa bốn pháp cú, không thấy vô thường, khổ, vô ngã, thanh tịnh. Nói rõ về quả của nghiệp mà không dao động. Trụ nơi không nghiệp quả, không hý luận. Thường dùng trí tuệ để diễn nói tướng sai biệt của tất cả pháp. Chứng đắc ánh sáng của tất cả pháp thanh tịnh. Giảng nói pháp thanh tịnh và tạp nhiễm cho chúng sinh. Đó là tám pháp mà Bồ-tát thành tựu thì có thể hành Trí tuệ ba-la-mật thanh tịnh. Này thiện nam! Nên biết trí tuệ là pháp thanh tịnh, nên có thể dứt trừ pháp “ác giác”. Trí tuệ là pháp không biến đổi nên tự tướng thanh tịnh, là pháp không phân biệt nên không có giới hạn, là pháp như thật nên tính chân thực, là pháp chắc chắn nên không có dao động, là pháp thành thật nên không hư dối, là pháp thông tuệ nên cởi bỏ mọi sự trói buộc, là pháp viên mãn nên chính là công đức của bậc Thánh, là pháp thông suốt nên có thể khéo quán sát, là pháp Đệ nhất nghĩa nên không có đối tượng được nêu bày, là pháp bình đẳng nên không sai khác, là pháp bền vững nên không thể bị hủy hoại, là pháp không lay động nên không chốn nương tựa, là pháp kim cang nên có thể xuyên thủng mọi thứ ngăn ngại, là pháp cứu giúp nên chỗ tạo tác đã làm xong, là pháp thanh tịnh nên tính không cấu nhiễm, là pháp không tối tăm nên không thể thủ đắc nơi ánh sáng, là pháp không hai nên không thể kiến lập, là pháp tận cùng nên diệt trừ tất cả, là pháp không cùng tận nên thường trụ vào vô vi, là pháp vô vi nên chẳng phải do sinh diệt thâu tóm, là pháp không nên thanh tịnh bậc nhất, là pháp hư không nên không hề bị chướng ngại, là pháp của đạo như hư không nên không có dấu vết, là pháp Vô sở đắc nên không có tự tính, là pháp của trí nên trí và thức không hai, là pháp không thể suy xét nên xa lìa mọi sự đối trị, là pháp không thân nên không biến đổi, là pháp nhận biết đầy đủ về Khổ nên xa lìa “biến kế” về khổ, là pháp đoạn trừ Tập nên dứt hết mọi thứ tham dục, là pháp chứng đắc Diệt nên hoàn toàn là không sinh, là pháp tu tập Đạo nên hội nhập nơi đạo không hai, là pháp của Phật-đà nên có thể sinh khởi chính giác, là pháp của chính pháp nên hoàn toàn xa lìa nẻo dục. Này thiện nam! nghĩa lý của các pháp sai khác như vậy. Ánh sáng của trí tuệ không lệ thuộc vào người khác, theo pháp được thuyết giảng, dù chỉ hội nhập chút ít, đều không có chủ thể phân biệt và đối tượng được phân biệt. Đó là Bồ-tát tu hành Trí tuệ ba-la-mật như hư không. Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ: Trí tuệ đoạn trừ các phiền não Thị hiện tạo nghiệp và nhân duyên Chẳng nương ngã kiến và chúng sinh Không trụ thọ giả và tướng nhân. Ngã và vô ngã đều xa lìa Diễn nói Bát-nhã đến nguồn chân Bát-nhã diệt trừ mọi nẻo có Bát-nhã vượt qua các phiền não. Bát-nhã hay tạo nhân thanh tịnh Bát-nhã kiến lập pháp giải thoát Trí tuệ thanh tịnh lìa buộc che Hiểu rõ hết thảy uẩn, xứ, giới. Trí tuệ chiếu soi suốt ba cõi Đối với năng, sở đều giải thoát Tu hành trí tuệ được thanh tịnh Không chấp giữ nơi pháp thế gian. Thực hành thông đạt hạnh Bát-nhã Luôn tu trí tuệ quán chân không Năm mắt tịnh, năm căn thông lợi Trừ năm cõi, thanh tịnh năm uẩn. Đạt đến và an trú giải thoát Hội nhập nơi pháp giới cũng thế Bình đẳng rộng lớn như hư không Khéo léo thuận theo trí tuệ Phật. Thủ đắc, không thủ đắc đều lìa Thị hiện pháp trung đạo, giải thoát Thuận nẻo hành hóa của bậc Thánh Khéo hay phân biệt, không phân biệt. Thông đạt khổ, tập, trừ tham ái Tu đạo, hiện diệt, hiển vô vi Thành tựu ánh sáng tuệ chân thật Thấu tỏ ba đời chẳng đến đi. Đối với các cõi đều bình đẳng Các pháp tịch tónh cũng như vậy Biết rõ chúng sinh không ngã, nhân Là bậc tu trí tuệ chân chính. Này thiện nam! Thế nào là Bồ-tát tu hành phước đức như hư không? Này thiện nam! tính của tất cả các pháp như hư không, dùng tâm Bồ-đề làm hạt giống để tu tập phước đức, không lìa bỏ tâm Bồ-đề, chứa nhóm các căn lành, đều hồi hướng đến Nhất thiết trí. Vì thế, đạt được vô lượng phước đức giống như hư không. Này thiện nam! Bồ-tát nên phát tâm như thế, vì hư không vô lượng nên chỗ gây tạo phước đức cũng vô lượng. Vì sao? Do ý vô lượng nên phước cũng vô lượng. Bồ-tát đối với điều ấy nên quán xét như vậy. Này thiện nam! Lại có mười loại trang nghiêm vô lượng, Bồ-tát nên chứa nhóm đầy đủ phước đức như thế. Những gì là mười? Vì thân trang nghiêm vô lượng nên tướng hảo viên mãn. Vì lời nói trang nghiêm vô lượng nên thuyết giảng giáo pháp đều thanh tịnh. Tâm trang nghiêm vô lượng nên thấu rõ tâm ý của tất cả chúng sinh. Hành động nơi thân trang nghiêm vô lượng nên làm cho vô lượng chúng sinh được thành tựu đầy đủ. Hành tướng trang nghiêm vô lượng nên làm thanh tịnh vô lượng cõi Phật. Phước đức, thiền định, tinh tấn trang nghiêm vô lượng nên thành tựu viên mãn vô lượng oai nghi của Phật. Đạo tràng đại Bồ-đề trang nghiêm vô lượng nên thành tựu trọn đủ tất cả tướng và hạnh. Hội bố thí rộng lớn trang nghiêm vô lượng nên thành tựu đầy đủ vô số tướng bạch hào của Đức Phật. Cung kính, vô ngã trang nghiêm vô lượng nên thành tựu tròn đầy tướng nhục kế không thể thấy được của Đức Như Lai. Định tâm không gián đoạn trang nghiêm vô lượng nên thành tựu đầy đủ vô lượng tâm không dua nịnh, thuận theo ý thanh tịnh. Này thiện nam! Đó là mười hai loại trang nghiêm vô lượng. Nếu Bồ-tát phát tâm rộng lớn như hư không thì đạt được phước đức cũng giống như hư không. Này thiện nam! Thế nào là Bồ-tát tu hành trí tuệ giống như hư không? Nếu Bồ-tát quán xét khắp tất cả chúng sinh có tâm tham, không có tâm tham; có tâm sân, không có tâm sân; có tâm si, không có tâm si; có tâm tạp nhiễm, không có tâm tạp nhiễm đều nhận biết đúng như thật. Tự mình đã xa lìa tham dục, lại vì người khác mà nói pháp điều phục tham dục. Tự mình đã lìa sân hận, lại vì người khác mà nói pháp điều phục sân hận. Tự mình đã lìa si mê, lại vì người khác mà nói pháp điều phục si mê. Tự mình đã lìa tạp nhiễm, lại vì người khác mà nói pháp điều phục tất cả các phiền não. Không thấy mình có tham, sân, si, phiền não là tâm thấp kém. Xa lìa tham, sân, si, phiền não là tâm thắng thượng. Vì sao? Vì Bồ-tát kia đã chứng biết pháp giới bình đẳng, pháp môn thanh tịnh. Pháp giới như thế là cảnh giới của tham, sân, si. Pháp giới như thế là cảnh giới của tạp nhiễm. Cho nên pháp giới và tất cả pháp liên hệ lẫn nhau. Pháp giới tức là pháp. Pháp tức là pháp giới, không nơi chốn nào là không hiện bày. Nếu biết ngã giới tức là biết pháp giới, vì pháp giới và ngã giới chẳng khác nhau. Vì sao? Vì ngã thanh tịnh nên pháp giới thanh tịnh. Tất cả pháp đều thanh tịnh như vậy, nên ánh sáng hiển bày dung nạp thọ nhận cũng không dung nạp, thọ nhận, lìa tất cả tướng và vô tướng nên không có chỗ trụ, giống như hư không, gọi là trí vô ngại. Nhờ trí vô ngại nên hiểu rõ tất cả pháp không có chướng ngại. Đó là Bồ-tát tu hành trí tuệ giống như hư không. Này thiện nam! Thế nào là Tùy niệm nơi Phật của Bồ-tát được Đức Phật ấn chứng? Là nhớ nghó về giới vô lậu tức là Tùy niệm nơi Phật về giới. Tất cả các pháp bình đẳng, không tán loạn, là Tùy niệm nơi Phật về định. Tất cả các pháp không có đối tượng phân biệt là Tùy niệm nơi Phật về tuệ. Không trụ nơi hai tâm là Tùy niệm nơi Phật về giải thoát. Không chấp vào Nhất thiết trí là Tùy niệm nơi Phật về giải thoát tri kiến. Ba đời bình đẳng, bất động là Tùy niệm nơi Phật về lực. Không trụ vào tất cả lậu hoặc là Tùy niệm nơi Phật về vô sở úy. Nhớ nghó đến thân tướng của Phật với tất cả các công đức hiện có như vậy đều là Tùy niệm nơi Phật theo pháp giới bình đẳng không có đối tượng phân biệt. Lại nữa, Tùy niệm nơi Phật là nhớ nghó đến tự tính nơi các sắc tướng hiện có của Đức Phật là thanh tịnh. Do thấy tự tính nơi các sắc tướng là thanh tịnh nên đạt được trí vô niệm. Cho đến thọ, tưởng, hành, thức, do thấy tự tính của thức thanh tịnh nên đạt được trí vô niệm. Mười hai xứ, mười tám giới cũng vậy. Nhờ trí biết được tự tính của hết thảy các pháp nên tất cả mọi tác ý đều là tuệ thù thắng bậc nhất, xa lìa mọi thứ kiến chấp, nên biết được sắc là không nhơ uế, niệm cũng không nhơ uế. Đó là Tùy niệm nơi Phật được Đức Phật ấn chứng. Lại nữa, Tùy niệm nơi Phật là nhớ nghó về tất cả oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi mà không chấp giữ, đối với việc Phật thuyết pháp hay im lặng, không chấp giữ, cũng không chấp niệm và chẳng phải niệm. Vì sao? Vì Phật là không có niệm, không tác ý, chẳng phải sắc, chẳng phải tướng, chẳng phải pháp, chẳng phải phi pháp, do sự duyên hợp của các tướng không hiện hành. Này thiện nam! Đó là Tùy niệm nơi Phật được Đức Phật ấn chứng. Này thiện nam! Thế nào là Tùy niệm nơi pháp của Bồ-tát được Đức Phật ấn chứng? Pháp là lìa dục, vì đối với pháp tâm không cấu nhiễm, nên cũng không có sự tùy niệm của pháp. Pháp là không có A-lại-da, vì đối với pháp không ẩn mất, nên cũng không có sự tùy niệm của pháp. Pháp là tịch tónh, vì không có tâm, ý, thức bị nhiễm đắm nên cũng không có sự tùy niệm của pháp. Pháp là không hình tướng, vì đối với pháp không có tướng tùy thuộc nơi thức, nên cũng không có sự tùy niệm của pháp. Pháp là không tạo tác, vì đối với pháp không trụ chấp, nêu bày, nên cũng không có pháp tùy niệm. Lại nữa, Tùy niệm nơi pháp là niệm không gián đoạn, không khởi tưởng về pháp, liền chứng đắc quả vị chân chính và pháp Nhẫn vô sinh. Quán tất cả các pháp xưa nay không sinh, nên không có pháp để chứng, như quả vị của tất cả các bậc Hữu học, Vô học, Duyên giác, Bồ-tát, bậc chính đẳng Bồ-đề đã chứng, tất cả các pháp giải thoát mà các bậc Thánh đã chứng cũng không có tự tính. Đó là Tùy niệm nơi pháp của Bồ-tát được Phật ấn chứng. Này thiện nam! Thế nào là Tùy niệm nơi Tăng của Bồ-tát được Phật ấn chứng? Tăng là vô vi, chư vị không thể dùng sự tạo tác để hành hóa, mà không hiện hành các nghiệp thân, miệng, ý, chỉ vì nhằm hiện bày mà có sự thực hành, nên gọi là Tăng vô vi, không trụ vào sự thực hành, vượt lên trên mọi sự luận bàn. Này thiện nam! Đó là Tùy niệm nơi Tăng của Bồ-tát được Phật ấn chứng. Này thiện nam! Thế nào là Tùy niệm nơi xả được Phật ấn chứng? nghĩa là xả bỏ tất cả các vật dụng trong đời sống, xả bỏ các pháp, cũng không có đối tượng để xả bỏ. Đó là xả bỏ bậc nhất. Đối với tất cả các pháp không lấy, không bỏ cũng không mong cầu, không có duyên dựa, cũng chẳng phải là không duyên dựa. Vị ấy, không khởi tâm, không có hành động, cũng không trụ nơi thức, không khởi tâm nên không chấp vào tâm. Đó là Tùy niệm nơi xả được Đức Phật ấn chứng. Lại nữa, Tùy niệm nơi xả của Bồ-tát là tu hành để hồi hướng đến Nhất thiết trí bình đẳng không thấy Bồ-đề là chỗ cần niệm. Vì sao? Vì tính của Nhất thiết trí và tính của Tùy niệm ấy vốn không hai. Này thiện nam! Như vậy, pháp và trí tương ưng. Đó là Tùy niệm nơi xả của Bồ-tát được Phật ấn chứng. Này thiện nam! Thế nào là Tùy niệm nơi giới của Bồ-tát được Phật ấn chứng? Giới là vô vi, vô lậu, vô ngại, dứt hẳn mọi thứ dụng công để thành tựu tất cả giới cấm, không có thức, không có tướng, cũng chẳng trụ vào tâm để tu thiền định, là nơi nương tựa bậc nhất, cũng là nguồn gốc để phát sinh tuệ thanh tịnh, xa lìa tướng hý luận và tướng giải thoát, cũng không có hai thứ tướng phân biệt. Bậc trí khen ngợi thì không cần hiện bày nơi sắc tướng, cũng không hiện bày mà có thể dứt trừ phiền não, tùy theo hạnh được an lạc, cũng không đối trị tất cả các phân biệt. Bồ-tát thường tu tập về giới, không nhơ uế như vậy. Đó là Tùy niệm nơi giới của Bồ-tát được Phật ấn chứng. Này thiện nam! Thế nào là Tùy niệm nơi Thiện của Bồ-tát được Phật ấn chứng? Nên tùy niệm về hai cõi trời. Một là trời Ngũ tịnh cư, vì nơi cõi ấy có các bậc Thánh. Hai là trời Đâu-suất, vì hàng Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ hiện ở cõi trời này. Lại nữa, bậc Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ này, ở cung trời ấy có mười pháp Đảnh. Những gì là mười? nghĩa là trong tất cả các Ba-la-mật, Bát-nhã ba-la-mật là cao nhất. Trong hết thảy các thần thông, thần thông bất thoái là cao nhất. Trong tất cả các địa, chỉ có địa quán đảnh là cao nhất. Trong hết thảy các pháp phần Bồ-đề, chính kiến bất thoái đạt định thù thắng là cao nhất. Trong tất cả các biện vô ngại, biện tài vô ngại về nghĩa là cao nhất. Trong hết thảy các trí, trí không chấp trước, không chướng ngại là cao nhất. Trong tất cả các căn, trí vô ngại nhận biết được bậc thượng, trung, hạ của các căn là cao nhất. Trong hết thảy các lực vô úy, trí thuận nhập sáng tỏ khắp mọi nơi chốn là cao nhất. Trong hết thảy các thứ nhãn, Phật nhãn quan sát tất cả các pháp Phật rõ ràng như trong bàn tay là cao nhất. Trong khi ngồi nơi đạo tràng Bồ-đề, tâm trong sát-na sắp thành chính giác, tương ưng với chân chính là cao nhất. Đó là mười tướng của pháp đảnh, hãy nên theo đấy mà nhớ nghó. Nếu Bồ-tát được niệm này rồi, sự nhận thức không loạn động, không bị phiền não trói buộc, không tán loạn do tác ý, hý luận, không tán loạn như vậy thì niệm không nhơ uế. Hãy nên nhớ nghó về các cõi trời ấy như vậy. Này thiện nam! Đó là Tùy niệm nơi Thiên của Bồ-tát được Phật ấn chứng. Này thiện nam! Thế nào là Bồ-tát thực hành các hạnh bình đẳng đối với Niết-bàn? Niết-bàn là tịch tónh, nếu diệt trừ tất cả các phiền não, hết thảy mọi sự thọ nhận, xa lìa tất cả đối tượng được duyên, ra khỏi uẩn, xứ, giới thì vị ấy đạt được sự bình đẳng của Niết-bàn. Dùng diệu lực của thệ nguyện, tâm Từ bi tự tại và trí tuệ phương tiện nên được sự hộ trì của Như Lai, khéo tu tập ý lạc trí tuệ, an trú thanh tịnh nơi thiền định diệu dụng như huyễn, biết rõ về sinh tử, phiền não của chúng sinh đều như huyễn hóa nên thị hiện thọ sinh. Do đấy có thể đoạn trừ các trói buộc của sinh tử mà không bị nhiễm ô. Đó gọi là Niết-bàn. Vị ấy đã được tự tại, chẳng sinh mà sinh, không có chỗ nào là không sinh, cũng chẳng có đối tượng được sinh, thường an trú trong Niết-bàn mà cũng không dứt bỏ sinh tử, luôn tạo mọi thành tựu đầy đủ cho chúng sinh. Này thiện nam! Đó là hai môn trí tuệ, phương tiện Đại Bi của Bồ-tát. Nếu Bồ-tát an trú nơi hai môn này đạt được Niết-bàn, thực hành bình đẳng hạnh Bồ-tát. Này thiện nam! Thế nào là Bồ-tát biết rõ hành tướng của tất cả chúng sinh? Này thiện nam! Bồ-tát có tám vạn bốn ngàn hạnh, đây là hạnh căn bản. Nơi câu Ô-đà-nam nói hành tướng của chúng sinh có vô lượng sự sai khác, không thể nghó bàn, không thể nêu bày, chỉ có Phật mới biết được, hành Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát đều không thể thấu đạt. Nhờ sự gia hộ của Phật và trí lực của bản thân, Bồ-tát biết được hành tướng của tất cả chúng sinh. nghĩa là tướng của tự tính như vậy, hành tướng như vậy, tướng của nhân như vậy, tướng của duyên như vậy, tướng tạo tác như vậy, tướng hòa hợp như vậy hoặc vô số các tướng, tướng xa lìa, các tướng tham, sân, si, tướng địa ngục, súc sinh, tướng của cõi Diễm-ma, tướng trời, tướng người, hoặc tướng của quả vị Thanh văn Bất thoái chuyển, tướng Duyên giác Bất thoái chuyển, tướng Phật Bất thoái chuyển, hoặc tướng nhân từ xa, tướng nhân ở trong, tướng nhân ở gần… các hành tướng của tất cả chúng sinh như thế, Bồ-tát đều biết đúng như thật, chỉ trừ bậc Nhất thiết trí là Bồ-tát không thể thấu tỏ. Này thiện nam! Đó là Bồ-tát biết rõ về tính tướng của tất cả chúng sinh. KINH ĐẠI TẬP những điều BỒ-TÁT Hư Không tạng hỏi Phật <卷 id="117270382">Quyển 3 Này thiện nam! Thế nào là Bồ-tát có thể giữ gìn kho báu Phật pháp của Đức Thế Tôn? Này thiện nam! Tạng pháp của Đức Thế Tôn là không cùng tận. Do hành tướng nơi căn tính của tất cả chúng sinh có vô số sai khác, vì nhằm khiến cho họ được hiểu rõ, nên chư Phật tùy theo bao nhiêu căn tính sai khác đó mà nói tạng pháp chân thật cũng vô lượng, vô biên ngần ấy. Vì vậy gọi là kho báu Phật pháp. Lại nữa, từ đêm Như Lai chứng quả Bồ-đề đến đêm Như Lai vào Niết-bàn, tất cả những điều đã nói đều là “như thuyết”, “bất dị thuyết”, “chân thuyết”. Thế nào là “như thuyết”? Giảng đúng theo như pháp Chân như bình đẳng nên gọi là “như thuyết”. Thế nào là “bất dị thuyết”? Các pháp nói ra đều nương theo thắng nghĩa đế, bình đẳng không khác, nên gọi là “bất dị thuyết”. Thế nào là “chân thuyết”? Chỗ nêu giảng luôn ứng hợp với tự tính của pháp nên gọi là “chân thuyết”. Lại nữa, tạng pháp của chư Phật không thể dùng văn tự để nêu bày. Giả sử tất cả chúng sinh đầy khắp trong tam thiên đại thiên thế giới đều như Tôn giả A-nan-đà, học rộng bậc nhất, dù chỉ giảng nói một ít diệu nghĩa nơi tạng pháp thì trong trăm ngàn ức kiếp cũng không thể nói hết. Tạng pháp vô biên của chư Phật như vậy, Bồ-tát đều có thể thọ trì đúng như pháp. Tất cả văn tự đều không thể phế bỏ, nhưng hết thảy ý nghĩa cũng không hề sai khác, Bồ-tát khiến các chúng sinh đều được hoan hỷ, cúng dường phụng sự tất cả chư Như Lai, phá trừ các ma oán, chế ngự hết thảy ngoại đạo, đoạn hết phiền não, hiển bày chính pháp. Như vậy, này thiện nam! Đó là Bồ-tát giữ gìn kho báu Phật pháp của Đức Thế Tôn. Lại nữa, này thiện nam! Bồ-tát hãy nên thọ trì tự tính của các pháp mà chư Như Lai đã giác ngộ. Thế nào là tự tính của các pháp mà chư Như Lai đã giác ngộ? nghĩa là nhận biết rõ tự tính của pháp thảy đều như huyễn, nên không có tướng thành tựu, đều như mộng nên không có tướng cảnh giới, đều như dợn nắng nên hoàn toàn không có tướng sinh, như bóng sáng nên không có tướng di động, cũng như ảnh tượng nên không có tướng của tự tính. Lại nhận biết tự tính của không, rốt ráo như sương, biết tự tính của vô tướng nên không còn phân biệt, biết tự tính của vô nguyện nên tâm không trụ chấp, biết tự tính của lìa dục nên xa lìa tất cả tham dục, biết tự tính của vô vi nên vượt trên các tướng về số lượng. Này thiện nam! Nói như vậy là để vì người khác mà phân biệt rõ ràng. Như Lai đã hiện chứng tự tính của pháp ấy, nhưng tướng tính của pháp kia cũng không thể nào diễn nêu. Nếu muốn thọ trì tạng pháp của chư Phật, Bồ-tát nên thấu rõ tự tính của các pháp giống như Thế Tôn, rồi dùng ngôn ngữ văn tự, mà thuyết giảng pháp như vậy cho các chúng sinh. Đó là Bồ-tát có thể giữ gìn kho báu chính pháp của chư Phật. Này thiện nam! Thế nào là Bồ-tát biết rõ hữu tình xưa nay vốn thanh tịnh mà làm cho họ được thành tựu đầy đủ? Này thiện nam! Cảnh giới của chúng sinh xưa nay thường thanh tịnh, nhưng họ không thể đạt được bản tính vốn có của mình. Nếu muốn làm cho chúng sinh được thành tựu đầy đủ, Bồ-tát nên biết rõ về nguồn gốc thanh tịnh của họ, lại nên nghó chúng sinh không có kiến chấp về ngã, không có kiến chấp về chúng sinh, về thọ mạng. Lại nữa, chỗ nói về tên gọi của chúng sinh chỉ là do kiến chấp điên đảo, bị vô minh, ái dục trói buộc, phân biệt hư vọng về các phiền não, không hiểu biết đúng đắn về thật tính. Bồ-tát nên đoạn trừ tất cả phiền não hư dối, điên đảo và nói pháp như vậy cho các chúng sinh, làm cho họ không bị mất bản tính, khiến họ hiểu rõ về bản tính không và giải thoát của mình. Bồ-tát nên làm cho chúng sinh được thành tựu đầy đủ như vậy. Này thiện nam! Đó là Bồ-tát biết rõ chúng sinh xưa nay vốn thanh tịnh, mà làm cho họ được thành tựu đầy đủ. Này thiện nam! Thế nào là Bồ-tát tu tập pháp Phật khế hợp đúng như lý? Như lý tức là hợp với duyên sinh. Vì sao? Vì nhờ các nhân duyên như thế mà thọ nhận các quả báo như thế. Chẳng hạn như nhờ nhân bố thí mà đạt được quả là giàu có lớn. Vì thế, Bồ-tát thực hành bố thí xong thì nên hồi hướng về trí Nhất thiết trí để thành tựu viên mãn Bố thí ba-la-mật. Nhờ giữ giới là nhân để được sinh vào cõi trời, người. Bồ-tát làm cho hết thảy các chúng sinh còn nhiễm ô về giới đều được an trú trong giới thanh tịnh. Làm như vậy xong, Bồ-tát cũng nên hồi hướng về trí Nhất thiết trí để thành tựu hoàn hảo Trì giới ba-la-mật. Thân, miệng, ý được trang nghiêm là nhờ nhu hòa, nhẫn nhục. Bồ-tát thường thực hành tư lợi, lợi tha, không gây não hại là an trụ nơi nhẫn nhục. Hồi hướng về Nhất thiết trí rồi, là Bồ-tát đã thành tựu trọn đủ Nhẫn nhục ba-la-mật. Có thể thâu tóm được tất cả pháp Phật là nhờ tinh tấn. Bồ-tát nên siêng năng dũng mãnh, chứa nhóm tất cả căn lành, thảy đều hồi hướng về trí Nhất thiết trí rồi, tất được thành tựu trọn vẹn Tinh tấn ba-la-mật. Có tri kiến đúng đắn là nhờ vào thiền định. Vì mong cầu sự hiểu biết chân chính mà Bồ-tát tu tập Xa-ma-tha làm hành trang. Hồi hướng trọn vẹn về trí Nhất thiết trí rồi, Bồ-tát tất thành tựu đầy đủ Thiền định ba-la-mật. Có trí tuệ lớn là nhờ học rộng, hiểu nhiều. Bồ-tát không chấp giữ vào những điều đã học hỏi. Hồi hướng về trí Nhất thiết trí rồi, Bồ-tát tất thành tựu viên mãn Trí tuệ ba-la-mật. Đối với tất cả pháp lành như thế, Bồ-tát biết rõ về nhân như vậy nên dẫn đến quả như vậy. Đó là nhân duyên nơi tác ý đúng như lý. Lại nữa, tác ý đúng như lý là gì? Chẳng hạn như tác ý đúng như lý đối với ngã và tất cả các pháp, biết ngã và tất cả các pháp đều không có chủ tể, biết ngã và tất cả các pháp đều là không, là chỉ có giả danh. Bồ-tát tác ý đúng như lý như vậy nên đối với tất cả các pháp đều khế hợp bình đẳng, tức đạt đầy đủ hết thảy pháp Phật. Này thiện nam! Đó là Bồ-tát tu tập pháp Phật khế hợp đúng như lý. Này thiện nam! Thế nào là thần thông không thoái chuyển của Bồ-tát? nghĩa là Bồ-tát tự tại đối với tất cả các pháp. Này thiện nam! Nếu có Sa-môn, Bà-la-môn nào không từ bỏ kiến chấp về thân mà khởi thần thông thì các vị ấy liền bị thoái lui. Còn Bồ-tát đã phá trừ kiến chấp về thân và bỏ hết sáu mươi hai thứ tà kiến để thực hành thần thông nên gọi là đầy đủ trí tuệ, đầy đủ sự giác ngộ, bố thí, trì giới và thiền định, cũng gọi là thân tâm và trí tuệ đều hoàn toàn giải thoát. Bên trong thì luôn tịch tónh, ngoài thì không hề tạo tác, tâm biết khắp tất cả, đạt được mọi mong cầu, khéo quyết định, lựa chọn, tuệ được thanh tịnh hoàn toàn, không còn phiền não nhơ uế, trí sáng suốt không còn bị che lấp, chứa nhóm hành trang về phước, về trí về thiền định chỉ và quán. Nhờ dùng pháp bố thí và trì giới làm trang nghiêm, mặc áo giáp tinh tấn và nhẫn nhục, nương vào thiền định để tu tập trí tuệ, tùy thuận đại Từ, an trú nơi tâm Bi lớn, siêu việt ra ngoài phương tiện để thành tựu pháp như vậy, khởi hiện thần thông vi diệu, bay cao vô ngại, cho đến an tọa nơi đạo tràng Bồ-đề, nhờ thần thông nên tự tại đối với tất cả các pháp. Hiện bày tất cả các sắc, nghe hết thảy mọi âm thanh, hiểu rõ tất cả tâm, nhớ nghó về vô lượng kiếp, đạt được tất cả các thần thông diệu dụng, đoạn trừ các lậu, cho đến tùy ý biến hóa đều được tự tại và không hề chịu sự chi phối của các pháp. Này thiện nam! Đó là thần thông không thoái chuyển, tự tại đối với tất cả các pháp của Bồ-tát. Này thiện nam! Thế nào là Bồ-tát hiểu rõ về nghĩa lý sâu xa của pháp Phật mà hàng Thanh văn, Duyên giác rất khó lường xét. Này thiện nam! Sâu xa là nghĩa lý của pháp duyên khởi. nghĩa là vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sinh, sinh duyên lão tử, ưu bi khổ não, do tập làm nhân, làm duyên nên sinh ra khối lượng khổ lớn và khiến các chúng sinh mãi bị luân hồi, cấu nhiễm. Bồ-tát đối với pháp này biết rõ như vậy. Đó là nghĩa lý của pháp sinh. Thế nào là ý nghĩa của nhân duyên diệt? nghĩa là vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì lục nhập diệt, lục nhập diệt thì xúc diệt, xúc diệt thì thọ diệt, thọ diệt thì ái diệt, ái diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sinh diệt, sinh diệt thì lão tử, ưu bi khổ não cũng diệt. Do nhân duyên diệt nên khối lượng khổ lớn diệt, khiến các chúng sinh đều được thanh tịnh. Đó là ý nghĩa của nhân duyên diệt. Bồ-tát đối với ý nghĩa ấy đã hiểu rõ như vậy. Đó là Bồ-tát hiểu rõ về nghĩa lý sâu xa của Phật pháp, chẳng phải như các hàng Thanh văn, Duyên giác chỉ có thể đạt được thanh tịnh nơi cõi nhiễm ô. Ở trong cảnh giới của chư Phật, Như Lai, nhờ diệu lực nơi oai thần của chư Phật gia hộ, Bồ-tát có thể ở nơi đó mà giác ngộ từng phần. Lại nữa, ý nghĩa sâu xa còn gọi là thân. Thân thanh tịnh nên tất cả các pháp thanh tịnh. Vì sao? Vì muốn suy tìm về nguồn gốc của thân thì không thể nắm bắt được. Do không thể nắm bắt được nên gọi là sâu xa. Chư Phật không hề chấp thủ đối với ngã. Ngã vốn thanh tịnh, như ngã thanh tịnh nên tất cả các pháp cũng thanh tịnh. Vì sao gọi là thanh tịnh? Vì các pháp xưa nay không sinh nên cũng chẳng diệt, nên gọi là thanh tịnh. Lại nữa, không si ám, không sáng tỏ cũng chẳng có A-lại-da (chứa giữ), là thắng nghĩa chân thật nên gọi là sâu xa. Không có nhãn diệt, không có ý diệt, cho đến không có cảnh giới. Không có cảnh giới tức là chân thật, là Đệ nhất nghĩa đế tức là sâu xa. Cũng không có tâm ý chấp giữ. Ý nghĩa thù thắng vì rất khó lường, khó thấy, nên không thể hiểu rõ. Tất cả các nghĩa lý sâu xa này của pháp cũng chỉ là giả danh, tùy thuận theo thế tục và vì các chúng sinh mà phân biệt hiển bày. Đó là Bồ-tát hiểu rõ về nghĩa lý sâu xa của Phật pháp mà tất cả hàng Thanh văn, Duyên giác khó có thể xét lường. Này thiện nam! Thế nào là Bồ-tát có trí thiện xảo, thông đạt lý duyên khởi nên xa lìa tất cả biên kiến? Này thiện nam! Duyên khởi là không có đối tượng được duyên chính là duyên khởi. Không có sự việc, không có thành tựu là duyên khởi. Vô thường, khổ, vô ngã, tịch tónh là duyên khởi. Không ngã, không chúng sinh, không thọ mạng, không nuôi dưỡng, không có phàm phu, không có người, không “nho đồng” là duyên khởi. Không sinh, không khởi là duyên khởi. Không chỗ có, không công dụng, không, vô tướng, tịch tónh, không chốn tạo tác, không bàn luận cho nên gọi là pháp không hý luận. Sinh như vậy gọi là sinh, diệt như vậy gọi là diệt. Lại nữa, không có ngã, không chúng sinh, không thọ mạng, không nuôi dưỡng, không phàm phu, không người, không “nho đồng” tức không có pháp nào có thể là duyên sinh. Đối với các pháp ấy, không có ngã, không có chủ tể. Ví như cỏ cây tường vách, hình ảnh tất cả pháp cũng như vậy. Như khi các pháp bên ngoài được sinh ra thì cũng chẳng có sự sinh, khi diệt đi thì cũng chẳng có sự diệt. Pháp bên trong cũng thế, khi sinh ra cũng chẳng có sự sinh, khi diệt đi cũng không có sự diệt. Chỉ trừ pháp duyên khởi chỗ sinh là không thật thiếu duyên nên không diệt. Do khế hợp như vậy nên tất cả biên kiến đều được tiêu trừ. Thế nào là biên kiến? Biên kiến là chấp đoạn, chấp thường. Bồ-tát đối với pháp khi sinh chẳng thấy sinh, khi diệt chẳng thấy diệt, do không sinh không diệt nên đối với chỗ chấp đoạn, chấp thường tự nhiên thanh tịnh. Vì tự thanh tịnh nên đối với các biên kiến đều được thanh tịnh. Này thiện nam! Đó là Bồ-tát có trí thiện xảo, thấu đạt lý duyên khởi nên xa lìa tất cả biên kiến. Này thiện nam! Thế nào là Bồ-tát dùng ấn của Như Lai để ấn chứng pháp Chân như, đạt trí tuệ thiện xảo không gián đoạn? Này thiện nam! Ấn của Như Lai tức là ấn không gián đoạn, không sinh, không chuyển dời, không chấp giữ, không lay động, không có đối tượng bị lay động. Tất cả hàng Trời, Người, A-tu-la ở thế gian đều không thể làm cho lay động. Vì sao? Vì các hàng Trời, Người, A-tu-la ở thế gian dùng ấn của họ để in dấu, còn ấn của Như Lai là ấn hoàn toàn không sinh, là ấn tính không rốt ráo, là ấn trọn vẹn không có tướng, ấn hoàn toàn không nguyện, hoàn toàn không tạo tác, hoàn toàn xa lìa tham dục, ấn chân như rốt ráo, chân thật trọn vẹn, ấn hoàn toàn như hư không. Này thiện nam! Ví như trong không trung, dấu ấn không thể hiện bày, ấn của Như Lai đối với năm mắt cũng không hiện bày tướng ánh sáng, chỉ dùng ấn tự tướng để ấn chứng. Nên, cho đến Thế Tôn diễn nói tất cả các pháp cũng đều dùng ấn của Như Lai để ấn chứng các pháp ấy. Đó là sự nêu bày. Tất cả thức và cảnh giới nơi các pháp đều là pháp tạo tác, tuy có sự sắp đặt nhưng đối với các pháp ấy không hề có các tướng về sự sắp đặt. Bồ-tát dùng ấn chân như để ấn chứng không hề gián đoạn đối với các pháp. Thế nào là gián đoạn đối với chân như? Nếu phân biệt các pháp, thấy có thượng, trung, hạ gọi là gián đoạn. Nếu không phân biệt đối với các pháp, gọi là không gián đoạn. Lại nữa, nếu từ nhiều sự khác nhau mà sinh ra phân biệt thì pháp chân như cũng chẳng bị hư hoại và rối loạn. Ví như chúng sinh có đi được trong hư không thì hư không cũng chẳng bị hư hoại. Như vậy, tất cả chúng sinh có tạo tác trong pháp chân như thì chân như ấy cũng không bị hư hoại. Đó là Bồ-tát dùng ấn Như Lai để ấn chứng pháp chân như, đạt trí tuệ thiện xảo không gián đoạn. Này thiện nam! Thế nào là Bồ-tát thâm nhập nơi nghĩa lý sâu xa của pháp giới? Bồ-tát thấy tất cả pháp và các pháp giới đều cùng khắp, đều cùng một tính bình đẳng. Pháp giới cũng gọi là cảnh giới lìa dục vì lìa hết mọi trần cảnh. Cũng gọi là cõi chúng sinh vì không có chứa nhóm, gọi là cõi không chống trái vì vốn không sinh, gọi là cõi không đi vì không gì làm tương quan, là cõi không đến vì không gì làm ngăn ngại, là cõi không trụ vì không có sinh khởi, là cõi như như vì ba đời đều bình đẳng, là cõi vô ngã vì xưa nay luôn thanh tịnh, là cõi không “thọ giả” do nghĩa lý sâu xa vượt hẳn thế tục, là cõi không phân biệt vì không có chỗ trụ, là cõi không có A-lại-da vì không nhiễm ô, là cõi không sinh khởi vì tính thường quyết định, là cõi như hư không vì tính nó thanh tịnh, là cõi như Niết-bàn vì không có hý luận. Đó gọi là thâm nhập nơi nghĩa lý của pháp giới. Nếu Bồ-tát vào sâu nghĩa lý ấy thì mọi lời giảng nói đều cùng với nghĩa lý của pháp giới bao trùm khắp. Vì thế liền biết cõi Dục và pháp giới là không hai, không khác. Lại nữa, pháp giới nơi tính của tham dục, pháp giới nơi tính của sân là không hai; tính của sân hận, tính của si mê và pháp giới là không khác; tính của si, tính của phiền não và pháp giới là không hai; tính của phiền não, tính của cõi Dục và pháp giới là không khác; tính của cõi Dục, tính của cõi Sắc và pháp giới là không hai; tính của cõi Sắc, tính của cõi Vô sắc và pháp giới là không khác; tính của cõi Vô sắc, tính không và pháp giới là không hai; tính của không, tính của nhãn giới và pháp giới là không khác; tính của nhãn giới, tính của sắc và pháp giới là không hai; tính của sắc, tính của nhãn thức giới và pháp giới là không khác; tính của nhãn thức giới, cho đến tính của ý giới và pháp giới là không khác; tính của ý giới, ý thức giới và pháp giới là không khác; tính của ý thức giới, uẩn giới và pháp giới là không hai; tính của uẩn giới, địa, thủy, hỏa, phong giới và pháp giới là không khác cho đến uẩn, hành của tám vạn bốn ngàn pháp, tất cả các pháp và pháp giới đều là không hai, không khác. Nếu Bồ-tát dùng trí bình đẳng nhập vào pháp giới với tính của tất cả pháp như thế thì sẽ thấy ý nghĩa nơi tính bình đẳng của tất cả các pháp. Này thiện nam! Đó là Bồ-tát thâm nhập nơi nghĩa lý sâu xa của pháp giới. Này thiện nam! Thế nào là Bồ-tát có chí nguyện bền chắc như kim cương, an trú không lay động trong pháp Đại thừa? Này thiện nam! Bồ-tát thành tựu mười hai thứ pháp đạt chí nguyện bền chắc như kim cương, không hề bị hàng trời, người ở thế gian hủy hoại. Mười hai pháp ấy là gì? nghĩa là phát tâm Bồ-đề, ý lạc tăng thượng, không hủy hoại, tu hành bố thí, trì giới, tinh tấn, nhẫn nhục, thiền định và trí tuệ không hủy hoại, đại Từ, Đại Bi không hủy hoại, tu bốn Nhiếp pháp không hủy hoại, tạo cho chúng sinh được thành tựu đầy đủ không hủy hoại, làm thanh tịnh cõi Phật không hủy hoại, không lo sợ đối với sinh tử không hủy hoại, tu tập các căn lành không nhàm chán, không hủy hoại, vì trang nghiêm các tướng hảo mà thiết lập pháp hội bố thí rộng lớn không bị hủy hoại, vì ủng hộ chính pháp mà xả bỏ thân mạng không hủy hoại, có căn lành gì cũng đều thực hành, hồi hướng cho tất cả chúng sinh không hủy hoại, chứa nhóm tất cả pháp Phật không hủy hoại. Này thiện nam! Nếu Bồ-tát đối với các pháp tu hành kiên cố như vậy, nên biết bấy giờ, Bồ-tát đã đạt được chí nguyện bền chắc như kim cương, không thể hủy hoại. Như ngọc quý kim cương có thể phá vỡ các vật báu khác, mà tự thể nó không bị hủy hoại, Bồ-tát thành tựu chí nguyện bền chắc cũng như vậy, có thể diệt trừ các loại phiền não của chúng sinh, nhưng tự thể không bị hủy hoại. Này thiện nam! Đó là Bồ-tát thành tựu chí nguyện bền chắc như kim cương, an trú không lay động trong pháp Đại thừa. Này thiện nam! Thế nào là Bồ-tát ở nơi cảnh giới của mình đạt được thanh tịnh như cảnh giới của Phật? Này thiện nam! Cảnh giới của Phật tức không có cảnh giới, vì lìa cảnh giới nên tất cả đều thanh tịnh. Bồ-tát do từ cảnh giới của mình và cảnh giới của Phật thảy đều thanh tịnh, nên cảnh giới của mắt thanh tịnh tức là cảnh giới của Phật, mà cũng chẳng phải là cảnh giới của Phật. Cảnh giới của mắt là không gần cũng chẳng xa. Vì sao? Vì cảnh giới thanh tịnh cùng với cảnh giới của Phật, cũng không phải là cảnh giới thanh tịnh và cảnh giới của mắt. Cảnh giới của tai là cảnh giới của Phật, cũng chẳng là cảnh giới của Phật, cũng không có gần xa. Vì sao? Vì cảnh giới thanh tịnh cùng với cảnh giới của Phật cũng không phải là cảnh giới thanh tịnh và cảnh giới của tai. Cảnh giới của mũi là cảnh giới của Phật, mà cũng chẳng là cảnh giới của Phật, không gần cũng chẳng xa. Vì sao? Vì cảnh giới thanh tịnh cùng với cảnh giới của Phật không phải là cảnh giới thanh tịnh và cảnh giới của Phật. Cảnh giới của lưỡi tức là cảnh giới của Phật, cũng không phải là cảnh giới của Phật, không có gần xa. Vì sao? Vì cảnh giới thanh tịnh cùng với cảnh giới của Phật, cũng không phải là cảnh giới thanh tịnh và cảnh giới của lưỡi. Cảnh giới của thân là cảnh giới của Phật, cũng không phải là cảnh giới của Phật, không có gần xa. Vì sao? Vì cảnh giới thanh tịnh cùng với cảnh giới của Phật, cũng không phải là cảnh giới thanh tịnh và cảnh giới của thân. Cảnh giới của ý là cảnh giới của Phật, cũng không phải là cảnh giới của Phật, chẳng gần, chẳng xa. Vì sao? Vì cảnh giới thanh tịnh cùng với cảnh giới của Phật cũng không phải là cảnh giới thanh tịnh và cảnh giới của ý cho đến uẩn, xứ, giới, mười hai nhân duyên cũng vậy. Này thiện nam! Như Bồ-tát hội nhập nơi cảnh giới của Phật, hội nhập nơi cảnh giới thanh tịnh và tất cả các cảnh giới, nếu cảnh giới của mình được bình đẳng thanh tịnh, đó tức là nhập vào cảnh giới của Phật. Như vậy, tất cả các hình ảnh biểu hiện nơi sáu loại cảnh giới của Bồ-tát đều là nhập vào cảnh giới của Phật, vì thảy đều thanh tịnh, không còn chấp giữ. Như thế cảnh giới của Như Lai không cấu nhiễm, không chướng ngại, tất cả các cảnh giới cũng vậy. Này thiện nam! Người thông hiểu như vậy được gọi là Bồ-tát hội nhập vào cảnh giới Phật thanh tịnh, thành tựu cảnh giới của tự thân cũng được thanh tịnh. Này thiện nam! Thế nào là Bồ-tát đạt được Đà-la-ni, không quên mất pháp hành? Này thiện nam! Bồ-tát nên tu trì Đà-la-ni này, lấy đó làm sự nghiệp. Thế nào là tu trì? Này thiện nam! Có ba mươi hai pháp tu Đà-la-ni. Đó là: Cầu pháp, ưa thích pháp, an trú trong vườn pháp, theo sự kế truyền của pháp, tùy thuận theo pháp, tôn trọng pháp, hầu hạ cúng dường bậc Đa văn, luôn luôn không ngã mạn, cung kính cúng dường các bậc Hòa thượng, A-xà-lê, cầu pháp không hề chán, vâng lời không trái nghịch đối với thầy dạy; đối với người thuyết pháp, cung kính xem như Phật, không tìm tòi chỗ kém dở của họ; thọ trì tất cả những pháp đã được nghe, không biếng nhác, không bỏn sẻn nơi pháp, thực hành bố thí pháp không mong báo đáp, tác ý như lý đối với pháp được nghe, khéo quan sát pháp được nghe, mong cầu học rộng hiểu nhiều, không có giới hạn, tu hành không ngừng nghỉ đối với phạm hạnh, thường ưa xa lìa chỗ ồn náo, tâm luôn tịch tónh, luôn chuyên cần tu tập sáu pháp tùy niệm, diệt trừ sáu tâm vọng nhiễm, dốc giữ gìn sáu pháp hòa kính, khởi tâm không làm trở ngại đối với tất cả chúng sinh, tu hành thuận theo pháp duyên sinh; đối với ba môn giải thoát, luôn tác ý quan sát, không hề sợ hãi, không bỏ hạt giống Thánh và công đức nơi hạnh Đầu-đà; hộ trì chính pháp, tâm không thấp kém; quan sát và khởi lòng Đại Bi đối với chúng sinh; dốc cầu chính pháp, chẳng tiếc thân mạng; tu hành theo trí tuệ lớn, xa lìa si mê; làm cho chúng sinh được thành tựu đầy đủ không biết mệt mỏi. Đó gọi là tu hành pháp Đà-la-ni không quên mất sự nghiệp. Lại nữa, này thiện nam! Nếu Bồ-tát đạt được các pháp Đà-la-ni này rồi, đối với những lời Phật dạy, đều có thể thọ trì đầy đủ, không hề quên sót, nghĩa là ghi nhớ hết những pháp đã được nghe. Nhờ nhớ kỹ nên không quên, do xả nên giác ngộ, dùng trí tuệ chiếu soi, nên Bồ-tát hội nhập về tất cả các văn tư vô tận, đạt được trí tuệ, khéo hiểu rõ từng loại âm thanh, ngôn ngữ, đạt được trí tuệ biện tài vô ngại, diễn nói thông suốt, đạt trí hiểu rõ nghĩa lý của các kinh liễu nghĩa và không liễu nghĩa, đạt trí diễn nói không cùng tận cho thế gian, diễn nói không gián đoạn về nghĩa lý thù thắng, trí không thoái lui đối với tinh tấn chân chính, trí tự tại đối với bốn Thần túc, trí sai biệt đối với các căn, trí không lay động đối với các lực, trí được khai ngộ đối với bảy Giác chi, trí được hội nhập vào nghĩa lý của tám Thánh đạo, trí an trụ tâm trong Xa-ma-tha, trí quyết định trong Tỳ-bát-xa-na, trí tùy thuận theo trí giải thoát, trí thâm nhập các biện tài, trí sinh khởi các thần thông, trí phân biệt các pháp Ba-la-mật, trí tùy thuận căn cơ đối với bốn Nhiếp pháp, trí biết được các loại ngôn ngữ, âm thanh, trí chọn lựa các pháp quyết định, trí không gián đoạn đối với ý nghĩa nơi các kinh, trí không cùng tận đối với các loại văn tự, trí hoan hỷ đối với các chúng sinh, trí thuyết pháp phù hợp với căn cơ cho những người cầu pháp, trí ghi nhớ, thọ trì những lời Phật dạy, trí hiểu rõ lời lẽ, câu chương đối với tất cả lời nói, trí biết đúng như thật đối với các sự nhơ uế và thanh tịnh, trí hiểu rõ quả báo của các nghiệp duyên, trí sáng suốt không bị che lấp nơi hết thảy pháp. Như vậy gọi là Đà-la-ni. Người đạt được Đà-la-ni, thân, miệng, ý đều bình đẳng rồi thì có thể tuôn xuống mưa pháp vô tận, dứt trừ các phiền não và làm phát sinh pháp của tất cả chư Phật. Do thấu đạt nghĩa lý sâu xa của Đà-la-ni này nên Bồ-tát luôn luôn không hề quên mất. Đó là Bồ-tát đạt Đà-la-ni không quên mất pháp hành. Này thiện nam! Thế nào là Bồ-tát đạt biện tài vô ngại, được Như Lai gia hộ? Này thiện nam! Bồ-tát thường nhờ ân nơi chư Phật gia hộ mà đạt được hai mươi bốn loại biện tài vô ngại. Hai mươi bốn loại ấy là gì? nghĩa là biện tài nhanh nhẹn, biện tài lưu loát, biện tài không gì trở ngại, biện tài thông suốt, biện tài khéo léo, biện tài sâu xa, biện tài không nói lời nhầm lẫn, biện tài với nghĩa thù thắng vi diệu trang nghiêm, biện tài không chìm đắm, biện tài không sợ hãi, biện tài về vô số bài kệ khen ngợi, biện tài về duyên khởi, biện tài về bản sự của kinh, biện tài thắng được người khác, biện tài về vô số ý nghĩa khác nhau, biện tài hiển hiện sự vi diệu, biện tài về oai đức trang nghiêm, biện tài về thuyết pháp không gián đoạn, biện tài về sự trang nghiêm của cõi trời, biện tài đoạn trừ các nghi ngờ, biện tài về pháp thế gian và xuất thế gian, biện tài không lỗi lầm, biện tài về các tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả có thể đưa đến an lạc, biện tài về túc mạng thông, biện tài được chư Phật gia hộ. Này thiện nam! Hai mươi bốn loại biện tài như vậy, là do tu tập hai mươi bốn loại nghiệp mà được thành tựu. Hai mươi bốn loại nghiệp ấy là gì? Này thiện nam! nghĩa là do không trái nghịch với lời dạy của bậc thầy nên đạt biện tài nhanh nhẹn, xưa nay không dua nịnh nên đạt được biện tài lưu loát, xa lìa các phiền não nên đạt được biện tài không gì trở ngại, không thích sống ở nơi hỗn tạp nên đạt được biện tài thông suốt, không nói lời ly gián nên đạt được biện tài với từ ngữ khéo léo, giác ngộ pháp duyên sinh nên đạt được biện tài sâu xa, nhờ bố thí tất cả nên đạt được biện tài không nói lời nhầm lẫn, trang trí tháp miếu thờ chư Phật nên được biện tài thù thắng vi diệu, trang nghiêm, không bỏ tâm Bồ-đề nên được biện tài không chìm đắm, nhờ giữ giới hoàn hảo nên được biện tài không sợ hãi, dùng các loại cờ, phướn, linh, lọng để cúng dường nên được biện tài về diễn nói vô số kệ khen ngợi; hầu hạ, cung kính, cúng dường các bậc thầy nên được biện tài về diễn nói duyên khởi, bản sự của kinh; không làm khó dễ, bức ngặt các chúng sinh nghèo nàn, thiếu thốn nên đạt được biện tài thắng được người khác; bố thí pháp tạng vô tận, khiến người được lãnh hội Phật pháp, nên được biện tài về diễn giảng vô số ý nghĩa khác nhau; nói năng chân thật không thô lỗ, nên được biện tài biểu hiện mọi sự huyền diệu; đối với mọi người không chê bai, chia rẽ mà luôn kính trọng nên được biện tài về oai đức đoan chính; tự mình an trụ trong pháp nên được biện tài diễn giảng pháp thông suốt; không chê bai người khác, bố thí những vật chính mình ưa thích với tâm hoan hỷ nên được biện tài trang nghiêm của cõi trời; đối với pháp không có thầy thì giữ gìn như đã lãnh hội, nên được biện tài đoạn trừ tất cả nghi ngờ; xem tất cả đều như bậc sư trưởng, không làm cho họ buồn khổ, bố thí thuốc cho người bệnh, nên được biện tài về pháp thế gian và xuất thế gian; không tìm lỗi lầm của người khác, luôn suy xét về chính mình nên được biện tài không lỗi lầm; dùng tâm bình đẳng để quán xét về tất cả chúng sinh đều đạt quả vị Niết-bàn, không tham đắm các thứ như lợi dưỡng, sự cung kính và tiếng khen, nên được biện tài về Từ, Bi, Hỷ, Xả, khiến tâm chúng sinh luôn an vui; khéo dùng lời nói mềm mỏng để thuyết giảng về pháp tu hành, tâm không loạn động nên được biện tài về túc mạng thông; không chê bai pháp Đại thừa cũng không ưa thích pháp Tiểu thừa, Từ bi với tất cả chúng sinh nên đạt biện tài được Phật hộ trì. Đó gọi là hai mươi bốn loại nghiệp để thành tựu hai mươi bốn loại biện tài. Lại nữa, vì muốn cho chúng sinh được giải thoát nên gọi là biện tài. Vì sự an trú của chúng sinh nên luôn thức tỉnh họ, gọi là biện tài. Vì muốn chúng sinh luôn hoan hỷ nên gọi là biện tài. Có thiện nam nào thành tựu về trí tuệ và pháp công đức như thế thì gọi là Bồ-tát đạt biện tài vô ngại, được Phật gia hộ. Này thiện nam! Thế nào là Bồ-tát được tự tại trong sinh tử? Đó là Bồ-tát thành tựu hai mươi pháp nên được tự tại trong sinh tử. Thế nào là hai mươi pháp? nghĩa là xa lìa bạn ác, gần gũi bạn lành, có tri kiến thanh tịnh về pháp của Đức Phật, thanh tịnh về giới, từ thiền định phát sinh trí tuệ để cùng làm phương tiện tu tập, đạt được thần thông không thoái lui, quan sát các pháp là vô sinh, vì để hoàn thành thệ nguyện ở trong sinh tử nên thọ sinh, quán xét các chúng sinh nên phát sinh lòng từ rộng lớn, dùng định Đại Bi để xét rõ về các pháp là huyễn hóa, biết tất cả pháp là không sinh, diệt, quan sát đúng như thật về pháp không hư vọng, pháp có tính như mộng, được oai thần của Phật gia hộ nên thị hiện trong sinh tử mà không bị chìm đắm theo sinh tử. Đó là hai mươi pháp. Bồ-tát nào thành tựu hai mươi pháp ấy thì ở những nơi thọ sinh trong vô lượng, vô số kiếp đều thị hiện thân hình để làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Này thiện nam! Tất cả pháp như thế đều được kiến lập từ hai mươi loại căn bản này, nghĩa là căn bản của Thần thông, Trí tuệ và Từ bi. Đó gọi là Bồ-tát đạt được thần thông nên tự tại trong sinh tử. Này thiện nam! Thế nào là Bồ-tát hàng phục ma oán, vượt qua bốn thứ ma? Này thiện nam! Có Bồ-tát nào dùng trí như huyễn, thông đạt về năm uẩn và tất cả các pháp đều như huyễn hóa thì vượt qua uẩn ma. Thông đạt về bản tính thanh tịnh của các pháp thì vượt qua phiền não ma. Thông đạt về duyên khởi thì vượt qua tử ma. Tâm Bồ-đề không thoái lui thì vượt qua thiên ma. Lại nữa, nhờ quan sát như vậy nên Bồ-tát đoạn trừ hết các chướng ngại, ngăn chận tất cả các thứ ma và việc làm của ma. Thế nào là việc làm của ma? nghĩa là ưa thích pháp Tiểu thừa là việc làm của ma. Không giữ gìn tâm Bồ-đề là việc làm của ma. Thực hành bố thí mà còn phân biệt đối với các chúng sinh là việc làm của ma. Vì thích mong cầu nơi thọ sinh nên trì giới là việc làm của ma. Vì cầu sắc tướng mà tu nhẫn nhục là việc làm của ma. Thực hiện các việc thế gian mà tương ưng với tinh tấn là việc làm của ma. Tham đắm nơi thiền vị là việc làm của ma. Dùng trí tuệ để nhàm chán đối với pháp thấp kém là việc làm của ma. Ở trong sinh tử mà có sự mỏi mệt là việc làm của ma. Tạo các căn lành mà không hồi hướng là việc làm của ma. Chán lìa phiền não là việc làm của ma. Che giấu tội lỗi đã tạo là việc làm của ma. Oán ghét Bồ-tát là việc làm của ma. Phỉ báng chính pháp là việc làm của ma. Quên ân nghĩa, không đền đáp là việc làm của ma. Không cầu các Độ là việc làm của ma. Không tôn trọng chính pháp là việc làm của ma. Bỏn sẻn đối với pháp là việc làm của ma. Vì mong cầu lợi dưỡng mà thuyết pháp là việc làm của ma. Lìa bỏ các phương tiện để giáo hóa chúng sinh là việc làm của ma. Bỏ bốn Nhiếp pháp là việc làm của ma. Hủy phạm giới cấm là việc làm của ma. Khinh chê người trì giới là việc làm của ma. Thuận theo hạnh Thanh văn là việc làm của ma. Tùy thuận thừa Duyên giác là việc làm của ma. Chỉ cầu pháp vô vi là việc làm của ma. Nhàm chán pháp hữu vi là việc làm của ma. Tâm luôn nghi hoặc, không tạo lợi ích cho chúng sinh là việc làm của ma. Ưa nghi ngờ những điều đã nghe, không chịu tác ý như lý để thông đạt là việc làm của ma. Thích sự dối trá, giả hiện bày thương xót là việc làm của ma. Mắng nhiếc, hung dữ là việc làm của ma. Tạo tội mà không chán bỏ là việc làm của ma. Chấp giữ nơi pháp của tự thân là việc làm của ma. Mới nghe một ít đã cho là đủ là việc làm của ma. Không siêng năng cầu chính pháp là việc làm của ma. Ưa thích cầu phi pháp là việc làm của ma. Không thích đối trị sự trói buộc của phiền não là việc làm của ma. Tâm và miệng không thanh tịnh là việc làm của ma. Chấp nhận sự cấu nhiễm của Sa-môn là việc làm của ma. Này thiện nam! Như vậy, cho đến ưa thích, thực hành mười nghiệp bất thiện, bỏ các pháp lành… tất cả đều là việc làm của ma. Bồ-tát thành tựu bốn pháp thì có thể vượt qua các việc làm của ma. Những gì là bốn? nghĩa là: Không quên mất tâm Bồ-đề, nên chuyên cần tu tập sáu Độ. Không buông lung, an trú trong trí thiện xảo làm cho các chúng sinh được thành tựu, hiểu được nghĩa lý sâu xa, hộ trì chính pháp. Này thiện nam! Nếu Bồ-tát khế hợp với pháp này thì chắc chắn có thể diệt trừ tất cả các ma oán. Đó là Bồ-tát vượt khỏi bốn thứ ma. Này thiện nam! Thế nào là Bồ-tát chứa nhóm vô lượng hành trang về phước đức, làm nơi nương tựa cho các chúng sinh? Này thiện nam! Nếu Bồ-tát đối với tất cả chúng sinh, khởi tâm Đại Bi đồng thể, an trú trong thiền định, thấy có người nào đến cầu xin điều gì cũng đều ban cho. Với đôi tay quý báu, phước đức vô tận, Bồ-tát ban cho chúng sinh tất cả những gì họ cần, chí nguyện của chư vị rất thanh tịnh, tâm như mặt đất bằng phẳng, chẳng còn phân biệt cao thấp, mong muốn cho tất cả chúng sinh đều được giàu có, lợi ích. Vì giữ giới thanh tịnh nên tâm không còn gì vướng mắc, khéo hộ trì các căn, lại có thể thực hiện trọn vẹn tất cả sự bố thí, đạt Đà-la-ni, thành tựu biện tài, Bồ-tát đem những sự chứa nhóm căn lành như thế mà hồi hướng về quả vị Bồ-đề và cho tất cả chúng sinh. Giống như bốn đại bên ngoài, là nơi nương tựa của tất cả thế gian, bốn đại bên trong là chỗ nương nhờ để tồn tại của hết thảy các loài, Bồ-tát suy nghó: “Tất cả những căn lành, pháp, trí và sự thiện xảo mà ta đã chứa nhóm, không một pháp nào mà không là nơi nương tựa cho chúng sinh.” Đó là Bồ-tát đạt được vô lượng hành trang về phước đức, làm nơi nương tựa cho các chúng sinh. Này thiện nam! Thế nào là Bồ-tát xuất hiện ở đời không có Phật, vì các chúng sinh làm các Phật sự? Này thiện nam! Bồ-tát vì để phát sinh Trí thị xứ, Trí phi xứ mà tu hành mười Lực, vì để phát sinh trí lậu tận mà tu hành bốn Vô úy, vì để tạo ra ba mươi trí vô ngại mà tu hành mười tám pháp bất cộng, vì làm phát sinh. Phật nhãn sáng tỏ mà tu hành năm thứ nhãn nhận biết tất cả, vì để phát sinh tất cả thần thông mà tu hành túc mạng thông, vì để thành tựu Bồ-đề viên mãn mà tu hành đầy đủ hết thảy các pháp lành, đoạn trừ các phiền não của thân, miệng, ý, vì để phát sinh các tướng hảo trang nghiêm mà tu hành tất cả các thứ phước đức, vì để đạt đến mười Địa, tiếp nhận được tất cả các pháp Phật mà tu hành hết thảy các sự nghiệp trí tuệ. Như vậy, này thiện nam, nếu Bồ-tát tu hành đầy đủ các pháp ấy rồi thì có thể ở đời không có Phật, vì các chúng sinh mà thực hành các Phật sự, làm cho họ được thành tựu đầy đủ. Này thiện nam! Thế nào là Bồ-tát đạt định Hải ấn, không đắm nhiễm theo các sự tạo tác nơi tâm, của tất cả chúng sinh? Này thiện nam! Vì sao gọi là định Hải ấn? Ví như ở cõi Diêm-phù-đề, bao nhiêu chủng loại, hình sắc của tất cả chúng sinh đều hiện ra các hình tướng trong biển, nên gọi là biển lớn. Tất cả các hình sắc của tâm cho đến âm thanh của bao nhiêu chúng sinh như vậy, đều hiện rõ trong biển tâm của Bồ-tát. Vì vậy gọi là định Hải ấn. Ví như nước trong biển lớn chỉ thuần một vị mặn, trí tuệ của Bồ-tát cũng như vậy chỉ thuần một pháp vị giải thoát. Ví như biển cả, giới hạn của thủy triều, không thể vượt qua Bồ-tát cũng vậy, quan sát biết đúng thời hay không đúng thời đều không vượt qua thời điểm ngồi nơi đạo tràng thành tựu đạo Bồ-đề. Ví như biển lớn không chứa thây chết, Bồ-tát cũng vậy, không cùng chung với tất cả các tập khí phiền não và các tâm nơi hàng Thanh văn, Duyên giác. Ví như biển cả dung chứa hàng vạn dòng nước nhưng vẫn không tăng không giảm, Bồ-tát cũng như vậy, thâu nhận tất cả các pháp nhưng cũng không tăng không giảm. Ví như biển cả rộng lớn không bờ bến, diệu dụng về tuệ của Bồ-tát cũng vô biên như vậy. Ví như biển lớn sâu thẳm không đáy, biển trí của Bồ-tát cũng vậy, tất cả hàng Thanh văn, Duyên giác đều không thể suy lường nổi. Ví như biển cả có thể làm nơi nương tựa cho vô lượng thế giới, Bồ-tát cũng vậy làm nơi nương cho tất cả chúng sinh. Này thiện nam! Đó là Bồ-tát khéo nhập vào định Hải ấn, không vướng mắc vào sự tạo tác nơi tâm của tất cả chúng sinh. Này thiện nam! Thế nào là Bồ-tát đạt tâm không vướng mắc như hư không, không thể bị gió làm trở ngại? Này thiện nam! Bồ-tát đối với tất cả các pháp, không còn bị các kiến chấp trói buộc, tâm không vướng bận. Ví như hư không không thể bị vướng mắc do ngọn gió lớn, Bồ-tát cũng như vậy đối với tất cả các pháp, tâm không bị vướng mắc. Đó là Bồ-tát tâm không chấp giữ như hư không không bị gió làm chướng ngại. KINH ĐẠI TẬP những điều BỒ-TÁT Hư Không tạng hỏi Phật <卷 id="117270383">Quyển 4 Này thiện nam! Thế nào là Bồ-tát khéo biết rõ về phép tắc tu hành để xa lìa chỗ tối tăm, đạt được sự sáng suốt, không nhờ người khác mà được trí tự nhiên, mau đạt đến trí Nhất thiết trí của Đại thừa? Này thiện nam! Nếu Bồ-tát đối với sự thực hành phép tắc về tất cả các hạnh mà không thoái lui, không lay động thì đạt được sự sáng suốt, gọi là sự sáng suốt về “trí tuệ tự nhiên của chính pháp”, cũng gọi là “Trí đối với pháp không chướng ngại”, có thể xa lìa chốn tối tăm đạt được sự sáng suốt, không nhờ người khác mà đạt được trí tự nhiên. Vì sao? Vì khi Bồ-tát ấy trụ vào chỗ sáng tỏ của trí tự nhiên thì chiếu soi rõ ràng, quyết định đối với hữu tình và đối với pháp ấy, không nhờ vào người khác, mau chóng đạt được trí Nhất thiết trí. Khi ấy, Đức Thế Tôn nói kệ: Bậc trí giải thoát các kiến chấp Đầy đủ phước đức trong sinh tử Trụ vào thiền định, lìa các tướng Hồi hướng Bồ-đề không cùng tận. Đầy đủ hành trang Nhất thiết trí Trí vô biên, tính tựa hư không Không có sắc, tướng, không có pháp Thì đạt đầy đủ Nhất thiết trí. Nên niệm Phật vượt qua sinh tử Tâm ý vị ấy không tán loạn Không chấp sắc tướng và dòng họ Như vậy gọi là niệm Như Lai. Thể tính các pháp lìa tham dục Trong lặng, tịch tónh thường vô tướng Nếu xa lìa đối tượng duyên dựa Như vậy mới chính là niệm pháp. Vô vi, chẳng nhiễm, thường giải thoát Như vậy gọi là niệm Tăng-già Tất cả của cải và vật dạng Đều đem bố thí không tham đắm. Thanh tịnh, không tư duy, phân biệt Như vậy gọi là niệm về xả Giới vô vi không còn lậu, hoặc Lìa thân, miệng, ý chẳng đổi dời. Chẳng sinh ba cõi, không chỗ nương Là chính niệm về giới vô lậu Chư Thiên Tịnh cư thể trong sạch Ở trời Đâu-suất nối Pháp vương. Như vậy là niệm thiên thanh tịnh Chẳng bao lâu nữa, ta cũng vậy Nếu giữ gìn chính pháp của Phật Không nên chấp giữ tạo phiền não. Pháp và phi pháp đều giải thoát Đó là giữ gìn pháp chư Phật Như Phật đã chứng tướng Bồ-đề Giữ gìn pháp ấy cũng như vậy. Biết được “bản tế” không cấu nhiễm Đó là giữ gìn pháp chư Phật Ngã thanh tịnh, nên chúng sinh tịnh Bậc trí tu hành pháp thanh tịnh. Biết tâm chúng sinh luôn trong lành Nhờ hành như vậy để thành tựu Chẳng làm đoạn diệt cõi hữu tình Cũng chẳng thấy có tăng hay giảm. Vì họ thuyết pháp, trừ kiến chấp Độ vô lượng chúng được thanh tịnh Nên nói các cảnh giới thế gian Chẳng khác với cảnh giới Như Lai. Cảnh giới của Phật như hư không Cảnh giới thế gian cũng như vậy Tất cả ngôn ngữ và văn tự Đều như tiếng vang nơi hang rỗng. Trong ấy chẳng có đối tượng nghe Như vậy là đã đạt “Tổng trì” Thọ giữ, tu tập và đọc tụng Giảng nói hết ý nghĩa các pháp. Không có ngã, nhân và tướng pháp Đó là an trụ Đà-la-ni Giữ gìn tất cả pháp chư Phật Khéo giảng nói, người nghe hoan hỷ. chính niệm chẳng rời Tam-ma-địa Do đấy nhất định được “Tổng trì” Tâm không loạn động đối với pháp Cũng không nghi hoặc ở nơi pháp. Giống như Long vương tuôn mưa lớn Vị ấy thuyết pháp cũng như thế Không còn vướng buộc chẳng chướng ngại Có thể nói ngàn ức kinh điển. Chẳng có pháp tưởng về chúng sinh Được biện tài, công đức thù thắng Nương oai thần Phật nói diệu pháp Trong ngàn ức kiếp luôn thuận hợp. Khiến tâm chúng sinh thường hoan hỷ An trụ biện tài, công Đức Phật Nếu biết nghĩa lý tất cả pháp Thể tính đều giống như hư không. Chẳng có người, mạng và thọ quả Đó là giữ gìn chính pháp Phật Bản tính chúng sinh đều tịch tónh Các pháp rốt ráo vốn không sinh. Cảnh giới Ta-bà chẳng nhơ, sạch Được vậy gọi là không buông lung Quán thấy các uẩn đều như huyễn Tức thấy tính chân thật các pháp. Rõ sáu xứ cũng như cõi vắng Có thể vượt qua ma năm uẩn Như mây nổi lên giữa không trung Tất cả lậu hoặc cũng như vậy. Siêng năng quan sát lý chân chính Thì vượt qua được ma phiền não Nếu biết vô sinh thường chẳng sinh Thì biết tịch diệt cũng chẳng diệt. Pháp không quá khứ và vị lai Chắc chắn không bị tử ma hại Chẳng động, chẳng tư duy nơi pháp Chẳng trụ Bồ-đề, tưởng giác ngộ. Khởi tâm cứu giúp, không ngã, nhân Quyến thuộc thiên ma bị hàng phục Thấy thức và trí đều bình đẳng Chẳng trụ vô vi và hữu vi. Biết thế gian tâm như huyễn hóa Gọi là dũng mãnh, khó khuất phục Không còn chấp giữ nơi bờ giác Nói pháp, tu tập đều tương ưng. Độ chúng sinh, chẳng tưởng có nhân Đó là bậc thầy của Bồ-tát Quán xét ba cõi như đồng trống Cũng như tính không, chẳng đổi dời. Không còn đường hướng, người cứu giúp Đó là đại thương chủ thuyết pháp Khéo giảng pháp hữu, vô, chân thật Biết pháp xưa nay thường thanh tịnh. Bi và lý tịch diệt tương ưng Gọi là bậc Thầy của Bồ-tát Tâm lưu chuyển trước sau nối tiếp Hai tâm như vậy, không hòa hợp. Rõ tính của tâm là thay đổi Là sự dũng mãnh của Bồ-tát Thấu tính các pháp vốn thanh tịnh Như trăng đáy nước, như hư không. Chẳng đắm nhiễm nơi các phiền não Bồ-tát thanh tịnh thường khen ngợi Nếu biết một pháp, đồng các pháp Như huyễn, dợn nắng, không chấp thủ. Hư vọng, vắng lặng, chẳng thường còn Người ấy sẽ mau thành chính giác. Khi Đức Phật giảng nói pháp môn quyết định này, có bảy vạn hai ngàn na-do-tha hàng Trời, Người, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già đều phát tâm cầu đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác, ba vạn hai ngàn Bồ-tát đạt được pháp Nhẫn vô sinh, tam thiên đại thiên thế giới chấn động đủ sáu cách, ánh sáng lớn chiếu soi, trăm ngàn chư Thiên rải đủ các loại hoa xuống như mưa, trổi lên các loại âm nhạc để cúng dường, nêu kệ để khen ngợi. Vì các chúng sinh này đã được Như Lai dùng pháp ấn để ấn chứng, nên nếu người nào nghe pháp môn ấy thì sẽ phát sinh sự hiểu biết thù thắng, thọ trì, diễn nói, nếu theo đúng như pháp mà tu hành Nhất thiết trí thì ở nơi cõi Phật này, nên cung kính lễ bái để tự trang nghiêm. Vì sao? Vì Phật Thế Tôn xuất hiện ở đời để diễn nói pháp môn quyết định bí mật này cho chúng ta nghe, chẳng phải vì sự thấy nghe của các chúng sinh khác. Bấy giờ, Bồ-tát Đại Hư Không Tạng nghe Đức Thế Tôn thuyết giảng pháp này xong, liền đạt được sáu pháp môn thiền định thanh tịnh, Bồ-tát dùng lưới báu ma ni giá trị bằng tam thiên thế giới che trên Đức Phật để cúng dường, rồi chắp tay, nhất tâm thưa: –Bạch Thế Tôn! Hôm nay, Như Lai đã dùng trí vô ngại quan sát khéo léo hết căn tính nơi tất cả chúng sinh, để diễn nói ý nghĩa sâu xa của pháp không hề chướng ngại, do đấy mà chúng hội đều rất hoan hỷ, khen ngợi Đại thừa. Khi ấy, các Bồ-tát khắp mười phương thế giới vân tập đến hiện có mặt trong chúng hội đều phóng ra ánh sáng, thưa: –Bạch Thế Tôn! Nhờ Như Lai thuyết giảng pháp môn này, chúng con được lãnh hội, khiến cho tất cả đều rất vui thích và hoan hỷ. Bấy giờ, trong chúng hội có vị Đại Bồ-tát tên Tấn Biện hỏi Bồ-tát Đại Hư Không Tạng: –Thưa Đại só! Tên Đại só là kho tàng như hư không, vậy Đại só dùng hư không làm kho tàng hay sao? Bồ-tát Đại Hư Không Tạng đáp: –Thưa Nhân giả! Tôi cũng là hư không mà cũng chính là kho tàng. –Thưa Đại só! Tôi muốn được thấy tướng sai biệt về kho tàng như hư không của Đại só. –Thưa Nhân giả! Nếu tâm của Nhân giả suy nghó về vật gì thì tôi sẽ vì Nhân giả làm cho trong hư không rưới xuống vật ấy. Bồ-tát Tấn Biện nói: –Thuở xưa, tôi đã từng thấy trong thế giới Liên hoa trang nghiêm của Đức Như Lai Ư-ba-la Cát Tường có hoa sen Nhất thiết quang minh biến chiếu. Hoa ấy lớn khoảng một câu-lô-xá, có hàng ngàn cánh tỏa hương thanh khiết, mềm mại như bông Ca-chỉ-lật-na, khi thân chạm vào có cảm giác rất dễ chịu, hương bay ngào ngạt khắp vô số trăm ngàn thế giới, Bồ-tát trong cõi ấy nghe hương thơm hoặc thấy hoa đều liền đạt Định. Cúi xin Nhân giả vì chúng hội này mà rưới xuống hoa ấy. Bấy giờ, Bồ-tát Tấn Biện nhất tâm thanh tịnh, thời gian chưa bao lâu, Bồ-tát Đại Hư Không Tạng dùng diệu lực nơi thần thông, cùng uy lực nơi sự gia hộ của chư Phật, lập tức trong hư không rưới xuống loại hoa như vậy. Khi chúng hội thấy hoa ấy, vị nào cũng đạt được chính định Ái lạc hoa, sau khi xuất định, họ đều đồng thanh khen ngợi Bồ-tát Đại Hư Không Tạng: –Lành thay, lành thay! Thưa Đại só, nhờ uy lực nơi trí tuệ của Đại só gia hộ mà tất cả chúng sinh đều đạt được năng lực như vậy. Lúc này, trong chúng hội có Bồ-tát Bảo Trang Nghiêm thưa Bồ-tát Đại Hư Không Tạng: –Thưa Đại só! Xin Đại só vì tôi và các chúng sinh mà từ nơi không trung rưới xuống bột vàng. Chưa dứt lời thì từ không trung có vô số bột vàng tuôn xuống như mưa. Bồ-tát Bảo Trang Nghiêm lại thưa: –Xin rưới xuống tất cả các loại châu báu. Chưa dứt lời, lại có vô lượng, vô số các vật báu, ngọc báu ma ni đủ tên gọi và màu sắc, rưới xuống như mưa, như vàng, bạc, pha lê, lưu ly, mã não, xích châu, ngọc báu mâu-sa-la, ngọc báu cát tường, kế-ta-la vô cấu, nguyệt quang, nhật quang, chiếu diệu; ngọc báu châu thắng, Thiệm-bộ quang, hỏa quang, xa cừ, ngọc bích, san hô, ngọc đế thanh, đức tạng, tịch tónh quang, trừng thanh trược thủy; ngọc báu bất hoại quang minh, kiến lập nhãn, toàn chuyển, Thích-ca lăng-già; ngọc báu thắng, đại thắng, oai đức xí thạnh, cát tường tạng vương; ngọc báu kim cương nhị, thế quang, quang vị, trì quang bán nguyệt, ngọc báu Thiệm-bộ đàn, Thiệm-bộ châu quang, thiên quang, cử hỏa quang, thắng trang nghiêm; ngọc báu tức nhiệt, vô nhiệt não, trừ bệnh; ngọc báu tịnh nhãn, tịnh nhó, tỷ, thiệt, thân, ý; ngọc báu chiếu diệu chi, chiếu diệu, thanh quang, huỳnh quang; ngọc báu pha-oai-ca, bạch pha-chỉ-ca và lưới báu. Nói tóm lại, còn vô số loại báu khác cũng tuôn xuống, tên gọi của vô biên các loại báu như vậy, nếu nói trong một kiếp cũng không thể hết được. Bấy giờ, lại có Bồ-tát Thời Vương thưa Bồ-tát Đại Hư Không Tạng: –Thưa Đại só! Thế giới Ta-bà này có vô lượng chúng sinh chịu nhiều khổ não, bần cùng, đói khát, không có đồ ăn thức uống, quần áo rách rưới, bao kẻ không có y phục che thân. Và các loại ngạ quỷ đói khát, tóc dài phủ thân, luôn nghó đến đàm dãi, máu mủ. Xin Đại só thương xót các chúng sinh như vậy mà rưới xuống vô số các thứ y phục, thức ăn để cứu giúp họ. Khi ấy, Bồ-tát Đại Hư Không Tạng nhờ diệu lực gia hộ của chư Phật, giữa hư không mưa xuống đủ loại đồ ăn thức uống và nhiều y phục khác nhau, đủ trăm ngàn màu sắc, vô lượng, vô biên không thể đếm kể, đều là loại tốt đẹp bậc nhất, mềm mại hơn cả loại tơ Ca-chi-lật-na, khi thân xúc chạm có cảm giác rất dễ chịu. Tất cả chúng sinh bần cùng, côi cút và loài ngạ quỷ trong tam thiên đại thiên thế giới, nhờ đồ ăn thức uống và y phục tốt đẹp này nên đều được no đủ. Bấy giờ, trong chúng hội lại có Bồ-tát tên Y Vương, thưa Bồ-tát Đại Hư Không Tạng: –Thưa Đại só! Trong thế giới này có vô lượng chúng sinh mắc nhiều bệnh tật, lại không có người thân săn sóc, nên bệnh kéo dài triền miên, chịu nhiều đau khổ. Xin Đại só vì các chúng sinh như vậy rưới xuống thuốc hay làm cho bệnh tật của họ đều được tiêu trừ. Chưa dứt lời, lập tức trong hư không mưa xuống vô lượng thuốc cam lộ vi diệu, nhờ thuốc này mà tất cả những người bệnh uống vào đều được bình phục. Lại có Bồ-tát tên Tồi Ác Thú thưa Bồ-tát Đại Hư Không Tạng: –Thưa Đại só! Xin Đại só vì lòng Từ bi mà dứt trừ đau khổ cùng cực trong ba đường ác cho tất cả chúng sinh. Chưa dứt lời, lập tức ở giữa hư không phóng ra ánh sáng lớn chiếu đến các cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, khiến cho các chúng sinh trong các cõi đó không còn đau khổ, được an lạc. Lại ở trong hư không mưa xuống các loại vòng hoa, hương xoa, hương bột, phướn, lọng, đèn, đuốc, âm nhạc, nô tỳ, thê thiếp, đồng nam, đồng nữ, voi ngựa, xe cộ, nhà cửa, thành quách, thôn ấp, làng xóm, cõi nước, cung điện, lâu đài, vườn hoa, cửa sổ, giường chiếu, xe kiệu, xe bốn bò kéo, mười sáu bò kéo cho đến loại xe có ngàn bò kéo, đều từ hư không tuôn xuống như mưa, tất cả đều nhờ diệu lực gia hộ của Bồ-tát Đại Hư Không Tạng. Bồ-tát lại bảo đại chúng: –Này thiện nam! Các ông hãy tùy ý lấy những vật dụng trên để bố thí, sẽ khiến cho chư vi thực hiện đầy đủ Bố thí ba-la-mật. Lại có Bồ-tát tên là Giới Trang Nghiêm thưa Bồ-tát Đại Hư Không Tạng: –Thưa Đại só! Đại só đã rưới xuống Bố thí ba-la-mật, sao lại không rưới xuống Giới ba-la-mật? Chưa dứt lời, lập tức chư Phật và các Bồ-tát trong mười phương đều cùng khen ngợi công đức trang nghiêm của Giới ba-la-mật. Từ hư không, phát ra tiếng khen ngợi công đức trang nghiêm của giới và tiếng khen ngợi công đức trang nghiêm của Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định và Trí tuệ ba-la-mật cũng vậy. Lại nghe trăm ngàn bài kệ của chư Phật, Bồ-tát khen ngợi các pháp không tăng không giảm, nhờ pháp âm này mà thức tỉnh tam thiên đại thiên thế giới, làm cho vô lượng, vô số chúng sinh tu học về ba thừa đều được thành tựu. Lại có Bồ-tát tên Phổ Biến Quang Minh thưa Bồ-tát Đại Hư Không Tạng: –Thưa Đại só! Kho tàng hư không của Đại só chỉ thị hiện để làm lợi ích cho chúng sinh trong thế giới này hay cũng có thể thị hiện những việc như vậy ở các thế giới khác? Bồ-tát Đại Hư Không Tạng nói: –Thưa Nhân giả! Nhân giả đã đạt được Thiên nhãn vi diệu thanh tịnh, hãy quan sát thế giới của chư Phật khắp mười phương thì sẽ thấy được những vật gì? Khi Bồ-tát Đại Hư Không Tạng nói xong, Bồ-tát Phổ Biến Quang Minh liền dùng Thiên nhãn quan sát, thấy vô lượng, vô số thế giới khắp mười phương đã mưa xuống các vật báu, đồ ăn thức uống, y phục như ở cõi này không hề giảm bớt. Lại nghe trong hư không phát ra tất cả pháp âm vi diệu cũng không tăng không giảm. Bấy giờ, Bồ-tát Phổ Biến Quang Minh thấy như thế rồi, khen là điều kỳ diệu chưa từng có, liền dùng kệ để khen ngợi Bồ-tát Đại Hư Không Tạng: –Thật không thể nghó bàn, không thể suy lường được! Nhân giả đã thể hiện vô số vật báu như vậy khắp tất cả các thế giới. Xin Nhân giả dùng diệu lực nơi thần thông của Phật và năng lực hộ trì của Nhân giả, khiến cho chúng hội này và tất cả chúng sinh trong những thế giới khác đều được thấy các loại báu như vậy, cùng được nghe pháp âm trong hư không. Vừa dứt lời, Bồ-tát Đại Hư Không Tạng liền rưới xuống đủ loại báu, làm cho chúng hội và tất cả chúng sinh ở các cõi nước khác đều được thấy, họ đều phát tâm cầu đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác. Bấy giờ, có năm trăm quả phụ ở thành Vương xá cùng đến chỗ Bồ-tát Đại Hư Không Tạng thưa: –Chúng con nghe Đại só có thể làm cho tất cả chúng sinh đều mãn nguyện. Hôm nay, chồng của chúng con đều đã qua đời, nhưng không biết là đi về đâu. Xin Đại só chỉ bày cho chúng con được thấy. Khi ấy, Bồ-tát Đại Hư Không Tạng vì năm trăm quả phụ, liền vận dụng năng lực thần thông hiện ra tất cả hình tướng những người chồng của họ ở trước mặt mình, rồi bảo: –Này các vị! Hãy xem đây có phải là chồng của các vị hay không? Lúc này, tất cả các quả phụ đều được thấy chồng của mình nên buồn vui lẫn lộn. Những người chồng ấy đều theo họ trở về nhà, trong bảy ngày, vì những quả phụ mà thuyết pháp, làm cho họ đều được hiểu rõ, phát tâm Vô thượng Bồ-đề, trụ ở bậc Bất thoái chuyển. Năm trăm quả phụ cùng đến chỗ Bồ-tát Đại Hư Không Tạng, nhất tâm đồng thanh dùng kệ khen: Chúng con đã biết tướng của pháp Là huyễn hóa, tính như hư không Ngài vì chúng con, thị hiện chồng Chúng con thành tựu pháp thù thắng. Vì các pháp này đều biến hóa Vốn không, không tâm, chẳng lay động Nhờ đấy thông đạt pháp vô lậu Vónh viễn không còn các phiền não. Cho nên đều phát tâm Bồ-đề Nguyện muốn cứu giúp các chúng sinh Mong Bồ-tát thọ ký chúng con Sẽ được thành Phật độ muôn loài. Đồng hiệu Thiện Điều của Như Lai Nhiều đời về sau tu các hạnh Chúng con được mưa diệu pháp này Vì thế xưng tán đại Đạo sư. Bấy giờ, lại có năm trăm người đàn ông sắp bị giặc giết hại, liền nghe trong hư không có tiếng nói: –Các ông nên biết! Có Bồ-tát tên là Đại Hư Không Tạng có thể ban sự không sợ hãi cho các chúng sinh sợ hãi. Các ông nên đến cúi đầu quy y thì chắc chắn sẽ không bị hại. Khi đó, vì lo sợ nên họ cùng nhau nhất tâm đồng thanh thưa: –Kính lễ Bồ-tát Đại Hư Không Tạng. Khi những người kia thưa nói xong, Bồ-tát Đại Hư Không Tạng liền hóa ra năm trăm người từ hư không xuống đứng trước những người kia, rồi nói với giặc: –Giết hại những người nghèo khổ đó làm gì? Thà giết chúng tôi đây còn hơn. Chúng tôi sẽ cho các ông y phục, chuỗi ngọc và các vật cần dùng để được đầy đủ. Lúc ấy, giặc liền giết những người được biến hóa. Năm trăm người đàn ông kia đều không còn sợ hãi, liền được an ổn, cùng nhau đến chỗ Bồ-tát Đại Hư Không Tạng, cung kính chắp tay, đảnh lễ dưới chân, thưa: –Hôm nay, nhờ Đại sư mà chúng con được bảo toàn tính mạng, nên đến đảnh lễ, không biết lấy gì để đền đáp ân rộng lớn của Bồ-tát. Cúi xin Bồ-tát vì chúng con mà nói pháp vi diệu, chúng con sẽ cùng nhau thọ trì để được thành tựu hai hạnh lợi ích. Bấy giờ, Bồ-tát Đại Hư Không Tạng nói: –Này thiện nam! Các ông đã không còn sợ hãi, hãy nên phát tâm cầu đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác thì được thành tựu tự lợi và lợi tha. Bồ-tát nói xong, đồng thời họ đều phát tâm Vô thượng Bồ-đề, lại từ mình đem y phục hảo hạng giá trị hàng trăm ngàn, dâng lên cúng dường Bồ-tát Đại Hư Không Tạng. Cúng dường xong, họ liền cúng dường tất cả chư Phật. Bấy giờ, Đức Thế Tôn đều thọ ký cho họ. Trải qua vô lượng kiếp ở đời vị lai, tu các pháp phần Bồ-đề xong, sẽ được thành Phật, đều có danh hiệu là Vô Bố Úy Như Lai là Bậc Ứng Cúng, chính Biến Tri. Lúc ấy, Tôn giả Xá-lợi Tử thưa Bồ-tát Đại Hư Không Tạng: –Thưa Nhân giả! Nhân giả đạt được kho tàng như hư không này, đến nay đã được bao lâu rồi mà không khô cạn, chu cấp cho tất cả mà không hề cùng tận? Bồ-tát Đại Hư Không Tạng đáp: –Ý của Đại đức thì sao? Đâu có hư không nào mà khô cạn! –Không phải thế, thưa Đại só! –Như vậy, thưa Đại đức Xá-lợi Tử! Tự tính của hư không là không cùng tận, công đức, căn lành hiện có của tôi cũng vậy. Vì sao? Vì tôi là Bồ-đề, nên trong vô lượng kiếp đã tích chứa vô lượng, vô biên căn lành, đều hồi hướng không cùng tận như hư không, cho nên, chu cấp không thể hết được. Như Đại đức đã nói, trong hư không này, tôi đã thiết lập kho tàng trải qua bao lâu thì thời gian từ khi tôi phát tâm Bồ-đề đến nay, kho tàng trong hư không ấy cũng lâu gần bằng vậy. –Nhân giả phát tâm Bồ-đề bao lâu rồi? –Đức Phật Thế Tôn biết thời gian ấy là gần hay xa. Tôn giả Xá-lợi Tử liền bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Bồ-tát Đại Hư Không Tạng đã phát tâm Bồ-đề bao lâu rồi? –Này thiện nam! Nếu ta nói đầy đủ thì hàng trời, người nghe rồi đều nghi ngờ. Tôn giả Xá-lợi Tử thưa: –Lành thay, bạch Thế Tôn! Cúi xin rũ lòng thương vì con mà khai thị. Trong hội này có vô lượng chúng cũng đều khát ngưỡng. Cúi xin giảng dạy khiến tất cả đều được lòng tin thanh tịnh. Bấy giờ, Đức Phật bảo Tôn giả Xá-lợi Tử: –Ví như vi trần trong hằng hà sa số thế giới, mỗi vi trần là một kiếp, lấy số vi trần kiếp ấy làm một lạc-xoa (mười vạn), lại có vô lượng ức lạc-xoa số kiếp như vi trần, lấy hết số kiếp như vi trần ấy, thời gian Bồ-tát Đại Hư Không Tạng phát tâm Vô thượng chính đẳng chính giác đến nay bằng số kiếp trên. Tôn giả Xá-lợi Tử bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Bồ-tát Đại Hư Không Tạng lúc mới phát tâm đã gặp những Đức Phật nào? Đức Phật nói: –Lúc ấy, Đức Phật xuất hiện ở đời, danh hiệu là Nhất Thiết Thắng Nguyện Bảo Oai Đức Vương gồm đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, chính Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, thế giới tên là Hiện nhất thiết Phật sát, kiếp tên là Bảo trang nghiêm. Này Xá-lợi Tử! Thế giới Hiện nhất thiết Phật sát đã thành tựu vô số công đức trang nghiêm dù ta dùng thọ mạng một kiếp cũng không thể nói hết. Này Xá-lợi Tử! Đạo tràng của Đức Phật ấy đã ngồi, rộng hàng ngàn thế giới, lại có chúng Bồ-tát không thể tính kể làm quyến thuộc. Này Xá-lợi Tử! Bấy giờ, trong thế giới đó có vua Chuyển luân tên là Nhất Thiết Thiên Quán Đảnh Vương cai trị tam thiên đại thiên thế giới. Nhà vua lại có kho báu không thể nghó bàn, có ba vạn sáu ngàn người con, tất cả đều là hóa sinh, có oai đức lớn. Thế giới của Đức Phật kia không có tên người nữ. Này Xá-lợi Tử! Đức Phật ấy thọ mạng trăm ngàn kiếp, vua Nhất Thiết Thiên Quán Đảnh trải qua bốn mươi kiếp luôn phụng sự Đức Phật. Trong một ngày, nhà vua dùng ngàn ức vật dụng hảo hạng, chất cao như núi Tu-di để cúng dường, nên phước đức đã tích tập không thể nghó bàn. Các con và quyến thuộc của vua đều phát tâm cầu đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác. Này Xá-lợi Tử! Vua Nhất Thiết Thiên Quán Đảnh lúc đó, ông đừng nghó là ai khác, nay chính là Bồ-tát Đại Hư Không Tạng này. Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất thưa: –Bạch Thế Tôn! Thật là kỳ diệu! Bồ-tát Đại Hư Không Tạng mặc áo giáp không thể nghó bàn, cho đến an trú trong Đại thừa, từ lâu xa mới có thể chứng đắc pháp hành oai đức như vậy. Đức Phật nói: –Này Tôn giả Xá-lợi Tử! Bồ-tát Đại Hư Không Tạng đã cúng dường vô lượng hằng hà sa số các Đức Phật, ở các cõi Phật ấy tu tâm Bồ-đề thanh tịnh, nơi hằng hà sa số các cõi Phật, tâm Bồ-đề luôn thanh tịnh nên chí nguyện thanh tịnh. Hằng hà sa số chí nguyện thanh tịnh nên gia hạnh thanh tịnh. Hằng hà sa số gia hạnh thanh tịnh nên chí nguyện lớn mạnh thanh tịnh. Hằng hà sa số chí nguyện lớn mạnh thanh tịnh nên Bố thí ba-la-mật thanh tịnh. Hằng hà sa số Bố thí ba-la-mật thanh tịnh nên Trì giới ba-la-mật thanh tịnh. Hằng hà sa số Trì giới ba-la-mật thanh tịnh nên Nhẫn nhục ba-la-mật thanh tịnh. Hằng hà sa số Nhẫn nhục ba-la-mật thanh tịnh nên Tinh tấn ba-la-mật thanh tịnh. Hằng hà sa số Tinh tấn ba-la-mật thanh tịnh nên Thiền định ba-la-mật thanh tịnh. Hằng hà sa số Thiền định ba-la-mật thanh tịnh nên Trí tuệ ba-la-mật thanh tịnh. Hằng hà sa số Trí tuệ ba-la-mật thanh tịnh nên Phương tiện ba-la-mật thanh tịnh. Hằng hà sa số Phương tiện ba-la-mật thanh tịnh nên tâm vô ngại, ánh sáng vô ngại đối với tất cả chúng sinh được thanh tịnh. Hằng hà sa số tâm vô ngại, ánh sáng vô ngại đối với tất cả chúng sinh được thanh tịnh nên lòng đại Từ thanh tịnh… cho đến Đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, trí đại thần thông, thân, miệng, ý thanh tịnh. Do hằng hà sa số tâm ý thanh tịnh nên một tướng đại nhân thanh tịnh, diễn nói rộng rãi ba mươi hai tướng đại nhân như vậy, cho đến tất cả các tướng đại nhân, các căn lành đều thanh tịnh nên kho tàng hư không thanh tịnh… Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Do đó, Bồ-tát Đại Hư Không Tạng có thể thị hiện hết thảy các hạnh Bồ-tát như hư không. Này Tôn giả Xá-lợi Tử! Ví như hư không không cùng tận, tất cả các hạnh nguyện thanh tịnh của Bồ-tát này cũng không cùng tận như vậy. Vì thế, gọi là kho tàng như hư không. Khi Đức Phật nói pháp này xong, trong chúng hội có một vạn Bồ-tát đạt các nguyện nhẫn đầy đủ như vô số châu báu trong kho tàng hư không. Khi ấy, trong pháp hội, Bồ-tát Pháp Vương thưa Bồ-tát Đại Hư Không Tạng: –Tôi xin được nghe tiếng pháp vi diệu nơi hư không. Bồ-tát Đại Hư Không Tạng nói: –Lành thay, thiện nam! Ông hãy dốc lòng cung kính, an trú trong tâm hư không khởi tưởng về bậc Đại sư, tôi sẽ làm cho ông được nghe tiếng pháp nhiệm mầu. Khi ấy, Bồ-tát Pháp Vương và tất cả đại chúng đều nhất tâm chắp tay, hướng vào hư không, cung kính đảnh lễ và chiêm ngưỡng. Nhờ diệu lực gia hộ của Bồ-tát Đại Hư Không Tạng nên từ hư không liền phát ra kệ: Tâm ý và các pháp Đều như cõi hư không Nay ta nói đôi phần Các ông hãy lắng nghe. Hư không chẳng thấy cao Cũng chẳng phân biệt thấp Các pháp cũng như thế tính chẳng có cao thấp. Hư không chẳng có sinh Cũng không có sự diệt Các pháp cũng như vậy Không hề có sinh diệt. tính hư không chẳng giảm Lại cũng không tăng trưởng Các pháp như hư không Bình đẳng không tăng giảm. Hư không chẳng tối tăm Cũng không bị cấu nhiễm Tâm tính cũng như vậy Không tối tăm cấu nhiễm. Như ánh sáng nhật nguyệt Hư không chẳng vướng mắc Tâm cũng như hư không không ái cũng không nhiễm. Như gươm giáo không thể Làm thương tổn hư không Bồ-tát quán các khổ Không lo, không sợ hãi. Như mưa xuống cam lộ Hư không chẳng vui thích Đối với các danh lợi Bồ-tát không đắm vướng. Khen chê không dao động Khổ vui tâm luôn tónh Đại địa dù lay động Hư không vẫn thường trụ. Đối với pháp thế gian Bồ-tát không phân biệt Hư không lửa chẳng thiêu Tâm Bồ-tát dứt hoặc. Hư không lìa sinh diệt Pháp giới chẳng đến đi Sắc hiện nơi hư không Các pháp nương tâm trụ. Hư không chẳng sắc, không Tâm tính cũng như vậy Hư không chỉ giả danh Tâm, ý, thức cũng thế. Như hư không vô biên Đức bậc trí cũng vậy Hư không dấu khó thành Hành Bồ-đề không tướng. Hư không chẳng giới hạn tính năm uẩn cũng thế Bốn đại đời quá, hiện Vị lai cũng đều không. Như hư không kiếp thiêu Khó đầy các chúng sinh Năm dục gắn với tâm Cũng khó đầy như vậy. Đức Phật nói pháp lớn Lìa dục, xuất thế gian Giáo pháp rộng không bờ Như hư không vô hạn. Thấu đạt pháp chân thật Không bỏ, không chấp tính Biết tính là không tính chính kiến trụ cõi chân. tính âm thanh là không tính ngôn thuyết cũng thế Thể pháp vốn không lời Không tiếng cũng không nói. Các pháp đều như huyễn Như mộng, ảnh, tiếng vọng Tịch tónh không gì bằng Vì dạy nên ví dụ. Pháp không tướng, nói tướng Tướng năng, sở đều không Bồ-tát đạt Chân như Hư không chẳng thủ đắc. Không chấp giữ, phân biệt Không giác ngộ, hý luận Chẳng độ các chúng sinh tính như là Bồ-tát. Chúng sinh vốn Niết-bàn Nghe vậy không sợ hãi Mặc áo giáp dũng mãnh Gọi là trụ Bồ-đề. Giống như nhà ảo thuật Diệt bỏ sự biến hóa Thật ra chẳng có diệt Sự độ sinh cũng vậy. Huyễn hóa và chúng sinh Các pháp Phật chẳng khác Nếu ngộ đồng một tính Không tự tính là tính. Bồ-tát Hư Không Tạng Đạt kho tàng hư không Các chúng sinh đầy đủ Kho tàng không cùng tận. Vô biên các công đức Đạt kho thanh tịnh này Ông quán tính các pháp tính ấy không lay động. Nên biết tất cả pháp Nhân duyên hòa hợp sinh Vì vậy, không cùng tận Tạng pháp khó nghó bàn. Thế Tôn thường diễn nói Bốn loại pháp vô tận Chúng sinh và hư không Tâm Bồ-đề pháp Phật. Như các vật ở đời Có thể nói cùng tận Không pháp nào không tận Vì thế nói vô tận. Pháp hoàn toàn diệt tận Thảy đều không cùng tận Vô tận, chẳng vô tận Vì vậy nói vô tận. Người nào nghe pháp này Là Bồ-tát giác ngộ Liền biết người như thế Mau trụ đạo Bồ-đề. Bấy giờ, nghe kệ ấy rồi, tám ngàn Bồ-tát trong chúng hội liền đạt pháp Nhẫn vô sinh, một vạn hai ngàn vị trời ở trong hư không, phát tâm cầu đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác. KINH ĐẠI TẬP những điều BỒ-TÁT Hư Không tạng hỏi Phật <卷 id="117270384">Quyển 5 Bấy giờ, trong chúng hội có Bồ-tát tên là Thường Hy Kỳ từ chỗ ngồi đứng dậy, bạch Thế Tôn: –Con chưa rõ âm thanh ấy từ đâu phát ra? Đức Phật bảo: –Này thiện nam! Ông nên hỏi Bồ-tát Đại Hư Không Tạng kia. Vị đó sẽ nêu bày đầy đủ cho ông. Bồ-tát Thường Hy Kỳ liền thưa với Bồ-tát Hư Không Tạng: –Thưa Đại só! Hiện tại tôi thực sự không biết âm thanh ấy từ đâu phát ra? Xin Nhân giả nói rõ cho tôi. Bồ-tát Hư Không Tạng bảo: –Này thiện nam! Ý ông nghó sao? Tiếng vang trong hang sâu kia từ đâu mà có? Bồ-tát Thường Hy Kỳ đáp: –Do phát xuất từ âm thanh khác. Bồ-tát Hư Không Tạng nói: –Này thiện nam! Tiếng vang nơi hang sâu kia là thân hay là tâm? Là sắc hay là thanh? Có thật chăng? –Không phải, thưa Đại só. Âm vang vốn không có tự thể, nhưng do nơi tiếng mà hiển hiện, há đâu có thực. –Này thiện nam! Tiếng vang đã không có thực do nơi âm thanh mà có. Như thế, từ hư không phát ra âm thanh về pháp cũng lại như vậy. Từ chỗ hiển bày của Trí không thể nghó bàn, do tâm thâu giữ từ nơi không mà phát ra nên có lưu chuyển, chứ không phải do sự lưu chuyển mới có thể hiện rõ âm thanh. Này thiện nam! Ông quan sát nhân duyên hòa hợp tạo ra lý sâu xa, nương theo nhân mà có quả, cũng không có tính của nhân quả, nên chẳng có lưu chuyển. Đối với hai pháp này đều không có tự tính nên không tạo tác. Nếu biết nhân duyên không thể chiêu cảm quả thì biết các pháp vốn không hòa hợp. Vì sao? Như lời Thế Tôn đã giảng nói. Nếu biết được tạp nhiễm tức là thanh tịnh, không đoạn dứt tạp nhiễm cũng tự nó đã thanh tịnh. Vì sao? Vì tự tính của phiền não vốn là thanh tịnh. Như hai pháp này gọi là “câu nêu bày”, nghĩa là tạp nhiễm và thanh tịnh nương nơi thắng nghĩa tế (chân đế) mà tạo lập. Trong cõi thắng nghĩa thì tạp nhiễm và thanh tịnh đều không thể nắm bắt. Cõi thắng nghĩa gọi là vô tế. Vô tế tức gọi là thật tế. Thật tế ấy gọi là không tế. Không tế ấy gọi là ngã tế, ngã tế này tức là Nhất thiết pháp tế (pháp giới). Nếu nhận biết tất cả các môn như “Nhất thiết pháp tế”, “Không tế”, “Tịch tónh tế”, “Cực tịch tónh tế”, “Sở hữu tế” thì đối với tất cả các pháp không còn có đối tượng được chấp giữ, đạt đến trí vô ngại. Lúc ấy, Tôn giả Xá-lợi Tử hỏi Bồ-tát Thường Hy Kỳ: –Này thiện nam! Vì sao tên gọi của Nhân giả là Thường Hy Kỳ? –Thưa Đại đức Xá-lợi Tử! Tôi đối với tất cả pháp thường siêng năng tinh tấn, sinh tâm hiếm có đặc biệt, ưa thích đạt đầy đủ mà không thể lý giải. Lại, đối với tất cả hạnh của Bồ-tát cũng luôn sinh tâm đặc biệt ít có, nguyện hội nhập bằng trí tuệ để đi vào tâm hành của tất cả hữu tình mà không thể lý giải, nguyện đối với tất cả phiền não nghiệp ma, khiến chúng không thể tạo cơ hội để lôi cuốn, nhưng cũng không thể lý giải. Cho nên đối với các pháp thường sinh tâm hiếm có đặc biệt, do nhân duyên này được gọi là Thường Hy Kỳ. Trưởng giả Xá-lợi Tử bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Kỳ lạ thay! Tài biện luận của bậc chính só này thật là sáng tỏ, pháp của tất cả chư Phật không có nhiễm đắm, pháp được giảng nói cũng hề chấp giữ. Khi đó, trong chúng hội có Bồ-tát tên Bảo Cát Tường thưa với Bồ-tát Hư Không Tạng: –Thưa Đại só! Xin vì tôi mà thuyết giảng về Tam-muội, tôi sẽ theo như chỗ thuyết giảng ấy mà tu hành. Bồ-tát Đại Hư Không Tạng nói với Bồ-tát Bảo Cát Tường: –Này Đại só! Có pháp Tam-muội tên là Bồ-tát thanh tịnh ý lạc, vì có thể trừ diệt mọi chướng ngại của đạo pháp, chỉ bày về Bồ-đề. Có Tam-muội tên là Nhất thiết hữu tình vô ngại quang minh, nghĩa là ban cho các loài hữu tình khả năng tạo ra ánh sáng. Có Tam-muội tên là Hộ tự tha, vì luôn siêu vượt mọi sự não hại của kẻ khác. Có Tam-muội tên là Vô cấu, vì có thể khiến đạt được tâm thanh tịnh. Có Tam-muội tên là Biến chiếu, vì có thể làm tăng trưởng các pháp lành. Có Tam-muội tên là Đoan nghiêm, nghĩa là có thể đạt được tính trong lặng. Có Tam-muội tên là Cao quảng, tức có thể đạt được tướng vô kiến đảnh. Có Tam-muội tên là Viễn ly, vì có thể chế ngự được tất cả các phiền não. Có Tam-muội tên là Hồi toàn, tức có thể xoay theo phía bên phải để đi vào đạo chân chính. Có Tam-muội tên là Thoái chuyển, vì có thể xoay chuyển nhân tà kiến của ngoại đạo. Có Tam-muội tên là Tác lạc, nghĩa là có thể vui vẻ dạo chơi nơi các vườn pháp. Có Tam-muội tên là Đáo cứu cánh, vì có thể gieo trồng các hạnh thanh tịnh, đạt đến quả vị cuối cùng. Có Tam-muội tên là Oai đức, tức có thể đạt được tâm tự tại, không yếu kém. Có Tam-muội tên là Nhập bình đẳng, tức đối với tâm của các hữu tình luôn bình đẳng. Có Tam-muội tên là là Tri tác nghiệp, vì có thể biết rõ sự tạo tác của nghiệp quả. Có Tam-muội tên là Sư tử tràng, tức có thể xa lìa mọi sự sợ hãi, khiếp đảm. Có Tam-muội tên là Tâm dũng kiện, vì có thể tiêu trừ tất cả ma phiền não. Có Tam-muội tên là Phân-đà-lợi, vì không đắm nhiễm nơi thế gian. Có Tam-muội tên là Phả-độ-ma, tức có thể đạt được tâm trang nghiêm. Có Tam-muội tên là Quang trang nghiêm, vì có thể soi chiếu rõ về tất cả cõi Phật. Có Tam-muội tên là Thiện tác nghiệp, vì hoàn toàn không còn tâm tổn hại, thương ghét. Có Tam-muội tên là Tràng trang nghiêm, tức có thể soi tỏ, thấu đạt các pháp của chư Phật. Có Tam-muội tên là Hữu cự, vì có thể chiếu rõ tất cả các thứ tập khí. Có Tam-muội tên là Nhật đăng, vì có thể xa lìa mọi sự tối tăm. Có Tam-muội tên là Nhật toàn, vì có thể quan sát tâm của tất cả loài hữu tình. Có Tam-muội tên là Công đức tạng, vì các pháp công đức đều theo đấy mà chuyển đổi. Có Tam-muội tên là Na-la-diên, có thể hàng phục tất cả các vấn nạn của những luận thuyết khác. Có Tam-muội tên là Kiên cố, vì có thể đạt được thân kim cang không hoại. Có Tam-muội tên là Cụ kiên, vì có khả năng vượt khỏi mọi trí tuệ của thế gian. Có Tam-muội tên là Mạn-đồ-la, vì có thể đạt được thần thông không thoái chuyển. Có Tam-muội tên là Kim cang tràng, vì có thể đi đến đạo tràng Bồ-đề. Có Tam-muội tên là Kim cang dụ, vì khéo có thể phá vỡ các pháp hữu lậu. Có Tam-muội tên là Cụ hành, do có thể biết rõ về tâm hành của hữu tình. Có Tam-muội tên là Trị địa, vì có thể khiến xa lìa mọi lầm lỗi của ái dục. Có Tam-muội tên là Tồi hoại, do có thể hủy hoại bốn thứ ma oán. Có Tam-muội tên là Nhật quán thân, vì hay quan sát tất cả tướng của sắc thân. Có Tam-muội tên là Bất nhuận, vì có thể chuyên chú vào đặc tính của một cảnh. Có Tam-muội tên là Nhập hư không, do có thể làm thanh tịnh tất cả tâm tinh tấn. Có Tam-muội tên là Vô tránh, vì hay vượt khỏi cảnh của tất cả đối tượng được duyên. Có Tam-muội tên là Vô cấu luân, vì có thể chuyển pháp luân thanh tịnh vi diệu. Có Tam-muội tên là Điện quang, vì có thể quán xét từng sát-na hoại diệt của tâm. Có Tam-muội tên là Thiện tác thắng duyên, vì có thể mau viên mãn các pháp lành. Có Tam-muội tên là Năng tịnh, vì có thể dứt sạch tất cả các pháp bất thiện. Có Tam-muội tên là Thân trang nghiêm, vì có thể làm viên mãn các tướng tốt và vẻ đẹp kèm theo của bậc đại nhân. Có Tam-muội tên là Ngữ trang nghiêm, tức dùng phạm âm thuyết pháp, khiến cho chúng sinh vui mừng. Có Tam-muội tên là Tâm trang nghiêm, vì khiến cho các pháp lành không bị hoại mất. Có Tam-muội tên là Vô úy, do có thể đạt được sự kiên cố không thoái chuyển. Có Tam-muội tên là Đẳng thí, vì đối với các chúng sinh không còn phân biệt. Có Tam-muội tên là Giới tích tập, vì làm cho tất cả các nguyện đều được đầy đủ. Có Tam-muội tên là Nhẫn pháp trụ, vì đối với thân mạng không hề luyến tiếc. Có Tam-muội tên là Tinh tấn kiên cố, do có thể mau chóng chứng được thần thông. Có Tam-muội tên là Vô lượng tạng, nghĩa là có thể thu phục được Phạm vương. Có Tam-muội tên là Vô sở hữu, vì có thể đạt được cảnh giới vô sắc. Có Tam-muội tên là Cao tràng, vì không bị các chúng sinh lấn áp. Có Tam-muội tên là Cao đăng, tức có thể khéo quán xét về mười phương. Có Tam-muội tên là Tuệ cự, vì có thể phá diệt mọi chướng ngại, ngăn che, trói buộc. Có Tam-muội tên là Hải ấn, do có thể hiện ra vô số việc làm. Có Tam-muội tên là Vô lượng toàn, vì có thể đoạn tất cả các ác kiến. Có Tam-muội tên là Không tính, do có thể xa lìa tất cả kiến chấp về các tướng. Có Tam-muội tên là Vô tướng, do có thể đoạn trừ mọi phân biệt của biến kế sở chấp. Có Tam-muội tên là Vô nguyện, vì có thể làm các tướng của nguyện được hoàn toàn thanh tịnh. Có Tam-muội tên là Bất động, do có thể hủy hoại mọi sự loạn động của tâm ý. Có Tam-muội tên là Cụ túc âm, vì có thể hoàn toàn đạt được biện tài vô ngại. Có Tam-muội tên là Biến trì, do có thể giữ gìn tất cả các pháp đã được nghe. Có Tam-muội tên là Tịnh niệm, vì có thể khéo thọ trì các pháp của chư Phật. Có Tam-muội tên là Vô tận, do đều khiến cho các loài hữu tình sinh tâm hoan hỷ. Có Tam-muội tên là Bảo nghiêm, vì khiến cho tất cả chúng sinh có được đôi tay báu. Có Tam-muội tên là Tùy khứ, có thể tùy thuận nơi chúng sinh để đạt được tâm trí. Có Tam-muội tên là Tri sở thú, tức đối với trú xứ của các loài hữu tình khiến được giác ngộ. Có Tam-muội tên là Ý nhập, do có thể khiến cho tâm ý của chúng sinh được thanh tịnh. Có Tam-muội tên là Pháp vân, vì có thể tùy theo sự hiểu biết của đối tượng mà rưới mưa pháp. Có Tam-muội tên là Niệm Phật, vì có thể chứng được pháp cam lộ thanh tịnh. Có Tam-muội tên là Niệm pháp, có thể chứng được tất cả pháp thiện lìa dục. Có Tam-muội tên là Niệm tăng, do đối với pháp Phật không còn thoái chuyển. Có Tam-muội tên là Niệm xả, do đối với mọi vật dụng khiến được xả bỏ. Có Tam-muội tên là Niệm giới, vì kiến lập nên các pháp Phật căn bản. Có Tam-muội tên là Niệm thiên, do ở nơi pháp thanh tịnh không còn lỗi lầm. Có Tam-muội tên là Nhập pháp giới vì biết rõ tất cả các pháp đều tương quan với nhau. Có Tam-muội tên là Hư không tính, do khiến cho tất cả các pháp được vô ngại. Có Tam-muội tên là Vô sinh tính, do có thể đạt được pháp Nhẫn vô sinh. Có Tam-muội tên là Loại bất loại, do đối với chỗ sai biệt của câu văn, khéo dùng trí thiện xảo để duy trì. Có Tam-muội tên là Diệu thuyết vô cấu ấn, Bồ-tát do đạt được Tam-muội này, nên trong khoảng một sát-na, có thể dùng trí tuệ chứng đạt đạo quả đại Bồ-đề. Này thiện nam! Có tám mươi pháp Tam-muội như thế, mỗi mỗi Tam-muội đều có năm trăm môn Tam-muội làm quyến thuộc, hợp lại thành bốn vạn pháp môn gồm đủ. Thanh tịnh và tạp nhiễm nên là tám vạn pháp môn Tam-muội. Khoảng trước, sau và giữa của Tam-muội đó cùng với trí vô tận, mỗi mỗi thứ đều có năm trăm môn Tam-muội, cùng với thanh tịnh, tạp nhiễm nên hợp thành tám vạn bốn ngàn pháp môn Tam-muội, cho đến từng ấy pháp môn Tam-muội như vậy là có ngần ấy pháp cú. Lại thành tựu tám vạn bốn ngàn pháp uẩn sai biệt của Như Lai, là do tám vạn bốn ngàn thứ sai biệt nơi tâm hành của chúng sinh. Này thiện nam! Căn bản nơi pháp cú là khiến cho các loài hữu tình sinh thức tỉnh, giác ngộ để hội nhập nơi trí hành của Phật. Lại nữa, trí của tất cả chư Phật đều hội nhập nơi tâm hành của hết thảy hữu tình, pháp tạng được thuyết giảng là vô lượng, vô biên không thể nghó bàn, chẳng phải trong trăm ngàn kiếp có thể nói hết. Tôi nay đối với pháp môn Tam-muội ấy chỉ nói một ít. Khi giảng nêu pháp này, trong chúng hội có một vạn sáu ngàn Bồ-tát, ở nơi môn Tam-muội chứng được pháp Nhẫn vô sinh. Có tám vạn bốn ngàn hàng trời, người phát tâm cầu đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Bấy giờ, Đức Thế Tôn khen ngợi Bồ-tát Đại Hư Không Tạng: –Lành thay, lành thay! Này thiện nam! Ông đã khéo giảng nói về công đức của pháp môn Tam-muội như vậy, tuyên dương trí tối thắng vi diệu của Đức Như Lai mà bản thân ông cũng đã chứng đắc được pháp môn ấy, không nhờ vào người khác để giác ngộ. Khi đó, Bồ-tát Bảo Cát Tường thưa Phật: –Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà Bồ-tát Đại Hư Không Tạng ở chỗ Đức Như Lai từ hư không có thể mưa xuống các thứ báu? Phật bảo Bồ-tát Bảo Cát Tường: –Này thiện nam! Ta nhớ về vô lượng, vô biên kiếp thời quá khứ, bấy giờ có Đức Phật ra đời hiệu là Như Lai Vô Cấu Viêm Vô Lượng Quang Vương, gồm đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, chính Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Thế giới của Đức Phật ấy gọi là Di-khư-la, kiếp tên là Công đức quang. Này thiện nam! Quốc độ nơi thế giới Di-khư-la kia, muôn dân luôn đông đúc, an lạc, đất đai đều bằng bảy báu, phẳng như bàn tay, sạch sẽ, mềm mại, giống như lụa Ca-chỉ-lật-đa, mỗi khi bước đi mọi xúc chạm đều tạo ra cảm giác thích thú, lại dùng vàng Phù-đàn phủ che ở trên, với vô số châu báu dùng để điểm tô càng tăng thêm vẻ tráng lệ, các hàng cây báu phân chia thành tám con đường đi, giống như cõi trời Tha hóa, tùy chỗ thọ dụng đều được vừa ý. Chư Thiên, nhân ở trong những cung điện, lầu gác, thuận theo ý niệm của họ các vật dụng ăn uống tức thì hiện ra. Này thiện nam! Đức Như Lai Vô Cấu Viêm Vô Lượng Quang ấy có sáu mươi na-do-tha chúng Đại Bồ-tát. Thời này có Chuyển luân thánh vương tên là Phước Báo Trang Nghiêm, gồm đủ bảy báu, thành trì, kinh đô của vua Chuyển luân thánh vương đó giống như cung điện của châu Thiệm-bộ. Bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc đều cách nhau bốn do-tuần, ở khoảng giữa đều dùng bảy báu xen lẫn nhằm tạo nên vẻ trang nghiêm. Lại có năm trăm vườn hoa, ánh sáng màu sắc luôn chan hòa, rực rỡ. Này thiện nam! Vua Phước Báo Trang Nghiêm ấy có tám vạn bốn ngàn thể nữ xinh đẹp, có bốn vạn người con trai đều là hạng tuấn tú, sức mạnh vô địch, có hai bảo nữ, một tên là Cát Tường Oai, hai tên là Cát Tường Quang. Vua cùng các thể nữ và các Vương tử trước sau vây quanh thường đi đến vườn Ái trang nghiêm kia để dạo chơi, ca hát, tự thọ hưởng hoan lạc. Hai bảo nữ ấy, mỗi người đều hóa sinh một đứa con, tướng tốt đẹp đẽ không ai sánh bằng, do đã từng gieo trồng căn lành từ đời trước, nên mọi nguyện lực đều thành tựu, dốc cầu đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Hai người con kia, một tên là Sư Tử, hai tên là Sư Tử Dũng Bộ, vừa mới hóa sinh đã cùng hướng đến vua cha nói kệ: Xưa tạo thiện ác đều không mất Cúng dường Như Lai cũng thường còn Không bỏ Bồ-đề, được an lạc Kiến văn kiên cố cũng chẳng quên. Không mất Đàn-na và Tịnh giới Thành tựu hạnh nhẫn nhục nhu hòa Biết ân, báo ơn làm việc lành Tinh tấn không bỏ nguyện Bồ-đề. Nhất tâm thiền định đạt giải thoát Định, tuệ cùng tâm không mê lầm Thường tu trí tuệ nghiệp không động Nên mau chứng đắc quả giác ngộ. Diệt trừ phiền não, đều không vướng Do đấy không sinh theo bào thai Mà hóa sinh ở trên hoa sen Như hoa sen trong bùn, không nhiễm. Phương Đông có Phật hiệu Y Vương Chúng ta đến vị ấy cầu pháp Gần gũi cúng dường Phật Vô Cấu Thành tựu trí vô ngại ba đời. Phụ vương nên đến cúng dường Phật Phụng sự, kính lễ để tu tập Như Lai ra đời thật khó gặp Như hoa Ưu-đàm-bát xuất hiện. Vua nghe lời ấy rất vui mừng Cùng với vợ con và người hầu Đủ một ngàn ức các quyến thuộc Đi đến chỗ ấy gặp Như Lai. Ân cần kính lễ Đấng Thế Tôn Hoa đẹp hương thơm đem cúng dường Cúi đầu đảnh lễ, nhiễu bên phải Chắp tay trang nghiêm đứng trước Phật. Sư Tử và vị Dũng Bộ kia Cũng đều đảnh lễ nơi chân Phật Lễ Phật xong dùng kệ tán thán Vì cầu chính pháp, lợi hữu tình. Xin cứu vớt, làm nơi nương tựa Tạo đèn đuốc, soi đường tăm tối Khiến chúng sinh đạt được an vui Theo chỗ hiểu biết được tỏ ngộ. Nay phụ vương ta cậy quyền uy Bị trói buộc trong năm thứ dục Không đến, gần gũi Đức Như Lai Mất sự cúng dường và nghe pháp. Lành thay! Thế Tôn sinh thương xót Xin nói đạo Bồ-đề tối thắng Khiến các chúng sinh được nghe pháp Đối với Phật thừa không thoái chuyển. Lúc ấy Phật vút lên hư không Cao đến tám mươi cây Đa-la Vua nghe pháp tối thắng của ta Nghe rồi theo đấy mà tu hành. Năm dục vô thường, mạng khó giữ Thân như sương mai, tợ bọt nước Dục lạc như mộng, như cảnh đùa Ai người có trí sinh tham đắm? Người tham dục không biết nhàm chán Khiến hừng hực tăng thêm khát ái Người ngu theo cảnh không dừng nghỉ Chỉ có bậc Thánh mới biết đủ. Năm uẩn như huyễn, không bền chắc Mê hoặc thế gian nên xét kỹ Các giới như loài rắn độc kia Sáu xứ như thôn xóm rỗng không. Không vua không nước không vợ con Bạn bè giúp đỡ chỉ vô thường Chỉ có thí, giới, định, tinh tấn Đời này, đời khác làm bạn bè. Thấy lực oai đức thần thông ta Tướng tốt trang nghiêm, đủ biện tài Ông thích, đời sau được như vậy Nên phát tâm Bồ-đề vô thượng. Đại vương Phước Báo nghe pháp rồi Và cùng bảy mươi ức chúng sinh Vợ con, tùy tùng, các quyến thuộc Đều phát tâm Bồ-đề vô thượng. Cùng nói đã phát tâm tối thắng Nguyện độ khắp các loài chúng sinh Thệ làm hạnh Bồ-đề thù thắng Nguyện được thành Phật nơi thế gian. Này thiện nam! Khi vua Phước Báo Trang Nghiêm nghe Đức Phật nói kệ xong thì cùng với hàng quyến thuộc chắp tay cung kính, cúi đầu làm lễ, thưa Phật: –Bạch Thế Tôn! Xin thương xót nhận sự cúng dường của chúng con. Lúc đó, Đức Thế Tôn sinh tâm thương xót, liền nhận lời thỉnh cầu của nhà vua. Vua Phước Báo Trang Nghiêm bèn đem vô số y phục, đồ nằm, thuốc men, đều là những phẩm vật thù thắng, thượng diệu, quý giá khác lạ hơn hết, suốt tám vạn bốn ngàn năm đều thực hiện việc cúng dường. Bấy giờ, Sư Tử và Sư Tử Dũng Bộ cùng với hai vạn Vương tử khác, phát tâm với niềm tin thanh tịnh, lìa bỏ ngôi vị vinh hoa nơi thế gian, ở trong pháp của Đức Phật xuất gia học đạo. Hai Vương thái tử ấy tu hành tinh tấn, đối với pháp phần Bồ-đề dốc sức tu tập, nên không bao lâu đạt được năm thứ thần thông, nhờ diệu lực của thần thông như ý và diệu lực của trí nguyện do đó có thể ở trong tất cả thế giới của chư Phật làm các Phật sự, vì mọi chúng sinh thuyết giảng pháp vi diệu, khiến vô lượng, vô số a-tăng-kỳ hữu tình an trụ nơi đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Này thiện nam! Vua Phước Báo Trang Nghiêm đó, đã trải qua tám vạn bốn ngàn năm vì để lãnh hội pháp này, nên đi đến chỗ Đức Như Lai Vô Cấu Viêm Vô Lượng Quang Vương, thấy hai đồng tử này xuất gia học đạo, riêng tự suy nghó: Hai đồng tử này xuất gia học đạo chứng đắc được gì? Không biết công đức của ta, trong tám vạn bốn ngàn năm đã dùng vô số vật dụng tạo sự an lạc để cúng dường, công đức đó như thế nào? Đức Như Lai Vô Cấu Viêm Vô Lượng Quang Vương nhận biết tâm niệm của nhà vua liền bảo Đồng tử Sư Tử Dũng Bộ: –Này thiện nam! Ông nên thị hiện các thứ thần thông trí tuệ, thần thông phước đức, thần thông diệu lực, che lấp oai quang hiện có của đại chúng và tất cả ánh sáng nơi cung điện của ma, nhằm hiển bày tướng Bồ-đề, khiến cho đại chúng kia sinh tâm hy hữu, đạt được chính kiến, hàng phục các luận thuyết khác, thắp ngọn đuốc pháp lớn, diệt trừ phiền não, được thần thông tự tại hiện rõ diệu dụng nơi Bồ-tát. Lúc đó, Bồ-tát Sư Tử Dũng Bộ liền đưa cánh tay sờ vào hư không, khiến cho tam thiên thế giới chấn động đủ sáu cách, lại đưa cánh tay lên chạm vào hư không lần nữa, tức thì trong hư không có trăm ngàn ức thứ nhạc trời, không tấu mà tự vang lên, âm thanh ấy thật hòa nhã, êm dịu. Bồ-tát Sư Tử Dũng Bộ lại đưa tay lên chạm vào hư không như trước, liền mưa xuống vô lượng hoa trời tươi đẹp, từ xưa chưa từng nghe thấy, rất mềm mại giống như lụa Ca-chi-lật na, khi xúc chạm thì luôn cảm thấy vui thích. Cũng tuôn xuống vô số vật báu, các thứ hương bột, hương xoa, lọng, lụa, cờ phướn, y phục, thức ăn, tất cả vật dụng cho đời sống, các vật trang nghiêm chứa đầy cả tam thiên đại thiên thế giới. Hết thảy chúng hội đều đạt được điều chưa từng có. Khi ấy, Đức Như Lai Vô Cấu Viêm Vô Lượng Quang Vương bảo vua Phước Báo Trang Nghiêm: –Cơn mưa các vật báu thể hiện huệ thí rộng lớn như vậy, ông có thể nhận biết được về số lượng không? Vua bạch Phật: –Kính thưa Thế Tôn! Cơn mưa các vật báu thể hiện huệ thí ấy cũng như hư không, chẳng thể biết được về số lượng. Phật bảo: –Này đại vương! Bồ-tát Sư Tử Dũng Bộ đó, nếu dùng diệu lực của thần thông trí tuệ thì chỉ trong một sát-na sẽ tuôn xuống trận mưa vật báu như thế khắp hằng hà sa số thế giới, khiến cho tất cả chúng sinh tùy ý thọ nhận, đều được đầy đủ và vô cùng vui thích. Này thiện nam! Ngay lúc ấy, có vị trời thuộc cõi Địa cư xướng lên: –Bồ-tát này vào đời vị lai, nhất định có thể thành tựu được kho tàng như hư không, tùy theo sự mong cầu của chúng sinh, đều từ nơi không trung mưa xuống các vật báu như vậy. Như thế Thiên chúng của các cõi trời Tứ đại Thiên vương, trời Tam thập tam, trời Dạ-ma, trời Đâu-suất, trời Lạc biến hóa, trời Tha hóa tự tại, trời Đại phạm vương, lần lượt nói với nhau, đều như vậy. Bấy giờ, Như Lai Vô Cấu Viêm Vô Lượng Quang Vương tức thì ấn chứng, vị Đại só kia sẽ thành tựu kho tàng như hư không. Nói xong, liền có hằng sa chư Phật cùng lúc nói lời ấn chứng cũng như thế. Này thiện nam! Vua Phước Báo Trang Nghiêm trông thấy thần biến của Bồ-tát Sư Tử Dũng Bộ như vậy bèn chắp tay hướng về Đức Phật thưa: –Kính bạch Thế Tôn! Diệu lực của thần thông phước đức nơi Bồ-tát ấy không thể nghó bàn như vậy. Vua liền lập Thái tử Thắng Tuệ nối ngôi, rồi lìa hoàng cung, ngai vàng, cạo bỏ râu tóc, ở trong pháp của Đức Như Lai xuất gia tu đạo. Xuất gia rồi vua liền suy nghó: “Việc xả thí là nhằm tạo lợi ích cho thân, miệng, ý. Còn xuất gia thì khiến cho ba nghiệp được thanh tịnh. Việc bố thí là để cứu giúp cho bao kẻ thiếu thốn. Còn sự xuất gia thì dứt hết mọi sự thiếu thốn. Việc xả thí đó chỉ đạt được quả báo mỏng manh, không chắc chắn. Còn xuất gia thì đạt được quả báo chắc thật. Sự xả thí đó thì thuộc về ngã sở. Còn việc xuất gia thì không còn sự thâu nhận. Việc xả thí vẫn còn theo thân kiến. Còn xuất gia thì xa lìa tất cả kiến chấp. Việc xả thí giống như đứa trẻ được đi dạo chơi, vui mừng, mà không biết gì. Còn xuất gia thì với trí tuệ tịch tónh mọi thứ đều nhận biết khắp.” Vua suy nghó như vậy rồi, nên yên vui nơi cảnh tịch tónh, không sinh phóng dật, siêng năng tu đạo, sau đó không bao lâu thì chứng được năm thần thông. Này thiện nam! Vua Phước Báo Trang Nghiêm thời ấy, chẳng phải là người nào xa lạ mà chính là Đức Như Lai Câu-lưu-tôn, Bồ-tát Sư Tử chính là ta, còn Bồ-tát Sư Tử Dũng Bộ chính là Bồ-tát Đại Hư Không Tạng. Đại Bồ-tát Hư Không Tạng kia ở trong vô lượng trăm ngàn ức na-do-tha kiếp, từ nơi kho tàng như hư không, luôn có thể mưa xuống vô số vật báu không dừng nghỉ. Này thiện nam! Vương tử Thắng Tuệ thời đó nay chính là Bồ-tát Từ Thị. Hàng thiện nam vui mừng, thanh tịnh, do đời trước đã gieo trồng căn lành nên được nghe giáo pháp, nên biết đều là nơi chốn y báo của các loài hữu tình. Khi giảng nói về nhân duyên đời trước của Bồ-tát Hư Không Tạng này thì có mười hai vạn người, đều phát tâm cầu đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác. Bấy giờ, Bồ-tát Đại Hư Không Tạng bạch Phật: –Kính bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là đạo xuất thế gian của Bồ-tát? Phật bảo Bồ-tát Đại Hư Không Tạng: –Này thiện nam! Đạo xuất thế gian của Bồ-tát là sáu pháp Ba-la-mật, là ba mươi bảy pháp Bồ-đề phần, là pháp chỉ, quán, là bốn Nhiếp pháp, là bốn Tâm vô lượng, là bốn Thiền, là bốn Định vô sắc, là năm Thần thông. Này thiện nam! Đó gọi là đạo xuất thế gian của Bồ-tát. Pháp thế gian nghĩa là năm uẩn. Bồ-tát vì cầu đạt Bồ-đề bằng trí tuệ phương tiện, biết sắc là vô thường, nên thực hành bố thí, biết sắc là khổ, biết sắc là vô ngã, biết sắc là tịch tónh, biết sắc là Không, biết sắc là Vô tướng, biết sắc là Vô nguyện, biết sắc là vô hành, biết sắc là chẳng sinh, biết sắc là chẳng khởi, biết sắc là duyên sinh, biết sắc là xa lìa, biết sắc là không chấp giữ, biết sắc là không có A-lại-da, biết sắc là không phát khởi, biết sắc là như huyễn, biết sắc là như mộng, biết sắc như dợn nắng, như trăng dưới nước, như tiếng vang trong hang sâu, như điện chớp, như ảnh tượng, như hình bóng, như cỏ cây, như gạch ngói, mà thực hành bố thí. Khi Bồ-tát thực hành bố thí như vậy, Bồ-tát nhận biết về chân như của sắc. Do biết chân như của sắc, nên nhận biết chân như của bố thí, biết chân như của bố thí tức biết chân như của hồi hướng, biết chân như của hồi hướng tức biết chân như của Bồ-đề, vì biết chân như của Bồ-đề tức biết chân như của hữu tình, vì biết chân như của hữu tình nên biết được chân như của ngã, biết được chân như của ngã tức biết chân như của tất cả pháp, biết chân như của tất cả pháp nên phi chân như là chân như không vọng, chân như không đổi khác, biết như vậy mà thực hành bố thí. Này thiện nam! Đó là đạo xuất thế gian của Bồ-tát. Như vậy nhận biết về thọ, tưởng, hành, thức tức là vô thường mà thực hành bố thí. Nhận biết về thức là vô ngã, biết thức là tịch tónh, biết thức là không, biết thức là vô tướng, biết thức là vô nguyện, biết thức là vô hành, biết thức là không sinh, biết thức là không khởi, biết thức là duyên sinh, biết thức là xa lìa, biết thức là không chấp giữ, biết thức là không có A-lại-da (không chỗ chứa nhóm), biết thức là không phát khởi, biết thức là như huyễn, biết thức là như mộng, biết thức như dợn nắng, biết thức như trăng dưới nước, như tiếng vang trong hang sâu, như bóng hình, nhận biết về thức không hình tướng như vậy mà thực hành bố thí. Khi thực hành bố thí như thế thì nhận biết chân như của thức, nên đạt được chân như của bố thí. Do đạt được chân như của bố thí nên đạt được chân như của hồi hướng, vì được chân như của hồi hướng nên đạt được chân như của Bồ-đề, được chân như của Bồ-đề tức đạt được chân như của hữu tình, được chân như của hữu tình nên đạt được chân như của ngã, được chân như của ngã nên đạt được chân như của tất cả pháp, được chân như của tất cả pháp nên phi chân như là chân như không vọng, không đổi khác mà thực hành bố thí. Này thiện nam! Đó là đạo xuất thế gian của Bồ-tát. Lại nữa, này thiện nam! Bồ-tát biết sắc là vô thường nên giữ giới, cho đến biết sắc như cỏ cây, ngói đá nên giữ giới. Khi Bồ-tát giữ giới như vậy thì nhận biết được chân như của sắc, vì biết chân như của sắc nên biết chân như của giới, biết chân như của giới nên đạt được chân như của hồi hướng, biết chân như của hồi hướng nên đạt được chân như của Bồ-đề, đạt được chân như của Bồ-đề nên biết được chân như của hữu tình, đạt được chân như của hữu tình nên rõ được chân như của ngã, được chân như của ngã nên đạt được chân như của tất cả pháp, nhận biết chân như của tất cả pháp nên phi chân như là chân như chẳng vọng, chân như chẳng khác, tức tùy theo đó mà giữ giới. Này thiện nam! Đó là đạo xuất thế gian của Bồ-tát. Như thế, nhận biết về thọ, tưởng, hành, thức là vô thường mà giữ giới, cho đến biết sắc là vô hình tướng mà giữ giới. Lúc giữ giới như vậy thì biết được chân như của thức, biết được chân như của thức nên đạt được chân như của giới, biết được chân như của giới nên đạt được chân như của hồi hướng, được chân như của hồi hướng nên đạt được chân như của Bồ-đề, được chân như của Bồ-đề nên đạt được chân như của hữu tình, được chân như của hữu tình nên đạt được chân như của ngã, được chân như của ngã nên đạt được của tất cả pháp, được chân như của tất cả pháp nên phi chân như là chân như chẳng vọng, chân như chẳng đổi khác, tùy theo đó mà giữ giới. Này thiện nam! Đó là đạo xuất thế gian của Bồ-tát. Lại nữa, này thiện nam! Bồ-tát biết sắc là vô thường nên thực hành nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ, cho đến biết sắc như cỏ cây, ngói đá mà thực hành trí tuệ. Khi Bồ-tát thực hành trí tuệ như thế, nên biết được chân như của sắc, do biết được chân như của sắc nên đạt được chân như của trí tuệ, được chân như của trí tuệ nên đạt được chân như của hồi hướng, được chân như của hồi hướng nên đạt được chân như của Bồ-đề, được chân như của Bồ-đề nên đạt được chân như của hữu tình, được chân như của hữu tình nên đạt được chân như của ngã, được chân như của ngã nên đạt được chân như của tất cả pháp, được chân như của tất cả pháp nên phi chân như là chân như chẳng vọng, chân như chẳng khác, theo đấy mà thực hành trí tuệ. Này thiện nam! Đó là đạo xuất thế gian của Bồ-tát. Như thế nhận biết về thọ, tưởng, hành, thức là vô thường mà thực hành trí tuệ, cho đến biết thức là vô hình tướng mà thực hành trí tuệ. Khi thực hành trí tuệ như vậy thì nhận biết được chân như của thức, do biết được chân như của thức nên đạt được chân như của trí tuệ, được chân như của trí tuệ nên đạt được chân như của hồi hướng, được chân như của hồi hướng nên đạt được chân như của Bồ-đề, được chân như của Bồ-đề nên đạt được chân như của hữu tình, được chân như của hữu tình nên đạt được chân như của ngã, được chân như của ngã nên đạt được chân như của tất cả pháp, được chân như của tất cả pháp nên phi chân như là chân như chẳng hư vọng, chẳng sai khác, tùy theo đấy mà thực hành trí tuệ. Này thiện nam! Đó là đạo xuất thế gian của Bồ-tát. Này thiện nam! Bồ-tát biết sắc là vô thường, quán thân nơi thân, tu tập về thân niệm xứ, cho đến biết sắc như cỏ cây, gạch ngói, tu thân niệm xứ. Lúc Bồ-tát tu tập về thân niệm xứ như thế, nên biết chân như của sắc, biết chân như của sắc nên biết chân như của thân, biết chân như của thân cho đến biết được chân như của tất cả pháp, biết chân như của tất cả pháp nên phi chân như là chân như chẳng vọng, chân như chẳng khác, theo đấy mà tu thân niệm xứ, chẳng cùng với thân chung làm việc xét tìm. Này thiện nam! Đó là đạo xuất thế gian của Bồ-tát. Như vậy, biết thọ, tưởng, hành, thức là vô thường nên tu tập về thân niệm xứ, cho đến biết thức không có hình tướng mà tu thân niệm xứ. Lúc tu tập về thân niệm xứ như thế, nên nhận biết chân như của thức. Vì biết được chân như của thức nên đạt được chân như của thân niệm xứ, được chân như của thân niệm xứ nên đạt được chân như của hồi hướng, được chân như của hồi hướng nên đạt được chân như của Bồ-đề, được chân như của Bồ-đề nên đạt được chân như của hữu tình, được chân như của hữu tình nên đạt được chân như của ngã, được chân như của ngã nên đạt được chân như của tất cả pháp, được chân như của tất cả pháp thì phi chân như là chân như chẳng vọng, chân như chẳng đổi khác, theo đấy mà tu tập về thân niệm xứ, cho đến tu tập về thọ, tâm, pháp niệm xứ cũng như vậy, không gắn liền với pháp để cùng hành xét tìm. Này thiện nam! Đó gọi là đạo xuất thế gian của Bồ-tát. Như thế, nhận biết sắc là vô thường nên tu bốn chính cần, bốn Như ý túc, năm Căn, năm Lực, bảy Bồ-đề phần, tám Thánh đạo, các pháp Chỉ quán, bốn Nhiếp pháp, bốn Tâm vô lượng, bốn Thiền, bốn Định vô sắc, năm Thần thông. Cũng như vậy, biết sắc là khổ, biết sắc là vô ngã, biết sắc là tịch tónh, biết sắc là Không, biết sắc là Vô tướng, biết sắc là Vô nguyện, biết sắc là vô hành, là chẳng sinh, là chẳng diệt, là duyên sinh, là xa lìa, cho đến biết sắc là cỏ cây, gạch ngói dẫn đến trí thần thông. Như thế, nhận biết về thọ, tưởng, hành, thức là vô thường dẫn đến trí thần thông. Như vậy, chân như của uẩn, chân như của thần thông, cho đến chân như của tất cả pháp, vì biết chân như của tất cả pháp nên phi chân như là chân như chẳng vọng, chân như chẳng khác, dẫn đến trí thần thông cũng lại như vậy. Này thiện nam! Đó gọi là đạo xuất thế gian của Bồ-tát. Vì sao? Vì đạo ấy siêu việt mọi nẻo thế gian. Do biết chân như của sắc nên sắc ấy chẳng bị hủy hoại, chẳng thường, chẳng đoạn, do duyên sinh nên tự tính là vô sinh. Như thế nhận biết về chân như của thọ, tưởng, hành, thức là không hủy hoại, thức là không đoạn, không thường, từ duyên sinh tự tính là vô sinh, vượt khỏi uẩn của thế gian, cùng cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc, do không đắm nhiễm. Vì không đắm nhiễm nên đối với các chúng sinh thọ sinh trong năm đường, thuyết giảng điều ấy, gọi là đạo xuất thế gian. Do Đức Phật giả nói là có thế gian, vì thế nên không hủy hoại. Vì sao? Vì tướng vô thường không hủy hoại thế gian, tướng khổ, tướng vô ngã, tướng tịch tónh, tướng Không, tướng Vô tướng, tướng Vô nguyện, tướng vô hành, cho đến tướng chân như cũng đều không hủy hoại thế gian. Này thiện nam! Đó gọi là đạo xuất thế gian của Bồ-tát. Đạo này thanh tịnh, nếu Bồ-tát trụ nơi đạo thanh tịnh đó thì có thể đối với các loài hữu tình nơi đường ác tạo ra ánh sáng lớn, do có được ánh sáng này, nên gọi là an trụ trong đạo xuất thế gian. Đạo này tối thắng, vì có thể khiến an trụ để hướng đến đạo tràng Bồ-đề. Đạo này là thanh tịnh, thù thắng, vì có thể xa lìa tất cả các tâm ác. Đạo này là thù thắng, vì có thể đạt đến đảnh trí tuệ của Phật. Đạo này là vô thượng, vì có thể vượt qua dòng thác sinh tử. Đạo này là không gì bằng, vì không có một pháp nào có thể tướng đồng. Đạo này là hơn hết, từ xa xưa không xa lìa nhân nơi Phật đạo. Đạo này là an ổn, vì khéo có thể chế ngự, thu phục các ma oán. Đạo này là vô ngại, vì trí luôn thuận hợp với mọi diệu dụng của tâm ý. Đạo này không tối tăm, vì có trí tuệ sáng suốt. Đạo này là ngay thẳng, vì không hề quanh co, dối trá. Đạo này là chính trực vì xa lìa mọi tà vạy. Đạo này bình đẳng, vì bình đẳng với tâm của hữu tình. Đạo này là rộng lớn vì dung nạp mọi chúng sinh. Đạo này là bao dung vì không hề bức hại lẫn nhau. Đạo này luôn được sinh khởi vì dứt bặt mọi mệt mỏi. Đạo này là hành trang của phước đức, vì tu tập Bố thí ba-la-mật. Đạo này không bị phiền não bức bách, vì đã Trì giới ba-la-mật. Đạo này dứt mọi sự sợ hãi, vì tu Nhẫn nhục ba-la-mật. Đạo này là không thoái chuyển, vì thực hành Tinh tấn ba-la-mật. Đạo này là xa lìa các cảnh, vì tu tập Thiền định ba-la-mật. Đạo này hiện bày khắp hư không, vì tu Trí tuệ ba-la-mật. Đạo này là trí tùy thuận, vì có thể khiến biến hóa. Đạo này luôn đầy đủ, vì tích chứa các pháp lành. Đạo này là tùy thuận pháp luân, vì chỗ được lãnh hội không hề quên mất. Này thiện nam! Đó là đạo xuất thế gian của Bồ-tát. Đạo như thế là thanh tịnh tối thắng không gì sánh. Nếu Bồ-tát muốn an trụ nơi đạo thanh tịnh này, phải mặc áo giáp lớn thành tựu pháp Đại thừa, do đó mà đến được đạo tràng Bồ-đề. Thế nào gọi là mặc áo giáp lớn? Các Bồ-tát này nếu thấy người nào chưa mặc áo giáp thì khiến họ được mặc mà tu tập pháp Đại thừa. Nếu người nào chưa mặc áo giáp giải thoát thì khiến họ được mặc, nhằm để giải thoát mọi trói buộc của kiến chấp nơi phiền não. Người chưa mặc áo giáp an ổn thì khiến họ được mặc, nhằm xả bỏ tất cả sợ hãi. Đối với người chưa mặc áo giáp Niết-bàn thì khiến họ được mặc, vì giúp cho người điên đảo được đạo chân chính. Mặc áo giáp giải thoát cho tất cả loài hữu tình, khiến những kẻ chấp ngã, nhân, chúng sinh, thọ mạng tất cả đều thấy là “Vô sở đắc”. Mặc áo giáp thọ trì chính pháp, vì không tham đắm nơi thân mạng. Mặc áo giáp làm thanh tịnh cõi Phật, để tu tập các căn lành không biết chán đủ. Mặc áo giáp tướng tốt trang nghiêm, vì tích tập vô lượng hành trang của phước đức. Mặc áo giáp phá trừ mọi luận thuyết của ngoại đạo, các ma, vì đạt được diệu lực thần thông. Mặc áo giáp khiến cho tất cả chúng sinh hoan hỷ, vì đạt được bốn trí vô ngại. Mặc áo giáp cầu chính pháp của chư Phật để đạt được trí Tổng trì. Mặc áo giáp quán xét tâm của tất cả chúng sinh, vì đạt được trí thần thông. Mặc áo giáp nhận biết về căn trí trước, sau của tất cả chúng sinh, do đạt được phương tiện trí tuệ. Mặc áo giáp đầy đủ mười Lực, vì tích tập mọi diệu lực của trí tuệ. Mặc áo giáp vô sở úy, do đối với tất cả các tâm không hề thoái chuyển. Mặc áo giáp đầy đủ mười tám pháp bất cộng, vì tu tập tất cả pháp thiện, đoạn trừ tất cả pháp bất thiện. Mặc áo giáp nghe tất cả pháp không kinh, không hãi, không sợ, vì biết rõ tất cả pháp là như mộng, như huyễn, như ánh chớp, như tiếng vang trong hang sâu, như ánh trăng dưới nước. Mặc áo giáp Đại Bi, vì biết tất cả chúng sinh xưa nay đều thành tựu Niết-bàn. Mặc áo giáp phương tiện thiện xảo, do vì lãnh hội các pháp Không, Vô tướng, Vô nguyện, vô hành, tất cả pháp không sinh, mà có thể thị hiện ở nơi chốn sinh tử. Mặc áo giáp gia trì bất động, vì nghe thuyết giảng đều vượt quá tướng quyết định. Tất cả các pháp chẳng sinh, tất cả các hành chẳng diệt, không chọn lấy quả để chứng đắc, đó là Bồ-tát mặc áo giáp Đại thừa. Bồ-tát đã mặc hai mươi thứ áo giáp lớn ấy rồi thì nương nơi pháp Đại thừa mà vượt qua bờ bên kia. Lại nữa, thừa này là dùng bốn Nhiếp pháp làm bánh xe nên có thể hoàn toàn thâu lấy các chúng sinh, dùng mười căn lành thanh tịnh làm tăm xe nên có thể thông đạt trọn vẹn các hạnh chính, dùng căn lành ý lạc thanh tịnh làm trục xe nên khéo tạo nên cội rễ căn bản của hành thâm diệu, dùng trí duyên sinh rộng lớn làm bầu xe nên đủ sức gánh vác mọi điều thiện của hữu tình, dùng đại Từ bi làm vành xe nên thâu nhận pháp bảo quyến thuộc mà trang nghiêm, dùng lực kiến cố làm dây ràng xe nên đạt được công đức tối thắng không thối mất, dùng thệ nguyện ban đầu và trí thiện xảo làm sự vận chuyển nên phương tiện của Đại Bi đều có thể cùng hành hóa, dùng định làm càng xe nên phát huy trí tuệ chân chính có thể nhận biết đầy đủ về bốn Thánh đế, dùng tăm xe là sự bố thí không bị ngăn ngại làm hành trang, dùng như ý túc để đi đến các cõi Phật, dùng dây chính niệm để giữ vững tâm Bồ-đề không thoái chuyển. Lại nữa, thừa này dung nạp rộng rãi cho tất cả các chúng sinh, thu phục hàng Nhị thừa, chế ngự, phá trừ hàng ngoại đạo và các ma, hiển bày trí tuệ, có thể đạt được chỗ tu học thích hợp, rốt ráo của các Bồ-tát, nên các hàng Phạm vương, Đế Thích, chư Thiên đều khen ngợi, quy ngưỡng, như an tọa nơi tòa Sư tử, thuyết giảng tất cả các pháp, cũng có thể hiển hiện các sắc tướng vi diệu khiến mọi người đều chiêm ngưỡng không nhàm chán. Ý chỉ kiên cố như vòng ngọc kim cang không thể bị hư hoại, dùng tâm Bồ-đề làm người đi trước dẫn đường, khiến cho công đức, hạnh nguyện luôn đầy đủ nơi thân. Dùng Thiên nhãn thanh tịnh thường quán xét, dùng ánh sáng thanh tịnh chiếu khắp mười phương, thường mưa hoa giác chi thanh tịnh, thường tấu âm nhạc là pháp vô ngại, khéo giảng thuyết giáo pháp tương ưng với chính lý, khéo giáo hóa các hữu tình đồng loại, được tất cả các Bồ-tát làm quyến thuộc, vô lượng công đức trang nghiêm, phát sinh Nhất thiết trí vô thượng. Này thiện nam! Như vậy, Bồ-tát đã mặc đầy đủ hai mươi thứ áo giáp thanh tịnh, nương nơi Đại thừa này, trụ vào đạo xuất thế, làm Phật sự, tạo mọi an ổn cho chúng sinh. Lúc thuyết giảng về pháp áo giáp Đại thừa trang nghiêm này, có bảy vạn hai ngàn hàng trời, người phát tâm Vô thượng chính đẳng chính giác, có ba vạn hai ngàn Bồ-tát đối với đạo xuất thế gian đều được thanh tịnh, đạt pháp Nhẫn vô sinh. KINH ĐẠI TẬP những điều BỒ-TÁT Hư Không tạng hỏi Phật <卷 id="117270385">Quyển 6 Bấy giờ, Bồ-tát Bảo Cát Tường hỏi Bồ-tát Đại Hư Không Tạng: –Thưa Nhân giả! Đối với đạo xuất thế gian, ông đã đạt được thanh tịnh chăng? Bồ-tát Hư Không Tạng đáp: –Thiện nam! Đúng như vậy, tôi đã đạt được thanh tịnh. Lại hỏi: –Thế nào là đã được thanh tịnh? Đáp: –Do ngã thanh tịnh cho nên đã được thanh tịnh. Hỏi: –Thế nào là ngã được thanh tịnh? Đáp: –Vì thế gian thanh tịnh, cho nên ngã thanh tịnh. Hỏi: –Thế nào là thế gian thanh tịnh? Đáp: –Thiện nam! Khoảng trước của sắc thanh tịnh nên không đi, khoảng sau của sắc thanh tịnh nên không đến, khoảng giữa của sắc thanh tịnh nên không trụ. Thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy. Khoảng trước của thức thanh tịnh nên không đi, khoảng sau của thức thanh tịnh nên không đến, khoảng giữa của thức thanh tịnh nên không trụ. Thiện nam! Do đấy gọi là thế gian thanh tịnh. Hỏi: –Thưa Nhân giả! Thế gian thanh tịnh như vậy thì chỗ hiển bày như thế nào? Đáp: –Này thiện nam! Hiển bày là tất cả các pháp thảy đều thanh tịnh. Hỏi: –Thế nào là hiển bày tất cả các pháp đều thanh tịnh? Đáp: –Do dùng trí tuệ nên nhận biết về từng phần của khoảng trước, khoảng sau nơi tất cả các pháp. Hỏi: –Thế nào là từng phần của khoảng trước, khoảng sau nơi tất cả các pháp? Đáp: –Vì không đoạn, không thường. Hỏi: –Vì sao nói các pháp là không thường, không đoạn. Đáp: –Nói không thường, không đoạn là không sinh, không diệt. Hỏi: –Nơi các pháp là không sinh, không diệt thì làm sao nêu bày? Đáp: –Nói không sinh không diệt là dứt mọi ngôn thuyết. Hỏi: –Thế nào là pháp dứt mọi ngôn thuyết? Đáp: –Đó là pháp không thuộc về số lượng. Hỏi: –Nhân giả! Nếu pháp không thuộc về số lượng thì tại sao lại tùy theo nơi danh số? Đáp: –Thiện nam! Ví như hư không, không tùy theo danh số, chỉ dùng danh số để giả gọi là hư không, như vậy “danh số tức là phi danh số”. Hỏi: –Thế nào là môn danh số, phi danh số? Đáp: –Môn số là nói về các pháp hữu vi. Môn phi số là nói về các pháp vô vi. Lại, pháp số và pháp phi số đều là vô vi, cho nên Đức Phật dạy phải dùng trí tuệ, xa lìa tất cả các pháp thuộc về số lượng, tính lường. Nơi số lượng của hữu vi thì dùng thức để quan sát, suy xét đúng như lý. Khi ấy, chẳng còn thấy pháp này nên đoạn hay không nên đoạn, pháp này nên chứng hay không nên chứng, pháp này nên tu hay không nên tu, chẳng thấy các pháp cũng chẳng thấy có hạn lượng. Nếu không nhận thấy không lường xét thì lúc đó tức đạt được không còn chấp trước và dứt mọi mong cầu. Nếu không có mong cầu thì không còn đối tượng được duyên, không còn đối tượng được duyên tức đạt được vô ngã, nếu đạt được vô ngã thì dứt hết mọi chấp, vướng. Hỏi: –Thế nào là không còn đối tượng để vướng chấp? Đáp: –Chẳng chấp sắc là thường là vô thường, chẳng chấp thọ, tưởng, hành, thức là thường là vô thường. Chẳng chấp sắc là khổ hay là vui, chẳng chấp thọ, tưởng, hành, thức là khổ hay là vui, chẳng chấp thọ, tưởng, hành, thức là khổ hay là vui. Chẳng chấp sắc là ngã, là vô ngã, cho đến chẳng chấp thức là ngã là vô ngã. Không chấp sắc là tịnh là chẳng tịnh, cho đến chẳng chấp thức là tịnh là chẳng tịnh, không chấp sắc là không là chẳng không, cho đến chẳng chấp thức là không là chẳng không, tức đạt được pháp Tam-muội không còn chấp, đạt được định này rồi thì thường khởi tâm Đại Bi, hóa độ các chúng sinh, không còn thấy lưu chuyển nơi sinh tử, phiền não. Vì sao? Vì tính của sinh tử và Niết-bàn là không sai khác, ở nơi các hữu tình hiện thấy có Niết-bàn. Cũng nhận biết tự thân xưa nay là Niết-bàn, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-Niết-bàn. Hỏi: –Thiện nam! Thế nào là Bồ-tát hành Bát-Niết-bàn? Đáp: –Bát-Niết-bàn gọi là không có hành quán, hồi hướng đến Nhất thiết trí. Đối với Nhất thiết trí, không mong cầu đạt sắc, không mong cầu đạt thọ, tưởng, hành, thức. Do tâm không mong cầu nên trụ nơi giới thanh tịnh, bản nguyện được đầy đủ, ở nơi tất cả các pháp không còn thấy tăng giảm, đạt được bình đẳng, an trụ nơi pháp giới, nhờ trụ nơi pháp giới nên thực hành hạnh Bồ-tát, cũng không có pháp để hành, để làm. Này thiện nam! Đó là Bồ-tát hành Bát-Niết-bàn. Hỏi: –Thế nào là quan sát về Niết-bàn có hành và không hành? Đáp: –Này thiện nam! Bồ-tát tác ý quan sát về Niết-bàn gọi là có hành, nên chứng đắc vô hành, do vô hành nên gọi là Niết-bàn. Lại, Bồ-tát đối với mọi ngôn thuyết, giảng nói đều không phân biệt, gọi là Niết-bàn. Lại nữa, Niết-bàn gọi là bờ bên kia. Bờ bên kia không có các tướng, đối với các tướng ấy tâm không còn chấp giữ, nên gọi là Niết-bàn. Lại nữa, bờ bên kia gọi là không phân biệt, đối với bờ bên kia không khởi tâm phân biệt, nên gọi là Niết-bàn. Lại nữa, bờ bên kia không có chứa nhóm, đối với bờ bên kia không khởi tâm chứa nhóm, nên gọi là Niết-bàn. Này thiện nam! Hành như thế thì gọi là Bồ-tát hành Bát-Niết-bàn. Bấy giờ, Đức Thế Tôn khen ngợi Bồ-tát Hư Không Tạng: ­Lành thay, lành thay! chính só đã khéo giảng nói về pháp này, khế hợp với nẻo hành Bát-Niết-bàn của Bồ-tát. Lúc thuyết giảng pháp này, ở trong chúng hội có năm trăm Bồ-tát đạt được pháp Nhẫn vô sinh. Khi ấy, Bồ-tát Đại Hư Không Tạng bạch Phật: –Kính bạch Thế Tôn! Do ánh sáng trí tuệ của Như Lai đã chiếu sáng cho chúng con, nên đạt được điều này, chẳng phải là khả năng của con. Ví như ánh sáng mặt trời soi chiếu mọi hình tượng, màu sắc hiện có nơi cõi Diêm-phù-đề, uy lực từ ánh sáng trí tuệ của Đức Thế Tôn Đại Điều Ngự cũng như vậy, có thể làm cho chúng con hiểu rõ về các pháp. Bấy giờ, Bồ-tát Bảo Cát Tường nói với Bồ-tát Hư Không Tạng: –Thiện nam! Vì sao Nhân giả lại che giấu trí của mình, mà cho tất cả đều là sự hộ trì của Như Lai? Bồ-tát Hư Không Tạng nói: –Mọi biện tài mà tất cả Bồ-tát đạt được đều từ sự gia hộ của Như Lai, chẳng phải chỉ riêng mình có. Thiện nam! Nếu Như Lai không thuyết giảng các pháp thì Bồ-tát do đâu mà đạt được biện tài. Bồ-tát Bảo Cát Tường nói: –Nếu nhân nơi Như Lai mà sinh ra biện tài của Bồ-tát thì nên biết mọi biện tài của Phật có thể dời đổi chăng? Bồ-tát Hư Không Tạng đáp: –Biện tài của Như Lai không có dời đổi, chỉ làm nhân duyên cho Bồ-tát. Do nhân nơi các pháp của Như Lai đã thuyết giảng nên sinh ra biện tài của Bồ-tát. Ví như vô minh không chuyển đến hành, chỉ vì hành nhân nơi vô minh mà sinh khởi. Như vậy biện tài của Phật không di chuyển, chỉ là làm nhân để phát sinh ra biện tài của Bồ-tát. Lại nữa, như âm thanh của voi, ngựa, người không chuyển đến nơi hang sâu, nhưng các âm thanh ấy, nhờ nơi hang sâu mà phát ra tiếng vang, những âm thanh ấy chỉ làm nhân cho tiếng vang trong hang, biện tài của Phật cũng vậy, không có di chuyển, chỉ tạo nhân cho biện tài của Bồ-tát. Hỏi: –Như Lai thường thuyết giảng về pháp duyên sinh sâu xa, lại giảng về các pháp không có nơi chốn sinh. Này thiện nam! Lẽ nào không có duyên sinh mà có các pháp chăng? Đáp: –Nếu nhân duyên có tạo tác thì pháp có sinh, pháp của nhân duyên không tạo tác nên nói là các pháp không sinh. Hỏi: –Như Lai xuất hiện ở đời, lẽ nào chẳng phải là sinh chăng? Đáp: –Nếu cho chân như có sinh thì có thể nói Như Lai có sinh. Nếu cho chân như không sinh thì không nên nêu vấn nạn Như Lai xuất hiện ở đời là có sinh. Cho nên không sinh gọi là Như Lai. Như Lai là đối với tất cả pháp đều đạt giác ngộ, nên gọi là Như Lai. Thiện nam! Chư vị vì sao lại nói Như Lai là có sinh? Ở đây nên theo như trên mà giải đáp. Hỏi: –Thế nào gọi là giải đáp như vậy? Đáp: –Đó gọi là trụ nơi pháp tính, nên gọi là đạt được như vậy. Hỏi: –Pháp tính làm thế nào để trụ? Đáp: –Trụ nơi không sinh không diệt, chẳng trụ chẳng phải là chẳng trụ, đó gọi là trụ nơi pháp tính. Trụ nơi pháp tính là không chốn trụ, tất cả các pháp cũng đều như vậy, trụ nơi không chốn trụ. Như Lai cũng vậy, trụ nơi không chốn trụ. Chẳng sinh, chẳng diệt, chẳng phải trụ chẳng phải không trụ, như thế, chẳng phải trụ chẳng phải không trụ, gọi là chốn trụ của Như Lai. Này thiện nam! Nói Như Lai sinh là chấp một bên, nói Như Lai không sinh là chấp một bên, xa lìa chấp nhị biên gọi là trung đạo. Thiện nam! Quán về Như Lai nên quán như vậy, nếu quán khác thì chẳng phải là quán chân chính. Bồ-tát Bảo Cát Tường nói: –Diệu nghĩa của Như Lai sinh hết sức sâu xa như vậy, là trụ nơi không chốn trụ, chẳng sinh chẳng diệt. Bồ-tát Hư Không Tạng nói: –Này thiện nam! Nếu hiểu rõ về diệu nghĩa của Như Lai sinh này thì không sinh tăng thượng. Hỏi: –Thiện nam! Thế nào là tăng thượng? Đáp: –Tăng thượng đó là câu tăng trưởng, nghĩa là ở nơi chỗ không có khoảng giữa, vọng sinh có tăng thêm, vì pháp vốn không tăng trưởng. Nếu có thể ở nơi các pháp chẳng sinh tâm niệm tăng trưởng, gọi là câu bình đẳng, câu vô đẳng, câu không, câu không có câu, câu không có văn tự, câu không phân biệt. Đối với các việc ấy không có nẻo hành của tâm ý thức, là câu không có chốn hành. Câu không có chốn hành ví như nơi hư không thật sự không có dấu chân chim, chỉ giả dùng âm thanh, lời nói (ngôn ngữ) để nói về dấu chân chim. Như vậy Như Lai thật sự không có sinh, chỉ giả dùng ngôn thuyết để nói Như Lai xuất hiện ở đời. Bậc trí tuệ mới có thể hiểu rõ về diệu nghĩa của câu không sinh. Vì sao? Vì diệu nghĩa của câu không sinh này là tự tính của các pháp. Gọi là không sinh, mà tính chất không sinh ấy cũng không có tự tính, vì không có tự tính nên không có chốn trụ. Vì cõi của không nơi chốn trụ là cõi của tất cả các pháp. An trụ nơi cõi của tất cả các pháp gọi là cõi thực, cũng là cõi của biên vực, hiện bày khắp mọi nơi. Do chứng đạt được thật tế của hết thảy các pháp bình đẳng như hư không, không có giới hạn thì thật tế của pháp ấy cũng không có giới hạn, nếu có giới hạn thì không thể gọi là thật tế của tất cả các pháp. Thật tế của hết thảy các pháp bình đẳng như vậy thì gọi là thật tế của ngã. Biết thật tế của ngã thì nhận biết thật tế của tất cả chúng sinh. Nếu nhận biết thật tế của tất cả chúng sinh tức nhận biết thật tế của tất cả các pháp. Thật tế ấy là thật tế của ngã, là thật tế của hết thảy chúng sinh, là thật tế của tất cả các pháp gọi là tận tế. Tận tế nghĩa là Niết-bàn, chứng được lý này gọi là chứng đắc Niết-bàn. Lại nữa, tất cả các pháp là không có đối đãi, lìa tướng đối trị, ví như hư không, không có chủ thể đối trị, như thế các pháp cũng không có đối trị. Nếu cho có Niết-bàn để có thể hội nhập, có thể cầu đạt, tức là sinh kiến chấp về diệt, cho pháp này nên sinh, pháp này nên diệt thì người ấy thực hành theo nẻo sinh diệt, không nhận biết về Niết-bàn bình đẳng một tính. Vì không nhận biết nên chấp trước, nơi các pháp vọng sinh tranh luận. Như Đức Thế Tôn đã giảng nói: Nếu như biết lãnh thọ lời dạy của Như Lai thì nên biết những vị ấy đã đạt đầy đủ các công đức tối thắng của hàng Sa-môn. Lúc đó, Tôn giả A-nan bạch Phật: –Kỳ lạ thay! Bạch Thế Tôn! Biện tài vô ngại của Bồ-tát Đại Hư Không Tạng mới có thể tự thân chứng biết được như vậy, mới có thể làm, có thể thuyết giảng như thế. Bấy giờ, Bồ-tát Đại Hư Không Tạng nói với Tôn giả A-nan: –Đại đức không nên nói do tôi tự chứng được. Vì sao? Vì thân tôi là hư không, vì thân hư không nên biết tất cả pháp đều là hư không. Thế sao Tôn giả bảo là do tôi tự chứng được? Tôn giả A-nan nói: –Nếu thân là không thì Nhân giả lấy thân gì để làm Phật sự? Đáp: –Dùng Pháp thân, vì Pháp thân không có biến chuyển, dời đổi, với uẩn, xứ, giới đều cũng chẳng sinh, chẳng diệt, chẳng phải thân điên đảo, mà đạt được sự ứng hiện tùy ý, nên từ nơi thân đó mà làm Phật sự. Hỏi: –Đại só! Ông đã chứng Pháp thân rồi chăng? Đáp: –Đại đức! Như tôi đã giải thích, lìa pháp thì không thân, thân tôi tức là pháp, pháp tức là thân tôi, hoặc pháp hoặc thân không có hai tướng, cho nên nói là thân chứng. Hỏi: –Đại só! Nếu thân chứng thì ông đã chứng đắc A-la-hán chăng? Đáp: –Không có chỗ chứng đắc mà chứng đắc. Vì sao? Vì A-la-hán là khéo có thể thông đạt về pháp không tranh luận, không nhiễm, không sân giận, cũng không si mê. Hỏi: –Nếu như vậy thì ông đã hoàn toàn đạt được Niết-bàn chăng? Đáp: –Đại đức! A-la-hán là chẳng Bát-Niết-bàn. Vì sao? Vì biết tất cả các pháp hoàn toàn là Niết-bàn, đoạn trừ tưởng chấp về Niết-bàn, chỉ vì các hàng phàm phu tạo ra sự phân biệt nói ta đã Niết-bàn, cho đến phân biệt cho là có vô số Niết-bàn sai khác. Hỏi: –Đại só! Như lời ông nói, Bồ-tát chẳng phải là A-la-hán, chẳng phải là phàm phu, chẳng phải là bậc Hữu học và Vô học, chẳng phải là Bích-chi-phật, chẳng phải là Bồ-tát, chẳng phải là Như Lai? Đáp: –Lành thay, lành thay! Thưa Đại đức A-nan-đà. Vì chẳng phải là A-la-hán, chẳng phải là phàm phu, chẳng phải là bậc Hữu học và Vô học, chẳng phải là Bích-chi-phật, chẳng phải là Bồ-tát, chẳng phải là Như Lai, nên Bồ-tát đối với các nơi chốn đều có thể thị hiện, cũng không trụ nơi tất cả quả vị. Khi thuyết giảng pháp này, trong chúng hội có năm trăm vị A-la-hán, hết thảy đều cởi tấm y mặc trên người dâng lên cúng dường Bồ-tát Hư Không Tạng, rồi thưa: –Nguyện cho tất cả chúng sinh đều đạt được biện tài như Bồ-tát Hư Không Tạng. Khi ấy, Bồ-tát Hư Không Tạng nhờ diệu lực hộ trì của Đức Như Lai nên khiến cho các pháp y đẹp đẽ vừa được cúng dường đều ẩn vào hư không, không hiện bày. Chư vị A-la-hán, Tỳ-kheo hỏi Bồ-tát Hư Không Tạng: –Đại só! Các y như vậy đã trụ vào nơi nào? Bồ-tát Hư Không Tạng đáp: –Đã nhập vào kho tàng hư không của tôi. Bấy giờ, Đức Thế Tôn vui vẻ mỉm cười. Tôn giả A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà Đức Thế Tôn mỉm cười? Như Lai mỉm cười chẳng phải là không có nguyên do, xin nguyện nói rõ cho chúng con. Đức Phật bảo Tôn giả A-nan: –Những vị Tỳ-kheo dâng cúng y cho Bồ-tát Hư Không Tạng, được Bồ-tát dùng diệu lực của thần thông làm cho những y đó nhập hết vào trong kho tàng hư không, đi đến thế giới Ca-sa tràng của Đức Như Lai Sơn Vương mà làm Phật sự. Âm thanh thuyết giảng của Bồ-tát Hư Không Tạng ở nơi thế giới ấy đều phát ra từ Ca-sa, vô lượng Bồ-tát nghe pháp này rồi, đều được pháp Nhẫn vô sinh. A-nan nên biết! Trí thần thông thù thắng của Bồ-tát dùng vô lượng âm thanh, ngôn từ như thế mà thành tựu cho chúng sinh, do nhân duyên đó nên ta mỉm cười. Lúc giảng nói pháp này thì bỗng nhiên ở giữa hư không, mưa xuống vô lượng hoa nhật nguyệt quang, đều như màu sắc của lửa đỏ rực rỡ, từ xưa chưa từng thấy, trong những hoa ấy phát ra âm thanh nói: Nếu người nào được nghe lời thuyết giảng của Bồ-tát Hư Không Tạng về pháp ấy bất thoái, sinh sự tin hiểu thì chắc chắn những vị ấy sẽ hướng đến đạo tràng Bồ-đề. Tôn giả A-nan thưa Phật: –Kính bạch Thế Tôn! Những hoa như vậy đã từ nơi chốn nào đến? Phật bảo A-nan: –Có một Phạm vương tên là Quang Trang Nghiêm làm chủ trăm ngàn thế giới. Vị Phạm vương ấy vì để cúng dường Bồ-tát Hư Không Tạng nên đã mưa xuống những hoa như vậy. Tôn giả A-nan thưa: –Bạch Thế Tôn! Chúng con xin được thấy vị Phạm vương ấy. Phật bảo: –Hãy đợi giây lát, các ông sẽ thấy. Lúc đó, Phạm vương Quang Trang Nghiêm, cùng với Phạm chúng sáu mươi vạn tám ngàn người vây quanh trước sau, liền ẩn mất ở cõi trời kia mà hiện đến trước chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân Phật, nhiễu quanh bên phải ba vòng, lui ra ngồi một bên, chắp tay hướng về Phật, thưa: –Thế Tôn! Thật là kỳ lạ! Bồ-tát Hư Không Tạng ấy là không thể nghó bàn, đầy đủ oai đức về tịnh giới, oai đức về thiền định, oai đức về thần thông, oai đức về trí tuệ, oai đức về các nguyện được như ý, oai đức về phương tiện thiện xảo, oai đức về ý lạc tăng thượng, oai đức về Pháp thân tự tại, oai đức về thân, khẩu, ý trang nghiêm, oai đức tự tại đối với tất cả pháp. Bạch Thế Tôn! Bồ-tát Hư Không Tạng đó, đều chẳng từ nơi nghiệp của thân, khẩu, ý mà phát ra, thị hiện các việc biến hóa, nhưng chính là do diệu lực tu tập từ xa xưa chứa nhóm các căn lành, đầy đủ diệu hạnh sâu xa của chư Phật, mới có thể gầm lên tiếng gầm của sư tử. Đức Phật nói: –Đúng thế, đúng thế! Phạm vương, như lời ông nói, sự hành hóa của Bồ-tát đều do từ xa xưa đã tích tập diệu lực nơi căn lành phước trí làm hành trang mà ở nơi đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác, thề không thoái chuyển nên có thể thị hiện các việc thần thông biến hóa như vậy. Bấy giờ, Phạm vương Quang Trang Nghiêm thưa Phật: –Kính bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là căn lành của Bồ-tát? Thế nào là phước, là trí? Đức Phật bảo Phạm vương: –Căn lành, đó là các chúng sinh ban đầu phát tâm cầu đạo Vô thượng chính đẳng chính giác. Phước ấy nghĩa là khi phát tâm rồi, đối với tất cả hàng Thanh văn, Duyên giác, vì các chúng sinh mà tu tập các pháp bố thí, trì giới, lại cùng tu tập để thành tựu tất cả các phước nghiệp. Trí ấy nghĩa là đem tất cả căn lành đã tích tập hồi hướng đến Nhất thiết trí. Lại nữa, căn lành ấy là ý lạc thanh tịnh, không kiêu mạn. Phước ấy là chứa nhóm làm tăng thêm tất cả phước. Trí ấy là ý lạc tăng thêm đều thù thắng. Lại nữa, căn lành ấy là đối với các pháp thiện ý nguyện luôn được bền chắc. Phước ấy là hành trang của điều thiện được tích tập không hề chán đủ. Trí ấy là quán các căn lành hiện có đều như huyễn. Lại nữa, căn lành ấy nghĩa là có được bạn tốt. Phước ấy là không bỏ bạn tốt. Trí ấy là luôn thăm hỏi bạn tốt. Lại nữa, căn lành ấy là ưa thích cầu đạt pháp Phật. Phước ấy là nghe pháp không quên. Trí ấy là vui vẻ đối với pháp lạc. Lại nữa, căn lành ấy là thường cầu pháp Phật. Phước ấy là thuyết pháp không mong cầu. Trí ấy là đối với giáo pháp không hề tiếc lẫn. Lại nữa, căn lành ấy là thường ưa nghe pháp, phước ấy là quan sát đúng như lý, trí ấy là tu hành đúng như pháp. Lại nữa, căn lành ấy là thường ưa thấy Phật, phước ấy là luôn cúng dường Phật, trí ấy là thuận theo lời Phật dạy. Lại nữa, căn lành ấy là được xuất gia, phước là tu tập theo hạnh của dòng Thánh, trí là ưa thích ở chỗ vắng lặng. Lại nữa, căn lành ấy là khéo có thể tu tập ít ham muốn biết đủ, phước là đối với các y phục, thức ăn, đồ dùng không tham muốm, trí là đối với tất cả vật thọ dụng luôn an nhiên không nhiễm đắm. Lại nữa, căn lành là tu quán niệm xứ, phước là đầy đủ bốn chính cần, trí là đạt được bốn Như ý túc. Lại nữa, căn lành ấy là nhập vào tín căn, phước là tu về tấn căn và niệm căn, trí là quán về định căn và tuệ căn. Lại nữa, căn lành là trụ vào năm lực, phước là tùy thuận nơi bảy Giác chi, trí là nhập vào trí của tám Thánh đạo. Lại nữa, căn lành ấy là tâm an trụ vào diệu lý, phước là cầu đạt hành trang của thiền định, trí là đạt được pháp quán thiện xảo. Lại nữa, căn lành ấy là việc bố thí đã thành tựu phước nghiệp, phước là sự trì giới đã thành tựu phước nghiệp, trí là tu hành đã thành tựu phước nghiệp. Lại nữa, căn lành ấy gọi là giới học tăng thượng, phước là tâm học tăng thượng, trí là tuệ học tăng thượng. Lại nữa, căn lành là ăn năn về những lỗi lầm, phước là tùy hỷ các điều thiện, trí là khuyến thỉnh chư Phật. Lại nữa, căn lành ấy là xả bỏ những gì đã có, phước là không mong cầu báo đáp, trí là hồi hướng đến Bồ-đề. Lại nữa, căn lành ấy là mong cầu giới căn bản, phước là trì giới đầy đủ không khiếm khuyết, trí là trì giới để hồi hướng. Lại nữa, căn lành ấy là đối với chúng sinh không làm tổn hại, phước ấy là đã nghe lời nói xấu ác đều có thể nhẫn chịu, trí là xả bỏ thân mạng để giáo hóa cho chúng sinh. Lại nữa, căn lành là siêng cầu pháp lành không nhàm chán, phước là đem căn lành đã có hồi hướng cho chúng sinh, trí là căn lành đã tích tập, hồi hướng đến Bồ-đề. Lại nữa, căn lành là có thể tu tập các thiền chi, phước là đạt được các căn lành của thiền định, trí là từ các thiền định hiện sinh ở cõi Dục. Lại nữa, căn lành là tuệ lực nơi kiến thức rộng, phước là quán về chỗ đã nghe, trí là tuệ được viên mãn. Lại nữa, căn lành là xem chúng sinh một cách bình đẳng, phước là chứng được định từ, trí là tâm Từ bình đẳng giống như hư không. Lại nữa, căn lành là hành trang tu tập ba Địa, phước là hành trang tu tập bốn Địa, trí là hành trang để viên mãn cho tám, chín, mười Địa. Lại nữa, căn lành ấy là Bồ-tát mới phát tâm, phước là Bồ-tát an trụ nơi các hạnh, trí là Bồ-tát không thoái chuyển. Lại nữa, căn lành là hạnh bình đẳng, phước là sự trang nghiêm của tướng tốt, trí là tướng vô kiến đảnh. Lại nữa, căn lành là trang nghiêm cõi Phật, phước là tâm luôn nghó đến việc cứu giúp, trí là làm lợi ích cho chúng sinh. Lại nữa, căn lành là nghe giảng nói về nghiệp ma, phước là hiểu rõ về nghiệp ma, trí là có thể vượt khỏi nghiệp ma. Lại nữa, căn lành là đầy đủ Đại Bi, phước là phương tiện thiện xảo, trí là tu tập Bát-nhã. Lại nữa, căn lành là trang nghiêm đạo tràng giác ngộ, phước là khéo có thể hàng phục các ma, trí là trong một sát-na tương ưng với tuệ, thành tựu chính giác. Này Phạm vương! Như vậy gọi là căn lành, phước và trí. Bấy giờ, Phạm vương Quang Trang Nghiêm bạch Phật: –Kính bạch Thế Tôn! Kỳ lạ thay, có thể dùng ý nghĩa của ba câu để nói về các pháp. Lúc ấy, Bồ-tát Hư Không Tạng bảo Phạm vương Quang Trang Nghiêm: –Phạm vương! Chỉ có một câu mà có thể tóm thâu tất cả các pháp. Thế nào là một? nghĩa là câu tính không. Vì sao? Vì do các pháp đồng với tính không, đó gọi là một câu. Lại nữa, có một câu thâu tóm các pháp, đó là câu vô tướng, câu vô nguyện, đều thâu tóm các pháp. Như vậy, nói rộng ra cho đến câu vô hành, câu lìa dục, câu tịch tónh, câu không có A-lại-da, câu pháp giới, câu chân như, câu thật tế, câu không sinh, câu không khởi, câu Niết-bàn, đều thâu tóm tất cả các pháp cũng như vậy. Lại nữa, này Phạm vương! Dục là câu lìa dục, vì tính của lìa dục tức là dục, nên tất cả pháp Phật cũng đồng với tính ấy. Sân là câu lìa sân, vì tính của lìa sân tức là sân, tất cả pháp Phật cũng đồng với tính ấy. Si là câu lìa si, vì tính của lìa si tức là si, tất cả pháp Phật cũng đồng với tính ấy. Cho đến thân kiến là câu không thân kiến, vì tính của không thân kiến tức là thân kiến, tất cả pháp Phật cũng đồng với tính ấy. Sắc là câu vô sắc, vì tính của vô sắc tức là sắc, tất cả pháp Phật cũng đồng với tính ấy. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy. Thức là câu vô thức, vì tính của sự không phân biệt tức là thức, tất cả pháp Phật cũng đồng với tính ấy. Nói rộng ra cho đến xứ, giới, mười hai duyên sinh cũng như vậy. Vô minh tức là câu minh, vì tính của minh tức là vô minh, tất cả pháp Phật cũng đồng với tính ấy. Cho đến sinh là câu bất sinh, vì tính của không sinh tức là sinh, tất cả pháp Phật cũng đồng với tính ấy. Tất cả câu pháp là câu vô pháp, vì tính của vô pháp là pháp của chư Phật, tất cả pháp Phật cũng đồng với tính ấy. Này Phạm vương! Đó là một câu thâu tóm tất cả các pháp. Nếu Bồ-tát hội nhập nơi pháp môn này thì ở nơi một câu hội nhập vào tất cả pháp Phật. Phạm vương! Ví như biển cả, thâu nạp các dòng nước, đó là một câu thâu tóm tất cả các pháp cũng như vậy. Ví như hư không có thể bao trùm vạn vật, mỗi mỗi câu ấy đều thâu tóm tất cả các pháp cũng vậy. Cho nên câu này chuyển biến đến vô tận vô lượng. Ví như nhà toán số dùng thẻ đếm phân ra từng phần, trong từng phần ấy không có thẻ đếm, trong thẻ đếm không có từng phần, mà có thể lần lượt đếm thành vô lượng số. Như thế, một câu thành vô lượng câu cũng như vậy. Phạm vương! Trăm ngàn kiếp như thế nêu bày chỗ so sánh về pháp của Phật, hoặc thân hoặc tâm đều không có chỗ thủ đắc, cũng không thể dùng số lượng để nhận biết. Vì sao? Vì tất cả pháp đều là pháp Phật. Pháp Phật ấy tức chẳng phải pháp. Vì sao? Vì do tưởng phân biệt, do tưởng mà phân biệt khắp nên giả nói như vậy. Đối với vô tướng cũng chẳng phải là vô tướng, đối với vô pháp cũng chẳng phải là vô pháp, hoàn toàn không có tướng. Tướng ấy thanh tịnh, xa lìa tự tướng, giống như hư không, đồng một tự tính. Pháp Phật cũng vậy, tính tướng đều không. Khi Bồ-tát Hư Không Tạng giảng nói pháp này thì trong Phạm chúng ấy có hai vạn hai ngàn Phạm thiên đều phát tâm cầu đạo quả Bồ-đề Vô thượng chính đẳng giác. Lại nữa, có năm ngàn Phạm vương do căn lành đã gieo trồng từ đời trước nên chứng được pháp Nhẫn vô sinh. KINH ĐẠI TẬP những điều BỒ-TÁT Hư Không tạng hỏi Phật <卷 id="117270386">Quyển 7 Bấy giờ, Đại Bồ-tát Bảo Thủ hỏi Bồ-tát Đại Hư Không Tạng: –Thưa Đại só! Đối với tâm Bồ-đề nên dùng pháp gì để thâu giữ khiến không thể thoái chuyển? Bồ-tát Hư Không Tạng đáp: –Này thiện nam! Tâm Bồ-đề dùng hai pháp để thâu giữ, khiến được an trụ, không thoái lui. Những gì là hai pháp? Đó là ý lạc và ý lạc tăng thượng. –Ý lạc và ý lạc tăng thượng này lấy gì làm đối tượng để thâu giữ? –Dùng bốn pháp để thâu giữ. Những gì là bốn? Đó là ý lạc lấy sự không dua nịnh và không dối trá để thâu tóm. Ý lạc tăng thượng thì dùng tâm không tán loạn và sự tu hành tinh tấn để thâu tóm. Đó là dùng bốn pháp để thâu tóm hai pháp. –Bốn pháp này thì dùng bao nhiêu pháp để thâu tóm? –Có tám pháp để thâu tóm. Những gì là tám? Đó là không dua nịnh thì dùng chính trực và chính trú để thâu tóm. Không dối trá thì dùng tâm không giả dối và ý lạc thanh tịnh để thâu tóm. Tâm không tán loạn thì dùng tâm không thoái chuyển và tinh tấn không thoái lui để thâu tóm. Tu hạnh tinh tấn bậc nhất thì dùng hành trang về phước đức và hành trang về trí tuệ để thâu tóm. Đó là dùng tám pháp để thâu tóm bốn pháp. –Tám pháp này dùng bao nhiêu pháp để thâu tóm? –Dùng mười sáu pháp để thâu tóm. Những gì là mười sáu pháp? Đó là chính trực thì dùng tịch tónh và nhu hòa để thâu tóm. chính trụ thì dùng vô ngã và sự chân thật để thâu tóm. Không giả dối thì dùng đại Từ Đại Bi để thâu tóm. Ý lạc thanh tịnh thì dùng thân thanh tịnh và tâm thanh tịnh để thâu tóm. Tâm không thoái chuyển thì dùng sự kiên cố và diệu lực để thâu tóm. Tinh tấn không thoái lui thì dùng sự thực hành đúng theo lời dạy và tu tập chân chính để thâu tóm. Hành trang về phước đức thì dùng gia hạnh và gia hạnh tăng thượng để thâu tóm. Hành trang về trí tuệ thì dùng sự nghe nhiều và những tư duy về điều được nghe để thâu tóm. Đó là dùng mười sáu pháp để thâu tóm sáu pháp. –Mười sáu pháp này dùng bao nhiêu pháp để thâu tóm? –Mười sáu pháp này dùng ba mươi hai pháp để thâu tóm. Những gì là ba mươi hai? Đó là tịch tónh thì dùng pháp hổ và thẹn để thâu tóm. Nhu hòa thì dùng lời nói thiện và trụ nơi an lạc để thâu tóm. Vô ngã thì dùng sự khiêm nhường và bất động để thâu tóm. Chân thật thì dùng sự không cấu uế và lời nói không gây tổn hại để thâu tóm. Đại Từ thì dùng tâm bình đẳng đối với tất cả chúng sinh và tâm không ngăn ngại để thâu tóm. Đại Bi thì dùng sự không mệt mỏi và những việc đã làm, cung cấp cho chúng sinh để thâu tóm. Thân thanh tịnh thì dùng pháp không hai và sự biết đủ về tài vật của mình để thâu tóm. Tâm thanh tịnh thì dùng tính nhu hòa và tịch tónh để thâu tóm. Kiên cố thì dùng sự mong cầu đầy đủ và quyết định cứu giúp để thâu tóm. Diệu lực thì dùng tuệ thiện trú và tuệ bất động để thâu tóm. Sự thực hành đúng như pháp đã nêu bày thì dùng tính như chỗ thuyết giảng và chủ thể tạo tác để thâu tóm. Tu hành chân chính thì dùng pháp chính gia hạnh và chính tinh tấn để thâu tóm. Gia hạnh thì dùng sự siêu việt thù thắng và không thoái chuyển để thâu tóm. Gia hạnh tăng thượng thì dùng sự lãnh hội từ người khác và tác ý như lý để thâu tóm. Hiểu biết rộng thì lấy sự gần gũi và tùy thuận nơi bạn lành để thâu tóm. Suy nghó về những điều đã nghe thì dùng chính hạnh dũng mãnh và sự quán xét của thiền định để thâu tóm. Này thiện nam, đó là ba mươi hai pháp dùng để thâu tóm mười sáu pháp. –Ba mươi hai pháp này thì dùng bao nhiêu pháp để thâu tóm? –Ba mươi hai pháp này thì dùng sáu mươi bốn pháp để thâu tóm. Những gì là sáu mươi bốn pháp? Đó là: Hổ thì lấy sự quan sát về bên trong và sự phòng hộ các căn để thâu tóm. Thẹn thì dùng sự giữ gìn cảnh bên ngoài và kính bậc có đức để thâu tóm. Lời nói thiện thì dùng sự cầu pháp và ưa thích pháp để thâu tóm. Trụ nơi an lạc thì dùng thân và tâm thanh tịnh để thâu tóm. Khiêm nhường thì dùng sự không cao ngạo và lời nói như pháp để thâu tóm bất động thì dùng thân và tâm chân chính để thâu tóm. Không cấu uế thì dùng sự diệt trừ ba cấu uế và tu tập ba pháp môn giải thoát để thâu tóm. Lời nói không tổn hại thì dùng sự không thô lỗ và lời nói không chia rẽ để thâu tóm. Tâm vô ngại thì dùng sự tự giữ mình và giữ gìn cho người khác để thâu tóm. Tâm bình đẳng đối với tất cả chúng sinh thì dùng sự không phân biệt, lựa chọn và tính đồng nhất để thâu tóm. Không mệt mỏi thì dùng tự tính như mộng và tự tính như huyễn để thâu tóm. Tất cả việc làm nhằm cung cấp cho chúng sinh thì dùng thần thông và phương tiện để thâu tóm. Không hại thì dùng sự xấu hổ và tin vào nghiệp báo để thâu tóm. Đối với các tài vật đều biết đủ thì dùng sự ít ham muốn và biết đủ để thâu tóm. Điều phục nhu hòa thì dùng hành động không nóng nảy và không dối trá để thâu tóm. tính tịch tónh thì dùng sự xả bỏ ngã và ngã sở để thâu tóm. Sự mong cầu đầy đủ thì dùng quán tâm Bồ-đề và tùy thuận nơi đạo tràng Bồ-đề để thâu tóm. Quyết định cứu giúp thì dùng sự giác ngộ về nghiệp ma và sự gia hộ của chư Phật để thâu tóm. Tuệ thiện trụ thì dùng sự điềm tónh và không loạn động để thâu tóm. Tuệ bất động thì dùng tâm như núi cùng không dời đổi để thâu tóm. tính đúng như pháp thuyết giảng thì dùng chỗ tạo nghiệp thiện và sự không hối tiếc để thâu tóm. Chủ thể tạo tác thì dùng thật tính và chân tính để thâu tóm. chính gia hạnh thì dùng sự thuận theo duyên sinh và xa lìa chấp đoạn, thường để thâu tóm. chính tinh tấn thì dùng gia hạnh và như lý để thâu tóm. Không thoái chuyển thì dùng chính cần và sự không biếng trễ để thâu tóm. Vượt hơn hết thì dùng sự dũng mãnh và tinh tấn để thâu tóm. Lãnh hội từ nơi kẻ khác thì dùng bạn lành và sự cầu pháp để thâu tóm. Tác ý như lý thì dùng hành trang về chỉ và quán để thâu tóm. Gần gũi bạn lành thì dùng sự thuận hợp và cung kính để thâu tóm. Tùy thuận bạn lành thì dùng sự xem nhẹ lợi dưỡng đối với thân và tâm để thâu tóm. chính hạnh dũng mãnh thì dùng Niết-bàn và sự lìa dục để thâu tóm. Quán xét của thiền định thì dùng nhân và quả không bị hủy hoại để thâu tóm. Này thiện nam! Đó là sáu mươi bốn pháp dùng để thâu tóm ba mươi hai pháp. Lại hỏi: Sáu mươi bốn pháp này nên dùng bao nhiêu pháp đê thâu tóm? Sáu mươi bốn pháp này nên dùng một trăm hai mươi tám pháp để thâu tóm. Đó là: Sự quan sát bên trong thì dùng pháp về không và quán về tính để thâu tóm. Giữ gìn các căn thì dùng chính niệm và chính tri kiến để thâu tóm. Giữ gìn cảnh giới bên ngoài thì dùng sự phòng hộ các căn và sự không giong ruổi, loạn động để thâu tóm. Cung kính bậc có đức thì dùng sự quan sát bậc trí vượt hơn mình và không cầu bậc trí vượt hơn khác nữa để thâu tóm. Cầu pháp thì dùng sự mong cầu đầy đủ, dũng mãnh không thoái chuyển nơi chính mình và không nhớ nghó việc làm ác đối với người khác để thâu tóm. Ưa thích pháp thì dùng sự cầu pháp và tùy thuận pháp để thâu tóm. Thân thanh tịnh thì dùng sự xa lìa hôn trầm và tính si để thâu tóm. Tâm tónh là dùng sự nhận biết khắp và đoạn trừ phiền não để thâu tóm. Không cao ngạo thì dùng sự không kiêu mạn và dứt trừ mọi bạo ác để thâu tóm. Lời nói đúng như pháp thì dùng sự đoạn bỏ các pháp bất thiện và tạo đầy đủ pháp lành để thâu tóm. Thân chân chính thì dùng sự không thô lỗ và lời nói không xấu ác để thâu tóm. Tâm chân chính thì dùng chính niệm và chính định để thâu tóm. Trừ diệt ba cấu thì dùng pháp quán bất tịnh và quán Từ bi để thâu tóm. Tu tập ba pháp môn giải thoát thì dùng chỗ không lưu chuyển trong luân hồi và thắng nghĩa đế để thâu tóm. Không thô lỗ thì dùng lời nói tạo lợi ích và lời nói tạo an lạc để thâu tóm. Lời nói không chia rẽ thì dùng lời nói không phá hoại và lời nói hòa hợp để thâu tóm. Tự giữ gìn mình thì dùng sự không tạo các tội và tích tập các phước đức để thâu tóm. Ủng hộ người khác thì dùng sự nhẫn nhục và nhu hòa để thâu tóm. Không phân biệt, chọn lựa thì dùng tâm bình đẳng như hư không và tâm không vướng mắc để thâu tóm. tính một vị thì dùng chân như và tính của pháp giới để thâu tóm. Tự tính như mộng thì dùng sự thấy nghe hiểu về pháp và chỗ trải qua không thọ dụng pháp để thâu tóm. Tự tính như huyễn thì dùng chỗ mê lầm hư dối cùng phân biệt xét đoán để thâu tóm. Thần thông thì dùng sự thành tựu lợi ích và tùy thuận nơi trí tuệ để thâu tóm. Phương tiện thì dùng ánh sáng của trí tuệ và quan sát về hữu tình để thâu tóm. Hổ thẹn thì dùng sự hối hận không còn tạo tác nữa và không che giấu lỗi lầm để thâu tóm. Tin vào nghiệp báo thì dùng sự hiện chứng các pháp không sinh buông lung và sợ hãi về khổ nơi đời sau để thâu tóm. Ít ham muốn thì dùng sự thọ dụng thanh tịnh và xa lìa tâm không biết chán đủ để thâu tóm. Biết đủ thì dùng tâm xem nhẹ sự đầy đủ và xem nhẹ mọi lợi dưỡng để thâu tóm. Không tán động thì dùng sự cứu cánh tận cùng và không tranh cãi để thâu tóm. Không khinh dối thì dùng lời nói chân thật và pháp nhu hòa để thâu tóm. Xả bỏ ngã thì dùng sự không chấp nhân và diệt trừ ác kiến để thâu tóm. Không có ngã sở thì dùng không ngã mạn và không tham chấp để thâu tóm. Quán tâm Bồ-đề thì dùng sự không mong cầu về thừa thấp nhỏ và thương xót các chúng sinh để thâu tóm. Thuận theo đạo tràng Bồ-đề thì dùng việc hàng phục các ma và chứng đắc pháp Phật để thâu tóm. Giác ngộ về nghiệp ma thì dùng sự chỉ dạy, trao truyền của bậc Thiện tri thức và tu tập Trí tuệ ba-la-mật để thâu tóm. Sự gia hộ của chư Phật thì dùng việc thực hành đúng như pháp đã thuyết giảng và không bỏ tất cả chúng sinh để thâu tóm. Không nóng nảy thì dùng tâm như đại địa và dứt hết sự thương, ghét để thâu tóm. Không lay động thì lấy sự xa lìa ác tác (hối) và quán vô thường để thâu tóm. Tâm như núi thì dùng sự không cao không thấp để thâu tóm. Không dời đổi thì dùng hạnh nguyện không thoái chuyển và hạnh nguyện thắng tiến để thâu tóm. Khéo tạo nghiệp thì dùng hành động của trí mà không nhớ nghó theo việc của ma để thâu tóm. Không hối tiếc thì dùng giới thanh tịnh và định thanh tịnh để thâu tóm. Thật tính thì dùng đế thế tục và đế thắng nghĩa để thâu tóm. Chân tính thì chân như và pháp chân thật để thâu tóm. Thuận theo duyên sinh thì dùng nhân và duyên để thâu tóm. Xa lìa chấp đoạn, thường thì dùng pháp vô sinh và vô diệt để thâu tóm. Đối tượng được gia hạnh thì dùng lòng tin nơi nghiệp quả và sự dứt sinh nghiệp để thâu tóm. Như lý thì dùng đạo xa lìa và đạo bất sinh để thâu tóm. chính cần thì dùng việc đoạn trừ điều ác và không dứt bỏ điều thiện để thâu tóm. Không kiêu mạn thì dùng diệu lực nơi tâm và thân để thâu tóm. Dũng mãnh thì dùng sự quán xét kỹ và không mất sự tu hành để thâu tóm. Tinh tấn thì dùng tâm không xen tạp và không thoái chuyển để thâu tóm. Đối với bậc Thiện tri thức thì dùng sự cung kính và cúng dường để thâu tóm. Cầu pháp thì dùng sự cầu đạt chính trí và cầu đạt giải thoát để thâu tóm. Hành trang của pháp “chỉ” thì dùng thân và tâm dứt bặt, vắng lặng để thâu tóm. Hành trang của “quán” dùng sự nghe pháp không nhàm chán và tác ý như lý để thâu tóm. Vâng theo thuận hợp thì dùng việc chắp tay, lễ bái để thâu tóm. Cung kính thì dùng lời nói chân thật và không dối trá để thâu tóm. Thân khinh an thì dùng sự ăn uống điều độ, ngủ nghỉ luôn tỉnh thức để thâu tóm. Tâm khinh an thì dùng sự không tham muốn và chính tư duy để thâu tóm. Niết-bàn thì dùng sự xa lìa vô thường và khổ để thâu tóm. Lìa dục thì dùng vô ngã và sự không thâu nhận để thâu tóm. Nhân không hủy hoại thì dùng nhân tịch diệt và thắng giải để thâu tóm. Quả không hủy hoại thì dùng pháp quán như Du-già không dối trá và sự tán thán về quả thắng giải để thâu tóm. Này thiện nam! Đó là sáu mươi bốn pháp đã dùng một trăm hai mươi tám pháp để thâu tóm. Này thiện nam! Như vậy là tôi đã lược nói về chỗ thâu tóm của tất cả các pháp. Nếu nói về số lượng của các pháp ấy cứ lần lượt tăng thêm thì với biện tài vô ngại của tôi, hoặc một kiếp, hoặc hơn một kiếp cũng không thể nêu bày hết. Khi Bồ-tát Bảo Thủ nghe Bồ-tát Đại Hư Không Tạng nói về sự thâu tóm của các pháp này thì đạt được điều chưa từng có nên rất đỗi vui mừng, liền đưa cánh tay phải lên như che tam thiên đại thiên thế giới, chỉ khoảng một sát-na thì toàn bộ mười phương thế giới, chỗ hiện có các thứ vòng hoa, hương bột, hương xoa, lọng, cờ phướn, y phục, các loại âm nhạc vi diệu, đều từ trong cánh tay phải của Bồ-tát Bảo Thủ rơi xuống như mưa, hiện đủ khắp nơi tam thiên đại thiên thế giới. Hoa thì ngập đến đầu gối, còn cờ phướn, y phục thì hiện đầy cả hư không, tạo sự đẹp đẽ rực rỡ. Trăm ngàn thứ âm nhạc không tấu mà tự nhiên vang lên trong âm thanh đó phát ra bài kệ: Giữ đức, hiển đức đủ trăm phước Niệm, tuệ tu hành, hàng phục ma Bậc đại Sa-môn khéo thuyết pháp Diệt sạch hữu lậu khắp mười phương. Tu trì được phước lành thù thắng Chế ngự sợ hãi, lìa trần nhiễm Dẫn dắt trời người đến Niết-bàn Mười Lực dứt lậu, tâm vô tướng. Thuyết pháp với âm thanh vi diệu Không mất, không sai lìa ba cấu Trời người ba cõi không gì sánh Tùy thuận thế gian ban an lạc. Niệm tuệ tu trì đều viên mãn Mười Lực tối thắng diệt quân ma Do đấy khai mở cửa cam lộ Khéo điều phục, không còn ràng buộc. Tự tại bất động hơn tất cả Giáo hóa mười phương lợi trời, người Diệu tuệ như không, chẳng chỗ nương Pháp giới bất động an như đất. Âm thanh ánh sáng dứt tối tăm Nên khen ngợi bậc lìa trần cấu Tuệ sáng chiếu soi được an lành Ánh sáng Mâu-ni che các ma. Giáo hóa trời, người nơi ba cõi Thị hiện định, loạn lìa mọi duyên Thế gian vô ngại như hư không Nên Phật giáo hóa hàng trời, người. Có thể lường ba ngàn biển cả Mười phương hư không có thể đi Tâm các chúng sinh có thể biết Công Đức Phật khó thể lường xét. Khi dùng kệ này để tán thán Phật xong thì Thiên ma Ba-tuần liền chuẩn bị bốn thứ quân binh rồi đi đến chỗ Đức Phật, đứng trước chúng hội hiện ra thân hình một trưởng giả, cúi đầu lễ nơi chân Phật lui ra đứng một bên, bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Bồ-tát Đại Hư Không Tạng và Bồ-tát Bảo Thủ, hai vị chính só này đã thành tựu vô lượng, vô biên công đức, lại có thể thị hiện vô số các pháp thần thông đặc biệt, tạo nhiều lợi ích như vậy. Ở đời vị lai, nếu có chúng sinh nghe kinh điển này thì có thể tư duy để tin hiểu mà mở bày, tỏ ngộ chăng? Phật bảo Thiên ma Ba-tuần: –Vào đời vị lai, những người tin kinh này số lượng rất ít, như đem một sợi lông ngắt ra làm trăm ngàn phần, dùng một phần nhỏ ấy bỏ vào trong biển cả để lấy một giọt nước. Này thiện nam! Những người tin kinh này như giọt nước trên đầu sợi lông, còn những người không tin kinh này thì như nước trong biển cả. Thiên ma Ba-tuần nghe lời này rồi thì tâm vô cùng vui mừng, nhảy múa ca hát ra khỏi chúng hội. Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi Tử bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Đây là người gì mà lại nhảy múa, vui mừng rồi ra khỏi chúng hội? Phật bảo: –Này Xá-lợi Tử! Đó là Thiên ma Ba-tuần, hiện thân hình một Trưởng giả đến chỗ của ta muốn ngăn che chính pháp, nghe ta nói đời sau người tin hiểu kinh này rất ít, nên sinh tâm vui mừng, xướng lên: “Quyến thuộc của Sa-môn Cù-đàm thì giảm bớt, còn quyến thuộc của ta thì thêm nhiều. Lúc này, Thiên ma Ba-tuần sinh tâm vui vẻ rồi ra khỏi chúng hội muốn trở về thiên cung bèn suy nghó: “Bồ-tát Hư Không Tạng này và các Bồ-tát khác, các thứ công đức hiện có nơi Sa-môn Cù-đàm thảy đều bị tổn giảm.” Bồ-tát Hư Không Tạng tức thì dùng diệu lực của thần thông để ngăn ma Ba-tuần cùng đám quyến thuộc dừng lại giữa hư không khiến không thể đi tới được, rồi bảo ma Ba-tuần: –Hư không chẳng ngăn ngại sao không mau trở về? Thiên ma thưa: –Ông thấy hư không chẳng có ngăn ngại, còn tôi thì thấy hư không hoàn toàn là tối tăm, không biết chỗ để đi, nhìn xuống chỉ thấy ánh sáng của Phật Thế Tôn tỏa chiếu khắp. Bồ-tát Hư Không Tạng bảo ma Ba-tuần: –Nếu trong tâm ý của người ưa thích pháp lành mà bên ngoài lại thấy u ám thì không có lẽ ấy. Thiên ma Ba-tuần biết trong tâm mình luôn có sự ganh ghét, não hại nên sinh hổ thẹn, nói với Bồ-tát Hư Không Tạng: –Tôi từ nay về sau không dám làm các việc của ma nữa. Bồ-tát Hư Không Tạng nói: –Ba-tuần! Đó là việc hiếm có, là việc khó làm nay ông đã phát khởi ý nguyện vững chắc như vậy. Này Ba-tuần! Ông và quyến thuộc của mình nên trở lại chỗ Đức Như Lai để nghe và lãnh hội pháp quan trọng. Vì sao? Vì Phật xuất hiện ở đời rất khó gặp. Khi ấy, ma Ba-tuần tâm ý muốn trở về cung chứ không muốn nghe pháp, do Bồ-tát Hư Không Tạng chỉ bảo nên cùng với đám quyến thuộc từ nơi hư không lần lượt quay trở lại. Bấy giờ, Bồ-tát Hư Không Tạng bảo các Bồ-tát: –Các Nhân giả! Chư vị có thể thuyết giảng về pháp môn vượt hơn các ma chăng? Tùy theo chỗ ưa thích của mình mà nêu bày đầy đủ. Lúc đó, trong chúng hội có Bồ-tát tên là Sơn Vương nói như vầy: Nếu mong cầu nhằm xa lìa cảnh giới của các ma thì rơi vào cõi ma. Nếu biết tất cả cảnh giới đều là cảnh giới của Phật, không có cảnh giới của ma thì người ấy gọi là tùy thuận nơi cảnh giới của Phật. Hội nhập nơi cõi Phật hãy còn không thấy cảnh giới của Phật, huống nữa là cảnh giới khác, do đấy mà Bồ-tát vượt hơn cõi ma. Đó gọi là pháp môn vượt hơn các ma của Bồ-tát. Bồ-tát Bảo Cát Tường nói: –Người mà tâm còn vướng mắc là cảnh giới của ma. Nếu ở nơi các pháp không còn đối tượng để vướng mắc thì biết tất cả các pháp đều không thể nắm giữ, thủ đắc, không còn nơi chứa nhóm thì ở chỗ ấy làm gì có chỗ tạo tác của ma. Đó là pháp môn vượt hơn các ma của Bồ-tát. Bồ-tát Bảo Thủ nói: –Nếu còn chấp trước thì rơi vào cảnh giới của ma. Nếu không chấp giữ thì không còn sự cạnh tranh, tâm không còn chấp về một hoặc hai, huống gì là các ma. Nếu Bồ-tát chứng được pháp môn không chấp này thì vượt hơn cảnh giới của các ma là pháp môn vượt hơn Ma của Bồ-tát. Bồ-tát Bảo Dũng nói: –Nếu rơi vào có và không thì đó là tranh chấp, vì có tranh chấp nên ở trong cảnh giới của ma. Nếu không rơi vào nẻo không, có thì thuận theo chỗ tương ưng của thức, không bị lay chuyển, trụ vào biên vực của vô tướng thì vượt hơn cảnh giới của ma. Đó là pháp môn vượt hơn các ma của Bồ-tát. Bồ-tát Bảo Tư Duy nói: –Như Lai giảng nói tất cả đều là phiền não, vọng tưởng, như bóng sáng, như ảnh tượng, không chuyển chẳng phải là không chuyển, không đến, không đi, không ở trong, không ở ngoài. Nếu nhận biết như vậy thì đối với sự phân biệt về phiền não không khởi cũng không diệt, nên đoạn trừ mọi sự “biến kế”, vượt hơn cảnh giới của ma. Đó là pháp môn vượt hơn các ma của Bồ-tát. Bồ-tát Bảo Tạng nói: –Nếu phân biệt có nhiễm và không nhiễm thì còn sự thương ghét, do còn sự thương ghét nên rơi vào nẻo hành của ma. Nếu xa lìa thương ghét gọi là trụ vào sự bình đẳng. Nếu trụ vào sự bình đẳng thì đối với các pháp luôn xa lìa các tướng. Vì xa lìa các tướng nên suy nghó bình đẳng. Được sự bình đẳng này thì vượt lên cảnh giới của ma. Đó gọi là pháp môn vượt hơn các ma của Bồ-tát. Bồ-tát Ly Bảo nói: –Người sinh khởi về ngã là nghiệp của ma. Nếu ngã thanh tịnh thì đâu còn có việc làm của ma. Vì sao? Vì do ngã thanh tịnh nên phiền não thanh tịnh, phiền não thanh tịnh nên tất cả các pháp thanh tịnh. Do tất cả các pháp thanh tịnh nên hư không thanh tịnh. Người trụ vào pháp hư không thanh tịnh ấy thì gọi là vượt hơn cảnh giới của ma. Đó là pháp môn vượt hơn các ma của Bồ-tát. Bồ-tát Pháp Vương nói: –Ví như Đại vương đã làm lễ quán đảnh, có uy lực lớn, không hề lo sợ. Bồ-tát đạt được pháp quán đảnh cũng lại như vậy. Dùng các pháp báu làm quyến thuộc, đối với các loài ma không còn sợ hãi. Vì sao? Vì ngôi vị quán đảnh ấy đã gồm đủ tất cả các loại pháp báu của vô lượng pháp Phật, có thể giữ gìn giáo pháp của hết thảy chư Phật trong mười phương đã giảng nói. Nếu Bồ-tát tâm an trụ như vậy thì vượt hơn cảnh giới của ma. Đó là pháp môn vượt hơn các ma của Bồ-tát. Bồ-tát Sơn Tướng Kích Vương nói: –Ví như có lỗ hổng, gió thổi vào trong ấy làm cho vật có tướng lay động qua lại. Bồ-tát cũng vậy, nếu tâm có kẽ hở thì tâm bị lay động. Vì bị lay động nên ma xen vào. Do đó, Bồ-tát phải luôn giữ tâm không có khoảng trống, nếu tâm không có khoảng trống thì các tướng đầy đủ, vì các tướng đầy đủ nên tính không được viên mãn. Đó là pháp môn vượt hơn các ma của Bồ-tát. Bồ-tát Hỷ Kiến nói: –Đối với những sự nhận thấy thì thấy Phật, thấy pháp là hơn hết. Trong đó, thấy Phật thì không dùng sắc để thấy, không dùng thọ, tưởng, hành, thức để thấy. Đối với các pháp đều không có đối tượng được nhận thấy. Người thấy Phật, thấy pháp một cách chân chính, nên ở nơi các pháp xa lìa sự tác ý, không thấy văn tự, không sinh tham chấp. Ấy là thấy pháp một cách chân chính. Do thấy Phật, thấy pháp được thành tựu nên vượt hơn cảnh giới của ma. Đó là pháp môn vượt hơn các ma của Bồ-tát. Bồ-tát Đế Võng nói: –Khởi niệm suy nghó gọi là nghiệp của ma. Bồ-tát đối với nhân duyên ấy, nếu có động, niệm, suy nghó, không tác ý như lý, đó đều là việc làm của ma. Nếu không động, không niệm, không khởi tư duy, không sinh sự xúc chạm thì vượt hơn cảnh giới của ma. Đó là pháp môn vượt hơn các ma của Bồ-tát. Bồ-tát Công Đức Vương Quang Minh nói: –Nếu còn có đối trị tức là nghiệp của ma. Nếu không còn đối trị tức là pháp giới. Tất cả các pháp đều tùy thuận theo pháp giới, nếu hội nhập nơi pháp giới thì không có cảnh giới của ma. Vì sao? Nếu lìa pháp giới thì ma không thể hiện bày. Pháp giới và cảnh giới của ma đồng tính chân như, không mảy may sai khác. Nếu Bồ-tát hiểu được điều này thì đi vào nẻo chân như, vượt hơn cảnh giới ma. Đó là pháp môn vượt hơn các ma của Bồ-tát. Bồ-tát Hương Tượng nói: –Người không có diệu lực thì ma được tùy tiện, người có diệu lực thì ma không thể tùy tiện. Người không có diệu lực nghĩa là khi nghe ba pháp môn giải thoát liền sinh tâm khiếp sợ. Người có diệu lực thì khi nghe ba pháp môn giải thoát không hề khiếp sợ. Vì sao? Vì chứng đạt giải thoát nên không còn sợ hãi. Vì không sợ hãi nên vượt trên cảnh giới của ma. Đó là pháp môn vượt hơn các ma của Bồ-tát. Bồ-tát Từ Thị nói: –Cũng như biển cả đồng một vị mặn, biển trí của pháp Phật cũng đồng một pháp vị như vậy. Hoặc Phật hay pháp đều bình đẳng, Không, Vô tướng, Vô nguyện, không sinh, không khởi, bình đẳng một tướng, một vị. Nếu Bồ-tát biết rõ về tướng một vị ấy thì vượt trên cảnh giới của ma. Đó là pháp môn vượt hơn các ma của Bồ-tát. Bồ-tát Hư Không Tạng nói: –Ví như hư không hơn hẳn tất cả cảnh giới đã có, cũng không có sáu căn. Như vậy, Bồ-tát biết tự tính của tất cả các pháp là thanh tịnh, bình đẳng giống như hư không cùng với thân, khẩu, ý hội nhập vào ánh sáng trí tuệ. Nếu đạt được ánh sáng trí tuệ ấy thì vượt hơn cảnh giới của ma. Đó là pháp môn vượt hơn các ma của Bồ-tát. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: –Nhân giả, những lời các vị nói đều là cảnh giới của ma. Vì sao? Vì nếu nêu bày bằng văn tự thì đều là nghiệp của ma, cho đến lời Phật nói cũng là nghiệp của ma. Không có ngôn ngữ, xa lìa mọi văn tự thì ma không thể hiện bày. Nếu không nêu bày thì sẽ không có kiến chấp về ngã và văn tự. Vì vô ngã cho nên đối với các pháp không tăng giảm. Người hội nhập như vậy thì vượt hơn cảnh giới của ma. Đó là pháp môn vượt hơn các ma của Bồ-tát. Khi ấy, Bồ-tát Đại Hư Không Tạng bảo ma Ba-tuần: –Ngươi có nghe giảng nói về pháp môn vượt hơn cảnh giới của ma ấy chăng? Ba-tuần đáp: –Đúng vậy, tôi đã có nghe. Bồ-tát Đại Hư Không Tạng bảo: –Ba-tuần! Ngươi đối với pháp môn vượt hơn cảnh giới ma mà các Đại Bồ-tát đã giảng nói còn dám tạo tác các việc của ma chăng? Đáp: –Thưa Đại só! tôi từ xưa đã nghe pháp môn thù thắng vượt hơn cảnh giới của ma, hoặc sẽ nghe thì cũng không dám làm việc của ma, huống nữa là trong hiện tại. Lúc đó, trong chúng hội có bốn quyến thuộc của chư Thiên hộ trì đạo tràng Bồ-đề. Một tên là Điền-khước-lê, hai tên là Tam-mâu-đắc-khước-lê, ba tên là Cụ Hương, bốn tên là Tịnh Tín. Bốn vị trời này bảo ma Ba-tuần: –Xưa, ta thấy người ở nơi cội Bồ-đề, lúc Đức Như Lai đang an tọa nơi ấy thành tựu đạo quả chính giác, người đã dẫn binh ma đến đó gây trở ngại. Bấy giờ, Đức Thế Tôn thể hiện tâm Từ bi với giới pháp thuận hợp, dịu dàng, định tuệ kiên cố, dũng mãnh, phước trí tinh tấn, dùng tay báu ấn mạnh xuống mặt đất khiến vô lượng thế giới liền chấn động. Diệu lực thần thông của Đức Thế Tôn đã thu phục ngươi và đám quyến thuộc, đó là điều rõ ràng. Nay ở chỗ Phật và Bồ-tát lại muốn làm việc ma sao? Ba-tuần! Ngươi và đám quyến thuộc từ nay về sau đối với Phật và Bồ-tát phải nên tôn trọng, tu tập, cúng dường. Bấy giờ, ma Ba-tuần liền biến hóa ra tám vạn bốn ngàn ức lọng báu che khắp đại chúng, lại dùng vô số vô lượng hoa đẹp cùng hương bột, hương xoa của cõi trời để tung rải nơi chỗ Phật và đại chúng trong hội và thưa: –Tất cả mọi sự trang nghiêm hiện có nơi cõi Dục và hết thảy sự trang nghiêm nơi mọi cõi Phật, cho đến sự trang nghiêm nơi cung điện của tôi cùng với các thứ châu báu thù thắng hiện có, các vật dụng tốt đẹp nhất nơi cõi trời, cõi người, đều đem đến để cúng dường Phật và chúng Tăng, cũng đem cúng dường Bồ-tát Hư Không Tạng. Lúc ấy, Bồ-tát Hư Không Tạng nói với ma Ba-tuần: –Ngươi và đám quyến thuộc đều nên phát tâm cầu đạo quả Vô thượng Bồ-đề chính đẳng giác. Khi đó, ma Ba-tuần cùng tám vạn bốn ngàn quyến thuộc đều phát tâm cầu đạt đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác. Trong đám quyến thuộc ấy có một người con của ma tên là Ác Diện, là kẻ đứng đầu trong các quân ma, tâm không kính tin, ưa làm việc phi pháp, bèn nói: –Cần gì phải phát tâm Bồ-đề này. Chúng ta nên dùng vô số cách để làm cho kinh như vầy ẩn mất nơi đất, không còn được lưu truyền. Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Hư Không Tạng: Này Đại só! Có nghe ma nói chăng? Ông nên tuyên thuyết thần chú để thu phục, ngăn chận các ma và đám quyến thuộc khiến chúng không thể thực hiện được điều vừa nói, lại cũng nhờ uy lực nơi thần chú này mà các chúng ma được an trụ trong đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Lúc đó, Bồ-tát Đại Hư Không Tạng liền nói thần chú: –Đát nhó dã, tha a mạt xỉ, vó mạt xỉ tam mạt đê bà tứ, đa nô tán địa, nỗ lỗ đát la nãi niết già đát nhó, vị đát la dữu yết đê, ca lỗ nã nể, san nê bà để dã, mạt để thiện đa lạc ngật lộc đạt ma niết vật lý đê đạt ma ngật sử đê ô khu lý nễ xí lý hộ lư, hộ lư, hộ lư, hộ lư, đát yết lê, đát tha pha, nể để thỉ la, nô mạt để, ác ngật sái, da niết nể, thế yết lê, xa phả yết lý thế một đà địa cầm xỉ, đế đạt mâu nhập lỗ la, nể tăng già nô ngạ mê, a nô đế lỗ a na để yết la ma nỉ phạt, nể la ha ni ma la, phả ngật sái, tư dứu hột để, hột lý, đê an nỗ lê a xa ta đát lê tát vó sái dã nỗ ngạ minh a lý dã nỗ ca lê tất đệ tất đà phả nê mẫu ngật sái, nỗ câu lê nễ la, ha nễ phả la phạ nễ nam đạt lý sái, nễ ma la bát lý sái, nặc a vó phiến đỗ dã đát phạ, lư ma ha la nhã nặc xã yết lư, nê phạ na mẫn nại lạc một la, ha ma, ta ham phả để mẫu đà bát la, tát na nê phạ na ngạ dược ngật sá, yết lý đởm phả lý đát la, nam tát tha, tỷ đởm ta phạ, ta đinh dã, dã nam đạt ma bà nả ca na ma lạc ngật sái, phạt tát đạt ma tả phả lý dược la, ha da ta phạ ha. Bồ-tát Đại Hư Không Tạng nói thần chú rồi, tức thì tam thiên đại thiên thế giới đều chấn động đủ sáu cách. Ma ác kia, tâm không có niềm tin thanh tịnh, không thích pháp, nghe giữa hư không có tiếng nói lớn: –Nếu có người được nghe thần chú này, hoặc ma, hoặc con trai, con gái của ma, hoặc là dân ma, không phát tâm cầu đạo quả Vô thượng Bồ-đề, không từ bỏ việc làm của ma thì bị Lạc-xoa Kim Cang Thủ dùng chày Kim cang đại hỏa diệm đánh vỡ đầu kẻ ấy. Lúc này, các ma, tâm đều lo sợ kinh hồn, đều ngước lên nhìn hư không, thấy có năm trăm vị đại Kim cang thủ, mỗi vị đều sắp giáng chày xuống nơi đầu các ma ác. Tất cả các ma đều khiếp sợ nên cùng lúc phát tâm cầu đạo quả Bồ-đề vô thượng chính đẳng chính giác. Khi ấy, Đức Thế Tôn vui vẻ mỉm cười. Tôn giả A-nan liền chắp tay nhất tâm bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Như Lai mỉm cười chẳng phải là không có duyên cớ. Nguyện xin Như Lai vì con mà giảng nói rõ. Thế Tôn bảo A-nan: –Ông có thấy năm trăm chúng ma này vì kinh sợ nên cùng phát tâm Bồ-đề chăng? Tôn giả A-nan thưa: –Đúng vậy, thưa Thế Tôn, con đã thấy. Đức Phật lại bảo Tôn giả A-nan: –Ma Ba-tuần này lúc thành Phật cùng với đám quyến thuộc kia ở nơi các thế giới mỗi mỗi đều có tên gọi khác nhau. Tôn giả A-nan thưa: –Bạch Thế Tôn! Trải qua thời gian bao lâu, ma này sẽ thành tựu đạo quả Vô thượng Bồ-đề, được đạo quả ấy rồi, hiệu Phật và thế giới tên gọi là gì? Phật bảo Tôn giả A-nan: –Ma Ba-tuần này vào đời vị lai, ở chỗ mười ngàn vị Phật làm việc của ma. Từ trú xứ của các vị Phật ấy được nghe pháp môn Kim cang tràng, phá trừ phiền não, đạt được thanh tịnh. Lại, nơi chốn Phật đó được nghe pháp môn bí mật sâu xa, giữ gìn phép tắc oai nghi, hành trì giới pháp mà được công đức. Vào đời sau rốt, nơi trú xứ của Đức Như Lai Vô Biên Vô Cấu Tràng, siêng thực hành các phương tiện, cũng làm các việc ma, nhưng căn lành thành tựu, tâm vững chắc, được ánh sáng của tất cả pháp Phật, phát tâm Bồ-đề. Sau đó, trải qua nơi vô lượng, vô số trú xứ của Phật, cung kính cúng dường đối với pháp của vị Phật ấy, xuất gia tu đạo, hộ trì chính pháp, giáo hóa thành tựu vô lượng chúng sinh. Lại, trải qua bốn vạn a-tăng-kỳ kiếp, sẽ được thành đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác, danh hiệu là Diệu Trụ Đắc Pháp Quang, gồm đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, chính Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Thế giới tên là Thanh tịnh an lập, kiếp là Thanh tịnh. Lại nữa, này Tôn giả A-nan: –Thế giới Thanh tịnh an lập ấy, các cõi nước đều giàu có, muôn dân an lạc, như ở cõi trời Đâu-suất-đà luôn đầy đủ các vật báu thọ dụng. Bồ-tát ở cõi ấy luôn đầy đủ các vật thọ dụng cũng như vậy. Đức Như Lai Diệu Trụ Đắc Pháp Quang có tuổi thọ là bốn mươi trung kiếp, có sáu mươi bốn ức các chúng Thanh văn và một vạn hai ngàn chúng Đại Bồ-tát. Này A-nan-đà! Như vậy các ma, hoặc con trai, hoặc con gái, dân ma cùng phát tâm an trụ nơi đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác, đều được sinh vào thế giới Thanh tịnh. Khi ấy, Đức Như Lai Diệu Trụ Đắc Pháp Quang biết rõ tâm niệm của họ rồi thì đều thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. KINH ĐẠI TẬP những điều BỒ-TÁT Hư Không tạng hỏi Phật <卷 id="117270387">Quyển 8 Bấy giờ, trong chúng hội có chư vị trời Đế Thích, Phạm vương, Hộ thế thấy ma Ba-tuần được thọ ký đạo quả Bồ-đề, tất cả đều sinh tâm cho là điều hết sức kỳ lạ, đặc biệt, khen ngợi và thưa: –Bạch Thế Tôn! Các ma đó ở nơi Phật đã khéo nêu giảng về giáo pháp, giới luật, tuy làm việc của ma, mà hãy còn gặp Đức Như Lai, lại có phước đức và được thọ ký sẽ chứng đắc đạo quả Vô thượng Bồ-đề, Niết-bàn rốt ráo. Bạch Thế Tôn! Lẽ nào có hàng thiện nam, thiện nữ, là những người khéo dùng tín tâm đối với pháp Phật, mà chỗ phước nghiệp đạt được có thể so sánh! Nên biết đấy đều là cảnh giới của chư Phật, các hàng Thanh văn, Duyên giác không thể suy lường được. Lúc đó, Đức Phật bảo trời Đế Thích, Phạm vương Hộ Thế và chúng trời người: –Như lời các ông đã nói, là thật chứ không hư dối. Đó chính là cảnh giới của chư Phật, Như Lai. Này thiện nam! Nói về tâm là pháp duyên sinh. Ví như tấm vải lụa được nhuộm có chỗ thấm màu, hoặc có chỗ thì không thấm màu, tâm hành của chúng sinh cũng lại như vậy, hoặc khởi phiền não, hoặc không khởi phiền não, hoặc có lợi căn hay độn căn. Như Lai đều tùy theo căn cơ của chúng sinh mà thuyết pháp thích hợp để giáo hóa, khiến cho tất cả cùng được tỏ ngộ, thâm nhập nơi chính pháp. Này thiện nam! Nói về phiền não thì không có nơi chốn, cũng không chỗ trụ, lại không tích tụ. Từ chỗ hòa hợp với tác ý không đúng như lý mà sinh ra. Nếu quan sát đúng như lý thì tính của tạp nhiễm là thanh tịnh. Nhưng mật ý của Như Lai gọi là tà kiến, nếu nhận biết đúng như thật tức là chính kiến, không phải là tà, chính, do nhận thức vượt qua chỗ thật có nơi hiện tại. Nếu đối với tà kiến và chính kiến nhận biết rõ về mình, không sinh chấp giữ thì gọi là hội nhập vào nẻo chính kiến. Này thiện nam! Phiền não như lớp da, sự thanh tịnh là tính, do bị nó ngăn che nên trí tuệ không có hiệu lực, vì thế không thấy được bản tính thanh tịnh. Lại nữa, có sự phân biệt gọi là phiền não, không phân biệt gọi là tính thanh tịnh. Này thiện nam! Ví như đại địa nương vào nước mà trụ, nước nương vào gió mà trụ, gió dựa vào hư không mà trụ. Đó là cái không trong bốn giới, không có chỗ nương tựa. Do hư không ấy không hủy hoại, không lay động, nên không có chỗ tích tụ. Do không có chỗ tích tụ nên trụ nơi chẳng sinh diệt, tương ưng với tự tính. Vì thế, ba cõi chẳng tồn tại lâu dài, là vô thường, biến đổi, chẳng phải là cảnh giới hư không. Như vậy, uẩn, xứ, giới dựa vào nghiệp, phiền não mà trụ, nghiệp phiền não dựa vào tác ý không đúng như lý mà trụ, tác ý không đúng như lý thì dựa nơi tự tính của tâm thanh tịnh mà trụ. Tâm thanh tịnh này không bị phiền não của khách trần làm cho cấu nhiễm. Tác ý không đúng như lý, nghiệp, phiền não, uẩn, xứ, giới hiện có, tất cả đều do nhân duyên hòa hợp mà có, nếu thiếu nhân duyên thì không sinh khởi. tính thanh tịnh ấy thì không có nhân duyên, không có hòa hợp, chẳng có sinh diệt, tính như hư không. Tác ý không đúng như lý thì như gió, nghiệp, phiền não như nước, uẩn, xứ, giới như đất. Do đó, tất cả pháp đều không bền chắc, nguồn gốc không trụ, xưa nay đã thanh tịnh. Này thiện nam! Đó gọi là pháp môn quang minh của tự tính thanh tịnh. Bồ-tát đã chứng nhập nơi pháp môn này, nên không bị các thứ cấu uế của phiền não làm ô nhiễm, cũng không suy nghó phân biệt về pháp thanh tịnh này. Vì không suy nghó phân biệt, nên dứt bặt tất cả mọi sự tìm cầu, quán xét duyên dựa, chứng được tính thanh tịnh, vì chứng được tính thanh tịnh nên vượt hơn cảnh giới của ma. Nhờ vượt hơn cảnh giới của ma nên được an trụ vào cảnh giới của Phật. Nhờ an trụ vào cảnh giới của Phật nên vượt hơn cảnh giới của chúng sinh, hội nhập vào pháp giới bất động. Do hội nhập vào pháp giới thanh tịnh bất động, nên nhập vào cảnh giới bình đẳng không sai khác. Đó gọi là đạt được trí Nhất thiết trí. Khi Đức Phật giảng nói pháp này thì có vô lượng Bồ-tát đều xa lìa mọi sự trói buộc cấu uế của chướng nơi nghiệp, phiền não, chứng được pháp Nhẫn vô sinh. Bấy giờ, Ưu-bà-tắc Thất-lợi-cúc-đa ở trong đại chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, cung kính đảnh lễ nơi chân Phật, thưa: –Bạch Thế Tôn! Nay con từ nơi Phật được nghe pháp môn thanh tịnh giải thoát này tức thì dứt hết mọi nghi ngờ. Vì sao? Vì từ xưa con đã từng bày ra hầm lửa lớn và trộn chất độc vào thức ăn, khởi tâm muốn làm tổn hại Đức Như Lai, nhưng oai đức của Đức Thế Tôn không hề bị thương tổn. Đức Phật lại vì con mà thuyết giảng chính pháp, con tuy ít tin theo, tâm còn nghi ngờ, nhưng đã sinh lòng hối hận. Nay ở trước Phật, lại được nghe kinh điển sâu xa này, lưới nghi đều tiêu trừ, tâm không còn lo sợ. Được ánh sáng của giáo pháp, liền phát tâm Bồ-đề cầu đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác. Bạch Thế Tôn! Nay con được gọi là người đạt lợi ích, thù thắng lớn. Lúc đó, Đức Phật khen ngợi Trưởng giả Thất-lợi-cúc-đa: –Lành thay! Lành thay, này thiện nam! Nay ông được nghe Như Lai thuyết giảng giáo pháp, nên sinh khởi niềm tin thanh tịnh. Do nhân duyên này, nên đối với chư Phật hiện có ở Hiền kiếp, ông nên phụng sự, cung kính, cúng dường. Ở chỗ các Đức Phật đó rộng tu phạm hạnh, hộ trì chính pháp, trải qua bảy trăm vạn a-tăng-kỳ kiếp sẽ được thành Phật hiệu là Ly Nhất Thiết Triền, gồm đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, chính Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Khi Ưu-bà-tắc Thất-lợi-cúc-đa nghe Phật thọ ký cho mình đạo quả Vô thượng Bồ-đề thì rất vui mừng, cho là đạt được điều chưa từng có, liền cởi xâu chuỗi anh lạc quý đang đeo nơi thân tung rải lên chỗ Phật, thưa: –Bạch Thế Tôn! Nay ở trong nhà con có bốn kho lớn, chứa đầy các thứ vật báu. Con sẽ đem kho thứ nhất cấp cho đám vợ con, kẻ hầu hạ và binh lính. Kho thứ hai thì đem cho những người nghèo cùng khốn khổ, cô độc, hành khất. Kho lớn thứ ba thì xin đem cúng dường cho tất cả Tỳ-kheo vãng lai và tăng chúng bốn phương. Kho báu lớn thứ tư thì xin dâng cúng Như Lai và các bậc Tỳ-kheo thượng thủ. Nguyện xin Đức Thế Tôn làm cho con sớm được thành tựu công đức bố thí không còn trụ nơi tướng. Nay con muốn ở trong giáo pháp của Đức Như Lai được xuất gia thọ giới, tu tập phạm hạnh, khéo giảng nói giới luật. Đức Thế Tôn liền chấp thuận. Lúc đó, Ưu-bà-tắc Thất-lợi-cúc-đa được xuất gia, thọ giới cụ túc. Bấy giờ, Bồ-tát Đại Hư Không Tạng thưa Phật: –Bạch Thế Tôn! Như Lai đã ở trong vô lượng a-tăng-kỳ kiếp tu hành, tích tập công đức chứng được pháp Vô thượng chính đẳng chính giác rất khó chứng đắc. Sau khi Như Lai diệt độ, ai sẽ là người phụng trì giáo pháp ấy? Lúc này, trong chúng hội có sáu mươi ức Đại Bồ-tát, từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay lễ Phật, cùng nhau nói kệ: Như Lai diệt độ rồi Chúng ta đều phải nên Không luyến tiếc thân mạng Hộ trì chính pháp Phật. Bỏ tất cả danh lợi Xa lìa các quyến thuộc Không bỏ chính pháp ấy Vì để đạt trí Phật. Chê bai, bị mắng nhiếc Lời nói ác, thô lỗ Do hộ trì chính pháp Như thế đều nhẫn được. Khinh rẻ và đùa bỡn Phỉ báng, không khen ngợi Như thế thảy đều nhẫn Vì để giữ kinh này. Các Tỳ-kheo đời sau Cùng nhau cầu danh lợi Nên làm bạn với ma Gây chướng ngại nơi pháp. Người hủy giới, phá giới Gần gũi với thế tục Do tham đắm cúng dường Không chuyên cầu chính pháp. Thích học tập ngoại đạo Không hiểu biết, kiêu ngạo Tự đề cao chính mình Quấy nhiễu người thanh tịnh. Xả bỏ chốn vắng lặng Ưa nói lời tổn hại Ham học chú thuật ác Chấp giữ nơi thân kiến. Muốn biết việc chúng Tăng Tạo chướng ngại cho Tăng Bỏ thiền định, tụng tập Làm các việc thế gian. Thường mong cầu lợi dưỡng Không thích giới, đa văn Tuy thực hành bố thí Tâm thường bị tạp nhiễm. Chấp vô số tướng ngã Chỉ nhớ việc khất thực Muốn đến nhà bạch y Luận bàn chuyện thế tục. Việc đồng áng, thế gian Trao đổi và mua bán Ưa làm việc như vậy Tự xưng là Sa-môn. Tham đắm nơi các cõi Chấp chặt các tà kiến Nghe thuyết pháp chân không Sợ như vào vực sâu. Không tin có nghiệp quả Cho chẳng có đời sau Chỉ nói lời dối trá Phi pháp nói là pháp. Tỳ-kheo trong đời ác Sức tự tại như vua Ở đời mạt pháp này Ta hộ trì chính pháp. Đối với các kinh điển Không cầu cũng không đọc Tự thấy mình là thầy Cùng làm việc quấy, trái. Mọi kinh điển sâu xa Cùng tương ưng giải thoát Đối chính pháp như vậy Đều không thích thuyết giảng. Ưa luận bàn việc đời Khen ngợi là hiếm có Những người ác như thế Chẳng lâu, diệt chính pháp. Kinh hết mực vi diệu Văn nghĩa đều rõ ràng Lúc ở đời ác ấy Thảy đều bị hoại diệt. Vua phi pháp, vô đạo Muôn dân đều trốn tránh Nơi đời ác như thế Tất cả đều sợ hãi. Chúng ta cùng có thể Ở đời mạt pháp ấy Giữ gìn lời Phật dạy Là chính pháp vô thượng. Ban lòng thương chúng sinh Dù phá hoại chính pháp Cũng khởi tâm thương xót Do gìn giữ kinh này. Nếu có người trì giới Sinh khởi tâm tham ái Ta đem lòng thương xót Phương tiện khiến xả bỏ. Nếu thấy người tâm ác Hủy báng chính pháp Phật Vì họ khởi tâm Từ Khiến thấy ta vui vẻ. Tùy năng lực giúp người Không thêm lời thô ác Cũng không nói lời dữ Người đó sẽ an trụ. Lại dùng bốn Nhiếp pháp Thành tựu những người đó Khiến họ được kính tin Biết rõ lỗi hư dối. Ta bỏ chốn ồn náo Ở nơi chỗ vắng lặng Không tiếp xúc việc đời Giống như nai tự tại. Ít cầu và biết đủ Tu hạnh bốn Thánh chủng Giữ giới, hành Đầu-đà Đủ thiền định, trí tuệ. Ta tu không gián đoạn Nhu hòa, được giải thoát Nếu đi vào làng xóm Sẽ nói pháp vi diệu. Nếu có người cầu pháp Ở chỗ xa, vắng vẻ Thanh tịnh tự tu trì An trụ nơi pháp lạc. Nếu người ở trước mặt Tạo nên các lỗi lầm Ta vì lợi chúng sinh Nên tự quán thân hành. Trụ pháp thường tónh lặng Cung kính, không cung kính An định như Tu-di Không nhiễm pháp thế gian. Ta sẽ làm Đạo sư Tỳ-kheo hủy phá giới Lại dùng thêm lời ác Quán mình phải thọ nghiệp. Không khởi tâm báo thù Chẳng nghó hại người khác Điều đó ta chẳng làm Thường trụ nơi chính pháp. Ta là bậc Sa-môn Họ chẳng hành Sa-môn Nghe ta nêu chỉ dẫn Thì hủy báng kinh điển. Hoặc cắt bỏ tai mũi Cũng không muốn gặp ta Nếu thật nghe, khuyên bảo Liền phỉ báng chính pháp. Các Tỳ-kheo đời sau Người thọ trì pháp Phật Vì họ tạo ngăn ngại Không khiến nghe chính pháp Đến vua nói ly gián Phá hoại trong đại chúng Chúng ta nương lực Phật Nay được nghe pháp này. Nên ở đời ác kia Thà xả bỏ thân mạng Để hộ trì chính pháp Làm lợi ích chúng sinh. Trước biết người ưa thích Sau mới dùng lời nói Rất sợ hãi đời sau Trụ hạnh chân thật ấy Con hỏi Đấng Pháp Vương Vị mắt sáng cho đời Nhờ thọ trì kinh này Được bao nhiêu phước đức? Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Đại Hư Không Tạng và các Đại Bồ-tát: –Thiện nam! Ví như một thế giới ở phương Đông chia làm mười tam thiên đại thiên thế giới. Các phương Nam, Tây, Bắc, bốn hướng và trên, dưới cũng lại như vậy, mỗi mỗi phương ấy lại chia làm mười tam thiên đại thiên thế giới. Đem số lượng thế giới ấy nghiền nát thành hạt bụi, lại dùng một hạt bụi làm thành một thế giới. Nếu có người ở phương Đông đi qua từng ấy thế giới vi trần đó, thả xuống một hạt bụi. Người đó lại đi về phương Đông, đi qua bao nhiêu thế giới vô số ấy, lại thả xuống một hạt bụi nữa. Như vậy, lần lượt rải hết ngần ấy số hạt bụi. Số thế giới chư Phật ở phương Đông thật không có giới hạn, các phương Nam, Tây, Bắc, bốn hướng và trên, dưới cũng lại như vậy. Này thiện nam! Ý ông nghó sao? Mười phương thế giới như vậy, số vi trần được thả xuống đó, ông nhận biết được chăng? –Bạch Thế Tôn! Không thể biết được, số thế giới vi trần ấy chỉ có Đức Như Lai dùng trí vô ngại mới biết rõ, còn người khác thì chẳng thể nhận biết được. Phật bảo: –Này thiện nam! Các thế giới ấy, hoặc chỗ thả vi trần, hoặc chỗ không thả xuống, hết thảy số thế giới đó đem xây tường vách bao quanh thành lớn, trên cao đến trời Hữu đảnh, dưới tận cùng đáy nước. Trong thành đó chứa đầy hạt cải, lấy một hạt cải làm thành một thế giới Phật. Ý ông nghó sao? Số hạt cải làm thế giới đó có nhiều chăng? –Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Phật bảo: –Thiện nam! Số hạt cải và số thế giới như vậy, ta nhận biết đến gấp trăm, gấp ngàn lần số đó, cho đến có thể biết tới các loại: Khẩn-ca-la, Di-vị-la, A-súc-bà. Nếu có thiện nam, thiện nữ nào cầu đạo quả Bồ-đề, đem bảy thứ báu có đầy khắp nơi số thế giới như trên, ban cho người trụ ở pháp công đức nhiều như số lượng hạt cải và cung kính cúng dường chư Phật, Bồ-tát thì được công đức rất là nhiều. Nếu lại có người nghe kinh điển hết sức vi diệu này, có thể phát khởi lòng tin thanh tịnh, nhẫn thanh tịnh thì chỗ phước đức đạt được hơn hẳn phần phước đức trước. Hoặc lại có người thực hành việc bố thí rộng lớn đem số lượng châu báu nhiều như hạt cải đã nêu trên để bố thí. Nếu lại có người được nghe kinh này, đối với chúng sinh khởi tâm vô ngại, trụ nơi nhẫn nhu hòa, như trong khoảnh khắc đi bảy bước, buộc niệm để suy nghó thì chỗ phước đức có được nhiều hơn hẳn phước đức nêu trước. Hoặc có người tu tập các thứ phước đức, thành tựu ngôi vị của các bậc Thiên chủ, Đế Thích, Đại phạm Thiên vương, Chuyển luân thánh vương, số đó nhiều như số lượng hạt cải đã nêu. Lại có người thọ trì kinh này, có thể nhận biết về vô thường, khổ, không, vô ngã, Niết-bàn tịch tónh. Biết được như vậy rồi, đối với chúng sinh liền khởi tâm Đại Bi, làm cho họ không bị mất hạt giống Tam bảo, phát tâm cầu đạo quả Vô thượng Bồ-đề thì phước đức người ấy nhiều hơn hẳn phước đức nêu trước. Lúc đó, Bồ-tát Đại Hư Không Tạng thưa Phật: –Bạch Thế Tôn! Nguyện xin Như Lai gia hộ cho kinh này, vào đời mạt pháp về sau, ở nơi châu Thiệm-bộ, được lưu truyền rộng khắp. Đức Phật bảo Bồ-tát Hư Không Tạng: –Này thiện nam! Ta đã đem pháp này giao phó cho bốn Thiên vương. Vì sao? Vì bốn Thiên vương này luôn hộ trì thế giới, khiến cho pháp ấy được lưu truyền rộng rãi và trụ lâu ở đời. Nay ta dùng thần chú vi diệu này để gia hộ cho bốn Đại Thiên vương, Đức Thế Tôn liền nói chú: Đát nhó giã, tha độ độ lê tha địa lê trì phạ, nhạ phả để trì phạ, nhạ lăng già, lê a mạc đắc nhó xả mê xả ma, bát để phiến để mục khê nể, ngã la ha bát ngật xoa đa a nổ na la ổ na la vó ngã ma tam ma, bát địa bá tha thâu địa bát tha nô ngã ma bát tha thâu địa bát la, chỉ nương, mục khê a lý dã, câu lê bộ đa lạt ngật sái, a nể nê sái giá minh nê sái giá đa ma sá giá đa đát bá sái giá một đà bá na đạt ma nô tán địa a lý dã, ngã nả nộ ngã na a na lý dã, nhó già đa nhó lô sắc tra, bát la, ta na minh y thấp phạ, la bá na lỗ ca thất chỉ, đát lị, ngật lý, đa a nô la ngật sa, diễn đô y mãn đạt ma tán địa nê bà nhạ đô nể lỗ ngật đề, niết nê thế bát la, để lộ ngật sái, đổ đạt ma đà lý nê. Khi ấy, bốn Đại Thiên vương nhờ sự gia hộ của thần chú nên đều run sợ, lông tóc dựng đứng, liền đến chỗ Phật, lễ nơi chân và thưa: –Bạch Thế Tôn! Bốn Thiên vương chúng con hết lòng giữ gìn và sẽ khiến cho kinh này được trụ lâu trong thế gian. Ở đời vị lai, chúng con có thể hộ cho nơi chốn lưu truyền kinh ấy, khiến các vị Thần, Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lưu-la dù không thích pháp này cũng không thể gây chướng ngại được. Nếu có thiện thần nào ưa thích pháp này thì sẽ khiến cho tâm vị ấy được an tịnh. Nếu ở trong chúng hội có vị Pháp sư thuyết pháp, quên mất câu nghĩa thì giúp cho vị ấy nhớ lại, được trí tuệ hiểu biết, tăng trưởng biện tài. Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Tứ Thiên vương: –Lành thay, lành thay! Các ông đều là con của Như Lai, từ pháp hóa sinh, được Như Lai khích lệ để hộ trì chính pháp, do nhân duyên của công đức ấy nên được làm Tứ Thiên vương, vượt hẳn thế gian, mau chứng được đạo quả. Thế Tôn lại bảo Bồ-tát Đại Hư Không Tạng: –Này thiện nam! Nay ta cũng nói thần chú gia trì cho trời Đế Thích, khiến kinh này được trụ lâu nơi đời. Đức Thế Tôn liền nói thần chú: Đát nể giã, tha thâu đệ thâu bà mạc để thâu bà vó dữu, hệ na nại lê na lý nải đổ lý nải nạp mê xả mê ô ba xả mê quật phệ điểu khâu lê a tô mục khê đà la ni a la nải luân thâu lô, sái bà tinh để a bệ nê bệ na tán địa tam mê tam ma phạ để tam ma la thấp di, a thế hộ hô hề hề khâu lư khâu lê a na để yết la, minh nể phạ lạc ngật sái, ma tinh để ma ha phạ bà ta bát la, bệ a xa đổ xá yết lư nê phạ nạng mẫn nại la, na nại, xá đa na dạ na phạ la ma cự tra đạt la y xá phạ, lỗ mạc lỗ nại bà, phạ na nể phạ tư ta phạ. Bấy giờ, trời Đế Thích, nghe thần chú rồi thì vô cùng vui mừng, nhận thấy cung điện của mình tất cả đều chấn động, liền cùng với trăm ngàn quyến thuộc trước sau vây quanh đi đến chỗ Phật, đảnh lễ nơi chân Đức Thế Tôn, rồi thưa: –Bạch Thế Tôn! Chư Thiên chúng con xin sẽ hết lòng hộ trì kinh này, ở châu Thiệm-bộ sẽ biểu dương khắp chốn, giúp cho mọi người đều được tu hành. Nếu có vị Pháp sư thọ trì kinh này thì chúng con và đám quyến thuộc sẽ cùng nhau dốc sức ủng hộ, khiến dứt mọi lo nghó, được an vui, sinh niềm tin thanh tịnh. Những người thọ trì kinh ấy đều được thành tựu, dùng pháp để trang nghiêm. Nếu có các vị Pháp sư thuyết giảng kinh nơi đô thành hoặc ở các thôn xóm, làng xã thì con sẽ sai bảo đám quyến thuộc cùng nhau đến hộ trì cho các vị ấy. Nếu có người khinh chê, nhục mạ Pháp sư đó thì con sẽ khiến họ phát tâm thanh tịnh. Hoặc có các thứ ma tạo chướng ngại thì con sẽ hiện bày uy lực khiến các ma phải tránh xa, không được tùy tiện quấy phá. Khi đó, Đức Phật bảo trời Đế Thích: –Lành thay, lành thay! Kiều-thi-ca! Ông sẽ đạt được mọi thứ tự tại trong cõi trời, an trụ nơi pháp tự tại, ở chỗ của tất cả Phật hộ trì chính pháp, đều có thể gầm lên tiếng gầm của sư tử. Vì sao? Vì trời Đế Thích có khả năng thọ trì chính pháp của Phật, đối với chính pháp của chư Phật nơi ba đời giảng nói đều có thể giữ gìn. Thế Tôn lại bảo Bồ-tát Đại Hư Không Tạng: –Này thiện nam! Như Lai vì Đại phạm Thiên vương là chủ của thế giới Ta-bà này mà nói thần chú với đầy đủ oai đức và diệu nghĩa, nhờ thần chú ấy nên Đại phạm Thiên vương sẽ hộ trì kinh này. Đức Thế Tôn liền nói chú: Đát nhó giã, tha mỗi đát lý, thâu bà mỗi đát lý, đạt ma mẩu đát lý, mỗi đát lý dã nộ ta tứ đề tam ma mỗi đát lý, san địa mỗi đát lý, a nỗ ngạ ma mỗi đát lý, a nộ la ngật xoa mỗi đát lý a nỗ độ la mỗi đát lý tát đinh na mỗi đát lý, đạt ma mỗi đát lý, a nỗ tát la tha mỗi đát lý a vó tát la để ta la mỗi đát lý ốt lư ca na mỗi đát lý vó lư ca na mỗi đát lý mỗi dạ nỗ ngạ ma mỗi đát lý, một đà địa sắc trạch na mỗi đát lý a nỗ la ngật xoa mỗi đát lý ma bát la để lạc ngật xoa nọa mỗi đát lý mẫu ngật xoa mỗi đát lý a na nộ lý lư đà vó lư đà mỗi đát lý a đa mâu mỗi đát lý, một la hạ ma bá tha mỗi đát lý dạ la lăng ca la mỗi đát lý đát tả nỗ san địa ca lư na mỗi đát lý đát tả nỗ san địa mộ nhó đa mỗi đát lý đát tả nỗ san địa dữu bế ngật xoa, mỗi đát lý một la hạ ma bát địa nỗ ngạ na na mỗi đát lý, chất đô nhó vó lý dã mỗi đát lý a nộ ta la nọa mỗi đát lý nhó ta để la nọa mỗi đát lý tát phạ đát la nọa ngạ ma na mỗi đát lý a tát xa mạt la hàm môn ốt tất lợi dạ na tố đại vó mật dụ để sắc tra ta phạ ta phạ tam ma đề nhó sắc yết la ma ma ha vó ma nan vó dã phạ lỗ ca da nhiễm mạc nhó vó băng câu lư khấp phạ đạt ma lạc ngật xoa ma để yết la di một đà địa sắc tra nam. Lúc này, Đại phạm Thiên vương là chủ của thế giới Ta-bà, ở nơi cảnh giới của mình, nhờ thần chú gia trì cùng tâm Từ bi và diệu lực từ oai thần của Phật, nên dùng Thiên nhó nghe chú rồi, liền cùng với sáu mươi sáu vạn Phạm chúng đi đến chỗ Phật, đầu mặt lễ nơi chân Phật, lui ra ngồi sang một bên, thưa Phật: –Bạch Thế Tôn! Chúng con nhờ diệu lực gia trì từ nơi tâm đại Từ, Đại Bi của Phật, khiến chúng con được tham dự vào việc hộ trì kinh này. Nếu ở đời vị lai có các vị Pháp sư đối với kinh điển bí mật rất sâu xa này hết lòng thọ giữ, đọc tụng cho đến biên chép để phụng trì cúng dường. Hoặc vị Pháp sư ấy ở nơi thanh vắng, ở chỗ ngả tư đường nơi các thôn ấp, làng xóm, đô thành… thuyết giảng kinh này thì chúng con sẽ cùng nhau ủng hộ, dùng uy lực của mình đề thâu giữ khiến chư vị luôn được tinh tấn, niệm, tuệ, biện tài đều tăng trưởng, với người không tin sẽ làm cho họ có niềm tin, người có lòng tin thanh tịnh thì khiến an trụ vào chính hạnh. Bạch Thế Tôn! Nay chúng con đối với mắt của chính pháp mà Đức Như Lai đã thuyết giảng, đều cùng nhau dốc sức phụng trì, khiến được lưu hành khắp nơi. Khi đó, Thế Tôn bảo Đại phạm Thiên vương: –Lành thay, lành thay! Này Phạm vương! Nay Như Lai tùy hỷ về việc các ông đã hộ trì chính pháp. Phạm vương! Ông chẳng bao lâu nữa sẽ an tọa nơi đạo tràng, chuyển pháp luân như ta ngày nay không khác. Hiện tại, ông ủng hộ kinh này, còn các vị Phạm thiên khác, ở đời vị lai sẽ hộ trì chính pháp, cũng đều như vậy. Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Đại Bồ-tát Từ Thị: –Nay Như Lai sẽ đem pháp Vô thượng chính đẳng Bồ-đề ít có này, đã tích tập từ vô lượng, vô số kiếp phó chúc cho ông, cho đến nhằm để bảo ân Phật thì phải thọ trì, đọc tụng diễn nói cho người khác, cũng làm viên mãn chỗ nguyện cầu của mình, giúp cho chúng sinh tăng trưởng căn lành, tạo phương tiện cho các Bồ-tát giữ gìn ánh sáng của pháp, thu phục các thứ ma, ngoại đạo, lại hộ trì chính pháp khiến cho hạt giống Tam bảo không bị đoạn mất. Bồ-tát Từ Thị bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Ở đời hiện tại và sau khi Như Lai nhập Niết-bàn, con xin sẽ giữ gìn tạng pháp này. Vì sao? Vì con cũng đã từng ở quá khứ hộ trì chính pháp ấy. Bạch Thế Tôn! Con tuy ở cõi trời Đâu-suất nhưng đối với các kinh này luôn tăng thêm sự giữ gìn, khiến được trụ lâu ở đời. Bạch Thế Tôn! Vào đời vị lai, nếu có người nào đối với kinh này, nghe rồi thọ trì, biên chép, đọc tụng, như pháp tu tập, vì người khác mà giảng nói thì nên biết đó đều là do oai lực hộ trì của con. Thưa Thế Tôn! Lúc ấy, nếu có các ma và bè nhóm của chúng, cũng không thể làm chướng ngại đến sự thành tựu căn lành của con, cho dù chỉ một mảy may. Nếu ở trong tam thiên đại thiên thế giới, tất cả chúng sinh thảy đều là ma, hoặc là quyến thuộc của chúng thì đối với những căn lành đã thành tựu của con, dù chỉ một phần nhỏ phước trí cũng không thể cản trở được, huống hồ là đối với pháp Bồ-đề vô thượng của Như Lai đã tích tụ trong vô lượng a-tăng-kỳ kiếp mà có thể gây chướng ngại. Khi đó, Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Từ Thị: –Lành thay, lành thay! Này thiện nam! Có bốn pháp mà Bồ-tát phải thực hành. Những gì là bốn pháp? –Đó là phá trừ ma phiền não, diệt bỏ mọi kiến chấp của ngoại đạo, thành tựu đầy đủ cho các chúng sinh, hộ trì chính pháp. Này thiện nam! đó là bốn pháp, Bồ-tát phải thực hành. Bốn pháp này lấy một hành để thâu giữ. Thế nào là một hành? Đó là hộ trì chính pháp. Lúc này, Đức Thế Tôn bảo Tôn giả Đại Ca-diếp, Đại đức A-nan: –Như Lai đem kinh này phó chúc cho các ông. Các ông phải thọ trì kinh ấy và giảng nói rộng khắp cho người khác. Tôn giả Đại Ca-diếp thưa: –Bạch Thế Tôn! Con sẽ tùy theo năng lực, đối với pháp Bồ-đề vô thượng của Như Lai dốc sức giữ gìn, giảng thuyết rộng cho người khác. Đại đức A-nan cũng thưa: –Bạch Thế Tôn! Con sẽ thọ trì chính pháp cũng như vậy. Vào đời vị lai, nhờ oai lực của Phật, kinh này được lưu truyền rộng rãi, không để đoạn mất. Bấy giờ, Đại Bồ-tát Phước Trang Nghiêm từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay thưa: –Bạch Thế Tôn! kinh này như thế là Như Lai đã thuyết giảng thật hết sức sâu xa, ít có, dứt trừ mọi lưới nghi, diệu nghĩa tối thắng, khó gặp, khó tỏ ngộ, là tính tương ưng của Đệ nhất nghĩa không, dùng giới, định, tuệ để trang nghiêm, hiển bày rõ về sự giải thoát, tịch tónh không cấu nhiễm, là cảnh giới được nhận biết của các bậc trí, tất cả chư Phật đều tán thán, cũng là vua trong các kinh, dùng ấn chú để ấn chứng, khiến người thọ trì được thành tựu biện tài vô ngại, tăng trưởng trí tuệ kiên cố, không thoái chuyển, phá trừ các ma oán, không bị những kẻ dị học phá hoại, có thể dẹp trừ điều ác, tăng hợp hạnh Đầu-đà, không tham đắm nơi công đức. Đó là an trụ nơi chính pháp, với công đức về xả vô cùng lớn lao như thế, làm phát sinh vô lượng pháp và trí của chư Phật. Nếu các thiện nam, thiện nữ nào có thể thọ trì, đọc tụng kinh này, giữ tâm suy nghó, giảng nói rõ cho người khác, biên chép, cúng dường, quan sát kỹ lưỡng, tác ý đúng như lý, tương ưng theo chính hạnh thì được bao nhiêu phước đức? Đức Thế Tôn liền dùng kệ bảo Đại Bồ-tát Phước Trang Nghiêm: Ta dùng Phật nhãn nhìn mười phương Thấy các cõi rộng lớn, vô biên Trong ấy chứa đầy bảy thứ báu Đều đem cúng dường các Bồ-tát. Người nào thọ trì kinh điển này Như lời Phật dạy, không chấp giữ Hay đọc tụng, giảng nói cho người Công đức ấy vượt hẳn hơn trước. Hương thơm, hoa đẹp và lọng tán Y phục, gấm vóc cùng cờ phướn Chứa đầy, biến khắp thế giới kia Cúng dường chư Phật và Bồ-tát. Ở đời sau, khi chính pháp diệt Người nào thọ trì kinh điển này Như lời tu tập, không buông lung Đạt được phước đức vượt hơn trước. Biển cả trong mười phương thế giới Thảy đều chứa đầy vô số dầu Ngọn đèn cao như núi Tu-di Được thắp cúng dường nơi pháp Phật. Hoặc đến lúc chính pháp diệt tận Tất cả thế gian đều tối tăm Thắp lên ngọn đuốc chính pháp ấy Sẽ được công đức gấp bội trước. Đối với vô lượng bậc Đạo sư Phụng sự trải qua ức ngàn kiếp Dùng nhiều vật quý để cúng dường Siêng cầu đạo Bồ-đề tối thắng. Vì báo ân sâu của Như Lai Hộ trì Tam bảo khiến mãi trụ Chúng sinh an trụ nơi pháp Phật Thọ trì kinh này, phước hơn trước. Dùng Phật nhãn quán các hữu tình Đạt ngôi vị Phạm vương, Đế Thích Nếu có người hành trì kinh này Được phước lớn, thù thắng hơn trước. Khiến chúng sinh chứng A-la-hán Có thể thành tựu thừa Duyên giác Nếu ai hay phát tâm Bồ-đề Thọ trì kinh này, phước hơn trước. Như phước của kinh đều là sắc Tận cõi hư không, không thể chứa Chỉ trừ Nhất thiết trí của Phật Phước thù thắng này không thể rõ. Nếu ở vô số ngàn ức kiếp Thọ trì kinh Như Lai đã thuyết Công đức có được không thể lường Giống như mười phương không bờ bến. Khi ấy, Bồ-tát Phước Trang Nghiêm nghe Đức Phật nói về sự hộ trì kinh này, được công đức không thể tính lường thì rất vui mừng liền thưa: –Bạch Thế Tôn! Các chúng sinh ở đời vị lai, nếu có người không thể thọ trì kinh này thì nên biết người ấy đã bị rơi vào cảnh giới của ma. Bạch Thế Tôn! Con xem xét việc hộ trì các kinh khác, chỗ căn lành đạt được chỉ giống như hạt cải. Nếu người nào giữ gìn kinh pháp này thì sẽ được công đức rộng lớn như hư không khắp mười phương, không cùng tận, không thể nêu ví dụ được. Bạch Thế Tôn! Nay con mặc áo giáp dũng mãnh, thà bỏ thân mạng để hộ trì kinh này, không vì tham tiếc để cầu lợi cho mình, mà chỉ cầu cho tất cả chúng sinh đều được an lạc. Khi giảng nói pháp này, do diệu lực từ phước đức của Bồ-tát Đại Hư Không Tạng nên hiện bày khắp vô lượng hằng hà cõi Phật trong mười phương, Bồ-tát Hư Không Tạng và vô lượng các chúng Bồ-tát kia từ nơi hư không mưa xuống các thứ hoa để cúng dường chư Phật. Trong không trung có tiếng khen ngợi: –Lành thay, lành thay! Chỉ có Bồ-tát Đại Hư Không Tạng mới có thể thực hiện được Phật sự rộng lớn ấy, cho đến ở nơi pháp Đại tập thù thắng trang nghiêm này, cũng có thể đem giáo hóa cho chúng sinh nơi đời vị lai, tạo mọi trang nghiêm cho chính pháp, khiến họ không mất tâm Bồ-đề, đối với kinh đều hết lòng thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng thuyết. Bấy giờ, Đức Thế Tôn vì muốn phó chúc kinh này, nên thể hiện diệu lực thần thông, từ nơi thân phóng ra ánh sáng lớn, chiếu khắp vô lượng cõi Phật trong mười phương, tất cả thảy đều chấn động, có vô lượng, vô số chúng sinh phát tâm Bồ-đề, cầu đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác, có vô lượng hữu tình đạt được pháp Nhẫn vô sinh, lại có vô lượng chúng sinh tâm đạt giải thoát, có vô lượng chúng sinh được pháp nhẫn thanh tịnh, có vô lượng hữu tình xa lìa các thứ tham nhiễm, lại có vô lượng chúng sinh đạt được phước đức vượt hơn trời người, nhân đó được thấy Phật, tất cả đại chúng đều sinh tâm tùy hỷ. Phật thuyết giảng kinh này xong, Bồ-tát Đại Hư Không Tạng, Tôn giả Đại Ca-diếp, Đại đức A-nan, vua Đại phạm thiên là chủ thế giới Ta-bà, Thích Đề-hoàn Nhân, Tứ Thiên vương, các chúng Tỳ-kheo và Đại Bồ-tát, tám bộ chúng Trời, Rồng, A-tu-la, Càn-thát-bà… tất cả chúng hội nghe Phật giảng nói đều rất hoan hỷ, tin thọ phụng hành. <卷 id="117270388">