<經 id="n331">KINH VÔ ÚY THỌ SỞ VẤN ĐẠI THỪA Hán dịch: Đời Triệu Tống, Đại sư Thi Hộ. Quyển Thượng Tôi nghe như vầy: Một thời, Đức Thế Tôn trú nơi khu lâm viên Kỳ Đà - Cấp Cô Độc, thuộc nước Xá-vệ, cùng với chúng đại Bí-sô gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị, đều là A-la-hán, đã đoạn hết các lậu, không còn phiền não, tâm hoàn toàn giải thoát, tuệ hoàn toàn giải thoát, như đại Long vương, việc cần làm đã làm xong, bỏ các gánh nặng, đã được tự lợi, dứt trừ các kiết sử, chánh trí giải thoát, các tâm tịch tónh, đều đạt đến bờ kia, chỉ có Tôn giả A-nan là còn ở bậc hữu học. Lại có năm trăm vị Đại Bồ-tát đều chứng đắc tất cả môn Đà-la-ni, Tam-ma-địa, đều là bậc Nhất sinh bổ xứ. Bấy giờ, trong thành Xá-vệ có vị trưởng giả tên là Vô Úy Thọ rất giàu có, đầy quyền lực, có nhiều của báu, tích chứa các vật dụng, kho tàng nào vàng, bạc, lưu ly, chân châu, san hô, các đồ chạm xà cừ v.v… đều đầy đủ. Ngoài ra, còn có xe cộ, voi, ngựa, trâu, dê v.v… Lại có nhiều quyến thuộc, nô tỳ, tôi tớ, người giúp việc và bạn bè. Một thời, Vô Úy Thọ cùng với năm trăm trưởng giả tập hợp, nói với nhau: –Các Nhân giả! Gặp Phật ra đời là việc khó, được thân người là khó, gặp thời thế thuận lợi là khó, phát lòng tin thanh tịnh đối với giáo pháp của Phật rất khó; bỏ nhà xuất gia, thành Bí-sô cũng là khó, tu hành lại rất khó. Các hữu tình kia biết ân, nghó nhớ báo ân cũng rất khó. Chỉ thực hành được chút ít còn không mất, huống là thực hành nhiều. Lại nữa, các hữu tình ở trong giáo pháp của Đức Như Lai có thể phát lòng tin thanh tịnh. Tin rồi, lại có thể nương vào giáo pháp mà tu hành, việc này rất là khó. Lại nữa, các hữu tình có thể trang nghiêm bằng giáo pháp của Như Lai, lại có thể giải thoát khỏi nẻo luân hồi, việc này rất là khó. Vì thế, chúng ta không nên ở trong pháp của Thanh văn thừa và Duyên giác thừa để mong cầu Niết-bàn, mà nên ở trong pháp Vô thượng Đại thừa để mong cầu Niết-bàn, giải thoát. Bàn luận với nhau như vậy rồi tất cả đều phát sinh tâm thù thắng, rộng lớn, nói: –Chúng sinh đều nên ở trong pháp Vô thượng Đại thừa để mong cầu Niết-bàn, không ưa Thanh văn thừa, Duyên giác thừa. Khi ấy, Vô Úy Thọ cùng với năm trăm trưởng giả lần lượt ra khỏi thành Xá-vệ, đến gặp Đức Thế Tôn. Đến nơi, cúi đầu đảnh lễ nơi chân Ngài, nhiễu quanh theo bên phải bảy vòng rồi ngồi qua một bên. Bấy giờ, Đức Thế Tôn biết rõ về việc này rồi, nên hỏi Vô Úy Thọ và năm trăm trưởng giả: –Này các trưởng giả! Vì sao các ông đến gặp Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác? Vô Úy Thọ và năm trăm trưởng giả đều rời đứng dậy, trịch một vai áo, gối phải chấm đất, hướng về Phật chấp tay đảnh lễ, thưa: –Bạch Thế Tôn! Vừa rồi, khi chúng con ngồi một chỗ, nói với nhau: “Gặp Phật ra đời là việc khó, được thân người là khó, gặp thời thế thuận lợi là khó, phát lòng tin thanh tịnh đối với giáo pháp của Phật rất khó; bỏ nhà xuất gia, thành Bí-sô cũng là khó, tu hành lại rất khó. Các hữu tình kia biết ân, nghó nhớ báo ân cũng rất khó. Chỉ thực hành được chút ít còn không mất, huống là thực hành nhiều.” Lại nữa, các hữu tình ở trong giáo pháp của Như Lai có thể phát lòng tin thanh tịnh. Tin rồi, lại có thể nương vào giáo pháp mà tu hành, việc này rất là khó. Lại nữa, các hữu tình có thể trang nghiêm bằng giáo pháp của Đức Như Lai, lại có thể giải thoát khỏi nẻo luân hồi, việc này rất là khó. Vì thế, chúng ta không nên ở trong pháp của Thanh văn thừa và Duyên giác thừa để mong cầu Niết-bàn, mà nên ở trong pháp Vô thượng Đại thừa để mong cầu Niết-bàn, giải thoát. Bàn luận với nhau như vậy rồi tất cả đều phát sinh tâm thù thắng, rộng lớn, nói: –Chúng ta đều nên ở trong pháp Vô thượng Đại thừa để mong cầu Niết-bàn, không ưa Thanh văn thừa, Duyên giác thừa. Do nhân duyên này, chúng con đến gặp Đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác. Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát muốn chứng đắc đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nên an trụ như thế nào, học như thế nào, tu hành như thế nào? Bấy giờ, Đức Thế Tôn khen Vô Úy Thọ và năm trăm trưởng giả: –Lành thay! Lành thay! Các trưởng giả, rất tốt, rất tốt! Các ông vì muốn an trụ nơi đạo quả Bồ-đề vô thượng nên đến gặp Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác. Các ông hãy lắng nghe và chú ý thật kỹ, Ta sẽ thuyết giảng cho các ông. Khi ấy, Vô Úy Thọ và năm trăm trưởng giả vâng lời, lắng nghe. Đức Phật bảo các trưởng giả: –Đại Bồ-tát nào muốn chứng đạo quả Bồ-đề vô thượng, nên an trụ như vầy, học như vầy, tu hành như vầy. Lại nữa, Đại Bồ-tát nào muốn chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng, nên đối với tất cả hữu tình phát tâm đại bi, gần gũi hết thảy, thâu nhận, quán sát hành động tất cả nhưng Đại Bồ-tát đối với thân mình không nên tham đắm, đối với vật sở hữu: nhà cửa, vợ con, quyến thuộc, thức ăn uống, y phục, xe cộ, giường tòa, châu báu, thóc lúa, hương hoa, đèn v.v… cho đến tất cả vật thọ dụng đáng ưa thích đều không nên tham đắm. Vì sao? Vì phần nhiều các hữu tình tham đắm nơi thân mạng nên tạo nhiều nghiệp tội. Các nghiệp tạo chín muồi sẽ bị đọa sinh trong đường ác địa ngục. Nếu đối với tất cả hữu tình phát tâm đại bi, đối với thân mạng không tham đắm, liền được sinh vào tất cả đường thiện. Này các trưởng giả! Vì thế, chư Bồ-tát muốn chứng đắc đạo quả Vô thượng, đối với tất cả hữu tình phát tâm đại bi, đối với thân mạng không tham đắm, đối với vật sở hữu: nhà cửa, vợ con, quyến thuộc, thức ăn uống, y phục, xe cộ, giường tòa, châu báu, thóc lúa, hương hoa, đèn v.v… cho đến tất cả vật thọ dụng đáng ưa thích đều không tham đắm. Sau đó tự xả bỏ tất cả, thực hành bố thí rộng lớn, không cầu quả báo mà an trụ nơi giới hạnh, ba tướng thanh tịnh, tu các nhẫn nhục, có thể kham nhẫn mọi điều với tất cả hữu tình, những việc không có lợi ích cho mình đều có thể nhẫn chịu; mặc áo giáp tinh tấn kiên cố, thân mạng đều có thể xả bỏ, an trụ nơi tịch tónh, tâm chuyên chú một cảnh, xa lìa tán loạn, với thắng tuệ lựa chọn các pháp thiện, không phát sinh các kiến chấp về ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả, người, Bổ-đặc-già-la, ý sinh. Vì tất cả chúng sinh làm các hạnh thù thắng, vì tất cả hữu tình tác ý hành bố thí, vì tất cả hữu tình tác ý hộ giới, vì tất cả hữu tình tác ý hành nhẫn nhục, vì tất cả hữu tình tác ý phát sinh tâm kiên cố tinh tấn, vì tất cả hữu tình tác ý an trụ nơi các môn định thù thắng, vì tất cả hữu tình tác ý tu tuệ, vì tất cả hữu tình học tập tất cả phương tiện thiện xảo. Bấy giờ, Vô Úy Thọ và năm trăm trưởng giả đều thưa: –Bạch Thế Tôn! Chúng con xưa nay đối với thân mạng đều sinh tham đắm, đối với vật sở hữu: nhà cửa, vợ con, quyến thuộc, thức ăn uống, y phục, xe cộ, giường tòa, châu báu, thóc lúa, hương hoa, đèn… cho đến tất cả vật thọ dụng đáng ưa thích đều sinh tham đắm. Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát do quán sát điều gì mà có thể đối với thân mạng cho đến tất cả vật thọ dụng đáng ưa thích đều không sinh tham đắm? Nguyện xin Phật giảng cho. Đức Thế Tôn bảo Vô Úy Thọ và năm trăm trưởng giả: –Các Đại Bồ-tát dùng vô số tướng để quán sát thân. Thế nào là vô số? Nghóa là thân này không thật, do các duyên tập hợp, nhờ những đơn vị nhỏ như cực vi hợp lại, từ đỉnh đầu đến chân lần lượt bị hủy hoại; từ chín chỗ và các lỗ chân lông, bất tịnh thường chảy ra như đàn kiến bò. Như rắn độc ở trong, rắn độc trở lại làm hại. Như oán địch, như khỉ vượn, nhiều điều khổ não. Như bạn ác thường tranh giành. Thân như bọt nước không thể nắm bắt, lại như bóng nước vừa có liền tan, lại như dợn nắng phát sinh khát ái. Lại như trong thân cây chuối không có lõi cứng. Lại như huyễn hóa do hư vọng sinh. Lại như nhà vua nhiều loại giáo lệnh. Lại như oán đối thường đến dò xét. Lại như giặc cướp không có tín nghóa. Lại như kẻ sát hại rất khó điều phục. Như bạn ác thường không hoan hỷ. Như người phá pháp, ẩn mất tuệ mạng. Lại như bạn xấu làm giảm mất pháp thiện. Lại như làng hoang không có chủ tể. Lại như đồ gốm cuối cùng bị phá vỡ. Như hầm tiểu tiện, đầy dẫy bất tịnh. Như chỗ đại tiện thường nhiều ô uế. Lại như loài quỷ và dòi trùng, chó v.v ăn nuốt các đồ bất tịnh, ưa ở chỗ hôi bẩn. Lại như vật chứa đồ ô uế lớn, từ xa cũng ngửi thấy mùi hôi thối. Như mụt ghẻ độc khó lành, lở đau không thể chịu được. Lại như tên độc ghim vào thân rất đau đớn. Như gia chủ độc ác khó có thể nuôi dưỡng người hầu. Lại như nhà dột, như ghe thủng, tuy có sửa chữa cũng bị tan rã. Lại như đồ ngói không được bền chắc. Lại như bạn ác thường giả vờ giúp đỡ. Như cây bên bờ sông bị gió thổi lay động. Như sông lớn chảy xiết rốt cuộc về biển chết. Lại như quán trọ nhiều thứ chống trái, phiền não. Như nhà vô chủ, không có sự trông nom. Như người đi tuần, thường chuyên kiểm soát. Như nơi biên cương có nhiều sự quấy nhiễu. Như đống cát dần dần thấp xuống. Như lửa cháy lan. Như biển khó vượt qua. Như đất khó làm bằng phẳng. Như rắn ở trong thạp, sẽ gây tổn hại. Lại như em bé thường cần sự yêu thương. Lại như bình bị nứt không thể dùng được. Như nơi xấu ác thường đáng lo ngại rối loạn. Như thức ăn lẫn chất độc thường nên xa lìa. Như người đi xin, được nhiều loại vật thí, được rồi lại bỏ đi. Lại như xe lớn chở vật rất nặng. Chỉ có các bậc trí đối với pháp hiểu rõ, mới biết như vậy. KINH VÔ ÚY THỌ SỞ VẤN ĐẠI THỪA Quyển Trung Lại nữa, này trưởng giả! Đại Bồ-tát quán sát thân này, ban đầu do đâu mà có? Nghóa là thân này do tinh cha huyết mẹ hợp lại mà có, lại do thọ nhận các thức ăn uống. Thức ăn vào rồi lại biến hoại, tích tụ liền tan nát, nhờ vào sự tiêu hóa, lưu thông, thấm nhuần cơ thể, cuối cùng trở lại bất tịnh. Sau đó, hỏa đại tăng mạnh, nấu đốt biến thành chín. Cuối cùng trở về phong lực, do phong lực này có phần biến thành chất cặn bã, phần khác lưu thông thấm nhuần cơ thể. Chất cặn bã là phần đại tiểu tiện. Phần lưu thông thấm nhuần gọi là máu, máu biến thành thịt, thịt thành mỡ, mỡ thành xương, xương thành tủy, tủy thành tinh v.v… mới thành thân bất tịnh này. Bồ-tát quán thân bất tịnh này nên mới tư duy: Thân này do nhiều thứ tập hợp, tên gọi, tướng trạng khác nhau, nghóa là: ba trăm xương, sáu mươi mỡ lá và mỡ nước, hợp lại thành bốn trăm mạch máu, chín trăm gân, mười sáu xương sườn. Lại có ba việc: bên trong là các bộ phận sinh tạng thục tạng, và ruột có mười sáu ruột quấn nhau, hai ngàn năm trăm mạch máu thông suốt nhau, một trăm lẻ bảy đốt, tám mươi vạn ức lỗ chân lông, đầy đủ năm căn, chín lỗ, bảy tạng, đầy dẫy những thứ bất tịnh. Tủy có một vốc, não một vốc, mỡ có ba vốc, đàm ấm có sáu vốc, cặn bã có sáu vốc. Nhờ phong lực, máu lưu thông có một đấu. Như vậy tất cả đều đầy dẫy. Có bảy mạch nước vây quanh và các chất bổ. Bên trong, hỏa đại tăng mạnh, đốt, nấu làm cho nóng bức, mệt nhọc, mồ hôi trong thân chảy ra. Các tướng như vậy rất khó thấy được. Thân thể bất tịnh, ô uế như vậy, làm sao có thể phát sinh tâm tham ái được. Như người đi xin, được đồ vật rồi lại bỏ đi. Lại như xe lớn chở đồ rất nặng. Chỉ có người trí hiểu rõ các pháp nên biết như vậy. Đức Phật liền nói kệ tụng: Thân này hợp nhiều thứ bất tịnh Người ngu không trí, không biết rõ Phát sinh mạnh mẽ tâm tham ái Như bình dơ vỡ nhiều hôi thối. Tai, mắt, miệng, mũi đều ô uế Làm sao có thể thơm sạch được? Ghèn, nước dãi, cứt ráy, nước mũi Các trùng ô uế sao ưa mến? Ví như người ngu lấy than củi Ra sức mài dũa muốn làm trắng Than hết, mỏi mệt, không thể trắng Vô trí tham vọng cũng như vậy. Như người ý muốn được thanh tịnh Phần nhiều lo trau chuốt thân này Trăm cách tắm gội và thoa hương Chết rồi thân rã thành bất tịnh. Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại bảo Vô Úy Thọ và năm trăm trưởng giả: –Các trưởng giả nên biết! Đại Bồ-tát muốn chứng đạo quả Bồ-đề vô thượng, nên quán sát thân này có bốn mươi bốn tướng. Thế nào là bốn mươi bốn? Nghóa là: Đại Bồ-tát quán sát thân này thật là đáng chán bỏ. Bồ-tát quán thân không thể ưa thích vì không ích lợi gì. Bồ-tát quán thân rất là hôi dơ, máu mủ chảy tràn. Bồ-tát quán thân thật không bền chắc, cuối cùng bị tan hoại. Bồ-tát quán thân thể tánh suy yếu, gân xương liền nhau. Bồ-tát quán thân bất tịnh, ô uế thường chảy. Bồ-tát quán thân như huyễn, phàm phu ngu muội phát sinh tướng dối trá, loạn động. Bồ-tát quán thân nhiều chỗ rỉ ra, vì có chín lỗ thường chảy rỉ. Bồ-tát quán thân lửa đốt hừng hực, nghóa là lửa tham thiêu đốt, lửa sân dữ dội, lửa si làm mê ám. Bồ-tát quán thân thường bị lưới tham, sân, si, lưới ái che phủ liên tục. Bồ-tát quán thân là nơi các lỗ nương vào vì chín lỗ và các lỗ chân lông khắp thân thường rỉ ra chất bẩn. Bồ-tát quán thân nhiều loại khổ não vì bốn trăm lẻ bốn bệnh nặng thường tăng làm tổn hoại. Bồ-tát quán thân là hang ổ chứa tám vạn bốn ngàn hộ trùng. Bồ-tát quán thân vô thường, cuối cùng cũng trở về sự chết. Bồ-tát quán thân là vật vô tri, đối với pháp không biết gì. Bồ-tát quán thân như đồ dùng, do các duyên hợp thành, cuối cùng cũng tan hoại. Bồ-tát quán thân bị bức bách vì nhiều sự ưu não. Bồ-tát quán thân không chỗ hướng đến, vì cuối cùng bị già chết. Bồ-tát quán thân hay che giấu, làm những việc dối trá. Bồ-tát quán thân như đất, khó bằng phẳng. Bồ-tát quán thân như lửa vì ham mê sắc nên bị ràng buộc. Bồ-tát quán thân không nhàm chán vì chạy theo năm dục. Bồ-tát quán thân tan hoại vì bị phiền não làm chướng ngại. Bồ-tát quán thân không có phần vị nhất định, tùy theo lợi ích mà biểu hiện sự tiếp thu. Bồ-tát quán thân không có duyên nào chính phụ, vì không có nguồn gốc. Bồ-tát quán thân như ý giong ruổi vì các duyên tác ý quán xét. Bồ-tát quán thân lúc xả bỏ, cuối cùng ném ra bãi tha ma. Bồ-tát quán thân bị thú dữ ăn thịt, chim thứu, sói ăn nuốt. Bồ-tát quán thân như ánh hiện ở trong mâm gương đồng, gân xương nối tiếp nhau. Bồ-tát quán thân không có gì luyến tiếc, lúc trút hơi thở cuối cùng máu mủ chảy tràn. Bồ-tát quán thân tham đắm vị ngon ngọt của thức ăn uống, do ăn uống mà tồn tại. Bồ-tát quán thân cực nhọc, không lợi ích gì vì pháp vô thường sinh diệt. Bồ-tát quán thân như bạn ác, sinh các tà kiến. Bồ-tát quán thân như kẻ sát hại, càng gặp nhiều càng tăng thêm khổ. Bồ-tát quán thân là pháp khổ, bị ba khổ bức bách, là: hành khổ, hoại khổ, khổ khổ. Bồ-tát quán thân là tập hợp các khổ, năm uẩn xoay chuyển, không có chủ tể. Bồ-tát quán thân không được tự tại, do các duyên hợp thành. Bồ-tát quán thân không thọ mạng, xa lìa tướng nam nữ. Bồ-tát quán thân là không tịch, do các uẩn, xứ, giới hợp thành. Bồ-tát quán thân là hư giả, như mộng. Bồ-tát quán thân không thật vì như huyễn. Bồ-tát quán thân tán loạn như sóng nắng. Bồ-tát quán thân là giong ruổi, như tiếng vang. Bồ-tát quán thân do hư vọng sinh, như hình bóng. Này trưởng giả! Do quán sát bốn mươi bốn tướng nơi thân như vậy, nên Đại Bồ-tát lúc quán sát sự ưa thích đối với thân, sự luyến tiếc đối với thân, sự chấp ngã đối với thân, sự ái nhiễm đối với thân, sự tích chứa đối với thân, sự đắm chấp đối với thân đều đoạn trừ tất cả. Do đó, sự ưa thích đối với mạng, sự luyến tiếc đối với mạng, sự ái nhiễm đối với mạng, sự tích chứa đối với mạng, sự chấp ngã đối với mạng, sự đắm chấp đối với mạng, cho đến nhà cửa, vợ con, quyến thuộc, thức uống ăn, y phục, xe cộ, giường tòa, châu báu, của cải, lúa gạo, hương hoa, đèn đuốc v.v…, tất cả những vật dụng hoặc ưa thích, hoặc đắm trước, hoặc chấp ngã sở, hoặc ái nhiễm, hoặc tích chứa, hoặc đắm chấp cũng đều đoạn trừ hết tất cả. Do đối với thân, mạng có thể xả bỏ, cho đến tất cả vật dụng ưa thích cũng đều xả bỏ, như vậy mới có thể viên mãn sáu Ba-la-mật-đa. Này trưởng giả! Đại Bồ-tát do có thể viên mãn các pháp Ba-la-mật đa nên có thể mau chứng quả Bồ-đề vô thượng. Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghóa này, liền nói tụng: Nên biết thân người rất khó được Chớ vì thân này tạo các tội Vất bãi tha ma, sói ăn thịt Hoàn toàn thân này là đồ bỏ. Người ngu vô trí thường động loạn Đối thân hư giả sinh tham ái Thân này khó điều, luôn chống trái Ngày đêm chịu khổ không ngừng nghỉ. Thân này đau khổ thường sinh bệnh Thân này đầy dẫy thứ bất tịnh Chịu đói khát, luôn làm khổ não Người trí nào lại sinh tham ái? Thân này như đất rộng không chủ Như bạn ác ngu si sinh ái Do thân này phát sinh các tội Cuối cùng tự chịu các khổ đau. Thân không bền chắc như kim cương Chớ vì thân này tạo các tội Người trí nên tu nhân thắng phước Đối pháp Phật phát sinh tịnh tín. Thân này không lâu, chỉ lo dưỡng Y phục, hương thơm, thức ăn uống Rốt cuộc tan hoại, chỉ tạm thời Việc làm vọng động uổng tháng ngày. Trải qua trăm kiếp khó gặp được Bậc Đại Mâu-ni hiện ở đời Mau đối pháp Phật sinh tịnh tín Chớ ở đường ác chịu sợ hãi. Giả sử sống đến ngàn ức tuổi Còn phải chớ nên sinh tham ái Huống là thọ không đầy trăm tuổi Sao sinh tham ái, không nhàm chán? Hoặc có người ăn chơi phung phí Không nghó thân này thật khó được Nhóm họp lại vui chơi ca hát Đối với vui chơi cầu hoan lạc. Tập hợp tài bảo có vui gì Giữ gìn, luyến tiếc, khổ não tăng Phàm phu thấp kém sinh vui vẻ Người có trí xa lìa tham đắm. Giàu sang không thật, như mộng huyễn Người ngu tâm ý luôn giong ruổi Sát-na hủy hoại, sát-na thành Người trí nào lại sinh tham ái? KINH VÔ ÚY THỌ SỞ VẤN ĐẠI THỪA Quyển hạ Bóng dáng sự vật như huyễn hóa Như thành Càn-thát-bà trang nghiêm Người ngu tham giàu cũng như vậy Không biết là giả, sinh đam mê. Cầu giàu sang chịu trăm thứ khổ Được rồi cực khổ bức bách thân Vua, quan, nước, lửa làm tan hoại Người trí lẽ nào sinh tham ái? Yêu mến vợ con và quyến thuộc Tạo ra các tội sẽ chia lìa Tội lỗi quá nặng không hiểu biết Người trí đối thân không đắm chấp. Kẻ bỏn sẻn khi cầu giàu sang Cha mẹ cũng không tâm tôn trọng Vợ con, quyến thuộc lại ganh ghét Một lòng thường tham đắm tài lợi. Người tham không biết gì ân nghóa Chỉ nghó không mất vật sở hữu Bỏ chánh, hướng tà, vọng cầu tài Người trí không tin kẻ tham kia. Người tham ý nghó khác lời nói Điều đáng tin lại không tin tưởng Thấy người tuy thương mến như con Đó là người tham sinh dối nịnh. Người bỏn sẻn hiện ở thế gian Tuy học hỏi thông hiểu giáo lý Giong ruổi, tán loạn, nói lời ác Tâm không thương xót, rất hung dữ. Người tham ở đời không nơi tựa Cũng không có bạn bè quyến thuộc Có nương tựa chỉ để cầu tài Không được người có trí tin tưởng. Người tham do mong cầu giàu sang Thường nghó đến những việc rất ác Nên người trí quán xét chân chánh Những vật người ngu sinh hoan hỷ. Như vàng bạc, châu báu, san hô Nghiệp thiện phát sinh như bọt nước Ở trong tham ái sinh tranh chấp Nên không hiểu biết tánh huyễn hóa. Hiền kiếp có Đức Phật ra đời Tôn danh của Ngài là Từ Thị Hoàng kim được rải khắp mặt đất Phật từ đâu đến, do nhân nào? Ở ngoài chạy theo năm cảnh dục Người ngu tán loạn, si mê pháp Như mặt trời giữa tháng mùa Hạ Khát dục thấy dợn nắng là nước. Sau một kiếp không, thành thế gian Hư không tạo thành, tự tánh không Thiêu đốt hủy hoại, lại hoàn thành Từ đâu đến và đi về đâu? Ngòi, rãnh, khe, ao và biển cả Khô cạn hủy hoại đều đồng nhau Hư giả không thật, tham cũng vậy Bậc trí nào lại sinh tham ái. Bậc trí, tuệ lực, sắc tướng đủ Đối thân thường tự lường sức mình Trong đây không vị do đâu nhiễm? Nhà cửa, tài sản nên xả bỏ. Chạy theo năm dục tạo nghiệp ác Nuôi dưỡng vợ con và quyến thuộc Lúc chết vợ con và thân quyến Ai đâu cứu nạn khổ cho mình. Lúc chết, quyến thuộc không đi theo Chỉ các hành nghiệp tạo theo mình Khổ não bức bách đi theo ta Lúc đó ai đâu chịu ít phần? Ba cõi chịu khổ, không người thân Vợ con, quyến thuộc giả làm thân Người ngu lấy đó cho là vui Chỉ thêm khổ não và lo buồn. Cha mẹ, vợ con và quyến thuộc Vì cầu tài lợi nên gặp nhau Khi chết, họ không đi theo ta Chỉ có nghiệp ta tạo đi theo. Tất cả đều theo nghiệp tạo ra Tất cả cũng theo nghiệp mà trụ Nên biết thân này do nghiệp thành Người trí nên tu các nghiệp thiện. Cha mẹ, vợ con và quyến thuộc Do không hiểu biết nên tham ái Người ngu gây tạo các nhân tội Người trí không đọa ngục vô gián. Dù cho nghiệp báo có cùng tận Cực khổ vô gián vẫn không khỏi Vì thế nên sợ nhân cõi ác Người trí siêng năng lìa các khổ. Khi vua Diêm Ma trị phạt tội Không có bạn bè nào cứu giúp Cũng không có cha mẹ, thân quyến Theo nghiệp mình tạo mà chịu lấy. Diêm Vương nói: “Người được thân người Được rồi sao không lìa các tội? Nay phải chịu cực khổ đánh đập Đều do người tạo nghiệp không lành”. Tự tâm đã tạo nghiệp bất thiện Mà lại không tin có nghiệp báo Như Diêm Ma pháp vương kia nói: –Người chịu phạt, chẳng phải lỗi ta. Tự gây nghiệp ác và tạo tội Do đã tạo tội nên đến đây Nên phải cam tâm chịu cực khổ Do trước tạo nghiệp, chẳng phải thiện. Khi chết, các khổ tạo bức bách Quyến thuộc không thể cứu giúp được Nếu ngươi muốn mong cầu giải thoát Thì nên phải xa lìa tội ác. Đánh đập, tra khảo và xiềng xích Nếu muốn thoát khỏi những thứ ấy Nên sợ hãi nhà cửa, thân thuộc Ở trong Phật giáo tu chánh hạnh. Nhà cửa là gốc khổ, lửa dữ Ngọn lửa thường thiêu đốt tâm này Bậc trí không sinh tâm tham ái Như ngọn lửa lớn rất đáng sợ. Nhà, lợi dưỡng, thân thuộc thường lo Giàu vui, ưu sầu cũng như vậy Lỗi của mình, người không sai khác Vì thế nên xa các tội lỗi. Người trí tin ưa giáo pháp Phật Không gieo điều ác, được căn lành Người ngu không sinh tâm ưa thích Chỉ tham nhà cửa, các gốc khổ. Thân nữ gân, thịt, xương hợp lại Giả vọng tham làm vợ của ta Những người không trí sinh ái nhiễm Không biết thân nữ đều như huyễn. Người trí hiểu biết các dục lạc Và nhà cửa nên sinh nhàm chán Thuốc chánh pháp điều trị bệnh tham Hãy mau ra khỏi các trói buộc. Bấy giờ, Vô Úy Thọ và năm trăm trưởng giả nghe chánh pháp này rồi đều đạt được pháp nhẫn Vô sinh, đã được pháp nhẫn nên đều rất vui mừng, liền nói tụng: Lành thay ngày hôm nay Chúng ta được lợi lớn Trong tất cả các lợi Lợi ích này hơn hết. Chúng ta nên phát sinh Tâm Bồ-đề rộng lớn Ở trong chánh pháp Phật Thanh tịnh sinh khát ngưỡng. Ưa thích pháp thù thắng Tâm Bồ-đề Vô thượng Vì tất cả hữu tình Tạo được mọi an lạc. Chúng ta từ hôm nay Thận trọng thân mạng này Phát nguyện đối kinh ấy Sinh lòng rất ưa thích. Do phát sinh ưa thích Được tất cả hữu tình Ở vào đời vị lai Người thấy sinh hoan hỷ. Tất cả hữu tình ấy Những người muốn phát tâm Đều phát sinh vô thượng Tâm Bồ-đề rộng lớn. Nếu tất cả hữu tình Ưa thích tâm Bồ-đề Sẽ được quả thù thắng Thân sắc vàng tối thượng. Tướng tốt đẹp trang nghiêm Đều thù thắng vi diệu Và được ánh sáng lớn Chiếu soi khắp thế gian. Tâm Bồ-đề vô thượng Đó là tâm rộng lớn Vượt qua tất cả tâm Tối thượng và thanh tịnh. Tất cả công đức ấy Do tâm này đầy đủ Lại đủ lực thù thắng Hay khỏi tất cả bệnh. Các hữu tình ít phước Không thích tâm Bồ-đề Tâm này nhân biếng nhác Không thể quán sinh tử. Trí Bồ-đề thần thông Được phước lực tối thắng Tích chứa đầy hư không Bố thí khắp hữu tình. Người nào đối hà sa Vô số các cõi Phật Đem bảy món tài bảo Cúng dường bậc Chánh giác. Người nào chỉ chấp tay Hướng về tâm Bồ-đề Cúng dường thù thắng này Vượt qua các cúng dường. Cúng dường này trên hết Gọi là tâm Bồ-đề Vượt qua hết tất cả Là tối thắng, tối thượng. Công đức tâm Bồ-đề Là thần dược vi diệu Trị được tất cả bệnh Làm hữu tình an vui. Quán thấy các hữu tình Ba lửa thường thiêu đốt Dứt trừ vô lượng kiếp Bồ-tát không thoái lui. Tu hạnh Bồ-đề này Là y vương dũng mãnh Cứu khổ các hữu tình Thường xa lìa mệt mỏi. Qua lại trong các cõi Không bỏ tâm Bồ-đề Siêng hành giáo pháp Phật Xuất hiện tướng hy hữu. Chúng con được lợi lớn Ưa tâm Bồ-đề này Nguyện chúng con sẽ thành Đệ tử bậc Đại giác. Bấy giờ, Đức Thế Tôn từ khuôn mặt hiện thần thông rộng lớn, ánh sáng gồm vô số màu sắc: xanh, vàng, đỏ, trắng, tía, xanh biếc. Ánh sáng này chiếu khắp vô biên thế giới, trên thấu đến cõi Phạm thiên, che mất ánh sáng mặt trời, mặt trăng. Ánh sáng xoay quanh, nhiễu quanh bên phải Thế Tôn trăm ngàn vòng rồi đi vào đỉnh của Thế Tôn. Bấy giờ, Tôn giả A-nan đứng dậy, bày vai bên phải, gối phải chạm đất, hướng về Phật chấp tay đảnh lễ thưa: –Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên nào Thế Tôn hiện ra ánh sáng này? Nếu không có nhân duyên, Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác không phóng ra ánh sáng. Khi ấy, Tôn giả A-nan liền nói tụng: Phật, bậc tối thắng, không nhân duyên Không hiện phóng ra tướng ánh sáng Nguyện Ngài thương xót chúng hữu tình Nói rõ nhân duyên phóng ánh sáng. Tất cả hữu tình đều nghèo thiếu Xin Phật bố thí đại thánh tài Chiếu sáng đến thế gian u tối Nguyện xin Phật nói rõ nhân duyên. Đức Thế Tôn bảo Tôn giả A-nan: –Này A-nan! Ông có thấy năm trăm trưởng giả này không? Họ đều phát tâm cầu đạo quả Bồ-đề vô thượng nên đến gặp Ta. Tôn giả A-nan thưa: –Bạch Thế Tôn! Con có thấy. Đức Phật bảo Tôn giả A-nan: –Năm trăm trưởng giả này đang ở trong hội, sau khi nghe chánh pháp đều được pháp nhẫn Vô sinh. Này A-nan! Các trưởng giả ấy vào thời Phật quá khứ đã từng phụng sự, thân cận, cúng dường, gieo trồng căn lành. Xả báo thân này, họ không trở lại bị đọa trong các đường ác, được sinh vào cõi trời, người hưởng vui thù thắng. Lần lượt đến khi Đức Từ Thị Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác xuất hiện ở đời, họ sẽ được sinh vào cõi Phật ấy, thân cận, cúng dường, tôn trọng, phụng sự. Sau đó, đến Hiền kiếp, chư Phật xuất hiện ở đời, đều thân cận cúng dường các Phật, nghe giảng chánh pháp, đọc tụng, ghi nhớ, thuyết giảng cho mọi người. Cuối cùng trải qua hai mươi lăm kiếp xuất hiện ở đời, ở các cõi Phật sẽ thành tựu đạo quả Vô thượng Chánh giác, cùng một danh hiệu là Liên Hoa Cát Tường Tạng Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác. Bấy giờ, Tôn giả A-nan ở trước Phật thưa: –Chánh pháp thâm sâu, rộng lớn này thật là hy hữu. Bạch Thế Tôn, thật là hy hữu! Bạch Thiện Thệ, kinh này tên là gì? Chúng con phụng trì như thế nào? Phật bảo Tôn giả A-nan: –Kinh này tên là “Bồ Tát Du Già Sư Địa Pháp Môn”, cũng gọi là “Vô Úy Thọ Sở Vấn”. Danh hiệu như vậy, ông nên theo đấy mà thọ trì. Đức Phật thuyết giảng kinh này rồi, Tôn giả A-nan, các đại Thanh văn, chúng Đại Bồ-tát và năm trăm trưởng giả, trời, người, A-tu-la, tất cả đại chúng trong thế gian nghe Phật thuyết giảng đều rất vui vẻ, tin nhận, phụng hành.