<經 id="n397a">a (tt) KINH ĐẠI PHƯƠNG ĐẲNG Đại TẬP Hán dịch: Đời Bắc Lương, Tam tạng Đàm-vô-sấm, người nước Thiên Trúc. <卷 id="117157902">Quyển 49 <詞 id="117157903">Phẩm 15: Nguyệt Tạng <章 id="117157904">Phần 6: KHIẾN CHO MA VƯƠNG KÍNH TIN, VUI VẺ Bấy giờ, có vị Đế Thích Thiên vương tên là Hỏa Quang, đã cùng với đại chúng vân tập, hiện đang có mặt trong pháp hội, bèn thưa với Đế Thích Kiều-thi-ca: –Kính thưa Thiên vương Kiều-thi-ca! Ma Ba-tuần kia, vì nhằm khiến được an trụ nơi lâm viên tịch tónh cùng với diệu nghĩa bậc nhất tạo sự tương ứng và cùng với chư vị Bồ-tát Ma-ha-tát đạt được pháp Tam-muội, hay là nhằm làm thoái lui pháp Tam-muội kia nên dốc tạo ra sự não loạn? Đế Thích Kiều-thi-ca đáp lời Thiên vương Hỏa Quang: –Này Hỏa Quang! Ma Ba-tuần ấy, nơi hết thảy các xứ trong bốn cõi thiên hạ, đều khiến cho mọi chúng sinh thoái lui, mất mát hay để lại tai họa cho đông đảo bạn lành, nên luôn dốc tạo mọi não loạn. Lại cũng có tâm xấu ác như thế đối với những hành giả tu tập sáu pháp Ba-la-mật, từ pháp Bố thí ba-la-mật đến pháp Trí tuệ ba-la-mật nên luôn dốc tạo não loạn. Lại còn nhằm làm lùi mất giống trời, người, ba giống Bồ-đề, làm tăng trưởng ba nẻo ác, nên luôn dốc tạo nhiều não loạn. Đám quyến thuộc của ma Ba-tuần cũng đều như thế, đều nhằm muốn làm tăng trưởng biển khổ mênh mông của hết thảy chúng sinh nên dốc tạo não loạn. Đế Thích Kiều-thi-ca nói xong lời ấy, thì cùng lúc, hết thảy chư vị đến tham dự hiện có mặt nơi pháp hội thảy đều đem tâm Từ bi hướng nhìn về phía ma vương Ba-tuần. Rất nhiều chư vị Bồ-tát Ma-ha-tát thể hiện lòng thương xót nên bày lời khuyên can ma vương. Đế Thích Hỏa Quang lại cùng với một vạn Thiên chúng của Đế Thích, thảy cùng chắp tay hướng về phía ma Ba-tuần và nói: –Đại vương! Xin chúc mừng! Xin chúc mừng! Đối với ba ngôi báu đại vương nên sinh tâm kính tin. Lúc này, vị Thiên chủ thế giới Ta-bà là Đại phạm Thiên vương cùng với sáu mươi ức trăm ngàn Phạm chúng và bốn Thiên vương, đều thể hiện tâm Từ, hướng mắt nhìn về chỗ ma vương nói: –Chúc mừng! Chúc mừng! Này ma vương Ba-tuần! Nếu đối với Tam bảo không có được lòng kính tin, thì ở đời vị lai trong đêm dài tối tăm của cõi sinh tử sẽ bị nhiều mất mát tổn hại lớn lao, không có được chút lợi ích nào mà sẽ bị đọa vào các đường ác. Ma Ba-tuần vì được hết thảy chư vị có mặt trong chúng hội, mỗi mỗi người đều biểu lộ tâm Từ đưa mắt nhìn về phía mình, vào lúc chư vị Bồ-tát Ma-ha-tát cùng với Thích thiên, Phạm thiên, Hộ thế Tứ vương khuyên can, đã từ chỗ ngồi đứng dậy chắp tay hướng về Đức Phật, cung kính đảnh lễ ngang chân Phật và đọc kệ: Kẻ trí dốc hướng lìa ngôi vua Do nhiều phiền não, ganh ghét, mạn Nên khiến hủy mất đường thắng thiện Đọa lạc nơi các nẻo ác dữ. Tôi do đem phú quý dối lừa Nơi Bậc Đạo Sư gieo tai họa Ngăn che các nghiệp lành chúng sinh Nên chẳng thấy Phật dấy tâm sân. Thế Tôn một nẻo luôn nhẫn nhục Từ bi thương xót thảy muôn loài Tâm ấy trừ sạch hết thảy mạn Làm cạn biển phiền não chúng sinh. Chỉ Phật thiêu sạch củi phiền não Chỉ rõ đường giải thoát trời, người Khiến muôn chúng sinh vượt biển khổ Tôi mù, không trí, vào chốn tối. Tôi nay cúi xin chư đại chúng Xin đem lòng thương giúp chúng tôi Tạ lỗi Như Lai, trụ tin tưởng Lại chẳng hề dấy tâm não loạn. Ta nay dốc hướng hộ pháp Phật Khiến mắt chính pháp thêm sáng tỏ Tự bỏ tham ganh mạn hiện có Sám hối hết thảy mọi nghiệp tội. Tôi nay phát tâm Bồ-đề lớn Cùng khuyến khích hết thảy chúng sinh Tự tu tinh tấn đủ sáu Độ Đưa chúng sinh đến nơi tám đường. Tôi dốc vì mỗi mỗi chúng sinh Nêu rõ vô lượng các pháp môn Theo chỗ dốc khiến nhập thành pháp Như thế gắng khuyên hết thảy chúng. Chưa từng thấy có hội như vậy Thảy nên cùng kính tin Tam bảo Do tôi tâm ác đầy thấp kém Nên nay lìa bỏ cùng bao tội. Từ nay luôn trụ tâm tịnh, tin Nguyện sau không còn nẻo hèn kém Tâm cùng đức Thánh luôn tương hợp Chẳng còn tạo tác mọi nghiệp ác! Ma vương Ba-tuần nói xong kệ ấy, liền hướng về chỗ Phật, đi đến lễ bái và nói kệ: Tôi nơi Thế Tôn tạo họa ác Xin đem Từ, nhẫn rộng dung thứ Cứu kẻ cô độc, nhận lòng thành Bậc Trí, nhân từ không mang giận. Lúc này, hết thảy chư vị trong đại chúng đều cùng một lời kính thưa Đức Phật: –Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Mong được dung tha ma vương Ba-tuần! Ma nay đã có sự tin kính sâu xa, thành tâm sám hối, sẽ dốc hộ trì Phật pháp làm cho mắt chính pháp thêm sáng tỏ rực rỡ, khiến cho chính pháp của Đức Thế Tôn trụ nơi thế gian được lâu bền, lại khiến cho người, trời trong cõi sinh tử có được nhiều lợi ích an lạc. Bấy giờ, Đức Thế Tôn dùng kệ đáp: Nhẫn, tối thượng ở đời Nhẫn là nẻo an lạc Nhẫn là lìa cô độc Chỗ Hiền thánh vui mừng. Nhẫn làm rõ chúng sinh Nhẫn tạo nên bạn tốt Nhẫn thêm lời xưng tụng Nhẫn là chốn đời yêu. Nhẫn được môn tự tại Nhẫn tạo đủ đoan nghiêm Nhẫn đem lại uy lực Nhẫn chiếu tỏa thế gian. Nhẫn được mọi vui sướng Nhẫn khiến thành thiện xảo Sức nhẫn hàng phục oán Cùng để trừ buồn lo. Nhẫn đạt dung sắc đẹp Nhẫn tạo mọi thân thuộc Nhẫn tụ hội quả tốt Nhẫn năng hướng nẻo lành. Nhẫn khiến người vui vẻ Nhẫn đạt mọi tốt đẹp Nhẫn dứt được mọi khổ Nhẫn đạt thọ mạng dài. Nhẫn đạt Đại Phạm vương Nhẫn được Tự tại dục Nhẫn được Thiên đế Thích Luân vương đủ thần thông. Nhẫn đạt chủ cõi người Lực nhẫn hàng phục khó Nhẫn được Rồng, Dạ-xoa Trong Tu-la tự tại. Nhẫn dứt được mọi oán Chẳng mưu hại chúng sinh Nhẫn lìa mọi trộm cắp Nhẫn dốc bỏ dâm dục. Nhẫn dừng dứt vọng ngữ Hai lưỡi, thêu dệt, ác Nhẫn trừ sạch tham sân Cùng lìa ý tà kiến. Nhẫn sức thành Thí, Giới Tinh tấn cùng Thiền-na Bát-nhã ba-la-mật Nên đủ sáu Độ ấy. Nhẫn trừ được mọi hoặc Nhẫn đạt quả La-hán Cũng đạt Bích-chi-phật Cùng trụ Nhẫn vô sinh. Nhẫn tạo đủ mười Địa Chóng đạt nẻo Bồ-đề Nhẫn nơi mọi chúng sinh Đem lại thắng vô thượng. Nhẫn hàng phục chúng ma Cùng thâu phục ngoại đạo Nhẫn hay ở thế gian Chuyển xe pháp tối thắng. Nhẫn khiến nhiều chúng sinh Làm cạn ba đường ác Nhẫn dứt chướng phiền não Cùng làm tịnh mắt pháp. Nhẫn thọ ký muôn loài Theo chỗ cầu ba thừa Nhẫn thu phục ác, bạo Chúng La-sát, Dạ-xoa. Nhẫn cùng vô số người Thọ ký đạo Tối thượng Nhẫn đã hàng phục oán Cũng diệt hết mọi ác. Nhẫn năng dứt hết thảy Mưa gió dữ trái thời Nhẫn năng tạo hội lớn Các chốn pháp hội này. Ta dung thứ Ba-tuần Mọi ác bạo nơi ta Chỉ từ tạ tâm mình Là dung thứ bậc nhất. Nay nơi trước đại chúng Chứng tri khuyên ngươi Chớ hoại chốn ta hội Hết thảy chính pháp Phật. Lúc này, tất cả đại chúng đến dự pháp hội, Trời, Người, A-tu-la, Càn-thát-bà cùng một lời tán thán: –Lành thay, lành thay! Kính thưa Đức Bà-già-bà! Như Lai luôn đối với hết thảy chúng sinh thể hiện lòng Từ bi thương xót, đem các pháp lành tạo nên mọi lợi ích an lạc cho họ. Ma vương Ba-tuần thường đối với Đức Thế Tôn dấy tâm ganh ghét xấu ác, tâm oán hại, đối với mọi chúng sinh là hàng tri thức ác, ở nơi các pháp lành luôn tạo tác mọi thứ tai họa, khiến mãi quanh quẩn nẻo bất thiện. Khi ấy, có một vị Phạm thiên tên là Uy Đức, dùng kệ thưa với đức Đại phạm Thiên vương Bất Động: Như hư không vô biên vô đẳng Hết thảy chúng sinh chốn nương trụ Trí Phật chẳng nghó bàn như thế Nơi tất cả pháp đến bờ giác. Thế Tôn khen ngợi nẻo hành thí Nên thương xót hết thảy muôn loài Do trí được là Bậc công đức Nên chóng đủ pháp Ba-la-mật. Hoặc có nêu rộng giới nhẫn, tâm Cùng với thiền định và trí tuệ Thế Tôn trong mỗi mỗi pháp ấy Hiển bày đầy đủ nơi sáu Độ. Như Lai dốc dùng pháp thiền định Dạy nên hướng đến đạo Bồ-đề Vì thế phải nên vui trụ thiền Chóng chứng đắc đạo lớn giác ngộ. Lại có tất cả các vị Phạm vương, các vị Đế Thích vương, chư vị Thiên vương khác, chư vị Long vương, Dạ-xoa vương, A-tu-la vương, Già-lâu-la vương, Khẩn-na-la vương, Càn-thát-bà vương, Ma-hầu-la-già vương, La-sát vương, Cưu-bàn-trà vương, Ngạ quỷ vương, Tỳ-xá-già vương đều từ chỗ ngồi đứng dậy, hướng về ma Ba-tuần, chắp tay thi lễ và thưa: –Đại vương! Nếu hết lòng kính tin Đức Thế Tôn Mâu-ni, do Thế Tôn đã giải thoát khỏi mọi lỗi lầm, đạt được tất cả công đức giác ngộ Từ bi thương xót hết thảy chúng sinh, ban cho mọi an lạc, thấu tỏ các pháp, lìa bỏ các nẻo lưu chuyển, trụ nơi bờ giác. Đại vương! Nếu có chúng sinh, thậm chí chỉ trong một niệm dốc lòng thâm tín Đức Như Lai, kính ngưỡng tôn trọng, ca ngợi cho là chưa từng có, do sự kính tin ấy nên được làm Luân vương thống lãnh bốn cõi thiên hạ, bảy thứ báu luôn gồm đủ, cho đến được làm Đế Thích Thiên vương, bậc chủ tự tại của cõi Dục ma vương Ba-tuần. Bậc chủ cõi Ta-bà là Đại phạm Thiên vương còn luôn có đầy đủ lòng tin đối với Tam bảo, huống hồ là những kẻ khác. Vì thế, đại vương nên lìa bỏ mọi kiến chấp của ma, các tâm xấu ác vẩn đục, để có được trọn đủ lòng tin, kính. Ở nơi dòng chảy của sinh tử nhận được các quả báo phú quý tự tại, về sau sẽ thành Bậc chính Giác, đem lại cho chúng sinh tất cả mọi an lạc, được làm phước điền vô thượng cho thế gian. Bấy giờ, ma vương lại cùng với đám tả hữu cung kính đảnh lễ dưới chân Phật, dốc lòng kính tin Đức Thế Tôn Mâu-ni ân cần sám hối tạ lỗi. Lúc này, Đức Thế Tôn dùng kệ nói với ma vương: Tâm ác, tuệ gian, ngươi từng dấy Ta luôn nhẫn dung, trời, người chứng Chí tâm tu tập đạo Bồ-đề Ngươi sẽ làm Phật, tuệ vô lượng! Ma vương Ba-tuần nghe xong lời kệ của Phật, muốn thể hiện lòng tịnh tín hết mực hiện có của mình, liền cầm các vật báu vô giá như chuỗi hoa bằng ngọc ma-ni, xâu chuỗi báu đeo nơi cổ, xâu chuỗi báu mang nơi tay, chân, cùng giơ cao chiếc ấn dâng lên Đức Thế Tôn, chắp tay thi lễ và thưa: –Kính thưa Đức Thế Tôn! Tôi từ trước đối với Phật đã nhiều lần tạo tác mọi chướng ngại cho sự tu tập với tâm xấu ác nhằm phá hoại mắt sáng chính pháp, đoạn dứt dòng giống Tam bảo, hủy diệt ngọn đuốc soi sáng thế gian. Do đâu mà tôi đã làm như thế? Là vì tôi đã xa lìa pháp lành tâm bị mê hoặc lầm lạc. Nay ở nơi Tam bảo đã có được lòng kính tin sâu xa, nên đối với mọi chỗ tạo ra hết thảy các nghiệp chướng nay dốc xin sám hối và đã phát tâm Bồ-đề cầu đạo quả Vô thượng, mong được đội ân Đức Thế Tôn thọ ký. Kính mong Đức Thế Tôn xót thương mà thọ nhận các vật báu dâng cúng của tôi. Bấy giờ, Đức Thế Tôn vì lòng Từ bi thương xót đối với ma Ba-tuần nên đã thọ nhận các vật báu cúng dường ấy. Ma Ba-tuần thấy vậy tâm hết sức vui mừng nên thưa: –Kính thưa Đức Thế Tôn! Như các hàng đệ tử Thanh văn hiện có của Đức Phật, chư vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, kể cả những người khác, nơi các khu vườn tịch tónh, an tọa ngay ngắn, cùng với nẻo Đệ nhất nghĩa hòa hợp, an trụ, thì ở đời hiện tại, vị lai, hoặc ma, hoặc ma con, hoặc ma đàn bà, thiếu nữ, hoặc đám ma hầu cận gồm nam phu phụ nữ, cùng đám ma vương nương tựa nơi mọi chúng sinh hiện có; hoặc Thiên, Thiên con, Thiên đàn bà, thiếu nữ, hoặc đám Thiên hầu cận gồm nam phu phụ nữ, kể cả loài quỷ Ca-trá phú-đơn-na, hoặc là con, hoặc phụ nữ, thiếu nữ, hoặc đám nam phu phụ nữ hầu cận, nói chung nếu các loài kể trên tạo sự quấy nhiễu não loạn các chúng tu hành, hoặc nhằm làm suy hại để lấy đi phần khí chất tinh túy của họ, dùng tà khí hà vào thân làm cho thân tâm tán loạn; hoặc cướp đoạt lấy y phục, đồ ăn uống, thuốc men; hoặc bảo kẻ khác đoạt lấy; hoặc đoạt các thứ vị, hoặc dùng mũi để ngửi, hoặc phóng ra khí xú uế đầy khắp cả chốn trú ngụ của chúng tu hành; hoặc lại trông thấy chư vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di cùng với những chúng sinh khác trụ ở nơi lâm viên vắng vẻ dốc tu tập nẻo Đệ nhất nghĩa, nếu không hết lòng tạo mọi cung cấp cúng dường y phục, thức ăn uống cùng các thứ thuốc men thì tôi sẽ khiến cho đám kia, hoặc ma, ma con, cho đến loài quỷ Ca-trá phú-đơn-na với đám nam nữ hầu cận, tất cả thảy bị các bệnh nơi đầu, bệnh nơi mắt, tai, bụng, nói chung là nhiều thứ bệnh như thế luôn bức hại khiến phải mất hết thần thông không còn có thể bay trên không hay đi tới khắp các nơi chốn xa xôi, tất cả đều bị mê muội tối tăm. Ma vương Ba-tuần nói xong tức thì đọc chú: Am ma soa, hát la ma soa. Am ma ma la soa. Mạc soa bỉ xà bà đế. Mạc soa tô đâu đế. A bà yết si. A bà chỉ lê. Thì na thi. Na ma già bà bà tê. Aùt la khí ma na để lê. Phù xà bạt la. Chỉ nê a khư lâu soa ma khư bả di. Đà la a bỉ tư la khư bỉ sa. Mâu đạt la khư bỉ. Tất lê thế tỳ. Niết mị đế uất đặc ca. Niết mị đế. Chỉ xà niết mị đế bà dạ bà niết mi đế. A ca xa mị la. Niết mị đế phân thị na la dạ noa. Khư bà niết văn chi. Ma hê thủ bà la niết văn chi. A sa già bà. Niết văn chi. Tát đâu bà tăng khí da bạt giá. Niết văn chi. Bát la ma át tha. Niết văn chi. Bát la già noa. Bát la át tha. Niết văn chi. Đa bà bạt la đa. Niết mục đa. Bát la ma át tha. Niết văn chi la. Tô bà la. Lúc này, hết thảy chư vị đến dự pháp hội hiện đang có mặt, những ai vốn có tâm ác hành xấu, đối với mọi chúng sinh không có lòng Từ bi, nghe ma vương Ba-tuần nói, thảy đều kinh sợ. Ma vương Ba-tuần lại nói: –Kính thưa Đức Thế Tôn! Nếu có những kẻ làm trái với những điều tôi đã nêu ra thì sẽ phải chịu những thứ bệnh khổ não như đã nói trên. Lại nữa, kính thưa Đức Thế Tôn! Tôi nay xin dốc lòng hộ trì hàng Thanh văn đệ tử Phật, điều phục các hành xấu ác, không khiến cho ở đời hiện tại và vị lai tạo ra những suy đốn não loạn, có thể đem lại cho Pháp nhãn của Đức Thế Tôn trụ thế lâu bền, dòng giống Tam bảo không hề bị đoạn nơi thế gian. Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại khen ngợi ma Ba-tuần: –Lành thay, lành thay! Đúng vậy, này ma Ba-tuần! Ngươi ở trong cõi sinh tử đã tạo được đầy đủ các công đức lớn lao, không khiến cho các điều xấu ác có thể làm suy hại não loạn hết thảy chúng sinh. Lúc này, tất cả chư vị trong đại chúng, chư Thiên, Người, Càn-thát-bà thảy đều cất tiếng khen ngợi: –Lành thay, lành thay! Ma vương Ba-tuần, đối với Tam bảo đã có được lòng kính tin sâu xa, như thế là Phật pháp ở trong cõi sinh tử luôn được sáng tỏ rực rỡ, chư Thiên, người sẽ được nhập vào thành trì vô úy, các nẻo ác được ngăn lập, luôn khai mở các nẻo thiện cùng cánh cửa giải thoát, trong bốn cõi thiên hạ mọi sự tranh chấp gây hấn, mọi thứ bệnh dịch, những cảnh mất mùa đói kém cùng những hiện tượng mưa gió trái thời tiết thảy đều được dừng dứt, lại khiến trong bốn cõi thiên hạ luôn được an ổn, cuộc sống của muôn dân no đủ an lạc. Bấy giờ, ma vương Ba-tuần cung kính đảnh lễ dưới chân Đức Thế Tôn, đi nhiễu quanh theo phía tay phải ba vòng rồi lui ra ngồi qua một bên. Lúc này, đại chúng muốn một lần nữa làm sáng tỏ ý nghĩa trên, nên đọc kệ: Tâm ma rõ ràng được hoan hỷ Cùng quyến thuộc sám tạ Như Lai Tâm thật mừng vui nên thưa bày Từ bi trước người lìa mọi ác. Cũng như hư không chẳng biên vực Cảnh giới trí Phật cũng như thế Giác ngộ tỏ ngọn nguồn các pháp Nơi thế gian thuyết pháp Tối thượng. Hoặc giảng pháp bố thí hơn hết Do thí nên đạt diệu Bồ-đề Hoặc giảng pháp trì giới, nhẫn Tinh tấn, thiền định cùng trí tuệ. Như thế phương tiện thuyết vô số Hiển bày nẻo giác ngộ, giải thoát Trời, Người, Tu-la phải nên biết Thế Tôn tự tại hàng phục ma. Kinh ấy Phật dạy nhẫn trên hết Nên đạt hết thảy an ổn, lạc Nhẫn khiến mọi phiền não dừng dứt Nêu rõ thành giải thoát vi diệu. Tâm kính chắp tay cùng hướng Phật Sám hối bao nghiệp ác đã tạo Nên phát nguyện Bồ-đề tối thắng Chúng con tất sẽ làm Đạo sư. Tự nhiên được Như Lai thọ ký Ma vương chóng thành Đẳng chính giác Cùng với trăm ngàn chúng sinh khác Cũng được thọ ký đạo Bồ-đề. Đã trọn Nhẫn nhục ba-la-mật Chóng làm Bậc Đạo Sư vượt bậc Cùng các pháp lành tạo y chỉ Hộ trì Thanh văn nên nói chú. Như ma, ma dựa, chúng quỷ thần Dạ-xoa, Tu-la, Phú-đơn-na Như có não hại chư Phật tử Sẽ đem bệnh ác gắn vào thân. Hết thảy đại chúng đều vui mừng Hoan hỷ cùng bày tỏ lời này Nhờ nghiệp chuyển ấy pháp hưng thịnh Ắt được trụ vững nơi thế gian. Ma vương an trụ tâm tịnh, nhẫn Dòng suối Tam bảo khó khô cạn Thế gian sẽ dứt mọi ô trược Đói khát, gió dữ, cùng nắng hạn. Vì thế trời, người được an lạc Gốc nẻo tu tập hạnh nhẫn nhục Theo phương tiện Thí, Thi-la, Nhẫn Đến Tinh tấn, Thiền, Trí bờ giác. Bấy giờ, Đức Thế Tôn thuyết giảng xong một cách rõ ràng về công đức của pháp nhẫn như vậy, có chín trăm tám mươi vạn chư Thiên, người đã từng tu tập pháp nhẫn ấy, tất cả thảy đều đạt được pháp Nhẫn vô sinh, có mười tần-bà-la trăm ngàn người đạt được nhẫn nhu thuận, có đến một ức na-do-tha trăm ngàn trời, người đạt đạo quả Tu-đà-hoàn, lại có số lượng chúng sinh nhiều hơn thế đạt được chính kiến ở thế gian, lại có mười tần-bà-la trăm ngàn Trời, Người, A-tu-la, Dạ-xoa, La-sát, trước đây chưa từng phát tâm cầu đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác, thì lúc này thảy đều phát tâm và không thoái chuyển, còn có trăm vạn chúng sinh được thọ ký đạo quả Bồ-đề vô thượng.  <章 id="117157905">Phần 7: Hết thảy chư quỷ thần cùng đến chúng hội Bấy giờ, Hộ thế Tứ đại Thiên vương, từ chỗ ngồi đứng dậy chắp tay hướng về Đức Phật, cung kính lễ bái và thưa: –Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Nơi cõi Diêm-phù-đề này với vô số quốc độ, thành ấp, thôn xóm, vườn cây, đền đài, quán xá, khe núi, ao đầm các xứ, những chốn có các chúng xấu ác Thiên, Long, Dạ-xoa, La-sát, A-tu-la, Cưu-bàn-trà, Ngạ quỷ, Tỳ-xá-già, Phú-đơn-na, Ca-trá phú-đơn-na nương theo đấy mà trú ngụ, luôn dấy khởi giận dữ, độc ác, hung bạo, không chút hổ thẹn, đối với chúng sinh không có lòng thương xót, thường hại sinh mạng kẻ khác cùng tạo mọi não loạn. Đám Thiên long cho tới loài quỷ Ca-trá phú-đơn-na xấu ác ấy, nơi cõi Diêm-phù-đề luôn luôn dấy khởi một cách trái thời tiết những trận nắng hạn, gió độc, mưa dữ, mây đen, tro bụi cuốn xoáy, lạnh buốc hay nóng bức. Do những tai họa ấy đã phá hại các thứ ngũ cốc hoa màu cây trái, các loại cây để làm rượu, làm đường như bồ đào, cây mía, các thứ vải lụa, nên khiến cho chúng sinh luôn gặp phải muôn ngàn cảnh mất mùa đói kém, bệnh dịch, bao trường hợp thân thích biệt ly, vô số nỗi khổ não bức thiết. Chính từ đấy mà họ luôn hay xâm phạm lẫn nhau, hoảng sợ, đánh giết, tâm thường kinh hãi, khiến các hàng vương giả Sát-lợi, nơi đám quyến thuộc của mình với năm thứ dục lạc luôn đầy đủ mà không sinh lòng vui thích! Ở nơi quốc độ mình, luôn xảy ra sự gây hại cho hết thảy các hàng Sa-môn, Bà-la-môn, Tỳ-xá, Thủ-đà, nam phu, phụ nữ, trẻ em gái trai, lại cũng bức hại các loài voi, ngựa, bò, dê, sư tử, cọp beo, chó sói, chó thường, nói chung là hết thảy các loài cầm thú đều khiến bị bức hại. Đối với chúng sinh thì tạo ra vô số duyên cớ để bức hại họ, ngày đêm giết chóc, thiêu đốt, đâm chém. Năm thứ lúa gạo hoa màu, các loại sản vật lụa vải để nhằm đem lại cái ăn, mặc cho mọi người có cuộc sống an lạc, cùng thực hiện các điều thiện, tất cả thảy đều bị tổn hại, giảm thiểu. Chính từ nhân duyên đó khiến cho các nẻo lành nơi cõi trời, người bị giảm sút, mất đi tính chất đáng yêu thích của nó. Tất cả đám chúng tôi chẳng có thể ngăn giữ nổi! Nay Đức Thế Tôn đã có sự tập hợp đông đảo nơi chúng hội này, gồm hết thảy chư vị Đại só, Bồ-tát Ma-ha-tát, chư vị Thanh văn cùng đều có mặt, hết thảy chư Thiên vương cùng đám quyến thuộc, chư Long vương, A-tu-la vương, cho đến hết thảy chư vị Tỳ-xá-già vương cùng với các đám quyến thuộc của họ cũng đều vân tập đông đủ nơi chúng hội. Kính thưa Đức Thế Tôn! Kính mong Đức Thế Tôn, đối với thiên long quỷ thần nên có sự giáo hóa dặn dò rõ ràng, để cho họ, gồm cả Thiên, Long, Dạ-xoa, La-sát, A-tu-la, Cưu-bàn-trà, Ngạ quỷ, Tỳ-xá-già… ở cõi Diêm-phù-đề này với tất cả quốc độ, thành ấp, thôn xóm, núi rừng, hang động, đền miếu, cây vườn các chốn, đều khiến họ hộ trì. Như chúng thiên long cho tới loài quỷ Tỳ-xá-già ấy, nơi cõi Diêm-phù-đề này, nếu xảy ra những hiện tượng tranh đoạt chém giết bức hại, những cảnh mưa gió trái thời, các thứ bệnh dịch, mất mùa đói kém hay nóng lạnh bất thường, thì các chúng kia, tùy theo phần của họ mà ngăn chận, hộ trì. Nếu ở cõi Diêm-phù-đề xảy ra các sự việc như vừa kể trên thì chư vị ấy cũng thảy đều dốc sức ngăn chận, dứt trừ, khiến cho ở cõi này với bao thứ hiện có như hoa quả, cỏ cây thuốc, các thứ vải lụa trắng, màu, năm thứ ngũ cốc, các loại cây mía đường, bồ đào, cùng bao thứ sữa bơ mật ong… thảy đều được dồi dào, sinh trưởng kết quả luôn thuận hợp, còn những loại lúa nếp hoa màu cũng không hề suy giảm hư hoại. Cũng ở cõi Diêm-phù-đề này với mọi nơi chốn có con người trú ngụ cùng với các loài cầm thú, tùy theo chỗ cần dùng của mình mà đều được no đủ sung túc, nhờ đó đã khiến cho chúng sinh tu tập theo các nẻo lành, tu tập theo chính pháp thực hành các điều chân thật, an trụ trong sự siêng năng tu tập ấy, nẻo thiện theo đấy mà tăng trưởng không ngừng, chẳng hề lùi giảm. Từ nhân duyên này, nên ở cõi Diêm-phù-đề, loài người được đông đúc với cuộc sống no đủ an lành, phong phú thật đáng yêu thích vô cùng, chính pháp của Đức Thế Tôn cũng được trụ thế lâu dài, mọi sở nguyện của người, trời thảy được trọn đủ, chúng sinh đều hướng đến đường thiện, hướng về đạo giải thoát, lìa bỏ ba nẻo ác, làm cho Tam bảo luôn được nối dòng không hề bị đoạn tuyệt. Lúc này, Tứ Thiên vương muốn làm sáng tỏ lẫn nữa về những ý nghĩa trên nên đọc kệ: Nơi cõi Diêm-phù-đề Mọi quốc độ hiện có Thiên, Long, Dạ-xoa ác La-sát, Cưu-bàn-trà. Ngạ quỷ, Tỳ-xá-già Ca-trá phú-đơn-na Giận, ác không ân dưỡng Với chúng sinh chẳng xót. Chúng ấy không hổ thẹn Bức hại chư Sát-lợi Sa-môn, Bà-la-môn Tỳ-xá cùng Thủ-đà. Sư tử, voi, cọp, báo Mưa gió dữ trái thời Bệnh dịch, bao đói kém Nên khiến chúng sinh khổ. Chúng ấy hại muôn loài Hủy phá khắp thế gian Bao thứ lúa, hoa màu Cùng diệt đèn chính pháp. Bốn Thiên vương chúng tôi Chẳng ngăn nổi ác ấy Mong Phật nên phân, giao Cõi nước cùng thành ấp. Dặn dò Long, Dạ-xoa La-sát, Cưu-bàn-trà Khiến chúng đều ngăn, giữ Mưa gió hại trái thời. Dứt mọi nỗi kinh sợ Khiến không đói kém, bệnh Hoa trái, cây thuốc, lúa Tràn đầy vị ngon ngọt. Chúng sinh dứt đói thiếu Mọi cần dùng thảy đủ Hết thảy pháp lành tăng Nên được mọi an lạc. Pháp Phật trụ thế bền Muôn loài hướng đường thiện Dòng Tam bảo không dứt Mong Phật thường thương xót. Đại địa đủ vật ngon Lìa mọi vị cay đắng Hoa trái đều dồi dào Vô số vị sung mãn. Suối ao cùng sông hồ Nước trong luôn đầy ắp Nơi các thứ lúa, rau Luôn tốt tươi, tăng trưởng. Đem lại thức ăn uống Tâm nhu hòa dứt ác Niệm từ luôn tương hợp Lưu chuyển dứt cấu nhiễm. Lìa bỏ mọi gia nghiệp Trụ nơi A-lan-nhã Dốc tu nẻo Bồ-đề Khiến mọi chúng sinh tin. chính pháp được phát huy Chúng ma ác không còn Bốn thiên hạ an lạc Mọi chốn người sung mãn! Bấy giờ, Đức Thế Tôn hỏi Tứ Thiên vương, Thích Đề-hoàn Nhân và vị chủ thế giới Ta-bà Đại Phạm thiên: –Này chư Thiên vương! Chư vị đã hoặc thấy hoặc nghe trong hiền kiếp này, bắt đầu với Đức Phật Câu-lưu-tôn, tiếp theo vào thời các Đức Phật Câu-na-hàm Mâu-ni, Ca-diếp xuất hiện ở đời, công việc giáo phó rõ rệt phân minh đối với các chúng Thiên, Long, Dạ-xoa, Cưu-bàn-trà… hiện có trong cõi Diêm-phù-đề này được thực hiện ra sao? So với ta hiện nay, ở nơi cội Bồ-đề lúc mới thành Bậc chính Giác, đã tạo được sự giao phó dặn dò phân minh rõ rệt, đối với hết thảy các chúng Thiên, Long, Dạ-xoa, Cưu-bàn-trà… trong cõi Diêm-phù-đề này hoàn toàn như nhau chăng? Chư vị Đại Tứ Thiên vương, Thích Đề-hoàn Nhân, chủ thế giới Ta-bà Đại Phạm vương cùng thưa với Đức Phật: –Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Chúng tôi từng thấy, nghe nơi Hiền kiếp này, bắt đầu là Đức Phật Câu-lưu-tôn, nơi cội Bồ-đề lúc mới thành Bậc chính Giác đã tạo được sự giao phó dặn dò phân minh rõ rệt đối với các chúng Thiên, Long, Dạ-xoa, Cưu-bàn-trà,… trong cõi Diêm-phù-đề này, so với Đức Thế Tôn hiện nay đã thực hiện nơi cội Bồ-đề lúc mới thành Bậc chính Giác không có gì khác. Vào thời Đức Phật Câu-lưu-tôn xuất hiện ở đời, thọ mạng của chúng sinh là bốn vạn năm. Thời bấy giờ, khí chất tinh thuần của đại địa, của chúng sinh, của các pháp, nói chung là các Lực ấy luôn được tăng lên. Các sự việc như mùi vị, uy lực, phước đức, lòng thương, sự hơn hẳn, trí tuệ, thảy đều được tăng lên. Thời ấy, nương vào đất để sinh trưởng, các thứ quả ngon, các thứ hoa lá cây thuốc… được chúng sinh dùng để ăn đều khiến cho họ có tâm mềm dịu, tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả, tâm Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ, tâm xa lìa việc giết hại sinh mạng, cho đến tâm lìa bỏ tà kiến, ít ham muốn biết đủ, ít bị phiền não cấu nhiễu, nhiều phước đức, thọ mạng lâu dài, xa rời tham dục, sống ở chốn thanh vắng, yêu mến chính pháp, chán lìa sự lưu chuyển trong cõi sinh tử, luôn phát huy làm cho Tam bảo thêm sáng tỏ, nhờ từ nhân duyên đó mà chúng sinh lìa được các đường ác đi theo đường thiện. Thời đó, chư Thiên, thậm chí cả đến loài quỷ Ca-trá phú-đơn-na cùng hết thảy các loài cầm thú đều có được đầy đủ các sự việc như thế. Lần lượt về sau thọ mạng của con người giảm bớt dần. Do thọ mạng của con người giảm xuống nên phước đức cũng giảm. Phước đức giảm nên vị của khí chất tinh thuần nơi đại địa cũng giảm. Vị của khí chất tinh thuần nơi đại địa giảm nên khí chất tinh thuần của chúng sinh cũng giảm. Khí chất tinh thuần của chúng sinh giảm nên các pháp nơi tâm của chúng sinh tạo các điều thiện và sự hổ thẹn giảm nên khí chất tinh thuần mang tính chất cam lộ của chính pháp cũng giảm. Từ việc thọ mạng nơi mỗi người của chúng sinh tổn giảm cho tới khí chất tinh thuần của cam lộ nơi chính pháp cũng tổn giảm nên mới lan rộng ra tình trạng giết hại sinh mạng dẫn tới việc dua theo tà kiến, thậm chí cả loài cầm thú lại cũng như thế. Như vậy là chúng sinh xa lìa con đường thiện, con đường giác ngộ giải thoát hướng theo con đường xấu ác và đến khi mạng chung thì bị rơi vào các cõi ác. Như những chúng sinh sinh nơi loài Dạ-xoa cho đến loài Ca-trá phú-đơn-na, thì luôn sân hận, độc ác không chút lòng thương, không biết nhìn về đời sau với bao việc đáng kinh sợ, lại luôn tạo việc sát sinh lan rộng cho tới việc dua theo tà kiến. Các hạng chúng sinh đó, nơi cõi Diêm-phù-đề chưa từng được dự vào việc nhận lãnh giao phó dặn dò để làm phận sự hộ trì. Như thế là các vị Phật Câu-na-hàm Mâu-ni, Phật Ca-diếp, nơi cội Bồ-đề, lúc mới thành Bậc chính Giác, đã tạo được sự giao phó dặn dò phân minh rõ rệt đối với các chúng Thiên, Long, Dạ-xoa, Cưu-bàn-trà… so với Đức Thế Tôn hiện nay đã thực hiện nơi cội Bồ-đề lúc mới thành Bậc chính Giác không có gì khác nhau. Pháp lành như thế là cứ giảm dần còn pháp ác thì cứ tăng trưởng. Từ đấy cho đến nay, có đến vô lượng na-do-tha trăm ngàn thứ ác Long, Dạ-xoa, cho đến tới loài quỷ Ca-trá phú-đơn-na đã sinh trưởng không ngớt, luôn sân hận, bạo ác, không biết hổ thẹn, đối với mọi chúng sinh không chút tâm Từ, không hề xem xét đời sau với bao việc đáng kinh sợ, tàn hại sinh mạng loài khác để ăn cả máu thịt. Những hạng xấu ác đó không dựa vào việc phân bố, trú xứ không nhất định. Hạng Long, Dạ-xoa, Cưu-bàn-trà xấu ác ấy không hề biết giúp đỡ, giữ gìn con người cả đến loài súc sinh. Chỉ luôn muốn cướp đoạt khí chất tinh túy của con người, cắt đứt gốc thọ mạng của họ, diệt hoại cõi nước, thành ấp, thôn xóm đền miếu các chốn, khiến cho các vị vương giận dữ sầu khổ, thậm chí còn có thể khiến cho các loài súc sinh khổ não. Lại còn có thể dấy tạo các hiện tượng mưa gió trái thời tiết, lạnh buốt hay nóng bức, làm hư hại hết thảy các thứ hoa quả, rau, lúa,… các loài Long, Dạ-xoa cho tới loài quỷ Ca-trá phú-đơn-na độc ác ấy không tuân theo sự chỉ giáo của chúng tôi, đối với các hạng xấu ác đó, chúng tôi chẳng hề được tự tại! Vì thế mà hiện nay, nơi cõi đời cực ác với năm thứ vẩn đục, pháp lành tổn giảm, Đức Như Lai xuất hiện ở đời, tất cả chúng sinh đối với Bậc Đạo Sư Từ bi đã sinh lòng kính tin tôn quý yêu mến. Những lời Phật nêu bày giảng dạy luôn thích hợp với căn trí đem lại lợi ích, đầy đủ công đức, trí tuệ tích tụ, thành tựu được tâm Đại Bi, sáu pháp Ba-la-mật, mọi sở nguyện cứu cánh đều được viên mãn, đạt đủ sáu thứ thần thông, đại chúng các pháp luôn được tự tại, che chở hộ trì thu nhận hết thảy chúng sinh, có thể đem chúng sinh đến với tất cả đường thiện cùng vui thích nẻo giải thoát. Hôm nay, ở nơi đây, một pháp hội lớn chưa từng có đã được tập hợp, xưa nay chưa nghe có một chúng hội lớn lao như thế, tất cả chư vị Thiên vương cùng đám quyến thuộc đều có mặt ở chúng hội. Hết thảy Long vương cho tới Nhật vương, Dạ-xoa vương, La-sát vương, Già-lâu-la vương, Cưu-bàn-trà vương, Ngạ quỷ vương, Tỳ-xá-già vương, cùng với hết thảy đám quyến thuộc của mình đều đi đến chúng hội này. Đối với những chúng chưa đến, nay xin Đức Thế Tôn dùng diệu lực thần thông để thâu tóm hết thảy. Như có các chúng quỷ thần xấu ác không có nơi chốn gắn bó, liên hệ, không nhận sự chỉ giáo của kẻ khác, sân hận bạo ác không chút Từ tâm, không biết xem xét về đời sau với bao sự việc đáng sợ, tàn hại sinh mạng loài khác để ăn thịt uống máu, những chúng ấy chẳng đến được! Kính xin Đức Thế Tôn lại một lần nữa thể hiện lòng Từ bi thương xót, dùng diệu lực thần thông khiến cho chúng quỷ thần đó, cùng với đám quyến thuộc của họ đều cùng đi đến hội này, khiến họ được phân bố để dự vào những phần việc khác, không khiến xảy ra luôn luôn những sự não loạn đối với chúng sinh. Nhờ vào phương tiện này sẽ làm cho hương vị nơi đại địa trong bốn cõi thiên hạ thêm nhiều khỏi chóng bị hủy diệt, khí chất tinh thuần được an trụ không còn bị tổn giảm nữa. Do khí chất tinh thuần của đại địa không còn bị tổn giảm nên khí chất tinh thuần của chúng sinh cũng không tổn giảm. Khí chất tinh thuần của chúng sinh không còn bị tổn giảm nên khí chất tinh thuần của chất cam lộ nơi chính pháp cũng không bị tổn giảm, lại được an trụ, nhờ đấy các pháp nơi tâm để tạo ra điều thiện, bình đẳng của chúng sinh được tăng trưởng. Từ nhân duyên này, khiến cho dòng giống của Tam bảo không hề bị đoạn tuyệt, như thế là mắt chính pháp được trụ thế lâu bền, ngăn chận ba nẻo ác, mở ra nẻo hướng đến cõi thiện cùng cánh cửa Niết-bàn giải thoát, nhờ vậy nên pháp lành luôn được tăng trưởng, pháp ác tổn giảm, cõi trời, người được tăng thêm, vô lượng chư Thiên, người tất đạt được đầy đủ sự giải thoát an lạc. Bốn Thiên vương, Thích Đề-hoàn Nhân và Đại Phạm vương nêu bày sự việc xong, lúc này Đức Thế Tôn xem xét rồi im lặng không nói. Bấy giờ, vị chủ thế giới Ta-bà là Đại phạm Thiên vương cùng Kiều-thi-ca và chư vị Thích thiên, Tứ đại Thiên vương, đều cùng chắp tay nói với đại chúng: –Chúng tôi cùng bày tỏ với tất cả chư vị Bồ-tát Ma-ha-tát, chư vị Thanh văn, hết thảy chư vị Thiên, Long, Dạ-xoa, La-sát, Càn-thát-bà, A-tu-la, Khẩn-na-la, Già-lâu-la, Ma-hầu-la-già, Ngạ quỷ, Tỳ-xá-già, Phú-đơn-na, cùng tất cả đại chúng, xin thảy cùng khuyến thỉnh Đức Như Lai Pháp Tôn, sẽ khiến cho Đức Thế Tôn cho phép chúng chư Thiên thảy đều được đi đến chúng hội này. Tất cả chúng Long, cho tới tất cả chúng Ca-trá phú-đơn-na cũng được có mặt đông đủ ở đây. Các chúng ấy, nơi cõi Diêm-phù-đề với mọi quốc độ, thành ấp, thôn xóm, đền đài, quán xá, vườn cây, núi cao, hang rộng, sông hồ, ao đầm, các nơi chốn như thế, sẽ được giao phó dặn dò phân minh rõ ràng để các chúng kia đi đến trú ngụ, sinh hoạt. Lại khiến cho tất cả chư vị Thiên, Long thiện, kể cả loài Ca-trá phú-đơn-na, sẽ được phân công giữ lấy một cách yên ổn. Mỗi chúng sẽ tự nhận lấy sự phân công bình đẳng trong việc giữ gìn hộ trì, không hề bị bỏ rơi hay khiến dấy sinh sầu não. Mỗi chúng sẽ chỉ giáo hóa cho đám Thiên, Long, quỷ thần xấu ác kia cùng làm theo đúng pháp, luôn tạo niệm lành để ngăn chận, thâu tóm tâm ác. Lại khiến mỗi mỗi chúng hộ trì tự phân công, mà không bỏ rơi, không gây phiền não cho chúng khác. Đám Thiên, Long, Quỷ thần kia nếu được mỗi mỗi chúng phân công bình đẳng để làm kẻ hộ trì thì tên tuổi sẽ được ghi lại, nêu bày khắp, đạt được sức dũng mãnh lớn lao cùng phước báo to tát. Bấy giờ, hết thảy chư vị Bồ-tát Ma-ha-tát, hết thảy chư vị Thanh văn, tất cả chư Thiên, Long, Dạ-xoa, La-sát, A-tu-la, Già-lâu-la, Khẩn-na-la, Càn-thát-bà, Ma-hầu-la-già, Cưu-bàn-trà, Ngạ quỷ, Tỳ-xá-già, Phú-đơn-na, Ca-trá phú-đơn-na, cho đến hết thảy chư vị có mặt trong đại chúng thảy đều hết sức hoan hỷ, đều từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay cung kính hướng về phía Đức Phật cùng lúc đồng thanh thưa: –Kính thưa Đức Thế Tôn! Chúng con xin khuyến thỉnh Đức Như Lai là Bậc Ứng Cúng, chính Biến Tri, hãy thương xót đến chúng con, vì đem lại lợi ích cho chúng sinh, xin thể hiện lòng Từ bi rộng lớn cho muôn loài được đội ơn ấy, đối với tất cả chư Thiên, Long, kể cả loài Ca-trá phú-đơn-na, Đức Thế Tôn hãy khiến họ cũng được đến chúng hội này. Chúng đó, ở nơi cõi Diêm-phù-đề này với các thành ấp, thôn xóm cho tới những chốn nương tựa trú ngụ như ao hồ sông suối, đều được giao phó dặn dò phân minh rõ rệt, khiến cho chúng Thiên, Long kể cả loài Ca-trá phú-đơn-na ấy được phân công giữ lấy một cách yên ổn. Nếu chúng chư Thiên, Long kể cả loài quỷ Ca-trá phú-đơn-na đó đều rời bỏ sự phân công của mình, cũng như tạo tác những sự bức hại không ngăn che phiền não cho kẻ khác, thì sẽ dùng hình phạt trừng trị để khống chế họ. Kính mong Đức Thế Tôn thể hiện tính chất dũng mãnh để tạo được Phật sự lớn lao. Đức Thế Tôn nói kệ đáp: Trong pháp của Phật ấy Không hề não kẻ khác Độ khổ đến bờ giác Mọi xứ tâm bình đẳng. Các pháp không có hai Đạo sư lìa yêu ghét Đạo một như hư không Đó là cảnh giới Phật. Như có tâm hữu vi Tư duy việc khứ lai Đấy dùng pháp chẳng pháp Thâu tóm quỷ thần đến. Bấy giờ, lại có một vị Đại Phạm thiên tên là chính Biện, là bậc đã an trụ nơi Địa thứ mười của hàng Thánh trong đạo giác ngộ Vô thượng, đã dùng các công đức của chư Bồ-tát để trang nghiêm, hiện đang có mặt trong chúng hội. Vị Đại Phạm thiên chính Biện thưa với chư Thiên vương, hết thảy chư Long vương, A-tu-la vương, cho tới Ca-trá phú-đơn-na vương: –Kính thưa chư vị! Đúng vậy! Nay theo Đức Như Lai chúng ta được lãnh hội ý nghĩa ấy! Như Phật Thế Tôn, hoặc đi đứng, hoặc ngồi nằm không hề gây chút phiền não cho chúng sinh. Chư vị nay thảy đều cùng lúc đồng thanh phát nguyện mong cầu, nên cần được nêu bày chỉ rõ. Mọi đám phi nhân hiện có đều theo chỗ thâu tóm của hết thảy Thiên, Long, Quỷ thần, thường hay đoạt lấy khí chất tinh túy, bức hại kẻ khác để ăn thịt uống máu, tất cả những hạng ấy mong được Hộ thế Tứ vương với uy lực của mình khống chế thu phục chúng. Nơi các loài hiện có, từ loài sinh từ biến hóa, sinh từ chốn ẩm thấp, sinh từ thai, sinh từ trứng, như thế là tùy theo chỗ hiện có mà chư Long, Dạ-xoa, La-sát, A-tu-la, Già-lâu-la, Càn-thát-bà, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Cưu-bàn-trà, Ngạ quỷ, Tỳ-xá-già, Phú-đơn-na, Ca-trá phú-đơn-na, hết thảy các chúng ấy đều sẽ là nơi nương tựa của bốn thứ sinh kia. Chúng Long, Dạ-xoa… ấy thảy được uy lực của Tứ đại Thiên vương thu phục. Mong Tứ đại vương thu tóm các chúng kia nơi tất cả các chốn chưa tới thì thảy được đến pháp hội này. Bấy giờ, hết thảy chư Thiên vương cho tới Ca-trá phú-đơn-na vương, đều cùng phát lời nguyện: –Trừ cõi Tam thập tam thiên, trở xuống là cõi Tứ thiên vương thiên, mọi chúng hiện có gồm chúng chư Thiên, chúng chư Long, cho đến loài Ca-trá phú-đơn-na, đều là chỗ nương tựa của bốn loại chúng sinh, hết thảy không còn một loại nào. Tất thảy mong được dựa vào Tứ đại Thiên vương, với uy lực sẵn có của mình, sẽ thu phục tất cả. Nếu các Thiên, Long, Dạ-xoa cho tới các loài Ca-trá phú-đơn-na, đối với Tứ Thiên vương có sự trái ngược phản lại, mỗi mỗi lệnh, lực của vương đều không nhận lời chỉ giáo, tức thì sẽ bị bánh xe sắt nung lửa đỏ rực cắt tiệt cả tai mũi. Như đã bị cắt tiệt cả tai mũi mà hãy còn vi phạm thì lại dùng bánh xe sắt cắt đứt cả tay chân. Nếu đã cắt đứt tay chân rồi mà còn vi phạm thì lại chém đầu. Nói chung là nếu có kẻ, chỉ cần làm trái giáo lệnh của Tứ Thiên vương thì thảy đều bị trừng trị như thế. Lúc này, Thiên vương Tỳ-sa-môn liền dùng bánh xe sắt với lửa cháy rực rỡ hướng về phương Bắc ném mạnh về phía ấy rồi đọc bài chú: “Đa địa dạ tha. Cùng cùng ni la cùng. Xoa bà cùng. Già khư già già. Ni ca khư xà la sý. Tô bà ha”. Thiên vương Tỳ-lâu-bác-xoa, cũng dùng bánh xe sắt rực lửa sáng ngời hướng về phương Tây, ném mạnh về phía đó, lại đọc câu chú: “Đa địa dạ tha. Thi lê khí. Già già na. Thi lê khí. Xoa thi la khí để. Xà lê. Tô bà ha.” Thiên vương Tỳ-lâu-lặc, cũng dùng bánh xe sắt sáng rực lửa cháy bừng hướng về phương Nam, ném mạnh về phía ấy, liền đọc câu chú: “Đa địa dạ tha. Xà la tỷ lị sư. Xà la tỷ lị sư. Tất da bà. Xà la tỷ lị sư. Đạt la thi. Xà la xà la tỷ lị sự. Tô bà ha”. Thiên vương Đề-đầu-lại-trá, cũng dùng bánh xe sắt rực lửa sáng ngời hướng về phương Đông mà ném mạnh về phía đó, liền đọc câu chú: “Đa địa da tha. A na dịch. A na a na da. A na phù tỳ. A ca xa phu tỳ. Ma hệ. Đồ dị. Tô bà ha”. Khi ấy, chư Thiên nơi bốn phương, kể cả loài Ca-trá phú-đơn-na, cùng với các vị Thần lớn nhỏ coi về cây rừng, dược thảo, từ xa trông thấy bánh xe sắt lửa cháy rực rỡ, thảy đều hết mực kinh sợ buồn sầu chẳng vui vì lo thân mạng mình sẽ chẳng còn, liền xem xét khắp mười phương rồi đều nghó: “Ai có thể cứu được chúng ta trong lúc này, sẽ là chỗ quy về hướng tới dâng cả thân mạng của chúng ta!” Tức thì liền xem thấy Đức Thế Tôn Đại Bi, là Bậc vì lợi ích chân thật của chúng sinh, hiện ở nơi núi Khư-la-đế là chốn nương ngụ của chư Tiên tịch mặc, được đông đảo đại chúng cùng vân tập đến vây quanh ngồi kín cả, chỉ có Bậc ấy thì mới có thể cứu được mạng của chúng ta! Liền trong khoảnh khắc một làn chớp đã đến chỗ Phật, tới đứng nơi phía trước Phật. Như thế là chư Thiên, Long, Dạ-xoa cho tới loài Ca-trá phú-đơn-na hiện có trong mười phương thảy đều đi đến chỗ Đức Phật, đứng yên nơi phía trước. Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ ý nghĩa trên một lần nữa, nên đọc kệ: Giờ ta, Lưỡng Túc Tôn Hỏi Thích, Phạm, Tứ vương Đã từng nghe từng thấy Chư Đạo sư quá khứ. Bốn thiên hạ phân bố Các chúng Thiên Long giữ Chẳng như ta nay sao Nơi đạo thọ phân bố? Thiên vương đáp lời ta Chư Phật xưa như thế Ngồi nơi cội Bồ-đề Phân cùng chúng Dạ-xoa. Sau, nhân tội lỗi tăng Chuyển sinh đủ loại ác Cưu-bàn, Long, Dạ-xoa La-sát, quỷ Đơn-na. Bạo ác chẳng xót thương Thường ăn uống thịt máu Chúng não loạn mọi nước Cùng quấy bốn họ người. Tạo mưa gió trái thời Thêm bao lượt nóng lạnh Đói kém, bệnh, tranh đoạt Hủy diệt vị đại địa. Với muôn loài không xót Bức hại nhiều chúng sinh Chẳng thể ngăn giữ được Không phục nơi chúng tôi. Do tinh khí đất giảm Tinh khí chúng sinh mất Tinh khí diệu chính pháp Khó đạt ngày càng tổn. Do từ nhân duyên ấy Chúng trời, người tổn giảm Đời ác xấu tăng trưởng Nẻo pháp khó đạt được. Pháp không trụ thế bền Đèn chính pháp mờ tắt Dòng Tam bảo bị dứt Thế gian càng tối tăm. Nay Phật đại dũng mãnh Nơi thời pháp lành tận Xuất hiện Diêm-phù-đề Đại Bi, thuốc cứu đời. Trong lời đủ sáu không Tỏ tận các bờ pháp Vì lợi ích chúng sinh Tạo hội Đại tập này. Hết thảy Thiên, Long vương Hộ thế cùng đến đủ Đám quỷ ác, không tình Luôn ăn thịt máu người. Long, quỷ Phú-đơn-na Đám ấy chẳng đến đây Không chốn thọ giáo lệnh Không nương thuộc phần khác. Hết thảy nhận lời Phật Khiến chúng đều đến hội Nguyện phân nơi chúng ấy Đều khiến có chỗ trao. Không khiến lại bức hại Đoạt tinh khí các loài Tinh khí ba giống trụ Khiến người tu tập pháp. Pháp lành được tăng thêm Pháp ác dần bị diệt Do dấy đường ác dứt Trời, người thêm lợi ích. Cửa giải thoát được mở Dòng Tam bảo rạng truyền Phước nhuần thấm muôn loài Chóng đạt đến giải thoát. Lúc này ta lặng im Chẳng theo nơi chư vị Chư Đế Thích, Phạm vương Bốn Hộ thế đại vương. Thưa cùng tất cả chúng Hiện đến hội lớn này Khuyến thỉnh Thiên Nhân Sư Thâu đám quỷ đến đây. Dặn, giao phó rõ chúng Mọi thành ấp xóm làng Ngày đêm luôn gìn giữ Đều khiến trụ phần mình. Đại chúng chư Bồ-tát Cùng đứng dậy chắp tay Khuyến thỉnh Đại Đạo Sư Thâu đám quỷ cùng đến. Tất cả phân chia xong Hộ trì Diêm-phù-đề Chớ não hại chúng sinh Thể hiện tính dũng mãnh. Ta chẳng não loạn người Xa lìa việc khứ lai Thấu tỏ pháp không hai Lìa mọi tưởng chúng sinh. Đại Phạm vương chính Biện nói với chư Thiên vương: Đạo Sư chẳng não ai Pháp Phật không việc ấy. Thảy cùng phát nguyện rằng Khiến quỷ không bức hại Đều phân bố nương tựa Chư vị Tứ Thiên vương. Chư vương cùng nhau thưa Tôi nay xin y lời Thề chỉ giáo đám ấy Thảy khiến được phân công. Nếu chúng trái giáo lệnh Tức tốc xe sắt thiêu Tứ Thiên vương cùng lúc Đem xe hướng bốn phương. Chỉ trong một khoảnh khắc Đều đến hết chỗ Phật Đảnh lễ ngay chân Phật Chắp tay cùng an trụ. KINH ĐẠI PHƯƠNG ĐẲNG ĐẠI TẬP <卷 id="117157906">QUYỂN 50 <詞 id="117157907">Phẩm 15: Nguyệt Tạng <章 id="117157908">Phần 8: Chúng quỷ thần xấu ác có được lòng kính tin (1) Bấy giờ, Hộ thế Tứ đại Thiên vương trông thấy vô lượng a-tăng-kỳ chư Thiên, Long, Dạ-xoa cho tới chúng Ca-trá phú-đơn-na với đủ loại màu sắc, hình tướng, dục vọng, hành động, bản tính; đám ấy, đối với mọi chúng sinh, tính không chút Từ bi, luôn sân hận bạo ác, không biết sợ về đời sau, không hợp với phần của loài khác, chẳng hộ trì một chốn nào, luôn quấy hại đối với hàng Sát-lợi, thậm chí đến cả loài súc sinh, để cướp đoạt khí chất tinh thuần của họ, ăn cả máu thịt. Chúng quỷ thần ấy đã đến đông đủ nơi pháp hội. Lúc này, Tứ Thiên vương hết sức hoan hỷ, đều tự mình hỏi han các vị đại tướng thống lãnh của chúng kia. Thiên vương Tỳ-sa-môn hỏi đại tướng Dạ-xoa Tán Chi: –Mọi chúng Dạ-xoa hiện có nơi bốn cõi thiên hạ này, như sinh từ trứng, sinh từ thai, sinh từ chốn ẩm thấp, sinh từ biến hóa, hoặc nương tựa nơi thành ấp, làng xóm, nhà cửa, chùa tháp, vườn cây, hang núi, sông suối, ao giếng, trong khoảng gò nổng có mồ mả, bóng cây, ruộng đồng mông quạnh, rừng vắng, lều không, biển rộng, cồn bãi, như đi trên đất, đi trên nước hay đi trên không, tất cả không còn sót một kẻ nào, hiện nay cùng đến đủ nơi chỗ của Đức Thế Tôn chăng? Đại tướng Tán Chi thưa: –Kính thưa đại vương! Mọi chúng Dạ-xoa hiện có nơi bốn cõi thiên hạ này, kể cả những nơi biển rộng cồn báu, hoặc đi trên đất, đi trên nước hay đi trên không, hết thảy không còn sót một chúng nào, hôm nay đều có mặt đông đủ nơi pháp hội này. Thiên vương Đề-đầu-lại-trá hỏi đại tướng Càn-thát-bà Lạc Dục: –Mọi chúng Càn-thát-bà hiện có nơi bốn cõi thiên hạ này. Mọi hỏi đáp tiếp theo như đã nêu ở trên. Thiên vương Tỳ-lâu-lặc-xoa hỏi đại tướng Cưu-bàn-trà đế: –Mọi chúng Cưu-bàn-trà hiện có nơi bốn cõi thiên hạ này. Mọi hỏi đáp tiếp theo giống như đã nêu ở trên. Thiên vương Tỳ-lâu-bác-xoa hỏi Long vương Thiện Hiện: –Mọi chúng Long, Ma-hầu-la-già, Già-lâu-la, chúng ngạ quỷ… hiện có nơi bốn cõi thiên hạ này, như sinh từ trứng, sinh từ thai, sinh từ chốn ẩm thấp, sinh từ biến hóa, hoặc nương tựa nơi thành ấp, làng xóm, nhà cửa, kể cả những nơi biển rộng cồn báu, như đi trên đất, đi trên nước hay đi trên không, tất cả không còn sót một chúng nào, hôm nay thảy đều đi đến chỗ của Đức Thế Tôn chăng? Long vương Thiện Hiện thưa: –Thưa đại vương! Mọi chúng Long, cho đến ngạ quỷ hiện có nơi bốn cõi thiên hạ này, hết thảy không còn sót một chúng nào, hôm nay đều có mặt nơi pháp hội của Đức Thế Tôn. Bấy giờ, Tứ đại Thiên vương, Thích Đề-hoàn Nhân, chủ thế giới Ta-bà Đại phạm Thiên vương, Phạm thiên chính Biện, thảy đều chắp tay hướng về Đức Phật dốc lòng kính lễ và thưa: –Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Nơi bốn cõi thiên hạ này các chúng quỷ thần hiện có, từ chư Thiên, Long, Dạ-xoa, La-sát, Già-lâu-la, Khẩn-na-la, Càn-thát-bà, Ma-hầu-la-già, Cưu-bàn-trà, Tỳ-xá-già, cho tới đám ngạ quỷ, hoặc sinh từ trứng, sinh từ thai, sinh từ chốn ẩm thấp, sinh từ biến hóa, hoặc đi trên đất, đi trên nước hay đi trên không, tất cả không còn sót một chúng nào, hôm nay thảy đều đi đến pháp hội của Đức Thế Tôn. Chúng tôi đã nhận lấy ý kiến của các bậc Đại trí xin bày tỏ lời khuyến thỉnh Đức Như Lai, kính mong Đức Thế Tôn, vì luôn thương xót đến chúng tôi và mọi chúng sinh, vì nhằm khiến cho đám chúng sinh xấu ác có được lòng kính tin, vì muốn che mắt sáng chính pháp được trụ thế lâu bền. Vì nhằm làm cho dòng Tam bảo được nối tiếp liên tục không hề bị đứt đoạn, vì dốc khiến cho phần khí chất tinh thuần nơi đại địa, nơi chúng sinh, nơi chính pháp mãi mãi tồn tại ở thế gian và luôn tăng trưởng, cũng lại nhằm khiến cho các nẻo thiện, khiến cho con đường giải thoát, khiến cho tám con đường chân chính của bậc Thánh giác ngộ không hề bị hủy diệt mà luôn được phát triển không ngừng. Kính thưa Đức Thế Tôn! Trong cõi Diêm-phù-đề này với mọi thành ấp, làng xóm, nhà cửa, cho tới các châu quận cồn bãi quý giá sung túc, tất cả không sót một chốn nào đối với chư Thiên, Long, Dạ-xoa kể cả loài quỷ Ca-trá phú-đơn-na, hiện đang có mặt ở đây tùy theo chỗ thích hợp mà giao phó dặn dò phân công đều khắp khiến họ hộ trì. Hôm nay, nơi pháp hội tập hợp đông đảo gồm tất cả chư Thiên vương, tất cả chư Long vương, cho tới chư Tỳ-xá-già vương, mỗi chư vị đều dẫn theo đám quyến thuộc thảy cùng có mặt nơi chúng hội này, nên đem mọi lời giao phó dặn dò truyền đạt cho họ, khiến họ đối với mọi lời chỉ giáo trao truyền ấy luôn nhớ nghó, lãnh hội một cánh trọn vẹn, để cùng thực hiện các pháp kia. Như thế là sẽ làm cho chư vị Thiên, Long, cho tới loài quỷ Ca-trá phú-đơn-na đó, mỗi chúng nơi sự phân công của mình mà thực hành công việc hộ trì, nuôi dưỡng, chớ nên tự buông thả cũng như không não hại kẻ khác, thấy kẻ khác bị não hại thì phải che chở giúp đỡ, không được bỏ rơi. Lại cũng khiến cho các chúng ấy, mỗi chúng nơi phận sự của mình mà phát khởi sức dũng mãnh lớn đem lại ý nghĩa chính đáng cho sự hộ trì dưỡng nuôi kia. Các chúng đó như đã phát khởi được sức dũng mãnh lớn lao rồi tất sinh hoan hỷ, vui thích với công việc mình làm vậy là tên tuổi được vang truyền khắp chốn, đạt được phước báo lớn. Lúc này, Đức Thế Tôn ghi nhận những lời khuyến thỉnh ấy, vì lòng Từ bi luôn thương xót đến mọi chúng sinh, nên nhìn xem tất cả chư vị hiện có mặt nơi đại chúng, tức thì đưa nhẹ cánh tay phải lên và nói: –Này chư vị Hiền thủ của tất cả đại chúng! Hết thảy chư vị hãy lắng nghe! Ta sẽ nêu giảng rõ. Phật xuất hiện khó gặp như hoa Ưu-đàm. Xa lìa tám nạn khó như theo thời tiết mà đạt được loài cây có hương thơm. Nghe chính pháp khó như mưa xuống loại vàng Diêm-phù-đàn. Gặp được vị Tăng gồm đủ giới, định làm bậc được cúng dường khó như tới chốn cồn bãi chứa nhiều báu vật nơi biển rộng. Đối với Tam bảo đạt được lòng kính tin khó như cầu tìm ngọc báu như ý. Gặp được Tam bảo và thực hiện bố thí khó như cầu công đức từ bình Thiên hiền. Thọ trì giới luật khó như nơi chốn có loại ngưu đầu chiên-đàn khó có thể tìm kiếm được. Ở nơi chúng sinh duyên khởi tâm Từ bi khó như gặp phải tên giặc thù hung bạo tay cầm chày Kim cang khó có thể giữ lấy nổi thân mạng. Biết đủ khó như khéo làm được A-thấp-bà mê-đà da-nhã (A-thấp-bà, đời Tề gọi là ngựa, Mê-đà: cây cột làm bằng vật báu. Da-nhã: tế tự. Lễ tế tự này chỉ hàng vua chúa ở cõi Diêm-phù-đề mới thực hiện). Này chư Hiền thủ! Có mười thứ bình đẳng. Nếu có chúng sinh đạt đủ các thứ bình đẳng ấy, thì trong thời gian còn bị trôi lăn nơi cõi sinh tử luôn nhận được phước báo thù thắng, có thể chóng vào được thành trì vô úy lớn lao. Những gì là mười thứ bình đẳng đó? 1.Chúng sinh bình đẳng. 2.Pháp bình đẳng. 3.Thanh tịnh bình đẳng. 4.Bố thí bình đẳng. 5.Giới luật bình đẳng. 6.Nhẫn nhục bình đẳng. 7.Tinh tấn bình đẳng. 8.Thiền định bình đẳng. 9.Trí tuệ bình đẳng. 10.Tất cả pháp thanh tịnh bình đẳng. Này chư vị nhân giả! Nơi các thứ bình đẳng vừa nêu, thế nào là chúng sinh bình đẳng? –Chúng sinh ở đây là chỉ cho tất cả chúng sinh hiện có trong ba cõi. Như có chúng sinh tự yêu mến thân mình, nhằm đạt được đời sống có ý nghĩa nên cầu an lạc lìa khổ, thì phải nên tư duy học hỏi như thế này: Như có hàng trượng phu với thọ mạng của mình đã tạo tác các nghiệp hoặc thiện hoặc bất thiện, tự mình làm hay chỉ bày người khác làm, thấy rõ việc thọ nhận quả báo. Vì thế, chư vị nhân giả, như cầu an lạc lìa khổ não thì phải nên đối với thân khẩu ý tạo các nghiệp thiện, không tạo nghiệp ác. Hoặc với thân này, hoặc với thân đời sau luôn tự đem lại lợi ích cho mình và lợi ích cho người khác, luôn tự làm điều lành cùng khiến cho người khác làm điều lành, không tạo nghiệp ác. Này chư nhân giả! Đó gọi là chúng sinh bình đẳng. Này chư vị nhân giả! Thế nào là Pháp bình đẳng? –Pháp ấy, tức như có chúng sinh cầu an lạc lìa khổ não nên vui thích sống, sợ chết, đối với ân ái không rời, oán ghét không tỏ. Người như thế là tâm đã bị chìm đắm trong biển tối mênh mông. Vì sao? Vì nếu có chúng sinh chấp trước đối với ngã của mình, tất trôi lăn mãi trong sinh tử, không thấy được con đường giải thoát thanh tịnh. Vì vậy đối với các pháp bình đẳng nên tư duy quan sát, không lìa chúng sinh mà có pháp, không lìa pháp mà có chúng sinh. Như thể tính của chúng sinh tức là thể tính của ta. Như thể tính của ta tức là thể tính của tất cả các pháp. Như thể tính của tất cả các pháp tức là thể tính của pháp Phật. Như thế, trong lúc quán các pháp là bình đẳng, chúng sinh tức ấm “không thể thủ”, lìa “ấm không thể thủ” là đạt “hòa hợp không thể thủ” lìa hòa hợp thì cũng “không thể thủ, chẳng phải pháp, phi chẳng phải pháp”. Người ấy như thế là đã an trụ nơi vô tướng. Đó gọi là pháp bình đẳng. Này chư vị nhân giả! Thế nào là Thanh tịnh bình đẳng? –Đó là đạt được thân người gồm đủ mười đức. Những gì là mười đức? 1.Xa lìa những gia đình hạ tiện. 2.Không ngu độn. 3.Không bị câm. 4.Các căn không thiếu. 5.Được thân nam nhi. 6.Dung mạo đoan nghiêm. 7.Có được quyến thuộc tốt đẹp. 8.Không bần cùng. 9.Không hề bị người khác khinh chê, lời nói bày ra luôn thích hợp. 10.Được nhiều người ngưỡng mộ. Vì sao cho có được thân người gồm đủ mười đức gọi là Thanh tịnh bình đẳng? –Như được thân người nên đạt được ba thứ luật nghi, xa lìa ba đường ác, có thể cầu ba thừa, ba giống Bồ-đề tùy theo chỗ tu tập mà đạt được. Vậy làm thế nào đạt được Thanh tịnh bình đẳng? Như người có thể đạt được nẻo Bồ-đề, đối với tất cả các pháp tâm không hề có chỗ nương tựa bám víu, đối với hết thảy cảnh giới trong ngoài tâm cũng không có chỗ bám víu. Người ấy như thế là không bị vướng ở tất cả các pháp, ở nơi như như không chốn giữ lấy, nhận thức hết thảy các pháp không hề giữ lấy bên trong hay bên ngoài tâm. Ở nơi hai cực của cảnh giới luôn đạt được tịch tónh yên tịnh. Người ấy như thế là lúc đạt được chính kiến về pháp thanh tịnh không còn có nhận thức phân biệt trong ngoài có chúng sinh, cuộc sống, thọ mạng, sự sinh, con người, nhiều loại, nuôi dưỡng, sự tạo tác, sai khiến tạo tác, sự dấy khởi, sai khiến dấy khởi, sự thọ nhận, sai khiến thọ nhận, tri thức, nhận thức. Người đó như thế là ở nơi các chúng sinh đã thấy được nẻo vô ngã thanh tịnh bình đẳng, không chúng sinh, không thọ mạng, vô ngã, lìa dục, thanh tịnh, không còn dấy khởi biên kiến. Như thế là được nhập vào nẻo chúng sinh thanh tịnh bình đẳng, nhập vào nẻo tất cả pháp Không, vào nẻo trí vô hành, vào ấn Vô tướng, Vô nguyện, được nhập vào nẻo chúng sinh thanh tịnh bình đẳng. Người đó đã dùng các pháp kia mà tạo nên sự thành tựu trọn vẹn cho chúng sinh, không hề hủy hoại ngã, cũng không thể hủy hoại sự vật cùng tài vật. Như đã nhận biết thể tính của tất cả chúng sinh là bình đẳng, tất nhận biết thể tính của tất cả pháp. Như thể tính của tất cả các pháp tức là thể tính của pháp Phật. Đó gọi là tất cả các pháp bình đẳng với pháp Phật, được xem là thanh tịnh bình đẳng. Này chư vị nhân giả! Thế nào là Bố thí thanh tịnh bình đẳng? Này chư vị nhân giả! Do từ bốn thứ bố thí thanh tịnh bình đẳng, vì có sự bố thí nên chúng sinh lúc ở nơi dòng chảy sinh tử, luôn nhận được phước báo hơn hẳn, có thể mau chóng vào được thành trì vô úy to lớn. Những gì là bốn thứ? 1.Đối với hết thảy chúng sinh luôn dấy khởi tâm xót thương cứu vớt. 2.Khởi tâm bình đẳng. 3.Tâm đại Từ. 4.Tâm Đại Bi. Đó là bốn thứ Bố thí thanh tịnh bình đẳng, khiến cho mọi chúng sinh lúc còn ở nơi dòng chảy sinh tử luôn thọ nhận phước báo thù thắng, có thể chóng được vào thành trì vô úy lớn. Này chư vị nhân giả! Thế nào là đối với tất cả chúng sinh luôn khởi tâm xót thương thanh tịnh bình đẳng? Như có chúng sinh mong cầu an lạc lìa khổ, nhưng ân ái không rời, oán ghét không tỏ, muốn được kéo dài cuộc sống với những lợi dưỡng, tiếng khen, giàu sang, năm thứ dục lạc, thì phải nên tư duy học hỏi như thế này: Như nẻo ái dục của chính ta là luôn quý trọng thân mạng mình, không hề biết chán đủ, nên dùng tất cả mọi phương tiện hơn hết để giữ gìn lấy thân mạng ấy với bất cứ giá nào. Như thế thì đối với hết thảy chúng sinh cũng vậy. Mỗi mỗi chúng sinh, thậm chí cả loài con trùng sâu kiến, nẻo ái dục cũng luôn coi trọng thân mạng không hề biết chán đủ, cũng dùng mọi phương tiện hơn hết để giữ gìn lấy thân mạng với bất cứ giá nào! Vậy thì ta làm sao đối với mọi thọ mạng của bao chúng sinh khác, lại gây tạo não hại cho họ? Lại có thể cướp đoạt hủy hoại thân căn mạng sống của họ? Nếu ta đối với bao thọ mạng của những chúng sinh khác tạo nên sự não hại đoạn lìa, thì chính vì sự đoạn lìa não hại ấy mà bản thân ta trải qua trăm ngàn vạn đời, trong mỗi mỗi đời phải luôn chịu lấy sự đoạn lìa thân mạng cùng nhận lấy bao khổ não. Vậy là kể từ hôm nay, đối với mọi chúng sinh, ta luôn khởi tưởng thân thuộc xem họ như cha mẹ hay anh em nam nữ trong nhà, thậm chí cả những loài côn trùng sâu kiến, ta cũng nên khởi tưởng thân thuộc như trên. Lại không não hại thân mạng họ, không cướp đoạt vật dụng sinh sống của họ, không làm đoạn lìa hay hủy hoại thân mạng họ. Cũng không khiến kẻ khác làm công việc cướp đoạt phần khí chất tinh thuần cùng cắt đứt mạng căn của họ. Như thế là ta sẽ trải qua hàng trăm ngàn ức na-do-tha kiếp lưu chuyển qua các nẻo sinh tử, nơi mỗi mỗi đời trong sự thọ nhận thân mạng của mình ấy, không gì có thể làm não hại, cướp đoạt vật dụng sinh sống cùng hủy hoại thọ mạng mình được. Vì sao? Vì đối với hết thảy chúng sinh, không có gì khác với cha mẹ, anh em, nam nữ thân thuộc của ta và ta đối với tất cả chúng sinh cũng không khác với cha mẹ, anh em, nam nữ thân thuộc của họ. Do nhân duyên đó mà ta từng cùng với hết thảy chúng sinh là thân thuộc, tất cả chúng sinh từng cùng với ta là thân thuộc. Thế sao đối với họ ta lại sinh lòng não hại? Điều này thật chẳng nên làm. Chỗ gọi là não hại ấy, như ta tạo nên sự não hại đối với tầng lớp Sát-lợi, khiến cho tầng lớp này đối với mọi dân chúng nơi quốc độ cảnh giới của họ, không hề biết hạn chế, điều phục các sở dục của mình. Đối với tầng lớp Bà-la-môn, thậm chí đến cả loài súc sinh cũng tạo sự não hại nơi tâm khiến họ không còn biết hạn chế, biết đủ, từ duyên do ấy, gây nên bao cảnh tranh giành chém giết, hủy báng, kiện tụng, vu cáo, lừa dối, dẫn tới việc xâu xé, hủy diệt thọ mạng lẫn nhau. Vì vậy, ta nay, đối với các chúng sinh phải nên dứt bỏ mọi sự não hại cùng đoạn lìa thọ mạng họ. Ta nên dùng sự bố thí thanh tịnh bình đẳng này làm nhân duyên, nên trong thời gian còn lưu chuyển trong cõi sinh tử, không ai có thể tạo được sự não hại đối với ta, hoặc cùng ta chém giết tranh giành, kiện tụng, vu cáo, dối lừa, dẫn tới việc xâu xé đoạn lìa thân mạng ta. Đó gọi là gây tạo việc não hại. Còn thế nào là hại mạng? Những chúng sinh ấy phải nên tư duy học hỏi như vầy: “Tất cả chúng sinh cùng với ta là thân thuộc. Ta cùng với hết thảy chúng sinh là thân thuộc. Vậy nên ta mưu hại thọ mạng của chúng sinh, điều ấy thật chẳng nên làm. Nếu như ta tạo nên những trận mưa gió trái thời tiết, những trận nắng hạn, mưa đá, lôi cuốn đất bụi mịt mờ làm khô cạn các nguồn nước, khiến cho bao thứ hoa quả, rau màu, dược thảo với đủ loại hương vị bị tổn giảm, do vậy mà muôn loài bị đói khát, bốn đại mất quân bình sinh ra vô số thứ bệnh tật, dẫn tới mạng chung. Vì thế, đối với hết thảy mọi chúng sinh, ta nên dứt bỏ sự mưu hại thân mạng họ. Do sự dứt bỏ mọi mưu hại ấy mà khí chất tinh thuần nơi hương vị của đại địa không còn bị mai một, từ nhân duyên đó khiến cho hết thảy chúng sinh lìa khỏi cảnh đói khát, bốn đại được hài hòa, các bệnh không dấy khởi, mạng sống được bảo đảm. Về phần mình, do sự bố thí thanh tịnh bình đẳng ấy mà ta trong thời gian còn bị lưu chuyển qua các nẻo sinh tử, ta không hề bị nhận lấy bao cảnh đói khát bệnh khổ. Đó gọi là việc mưu hại thọ mạng. Còn thế nào là những vật dụng liên hệ đem lại sự sống cho thân mạng của muôn loài? Phải nên tư duy học hỏi như thế này: Hết thảy chúng sinh cùng với ta là thân thuộc. Ta cùng với tất cả chúng sinh là thân thuộc. Vậy nếu ta đối với họ lại cướp đoạt lấy những vật dụng đem đến sự sống cho họ, điều ấy thật không nên làm. Như cướp đoạt lấy bao thứ hoa quả dược thảo, năm thứ lúa gạo hoa màu, các khí chất tinh thuần… tức những thứ đem lại mạng sống cho chúng sinh, khiến họ phải dùng các thứ hoa quả dược thảo, năm thứ lúa gạo hoa màu, các thứ hương vị khí chất nói chung là xấu, độc, dẫn tới tình trạng thân tâm họ bị tổn giảm, suy nhược, mất dũng lực, không còn chính niệm, nên luôn giận dữ, bạo ác, độc hại, hoặc hình sắc đáng ghét, lắm bệnh. Vì vậy ta phải nên thuận theo lời chỉ dạy của chư Thiên, tiên quá khứ, nơi mỗi mỗi thứ hoa quả, các loại hương vị, trong số sáu mươi tư phần khí chất tinh thuần ấy chỉ nên giữ lấy một phần để làm sự sống cho thân mạng, còn lại sáu mươi ba phần thì dùng làm sự sống cho chúng sinh khiến họ có được cuộc sống an lạc. Ta nay do tạo được nhân duyên tri túc ấy, nên trong khoảng thời gian còn bị lưu chuyển nơi cõi sinh tử ta sẽ không dùng tới các thức ăn bị tàn hại, cùng các tinh chất không hương vị, nhờ đấy mà uy lực gồm đủ, trí óc minh mẫn, tâm ý hiền hòa, sắc tướng tươi đẹp không bệnh. Đó gọi là các vật dụng đem lại sự sống cho thân mạng. Lại thế nào là làm cho thân mạng ly biệt? Như đem tâm xấu ác để đối xử với chúng sinh, làm tổn hại thân thể cùng khiến tâm ý họ bị tán loạn, nhân đấy cứ dần dà đoạt lấy khí chất tinh thuần của họ, làm cho thân tâm họ luôn bị khổ não bức bách. Phải nên tư duy và học hỏi như vầy: Ta cùng với tất cả chúng sinh là thân thuộc, tất cả chúng sinh cùng với ta là thân thuộc cho tới việc ấy là không nên làm. Nếu ta đối với người thân lại đem tâm xấu ác để đối xử với họ, làm tổn hại thân thể cùng khiến cho tâm ý họ bị tán loạn, nơi các chi phần của thân sắc họ tước đoạt lấy phần khí chất tinh thuần, như thế là đã khến cho người thân thuộc của ta thân tâm phải chịu lấy bao khổ não. Chính từ nhân duyên không làm tổn hại người thấn ấy, nên trong thời gian còn lưu chuyển nơi cõi sinh tử, không hề có những kẻ phi nhân đem tâm xấu ác đối xử với ta, cũng không thể làm tổn hại thân hay khiến cho tâm ý ta bị tán loạn, khí chất tinh thuần của ta không hề bị mất mát. Đó gọi là làm cho thân mạng ly biệt. Còn thế nào là hủy hoại thân mạng? Như các chúng sinh, do vì sự sống của bản thân mình mà chém giết thân mạng người để đoạt lấy khí chất tinh thuần của họ, cả các chốn núi cao rừng rậm, sông lớn vực sâu cũng đều khiến khô héo tàn lụi. Hoặc dùng độc dược khiến kẻ khác chỉ còn là thây ma, hoặc tạo ra bao kiểu độc ác, bao thứ vật ác để hãm hại người, hoặc dứt đường ăn uống, hoặc chém đầu để kết liễu thân mạng người, từ những nhân duyên ấy, nên những ai nếu luôn yêu quý thân mạng mình muốn được trường thọ mong cầu an lạc xa lìa khổ não, có được tên tuổi giàu sang, cùng đạt giải thoát, thì phải nên tư duy học hỏi như thế này: Ta cùng với tất cả chúng sinh là thân thuộc. Hết thảy chúng sinh cùng với ta cũng là thân thuộc. Nếu ta vì để nuôi sống thân mạng mình mà lại đi cướp đoạt lấy phần khí chất tinh thuần của kẻ khác, xâm phạm hủy hoại các chi thể thậm chí chém cả đầu họ, những điều đó thật không nên làm, chính nhờ nhân duyên không xâm phạm hay sát hại ấy mà trong thời gian còn bị lưu chuyển nơi cõi sinh tử, không một ai có thể chém đầu hay hủy hoại thân mạng ta được. Đó gọi là hủy hoại thân mạng. Những điều vừa nêu dẫn trên gọi là Thanh tịnh bình đẳng. Này chư vị nhân giả! Như Lai luôn tỏ lòng thương xót đối với hết thảy chúng sinh, vì thế mà đã tích chứa được nhiều công đức, trí tuệ, dứt trừ được bao thứ hư dối, giả trá, những nhận thức huyễn ảo, có được tâm kiên cố dũng mãnh mong cầu các điều thiện nương theo chính pháp mà tu tập. Do từ nhân duyên đó nên đối với mọi chúng sinh khác không hề khởi niệm xấu ác, hay dấy tâm mưu hại. Vậy là chỗ giữ gìn giới cấm đã có sự gắn bó với muôn loài. Thấy chúng sinh an vui thì mình hết sức hoan hỷ, chia sẻ. Đối với mọi duyên đem lại an lạc cho mình thì luôn tự mình biết đủ. Đối với hết thảy mọi nẻo ái dục không thể không nên rời bỏ. Nơi tất cả các pháp không còn dấy tâm tham tiếc. Luôn tỏ ra lo sợ trong ba cõi đối với các điều nhẫn nhục sức mình có thể gánh chịu được. Tin tưởng nơi tướng vô thường để có thể theo đúng chính pháp mà hành hóa. Đối với bản thân mình nếu bị mất đi niềm tin ấy thì phải dốc sức tự quan sát để dần dà thấu đạt lại. Nếu thấy người khác bị mất, nên sinh tâm thương xót cứu giúp. Nơi tất cả các pháp lành không hề tự mãn cho là đầy đủ. Thường thành tâm tỏ bày sám hối có được nẻo hồi hướng vô biên để có thể đạt đến các pháp thâm diệu. Dốc tâm làm phước điền đối với mọi chúng sinh. Mong cầu đạt được trí tuệ chán lìa khổ não. Phải nên có lòng kinh sợ đối với bao thứ phiền não nơi dòng chảy sinh tử trong ba cõi ngục tù. Phải gắng sức dứt trừ hết thảy mọi khổ não của chúng sinh, từ đấy có thể mong đạt được các pháp Phật. Lại nên dốc lòng dứt tâm hướng về các đường xấu ác, đối với các pháp lành phải luôn tạo được sự an trụ vững chắc. Này chư vị nhân giả! Đó gọi là Thanh tịnh bình đẳng ở thế gian. Này chư vị nhân giả! Ta nay đã nêu giảng đầy đủ về diệu nghĩa bậc nhất của pháp thanh tịnh bình đẳng. Đức Phật nói xong lời ấy liền đọc chú: “Đa địa dạ tha. Dạ mị dạ mị. Bát la khư dạ mị. Ưu bát la khư da mị. Da dạ mị khư dạ dạ mị. Tô bà ha”. Lúc Đức Phật giảng nói về pháp môn ấy, có tám trăm sáu mươi vạn Khẩn-na-la, Càn-thát-bà xa lìa được mọi thứ bụi bặm cấu nhiễm, đạt Pháp nhãn thanh tịnh. Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại đọc chú: “Đa địa dạ tha. Cù kiệt lê. Dạ bà cù kiệt lê. Ưu bà dạ bà. Cù kiệt lê. Tô bà ha”. Đức Thế Tôn lại đọc chú: “Đa địa dạ tha. Đà la tỳ đà la đà tỳ. Ưu bả đà la. Đà la đà tỳ. Tô bà ha”. Lúc Đức Phật giảng nói về pháp môn này, có chín trăm bốn mươi vạn Dạ-xoa xa lìa mọi thứ bụi bặm cấu uế, đạt được Pháp nhãn thanh tịnh. Đức Thế Tôn lại đọc chú: “Đa địa dạ tha. A xà nê. Xoa xoa xà nê. Già xoa xoa a xà nê. Mao la a xà nê. Xoa soa. Tô bà ha”. Lúc Đức Phật giảng nói về pháp môn này, có bảy ngàn vạn Rồng, đối với pháp xa lìa mọi thứ bụi bặm cấu nhiễm đạt được pháp Tam-muội. Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại đọc chú: “Đa địa dạ tha. Ha ha ha ha ha ha. Hệ vu bà. Ha ha ha. Thị nhược thị nhược thị nhược. Ha ha ha. Tô bà ha”. Khi Đức Phật giảng nói về pháp môn này, có ba trăm vạn na-do-tha A-tu-la đạt được pháp Tam-muội không quên tâm Bồ-đề. Đức Thế Tôn lại đọc chú: “Đa địa dạ tha. A nô na. A na bồ na. A bà na nô na. A bà hỷ lê dạ. A bà na nô na. Tô bà ha”. Khi Đức Phật giảng nói về pháp môn này, có tám vạn bốn ngàn tần-bà-la Cưu-bàn-trà đạt được pháp Tam-muội vui thích. Đức Thế Tôn lại đọc chú: “Đa địa dạ tha. Đà già đà xà. A bà đà già đà xà. A bà già đà xà xà. Kiều đà kiển đà xà. Tô bà ha”. Lúc Đức Phật giảng nói về pháp môn này có bảy mươi vạn na-do-tha Ngạ quỷ, quỷ Tỳ-xá-già, Phú-đơn-na, quỷ Ca-trá phú-đơn-na, đạt được pháp Tam-muội Điện vương. Ngoài ra còn có số lượng nhiều hơn nữa chúng Thiên, Long, Dạ-xoa cho tới loài quỷ Ca-trá phú-đơn-na, từ trước chưa từng phát tâm cầu đạo Bồ-đề vô thượng nay thảy đều phát tâm. Này chư vị nhân giả! Đó gọi là diệu nghĩa bậc nhất của pháp Bố thí thanh tịnh bình đẳng. Này chư vị nhân giả! Còn thế nào là giới luật thanh tịnh bình đẳng? –Như hết thảy thế gian cùng xuất thế gian, các nẻo thiên cùng sự an lạc của cảnh giới Niết-bàn, giới luật chính là nền tảng có thể đem lại sự an trụ cho quả vị của các hàng Thanh văn, Bích-chi-phật, cũng đem lại sự an trụ cho bậc đại trí tuệ Vô thượng chính đẳng chính giác. Giới luật thanh tịnh bình đẳng ấy, đó là con đường thực hiện mười nghiệp thiện, dứt trừ sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói lời hai chiều, nói lời độc ác, nói lời thêu dệt, tham lam, sân hận, tà kiến. Này chư vị nhân giả! Dứt bỏ sát sinh sẽ đạt được mười thứ công đức. Những gì là mười công đức ấy? 1.Đối với mọi chúng sinh đạt vô sở úy. 2.Đối với mọi chúng sinh luôn khởi tâm Từ bi rộng lớn. 3.Trừ sạch mọi tập khí xấu ác. 4.Luôn ít mắc phải các thứ bệnh, buồn phiền, làm việc luôn quyết đoán. 5.Thọ mạng lâu dài. 6.Luôn được các hàng phi nhân hộ trì. 7.Mọi sự ngủ nghỉ luôn được an ổn không có những ác mộng. 8.Không còn có những đối tượng thù oán. 9.Không hề sợ hãi đối với các đường ác. 10.Khi mạng chung thân hoại tất được sinh vào cõi thiện. Này chư vị nhân giả! Đó gọi là dứt bỏ sát sinh thì sẽ đạt được mười thứ công đức như thế. Nếu có thể đem căn lành của việc dứt bỏ sát sinh ấy hồi hướng đến đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác, thì người đó không bao lâu sẽ chứng đắc trí tuệ vô thượng. Trong lúc người đó đạt được đạo quả Bồ-đề thì ở nơi quốc độ ấy không hề xảy ra cảnh binh đao sát hại, chúng sinh được sinh đến cõi nước ấy luôn có được thọ mạng lâu dài. Này chư vị nhân giả! Dứt trừ trộm cắp sẽ đạt được mười thứ công đức. Những gì là mười thứ công đức ấy? 1.Có được đầy đủ phước báo lớn, việc làm luôn quyết đoán sáng suốt. 2.Mọi của cải vật dụng có được không cùng chung với kẻ khác mà có. 3.Của cải không cùng chung với năm nhà (vua, giặc, lửa, nước, con ác). 4.Luôn được mọi người yêu quý kính trọng. 5.Du hành đến khắp các nơi chốn không hề gặp phải những khó khăn trở ngại ngăn cản. 6.Mọi nẻo đi đến qua lại đều không lo sợ. 7.Luôn đem điều vui thích bố thí cho người. 8.Không mong cầu tài sản quý báu nhưng tự nhiên chóng có được. 9.Có được tài sản không hề bị mất mát. 10.Khi mạng chung thân hoại tất được sinh nơi cõi thiện. Này chư vị nhân giả! Đó gọi là dứt trừ trộm cắp sẽ đạt được mười thứ công đức như vậy. Như có thể đem căn lành của việc dứt bỏ trộm cắp ấy hồi hướng đến đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác, thì người đó không lâu sẽ đạt được trí tuệ vô thượng. Thời gian người đó đạt đến đạo quả Bồ-đề thì ở nơi quốc độ ấy có đầy đủ vô số các thứ cây cối, hoa quả, y phục, chuỗi ngọc, chuỗi báu cùng các vật dụng làm tôn vẻ trang nghiêm, các thứ vật báu châu ngọc quý lạ không đâu là không dồi dào, đầy dẫy. Này chư vị nhân giả! Dứt trừ tà dâm sẽ có được mười thứ công đức. Những gì là mười thứ công đức đó? 1.Đạt được các căn của luật nghi, mọi sự việc luôn được quyết đoán đúng đắn. 2.Đạt được sự an trụ thanh tịnh trong việc xa lìa ái dục. 3.Không hề gây tạo phiền não cho kẻ khác. 4.Được mọi người yêu thích. 5.Được mọi người thích ngắm nhìn chiêm ngưỡng. 6.Luôn có thể phát khởi tinh tấn. 7.Nhận thức được bao thứ lỗi lầm trong cõi sinh tử. 8.Thường vui thích bố thí. 9.Luôn vui thích mong cầu chính pháp. 10.Khi mạng chung thân hoại ắt được sinh nơi cõi thiện. Này chư vị nhân giả! Đó gọi là dứt trừ tà dâm sẽ đạt được mười thứ công đức như thế. Như có thể đem căn lành của việc dứt trừ tà dâm ấy hồi hướng đến đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác, thì người đó không lâu sẽ đạt được trí tuệ vô thượng. Thời gian người ấy đạt đến đạo quả giác ngộ thì ở nơi quốc độ đó không hề phát sinh các mùi hôi thối, cũng không có căn nữ, không thực hiện chuyện dâm dục, chúng sinh thảy đều sinh ra từ biến hóa. Này chư vị nhân giả! Dứt bỏ nói dối thì sẽ đạt được mười thứ công đức. Những gì là mười thứ công đức đó? 1.Những lời nói ra đều được mọi người tin theo, giữ gìn và đảm nhận để thực hiện. 2.Đối với hết thảy mọi nơi chốn, kể cả nơi chư Thiên, mọi lời nói nêu ra bày tỏ luôn được thích hợp. 3.Nơi miệng luôn tỏa ra hơi thơm như hoa Ưu-bát-la. 4.Ở trong các cõi trời, người, luôn riêng mình tạo được sự chứng đắc sáng tỏ. 5.Luôn được mọi người yêu kính, lìa bỏ mọi sự nghi ngờ. 6.Luôn phát ra lời nói chân thật. 7.Tâm ý luôn thanh tịnh. 8.Thường không dua nịnh, ngôn ngữ đều thích hợp với mọi đối tượng, trình độ. 9.Luôn có được nhiều sự hoan hỷ. 10.Khi mạng chung thân hoại sẽ được sinh nơi cõi thiện. Này chư vị nhân giả! Đó gọi là dứt trừ nói dối sẽ đạt được mười thứ công đức như thế. Như có thể đem căn lành của việc dứt trừ nói dối đó hồi hướng đến đạo quả Bồ-đề vô thượng, thì người ấy chẳng bao lâu sẽ đạt được trí tuệ vô thượng. Thời gian người ấy đạt đến đạo quả giác ngộ, thì ở nơi quốc độ đó không còn sinh ra các mùi hôi thối, trái lại là các mùi hương thơm quý giá, tịnh diệu luôn tỏa khắp mọi nơi chốn trong nước. Này chư vị nhân giả! Dứt trừ lời nói hai chiều sẽ đạt được mười thứ công đức. Những gì là mười thứ công đức đó? 1.Có được sự bình đẳng về thân tướng không thể bị hủy hoại. 2.Có được sự bình đẳng về quyến thuộc không thể bị hủy hoại. 3.Có được sự bình đẳng về bạn lành không thể bị hủy hoại. 4.Có được sự bình đẳng về niềm tin không bị hủy hoại. 5.Có được sự bình đẳng về các pháp không bị hủy hoại. 6.Có được sự bình đẳng về uy nghi không bị hủy hoại. 7.Có được sự bình đẳng về pháp Xa-ma-tha không bị hủy hoại. 8.Có được sự bình đẳng về pháp Tam-muội không bị hủy hoại. 9.Có được sự bình đẳng về nhẫn không bị hủy hoại. 10.Khi mạng chung thân hoại được sinh vào cõi thiện. Này chư vị nhân giả! Đó gọi là dừng dứt lời nói hai chiều sẽ đạt được mười thứ công đức như thế. Nếu có thể đem căn lành của việc dứt trừ lời nói hai chiều ấy hồi hướng đến đạo quả Bồ-đề vô thượng, thì người đó không còn lâu sẽ đạt được bậc có trí tuệ vô thượng. Thời gian người ấy đạt đến đạo quả giác ngộ, thì ở nơi quốc độ đó, mọi đám quyến thuộc hiện có, hết thảy các thứ ma oán cùng bè nhóm của chúng đều không thể xâm phạm, phá hoại được họ. Này chư vị nhân giả! Dứt trừ lời nói độc ác sẽ đạt được mười thứ công đức. Những gì là mười thứ công đức ấy? 1.Luôn có được ngôn ngữ dịu dàng hiền hòa. 2.Luôn có được ngôn ngữ nhanh nhẹn sắc bén. 3.Có được ngôn ngữ hợp lý. 4.Luôn có được lời nói tươi đẹp, đằm thắm. 5.Ngôn ngữ luôn có được sự thích ứng, thích hợp. 6.Lời nói luôn chân thật. 7.Ngôn ngữ luôn hiện tinh thần vô úy. 8.Ngôn ngữ luôn khiêm tốn, không có thái độ khinh thị, lấn hiếp. 9.Ngôn ngữ giảng nói về đạo pháp luôn thanh tịnh, đủ biện tài. 10.Khi mạng chung thân hoại tất được sinh nơi cõi thiện. Này chư vị nhân giả! Đó gọi là dứt trừ lời nói độc ác sẽ đạt được mười thứ công đức như vậy. Nếu có thể đem căn lành của việc dứt trừ lời nói độc ác ấy hồi hướng đến đạo quả Bồ-đề vô thượng, thì người đó không bao lâu sẽ đạt được bậc có trí tuệ vô thượng. Thời gian người ấy đạt đến đạo quả chính giác, thì ở nơi quốc độ đó, âm thanh nêu bày về chính pháp được tuyên giảng cùng khắp mọi nơi chốn, xa lìa mọi thứ ngôn ngữ xấu ác. Này chư vị nhân giả! Dứt trừ lời nói thêu dệt sẽ đạt được mười thứ công đức. Những gì là mười thứ công đức ấy? 1.Được trời, người yêu kính. 2.Được các bậc sáng suốt tùy hỷ. 3.Luôn vui thích với các sự việc chân thật. 4.Không hề bị các bậc sáng suốt hiềm nghi, trái lại luôn được gắn bó không lìa. 5.Nghe lời nói liền có thể lãnh hội thấu đạt. 6.Luôn được mọi sự tôn trọng, yêu kính. 7.Luôn có được sự yêu thích chốn A-lan-nhã. 8.Luôn yêu thích các bậc Thánh hiền tịch tónh. 9.Luôn xa lìa những kẻ ác, gần gũi các bậc Hiền thánh. 10.Khi mạng chung thân hoại tất được sinh vào cõi thiện. Này chư vị nhân giả! Đó gọi là dứt bỏ lời nói thêu dệt sẽ đạt được mười thứ công đức như thế. Nếu có thể đem căn lành của việc dứt trừ lời nói thêu dệt ấy hồi hướng đến đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác, thì người đó không còn lâu sẽ chứng đắc bậc có trí tuệ vô thượng. Thời gian người đó đạt đến đạo quả chính giác, thì ở nơi quốc độ ấy mọi chúng sinh được sinh ra thân tướng đều đoan nghiêm, có trí nhớ sắc sảo không hề quên, lìa bỏ ái dục, trụ trong an lạc. Này chư vị nhân giả! Dứt trừ tham dục sẽ đạt được mười thứ công đức. Những gì là mười thứ công đức ấy? 1.Các căn nơi thân tướng luôn được đầy đủ. 2.Mọi nghiệp của miệng luôn thanh tịnh. 3.Ý không hề bị tán loạn. 4.Luôn có được quả báo thù thắng. 5.Có được sự giàu sang lớn. 6.Được mọi người ưa thích nhìn xem, chiêm ngưỡng. 7.Chỗ đạt được quả báo về quyến thuộc không thể phá hoại. 8.Thường cùng với các bậc cao minh gặp gỡ tương đắc. 9.Không xa lìa âm thanh nêu giảng chính pháp. 10.Khi mạng chung thân hoại tất được sinh vào nẻo thiện. Này chư vị nhân giả! Đó gọi là dứt bỏ tham dục sẽ đạt được mười thứ công đức như thế. Nếu có thể đem căn lành của việc dứt trừ tham dục ấy hồi hướng đến đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác, thì người đó không bao lâu sẽ đạt đến bậc có trí tuệ vô thượng. Thời gian người ấy đạt đến đạo quả chính giác, thì ở nơi quốc độ đó dứt lìa mọi thứ ma oán cùng các đám ngoại đạo. Này chư vị nhân giả! Dứt trừ sân hận sẽ đạt được mười thứ công đức. Những gì là mười thứ công đức ấy? 1.Lìa bỏ hết thảy mọi sự giận dữ. 2.Có được sự ưa thích không tích chứa của cải. 3.Được các bậc Thánh ưa thích. 4.Luôn cùng với các bậc Thánh hiền gặp gỡ tương đắc. 5.Luôn có được mọi sự việc lợi ích. 6.Dung mạo luôn tươi đẹp đoan nghiêm. 7.Thấy chúng sinh an lạc luôn khởi tâm hoan hỷ. 8.Đạt được các pháp Tam-muội. 9.Ba nghiệp thân, miệng, ý luôn sáng tỏ, dồi dào, thích hợp. 10.Khi mạng chung thân hoại tất được sinh vào cõi thiện. Này chư vị nhân giả! Đó gọi là dứt trừ sân hận sẽ đạt được mười thứ công đức như vậy. Nếu có thể đem căn lành của việc dứt bỏ sân hận ấy hồi hướng đến đạo quả Bồ-đề vô thượng, thì người đó không bao lâu sẽ đạt đến bậc có trí tuệ vô thượng. Thời gian người ấy đạt đến đạo quả chính giác, thì ở nơi quốc độ đó, mọi chúng sinh hiện có thảy đạt được pháp Tam-muội, các chúng sinh được sinh đến quốc độ đó, tâm luôn được thanh tịnh hết mực. Này chư vị nhân giả! Dứt trừ tà khiến sẽ đạt được mười thứ công đức. Những gì là mười thứ công đức ấy? 1.Tâm tính luôn nhu hòa tốt đẹp, bạn bè đều là hạng hiền lương. 2.Luôn tin tưởng nơi nghiệp báo, thậm chí đến nỗi mất mạng cũng không dấy khởi các điều ác. 3.Dốc kính tin Tam bảo, lấy đó làm lẽ sống cho đời mình, không tin nơi thiên thần. 4.Đạt được chính kiến, không theo các sự việc quái dị, cũng không lựa chọn về ngày lành thời tốt. 5.Luôn được sinh nơi các cõi người, trời, xa lìa các nẻo ác. 6.Thường vui thích gây tạo phước đức, được các bậc cao minh khen ngợi. 7.Lìa bỏ các lễ nghi thế tục, luôn dốc cầu đạo giác ngộ giải thoát. 8.Luôn lìa dứt hai nẻo kiến chấp thường đoạn, để hội nhập vào pháp duyên khởi. 9.Thường cùng với nẻo chính và người phát tâm chân chính gặp gỡ tương đắc. 10.Khi mạng chung thân hoại tất được sinh nơi cõi thiện. Này chư vị nhân giả! Đó gọi là dứt trừ tà kiến sẽ đạt được mười thứ công đức như thế. Nếu có thể đem căn lành của việc dứt trừ tà kiến ấy hồi hướng đến đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác, thì người đó sẽ mau chóng thực hiện viên mãn sáu pháp Ba-la-mật, ở nơi cõi Phật thiện tịnh thành Bậc chính Giác. Đã đạt được đạo quả Bồ-đề, thì ở nơi cõi Phật ấy, mọi công đức trí tuệ cùng hết thảy các căn lành được dùng để tạo thêm sự trang nghiêm, các chúng sinh được sinh vào quốc độ đó không còn tin nơi thiên thần, lìa mọi sự lo sợ về các nẻo ác, nơi cõi ấy khi mạng chung được sinh trở lại vào nẻo thiện. Này chư vị nhân giả! Trong lúc thực hành bố thí thanh tịnh bình đẳng ấy, đối với giới luật dứt bỏ sát sinh, tu tập hạnh bình đẳng, sẽ đạt được đầy đủ phước báo lớn về thanh tịnh bình đẳng, thọ mạng được lâu dài, lìa hẳn mọi nẻo sợ hãi. Trong khi thực hiện bố thí thanh tịnh bình đẳng ấy, đối với giới luật dứt trừ trộm cắp, tu tập hạnh bình đẳng, sẽ đạt được đầy đủ phước báo lớn về thanh tịnh bình đẳng, không cùng chung với kẻ khác mà có, tu tập hết thảy điều thiện không hề gặp khó khăn trở ngại. Trong lúc thực hiện bố thí thanh tịnh bình đẳng ấy, nơi giới luật dứt trừ tà dâm, tu tập hạnh bình đẳng, sẽ có được đầy đủ phước báo lớn về thanh tịnh bình đẳng, tu tập các căn lành không hề gặp phải trở ngại, ngăn chận, lúc ngắm nhìn vợ mình hay vợ kẻ khác, không hề có ý niệm tà dâm. Trong khi thực hành bố thí thanh tịnh bình đẳng ấy, đối với giới luật dứt bỏ nói dối tu tập hạnh bình đẳng, sẽ đạt được đầy đủ phước báo lớn về thanh tịnh bình đẳng, không hề bị hủy báng, phát tâm bền chắc đúng theo giáo pháp tu tập, ở trong cõi trời, người luôn riêng mình tạo được sự chứng đắc sáng tỏ, miệng luôn phát ra hơi thơm như hoa Ưu-bát-la. Trong lúc thực hành bố thí thanh tịnh bình đẳng ấy, đối với giới luật dứt trừ lời nói hai chiều tu tập hạnh bình đẳng, sẽ đạt được đầy đủ phước báo lớn về thanh tịnh bình đẳng, có đám quyến thuộc không bị hủy hoại, đám quyến thuộc là hàng trượng phu, được mọi người kính trọng tin tưởng. Trong khi thực hành bố thí thanh tịnh bình đẳng ấy, đối với giới luật dứt bỏ lời nói ác độc tu tập hạnh bình đẳng, sẽ đạt được âm thanh vi diệu, không còn nghe các âm thanh xấu ác. Trong khi thực hiện bố thí thanh tịnh bình đẳng ấy, đối với giới luật dứt trừ lời nói thêu dệt tu tập hạnh bình đẳng, sẽ có được đầy đủ phước báo lớn về thanh tịnh bình đẳng, mọi ngôn ngữ phát ra luôn thích hợp, dứt sạch mọi nẻo hồ nghi, được mọi người vui thích chiêm ngưỡng. Trong khi thực hành bố thí thanh tịnh bình đẳng ấy, đối với giới luật dứt trừ tham dục tu tập hạnh bình đẳng, sẽ có được đầy đủ phước báo lớn về thanh tịnh bình đẳng, thọ nhận quả báo rồi lại có thể rời bỏ để nhận lấy đạo quả giải thoát với đủ mọi dũng lực. Trong lúc thực hành bố thí thanh tịnh bình đẳng ấy, đối với giới luật dứt trừ sân hận, tu tập hạnh bình đẳng, sẽ đạt được đầy đủ phước báo lớn về thanh tịnh bình đẳng, dung mạo đoan nghiêm được mọi người yêu kính, mọi việc làm không bị trở ngại, các căn luôn đầy đủ, hoàn hảo. Trong khi thực hiện bố thí thanh tịnh bình đẳng ấy, đối với giới luật dứt bỏ tà kiến tu tập hạnh bình đẳng, sẽ đạt được đầy đủ phước báo lớn về thanh tịnh bình đẳng, mọi sinh hoạt nơi gia đình cũng như trong cõi nước đều theo nẻo chính kiến, luôn được gặp chư Phật, Bồ-tát, Thanh văn, luôn thấy Phật nghe pháp cúng dường chúng Tăng, dốc tu tập hạnh Bồ-đề, luôn gắn bó với nẻo thanh tịnh bình đẳng. Này chư vị nhân giả! Đó là giới luật thanh tịnh bình đẳng. Dùng giới luật thanh tịnh bình đẳng đó để tự trang nghiêm cho mình, thì người ấy không bao lâu sẽ thành Phật với đầy đủ công đức, tướng tốt, âm thanh thanh tịnh, hàng phục các thứ ma oán đạt thanh tịnh bình đẳng. Người đó không bao lâu sẽ đạt được hết thảy pháp Phật, niệm thiền tuệ hành thanh tịnh, với lòng Từ bi mênh mông và trí tuệ vó đại, cho đến có thể thực hiện viên mãn tất cả pháp Phật thanh tịnh bình đẳng. Đó gọi là chốn giới thanh tịnh bình đẳng nơi thế gian. Này chư vị nhân giả! Còn thế nào gọi là chốn giới hạnh thanh tịnh bình đẳng xuất thế gian? Như đối với giới Tam-ma-bạt-đề, có sự tin tưởng, thông tỏ và thực hành, không dựa vào sắc ấm để giữ giới, không dựa vào các ấm thọ tưởng hành thức để giữ giới. Không dựa vào sắc, không dựa vào nhãn thức, không dựa vào sự tiếp xúc của mắt, không dựa vào sự tiếp xúc của mắt với các nhân duyên sinh ra thọ, ái thủ hữu sinh để giữ giới. Cho đến không dựa vào ý, không dựa vào pháp, không dựa vào ý thức, không dựa vào sự tiếp xúc của ý, không dựa vào sự tiếp xúc của ý với các nhân duyên sinh ra thọ, ái, thủ, hữu, sinh để giữ giới. Không dựa vào cõi địa để giữ giới. Không dựa vào các cõi nước, lửa, gió để giữ giới. Không dựa vào cõi nhập vô biên hư không để giữ giới. Cho đến cũng không dựa vào cõi nhập phi tưởng phi phi tưởng để giữ giới. Không dựa vào các cõi Dục, cõi Sắc để giữ giới. Không dựa vào đời hiện tại, đời sau để giữ giới. Không dựa vào các thừa Thanh văn, thừa Bích-chi-phật, Nhất thiết chủng trí để giữ giới. Không dựa vào sự nghe biết lãnh hội, không dựa vào các pháp thiền định, không dựa vào trí tuệ để giữ giới. Không dựa vào diệu lực của sự thấu đạt chính pháp, không dựa vào diệu lực của các pháp Tam-muội, không dựa vào diệu lực của pháp môn Đà-la-ni, không dựa vào diệu lực của nhẫn nhục, không dựa vào dụng lực của các pháp hữu lậu, vô lậu, không dựa vào dụng lực của cõi Hữu vi, Vô vi, không dựa vào dụng lực của các pháp thiện, bất thiện, không dựa vào dụng lực của ánh sáng, bóng tối để giữ giới. Này chư vị nhân giả! Đó gọi là giới hạnh thanh tịnh bình đẳng xuất thế gian. Đấy cũng là con đường tu tập giới hạnh thanh tịnh dẫn tới nẻo giác ngộ, có thể đi vào thành trì vô úy lớn lao không gì hơn, là chỗ nương tựa của giới thanh tịnh bình đẳng nơi chư vị Thánh giác ngộ, dùng để giữ gìn diệu nghĩa bậc nhất của giới hạnh thanh tịnh nên có thể hội nhập vào trí tuệ thanh tịnh. Thế thì ý nghĩa của giới là gì? Ví như nơi khoảng rộng của núi Đại thiết vi, Kim cang có thứ gió nóng bức, nhờ những ngọn núi ngăn chận nên gió ấy không thể thổi đến khắp bốn cõi thiên hạ. Cũng như vậy, những hành giả tu học theo giới luật thanh tịnh bình đẳng của bậc Thánh giác ngộ, đối với thứ gió đầy ái dục nóng bức, nhờ tu tập bốn niệm xứ nên khiến chúng không thể dấy khởi. Do từ ý nghĩa ấy nên được gọi là giới. Ví như nơi khoảng rộng trong núi Đại thiết vi có thứ gió mang mùi hôi thối nhơ nhớp, nhờ những ngọn núi ngăn chận nên thứ gió ấy không thể thổi đến bốn cõi thiên hạ. Cũng như thế, những hành giả muốn giữ gìn lấy giới luật thanh tịnh bình đẳng của bậc Thánh giác ngộ, nên đã dùng bốn Vô sở úy ngăn chận khiến cho thứ gió ái thủ đầy mùi xú uế không thể dấy lên được. Do từ ý nghĩa đó nên được gọi là giới. Ví như nơi khoảng rộng trong núi Đại thiết vi đầy bóng tối, nhờ những vách núi ngăn chận nên bóng tối đó không tràn tới bốn cõi thiên hạ. Cũng như thế, những hành giả muốn bảo vệ giới luật thanh tịnh bình đẳng của bậc Thánh giác ngộ, đối với các tướng hữu lậu, hữu vi, vô minh, nhờ tu tập pháp bảy Giác phần nên khiến các tướng kia không thể dấy khởi được. Chính vì ý nghĩa ấy nên được gọi là giới. Từ đó sẽ thấy được: Ý nghĩa lìa dục là ý nghĩa của giới. Ý nghĩa giải thoát là ý nghĩa của giới. Ý nghĩa của sự dứt trừ là ý nghĩa của giới. Ý nghĩa của sự vô tận là ý nghĩa của giới. Ý nghĩa của diệt là ý nghĩa của giới. Các cú nghĩa ấy chính là ý nghĩa của giới. Này chư vị nhân giả! Đó gọi là giới Hữu vi, Vô vi thanh tịnh bình đẳng. Nếu như ở thế gian, các vị Sa-môn, Bà-la-môn, trụ nơi giới luật hữu vi, vô vi thanh tịnh bình đẳng ấy thì các vị đó được xem là phước điền trong đời. Như có những người đối với các vị ấy bày tỏ lòng kính tin tôn quý, bảo vệ nuôi dưỡng, cung cấp các thứ từ y phục, giường đệm, đồ nằm, thức ăn uống cho tới các thứ thuốc men cùng tất cả những vật dụng cần thiết khác thì những người làm công việc cúng dường cung cấp đó, do từ căn lành kia nên mặc dù còn trôi lăn trong cõi sinh tử cũng luôn thọ nhận các phước báo thù thắng, có thể mau chóng được đi vào thành trì vô úy lớn lao. Này chư vị nhân giả! Nơi các thứ bình đẳng đã nêu, thế nào là nhẫn nhục thanh tịnh bình đẳng? Nhẫn có hai thứ: 1.Nhẫn xả bỏ. 2.Nhẫn dứt trừ giận dữ. Này chư vị nhân giả! Thế nào gọi là Nhẫn xả bỏ? Như có chúng sinh mong cầu có được mọi sự an lạc dứt hết thảy mọi khổ, thì đó là Xả nhẫn bình đẳng thanh tịnh. Lại như có người mong cầu an lạc lìa khổ. Người ấy quan sát nơi ba cõi với hết thảy mọi nẻo khổ cùng bao thứ phiền não bức hại, chỉ trừ có các bậc Thánh giác ngộ. Thế là người ấy, vì lợi ích của bản thân mình nên sinh ra nỗi lo sợ lớn. Lo sợ như vậy, lại quan sát nơi ba cõi với hết thảy những đám cháy dữ dội đều là do từ chỗ thiêu đốt của ngọn lửa lớn phiền não, khiến cho mỗi mỗi chúng sinh luôn bị các nỗi khổ bức hại, truy đuổi mãi trong vòng lưu chuyển không thể tự mình thoát được. Những chúng sinh đó luôn bị nỗi khổ bức bách chưa thể giải thoát. Còn ta thì cũng vậy, cũng bị bao nỗi khổ bức bách, vậy phải dùng phương tiện gì để có thể tự thoát khổ? Liền suy nghó: “Không thể dùng các sự việc khác. Ta chỉ dùng Nhẫn xả bỏ để giải thoát mọi thứ khổ khiến có được đầy đủ mọi an lạc”. Suy nghó như vậy rồi tức thì phát khởi ngay việc dùng nhẫn tri túc, nhân đấy có thể lìa bỏ vô số các thứ vật dụng của cải nơi bản thân mình. Tất cả các thứ đồ ăn uống, y phục, đồ nằm ngồi, nhà cửa, xe cộ, voi ngựa, tùy theo chỗ cần dùng của những người khác mà thảy đều cấp cho hết. Người ấy đã đem nhẫn nhục thực hiện sự bố thí nhằm dứt trừ mọi nỗi khổ. Như thế là người đó đã liên tục tu tập hạnh nhẫn tri túc. Những lúc an trụ thì có thể thực hiện việc xả thí đối với những trường hợp chính đáng, hướng tới các bậc chính hạnh, đi đến chỗ ở của họ, gần gũi cúng dường thuận theo lời chỉ dạy của chư vị kia. Do từ việc cúng dường như thế nên đã được lãnh hội đúng như thật về vô số các thứ tội lỗi, khổ hoạn trong cõi sinh tử cũng những lợi ích, an lạc của cảnh giới Niết-bàn giải thoát. Người ấy, hoặc ở nơi thừa Thanh văn mà phát tâm tu học, hoặc ở nơi thừa Duyên giác, ở nơi Đại thừa mà phát tâm tu học, là nhằm đem lại an lạc cho chính mình. Lại tăng thêm hạnh nhẫn tri túc để giúp đỡ nuôi dưỡng mọi chúng sinh. Đó gọi là nhẫn bình đẳng thanh tịnh. Thậm chí có thể lìa bỏ hết thảy mọi thứ tài sản của cải cùng sự an lạc của chính bản thân mình, cam chịu lấy mọi nỗi khổ để khiến cho người khác được an lạc. Đó chính là Nhẫn xả bỏ bình đẳng thanh tịnh. Như trông thấy những kẻ hành khất với đủ thứ đủ loại hình sắc, dáng đi đứng, giọng nói, sự giận dữ, mắng nhiếc, khinh thị, kể cả những ngôn ngữ thô bạo xấu xa, đi đến chỗ mình để cầu xin. Người ấy cứ như thế như thế: Tâm chưa được điều phục, chế ngự, sự giận dữ chưa được trong lặng, chưa an trụ được nơi nhẫn thanh tịnh. Vậy là liền suy nghó: Ai có thể hơn ta được? Vì sao? Như những kẻ kia ăn cả máu thịt, khác nào đám Dạ-xoa, La-sát, Cưu-bàn-trà, Ngạ quỷ, Tỳ-xá-già, Phú-đơn-na, Ca-trá phú-đơn-na xấu ác, chưa từng được nghe về bao nỗi khổ não trong cõi sinh tử cùng các công đức Niết-bàn giải thoát, không biết xem xét về đời sau với bao thứ khổ não hại đáng sợ, chưa giải thoát được hết thảy các khổ. Vì sao? Vì các hạng ấy đã xa lìa các bậc Thiện tri thức, không được nghe chính pháp, vì thế nên ở cõi sinh tử luôn bị chìm đắm trong bao cảnh khổ não! Còn ta, ta đã lần lượt được nghe về bao nỗi khổ nơi cõi sinh tử cũng như các công đức của Niết-bàn giải thoát, đã biết xem xét về đời sau thật đáng sợ nên dốc trừ bao nỗi khổ, gần gũi các bậc Thiện tri thức, được nghe chính pháp. Ta nay muốn vượt qua khỏi cõi sinh tử chìm đắm, cớ sao lại dấy khởi sân hận? Vì thế ta nên tư duy: Mọi âm thanh nhục mạ cùng những việc làm sai trái kia thảy đều như gió thoảng. Ta nên lìa bỏ, không được dấy khởi giận dữ. Như vậy là đối với mọi chúng sinh, nhằm dứt bỏ lớp lớp tưởng chấp, tất cả mọi thứ phân biệt của ngôn ngữ văn tự thảy đều như gió thoảng. Đối với mọi chúng sinh nên lìa vô số các thứ tưởng chấp, tu hạnh bình đẳng thanh tịnh! Người ấy thế là luôn luôn đối với mọi chúng sinh rời bỏ vô số các thứ tưởng chấp, tất cả những thứ tưởng chấp từ sự phân biệt của văn tự, dốc tu hạnh nhẫn bình đẳng thanh tịnh, cứ liên tục như vậy. Người đó tâm tất được an trụ nơi nhẫn bình đẳng thanh tịnh, có được sự hoan hỷ trong lành. Cứ dần dà như thế, người ấy tu tập bốn nẻo vô ngại gồm pháp vô ngại, nghĩa vô ngại, từ vô ngại và lạc thuyết vô ngại. Người ấy thường xuyên tu tập pháp vô ngại cho đến lạc thuyết vô ngại, tất có thể xả bỏ hết thảy mọi chi phần yêu quý nơi thân thể mình như mắt, mũi, tai, lưỡi, tay, chân, đầu, mình, da, thịt, gân cốt nói chung là cả mạng sống, không hề luyến tiếc. Ấy chính là Bồ-tát Ma-ha-tát tu tập hạnh nhẫn phân biệt không phân biệt bình đẳng thanh tịnh. Đó gọi là Nhẫn xả bỏ bình đẳng thanh tịnh của Bồ-tát Ma-ha-tát. Này chư vị nhân giả! Còn thế nào là Nhẫn dứt trừ giận dữ bình đẳng thanh tịnh? Này chư vị nhân giả! Như chư vị Bồ-tát Ma-ha-tát, đối với tất cả mọi thứ âm thanh ngôn ngữ, văn tự, có thể lìa bỏ mọi tưởng chấp phân biệt về chúng, cùng với hết thảy mọi sắc thân hình tướng, mọi cử động uy nghi, mọi nẻo diễn biến đùa cợt của ý nghiệp, cũng đều lìa bỏ mọi tưởng chấp phân biệt. Lại cũng lìa bỏ tất cả mọi nẻo thu tóm của ái thủ, không mong cầu quả báo, lìa mọi khổ vui, dứt mọi tưởng phân biệt, thậm chí đối với sự phân biệt về thân mạng của chính mình cũng dứt mọi tưởng phân biệt, nhờ đấy mới được an trụ nơi diệu nghĩa bậc nhất của hạnh nhẫn bình đẳng thanh tịnh. Ví như hư không, đối với ánh sáng hay bóng tối đều không hề phân biệt, không giận dữ hay vui vẻ. Bồ-tát Ma-ha-tát như thế là đã trụ nơi diệu nghĩa bậc nhất của hạnh nhẫn thanh tịnh bình đẳng. Tất cả mọi nẻo hành hóa của các pháp hữu vi, kể cả sự đùa cợt, ngôn ngữ văn tự hình sắc, mọi thứ thọ nhận về khổ hay vui, thảy đều lìa bỏ sự phân biệt, cho đến sự phân biệt không giận không vui. Bồ-tát đối với mọi chúng sinh, do lìa bỏ mọi tưởng chấp phân biệt nên trụ được nơi diệu nghĩa bậc nhất của hạnh nhẫn bình đẳng thanh tịnh. Ví như hư không chẳng hề bị lay động hay lay động toàn diện, chẳng hề bị chấn động hay chấn động toàn diện. Bồ-tát Ma-ha-tát cũng như thế. Đối với tất cả các nẻo hành hóa của nghiệp hữu vi, thân tâm không hề bị lay động hay lay động toàn diện, lại cũng không chấn động hay chấn động toàn diện. Ví như hư không luôn thanh tịnh lìa mọi cấu nhiễm. Bồ-tát Ma-ha-tát cũng như vậy. An trụ nơi diệu nghĩa bậc nhất của pháp nhẫn bình đẳng thanh tịnh, đối với tất cả các pháp hữu vi, thân tâm luôn khéo đạt được thanh tịnh. Ví như hư không luôn nuôi dưỡng hết thảy chúng sinh. Bồ-tát Ma-ha-tát cũng như thế. An trụ nơi diệu nghĩa bậc nhất của pháp nhẫn bình đẳng thanh tịnh, từ đấy nuôi dưỡng giáo hóa hết thảy mọi chúng sinh. Ví như hư không chẳng hề bị kiếp hỏa có thể thiêu đốt hủy hoại, cũng không hề bị kiếp thủy, kiếp phong có thể hủy hoại. Bồ-tát Ma-ha-tát cũng như vậy. Như đã an trụ nơi diệu nghĩa bậc nhất của pháp nhẫn bình đẳng thanh tịnh, trong quá trình tu tập để đạt đến đạo quả Bồ-đề vô thượng, không hề bị ba thứ độc tham, sân, si hủy hoại tâm mình. Ví như hư không thanh tịnh, trong đêm mười lăm, mặt trăng hết mực tròn đầy tỏa chiếu ánh sáng trong lành khắp chốn, khiến cho mọi chúng sinh bị nóng nảy phiền muộn, bức bách, thân tâm được tươi mát, vui vẻ. Bồ-tát Ma-ha-tát cũng như thế, an trụ nơi diệu nghĩa bậc nhất của pháp nhẫn bình đẳng thanh tịnh, dùng mọi nẻo uy nghi từ thân miệng để dứt trừ mọi thứ phiền não nung đốt chúng sinh. Ví như hư không thanh tịnh, trong đêm mười lăm, mặt trăng hết mực tròn đầy được các vì sao vây quanh hiện rõ nơi bốn cõi thiên hạ với ánh sáng tỏa rạng. Bồ-tát Ma-ha-tát cũng lại như vậy. An trụ nơi diệu nghĩa bậc nhất của pháp nhẫn bình đẳng thanh tịnh, theo trú xứ của mình, luôn được các hàng Thiên, Long cho tới loài Ca-trá phú-đơn-na vây quanh hộ trì, hiển lộ tỏa rạng. Ví như hư không thanh tịnh, trong đêm mười lăm, mặt trăng hết mực tròn đầy chiếu sáng trên các hải đảo, ngọc báu ma-ni Nguyệt ái từ trong số châu ngọc nơi biển sẽ phát ra dòng nước lớn có thể làm đầy biển rộng. Bồ-tát Ma-ha-tát cũng như thế. Trụ nơi diệu nghĩa bậc nhất của pháp nhẫn bình đẳng thanh tịnh, đối với các chúng Thiên, Long, Dạ-xoa, La-sát, Cưu-bàn-trà, Ngạ quỷ, Tỳ-xá-già, Phú-đơn-na, Ca-trá phú-đơn-na, đều là hàng độc ác, thô bạo không có lòng thương xót nơi mọi chúng sinh, không hề biết xem xét việc đáng sợ ở đời sau. Chư vị Bồ-tát Ma-ha-tát ấy, đem diệu nghĩa bậc nhất của hạnh nhẫn bình đẳng thanh tịnh phóng ra ánh sáng thù thắng tỏa chiếu đến hết thảy các chúng Thiên, Long, Dạ-xoa, La-sát, cho tới loài quỷ Ca-trá phú-đơn-na, nhờ đấy khiến cho các chúng kể trên thảy đều có được tâm thiện thanh tịnh, như thế là các chúng ấy đối với mọi chúng sinh sẽ dấy khởi tâm Từ bi, tâm đem lại lợi ích, tâm dứt trừ mọi khổ não của chúng sinh, tâm khiến trụ nơi mọi thứ an lạc, tâm quan sát sự đáng sợ nơi đời sau, tâm xa lìa tất cả nẻo ác, tâm đối với hết thảy các pháp lành luôn khởi sự siêng năng tinh tấn thực hiện. Do vậy các chúng ấy đạt được tâm hết mực thanh tịnh, cho đến đối với tất cả các pháp thiện đều phát tâm dũng mãnh lớn lao nhằm dốc sức thực hành. Các chúng ấy lần lượt lìa bỏ dần các pháp bất thiện, đạt được đầy đủ tất cả các căn lành, có thể làm đầy biển Niết-bàn rộng lớn. Này chư vị nhân giả! Chư vị phải nên xem xét sự tu tập của chư Bồ-tát ấy, tuy chưa đạt đến cứu cánh, nhưng đã nhờ an trụ nơi diệu nghĩa bậc nhất của hạnh nhẫn bình đẳng thanh tịnh, nên đã vượt qua hàng Thanh văn, Duyên giác, dùng diệu nghĩa bậc nhất của pháp nhẫn ấy để tạo được mọi thành tựu trọn vẹn cho chúng sinh. Như ta thời xưa làm vị Tiên nhân nhẫn nhục, thường ở chốn rừng sâu ăn uống nhờ vào các thứ trái cây ngon ngọt. Bấy giờ có vị quốc vương tên là Ca-lị, đã từng cắt xé thân ta ra làm tám mảnh. Lúc này, ta nhờ đã dốc tu tập diệu nghĩa bậc nhất của hạnh nhẫn, nên từ chỗ da thịt bị cắt xé ấy chảy ra thứ sữa trắng. Do từ nhân duyên tu tập khổ hạnh nhẫn nhục đó, ta đã đem lại sự thành tựu cho vô lượng ức na-do-tha trăm ngàn chúng Thiên, Long, Dạ-xoa, La-sát, A-tu-la, Già-lâu-la, Khẩn-na-la, Càn-thát-bà, Ma-hầu-la-già, Cưu-bàn-trà, Ngạ quỷ, Tỳ-xá-già, Phú-đơn-na, Ca-trá phú-đơn-na thời ấy, có tới vô lượng ức na-do-tha trăm ngàn chúng Nhân phi nhân thảy đều phát tâm cầu đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác. Ta ngày trước làm người sống chẳng phải ở chốn có những khó khăn, tu tập khổ hạnh như thế chưa đủ để gọi là khó khăn. Này chư vị nhân giả! Chư vị hãy dốc lắng nghe, như ta về thời xa xưa sinh ở nơi chốn gặp nhiều khó khăn, mang thân loài thỏ luôn trú trong vùng rừng sâu, vì muốn giúp cho một vị Tiên có được thức ăn nên tự mình nhảy vào đống lửa lớn. Do đã dốc tu tập nẻo diệu nghĩa bậc nhất của hạnh nhẫn bình đẳng thanh tịnh nên khiến cho đống lửa lớn ấy biến thành ao sen đầy ắp nước trong lành. Lúc này ta nằm trên đài hoa sen. Do nhân duyên tu khổ hạnh nầy nên khiến cho cả cõi tam thiên đại thiên thế giới hiện đủ sáu thứ chấn động. Bấy giờ, có vô lượng chư vị Thích, Phạm, Tứ vương, các chúng Thiên, Long, Dạ-xoa, cho tới loài quỷ Ca-trá phú-đơn-na, cùng chư vị Tiên nhân, chúng Nhân phi nhân, đem đến vô số các thứ vật dụng để cúng dường ta, cùng phát lời nguyện: Khi ngài thành tựu đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác, xin ngài hãy thọ ký đạo quả Bồ-đề vô thượng cho chúng tôi. Ta ngày xưa mang thân loài thỏ, đã dốc tu tập nẻo diệu nghĩa bậc nhất của hạnh nhẫn bình đẳng thanh tịnh, rõ là hạnh nhẫn ấy không cùng chung với hàng Thanh văn, Duyên giác. Ta nơi thời xa xưa lúc còn mang lấy thân loài thỏ ấy, chư vị Phạm thích, Thiên vương, Hộ thế Tứ vương, các chúng Thiên, Long, Dạ-xoa, cho tới chúng Nhân phi nhân, thảy đều đem vô số các thứ hoa thơm, các loại hương xoa, hương bột, vô số các thứ châu báu, các loại cờ phướn, lọng báu cùng bao thứ âm nhạc vi diệu để cúng dường tán thán, thể hiện lòng tôn kính quý trọng, cho là điều chưa từng có, đối với các vị A-la-hán hiện nay cũng không có được như vậy. Này chư vị nhân giả! Bồ-tát như thế là nên dốc tu tập diệu nghĩa bậc nhất của hạnh nhẫn bình đẳng thanh tịnh. Này chư vị nhân giả! Về diệu nghĩa bậc nhất của hạnh nhẫn bình đẳng thanh tịnh đó, thì cú nghĩa của diệu nghĩa bậc nhất là gì? Đó là nhằm vượt khỏi sinh tử đạt đến bờ giải thoát nên gọi là diệu nghĩa bậc nhất. Còn về nhẫn tức là nhận thức các ấm trong ba cõi cứu cánh là không, tất cả các giới, nhập cứu cánh cũng là không, nên gọi là nhẫn. Về thanh tịnh, tức là đem trí tuệ của bậc giác ngộ dứt trừ sạch mọi nẻo khổ, mọi nẻo tạo tác cùng các thứ phiền não trong ba cõi, nên được gọi là thanh tịnh. Còn về bình đẳng tức là cũng đem trí tuệ của bậc giác ngộ tri kiến như thật về tất cả các hành trong ba cõi. Về hết thảy pháp tính như, về thật tế như, tri kiến như thật về phi thật tế như,về chẳng phải phi thật tế như, nhằm đoạn trừ tất cả mọi thứ phiền não, nên được gọi là bình đẳng. Này chư vị nhân giả! Đó gọi là diệu nghĩa bậc nhất nơi pháp nhẫn bình đẳng thanh tịnh của Bồ-tát Ma-ha-tát. Này chư vị nhân giả! Về các thứ bình đẳng, thế nào là tinh tấn thanh tịnh bình đẳng? Dùng tinh tấn để có thể cùng với bố thí thanh tịnh bình đẳng làm nhân, đó gọi là tinh tấn thanh tịnh bình đẳng. Cho đến đem tinh tấn để có thể cùng với trí tuệ thanh tịnh bình đẳng làm nhân, đó gọi là tinh tấn thanh tịnh bình đẳng. Dùng tinh tấn để có thể rời bỏ tất cả mọi thứ kiến chấp. Dùng tinh tấn để có thể cùng với pháp bốn Niệm xứ thanh tịnh bình đẳng làm nhân. Dùng tinh tấn để có thể vượt qua hết thảy các hàng Thanh văn, Duyên giác. Dùng tinh tấn để có thể cùng với các pháp bốn chính cần, bốn Như ý túc làm nhân. Dùng tinh tấn để có thể loại bỏ tất cả các thứ phiền não. Dùng tinh tấn để có thể cùng với các pháp: Bốn Nhiếp sự, bốn Biện tài vô ngại, bốn Phạm trụ, bốn Định vô sắc, năm Căn, Năm lực, bảy Giác phần, tám Thánh đạo phần, chín định thứ đệ, mười Lực của Như Lai, mười hai Thiện hữu chi, mười tám pháp Bất cộng làm nhân. Dùng tinh tấn để có thể cùng với tâm đại Từ, Đại Bi và trí tuệ thanh tịnh bình đẳng làm nhân. Đó gọi là tinh tấn thanh tịnh bình đẳng. Dùng tinh tấn để có thể cùng với sự thành tựu trọn vẹn cho chúng sinh về thanh tịnh bình đẳng làm nhân. Đó gọi là tinh tấn thanh tịnh bình đẳng. Dùng tinh tấn để có thể làm nên sự tập hợp vô lượng pháp Phật với đủ thứ đủ loại các căn lành, cho đến có thể tập hợp vô lượng trí tuệ phương tiện, vô lượng hạnh nguyện thù thắng, noi theo vô lượng công đức trí tuệ, cùng với vô lượng vô số chúng sinh hiện hữu làm nhân. Đó gọi là tinh tấn thanh tịnh bình đẳng. Dùng tinh tấn ở nơi cung trời Đâu-suất, là bậc Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ quan sát về thời cơ và hoàn cảnh, cho tới trường hợp dùng tinh tấn để rời bỏ cung điện ở đấy, nhận thức thấu đạt về việc nhập thai mẹ, cho đến việc dùng tinh tấn, nơi vườn cây Lâm-tỳ-ni, từ hông bên phải người mẹ đã an nhiên xuất hiện, dùng tinh tấn để bước đi bảy bước làm chấn động cả đại địa cùng núi non biển rộng, dùng tinh tấn để nhận lấy việc các Long vương Nan-đà, Ưu-ba-nan-đà phun nước tắm rửa Thánh thể, dùng tinh tấn để cùng đám đồng tử vui đùa, thị hiện tất cả mọi thứ tài nghệ hơn người, dùng tinh tấn ở nơi hoàng cung đối với năm thứ dục lạc không hề bị nhiễm, dùng tinh tấn trong trường hợp nửa đêm vượt thành cao đi thẳng tới chốn rừng vắng, dùng tinh tấn trong nỗ lực tìm đến chỗ vị Tiên nhân Ưu-đà-la, Ca-la-trà Ca-la-ma để tu học cúng dường, dùng tinh tấn trong suốt sáu năm tu khổ hạnh, dùng tinh tấn để đối với đạo quả Bồ-đề vô thượng đã thành Bậc chính Giác, cho đến việc dùng tinh tấn để chuyển pháp luân, khiến vô lượng trời, người được chứng đạo. Đó gọi là tinh tấn thanh tịnh bình đẳng. Này chư vị nhân giả! Ta dùng tinh tấn để hôm nay nơi núi Khư-la-đế, là trú xứ của chư Tiên tu hạnh tịch mặc, tạo được sự tập hợp lớn lao này. Chư vị Bồ-tát Ma-ha-tát hiện có trong mười phương, số lượng nhiều như vi trần nơi cõi Phật, thảy đều có mặt đông đủ ở đấy. Lại có số lượng nhiều như số vi trần nơi cõi Phật, chư Thiên, Long, Dạ-xoa, La-sát, A-tu-la, Già-lâu-la, Khẩn-na-la, Càn-thát-bà, Ma-hầu-la-già, Cưu-bàn-trà, Ngạ quỷ, Tỳ-xá-già, Phú-đơn-na, Ca-trá phú-đơn-na thảy đều đi đến chốn hội này để được nghe pháp. Đó gọi là Tinh tấn thanh tịnh bình đẳng. Này chư vị nhân giả! Như đem số lượng nước nơi bốn biển lớn phân thành từng giọt theo đúng như số lượng giọt nước ấy, tu tập đầy đủ pháp tinh tấn thanh tịnh bình đẳng thì có thể khiến cho chư vị Bồ-tát Ma-ha-tát thực hiện viên mãn pháp Tỳ-lê-gia ba-la-mật. Đó gọi là Tinh tấn thanh tịnh bình đẳng. (<註 n="1"/>1)KINH ĐẠI PHƯƠNG ĐẲNG ĐẠI TẬP NGUYỆT TẠNG QUYỂN 5 Hán dịch: Đời Cao Tề, Tam tạng Na-liên-đề-da-xá, người Thiên Trúc. Phẩm 8: Chúng quỷ thần xấu ác có được lòng kính tin (Phần trên) Bấy giờ, Hộ thế Tứ đại Thiên vương trông thấy vô lượng a-tăng-kỳ chúng Thiên, Long, Dạ-xoa cho tới loài quỷ Ca-trá phú-đơn-na với vô số màu sắc, hình tướng, dục vọng, hành động, bản tính. tính của đám chúng sinh ấy không hề có lòng thương xót, đối với mọi loài luôn dấy tâm sân hận bức hại. Không biết xem xét về đời sau với bao sự việc đáng kinh sợ, không có sự gắn bó hay hộ trì đối với một nơi chốn, xứ sở nào. Đám ấy thường quấy hại đối với hàng Sát-lợi, thậm chí cả loài súc sinh, đoạt lấy phần khí chất tinh thuần cùng ăn cả máu thịt họ. Bốn vị Thiên vương nhận thấy chư vị quỷ thần ấy tề tựu đông đủ nơi chúng hội nên hết sức hoan hỷ, mỗi vị Thiên vương đều thân hành thăm hỏi các vị đại tướng thống lãnh các chúng kia. Thiên vương Tỳ-sa-môn hỏi đại tướng Dạ-xoa Tán Chi: –Hết thảy chúng Dạ-xoa, La-sát hiện có nơi bốn cõi thiên hạ này như sinh từ trứng, sinh từ thai, sinh từ chốn ẩm thấp, sinh từ biến hóa, hoặc nương tựa nơi thành ấp, làng xóm, nhà cửa, đền tháp, vườn cây, hang núi, sông suối, ao giếng, trong khoảng gò nổng có mồ mả, bóng cây, ruộng đồng mông quạnh, rừng vắng, lều không, cùng biển lớn với bao cồn bãi chứa đầy châu báu. Các quỷ thần đó hoặc đi trên đất, đi trên nước, đi trên hư không, tất cả không còn sót một vị nào, hôm nay thảy đều đi đến chỗ của Đức Thế Tôn chăng? Đại tướng Tán Chi thưa: –Kính thưa Đại vương, như đại vương đã nói, mọi chúng Dạ-xoa hiện có nơi bốn cõi thiên hạ này, kể cả những chốn biển rộng, cồn báu, hoặc đi trên đất, đi trên nước, đi trên không, tất cả không thiếu một ai, hôm nay thảy đều có mặt đông đủ nơi pháp hội của Đức Thế Tôn. Thiên vương Đề-đầu-lại-trá hỏi đại tướng Càn-thát-bà Lạc Dục: –Hết thảy chúng Càn-thát-bà hiện có nơi bốn cõi thiên hạ này (Phần còn lại giống như đã nêu ở trên). Thiên vương Tỳ-lâu-lặc-xoa hỏi đại tướng Cưu-bàn-trà đế: –Hết thảy chúng Cưu-bàn-trà hiện có nơi bốn cõi thiên hạ này… (Phần còn lại giống như đã nêu ở trên). Thiên vương Tỳ-lâu-bác-xoa hỏi Long vương Thiện Hiện: –Tất cả chúng Long, Ma-hầu-la-già, Già-lâu-la, các loài ngạ quỷ hiện có nơi bốn cõi thiên hạ này, như sinh từ trứng, sinh từ thai, sinh từ chốn ẩm thấp, sinh từ biến hóa, hoặc nương tựa nơi thành ấp, làng xóm, nhà cửa, kể cả chốn biển rộng với nhiều cồn bãi đầy những vật báu, như các nẻo du hành là: trên mặt đất, trong nước hay trong không trung, hết thảy không còn thiếu một ai, hôm nay đều cùng đi đến đông đủ nơi pháp hội của Đức Thế Tôn chăng? Long vương Thiện Hiện thưa: –Kính thưa đại vương! Như chỗ đại vương vừa nói, hết thảy mọi chúng Long, cho đến ngạ quỷ hiện có nơi bốn cõi thiên hạ này, tất cả không còn thiếu một ai, hôm nay cũng có mặt đông đủ nơi pháp hội của Đức Thế Tôn. Lúc này, Tứ đại Thiên vương, Thích Đề-hoàn Nhân, Đại phạm Thiên vương, Phạm thiên chính Biện thảy đều cung kính chắp tay hướng về Đức Phật thưa: –Kính thưa Đức Thế Tôn! Nơi bốn cõi thiên hạ này các chúng quỷ thần hiện có, từ chúng Thiên, Long, Dạ-xoa, La-sát, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Càn-thát-bà, Ma-hầu-la-già, Cưu-bàn-trà, Tỳ-xá-già, cho tới chúng ngạ quỷ, hoặc sinh từ trứng, sinh từ thai, sinh từ chốn ẩm thấp hay sinh từ biến hóa, với mọi nẻo đi đứng trên đất, trên nước hay trong không trung, tất cả không còn thiếu một ai, hôm nay thảy cùng đi đến pháp hội của Đức Thế Tôn. Đại chúng đều cùng xin khuyến thỉnh, kính mong Đức Như Lai thương xót chúng tôi, vì thể hiện lòng Từ bi đối với hết thảy muôn loài, nên khiến cho đám chúng sinh xấu ác ấy có được lòng kính tin, làm cho mắt sáng, chính pháp được trụ thế lâu dài, dòng giống Tam bảo luôn được tiếp nối không hề bị gián đoạn, khiến cho khí chất tinh thuần của đại địa, của chúng sinh, khí chất tinh thuần nơi thắng vị cam lộ của chính pháp luôn mãi tồn tại ở thế gian với lợi ích luôn tăng trưởng, cũng nhằm khiến cho các nẻo thiện, con đường Niết-bàn giải thoát không bị hủy hoại, lợi ích luôn được tăng trưởng không ngừng. Kính thưa Đại Đức Thế Tôn! Trong cõi Diêm-phù-đề này, với hết thảy mọi thành ấp, làng xóm, nhà cửa, cho tới những chốn cồn bãi đầy vật báu, tất cả không còn sót một vùng nào, các chúng Thiên, Long, Dạ-xoa, kể cả loài quỷ Ca-trá phú-đơn-na đã từng nương tựa nơi các chốn kể trên, hôm nay đều có mặt đông đủ. Chư Thiên vương, Long vương, cho tới Tỳ-xá-già vương, thảy dẫn theo đám quyến thuộc cũng đều có mặt đông đủ ở đây. Kính mong Đức Thế Tôn giao phó, dặn dò các vị vương ấy cùng thực hiện đúng theo pháp, luôn nhớ nghó để thâu tóm, nhận lãnh, khiến cho đám Thiên, Long, Dạ-xoa, La-sát, kể cả loài quỷ Ca-trá phú-đơn-na kia, mỗi chúng đều có chốn gắn bó, tùy nơi phần mình mà làm công việc nuôi dưỡng, hộ trì, thường xuyên không rời bỏ phận sự được giao, không khiến não hại người khác. Thấy những kẻ khác bị não hại thì phải tìm cách ngăn chận, gíup đỡ, không hề bỏ rơi khiến họ được an ổn. Nếu các chúng quỷ thần kia mỗi mỗi chúng nơi phận sự của mình, dốc phát dũng lực, hộ trì bình đẳng thì các chúng ấy luôn có được vui vẻ, an lạc tên tuổi được lan truyền, nhận được nhiều phước báo. Bấy giờ, Đức Thế Tôn thọ nhận sự khuyến thỉnh ấy, nhằm thể hiện lòng Từ bi thương đối với hết thảy các chúng quỷ thần kia, nên đưa mắt nhìn khắp đại chúng, sau đó đưa nhẹ cánh tay phải lên và nói: –Này chư vị Hiền thủ! Tất cả đại chúng mỗi mỗi vị hãy lắng nghe, ta sẽ nêu bày, giảng giải rõ. Phật xuất hiện ở đời khó gặp như hoa Ưu-đàm. Xa lìa tám nạn khó như thuận theo thời tiết mà có được loài cây mang hương thơm. Được nghe chính pháp khó như mưa xuống loại vàng Diêm-phù-đàn. Gặp được vị Tăng gồm đủ giới, định, làm bậc được đời cúng dường khó như đi vào biển rộng tìm đến những cồn bãi có nhiều vật báu quý giá. Kính tin Tam bảo khó như cầu tìm ngọc báu như ý. Bố thí đối với Tam bảo khó như cầu công đức nơi bình Thiên hiền. Thọ trì giới luật khó như đối với cõi nước có ngưu đầu chiên-đàn khó có thể đến được. Ở nơi chúng sinh dấy khởi lòng Từ bi khó như gặp phải tên oán tặc hung dữ tay cầm chày Kim cang, khó mong được thoát chết. Thận trọng, biết đủ khó như khéo đạt được việc tế tự bằng loài ngựa (tiếng Phạm là A-thấp-bà mê-đà da-nhã, dịch là Mã bảo trụ tự: Việc tế tự bằng ngựa cột nơi cây trụ báu. Lễ tế tự này chỉ hàng vua ở cõi Diêm-phù-đề mới có thể thực hiện). Này chư vị nhân giả! Có mười thứ bình đẳng. Nếu các chúng sinh đạt được đủ mười thứ bình đẳng ấy, thì ở trong cõi sinh tử luôn nhận được các phước báo thù thắng, có thể mau chóng vào được thành trì vô úy rộng lớn. Những gì là mười thứ bình đẳng đó? 1.Chúng sinh bình đẳng. 2.Pháp bình đẳng. 3.Thanh tịnh bình đẳng. 4.Bố thí bình đẳng. 5.Giới luật bình đẳng. 6.Nhẫn nhục bình đẳng. 7.Tinh tấn bình đẳng. 8.Thiền định bình đẳng. 9.Trí tuệ bình đẳng. 10.Tất cả pháp thanh tịnh bình đẳng. Này chư vị nhân giả! Thế nào là chúng sinh bình đẳng? Như có chúng sinh vì mong cầu thân mạng được an lạc, lìa khổ thì phải nên nhận thức như thế này: Như có hàng thọ giả tạo nghiệp với thân, miệng, ý, hoặc thiện hoặc bất thiện, tự mình tạo tác hay chỉ dẫn người khác tạo tác, thế là vị thọ giả ấy nhận lấy quả báo nơi đời này cùng đời sau. Vì vậy mà chư vị nên rõ, như muốn lìa khổ, cầu được an lạc cho hai đời thì phải nên tạo tác các nghiệp về thân, miệng, ý theo nẻo thiện, chớ nên dấy khởi nghiệp ác. Muốn mong cầu cho hai đời hiện tại và vị lai tự mình có được lợi ích an lạc tốt đẹp, cũng đem lại lợi ích an lạc tốt đẹp cho người khác, thì chớ nên tạo tác các nghiệp ác. Đó gọi là chúng sinh bình đẳng. Này chư vị nhân giả! Thế nào là pháp bình đẳng? Như có chúng sinh mong cầu an lạc lìa khổ não, ham thích sống, sợ chết, nhưng đối với ân ái không lìa, oán ghét không tỏ, như thế là kẻ ấy tâm đã bị chìm đắm trong biển tối mênh mông. Vì sao? Vì nếu có chúng sinh chấp trước đối với ngã của mình thì mãi bị trôi lăn trong dòng chảy sinh tử, không thấy được con đường giải thoát thanh tịnh. Do đó mà đối với pháp nên quan sát tư duy bình đẳng, chúng sinh không lìa pháp, pháp không lìa chúng sinh. Như thể tính của chúng sinh tức là thể tính của ta. Như thể tính của ta tức là thể tính của tất cả các pháp. Như thể tính của tất cả các pháp tức là thể tính của pháp Phật. Đã quán tưởng các pháp bình đẳng như thế tức người ấy đã đạt được diệu lý vô sở hữu, không còn thấy có chúng sinh, cũng không thấy có chúng sinh khứ lai tan hợp, lại cũng không thấy có chúng sinh có thể đạt được chẳng phải pháp, phi chẳng phải pháp. Người ấy như vậy là đã đạt đến sự an trụ nơi vô tướng. Đó gọi là pháp bình đẳng. Này chư vị nhân giả! Thế nào là Thanh tịnh bình đẳng? –Đó là đạt được thân người với đầy đủ mười thứ phước đức. Những gì là mười thứ phước đức ấy? 1.Xa lìa những gia đình hạ tiện. 2.Không ngu độn. 3.Không bị câm. 4.Các căn không bị thiếu. 5.Được thân nam nhi. 6.Dung mạo đoan nghiêm. 7.Không bần cùng. 8.Không bị người khác khinh rẻ. 9.Lời nói phát ra luôn thích đáng. 10.Được nhiều người vui thích, ngưỡng mộ. Vì sao cho có được thân người với đầy đủ mười phước đức kể trên được gọi là thanh tịnh bình đẳng? –Như được thân người thì có được ba thứ luật nghi, xa lìa ba đường ác, có thể mong cầu ba thừa chính pháp. Nhờ đấy mà ắt đạt được ba giống Bồ-đề, không nhờ một pháp nào khác mà có được. Làm thế nào từ thanh tịnh bình đẳng mà có thể đạt đến Bồ-đề? Người ấy đã khiến tâm không nương tựa nơi các pháp, không dựa vào cảnh giới bên trong hay bên ngoài, cũng không dựa vào tri kiến như như. Tất cả các pháp là không tướng hòa hợp, không giữ lấy ở bên trong hay bên ngoài tâm, đối với hai cảnh giới ấy đã đạt được sự an định hết mực tịch tónh. Như thế là khi đạt được diệu lý chính kiến thanh tịnh thì không còn thấy có ngã, trong có chúng sinh, ngoài có cuộc sống, thọ mạng, sự sinh, con người, số đông, sự nuôi dưỡng, sự tạo tác sai khiến tạo tác, sự dấy khởi-sai khiến dấy khởi, sự thọ nhận sai khiến thọ nhận, tri thức, nhận thức. Nói chung là mười sáu thứ tên gọi ấy đều phát ra vọng tưởng. Người ấy như thế là đối với mọi chúng sinh đạt được tri kiến vô ngã, thanh tịnh bình đẳng. Do từ ý nghĩa đó mà xa lìa ái dục, có được thanh tịnh, không còn dấy khởi biên kiến, được nhập vào cảnh giới thanh tịnh bình đẳng của chúng sinh cùng các pháp không, trí vô hành, ấn vô tướng, vô nguyện. Như thế là hoàn toàn hội nhập vào cảnh giới chúng sinh thanh tịnh bình đẳng. Lại dùng pháp ấy để tạo nên sự thành tựu trọn vẹn cho muôn loài mà không tự hủy hoại mình, cũng như không hủy hoại tài vật. Như đã nhận biết thể tính bình đẳng của chúng sinh tức cũng đã nhận biết được thể tính bình đẳng tất cả các pháp. Như thể tính bình đẳng của tất cả các pháp thì đấy cũng chính là thể tính bình đẳng của pháp Phật. Đó gọi là Thanh tịnh bình đẳng. Này chư vị nhân giả! Thế nào là Bố thí thanh tịnh bình đẳng? –Đó là đem bốn thứ tâm thanh tịnh bố thí, do sự bố thí ấy nên chúng sinh trong lúc còn trôi lăn theo dòng chảy sinh tử, luôn thọ nhận được phước báo thù thắng, có thể mau chóng vào được thành trì vô úy rộng lớn. Những gì là bốn thứ tâm ấy? 1.Đối với tất cả chúng sinh luôn khởi tâm thương xót. 2.Tâm bình đẳng. 3.Tâm đại Từ. 4.Tâm Đại Bi. Về tâm thương xót thanh tịnh bình đẳng ấy, như có chúng sinh mong cầu an lạc, lìa bỏ khổ não, ân ái không rời, oán ghét không tỏ, có được thọ mạng lâu dài, nhiều lợi ích, danh dự, luôn được giàu sang, năm thứ dục lạc thảy được thích hợp thì phải nên học hỏi: như nẻo ái dục vui thích của chính ta là luôn giữ lấy thân mạng mình, dùng tất cả mọi phương tiện hơn hết để hộ trì với bất cứ giá nào. Như thế là đối với hết thảy chúng sinh, nơi mỗi mỗi chúng sinh, thậm chí cả loài sâu kiến đều cũng vui thích ái dục, luôn tự giữ gìn lấy thân mạng chính mình, dùng mọi phương tiện hơn hết để hộ trì với bất cứ giá nào. Vậy nếu ta não hại chúng sinh, đoạt lấy các vật dụng đem lại sự sống cho họ, cùng cắt đứt thân mạng họ, thì ta nơi trăm ngàn ức đời lưu chuyển trong cõi sinh tử, luôn gặp phải sự não hại, mất đi các vật dụng đem lại sự sống, cùng mất cả thân mạng, nhận lấy vô lượng khổ não. Từ hôm nay ta đối với mọi chúng sinh luôn dấy tưởng xem như là cha mẹ, nam nữ thân thuộc, thậm chí cả loài sâu kiến ta cũng dấy tưởng như thế. Vì vậy nên không còn gây não hại đối với chúng sinh, không đoạt lấy các vật dụng đem lại đời sống cho họ, cùng cắt đứt thân mạng họ. Lại cũng không chỉ dẫn kẻ khác đoạt lấy phần khí chất tinh thuần nơi con người cùng mạng sống của họ. Nhờ vậy mà ta trong trăm ngàn vạn ức na-do-tha kiếp trôi lăn theo dòng chảy sinh tử, không gì có thể não hại được, cũng không hề bị cướp đoạt lấy các vật dụng đem lại sự sống cùng thân mạng mình. Vì sao? Vì tất cả chúng sinh không một chúng sinh nào chẳng phải đã là cha mẹ, anh em, nam nữ thân thuộc của ta. Như thế là ta đối với hết thảy chúng sinh, không một chúng sinh nào chẳng phải là cha mẹ ta, anh em nam nữ thân thuộc của ta. Do từ ý nghĩa đó, ta từng cùng với tất cả chúng sinh kia đều là thân thuộc. Tất cả chúng sinh kia cũng từng cùng với ta đều là thân thuộc. Nếu đối với cha mẹ, cho tới các nam nữ thân thuộc mà gây nên não hại, lẽ ấy là không thể được. Này chư vị nhân giả! Thế nào gọi là không quấy nhiễu não hại? Như các chúng sinh mong cầu an lạc, lìa xa khổ não thì phải nên học hỏi như vầy: Như ta đối với hàng Sát-lợi quấy hại tâm họ, khiến cho tầng lớp ấy nơi quốc độ cảnh giới chúng dân của mình, chỗ gốc của lòng ham muốn không còn sinh vui thích, đối với hàng Bà-la-môn, thậm chí cả loài súc sinh cũng quấy hại tâm họ, khiến nơi gốc của lòng ham muốn chẳng còn sinh vui thích, an lạc. Do từ nhân duyên ấy mà lần lượt sinh ra bao sự chinh phạt, chém giết, tranh giành, kiện tụng, dua nịnh, dối gạt, phanh thây, xé thịt, hủy diệt thân mạng lẫn nhau. Như vậy là ta kể từ hôm nay đối với mọi chúng sinh nên dứt trừ sự não hại cùng hủy diệt thân mạng họ, đem sự bố thí thanh tịnh bình đẳng, tạo thành nhân duyên. Nhờ đấy ta sẽ, dù còn lưu chuyển lâu dài trong cõi sinh tử cũng không gì có thể quấy hại hay cùng với ta giành giật, tranh tụng, cùng hủy hoại thân mạng. Chính từ ý nghĩa ấy nên gọi là không quấy nhiễu não hại. Này chư vị nhân giả! Thế nào gọi là không hại thân mạng? Như các chúng sinh mong cầu thân mạng không bị bức hại thì phải nên học hỏi như vầy: Tất cả chúng sinh đều là thân thuộc của ta. Nếu như ta tạo ra những trận mưa dữ dội, hoặc những cơn mưa trái thời tiết, những trận mưa gió, tro bụi tạo ra cảnh quan u ám, hoặc những trận nắng hạn lâu ngày làm khô cạn bao dòng sông, suối, ao hồ, khiến cho bao thứ hoa quả, dược thảo, năm loại lúa gạo hoa màu, các thứ hương vị đều bị tổn giảm, đem lại hậu quả là bao người thân thuộc của ta phải chịu cảnh mất mùa đói khát khốn khổ, làm cho bốn đại loạn động, phát khởi vô số bệnh tật, chết chóc. Nếu gia tăng sự bức hại như thế là điều không nên làm. Chính từ ý nghĩa ấy mà ta đối với chúng sinh phải nên xa lìa sự bức hại thân mạng. Do không khiến cho hương vị của khí chất tinh thuần nơi đại địa bị tổn giảm. Nhờ đó mà mọi chúng sinh thân thuộc của ta không còn cảnh mất mùa đói khát nữa, không còn làm cho bốn đại loạn động, dấy sinh bao thứ bệnh tật, chết chóc oan uổng. Chính từ sự bố thí thanh tịnh bình đẳng ấy nên dù còn phải lưu chuyển lâu dài trong cõi sinh tử, cũng không thọ nhận cảnh mất mùa, đói khát, bệnh tật, chết chóc, khổ não. Do ý nghĩa đó nên gọi là không hại thân mạng. Này chư vị nhân giả! Thế nào gọi là không cướp đoạt các vật dụng đem lại sự sống cho chúng sinh? Như các chúng sinh mong cầu cho thân mạng mình được tồn tại thì phải nên học hỏi như vầy: Hết thảy chúng sinh đều là thân thuộc của ta. Vậy nếu ta cướp đoạt các thứ hoa quả, dược thảo, năm loại lúa gạo, hoa màu, cùng các khí chất tinh thuần, tức là những vật dụng đem lại sự sống cho muôn loài, thì những chúng sinh ấy, do buộc phải sử dụng các thứ hoa quả, dược thảo, năm loại lúa gạo, hoa màu, cùng các khí chất tinh thuần xấu kém nên thân thể gầy yếu, suy nhược, sức lực không còn, mất chính niệm, tính ác dấy khởi, thô bạo khinh xuất, thần sắc héo úa, sinh ra vô số thứ bệnh tật. Nếu như các nỗi khổ ấy cứ gia tăng, điều nầy thật không thể được. Vì vậy, ta nên tuân theo những lời chỉ dạy của các bậc Tiên thánh, chư Thiên. Đối với các thứ hương vị đem lại cuộc sống kia, chỉ nên được giữ lấy một phần khí chất tinh thuần trong sáu mươi bốn phần để tạo nên sức sống cho thân mạng mình, còn lại sáu mươi ba phần khí chất tinh thuần nơi hương vị của đại địa được giữ lại để tạo nên sức sống cho chúng sinh, khiến họ luôn được an lạc. Ta do đã tạo được hạnh tri túc làm nhân duyên ấy, nên dù cho còn bị lưu chuyển lâu dài trong cõi sinh tử, cũng không còn gặp phải trường hợp sử dụng các thứ thực phẩm xấu kém, hoặc phần khí chất tinh thuần bị mất mát. Nhờ đó mà có đủ uy đức, thể lực cường tráng, tư duy sắc bén, tâm tính nhu hòa, dung mạo đoan chính, không hề mắc phải bệnh tật. Đó gọi là không đoạt lấy các vật dụng đem lại sự sống cho muôn loài. Này chư vị nhân giả! Thế nào gọi là thân mạng không ly biệt? –Như các chúng sinh mong cầu sự an lạc cho thân mạng mình thì phải nên nhận thức, học hỏi: Hết thảy chúng sinh đều là thân thuộc của ta. Nếu như đem tâm xấu ác đối xử với họ, cùng sử dụng ám khí khiến tâm ý họ bị thất tán, thân thể bị hủy hoại, phần khí chất tinh thuần bị cướp đoạt, như thế là các chúng sinh thân thuộc của ta ấy thân tâm phải nhận lấy bao nỗi khổ não, điều nầy thật không nên làm! Nhờ nhân duyên ấy mà ta dù còn lưu chuyển dài lâu trong nẻo sinh tử cũng không hề bị các chúng phi nhân hãm hại, dùng ám khí làm tâm ý bị tán loạn, cướp đoạt phần khí chất tinh thuần. Đó gọi là thân mạng không ly biệt. Này chư vị nhân giả! Thế nào gọi là không hủy hoại thân mạng? –Như các chúng sinh yêu mến thân mạng của chính mình, mong cầu an lạc, xa lìa khổ não, tên tuổi được lan truyền, giàu sang, cho đến đạt được giải thoát, thì phải nên nhận thức và học hỏi như vầy: Hết thảy chúng sinh đều là người thân thuộc với ta. Nếu ta chỉ vì miếng cơm manh áo mà cướp đoạt phần khí chất tinh thuần của hàng thân thuộc ấy, còn thân xác thì bị hủy hoại tàn khốc. Hoặc ở các chốn đỉnh núi, vực sông, lầu cao, cây lớn thảy đều khiến cho khô cằn, tàn lụi, hoặc đem độc dược hại người, khiến họ chỉ còn là những thây ma, hoặc dùng mưu kế độc ác, hoặc cắt đứt ngả uống ăn, hoặc dùng đao kiếm đâm chém, chặt đầu, nói chung là đủ mọi phương tiện nhằm dứt trừ mạng sống của họ. Nếu bao nỗi khổ ấy cứ tăng thêm, điều nầy thật không thể được! Chính nhờ nhân duyên không hủy hoại thọ mạng của bao kẻ khác ấy mà ta ở trong cuộc lưu chuyển dài lâu nơi cõi sinh tử sẽ không hề bị các chúng sinh cướp đoạt phần khí chất tinh thuần của mình, không ai có thể hủy hoại thân thể cướp đi mạng sống. Do ý nghĩa ấy nên gọi là không hủy hoại thân mạng. Những điều vừa nêu diễn trên chính là bố thí thanh tịnh bình đẳng. Lại nữa, bố thí thanh tịnh bình đẳng ấy từ lòng thương xót đối với tất cả chúng sinh, nên qua đó đã tích chứa được công đức trí tuệ để dứt trừ bao thứ nhận thức hư huyễn, tạo được sự tinh tấn vững chắc, mong đạt được hết thảy nẻo thiện theo đúng pháp để hành hóa, không vì sự sống của thân mạng mình khởi tâm xấu ác, đối với muôn loài không hề dấy ý hãm hại. Chỗ giữ gìn giới cấm như thế là cùng với chúng sinh đồng. Thấy chúng sinh an lạc thì thâm tâm luôn sinh hoan hỷ. Đối với các duyên an lạc của chính bản thân mình luôn tự biết đủ. Mọi nẻo liên hệ với ái dục thảy đều có thể rời bỏ. Tiếp cận các pháp thù thắng không hề có tâm tham tiếc nhỏ nhen. Luôn biết lo sợ về sức nhẫn nhục tự tại trong ba cõi. Tin tưởng ở diệu lý vô thường nơi vạn pháp để theo đúng lời giảng dạy mà dốc sức tu tập hành hóa. Nơi bản thân, nếu thời cơ bị mất thì luôn tự xem xét tìm hiểu. Thấy kẻ khác không còn thời cơ thì luôn sinh lòng thương xót, cứu giúp. Tu tập nẻo thiện không hề cho là đủ, có tội lỗi thường siêng năng sám hối. Luôn hồi hướng đến cõi vô biên để dốc cầu chính pháp. Thường đối với chúng sinh khởi tạo phước điền, lại dốc vì họ mà dứt trừ các nẻo ác. Ở nơi tất cả các pháp, tâm an trụ nơi vô sở trụ. Đấy chính là chân lý về sự bố thí thanh tịnh bình đẳng ở thế gian. Này chư vị nhân giả! Ta nay đã nêu giảng đầy đủ về diệu nghĩa bậc nhất của sự bố thí thanh tịnh bình đẳng. Bấy giờ Đức Thế Tôn liền đọc chú: –Đa địa dã tha. Dạ mị da my. Bát la khư dạ mị. Ưu bát la khư dạ mị. Dạ mị. Da dạ mị. Khư dạ dạ mị. Tô bà ha. Lúc Đức Phật giảng nói về pháp môn ấy, có tám trăm sáu mươi vạn chúng Khẩn-na-la, Càn-thát-bà, xa lìa được mọi thứ bụi bặm, cấu uế, đạt Pháp nhãn thanh tịnh. Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại đọc chú: –Đa địa dã tha. Cù kiệt lê. Cù kiệt lê. Dạ bà cù kiệt lê. Ưu bà dạ bà. Cù kiệt lê. Tô bà ha. Đức Thế Tôn lại đọc chú: –Đa địa dã tha. Đà bễ. Đà la bễ. Đà la đà bễ. Ưu bả đà la. Đà la bễ. Tô bà ha. Lúc Đức Thế Tôn giảng nói về pháp môn này, có chín trăm bốn mươi vạn chúng Dạ-xoa xa lìa mọi thứ bụi bặm, cấu uế, đạt được Pháp nhãn thanh tịnh. Đức Thế Tôn lại đọc chú: –Đa địa dã tha. A xà nê. Xoa xoa a xà nê. Già xoa xoa. A xà nê. Mao la a xà nê. Xoa xoa. Tô bà ha. Lúc Đức Thế Tôn giảng nói về pháp môn ấy, có bảy ngàn vạn chúng Long ở nơi pháp đã xa lìa bụi bặm phiền não, đạt được pháp Tam-muội thù thắng. Bấy giờ Đức Thế Tôn lại đọc chú: –Đa địa dã tha. Ha ha ha ha ha ha! Hệ đã bà. Ha ha ha. Nhược nhược nhược. Ha ha ha. Tô bà ha. Lúc Đức Thế Tôn giảng nói về pháp môn này, có ba mươi na-do-tha trăm ngàn chúng A-tu-la được pháp Tam-muội không quên tâm Bồ-đề. Đức Thế Tôn lại đọc chú: –Đa địa dã tha. A nô na. A bà na nô na. A bà da lê. A bà na nô na. Tô bà ha. Lúc Đức Thế Tôn giảng nói về pháp môn ấy, có tám vạn bốn ngàn tần-bà-la chúng Cưu-bàn-trà đạt được pháp Tam-muội Hỷ lạc. Bấy giờ Đức Thế Tôn lại đọc chú: –Đa địa dã tha. Đà già đà xà. A bà đà già đà xà. A bà đà. Già đà xà xà. Kiền đà. Kiền đà xà. Tô bà ha. Lúc Đức Thế Tôn giảng nói về pháp môn này, có bảy na-do-tha trăm ngàn chúng Ngạ quỷ, Tỳ-xá-già, Phú-đơn-na, Ca-trá phú-đơn-na đạt được pháp Tam-muội Điện vương. Lại còn nhiều hơn số lượng ấy gồm các chúng Thiên, Long, Dạ-xoa, cho tới loài quỷ Ca-trá phú-đơn-na, trước kia chưa từng phát tâm cầu đạo quả Bồ-đề vô thượng thì nay thảy đều phát tâm. Đấy chính là diệu nghĩa bậc nhất của pháp bố thí thanh tịnh bình đẳng. Này chư vị nhân giả! Trong các thứ bình đẳng đã kể trên, thế nào là giới luật thanh tịnh bình đẳng? –Như hết thảy các pháp ở thế gian và xuất thế gian, mọi cõi thiện hiện có cùng cảnh giới Niết-bàn an lạc, giới luật luôn là điểm căn bản. Nhờ từ nhân duyên ấy mà an trụ được nơi quả vị Thanh văn, Bích-chi-phật, cùng đạt đến đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác. Đó chính là con đường thực hiện mười nghiệp thiện, xa lìa sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói hai chiều, nói lời ác độc, nói lời thêu dệt, tham lam, sân hận, tà kiến. Này chư vị nhân giả! Đối với nhân duyên xa lìa sát sinh sẽ đạt được mười công đức. Những gì là mười thứ công đức ấy? Đó là: 1.Đối với hết thảy chúng sinh có được sự vô úy lớn lao. 2.Đối với tất cả các loài có được tâm đại Từ bi. 3.Đoạn trừ sạch mọi thứ tập khí. 4.Không mắc phải các thứ bệnh tật phiền não. 5.Thọ mạng được lâu dài. 6.Được các chúng phi nhân hộ trì. 7.Mọi thời ngủ nghỉ luôn được an ổn, không hề có ác mộng. 8.Không có các mối oán thù. 9.Không lo sợ về các nẻo ác. 10.Được sinh vào nẻo thiện. Nhờ đem căn lành của việc xa lìa sát sinh ấy, hồi hướng đến đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác, nên người đó không bao lâu sẽ chứng đắc bậc có trí tuệ vô thượng. Đạt đến đạo quả Bồ-đề rồi thì ở nơi cõi Phật ấy luôn xa lìa mọi sự giết hại, chúng sinh được sinh về quốc độ đó thọ mạng được lâu dài. Này chư vị nhân giả! Về nhân duyên xa lìa trộm cấp sẽ đạt được mười thứ công đức. Những gì là mười thứ công đức ấy? 1.Có được đầy đủ phước báo lớn về của cải. 2.Không dựa vào kẻ khác mà có. 3.Của cải không cùng chung với năm nhà. 4.Được mọi người yêu kính luôn, không chán lìa. 5.Viễn du khắp mười phương không hề có sự lo lắng nghi ngại. 6.Mọi nẻo hành xử đều không sợ hãi. 7.Thường vui thích bố thí. 8.Không mong cầu của cải vật báu mà tự nhiên chóng đạt. 9.Được của cải, tài sản thì liền bố thí. 10.Được sinh nơi cõi thiện. Nhờ đem căn lành của việc xa lìa trộm cắp ấy, hồi hướng đến đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác, nên khi đạt đạo quả Bồ-đề rồi, nơi quốc độ của Đức Phật đó luôn đầy đủ vô số các thứ hoa quả, vườn cây, y phục, chuỗi báu anh lạc, các vật để trang nghiêm, châu ngọc vật báu quý lạ sung mãn khắp chốn. Này chư vị nhân giả! Về nhân duyên xa lìa tà dâm sẽ đạt được mười thứ công đức. Những gì là mười thứ công đức ấy? 1.Có được sự nhiếp phục các căn đúng theo luật nghi. 2.Được an trụ nơi nẻo lìa dục, thanh tịnh. 3.Không hề gây não hại cho người khác. 4.Được mọi người hết lời khen ngợi. 5.Được chúng nhân vui thích, chiêm ngưỡng. 6.Có thể phát khởi tinh tấn. 7.Nhận biết được bao tội lỗi trong cõi sinh tử. 8.Thường vui thích trong sự bố thí giúp đỡ. 9.Luôn ham thích cầu chính pháp. 10.Được sinh nơi cõi thiện. Nhờ đem căn lành của việc xa lìa tà dâm ấy, hồi hướng đến đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác, nên khi đạt được đạo quả chính giác rồi, ở nơi quốc độ của Đức Phật đó không hề có các thứ mùi hôi tanh xú uế, cũng không có nữ nhân, không có sự dâm dục, thảy đều từ sự biến hóa sinh ra. Này chư vị nhân giả! Về nhân duyên xa lìa nói dối sẽ đạt được mười thứ công đức. Những gì là mười thứ công đức ấy? 1.Lời nói được mọi người tin tưởng. 2.Nơi tất cả mọi xứ sở, kể cả đối với chư Thiên, những lời phát ngôn luôn thích hợp, thích đáng. 3.Từ nơi miệng bay ra mùi thơm như hoa Ưu-bát-la. 4.Đối với hàng trời, người, riêng mình tạo được sự chứng đắc sáng tỏ. 5.Được mọi người kính trọng, yêu mến, lìa mọi nghi hoặc. 6.Luôn nói ra lời chân thật. 7.Tâm ý luôn được thanh tịnh. 8.Thường không có lời dua nịnh, ngôn ngữ luôn hợp với đối tượng. 9.Luôn có được niềm hoan hỷ dồi dào. 10.Được sinh nơi nẻo thiện. Nhờ đem căn lành của việc xa lìa nói dối ấy, hồi hướng đến đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác, nên sau khi đạt đạo quả Bồ-đề rồi, nơi quốc độ của Đức Phật đó không hề có các mùi hôi tanh xú uế. Trái lại, với vô số các mùi thơm vi diệu luôn xông tỏa đầy khắp. Này chư vị nhân giả! Về nhân duyên xa lìa lời nói hai chiều thì sẽ đạt được mười thứ công đức. Những gì là mười thứ công đức ấy? 1.Có được thân tướng không bị hủy hoại. 2.Có được quyến thuộc không bị hủy hoại. 3.Có được bạn lành, không bị hủy hoại. 4.Đạt được sự tin tưởng không bị hủy hoại. 5.Được pháp không bị hủy hoại. 6.Đạt được luật nghi không bị hủy hoại. 7.Được pháp Xa-ma-tha không bị hủy hoại. 8.Đạt được pháp Tam-muội không bị hủy hoại. 9.Đạt được pháp nhẫn không bị hủy hoại. 10.Được sinh nơi nẻo thiện. Nhờ đem căn lành của sự việc xa lìa lời nói hai chiều hồi hướng đến đạo quả Bồ-đề vô thượng, nên sau khi đạt đến đạo quả chính giác rồi, nơi quốc độ của Đức Phật ấy mọi chúng sinh cùng quyến thuộc không hề bị các thứ ma oán hay kẻ khác phá hoại. Này chư vị nhân giả! Về nhân duyên xa lìa lời nói ác độc thì sẽ đạt được mười thứ công đức. Những gì là mười thứ công đức ấy? 1.Âm thanh của ngôn ngữ luôn dịu dàng, hòa nhã. 2.Ngôn từ luôn lưu loát, linh hoạt. 3.Lời nói luôn đằm thắm, ấm áp. 4.Lời nói tạo được sự hòa hợp. 5.Ngôn ngữ tất được thích đáng, đúng cách. 6.Ngôn ngữ luôn chắc thật. 7.Lời nói luôn thể hiện tinh thần vô úy. 8.Lời nói không hề xu nịnh. 9.Lời nói luôn đúng pháp. 10.Được sinh nơi cõi thiện. Nhờ đem căn lành của sự việc xa lìa lời nói ác độc hồi hướng đến đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác, nên sau khi đạt đạo quả Bồ-đề rồi, ở nơi quốc độ của Đức Phật đó, tiếng pháp âm luôn được phát ra sung mãn khắp chốn, xa lìa mọi ngôn từ thô ác. Này chư vị nhân giả! Về nhân duyên lìa bỏ lời nói thêu dệt thì sẽ đạt được mười thứ công đức. Những gì là mười thứ công đức ấy? 1.Được trời, người yêu kính. 2.Luôn được trời, người tùy hỷ ca ngợi. 3.Lời nói luôn vui vẻ, chân thật. 4.Thường cùng với các bậc cao minh gắn bó không rời. 5.Nghe mọi lời nói thảy đều lãnh hội nhanh chóng. 6.Được các bậc có trí tuệ yêu kính, quý trọng. 7.Luôn có lòng yêu thích các chốn A-lan-nhã. 8.Luôn yêu thích các bậc Hiền thánh tịch tónh. 9.Luôn xa lìa kẻ xấu ác, gần gũi các bậc Thánh hiền. 10.Được sinh nơi cõi thiện. Nhờ đem căn lành của sự việc xa lìa lời nói thêu dệt ấy, hồi hướng đến đạo quả Bồ-đề vô thượng, nên sau khi đạt quả vị chính giác rồi, ở nơi cõi Phật đó, các chúng sinh được sinh đến cõi nước ấy luôn có được dung mạo đoan chính, khả năng tư duy sắc bén, không hề bị quên, vui thích nẻo xa lìa dục lạc. Này chư vị nhân giả! Do nhân duyên lìa bỏ tham dục nên đạt được mười thứ công đức. Đó là: 1.Các căn của thân tướng được đầy đủ. 2.Khẩu nghiệp luôn thanh tịnh. 3.Tâm không hề bị tán loạn. 4.Có được phước báo thù thắng. 5.Đạt được sự giàu sang thịnh vượng. 6.Được mọi người vui thích chiêm ngưỡng. 7.Có được của cải cùng đám quyến thuộc không bị hủy hoại. 8.Thường cùng với các bậc cao minh gặp gỡ tương đắc. 9.Không lìa âm thanh chính pháp. 10.Được sinh nơi cõi thiện. Nhờ đem căn lành của sự dứt bỏ tham dục ấy, hồi hướng đến đạo quả Bồ-đề vô thượng, nên sau khi đạt quả vị chính giác rồi, nơi quốc độ của Đức Phật đó, luôn xa lìa các thứ ma oán, cùng các nhóm ngoại đạo. Này chư vị nhân giả! Về nhân duyên lìa bỏ sự sân hận thì sẽ đạt đủ mười thứ công đức. Đó là: 1.Luôn xa lìa được mọi nẻo giận dữ. 2.Không vui thích với việc tích chứa của cải. 3.Luôn thuận theo các bậc Thánh hiền. 4.Luôn cùng với các bậc Thánh hiền gặp gỡ, tương đắc. 5.Luôn có được các sự việc lợi ích. 6.Diện mạo bội phần trang nghiêm. 7.Thấy chúng sinh an lạc, luôn sinh tâm hoan hỷ. 8.Thường được Tam-muội. 9.Ba nghiệp luôn được điều phục hài hòa. 10.Được sinh nơi cõi thiện. Nhờ đem căn lành của sự lìa bỏ sân hận ấy, hồi hướng đến đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác, nên sau khi đạt quả vị Bồ-đề rồi, nơi quốc độ của Đức Phật đó, mọi chúng sinh hiện có thảy đều đạt được các pháp Tam-muội tâm hết mực thanh tịnh. Này chư vị nhân giả! Về nhân duyên lìa bỏ tà kiến thì sẽ đạt được mười thứ công đức. Những gì là mười thứ công đức đó? 1.Tâm tính tốt đẹp, nhu hòa, bạn bè hiền lành. 2.Tin tưởng có nghiệp báo, cho dù bị cướp đoạt thân mạng cũng không dấy khởi các điều ác. 3.Quy kính Tam bảo, không tin nơi thiên thần. 4.Luôn có được chính kiến, không tin chọn về năm thứ ngày tháng tốt xấu. 5.Luôn được sinh nơi cõi trời, người, xa lìa các nẻo ác. 6.Đạt được tâm hiền thiện, được các bậc cao minh khen ngợi. 7.Lìa bỏ nẻo thế tục, dốc cầu đạo giác ngộ, giải thoát. 8.Lìa bỏ hai nẻo kiến chấp: Thường-đoạn, tin ở pháp duyên sinh. 9.Luôn cùng với các hạng người có lòng tin chân chính, hành động chính đáng, phát tâm chân chính, gặp gỡ tâm đắc. 10.Được sinh nơi cõi thiện. Nhờ đem căn lành của sự việc dứt trừ tà kiến ấy, hồi hướng đến đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác, thì người ấy sẽ mau chóng thực hiện viên mãn sáu pháp Ba-la-mật nơi cõi Phật thiện tịnh thành tựu quả vị chính giác, đạt được đạo quả Bồ-đề, thì ở nơi quốc độ của Đức Phật đó, các chúng sinh được sinh đến đấy thảy đều có đủ các công đức trí tuệ, cùng hết thảy căn lành trang nghiêm, không tin nơi thiên thần, xa lìa các nẻo ác đáng sợ, đến khi mạng chung thì trở lại sinh vào cõi thiện. Này chư vị nhân giả! Nơi thời gian thực hiện pháp bố thí thanh tịnh bình đẳng, đối với giới luật, đã xa lìa sát sinh, thực hành bình đẳng, do từ nhân duyên ấy nên có được đầy đủ phước báo lớn, lìa khỏi mọi sự sợ hãi. Này chư vị nhân giả! Nơi thời gian thực hiện pháp bố thí thanh tịnh bình đẳng, đối với giới luật đã xa lìa trộm cắp, hành hóa bình đẳng, do nhân duyên ấy nên đạt được đầy đủ phước báo lớn, không cùng với kẻ khác mà có được tài sản, tu tập tất cả các pháp lành, không hề gặp phải khó khăn trở ngại. Này chư vị nhân giả! Nơi thời gian thực hiện pháp bố thí thanh tịnh bình đẳng, đối với giới luật lìa bỏ tà dâm, hành hóa bình đẳng, nhờ vào nhân duyên đó mà có được đầy đủ phước báo lớn, tu tập các căn lành, không hề bị trở ngại. Khi tiếp xúc với vợ mình hay vợ của người khác không hề có ý niệm tà dâm. Này chư vị nhân giả! Trong thời gian thực hiện pháp bố thí thanh tịnh bình đẳng, đối với giới luật đã xa lìa nói dối, hành hóa bình đẳng, thì do từ nhân duyên ấy nên có được đầy đủ phước báo lớn, như bị hủy báng thì không ai tin lời kẻ hủy báng đó, theo đúng pháp nên tu hành, ý phát dẫn tới việc làm luôn chắc chắn, chính xác. Nơi cõi người, trời, riêng mình tạo được sự chứng đắc sáng tỏ, miệng tỏa ra hương thơm như hoa Ưu-bát-la. Này chư vị nhân giả! Trong thời gian thực hiện pháp bố thí thanh tịnh bình đẳng, đối với giới luật đã lìa bỏ lời nói hai chiều, hành hóa bình đẳng, thì do từ nhân duyên ấy mà đạt được đầy đủ phước báo lớn, có được các hàng quyến thuộc không thể phá hoại, có lòng kính tin, đều là hạng trượng phu. Này chư vị nhân giả! Trong thời gian thực hiện pháp bố thí thanh tịnh bình đẳng, đối với giới luật đã lìa bỏ lời nói ác độc, hành hóa bình đẳng, thì do từ nhân duyên ấy mà có được đầy đủ phước báo lớn, lìa xa thứ ngôn ngữ thô bạo xấu ác, đạt được âm thanh vi diệu, đầy đủ dự thanh tịnh, rời bỏ mọi âm thanh tệ ác. Này chư vị nhân giả! Trong thời gian thực hiện pháp bố thí thanh tịnh bình đẳng, đối với giới luật đã dứt trừ lời nói thêu dệt, hành hóa bình đẳng, thì do từ nhân duyên ấy mà có được đầy đủ phước báo lớn, mọi lời nói phát ra luôn đúng đắn, thích đáng, đoạn trừ mối hồ nghi của đại chúng, được mọi người vui thích, ngưỡng mộ. Này chư vị nhân giả! Trong thời gian thực hiện pháp bố thí thanh tịnh bình đẳng, đối với giới luật đã biết bỏ tham dục, hành hóa bình đẳng, thì do từ nhân duyên ấy mà có được đầy đủ phước báo lớn, thọ nhận một cách chính đáng phước báo ấy rồi trở lại lìa bỏ để nhận lấy phước báo thù thắng với uy lực hoàn bị. Này chư vị nhân giả! Trong thời gian thực hiện pháp bố thí thanh tịnh bình đẳng, đối với giới luật đã xa lìa giận dữ, hành hóa bình đẳng, thì do từ nhân duyên ấy mà có được đầy đủ phước báo lớn, dung mạo đoan chính, tươi đẹp, được mọi người yêu kính, các căn nơi thân tướng luôn đầy đủ tất cả không bị ngăn ngại. Này chư vị nhân giả! Trong thời gian thực hiện pháp bố thí thanh tịnh bình đẳng, đối với giới luật đã lìa bỏ tà kiến, hành hóa bình đẳng, do từ nhân duyên ấy mà đạt được đầy đủ phước báo lớn, có được quốc độ cùng chúng sinh luôn theo nẻo chính kiến, luôn được gặp chư Phật cùng các hàng Bồ-tát, Thanh văn, Duyên giác, được thấy Phật, nghe pháp và cúng dường chúng Tăng. Luôn dốc tu tập hạnh Bồ-tát không hề rời nẻo thanh tịnh bình đẳng. Này chư vị nhân giả! Đó chính là giới hạnh thanh tịnh bình đẳng. Như đem giới hạnh ấy để tự trang nghiêm cho mình thì hành giả đó không bao lâu sẽ có được đầy đủ các tướng tốt, thành tựu quả vị Phật đà với đầy đủ công đức và âm thanh thanh tịnh, hàng phục các thứ ma oán, luôn thể hiện đúng nẻo thiền định trí tuệ, đại trí, đại Từ, Đại Bi thanh tịnh, cho đến có thể thành tựu được tất cả các pháp Phật thanh tịnh bình đẳng. Đấy chính là sự phát khởi giới hạnh thanh tịnh bình đẳng nơi thế gian. Này chư vị nhân giả! Còn thế nào là sự phát khởi giới hạnh thanh tịnh bình đẳng xuất thế gian? Như đối với giới thanh tịnh cùng Tam ma đề dấy khởi lòng tin tưởng, lãnh hội thấu đạt và thực hành, thì không nương tựa vào “sự” của sắc mà thọ trì giới luật. Không dựa vào các “sự” của thọ, tưởng, hành, thức mà giữ giới luật. Không dựa vào nhãn sự mà giữ giới luật. Không dựa vào sắc nhãn, thức nhãn, xúc nhãn, không dựa vào nhân duyên tiếp xúc sinh ra các “sự” của thọ, ái, thủ, hữu, sinh mà giữ giới luật. Cho đến không dựa vào ý sự mà giữ giới luật. Không dựa vào pháp ý, thức ý, xúc ý. Không dựa vào nhân duyên tiếp xúc sinh ra các “sự” của thọ, ái, thủ, hữu, sinh mà giữ giới luật. Không dựa vào các sự của địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới mà thọ trì giới luật. Không dựa vào các sự của Xứ vô biên hư không, Xứ vô biên thức, Xứ vô sở hữu, Xứ phi tưởng phi phi tưởng mà thọ trì giới luật. Không dựa vào các sự nơi ba cõi: Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc để thọ trì giới luật. Không dựa vào các sự của đời hiện tại và vị lai để thọ trì giới luật. Không dựa vào các sự nơi các bậc Thanh văn, Bích-chi-phật, Đại thừa Vô thượng Nhất thiết trí để thọ trì giới luật. Không dựa vào các sự nơi việc học hỏi, thiền định, trí tuệ để thọ trì giới luật. Không dựa vào các sự nơi diệu lực của sự học hỏi, diệu lực của pháp Tam-muội, diệu lực của các Tổng trì, diệu lực của pháp nhẫn nhục để thọ trì giới luật. Không dựa vào các sự nơi diệu lực của các pháp hữu lậu, vô lậu; hữu vi, vô vi; thiện, bất thiện; sáng tỏ, u tối để thọ trì giới luật. Đó chính là sự phát khởi giới hạnh thanh tịnh bình đẳng xuất thế gian. Là nẻo phạm hạnh dẫn tới Thánh đạo để đi vào thành trì vô úy. Giới hạnh thanh tịnh bình đẳng ấy là chỗ dựa của các bậc Thánh hiền để lãnh hội chân lý Đệ nhất nghĩa, hội nhập trí tuệ thanh tịnh. Này chư vị nhân giả! Chỗ gọi là giới ấy, cú nghĩa của nó là gì? –Ví như trong khoảng rộng của núi Kim cang, Thiết vi có gió thổi nóng bức, nhờ những ngọn núi ngăn chận nên gió ấy không thổi đến khắp bốn cõi thiên hạ. Thánh giới thanh tịnh bình đẳng cũng như thế. Với diệu lực do tu tập bốn Niệm xứ nên có thể ngăn chận được gió ái dục nóng bức không sao dấy khởi nổi. Chính từ ý nghĩa ấy nên được gọi là Giới. Ví như trong khoảng rộng của núi Thiết vi có thứ gió thổi đầy mùi hôi thối, nhờ những vách núi ngăn chận nên không khiến thứ gió ấy thổi đến khắp bốn cõi thiên hạ. Thánh giới thanh tịnh bình đẳng cũng như vậy. Từ diệu lực do tu tập bốn pháp Vô úy nên có thể ngăn chận thứ khí xú uế, không cho chúng dấy lên được. Chính từ ý nghĩa ấy nên được gọi là Giới. Ví như trong khoảng rộng nơi núi Thiết vi có vùng u tối hết sức rộng lớn. Nhờ các vách núi ngăn chận nên không khiến vùng tối tăm đó san phủ đến khắp bốn cõi thiên hạ. Thánh giới thanh tịnh bình đẳng cũng như thế. Nhờ diệu lực do tu tập bảy Giác phần nên có thể ngăn chận các hình tướng của vô minh, hữu vi, hữu lậu, không thể dấy khởi được. Chính từ ý nghĩa ấy nên được gọi là Giới. Này chư vị nhân giả! Ý nghĩa của sự lìa dục chính là ý nghĩa của Giới. Ý nghĩa của sự giải thoát cũng là ý nghĩa của giới. Ý nghĩa của sự dừng dứt cũng là ý nghĩa của giới. Ý nghĩa của tận trừ cũng là ý nghĩa của giới. Ý nghĩa của diệt cũng là ý nghĩa của giới. Những cú nghĩa vừa nêu trên đều là ý nghĩa của giới. Này chư vị nhân giả! Đó chính là tính chất hữu vi, vô vi của giới hạnh thanh tịnh bình đẳng. Như có các vị Sa-môn, Bà-la-môn tu tập gồm cả nẻo hữu vi và vô vi của giới hạnh thanh tịnh bình đẳng, tạo được sự an trụ, thì người ấy đáng được thọ nhận sự cúng dường của thế gian. Nếu chúng nhân ở thế gian đối với các vị Sa-môn, Bà-la-môn ấy kính tin, tôn trọng, hộ trì, cúng dường các thứ như: Y phục, thức ăn uống, giường nệm, đồ nằm, những khi các vị ấy bị bệnh thì lo chuyện thuốc thang cùng các vật dụng đem lại sự sống những chúng nhân kia dù còn lưu chuyển trong cõi sinh tử cũng luôn được thọ nhận phước báo thù thắng, có thể mau chóng được vào thành trì vô úy lớn lao. Này chư vị nhân giả! Còn trong các thứ bình đẳng, thế nào là nhẫn thanh tịnh bình đẳng? Nhẫn có hai thứ: 1.Nhẫn xả bỏ. 2.Nhẫn dứt trừ giận dữ. Nhẫn xả bỏ thanh tịnh bình đẳng ấy là như muốn đạt được hết thảy mọi thứ an lạc, lìa bỏ tất cả mọi thứ khổ não. Đó gọi là Nhẫn xả bỏ thanh tịnh bình đẳng. Hay như có chúng sinh mong cầu an lạc, lìa mọi khổ não, đã quan sát khắp ba cõi với tất cả nẻo khổ cùng bao chốn bức bách thiêu đốt của ngọn lửa phiền não, chỉ trừ có bậc Thánh giác ngộ. Người quan sát nhận biết ấy đã vì bản thân mình mà sinh mối lo sợ lớn lao, nên lúc này đã nhận thức: Chúng sinh trong ba cõi thảy đều bị lửa phiền não bức bách thiêu đốt dữ dội, mỗi mỗi chúng sinh phải chịu lấy vô số nỗi khổ bức hại, liên tục bị trôi lăn trong dòng sinh tử, không thể cứu được. Như thế là ta cùng với tất cả chúng sinh đều bị bao nỗi khổ não hại, phải dùng phương tiện gì để có thể tự cứu? Vậy là suy nghó tiếp: Không dùng các sự việc khác, chỉ nên tu tập pháp nhẫn thì mới thoát khỏi tất cả khổ não, có đầy đủ được sự an lạc. Do đó liền có thể vui thích tu tập pháp nhẫn bình đẳng, dốc lìa bỏ vô số các thứ của cải vật chất của bản thân, nào là những đồ ăn thức uống, xe cộ, y phục, đồ nằm, giường ghế, phòng ốc, tùy theo sự cần dùng của mọi người mà thảy đều cấp cho cả. Dùng pháp nhẫn bố thí là nhằm để diệt trừ các sự khổ. Người ấy trong quá trình tu tập hạnh nhẫn, đạt được sự an trụ, đã có thể thực hiện sự thí xả, đối với các bậc phát tâm chân chính, tu hành chân chính, đích thân đến tận nơi để dốc cầu sự chỉ giáo và cúng dường họ. Do nhiều lần cúng dường ấy, từ nơi các bậc kia được nghe nói về bao khổ hoạn nơi sinh tử cùng các công đức của Niết-bàn giải thoát. Như thế là người ấy đối với ba thừa chính pháp là: Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Đại thừa vô thượng dốc phát tâm cầu chứng đạt. Do vì sự an lạc của nhiều người mà trở lại vui thích đem pháp nhẫn nuôi dưỡng muôn loài. Đấy chính là Nhẫn xả bỏ thanh tịnh bình đẳng. Thậm chí, nếu có thể xả thân cùng với của cải tài sản bên ngoài để tự nhẫn chịu mọi sự khổ, khiến cho người khác được an lạc, đó cũng gọi là Nhẫn xả bỏ thanh tịnh bình đẳng. Này chư vị nhân giả! Thế nào là Nhẫn dứt trừ giận dữ thanh tịnh bình đẳng? Như chư vị Bồ-tát Ma-ha-tát có thể đối với các thứ ngôn ngữ, âm thanh, văn tự, lìa bỏ tưởng phân biệt, lìa bỏ tưởng chấp về mọi thứ hình thể sắc tướng, lìa bỏ tưởng phân biệt về mọi cử động, uy nghi, khứ lai, đùa cợt. Lại cũng xả bỏ ái, thủ, không cầu phước báo, lìa mọi sự khổ lạc, dứt hết tưởng phân biệt, kể cả đối với chính thân mạng mình cũng không có tưởng chấp phân biệt. Vậy là đã an trụ được nơi Đệ nhất nghĩa của hạnh nhẫn thanh tịnh bình đẳng. Ví như hư không, gặp phải u ám không hề giận dữ, có được tươi sáng cũng không vui mừng, không dấy tâm phân biệt. Cũng như thế, Bồ-tát Ma-ha-tát an trụ nơi diệu nghĩa bậc nhất của pháp nhẫn thanh tịnh bình đẳng, đối với hết thảy các pháp hữu vi như ngôn ngữ, hình sắc cùng mọi thọ nhận khổ vui, thảy đều lìa mọi phân biệt, cũng không dấy sự phân biệt, không giận, không mừng, nơi các chúng sinh dứt hết mọi tưởng phân biệt, đạt đến sự an trụ nơi diệu nghĩa bậc nhất của hạnh nhẫn thanh tịnh bình đẳng. Ví như hư không, đối với sự lay động toàn diện không chút lay động hay dừng nghỉ, đối với sự chấn động trùm khắp cũng không chút chấn động hay dừng nghỉ. Bồ-tát Ma-ha-tát cũng như vậy, đối với hết thảy các nẻo hành của mọi tạo tác hữu vi, thân tâm không hề lay động hay dừng dứt khi có sự lay động toàn diện, cũng lại không chút chấn động hay dừng dứt khi có sự chấn động trùm khắp. Ví như hư không luôn thanh tịnh, dứt lìa mọi cấu nhiễm. Bồ-tát Ma-ha-tát cũng như vậy, an trụ nơi diệu nghĩa bậc nhất của pháp nhẫn thanh tịnh bình đẳng, đối với mọi tạo tác của pháp hữu vi, thân tâm luôn đạt được thanh tịnh. Ví như hư không có khả năng nuôi dưỡng và giúp cho muôn loài tăng trưởng, Bồ-tát Ma-ha-tát cũng như thế, an trụ nơi diệu nghĩa bậc nhất của pháp nhẫn thanh tịnh bình đẳng, từ đấy hóa độ nuôi dưỡng chúng sinh. Ví như hư không, chẳng hề bị kiếp tận lửa có thể thiêu hoại, cũng không hề bị kiếp tận nước hay gió có thể hủy hoại. Bồ-tát Ma-ha-tát cũng như thế, an trụ nơi diệu nghĩa bậc nhất của pháp nhẫn thanh tịnh bình đẳng, cho dù chưa đạt đến đạo quả Bồ-đề vô thượng, cũng không hề bị ba thứ lửa độc là: tham dục, sân hận, ngu si thiêu hoại tâm mình. Ví như hư không thanh tịnh, trong đêm mười lăm mặt trăng hết mực tròn đầy tỏa chiếu khắp chốn ánh sáng trong lành tươi mát, khiến cho các chúng sinh bị phiền não thiêu đốt thân tâm có được sự mát mẻ an vui. Bồ-tát Ma-ha-tát cũng như vậy, an trụ nơi diệu nghĩa bậc nhất của pháp nhẫn thanh tịnh bình đẳng, nên luôn khiến cho mọi nẻo uy nghi ứng xử nơi chính bản thân mình dứt sạch các thứ ưu não, lại cũng dứt hết mọi ưu não của chúng sinh. Ví như hư không thanh tịnh, trong đêm mười lăm mặt trăng hết sức tròn đầy, được các tinh tú vây quanh, tỏa chiếu khắp bốn cõi thiên hạ. Bồ-tát Ma-ha-tát cũng như thế, an trụ nơi diệu nghĩa bậc nhất của pháp nhẫn thanh tịnh bình đẳng, tùy theo chốn trú xứ của mình, đã khiến cho chúng chư Thiên, Long, cho đến loài quỷ Ca-trá phú-đơn-na vây quanh chiêm bái, hộ trì, hào quang hiển lộ, tỏa rạng. Ví như hư không thanh tịnh, trong đêm mười lăm mặt trăng hết sức tròn đầy tỏa chiếu trên vùng hải đảo có thứ châu báu ma-ni Nguyệt ái, thì châu báu ma-ni ấy từ trong số châu ngọc nơi biển rộng sẽ chảy ra dòng nước lớn có thể làm đầy biển cả. Bồ-tát Ma-ha-tát cũng như thế, an trụ nơi diệu nghĩa bậc nhất của pháp nhẫn thanh tịnh bình đẳng, dùng diệu nghĩa bậc nhất của hạnh nhẫn ấy phóng ra hào quang thù thắng, tỏa chiếu rạng ngời đến hết thảy chúng chư Thiên, Long, Dạ-xoa, La-sát, cho tới loài quỷ Ca-trá phú-đơn-na, khiến các chúng ấy thảy đều có được tâm thiện thanh tịnh, đối với muôn loài dấy khởi tâm đại Từ bi, dấy tâm đem lại lợi ích sâu xa, dấy tâm dứt trừ mọi thứ khổ não, dấy tâm khiến trụ nơi tất cả pháp an lạc, dấy tâm xem xét đời sau với những sự việc đáng sợ, khởi tâm lìa bỏ mọi nẻo xấu ác, khởi tâm dốc siêng năng tinh tấn thực hành các pháp thiện. Các chúng quỷ thần ấy, do đạt được các tâm thiện thù thắng như thế, nên lần lượt dần lìa bỏ tất cả các pháp bất thiện, hết thảy các dòng nước thiện thảy đều được sung túc, nên có thể đem lại sự tràn đầy cho biển lớn Niết-bàn. Này chư vị nhân giả! Chư vị nên quan sát sự vun trồng căn lành của các Bồ-tát Ma-ha-tát ấy, tuy chưa thể đạt đến nơi chốn cứu cánh, nhưng do trụ được nơi diệu nghĩa bậc nhất của hạnh nhẫn thanh tịnh bình đẳng, nên đã vượt qua được hết thảy các hàng Thanh văn, Bích-chi-phật, có thể dùng các pháp thiện để đem lại sự thành tựu trọn vẹn cho tất cả chúng sinh. Như ta ngày xưa làm vị Tiên nhân nhẫn nhục, thường ở tại chốn rừng sâu, sống nhờ vào các thứ trái cây ngon ngọt. Bấy giờ có vị quốc vương tên là Ca-lợi độc ác, đã hãm hại, cắt chặt thân ta ra làm tám mảnh. Vào lúc này, ta nhờ đã dốc tu theo diệu nghĩa bậc nhất của pháp nhẫn nhục, nên từ các chỗ bị cắt chặt ấy đã chảy ra thứ sữa trắng. Do từ nhân duyên nhẫn nhục khổ hạnh đó nên đã đem lại sự thành tựu trọn vẹn cho vô lượng trăm ngàn ức na-do-tha chúng Thiên, Long, Dạ-xoa, La-sát, Càn-thát-bà, A-tu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Ca-lâu-la, Ngạ quỷ, Tỳ-xá-già, Phú-đơn-na, Ca-trá phú-đơn-na. Thời bấy giờ, vô lượng trăm ngàn ức na-do-tha chư Thiên, Long cho đến tới Nhân phi nhân thảy đều phát tâm cầu đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác. Này chư vị nhân giả! Ta xưa làm thân người, sinh ở nơi chốn không phải là khó khăn, tu tập mọi khổ hạnh ấy cũng chưa đủ cho là khó khăn. Như ta, về thời xa xưa ở chốn khó khăn, mang lấy thân loài thỏ, vì muốn cho vị Tiên nhân có được thịt để ăn, nên tức thì lao mình vào đống lửa lớn. Do đã dốc tu tập theo diệu nghĩa bậc nhất của hạnh nhẫn thanh tịnh bình đẳng, nên khiến cho đống lửa lớn ấy biến thành ao nước đầy hoa sen. Lúc này thân thỏ của ta nằm yên trên đài hoa. Do từ nhân duyên khổ hạnh đó đã khiến cho cả cõi tam thiên đại thiên thế giới này hiện đủ sáu thứ chấn động. Bấy giờ chư vị Đế Thích, Hộ thế Tứ vương, Thiên, Long, Dạ-xoa, cho tới loài quỷ Ca-trá phú-đơn-na, cùng với các vị Tiên nhân, chúng Nhân phi nhân thảy đều cúng dường vô số các thứ và thưa với ta: “Như Ngài thành tựu được đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác thì vào lúc ấy xin hãy thọ ký cho chúng tôi cũng được thành tựu nơi đạo quả đó”. Này chư vị nhân giả! Ta từ xưa mang thân loài thỏ, do đã dốc tu tập theo diệu nghĩa bậc nhất của hạnh nhẫn thanh tịnh bình đẳng, nên đã được sự cúng dường khác với các hàng Thanh văn, Duyên giác. Do vậy, nên lúc ấy chư vị Phạm thích Thiên vương, Hộ thế Tứ vương, chúng Thiên, Long, Dạ-xoa, cho đến chúng Nhân phi nhân thảy đều đem đến vô số các thứ hoa thơm, hương xoa, hương bột, âm nhạc, châu báu, cờ phướn… toàn là loại thù thắng, để cúng dường, ca ngợi tôn quý, cho là điều ít có. So với hàng A-la-hán hiện nay không thể có được. Này chư vị nhân giả! Như thế là Bồ-tát Ma-ha-tát đã khéo dốc tu tập an trụ nơi diệu nghĩa bậc nhất của pháp nhẫn thanh tịnh bình đẳng. Vậy bốn cú nghĩa gồm trong pháp ấy nay ta sẽ giải thích rõ. Diệu nghĩa bậc nhất ấy chính là có thể đạt đến bờ giác ngộ, giải thoát. Do ý nghĩa ấy nên được gọi là diệu nghĩa bậc nhất. Về nhẫn ấy tức là nhận thức trong ba cõi, các ấm cứu cánh là không, các giới, nhập cứu cánh cũng là không. Do từ ý nghĩa đó nên được gọi là nhẫn. Về thanh tịnh, tức là dùng trí tuệ của bậc Thánh giác ngộ dứt trừ sạch các nẻo phiền não, nẻo tạo tác, nẻo khổ trong ba cõi. Do ý nghĩa ấy nên được gọi là thanh tịnh. Còn về bình đẳng, tức là dùng trí tuệ giác ngộ của bậc Thánh, ở trong ba cõi thực hiện tất cả các pháp, đạt đến diệu lý như thật, tri kiến như thật, cảnh giới như thật, dứt hết mọi nẻo khổ, nẻo tạo tác, nẻo phiền não. Do từ ý nghĩa ấy nên được gọi là bình đẳng. Đấy chính là diệu nghĩa bậc nhất nơi pháp nhẫn thanh tịnh bình đẳng của chư vị Bồ-tát Ma-ha-tát. Này chư vị nhân giả! Trong các thứ bình đẳng, thế nào gọi là tinh tấn bình đẳng? Đem sự tinh tấn ấy có thể cùng với bố thí thanh tịnh bình đẳng làm nhân, cho đến có thể cùng với Trí tuệ ba-la-mật thanh tịnh bình đẳng làm nhân, nhờ đấy tất có thể rời bỏ tất cả mọi thứ kiến chấp. Đem sự tinh tấn ấy, có thể cùng với bốn Niệm xứ thanh tịnh bình đẳng làm nhân nên có thể vượt qua tất cả các hàng Thanh văn, Duyên giác. Dùng sự tinh tấn ấy, có thể cùng với các pháp bốn chính cần, bốn Như ý túc làm nhân, nhờ đó nên có thể lìa bỏ hết thảy các thứ phiền não. Dùng sự tinh tấn ấy, có thể cùng với các pháp bốn Nhiếp sự, bốn Vô ngại biện, bốn Phạm trụ, bốn pháp định Vô sắc, năm Căn, Năm lực, bảy Giác chi, tám Thánh đạo, chín pháp định Thứ đệ, đoạn mười hai Hữu chi, đạt mười Lực, mười tám pháp Bất cộng của Như Lai, tâm đại Từ, Đại Bi, Trí tuệ ba-la-mật thanh tịnh bình đẳng làm nhân duyên. Đem sự tinh tấn ấy, có thể cùng với sự thành tựu mọi chúng sinh thanh tịnh bình đẳng làm nhân. Dùng sự tinh tấn ấy, vì nhằm đạt được vô lượng pháp Phật thắng diệu nên đã tích tập được mọi thứ căn lành. Dùng sự tinh tấn ấy, có thể học hỏi vô lượng các phương tiện thiện xảo của trí tuệ, vô lượng trí nguyện để dần đạt đến thù thắng, tu tập vô lượng các mảng công đức. Dùng sự tinh tấn ấy, tùy thuận hạnh nguyện thọ sinh để giáo hóa đem lại lợi ích cho muôn loài. Do từ sự tinh tấn ấy nên ở nơi Thiên cung Đâu-suất xem xét rõ về thời cơ, lìa bỏ cung điện ấy, với mọi nhận thức thấu đạt mà nhập nơi thai mẹ. Do từ sự tinh tấn ấy, nên ở vườn Lâm-tỳ-ni, từ nơi hông bên phải của thai mẹ an ổn thị hiện ở đời. Do từ lực tinh tấn ấy nên khi đi được bảy bước đã khiến chấn động khắp đại địa cùng núi cao biển lớn. Do từ lực tinh tấn ấy nên đã nhận lấy việc các Long vương anh em là Nan-đà và Ba-nan-đà cùng phun nước tắm rửa. Do từ lực tinh tấn ấy nên đã cùng đám đồng tử vui đùa thể hiện rõ tất cả mọi tài năng tinh xảo kỳ diệu. Do từ lực tinh tấn ấy nên ở trong cung điện đối với năm thứ dục lạc không hề bị đắm nhiễm. Do từ lực tinh tấn ấy nên vào lúc nửa đêm đã vượt thành tìm đến chốn núi rừng vắng vẻ. Do từ lực tinh tấn ấy nên đã tìm đến tận nơi chốn các vị Tiên nhân Ưu-đà-ca, Ca-la-trà, Ca-la-ma để tu học cúng dường. Do từ lực tinh tấn ấy nên suốt trong sáu năm ròng đã dốc tu tập các hạnh khó làm, các hạnh khổ cực. Do từ lực tinh tấn ấy nên đã đạt đến đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác. Do từ lực tinh tấn ấy nên đã chuyển bánh xe chính pháp lớn lao, khiến cho vô lượng chúng nhân, chư Thiên chứng đắc Thánh đạo. Đó được gọi là Tinh tấn thanh tịnh bình đẳng. Này chư vị nhân giả! Ta cũng đem sức tinh tấn ấy, hôm nay nơi núi Khư-la-đế là trú xứ của chư Tiên tu hạnh tịch mặc, tạo cuộc tập hợp lớn lao nầy. Chư vị Bồ-tát Ma-ha-tát hiện có trong mười phương, số lượng đông đảo như số vi trần nơi các cõi Phật thảy đều vân tập đến đây. Các chúng Thiên, Long, Dạ-xoa, La-sát, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ma-hầu-la-già, Ca-lâu-la, Cưu-bàn-trà, Ngạ quỷ, Tỳ-xá-già, Phú-đơn-na, Ca-trá phú-đơn-na… số lượng nhiều như vi trần nơi các cõi Phật, thảy cùng đi tới chốn tập hợp đông đảo này là nhằm để được lãnh hội chính pháp. Đó gọi là Tinh tấn thanh tịnh bình đẳng. Này chư vị nhân giả! Đem nước nơi bốn biển lớn phân ra làm từng giọt nước, đúng như số lượng giọt nước ấy, tu tập đầy đủ pháp Tinh tấn thanh tịnh bình đẳng, thì có thể khiến cho chư vị Bồ-tát Ma-ha-tát thực hiện viên mãn pháp Tỳ-lê-gia ba-la-mật. Đó gọi là Tinh tấn thanh tịnh bình đẳng. KINH ĐẠI PHƯƠNG ĐẲNG ĐẠI TẬP <卷 id="117157911">QUYỂN 51 <詞 id="117157912">Phẩm 15: Nguyệt Tạng <章 id="117157913">Phần 8: Chúng quỷ thần xấu ác có được lòng kính tin (2) Này chư vị nhân giả! Trong các thứ bình đẳng, thế nào gọi là Thiền thanh tịnh bình đẳng? Có loại thiền gồm các hàng Thanh văn, Duyên giác và Như Lai cùng chung. Có thứ thiền hàng Duyên giác và Như Lai cùng chung, không có hàng Thanh văn. Có thứ thiền của Như Lai cùng chung với hàng Thanh văn, Duyên giác và hết thảy chúng sinh. Này chư vị nhân giả! Thế nào là là Thiền của các hàng Thanh văn, Duyên giác và Như Lai cùng chung? Như có chúng sinh mong cầu an lạc lìa xa khổ não, quan sát nhận biết về đời sau với bao sự việc đáng sợ. Lúc người ấy tu hạnh bố thí thanh tịnh bình đẳng, nếu có các bậc phát tâm hướng cầu chân chính, thì người ấy nên đến tận nơi chốn, đem tâm khiêm tốn tùy thuận cúng dường, từ nơi các bậc đó mà trực tiếp được nghe giảng về chính pháp, nghe xong thì lãnh hội ý nghĩa và theo đúng pháp tu tập, tâm an lạc, lìa bỏ tham dục, tạo được sự tương tục phong phú. Như thế là người ấy đã đạt được sự lìa dứt nẻo tham dục xấu ác cùng các pháp bất thiện. Từ đấy, có cảm giác, có quan sát, lìa mọi hoan hỷ đang có để nhập Sơ thiền. Rồi không giác, không quán, ổn định mọi hỷ lạc hiện có để nhập đệ Nhị thiền. Tiếp theo là lìa hỷ, thực hiện việc xả bỏ niệm, tăng thêm chính tri để nhập đệ Tam thiền. Rồi lìa bỏ cả khổ và lạc, trước là dứt lo mừng không còn khổ lạc, lìa bỏ niệm đạt thanh tịnh để nhập Đệ tứ thiền. Vượt qua tất cả mọi tưởng, dứt bỏ tưởng hữu đối, chẳng nhớ nghó về tưởng dị biệt để nhập vào xứ vô biên hư không. Vượt qua xứ vô biên hư không thì nhập vào xứ vô biên thức. Vượt qua xứ vô biên thức thì nhập vào xứ vô sở hữu. Vượt qua xứ vô sở hữu thì nhập vào xứ phi tưởng phi phi tưởng. Vượt qua xứ phi tưởng phi phi tưởng thì nhập vào pháp định diệt thọ tưởng. Này chư vị nhân giả! An trụ nơi Sơ thiền, hành giả diệt trừ mọi tác động của âm thanh. An trụ nơi đệ Nhị thiền, hành giả dứt trừ mọi tác động của giác quán. An trụ nơi đệ Tam thiền, hành giả diệt trừ mọi tác động của hơi thở ra vào. An trụ nơi xứ vô biên hư không, hành giả diệt trừ mọi tác động của sắc. An trụ nơi xứ vô biên thức, hành giả diệt trừ mọi tác động của hư không. An trụ nơi xứ vô sở hữu, hành giả diệt trừ mọi tác động của thức. An trụ nơi xứ phi tưởng phi phi tưởng, hành giả dứt trừ mọi tác động của khái niệm vô sở hữu. An trụ nơi pháp định diệt thọ tưởng, hành giả diệt trừ mọi tác động của thọ, tưởng. Đó gọi là thân, miệng, ý thực hành đạt được sự nương tựa, đạt đến tám giải thoát của hàng thiền giả. Đạt được pháp định diệt tận là thiền giả đạt đến bờ giải thoát. Bậc A-la-hán nương vào xứ ấy thì đạt được các pháp bốn Niệm xứ, bốn chính cần, bốn Như ý túc, năm Căn, Năm lực, bảy Giác phần, tám Thánh đạo phần, ba cửa Giải thoát, bốn Biện tài vô ngại. Nương tựa vào xứ ấy thì đạt được các pháp Xa-ma-tha và Tỳ-bà-xá-na. Đấy chẳng phải là Bồ-tát thực hành pháp thanh tịnh bình đẳng. Chưa đạt được các pháp: bốn Nhiếp sự, bốn Phạm trụ, ba Bất hộ, bốn Vô sở úy, mười Lực, mười tám pháp Bất cộng, trí tuệ Nhất thiết trí. Đó gọi là Thiền ba-la-mật bình đẳng của các bậc Thanh văn, Duyên giác và Như Lai cùng chung. Này chư vị nhân giả! Như có người, trước tu tập theo thừa Duyên giác, thoái chuyển nhập vào thừa Thanh văn, hành theo hạnh Thanh văn. Người ấy nhập Sơ thiền, cho đến nhập nơi pháp định diệt tận. Nương vào pháp định ấy đạt được ba cửa Giải thoát, bốn Biện tài vô ngại, nhưng chưa đạt được các pháp bốn Nhiếp sự, bốn Phạm trụ, ba bất hộ, cho đến chưa đạt được pháp trí tuệ Nhất thiết trí. Đó gọi là Thiền bình đẳng gồm các bậc Thanh văn, Duyên giác và Như Lai cùng chung. Này chư vị nhân giả! Lại có người trước tu tập theo pháp Đại thừa, nhưng thoái chuyển vào hàng thừa Thanh văn, người ấy nhập Sơ thiền cho đến nhập pháp định diệt tận, đạt được các pháp ba cửa Giải thoát, bốn Nhiếp sự, bốn Phạm trụ, nhưng chưa đạt các pháp ba bất hộ cho tới trí tuệ Nhất thiết trí. Đó gọi là Thiền bình đẳng gồm các bậc Thanh văn, Duyên giác và Như Lai cùng chung. Này chư vị nhân giả! Thế nào là Thiền gồm bậc Duyên giác và Như Lai cùng chung, không có hàng Thanh văn? Như có chúng sinh đã từng tu tập lâu dài theo thừa Thanh văn, sau nhập vào thừa Duyên giác. Người ấy từ trước đến nay chưa đạt được Sơ thiền, bây giờ đạt được rồi nên tư duy cầu đạo pháp nhân duyên, cho đến khi đạt được Đệ tứ thiền rồi vẫn dốc lòng tư duy cầu đạt pháp nhân duyên, nhập pháp Tam-muội không, vô nguyện, vô tướng, dùng pháp Tam-muội ấy để tư duy lìa bỏ và chứng pháp định vô sắc, dùng ba cửa giải thoát đó nhập pháp định diệt tận, đối với tất cả các xứ luôn dốc lòng tư duy để cầu đạt pháp Duyên giác. Thế là người ấy cầu nơi pháp nhân duyên đạt được diệu nghĩa bậc nhất nơi pháp tam hành diệt vô dư và phi tưởng thọ diệt. Đó gọi là Thiền bình đẳng gồm các bậc Duyên giác và Như Lai cùng chung, không có hàng Thanh văn. Lại như có người, chưa tu học theo thừa Thanh văn, nhưng dốc lòng theo học thừa Duyên giác. Người ấy nhập Sơ thiền, tư duy cầu đạt pháp nhân duyên, dựa vào pháp Sơ thiền để vượt qua hết thảy các bậc Thiền khác cùng pháp định vô sắc, nhập pháp tam hành diệt vô dư đạt diệu nghĩa bậc nhất của diệt định. Đó gọi là Thiền bình đẳng gồm các bậc Duyên giác và Như Lai cùng chung, không có hàng Thanh văn. Này chư vị nhân giả! Lại như có người chưa tu học các thừa Thanh văn, Duyên giác, trước tu học theo pháp Đại thừa nhưng thoái chuyển vào thừa Duyên giác. Người ấy nhập Sơ thiền, trong pháp ấy cũng dốc lòng tư duy cầu đạt pháp nhân duyên. Cả đến khi đạt bốn pháp định vô sắc, trong tất cả các xứ cũng dốc lòng tư duy cầu đạt pháp nhân duyên. Như thế là người ấy đã đạt pháp tam hành diệt vô dư và diệu nghĩa bậc nhất của diệt định. Dùng ba cửa giải thoát để đạt được pháp Tam-muội Bất khả thuyết. Xứ ấy là không sinh, không diệt, chẳng phải chứng, chẳng phải tu, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải bờ bên này, chẳng phải bờ bên kia, chẳng phải mê tối, chẳng phải sáng tỏ, chẳng phải có thể lường xét, chẳng phải phân biệt, chẳng phải không phân biệt. Đó gọi là Khư-già Tỳ-sa-noa kiếp. Bích-chi-phật riêng làm phước điền nơi thế gian. (Khư-già: Tê ngưu, Tỳ-sa-noa: Giác) Đấy chính là diệu nghĩa bậc nhất của Thiền thanh tịnh bình đẳng gồm các bậc Duyên giác và Như Lai cùng chung, không cùng với hàng Thanh văn. Cảnh giới ấy, tất cả mọi nẻo hiện hữu của biển sinh tử đều được đoạn trừ, mọi biểu hiện của khổ gồm hành khổ, khổ khổ, hoại khổ cũng đều được đoạn diệt, đối với diệu nghĩa bất khả thuyết có thể tự chứng đạt. Đó gọi là diệu nghĩa bậc nhất của Thiền thanh tịnh bình đẳng. Này chư vị nhân giả! Thế nào là diệu nghĩa bậc nhất nơi Thiền thanh tịnh bình đẳng của Như Lai không cùng chung với hàng Thanh văn, Duyên giác? Như Đức Như Lai nhập Sơ thiền, không dựa vào ấm để nhập định, không dựa vào giới để nhập định, không dựa vào nhập để nhập định. Không dựa vào các cõi địa, thủy, hỏa, phong để nhập định. Không dựa vào cõi Hư không xứ, cõi Thức xứ, cõi Vô sở hữu xứ, cõi Phi tưởng phi phi tưởng xứ để nhập định. Không dựa vào cõi diệt để nhập định. Không dựa vào đời hiện tại cùng vị lai để nhập định. Không dựa vào sinh, vào diệt để nhập định. Không dựa vào hữu, vô để nhập định. Không có chốn để dựa vào, chẳng dựa nơi chốn nào để dựa vào. Chính Như Lai đã nhập Sơ thiền như thế. Các bậc thiền Đệ nhị, Đệ tam và Đệ tứ thiền, các cõi hư không xứ, thức xứ, vô sở hữu xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ cũng đều như thế. Như Lai nhập pháp định diệt giới cũng không dựa vào ấm để nhập định, cho đến không dựa vào nơi chốn nào để dựa vào. Như Lai đã nhập pháp định diệt giới như thế. Đó gọi là diệu nghĩa bậc nhất về Thiền thanh tịnh bình đẳng của Như Lai không cùng chung với hàng Thanh văn, Duyên giác. Này chư vị nhân giả! Còn thế nào là Thiền thanh tịnh bình đẳng của Như Lai cùng chung với các hàng Thanh văn, Duyên giác và hết thảy chúng sinh? Như Lai nhập Sơ thiền thế gian, cho đến nhập Đệ tứ thiền thế gian. Các hàng Thanh văn, Duyên giác cũng có thể nhập Sơ thiền thế gian cho đến Đệ tứ thiền. Tất cả chúng sinh vào thời gian kiếp sắp tận diệt, cũng từng có thể nhập Sơ thiền thế gian cho tới Đệ tứ thiền. Về sau, do nhân duyên từ tâm xấu, việc tu thiền thoái chuyển, mất mát, với bao kẻ sân hận, thô bạo, độc ác, không biết xem xét về đời sau đáng kinh sợ, đối với các chúng sinh không có chút Từ tâm thương xót, lại ăn cả máu thịt, rõ ràng là tìm cầu đến ba đường ác. Lại nữa! Như Lai nhập Sơ thiền thế gian, cho đến nhập Đệ tứ thiền thế gian. Hết thảy những chúng sinh kia, hoặc chư Thiên, hoặc người, súc sinh, ngạ quỷ, chúng sinh nơi địa ngục, suy nghó: Tâm của Như Lai, các pháp của tâm số ấy, hành tại xứ nào, trụ nơi chỗ trụ nào? Tất cả các loài chúng sinh đó, thậm chí kể cả loài sâu kiến, nhờ diệu lực của Phật gia hộ nên cũng đã có được tri kiến như thật về tâm của Phật cùng các pháp của tâm số ấy đã trụ nơi Sơ thiền, cho đến cũng biết được là trụ nơi Đệ tứ thiền. Đấy cũng là thiền bình đẳng của Như Lai cùng chung với tất cả chúng sinh. Thiền bình đẳng ấy, chẳng phải là quả vị của hết thảy hàng Thanh văn, Bích-chi-phật. Đó gọi là Thiền thanh tịnh bình đẳng. Này chư vị nhân giả! Thế nào gọi là Trí khí thanh tịnh bình đẳng? Trí khí có hai thứ: 1.Trí thế gian. 2.Trí xuất thế gian. Này chư vị nhân giả! Thế nào gọi là Trí thế gian? Đối với những sách vở thư tịch thế tục, đã từng đọc qua, kết tận, giải thích, thông qua ngôn ngữ âm thanh để diễn giảng, dùng văn tự để biểu thị, khiến mọi người có thể lãnh hội các luận thuyết. Như biên chép thành câu chữ ý nghĩa, như tính toán, đếm lường, in ấn. Như dùng vô số các pháp khổ cực để học hỏi. Như học tập các công việc thiện xảo. Như thế là từ chỗ ngôn thuyết dẫn tới hành động tạo tác với đủ thứ đủ loại, tùy chỗ mong cầu đều được thành tựu. Ngoài ra còn dựa theo tập tục của ba đời để suy niệm hành xử. Hoặc tiếp xúc, hoặc thọ nhận, hoặc tưởng niệm, hoặc tư duy, hoặc nhớ nghó. Nói chung là tất cả tri thức chẳng phải thuộc cảnh giới Niết-bàn giải thoát. Đó gọi là Trí khí thế gian bình đẳng. Này chư vị nhân giả! Thế nào gọi là Trí khí thế gian bình đẳng? Này chư vị nhân giả! Trí khí thế gian bình đẳng ấy bao gồm trong các pháp Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Văn tuệ trí khí bình đẳng. Thế nào gọi là Bố thí trí khí bình đẳng thế gian? Này chư vị nhân giả! Như có người dốc hết sức lực mình để dứt trừ sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu cùng các nẻo phóng dật, đối với hết thảy chúng sinh luôn an trụ với tâm Từ bi, tâm thương xót, tâm cứu giúp hướng tới cảnh giới Niết-bàn giải thoát. Này chư vị nhân giả! Đó gọi là Bố thí trí khí bình đẳng thế gian. Này chư vị nhân giả! Thế nào gọi là Trì giới trí khí bình đẳng thế gian? Này chư vị nhân giả! Như đối với tất cả chúng sinh thể hiện đầy đủ tâm thương xót, quan sát nhận biết về đời sau đáng sợ, luôn an trụ nơi tâm Từ bi, tâm nhu hòa, tâm đem lại lợi ích, tâm dứt mọi thù oán, tâm không ganh ghét, tâm không thô bạo xấu ác, tâm không nói lời hai chiều, tâm không kiêu mạn phóng dật, tâm luôn an trụ nẻo Từ bi. Đó gọi là Trì giới trí khí bình đẳng thế gian. Này chư vị nhân giả! Thế nào gọi là Nhẫn nhục trí khí bình đẳng thế gian? Này chư vị nhân giả! Như nghe nơi chúng sinh với vô số lời nói thô ác hoặc toàn là lời xấu xa, nghe xong thì không giữ lấy, không dấy khởi giận dữ, hung tợn, không biến thành hạng thấp hèn, không hiện ra hình tướng sân hận. Lại tỏ rõ sự nhẫn nhục đối với mọi chúng sinh, không thuận theo mọi ngôn từ âm thanh đã phát ra. Đó gọi là Nhẫn nhục trí khí bình đẳng thế gian. Này chư vị nhân giả! Như thấy chúng sinh đối với bản thân mình đã gây ra các điều xấu ác, tội lỗi, các việc không chút lợi ích, hoặc để hủy hoại màu sắc, âm thanh, hương vị, tiếp xúc, hoặc để hủy hoại thân mạng mình. Đối với các chúng sinh đó mình đã luôn có thể tu hạnh nhẫn nhục, vậy phải nên nhận thức học hỏi như vầy: Những hạng chúng sinh đó, từ vô thỉ đã bị lưu chuyển tập nhiễm trong nẻo tham sân si, xa lìa các bậc Thiện tri thức, chưa từng được tu học. Còn mình thì đã từng gần gũi các bậc Thiện tri thức, đã dốc sức tu học, đã mong đạt được mọi an lạc. Như đối với tất cả chúng sinh không dấy khởi giận dữ hiềm nghi thì người ấy tất đạt được mọi an lạc. Vì thế mà mình đối với hết thảy chúng sinh kia, nhận thấy họ đã gây tao sự việc như vậy, mình vẫn không giữ lấy, không dấy tâm hung dữ, không trở thành hạng thấp hèn, không hiện rõ tướng sân hận. Đó gọi là Nhẫn nhục trí khí bình đẳng thế gian. Này chư vị nhân giả! Thế nào gọi là Tinh tấn trí khí bình đẳng thế gian? Này chư vị nhân giả! Như đối với chúng sinh siêng năng tu tập hạnh bố thí không gián đoạn, cùng tu tập trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền, trí cũng không hề gián đoạn. Này chư vị nhân giả! Đó gọi là Tinh tấn trí khí bình đẳng thế gian. Này chư vị nhân giả! Thế nào gọi là Thiền định trí khí bình đẳng thế gian? Này chư vị nhân giả! Như nhập Sơ thiền thế gian, cho tới Đệ tứ thiền, lại nhập xứ vô biên hư không cho đến xứ phi tưởng phi phi tưởng. Này chư vị nhân giả! Đó gọi là Thiền định trí khí bình đẳng thế gian. Này chư vị nhân giả! Thế nào gọi là Văn tuệ trí khí bình đẳng thế gian? Này chư vị nhân giả! Như cùng với pháp không tạo được sự tương ứng như thế, đối với giáo pháp Đại thừa đều tạo được chỗ thích hợp để có thể nhận lấy, đọc tụng, thọ trì, với ngôn từ thanh tịnh, lại vì người khác mà diễn giảng rộng khắp, không dối trá hư huyễn. Hết thảy mọi phiền não, nghiệp ác, chướng ngại đều được tận trừ, thấu đạt các pháp cùng diệu nghĩa. Như thế là người ấy đối với mọi ngôn từ giáo pháp Đại thừa đều thông tỏ pháp, nghĩa, do đó ngày đêm luôn siêng năng dốc cầu đạt trí tuệ vô thượng. Này chư vị nhân giả! Còn thế nào gọi là Trí khí bình đẳng xuất thế gian? Này chư vị nhân giả! Như có hàng thiện nam, không thủ chấp nơi các ấm sắc thọ tưởng hành thức, không thủ chấp nhãn sắc, nhãn thức, nhãn xúc, không thủ chấp nhãn xúc với các nhân duyên sinh ra hoặc khổ, vui, hoặc không khổ không vui. Cho đến không thủ chấp nơi ý pháp, ý thức, ý xúc, không thủ chấp ý xúc với các nhân duyên sinh ra hoặc khổ, vui hoặc chẳng khổ chẳng vui. Như thế là không thủ chấp nơi địa giới, thủy, hỏa, phong giới, không thủ chấp nơi cõi Hư không, kể cả không thủ chấp nơi cõi Phi tưởng phi phi tưởng. Lại không thủ chấp nơi đời hiện tại cùng vị lai. Không thủ chấp nơi thiện, bất thiện; hữu lậu, vô lậu. Không thủ chấp nơi các thừa Thanh văn, Duyên giác, Đại thừa vô thượng. Không thủ chấp nơi ba cõi, ba thừa. Không thủ chấp vào các nẻo hữu, vô. Cũng không thủ chấp vào nơi không có nơi chốn, không có ngôn thuyết, đạt được pháp Tam-muội vô duyên từ, chẳng phải là quả vị của các hàng Thanh văn, Bích-chi-phật. Người ấy, dùng pháp Tam-muội đó nên có thể nhận thức và nhập vào cửa pháp Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm, lần lượt sẽ chứng đắc pháp Tam-muội ấy. Này chư vị nhân giả! Đó gọi là Trí khí thanh tịnh bình đẳng xuất thế gian. Chẳng phải là sự quyết định thanh tịnh bình đẳng mà chỉ là diệu lực của phương tiện mong đạt Trí bình đẳng. Này chư vị nhân giả! Thế nào gọi là an trụ nơi tất cả pháp Bát-nhã sâu xa, tất cả pháp giới thanh tịnh bình đẳng xuất thế gian? Này chư vị nhân giả! Tất cả pháp giới, chẳng phải là mắt trần có thể nhận thức, cũng chẳng phải Thiên nhãn có thể nhận thức được, mà là sự tương hợp của Tuệ nhãn Thánh pháp. Dùng Tuệ nhãn của bậc giác ngộ nhận thức các pháp giới là không tăng không giảm, không thấy các pháp có thịnh có suy; không thấy có nơi chốn gần xa, cũng không có chỗ, cõi để đi, đến; không thấy có sinh có diệt. Như thế là người ấy trong lúc nhận thức các pháp thanh tịnh bình đẳng, cũng lại nhận biết nơi chúng sinh thực sự là “Bất khả đắc”. Như đã hội nhập được diệu lý Bất khả đắc nơi chúng sinh thì người ấy tất hội nhập được diệu lý Bất khả đắc của tất cả các pháp. Vì sao? Vì không lìa chúng sinh mà có tất cả các pháp. Không lìa tất cả các pháp mà có chúng sinh. Thể tính của hết thảy chúng sinh là thể tính của tất cả các pháp. Thể tính của tất cả các pháp là thể tính của tất cả chúng sinh. Thể tính của tất cả các pháp cũng là thể tính của chính ta. Thể tính của chính ta cũng là thể tính của hết thảy các pháp. Thể tính của hết thảy các pháp là thể tính của pháp Phật. Thể tính của Phật pháp ấy chính là thể tính của cõi vô ngã. Thể tính của cõi vô ngã là thể tính của Thật tế. Thể tính của Thật tế chính là thể tính Như như. Như vậy là đã nhận thức trọn vẹn về tất cả các pháp. Đó gọi là an trụ nơi tất cả pháp khí Bát-nhã xuất thế gian, an trụ nơi tất cả pháp giới trí khí thanh tịnh bình đẳng xuất thế gian. Này chư vị nhân giả! Thế nào gọi là tất cả pháp khí thanh tịnh bình đẳng xuất thế gian? Như Bồ-tát Ma-ha-tát, trong lúc an trụ nơi Bát-nhã nhập thiền định, không thấy có pháp khả đắc. An trụ nơi thiền định mà không rời bỏ đối với tất cả cảnh giới các pháp. An trụ nơi thiền định đạt được diệu lý vô trụ, vô diệt, vô sở giác tri. Như thế là người ấy không dùng thân thiền để trụ nơi thiền định, cũng không dùng tâm thiền để trụ nơi thiền định. Trong lúc người ấy an trụ nơi thiền định như vậy, thì sẽ hội nhập nơi pháp giới thật tế như như, từ đấy có thể hội nhập vào nẻo không chốn chấp giữ của các pháp, vượt qua hẳn các hàng Thanh văn, Bích-chi-phật. Người ấy, ở nơi thiền cảnh như thế để an trụ nơi thiền định. Vị Bồ-tát chưa được quyết định ấy, có thể đoạn trừ tất cả các thứ phiền não, kiến chấp cùng bao thứ phiền não trói buộc. Lại như Bồ-tát có thể an trụ nơi thiền như thế, tất có thể hội nhập nơi tất cả các pháp và trong khi hội nhập nơi các pháp ấy thì có thể nhận biết những nẻo tham dục, thiện ác của chúng sinh theo đấy mà tạo được sự thành tựu trọn vẹn cho họ. Người ấy không còn thấy có chúng sinh, không thấy có ta, người, thọ mạng, những số lượng được sinh ra, nuôi dưỡng, tạo tác, sai khiến tạo tác, dấy khởi, sai khiến dấy khởi, thọ nhận, sai khiến thọ nhận. Lại như người ấy, trong lúc hội nhập nơi pháp giới Như như, nhận thấy chúng sinh bị phiền não làm điên đảo, do bị điên đảo nên phải nhận lấy vô số nỗi khổ. Như thế là người ấy đã hội nhập nơi pháp giới thật tế như như vi diệu. Bồ-tát ấy đối với chúng sinh không còn thấy có chúng sinh để giúp họ thành tựu. Chúng sinh là chẳng phải thật, chúng sinh không là chúng sinh, chúng sinh là vô ngã, chúng sinh là xa lìa, chúng sinh là không tự tính, chúng sinh là không thể ngôn thuyết, chúng sinh là Không, chúng sinh là Vô tướng, chúng sinh là Vô nguyện, chúng sinh là vô tác, chúng sinh là như tính, chúng sinh là vô sinh, chúng sinh là không diệt, chúng sinh là thanh tịnh. Đạt được những thành tựu trọn vẹn về chúng sinh như vậy thì cũng không thấy có ngã, cho đến không thấy có sự thọ nhận, cũng không hủy hoại sự việc. Tướng tự tính của các pháp ấy là chẳng thể ngôn thuyết, pháp giới chẳng thể ngôn thuyết. Tất cả mọi ngôn ngữ văn tự đều chẳng thể thuyết minh nêu bày, chẳng thể hiển thị, là vô sở hữu. Bồ-tát ấy đem tâm Đại Bi, đối với pháp chẳng thể ngôn thuyết, mà thuyết giảng các pháp. Đó là hữu lậu, vô lậu. Đó là thế gian, xuất thế gian. Đó là có tội, vô tội. Đây là hữu vi, vô vi. Đó là có phiền não, không phiền não. Đó là nên tu hành, nên lìa bỏ. Đó là pháp phàm phu, pháp tu học. Đó là pháp Vô học. Đó là pháp Duyên giác. Đó là pháp Bồ-tát. Đó là pháp Phật. Này chư vị nhân giả! Vị Bồ-tát chưa được quyết định ấy, như thế là đã an trụ nơi tất cả pháp khí Bát-nhã xuất thế gian, hội nhập vào hết thảy pháp giới thanh tịnh bình đẳng để phân biệt thuyết pháp. Bồ-tát, đối với nơi chốn thuyết pháp của mình không còn thấy có hình tướng. Này chư vị nhân giả! Ví như nhà ảo thuật có thể biến hóa khắp cõi hư không thành vô số màu sắc, vô số hoa, chưa từng tạo tác sự việc mà đã có thể làm được ngay trong hiện tại. Phật không xuất hiện nơi thế gian, ở trong các hoa ấy có thể làm phát ra những câu nghĩa vi diệu giá trị như thế, hội nhập nơi pháp môn để phát ra âm thanh diễn pháp. Tạo tác sự việc như vậy là khó khăn chăng? Lúc này, hết thảy chư Thiên, nhân cùng chúng quỷ thần thưa: –Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Sự việc ấy là khó khăn. Kính thưa Đại Đức Tu-già-đà! Điều ấy thật là khó khăn bậc nhất. Đức Phật nói: –Này chư vị nhân giả! Điều khó chuyển biến ấy, điều khó chuyển biến bậc nhất đó, vị Bồ-tát chưa được quyết định kia, đối với các pháp không chốn hệ thuộc, đối với các pháp như thế, không hình sắc nên chẳng thể thấy, chẳng văn tự, chẳng phải ngôn thuyết, tự mình chưa biết chưa chứng chưa dốc tu chưa đạt tự tại chưa đến bờ giác ngộ, mà đã có thể ở nơi chúng sinh khác, dứt trừ mọi thứ phiền não, đem lại sự thành tựu trọn vẹn cho họ. Đó là điều khó chuyển biến. Những chúng sinh đó, ở nơi pháp hết mực thâm diệu không thể ngôn thuyết như vậy, chưa có được sự chứng đắc, nghe rồi không hề phỉ báng, đó là điều khó chuyển biến bậc nhất. Những chúng sinh đó, đã có thể phá vỡ hết thảy các gốc cây phiền não lâu đời, trụ nơi tâm nhu hòa, tâm tạo nghiệp, đối với tất cả chúng sinh luôn dấy tâm Từ, tâm thương xót, tâm không hại, tâm bi, tâm cùng chung, tâm đồng hướng. Những chúng sinh đó, đem tâm nhu hòa nên có thể làm khô cạn biển sinh tử, vượt qua được biển phiền não, mau chóng nhập vào thành trì vô úy. Đối với các pháp không ngôn thuyết, chưa có được sự chứng đắc như thế, được nghe rồi không hề hủy báng, điều ấy cũng là sự việc khó chuyển biến, khó chuyển biến bậc nhất. Thế thì sao chư vị quỷ thần tâm ác xấu không tự chế ngự điều xấu ác? Đối với mọi chúng sinh sao không dấy tâm nhu hòa? Sao không xem xét đời sau đáng sợ? Này chư vị nhân giả! Như an trụ được nơi tất cả pháp khí xuất thế gian Tam-muội Thanh tịnh bình đẳng của Bồ-tát Ma-ha-tát, thì có thể khiến cho hết thảy chúng sinh giữ gìn được sáu căn và mỗi loài an trụ nơi cảnh giới của mình, há lại không thể ngăn chận đám quỷ thần tâm ác các ngươi? Bậc Trượng phu thiện ấy đều đạt được pháp đó nên trụ nơi tâm đại Từ, Đại Bi, không não hại đối với kẻ khác. Vì sao? Vì được tu tập hạnh đại Từ, đại Bi với sức mạnh của các phương tiện, nên không hề gây não hại cho kẻ khác. Chư vị Bồ-tát ấy đã hội nhập nơi pháp thâm diệu như thế, có thể nâng bổng chúng sinh lên trong cõi hư không, nhiều ức na-do-tha kiếp, đều không cùng thấy, lẽ nào lại không thể chế ngự các quỷ thần xấu ác các ngươi sao? Lại cũng có thể nâng bổng tất cả thế giới chúng sinh đưa vào trong khoảng tăm tối mênh mông, thậm chí khiến cho hết thảy chúng sinh chỉ ăn toàn những thứ gió nước đất đá. Chư vị Bồ-tát ấy, do đã an trụ nơi pháp khí thanh tịnh bình đẳng Tam-muội xuất thế gian hết mực thâm diệu như thế, nên có thể khiến cho tất cả chúng sinh trong nhiều ức kiếp không ăn uống, lẽ nào lại không thể chế ngự được chúng quỷ thần xấu ác các ngươi, từng ăn sống máu thịt cùng khí chất tinh thuần của bao chúng sinh khác? Thế thì vì sao mà buông tha các ngươi? Chư vị Bồ-tát ấy, do hành đại Từ, Đại Bi với sức mạnh của các phương tiện nên đã buông tha các ngươi. Đối với bốn cõi thiên hạ này, chư vị Bồ-tát Ma-ha-tát hiện có, đều an trụ nơi pháp khí Tam-muội thanh tịnh bình đẳng xuất thế gian hết mực thâm diệu như thế. Đó là các vị: Bồ-tát Chúng Tự Tại, Bồ-tát Từ Tự Tại, Bồ-tát Văn-thù Âm, Bồ-tát Điện Tự Tại, Bồ-tát Nhật Tự Tại, Bồ-tát Nguyệt Tự Tại, Bồ-tát Địa Tự Tại, Bồ-tát Tưởng Tự Tại, Bồ-tát Quán Thế Tự Tại, Bồ-tát Thủy Tự Tại, đại loại có đến một vạn tám ngàn vị Bồ-tát Ma-ha-tát như vậy ngụ nơi bốn cõi thiên hạ này. Chư vị Bồ-tát Ma-ha-tát ấy đã an trụ nơi mười thứ thâm diệu bậc nhất của tất cả pháp khí thanh tịnh bình đẳng xuất thế gian. Những gì là mười thứ ấy? Đó là chúng sinh bình đẳng, pháp bình đẳng, thanh tịnh bình đẳng, bố thí bình đẳng, giới bình đẳng, nhẫn bình đẳng, tinh tấn bình đẳng, thiền bình đẳng, trí tuệ bình đẳng và tất cả pháp thanh tịnh bình đẳng. Bồ-tát Ma-ha-tát an trụ nơi mười thứ thâm diệu bậc nhất của tất cả pháp khí thanh tịnh bình đẳng nơi Tam-muội xuất thế gian ấy, mỗi mỗi vị đều có thể chế ngự với chúng quỷ thần xấu ác các ngươi, như đã nói ở trên. Thế thì sao lại buông tha các ngươi? Chư vị Bồ-tát đó do tu tập hạnh đại Từ, Đại Bi với sức mạnh của các phương tiện, nên đã buông tha các ngươi! Huống chi là đối với Như Lai với mười tôn hiệu gồm đủ: Như Lai, Ứng Cúng, chính Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Này chư vị nhân giả! Giả sử như tất cả chúng sinh, an trụ nơi mười thâm diệu bậc nhất của tất cả pháp khí thanh tịnh bình đẳng xuất thế gian như thế, như trước đã nói về chư vị Bồ-tát Ma-ha-tát. Chỉ dùng một phần trí tuệ nơi một niệm của Như Lai đã thắng vượt đối với chư vị kia. Huống chi Như Lai, nơi tất cả mọi thời luôn đem tâm Đại Bi che chở giúp đỡ các ông, không hề sinh giận dữ cũng không hề có ý lìa bỏ. Như Lai, nơi hết thảy mọi thời luôn thương xót các ngươi, luôn khiến cho các ngươi có được lợi ích, an lạc. Các ngươi như thế là do không biết hổ thẹn, không biết xem xét về đời sau đáng sợ, nên đối với tất cả chúng sinh đã từng dấy khởi tâm không thương xót, tâm không nhu hòa, tâm xấu ác, tâm oán thù, tâm không chút Từ bi. Các ngươi không nên tạo tác các pháp càng quấy sai trái như thế nữa. Bấy giờ Đức Thế Tôn, muốn làm sáng tỏ một lần nữa các ý nghĩa vừa nêu, nên đọc kệ: Đại Hùng thấy như thế Chúng quỷ thần đến đủ Liền đưa cánh tay phải Thuyết giảng rõ lời này. Phật xuất thế rất khó Pháp, Tăng cũng lại khó Chúng sinh dốc tin khó. Lìa các nạn cũng khó Thương xót chúng sinh khó Tri túc khó bậc nhất Được nghe chính pháp khó Năng tu khó bậc nhất. Biết được bình đẳng khó Nơi đời luôn nhận vui Mười bốn bình đẳng ấy Bậc Trí sẽ chứng tỏ. Nơi chúng sinh bình đẳng Lìa bỏ các nghiệp ác Tạo tác các nghiệp thiện Nhận lạc thù thắng lâu. Tu hành pháp bình đẳng Hết thảy pháp bình đẳng Thanh văn, Duyên giác, Phật Chúng phàm phu như như. Thanh tịnh bình đẳng ấy Nơi người kia đạt được Xa lìa mọi thủ chấp Lại cũng chẳng hoại ngã. Vui bố thí bình đẳng Chẳng hại mọi chúng sinh Không đoạt vật mạng sống Chẳng hoại mọi hoa trái. Không có một chúng sinh Chẳng phải cha mẹ ta Tất cả mọi chúng sinh Từng cùng ta thân biết. Nên ta không não hại Thậm chí một chúng sinh Dừng dứt nơi trái thời Hết thảy mưa gió dữ. Dồi dào việc đáng vui Nuôi dưỡng mọi thân thuộc Tinh khí chúng sinh tăng Luôn được, không tổn giảm. Không dùng khí hại người Không hành xử giận, ác Chẳng đoạt tinh khí chúng Mọi an lạc sung mãn. Tâm ta lợi hết thảy Không giận dữ kẻ mất Vì dứt mọi phiền não Cầu đạt mọi pháp Phật. Mười nẻo đường nghiệp thiện Bậc Trí thường gìn giữ Nơi đời luôn hoan hỷ Sau được đạt Niết-bàn. Chẳng dựa ấm giữ giới Cũng chẳng dựa giới, nhập Dứt mọi hữu chi giới Dứt mọi tham ái hữu. Xa lìa vô số tưởng Năng dứt trừ sân, nộ Như vậy chữ lời hợp Bậc Trí lìa phân biệt. Như hư không rỗng lặng Lìa tất cả phân biệt Người tu nhẫn như thế Bậc Trí lìa phân biệt. Ví như trăng trong không Các sao cùng vây quanh Người tu nhẫn như thế An ổn hiển trong chúng Trăng sáng, ma-ni chiếu Nước biển thêm tràn đầy Nhẫn tỏa quỷ tâm ác Khiến đạt tín thanh tịnh. Lìa hết thảy mọi ác Tu tập hạnh Bồ-đề Chúng sinh ấy lần lượt Làm đầy biển chư Phật. Ta xưa làm Tiên nhân Nơi rừng tu nhẫn nhục Thân bị cắt từng mảnh Không dấy tâm sân hận. Thân thỏ vì Tiên nhân Tự lao mình vào lửa Ta do tu hạnh nhẫn Lửa biến thành ao sen. Ta do sức nhẫn kia Thành tựu nhiều chúng sinh Nay các A-la-hán Chưa có nhẫn như thế. Bậc Trí luôn tinh tấn Tu hành vì phước huệ Biển trí thêm sung mãn Thành tựu được biển Phật. Tu thiền cùng trí tuệ Lìa được mọi phiền não Chẳng phân biệt ba cõi An trụ nơi như như. Bậc Trí tu thiền, trí Trụ thật tế xuất thế Nơi các pháp không nhiễm Lìa hết mọi phiền não. Chẳng phân biệt các pháp Chẳng thấy có chúng sinh Các pháp chỉ một tướng Được thấy cảnh giới Phật. Vô lượng chúng Bồ-tát An trụ pháp tính ấy Không não hại các ngươi Do trụ trí tuệ Thánh. Như Lai nơi các ngươi Dung thứ không tâm hại Các ngươi không tu tỉnh Xa lìa nẻo hổ thẹn. Tạo ác mọi chúng sinh tính xấu lắm cứng cỏi Thấy Phật dũng mãnh lớn Đều đạt tâm nhu hòa. Các ngươi thảy phải nên Tự ngăn tâm ác mình Các ngươi sẽ lần lượt Chóng chứng đại Niết-bàn. Các ngươi như nhu hòa Lìa được mọi nghiệp ác Vì giữ gìn pháp này Nên phó chúc các ngươi. Chỗ ta giảng Thanh văn Đủ trí danh xưng lớn Luôn thương xót các ngươi Khiến đạt phước trí tuệ. Sẽ được lợi ăn uống Chỗ chư Thiên cúng dường Được trụ nơi chốn tốt Cùng thọ mạng tăng thêm. Như nghe Bậc Đạo Sư Đúng theo lời tu tập Trời, người trong thế gian Luôn nhận thắng báo lạc. Bấy giờ, Đức Thế Tôn sau khi đối với chúng quỷ thần xấu ác thuyết pháp xong, thì trong chúng quỷ thần đông đảo này, vốn từ xưa đối với Phật pháp đã tạo được lòng kính tin, về sau do gần gũi với hàng tri thức xấu ác, tâm chỉ thấy tội lỗi của người khác, nên trở thành chúng quỷ thần xấu ác, có đến chín mươi hai na-do-tha trăm ngàn vị trụ được nơi đạo quả Tu-đà-hoàn. Lại có hàng ức na-do-tha tần-bà-la trăm ngàn chúng quỷ thần xấu ác, xưa từng hành theo pháp Đại thừa, đạt được pháp nhẫn tùy thuận. Còn có đến vô lượng a-tăng-kỳ chúng quỷ thần xấu ác đạt được tâm nhu hòa, đạt được rồi đều phát tâm cầu đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác. Lúc này, trong số chúng quỷ thần kể trên, có vị vương La-sát tên là Ngưu vương Mục, cùng với một vạn vị vương La-sát khác, chắp tay hướng về Đức Phật, nhất tâm kính lễ và cùng thưa: –Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Chúng tôi vì lòng sân hận sai khiến nên từ lâu trong cõi thế gian phải thọ nhận lấy quả báo không được yêu thích. Chúng tôi hôm nay, nương nhờ nơi thần lực của Phật, nên có được sự nhớ nghó trong hiền kiếp này với các sự việc thuộc về thân mạng đời trước của mình. Chúng tôi ở trong pháp hội của Đức Như Lai Câu-lưu-tôn đã được xuất gia tu học, từng thọ trì đọc tụng tám vạn các pháp Đại thừa, lại đọc tụng tám vạn các pháp Thanh văn cùng phát nguyện cầu đạo quả Bồ-đề vô thượng. Thời bấy giờ, chúng tôi ở nơi A-lan-nhã, là chốn trú pháp của chư vị Tỳ-kheo, luôn dấy khởi tâm sân nộ. Do từ nghiệp chướng ấy mà sau khi mạng chung bị sinh vào cõi địa ngục, luôn bị thiêu đốt nên hoàn toàn mất chính niệm. Ở cõi ấy mạng chung thì sinh trong loài La-sát ác này chuyên ăn máu thịt loài khác. Chính do chúng tôi thời xưa lúc xuất gia tu học chỉ tạo tác nghiệp ác, nên nay phải thọ nhận thân tướng La-sát ác này, vì sự sinh sống nên đã giết hại vô lượng ức na-do-tha trăm ngàn thân mạng chúng sinh. Do đó, hôm nay chúng tôi ở nơi chỗ Phật xin sám hối các nghiệp ác của mình không còn tạo tác trở lại nữa. Như thế đến ba lần, thể hiện sự kiên cố trong việc tu tập luật nghi. Kính mong Đức Thế Tôn thọ ký cho chúng tôi đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác. Đức Phật nói: –Này chư vị nhân giả! Ta không còn thấy lại xảy ra nữa trường hợp xa lìa tâm Bồ-đề, như đối với chốn A-lan-nhã là chỗ an trú của chư Tỳ-kheo mà dấy khởi tâm ác. Này chư vị nhân giả! Nơi đời vị lai trong hiền kiếp này, Đức Như Lai sau cùng hiệu là Lô-già, Đức Phật ấy sẽ thọ ký thắng pháp Bồ-đề cho các ngươi. Một vạn vị La-sát vương nghe Phật nói đều rơi nước mắt than: –Thà bị đọa vào cõi địa ngục chứ không làm thân người mà đối với chốn A-lan-nhã của chư vị Tỳ-kheo, chỉ trong khoảnh khắc một niệm, dấy khởi tâm xấu ác. Do sự việc ấy mà bị đoạn trừ mất hết thảy điều thiện, huống chi lại cứ liên tục dấy khởi tâm ác! Bấy giờ, lại có chúng quỷ thần xấu ác đã kính tin Tam bảo, an trụ nơi tâm nhu hòa, biết xem xét đời sau đáng sợ, tất cả cùng hướng về Đức Phật, một lời thưa: –Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Chúng tôi từ nay nguyện dứt bỏ mọi điều ác, xin sám hối tất cả các nghiệp ác từ quá khứ. Chúng tôi từ nay xin chỉ ăn uống các thứ hoa, hương, trái cây, nước, gió, các pháp lành và sự hoan hỷ, lại không gây não hại cho kẻ khác, cùng dốc lòng hộ trì pháp Phật, nhận lãnh lời phó chúc của Phật nhằm khiến cho chính pháp trụ thế lâu dài. Cũng xin nhận lãnh tăng thêm việc hộ trì đối với hàng Thanh văn đệ tử Đức Thế Tôn trụ nơi A-lan-nhã. Đức Phật nói: –Lành thay, lành thay! Các hàng thiện trượng phu! Chư vị đã khéo bày tỏ việc nhận lãnh lời phó chúc của ta. Ta nay lại có lời phó chúc thêm cho chư vị. Tất cả chư vị Bồ-tát, Thanh văn trong hiền kiếp này luôn thương xót chư vị. Đối với các bậc ấy, chư vị ngày đêm dốc làm kẻ trợ đạo, cùng với phần thiện vốn có nơi mình để gọi tên khuyến thỉnh. Do đấy, chư vị sẽ được tăng trưởng phần khí chất tinh thuần, thêm nhiều uy lực, sức mạnh lớn cùng công năng đáng kể của đám quyến thuộc thân biết. Như thế là chư vị đã thường xuyên hộ trì chính pháp của ta, lại cũng hộ trì các chốn A-lan-nhã là nơi trú pháp của chúng Tỳ-kheo hoặc Đại thừa hoặc Tiểu thừa. Cứ như vậy là khí chất tinh thuần nơi chư vị thêm tăng trưởng, kể cả hàng quyến thuộc. Liên tục như thế, chư vị đã tạo được sự cúng dường thù thắng đối với ba đời chư Phật, do từ căn lành ấy nên có thể lìa bỏ nẻo ác, đạt được sự an vui nơi thế gian cùng sự an lạc nơi Niết-bàn giải thoát.  <章 id="117157914">Phần 9: Các vị Thiên vương hộ trì Bấy giờ, Đức Thế Tôn, nhằm chỉ rõ cho thế gian được biết, nên hỏi vị chủ thế giới Ta-bà là Đại phạm Thiên vương: –Này Đại phạm Thiên vương! Nơi bốn cõi thiên hạ này, ai là người có thể làm được việc hộ trì nuôi dưỡng? Vị chủ thế giới Ta-bà là Đại phạm Thiên vương thưa: –Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Đâu-suất-đà Thiên vương cùng với vô lượng trăm ngàn vị Thiên tử nơi cõi Đâu-suất-đà sẽ hộ trì nuôi dưỡng châu Bắc Uất-đơn-việt. Tha hóa tự tại Thiên vương cùng với vô lượng trăm ngàn vị Thiên tử nơi cõi Tha hóa tự tại sẽ hộ trì nuôi dưỡng châu Đông Phất-bà-đề. Thiên vương Hóa lạc cùng với vô lượng trăm ngàn vị Thiên tử nơi cõi Hóa lạc sẽ hộ trì nuôi dưỡng châu Nam Diêm-phù-đề. Thiên vương Tu-dạ-ma cùng với vô lượng trăm ngàn vị Thiên tử nơi cõi Tu-dạ-ma sẽ hộ trì nuôi dưỡng châu Tây Cù-đà-ni. Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Thiên vương Tỳ-sa-môn cùng với vô số trăm ngàn chúng Dạ-xoa sẽ hộ trì nuôi dưỡng châu Bắc Uất-đơn-việt. Thiên vương Đề-đầu-lại-trá cùng với vô số trăm ngàn chúng Càn-thát-bà sẽ hộ trì nuôi dưỡng châu Đông Phất-bà-đề. Thiên vương Tỳ-lâu-lặc-xoa cùng với vô số trăm ngàn chúng Cưu-bàn-trà sẽ hộ trì nuôi dưỡng châu Nam Diêm-phù-đề. Thiên vương Tỳ-lâu-bác-xoa cùng với vô số trăm ngàn chúng Long, sẽ hộ trì nuôi dưỡng châu Tây Cù-đà-ni. Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Thiên tiên thất tú Tam diệu tam thiên đồng nữ sẽ hộ trì nuôi dưỡng châu Bắc Uất-đơn-việt. Bảy ngôi sao Thiên tiên ấy là: Sao Hư, sao Nguy, sao Thất, sao Bích, sao Khuê, sao Lâu và sao Vị. Ba nguồn tỏa chiếu sáng là: Trấn tinh, Tuế tinh và Huỳnh hoặc tinh (sao Thổ, sao Mộc và sao Hỏa). Tam thiên đồng nữ là: Cưu-bàn, Di-na và Mê-sa. Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Trong bảy ngôi sao Thiên tiên ấy, ba ngôi sao Hư, Nguy, Thất là Trấn tinh của cõi đất, Cưu-bàn soi xét chung. Hai ngôi sao Bích, Khuê là Tuế tinh của cõi đất, Di-na suy xét chung Hai ngôi sao Lâu, Vị là Huỳnh hoặc tinh của cõi đất, Mê-sa soi xét chung. Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Thiên tiên thất tú Tam diệu tam thiên đồng nữ ấy sẽ hộ trì nuôi dưỡng châu Bắc Uất-đơn-việt. Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Thiên tiên thất tú Tam diệu tam thiên đồng nữ sẽ hộ trì nuôi dưỡng châu Đông Phất-bà-đề. Bảy ngôi sao Thiên tiên ấy là: Sao Mão, sao Tất, sao Tuy, sao Sâm, sao Tỉnh, sao Quỷ và sao Liễu. Ba nguồn chiếu tỏa sáng ấy là: Sao Thái bạch, sao Mộc và Mặt trăng. Tam thiên đồng nữ là: Tỳ-lợi-sa, Di-thâu-na và Yết-ca-trá-ca. Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Trong bảy ngôi sao Thiên tiên ấy, hai ngôi sao Mão và Tất là Thái bạch tinh của cõi đất, Tỳ-lợi-sa soi xét chung. Ba ngôi sao Tuy, sao Sâm và sao Tỉnh là Tuế tinh của cõi đất, Di-thâu-na soi xét chung. Hai ngôi sao Quỷ và sao Liễu là mặt trăng của cõi đất, Yết-ca-trá-ca soi xét chung. Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Như thế là Thiên tiên thất tú Tam diệu tam thiên đồng nữ ấy sẽ hộ trì nuôi dưỡng châu Đông Phất-bà-đề. Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Thiên tiên thất tú Tam diệu tam thiên đồng nữ sẽ hộ trì nuôi dưỡng châu Nam Diêm-phù-đề. Bảy ngôi sao Thiên tiên ấy là: Sao Tinh, sao Trương, sao Dực, sao Chẩn, sao Giác, sao Cang và sao Đê. Ba nguồn sáng tỏa chiếu là mặt trời, sao Thần và sao Thái bạch. Tam thiên đồng nữ là Tỷ-ha, Ca-nhã và Đâu-la. Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Trong bảy ngôi sao Thiên tiên đó, ba ngôi sao Tinh, sao Trương, sao Dực là mặt trời của cõi đất, Tỷ-ha soi xét chung. Hai ngôi sao Chẩn, sao Giác là sao Thần của cõi đất Ca-nhã soi xét chung. Hai sao Cang và Đê là Thái bạch của đất Đâu-la soi xét chung. Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Như thế là Thiên tiên thất tú Tam diệu tam thiên đồng nữ ấy sẽ hộ trì nuôi dưỡng châu Nam Diêm-phù-đề. Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Thiên tiên thất tú Tam diệu tam thiên đồng nữ ấy sẽ hộ trì nuôi dưỡng châu Tây Cù-đà-ni. Bảy ngôi sao Thiên tiên đó là: Sao Phòng, sao Tâm, sao Vó, sao Cơ, sao Đẩu, sao Ngưu và sao Nữ. Ba nguồn sáng tỏa chiếu là sao Hỏa, sao Mộc và sao Tuế. Tam thiên đồng nữ là: Tỳ-ly-chi-ca, Đàn-nậu-bà và Ma-già-la. Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Trong số bảy ngôi sao Thiên tiên ấy, hai ngôi sao Phòng và sao Tâm là sao Hỏa của cõi đất, Tỳ-lợi-chi-ca soi xét chung. Ba ngôi sao Vó, sao Cơ và sao Đầu là sao Mộc của cõi đất, Đàn-nậu-bà soi xét chung. Hai sao Ngưu và Nữ là Trấn tinh của cõi đất, Ma-già-la soi xét chung. Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Như vậy là Thiên tiên thất tú Tam diệu tam thiên đồng nữ đó sẽ hộ trì nuôi dưỡng châu Tây Cù-đà-ni. Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Trong bốn cõi thiên hạ ấy thì châu Nam Diêm-phù-đề là thù thắng. Vì sao? Vì con người ở châu ấy dũng mãnh, thông tuệ và phạm hạnh luôn hòa hợp. Chư Phật Bà-già-bà cũng xuất hiện ở đời nơi cõi ấy. Do vậy mà bốn vị đại Thiên vương, đối với cõi ấy luôn gia tăng gấp bội sự hộ trì nuôi dưỡng. Cõi Diêm-phù-đề có mười sáu nước lớn, đó là: Nước Ương-già Ma-già-đà, nước Bàng-già Ma-già-đà, nước A-bàn-đa, nước Chi-đề. Bốn nước lớn này, Thiên vương Tỳ-sa-môn cùng với chúng Dạ-xoa vây quanh lo việc hộ trì nuôi dưỡng. Nước Ca-thi, nước Đô-tát-la, nước Bà-tha, nước Ma-la, bốn nước lớn này, Thiên vương Đề-đầu-lại-trá cùng với chúng Càn-thát-bà vây quanh sẽ dốc lo việc hộ trì nuôi dưỡng. Các nước Cưu-la-bà, nước Tỳ-thì, nước Bát-già-la, nước Sơ-na, bốn nước lớn này, Thiên vương Tỳ-lâu-lặc-xoa cùng với chúng Cưu-bàn-trà vây quanh sẽ dốc lo việc hộ trì nuôi dưỡng. Các nước lớn A-thấp-bà, nước Tô-ma, nước La-tô-trá, nước Cam-mãn-xà, bốn nước lớn này, Thiên vương Tỳ-lâu-bác-xoa cùng với chúng Rồng vây quanh sẽ dốc lo việc hộ trì nuôi dưỡng. Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Chư Thiên tiên quá khứ, đối với công việc hộ trì nuôi dưỡng bốn cõi thiên hạ ấy, thảy đều được phân bố đặt để như thế. Về sau này, tùy theo từng quốc độ với những thành ấp, thôn xóm, chùa tháp, rừng cây, vườn cảnh, gò mả, hang núi, đồng rộng, sông suối, ao hồ, cho đến biển rộng có nhiều cồn bãi báu, đền thờ thần, ở các nơi ấy, các chúng Long, Dạ-xoa, La-sát, Ngạ quỷ, Tỳ-xá-già, Phú-đơn-na, Ca-trá phú-đơn-na, hoặc sinh ra từ trứng, sinh từ thai, sinh từ chốn ẩm thấp, hoặc sinh từ biến hóa, các chúng kia sinh ra nơi các chốn ấy rồi trở lại trụ nơi những xứ đó, không chỗ lệ thuộc, không nhận sự giáo hóa của người khác. Vì thế, kính xin Đức Phật, đối với tất cả các quốc độ nơi cõi Diêm-phù-đề này, chúng quỷ thần kia nên được phân bố sắp đặt đầy đủ, là nhằm để làm công việc hộ trì, nhất là giúp đỡ giữ gìn cho tất cả chúng sinh. Chúng tôi, đối với công việc đó là xin dốc lòng tùy hỷ. Đức Phật nói: –Này vị Đại Phạm thiên! Đúng như vậy! Đúng như chỗ ông đã nêu bày. Bấy giờ, Đức Thế Tôn nhằm làm sáng tỏ thêm những ý nghĩa trên nên đọc kệ: Nhằm thị hiện ở đời Đạo sư hỏi Phạm vương Nơi bốn thiên hạ này Ai hộ trì nuôi dưỡng. Như thế Thiên sư, Phạm Chư Thiên vương đứng đầu Đâu-suất, Tha hóa thiên Hóa lạc, Tu-dạ-ma. Dốc hộ trì nuôi dưỡng Như bốn thiên hạ này Tứ vương cùng quyến thuộc Lại cũng dốc hộ trì. Hai mươi tám ngôi sao Cùng dùng mười hai thần Mười hai Thiên đồng nữ Hộ trì bốn thiên hạ. Tùy nơi chốn sinh ra Chúng Rồng, Quỷ, La-sát Chẳng nhận giáo nơi khác Trở lại chốn ấy hộ. Chúng Thiên thần khác biệt Xin Phật khiến phân bố Vì thương xót muôn loài Thắp sáng đèn chính pháp. Bấy giờ, Đức Phật nói với Bồ-tát Ma-ha-tát Nguyệt Tạng: –Này vị Thanh tịnh só liễu tri! Nơi Hiền kiếp này, vào lúc đầu, thọ mạng của con người là bốn vạn năm. Thời này, Đức Phật Câu-lưu-tôn xuất hiện nơi thế gian. Đức Như Lai ấy đã vì vô lượng a-tăng-kỳ ức na-do-tha trăm ngàn chúng sinh chuyển bánh xe chính pháp nhằm đưa họ ra khỏi dòng chảy sinh tử, kịp họ tránh khỏi con đường ác, gắn bó với nẻo thiện cùng đạo quả giải thoát. Đức Phật Câu-lưu-tôn đã đem bốn cõi thiên hạ này phó chúc cho vị chủ thế giới Ta-bà là Đại phạm Thiên vương cùng các vị Tha hóa tự tại Thiên vương, Hóa lạc Thiên vương, Đâu-suất-đà Thiên vương, Tu-dạ-ma Thiên vương, nhằm khiến họ lo việc hộ trì, nuôi dưỡng, thương xót đến các loài chúng luôn được tỏ rạng, dốc khiến cho khí chất tinh thuần nơi đại địa, nơi chúng sinh, nơi chính pháp, được an trụ lâu bền cùng tăng trưởng không ngừng, cũng nhằm giúp chúng sinh dứt bỏ ba đường ác, hướng về ba nẻo thiện… nói chung là nhằm vào những điều ấy, nên đã đem bốn cõi thiên hạ này phó chúc cho Đại phạm Thiên vương cùng các vị Thiên vương kia. Như thế, là dần dần kiếp hết, chư Thiên, chúng nhân hoại diệt hết, hết thảy nghiệp thiện và pháp lành đều tận diệt, lại tăng trưởng điều ác lớn cùng các thứ phiền não chìm đắm. Thời kỳ con người thọ mạng còn ba vạn năm, Đức Phật Câu-na-hàm Mâu-ni xuất hiện ở đời, phát huy chính pháp. Đức Phật đó đã đem bốn cõi thiên hạ này phó chúc cho vị chủ thế giới Ta-bà là Đại phạm Thiên vương cùng các vị Tha hóa tự tại Thiên vương cho đến bốn vị Đại Thiên vương và đám quyến thuộc, nhằm khiến họ hộ trì, nuôi dưỡng, kể cả việc họ sẽ khiến cho hết thảy chúng sinh dứt bỏ ba đường ác, dốc hướng về ba đường thiện, vì vậy đã có sự phó chúc kể trên. Như vậy là dần dà kiếp hết, chư Thiên chúng nhân, hoại diệt hết, pháp lành cũng tận, lại tăng trưởng các điều ác lớn cùng các thứ phiền não chìm đắm. Thời gian thọ mạng của con người còn hai vạn năm, Đức Như Lai Ca-diếp xuất hiện ở đời, phát huy chính pháp. Đức Phật ấy đã đem bốn cõi thiên hạ này phó chúc cho vị chủ thế giới Ta-bà là Đại phạm Thiên vương và các vị Tha hóa tự tại Thiên vương, Hóa lạc Thiên vương, Đâu-suất-đà Thiên vương, Tu-dạ-ma Thiên vương, Kiều-thi-ca Đế Thích, bốn Thiên vương cùng các đám quyến thuộc. Nhằm để hộ trì, nuôi dưỡng, kể cả việc khiến cho hết thảy chúng sinh dứt bỏ ba đường ác, dốc hướng về ba đường thiện, nên Đức Như Lai Ca-diếp đã đem bốn cõi thiên hạ này phó chúc cho chư vị Thiên tiên gồm bảy nguồn sáng tỏa chiếu, mười hai Thiên đồng nữ, hai mươi tám ngôi sao, cũng là nhằm để hộ trì nuôi dưỡng muôn loài. Này bậc Thanh tịnh só thông đạt! Như thế là lần lượt đến hôm nay, nơi cõi đời xấu ác đầy những tranh giành xâu xé gồm bao thứ uế trược, từ kiếp uế trược, phiền não uế trược, cho tới chúng sinh uế trược. Thời này thọ mạng con người chỉ có trăm năm, hết thảy các pháp lành cũng diệt, trái lại, các thứ pháp xấu ác như phủ mờ mịt cả thế gian. Cũng như nước biển có một vị mặn bao trùm, thứ vị phiền não lớn lao ấy đã phủ đầy khắp thế gian tập hợp bao bè nhóm xấu ác, tay cầm đầu lâu người, máu nhuộm đầy lòng bàn tay cùng nhau sát hại. Trong hoàn cảnh chúng sinh xấu ác như thế, ta nay xuất hiện ở đời, nơi cội Bồ-đề lúc mới thành Bậc chính Giác, đã thọ nhận món ăn cúng dường của hai thương nhân Đề-vị, Ba-lị. Chính là sự cúng dường ấy, nên đối với cõi Diêm-phù-đề này, đã từng phân bố các chúng Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, Cưu-bàn-trà… nhằm lo việc hộ trì, nuôi dưỡng. Do đó, với cuộc tập hợp lớn lao này, tất cả chư vị Bồ-tát Ma-ha-tát không còn sót một vị nào nơi các cõi Phật hiện có trong mười phương, thảy đều đi đến chúng hội. Kể cả đối với cõi Phật nơi thế giới Ta-bà, chốn ấy với trăm ức Nhật nguyệt, trăm ức bốn cõi thiên hạ, trăm ức bốn biển lớn, trăm ức núi Thiết vi, núi Đại thiết vi, núi Tu-di, bốn thành trì A-tu-la, bốn Đại Thiên vương, Tam thập tam thiên, cho tới trăm ức cõi phi tưởng phi phi tưởng, nêu bày sơ lược về số lượng cõi Phật nơi thế giới Ta-bà như thế, ta đối với cõi đó dốc thực hiện các Phật sự. Ngoài ra, cõi Phật nơi thế giới Ta-bà, với hết thảy chư vị, từ Phạm Thiên vương cùng đám quyến thuộc, Ma Thiên vương, Tha hóa tự tại Thiên vương, Hóa lạc Thiên vương, Đâu-suất-đà Thiên vương, Tu-dạ-ma Thiên vương, Đế Thích Thiên vương, bốn Đại Thiên vương, A-tu-la vương, Long vương, Dạ-xoa vương, La-sát vương, Càn-thát-bà vương, Khẩn-na-la vương, Ca-lâu-la vương, Ma-hầu-la-già vương, Cưu-bàn-trà vương, Ngạ quỷ vương, Tỳ-xá-già vương, Phú-đơn-na vương, Ca-trá phú-đơn-na vương… thảy cùng dẫn theo đám quyến thuộc có mặt đông đủ nơi cuộc tập hợp lớn lao này, đều là nhằm để được lãnh hội chính pháp. Cho tới chư vị Bồ-tát Ma-ha-tát và chư vị Thanh văn hiện có nơi cõi Phật ở thế giới Ta-bà này, tất cả không còn thiếu một vị nào, thảy đều đi đến chúng hội ở đây, cũng là nhằm được nghe pháp. Ta nay thực hiện việc tập hợp đại chúng đông đủ ở đây, là nhằm hiển thị tính chất thâm diệu của pháp Phật, lại nhằm để hộ trì thế gian, nên đã dùng cõi Diêm-phù-đề này làm chốn tập hợp chúng quỷ thần để phân bổ đặt để trong việc hộ trì, nuôi dưỡng muôn loài. Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại hỏi vị chủ thế giới Ta-bà là Đại phạm Thiên vương: –Này Đại phạm Thiên vương! Chư Phật quá khứ đã từng đem bốn cõi thiên hạ lớn phó chúc cho ai để khiến họ làm công việc hộ trì nuôi dưỡng? Đại Phạm thiên thưa: –Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Chư Phật quá khứ đã từng đem bốn cõi thiên hạ lớn này phó thác cho tôi và Kiều-thi-ca nhận lãnh công việc hộ trì. Nhưng tôi đã có lỗi là không nêu rõ tên mình cùng tên của Đế Thích, chỉ nêu tên các vị Thiên vương khác cùng các Thiên tiên Tinh tú, nguồn tỏa sáng, trong công việc hộ trì nuôi dưỡng. Lúc này, vị chủ thế giới Ta-bà là Đại phạm Thiên vương cùng với Kiều-thi-ca Đế Thích cung kính đảnh lễ nơi chân Phật và thưa: –Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Đại Đức Tu-già-đà! Chúng tôi xin tạ lỗi. Chúng tôi khác nào đứa trẻ con ngu si không trí, ở nơi trước Đức Như Lai đã không nêu rõ tên mình. Kính mong Đức Bà-già-bà mở lòng dung thứ! Kính mong Đại Đức Tu-già-đà rộng lòng dung thứ! Cũng mong được chư vị đến với đại chúng ở đây dung thứ. Chúng tôi, đối với cảnh giới ấy sẽ hết lòng dùng lời lẽ để chỉ dẫn khiến có được nơi chốn tự tại trong việc hộ trì, nuôi dưỡng, cho đến việc khiến chúng sinh dốc hướng về con đường thiện. Chúng tôi từng ở nơi Đức Phật Câu-lưu-tôn thọ nhận lời chỉ dạy, nhằm làm cho dòng giống Tam bảo luôn được tỏ rạng. Nơi Đức Phật Câu-na-hàm Mâu-ni và Phật Ca-diếp, chúng tôi cũng thọ nhận lời chỉ dạy như thế. Đối với sự phát triển của ba ngôi báu cũng đã dốc sức làm cho tỏ rạng, lại cũng nhằm làm cho khí chất tinh thuần nơi đại địa, nơi chúng sinh, nơi vị đề hồ của chính pháp được an trụ lâu bền và tăng trưởng không dứt. Cũng như hôm nay chúng tôi, nơi trước Đức Thế Tôn, cung kính thọ nhận sự chỉ dạy, đối với cảnh giới của mình dùng ngôn thuyết để chỉ dẫn khiến đạt được chốn tự tại, nhằm để dứt trừ hết thảy mọi sự tranh giành chém giết, mất mùa đói kém, kể cả việc khiến cho dòng giống Tam bảo không hề bị đoạn tuyệt, ba thứ khí chất tinh thuần được an trụ lâu dài và luôn tăng trưởng, ngăn chận mọi hành ác của chúng sinh, giúp đỡ nuôi dưỡng những chúng sinh hành theo chính pháp, giúp chúng sinh dứt trừ ba đường xấu ác, dốc hướng về ba đường thiện, cũng nhằm làm cho Phật pháp trụ thế lâu dài, nói chung là nhằm các sự việc kể trên nên dốc làm công việc hộ trì. Đức Phật nói: –Lành thay, lành thay! Đúng là bậc Diệu trượng phu! Các ông nên làm như thế. Bấy giờ, Đức Phật nói với hàng trăm ức vị Đại phạm Thiên vương: –Về mọi công việc hành pháp, trụ pháp, thuận pháp, lìa bỏ nẻo ác ấy, nay thảy phó chúc vào tay chư vị. Này chư vị Hiền thủ! Đối với trăm ức bốn cõi thiên hạ, nơi mỗi mỗi cảnh giới sẽ dùng ngôn thuyết để chỉ dẫn khiến đạt được những chốn tự tại. Về mọi chúng sinh hiện có, đối với những thứ ác độc xấu xa, thô bạo, não hại kẻ khác, không chút thương xót, không xem xét về đời sau đáng sợ, hoặc quấy hại tâm của hàng Sát-lợi, Bà-la-môn, Tỳ-xá, Thủ-đà, thậm chí quấy hại đến loài súc sinh, gây tạo nhân duyên sát sinh như vậy, kể cả việc gây tạo nhân duyên tà kiến, cũng như tùy theo nơi chốn mà tạo nên những trận mưa gió trái thời tiết, cho đến khiến phần khí chất tinh thuần của đại địa, của chúng sinh, của chính pháp bị tổn giảm, nói chung là đối với những điều vừa nêu trên, chư vị hãy nên dốc sức ngăn chận khiến trụ nơi pháp thiện. Như có những chúng sinh, muốn đạt được điều thiện, muốn đạt được chính pháp, muốn vượt qua dòng sinh tử đến bờ giải thoát, với mọi nẻo tu hành pháp trụ pháp hiện có, cùng vì hành pháp mà dốc sức mở mang nhiều việc, đối với những chúng sinh đó, chư vị phải nên hộ trì, nuôi dưỡng. Hoặc có những chúng sinh, thọ trì đọc tụng, vì kẻ khác giảng giải vô số các kinh luận giải thoát, thì chư vị nên giúp cho chúng sinh đó luôn nhớ nghó nắm vững các phương tiện để có được sức mạnh kiên cố, thâm nhập chỗ được nghe biết, không hề quên, có được trí tuệ, tin tưởng về hình tướng các pháp, khiến xa lìa sinh tử, tu tám Thánh đạo, tạo được sự tương ứng với gốc các pháp Tam-muội. Như có chúng sinh, ở nơi cảnh giới của chư vị, an trụ với các pháp Xa-ma-tha, Tỳ-bà-xá-na, lần lượt nhờ phương tiện cùng với các pháp Tam-muội tương ứng, từ đấy siêng năng tu tập cầu đạt ba thứ Bồ-đề, thì chư vị phải nên che chở giúp đỡ họ, nhận lấy một cách trọn vẹn công việc trợ giúp khiến họ không bị thiếu thốn. Như có chúng sinh thực hiện bố thí, từ những thức ăn uống, y phục, dụng cụ để nằm, cho đến thuốc men trị bệnh, thì chư vị phải nên giúp cho những thí chủ ấy có được năm thứ tăng trưởng lợi lạc. 1.Thọ mạng được tăng trưởng. 2.Của cải được tăng trưởng, 3.An lạc được tăng trưởng. 4.Hành thiện được tăng trưởng. 5.Trí tuệ được tăng trưởng. Như vậy là chư vị trong đêm dài sinh tử luôn đạt được lợi ích, an lạc, nhờ nhân duyên ấy mà chư vị có thể thực hiện viên mãn sáu pháp Ba-la-mật, không bao lâu sẽ thành tựu được Nhất thiết chủng trí. Lúc này, vị chủ thế giới Ta-bà là Đại phạm Thiên vương là người đứng đầu, cùng với trăm ức chư vị Phạm Thiên vương, thảy đều thưa: –Đúng vậy, đúng vậy! Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Chúng tôi, mỗi mỗi người nơi cảnh giới của mình, sẽ dốc sức ngăn chận mọi thứ xấu ác thô bạo, não hại kẻ khác, không có lòng thương xót, không biết xem xét đời sau đáng sợ, kể cả việc giúp cho các hàng thí chủ tăng trưởng năm việc lợi lạc. Đức Phật nói: –Lành thay, lành thay! Chư vị hãy nên làm như vậy. Bấy giờ, lại có tất cả chư vị Bồ-tát Ma-ha-tát, tất cả chư vị đại Thanh văn cùng hết thảy chúng Thiên, Long, kể cả các chúng Nhân phi nhân đều bày tỏ lời tán thán: –Lành thay, lành thay! Thật là hạng dũng só đại hùng! Chư vị làm việc như thế là chính pháp được trụ thế lâu dài, khiến cho mọi chúng sinh xa lìa được cõi ác, chóng hướng về cõi thiện. Lúc này, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ thêm ý nghĩa vừa nêu bày, nên đọc kệ: Ta nói với Nguyệt Tạng Bắt đầu Hiền kiếp này Phật Câu-lưu phó chúc Chư Phạm, bốn thiên hạ. Dốc ngăn chận mọi ác Mắt chính pháp tỏ rạng Lìa bỏ mọi nẻo ác Hộ trì kẻ hành pháp Giống Tam bảo không diệt Ba tinh khí tăng trưởng Dừng dứt các cõi ác Khiến hướng về cõi thiện. Câu-na-hàm Mâu-ni Lại phó chúc Đại phạm Tha hóa, Hóa lạc thiên Cho tới Tứ Thiên vương. Sau đấy, Phật Ca-diếp Lại phó chúc Phạm thiên Hóa lạc cùng Tứ thiên Đế Thích, Hộ thế vương. Chư Thiên tiên quá khứ Dốc vì mọi thế gian Đặt để các sao sáng Khiến hộ trì nuôi dưỡng. Đến nơi đời ác trược Thời pháp lành tận diệt Ta riêng thành chính giác Đặt để giúp chúng nhân. Nay ở trước đại chúng Thường xuyên não loạn ta Phải nên bỏ thuyết pháp Khiến ta dốc hộ trì. Chư Bồ-tát mười phương Hết thảy đều đến đủ Thiên vương cũng có mặt Quốc độ Phật Ta-bà. Ta hỏi Đại Phạm vương Xưa, ai kẻ hộ trì. Đế Thích, Đại Phạm thiên Chỉ dẫn Thiên vương khác. Bấy giờ Thích, Phạm vương Tạ lỗi, thưa Đạo sư Chúng tôi, nơi chốn mình Ngăn chận mọi thứ ác. Làm rạng dòng Tam bảo Tăng trưởng ba tinh khí Ngăn dứt mọi nhóm ác Hộ trì các nhóm lành. KINH ĐẠI PHƯƠNG ĐẲNG ĐẠI TẬP <卷 id="117157915">QUYỂN 52 <詞 id="117157916">Phẩm 15: Nguyệt Tạng <章 id="117157917">Phần 10: Chúng ma có được lòng kính tin Bấy giờ, trong chúng hội có một ma vương tên là Tuế Tinh, liền rời chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay hướng về chúng ma, đọc kệ: Nay Tiên Cồ-đàm này Dốc muốn khinh lấn ta Phân bố bốn thiên hạ Hết thảy chúng quỷ thần. Cùng chư Tứ Thiên vương Thảy đều khiến hộ trì Chỉ trừ nơi chúng ta Mà chẳng thấy cùng phân. Lúc này, trong chúng hội lại có một ma vương tên là Na-la-diên Nguyệt, đưa tay chỉ về chỗ ma vương Ba-tuần và đọc kệ: Do ma Ba-tuần ấy Mà chẳng phân cùng ta Một người ác như thế Hủy diệt cả chúng ta. Trong chúng hội lại có một ma vương tên là Lô-đà-phất-sư-trá, đọc kệ: Chúng ta nay nên cùng Lìa xa ma Ba-tuần Ba-tuần xấu tệ ấy Ngu tạo pháp cực ác. Chúng ta từ xưa nay Chưa từng thấy nghe thế Ta nay cùng khuyến thỉnh Đại sư Tiên Cù-đàm. Chốn pháp bảo chân chính Được bền trụ tỏ rạng Chúng ta nên hộ trì Nuôi dưỡng khiến tăng trưởng. Bấy giờ, ma vương Ba-tuần nghe thấy các ma vương tạo thành một nhóm cùng bày tỏ lời bàn luận nên càng thêm hổ thẹn, liền rời chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay hướng về Đức Phật, đọc kệ: Tất cả Phật Thế Tôn Trong khắp cõi thế gian Hằng lìa xa vọng ngữ Bậc Tối Tôn Vô thượng. Tôi nay đã sám tạ Hết thảy tôn Đạo sư Đạt lòng kính tin sâu Dốc hướng quyết quy y. Thế Tôn nay cớ sao Thấy như phân quý tiện. Lúc này, Đức Thế Tôn dùng kệ nói với Bồ-tát Ma-ha-tát Nguyệt Tạng: Thanh tịnh só thông tỏ Như thế ma Ba-tuần Nay thật nơi chỗ ta Tạo vô số chướng ngại. Tội không thể nói hết Hôm nay trước đại chúng Thành tâm sám hối ta Chẳng phải ý dối gạt. Dốc kính tin Tam bảo Quý trọng chưa từng có Vì thế ta nay cho Như vậy ma Ba-tuần. Được thọ ký đạo quả Vô thượng chính tri giác. Bồ-tát Ma-ha-tát Nguyệt Tạng thưa với Đức Phật: –Kính thưa Đức Thế Tôn! Tâm ý của hàng phàm phu thường dễ do dự không ổn định, đối với ba thừa chính pháp chưa có được sự an trụ rốt ráo. Đối với thiện ác không thể quyết định, hạnh nguyện cũng không an định. Do tính chất bất định ấy nên gặp được bậc Thiện tri thức thì sinh lòng tin tưởng trọn vẹn. Từ nhân duyên tin tưởng đó, nên ba nghiệp thân, miệng, ý thường tạo được các điều thiện, có thể phát nguyện thù thắng. Đem nhân duyên từ hạnh nguyện thù thắng với tâm thiện ấy, tùy theo chỗ mong cầu mà đạt được phước báo hết mực thắng diệu, tốt đẹp. Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Ví như đám trâu bò ăn vô số các thứ cỏ hoặc tươi hoặc khô, cũng như uống đủ loại nước hoặc trong hoặc đục, đến lúc lấy sữa thì cho ra thuần một thứ sữa tươi. Từ sữa tươi ấy tạo ra hương vị của sữa đặc, từ hương vị sữa đặc tạo ra sinh tô và thục tô. Từ sinh tô, thục tô tạo ra được đề hồ hương vị bậc nhất, tức thắng báo đã được thành tựu trọn vẹn. Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Hàng phàm phu là như thế. Tâm thiện được phát huy liên tục thì có thể sinh ra sự tin tưởng thanh tịnh. Do từ nhân duyên tin tưởng đó mà lần lượt phát khởi được hạnh nguyện thù thắng. Vậy là dần dà đạt được quả báo lớn lao, tốt đẹp. Kính thưa Đức Thế Tôn! Người phát tâm cầu pháp Đại thừa cũng như thế. Thậm chí khi chưa đạt được pháp nhẫn nhu thuận, tâm thường do dự, chuyển biến, chưa an định. Đạt được pháp nhẫn nhu thuận rồi thì đối với pháp Đại thừa dốc tu sáu pháp Ba-la-mật, tâm không hề biết mệt mỏi, cứ lần lượt tăng tiến không ngừng, cho đến lúc làm được Bậc Pháp Vương tự tại. Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Ví như loại phân nhơ đem vãi nơi đồng ruộng, rồi gieo hạt giống xuống đấy, dùng nước tưới khắp, cùng với sức người chăm bón hỗ trợ tạo thành đầy đủ mọi nhân duyên. Thế là từ hạt giống đã thành tựu đầy đủ với những hoa lá quả trái tươi tốt. Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Như vậy là hàng phàm phu, đem tâm do dự, đối với các pháp Đại thừa thực hiện sáu pháp Ba-la-mật, lần lượt tu học đạt được pháp nhẫn nhu thuận, không bao lâu có thể thành tựu viên mãn sáu pháp Ba-la-mật, nơi đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác thành bậc Giác ngộ vô thượng. Ma vương Ba-tuần cũng như thế. Tuy từ xưa đã gây tạo vô số điều ác, tâm hành vô số các thứ phiền não nhiễu hại, ba nghiệp thân, miệng, ý tạo tác bao nhiêu điều bất thiện nên phải nhận lấy quả báo khổ ải. Nay ở trước Phật đã có được lòng kính tin sâu xa, chí thành sám hối phát tâm cầu đạo quả Bồ-đề vô thượng. Đã phát tâm rồi liền được thọ ký nơi đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác, lần lượt thành tựu Bậc Pháp Vương Vô Thượng. Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Ví như vị thương chủ từ xa xưa tuy chưa hề trông thấy biển lớn với những cồn bãi chứa đầy châu báu. Nhưng lo liệu đầy đủ về tiền bạc lương thực làm hành trang, đường đi không lầm lẫn, cùng với những vị thương nhân gắng công hợp sức nên lần lượt vượt qua được biển rộng, cập bờ bến những cồn bãi chứa vô số các ngọc báu ma-ni. Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Ma vương Ba-tuần cũng như thế! Nếu có thể thành tâm phát lồ sám hối tất cả mọi nghiệp xấu ác, đem những căn lành ấy chí thành hồi hướng đến đạo quả Bồ-đề vô thượng, phát hạnh nguyện lớn lao dũng mãnh thì có thể mau chóng thực hiện đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật, tất vượt qua được biển lớn sinh tử trong ba cõi, mọi công đức vô biên thảy đều viên mãn, đạt đến tất cả Trí tuệ bảo châu, chẳng phải là chỗ đạt đến được của hàng Nhị thừa. Bấy giờ, Đức Phật nói với Bồ-tát Ma-ha-tát Nguyệt Tạng: –Này bậc Thanh tịnh só thông tỏ! Đúng như thế đấy! Như Bồ-tát vừa nói, ma vương Ba-tuần ấy, hôm nay ở trước ta đã phát lồ sám hối về chỗ tạo tác hết thảy những nghiệp ác từ xưa giờ của mình, có được sự thanh tịnh và phát tâm cầu đạo quả Bồ-đề vô thượng. Vì thế ta nay đã thọ ký đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác cho ma vương Ba-tuần, nơi đời vị lai sẽ thành Bậc Pháp Vương Vô Thượng. Lúc này, lại có hàng trăm ức chúng ma, đều cùng rời chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay hướng về Đức Phật, cung kính đảnh lễ ngang chân Phật và cùng thưa: –Kính thưa Đức Thế Tôn! Chúng tôi cũng xin phát hạnh nguyện lớn lao dũng mãnh dốc hộ trì, nuôi dưỡng chính pháp của Phật, góp sức làm rạng tỏ dòng giống Tam bảo khiến được an trụ lâu bền nơi thế gian, làm cho ba thứ khí chất tinh thuần của đại địa, của chúng sinh và của các pháp luôn được tăng trưởng. Như có các hàng Thanh văn, đệ tử của Đức Thế Tôn trụ pháp, thuận pháp, ba nghiệp hòa hợp dốc tâm tu hành, thì chúng tôi thảy đều xin hết lòng hộ trì, nuôi dưỡng, tất cả mọi chỗ cần dùng cho sự tu tập đều không để thiếu thốn. Lại có các hàng Thanh văn, đệ tử của Đức Thế Tôn, không thích nẻo tích chứa tụ hội, xa lìa mọi thứ phiền não vọng loạn, giành giật, ngôn ngữ luôn hòa hợp nhu thuận, không cầu danh lợi, đối với các pháp ác luôn hổ thẹn xa lánh, không cùng với bốn chúng thông giao, rời bỏ làng xóm đông đúc để an trụ nơi chốn núi rừng vắng vẻ, đối với việc tu hành giải thoát luôn kiên cố dũng mãnh như cứu lửa cháy đầu, nơi các pháp lành thường tạo được sự an trụ tương ứng, thì chúng tôi sẽ cùng dốc lòng hộ trì nuôi dưỡng, mọi sự cần dùng cho việc tu tập luôn được đầy đủ. Hết thảy mọi chúng sinh xấu ác hiện có, chúng tôi đều dốc ngăn chận kịp thời. Đối với tất cả nơi chốn xảy ra mất mùa đói kém, chém giết giành giật, tật bệnh lây lan, các quân địch từ phương khác xâm lấn, mưa gió trái thời, nước lạnh lửa độc, ruồi muỗi rắn rít cùng bao thứ côn trùng thú dữ nhiễu hại chúng dân, chúng tôi đều quyết ngăn chận, che chở, khiến họ có được lòng kính tin. Cũng khiến cho các hàng Sát-lợi, Bà-la-môn, Tỳ-xá, Thủ-đà, thậm chí cả loài súc sinh đều có lòng kính tin chính pháp của Phật. Tất cả các chúng Thiên, Long, Dạ-xoa, La-sát, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Càn-thát-bà, Ma-hầu-la-già, Cưu-bàn-trà, Ngạ quỷ, Tỳ-xá-già, Phú-đơn-na, Ca-trá phú-đơn-na, cũng khiến có được lòng kính tin chính pháp của Phật. Lại khiến cho hết thảy chúng quỷ thần kể trên, phần khí chất tinh thuần luôn đầy đủ, sắc diện sức lực luôn tươi vui phong phú, hương tốt vị ngon luôn được sung túc dồi dào. Mọi thứ cây cỏ nương vào đất sinh sống hiện có thảy đều sum suê xanh tốt, hoa trái tróu cành. Năm thứ lúa thóc hoa màu luôn được tăng trưởng mỗi lúc thêm đầy đủ, các loại vải vóc để may sắm y phục cũng được dồi dào không kém. Đất đai phì nhiêu thật đáng ưa thích. Đền chùa, vườn cây, sông suối, hồ ao, cung điện, nhà cửa, non cao, rừng rậm thảy đều khiến luôn được đầy đủ, chúng sinh ở những nơi chốn đó tâm thường an vui, thân không bệnh tật đau ốm. Như lại có các hàng Thanh văn đệ tử của Đức Thế Tôn, ham thích nẻo tích chứa tụ hội với bao thứ phiền não tán loạn, lại tỏ ra biếng nhác trì trệ đối với công việc tu tập chính pháp, thì chúng tôi xin rời bỏ, không thực hiện công việc hộ trì nuôi dưỡng họ, để mặc họ với nẻo đường sai lạc ấy. Kính thưa Đức Thế Tôn! Chúng tôi hôm nay, xin nguyện đối với ba đời chư Phật, trọn không hề có sự vọng ngữ hoặc phạm phải những tội lỗi cấu nhiễm. Đức Phật nói: –Lành thay, lành thay! Chư vị sẽ là những bậc só phu tự tại! Chư vị nên thực hiện những công việc góp phần làm rạng rỡ chính pháp của ta như thế, kể cả việc có thể giúp cho hết thảy chúng sinh đạt được an ổn vui sướng. Này chư vị nhân giả! Ta đem Pháp nhãn, một lần nữa phó thác cho tất cả chư vị Nhân vương nơi cõi Diêm-phù-đề này. Nếu như các hàng đệ tử của ta, đối với chính pháp của ta, tỏ ra tham ái thích nẻo tích chứa tụ hội với bao thứ phiền não quấy nhiễu, tranh giành, cùng đám bạn bè thế tục câu kết hành xử tham cầu danh lợi, nơi ba nghiệp thân, miệng, ý không hợp với chính pháp, khiến chư Thiên và chúng nhân không còn tin kính, vui thích làm bao điều xấu ác trụ nơi nẻo bất thiện, thì chư vị quốc vương nơi cõi Diêm-phù-đề này sẽ đúng theo pháp mà xử trị, nhằm làm cho Phật pháp trụ thế được lâu bền, chư Thiên, chúng nhân luôn có được lòng kính tin. Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói với hàng trăm ức vị Tha hóa tự tại thiên, Hóa lạc thiên, Đâu-suất-đà thiên, Tu-dạ-ma thiên và Thích Đề-hoàn Nhân: –Này chư vị nhân giả! Như chỗ ta đã thuyết giảng về giới pháp Tỳ-ni, cũng đem phó chúc cho chư vị. Chư vị nên dốc lòng thực hiện công việc hộ trì nuôi dưỡng như đã nêu bày rõ ở trên. Đức Phật nói xong, năm vị Thiên vương liền cung kính thưa với Đức Phật: –Kính thưa Đức Thế Tôn! Như có các hàng Thanh văn, đệ tử của Đức Thế Tôn luôn trụ pháp, thuận pháp, ba nghiệp hòa hợp, dốc tâm tu hành, thì chúng tôi đều cùng hết lòng hộ trì, nuôi dưỡng, cung cấp mọi thứ cần dùng, khiến họ không hề bị thiếu thốn. Nếu lại có các hàng Thanh văn, đệ tử của Đức Thế Tôn, không nơi tích chứa tụ hội, tinh chuyên tu tập, thì sự hộ trì nuôi dưỡng của chúng tôi giống như đã nêu bày tỏ ở trên. Trường hợp các hàng Thanh văn đệ tử của Đức Thế Tôn gắn bó với nẻo tích chứa tụ hội, cho đến ba nghiệp không chút tương hợp với chính pháp, thì chúng tôi cũng xin rời bỏ họ, không thực hiện việc hộ trì nuôi dưỡng, mặc họ với con đường tu tập kiểu ấy. Chúng tôi hôm nay, đối với ba đời chư Phật, xin trọn không chút dối trá hay phạm phải tội lỗi cấu nhiễm. Đức Phật nói: –Lành thay, lành thay! Đúng là hàng diệu trượng phu! Chư vị hãy nên dốc sức góp phần làm cho chính pháp của ta luôn được rạng rỡ, an trụ lâu bền nơi thế gian, cùng giúp cho muôn loài chúng sinh được an ổn vui sướng. Lúc này, tất cả chư vị trong đại chúng đến dự pháp hội, chư Thiên, nhân, Càn-thát-bà thảy đều tán thán năm vị Thiên vương kia: –Lành thay, lành thay! Bậc Diệu trượng phu! Chúng tôi từ trước đến nay chưa hề được nghe về sự hộ trì, nuôi dưỡng như thế. Nhờ đấy mà chính pháp của chư Phật được an trụ bền lâu nơi thế gian, chư Thiên, chúng nhân được an lạc thịnh vượng, các nẻo ác được đẩy lùi, giảm thiểu. Bấy giờ, Đức Thế Tôn nhằm làm sáng tỏ thêm những ý nghĩa trên, nên đọc kệ: Nơi cõi Ta-bà này Lúc mới vào Hiền kiếp Như Lai Câu-lưu-tôn Đã phó chúc bốn châu. Đế Thích, Phạm Thiên vương Khiến hộ trì, nuôi dưỡng Giống Tam bảo rạng ngời Ba tinh khí tăng trưởng. Câu-na-hàm Mâu-ni Cùng phó chúc bốn cõi Phạm, Thích, chư Thiên vương Khiến hộ trì, nuôi dưỡng. Phật Ca-diếp cũng thế Phó chúc bốn thiên hạ Phạm, Thích, Hộ thế vương Hộ trì kẻ hành pháp. Chư Tiên thời quá khứ Cùng với chư Thiên tiên Các tinh tú tỏ sáng Cũng phân bố phó chúc. Ta hiện đời năm dục Hàng phục chúng ma oán Tạo được hội tập lớn Hiện rõ chính pháp Phật. Chư Thiên cùng khuyến thỉnh Phân bố bốn thiên hạ Ta hỏi Đại Phạm thiên Xưa ai nhận phó chúc Phạm thiên chẳng tự xưng Cùng do thiên Đế Thích Xem khắp hết chư Thiên Sau đó sám tạ Phật. Hết thảy các Thiên chúng Đều cùng thưa với Phật Chúng tôi, nơi chốn mình Đều hộ trì chính pháp. Làm rạng dòng Tam bảo Tăng trưởng ba tinh khí Khiến dứt mọi bệnh dịch Đói kém cùng chiến tranh. Chư Như Lai quá khứ Dạy chúng tôi phân bố Như nay tôn Đạo sư Cũng chỉ dạy hộ trì. Thế Tôn lại nói rõ: Trăm ức chư Phạm thiên Trăm ức Thiên đế Thích Trăm ức Tứ Thiên vương. Chư vị mọi thảy đều Nơi bốn thiên hạ mình Tùy theo mỗi vương xứ Ngăn chận chúng sinh ác. Không khiến nhiễu loạn tâm An trụ nơi chốn thiện Người tu hành chính pháp Nên cùng dứt vọng niệm. Như có chư Thanh văn Dốc cầu nẻo Niết-bàn Hết thảy mọi cần dùng Thảy đều cung cấp đủ. Cũng giúp các thí chủ Năm công đức thêm tăng Phước báo thọ mạng tăng Tinh tấn cùng trí tuệ. Chóng đạt đủ sáu Độ Chứng đạo quả Bồ-đề Trăm ngàn ức như thế Chư Thiên Đại Phạm vương. Đều cùng thưa với Phật: Chúng tôi nơi cõi mình Hộ trì chúng Thanh văn Ngăn chận chúng sinh ác. chính pháp Phật an trụ Dòng Tam bảo rạng tỏ Ba thứ vị tinh khí Thảy đều khiến tăng trưởng. Hàng trăm ức chúng ma Đều sinh lòng hổ thẹn Đều rời chỗ ngồi, đứng Chắp tay cùng thưa Phật: Chúng tôi đều phát tâm Hộ trì chính pháp Phật Làm rạng giống Tam bảo Tăng trưởng ba tinh khí. Dẫn dắt mọi chúng sinh Khiến trụ nơi đường thiện Nhằm giúp cho muôn loài Dứt trừ mọi thứ ác. Hộ trì nơi Thế Tôn Chúng Thanh văn hành pháp Giữ pháp Phật chân diệu Ba nghiệp luôn tương hợp. Đem mọi vật cần dùng Nuôi dưỡng luôn đầy đủ Như có các Thanh văn Không ham nẻo tích tụ. Xa lìa mọi tranh giành Hổ thẹn chốn danh lợi Kiên cố tinh tấn tu Như cứu lửa cháy đầu. Nên khiến vô lượng chúng An trụ nơi chính pháp Hết thảy mọi chốn ác Đều khiến thành cõi vui. Các loài nương đất sống Bao hoa màu, dược liệu Thảy đều khiến tốt tươi Hương vị nhuần thấm khắp. Như có chư Thanh văn Tham cầu nẻo tích tụ Giận, ganh, lắm tranh tụng Cầu lợi, không tu tỉnh. Đối với những hạng ấy Chúng tôi sẽ xa lìa Nơi ba đời chư Phật Trọn không phạm vọng ngữ. Bậc Đạo Sư liền nói: Chư vị các chúng ma! Chư nhân vương hộ quốc Ngăn chận chúng sinh ác.  <章 id="117157918">Phần 11: Thiên vương Đề-đầu-lại-trá hộ trì Bấy giờ, trong bốn cõi thiên hạ nơi thế giới này, có Nhật Thiên tử và Nguyệt Thiên tử, nói với Thiên tử Tật Hành Kiên Cố ở cõi ấy: –Hiện nay, Đức Thế Tôn ở tại núi Khư-la-đế, là trú xứ của chư Tiên tu hạnh tịch mặc, đã tạo được một pháp hội tập hợp hết sức lớn. Đức Phật cùng với chúng đệ tử vì nhằm khiến cho pháp Phật được trụ thế lâu bền, vì nhằm làm cho dòng giống Tam bảo luôn được tiếp nối không bị gián đoạn, vì muốn cho ba thứ khí chất tinh thuần không bị tổn giảm, cũng nhằm khiến cho những chúng sinh xấu ác có được lòng kính tin, lại cũng dốc khiến cho ba nẻo ác được ngăn chận dứt trừ, ba nẻo thiện được tăng trưởng, vậy các ngươi hãy mau chóng đi đến nơi tập hợp đông đảo ấy để bày tỏ sự tùy hỷ của ta. Ta cùng với đám quyến thuộc, đối với chính pháp của Đức Phật xin hết lòng hộ trì nuôi dưỡng. Lúc này, Thiên tử Tật Hành Kiên Cố đi đến chỗ Đức Phật, đến nơi rồi thì đầu mặt cung kính đảnh lễ ngang chân Phật và thưa: –Kính thưa Đức Thế Tôn! Chư vị Nhật Thiên tử, Nguyệt Thiên tử từ xa cung kính đảnh lễ Đức Phật và thưa: –Chúng tôi đã có vị Tật Hành cỡi xe đi thay, không thể đến được nơi chốn tập hợp đông đảo lớn lao ấy. Chúng tôi cùng với đám quyến thuộc, xin bày tỏ sự tùy hỷ của mình. Đối với chính pháp của Phật sẽ xin dốc dức hộ trì sắp đặt nuôi dưỡng chu đáo, khiến cho dòng giống Tam bảo luôn được tỏ rạng, cũng khiến năm ngôi sao lớn cùng hai mươi tám vì tinh tú đều cùng góp phần thực hiện chính pháp, làm cho ba thứ khí chất tinh thuần luôn được tăng trưởng không ngừng, ngăn chận tất cả những chúng sinh bất thiện, khiến cho các nhóm pháp thiện đều được sung mãn, phong phú, nẻo thiện nơi chư Thiên và chúng nhân luôn được đầy đủ, dồi dào. Đức Phật nói: –Nhật Thiên tử, Nguyệt Thiên tử! Chư vị đối với chính pháp của ta đã dốc lòng hộ trì nuôi dưỡng, khiến cho thọ mạng của chư vị được lâu dài, dứt hết mọi suy yếu, lo lắng. Bấy giờ, lại có hàng trăm ức chư vị Thiên vương Đề-đầu-lại-trá, Thiên vương Tỳ-lâu-lặc-xoa, Thiên vương Tỳ-lâu-bác-xoa, Thiên vương Tỳ-sa-môn, tất cả đồng thời cùng với đám quyến thuộc từ nơi chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y phục cho ngay ngắn, chắp tay kính lễ Đức Phật và thưa: –Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Chúng tôi nơi mỗi mỗi cõi thiên hạ của mình, xin dốc sức thực hiện việc hộ trì nuôi dưỡng pháp Phật, nhằm khiến cho dòng giống Tam bảo luôn được rạng rỡ, trụ thế lâu dài, ba thứ khí chất tinh thuần thảy đều tăng trưởng liên tục. Cho đến đối với chúng Thanh văn, đệ tử của Đức Thế Tôn, ba thứ nghiệp thiện luôn tạo được sự tương ứng, an trụ, thì chúng tôi xin dốc tăng sự hộ trì, thâu nhận để nuôi dưỡng, khiến tâm họ không bị cấu nhiễm, xa lìa mọi nẻo tán loạn để hướng tới cửa Niết-bàn giải thoát. Tùy theo thời gian trong sự tu tập ấy mà chúng tôi thường sẽ dốc ngăn chận tất cả những chúng sinh có tâm xấu ác, khiến cho các nhóm pháp thiện luôn tăng trưởng, an trụ lâu dài, đối với các trường hợp tranh giành cấu xé, những hoàn cảnh bệnh dịch, mất mùa đói kém, mưa gió trái thời, nước lạnh lửa dữ, tai bay vạ gởi, nhơ nhớp xấu ác nói chung là mọi sự việc chẳng thể đem lại an vui, tất cả những thứ kể trên thảy đều được dứt trừ. Vì sao? Vì chư vị đệ tử của Đức Thế Tôn, không hề tạo tác nẻo tích chứa tụ hội, thường tu tâm Từ bi, cùng với điều kiện hòa hợp, xa lìa sự tán loạn, luôn có được sự an trụ tốt đẹp. Đức Phật nói: –Lành thay, lành thay! Này chư vị thiện nam! Chư vị hãy nên dốc sức tăng thêm sự hộ trì, thâu nhân để nuôi dưỡng những nơi chốn của ta, tu tập theo đúng Pháp nhãn của chư Phật! Hết thảy chư vị đến dự pháp hội có mặt trong đại chúng cũng đều cất lời tán thán: –Lành thay, lành thay! Lúc này, Đức Phật nói với Thiên vương Lạc Thắng Đề-đầu-lại-trá: –Này vị Diệu trượng phu! Nơi châu Diêm-phù-đề thuộc bốn cõi thiên hạ này, là phần thứ tư, về phương Đông, ngươi nên nhận lãnh việc hộ trì. Vì sao? Vì châu Diêm-phù-đề này là chốn chư Phật ra đời phát huy chính pháp, do vậy mà ngươi nên đảm trách công việc hộ trì hết mực quan trọng ấy. Chư Phật thời quá khứ đã từng chỉ giáo cho ngươi công việc hộ trì, nuôi dưỡng. Chư Phật thời vị lai cũng sẽ làm công việc đó. Ngươi cùng với các con và các chúng Càn-thát-bà, chúng Dạ-xoa với hết thảy đám quyến thuộc, nên khiến họ kính tin chính pháp trong việc hộ trì nuôi dưỡng. Ngươi có chín mươi mốt người con, vui thích nơi vô số các phương tiện đi lại. Những người con đó, hoặc cỡi voi du hành khắp mười phương, hoặc lại cỡi ngựa, hoặc cỡi lạc đà, cỡi bò đực, cỡi dê đen, dê trắng, hoặc lại cỡi rồng, cỡi chim, hoặc dùng các hạng nam phu, phụ nữ, đồng nam đồng nữ kéo xe để du hành khắp mười phương, ngươi cũng nên khiến họ có được lòng kính tin chính pháp, sẽ cùng với họ thực hiện tốt công việc hộ trì phương Đông cõi Diêm-phù-đề, thuộc phần thứ tư. Lại có các đại thần Càn-thát-bà là những tướng quân có sức mạnh lớn lao. Người đầu tiên tên là Bát-chi-la. Những người tiếp theo là: Bát-già-la, Long-già-la, Phiến đà, Hề-ma-bạt-đa, Chất-đa-tư-na, Na-đồ vương, Thiền-na Ly-sa-bà, Thi-bà-ca, Mâu-chân-lân-đà, Tỳ-thấp-bà Mật-đa-la, Trừ-trân-đạt-la-tư. Các vị ấy đều là những đại thần của ngươi, vốn là những tướng quân có sức mạnh hơn người, ngươi cũng nên khiến học dấy lòng kính tin chính pháp, sẽ cùng với họ lo việc hộ trì phương Đông cõi Diêm-phù-đề thuộc phần thứ tư. Lại có bốn vị tại Sát-đa-la, là những tướng quân dũng mãnh, có nhiều binh lính, người thứ nhất tên là: Hảo Trường Nhó, người thứ hai tên là Hảo Trường Tỷ, người thứ ba tên Thiện Sung Mãn, người thứ tư tên Khư-đà-lê-bát-đế. Họ đều là những vị tướng quân dũng lực của ngươi, ngươi phải nên giúp họ phát sinh lòng kính tin chính pháp, sẽ cùng với họ thực hiện công việc hộ trì ấy. Lại có những vị tướng quân Càn-thát-bà có sức mạnh xuất chúng, thường dẫn theo quân binh hùng mạnh. Họ gồm ba người, là anh em, đó là Lạc Dục, Trước Dục và Hy-ca, hết thảy đều vâng theo sự chỉ giáo của ngươi. Lại có nhóm Càn-thát-bà, vốn là anh em gồm mười một vị: Bỉ-lợi-ca, Bàn-thê, Lam-bồ-thi-đạc, Ca-la-đồ, Câu-chỉ-la Thanh, Da-xá-thất-lị, Da-xá-bàn-đa, Da-thâu-đạt-la, Ma-la-bàn-đố, Ma-la-mạn-đô, Ma-đầu-mạn-đa. Lại có nhóm Càn-thát-bà anh em gồm ba vị: Thi-lî-mạn-đa, Đầu-đê-mạn-đa, Phú-sư-ba-mạn-đa. Còn có nhóm đông Càn-thát-bà gồm đến ba mươi ba người, đó là: Tát-đà-mạn-đô, Da-xà-mạn-đa, Đàn-na-mạn-đa, Nan-đề-ca, Ưu-ba-la, Ba-đầu-ma, Chiên-đàn, Chiên-đàn-na, Độ-lư-ma-la-sa, Bát-già-la, Câu-chỉ-la Tô-bà-la, Triêm-phù-la, Bát-già-thi-khư, Tao-bạt-ni, Tô-la-tư, Ma-la-tỳ, Bạt-đạt-na, Ca-ma Thi-lợi-trá, Ni-càn-trá, Ni-càn-trá-ca, Bà-đề-phù-la, Da-thâu-đà-la, Tỳ-thủ-bà Mật-đa-la, Thi-khiên-đà, Thiên cổ, Ma-đâu-la, Chất-đa-la-tư-na, Na-đồ vương, Thiền-na-lê-sa-bà, Thi-bà-ca, Mâu-chân-lân-đà, Tỳ-thủ-bà mật-đá-lư, Trừ-trân-đạt-la. Nói chung là những vị Càn-thát-bà ấy đều có nhiều quân binh dũng mãnh, ngươi phải dốc sức khiến họ phát sinh lòng kính tin chính pháp, sẽ cùng với họ thực hiện công việc hộ trì phương Đông cõi Diêm-phù-đề, thuộc phần thứ tư. Lại còn có mười sáu vị Thiên thần đều gồm đủ thần thông, uy lực xuất chúng. Đó là các vị: Tối Thắng, Thượng Thắng, Thành Tựu nghĩa, Tha Bất Thắng, Thượng Hỷ, Hỷ Quân, Lạc Hỷ, Tăng Trưởng Hỷ, Nhiêu Tài, Đa Nhiêu Tài, Cụ Mao, Thập Mao, Nhiêu Mao, Ưu-ba-la, Bát-ma-ca, Xa-ma. Mười sáu vị Thiên thần như trên đều là hàng thần thông, uy lực gồm đủ, ngươi phải dốc sức khiến họ có được lòng kính tin chính pháp, sẽ cùng với họ đảm nhận tốt công việc hộ trì kể trên. Phương Đông có xứ tên là Già-ba-la. Chư Phật thời quá khứ từng nương ở đấy để an trụ, cũng là xứ mà chúng Hiền thánh A-la-hán chứng đắc đạo quả. Chư Thiên, chúng nhân phát tâm tu hành cũng dựa vào chốn ấy mà trụ. Vì vậy các ngươi nên dốc hết sức tinh tấn của mình cho công việc hộ trì phương Đông cõi Diêm-phù-đề thuộc phần thứ tư. Phương Đông có núi tên A-bạt-đa, một núi nữa tên là Lê-sư Tam-bà-bà, cũng là chốn gốc của việc tu tập hành hóa thuộc chư Phật và chúng Hiền thánh thời quá khứ. Chư Thiên, chúng nhân nhờ vào chốn ấy để thấy được Thánh đế. Do đó mà các ngươi nên dốc sức tinh tấn cho công việc hộ trì của mình. Phương Đông lại có ba nguồn chiếu sáng, bảy vì tinh tú và ba Thiên đồng nữ, nên khiến họ liên tục ngày đêm góp phần thực hiện chính pháp ở thế gian. Các ngươi cũng sẽ cùng với họ hộ trì phương Đông cõi Diêm-phù-đề thuộc phần thứ tư ấy. Phương Đông lại có các chúng Thiên, Long, Dạ-xoa, La-sát, Cưu-bàn-trà, Ngạ quỷ, Tỳ-xá-già, Phú-đơn-na, Ca-trá phú-đơn-na trú nơi phương của ngươi, nhưng không lệ thuộc vào chốn nào cả. Sau này, ta sẽ phân bố đặt để họ nơi các quốc độ, ngươi cũng khiến họ góp sức vào công việc hộ trì. Bấy giờ, Thiên vương Lạc Thắng Đề-đầu-lại-trá thưa với Đức Phật: –Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Chư Phật quá khứ thực hiện công việc phó chúc, sắp đặt để thi hành sự hộ trì nuôi dưỡng đã chỉ giáo chúng tôi hộ vệ phương Đông cõi Phất-bà-đề. Như nay Đức Thế Tôn chỉ dạy tôi về công việc sắp đặt, hộ trì ấy cũng giống như xưa, không khác. Tôi xin dốc lòng đội ơn kính thọ nhận chính pháp của Phật, lo việc hộ trì phương Đông cõi Diêm-phù-đề thuộc phần thứ tư. Toàn bộ đám quyến thuộc lớn nhỏ của tôi cũng chung lo công việc hộ trì đó, đối với ba đường ác đều khiến dứt trừ, khiến cho ba đường thiện càng thêm tỏ rạng. Lúc này, ngoài Thiên vương Lạc Thắng Đề-đầu-lại-trá, lại có chư vị đại thần phụ tá, Sát-đa-la, nam phu, phụ nữ, đồng nam, đồng nữ, tất cả đều cùng rời chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay hướng về Đức Phật, cung kính đảnh lễ ngang chân Phật, rồi thưa: –Kính thưa Đức Thế Tôn! Chúng tôi hôm nay, nơi trước Bậc Đạo Sư Thế Tôn đã có được lòng tin tưởng sâu xa, tôn quý kính ngưỡng thật chưa từng có. Đối với Pháp bảo và Tăng bảo cũng có lòng tin tưởng sâu xa, tôn quý kính ngưỡng chưa từng có như vậy. Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Kể từ hôm nay, chúng tôi xin dốc sức siêng năng tinh tấn lo công việc hộ trì phương Đông cõi Diêm-phù-đề thuộc phần thứ tư. Mọi chúng Thanh văn, đệ tử của Đức Thế Tôn hiện có, như các chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, hay như các chúng sinh khác, đối với ba nghiệp thiện luôn có được sự tương ứng, an trụ, kính tin Tam bảo cúng dường phụng thí, lãnh hội thọ nhận chính pháp, đối với chính pháp của Phật phát tâm tu học thọ trì giới luật tạo được sự hòa hợp an trụ, lại dốc cúng dường chúng Tăng, thì chúng tôi luôn dốc hộ trì nuôi dưỡng họ. Hoặc lại có những chúng sinh khác, trụ nơi chốn A-lan-nhã cùng với chúng đệ tử trụ pháp, thuận pháp của Phật, phát tâm kiên cố như sừng loài Tê ngưu, chỉ riêng mình không bè bạn trụ nơi rừng cao vắng vẻ, thì chúng tôi sẽ đem tất cả các vật dụng cần thiết để cúng dường phụng thí cùng hộ trì nuôi dưỡng. Như lại có tất cả những chúng sinh khác, trông thấy nơi rừng cao vắng vẻ kia có người an trụ tu tập, nên đã đem đến các vật dụng cần thiết để cúng dường, thì chúng tôi cũng xin sẽ hộ trì nuôi dưỡng hàng thí chủ ấy để mọi vật dụng cần thiết kia thảy được hợp ý, cũng khiến cho họ thêm trường thọ, dứt mọi suy yếu tật bệnh, tài sản dồi dào, luôn được an ổn, sung sướng tiếng lành lan khắp. Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Chúng tôi sẽ dốc sức làm những công việc như thế để hộ trì nuôi dưỡng đối với chính pháp của Phật. Lại cũng khiến cho hết thảy các trường hợp chiến tranh, bệnh dịch, đói khát, thiếu kém, mưa gió trái thời đều được dứt trừ. Trái lại, những loài hoa quả, dược thảo, năm thứ lúa thóc hoa màu, vô số các vật luôn khiến được tươi tốt, sum suê, sinh sôi nảy nở ngày một dồi dào với bao hương thơm vị ngọt sắc diệu. Cũng khiến cho khí vị nơi đại địa, nơi chúng sinh, nơi pháp đề hồ luôn được phong phú, tăng trưởng không ngừng. Do từ tinh vị luôn được tăng trưởng như vậy nên có thể dứt trừ ba đường ác, các nẻo thiện hiển bày, đông đảo chúng sinh hướng đến, Phật pháp được an trụ lâu bền và tỏ rạng nơi thế gian. Đức Phật nói: –Lành thay, lành thay! Bậc Diệu trượng phu! Chư vị đã thể hiện sự siêng năng tinh tấn như thế trong công việc hộ trì nuôi dưỡng của mình khiến cho Pháp nhãn của ta được trụ thế lâu dài, tỏ rạng, lại khéo diễn nói pháp luật khiến càng thêm tin tưởng thông tỏ, tức là đã thể hiện đầy đủ sự nghiệp cúng dường hết thảy chư Phật trong ba đời. Như vậy là chư vị tất sẽ có được mọi sự tăng trưởng tốt đẹp, từ thọ mạng, pháp lành, quyến thuộc, tiếng khen, sắc diện, thế lực, bạn tốt, nhà cửa, cho đến niềm tin, giới luật, sự nghe biết, sức tinh tấn, tư duy, trí tuệ. Do các sự việc kể trên có được tăng trưởng như thế, nên có thể mau chóng hoàn thành viên mãn sáu pháp Ba-la-mật, thành Bậc Pháp Vương an nhiên vô thượng như ta hiện nay. Lúc này tất cả chư vị đến dự pháp hội có mặt trong đại chúng chư Thiên, chúng nhân, Càn-thát-bà cùng cất lời tán thán: –Lành thay, lành thay! Bậc Diệu trượng phu! Chư vị hãy nên dốc sức tinh tấn để hộ trì chính pháp của chư Phật, khiến chính pháp ấy được an trụ lâu bền, tỏ rạng khắp thế gian không hề bị đoạn tuyệt. Bấy giờ, Đức Thế Tôn nhằm làm sáng tỏ thêm những ý nghĩa vừa nêu nên đọc kệ: Hai thần thông thế gian Nhật, Nguyệt sai sứ đến Thiên tử Tật Hành Kiên Nay cùng đại chúng nêu. chính pháp Phật như thế Chúng tôi xin hộ trì Làm rạng dòng Tam bảo Tinh tú đạt chính hành. Ba tinh khí tăng trưởng Ngăn chận chúng sinh ác Bạn pháp không ngừng tăng Nẻo thiện thêm sung mãn. Trăm ức Đề-đầu-lại Lặc-xoa, Tỳ-lâu-bác Trăm ức Tỳ-sa-môn Đều cùng thưa với Phật. Chúng tôi ngăn mọi ác Bạn pháp được tăng trưởng Chiến tranh, bệnh dịch, đói Mọi ác khiến dứt trừ. Phật, Đạo sư nên dạy: Lạc thắng Đề-đầu-lại Chư Như Lai quá khứ Đã dạy ngươi sắp đặt. Hộ trì Diêm-phù-đề Phương Đông, phần thứ tư Ngươi cùng quân, quyến thuộc Cũng khiến tăng Pháp nhãn. Đề-đầu thưa với Phật: Kính thưa Bậc Đại Hùng Tôi, chúng quân dũng lực Khiến Pháp nhãn rạng ngời. Dứt các pháp bất thiện Ngăn chận chúng sinh ác Luôn giúp chúng Thanh văn Không ham nẻo tích tu.ï Càn-thát-bà cùng lời Cũng lại thưa với Phật: Thanh văn dứt tích tụ Ăn uống khiến không thiếu. Chúng tôi hộ trì pháp Kẻ nơi chốn trụ pháp Thí chủ ấy nuôi dưỡng Chúng tôi cũng hộ trì. Ngăn chận chúng sinh ác Khiến bạn pháp tỏ rạng Ba thứ tinh khí tăng Nẻo thiện đều sung mãn.  <章 id="117157919">Phần 12: Thiên vương Tỳ-lâu-lặc-xoa Bấy giờ, Đức Phật nói với Thiên vương Hỏa Hoa Tỳ-lâu-lặc-xoa: –Này vị Diệu trượng phu! Về phương Nam của châu Diêm-phù-đề, thuộc phần thứ tư của bốn cõi thiên hạ này, ngươi nên nhận lấy việc hộ trì. Vì sao? Vì cõi Diêm-phù-đề này là chốn chư Phật xuất hiện, phát huy chính pháp, vì vậy ngươi nên đảm nhận công việc hộ trì vô cùng quan trọng ấy. Chư Phật quá khứ đã từng chỉ giáo ngươi về việc hộ trì nuôi dưỡng. Chư Phật vị lai cũng sẽ làm như thế. Về đám con cái của ngươi cùng tất cả quyến thuộc, đại thần, tướng quân, Dạ-xoa, La-sát, ngươi đều khiến họ tham gia công việc hộ trì ấy. Ngươi có chín mươi mốt người con, đều vui thích vô số các phương tiện du hành. Hoặc cỡi voi du hành khắp mười phương, cho đến hoặc dùng các đồng nam, đồng nữ đẩy xe du hành khắp các cõi, ngươi cũng nên khiến họ có được lòng kính tin chính pháp, cùng nhau hộ trì phương Nam cõi Diêm-phù-đề, thuộc phần thứ tư. Lại có các vị đại thần Cưu-bàn-trà thống lãnh nhiều quân binh, uy lực dũng mãnh. Đó là những vị Bạ-na-câu, A-trá-bạc-câu, Bà-trá-ca, Tẩu-chi-lưu-ma, A-tư-mục-khư, Trật-đồ-thi-đế, Ma-đâu-la, Trật-đồ-nê-di, Đế-lî-kiệu-trá-ca, Chiên-đàn-na, Già-la-kiệt-đà, Tẩu-mục-khư, Đà-đề-mục-khư. Còn có bốn vị Sát-đa-la là: Kim Cang Luân, Kim Cang Diệm, Tiễn Mao và Phong Vương. Họ đều có nhiều binh só dũng mãnh hơn người. Lại có chín vị tướng quân Cưu-bàn-trà sức mạnh ít kẻ sánh, vốn là anh em, đó là: Đàn-đề, Ưu-ba-đàn-đề, Cát-ca-xa, Bát-thấp, Ma-ha Bát-thấp-bà, Đại Đỗ, Tượng Thủ, Thập Thủ, Hỏa Thủ. Còn có nhóm Cưu-bàn-trà anh em gồm ba vị: Địa Hành, Sơn Hành và Tả Hành. Lại có nhóm Cưu-bàn-trà ba người, cũng là anh em, đó là: Hắc Sắc, Chu Mục, Vân Sắc. Còn có nhóm Cưu-bàn-trà bốn người, cũng là anh em: người thứ nhất tên Vô Cấu, người thứ hai tên Vô Sang Vưu, người thứ ba tên Vân Thiên, người thứ tư tên Đại Lực. Lại còn có nhóm Cưu-bàn-trà gồm đến hai mươi sáu vị, đó là: Trường Nhó, Trường Nhũ, Độc Tượng, Biên Phát, Thập Xử, Thập Mục, Cô Thọ, Lạc Dục, Đại Dục, Mộc Sư, Ái Tử, Tam Cưu-bàn-trà Tử, Nhất Thiết Hạng, Tạp Sắc, Thải Nhãn, Mãn Bình, Bình Nhãn, Vô Bệnh, Sô-xoa, Hoàn Phát, Đa-trà-xoa, Xoa-xoa, Lũ Diên, Đam Thằng, Mã Thủy, Đạm Tủy. Những vị Cưu-bàn-trà ấy đều là những tướng quân dũng mãnh, nhiều uy lực, thống lãnh nhiều binh lính, ngươi nên khiến họ có được lòng kính tin chính pháp, cùng với họ dốc sức lo việc hộ trì phương Nam cõi Diêm-phù-đề, thuộc phần thứ tư. Còn có mười sáu vị Thiên vương, cũng đều là những bậc dũng lực hơn người, có nhiều quân binh hùng mạnh, đó là các vị: Tạp Chỉ, Tạp Phát, Phân-đà-lợi, Diệu Quang, Hỏa Quang, Độc Ám, Đa Ám, Ban Bác, Nguyệt Tôn, Chúng Tạp, Dạ-mộ, Khi-lăng, Bất-khi-lăng, Ác-chỉ, Bà-tô-chỉ, Tha Bất Thắng. Đối với các vị Thiên thần vương này ngươi cũng nên khiến họ dấy khởi lòng kính tin chính pháp, cùng họ dốc sức thực hiện việc hộ trì kể trên. Phương Nam có tháp tên là Thiện an trụ, chư Phật, chư Tiên, Hiền thánh thời quá khứ đã trụ nơi ấy để lãnh hội Tứ thánh đế. Phương Nam có núi tên là Thiện hiện, chư Phật, chư Thánh hiền đông đảo thời quá khứ cũng trụ ở đó để tiếp nhận Tứ thánh đế. Phương Nam lại có ba nguồn tỏa sáng, bảy ngôi tinh tú, ba thiên đồng nữ, ngươi cũng nên thúc đẩy họ góp phần thực hiện chính pháp ở thế gian, cùng chung lo hộ trì phương Nam cõi Diêm-phù-đề thuộc phần thứ tư. Phương Nam còn có các chúng Thiên, Long, Dạ-xoa, La-sát, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Càn-thát-bà, Ma-hầu-la-già, Cưu-bàn-trà, Ngạ quỷ, Tỳ-xá-già, Phú-đơn-na, Ca-trá phú-đơn-na, trú nơi phương Nam của ngươi, nhưng không lệ thuộc vào chốn nào. Ta sau này sẽ phân bố sắp đặt tùy theo các quốc độ, cũng khiến họ hộ trì, nuôi dưỡng. Bấy giờ, Thiên vương Hỏa Hoa Tỳ-lâu-lặc-xoa thưa với Phật: –Thế Tôn! Đúng vậy, đúng vậy! Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Chư Phật quá khứ đã từng giao phó cho tôi việc giáo hóa khiến đạt được an ổn. Tôi cũng được chư Thiên, Thần tiên quá khứ chỉ dẫn việc hộ trì phần thứ tư nơi phương Nam cõi Diêm-phù-đề, như nay Đức Thế Tôn đã giao phó. Tôi xin đảnh lễ thọ nhận công việc hộ trì nuôi dưỡng này. Tôi xin cùng đám quyến thuộc, đại thần, tướng quân dốc sức làm tốt việc hộ trì nuôi dưỡng pháp Phật, kể cả việc dứt trừ ba đường ác, làm cho ba nẻo thiện luôn tăng trưởng, sung mãn. Bấy giờ, đám quyến thuộc của Thiên vương Hỏa Hoa Tỳ-lâu-lặc-xoa, chư vị Sát-đa-la, đại thần phụ tá, đại tướng Cưu-bàn-trà, nam phu, phụ nữ, đồng nam, đồng nữ, tất cả thảy đều rời chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay hướng về Đức Phật, cung kính đảnh lễ ngang chân Phật và cùng thưa: –Kính thưa Đức Thế Tôn! Chúng tôi hôm nay ở trước Đức Đạo Sư Thế Tôn, đã có được lòng tin tưởng sâu xa, tôn quý kính ngưỡng chưa từng có. Đối với Pháp bảo và Tăng bảo cũng sinh lòng tin tưởng sâu xa, tôn quý kính ngưỡng chưa từng có như thế. Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Chúng tôi kể từ hôm nay xin dốc hết sức tinh tấn của mình để hộ trì nuôi dưỡng phương Nam cõi Diêm-phù-đề thuộc phần thứ tư, cho đến sự nghiệp làm cho chính pháp của Phật được an trụ lâu dài, tỏ rạng, dứt trừ các nẻo ác, khiến cho các đường thiện thêm sung mãn. Đức Phật nói: –Lành thay, lành thay! Các vị diệu trượng phu! Hết thảy chư vị đến dự pháp hội có mặt trong đại chúng, chư Thiên, chúng nhân, chúng Càn-thát-bà, đều cùng cất lời tán thán: –Lành thay, lành thay! Bấy giờ Đức Thế Tôn, nhằm làm sáng tỏ thêm những ý nghĩa trên, nên đọc kệ: Phật gọi Tỳ-lâu-lặc Đại thần Cưu-bàn-trà Phật quá khứ dạy ngươi Hộ trì nơi phương Nam. Chư Thiên, Tiên xa xưa Cũng dạy ngươi sắp đặt chính pháp Phật tỏ rạng Ngăn chận chúng sinh ác. Đạo sư nay bảo ngươi Khiến pháp ta thêm tỏ Nhận lời ta phó chúc Pháp nhãn của Như Lai. Dòng Tam bảo luôn tỏa Ba thứ tinh khí tăng Thực phẩm, các vị thuốc Thêm dồi dào, an lạc. Chúng Tỳ-kheo trụ pháp Cho đến không tích tụ Nên hộ trì nuôi dưỡng Khiến không chốn thiếu hụt. Cũng hộ trì thí chủ Của, mạng, vui, giàu, trí Năm thứ luôn sung túc Thảy khiến thường tăng trưởng. Đám tinh tú chính hành Qua năm tháng bốn mùa Ba cõi ác khiến dứt Nẻo thiện càng sung mãn.  <章 id="117157920">Phần 13: Thiên vương Tỳ-lâu-bác-xoa Bấy giờ, Đức Phật nói với Thiên vương Chiên-đàn Hoa Tỳ-lâu-bác-xoa: –Này vị Diệu trượng phu! Về phương Tây của cõi Diêm-phù-đề thuộc phần thứ tư trong bốn châu thiên hạ này, ngươi nên nhận lãnh trách nhiệm hộ trì. Vì sao? Vì cõi Diêm-phù-đề này là chốn chư Phật xuất hiện, phát huy chính pháp. Do vậy, ngươi nên dốc nhận lấy công việc hộ trì vô cùng trọng đại ấy. Chư Phật quá khứ đã từng chỉ giáo ngươi về việc hộ trì nuôi dưỡng, chư Phật vị lai cũng sẽ làm như thế. Đối với đám con cái của ngươi, đám đại thần, quyến thuộc, ngươi cũng khiến họ tham dự vào công việc ấy. Ngươi có chín mươi mốt người con, vui thích vô số phương tiện du hành giống như đã nêu ở trên. Lại có các vị đại thần là chúng rồng đều có quân binh hùng mạnh. Đó là các vị: Sư Tử, Sư Tử Phát, Tự Tại, Hoàng Đầu, Hoàng Đức, Xích Mục, Cù-đam-ma, Sơn Thủy. Lại có bốn vị Bát-đa-la, Ương-cù, Manh-cù, Văn-già-xoa, Xa-xoa-mục… Ngoài ra, còn có bốn vị tướng quân rồng, đều là những kẻ dũng mãnh, luôn dẫn theo quân binh đông đảo. Đó là các vị: Nan-đà, Ưu-ba-nan-đà, Thiện Hiện, A-na-bà-đạt-đa, Hòa-tu-cát, Thiện Kiếp Lập, Thiên Xỉ, Đắc-xoa-ca, Bà-lâu-na, Bà-sa-bà, A-lâu-na, Hầu-lâu-đổ, Bằng-già-la, Sinh-già-la, Công Đức, Diệu Đức, Công Đức Mãn, Hư Vọng Hành, Ba-xa, Ma-ha Ba-xa, Thiền-na, Trạch Thí, Hải Thí, Diêm-phù-thí, Siểm-bà-la, Thiện Tý, Tô-ma-na, Nhật Quang, Nguyệt Quang, Nguyệt Nhãn, Chiên-đàn, Diệu Hiền, Diệu Nhó, Chất-đa-la, Thi Sắc, Át-chi, Mâu-chân-lân-đà, Lam-tịnh-la, Ca-na-ca, Tượng Nhó, Bát-trù-ca, Thanh-khư, Y-la-bát, A-ba-la-la, Na-la-đạt, Ưu-ma-na-la, Thi-lî-ca, Am-la-đề-tha, Bà-tró-tử, Đề-đáo-la-trá, Chiêm-ba, Cồ-đàm-ma, Bát-già-lê, Hạng-lực, Cám-bà-lị, Tỳ-ma, Sơn-tý, Hằng-già, Tân-đầu, Bác-xoa, Tư-đà-tư. Như thế là sáu mươi mốt vị rồng ấy đều là những tướng quân dũng kiện của ngươi. Phương Tây ấy còn có mười sáu vị Thiên thần, cũng đều có quân lính hùng mạnh. Đó là các vị: Tát-sa-bà-đế, Tây-xa-bà-đế, Da-thâu-đà-la, Da-xa-bạt-đế, Uất-già-ma, Đệ Nhất Thiện, Thiện Giác, Thiện Khởi, Xiển-đà, Tỳ-xiển-đà, Ly Cấu, Tỳ-lâu-trà, Ngưu Tiên, Chiêm-bà-ca, Ưu-lâu-xà và Ca-ca-trá-thệ. Ngoài ra, phương Tây còn có tháp tên là Cực vũ, có các ngọn núi tên là Hương phong, Chúng sắc, Trùng các. Phương này lại còn có ba nguồn tỏa sáng, bảy vì tinh tú, ba thiền đồng nữ, thảy đều góp phần thực hiện chính pháp, cùng hộ trì phương Tây cõi Diêm-phù-đề thuộc phần thứ tư. Phương Tây cũng có các chúng Thiên, Long, Quỷ, cho đến loài Ca-trá phú-đơn-na trụ nơi phương của ngươi nhưng không lệ thuộc vào một chốn nào. Sau này ta sẽ phân bố sắp đặt theo từng quốc độ, ngươi cũng khiến họ góp sức vào công việc hộ trì nuôi dưỡng đó. Lúc này, Thiên vương Chiên-đàn Hoa Tỳ-lâu-bác-xoa thưa với Đức Phật: –Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Chư Phật quá khứ đã từng chỉ dạy tôi như thế về công việc sắp đặt, hộ trì, nuôi dưỡng nơi phương Tây cõi Diêm-phù-đề thuộc phần thứ tư, cũng như hôm nay Đức Thế Tôn đã chỉ dạy, không khác. Hôm nay, tôi ở nơi trước Đức Phật, xin dốc lòng thọ nhận lời chỉ dạy về trách nhiệm hộ trì phương Tây cõi Diêm-phù-đề, cũng hộ trì nuôi dưỡng chính pháp của chư Phật, cho đến việc khiến cho các nẻo thiện luôn được sung mãn. Bấy giờ, Thiên vương Tỳ-lâu-bác-xoa liền đọc kệ: Tỳ-lâu-bác-xoa vương Cùng chúng quan Rồng thưa Phật Thiên Tiên quá khứ Dạy tôi giữ phương Tây. Cùng đám quân binh rồng Ngăn chận chúng sinh ác Tranh giành cùng bệnh dịch Ngươi nên khiến dứt trừ. Tăng trưởng ba tinh khí Cùng giúp Pháp nhãn ta Chúng Tỳ-kheo trụ pháp Ít dục, dứt tích tụ Hộ trì thọ mạng Tăng Dung mạo, sức thêm vui Thiên nhân sư như thế Nay thảy hướng tôi nói. Quyết tin lời Phật dạy Tôi nay đảnh lễ nhận Hộ trì dòng Tam bảo Mắt chính pháp thêm ngời. Chư Thanh văn trụ pháp Chúng tôi cũng hộ trì Cùng với quân binh rồng Dứt trừ pháp bất thiện. Ngăn chận chúng sinh ác Khiến mọi ác thảy dứt Hoa trái, thuốc dồi dào Các vị thấm nhuần đủ. Khiến chủ Sát-lợi vương Kính tin chính pháp Phật Tỳ-xá cùng Thủ-đà Chúng Long thần, Dạ-xoa. Đều khiến chúng kính tin Dốc kính ngưỡng lời Phật Hộ trì nơi rừng vắng Ít dục, không tích tụ. Các tinh tú chính hàng Năm tháng cùng bốn mùa Khiến dứt ba đường ác Nẻo thiện đều sung mãn.  <章 id="117157921">Phần 14: Thiên vương Tỳ-sa-môn Bấy giờ, Đức Phật nói với Thiên vương Câu-bỉ-la Tỳ-sa-môn: –Này vị Diệu trượng phu! Về phương Bắc của cõi Diêm-phù-đề thuộc phần thứ tư trong bốn châu thiên hạ này, ngươi nên nhận lãnh việc hộ trì. Vì sao? Vì cõi Diêm-phù-đề ấy là chốn chư Phật ra đời phát huy chính pháp. Do vậy, ngươi phải nên đảm nhận công việc hộ trì hết sức quan trọng đó. Chư Phật quá khứ đã từng chỉ dạy ngươi về công việc hộ trì nuôi dưỡng, chư Phật vị lai cũng sẽ làm như thế. Đối với đám con cái của ngươi cùng các đại thần, quyến thuộc, chúng Dạ-xoa, Tỳ-xá-già, ngươi đều khiến họ tham gia vào công việc hộ trì ấy. Ngươi có chín mươi mốt người con thảy đều vui thích vô số các phương tiện du hành, như cỡi voi đi khắp mười phương, hoặc cỡi ngựa, cỡi lạc đà, cỡi bò đực, cỡi dê đen dê trắng, hoặc lại cỡi rồng cỡi chim, hoặc dùng các nam phu, phụ nữ, đồng nam, đồng nữ kéo xe du hành khắp các phương các chốn. Ngươi cũng nên khiến chúng có được lòng kính tin chính pháp, cùng lo việc hộ trì phương Bắc cõi Diêm-phù-đề thuộc phần thứ tư. Lại có các đại thần Dạ-xoa đều là những tướng quân dũng lực. Đó là các vị: Vô Bệnh, Cát Tường, An Ẩn, Thành Lợi, Tha Bất Thắng, Mãn Nguyện, Phong Nhiêu, Hoan Hỷ, Thủy Tân, Nam Phù Sa Độ, Điện Quang, Hỏa Quang, Thủy Nhãn, Úc Già, Hảo Nữ, Nhiếp Thọ. Mười sáu vị Dạ-xoa này đều là đại thần của ngươi, là những tướng quân dũng mãnh, ngươi nên khiến họ phát sinh lòng kính tin chính pháp, cùng với họ dốc sức thực hiện tốt công việc hộ trì ấy. Còn có bốn vị Sát-đa-la nổi tiếng: Trường Mục, Trường Diện, Tọa Ống và Hoa Trượng, đều là những tướng quân có sức mạnh hơn người của ngươi. Ngươi cũng phải khiến họ sinh lòng kính tin chính pháp, cùng dốc sức lo việc hộ trì phương Bắc cõi Diêm-phù-đề thuộc phần thứ tư. Lại còn có chúng Dạ-xoa là những tướng quân dũng kiện, luôn dẫn theo đông đảo quân binh. Đó là các vị: Nhân-đà-la, Tô-ma, Bà-lâu-la, Bà-xà-ba-đế, Bà-la-ba-xà, Y-xa-na, Thắng Dục, Chiên-đàn, Ni-càn-trá, Ni-càn-trá-ca, Bà-tró, Ma-ni-già-la, Ba-ni-la, Ưu-bát-già-ca, Sa-đà-kỳ-lî, Hề-ma-bạt-đa, Tát-tha, Ba-la-mạt-đàn-na, Càn-trúc-ca, Ca-ma-đa-ty, Phú-lâu-na, Khư-đà-lî, Cù-ba-lợi, Kỳ-ha-tri, A-trá-ca, A-trá-bạc-câu, Na-la-đề, Na-la-la-đảm, Thiền-na Lê-sa-bà, Chất-đa-la-ca, Chất-đa-tư-na, Thi-bà-lî, Niết-già-đa, Trường-mâu, Ma-na-trá, Ma-na-bà, Tỷ-hà-độ, Tỳ-lư-già-na, Phục Long, Tỳ-ma, Hộ Môn, Đa-ma-na, Năng Mê Hoặc, Thủ Ý, Tử Nam Bà, Già-trá-tăng-xoa, Bát-càn-đạp-bà, Minh Nguyệt, A-bà-sa-bà, Tam-mâu-đạt-la, Ngưu Tiên. Năm mươi vị tướng quân Dạ-xoa kể trên đều là những quân só dũng kiện của ngươi, luôn nhận lãnh sự chỉ giáo của bậc thống lãnh mình, ngươi cũng phải dốc lòng khiến họ đạt được sự kính tin chính pháp để chung sức lo việc hộ trì phương Bắc cõi Diêm-phù-đề thuộc phần thứ tư. Ngoài ra, còn có mười sáu vị Thiên thần vương, cũng đều là những kẻ có sức mạnh xuất chúng, có nhiều binh lính. Đó là các vị: Y-đồ, Bỉ-đồ, Na-đồ, Thiên Liên Hoa, Bát-đà-ma-bạt-đế, Y-càn-hi-đa, Ma-ha Quân-xà, A-hề-đa, Hề-đa-xa-da, Tỳ-lâu-tró, Ưu-ba-la, Nguyệt, Như Nguyệt, Bà-lâu-na, Tam-ba-đế. Đối với các vị Thiên thần vương này ngươi cũng nên khiến họ có được sự kính tin chính pháp, cùng góp phần vào công việc kể trên. Phương Bắc có ngôi tháp tên là Thi-khư-lợi, chư Phật quá khứ, chư Tiên, chư Hiền thánh thời đó đã dựa vào trú xứ ấy để tiếp cận được bốn Thánh đế. Phương Bắc còn có núi tên là Thân cừ, là trú xứ của Thiên tử Nhật Nguyệt, cũng là chốn nương tựa an trụ của chúng quỷ thần danh tiếng gồm đủ uy lực lớn lao, ngươi nên dốc sử dụng hết sức mạnh tinh tấn của họ để cùng gánh vác việc hộ trì phương Bắc cõi Diêm-phù-đề thuộc phần thứ tư. Phương Bắc còn có ba nguồn tỏa sáng, bảy ngôi sao lớn và ba thiên đồng nữ, ngươi cũng nên khiến họ góp sức thực hành chính pháp ở thế gian, cùng chung lo trọng trách hộ trì ấy. Phương này cũng có các chúng Thiên, Long, Dạ-xoa, La-sát, Cưu-bàn-trà, Ngạ quỷ, Tỳ-xá-già, Phú-đơn-na, Ca-trá phú-đơn-na trụ nơi phương Bắc của ngươi nhưng không lệ thuộc vào một nơi chốn nào cả. Sau này ta sẽ phân bố sắp đặt họ theo từng quốc độ, ngươi cũng phải khiến họ tham dự công việc hộ trì nuôi dưỡng. Lúc này, Thiên vương Câu-tỳ-la Tỳ-sa-môn thưa với Đức Phật: –Kính thưa Đức Thế Tôn! Đúng như vậy. Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Chư Phật quá khứ đã từng chỉ dạy tôi về việc sắp đặt hộ trì nuôi dưỡng phương Bắc cõi Diêm-phù-đề thuộc phần thứ tư. Như thế là tôi nay xin dốc tâm nhận lãnh lời chỉ giáo của Đức Phật về trách nhiệm hộ trì chính pháp của chư Phật ở phương Bắc cõi Diêm-phù-đề này. Bấy giờ, đám con cái của Thiên vương Câu-tỳ-la Tỳ-sa-môn, cùng các vị đại thần Sát-đa-la, chúng tướng Dạ-xoa, mười sáu vị Thiên thần, hết thảy quyến thuộc, nam phu, phụ nữ, đồng nam, đồng nữ, đều rời chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay hướng về Đức Phật cung kính đảnh lễ ngang chân Phật và cùng thưa: –Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Chúng tôi hôm nay, ở nơi chỗ Phật đã có được lòng kính tin sâu xa, tôn quý kính ngưỡng chưa từng có. Đối với Pháp bảo và Tăng bảo cũng đều có lòng kính tin sâu xa như thế. Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Chúng tôi kể từ hôm nay xin thành tâm dốc hết sức lực để thu phục những chúng sinh có tâm xấu ác, luôn siêng năng tinh tấn chung sức cùng với vị thượng thủ là Thiên vương Tỳ-sa-môn đồng tâm hợp lực thực hiện công việc hộ trì phương Bắc cõi Diêm-phù-đề, làm cho chính pháp của chư Phật luôn trụ thế. Lúc này, Thiên vương Câu-tỳ-la Tỳ-sa-môn lại thưa với Đức Phật: –Kính thưa Đức Thế Tôn! Như bốn chúng đệ tử của Phật là chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, đối với chính pháp của Phật, ba nghiệp luôn đạt sự tương ứng hòa hợp, chuyên tâm học hỏi chính pháp theo đúng lời dạy mà tu tập, trì giới, hoặc có những chúng sinh khác, đối với Tam bảo phát sinh lòng kính tin sâu xa, cúng dường Phật và chúng Tăng, dốc tu nẻo phước đức, thì tôi sẽ cùng với đám quyến thuộc chung lòng hợp sức, theo đúng lời phó chúc của Phật, thực hiện việc sắp đặt hộ trì nuôi dưỡng. Hoặc như hàng đệ tử của Phật, ở nơi chốn A-lan-nhã, trụ pháp thuận pháp, tinh tấn tu hành, không bạn bè, riêng mình an trụ nơi chốn rừng cao u tịch, tâm kiên cố như sừng loài tê ngưu, thì chúng tôi xin dốc lòng hộ trì nuôi dưỡng gấp bội. Như có chúng sinh, đối với những nơi rừng vắng là chốn tu hành của Đức Thế Tôn, hiện có các chúng Thanh văn đang tinh tấn tu học, đã luôn cúng dường đầy đủ các vật dụng cần thiết, thì chúng tôi sẽ dùng các phương tiện để hộ trì nuôi dưỡng các vị thí chủ kia luôn được năm sự lợi ích tăng trưởng. Những gì là năm việc ấy? 1.Thọ mạng tăng trưởng. 2.Của cải tăng trưởng. 3.Bệnh tật luôn dứt. 4.Sự an lạc luôn tăng trưởng. 5.Tiếng tốt tiếng khen luôn tăng trưởng. Nói chung là chúng tôi thực hiện sư hộ trì nuôi dưỡng như thế luôn đầy đủ, làm cho Tam bảo luôn tỏ rạng, dòng giống Phật luôn trụ thế lâu bền. Còn như chúng sinh, ở nơi cảnh giới của mình tham cầu nẻo tích tụ không hề biết chán bỏ, không biết xem xét về đời sau với bao việc đáng lo sợ, giận dữ, xấu ác, nóng nảy vội vàng, không chút lòng thương xót, quấy hại hàng Sát-lợi gây cảnh binh đao chém giết, hoặc thực hiện đủ cách giết hại đâm chém, nơi tù ngục khảo tra đánh đập ruồng đuổi, hoặc sát sinh trộm cướp cho đến theo nẻo tà kiến, tạo bao nhân duyên xấu ác với hàng Sát-lợi cùng nhau đối với các hàng Bà-la-môn, Tỳ-xá, Thủ-đà, cả đến nam phu, phụ nữ, đồng nam, đồng nữ, thậm chí đến loài súc sinh cũng gây tạo bao nhân duyên xấu ác, quấy hại, khiến cho những hạng chúng sinh vừa kể liên tục bị cướp đoạt, giết chóc, nói chung là đã chồng chất vô số nhân duyên tạo ác như thế, thì chúng tôi quyết chí ngăn chận những loại chúng sinh xấu ác đó, khiến họ trụ được nơi tâm Từ, tâm Bi, tâm tin tưởng, giữ gìn, hỷ xả, nghe biết, trí tuệ, khiến họ lìa bỏ nẻo bất thiện mà gắn bó với chốn thiện đồng thời ngăn trừ các trường hợp chiến tranh, bệnh dịch, đói khát, các hiện tượng mưa gió trái thời, sương tuyết quái ác, lại cũng dốc ngăn diệt các loài cầm thú hung dữ hại người, những thứ côn trùng độc hại, cùng lúc cũng khiến cho hết thảy các loại cây trái hoa quả, cây thuốc, năm thứ lúa thóc hoa màu luôn được tươi tốt với bao thứ hương vị thơm ngon bổ dưỡng, tất cả thảy đều dồi dào sung túc, đem lại cuộc sống an lạc. Ba thứ khí chất tinh thuần nơi đại địa, nơi chúng sinh cùng nơi vị đề hồ của chính pháp đều được tăng trưởng không ngừng. Nơi thế gian với bao cảnh khô cằn thô xấu, sắc vị tệ hại nhơ nhớp, hoa quả cây lá không đem lại sự vui thích hay chẳng ích dụng gì cả, hết thảy những thứ đó, chúng tôi đều quyết dứt trừ tiêu diệt. Như thế là vị của khí chất tinh thuần nơi đại địa, nơi chúng sinh và nơi pháp đề hồ luôn được tăng trưởng, an trụ lâu bền, nhờ đấy mà Phật pháp cũng được tăng trưởng, an trụ lâu bền. Do từ chỗ Phật pháp luôn được tăng trưởng, trụ thế lâu bền như vậy, nên tất cả các thứ phiền não bức bách chúng sinh trong suốt đêm dài sinh tử thảy được dứt trừ, giúp chúng sinh bước vào thành trì vô úy Niết-bàn rộng lớn. Chính vì nhân duyên ấy mà chúng tôi, cùng với các tướng quân, đại thần, quyến thuộc xin dốc hộ trì phương Bắc cõi Diêm-phù-đề thuộc phần thứ tư, khiến cho Pháp nhãn của Phật luôn tỏ rạng, trụ thế lâu bền, cho đến việc giúp các hàng đệ tử của Đức Thế Tôn không tham nẻo tích tụ, an trụ nơi chốn rừng sâu vắng vẻ, riêng mình không bè bạn, tâm kiên cố như sừng loài tê ngưu, ba nghiệp hòa hợp, tu tập tinh tấn như cứu lửa cháy đầu, không dua theo nẻo vui đùa, khinh lấn, tranh giành, đối với chúng sinh luôn dấy tâm Từ bi, tâm thương xót, tâm tin tưởng, giữ gìn, Hỷ xả, tinh tấn nhớ nghó, thiền định trí tuệ. Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Chúng tôi như thế là dốc khiến cho Pháp nhãn của Phật an trụ lâu bền nơi thế gian, đối với dòng giống Tam bảo cũng khiến luôn được tỏ rạng, trụ thế mãi mãi. Cũng nhằm dứt trừ hết thảy các sự việc, các vật không đem lại an lạc, gây tạo khổ não cho chúng sinh nơi thế gian, ngăn chận các loài chúng sinh xấu ác, kiến lập các pháp thiện, dứt ba nẻo ác, tăng trưởng ba nẻo thiện. Lại như các hàng Thanh văn đệ tử của Đức Thế Tôn, nếu họ lìa bỏ các nẻo chính niệm, tư duy, chính quán, lìa bỏ sự đọc tụng kinh điển cùng giảng giải cho người khác lãnh hội, lìa bỏ mọi nơi chốn tu tập hành hóa theo chính pháp, lại dốc vào việc tạo dựng gia sản, mua bán, trồng trọt, chăn nuôi đủ loại súc vật, tích chứa tiền bạc, tài sản, tham dự vào công việc nơi thành ấp xóm làng, đối với tài sản của kẻ khác cũng dốc giúp họ giữ gìn tích chứa, cất giấu, hoặc dùng chú thuật, hoặc theo sách vở hình vẽ chỉ dẫn họ làm theo, nói chung là quá gắn bó việc thế tục, lơ là việc tu hành thì đối với hạng Tăng chúng ấy, chúng tôi không thể hộ trì nuôi dưỡng. Tôi nay, đối với ba đời chư Phật, xin trọn không hề vọng ngữ hay phạm phải những tội lỗi cấu nhiễm. Đức Phật nói: –Lành thay, lành thay! Vị Diệu trượng phu! Ta ở nơi vô lượng a-tăng-kỳ kiếp với nẻo tu tập nhằm phát huy Pháp nhãn đã khéo thuyết giảng về giới luật Tỳ-ni là phần quan trọng của chính pháp, các ngươi dốc sức thực hiện công việc hộ trì nuôi dưỡng khiến cho chính pháp luôn trụ thế như vậy tức là đã cúng dường chư Phật trong ba đời. Các ngươi như thế là sẽ đạt được vô số phước đức tăng trưởng, từ thọ mạng, của cải, sức lực, sự an lạc, bè bạn, quyến thuộc, cung điện, cho đến lòng tin, giới hạnh, sự nghe biết, sức tinh tấn, Hỷ xả, suy niệm, trí tuệ, tất cả đều tăng trưởng không dứt. Do từ diệu lực của nhân duyên tăng trưởng ấy nên có thể mau chóng thực hiện viên mãn sáu pháp Ba-la-mật, thành Bậc Đẳng chính Giác, cũng như ta hiện nay đã thành Bậc Pháp Vương Vô Thượng tự tại. Hôm nay, ta lại đem chính pháp của Phật phó chúc cho các bậc đại quốc vương nơi cõi Diêm-phù-đề, sau khi ta diệt độ, hãy dốc sức hộ trì nuôi dưỡng. Như có các hàng Tỳ-kheo, lìa mọi sự hổ thẹn, khiến cho chính pháp của ta bị cấu nhiễm, riêng mình tạo lập cơ nghiệp về ruộng đất, nuôi chứa nô tỳ cho đến các loài súc vật, để gây dựng sự nghiệp gia đình, sống theo thế tục, thì đối với hàng Tỳ-kheo như thế, các vị đại quốc vương trong cõi Diêm-phù-đề phải nên ngăn chận, khiển trách, truất bỏ, khiến họ lìa dứt các tội lỗi, nói chung là thực hiện công việc hộ trì nuôi dưỡng như thế khiến chính pháp luôn được thịnh hành. Lúc này, hết thảy chư vị đến dự pháp hội hiện có mặt nơi đại chúng, chư Thiên, Càn-thát-bà, A-tu-la, chúng Nhân phi nhân, đều cùng cất lời tán thán: –Lành thay, lành thay! Đúng là bậc Diệu trượng phu! Chư vị đã vì sự trụ thế lâu dài của Phật pháp mà dốc tâm hộ trì nuôi dưỡng. Bấy giờ, Đức Thế Tôn nhằm làm sáng tỏ thêm những ý nghĩa trên, nên đọc kệ: Phật gọi Tỳ-sa-môn Cùng ngàn chúng Dạ-xoa Các ngươi nên ứng cúng Hộ trì nơi phương Bắc. Chư Tỳ-kheo trụ pháp Chúng Thanh văn tu tỉnh Người nhận lời giao phó Dốc hộ trì nuôi dưỡng. Bậc Đạo Sư quá khứ Dạy ngươi nên sắp đặt Hộ trì chính pháp Phật Ngăn chận chúng sinh ác. Tăng trưởng ba tinh khí Dứt mọi nẻo tranh giành Chúng Thanh văn hòa hợp Cũng sẽ dốc hộ trì. Tỳ-sa-môn vương thưa: chính pháp Phật như thế Giao phó tôi, cúi nhận Dốc hộ trì nuôi dưỡng. Mặt chính pháp thêm tỏ Ba tinh khí luôn tăng Ngăn chận chúng sinh ác Dứt hết nẻo tranh tụng. Thanh văn lìa tích tụ Ít ham muốn biết đủ Lìa hẳn các nghiệp ác Tôi cũng dốc hộ trì. Như nhiều vị thí chủ Cúng dường chư Thanh văn Sẽ đem năm việc tăng Luôn được mọi an lạc. Hương vị thêm mượt mà Hoa quả cùng thảo dược Để muôn loài thọ dụng Tôi thảy khiến sung mãn. Ba thứ vị tinh khí Do luôn được tăng trưởng Chúng tôi dốc hộ trì Phật pháp mãi tỏ rạng. Tôi lại khiến quốc vương Chúng Tỳ-kheo trái pháp Các vị nên ngăn trừ Đại chúng cùng tán thán. KINH ĐẠI PHƯƠNG ĐẲNG ĐẠI TẬP <卷 id="117157922">QUYỂN 53 <詞 id="117157923">Phẩm 15: Nguyệt Tạng <章 id="117157924">Phần 15: Luân chú hộ trì Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói với bốn vị Thiên vương: –Hôm nay, ta trao cho chư vị những câu đại minh chú, với diệu lực vô cùng lớn lao dũng mãnh, là bánh xe không gì có thể hại được. Những câu chú như thế đã từng được hàng trăm ngàn vạn ức chư Phật thời quá khứ diễn nói. Chư vị nếu thọ trì những câu đại minh chú với diệu lực lớn lao ấy, thì hết thảy các thứ ma cùng quyến thuộc của chúng hãy còn chẳng dám lại gần, huống chi là có thể nhiễu hại. Đức Thế Tôn nói xong, liền đọc chú: “Đá điệt dạ tha. A bà dạ đà đề. Tỳ lâu đà tỳ yết la mị. A na tỳ lê. A na la di. A tỳ cần nê. A câu tỳ di. A chú đế. Thâu bà đề thị. Đề xà bà để. Ma ha đề đế. Du bả xá nị. Mê đá la già đế. A bà lâu hế. Mê đạt thế. A tha bất địa. Thư bà mô già. Bà bồ sa bà đế. Sa ma yết la thư kỳ. A nậu đá lê. Đạt ma tỳ ha lê. Đá tha sa ma để. Phật đà địa sắt tha nê. Thi la kỳ thủ địa. A nậu kiệt la mị. A tăng ma ly di. Phục đa cụ trí. A tỳ thị nhiếp đế. Tô bà ha”. Này chư vị nhân giả! Bốn vị đại Thiên vương như thế là đã lãnh hội những câu đại minh chú với diệu lực vô cùng lớn lao, dũng mãnh, là bánh xe không thể hại. Những câu chú như vậy đã từng được hàng trăm ngàn vạn ức chư Phật quá khứ diễn nói. Chư vị nếu thọ trì những câu đại minh chú với diệu lực vô cùng lớn lao ấy, thì hết thảy chúng ma cùng đám quyến thuộc của chúng hãy còn không dám đến gần, huống chi lại có thể nhiễu hại. Lúc này, tất cả chúng ma hiện có cùng với đám quyến thuộc thảy đều kinh sợ, mất hết sức lực, tất cả đều hổ thẹn chắp tay hướng về Đức Phật. Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói với Thiên vương Tỳ-sa-môn: –Hôm nay, ta trao cho ngươi những câu đại minh chú với diệu lực vô cùng lớn lao dũng mãnh, là bánh xe không gì có thể hại được, để hộ trì phương Bắc cõi Diêm-phù-đề. Ngươi dốc tâm thọ trì đại minh chú này, thì đối với đám quyến thuộc của mình cùng đám quyến thuộc của những kẻ khác dưới quyền mình, các chúng Thiên, Long, Dạ-xoa, La-sát, A-tu-la, Càn-thát-bà, Cưu-bàn-trà, Ngạ quỷ, Tỳ-xá-già, Phú-đơn-na, Ca-trá phú-đơn-na, hãy còn không dám đến gần, huống hồ là có thể tới quấy nhiễu, mưu hại. Đối với nơi chốn cùng các nẻo đi lại của hết thảy chúng quỷ thần xấu ác, ngươi sẽ có được sức mạnh lớn lao dũng mãnh, có được sức chuyển động của bánh xe không gì hại được. Đức Thế Tôn nói xong liền đọc câu chú: “Đá điệt dạ tha. Vật đàn nê. Bát la vật đàn nê. Vật đạt na bạt đế. Cừ ly càn đà lị. Chu lî. Chiên trà lî. Át lî ty xà da mạt đề. Khu khu vật đàn nê. Bạt la. Phệ la. Vật đàn nê. Tô bà ha”. Ngươi dùng chú này để góp phần hộ trì phương Bắc cõi Diêm-phù-đề, sẽ được sức mạnh lớn lao, dũng mãnh, có được sự di chuyển như bánh xe không gì hại được. Đối với đám quyến thuộc của mình và của những kẻ quanh mình, những chúng sinh xấu ác hãy còn không dám tới gần huống hồ là có thể nhiễu hại. Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói với Thiên vương Đề-đầu-lại-trá: –Hôm nay, ta trao cho ngươi những câu đại minh chú với diệu lực lớn lao, dũng mãnh để hộ trì phương Đông cõi Diêm-phù-đề này, cho đến sẽ đạt được sự di chuyển như bánh xe không gì có thể hại nổi. Đức Thế Tôn nói xong liền đọc câu chú: “Đá diệt dạ tha. Khưu lâu xà đế. Vật lâu xà đế. Bát la đế sắt mại. Ma ha tát lê. Khi la bạt đế. Mất na bà đế. Già lâu bà đế. Cầu lâu bỉ. Vật lâu bỉ. Cầu lâu vật lâu bỉ. Cầu lâu cầu lâu. Vật lâu càn đề. Vật lâu xà đề. A la ta bà đế. Ma ha na bà đế. Y nê mê nê. Đa đậu bà nam. Đa đậu bà nam. Tô bà ha”. Ngươi dùng chú này để góp phần hộ trì phương Đông cõi Diêm-phù-đề, sẽ đạt được sức mạnh lớn lao, dũng mãnh, có được sự di chuyển như bánh xe không gì hại nổi. Đối với đám quyến thuộc của mình cùng của những người quanh mình, những chúng sinh xấu ác hãy còn không dám tới gần huống hồ là có thể nhiễu hại. Bấy giờ Đức Thế Tôn lại nói với Thiên vương Tỳ-lâu-lặc-xoa: –Hôm nay, ta cũng trao cho ngươi câu đại minh chú có diệu lực lớn lao, dũng mãnh để hộ trì phương Nam cõi Diêm-phù-đề, cho đến sẽ đạt được sự di chuyển như bánh xe không gì có thể hại được. Đức Thế Tôn nói xong liền đọc câu chú: “Đá điệt dạ tha. Kỳ lị kỳ lị. Kỳ lư na bạt để. Hế nê. Ha nị nê. A nê na bạt đế. Quân trù quân trù. Tô bà ha”. Ngươi dùng chú này để góp sức hộ trì phương Nam cõi Diêm-phù-đề, sẽ đạt được sức mạnh lớn lao, dũng mãnh, có được sự di chuyển như bánh xe không gì có thể hại. Đối với đám quyến thuộc của mình và của những người quanh mình, những chúng sinh xấu ác hãy còn không dám tới gần, huống hồ là có thể nhiễu hại. Bấy giờ Đức Thế Tôn lại nói với Thiên vương Tỳ-lâu-bác-xoa: –Ta sẽ trao cho ngươi những câu đại minh chú với diệu lực lớn lao dũng mãnh, là bánh xe không gì hại được để góp phần hộ trì phương Tây cõi Diêm-phù-đề. Ngươi gắng sức thọ trì đại minh chú với diệu lực lớn lao dũng mãnh này, thì đối với quyến thuộc của mình và của những kẻ phụ tá mình, các chúng Long, Dạ-xoa, La-sát, A-tu-la, Càn-thát-bà, Cưu-bàn-trà, Ngạ quỷ, Tỳ-xá-già, Phú-đơn-na, Ca-trá phú-đơn-na hãy còn không dám tới gần sao lại có thể nhiễu hại được. Đức Thế Tôn nói xong liền đọc câu chú: “Đá điệt dạ tha. A tỳ bà lâu nê. Bà lâu noa bạt đế. Vật la kiệt la bạt đế. Bà lâu nê. Bà lâu noa da thế. Ưu thọ bà la. Bát la thọ ta lê. Nị thọ bà lệ. Ma ha thọ bà lê. Thọ bà la. Ma thâu đạt la xá. Ta xà bỉ. Tát bà đá la tỳ lị đế. Ngật lị đa thế thất mại. Tô bà ha”. Ngươi sử dụng chú này để hộ trì phương Tây cõi Diêm-phù-đề, sẽ đạt được sức mạnh lớn lao dũng mãnh, có được sự di chuyển như bánh xe không gì có thể hại nổi. Đối với quyến thuộc của mình cùng quyến thuộc của những kẻ phụ tá mình, các thứ chúng sinh xấu ác hãy còn không dám tới gần, sao lại có thể nhiễu hại được. Bấy giờ, Đức Thế Tôn dùng kệ để nói với bốn vị Đại Thiên vương: Các núi vốn nổi tiếng Bậc hóa tác tự tại Hai cực Kê-la-sa Hương tiên Khư-la-đảm. Phong, hỏa cùng Tuyết sơn Chốn cư trú Nhật nguyệt Thường hộ trì phương Bắc Pháp chân diệu Thế Tôn. Bát-chi, Bát-già-la Ngật-ni, Già-la-độ Chư vị luôn hộ trì Bốn hướng chính pháp Phật. Địa thần, đại địa thần Sắc đen, sắc đen lớn La-hầu Tỳ-ma-chất Tu-chất Ba-la-đà. Bà-tró, Siểm-bà-lị Cùng Mâu-chân-lân-đà Dốc hộ trì phương dưới Pháp chân diệu Thế Tôn.  <章 id="117157925">Phần 16: Nhẫn nhục (1) Bấy giờ, có một vị A-tu-la vương tên là Hỏa Vị, hiện ở trong chúng hội, rời chỗ ngồi đứng dậy, đưa tay chỉ về chỗ A-tu-la vương La-hầu-la, rồi hướng tới bốn trăm ức vị A-tu-la vương khác và nói: –Vị A-tu-la vương La-hầu-la ấy là bậc sư trưởng tôn quý của chúng ta, có thể đem phước huệ tạo những lợi ích cho nhiều chúng sinh, là bậc dũng mãnh tự tại được kính trọng bậc nhất trong chúng A-tu-la. Nhưng La-hầu-la vương cùng với hết thảy chúng ta đều bị Cù-đàm khinh chê, coi thường. Vì nhằm khiến cho Phật pháp luôn được tỏ rạng, Đức Cù-đàm đã phó chúc cho các chúng khác mà không ngó ngàng gì đến chúng ta, khiến chúng ta phải nhận lấy sự sỉ nhục lớn! Lại có một vị A-tu-la vương khác tên là Trấn-tinh-tỳ-ma, nhìn khắp chúng A-tu-la rồi nói: –Chúng ta từ xưa đến nay, nơi mỗi mỗi chốn của mình trong bốn cõi thiên hạ, so với Thích Đề-hoàn Nhân cũng ngang ngửa như nhau. Vậy mà hôm nay khác nào loài Dã can sau khi bị Sư tử đuổi chạy! Chúng ta há có thể rời bỏ địa vị quá thấp kém này mà trở lại nơi cung điện, thành ấp của bản quốc mình? Chúng ta thà chịu chết chứ sao lại có thể nhẫn chịu sự lăng nhục như thế? Đó là một mối hận lớn khiến chúng ta hết sức lo buồn khổ não. Lúc này, A-tu-la vương La-hầu-la nói với chúng A-tu-la: –Chúng sinh thà chịu nhận lấy sự nhục mạ của bậc Tối thắng nhân hơn là được hạng thấp kém khen ngợi. Vì sao? Vì bậc Thiên nhân sư ấy đã từng khiến cho nhiều người từ chỗ bị khinh chê rẻ rúng trở thành những người tốt. Bậc ấy chính là vị tối thắng tự tại trong ba cõi, an trụ nơi bờ giác ngộ, khéo biết rõ hoàn cảnh thích hợp để tùy theo chỗ nên làm mà thực hiện đầy đủ. Bấy giờ, Bồ-tát Ma-ha-tát Nguyệt Tạng, chắp tay hướng về Đức Phật, nhất tâm kính lễ và thưa: –Kính thưa Đức Thế Tôn! Bậc Đạo sư hãy xem xét vị A-tu-la vương La-hầu-la ấy, đã có đủ trí tuệ kiên cố thù thắng như thế, đã an trụ trong sự tin tưởng vững chắc, vui thích với điều thiện và hạnh nhẫn, giữ giới thanh tịnh, tin tưởng sâu xa nơi Tam bảo, chẳng bao lâu chúng thành Bậc Đạo Sư vô thượng. Kính mong Đức Thế Tôn, vì nhằm làm cho chính pháp luôn được tỏ rạng, nên phó chúc cho vị A-tu-la vương La-hầu-la ấy. Lúc này, Đức Thế Tôn dùng kệ để nói với bốn trăm ức A-tu-la vương: Ngươi trước đủ các đức Đều trụ nơi tịnh tín Chư Phật xưa như thế Phó chúc pháp các ngươi. Ta nay đem pháp ấy Cũng đều phó chúc ngươi Sẽ dùng các phương tiện Hộ trì Pháp nhãn ta. Các ngươi tạo phước ấy Biển trí lớn thêm đầy Nơi mỗi cảnh giới mình Giữ gìn chính pháp ta. Trụ pháp luôn vui nhẫn Hộ trì căn luôn định Các ngươi làm được thế Cúng dường ba đời Phật. Thường đến nơi cõi thiện Phước báo mạng, trí đủ Lúc lưu chuyển nơi đời Được lìa các nẻo ác. Nhằm dốc cầu thắng báo Pháp nhãn ta nên tỏ Nơi mỗi quốc độ mình Ngăn chận chúng sinh ác. Đức Thế Tôn nói xong kệ này thì chúng A-tu-la thảy đều đứng dậy, chắp tay cung kính đọc kệ: Chúng tôi A-tu-la Mỗi mỗi nơi cõi mình Dứt trừ hết thảy ác Làm rạng pháp Thế Tôn. Noi theo hành pháp thí Nơi ác tạo hộ trì Tăng trưởng ba tinh khí Lìa ác, trụ nẻo thiện. Lúc này, hết thảy chư vị đến dự pháp hội có mặt trong đại chúng, chư Thiên cùng chúng nhân, Càn-thát-bà, đều cùng cất lời tán thán chúng A-tu-la: –Lành thay, lành thay! Bấy giờ Đức Thế Tôn cũng lại nhằm khen ngợi bốn trăm ức A-tu-la vương cùng đám quyến thuộc của họ, nên nói: –Lành thay, lành thay! Đúng là chư vị diệu trượng phu! Chư vị đã có thể làm được như thế thì đấy chính là cúng dường ba đời chư Phật. Chư vị nên dốc sức hộ trì nuôi dưỡng chính pháp của ta, tức là Pháp nhãn của Phật sẽ luôn được tỏa chiếu sáng ngời, khiến cho dòng giống Tam bảo luôn trụ thế, không hề bị đoạn tuyệt. Vì thế nên hôm nay, ta đem chư vị cùng đám quyến thuộc của chư vị phó chúc cho tất cả chư Phật trong mười phương hiện tại đang trụ thế chưa nhập Niết-bàn, cùng phó chúc cho hết thảy chư Bồ-tát Ma-ha-tát trong Hiền kiếp này. Chư vị thường cùng với các chúng A-tu-la kia sinh sinh hóa hóa và cùng gặp nhau, chư vị sẽ ở trong Hiền kiếp này thành tựu quả vị chính giác và khi xuất hiện ở thế gian, chư vị A-tu-la kia sẽ là những hàng thí chủ quan trọng, dốc lo việc hộ trì chính pháp, tu tập giữ giới, đạt pháp Tam-muội thiền, gồm đủ diệu lực nhẫn nhục. Như thế là vị Như Lai sau rốt trong Hiền kiếp hiệu là Lư-già Ứng chính Biến Tri xuất hiện ở đời. Bấy giờ, Đức Như Lai Lư-già sẽ thọ ký đạo quả Bồ-đề vô thượng cho chư vị A-tu-la kia, từ đấy sẽ mau chóng thực hiện viên mãn sáu pháp Ba-la-mật, không lâu sẽ là Bậc Pháp Vương Vô Thượng, được vào thành trì vô úy Niết-bàn rộng lớn. Cứ như vậy, nếu có những chúng sinh, trong đời hiện tại và đời vị lai, đối với chính pháp của ta xuất gia tu học, hành hóa đạo pháp, ba nghiệp luôn hòa hợp. Lại có những kẻ lìa bỏ hết thảy để xuất gia tu đạo. Hoặc có những chúng sinh dốc sức lo toan công việc hộ trì nuôi dưỡng, cung cấp cho các chúng Thanh văn đệ tử, các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, khiến cho Tam bảo luôn được nối tiếp không hề bị gián đoạn. Hoặc có những chúng sinh dốc tu các pháp Bố thí ba-la-mật cho đến pháp Trí tuệ ba-la-mật. Hoặc như có chúng sinh xây dựng các tháp, miếu, tạo các hình tượng để theo đấy tu tập, xả thí cúng dường, cung cấp vô số các thứ cho chúng Tăng khắp bốn phương, tạo lập chùa chiền cho công việc tu hành. Lại như có những chúng sinh đối với chúng Tăng cùng chùa chiền trong bốn phương, cúng dường vô số các thứ y phục, dụng cụ để nằm, các đồ vật cần dùng, cùng hiến cúng ruộng đất, nhà cửa, vườn cây, tài sản, kẻ giúp việc để sai khiến, cho đến các loài súc vật để chuyên chở. Hoặc có chúng sinh thấy kẻ khác hiến cúng các vật dụng lại bị những kẻ xấu cướp đoạt, nên đã dùng sức lực để ngăn chận giữ lại được. Hoặc như có chúng sinh cung cấp cho các chúng Thanh văn đệ tử của ta đồ ăn uống, áo quần, dụng cụ để nằm ngồi, thuốc men cùng tất cả các vật dụng cần thiết khác. Hoặc trường hợp các hàng Thanh văn đệ tử hiện có của ta, do những nhân duyên gặp phải chuyện khổ não, thì dùng chính sức mình, hoặc nhờ vào phương tiện của kẻ khác giúp cho thoát khỏi thì ta sẽ đem tất cả các hạng chúng sinh kể trên thảy đều phó chúc cho hết thảy chư Phật hiện tại trong mười phương, cùng phó chúc cho chư vị Bồ-tát Ma-ha-tát hiện có trong hiền kiếp này, khiến chư vị ấy thâu nhận họ, để họ trong mọi kiếp sống luôn cùng gặp gỡ. Như vậy, chư Phật trong Hiền kiếp này, mỗi khi xuất hiện ở đời, thì những chúng sinh kia, đối với vị Phật ấy sẽ là hàng thí chủ lớn, dốc lo việc giữ gìn chính pháp, tu tập giữ giới bậc nhất, đạt pháp Tam-muội thiền, gồm đủ diệu lực của hạnh nhẫn nhục. Như thế, Đức Như Lai sau cùng xuất hiện ở đời trong Hiền kiếp này, bấy giờ Đức Phật đó sẽ thọ ký đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác cho các chúng sinh kia, nhờ đấy sẽ mau chóng thực hiện viên mãn sáu pháp Ba-la-mật, không lâu sẽ là Bậc Pháp Vương Vô Thượng, được nhập vào thành trì vô úy Niết-bàn giải thoát bao la. Bấy giờ, lại có vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng sinh xúc động, nước mắt ràn rụa, chiêm ngưỡng Đức Như Lai và cùng thưa: –Kính thưa Đức Thế Tôn! Chúng con hôm nay đã lãnh hội trọn vẹn các đức Đại Bi, giải thoát của Đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn đã ra khỏi tất cả mọi nẻo sinh tử tù ngục trong ba cõi, đã dứt bỏ nẻo tham ái, xa lìa tám pháp thế tục cùng các thứ kiến chấp về ngã, ngã sở, các thứ phiền não kiêu mạn, cũng lìa dứt mọi sự chi phối của mười hai hữu chi, thấu đạt các pháp cũng như hư không, an trụ nơi chốn dứt mọi điên đảo, đối với mọi chúng sinh luôn khởi tâm Đại Bi. Hơn nữa, chư Như Lai, vì chúng sinh nên khiến cho Pháp nhãn cùng với dòng Tam bảo được an trụ lâu bền nơi thế giới Ta-bà này, do vậy mà phải dốc hộ trì. Đức Như Lai hôm nay lại đem các chúng Thiên, Long, Dạ-xoa, La-sát, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Càn-thát-bà, Ma-hầu-la-già, Cưu-bàn-trà, Ngạ quỷ, Tỳ-xá-già, Phú-đơn-na, Ca-trá phú-đơn-na, Nhân phi nhân… giao phó cho chư Phật cùng chư Bồ-tát. Đối với các chúng sinh ở đời hiện tại, vị lai, dốc tu tập các pháp bố thí, trì giới hoặc các pháp thiền định, trí tuệ, nơi Phật pháp ấy luôn tinh tấn, siêng năng, tạo được mọi hòa hợp, thì Đức Như Lai cũng đem phó chúc cho chư Phật cùng chư Bồ-tát Ma-ha-tát, nhằm giúp họ thực hiện đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật và chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng. Như có chúng sinh chán lìa khổ não, dốc cầu an lạc, thì nơi đời hiện tại và vị lai, không thể không dùng các phương tiện tinh tấn dốc hộ trì nuôi dưỡng, làm cho Pháp nhãn luôn được tỏ rạng, nối tiếp dòng Tam bảo có thể đạt được! Đức Phật nói: –Đúng vậy, đúng vậy! Như chư vị đã nêu bày! Nếu có những chúng sinh thật sự yêu quý mình, chán lìa khổ não, dốc cầu an lạc, phải nên hộ trì chính pháp của chư Phật, nhờ đấy mà đạt được vô lượng phước báo. Như có chúng sinh, vì chính pháp của ta mà xuất gia, cạo bỏ râu tóc mặc pháp phục ca-sa, giả như không trì giới, thì những người ấy đã thực hiện xong công việc ấn chứng của ấn Niết-bàn giải thoát. Còn như xuất gia mà không giữ giới, lại đem các thứ phi pháp làm não hại kẻ khác, nhục mạ hủy báng, thậm chí tự tay cầm cả dao gậy để đánh đạp chém giết, hoặc cướp đoạt y bát cùng vô số các thứ vật dụng sinh hoạt, người ấy đúng là đã hủy hoại Báo thân chân thật của ba đời chư Phật, đã gạt bỏ tất cả những thứ mắt sáng nơi chư Thiên và chúng nhân. Người ấy rõ ràng là muốn nhận chìm mọi chính pháp hiện có của chư Phật cùng dòng giống Tam bảo, khiến cho chư Thiên và chúng nhân chẳng những không được hưởng mọi lợi lạc mà còn bị rơi rớt vào các nẻo ác. Lại nhằm làm cho ba nẻo ác thêm tăng trưởng, đầy dẫy. Vì sao? Từ xa xưa, ta vì hết thảy chúng sinh mà dốc tu tập hạnh Bồ-tát, nhằm phát huy Pháp nhãn nên đối với các chúng sinh luôn khởi tâm Đại Bi, xả bỏ thân mạng mình máu chảy khác nào biển lớn, để bố thí cho kẻ cầu xin, ta cũng xả bỏ cả đầu, chất cao như núi Tỳ-phước-la. Các chi thể khác như mắt, tai, mũi, lưỡi, tay, chân, cả đến da thịt cũng đều xả bỏ cho kẻ cầu xin, không chút thương tiếc. Ta cũng từng xả bỏ vô số voi ngựa, xe cộ, trâu bò, nô tỳ, vợ con, cả đến ngôi vị vua cho những kẻ cầu xin. Lại cũng xả bỏ vô số quốc độ, thành ấp, cung điện, thôn xóm, nhà cửa, chùa miếu, vườn cây, y phục, đồ nằm, núi rừng, ao đầm… cho những kẻ cầu xin. Còn đối với những nơi chốn của Phật thì dốc thọ trì giới luật không hề thiếu sót hay vi phạm. Nơi mỗi mỗi chốn Phật đều luôn thực hiện vô số sự cúng dường hoặc nhận lãnh vô lượng trăm ngàn na-do-tha các pháp môn tu tập, lại cũng thọ trì đọc tụng, hộ trì giới hạnh, khéo tu tập các pháp Tam-muội, Đà-la-ni, nhẫn nhục. Hơn nữa, ta cũng từng cung kính cúng dường vô lượng, vô biên chư vị Bồ-tát Ma-ha-tát, vô lượng chư vị Duyên giác, vô lượng chúng Thanh văn, vô lượng hàng đạt đạo quả Thanh văn, vô lượng Tiên nhân ngoại đạo, vô lượng cha mẹ, sư trưởng, cũng từng cúng dường giúp đỡ cho vô lượng kẻ bị bệnh tật khổ não. Đối với những chúng đang bị muôn ngàn các thứ khổ não bức bách không thể tự cứu giải được thì ta dốc làm kẻ cứu giúp, không có nơi chốn quy ngưỡng thì ta làm cho họ có chốn quy ngưỡng, không tìm ra nẻo hướng tới thì ta dốc tìm cho họ nẻo hướng tới, khiến họ được an trụ cùng nhận lấy sự cúng dường giúp đỡ của ta. Ta cũng đã trải qua vô lượng số kiếp dài lâu dốc tu tập khổ hạnh, giữ giới, uy nghi phạm hạnh gồm đủ. Này chư vị nhân giả! Như thế là ta trải qua ba đại a-tăng-kỳ kiếp, vì thể hiện lòng thương xót đối với hết thảy chúng sinh khổ ải mà phát tâm hết sức kiên cố dũng mãnh, tu tập lâu dài và kiên trì các hạnh thuộc đạo quả Bồ-đề vô thượng. Ta nay ở nơi thế gian đầy u tối này, vào thời không có Bậc Đạo Sư lớn dẫn đường chỉ lối, không có chính pháp soi sáng, vào thời mọi thứ xấu ác hết mực lại tăng trưởng mà pháp lành thì giảm mất, chúng sinh thì luôn dấy khởi năm thứ nghiệp ác vô gián, phỉ báng, bài bác chính pháp cùng các bậc Hiền thánh, luôn tạo sự tương hợp với các căn bất thiện, dấy sinh sân hận, ác độc thô bạo, lìa bỏ mọi nẻo xấu hổ, không chút tâm Từ bi, không biết xem xét đời sau với bao việc đáng lo sợ. Trong hoàn cảnh thế giới và các chúng sinh như thế, ta đã phát tâm nguyện dốc thành đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác. Lại ở nơi tất cả quốc độ Phật thanh tịnh, đối với chỗ chúng sinh bị bỏ quên tuôn xuống cơn mưa chính pháp lớn. Lại nguyện cùng dốc dứt trừ những thứ phiền não dù sâu dày bền chắc như kim cương nơi các chúng sinh. Những chúng sinh ấy tùy theo sự ham thích của mình mà đối với ba thừa đạo Bồ-đề giải thoát đều khiến không thoái chuyển. Cũng dốc nguyện cứu độ những chúng sinh nơi ba đường ác, đem họ về với nẻo thiện, dẫn tới cảnh giới Niết-bàn an lạc giải thoát. Cùng với những chúng sinh kia làm mắt sáng của chính pháp dốc tâm hộ trì, khiến an trụ lâu bền nơi thế gian, mãi tỏ rạng trong đêm dài tối tăm của chốn sinh tử. Những chúng sinh, theo pháp của ta xuất gia học đạo, cạo bỏ râu tóc, mặc pháp phục ca-sa, dù không chuyên trì giới cấm, như có chúng sinh cúng dường cho các vị tu hành này thì cũng đạt được phước báo lớn, huống chi là vì ta mà xuất gia tu học, trì giới trụ pháp luôn đạt sự tương ứng hòa hợp, thì công việc cúng dường chăm sóc cho các bậc chân tu ấy sẽ đạt được vô lượng a-tăng-kỳ sự tích chứa phước đức lớn lao. Huống hồ lại có thể cúng dường vô số Thánh chúng Thanh văn đệ tử của ta mà sẽ chẳng đạt được vô lượng, chẳng thể ngôn thuyết a-tăng-kỳ sự tích chứa công đức to lớn sao? Vì vậy mà ta nay, đối với hết thảy mọi loài chúng sinh hiện có, nơi đạo quả Bồ-đề vô thượng đã thành Bậc chính Giác, luôn thể hiện hết mực Đại Bi đối với hết thảy chư Thiên và chúng nhân trong thế gian, nên đã tạo lập nơi tất cả chúng Thanh văn làm phước điền hơn hết, đó chính là được hướng đến tám bậc Đại trượng phu, nhờ từ nhân duyên ấy, mà mọi chúng sinh hiện có nơi đời hiện tại và đời vị lai phải nên tin tưởng sâu xa nơi Phật pháp và chúng Tăng, tất cả nhân được phước báo thắng diệu, không lâu sẽ được nhập vào thành vô úy rộng lớn. Như vậy là thậm chí cúng dường cho một người vì ta mà xuất gia cùng nương vào ta mà cạo bỏ râu tóc, mặc một mảnh ca-sa, không thọ trì giới luật, cúng dường cho người ấy cũng đạt được phước báo kể cả việc được vào thành vô úy. Do duyên cớ đó mà ta nêu rõ như thế này: Nếu lại có những kẻ vì ta mà xuất gia học đạo, cạo bỏ râu tóc mặc lấy pháp phục là mảnh ca-sa, nhưng không tuân thủ giới luật, lại dùng các thứ phi pháp để não hại chốn tu hành của mình, thì đấy đúng là phá hoại báo thân Pháp thân của chư Phật trong ba đời, thậm chí còn làm cho ba nẻo ác trở nên lan tràn đầy dẫy. Vì vậy mà hôm nay ta nói rõ với chư vị: Như có chúng sinh thực sự yêu mến mình, cầu lạc lìa khổ, thì phải nên tinh cần hộ trì nuôi dưỡng, làm cho Pháp nhãn luôn được tỏ rạng, nối tiếp dòng Tam bảo khiến không hề bị đoạn tuyệt, nhờ nhân duyên ấy mà từ đó sẽ luôn được phước báo vô lượng. Bấy giờ, Bồ-tát Ma-ha-tát Nguyệt Tạng lại cùng với tám ngàn ức na-do-tha trăm ngàn vị Bồ-tát Ma-ha-tát khác, đều rời chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay hướng về Đức Phật, nhất tâm kính lễ và cùng thưa: –Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Đúng như thế! Ở nơi trú xứ của con là thế giới Nguyệt thắng, Bậc Đại sư Như Lai Nhật Nguyệt Quang hầu như lúc nào cũng tán dương Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ở thế giới Ta-bà, thời xưa lúc còn là Bồ-tát đã luôn thể hiện sức dũng mãnh lớn lao để tinh tấn tu tập các hạnh cực khổ. Bồ-tát như thế là đã nhờ vào nguyện lực lớn lao với tâm Từ bi ấy, nên hiện nay, nơi cõi đời xấu ác đầy năm thứ vẩn đục, trong hoàn cảnh chúng sinh có vô số kẻ gây tạo nghiệp tội vô gián, phỉ báng chính pháp, bài bác chúng Hiền thánh, luôn tương ứng với nẻo bất thiện, đối với đạo quả Bồ-đề vô thượng đã thành Bậc chính Giác. Đức Phật ấy, đối với các nẻo kiến chấp về đoạn, thường, với những sự sân hận ác độc thô bạo, không chút tâm Từ bi, quy ngưỡng tà kiến cầu mong nơi vô số các tà sư ngoại đạo, không biết xem xét về đời sau với bao sự việc đáng lo sợ, trong hoàn cảnh thế giới và chúng sinh như vậy, đã vì họ mà thuyết giảng chính pháp. Nhưng các thứ chúng sinh xấu ác đã cố tìm các phương tiện để mưu hại Đức Như Lai Thích-ca Mâu-ni. Hoặc dùng độc dược hòa với thức ăn dâng lên. Hoặc dùng dao gậy, các loài thú dữ như voi ác, sư tử, trâu bò, chó hung tợn làm các phương tiện mưu hại. Hoặc dùng mọi thứ lời lẻ xấu ác để vu cáo phỉ báng. Hoặc có kẻ dùng bụi bặm đất cát làm nhơ nhớp nơi hội họp đông đảo. Hoặc có người ở giữa đại chúng buông lời thô bạo mạ lî vu khống. Hoặc có trường hợp, nơi trú xứ của Phật lại đem các thứ vật hôi thối bất tịnh vung vãi đầy dẫy. Hoặc có kẻ vừa trông thấy Phật liền kêu la than khóc. Hoặc có người vừa thấy Phật thì vội nhắm mắt bưng mặt. Hoặc có kẻ thấy Phật thì liền quay lưng chạy dài. Hoặc có trường hợp chẳng muốn thấy mặt nên đã đóng cổng cài cửa. Nói chung là trong hoàn cảnh đầy dẫy những chúng sinh xấu ác như thế mà Đức Như Lai Thích-ca Mâu-ni vẫn luôn thể hiện sự nhẫn nhục, nhận chịu vô số các sự việc khổ cực, không hề dấy tâm giận dữ, ưu phiền, trái lại không kể ngày đêm, luôn đối với các chúng sinh xấu ác kia khởi tâm Từ bi rộng lớn, nơi mọi xứ sở, hoàn cảnh dốc theo đuổi để hóa độ họ. Cũng như trâu mẹ còn trẻ mới sinh được một chú trâu nghé, chưa khôn lớn bao nhiêu mà hốt nhiên bị lạc mất mẹ, bấy giờ trâu mẹ phải chạy nhảy khắp nơi để tìm con mình. Trường hợp Đức Phật Thích-ca Mâu-ni cũng giống như vậy. Đối với mọi loài chúng sinh, tâm Phật luôn bình đẳng, do đức đại Từ bi nên luôn theo đuổi, bôn ba khắp chốn, ở nơi ba đường ác dốc cứu vớt chúng sinh đưa họ trở lại nơi nẻo thiện dẫn tới cảnh giới Niết-bàn an lạc giải thoát, tâm đại Từ bi luôn hòa hợp đầy đủ. Hiện nay, Đức Như Lai Thích-ca Mâu-ni ở nơi thế giới Ta-bà thực hiện vô số các Phật sự. Lúc này, ở nơi thế giới ấy, tất cả đại chúng được nghe các sự việc như vậy thảy đều sinh tâm hy hữu, cho là điều lạ chưa từng có, nên hết sức hoan hỷ, ở nơi trước Đức Phật ấy cùng thưa: –Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Chúng con cũng dốc làm được như thế. Chúng con sẽ luôn siêng năng tinh tấn, phát huy sức dũng mãnh, trải qua vô lượng a-tăng-kỳ kiếp tu tập hạnh Bồ-đề, thực hiện các pháp Bố thí ba-la-mật cho đến pháp Trí tuệ ba-la-mật, lại dùng các phương tiện thiện xảo, nhằm đem lại sự thành tựu trọn vẹn cho mọi chúng sinh nên dốc tu tập các hạnh, cũng giống như Đức Phật Thích-ca Mâu-ni lúc còn làm Bồ-tát, đã luôn tu tập các hạnh Bồ-đề, nguyện ở trong thế giới đầy năm thứ vẩn đục cùng chúng sinh xấu ác, đối với đạo quả Bồ-đề vô thượng thành Bậc chính Giác, cho đến việc dẫn dắt hết thảy mọi chúng sinh đưa họ đến nẻo thiện, dẫn tới cảnh giới Niết-bàn an lạc giải thoát. Chúng con cũng dốc hành hóa như thế. Nguyện ở nơi thế giới đầy năm thứ ô trọc bất tịnh mà thực hiện cõi Phật, đối với đạo quả Bồ-đề vô thượng thành Bậc chính Giác, như thế là đã đem lại sự thành tựu trọn vẹn cho các chúng sinh đã từng tạo năm nghiệp vô gián, kể cả những chúng sinh luôn gây tạo các căn bất thiện, đưa họ tiếp cận với cõi thiện dẫn tới cõi Niết-bàn an lạc giải thoát. Hết thảy những chúng sinh ấy, tức thì ở nơi Đức Phật Nhật Nguyệt Quang, với sở nguyện như trên đều được thọ ký. Bấy giờ, trong chúng hội lại có vô lượng hằng hà sa số chư vị Bồ-tát Ma-ha-tát, đều là các vị ở khắp mười phương thế giới, vì nhằm được chiêm bái Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, vì nhằm để cúng dường cùng được trông thấy một sự tập hợp lớn lao, nên đã đi đến pháp hội này, chư vị Bồ-tát ấy đều cùng một âm thanh thưa: –Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Chúng con cũng đều ở nơi cõi Phật của mình, theo lời Đức Như Lai ở cõi ấy nên đều được nghe những lời tán dương Đức Thế Tôn như vậy, cũng giống như Bồ-tát Nguyệt Tạng vừa nêu bày. Nơi các cõi Phật đó đều có hàng na-do-tha chư vị Bồ-tát Ma-ha-tát, thảy đều phát thệ nguyện lớn lao như thế, vì nhằm đem lại sự thành tựu trọn vẹn cho mọi chúng sinh, mà thực hiện các Phật sự, không khác gì những điều Bồ-tát Ma-ha-tát Nguyệt Tạng vừa nêu. Lúc này, lại có vô số chư vị, cũng đều là kẻ đến dự pháp hội, gồm hết thảy chư Thiên, Long, cho đến tất cả chúng Ca-trá phú-đơn-na, chúng Nhân phi nhân, thảy đều chắp tay hướng về Đức Phật, cung kính thưa: –Chúng tôi xin tạ lỗi Đức Đại Bi Thích-ca Mâu-ni Như Lai Ứng chính Biến Tri, chúng tôi đối với Phật, hoặc thân, miệng, ý đã tạo tác các tội lỗi, hoặc ở nơi pháp tăng, kể cả một vị Thanh văn đệ tử của Đức Thế Tôn, mà tạo tác tội lỗi, nay ở trước Đức Phật xin thành tâm sám hối, nguyện không hề dấy tạo trở lại, cùng kiên trì giới cấm. Chúng tôi vốn hiểu biết ít ỏi, giống như một đứa trẻ không thạo nẻo đi đứng! Kính mong Đức Thế Tôn, với lòng Đại Bi luôn mở rộng lòng thương xót mà nhận lời sám hối của chúng tôi. Chúng tôi xin nhận sự giao phó về việc hộ trì nuôi dưỡng Pháp nhãn của Đức Thế Tôn, dùng mọi phương tiện khiến luôn được tỏ rạng, cũng hộ trì Tam bảo được trụ thế lâu bền, bất diệt, lại cũng nhằm làm tăng trưởng ba thứ khí chất tinh thuần, ngăn chận mọi thứ xấu ác. Đối với tất cả chúng Thanh văn đệ tử của Phật, thậm chí như lại có vị không thọ trì giới cấm, mặc dù đã cạo bỏ râu tóc mặc pháp phục là mảnh ca-sa, chúng tôi đều xem là bậc sư trưởng, dốc hộ trì nuôi dưỡng, mọi thứ cần dùng không hề bị thiếu hụt. Như lại có các vị Sát-lợi quốc vương gây tạo các thứ phi pháp nhằm não loạn chúng Thanh văn đệ tử Đức Thế Tôn, hoặc dùng lời hủy báng nhục mạ, dùng dao gậy để đánh đập chém giết cùng cướp đoạt y bát và vô số các thứ vật dụng, hoặc thông qua kẻ khác, trao cho họ các phương tiện để gây ra mọi khó khăn trở ngại, thì chúng tôi sẽ khiến cho nơi cõi ấy tự nhiên bộc phát các nhóm oán địch từ phương khác đến xâm chiếm gây hấn, cùng chính nơi quốc độ đó cũng dấy cảnh binh đao, bệnh dịch, đói khát, những trận mưa gió trái thời tiết, những cảnh tranh giành xâu xé, kiện tụng, phỉ báng chê trách. Lại khiến cho vị quốc vương đó chẳng bao lâu sẽ bị mất ngôi vị cùng đất nước của mình. Như vậy, nếu lại có các hàng Bà-la-môn, Tỳ-xá, Thủ-đà, nam phu, phụ nữ, đồng nam, đồng nữ, hoặc như các chúng Thiên, Long, cho tới chúng Ca-trá phú-đơn-na, đối với mọi chúng Thanh văn đệ tử của Phật hiện có, gây tạo những sự não loạn, như cướp đoạt phần khí chất tinh thuần dùng tà khí ám hại thân thể họ, cho đến mang tâm xấu ác trong khi tiếp xúc cư xử, thì chúng tôi thảy cùng khiến cho hết thảy những hạng xấu ác kia, kể cả các chúng Thiên, Long, Ca-trá phú-đơn-na, mọi căn thân của họ đều bị thiếu giảm, xấu xí, không thể nương tựa vào nơi chốn. Chúng tôi xin sử dụng mọi thế mạnh của sở nguyện mình để thực hiện điều ấy. Những xứ sở chúng tôi du hành đến, dừng chân hoặc trú ngụ, chúng tôi đều khiến cho các hạng chúng sinh xấu ác kể trên không được cùng ở, cùng ăn uống, kể cả cùng vui đùa với chúng tôi. Sự trừng phạt là như thế đấy. Nếu như còn có những sự não loạn khác, thậm chí do các vị đã cạo bỏ râu tóc mặc pháp phục ca-sa nhưng không trì giới gây tạo nên thì cũng bị trừng phạt như vậy. Còn đối với chúng Thanh văn, đệ tử của Đức Thế Tôn tu tập, không ham nẻo tích tụ, luôn thể hiện tâm Từ bi, ba nghiệp luôn hòa hợp với chính pháp, thì trong mọi hoàn cảnh nào, chúng tôi cũng dốc hộ trì khiến cho Pháp nhãn của Đức Thế Tôn luôn tỏ rạng, bất diệt. Bấy giờ Đức Thế Tôn khen ngợi: –Lành thay, lành thay! Những bậc Diệu trượng phu! Chư vị nếu như đúng theo những sự việc mình đã làm không hề có lỗi lầm sai sót như thế, thì chính là chư vị đã thọ nhận và thực hiện tốt lời phó chúc của ta về trách nhiệm hộ trì nuôi dưỡng làm cho chính pháp luôn được tỏ rạng, tức là đã cúng dường chư Phật trong ba đời. Như chư vị luôn dốc sức hộ trì nuôi dưỡng, làm cho chính pháp của ta thêm tỏ rạng, nối tiếp sự phát huy Tam bảo không hề bị đoạn tuyệt. Đối với những chúng sinh vì pháp của ta mà xuất gia tu học, kể cả những người sẽ xuất gia tu học ở đời vị lai, thì chư vị cũng nên dốc tâm hộ trì, nuôi dưỡng họ. Như thế là chư vị đã tạo nhân tốt đối với đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác. Lúc này, A-tu-la vương La-hầu-la cùng với vô lượng trăm ngàn chúng A-tu-la đều rời chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay hướng về Đức Phật, nhất tâm kính lễ và cùng thưa: –Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Chúng tôi cũng xin dốc sức góp phần hộ trì nuôi dưỡng làm cho chính pháp Phật luôn được tỏ rạng, nhằm khiến cho dòng Tam bảo luôn phát triển không ngừng, nhằm để hàng phục các thứ tà pháp khác, nhằm để ngăn chận dứt trừ hết thảy mọi thứ xấu ác, nhằm khiến cho ba thứ khí chất tinh thuần mãi mãi tăng trưởng, cũng lại nhằm hộ trì, thâu nhận, nuôi dưỡng đối với chúng Thanh văn đệ tử của Đức Thế Tôn hiện có cùng với chính pháp. Lại còn nhằm đem mọi lợi ích cho muôn loài, ngăn chận tội lỗi, diệt bỏ những kẻ ác, hàng phục các đám oán địch, cùng dứt trừ bao thứ ma quỷ yêu quái, xua tan bao cảnh chém giết tranh giành, tạo dựng được cuộc sống no đủ tốt đẹp, khiến bao kẻ xấu ác trở thành bạn lành. Cũng lại nhằm thu tóm hết thảy mọi nẻo tán loạn, giúp cho mọi sở cầu chính đáng đều được thành tựu, nên xin thuyết Đại Đà-la-ni tên là Điện quang cám súc. Nói xong thì liền đọc chú: “Đa địa dạ tha. La bà hệ. La bà hệ. La bà hệ. Mạn thù la hệ. Xà bà lặc na la hệ. A bà mật ly giã la hệ. Già na để la la hệ. Già ba xoa thâu đạt la la hệ. Thủ thâu đạt la. Thủ thâu đạt la. Thủ thâu đạt la la hệ. Mâu ni bà già. Na la hệ. Để ly la thả na vũ xá la hệ. Thất cần na để lụ. Minh xà mâu ni la hệ. Chất la ca la. Để lị mâu ni la hệ. Chiêu đạt la. Mậu na đầu bà la hệ la. Tô bà ha”. Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Đại Đà-la-ni Điện quang cám súc này thảy đều có thể đem lại nhiều lợi ích cho tất cả chúng sinh, kể cả việc khiến cho mọi sở cầu chính đáng của họ đều được thành tựu. Như có các vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, các hàng thanh tín thiện nam, thiện nữ, có thể cùng với các pháp thiền định tạo được sự tương hợp, an trụ, hoặc đang làm nhiều công việc, hoặc đi đến chốn A-lan-nhã, hoặc ở nơi bên gốc cây, giữa đường lớn nói chung là các vị ấy có thể thọ trì đọc tụng, niệm đại Đà-la-ni Điện quang cám súc đó, thì đối với hết thảy các chúng A-tu-la bất kể là hạng nào, lớp nào, nếu muốn tìm đến để dò la gây tạo những não hại thì đều không thể thực hiện được ý đồ xấu xa, hơn nữa còn không thể trở lại nơi thành ấp xứ sở cũ của mình, còn khiến cho đầu bị vỡ làm bảy phần như cành cây A-lê. Lúc này, hết thảy chư vị đến dự pháp hội hiện có mặt nơi đại chúng đều cùng cất lời khen ngợi: –Lành thay, lành thay! Bấy giờ, A-tu-la vương Tỳ-ma-chất-đa-la lại cùng với hàng trăm ngàn chúng A-tu-la thảy rời chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay hướng về Đức Phật, nhất tâm kính lễ và thưa: –Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Chúng tôi cũng xin góp sức hộ trì nuôi dưỡng chính pháp nhãn do Đức Thế Tôn thuyết giảng, cho đến việc làm tăng trưởng ba thứ khí chất tinh thuần, lại nhằm hộ trì nuôi dưỡng thâu nhận các chúng Thanh văn đệ tử của Đức Thế Tôn hiện có, lại cũng nhằm hàng phục hết thảy các đám oán địch khiến cho bao kẻ xấu ác đều xin lòng quy ngưỡng chính pháp, dứt trừ tất cả mọi thứ tật bệnh, thu phục những hạng ương ngạnh, giáo hóa chúng nhân ác xấu trở thành bạn lành cùng quyến thuộc tốt, khiến cho mọi hạt giống gieo trồng đều sinh sôi nảy nở tươi tốt, đem lại hoa quả lúa thóc luôn dồi dào, do đó xin đọc đại Đà-la-ni tên là Sư tử du bộ. Nói xong thì liền đọc chú: “Đa địa dạ tha. Tẩu lị dạ. Bạt la khế. Bạt la khế. Bạt la khế. A mâu ni. A mâu khư mâu ni xà da tỳ xá dị. A ba la đề. Da xà di nê. Bà ha tát la xoa. Khư lê a na khư lê. Tỳ da mî thất la khư lị. Mâu na ca la sa khư lê. A mật đa. Thọ sa khư. Lê hà bà mị sa tư na lâu hệ. Thường già la xa mị. Phả la la sa vật đạt. Lê thiết xà lâu. Xa ma na. Hiên bác khế tăng. Già xa mị ưu ba phiếu đa ha lị. Tô bà ha”. Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Đại Đà-la-ni Sư tử du bộ này có thể thu phục các thứ oán địch, cho đến có thể đem lại sự thành tựu đầy đủ về lúa thóc hoa màu. Như có các vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, các hàng thanh tín thiện nam, thiện nữ dốc tu tập, luôn tạo được hòa hợp với các pháp thiền, thọ trì đọc tụng lưu hành pháp đại Đà-la-ni Sư tử du bộ như vậy, kể cả những khi ở nơi đất trống trải, thì đối với hết thảy các chúng A-tu-la bất kể là hạng nào, nếu có ý đồ xấu ác muốn đến dò xét để tìm cách não hại thì đều không thể thực hiện được, hơn nữa, lại còn không thể trở về nơi chốn của mình, mà đầu thì bị vỡ ra làm bảy phần như cành cây A-lê. Lúc này, hết thảy chư vị đến dự pháp hội có mặt trong đại chúng đều cùng cất lời tán dương: –Lành thay, lành thay! Bấy giờ, A-tu-la vương Mâu-chân-lân-đà cùng với vô số trăm ngàn chúng A-tu-la đều rời chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay hướng về Đức Phật, nhất tâm kính lễ và thưa: –Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Chúng tôi cũng xin góp sức vào công việc hộ trì nuôi dưỡng chính pháp nhãn do Đức Thế Tôn giảng dạy, cho đến việc làm tăng trưởng ba thứ khí chất tinh thuần, lại nhằm hộ trì thu nhận nuôi dưỡng các chúng Thanh văn đệ tử của Đức Thế Tôn hiện có, vì vậy xin đọc đại Đà-la-ni tên là Phục chư long. Nói xong thì liền đọc chú: “Đa địa dạ tha. Tỳ lê xa xoa. Tỳ lị sa xoa. Tỳ lị sa xoa. Tăng ha tỳ lị thỉ chí ca tỳ lị sa khư na. Mô la hạt đa. Ha ha trụ ha trụ ha trụ già già trụ cừ kiệt lê. Cừ kiệt lê. Tam mâu đạt la cừ kiệt lê. Tát bà. Thát la. Cừ kiệt lê. Tất na bà cừ kiệt lê. Tát bà phù xà già. Cừ kiệt lê. Ha ha cừ kiệt lê. Tất đa bà súc đa. Cừ kiệt lê. Ta khẩn giá na. Cừ kiệt lê. A bà đa a nị dạ. Bà chước súc tỳ dạ. A nị dạ. Quân tha súc bà. Già la đấu mâu la. A khư xà. Ha nị dạ đấu. Bà la đấu. Tỳ di xa. A nị dạ đấu. A sam phù. Ha nị dạ. Tô bà ha”. Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Pháp đại Đà-la-ni Phục chư long này, tất có thể dứt trừ hết thảy mọi thứ bệnh tật, cũng có thể xua đuổi tóm bắt gọn tất cả loài quỷ xấu ác, khiến chúng không thể bức hại được, lại cũng nhằm ngăn trừ các trường hợp gió mưa trái thời, dữ dội gây bao tác hại, các thứ khí hơi tà độc. Hàng phục các hạng người độc ác thường hay giết hại hoặc cư xử thô bạo. Lại cũng có thể hàng phục các chúng rồng xấu ác, đoạn trừ mọi tham dục của chúng, thường dùng thân hình mình để gây tạo bao sự nóng bức, cực khổ bức bách đối với mọi người, từ thân tâm họ đến nơi chốn trú ngụ cùng các thứ vật dụng cần thiết cho cuộc sống của họ. Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Như có các vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni cho đến các hàng thanh tín, thiện nam, thiện nữ, đều tu tập tạo được sự hòa hợp với các pháp thiền, thậm chí ở nơi chốn đất trống rộng, nếu dốc thọ trì đọc tụng lưu hành pháp đại Đà-la-ni Phục chư long như thế, thì đối với hết thảy chúng Long, bất kể là hạng loài nào, với ý đồ xấu ác tìm đến dò xét để hãm hại, tất không thể thực hiện được gì, mà còn khiến trở lại bị bệnh nóng khổ bức bách nơi chính bản thân mình, đầu thì bị vỡ làm bảy phần như cành cây A-lê. Lúc này, tất cả chúng Long hiện có trong bốn cõi thiên hạ đã đến dự pháp hội này, thảy đều giận dữ, hăm dọa là sẽ vây bủa các nẻo trở về chốn thành ấp của các chúng A-tu-la, khiến cho các chúng A-tu-la hoảng sợ, lo lắng chẳng yên. Bấy giờ, lại có Long vương Sa-già-la từ chỗ ngồi đứng dậy, hướng về chúng Long đông đảo, chắp tay làm lễ và đọc kệ: Như đã thấy đại Thánh Vị ấy hẳn dứt sân Lìa sân tức là Thánh Nên phải dừng sân não. Nhẫn nhục bậc nhất đời Nhẫn đạt lạc thế gian Nhẫn nhục lìa mọi oán Nhẫn hướng thành an ổn. Vô lượng A-tu-la Thường cùng chúng ta oán Chỉ nên tự dung nhẫn Phật thường giảng như vậy. Do sân hướng cõi ác Sân lại tăng trưởng sân Do sân bỏ bè bạn Sân nên chẳng giải thoát. Chúng ta nẻo súc sinh Do giới ác sân hận Như dốc trừ sân, mạn Tất được sinh cõi người. Đã được thân người rồi Quy y Phật xuất gia Tu tập nẻo giải thoát Sẽ là Đại Đạo Sư. Long vương Sa-già-la đọc xong kệ ấy thì tất cả chúng Long đều đạt được sự nhẫn nhục, sắc mặt đều tươi vui và trở lại ngồi yên nơi chỗ cũ của mình. Bấy giờ, A-tu-la vương Bạt-trì-tỳ-lư-già-na lại cùng với vô số trăm ngàn chúng A-tu-la đều cùng rời chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay hướng về Đức Phật nhất tâm kính lễ và thưa: –Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Chúng tôi cũng xin góp sức vào công việc hộ trì nuôi dưỡng chính pháp của Đức Thế Tôn nhằm khiến cho dòng giống Tam bảo không hề bị đoạn tuyệt, cũng nhằm hàng phục hết thảy mọi sự việc xấu ác của kẻ khác, dứt trừ bao kẻ độc ác xấu xa, khiến cho ba thứ khí chất tinh thuần luôn được tăng trưởng. Lại cũng nhằm giúp đỡ thâu nhận, nuôi dưỡng tất cả các chúng Thanh văn đệ tử của Đức Thế Tôn, do vậy nên xin nói pháp đại Đà-la-ni tên là Hưu tức chúng bệnh. Nói xong liền đọc chú: “Đa địa dạ tha. Mô lăng già ma. Ma bằng già ma. A tỳ bằng già ma. Xà la bằng già ma. Tất đa bà tỳ hằng già ma. Bạt thi dạ tỳ hằng già ma. Trừ ni tỳ hằng già ma. A xá ni tỳ hằng già ma. Bà ha tỳ hằng già ma. Si la tỳ la bà lê san để tỳ hằng già ma. Ta già la xà khưu trửu xà la khưu trửu tỳ bỉ xá khưu trửu tát bà lư già. Nhân địa lị da khưu trửu. Tất mật lị để. Tỳ bằng lăng xá khưu trửu”. Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Pháp đại Đà-la-ni Hưu tức chúng bệnh ấy có khả năng dứt trừ hết thảy mọi thứ bệnh khổ hiện có, dứt sạch mọi hiện tượng mưa bão dữ dội, mọi thứ độc hại, cũng có thể hàng phục hết thảy chúng Long xấu ác, khiến cùng với các chúng Thanh văn đệ tử của Đức Thế Tôn luôn hiến cúng, cung cấp đầy đủ các thứ vật dụng cần dùng một cánh hết sức tận tụy, cung kính. Lúc này, hết thảy chúng Long và các đại Long vương hiện có mặt nơi pháp hội thảy đều giận dữ, nên ở trong không trung tức thì dấy lên những đám mây lớn phủ khắp bên trên chúng A-tu-la, lại muốn gióng to tiếng trống, tuôn xuống những tảng đá lớn, mưa xuống các thứ dây sắt, đủ loại binh khí, đủ thứ hình thù kỳ dị để nhằm hại chúng A-tu-la những chẳng thể được. KINH ĐẠI PHƯƠNG ĐẲNG ĐẠI TẬP <卷 id="117157926">QUYỂN 54 <詞 id="117157927">Phẩm 15: Nguyệt Tạng <章 id="117157928">Phần 16: Nhẫn nhục (2) Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói với các chúng Long và chúng A-tu-la: –Các ngươi chớ nên gây hấn dẫn tới chiến tranh, phải nên tu tập hạnh nhẫn nhục. Này chư vị nhân giả! Như có thể tu tập lìa dứt mọi sân hận, thành tựu được pháp nhẫn nhục thì sẽ mau chóng đạt được mười nơi chốn ngôi vị. Những gì là mười? 1.Được làm bậc chuyển Luân vương tự tại thống lãnh bốn cõi thiên hạ. 2.Được ngôi vị Thiên vương Tỳ-lâu-bác-xoa. 3.Được ngôi vị Thiên vương Tỳ-lâu-lặc-xoa. 4.Được làm bậc Thiên vương Đề-đầu-lại-trá 5.Được ngôi vị Thiên vương Tỳ-sa-môn. 6.Được ngôi vị Thích Thiên vương. 7.Được ngôi vị Thiên vương Tu-dạ-ma. 8.Được ngôi vị Thiên vương Đâu-suất-đà. 9.Đạt được ngôi vị Thiên vương Hóa lạc 10.Đạt được ngôi vị Thiên vương Tha hóa tự tại. Này chư vị nhân giả! Như thành tựu đầy đủ hạnh nhẫn thì người ấy chóng đạt được mười nơi chốn ngôi vị như thế luôn tiếp cận với quả nhẫn nhục. Lại nữa, này chư vị nhân giả! Như đã an trụ thân sâu nơi hạnh nhẫn, chuyển dần tăng thêm một cách đầy đủ phong phú nên biết người ấy lại đạt được năm nơi chốn ngôi vị. Những gì là năm? 1.Được ở vào hàng Phạm chúng. 2.Được ngôi vị Đại phạm Thiên vương. 3.Đạt đạo quả Thanh văn. 4.Đạt đạo quả Duyên giác. 5.Đạt quả vị Như Lai Ứng chính Biến Tri. Này chư vị nhân giả! Như có thể đạt được pháp nhẫn một cách sâu xa, chuyển dần tăng thêm, luôn thể hiện đầy đủ phong phú, người ấy mau chóng đạt được năm ngôi vị như vậy. Lại như người dốc tu tập đầy đủ hạnh nhẫn, thì tự nhiên luôn được tiếp cận với năm thứ dục lạc thắng diệu nơi tất cả thế gian, mọi thứ tài sản vật dụng cần cho cuộc sống thảy đều dồi dào. Nếu người ấy dốc chuyên vào sự tu tập, phát huy công đức của hạnh nhẫn nhục, sẽ đạt được sự an lạc của bậc Thánh giác ngộ. Nếu có những hạng phàm phu thấp kém tính thường nóng giận, tự cao, thô bạo, ở những nơi chốn đông người luôn bộc lộ sự giận dữ, nên biết kẻ ấy khi mạng chung thân hoại ắt bị đọa nơi địa ngục. Thảng hoặc được ra khỏi cõi địa ngục, sinh vào trong loài súc sinh hèn kém thì sẽ phải mang thân Rồng, thân A-tu-la, đều là thân hạ tiện. Nếu được sinh làm thân người thì cũng là hạng thấp hèn hết mực, các căn đều xấu xí, thiếu kém, hoặc dài ngắn lớn nhỏ không cân đối, hoặc mất hẳn, hoặc thừa ra. Hình dung xấu xí thô bỉ, chân què lưng còng, thân thể luôn hôi hám, dơ dáy. Hoặc sinh vào hạng Chiên-đà-la, hoặc làm thân gái nhà thổ dùng nhan sắc để quyến rủ, lung lạc tà vạy. Nói chung là đều sinh vào các gia đình hạ tiện đại loại như thế. Hoặc sinh nơi chốn biên địa thì cũng thuộc các gia đình thấp kém, luôn đói ăn thiếu mặc, cuộc sống thì không có được một chút ruộng phước, lại ưa thích tạo tác vô số các thứ, các nẻo bất thiện. Do nhân duyên ấy nên những kẻ đó cứ lần lượt quanh quẩn trong ba cõi ác địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Này chư vị nhân giả! Ta nay nêu giảng sơ lược về quả báo của những kẻ không biết tu hạnh nhẫn nhục mà luôn sân hận, giận dữ. Này chư vị nhân giả! Do sự sân hận ấy nên ở trong cõi sinh tử luôn tăng trưởng các pháp xấu ác, bất thiện, rồi do từ nhân duyên đó mà những kẻ kia trở lại bị đọa vào các nẻo địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Này chư vị nhân giả! Vì thế mà hôm nay ta nói rõ với các ngươi, hết thảy chúng Long và chúng A-tu-la như vầy: Các ngươi, trong đêm dài sinh tử thảy đều liên tục đối đầu chống trả nhau để tồn tại. Hôm nay, hết thảy các ngươi đều ở trước ta cùng với chư vị đến dự pháp hội hiện có mặt trong đại chúng, các ngươi nơi mỗi mỗi người, mỗi mỗi chúng phải nên dấy tâm nhẫn nhục một cách triệt để, liên tục, có như thế thì sẽ dứt trừ được tâm sân hận thù hằn chất chứa, chồng chất lâu đời. Nếu chẳng thể tạo được nhẫn nhục tất khiến cho các ngươi cả hai bên, luôn chịu lấy những quả báo xấu ác, không hề có chút an vui. Vì vậy mà các ngươi hãy cùng nhau dung thứ. Như đã có thể dứt bỏ sân hận với mọi nẻo liên hệ như tranh giành xấu ác, trách cứ, kiện tụng, ganh ghét, tự giữ gìn an trụ thì hết thảy các ngươi nhất định sẽ đạt được mọi sự việc thắng diệu, không hề có những lỗi lầm xấu ác. Lúc này, hết thảy chư vị đến dự pháp hội có mặt trong đại chúng thảy đều cất lời tán thán: –Lành thay, lành thay! Các vị nên dốc nhận lãnh lời chỉ dạy của Đức Phật, như thế thì nơi mỗi mỗi vị phải luôn thường xuyên thể hiện sự nhẫn nhục, vậy là trong bốn cõi thiên hạ này, các vị luôn đạt được phước báo thù thắng, dứt hết mọi nẻo xấu ác. Bấy giờ, Bồ-tát Ma-ha-tát Nguyệt Tạng nói với các vị Long vương Sa-già-la, A-tu-la vương La-hầu-la, Long vương A-na-bà-đạp-đa, A-tu-la vương Tỳ-ma-chất-đa-la, Long vương Bà-lô-na, A-tu-la vương Mâu-chân-lân-đà, Long vương Thiện Trụ và A-tu-la vương Bạt-trì-tỳ-lưu-già-na, Bồ-tát dùng kệ để nêu bày: Chư vị được thọ ký Chỉ mỗi thừa tối thắng Cớ sao nơi Đạo sư Mà không biết hổ thẹn? Chèo bè lớn mà chìm Lắm kẻ bị cuốn trôi Bỏ nẻo tối thắng ấy Tất lạc chốn thấp hèn. Phàm A-tu-la rồi Do sân, chịu thấp kém Chư vị diệu trượng phu Thảy nên bỏ sân hận. Từ, nên hướng đường thiện Nhận đủ mọi an vui Từ, lìa được mọi nạn Cùng tạo bạn lành tốt. Từ, nên đạt trí lớn Cùng nương sư cao minh Từ, năng lìa mọi ác Cũng khiến người vui sống. Từ, đạt đủ giàu sang Luôn bố thí hết thảy Từ, nên vui giới, định Lại đạt huệ tối thắng. Từ, nên được thiện xảo Khéo học hỏi muôn việc Từ, nơi chốn tối thắng Ngồi yên độ chúng sinh. Từ, được thân thù diệu Cùng dung mạo đoan nghiêm Từ, nên âm thanh diệu Mọi người thảy khích nghe. Từ, được quyến thuộc tốt Phạm hạnh dứt ganh ghét Pháp lạc, đủ hổ thẹn Kẻ trí luôn tùy hỷ. Từ, nên được ngôi vị An tọa chốn thắng diệu Dứt ngăn chúng sinh ác Dẫn đến nẻo Bồ-đề. Từ, nên đạt mười địa Cùng Đà-la-ni nhẫn Từ, nên bi thành tựu Lìa bỏ mọi tham đắm. Từ, nên đạt thần túc Luôn gặp đại Đạo sư Từ, nên đạt cõi tịnh Thanh tịnh lìa phiền não. Từ, nên hàng phục ma Đến bờ Bồ-đề lớn Từ, nơi cõi trời, người Nên chuyển xe chính pháp. Từ, giáo hóa muôn loài Dẫn đến nẻo ba thừa Từ, nên khéo thuyết giảng Hàng phục mọi ngoại đạo. Từ, dùng tám Thánh đạo Độ thoát chúng người, trời Dẫn tới cõi giải thoát Chư vị đều đến được. Ta nay trao chư vị Đà-la-ni Tâm từ Ta nơi ức cõi Phật Chuyên tâm để lãnh hội. Chư vị đưa quyến thuộc Đến nơi chốn từ, nhẫn Thảy cùng dấy tâm Từ Cuộc sống được an lạc. Bồ-tát Ma-ha-tát Nguyệt Tạng nói xong kệ ấy liền đọc chú: “Đa địa dạ tha. Mê đế lê. Ma ha mê đế. Lê mê đá la nậu bạt đế. Mê đá la thi. Mê đá la khế. Mê đá la hầu hệ. Mê đá la hệ. Mê đá lê. Mê đá lê. Mê lâu xa bi ngật lị đế. Sa ha la thi. Bế la phong già tỉ. Tẩu la da ha nê. Bà la phù thường kỳ. Sơ la xoa bỉ. Na na na lâu hệ. Câu lô tha xa xiết. A nô già la nê. La xà át ký. Cát lệ xa tẩu la. Tam ma la nê. Phù xà già. Bỉ lê hệ. Nô nị đa bỉ lê hệ. A la ni xí. Sát đá la đậu lâu mị. A cầu lệ kỳ. Lị đá la thi. A la tất na bỉ. A câu ti dị ương cưu thi mạc xoa tỳ bát la dị. Câu lô tha xoa dị. Tô bà ha”. Này chư vị nhân giả! Pháp Đà-la-ni Đại từ tâm này, ta từ thời xa xưa, từng ở nơi hàng ức chốn Phật theo tu học và lãnh hội được. Chư vị phải nên đối với quyến thuộc của chính mình cùng quyến thuộc của những kẻ khác, dứt tâm giận dữ xấu ác để chỉ dạy, trao truyền. Lúc Bồ-tát Ma-ha-tát Nguyệt Tạng nói xong pháp Đà-la-ni Đại từ tâm ấy thì Đức Như Lai khen ngợi: –Lành thay, lành thay! Hết thảy chư vị đến dự pháp hội hiện có mặt nơi đại chúng, chư Thiên, Càn-thát-bà, A-tu-la, chúng Nhân phi nhân đều cùng tán thán: –Lành thay, lành thay! Bấy giờ, hết thảy chư Thiên đều trụ nơi tâm Từ, tâm nhẫn, tâm dứt oán hại, tâm không tranh tụng lần lượt tạ lỗi. Chư Thiên hướng về chúng Long, chúng Long hướng về chư Thiên, thảy đều trụ nơi tâm Từ tâm nhẫn, tâm không oán hại, tâm dứt tranh giành, tụng kiện, lần lượt thay nhau tạ lỗi. Chư Thiên lại hướng về chúng A-tu-la, chúng A-tu-la hướng về chư Thiên, thảy đều tạ lỗi. Chư Long thì hướng về chúng A-tu-la, chúng A-tu-la hướng về chúng Long đều cùng tạ lỗi. Chư Thiên lại hướng đến chúng Dạ-xoa, chúng Dạ-xoa cũng hướng đến chư Thiên, đều cùng tạ lỗi như đã nêu trên. Cứ như thế mà tiếp diễn. Chư Thiên hướng về chúng La-sát, chúng Càn-thát-bà, chúng Khẩn-na-la, chúng Già-lâu-la, chúng Ma-hầu-la-già, Phú-đơn-na, chúng Ca-trá phú-đơn-na, thảy đều trụ nơi tâm Từ, tâm nhẫn, tâm dứt oán địch, tâm không còn tranh giành, xấu ác, kiện tụng, kể cả chúng Ca-trá phú-đơn-na cũng hướng về chư Thiên, trụ nơi tâm Từ, thảy đều cùng nhau tạ lỗi, như đã nêu trên. Chúng Long cũng hướng về chúng Dạ-xoa, cho đến chúng Ca-trá phú-đơn-na, cùng trụ nơi tâm Từ để cùng tạ lỗi. Chúng Dạ-xoa, kể cả chúng Ca-trá phú-đơn-na, cũng đều hướng đến chúng Long, thảy cùng nhau tạ lỗi như đã nêu trên. Thậm chí ngay chúng Ca-trá phú-đơn-na, các thành viên trong chúng ấy đều hướng về nhau để cùng tạ lỗi, cùng trụ nơi tâm Từ. Tất cả các sự việc diễn ra như trên đều do từ diệu lực của pháp Đà-la-ni Đại từ tâm. Chính nhờ nhân duyên ấy mà hết thảy chư Thiên, Long, Dạ-xoa, La-sát, A-tu-la, Già-lâu-la, Khẩn-na-la, Càn-thát-bà, Ma-hầu-la-già, Cưu-bàn-trà, Ngạ quỷ, Tỳ-xá-già, Phú-đơn-na, Ca-trá phú-đơn-na, thảy đều lần lượt trụ nơi tâm Từ, tâm nhẫn, tâm dứt oán hại, tâm không tranh tụng, tâm dứt xấu ác giành giật, tâm lìa sân hận, tâm lìa ganh ghét. Cũng do từ nhân duyên là diệu lực của pháp Đà-la-ni Đại từ tâm ấy mà hết thảy loài người đều lần lượt liên tục an trụ nơi tâm Từ, tâm nhẫn, tâm luôn thương xót, tâm dứt oán hại, tâm không tranh tụng, tâm dứt tranh giành xâu xé. Tất cả các loài súc sinh hoặc cầm thú, cho đến loài côn trùng hết sức nhỏ nhoi, cũng đều cùng nhau trước sau trụ nơi tâm Từ tâm nhẫn, tâm không oán địch, tâm luôn thương xót, tâm không tranh giành, tâm không phản chống nhau. Lúc này, chư Thiên cho đến tất cả chúng Ca-trá phú-đơn-na, chúng nhân phi nhân trong toàn thể đại chúng nơi pháp hội, thảy đều chắp tay hướng về Đức Phật, cung kính lễ bái, rồi cùng thưa: –Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Chúng tôi đều đã nương theo uy thần của Phật lần lượt tạ lỗi với nhau, lần lượt trụ nơi tâm Từ, tâm nhẫn, tâm luôn thương xót, tâm không oán hại, tâm dứt tranh tụng. Tất cả chúng tôi hôm nay cũng lại xin tạ lỗi với Đức Như Lai Ứng chính Biến Tri. Chúng tôi từ xưa đến nay, đối với các chốn hành hóa của Đức Thế Tôn, hoặc nơi ba nghiệp thân, miệng, ý từng tạo nên tội lỗi, cùng đối với chính pháp và chúng Tăng, nơi thân, miệng, ý, chúng tôi từng gây tạo tội lỗi, cho đến đối với nơi chốn hành hóa của hết thảy chúng Thanh văn đệ tử của Đức Thế Tôn, nơi thân, miệng, ý của chúng tôi cũng đã từng gây ra bao thứ tội lỗi. Thậm chí như có các hàng vì pháp Phật xuất gia, cạo bỏ râu tóc mặc pháp phục là mảnh ca-sa, nhưng lại hành hóa không đúng theo chính pháp, đối với những hạng ấy, chúng tôi nơi thân, miệng, ý của mình cũng đã từng tạo tác tội lỗi. Tất cả những thứ tội lỗi đó, nay nơi trước Đức Phật, xin dốc thành tâm sám hối, tu giới luật uy nghi, kính mong Đức Phật dung thứ, nhận lấy sự sám hối của chúng tôi, khiến chúng tôi được trụ nơi giới luật uy nghi. Lại cũng từ hôm nay trở đi, đối với chúng Thanh văn đệ tử của Phật, thậm chí đối với hàng xuất gia tu học chỉ có hình thức, chúng tôi thảy đều xin phát tâm xem đó là Bậc Đạo Sư, dốc hộ trì nuôi dưỡng, cung cấp đầy đủ mọi thứ vật dụng cần thiết không hề để phải bị thiếu hụt. Đức Phật nói: –Lành thay, lành thay! Các vị diệu trượng phu đã thành tựu được pháp nhẫn nhục. Hôm nay, chư vị đã ở nơi trước Ta, thành tâm phát lễ sám hối mọi thứ tội lỗi do thân, miệng, ý mình đã từng tạo tác đối với các nơi chốn hành hóa của ta, cũng như của các chúng Thanh văn đệ tử của ta, kể cả các đệ tử xuất gia tu học chỉ có hình thức. Chư vị đã tự nhận thức xâu xa về những tạo tác gây nên tội lỗi để chân thành sám hối như vậy thì thảy được trừ diệt không thọ nhận ác báo. Như thế là chư vị phải nên dốc sức hộ trì nuôi dưỡng chính pháp của ta, kể cả đối với hàng xuất gia tu tập chỉ có hình thức, chư vị cũng nên hộ trì nuôi dưỡng. Nói chung, nhiệm vụ hộ trì nuôi dưỡng ấy là rất quan trọng và thật đáng tán dương hết mực. Như đối với chúng Thanh văn đệ tử của ta hiện có, đều là hạng trì giới đầy đủ, nghe nhiều biết rộng, trí tuệ cởi mở, mọi tri kiến về nẻo giải thoát luôn gồm đủ, thì chư vị phải dốc sức hộ trì nuôi dưỡng họ. Các hàng xuất gia ấy, do từ nhân duyên đã từng vun trồng căn lành, tích chứa phước đức ở thời quá khứ nên xứng đáng được nhận mọi sự cúng dường. Còn như có những chúng sinh nơi đời vị lai, không có trí tuệ phước đức, theo pháp ta cạo bỏ râu tóc mặc pháp phục ca-sa, nhưng không thọ giới luật hoặc thọ mà hủy phạm, đối với các pháp lành không hề tạo được tương hợp. Nếu lại hộ trì nuôi dưỡng những hạng đó thì sẽ đạt được vô lượng phước đức! Ta đối với những hạng ấy luôn dốc làm một Bậc Đạo Sư tốt, thể hiện lòng thương xót, đem đến những lợi ích cho họ. Vì sao? Vì về đời vị lai, có nhiều chúng sinh xấu ác, đối với Tam bảo ít người tạo dựng nghiệp lành, như tu tập các pháp bố thí, trì giới, hay tu các pháp thiền định. Trong những hoàn cảnh như vậy, nếu những kẻ ít vun trồng căn lành mà giữ ngôi vị quốc vương, ngu si vô trí, không hề biết hổ thẹn, luôn biểu lộ mọi vẻ kiêu mạn, không chút lòng xót thương, chẳng hề biết xem xét về đời sau với bao sự việc đáng lo sợ, những hạng quốc vương như thế gây não loạn đối với các chúng Thanh văn đệ tử hiện có của ta, hoặc bắt bớ nhục mạ, hoặc xua đuổi ngăn chận mọi sự cung cấp, cướp đoạt các đồ ăn uống, y bát, thuốc men, mọi vật dụng cần dùng, cả đến chùa chiền, ruộng vườn, hoặc giam cầm nơi lao tù, sử dụng các thứ hình phạt đày đọa… như vậy thì kể cả hàng chỉ có hình thức xuất gia tu hành cũng chịu chung số phận như trên. Ngoài ra, còn do đám quan lại trong triều vốn là hạng độc đoán, ngu si không trí, lìa bỏ mọi sự xấu hổ, không chút tâm Từ bi, chẳng hề biết xem xét đời sau với bao sự việc đáng lo sợ, những hạng quan lại quyền thế ấy gây não loạn đối với các chúng Thanh văn đệ tử của ta, không khác gì trường hợp vừa kể, nên các hạng xuất gia tu hành chỉ có hình thức cũng phải chịu liên lụy. Ta nay đem các hàng xuất gia ấy thảy phó chúc nơi chư vị, chớ khiến họ phải chịu lấy cảnh đói khát cô độc đến nỗi mạng chung. Bấy giờ, Thượng tọa A-nhã Kiều-trần-như, rời chỗ ngồi đứng dậy, thưa với Đức Phật: –Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Về các hàng Sát-lợi, Bà-la-môn hoặc Tỳ-xá, Thủ-đà cố tình gây tạo bao sự não loạn đối với chúng Thanh văn đệ tử của Đức Thế Tôn, thì tội lỗi ấy được xem như thế nào? Lại còn vấn đề trì giới, như đối với các hàng theo pháp Phật xuất gia, cạo bỏ râu tóc mặc pháp phục ca-sa, nhưng không thọ giới luật hoặc thọ mà lại hủy phạm, thế thì sự não loạn này đắc tội ra sao? Đức Phật nói: –Này Tôn giả A-nhã Kiều-trần-như! Tôn giả hãy khoan đã! Chớ nên hỏi về việc ấy. Lúc này, vị chủ thế giới Ta-bà là Đại phạm Thiên vương, liền rời chỗ ngồi đứng dậy thưa với Đức Phật: –Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Kính mong Đức Thế Tôn nói rõ về trường hợp Thượng tọa A-nhã Kiều-trần-như vừa hỏi. Kính thưa Đại Đức Tu-già-bà! Kính mong Đức Thế Tôn hãy nêu giảng rõ. Đức Phật nói: –Này Đại phạm Thiên vương! Ta nay vì ông mà nêu bày sơ lược về những trường hợp trên. Như có kẻ đối với hàng vạn ức chư Phật đã làm cho thân chư Phật ấy chảy máu thế thì theo ý ông, tội lỗi kẻ đó gây ra được xem là nhiều chăng? Đại phạm Thiên vương thưa: –Kính thưa Đức Thế Tôn! Nếu có kẻ chỉ làm chảy máu một thân Phật thôi, thì đã đắc tội vô gián, tội ấy thật chẳng thể lường tính nổi, bị đọa nơi địa ngục lớn A-tỳ, huống hồ là lại làm chảy máu hàng vạn ức thân chư Phật, thật không thể nào diễn tả nổi quả báo mà kẻ kia phải chịu đối với tội lỗi mình đã gây ra, chỉ trừ Đức Như Lai thì mới tính toán được. Đức Phật nói: –Này Đại phạm Thiên vương! Nếu có kẻ gây tạo bao sự não loạn như nhục mạ, bắt bớ đánh đập đối với hàng xuất gia theo pháp của ta cạo bỏ râu tóc mặc pháp phục ca-sa, nhưng không thọ trì giới luật, hoặc thọ mà lại hủy phạm, thì tội lỗi trong trường hợp này còn nhiều hơn trường hợp trước. Vì sao? Vì những hàng xuất gia theo pháp của ta, cạo bỏ râu tóc mặc pháp phục ca-sa, nhưng không thọ trì giới luật hay thọ mà lại hủy phạm, những hàng xuất gia như thế hãy còn có thể vì chư Thiên cùng chúng nhân chỉ rõ nẻo Niết-bàn giải thoát. Những hạng đó đã đối với Tam bảo, tâm có được sự kính tin, còn hơn so với hết thảy chín mươi lăm thứ ngoại đạo, cũng hơn so với hết thảy hàng tại gia thế tục, chỉ trừ hàng tại gia tu tập đạt được hạnh nhẫn nhục. Những hàng xuất gia trên vẫn có thể mau chóng đạt đến con đường đi vào cảnh giới Niết-bàn giải thoát. Vì vậy mà chư Thiên, chúng nhân phải nên cúng dường họ, huống chi là đối với hàng xuất gia thọ trì đầy đủ giới luật, ba nghiệp luôn tương hợp với chính pháp. Này chư vị nhân giả! Về các vị quốc vương thuộc hàng Sát-lợi cùng đám quan lớn độc đoán, như họ nhận thấy nơi chúng đệ tử của ta xuất gia hành hóa theo chính pháp, nhưng lại tạo tác bao thứ tội lớn như sát sinh, trộm cắp, không giữ phạm hạnh, nói dối cùng các điều bất thiện khác, thì các vị quốc vương đại thần kia chỉ nên đúng theo luật pháp trục xuất họ ra khỏi quốc độ, thôn xóm, thành ấp, không chấp nhận ở nơi chùa chiền, cũng không được tham dự vào mọi sinh hoạt của chúng Tăng, mọi quyền lợi của hàng tăng só tất nhiên là họ không thể được hưởng. Tuy vậy, không thể dùng hình phạt roi gậy để đánh đập họ. Nếu dùng sự trừng phạt như thế là hoàn toàn không đúng lẽ. Lại cũng không nên dùng lời nói để nhục mạ họ. Nói chung là không nên gia hình đối với họ. Như có kẻ cố tình trái pháp mà trừng phạt đầy đọa họ, thì kẻ ấy tức thì từ hạng tiếp cận với nẻo giải thoát thoái chuyển rơi xuống hạng thấp kém, xa lìa hết thảy mọi nẻo thiện nơi cõi trời và cõi người, nhất định bị đọa vào nẻo địa ngục A-tỳ, huống chi là sử dụng hình phạt roi gậy đối với hàng đệ tử Phật xuất gia hành đạo, giới luật thanh tịnh gồm đủ. Bấy giờ, lại có hết thảy chư Thiên, chúng Long, cho đến tất cả chúng Ca-trá phú-đơn-na đến dự pháp hội hiện có mặt nơi đại chúng, đối với Tam bảo đã tăng thêm lòng tin tưởng, tôn quý, kính ngưỡng chưa từng có, tất cả các chúng ấy cùng thưa với Đức Phật: –Kính thưa Đức Thế Tôn! Tất cả chúng tôi từ hôm nay trở đi, xin dốc lòng hộ trì nuôi dưỡng chính pháp của Đức Thế Tôn. Đối với các chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, kể cả những vị hủy phạm giới cấm của Phật, chúng tôi cũng sẽ xin thâu nhận hộ trì, cho đến các hàng theo pháp Phật xuất gia cạo bỏ râu tóc, mặc pháp phục ca-sa mà không thọ giới luật, nhưng họ không ham nẻo tích tụ, thì chúng tôi đều xem đó là những bậc Đạo sư, dốc hộ trì nuôi dưỡng cung cấp mọi vật dụng cần thiết luôn được đầy đủ. Như các vị quốc vương, nhận thấy nơi các chúng đệ tử xuất gia của Phật tu tập thọ trì giới luật thanh tịnh, kể cả hàng theo pháp Phật xuất gia cạo bỏ râu tóc, mặc pháp phục ca-sa mà không thọ giới, hoặc thọ những lại hủy phạm, không chốn tích tụ, đối với các hàng đệ tử Phật kể trên, do nhiều nhân duyên các vị quốc vương đã bắt bớ, dùng các hình phạt roi gậy để đánh đập đày đọa họ, thì chúng tôi không hộ trì nuôi dưỡng các vị quốc vương đó, lại còn rời bỏ cõi nước ấy, do vậy mà khiến cho quốc độ đó cùng dấy lên vô số các sự kiện gian trá dua nịnh, tranh giành xâu xé, bệnh dịch, đói khát, đao binh, kể cả các hiện tượng mưa gió trái thời, nắng hạn lửa độc phá hại mùa màng hoa màu. Lại như chúng tôi lìa bỏ quốc độ ấy thì sẽ dốc dùng các phương tiện khiến mọi chúng Thanh văn đệ tử của Đức Thế Tôn hiện có nơi quốc độ này thảy đều hướng đến các quốc độ khác, làm cho cõi nước ấy chẳng còn chút phước điền nào cả. Hoặc như có các chúng Thanh văn đệ tử của Đức Thế Tôn, kể cả các hàng tu hành chỉ có hình thức, bị các vị quan lớn bắt bớ, sử dụng các hình phạt roi gậy để đánh đập đầy đọa, mà các quốc vương Sát-lợi không ngăn chận, che chở, thì chúng tôi cũng sẽ rời khỏi cõi nước ấy và các sự việc diễn tiến giống như đã nêu trên. Chư vị ấy lại thưa tiếp: –Chúng tôi, kể từ hôm nay, tất cả sinh cùng hợp tác, tùy theo hoàn cảnh mà có thể đảm nhận, dốc tạo vô số sự cúng dường Đức Thế Tôn. Lúc này, hết thảy chư Thiên, Long, cho đến tất cả chúng Ca-trá phú-đơn-na, cùng thời phát tâm như thế và do từ diệu lực của nhân duyên ấy, nên tức thì trong khắp bốn cõi thiên hạ này, mọi ngọn núi hiện có đều biến thành những núi do bảy thứ châu báu tạo thành, là nhằm để cúng dường Đức Thế Tôn. Mọi thứ cây cối cành lá hoa quả, tất cả cũng đều biến thành bảy thứ châu báu. Từ nơi hoa quả kia lại hiện ra vô số các thứ vật dụng thắng diệu cùng với năm âm hòa tấu ca nhạc dể cúng dường. Bao nhiêu loại dược thảo, hoa màu, lúa thóc, nương nhờ vào đất mà sinh sống hiện có khắp trong bốn cõi thiên hạ, thảy đều biến thành bảy thứ châu báu để cúng dường. Mọi cõi đất đai hiện có nơi bốn cõi thiên hạ này cũng đều biến thành đất lưu ly màu xanh, cũng là nhằm cúng dường Đức Thế Tôn. Các chúng Thiên, Long, cho đến chúng Ca-trá phú-đơn-na hiện có trong bốn cõi thiên hạ, lên tới hết cõi Dục, tất cả đều tùy theo lực dụng có thể có của mình mà tạo ra mọi sự việc để cúng dường Phật. Như mưa xuống vô số các vật báu, hoa tươi, y phục, chuỗi ngọc, cờ phướn, lọng báu. Như cầm lấy vô số các thứ cờ phướn, lọng báu thượng diệu, các sợi tơ vàng, ngọc báu, chuỗi báu, ngọc ma-ni, các thứ đồ vật làm bằng châu báu. Như sử dụng vô số các loại đàn cầm, đàn sắt, đàn không đàn hầu, ống tiêu ống sáo, các loại trống lớn nhỏ tạo thành một thứ âm thanh tổng hợp hài hòa. Hoặc như tuôn xuống vô số các khí cụ âm nhạc, như dùng vô số các thứ để làm trang nghiêm khắp mọi quốc độ. Tất cả là nhằm cúng dường Đức Thế Tôn. Hết thảy mọi loài chúng sinh sinh sống hiện có trong bốn cõi thiên hạ, các chúng nhân phi nhân, cho đến tất cả các loài côn trùng lớn nhỏ, thảy đều nghe thấy các sự việc kể trên. Nhờ từ diệu lực ấy mà hết thảy các loài đều được dứt trừ mọi thọ nhận về khổ, có được thọ nhận an lạc, tùy theo thân tướng và sự tiếp xúc của từng loài mà đều đạt được an lạc đầy đủ, sung mãn, tâm cho là điều diệu kỳ chưa từng có, đối với Tam bảo càng thêm kính tin sâu xa. Bấy giờ, Đức Thế Tôn, với lòng Đại Bi luôn thương xót hết thảy chúng sinh nhằm đem lại sự thành tựu trọn vẹn cho các loài chúng sinh được lãnh hội, đều là do diệu lực gia hộ của các bậc Hiền thánh. Như thế, hết thảy mọi thứ ngôn ngữ hiện có của chúng nhân phi nhân, cùng với những âm thanh phát ra từ nơi các vật báu, phát ra từ nơi cành lá hoa quả, từ đàn cầm đàn sắt, đàn không đàn hầu, ống tiêu ống sáo, các thứ trống lớn nhỏ, tất cả đều do sự gia hộ từ diệu lực của bậc Thánh giác ngộ, khiến cho hết thảy các loài, từ chỗ kiến lập gia hộ mà lãnh hội được âm thanh diệu kỳ chưa từng có. Đó là sắc không, thọ thọ không, tưởng tưởng không, hành hành không, thức thức không. Như thế là nhãn nhập nhãn nhập không, nhó tỷ thiệt thân nhập nhó tỷ thiệt thân nhập không, ý nhập ý nhập không. Như vậy là sắc nhập sắc nhập không, thanh hương vị xúc nhập thanh hương vị xúc nhập không. Pháp nhập pháp nhập không. Như thế là nhãn giới nhãn giới không, cho đến ý thức giới ý thức giới không. Như vậy là nhận thức thân lìa dục thanh tịnh, nhận thức tất cả các pháp lìa dục thanh tịnh, thấu đạt hết thảy pháp giới là lìa tướng dục, thấu đạt tất cả các pháp là như như. Sự thấu đạt là như thế. Người ấy đối với không là dứt mọi động, Người ấy có thể đảm nhận việc dứt trừ hết thảy mọi tưởng nơi chúng sinh, đối với mọi hành đều đạt giải thoát. Đối với mọi tưởng của chúng sinh như tưởng về sắc, tưởng về thọ, tưởng về hành thức, tưởng về nhãn nhập, cho đến tưởng về ý thức giới, người ấy như thế là có thể đảm nhận được việc dẫn dắt đưa mọi chúng sinh đến nơi cõi vô vi của ba thừa. Vậy hành giả làm thế nào để có thể khai thị một cánh tóm gọn về sự tu tập lãnh hội các pháp? Đó là tu tập: Nội không, ngoại không, nội-ngoại không, không không, đại không, Đệ nhất nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô thỉ không, tán không, tính không, tự tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô pháp không, hữu pháp không, vô pháp hữu pháp không. Lại có: pháp pháp tướng không, vô pháp vô pháp tướng không, tự pháp tự pháp tướng không, tha pháp tha pháp tướng không. Như có thể tu tập một cách tóm gọn như thế về các pháp không, thì người ấy có thể đảm nhận nổi công việc dẫn dắt đưa hết thảy chúng sinh đến cõi vô vi của ba thừa. Như vậy, những hành giả kia dùng pháp môn gì để thấu đạt được nội không cho tới vô pháp-hữu pháp không? Đó là trở lại dùng cửa giải thoát không, để có thể tu tập tóm gọn các pháp nội, ngoại. Thế nào gọi là các pháp nội, ngoại? Các pháp nội ấy, đó là nhãn, nhó tỷ thiệt thân ý. Hành giả tri kiến như thật về nhãn, nhãn không, chẳng phải tích tụ, không thể hủy hoại, chẳng thể giữ lấy, vì tính của các pháp ấy là như vậy, cho tới thấu đạt về ý ý không, chẳng phải tích tụ, không thể hủy hoại, chẳng thể giữ lấy, vì tính của các pháp ấy là như thế. Đó gọi là nội không. Như vậy là hành giả đạt đến tri kiến như thật. Về pháp ngoại ấy, đó là sắc, thanh hương vị xúc pháp. Hành giả tri kiến như thật về sắc-sắc không, cho đến pháp pháp không, chẳng phải tích tụ, không thể hủy hoại, chẳng phải giữ lấy, vì tính của các pháp là thế. Đó gọi là ngoại không. Như thế là hành giả đạt được tri kiến như thật. Thế nào gọi là nội ngoại không? Pháp nội ngoại ấy, đó là sáu nhập nội sáu nhập ngoại. Hành giả tri kiến như thật về nhập nội ngoại không, chẳng phải tích tụ, không thể hủy hoại, chẳng thể giữ lấy, vì tính của các pháp là như thế. Đó gọi là nội ngoại không. Như thế là hành giả đạt đến tri kiến như thật. Thế nào gọi là không không? Không ấy tức là hết thảy các pháp không. Do các pháp là không nên không chẳng phải là sự tích tụ, không thể hủy hoại cũng chẳng thể giữ lấy, vì tính của các pháp là như thế. Đó gọi là không không. Như vậy là hành giả đã đạt đến tri kiến như thật. Thế nào là đại không? Đó là phương Đông không, cho đến bốn hướng đều không, chẳng phải tích tụ, chẳng thể hủy hoại, không thể giữ lấy, vì tính của các pháp là như thế. Đó gọi là đại không. Hành giả như vậy là đạt được tri kiến như thật. Thế nào gọi là Đệ nhất nghĩa không? Đệ nhất nghĩa không tức là Niết-bàn giải thoát. Niết-bàn như thế là dùng khái niệm Niết-bàn để diễn đạt nên không, chẳng phải tích tụ, không thể hủy hoại, cũng chẳng thể giữ lấy, vì tính của các pháp là như vậy. Đó gọi là Đệ nhất nghĩa không. Hành giả như thế là đã đạt được tri kiến như thật. Thế nào gọi là hữu vi không? Pháp hữu vi ấy tức là ba cõi Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. Ba cõi là không, chẳng phải tích tụ, không thể hủy hoại, cũng chẳng thể giữ lấy, vì tính của các pháp là như thế. Đó gọi là hữu vi không. Hành giả như thế là đã đạt được tri kiến như thật. Thế nào gọi là vô vi không? Không sinh, không diệt, chẳng trụ, chẳng khác, đó là vô vi. Vô vi do vô vi tạo nên, nên là không, chẳng phải tích tụ, không thể hủy hoại, cũng chẳng thể giữ lấy, vì tính của các pháp là như vậy. Đó gọi là Vô vi không. Hành giả như thế là đã đạt được tri kiến như thật. Thế nào gọi là tất cánh không? Tất cánh, đó là tính chất rốt ráo của chúng là chẳng thể đạt được, chẳng phải tích tụ, không thể hủy hoại, cũng chẳng thể giữ lấy, là vì tính của các pháp là như thế. Đó gọi là tất cánh không. Hành giả như vậy là đã đạt được tri kiến như thật. Thế nào gọi là vô thỉ không? Mọi nẻo khứ lai là không thể đạt được, chẳng phải tích tụ, không thể hủy hoại, cũng không thể giữ lấy, vì tính của các pháp là như thế. Đó gọi là vô thỉ không. Hành giả như vậy là đã đạt được tri kiến như thật. Thế nào gọi là tán không? Dứt hết mọi nẻo giữ lấy hay rời bỏ, chẳng phải tích tụ, không thể hủy hoại, cũng chẳng thể giữ lấy, vì tính của các pháp là thế. Đó gọi là tán không. Hành giả như vậy là đã đạt được tri kiến như thật. Thế nào gọi là tính không? tính của hết thảy các pháp hữu vi, vô vi chẳng phải là do các hàng Thanh văn, Duyên giác tạo nên, cũng chẳng phải là do Như Lai tạo nên, tính của các pháp ấy là không, chẳng phải tích tụ, không thể hủy hoại, cũng chẳng thể giữ lấy, vì tính của các pháp là như thế. Đó gọi là tính không. Hành giả như vậy là đã đạt được tri kiến như thật. Thế nào gọi là tự tướng không? Mang tính chất não loạn, hủy hoại, đó là tướng của sắc. Có thể nhận lãnh đó là tướng của thọ. Chọn lựa giữ lấy các hình tướng đó là tướng của tưởng. Tạo tác đó là tướng của hành. Nhận thức, lãnh hội đó là tướng của thức. Như thế là các pháp hữu vi, vô vi, tự tướng của hết thảy các pháp là không, tức tự tướng không, chẳng phải tích tụ, không thể hủy hoại, cũng không thể giữ lấy, vì tính của các pháp là như thế. Đó gọi là tự tướng không. Hành giả như vậy là đã đạt được tri kiến như thật. Thế nào gọi là nhất thiết pháp không? Nhất thiết pháp ấy tức là sắc thọ tưởng hành thức, nhãn cho đến ý, sắc cho tới pháp. Nhãn sắc tương hợp sinh thức, cho tới ý pháp tương hợp sinh thức. Các pháp hữu vi, vô vi ấy gọi là hết thảy các pháp. Các pháp đó là không, chẳng phải tích tụ, không thể hủy hoại, cũng chẳng thể giữ lấy, vì tính của các pháp là như thế. Đó gọi là nhất thiết pháp không. Hành giả như vậy là đã đạt được tri kiến như thật. Thế nào gọi là bất khả đắc không? Hết thảy các pháp là bất khả đắc, chẳng phải tích tụ, không thể hủy hoại, cũng chẳng thể giữ lấy, là vì tính của các pháp là như thế. Đó gọi là bất khả đắc không. Hành giả như vậy là đã đạt được tri kiến như thật. Thế nào gọi là pháp vô không? Hết thảy không vật là bất khả đắc, chẳng phải tích tụ, không thể hủy hoại, cũng chẳng thể giữ lấy, vì tính của các pháp là như thế. Đó gọi là vô pháp không. Hành giả như vậy là đã đạt được tri kiến như thật. Thế nào gọi là pháp hữu không? Ở trong sự hòa hợp là không có vật, chẳng phải tích tụ, không thể hủy hoại, cũng chẳng thể giữ lấy, vì tính của các pháp là như vậy. Đó gọi là hữu pháp không. Hành giả như thế là đã đạt được tri kiến như thật. Thế nào gọi là pháp vô pháp hữu không? Không vật không vật không, có vật, có khứ lai cũng không, chẳng phải tích tụ, không thể hủy hoại, cũng chẳng thể giữ lấy, vì tính của các pháp là như vậy. Đó gọi là vô pháp-hữu pháp không. Hành giả như thế là đã đạt được tri kiến như thật. Thế nào gọi là pháp pháp tướng không? Pháp, đó là năm ấm. Năm ấm là không, chẳng phải tích tụ, không thể hủy hoại, cũng chẳng thể giữ lấy, là vì tính của các pháp là như thế. Đó gọi là pháp pháp tướng không. Hành giả như vậy là đã đạt được tri kiến như thật. Thế nào gọi là vô pháp vô pháp tướng không? Vô pháp, đó là pháp vô vi. Pháp vô vi ấy là không, chẳng phải tích tụ, không thể hủy hoại, cũng chẳng thể giữ lấy, là vì tính của các pháp là như thế. Đó gọi là vô pháp vô pháp tướng không. Hành giả như vậy là đã đạt được tri kiến như thật. Thế nào gọi là tự pháp tự pháp tướng không? Tự pháp của các pháp là không. Không ấy chẳng phải do trí tạo nên, chẳng phải do nhận thức tạo nên, chẳng phải tích tụ, không thể hủy hoại, cũng chẳng thể giữ lấy, vì tính của các pháp là như vậy. Đó gọi là tự pháp tự pháp tướng không. Hành giả như thế là đã đạt được tri kiến như thật. Thế nào gọi là tha pháp tha pháp tướng không? Như Phật xuất thế hoặc không xuất hiện ở đời, các pháp luôn an trụ, pháp tướng pháp vị pháp giới đều như cõi thực, tính tướng chúng thường trụ, không hề có biến đổi khác đi hay vượt qua. Các pháp ấy là không, chẳng phải tích tụ, không thể hủy hoại, cũng chẳng thể giữ lấy, vì tính của các pháp là như vậy. Đó gọi là tha pháp tha pháp tướng không. Hành giả như thế là đã đạt được tri kiến như thật. Đạt được tri kiến như thật thì có thể khiến cho mọi chúng sinh lìa bỏ tưởng về chúng sinh, lìa bỏ hết thảy các tưởng của hành, của thọ, của sắc, của thức, lìa bỏ tưởng của ngã cho đến tưởng của ý, lìa bỏ tưởng của sắc cho đến tưởng của pháp. Sau đấy, có thể dẫn dắt đưa tất cả chúng sinh đến nơi cõi vô vi của ba thừa. Như có hành giả, ở nơi các pháp ấy nhận thức chúng hiện ra như thật trước mắt thì được gọi là thiện tu. Đối với những chúng sinh từ xưa, nơi pháp ấy đã dốc tu tập, như thế là pháp thanh thâm diệu bậc nhất sẽ đi vào nơi nhó căn. Hoặc có chúng sinh không vun trồng căn lành. Như vậy thì pháp thanh cũng đi vào nơi tai mình. Hoặc có chúng sinh thấy được Phật và chuyên tâm chiêm ngưỡng, thì người ấy với tất cả căn lành vô tận của mình đều hiện ra nơi trước mặt, nhờ đấy tu tập đạt đến quả vị Địa không thoái chuyển, mười Lực vô úy, thành hạng pháp khí lớn, hoặc có chúng sinh nhận từ âm thanh vô thường đi vào nơi nhó căn. Hoặc có âm thanh về khổ, âm thanh về không, âm thanh về vô ngã, âm thanh về ba luật ni, âm thanh về bốn Niệm xứ, âm thanh về bốn chính cần, âm thanh về bốn Như ý túc, âm thanh về năm Căn, âm thanh về năm Lực, âm thanh về bảy Giác phần, âm thanh về tám Đạo phần, âm thanh luận bàn về sự thật, âm thanh về pháp nhân duyên, âm thanh về phạm trụ, âm thanh về bốn nhiếp, âm thanh về biện tài vô ngại, âm thanh về thiền định, âm thanh về giải thoát, âm thanh về pháp định vô sắc, âm thanh về sáu pháp Ba-la-mật, âm thanh về các phương tiện thiện xảo, âm thanh về Pháp nhãn Tam-muội Đà-la-ni, âm thanh về thừa Thanh văn, âm thanh về thừa Duyên giác, âm thanh về Đại thừa, âm thanh về Địa không thoái chuyển, âm thanh về sự dứt sạch hết nghiệp chướng, âm thanh về sự tận diệt mọi phiền não chướng, âm thanh về sự diệt hết mọi chướng của chúng sinh, âm thanh về sự lan tỏa tận cùng của pháp thanh, âm thanh về các pháp hữu vi tạo nên mọi công đức trang nghiêm nơi các quốc độ, âm thanh về sự thanh tịnh của các pháp vô vi nơi tâm, âm thanh về lòng đại Từ, âm thanh về tâm Đại Bi, âm thanh về ba bất hộ, âm thanh về bốn vô úy, âm thanh về mười Lực, âm thanh về mười tám pháp Bất cộng, âm thanh về quả vị Nhất sinh bổ xứ, âm thanh về mười Địa, âm thanh về thân sau rốt, âm thanh về sự hàng phục ma, âm thanh về trí tuệ vô thượng, âm thanh về sự chuyển pháp luân, âm thanh về sự tùy thuộc hóa độ mà hiện mọi thần biến, âm thanh về sự dứt trừ các hành của thân mạng, âm thanh về sự thị hiện đại Niết-bàn vô thượng nơi mọi chúng sinh, nói chung là từ các thứ âm thanh mỗi mỗi khác biệt như thế đi vào nơi nhó căn. Những chúng sinh ấy, kể cả các loài súc sinh, ngạ quỷ, đã từ vô lượng trăm ngàn pháp môn như vậy để thâu nhận vào nhó căn, như thế là có được sự hy hữu bậc nhất dẫn đến mọi hoan hỷ tột độ, đối với Tam bảo đạt được lòng kính tin vô cùng sâu xa. Những chúng sinh đó, đối với các chướng ngại của chúng sinh như nghiệp chướng, phiền não chướng, pháp chướng, trong ba phần này đã dứt sạch được hai phần. Nghe và lãnh hội được những âm thanh ấy, thì đối với vô lượng a-tăng-kỳ chúng sinh xưa từng dấy tâm xấu ác, bấy giờ thảy đều có được tâm nhu hòa, tâm luôn thương xót, tâm tạo tác điều thiện, có được sự xem xét nhận biết về đời sau với bao sự việc đáng lo sợ, có được đầy đủ hết thảy các căn lành của chư Thiên, chúng nhân. Dùng các thứ âm thanh ấy, khiến cho vô lượng a-tăng-kỳ chúng sinh quy y nơi Tam bảo, đối với những chúng sinh thọ trì giới luật thanh tịnh sẽ đạt được đạo quả Tu-đà-hoàn, cho đến đạo A-la-hán. Lại có vô lượng a-tăng-kỳ chúng sinh, ở nơi thừa Duyên giác mà vun trồng các căn lành. Lại có vô lượng a-tăng-kỳ chúng sinh phát tâm dốc cầu đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác, tức thì được an trụ nơi Địa không thoái chuyển. Lại có vô lượng a-tăng-kỳ chúng sinh đạt được pháp Nhẫn vô sinh. Bấy giờ Đức Thế Tôn, nhằm làm sáng tỏ thêm những ý nghĩa trên, nên đọc kệ: A-tu-la Hỏa Vị Chỉ về La-hầu-la Tối thắng sư của tôi Đủ phước tuệ trang nghiêm. Phật nói với các chúng Nên dứt mọi sân hận Phó chúc Pháp nhãn ấy Hộ trì nên nhận lãnh. Chúng A-tu-la vui Kính đáp tôn Đạo sư Chúng tôi hộ Pháp nhãn Khiến được trụ thế lâu. Chúng tôi nêu thần chú Pháp tối thắng hiện rõ Khiến hết thảy chúng Long Đều mất sức kiêu mạn. Bấy giờ các chúng Long Thảy đều tỏ giận dữ Muốn dùng sức kiêu mạn Cùng chúng Tu-la đánh Phật bảo các Long vương Cùng A-tu-la vương Các ngươi nơi sinh tử Mỗi mỗi thường hung bạo. Nếu chẳng trừ sân hận Chẳng hề đạt an vui Luôn bị khổ bức bách Thân hèn kém cấu uế. Chi phần thân chẳng đủ Tài vật sống luôn thiếu Nghe giảng các khổ ấy Đều do sân làm gốc. Mọi gông cùm trừng phạt Lao tù khiến đói khát Súc sinh, quỷ, địa ngục Do sân tạo khổ ấy. Hết thảy nên nhẫn nhục Kẻ dốc nhẫn tất không Đại trượng phu tối thắng Phú quý đủ an lạc. Các ngươi hại chúng bạn Chúng Long, A-tu-la Đều tự tu nhẫn nhục Nhẫn nên dứt mọi ác. Đại chúng đều hoan hỷ Cùng cất lời tán thán Chư vị nay nghe dạy Thảy đều được nơi nhẫn. Thiên, Long, A-tu-la Dạ-xoa cùng chúng quỷ Tất cả đều đạt nhẫn Tâm từ cung nhìn nhục. Người cùng nơi súc sinh Được nhẫn cùng hòa thuận Cầm thú và trùng nhỏ Từ bi cùng thương xót. Đại chúng đều chắp tay Chiêm ngưỡng Đạo sư, thưa: Chúng tôi luôn cùng nhờ Đều trụ nơi tâm Từ. Lại các chúng dưới quyền Nơi Phật, Bậc Đạo Sư Từng gây tạo các tội Từ thân, miệng, ý phạm. Nơi pháp, chỗ chúng Tăng Dù gây tội một người Bậc kiên cố trong đời Kính mong được dung thứ. Nơi pháp của Thế Tôn Hết thảy chốn tạo ác Nay đều dốc sám hối Xin Phật Từ bi nhận. Lúc này Lưỡng Túc Tôn Nói rõ với đại chúng: Dốc sám nghiệp ác dứt Trọn không chịu quả khổ. Cạo tóc, chẳng thọ giới Mặc pháp phục ca-sa Đều xem là Đạo sư Hơn bao hạng chúng nhân. Vua ác ngăn Pháp nhãn Tham si ngược đãi tăng Thân Đạo sư chảy máu Sẽ bị đọa địa ngục Đại chúng cùng nhau thưa Chúng tôi hộ trì Tăng Như có các vua ác Não hại chúng Thanh văn. Chúng tôi nơi việc ấy Đều rời bỏ nước đó Bậc só, các Sa-môn Khiến hướng tới nước khác. Hủy hoại nơi nước đó Đói khát, bệnh dịch, binh Sa-môn đến nước nào Chúng tôi cũng tìm theo. Thảy khiến đạt an lạc Đầy đủ mọi vật dụng Nơi ấy Pháp nhãn rạng Chúng nhân luôn cúng dường. Trong khắp bốn thiên hạ Thảy biến thành bảy báu Lại tuôn mưa hoa hương Châu báu cùng y phục. Đủ mọi thứ ca nhạc Cúng dường Bậc Đạo Sư Chúng sinh được nghe thấy Đều được mọi an vui. Phật gia hộ các âm Thảy biến làm Phật thanh Nêu pháp hữu vi, khổ Vô thường, không, vô ngã. Hết thảy pháp ba đời Thảy không, chẳng chốn có Hợp, tan, hai đều không Nhãn thức hai cũng thế. Cho đến pháp giới tâm Thân ấm, các pháp không Tỏ các pháp như vậy Ắt cứu độ muôn loài. Như rõ ba cõi không Năng cởi mọi trói buộc Các hữu mười hai chi Hết thảy đều tính không. Nếu xưa nơi pháp này Dốc tu tập như thế Giờ được nghe các thanh Thảy đều được pháp nhẫn. Trí, Lực, Vô sở úy An trụ đạo Bồ-đề Những chúng sinh ít phước Được nghe thanh hữu vi. Vô lượng nẻo tinh cần Được nhập hành Bồ-tát Thế giới nhẫn tinh tấn Thiền định cùng trí tuệ. Cõi Phật, phước trang nghiêm Tinh tấn nên khiến tịnh Chư vị sẽ làm Phật Đến bến bờ các pháp. Hàng phục các chúng ma Mà tuôn mưa chính pháp Vô lượng cõi chúng sinh Nên trao chính pháp nhãn. Hết thảy chúng các ngươi Chóng vào thành an ổn Vô lượng chúng nghe tiếng Hướng nẻo đại Bồ-đề. Cũng đạt được Nhị thừa Được mọi lạc trời, người Lại đạt đến các quả La-hán Tam-ma-đề. Như thế, chúng sinh ác Đạt tâm ý nhu hòa Sợ, mọi nẻo nghiệp ác An trụ tâm Từ, thiện. KINH ĐẠI PHƯƠNG ĐẲNG ĐẠI TẬP <卷 id="117157929">QUYỂN 55 <詞 id="117157930">Phẩm 15: Nguyệt Tạng <章 id="117157931">Phần 17: Phân công đầy đủ về việc hộ trì chính pháp nơi cõi Diêm-phù-đề Bấy giờ, Đức Thế Tôn đã biết rõ hết thảy chư vị đến dự pháp hội hiện có mặt nơi đại chúng, đối với Tam bảo đều sinh lòng kính tin sâu xa, tôn quý, ngưỡng mộ đạt được điều chưa từng có, lại không còn tin thờ vào các bậc Thiên thần nào khác, nên nói với các vị: Tha hóa tự tại Thiên vương, Hóa lạc Thiên vương, Đâu-suất-đà Thiên vương, Tu-dạ-ma Thiên vương, Đế Thích Thiên vương, bốn Đại Thiên vương cùng đám quyến thuộc, Long vương Sa-già-la, Long vương A-na-bà-đạt-đa, A-tu-la vương La-hầu-la, A-tu-la vương Tỳ-ma-chất-đa-la, A-tu-la vương Siểm-bà-lợi, A-tu-la vương Bạt-trì-tỳ-lâu-già-na, Khẩn-na-la vương Đại Thọ, tướng quân Càn-thát-bà Lạc Dục, tướng quân Cưu-bàn-trà Đàn-đề, tướng quân Dạ-xoa Nhân-đà-la, Ngạ quỷ vương Hàn Diệp, Tỳ-xá-già vương Thùy Thần, Phú-đơn-na vương A-na-kiệt-la, Ca-trá phú-đơn-na vương Hạng Lộ Hoán Thanh: –Này chư vị nhân giả! Như thế là tất cả chư vị đã dốc lòng khuyến thỉnh ta phân công đều khắp, sắp đặt đâu đó về việc hộ trì cõi Diêm-phù-đề này, với hết thảy quốc độ, thành ấp, cung điện, vương đô, làng xóm, núi non, chùa chiền, vườn ao, đồng ruộng, rừng rú, cây cối… tất cả được giao phó nhận lấy việc hộ trì nuôi dưỡng, chớ khiến xảy ra các điều xấu ác. Cũng khiến cho ba thứ khí chất tinh thuần nơi đại địa, nơi chúng sinh và nơi chính pháp luôn được tăng trưởng, rạng rỡ, chính pháp nhãn của Phật được trụ thế lâu dài, Tam bảo luôn được phát triển, tiếp nối không ngừng, từ đấy giảm thiểu các cõi ác, tăng thêm các nẻo thiện, khiến cho cõi Diêm-phù-đề này thảy đều được an ổn, phong phú, tươi đẹp đáng yêu thích. Chính vì nhân duyên ấy, hôm nay, ta phân công đầy đủ đều khắp về bốn cõi thiên hạ này, phó chúc cho chư vị, hết thảy chư đại Thiên vương, chư Long vương cho đến hết thảy chư Ca-trá phú-đơn-na vương, chư vị, mỗi người nên dốc phát tâm xa rời quyến thuộc để lo phân công sắp xếp về việc hộ trì nuôi dưỡng. Đối với tất cả đám quyến thuộc của chư Thiên, cho đến tất cả đám quyến thuộc của Ca-trá phú-đơn-na vương cũng được phân công đầy đủ, sắp đặt để góp sức lo việc hộ trì nuôi dưỡng cõi Diêm-phù-đề này với hết thảy quốc độ cho tới núi cao rừng rậm. Vì thế mà chư vị đại Thiên vương cùng đám quyến thuộc, cho tới chư vị Ca-trá phú-đơn-na Vương cùng đám quyến thuộc, đối với mọi công việc nơi cõi Diêm-phù-đề đều nên thành tâm tỳ hỷ, tán dương, chớ nên dấy tâm sân hận, xung đột. Lúc này, hết thảy chư vị Bồ-tát Ma-ha-tát hiện có, chư Thiên nơi cõi Sắc, chư Thiên, chúng nhân nơi cõi Dục, cùng hết thảy chúng Long, chúng Càn-thát-bà, cho đến chúng Ca-trá phú-đơn-na đến dự pháp hội hiện có mặt nơi đại chúng, thảy cùng chắp tay cung kính, hướng về Đức Phật và thưa: –Kính thưa Đức Thế Tôn! Tất cả chúng tôi đều thành tâm tùy hỷ kính nhận lời Phật chỉ dạy. Như Phật Thế Tôn đã phân công sắp đặt về việc hộ trì cõi Diêm-phù-đề này, chúng tôi xin phát tâm nhận lãnh lời Phật chỉ dạy và trách nhiệm hộ trì nuôi dưỡng chính pháp nhãn của Phật, khiến luôn được sáng tỏ, rạng ngời. Đức Phật nói: –Lành thay, lành thay! Bậc Diệu trượng phu! Chư vị phải nên thành tâm, luôn thể hiện sự tùy hỷ như thế. Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói với chư Thiên thọ dụng thức ăn là pháp, là sự hoan hỷ và là thiền định: –Này chư vị nhân giả! Nơi bốn cõi thiên hạ này với các biển lớn trong ấy gồm đến tám vạn cồn bãi lớn nhỏ, cùng hết thảy các quốc độ, các chư Thiên thọ dụng pháp thực, hỷ thực và thiền thực, chư vị phải nên dốc lòng hộ trì nuôi dưỡng chính pháp của ta. Đối với các hàng Tỳ-kheo trụ pháp, thuận hợp đúng theo pháp, dốc phát tâm tu hành, ba nghiệp luôn thích hợp, cạo bỏ râu tóc thân mặc ca-sa, thì chư vị cũng phải nên hộ trì nuôi dưỡng. Lúc này chư Thiên thọ dụng pháp thực, hỷ thực và thiền thực đều thưa: –Kính thưa Đức Thế Tôn! Chúng tôi xin dốc hộ trì chính pháp của chư Phật nơi hết thảy các quốc độ thuộc tám vạn cồn bãi lớn nhỏ trong những biển rộng. Như các hàng đệ tử Phật, dốc tâm tu tập, không ham nẻo tích tụ, kinh doanh theo đường thế tục, chúng tôi đều xin dốc hộ trì nuôi dưỡng. Đức Phật khen ngợi: –Lành thay, lành thay! Tất cả chư vị trong đại chúng cùng cất lời tán dương: –Lành thay, lành thay! Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói với Bồ-tát Ma-ha-tát Nguyệt Tạng: –Này vị Thanh tịnh só thấu tỏ! Như trong thời gian ta còn trụ thế, thì chúng Thanh văn luôn đạt được mọi sự đầy đủ về giới, về xả, về sự học hỏi nghe biết, về thiền định, về trí tuệ, về giải thoát và về giải thoát tri kiến. chính pháp của ta ở đời luôn được tỏ rạng, cho đến tất cả chư Thiên, nhân cùng đều có thể làm hiển lộ phát huy chính pháp bình đẳng. Sau khi ta diệt độ khoảng năm trăm năm, các chúng Tỳ-kheo, đối với chính pháp của ta vẫn còn kiên trì tu tập theo nẻo giải thoát. Khoảng năm trăm năm tiếp theo, các pháp thiền định Tam-muội thuộc chính pháp của ta được trụ thế vững chắc. Năm trăm năm tiếp theo, công việc đọc tụng nghiên cứu học hỏi được phát huy và an trụ bền chắc. Tiếp theo trong khoảng năm trăm năm nữa, ở trong chính pháp của ta, công việc xây dựng chùa tháp được phát triển nhiều, tạo được sự trụ thế kiên cố. Năm trăm năm sau đấy, trong chính pháp của ta dấy lên sự tranh giành kích bác, kiện cáo, pháp lành bị chìm khuất, tính chất kiên cố bị tổn giảm. Này vị Thanh tịnh só thấu tỏ! Từ đấy trở về sau, ở trong chính pháp của ta, tuy cũng cạo bỏ râu tóc thân mặc pháp phục ca-sa, nhưng lại hủy phạm, phá bỏ giới luật, hành không đúng theo pháp, chỉ là Tỳ-kheo giả danh. Về hàng Tỳ-kheo phá giới chỉ có tên gọi đó, nếu có các hàng đàn việt bố thí cúng dường, dốc làm công việc hộ trì nuôi dưỡng, ta nói những người ấy cũng đạt được vô lượng a-tăng-kỳ sự tích tụ phước đức to tát. Vì sao? Vì cũng như có thể đem lại sự lợi ích lớn lao cho nhiều chúng sinh, huống hồ là có thể gợi lại hình ảnh của ta hôm nay hiện còn trụ nơi thế gian này. Ví như vàng ròng là vật báu vô giá. Nếu không có vàng ròng thì bạc là vô giá. Như không có bạc thì thâu thạch là vô giá. Nếu không có thâu thạch thì vật báu do người làm là vô giá. Như không có vật báu do người làm ra thì các thứ đồng đỏ, sắt trắng, bạch lạp, chì, thiếc là những vật báu vô giá, cũng như thế so với hết thảy mọi vật trong thế gian thì Phật bảo là vô thượng. Như không có Phật bảo thì bậc Duyên giác là vô thượng. Nếu không có hàng Duyên giác thì hàng A-la-hán là vô thượng. Như không có bậc A-la-hán thì các hàng Thánh chúng khác sẽ là vô thượng. Nếu không có các bậc Thánh chúng thì các hàng phàm phu đạt được pháp định sẽ được xem là vô thượng. Như không có hàng phàm phu đạt được pháp định thì bậc trì giới thanh tịnh được xem là vô thượng. Nếu không có bậc Trì giới thanh tịnh thì chúng Tỳ-kheo giới luật lôi thôi được xem là vô thượng. Như không có hàng Tỳ-kheo này thì hàng cạo bỏ râu tóc, thân mặc ca-sa, chỉ là hàng Tỳ-kheo tên gọi, là bậc quý giá hơn hết, nếu so với chín mươi lăm hàng ngoại đạo khác thì vẫn vượt hơn hẳn, nên được nhận lấy sự cúng dường của thế gian để làm phước điền cho họ. Vì sao? Vì có thể chỉ rõ cho chúng sinh vềø những điều đáng kinh sợ. Nếu có sự hộ trì nuôi dưỡng ổn định họ thì các hàng thí chủ ấy chẳng bao lâu sẽ được an trụ nơi nhẫn địa. Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo chư Thiên nơi sáu cõi trời thuộc Dục giới: –Chư vị nên theo đúng như chư Phật thời quá khứ đã phân, theo chỗ đã phân công ấy dốc sức lo việc hộ trì nuôi dưỡng. Nơi bốn cõi thiên hạ này, trong mọi thời mọi lúc chư vị phải nên gắng sức gia tăng sự tư duy về diệu nghĩa hàm chứa nơi chính pháp của Phật, là nhằm để khiến cho chính pháp của ta được trụ thế lâu bền, dòng Tam bảo luôn được nối tiếp, phát huy, khỏi bị đoạn tuyệt. Lúc này, chư Thiên thuộc các cõi trời ấy cùng thưa: –Kính thưa Đức Thế Tôn! Chúng tôi xin nhận lãnh lời chỉ dạy của Thế Tôn. Đức Thế Tôn khen ngợi: –Lành thay, lành thay! Tất cả chư vị trong đại chúng cũng đồng tán dương: –Lành thay, lành thay! Đức Thế Tôn lại nói với bốn vị Thiên vương: –Chư vị, cùng với đám quyến thuộc của mình, nên theo đúng như chư Phật thời quá khứ đã phân công, sắp đặt mà dốc sức thực hiện công việc hộ trì, nuôi dưỡng chính pháp của ta. Bốn vị Thiên vương cùng thưa: –Kính thưa Đức Thế Tôn! Chúng tôi xin nhận lãnh lời chỉ dạy. Đức Phật cùng đại chúng đều bày tỏ lời khen ngợi: –Lành thay, lành thay! Đức Thế Tôn nói với chúng Càn-thát-bà: –Này chư vị nhân giả! Chư vị cùng với các vị Thiên tiên, nơi các khu rừng Ưu-đàm, Am-la Diêm-phù, Ha-lê-lạc, A-ma-la, Bồ đào, chư vị hay dùng các nơi ấy làm trú xứ. Lại cùng với các vị Thiên tử, các vị nơi cung điện của bốn Thiên vương, vì sự trụ thế được lâu bền của Phật pháp, nên dốc tư duy về diệu nghĩa trong chính pháp của Phật. Chúng Càn-thát-bà cùng thưa: –Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Đúng như vậy! Chúng tôi xin nhận lãnh lời chỉ dạy. Đức Phật cùng đại chúng đều tán dương: –Lành thay, lành thay! Đức Thế Tôn nói với các vị Long vương: Sa-già-la, Nan-đà, Bà-nan-đà, Thiện Hiện, Bà-lâu-na, Bà-tu-cát, Đắc-xoa-ca, A-nan-đà, A-lâu-na và Tuế Tinh: –Chư vị đều ở nơi biển lớn, trụ nơi cung điện trước đây của mình, dốc sức góp phần vào việc hộ trì nuôi dưỡng chính pháp của ta. Các vị Long vương cùng cung kính thưa: –Kính thưa Đức Thế Tôn! Chúng tôi xin nhận lãnh lời chỉ dạy. Phật cùng đại chúng đều tán thán: –Lành thay, lành thay! Đức Thế Tôn lại nói với các vị Long vương: A-na-bà-đạt-đa, Thiện Trụ, Thanh Hiếp, Ma-lợi-ni, Ưu-bà-la, Càn-thát-bà, Vân Trì, Chủ Bạc, Ma-hề-mạn-đa và Mỹ Âm: –Chư vị thảy đều trụ nơi cung điện đã có trước đây của mình, góp sức cho việc hộ trì nuôi dưỡng chính pháp của ta. Các vị Long vương cùng cung kính thưa: –Kính thưa Đức Thế Tôn! Chúng tôi xin vâng theo lời chỉ dạy. Phật cùng với đại chúng đều tán thán: –Lành thay, lành thay! Đức Thế Tôn nói với các vị đại tướng Cưu-bàn-trà: Đàn-đề, Ưu-bà-đàn-đề, Ca-la-ca, Ma-ha Bát-xa, Xa-hô-đà-già-lợi, Quật-cầu-ni, Bà-chu-xa-ni, Ương-quật-lư, Bỉ-la-soa, Nhất-mi: –Chư vị hãy trụ nơi cung điện trước đây của mình, để cùng góp sức hộ trì nuôi dưỡng chính pháp của ta. Các vị đại tướng Cưu-bàn-trà đều cung kính thưa: –Kính thưa Đức Thế Tôn! Chúng tôi xin tuân theo lời chỉ dạy. Đức Phật và đại chúng cùng cất lời khen ngợi: –Lành thay, lành thay! Đức Thế Tôn lại nói với chư vị đại tướng Dạ-xoa: Nhân-đà, Tô-ma, Bà-lâu-na, Ba-xà-bát-đế, Bạt-la-đầu-bà-xà, Y-xa-na, Chiên-đàn-na, Nguyệt Phần, Bà-đa-kiệt-lê, Hề-ma-bạt-đa: –Chư vị hãy trụ nơi cung điện cũ của mình, góp sức vào công việc hộ trì nuôi dưỡng chính pháp của ta. Các vị đại tướng Dạ-xoa cùng cung kính thưa: –Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Chúng tôi xin tuân theo lời chỉ giáo. Chúng tôi xin dốc sức hộ trì nuôi dưỡng chính pháp của Đức Thế Tôn cùng các chúng Tỳ-kheo trụ pháp luôn cung cấp đầy đủ mọi vật dụng cần thiết cho họ, kể cả hạng Tỳ-kheo chỉ có hình thức, chúng tôi cũng dốc quan tâm không kém, là nhằm khiến cho Phật pháp được trụ thế lâu bền, nối tiếp sự tồn tại và phát triển của Tam bảo không hề bị đoạn tuyệt, ba thứ khí chất tinh thuần luôn được tăng trưởng không dừng. Lại cũng nhằm ngăn chận dứt trừ mọi sự tranh giành, xâu xé, oán thù, kiện cáo, mọi hiện tượng bệnh dịch, đói khát, thiếu kém, mưa nắng trái thời, trăng sao sai hướng chúng tôi cũng dốc sức hộ trì nuôi dưỡng chúng Thanh văn đệ tử của Đức Thế Tôn, không ham nẻo tích tụ của thế tục, tinh tấn tu tập, ba nghiệp luôn hòa hợp với chính pháp. Đức Thế Tôn khen ngợi: –Lành thay, lành thay! Này thiện nam! Chư vị làm được như vậy là đã đem lại lợi ích, an lạc cho hết thảy chúng sinh trong ba cõi. Tất cả chư vị trong đại chúng cùng tán thán: –Lành thay, lành thay! Bấy giờ Đức Thế Tôn nói với hết thảy chúng Tất-lợi-đa nương tựa nơi chốn đồng không mông quạnh để trụ, hết thảy chúng Tỳ-xá-già nương tựa nơi các nhà không để trụ, hết thảy chúng Phú-đơn-na nương tựa nơi chốn đồng ruộng vắng vẻ để trụ, cùng hết thảy chúng Ca-trá phú-đơn-na nương tựa chốn gò nổng, mả mồ để trụ: –Các ngươi đều ở những trú xứ ấy góp sức hộ trì nuôi dưỡng chính pháp của ta. Các chúng kể trên cùng cung kính thưa: –Kính thưa Đức Thế Tôn! Chúng tôi xin tuân theo lời chỉ dạy. Đức Phật cùng hết thảy chư vị trong đại chúng đều khen ngợi: –Lành thay, lành thay! Đức Thế Tôn lại nói: –Này chư vị nhân giả! Hết thảy chư Thiên hiện có, cùng với các chúng Càn-thát-bà, Khẩn-na-la, Dạ-xoa, La-sát, Long vương, A-tu-la, Cưu-bàn-trà, như các Bậc Thế Tôn xưa đã phân công, chư vị hãy theo đúng phần được phân về quốc độ, thành ấp, xóm làng, nhà cửa ấy mà dốc thực hiện công việc hộ trì nuôi dưỡng một cách ổn định tốt đẹp, ta hết lòng tùy hỷ, tất cả chư vị nơi đại chúng cũng xin tùy hỷ. Như lại có chư Thiên, các chúng Long, Dạ-xoa, cho tới chúng Ca-trá phú-đơn-na, thực hiện công việc hộ trì nuôi dưỡng không đúng theo như phần đã phân của các Bậc Thế Tôn xưa thì ta sẽ chuyển giao lại cho các chúng Thiên, Long khác lo việc sắp đặt hộ trì nuôi dưỡng. Chư vị đều tùy theo các quốc độ được phân mà thực hiện tốt công việc hộ trì. Ta nay đem quốc độ Ba-la-nại phó chúc cho các vị Càn-thát-bà Thiện Phát với một ngàn quyến thuộc, Dạ-xoa Tiên A-ni-la với năm trăm quyến thuộc, A-tu-la Tu-chất-đa-la với vô số quyến thuộc, Long vương Đức-xoa-ca với một trăm quyến thuộc, Thiên nữ Đại Hắc với năm trăm quyến thuộc, các vị phải dốc tâm hộ trì nuôi dưỡng cõi nước Ba-la-nại, nhằm khiến cho chính pháp của ta được trụ thế bền lâu, dòng giống Tam bảo luôn được nối tiếp phát huy, không hề bị đoạn tuyệt. Lại cũng nhằm để ngăn chận tất cả những chúng sinh xấu ác. Hết thảy chư vị kể trên cùng với đám quyến thuộc cung kính thưa: –Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Chúng tôi xin nhận lãnh công việc sắp xếp hộ trì nuôi dưỡng khắp mọi cảnh giới thuộc nước Ba-la-nại, nhằm ngăn chận những điều có hại, nuôi dưỡng những điều đem lại lợi ích an lạc cho muôn loài, nhất là công việc ngăn chận dứt trừ những chúng sinh xấu ác, bất thiện. Đức Phật khen ngợi: –Lành thay, lành thay! Tất cả chư vị trong đại chúng cũng đồng tán thán: –Lành thay, lành thay! Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại đem quốc độ Ca-tỳ-la-bà phó chúc cho các vị: Khẩn-na-la Tiên Hỏa Hộ với một ngàn quyến thuộc, Càn-thát-bà Câu-sí-la Thanh với một vạn quyến thuộc, đại tướng Dạ-xoa Bà-thát-bạt-đế với một ngàn quyến thuộc, A-tu-la Xa-ma-na-trì với hai vạn quyến thuộc, Long vương Bạt-na-mâu-chi với một vạn quyến thuộc, đại tướng Cưu-bàn-trà Ma-ha Bát-xa với năm trăm quyến thuộc, hai vị đại Thiên nữ Chiên-trì và Chiên-trà-lê mỗi vị một vạn quyến thuộc, các vị phải gắng sức lo việc hộ trì nuôi dưỡng quốc độ Ca-tỳ-la-bà, nhất là nhằm ngăn chận dứt trừ các loài chúng sinh xấu ác. Hết thảy các vị kể trên cùng cung kính thưa: –Kính thưa Đức Thế Tôn! Chúng tôi cùng với đám quyến thuộc xin dốc tâm hộ trì nuôi dưỡng quốc độ Ca-tỳ-la-bà với khắp mọi cảnh giới, bờ cõi, nhất là nhằm ngăn chận trừ mọi loài chúng sinh xấu ác. Đức Phật cùng đại chúng khen ngợi: –Lành thay, lành thay! Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại đem quốc độ Ma-già-đà phó chúc cho các vị: Thiên tử Thiện Trụ Diễm Quang với một ngàn quyến thuộc, Càn-thát-bà Ưu-ba-la với một ngàn quyến thuộc, A-tu-la Lạc Thanh với một ngàn quyến thuộc, hai vị Long vương Thiện Tý và Thiện Ý mỗi vị một vạn quyến thuộc, A-tu-la Khổng Tước Vị với năm trăm quyến thuộc, đại Dạ-xoa Câu-na-la với ba ngàn quyến thuộc. Dạ-xoa Quân-tỳ-la với trăm ngàn quyến thuộc, đại tướng Cưu-bàn-trà Thập Tượng với trăm ngàn quyến thuộc, hai vị Thiên nữ Tháo Ác và Đoạt Ý mỗi vị mười ngàn quyến thuộc, chư vị hãy cùng chung sức hộ trì nước Ma-già-đà, nhất là nhằm ngăn trừ mọi loài chúng sinh xấu ác. Phật cùng hết thảy chư vị trong đại chúng tán dương: –Lành thay, lành thay! Đức Thế Tôn đem quốc độ Câu-tát-la phó chúc các vị: Thiên tử Mê-đề-yết-na với một ngàn quyến thuộc, đại tướng Càn-thát-bà Lạc Thắng với mười ngàn quyến thuộc, Khẩn-na-la Ô-ma với một ngàn quyến thuộc, Long vương Cụ Đức với một ngàn quyến thuộc, A-tu-la Phất-sa-bát-đế với năm trăm quyến thuộc, hai đại tướng Dạ-xoa Bà-lâu-na và Bà-lâu-na vương mỗi người năm vạn quyến thuộc, Cưu-bàn-trà Na-đồ-ca với năm trăm quyến thuộc, Thiên nữ Ma-ni-tỳ-lê với một ngàn quyến thuộc, tất cả chư vị hãy cùng chung sức hộ trì nước Câu-tát-la, nhất là dốc ngăn trừ các loài chúng sinh xấu ác. Phật cùng đại chúng đều khen ngợi: –Lành thay, lành thay! Đức Thế Tôn lại đem cõi nước Ương-già phó chúc cho các vị: Thiên tử Nguyệt Âm với một vạn quyến thuộc, hai đại tướng Càn-thát-bà Lạc Dục và Triêm-phù-lâu mỗi vị mười ngàn quyến thuộc, Khẩn-na-la A-ma-la Quân với năm trăm quyến thuộc, A-tu-la Sư Tử Tàng với năm trăm quyến thuộc, hai vị đại Dạ-xoa Chiên-đàn và Lực Tràng mỗi vị năm ngàn quyến thuộc, Cưu-bàn-trà Nô-la-xa với hai ngàn năm trăm quyến thuộc, Thiên nữ Ma-ha Ca-lê với hai ngàn năm trăm quyến thuộc, tất cả chư vị hãy cùng chung sức hộ trì cõi nước Ương-già, nhất là nhằm ngăn trừ các loài chúng sinh xấu ác. Phật và đại chúng cùng tán thán: –Lành thay, lành thay! Đức Thế Tôn lại đem quốc độ Bát-già-la phó chúc cho các vị: Thiên tử La-noa-thời với năm trăm quyến thuộc, Càn-thát-bà Lạc-ca với bảy trăm quyến thuộc, Khẩn-na-la Ma-diệp với một ngàn quyến thuộc, đại tướng Dạ-xoa Bát-chi-ca với năm ngàn quyến thuộc, A-tu-la An-xà-cù-ba với một ngàn quyến thuộc, Cưu-bàn-trà Lạc Man với năm trăm quyến thuộc, hai vị Thiên nữ Tả Hắc và Vương Phát mỗi vị hai ngàn năm trăm quyến thuộc, hết thảy chư vị hãy cùng chung sức hộ trì quốc độ Bát-già-la, nhất là nhằm ngăn trừ các loài chúng sinh xấu ác. Phật và đại chúng cùng tán thán: –Lành thay, lành thay! Đức Thế Tôn lại đem quốc độ Tô-ma phó chúc cho các vị: Thiên tử Bảo Kế với năm ngàn quyến thuộc, Càn-thát-bà Ma-đầu-mạn-đa với một ngàn quyến thuộc, Khẩn-na-la Thắng Lũ với một ngàn quyến thuộc, đại tướng Dạ-xoa Ưu-ba-bát-già-ca với hai ngàn quyến thuộc, Long vương Hắc với một ngàn quyến thuộc, A-tu-la Tri Dục với một ngàn quyến thuộc, Cưu-bàn-trà Cưu-la-bà với sáu trăm quyến thuộc, hai Thiên nữ Tư-đa và Bác-xoa mỗi vị năm trăm quyến thuộc, tất cả các vị phải cùng góp sức hộ trì cõi nước Tô-ma, nhất là nhằm ngăn trừ các loài chúng sinh xấu ác. Phật và đại chúng đều khen ngợi: –Lành thay, lành thay! Đức Thế Tôn lại đem quốc độ A-thấp-bà phó chúc cho các vị: Thiên tử Lư-hê-nô với một ngàn hai trăm quyến thuộc, Càn-thát-bà Lưu Thủy với một ngàn quyến thuộc, tướng quân Dạ-xoa Ma-ni-thác-la với năm ngàn quyến thuộc, A-tu-la A-chu-la với sáu trăm quyến thuộc, Long vương Nhật Quang với vô số quyến thuộc, Cưu-bàn-trà Ma-ni-thác-lợi với năm trăm quyến thuộc, hai Thiên nữ Bất Khả Thủ và Mã Thắng mỗi vị hai ngàn năm trăm quyến thuộc, tất cả chư vị hãy cùng góp sức hộ trì cõi nước A-thấp-bà, nhất là nhằm ngăn trừ các loài chúng sinh xấu ác. Phật và đại chúng cùng tán dương: –Lành thay, lành thay! Đức Thế Tôn lại đem quốc độ Ma-thâu-la phó chúc cho các vị: Thiên tử Thiện Trạch với mười ngàn quyến thuộc, Càn-thát-bà Tónh Minh với một ngàn quyến thuộc, Khẩn-na-la Du Thê với hai trăm quyến thuộc, hai vị đại Dạ-xoa Thắng Dục và Thừa Nhân mỗi vị một ngàn năm trăm quyến thuộc, Long vương Vô Cấu với một ngàn quyến thuộc, A-tu-la Già-lăng-thác-lợi với một ngàn quyến thuộc, Cưu-bàn-trà Mặc Sắc với một ngàn quyến thuộc, Thiên nữ Đoạt Ý với hai ngàn quyến thuộc, tất cả các vị cùng góp sức hộ trì cõi nước Ma-thâu-la, nhất là nhằm ngăn trừ các loài chúng sinh xấu ác. Phật và đại chúng cùng tán thán: –Lành thay, lành thay! Đức Thế Tôn lại đem quốc độ Chi-đề-da phó chúc cho các vị: Thiên tử Thiện Hiền với năm trăm quyến thuộc, Càn-thát-bà A-trá-ca với năm trăm quyến thuộc, Khẩn-na-la Vô Cấu với một ngàn quyến thuộc, hai vị Dạ-xoa Trừ Kiết và Vô Kiết mỗi vị năm trăm quyến thuộc, Long vương Diệu Hiền với một ngàn quyến thuộc, A-tu-la Phổ Trúc với năm trăm quyến thuộc, Cưu-bàn-trà Ngưu Vương với ba trăm quyến thuộc, Thiên nữ Thắng Ưu-ba-la cùng với con cái, quyến thuộc, các vị hãy cùng góp sức ủng hộ cõi nước Chi-đề-da, nhất là nhằm ngăn trừ các chúng sinh xấu ác. Phật và đại chúng cùng khen ngợi: –Lành thay, lành thay! Đức Thế Tôn lại đem quốc độ Bà-sa phó chúc cho các vị: Thiên tiên Nguyệt Quang với mười ngàn quyến thuộc, Càn-thát-bà Liên Hoa Hương với một ngàn quyến thuộc, Khẩn-na-la Ma-đà-na Quả với năm ngàn quyến thuộc, Dạ-xoa Đại Quả với năm ngàn quyến thuộc, Long vương A-lâu-na với một ngàn quyến thuộc, A-tu-la Ác Thọ với một trăm quyến thuộc, Cưu-bàn-trà Diệp Nhãn với năm trăm quyến thuộc, Thiên nữ A-na-ca Hoa với một ngàn quyến thuộc, tất cả các vị hãy cùng góp sức hộ trì cõi nước Bà-sa, nhất là nhằm ngăn trừ các loài chúng sinh xấu ác. Phật và đại chúng cùng tán thán: –Lành thay, lành thay! Đức Thế Tôn lại đem quốc độ Xa-da phó chúc cho các vị: Thiên tử Ma-hê-thủ-la với năm ngàn quyến thuộc, Càn-thát-bà Bất Tửu với một ngàn quyến thuộc, Khẩn-na-la Ly Cấu với một ngàn quyến thuộc, hai Dạ-xoa Nhân-đà-la và Tô-ma mỗi vị hai ngàn năm trăm quyến thuộc, Long vương Thiện Hiện với một ngàn quyến thuộc, A-tu-la vương Mâu-chân-lân-đà với năm trăm quyến thuộc, hai Cưu-bàn-trà Ưu-ba-đàn-đề và Ngật-lợi-ca-xa mỗi vị hai ngàn năm trăm quyến thuộc, hai Thiên nữ Quỷ Tử Mẫu và Thiện Hộ mỗi vị một vạn quyến thuộc, tất cả các vị hãy dốc sức cùng hộ trì cõi nước Xa-da, nhất là nhằm ngăn trừ các loài chúng sinh xấu ác. Phật và đại chúng cùng tán thán: –Lành thay, lành thay! Đức Thế Tôn lại đem quốc độ Ưu-thiền-ni phó chúc cho các vị: Thiên tử Nguyệt Vân với năm trăm quyến thuộc, Càn-thát-bà Môn-mâu với một ngàn quyến thuộc, Càn-thát-bà Ma-ni Nhó với năm trăm quyến thuộc, Dạ-xoa Ngũ Ác với một ngàn quyến thuộc, Long vương Sơn Tý với năm trăm quyến thuộc, A-tu-la Mộc Thủ với ba trăm quyến thuộc, Cưu-bàn-trà Thiện Hiện với năm trăm quyến thuộc, Thiên nữ Mao-xỉ với một ngàn quyến thuộc, tất cả các vị hãy cùng góp sức hộ trì cõi nước Ưu-thiền-ni, nhất là nhằm ngăn trừ các loài chúng sinh xấu ác. Phật và đại chúng cùng tán dương: –Lành thay, lành thay! Đức Thế Tôn lại đem quốc độ Tu-la-trá phó chúc cho các vị: Thiên tử Pháp Hoa với trăm ngàn quyến thuộc, tướng Càn-thát-bà Cụ Dục với một vạn quyến thuộc, Tiên Khẩn-na-la Sơn Bố với một trăm quyến thuộc, Long vương Nan-đà với mười ngàn quyến thuộc, A-tu-la Lư Nhãn với năm trăm quyến thuộc, đại Dạ-xoa Thiện Đăng với một ngàn quyến thuộc, tướng Cưu-bàn-trà Đại Đỗ với một ngàn quyến thuộc, Thiên nữ An Ẩn với một ngàn quyến thuộc, tất cả các vị hãy cùng góp sức hộ trì cõi nước Tu-la-trá, nhất là nhằm ngăn trừ các loài chúng sinh xấu ác. Phật và đại chúng cùng khen ngợi: –Lành thay, lành thay! Đức Thế Tôn lại đem quốc độ Ma-ha-la-sả phó chúc cho các vị: Thiên tử Khổng Tước Phát với năm trăm quyến thuộc, hai Càn-thát-bà Lạc Dục và Hổ Tựu mỗi vị năm trăm quyến thuộc, Khẩn-na-la Nhũ Vị với một trăm quyến thuộc, Long vương Chủ Thủy với một ngàn quyến thuộc, A-tu-la Lạc Bảo với năm trăm quyến thuộc, hai đại Dạ-xoa Cổ-đê-cước và Quân-na-la mỗi vị một ngàn quyến thuộc, đại tướng Cưu-bàn-trà Bát-đầu-ma-ca với năm trăm quyến thuộc, đại Thiên nữ Bà-lâu-ni với năm ngàn quyến thuộc, tất cả các vị hãy cùng góp sức hộ trì cõi nước Ma-ha-la-sả, nhất là nhằm ngăn trừ các loài chúng sinh xấu ác. Phật và đại chúng cùng tán thán: –Lành thay, lành thay! Đức Thế Tôn lại đem quốc độ Thâu-lư-na phó chúc cho các vị: Thiên tử Thiên Kim với một ngàn quyến thuộc, Càn-thát-bà Thiện Hiếp với một ngàn quyến thuộc, Khẩn-na-la Bạch Sắc với năm trăm quyến thuộc, Dạ-xoa Thế Biện với một ngàn quyến thuộc, Cưu-bàn-trà Đại Phú với năm trăm quyến thuộc, Thiên nữ Cực Ác và Thiên nữ Ma-ni Quả mỗi vị năm ngàn quyến thuộc, tất cả các vị hãy cùng góp sức hộ trì cõi nước Thâu-lư-na, nhất là nhằm ngăn trừ mọi loài chúng sinh xấu ác. Phật và đại chúng cùng khen ngợi: –Lành thay, lành thay! Đức Thế Tôn lại đem quốc độ Ma-ni-thiêm-bỉ phó chúc cho các vị: Thiên tử Hoa Âm với năm trăm quyến thuộc, Càn-thát-bà Na-la-diên với hai trăm quyến thuộc, Khẩn-na-la Ma-hê-thủ-la Hoa với ba trăm quyến thuộc, A-tu-la Ba-lai-nại Tử với một trăm quyến thuộc, Cưu-bàn-trà Xích Mục với một trăm quyến thuộc, Thiên nữ Tuyết Vương với một trăm quyến thuộc, tất cả các vị hãy dốc sức cùng hộ trì cõi nước Ma-ni-thiêm-bỉ, nhất là nhằm ngăn trừ các loài chúng sinh xấu ác. Phật và đại chúng cùng ngợi khen: –Lành thay, lành thay! Đức Thế Tôn lại đem quốc độ Ba-trá-la-phất phó chúc cho các vị: Thiên tử Sa-la-lưu-chi với một ngàn quyến thuộc, Càn-thát-bà Nhân Hoa với năm trăm quyến thuộc, Khẩn-na-la Ma-ni-cù-sa với ba trăm quyến thuộc, Dạ-xoa Thanh-khư-lưu-chi với năm trăm quyến thuộc, A-tu-la Sa-la-địa với năm trăm quyến thuộc, Long vương Thi-lợi-cù-sa với tám trăm quyến thuộc, Cưu-bàn-trà Phù-lưu-ni với một trăm quyến thuộc, Thiên nữ Tỳ-lâu-trì với năm trăm quyến thuộc, tất cả các vị hãy cùng góp sức hộ trì cõi nước Ba-trá-la-phất, nhất là nhằm ngăn trừ các loài chúng sinh xấu ác. Phật và đại chúng cùng tán thán: –Lành thay, lành thay! Đức Thế Tôn lại đem quốc độ Càn-đà-la phó chúc cho các vị: Thiên tử Hỏa Bố với ba ngàn quyến thuộc, Càn-thát-bà Hỷ-ca với một ngàn quyến thuộc, Khẩn-na-la Đại Thắng với năm trăm quyến thuộc, Dạ-xoa Sư Tử Phát với năm trăm quyến thuộc, Long vương Y-la-bát với một ngàn quyến thuộc, Long vương Hiền Lực với một ngàn quyến thuộc, A-tu-la Tinh Khí Chủ với năm trăm quyến thuộc, Cưu-bàn-trà Viên Hầu Thanh với một trăm quyến thuộc, hai Thiên nữ Ma-ni và Tần-đầu mỗi vị một ngàn quyến thuộc, tất cả các vị phải cùng góp sức hộ trì cõi nước Càn-đà-la, nhất là nhằm ngăn trừ các loài chúng sinh xấu ác. Phật và đại chúng cùng khen ngợi: –Lành thay, lành thay! Đức Thế Tôn lại đem quốc độ A-bàn-đề phó chúc cho các vị: Thiên tử Sư Tử Ái với năm ngàn quyến thuộc, Càn-thát-bà Ma-la-mạn-đa với hai ngàn quyến thuộc, Khẩn-na-la Thắng Mục với một trăm quyến thuộc, hai Dạ-xoa Tô-ma và Địa Hành mỗi vị một ngàn quyến thuộc, A-tu-la Băng-gia-la với ba ngàn quyến thuộc, Long vương Bà-tư-đà-đồ với một ngàn quyến thuộc, Cưu-bàn-trà Quân-na-laxoa với một ngàn quyến thuộc, hai Thiên nữ Ưu-ba-la và Lưu Tuyền mỗi vị hai ngàn quyến thuộc, tất cả các vị hãy cùng góp sức hộ trì cõi nước A-bàn-đề, nhất là nhằm ngăn trừ các loài chúng sinh xấu ác. Phật và đại chúng cùng tán dương: –Lành thay, lành thay! Đức Thế Tôn lại đem quốc độ Bà-lâu-noa-bạt-đế phó chúc cho các vị: Thiên tử Kê-sa-lợi với một ngàn quyến thuộc, Càn-thát-bà Chúng Thải với năm trăm quyến thuộc, Khẩn-na-la Bác-xoa-lưu-chi với hai trăm quyến thuộc, hai Long vương Ca-trà và Ưu-ba-ca-trà mỗi vị hai ngàn quyến thuộc, A-tu-la Tỳ-ma với một trăm quyến thuộc, Cưu-bàn-trà Nguyệt Diễm với ba trăm quyến thuộc, hai Thiên nữ Tự Hộ và Ma-ni-tần-đầu mỗi vị một ngàn quyến thuộc, tất cả các vị hãy cùng chung sức hộ trì cõi nước Bà-lâu-noa-bạt-đế, nhất là nhằm ngăn trừ các loài chúng sinh xấu ác. Phật và đại chúng cùng tán thán: –Lành thay, lành thay! Đức Thế Tôn lại đem quốc độ Đế-bạt-ni phó chúc cho các vị: Thiên tử Sư Tử Xỉ với năm ngàn quyến thuộc, Càn-thát-bà Tát-đà-mạn-đa với năm trăm quyến thuộc, Khẩn-na-la Mâu-ni-tát-la với một trăm quyến thuộc, hai Dạ-xoa Ma-ni Hiền và Mãn Hiền mỗi vị hai ngàn năm trăm quyến thuộc, A-tu-la Thiết Nhó với năm trăm quyến thuộc, Cưu-bàn-trà A-bàn-đa với một trăm quyến thuộc, hai Thiên nữ Tát-phất-ni và Bát-chi mỗi vị một ngàn quyến thuộc, tất cả các vị hãy cùng góp sức hộ trì cõi nước Đế-bạt-ni, nhất là nhằm ngăn trừ các loài chúng sinh xấu ác. Phật và đại chúng cùng tán thán: –Lành thay, lành thay! Đức Thế Tôn lại đem quốc độ Chiêm-ba phó chúc cho các vị: Thiên tử Hương Vân cùng các vị Thiên tiên với một ngàn quyến thuộc, Càn-thát-bà Đức-man với hai trăm quyến thuộc, Khẩn-na-la Cầu-trù-già với một trăm quyến thuộc, Dạ-xoa Kiên-mao với năm ngàn quyến thuộc, A-tu-la Ca-na-ca với một trăm quyến thuộc, hai Cưu-bàn-trà Thiện Hiện và Cận Hiện mỗi vị năm vạn quyến thuộc, Thiên nữ Thập Mục với năm trăm quyến thuộc, tất cả các vị hãy cùng góp sức hộ trì cõi nước Chiêm-ba, nhất là nhằm ngăn chận các loài chúng sinh xấu ác. Phật và đại chúng cùng ngợi khen: –Lành thay, lành thay! Đức Thế Tôn lại đem quốc độ Tất-đô-na phó chúc cho các vị: Thiên tử Xích Vân với một ngàn quyến thuộc, Càn-thát-bà Triêm-phù-lâu với năm trăm quyến thuộc, Khẩn-na-la Ma-ni-già-bà với một trăm quyến thuộc, Dạ-xoa Nan Thắng với một ngàn quyến thuộc, A-tu-la Nê-đồ-cưu-chi với năm trăm quyến thuộc, Cưu-bàn-trà Bỉ-nậu-ca với một trăm quyến thuộc, hai Thiên nữ Tónh Mặc và Thiện Mục mỗi vị một ngàn năm trăm quyến thuộc, tất cả các vị hãy cùng góp sức hộ trì cõi nước Tất-đô-na, nhất là nhằm ngăn trừ các loài chúng sinh xấu ác. Phật và đại chúng cùng tán thán: –Lành thay, lành thay! Đức Thế Tôn lại đem quốc độ Tây địa phó chúc cho các vị: Thiên tử Sơn Nhãn với hai trăm quyến thuộc, Càn-thát-bà Pháp Hỷ với một trăm quyến thuộc, Khẩn-na-la Tẩu-chi, La-bà với một trăm quyến thuộc, Dạ-xoa Đại Thân với một ngàn quyến thuộc, A-tu-la Chấp Đao với một trăm quyến thuộc, Cưu-bàn-trà Chỉ-lưu với ba trăm quyến thuộc, hai Thiên nữ Kim Quang và Hắc Quang mỗi vị hai ngàn năm trăm quyến thuộc, tất cả các vị hãy cùng chung sức lo việc hộ trì cõi nước Tây địa, nhất là nhằm ngăn trừ các loài chúng sinh xấu ác. Phật và đại chúng cùng tán dương: –Lành thay, lành thay! Đức Thế Tôn lại đem quốc độ Phú-lâu-sa-phú-la phó chúc cho các vị: Thiên tử A-la-bô-tư với một ngàn quyến thuộc, Càn-thát-bà Nan-đề với một trăm quyến thuộc, Khẩn-na-la Tịnh Chúng với một trăm quyến thuộc, Dạ-xoa Ma-ni Hoa với một ngàn quyến thuộc, hai Long vương Ca-đồ và A-bà-la-la mỗi vị hai ngàn năm trăm quyến thuộc, Ca-lâu-la Đại Bố với một trăm quyến thuộc, A-tu-la Ngật-đa Tôn Địa với năm trăm quyến thuộc, Cưu-bàn-trà Thiêu Trúc với năm trăm quyến thuộc, hai Thiên nữ Đa-lư-tư và Tam Mục mỗi vị năm trăm quyến thuộc, tất cả các vị hãy cùng chung sức chăm lo việc hộ trì cõi nước Phú-lâu-sa-phú-la, nhất là nhằm ngăn trừ các loài chúng sinh xấu ác. Phật và đại chúng cùng tán dương: –Lành thay, lành thay! Đức Thế Tôn lại đem quốc độ Ô tràng phó chúc cho các vị: Thiên tử Tập Âm với năm trăm quyến thuộc, Càn-thát-bà Hoa Quang với ba trăm quyến thuộc, Khẩn-na-la Thiện Bố với một trăm quyến thuộc, Dạ-xoa Ca-la-bà-đề với năm trăm quyến thuộc, Long vương Lang-phù-la với ba trăm quyến thuộc, A-tu-la Già-mạn-trì với một trăm quyến thuộc, Cưu-bàn-trà Mạn-đà-quả với một trăm quyến thuộc, hai Thiên nữ Ha-lê-đế và Nhiễm Hiền mỗi vị năm trăm quyến thuộc, tất cả các vị hãy cùng chung sức lo việc hộ trì cõi nước Ô tràng, nhất là nhằm ngăn trừ các loài chúng sinh xấu ác. Phật và đại chúng cùng tán thán: –Lành thay, lành thay! Đức Thế Tôn lại đem quốc độ Ký-tát-ly phó chúc cho các vị: Thiên tử Hắc Sắc với một ngàn quyến thuộc, Càn-thát-bà Kim Sắc với một trăm quyến thuộc, Khẩn-na-la Bạt-na-mâu-chí với tám mươi quyến thuộc, Dạ-xoa Tán Phát với năm trăm quyến thuộc, Long vương Lực Thiên với một trăm quyến thuộc, A-tu-la Na-khư-già-lợi với một trăm quyến thuộc, Cưu-bàn-trà Vô Cấu Thanh với tám mươi quyến thuộc, hai Thiên nữ Thắng Châm và Hiết Thiên Nữ mỗi vị năm trăm quyến thuộc, tất cả các vị hãy cùng chung sức hộ trì cõi nước Ký-tát-ly, nhất là nhằm ngăn trừ các loài chúng sinh xấu ác. Phật và đại chúng cùng khen ngợi: –Lành thay, lành thay! Đức Thế Tôn lại đem quốc độ Kim tính phó chúc cho các vị: Thiên tử Thiền-na Ly-sa-bà với năm trăm quyến thuộc, Càn-thát-bà Ma-na-bà với một trăm quyến thuộc, Khẩn-na-la Thiện Xứng với một trăm quyến thuộc, Dạ-xoa Thiền-na Ly-sa-bà với năm trăm quyến thuộc, A-tu-la Bảo Quán với một trăm quyến thuộc, Cưu-bàn-trà Hương Ý với tám mươi quyến thuộc, tất cả các vị hãy cùng góp sức hộ trì cõi nước Kim tính, nhất là nhằm ngăn trừ các loài chúng sinh xấu ác. Phật và đại chúng cùng tán thán: –Lành thay, lành thay! Đức Thế Tôn lại đem quốc độ Ma-đô-la phó chúc cho các vị: Thiên tử Ca Tán với một trăm quyến thuộc, Càn-thát-bà Ngũ Kế với năm trăm quyến thuộc, Khẩn-na-la Uy Đức với tám mươi quyến thuộc, Dạ-xoa Kiên Mâu với năm trăm quyến thuộc, A-tu-la Băng-già-la với năm trăm quyến thuộc, Cưu-bàn-trà Hiền Mục với một trăm quyến thuộc, Thiên nữ Triêm-phù-lâu với năm trăm quyến thuộc, tất cả các vị hãy cùng chung sức lo việc hộ trì cõi nước Ma-đô-la, nhất là nhằm ngăn trừ các loài chúng sinh xấu ác. Phật và đại chúng cùng tán thán: –Lành thay, lành thay! Đức Thế Tôn lại đem quốc độ Tẩu-ly-ca phó chúc cho các vị: Thiên tử Tài Mục với một ngàn quyến thuộc, Càn-thát-bà Thiện Đỉnh với một trăm quyến thuộc, Khẩn-na-la Xa-ma-cưu-tư với năm trăm quyến thuộc, Dạ-xoa Kiên Cố với năm trăm quyến thuộc, Dạ-xoa Da-bà-na với một ngàn quyến thuộc, Khẩn-na-la Vô Úy với một trăm quyến thuộc, Dạ-xoa Bạt-la-đầu-bà-xà với năm trăm quyến thuộc, A-tu-la Đạm-bà-hà-lợi với tám trăm quyến thuộc, Cưu-bàn-trà Cồ-già-xoa với ba trăm quyến thuộc, La-sát Đạm-bà-hà-lợi với năm trăm quyến thuộc, La-sát Thích-ca với năm trăm quyến thuộc, tất cả các vị hãy cùng chung sức hộ trì cõi nước Tẩu-ly-ca, nhất là nhằm ngăn trừ các loài chúng sinh xấu ác. Phật và đại chúng cùng tán dương: –Lành thay, lành thay! Đức Thế Tôn lại đem quốc độ Bát-già Nang-già-la phó chúc cho các vị: Thiên tử Bà-bà-xoa với một ngàn quyến thuộc, Càn-thát-bà Nguyệt Quang với một trăm quyến thuộc, Dạ-xoa Vi Mục với một ngàn quyến thuộc, A-tu-la Đại Vân với năm trăm quyến thuộc, Cưu-bàn-trà Ha-nô-xà với một trăm quyến thuộc, Thiên nữ Ma-ni Chỉ-tát-lê với một trăm quyến thuộc, Thiên nữ Đa-ma-la-bà-lợi với một ngàn quyến thuộc, tất cả các vị hãy cùng chung sức hộ trì cõi nước Bát-già Nang-già-la, nhất là nhằm ngăn trừ các loài chúng sinh xấu ác. Phật và đại chúng đều tán thán: –Lành thay, lành thay! Đức Thế Tôn lại đem quốc độ Ba tư phó chúc cho các vị: Thiên tử Đàn-nô-sư với năm ngàn quyến thuộc, Càn-thát-bà Câu-tỳ-la với ba ngàn quyến thuộc, Khẩn-na-la Lê-bỉ-ma-sư với một ngàn quyến thuộc, Dạ-xoa Trụ Dũng với năm trăm quyến thuộc, Dạ-xoa Na-ma-la vương với năm trăm quyến thuộc, Càn-thát-bà Am-la-đề-tha với một ngàn quyến thuộc, Khẩn-na-la Y-sa-na-thời với một ngàn quyến thuộc, Cưu-bàn-trà Kiệt-sa-câu-chi với bốn ngàn quyến thuộc, La-sát Na-la-tư với năm ngàn quyến thuộc, La-sát Ha-lê-đạt với hai ngàn quyến thuộc, tất cả các vị hãy cùng chung sức hộ trì cõi nước Ba tư, nhất là nhằm ngăn trừ các loài chúng sinh xấu ác. Phật và đại chúng cùng khen ngợi: –Lành thay, lành thay! Đức Thế Tôn lại đem quốc độ Sắc cần phó chúc cho các vị: Thiên tử Khư-lâu-na với một ngàn quyến thuộc, Càn-thát-bà Diệu Hảo với năm trăm quyến thuộc, Khẩn-na-la Đế-lợi-ca với năm trăm quyến thuộc, Dạ-xoa Tam Bát với hai vạn quyến thuộc, Dạ-xoa Bố Úy với mười ngàn quyến thuộc, Long vương Hưu Lưu Hiết với một ngàn quyến thuộc, A-tu-la Kim Nhó với một ngàn quyến thuộc, Cưu-bàn-trà Thiện Lâm Thọ với một ngàn quyến thuộc, La-sát Kim-chỉ-tát-la với năm ngàn quyến thuộc, tất cả các vị hãy cùng chung sức hộ trì cõi nước Sắc cần, nhất là nhằm ngăn trừ các loài chúng sinh xấu ác. Phật và đại chúng cùng khen ngợi: –Lành thay, lành thay! Đức Thế Tôn lại đem quốc độ Phả-da-na phó chúc cho các vị: Thiên tử Hải Bố với một ngàn quyến thuộc, Càn-thát-bà Na-trà-phù với một trăm quyến thuộc, Khẩn-na-la Mã Mục với một trăm quyến thuộc, Dạ-xoa Hoa Xỉ với hai ngàn quyến thuộc, Dạ-xoa Đại Xỉ với một ngàn quyến thuộc, Long vương Ưu-ba-la Nhó với năm trăm quyến thuộc, A-tu-la Động Thủ với một trăm quyến thuộc, Cưu-bàn-trà Giải Thoát với một trăm quyến thuộc, La-sát Nữ Chất-ma-chỉ-tát-lê với năm trăm quyến thuộc, hai La-sát Hắc Xà và Hộ Môn mỗi vị hai ngàn năm trăm quyến thuộc, La-sát Nguyệt Quang với một ngàn quyến thuộc, tất cả các vị hãy cùng chung sức hộ trì cõi nước Phả-da-na, nhất là nhằm ngăn trừ các loài chúng sinh xấu ác. Phật và đại chúng cùng tán thán: –Lành thay, lành thay! Đức Thế Tôn lại đem quốc độ Thi-lợi-da-ma phó chúc cho các vị: Thiên tử Hắc Phát với một trăm quyến thuộc, Càn-thát-bà Kim Tý với tám mươi quyến thuộc, Khẩn-na-la Phong Hương với một trăm quyến thuộc, Dạ-xoa A-lâu-na với một ngàn quyến thuộc, Dạ-xoa Bát Phát với một ngàn quyến thuộc, Long vương Thượng Dũng với một trăm quyến thuộc, A-tu-la Khoái Tác với một trăm quyến thuộc, Cưu-bàn-trà Hương Đồng với năm trăm quyến thuộc, Thiên nữ Hắc Trạch với năm trăm quyến thuộc, tất cả các vị hãy cùng chung sức hộ trì cõi nước Thi-lợi-da-ma, nhất là nhằm ngăn trừ các loài chúng sinh xấu ác. Phật và đại chúng cùng tán thán: –Lành thay, lành thay! Đức Thế Tôn lại đem quốc độ Bạt-ly-ca phó chúc cho các vị: Thiên tử Xích Đồng Sắc với tám trăm quyến thuộc, Càn-thát-bà Mị Nhãn với một trăm quyến thuộc, Khẩn-na-la Châm Hắc với một trăm quyến thuộc, Dạ-xoa Mâu Nhó với năm ngàn quyến thuộc, Long vương Y-la-yết-na với năm trăm quyến thuộc, A-tu-la Tức Ngưu với một trăm quyến thuộc, Cưu-bàn-trà A-tỳ Noa-tát-lợi với năm trăm quyến thuộc, hai Thiên nữ Trường Miêu và Diệu Thắng mỗi vị năm trăm quyến thuộc, tất cả các vị hãy cùng góp sức hộ trì cõi nước Bạt-ly-ca, nhất là nhằm ngăn chận các loài chúng sinh xấu ác. Phật và đại chúng cùng tán thán: –Lành thay, lành thay! Đức Thế Tôn lại đem quốc độ Kế-tân-na phó chúc cho các vị: Thiên tử Bố Hắc với năm mươi quyến thuộc, Càn-thát-bà Ngũ Âm với một ngàn quyến thuộc, Khẩn-na-la Thủy tính với năm trăm quyến thuộc, Dạ-xoa Hoàng Chấp với ba vạn quyến thuộc, hai Dạ-xoa Trường Sinh và Lưu Vân Giải Thoát mỗi vị hai ngàn năm trăm quyến thuộc, Long vương Hầu-la-đồ với mười ngàn quyến thuộc, A-tu-la Uất-kim với một ngàn quyến thuộc, Cưu-bàn-trà Đà-lâu-bạt-ni với năm trăm quyến thuộc, Thiên nữ chính Biện với một ngàn quyến thuộc, La-sát Nữ Viên Lâm với mười ngàn quyến thuộc, tất cả các vị cùng chung sức hộ trì cõi nước Kế-tân-na, nhất là nhằm ngăn trừ mọi loài chúng sinh xấu ác. Phật và đại chúng cùng ngợi khen: –Lành thay, lành thay! Đức Thế Tôn lại đem quốc độ Ưu-la-xa phó chúc cho các vị: Càn-thát-bà Na-la-ma với một trăm quyến thuộc, Dạ-xoa Ngũ Bố với hai ngàn quyến thuộc, Dạ-xoa Thi-lợi-sa với một ngàn quyến thuộc, tất cả các vị hãy cùng góp sức hộ trì cõi nước Ưu-la-xa, nhất là nhằm ngăn trừ mọi chúng sinh xấu ác. Phật và đại chúng cùng tán thán: –Lành thay, lành thay! Đức Thế Tôn lại đem quốc độ Khư-la-bà-la phó chúc cho các vị: Càn-thát-bà Thời-lan-na với một trăm quyến thuộc, Dạ-xoa Hoa Bảo với một ngàn quyến thuộc, Long vương Thiện Lạc Mục với một ngàn quyến thuộc, Cưu-bàn-trà Bố Nhân với năm trăm quyến thuộc, Thiên nữ Thuận Dục với một trăm quyến thuộc, tất cả các vị hãy cùng chung sức hộ trì cõi nước Khư-la-bà-la, nhất là nhằm ngăn trừ mọi chúng sinh xấu ác. Phật và đại chúng cùng khen ngợi: –Lành thay, lành thay! Đức Thế Tôn lại đem quốc độ A-sơ-cư-ca phó chúc cho các vị: Dạ-xoa Mâu-ni Khư-lợi với hai ngàn quyến thuộc, La-sát Hảo Thí với một ngàn quyến thuộc, Long vương Bà Tró với năm trăm quyến thuộc, Cưu-bàn-trà Chỉ Vân với một trăm quyến thuộc, La-sát Nữ-ha-lê-đế với một ngàn quyến thuộc, tất cả các vị hãy cùng chung sức hộ trì cõi nước A-sơ-cư-ca, nhất là nhằm ngăn trừ mọi chúng sinh xấu ác. Phật và đại chúng cùng tán thán: –Lành thay, lành thay! Đức Thế Tôn lại đem quốc độ Đạt-la-đà phó chúc cho các vị: Càn-thát-bà Bỉ-bà-đạt-lợi với một trăm quyến thuộc, ba Dạ-xoa Đạo Lộ, Hoàng Đầu và Dũng Kiện mỗi vị một ngàn quyến thuộc, Long vương Bạt-đà với hai ngàn quyến thuộc, Long vương Khổng Tước Mao với một trăm quyến thuộc, hai Thiên nữ Sinh Giải và Mao-la-xà-lợi mỗi vị hai trăm năm mươi quyến thuộc, tất cả các vị hãy cùng chung sức hộ trì cõi nước Đạt-la-đà, nhất là nhằm ngăn trừ mọi chúng sinh xấu ác. Phật và đại chúng cùng khen ngợi: –Lành thay, lành thay! Đức Thế Tôn lại đem quốc độ Phất-lê-sa phó chúc cho các vị: Hai vị Dạ-xoa Đoạt Ý và Giới Hiền mỗi vị năm trăm quyến thuộc, Long vương Vân Phúc với ba trăm quyến thuộc, Cưu-bàn-trà Ly Ác với tám mươi quyến thuộc, Thiên nữ Tao-bạt-chất-la với một trăm quyến thuộc, tất cả các vị hãy cùng chung sức hộ trì cõi nước Phất-lê-sa, nhất là nhằm ngăn trừ mọi loài chúng sinh xấu ác. Phật và đại chúng cùng tán thán: –Lành thay, lành thay! Đức Thế Tôn lại đem quốc độ Già-xa phó chúc cho các vị: Hai vị Càn-thát-bà Trì Hoa và Ma-hầu-la-già mỗi vị một ngàn quyến thuộc, hai Dạ-xoa Kim Chỉ Trì và Tỳ Trì mỗi vị hai trăm năm mươi quyến thuộc, hai Long vương Quang Chưởng và Thắng Đoạt mỗi vị năm trăm quyến thuộc, hai Thiên nữ A-lâu-ni và Hoa Mục mỗi vị hai trăm năm chục quyến thuộc, tất cả các vị hãy cùng chung sức hộ trì cõi nước Già-xa, nhất là nhằm ngăn trừ mọi chúng sinh xấu ác. Phật và đại chúng cùng khen ngợi: –Lành thay, lành thay! Đức Thế Tôn lại đem quốc độ Già-cư-ca phó chúc cho các vị: Long vương Kiếm-bà-la với năm trăm quyến thuộc, Cưu-bàn-trà Cực Ác với một trăm quyến thuộc, Tỳ-xá-già Na-chu-ba với một trăm quyến thuộc, La-sát Nữ Tinh Mục với năm trăm quyến thuộc, tướng ngạ quỷ Thiên Khải với hai trăm quyến thuộc, Dạ-xoa Hiết Ác với ba trăm quyến thuộc, tất cả các vị hãy cùng chung sức hộ trì cõi nước Già-cư-ca, nhất là nhằm ngăn trừ mọi loài chúng sinh xấu ác. Phật và đại chúng đều khen ngợi: –Lành thay, lành thay! Đức Thế Tôn lại đem quốc độ Si-đê phó chúc cho các vị: Hai Long vương Cụ Túc và Thiện Đạo mỗi vị một trăm quyến thuộc, Cưu-bàn-trà Kiên Mục với một trăm quyến thuộc, Thiên nữ Bát-tỳ-na-da-ca với một trăm quyến thuộc, hai Thiên nữ Đạo Thần và Thi-lợi mỗi vị hai trăm năm mươi quyến thuộc, hai Thiên nữ Kha Bối và An Trụ mỗi vị năm mươi quyến thuộc, tất cả các vị cùng chung sức hộ trì cõi nước Si-đê, nhất là nhằm ngăn trừ mọi loài chúng sinh xấu ác. Phật và đại chúng đều tán thán: –Lành thay, lành thay! Đức Thế Tôn lại đem quốc độ Sa-lặc phó chúc cho các vị: Thiên tử Phát Sắc với một trăm quyến thuộc, Càn-thát-bà Hộ Quốc với một trăm quyến thuộc, hai Dạ-xoa Phật Hộ và Trợ Bạc mỗi vị năm trăm quyến thuộc, Long vương Khổng Tước Hạng với một trăm quyến thuộc, Long nữ Sơn Mục với năm trăm quyến thuộc, Cưu-bàn-trà Ngật-lợi-ba-xa với năm trăm quyến thuộc, hai Thiên nữ Trì Đức và Long Hộ mỗi vị hai trăm năm mươi quyến thuộc, tất cả các vị hãy cùng chung sức hộ trì cõi nước Sa-lặc, nhất là dốc ngăn trừ mọi loài chúng sinh xấu ác. Phật và đại chúng đều tán thán: –Lành thay, lành thay! Đức Thế Tôn lại đem quốc độ Vu-điền phó chúc cho các vị: Thiên tử Nan Thắng với một ngàn quyến thuộc, đại tướng Dạ-xoa Tán-chi với mười ngàn quyến thuộc, đại Dạ-xoa Cổ Dương Cước với tám ngàn quyến thuộc, Dạ-xoa Kim Hoa Man với năm trăm quyến thuộc, Long vương Nhiệt-xá với một ngàn quyến thuộc, Thiên nữ A-na-khẩn-thủ với mười ngàn quyến thuộc, Thiên nữ Tha-nan-xà-lê với năm ngàn quyến thuộc. Ngoài ra còn có Tỳ-sa-môn Vương dốc gia hộ thần lực giúp cho các vị chung lo hộ trì quốc độ Vu-điền, nhất là nhằm ngăn trừ các loài chúng sinh xấu ác. Phật và đại chúng đều tán dương: –Lành thay, lành thay! Đức Thế Tôn lại đem quốc độ Quy tư phó chúc cho các vị: Thiên tử Mâu Khải với một ngàn quyến thuộc, đại Dạ-xoa Hoàng Đầu với một ngàn quyến thuộc, La-sát Nữ Yểm Tài với một ngàn quyến thuộc, đại Dạ-xoa Hầu Hộ với một ngàn quyến thuộc, Cưu-bàn-trà Thúc Xỉ với một ngàn quyến thuộc, hai La-sát Thi-lợi-già-trá và Lộc Xỉ mỗi vị năm trăm quyến thuộc, tất cả các vị hãy cùng chung sức hộ trì cõi nước Quy Tư, nhất là nhằm ngăn trừ mọi loài chúng sinh xấu ác. Phật và đại chúng đều tán thán: –Lành thay, lành thay! Đức Thế Tôn lại đem quốc độ Bà-lâu-ca phó chúc cho các vị: Dạ-xoa Khiên Trà với một ngàn quyến thuộc, Cưu-bàn-trà A-bà-ca-lợi với một trăm quyến thuộc, La-sát Thùy Nhũ với một ngàn quyến thuộc, tất cả các vị hãy cùng chung sức hộ trì cõi nước Bà-lâu-ca, nhất là nhằm ngăn trừ các loài chúng sinh xấu ác. Phật và đại chúng cùng tán thán: –Lành thay, lành thay! Đức Thế Tôn lại đem quốc độ Hề-chu-ca phó chúc cho các vị: Càn-thát-bà vương Hoạt với năm trăm quyến thuộc, Long vương Hề-ty-la với một trăm quyến thuộc, tất cả các vị hãy cùng chung sức hộ trì cõi nước Hề-chu-ca, nhất là dốc sức ngăn trừ các loài chúng sinh xấu ác. Phật và đại chúng đều tán dương: –Lành thay, lành thay! Đức Thế Tôn lại đem quốc độ Ức-ni phó chúc cho các vị: Đại tướng Dạ-xoa Dũng Kiện Chấp Lỏa với một ngàn quyến thuộc, Long vương Tượng Nhó với ba ngàn quyến thuộc, hai La-sát Nữ Cát-ca-tri và Tuyết Trì mỗi vị hai ngàn năm trăm quyến thuộc, tất cả các vị hãy cùng chung sức hộ trì cõi nước Ức-ni, nhất là dốc sức ngăn trừ các loài chúng sinh xấu ác. Phật và đại chúng đều khen ngợi: –Lành thay, lành thay! Đức Thế Tôn lại đem quốc độ Thiện thiện phó chúc cho các vị: Thiên tử A-la-tri với một trăm quyến thuộc, Dạ-xoa A-sa-ca với năm ngàn quyến thuộc, La-sát Nữ Vô Trước với mười ngàn quyến thuộc, tất cả các vị hãy cùng chung sức hộ trì cõi nước Thiện thiện, nhất là nhằm ngăn trừ các loài chúng sinh xấu ác. Phật và đại chúng đều khen ngợi: –Lành thay, lành thay! Đức Thế Tôn lại đem quốc độ Khẩn-na-la phó chúc cho các vị: Đại Dạ-xoa Xích Mục với mười ngàn quyến thuộc, Cưu-bàn-trà Bất Động với một ngàn quyến thuộc, tất cả các vị hãy cùng dốc tâm hộ trì cõi nước Khẩn-na-la, nhất là nhằm ngăn trừ các loài chúng sinh xấu ác. Phật và đại chúng cùng tán thán: –Lành thay, lành thay! Đức Thế Tôn lại đem quốc độ Chấn Đán phó chúc cho các vị: Thiên tử Tỳ-thủ-yết-ma với năm ngàn quyến thuộc, đại tướng Dạ-xoa Ca-tỳ-la với năm ngàn quyến thuộc, các vị đại tướng Dạ-xoa: Pháp Hộ, Kiên Mục, Đại Mục, Dũng Kiện Quân, Ma-ni-bạt-đà, Hiền Mãn, Trì Uy Đức, A-đồ-bạt-câu, Bát-chi-ca, mỗi vị đại tướng với năm ngàn quyến thuộc. Các vị Long vương: Bà-tu-cát, Tu-ma-na Quả, Phất-sa-tỳ-ma, mỗi vị với năm ngàn quyến thuộc, Quỷ Tử Mẫu Thiên Ha-lê-đế với năm ngàn quyến thuộc, đại Thiên nữ Y-la-bà-thư với năm ngàn quyến thuộc, đại Thiên nữ Song Đồng Mục với năm ngàn quyến thuộc, tất cả các Hiền thủ phải dốc sức cùng nhau lo việc hộ trì cõi nước Chấn Đán, nhằm dứt trừ hết thảy mọi sự việc quấy hại, tranh giành, thù oán, phẫn nộ, kiện cáo, hai bên giao chiến, đói khát, bệnh dịch, các hiện tượng gió mưa trái thời, lạnh nóng thất thường. Lại cũng nhằm ngăn trừ các loài chúng sinh bất thiện, xấu ác, các trường hợp sân hận, thô bạo, khổ não bức bách, mọi sự vật không đem lại an lành, nhờ đấy Pháp nhãn của ta được trụ thế lâu bền, dòng Tam bảo luôn được nối tiếp không bị đoạn tuyệt, ba thứ khí chất tinh thuần luôn được tăng trưởng, chư Thiên, chúng nhân đạt được nhiều lợi ích, an vui. Chính do nhân duyên ấy mà chư vị ở đời này cũng như đời sau luôn được an lạc. Các vị Thiên tử, đại tướng Dạ-xoa, Long vương, Thiên nữ đều cùng thưa: –Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Chúng tôi cùng xin dốc lòng hộ trì cõi nước Chấn Đán, nhằm dứt trừ hết thảy mọi hiện tượng tranh giành xâu xé, cho đến công việc làm tăng trưởng ba thứ khí chất tinh thuần. Đối với chúng Thanh văn đệ tử của Đức Thế Tôn không ham nẻo tích tụ của thế tục, tinh tấn tu tập, ba nghiệp luôn tương hợp với chính pháp, thì chúng tôi càng dốc sức hộ trì nuôi dưỡng bội phần. Đức Phật tán thán: –Lành thay, lành thay! Này thiện nam! Chư vị nên dốc tâm hộ trì chính pháp của ta như thế. Hết thảy chư vị đến dự pháp hội hiện có nơi đại chúng cũng đều tùy hỷ và tán dương: –Lành thay, lành thay! Đức Phật nói: –Này chư vị nhân giả! Ta đã đem tất cả các quốc độ trong cõi Diêm-phù-đề phó chúc cho chư Thiên cùng các vị Càn-thát-bà, Khẩn-na-la, Dạ-xoa, Long vương, A-tu-la, Cưu-bàn-trà, chư Thiên nữ… Hết thảy chư vị được phó chúc ấy đều nên gắng sức thực hiện tốt công việc hộ trì nuôi dưỡng mọi loài chúng sinh. Vì thế mà chư vị nên rõ là còn một số đông các vị Long vương chẳng được phân công. Đó là các vị Long vương: Sa-già-la, A-na-bà-đạp-đa, Y-la-bạt, Bà-lâu-na, Thiện Trụ, Đức-xoa-ca, Hằng Hà, Tân-đầu, Bác-xoa, Tư-đà, Đề-thủ-ni, Ma-hê-mô-già-lợi, Kim Hiếp, Bạt-trí-tô-đa, Phất-bà-bát-xa, Chúng Sắc Vân, Câu-na-bạt-đế, A-tư-đa, Già-di-la, Hương Sơn, Na-la-diên Diện, Bà-bà-mâu-chi, Na-đà-xoa, nói chung là khoảng một trăm tám mươi vạn chư vị đại Long vương như vậy, trụ nơi cõi Diêm-phù-đề chẳng được phân, các vị ấy phải nên tỏ ra hiểu biết, nhẫn nại, chớ hờn giận. Chư vị đều trụ nơi cung điện vốn có của mình để góp phần hộ trì nuôi dưỡng chính pháp của ta, sẽ tạo được nhiều lợi ích cho mọi loài chúng sinh. Do từ nhân duyên ấy mà chư vị ở đời này cũng như đời sau luôn thực hiện được tự lợi và lợi tha. Vì sao? Vì các chúng chư Thiên, Long, Càn-thát-bà, Khẩn-na-la, Dạ-xoa, A-tu-la, Cưu-bàn-trà, Thiên nữ, La-sát ấy đã tùy theo các quốc độ vốn là trú xứ từ xưa của mình để được phân công phó chúc. Chư vị Thiên, Long, cho đến chư Thiên nữ, vì nhằm hộ trì bao nhiêu là quốc độ nên cũng dốc sắp đặt, ổn định để nuôi dưỡng hết thảy mọi chúng sinh, vì thế mà một số đông các vị đại vương Dạ-xoa đã không được phân. Đó là các vị Dạ-xoa vương: Tiễn Mao, Xa-la-tỳ, Ca-trá-thủ-lợi, Bà-la-mục-xí, Bà-la-tró, Bà-ma-la, Kỳ-lê-ca-trá, Do-thê-ca, Kỳ-lê-ha, Mãn Diện, Ca-xa-tỳ-đề, Hộ Quốc, Lâu-ca, Tiễn Trảo, Ba-na-lưu-chi, Lang-trảo, Sư Tử Bố, A-lâu-ni, Tu-la-xà-tỳ, A-trà-xà-lê, Đắc-xoa-lê-sư, Khôi Thủ, Tô-ma-na-hổ, La-ma-na-thì, Ác-xoa-ni-khí-la, Chất-đa-la, Phật-hộ, nói chung là có đến tám tần-bà-la chư vị đại tướng Dạ-xoa như thế, nương tựa nơi cõi Diêm-phù-đề thông qua vô số các đền chùa, vườn cây, ao suối, núi non, rừng rậm, bóng mát… để an trụ mà không được phân. Các vị ấy phải nên hiểu biết, nhẫn nại, chớ nên nóng giận. Tùy theo nơi chốn trú ngụ vốn có của mình, các vị hãy góp sức hộ trì nuôi dưỡng chính pháp của ta, nhằm đem lại lợi ích, an lạc cho muôn loài chúng sinh. Do từ nhân duyên đó mà các vị ở đời này cũng như đời sau luôn thực hiện tốt công việc tự lợi và lợi tha. Vì sao? Vì các chúng chư Thiên, Long, Càn-thát-bà, Khẩn-na-la, Dạ-xoa, A-tu-la, Cưu-bàn-trà, Thiên nữ, La-sát nữ ấy, đã tùy theo các quốc độ vốn là trú xứ từ xưa của mình để được phân công, phó chúc. Chư vị Thiên, Long, cho đến các vị Thiên nữ, vì nhằm hộ trì hàng loạt các quốc độ nên cũng dốc sức sắp đặt ổn định để nuôi dưỡng hết thảy mọi loài chúng sinh, vì vậy mà còn một số đông các vị A-tu-la vương chưa được phân. Đó là các vị A-tu-la vương: La-hầu-la, Tỳ-ma-chất-đa-la, Ba-la-đà, Siểm-bà-lợi, Mâu-chân-lân-đà, Tu-chất-đa-la, Bạt-tró-tỳ-lư-già-na, Tất-lợi-la-kỳ, Y-la-bạt-chi, Cù-ma-xà-tỳ, Tỳ-trà-xoa, Na-da-già-lợi, Già-xà-di-la, Sơ-la-đàn-trà, A-tư-mạt-la, Ca-ma-trật-tri, Bà-la-càn-đồ, Tất-tha-ma-ni, Ba-la-na-khư, Tát-bà-ương-già-xoa, Ngật-xa-bà-hầu, đại để có tới sáu vạn na-do-tha A-tu-la vương trụ nơi cõi Diêm-phù-đề chưa được phân. Các vị ấy phải nên hiểu biết, nhẫn nhục, chớ nên hờn giận, đều an trụ nơi các cung điện vốn có của mình góp sức hộ trì nuôi dưỡng chính pháp của ta, sẽ đem lại được nhiều lợi ích cho cuộc sống của mọi loài chúng sinh. Do từ nhân duyên ấy mà các vị ở đời này cũng như đời sau luôn thực hiện tốt công việc tự lợi và lợi tha. Vì sao? Vì các chúng chư Thiên, Long, Càn-thát-bà, Khẩn-na-la, Dạ-xoa, A-tu-la, Cưu-bàn-trà, Thiên nữ, La-sát nữ ấy, đã tùy theo các quốc độ vốn là trú xứ từ xưa của mình để được phân công, phó chúc. Chư vị Thiên, Long, cho đến các vị Thiên nữ vì dốc hộ trì bao nhiêu là các quốc độ, nên cũng dốc sắp đặt ổn định để nuôi dưỡng mọi loài chúng sinh, vì thế mà còn một số khá đông chư vị đại Thiên nữ chẳng được phân, các vị này phải nên tỏ ra hiểu biết, nhẫn nhục, chớ hờn giận. Đó là các vị Thiên nữ: Hiết Đại, Tao Quang, Địa Giải, Tăng Hộ, Giải Thoát, Tăng Thủy, Thiểu Nhiệt, Tịnh Mục, Nhiêu Tài, Bảo Tạng, Ma-ni Trảo, Hắc Thằng, Tùy Thời, Vương Đỉnh, Thiên Thủy, Nhãn Mục, Liên Hoa, Ưu-đàm-bà-la, Xa-thi, Minh Cự Mục, Thiện Ý, Nan Thắng, Thắng Mục, đại thể là có đến sáu mươi hai trăm ngàn các vị đại Thiên nữ như thế, nương tựa nơi cõi Diêm-phù-đề thông qua vô số các đền tháp, chùa chiền, thành ấp, làng xóm, vườn cây, suối ao, núi hang, biển rộng… để an trụ nhưng chưa được phân công. Các vị ấy sẽ tùy theo những nơi chốn trú xứ của mình góp sức vào việc hộ trì nuôi dưỡng chính pháp của ta, cũng là nhằm dứt trừ mọi sự kiện đáng lo sợ như tranh giành, thù oán, đói khát, bệnh dịch, giặc địch xâm lấn, các hiện tượng mưa gió trái thời, nóng lạnh thất thường, nhất là dốc ngăn trừ mọi loài chúng sinh xấu ác, mọi nẻo sân hận, bạo độc khổ não bức bách, mọi sự vật không đem lại an lành cho bao loài… nhờ đấy khiến cho Pháp nhãn của ta được trụ thế lâu bền, dòng Tam bảo được nối tiếp không bị đoạn tuyệt, ba thứ khí chất tinh thuần luôn được tăng trưởng ngày một phong phú, đem lại lợi ích an lạc cho chư Thiên, chúng nhân, vì thế phải luôn tinh cần gia thêm sự hộ trì nuôi dưỡng. Do từ nhân duyên đó chư vị nơi đời này cũng như đời sau luôn tạo được lợi ích an lạc cho mọi chúng sinh. Lúc này, sáu mươi hai trăm ngàn chư vị Thiên nữ kể trên cùng thưa với Đức Phật: –Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Chúng tôi xin dốc sức góp phần hộ trì nuôi dưỡng Phật pháp, nhằm dứt trừ mọi nẻo tranh giành xâu xé, làm tăng trưởng hết thảy ba thứ khí chất tinh thuần, nhất là đối với các chúng Thanh văn đệ tử của Đức Thế Tôn không ham nẻo tích tụ nơi thế gian, tinh tấn tu tập, ba nghiệp luôn hòa hợp với đạo pháp, thì chúng tôi càng dốc tâm hơn trong việc hộ trì nuôi dưỡng ấy. Đức Phật nói: –Lành thay, lành thay! Đúng là chúng Thiện nữ! Chư vị hãy nên thực hiện công việc hộ trì như vậy. Chư vị đến dự pháp hội hiện có mặt nơi đại chúng cũng đều tùy hỷ và tán thán: –Lành thay, lành thay! Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói với hết thảy các chúng chư Thiên, Long, Càn-thát-bà, cho đến các vị đại Thiên nữ: –Này chư vị nhân giả! Hôm nay ta trao cho các vị pháp đại Đà-la-ni tâm nhằm dứt trừ mọi thứ tranh tụng. Chư vị thực hiện pháp Đà-la-ni tâm ấy, nơi mỗi quốc độ của chính mình, sẽ giúp điều chỉnh mọi hiện tượng tinh tú lệch hướng, thu phục mọi chúng sinh khiến họ có được lòng kính tin chính pháp, dứt trừ mọi cảnh tranh giành xâu xé. Đức Phật nói xong thì liền đọc chú: “Đá địa dạ tha. Ma đà na. Ma đà na. Cu ma đà na. A bà ma đa. A hề ma đa. Ma đà na khư. A soa ma để ba la. Xa ma đế. A lî bà tam ma ma đế ni khư ma đế. Ba xa ma đế. Tô già la noa ma đế a tỳ ma đế. A la tỳ bà ma đế. Tất đà át tha ma đế. Xoa bà ma đế. Tô bà ha”. Lúc này, vị chủ thế giới Ta-bà là Đại phạm Thiên vương, liền rời chỗ ngồi đứng dậy hướng về Đức Phật, chắp tay cung kính đảnh lễ và thưa: –Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Tôi nay cũng xin nêu pháp đại Đà-la-ni, nhằm hàng phục các chúng Long cùng quỷ thần xấu ác để hộ trì quốc độ, ngăn trừ hết thảy mọi chúng sinh xấu ác. Đại phạm Thiên vương nói xong tức thì đọc chú: “Đá địa dạ tha. Đàm vô la mâu lâu la mâu lâu. Na già mâu lâu. Na già mâu lâu. A tẩu la mâu lâu. Dược xoa mâu lâu. Cưu bàn trà mâu lâu. Phú đan na mâu lâu. Ca trá phú đan na mâu lâu. A da bà mâu lâu hầu ha hầu ha mâu lâu. Ha ha ha ha. Mâu trù đế dược xoa mâu lâu la bà ha la bà ha. La bà ha. Tát bà ô xà la bà ha. Tô bà ha”. Bấy giờ, hết thảy các chúng hiện có như chư Thiên, Long vương, Cưu-bàn-trà, Ngạ quỷ, Tỳ-xá-già, Phú-đơn-na, Ca-trá phú-đơn-na chuyên ăn uống máu thịt các loài khác, thảy đều kinh hoàng, hoảng sợ, lo buồn sầu não, nên hướng về Đức Phật cung kính đảnh lễ ngang chân Phật và thưa: –Kính thưa Đức Thế Tôn! Kính mong Thế Tôn với lòng đại Bi xin che chở giúp đỡ, khiến chúng tôi vẫn được tồn tại, sinh hoạt như trước. Đức Phật nói: –Các ngươi chớ nên quá lo buồn sầu não! Mọi thứ hiện có nơi đại địa như hoa quả, năm thứ lúa thóc hoa màu, các thứ dược thảo với mùi vị thanh tịnh, kể cả những thứ ấy chưa được dùng nên rơi rụng nơi đất cát bờ bãi. Như thế là những khí chất tinh thuần của các thứ hoa quả, dược thảo kể trên hoàn toàn đủ cho các ngươi sử dụng đem lại sự sống cho mình. Như lại có những chúng nhân tạo ra những món ăn thanh tịnh để lại nơi những bờ đất bãi cát, các ngươi cũng được sử dụng phần khí chất tinh thuần đó mà được no đủ. Còn có trường hợp các chúng Thanh văn đệ tử của ta tu tập thiền định, đem căn lành của chính họ chú nguyện, thì các ngươi cũng sẽ thêm được sức mạnh nơi thể lực, tinh khí thêm dồi dào, quyến thuộc, bạn bè cũng được tăng thêm về mọi mặt. Hoặc có các hàng thí chủ hiến cúng cho những đệ tử của ta nào chùa chiền, vườn cây, ruộng đất nhà cửa, được nêu tên chú nguyện, thì các ngươi nên đối với các nơi chốn ấy bày tỏ sự tùy hỷ cùng hộ trì nuôi dưỡng, chính từ sự việc đó mà những cung điện trú xứ của các ngươi sẽ được tăng trưởng. Như có các hàng thí chủ hiến cúng cho các chúng đệ tử của ta những đồ ăn uống, y phục, dụng cụ để nằm, thuốc men và trong lúc thọ nhận đã nêu tên chú nguyện, thì các ngươi cũng bày tỏ sự tùy hỷ. Do sự tùy hỷ của các ngươi về công việc chú nguyện kia mà các ngươi liền có được mọi sự tăng trưởng về thọ mạng, ước nguyện, an lạc, bạn bè quyến thuộc, cùng uy lực. Như vậy là các ngươi ngày đêm phải nên tinh cần hộ trì nuôi dưỡng các hàng thí chủ cùng với người thọ nhận như trên. Bấy giờ Đức Thế Tôn, nhằm làm sáng tỏ thêm những ý nghĩa trên, nên đọc kệ: Đại Pháp vương lưỡng túc Xem đại chúng và nói Đế Thích, ông hỏi ta Đều tùy theo sự phân. Thiên, Long, Cưu-bàn-trà Dạ-xoa, Tu, La-sát Các nước cõi Diêm-phù Mọi thành ấp, làng xóm. Rừng cây cùng đồng ruộng Núi động ao hồ suối Pháp nhãn được trụ bền Mọi ác khiến trừ dứt. Thảy sung túc, an vui Vì chốn Diêm-phù-đề Quỷ thần trong bốn cõi Phó chúc dốc hộ trì. Các ngươi rời quyến thuộc Ta nay lại phân bố Chớ sân hận ganh ghét Nên bày tỏ tùy hỷ. Chúng chư Thiên sống nhờ Vị pháp, hỷ, thiền định Hết thảy đều đứng dậy Cùng thưa với Đức Phật: Chúng tôi vì chính pháp Hộ trì Diêm-phù-đề Thanh văn trì giới đủ Chẳng ham nẻo tích tụ. Cạo tóc chẳng giữ giới Muốn khiến Pháp nhãn tăng Chúng tôi đều dốc tâm Hộ trì cùng nuôi dưỡng. Bậc Đạo Sư nêu rõ: chính pháp sau ta mất Đủ trong năm trăm năm Bền vững trụ giải thoát. Năm trăm năm thiền tụng Năm trăm năm tạo tháp Sau đấy năm trăm năm Xảy ra bao giành giật. Thời ấy kẻ cạo tóc Phá giới không hổ thẹn Cúng dường cho hạng ấy Cũng đạt phước vô lượng. Thí như vàng vô giá Trừ vàng đến bạc quý Thâu thạch cùng đồng sắt Bạch lạp và thiếc, chì. Thế gian không vật báu Chì, sắt là hơn hết Phật bảo cũng như thế Là Tối tôn bậc nhất. Thứ đến Bích-chi-phật La-hán chứng đạo quả Đạt định, trì giới tịnh Tăng tên gọi, không giới. Thâm tín cầu giải thoát Nên nhận mọi cúng dường Không lâu trụ địa nhẫn Tất chóng chứng Bồ-đề Các Thiên tử Lục dục Cõi báu các quỷ thần Càn-thát-bà trụ rừng Nơi biển mười đại Long. Mười đại Cưu-bàn-trà Dạ-xoa mười thần thông Đều trụ cung điện cũ Hộ trì chính pháp ta Ngạ quỷ chủ bãi vắng Tỳ-xá-già nhà không Phú-đan nương đồng ruộng Ca-trá trú mả gò. Như thế đều tùy hỷ Nương phần đều hộ trì Theo phần chẳng dốc hộ Lại não hại mọi người. Ta đem những chốn ấy Chuyển giao cho chúng khác Các chúng Long, Dạ-xoa Càn-thát, Khẩn-na-la Thiên nữ cùng Tu-la La-sát, Cưu-bàn-trà. Đều khắp các quốc độ Sắp đặt, giữ, nuôi dưỡng Ca-tỳ, Ba-la-nại Ma-già, Câu-tát-la. Bát-già cùng Ương-già Tô-ma, A-thấp-bà Ma-thâu và Chi-đề Bà-sa cùng Da-da. La-trá, Ưu-thiền-ni La-sả, Thâu-lư-na Nước Ma-ni-thiêm-bỉ Càn-đà, Ba-trá-na. Bát-đề, Bà-lâu-đế Bạt-ni, Tất-đô-na Chiêm-ba, Bát-phù-nị. Phú-lâu-sa-phú-la Ô Tràng, Ký-tát-lê Kim tính, Ma-đô-la Cõi Ba Tư, Sắc Cần Bát-già Nang-già-la. Nước Thi-lợi, Da-ma Phả-da, Tẩu-lợi-ca Kế Tân cùng Bạt-lợi Khư-la, Ưu-la-xa. Nước Già-xa, Già-cư Đạt-la, Phất-ly-xa Si-đề cùng Sa-lặc Bà-lâu, Hề-chu-ca. Vu-điền và Thiện Hiện Quy Tư, Khẩn-na-la Chấn Đán, các quốc độ Hộ trì khiến ổn định. Nơi hết thảy các nước Chúng Long không được phân Một trăm tám mươi vạn Chúng Dạ-xoa không phân. Cùng tám tần-bà-la Tu-la chẳng được phân Sáu vạn na-do-tha Các Thiên nữ chẳng phân. Sáu mươi hai trăm ngàn Ta nay thảy khuyên nhủ Đều trụ cung điện trước Hộ trì chính pháp ta. Sẽ trao thần chú này Ngăn trừ chúng sinh ác Dứt hẳn mọi não hại Cùng bao nẻo tranh giành. Nắng hạn cùng lụt lội Bệnh dịch và giặc cướp Ba tinh khí luôn tăng Mọi xấu ác đều diệt. Hộ trì chính pháp ta Dòng Tam bảo thêm rạng Chúng Tỳ-kheo, Thanh văn Ba nghiệp luôn hòa hợp. Cạo tóc, chẳng giữ giới Tất cả đều hộ trì Vì chúng Thanh văn ấy Đều rời mọi nhà ruộng. Ăn uống và thuốc thang Mọi vật dụng cần thiết Các thí chủ như thế Các ngươi nên hộ trì. Kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập <卷 id="117157932">Quyển 56 Hán dịch: Đời Cao Tề, Tam tạng Na-liên-đề-da-xá, người Thiên Trúc. <詞 id="117157933">Phẩm 15: Nguyệt Tạng <章 id="117157934">Phần 18: Các tinh tú thâu tóm hộ trì các quốc độ Bấy giờ, Đức Phật nói với vị chủ thế giới Ta-bà là Đại phạm Thiên vương cùng Thích Đề-hoàn Nhân và bốn Thiên vương: –Này chư vị! Các bậc Thiên tiên thời quá khứ đã phân bố sắp đặt như thế nào đối với các nhóm tinh tú tỏa sáng để hộ trì tổng quát các quốc độ góp phần nuôi dưỡng muôn loài? Chủ thế giới Ta-bà Đại phạm Thiên vương, Thích Đề-hoàn Nhân cùng bốn Thiên vương thưa: –Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Chư vị Thiên tiên quá khứ đã phân bố sắp đặt ổn định về các nhóm tinh tú soi sáng, nhằm hộ trì khắp hết các quốc độ cùng nuôi dưỡng chúng sinh, ở trong bốn phương đều phân công giữ phần chủ trị. Về phương Đông gồm bảy vị tinh tú: 1.Sao Giác chủ trị đối với các loài chim chóc. 2.Sao Cang chủ trị nơi những người xuất gia dốc cầu đạo Thánh. 3.Sao Đê chủ trị về các chúng sinh sinh sống ở nước. 4.Sao Phòng chủ trị về hạng sử dụng xe cộ cầu lợi. 5.Sao Tâm chủ trị đối với giới nữ. 6.Sao Vó chủ trị đối với các chúng sinh sinh sống nơi cồn bãi. 7.Sao Cơ chủ trị nơi những người chuyên về đồ gốm, sứ. Về phương Nam gồm bảy vị tinh tú: 1.Sao Tỉnh chủ trị về những người chuyên nghề kim hoàn, rèn đúc binh khí. 2.Sao Quỷ chủ trị đối với hết thảy các bậc quốc vương, đại thần. 3.Sao Liễu chủ trị nơi Tuyết sơn và loài rồng. 4.Sao Tinh chủ trị đối với hạng cự phú trong thế gian. 5.Sao Trương chủ trị đối với đám giặc giã, trộm cướp. 6.Sao Dực chủ trị đối với hạng quý nhân. 7.Sao Chẩn chủ trị đối với nước Tu-la-trá. Về phương Tây gồm bảy vị tinh tú: 1.Sao Khuê chủ trị về những kẻ đi thuyền bè. 2.Sao Lâu chủ trị về hạng buôn bán. 3.Sao Vị chủ trị đối với quốc độ Bà-lâu-ca. 4.Sao Mão chủ trị về loài trâu bò. 5.Sao Tất chủ trị về hết thảy chúng sinh. 6.Sao Tuy chủ trị đối với quốc độ Bỉ-đề-ha. 7.Sao Sâm chủ trị đối với tầng lớp Sát-lợi. Về phương Bắc gồm bảy vị tinh tú: 1.Sao Đẩu chủ trị nơi quốc độ Kiêu-bộ-sa. 2.Sao Ngưu chủ trị đối với hàng Sát-lợi cùng quốc độ An-đa-bát-kiệt-na. 3.Sao Nữ chủ trị đối với quốc độ Ương-già-ma-già-đà. 4.Sao Hư chủ trị nơi quốc độ Bát-già-la. 5.Sao Nguy chủ trị đối với hạng nổi tiếng trong nghề trồng hoa, làm các vật dụng bằng hoa. 6.Sao Thất chủ trị các quốc độ Càn-đà-la, Thâu-lư-na cùng với các loài rồng rắn bó sát. 7.Sao Bích chủ trị về chúng Càn-thát-bà chuyên giỏi lãnh vực âm nhạc. Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Các bậc Thiên tiên quá khứ đã bố trí sắp đặt các vị tinh tú trong bốn phương là như thế để dốc lo về việc hộ trì các quốc độ cùng nuôi dưỡng chúng sinh. Lúc này Đức Phật nói với các vị Phạm vương: –Chư vị hãy lắng nghe! Ta đối với chư Thiên tiên, chúng nhân trong thế gian, về tất cả mọi tri kiến đều là bậc thù thắng, tối thượng, nên cũng sai khiến các nhóm tinh tú soi sáng dốc hộ trì những quốc độ cùng nuôi dưỡng muôn loài. Chư vị hãy nêu bày rõ cho các vị tinh tú được biết về chỗ các quốc độ chúng sinh đã được ta phân, mỗi mỗi vị hãy theo đấy mà dốc hộ trì nuôi dưỡng. Đại Phạm vương và chư vị Phạm vương cùng thưa: –Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Chúng tôi xin vâng theo lời chỉ giáo. Đức Phật nói với các vị Phạm vương: –Ta nay đem mười hai quốc độ sau đây: Vu-ma, Đà-lâu, Tất-chi-na, Nại-ma-đà, Đà-la-đà, Khư-sa, La-khư, Xa-ma, Hầu-la-bà, Xá-đầu-ca, Át-xà-bà, Một-già-ba, phó chúc cho sao Giác lo việc hộ trì tổng quát cùng nuôi dưỡng muôn loài, cũng dốc sức hộ trì cho “mặt trời của sao Giác” trong việc tạo dựng quốc độ, thành ấp, xóm làng cùng sự sinh sôi của muôn loài. Chư vị hãy nêu rõ cho sao Giác được biết. Chư vị Phạm vương cùng thưa: –Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Đúng như vậy! Chúng tôi xin vâng theo lời chỉ dạy. Đức Phật lại nói với chư vị Phạm vương: –Ta nay đem mười quốc độ sau đây: A-la-đồ, Ha-lợi-na, Thúc-ca-la, Ba-lư-la, Phất-lợi-xa, Na-ma-đế, Câu-trí-sa, Tô-na-bà, Xa-ma, Bạt-đà-bà, phó chúc cho sao Cang thâu tóm lo việc hộ trì, nuôi dưỡng muôn loài. Chư vị Phạm vương đều vâng theo lời chỉ dạy. Đức Phật lại nói với chư vị Phạm vương: –Ta nay đem mười ba quốc độ sau đây: Khư-sưu-ca, Tín-đầu-bà-trì, A-ma-lợi, Dư-ni-mục-khư, Nan-đà-bà, Già-sa, Bạt-sử-câu-xà, Do-bà-ca, Bà-khư-la, Sa-bà-la, Già-lâu-đồ, Cưu-trù-ca, Bà-già-lợi-bà, phó chúc cho sao Đê thâu tóm lo việc hộ trì, nuôi dưỡng muôn loài. Chư vị Phạm vương đều vâng theo lời chỉ giáo. Đức Phật lại nói với chư vị Phạm vương: –Ta nay đem mười một quốc độ sau đây: Ba-đầu-ma, Phất-sắc-ca-la, Mục-đế, Tung-già-ma, Kỳ-lợi, Bất-ma-bà, Nam-kỳ-lợi, Già-ba-la, Tu-đế-đạt-xa, Đề-bà-na, Hề-chu-ca, phó chúc cho sao Phòng thâu tóm lo việc hộ trì, nuôi dưỡng muôn loài. Chư vị Phạm vương đều vâng theo lời chỉ dạy. Đức Phật lại nói với chư vị Phạm vương: –Ta nay đem mười quốc độ sau đây: Hầu-la-bà, Cưu-la-bà, Mâu-la-bà, Năng-già-bà, Tô-đề-thát, Cưu-tri-ca, Thiên vương, Tỳ-na-bà, Ba-sưu-đa, Hề-ca, phó chúc cho sao Tâm thâu tóm lo việc hộ trì, nuôi dưỡng muôn loài. Chư vị Phạm vương đều vâng theo lời chỉ giáo. Đức Phật lại nói với chư vị Phạm vương: –Ta nay đem mười bốn quốc độ sau đây: Già-xà-phất, Ca-la-bà, Ca-ca-ba-tha, Tất-đà-xoa, Uất-sắc-trá-la-bà, Đế-la-nam, A-la-tỳ, Na-bà, Phất-sắc-ca-la-bà, Ma-đâu-lợi, Ca-lâu-già-bạt-đế, Ma-vu-đạt-lợi, Tất-khương-xà, Bát-lợi-tê-la-bà, phó chúc cho hai sao Vó và sao Cơ thâu tóm chung lo công việc hộ trì, nuôi dưỡng muôn loài. Chư vị Phạm vương đều vâng theo lời chỉ giáo. Đức Phật lại nói với chư vị Phạm vương: –Ta nay đem mười bảy quốc độ sau đây: Bà-sa, Ưu-thiền-ni, Ưu-lâu-tân-loa, Thâu-ni-bát-đa, Ma-đồ-bà, Tỳ-sử-noa-đề-ba, Già-la-yết-ba, Bà-la-chước-ca-la, La-ma-già-ma, Ca-thi-phất, Cưu-lâu-sa, Đà-tu, Lư-hê-đa, A-đà-đà-đồ, Đế-noa-bàn-na, Già-đạt-na, Tỳ-già-xà, phó chúc cho sao Tỉnh thâu tóm lo công việc hộ trì, nuôi dưỡng muôn loài. Chư vị Phạm vương đều vâng theo lời chỉ giáo. Đức Phật lại nói với chư vị Phạm vương: –Ta nay đem hai mươi lăm quốc độ sau đây: Ba-trá-lợi-phất, Ma-ni-lam-bà, Bà-lâu-na, Na-già-la, Yết-na, Bắc Bát-già-la, Đế-bạt-noa, Ta-la-sa, Chiêm-ba, Tô-đô-na, Cưu-lâu-sai-đa, Tây địa, phú-lâu-sa-phú-la, Hầu-di-đan, Lam-ma-bà, Cù-la, Hề-ma, Xà-da-ba-thê, Bà-cầu-di, Hằng hà môn, Đầu-bà-la-bà-đế, Chiêm-đạt-la-bạt-đế, Bà-lâu-ca-xa, Tô-ni-khí, Cù-sa-bạt-đế, phó chúc cho sao Quỷ thâu tóm lo việc hộ trì, nuôi dưỡng muôn loài. Chư vị Phạm vương đều vâng theo lời chỉ giáo. Đức Phật lại nói với chư vị Phạm vương: –Ta nay đem mười quốc độ sau đây: Ký-tát-lê, Ma-ha-ni-thê, Ô-tràng, Tu-ni-khí, Ba-la-bà, Ưu-la-bà, Âu-đồ, Ni-khư, Càn-đồ-ba-la-bà, Bà-ký-đa, phó chúc cho sao Liễu thâu tóm lo việc hộ trì, nuôi dưỡng muôn loài. Các vị Phạm vương đều vâng theo lời chỉ giáo. Đức Phật lại nói với chư vị Phạm vương: –Ta nay đem mười hai quốc độ sau đây: A-bỉ-già, Tô-bạt-noa, Xà-trá, Kim tính, Ma-đâu-la, Tỳ-ma-thi-lợi, Kiểm-bà-lâu-già, Tô-lê, Bà-cầu-già, Tân-đầu-la-bà, Bà-la-na, Bát-già-nang-già-la, phó chúc cho sao Tinh thâu tóm lo việc hộ trì, nuôi dưỡng muôn loài. Các vị Phạm vương đều vâng theo lời chỉ giáo. Đức Phật lại nói với chư vị Phạm vương: –Ta nay đem mười bốn quốc độ sau đây: Ba-tư, Ha-lợi-đà, Sắc cần, A-ma-la, Bà-la-bà, Tô-ma-ni-khí, Phả-da-na, Tam-mâu-già, Thi-lê-sa, Bà-lợi, Già-nâu-sa, Ma-già, Đâu-khư-la, Ma-đầu-sư-lợi, phó chúc cho hai sao Trương và sao Dực thâu tóm cùng chung lo việc hộ trì, nuôi dưỡng muôn loài. Chư vị Phạm vương đều vâng theo lời chỉ giáo. Đức Phật lại nói với chư vị Phạm vương: –Ta nay đem mười hai quốc độ sau đây: Già-la-bà-la, Ưu-la-xa, Kế-sử-noa, Bà-kỳ, Đàn-đa-ma-lợi, Bà-lâu-già, Đà-đồ, Đạt-noa, Tẩu-mâu-ký-xa, Cưu-luận-già-sa, khư-la-bà-la, A-sơ-câu-ca, phó chúc cho sao Chẩn thâu tóm lo việc hộ trì, nuôi dưỡng muôn loài. Các vị Phạm vương đều vâng theo lời chỉ giáo. Đức Phật lại nói với chư vị Phạm vương: –Ta nay đem mười hai quốc độ sau đây: Cưu-xa-phất-lợi, Khẩn-na-la, Ca-ty-la-ma-lợi, Tam-mô-sư, Âm-la-ni, Thì-bà-lợi, Hề-xà-ni, Ma-đâu-khiên-trì, Bát-đồ-lê, Mật-noa-lê, Tu-la-tỳ, Hầu-ma-đa-ni, phó chúc cho sao Khuê thâu tóm lo việc hộ trì, nuôi dưỡng muôn loài. Các vị Phạm vương đều vâng theo lời chỉ giáo. Đức Phật lại nói với chư vị Phạm vương: –Ta nay đem mười ba quốc độ sau đây: Đề-đế-xa-bà, Tô-ma-bạt-la, Đa-la-tỷ-ni, A-xa-nhã, Câu-tát-la-tư, Tất-đô-na, Sa-la thuận trì, Khẩn-noa-đa-lợi, Thấp-bà-ni-lợi, La-bà-sư-cơ, Khư-trá-lê-tỳ, Khư-sa-lợi, Bạch mã, phó chúc cho sao Lâu thâu tóm lo việc hộ trì, nuôi dưỡng muôn loài. Các vị Phạm vương đều vâng theo lời chỉ giáo. Đức Phật lại nói với chư vị Phạm vương: –Ta nay đem mười ba quốc độ sau đây: A-tư-na-khí, Quân-đà-la-tỳ, An-ni-sư, Già-câu-ba, Đâu-già-đế, Bô-chi, Chi-đa-tỳ-tất-đế, Ưu-si-đế, Bàn-đầu-bà-la, Tỳ-la-lê-ca, Ma-đà-la-tỳ, Ca-noa-ba-đế, Đạt-bà-sa-lê, phó chúc cho sao Vị thâu tóm lo việc hộ trì, nuôi dưỡng muôn loài. Các vị Phạm vương đều vâng theo lời chỉ giáo. Đức Phật lại nói với chư vị Phạm vương: –Ta nay đem mười tám quốc độ sau đây: Ba-la-đam-la, Chỉ-thúc-ca, Bà-lâu-già, Thâu-lư-na, Ca-tỳ-la-bà, Xa-da, Mã-diện, Già-lâu-đồ, Kiêu-la-bạt-đà, Ngô-địa, Xà-bà-bạt-đế, Bỉ-lâu, Già-lâu-ha, Vu-điền, Già-phả-la, Cẩu-diện, Ni-bà-la, Câu-na-ta, phó chúc cho sao Mão thâu tóm lo việc hộ trì, nuôi dưỡng muôn loài. Các vị Phạm vương đều vâng theo lời chỉ giáo. Đức Phật lại nói với chư vị Phạm vương: –Ta nay đem mười lăm quốc độ sau đây: Ma-già-đà, Bỉ-đề-ha, Tát-la, Hề-phù-ca, Mâu-ni-xa-da, La-la, Dư-ni-ca, Câu-tát-la, Bạt-sa-già, A-đồ, Bỉ-ha-ca, Át-na-bà, Già-da, Ni-bà, Bàn-la-bà, Bạt-tri-ni, Đà-lâu, Thi-lợi-mạn-đa, Di-già-phả-la, Ma-hê-thủ-la-ni, La-da, Kế tân, Bà-lư-sư-đa, Sa-lặc, Ức-ni, Si-đề, phó chúc cho sao Tất thâu tóm lo việc hộ trì, nuôi dưỡng muôn loài. Các vị Phạm vương đều vâng theo lời chỉ giáo. Đức Phật lại nói với chư vị Phạm vương: –Ta nay đem hai mươi lăm quốc độ sau đây: Ni-sa, Ca-thi, Xa-cưu-ni, A-trá-ma-xà, Khẩn-đà, Ma-bà-ma, Đạt-tỳ-ca, Bát-thành, Thù-đề-sa, Bà-tỳ-ca, Bà-cầu-đồ, Ma-ha-la-trá, Càn-đà-la, Ca-bà-ma, Bát-già-la, Đa-đồ-sa, Thủ-bà-ca, Ma-sư-bạt-na, Đâu-la-bà, Tô-ma, Bà-cầu, Ma-đa-ma-lợi, Ma-la-bà, Cưu-lưu, Cù-sa, phó chúc cho sao Tuy thâu tóm lo việc hộ trì, nuôi dưỡng muôn loài. Các vị Phạm vương đều vâng theo lời chỉ giáo. Đức Phật lại nói với chư vị Phạm vương: –Ta nay đem mười bảy quốc độ sau đây: A-thấp-bà, Xa-bạt-na, Ma-thâu-la, Ương-già-trá-bà, Ma-đầu-mạn-đa, Câu-chu-la, Mạn-già, Bà-cầu-ma, Câu-xà-bà, Chấn Đán, Thủ-la-tê-na, A-na-mâu-khư, Khư-la-bà-la, Tê-ma-sa, Na-nô-la-bà-bạt-đà, Mạn-trì-la-bà, Hề-chu-ca, phó chúc cho sao Sâm thâu tóm lo việc hộ trì, nuôi dưỡng muôn loài. Các vị Phạm vương đều vâng theo lời chỉ giáo. Đức Phật lại nói với chư vị Phạm vương: –Ta nay đem mười quốc độ sau đây: Tân-đầu-cưu-la, Cù-na-tất-tu, Ca-la-sai, Sa-la-sai, Đạt-la-nị-bát-đế, Hải quả, A-lâu-sắt-noa-la-bà, Na-bà-phất-sử-ba-la-bà, Ma-na-đâu-lợi, Dân-đà-la-bạt-đế, phó chúc cho sao Đẩu thâu tóm lo việc hộ trì, nuôi dưỡng muôn vật. Các vị Phạm vương đều vâng theo lời chỉ giáo. Đức Phật lại nói với chư vị Phạm vương: –Ta nay đem hai cõi Sát-lợi, Thiên từ, phó chúc cho sao Ngưu thâu tóm lo việc hộ trì, nuôi dưỡng muôn vật. Các vị Phạm vương đều vâng theo lời chỉ giáo. Đức Phật lại nói với chư vị Phạm vương: –Ta nay đem mười quốc độ sau đây: A-lâu-na, Cưu-tư-sa, La-xà-lợi, Chiêm-ba-đâu-si, Quy tư, Ma-lam-phù-sa, Xá-ca, Vật-đà-la-đa, Si-đề, Cù-sư, Bà-la-di, phó chúc cho sao Nữ thâu tóm lo việc hộ trì, nuôi dưỡng muôn vật. Các vị Phạm vương đều vâng theo lời chỉ giáo. Đức Phật lại nói với chư vị Phạm vương: –Ta nay đem mười bảy quốc độ sau đây: Nam-đề-bạt-di, Ba-la-thi, Mãn-phước, Ưu-la-xa, Lam-phù-sa, Ta-bà, Ma-đà-la-bà, Si-đề, Khư-sa, Sa-la-tư, Sư tử, Ha-ba-tha, Ha-lợi-cưu-thời, Ưu-ba-tỳ-la, Đa-la-ni, Tỳ-xá-ly, Ưu-ca-lợi, phó chúc cho sao Hư thâu tóm lo việc hộ trì, nuôi dưỡng muôn vật. Các vị Phạm vương đều vâng theo lời chỉ giáo. Đức Phật lại nói với chư vị Phạm vương: –Ta nay đem chín quốc độ sau đây: Ca-xa-bỉ-đế, Ba-lợi-chi, Long hoa, Cưu-đồ-bà, Nan-đề-bạt-đàn-na, Bà-lâu-ca, Càn-đà-câu-trí, Sa-di-lợi, Da-sắt-trá-câu-lợi, phó chúc cho sao Nguy thâu tóm lo việc hộ trì, nuôi dưỡng muôn vật. Các vị Phạm vương đều vâng theo lời chỉ giáo. Đức Phật lại nói với chư vị Phạm vương: –Ta nay đem mười bốn quốc độ sau đây: Hầu-mạn-đà, Xa-mạn-đà, Đầu-ma-ca, Thù-ma-ca, Kiều-sa-bà, Cưu-chi, Bác-xoa-lợi, Đức-xoa-thi-la, Bà-di-bà-lợi, Bạt-đà-bạt-đế, Ưu-ma-sai, Bạt-sa-đa-mâu-lợi-ma, Bà-lâu-ca-xa, Bà-la-bạt-đế, phó chúc cho sao Thất và sao Bích cùng thâu tóm chung lo việc hộ trì, nuôi dưỡng muôn loài. Lại cũng hộ trì cho mặt trời của hai Sao tạo lập quốc độ thành ấp xóm làng cùng sự sinh sôi của muôn vật. Chư vị phải nêu rõ cho hai sao Thất và sao Bích cùng được biết. Chư vị Phạm vương thưa: –Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Đúng như vậy! Chúng tôi xin vâng theo lời chỉ dạy. Bấy giờ Đức Phật nói với chư vị Phạm vương: –Về các nguồn tỏ sáng ấy có bảy loại: 1.Mặt trời. 2.Mặt trăng. 3.Sao Hỏa. 4.Sao Mộc. 5.Sao Thổ. 6.Sao Thần. 7.Sao Thái bạch. Còn về mười hai Thần đó là: Di-sa, Tỳ-lợi-sa, Di-thâu-na, Yết-ca-trá-ca, Tỷ-ha, Ca-nhã, đâu-la, Tỳ-lê-chi-ca, Đàn-ni-tỳ, Ma-già-la, Cưu-bàn và Di-na. Ta nay cũng khiến cho các nguồn sáng tỏa và các Chi Thần ấy thâu tóm để góp sức hộ trì các quốc độ, thành ấp, xóm làng cùng nuôi dưỡng muôn vật. Chư vị hãy nêu rõ cho các nguồn tỏa sáng và các chi Thần ấy đều được biết. Các vị Phạm vương cùng thưa: –Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Đúng như vậy! Chúng tôi xin tuân theo lời chỉ dạy. Bấy giờ, chủ thế giới Ta-bà Đại phạm Thiên vương, Thích Đề-hoàn Nhân và Hộ thế Tứ vương cùng với các đám quyến thuộc, thưa với Đức Phật: –Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Như có các chúng Thanh văn đệ tử của Đức Thế Tôn không tham gia vào con đường kinh doanh của thế tục, không tích tụ các tài vật cùng giao thiệp rộng rãi với người đời, luôn dốc tinh tấn tu tập, ba nghiệp luôn tương hợp với đạo pháp, luôn tự tu tỉnh, biết hổ thẹn, riêng mình an trụ nơi chốn A-lan-nhã để thực hiện các pháp lành, thì chúng tôi cũng vào lúc ấy, sẽ khiến cho các vị tinh tú, các nguồn tỏa sáng và các chi Thần góp sức thực hành đúng pháp nơi thế gian để ngăn trừ mọi chúng sinh xấu ác gây bao bức hại xâu xé. Lại cũng nhằm dứt trừ các hiện tượng đao binh, bệnh dịch, đói khát, mưa gió trái thời, nóng lạnh bất thường, làm cho chính pháp của Phật luôn được tỏ rạng, trụ thế lâu bền, ba ngôi báu luôn được phát triển, không hề bị đoạn tuyệt, ba thứ khí chất tinh thuần luôn tăng trưởng, an trụ, đồng thời cũng khiến cho các chúng Thanh văn đệ tử của Đức Thế Tôn, ba nghiệp luôn thanh tịnh, hòa hợp, thể hiện sự dũng mãnh theo đúng pháp mà trụ. Đức Phật nói với Trưởng lão A-nhã Kiều-trần-như: –Vì nhằm làm cho chính pháp của ta được trụ thế lâu bền, nhằm giúp cho mọi chúng sinh tạo được những thành tựu trọn vẹn, nên đối với tất cả các quốc độ trong cõi Diêm-phù-đề, các nước chỉ mang một tên gọi, các nước mang nhiều tên gọi, các nước đồng tên gọi, cùng với những nước không nêu tên, hết thảy đều được phân bố cho các chúng Thiên, Long, Dạ-xoa, cho đến chúng Ca-trá phú-đơn-na, khiến họ dốc sức lo việc hộ trì nuôi dưỡng chúng sinh. Lại cũng phó chúc cho các vị tinh tú, các nguồn tỏa sáng, các chi Thần góp phần vào công việc thâu tóm hộ trì các quốc độ cùng nuôi dưỡng muôn loài, nhất là nhằm làm cho ba ngôi báu luôn được phát triển, không hề bị đoạn tuyệt. Trong mọi quốc độ hiện có, cùng tên hoặc có nhiều tên gọi, hay nơi các cõi ấy có các chúng Dạ-xoa, La-sát cùng tên, hoặc có quốc độ không có tên gọi các quỷ thần, hay có quỷ thần an trụ, tất cả cùng được phó chúc khiến họ thực hiện việc hộ trì. Nơi cõi Diêm-phù-đề còn có các chúng quỷ thần khác không được nêu tên, cũng đều khiến họ góp sức vào công việc hộ trì. Này Trưởng lão Kiều-trần-như! Hết thảy các chúng quỷ thần đều dốc phát tâm thực hiện việc hộ trì, nuôi dưỡng đối với chính pháp, cũng như đối với các chúng Thanh văn đệ tử của ta đã dứt sạch hết mọi nẻo tích tụ, ba nghiệp luôn hòa hợp, thuận theo đạo pháp mà an trụ. Này Trưởng lão Kiều-trần-như! Chư vị phải nên luôn an trụ nơi A-lan-nhã, dứt hết mọi nẻo tích tụ, ba nghiệp luôn tạo được tương hợp, con đường lìa bỏ nẻo sinh tử, hướng đến cõi Niết-bàn giải thoát, đem lại sự thành tựu cho mọi chúng sinh chính là như thế. Bấy giờ Đức Thế Tôn, nhằm làm sáng tỏ thêm những ý nghĩa trên, nên đọc kệ: Giúp chúng sinh thành tựu Ta hỏi chư Thiên vương Bậc Thiên tiên thời xưa Phân bố sao khắp cõi. Phạm thiên đáp lời ta: Chư Thiên tiên quá khứ Sắp đặt các tinh tú Hộ trì pháp, chúng sinh. Nay phó chúc các nước Phải nên dốc nuôi dưỡng Phó chúc chúng quỷ thần Cùng góp sức hộ trì. Sao, chi Thần, nguồn sáng Đều khiến thâu tóm khắp Hộ trì và nuôi dưỡng chính pháp luôn tỏ rạng. Hộ chúng Thanh văn tịnh Không ham nẻo thế tục Ngăn trừ chúng sinh ác Cùng diệt mọi xấu đục. Dòng Tam bảo không dứt Ba tinh khí luôn tăng Ngươi nói cho các chúng Được rõ để hộ trì. Ta khuyên các Thanh văn Khiến chính pháp nhãn trụ Phải nên dứt kiêu mạn Tinh cần trụ Lan-nhã. Lìa mọi nẻo sinh tử Dốc hướng đến Niết-bàn Vui trụ cảnh giới thiền Giúp muôn loài thành tựu.  <章 id="117157935">Phần 19: Tạo lập chùa tháp Bấy giờ, vị chủ thế giới Ta-bà là Đại phạm Thiên vương cùng với Thích Đề-hoàn Nhân, Tứ Thiên vương và các đám quyến thuộc đều rời chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay hướng về Đức Phật, nhất tâm kính lễ và thưa: –Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Phật nêu giảng là trong bốn cõi thiên hạ này, chư Phật Như Lai quá khứ đã từng kiến lập các ngôi tháp lớn thể hiện sự an trụ và tồn tại của đạo pháp, là chỗ nương tựa làm trú xứ cho chư Tiên tu tịch mặc giải thoát. Để cho nơi đời hiện tại cùng đời vị lai các ngôi tháp ấy luôn được phát huy vị thế của mình, Phật đã vì chư Bồ-tát Ma-ha-tát tuôn xuống những cơn mưa pháp lớn khiến luôn được sung mãn. Ngôi tháp lớn đầu tiên tên là Chúng tiên sở hưng. Các ngôi tháp tiếp theo lần lượt mang tên: Đức tích, Kim cang diệm, Hương thất, Siểm-bà-lê, Hiền thành, Tu-chất-đa-la, Thủy quang, Hương huân, Thiện kiến lập, Già-bà-la, Kim đăng, Lạc y, Mâu-chân-lân-đà, Kim cang địa, Từ-quật, Na-la-diên-quật, Cừ-ma-sa-la hương, Tuệ đỉnh, Đại đức quật, Thiện hiện, Thanh uất mậu quật, Hư không tử, Ngưu đầu chiên-đàn thất, Nan thắng. Đó là những ngôi tháp lớn đã được chư Phật quá khứ kiến lập thể hiện sự an trụ và tồn tại của chính pháp, luôn là chốn gia hộ của chư vị Bồ-tát Ma-ha-tát và chúng tôi luôn tạo mọi sự cúng dường. Cũng như đối với các chúng Thanh văn đệ của Đức Thế Tôn hiện có, ở trong đời hiện tại cùng đời vị lai, gắn bó với các trú xứ là những ngôi chùa, tháp, tất cả chúng tôi xin dốc hộ trì, nuôi dưỡng. Lúc này Đức Thế Tôn vui vẻ, mỉm cười, từ nơi bảo điện phóng ra vô số hào quang tỏa sáng chiếu khắp các phương. Tức thì trong bốn cõi thiên hạ này, khắp mọi nơi mọi chốn có đến vô lượng trăm ngàn chư Phật hiện ra. Cõi Phất-bà-đề ở phương Đông có tám vạn Đức Phật hiện ra. Cõi Uất-đơn-việt phương Bắc có một trăm ngàn Đức Phật hiện ra. Cõi Cù-đà-ni ở phương Tây có năm vạn Đức Phật hiện ra. Các quốc độ nơi hải đảo có đến trăm ngàn Đức Phật hiện ra. Ở cõi Diêm-phù-đề này có tới hai trăm năm mươi ngàn Đức Phật hiện ra khắp mọi xứ. Quốc độ Ba-la-nại có sáu mươi Đức Phật hiện ra. Quốc độ Ca-tỳ-la-bà có hai mươi Đức Phật hiện ra. Quốc độ Ma-già-đà có ba mươi Đức Phật hiện ra. Nước Ương-già-ma-già-đà có hai mươi Đức Phật hiện ra. Nước Câu-tát-la có năm mươi Đức Phật hiện ra. Nước Tu-la-trá có hai mươi Đức Phật hiện ra. Nước Ma-ha-la-trá có ba mươi Đức Phật hiện ra. Nước Càn-đà-la có mười Đức Phật hiện ra. Nước A-bàn-đề có hai mươi sáu Đức Phật hiện. Nước Bát-già-la có hai mươi lăm Đức Phật hiện. Nước Tô-ma có mười hai Đức Phật hiện. Nước A-diệp-bà có mười Đức Phật hiện. Nước Ma-thâu-la có mười Đức Phật hiện. Nước Tỳ-la có mười tám Đức Phật hiện. Nước Bà-sa có năm mươi sáu Đức Phật hiện. Nước Xa-da có bốn mươi hai Đức Phật hiện. Nước Ưu-thiền-ni có hai mươi ba Đức Phật hiện. Nước Thư-lư-na-bàn-đa có hai mươi lăm Đức Phật hiện. Nước Thư-lư-na có ba mươi tám Đức Phật hiện. Nước Ma ni lam bà có hai mươi lăm Đức Phật hiện. Nước Ba-lê-phất có năm mươi lăm Đức Phật hiện. Quốc độ Bà-lâu-na-bạt-đề có bốn mươi tám Đức Phật hiện. Quốc độ Đề-bạt-na có hai mươi chín Đức Phật hiện. Nước Chiêm-ba có hai mươi lăm Đức Phật hiện. Nước Tất-đô-na có ba mươi sáu Đức Phật hiện. Nước Tây địa có bảy mươi Đức Phật hiện. Quốc độ Phú-lâu-sa-phú-la có năm mươi Đức Phật hiện. Nước Ô tràng có hai mươi sáu Đức Phật hiện. Nước Chỉ-tát-la có hai mươi hai Đức Phật hiện. Nước Kim tính có hai mươi chín Đức Phật hiện. Nước Ma-đâu-la có bốn mươi Đức Phật hiện. Nước Tốc-lợi-ca có hai mươi tám Đức Phật hiện. Nước Bát-già-nang-già có năm mươi tám Đức Phật hiện. Nước Ba Tư có hai mươi Đức Phật hiện. Nước Sắc-cần có bốn mươi Đức Phật hiện. Nước Thi-lợi-sa có ba mươi hai Đức Phật hiện. Nước Ba-khư-la có năm mươi tám Đức Phật hiện. Nước Kế tân có năm mươi lăm Đức Phật hiện. Nước Ưu-la-xa có hai mươi lăm Đức Phật hiện. Nước Khư-la-bà-la có mười hai Đức Phật hiện. Nước A-sơ-câu-ca có hai mươi hai Đức Phật hiện. Nước Đà-la-đà có mười lăm Đức Phật hiện. Nước Ba-lư-na có hai mươi Đức Phật hiện. Nước Phất-ly-sa có mười lăm Đức Phật hiện. Nước Ca-sa có hai mươi tám Đức Phật hiện. Nước Già-câu-ca có hai mươi Đức Phật hiện. Nước Si-đề có bốn mươi lăm Đức Phật hiện. Nước Sa-lặc có chín mươi tám Đức Phật hiện. Nước Vu-điền có một trăm tám mươi Đức Phật hiện. Nước Quy Tư có chín mươi chín Đức Phật hiện. Nước Bà-lâu-ca có hai mươi bốn Đức Phật hiện. Nước Hề-chu-ca có mười tám Đức Phật hiện. Nước Ức-ni có tám mươi Đức Phật hiện. Nước Thiện Thiện có hai mươi chín Đức Phật hiện. Nước Khẩn-na-la có tám mươi Đức Phật hiện. Nước Chấn Đán có hai trăm năm mươi lăm Đức Phật hiện. Nước La-la có hai mươi bốn Đức Phật hiện. Nước Ngô Địa có năm mươi Đức Phật hiện. Nước Tân-đà-bạt-trì có hai mươi lăm Đức Phật hiện. Đức Phật nói tiếp: –Này chư vị nhân giả! Các Đức Phật ấy đã hiện ra khắp mọi chốn núi rừng, làng xóm, thành ấp nơi những quốc độ trong bốn cõi thiên hạ này, đều từ chỗ biểu lộ thần lực của ta hiện nay, dựa trên số lượng các ngôi chùa tháp đã từng được tạo lập nơi các quốc độ ấy. Tại khắp mọi nơi chốn kia các chúng Thanh văn đệ tử của ta trong hiện tại và vị lai, dốc sức tu tập, ba nghiệp luôn tương hợp cùng tạo được sự tương hợp với ba thứ Bồ-đề, nói chung là các bậc Hữu học và Vô học đó đã thực hiện đầy đủ việc giữ giới, nghe nhiều biết rộng, hành thiện, hóa độ chúng sinh vượt qua biển sinh tử trong ba cõi. Lại có các hàng thí chủ, vì chúng Thanh văn đệ tử của ta mà tạo lập chùa tháp, cùng cung cấp mọi thứ cần dùng cho sự tu tập, tất cả các chúng Thanh văn, các hàng thí chủ, kể cả quyến thuộc của họ, ta cũng đem phó chúc cho chư vị, chớ khiến cho các vị quốc vương xấu ác thi hành các điều phi pháp để bức hại họ. Lại cũng chớ khiến xảy ra bao hiện tượng chiến tranh thù địch trộm cướp, quấy hại. Lại nên ngăn trừ các trường hợp đói khát thiếu kém, vì chính từ các sự kiện ấy mà ba nghiệp thiện khó tạo được sự tương ứng, thoái chuyển, rời bỏ giới luật, bạn bè tốt cũng giảm thiểu. Bấy giờ, lại có đông đảo chư vị Phạm Thiên vương, Thích Thiên vương, Long vương, Dạ-xoa vương, A-tu-la vương, Cưu-bàn-trà vương, cùng với các đám quyến thuộc, thảy đều chắp tay hướng về Đức Phật, cung kính thưa: –Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Đối với tất cả các ngôi chùa tháp cùng các chốn A-lan-nhã của Đức Như Lai đã có, làm mọi trú xứ hiện có của các chúng Thanh văn đệ tử của Đức Thế Tôn trong hiện tại, cùng với đời vị lai, các tầng lớp Sát-lợi, Bà-la-môn, Tỳ-xá, Thủ-đà, hoặc tại gia hoặc xuất gia, đã vì chúng Thanh văn đệ tử của Đức Thế Tôn tạo dựng chùa tháp, do sự tu tập của các chúng Thanh văn đệ tử ấy ba nghiệp luôn tương hợp, tạo được sự tương hợp với ba thứ Bồ-đề, nói chung là các bậc Hữu học, Vô học đó an trụ đầy đủ nơi giới luật, nghe nhiều biết rộng, hành thiện, thì chúng tôi thảy cùng dốc sức hộ trì đối với họ, khiến lìa xa mọi thứ khó khăn lo sợ. Còn đối với các hàng thí chủ đã vì các chúng Thanh văn đệ tử của Đức Thế Tôn mà tạo lập chùa tháp, cùng các chốn A-lan-nhã, lại cung cấp đồ ăn uống, y phục, dụng cụ để nằm, thuốc men và mọi thứ vật dụng cần thiết khác, thì chúng tôi cũng xin hết lòng hộ trì, nuôi dưỡng họ. Lại còn trường hợp các chúng Thanh văn đệ tử của Đức Thế Tôn, trong sinh hoạt hàng ngày của sự tu tập luôn gặp phải mọi thiếu thốn, khó khăn, thì chúng tôi sẽ vì họ mà làm hàng thí chủ lớn, nhận lấy lời giao phó chỉ dạy của Đức Thế Tôn để hộ trì nuôi dưỡng họ. Đức Phật khen ngợi: –Lành thay, lành thay! Này chư Hiền thủ! Nơi bốn cõi thiên hạ này, hết thảy chư vị phải nên dốc sức thực hiện như vậy, hôm nay chư vị đã lãnh hội lời chỉ giáo của ta, đúng theo đấy mà tu tập hành hóa, thì ta sẽ đem chư vị cùng với đám quyến thuộc phó chúc cho Bồ-tát Di-lặc. Bấy giờ Đức Thế Tôn, muốn làm sáng tỏ thêm những ý nghĩa trên, nên đọc kệ: Thiên vương đều đứng lên Kính lễ Tiên Cồ-đàm Hỏi số lượng chùa tháp Chốn nương tựa chư Phật. Nơi bốn thiên hạ này Lại có bao chùa tháp Nơi nương chúng Thanh văn Chúng tôi cùng hộ trì. Lưỡng Túc Tôn mỉm cười Nơi bốn thiên hạ này Hóa tác chư Phật hiện Vô lượng trăm ngàn vị. Bốn phương nhờ thần lực Nên hiện các Phật hóa Chỉ rõ chúng Thanh văn Chốn tạo các chùa tháp. Ba thừa nhằm an trụ Vì thế mà tạo dựng Ba nghiệp vui tương hợp Thanh văn trụ như thế. Đem chúng Thanh văn ấy Phó chúc nơi chư vị Thí chủ cúng dường họ Cũng hộ trì, nuôi dưỡng. Chẳng khiến gây não hại Dứt mọi nẻo tranh giành Đừng để gặp thiếu thốn Thoái chuyển rời giới luật. Thiên vương cùng quyến thuộc Thọ lời Phật chỉ giáo Chúng tôi thảy hộ trì Chốn Đạo sư tạo lập. Chúng tôi cùng quyến thuộc Dốc hộ trì tháp, chùa Kẻ đã tạo, sẽ tạo Tất cả đều hộ trì. Chư Tỳ-kheo biết đủ Trụ nẻo dứt tích tụ Tâm Từ bi, lìa dục Chúng tôi dốc che chở.  <章 id="117157936">Phần 20: Pháp diệt tận Bấy giờ, Bồ-tát Ma-ha-tát Nguyệt Tạng lại từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y phục, để trần vai bên phải, chắp tay hướng về tất cả chư vị Bồ-tát Ma-ha-tát từ khắp mười phương đến dự pháp hội, miệng và mắt đều mỉm cười, nhìn thẳng về chỗ Bồ-tát Ma-ha-tát Nguyệt Đăng và đọc kệ: Xem bậc Từ bi hy hữu ấy Đại Thiên Thích-ca, Bậc Đạo Sư Nay đem vị pháp cam lộ kia Phó chúc Dạ-xoa khiến hộ trì. Nói rõ cho khắp cả lời này chính pháp của ta ngươi nên giữ Hết thảy Thanh văn, vật chẳng vật Sẽ xem như con dốc hộ trì. Vì Ta, cạo tóc mặc ca-sa Chớ khiến đời sau bị não hại Dứt trừ mọi xấu ác, bệnh dịch Cũng dứt mưa gió, nóng trái thời. Như thế, ba thứ tinh khí tăng chính pháp đều trụ nơi thế gian Chúng sinh khỏi rơi các nẻo ác Mau chóng hướng đến đại Niết-bàn. Tôi từ xưa nay chưa thấy nghe Từ bi hy hữu, các cõi khác Trừ Phật, không một chúng sinh nào Khiến chính pháp luôn được tỏ rạng. Chư Phật Từ bi, tuệ vô lượng Rộng giữ chính pháp khiến trụ bền Đạo sư diệt độ, chính pháp Phật Tỏ rạng, bền trụ, việc ít có. Cõi nầy phiền não bất thiện đầy Kiên cố, ít có, rất khó hoại Chuyển bánh xe pháp, mắt pháp trụ Thảy khiến trụ thiện đến Niết-bàn. Cõi ấy cực ác, người cùng ma Dạ-xoa, Tu-la, Cưu-bàn-trà Chư vị dốc diệt hết phiền não Hộ trì pháp chân diệu Thế Tôn. Do nhân duyên ấy đạt tối thắng Nên dứt sinh mọi nẻo nghiệp ác Chư vị dốc cúng dường Tam bảo Nhờ vậy chóng hướng đến Niết-bàn. Mâu-ni Tôn dứt hết phiền não Đại Đạo Sư tự tại thế gian Luôn thương xót hết thảy muôn loài Nêu rõ khiến hộ trì pháp Phật. Bồ-tát Ma-ha-tát Nguyệt Đăng nghe Bồ-tát Nguyệt Tạng nói xong kệ ấy, liền đọc kệ: Tôi muốn hỏi Phật, tuệ vô biên Pháp nhãn bao thời trụ nơi đời Như thế sau khi trăng Phật diệt Phiền não, si, tranh, mờ thế gian. Làm sao Thánh hiền lại được họp Ai sẽ tạo phương tiện hộ trì Làm sao nêu rõ đạo an lạc Độ vô số chúng sinh ba cõi. Lúc này, hết thảy chư vị đến dự pháp hội có mặt nơi đại chúng đều hướng về chư vị Bồ-tát Ma-ha-tát và cùng tán thán: –Lành thay, lành thay! Bấy giờ, Bồ-tát Ma-ha-tát Nguyệt Đăng, từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y phục, để trần vai bên phải, quỳ mọp, đầu gối bên phải chạm sát đất, chắp tay hướng về Đức Phật cung kính đảnh lễ, dùng kệ hỏi Đức Thế Tôn: Con nay hỏi Phật, tuệ vô biên Do con nay có những lưới nghi Vì nhân duyên nào mắt pháp diệt Làm sao đèn pháp luôn tỏ rạng? Ai kẻ phá hoại trống pháp này? Ai làm cạn khô sông chính pháp? Làm sao mắt pháp được trụ bền Con sẽ xin góp sức hộ trì. Dùng diệu lực trì giới, tinh tấn Dùng lực nhẫn nhục, thiền, trí tuệ Dùng diệu lực nào pháp bền trụ Kính mong nêu rõ các phương tiện. Làm sao dòng nước pháp luôn chảy Có thêm vô số kẻ trợ Phật Chúng con luôn tinh tấn, kiên cố Vì muốn biển pháp luôn tràn trề. Tinh vị nơi đại địa mãi tăng Cùng với tinh vị pháp, chúng sinh Làm khô cạn mọi biển phiền não Khiến muôn loài lìa dứt cõi ác. Lúc này, Đức Phật liền đưa cánh tay phải sắc vàng óng lên và đọc kệ: Chư vị cùng lắng nghe Hết thảy pháp hữu vi Vô thường như lửa cháy Chẳng có chút thường còn. Ví như bao kẻ đùa Tạo vô số chuyện đùa Những chúng sinh như thế Đều bị phiền não khiến. Ví như thân chuối rỗng Cũng như trăng trong nước Pháp hữu vi ba cõi Tất cả đều như vậy. Các pháp ta tự giác Đạo thành như Phật trước Ta nay nơi đại chúng Trời người làm chứng minh. chính pháp giao Thiên thần Hộ trì dứt hết khổ Thành bậc quý ba cõi Nên khiến pháp tỏ rạng. Hiện rõ tám nẻo chính Diệt hết mọi nẻo tà Sa-môn, Sát-lợi, vương Kích động cùng sân não. Ta nay sẽ chẳng lâu Nhập Niết-bàn vô dư Chư Thanh văn đại trí Cũng theo ta diệt độ. Các cõi Phật phương khác Tất cả chúng Bồ-tát Bậc gồm đủ thần thông Cũng trở lại phương khác. Các quốc vương phước đức Đại thần trưởng giả diệt Hạn hết sau trăm năm Phật pháp dần mai một. Mọi chúng sinh phước mỏng Nơi pháp ta xuất gia Chẳng vui với ba thừa Cũng chẳng sợ đời sau. Xuất gia vì cuộc sống Nhiều dối, ít hổ thẹn Tham cầu nẻo lợi danh Chốn chốn đầy ganh, nịnh. Xa lìa nơi thiền tụng Cũng dứt mọi pháp lành Ngày thời bận tranh cãi Đêm thì mãi ngủ nghỉ. Thích đọc sách vở ngoài Lơ là lời Phật dạy Lại gần gũi giới nữ Thân trang điểm phô bày. Vì nhằm cầu danh lợi Chỉ dốc nẻo thế tục Luôn bị kẻ khác khiến Đôn đáo chẳng kể thân. Lui tới nhà kẻ tục Bán mua để kiếm sống Vui tạo nẻo ruộng đất Lại thích chuyện tranh giành. Thấy chư Tỳ-kheo thiện Bậc Thanh tịnh, đa văn Ganh ghét, lại giận dữ Không giúp nẻo tu hành. Còn buông câu thô ác Phỉ báng chẳng tiếc lời Gần nơi những kẻ tục Tán dương nẻo bất thiện. Hạng Tỳ-kheo dối trá Là giặc, kẻ cực ác Như có người cúng dường Được nghe nhiều lời xấu. Nơi ấy chẳng đạt phước Lời nói chẳng nên tin Chúng Tỳ-kheo ác ấy Dối thuyết giảng phạm hạnh. Vô số việc bất thiện Do đấy Sát-lợi giận Chúng Tỳ-kheo xấu đó Chuyên dùng sách vở ngoài. Tán dương hàng Sát-lợi Nên khiến Sát-lợi vui Tỳ-xá, Bà-la-môn Lợi, vui cũng như thế. Nhờ vậy được cúng dường Trì giới bị chê, lấn Sát-lợi, Bà-la-môn Nghi giận kẻ giữ giới. Do từ hiềm nghi ấy Khiến cho chư Thiên giận Rời bỏ quốc độ đó Sát-lợi, quan phụ tá. Hướng nơi cõi nước báu Đến nơi ấy an trụ Khinh chê kẻ trì giới Bồ-tát cũng xa lìa. Chư Thiên rời bỏ sau Cõi ấy thật đáng sợ Long, Dạ-xoa xấu ác La-sát, Cưu-bàn-trà. Vào nước đoạt tinh khí Cùng ăn cả thịt máu Vua ác Bà-la-môn Tỳ-xá cùng Thủ-đà. Cùng giữ nước thành ấp Do vậy khắp thôn xóm Cung điện, nhà vườn cây Chúng quỷ ác đầy dẫy. Luôn đoạt mọi tinh khí Não hại các Sát-lợi Ba-la, Tỳ-xá-đà Nam nữ thảy đều giận. Lại khiến tâm thành ác Tham gia nẻo tranh giành Do từ xâu xé đó Giới luật, bố thí dứt. Cõi ấy nước khô kiệt Dấy mưa gió trái thời Đói khát cùng thiếu kém Vật dụng sinh hoạt cạn. Hoa quả chẳng thu đạt Tinh vị đất muôn loài Vị pháp cùng tinh khí Tất cả đều tổn giảm. Dấy động nẻo binh đao Cùng mọi nẻo cướp giật Nước keo tham như thế Tỳ-kheo ác tới lui. Lại đem vật Phật, Tăng Ăn uống mọi quả, thuốc Giữ cùng kẻ tục dùng Nhân đấy được cúng dường. Nô tỳ và nhà ruộng Thảy đều được thu nạp Chúng Tỳ-kheo bất thiện Cho là bậc tôn trưởng. Trí ít, kiến thức dối Chẳng vui nẻo giới, thiền Thiền, giới thảy bỏ sau Vì của cải giành giật. Sát-lợi nghe sinh giận Đánh hại Tỳ-kheo ác Bỏ pháp phục hoàn tục Giam nhốt nơi lao tù. Do đấy chư Thiên giận Cùng chung lời nêu rõ Trong cõi nước như thế Vua Chiên-đà-la trị. Bè nhóm Tỳ-kheo ác Phá hủy cả đạo pháp Tự hoại quốc độ mình Không lâu sẽ bại vong. Đọa nơi ngục A-tỳ Đời đời chịu khổ cực Suốt trong Hiền kiếp này Không thoát khỏi địa ngục. Vua Chiên-đà-la ấy Chúng Thánh thảy khinh chán Nghe đọc pháp thí giới Hiện dua nịnh hư trá. Vua đó lắm dối gạt Cõi nước mình chóng diệt Lúa thóc luôn mất mùa Nắng hạn cùng lụt lội. Chuột cáo, voi dữ phá Cùng đao binh dấy khởi Trăng sao, hiện khác thường Đại địa chấn động khắp. Cầu vồng sao lạ rơi Thời khí đầy bệnh dịch Thiêu đốt bao xóm làng Hủy hoại bao thành ấp. Cạo tóc mặc ca-sa Chư Phật luôn gia hộ Thêm một người xuất gia Trời, người luôn cúng dường. Chỉ trừ chư Như Lai Không một ai tự tại Vua Chiên-đà-la kia Trừng phạt Tỳ-kheo ác. Hủy hoại ba đời Phật Hai thứ Pháp thân tịnh Phiền não càng sâu nặng Khó được gặp chư Phật. Chư Thiên đều xa lìa Vua Chiên-đà-la ấy Như thế cõi nước hoại Pháp nhãn sẽ tan diệt. Do chư Thiên lìa bỏ Nên quốc độ tổn hại Ba thứ tinh khí giảm Cung điện dần hư hại. Pháp lành, bạn tốt ít Pháp xấu, lũ ác thêm Nơi đời ác đục đó Vắng bóng bậc minh trí. Chốn trụ A-lan-nhã An trụ vui chính pháp Hộ trì chính pháp ta Dốc khiến mọi người tin. Do quỷ thần kính tin Ngăn trừ nẻo sợ hãi Ba tinh khí luôn tăng chính pháp ta tỏ rạng. Lấy thiền định an vui Cung điện quý sung mãn Vì vậy đem pháp ta Phó chúc quỷ thần vương. Ngăn trừ Sát-lợi ác Không hại chúng Thanh văn Quốc vương nơi đạo pháp Luôn gần gũi cúng dường. Phá giới chẳng gần, kính Lìa bỏ tùy nẻo trụ Quốc vương không bức hại Trì giới cùng hủy giới. Sát-lợi giữ giới tịnh Mọi phía đều tin kính Tỳ-xá, Bà-la-môn Không não hại Thiên thần. chính pháp được bền trụ Pháp lành luôn tăng trưởng Chư vị nơi cõi ấy Theo ý mà an trụ. Chư vị như phát tâm Cõi đó luôn an trụ Cho đến pháp ta tận Chớ hướng tới nước khác. Đem pháp thí, trì giới Khiến mọi người ngưỡng tin Kẻ trí được thành tựu Đấy chẳng là hy hữu. Vào thời đời ác ấy chính pháp ta tỏ rạng Ngăn trừ Sát-lợi ác Việc ấy là hy hữu. Tâm từ luôn hòa hợp Chớ hại chúng Thanh văn Thuyết hai nẻo chính pháp Dốc cứu khổ địa ngục. Tỳ-kheo chẳng hộ giới Quốc vương chớ trừng phạt Các vua Sát-lợi ấy Chớ cùng Sa-môn tranh. Kẻ tục tạo mọi ác Chóng hướng nẻo địa ngục Lời dịu hướng cả hai Ngăn trừ mọi nghiệp ác. Chớ dùng lời thô bạo Cũng chớ dùng hình phạt Do đấy nước không hoại Ba tinh khí tăng trưởng. chính pháp luôn tồn tại Pháp Phật mãi tỏ rạng Thêm nhiều người thuyết pháp Ngăn dần ba nẻo ác. Dứt trừ thế gian ác Chúng chư Thiên thêm tăng Cửa Niết-bàn được mở Bậc vô lậu bước vào. Chúng Bồ-tát thêm tăng Khác nào trăng tỏa sáng Dốc đem đủ sáu độ Sung mãn các pháp Phật. Do vậy các bậc Trí Chỗ đến chư Bồ-tát Sẽ trụ nơi cõi này Phát huy chính pháp ta. Kẻ mê tối, mất đường Sẽ được chính pháp nhãn Chúng sinh nhờ sáu Độ Thành tựu đạo Bồ-đề. Chư vị thật cúng dường Chư Như Lai ba đời Mau chứng quả Bồ-đề Quốc tịnh làm Đạo sư. Đại chúng đều lặng im Chỉ có chúng Hiền kiếp Di-lặc là Thượng thủ Hết thảy đều đứng dậy. Chắp tay cùng thưa Phật Nêu bày rõ lời này Con chẳng đến phương khác Hộ trì chính pháp Phật. Dốc hết lực tinh tấn Đại Bồ-đề thành tựu Theo trong từng hoàn cảnh Thuyết pháp hợp căn cơ. Như có mọi trở ngại Chúng con chẳng thể ngăn Pháp đến lúc diệt tận Chúng con chẳng ngăn được! Bấy giờ, Đức Thế Tôn dùng kệ nói với Bồ-tát Ma-ha-tát Bạch Trí Đồng Chân: Xem chúng Bồ-tát này Dũng mãnh cầm đuốc trí Vô lượng a-tăng-kỳ Cõi Phật phương khác lại. Vô số căn lành báu Quy ngưỡng biển chư Phật Từ bi lực phương tiện Nơi Phật pháp chẳng động. Nơi đó chẳng có một Kẻ giữ gìn pháp ta Chư Bồ-tát hiền kiếp Dốc sức giữ pháp ấy. Sau khi ta diệt độ Thời Phật pháp suy diệt Chúng xuất gia hiện có Thiếu tu tỉnh, hổ thẹn. Lìa xa trí công đức Bê trễ chẳng tinh cần Bỏ đạo học nẻo đời Chẳng thích giữ giới luật. Ngu si gắn kẻ tục Lắm lời lại vô sỉ Tham giữ vật Phật tăng Tham đắm năm dục lạc. Chúng Tỳ-kheo như thế Khác nào đám thế tục Ham của cải, nghi, lầm Tà dâm cùng ganh ghét. Thấy người trụ Lan-nhã Nên mọi thứ tội lỗi Chẳng thích đọc tụng kinh Ham ngủ nghỉ tranh giành. Các Sa-môn như vậy Khinh chán, thiền, Lan-nhã Dốc bám theo việc xấu Cao ngạo khinh miệt người. Sa-môn cùng kẻ tục Tham lam không xả thí Lạm dụng vật Phật tăng Gặp phải vô số bệnh. Chẳng có chút tâm Từ Lực ít, thích đối đầu Do vậy trời chẳng mưa Mọi nguồn nước khô kiệt. Đói khát lan tràn khắp Hoa trái chẳng có mùa Nẻo ăn uống thiếu thốn Giận, tranh cùng chiếm đoạt. Tạo mười nghiệp bất thiện Ít phước không, cúng dường Vị pháp không thuần thục Hành pháp tâm cũng kém. Luôn cùng tạo tưởng bạo Giết hại chẳng xót thương Chẳng hiếu với cha mẹ Cũng chẳng kính tôn trưởng. Bám theo nẻo thế tục Nghi hoặc lại đố kî Nhiễm đắm theo pháp tà Nẻo phi pháp đầy dẫy. Do tham cầu hết mực Mà cứ mãi trôi lăn Các quốc vương như thế Cùng quan tướng phụ tá. Sa-môn, Bà-la-môn Tỳ-xá, Thủ-đà-la Bỏ giới, thích tranh giành Lại cùng nhau hủy báng. Phương Nam nước Biên di Vua tên Ba-la-đế Trăm ngàn chúng quân binh Tướng só cùng vây quanh. Phương Tây, nước Biên Di Vua tên là Bách Tự Cùng trăm ngàn quân tướng Trước sau cùng vây quanh. Vua Biên Di phương Bắc Tên Thiện Ý Thích-ca Tướng só, kẻ tùy tùng Vây quanh cùng trăm ngàn. Phương Đông, nước Siểm di Vua tên là Đạo Quân Chúng quyến thuộc trăm ngàn Cùng vây quanh hộ vệ. Vua Đạo Quân có con Tên gọi là Nan Khán Lúc sinh, thân mặc giáp Cầm đao, máu nhuộm thân. Lực lớn thân bền chắc Mà từ thai mẹ sinh Thời ấy chúng trưởng giả Đại thần năm trăm người. Cùng lúc đều sinh con Thân cũng mặc áo giáp Cầm đao, máu đầy người Đều từ thai mẹ sinh. Ngày ấy nơi nước đó Thiên, Long tuôn mưa báu Năm trăm con trưởng giả Nan Khán cùng chốn nuôi. Nan Khán được bảy tuổi Vua cha trao cho ngôi Ba vua ác Biên Di Cùng đến Bắc Thiên Trúc. Phá nước giết hại người Oán thù, ghét, nữ sắc Chất của cải, đốt cháy Giận dữ hướng giữa nước. Các vua Biên Di tới Hủy phá chùa tháp Phật Giết hại bao chúng Tăng Cướp đoạt vật Tăng Phật. Các Tỳ-kheo bị bệnh Chẳng thể chạy trốn được Những kẻ mạnh yếu kia Tan chạy khắp các hướng. Còn bao Tỳ-kheo khác Tuổi nhỏ, mới xuất gia Chưa học đủ giới luật Pháp uy nghi cũng thiếu. Trốn chạy khắp mọi chốn Nơi đến bị lấn khinh Đánh đập cùng nhục mạ Luôn chịu bao khổ não. Ba vua Biên Di đó Cùng với đám quân binh Dần tới Câu-siểm-di Trong mười hai năm đánh. Ba vua cùng quyến thuộc Vua Nan Khán giết sạch Thống lãnh Diêm-phù-đề Mà làm vua một cõi. Về sau càng hối hận Ta tạo vô lượng tội Như có Tỳ-kheo minh Sẽ giúp ta sám hối. Lời rằng có Tam tạng Cha tên là Hỏa Thí Dòng họ luôn thanh tịnh Là đại Bà-la-môn. Con tên Thất-sư-ca Tài cao, trì dũng rộng Nổi danh hàng con Phật Nay trụ nước Ba-lê. Nhà vua liền sai sứ Thỉnh Tam tạng ấy đến Vì vua nói chính pháp Khiến vua sinh kính tin. Ta nơi mười hai năm Chiến đấu tạo tội lớn Ba vua cùng quyến thuộc Binh chúng bị ta hại. Ta cũng mười hai năm Bày đủ hội Bát-già Nêu khắp Diêm-phù-đề Hàng con Phật đến đủ. Mọi Tỳ-kheo hiện có Trụ nơi Diêm-phù-đề Mong thảy đến hội này Thọ nhận ta cúng dường. Chúng Tỳ-kheo cùng tới Hội Bát-già siểm-di Kẻ chết đói nơi lộ Hoặc kẻ bệnh bên đường. Có kẻ trúng nước độc Hay gặp giặc, cọp dữ Hoặc rơi xuống khe núi Tỳ-kheo chết vô số. Số sót lại đến hội Pháp oai nghi chẳng còn Trăm ngàn đều đến dự Bày hội lớn Bát-già. Bắt đầu ngày Bát-già Mây dầy thảy đều dấy Khắp cõi Diêm-phù-đề Tuôn xuống trận mưa lớn. Nhà vua càng vui mừng Đó là lực chúng Tăng? Tỳ-kheo đã hội đủ Thảy cùng nhau hỏi han. Ít thấy bậc Hòa thượng Cùng hỏi A-xà-lê Hàng tri thức bạn lành Đồng học, đến chốn nào? Tôi nay được đến đây Số kia dọc đường mất Buồn đau vang tiếng khóc Cùng thương tiếc kêu gào. Tam tạng Thất Sư đứng Có lúc tónh lặng trụ Tỳ-kheo mãi gào khóc Bi thiết chẳng tự chế. Vua thấy sự việc ấy Ra lệnh cũng không dừng Vua bèn tự suy nghó Đó là La-hán chăng? Thiên thần đêm mách vua Trở lại Ba-lê-phất Con Trưởng giả Thiện Tài Tên là Đống-la-đa. Là đại A-la-hán Luôn trụ trong Hương sơn Đủ ba minh giải thoát Đến an trụ chốn ấy. Nay đúng lúc đủ tháng Mười lăm ngày Bồ-tát Do việc Bồ-tát đó Trăm ngàn chúng hội đủ. Trong có một Tam tạng Lại thêm A-la-hán Cùng lúc chúng chư Thiên Đều đến dự Bồ-tát. Nay là hội sau rốt Nên tạo hộ vô thượng Cờ pháp sẽ bẻ gãy Đuốc pháp sẽ lụi tàn. Núi pháp cũng sạt lở Biển pháp sẽ khô cạn Nước tám thứ công đức Sau cùng cũng sẽ diệt. Chúng Tỳ-kheo tiếng loạn Tam tạng kịp thời đứng Cất tiếng gọi yên tónh Lắng nghe giới luật nghi. Chúng con Phật hiện có Hết thảy đều đến đủ Ta ở trong chúng này Đa văn đạt bờ giác. Học giới còn chẳng tịnh Huống hồ nơi kẻ khác Nếu có một Tỳ-kheo Dốc trì giới cấm ấy. Mọi oai nghi luôn đủ Nay sẽ làm Bồ-tát. Như nơi giới Tỳ-ni Oai nghi không thiếu phạm. Ở trước mặt đại chúng Kẻ có nay sẽ hiện Kẻ dốc học giới luật Nay sẽ làm Bồ-tát. La-hán Đống-la-đa Liền khởi tiếng sư tử Nương như trong kinh nói Ta học giới thanh tịnh. Quyết định không chút nghi Bồ-tát ta sẽ dự Như chỗ Phật thuyết giảng Giới luật ta dốc học. Tam tạng có đệ tử Tên là Ương-già-đa Bạo ác liền giận mắng Quát với Đống-la-đa. Trong kinh chưa thấy ông Là kẻ học giới luật Đại đức nói như thế Làm sao gọi trái, phản? Ương-già càng giận dữ Hai tay cầm gậy lớn Đánh chết A-la-hán Bậc giới tịnh đáng kính. Chư vị Tỳ-kheo thiện Cùng lớn tiếng khóc than Mỗi mỗi cùng phẫn nộ Phá y phục nơi thân. Thời có Dạ-xoa lớn Tên Mục-khư-đàn-đề Nơi Phật dốc lòng tin Tôn kính chính pháp Phật. Liền dùng chày Kim cang Đánh chết Ương-già-đà Do giết A-la-hán Đống-la-đa thanh tịnh. Lại có Tỳ-kheo ác Tên là Kê-đa-la Hai tay cũng cầm gậy Lại giết vị Tam tạng. Tỳ-kheo thảy cùng dấy Xung đột giết hại nhau Trăm ngàn vị Tỳ-kheo Còn sống chẳng được mấy. Chỉ trong khoảnh khắc đó Khắp đại địa chấn động Còn ở trên không trung Phát âm thanh đại ác. Bốn phương dấy ác loạn Đụn lửa số trăm ngàn Cờ lửa thật đáng sợ Hiện đứng nơi không trung. Sao chổi cùng sao quái Rơi rụng khắp bốn hướng Ngàn ức chúng Thiên thần Cùng bày tỏ lời này. Chốn tụ pháp Thích-ca Hôm nay sẽ chìm đắm Chư Thiên tử cõi Sắc Hết thảy trời cõi Dục. chính pháp đã diệt tận Tiếng than khóc vang dậy Các Dạ-xoa thấy Phật Lần lượt rơi xuống thấp. Tư ønay chốn thế gian Chẳng còn có pháp Phật Luật nghi Mộc-xoa mới Tất cả đều không còn. Tối tăm trùm mọi cõi Ai cứu, không chốn hướng! Chẳng lâu, cả chúng nhân Không khác đàn hươu nai. Cờ pháp bị gãy, lìa Tiếng trống pháp cũng dứt Cửa cam lộ bị lấp Pháp sư cũng vắng bặt. Đuốc pháp cũng lụi tàn Pháp luân cũng thoái chuyển Cầu chính pháp bị phá Bước chân pháp đứng yên. Nước pháp ngưng không chảy Sông pháp mãi khô cạn Núi pháp sạt lở dần Biển pháp sẽ lại kiệt. Trụ rừng, A-lan-nhã Chư Thiên tử hiện có Cùng lúc rất kinh sợ Thảy khóc than lảo đảo. Chí chúng ma quyến thuộc Bè nhóm ác, tà kiến Đều vui mừng ca múa Nhảy nhót tung y phục. Pháp Phật Thích-ca giảng Hướng tới cửa cam lộ Lúc này đã chìm khuất Pháp ta bị thiêu đốt. Vua Nan Khán đã rõ chính pháp bị hủy hoại Từ đầu đến cuối đêm Rời thành đến chốn ấy. Thấy chúng Tỳ-kheo chết Buồn sầu khiến ngất xỉu Hồi lâu mới tỉnh lại Bi thương như càng tăng. Giết cả A-la-hán Tam tạng Thất-sư-ca Cùng vô số Tỳ-kheo Mạng ta cũng không ổn. Cho người thâu lượm xác A-la-hán, Tam tạng Cùng các vị Tỳ-kheo Thảy đều được hỏa táng. Số Tỳ-kheo sống sót Triệu tập lại một nơi Đem mọi vật, mỹ vị Vô số để cúng dường. Lại xuất ngàn vạn báu Một báu giá trăm ngàn Dùng những vật báu ấy Tạo lại năm trăm chùa. Mỗi mỗi vị Tỳ-kheo Đều cấp trăm ngàn vật Các sư trụ nơi đó Chúng tôi xin chu cấp. Vì ta giảng chính pháp Ta xin dốc tâm nghe Tất cả đều im lặng Không có người thuyết pháp. Nhà vua ba lần thỉnh Thưa với chúng Tỳ-kheo Cũng thảy đều yên lặng Không một ai lên tiếng. Vua thưa chúng Tỳ-kheo Há chẳng tường chính pháp? Dứt lời, Ca-sa thưa: Sắc nhiễm không hiện lại. Từ giường đều rơi xuống Lần lượt bày nơi đất Đều cùng xưng lời Phật Phật pháp bảo đắm chìm. Râu tóc thảy dài thêm Các pháp cũng quên mất Cùng lúc nơi hư không Tiếng vang chấn động đất. Tất cả đều biến động Giống như nước dâng cuộn Tường thành bị vỡ nát Nhà cửa cũng tan hoang. Cây rừng thân cành lá Hoa quả, dược thảo tận Chỉ trừ Tịnh cư thiên Cõi Dục, tất cả xứ. Bảy vị, ba tinh khí Thảy đều bị tổn giảm Mọi luận thuyết giải thoát Đương thời cũng vắng bóng. Chốn sinh vị hoa quả Ít ỏi, cũng chẳng ngon Bao suối giếng hồ ao. Tất thảy khô cạn hết. Đất đai đều nhiễm mặn Núi tách thành gò, khe Núi non cũng tiêu điều Thiên, Long chẳng tuôn nước. Lúa màu đều khô héo Mía đường, cây thuốc quý Các loài đều chết sạch Cỏ khác lại không sinh. Nơi mưa đều tăm tối Nhật nguyệt chẳng còn chiếu Bốn phương thảy khô cằn Hiện rõ bao điều ác. Mười nẻo nghiệp bất thiện Tham sân si càng tăng Chúng sinh đối cha mẹ Xem như bầy hươu rừng. Muôn loài cùng thọ mạng Sức lực, sắc, uy giảm Lìa nẻo vui nhân thiên Thảy bị đọa đường ác. Nghiệp bất thiện như thế Vua ác, Tỳ-kheo ác Hủy hoại chính pháp ta Nẻo trời, người giảm sút. Chư Thiên, Thiện Thần vương Thương xót đến chúng sinh Bỏ nước ác đục ấy Đều hướng tới phương khác. Phật trước không kẻ làm Ta nay vì chúng sinh Dứt bỏ thọ mạng thân Nhằm tăng ba tinh khí. Vì thương xót muôn loài Bỏ thân mạng phần ba Khiến biển pháp ta đầy Tẩy gội chúng nhân thiên. Chư Như Lai quá khứ Nương thọ mạng diệt độ Trong khoảng sau bảy ngày chính pháp đều chìm khuất. Nay ta, Niết-bàn rồi chính pháp năm trăm năm Trụ vững nơi thế gian Chúng sinh dứt phiền não. Chư Bồ-tát tinh tấn Đạt đầy đủ sáu độ Kẻ tu tập chóng vào Thành vô lậu an lạc. Tượng pháp trụ nơi đời Hạn trong một ngàn năm Cạo tóc mặc ca-sa Trì giới cùng phá giới. Chốn thiên nhân cúng dường Luôn dồi dào không thiếu Mọi cúng dường như vậy Chính là cúng dường ta. Như kẻ vì pháp ta Cạo tóc xin quy y Thân mặc lấy ca-sa Người ấy đệ tử Phật. Giả sử phá giới cấm Trụ vững địa bất thoái Nếu đánh đập kẻ đó Chính là đánh thân ta. Hoặc nhục mạ kẻ đó Chính là hủy nhục ta Người ấy tâm dứt dục Ngọn đèn chính pháp tỏ. Nên là vật chẳng vật Xả thân mạng phần ba Vì chúng được an lạc Lợi ích cho trời, người. Ta xưa hành khổ hạnh Dốc vì mọi chúng sinh Xả trọn, tự thân lạc Khiến pháp mãi rạng ngời. Ta xưa xả thân mạng Dốc vì những bệnh nhân Cũng vì chúng sinh nghèo Khiến pháp luôn tỏ rạng. Ta xưa vì giải thoát Bỏ của cải vợ con Voi ngựa xe cộ báu Khiến pháp mãi tỏ rạng. Ta xưa cúng dường Phật Duyên giác cùng Thanh văn Cha mẹ và sư trưởng Khiến pháp luôn tỏ rạng. Dốc vì đạo Bồ-đề Vô lượng a-tăng-kỳ Luôn chịu vô số khổ Khiến pháp mãi rạng ngời. Ta tu tập giới luật Kiếp kiếp luôn dốc sức Mười phương Phật chứng tri Khiến pháp mãi tỏ rạng. Ta xưa thường nhẫn nhục Nhẫn nơi chúng sinh ác Vì chúng trừ phiền não Khiến pháp mãi tỏ rạng. Ta xưa dốc tinh tấn Kiên cố thâu phục người Độ thoát bao chúng sinh Khiến pháp luôn tỏ rạng. Ta tu Thiền giải thoát Tam-ma-đề, Vô sắc Hằng sa số khó kể Khiến pháp luôn tỏ rạng. Ta xưa cầu trí tuệ Trụ nơi chốn rừng sâu Diễn nói luận vô lượng Khiến pháp mãi tỏ rạng. Ta xưa luôn thương xót Xả bỏ cả máu thịt Cùng chi phần nơi thân Vì dốc tăng Pháp nhãn. Ta thương chúng sinh ác Đem Từ bi dẫn dắt Đưa đến với ba thừa Dốc tăng chính pháp thí. Ta xưa phương tiện thí Độ thoát kẻ ác kiến Dẫn đến nơi chính tuệ Khiến mưa pháp tuôn mãi Ta xưa dùng bốn Nhiếp Cứu độ khắp muôn loài Diệt lửa phiền não ác Khiến bốn chúng bền trụ. Ta xưa trừ ngoại đạo Bao lưới tà ác kiến Đưa đến nơi đường chính Bốn chúng được cúng dường. Ta vì người xả mạng Từ bi độ chúng sinh Xua bóng tối thế gian Khiến thấy nẻo quy hướng. Như thế nơi thời sau Muốn cho pháp không hoại Pháp nhãn dốc phó chúc Lợi ích đến quần sinh. Sau khi ta diệt độ Bồ-tát hướng phương khác Vì muốn khỏi hoại diệt Tất cả pháp Thánh hiền. Nên ta nay nêu chú Khiến pháp mãi tỏa sáng Đủ nẻo kim cang mật Chốn nương vị giải thoát. Mười phương Phật hiện có Đều cùng mong ta thuyết Chư vị nơi hội này Đại chúng thảy mong muốn. Lúc ấy, Đức Thế Tôn, vì muốn cho chính pháp được trụ thế lâu bền, nên nói pháp đại Đà-la-ni sau đây: “Đá địa dạ tha. A bà mâu ký. Bà mâu ký. Chất xà mâu ký. Khư la mâu ký. Già la ma hề. A hề. A hề. Đạt la bà đế. Ma ha địa lî trệ. Tất đam bà la hề. Xà ca lî. Ma thập bà lệ. Đạt la mâu sử. Năng già mị thập bà lệ. Thập bà la ma niết bà ba. Tô bà ha”. Lúc Đức Thế Tôn nói xong pháp Đà-la-ni Kim cang kiên cố thâm mật giải thoát vị thể ấy, tức thì khắp cõi Tam thiên đại thiên thế giới này hiện đủ sáu cách chấn động, trời tuôn mưa hoa, tất cả các thứ nhạc khí đều tự nhiên hòa tấu vang lừng, chư vị đến dự pháp hội hiện có mặt nơi đại chúng hầu như đứng dày khắp cả mặt đất, thảy đều xúc động rơi nước mắt, cất lời tán thán: –Đức Thích-ca Mâu-ni Như Lai Ứng chính Biến Tri thật là diệu kỳ đặc biệt! Đầy đủ tâm Đại Bi với pháp chưa từng có! Luôn vì mọi chúng sinh dốc đem lại sự thành tựu trọn vẹn cho họ. Nhằm thể hiện rõ sự ổn định các pháp thời vị lai, nên đã xả bỏ phần thọ mạng thứ ba! Nói xong lời ấy, hết thảy chúng sinh nơi pháp hội này, những kẻ còn mang lấy thân phiền não, tâm đều đạt được sự kính tin chính pháp, mọi chúng sinh trong tận cùng cõi hư không chưa phát tâm cầu đạo quả Vô thượng Bồ-đề, thì đều phát tâm. Có đến chín mươi hai na-do-tha chúng sinh đạt được pháp Nhẫn nhu thuận. Tám na-do-tha chúng sinh đạt được các pháp Tam-muội Thánh đăng và Thủ-lăng-nghiêm. Mười vạn chúng Dạ-xoa lãnh hội được bốn Chân đế. Hai ngàn vị Bồ-tát đạt được pháp Tam-muội Cộng hành trắc lượng tỳ-ni. Sáu mươi bốn trăm ngàn A-tu-la đạt được pháp Tam-muội Thù thắng hạnh Na-la-diên. Tám na-do-tha trăm ngàn chư Thiên đạt pháp Tam-muội Thanh tịnh hành. Ba mươi na-do-tha trăm ngàn chúng Cưu-bàn-trà đạt pháp Tam-muội Thắng tràng thượng đăng. Hai mươi na-do-tha trăm ngàn chư Long đạt pháp Tam-muội Bất khi lăng lực hành. Hai vạn Tỳ-kheo dứt sạch hết các nẻo lậu, tâm đạt giải thoát. Bấy giờ, Bồ-tát Ma-ha-tát Trí Cự Đồng Chân thưa với Bồ-tát Ma-ha-tát Văn-thù-sư-lợi: –Kính thưa bậc Thanh tịnh só liễu tri! Đức Thích-ca Mâu-ni Như Lai đúng là danh xưng đã vang dội khắp cả các quốc độ của chư Phật trong mười phương. Thế nào là vang dội khắp cả? Đó là Đức Phật Thích-ca Mâu-ni từ lúc mới bắt đầu phát tâm cầu đạo quả Vô thượng Bồ-đề trở đi, nơi tất cả chúng sinh luôn thể hiện sự bình đẳng, đem tâm phước điền với vô số phương tiện để dốc tu tập, thực hành bố thí, nơi hết thảy đạo Bồ-tát tu tập các hạnh tối thượng, đã phát hạnh nguyện cao tột nhằm đem lại sự thành tựu trọn vẹn cho mọi loài chúng sinh, lìa bỏ cõi thanh tịnh để đến thế giới đầy năm thứ vẩn đục cùng bao thứ khổ não này, đối với đạo quả Vô thượng Bồ-đề đã thành Bậc chính Giác. Đã dùng diệu lực đại Từ bi làm nhân duyên, đối với hết thảy các nghiệp bất thiện xấu ác, do sự trói buộc sai khiến ấy nên đã tạo nghiệp vô gián, phỉ báng hủy hoại chính pháp cùng các bậc Hiền thánh, đối với tất cả chúng sinh đã không đến được nơi các cõi Phật thanh tịnh trong mười phương, do bị các thứ phiền não trói buộc, nói chung là đối với những hạng chúng sinh kể trên, Đức Thích-ca Mâu-ni Như Lai đã dốc đem lại mọi thành tựu trọn vẹn cho họ. Ở nơi thế giới Ta-bà này mong đạt đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác, nên đối với các nẻo tu tập của hạnh Bồ-tát đều tu hạnh tối thắng và đã thành tựu đạo quả tối thượng như trên. Hơn nữa, đối với những chúng sinh tạo nghiệp vô gián, thực hiện vô số sự việc phỉ báng nhục mạ Như Lai, quấy nhiễu, bức hại, kể cả các phương tiện độc ác, nguy hiểm, hung tợn khác để giết hại bậc Đạo sư, nhưng Đức Như Lai, trong bất cứ hoàn cảnh nào đối với các chúng sinh xấu ác kể trên, cũng đều đem tâm đại Từ bi thể hiện sự thương xót, che chở, cứu giúp, hơn cả cha mẹ đối với đứa con duy nhất của mình, nên ở nơi biển khổ đã luôn sử dụng các phương tiện để cứu vớt hóa độ muôn loài. Vì thế mà nay chúng ta có Đức Thích-ca Mâu-ni Như Lai tôn hiệu đã được xưng tụng khắp các quốc độ của chư Phật trong mười phương. Hôm nay lại vì mọi loài chúng sinh, kể cả những thứ chúng sinh xấu ác, đã đem hết thảy các pháp phó chúc cho các chúng Thiên, Long, các hàng quỷ thần, vì muốn cho mắt pháp được trụ thế lâu bền, sáng tỏa mãi, cũng vì muôn loài mà xả bỏ phần thân mạng thứ ba của mình. Lại cũng dốc nhằm làm cho Pháp nhãn luôn được tỏ rạng, trụ thế lâu bền, làm cho các chúng Thanh văn pháp khí hay chẳng phải pháp khí, các hàng cạo tóc xuất gia thân mặc ca-sa, luôn được hộ trì nuôi dưỡng, không hề bị não hại, cùng làm tăng trưởng ba thứ tinh khí tất cả những thành tựu kể trên đã khiến Đức Thích-ca Mâu-ni Như Lai, đối với hết thảy chư Như Lai nơi các cõi Phật trong mười phương, hết thảy chư vị Bồ-tát Ma-ha-tát hiện có, hết thảy các bậc Đại trí, chư Thiên và chúng nhân, đã được tán thán, xưng tụng hết mực. Vì vậy, tất cả chư vị Bồ-tát Ma-ha-tát đến dự pháp hội này mỗi mỗi vị đều tùy theo khả năng của mình, thảy cùng bày biện đủ các vật tối thượng để cúng dường Đức Như Lai, thể hiện lòng tôn quý, cung kính. Lúc này hết thảy chư vị Bồ-tát Ma-ha-tát đến dự pháp hội có mặt nơi đại chúng thảy đều rời chỗ ngồi đứng dậy, mắt miệng cùng mỉm cười. Chư vị Bồ-tát ấy, ở nơi thế giới Ta-bà này, đã dùng vô số đủ các loại vật dụng quý giá để cúng dường Đức Thế Tôn. Hoặc tuôn xuống như mưa những mảnh vụn của các bảo vật như vàng, bạc, tỳ-lưu-ly, pha lê, xích chân châu, mã não, xa cừ, long xà. Hoặc tung rải các thứ hương chiên-đàn, hương ngưu đầu chiên-đàn, hương đa-ma-la-bạt, hương hắc kiên trầm thủy. Hoặc mưa xuống vô số các thứ hoa báu vi diệu, các thứ cờ phướn, lọng báu làm bằng bảy thứ châu báu, các loại sợi tơ vàng, chuỗi ngọc báu, chuỗi anh lạc, vòng vàng. Lại mang các thứ cây báu như cây báu kiếp ba như ý, cây có y báu, cây có hoa báu, cây có đồ vật báu, cây có hương báu, tất cả là nhằm cúng dường Đức Thế Tôn. Lại có chư vị Bồ-tát, nơi cõi Ta-bà với hết thảy mọi cây rừng, hoa quả, cành lá, hết thảy mọi thứ cây cỏ hiện có đều biến thành bảy thứ châu báu để cúng dường Đức Thế Tôn. Lại có chư vị Bồ-tát, nơi cõi Ta-bà với tất cả mọi thứ núi đá gạch ngói hiện có thảy đều biến thành bảy thứ châu báu để cúng dường Phật. Lại có chư vị Bồ-tát, nơi thế giới Ta-bà với tất cả mọi cảnh giới đất đai rộng lớn hiện có thảy đều biến thành hương báu vi diệu của chư Thiên để cúng dường Phật. Hết thảy chúng sinh nương trụ nơi đất ấy, trong bảy ngày đêm thân tâm luôn được an lạc vui thích giống như chư Thiên. Lại có chư vị Bồ-tát, nơi thế giới Ta-bà với tất cả mọi phần, mọi cõi thuộc về nước hiện có thảy đều biến thành cam lộ mỹ vị vi diệu bậc nhất của chư Thiên, tinh khiết thơm lừng khắp cả cõi ấy, để cúng dường Đức Phật. Mọi chúng sinh ở các cõi đó, trong bảy ngày bảy đêm, thân tâm luôn tươi tỉnh an lạc khác nào chư Thiên. Lại có chư vị Bồ-tát, dùng hết thảy gió biến thành gió thơm trong lành vi diệu để cúng dường Đức Phật. Tất cả mọi chúng sinh hiện có nơi ba đường ác được tiếp xúc với làn gió thơm ấy, thì trong bảy ngày bảy đêm thân tâm luôn được an vui sung sướng như chư Thiên. Bấy giờ, trên đến cõi trời A-ca-nị-trá, dưới tới Tứ Thiên vương, chư Thiên cùng các Thiên nữ, hết thảy không còn sót một vị nào, đều dùng vô số các thứ âm thanh vi diệu để tán thán Đức Thế Tôn, cùng thực hiện các thứ ca vũ, hòa tấu âm nhạc để cúng dường Phật. Tất cả các chúng Dạ-xoa, La-sát, Cưu-bàn-trà, Càn-thát-bà, A-tu-la, Khẩn-na-la, Ngạ quỷ, Tỳ-xá-già, Phú-đơn-na, Ca-trá phú-đơn-na, Nhân phi nhân, hết thảy đã tùy theo sức lực và khả năng của mình bày tỏ muôn ngàn lời tán dương cùng thực hiện vô số sự cúng dường Đức Thế Tôn. Lúc này, Đức Thế Tôn nói với vị Thượng thủ là Bồ-tát Di-lặc cùng với tất cả chư vị Bồ-tát Ma-ha-tát trong Hiền kiếp: –Này thiện nam! Ta xưa, lúc còn hành đạo Bồ-tát, từng đối với chư Phật Như Lai thời quá khứ tạo mọi sự cúng dường như thế. Nhờ từ căn lành ấy đã giúp ta tạo nhân nơi ba thứ Bồ-đề. Ta nay, nhằm thể hiện rõ hơn nữa lòng thương xót muôn loài, nên đem phần quả của phước báo ấy phân làm ba, giữ lấy một phần cho chính mình tự nhận lấy, phần thứ hai thì sau khi ta diệt độ, sẽ được trao cho chúng Thanh văn kiên trì tu tập các pháp thiền, Tam-muội Giải thoát, ba nghiệp luôn tương hợp khiến mọi nẻo tu tập hành hóa của họ không hề bị thiếu hụt. Phần thứ ba, cũng là sau khi ta diệt độ, sẽ được trao cho các chúng Thanh văn tạo được sự tương hợp trong thời chính pháp, tượng pháp, đọc tụng kinh điển, giới luật không tinh chuyên, kể cả hàng xuất gia chỉ có hình thức cạo tóc mặc ca-sa, nói chung là không khiến họ chịu mọi thiếu thốn. Này Bồ-tát Di-lặc! Ta nay cũng đem các chúng Thanh văn, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, ba nghiệp luôn tương hợp, giao phó cho Bồ-tát hộ trì họ, chớ khiến họ phải bị thiếu thốn hay cô độc trong quá trình tu tập, hành hóa. Lại đem chính pháp trong thời kỳ tượng pháp, kể cả các hàng xuất gia chỉ có hình thức hủy phá giới luật, tất cả cùng giao phó cho Bồ-tát hộ trì, chớ khiến họ phải chịu thiếu kém mọi bề đến nỗi mạng chung, nhất là đối với những trường hợp bị các nhà vua Chiên-đà-la bức hại, thân tâm phải chịu bao nỗi khổ não. Ta nay cũng đem các hàng thí chủ đã từng cúng dường cho các chúng Thanh văn và đạo pháp, giao phó cho Bồ-tát, để hộ trì nuôi dưỡng họ. Đối với các vật dụng hay chẳng phải vật dụng hiện có, đã vì hàng đệ tử xuất gia của ta mà cúng dường, chư vị cũng phải dốc sức hộ trì. Này Bồ-tát Di-lặc! Như ở đời hiện tại cùng đời vị lai, có người dốc đọc tụng thọ trì pháp môn này, thì những kẻ đó sẽ đạt được mười thứ công đức thanh tịnh. Những gì là mười thứ ấy? Đó là thân thanh tịnh nên xa lìa được sát sinh, trộm cắp và hạnh tà, khẩu thanh tịnh nên không nói dối, không nói lời ác độc, không nói hai chiều và không nói lời thêu dệt. Tâm thanh tịnh nên lìa mọi tham dục, sân hận và tà kiến. Từ đấy về sau, trải qua hàng trăm ngàn vạn đời luôn có được mười thứ công đức thanh tịnh như thế. Như có những kẻ chí tâm lắng nghe và lãnh hội được pháp môn ấy, thì người đó sẽ an trụ nơi cõi thật và đạt được tám thứ công đức thanh tịnh. Những gì là tám thứ ấy? 1.Thọ mạng được lâu dài. 2.Dung mạo đoan nghiêm. 3.Được giàu sang. 4.Luôn được tôn xưng, ca ngợi. 5.Thường được chư Thiên hộ trì. 6.Mọi nẻo cần dùng luôn được đầy đủ. 8.Dứt sạch mọi thứ nghiệp chướng. 8.Khi sắp mạng chung sẽ được mười phương chư Phật cùng với đại chúng phóng hào quang tỏa chiếu ngay nơi trước mắt mình, người đó trông thấy và được sinh vào cõi thiện. Ở trong hàng trăm ngàn vạn đời luôn có được đầy đủ tám thứ công đức như trên. Ta nay cũng nêu bày sơ lược thêm là người ấy còn có được mười ba thứ công đức thanh tịnh nữa. 1.Trong sự lưu chuyển nơi cõi sinh tử, trọn không hề dấy khởi điên đảo, ác kiến. 2.Không sinh vào các quốc độ đầy năm thứ ô trược và không có Phật. 3.Thường được thấy Phật. 4.Luôn được nghe chính pháp. 5.Thường được cúng dường chúng Tăng. 6.Được gặp gỡ các bậc Thiện tri thức. 7.Luôn tạo được sự tương hợp với sáu pháp Ba-la-mật. 8.Không thoái chuyển xuống quả vị Tiểu thừa. 9.Luôn đem tâm đại Từ, Đại Bi, với những lực dụng phương tiện lớn lao để đem lại mọi thành tựu trọn vẹn cho chúng sinh. 10.Thường phát các hạnh nguyện thù thắng. 11.Đối với đạo quả Bồ-đề luôn dốc gắn bó. 12.Mau chóng thực hiện đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật. 13.Nơi đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác sẽ thành bậc giác ngộ tối thượng. Tóm lại, nếu có người dốc tâm thọ trì, biên chép, đọc tụng, vì người khác mà nêu bày giảng giải, theo đúng lời dạy để tu tập pháp môn Nguyệt tạng này, thì sẽ đạt được các thứ công đức như đã nêu trên. Đức Phật thuyết giảng xong phần này, Bồ-tát Ma-ha-tát Nguyệt Tạng, Tôn giả A-nhã Kiều-trần-như, cùng với tất cả chư vị đến dự pháp hội có mặt nơi đại chúng, chư Thiên, Nhân, A-tu-la, Càn-thát-bà… và hết thảy chúng sinh, nghe Phật thuyết giảng, thảy đều hoan hỷ, cung kính đảnh lễ đội ơn và phụng hành. Kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập <卷 id="117157937">Quyển 57 <詞 id="117157938">Phẩm 16: Tu-di Tạng <章 id="117157939">Phần 1: Thanh văn đảnh lễ tất cả chư Phật mười phương Tôi nghe như vầy: Một thời Đức Bà-già-bà ở tại núi Khư-la-đế, là trú xứ của vị tiên Mâu-ni, cùng với đại chúng Thanh văn số lượng rất nhiều, tất cả đều là đại đệ tử của Đức Phật, cùng vô lượng, vô biên chúng Đại Bồ-tát từ thế giới của chư Phật nơi mười phương đi đến nhóm họp. Các vị lần lượt sẽ được hoàn toàn thanh tịnh để dự phần thọ ký. Khi ấy, trong chúng cách Đức Phật không xa có vị trời hiệu là Công đức vì muốn nghe pháp nên từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay hướng về Đức Phật, bạch: –Kính thưa Đại Đức Bà-già-bà! Có các Bồ-tát dùng thuyền phước bố thí để vượt qua biển sinh tử. Vì sao? Vì thế giới năm trược rất cấu uế mà Đức Phật đang thị hiện ở đây, phần nhiều các chúng sinh với công đức và trí tuệ đều bị giảm thiểu. Do nhân duyên này nên các Đại Bồ-tát thường phát tâm Đại Bi. Lại các chúng sinh này hay ưa luận bàn về lẽ không nhân quả, tiền tài của họ thường bị nghèo thiếu, dù cực khổ dốc tìm cầu mà cũng không có. Nếu các Bồ-tát không thực hành bố thí thì không thể giáo hóa các chúng sinh tội ác ấy. Vì vậy nên các Bồ-tát suy nghó: “Ta nay mang áo giáp bố thí, hết lòng tinh tấn cỡi thuyền bố thí vượt biển sinh tử, là việc làm của Đại Bồ-tát tu hành phước đức bố thí để được vào biển lớn cao tột của chư Phật, mới đến được quả vị tối thượng Pháp vương quán đảnh”. Thưa Đức Thế Tôn! Lại có chúng sinh theo kiến chấp thường còn, khắp kiếm tìm tiền của, khổ thân cầu mong cũng không có được. Bồ-tát nếu không tu hành trì giới, bố thí thì không thể giáo hóa đem lại sự thành tựu đầy đủ cho các chúng sinh kia. Vì vậy nên Đại Bồ-tát đối với các chúng sinh chấp thường luôn khởi tâm Đại Bi. Bồ-tát lại nghó: “Ta sẽ hóa độ các chúng sinh chấp thường kia. Ta dùng áo giáp và thuyền trì giới như vậy nhằm vượt qua biển lớn sinh tử, cho đến khi nhận được quả vị Pháp vương quán đảnh. Vì thế, các Bồ-tát thực hành việc phước, trì giới và mười điều lành để tạo mọi thành tựu đầy đủ cho chúng sinh, khiến họ được vào nơi biển lớn vô thượng của chư Phật, cho đến đặt họ vào quả vị Pháp vương quán đảnh”. Thưa Đức Thế Tôn! Ở đây lại có chúng sinh thực hành mười điều lành mà không thanh tịnh, đối với các việc như sát sinh, trộm cắp, dâm dục, cho đến tham, sân… Vì chúng sinh luôn có kiến chấp về thân nên phước đức trí tuệ giảm sút, của cải thiếu kém, tuy dốc sức khổ cực tìm cầu mà cũng không có. Các chúng sinh kia, nếu không dùng giới thanh tịnh của người xuất gia thì không nhờ đâu mà được thành tựu trọn vẹn. Vì vậy, hàng Đại Bồ-tát đối với các chúng sinh kiến chấp về thân làm các việc ác: sát sinh, trộm cắp, dâm dục, nói dối, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói thêu dệt, tham lam, sân hận… ấy mà phát khởi tâm Đại Bi, phương tiện dùng pháp vô thường, khiến cho các chúng sinh đó được vào nơi biển pháp Phật, rồi dùng giới luật của hàng xuất gia để tạo mọi thành tựu cho họ. Đây tức là áo giáp nhẫn nhục, tinh tấn, cũng là giới của hàng xuất gia, là thuyền bè để chúng sinh vượt qua biển sinh tử. Do nhân duyên này, nên Đại Bồ-tát dùng phước đức trì giới và phương tiện của pháp vô thường để giáo hóa các chúng sinh thành tựu đầy đủ về giới luật, oai nghi của người xuất gia. Bồ-tát kia do sự hành hóa ấy, khiến cho chúng sinh được vào biển lớn vô thượng của Phật, cho đến khi đặt họ vào quả vị Pháp vương quán đảnh. Đại Bồ-tát cũng tự mình vào trong biển lớn giác ngộ vô thượng của chư Phật. Trời Công đức lại bạch Phật: –Thưa Đại Đức Bà-già-bà! Thế nào là Đại Bồ-tát lúc ban đầu tu học hành hóa Thiền ba-la-mật, tu học và biết các phần thiền, có thể ra khỏi cõi Dục, đoạn trừ năm chi và thành tựu năm chi, với bốn thần túc, thần thông tự tại, thường hay đi đến hết thảy các cõi Phật nhanh chóng như ánh chớp để nghe pháp và cúng dường tất cả Đức Phật, nhằm làm khô kiệt hạt giống sinh tử nơi ba đường cho chúng sinh. Những gì là ba đường? Đó là con đường tạo nghiệp, con đường phiền não và con đường khổ đau. Khi đã làm khô kiệt ba đường kia thì sẽ đạt đầy đủ Thiền ba-la-mật. Thế nào là đạt đầy đủ Thiền ba-la-mật? Là đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật. Đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật rồi thì mau đạt được Vô thượng chính đẳng chính giác. Phật nói: –Lành thay, lành thay! Này Thanh tịnh trí! Ông có trí thanh tịnh, đối với pháp ấy đã khó nhọc thực hành đầy đủ. Vì các chúng sinh nên đối với Đức Như Lai Ứng chính Biến Tri đã thưa hỏi về ý nghĩa ấy. Ông có trí thanh tịnh nên chí tâm lắng nghe, khéo suy nghó. Ta nay sẽ vì ông phân biệt giảng nói. Vị trời Công đức thưa: –Thưa Đức Thế Tôn! Đúng như vậy. Con sẽ lắng nghe, kính xin Thế Tôn giảng nói! Đức Thế Tôn bảo vị trời Công đức: –Này Thanh tịnh trí! Như chỗ ông hỏi: Làm sao hàng Đại Bồ-tát lúc đầu tu học về phần gốc của Thiền ba-la-mật, đã học hết và biết các phần thiền rồi, hay vượt qua cõi Dục, đoạn trừ năm chi, thành tựu năm chi. Với bốn thần túc, thần thông tự tại, hay đi đến tất cả cõi Phật nhanh như ánh chớp, cúng dường hết thảy chư Phật và nghe pháp, nhằm làm khô kiệt hạt giống sinh tử của chúng sinh trong ba đường. Những gì là ba? nghĩa là con đường tạo nghiệp, con đường phiền não và con đường khổ đau. Bồ-tát khiến chúng sinh tu đạo, làm các việc phước, đầy đủ Thiền ba-la-mật. Đủ Thiền ba-la-mật rồi, cũng được đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật. Đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật rồi thì mau đạt được Vô thượng chính đẳng chính giác. Này Thanh tịnh trí! Đại Bồ-tát ấy ban đầu tu thiền, với hết thảy hơi thở ra vào, ý niệm duyên theo nó để buộc tâm. Đại Bồ-tát do tâm không loạn, thở ra thở vào, tùy theo hơi thở vào, tâm liền tiếp xúc. Vị ấy khi thở vào, tâm liền tiếp xúc gọi là Giác. Tùy theo hơi thở ra, tâm liền tiếp xúc. Vị ấy tùy theo hơi thở ra, tâm liền tiếp xúc gọi là Quán. Cho đến được hỷ lạc nhất tâm, được tâm không loạn, sắp ra khỏi cõi Dục, lìa Giác và Quán, đoạn trừ các thứ triền cái (phiền não trói buộc che lấp), tham dục, sân hận, hàng phục hết thảy pháp ác, được vào Sơ thiền có Giác có Quán. Khi ấy, người kia liền có tướng lạ hiện khởi: Tất cả phần thân thảy đều chấn động cùng khắp thân thể. Nếu Bồ-tát tăng trưởng sự dũng mãnh thêm lên, buộc niệm chuyên chú, thì liền diệt hết quán, hỷ lạc nhất tâm, đắc đệ Nhị thiền. Vì trừ bỏ lỗi của hỷ, siêng năng cần mẫn không dừng, đã lìa hỷ rồi, được niềm vui của đệ Tam thiền. Bồ-tát khi ấy toàn thân vui thích, cũng như dùng sữa ấm để rưới khắp thân thể, được niềm vui ít có, tưởng như thân của chư Thiên. Vị ấy được thành tựu niềm vui thù thắng như vậy, đối với Tam bảo sẽ được tăng trưởng lòng tin. Lại nghó: “Ta vì tạo lợi ích cho hết thảy chúng sinh, mặc áo giáp lớn, siêng tu thiền định, nay nên bỏ niềm vui của thân”. Đại Bồ-tát kia dừng hơi thở ra vào, xả tâm tương tục, duyên dựa, buộc tâm ý vào đầu mũi, với hơi thở ra vào, trụ tâm quan sát. Lại quán tâm kia trong từng sát-na tan hoại, biết nó sinh diệt. Lại biết tâm kia trong từng sát-na tương ưng tan hoại mà không sinh. Như trăng trong nước, như bóng sáng, như dợn nắng, như ánh chớp. Tâm ý biết tất cả ấm, giới, nhập như bọt nước, vì vậy nên cần xả bỏ niềm vui về thân, nghó nhớ pháp kia vốn sinh diệt, liền được vào Đệ tứ thiền. Khi ấy, liền sinh khởi hình tướng như vầy: “Bồ-tát tuy đã nhắm mắt mà như có ánh sáng lớn của mặt trời soi thấy rõ tất cả.” Bồ-tát kia lại nghó: “Do duyên dựa với tướng ánh sáng kia nên hết thảy chúng sinh đối với ấm, giới, nhập không đoạn được sự tăng trưởng mãnh liệt. Ta nay nên có tâm niệm dừng lại việc duyên dựa theo ánh sáng”. Bồ-tát lại đối với việc này để diệt phương tiện xả thọ, tưởng, tư, xúc, nhớ đến sự sinh diệt, khéo vào thành thanh tịnh, tịch diệt, thù thắng, trụ nơi chỗ dừng theo các nghiệp của thân, miệng, ý. Bồ-tát kia lại từ định xuất, giữ lấy tướng hơi thở ra vào, quan sát và tiếp xúc với niệm tưởng để trở về nhập vào định Không. Từ Định không khởi, lại quán tướng duyên dựa sinh diệt của hơi thở ra vào, liền nhập vào cảnh giới Tam-muội Vô nguyện. Từ Tam-muội Vô nguyện khởi, thấy hơi thở ra vào vốn vắng lặng, an trú nơi định vô tướng. Như vậy thì có thể tu hoàn thành pháp bốn Niệm xứ và pháp ba môn giải thoát. Bồ-tát kia quán sự sinh diệt của hơi thở ra vào, do quán sự sinh diệt nên tu bốn chính cần được đầy đủ. Bồ-tát quán hơi thở ra vào thấy tướng còn mất, liền có thể tu tập thành tựu pháp bốn thần túc. Vị ấy quán hơi thở ra vào cho nên có khả năng thấy thân tan hoại như bụi xuyên qua cửa sổ. Khi ấy liền thành tựu được năm căn. Dùng phương tiện hơi thở ra vào còn mất, quan sát ba hành. Như vậy, người tu hành liền thành tựu được năm lực. Người tu hành dùng phương tiện diệt trừ tướng cảm thọ của hơi thở ra vào, do quan sát, xả trừ mà được vắng lặng. Như vậy là tu bảy Bồ-đề phần được đầy đủ. Người tu hành ấy dùng phương tiện nghó đến sự tan hoại của gió trong hơi thở ra vào, cho đến tất cả cõi đại địa và hết thảy cảnh sắc đều tan hoại không sót. Người kia không còn thấy có tướng, không có nói năng, không có hình trạng, tướng mạo, không có giả danh, ba hành đều vắng lặng, hoàn toàn tịch tónh, được Tam-muội Vô nguyện. Được thế này gọi là Bản nghiệp của thiền định tự tại, Thiền ba-la-mật. Các Đại Bồ-tát gồm đủ hết thảy bản nghiệp của thiền Thanh văn, Bích-chi-phật, nếu trú ở đây rồi tiếp tục siêng năng tu tập thì sẽ chứng quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, cho đến trú nơi quả A-la-hán. Nếu Bồ-tát tinh tấn bền vững phát tâm Đại Bi, luôn nghó đến hết thảy chúng sinh đang bị khổ nhọc sẽ được vô lượng phước đức trí tuệ tích tụ. Vị Đại Bồ-tát kia thực hiện việc tu thiền căn bản như vậy, theo phương tiện an trụ nơi Tam-muội tự tại, đối với đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác không còn thoái chuyển, không rơi vào định nơi hàng Thanh văn, không bỏ áo giáp lớn là sự nghiệp thiền định căn bản. Đại Bồ-tát ấy tu tập đủ Thiền ba-la-mật. Đầy đủ Thiền ba-la-mật rồi, liền được đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật. Này Thanh tịnh trí! Cho đến nếu trong quốc độ hoặc có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, muốn hướng tới Thanh văn thừa, muốn hướng tới Duyên giác thừa, hoặc hướng tới Đại thừa, hoặc có thiện nam, thiện nữ đối với sự nghiệp chính là tu tập thiền Tam-muội tự tại như vậy mà buộc niệm tư duy, tùy ở chỗ nào, nơi quốc độ kia thì tất cả Thiên vương thường bảo vệ, giữ gìn. Tất cả Long vương, tất cả Dạ-xoa vương, tất cả A-tu-la vương, tất cả Khẩn-na-la vương, tất cả Ma-hầu-la-già vương… sẽ thường hộ trì nước ấy. Nếu trong quốc độ nào có người tu thiền tương ưng với phước điền như vậy mà an trú, thì nước ấy, vua Sát-lợi sẽ được mười thứ rất đáng ưa muốn. Những gì là mười? 1.Thân an ổn, không có tai họa. 2.Thọ mạng lâu dài. 3.Được hình sắc đẹp đẽ. 4.Da thân tươi tắn, mịn màng. 5.Các chi tiết nơi thân tướng đều đáng yêu. 6.Quyến thuộc đều hiền thiện. 7.Thường tu tập nghiệp thiện. 8.Buộc niệm theo phương tiện Từ bi. 9.Thường có được tiếng tăm và phước đức tương ưng. 10.Khi mạng chung, được sinh lên cõi trời. Lại nước kia cũng thành tựu được mười thứ lợi ích thù thắng. Những gì là mười? 1.Không bị giặc bên trong của nước mình và giặc bên ngoài cướp hại. 2.Không bị giặc ác, thú độc, muỗi mòng, sâu trùng… làm hại. 3.Không bị lụt lớn và các thứ gió, mưa, lạnh, nóng… chẳng đúng thời. 4.Đất đai bằng phẳng, không có gò cao, khe nước rộng sâu hiểm trở. 5.Trong nước kia các hạt giống, năm thứ lúa thóc, hoa màu, các cây cỏ thuốc, rừng cây đều tươi tốt, um tùm. Hoa quả không có các vị cay, đắng, chát, tức các mùi vị không đáng ưa. 6.Không có các âm thanh xấu ác nói về: tranh giành, phản nghịch, đói khát, bệnh hoạn và chết yểu. 7.Chúng sinh nơi nước ấy thân hình đều đẹp đẽ, sống lâu, an vui, giàu mạnh, tâm không ô trược, luôn tự tại an lạc. Như pháp tu hành, sẽ sinh lên cõi trời. 8.Nơi nước kia, chỗ nương tựa của các bậc phước điền ưa thích tùy thuận an vui trong thiền định Tam-muội. 9.Chúng sinh nơi nước kia, các thức ăn uống, cần dùng thảy đều không thiếu, các món thượng diệu đáng ưa, tạo thành sắc thân xứng hợp với căn tính, tăng trưởng không trái. 10.Muôn dân nước kia luôn khỏe mạnh, ký ức tốt, có tâm Từ bi. Khi mạng chung được sinh lên cõi trời. Này Thanh tịnh trí! Mười pháp này khéo tạo mọi trang nghiêm cho quốc độ kia. Này Thanh tịnh trí! Đại Bồ-tát này, do nghiệp chướng của chúng sinh ngăn ngại nên phải lìa bỏ Đại thừa, trụ vào quả vị Thanh văn để giáo hóa chúng sinh. Vị Thanh văn này hành Thiền ba-la-mật, tu tập Tam-muội tự tại. Là Thanh văn, do biết rõ đầy đủ các phần vị tu thiền, nên ra khỏi nhà sinh tử trong ba cõi và không bị trói buộc, đoạn trừ năm chi, thành tựu năm chi, vượt qua ba cõi, an trú vào quả vị Vô học, thần thông tự tại, đạt tới tám Giải thoát, thiền định giải thoát. Chỉ trong một kiếp tu hành, được làm con của hết thảy chư Phật, từ miệng Đức Phật sinh, từ pháp hóa sinh. Vị kia tuy được như vậy, hãy còn không thể đi đến cõi nước của chư Phật cung kính, cúng dường, theo Phật nghe pháp, cũng không thể làm khô kiệt các nghiệp của chúng sinh trong ba đường. Nếu đạt được Tam-muội tự tại như vậy, thì tùy người kia an trú trong quốc độ nào, sẽ được công đức thiện lợi lớn như trên đã nói.  <章 id="117157940">Phần 2: Thiền của Bồ-tát Khi ấy, Đức Phật nói với vị trời Công đức: –Này Thanh tịnh trí! Thế nào là Đại Bồ-tát không cùng chung với hết thảy Thiền ba-la-mật của hàng Thanh văn và Bích-chi-phật theo chỗ sai khác đầy đủ nơi bản nghiệp? Nếu Đại Bồ-tát đầy đủ Thiền ba-la-mật rồi thì liền có thể đầy đủ năm Ba-la-mật khác. Này Thanh tịnh trí! Đại Bồ-tát ấy đối với hết thảy hơi thở ra vào và năm thọ ấm khéo quan sát về sự sinh diệt của chúng nó, đã quan sát rồi, thì tiêu trừ sạch mọi khát ái, không rơi vào quyết định tụ của hàng Thanh văn, lại được bốn Thần túc, thần thông tự tại, thường đi đến các cõi Phật nhanh chóng như ánh chớp, cúng dường các Đức Phật, nghe pháp, làm khô kiệt ba đường nơi tất cả chúng sinh là: con đường phiền não, con đường tạo nghiệp và con đường khổ đau. Tuy ra khỏi cõi Dục mà không từ bỏ cõi Dục, vì muốn giáo hóa chúng sinh nên thị hiện sinh ra trong các cõi. Khi thọ sinh, ở trong bào thai không bị ô nhiễm, cắt đứt lưới phiền não cho chúng sinh, nhưng đối với chúng sinh không lấy đó làm sở đắc. Này Thanh tịnh trí! Vị Đại Bồ-tát ấy tùy theo hơi thở ra vào, mỗi mỗi phân biệt quan sát, nhưng rất mới mẻ, không phải cũ kỹ mà rõ biết như thật. Do vậy, trong hơi thở ra vào với sắc, thọ ấm biết rõ như thật. Thọ, tưởng, hành ấm cũng biết rõ như thật. Như vậy, trong hơi thở ra vào với thức thọ ấm biết rõ như thật. Đối với hơi thở ra khác, hơi thở vào khác, biết là hơi thở ra khác, hơi thở vào khác. Trong khi biết hơi thở vào khác, ý niệm tiếp xúc với thọ, tưởng, tư. Trong khi biết hơi thở ra khác, ý niệm sẽ tiếp xúc với thọ, tưởng, tư cũng như vậy. Cảm thọ khi thở vào chẳng phải cảm thọ khi thở ra. Cảm thọ khi thở ra chẳng phải cảm thọ thở vào. Như thế, chúng sinh luân chuyển trong ba cõi mà thọ, tưởng, tư làm nhân duyên cho ý niệm tiếp xúc, nên tương tục không gián đoạn, trôi nổi trong biển sinh tử, không thể vượt qua. Cứ như vậy, lớp lớp sinh ra, già chết rồi trở lại sinh ra, chúng sinh không thể rõ biết như thật về pháp này, không thể như sự thật ra khỏi sinh tử kia, vì đối với hơi thở ra vào, chúng sinh không thể biết rõ và quan sát. Lại nữa, hơi thở ra vào như vậy, đối với chín lỗ trong thân cũng ra vào, qua lại như thế, cho đến chín mươi chín na-do-tha trăm ngàn lỗ chân lông, cả thảy đều có thở ra thở vào, nhưng ở nơi chín mươi chín na-do-tha trăm ngàn lỗ chân lông không tăng không giảm, không thể biết rõ, chẳng phải quá khứ, chẳng trụ vị lai, chẳng phải đầu, chẳng phải giữa, chẳng phải cuối, không biết trụ, không biết xuất. Lại suy nghó: “Ta nay thấy hết thảy lỗ chân lông đều thở ra thở vào, nên theo phương tiện quán sinh diệt, được cùng với tướng sinh diệt tương ưng mà trụ. Vì vậy, Đại Bồ-tát tùy chín lỗ trong thân mà có hơi thở ra vào sinh diệt. Quan sát như vậy cho đến chín mươi chín na-do-tha trăm ngàn lỗ chân lông. Trong mỗi mỗi lỗ chân lông, quan sát hơi thở ra vào sinh diệt, quan sát tướng của hơi thở ra vào sinh diệt, nên như vậy mà trụ. Nếu Bồ-tát quán thấy tướng của lỗ chân lông nhỏ, chỉ thấy nơi mảy lông, hơi thở từ đó ra vào thì chỉ thấy rất nhỏ. Nếu muốn thấy lớn, liền có thể thấy được như bằng hạt cải, hoặc muốn được thấy như quả Am-ma-lặc, tức liền thấy được. Nếu muốn thấy được như quả Tần-loa, cũng liền thấy được. Nếu muốn thấy được một do tuần, ngàn do tuần, cho đến một hay cả bốn thiên hạ, trong mỗi mỗi lỗ chân lông mà quan sát đó, tùy muốn thấy rộng liền được thấy rộng”. Bồ-tát kia lại nghó: “Chúng sinh do thấy với con mắt mê lầm nên bị trói buộc trong sinh tử tương tục không gián đoạn, trôi nổi ở đó, phải chịu các quả khổ đau”. Bồ-tát kia lại nghó: “Ta nay xả bỏ tất cả sắc tưởng, đã được pháp Tam-muội vô ngôn, chẳng phải là quả vị của hàng Thanh văn, Bích-chi-phật, mà đối với địa giới cũng không sở đắc, không trải qua ấm, giới, nhập, chẳng phải phần trước, chẳng phải phần sau, chẳng phải thế giới này, chẳng phải thế giới khác, chẳng phải nghiệp báo thiện, chẳng phải nghiệp báo ác, chẳng phải sinh, chẳng phải diệt, chẳng phải có phiền não, chẳng phải lìa phiền não, đều không có sở đắc. Bồ-tát như vậy mà an trú trong vắng lặng. Nếu Bồ-tát ấy muốn được an trụ hoặc gia tăng đối với hết thảy pháp Tam-muội Vô ngữ, ngôn, không này trong vô lượng kiếp, Bồ-tát như vậy tự biết gia trì năng lực Tam-muội thì có thể đối với hết thảy pháp Tam-muội Vô ngữ, ngôn, không này mà an trụ trong vô lượng kiếp cũng có thể thực hiện đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật, chỉ vì nhân duyên là tạo mọi thành tựu cho chúng sinh”. Này Thanh tịnh trí! Như vậy, Đại Bồ-tát Địa Tạng đối với hết thảy pháp Tam-muội Vô ngữ, ngôn, không này đã đến bờ bên kia là tự tại, Bồ-tát khi muốn vào Tam-muội này, do năng lực của trí tuệ phước đức, vì nhằm tạo thành tựu cho các chúng sinh, trước phát thệ nguyện: Kể từ nay về sau, khi ta chưa ra khỏi Tam-muội, trong thời gian đó, muốn khiến cho quốc độ này và trong bốn cõi thiên hạ, tất cả chúng sinh trong thế giới của Phật ấy, có chỗ cần dùng về vật dụng, tiền bạc cho sự sống, tùy theo tướng mạo, tùy theo nhu cầu nhiều ít, tùy chỗ ưa muốn của chúng sinh kia về: Đồ ăn uống, y phục, đồ nằm, chuỗi báu, các vật dụng trang nghiêm, vườn rừng, nhà cửa, hình sắc tướng trạng, các chi tiết của phần thân và sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp đáng ưa, muốn thấy biết các việc như vậy. Khi ấy, Bồ-tát liền nhập pháp Tam-muội ấy, đã vào trong Tam-muội rồi thì tùy theo hoàn cảnh, đối với tất cả chúng sinh trong cõi Phật và bốn cõi thiên hạ, các thứ cần dùng liền được đầy đủ như trên đã nói. Hoặc lại suy nghó: “Tùy ta tu tập pháp định, hoàn cảnh xa gần, tùy các chúng sinh chừng mực ít nhiều, muốn trừ các bệnh về thân tâm cho họ, như là các thứ bệnh phong, bệnh vàng da, hoặc cả hai bệnh, hoặc do người hay chẳng phải người tạo ra. Như vậy, muốn trừ các bệnh của phiền não, tham, sân, si và diệt mười nghiệp không lành, khiến họ an trụ nơi mười nghiệp lành, liền nhập Tam-muội này. Đại Bồ-tát ấy an trụ nơi định tùy hoàn cảnh lâu mau, tùy chúng sinh kia việc làm nhiều ít như trên đã nói về bệnh khổ của thân tâm thảy đều tiêu diệt”. Bồ-tát lại phát nguyện: Tùy thời gian ta đã an trụ trong thiền định, muốn diệt trừ những nỗi khổ ở nơi địa ngục, những nỗi khổ do giết nhau để ăn của loài súc sinh, các khổ về đói khát ở cõi Diêm-ma-la và khổ về lạnh nóng, khổ do oán địch gặp gỡ, khổ do yêu thương phải xa lìa, khổ do cầu mong không toại ý, tùy theo chừng mức của nguyện, khiến cho tất cả chúng sinh lìa tất cả các thứ khổ não và pháp xấu ác, thành tựu hết thảy pháp lành, khiến các chúng sinh đều hướng đến lòng từ, sinh tâm lợi ích, tâm không dao động, tâm không thù oán, tâm không tranh chấp, tâm không kiện tụng giành giật, tâm mến thương, tâm khéo an trú cảm nhận thiền chân chính, tâm không mê lầm, cùng diệt trừ tâm ngu hoặc của chúng sinh. Lại diệt trừ các thứ chấp thường, chấp đoạn nơi chúng sinh và các thứ kiến chấp khác. Đối với Tam bảo là nơi đáng cung kính, cúng dường, lại sinh tâm cho là ít có, khiến các chúng sinh lìa bốn thứ điên đảo, an trụ vào bốn thứ không điên đảo, đối với bốn thánh đế và Đệ nhất nghĩa đế, tâm khéo an trụ. Như vậy là nhờ vào diệu lực của phước đức trí tuệ cùng phương tiện thiện xảo của Bồ-tát gia trì cả. Bồ-tát khi ấy vì nhân duyên hóa độ chúng sinh nên nhằm hội nhập Tam-muội, cho đến trong thời gian chưa ra khỏi Tam-muội, khiến quốc độ này cùng bốn thiên hạ trong cõi Diêm-phù-đề, kể cả các chúng sinh hiện có nơi một cõi Phật này, tùy ý mà phân phát khắp sự an lạc cho họ, như trên đã nói đều được đầy đủ. Rồi sau đấy mới vào cảnh giới của Tam-muội Vô ngữ, ngôn, nhất thiết pháp không. Vị Đại Bồ-tát kia, thời gian hội nhập nơi Tam-muội này, cho đến khắp cõi Phật, tùy sự tha thiết cầu mong của chúng sinh không giống nhau sẽ dùng diệu lực của phước đức trí tuệ hiện có khi an trú trong định, sẽ đem những thứ tạo mọi an lạc giúp đỡ cho chúng sinh, như trên đã nói, kể cả lúc chưa xuất định, còn khiến các chúng sinh đều được đầy đủ. Bồ-tát kia khi nhập định này không còn khổ về thân, khổ về tâm, cũng không bao giờ cảm thấy đói khát, lửa không thể đốt cháy, nước không thể làm trôi, thậm chí dù gặp kiếp hỏa cũng không thể hủy hoại, gặp kiếp thủy cũng không bị cuốn trôi, không bị phong tai làm cho tan tác. Lại không bị các thứ tai họa như bệnh tật, đói khát, đao binh… Khi mạng căn sắp hết, muốn diệt độ thì tùy ý tự tại, các hàng người và chẳng phải người, gió độc, nóng bức cũng không thể xâm phạm, não hại được. Thêm nữa, Bồ-tát ấy khi ở trong định chưa xuất, tùy theo ý niệm của chúng sinh, muốn đem vô lượng cõi Phật đặt vào trong một vi trần, cùng tất cả chư Phật nơi mười phương quốc độ, với các Đại Bồ-tát, Thanh văn làm quyến thuộc, để trên đầu móng tay, đều có thể thấy được một cách trọn vẹn. Lại khiến cho hết thảy chúng sinh vào trong một lỗ chân lông, mà các chúng sinh ấy nơi cảnh giới của mình đều trông thấy như cũ. Lại vô lượng cõi Phật nơi mười phương thế giới có bao nhiêu gió, Bồ-tát đều khiến đi vào trong đầu lỗ chân lông, tùy theo cảnh giới của gió du hành khắp hư không rộng hẹp, qua lại đều không bị chướng ngại, ở nơi đầu sợi lông kia cũng không tăng giảm, như cũ không khác. Lại, hết thảy thế giới của chư Phật khắp mười phương có bao nhiêu nước, Bồ-tát có thể cho vào trong vò một hạt đậu, tùy theo nước rộng hẹp, trôi chảy qua lại cũng không bị chướng ngại, ở nơi vỏ hạt đậu kia cũng không tăng giảm. Lại, Bồ-tát ấy không còn thọ sinh theo nẻo nhập thai, trừ khi tự mình tạo nguyện lực, cũng không sinh vào cõi ác, không thọ thân nữ, không sinh nơi hàng thấp kém, các căn đầy đủ, hành động của thân, miệng, ý không có lỗi lầm, cũng không sinh vào thế giới không có Phật, trừ khi tạo nguyện lực nhằm hóa độ chúng sinh, Bồ-tát này thường không xa lìa việc thấy Phật, nghe pháp, cúng dường hầu cận chúng Tăng, cũng không xa lìa việc tạo phước đức, trí tuệ, vô úy, làm phương tiện để giáo hóa chúng sinh, cho đến hội nhập nơi cảnh giới Niết-bàn vô thượng. Như vậy, này Thanh tịnh trí! Đại Bồ-tát kia mang áo giáp rất kiên cố, sự nghiệp chính lúc đầu là tu tập Thiền ba-la-mật, có thể biết rõ các phần thiền vượt qua cõi Dục, đoạn trừ năm chi, thành tựu năm chi, cho đến vận dụng tự tại bốn thần túc, có thể đi đến các cõi Phật nhanh chóng như ánh chớp, cúng dường hết thảy chư Phật, lắng nghe chính pháp, làm khô kiệt ba con đường của chúng sinh, đó là: đường phiền não, đường nghiệp báo và đường khổ não. Như vậy, này Thanh tịnh trí! Vị Đại Bồ-tát gồm đủ Thiền ba-la-mật rồi, sau đó liền có thể đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật, gồm đủ sáu pháp Ba-la-mật rồi thì mau đạt được Vô thượng chính đẳng chính giác. Bấy giờ, khi Đức Thế Tôn thuyết giảng về sự nghiệp chính là Thiền ba-la-mật, thì ở trong đại chúng ấy có năm vạn chúng sinh nơi thời quá khứ đã từng tu tập pháp này, cho nên nay được pháp nhẫn vô sinh, tám vạn bốn ngàn Bồ-tát đạt được Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm, chín vạn chín ngàn Bồ-tát đạt được đầy đủ Thiền ba-la-mật, vô lượng, vô biên chúng sinh chưa từng phát tâm đều phát tâm Vô thượng Bồ-đề, đã phát tâm này rồi thì an trú nơi quả vị bất thoái chuyển.  <章 id="117157941">Phần 3: Diệt trừ mưa gió chẳng phải thời Khi ấy, Đại Bồ-tát Địa Tạng nói với vị trời Công đức: –Này Thanh tịnh trí! Ông bây giờ nên quán xét tất cả sự đoan nghiêm vi diệu thù thắng trong bốn cõi thiên hạ này, là chỗ nên cúng dường, nhớ nghó, giữ gìn của hết thảy các Bồ-tát ở nơi đêm dài sinh tử kia lại càng nên cung kính, cẩn trọng. Nay Đức Phật Thích-ca Mâu-ni nhóm họp tất cả Đại Bồ-tát để chỉ bày con đường tu hành đạo giác ngộ không bị thoái chuyển, là phương tiện khéo léo, hoàn hảo để đạt đến quả vị quán đảnh. Ông phải thực hành Bố thí ba-la-mật để hoàn thành việc tu tập đạo tối thượng, không còn thoái chuyển. Nếu ông đối với phước điền tối thượng như vậy, dùng các thứ đồ ăn thức uống thực hành pháp cúng dường, do siêng năng cần mẫn như thế, sẽ mau chóng hoàn thành sáu pháp Ba-la-mật. Sáu pháp Ba-la-mật đã thực hành đầy đủ rồi có thể an trú vào Nhất thiết chủng trí. Trời Công đức nói: –Đúng như vậy, đúng như vậy! Như nhân giả đã giảng nói, xin Bồ-tát nghe tôi nói lại nhân duyên ngày trước: Tôi nhớ từ thời xưa trải qua vô lượng kiếp, tôi cùng với Đức Phật Thích-ca Mâu-ni tu hạnh Bồ-tát, đồng phát thệ nguyện: “Nếu ngài thành tựu đạo quả Vô thượng thì tôi nguyện ở nơi bốn cõi thiên hạ kia đạt đến chỗ công đức, đạt đến chỗ công đức rồi, đối với tất cả chúng sinh ở đấy, tùy họ cần dùng các thứ áo mặc cơm ăn, thảy đều cung cấp đầy đủ.” Thưa nhân giả! Xin hãy khéo lắng nghe: Về đời quá khứ trải qua vô lượng kiếp, thời ấy có Đức Phật hiệu là Nhân-đà-la Tràng Tướng Vương gồm đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, chính Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Hải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn xuất hiện ở đời, thọ mạng của con người thời bấy giờ là ngàn tuổi. Lúc này, có vị Ưu-bà-tắc tên là Quang Vô Cấu Đức, rất thông tuệ, hiền hòa, hiểu biết rộng, không sợ hãi, đã vì bốn chúng đệ tử mà nói pháp, mọi người đều quy phục nên ông có rất nhiều quyến thuộc. Ông có người con trưởng tên Vô Cấu Đức, dùng lời kệ tụng để thưa hỏi cha: Nay cha vì sao Lòng siêng không thoái Bỏ cả sự nghiệp Và thân mạng mình. Vì giúp chúng sinh Dũng mãnh tăng tiến Vì sao thân này Không chọn diệt độ. Quang Vô Cấu Đức lại dùng kệ tụng nói với con: Ta thấy đời khổ Chúng sinh quá mê Sinh, già, bệnh, chết Bị chúng bức bách. Lửa dữ phiền não Trôi lăn cõi ác Nên ta hăng hái Muốn diệt lửa kia. Lại trí kém yếu Không thấy sau này Chìm sông sinh tử Nơi đầy tội lỗi. Đối với đường ác Mê bỏ nẻo chính Vì cứu độ họ Nên ta tu hành. Lại không thể thành Bố thí thâu tóm Nên thường xa lìa An lạc trời, người. Với Thiện tri thức Thường cùng chống trái Nguyện chỉ chúng sinh Con đường xuất thế. Trong ngục phiền não Luôn buộc chúng sinh Không có mắt sáng Lại không ai cứu. Chấp trước ác kiến Ăn nuốt máu thịt Muốn họ từ bỏ Nên ta tu hành. Ta với chúng sinh Thường nghó như vậy Vì mỗi mỗi người Ở ngục A-tỳ. Chịu đủ các thứ Khổ não dữ dội Như vì một người Nhiều người cũng vậy. Ta không mong cầu Trí tuệ Thanh văn Và trí Duyên giác Chẳng nguyện cầu gì. Chỉ cầu Vô thượng Trí tuệ tối thắng Con nay nên biết Tu hành thắng đạo. Cho đến vô lượng Số cát sông Hằng Chúng sinh khổ não Chưa được thoát khổ. Vì muốn độ họ Tất cả chúng sinh Ta trọn không nhận Bồ-đề chính giác. Con nay nên biết Cũng nên như thế Với các chúng sinh Nên khởi tâm Bi. Thường phải dũng mãnh Tu tập pháp lành Dùng để hồi hướng Thánh đạo Vô thượng. Vào lửa phiền não Cứu thoát chúng sinh Con nên hăng hái Dù cực khổ nào. Cần phải tu hành Bố thí giáo hóa Được thành Phật đạo Không có nghi ngờ. Nếu ta được thành Bồ-đề Vô thượng Con nơi chúng sinh Cấp thí ăn uống. Ta sẽ trao ông Thọ ký giác ngộ Con nên an trú Thề nguyện vững chắc. Khi ấy, vị trời Công đức nói với Đại Bồ-tát Địa Tạng: –Thưa thiện nam! Tôi thời ấy, đối trước Đức Phật Nhân-đà-la Tràng Tướng Vương phát lời nguyện: “Cho dù tôi trú trong thế gian này, thời gian kia lâu hay mau, mỗi mỗi đều siêng năng thực hành các hạnh khổ khó hành như bố thí, chế ngự, thu phục phóng dật và tu các pháp thiền định, phát triển hỗ trợ các việc đa văn và hạnh hỷ xả, thảy đều tu tập, với vô số việc khó xả nhưng có thể xả bỏ được”. Như vậy, cha tôi với đời sau này, khi thọ mạng của con người chỉ còn một trăm tuổi, nhiều phiền não, oán địch, tranh chấp, uế trược, đầy sự mê hoặc ở trong thế gian xấu ác như vậy mà thành tựu đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác, nơi quốc độ ấy, tôi sẽ hiện làm chủ công đức, đối với chúng sinh trong cảnh giới của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni cùng các quyến thuộc sẽ bố thí, cúng dường các vật dụng tốt đẹp cần thiết cho bản thân như y phục, đồ ăn uống, tức ở trước Đức Phật Thích-ca Mâu-ni được thọ ký quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác. Nếu ở quốc độ kia, chúng sinh bạo ác, thô lỗ, hung tợn, không có lòng Từ bi, cũng chẳng thay đổi cứ làm ác, nghó ác, các điều ác đã tạo nên vô số như thế sẽ khiến cho gió mưa không đúng thời, hoặc lại bị lũ lụt, lạnh nóng không điều hòa, tạo các tai họa, các thứ hoa quả, năm thứ lúa thóc hoa màu, những cây cỏ thuốc và các thứ mỹ vị khác mà chúng sinh hiện có đều bị suy giảm, mất hết tinh chất, mọi tài sản của chúng sinh đều bị suy tàn cùng cực. Khi ấy, tôi nguyện đối với các chúng sinh kia sẽ dùng phước đức để gia hộ đầy đủ. Do oai lực của trí tuệ, nhờ đó mà ngăn chận tai họa, khiến họ sinh lòng tin. Lại khiến cho chúng sinh có cuộc sống không bị thiếu thốn, không còn làm ác, tăng trưởng pháp lành, được Đức Phật hóa độ và chúng sinh đều nhận lấy sự giáo hóa, nối tiếp tính Tam bảo, không để đoạn tuyệt, uy lực tăng trưởng. Lại khiến cho tôi được y báo tự tại, giáo hóa chúng sinh đạt được đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác. Nay đối trước Đức Phật xin phát thệ nguyện: “Nếu vào đời sau, sự nghiệp tu hành của con được đầy đủ như vậy, xin nguyện được ấn chứng ban cho lời dạy: Lành thay!” Bấy giờ, Đức Phật Nhân-đà-la Tràng Tướng Vương liền chấp thuận và tán thán: –Lành thay, lành thay! Này thiện nam! Như ông đã nguyện, sẽ được đầy đủ. Lại này thiện nam! Ta sẽ giúp ông tạo cho đời nhà ở và nước uống. Là tâm Đà-la-ni, nếu ông dùng tâm Đà-la-ni này tất có thể tạo mọi thành tựu cho hết thảy chúng sinh, khiến vô lượng các loài luôn có đời sống sung túc với quả báo không đói kém, có thể vượt qua dòng thác phiền não chảy xiết. Liền nói chú: Đa địa da tha, xà lam bà, ma ha xà lam bà, a nô ha xà lam bà, sa la xà lam bà, úc già xà lam bà, dạ xoa tỳ lê xà lam bà, na già tỳ lê xà lam bà, ưu là già tỳ lê xà lam bà, a tát đế tỳ lê xà lam bà, a du bà tỳ lê xà lam bà, mạn trù ca tỳ lê xà lam bà, khứ mục la tỳ lê xà lam bà, bàng khởi tỳ lê xà lam bà, a ma tỳ lê xà lam bà, tô chi mục khư xà lam bà, ma la bà ma la xà lam bà, ma la tỷ ca trà bát đa la bố sơ ba la mật pha lam bà, tố xoa lê ngưu bà sách, đạt ma da nhược, tỷ lợi sử trí tao ê lam bà, già thiệm bộ la bà cùng cùng, bà la cùng tần đầu cùng, ba la xà tỳ, ta ba ha. Chú Đà-la-ni này, nếu vì người khác nêu danh hiệu của họ, hoặc vì thân mình mà trì tụng thì tất cả mọi thứ sợ hãi, tai ương, hoạn họa đều được tiêu diệt. Này thiện nam! Tâm Đà-la-ni ở đời như ngôi nhà và nước uống. Nếu ông dốc trì tụng thì có thể tạo mọi thành tựu cho tất cả chúng sinh. Này thiện nam! Tôi vào thời xa xưa, nơi Đức Phật Nhân-đà-la Tràng Tướng Vương đã thọ trì tâm Đà-la-ni này, tạo nhà ở và nước uống cho đời, đối với Đức Phật kia luôn cúng dường đầy đủ, phát tâm trì giới, học hỏi rộng, bố thí, tinh tấn. Từ ấy đến nay, lại ở nơi mười ngàn Đức Phật, với các hạnh nguyện như vậy càng thêm tăng trưởng. Do thiện căn đó, nay ở trong Hiền kiếp này đạt được công đức lớn, vẫn còn chưa đủ để gánh vác sự nghiệp độ sinh. Vì sao? Vì từ xưa đến nay, vô lượng các loài Rồng độc, Dạ-xoa, La-sát, A-tu-la, Cưu-bàn-trà, Ngạ quỷ, Tỳ-xá-già… xuất hiện ở đời. Đối với các chúng sinh độc ác, hung bạo, không có niềm tin, không lòng thương giúp, không tâm Từ bi, làm các việc ác nên phải chịu cảnh mưa gió không đúng thời, bị lụt lũ cùng các tai họa như mưa đá, lạnh, nóng không điều hòa, vô số thứ trái nghịch, binh đao thù hận, gió dữ bộc phát, không nghó đến đời sau. Những chúng sinh ấy, đối với sự gia hộ tạo cho đời mát mẻ, ổn định nhờ tâm Đà-la-ni của chư Phật thời quá khứ thì không sinh tâm tin ưa. Vì chúng sinh xấu ác kia không có tâm tin ưa, nên các thứ hạt giống, nhánh, cành, lá, hoa, quả, hương vị tốt tươi, các loài lúa thóc hoa màu, cỏ thuốc, các thứ dùng cho sự sống đều bị phá diệt, hủy hoại. Lại còn xâm đoạt tinh chất của chúng sinh kia, thổi các khí độc vào trong đất, vì khí độc ấy, nên mặt đất trộn lẫn nhiều chất độc, tạp nhạp, nhớp nhúa không mịn màng, hôi hám, mất hết hương vị, tất cả cõi đất đều như vậy, do nhân duyên như thế nên chúng sinh không được vui. Nếu chúng sinh nương nhờ nơi quả vị của đất ấy mà dùng các thứ hạt giống, mầm, nhánh, cành, lá, hoa, quả, các thứ lúa thóc hoa màu, cỏ thuốc, những thứ để nuôi thân, liền sinh tâm hung ác, ương bướng, độc hại. Họ đối với các loài không có tâm thương xót, không nghó đến đời sau, bị các bệnh hoạn bức bách, thân thể càng thêm thô xấu, các thứ phiền não, khổ đau, tác hại, ác kiến dẫy đầy, luôn dựa theo đường tà. Đối với Tam bảo, không sinh tâm tin ưa, tôn kính, cũng không biết là rất ít có. Cho đến với loài cầm thú cũng chấp theo các ác kiến, mê muội, bỏ mất đạo gốc dối trá không thật, chỉ có lời nói nơi cửa miệng. Các chúng sinh ấy, đối với Tam bảo, nơi thân, miệng, tâm ý luôn chống trái các pháp lành. Nếu có Tỳ-kheo phá giới thì không thể cản ngăn, thâu phục, người trì giới thì không hề tương ưng. Đối với các thầy Tỳ-kheo và những vị đại đức có biện tài, họ tìm cách xa lánh, không ưa thân cận, lại còn mắng nhiếc, phỉ báng, khinh thường, não hại, nêu lỗi của người kia, không biết hổ thẹn, lìa bỏ mười điều lành, tâm không ưa thích tất cả việc lành, luôn khởi tâm xa lìa. Do các chúng sinh kia lìa bỏ phước trí nên thọ mạng ngắn ngủi, chết đọa nơi đường ác. Vì vậy, ngày nay tôi đối với họ không thể tạo được những vật dùng đầy đủ, cũng lại không thể làm cho chúng sinh được mọi thành tựu trọn vẹn. Bồ-tát đối với người đời nay là bậc Đại trượng phu, ở trong chính pháp được trí tuệ tự tại thiện xảo. Lại nữa, Bồ-tát đã thực hiện hết thảy các pháp nhẫn, Tam-muội Đà-la-ni, khéo dùng trí tuệ quan sát để đến bờ bên kia. Từ bi để trang nghiêm, các thần thông trí tuệ của nẻo giác ngộ Bồ-tát đã đạt được. Lại nữa, trong các Bồ-tát, thì nhân giả là ngọn cờ pháp tối thắng, đã có thể tạo mọi thành tựu cho hết thảy chúng sinh. Bồ-tát nên vì tôi đối với chúng sinh trong bốn cõi thiên hạ phát khởi lòng Từ bi thương xót, dùng trí của chính mình để quan sát: làm sao khiến cho chúng sinh trong bốn cõi thiên hạ, các thứ rồng ác độc, các loài Dạ-xoa, La-sát, A-tu-la, Cưu-bàn-trà, Ngạ quỷ, Tỳ-xá già, Ca-trá phú-đơn-na… tất cả các quỷ ấy đều được hàng phục. Làm cho gió mưa thuận theo thời tiết, nguồn nước thích hợp, mùa màng sung túc, lạnh ấm điều hòa. Do nhân duyên ấy khiến cho các hương vị trong đất luôn tăng trưởng năng lực dinh dưỡng, khí vị càng thêm thơm ngon, người dùng được lợi ích, không còn tai họa, hình sắc, dung mạo sung mãn, tươi đẹp, rất đáng mến ưa, các sự việc vừa ý đều xuất hiện ở đời. Các chúng sinh nương cõi đất này thì mọi sự ăn dùng sẽ không còn tội lỗi, tăng trưởng niệm lực như trên đã nói. Khi ấy, Bồ-tát Địa Tạng bảo vị trời Công đức: –Này Thanh tịnh trí! Ta nay có thể khiến cho bốn đại hiện có trong cõi Phật này biến khắp thành các thứ ăn uống như của chư Thiên để cho tất cả chúng sinh trong trăm ngàn kiếp ăn dùng không bao giờ hết. Vì sao? Vì do các chúng sinh ấy phước đức quá mỏng nên không thể thọ dụng được. Nếu ở đây người có phước báo thù thắng thì sẽ thọ dụng đầy đủ. Này Thanh tịnh trí! Ta lại có thể làm cho cõi Phật ở thế giới Ta-bà này biến thành cung trời với các đồ nằm như của chư Thiên. Cây trái, hương hoa, y phục đẹp đẽ, các thứ âm thanh, các loại âm nhạc kỳ diệu, các đồ báu trang nghiêm đều đầy đủ. Vì những chúng sinh này xa lìa phước đức nên các thứ đồ dùng kia đều không thể thọ dụng. Chỉ trừ Đức Như Lai Ứng chính Biến Tri, Bồ-tát thập trụ hay an trú vào Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm đạt được tự tại mới có thể thọ dụng. Này Thanh tịnh trí! Lại nữa, ta có thể khiến cho tất cả chúng sinh được vào cảnh giới Tứ thiền một cách trọn vẹn, lẽ nào không thể hàng phục được loài rồng độc ác, cho đến loài Ca-trá phú-đơn-na? Lại nữa, ta không nên hiện bày thần thông biến hóa khi Phật chưa cho phép. Ví như vị quan chủ về binh quyền kho tàng của Chuyển luân thánh vương, không vâng mạng vua chỉ giáo mà tự ý phát khởi bốn thứ binh chủng, sẽ không có việc như vậy. Do đấy, các Bồ-tát đều là con của Phật, từ tâm Phật sinh ra, từ miệng Phật sinh, từ pháp hóa sinh, cho nên các Bồ-tát không thể không thưa thỉnh Đức Như Lai rồi mới hiện bày thần biến. Này Thanh tịnh trí! Lại có Đà-la-ni tên là Thủy phong ma-ni cung, tập hợp hết thảy những câu đoạn chú thuật để dựng lập tất cả chủng tính của Tam bảo nơi ba đời chư Phật. Này Thanh tịnh trí! Ông nay có thể thưa hỏi Đức Như Lai về chú Thủy phong ma-ni cung đại Đà-la-ni luân, nơi tập hợp tất cả câu, đoạn chú thuật. Nếu được Đức Phật nói, ta cũng rất tùy hỷ. Nếu các vị có thể thọ trì Đà-la-ni này thì tất cả mọi sở nguyện đều được đầy đủ. Bấy giờ, Thiên nữ Đại Công Đức cùng với Thiên nữ Đại Biện, Thiên nữ Đại Kiên Cố, Thiên nữ Tác Quang Đại, Thiên nữ Khả Hỷ, Thiên nữ An Ẩn, Thiên nữ Đa-ma-la Kiên Cố, Thiên nữ Minh Tinh Chủ, Thiên nữ Xa-ma, Thiên nữ Pha Lê như vậy là các Thiên nữ đứng đầu nơi tám vạn bốn ngàn vô số chư Thiên, trăm ngàn đại chúng trước sau vây quanh, đều từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay hướng về Đức Phật. Lúc này, Thiên nữ Công Đức ở trước Đức Phật nói kệ: Hay diệt phiền não rất ác, nhơ Hạnh thanh tịnh lìa mọi cấu uế Chúng con dốc ngưỡng Đà-la-ni Xin nguyện diễn nói Tổng trì luân. Mâu-ni nói pháp không uế trược Câu Tam bảo tối thắng rực rỡ Khiến Tu-la thảy được tâm tịnh Tăng trưởng vị đất không độc hại. Diệt trừ lạnh nóng mưa gió lớn Nguyện nói tinh chất được giữ gìn Đồ ăn, thuốc, uống, các hương vị Nhớ lâu, trừ họa, tu hạnh lành. Trừ diệt những ác kiến độc hại Quy, tin pháp tối thắng vô thượng Hoặc mất tinh chất nhiều phiền não Làm sao giáo hóa chúng sinh này. Tất cả chư Thiên hướng Mâu-ni Mong cầu pháp tối thượng nhiệm mầu Chỉ bày hướng đến đạo giác ngộ Khiến các chúng sinh vào Đại thừa. Đại chúng vân tập quả nguyện đủ Mười phương Bồ-tát tán thán Phật Làm sao hàng phục các rồng độc Mưa nhuần điều hòa lúa mạ tốt. Đức Phật bảo vị trời Công đức: –Này Thanh tịnh trí! Đại Đà-la-ni ấy chư Phật Như Lai luôn đúng thời mới nói, nay Như Lai ở trước chúng hội lớn, nhắc nhở lời trọng yếu: Đà-la-ni Luân thủy phong ma-ni cung này, được tất cả ba đời chư Phật nơi mười phương gia hộ, giữ gìn. Nay sẽ chỉ bày cho các Bồ-tát trong mười phương vân tập đến đây, sau khi được nghe pháp ấy, các Bồ-tát kia sẽ có thể an trú trong thế giới gồm đủ năm thứ ô trược, những quốc độ không có Phật nơi mười phương đều có thể hiển bày pháp Đà-la-ni Luân thủy phong ma-ni cung. Do năng lực của Đà-la-ni, nếu nước kia có các thứ gió bão, lạnh nóng trái thời, lũ lụt bất thường thì tất cả sẽ được trừ diệt. Do Đà-la-ni này, có thể khiến cho các chúng sinh độc ác, không có tâm thương xót, không nghó đến đời sau, đó là: Trời, Rồng, Dạ-xoa, La-sát, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Cưu-bàn-trà, Ngạ quỷ, Tỳ-xá-già, Phú-đơn-na, Ca-trá phú-đơn-na, Nhân phi nhân… cho đến cả loài cầm thú đều được tâm tin vui, nhu hòa, hướng thiện, niệm lực rất thiện xảo, ưa mong cầu chính pháp, hộ trì chính pháp, nối thừa chủng tính Tam bảo. Nhờ diệu lực của Đà-la-ni ấy, cõi nước Phật kia với các chúng sinh hiện có sẽ tăng trưởng thọ mạng, sắc thân tốt đẹp, lúa thóc hoa màu được mùa, của cải dành cho sự sống thêm dồi dào, vô số an lạc, không có hoạn nạn, danh dự lan xa, trì giới vững chắc, càng thêm hiểu biết rộng, bố thí cùng khắp, thêm lớn Từ bi, trí tuệ tăng tiến, phương tiện càng nhiều, vào sâu Tam-muội, tăng trưởng Đà-la-ni, cõi quán thâm diệu, thêm vui xuất thế, hóa độ chúng sinh rộng khắp, siêng tu Đại thừa, thêm lớn hạnh nguyện thù thắng, thêm lớn các bậc chuyển nhập, quan sát về ấm, giới, nhập càng đầy đủ, thêm lớn hổ thẹn, công đức tăng trưởng dùng để để trang nghiêm cõi Phật, tu hành sáu pháp Ba-la-mật luôn thuận hợp. Tất cả mười phương chư Phật thường hộ niệm, thường gặp Phật, Bồ-tát và bạn lành, thần túc tự tại được phát huy, cố gắng dứt trừ tất cả phiền não không cho chúng dấy khởi, thần thông gồm đủ diệu dụng, đạt tới bờ giác, không làm thoái chuyển hết thảy các pháp lành, cho đến thành tựu Niết-bàn vô thượng. Liền nói chú: Đa địa tha, tô bà la, bà la để, na gia bà la để, xế sa, sất bà la để, a na bà la để, xa bà đa hát la bà la để, xa la noa bà la để, cưu mâu ni bà la để, san chi la bà la để, xế đà ba la bà la để, sa la bà la để, sa la bát lợi ha lợi, sa la bà la đa bát lợi ha lợi, na gia bát lợi ha lợi, tỳ tỳ ca bát lợi ha lợi, da nhược bát lợi ha lợi, tô bà la bát lợi ha lợi, tần đầu bát lợi ha lợi, xà la bát lợi ha lợi, khế đa la bát lợi ha lợi, đặc xoa bát lợi ha lợi, san ni ma bát lợi ha lợi, tô bà bà bát đề lê, cù ma da bà, mạc đà sách khê, a na da ba lô thệ, mê la bạt mê, a la na cầu sư khư la, tỳ xà tí, na la duyên noa tí kham lâm tí, ưu la già a di tỳ, cung xà la bà hồ mê, ha xà nhẫn tí yết ma tỳ la lê xá la ma noa bà ly lê, khư hạt la già xa mê a tư na mê, a kỳ ni bát để lợi năng cầu đam tỷ lê, bà da giá bà lưu ni tiệp tha nhậm tí lê, thích ca la thị nhược di a na chỉ đề đế lợi na da na ni lợi, đế lợi na đầu bà Phật a ha địa tử sắt si đế, sa bà ha. Khiến người lãnh đạo nước này và quyến thuộc của họ đều được an lành sa ba ha. Na la diên noa, ni la di sa bà ha, chước ca la bạt đa ca la mê, sa bà ha. Lúc Đức Phật nói Đà-la-ni Luân thủy phong ma-ni cung, tất cả câu đoạn của chú thuật này được nói xong, hết thảy cõi Phật nơi mọi đại địa đều hiện đủ sáu thứ chấn động, toàn thể đại chúng vân tập đến đây đều run sợ không an, tâm kinh hãi lo lắng, cùng nhau xướng lên: –Nam-mô… Nam-mô Phật-đà-da. Đức Phật bảo vị trời Công đức: –Này Thanh tịnh trí! Ông nhờ nói diệu lực của Đà-la-ni Luân thủy phong ma-ni cung này, nên có thể diệt trừ được hết thảy việc tranh chấp đối địch, tất cả mọi độc hại của các loài Dạ-xoa, La-sát, Tu-la, Rồng dữ, cho đến hàng người và chẳng phải người, các loài cầm thú, các thứ gió mưa, lạnh nóng, tai nạn, mưa đá, lũ lụt chẳng phải thời, thảy được tiêu diệt. Này Thanh tịnh trí! Đà-la-ni này khiến cho các thứ lúa thóc hoa màu luôn xanh tốt được mùa, các chúng sinh nhờ đó tăng trưởng tuổi thọ, thêm lớn quả báo lành, cho đến pháp lành cũng được tăng tiến, tuy chưa vào Niết-bàn cao tột, nhưng từ nay về sau không còn thoái chuyển. Nếu người nghe được pháp Đà-la-ni này, liền thọ trì, đọc tụng, hành trì, thì người ấy quyết chắc hướng đến Niết-bàn an trụ nơi ba cõi. Khi ấy, Bồ-tát Địa Tạng bạch Phật: –Bạch Đức Thế Tôn! Con cũng muốn nói đại Đà-la-ni Ma đao, do năng lực của Đà-la-ni ấy khiến tất cả các quả báo cần cho sự sống như: Hương vị từ nơi đất đều không tổn giảm, không mất tinh chất của đất, cũng không ai phóng khí độc vào đất, không thể hủy hoại hương vị tốt đẹp của nó, cũng không thể khiến nó biến thành chất đắng chát, cũng lại không làm cho nó ẩn mất, không làm cho mặt đất không sinh các thứ lúa thóc hoa màu, mầm, cành, lá, hoa, quả, các thứ cỏ thuốc. Lại cũng không bị lấy mất tinh chất của chúng, cũng không làm cho chúng nhiễm khí độc, không khô khan, không chua đắng, khiến chúng luôn thuần thục, dù nóng lạnh cũng không bị tổn thương, không chướng ngại khi dùng làm món ăn, đã ăn thì không có chất độc, nếu lỡ ăn có chất độc thì khiến người ăn đau bụng và nôn ra ngay. Nếu thân tâm bị bức bách, thân thể bị co quắp, bệnh nóng nảy điên cuồng, tâm loạn, hay quên, các tướng cướp đoạt tranh giành, sát sinh, trộm cắp, cho đến tà kiến, các chúng sinh này dù thường tương ưng với những pháp ác như trên, hoặc là trời, rồng, hoặc Dạ-xoa, La-sát, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Cưu-bàn-trà, Càn-thát-bà, Ngạ quỷ, Tỳ-xá-già hoặc Phú-đơn-na, hoặc Ca-trá phú-đơn-na, hoặc là Nhân phi nhân, đối với các chúng sinh ấy đều không thể não hại. Liền nói chú: Đa địa tha, na tỷ, ma ha na tỷ, sơ hà la na tí, a tỷ cu na tí, tăng thâu sa noa na tí, tỷ hà la xà khư tí, a bà la mâu ni, đa lô na hồ lô ê, na tha bát đế, lợi xà bà đồ mê, ma la bà đế, đế nhị la bát đế, lợi kiển trà, niết lợi hà lê, chước sơ bà tê, khư noa, tỳ mê khi đế đô duệ, sa ba ha. Ương cầu la khi, sa ba ha. Bố sơ bả da mê, sa ba ha. Pha nhẫm tí, sa ba ha. Tát trí da đô duệ, sa ba ha. Xa lê la, na bà ca la ma tỳ sa, sa ba ha. Câu Đà-la-ni này luôn hộ trì quốc chủ, sa ba ha. Này Thanh tịnh trí! Đây là Đà-la-ni Ma đao. Ông do diệu lực của đại Đà-la-ni này, nên đối với các chúng sinh có thể tạo được các sự nghiệp lớn như trên, có thể là một thứ thuốc quý giá bậc nhất. Do nhân duyên ấy nên tất cả chúng sinh đều nhận được sự giáo hóa của ông. Tất cả đại chúng vân tập đến đây đều tán thán Bồ-tát Địa Tạng: –Lành thay, lành thay! Đức Thế Tôn cũng tán thán Bồ-tát Địa Tạng: –Lành thay, lành thay! Này thiện nam! Nay ông chính là thần dược lớn lao cho tất cả chúng sinh. Vì sao? Vì bản thân ông tức là thứ thuốc vi diệu to tát, đối với hết thảy chúng sinh trong bốn cõi thiên hạ là thần dược của họ, có thể diệt trừ mọi thứ khổ não cho chúng sinh, hay bố thí đủ loại vật dụng vừa ý cho họ, cũng thành tựu được bi nguyện rộng lớn. Ông có thể hiển bày chỉ rõ về năng lực thâm diệu như vậy của đại Đà-la-ni Ma đao. Nay từ tinh chất của đất với bao thứ hạt giống, mầm, mộng, cành, lá, hoa, quả, các hương vị của lúa thóc, cỏ thuốc, hết thảy những thứ ấy của chúng sinh đều không bị suy tổn, mà tăng trưởng, không độc hại, thành tựu đầy đủ các thức ăn cho chúng sinh, khiến họ với tâm uế trược ưa tranh chấp thảy đều dứt hết, đủ khả năng tu tập các pháp lành. Trong bốn cõi thiên hạ, các thứ gió nóng, lạnh, ấm, lũ lụt không đúng thời đều được tiêu trừ. Mặt trời, mặt trăng, tinh tú, ngày, đêm, một tháng, nửa tháng, thời tiết trong năm với các biến chuyển quái dị, đều được diệt trừ do việc thuyết minh đại Đà-la-ni Ma đao này. Nhờ diệu lực ấy nên hạt giống Tam bảo và người đạt được Pháp nhãn an trụ lâu ở đời, khiến cho các hàng ngu muội, thiếu phước, ngã mạn, bị hủy hoại, không tu căn lành, vua chúa ác độc và các tể tướng như vậy, vì họ mà ta trải qua trăm ngàn vạn ức vô số kiếp lấy đó làm pháp khổ hạnh, tu tập tinh tấn không bị diệt hoại. Các thầy Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di không có các phiền não rối loại. Vì không còn phiền não nên chư Thiên không giận, chư Thiên hoan hỷ nên hết thảy chúng sinh đều đạt được các thứ ưa thích như trên đã nói. Kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập <卷 id="117157942">Quyển 58 <詞 id="117157943">Phẩm 16: Tu-di Tạng <章 id="117157944">Phần 4: Đà-la-ni Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo vị trời Công đức: –Này Thanh tịnh trí! Ngày xưa, ta cùng với ông ở nơi Đức Phật Nhân-đà-la Tràng Tướng Vương đồng phát thệ nguyện. Nay nơi nguyện ấy đã được thực hiện gồm đủ: Ta nay đã được đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác, còn ông thì an trụ trong chốn công đức. Vị trời Công đức thưa: –Đúng vậy! Thưa Đại Đức Bà-già-bà! Đúng vậy, đúng vậy, thưa Đại Đức Bà-già-bà! Tôi cùng với Đức Thế Tôn mọi hạnh nguyện đã được thực hiện đầy đủ. Tôi cùng với Đức Thế Tôn các ý muốn tốt đẹp đã được thành tựu. Tôi cùng với Đức Thế Tôn ngày xưa ở nơi Đức Phật Nhân-đà-la Tràng Tướng Vương đồng phát thệ nguyện, nay nguyện đã thành tựu, tâm ý vui thích, nên Đức Như Lai xuất hiện ở đời, còn tôi thì trú ở chốn công đức. Tuy tôi nay đã có công đức nhưng cũng chưa hoàn thành ý nguyện ngày xưa, là muốn tạo mọi thành tựu trọn vẹn cho tất cả chúng sinh. Vì sao? Vì xứ này còn có nhiều loại rồng, nào là: rồng như voi, như ngựa, như rắn, như cá, rồng giống như loài ểnh ương. Các loại rồng ấy đối với chúng sinh trong cõi này luôn tạo các điều ác. Tuy có hành trì chú Tác quang Đà-la-ni thâm diệu nhưng vẫn chưa chế ngự được các loại rồng hung dữ đó. Chúng thường tạo ra nóng, lạnh không đúng thời, tạo ra mây độc, mưa dữ, lũ lụt không điều hòa, gây bao tổn hại cho chúng sinh cũng như các thứ cần dùng cho đời sống của họ như: lúa thóc hoa màu, cây giống, hoa trái, cỏ thuốc. Thưa Đại Đức Thế Tôn! Nay trong bốn châu thiên hạ của thế giới này, các loài rồng lớn và đám quyến thuộc nam nữ đủ loại, dù nam hay nữ đã sinh trong loài rồng ấy, tất cả đều đã đến nhóm họp ở đây. Lại hết thảy các Đại Bồ-tát của tất cả cõi Phật nơi mười phương thế giới cũng đã vân tập đông đủ. Các bộ chúng như: Trời, Dạ-xoa, La-sát, Càn-thát-bà, Khẩn-na-la, Cưu-bàn-trà, Ngạ quỷ, Tỳ-xá-già, Phú-đơn-na, Ca-trá phú-đơn-na… cũng đều có mặt. Lại nữa, thưa Đức Thế Tôn! Hàng đệ tử Thanh văn, hàng người và chẳng phải người… cũng đều tụ hội đông đủ trong đại chúng, nhằm được nghe pháp nên đã an trụ trước Đức Phật. Tất cả chúng sinh ấy đều nương vào bốn loại thức ăn để bảo tồn sự sống. Thưa Đại Đức Bà-già-bà! Nay thật là đúng lúc, kính xin Thế Tôn dùng phương tiện để trừ bỏ mọi tai hại của các rồng độc này. Đối với Đức Như Lai, chúng không có lòng tin, tâm thường tương ưng với các pháp ác nên hay não loạn gây nhiều tổn hại cho các chúng sinh, khiến các vật dụng cần thiết cho sự sống bị nhiễm độc, thô xấu. Với các chúng sinh khác, chúng không lòng thương xót, không thấy có đời sau, tạo chướng ngại cho sự giáo hóa chúng sinh của tôi. Vậy nên thưa Đức Thế Tôn, vì thương xót các chúng sinh kia mà dứt trừ mọi điều ác của loài ấy. Đức Thế Tôn bảo Đại Bồ-tát Tu-di Tạng Long Tiên: –Này thiện nam! Ông ngày xưa ở nơi trú xứ của Đức Phật Nhiên Đăng vì nhằm giáo hóa các loài rồng mà phát thệ nguyện dũng mãnh rộng lớn. Này Tu-di Tạng! Có bốn loại rồng lớn độc ác trong cả ba đời quá khứ, vị lai và hiện tại. Có loài rồng phun khí độc, thấy nó thì bị nhiễm độc, tiếp xúc bị độc, cắn gây độc, như độc của tham sân si. Các thứ rồng độc ấy hiện nay phải theo đúng pháp như thế nào để trừ bỏ nghiệp ác của chúng, khiến những vật dụng cần thiết cho sự sống của các chúng sinh không bị tổn giảm? Đối với Tam bảo khởi tâm tin ưa, kính mến, tin tưởng có đời sau, xa lìa nghiệp ác? Đại Bồ-tát Tu-di Tạng Long Tiên bạch Phật: –Thưa Đức Thế Tôn! Con sẽ đi vào trong cung là trú xứ của loài rồng độc kia, ngồi kiết già, nhập Tam-muội Long tần thân, dùng diệu lực của Tam-muội ấy khiến cho các rồng có tham, sân, kiêu mạn, xấu ác, thảy đều bị tiêu diệt, còn làm cho tâm chúng được nhu hòa, điều phục, vắng lặng, tin sâu có đời sau, đối với trú xứ của hết thảy các loài, đều phát sinh tâm Từ bi thương xót, ưa cứu giúp, cũng khiến cho các rồng độc kia sinh tâm kính tin, không gây não loạn tạo mọi sự hỗ trợ cho muôn loài. Lại nữa, nếu ở thế gian bị các thứ gió mưa, lũ lụt sớm, mây lớn bao trùm, nóng lạnh làm hại, các chúng sinh hiện có nên niệm danh hiệu của con, chắp tay nói: “Bậc Đại từ bi luôn hộ niệm cho tôi, khiến tôi có thể cảm hóa loài rồng. Bồ-tát Tu-di Tạng với các phương tiện trí tuệ, dũng mãnh, tu hành đạo Bồ-đề Vô thượng, xin nguyện cứu giúp cùng trừ diệt khổ cho tôi!”. Nói như vậy rồi, liền đọc chú: –Đa địa da tha, tát đam bà bộ xà, tỳ lê trà bộ xà, thâu cự lô lê trà bộ xà, mê lô xà bà, ca trừ bà bộ xà viêm, viêm a nê bà bộ xà, tô ma la a bạt đa bộ xà trái bồ bộ xà, ta ba ha. Câu chú Đà-la-ni này hộ trì tên: Ta ba ha. Thưa Đại Đức Bà-già-bà! Nếu có chúng sinh bị các rồng độc gây não loạn, nên xưng niệm tên con và tụng Đà-la-ni này, thì có thể diệt trừ tâm tham, sân, kiêu mạn, ganh ghét, độc ác của loài rồng ấy. Con sẽ dùng thiên nhó thanh tịnh hơn người để được nghe. Con đã được nghe rồi, nếu bốn loại rồng lớn, rồng cha mẹ, rồng nam nữ và đám quyến thuộc, đã không thể khiến cho chúng phát sinh tâm kính tin, còn tạo ra các tai họa về gió, mưa, mây, lạnh, nóng, lũ lụt phi thời, nếu không diệt trừ thì con không hoàn thành sở nguyện làm nhân duyên an lạc cho hết thảy chúng sinh, con cũng trở thành khinh, dối đối với tất cả ba đời chư Phật trong mười phương, cũng chẳng khiến cho con đạt đến đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác. Thưa Đại Đức Bà-già-bà! Vào thời quá khứ, ở chỗ Đức Phật Nhiên Đăng, trước đại chúng và quyến thuộc của Đức Phật con đã phát đại nguyện vững chắc như vậy. Từ đó về sau thường khéo an trụ nơi chính pháp để giáo hóa chúng sinh. Lại cũng từ đấy, nơi vô số trăm ngàn ức trú xứ của Phật, trước quyến thuộc các Đức Phật hiện tại, con cũng phát đại nguyện kiên cố như thế, con luôn an trụ trong sức mạnh to lớn của sự tinh tấn để giáo hóa chúng sinh, luôn nhắc nhở không hề mệt mỏi, cũng như con hôm nay đối trước Đức Thế Tôn thể hiện sự tinh tấn lớn, không khác, vì muốn hàng phục, hóa độ các thứ rồng độc ác. Thưa Đức Thế Tôn! Con suy nghó: kể từ vô số kiếp trở lại đây, chưa từng có một ý niệm xả bỏ tâm kiên cố, tinh tấn dũng mãnh, thường an trú nơi chính pháp để giáo hóa chúng sinh, cho đến ngày nay cũng vậy. Các Long vương này đối với pháp Đại thừa đã siêng năng tu hành. Đó là: Long vương Thiện Trụ, là vua của hết thảy loài rồng như voi. Long vương Nan-đà, Long vương Bà-nan-đà, là chủ của hết thảy loài rồng như rắn. Long vương A-nậu-đạt là chủ của hết thảy các loài rồng giống ngựa. Long vương Bà-lâu-na là chủ của hết thảy các loài rồng giống cá. Long vương Ma-na-tô-bà-đế là chủ của hết thảy các loài rồng giống ễnh ương. Rồng đối với chúng sinh thường tạo ra những việc suy tàn, não hại. Còn các thứ rồng khác thì không đủ khả năng gây nên các thứ hoạn họa, tàn hại như trên. Năm vị đại Long vương này luôn an trụ trong pháp Đại thừa, có oai đức lớn. Các vị ấy đều ở trước Đức Phật đôn đốc đám quyến thuộc, không để cho họ dễ dàng tạo ra các tai họa đã nói. Nhờ đó, ngọn đèn pháp Phật và chủng tính của ba ngôi báu được tồn tại lâu ở đời, không bị tiêu diệt. Khi ấy, tất cả đại chúng nhóm họp ở đây đều đồng thanh tán thán Đại Bồ-tát Tu-di Tạng Long Tiên: –Lành thay, lành thay! Bấy giờ, Long vương Thiện Trụ từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai áo bên phải, chắp tay hướng về Đức Phật, thưa: –Bạch Đại Đức Bà-già-bà! Các rồng và rồng lớn nương tựa nơi con, đủ cả bốn loài là thai sinh, noãn sinh, thấp sinh và hóa sinh, tùy theo đệ tử của Phật là các bậc Thanh văn, Bồ-tát cùng đồ chúng quyến thuộc, ở trong các quốc độ đều dùng tâm Từ hướng đến nhau, không có tâm oán hại, mà an trụ nơi tâm bình đẳng. Lại như trong đất nước kia, nếu chúng con được làm chủ, đối với giáo pháp của Phật thường có niềm tin thanh tịnh luôn hộ trì hết lòng, không cậy mình hào quý mà sinh tâm kiêu mạn, hủy hoại chính pháp. Cũng không gây não loạn cho các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, hiện nương theo pháp Phật xuất gia, hoặc là pháp khí hay chưa phải là pháp khí, đã cạo bỏ râu tóc, mặc pháp phục, giữ gìn ca-sa, chúng con sẽ đến với những người ấy, dốc tâm tin tưởng, hộ trì. Ở trong quốc độ kia, nếu có các chúng sinh đối với Phật pháp sinh tâm oán giận, chê trách, là quốc vương cần phải ngăn ngừa, hướng dẫn đúng như pháp. Lại ở trong nước kia, các bậc Tiên vương có lòng kính tin, đã thực hành bố thí cúng dường các Sa-môn và Bà-la-môn nào ruộng vườn, nhà cửa, hoặc phong ấp, vẫn để cho họ thọ dụng mà không thu hồi. Nếu gặp vị đại thần phụ tướng sáng suốt, nên cùng một lòng hợp tác dốc sửa trị việc nước. Có được tiền của vững vàng thường mở rộng tâm lượng tự tay bố thí. Nếu là dòng dõi vua chúa nên khéo hộ trì quốc gia. Trong nước, nếu có xảy ra việc tranh chấp không tốt như trước đã nói, chúng con là các vị vua có trách nhiệm, mỗi mỗi đều tự ra lệnh cho quyến thuộc của mình không được tạo khởi tai biến. Thưa Thế Tôn! Vì sao chúng con có lệnh như vậy? Áo ca-sa hoại sắc này là pháp y mà chư Phật thời quá khứ thường gia hộ, giữ gìn. Lại nữa, áo ca-sa này là dòng giống của các Bồ-tát, là con đường chính hướng đến Niết-bàn, là lưỡi dao cứng chắc để chặt đứt mọi phiền não, là hạt giống của Niết-bàn, là ngọn đèn sáng cho kẻ lạc đường, cũng là thuốc hay trừ diệt các tật bệnh. Như gió mạnh thổi tan đám mây vô minh, là chiếc gậy giúp người đi qua đoạn đường gập ghềnh, là thuốc xổ có thể xổ hết các thứ phiền não độc hại, là trí vững chắc như kim cương có thể phá trừ tâm oán hận của loài Tu-la, là kho báu chứa cất hết thảy pháp lành, là nước thanh tịnh có thể rửa sạch bao tội lỗi nhiễm ô. Quán xét tất cả các pháp như tấm gương sáng, cũng như mảng lưới có thể thâu tóm các tâm loạn động, cũng như chiếc hộp quý giá hay dung chứa thiền định, cũng như đại địa hay sinh khởi các pháp Ba-la-mật, nên đội trên đầu như ngọc minh châu trong búi tóc, hay dung nạp nhẫn nhục cũng như phòng ốc nhà cửa, là vật thanh tịnh có thể dung nạp hạnh mười Địa, cũng như thành quách ngăn các ngoại đạo, chính là thuốc hay trị bệnh phiền não, với người học hiểu cao rộng như lên núi Tu-di, như mặt trăng sáng xua trừ phiền não tối tăm, như mặt trời xuất hiện diệt trừ tà kiến mê mờ, là kho tàng trí tuệ rộng như biển lớn, với pháp phần Bồ-đề cũng như tràng hoa đẹp, như gom góp hiền đức là trí Nhất thiết trí, được chư Phật hộ trì như ngọc báu như ý. Lại nữa, người đắp y pháp y ca-sa này luôn được hết thảy chư Phật gia hộ, ở nơi các chúng sinh sẽ tuôn xuống trận mưa pháp. Vì vậy, thưa Đức Bà-già-bà, nếu gặp vị vua hung ác dòng Sát-lợi phá hoại Phật pháp, não loạn các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni là pháp khí hay không phải là pháp khí, là những người nương theo Đức Phật xuất gia, hoặc trị phạt trên thân thể họ, hoặc đóng thuế trên vật dụng của họ, thậm chí khiến họ phải mất mạng. Do đấy trong nước kia có các hàng Trời, Dạ-xoa, La-sát, A-tu-la, Cưu-bàn-trà, Ngạ quỷ vốn luôn tin tưởng, kính trọng Đức Phật, lại có oai đức lớn, đối với các vị vua dòng Sát-lợi xấu ác ấy liền sinh tâm giận dữ khiến cho các sự việc tranh chấp, đói khát, bệnh dịch, đao binh đua nhau sinh khởi nơi đất nước kia. Rồi nào gió, mưa, lũ lụt, nóng lạnh không đúng thời, gây tổn thương cho các thứ hạt giống, mầm, nhánh, cành lá, hoa quả, các mùi vị của cỏ thuốc… Đây chẳng phải do lỗi của loài rồng, các loài rồng thật sự không có tội mà bị mang tiếng ác. Kính bạch Đại Đức Bà-già-bà! Ví như có người Bà-la-môn tự mình ăn quá nhiều tỏi, ăn xong tìm đến với cô gái trong trắng, không biết chính mình quá hôi hám, mà lại dối oán giận cô gái kia, còn lớn tiếng bảo: Cô nầy rất hôi. Bạch Đức Thế Tôn! Vua dòng Sát-đế-lợi xấu ác kia cũng lại như vậy. Đã bỏ pháp phải làm của dòng Sát-đế-lợi để làm theo việc làm của hàng Thủ-đà-la. Do nhân duyên ấy, nên các vị trời cho đến quỷ thần, những người có oai đức hộ trì quốc gia, sinh tâm giận dữ, trở lại tàn hại đất nước. Quốc vương, quần thần, muôn dân không tự xét lỗi của mình dối đổ tiếng ác cho các loài rồng lớn nhỏ. Đức Phật nói: –Này Long vương! Ông đã từng ra lệnh chỉ dạy cho các vị vua, nếu thuận theo lời chỉ giáo mà thi hành thì sẽ có được niềm vui của hàng trời, người, cho đến đạt được mọi diệu lạc của cảnh giới Niết-bàn. Nếu các vua dòng Sát-lợi xấu ác không theo lời chỉ dạy trên mà hành hóa, tất phải bị đọa vào địa ngục A-tỳ. Lại bảo Long vương: –Các vị tự phải răn nhắc đám quyến thuộc của mình nên đề ra lời dạy nghiêm khắc, chớ để ai vi phạm, khiến họ trong hiện tại và cả về đời sau này không hủy hoại giáo pháp của ta cùng hạt giống lành của Tam bảo. Long vương bạch Phật: –Đúng vậy, đúng vậy, kính bạch Đức Bà-già-bà! Đúng vậy, đúng vậy, kính thưa Đức Tu-già-đà. Bạch Thế Tôn! Tùy ở các nước kia, nếu có các bậc trì giới, đa văn đang cư trú, trong đó có quyến thuộc của con, hoặc là rồng nam, nữ, rồng cha mẹ, đối với các thành ấp xóm làng thuộc đất nước ấy đã tạo ra gió mưa, sương tuyết không đúng thời, gây tổn hại những vật dụng cần thiết cho sự sống như năm thứ lúa thóc, hoa quả, các vị cỏ thuốc. Bạch Thế Tôn! Nếu những chỗ ở của các bậc phước điền có các loài rồng làm trái với lời chỉ dạy của con, con đã thề khiến cho các rồng xấu ác ấy thân tướng trở nên khô héo, xấu xí, thần thông giảm sút, thân thể như bị thiêu đốt, y báo bị hủy diệt, không còn nói năng, không thể làm gì được nữa. Long vương liền đọc chú: –Đa địa da tha, na già… bộ tỷ na già nê mê, na già đà la. Du già la, du già la, xà la du già la, a tỷ ma đê sa, ba ha, sa la mục xí, ca la đế bộ đồ, na ba tát đam ti, đế xà na bà pha lệ, tỳ mục xa yết lệ, ta ba ha. Câu Đà-la-ni này hộ trì cho tên khiến tất cả mọi thứ sợ hãi, tai họa đều được tiêu diệt, ta ba ha. Lúc này, tất cả đại chúng hiện có đều tán thán Long vương Thiện Trụ: –Lành thay, lành thay! Đại Long vương có thể hộ trì cho tất cả chúng sinh. Bấy giờ, trong hội tất cả chúng rồng đều kinh hãi lo sợ thì Long vương Nan-đà và Long vương Bà-nan-đà từ tòa ngồi đứng dậy, trịch vai áo bên phải, chắp tay hướng về Đức Phật, thưa: –Bạch Đại Đức Bà-già-bà! Nếu trong hiện tại và đời sau, có vị vua dòng Sát-lợi xấu ác, đối với tài sản, của cải, tự bản thân không dám thọ dụng, cũng không giúp đỡ cho người khác, nhưng lại quá bỏn xẻn, tham đắm, không mở rộng tâm lượng cứu giúp mọi người, với các bậc Sa-môn, Bà-la-môn không tin tưởng, cũng không bố thí cho kẻ nghèo cùng, hành khất, cả những người ở trong cung và hàng quyến thuộc đều bị bỏ rơi, lại cũng không ban phát các điều vui như pháp mà họ được hưởng. Do đó, các vị có bổn phận hộ trì đất nước, như chư Thiên, Dạ-xoa, La-sát, A-tu-la, Cưu-bàn-trà và Ngạ quỷ… đều có oai đức lớn, đối với các vua dòng Sát-lợi xấu ác kia đã sinh tâm giận dữ, khiến cho đất nước ấy liền dấy khởi bao việc tranh chấp, đói khát, tật bệnh, đao binh, cho đến những thứ lúa thóc hoa màu, vị thuốc đều bị hư hoại, nhưng chẳng phải do lỗi của loài rồng lớn nhỏ tạo ra. Các Long vương kia thật không có lỗi lầm gì mà bị mang tiếng ác. Ví như gió thổi hơi hôi thối của thây ma kia, người trong thế gian liền nói là gió hôi thối, nhưng thật ra tính của gió vốn không có mùi thối. Như vậy, thưa Thế Tôn! Các vua dòng Sát-lợi xấu ác cũng giống như thế. Do họ tham lam keo kiệt nên tất cả các bậc có bổn phận hộ trì đất nước đều sinh tâm giận dữ. Do giận dữ nên mơi gây tạo bao thứ loạn hại trong nước, càng khiến tiếng xấu lan rộng cho loài rồng. Tuy nhiên, con cũng đã vì loài rồng mà ra lệnh, chỉ dẫn, nếu các rồng kia hoặc ở quá khứ, hoặc ở vị lai làm trái lời dạy của con, như đối với trú xứ của các hàng Thanh văn đệ tử Đức Phật là những người trì giới, đa văn, hàng quyến thuộc của con hoặc thai sinh, noãn sinh, thấp sinh, hóa sinh, là rồng nam, nữ, rồng cha mẹ… ở các chốn thành ấp, xóm làng, núi sông, hang động thuộc đất nước kia đã tạo ra gió mưa, lũ lụt, sương tuyết, cực nóng, cực lạnh, các việc bất thường làm tổn hại đến năm thứ lúa thóc, hoa quả và các vị thuốc, những thứ dùng để nuôi sống cho tất cả chúng sinh, hay ngay chỗ cư trú của hàng Thanh văn, người có phước đức, là đệ tử của Phật, tạo các việc tổn hại, là các loài rồng này đã làm trái mệnh lệnh của con, con sẽ vì việc này mà lập lời thề: Khiến cho các loài rồng gây ra tổn hại kia, thân tướng bị co rút, không thể dạo đi được, thần thông mất dần, thân như bị lửa thiêu đốt, tất cả mọi y báo đều bị tổn giảm, không thể nói năng hay đảm đương được việc gì nữa. Long vương bèn đọc chú: –Đa địa tha, bà la noa thâu mê, cưu ngưu bà đầu la y bà lô noa cụ ty, a ca la y, sí xa nê tỳ ma hà la ca y, cưu noa tị, a la kỳ, a đa sa lệ, na da na đam ty, ca la cưu thế, suy ương cụ ba la chế càn, đà hà la bà tư, ta ba ha. Câu Đà-la-ni này hộ trì cho tên… ta ba ha. Hết thảy đại chúng đều tán thán Long vương Nan-đa, Bà-nan-đà: –Lành thay, lành thay! Bấy giờ Long vương A-na-bà-đạt-đa cũng đối trước Đức Phật tự bày tỏ thệ nguyện hộ trì, ra lệnh cho hàng quyến thuộc của mình như trên đã nói, rồi đọc chú: –Đa địa tha, na ma tỷ lê thế, na bà na ma tỷ lê thế a nô sai bà cung, xà tî y, khư già bùi khư bát la đô lô an, đại hạ già tư lệ na la, già noa cụ mê tỳ na tất tu lê, a xa ca la mê, a sơ thị nê, dí đồ mâu ni tát ty, ta ba ha. Đà-la-ni này hộ trì cho tên… khiến họ tránh khỏi mọi sợ hãi và các tai họa, sa ba ha. Lúc này, Long vương Bà-lâu-na cũng ở trước Đức Phật răn dạy hàng quyến thuộc và tỏ bày lời thệ nguyện trọng yếu giống như trên. Long vương liền đọc chú: –Đa địa tha, hề ma ty mê, bá la ỷ noa cụ nê, đa ma tần, độ đế lợi nê, bà la xoa đạt lợi mê già lăng cu mê, tỷ gia mâu cầm, vũ thế, đồ lô mô đề ma di, đa na cứ tư, triết ma hề kê, giá la hà la ương kỳ, na trà đạt để. Kiền trà gia đô lệ, ta ba ha. Câu Đà-la-ni này hộ trì cho tên… ta bà ha. Long vương Ma-na-tô-bà-đế cũng từ tòa ngồi đứng dậy, trịch vai áo bên phải, gối phải quỳ sát đất, chắp tay hướng về Đức Phật, thưa: –Bạch Đại Đức Bà-già-bà! Như có các loại rồng nhỏ lớn nương tựa nơi con, từ thai sinh, hoặc noãn sinh, thấp sinh và hóa sinh. Thưa Đức Bà-già-bà! Nếu ở hiện tại và vị lai, các vị vua dòng Sát-lợi xấu ác bỏ vương pháp của chủng tộc mình tạo tác các việc ác, thì vị vua này trước tiên bị đọa vào địa ngục A-tỳ, nên biết đều là lỗi lầm xấu ác của vua dòng Sát-lợi, Long vương không có lỗi gì mà phải mang tiếng ác. Do nhân duyên ấy, Long vương đã giận dữ gây tạo các việc tai hại cho họ. Tuy nhiên, chúng con luôn tôn kính tiếp nhận lời chỉ giáo của Đức Như Lai. Bạch Thế Tôn! Ví như trong dân chúng có một người con gái xinh xắn được tắm rửa sạch sẽ, dùng các hương liệu thoa, xông nơi thân, mặc y phục đẹp đẽ do vua Chuyển luân ban cho, trên đầu tóc được tô điểm bằng bảy báu, dùng vàng ròng làm dây chuyền, vòng, xuyến để tự trang nghiêm, ngồi trên thân voi lớn, cùng quyến thuộc vây quanh, đi đến chỗ trú của vua dòng Sát-lợi. Như vậy, bạch Thế Tôn! Các loài rồng của chúng con thuộc về hàng súc sinh, thân tướng bị nhiều tổn hại, bị cấu nhiễm do tính tham, sân, kiêu mạn. Ngày nay, gặp Đức Như Lai là Đấng Pháp Vương, dùng nước điều phục bậc nhất, tắm gội chúng con, lại cho mặc chiếc áo “Hổ thẹn”, dùng ba mươi bảy phẩm trợ đạo làm chuỗi hoa để trang nghiêm trên đầu, dùng các pháp Tam-muội, Đà-la-ni, nhẫn, địa để trang nghiêm tâm ý thức của chúng con, bước lên xe Đại thừa. Chúng con muốn lìa cõi ác gồm đủ năm thứ ô trược, đến cõi Phật thanh tịnh, theo Đức Phật Thế Tôn, vì các Đại Bồ-tát thanh tịnh đang vây quanh, nghe Thế Tôn giảng nói pháp Đại thừa, cho nên chúng con luôn tôn kính, thọ trì lời dạy của Phật. Nay con và đám quyến thuộc xin an trú vững chắc nơi chính pháp với thệ nguyện sâu rộng: Ở nơi chốn nào là thôn ấp, xóm làng, núi sông, thành lũy biên giới, hoặc người tu hạnh Thanh văn thừa, hoặc người thuộc Bích-chi-phật thừa, hoặc người tu theo Bồ-tát thừa, hoặc xuất gia, hoặc tại gia, hoặc trì giới, hoặc phá giới, hoặc hiểu biết nhiều hay kiến văn còn ít, hoặc tinh tấn hoặc biếng nhác, hoặc định, hoặc loạn, hoặc chính niệm, hoặc thất niệm, chỉ đối với Đức Như Lai khởi tâm kính mến, tin tưởng, tôn quý cho là ít có! Với Pháp và Tăng là bậc Thánh, nhờ mến mộ giới cũng lại như vậy. Đối với đạo quả Vô thượng Bồ-đề tùy ý hướng cầu, cùng hết lòng cung kính, tin yêu, cho ít có, tùy chỗ ở mà được an trú kiên cố nơi đạo pháp. Nếu quyến thuộc của con, hoặc là rồng cha, mẹ, hoặc là rồng nam, nữ, hoặc rồng quyến thuộc, tùy nơi chốn là thôn ấp, xóm làng, núi sông, biên giới hiểm trở mà tạo gió mưa, lũ lụt, sương tuyết, lạnh nóng khởi lên bất thường, làm tổn hại đến năm thứ lúa thóc, hạt giống, mầm, nhánh, cành lá và các vị thuốc, những thứ cần thiết cho sự sống, hoặc trú xứ của các vị Thanh văn đệ tử Đức Phật, đấng phước điền, nương tựa, nếu những rồng nào trái mệnh lệnh, lời dạy của con, con nay lập lời thề khiến cho thân tướng của chúng thảy đều co rút, thần thông mất hết, không thể đi đây đó, nơi thân như bị lửa nóng thiêu đốt, các căn bế tắc, những y báo của chúng đều bị tổn thất, không thể làm gì được. Liền đọc chú: –Đa địa da tha, Phật đà xà da, bà la sai, a ma ni mê bồ đá sa ly lê, a bà mạt đề, bát la đế da ni lê a bà ni la mê, xí bải luân đồ na tô đô ti bát lê ti, sa thập ty sa kiền đà bà lê, bà la nam cật lợi di, ta ba ha. Đà-la-ni này hộ trì cho tên…, ta ba ha. Khi ấy, tất cả đại chúng đều mừng rỡ, chắp tay tán thán Long vương Ma-na-tô-bà-đế: –Lành thay, lành thay! Là đại trượng phu, việc của Long vương làm là nhằm tạo lợi ích cho tất cả chúng sinh. Lúc này, tất cả chúng rồng đều kinh khiếp, run sợ, rối loạn. Bấy giờ, có vị tiên Càn-thát-bà tên là Lạc Sinh, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai áo bên phải, chắp tay hướng về Đức Phật, bạch: –Thưa Thế Tôn! Chư Phật và đại chúng đã một lòng hộ niệm. Trong hiện tại hoặc đời sau này, nếu có các vua dòng Sát-lợi, do ngu si vô trí, kiêu mạn làm hại, không nghó đến đời sau, hư dối không có lòng thương xót, gây não loạn các hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, cho đến các vị quy về nương nơi Đức Như Lai, cạo bỏ râu tóc, mặc ca-sa, mà cũng gây tạo mọi não loạn cho họ, đối với các vị vua dòng Sát-lợi xấu ác ấy, con sẽ dùng diệu lực của Tam-muội mà thề: “Khiến cho vua xấu ác bị quả báo trong hiện tại: Bản thân của vua và đám quyến thuộc, các thứ vật dụng ưa thích nhất sẽ bị nước thù địch đến xâm phạm, đoạn hết, lại cũng bị giặc trong nước, hạng phản nghịch nhiễu loạn, sông suối ao hồ khô kiệt, hoặc bị ngập lụt, bệnh tật hoành hành, sao xấu xuất hiện, trộm cướp đua nhau nổi dậy, cả nước tham đắm theo hoan lạc, bà con, thân bằng chống trái nhau, ly tán, bất yên, bốn đại biến khác, quỷ thần nhiễu loạn. Từ cõi trời cho đến các loài rồng, ngạ quỷ có oai đức thảy đều không an, kể cả các dòng Sát-lợi, Bà-la-môn, Tỳ-xá, Thủ-đà, hoặc nam, nữ thảy đều không yên, cho đến những loài sư tử, hổ báo, thú dữ, trùng độc cũng đều chẳng yên”. Con nay vì muốn diệt trừ điều ác của các vua nước kia nên mới phát ra lời thề như thế. Vì sao? Vì các vua xấu ác ấy đã gây tạo bao thứ não loạn cho những ai tìm đến chỗ Đức Như Lai, cạo tóc xuất gia, an trú, giữ gìn hết thảy giáo pháp của chư Phật, làm hưng thịnh hạt giống Tam bảo. Liền đọc chú: –Đa địa tha, bạt nê, da bà na bát lệ, ma ha bạt na nê, độ lô, ma già tề, cưu tô ma bà la đế, dục đa sam bà sai, tỳ ma địa lợi đa sai bà, lô bát na da, bát lợi bà lợi tát ma, độ lô ca la, mê nê hà liêm xà tư, la mê đế lợi, bùi ma bạt đa, ma du lô khư thệ, na da na hiềm cư lệ, ti bà xa tỳ lê tê, đà na mô chế tăng già tỳ xá sai, ba la sát đế, ba la dân, đà đạt lệ, phù di pha sư tề, vu lô ma đà lệ, bà na già thệ phù ma tề, a bà tề, pha na da tỉ lê sử, thập bà ca la mê tu đa la sai, càn thát bà tư mê, ta ba ha. Câu Đà-la-ni này hộ trì tên…, khiến họ không còn sợ hãi, không gặp tai họa, ta ba ha. Chú nầy còn khiến cho các vua dòng Sát-lợi xấu ác và kẻ không tin có đời sau, làm não loạn các thầy Tỳ-kheo, sẽ phải chịu những tai ác như vậy. Khi đó, tất cả chúng rồng và chúng Càn-thát-bà hiện có mặt đều nói: –Xin buông tha chúng tôi! Nếu các vua dòng Sát-lợi trái với chính pháp, làm việc ác, gây não loạn cho chúng Tăng, chúng tôi sẽ hướng lời thề kia về họ, nhờ đó chúng tôi tránh khỏi tai họa, sinh hoạt tự tại, an lạc. Chúng hội lúc ấy đều đồng thanh tán thán: –Lành thay, lành thay! Bấy giờ, Đại Bồ-tát Địa Tạng chắp tay đảnh lễ Đức Phật, thưa: –Bạch Thế Tôn! Tất cả thần thông Tam-muội diệu dụng hiện có của con, nay con cũng muốn nói pháp môn đại Đà-la-ni Tràng trượng. Nếu người nào đối với pháp môn này được nghe qua một lần, thì tất cả các bệnh tật về tai đều được diệt trừ, lại cũng dứt trừ tất cả các bệnh của phiền não tham sân si, cho dù không hoàn toàn dứt hết, nhưng vẫn có thể giảm nhẹ. Nếu thọ trì chú này trăm ngàn lần, rồi dùng nước ven biển xoa lên trống của nhà vua, ai nghe được tiếng trống ấy, thì hết thảy mọi thứ phiền não như tham sân si… thảy đều giảm bớt. Những người ấy đối với Phật pháp sẽ được lòng tin thanh tịnh, sinh tâm cung kính, yêu thích, cho là ít có. Lại cũng có tâm tinh tấn dũng mãnh tùy thuận theo đúng pháp mà hành hóa, tin sâu có đời sau, vật dụng trong sự sống luôn được đầy đủ, mọi người yêu mến, ai cũng muốn trông thấy. Bồ-tát liền nói chú: –Đa địa tha, băng già bà, mạt đế a lô ba, ma đế khí đa la phù, cách ba na kiển địa, cú na ma xí lệ ma sa nô lệ, kiều hà la na địa na xoa bạt mê, bàn đà hà la du mê, ti ca la kì, lê mê lô ê đa hà la tỳ, ninh ca la tô, bà ca na tử lê nê an đà cha thệ lê ca la phù thệ, kệ xa lô ê, tam ma đề đầu bà lợi, ta ba ha. Câu Đà-la-ni này hộ trì tên…, khiến xa lìa mọi sợ, ta ba ha. Đức Như Lai tán thán Đại Bồ-tát Địa Tạng: –Lành thay, lành thay! Hiền thiện trượng phu! Tất cả đại chúng cũng cùng tán thán: –Lành thay, lành thay! Lúc này, Bồ-tát Vô Tận Ý liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai áo bên phải, chắp tay hướng về Đức Phật, thưa: –Nguyện xin Đức Phật và đại chúng tùy hỷ. Con nay cũng muốn thuyết minh đại Đà-la-ni tên là Nhất thiết Như Lai ngữ ngôn âm thanh phát tràng cái ma-ni nguyện nhãn, có uy đức lớn, uy thế lớn, uy lực lớn, đầy đủ kho tàng kiến văn, đầy đủ kho tàng trí tuệ mà chư Phật và hàng Thanh văn đã thành tựu. Như có người ở nơi trú xứ của Đức Như Lai, suốt đời an trụ vào tịnh giới, như an trụ nơi giới Ưu-bà-tắc, hoặc giữ giới Sa-di, giữ giới Cụ túc, hoặc là pháp khí hay chưa phải là pháp khí, nếu đối với đại Đà-la-ni Tràng cái ma-ni nguyện nhãn này có thể thọ trì đọc tụng trong bảy ngày bảy đêm, với phương tiện là huệ quán, thường quán xét về năm thọ ấm, cũng trong thời gian ấy, có thể tụng đủ trăm ngàn biến, khiến người khác được nghe, lãnh hội, tùy chỗ được nghe mà có thể thọ trì, thì người kia sẽ được biện tài không cùng tận, có thể khiến cho các dòng Sát-lợi, Bà-la-môn, Tỳ-xá, Thủ-đà và tất cả chúng sinh đều sinh tâm kính tin, cũng có được tài sản của cải dồi dào, hướng đến cõi trời, thường được gặp Phật và thân cận chư Phật. Bồ-tát liền đối trước Đức Phật nói chú: –Đa địa tha, đế lợi noa, tăng thị nhược sí, tỷ đế lợi noa tần tỳ ca lam đà sai, bồ bà tô bế, giá ma la kham tỳ, a bà la sai, a sai da lô, tỳ a trì da đâu ma đế di lợi thi lợi bà tỳ sa bà lợi ương cự đồ đà thi nỉ, đồ đồ la nô mê, a na ma du địa di lê khư kỳ lê sai cư la bà tề mạc, già bà sai bào, bà sa bà lợi, a phật lê đế tô bộ, sa bà la khư thệ. Tô mô đế mô nê, ta ba ha. Câu Đà-la-ni này hộ trì tên…, ta ba ha. Đức Thế Tôn bèn tán thán Bồ-tát Vô Tận Ý: –Lành thay, lành thay! Là thiện trượng phu đối với giáo pháp của Như Lai, khéo làm công việc an trụ duy trì, nên đã hiển bày đại Đà-la-ni Tràng cái nguyện nhãn ấy, có thể mở bày, chỉ rõ cho hết thảy chúng sinh thêm sáng tỏ về kiến văn, nhận thức. Bấy giờ, tất cả Đại Bồ-tát và đại chúng cũng tán thán Bồ-tát Vô Tận Ý: –Lành thay, lành thay! Là bậc Thiện trượng phu, Bồ-tát đối với hiện tại và đời vị lai, nếu có những chúng sinh hướng đến pháp Đại thừa, có thể tạo được những tích tụ về kiến văn để tăng trưởng giữ gìn chú này. Bồ-tát nay ở nơi đại Đà-la-ni Tràng cái nguyện nhãn ấy sẽ hiển bày chỉ rõ khiến họ có đầy đủ kiến văn, hiểu biết. Lúc ấy, Đại Bồ-tát Đồng tử Văn-thù-sư-lợi liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai áo bên phải, chắp tay hướng về Đức Phật, bạch: –Thưa Thế Tôn! Con nay cũng muốn khiến cho chúng sinh trong bốn châu thiên hạ này với những thứ cây cối bông trái, lúa thóc hoa màu, vị thuốc, những thứ cần dùng cho sự sống của chúng sinh trên mặt đất, đều làm cho chúng được tốt tươi, đầy đủ, lại nhằm hộ trì cho chúng sinh nên con sẽ nói đại Đà-la-ni tên là Năng cụ thi lợi tử lợi nô. Chú này, trong bốn châu thiên hạ thật là hy hữu vì chưa có, chưa từng thấy, nghe. Như Đức Như Lai đã giảng nói kinh Đại Tập, nay con cũng nói đại Đà-la-ni Năng cụ thi lợi tử lợi nô này, có oai lực lớn, làm tăng trưởng tất cả các thứ hạt giống, mầm nhánh, cành lá, hoa quả, vị thuốc, thảy đều được tươi nhuận, ngon ngọt, tốt đẹp, sung mãn, khiến cho hết thảy chúng sinh đều có lòng tin vào giới luật, kiến văn, bố thí, trí tuệ, Từ bi, theo phương tiện để nuôi lớn tất cả phần pháp trợ Bồ-đề. Bồ-tát liền đối trước Đức Phật nói chú: –Đa địa tha, a mạn nó da cư bế già bà xoa tỳ thệ cự giá lô mê, bát trá xoa lô mê thi lợi da xoa cư tô mê na, bà cứ văn, địa hà la xà bạt mê xa trá bà ba ma đề, tất tố lang kì a phật la tố lệ, hà bà già xà sai, lô ma phù xà sai, kiềm tỳ la bà tố mê, a nô ma da tát lợi bát la xa đô huệ, ta ba ha. Câu Đà-la-ni này hộ trì chúng sinh tên là…, ta ba ha. Đại Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi lại bạch Phật: –Thưa Đức Thế Tôn! Viết Đà-la-ni này lên lá phướn treo cao, lại dùng âm thanh tụng đọc lớn, cũng dùng câu Đà-la-ni này chú nguyện vào trong nước trái cây Ma-đà-na một ngàn lần, rồi đem rải trên cây, trong ruộng gieo trồng lúa thóc hoa màu. Nếu ghi chú này lên mặt trống mà đánh thành tiếng, tùy theo âm thanh vang đến đâu, nơi đó nếu có hoa quả, lúc thóc, cây vị thuốc, những loại sinh trưởng từ đất, mọi thứ tai họa không thể hủy hoại, không bị khô héo, không bị cháy rụi, không thể đoạt mất tinh chất, cũng lại không thể làm tổn hại các công năng của chúng, nói chung là đều không hề bị cướp đoạt. Hoặc là trời, là rồng, kể cả loài quỷ Bế Lệ có oai đức lớn, là ma, là con của loài ma hay quyến thuộc của chúng đều không thể làm hại, huống chi là các loài khác, chỉ trừ nghiệp chướng đã tạo từ kiếp trước. Đức Thế Tôn tán thán Đại Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi: –Lành thay, lành thay! Này thiện nam! Ông nay đã khéo có thể đối với chúng sinh trong bốn châu thiên hạ thăng tiến việc bố thí cỗ xe công đức. Này thiện nam! Ông lại cũng có thể hỗ trợ thành tựu cho vô số chúng sinh đi theo nẻo Vô thượng Bồ-đề. Lúc này, tất cả Bồ-tát đều tán thán Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi: –Lành thay, lành thay! Mong Bồ-tát thường nên làm những việc như vậy. Khi ấy, Bồ-tát Quán Thế Âm nói với Đại Bồ-tát Di-lặc: –Tôi nay xin giúp cho Bồ-tát một đại Đà-la-ni tên là Thuyền hoa công đức. Nếu dùng câu Đà-la-ni này đối với các chúng sinh, mặc áo giáp đại Từ, dùng âm thanh vì họ giảng nói chính pháp, các chúng sinh ấy do diệu lực nơi thần thông Tam-muội của Bồ-tát, nên được nghe pháp, để trừ diệt các tâm hung ác, các thứ tà kiến, các tri thức ác, các bạn ác, thường thường nhớ nghó đến căn lành Từ bi, nên đối với hết thảy các loài luôn khởi tâm thương xót, tâm thấy sâu xa về đời sau, tâm xa lìa mười điều bất thiện, an trú trong mười điều thiện. Có thể làm cho tâm của muôn loài đều được thanh tịnh, rưới xuống trận mưa pháp rất xứng hợp với lòng mong muốn của họ. Tất cả oan gia đều khiến cho họ hoan hỷ, sinh tâm tin ưa. Bồ-tát liền nói chú: –Đa địa da tha, lam bộ sa bà lợi ca sa da bạt mê, tam xưng di bà kiệt lệ, đà bà hà lăng già xà lệ, mô lực sai tố hà, xoa sa bà lê tô ha, phong kì a bà lộ ca lệ, tất đà a tỳ bà sai trì ha, na tần bà tử lê, a tỳ phiên đà át ti, tao bà già la, a bà la hà la tư bà la ha, sơ địa lợi, tẩy ca hà la đô duệ, tam ma đề yết nê, bà la xà ni đế lợi, ma ha phù đa đa cứu tế, a la noa ni lệ, bà la ha xa mê ni la cư tô mê, ta ba ha. Câu Đà-la-ni này hộ trì cho quốc độ…, ta ba ha. Như vậy, này Bồ-tát Di-lặc! Đại Đà-la-ni Thuyền hoa công đức, nếu mang áo giáp là Đà-la-ni ấy, Đại Bồ-tát vì chúng sinh giảng nói giáo pháp, khiến chúng sinh được nghe qua một lần âm thanh của Đà-la-ni này, cho đến các loài côn trùng nhỏ bé nhất… thì mọi thứ tâm xấu ác thảy đều bị tiêu diệt, an trụ nơi các pháp lành. Lại nữa, những người được nghe Đà-la-ni này, có thể sử dụng để cầu mưa gió hợp thời, giúp cho năm thứ lúa thóc hoa màu, cỏ thuốc… tươi tốt đem lại cuộc sống sung túc cho muôn loài. Bấy giờ, trong chúng hội có các rồng lớn, các rồng tiên đến tụ họp ở đây, được nghe đại Đà-la-ni Thuyền hoa công đức này, đều hết sức vui vẻ, không thể tự kiềm chế, sung sướng tột bậc, sinh tâm Từ bi, tin nơi đời sau, đối với Tam bảo có niềm tin thanh tịnh, tôn trọng, cung kính, cho là rất ít có, khởi tâm sám hối về nghiệp ác của mình đã tạo nên phải sinh vào hàng súc sinh, nay xin phát tâm Đại thừa cao tột. Các loài rồng kia đều tùy theo năng lực của mình mà phát tâm cúng dường các Đức Phật. Các loài rồng và rồng lớn hoặc làm mưa vàng vụn, bạc vụn, gỗ thơm ngưu đầu chiên-đàn, gỗ chắc đen, trầm thủy, gỗ chắc chiên-đàn đa-ma-la lá thơm. Lại có loài rồng mưa hoa Ưu-bát-la, hoa Ba-đầu-ma và các thứ hoa khác, vô số các thứ y phục, vô số các thứ lọng báu, cờ phướn báu, dây vàng, chuỗi anh lạc. Tất cả loài rồng và các rồng lớn đều chắp tay hướng về Đức Phật, cùng lúc đồng thanh, thưa: –Bạch Đại Đức Bà-già-bà! Chúng con, đối với tất cả những nơi thờ phụng Tam bảo, tâm luôn an trú tăng trưởng tin ưa. Chúng con hôm nay đối trước Đức Thế Tôn xin bày tỏ lời thề thành thật: Chúng con ở bất cứ chỗ nào, với dân chúng trong thôn ấp, xóm làng cũng hiển bày chỉ rõ về tác dụng của đại Đà-la-ni Thuyền hoa công đức như vậy, cùng tất cả các Đà-la-ni khác, như Đà-la-ni Thủy trạch tâm, Đà-la-ni Ma đao, Đà-la-ni Tràng cái nguyện, Đà-la-ni Năng cầu thi lợi tử lợi nô, Đà-la-ni Thuyền hoa công đức, các Đà-la-ni do Tứ Thiên vương nói, cùng với Đà-la-ni Tứ long tâm. Tất cả đại Đà-la-ni ở đâu cũng đều chỉ bày giảng nói, thọ trì, đọc tụng. Chúng con, các loài rồng tùy theo thôn ấp, xóm làng, nơi chỗ biên địa, núi sông kia, tùy theo thời tiết kéo mây làm mưa tạo mọi lạnh ấm điều hòa. Chúng con, đối với những chỗ ở của các chúng sinh ấy, dốc diệt trừ binh đao của mình và binh đao do từ người khác, đến việc tranh chấp loạn động, việc kiện tụng, các bệnh dịch, đói kém, làm cho chúng sinh bị chết chóc… đều khiến cho những nơi chốn ấy đều giàu mạnh, được mùa, muôn dân an lạc, sung sướng. Chúng con cũng làm cho các hạt giống, mầm, nhánh, cành, lá, hoa quả, cây cối, năm thứ lúa thóc, các loại cỏ thuốc luôn tăng trưởng hương vị của chúng, không bao giờ tổn giảm, y báo của chúng sinh sung mãn nên các hương vị thơm, ngon ngọt đều xuất hiện. Chúng con có thể làm cho các vị vua trong cõi Diêm-phù-đề này đều sinh tâm Từ, tâm lợi ích, tâm không oán hận, tâm không chống trái, tranh chấp. Như vậy, cho đến các bậc Bà-la-môn, dòng Sát-lợi, Tỳ-xá, Thủ-đà-la kể cả các loài Dạ-xoa đều sinh lòng Từ, cho đến các hàng Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di cũng cùng nhau hòa hợp tu học, tùy theo Đà-la-ni này lan truyền đến chỗ nào, chúng con sẽ vì chúng sinh ở đó mà làm các việc lợi ích như trên đã nói. Đức Thế Tôn tán thán các rồng: –Lành thay, lành thay! Lúc ấy, tất cả đại chúng có mặt ở đây cũng tán thán các rồng: –Lành thay, lành thay! Bồ-tát Tu-di Tạng cũng tán thán: –Lành thay! Tán thán xong, Bồ-tát bảo vị trời Công đức: –Này Thanh tịnh trí! Nay ông đã có các Đại Bồ-tát nhiều vô lượng như vậy để làm bạn lành, sao không chuyển vận bánh xe pháp để điều phục tạo mọi thành tựu đầy đủ cho chúng sinh? Vị trời Công đức nói với Bồ-tát Tu-di Tạng: –Nếu Đại Bồ-tát do nhân duyên của nguyện lực tự tại, ở nơi cõi Phật uế ác có đủ năm thứ ô trược này mà thọ sinh, sẽ gặp bậc Thiện tri thức như thế để làm bạn. Như tôi hôm nay được gặp các bạn lành tương ưng như thế. Vị ấy đối với quả vị Vô thượng Bồ-đề như nằm trong bàn tay, liền đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật. Nếu có các Bồ-tát dũng mãnh, tinh tấn nhận làm bạn lành thì Nhất thiết chủng trí nằm trong tầm tay. Đức Phật nói: –Đúng vậy, đúng vậy. Này Thanh tịnh trí! Như đã nói, nếu Đại Bồ-tát với nguyện lực tự tại, vì nhân duyên là tạo mọi thành tựu đầy đủ cho chúng sinh nên sinh vào đời ác gồm đủ năm thứ ô trược mà dũng mãnh, tinh tấn, vững chắc không thoái chuyển, do tương ưng với bốn pháp nhiếp hóa nên cùng là bạn của bậc đại Thiện tri thức với trí Nhất thiết trí đã nằm trong bàn tay nên biết người ấy liền đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật, xa lìa ba đường ác. Nên biết người ấy đã xa lìa việc thọ sinh nơi thai, nên biết người ấy luôn an trú vào bậc Vô học, dứt hết các lậu hoặc, nên biết vị ấy đã được tất cả chư Phật nhớ nghó và hộ trì, nên biết vị này trụ vào bậc lìa dục. Khi ấy, trong chúng hội có vị vua trời Đế Thích tên là Vô Cấu Oai Đức, cung kính chắp tay hướng về Đức Phật, thưa: –Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà các loài rồng lớn đã làm tổn hại đến tiền tài, vật dụng của chúng sinh trong thế gian? Đức Phật nói: –Có hai nhân duyên khiến các loài rồng làm tổn hại tiền tài, vật dụng của chúng sinh trong thế gian. Hai việc đó là gì? 1.Do sức mạnh của lòng tham. 2.Do sức mạnh của sân hận. Do hai nhân duyên này mà loài rồng đã tạo ra các việc mây mưa, sương tuyết lạnh nóng bất thường, khiến các thứ hạt giống, mầm nhánh, cành lá, hoa quả, năm thứ lúa thóc, các vị thuốc đều bị khô héo, rơi rụng, làm tổn giảm những thứ nuôi sống cho các chúng sinh, khiến thân, miệng, ý của họ gây tạo các nghiệp ác nặng nề. Chúng sinh do tạo nghiệp chướng sâu nặng ấy nên đã thiêu đốt tất cả căn lành đời trước, xa lìa các Thiện tri thức, thường ở trong ba đường ác. Hoặc có chúng sinh nơi đời hiện tại, vì cơm áo bức bách mà phải tạo tác nghiệp ngũ nghịch, do nghiệp ác ấy nên trong vô số kiếp không được làm thân người, dẫu sau này có được thì các căn cũng bị tàn tật, khiếm khuyết, không có chính niệm, bị sinh vào hạng Chiên-đà-la, hoặc nơi dòng họ thấp kém, nghèo khổ, ăn mặc không đủ, đồ dùng luôn thiếu thốn. Lại cũng do nghiệp xấu ác nên xa lìa các hàng Thiện tri thức, do hành động theo nghiệp chướng xấu ác của thân, miệng, ý nên phải đọa vào ba đường ác, cho đến địa ngục A-tỳ, là con đường mòn thường đi của họ. Như vậy, nên các chúng sinh này mãi chìm đắm nơi sinh tử không dừng dứt, chịu đủ tất cả nỗi cực khổ trong ba đường. Lúc này, Đức Thế Tôn liền nói kệ: Các khổ hiện có, sinh Đều do nơi ăn uống Nếu lìa việc ăn uống Thời các khổ không sinh. Trời Đế Thích Vô Cấu Oai Đức liền nói kệ: Lạ thay dây ân ái Cho đến trời Hữu đảnh Như vậy rộng bao vây Đều do ăn uống sinh. Phàm phu, nhân hai thứ Dây ái trói buộc thân Không thể vượt thoát được Cũng như nai mắc bẫy. Hoặc chạy hoặc bước đi Đứng lên lại nhào xuống Ái thuốc độc lỗi lầm Hoặc khóc hay vui cười. Chủ mọi khổ chi phối Như hạt mè ép dầu Tất cả trời và người Ái bức bách cũng vậy. Trăm ngàn thứ xảo thuật Tuy thấy nhiều hay khéo Ái đùa cợt trời người Còn xảo diệu hơn kia. Lỗi tham ái khổ độc Làm hại nơi mọi người Ví học võ dũng, oán Cũng còn không bằng được. Như Dạ-xoa chấp giữ Cuồng loạn nói năng nhiều Dạ-xoa ái chấp trước Cuồng loạn hơn như vậy. Người tốt hiện ở đời Sợ ân ái nên xa Nếu ái được khô kiệt Thời vượt đến bờ kia. Bồ-tát Quán Thế Âm cũng nói kệ: Người mê tham, sân, si Cuồng loạn, không chính niệm Xa lìa mọi điều lành Tạo tác các nghiệp ác. Không tôn kính cha mẹ Hủy diệt con đường thiện Không tin kính Tam bảo Lại tạo các tội nghịch. Không có tâm thương xót Bạo ác rất đáng sợ Tâm sân hận dắt dẫn Đến địa ngục A-tỳ. Chúng sinh do sân hận Nên tàn hại lẫn nhau Thường ở trong đường ác Bị các khổ bức bách. Xa lìa Thiện tri thức Vì tâm ác ngăn ngại Thường chìm trong các cõi Đi vào chỗ tối tăm. Bồ-tát thân Đại Bi Vì chúng sinh như thế Bỏ vui của riêng mình Khiến họ được giải thoát. Tu tập hạnh Bồ-đề Tạo lên ba thứ việc Dựng lập cờ pháp thắng Trừ ác cho muôn loài. Chỉ vì mọi chúng sinh Rộng luyện tập khổ hạnh Siêng năng tu đạo pháp Bỏ tiền tài, thân mạng. Vì mỗi mỗi chúng sinh Vô lượng kiếp thọ khổ Mong cứu giúp tất cả Chịu đựng đời khổ não. Trời Công đức dũng mãnh Dốc giáo hóa quần mê Vì chúng sinh tham dục Nên phát tâm Bồ-đề. Khi ấy, vị trời Công đức dùng một cái hộc đựng đầy các hạt giống, dâng lên Đại Bồ-tát Quán Thế Âm và thưa: –Nay con đem tất cả hạt giống này dâng lên bậc thiện trượng phu, vì muốn làm tăng trưởng lợi ích nơi tất cả hạt giống, nguyện cho ý mong cầu của con được thành tựu viên mãn. Lại khiến con ở nơi các chúng sinh trong bốn cõi thiên hạ, những thứ cần dùng cho sự sống luôn được sung túc. Đối với những chúng sinh bạo ngược hung ác, đã mất căn lành, con nguyện sẽ nhổ hết khổ não cho họ, khiến họ được an lạc, trụ nơi hạt giống Bồ-đề. Đại Bồ-tát Quán Thế Âm bèn đưa tay cầm lấy hộc đựng đầy giống kia, nhìn khắp mười phương rồi nói: –Tất cả chư Phật, Bồ-tát trong mười phương cùng các loài rồng hiện đang ở đây, xin đều hộ niệm cho tôi, khiến cho tất cả các thứ hạt giống, mầm, nhánh, cành lá, hoa quả, lúa thóc và các vị cỏ thuốc, tinh chất của đất, tinh chất của chúng sinh, của pháp thiện luôn tăng trưởng, không hề bị tổn giảm. Lại khiến cho trong bốn cõi thiên hạ này, hạt giống Tam bảo luôn được tiếp nối, phát triển không bị gián đoạn. Mong cho các vị trời Công đức với mọi sở nguyện thảy đều thành tựu đầy đủ, các vị luôn hỗ trợ cho tất cả chúng sinh về tài sản, vật dụng luôn được dồi dào, có thể giáo hóa muôn loài xa lìa mọi điều ác, khiến họ phát tâm Bồ-đề, lìa bỏ ba đường ác, sinh lên cõi trời. Liền nói chú: –Đa địa tha, mâu ni thi bà, mâu ni na khư, mâu ni ba la, mâu ni bà lợi, tát đậu bà ư sa sai đế sát đa la ba la na, nị la bà, da bà tát bà tỳ xà, da bà tất lợi lê, ta ba ha. Câu Đà-la-ni này hộ trì tên…, ta ba ha. Bấy giờ, Đức Thế Tôn tán thán Bồ-tát Quán Thế Âm và vị trời Công đức: –Lành thay, lành thay! Rồi bảo vị trời Công đức: –Này Thanh tịnh trí! Tất cả chư Phật và đại chúng đã nguyện gia hộ, đối với năm thứ lúa thóc hoa màu, hạt giống, mầm, nhánh, cành, lá… trong bốn cõi thiên hạ đều được thành tựu trọn vẹn, lại giúp cho ông có thể giáo hóa chúng sinh. Vậy nay ông nên phát tâm dốc sức giáo hóa muôn loài. Bấy giờ, vua trời Đế Thích Kiều-thi-ca bạch Phật: –Thưa Đức Thế Tôn! Pháp môn này tên gọi là gì? Chúng con phải thọ trì như thế nào? Đức Phật bảo Thiên vương Kiều-thi-ca: –Kinh này tên là kinh Như Lai Nói Các Lời Thề Cốt Yếu Về Bản Nguyện Của Công Đức Thiên. Cũng gọi là Những Lời Nguyền của Bồ-tát Tu-di Tạng. Cũng gọi là Bảo Bối Đà-la-ni. Cũng gọi là Tăng Trưởng Địa Vị. Cũng gọi là Tam-muội Phương Tiện Giáo Hóa Chúng Sinh. Khi Đức Phật giảng nói kinh này xong, vị trời Công đức lớn, Đại Bồ-tát Tu-di Tạng, tất cả loài rồng, các rồng lớn cùng với quyến thuộc của chúng, hết thảy Thần tiên, Người, A-tu-la, Càn-thát-bà… nghe Đức Phật giảng dạy, đều hết mực hoan hỷ. Kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập <卷 id="117157945">Quyển 59 <詞 id="117157946">Phẩm 17: Bồ-tát nơi mười phương (Phần 1) Khi Đức Phật du hóa tại thành Vương xá, an trú nơi chốn pháp thanh tịnh, tự nhiên ở tòa Sư tử có trướng đẹp phủ che. Lúc này, Đức Phật an tọa nơi tòa, hiện rõ ba mươi hai tướng tốt, ánh sáng tỏa chiếu khắp mười phương, các vị Bồ-tát đều đến yết kiến, thưa hỏi Đức Phật: –Các vị Bồ-tát do nhân duyên gì mà có vị còn si, có vị thông đạt, có vị trí tuệ, có vị lại có thể bay lên, có vị dù ngồi hay đi cũng ở trong thiền định Tam-muội, có vị có thể nhìn thấu triệt, có vị không thể bay lên, có vị không thể ngồi hay đi thường ở trong thiền định Tam-muội, được định ý không thể lâu dài, có vị trí tuệ hoặc sâu, hoặc cạn, đồng tu hạnh Bồ-tát, vì nhân duyên gì mà có trí sâu cạn khác nhau? Đồng có tâm ý thức, đồng có mắt, tai, mũi, lưỡi miệng, thân, vì nhân duyên gì mà việc tu hành có khác nhau? Đức Phật nói: –Lành thay, lành thay! Ba đời các Đức Phật nơi mười phương đều nói: tính của con người hiện qua tâm ý thức với mắt, tai, mũi, lưỡi, thân đều đồng là pháp tính. Đức Phật nói: –Con người hay toan tính, sáu tình là tất cả, chúng cũng có thể đạt được trí tuệ mười phương Phật. Đức Phật bảo các vị Bồ-tát: –Các vị Bồ-tát tu hành cũng có hạng cạn, sâu. Các Bồ-tát thưa hỏi Đức Phật: –Vì sao Bồ-tát tu hành có sâu cạn? Đức Phật nói: –Bồ-tát tu hành sâu xa là Bồ-tát hành đạo mà tùy thuận đạo, là tu hành sâu xa. Bồ-tát tu hành còn cạn cợt là hành đạo mà không thể tùy thuận đạo tu hành, nghĩa là tu hành hoặc nhiều hay ít nhưng tùy thuận đạo thì rất ít. Vậy là Bồ-tát tu hành cạn. Các Bồ-tát hỏi Đức Phật: –Thế nào là Bồ-tát thường tùy thuận đạo mà không mất việc tu hành? Đức Phật nói: –Là Bồ-tát thường giữ gìn tâm ý thức không bị dao động, quay trở về cõi vắng lặng để hạt giống đạo được nẩy mầm. nghĩa là Bồ-tát có thể giữ gìn mắt, khiến không bị vướng đắm nơi cảnh sắc, trở về cõi vắng lặng để hạt giống đạo nẩy mầm. Là Bồ-tát có thể giữ gìn tai, khiến không tham đắm nơi âm thanh, trở về chốn vắng lặng để hạt giống đạo nẩy mầm. Là Bồ-tát khéo giữ gìn mũi, để không bị tham đắm nơi mùi hương, trở về chốn vắng lặng để hạt giống đạo nẩy mầm. Là Bồ-tát hay giữ gìn miệng lưỡi để không bị tham vướng nơi vi trần được trở về chốn vắng lặng, để hạt giống đạo nẩy mầm. Là Bồ-tát giữ gìn thân thểù không bị tham đắm vào những tiếp xúc, được trở về nơi vắng lặng để hạt giống đạo nẩy mầm. Như vậy Bồ-tát có thể gìn giữ cho sáu tình gặp hoàn cảnh tốt xấu đều không dao động, thường giữ được vắng lặng. Như thế là tùy thuận theo đạo tu hành, đạt được pháp sâu xa. Bồ-tát lại hỏi Đức Phật: –Như thế nào là Bồ-tát tu hành còn cạn? Đức Phật nói: –Là Bồ-tát sơ xuất trong việc tu hành, có khi tu hành thành đạt, có khi không. Có khi Bồ-tát hay giữ gìn được tâm ý thức tùy thuận đạo, có khi lại không giữ được mắt, liền bị tổn thất việc tu hành, không tùy thuận được đạo. Có khi giữ gìn được mắt lại không giữ được tai. Có khi giữ gìn được tai lại không giữ được mũi. Có khi giữ được mũi mà không giữ được miệng. Có khi giữ được miệng mà không giữ được thân. Có khi giữ được thân lại không thể ngồi thiền. Có khi ngồi thiền mà không suy tính. Có khi suy tính mà không thể hành trì. Có khi có thể hành trì mà không phân biệt. Có khi phân biệt mà không thể biết được chỗ tế nhị, nhỏ nhiệm của ý. Do dụng tâm như thế nên Bồ-tát hành đạo có cạn, sâu không giống nhau. Bồ-tát lại thưa hỏi Đức Phật: –Như vậy, Bồ-tát tu hành phải làm những gì? Đức Phật nói: –Điều cần yếu là Bồ-tát nên tự biết hành trì, suy tính, nên tự biết tu sửa, suy tính, không vướng chấp vào việc suy tính. Người tùy việc mà suy tính là người thông tuệ, không biết suy tính, là người si. Lại hỏi: –Nên suy tính sáng suốt, còn người suy tính ngu si như thế nào? Đức Phật nói: –Việc đã qua mà suy tính là ngu si, suy tính liền là thông tuệ. Đức Phật nói: –Con người có một trăm lẻ tám thứ tham ái khiến cho họ bị ngu si. Người muốn suy tính để được thông tuệ cần có năm mươi điều suy tính. Trong năm mươi điều suy tính nhận biết có các lỗi vi tế, nhỏ nhiệm, liền được thông tuệ. Các Bồ-tát thưa hỏi Đức Phật: –Những gì là năm mươi điều suy tính? Đức Phật nói: –Năm mươi điều suy tính ấy là từ trong tâm sinh khởi. Nếu muốn biết, đó là: 1.Nên suy tính trong ta có một trăm lẻ tám điều ngu si. 2.Nên suy tính về một trăm lẻ tám điều nghi ngờ. 3.Nên suy tính về một trăm lẻ tám điều điên đảo. 4.Nên suy tính về một trăm lẻ tám điều tham muốn. 5.Nên suy tính về một trăm lẻ tám điều sa đọa. 6.Nên suy tính về một trăm lẻ tám điều tham ái. 7.Nên suy tính về một trăm lẻ tám loại mầm mống sinh tử. 8.Nên suy tính về một trăm lẻ tám nhận thức. 9.Nên suy tính về một trăm lẻ tám nhân duyên chấp trước. 10.Nên suy tính về một trăm lẻ tám thứ hạt giống sinh tử. Như vậy là mười thứ suy tính. Đức Phật nói: –Bồ-tát lại còn có mười thứ suy tính: 1.Nên suy tính về một trăm lẻ tám cửa ngỏ nơi sự sống. 2.Nên suy tính về một trăm lẻ tám thứ chính hạnh. 3.Nên suy tính về một trăm lẻ tám thứ đoạn trừ sinh tử. 4.Nên suy tính về một trăm lẻ tám thứ diệt mà không diệt. 5.Nên suy tính về một trăm lẻ tám tội lỗi quán nhập vào không sẽ không thấy. 6.Nên suy tính về một trăm lẻ tám thứ không bỏ hết. 7.Nên suy tính về một trăm lẻ tám thứ không bỏ tịnh để vào tịnh. 8.Nên suy tính về một trăm lẻ tám cách Tinh tấn nơi Giới. 9.Nên suy tính về một trăm lẻ tám cách Tinh tấn để vào đạo. 10.Nên suy tính về một trăm lẻ tám thứ Nhẫn nơi Giới. Đây là mười thứ suy tính của Bồ-tát. Bồ-tát lại có mười thứ suy tính: 1.Nên suy tính về một trăm lẻ tám thứ nhẫn nhục trong đạo. 2.Nên suy tính về một trăm lẻ tám lời nguyện hợp đạo. 3.Nên suy tính về một trăm lẻ tám thứ niềm tin là căn bản vào đạo. 4.Nên suy tính về một trăm lẻ tám cách ra khỏi si mê, vào nơi trí tuệ. 5.Nên suy tính về một trăm lẻ tám cách hoan hỷ vắng lặng. 6.Nên suy tính về một trăm lẻ tám điều mình chưa được thành Phật nên buồn. 7.Nên suy tính về một trăm lẻ tám điều mình chưa được thành Phật nên sầu. 8.Nên suy tính về một trăm lẻ tám điều mình chưa được thành Phật nên lo lắng. 9.Nên suy tính về một trăm lẻ tám cách chưa được gặp kinh Phật, dù thông tuệ cũng chưa đạt được chỗ chính yếu của Phật là giải thoát. 10.Nên suy tính về một trăm lẻ tám cách nếu chưa thoát ra khỏi tội lỗi nặng là chưa được vào Niết-bàn chính yếu. Đây là mười điều suy tính của Bồ-tát. Đức Phật nói: –Bồ-tát lại có mười điều suy tính: 1.Nên suy tính về một trăm lẻ tám cách cầu mong vào trong biển tuệ là biện pháp thoát khỏi lỗi lầm. 2.Nên suy tính về một trăm lẻ tám cách mong hội nhập nơi pháp Không, để vượt khỏi nẻo chấp về không. 3.Nên suy tính về một trăm lẻ tám pháp có tội khi mới khỏi, trước đó là không, nên biết lúc diệt rồi cũng trở về không. 4.Nên suy tính về một trăm lẻ tám cách thọ trì pháp Không sẽ hiểu rõ cùng tận các pháp. 5.Nên suy tính về một trăm lẻ tám cách thấu rõ chỗ cùng tận của các pháp sẽ không sinh trở lại. 6.Nên suy tính về một trăm lẻ tám cách đạt được Niết-bàn không sinh không diệt. 7.Nên suy tính về một trăm lẻ tám cách cần phải niệm tưởng. 8.Nên suy tính về một trăm lẻ tám xách xả bỏ niệm tưởng. 9.Nên suy tính về một trăm lẻ tám cách nghó về tạp tướng thì nên biết nó là loại tạp tướng. 10.Nên suy tính về một trăm lẻ tám tướng thọ nhận là không sinh không diệt. Đây là mười pháp suy tính của Bồ-tát. Đức Phật nói: –Bồ-tát lại có mười điều suy tính: 1.Nên suy tính về một trăm lẻ tám cách là khắp mười phương, tất cả vạn vật trong vòng sinh tử đều có gốc ngọn, thành hoại. 2.Nên suy tính về một trăm lẻ tám cách lấy sự biết rõ về thành hoại trong mười phương làm chứng đắc. 3.Nên suy tính về một trăm lẻ tám cách là con người sinh ra trong mười phương đều do si mê. 4.Nên suy tính về một trăm lẻ tám cách dẫn dắt si mê nơi mười phương chúng sinh làm chứng đắc. 5.Nên suy tính về một trăm lẻ tám cách bỏ Niết-bàn của A-la-hán trong mười phương, coi như không có, làm chứng đắc. 6.Nên suy tính về một trăm lẻ tám cách dẫn dắt bỏ chấp Niết-bàn của Bích-chi-phật làm chứng đắc. 7.Nên suy tính về một trăm lẻ tám cách khiến cho các bậc thầy nơi quá khứ trong mười phương bỏ chấp Niết-bàn, lấy việc dẫn dắt làm chứng đắc. 8.Nên suy tính về một trăm lẻ tám cách, ngay nơi hiện tại các Đức Phật trong mười phương cũng nên bỏ chấp về Niết-bàn. Nay ta là Phật Thích-ca Văn, là bậc chủ trong trời đất, tự tại biến hóa, việc cần là bỏ chấp về Niết-bàn, hoặc nên lấy sự dẫn dắt của ta làm chứng đắc. 9.Nên suy tính về một trăm lẻ tám cách để mười phương chư Phật trong vị lai, cũng nên bỏ chấp về Niết-bàn để dẫn dắt người làm chứng đắc. 10.Nên suy tính về một trăm lẻ tám cách tận lực từ khước tham cầu quả Phật, như ta cũng từ chối không vào Niết-bàn. Gồm lại, thì đó là năm mươi điều suy tính của Bồ-tát. Các vị Bồ-tát đều cung kính ghi nhận lời chỉ dạy của Đức Phật. Các vị Bồ-tát lại thưa hỏi Phật: –Nên suy tính về một trăm lẻ tám cách để hiểu sự ngu si gốc từ tâm sinh khởi, là vì sao? Đức Phật bảo các Bồ-tát: –Nếu Bồ-tát, tâm có điều suy nghó mà không tự biết tâm sinh tâm diệt, trong đó có năm ấm, có nghiệp tạo tác, vì không biết nên si chuyển nhập vào ý, ý mới có suy nghó, mà không tự biết ý sinh, ý diệt, trong đó có năm ấm, có nghiệp tạo tác. Vì không tự biết nên si chuyển nhập vào thức, thức có chỗ nhận thức mà không tự biết thức sinh, thức chỗ diệt, trong đó có năm ấm, có nghiệp tạo tác. Vì không biết là do si chuyển nhập vào mắt, mắt thấy sắc đẹp mà không tự biết chỗ vướng mắc, không tự biết chỗ diệt, trong đó có năm ấm, có nghiệp tạo tác. Do vì ngu si không biết nên trong khi mắt thấy sắc bình thường, không tự biết chỗ chấp, không tự biết chỗ diệt, trong đó có năm ấm, có nghiệp tạo tác. Do vì ngu si không biết nên mắt thấy sắc xấu mà không tự biết chỗ chấp, không tự biết chỗ diệt, trong đó có năm ấm, có nghiệp tạo tác. Do vì ngu si không biết nên chuyển sang tai, tai nghe tiếng hay mà không tự biết chỗ vướng mắc, không tự biết chỗ diệt, trong đó có năm ấm, có nghiệp tạo tác. Do vì ngu si không biết, nên tai nghe âm thanh bình thường, không tự biết có chỗ vướng mắc, không tự biết chỗ diệt, trong đó có năm ấm, có nghiệp tạo tác. Do vì ngu si không biết, nên tai nghe tiếng xấu ác không tự biết chỗ vướng mắc, không tự biết diệt, trong đó có năm ấm, có nghiệp tạo tác. Do vì ngu si không biết nên chuyển vào mũi, mũi ngửi được mùi thơm, không tự biết chỗ vướng mắc, không tự biết diệt, trong đó có năm ấm, có nghiệp tạo tác. Do vì ngu si không biết nên khi mũi ngửi mùi thơm thường, không tự biết chỗ vướng mắc, không tự biết chỗ diệt, trong đó có năm ấm, có nghiệp tạo tác. Do vì ngu si không biết, khi mũi ngửi mùi hôi thối mà không tự biết chỗ vướng mắc, cũng không biết chỗ diệt, trong đó có năm ấm, có nghiệp tạo tác. Do vì ngu si không biết, chuyển sang miệng, miệng ăn vị ngon, nói lời hay khéo mà không tự biết chỗ vướng mắc, không tự biết diệt, trong đó có năm ấm, có nghiệp tạo tác. Do vì ngu si không biết, khi miệng gặp món ăn trung bình, ngôn ngữ bình thường mà không tự biết chỗ vướng mắc, không tự biết chỗ diệt, trong đó có năm ấm, có nghiệp tạo tác. Do vì ngu si không biết nên khi miệng gặp mùi vị dở, nói lời không hay mà không tự biết chỗ vướng mắc, không tự biết chỗ diệt, trong đó có năm ấm, có nghiệp tạo tác. Do vì ngu si không biết, chuyển vào thân, khi thân được dùng đồ mềm mại, đáng ưa mà không tự biết chỗ vướng mắc, không tự biết chỗ diệt, trong đó có năm ấm, có nghiệp tạo tác. Do vì ngu si không biết, thân gặp đồ mềm mại trung bình mà không tự biết chỗ vướng mắc, không tự biết chỗ diệt, trong đó có năm ấm, có nghiệp tạo tác. Do vì ngu si không biết, thân gặp cảnh xấu ác, đau khổ, không hợp với thân mà không tự biết chỗ vướng mắc, không tự biết chỗ diệt, trong đó có năm ấm, có nghiệp tạo tác. Do vì ngu si không biết, Bồ-tát hành đạo cần yếu là nên quán sổ tức, suy tính như vậy. Các vị Bồ-tát đều cung kính tiếp nhận lời Đức Phật dạy mà tu hành. Các vị Bồ-tát thưa: –Đức Phật vì chúng con giảng nói về si, nhưng chúng con chưa hiểu rõ. Các Bồ-tát lại hỏi Đức Phật: –Dẫu chúng con biết một trăm lẻ tám cách của si là vướng mắc, biết diệt liền diệt và làm cho si trở thành thông tuệ. Đức Phật bảo các vị Bồ-tát: –Tuy các vị biết bị vướng mắc, biết diệt bỏ nhưng si vẫn còn tiếp tục, chưa giải trừ hết. Các Bồ-tát lại hỏi Đức Phật: –Chúng con khi chưa nghe Đức Phật giảng nói, dù quán sổ tức mà vẫn còn si. Nay chúng con nghe Đức Phật dạy nên biết, vì sao Phật bảo chúng con là còn si? Đức Phật bảo các Bồ-tát: –Ví như vị Bồ-tát mới tu học, chưa có khả năng bay lên được, nhưng tai nghe nói về mười phương các Đức Phật, nguyện muốn đến viếng, nhưng việc quan trọng là chưa bay đi được. Như vậy, vị ấy có thể thấy mười phương chư Phật chưa? Các vị Bồ-tát thưa: –Bạch Thế Tôn! Như vậy chỉ có trong ý nguyện, nhưng điều trọng yếu là không thể thấy mười phương chư Phật. Đức Phật bảo các vị Bồ-tát: –Nay các vị tuy nghe ta nói một trăm lẻ tám cách về si, sự vướng mắc và sự hủy diệt của nó, nhưng cũng như Bồ-tát mới tu học, chỉ nguyện muốn đến cảnh giới của mười phương chư Phật mà không thể bay tới được. Đức Phật lại hỏi các vị Bồ-tát: –Các Bồ-tát mới tu học, vì sao nguyện đến cảnh giới của mười phương chư Phật mà không thể bay tới được? Các vị Bồ-tát thưa: –Do dụng công chưa đủ khả năng để phá trừ được tâm si, nên không diệt được tội lỗi, vì thế không thể bay đến cảnh giới của mười phương chư Phật. Đức Phật nói: –Ví như các Bồ-tát chỉ có thể nói đến sự vướng mắc và sự hủy diệt các vướng mắc, chỉ nói mà không tu hành thì gọi là si. Các vị Bồ-tát hỏi Phật: –Người tu hành do từ đâu đạt được thông tuệ? Đức Phật bảo các vị Bồ-tát: –Chỗ chấp trước là si, cần nên diệt sạch. Không chấp trước mới là người không si mê. Đó là chỗ trọng yếu khiến các vị chưa được thông tuệ. Các Bồ-tát hỏi: –Vì sao tu hành còn mê, chưa được thông tuệ? Đức Phật bảo các vị Bồ-tát: –Lại có một trăm lẻ tám điều nghi mà không giải trừ được. Các Bồ-tát lại hỏi: –Thưa, những gì là một trăm lẻ tám điều nghi? Đức Phật nói: –Do Bồ-tát không tự biết về tâm mình sinh diệt, trong đó có năm ấm, có nghiệp tạo tác. Không nhận biết vì nghi, nên không tự biết về ý sinh ý diệt, trong đó có năm ấm, có tập. Không nhận biết vì nghi, nên không tự biết về thức sinh, thức diệt, trong đó có năm ấm, có tập. Không nhận biết vì nghi, chuyển nhập vào mắt, mắt thấy sắc đẹp mà không tự biết sinh diệt, trong đó có năm ấm, có tập. Không nhận biết vì nghi, mắt thấy cảnh sắc trung bình mà không tự biết nó sinh diệt, trong đó có năm ấm, có tập. Do không nhận biết vì nghi, mắt thấy cảnh sắc xấu xí mà không tự biết sinh diệt, trong đó có năm ấm, có tập. Không nhận biết vì nghi, nếu dẫn nhập vào tai, tai nghe tiếng hay mà không tự biết nó sinh diệt, trong đó có năm ấm, có tập. Không nhận biết vì nghi, nên khi tai nghe tiếng bình thường mà không biết nó sinh diệt, trong đó có năm ấm, có tập. Do không nhận biết vì nghi, tai nghe tiếng xấu ác mà không tự biết nó sinh diệt, trong đó có năm ấm, có tập. Không nhận biết vì nghi, chuyển nhập vào mũi, mũi ngửi mùi thơm mà không tự biết sinh diệt, trong đó có năm ấm, có tập. Không nhận biết vì nghi, khi mũi ngửi mùi thơm thường mà không tự biết sinh diệt, trong đó có năm ấm, có tập. Do không nhận biết vì nghi, khi mũi ngửi mùi hôi thối mà không tự biết sinh diệt, trong đó có năm ấm, có tập. Do không nhận biết vì nghi, chuyển vào miệng, miệng ăn món ngon vật lạ, lời nói tốt mà không tự biết sinh diệt, trong đó có năm ấm, có tập. Không nhận biết vì nghi, miệng thưởng thức món ăn trung bình, lời nói bình thường mà không tự biết sinh diệt, trong đó có năm ấm, có tập. Không nhận biết vì nghi, khi gặp đồ ăn dở, lời nói hung dữ mà không tự biết sinh diệt, trong đó có năm ấm, có tập. Không nhận biết vì nghi, chuyển nhập vào thân, thân được tiếp xúc đồ dùng tốt đẹp, mềm mại, thích hợp với thân mà không tự biết sinh diệt, trong đó có năm ấm, có tập. Không nhận biết vì nghi, thân tiếp xúc với các loại vừa mà không tự biết sinh diệt, trong đó có năm ấm, có tập. Không nhận biết vì nghi, thân tiếp xúc với hoàn cảnh thô xấu, cứng, khổ, không hợp với thân mà không tự biết sinh diệt, trong đó có năm ấm, có tập. Đó là không hiểu biết vì nghi. Đức Phật nói: –Bồ-tát nếu không trừ bỏ những việc như vậy thì chưa xứng là Bồ-tát. Các vị Bồ-tát lại hỏi Đức Phật: –Thưa, vì sao chưa xứng đáng là Bồ-tát? Đức Phật nói: –Bồ-tát khi dụng công mà không thực hành pháp An ban thủ ý, không suy tính về một trăm lẻ tám điên đảo. Các Bồ-tát lại hỏi: –Thưa, những gì là một trăm lẻ tám điên đảo? Đức Phật nói: –Là Bồ-tát tâm còn nhiều tạp niệm là lỗi lầm nơi sinh tử, trong đó có năm ấm, có tập nhân, lại tự nói ta không có tội. Như vậy là còn sinh tử trong nhiều kiếp, gọi là điên đảo. Nếu chuyển sang ý, ý lại có nhiều tạp niệm là lỗi lầm nơi sinh tử, trong đó có năm ấm, có tập nhân mà tự nói ta không có tội, như vậy là còn sinh tử trong nhiều kiếp, là điên đảo. Ý chuyển sang thức, thức nhiều phân biệt là lỗi lầm nơi sinh tử, trong đó có năm ấm, có tập nhân mà tự nói ta không có tội, như vậy là còn sinh tử trong nhiều kiếp, là điên đảo. Nếu chuyển vào mắt, mắt thấy các sắc đẹp, là còn lỗi lầm nơi sinh tử, trong đó có năm ấm, có tập nhân mà tự nói ta không có tội, như vậy là còn sinh tử trong nhiều kiếp, là điên đảo. Nếu mắt nhìn cảnh sắc trung bình là lỗi lầm nơi sinh tử, trong đó có năm ấm, có tập nhân mà tự nói ta không có tội, như vậy là còn sinh tử trong nhiều kiếp, là điên đảo. Mắt tiếp xúc nhiều cảnh xấu ác, là lỗi lầm nơi sinh tử, trong đó có năm ấm, có tập nhân mà tự nói ta không có tội, như vậy là còn sinh tử trong nhiều kiếp, là điên đảo. Nếu chuyển vào tai, tai nghe nhiều âm thanh hay, là lỗi lầm nơi sinh tử, trong đó có năm ấm, có tập nhân mà tự nói ta không có tội, như vậy là còn sinh tử trong nhiều kiếp, là điên đảo. Tai nghe nhiều âm thanh bậc trung, là còn lỗi lầm nơi sinh tử, trong đó có năm ấm, có tập nhân mà tự nói ta không có tội, như vậy là còn sinh tử trong nhiều kiếp, là điên đảo. Tai nghe nhiều âm thanh thô ác, là lỗi lầm nơi sinh tử, trong đó có năm ấm, có tập nhân mà tự nói ta không có tội, như vậy là còn sinh tử trong nhiều kiếp, là điên đảo. Nếu chuyển vào mũi, mũi ưa ngửi mùi hương thơm, là lỗi lầm sinh tử, trong đó có năm ấm, có tập nhân mà tự nói ta không có tội, như vậy là còn sinh tử trong nhiều kiếp, là điên đảo. Mũi ngửi mùi hương thơm trung bình, là lỗi lầm nơi sinh tử, trong đó có năm ấm, có tập nhân mà tự nói ta không có tội, như vậy là còn sinh tử trong nhiều kiếp, là điên đảo. Mũi ngửi mùi hôi hám, là lỗi lầm nơi sinh tử, trong đó có năm ấm, có tập nhân mà tự nói ta không có tội, như vậy là còn sinh tử trong nhiều kiếp, là điên đảo. Nếu chuyển vào miệng, miệng tiếp xúc với mùi vị ngon, lời hay khéo, là lỗi lầm nơi sinh tử, trong đó có năm ấm, có tập nhân mà tự nói ta không có tội, như vậy là còn sinh tử trong nhiều kiếp, là điên đảo. Miệng gặp món ăn mùi vị trung bình, nói năng bình thường, là lỗi lầm nơi sinh tử, trong đó có năm ấm, có tập nhân mà tự nói ta không có tội, như vậy là còn sinh tử trong nhiều kiếp, là điên đảo. Miệng gặp nhiều mùi vị thô xấu, lời nói hung dữ, là lỗi lầm nơi sinh tử, trong đó có năm ấm, có tập nhân mà tự nói ta không có tội, như vậy là còn sinh tử trong nhiều kiếp, là điên đảo. Nếu chuyển vào thân, thân tiếp xúc với đồ dùng tốt đẹp, rất hợp, là lỗi lầm nơi sinh tử, nơi đó có năm ấm, có tập nhân mà tự nói ta không có tội, như vậy là còn sinh tử trong nhiều kiếp, là điên đảo. Thân tiếp xúc với các vật dụng loại trung bình, là lỗi lầm nơi sinh tử, trong đó có năm ấm, có tập nhân mà tự nói ta không có tội, như vậy là còn sinh tử trong nhiều kiếp, là điên đảo. Thân tiếp xúc với vật thô, cứng, khổ, không vừa ý, là lỗi lầm nơi sinh tử, trong đó có năm ấm, có tập nhân mà tự nói ta không có tội, như vậy là còn sinh tử trong nhiều kiếp, là điên đảo. Đức Phật nói: –Đây là một trăm lẻ tám thứ điên đảo mà các Bồ-tát không hiểu rõ. Các vị Bồ-tát thưa với Đức Phật: –Chúng con tuy còn sinh tử, điên đảo, nhưng muốn nương vào kinh pháp để độ người. Đức Phật hỏi: –Các vị độ người sẽ mong muốn cho họ vào con đường nào? Các Bồ-tát thưa: –Con muốn mọi người được vào Phật đạo. Đức Phật nói: –Nếu họ rất đông đảo, vì sao không tự mình nắm lấy quả vị Phật mà chỉ thuận theo số đông? Các Bồ-tát thưa: –Chúng con tuy thuận theo chúng sinh, nhưng không lìa kinh pháp tu hành. Đức Phật hỏi các Bồ-tát: –Chúng sinh đông đảo ấy đâu có thể trong một ngày đều được thành Phật? Các Bồ-tát thưa với Đức Phật: –Chúng con không thể đều được thành Phật. Đức Phật hỏi các vị Bồ-tát: –Vì sao vậy? Các Bồ-tát thưa: –Trong chúng con có người tướng hảo chưa được đầy đủ. Trong chúng con có người công đức chưa được đầy đủ. Trong chúng con có người lỗi lầm về sinh tử chưa hết. Đức Phật bảo các Bồ-tát: –Nếu các vị có người tướng hảo chưa được đầy đủ, có người công đức chưa đầy đủ, có người lỗi lầm chưa hết, vậy thì phải nói với họ: Người tướng hảo chưa đủ, tự mình chưa được thành Phật, làm sao khiến người khác thành Phật? Nếu người công đức chưa đầy đủ thì tự mình không thể thành Phật, làm sao khiến người khác thành Phật được? Phật bảo: –Nếu người trong tâm ý, các lỗi lầm về sinh tử chưa hết, không thể thành Phật, làm sao khiến người khác được thành Phật? Các vị Bồ-tát đều cúi đầu hổ thẹn. Các vị Bồ-tát lại hỏi Đức Phật: –Thưa, như vậy chúng con do nhân duyên gì mà không được thành Phật? Đức Phật bảo: –Nếu chúng ta chỉ ngồi mà không biết thực hành pháp An ban thủ ý, chỉ suy tính về một trăm lẻ tám điều mong cầu, tham muốn không bỏ. Các vị Bồ-tát thưa: –Tu hành pháp An ban thủ ý, suy tính bỏ một trăm lẻ tám điều tham muốn, thì mong muốn ấy như thế nào? Đức Phật bảo các Bồ-tát: –Nếu chúng ta tâm bị vọng niệm là niệm niệm liên tục, ý niệm có từ nơi tham muốn, đã tham muốn là trong đó có năm ấm, có tập nhân, là tham muốn thêm tham muốn. Nếu chuyển vào ý, ý lại niệm tưởng làm nên tham muốn, đã tham muốn trong đó có năm ấm, có tập nhân, là tham muốn thêm tham muốn. Nếu chuyển vào thức, nhận thức cũng là tham muốn, đã tham muốn trong đó có năm ấm, có tập nhân, là tham muốn thêm tham muốn. Nếu chuyển vào mắt, mắt thấy sắc đẹp là tham muốn, đã tham muốn trong đó có năm ấm, có tập nhân, là tham muốn thêm tham muốn. Mắt thấy sắc trung bình là tham muốn, đã tham muốn trong đó có năm ấm, có tập nhân, là tham muốn thêm tham muốn. Mắt thấy sắc xấu là tham muốn, đã tham muốn trong đó có năm ấm, có tập nhân, là tham muốn thêm tham muốn. Nếu chuyển vào tai, tai nghe tiếng hay, là sinh tham muốn, trong tham muốn ấy có năm ấm, có tập nhân, là tham muốn thêm tham muốn. Tai nghe tiếng trung bình, không hay dở là tham muốn, trong tham muốn có năm ấm, có tập nhân, là tham muốn thêm tham muốn. Tai nghe tiếng dở cũng là tham muốn, trong tham muốn có năm ấm, có tập nhân, là tham muốn thêm tham muốn. Nếu chuyển vào mũi, mũi ngửi mùi thơm là tham muốn, trong tham muốn có năm ấm, có tập nhân, là tham muốn thêm tham muốn. Mũi ngửi mùi thơm thường là tham muốn, trong tham muốn có năm ấm, có tập nhân, là tham muốn thêm tham muốn. Mũi ngửi mùi hôi là tham muốn, trong tham muốn có năm ấm, có tập nhân, là tham muốn thêm tham muốn. Nếâu chuyển vào miệng, miệng ưa ăn món ngon hay nói năng đều là tham muốn, trong tham muốn có năm ấm, có tập nhân, là tham muốn thêm tham muốn. Miệng gặp món ăn trung bình, hay khi nói năng gì, đều là tham muốn, trong tham muốn có năm ấm, có tập nhân, là tham muốn thêm tham muốn. Miệng gặp món ăn dở, lời nói dở là tham muốn, trong tham muốn có năm ấm, có tập nhân, là tham muốn thêm tham muốn. Nếu chuyển vào thân, thân tiếp xúc với vật tốt đẹp, mịn màng là tham muốn, trong tham muốn có năm ấm, có tập nhân, là tham muốn thêm tham muốn. Thân tiếp xúc với vật mịn màng trung bình, vừa ý là tham muốn, trong tham muốn có năm ấm, có tập nhân, là tham muốn thêm tham muốn. Thân gặïp vật thô xấu, cứng, đau, không hợp cho thân, là tham muốn, trong tham muốn có năm ấm, có tập nhân, là tham muốn thêm tham muốn. Đức Phật nói: –Này các Bồ-tát! Nếu các vị chỉ biết ngồi đó thì không làm sao hiểu rõ được sự tham muốn thêm tham muốn. Các Bồ-tát thưa: –Chúng con không có tham muốn thêm tham muốn. Đức Phật hỏi các Bồ-tát: –Các vị có muốn mong cầu Đức Phật độ thoát mọi người trong khắp mười phương không? Các Bồ-tát thưa: –Đúng như vậy. Chúng con mong cầu Đức Phật hóa độ cho mọi người. Đức Phật bảo các Bồ-tát: –Như vậy là tham muốn thêm tham muốn. Vì sao các vị nói là không tham muốn? Đức Phật hỏi các Bồ-tát: –Trong ý niệm của chúng ta đâu không nghó đến chúng sinh khổ đau trong mười phương? Các Bồ-tát thưa: –Đúng như vậy. Chúng con luôn nghó đến những người đau khổ. Đức Phật nói: –Nên nghó đến người đau khổ là tham muốn, vì sao các vị nói là không tham muốn? Đức Phật hỏi các Bồ-tát: –Các vị đến khắp mười phương chư Phật, thưa hỏi về kinh điển, đến nay có quên không? Các Bồ-tát thưa: –Chúng con thưa hỏi về kinh giáo, chúng con đều nhớ, không quên. Đức Phật hỏi các Bồ-tát: –Các vị biết kinh giáo của mười phương chư Phật đã nói, đâu không thể vì người khác mà giảng nói? Các Bồ-tát thưa: –Đúng như vậy. Chúng con hằng ngày đều vì người khác mà giảng nói kinh pháp. Đức Phật nói: –Nếu vì người khác giảng nói kinh, đâu không muốn cho người hiểu rõ? Các Bồ-tát thưa: –Đúng như vậy. Chúng con luôn muốn cho người nghe hiểu rõ. Đức Phật nói: –Như các vị đã vì người khác giảng nói kinh, muốn cho họ hiểu rõ, như vậy là tham muốn thêm tham muốn, vì sao các vị nói: chúng con không tham muốn? Đức Phật lại hỏi: –Nếu đã vì người khác giảng nói kinh, đâu không dạy cho họ bố thí? Các Bồ-tát thưa: –Đúng như vậy. Chúng con luôn dạy về bố thí. Đức Phật hỏi các Bồ-tát: –Nếu các vị dạy người bố thí thì nên đem những gì để cúng Phật? Các Bồ-tát thưa: –Thứ nhất là chúng con muốn mọi người đem hoa tươi đẹp để dâng cúng. Đức Phật nói: –Các vị không ham muốn về màu sắc, vì sao lại muốn mọi người đem hoa đẹp năm sắc vừa mắt dâng cúng lên Phật? Như vậy các vị còn vì màu sắc, sao lại nói chúng con không muốn màu sắc? Đức Phật lại hỏi các Bồ-tát: –Nếu được nghe mười phương chư Phật giảng nói kinh, có thích không? Các Bồ-tát thưa: –Mười phương chư Phật vì chúng con giảng nói kinh, chúng con rất thích nghe, chúng con đều hoan hỷ. Đức Phật nói: –Như các vị nghe giảng nói kinh mà hoan hỷ là còn tham muốn, vì sao nói là không tham muốn? Đức Phật lại hỏi các Bồ-tát: –Các vị muốn dạy người vì cúng dường Phật mà đốt hương không? Các Bồ-tát thưa: –Chúng con hằng ngày tự đi hái hoa, dùng các danh hương dâng lên cúng Phật. Đức Phật nói: –Như các vị đi hái những loại hoa thơm, muốn đem các hoa thơm ấy dâng lên cúng dường Phật. Phật nói: –Như muốn được hương hoa thơm vừa ý, vậy là tham muốn, vì sao lại nói là không tham muốn? Đức Phật lại hỏi các vị Bồ-tát: –Nếu các vị vì người mà giảng nói kinh, có muốn giảng nói trôi chảy không? Các Bồ-tát thưa: –Chúng con vì người giảng nói kinh, đều muốn nói năng phân biệt, lưu loát, muốn cho mọi người tâm ý được hiểu rõ. Đức Phật nói: –Như các vị muốn nói năng được trôi chảy là tham muốn, vì sao nói là không tham muốn? Đức Phật lại hỏi các Bồ-tát: –Các vị đâu không muốn thân có đủ ba mươi hai tướng tốt? Các Bồ-tát thưa: –Chúng con siêng năng khổ nhọc tu hành chính là muốn thân tướng được đầy đủ tướng hảo. Đức Phật nói: –Như nếu thành tựu đầy đủ nơi thân là tham muốn, vì sao nói là không tham muốn? Các Bồ-tát đều cúi đầu hổ thẹn. Đức Phật nói: –Như vậy các Bồ-tát còn chưa có chỗ để trông cậy. Các Bồ-tát cúi đầu thưa: –Nguyện Đức Phật thương xót chúng con mà giảng nói. Đức Phật nhân đấy mà giảng dạy: –Con đường tu tập của Bồ-tát, như hành thiền theo pháp Sổ tức, nếu mình nương vào đó mà ý được định, nên suy tính về một trăm lẻ tám thứ sa đọa, nếu người diệt được thì nên hành thiền, không diệt được thì không nên hành thiền. Các Bồ-tát lại hỏi Đức Phật: –Thưa, tu thiền là bỏ ác, một trăm lẻ tám thứ sa đọa, người diệt được là bỏ ác, người không diệt là không bỏ ác. Nếu từ nơi thiền giác ngộ được sinh khởi, như khi đi, ngồi, đứng, gặp nhân duyên thuận hợp vì người giảng nói kinh pháp, chỗ nhận thức là muôn vật, có thể tự mình suy tính về một trăm lẻ tám thứ sa đọa, có thể làm cho họ không chấp trước, hay khiến không rơi vào lỗi lầm, ấy là Bồ-tát suy tính tu hành. Các Bồ-tát thưa: –Suy tính về một trăm lẻ tám việc sa đọa, từ đâu mà sinh khởi? Đức Phật bảo các vị Bồ-tát: –Suy tính về một trăm lẻ tám sự sa đọa, nếu tâm Bồ-tát còn suy nghó trong đó có năm ấm, có tập nhân, ấy gọi là sa đọa. Khi tâm chuyển nơi ý, trong đó có năm ấm, có tập nhân, ấy gọi là sa đọa. Nếu ý chuyển tác dụng vào thức, trong đó có năm ấm, có tập nhân, như vậy gọi là sa đọa. Nếu ý chuyển vào mắt, mắt thấy sắc đẹp, trong đó có năm ấm, có tập nhân, ấy gọi là sa đọa. Mắt thấy sắc đẹp trung bình, trong đó có năm ấm, có tập nhân, như vậy là sa đọa. Mắt thấy sắc thô xấu, trong đó có năm ấm, có tập nhân, như vậy là sa đọa. Nếu ý chuyển vào tai, khi tai nghe tiếng hay, trong đó có năm ấm, có tập nhân, như vậy là sa đọa. Tai khi nghe âm thanh trung bình, trong đó có năm ấm, có tập nhân, như vậy là sa đọa. Tai khi nghe tiếng thô xấu, trong đó có năm ấm, có tập nhân, như vậy là sa đọa. Nếu chuyển vào mũi, mũi ngửi mùi thơm, trong đó có năm ấm, có tập nhân, như vậy là sa đọa. Mũi ngửi mùi thơm trung bình, trong đó có năm ấm, có tập nhân, như vậy là sa đọa. Mũi ngửi mùi hôi, trong đó có năm ấm, có tập nhân, như vậy là sa đọa. Nếu ý chuyển vào miệng, miệng gặp món ăn ngon, lời nói hay đẹp, trong đó có năm ấm, có tập nhân, như vậy là sa đọa. Miệng gặp món ăn trung bình, lời nói bình thường, trong đó có năm ấm, có tập nhân, như vậy là sa đọa. Miệng gặp món ăn hương vị dở, lời nói thô ác, trong đó có năm ấm, có tập nhân, như vậy là sa đọa. Nếu ý chuyển vào thân, thân tiếp xúc vật mềm mại, tốt đẹp, êm ái, trong đó có năm ấm, có tập nhân, như vậy là sa đọa. Thân tiếp xúc vật tốt đẹp, êm ái trung bình, trong đó có năm ấm, có tập nhân, như vậy là sa đọa. Thân tiếp xúc vật thô, cứng, làm đau đớn thân xác, trong đó có năm ấm, có tập nhân, như vậy là sa đọa. Như thế là một trăm lẻ tám việc làm còn bị sa đọa. Đức Phật bảo các vị Bồ-tát: –Suy tính về một trăm lẻ tám việc sa đọa ấy, nếu không tự biết rõ lỗi lầm của sa đọa, khổ đau sẽ có măt sau đó, không biết hổ thẹn mà tự nói ta có thể tu hành, đã đoạn trừ một trăm lẻ tám việc sa đọa. Đức Phật nói: –Người này cũng ví như người nữ ưa dâm dật, ban đầu dâm dật chỉ để tự thỏa thích, nhưng đã có thai mà không biết thai nhi trong bụng ngày càng lớn lên. Người dâm nữ này lại tiếp tục dâm dật để tự thỏa thích, đến khi thai nhi đã lớn, đủ mười tháng sắp sinh, đứa bé đang chuyển mình mà chưa chuyển được, đang cầu sinh mà chưa sinh, người mẹ kia đau bụng, tự thẹn, tự hối. Khi lâm vào cảnh đau đớn, người dâm nữ buông tiếng rên khóc như vang tới cõi trời thứ bảy. Khi đứa bé được sinh ra, người mẹ mới bớt đau, liền sau đó lại nghó đến chuyện dâm dật, không nghó tới sự hổ thẹn, không nghó tới sự đau đớn, nên cũng trở lại dâm dật như cũ. Như vậy, khổ đau tiếp tục không thể nói. Người nữ này cũng không thể tự biết rõ về nỗi khổ phải thọ nhận. Đức Phật nói: –Bồ-tát hành đạo không suy tính về một trăm lẻ tám việc sa đọa, cũng ví như người nữ dâm dật này, không thể tự biết về lỗi lầm nhiều ít của mình, cũng không chán ngán về nỗi khổ đã thọ nhận, cũng không biết tự mình suy tính về chỗ hổ thẹn và lỗi lầm, không biết bị sinh tử trong năm đường là đau khổ, cũng không tự biết sẽ rơi vào ba nẻo ác, không tự hổ thẹn để tu hành, lại cho là ta sẽ rơi vào đường ác. Như vậy đời đời tự chịu tai ương, sau đó tự hổ thẹn cũng không có lợi gì. Người đệ tử học đạo phải xét kỹ về điều này. Các Bồ-tát đều hoan hỷ thọ nhận lời chỉ dạy để tu hành. Đức Phật nói: –Các Bồ-tát nếu được như vậy cũng còn chưa hiểu rõ hết. Các Bồ-tát hỏi Đức Phật: –Thưa, thế nào gọi là chúng con chưa hiểu rõ? Đức Phật nói: –Là Bồ-tát thì không thể không suy tính về một trăm lẻ tám tham ái. Các vị Bồ-tát hỏi Đức Phật: –Thưa, suy tính về một trăm lẻ tám tham ái ấy là thế nào? Đức Phật nói: –Bồ-tát hành thiền, không thể nhất tâm, nhất ý để ái được dẹp bỏ, chỉ biết ngồi để phải vướng mắc vào một trăm lẻ tám điều: trước tiên là các Bồ-tát trong tâm còn có những ý niệm không thể dẹp bỏ, là còn tham ái, trong đó có năm ấm, có tập nhân, vậy là còn ái. Tâm chuyển thành tác ý, không thể dẹp bỏ là còn tham ái, trong đó có năm ấm, có tập nhân, vậy là còn ái. Ý chuyển thành nhận thức, không thể dẹp bỏ là còn tham ái, trong đó có năm ấm, có tập nhân, vậy là còn ái. Nếu chuyển vào mắt, mắt thấy sắc đẹp, không thể dẹp bỏ là còn tham ái, trong đó có năm ấm, có tập nhân, vậy là còn ái. Mắt thấy cảnh sắc trung bình, không thể dẹp trừ là còn tham ái, trong đó có năm ấm, có tập nhân, vậy là còn ái. Mắt thấy cảnh sắc xấu, không thể dẹp trừ là còn tham ái, trong đó có năm ấm, có tập nhân, vậy là còn ái. Nếu chuyển vào tai, tai nghe tiếng hay, không thể dẹp bỏ được là còn tham ái, trong đó có năm ấm, có tập nhân, vậy là còn ái. Tai nghe tiếng trung bình mà không dẹp bỏ được là còn tham ái, trong đó có năm ấm, có tập nhân, vậy là còn ái. Tai nghe tiếng thô ác, không dẹp bỏ được là còn tham ái, trong đó có năm ấm, có tập nhân, vậy là còn ái. Nếu chuyển vào mũi, mũi ngửi mùi thơm, không dẹp bỏ được là còn tham ái, trong đó có năm ấm, có tập nhân, vậy là còn ái. Mũi ngửi mùi thơm trung bình, không dẹp bỏ được là còn tham ái, trong đó có năm ấm, có tập nhân, vậy là còn ái. Mũi ngửi mùi hôi thối, không dẹp bỏ được là còn tham ái, trong đó có năm ấm, có tập nhân, vậy là còn ái. Nếu chuyển vào miệng, miệng tiếp xúc với vị ngon, lời nói hay, không dẹp bỏ được là còn tham ái, trong đó có năm ấm, có tập nhân, vậy là còn ái. Miệng gặp món ăn trung bình, lời nói bình thường, không dẹp bỏ được là còn tham ái, trong đó có năm ấm, có tập nhân, vậy là còn ái. Miệng gặp mùi vị thô dở, lời nói hung ác, không dẹp bỏ được là còn tham ái, trong đó có năm ấm, có tập nhân, vậy là còn ái. Nếu chuyển vào thân, thân tiếp xúc với các thứ mềm mại, tốt đẹp, không dẹp bỏ được là còn tham ái, trong đó có năm ấm, có tập nhân, vậy là còn ái. Thân tiếp xúc với vật mềm mại bình thường, không dẹp bỏ được là còn tham ái, trong đó có năm ấm, có tập nhân, vậy là còn ái. Thân tiếp xúc với vật thô xấu, cứng, làm thân đau, không dẹp bỏ được là còn tham ái, trong đó có năm ấm, có tập nhân, vậy là còn ái. Đức Phật nói: –Các vị Bồ-tát hành đạo, không suy tính trừ bỏ một trăm lẻ tám điều tham ái, không tự biết về một trăm lẻ tám điều tham ái ấy là lỗi lầm, đọa lạc, ví như đứa bé mới sinh, từ nhỏ đến lớn không thể tự biết trong thân hằng ngày cơ thể luôn tăng trưởng, lớn mạnh. Bồ-tát hành đạo, không biết tội lỗi của mình nhiều hay ít, cũng như ví dụ trên. Nếu Bồ-tát hành đạo biết rõ về một trăm lẻ tám điều tham ái là lỗi lầm, đọa lạc, liền tự mình biết hổ thẹn, nên tự đoạn trừ, nên tự xa lìa, nên tự diệt. Như vậy, tham ái được đoạn trừ, mới xứng đáng là Bồ-tát. Đức Phật giảng nói như vậy, các Bồ-tát đều cung kính tiếp nhận lời dạy mà tu tập. Đức Phật nói: –Bồ-tát hành đạo nên suy tính về một trăm lẻ tám cách có thể tạo nghiệp khi hành đạo. Nếu không suy tính về một trăm lẻ tám cách tạo nghiệp là không xứng người tu hạnh Bồ-tát. Người biết dứt bỏ, không tạo nghiệp mới xứng đáng là tu hạnh Bồ-tát. Các Bồ-tát thưa: –Người nên từ bỏ về sự tạo nghiệp như thế nào? Đức Phật nói: –Bồ-tát ở riêng một chỗ nên thường ngồi thiền, dùng pháp Sổ tức và Tùy tức, pháp: Chỉ, quán, hoàn, tịnh. Nếu người tu được thanh tịnh là từ bỏ việc tạo nghiệp. Người tu không được thanh tịnh là không từ bỏ được sự tạo nghiệp. Như vậy đều từ thiền định sinh khởi. Nếu ở trong cõi người tu hành nên suy tính quán chiếu, để đoạn trừ chỗ tạo nghiệp. Các Bồ-tát thưa: –Người nên suy tính để từ bỏ chỗ tạo nghiệp là thế nào? Đức Phật nói: –Bồ-tát hành đạo không được nhất tâm định ý, là không dừng tạo nghiệp. Đức Phật nói: –Người không được nhất tâm định ý là tâm có suy nghó, nên trong đó còn có năm ấm, có tập nhân, liền sinh trưởng việc tạo nghiệp. Nếu nghiệp chuyển vào ý, trong ý có năm ấm, có tập nhân, liền sinh trưởng nghiệp. Nếu chuyển vào thức, trong thức có năm ấm, có tập nhân, liền sinh trưởng nghiệp. Nếu chuyển vào mắt, mắt khi thấy sắc đẹp, trong đó có năm ấm, có tập nhân, liền sinh trưởng nghiệp. Mắt thấy cảnh sắc trung bình, trong đó có năm ấm, có tập nhân, liền sinh trưởng nghiệp. Mắt thấy cảnh sắc xấu, trong đó có năm ấm, có tập nhân, liền sinh trưởng nghiệp. Nếu chuyển vào tai, tai nghe âm thanh hay, trong đó có năm ấm, có tập nhân, liền sinh trưởng nghiệp. Tai nghe âm thanh trung bình, trong đó có năm ấm, có tập nhân, liền sinh trưởng nghiệp. Tai nghe tiếng thô ác, trong đó có năm ấm, có tập nhân, liền sinh trưởng nghiệp. Nếu chuyển vào mũi, mũi ngửi mùi thơm, trong đó có năm ấm, có tập nhân, liền sinh trưởng nghiệp. Mũi ngửi mùi thơm trung bình, trong đó có năm ấm, có tập nhân, liền sinh trưởng nghiệp. Mũi ngửi mùi hôi, trong đó có năm ấm, có tập nhân, liền sinh trưởng nghiệp. Nếu chuyển vào miệng, miệng gặp món ăn ngon, lời hay, trong đó có năm ấm, có tập nhân, liền sinh trưởng nghiệp. Miệng gặp món ăn trung bình, lời nói tầm thường, trong đó có năm ấm, có tập nhân, liền sinh trưởng nghiệp. Miệng gặp món ăn dở, lời nói thô ác, trong đó có năm ấm, có tập nhân, liền sinh trưởng nghiệp. Nếu chuyển vào thân, thân tiếp xúc với vật mềm mại, êm ái, trong đó có năm ấm, có tập nhân, liền sinh trưởng nghiệp. Thân gặp vật mềm mại, êm ái bậc trung, trong đó có năm ấm, có tập nhân, liền sinh trưởng nghiệp. Thân gặp đồ vật thô xấu, cứng thô, làm thân đau khổ, trong đó có năm ấm, có tập nhân, liền sinh trưởng nghiệp. Như vậy là còn tạo nghiệp chưa hết. Đức Phật nói: –Nếu Bồ-tát hành đạo, nói ta không còn tạo nghiệp, như vậy là cao ngạo, là tự tạo thêm nghiệp. Người ấy còn không thể tự độ thoát, cũng không có được tâm ý sáng suốt, không thể biết rõ về lỗi lầm của chỗ tạo nghiệp nhiều hay ít. Ví như thân người mọc ra lông, người kia không thể suy đoán về số lượng, cũng không thể tự biết số lông nhiều ít. Các Bồ-tát hành đạo không thể tự biết cần dứt bỏ các lỗi lầm, lại nói: Ta mong cầu Phật đạo, độ thoát mười phương chúng sinh. Người như vậy còn không thể tự độ, làm sao độ thoát được muôn loài nơi mười phương? Bồ-tát hành đạo không còn tạo nghiệp thì có thể hóa độ muôn loài khắp chốn, không bỏ được việc tạo nghiệp thì không thể hành hóa được điều ấy. Đức Phật giảng nói như vậy, các Bồ-tát đều vui mừng tiếp nhận lời dạy để tu tập. Đức Phật lại nói: –Như vậy, các Bồ-tát vẫn còn chưa tùy hoàn cảnh để hiểu rõ. Các Bồ-tát lại cúi đầu thưa: –Đúng như vậy, có chỗ chúng con chưa hiểu, nguyện xin Đức Phật vì chúng con mà giảng giải. Đức Phật nói: –Bồ-tát còn có một trăm lẻ tám lỗi lầm về nhận thức, nếu không diệt trừ thì không xứng đáng là Bồ-tát. Các Bồ-tát hỏi Phật: –Một trăm lẻ tám lỗi lầm về nhận thức là những gì? Đức Phật nói: –Là Bồ-tát tâm còn dấy khởi niệm là lỗi lầm, vì trong đó có năm ấm, có tập nhân là còn nhận thức, vậy là lỗi lầm của thức. Nếu chuyển vào ý, ý lại khởi ý niệm là lỗi lầm, vì trong đó có năm ấm, có tập nhân là còn nhận thức, vậy là lỗi lầm của thức. Nếu chuyển vào thức, nhận thức có những ý niệm không quên là lỗi lầm, vì trong đó có năm ấm, có tập nhân là còn nhận thức, như vậy là lỗi lầm của thức. Nếu chuyển vào mắt, mắt khi thấy sắc đẹp là lỗi lầm, vì trong đó có năm ấm, có tập nhân là còn nhận thức, như vậy là lỗi lầm của thức. Mắt thấy cảnh sắc trung bình là có lỗi lầm, vì trong đó có năm ấm, có tập nhân là còn nhận thức, như vậy là lỗi lầm của thức. Mắt thấy cảnh sắc xấu là lỗi lầm, vì trong đó có năm ấm, có tập nhân là còn nhận thức, như vậy là lỗi lầm của thức. Nếu chuyển vào tai, tai nghe tiếng hay là lỗi lầm, vì trong đó có năm ấm, có tập nhân là còn nhận thức, như vậy là lỗi lầm của thức. Tai nghe âm thanh trung bình là lỗi lầm, vì trong đó có năm ấm, có tập nhân là còn nhận thức, như vậy là lỗi lầm của thức. Tai nghe tiếng dở là lỗi lầm, vì trong đó có năm ấm, có tập nhân là còn nhận thức, như vậy là lỗi lầm của thức. Nếu chuyển vào mũi, mũi ngửi mùi thơm là lỗi lầm, vì trong đó có năm ấm, có tập nhân là còn nhận thức, như vậy là lỗi lầm của thức. Mũi ngửi mùi thơm trung bình là lỗi lầm, vì trong đó có năm ấm, có tập nhân là còn nhận thức, như vậy là lỗi lầm của thức. Mũi ngửi mùi hôi thối là lỗi lầm, vì trong đó có năm ấm, có tập nhân là còn nhận thức, như vậy là lỗi lầm của thức. Nếu chuyển vào miệng, miệng gặp món ăn ngon, lời nói hay đẹp là lỗi lầm, vì trong đó có năm ấm, có tập nhân là còn nhận thức, như vậy là lỗi lầm của thức. Miệng gặp món ăn hương vị trung bình, lời nói bình thường là lỗi lầm, vì trong đó có năm ấm, có tập nhân là còn nhận thức, như vậy là lỗi lầm của thức. Miệng gặp món ăn mùi vị dở, lời nói thô ác là lỗi lầm, vì trong đó có năm ấm, có tập nhân là còn nhận thức, như vậy là lỗi lầm của thức. Nếu chuyển vào thân, thân tiếp xúc với vật mềm mại, êm ái là lỗi lầm, vì trong đó có năm ấm, có tập nhân là còn nhận thức, như vậy là lỗi lầm của thức. Thân tiếp xúc với vật mềm mại trung bình là lỗi lầm, vì trong đó có năm ấm, có tập nhân là còn nhận thức, như vậy là lỗi lầm của thức. Thân tiếp xúc với vật xấu, thô cứng làm khổ thân là lỗi lầm, vì trong đó có năm ấm, có tập nhân là còn nhận thức, như vậy là lỗi lầm của thức. Đức Phật hỏi các Bồ-tát: –Nếu chư vị đều có những vướng mắc như vậy thì có lỗi lầm không? Các Bồ-tát thưa: –Chúng con chỉ có năm ấm, không có lỗi lầm. Đức Phật lại hỏi các Bồ-tát: –Vì những việc gì khiến cho mọi người trong thiên hạ vướng phải lỗi lầm, không thể đạt được đạo? Các Bồ-tát thưa: –Người trong thiện hạ đều do lòng tham mà không đạt được đạo. Đức Phật nói: –Mọi người trong thiên hạ vì tham mà phải sinh tử, họ còn có năm ấm và tập nhân không? Các Bồ-tát thưa: –Họ có lỗi ấy. Đức Phật hỏi các Bồ-tát: –Nếu các vị còn thân kiến, còn chấp thủ vào Đức Phật, sẽ còn sinh tử? Các Bồ-tát thưa: –Chúng con sẽ còn trở lại nơi sinh tử, không từ nơi thân hiện tại mà được thành Phật. Đức Phật hỏi các Bồ-tát: –Các vị ở trong sinh tử bao lâu nữa mới được thành Phật? Các Bồ-tát thưa: –Chúng con ở trong sinh tử mà chưa nắm được chỗ chủ yếu của sinh tử. Đức Phật lại hỏi: –Vì sao các vị chưa nắm được chỗ chủ yếu? Các Bồ-tát thưa: –Chúng con chưa nắm biết được tội phước của mình nhiều hay ít, do vậy mà chúng con không nắm biết được chỗ chủ yếu của sinh tử. Đức Phật bảo các vị Bồ-tát: –Như vậy, các vị so với mọi người trong thiên hạ có khác nhau gì đâu? Các Bồ-tát thưa: –Chúng con có thể bay đến viếng thăm các cõi nước của mười phương chư Phật, chúng con nghe pháp, hiểu được lời giảng dạy của chư Phật. Đức Phật nói: –Nếu các vị có thể bay đến cõi nước của mười phương chư Phật, có thể hiểu được lời dạy của chư Phật, thế chư vị khi ấy sao không nắm lấy cơ hội để tu hành thành Phật mà còn ở trong sinh tử? Các Bồ-tát thưa: –Chúng con chưa dứt trừ hết những lỗi lầm căn bản, lại cũng vì những công đức của bản nguyện chưa đủ, nên chúng con chưa đến lúc để được thành Phật. Đức Phật nói: –Nếu chư vị nói: Người trong thiên hạ có năm ấm nên còn sinh tử, có tập nhân nên còn lỗi lầm. Nay các vị cũng vẫn còn có sinh tử, tập nhân, có lỗi lầm, sao lại nói chúng con không có lỗi lầm? Các vị Bồ-tát đều hổ thẹn, cung kính nhận lời chỉ dạy tu hành. Đức Phật nói: –Ta tuy nói như vậy nhưng các Bồ-tát cũng còn chưa hiểu rõ. Các Bồ-tát cung kính thưa: –Kính xin Đức Phật lại vì chúng con mà giảng giải. Đức Phật nói: –Bồ-tát cũng còn có một trăm lẻ tám nhân duyên vướng mắc nơi thọ. Các Bồ-tát lại hỏi Đức Phật: –Những gì là một trăm lẻ tám nhân duyên vướng mắc nơi thọ? Đức Phật nói: –Bồ-tát tâm còn chỗ nghó nhớ là nhân duyên vướng mắc nơi thọ, vì trong đó có năm ấm, có tập nhân, sẽ là nhân duyên vướng mắc nơi thọ của sinh tử. Nếu chuyển vào ý, ý có nghó nhớ là nhân duyên vướng mắc nơi thọ, vì trong đó có năm ấm, có tập nhân, sẽ là nhân duyên vướng mắc nơi thọ của sinh tử. Nếu chuyển vào thức, nhận thức còn có đối tượng được nhận biết làm nhân duyên vướng mắc nơi thọ, trong đó có năm ấm, có tập nhân, sẽ là nhân duyên vướng mắc nơi thọ của sinh tử. Nếu chuyển vào mắt, mắt khi thấy sắc đẹp là nhân duyên vướng mắc nơi thọ, vì trong đó có năm ấm, có tập nhân, sẽ là nhân duyên cho sự lãnh thọ sinh tử. Mắt khi thấy cảnh sắc trung bình là nhân duyên vướng mắc nơi thọ, vì trong đó có năm ấm, có tập nhân, sẽ là nhân duyên cho sự lãnh thọ sinh tử. Mắt khi thấy cảnh sắc xấu là nhân duyên cho sự lãnh thọ, vì trong đó có năm ấm, có tập nhân, sẽ là nhân duyên cho sự lãnh thọ sinh tử. Nếu chuyển vào tai, khi tai nghe tiếng hay là nhân duyên vướng vào sự lãnh thọ, vì trong đó có năm ấm, có tập nhân, sẽ là nhân duyên cho sự lãnh thọ sinh tử. Tai nghe tiếng không hay, không dở là nhân duyên vướng vào sự lãnh thọ, vì trong đó có năm ấm, có tập nhân, sẽ là nhân duyên cho sự lãnh thọ sinh tử. Tai nghe tiếng dở là nhân duyên vướng mắc nơi thọ, vì trong đó có năm ấm, có tập nhân, sẽ là nhân duyên cho sự lãnh thọ sinh tử. Nếu chuyển vào mũi, mũi khi ngửi mùi thơm là nhân duyên vướng mắc nơi thọ, vì trong đó có năm ấm, có tập nhân, sẽ là nhân duyên cho sự thọ nhận sinh tử. Mũi ngửi mùi thơm trung bình cũng làm nhân duyên vướng mắc nơi thọ, vì trong đó có năm ấm, có tập nhân, sẽ là nhân duyên cho sự lãnh thọ sinh tử. Mũi ngửi mùi hôi thối cũng là nhân duyên vướng mắc nơi thọ, vì trong đó có năm ấm, có tập nhân, sẽ là nhân duyên cho sự lãnh thọ sinh tử. Nếu chuyển vào miệng, miệng ăn món ngon, nói lời hay đẹp là nhân duyên vướng mắc nơi thọ, vì trong đó có năm ấm, có tập nhân, sẽ là nhân duyên cho sự lãnh thọ sinh tử. Miệng được nếm hương vị trung bình, ngôn ngữ bình thường là nhân duyên vướng mắc nơi thọ, vì trong đó có năm ấm, có tập nhân, sẽ là nhân duyên cho sự lãnh thọ sinh tử. Miệng nếm vị dở, lời nói thô ác là nhân duyên cho sự lãnh thọ, vì trong đó có năm ấm, có tập nhân, sẽ là nhân duyên cho sự lãnh thọ sinh tử. Nếu chuyển vào thân, thân tiếp xúc đồ dùng mềm mại, tốt đẹp là nhân duyên vướng mắc nơi thọ, vì trong đó có năm ấm, có tập nhân, sẽ là nhân duyên cho sự lãnh thọ sinh tử. Thân tiếp xúc dùng mềm mại trung bình là nhân duyên vướng mắc nơi thọ, vì trong đó có năm ấm, có tập nhân, sẽ là nhân duyên cho sự lãnh thọ sinh tử. Thân tiếp xúc dùng thô xấu, cứng, làm đau đớn, không thích hợp cho thân là nhân duyên vướng mắc nơi thọ, vì trong đó có năm ấm, có tập nhân, sẽ là nhân duyên cho sự lãnh thọ sinh tử. Đức Phật hỏi: –Các vị Bồ-tát sao còn chưa chán tạo nhân duyên lãnh thọ nơi sinh tử? Các Bồ-tát thưa: –Chúng con dùng nhân duyên chán lìa, sự thọ nhận sinh tử nên mới làm Bồ-tát. Đức Phật hỏi: –Các vị chán sự lãnh thọ nơi sinh tử, vì sao không chịu gieo trồng hạt giống đạo? Vì sao các nhân duyên thọ nhận sinh tử là lỗi lầm mà lại còn gieo trồng lỗi lầm ấy? Các Bồ-tát thưa: –Chúng con ngày nay đang gieo trồng hạt giống đạo. Đức Phật nói: –Như nếu các vị gieo trồng hạt giống nơi đạo, vì sao còn có một trăm lẻ tám sự lãnh thọ làm nhân duyên cho sinh tử. Các Bồ-tát đều hổ thẹn cúi đầu, tiếp nhận lời chỉ dạy để tu hành. Các Bồ-tát đều cung kính thưa hỏi Phật: –Đức Phật tuy vì chúng con giảng dạy, nhưng chúng con không hiểu đúng hết được. Đức Phật nói: –Ta thấy các vị còn gieo mầm về một trăm lẻ tám sự lãnh thọ, là ta biết các vị chưa hiểu rõ. Các Bồ-tát lại cung kính thưa: –Kính mong Đức Thế Tôn giải thích cho chúng con. Đức Phật nói: –Bồ-tát trong tâm còn có ý niệm mong muốn mà tâm không được thỏa mãn, khi ấy sẽ vướng mắc nơi thọ, vì trong ý niệm ấy còn có mặt của năm ấm, của tập nhân, đây là mầm mống của sự lãnh thọ. Nếu chuyển vào ý, ý có các ý niệm, sẽ có vừa ý, không vừa ý, đó là hạt giống của sự lãnh thọ, trong đó có năm ấm, có tập nhân, đây là mầm mống của sự lãnh thọ. Nếu chuyển vào thức, thức sẽ có đối tượng được nhận thức, hoặc đúng, hoặc sai, ta do vậy mà lãnh thọ, trong đó có năm ấm, có tập nhân, đây là mầm mống của sự lãnh thọ. Nếu chuyển vào mắt, mắt khi thấy hình sắc tốt đẹp là lãnh thọ, trong đó có năm ấm, có tập nhân, đây là mầm mống của sự lãnh thọ. Mắt khi thấy cảnh sắc trung bình là lãnh thọ, vì trong mắt thấy ấy còn có năm ấm, có tập nhân, đây là mầm mống của sự lãnh thọ. Mắt thấy sắc xấu là lãnh thọ, trong đó có năm ấm, có tập nhân, đây là mầm mống của sự lãnh thọ. Nếu chuyển vào tai, tai nghe âm thanh hay là lãnh thọ, trong đó có năm ấm, có tập nhân, đây là mầm mống của sự lãnh thọ. Tai nghe tiếng trung bình là lãnh thọ, trong đó có năm ấm, có tập nhân, đây là mầm mống của sự lãnh thọ. Tai nghe tiếng thô ác là lãnh thọ, trong đó có năm ấm, có tập nhân, đây là mầm mống của sự lãnh thọ. Nếu chuyển vào mũi, mũi ngửi mùi thơm là lãnh thọ, trong đó có năm ấm, có tập nhân, đây là mầm mống của sự lãnh thọ. Mũi ngửi mùi thơm trung bình là lãnh thọ, trong đó có năm ấm, có tập nhân, đây là mầm mống của sự lãnh thọ. Mũi ngửi mùi hôi thối là lãnh thọ, trong đó có năm ấm, có tập nhân, đây là mầm mống của sự lãnh thọ. Nếu chuyển vào miệng, miệng gặp vị ngon, lời hay khéo là lãnh thọ, trong đó có năm ấm, có tập nhân, đây là mầm mống của sự lãnh thọ. Miệng gặp vị ngon trung bình, nói năng trung bình là lãnh thọ, trong đó có năm ấm, có tập nhân, đây là mầm mống của sự lãnh thọ. Miệng gặp vị thô dở, lời nói xấu ác là lãnh thọ, trong đó có năm ấm, có tập nhân, đây là mầm mống của sự lãnh thọ. Nếu chuyển vào thân, thân tiếp xúc với vật mềm mại, thích hợp với thân là lãnh thọ, trong đó có năm ấm, có tập nhân, đây là mầm mống của sự lãnh thọ. Thân tiếp xúc với vật mềm mại trung bình là lãnh thọ, trong đó có năm ấm, có tập nhân, đây là mầm mống của sự lãnh thọ. Thân tiếp xúc với vật thô cứng, khó chịu, không thích hợp với thân là lãnh thọ, trong đó có năm ấm, có tập nhân, đây là mầm mống của sự lãnh thọ. Đức Phật nói: –Bồ-tát trừ diệt được một trăm lẻ tám sự lãnh thọ ấy mới gọi là tu tập hạnh Bồ-tát. Không diệt trừ được thì không gọi là tu tập hạnh Bồ-tát. Đó là mười điều Bồ-tát cần suy tính. Đức Phật nói: –Các Bồ-tát như vậy vẫn còn chưa thấu rõ, lại phải nên suy tính. Các Bồ-tát hỏi Đức Phật: –Thưa, chúng con lại phải nên suy tính những gì? Đức Phật nói: –Bồ-tát phải suy tính về một trăm lẻ tám nẻo chính nơi sinh tử. Các Bồ-tát thưa hỏi Đức Phật: –Những gì là một trăm lẻ tám nẻo chính nơi sinh tử? Đức Phật nói: –Bồ-tát tâm nếu hiểu suốt được sắc, thống dương (thọ), tư tưởng (tưởng), sinh tử (hành), thức, trong đó có năm ấm, có tập nhân, đấy gọi là hiểu thấu suốt về sinh tử. Đức Phật nói: –Bồ-tát đối với nẻo chính nơi tâm mình khiến không rơi vào sắc, thống dương (thọ), tưởng, sinh tử (hành), thức, liền không có năm ấm, không có tập nhân. Đức Phật nói: –Thấy rõ được nẻo chính nơi năm ấm, tập nhân, khiến tâm không dao động, là người dứt trừ được nẻo lãnh thọ của sinh tử, là hiểu rõ về đất, nước, lửa, gió, không và sắc, thống dương (thọ), tưởng, sinh tử (hành), thức, trong đó có năm ấm, có tập nhân là hiểu thấu suốt về sinh tử. Hiểu rõ nẻo chính nơi ý khiến không động, không lãnh thọ về đất, nước, lửa, gió, không và sắc, thống dương (thọ), tưởng, sinh tử (hành), thức, trong đó có năm ấm, có tập nhân, là hiểu thấu suốt về sinh tử. Hiểu rõ nẻo chính nơi ý khiến không dao động, không lãnh thọ về đất, nước, lửa, gió, hư không và sắc, thống dương (thọ), tưởng, sinh tử (hành), thức, không thọ năm ấm và tập nhân. Người không hiểu rõ nẻo chính nơi ý sẽ rơi vào tội lỗi. Người hiểu rõ nẻo chính nơi tâm ý, không dao động là được vào đạo. Đó là nẻo chính yếu nơi sinh tử. Nếu chuyển vào thức, nhận thức cũng hiểu thấu suốt về đất, nước, lửa, gió, không và sắc, thống dương (thọ), tưởng, sinh tử (hành), thức, trong đó có năm ấm, có tập nhân, liền thấu tỏ về sinh tử. Người không hiểu rõ về nẻo chính nơi tâm ý sẽ rơi vào sự lãnh thọ sinh tử, người tự nhận biết về nẻo chính nơi tâm ý là được vào đạo, không thọ nhận sinh tử. Nếu chuyển vào mắt, mắt thấu tỏ về sắc đẹp bên ngoài, biết trong đó có năm ấm, có tập nhân tức là thông suốt được sinh tử. Nếu người hiểu rõ về nẻo chính yếu nơi tâm, không bị dao động là được vào đạo, người không tự hiểu rõ nẻo chính nơi tâm ý sẽ bị rơi vào lỗi lầm. Mắt thấu suốt cảnh sắc trung bình, trong đó có năm ấm, có tập nhân, đây là người thấu suốt được sinh tử. Người chế ngự tâm ý khiến không dao động là được vào đạo, người không chế ngự được tâm ý sẽ rơi vào tội lỗi. Mắt thấy rõ cảnh xấu ác, trong đó có năm ấm, có tập nhân, là người thấu suốt được sinh tử. Người chế ngự được tâm ý khiến không dao động là được vào đạo, người không chế ngự được tâm ý là rơi vào tội lỗi. Nếu chuyển vào tai, tai thấu suốt tiếng hay, biết trong đó có năm ấm, có tập nhân, đó là người thấu suốt về sinh tử. Nếu người chế ngự được tâm ý khiến không dao động sẽ được vào đạo, không chế ngự được tâm ý sẽ rơi vào tội lỗi. Tai thông tỏ về âm thanh trung bình, trong đó có năm ấm, có tập nhân, đó là người thấu suốt về sinh tử. Người tự chế ngự được tâm ý khiến không dao động là được vào đạo, người không chế ngự được tâm ý sẽ rơi vào lỗi lầm. Tai thông tỏ khi nghe tiếng xấu ác, trong đó có năm ấm, có tập nhân, đây là người thấu suốt về sinh tử. Nếu người chế ngự được tâm ý khiến không dao động sẽ được vào đạo, nếu tâm ý không chế ngự được sẽ rơi vào lỗi lầm. Nếu chuyển vào mũi, mũi thấu suốt hương thơm, trong đó có năm ấm, có tập nhân, đó là người thấu tỏ về sinh tử. Nếu người biết chế ngự tâm ý khiến không dao động sẽ được vào đạo, người không chế ngự được tâm ý sẽ rơi vào tội lỗi. Mũi thấu suốt mùi hơm trung bình, trong đó có năm ấm, có tập nhân, đó là người thấu tỏ về sinh tử. Nếu người tự chế ngự tâm ý khiến không dao động sẽ được vào đạo, người không chế ngự tâm ý sẽ rơi vào lỗi lầm. Mũi ngửi biết mùi hôi thối, trong đó có năm ấm, có tập nhân, đó là người thấu suốt về sinh tử. Nếu người tâm ý không dao động là được vào đạo, người không chế ngự được tâm ý sẽ rơi vào lỗi lầm. Nếu chuyển vào miệng, miệng quen món ăn ngon, lời nói hay, biết trong đó có năm ấm, có tập nhân, là hiểu thấu về sinh tử. Nếu người tâm ý không dao động là được vào đạo, người không chế ngự được tâm ý sẽ rơi vào tội lỗi. Miệng nếm hương vị trung bình, nói năng bình thường, trong đó có năm ấm, có tập nhân, nếu biết vậy là thấu suốt về sinh tử. Nếu người chế ngự tâm ý khiến không dao động sẽ được vào đạo, người không chế ngự được tâm ý sẽ rơi vào lỗi lầm. Miệng nếm vị dở, nói lời thô ác, biết trong đó có năm ấm, có tập nhân, đó là người thấu suốt về sinh tử. Nếu chế ngự được tâm ý khiến không dao động là được vào đạo, người không chế ngự được tâm ý sẽ rơi vào tội lỗi. Nếu chuyển vào thân, thân tiếp xúc với vật mềm mại, tốt đẹp, hợp với thân, trong đó có năm ấm, có tập nhân, là thấu suốt về sinh tử. Nếu chế ngự được tâm ý khiến không dao động là được vào đạo, người không chế ngự được tâm ý sẽ rơi vào tội lỗi. Thân tiếp xúc nơi vật mềm mại trung bình, biết trong đó có năm ấm, có tập nhân, đó là người thấu suốt về sinh tử. Nếu người chế ngự được tâm ý sẽ vào đạo, người không chế ngự được tâm ý sẽ rơi vào tội lỗi. Thân tiếp xúc với vật thô, cứng khiến thân đau, không thích hợp, trong đó có năm ấm, có tập nhân, đó là người thấu suốt về sinh tử. Nếu người chế ngự được tâm ý khiến không dao động sẽ được vào đạo, người không chế ngự được tâm ý sẽ rơi vào tội lỗi. Đức Phật nói: –Bồ-tát tu hành nên chế ngự tâm ý đừng để bị dao động, người tâm ý bị dao động là chưa rõ về đạo. Các Bồ-tát bạch Phật: –Chúng con nên ngồi thiền để tâm khỏi bị dao động. Đức Phật hỏi: –Khi không còn ngồi thiền, tâm có dao động không? Các Bồ-tát thưa: –Khi từ thiền định xuất, lại cũng còn dao động. Đức Phật hỏi: –Vì sao hết thiền lại động? Các Bồ-tát thưa: –Tự nhiên bị dao động. Đức Phật hỏi các Bồ-tát: –Vì sao tự nhiên lại bị dao động? Các Bồ-tát thưa: –Chúng con không biết rõ vì nhân duyên gì mà bị dao động. Đức Phật nói: –Như vậy là các Bồ-tát còn chưa thấu tỏ. Các Bồ-tát thưa: –Mong Đức Phật lại vì chúng con mà giảng giải. Đức Phật nói: –Bồ-tát khi không còn ngồi thiền định mà tự nhiên bị dao động là vì Bồ-tát còn có một trăm lẻ tám cửa ngỏ sinh diệt, tâm động và không động chưa dừng lại được. Đức Phật dạy như vậy rồi, các Bồ-tát đều cung kính nhận lời chỉ dạy gắng sức thực hành. Đức Phật nói: –Như vậy các Bồ-tát cũng còn chưa thấu suốt. Các Bồ-tát thưa: –Lại như thế nào là chúng con chưa thấu tỏ? Đức Phật nói: –Các Bồ-tát chỉ biết có ngồi thiền mà không dừng được tâm, để giữ gìn một trăm lẻ tám hành. Các vị Bồ-tát đều cúi đầu thưa: –Xin Đức Phật vì chúng con mà giảng nói. Đức Phật nói: –Tâm Bồ-tát vốn còn nhiều ý niệm, nếu không dừng, giữ được thì tâm đó sẽ là nguồn gốc của một trăm lẻ tám hành vi lỗi lầm. Nếu chuyển vào ý, ý vốn có nhiều ý niệm, nếu không nắm và dừng được chúng, thì tâm ấy sẽ là nguồn gốc của một trăm lẻ tám hành vi lỗi lầm. Nếu chuyển vào thức, thức vốn có nhiều ý niệm, nếu không biết giữ và dừng dứt thì tâm thức đó sẽ là nguồn gốc của một trăm lẻ tám hành vi lỗi lầm. Nếu chuyển vào mắt, mắt ấy vốn thường thấy nhiều cảnh đẹp, nếu không biết giữ và dừng dứt thì mắt đó sẽ là nguồn gốc của một trăm lẻ tám hành vi lỗi lầm. Mắt thường thấy nhiều cảnh sắc trung bình, nếu không giữ và dừng lại thì mắt ấy sẽ là nguồn gốc của một trăm lẻ tám hành vi lỗi lầm. Mắt thường thấy nhiều cảnh sắc thô xấu, nếu không giữ, dừng dứt thì mắt ấy sẽ là nguồn gốc của một trăm lẻ tám hành vi lỗi lầm. Nếu chuyển vào tai, tai vốn nghe nhiều tiếng hay tốt, nếu không biết giữ và dừng dứt thì tai ấy sẽ là nguồn gốc của một trăm lẻ tám hành vi lỗi lầm. Tai nghe nhiều âm thanh trung bình, nếu không biết giữ và dừng dứt thì tai ấy sẽ là nguồn gốc của một trăm lẻ tám hành vi lỗi lầm. Tai nghe nhiều âm thanh xấu ác, nếu không biết giữ và dừng dứt thì tai ấy sẽ là nguồn gốc của một trăm lẻ tám hành vi lỗi lầm. Nếu chuyển vào mũi, mũi ngửi nhiều mùi thơm, nếu không biết giữ gìn, dừng dứt, mũi này sẽ là nơi tạo ra một trăm lẻ tám điều lỗi lầm. Mũi ngửi nhiều mùi thơm trung bình, nếu không biết dừng dứt, giữ gìn, thì mũi ấy sẽ là nguồn gốc tạo ra một trăm lẻ tám điều lỗi lầm. Mũi ngửi nhiều mùi hôi thối, nếu không biết dừng dứt và giữ gìn thì mũi ấy sẽ là nguồn gốc tạo ra một trăm lẻ tám điều lỗi lầm. Nếu chuyển vào miệng, miệng nếm nhiều vị ngon, lời nói tốt đẹp, nếu không biết dừng lại, giữ gìn thì miệng ấy sẽ là nguồn gốc tạo ra một trăm lẻ tám điều lỗi lầm. Miệng nếm được nhiều mùi vị trung bình, lời nói trung bình, nếu không biết giữ gìn, dừng lại thì chính miệng ấy sẽ là nguồn gốc tạo ra một trăm lẻ tám điều lỗi lầm. Miệng nếm nhiều vị thô dở, lời nói kém, nếu không chịu giữ gìn, dừng dứt, thì chính miệng ấy sẽ là nguồn gốc tạo ra một trăm lẻ tám điều lỗi lầm. Nếu chuyển vào thân, thân tiếp xúc với nhiều đồ mềm mại, tốt đẹp, thích hợp, nếu không giữ gìn, dừng dứt thì thân này sẽ là nguồn gốc của một trăm lẻ tám điều lỗi lầm. Thân tiếp xúc với đồ mềm mại trung bình, nếu không giữ gìn, dừng dứt thì thân này sẽ là nguồn gốc sinh ra một trăm lẻ tám hành vi lỗi lầm. Thân va chạm nhiều với các vật dụng thô, cứng, đau, không thích hợp, nếu không giữ gìn, dừng lại thì thân ấy sẽ là nơi tạo ra một trăm lẻ tám điều tội lỗi. Khi Đức Phật giảng nói như vậy, các Bồ-tát đều hoan hỷ tiếp nhận lời chỉ dạy, dốc sức tu tập. Kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập <卷 id="117157947">Quyển 60 <詞 id="117157948">Phẩm 17: Bồ-tát nơi mười phương (Phần 2) Đức Phật nói: –Bồ-tát ngồi thiền quán Sổ tức, ý không được định, hoặc ý được vào định mà không kéo dài, do chỉ biết ngồi mà không thật sự dứt trừ được nguồn gốc của lỗi lầm, tuy có ngồi thiền vẫn không được an lạc. Các vị Bồ-tát thưa: –Chúng con vì nhân duyên gì mà không dứt trừ được nguồn gốc của lỗi lầm? Đức Phật nói: –Bồ-tát khi ngồi tu không thiền tư về nguồn gốc của sinh tử nên cội nguồn của lỗi lầm không được đoạn trừ. Đức Phật lại nói: –Người muốn đoạn trừ nguồn gốc của lỗi lầm nên đoạn trừ ý niệm về sinh tử tiếp nối, nên diệt trừ ý niệm vốn là nguồn gốc của lỗi lầm trong sinh tử. Các Bồ-tát cùng thưa: –Làm những gì để đoạn trừ ý niệm về sinh tử tiếp nối và diệt trừ ý niệm vốn là nguồn gốc của lỗi lầm trong sinh tử? Đức Phật nói: –Do tâm bị dao động làm nhân duyên chuyển biến đến việc tạo nên nguồn gốc của lỗi lầm, là lầm lỗi dẫn đến sinh tử tiếp nối nơi đời sau. Việc nên làm là đoạn trừ sinh tử tiếp nối nơi đời sau mới xứng đáng là Bồ-tát. Các vị Bồ-tát đều cúi đầu thưa: –Kính xin Đức Phật vì chúng con mà giảng giải về nguyên nhân của lỗi lầm nơi sinh tử đời sau. Đức Phật nói: –Các vị tâm bị dao động làm nhân duyên thích hợp, trong tình huống đó sẽ có đủ một trăm lẻ tám nguyên nhân của sinh tử. Điều cần yếu của Bồ-tát là nên dứt trừ hết một trăm lẻ tám nguyên nhân của sinh tử ấy. Bồ-tát khi ý bị dao động vì nhân duyên này, không thể xa lìa ý, trong ý có đủ một trăm lẻ tám nguyên nhân của sinh tử. Điều cần yếu của Bồ-tát là nên dứt trừ hết một trăm lẻ tám nguyên nhân của sinh tử ấy. Bồ-tát do thức bị dao động, lại do ý muốn nên trong thức ấy có đủ một trăm lẻ tám nguyên nhân của sinh tử. Điều cần yếu của Bồ-tát là nên dứt trừ hết một trăm lẻ tám nguyên nhân của sinh tử ấy. Nếu tâm ý thức như thế tác động vào mắt, mắt của Bồ-tát thấy cảnh sắc tốt đẹp, sắc đẹp ấy sẽ tác động nơi lòng ham muốn phân biệt, trong đó có đủ một trăm lẻ tám nguyên nhân của sinh tử. Bồ-tát nên đoạn trừ hết một trăm lẻ tám nguyên nhân của sinh tử ấy. Mắt thấy sắc trung bình làm gốc, trong sắc ấy sẽ tác động nơi lòng ham muốn phân biệt, trong đó có đủ một trăm lẻ tám nguyên nhân của sinh tử. Điều cần yếu là Bồ-tát nên đoạn trừ một trăm lẻ tám nguyên nhân của sinh tử ấy. Mắt thấy sắc xấu là gốc, sắc xấu tác động nơi lòng ham muốn phân biệt, trong đó có đủ một trăm lẻ tám nguyên nhân của sinh tử. Điều cần yếu là Bồ-tát nên đoạn trừ một trăm lẻ tám nguyên nhân của sinh tử ấy. Nếu bị tác động vào tai, tai của Bồ-tát nghe âm thanh hay, âm thanh tác động nơi lòng ham muốn phân biệt, trong đó có đủ một trăm lẻ tám nguyên nhân của sinh tử. Điều cần yếu là Bồ-tát nên đoạn trừ một trăm lẻ tám nguyên nhân của sinh tử ấy. Tai nghe âm thanh trung bình là chính, âm thanh ấy tác động nơi lòng ham muốn phân biệt, trong đó có đủ một trăm lẻ tám nguyên nhân của sinh tử. Điều cần yếu là Bồ-tát nên đoạn trừ một trăm lẻ tám nguyên nhân của sinh tử ấy. Tai nghe âm thanh thô ác là chính, âm thanh thô ác tác động nơi lòng ham muốn phân biệt, trong đó có đủ một trăm lẻ tám nguồn gốc của sinh tử. Điều cần yếu là Bồ-tát nên đoạn trừ một trăm lẻ tám nguồn gốc của sinh tử ấy. Nếu bị tác động vào mũi, mũi của Bồ-tát ngửi mùi hương thơm là chính, hương thơm tác động nơi lòng ham muốn phân biệt, trong đó có đủ một trăm lẻ tám nguồn gốc của sinh tử. Điều cần yếu là Bồ-tát nên đoạn trừ một trăm lẻ tám nguồn gốc của sinh tử ấy. Mũi ngửi mùi thơm trung bình, mùi thơm ấy tác động nơi lòng ham muốn phân biệt, trong đó có đủ một trăm lẻ tám nguyên nhân của sinh tử. Điều cần yếu là Bồ-tát nên đoạn trừ một trăm lẻ tám nguyên nhân của sinh tử ấy. Mũi ngửi mùi hôi hám là chính, mùi hôi ấy tác động nơi lòng ham muốn phân biệt, trong đó có đủ một trăm lẻ tám nguyên nhân của sinh tử. Điều cần yếu là Bồ-tát nên đoạn trừ một trăm lẻ tám nguyên nhân của sinh tử ấy. Nếu bị tác động vào miệng, miệng của Bồ-tát gặp đồ ăn ngon, lời nói hay là chính, đồ ăn ngon, lời nói hay tác động nơi lòng ham muốn phân biệt, trong đó có đủ một trăm lẻ tám nguồn gốc của sinh tử. Điều cần yếu là Bồ-tát nên đoạn trừ một trăm lẻ tám nguyên nhân của sinh tử ấy. Miệng gặp hương vị, lời nói trung bình tác động nơi lòng ham muốn phân biệt, trong đó có đủ một trăm lẻ tám nguyên nhân của sinh tử. Điều cần yếu là Bồ-tát nên đoạn trừ một trăm lẻ tám nguyên nhân của sinh tử ấy. Miệng gặp mùi vị và lời nói thô dở, mùi vị, lời nói ấy tác động nơi lòng ham muốn phân biệt, trong đó có đủ một trăm lẻ tám nguyên nhân của sinh tử. Điều cần yếu là Bồ-tát nên đoạn trừ một trăm lẻ tám nguyên nhân của sinh tử ấy. Nếu tác động vào thân, thân tiếp xúc với vật mềm mại, làm cho thân cảm thấy dễ chịu. Sự mềm mại ấy tác động nơi lòng ham muốn phân biệt, trong đó có đủ một trăm lẻ tám nguyên nhân của sinh tử. Việc cần yếu là Bồ-tát nên đoạn trừ một trăm lẻ tám nguyên nhân của sinh tử ấy. Thân tiếp xúc với vật mềm mại trung bình, sự tiếp xúc ấy sẽ tác động nơi lòng ham muốn phân biệt. Như vậy, trong sự tiếp xúc đó có đủ một trăm lẻ tám nguyên nhân của sinh tử. Điều cần yếu là Bồ-tát nên đoạn trừ một trăm lẻ tám nguyên nhân của sinh tử ấy. Thân tiếp xúc với vật thô, xấu gây đau đớn, không thích hợp. Sự tiếp xúc đó tác động nơi lòng ham muốn phân biệt, trong ấy có đủ một trăm lẻ tám nguồn gốc của sinh tử. Điều cần thiết là Bồ-tát nên đoạn trừ tất cả một trăm lẻ tám nguồn gốc của sinh tử ấy. Đức Phật nói: –Cần yếu là Bồ-tát nên đoạn trừ những điều như vậy mới gọi là Bồ-tát. Nếu vị nào không đoạn trừ thời không xứng đáng là Bồ-tát. Như vậy còn chưa rõ chăng? Các vị Bồ-tát thưa: –Chúng con đã hiểu rõ về nhân duyên của sinh tử. Các vị Bồ-tát thưa: –Chúng con nghe Đức Phật giảng dạy, tất cả chúng con không rơi vào sự lỗi lầm. Đức Phật hỏi: –Các vị tất đều thấy các Bồ-tát đã cạo bỏ râu tóc làm Sa-môn? Các Bồ-tát thưa: –Dạ, chúng con đã thấy các vị làm Sa-môn. Đức Phật hỏi: –Các Sa-môn khi cạo bỏ râu tóc, râu tóc trên đầu các vị ấy có sạch hết không? Các Bồ-tát thưa: –Dạ sạch hết. Đức Phật nói: –Khi cạo sạch như thế, các Sa-môn có mong râu tóc trên đầu mọc trở lại chăng? Các Bồ-tát thưa: –Các vị ấy không mong chúng mọc trở lại. Đức Phật hỏi các Bồ-tát: –Vì lý do gì râu tóc trên đầu các vị ấy mọc trở lại? Các Bồ-tát thưa: –Nó tự nhiên sinh. Các Sa-môn cũng không muốn chúng mọc trở lại. Đức Phật nói: –Các Sa-môn với râu tóc trên đầu sinh trưởng, có thể tự biết mỗi ngày lớn lên bao nhiêu không? Các Bồ-tát thưa: –Râu tóc trên đầu các Sa-môn mỗi ngày không thể tự biết chúng đã lớn lên bao nhiêu. Đức Phật nói: –Các vị Bồ-tát cũng không thể tự biết về một trăm lẻ tám lỗi lầm vi tế luôn tồn tại. Ví như các Sa-môn đều có râu tóc trên đầu luôn sinh trưởng mà không tự biết mỗi ngày chúng lớn lên bao nhiêu. Như vậy, các Bồ-tát lỗi lầm vẫn còn mà không tự biết, lại nói con không có lỗi lầm là thế nào? Đức Phật hỏi Bồ-tát: –Có đúng như vậy không? Các vị Bồ-tát đều cúi đầu hổ thẹn, tiếp nhận lời chỉ dạy để tu tập. Các Bồ-tát thưa với Đức Phật: –Ngưỡng mong Đức Phật lại vì chúng con mà giảng giải. Đức Phật nói: –Bồ-tát không nên tự thị nói ta không có tội, thì tội sẽ diệt. Đức Phật nói: –Điều cần yếu là suy tính về một trăm lẻ tám nguồn gốc của tội lỗi diệt hay không diệt. Các Bồ-tát hỏi: –Thế nào là một trăm lẻ tám nguồn gốc của tội lỗi diệt hay không diệt? Đức Phật hỏi: –Tâm của Bồ-tát trong sự sống chuyển biến liền cảm nhận như bị diệt, tuy diệt nhưng trong đó có một trăm lẻ tám tập nhận, đời sau sẽ tiếp tục sự sống và thọ nhận nên nó không diệt. Tập nhân tội lỗi chuyển vào ý, ý theo sự sống chuyển biến lại như bị diệt, tuy diệt nhưng trong đó có một trăm lẻ tám tập nhận, đời sau sẽ tiếp tục sự sống và thọ nhận nên nó không diệt. Nếu chuyển vào thức, nhận thức trong sự sống chuyển biến lại như bị diệt, tuy diệt nhưng trong đó có một trăm lẻ tám tập nhận, đời sau sẽ tiếp tục sự sống và thọ nhận nên nó không diệt. Nếu chuyển vào mắt, mắt thấy sắc đẹp, do sự sống chuyển biến liền thấy như nó đã diệt, tuy diệt nhưng trong đó có một trăm lẻ tám tập nhân, đời sau sẽ tiếp tục sự sống và thọ nhận nên nó không diệt. Mắt thấy sắc trung bình, do sự sống chuyển biến liền thấy như nó đã diệt mất, tuy diệt nhưng trong đó có một trăm lẻ tám tập nhân, đời sau sẽ tiếp tục sự sống và thọ nhận nên nó không diệt. Mắt thấy sắc thô xấu, do sự sống chuyển biến nên cảm nhận như nó đã diệt mất, tuy diệt nhưng trong đó có một trăm lẻ tám tập nhận, đời sau sẽ tiếp tục sự sống và thọ nhận nên nó không diệt. Nếu chuyển vào tai, tai nghe tiếng hay, do sự sống chuyển biến nên cảm nhận như nó đã diệt, tuy diệt nhưng trong đó có một trăm lẻ tám tập nhận, đời sau sẽ tiếp tục sự sống và thọ nhận nên nó không diệt. Tai nghe tiếng trung bình, do sự sống chuyển biến nên cảm nhận như nó đã diệt, tuy diệt nhưng trong đó có một trăm lẻ tám tập nhận, đời sau sẽ tiếp tục sự sống và thọ nhận nên nó không diệt. Tai nghe tiếng thô ác, trong sự sống chuyển biến nên cảm nhận như nó đã diệt, tuy diệt nhưng trong đó có một trăm lẻ tám tập nhận, đời sau sẽ tiếp tục sự sống và thọ nhận nên nó không diệt. Nếu chuyển vào mũi, mũi ngửi mùi thơm, trong sự sống chuyển biến nên cảm nhận như nó đã diệt, tuy diệt nhưng trong đó có một trăm lẻ tám tập nhận, đời sau sẽ tiếp tục sự sống và thọ nhận nên nó không diệt. Mũi ngửi mùi thơm trung bình, trong sự sống chuyển biến nên cảm nhận như nó đã diệt, tuy diệt nhưng trong đó có một trăm lẻ tám tập nhận, đời sau sẽ tiếp tục sự sống và thọ nhận nên nó không diệt. Mũi ngửi mùi hôi thối, do sự sống chuyển biến nên cảm nhận như nó đã diệt, tuy diệt nhưng vẫn còn một trăm lẻ tám tập nhận, đời sau sẽ tiếp tục sự sống và thọ nhận nên nó không diệt. Nếu chuyển vào miệng, miệng gặp đồ ăn ngon, lời nói hay, trong sự sống chuyển biến nên cảm nhận như nó đã diệt, tuy diệt nhưng vẫn còn một trăm lẻ tám tập nhận, đời sau sẽ tiếp tục sự sống và thọ nhận nên nó không diệt. Miệng gặp mùi vị và lời nói trung bình, do sự sống chuyển biến nên cảm nhận như nó đã diệt, tuy diệt nhưng trong đó có một trăm lẻ tám tập nhận, đời sau sẽ tiếp tục sự sống và thọ nhận nên nó không diệt. Miệng gặp mùi vị dở, lời nói thô ác, do sự sống chuyển biến nên cảm nhận như nó đã diệt, tuy diệt nhưng trong đó có một trăm lẻ tám tập nhận, đời sau sẽ tiếp tục sự sống và thọ nhận nên nó không diệt. Nếu chuyển vào thân, thân tiếp xúc với vật mềm mại, thích hợp, do sự sống chuyển biến nên cảm nhận như nó đã diệt, tuy diệt nhưng trong đó có một trăm lẻ tám tập nhận, đời sau sẽ tiếp tục sự sống và thọ nhận nên nó không diệt. Thân tiếp xúc với vật mềm mại trung bình, do sự sống chuyển biến nên cảm nhận như nó đã diệt, tuy diệt nhưng trong đó có một trăm lẻ tám tập nhận, đời sau sẽ tiếp tục sự sống và thọ nhận nên nó không diệt. Thân tiếp xúc với vật thô xấu, gây khổ, không thích hợp, do sự sống chuyển biến nên cảm nhận như nó đã diệt, tuy diệt nhưng trong đó có còn một trăm lẻ tám tập nhận, đời sau sẽ tiếp tục sự sống và thọ nhận nên nó không diệt. Các Bồ-tát thưa: –Chúng con vì sao tội vừa phát sinh lại diệt, lại vì sao chúng con đã rõ mà không thấy? Đức Phật hỏi các Bồ-tát: –Tâm của các vị có bị chuyển biến không? Các Bồ-tát thưa: –Tâm của chúng con bị chuyển biến, sinh diệt, dẫu tâm của chúng con không bị chuyển biến, sinh diệt cũng không dám thưa với Đức Phật. Đức Phật hỏi các vị Bồ-tát: –Nếu khi tâm vọng tưởng sinh, lại có thể tự biết là tâm sinh không? Các Bồ-tát thưa: –Chúng con chỉ biết hoặc thấy khi có nhân duyên nhưng không biết được khi tâm mới sinh khởi. Đức Phật hỏi: –Như các vị đã nói là còn chưa biết được khi tâm mới sinh khởi, làm sao có thể nói là không có tội? Đức Phật dạy như vậy, các Bồ-tát đều hổ thẹn, cúi đầu tiếp nhận lời chỉ dạy để tu hành. Các Bồ-tát thưa với Đức Phật: –Thế Tôn đã vì chúng con giảng về các điều chỗ rất vi diệu. Mong Đức Phật lại vì chúng con giảng giải rõ. Đức Phật hỏi các Bồ-tát: –Các vị từ khi có sự sống đến nay đâu không biết nóng ấm ở trong thân cần bao nhiêu lửa, biết lạnh ở trong thân có bao nhiêu gió, sự hỗn hợp trong thân gồm bao nhiêu nước? Các Bồ-tát thưa: –Chúng con cũng không thể phân biệt để biết một cách đầy đủ là chúng có nhiều hay ít. Đức Phật hỏi: –Nếu không biết được chúng có là nhiều hay ít, đâu lại không biết lạnh nóng do nước, lửa? Các Bồ-tát thưa: –Chúng con biết lạnh nóng là do nước, lửa. Đức Phật hỏi: –Các vị còn biết nóng lạnh là do nước, lửa, vì sao không biết chúng có là nhiều hay ít? Các Bồ-tát thưa: –Chúng con chỉ biết có nóng lạnh mà không thể biết chúng có là nhiều hay ít. Đức Phật nói: –Bồ-tát không tự biết về tâm sinh diệt chính là còn thọ nhận nhiều tội lỗi trong một trăm lẻ tám lỗi lầm. Ví như không biết lạnh nóng, nước lửa, không biết từ khi lửa có trong sự sống đến nay là nhiều hay ít. Bồ-tát cũng không tự biết về tâm chuyển biến trong sinh tử đến nay là nhiều hay ít. Như vậy, Bồ-tát chỉ có thể biết được ngành ngọn mà không biết được nguồn gốc. Như thế, tội của Bồ-tát hội nhập trong không mà vẫn còn chưa hiểu rõ. Các Bồ-tát đều cúi đầu hỏi Đức Phật: –Kính mong Đức Thế Tôn lại vì chúng con giải nói về tội lỗi trong không. Đức Phật nói: –Bồ-tát có một trăm lẻ tám tội lỗi nhập trong không, không thể thấy. Những gì là một trăm lẻ tám tội? Nếu tâm của Bồ-tát khi có ý niệm, nó sinh từ trong không, lại cũng diệt trong không, trong đó có một trăm lẻ tám tội do tâm sinh diệt nên không thể thấy. Cũng ví như người khi nói có âm thanh không thể thấy, điều cốt yếu là có âm thanh ở trong không, chỉ vì chúng ta không thể thấy. Nếu chuyển vào ý, ý sinh từ trong không, rồi lại diệt trong không, trong đó có một trăm lẻ tám tội không thể thấy. Nếu chuyển vào thức, thức sinh khởi từ trong không, rồi lại diệt trong không, trong đó có một trăm lẻ tám tội không thể thấy. Nếu chuyển vào mắt, mắt thấy sắc đẹp sinh từ trong không, rồi lại diệt trong không, trong đó có một trăm lẻ tám tội không thể thấy. Mắt thấy hình sắc trung bình, sinh từ trong không, rồi lại diệt trong không, trong đó có một trăm lẻ tám tội không thể thấy. Mắt thấy sắc xấu, sinh từ trong không, lại cũng diệt trong không, trong đó có một trăm lẻ tám tội không thể thấy. Nếu chuyển vào tai, tai nghe tiếng hay, sinh từ trong không, lại cũng diệt trong không, trong đó có một trăm lẻ tám tội không thể thấy. Tai nghe âm thanh trung bình, sinh từ trong không, lại diệt trong không, trong đó có một trăm lẻ tám tội không thể thấy. Tai nghe âm thanh dở, sinh từ trong không, lại diệt trong không, trong đó có một trăm lẻ tám tội không thể thấy. Nếu chuyển vào mũi, mũi ngửi mùi thơm, sinh từ trong không, lại cũng diệt trong không, trong đó có một trăm lẻ tám tội không thể thấy. Mũi ngửi mùi thơm trung bình, sinh từ trong không, lại cũng diệt trong không, trong đó có một trăm lẻ tám tội không thể thấy. Mũi ngửi mùi thối, sinh từ trong không, lại diệt trong không, trong đó có một trăm lẻ tám tội không thể thấy. Nếu chuyển vào miệng, miệng gặp vị ngon, lời nói hay, sinh từ trong không, lại cũng diệt trong không, trong đó có một trăm lẻ tám tội không thể thấy. Miệng gặp mùi vị trung bình, lời nói bình thường, sinh khởi từ trong không, lại diệt trong không, trong đó có một trăm lẻ tám tội không thể thấy. Miệng gặp mùi vị dở, lời nói thô ác, sinh từ trong không, lại diệt trong không, trong đó có một trăm lẻ tám tội không thể thấy. Nếu chuyển vào thân, thân tiếp xúc với vật mềm mại thích hợp, sinh từ trong không, lại diệt trong không, trong đó có một trăm lẻ tám tội không thể thấy. Thân tiếp xúc với vật mềm mại trung bình, sinh từ trong không, lại diệt trong không, trong đó có một trăm lẻ tám tội không thể thấy. Thân tiếp xúc với vật thô cứng, làm đau đớn, không thích hợp, sinh từ trong không, lại diệt trong không, trong đó có một trăm lẻ tám tội không thể thấy. Đức Phật bảo các Bồ-tát: –Nếu không thấy tội sinh từ trong không, cũng không thấy diệt từ trong không, như vậy là các Bồ-tát còn chưa hiểu rõ. Các Bồ-tát thưa: Như thế là chúng con đã hiểu biết rõ. Đức Phật hỏi: –Do nhân duyên gì mà các vị nói là đã hiểu biết? Các Bồ-tát tại sao không thường ngồi thiền, vì sao lại ưa đi đến chỗ của chư Phật nơi mười phương? Bồ-tát thưa: –Do chúng con có bản nguyện, không thể không đi. Đức Phật hỏi: –Nếu các vị có bản nguyện đến trú xứ của chư Phật trong mười phương, vì nhân duyên gì mà không ngồi thiền để từ bỏ tội lỗi? Dẫu các vị ngồi thiền chỉ để dứt bỏ tội lỗi, bản nguyện sẽ diệt chăng? Các Bồ-tát thưa: –Chúng con ngồi thiền chỉ nhằm chấm dứt được tội sẽ xảy ra, chúng con chưa diệt được hết nguồn gốc của tội. Đức Phật hỏi: –Nếu việc làm từ vô số kiếp đến nay, các tội nơi sinh tử trong quá khứ các vị có diệt được không? Các Bồ-tát thưa: –Chúng con sẽ diệt nguồn gốc của tội lỗi nơi quá khứ từ vô số kiếp. Đức Phật hỏi: –Nếu còn có thể diệt trừ tội trong vô số kiếp, vì sao lại không muốn diệt trừ nguồn gốc của tội? Các Bồ-tát thưa: –Đức Phật hỏi chúng con như vậy nhưng chúng con chưa kịp hiểu rõ. Đức Phật hỏi: –Như vậy là các vị chưa thấu hiểu, vì sao lại nói là các con đã hiểu rõ? Các Bồ-tát đều cúi đầu hổ thẹn, tiếp nhận lời chỉ dạy để tu hành. Các Bồ-tát bạch Phật: –Đức Phật tuy vì chúng con mà nêu giảng nhưng chúng con còn chưa hiểu rõ, kính xin Phật vì chúng con mà giảng giải rõ thêm, nên tu hành những gì? Đức Phật nói: –Các Bồ-tát hành đạo trong vô số kiếp đến nay luôn nhớ các bản nguyện trong sinh tử, cũng giống như hạt giống gieo xuống đất sẽ mọc lên cây lớn. Đã sinh cây lớn, trên cây lại sinh muôn ngàn cành, cành sinh muôn ngàn nhánh lá, nhánh lá sinh muôn ngàn vạn ức trái, một trái trở lại gieo xuống mọc lên một cây. Bồ-tát ngồi thiền sẽ trừ bỏ được tội lỗi căn bản của mình. Cũng ví như các cây lá đều phá bỏ, hủy diệt trái của nó, làm cho trái không thể mọc trở lại được. Khi đã diệt hết các cành cây, như vậy lá, cành, trái đều đã diệt bỏ hết, chỉ còn lại gốc rễ. Gốc rễ cũng ví như nguyện xưa, từ một ý niệm sinh khởi, mà ý niệm là gốc của tội lỗi. Ví như từ gốc cây, cành lá sinh ra, lại nên phải chặt bỏ, nếu không chặt bỏ kịp thời thì nó lớn lên, ra trái trở lại, nên phải diệt bỏ nó, không cho sinh trở lại. Bồ-tát giữ gìn ý cũng ví như giữ gốc cây để cho cành, lá, quả của cấy ấy sinh trở lại. Nếu để cho vọng ý sinh là làm cho lỗi lầm sau này thêm tăng trưởng. Nếu người diệt trừ được vọng ý sẽ không khiến lỗi lầm đời sau tăng trưởng, vì vậy phải loại bỏ tội lỗi căn bản. Như thế là tội lỗi căn bản của Bồ-tát chưa dứt, nên thường phải nghó đến một trăm lẻ tám lỗi lầm chưa trừ bỏ hết. Các Bồ-tát nghe như vậy đều cúi đầu thưa: –Nguyện xin Đức Phật xót thương giải thích những điều chúng con chưa hiểu. Đức Phật nói: –Không xả bỏ hết các ý niệm sinh khởi trong tâm, các ý niệm hoàn toàn dứt sạch thì một trăm lẻ tám lỗi lầm mới hết. Vì vậy nên gọi là không xả bỏ hết. Nếu chuyển vào ý, ý khởi lên ý niệm, nếu chúng hoàn toàn dứt sạch thì một trăm lẻ tám lỗi lầm mới hết. Vì vậy nên gọi là không xả bỏ hết. Nếu chuyển vào thức, thức sinh ý niệm, nếu chúng hoàn toàn chấm dứt thì một trăm lẻ tám lỗi lầm mới hết. Vì vậy nên gọi là không xả bỏ hết. Nếu chuyển vào mắt, mắt thấy sắc đẹp mà ý niệm hoàn toàn không sinh khởi thì một trăm lẻ tám lỗi lầm mới hết. Vì thế nên gọi là không xả bỏ hết. Mắt thấy sắc trung bình mà ý niệm hoàn toàn không sinh khởi, thì một trăm lẻ tám lỗi lầm mới hết. Vì vậy nên gọi là không xả bỏ hết. Mắt thấy màu sắc thô xấu, nếu ý niệm không sinh khởi thì một trăm lẻ tám lỗi lầm mới hết. Vì thế nên gọi là không xả bỏ hết. Nếu chuyển vào tai, tai nghe tiếng hay, nếu ý niệm dừng dứt thì một trăm lẻ tám lỗi lầm mới hết. Vì thế nên gọi là không xả bỏ hết. Tai nghe âm thanh trung bình, ý niệm hoàn toàn không sinh khởi thì một trăm lẻ tám lỗi lầm mới hết. Vì thế nên gọi là không xả bỏ hết. Tai nghe tiếng thô ác, nếu ý niệm hoàn toàn dừng dứt thì một trăm lẻ tám lỗi lầm mới hết. Như vậy gọi là không xả bỏ hết. Nếu chuyển vào mũi, mũi ngửi mùi thơm, nếu ý niệm không còn sinh khởi thì một trăm lẻ tám lỗi lầm mới hết. Vì vậy nên gọi là không xả bỏ hết. Mũi ngửi mùi bình thường, nếu ý niệm không còn sinh khởi thì một trăm lẻ tám lỗi lầm mới hết. Vì thế nên gọi là không xả bỏ hết. Mũi ngửi mùi hôi thối, nếu ý niệm không còn sinh khởi thì một trăm lẻ tám lỗi lầm mới hết. Vì thế nên gọi là không xả bỏ hết. Nếu chuyển vào miệng, miệng gặp mùi vị ngon, nói lời hay khéo, nếu ý niệm không còn sinh khởi thì một trăm lẻ tám lỗi lầm mới hết. Vì thế nên gọi là không xả bỏ hết. Miệng gặp mùi vị trung bình, lời nói trung bình, nếu ý niệm không còn sinh khởi thì một trăm lẻ tám lỗi lầm mới hết. Vì thế nên gọi là không xả bỏ hết. Miệng gặp mùi vị dở, lời nói thô ác, nếu ý niệm không còn sinh khởi thì một trăm lẻ tám lỗi lầm mới hết. Vì vậy nên gọi là không xả bỏ hết. Nếu chuyển vào trong thân, thân tiếp xúc với vật mềm mại thích hợp, khi ấy ý niệm không sinh khởi thì một trăm lẻ tám lỗi lầm mới hết. Vì thế nên gọi là không xả bỏ hết. Thân tiếp xúc với vật mềm mại trung bình, nếu khi ấy ý niệm không sinh khởi thì một trăm lẻ tám lỗi lầm mới hết. Vì thế nên gọi là không xả bỏ hết. Thân tiếp xúc với vật thô cứng, làm đau đớn, không thích hợp, nếu khi ấy ý niệm không sinh khởi thì một trăm lẻ tám lỗi lầm mới hết. Vì vậy nên gọi là không xả bỏ hết. Như thế gọi là Bồ-tát không xả bỏ hết để được vào một trăm lẻ tám sự thanh tịnh. Đức Phật dạy như vậy, các Bồ-tát đều vui mừng cung kính tiếp nhận lời chỉ dạy để tu hành. Các Bồ-tát lại cúi đầu thưa hỏi Đức Phật: –Thưa, những gì là một trăm lẻ tám điều thanh tịnh? Đức Phật nói: –Nếu có Bồ-tát tâm vừa khởi niệm liền biết có ý niệm, tức là cảnh giới tịch diệt, là vào thế giới thanh tịnh, là diệt trừ một trăm lẻ tám lỗi lầm chưa xả bỏ để được thanh tịnh. Nếu chuyển vào ý, ý thức sinh khởi liền kéo trở về để được trạng thái vắng lặng, vào nơi an tịnh, là diệt trừ một trăm lẻ tám lỗi lầm chưa xả bỏ để được thanh tịnh. Nếu chuyển vào thức, thức sinh khởi nhận thức, liền kéo trở về trạng thái vắng lặng, vào nơi an tịnh, là diệt trừ một trăm lẻ tám lỗi lầm chưa xả bỏ để được thanh tịnh. Nếu chuyển vào mắt, mắt thấy sắc đẹp sinh khởi ý niệm, liền kéo trở về trạng thái vắng lặng, vào nơi an tịnh, là trừ diệt một trăm lẻ tám lỗi lầm chưa xả bỏ để được thanh tịnh. Mắt thấy sắc trung bình, sinh khởi ý niệm, liền kéo trở về trạng thái vắng lặng, là trừ diệt một trăm lẻ tám lỗi lầm chưa xả bỏ để được thanh tịnh. Mắt thấy sắc xấu, sinh khởi ý niệm, liền kéo trở về trạng thái vắng lặng, là trừ diệt một trăm lẻ tám lỗi lầm chưa xả bỏ để được thanh tịnh. Nếu chuyển vào tai, tai nghe âm thanh hay, sinh khởi ý niệm, liền kéo trở về trạng thái vắng lặng để được an tịnh, là diệt trừ một trăm lẻ tám lỗi lầm chưa xả bỏ để được thanh tịnh. Tai nghe âm thanh trung bình, sinh khởi ý niệm, liền kéo trở về trạng thái vắng lặng để được an tịnh, là diệt trừ một trăm lẻ tám lỗi lầm chưa xả bỏ để được thanh tịnh. Tai nghe tiếng thô ác, nếu sinh khởi ý niệm, liền kéo trở về trạng thái vắng lặng để được an tịnh, là diệt trừ một trăm lẻ tám lỗi lầm chưa xả bỏ để được thanh tịnh. Nếu chuyển vào mũi, mũi ngửi mùi thơm, có khởi ý niệm, liền kéo trở về trạng thái vắng lặng để được an tịnh, là diệt trừ một trăm lẻ tám lỗi lầm chưa xả bỏ để được thanh tịnh. Mũi ngửi mùi thơm trung bình, nếu sinh khởi ý niệm, liền kéo trở về trạng thái vắng lặng để được an tịnh, là diệt trừ một trăm lẻ tám lỗi lầm chưa xả bỏ để được thanh tịnh. Mũi ngửi mùi hôi thối, nếu sinh khởi ý niệm, liền kéo trở về trạng thái vắng lặng để được an tịnh, là diệt trừ một trăm lẻ tám lỗi lầm chưa xả bỏ để được thanh tịnh. Nếu chuyển vào miệng, miệng gặp đồ ăn ngon, nói lời hay khéo, nếu có sinh khởi ý niệm, liền kéo trở về trạng thái vắng lặng để được an tịnh, là diệt trừ một trăm lẻ tám lỗi lầm chưa xả bỏ để được thanh tịnh. Miệng gặp đồ ăn mùi vị trung bình, lời nói bình thường mà sinh khởi ý niệm, liền kéo trở về trạng thái vắng lặng để được an tịnh, là diệt trừ một trăm lẻ tám lỗi lầm chưa xả bỏ để được thanh tịnh. Miệng gặp mùi vị dở, lời nói hung ác, sinh khởi ý niệm, liền kéo trở về trạng thái vắng lặng để được an tịnh, là diệt trừ một trăm lẻ tám lỗi lầm chưa xả bỏ để được thanh tịnh. Nếu chuyển vào thân, thân tiếp xúc với vật mềm mại thích hợp, nếu khởi ý niệm, liền kéo trở về trạng thái vắng lặng để được an tịnh, là diệt trừ một trăm lẻ tám lỗi lầm chưa xả bỏ để được thanh tịnh. Thân tiếp xúc với vật mềm mại trung bình, nếu khởi ý niệm, liền kéo trở về trạng thái vắng lặng để được an tịnh, là diệt trừ một trăm lẻ tám lỗi lầm chưa xả bỏ để được thanh tịnh. Thân tiếp xúc với vật thô cứng không thích hợp, nếu khởi ý niệm, liền kéo trở về trạng thái vắng lặng để được an tịnh, là diệt trừ một trăm lẻ tám lỗi lầm chưa xả bỏ để được thanh tịnh. Bồ-tát tu hành như vậy là không xả bỏ thanh tịnh, nên có thể tinh tấn hơn nữa theo một trăm lẻ tám cách ứng hợp với giới. Đức Phật giảng dạy như thế, các Bồ-tát đều vui mừng tiếp nhận phụng hành. Các Bồ-tát lại cúi đầu thưa hỏi Đức Phật: –Thưa, những gì là trở lại tinh tấn theo một trăm lẻ tám điều thích ứng với giới? Đức Phật nói: –Các Bồ-tát hành đạo còn dấy khởi tâm, liền phải cố gắng biết để diệt trừ một trăm lẻ tám lỗi lầm, vì muốn ứng hợp với giới. Nếu chuyển vào ý, ý sinh khởi liền phải cố gắng biết rõ để diệt trừ một trăm lẻ tám lỗi lầm, vì muốn ứng hợp với giới. Nếu chuyển vào thức, thức sinh nhận thức, liền phải cố gắng biết rõ để diệt một trăm lẻ tám lỗi lầm, vì muốn ứng hợp với giới. Nếu chuyển vào mắt, mắt thấy sắc đẹp mà sinh tâm, liền phải cố gắng biết rõ để diệt một trăm lẻ tám lỗi lầm, vì muốn ứng hợp với giới. Mắt thấy sắc trung bình, nếu sinh tâm liền phải cố gắng biết rõ để diệt một trăm lẻ tám lỗi lầm, vì muốn ứng hợp với giới. Mắt thấy sắc xấu, nếu sinh tâm liền phải cố gắng biết rõ để diệt một trăm lẻ tám lỗi lầm, vì muốn ứng hợp với giới. Nếu chuyển vào tai, tai nghe âm thanh hay, nếu sinh tâm liền phải cố gắng biết rõ để diệt một trăm lẻ tám lỗi lầm, vì muốn ứng hợp với giới. Tai nghe tiếng trung bình, nếu sinh tâm liền phải cố gắng biết rõ để diệt một trăm lẻ tám lỗi lầm, vì muốn ứng hợp với giới. Tai nghe âm thanh thô dở, nếu sinh tâm liền phải cố gắng biết rõ để diệt một trăm lẻ tám lỗi lầm, vì muốn ứng hợp với giới. Nếu chuyển vào mũi, mũi ngửi hương thơm, nếu sinh tâm liền phải cố gắng biết rõ để diệt một trăm lẻ tám lỗi lầm, vì muốn ứng hợp với giới. Mũi ngửi mùi thơm trung bình,, nếu sinh tâm liền phải cố gắng biết rõ để diệt một trăm lẻ tám lỗi lầm, vì muốn ứng hợp với giới. Mũi ngửi mùi hôi thối, nếu sinh tâm liền phải cố gắng biết rõ để diệt một trăm lẻ tám lỗi lầm, vì muốn ứng hợp với giới. Nếu chuyển vào miệng, miệng gặp vị ngon, nói lời hay đẹp, nếu sinh tâm liền phải cố gắng biết rõ để diệt một trăm lẻ tám lỗi lầm, vì muốn ứng hợp với giới. Miệng gặp mùi vị trung bình, lời nói bình thường, nếu sinh tâm liền phải cố gắng biết rõ để diệt một trăm lẻ tám lỗi lầm, vì muốn ứng hợp với giới. Miệng gặp mùi vị dở, lời nói thô ác, nếu sinh tâm liền phải cố gắng biết rõ để diệt một trăm lẻ tám lỗi lầm, vì muốn ứng hợp với giới. Nếu chuyển vào thân, thân tiếp xúc với vật mềm mại thích hợp, nếu sinh tâm liền phải cố gắng biết rõ để diệt một trăm lẻ tám lỗi lầm, vì muốn ứng hợp với giới. Thân tiếp xúc với vật mềm mại trung bình, nếu sinh tâm liền phải cố gắng biết rõ để diệt một trăm lẻ tám lỗi lầm, vì muốn ứng hợp với giới. Thân tiếp xúc với vật thô cứng, gây đau đớn, không thích hợp, nếu sinh tâm liền phải cố gắng biết rõ để diệt một trăm lẻ tám lỗi lầm, vì muốn ứng hợp với giới. Khi Đức Phật dạy như vậy, các Bồ-tát đều vui mừng tiếp nhận phụng hành. Đức Phật nói: –Các Bồ-tát do tinh tấn nên ứng hợp với giới, liền phải tiến tới tu hành để vào đạo. Các Bồ-tát hỏi Phật: –Những gì là do tinh tấn nên lại ứng hợp với giới, liền phải cố gắng tu tập để vào đạo? Đức Phật nói: –Bồ-tát trong tâm có sinh khởi ý niệm, phải từ nơi tâm ấy cố gắng dứt bỏ các ý niệm là diệt một trăm lẻ tám lỗi lầm. Như vậy gọi là tinh tấn tu hành để vào đạo. Nếu chuyển vào ý, ý có các ý niệm, phải từ nơi ý ấy cố gắng dứt trừ các ý niệm, là diệt một trăm lẻ tám lỗi lầm. Như vậy gọi là tinh tấn tu hành để vào đạo. Nếu chuyển vào thức, thức có sự nhận thức, từ nơi nhận thức ấy cố gắng dứt trừ hết các nhận thức, là diệt một trăm lẻ tám lỗi lầm. Như vậy gọi là tinh tấn tu hành để vào đạo. Nếu chuyển vào mắt, mắt thấy sắc đẹp, phải từ nơi thấy sắc đẹp ấy cố gắng dứt trừ ý niệm về sắc đẹp, là diệt một trăm lẻ tám lỗi lầm. Như vậy gọi là tinh tấn tu hành để vào đạo. Mắt thấy sắc trung bình, phải từ nơi thấy sắc trung bình ấy, cố gắng dứt trừ ý niệm về sắc đó, là diệt một trăm lẻ tám lỗi lầm. Như vậy gọi là tinh tấn tu hành để vào đạo. Mắt thấy sắc xấu, phải từ nơi thấy sắc xấu ấy cố gắng chấm dứt ý niệm về sắc đó, là diệt một trăm lẻ tám lỗi lầm. Như vậy gọi là tinh tấn tu hành để vào đạo. Nếu chuyển vào tai, tai nghe tiếng hay, từ nơi nghe tiếng hay ấy cố gắng dứt trừ ý niệm về tiếng hay, là diệt một trăm lẻ tám lỗi lầm. Như vậy gọi là tinh tấn tu hành để vào đạo. Tai nghe tiếng trung bình, từ nơi nghe tiếng trung bình ấy, cố gắng dứt trừ ý niệm về nghe tiếng kia, là diệt một trăm lẻ tám lỗi lầm. Như vậy gọi là tinh tấn tu hành để vào đạo. Tai nghe âm thanh thô dở, từ nơi âm thanh thô ấy cố gắng dứt trừ ý niệm về âm thanh kia, là diệt một trăm lẻ tám lỗi lầm. Như vậy gọi là tinh tấn tu hành để vào đạo. Nếu chuyển vào mũi, mũi ngửi mùi thơm, từ nơi mùi thơm ấy cố gắng dứt trừ ý niệm về mùi thơm kia, là diệt một trăm lẻ tám lỗi lầm. Như vậy gọi là tinh tấn tu hành để vào đạo. Mũi ngửi mùi thơm trung bình, từ mùi thơm trung bình ấy cố gắng dứt trừ ý niệm về nó, là diệt một trăm lẻ tám lỗi lầm. Như vậy gọi là tinh tấn tu hành để vào đạo. Mũi ngửi mùi hôi thối, từ mùi hôi ấy cố gắng dứt trừ ý niệm về mùi hôi kia, là diệt một trăm lẻ tám lỗi lầm. Như vậy gọi là tinh tấn tu hành để vào đạo. Nếu chuyển vào miệng, miệng gặp mùi vị ngon, nói lời hay, từ nơi mùi vị ngon, lời nói hay ấy cố gắng dứt trừ ý niệm về mùi vị ngon, lời nói hay kia, là diệt một trăm lẻ tám lỗi lầm. Như vậy gọi là tinh tấn tu hành để vào đạo. Miệng gặp món ăn, mùi vị, lời nói trung bình, ngay nơi món ăn, mùi vị và lời nói trung bình ấy cố gắng dứt trừ các ý niệm về chúng, là diệt một trăm lẻ tám lỗi lầm. Như vậy gọi là tinh tấn tu hành để vào đạo. Miệng gặp món ăn thô dở, lời nói không hay, từ nơi đồ ăn dở, lời nói thô ấy cố gắng dứt trừ mọi ý niệm về chúng, là diệt một trăm lẻ tám lỗi lầm. Như vậy gọi là tinh tấn tu hành để vào đạo. Nếu chuyển vào thân, thân tiếp xúc với vật mềm mại, rất thích hợp, từ nơi vật mịn màng thích hợp phải cố gắng dứt trừ mọi ý niệm về chúng, là diệt trừ một trăm lẻ tám lỗi lầm. Như vậy gọi là tinh tấn tu hành để vào đạo. Thân tiếp xúc với vật mịn màng trung bình, từ nơi vật mịn màng trung bình ấy cố gắng diệt trừ mọi ý niệm về chúng, là trự được một trăm lẻ tám lỗi lầm. Như vậy gọi là tinh tấn tu hành để vào đạo. Thân tiếp xúc với vật thô, cứng, làm đau đớn, không thích hợp, từ nơi vật thô, cứng đau, không thích hợp ấy cố gắng từ bỏ mọi ý niệm về chúng, là đã diệt trừ một trăm lẻ tám lỗi lầm. Như vậy gọi là tinh tấn tu hành để vào đạo. Đức Phật nói: –Tinh tấn tu hành vào đạo mới có thể nhẫn nhục tu trì thực hành giới luật. Các vị Bồ-tát hỏi Đức Phật: –Những gì là nhẫn nhục trong việc trì giới và thực hành giới luật? Đức Phật nói: –Bồ-tát đã và đang nhẫn nhục trì giới, không lìa giới, như vậy mới là người thực hành hạnh Bồ-tát. Bồ-tát nếu tâm bị dao động nên phải nhẫn nhục để một trăm lẻ tám lỗi lầm không thể lay chuyển được tâm. Như vậy mới gọi là có tâm kiên nhẫn và nhẫn nhục thực hành giới luật. Nếu chuyển vào ý, ý có những ý niệm, nên từ ý ấy mà nhẫn nhục, không được để tâm bị lay chuyển, nếu bị lay chuyển thì sẽ có một trăm lẻ tám lỗi lầm, không tu hành được. Như vậy là có ý nhẫn, tu hành chính giới. Nếu chuyển vào thức, thức có các nhận thức, nên từ nhận thức ấy mà nhẫn nhục, không được để tâm bị dao động. Nếu bị lay chuyển, sẽ có một trăm lẻ tám lỗi lầm, không tu hành được. Như vậy là nhẫn nơi các nhận thức để nhẫn nhục tu hành chính giới. Nếu chuyển vào mắt, mắt thấy sắc đẹp, từ nơi sắc đẹp ấy nên nhẫn nhục, không để tâm bị dao động. Nếu không thì sẽ có một trăm lẻ tám lỗi lầm, không tu hành được. Như vậy là nhẫn nơi sắc đẹp để nhẫn nhục tu hành chính giới. Mắt thấy sắc trung bình, từ chỗ thấy sắc bậc trung ấy nên nhẫn nhục, không được để tâm bị dao động. Nếu không thì sẽ có một trăm lẻ tám lỗi lầm, không tu hành được. Như vậy là nhẫn nơi sắc bậc trung để nhẫn nhục tu hành chính giới. Mắt thấy sắc thô xấu, từ chỗ thấy sắc thô xấu ấy nên nhẫn nhục, không được để tâm bị dao động. Nếu không thì sẽ có một trăm lẻ tám lỗi lầm, không tu hành được. Như vậy là nhẫn nơi sắc xấu để nhẫn nhục tu hành chính giới. Nếu chuyển vào tai, tai nghe âm thanh hay, từ chỗ âm thanh hay ấy nên nhẫn nhục, không được để tâm bị dao động. Nếu không thì sẽ có một trăm lẻ tám lỗi lầm, không tu hành được. Như vậy là nhẫn nơi âm thanh hay để nhẫn nhục tu hành chính giới. Tai nghe âm thanh trung bình, nên từ chỗ nghe âm thanh trung bình ấy mà nhẫn nhục, tâm không bị dao động. Nếu không thì sẽ có một trăm lẻ tám lỗi lầm, không tu hành được. Như vậy là nhẫn nơi âm thanh trung bình để nhẫn nhục tu hành chính giới. Tai nghe âm thanh thô ác, từ âm thanh thô ác ấy mà nhẫn nhục, không để tâm bị dao động. Nếu không thì sẽ có một trăm lẻ tám lỗi lầm, không tu hành được. Như vậy là nhẫn nơi âm thanh thô ác để nhẫn nhục tu hành chính giới. Nếu chuyển vào mũi, mũi ngửi mùi hương thơm, từ nơi mùi thơm ấy mà nhẫn được, không để tâm bị dao động. Nếu không thì sẽ có một trăm lẻ tám lỗi lầm mà không tu hành được. Như vậy là nhẫn nơi mùi thơm để nhẫn nhục tu hành chính giới. Mũi ngửi mùi thơm trung bình, từ mùi thơm trung bình ấy mà nhẫn được, không để tâm bị dao động. Nếu không thì sẽ có một trăm lẻ tám lỗi lầm, không tu hành được. Như vậy là nhẫn nơi mùi thơm trung bình để nhẫn nhục tu hành chính giới. Mũi ngửi mùi hôi thối, từ nơi mùi hôi thối ấy mà nhẫn được, không để tâm bị dao động. Nếu không thì sẽ có một trăm lẻ tám lỗi lầm, không tu hành được. Như vậy là nhẫn nơi mùi hôi thối để nhẫn nhục tu hành chính giới. Nếu chuyển vào miệng, miệng gặp đồ ăn ngon, nói lời hay khéo mà nhẫn được, không nên để tâm bị dao động, nếu không thì sẽ có một trăm lẻ tám lỗi lầm, không tu hành được. Như vậy là nhẫn nơi đồ ăn ngon, lời nói hay khéo để nhẫn nhục tu hành chính giới. Miệng gặp mùi vị và lời nói trung bình, từ nơi lời nói và mùi vị trung bình ấy mà nhẫn, không để tâm bị dao động, nếu không thì sẽ có một trăm lẻ tám lỗi lầm, không tu hành được. Như vậy là nhẫn nơi hương vị và lời nói trung bình để nhẫn nhục tu hành chính giới. Miệng gặp mùi vị thô, lời nói ác mà nhẫn được, tâm không bị dao động, nếu không thì sẽ có một trăm lẻ tám lỗi lầm, không tu hành được. Như vậy là nhẫn nơi mùi vị thô, lời nói ác để nhẫn nhục tu hành chính giới. Nếu chuyển vào thân, thân tiếp xúc với vật mềm mại thích hợp, ngay khi tiếp xúc với vật mềm mại thích hợp ấy, nên nhẫn đừng để tâm bị dao động. Nếu không thì sẽ có một trăm lẻ tám lỗi lầm, không tu hành được. Như vậy là nhẫn khi tiếp xúc với vật mềm mại thích hợp để nhẫn nhục tu hành chính giới. Thân tiếp xúc với vật mềm mại trung bình, từ nơi tiếp xúc với vật mềm mại trung bình ấy nên nhẫn, đừng để tâm bị dao động. Nếu không thì sẽ có một trăm lẻ tám lỗi lầm, không tu hành được. Như vậy là nhẫn khi tiếp xúc với vật mềm mại trung bình để nhẫn nhục tu hành chính giới. Thân tiếp xúc với vật thô, cứng, không thích hợp, từ nơi vật thô, cứng, không thích hợp ấy, nên nhẫn đừng để tâm bị dao động. Nếu động sẽ có một trăm lẻ tám lỗi lầm, không tu hành được. Như vậy là nhẫn khi tiếp xúc với vật thô, cứng, không thích hợp để nhẫn nhục tu hành chính giới. Đức Phật nói: –Như vậy là mười điều cần suy tính của hàng Bồ-tát. Đức Phật nói: –Bồ-tát lại còn có mười điều cần suy tính. Các Bồ-tát cúi đầu thưa: –Những gì là mười điều suy tính? Đức Phật nói: –Bồ-tát cần phải nhẫn nại. Nếu khéo chịu khó thì thuận lợi cho việc thể nhập nơi đạo. Các Bồ-tát hỏi Đức Phật: –Thưa, những gì là nhẫn nại để được thể nhập nơi đạo? Đức Phật nói: –Khi tâm Bồ-tát có sinh khởi ý niệm, nên nhẫn nại cảnh giác tâm, đừng để sinh khởi vọng niệm. Nếu chịu khó như thế thì một trăm lẻ tám tội lỗi không thể thắng thế. Như vậy là chịu khó cảnh giác tâm để thể nhập nơi đạo. Nếu chuyển vào ý, ý có các ý niệm, nên nhẫn nại giữ ý, đừng cho sinh vọng niệm. Nếu chịu khó như thế thì một trăm lẻ tám tội lỗi không thể thắng thế. Như vậy gọi là chịu khó giữ ý để nhập đạo. Nếu chuyển vào thức, thức có các nhận thức, nên nhẫn nại nhận thức, đừng để sinh các vọng niệm. Nếu chịu khó như thế thì một trăm lẻ tám tội lỗi không thể thắng thế. Như vậy là chịu khó nhận thức để vào đạo. Nếu chuyển vào mắt, mắt khi thấy sắc đẹp nên nhẫn nại nơi sắc đẹp, không được sinh vọng niệm. Nếu chịu khó như thế thì một trăm lẻ tám tội lỗi không thể thắng thế. Như vậy là chịu khó nhẫn nại nơi sắc đẹp để vào đạo. Mắt thấy sắc trung bình, nên nhẫn nại nơi sắc loại trung bình, không được để tâm sinh vọng niệm. Nếu chịu khó như thế thì một trăm lẻ tám tội lỗi không thể thắng thế. Như vậy là chịu khó nhẫn nại nơi sắc trung bình để vào đạo. Mắt thấy sắc thô xấu, nên nhẫn nại nơi sắc xấu, đừng để sinh vọng niệm. Nếu chịu khó như thế thì một trăm lẻ tám tội lỗi không thể thắng thế. Như vậy là chịu khó nhẫn nại nơi sắc thô xấu để vào đạo. Nếu chuyển vào tai, tai nghe âm thanh hay, nên nhẫn nại biết là âm thanh hay ấy, đừng để tâm sinh vọng niệm. Nếu chịu khó như thế thì một trăm lẻ tám tội lỗi không thể thắng thế. Như vậy là chịu khó nhẫn nại nơi âm thanh hay để vào đạo. Tai nghe âm thanh trung bình, nên nhẫn nại từ âm thanh trung bình ấy, đừng để tâm sinh các vọng niệm. Nếu chịu khó như thế thì một trăm lẻ tám tội lỗi không thể thắng thế. Như vậy là chịu khó nhẫn nại nơi âm thanh trung bình để vào đạo. Tai nghe âm thanh thô dở, nên nhẫn nại từ âm thanh dở ấy, đừng để các vọng niệm sinh khởi. Nếu chịu khó như thế thì một trăm lẻ tám tội lỗi không thể thắng thế. Như vậy là chịu khó nhẫn nại nơi âm thanh thô dở để vào đạo. Nếu chuyển vào mũi, mũi ngửi mùi thơm, nên từ mùi thơm đó không sinh các vọng niệm. Nếu chịu khó như thế thì một trăm lẻ tám tội lỗi không thể thắng thế. Như vậy là chịu khó nhẫn nại nơi mùi thơm để vào đạo. Mũi ngửi mùi thơm trung bình, nên ngay mùi thơm trung bình đó, tâm không sinh vọng niệm. Nếu chịu khó như thế thì một trăm lẻ tám tội lỗi không thể thắng thế. Như vậy là chịu khó nhẫn nại nơi mùi thơm trung bình để vào đạo. Mũi ngửi mùi hôi thối, nên nhẫn nại với mùi hôi ấy, không để tâm sinh vọng niệm. Nếu chịu khó như thế thì một trăm lẻ tám tội lỗi không thể thắng thế. Như vậy là chịu khó nhẫn nại nơi mùi hôi để vào đạo. Nếu chuyển vào miệng, miệng gặp mùi vị ngon, nói lời hay, nếu chịu khó từ nơi vị ngon, lời nói hay ấy, tâm không sinh vọng niệm thì một trăm lẻ tám tội lỗi không thể thắng thế. Như vậy là chịu khó nhẫn nại nơi vị ngon để vào đạo. Miệng gặp mùi vị ngon, lời nói trung bình, nên chịu khó ngay nơi vị ngon, lời nói trung bình ấy, không sinh vọng niệm thì một trăm lẻ tám tội lỗi không thể thắng thế. Như vậy là chịu khó nhẫn nại nơi vị ngon, lời nói trung bình để vào đạo. Miệng gặp mùi vị dở, lời nói thô ác, tâm không vì vậy mà sinh vọng niệm, thì một trăm lẻ tám tội lỗi không thể thắng thế. Như vậy là chịu khó nhẫn nại nơi mùi vị dở và lời nói thô để vào đạo. Nếu chuyển vào thân, thân tiếp xúc với vật tốt đẹp, mịn nhuyễn, rất thích hợp, nên nhẫn nại biết vật mịn, tốt, thích hợp, không để tâm sinh vọng niệm thì một trăm lẻ tám lỗi lầm không thể thắng thế. Như vậy là chịu khó nhẫn nại khi tiếp xúc với vật mịn, tốt, thích hợp để vào đạo. Thân tiếp xúc với vật mềm mại trung bình, nên nhẫn nại ngay nơi vật mềm mại trung bình ấy, không sinh vọng niệm thì một trăm lẻ tám lỗi lầm không thể thắng thế. Như vậy là chịu khó nhẫn nại khi tiếp xúc với vật mềm mại trung bình để vào đạo. Thân tiếp xúc với vật thô, cứng, gây đau đớn, không thích hợp, nên nhẫn nại ngay khi tiếp xúc với vật thô, cứng, gây đau đớn, không thích hợp mà không sinh vọng niệm, làm cho một trăm lẻ tám lỗi lầm không thể thắng thế. Như vậy là chịu khó nhẫn nại nơi sự thô, cứng, gây đau đớn, không thích hợp để vào đạo. Đức Phật nói: –Bồ-tát tu hành như vậy là thích hợp với hạnh tu nhẫn nhục và giữ giới luật của Bồ-tát. Bồ-tát đã nhẫn nhục liền được một trăm lẻ tám ý nguyện hợp đạo, liền được niềm tin căn bản để vào đạo, liền được một trăm lẻ tám cách vượt thoát nẻo ngu si, vào trong biển trí, liền được một trăm lẻ tám niềm hoan hỷ để trở về cảnh giới tịch diệt, liền được một trăm lẻ tám tâm bi của Phật, liền diệt được một trăm lẻ tám nỗi lo chưa thành tựu Phật đạo. Những gì là một trăm lẻ tám tâm Bi của Phật? Thế nào là một trăm lẻ tám nỗi lo chưa thành tựu Phật đạo? nghĩa là Bồ-tát khi được tâm Bi của Phật, thường nghó đến người đang ở trong địa ngục khắp mười phương thật khó được độ thoát. Là Bồ-tát được tâm Bi của Phật, thường nghó đến các loài cầm thú: bò,bay, máy, cựa, rất khó được độ thoát. Là Bồ-tát được tâm Bi của Phật, thường nghó đến những khốn khổ trong loài ngạ quỷ, khó được độ thoát. Là Bồ-tát khi có được tâm Bi của Phật, thường nghó đến hai mươi tám loại trời và các trời Trường thọ, kiêu hãnh trong sự hoan lạc, không biết đó là nguyên nhân của khổ nên khó được độ thoát. Là Bồ-tát khi có được tâm Bi của Phật, thường nghó đến bậc hào quý đế vương trong thế gian khó được độ thoát. Là Bồ-tát khi có được tâm Bi của Phật, thường nghó đến người ngu si không hiểu biết trong thế gian khó được độ thoát. Là Bồ-tát khi có được tâm Bi của Phật, thường nghó đến nhiều người ngu si trong thế gian rất khó được độ thoát. Là Bồ-tát khi có được tâm Bi của Phật, thường nghó đến năm đường của hết thảy chúng sinh trong mười phương, hết thảy chúng sinh cùng pháp giới khó được độ thoát. Như vậy là Bồ-tát đạt được tâm Bi của Phật. Nỗi lo chưa được thành Phật: Là Bồ-tát thường lo về nỗi cực khổ nơi năm đường của chúng sinh trong mười phương khó được giải thoát. Bồ-tát khi đã buồn, đã lo thì một trăm lẻ tám sự ưu ái lại tăng thêm. Như vậy, Bồ-tát không thể khi một trăm lẻ tám sự ưu ái tăng lên nhiều mà không buồn không lo được. Đức Phật nói: –Ta chỉ theo chỗ thấy rõ bao nỗi cực khổ của chúng sinh trong năm đường khắp mười phương mà được thành Phật. Đó là một trăm lẻ tám tâm bi của Bồ-tát khi chưa được thành Phật. Đó là một trăm lẻ tám nỗi lo khi chưa được thành Phật. Đức Phật nói: –Lại có một trăm lẻ tám phiền não của Bồ-tát khi chưa được thành Phật. Các Bồ-tát hỏi: –Những gì là một trăm lẻ tám phiền não? Đức Phật nói: –nghĩa là Bồ-tát chưa được thành Phật, khi thấy những người trong địa ngục khắp mười phương bị khảo tra, đánh đập đau đớn, muốn đến độ thoát cho họ mà không thể độ thoát được nên sinh phiền não. Là Bồ-tát khi chưa thành Phật, thấy những cầm thú nhỏ như các loại bò, bay, máy, cựa và cả loài người bị hành hạ, tra khảo, giết hại lẫn nhau, Bồ-tát muốn phát tâm độ thoát họ mà không thể được nên sinh phiền não. Là Bồ-tát khi chưa được thành Phật, thấy loài ngạ quỷ bị đói khát, không được ăn uống, muốn độ thoát mà không thể độ được nên sinh phiền não. Là Bồ-tát khi chưa được thành Phật, thấy mọi người trong thế gian thường làm các việc ác, tham dục, sân hận, giết hại để nấu nướng, tế tự, tham lợi, cướp bóc, tâm ý buông lung, thấy mọi người bị khốn khổ nơi sinh tử trong năm cõi, không khi nào có thể chấm dứt! Tuy trên loài người có các loài trời nhưng cũng không sai khác mấy, vì khi hết phước họ cũng phải bị sinh tử, chịu bao khổ não trong năm cõi. Vì Bồ-tát chưa thành Phật nên sinh phiền não, sẽ tăng thêm một trăm lẻ tám hành động tham ái. Đó là Bồ-tát khi chưa thành Phật có một trăm lẻ tám phiền não. Là Bồ-tát khi chưa thành Phật, điều cần thiết phải có một trăm lẻ tám thứ thông tuệ khi chưa được Niết-bàn giải thoát của Phật. Các Bồ-tát lại hỏi Đức Phật: –Thế nào là một trăm lẻ tám điều thông tuệ về kinh điển của Phật? Đức Phật nói: –Là Bồ-tát có thể tự phòng giữ sáu tình căn, một trăm lẻ tám thứ không hành khởi, là được thông tuệ về kinh điển của Phật. Thế nào là chưa được Niết-bàn giải thoát của Phật? Đức Phật nói: –Là Bồ-tát khi chưa được thành Phật, là chưa được Niết-bàn giải thoát của Phật. Đức Phật nói: –Các Bồ-tát nên suy tính một trăm lẻ tám cách ra khỏi các tội chính yếu, liền được vào Niết-bàn giải thoát. Các Bồ-tát lại hỏi Đức Phật: –Thế nào là không vướng vào các tội chính yếu, là được vào Niết-bàn giải thoát? Đức Phật nói: –Bồ-tát khi biết có ý niệm lỗi lầm vừa khởi trong tâm, liền diệt. Nếu ai diệt được là được vào Niết-bàn. Hết thảy sáu tình, tất cả một trăm lẻ tám thứ đều diệt cũng là được vào Niết-bàn giải thoát. Ấy là Bồ-tát thoát ra khỏi một trăm lẻ tám lỗi lầm để vào cảnh Niết-bàn an lạc. Như vậy gọi là mười suy tính của Bồ-tát. Đức Phật nói: –Bồ-tát còn có mười điều suy tính: 1.Khi các Bồ-tát tụ họp, nên cùng nhau bàn tính về một trăm lẻ tám lỗi lầm cần phải dứt trừ, nhằm mong được vào biển trí để thoát khỏi lỗi lầm, ngõ hầu ứng hợp với hạnh của Bồ-tát. 2.Bồ-tát nên suy tính về một trăm lẻ tám cách mong thể nhập nơi pháp không, liền được thoát khỏi lỗi lầm nhờ vào quán pháp không. Như vậy gọi là một trăm lẻ tám suy tính của Bồ-tát vượt thoát lỗi lầm để vào trong pháp không. 3.Bồ-tát nên suy tính về một trăm lẻ tám lỗi lầm vốn từ không mà phát sinh. Nên biết suy tính khi nó diệt cũng trở về không. Như vậy gọi là Bồ-tát suy tính về một trăm lẻ tám nẻo sinh diệt, hợp với quán không để biết sự sinh diệt, là Bồ-tát biết quan sát, suy tính kỹ. 4.Bồ-tát nên suy tính về một trăm lẻ tám cách tu trì nơi pháp không và thấu rõ pháp tịch diệt. Các Bồ-tát lại hỏi Đức Phật: –Thế nào là tu trì pháp không và hiểu rõ pháp tịch diệt? Đức Phật nói: –Bồ-tát nhận biết hết thảy sự vật hiện có trong mười phương, gốc ngọn đều là không, biết rằng không và có cũng đều diệt tận, Bồ-tát biết tịch diệt và lấy đó làm nền tảng vững chắc, tức sẽ không còn một trăm lẻ tám điều chấp trước, không còn có những tham vướng, Bồ-tát có thể tự mình thông hiểu và sẽ biết rõ cảnh giới tịch diệt. Như vậy là Bồ-tát biết suy tính để tu trì pháp không và hiểu rõ pháp tịch diệt. Đó là Bồ-tát suy tính về một trăm lẻ tám cách hiểu rõ pháp tịch diệt và ứng hợp với pháp. 5.Bồ-tát nên suy tính về một trăm lẻ tám điều kiện để vào pháp tịch diệt, không còn sinh tử. Đã biết không còn sinh tử, đó là Bồ-tát suy tư về pháp tịch diệt không còn sinh tử và cũng đã tường tận pháp không sinh tử. 6.Bồ-tát nên suy tư về một trăm lẻ tám pháp tịch diệt, sẽ được Niết-bàn, không còn sinh tử. Bồ-tát vào cảnh giới này suy tư, biết rõ nguyên nhân của sự khổ. Như vậy là Bồ-tát biết suy tư về pháp lạc của Niết-bàn. 7.Bồ-tát nên suy tư để biết một trăm lẻ tám lỗi lầm đã chấm dứt tức là niệm Niết-bàn. Như vậy là Bồ-tát biết suy tư, niệm tướng của Niết-bàn. 8.Bồ-tát nên suy tư về một trăm lẻ tám lỗi lầm đã dứt trừ sạch, lại xả bỏ chỗ niệm tướng ấy, không còn niệm đến nữa. Như vậy là Bồ-tát với một trăm lẻ tám suy tư xả bỏ tướng niệm, không khởi niệm nữa. 9.Bồ-tát nên suy tư những ý niệm sinh diệt không bao giờ dừng nghỉ nên liền sinh ra các tạp niệm. Đã biết ta có các tạp niệm, nên suy tư về Niết-bàn vốn không thật có, vì sao lại còn có tạp niệm về nó. Vì vậy nên phải diệt niệm, đó là Bồ-tát biết suy tư về các tạp niệm. 10.Bồ-tát nên suy tư tự biết muôn vật sinh diệt vốn không có, nên thấy được tướng thường lạc của Niết-bàn, Niết-bàn thường lạc không còn sinh diệt. Như vậy là Bồ-tát biết suy tư, thọ nhận tướng thường lạc của Niết-bàn. Đó là mười suy xét của Bồ-tát. Đức Phật nói: –Bồ-tát lại còn có mười thứ suy xét. Các Bồ-tát hỏi Đức Phật: –Những gì là mười điều suy xét của Bồ-tát? Đức Phật nói: 1.Bồ-tát tự biết về một trăm lẻ tám tội, cũng vì mọi người trong mười phương giảng nói về một trăm lẻ tám tội ấy, cùng chỉ bày nỗi khổ nơi sinh tử trong năm đường. Cũng thường vì mọi người trong khắp mười phương nói đến sự thành hoại của vạn vật, gốc ngọn của sinh tử vốn không thật có. Đây là suy xét thứ nhất của Bồ-tát. 2.Bồ-tát nên suy tính đem việc thành hoại trong mười phương để chứng minh, dùng phương tiện đó để chỉ dạy cho mọi người. Đây là Bồ-tát dùng phương pháp chứng minh và suy tư cách làm cho mọi người hiểu rõ. 3.Bồ-tát nên suy tính về mọi người trong mười phương đều có tham lam, chấp trước. Do tham chấp nên đều là si mê. Bồ-tát thường nên vì người giải trừ tham chấp, si mê cho họ. Bồ-tát cũng nên đem chỗ tham si ấy đối chiếu nơi chính bản thân mình: “Ta khi chưa biết tu đạo Bồ-tát thì tham si cũng quá lắm”. Bồ-tát suy nghó được như vậy, thường có lòng từ, cởi mở tham si cho người. Đây gọi là suy tính của Bồ-tát. 4.Bồ-tát thường nên suy tính về một trăm lẻ tám cách đem những người si mê trong mười phương ra làm chứng. Các Bồ-tát lại hỏi Đức Phật: –Thế nào là đem người si mê trong mười phương để làm chứng? Đức Phật nói: –Người trong mười phương, các ý niệm của họ đều vướng vào một trăm lẻ tám cách si mê. Bồ-tát phải trừ bỏ một trăm lẻ tám sự si mê ấy mới là không còn ngu si. Bồ-tát nếu có lỗi trong việc tu hành một trăm lẻ tám hành động gọi là si mê. Nên đem những người còn si mê trong mười phương ra làm chứng để Bồ-tát khỏi sai lầm trong việc tu hành. Đó gọi là pháp suy tính của Bồ-tát. 5.Bồ-tát lại nên suy tính về một trăm lẻ tám cách đem các vị A-la-hán khắp mười phương để làm chứng cứ. Các Bồ-tát thưa: Lại suy tính về một trăm lẻ tám cách đem các vị A-la-hán để làm chứng cứ là thế nào? Đức Phật nói: –Bồ-tát có lỗi trong việc tu hành là có vướng vào nẻo tham chấp, nên phải đem việc Bồ-tát đã bỏ Niết-bàn của A-la-hán cho là không thật có, sao lại còn vướng vào ý niệm này để có lỗi trong việc tu hành? Vì sao lại vin dựa nơi ý niệm khổ này? Bồ-tát đem Niết-bàn của A-la-hán để thường nhắc nhở làm chứng. Đó là sự suy tư của Bồ-tát. 6.Nếu Bồ-tát còn có lỗi trong việc tu hành, nên suy tính về một trăm lẻ tám cách là đem Niết-bàn của Bích-chi-phật cho là không thật có để làm chứng. Đây là pháp suy tính của Bồ-tát. 7.Bồ-tát nếu còn có lỗi trong việc tu hành, nên lại suy tính về một trăm lẻ tám cách này cũng không thật có, nên đem Niết-bàn của mười phương Phật trong thời quá khứ cho là không thật có, mười phương chư Phật thời quá khứ đều là thầy của ta, đều ở trong Niết-bàn mà vẫn từ bỏ, ta vì sao lại có lỗi trong việc tu hành mà vẫn tu hành tại thế gian? Bồ-tát đã nêu lên các việc để chứng minh, liền hồi tâm trở lại, thâu giữ ý để tu tập. Đây là Bồ-tát suy tính về phương pháp nêu lên các sự kiện để chứng minh. 8.Bồ-tát nếu có lỗi trong việc tu hành nên nêu chư Phật hiện tại trong mười phương cũng sẽ từ bỏ Niết-bàn, thường đem việc chư Phật đã tự chứng đắc để nhắc nhở làm chứng, để trở lại tinh tấn tu tập. Đây là một trăm lẻ tám phương pháp suy tính của Bồ-tát đem sự chứng đắc để nhắc nhở tu hành. 9.Bồ-tát suy tính về một trăm lẻ tám cách mà cũng còn lỗi lầm trong sự tu hành. Đức Phật nói: –Nay ta là Phật Thích-ca Văn, là thầy của các hàng trời, người, vua, quan, muôn dân đều quy hướng về, có oai thần lớn, tự tại đến, đi. Ta hoặc muốn vào Niết-bàn hoặc bỏ qua như không có. Các vị thường nên đem ta làm chứng, thường nên vững tâm mong cầu thành Phật, lấy ta làm chứng, ý ấy không lay chuyển. Nếu ai bị lay chuyển là có lỗi trong việc tu hành, sẽ rơi vào trong một trăm lẻ tám hành động tham ái. Đó là sự suy tính của Bồ-tát. 10.Bồ-tát thường nên dốc sức từ bỏ lòng tham, không thích thọ dụng, không ưa mong cầu. Người ham thọ dụng và mong cầu là không thích hợp với hạnh của Bồ-tát. Bồ-tát mong cầu chính đáng là thường phân biệt, suy xét về những tư duy của chính mình. Đây gọi là năm mươi suy tính của Bồ-tát. Đức Phật nói: –Các Bồ-tát thực hành pháp An ban thủ ý thường vấp phải lỗi lầm trong khi tu hành, không phải là không có. Các Bồ-tát hỏi Phật: –Vì sao chúng con đã là Bồ-tát, còn vướng phải lỗi lầm trong khi tu hành? Đức Phật nói: –Vì Bồ-tát không chán bỏ về nguyên nhân của sự khổ trong sinh tử, không tự mình thấy rõ nguyên nhân của sinh tử nên không biết khi sinh tử chấm dứt, không rõ có con đường đến cảnh giới Niết-bàn của Đức Phật. Đức Phật nói: –Các Bồ-tát không thể tự tu theo đạo Bồ-tát, thường nên hay cao ngạo, cho mình hơn tất cả mọi người. Đức Phật nói: –Nếu chưa giác ngộ được nguyên nhân của khổ trong sinh tử thì chưa cùng với tịch diệt hợp, chưa cùng với đạo hợp, sẽ thường phải mang thân tướng khổ não, cũng sẽ chịu cái khổ của nóng lạnh, của đói khát không thể chấm dứt. Như vậy, Bồ-tát chưa có thể tự dựa vào các điều lành đã có. Đức Phật nói: –Khi ta chưa thành Phật, tự cho trí tuệ của mình không ai theo kịp, tự cho mình tu thiền không ai theo kịp, tự cho mình diệt vọng niệm thô tế không ai theo kịp. Đức Phật nói: –Khi ta đã thành Phật hiệu Thích-ca Mâu-ni, nhớ lại khi còn làm Bồ-tát, sự hiểu biết cũng giống như trí của một Bồ-tát, nay đã thành Phật, có trí tuệ rộng lớn, ví như muôn vật và Bồ-tát có khắp trong mười phương cõi Phật. Đức Phật nói: –Trí tuệ của Bồ-tát khắp trong mười phương cõi Phật không bằng trí tuệ của Phật, chỉ như mảy trần nơi một phương Phật. Các Bồ-tát liền cúi đầu thưa hỏi Phật: –Chúng con ngu si như thế nào mà dù gom trí của nhiều người cũng không thể bằng trí nhỏ như một mảy trần của Phật. Đức Phật nói: –Do các vị chưa chán nơi nguyên nhân của sự khổ trong sinh tử, không mong sớm thành Phật, không biết được vọng tâm thô tế của mình, không biết diệt tội căn bản, đoạn căn nguyên của sinh tử. Nếu các vị tận lực, siêng năng tu hành cũng sẽ đạt được trí tuệ của mười phương chư Phật. Các Bồ-tát hỏi: –Chúng con vì nhân duyên gì mà phải ở lâu trong sinh tử như vậy? Đức Phật nói: –Do các vị không vững tâm thực hành pháp An ban thủ ý, phẩm kinh ba mươi bảy, có mười hai câu hỏi, gồm ba pháp hướng vào bên trong nơi tâm ý vi tế. Vì không biết phân biệt và suy tính về một trăm lẻ tám tâm ý thô tế bên trong, khiến các vị ở lâu trong sinh tử, khó được thành Phật. Đức Phật nói: –Khi tâm các vị chưa sinh khởi, trong đó có năm trăm bốn mươi, một trăm lẻ tám hành ái. Nếu tâm chuyển, sẽ tác động nơi ý, trong đó có năm trăm bốn mươi, một trăm lẻ tám hành ái. Nếu ý chuyển, sẽ tác động nơi thức, trong đó có năm trăm bốn mươi, một trăm lẻ tám hành ái. Nếu chuyển vào mắt, mắt khi thấy sắc đẹp, trong đó có năm trăm bốn mươi, một trăm lẻ tám hành ái. Mắt thấy sắc trung bình, trong đó có năm trăm bốn mươi, một trăm lẻ tám hành ái. Mắt thấy sắc thô xấu, trong đó có năm trăm bốn mươi, một trăm lẻ tám hành ái. Nếu chuyển vào tai, tai nghe tiếng hay, trong đó có năm trăm bốn mươi, một trăm lẻ tám hành ái. Tai nghe âm thanh trung bình, trong đó có năm trăm bốn mươi, một trăm lẻ tám hành ái. Tai nghe tiếng thô dở, trong đó có năm trăm bốn mươi, một trăm lẻ tám hành ái. Nếu chuyển vào mũi, mũi ngửi mùi thơm, trong đó có năm trăm bốn mươi, một trăm lẻ tám hành ái. Mũi ngửi mùi thơm trung bình, trong đó có năm trăm bốn mươi, một trăm lẻ tám hành ái. Mũi ngửi mùi hôi thối, trong đó có năm trăm bốn mươi, một trăm lẻ tám hành ái. Nếu chuyển vào miệng, miệng nếm vị ngon, lời nói hay đẹp, trong đó có năm trăm bốn mươi, một trăm lẻ tám hành ái. Miệng nếm vị trung bình, lời nói trung bình, trong đó có năm trăm bốn mươi, một trăm lẻ tám hành ái. Miệng nếm vị thô dở, lời nói xấu ác, trong đó có năm trăm bốn mươi, một trăm lẻ tám hành ái. Nếu chuyển vào thân, thân được tiếp xúc với vật tốt đẹp, mịn nhuyễn, thích hợp, trong đó có năm trăm bốn mươi, một trăm lẻ tám hành ái. Thân được tiếp xúc với vật mịn nhuyễn trung bình, trong đó có năm trăm bốn mươi, một trăm lẻ tám hành ái. Thân được tiếp xúc với vật thô, cứng gây làm đau đớn, không thích hợp, trong đó có năm trăm bốn mươi, một trăm lẻ tám hành ái. Đức Phật nói: –Trong một tâm niệm có năm trăm bốn mươi, một trăm lẻ tám hành ái. Trong năm trăm bốn mươi, một trăm lẻ tám hành ái ấy, người có một niệm tham ái sẽ chịu một lần sinh tử, còn một niệm tham ái sẽ thọ thêm một thân. Như vậy sẽ không cùng tận với năm trăm bốn mươi niệm tham ái, sẽ chịu năm trăm bốn mươi thân trong sinh tử. Nếu chuyển qua ý, qua thức cũng vậy. Chuyển qua sắc đẹp cũng vậy, sắc thường cũng vậy, sắc xấu cũng vậy. Chuyển qua âm thanh hay cũng vậy, âm thanh trung bình cũng vậy, âm thanh dở cũng vậy. Chuyển qua mùi thơm cũng vậy, mùi thơm trung bình cũng vậy, mùi thối cũng vậy. Chuyển qua miệng, gặp đồ ăn ngon, lời nói hay cũng vậy, mùi vị và lời nói trung bình cũng vậy, mùi vị dở và lời nói dở cũng vậy. Chuyển qua thân, gặp vật tốt mịn màng hợp thân cũng vậy, gặp vật tế nhuyễn trung bình cũng vậy, gặp vật thô, cứng, làm đau đớn, không thích hợp cũng vậy. Đức Phật hỏi các Bồ-tát: –Các vị có như thế không? Các Bồ-tát thưa: –Chúng con nghe Đức Phật giảng nói nên đều có thể biết. Đức Phật nói: –Các vị đâu tin có việc như vậy. Các Bồ-tát thưa: –Dạ thưa tin có việc như vậy, chúng con không nghi, chỉ không hiểu thôi. Đức Phật hỏi: –Các vị phát tâm đến với giáo pháp của ta, có biết trong ý các vị có bao nhiêu biến chuyển? Từ trước đến giờ các vị nghe ta giảng nói, có biết ý của các vị có bao nhiêu biến chuyển không? Các Bồ-tát thưa: –Dạ thưa chúng con không biết ý của mình có bao nhiêu biến chuyển? Đức Phật hỏi: –Vì sao các vị không biết y của mình có bao nhiêu biến chuyển? Các Bồ-tát thưa: –Chúng con nghe Phật giảng nói kinh thì rất hoan hỷ, nhưng lại không biết tâm ý có bao nhiêu biến chuyển. Đức Phật nói: –Các vị đến với giáo pháp giải thoát mà không biết về ý niệm đã chuyển biến là rơi vào sinh tử. Ví như ở đây, trong nước Ma-kiệt, số vi trần không thể biết, nhiều hay ít? Các Bồ-tát chỉ ngồi nhận lỗi trong việc tu hành, chứ không thể tự hiểu biết về sinh tử còn nhiều hay ít. Vì vậy nên không thể liền thành Phật. Các Bồ-tát đều cúi đầu hoan hỷ nhận lời chỉ dạy phụng hành. Các Bồ-tát đều cung kính thưa: –Chúng con khi chưa được nghe Đức Phật giảng dạy về năm mươi điều cần suy tư, thì tự không thấy có lỗi trong việc tu hành. Khi đã nghe Phật giảng giải về năm mươi điều suy tư, chúng con đều tự biết có lỗi trong sự tu hành. Đức Phật nói: –Các vị có thể cũng có lỗi, hoặc cũng không có lỗi trong việc tu hành. Các Bồ-tát lại hỏi: –Như thế nào là cũng có lỗi và cũng không có lỗi trong việc tu hành? Đức Phật nói: –Các vị khi đi đến trước chư Phật trong mười phương, sinh tâm kiêu ngạo, tự khen: “Các lỗi trong năm mươi điều cần suy tư của Bồ-tát trước đó tôi hiểu không đúng. Như thế là tôi đã biết có lỗi trong việc tu hành”. Nói như vậy cũng vẫn có lỗi trong việc tu hành. Đức Phật nói: –Người không có lỗi trong việc tu hành là Bồ-tát khi đến trước mười phương chư Phật thường nên tự biết hổ thẹn, tự hổ thẹn về thân thể, tự hổ thẹn về sinh tử, vừa sinh tâm liền rơi vào lỗi lầm không thể suy tư mà biết kịp. Vì vậy, thường nên duy trì năm mươi điều suy tư để tự biết lỗi mà hổ thẹn. Như vậy là Bồ-tát không có lỗi trong việc tu hành. Người không tự biết hổ thẹn, thường có lỗi trong việc tu hành. Khi Đức Phật giảng dạy như vậy, các Bồ-tát đều tự hổ thẹn, đều tự biết ăn năn và đều tự nghó: “Tâm sinh diệt là chẳng phải thường, thân là khổ, không, là chẳng phải ngã.” Các Bồ-tát được nghe kinh này đều rất hoan hỷ, cùng đến trước Đức Phật, đầu mặt chạm sát đất, cung kính đảnh lễ, nhận lời chỉ dạy để tu tập rồi lui ra. <卷 id="117157949">