<經 id="n403">KINH A-SOA-MẠT BỒ-TÁT Hán dịch: Đời Tây Tấn, Tam Tạng Trúc Pháp Hộ, người nước Đại Nguyệt Chi. <卷 id="117270371">Quyển 1 Nghe như vầy: Một thời, Đức Phật ngự tại đạo tràng Bảo nghiêm tịnh, hết mực trang nghiêm, rộng lớn, thuộc vùng đất du hóa của Đức Như Lai, đều là chỗ kiến lập của bậc chính giác, là sự trang nghiêm của công đức lớn, dựa vào đó để tích lũy những hạnh nghiệp thần diệu, là nơi tụ hội của các bậc Bồ-tát, theo báo ứng để thành Phật, tuyên dương về vô lượng sự biến hóa của Đức Như Lai, hội nhập vào trí tuệ vô cùng sâu xa, hiện bày nơi diệu dụng thù thắng, tâm luôn an vui, nhận định phân biệt rộng khắp, là chỗ tu tập các hạnh của bậc Thánh, mở bày về đương lai, công đức vô biên, danh xưng vô hạn, giác ngộ đúng đắn về pháp bình đẳng để thành tựu Phật đạo, khéo chuyển pháp luân, khai hóa vô số chúng sinh, nhưng đối với các pháp thường được tự tại, nhận biết rõ các tính của chúng sinh, thấu tỏ các căn, vượt đến bờ giác, tùy thời, dùng phương tiện để diệt trừ mọi chướng ngại, Phật sự luôn rộng mở, an trú nơi “Không chỗ trụ”, cùng với chúng đại Tỳ-kheo sáu trăm vạn người. Chư vị ấy tâm ý luôn hòa hợp, an lạc, đoạn trừ bao thứ phiền não, mọi hệ lụy nơi thế tục, đều là hàng Pháp vương tử của Đức Như Lai, tu tập pháp thâm diệu, nhân đó mà chính pháp được tồn tại. Hết thảy mọi uy nghi thường thể hiện đầy đủ, sáng tỏ. Là bậc được thế gian tôn kính, luôn thân cận quy hướng về Như Lai. Lại cùng với vô số các chúng Bồ-tát hội đủ, số lượng đông đảo không thể tính kể. Tất cả các Bồ-tát đều đạt được thần thông, pháp Tổng trì, biện tài vô ngại. Thần trí thấu đạt nẻo vi diệu không thể nêu, dụ, chỉ trong một niệm có thể đi đến vô lượng cõi, cúng dường các Đức Như Lai trong mười phương, lãnh hội giáo pháp không hề chán mệt, thưa hỏi thọ nhận, phụng hành, giảng nói, luôn tu tập tinh tấn, giáo hóa chúng sinh với trí phương tiện hoàn bị, đối tượng được hóa độ là vô lượng, tạo lập pháp môn dứt trừ mọi phiền não, đều vượt khỏi mọi vọng tưởng, luôn luôn ứng hợp, gần gũi với bậc Nhất thiết trí và các vị Bồ-tát trong mười Địa. Tên các vị đó là Bồ-tát Thiên Minh, Tuyển Chiến, Chiếu Tạng, Trừ Mạn, Dũng Bộ, Nhãn Căn, Ly Ngôn, Trừ Minh. Các vị Bồ-tát như thế đều đến hội hợp, uy đức vô lượng, sáng ngời, không thể nghó bàn. Bấy giờ, Đức Thế Tôn nhập vào pháp hạnh nguyện thành tựu của các Bồ-tát, pháp ấy gọi là “Pháp môn dứt trừ sạch mọi phiền não, làm thanh tịnh các bậc Bồ-tát, trang nghiêm đạo tràng vi diệu.” Pháp lực của bậc chính giác gồm đủ vô sở úy, là ngôi nhà trí tuệ của bậc Thánh, qua lại trong các pháp mà vẫn tồn tại. Thâu tóm các pháp Tổng trì nên hiểu rõ biện tài. Đối tượng được hội nhập vào cõi đạo do đại thần thông nên đạt đến nẻo giác ngộ trọn vẹn, thuyết giảng rõ về pháp luân không thoái chuyển, với đủ các thừa, thông tỏ về pháp giới không hề hủy hoại, giảng nói, nêu bày về căn tính của mọi chúng sinh, thông đạt thật tướng của các pháp, diệt trừ các thứ ma, tùy theo pháp thuận hợp đều có thể mở bày, hóa độ. Dứt trừ bao thứ phiền não, trói buộc, vướng mắc, mê lầm, tà kiến, sáu mươi hai thứ nghi, xiển dương trí vô ngại, hiểu rõ tính chất vô hạn của trí ấy. Chỗ hỗ trợ, tạo tác luôn tìm xét nhằm phát triển, hội nhập nơi trí tuệ bình đẳng của chư Phật, vào môn không bày biện, không đối chiếu, không nơi chốn, diễn nói các pháp như thật nơi chân đế, bình đẳng nơi các cảnh giới hữu tưởng và vô tưởng, thấu tỏ mười hai duyên khởi vi diệu, tích lũy công đức không thể nêu tính hết. Trang nghiêm các hành nơi thân, khẩu, ý của chư Như Lai, chí đạt do thân, với đối tượng được nhận thức là vô tận, tu tập bốn Thánh đế, chỉ dạy trao truyền cho hàng Thanh văn, đạt được thân tâm tịch tónh để giáo hóa hàng Duyên giác, đạt Nhất thiết trí gồm đủ bậc Bất thoái chuyển để phát huy pháp Đại thừa. Hội nhập nơi tất cả pháp, đạt được tự tại, tán thán các công đức của Phật, theo hoàn cảnh mà chỉ bày, vỗ về, giảng dạy dần dần, xiển dương pháp tạng, làm rõ nơi chốn, trừ mọi thứ ngăn che, khai thị nẻo sáng tỏ. Đức Thế Tôn giảng nói giáo pháp khiến được truyền rộng khắp mười phương. Lúc này, ở phương Đông tự nhiên xuất hiện một vòm sáng lớn màu vàng ròng, ánh sáng đó tỏa chiếu đến đạo tràng Bảo tịnh, cùng khắp cả tam thiên đại thiên thế giới. Ánh sáng rực rỡ ấy phủ trọn cả cõi này, khiến cho mọi thứ ánh sáng hiện có của mặt trời, mặt trăng, Phạm vương, Đế Thích, bốn Thiên vương đều không thể hiện ra. Kể cả ánh sáng của các chư Thiên, tám bộ chúng Trời, Rồng, Quỷ thần, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Chân-đà-la, Ma-hầu-lặc, thảy đều biến mất. Cho đến ánh sáng của mọi thứ ngọc báu cũng đều ẩn khuất. Chỉ riêng ánh hào quang của Như Lai các Bồ-tát Bất thoái chuyển là còn hiển hiện, ngoài ra, mọi thứ ánh sáng đều bị che lấp. Những vùng xa xôi, tối tăm nhất của cõi đại thiên này, ánh sáng mặt trời, mặt trăng tuy rộng lớn nhưng không thể chiếu đến, chỉ có ánh sáng phương Đông ấy là tỏa tới được. Ánh sáng soi rọi khắp nơi từ cây cối, tường, vách, núi Đại tu-di, núi Tuyết, núi Đen, núi Mục-lân, núi Đại mục-lân, núi Thiết vi, núi Đại thiết vi, đến mọi chốn trong tam thiên đại thiên thế giới, cho tới cõi trời nơi phương trên và địa ngục Vô gián. Các chúng sinh trong ba đường dữ, thân tâm đều nhờ ánh sáng vi diệu của đạo pháp an lạc, cùng nhau vui mừng, tự cho thật là đúng lúc. Nơi đạo tràng Bảo tịnh, về bên tay trái Đức Phật, bỗng nhiên xuất hiện sáu mươi ức đóa sen bằng bảy báu. Mùi thơm xông ngát, tỏa khắp nơi nơi, khiến mọi người nghe thấy đều ưa thích. Các hoa sen ấy tươi tốt, lớn như những bánh xe, màu sắc rực rỡ. Mỗi đóa sen có vô số cánh do trăm ngàn châu báu kết thành hình tròn. Phía bên trên hoa giăng mắc các thứ phướn, màn, lọng. Hoa ấy mùi hương ngào ngạt, lan khắp tam thiên đại thiên thế giới. Mọi thứ danh hương của chư Thiên và loài người nơi các quốc độ trong tam thiên đại thiên thế giới này gặp phải hương ấy đều tan biến. Các loài sống đây đó ở thế gian và nơi cõi trời, nhờ hương của hoa này nên ưa thích hương pháp, mà không tham luyến ái dục. Bấy giờ, Hiền giả Xá-lợi-phất trông thấy hiện tượng có những đóa sen thanh tịnh tỏa sáng rực rỡ, nên hết sức kinh ngạc, vui mừng, liền từ tòa ngồi đứng dậy, đi đến chỗ Phật, quỳ gối, chắp tay thưa: –Hôm nay, chúng con đã thấy vòm ánh sáng lớn rực rỡ và hoa sen thanh tịnh, không thể diễn tả, từ xưa đến nay chưa từng nghe thấy. Đó là ứng hợp điềm lành gì? Phật bảo Hiền giả Xá-lợi-phất: –Có một Bồ-tát tên là A-soa-mạt, từ phương Đông cùng với sáu mươi ức Bồ-tát khác và hàng quyến thuộc vây quanh sắp đến cõi này, cho nên trước tiên là hiện điềm lành. Đức Phật nói xong không lâu thì Bồ-tát A-soa-mạt tức thời hiện thân và sáu mươi ức Bồ-tát đều có mặt. Do oai thần rất lớn của Bồ-tát nên tạo các sự biến hóa làm chấn động cõi Phật, phóng ra ánh sáng lớn, mưa xuống các loài hương, hoa, lại trổi lên trăm ngàn thứ nhạc hay, vang khắp đạo tràng Bảo tịnh, đến nơi Đức Phật. Bồ-tát A-soa-mạt cùng với sáu mươi ức Bồ-tát đi tới chỗ Phật, ở trên hư không chắp tay hướng về phía Như Lai, cùng phát ra âm thanh vi diệu khiến cả tam thiên đại thiên thế giới đều được nghe. Tức thì, chư Bồ-tát dùng kệ tán thán Đức Thế Tôn: Bậc Thánh bỏ tham dục Trong lành không cấu nhiễm Trí tuệ trừ tăm tối Hiển bày mắt thanh tịnh. Đoạn ba phiền não uế Dứt sạch mọi lỗi lầm Vónh viễn dứt phiền não Nên nay kính lễ Phật. Diệt trừ mọi phá hoại Xé tan lưới ngu si Thánh chủ có mười Lực Kẻ sợ hãi khuất phục. Vượt lên trên đại chúng Trừ hết ba phóng dật Vững bước như sư tử Tự tại không lo sợ. Ánh sáng lìa các cấu Chiếu soi khắp mọi nơi Nhớ nghó các chúng sinh Cứu vớt những lầm lỗi. Tiêu trừ các bóng tối Do vô minh che phủ Ánh sáng ấy rực rỡ Như mặt trời thoát mây. Thấy chúng sinh khốn khổ Liền khởi tâm Từ bi Diệt trừ già, bệnh, chết Cứu giúp cho muôn loài. Đạo sư độ chúng sinh Lòng từ luôn thương xót Những hành nghiệp tu tập Như lương y trị bệnh. Xá-lợi quý trong chúng Giáo hóa kẻ ngu tối Như thuyền trưởng cứu người Khi nghe họ mắc nạn. Chuyển hóa muôn phiền não Và vọng tưởng dấy khởi Du hóa khắp mọi nơi Như hoa sen không nhiễm. Rõ thấu tất cả pháp Vốn thanh tịnh vắng lặng Miệng phát ra âm thanh Đều từ nhân duyên sinh. Vốn dứt mọi tạo tác Vì độ sinh mà đến Tâm Từ bi thương đời Hiện, dạy cho chúng sinh. Quy mạng như hư không Thấy tất cả như thế Ở nơi pháp thế gian Không động như núi lớn. Chúng sinh do không hiểu Tạo tác nghiệp không lành Tuy ra vào nhà lửa Đều vượt nạn sinh tử. Mắt Phật thường sáng tỏ Cũng như hoa sen xanh Oai thần ấy vời vợi Như mặt trăng tròn đầy. Tất cả người thế gian Đều tán thán công đức Bỏ khổ não thế tục Thế nên đảnh lễ Phật. Bồ-tát A-soa-mạt và sáu mươi ức Bồ-tát sau khi nói kệ khen Phật xong, từ hư không hạ xuống đảnh lễ nơi chân Phật, đi quanh bảy vòng rồi ngồi trên hoa sen. Khi ấy, Hiền giả Xá-lợi-phất nương vào oai thần của Phật, thưa: –Bạch Thế Tôn! Bồ-tát A-soa-mạt từ phương nào đến? Đức Phật ở đó hiệu là gì? Quốc độ ra sao? Cách đây xa hay gần? Phật nói: –Hiền giả nên đích thân hỏi Bồ-tát A-soa-mạt sẽ được biết rõ. Hiền giả Xá-lợi-phất hỏi Bồ-tát A-soa-mạt: –Thưa Bồ-tát! Nhân giả từ phương nào đến? Đức Phật ở đó hiệu là gì? Quốc độ ra sao? Cách đây xa hay gần? Bồ-tát A-soa-mạt hỏi: –Thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Hiền giả vẫn luôn tưởng về đến, đi chăng? Xá-lợi-phất đáp: –Thưa Bồ-tát! Tưởng của tôi đã đoạn trừ. A-soa-mạt hỏi: –Thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Nếu như tưởng của Hiền giả đã đoạn trừ thì tâm ý không còn dựa vào hai bên. Vậy do duyên gì lại hỏi từ đâu đến. Thưa Hiền giả! Có đến là có dấu vết của hội hợp. Giả sử đi tức có dấu vết của biệt ly. Nếu không hội hợp, không biệt ly thì không có đến, đi. Không đến, đi là nẻo hành của Thánh đạo. Thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Có đến là tự nhiên tạo tướng, có đi thì dứt hết tướng của tội phước. Xét về tội phước là tướng tự nhiên. Nếu ở nơi tội phước dứt sạch các tướng tức là không có tướng. Không có tướng đi là nẻo hướng về của Thánh đạo. Này Hiền giả Xá-lợi-phất! Như có đến là tướng của chỗ thệ nguyện. Nếu có đi tức là lìa chỗ thệ nguyện. Tướng nơi chỗ thệ nguyện lìa tướng của đối tượng được đến, đó là tướng của Thánh đạo. Xá-lợi-phất! Nếu có đến là tướng sinh, nếu có đi là tướng diệt, ngoại trừ tướng đến, đi thì không sinh, không diệt. Không có chỗ đi là tướng của Thánh đạo. Thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Nếu có đến là pháp môn giảng dạy, như có đi thì sự chỉ dạy, truyền trao cũng dứt bặt, không có dạy, trao thì không có pháp môn tận cùng, đó là hướng đến của Thánh đạo. Xá-lợi-phất! Nếu có đến, đi thì rơi vào nẻo tục. Nếu không đến, đi mới là chính đạo. Thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Do dứt trừ đi, đến trừ tưởng về vị lai cùng các cảnh giới, nên chính là hướng đến Thánh đạo. Xá-lợi-phất! Như có đến là tướng hiện tại. Như có đi là tướng xa lìa. Đạt được tướng hiện tại và tướng xa lìa thì hướng đến Thánh đạo. Xá-lợi-phất! Như có đến thì chính là tướng duyên khởi hòa hợp. Như có đi là dứt tướng hòa hợp. Không có hòa hợp thì chẳng sinh, chẳng diệt. Đạt đến vô tướng chính là hướng đến Thánh đạo. Xá-lợi-phất! Như có đến là thuận theo duyên hợp của thế tục mà đi theo con đường tắt. Như có đi nghĩa là âm thanh, ngôn từ giảng dạy, văn tự là con đường tắt. Như dứt hết âm thanh, văn tự, nhân duyên nơi đường tắt thì hướng đến Thánh đạo. Bấy giờ, Hiền giả Xá-lợi-phất hỏi Bồ-tát A-soa-mạt: –Thưa Bồ-tát! Tôi nay do chỗ biện tài của Bồ-tát nên muốn thưa hỏi. Vì sao? Vì để được lãnh hội những điều chưa từng nghe. Thưa Bồ-tát! Ví như người chủ giữ cửa phải nên xét hỏi những người ra, vào, qua, lại, người chở hàng, kẻ đi không, nhằm để thâu thuế thì phải xét hỏi kỹ, ông mang những vật gì… để thâu thuế. Thưa Bồ-tát! Tôi cũng như thế, vì chỉ là hàng Thanh văn, nương tựa vào âm thanh của người khác để được giải thoát, hợp cùng âm hưởng của các duyên luôn thích nghi mà thưa hỏi, thọ nhận. Các bậc chính só do dốc lòng hộ trì giáo pháp Đại thừa, từ đó mới phát sinh Thanh văn và Duyên giác. Lành thay! Xin Bồ-tát vì chúng tôi mà nói rõ từ phương nào đến? Thế giới đó cách đây xa gần? Quốc độ Như Lai tôn hiệu là gì? Bồ-tát A-soa-mạt nói: –Thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Nên đến trước Đức Như Lai thưa hỏi, tất sẽ được giải đáp rõ, khiến cho chúng hội khỏi nghi ngờ. Lúc này, Tôn giả Xá-lợi-phất thưa Phật: –Bạch Thế Tôn! Bồ-tát A-soa-mạt từ phương nào đến? Cách đây xa hay gần? Đức Phật ở cõi đó tôn hiệu là gì? Cõi nước ra sao? Vô số người nếu được nghe danh xưng của Đức Phật kia, sẽ phát tâm Bồ-đề, mặc áo giáp Đại thừa. Đức Phật nói: –Này Xá-lợi-phất! Hãy lắng nghe, khéo suy xét, tôn hiệu của Đức Như Lai và tên của thế giới kia đều bao hàm nhiều công đức. Nếu có người nghe không sinh tâm nghi ngờ, mà thảy đều dốc lòng tin tưởng thì đối với Như Lai Vô thượng chính đẳng chính giác cũng không bị chướng ngại, không bị ngăn che. Tất cả đều mau chóng thấu đạt và cùng lãnh hội, thọ trì. Phật dạy Xá-lợi-phất: –Về phương Đông, từ cõi này trải qua vô lượng thế giới nhiều như số vi trần trong mười hằng hà sa quốc độ của chư Phật, có thế giới tên A-ni-di-sa (Bất Huyễn), Đức Phật ở cõi ấy hiệu là Tam-mạn-bạt-đà (Phổ Hiền) là Bậc Như Lai Vô Thượng chính Đẳng chính Giác, hiện đang thuyết pháp. Thế giới Bất huyễn không có tên về Thanh văn, Duyên giác. Thánh chúng của Phật chỉ thuần là Bồ-tát, từ đời xa xưa đã tu tập đầy đủ các pháp bố thí, điều phục tâm ý, an trú nơi giáo pháp của bậc Thánh, giữ giới, học tập, dứt mọi phóng dật, gồm đủ công đức, tạo lập sự tịch tónh. Do diệu lực của nhẫn nhục mà tâm luôn thanh tịnh, luôn kiên cố tinh tấn, tích chứa công đức, mỗi đời tự khắc phục, thực hành các pháp Thiền định, Tam-muội, Giải thoát. Dùng tuệ của thần thông để tự tạo mọi diệu lạc. Do chỗ chiếu soi của ánh sáng nơi đại tuệ, theo thời mà phân biệt, giảng nói rõ về nghĩa lý của tất cả câu, chương, luôn mang tâm Từ rộng lớn như hư không, lòng thương xót của Bồ-tát luôn bền vững đối với muôn loài, biết tâm tính của chúng sinh mà chỉ bày cho họ. Đối với hạng người vui thích, đón nhận vì họ mà mưa xuống hương vị đạo pháp giải thoát, giác ngộ, diệt trừ mọi kết buộc của oán hận. Đối với người hộ trì, thực hành thì khiến họ xa lìa cả Nhị thừa, đứng vững nơi pháp: Không, Vô tướng, Vô nguyện để dứt sạch, cứu vớt mọi thứ tai họa, nguy hại, uế trược của các ma phiền não, biết rõ cội nguồn của chúng sinh theo mười hai duyên khởi, quan sát các bệnh tật, ứng hợp mà cho thuốc, giữ vững tâm ấy, bình đẳng thuần nhất như đất, nước, gió, lửa, không có thương ghét, hàng phục, loại trừ các tà thuyết khác. Trong bao nhiêu giáo pháp, nhằm xiển dương, truyền bá nên giữ vững ngọn cờ chính pháp, giống như vị dũng tướng chỉ huy đại quân diệt trừ quân địch mạnh, hội nhập nơi chốn giác ngộ sâu xa của chính pháp chư Phật, đạt mười Lực, Vô úy, xa lìa hai nẻo kiến chấp về có, không, thuận theo nhân duyên, vượt qua các nhận thức sai lầm, thực hành trung đạo, xả bỏ ngã, ngã sở, người, thọ mạng, có, không, nơi chốn, trở về nguồn chân, dẫn dắt những kẻ đã từng theo tà kiến, điên đảo, hư dối. Như Lai đấng Pháp vương dùng pháp ấn để ấn chứng tất cả kinh điển, chỗ diễn thuyết, biện tài không bị chướng ngại, trong vô số ức trăm ngàn kiếp đã phát ra âm thanh, ngôn từ, không thể cùng tận. Do thần lực của Phật cảm hóa đến vô lượng cõi Phật, thường xuyên lui tới, trọn không có chỗ ban đầu, đúng thời hiểu rõ, trừ bỏ tất cả lo sợ, sân giận, kiêu mạn, tự đại, đã phát ra âm thanh như tiếng gầm của sư tử, như tiếng sấm sét. Xét hạnh nghiệp của chúng sinh cao, thấp, vừa, luôn gần gũi các bậc Thiện tri thức, tạo dựng cảnh giới cứu cánh Niết-bàn, hưng khởi đám mây lớn, phát ra tiếng sấm sét giáo pháp, trí tuệ thông suốt, lý giải nhanh như ánh chớp, như mưa nước cam lộ, tuyên giảng sự cao quý của đạo pháp, không đoạn dứt Tam bảo, trí tính thanh tịnh như ngọc minh nguyệt, trong ngoài thông suốt, tướng tốt của chư Phật rực rỡ, thù thắng, dùng giới cấm để tự trang nghiêm thân, dùng trăm ngàn phước đức để trang nghiêm thể, nhờ pháp của chư Phật đạt đến quả vị Nhất sinh bổ xứ, vâng theo đó mà tu hành khiến chúng sinh dốc lòng tin tưởng, nghe pháp giáo hóa, tùy theo tâm tính của các loài mà giảng thuyết, khiến họ được giải thoát. Theo các pháp giác ngộ Tổng trì, thiền định, ngồi tòa Sư tử làm trang nghiêm thanh tịnh đạo tràng, hiểu rõ các pháp, hội nhập bốn Vô sở úy, nhằm hiển hiện sự nghiệp giác ngộ nơi đạo Thánh được hưng khởi, đều hiện bày ra, tới, lui, lấy, bỏ đều phải tự tại, chuyển pháp luân báu vô thượng. Bấy giờ, trong chúng hội nghe Phật nói về những công đức của các Bồ-tát, đều hết sức vui mừng, liền lấy các loại hoa tươi đẹp như hoa sen xanh, vàng, đỏ, trắng và các hoa thích ý, cùng nhau dâng cúng Đức Phật cùng tung rải lên Bồ-tát A-soa-mạt và các Bồ-tát khác, đồng thanh khen ngợi oai đức của Phật và Bồ-tát: –Chúng con hôm nay được lợi ích nhờ có phước đức mới gặp các vị Bồ-tát này, hiểu rõ, đảnh lễ, quy y, cúng dường các vị ấy. Nếu có chúng sinh nào được nghe danh hiệu, công đức không thể lường của các vị Bồ-tát này, nhân đấy đều sẽ phát tâm đại Bồ-đề. Khi ấy, ba vạn sáu ngàn người đã đến trong hội đều phát tâm cầu đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác. Phật nói với Hiền giả Xá-lợi-phất: –Cõi nước A-ni-di-sa không có các khổ nơi địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, các đường ác, không có người giữ giới cũng không người phạm giới, không có người nữ. Vì sao? Vì đều do hoa sen hóa sinh ra, không có tham lam, keo kiệt, cũng không dâm dục, giận dữ, xa lìa các thứ ngu si, sợ hãi, cũng không có tên ba độc tham, sân, si, huống gì có những việc khác. Con người ở cõi nước này không có cao, thấp, vừa, tốt, xấu, đều bình đẳng không sai khác, cũng không có ngã và ngã sở, không có uống ăn. Vì sao? Vì pháp hỷ là thức ăn, nghĩa lý là nước uống, luôn bình thản, biết rõ, không có ý niệm khát, cũng không có tư tưởng đói, chẳng phải ta cũng chẳng phải người khác, cũng không có các ma gây hoạn nạn. Cõi nước của Đức Phật ấy bao la rộng lớn, mặt trời, mặt trăng chiếu đến sáu mươi ức biên vực trong bốn phương. Vì sao? Vì là chỗ đạt đến của bản nguyện nơi Bồ-tát, do vậy nên cùng một mặt trời, mặt trăng. Lại nữa, đất trong cõi ấy không có gò, hầm, cao, thấp, thảy đều bằng phẳng, do lưu ly xanh biếc và các ngọc báu khác kết hợp mà thành. Đất này mềm mại như áo cõi trời, dùng mười tám việc để trang nghiêm cõi nước, cây cối làm bằng vật báu, xếp hàng thẳng tắp, luôn sinh hoa trái, thường tươi tốt vào mùa Đông và hạ, không có dấu vết của các thứ nhơ bẩn, cát, sỏi, đá. Các núi trong cõi này như núi Đen, núi Tuyết đều do các loại báu hợp lại mà thành giống như núi Tu-di. Nơi cõi Phật ấy, trời người đều giống nhau không khác, bỏ các nghiệp thế gian, dùng chính pháp làm tài vật, không có vua, chỉ có Đức Như Lai Phổ Hiền, chính Đẳng chính Giác làm Pháp vương. Lại nữa, chính pháp của cõi ấy không dùng văn tự, ngôn từ để dạy bảo các Bồ-tát. Người muốn lãnh thọ kinh điển phải đi đến chỗ Phật chiêm ngưỡng qua một thời gian dài, không hề nhàm chán, mệt mỏi. Vì sao? Vì tâm người ấy hân hoan, hợp thời, đạt được Định ý Phật tâm, sẽ chứng đắc quả vị pháp Nhẫn vô sinh. Do những việc trên mà cõi nước ấy tên là Bất huyễn. Thế nào gọi là đạt được Định ý Phật tâm? nghĩa là không dùng sắc tướng, không do các thứ vẻ đẹp, lại cũng không dùng hành nghiệp đời trước mà đạt đến công đức ấy, cũng không mong cầu, tạo tác để đạt được. Vì sao? Vì người không nghó về quá khứ, không nghó đến vị lai, lại cũng không nghó đến đời hiện tại, cũng không từ năm ấm, sáu trần mà đạt đến. Sao gọi là năm? Năm ấm đó là suy xét về sáu căn. Sáu căn đó là chỗ phân biệt của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Sáu căn là sự nhận biết về sắc, thanh, hương, vị, tế hoạt (xúc), pháp. Không dùng kiến văn nơi tâm, ý, thức làm chỗ đạt đến của các nghiệp. Không dùng chỗ đạt đến của sự sinh diệt hư giả, không bình đẳng, không tà kiến, cũng không tạo ý, không có chỗ mong cầu, cũng chẳng phải chỗ đạt đến của đúng, không đúng, cũng không từ chỗ đạt đến của một, hai, ba, không nhân nơi tâm, ý, thức, cũng không làm việc hiểu biết về trong, ngoài, các ý niệm vọng tưởng phải trái mà đạt được điều ấy, cũng không do năm ấm mà đạt tới, không do sắc, thọ, tưởng, hành, thức mà đạt được, cũng không dùng giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, mười Lực, Bất cộng, bốn Vô sở úy là pháp của chư Phật, không thể dùng ý tưởng để hiểu biết được. Không dùng chỗ đạt được do kiến văn, không dùng tướng của tưởng cũng không dùng ngã tướng, không do nơi năm ấm, sáu trần sinh diệt, không chốn trụ cũng không nơi nào là không trụ, không có nơi chốn của sắc, thọ, tướng, hành, thức, cũng không có chỗ đạt tới của nhãn sắc, nhó thanh, tỷ hương, thiệt vị, thân xúc, tâm pháp, cũng không đạt được từ ấm, xứ, giới. Vì sao? Không thể dùng mắt để thấy các tướng, không nghó đến nơi chốn thấy, không phải thấy, không sinh, không diệt, không cuối cùng thì không bắt đầu. Trụ xứ ấy, do tạo tác của nhân duyên mà có được, diệt trừ hết các cấu uế của phiền não. Vì sao? Do ái dục nên gọi là phải diệt. Vì điều này nên đoạn trừ nhân duyên. Do ngã và ngã sở nên phải diệt. Sự thanh tịnh ấy là rõ ràng, không thêm, không bớt, cũng không nghó là an lạc hay khổ đau. Người chấp trước thì không xa lìa được các dục, cũng không dùng ý niệm nhớ nghó cho là phiền não. Các tưởng được giải thoát thì các hành đều đầy đủ. Đã đầy đủ rồi thì đạt được như không có thân. Sắc làm sao đạt được nếu không có thọ? Thọ từ đâu mà có? Như pháp thường trụ. Nếu không tưởng chấp về đạo thì chẳng phải là nghiệp của thế gian. Giả như không có đối tượng nghe thì từ đâu mà có thức? Không có đối tượng thấy thì cũng không có đối tượng chứng đắc, không có đối tượng chứng đắc mới gọi là giải thoát. Cũng lại không chấp giữ ý niệm, suy nghó nơi các pháp của tâm, cũng không nắm giữ, không có đối tượng sinh, không thấy đến, cũng không thấy đi, vốn không thể nắm bắt, giống như các pháp đều bình đẳng không sai khác. Ví như có người nhìn lên hư không, đối tượng được nhìn thấy nơi mắt người ấy không thể phân biệt, biết được đâu là hư không, đâu chẳng phải là hư không. Ý Phật cũng thế. Khi Bồ-tát chứng được Định ý Phật tâm thì biết được pháp của chư Phật, các tướng tốt đều đầy đủ, thành tựu đạo tuệ hoàn toàn. Pháp của Phật đã giảng dạy, các vị Bồ-tát đều có thể hiểu rõ, thông suốt tức sẽ suy xét, nhận lãnh, đọc tụng dễ dàng, tất có thể thấu tỏ tất cả pháp của chư Phật. Phật bảo Hiền giả Xá-lợi-phất: –Đức Phật Phổ Hiền khởi đầu không hề giảng nói hai lời. Sao gọi là hai? 1.Không giảng về thường. 2.Không nói về đoạn, đều tu hành bình đẳng không có đúng sai. Sao gọi là không? Chưa từng có suy nghó, học hỏi nơi người khác, cũng không tự nghó là mình có được sự hiểu biết. Các vị Bồ-tát này đi đến gặp Phật rồi, liền đầy đủ sáu pháp tu vượt bờ. Phật nói: –Thế nào là đầy đủ? Xả bỏ các tưởng về sắc, không có đối tượng được mong cầu, đó là đầy đủ pháp Bố thí ba-la-mật. Không tưởng chấp về thân Phật, đạt đến “gốc không” thì đầy đủ pháp Trì giới ba-la-mật. Vì sao? Vì không có tưởng về mình nên thành tựu ba mươi hai tướng, xét các pháp chỉ là giả có tên gọi mà thôi. Tướng không cùng tận trụ vào chỗ này mà tâm không dấy khởi nên gọi là pháp Nhẫn nhục ba-la-mật. Tất cả pháp không thể thấy, không có đối tượng được nghe. Vì sao? Vì các bậc Bồ-tát thấy thiện không vui, thấy ác không lo, tâm không có đúng sai, nên gọi là pháp Tinh tấn ba-la-mật. Tâm không nhớ nghó, tịch tónh, an nhiên, nên gọi là pháp Thiền định ba-la-mật. Hiểu sắc tướng là không, không giữ lấy tướng này mà sinh lòng tự đại, đó gọi là pháp Trí tuệ ba-la-mật. Phật nói: –Các Bồ-tát trong cõi đó, nhân vì đầy đủ sáu pháp tu Ba-la-mật nên đạt được pháp Nhẫn vô sinh, quan sát cõi nước của chư Phật nơi mười phương. Chúng Bồ-tát tu học một ít các pháp kia đều có thể đến cõi Bất huyễn và được Đức Phật Phổ Hiền dạy dỗ. Hiền giả Xá-lợi-phất nói với Bồ-tát A-soa-mạt: –Lành thay, nhân giả! Công đức của Bồ-tát ở cõi Phật kia thật là khó lường. Bồ-tát A-soa-mạt hỏi Hiền giả Xá-lợi-phất: –Này Hiền giả! Hiền giả muốn thấy cõi Bất Huyễn của Đức Phật Phổ Hiền chăng? Xá-lợi-phất thưa: –Tôi muốn thấy và trong chúng hội đều sẽ nhờ vào đó để được tăng trưởng các phước đức. Khi ấy, Bồ-tát A-soa-mạt ngồi trên tòa, nhập vào thiền định, thị hiện thần thông. Thiền định mà Bồ-tát nhập có tên là Thấy khắp quốc độ của chư Phật làm cho mọi người trong chúng hội và Hiền giả Xá-lợi-phất đều thấy rõ Như Lai Phổ Hiền và cõi Bất huyễn. Tất cả đều vui mừng cho là việc chưa từng có, rồi cùng nhau rời khỏi chỗ ngồi, đến cúi đầu cung kính đảnh lễ Đức Phật kia. Nhờ uy thần của Phật khiến cho trên áo của Hiền giả Xá-lợi-phất và đại chúng tự nhiên có hương hoa quý đẹp, liền lấy hoa đó hướng về phương Đông cùng tung rải lên Đức Phật. Hoa đó rải đến Đức Phật, các vị Bồ-tát và cùng khắp cõi nước Phật. Các Bồ-tát ở cõi đó hỏi Đức Phật: –Hôm nay, các hoa tốt đẹp, vi diệu này là do từ đâu sinh ra mà rực rỡ như vậy? Như Lai Phổ Hiền bảo các Bồ-tát: –Hôm nay ứng hiện điềm lành này là do Bồ-tát A-soa-mạt đã đến thế giới Ta-bà cúng dường, thăm hỏi Đức Phật Thích-ca Văn và chúng Bồ-tát nơi mười phương hiện có mặt nơi chúng hội. Vì sao? Vì ở chúng hội ấy, Đức Phật giảng nói về pháp Đại thừa. Các vị Bồ-tát ở cõi ấy thưa hỏi Đức Phật Phổ Hiền: –Sự biến hóa hiển hiện ở cõi này là do thần thông của Đức Phật nào? Phật bảo: –Sự việc này là của Đức Phật Thích-ca Văn đã vì chư Bồ-tát nơi mười phương đến với pháp hội đó. Vì sao? Vì ở cõi ấy được Đức Phật giảng nói pháp Đại thừa. Các vị Bồ-tát lại hỏi Đức Phật Phổ Hiền: –Ở cõi này nghe pháp ấy được chăng? Phật bảo: –Đức Phật Thích-ca Văn sẽ diễn giảng, phân biệt rõ về phần nhân duyên đại hội. Các vị Bồ-tát lại hỏi Đức Phật Phổ Hiền: –Thế giới Ta-bà cách đây xa hay gần? Phật bảo: –Về phương Tây, cách đây vượt qua các cõi nước nhiều như số vi trần trong mười hằng hà sa cõi nước của chư Phật, mới đến thế giới Ta-bà của Đức Phật Thích-ca Văn đang giáo hóa. Các vị Bồ-tát cõi ấy bạch Phật Phổ Hiền: –Chúng con nguyện xin được gặp Đức Phật Thích-ca Văn đã thực hiện công việc giáo hóa chúng sinh, xiển dương chính pháp. Khi ấy, Đức Phật Phổ Hiền liền phóng ra ánh sáng của thân, chiếu suốt khắp mười phương. Các vị Bồ-tát và chúng hội kia đều trông thấy cõi này. Chư vị thảy đều đứng dậy, từ xa hướng về Đức Phật Thích-ca Văn nhất tâm đảnh lễ. Các vị Bồ-tát từ xa nhìn thấy nơi cõi Ta-bà có số lượng Bồ-tát hết sức đông đảo, cả vùng hầu như không còn một chỗ trống nên ngạc nhiên tự hỏi Đức Phật về việc ấy. Phật bảo: –Các vị Bồ-tát nơi các cõi Phật trong mười phương nhiều không thể kể hết, đã có mặt nơi pháp hội kia, vì muốn được nghe thuyết giảng về phần nhân duyên của đại hội, cho nên đến thưa thỉnh, lãnh thọ. Hiền giả Xá-lợi-phất hỏi Bồ-tát A-soa-mạt: –Thưa Bồ-tát! Vì sao nhân giả có tên là A-soa-mạt? (A-soa-mạt: đời Tấn gọi là Vô Tận Ý) Bồ-tát A-soa-mạt đáp: –Thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Thấu tỏ diệu dụng nơi các pháp nên gọi là không cùng tận. Vì sao? Vì tất cả các pháp cũng không cùng tận. Xá-lợi-phất hỏi: –Xin giảng về pháp không cùng tận. A-soa-mạt nói: –Lúc mới phát tâm Bồ-đề thì cũng không cùng tận. Vì sao? Vì đều lìa mọi trói buộc của các dục, tham, sân, si. Vì sao? Vì không cầu đạt Nhị thừa Thanh văn và Duyên giác. Đã phát tâm rồi nên kiên cố thì chí kia không thể lay chuyển. Vì sao? Vì không bị những mê lầm theo tà nghiệp, tất cả chúng ma không thể phá hoại được tâm ý. Người có tâm ấy thì các công đức của họ đều được thành tựu trọn vẹn, du hóa trong cảnh vô thường mà luôn là người đứng đầu, nắm giữ toàn bộ chúng. Vì sao? Vì chấp về thường là tạo nghiệp sinh tử. Do đấy, đặc biệt tôn quý, thấu tỏ về đạo gọi là ra khỏi nẻo thường, chẳng thường. Từ lúc phát tâm trở đi, tâm luôn an nhiên tự tại, dứt mọi trói buộc, không lìa các công đức của chư Phật, mọi nẻo tu tập không bị gián đoạn. Vì vậy, mọi thứ ác đều dứt trừ sạch, tâm luôn an ổn, không gì làm lay động, không gì có thể sánh, vững chắc như kim cang, đều nhận rõ tất cả các pháp không cùng tận, dùng trí tuệ để gồm thâu các pháp. Từ lúc phát tâm luôn kiên cố trên đường hành hóa, bình đẳng với chúng sinh, tâm ý chân thật, dứt mọi dua nịnh, nên gọi là chân chính không thiên lệch. Từ lúc phát tâm luôn sáng suốt. Sở dó như vậy vì tâm ấy vốn thanh tịnh, loại trừ các thứ cấu uế, diệt trừ các chỗ tối tăm, trí tuệ hiện bày sáng rõ. Tức lúc phát tâm luôn tẩy trừ các thứ ô trược, niềm tin hết sức vững chắc, phát tâm vô cùng lớn lao, không có bờ bến, vì tâm như hư không. Phát tâm rộng lớn, vì tiếp nhận mọi loài chúng sinh theo đó để giáo hóa. Phát tâm không cùng tận, vì trí tuệ huyền diệu, mênh mông không biên vực. Từ lúc phát tâm, không nơi nào là không đi vào, vì tâm đại Từ là vô cùng vô tận. Phát tâm hành hóa không gì có thể làm gián đoạn, vì do công đức, hạnh nguyện. Phát tâm an ổn thật đáng kính quý, vì đem lại mọi an lạc cho chúng sinh. Phát tâm thù thắng, hơn hẳn mọi người, vì tất cả ngoại đạo, Thanh văn, Duyên giác đều tôn trọng. Chỗ phát tâm ấy vượt mọi nhận thức của tâm ý. Sở dó như vậy, vì chẳng phải là chỗ đạt đến của phàm phu. Ví như người nông dân không thể hiểu được công việc của bậc Thánh vương. Phát vô số tâm, vì mỗi mỗi tâm đều từ chỗ tạo tác của chủng loại gốc mà đạt được quả. Tất cả các pháp thường hiện hữu nên từ lúc mới phát tâm đều lấy đó làm nguồn gốc của đạo, vì chỗ đạt đến ấy luôn có được sự an ổn lớn. Phát tâm rồi luôn tự trang nghiêm, vì dốc thành tựu các thứ công đức. Từ lúc phát tâm đến nay, so với các chúng luôn đặc biệt, thù thắng, vì đạt được Thánh tuệ. Từ lúc phát tâm luôn tạo được mọi vi diệu, vì dùng pháp bố thí rộng rãi đến khắp chúng sinh. Từ lúc phát tâm, luôn tạo lập chí nguyện lớn, vì gồm đủ giới cấm. Từ lúc phát tâm không ai sánh bằng, vì luôn theo hạnh nhẫn nhục. Từ lúc phát tâm không gì có thể hạn chế, vì các nẻo thực hành luôn tinh tấn, không biếng trễ. Từ khi phát tâm, thường được ưa thích, vì tu pháp Thiền vượt bờ, đạt được các Tam-muội. Từ lúc phát tâm đến nay, không nơi nào là không quy kính, hướng về, nhân đó mà thấu tỏ Trí tuệ ba-la-mật, hoàn toàn không có chốn trụ. Sở dó như thế, vì thể hiện vô lượng tâm Từ. Từ lúc phát tâm nguồn gốc luôn vững chắc, vì luôn thể hiện tâm Bi. Từ lúc phát tâm thường đem lại sự vui thích, vì luôn thể hiện tâm bình đẳng với các chúng sinh. Từ lúc phát tâm, tuy gặp các việc khổ vui, nhưng tâm không hề loạn động, vì luôn hộ trì hết thảy. Từ lúc phát tâm được các Đức Như Lai gia hộ, dẫn dắt, vì chỗ ứng dụng thuận hợp với sự giảng dạy của chư Phật trong mười phương. Từ lúc phát tâm đến nay, dốc vượt qua các nạn trong năm đường, vì công việc giáo hóa luôn phát triển, hưng thịnh. Từ lúc phát tâm luôn phụng trì Tam bảo, vì cùng thuận hợp nơi giới pháp của Phật, khiến cho Thánh chúng thành tựu. Bồ-tát A-soa-mạt lại hỏi Hiền giả Xá-lợi-phất: –Tâm của bậc Nhất thiết trí có cùng tận chăng? Hiền giả Xá-lợi-phất đáp: –Không thể cùng tận. Giống như hư không, không thể cùng tận, tâm của bậc Nhất thiết trí cũng lại như thế. Giới pháp của Như Lai cũng không cùng tận. Vì sao? Vì nguồn gốc của giới là vô tận, Định ý của Như Lai do vô cùng, nên trí tuệ giải thoát, giải thoát tri kiến, không có nguồn gốc nên cũng vô cùng tận. Xét về các pháp của chư Phật như mười Lực, bốn Vô sở úy, mười tám pháp Bất cộng thì đấy là gốc, do cũng là nguồn gốc của tâm nên vô cùng tận. Tóm lại, các pháp của chư Phật là bậc nhất. Do nẻo hành của tâm là vô cùng nên Tam bảo luôn được nối tiếp. Nhân đấy nên sự phát tâm cũng vô cùng tận. Giống như bốn đại của tất cả chúng sinh. Sao gọi là bốn đại? Đó là đất, nước, lửa, gió cũng vô tận. Nên xét về trí tuệ, ứng dụng tất cả, lại cùng hiểu rõ về chỗ hành nơi tâm của chúng sinh là không thể nghó bàn. Bản nguyện không dứt nên cũng vô cùng tận. Vì sao? Vì tu tập, phụng trì đạo pháp theo bản nguyện, nên cũng vô cùng tận. Tất cả các pháp đều không nơi sinh ra nên không gì là không hiển hiện. Cội nguồn của hết thảy các pháp là vô cùng nên vô tận. KINH A-SOA-MẠT BỒ-TÁT <卷 id="117270372">Quyển 2 Bồ-tát A-soa-mạt nói với Hiền giả Xá-lợi-phất: –Phát tâm Bồ-tát vónh viễn là vô cùng tận. Vì sao? Vì không văn vẻ, cũng không dua nịnh, tâm ấy ngay thẳng nên gọi là thù thắng, không nói lời thêu dệt, chỉ dùng lời thanh tịnh, đúng đắn, không tà vạy. Tâm ấy hòa dịu, không hung dữ, hết lòng tin tưởng, chắc chắn chưa từng biến đổi, tạo được sự vững bền, không thoái chuyển, đứng vững không lay động, không ai có thể ganh ghét mà quấy rối, nhiễu hại được. Vì sao không thể nhiễu hại? Nhờ nẻo hạnh chuyển hóa nghiệp chẳng có gì sánh kịp, chỗ tạo lập nên không ai có thể bài bác, phỉ báng. Vì sao không ai có thể chê bai? Vì đã dám phát khởi, tạo dựng từ chỗ không cội nguồn, do không cội nguồn nên diệu dụng chính đáng, ngôn từ chân thật, hoàn toàn không có khác. Dấy khởi công đức mà không mong cầu điều gì, chẳng cầu danh tiếng, được mọi người khen ngợi và kính ngưỡng thì không mắc lỗi lầm. Vì sao không mắc lỗi lầm? Vì chỗ tạo tác luôn được an ổn. Vì sao tự đạt được an ổn lâu dài? Vì đã biết phát huy các công đức không hề mệt mỏi. Sở dó không mệt mỏi vì thương yêu tất cả chúng sinh. Vì sao thương yêu tất cả chúng sinh? Vì dùng lòng từ vô tận, làm cho những kẻ lười biếng trở nên tinh tấn. Vì sao? Vì nhằm để giáo hóa chúng sinh. Vì sao giáo hóa chúng sinh? Vì thực hiện các điều này mới thành tựu các công đức, gắng sức tu tập không mong cầu phước báo. Sở dó không mong cầu phước báo vì tâm ấy thanh tịnh, đều nhờ ân pháp nên người không có đối tượng được mong cầu cũng có diệu lực. Sao gọi là diệu lực? Đó là diệu lực của Phật, dùng ý nghĩa này để hộ trì chúng sinh. Sở dó hộ trì chúng sinh là muốn cho muôn loài đều đạt được sở nguyện. Sở dó muốn cho họ đạt được sở nguyện là khiến họ không còn sân hận. Sở dó không sân hận là vì những hạnh nghiệp đã thực hiện rất an ổn, vững chắc. Sở dó vững chắc là do tạo được những điều như vậy nên không gì có thể ngăn cản, chế ngự khiến tâm ý trở nên vắng lặng, trong lành giống như vàng ròng không chút tạp chất. Sở dó ví dụ như vàng ròng vì không có cấu uế, không có cấu uế vì vốn thanh tịnh. Sở dó thanh tịnh vì gốc của các hành đã dứt mọi thứ nhơ bẩn. Sở dó dứt trừ nhơ bẩn vì bên trong luôn thanh tịnh, tiêu trừ hết lỗi lầm nên được thanh tịnh. Bồ-tát A-soa-mạt nói với Hiền giả Xá-lợi-phất: –Tâm đã thanh tịnh thì tham dục tiêu trừ. Tâm kia không tham dục thì vô cùng tận. Các tâm ác không thể khuấy động. Lại, tâm ấy sáng suốt, hộ trì đối với những kẻ có ý xấu, do ý nghĩa này cho nên gọi là vô cùng tận. Tâm sân hận vì có tham dục, luôn luôn mong muốn, tự cao, tự đại. Những không thể diệt trừ ấy thảy đều diệt trừ hết. Vì Bồ-tát thường hộ trì tâm này, nên hiểu được tâm ấy là vô tận. Xả bỏ, không còn chú trọng đến thế lực của mình và các uế trược, phải đạt được tâm ấy mới không còn biếng nhác, liền biết tâm này là vô cùng. Nếu người rối loạn thì tùy theo lúc giúp đỡ. Với kẻ vô trí thì giáo hóa họ thành người trí. Đối với tất cả chúng sinh có công đức hay không có, đều được độ thoát, đến nẻo an lạc thì biết tâm ấy vô tận. Chỉ dạy tất cả chúng sinh đang gặp hoạn nạn, làm cho họ tạo dựng vô số công đức thì biết tâm ấy mãi mãi là vô cùng tận. Bồ-tát A-soa-mạt nói với Hiền giả Xá-lợi-phất: –Sự tu tập của Bồ-tát cũng vô tận. Vì sao? Do bố thí nên vô tận. Những gì có thể ban cho gọi là hạnh bố thí vượt bờ. Đối với tất cả đồ vật nhiều hay ít, biết đủ không tham đắm gọi là trì giới vượt bờ. Tất cả sự nhiễu loạn đến thân Bồ-tát đều không khởi lên sân hận dù chỉ một mảy may, gọi là nhẫn nhục vượt bờ. Tích lũy các công đức, thường dẫn đầu trong chúng gọi là tinh tấn vượt bờ. Tất cả sự học thường xuyên chú tâm, gọi là Thiền định vượt bờ. Những điều nghe biết đều muốn thông đạt, gọi là trí tuệ vượt bờ. Bồ-tát phải tu tập lòng Từ rộng lớn. Lòng Từ rộng lớn là gì? Nếu có người gặp khó khăn đến xin mình giúp đỡ, dù bỏ thân mạng, không trái với thệ nguyện chính, gọi là lòng Từ rộng lớn. Người thực hành lòng Bi bình đẳng nếu có người khen ngợi hoặc được lợi ích chẳng lấy làm vui vẻ. Giả sử có ai phỉ báng cũng không lo buồn, đó là Bồ-tát thương yêu bình đẳng. Sự tu học của Bồ-tát có ba việc. 1.Làm thanh tịnh thân, miệng, ý. 2.Trọn không thực hành điều ác. 3.Chưa từng nhớ nghó các việc làm ngu tối, tà vạy. Bồ-tát tuy học một mình không thầy cũng không tự đại. Mọi sự tu học, tâm ý không quên mất, trí tuệ thông suốt tất cả, thâm tín các pháp của chư Phật và các hạnh nghiệp của Bồ-tát. Thuận theo tâm ý của người mong cầu, không thiếu sót. Thấu rõ tất cả pháp mà luôn được tự tại. Thường sám hối lỗi lầm, nếu thân có tội chưa từng che giấu, dùng vô lượng phước để khuyến trợ công đức. Bồ-tát tu học luôn tán thán, khuyến thỉnh Phật diễn giảng nghĩa lý, phụng hành, tu tập pháp học của bậc chính só. Sở dó học pháp của bậc chính só vì muốn đạt đến giác ngộ. Tâm đó vững chắc vì không bỏ thệ nguyện lớn với vô lượng công đức đã tạo được. Sở dó không xả bỏ là nhằm để giáo hóa chúng sinh. Bồ-tát A-soa-mạt nói với Hiền giả Xá-lợi-phất: –Bồ-tát có bốn việc không cùng tận, đó là: 1.Mở bày, chỉ rõ về tâm chúng sinh. 2.Bố thí pháp. 3.Dạy bảo chúng sinh. 4.Tích lũy công đức. Lại có bốn pháp: 1.Tu tập một mình ở nơi núi hang, vắng vẻ, nhận được sự cúng dường nhiều hay ít đều cho là đủ. 2.Đối với tất cả công đức không nhàm chán. 3.Học rộng không mỏi mệt. 4.Sở nguyện đạt đến trí tuệ Bồ-đề không cho là nhọc nhằn. Lại có bốn pháp: 1.Tính toán đối chiếu. 2.Tư duy về gốc ngọn. 3.Trí tuệ thông suốt. 4.Suy nghó cùng khắp. Lại có bốn pháp: 1.Lìa mọi việc ác, tu hành pháp giải thoát vô thượng. 2.Người đạt giải thoát vô thượng ấy là Bồ-tát giáo hóa. 3.Hiểu rõ về nguồn gốc của mọi điều ác. 4.Nghó đến đạo giải thoát vô thượng Bồ-đề vi diệu. Lại có bốn pháp: 1.Hiểu rõ về năm ấm. 2.Thông tỏ về bốn đại: đất, nước, gió, lửa. 3.Thấu triệt nguồn gốc của sáu trần. 4.Thấy được mười hai nhân duyên là không giới hạn. Lại có bốn việc: 1.Giảng nói về sinh tử, vô thường mà không cùng tận. 2.Dạy bảo về thọ khổ. 3.Giảng giải về ngã, ngã sở. 4.Hành nghiệp vô vi là vắng lặng, không cùng tận. Bồ-tát A-soa-mạt nói với Hiền giả Xá-lợi-phất: –Nói một cách tổng quát, các Bồ-tát tu học đều gần gũi Phật đạo. Vì vậy, phân biệt đạo và đời là không cùng tận. Bồ-tát A-soa-mạt nói với Hiền giả Xá-lợi-phất: –Tâm tu hành của Bồ-tát không thể cùng tận. Vì sao? Đối với các công đức tu tập không biếng nhác, lần lượt thành tựu các quả vị. Quả vị ấy được gọi là mười Địa của Bồ-tát. Chỗ tu tập của Bồ-tát giống như biển cả bao trùm khắp. Sở dó như vậy là vì cứu độ tất cả chúng sinh, nên sự tu hành ấy là đứng đầu, vượt lên trên tất cả, có thể thâu tóm hết thảy pháp tu hành tối thượng. Đối với hạng người kém hơn thì khiến họ chuyên tu tất cả pháp như hành trì mười điều thiện. Vì sao? Vì đó là pháp trên hết. Sở dó tu tập nhân giải thoát được chắc chắn đều do chuyên cần tinh tấn, không thoái lui, tự mình thành tựu đầy đủ. Do siêng năng tu tập, nên những sở nguyện chóng thành tựu. Vì đạt được nguyện lớn, nên sự tu hành của Bồ-tát hoàn toàn không bị lệ thuộc, đó là Định ý (Tam-muội). Nhờ sự tu tập uyển chuyển, nên những việc đã làm không còn thếu sót. Điều hòa được tâm ý là đạo nghiệp tu hành do tự mình quyết định. Vì sao? Vì những việc làm không để các điều ác xen vào. Chuyên tâm bố thí, Bồ-tát không để thân tâm lệ thuộc nơi tham ái, chuyển đổi thêm lên. Siêng năng hành trì giới luật cũng thật là khó. Vì sao? Vì dẫn dắt người phạm giới khiến họ không làm các việc ác. Tinh tấn, nhẫn nhục cũng rất khó. Sở dó gọi là nhẫn nhục, vì tuy sống trong cảnh giàu sang phú quý, mà không khinh hạng người nghèo hèn, thiếu thốn, yếu đuối. Thực hành chuyên cần tinh tấn là khó. Ví như khi Bồ-tát an tọa nơi cội Bồ-đề, có người đến muốn chiếm đoạt chỗ này, vì nhằm giữ lấy Phật đạo nên Bồ-tát kiên quyết không rời chỗ, đó là tinh tấn. Chuyên tu thiền định là khó, vì không ai có thể vượt hơn, phải thường xuyên tu tập thiền định mới có thể thành tựu biện tài, không có đối tượng được mong cầu, đó là thiền định. Chuyên tu trí tuệ là khó. Vì sao? Vì tích lũy các công đức, không hề biết mệt nhọc, đó là trí tuệ. Đi đứng, ra vào, an nhiên, hòa nhã, oai nghi đầy đủ. Sở dó như vậy, vì công đức luôn bền vững, không ai có thể hại được. Tu tập vô sở úy, hiểu rõ tận cùng lý sâu xa của các pháp, nên hết lòng tôn kính tu tập. Sở dó như vậy, vì ánh sáng ấy rất vi diệu soi chiếu cùng khắp, nên nẻo hành vô tận. Vì sao? Vì đã an trụ một cách vững chắc. Sao gọi là siêng năng? Tâm ý thản nhiên, thường nhớ nghó đến chúng sinh. Người không nơi nương tựa làm cho được nương tựa. Nếu có người mê muội khiến cho họ thấy được ánh sáng của đạo. Người không có chỗ quy về, đều được quay về. Người không có bạn lành thì làm bạn lành với họ. Người dua nịnh thì thiếu khiến họ trở nên thật thà. Thấy người hung dữ thì mình tỏ ra nhường nhịn, hòa nhã. Vì sao? Vì dùng đức để giáo hóa, nên đối với những kẻ xảo trá mà hiện bày nghĩa chân chính, ở trong giao tiếp thì nên khiêm tốn. Đối với những trường hợp không báo đáp thì thực hành báo đáp ân đức. Ở những nẻo ác mà tu tập hạnh lành, ở chỗ người ta phế bỏ, thoái lui thì tu phước đức. Ở chốn kiêu mạn thì thực hành cung kính. Ở chỗ cao ngạo, chẳng nên tự đại. Ở nơi cầu đạt mọi tiện lợi, không nên làm điều sai trái, không nhớ nghó việc ác của người, không nói lỗi lầm. Nếu ở nơi bất chính, liền đến giúp đỡ khiến họ đi vào chân chính. Tất cả chúng sinh đều đạt đến chỗ này, thấy được việc ấy tất vui mừng, tâm không giận dữ. Nếu có người can gián, dụ dỗ, bảo tới hoặc lui, nên như vậy hay không nên như vậy thì tâm không thêm bớt. Dốc lòng tin vào việc làm có họa hay phước để trở về với chính mình. Nếu ở nơi đồng hoang, núi non vắng vẻ thì theo như pháp tu tập không khác, chẳng tham lợi, hại chẳng tiếc thân mạng. Tâm thanh tịnh nên trước hết không tăng giảm, thường giữ gìn lời nói, không vọng ngữ, không mong cầu sự cung kính. Vì sao? Vì luôn biết tiết chế, biết đủ, tâm ấy hòa dịu, không theo việc xấu ác làm mất lễ nghĩa, nhờ có công đức nên vượt qua sinh tử, dứt mọi khổ nạn. Vì sao? Vì nhờ những việc ấy nên trí tuệ của Bồ-tát mãi mãi là không cùng tận. Vào ra trong sinh tử cũng vô cùng tận, dùng phương tiện quyền xảo, tùy theo căn cơ, nhận biết toàn bộ sự mê mờ của chúng sinh để giáo hóa họ. Vô cùng tận là để cầu ánh sáng của Phật đạo vô tận. Hiền giả Xá-lợi-phất hỏi Bồ-tát A-soa-mạt: –Có pháp vô tận khác sao? Bồ-tát A-soa-mạt nói: –Có. Hiền giả Xá-lợi-phất hỏi tiếp: –Pháp ấy là gì? A-soa-mạt đáp: –Bồ-tát bố thí là vô cùng tận. Vì sao? Vì sáu pháp Ba-la-mật là vô tận, nên Bồ-tát bố thí cũng không giới hạn. Có giới hạn vì có phải trái, nên cho người này, không cho người kia bố thí không cùng khắp thì không nên bố thí. Hiền giả Xá-lợi-phất hỏi: –Pháp Bồ-tát phải làm về bố thí là như thế nào? A-soa-mạt nói: –Người đói thì cho họ ăn. Vì sao? Vì con người nhờ ăn mặc mà được tồn tại, có thể sống lại, đi đứng nói năng đều được an ổn, thân thể mạnh khỏe, sức lực dồi dào. Người khát thì cho nước uống, sẽ được hết khát. Vì sao? Vì nếu ở đời sau, Bồ-tát lưu chuyển trong sinh tử thường không đói khát. Nếu có người cầu xin xe, nên tùy ý của họ mà ban cho, nhờ phước báu ấy, đời sau sinh ra có thần thông bay đi tự tại đến nơi muốn đến. Người không có áo mặc thì nhân đó ban cho y phục, đời sau sinh ra liền đủ y phục, thường có đủ hổ thẹn. Đối với những nơi chốn tối tăm thì ban cho đèn đuốc, liền được mắt đạo thấy khắp mười phương. Nếu ở trước Đức Phật, thầy tổ, anh em, cha mẹ, những bậc Trưởng lão mà xướng lên những thứ âm nhạc để làm vui lòng họ thì đời sau sinh ra được lãnh hội giáo pháp, nghe hiểu, thấu suốt vô tận. Nếu người không có hương thơm thì ban cho họ, đời sau sinh ra được năm phần hương: Giới, định, tuệ, giải thoát và giải thoát tri kiến, thân này được thấm nhuần hương công đức. Nếu có người cầu hương tạp, hương danh, liền ban cho theo sự mong muốn thì đời sau sinh ra thân thể có mùi hương thanh khiết, ai cũng ưa thích. Nếu có những mùi vị khác lạ, thơm ngon mà có người đến xin thì tùy theo ý muốn của họ mà ban cho, đời sau sinh ra thường được các món ăn thượng hạng, hoặc thức ăn không ngon khi ăn liền trở thành thơm ngon, nhờ đời trước đã gieo trồng căn lành mà được phước đức này. Nếu người không có khăn lau, liền bố thí cho họ, đời sau sinh ra được sạch sẽ, được người khác che chở. Nếu có người không được giúp đỡ thì nên cứu giúp họ, giống như nhà cửa. Sở dó dụ cho nhà cửa vì nhà cửa luôn che chở con người. Tùy theo chỗ thiếu thốn mà cứu giúp, đời sau sinh ra chắc chắn được cung cấp đầy đủ. Gặp bệnh cho thuốc thì đời sau sinh ra thân thường mạnh khỏe, không sinh, không diệt, không có các hoạn nạn, thường được an ổn, tất cả đều đầy đủ, không chỗ nào là không làm chủ. Người không có kẻ hầu hạ thì giúp họ người hầu hạ, đời sau sinh ra tự nhiên đầy đủ, như bậc vua có vạn cỗ xe, kẻ hầu người hạ, không gì thiếu thốn. Người cầu của báu thì ban cho họ của báu, đời sau sinh ra thành tựu đầy đủ ba mươi hai tướng của bậc Đại nhân. Bố thí nhiều thứ với ngần ấy chủng loại thì đời sau sinh ra được tám mươi vẻ đẹp. Người bố thí voi, ngựa thì đời sau tâm ý thấu đạt pháp Đại thừa vô lượng. Dùng ruộng vườn bố thí thì nhân đó được đầy đủ Thiền định ba-la-mật. Đem của báu và vợ con yêu quý ban cho người khác mà sau đó tâm không hối tiếc thì thành tựu Phật đạo. Vì sao? Vì Phật là bậc tối thượng không ai sánh bằng. Giả sử có người theo Bồ-tát cầu được kho lúa gạo đầy ắp, Bồ-tát liền ban cho họ, chưa từng tham tiếc, đời sau liền đạt được kho tàng chính pháp, đầy đủ đạo tuệ, không chỗ thiếu thốn. Giả như Bồ-tát được ngôi Chuyển luân vương làm chủ bốn cõi thiên hạ, bảy báu gồm đủ, nếu có người đến xin, liền ban cho hết, không luyến tiếc thì đời sau sinh ra đạt được Nhất thiết trí, các trí tuệ của bậc Thánh và cứu giúp khắp chúng sinh. Người dùng các thứ nhạc hay bố thí cho người khác thì đời sau được thấu hiểu kinh điển, lấy đó làm pháp lạc, luôn được vui vẻ. Hoặc vì bậc có uy lực, ngôi vị cao được người trung thành giúp đỡ, thực hành pháp bố thí, giống như trung thần của nhà vua, nếu có người đến xin nhận công việc cai trị cũng liền ban cho. Nhờ những sự việc này, nên đời sau sinh ra, gặp pháp Phật dốc sức giáo hóa, an tọa ở đạo tràng nơi cây Bồ-đề, hàng phục các ma. Dùng tay bố thí cho người, đời sau đứng đầu trong tất cả đạo pháp. Người bố thí tai, mũi, đời sau thân được đầy đủ, không bị khiếm khuyết. Người dùng mắt bố thí, về sau được mắt pháp, là bậc nhất trong tất cả mắt đạo pháp. Người dùng đầu bố thí, đời sau sinh ra, ba đời đều được đặc biệt tôn trọng, các trí tuệ thần thông không ai sánh bằng. Người bố thí da thịt, đời sau thành Phật đạo, người đến nghe kinh, liền bỏ các pháp bất thiện, đạt được hạnh của bậc Bồ-tát chân chính. Dùng xương tủy bố thí cho người, đời sau được thành Phật đạo, thân như kim cang không thể lay động. Bồ-tát A-soa-mạt nói: –Bồ-tát không dùng sắc mà có sự bố thí là do tu tập chân chính. Nếu có người đến xin nhiều hay ít, thảy đều cho họ được đầy đủ. Khi bố thí mà không lo sợ, không tham đắm thì thực hành bố thí không ôm lòng hối hận, chưa từng biến đổi. Bồ-tát bố thí không kiêu mạn, luôn thành tâm ban cho. Bố thí không dua, dối, chẳng đem vật xấu, không đúng chỗ mong cầu mà cho người. Bồ-tát bố thí chưa từng nghó người có phước đức, người có tội lỗi không có hồ nghi, không phân biệt tốt xấu, không giữa chừng bỏ sót việc bố thí. Sao gọi là giữa chừng bỏ sót việc bố thí? Tức như ở trong hội lớn cho người này, bỏ sót người kia, mà chính là nhằm tế độ cùng khắp. Vì sao? Vì Bồ-tát đã bố thí luôn hết thảy tin tưởng, chẳng nghó về chỗ mệt mỏi, không cho là cực khổ. Bồ-tát bố thí không nghó người nào có mặt mới cho, cũng không suy xét người này thiện, người kia ác, chẳng nhất định tìm người cầu đạt đạo mới cho. Sau khi bố thí cho người thì không phân biệt người này được đạo, người kia không được đạo. Bồ-tát bố thí thấy người trì giới hoặc không trì giới đến nhận đồ vật, tâm hoan hỷ không có khác nhau. Bồ-tát đã bố thí, không cầu mong được báo đáp lại, không cầu danh tiếng khiến cho xa, gần đều nghe, chẳng tự kể lể, chẳng ghét, chẳng phỉ báng. Việc bố thí của Bồ-tát chẳng gây phiền não, nhiễu loạn, bố thí không mang lòng oán hận, bố thí không tức giận, bố thí không vui mừng. Bồ-tát bố thí không nghó là đời sau sẽ được phước này, chẳng khởi lòng giận dữ, mắng nhiếc cho là ngu dại. Có người đến xin chẳng trước thì từ chối, sau rồi mới ban cho, chẳng xem nhẹ việc bố thí, chẳng thay người khác đem vật đến cho. Vì sao? Vì phải tự tay mình bố thí, cũng không nghó người ở trước mặt ta thì ban cho, người không ở trước mặt thì không ban cho. Bố thí không ngăn ngại, tự mình hết lòng thí, không vội vàng, tự tay trao cho họ, bố thí không đắn đo, suy nghó, khi cho, khi không cho. Bồ-tát không nghó việc bố thí của ta rất mệt mỏi, cực nhọc, bố thí từ trước đến nay không nhiều không ít, không chọn lựa vật xấu đem cho giữ lại vật tốt. Nếu có người đến xin luôn theo yêu cầu của họ, chưa từng giảm bớt. Việc bố thí của Bồ-tát thường nghó đến các chúng sinh khắp chốn không thiên lệch, khiến cho người nhận luôn được an ổn. Khi bố thí thì nghó người ấy như là người ở trong đất nước mình. Vì sao? Vì tất cả chúng sinh đều ở trong cõi đạo của Bồ-tát. Lại nữa, công việc bố thí, ít không xem thường, nhiều không vui mừng. Tuy bố thí nhiều nhưng không xét nghó: Ta đã bố thí rộng rãi vì đã như pháp bố thí thì chẳng mong cầu. Bồ-tát bố thí không nghó đến phước này sẽ thọ nhận công đức trong đời sống. Vì sao? Vì tất cả chúng sinh đều mang ân bố thí nên chỗ bố thí cho người thì không nhớ nghó đến. Cũng không cho trên trời, dưới trời và trong loài người, riêng chỉ mình là đạt được uy lực tôn kính. Việc bố thí của Bồ-tát là bố thí cùng khắp cho chúng sinh, không vì phước ấy mà mong cầu ngôi vị Phạm vương, Đế Thích, Tứ Thiên vương, cũng không mong cầu ngôi Chuyển luân thánh vương, không tu tập tâm Thanh văn, Duyên giác. Bồ-tát bố thí tâm không nhớ nghó, bố thí đầy đủ cũng không hề tính toán đủ hay không đủ cũng đều bố thí là nhằm khiến cho tất cả chúng sinh không xa lìa trí tuệ thông suốt của chư Phật. Người nhận sự bố thí thường được đáp ứng ngay, không dùng binh khí, thuốc độc ban cho, mà luôn đem sự an ổn bố thí cho người, không tăng thêm nhiễu hại. Bồ-tát bố thí theo giáo pháp của Đức Phật, những vật đem cho biết rõ về tất cả đều là không. Sở dó như vậy, vì người bố thí dùng nhân duyên làm nơi phát khởi, do những việc trên mà không cùng tận. Người bố thí đều hiểu rõ là không có tướng, vì các tưởng được phát khởi từ duyên ấy nên vô tận. Người đã bố thí đều đạt đến vô nguyện. Vì các nguyện luôn tạo nhân duyên lành, vì các việc này nên vô tận. Lấy ý của đạo pháp mà có việc bố thí, tâm này vững chắc hoàn toàn, đầy đủ, an ổn, không thể tan hoại. Việc bố thí của Bồ-tát trong ba cõi không ai sánh kịp. Những việc bố thí của Bồ-tát khiến cho phước đó quay về theo hành nghiệp của Bồ-tát. Tâm chí ấy thường kiến lập, tâm cầu đạt đến Nhất thiết trí, do đó nên gọi là vô tận. Người được bố thí đó thoát khỏi các tưởng, nắm giữ các ma khiến chúng không còn nhiễu hại, xa lìa các phiền não nên vô cùng tận. Sự bố thí của Bồ-tát vượt hẳn tất cả, làm sáng rõ Niết-bàn. Những trường hợp bố thí dứt bỏ tâm nghi ngờ của họ nên vô tận. Người được bố thí an trú trong Phật đạo, không mong tâm khác, chỗ bố thí thích hợp nên không cùng tận. Bồ-tát bố thí ngồi nơi cây Bồ-đề của Phật thành tựu bậc Đẳng chính giác. Người được bố thí là vô số các loại chúng sinh không thể tính kể, đều tế độ không cùng tận, cho nên gọi là vô tận. Về trường hợp bố thí không cùng tận, tức việc làm ấy là rộng lớn. Người được bố thí do chứng được đạo nên không ai có thể lay động, không ai có thể vượt hơn. Huống chi là người bố thí, nên không cùng tận. Người thí và người được bố thí tâm đều bình thản, như bậc Nhất thiết trí nên vô tận. Hiền giả Xá-lợi-phất nói: –Lành thay, lành thay! Thưa nhân giả A-soa-mạt, nhân giả đã khen ngợi sự bố thí của Bồ-tát là vô tận. Thật vui thay! Xin muốn được nghe Bồ-tát giảng rõ về nghĩa giới cấm vô tận. Bồ-tát A-soa-mạt nói: –nghĩa của giới thanh tịnh nơi Bồ-tát cũng vô tận. Có sáu mươi bốn việc. Những gì gọi là sáu mươi bốn? Bồ-tát thực hành lòng nhân, không giữ tâm làm tổn thương chúng sinh, thân cũng không giết hại, không lấy vật của người khác, không xâm phạm vợ của người khác. Nếu thấy Bồ-tát hướng đến chúng sinh thì thường nói lời chân thật, chưa từng nói hai lưỡi. Nếu có người tranh tụng thì Bồ-tát thường giải hòa cho họ, hoàn toàn không mắng nhiếc, chẳng nói lời ác. Vì sao? Vì Bồ-tát thường có tâm hổ thẹn, nói năng giữ lời, không nói dối sự việc. Đối với tất cả mọi người không có ý nghó ganh ghét, không khởi tâm giận dữ đối với chúng sinh. Vì sao? Vì nhờ nhẫn được việc này, đời sau được thân tướng đoan nghiêm. Tâm ấy thường chân chính không theo các học phái khác, tâm thường vui thích nơi Phật đạo. Vì sao? Vì tâm ấy thanh tịnh, không có trần cấu, yêu thích pháp Phật. Sở dó như vậy là vì hiểu rõ không có pháp nào có thể vượt lên trên, nên dùng tâm nhân từ, hết lòng vì đạo. Nếu thấy Sa-môn, Phạm chí liền dùng năm vóc đảnh lễ quy y. Năm vóc là gì? Hai tay, hai đầu gối và đầu của mình cúi sát chân. Vì sao? Nhờ vị ấy chứng đạo mà tất cả đều quy y. Tâm luôn hòa dịu, thấy người phạm điều sai trái, mình phải thận trọng không làm, đối với giới pháp luôn được đầy đủ, không có tâm cầu Thanh văn, Duyên giác, đối với những người phạm giới mà mình không chỗ phạm. Vì sao? Vì đời sau không muốn sinh vào các gia đình đánh cá, săn bắn, ngu tối, nên thường tu hành tinh tấn, không lười biếng. Vì sao? Vì không cùng làm việc với những kẻ tà ác, nên giữ giới đầy đủ không thiếu sót, gần gũi bậc Trí đức, hiểu rõ pháp thâm sâu, không trái phạm, hết lòng tin tưởng giới cấm, phụng trì chân chính thuận theo giới đúng như pháp, tất cả chúng sinh đều khen ngợi, giữ gìn giới cấm thanh tịnh đạt đến tận cùng nẻo Vô thượng Bồ-đề. Bản tâm vui thích hành trì giới cấm, không nên truyền đạt lời nói sai trái và lỗi lầm của người khác, do tâm không tà vạy nên giới được đầy đủ, không bị mê hoặc theo sáu trần, phụng trì giới hạnh, chẳng có điều gì là không tuyên dương. Lãnh hội những điều chư Phật chính giác đã biết, giới không có chỗ để mong cầu như điều mình thích, giới biết vừa đủ dứt mọi tham lam. Giới ấy thuần khiết, không lẫn lộn những điều ác. Thân tâm thanh thản, không có điều lo buồn, thường ưa chỗ vắng vẻ, chưa từng ham ở nơi ồn ào. Giới có thể hoàn bị đúng như lời dạy của đạo pháp, không thâu nhận từ người khác, cẩn thận đối với giới cấm, luôn dùng y phục thích hợp, công đức ấy không ai sánh kịp, hợp với bản nguyện không dùng đồ ngon vật lạ mà làm rối loạn tâm ý. Vì sao? Vì có đạo lực hạn chế những điều ác, nẻo hành đúng giới luật thì trời người đều vui mừng, thực hành giới tâm Từ để cứu giúp chúng sinh, tu tập tâm Bi nhận chịu mọi thứ khổ, tuân phụng, hộ trì giới chẳng biếng nhác, dùng giới tâm bình đẳng với tất cả chúng sinh, đối với thiện hoặc ác không có tâm phân biệt, thường xem xét giới cấm không làm hao tổn, không để cho tâm mình giong ruổi. Giới không nghó đến điều ác, không nói lỗi của người, hộ trì tất cả chúng sinh, giữ gìn giới kiên cố, đừng để tâm chạy theo những ham muốn, thuận theo giới bố thí, dẫn dạy tất cả chúng sinh, vì giới nhẫn nhục nên không khởi tâm tức giận. Chí tâm vào giới tinh tấn, mãi mãi không thoái chuyển. Trì giới thiền định thì tâm ý được an ổn. Phụng trì giới trí tuệ thì rộng nghe nghĩa chân chính không nhàm chán. Trì giới đa văn thì giác ngộ các pháp chính yếu. Thuận theo giới của các bậc Thiện tri thức thì thông đạt các pháp. Xả bỏ giới của các tri thức ác thì xa lìa các tà kiến và các nẻo không chân chính của các học thuyết. Giữ giới không cậy vào thân thì biết vạn vật đều vô thường. Giữ giới không tham tiếc mạng sống thì chỗ tạo tác công đức ấy như vàng ròng. Giữ giới không hối hận thì tâm ý luôn thanh tịnh. Giữ giới không phiền hà thì ý ấy trong sáng, không cấu uế. Giữ giới không sân hận thì được an lạc. Giữ giới không mê hoặc thì không bị các dục lôi cuốn. Giữ giới không tạo sự nguy khó thì tránh được mọi tổn hại. Giữ giới không xung đột thì tâm không rối loạn. Giữ giới tâm được điều phục thì ý không lầm lạc. Giữ giới thông suốt, vắng lặng thì không bị nghiệp thế tục phát khởi. Giữ giới thuận theo chân chính thì biết đúng như lời dạy. Giữ giới biết các hạnh nguyện là gốc thanh tịnh thì như giới của Như Lai. Vì sao? Vì thuận theo những điều căn bản như giới Đức Phật đã quy định, thường dùng bốn Tâm vô lượng để hóa độ chúng sinh, từ Nhất thiết trí đi vào cửa đạo. Vì sao? Vì chẳng bao giờ mang hận. Đó là sáu mươi bốn việc của Bồ-tát để làm thanh tịnh giới cấm mà vô tận. Bồ-tát A-soa-mạt lại nói với Hiền giả Xá-lợi-phất: –Bồ-tát lại có tịnh giới chẳng tham thân mình, chẳng nghó nhớ về tất cả, chẳng tưởng nơi ta, người, chẳng kể tuổi thọ, chẳng nghó sắc, thọ, tưởng, hành, thức, không nương bốn đại đất, nước, gió, lửa, mỗi thứ đều có bốn giới lớn, không có các tưởng mắt nhìn sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân tiếp xúc pháp, không thân, miệng, ý. Giới ấy thường thanh tịnh, đó là tướng nhất tâm không mê loạn. Giới quán sát kỹ các pháp đã qua: Không, Vô tướng, Vô nguyện, cũng không hình tượng, vượt qua ba cõi, không chấp chặt, không trói buộc, giới ấy không suy nghó, cho nên không sinh ra. Vì sao? Vì không có chỗ sinh. Sở dó như vậy, vì giới không tạo tác, không tạo tác vì vốn không có đối tượng được tạo tác. Do vậy nên giới không hạn lượng, mọi ý niệm về trung gian cũng không có chỗ dừng, tâm ý thanh tịnh làm giới nhận biết không có chỗ trụ. Vì sao? Vì dứt mọi tưởng niệm. Giới không có đối tượng bị trói buộc. Sở dó như vậy, vì không có sự xô đẩy của dục, cũng không trụ vào sắc, cũng không trụ nơi vô sắc mà luôn gắn liền với các trần. Đó là giới. Xa lìa dâm dục, giận dữ, si mê, nhân nơi chỗ tối tăm mà được giải thoát gọi là giới. Không chấp, không bỏ, xả mười hai duyên gọi là giới. Không niệm về ngã và ngã sở, chẳng trụ nơi dục vì thế gọi là giới. Không tạo tác, không mong cầu, chẳng trụ nơi tưởng về sắc, không ở nơi tất cả danh sắc, đó là giới. Không tùy thuộc nhân duyên, không phiền, không não, không ngã, không phi ngã, không thuận hợp với nghi, gọi là giới. Không tham cầu phước mà có công đức do vượt qua các sự việc ác, phi pháp. Vì sao? Vì kẻ ngu tối là phi pháp, đó là giới. Không có ưu não, thân tâm luôn chân chính nên gọi là giới tướng. Phụng hành giới, thận trọng như bệnh được chữa khỏi, khiến cho kinh điển nơi chính pháp của chư Phật luôn được truyền bá. Pháp thân tự tại vô tận nên thường hiện hữu. Vì sao? Vì không rơi vào nhị biên: Một là thường, hai là đoạn. Thánh chúng tiếp nối nhân đó mà thuyết pháp, mọi sự tu học không gián đoạn. Vì sao? Vì thuận theo giới luật. Bồ-tát A-soa-mạt bảo Hiền giả Xá-lợi-phất: –Nhân nơi gốc thanh tịnh nên không cùng tận. Thế nào là giới của thế gian? nghĩa là chốn sinh tử nên có tận. Vì sao? Vì ở nơi năm cõi nên gọi là tận. Sở dó gọi tận là có vô thường nên không trụ nơi một chỗ. Ngoài ra, giới nơi năm thần thông của thần tiên đều là trí thế gian, cầu sống lâu, các phép lạ nhưng mạng sống vẫn chấm dứt. Vì sao? Vì giới cấm có hạn lượng. Giới của hàng người như mười thiện cũng có hạn lượng. Vì sao? Vì đã lìa bỏ giới giải thoát. Giới của chư Thiên cõi Dục cũng có hạn lượng. Vì sao? Vì công đức đã hết. Giới định của chư Thiên cõi Sắc cũng có hạn lượng. Vì sao? Vì định ấy chưa phải là định giải thoát. Giới tịch diệt của chư Thiên cõi Vô sắc cũng có hạn lượng. Vì sao? Vì pháp tịch diệt ấy chưa hướng tới giác ngộ. Giới của bốn bậc Thanh văn cũng có hạn lượng. Vì sao? Vì đã chấp vào Niết-bàn. Giới của hàng Duyên giác cũng có hạn lượng. Vì sao? Vì không có tâm Đại Bi. Bồ-tát A-soa-mạt bảo Hiền giả Xá-lợi-phất: –Chỉ có giới pháp của Bồ-tát là vô tận. Hiền giả Xá-lợi-phất hỏi: –Do những gì mà giới pháp của Bồ-tát vô tận? Bồ-tát A-soa-mạt đáp: –Vì các giới có hạn lượng đều chẳng phải là giới đúng nghĩa. Do đó, giới của Bồ-tát vô tận. Giới chân chính này là hạt giống luôn tiếp nối nên vô tận. Thế nào gọi là “quả thật” nơi đạo quả vô tận chỗ gọi chủng tính là tâm của Bồ-tát, gọi là quả thật tức là mười Lực vô tận của Phật, nên gọi là giới pháp của Bồ-tát vô tận. Bồ-tát A-soa-mạt nói với Hiền giả Xá-lợi-phất: –Nhẫn nhục của Bồ-tát cũng vô tận, có ba mươi hai việc: Những gì là ba mươi hai thứ vô tận? Không tham vướng nơi dục, không dấy khởi ý niệm về chúng, thân không phạm và không khiến người khác phạm. Đó gọi là nhẫn nhục vô tận. Không nhớ đến các điều ác, không oán hận tất cả, không giận dữ với chúng sinh, không nghó việc ác của người, không tranh chấp với người, không quên giúp đỡ người, nếu bị người hủy báng mà vẫn nhẫn chịu, tự giữ gìn các hạnh của thân và giúp đỡ mọi người, thận trọng với tâm mình không bị lệ thuộc, thường nhớ nghó về đức thiện, không có tâm ái dục, được thân trang nghiêm, tin tưởng làm việc thiện, ác đều có báo ứng, miệng không nói lời hư dối, tâm thanh tịnh. Tâm của Bồ-tát luôn vững chắc, không bỏ chúng sinh, tự xét kỹ để nhận biết về các tâm niệm tà vạy, tâm thuận hợp hòa nhã, luôn giữ gìn tâm khiến cho các điều ác không thể sinh, tu hành thanh tịnh sinh vào cõi Phạm thiên, từ cõi trời sinh vào loài người, đầy đủ các tướng đức và tám mươi vẻ đẹp, đạt đến âm thanh êm dịu như là Phạm thiên, giải thoát khỏi dâm dục, sân giận, ngu si, giao tiếp với mọi người qua sắc diện dịu hòa tươi vui, các công đức được tạo chưa từng quên mất, hàng phục các tà thuyết của ngoại đạo, do bỏ các thứ bệnh nên không gặp các hoạn nạn, do thuận hợp đầy đủ nơi đạo pháp của chư Phật đó gọi là nhẫn nhục, là ba mươi hai thứ vô tận, là nhẫn nhục của Bồ-tát. Sao gọi là nhẫn nhục? Nếu có người mắng nhiếc, mình vẫn im lặng. Nếu có người đánh đập, mình không tìm cách đánh trả. Đó là nhẫn nhục. Vì sao? Vì không thấy có người đánh, mình bị đánh và vật đánh cũng không. Nếu có người giận dữ, mình vẫn không oán trách. Xem lời nói như huyễn hóa, nên dù có người khởi ý xấu ta vẫn không chống đối, như vậy mới có thể điều phục được tâm ý. Nếu có người nghó về điều xấu ác, ta vẫn bình thản và xét người này có lòng ác nhưng ta không nên làm theo. Nếu có người khen ngợi thì cũng chẳng cảm động, vui mừng. Vì sao? Vì nếu không phát sinh ý niệm ấy thì được lợi ích, điều phục được tâm ý. Nếu có bị suy hao chẳng lấy làm lo buồn nên tự biết đủ. Thấy người tán thán cũng không cho là điều hay. Nếu bị người phỉ báng thì chẳng động lòng. Vì sao? Vì có trí tuệ rộng lớn. Nếu được người cung kính cũng không cao ngạo, vì cầu sửa đổi tâm tính. Ví như có người lễ bái cũng không vui mừng, cũng không nên nói: “Ông phải như vậy”. Nếu được địa vị, thế lực vẫn không tự đại. Vì sao? Vì tâm không lay động, luôn thương xót tất cả chúng sinh. Tuy ở nơi cực khổ nhưng vẫn không cho là hoạn nạn, chán bỏ. Tuy ở chốn vui sướng vẫn không vui mừng, do hiểu rõ các việc thế gian là vô thường, không vì tám sự ở đời mà chao động. Vì sao? Vì sống trong thế gian nếu có người quấy nhiễu vẫn không chống trả, không dám phạm. Giả sử có người phân thân ra từng đoạn ta vẫn nhẫn chịu, vì dốc thể hiện đầy đủ hạnh nghiệp của Bồ-tát. Nếu có người não hại, tâm ý mình cũng hoàn toàn không thay đổi vì biết rõ thân này do bốn đại hợp thành, có thể tan hoại, lấy gì để tham đắm. Vì sao? Do nhẫn nhục nên được thân Phật. Nhẫn nhục hết mọi khổ não không thể nói hết là điều khó. Vì sao? Vì nhờ đó mà đạt được sự kiếp lập an ổn lớn cùng năng lực của đạo Vô thượng Bồ-đề. Nếu ở trong chỗ tu của hàng Phạm chí, dù hiện thân vào lửa vẫn không bị tổn hại, vì muốn cho người ấy biết tâm thanh tịnh, chuyển hóa tâm mê hoặc khiến cho tâm chí họ trở về với nhân chân thật thì sẽ được sinh Thiên. Chỗ tu học của Phạm chí kia ưa thích thờ lửa thì sự thị hiện của Bồ-tát luôn biến đổi, đạo đức siêu vượt, thù thắng chẳng ai sánh bằng. Vì sao? Vì các bậc Phạm vương, Đế Thích, Tứ Thiên vương đều cúi đầu đảnh lễ Bồ-tát. Nhẫn nhục của Bồ-tát không có giới hạn, do đó không thể cùng tận. Đối với người mạ lî không sân hận, cũng chẳng nghó là ai mạ lî mình, nhân nơi tự tại đó mà được pháp nhẫn. Bồ-tát không suy nghó, người ấy nhục mạ về mắt, tai, mũi, thân, miệng, ý của ta. Hoặc mạ lî nơi tâm chăng? Vậy thì mắng chửi ở đâu? Không phụ thuộc vào các trần liền đạt được pháp nhẫn. Không nghó về những ai đến nhục mạ mình nên có thể hội nhập pháp nhẫn không người. Các nhẫn ấy đều chẳng phải là nhẫn. Vì sao? Vì chỉ giả nêu, gọi tên. Xét kỹ về nhẫn ấy cũng như tiếng vang nơi hang núi. Người hiểu được vấn đề này thì lãnh hội được pháp nhẫn vô thường. Chẳng nghó ta và người khác đạt được pháp nhẫn trung hòa, cũng không nghó mình theo pháp giáo hóa của ai đó, không trụ trong pháp ấy, đó gọi là nhẫn. Không nên dấy khởi niệm chỉ ta ở trong đạo, những người khác không kiến lập được đạo. Ta nghó về không, chẳng nghó về thật. Nghó về không tướng tư duy, chẳng nghó về có tưởng, nghó về nhẫn rốt ráo, chẳng nghó về nhẫn chưa rốt ráo, nghó về nhẫn vô nguyện, chẳng nghó về nhẫn hữu nguyện. Nhẫn không sinh tử, chẳng khởi đầu, chung cuộc, nhẫn là có thể thực hiện, chẳng phải là không thể thực hiện. Nhẫn là có đức, chẳng phải là không có đức. Nghó về nhẫn là không sinh, chẳng nghó về đối tượng được sinh. Nhẫn vượt ra khỏi thế gian không cùng với thế gian hòa hợp. Nhẫn là nơi hội nhập đạo, chẳng phải là không hội nhập đạo. Nghó về nhẫn là giải thoát, chẳng phải là không giải thoát. Hiểu rõ nhẫn là Niết-bàn, không phải là sinh tử. Nhẫn nhục của Bồ-tát không sinh các ý niệm ấy. Vì sao? Vì chúng chẳng bình đẳng. Các nhẫn của Bồ-tát gọi là gì? Là hiểu rõ, hội nhập vào không, không đoạn, không thường, đó là nhẫn của Bồ-tát. Cũng không nghó về sinh, chẳng nghó về không sinh, không nghó về hóa sinh. Nếu không hóa sinh thì chẳng khởi ý niệm về có không. Hiểu rõ nghĩa này đến vô tận nên gọi là không cùng tận. Nhẫn tức không có chỗ tạo tác, không nghó phải như vậy hay chẳng phải như vậy, không có nêu bày tức không có trói buộc, không cởi mở, không có chốn sinh ra nên chẳng tạo dựng, đã không có chốn sinh ra nên là vô tận. Nhẫn như vậy là đạt được pháp nhẫn Vô sở tùng sinh (nhẫn vô sinh). Kể từ lúc đạt được pháp nhẫn Vô sở tùng sinh cho đến lúc Như Lai an tọa nơi cội Bồ-đề thì người hội nhập nhẫn này sẽ được thọ ký gọi là vô tận. Khi Bồ-tát A-soa-mạt giảng nói phẩm Pháp nhẫn này, trong chúng hội đều tán thán: –Lành thay, lành thay! Thật đúng là lời giảng của Bồ-tát A-soa-mạt. Khi ấy, mười vạn chư Thiên đều dùng hoa trời, danh hương, cờ phướn, dù lọng tung rải lên cao để cúng dường Bồ-tát A-soa-mạt và các vị Bồ-tát khác. Âm nhạc của chư Thiên tự nhiên vang lên, làm vui lòng mọi người. Tâm của họ đều trong sáng, mang ý nghĩa rộng lớn, tất cả đều nói: –Nguyện làm cho hết thảy chúng sinh luôn được sáng suốt như nhẫn của Đức Như Lai. Nếu người nghe được âm thanh này mà không khiếp, không sợ, tâm không còn lo lắng thì những danh hương, hoa trời, cờ phướn, dù lọng này sẽ tràn đầy, biến khắp tam thiên đại thiên cõi Phật. KINH A-SOA-MẠT BỒ-TÁT <卷 id="117270373">Quyển 3 Đức Phật bảo Bồ-tát A-soa-mạt: –Hôm nay nhân giả có thể che chở cho chúng sinh không? A-soa-mạt thưa: –Vâng theo Thánh chỉ của Phật, con có đủ sức đảm nhiệm công việc ấy. Bồ-tát A-soa-mạt liền nhập Tam-muội, tức thời các hình sắc nơi thân tướng, các thứ hoa hương, dù lọng, cờ phướn, các vật dụng cúng dường đều nhập vào rốn, nhưng thân của Bồ-tát vẫn không thêm bớt. Khi ấy, có một Bồ-tát hiệu là Đại Tịnh hỏi Bồ-tát A-soa-mạt: –Tam-muội Hiền giả đã nhập tên là gì mà có sự biến hóa hiển hiện và khả năng thậu nhận tất cả hình sắc nơi thân, các hoa hương, dù lọng… nhưng thân vẫn như cũ không thêm, không bớt. Bồ-tát A-soa-mạt đáp: –Tam-muội ấy gọi là Phổ thọ sắc thân. Bồ-tát Đại Tịnh lại hỏi: –Tam-muội này có thể thâu giữ những thứ như vậy hay còn thâu nhận những gì khác nữa chăng? Bồ-tát A-soa-mạt đáp: –Những cõi nước trong tam thiên đại thiên thế giới đều có thể nhập trọn vẹn vào thân ấy. Vì sao? Vì do thần lực nên không hề có sự tăng giảm. Lúc này, chư vị trong chúng hội gồm các hàng Trời, Người, Bồ-tát, Thanh văn đều suy nghó, giống như người khát nước lâu ngày muốn được uống, hết thảy đều mong được thấy thần thông biến hóa của Bồ-tát. Đức Phật biết tâm niệm của chúng hội bèn bảo Bồ-tát A-soa-mạt: –Nên vì tất cả mọi người mà hiện Tam-muội ấy. Bồ-tát A-soa-mạt liền vâng theo lời dạy của Phật. Ngay lúc ấy, Đức Phật, chư vị Bồ-tát và chúng Tăng có mặt nơi pháp hội, đến từ khắp mười phương đều thấy mình an tọa trong rốn của Bồ-tát A-soa-mạt với rốn ấy đã hiện ra cõi nước tên là Phổ trang nghiêm, y phục của các Bồ-tát ở đây giống như y phục của các bậc Đại só nơi cõi Phổ trang nghiêm kia, tất cả đều hiện rõ trong rốn của Bồ-tát A-soa-mạt với những biến hóa lồng lộng ít có. Hiện biến hóa xong, chúng hội liền trở lại như cũ. Bồ-tát Đại Tịnh bảo Bồ-tát A-soa-mạt: –Đức lớn siêu việt của Tam-muội này thật là thù thắng, rực rỡ. Bồ-tát A-soa-mạt đáp: –Lời khen ngợi ấy vẫn chưa đủ. Vì sao? Vì bao thứ đất, núi, khe trong tam thiên thế giới thu vào thân ta chỉ là việc nhỏ. Hoặc có thể thu tóm số lượng các quốc độ nhiều như cát sông Hằng mà chẳng bị dồn nén, huống gì là những thứ khác. Khi Bồ-tát giảng nói về thần thông của phẩm Nhẫn nhục thì bảy mươi triệu vị thiện nhân phát tâm Bồ-đề, một vạn hai ngàn Bồ-tát đều chứng pháp Nhẫn vô sinh. Hiền giả Xá-lợi-phất thưa Bồ-tát A-soa-mạt: –Nguyện xin được nghe pháp tinh tấn không cùng tận của Bồ-tát. Bồ-tát A-soa-mạt nói: Bồ-tát có tám pháp tinh tấn không cùng tận. Những gì là tám? 1.Mặc áo giáp công đức sâu dày với thệ nguyện rộng lớn, đó là tinh tấn không cùng tận. 2.Tích tập mọi tinh tấn không thoái chuyển. 3.Chuyên cần tu học, nuôi lớn tất cả các thứ công đức. 4.Hộ trì, giáo hóa hết thảy chúng sinh. 5.Tạo dựng vô số nguồn an lạc. 6.Tâm luôn mong cầu các pháp Ba-la-mật. 7.Hiểu rõ trí tuệ vô tận. 8.Nhằm đạt được đầy đủ giáo pháp của Phật, không cùng tận. Đó là tám pháp tinh tấn không cùng tận. Bồ-tát A-soa-mạt nói: –Sở dó mặc áo giáp, với thệ nguyện rộng lớn vì không cho sinh tử là cực khổ. Vì sao? Vì không tính kể phải trải qua bao nhiêu kiếp số để thành tựu Phật đạo, cũng không nhớ là có bao nhiêu kiếp đã hành hóa pháp Bồ-tát. Sở dó gọi là thệ nguyện rộng lớn, vì không giới hạn nơi số kiếp lâu dài. Bồ-tát luôn lấy chúng sinh làm gốc. Theo thế gian bắt đầu tính số từ một ngày đến mười lăm ngày, hoặc ba mươi ngày là một tháng, mười hai tháng là một năm. Như vậy dần đến mười vạn năm, hoặc một trăm, một ngàn vạn năm mà phát tâm Bồ-đề, cầu đạo vô thượng hoặc đến bao nhiêu số kiếp mới gặp một vị Phật. Số năm như vậy so sánh với số cát sông Hằng. Bồ-tát mới phát tâm cùng với tất cả chúng sinh, mỗi mỗi đều phát tâm rộng lớn. Các vị Bồ-tát nhiều như số cát sông Hằng cũng lại như thế. Tất cả chúng sinh vô số không thể tính kể cũng đều phát tâm. Đối tượng được nhận biết của tâm ý mới chỉ là một việc, còn những gì tâm ý chưa biết thì không thể kể hết. Cũng như sự cúng dường các Đức Phật nhiều như số cát sông Hằng, sau đó mới thực hành đầy đủ được pháp Bố thí ba-la-mật. Các pháp trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, nhất tâm, trí tuệ, ba mươi bảy phẩm Trợ đạo cũng lại như vậy. Bồ-tát nghe những pháp này mà tâm không biếng trễ, không xả bỏ áo giáp công đức rộng lớn, với thệ nguyện sâu dày. Số người nhiều như cát sông Hằng đều phát tâm Bồ-đề, tập hợp tất cả công đức của những vị ấy mới có thể tạo đủ một tướng của bậc Đại nhân. Tất cả như vậy đều nhờ vào công đức từ trước mới tạo hoàn toàn đầy đủ các tướng của bậc Đại nhân. Bậc Đại nhân chính là Bồ-tát. Bồ-tát nghe những điều như thế mà không cho là mệt mỏi. Vì sao? Vì chưa từng từ bỏ áo giáp với thệ nguyện rộng lớn. Đó là Bồ-tát mặc áo giáp tinh tấn với thệ rộng lớn không cùng tận. Sao gọi là tăng trưởng tinh tấn không cùng tận? Nếu có Bồ-tát siêng năng muốn nghe pháp chẳng kể gần, xa, chẳng ngại nước lửa hung dữ. Vì sao? Vì Bồ-tát không hề biếng nhác, mỏi mệt. Bồ-tát tích lũy các công đức không thoái chuyển, hội nhập, hỗ trợ để chúng phát triển. Vì sao phải hội nhập? Vì muốn chỉ bày cho chúng sinh, khiến họ được độ thoát, vào Niết-bàn. Muốn vào cõi giải thoát tức không do biếng nhác, kiêu mạn, mà phải có tâm bền vững, không xoay chuyển, luôn cầu công đức chẳng biết mỏi mệt, thường an trú nơi tâm Đại Bi, nên gọi là hội nhập. Bồ-tát, đến tất cả việc đi, đứng, ngồi, nằm cũng không quên tâm đạo, như trong khoảng một niệm luôn nghó đến giáo pháp của Phật, hộ trì cho tất cả mà chẳng phiền muộn nên gọi là tích tập không cùng tận. Thế nào gọi là nuôi lớn tất cả pháp tinh tấn không cùng tận? Tạo lập các công đức, chí nguyện vững bền với trí tuệ thông suốt nên gọi là vô tận. Giống như các loài rồng phun mưa xuống biển cả, không thể tính được số giọt nước là bao nhiêu nên gọi là vô tận. Vô số công đức của các bậc trí tuệ thần thông cũng không cùng tận. Sao gọi là tạo dựng vô số công đức? Chở dụng tâm tạo tác là vì tất cả chúng sinh nên thường giữ tâm ý bình đẳng. Tạo lập công đức không xa lìa trí tuệ thông tỏ, đã tu phước đức đều mong muốn cho chúng sinh cùng được hưởng ân đức ấy, nên gọi là tạo lập vô số công đức. Thế nào gọi là tâm mong cầu pháp vượt bờ? Chúng sinh nơi bốn châu thiên hạ cũng không cùng tận, chẳng thể tính để lãnh hội về số lượng ấy. Một lần giáo hóa dù đủ hết thảy các loài chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới, số lượng như vậy, dùng hình tượng so sánh cũng không thể diễn tả. Số chúng sinh trong a-tăng-kỳ kiếp đều được mở bày, dẫn dắt, cũng không có hạn lượng. Gấp trăm, ngàn, vạn, ức, trăm ức, vạn lần chẳng thể kể ra để ví dụ. Số người được giáo hóa, độ thoát như thế là vẫn còn quá ít. Bồ-tát nghe vậy mà chẳng lo sợ, là thích hợp với tinh tấn. Đó là tạo lập vô số công đức không cùng tận. Sao gọi là trí tuệ thấu rõ không cùng tận? Vì công đức của Bồ-tát là vô tận. Như vậy tính kể tất cả trí tuệ mà chúng sinh dùng để tạo lập công đức mới hội nhập vào hàng Dự lưu, Thất lai, Bất hoàn, Vô sinh (A-la-hán) và Duyên giác. Tập hợp các công đức ấy mới thành tựu được một phần nhỏ công đức của chư Phật. Kết hợp những công đức kể trên cùng với vô số công đức uy nghi nơi muôn ngàn lỗ chân lông trên thân Phật mới có thể thành tựu được tướng lông trắng giữa chặng mày. Nếu phước của tướng lông trắng giữa chặng mày ấy gấp ngàn lần mới thành Vô kiến đảnh tướng của chư Phật. Vì sao? Vì hàng trời, người đều không thể nhìn thấy Đảnh tướng của Đức Phật, do đó, nên nói phước đức trí tuệ không thể cùng tận. Lại nữa, sao gọi là trí tuệ không cùng tận? Giả sử chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới hết lòng tin Phật, lòng tin ấy gấp trăm lần thì mới sánh bằng công đức của người phụng tín. Giả sử những người phụng tín đầy khắp trong tam thiên đại thiên thế giới, trí đó gấp trăm lần cũng không bằng người đạt đủ tám bậc. Nếu người đạt đủ tám bậc đầy khắp tam thiên đại thiên thế giới, trí ấy gấp trăm lần cũng không bằng bậc Dự lưu. Nếu số người đầy khắp trong tam thiên đại thiên thế giới đều dốc cầu quả Dự lưu, Thất lai, Bất hoàn và Vô trước (A-la-hán), trí tuệ của các bậc ấy gấp trăm lần cũng không bằng trí tuệ của một Duyên giác. Nếu bậc Duyên giác đầy khắp trong tam thiên đại thiên thế giới, trí tuệ của những vị ấy cũng không bằng trí tuệ của một Bồ-tát mới phát tâm. Giả sử Bồ-tát mới phát tâm đầy khắp tam thiên đại thiên thế giới, trí tuệ của những vị ấy gấp trăm lần cũng không sánh bằng bậc Bất thoái chuyển. Giả sử các chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới đều thành tựu bậc Bồ-tát Bất thoái chuyển, trí tuệ của các vị ấy gấp trăm lần cũng không bằng trí tuệ của một Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ. Giả sử có Bồ-tát Nhất sinh đầy khắp bổ xứ trong tam thiên đại thiên thế giới, trí tuệ của các vị ấy gấp trăm lần cũng không sánh bằng trí tuệ của một Đức Như Lai với mười Lực, Vô sở úy, hội nhập vào chính pháp giáo hóa của chư Phật. Vì sao? Vì tất cả trí tuệ ấy đều hội nhập vào tâm ý của Phật. Bồ-tát nghe như vậy mà không lo, không sợ, không ngại gian khổ, đó gọi là tích tập trí tuệ không cùng tận. Vì sao gọi là tích tập trí tuệ không cùng tận? Là do hiểu được tâm nơi tất cả chúng sinh. Giả sử tâm của chúng sinh trong quá khứ nhớ nghó không hạn lượng, khiến họ đều phát khởi tâm cầu đạo. Nếu một người hiểu rõ tất thông suốt tâm nhớ nghó của chúng sinh trong quá khứ nên đối với các chúng sinh khác cũng giống như người này. Theo đó mà so sánh như vậy thì không thể tính kể. Nhưng chúng sinh đều bị che lấp do tham, sân, si. Lại có người ở trong chốn lầm lạc của tham, sân, si bị các thứ phiền não làm cho tán loạn, hoang mang. Bồ-tát phát tâm thường dùng trí tuệ để biết được tham, sân, si của chúng sinh. Đó là trí tuệ sáng suốt của bậc Thánh. Nếu chúng sinh biết được mình phát khởi nhân thiện, ác thì có thể khiến cho nhân duyên ấy tiêu diệt. Người có trí tuệ như vậy, tuy ở trong chốn kia nhưng tâm không bị phiền nhiễu mà luôn tónh lặng như hư không. Bậc Thánh tuệ như thế là hiểu rõ được chúng sinh trong ba đời, không nơi nào là không thông đạt. Vì sao gọi là tất cả pháp của Phật không cùng tận? Đầy đủ tất cả sáu pháp Ba-la-mật, để cầu đạt pháp của chư Phật. Nếu có Bồ-tát từ lúc mới phát tâm đã tu tập hợp đủ các phương tiện, sau đó mới đến an tọa bên cội Bồ-đề, dốc sức tu tập các công đức không thể tính kể, đạt đầy đủ cả thì thành tựu pháp Phật, gọi là Bồ-tát đầy đủ pháp Phật không cùng tận. Lại có Bồ-tát tích tập tinh tấn cũng không cùng tận, tạo lập các công đức nơi thân chẳng cho là khó khăn giảng thuyết về công năng cũng không hề mệt mỏi. Tâm ý tinh tấn tu tập ba việc: thân, miệng, ý thì ý đứng đầu. Sao gọi là ý tinh tấn? Vì ý đó luôn an nhiên. Sao gọi là an nhiên? Vì dốc cầu Phật đạo. Sao gọi là cầu Phật đạo? Vì tâm ấy rộng lớn, vắng lặng, không có đối tượng tạo tác. Sao gọi là phát ý? Vì phát ý là phát tâm đạo. Đây là tâm Đại Bi của Bồ-tát. Thế nào là địa của Bồ-tát? Tin tưởng, ưa thích pháp vô ngã là nhẫn. Vì sao phát khởi điều này? Vì để thâu tóm hóa độ toàn bộ tất cả chúng sinh. Vì sao gọi là xứ? Do đầy đủ các pháp, không cho sinh tử là cực khổ, phát khởi điều này là không chấp vào ba cõi. Người phát khởi như thế thì không còn luyến tiếc thân mạng. Lại, xứ đó là đối tượng có thể bố thí, không tự khen ngợi mình cho là đủ các đức hạnh, không lấy việc giữ giới để tự ca ngợi mình với tâm tự cao, tự đại. Lại, xứ đó là nhẫn nơi các khổ não không cho là nghiệp luôn kiêu mạn. Chỗ gọi là xứ tức đạt được công đức, ngày một tăng thêm vô lượng, vô biên. Gọi là xứ, tức chí nguyện độ thoát không lìa bố thí luôn chế ngự tâm ý. Gọi là xứ, là sự học hỏi không mệt mỏi, theo như pháp mà tu tập. Gọi là xức tức như nghĩa đã lãnh hội, phụng hành không thay đổi, không sai khác. Gọi là xứ tức tu tập, tư duy về pháp không cùng tận, dùng mọi phương tiện quyền xảo, chẳng nệ gian khó, thuyết pháp mà không mong cầu đáp đền, hành trì đọc tụng, nghó xét hiểu rõ về chỗ hướng tới nghĩa lý ấy, không chán nản mà bỏ dở, tu học hoàn toàn không mang tưởng được báo đáp. Có bốn việc là chỗ tu hành của Bồ-tát. Vì sao? Vì Bồ-tát luôn phát tâm với Từ, Bi, Hỷ, Xả. Lại, xứ đó là nơi quán xét theo tâm Đại Bi rộng khắp. Lại, xứ ấy nương vào duyên mà đạt đầy đủ năm thông, tu tập không còn sinh tử. Lại nữa, xứ ấy được bốn chính cần thuận hợp với giáo pháp, không có đối tượng nghó và cũng chẳng nghó về nó. Xứ này là biết về bốn Niệm xứ, không rời bỏ việc tu tập công đức, cũn g không hạn chế nơi người không có phước đức. Vì sao? Vì người tu hạnh trung đạo. Lại, xứ ấy là tu tập các thần túc như giáo pháp Phật, không mong cầu, tu học các công đức lành, các căn không loạn động, không hạn lượng, các thứ phi pháp không nên phân biệt. Lại, xứ ấy là mười Lực, không gì có thể hơn, tâm mong cầu đạt trí của Phật. Lại, xứ ấy là dốc cầu sự giác ngộ của Phật, phát khởi, tạo lập các hành, hội nhập vào nghĩa nơi các pháp mà không tự đại, thành tựu bảy giác ý. Lại, xứ ấy là nhằm đạt đạo đức, không nhớ nghó người đến, đi, cũng không có đối tượng để suy nghó. Xứ ấy là mong tìm sự tôn kính, nên chí nguyện luôn vắng lặng, không loạn động. Lại, xứ ấy là nhằm quán tưởng chân thật, sáng suốt, xem xét các pháp tìm hiểu sự tồn tại của chúng. Xứ ấy là từng nghe lãnh hội rộng nên có thể tu tập, thường sống đúng như pháp, chuyên tu đức hạnh. Lại, xứ ấy là cầu đạt Pháp thân, bỏ các chấp trước, vọng tưởng của thế tục, tin hiểu về vô vi. Xứ ấy là âm thanh dùng để trang nghiêm, tùy thời phát ra thông suốt mười phương. Lại xứ ấy ưa thích về đạo hạnh, người giải thoát hoặc chưa giải thoát, đều khiến có được an vui mãi mãi. Lại, xứ ấy không thích hợp với sự sai trái, dốc giáo hóa bốn ma. Bốn ma là gì? 1.Thân ma (Ngũ ấm ma). 2.Tội trần ma (Phiền não ma). 3.Tử ma. 4.Thiên ma. Lại, xứ ấy là xa lìa các ma, tu tập các công đức, các cấu uế đều vắng lặng, không tạp loạn. Lại, xứ ấy là trí tuệ giải thoát thấy rộng khắp, quán xét các pháp duyên khởi. Xứ đó lại thấy được các việc làm, hội nhập nơi thế tục, vận dụng đủ các phương tiện để cứu giúp chúng sinh. Xứ ấy tức thấy tất cả đạo pháp, tùy thời giáo hóa. Đó là ý tinh tấn không cùng tận. Nếu người có đầy đủ các xứ này thì nhất định không có các hoạn nạn, hiểu rõ các việc làm, không dùng vọng tưởng để trụ nơi trí tuệ, nẻo thực hành trí tuệ cũng chẳng xoay chuyển, tất cả các việc làm đều không xa lìa trí tuệ. Vì sao Bồ-tát hành động mà không xa lìa trí tuệ? Vì công đức đã làm đều do nơi pháp đó, thường vì chúng sinh phát khởi lòng từ vô tận. Lòng từ ấy không bỏ thế gian, nhân vào trí tuệ của Phật đạo mà chẳng tùy thuộc vào vô vi. Đó gọi là tinh tấn vô tận của Bồ-tát. Khi giảng thuyết pháp tinh tấn không cùng tận này, có chín mươi sáu na-do-tha hàng trời, người đều phát tâm cầu đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác, ba vạn hai ngàn Thiên tử đều chứng pháp Nhẫn vô sinh. Tôn giả Xá-lợi-phất hỏi Bồ-tát A-soa-mạt: –Há lại có nghĩa bố thí vượt bờ không cùng tận? Bồ-tát A-soa-mạt nói: –Dùng mười sáu việc không cùng tận, các hàng Thanh văn, Duyên giác không sánh bằng. Những gì là mười sáu? 1.Bố thí không mang tâm dị biệt, đều đầy đủ pháp bố thí của Như Lai. 2.Bố thí không khởi niệm: ta nhờ sự bố thí đó mà được phước báo. 3.Bố thí với tâm thể hiện tình thương khắp chúng sinh không khác. 4.Bố thí không khởi niệm mong cầu đạt pháp Tam-muội. Vì sao? Vì không cầu các pháp định nơi cõi trời. Vì không muốn sinh vào cõi Tịnh cư thiên mà luôn gắn bó với thế gian. 5.Bố thí đều có thể nhận biết được mọi nẻo hành nơi tâm của chúng sinh. 6.Bố thí với tâm ý được thanh tịnh. Vì sao? Vì bố thí với tâm thanh tịnh là nhằm khiến cho thân tâm người nhận luôn thuận hợp. 7.Bố thí đúng như tâm ý của người nhận. Vì sao? Vì công đức ấy vượt hơn chư Thiên cõi Sắc, cõi Vô sắc. 8.Bố thí thích hợp với sự tónh lặng an nhiên. Vì sao? Vì vượt hơn hàng Thanh văn, Duyên giác. 9.Bố thí với tâm không giận dữ. Vì sao? Vì nhằm đạt được mọi thành tựu. 10.Bố thí với uy lực lớn lao không gì có thể cản trở. 11.Dùng trí tuệ bố thí khắp cho chúng sinh, khiến tất cả trụ trong các Độ. 12.Người cho và người nhận đều được vui vẻ, tâm người bố thí thường an ổn. Vì sao? Vì tâm luôn được chế ngự. 13.Bố thí khiến cho Tam bảo luôn được nối tiếp. Vì sao? Vì không làm mất chủng tính của Như Lai. 14.Bố thí luôn sáng suốt, không do dự, không mê lầm. 15.Bố thí luôn thực hiện đúng như giáo pháp. Vì sao? Vì luôn thuận hợp với nghĩa lý. 16.Bố thí với nhận thức luôn đầy đủ để tạo nên căn bản của trí tuệ, vì khiến cho trí tuệ trở nên rộng lớn vô cùng, vô tận. Đó là mười sáu sự việc để thực hiện pháp Bố thí ba-la-mật của Đại Bồ-tát. Thế nào là thiền định tịch tónh? Thế nào là thần thông gồm đủ trí tuệ? Thế nào là trí tuệ thấy được các sắc, chẳng phải thần thông? Thấy các sắc diệt tận, ý ấy không tùy theo chỗ thấy gọi là thần thông. Vì sao? Vì không nửa chừng chọn lấy sự chứng đắc. Về chỗ lãnh hội ấy đều chẳng phải là thần thông. Các âm thanh có thể có đều không đạt đến, gọi là thần thông. Có thể thấu tỏ về nẻo hành nơi tâm của chúng sinh, đó không phải là thần thông. Tâm, ngoài trí ấy ra, chẳng thể đem hết sức để tạo mọi sự chứng đắc. Vì sao? Vì không muốn giữ lấy quả vị A-la-hán. Đây gọi là thần thông. Tự nhận biết về gốc, nhân đó mà phát sinh, chẳng phải là thần thông. Ba đời thông tỏ không bị trở ngại gọi là thần thông. Hiện bày khắp các quốc độ không phải là thần thông. Tuy hiện khắp các quốc độ mà hiểu rõ là không có tưởng về quốc độ ấy gọi là thần thông. Tin hướng về các pháp thì đó chẳng phải là thần thông. Thấu tỏ tất cả gốc, ngọn của các pháp, gọi là thần thông. Tất cả nẻo tạo tác có ý vọng tưởng thì chẳng phải là thần thông. Thấu tỏ về chỗ không mong cầu của chúng sinh, gọi là thần thông. Mong muốn được vãng sinh, hoặc vượt qua các cõi của Đế Thích, Phạm vương, Tứ Thiên vương thì không phải là thần thông. Bồ-tát nhận biết về chỗ tu tập trí tuệ của các bậc Thanh văn, Duyên giác, thảy đều có thể nắm giữ toàn bộ, đó gọi là thần thông. Tạo hành đứng đầu của chúng, đứng đầu là tối thượng đối với các pháp, nhân đó gọi là công đức của trí tuệ, thần thông không cùng tận. Bồ-tát A-soa-mạt nói với Hiền giả Xá-lợi-phất: –Nhân nơi tâm ý loạn động của chúng sinh, Bồ-tát khiến họ tu tập, điều phục, gọi là Thiền. Đối với bậc trí đều xả bỏ việc ác, đó gọi là thiền định. Lại nữa, Bồ-tát tu tập Tam-muội trụ nơi Thiền định tâm không thay đổi. Vì sao? Vì đã tu tập, an trụ nơi chính định. Tu chính định nên phải hành hóa với sáu pháp Độ vô cực. Các pháp chân chính phải nên tu học, tu học các pháp là ứng dụng theo nẻo chân chính. Tu tập hạnh Bồ-tát nên luôn có tâm bình đẳng với chúng sinh. Bình đẳng với chúng sinh nên bình đẳng với các pháp. Bình đẳng với các pháp nên biết tâm Bồ-tát. Đã biết tâm Bồ-tát thì có thể thông tỏ chí nguyện của chúng sinh. Đã biết về chí nguyện của chúng sinh rồi thì biết rõ về các pháp. Đó gọi là tu tập tâm bình đẳng rộng lớn, với muôn loài thảy đều bình đẳng với các pháp đều không phân biệt. Cùng an trụ trong các pháp gọi là Định ý, là chính thọ, là Không, Vô tướng, Vô nguyện, nên gọi là bình đẳng với sinh tử. Bình đẳng với sinh tử nên bình đẳng với các pháp. Bình đẳng với các pháp nên tâm thanh thản, thân không lệch lạc, tâm bình đẳng với tâm chúng sinh. Bình đẳng với chúng sinh gọi là bình đẳng khắp nơi chốn. Chỗ hành ấy bình đẳng như hư không, như đất, nước, lửa, gió, không có thương ghét. Tâm đã bình đẳng thì không còn lo, mừng. Thân đã trụ nơi cõi Phật Bất huyễn thì an định như Tam-muội. Tâm không dua nịnh như trụ nơi “bản tế”, không tự đại, cũng không tự ti, tự mình không tối tăm, không xấu ác, không nhiều lời, chỉ nhằm hiểu rõ cội nguồn nơi các pháp luôn thích hợp với mọi hoàn cảnh, không theo các nẻo cấu uế của thế gian, vượt khỏi tám việc đời: lợi, suy, chê, khen, khổ, vui, có tiếng tăm, không có tiếng tăm, lìa bỏ các pháp hữu vi, không thích chốn náo nhiệt, tùy thuận nơi pháp, không rời thiền định. Vì sao? Vì nhận biết chỗ tạo lập các hành của mọi người, tùy theo chốn hành ấy mà thực hiện Tam-muội, không gì là không biết. Đó là Bồ-tát dùng phương tiện quyền xảo, hội nhập vào trí tuệ, thiền định vượt bờ, như sử dụng Tam-muội để làm chủ tâm. Dùng tâm Bi vô lượng làm nhân duyên. Vì sao? Vì đó là diệu dụng để độ chúng sinh. Theo nghĩa ấy, gọi là phương tiện quyền xảo. Tịch tónh, an nhiên là thực hiện Tam-muội. Đó là trí tuệ của bậc Thánh. Như Tam-muội đã kiến lập, quy ngưỡng về trí tuệ của Phật, gọi là phương tiện thiện xảo, nhưng đối với các pháp hoàn toàn dứt mọi đối tượng cầu đạt nên gọi là trí tuệ. Phụng trì thiền định, dùng công đức để giữ gìn các pháp, gọi là phương tiện thiện xảo. Tâm an nhiên, Pháp thân luôn hiện hữu, gọi là trí tuệ. Dùng định Tam-muội trụ vào sự nhớ nghó về thân Phật với đủ các vẻ đẹp gọi là phương tiện thiện xảo. Đối với ân đức lớn luôn nhớ nghó về Pháp thân Phật, gọi là trí tuệ. Ở trong Tam-muội, dốc nhớ nghó về âm thanh của Phật như Phạm thiên, gọi là phương tiện thiện xảo. Nhớ nghó, biết rõ các pháp không có ngôn từ, gọi là trí tuệ. Nơi pháp Tam-muội tâm như kim cang, gọi là phương tiện thiện xảo. Tuy gắn liền với thiền định nhưng không quên các loài chúng sinh nơi thế gian, gọi là trí tuệ. Thực hành Tam-muội mà luôn nhớ nghó về bản nguyện gồm thâu, nhằm nuôi dưỡng tất cả, đó là nơi nơi tùy thuận phương tiện thiện xảo. Lại, tu tập thiền tư, hiểu rõ đối với chúng sinh không có tôi, ta, đó là trí tuệ. Thể hiện diệu dụng nơi Tam-muội mà không bỏ các pháp, đó gọi là phương tiện thiện xảo. Hiểu rõ các pháp là không gốc, ngọn, cũng không cội nguồn, đó là trí tuệ. Tu tập Tam-muội, xét biết các cõi Phật đều là thanh tịnh, đó là phương tiện thiện xảo. Thấu tỏ về Phật đều không thật có, gọi là trí tuệ. Ở nơi pháp Tam-muội, tư duy có cây Bồ-đề với sự tu tập trang nghiêm gọi là phương tiện thiện xảo. Thân xa lìa các dục, không còn uế trược, gọi là trí tuệ. Lại, hội nhập Tam-muội, nhớ nghó về chỗ chuyển pháp luân đó là phương tiện thiện xảo. Tuân theo, thực hành Thiền định mà thấy không có đối tượng được chuyển, đó là trí tuệ. Ở nơi Tam-muội, nhằm thấy Bồ-tát, dùng tướng để trang nghiêm, đó là phương tiện thiện xảo. Cứu vớt các thứ khổ, dứt mọi phiền não, gọi là Như Lai thiền. Như Lai thiền là thấu rõ các pháp, hoàn toàn không còn tham dục, không vướng bận nơi các tưởng về khách trần, biết các nẻo an lạc, trừ các tưởng chấp về pháp, gọi là thiền tư. Đó là chỗ phát sinh trí tuệ của Bồ-tát. Những bậc Đại só dùng các pháp nhất tâm cùng pháp không bị các trần chi phối, đó là Thiền định vô tận. Hàng phục các thứ ma là dốc tạo các pháp khí của bậc Giác ngộ. Vì sao? Vì chẳng gì mà không dung nạp gồm thâu. Khi Bồ-tát giảng về pháp Thiền định độ vô cực không cùng tận, có bốn vạn Bồ-tát chứng đắc Tam-muội Nhật minh. Thế nào gọi là định Tam-muội Nhật minh. Ví như lúc mặt trời xuất hiện thì ánh sáng của các thứ đèn đuốc, trăng sao không còn tỏa sáng nữa. Bồ-tát đã được pháp Tam-muội này thì được các bậc Thánh che chở. Vì sao? Vì trí tuệ ấy rộng lớn, soi sáng cùng khắp, nên ánh sáng trí tuệ của các hàng Thanh văn, Duyên giác đều bị che lấp, do đó gọi là Tam-muội Nhật minh. Bồ-tát đã trụ nơi Thiền định độ vô cực thì đều đạt được các định Tam-muội. Tóm lại mà nói, nêu tên của các pháp Tam-muội gồm có Tam-muội gọi là Chiếu minh, Nguyệt quang, Trang nghiêm, Nghiêm diệu, Tu nghiêm, Vô cực huy mãnh phục, Kỳ minh tiêu minh, Như chư pháp giáo, Thành quang minh, Vô sở ưu, Lập kiên cố, Đẳng như thái sơn, Pháp minh, Pháp ngự, Pháp quân, Pháp tuệ thuận giáo, Cảm pháp bảo, Pháp thành tổng trì ngự, Tri nhân ý hành, Tràng anh khí chúng phiền hà, Lực chế tứ ma, Dó thành thập lực, Đoạn chư quái ngại, Tạo đăng quang, Kiên trụ nhược địa, Như Tu-di, Du an minh, Trí hành quang diệu, Trí bất khả kế tùy cụ giáo, Tâm giáo nhu nhuyến, Vô sở cầu thoát, Như thủy nhật nguyệt quang, Du như Phật thân, Đẳng chư vô ngã, Điều tượng tùy giáo, Kiến đắc chư phật niệm, Pháp ý vô ngại, Vô thoái bất chuyển, Chúng độc tiêu tịnh như nguyệt, Nhập không tịch, Hiểu chúng tưởng, Vô nguyện, Trụ nhất tâm, Như kim cang, Vô cực quang mạc năng đương, Tự tại tịnh, Nội chư lao phiền tận, Quảng đại như không, Nhập nhất thiết nghiệp, Tâm tư đắc tuệ, tuệ duyệt nhân vô tận, Thành thánh tuệ, Tổng vô sở vong, Minh phổ kiến minh giai đa lạc, Từ hành, Tâm bản tịnh đại ai, Nhập chư hộ, Tâm đẳng nhập vô sở ngại thoát, Pháp pháp trú, Trí minh đạt, Giải sướng, Bất khả số, Sung bão chúng, Vô bất liễu, Thoát tuệ, Tùy hóa chúng, Kim cang liên hoa, Liễu vô thường, Tôn trí tuệ, Dũng phục, Chư Phật niệm, Tùy giáo minh thoát, Nghiêm Phật độ, Khai tịch tónh chư quốc, Nhập chúng sinh tâm Hỷ, chính chân trực, Dó bồ-tát đạo lục độ vô cực nghiêm, Giác giải kết, Giác ý hoa, Thí thoát nhược thiên dược, Quang vô bất chu, Minh vô trú Phật, Thậm thâm diệu, Tích bảo như hải, Như sơn phương diện, Thần túc thậm quảng vô bất tổng, Kiến vô số Phật, Tổng chư học, Như đàn chỉ khoảnh vô bất tri, Trí bất khả hạn kế như đại hải. Những pháp Tam-muội như thế là rất nhiều với vô số vạn ức. Bồ-tát do an trú nơi pháp Tịch tónh độ vô cực để hội nhập đầy đủ các Tam-muội này. Bồ-tát A-soa-mạt lại bảo Hiền giả Xá-lợi-phất: –Trí tuệ độ vô cực mà không cùng tận là những gì? Đó là những điều thấy, nghe, suy nghó, tạo lập các hành nghiệp, nên gọi là không cùng tận. Như vậy, có tám mươi việc phải thực hành. Đó là: Thuận theo điều đã nghe, suy tìm ý nghĩa. Theo chỗ chỉ dạy mà tu tập. Thân cận bạn lành. Không tự đại. Những việc đã làm không quên mất. Thường với tâm cung kính, hành theo kinh điển. Đúng như lời nói mà làm. Luôn luôn tu tập trí tuệ. Chuyên tâm thọ trì, không giảm mất. Không vọng niệm. Ý không loạn. Khởi tâm tốt. Hiển bày chí nguyện như thuốc, trừ các bệnh, là vật dụng của tâm ý. Ưa nhẫn nhục. Suy nghó và ưa thích pháp chân thật. Hội nhập tuệ giác. Tu học không mệt mỏi. Bố thí không mưu cầu gì. Bố thí không phân biệt thân sơ. Suy ngẫm kỹ càng về những điều đã nghe. Hoan hỷ chỉ bày những điều đã tiếp nhận. Thân tâm nhẹ nhàng. Ý thường thanh tịnh nhu hòa, không sinh phiền muộn. Việc học theo đúng chỗ căn bản. Thường vui vẻ nói pháp. Nghe pháp rồi muốn hướng về đạo. Làm người hộ trì pháp. Ưa thích chính pháp. Không học theo các tà thuyết. Chỉ tiếp nhận trí Bát-nhã vượt bờ. Thấu đạt kinh Bồ-tát Phương Đẳng. Chỉ mến mộ, lắng nghe các kinh. Quan sát thấu rõ thần thông về không. Đúng theo niệm ban đầu không nghó khác. Dốc hết tâm ý đối với phương tiện chân thật. Chỉ muốn nghe pháp vô sinh. Không ham quán xét về thế gian. Chỉ ưa chuộng Từ bi. Rõ mười hai nhân duyên. Thấu tỏ về vô thường. Biết rõ về khổ. Thông suốt về vô ngã. Muốn biết về tịch tónh. Phân biệt về không. Hiểu vô tướng. Thể nhập vô nguyện. Hiểu đúng về sinh tử. Tỏ rõ công đức. Thấu đạt về chúng sinh. Nhận biết không quên. Trang nghiêm âm thanh. Vững như thành quách. Chuyên cần nắm giữ điều đã nghe. Thích lãnh hội các điều quý báu của kinh. Ở cõi tục biết rõ về tục. Khai mở cõi ý. Dùng làm bạn bè. Muốn lãnh hội, điều khiển các sự nghiệp. Tâm chí thường xét kỹ. Hội nhập nơi tất cả pháp. Ưa dứt trừ nghèo thiếu (gọi là nghèo thiếu tức là trí tuệ chẳng đủ). Suy niệm, hiểu biết được chính đạo. Hiểu về kẻ vô trí, nên giáo hóa khiến đạt được trí tuệ. Rõ luôn gặp khổ, chu cấp cho người chẳng đủ. Xa lìa tất cả, tạo được hành nghiệp không dụng công. Hiểu đúng về nguồn gốc. Không làm các điều ác. Thông suốt nghĩa lợi ích nơi thân. Thành tựu mọi lợi ích cho chúng sinh. Thấu tỏ các hành an ổn. Vui vẻ không sân giận. Nhằm phân biệt đến chỗ tột bực nơi các việc không cùng tận. Nhớ nghó các pháp Phật, nhân đó thành đạt đến tám mươi sự. Đó gọi là đúng như trí tuệ do nghe (văn tuệ) mà tạo lập các hành. Bồ-tát A-soa-mạt nói với Hiền giả Xá-lợi-phất: –Bồ-tát có ba mươi hai việc đúng theo thời để hội nhập. Những gì là ba mươi hai? Theo tiếng vang mà hội nhập. Muốn nhập nơi thiền quán. Hội nhập vào nẻo hành của tâm. Hội nhập nẻo cầu giải thoát của thân để cứu độ chúng sinh. Hội nhập vào không đoạn, không thường. Hội nhập vào chỗ không chấp trước, tùy theo nhân duyên hội nhập vào chốn tạo tác. Hội nhập vào chỗ không nhân, không thọ, không mạng. Hội nhập vào nơi quá khứ, hiện tại, vị lai. Hội nhập nơi tạo tác các công đức. Nhập vào Không, không biếng nhác. Nhập vào Vô tướng, Vô nguyện, không bỏ sự siêng năng tu tập. Không dùng Không để thực hiện sự chứng đắc về Vô tướng, Vô nguyện. Nên giữ gìn, không bị thoái chuyển. Nhằm nhập vào Tam-muội để tu tập chính thọ thì dốc hướng đến Tam-muội chính thọ. Do đó, nên không sinh ở cõi trời Vô sắc. Vì sao? Vì để giữ gìn bảo vệ chỗ đạt đến. Lại nhập vào nguồn gốc của các trí tuệ, thần thông nhưng chẳng đi vào con đường diệt tận. Lại nhập vào pháp Vô sinh để tế độ muôn loài, nhập nơi “bản tế” để tư duy về nghĩa ấy. Muốn vào “vô tế” mà không chấp lấy sự chứng đắc. Vì sao? Vì có sự bảo hộ. Chỗ gọi là không bảo hộ tức là hàng Thanh văn. Muốn độ chúng sinh phải hiểu rõ về ngã, ngã sở, không bỏ tâm đại Bi, vào tất cả nạn của sinh tử đáng sợ. Chỗ dốc đi vào, tuy có sinh tử mà không bị chìm trong sinh tử. Vào chỗ nhàm chán của phiền não, người vào chốn ấy vẫn không bị đọa lạc. Vì sao? Vì không ở trong ấy để đạt sự chứng đắc. Lại không nghó về tham dục nên vào mà không bỏ các pháp. Vào chỗ có phạm pháp mà không bị sai quấy. Hội nhập với những phương tiện quyền xảo. Vì sao? Vì nhân nơi tâm ý của chúng sinh luôn gắn bó với tham ái mà nhằm giáo hóa họ, nên phải tùy bệnh cho thuốc. Đối tượng được hóa độ của Bồ-tát đều đạt được điều này. Đó là ba mươi hai việc như đã dẫn. Vì sao? Vì luôn thuận hợp. Cũng như muốn vào thành phải từ cửa đi tới. Muốn thông suốt các duyên phải dùng mắt quán xét chúng. Người hiểu rõ về nghiệp duyên thì chẳng tranh cãi. Muốn không tranh cãi thì đừng cố chấp. Muốn biết không lời là hợp lẽ thì nhất định không chấp nơi ngôn ngữ. Vì sao? Vì không tham đắm nơi ngôn từ, là giữ gìn thân, miệng. Không muốn dừng lại chỗ này mà cũng chớ dứt nơi chỗ kia. Không ham thích nẻo loạn động, cẩn thận đừng lay chuyển. Người không mong cầu cũng không nghó tưởng về điều ấy, đó là bình đẳng. Vì muốn không mê mờ nơi sắc nên phải an trụ vững chắc mới đạt được định. Không thích làm cho biến chuyển nên phải tự cẩn thận. Nếu mến mộ sự tịch tónh để nuôi dưỡng mình thì chớ khoe khoang, chẳng muốn hạ thấp thì chớ kiêu căng, không kiêu căng, không hạ thấp mình thì đầy đủ chính pháp. Không vui buồn khi tổn hại thì chẳng ai trách phạt. Nếu thích an ổn thuận tiện thì việc làm không mất. Không có gì mất thì không có gì nghi ngờ. Không nghi ngờ thì hiểu rõ là không nguồn gốc, nên không có cái gì mất. Bình đẳng với ba đời không sai khác. Bình đẳng với ba đời không tăng giảm. Không trụ nơi sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Hoàn toàn không trụ chấp nơi chỗ mắt thấy biết sắc, tai nghe biết tiếng, mũi ngửi biết hương, lưỡi nếm biết vị, thân xúc chạm biết các vật mềm, cứng…, ý nhận biết pháp, tất cả đều không chỗ trụ. Theo chỗ thanh tịnh của bản thân mà thực hành đúng như pháp, làm đúng như trí tuệ, làm đúng theo sự phán đoán chắc chắn, làm như không có tôi và ta. Thấy các pháp hành không có ngã, gọi là trí tuệ. Hiểu rõ các sở hữu đều không có, các sở hữu cũng đều không căn bản, đó là trí tuệ. Không dùng sự đẹp đẽ của thân tướng mà mang lòng tự đại, là trí tuệ. Biết ở nơi các Bồ-tát mà tu tập trí tuệ chân chính, thông hiểu về tất cả chúng sinh, vì tất cả các loài mà tâm thường không bỏ, không lìa các pháp. Đó mới gọi là Bồ-tát tu tập trí tuệ. KINH A-SOA-MẠT BỒ-TÁT <卷 id="117270374">Quyển 4 Bồ-tát A-soa-mạt nói với Hiền giả Xá-lợi-phất: –Bồ-tát tu tập trí tuệ hội nhập nơi các pháp, nên không có chỗ chấp trước, đó gọi là trí tuệ. Có mười sáu việc không hòa hợp với trí tuệ. Những gì là mười sáu? Do vô minh nên sinh khởi nhị biên. Từ sinh đến lão, tử đều khác với trí tuệ. Những việc đã làm cũng không đồng với ngoại cảnh, cũng không xen lẫn với sáu mươi hai kiến chấp. Không tự kiêu, cũng không tự ti, có lợi ích hay không có lợi ích, khen ngợi hoặc chê bai, có tiếng tăm hoặc không có tiếng tăm, khổ hoặc vui, luôn vượt qua tám việc của thế tục. Cao ngạo, tự đại, khiêm tốn, kính nhường, hai mươi mốt việc của thế gian cũng không hòa đồng. Loại trừ phiền não, không ngu tối nên dù thức hay ngủ đều thoát khỏi mọi sợ hãi, không gắn chặt với các tội và các cấu uế của tâm. Do không trừ diệt năm ấm nên đưa đến sinh tử, cùng kết hợp với các thứ ma: Thân ma (ngũ ấm ma), Tội ma (phiền não ma), Tử ma, Thiên ma. Tất cả chúng sinh, ngã, nhân, thọ mạng đều không có chỗ mong cầu để tạo tác nhân duyên. Các ý niệm cầu đạt về thế tục như vậy, chẳng như vậy, cùng với các việc sai trái đều bị nghiệp trói buộc. Có những tham muốn trái ngược với giới cấm. Không phụng trì giới cấm hay phụng trì giới cấm, nhẫn nhục hay sân hận, siêng năng hay biếng nhác, nhất tâm hay loạn tâm, trí tuệ hay ngu si, cao ngạo hay khiêm tốn, an trụ hay không an trụ, đều dùng pháp tu vượt bờ để xa lìa các việc này, gọi là phạm hạnh thanh tịnh. Thiền định kiên cố, công đức thuận hợp, tiêu trừ tất cả ý niệm khiến không còn sót lại, liền thuộc về giải thoát. Cõi nước tốt, xấu, chúng sinh lành, dữ, tất cả thiện, ác, ngu si, trí tuệ, sinh tử, Niết-bàn, chân đế, tục đế, đều xa lìa nhị biên. Trí tuệ ấy không có đối tượng thấy, không thấy, không tưởng, không có tưởng về Niết-bàn. Sao gọi là trí tuệ? Quán xét, đối chiếu công đức của tám pháp để hiểu rõ về tám pháp. Sao gọi là tám pháp? Hiểu năm ấm, rõ bốn đại, biết sáu trần, phân biệt bốn Đế, thấu mười hai nhân duyên, thông suốt ba đời, nhận thức phân biệt các pháp do các bậc A-la-hán, Duyên giác, cho đến Bồ-tát diễn thuyết. Thế nào là hiểu năm ấm? Mọi hiện tượng sinh diệt giống như huyễn hóa, đối tượng được thấy như mộng, rỗng không, dợn nắng, tiếng vang trong hang núi, ảnh trong gương, bọt bèo trên nước. Quán xét đối với các sắc, ngã, nhân, thọ mạng, hiểu rõ các sắc như các việc trên. Thọ như bọt nước, tưởng như dợn nắng, sinh tử (hành) đều rỗng không, thức như huyễn hóa. Nêu lên bọt nước, dợn nắng, rỗng không, huyễn hóa như vậy là vì sao? Vì những dụ này rất vi diệu. Vi diệu ấy là không ngã, không nhân, không thọ, không mạng cũng như huyễn hóa. Biết thức cũng như huyễn là hiểu rõ về năm ấm. Năm ấm rơi vào tướng thế tục, tướng này là nghiệp của vô thường, khổ, không, vô ngã. Biết được những tướng như vậy là hiểu rõ năm ấm. Sao gọi là rõ bốn đại? Đất, nước, gió, lửa? Đất là pháp giới chẳng phải là kiên cố. Nước là pháp giới chẳng có nước. Lửa là pháp giới không do tự nóng lên. Gió là pháp giới chẳng dùng sự lay động. Bốn đại này là đối tượng được nhận biết của mắt, đối với pháp giới không dùng mắt thấy mà thấy biết tất cả, không dùng tai để nghe, không dùng mũi để ngửi, không dùng miệng để nếm, không dùng thân để xúc chạm không dùng ý để chấp giữ các pháp, nhưng đều hiểu rõ pháp giới một cách đầy đủ. Pháp giới của chúng sinh được giảng thuyết như vậy, pháp giới các tính của hữu tình bình đẳng, pháp giới của các cõi Dục, sắc, vô sắc đều bình đẳng. Pháp giới của sinh tử, Niết-bàn, pháp giới nơi Pháp thân cho đến pháp giới của hư không cũng như thế. Vì sao? Vì có công đức hay không có công đức cũng bình đẳng như hư không, không có sai khác, cũng chẳng thể suy lường, chẳng tán thán. Pháp giới của Niết-bàn cũng lại như thế tức không thể xưng tán. Hội nhập nơi pháp giới này đó là hiểu rõ bốn đại. Sao gọi là thấu đạt về sáu trần? Như Đức Phật đã dạy, mắt ấy cũng không mà không có ngã và ngã sở, cũng không có vô ngã, thảy đều là không. Vì sao? Vì hiểu rõ về ngã không nên đối với các trần chẳng phải là trần. Đó gọi là thấu đạt về sáu trần. Xét kỹ sáu trần, không thường, không đoạn. Đó là Bồ-tát hiểu rõ sáu trần. Mắt thấy sắc trần mà không bị chi phối. Vì sao? Vì không nửa chừng chọn lấy sự chứng đắc. Tai, mũi, miệng, thân, ý cũng như thế. Đó gọi là Bồ-tát hiểu rõ về sáu trần. Bồ-tát có thể phân biệt sáu trần, đã phân biệt rồi liền hội nhập nơi đạo, không phân biệt sáu trần thì chẳng phải là đạo. Lại như Bồ-tát đem tâm Từ bi thương xót chúng sinh không kể thân hay sơ, không bỏ đạo lớn cũng không lìa bỏ sự bố thí. Đó là Bồ-tát hiểu rõ sáu trần. Sao gọi là phân biệt rõ bốn Đế? Biết Khổ, Tập, Diệt, Đạo, năm ấm không tự tại, xứ là khổ. Biết nguyên nhân sinh ra khổ là tập, sắc hiện ra liền diệt gọi là diệt. Chứng đắc hay không chứng đắc, tâm vẫn an trụ bình đẳng nên gọi là đạo. Bồ-tát biết bốn Đế mà không chứng đắc. Vì sao? Vì nhằm để hộ trì tất cả chúng sinh. Đó gọi là phân biệt bốn Đế. Lại có ba việc? Sao gọi là ba? Tướng chân đế ấy xét, hiểu đúng như cội gốc. Lời nói thế tục chỉ là giả hợp thành danh hiệu mà thôi. Hiểu rõ chân đế, tâm chẳng suy niệm về có, không. Xét hiểu về gốc thì tất cả các sắc đều là bình đẳng. Vì sao? Vì không giữa chừng nắm giữ sự chứng đắc, luôn ứng hợp với tướng thì đó là phân biệt bốn Đế. Bồ-tát A-soa-mạt nói: –Đế ấy chỉ có một, không có hai. Vì sao? Vì Như Lai Bậc Chí Chân không có chỗ mong cầu, cũng không có tưởng cầu về sắc và vô sắc, không có chỗ mong cầu mà được ở trong ấy. Đó là phân biệt bốn Đế. Lại có khổ của năm ấm là tướng của phiền não. Thích hiểu rõ về không là Khổ đế. Thông đạt năm ấm do từ duyên khởi là Tập đế. Thấy được vạn vật đều có tưởng mong cầu, phân biệt rõ ý nghĩa ấy mà không tham muốn, tuy không mong cầu nhưng cũng không quên mất. Đó là cùng nhận biết nghĩa của Diệt đế. Không cùng với sự việc của quá khứ, vị lai, hiện tại mà gắn liền với thế gian, nhưng cũng không trụ trong ấy. Đó gọi là diệt đế. Muốn đạt đến Đạo thì hiểu rõ về Khổ, Tập, Diệt, không ở nơi hai việc: Do dự và lưới kết sử. Đó gọi là Đạo đế. Quán xét kỹ về chúng, biết chúng là khổ. Đó là Bồ-tát phân biệt rõ bốn Đế. Những điều đã thấy biết về khổ, vui, thiện, ác, tâm nhìn thấu hết gốc ngọn của thế gian. Đó là biết Khổ. Các duyên đều khổ, đó gọi là Tập. Hiểu các khổ thế gian, không còn mong cầu, tuy không mong cầu nhưng chẳng rơi vào chỗ chứng đắc về Diệt. Vì sao? Vì không giữa chừng chứng đắc. Đó gọi là Bồ-tát nhân nơi sự hiểu biết để cầu Đạo. Như muốn qua sông mà không cần thuyền thì không thể vượt qua. Suy nghó về phương cách, nếu được tấm ván, ngồi lên trên ấy thì có thể vượt qua. Vì sao? Vì không còn lo buồn, do không vượt qua được các khổ. Thực hiện những hạnh nghiệp này thì an trụ trong giáo pháp bốn Đế. Chẳng lấy sự thật của sắc mà chứng đắc. Đó là Bồ-tát phân biệt về đế. Ý xem xét sự phát sinh khổ, khổ từ duyên sinh cũng không theo duyên. Đó gọi là biết về sự sinh. Tất cả sự sinh cũng không có chỗ khởi, không diệt tận, không hưng khởi ý diệt. Đó gọi là ý vắng lặng thì khổ diệt, ưa thích nhận biết, cầu đạt sự thù thắng để chế phục tâm ý. Đó là biết rõ về đạo mà không trú ở trong ấy. Vì sao? Vì trí tuệ là không trụ. Đó là Bồ-tát phân biệt nhận biết về bốn Đế. Thế nào là thấu đạt về mười hai nhân duyên? nghĩa là nhân từ vô minh cho đến sinh tử như tất cả các pháp đều có chỗ sinh khởi, hiểu rõ là không thể thấy cũng không thể biết. Vì sao? Vì không có sinh, cũng chẳng phải không sinh. Do hiểu đúng các sự việc của nhân duyên này thì dựa vào đấy để cầu đạt Niết-bàn. Hiểu rõ chỗ hành của chúng sinh không như nhau mà có cao, vừa, thấp. Duyên nơi tội phước nên tạo các hành nghiệp. Chỗ sẽ đạt đến là phát khởi duyên vô sinh, tu tập, thực hành các pháp tức hợp với đạo. Đó là hiểu rõ về mười hai nhân duyên. Giả sử không có duyên sinh thì không có pháp hiện hữu. Đó là tiêu trừ, tức vô minh diệt thì lão, bệnh, tử diệt. Lão, bệnh, tử đã diệt, có thể thấu suốt điều này là hiểu rõ về mười hai nhân duyên. Các nhân có được đều là chỗ bao gồm của các pháp. Các duyên có được đều là chỗ thâu tóm, chỗ hòa hợp của các pháp. Nhân duyên ấy hòa hợp chẳng phải ta, chẳng phải người, cũng chẳng phải là ngã, nhân, thọ, mạng, tất cả đều không có chỗ hội nhập. Như vậy, nhập là không ở trong tất cả những cái hiện có. Hiểu rõ ý này là biết được mười hai nhân duyên. Bồ-tát đều muốn thấu rõ đầy đủ các pháp thấu tỏ đầy đủ rồi thì hiểu được vô thường, không rơi vào sự chứng đắc. Vì sao? Vì nhằm cứu giúp chúng sinh, đó là Bồ-tát hiểu rõ mười hai nhân duyên. Sao gọi là thông tỏ ba đời? Biết tâm ở quá khứ có đức hay không, quán xét thân người khác bình đẳng không có sai biệt. Vì thân mình có lầm lỗi, thân người khác cũng vậy, mau chóng thay đổi lỗi lầm để tạo phước đức. Do phước đức này mà phát tâm cầu đạo. Đó là công đức quá khứ của Bồ-tát. Tâm ý tạo được các công đức ở vị lai đều do Bồ-tát phát tâm, kiến lập hạnh nguyện. Các chỗ phát tâm dùng để hộ trì, giữ lấy tâm kiên cố, không chấp nhận tâm vẩn đục. Đó là phước đức trong vị lai. Công đức tìm cầu đã tạo tác của tâm ý ở hiện tại chính là do mọi duyên để tạo nên công đức ấy. Xả bỏ các cấu uế, không theo những giáo lý sai quấy thì không xa lìa công đức. Vì sao? Vì gần với Phật đạo, chính là phước hiện tại. Xét từ quá khứ đến hiện tại, vị lai, tin ba đời là rỗng lặng. Quán pháp ba đời thì dùng trí tuệ cứu giúp mọi người. Chư Phật trong quá khứ, hiện tại và vị lai đều dùng phương tiện quyền xảo để hiểu rõ các pháp trong ba đời, các pháp quá khứ đã diệt. Vì sao? Vì không thể thấy. Không do phước đức của quá khứ mà chỉ do tâm biến hiện nên các pháp vị lai thấy rõ là không có chỗ sinh, cũng không lấy làm nghi ngờ. Quán xét các pháp hiện tại cũng không có chỗ trú, nên không xứ sở, không bỏ tâm đạo. Đó gọi là trí tuệ thông suốt trong ba đời. Quá khứ đã diệt, vị lai chưa đến, hiện tại không có chỗ trú, nhưng trí tuệ vẫn không hủy hoại. Bồ-tát phát khởi công đức đều nhằm hòa đồng, đó là hiểu rõ về ba đời. Nhờ trí tuệ nên nhớ nghó công đức nơi quá khứ. Vì sao? Vì những việc đã làm đời này đều do phước đức đời trước, nhân nơi đó tạo sự phát tâm cho đời sau. Sự tạo tác của trí tuệ ấy đã đầy đủ sở nguyện, nên phước đức được tạo ở hiện tại không lấy làm khó. Vì sao? Vì Bồ-tát đã phát nguyện. Đó gọi là thấu rõ về ba đời vì các chúng sinh đời quá khứ nên biết tạo lập công đức. Vì nhằm hộ trì chúng sinh nên từ xưa đến nay không ngừng dạy bảo, giáo hóa họ. Sự giáo huấn là nhằm khiến chúng sinh thấy chỗ biến hóa nơi thần thông của chư Phật trong vị lai đối với nghĩa của đạo pháp, được tăng trưởng lợi ích. Không những tăng lợi ích mà còn tăng thêm phước đức cho quần sinh nữa. Đức Phật xuất hiện ở đời là nhằm tạo nhiều lợi ích mà lời thệ nguyện không ngăn ngại. Đó là hiểu rõ ba đời. Thế nào gọi là hiểu rõ công đức của A-la-hán, Duyên giác và Bồ-tát. Nếu không có Phật thì không có A-la-hán. Đức Phật xuất hiện ở đời mới có pháp của bậc A-la-hán. Pháp của hàng A-la-hán là nhân nghe lời dạy của Phật mà giác ngộ. Người được quả Thanh văn thì đầy đủ giới cấm. Giới cấm đầy đủ nghĩa là thực hành đúng giới pháp. Đã hành trì đúng giới pháp là đầy đủ giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến. Đó là hiểu rõ về Thanh văn. Từ những duyên này mà chứng quả A-la-hán. Biết có đức hay không đức mà hiểu về vô thường, giải thoát sinh tử, ở trong ba cõi đều nhàm chán các ham muốn dục lạc, thấu rõ vô thường là khổ. Vì sao? Vì các pháp là vô thường, Niết-bàn tịch diệt cũng không thật có, không cầu sinh đến. Vì sao? Vì như thế là sợ sinh tử. Do sợ sinh tử mà không dốc lòng tin ở hành nghiệp nơi thế gian. Quán thân như oán thù, bốn đại như rắn độc, sáu trần đều rỗng không, không nguyện sinh vào năm cõi luân hồi, nhận giữ lấy cảnh giới Niết-bàn. Thực hành đúng như vậy là hiểu rõ về Thanh văn. Sao gọi là hiểu biết về Duyên giác? Bồ-tát đều nhận biết thế nào là Duyên giác đã tạo lập được công đức? Duyên giác hưng khởi công đức đều vượt trên A-la-hán. Vì sao? Vì nẻo hành hóa của Duyên giác tinh tấn, vượt hơn hàng Thanh văn. Như việc bố thí, trì giới… hàng Thanh văn không sánh kịp. Vì sao? Vì nẻo hành hóa của Thanh văn tâm còn hạn hẹp, việc cúng dường Phật tuệ không đủ nói. Khi đã vào pháp Phật thì chỗ tu học ưa thích pháp nhỏ, chẳng tối tăm mà cũng chẳng trí tuệ. Vì sao? Vì lãnh hội những âm thanh mà chán ghét sinh tử. Chỗ tu học ít ỏi nên thường thích sân giận. Cố gắng nương theo đức lớn để ưa thích việc làm cao cả, thực hành bố thí, suy nghó về mười hai nhân duyên. Do suy tính, mong cầu giải thoát cho bản thân nên tự mình tin hiểu, hộ trì đạo, thực hành theo duyên khởi mà dựng lập công đức. Đó gọi là hiểu rõ về Duyên giác. Thế nào gọi là thông suốt về hành nghiệp của Đại thừa? Đã hội nhập, hiểu rõ công đức không thể tính kể, do Đại thừa rộng lớn mênh mông vô cùng nên phải vì chúng sinh mà thực hành phương tiện quyền xảo. Công đức ấy luôn trang nghiêm, không cho là khó, đều ban bố theo sự ưa thích của chúng sinh, dùng pháp vượt bờ để giáo hóa, thành tựu pháp Đại thừa. Biết hết tâm và nẻo hành của tâm nơi mọi người, muốn độ thoát họ vượt mọi duyên phát khởi, không cho Phật đạo là khó đạt được. Lại dùng ánh sáng chiếu soi khắp chúng sinh, tâm ấy đặc biệt không gì sánh bằng, vượt tất cả khổ, hiểu tất cả pháp không hề bị ngăn che, hàng phục các tà thuyết, khiến đều thanh tịnh hòa hợp. Thâu tóm cả ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, oai đức thù thắng như dựng ngọn cờ pháp, hành hóa trong mười hai nhân duyên, không chấp đoạn, chẳng chấp thường. Những điều được thấy như lo buồn, ngủ nghỉ, tham dục, sân giận, đùa giỡn, các việc sai trái đều nên xa lìa tất cả. Chân thật là dùng trí tuệ của Phật và các thứ tướng tốt mà trang nghiêm, dùng Đại thừa để trang nghiêm nơi thân, miệng, ý của mình. Vì sao? Vì không có tội lỗi. Đó gọi là công đức của Đại thừa. Công đức ấy là cứu độ khắp mọi chúng sinh, hàng trời, người. Sao gọi là độ tất cả chúng sinh? Các pháp đều hòa hợp, gọi là giải thoát ở nơi không giải thoát. Giải thoát ở nơi không giải thoát là gì? Công đức của bậc Bồ-tát luôn đầy đủ, đó là giải thoát. Hiểu rõ sự hưng tạo công đức trong sinh tử là do thân, miệng và ý. Do hiểu rõ miệng tạo tác công đức, thân kiến lập phước đức, đó là ba việc thực hành của thân, miệng, ý trong sinh tử. Bồ-tát do nhân duyên hiểu biết giải thoát liền nguyện đạt đến Nhất thiết trí là trí tuệ thông tỏ, đó là minh đạt. Giải thoát rồi lại hiểu những pháp chẳng giải thoát, năm pháp vượt bờ hội nhập trong trí vượt bờ. Gọi là giải thoát tức không cho là khó khăn để hiểu pháp vượt bờ luôn thâu tóm tất cả, phương tiện thiện xảo của Bồ-tát đều nhờ ánh sáng trí tuệ chiếu soi hết thảy. Vì sao? Vì do bốn việc gồm thâu đến người khác là không ngã, không nhân, không thọ, không mạng, không lấy, không bỏ. Do vậy, nên phân biệt, dùng nguyên nhân giải thoát, tạo lập các nguyện của Bồ-tát để hiểu rõ việc độ thoát. nghĩa là đối với sinh tử, dần dần tiến tới, do không có đối tượng được đoạn trừ. Không có đối tượng được đoạn trừ nên sinh tử không mất. Sinh tử không mất thì không gì có thể hủy hoại được Bồ-tát. Vì sao? Vì không theo việc cùng người ham chuộng thế lực. Do đó gọi là phân biệt, là chưa giải thoát nơi Không, Vô tướng, Vô nguyện. Dùng pháp này để quán xét, thấy rõ các kiến giải của Bồ-tát tin hiểu. Vì sao? Vì nơi ba giải thoát chưa thông suốt nên gọi là chưa giải thoát, chưa chứng đắc ở trong ba cõi mà không bị tham đắm, đó gọi là giải thoát. Tuy ở trong ba cõi nhưng vẫn tạo nhiều phương tiện thể hiện cùng khắp. Vì sao? Vì dùng trí tuệ sáng suốt nên không rơi vào nẻo “thủ chứng”, đó gọi là hiểu rõ đức giải thoát. Pháp công đức đã tạo, đều do trí tuệ thông đạt đầy đủ, đã được đầy đủ thì không xa lìa Nhất thiết trí, đó là hiểu rõ về các pháp. Bồ-tát A-soa-mạt nói với Hiền giả Xá-lợi-phất: –Có tám việc, pháp và trí tuệ hòa hợp không cùng tận. Đó là pháp trí tuệ bao hàm sự hiểu biết phân minh để có thể phân biệt rõ ràng đúng như pháp Phật, không có sai khác. Vì sao? Vì đã trừ bỏ các pháp phiền não, phi pháp. Đó tức là nguyện lực nên đạt đến đạo pháp. Ánh sáng trí tuệ của các kinh điển chiếu soi đến cội nguồn là bản tế, do hội nhập vào trí tuệ, thấy được các dục, nên đều hiểu rõ là có thể đạt đến Niết-bàn, tóm thâu các tuệ nên không bỏ đạo pháp. Nhờ lòng tin nơi trí tuệ nên các cấu uế đều tiêu trừ. Bậc đại trí chính là đứng đầu trong các pháp. Trí tuệ tự nhiên là trí tuệ vô sư, đều thấu tỏ các dục mà không bị đắm vướng. Vì sao? Nhờ đạt đến ánh sáng của đạo, dùng trí tuệ đoạn dứt tận gốc rễ nên không cùng tận. Mọi vọng tưởng đều rỗng lặng. Sở dó tạo lập gốc rễ là do tối tăm mê muội, muốn đạt đến bậc Thánh thì phải dùng thuốc trí tuệ để giáo hóa, giữ vững lý đạo là nhằm để an trụ đúng đắn. Có người đến học thì dùng trí tuệ dạy bảo, khiến họ được chứng đắc. Dùng ánh sáng trí tuệ soi chiếu vô minh, tăm tối, khiến cho họ được sáng suốt. Nếu người không có mắt pháp thì giúp họ có mắt pháp, thấy được thông suốt. Trí tuệ sáng suốt ấy vượt ra ngoài các sắc. Trí tuệ của chân đế nên không còn bị ràng buộc, dùng trí tuệ để giáo hóa người chưa hàng phục khiến họ tự điều phục. Vì các kẻ tăm tối mà hiển bày mắt trí tuệ. Có trí tuệ không cùng tận thì không nơi nào mà không đến, không hành động nào mà không thực hiện toàn vẹn. Vì sao? Vì thông suốt mười hai nhân duyên. Tuyên thuyết trí sáng tỏ, hiểu rõ các phiền não trói buộc khiến không còn lầm lạc chẳng vì sinh tử mà bị mê loạn. Bồ-tát A-soa-mạt nói với Hiền giả Xá-lợi-phất: –Hàng Bồ-tát dùng trí tuệ tóm thâu và hội nhập tâm của chúng sinh, tùy theo hành động mà thấy được tâm niệm của muôn loài để hiểu rõ, phân biệt. Người không có công đức thì dùng trí tuệ dẫn dắt, tạo lợi ích cho họ. Trí tuệ của Bồ-tát đều hiện bày khắp nơi các thừa Thanh văn, Duyên giác cho đến chính giác. Đó là nơi chốn của trí tuệ. Bồ-tát học như vậy gọi là trí tuệ không cùng tận, giảng thuyết trí tuệ vượt bờ một cách thông suốt không cùng tận. Khi thuyết giảng phẩm pháp này có ba vạn hai ngàn vị Bồ-tát đều chứng pháp Nhẫn vô sinh. Bồ-tát A-soa-mạt nói với Hiền giả Xá-lợi-phất: –Tâm Từ của Bồ-tát thì không cùng tận. Vì sao? Vì lòng từ của Bồ-tát vô cùng rộng lớn, cũng như hư không không có hạn lượng. Sở dó rộng vô biên là vì giống như bốn đại của chúng sinh như hư không, không đâu là không hiện bày. Bồ-tát dùng lòng Từ che chở khắp, giống như bốn đại: Đất, nước, gió, lửa không thể xưng lượng nên nói không cùng tận. Lòng từ của Bồ-tát cũng lại như vậy, chẳng thể cùng cực nên gọi là không bờ. Giống như hư không vô biên, bốn đại đều không thể lường. Chúng sinh vô tận nên lòng từ của Bồ-tát không giới hạn. Vì thế nói lòng Từ của Bồ-tát là vô tận. Bấy giờ, Hiền giả Xá-lợi-phất hỏi Bồ-tát A-soa-mạt: –Bốn đại nơi chúng sinh nhiều không thể tính kể là vì sao? Bồ-tát A-soa-mạt đáp: –Đất, nước, gió, lửa số ấy nhiều hơn cây cỏ rừng rậm. Xá-lợi-phất hỏi: –Có thể vì chúng sinh mà dẫn dụ chăng? A-soa-mạt đáp: –Có thể giả dụ được, không thể lấy số lượng nơi dân chúng làm số lượng tận cùng. Xá-lợi-phất hỏi: –Ví dụ như thế nào mới được? A-soa-mạt đáp: –Giống như phương Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn hướng và hai phương Trên, Dưới hợp lại thành một thế giới, mỗi thế giới có số cõi Phật trong mười phương nhiều như cát sông Hằng hợp lại làm thành biển lớn, lấy hết tất cả số người ở bờ biển, mỗi người dùng một sợi lông để lấy số nước biển, cứ một giọt nước là số người bằng một hằng hà sa, hai giọt nước là số người bằng cát của hai sông Hằng. Cứ như vậy, số giọt nước trong biển lớn có thể tính được nhưng chúng sinh thì không thể tính hết. Bốn đại của chúng sinh cũng như vậy, không thể tính hết. Tâm đại Từ của Bồ-tát hiện bày khắp tất cả. Bồ-tát A-soa-mạt nói với Hiền giả Xá-lợi-phất: –Nếu tâm Từ rộng lớn thì phước đức đáng mừng cũng không thể cùng tận. Xá-lợi-phất nói: –Thật sự là không cùng tận. A-soa-mạt nói: –Nếu có Bồ-tát nghe nói về số lượng chúng sinh không thể cùng tận mà không sợ, không lo, không bối rối thì đó mới gọi là tâm Từ không cùng tận. Bồ-tát A-soa-mạt bảo Hiền giả Xá-lợi-phất: –Tâm Từ bi rộng lớn ấy chính là sự hộ trì của Bồ-tát. Lại vì chúng sinh mà có những hạnh nghiệp công đức và hiệu quả. Vì sao? Vì lòng từ không hề mất. Có lòng từ thì các việc xấu ác đều hoàn toàn tiêu diệt, điều phục các thứ sân giận, não hại và các tham ái. Nên ai nhìn thấy người ấy cũng đều vui vẻ. Vì sao? Vì người ấy không có các tà vạy, những điều lo sợ đều được dứt hết. Đạo ấy chân chính, không thiên lệch, tà vạy, có thể giáo hóa, hướng dẫn cho kẻ loạn tâm. Nếu kẻ gặp khó khăn thì Bồ-tát an ủi cứu giúp. Vì sao? Vì muốn độ thoát các loài hữu tình bị trói buộc. Những kẻ dua nịnh thì làm cho họ tu tập đầy đủ đức chất phác chân thật. Người học yếu nghĩa của đạo, không ham muốn vinh hoa phú quý ở đời, đều được sự tôn kính của Đế Thích, Phạm vương. Thường dùng trí tuệ quan sát thấy khắp tất cả. Vì sao? Vì muốn cứu giúp hết thảy các loài. Tu tập bốn Tâm vô lượng chẳng có ý niệm khác, đều bỏ các phiền não cấu uế mà hội nhập yếu nghĩa của Phật đạo. Thâu tóm hạnh nghiệp trí tuệ, dùng đức tự trang nghiêm để vượt qua các đức, ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp đều đầy đủ, trọn vẹn. Lành thay, lành thay! Sự độ thoát ấy, Niết-bàn hiển hiện để hướng dẫn chúng sinh, không ở nơi tám sự lo sợ, khiếp nhược mà ở chỗ an tịnh, thích dùng pháp lạc, lấy pháp làm vui, nắm giữ các dục, không tham ngôi vị quyền lực, bình đẳng đối với chúng sinh, sự thực hành không khác, làm thanh tịnh trí tuệ rộng khắp. Nếu có người phạm giới, Bồ-tát sẽ giúp đỡ họ, thị hiện sức nhẫn nhục, không sinh tâm kiêu mạn, phóng túng, không bỏ tinh tấn, thiền định, nhất tâm Tam-muội. Tâm ấy không mê loạn do hành nghiệp của trí tuệ. Những điều nghe nhận đầy đủ nơi lòng từ, những điều đó từ thân thực hiện, không nương nhờ người khác, không nên theo sự dụ dỗ của ma. Vì sao? Vì đạt được sự an lạc lớn. Nhờ có trí mà hiểu rõ và hổ thẹn đối với việc làm phi pháp, khỏi hẳn các bệnh, trở lại hộ trì chúng sinh, thường tự tạo an lạc cho mình và cho mọi người. Pháp của bậc A-la-hán là chỉ muốn tự cứu mình, chẳng cứu giúp chúng sinh, nhưng Bồ-tát sẽ dùng tâm đại Từ thương xót tất cả, muôn loài. Bồ-tát A-soa-mạt nói với Hiền giả Xá-lợi-phất: –Tâm Từ có ba việc? Những gì là ba? 1.Tâm Từ bố thí hết thảy, hiểu rõ pháp Từ bố thí cho tất cả. 2.Tâm Từ chân chính bình đẳng. 3.Thường dùng tâm Từ trải khắp chúng sinh. Gọi là bình đẳng tức bố thí khi phát tâm Bồ-đề, tâm Từ kết hợp với pháp bình đẳng mới thành tựu hạnh nghiệp, phát khởi tâm Từ bình đẳng rộng khắp, nhân đó mới thành tựu nhẫn nhục. Đó là ba việc của tâm Từ không cùng tận. Bồ-tát A-soa-mạt nói với Hiền giả Xá-lợi-phất: –Hàng Bồ-tát hiện bày tâm Bi không cùng tận. Thế nào là thọ mạng của con người? Do con người lấy hơi thở làm gốc, gốc là mạng sống. Nẻo hành của Bồ-tát lấy tâm Bi làm gốc. Cũng như vua Chuyển luân lấy vòng bằng vàng ròng làm chỗ khởi đầu, sau đó bảy báu tức thì hiện ra đầy đủ. Pháp Đại thừa của Bồ-tát cũng lại như thế. Do có tâm Đại Bi, pháp bảo của chư Phật đều hiện bày cùng khắp. Như vị trưởng giả có một loại nhạc vi diệu, hòa nhã. Âm thanh ấy du dương thấm sâu vào lòng người. Bồ-tát đạt đến tâm Bi rộng lớn, thương tưởng chúng sinh hơn cả bản thân mình. Như trưởng giả có người con một hết mực thương yêu. Hạnh nghiệp của Bồ-tát lấy Đại Bi làm gốc, sau đó sẽ gồm đủ các hạnh nghiệp khác. Vì sao? Vì tất cả giáo pháp thì Đại Bi làm chân thật. Người thực hành chân thật thì có tâm Bi rộng lớn, nên không tự đại, không độc đoán, cũng không phô trương, luôn hành theo nẻo chân chính, trong tâm luôn thành thật không đổi khác. Đó là tâm Bi rộng lớn. Vì sao? Vì không dùng tâm tà để thể hiện lòng thương xót. Tâm Bồ-tát thuần hậu không kiêu mạn, phóng dật, tùy thuận theo tất cả chúng sinh, dẫn dắt, giáo hóa để độ thoát họ. Thân không bị tổn hại, dùng uy lực nên không tham tiếc mạng sống, tức là tự yêu quý mình, xa lìa các ác, che chở hết thảy chúng sinh nên tâm ấy được thanh tịnh, không lìa bỏ những hạng nghèo cùng nguy khốn. Vì sao? Vì không bị cuốn theo phiền não, nên tâm được kiên cố. Đó là thương xót muôn loài. Tâm ấy không thoái chuyển, nhân đó hội nhập nơi đạo lớn. Tâm chân chính của Bồ-tát luôn siêng năng cứu giúp. Đó là Đại Bi. Nếu được chư Phật ấn chứng làm rõ chỗ thông tỏ, cũng là tự mình đem sự chứng đắc để cúng dường. Lại đạt đến tâm Đại Bi thì tâm vị ấy thanh tịnh không khác. Vì sao? Vì xả bỏ sự an lạc của mình mà đem lại mọi an lạc cho chúng sinh. Thấy người bị nguy hại thì Bồ-tát đem thân chịu thay cho họ. Tâm không hạn hẹp, gánh vác cho chúng sinh, không cho việc đó là nặng nề, tâm chí luôn tinh tấn. Đó là tâm Bi. Sở dó như thế, vì luôn nhẫn nhục. Đối với hạng người yếu kém thì cứu giúp họ. Đối với người có bệnh tật, thân thể hôi hám, tâm vị ấy cũng không ghét bỏ, không quản khó nhọc, đến cứu giúp khổ nạn của họ. Đối với người xin thỉnh giảng giáo pháp thì không dùng sự mệt nhọc mà luôn đầy đủ đạo tâm, tùy theo sự ưa thích để mở bày, giải thích cho họ, luôn có đủ công đức để trang nghiêm. Các căn của thân được vẹn toàn, không bị rơi vào các khổ. Nhân đó thành tựu tâm Từ hoàn bị để tạo an lạc cho muôn loài. Do đó gọi là tâm Bi, không tranh tụng với người. Vì sao? Vì không còn có tham nên mới có thể thực hành đầy đủ tâm Bi. Tâm không hối hận luôn giữ vững giới pháp, luôn ưa thích làm lợi lạc cho chúng sinh. Thân như kim cang không bị hủy hoại, do thân từng bố thí không tiếc lẫn, khuyên giúp người khác khiến họ phát khởi công đức. Đó là tâm Bi. Tuy thân tạo lập công đức luôn được vui vẻ, nhưng không bằng khuyên người tạo lập công đức mà không cho đó là vui lớn. Vì sao? Là luôn vì chúng sinh. Ở trong dục xem xét đạo tuệ không cho là khó nhọc. Đó là tâm Bi. Chỗ tạo tác công đức chưa từng biếng trễ mệt nhọc. Dùng vô úy thí để từ bỏ tâm tham lam, keo kiệt, muốn khiến cho chúng sinh đều đạt mọi sở nguyện. Đối với các trường hợp cần suy xét, mở bày, thấu đạt, liền khiến tạo lập tâm Bi rộng lớn vô lượng. Vì sao? Vì hiểu rõ chỗ phát khởi, giúp đỡ, khen ngợi, dẫn dắt cho chúng sinh. Nếu có kẻ phạm giới và hủy báng thì Bồ-tát yên lặng, không nghó đến lời nói đó. Vì sao? Vì thường lấy giáo pháp của Phật giáo huấn, giảng dạy cho chúng sinh trong mười phương. Như có người làm ác thì khởi tâm thương xót, dùng nhẫn nhục của Như Lai để chỉ dạy cho họ, không đem uy lực đối với kẻ ngu tối. Vì sao? Vì nhằm giáo hóa khiến họ hội nhập vào pháp của Phật. Bồ-tát giáo hóa rộng khắp khiến học ba mươi hai tướng Từ bi của Phật vì Từ bi cũng không cùng tận. Bồ-tát A-soa-mạt nói với Hiền giả Xá-lợi-phất: –Tất cả chỗ bố thí của Bồ-tát đều lấy Đại Bi làm gốc, nên gọi là kiến lập Đại Bi độ vô cực. Dùng Từ bi để tu tập sáu pháp Độ vô cực: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Nhất tâm, Trí tuệ. Cũng lại dùng Từ bi để thực hiện đầy đủ ba mươi bảy phẩm Trợ đạo. Vì sao? Vì riêng mình có thể tu tập đạt đến giác ngộ, không ai có thể làm thầy. Nẻo hành luôn an định, không chút cấu nhiễm, dùng trí tuệ thực hiện Từ bi đem lại sự thành tựu cho tất cả chúng sinh, nên gọi tâm Từ bi của Bồ-tát là không cùng tận. Thế nào là tâm Hỷ của Bồ-tát không cùng tận? Do tâm bình đẳng không cùng tận, suy xét các pháp nơi kinh điển tâm luôn vui vẻ, không cho là khổ nhục, xả bỏ các âm nhạc không thích hợp, chẳng cho đó là vui, tâm an trụ nơi pháp, dùng pháp để tạo sự an lạc. Tâm ý được điều phục, thấy chỗ tạo tác của người khác không hợp với nghĩa lý, Bồ-tát không sợ hãi nhưng bày tỏ lòng thương xót, rơi lệ. Thấy người ưa thích đạo Bồ-tát thì tâm Bồ-tát kính mến, nguyện được thân của Như Lai gồm đủ các vẻ đẹp và ba mươi hai dùng để trang nghiêm. Công đức của các pháp thường muốn đạt được, lãnh hội kinh điển chưa từng chán bỏ, luôn theo văn của kinh, dốc giữ gìn, vững chắc, để ứng hợp với chính pháp thì tâm không vướng bận theo vinh hoa của thế gian. Thường dùng pháp lạc để tự an vui. Tâm bình đẳng nơi tất cả chúng sinh, tùy theo niềm vui của họ mà dẫn dắt giáo hóa. Vì sao? Vì khiến đạt được như giáo pháp của Phật. Đó là thực hành tâm Hỷ. Giữ gìn tâm, ý chỗ giáo hóa được rộng lớn thì không trái với giáo pháp của Như Lai Vô Thượng chính Giác, gồm đủ uy lực. Người tâm hẹp hòi thì không thích giáo pháp, người tham lam thì tâm không thanh tịnh. Tuy Bồ-tát ở nơi ba tạng kinh điển mà chẳng ôm lòng tự đại, đối với người cẩn thận thì thay họ vui mừng, với kẻ phạm điều sai trái thì càng tăng thêm tâm Từ bi. Thân tâm đã vượt khỏi sợ hãi nơi các cõi ác, nên kiên trì, phụng hành giới pháp đúng như giáo pháp của Phật. Nếu bị người mắng nhiếc, tâm không giận dữ, chế ngự khiến trở nên hòa nhã, cung kính các bậc Trưởng lão, khiêm tốn đối với người thiếu niên, dung mạo hiền từ, tâm không rối loạn, luôn ứng hợp tùy thuận với mọi người, đối với các bậc đi trước luôn thưa hỏi, chưa từng dua nịnh. Đó là Bồ-tát thực hành tâm Xả vô tận. Bồ-tát A-soa-mạt nói với Hiền giả Xá-lợi-phất: –Thần thông của Bồ-tát cũng vô tận. Sao gọi là thần thông? 1.Thiên nhãn. 2.Thiên nhó. 3.Biết tâm niệm của người khác (tha tâm). 4.Nhận biết các việc xa xưa. 5.Bay đi tự tại. 6.Lậu tận thông. Sao gọi là Thiên nhãn? Xét về Thiên nhãn thì chỗ thấy của mắt nơi các hàng Rồng, Quỷ thần, La-hán, Duyên giác không bằng chỗ thấy của Bồ-tát, không ai sánh bằng. Mắt của Bồ-tát thấu suốt tất cả, chỗ nhận thấy của mắt ấy là vô biên thế giới trong mười phương. Các hình tướng, màu sắc thô, tế, lớn, nhỏ, xa, gần, rộng, hẹp đều dùng Thiên nhãn thấy rõ, phân biệt tất cả. Nhân nơi Thiên nhãn thấy được mười phương rồi, còn nhìn thấy nơi chốn sinh, trụ nơi năm đường, xét về nẻo luân hồi của chúng sinh, biết chỗ báo ứng, chỗ gặt lấy kết quả. Nhận về cội nguồn của chúng sinh cũng lại thấu tỏ về các căn mạnh yếu, sự thanh tịnh, sáng tỏ nơi các quốc độ của chư Phật Thế Tôn, cảnh giới khắp mười phương, cũng thấy tất cả, xem xét giới thanh tịnh ấy, dùng công đức này để khuyến trợ nơi cõi nước của mình, thường an trụ trong giới pháp, nên chỗ nguyện liền thành tựu. Dùng Thiên nhãn này quán xét về nghĩa lý của chư Phật và chúng Bồ-tát ở địa vị không thoái chuyển. Hàng Bồ-tát học tập, thực hành hạnh nguyện của các vị ấy, như oai nghi, phép tắc, nơi tất cả mọi hành động đều ung dung, hòa nhã, vững vàng trong pháp môn tu. Thâu tóm mọi biện tài với trí tuệ quyền xảo. Tùy lúc dùng phương tiện giáo hóa đầy đủ cho chúng sinh. Dùng mắt chân đế để thấy khắp, không bị ngăn ngại. Xem xét mọi hình sắc đều hư dối, không chân thật. Do đạt được mắt chân thật, thấy được sự giải thoát và những phiền não trói buộc. Dùng mắt chân thật thấy được nguồn gốc của phiền não là thanh tịnh, hiển bày rõ ràng, đối với tất cả cảnh giới đều không bị đắm vướng. Dùng mắt chân thật nên không sinh khởi lưới phiền não ràng buộc, thấy được bao nhiêu điều tăm tối, không còn do dự. Dùng mắt chân thật không trú trong điên đảo và tất cả các pháp ngăn che thì không thuận hợp. Sự nhìn thấy thông suốt là dùng ánh sáng của pháp để soi chiếu toàn bộ. Dùng mắt chân thật tuyên thuyết về trí tuệ của bậc Thánh, không tham đắm nơi những nhân duyên, các việc làm chưa từng hối tiếc, không giữ lấy cũng không mong cầu, không làm tăng thêm phiền não, phóng túng. Dùng mắt chân thật để trừ diệt những lao khổ, mệt nhọc. Kẻ chán ghét Thánh hiền thì tùy căn cơ mà mở bày, giáo hóa họ. Không trái, bỏ hình tướng, dùng ánh sáng bình đẳng chiếu khắp chúng sinh. Dùng mắt chân thật nên tâm ấy được thanh tịnh, diệt trừ tận gốc rễ phiền não, khiến chúng vónh viễn không còn phát sinh, xa lìa tâm tự đại, không còn các cấu uế. Tâm tính thanh tịnh nên không còn những vướng mắc. Dùng mắt chân thật đạt đến mắt Phật. Tâm Xả tự tại mà không giong ruổi cầu tìm. Trừ bỏ mọi giả dối, không trú vào các bệnh khổ và các thứ kết sử. Dùng mắt chân thật để thấu đạt nghĩa lý và biết được nẻo đi, lối về. Người được pháp thanh tịnh thì thực hành nghĩa lý của bậc Thánh tuệ không ngăn ngại, nắm giữ, điều phục chúng sinh. Xây dựng tâm đại Bi, trừ bỏ các pháp làm não loạn, chắc chắn đạt tới bờ giải thoát không bị ngăn ngại. Những điều đã quán xét kỹ càng sẽ đến gần đạo tràng. Đối với hạng người không nơi nương tựa, thấy họ đến cầu xin thì Bồ-tát không hề có lòng oán giận. Người phá hủy giới pháp thì giúp họ sửa đổi tâm tính, trừ bỏ những thói quen biếng nhác. Kẻ loạn tâm thì vì họ chỉ bảy thiền định. Người có trí tuệ sai lệch thì cho họ mắt trí tuệ. Người lạc đường thì chỉ dẫn họ theo con đường chân chính. Người mong đến pháp Tiểu thừa thì chỉ dạy họ dùng pháp vi diệu của Đại thừa, khiến họ nhập nơi Nhất thiết trí, thuận theo chính giác, không bỏ thần thông. Đó gọi là Thiên nhãn thấu suốt của Bồ-tát với thần thông không cùng tận. Thế nào là Thiên nhó thần thông không cùng tận? Do Thiên nhó này mà nghe thấu khắp mười phương, không bị hạn lượng. Những hình tượng và âm thanh có trong thế giới của chư Phật như Trời, Rồng, Quỷ thần, Càn-đạp-hòa, A-tu-la, Ca-lưu-la, Chiên-đà-la, Ma-hầu-lặc, những ngôn từ của Nhân phi nhân, tất cả hiền Thánh, Thanh văn, Duyên giác cho đến âm thanh thông suốt của hàng Bồ-tát, chư Phật đều dùng Thiên nhó này mà nghe được tất cả. Sự nghe luôn rõ ràng không hề bị giới hạn trở ngại. Thiên nhó ấy còn nghe thấu cả những âm thanh của địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, những âm thanh nhỏ bé của loài côn trùng như ruồi, muỗi, ong, bướm những tâm lý thiện, ác, phải, trái đều từ miệng chúng sinh nói ra, đều nghe biết được cả. Những ngôn từ của miệng nêu bày về tội phước, báo ứng, hoặc miệng nói về sự trói buộc của tham dục, sân giận, ngu si, hoặc miệng nói lời nối kết sự thô bỉ, hoặc miệng tuôn lời tham lam, giận dữ, hiện rõ sự ngu si. Hoặc miệng nói ra toàn những lời tệ ác, xấu xa. Hoặc miệng nói ra những tham muốn, uế nhiễm. Hoặc ôm lòng giận dữ nên nói lời hung bạo. Hoặc mê muội nên miệng nói lời lẩn thẩn, si mê. Hoặc giữ gìn tâm tính thanh tịnh, điều hòa với lời nói nhỏ nhẹ dịu dàng. Hoặc miệng nói lời tốt đẹp, tâm tính không hại người. Hoặc miệng nói lời nhu hòa, tâm tính an ổn, lời nói được thanh tịnh. Hoặc người thân, miệng, ý không tương ưng… thì Thiên nhó thông sẽ nghe được rõ ràng không bị ngăn ngại. Dùng Thiên nhó này nghe những điều nhân từ và không nhân từ. Đối với hai thứ ấy đều không còn chấp trước. Tai nghe tiếng xấu ác cũng không lo sợ, thường khởi tâm Từ bi rộng lớn thương xót chúng sinh. Nếu nghe tiếng thô ác thì đem đến cho họ lòng Từ vô cùng. Biết rõ những hạnh nghiệp của tất cả chúng sinh trong quá khứ, hiện tại, vị lai, luôn thấu đạt đúng đắn. Dùng Thiên nhó nghe được tất cả các pháp mà chư Phật trong mười phương đã thuyết giảng, liền thọ trì, nhớ nghó không quên. Nghe được rồi nên luôn luôn ưa thích đạo pháp. Quán xét thuận hợp với căn cơ để giáo hóa chúng sinh, khiến họ đều được nghe, không chỉ một lần, mà nghe pháp của Như Lai dần dần được mở bày, thọ trì, không thể bị phương hại, dứt bỏ, khiến tâm thoái lui, bị quên mất. Lại khi thực hành bản nguyện, hàng Bồ-tát đều theo từ giáo pháp của chư Phật đã khai mở mà phụng trì đạo. Bao nhiêu chúng hội thuyết pháp, hết thảy những chúng sinh đã được nghe đều có thể diễn nói giáo pháp mình đã lãnh hội một cách tự nhiên. Nếu những chúng sinh nghe biết được nghĩa lý nơi kinh điển thì nên giảng nói pháp cho họ. Nếu người không hiểu được ý nghĩa nơi kinh điển thì nhất định không nên giảng nói. Giả sử người có nhó căn bản lãnh hội được pháp giới thanh tịnh thì sẽ có nhó giới của Thánh tuệ thanh tịnh. Giả sử người có nhó giới tự nhiên thanh tịnh thì chúng sinh cũng được thanh tịnh. Nếu xem xét nhó giới tùy theo âm thanh, văn tự, ngôn từ, nghĩa lý thì Bồ-tát đều có thể nghe rõ. Tất cả chúng sinh vào năm đường, được Bồ-tát truyền bao nhiêu âm thanh, lời nói chẳng đồng không thể kể hết. Tùy âm thanh thông suốt mà có thể hội nhập để thuyết pháp. Sự nghe của Thiên nhó đều từ chân đế, đều do “đạo nhó” của Như Lai hỗ trợ, khuyến giúp, không ưa thích các thừa khác. Đó là Thiên nhó thần thông không cùng tận của Bồ-tát. KINH A-SOA-MẠT BỒ-TÁT <卷 id="117270375">Quyển 5 Bồ-tát A-soa-mạt nói với Hiền giả Xá-lợi-phất: –Thần thông của Bồ-tát nhận biết về tâm niệm của người khác cũng không thể cùng tận. Thế nào là nhận biết tâm niệm của người khác? Biết rõ về sự nhớ nghó ở quá khứ, tư duy về vị lai và tưởng ở hiện tại của chúng sinh. Bồ-tát lại biết tâm hư huyễn, tùy theo thời ứng hợp để chỉ dạy, thuyết giảng hạnh báo ứng và quả họa phước. Tâm người tốt hòa hợp với quả báo tốt. Người tạo việc không thiện, không ác thì được quả vô ký. Người làm việc thấp hèn thì bị quả báo xấu kém. Người có tâm thích Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ. Người có tính ưa thích hành Từ, Bi, Hỷ, Xả. Người có tính dốc sức học pháp Đại thừa, hoặc pháp Thanh văn, Duyên giác. Gốc thể tính của mỗi người vì chỗ gieo trồng đều khác nhau nên chẳng đồng, công đức hay họa hoạn nơi người nào thì dùng thuốc thích ứng với người ấy mà chữa trị, do tu phước mỏng nên bị sinh vào chốn hạ tiện. Hoặc có người thực hành phước đức thanh tịnh nhưng tâm tính chẳng sáng suốt. Hoặc có người tâm và nẻo hành đều thanh tịnh. Hoặc có người tâm vắng lặng thì việc làm được quyết đoán. Những hạng người như vậy, Bồ-tát đều nhận biết. Chúng sinh đời quá khứ do tâm niệm khác biệt mà sự tu hành không giống nhau Bồ-tát nhân nơi chỗ hành động của họ mà thuyết giảng giáo pháp. Đó gọi là biết tâm niệm của người khác. Đức Phật biết rõ hoài bão của chúng sinh về vị lai. Người nào vào đời ấy nhờ giữ gìn giới cấm, bố thí, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ thì đều được phước báo như vậy. Thực hành nghiệp theo thế tục thì được quả báo nơi thế gian. Người nào ở đời vị lai, tu học pháp Đại thừa thì mọi hành động, phép tắc, oai nghi, lễ nghĩa cũng được báo ứng thích hợp. Chúng sinh ở đời vị lai với cử chỉ oai nghi, tâm niệm tạo tác mỗi người đều khác nhau, về sau họ sẽ nhận quả báo Bồ-tát đều nhận biết rõ. Người nào tâm tính, hành động không thuần thục thì vị lai sẽ gặp những điên đảo, hoạn nạn. Do biết tâm niệm ấy mà Bồ-tát giảng giải, tùy theo căn cơ từng hạng mà diễn thuyết cho họ. Người giảng pháp không bao giờ lầm lẫn, luôn sáng suốt, tùy theo bệnh để cho thuốc. Như khi giảng pháp, Bồ-tát đem hết tâm trí để suy xét rõ, thấy được tâm niệm phải, trái của chúng sinh nơi hiện tại. Bồ-tát biết được người này tâm luôn tham dục, nhiều giận dữ, hẹp hòi, tối tăm. Bồ-tát biết người kia có tâm không tham dục, không tức giận ngu si. Do nơi phiền não mà tâm tính giong ruổi nơi khách trần, Bồ-tát hiểu được những điều suy nghó của chúng sinh, duyên theo phiền não cấu uế mà thuyết pháp, khiến thông suốt. Bồ-tát đến chúng hội luôn quan sát nguồn tâm của mọi loài, tùy bệnh cho thuốc khiến dứt khỏi bệnh. Giả sử tâm của chúng sinh thường nghi ngờ, ý chí không tự quyết định nên mê mờ, loạn động. Tuy có tiến lui mà lòng thường mang nặng nghi ngờ, trí tuệ không sáng suốt, tâm mê lầm, hành động xấu ác, cho đến đối tượng được suy niệm cũng không thể thấu tỏ thì Bồ-tát hiểu rõ về tâm tính ấy để đoạn trừ các thứ phiền não, lại trừ bỏ chướng ngại, xa lìa cấu uế đạt được thanh tịnh. Ánh sáng hiện bày rực rỡ mà không chỗ thọ nhận, không chỗ tạo lập, bỏ các lỗi lầm, dùng ánh sáng của chính pháp soi tỏ tâm hành của tất cả chúng sinh, tùy lúc hội nhập nơi giáo nghĩa mà thuyết giảng, khiến họ thông đạt đầy đủ. Đó là thần thông vô tận thứ ba của Bồ-tát biết rõ về tâm niệm người khác. Bồ-tát A-soa-mạt nói: –Bồ-tát hiểu biết về thời xa xưa không cùng tận, tức có thể nhớ nghó đến tận nguồn gốc. Các loài chúng sinh đều nhờ ơn từ diệu nghĩa giải thoát của Như Lai mà an trú vững chắc trong pháp giới chân thật, tịch tónh không thể lay động. tính luôn hiền hậu, đầy đủ các thiền định, không mang lòng oán hận, an trụ suy xét kỹ, để biết về năm mươi đời, một trăm đời, một ngàn đời, biết sự việc của hàng ức không thể kể đời, trời, đất, thành hoại, hợp, tan, tiến, lùi, trong một kiếp, mười kiếp, một trăm kiếp, một ngàn kiếp, hiểu rõ về vô số trăm ngàn ức kiếp. Bồ-tát nhận biết về dòng họ, tên tuổi, ngôn ngữ, chỗ sinh sống, sự thay đổi, khổ, vui, thấy được nguồn gốc của chúng sinh, từ xưa đến nay nơi gieo trồng công đức khác nhau, tùy theo căn lành để thiết lập công đức cho tự thân. Bồ-tát phát huy Phật đạo, soi chiếu vào tâm chúng sinh, khiến họ biết được gốc thiện mà phát tâm Bồ-đề, biết được bao thứ khổ vui, an nguy của đời trước, bỗng chốc tất cả các thứ trải qua đều trở về khổ, không, vô thường, vô ngã. Người ngu si mê lầm, do sắc thân nương vào thế lực giàu mà có ngạo mạn, kiêu căng, buông lung. Cậy vào thế lực quyền quý mà ham thích ngôi vị Phạm vương, Đế Thích, Tứ Thiên vương, Chuyển luân thánh vương, thích những thú vui nên mãi mãi lưu chuyển trong sinh tử, ưa vào chốn ái dục hoan lạc, vui mừng để mong thân mình được an ổn. Bồ-tát nương vào tâm niệm của chúng sinh như vậy mà hóa độ họ. Giả sử ưa thích chức vị thế gian, nhưng phải quán xét khổ, không, vô thường, vô ngã, thông suốt nguồn gốc các việc làm nơi quá khứ, các việc làm ở hiện tại không có nơi chốn, dù mất thân mạng quyết không phạm vào điều sai quấy. Gốc của việc tạo lập công đức từ xưa đều nhờ vào sự khuyến khích hỗ trợ để đạt được đạo lớn, giữ gìn căn lành ở hiện tại để chế ngự giáo hóa chúng sinh, bỏ các hành nghiệp sai quấy, hộ trì Tam bảo là Phật, Pháp, Thánh chúng, phát khởi Nhất thiết trí. Đó là thần thông thứ tư, biết rõ về đời trước không cùng tận của Bồ-tát. Thế nào là thần túc phi hành của Bồ-tát? Người đã đạt được thần thông không cùng tận là tự quán xét về tâm mình, ưa thích tinh tấn, lãnh thọ giáo pháp, tu tập những hạnh nguyện liền có thể thành tựu, luôn tự mình thực hành chắc chắn đối với bốn Thần túc tự tại trước mắt, nên chứng đắc tất cả các thần thông. Bồ-tát dùng vô số loại thần thông để hiển hiện với oai lực biến hóa vô cùng, dùng một thân hóa ra vô số thân, dùng vô số thân trở lại thành một thân, bay đi nhanh chóng chỉ trong một khoảnh khắc không hề bị ngăn ngại nơi tường, vách, núi Thiết vi, thông suốt như chim bay giữa hư không, an trụ nơi hư không như ngồi trên đại địa, giẫm trên nước như bước đi ở đất liền, ra vào không gián đoạn, như nhà không có cửa. Bồ-tát dùng thần túc quan sát căn cơ của chúng sinh mà khai mở, giáo hóa họ. Nhân nơi chúng sinh ấy mà chỉ dạy, hiện bày thần túc, thị hiện hình sắc đoan nghiêm không ai sánh bằng. Hoặc từ lỗ chân lông phóng ra luồng ánh sáng lớn, hoặc tạo lập oai nghi nơi thần thông theo các loại hình đó để hóa độ họ. Tùy bệnh cho thuốc, khiến tất cả đều được độ thoát. Hoặc tạo lập tướng mạo của hàng Thanh văn, Duyên giác. Hoặc hiện thân Phật để chỉ bày giáo hóa. Hoặc hiện hình tướng Phạm vương, Đế Thích, Tứ Thiên vương, Chuyển luân thánh vương, đủ các hình tướng khác nhau để giáo hóa. Hoặc thị hiện hình tướng của loài súc sinh. Tùy theo sự ưa thích của muôn loài mà thuyết pháp, dạy bảo. Những người ỷ vào thế lực mạnh, tâm ý ác độc, nóng nảy, giận dữ, Bồ-tát vì họ mà xiển dương tâm Từ, hoặc hiện bày đại lực, hoặc bốn lực và các diệu lực khác để thu phục. Những lực đó không cùng tận, không hạn lượng như núi Tu-di vòi vọi, cao ba trăm ba mươi sáu vạn dặm, rộng dài phần nhập vào biển lớn cũng như vậy. Bồ-tát dùng thần lực dời chuyển núi Tu-di lên, ném qua cõi Phật ở phương khác một cách dễ dàng, nhưng sức lực của Bồ-tát không hề hao tổn. Lại tam thiên đại thiên thế giới rộng dài vô biên, phía dưới cùng tận nơi cõi đất, lên đến cõi trời ba mươi hai, đặt tất cả thế giới vào lòng bàn tay, nâng lên, trải qua bao nhiêu kiếp số vẫn không hề mệt mỏi. Bồ-tát kiến lập sức thần thông, hiện bày trí tuệ ấy, dùng uy đức của Thánh tuệ này để đạt được hạnh nguyện. Có thể nắm biển lớn ném vào dấu chân bò, mà dấu chân đó vẫn còn nguyên vẹn. Lại biến dấu chân bò thành biển lớn. Giả sử vào thời kỳ kiếp thiêu, trời đất sắp bị cháy hết, Bồ-tát hóa hiện nguồn nước lớn nhằm diệt trừ nạn lửa, liền theo thần thông để biến thành trận lụt lớn. Nói tóm lại, những nơi thị hiện không hề bị vướng mắc, ngăn che, vì mọi biến hóa đều là huyễn. Pháp trung, thượng, hạ đều vừa ý, được thành tựu hoàn toàn, không ai có thể lay động, chuyển dời, phế bỏ. Đế Thích, Phạm Thiên, Ma vương, Trời, các loài ở phương khác, các việc đã thể hiện đúng như lời dạy trong kinh. Ngoại trừ uy thần vô tận của chư Phật ra, không người nào ở trên trời hay nơi thế gian có thể sánh bằng uy đức của Bồ-tát. Bồ-tát dùng thần lực ấy vì nhân loại mà hiển bày bao nhiêu sự biến hóa. Luôn vui vẻ với công đức, tuyên giảng kinh pháp, có thần túc này nên tâm được vững bền, chưa từng thoái lui. Bồ-tát vượt qua mọi phiền não uế trược của cảnh giới ma, hội nhập vào cảnh giới Phật, không còn người tạo phiền não, âu lo, ứng hợp với chỗ thiếu thốn làm cho chúng sinh được đầy đủ. Những công đức căn bản đã tạo ở đời quá khứ thì các quân ma và quyến thuộc của chúng không thể phá hủy. Đó là thần thông thứ năm, thần túc biến hóa không cùng tận của Bồ-tát. Bồ-tát A-soa-mạt lại bảo Hiền giả Xá-lợi-phất: –Lậu tận thông của Bồ-tát là không trụ vào hữu vi, cũng chẳng phải ở nơi vô vi. Nhờ đại Từ nên không tạo lập sinh tử, do Đại Bi nên không trụ ở Niết-bàn. Muốn thành tựu đạo đức thì không chấp trước nơi đầu, cuối. Muốn thị hiện thân Phật thì không an trụ vào diệt độ, thương xót tất cả mà không mê đắm dục lạc thế gian, hóa độ khắp mười phương mà không chứng nhập Niết-bàn. Thực hành Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ, tùy thời mà không bị lầm lạc, lôi cuốn, hành hóa theo phương tiện thiện xảo nên không ham thích vô vi. Muốn đầy đủ bản nguyện do ý tính thanh tịnh, nên không trái với trí tuệ Phật, dùng phương tiện để mở bày, giáo hóa. Ở trong năm đường sinh tử mà vẫn an nhiên không thích vô vi, sáu thông bình đẳng, không ngại năm đường, với sáu pháp Ba-la-mật, bốn Tâm vô lượng, bốn Ân, bốn Biện tài, ba mươi bảy phẩm Trợ đạo nhằm trị bệnh sinh tử, thành tựu quả Phật, làm thanh tịnh đạo tràng, không còn vướng mắc nẻo có, không. Sinh tử, vô vi đều quan sát tự nhiên bình đẳng như hư không, chẳng tiến, chẳng lùi. Đó là thần thông thứ sáu không cùng tận của Bồ-tát. Bồ-tát A-soa-mạt nói với Bồ-tát A-soa-mạt: –Bồ-tát có bốn Ân (bốn Nhiếp pháp), phải dốc thực hành không cùng tận. Bốn pháp là: Bố thí, Nhân ái (Ái ngữ), Lợi ích (Lợi hành), Đẳng sự (Đồng sự). Bố thí có hai: 1.Tài thí: Y phục, thức ăn, vàng bạc, châu báu, xe ngựa, người hầu. 2.Pháp thí: Bố thí rộng rãi các kinh điển, lưu hành khắp nơi. Nhân ái có hai: Nếu có người cầu xin thì tùy ý cho họ, nếu có người muốn nghe kinh điển thì thuyết pháp cho họ. Lợi ích có hai: Tự thành tựu hạnh của mình và thành tựu nguyện của người khác. Đẳng sự cũng có hai: Ý niệm về tự thân, suy nghó để tạo lập công đức, nếu có người đến xin y phục, thức ăn những gì thiếu thốn đều ban cho họ, lại khuyến khích họ an trú trong đạo nghiệp. Lại chỗ gọi là bố thí, vì khi thấy người đến xin thì vui vẻ cho họ, sắc mặt không thay đổi mà thêm vui mừng. Nhân ái là khi thấy người đến xin thì thương yêu như con mình. Lợi ích là khuyên bảo người cầu xin, khiến họ an nhiên, trụ nơi sự bình đẳng. Đẳng dữ là giả sử có người thân hành động, tâm suy nghó, miệng nói sai quấy thì giáo hóa họ, khiến đạt được ba việc tương ứng, hội nhập nơi Đại thừa. Lại nữa, xả bỏ tâm tham lam, ganh ghét thì gọi là bố thí. Tinh tấn không ngừng gọi là nhân ái. Có được lợi ích, tâm tính hòa nhã không giận dữ, gọi là lợi ích. Khuyến khích chúng sinh nhập vào Đại thừa, không rơi vào Tiểu thừa, gọi là đẳng dữ. Lại nữa, tâm Từ thuận hợp gọi là bố thí. Phát khởi tâm ưa thích, thương yêu người, gọi là nhân ái. Hưng khởi Đại Bi, mặc áo giáp giới đức, chịu mọi khổ thay cho chúng sinh, gọi là lợi ích. Hộ trì các đức hạnh, khiến không bị hao tổn, đạt trí Nhất thiết, gọi là đẳng dữ. Lại nữa, có người cầu pháp cũng có thể ban cho họ tất cả, không hối tiếc, gọi là bố thí. Nhân ái là trong khi bố thí vật phẩm, nên giảng giáo lý khiến họ được an ổn. Lợi ích ấy là lợi mình, lợi người để phát triển đạo pháp. Đẳng dữ là vì chúng sinh nên phát tâm Bồ-đề, cầu đạt trí tuệ, thần thông. Lại, các vật hiện có trong ngoài đều buông bỏ không luyến tiếc, chẳng mang vọng tưởng, gọi là bố thí. Tán dương tất cả công đức nơi trí tuệ chẳng trái với thầy, bạn, gọi là nhân ái. Xả bỏ sự an nhàn và các tiện nghi của mình, lo nghó đến người khác, gọi là lợi ích. Tập hợp các hạnh chính yếu, hoặc sống trong khổ não đã tự siêng năng tu tập, trí tuệ tư duy để thành tựu Phật đạo, xem các sự việc ấy như trong lòng bàn tay. Do ban ân cho người khác, không còn áy náy, gọi là đẳng dữ. Sao gọi là pháp thí? Như đem pháp mình được nghe, giảng lại cho người khác. Nhân ái là nếu có chỗ giảng thuyết, mà không tham đắm về y phục, lợi dưỡng. Lợi ích là nếu giáo hóa người thì nên khuyên họ đọc tụng kinh điển, tùy thời chỉ dạy, chưa từng mệt mỏi. Sao gọi là đẳng dữ? Chưa từng xa lìa tâm cầu Nhất thiết trí, thường tùy thuận giáo pháp để giảng dạy, không cho là khổ hoạn. Sao gọi là bố thí? Người ưa thích giáo pháp thì chẳng thiếu thốn y phục, thức ăn, bình bát, giày dép, giường chiếu, đồ nằm, thuốc men trị bệnh. Người được những thứ ấy, thấy người khác thiếu thốn liền đem cho họ, xem xét tâm tính để thuyết pháp khiến họ được thành tựu. Đẳng dữ đó là có thể tăng thêm sự bố thí cho người, làm thanh tịnh ba đạo tràng, không mong cầu đáp đền, chỉ trợ giúp để phát tâm Bồ-đề vô thượng. Lại nữa, bố thí pháp là đệ nhất trong tất cả các việc bố thí. Quan sát như vậy rồi mới hưng khởi việc bố thí pháp. Nhân ái là tự tâm chân thật, bày tỏ nghĩa thương yêu. Lợi ích là nhớ nghó về nghĩa lý của đạo, không nhận trang sức. Đẳng dữ là thuyết giảng giáo pháp của Đức Phật đầy đủ trí tuệ nơi đạo. Lại nữa, bố thí ấy là hoàn thành đầy đủ các pháp Ba-la-mật. Nhân ái là thành tựu được giới cấm, Nhẫn nhục ba-la-mật. Lợi ích là Tinh tấn ba-la-mật, không rơi vào điên đảo, thoái lui, không tăng thêm tội lỗi. Đẳng dữ ấy là Thiền định và Trí tuệ ba-la-mật. Lại nữa, bố thí tức là thích hợp với những việc làm của Bồ-tát mới phát tâm. Nhân ái là tu tập chính hạnh, thuận theo nguồn gốc của Bồ-tát. Lợi ích là thành tựu giáo pháp không thoái chuyển của Bồ-tát. Đẳng dự là đạo nghiệp Nhất sinh bổ xứ của Bồ-tát. Lại nữa, bố thí là tạo lập nền tảng của đạo. Nhân ái là dụ cho thành tựu đạo pháp với sự hoàn bị về mầm, thân, nhánh, lá của một cây. Lợi ích là chỗ cứu cánh của đạo pháp dụ như hoa nở tươi tốt, tỏa ngát hương thơm. Đẳng dự là quả vị, hạnh nghiệp, đạo đức chân chính rốt ráo. Đó gọi là bốn Ân, cần thực hành của Bồ-tát. Bồ-tát A-soa-mạt nói với Hiền giả Xá-lợi-phất: –Bốn Biện tài của Bồ-tát không cùng tận là: biện tài về nghĩa, biện tài về pháp, biện tài thích ứng và biện tài về ngôn từ. Sao gọi là biện tài về nghĩa? Tức hiểu rõ nghĩa chân đế của các pháp, tỏ được chỗ thấu đạt của mình, nhận thức thích ứng với trí tuệ, sự hiểu biết hòa nhã, không tự dụng công tu tập, hội nhập nhân duyên nơi trí tuệ, không hủy hoại pháp giới, thấu đạt về nguồn thanh tịnh, hội nhập nơi gốc “không”, hiểu rõ gốc “không” trụ nơi “bản tế”, vónh viễn không có giới hạn, lãnh hội nghĩa “không”, phụng trì tu tập vô tướng, trụ vào vô nguyện, hiểu biết mà không chỗ mong cầu, tạo lập mà không có chỗ hành hóa, thấu tỏ các hành nghiệp để hội nhập vào cửa trí tuệ, không thấy có người, cũng không thấy có ta và của ta, không thọ, không mạng, trí đạo là một. Vào trí tuệ chân chính, biết rõ về vô số kiếp trong quá khứ, thông hiểu nghĩa lý của vị lai không giới hạn, nhận thức những việc làm của tất cả chúng sinh trong hiện tại, thông tỏ năm ấm giống như huyễn hóa, bốn đại như rắn độc, các nhập như hư không, bên trong vắng lặng, bên ngoài không tạo tác, hiểu các quốc độ không có cảnh giới, tâm ý không hình tướng nên chỗ hành hóa tuy đến mà không có chỗ đến. Quan sát tâm tính, rõ biết tường tận về Khổ không có nguồn gốc, Tập không có chỗ tạo tác, Diệt là tướng tự nhiên, hiểu rõ để hội nhập con đường phân biệt hướng tới câu, nghĩa của các pháp, thông suốt các căn, thấu đạt năm Lực, tạo lập sự vắng lặng, quan sát rõ ràng tất cả các sở hữu như huyễn hóa, như cây chuối không thật, như dợn nắng, hình ảnh trong mộng, tiếng vang trong hang núi, trăng dưới nước, đều là hư dối không thật. Do ngần ấy tướng để rõ làm một tướng, biết có hòa hợp tất phải chia ly, hôm nay vui vẻ thì hôm sau phải buồn lo, hiểu Thanh văn thừa nhờ âm thanh mà giác ngộ, biết Duyên giác thừa từ mười hai nhân duyên tịch tónh đưa về một thừa, thông suốt pháp học Đại thừa. Do tích lũy vô lượng công đức căn bản mới thành tựu đạo lớn. Đó là biện tài về nghĩa. Lại nữa, biện tài về nghĩa là chỉ quy ngưỡng về “nghĩa”. Tất cả các pháp đều hướng về nghĩa, mà cũng không chỗ về. Vì sao? Vì chỗ hướng về của tất cả pháp đều là “không”, không đó là “nghĩa”. Tất cả các pháp đều không có tướng hiểu được, không có tướng đó gọi là nghĩa. Tất cả các pháp đều không, không có nguyện, không có nguyện gọi là nghĩa. Tất cả các pháp đều quy về chỗ an nhiên, an nhiên ấy gọi là nghĩa. Tất cả các pháp không có nhân, không thọ, không mạng, do không thọ, mạng, nên gọi là nghĩa. Nếu hiểu các pháp rõ ràng như vậy thì gọi là biện tài về nghĩa. Giảng thuyết pháp ấy không xứ sở mà nói có xứ sở, giảng thuyết về xứ sở ấy thì không cùng tận, biện tài diễn thuyết không gì có thể ngăn che. Lời giảng dạy của chư Phật Thế Tôn đều nhằm khuyến khích, giúp đỡ cùng khắp, để tuyên thuyết giảng về Thánh tuệ, chân đế không khác, không có chút lỗi lầm nào cả, gọi là biện tài về nghĩa. Thế nào là biện tài về pháp? Hiểu rõ các pháp, tùy thời mà hội nhập vào các pháp thiện hay ác, họa hay phước, khởi dấy công đức hay tạo lỗi lầm, hữu lậu hay vô lậu, tại thế hay xuất thế, khổ hay vui, nguy hiểm, phiền não, sân giận, mỗi mỗi đều có phẩm loại riêng. Nhập vào sinh tử như ở Niết-bàn, phân biệt nghiệp của pháp giới và pháp thế gian gọi là biện tài về pháp. Lại nữa, biện tài về pháp ấy là Bồ-tát hiểu được các tâm tham muốn, luyến ái của chúng sinh. Người nào ham muốn về sắc thì biết phải dùng thuốc gì để chữa trị cho họ. Người có thể trừ bỏ lòng dục, người không thể trừ bỏ, hoặc người có dục từ xưa, nay lại xuất hiện hoặc tích tập chủng tử tham dục nơi đời vị lai, hoặc tích tập tham dục ở đời hiện tại. Hoặc lại có người bên trong còn ẩn tàng tham dục, nhưng bên ngoài không còn ân ái. Hoặc có người bên ngoài biểu lộ tướng tham dục, nhưng bên trong lại không tham ái. Hoặc có người bên trong lẫn bên ngoài đều có tham dục. Hoặc có người thấy sắc đẹp liền dấy khởi lòng dục mà nghe tiếng vẫn không động. Hoặc lại có người nghe những âm thanh tốt đẹp liền khởi tham dục mà chẳng do sắc làm lay động. Hoặc có người nhân nơi âm thanh lẫn hình tướng mà phát khởi lòng tham muốn về dục. Hoặc có người nhân nơi hương thơm, mùi vị, sự xúc chạm, do tâm đối với pháp mà khởi tham dục. Hoặc có người không có ý niệm gì về sắc, thanh, hương, vị, xúc mà khởi tham dục. Đó là những hành động của chúng sinh tham dục, vì đã tích tập những việc làm như vậy nên bị rơi vào cửa tham dục. Hoặc hai vạn một ngàn tham dục, hai vạn một ngàn sân giận, hai vạn một ngàn ngu si và hai vạn một ngàn hành đẳng phần. Nếu hiểu được tám vạn bốn ngàn hành động này thì Bồ-tát có thể tùy thời thích hợp mà mở bày chỉ dẫn giáo hóa cho chúng sinh, mà không bị tổn hại. Người nào chưa vào cửa trí tuệ thì Bồ-tát dẫn dắt giúp họ vào trước, không để mất cơ duyên. Bồ-tát hiểu rõ căn cơ thông minh hay thấp kém của chúng sinh để thuyết pháp thích ứng. Đó là biện tài về pháp. Thế nào là biện tài thích ứng? Như có thể nghe được tất cả âm thanh, ngôn từ của hàng trời, người, thế gian của các chúng Rồng, Quỷ thần, Càn-đạp-hòa, A-tu-luân, Ca-lưu-la, Chân-đà-la, Ma-hưu-lặc, Nhân phi nhân. Bồ-tát có thể nghe được âm hưởng từ lời nói của chúng sinh trong năm đường, rồi tùy theo đó mà thuyết pháp cho các loài. Đây gọi là biện tài thích ứng. Tùy thuận như vậy để giảng nói, tức là biện tài thích ứng. Hiểu rõ về kinh điển, biết đến câu chữ, quán xét và hội nhập nơi nghĩa lý với từng phẩm loại như thế, Bồ-tát hiểu được một loại ngôn ngữ, mười loại ngôn ngữ, cho đến một trăm loại ngôn ngữ. Bồ-tát thấu rõ ngôn ngữ của hàng nam, nữ, già, trẻ, cũng biết được nghĩa lý của văn tự trong quá khứ, hiện tại, vị lai. Bồ-tát cũng hiểu mọi cấu trúc của ngôn từ. Đó là biện tài thích ứng. Thích ứng với chân đế thì lời nói không thiếu sót, hiểu biết phân minh thì không lỗi lầm. Lời nói ý tứ, kín đáo mà nghĩa lý đầy đủ, đối với mọi người đều vui vẻ thì lời nói không oán kết. Thuyết nêu về nghĩa lý sâu xa, ngôn từ chân thật, chất phác thích hợp với văn chương. Tự xét tâm mình theo lời dạy của chư Phật, xem xét tâm tính của chúng sinh mà giảng giải nghĩa lý thuận hợp, khiến cho tâm họ được mở bày, thâu nhận, vô cùng vui mừng, tất cả đều được toại nguyện. Đó là biện tài thích ứng. Sao gọi là biện tài về ngôn từ? Lời nói đúng lúc, không lẫn lộn, lời nói lưu loát, không ai có thể sánh bằng, nghĩa lý đã nói ra đều thông suốt, nghe hỏi thì trả lời ngay, ứng đáp nhanh nhẹn, đúng với điều đã hỏi. Biện tài không tranh cãi, thuyết pháp thích hợp nơi chân đế, tu tập lực nhẫn nhục, đã thuyết nêu bao nhiêu ý nghĩa sâu xa, biện tài theo thứ lớp không vượt tâm ý. Dùng sáu pháp Độ vô cực: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ để phân biệt các nghĩa lý nơi chương, câu. Giảng thuyết về Ý chỉ (bốn Niệm xứ), Ý đoạn (bốn chính cần), Thần túc (bốn Như ý túc), Căn (năm Căn), Lực (năm Lực), bảy Giác chi, phát tâm thành tựu đạo quả, quan sát mọi vắng lặng, hiểu rõ, thông suốt tất cả thiền định, môn giải thoát Tam-muội, hội nhập nơi trí tuệ bậc Thánh, phân biệt về ba thừa, có thể tạo mọi an vui cho tất cả chúng sinh. Lời nói hòa nhã, không lầm lẫn, cũng không thô ác. Nếu gặp chỗ không hợp nghĩa thì không nói những lời xấu xa, mê muội mà nói lời nhẹ nhàng, trong sáng, mạnh mẽ, chân thật. Tùy thời, theo nghĩa của sự việc mà nói lời chân chính, không vội vàng. Dùng phương tiện tùy ý mà lời nói không đổi khác, cũng không nói nhỏ, lén lút, che giấu, mà phải nói rõ ràng, công khai, ngôn từ tạo sự an ổn, không bị sợ mất. Các bậc Hiền thánh cùng khen ngợi, tiếng thơm lưu truyền khắp nơi. Âm thanh vi diệu ấy cũng như âm thanh của Phạm thiên, người nghe đều thấu đạt ngôn từ, bày tỏ không trái với chính pháp. Bồ-tát đều thấy được căn tính của hết thảy chúng sinh, thích ứng với tâm niệm để thuyết pháp cho ho. Người nghe pháp ấy đều đoạn trừ các khổ não, hoạn nạn. Đây gọi là biện tài về ngôn từ vô tận của Bồ-tát. Bồ-tát A-soa-mạt nói với Hiền giả Xá-lợi-phất: –Biện tài vô ngại của Bồ-tát lại có bốn việc không cùng tận. Đó là: 1.Chọn lấy nghĩa không chọn lấy thức. 2.Nương vào trí tuệ không nương vào thức. 3.Nương vào yếu nghĩa của kinh không bị mê mờ. 4.Nương vào pháp, không chọn lấy người. Sao gọi là nghĩa, là thức? Nếu nhập vào pháp thế gian thì gọi là chấp nơi thức, vượt lên pháp thế gian mới gọi là nghĩa. Gọi là thức, tức bố thí, điều phục tâm ý, trí tuệ sáng suốt tường tận. Gọi là nghĩa tức điều phục thiền định, vắng lặng, an nhiên quy về trí tuệ của bậc Thánh. Gọi là thức tức gắn liền với sinh tử mà không nhàm chán. Gọi là nghĩa tức tuy ở trong sinh tử mà không bị điên đảo, đều có thể vượt qua tất cả các hoạn nạn. Gọi là thức tức ca ngợi công đức của Niết-bàn. Gọi là nghĩa là tất cả pháp vốn thanh tịnh tịch tónh, không còn tưởng vọng. Gọi là thức tức tùy theo các thừa mà phân biệt. Gọi là nghĩa tức hội nhập trí Nhất thiết pháp. Gọi là thức tức tất cả các vật hiện có đều đem bố thí mà không luyến tiếc. Gọi là nghĩa tức làm thanh tịnh ba đạo tràng, quy về một đạo lớn. Gọi là thức tức giữ gìn thân, miệng, ý tu học đầy đủ về giới cấm, khen ngợi các hạnh của công đức biết đủ. Gọi là nghĩa tức hộ trì thân, miệng, ý, hiểu rõ về tính chất “không thủ đắc” tất không có đối tượng được tạo tác. Như vậy gọi là giới cấm có thể làm thanh tịnh. Gọi là thức tức thấy những người tự cao, ngã mạn, phóng dật, độc ác thì nên thuyết giảng hạnh nhẫn nhục cho họ. Gọi là nghĩa tức tu hành có thể đạt đến quả vị pháp Nhẫn vô sinh. Gọi là thức tức cần mẫn, tinh tấn phân biệt tất cả ý nghĩa nơi gốc của công đức. Gọi là nghĩa là không chỗ nào là không tương ưng, không theo nhị biên, nẻo hành luôn tinh tấn mà không có chỗ trụ. Gọi là thức là thiền định giải thoát, môn Tam-muội, Tam-muội chính thọ. Gọi là nghĩa là hiểu rõ về định diệt tận. Gọi là thức là những điều đã nghe liền thọ trì theo đúng ngọn nguồn của trí tuệ. Gọi là nghĩa tức quán xét trí tuệ không có nơi chốn, không thể thủ đắc. Gọi là thức là giảng thuyết nghĩa lý nơi ba mươi bảy phẩm Trợ đạo. Gọi là nghĩa là phụng hành, tu tập các pháp của chư Phật, nhân theo nẻo báo ứng mà đạt đến quả vị được chứng đắc. Gọi là thức tức phân tích về Khổ, Tập, Diệt, Đạo đế. Gọi là nghĩa là đạt đến sự vắng lặng an nhiên sâu xa. Gọi là thức là nhân nơi chỗ sinh, tất do vô minh cho đến lão, bệnh, tử. Gọi là nghĩa tức do diệt vô minh đến lão, bệnh, tử vónh viễn được đoạn trừ. Gọi là thức là giảng thuyết chỗ quan sát nẻo quay về của nguồn gốc vắng lặng. Gọi là nghĩa tức nhân nơi trí tuệ mà chứng đắc giải thoát cho đến đạt được trí tuệ vi diệu. Gọi là thức tức hiểu về tham lam, sân giận, ngu si, vốn bình đẳng không thể phân biệt. Gọi là nghĩa tức do vónh viễn tiêu trừ các tưởng xấu ác, không còn nhớ nghó, sân giận. Gọi là thức là giải thoát tất cả những nạn bị ấm, cái, ngăn che, cản trở. Gọi là nghĩa là đi vào cửa trí tuệ giải thoát nhanh chóng. Gọi là thức là khen ngợi công đức vô lượng của Tam bảo. Gọi là nghĩa là do xa lìa các tham đắm, không liên hệ với dục mà phụng hành, thuyết nêu về công đức. Gọi là thức tức như Bồ-tát mới phát tâm thường tán thán những điều tốt đẹp về giới cấm của Bồ-tát. Gọi là nghĩa tức trong khoảnh khắc, tâm niệm đều hiểu rõ liền thành tựu Nhất thiết trí. Nói tóm lại, Bồ-tát có thể thuyết giảng về tám vạn bốn ngàn phẩm loại nơi kho tàng giáo pháp, đó là thức. Đối với văn tự, những điều nhận biết, chấp trước về thức thì hiểu rõ về nghĩa là không thủ đắc, không nơi chốn, đó gọi là nghĩa. Sao gọi là tuệ? Sao gọi là thức? Trụ trong thức tức có bốn việc. 1.Thức ở trong sắc, tâm ở trong thức. 2.Vì vọng tưởng nên ở trong trói buộc. 3.Xoay vần trong sinh tử, thức đều có mặt. 4.Thức bị mê hoặc, không thể tự diệt trừ. Đó là bốn việc. Sao gọi là tuệ? Thức ấy không trụ ở năm ấm, đoạn trừ các phiền não, ngăn che nơi sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Đó là tuệ. Lại nữa, gọi là thức tức hiểu rõ về bốn đại: Đất, nước, gió, lửa. Giả sử nhận biết, thực hành không trụ trong bốn loại, thức chẳng giong ruổi, chẳng hủy hoại pháp giới. Đó gọi là tuệ. Lại nữa, gọi là thức là mắt đối với sắc, tai đối với tiếng, mũi đối với hương, lưỡi đối với vị, thân đối với xúc, tâm đối với pháp, chỗ chấp trước của sự nhận biết gọi là thức. Giả sử tiêu trừ ngoại cảnh, không buông lung, theo sự dẫn đường của trí tuệ, đối với tất cả pháp không có mong cầu, gọi là tuệ. Có sự nương tựa, chấp trước thì sinh ra thức, cũng từ tưởng niệm, mong cầu nhiều mà sinh ra thức, đó gọi là thức. Nếu không có sự thọ nhận, không có mong cầu, tâm ý không nhớ nghó, không ham muốn điều gì, không mong được báo đáp, đó gọi là tuệ. Thực hành pháp hữu vi tức là ở trong thức. Tu tập pháp vô vi thì thức không chỗ trụ, phụng trì vô vi một cách sáng tỏ mới gọi là tuệ. Đối với các pháp mà dấy khởi phân biệt gọi là thức. Không sinh không diệt, thức không chỗ trụ gọi là tuệ. Sao gọi là chọn lấy ý nghĩa của kinh điển? Thế nào là chọn lấy? Luôn ân cần mong cầu đạt tất cả kinh điển, gọi là chọn lấy. Nếu ở nơi kinh điển hội nhập đạo quả, đó là chọn lấy nghĩa. Nếu đối với kinh điển thành tựu các hành, gọi là chọn lấy. Như có khả năng phân biệt về gốc ngọn của các kinh, hội nhập, tạo tác hành nghiệp, gọi là chọn lấy. Nếu ở nơi các kinh, dứt sạch hết mọi phân biệt về tội phước, vónh viễn đoạn trừ các thứ phiền não, đó gọi là chọn lấy nghĩa. Đối với các kinh điển gặt hái những trí tuệ chính yếu, vì người khác giảng nói về nghiệp, phiền não, gọi là chọn lấy. Ở nơi các kinh, hiểu rõ, phân biệt về chương, câu thanh tịnh, gọi là chọn lấy nghĩa. Đối với kinh điển tâm nhàm chán mọi sinh tử, lo buồn chẳng vui, gọi là chọn lấy. Ở nơi kinh điển, quán xét về sinh tử và Niết-bàn không cho là hai, gọi là chọn lấy nghĩa. Đối với kinh điển, chỉ nêu câu văn đan xen, lời nói hay khéo, gọi là chọn lấy. Ở nơi kinh điển, ưa thích nghĩa lý sâu xa, đạt đến chỗ tự tại, vô vi, gọi là chọn lấy nghĩa. Đối với kinh điển, tưởng biết về vô số tâm niệm của chúng sinh, gọi là chọn lấy. Ở nơi kinh điển, ý thích biết được tâm không có chỗ sinh, gọi là chọn lấy nghĩa. Nếu đối với kinh điển, phân biệt về ngã, nhân, chúng sinh, thọ mạng, loài có sự sống, luôn có thể hay không thể kiến tạo sự mong cầu, những điều có thể nói đều không có chủ, mà miễn cưỡng cho là có chủ thể, gốc ngọn, gọi là chọn lấy. Ở nơi các kinh điển, thông tỏ các pháp Không, Vô tướng, Vô nguyện, không khởi, không sinh đều không có chỗ hành, không phân biệt ngã, nhân, chúng sinh, thọ mạng, giảng giải về ba môn giải thoát, gọi là chọn lấy nghĩa. Sao gọi là pháp? Sao gọi là người? Nếu làm rõ về người từ nơi pháp gì để tu tập, đó gọi là người. Nếu đối với người, không xả bỏ các pháp, mà trụ vào cảnh giới, gọi là chọn lấy pháp. Lại nữa, gọi là người tức nói về tính hạnh của hàng phàm phu. Nếu hàng phàm phu phụng trì ý nghĩa nơi bậc “chân nhân”, tu tập, dốc lòng tin tưởng, giữ gìn kinh điển, thuận hợp với các bậc Bát đẳng, bậc Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Duyên giác, Bồ-tát. Lại có một vị xuất hiện ở đời, nhiều lòng thương xót, đem lại nhiều an ổn, thương yêu ba cõi, trời, người và ba đường ác đều được cứu giúp, gọi là Như Lai. Như Lai chính Đẳng Giác tạo an lạc cho khắp muôn loài, hiện bày đường lối, giáo hóa chúng sinh, khiến hội nhập nơi nghĩa của đạo. Giả sử có người nương tựa, tìm cầu luôn được cứu giúp. Muốn mở bày, giáo hóa những mê hoặc này thì nên vì họ thuyết pháp, khiến quay về với chính pháp, đừng nương tựa vào người. Xét các pháp không có chỗ tạo tác, không có nhân duyên, không làm mà làm, trụ mà không trụ, cũng không có nguồn gốc, thực hành pháp bình đẳng, chân thật, tà nghiệp bằng chính nghiệp, tà chính không hai, không có chỗ mong cầu, tất cả không có nẻo hành. Đối với tất cả pháp đều được tự tại, tướng ấy hoàn toàn giống như hư không gọi là pháp. Sự mở bày, dẫn dắt đối với pháp cũng không suy nghó cho là ân đức. Nếu nhập vào nghĩa của những pháp môn này thì quán xét tất cả pháp đều là đạo pháp, đều trú nơi các pháp, không cho là mệt nhọc. Đó là nghĩa của bốn thứ chọn lấy không cùng tận của Bồ-tát. KINH A-SOA-MẠT BỒ-TÁT <卷 id="117270376">Quyển 6 Bồ-tát A-soa-mạt nói với Hiền giả Xá-lợi-phất: –Chỗ tạo tác công đức và trí tuệ của Bồ-tát là không thể cùng tận. Sao gọi là chỗ tạo tác công đức? Vì có thể bố thí hết mọi vật hiện có của mình. Công đức trì giới và hạnh nghiệp của trí tuệ, thường thực hành tâm Từ, suy nghó về thiền định, thương yêu muôn loài, giữ gìn các căn lành, vì mình và người mà bố thí, tập hợp các công đức, khuyên bảo tất cả chúng sinh trong ba đời đều bố thí. Bậc Hữu học, Vô học và các bậc Duyên giác cũng khuyến khích người mới phát tâm tu học pháp Bồ-tát, để hội nhập nơi các hành theo bậc Bất thoái chuyển và bậc Nhất sinh bổ xứ. Các Đức Phật thời quá khứ, hiện tại và vị lai đều khuyến khích thực hành những phước đức căn bản, khiến hết thảy đều nguyện hướng về chư Phật, Thánh hiền, Pháp sư thuyết giảng kinh điển, nhờ công đức này mà được tồn tại, sống lâu vô cùng, tạo lập công đức. Người nào có phước đức mà chưa phát tâm thì khuyên họ nên phát tâm, người nào đã phát tâm rồi thì khuyên họ tu tập pháp vượt bờ. Nếu có người bần cùng thì nên dùng tài vật để cứu giúp. Nếu có người bệnh hoạn thì cung cấp thuốc thang, tùy theo mà cứu giúp với tâm không dua nịnh. Người yếu đuối thì khuyến khích họ tạo sự nhẫn nhục. Người có tội thường che giấu thì khiến họ tỏ bày tội lỗi, thường với tâm hổ thẹn để sám hối, bằng sự cung kính chư Phật trong quá khứ đến hiện tại, kính lễ quy y nơi các bậc Hòa thượng. Người thường thực hành pháp bố thí, khéo bố thí không thấy có mình và người. Khuyên người tu tập tinh tấn, cầu pháp không hề biếng trễ, thấy các Pháp sư như thấy Phật, nghe pháp không nhàm chán, tâm luôn nhớ nghó về pháp, dù cách xa mười bốn ngàn dặm mà nghe có kinh pháp thì nên đích thân đến lãnh hội, cũng không cảm thấy mệt nhọc. Bồ-tát tuy thuyết giảng kinh pháp mà không tham lợi dưỡng, hiếu thuận với cha mẹ, ngày đêm luôn ở bên cạnh để chăm sóc, nghó nhớ đến ân nuôi nấng bồng bế mà ân cần chăm lo, không hối hận, thường ưa thích tích lũy công đức. Hành động của thân luôn thận trọng, không trang điểm nơi thân. Giữ gìn lời nói, không nói lời thô ác. Điều phục tâm ý, không nhớ nghó về điều ác. Tạo lập chùa chiền, giảng đường, tinh xá, thành tựu công đức đạt phước báo cũng như Phạm thiên. Thế nào là phước đức như Phạm thiên? Khi Đức Như Lai mới thành đạo, Như Lai muốn nhập Niết-bàn, chư Thiên liền đến khuyến thỉnh Đức Phật ở lại, vì nhằm để cứu độ chúng sinh trong khắp mười phương cùng khiến cho giáo pháp được truyền bá khắp nơi chốn, nên xin Đức Phật giữ lấy bản nguyện giáo hóa muôn loài do mê lầm, ngu si, điên đảo, nên vướng vào sáu mươi hai thứ tà kiến, chìm đắm trong chín mươi sáu đường, cầu xin bậc Đại thánh dùng ánh sáng của chính đạo để cứu vớt. Đức Phật bảo: –Lành thay! Vua trời có lòng Từ bi, chúng sinh ở đời năm trược rất khó giáo hóa, nên ta phân chia có ba thừa để hóa độ, dẫn dắt họ, sau đó mới nhập vào đạo Vô thượng Bồ-đề. Phước đức của Phạm thiên như thế là không thể kể xiết, phước của người xây dựng chùa chiền cũng lại như vậy. Đã tích chứa vô lượng phước đức, nhân nơi phước đức này mà đạt đủ ba mươi hai tướng tốt, thực hành rất nhiều căn lành nên đã gồm đủ tám mươi vẻ đẹp. Tu tập mười điều thiện mà không kiêu mạn, nên thân thể được đoan nghiêm, đẹp đẽ. Xả bỏ tất cả những lời nói thô ác, nhân đó mà miệng được thanh tịnh, diễn thuyết với mọi biện tài, thường có tâm Từ, lòng không độc hại, tức trang nghiêm nơi tâm thanh tịnh như ngọc báu sáng. Trang nghiêm nơi cõi Phật bằng thần thông biến hóa. Trang nghiêm nơi kinh điển là vì người khác mà giảng nói. Trang nghiêm nơi chúng hội là khiến chúng sinh phụng sự đạo pháp. Trừ bỏ lời nói hai lưỡi, ác khẩu, gièm pha, ganh tî với người. Thưa hỏi, lãnh thọ kinh điển rồi quan sát tư duy về pháp. Làm thế nào để chỉ bày, hóa độ chúng sinh đạt đến đạo lớn? Những điều đã giảng nói chưa từng vượt thứ lớp, cũng không sai lệch, sắc mặt vui vẻ, ai thấy đều hoan hỷ. Trừ bỏ những phiền não ngăn che, chú tâm lắng nghe kinh điển, trang nghiêm nơi tâm ý với sự thông minh, lanh lợi, đảnh lễ quy y chư Phật chính giác để làm thanh tịnh đạo tràng, thuận theo gốc của các đức, làm người đứng đầu nơi đời sống thanh tịnh, phân biệt tội phước, ái dục, phiền não. Có được bàn tay quý giá để có thể bố thí tất cả vật báu quan trọng mà không mong cầu điều gì. Dùng tài sản vô giá mà bố thí cho người thì đạt được kho báu rộng lớn vô cùng. Sắc mặt luôn vui vẻ, không hiện tướng lo buồn, cho nên các thân hữu, bạn bè đồng học ai cũng vui mừng. Tâm bình đẳng đối với chúng sinh, nhân nơi ấy mà được sự an nhiên, không khinh khi kẻ chưa học. Ưa thích việc đốt đèn đuốc để cúng dường chư Phật, cho nên cha mẹ, thầy bạn, đều được ánh sáng thanh tịnh, ánh sáng ấy chiếu tỏa khắp mọi nơi. Tích chứa công đức, giữ gìn giới cấm, việc làm không hề cấu nhiễm thì đời đời được sinh vào nơi chốn thanh tịnh, không bị nhiễm những thứ nhơ uế khác. Hoặc theo đường thai sinh vẫn không bị cấu uế. Thực hành mười điều thiện thì được sinh vào cõi trời, khi trở lại nhân gian thì không còn suy nghó, tưởng nhớ đến những lưới oán kết, do đó, được tự tại mà không hư giả. Theo học pháp vô sư cho nên trở thành bậc tôn quý đối với các pháp. Tâm tính thanh tịnh nên tất cả mọi người ai thấy cũng không nhàm chán. Chẳng tiếc thân mạng, chưa từng luống dối nên không bị kẻ khác xâm hại. Do bản nguyện nên thành tựu đạo pháp của chư Phật, nhờ nhân duyên này nên có được đầy đủ các gốc công đức. Này Hiền giả Xá-lợi-phất! Tạo lập công đức dù mỏng manh, nhưng dốc nuôi dưỡng công đức ấy, tùy lúc sẽ đạt được phước đức vô lượng, vượt hơn nữa là phước đức ấy không thể tính kể, Tôi chỉ nêu lên những điều chính yếu chứ không thể bày tỏ hết được. Sao gọi là tạo tác về trí tuệ? Do từ nhân duyên sinh ra, từ sự nhận thức của mình mà biết được về năm thần thông trí tuệ. Sao gọi là nhân duyên? Người nhiều ham thích việc tìm cầu pháp Phật, gần gũi với bậc có trí sáng suốt đề cùng thưa hỏi, thọ trì và cung kính phụng hành. Đạt đến trí tuệ Phật, không mong cầu các thừa Thanh văn, Duyên giác. Xa lìa tâm kiêu mạn, cung kính phụng thờ bậc chính giác. Tâm tính hòa nhã khi gần gũi với bạn bè. Chỉ thực hành theo nghĩa lý mà không lệ thuộc ngôn từ. Nhìn các việc làm và phẩm hạnh của bậc Pháp sư, không ưa thích hình thức bên ngoài của bậc ấy mà chỉ lắng nghe, lãnh hội pháp siêng năng tu tập đúng theo giáo pháp. Người thực hành pháp như vậy gọi là tạo tác về trí tuệ. Sao gọi là tạo tác về pháp? Ít mong cầu, không ham muốn, chẳng vội vàng, ít lời lẽ, thường tự nhận thức, tinh tấn tu hành, nghĩa lý đã được nghe thì suy nghó, lường tính khao khát mong đạt được giáo pháp chưa từng biết mệt mỏi. Với tâm ý sáng suốt, không bị năm thứ ngăn che bao phủ. Thường sám hối tội lỗi để tiêu trừ mọi tai ương, ý chí thành thật không dua nịnh, lấy hành động làm cốt yếu. Mến mộ giáo pháp, dùng pháp làm gốc, mọi hành động đều đúng pháp, luôn luôn mong đạt được ý nghĩa của kinh. Như cứu lửa cháy đầu nên phải chuyên cần tu tập, thân tâm chưa từng trái bỏ. Hướng đến nơi thích hợp, từ bỏ chỗ ồn náo, một mình ưa thích nơi vắng vẻ để tu tập hạnh Thánh hiền, nên hạn chế, biết đủ, chưa từng thoái lui. Ưa thích pháp lạc, không ái mộ sự vinh hoa ở đời, mong cầu vượt khỏi pháp thế gian mà tâm không quên mất. Thực hành oai nghi, cử chỉ, ưa thích pháp đúng, tìm cầu hạnh nghiệp hiền lành nhằm tích lũy công đức bền chắc. Thường sinh tâm hổ thẹn, tu tập trí tuệ, Từ bi, khiến cho kẻ vô trí trừ bỏ lưới ngu si mê lầm, được mắt trí tuệ thanh tịnh. Sự giác ngộ ấy rất rộng lớn. Dùng trí tuệ vô vi để soi chiếu ý nghĩa của bậc Thánh. Dùng trí tuệ hiện tại nhằm tạo lập công đức cho vị lai. Không tự khen, đề cao công đức của mình mà chê bai công đức của người khác. Khéo tu tập theo hạnh nguyện của bậc Thánh, lìa tội tạo phước, tu tập thanh tịnh đúng trí tuệ của đạo. Lại nữa, tạo tác về trí tuệ, có bốn việc bố thí để đạt được. 1.Bố thí các vật dụng để in ấn như giấy, tre, lụa. 2.Bố thí bút viết để biên chép kinh sách. 3.Bố thí mực tốt và đồ mài mực. 4.Giáo pháp mà Pháp sư đã diễn thuyết rất nhiều, nhân đó để mở bày và lãnh hội giáo pháp, đem tất cả những thứ hiếm có nơi thế gian cúng dường cho Pháp sư, hoặc dùng thơ kệ ban bố cho người, hoặc được Pháp sư trao cho diệu pháp. Thành tâm bố thí không lừa dối. Bố thí với bốn việc như vậy mới đạt được trí tuệ, chứng được năm phần Pháp thân: tín, giới, tuệ, giải độ, tri kiến. Giữ gìn bốn trí tuệ nên được tự tại. Những gì là bốn? 1.Hộ trì Pháp sư, tôn thờ làm thầy. 2.Nuôi lớn chủng tính, không sinh tâm loạn động. 3.Giữ gìn, thuận theo tâm ý của người chung quanh khu vực. 4.Tự giữ gìn tâm ý, không để tâm buông lung. Lại có bốn việc gần gũi với trí tuệ khiến thành tựu công đức. Những gì là bốn? 1.Dùng kinh điển sâu xa để dâng cúng cho Pháp sư. 2.Ngày đêm luôn gần gũi với nghĩa lý của đạo. 3.Cung cấp đầy đủ y phục và thực phẩm. 4.Tiếp cận với đạo tràng, không hề thoái lui. Bốn việc này gọi là bốn duyên. Nhờ bốn duyên ấy nên Bồ-tát đạt được năm tuệ lực: 1.Lực tín. 2.Lực giải thoát, tinh tấn không bỏ, nghe rộng không chán. 3.Lực ý, không xả bỏ tâm đạo. 4.Lực định, bình đẳng với các pháp. 5.Lực trí, điều nghe được không hề quên mất. Đó là năm lực. Lại có bốn việc để tạo tác sức trí tuệ nơi giữ giới: 1.Dùng pháp chân thật để thực hành giới cấm căn bản. 2.Tư duy về kinh điển, tìm hiểu nghĩa lý cao xa thâm diệu. 3.Dùng pháp để khuyến khích, trợ giúp theo con đường chân chính. 4.Mong cầu đạt những lời dạy chính yếu, dùng pháp làm giới. Đó là bốn việc tạo ra trí tuệ nơi giới. Lại có bốn việc để tạo tác về nhẫn: 1.Tinh tấn cầu pháp, nếu có kẻ hung ác chửi mắng mình thì vẫn nhẫn chịu. 2.Ưa thích pháp, nếu gặp sự tranh cãi, hoặc các trường hợp đói khát, nóng lạnh, đều có thể chịu đựng. 3.Tôn trọng thầy chỉ dạy nẻo lành, cung kính các bậc Hòa thượng. 4.Thường xuyên tư duy về pháp nhẫn, nghĩa của Không, Vô tướng, Vô nguyện. Đó là bốn việc. Lại có bốn việc tạo tác để thực hành tinh tấn: 1.Chuyên cần lắng nghe kinh điển, không cảm thấy mệt mỏi. 2.Nghe rồi thọ trì, chưa từng quên mất. 3.Tinh chuyên với việc thuyết pháp không nhàm chán bỏ dở. 4.Luôn luôn thực hành pháp, lấy đó làm sự nghiệp. Đó là bốn việc. Lại có bốn việc để tạo tác, thực hiện thiền định. 1.Tâm vốn thanh tịnh, không ồn ào, náo loạn. 2.Tâm chuyên nhất, không khổ, không vui. 3.Nhất tâm tinh chuyên dốc cầu thần thông. 4.Hội nhập nơi trí tuệ Phật, từ bỏ trí thế gian. Đó là bốn việc. Lại có bốn việc để tạo tác trí tuệ: 1.Chẳng chấp đoạn. 2.Chẳng chấp thường. 3.Tâm ý không hề mê lầm, hiểu rõ nguồn gốc của duyên khởi. 4.Tin hiểu về không về vô ngã và ngã sở. Đó là bốn việc. Lại có bốn việc để tạo tác về trí tuệ phương tiện quyền xảo: 1.Với kẻ ưa thích pháp thế gian thì tùy theo thế gian mà giáo hóa. 2.Với kẻ chấp hữu thì tùy theo kiến chấp của họ mà dẫn dắt. 3.Nương vào kinh điển mà chỉ dạy cho mọi người tiến tu. 4.Với người tu tập trí tuệ thì nhân nơi sự sáng suốt mà giáo hóa. Đó là bốn việc. Lại có bốn việc để tạo tác trí tuệ của đạo: 1.Tu tập sáu pháp Ba-la-mật nhằm chứng đắc đạo quả. 2.Do đạt đến Niết-bàn mà trở lại giáo hóa theo chính đạo. 3.Tu học, điều phục chế ngự tâm theo bảy giác ý. 4.Thường dẫn dắt, thực hành tất cả chỗ căn bản của trí tuệ. Đó là bốn việc. Lại có bốn việc nhằm tạo tác không chán nản, luôn gắn bó đối với Thánh đạo: 1.Ưa thích nghe pháp. 2.Luôn siêng năng thuyết giảng kinh điển. 3.Quán xét về nguồn gốc của phiền não mà không cho là cực nhọc. 4.Thấu rõ về căn cơ, hoàn cảnh của chúng sinh. Đó là bốn việc. Bồ-tát A-soa-mạt lại nói: –Vị ấy có thể hội nhập khắp mọi nơi chốn. Nếu người bố thí thì nên quan sát đúng đắn về sự tạo tác: Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ, Từ, Bi, Hỷ, Xả. Vì sao? Vì Bồ-tát tuy chưa thành tựu tất cả, nhưng lấy việc diễn thuyết về trí tuệ làm hàng đầu cho quả vị bậc Thánh. Tất cả đều quy về nơi đạo, trụ vào trí tuệ. Với người không có trí tuệ thì giáo hóa khiến họ quay về với Đại thừa, khiến tất cả các ma không có cơ hội để quấy phá. Trí tuệ đều là chỗ kiến lập của chư Phật nhằm đạt đến Nhất thiết trí của bậc Vô thượng chính giác. Đó là sự tạo tác về trí tuệ không cùng tận của Bồ-tát. Bồ-tát A-soa-mạt nói: –Này Hiền giả Xá-lợi-phất! Pháp quán Ý chỉ (bốn Niệm xứ) của Bồ-tát cũng không cùng tận. Tức vị ấy quan sát thân mình và thân người khác. Quán xét những hành động căn bản nơi thân để thành tựu những việc làm siêng năng. Quán sự hợp thành kết quả nơi thân để biết thân không chủ thể, nên không tham đắm vào nó. Ví như quan sát các loài cây cối, hoa trái, rừng rậm, cỏ dại bên ngoài, đều do nhân duyên sinh, không chủ thể, không tên gọi. Thân này cũng vậy, giống như cây cỏ, tường vách, ngói đá, ảnh trong nước, cùng mọi sự mê hoặc của các nhập, năm ấm, bốn đại. Quán thân mình là không, không có ngã và ngã sở, không trường tồn, không bền chắc, thân là vật mong manh, là pháp phân tán. Do vậy, nên không chấp thân này là vật của ta. Vì thân này mong manh, không kiên cố, vậy phải siêng năng tìm cầu nghĩa lý chính yếu. Thế nào là chính yếu? Thân của Như Lai mới là chính yếu, ta phải dốc cầu đạt Pháp thân vô lượng nơi Thánh thể của Như Lai. Thân ấy giống như kim cang, không gì có thể hủy hoại, vượt lên trên tất cả thân sắc phàm phu trong ba cõi. Mặc dù thân này có vô số tỳ vết, nhưng nương vào thân đó mà trừ bỏ tất cả những thứ cấu uế, sẽ chứng được Pháp thân trí tuệ của Như Lai. Do nỗ lực tu tập mà thành tựu được mọi công đức chân thật đầy đủ. Quan sát về thân bốn đại: Ta dùng thân này là vì chúng sinh nên dốc lòng tìm cầu Phật đạo. Cũng như quán xét bốn đại hiện có bên ngoài là đất, nước, gió, lửa, dùng để kiến tạo bao nhiêu hình tượng như cửa ngỏ, giếng bếp, nhà cửa, nghề nghiệp sinh sống tạo mọi an ổn cho con người. Thân bốn đại của ta cũng như vậy. Nương vào thân ấy mà tạo ra rất nhiều tiện nghi, vô số tài sản, gây dựng sự nghiệp mới có thể nuôi thân được yên ổn. Thấy rõ thân nhận chịu bao thứ khổ sở không thể kể xiết. Quán thân vô thường, lưu chuyển trong sinh tử, vì thế không nên tham đắm, mong cầu thọ nhận thân. Quán thân vô ngã, vì tất cả chúng sinh không hiểu được gốc ngọn, nên Bồ-tát cần chỉ dạy khiến họ nhàm chán thân này. Quán thân vắng lặng, đạt đến tịch tónh, khiến cho chúng sinh tu tập thiền định. Quán thân là Không, Vô tướng, Vô nguyện liền trở về với “bản tế” vốn thanh tịnh, an nhiên. Bồ-tát tự quán thân mình và quán thân người khác, không thấy gì để ưa thích, chẳng cho là bền vững, biết rõ thân không tồn tại lâu dài. Quán các hành bên trong thân thì chẳng hề thuận hợp với các thứ khổ về ái dục, phiền não nơi nội thân. Xét bên ngoài thân thì chưa từng kết hợp với trần cảnh bên ngoài. Thân không cấu uế, các hành thanh tịnh. Do thân được thanh tịnh, sau đó mới thành tựu được thân tướng đẹp đẽ, trang nghiêm, hơn cả hàng trời, người, dung mạo tuyệt vời không ai sánh bằng. Đó là Bồ-tát dùng pháp Ý chỉ để quán thân mình và quán thân người khác. Thế nào là Bồ-tát quán về thọ của mình và quán về thọ của người khác? Bồ-tát phát tâm quán xét như vầy: Những điều có thể trải qua do cảm thọ đều là khổ não. Bồ-tát quán xét về thọ, tìm cầu trí tuệ bậc Thánh, chọn lựa trí sáng suốt, ưa thích sự vắng lặng. Dẫu có gặp được niềm vui cũng không bị lệ thuộc vào chỗ ưa thích. Nếu ham mê vào sự thích thú thì đó là nhân duyên đưa đến khổ não. Thấy chúng sinh rơi vào các nạn khổ trong ba đường ác, Bồ-tát khởi tâm Đại Bi, không vì lưới oán kết mà thấy có sự ràng buộc. Tuy thân không còn những cảm thọ về khổ vui, nhưng không vì ngu si mà bị lưới kết sử trói buộc. Nếu còn cảm thọ, nhưng tâm vẫn tịch tónh. Từ chỗ không còn nhận chịu sự cảm thọ khổ vui nên Bồ-tát dùng trí tuệ hiển bày cho chúng sinh từ bỏ những cảm thọ không lợi ích, diệt trừ những thọ của chúng sinh. Mặc áo giáp trong sạch, lòng tự nghó: Những chúng sinh này đều ở trong thọ, chẳng tự hiểu biết chính sự trói buộc vào những thọ về khổ nên sinh ra lo buồn. Thuận theo những mê lầm của thọ không khổ, không vui, cho nên không hội nhập nẻo trí tuệ. Giữ tâm Đại Bi mới vào được trí tuệ. Hiểu rõ sự chấm dứt của tất cả các thọ, do tâm Đại Bi mà diễn giảng kinh điển, làm cho chúng sinh diệt trừ khổ nạn. Thế nào là thọ? Trong lòng mang phiền não mà cho là niềm vui. Thế nào là chọn lựa? Đây là không thọ, không ngã, nhân, thọ mạng. Lại nữa, Bồ-tát ấy không nương vào thọ, cũng không tham muốn việc nhận chịu các thọ, không trái với các hành, không ngược với sự cảm nhận cũng không thọ về các kiến chấp vọng tưởng, cũng không cảm thọ về mắt, tai, mũi, miệng, thân, tâm, cũng không thọ về sắc, thanh, hương, vị, xúc. Đối tượng thuộc về mắt đều từ nhân duyên sinh nên có khổ, vui, không khổ không vui, gọi là thọ. Nói tóm lại, thọ bên trong hay bên ngoài cũng như vậy, đều từ nhân duyên sinh cho nên đưa đến thọ khổ, vui, không khổ, không vui. Một thọ là nhân nơi tâm, ý, thức. Hai thọ là thọ trong và ngoài. Ba thọ là tùy theo sự chỉ bày ở quá khứ, từ hành động ở vị lai nhân vào thức hiện tại. Bốn thọ là từ bốn đại: Đất, nước, gió, lửa. Năm thọ là từ ý niệm về năm ấm: Sắc, thống dương (thọ), tư tưởng (tưởng), sinh tử (hành) và thức. Sáu thọ là từ sáu trần. Bảy thọ là từ bảy thức. Tám thọ là theo tám tà kiến làm mê loạn. Chín thọ là chín thần xứ (chín cõi chúng sinh cư trú). Mười thọ là mười nghiệp ác. Rốt lại, tất cả thọ đều do tham ái, từ ý niệm tham dục mà có. Cho nên nói: Sự cảm thọ của con người không thể tính đếm. Bồ-tát quán xét về cảm thọ của mình và người, biết được những cảm thọ phát khởi của chúng sinh nên thị hiện, tạo tác trí tuệ, khiến cho muôn loài nhân đó mà thấy được căn bản nơi công đức, trừ bỏ tội lỗi. Đó là Bồ-tát dùng pháp Ý chỉ quan sát thọ của mình và thọ của người khác. Thế nào là Bồ-tát dùng pháp Ý chỉ để quán tâm mình và tâm của người khác? Tâm Bồ-tát chưa từng quên mất, hành vi cử chỉ luôn thuận hợp để quán xét: Tâm vừa khởi lên liền bị diệt ngay. Tâm không thường trụ, không trụ bên trong, chẳng trụ bên ngoài, cũng không ở giữa. Ta từ khi mới phát tâm Bồ-tát đến nay, tâm ấy vắng lặng, lìa mọi phân tán, không chân thật, cũng không phải là không thật. Tâm ở nơi nào thì những công đức do tâm tích tập được cũng vắng lặng, lìa mọi phân tán, không nơi chốn không hiện bày, không thể phân biệt. Nhân đấy mà có thể khuyến khích kẻ phát tâm Bồ-đề cũng được tự tại. Do đó nên nói: Tâm chẳng nhận biết, tâm chẳng nhận thấy, tâm với tâm chẳng đối đãi. Thế nào là phát tâm Bồ-đề để thành tựu đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác? Tâm Bồ-đề ấy không cùng với tâm thiện kết hợp, tâm thiện ấy không cùng với tâm khuyến trợ kết hợp, tâm thanh tịnh không lìa tâm Bồ-đề. Người nào quan sát tâm như vậy thì không còn sợ hãi, cũng không lo lắng. Lại có tâm nhớ nghó về mười hai nhân duyên rất sâu xa vi diệu, tâm không xa lìa sự báo ứng theo nhân quả, tâm cũng không chấp trước vào các pháp. Giả như từ nhân duyên cho đến quả báo mà tất cả các pháp không có thật, cũng không có chủ thể, tâm buông lung theo những tham dục mà bị mê lầm thì ta phải tinh tấn giữ gìn tâm ấy, khiến không thoái lui. Thế nào là các pháp của tâm? Thế nào là mê lầm theo phiền não? Tâm như huyễn hóa, không thể làm cho thanh tịnh được, nên gọi là pháp của tâm. Nếu có thể xả bỏ các sự mê lầm, khuyên gắng hướng đến cõi Phật thì cũng là mê lầm. Tâm như mộng, tỉnh, không nhận biết nơi chốn, đó là pháp của tâm. Với giới luật, giữ gìn cẩn thận, sau đấy khuyến tu năm thần thông, đó là biến hóa. Tâm như dợn nắng, gốc ngọn đều không có, gọi là pháp của tâm. Thuận theo những sức nhẫn, an vui với sự hiểu biết đúng đắn, để trang nghiêm tâm mình, tâm luôn khuyến trợ, sử dụng mọi biến hóa, gọi là pháp của tâm. Tâm như trăng dưới nước, vắng lặng, trong sáng tự nhiên, gọi là pháp của tâm. Bồ-tát tinh tấn, thực hành đầy đủ vô số pháp Phật thì đó là biến hóa. Tâm không thể nắm giữ, cũng không thể thấy, đó là pháp của tâm. Nếu thực hành đầy đủ thiền định về Tam-muội giải thoát, mong đạt được thiền định của Phật, đó là biến hóa. Tâm không hình tướng, chẳng so sánh, chẳng giáo hóa, cũng không hình sắc, gọi là pháp của tâm. Có thể dùng trí tuệ để giảng nói, phân biệt, hộ trì Phật đạo, xét tìm về quá khứ, đó là biến hóa. Tâm không có nhân duyên, hoàn toàn không phát khởi, đó là pháp của tâm. Nếu có thể hướng dẫn đưa đến tất cả gốc công đức thì gọi là biến hóa. Nếu không có đối tượng thì tâm không sinh khởi, đó là pháp của tâm. Nếu nhân nơi pháp, tu tập tâm đạo thì đó là biến hóa. Cảnh giới của tâm ấy vónh viễn xa lìa cấu uế, không có chỗ sinh ra ban đầu, đó là pháp của tâm. Nếu dẫn dắt, chế ngự tâm để đạt đến sự chứng đắc cảnh giới của Phật, đó là biến hóa. Bồ-tát tự quán xét tâm mình và tâm người khác, chứng được thần thông, tâm ấy thấy biết chắc chắn về tất cả tâm niệm của chúng sinh, nhân đó thấu rõ tội phước đều tự nhiên. Bồ-tát tự quán tâm mình và tâm người khác, liền phát khởi tâm Bi rộng lớn để giáo hóa chúng sinh, không cho là mệt mỏi. Tâm ấy chẳng diệt mất cũng không cùng tận, trú vững ở tâm này thì không đồng với sinh tử, cũng ở trong phiền não mà tự chế ngự tâm. Dùng trí tuệ của bậc Thánh để thấu suốt tâm ấy. Hội nhập nơi pháp không sinh khởi, không có đối tượng sinh, không rơi vào quả vị Thanh văn, Duyên giác. Thường chế ngự tâm mình, có khả năng lãnh thọ đạo pháp của chư Phật. Chỉ trong một niệm dùng tâm trí tuệ để đạt đến đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác. Đó là Bồ-tát dùng pháp Ý chỉ để quán tâm mình và tâm người khác. Thế nào là Bồ-tát dùng pháp Ý chỉ để quán pháp của mình và pháp của người khác? Bồ-tát dùng mắt trí tuệ nhận thấy tất cả pháp chưa từng quên mất. Đến khi thành tựu đạo quả, tự quán pháp của mình và của người khác thì khi đó là Bồ-tát thấy rõ về tất cả pháp. Quán tưởng về Không, mới hiểu rõ về Không, hiểu về Vô tướng, Vô nguyện thì hiểu được không có đối tượng sinh, cũng không có đối tượng diệt, mà xa lìa tất cả các hành. Bình đẳng thấy các pháp do mười hai nhân duyên liên hệ với nhau. Quán về nẻo hành của pháp giới, Bồ-tát quán pháp không theo phi pháp, không chấp vào ngã và ngã sở, cũng không chấp vào nhân, thọ mạng, nơi chốn, đó là pháp. Còn phi pháp là tự mình thấy có ngã, ngã sở, chấp vào nhân, thọ mạng, thấy có đoạn diệt, chấp có thường còn, từ đó thấy các việc có, không, hòa hợp, ly tán. Tất cả các pháp đều là pháp, tất cả các pháp đều là phi pháp. Vì sao? Vì hiểu được nghĩa lý của không, của vô tướng, vô nguyện, nên tất cả pháp đều thích ứng với pháp. Nếu chấp vào ngã và ngã sở, tức bị ràng buộc trong các kiến chấp, nên tất cả các pháp đều là phi pháp. Bồ-tát quán xét pháp của mình và của người khác như vậy thì thấy rõ các pháp những gì là pháp Phật, những gì là chẳng phải pháp Phật. Không phân biệt, cũng không giải thoát và không sinh tử, đều có thể hướng đến tất cả pháp, ở chỗ chúng sinh được tâm Đại Bi vô cùng tận, không bị ngăn che, chữa trị các thứ phiền não, tự tâm phát khởi niệm không ham muốn các trần cảnh. Vì sao? Vì đó là đường hướng độ thoát bình đẳng, không ngại phiền não, không sợ tham dục, hiểu rõ như vậy mới gọi là pháp Phật. Tự tại đối với mọi dục lạc thế gian, tự tại đối với đạo, tạo lập được tâm như vậy, tuy có chỗ trú mà cũng không chấp về nơi chốn. Không trụ vững nơi tâm ý mà gọi là trú thì đó là trụ chấp. Đứng vững trong pháp giới mà không trú nơi pháp giới, không trú vào cảnh giới của người, tức không có chỗ trú, gọi là hư không. Tất cả các pháp đều bình đẳng như hư không. Nếu có Bồ-tát quán pháp mình và quán pháp người khác như thế thì có thể làm người dẫn đường, hướng đến giáo pháp của chư Phật. Tất cả các pháp đều quy về pháp giải thoát, nếu hiểu rõ các pháp như vậy mới có thể hiển bày trọn vẹn pháp vô vi không cùng tận. Đạo không từ nơi chốn sinh ra, cũng không có chỗ để sinh ra. Quán xét về chúng sinh chưa từng lìa bỏ, nguồn gốc của vô sinh đều hướng tới pháp quán Ý chỉ. Tâm ý đối với các pháp đều khiến an trụ vững vàng nên không còn chấp trước vào pháp của hàng Thanh văn, Duyên giác và Phật. Sao gọi là không chấp? Sao gọi là nơi chốn hiện có? Nơi chốn mà tâm đang trụ thường an trụ vững. Chốn trú ấy không mê lầm, chưa từng quên mất. Quan sát về pháp của mình từ trước đến nay, ấy là nguyên nhân của Bồ-tát quán xét về pháp nơi người khác. Thuyết giảng, phân biệt về vô lượng câu chương rõ ràng, việc đã làm không bờ bến, đứng vững trong pháp Phật, vui vẻ với tâm niệm của tất cả chúng sinh, hàng phục các ma, được trí tuệ tự tại, mới gọi là nghĩa đạo. Đó là Bồ-tát dùng pháp Ý chỉ quán của mình và pháp của người khác. Thế nào là bốn Ý đoạn không cùng tận của Bồ-tát? Các pháp ác của thân chưa phát sinh thì không làm cho phát sinh. Nếu đã sinh khởi rồi thì tìm cách diệt trừ, để tu tập tinh tấn. Tự giữ gìn tâm ý, mọi tâm niệm thuận hợp với nghĩa lý để tăng thêm sự siêng năng. Đó là bình đẳng dốc sức hành tinh tấn, chẳng làm mất chỗ thuận hợp với hoàn cảnh, tu tập đều đặn. Do khả năng thâu giữ tâm mình nên quán xét đúng đắn như vậy. Vì sao? Ý nghĩa thuận với nghĩa lý thì pháp ác, bất thiện không còn phát sinh nữa. Thế nào là bất thiện? Đó là phá hủy giới cấm, làm rối loạn thiền định, mê hoặc trí tuệ. Phá giới là gì? Muốn sinh cõi trời cũng là phá hủy giới, không thực hành giáo pháp thì giới phẩm bị thiếu sót, cũng là phá hủy giới. Thế nào gọi là làm rối loạn thiền định? Trái với nghĩa lý, thực hành không tinh chuyên, tâm luôn khởi niệm khác, gọi là làm rối loạn thiền định. Thế nào là mê hoặc trí tuệ? Tuy đoạn trừ các tà kiến nhưng gặp rất nhiều sự việc điên đảo, ngăn che các pháp, khiến trí tuệ bị thiếu sót, đó gọi là bất thiện. Giả sử các pháp ác như vậy phát khởi trong đời tượng pháp mà không tùy thuận theo chúng, đó là Ý đoạn thứ nhất. Nếu các pháp ác, bất thiện phát sinh, liền biết đó là quả báo phi pháp, bất thiện, hiểu những tổn hại của chúng, tạo các hành động cấu uế, gọi đó là chốn tối tăm. Tu hành, phụng trì nghĩa lý thuận hợp, diệt hết tham dục không thanh tịnh, dùng tâm Từ mà loại trừ các thứ sân giận, hiểu rõ về mười hai nhân duyên để phá bỏ ngu si, dứt sạch các phiền não là đoạn trừ. Theo duyên khởi, thấy sự sinh ra của các pháp, không có gốc, ngọn nên không có chỗ đoạn. Tất cả các pháp từ sự tu tập mà đạt được gọi là Ý đoạn thứ hai. Nếu pháp lành chưa sinh thì khuyến khích làm cho phát sinh, thể hiện sự siêng năng, tự giữ gìn tâm ý, khen ngợi vô lượng công đức. Vì sao? Vì pháp lành là vô lượng. Sự tu hành thích ứng của Bồ-tát sẽ làm căn bản cho trí tuệ, là nguồn gốc của mọi công đức, đều do tinh tấn mà đạt đến sự an lạc, hiển hiện chỗ thông suốt thấu đến nguồn gốc của phước đức. Đó là Ý đoạn thứ ba. Mọi pháp lành nếu đã phát sinh thì khiến duy trì vững chắc, không để mất, cũng không bỏ quên, tạo lợi ích an vui hoàn toàn, ngày đêm luôn siêng năng, tự giữ tâm mình để khuyến tu đạo nghiệp, gọi đó là bình đẳng. Vì sao? Do khuyến trợ tâm đạo nên nguồn gốc của phước đức không bị tiêu hao. Vì sao? Vì tâm ấy thanh tịnh, tuy sống trong ba cõi mà tâm không bị lệ thuộc. Nếu người có tích lũy công đức, nhưng còn lệ thuộc trong ba cõi thì phước ấy tiêu mất. Nếu có thể đạt đến Nhất thiết trí là gốc của trí tuệ hoàn toàn đầy đủ. Đó là bốn Ý đoạn không cùng tận của Bồ-tát. Thế nào là Bồ-tát tu tập thần túc không cùng tận? Thần túc có bốn loại. Đã tự phát khởi, ưa thích tinh tấn thì Bồ-tát lấy gì để tu tập, phát sinh thần túc? Nhờ tu tập bốn Tâm vô lượng: Từ, Bi, Hỷ, Xả, thường phải tu tập theo bốn pháp không buông lung. Tâm ấy rộng lớn không tham chấp vào thân. Do có thể chế ngự tâm, thực hành pháp Thiền thứ nhất, cứ như vậy cho đến Thiền thứ tư, đạt được thân tâm nhẹ nhàng. Nhờ thân tâm nhẹ nhàng liền hội nhập nơi thần thông. Do nhập thần thông nên phát sinh thần túc, siêng năng tu tập, đạt giải thoát viên mãn. Thường ưa thích nên liền gần gũi với đạo. Do tinh tấn nên có thể thành tựu pháp này. Nhờ siêng năng tu tập, nên đạt đến nghĩa lý sâu xa. Nhất tâm quan sát, dùng pháp theo phương tiện, hiểu được thần thông, gọi là thần túc. Thường ưa thích thần thông, nên có sự biến hóa, siêng năng nên thành tựu thần túc, chuyên cần nên thấu hiểu rộng rãi, nhờ tu tập công đức mà thành tựu đạo quả. Quan sát thần túc của Bồ-tát ấy, từ đó được thân cận, được tâm tự tại thì sự mong cầu đạt đến chỗ hoàn toàn. Các hành đầy đủ, các ma không thể phá hoại được. Bình đẳng như hư không, thấy thông suốt vô biên, nghe thấu rõ cùng tận, định ý không hạn lượng thì thần túc hết sức sâu xa. Thấy tất cả căn cơ, nhìn rõ tận nguồn gốc của các pháp. Đó là bốn Thần túc không cùng tận của Bồ-tát. Thế nào là Bồ-tát tu tập năm Căn không cùng tận? Những gì là năm? 1.Tín căn. 2.Tinh tấn căn. 3.Ý căn (niệm căn). 4.Định căn. 5.Tuệ căn. Thế nào là tín căn? Thường tin hiểu các pháp. Thế nào gọi là pháp? Người có chính kiến là tin ở sinh tử, tùy theo thần túc của mình để thành tựu hạnh nghiệp, không ưa thích thần thông khác, mà hiểu được nghĩa lý của Đệ nhất nghĩa đế. Rõ được mười hai duyên khởi sâu xa, không có ngã và ngã sở, không người, Không, Vô tướng, Vô nguyện, không chấp vào tướng, tin hiểu các pháp, không theo tà kiến, tin pháp Phật, tin mười Lực, bốn Vô sở úy, chẳng hoài nghi, không do dự, thâu tóm pháp Phật không có giới hạn, đó gọi là tín căn. Thế nào là tinh tấn căn? Người tin hiểu pháp, nhờ tinh tấn này mà các căn sáng suốt, vượt hơn ánh sáng mặt trời, mặt trăng, gọi là tinh tấn căn. Có thể dùng pháp tu tinh tấn căn, nhân đó mà không mất ý (niệm) căn, ý ấy rộng lớn, không biên giới, gọi là ý căn. Ý ấy vắng lặng, rộng lớn như hư không. Do ý căn này thường nhất tâm không loạn, gọi là định căn. Nhờ định căn, trú vào chỗ tịch tónh, giữ tâm chuyên nhất, gọi là tuệ căn. Quan sát, hiểu rõ các pháp, phân biệt rõ ràng về sắc tướng chẳng có ngã, đó là tuệ căn. Tu tập đầy đủ năm Căn như vậy là có thể thực hành đầy đủ pháp Phật. Người có thể thực hành đầy đủ các căn thì an trụ vào quả vị chắc chắn, không bị lay động. Cũng như chư Tiên nhân đạt năm thông của ngoại đạo, tuy thấy rõ trong bào thai mà không thể phân biệt căn của nam hay nữ. Chư Phật Thế Tôn cũng như vậy, đối với sự học của Bồ-tát chưa thành tựu năm căn thì không thể thọ ký. Khi đã đạt năm căn rồi, sau đấy mới được thọ ký. Đó là năm Căn vô tận của Bồ-tát. Thế nào là năm Lực không cùng tận của Bồ-tát? 1.Tín lực. 2.Tinh tấn lực. 3.Ý (niệm) lực. 4.Định lực. 5.Tuệ lực. Thế nào là tín lực? Thường dốc sức ở nơi chốn vắng lặng mà không bị mê loạn, không trụ vào sắc tướng để thấy Phật, cũng như thấy các pháp khác. Nhất tâm vắng lặng với sức tin hiểu chưa từng thoái chuyển, gọi là tín lực. Thế nào là tinh tấn lực? Giả sử có người luôn tu tập tinh tấn, trong mọi lúc mọi nơi đều tu tập công đức, chuyên cần hành trì kinh điển thì trong mọi nơi sinh sống đều được an định. Gốc công đức tu tập của họ thì hàng trời, người không ai có thể hủy hoại, cũng không thể ngăn chận, không ai gây trở ngại được. Do vậy nên công đức phát triển không có giới hạn, gọi là tinh tấn lực. Thế nào là ý lực? Tâm nghó về pháp, không lười biếng. Các nạn của ái dục không thể xâm phạm. Dùng ý lực để vượt khỏi các phiền não. Ý niệm của Bồ-tát ấy trời, người thế gian không thể làm loạn động. Đó là ý lực. Thế nào là định lực? Nếu ở chỗ đông người, ồn ào, náo nhiệt mà tâm được vắng lặng. Giảng thuyết về đạo lực với mọi cử chỉ hành động. Vào thiền thứ nhất thì không ai có thể gây chướng ngại. Sự tu tập công đức, chuyên cần hành đạo cũng không ai có thể hủy hoại. Đạt thiền thứ hai là tu hành vui vẻ, nội tâm thanh tịnh, trong sáng không bị chướng ngại. Đạt thiền thứ ba là thích hóa độ chúng sinh, hộ trì chính pháp một cách đầy đủ. Đạt đến thiền thứ tư là hoàn toàn không còn trở ngại. Dùng bốn loại thiền này để tu tập các loại thiền khác, không ai có thể vượt hơn. Người đã tu tập định ý thì không gì có thể làm loạn động. Định ý tự tại gọi là định lực. Thế nào là tuệ lực? Đối với các pháp thế gian và pháp xuất thế gian đều có thể hiểu thấu. Mọi nơi chốn sinh ra, hiểu biết rõ về mọi văn tự, nghĩa lý của sách vở, đều đạt do trí vô sư. Chỗ tạo tác các pháp thuật của thần tiên khác, năm kinh, sáu nghệ và các loại sách vở phương thuật khác, Bồ-tát không học mà tự biết rõ. Vượt các pháp thế gian, thông suốt tất cả, Bồ-tát dùng trí tuệ sáng suốt của bậc Thánh mà tâm có thể thấu tỏ hàng trời, người không ai sánh bằng, tùy thời thuyết giảng chính pháp. Đó là tuệ lực không cùng tận của Bồ-tát. KINH A-SOA-MẠT BỒ-TÁT <卷 id="117270377">Quyển 7 Thế nào là giác ý? Sự tu tập của Bồ-tát có bảy Giác ý. Những gì là bảy? 1.Ý giác ý (niệm). 2.Trạch pháp giác ý. 3.Tinh tấn giác ý. 4.Hỷ giác ý. 5.Tín (khinh an) giác ý. 6.Định giác ý. 7.Hộ (xả) giác ý. Sao gọi là Ý giác ý? Suy nghó về pháp để quan sát kinh, xét kỹ về kinh điển để tư duy đúng pháp, khen ngợi người chuyên chú để tự xét về tâm ý mình, tướng của các pháp không thể nắm bắt được, nên hiểu rõ về điều này. Sao gọi là các pháp không có tướng? Vì tướng ấy là như nhiên, tất cả các pháp đều không. Có thể thấu rõ về giác niệm như thế. Đó gọi là Ý giác ý. Sao gọi là Trạch pháp giác ý? Nếu có thể phân biệt tám vạn bốn ngàn kho pháp của các kinh, lựa chọn các pháp thích ứng với nghĩa lý. Nếu không thích ứng với nghĩa lý thì khiến quy về với nghĩa chính, hoặc không nghĩa chính, nghĩa gần, nghĩa xa, nghĩa thanh tịnh, nghĩa thâm sâu, hoặc Đệ nhất nghĩa đế, hiểu rõ ràng về diệu lực của pháp hòa hợp, phân tán, chắc chắn, không chắc chắn đều có thể lựa chọn, biết được gốc ngọn của chúng. Đó gọi là Trạch pháp giác ý. Sao gọi là Tinh tấn giác ý? Nếu dùng ý này để giảng thuyết chính pháp thì dốc thâu tóm niềm tin, quyết định, giữ gìn trí tuệ bậc Thánh, dùng năng lực vi diệu để nhận thức một cách chính xác, đúng đắn không gì có thể gây trở ngại, siêng năng tu tập các pháp bình đẳng ấy. Đó gọi là Tinh tấn giác ý. Sao gọi là Hỷ giác ý? Ưa thích chính pháp, dốc lòng tin tưởng không xa lìa, thường vui vẻ không khiếp sợ, thân, khẩu, ý luôn được an ổn, tư duy về đạo pháp, dứt hết các hoạn nạn thuộc ái dục. Đó gọi là Hỷ giác ý. Sao gọi là Tín (khinh an) giác ý? Nếu đã có niềm tin thì vónh viễn xa lìa những ái dục, phiền não của thân tâm, tâm an trụ vào thiền định. Đó gọi là Tín giác ý. Sao gọi là Định giác ý? Nhờ thiền định nên thấu đạt các pháp, phân biệt nhận biết trí tuệ của bậc Thánh, tâm được thuần nhất, hiểu rõ các pháp, các căn lanh lợi, đoạn dứt các tà kiến điên đảo, trụ mà không trụ, nhờ định mà đạt đến nghĩa này, hiểu không có ngã, ngã sở vì các pháp bình đẳng. Đó gọi là Định giác ý. Sao gọi là Hộ (xả) giác ý? Như có thể tư duy phân biệt về pháp giới thì tâm không giong ruổi, nương vào các pháp thế tục, tâm không giới hạn, không bị các pháp thế tục làm mê hoặc, không chấp trụ vào giả danh, không gì có thể lay động, không suy nghó, không nhớ, không vui, không buồn. Do đó, nên chứng được quả vị bậc Thánh, luôn thuận hợp với pháp nhẫn. Đó gọi là Hộ giác ý. Bảy giác ý này là không cùng tận. Sao gọi là chính kiến? Bậc Hiền thánh vượt khỏi thế gian, không còn chấp nơi ngã, ngã sở, không chấp vào nhân, thọ mạng, không bị vướng mắc vào sự nhận thức, không trụ vào hữu kiến, vô kiến, không trú vào gốc công đức, không rơi vào luật nghi của sáu mươi hai thứ tà kiến. Đó gọi là chính kiến. Sao gọi là chính niệm (tư duy)? Chúng sinh bị niệm theo các phiền não tham, sân, si che lấp. Người học hạnh Bồ-tát thì không tưởng niệm như thế, chỉ niệm về các pháp như giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến đã được chỉ bày, thường nhất tâm nghó nhớ về nghĩa lý của đạo, tức tâm không sai lệch. Đó là chính niệm. Sao gọi là chính ngữ? Lời nói không chấp nơi mình, không chấp nơi người, nói năng hòa nhã, không thô ác, dùng lời nói để giảng giải giáo pháp, hội nhập đạo của bậc Thánh. Chẳng bàn luận về thế gian, nói lời không lợi ích. Đó là chính ngữ. Sao gọi là chính trị (mạng)? Trong sự tu tập thì các nghĩa về tội phước, không nên theo pháp ấy mà chỉ tu theo nghĩa lý của chính đạo bình đẳng. Đó gọi là chính trị. Sao gọi là chính nghiệp? Những lời dạy của bậc Thánh đem lại nhiều an lạc, biết đủ, ít ham muốn, không tham lợi dưỡng, tâm không dua nịnh, không buông lung, tu tập đúng pháp, gìn giữ oai nghi, thấy người khác được cúng dường thì không ganh ghét nên suy nghó: Ta đã được an ổn, đầy đủ không nên gây tạo lỗi lầm, thực hành theo lời dạy của Phật. Đó gọi là chính nghiệp. Sao gọi là chính tiện (tinh tấn)? Tu tập theo phương tiện nơi giáo pháp chân chính, không từ nơi các ái dục, tham, sân, si để nhiễm đắm. Thường xa lìa các thứ phiền não ấy, vui thích đạo của bậc Thánh để đạt đến nghĩa lý Niết-bàn vô vi, luôn suy nghó về cảnh giới này. Đó là chính tiện. Sao gọi là chính ý (niệm)? Ý ấy an trú chân chính, không cảm thọ, chẳng dua nịnh, thấy được hoạn nạn của sinh tử, một lòng tư duy về đạo lý vô vi, không quên mất con đường đi của bậc Thánh hiền. Đó là chính ý (niệm). Sao gọi là chính định? Do thiền định nên tâm được bình đẳng, vì thế các pháp đều bình đẳng. Các pháp ấy ở nơi chính định để kiến tạo bình đẳng. Nếu có Bồ-tát an trú nơi định này mà tu tập dốc độ thoát hết thảy chúng sinh thì luôn gắn liền với chính tuệ. Đó là chính định không cùng tận. Các Đức Phật thời quá khứ, vị lai và hiện tại đều đi trên con đường ấy. Nếu có Bồ-tát thuận theo lời dạy này mà tu tập, giảng thuyết thì đó gọi là tám con đường không cùng tận. Bồ-tát A-soa-mạt nói Hiền giả Xá-lợi-phất: –Sự quán xét vắng lặng của Bồ-tát cũng không cùng tận. Thế nào là vắng lặng? Tâm của vị ấy an nhiên, tịch tónh, các căn chẳng loạn động, nhất tâm không vọng tưởng, khiến tâm tính luôn an ổn, không vội vàng, không hấp tấp, thường suy nghó rõ ràng, xả bỏ những ý niệm trái nghịch, vui với Đệ nhất nghĩa đế, diệt trừ các sự ồn ào, ưa thích chốn nhàn tónh. Thân ấy vắng lặng, tâm chưa từng vang động, luôn suy nghó về sự an định, không có các việc ác, không che giấu lỗi của mình, không rơi vào tà kiến, biết dừng lại, tâm ý vắng lặng, oai nghi đầy đủ, không vượt qua phép tắc, biết thuận theo thời, hành động ứng hợp với nghĩa lý, cúng dường đúng chính pháp, tập hợp được diệu lực nơi công đức mà không tự đại, không cậy vào danh tiếng đã có. Tâmvị ấy luôn tinh chuyên, ưa thích ở một mình, nhất tâm thiền định, phát khởi tâm Từ, thực hành tâm Bi, tu tập hạnh Hoan hỷ, phụng hành pháp quán Xả bỏ. Từ Thiền thứ nhất đến pháp môn Định ý không thể nghó bàn. Đó là vắng lặng. Lại nữa, chỗ tạo tác nơi sự vắng lặng ấy là không thể suy lường. Nếu có thể thông suốt về chỗ tạo tác ấy thì gọi là sự vắng lặng. Sao gọi là quán? Trí tuệ phân biệt về đạo pháp để phụng trì tu tập. Quán không ngã, không nhân, không thọ, không mạng. Quán thân năm ấm, bốn đại, mười hai nhập giống như sự tích tụ không thật, phân biệt đầy đủ để quán xét nhận biết về mười hai duyên khởi thuận hợp không loạn động, lìa bỏ các kiến chấp thấy rõ về quả báo, biết quả của nhân duyên là biết rõ về quả của công đức, chỗ tạo tác được nhận biết rõ ràng là nhập vào nẻo chính chân. Đã có thể nhập vào trong ấy thì phải xét kỹ về trí tuệ của bậc Thánh. Gọi là quán vì ánh sáng nơi pháp bình đẳng, chỗ thấy các pháp ấy theo sự quán xét kỹ, đúng đắn, không thấy theo pháp khác, chỉ thấy ở ba cửa giải thoát này là Không, Vô tướng, Vô nguyện. Sở dó gọi quán là vì không thấy có nơi chốn, nhà cửa, cũng lại không phải là không thấy, để khởi lên sự phân biệt, không bị chi phối theo vọng tưởng, điên đảo. Đó gọi là quán, vónh viễn không có đối tượng được thấy. Giả sử không có đối tượng được thấy, đó gọi là quán. Ở nơi các đối tượng được thấy mà không vướng chấp nơi chỗ thấy, đó gọi là quán. Người thấy như vậy, gọi là thấy chân đế, mới có thể thấu tỏ thuận theo lời dạy của Phật. Người thấy như vậy là Bồ-tát, không rơi vào hạnh tà, không trụ ở hạnh chính. Đó là quán. Đây gọi là Bồ-tát hành chính quán vắng lặng không cùng tận. Bồ-tát A-soa-mạt nói: –Này Hiền giả Xá-lợi-phất! Biện tài, Tổng trì của Bồ-tát không cùng tận. Sao gọi là tích lũy công đức của Tổng trì? Tư duy về nghiệp lớn, giữ gìn, đọc tụng tám vạn bốn ngàn các phẩm của pháp tạng, suy nghó, ghi nhớ, không xả bỏ sự tinh tấn, đó gọi là Tổng trì (Đà-la-ni). Lại nữa, tổng thì có thể nhận lãnh các pháp nơi Đức Phật đã thuyết giảng. Lời nói, văn tự của các chúng Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát đã giảng thuyết cho chúng sinh với mọi thứ nghĩa lý đều có thể nhận biết, ghi nhớ, đó là Tổng trì. Giả sử vào kiếp thiêu, trời đất gặp nạn lửa lớn, tất cả đều diệt tận, Bồ-tát tuy gặp nạn này nhưng trong tâm vẫn nhớ nghó về pháp Tổng trì, chưa từng quên mất, cũng không mê loạn. Nhờ tuệ nhãn của bậc Thánh nên thấy các pháp như xem xét lòng bàn tay. Đó là Tổng trì không cùng tận. Sao gọi là biện tài không cùng tận? nghĩa là sự biện luận, chỗ nói ra luôn thuận hợp. Như khi giảng thuyết thì không ai có thể chế ngự bắt bẻ, nên thấu đạt biện tài không hề gián đoạn, âm từ vô hạn, đối đáp hợp căn cơ, thông suốt như nước không chút chướng ngại. Nhờ từ đời trước đã tạo hạnh thanh tịnh, nên đạt quả báo là biện tài này, được chư Phật hộ trì, chư Thiên bảo vệ. Bồ-tát đã giảng thuyết thì hoàn toàn chân thật, lời nói không gì có thể ngăn ngại, luôn hướng đến đạo giải thoát, biện tài như vậy đều được trọn vẹn, thường hết mực khiêm tốn, thích hợp căn cơ của mọi chúng sinh để thuyết pháp cho họ. Có người nghe được những điều này, đều lãnh hội đầy đủ, không còn nghi ngờ. Có người đến hỏi, ta nên giảng giải đúng như vậy. Nơi các chúng hội đều xem xét kỹ về căn cơ của con người, để phát tâm thuyết giảng. Từ xưa đến nay Bồ-tát sinh vào nhân gian, tâm tính luôn chân chính, giảng nói kinh điển trong một kiếp chưa từng dừng nghỉ. Chỗ giảng giải ấy không hề bị chướng ngại. Đó là biện tài không cùng tận của Bồ-tát. Bồ-tát A-soa-mạt nói: –Lại có Bồ-tát thuyết giảng tất cả các pháp đều quy về vô thường, vạn vật chẳng phải là ta có, trí tuệ để nêu giảng ấy là không cùng tận. Tất cả các pháp đều là khổ, là vô ngã. Bồ-tát giảng nói về điều này cũng không cùng tận. Thế nào là vô thường? Quán xét nơi gốc ngọn của sự vật đều trở về vô thường, không thể phán đoán. Sự vô thường ấy là không thể khiến cho thường còn. Từ xưa đến nay không gì là còn mãi. Đó là nghĩa vô thường. Thế nào là nghĩa khổ? Tuy có niềm vui nhưng rồi cũng mất, ước nguyện không tồn tại dài lâu, luận bàn về các khổ, đều hướng về không, vô. Không, vô ấy cũng là hư giả, không thật. nghĩa hư giả và khổ là như nhau không sai khác. Thế nào là vô ngã? Đối với ngã là không có ngã, vónh viễn không có gốc ngọn, thân ấy cũng là rỗng lặng, tịch tónh, không quan hệ. Có người cho hư không ấy và nghĩa không đều là không có thân. Thế nào là nghĩa tịch tónh? Đối với vắng lặng mà không vắng lặng, mới gọi là tịch tónh. Người được giải thoát, đối với sự an nhiên mà không chấp vào an nhiên mới gọi là tịch tónh. Người được gọi giải thoát là tu tập ở chỗ vắng lặng, trừ diệt tất cả tưởng, trừ các tưởng rồi thì đấy là sự vắng lặng của Niết-bàn giải thoát. Đây gọi là nghĩa hoàn toàn vắng lặng. Đó là Bồ-tát thực hành pháp bốn Đế không cùng tận. Nẻo hành của Bồ-tát thường tu một đạo, không theo hành khác. Sao gọi là đạo Nhất thừa? Bồ-tát tự mình tu tập, với những nỗ lực tự thân để thành tựu đạo Vô thượng chính đẳng chính giác. Mặc áo giáp đức lớn, tự thân thâu tóm uy lực của tinh tấn vượt bờ, riêng tự mình tu học, không theo lời dạy của người khác. Vị đó vượt qua mọi uy lực của thế tục, một mình bước đi, mặc áo giáp đức lớn hết mực kiên cố, dùng việc này để mở bày hóa độ tất cả chúng sinh. Đó gọi là giáo hóa. Giáo pháp đem nêu giảng là giáo pháp của các bậc Hiền thánh được truyền trao cho Bồ-tát. Sự giảng dạy ấy cũng gọi là giáo hóa. Bố thí chẳng phải là bạn của ta. Ta là bạn của bố thí. Trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ chẳng phải là bạn ta. Ta là bạn của trí tuệ, cũng lại không chấp trụ vào sáu pháp Độ vô cực. Ta tùy thuận phụng hành sáu pháp Độ vô cực, hành bốn Ân (bốn Nhiếp pháp) không phát khởi ý niệm ta, tôi, nên kiến lập, thâu giữ bốn Ân. Nói tóm lại, gốc của công đức thiện không thể xây dựng trên ngã. Ta nên xây dựng, thâu tóm các gốc công đức. Trong thời tượng pháp, như vậy, không có bạn tu, nên tự sống một mình, an trú trong đạo tràng kim cang, dùng diệu lực của tự thân để hàng phục các ma. Chỉ trong một khoảnh khắc phát tâm liền thành tựu đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác. Đó là đạo Nhất thừa không cùng tận của Bồ-tát. Bồ-tát A-soa-mạt nói: –Này Hiền giả Xá-lợi-phất! Phương tiện quyền xảo của Bồ-tát cũng không cùng tận. Thế nào là phương tiện quyền xảo? Chư Phật, Thế Tôn luôn thích ứng với hoàn cảnh, căn cơ, từ chỗ được gặp đạo pháp, có đối tượng được giáo hóa, liền dùng phương tiện quyền xảo để phát huy tâm đạo. Phương tiện quyền xảo ấy là nhân nơi hư không mà phát sinh, nên không có giới hạn, tùy theo tâm tính, khiến đạt được sở trường. Phương tiện quyền xảo ấy tức có thể tu tập đầy đủ sáu pháp Độ vô cực. Nơi chốn sinh ra, nhờ vào phương tiện quyền xảo để thực hành giới, bố thí, nhẫn nhục, hộ trì thân, khẩu, ý, chứng đắc Phật đạo, không hề phế bỏ tinh tấn. Người không có phương tiện quyền xảo thì trái với tinh tấn. Phương tiện quyền xảo ở nơi nhất tâm thì chuyển tiến đến trí tuệ của bậc Thánh, nếu không như vậy thì tâm tán loạn. Phương tiện quyền xảo nơi trí tuệ thì không hề lìa bỏ khổ nạn nơi sinh tử, luân hồi. Phương tiện quyền xảo ở tâm Từ là làm nhiều việc cứu giúp, nuôi dưỡng, trừ bỏ những điều bất nhân. Phương tiện quyền xảo nơi Bi là không nhàm chán sinh tử, mở bày, hóa độ muôn loài. Phương tiện quyền xảo nơi Hỷ là không ham thích những ưa muốn. Phương tiện quyền xảo nơi Hộ (xả) là tu tập các công đức mà không mong nắm giữ trở lại. Phương tiện quyền xảo nơi Thiên nhãn là đạt được mười nhãn của Phật, thấy suốt khắp mười phương, không biên giới. Phương tiện quyền xảo nơi Thiên nhó là được mười nhó của Phật, nghe âm thanh của cả mười phương, tâm nhớ nghó đến hình tượng. Phương tiện quyền xảo nơi sự nhận biết là thấy được căn cơ của chúng sinh hiểu rõ về gốc ngọn. Phương tiện quyền xảo nơi phương tiện là nhớ nghó về các sự việc đời quá khứ, thấy được nghĩa lý của ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai. Phương tiện quyền xảo ở thần thông là đối với nơi chốn đi đến không có giới hạn, để giáo hóa khắp chúng sinh trong mười phương. Phương tiện quyền xảo nơi phương tiện nhận biết tâm tính của chúng sinh, tức tùy theo đó mà khéo léo dẫn dắt, giúp đỡ họ. Phương tiện quyền xảo ở sự tu hành là hiểu biết về chỗ khởi đầu, kết thúc nơi hành tướng của con người. Phương tiện quyền xảo nơi hóa độ là vượt qua cõi này, đạt đến bờ kia. Phương tiện quyền xảo nơi nhập thế là giáo hóa chúng sinh bị cuốn theo ái dục, khiến họ không còn mọi cấu uế. Phương tiện quyền xảo nơi việc bỏ gánh nặng xuống là từ bỏ hết những tai ương của năm ấm. Phương tiện quyền xảo nơi giới hạn hành hóa là sự thuyết giảng không thể nêu bày hết, dùng các thứ hữu hạn mà giảng nói về vô hạn. Phương tiện quyền xảo nơi sự khuyến hóa là giáo hóa những kẻ căn cơ yếu kém, dẫn dắt người biết chỗ tiến lùi, khiến họ phát tâm rộng lớn không cùng tận. Dùng phương tiện quyền xảo để nhận biết về hoàn cảnh, thời tiết, căn cơ, mọi lúc, khi tăng, khi giảm, tới, lui, không phải thời, đúng thời. Nhờ phương tiện quyền xảo mà thấu rõ con đường chính. Đối với chúng sinh đi vào nẻo tà trụ nơi đường tà thì dốc giáo hóa, dẫn dắt họ trở về với chính đạo. Dùng phương tiện quyền xảo, có thể khiến những tâm nhỏ hẹp biến thành tâm rộng lớn nếu đã lớn mạnh thì có thể khiến thành vô hạn. Dùng phương tiện quyền xảo để khuyến khích những người hay tranh cãi nên hòa hợp, làm bạn với nhau. Dùng phương tiện quyền xảo, đối với các hạng căn trí thấp, theo Tiểu thừa thì khiến họ trụ nơi giáo pháp vi diệu. Nhờ phương tiện quyền xảo mà đạt đến Niết-bàn, trở lại trong sinh tử để độ hết chúng sinh. Nhờ phương tiện quyền xảo để cởi bỏ bao thứ lưới trói buộc, che lấp. Nhờ phương tiện quyền xảo, nên có thể trừ diệt mọi kết sử, tâm chí được nhẫn nhục. Dùng phương tiện quyền xảo nên thường ở chỗ vắng lặng mà không rơi vào nẻo diệt tận. Nhờ phương tiện quyền xảo nên có thể hiểu rõ về tất cả sự tu tập, nên oai nghi, hành động luôn thích hợp. Nhờ phương tiện quyền xảo, quán thấy tất cả chúng sinh không hủy hoại giới pháp, thường thuận theo giới cấm. Nhờ phương tiện quyền xảo nên thâu giữ được tất cả mà không tranh chấp. Nhờ phương tiện quyền xảo mà phát triển đạo pháp rộng khắp mười phương. Nhờ phương tiện quyền xảo nên một mình đi vào ba cõi mà không bị hoạn nạn. Nhờ phương tiện quyền xảo nên đạt được pháp môn giải thoát, đạt đến nẻo “Không chốn hành”. Dùng phương tiện quyền xảo nên không bỏ hạnh của bậc Thánh, tuy ở trong thế gian nhưng không bị khách trần lôi cuốn. Nhờ phương tiện quyền xảo, nên cùng với đạo hội nhập, hợp với giáo pháp. Dùng phương tiện quyền xảo là xả bỏ vô vi, có thể đi vào sinh tử để cứu độ mọi hoạn nạn. Nhờ phương tiện quyền xảo, nên đối với cảnh giới ma, chiếu soi rõ về nguồn gốc của ái dục, phiền não. Dùng phương tiện quyền xảo để xét rõ về chúng sinh, không có chúng sinh, cũng không phải là không có. Đó gọi là chỗ hành theo phương tiện quyền xảo của Bồ-tát, nhập vào chốn không cùng tận. Bồ-tát A-soa-mạt nói: –Này Hiền giả Xá-lợi-phất! Nẻo hành của Bồ-tát là tám mươi phẩm không cùng tận. Chư Phật Thế Tôn đều từ tám mươi pháp không cùng tận này mà sinh ra. Khi Bồ-tát A-soa-mạt giảng nói về pháp môn không cùng tận này thì có bảy vạn tám ngàn người,từ xưa đến nay chưa từng phát tâm Bồ-đề, liền phát tâm cầu đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác. Năm vạn hai ngàn Bồ-tát tức thời chứng được pháp Nhẫn vô sinh. Tất cả chư vị nơi chúng hội đều dùng vô số các loại hoa, hương, các lọng hoa báu, dâng lên cúng dường Đức Phật và Bồ-tát A-soa-mạt, tất cả đều cung kính phụng hành kinh điển thiết yếu này. Chư Thiên ở giữa hư không liền tấu nhạc trời, phát ra âm thanh tán thán Đức Phật: –Đức Thế Tôn, từ vô số kiếp đã tích lũy công đức, tự thành chính giác, độ khắp muôn loài. Nay Bồ-tát A-soa-mạt đã khen ngợi kinh điển, diễn giảng, nêu rõ về nghĩa lý không cùng tận. Nếu có người nghe được kinh điển thiết yếu không cùng tận này mà tâm không nghi ngờ, lại tin tưởng, giữ gìn đọc tụng, vì người khác giảng nói, dốc lòng tin nơi sự giảng dạy của Phật thì sẽ đạt được công đức không cùng tận như vậy. Bấy giờ, Đức Phật lấy y của mình trao cho Bồ-tát A-soa-mạt và khen ngợi: –Lành thay, lành thay! Ông đã khéo giảng nói kinh này, Như Lai rất vui mừng, chư Phật hiện có trong mười phương nhiều như cát sông Hằng cũng đồng khen ngợi. Bồ-tát A-soa-mạt nhận lãnh tấm y của Đức Phật trao, đội trên đầu, bạch Phật: –Tấm y này của Đức Phật con xin hết sức quý trọng, ngày đêm giữ gìn. Vì đó là y phục của vô lượng chư Phật, Thế Tôn mà hàng trời, người đều ủng hộ. Ngay lúc ấy, khắp mười phương đều có cờ lọng, phướn báu tự nhiên xuất hiện, che phủ phía trên Bồ-tát A-soa-mạt. Trong các vật báu ấy tự nhiên phát ra âm thanh diễn nói như vầy: –Lành thay, lành thay! Bồ-tát A-soa-mạt có khả năng giảng thuyết về pháp môn vô tận này, mười phương chư Phật đều cùng khen ngợi. Bấy giờ, Hiền giả Xá-lợi-phất bạch Phật: –Hôm nay những vật báu: y phục, dù lọng, cờ phướn kia, từ đâu đến mà phát ra âm thanh như thế? Đức Phật bảo Hiền giả Xá-lợi-phất: –Những chúng sinh trước đây được giáo hóa trong chúng hội của Bồ-tát A-soa-mạt đã phát tâm cầu đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác. Các vị ấy, ở khắp mười phương đều thành chính giác. Hôm nay, Như Lai bảo họ đến đây để cúng dường, báo đáp ân đức nơi vị Bồ-tát đã tuyên giảng phẩm Hồng nghiệp đại hội nhằm để cúng dường kinh điển nên đã hiện ra các thứ hình tướng che phủ ở trên. Khi ấy, chúng hội thấy sự biến hóa ấy, lại nghe Phật nói như vậy, lại càng tăng thêm sự cung kính đối với Bồ-tát A-soa-mạt. Họ hết sức vui mừng, suy nghó: Chúng ta được lợi lớn là nhờ phước đức sâu dày từ đời trước mới được gặp Bồ-tát A-soa-mạt, đảnh lễ, thưa hỏi và nghe pháp này với phước đức không cùng tận. Giả sử có người được nghe danh hiệu của Bồ-tát A-soa-mạt thì phước đức đã không thể hạn lượng huống chi còn được thấy mặt, quy y, nghe giảng kinh pháp, được chư Phật đại Thánh khen ngợi, khuyến khích thì đâu phải là việc tầm thường! Đức Phật bảo Hiền giả Xá-lợi-phất: –Nếu có thiện nam, thiện nữ, tu học theo thừa Bồ-tát, khi thấy chư Phật Thế Tôn trụ ở đời một kiếp thì cùng nhau cúng dường vật hiện có, phụng hành giới cấm không hề hủy phạm. Giả sử gặp sự thống khổ của con người càng nhiều, họ đều chịu đựng, luôn luôn tinh tấn thực hành, như cứu lửa cháy đầu, thiền định nhất tâm không hề tán loạn, thường dùng trí tuệ quan sát, không để quên mất, cung kính phụng hành theo chư Phật như thế là trọn kiếp. Lại có thiện nam, thiện nữ nghe kinh điển này, dốc lòng tin hiểu, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tu tập, rõ biết chỗ tiến lùi tại tâm. Đức Phật khen ngợi sáu pháp Độ vô cực này đều là những con đường hoàn toàn mau chóng để đạt đến đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác. Vì sao? Vì nếu có Bồ-tát đọc tụng kinh điển này tự tâm khởi ý niệm: “Ta học kinh này, dốc vì người khác giảng nói”. Đó gọi là có thể hoàn thành đầy đủ pháp bố thí vượt bờ. Vì sao? Vì người thọ trì kinh này, xét trong các phương thức bố thí thì bố thí pháp là trên hết, gần với Phật đạo. Nếu thực hành đầy đủ pháp Trì giới độ vô cực thì người hành trì không bị trái phạm, các hạnh nghiệp luôn trọn vẹn. Đó gọi là Trì giới độ vô cực. Vì sao? Vì khi Bồ-tát giảng nói kinh này với đầy đủ giới cấm thì tất cả chúng sinh cũng không thể không xưng tán, nên công đức tích tập cũng không thể nói hết. Giả sử Bồ-tát nhẫn chịu tất cả những sự quấy nhiễu, phá hoại mà tâm vẫn không dấy khởi, cũng chẳng bằng đọc tụng kinh điển này, lại vì người khác giảng nói, lấy đó làm trí tuệ thực hành để có được đầy đủ Nhẫn nhục độ vô cực. Thân, miệng, ý thường hành tinh tấn, mong muốn độ thoát chúng sinh chưa từng chán bỏ. Đó gọi là Tinh tấn độ vô cực. Luôn chuyên chú, siêng năng, ở nơi kinh này tư duy không loạn động, đạt được thiền định nhất tâm, đó là Thiền định độ vô cực. Đối với kinh điển này, dùng trí tuệ quan sát về hiện tại, với nghĩa lý đúng sai để biết phương hướng hành trì. Đó là Trí tuệ độ vô cực. Này Hiền giả Xá-lợi-phất! Nếu có người chuyên cần tu học kinh này, chỉ từ các việc làm nhỏ nhặt mà có được đầy đủ sáu pháp tu vượt bờ của Bồ-tát. Vì vậy, cần phải quán xét điều ấy. Hoặc có Bồ-tát thọ trì kinh điển, đọc tụng, biên chép trên tre, lụa, đóng thành quyển, nhờ đó mà tóm thâu tất cả các pháp, hoặc cung kính giữ gìn kinh điển của chư Phật, giả sử thân tứ đại bị tan hoại thì cũng không làm lay chuyển tâm Bồ-đề. Vì sao? Vì kinh này được gọi là Pháp ấn của Bồ-tát mong cầu được ấn chứng. Nếu có người phụng trì ấn này thì có thể xem là người đã dốc phụng trì, thực hành tất cả pháp của chư Phật. Khi ấy, Bốn Thiên vương cùng với quyến thuộc đều bỏ hết binh khí, chắp tay bạch Phật: –Bốn Thiên vương chúng con là đệ tử của Phật, nhờ chứng được quả Dự lưu nên có thể đảm nhận sự việc cúng dường, bảo vệ cho các hàng thiện nam, thiện nữ, những người thọ trì, đọc tụng, phụng hành kinh này như giữ gìn chư Phật. Vì sao? Vì tất cả các thừa đều từ kinh này sinh ra. Khi ấy, trời Đế Thích đến trước Phật, thưa: –Luôn theo Đức Như Lai để thưa hỏi, thọ nhận kinh điển, số ấy có đến trăm ngàn người, nhưng họ chưa từng được nghe ý nghĩa của kinh này để thông đạt về diệu lý, không còn nghi ngờ. Con đã từng cùng với chư Thiên cõi trời Đao-lợi luôn luôn được lãnh hội chính pháp nhưng chưa từng gặp kinh này. Thế nên nếu có người ở nơi các xóm làng, huyện, quận, thành phố khắp cả nước, giảng thuyết kinh ấy thì nên đến đó để lãnh hội, thưa hỏi, ủng hộ Pháp sư. Do vậy, người nêu giảng kinh sức lực sẽ tăng thêm, tinh tấn, vững chí, không khiếp sợ, biện tài luôn thông suốt, một mình không sợ hãi. Thiện nam này do tâm không hề khiếp sợ, nên một mình giữa chúng hội hay ở chốn vắng vẻ, giảng thuyết rộng khắp về kinh này. Đức Phật bảo: –Lành thay, lành thay! Này Câu Dực! Nếu ông phát tâm dũng mãnh nhằm ủng hộ Pháp sư, tạo sự vui thích, khiến vị ấy dốc sức tinh tấn, vượt mọi khó khăn. Đức Phật lại bảo Câu Dực: –Nếu ông hộ trì Pháp sư tức là giữ gìn kinh này. Do hộ trì kinh này nên có thể cứu giúp đối với tất cả chúng sinh. Khi ấy, Thiên vương Phạm Nhẫn đến trước chỗ Phật, thưa: –Con sẽ xả bỏ những hoạn lạc ở cõi Phạm thiên, tâm luôn thực hành thiền định tư duy, đến chỗ Pháp sư để nghe giảng kinh pháp, hộ trì Pháp sư, hiện bốn điềm lành làm cho vị Pháp sư ấy nhận biết. Những gì là bốn? 1.Khiến cho chúng hội thấy được ánh sáng vi diệu. 2.Được ngửi thấy mùi thơm của chư Thiên. 3.Những lời thuyết giảng của Pháp sư luôn lưu loát, không trở ngại. 4.Câu chương, nghĩa lý, thứ tự không chống trái nhau. Đó là bốn việc. Khi thuyết giảng kinh này, tâm không vọng tưởng, dùng trí tuệ để biện luận, tất cả chúng hội đều chú ý lắng nghe, không loạn động, tâm ý nhớ nghó về pháp, một lòng lắng nghe kinh. Do bốn việc ấy mà được trí tuệ, nên chư Thiên và quyến thuộc đều có mặt ở chúng hội đó. Khi ấy, ma Ba-tuần đến trước Phật thưa: –Do kinh này làm cho tôi trở nên yếu kém, không còn một chút thế lực. Nếu có Bồ-tát lãnh hội kinh ấy thì chắc chắn sẽ thọ trì, vào trong cõi nào đều được thấy kinh như thấy Phật. Bạch Thế Tôn! Hôm nay, tôi thấy rõ uy thần nơi diệu lực của Bồ-tát A-soa-mạt nên đã dứt bỏ mọi thứ cao ngạo, tự đại. Vì sao? Vì nhờ kinh này mà dấy khởi sự ủng hộ, bảo vệ Pháp sư. Từ nay, tôi tự giữ gìn, không dám trái phạm giáo pháp. Những nơi được lưu truyền và thực hành kinh ấy, tôi đều ủng hộ, không còn quấy phá nữa. Khi ấy, Đức Thế Tôn bảo Hiền giả A-nan: –Hiền giả nên dốc sức thọ trì, đọc tụng và vì người khác thuyết giảng kinh này, khiến cho chính pháp tồn tại lâu dài. Hiền giả A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Con xin dốc tâm thọ trì, đọc tụng kinh ấy, nhưng không có khả năng làm cho kinh được lưu truyền khắp nơi như các vị Bồ-tát khác. Đức Phật bảo Hiền giả A-nan: –Hiền giả cứ yên tâm! Từ đây, sẽ có người truyền bá kinh này. Hôm nay, trong chúng hội có các Bồ-tát lo giữ việc hộ trì chính pháp, sẽ làm cho đạo pháp được lưu truyền rộng khắp. Bấy giờ, trong chúng hội có sáu mươi ức các vị Bồ-tát, từ chỗ ngồi đứng dậy, muốn hộ trì chính pháp, liền đến trước Phật, thưa: –Bạch Thế Tôn! Chúng con xin cùng nhau thọ nhận phẩm Đại hội pháp của kinh này, tùy thời lưu truyền khắp mười phương và chúng sinh nơi cõi Ta-bà đều được nhờ vào ân đức ấy. Bồ-tát Di-lặc, bậc Nhất sinh bổ xứ giữ việc bảo vệ kinh điển sẽ giảng thuyết rộng rãi những điều cốt yếu của kinh ấy. Sau khi Phật diệt độ, nếu có Bồ-tát ở trong thời kỳ mạt pháp, gồm đủ năm thứ ô trược, mà được nghe, thọ trì, đọc tụng kinh này thì nên biết đó là do có sự biến lập của Bồ-tát Di-lặc. Khi ấy, Đức Phật khen ngợi các vị Bồ-tát: –Lành thay, lành thay! Các ông ở trước Như Lai mà tự nêu bày, nhằm hộ trì chính pháp tức là ủng hộ chính pháp của hằng hà sa số chư Phật trong mười phương. Bấy giờ, Bồ-tát A-soa-mạt đến trước Đức Phật, bạch: –Nguyện xin bậc đại Thánh tha thứ, vì con sức kém, trí mỏng, nên sự giảng thuyết về câu nghĩa của kinh điển không đầy đủ. Cúi xin Thế Tôn bỏ qua những lỗi lầm, để con có thể sánh cùng với các Bồ-tát, phụng hành pháp vô tận. Đức Phật bảo Bồ-tát A-soa-mạt: –Ông thuyết giảng pháp theo thứ tự, câu nghĩa không “chỗ” nào trái với đạo lý, hết thảy đều thông suốt, không ngăn ngại. Nếu có Bồ-tát nào không bị phiền não ngăn che thì sự thuyết giảng về đạo lý không hề thiếu sót, luôn phân biệt, xét rõ về nghĩa lý của kinh như đã nêu. Huống chi, hiện tại Bồ-tát đã thông suốt kinh điển này, tiêu biểu là thông đạt về các pháp Độ vô cực sao lại nói là không sánh kịp. Nay, Bồ-tát A-soa-mạt đã đạt được bốn thứ phân biệt, trí tuệ, biện tài, thấu suốt, tự tại, đối với pháp Đại thừa, khỏi phải nương tựa, một mình an nhiên, giảng thuyết chắc chắn các điều nghi ngờ, đạt đến bờ giải thoát. Nếu có Bồ-tát an trú nơi quả vị này thân, miệng, ý hoàn toàn thanh tịnh, dùng Nhất thiết trí ở hàng đầu, thấu rõ tất cả, hành động nơi ba nghiệp đều hoàn bị, vô số trăm ngàn ức chư Phật trong mười phương đều khen ngợi sự giảng thuyết giáo pháp của ông. Hôm nay, Như Lai biểu dương sự giảng thuyết thông đạt, không thiếu sót ấy và chư Phật khắp mười phương cũng như vậy. Bấy giờ, Hiền giả A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Kinh này tên gọi là gì? Làm sao phụng hành? Đức Phật bảo Hiền giả A-nan: –Kinh này gọi là Sự Giảng Thuyết Về Văn Từ nghĩa Lý Không Cùng Tận Của Bồ-tát A-soa-mạt. Gọi tắt là phẩm A-soa-mạt. Này Hiền giả A-nan! Nếu có người thọ trì kinh này thì tâm ý người ấy trở nên sáng suốt, nhận thức về nghĩa lý rõ ràng, công đức chân chính tăng lên trăm ngàn lần, lại vì người khác thuyết giảng tức là đã tạo lập được Phật sự. Phật thuyết giảng kinh ấy rồi, Bồ-tát A-soa-mạt, Hiền giả A-nan, các chúng Trời, Rồng, Quỷ thần đều hoan hỷ, đảnh lễ rồi lui ra. <卷 id="117270378">