<經 id="n312">Phật nói kinh Đại thừa bí mật chẳng nghó bàn của Như Lai Hán dịch: Đời Tống, Tam tạng Pháp sư Pháp Hộ. <卷 id="87624612">Quyển 1 <詞 id="87624613">Phẩm 1: Thân mật của Bồ-tát (Phần 1) Tôi nghe như vầy: Một thời Đức Phật ở tại núi Thứu phong thuộc thành Vương xá, cùng với hội chúng bốn vạn hai ngàn vị đại Tỳ-kheo, tám vạn bốn ngàn vị Bồ-tát đều đã đạt thần thông diệu trí. Các chúng Đại Bồ-tát từ các cõi Phật khác đến hội này, các vị đều đã được pháp Nhẫn bất thoái chuyển Nhất sinh bổ xứ, được các Tổng trì và Tam-ma-địa, đầy đủ biện tài không ngăn ngại, có khả năng vượt qua vô biên cõi Phật; ở trong mười phương vô biên tất cả cõi Phật đã kiến lập thị hiện, dùng thần thông trí dạo chơi tự tại hàng phục chúng ma, chận đứng các dị luận, hiểu rõ tất cả tâm ý sở hành của chúng sinh. Lại còn dùng trí thù thắng khéo phân biệt căn tánh của người khác, thông đạt nghóa lý của tất cả pháp môn Ba-la-mật-đa, đầy đủ phương tiện thiện xảo, đến bờ rốt ráo tối thượng và được tất cả chư Phật khen ngợi. Các vị Bồ-tát ấy đã trải qua vô lượng, vô biên trăm ngàn muôn ức kiếp tích tụ đạo hạnh Bồ-đề rốt ráo. Tâm của các vị bình đẳng như đất, nước, lửa, gió nương hư không vô biên, khéo tu Từ quán như lý tương ưng, siêu việt tất cả mọi chấp trước chướng ngại, được thân tướng tốt đẹp như thân Na-la-diên đầy đủ Kim cang kiên cố bất hoại. Các vị đã đạt đức Vô úy tối thắng, có thể ở giữa tất cả chúng hội lớn rống tiếng rống sư tử tuyên diễn pháp âm và có ánh sáng rực rỡ át cả ánh sáng của mặt trời, mặt trăng. Các vị đã đạt được các pháp như chư Phật ba đã đời bình đẳng nói, dùng trí quyết định khéo tuyên thuyết pháp yếu thậm thâm tối thượng, thâm nhập tất cả pháp môn duyên sinh, xa lìa hai thứ biên kiến đoạn và thường. Đối với thiền định giải thoát chánh định, chánh thọ, khi nhập hay khi khởi các ngàI thảy đều biết rõ. Công đức và trí tuệ vang danh khắp mười phương, nắm giữ chánh pháp bảo vương tối thượng, khiến cho hạt giống thánh Tam bảo không bị đoạn tuyệt, tích tụ vô lượng phước trí thắng hạnh như vậy. Tên của các vị là Bồ-tát Bảo Thượng, Bồ-tát Nguyệt Tràng, Bồ-tát Thanh Lương Tràng, Bồ-tát Quang Tràng, Bồ-tát Cát Tường Quang, Bồ-tát Cát Tường Phong, Bồ-tát Cát Tường Mật, Bồ-tát Na-la-diên Thiên, Bồ-tát Long Hỷ, Bồ-tát Long Thượng, Bồ-tát Long Thọ, Bồ-tát Trì Diệu Sắc, Bồ-tát Cao Thiên, Bồ-tát Đức Quang Vương, Bồ-tát Quang Minh Thủ, Bồ-tát Thường Cử Thủ, Bồ-tát Thường Hạ Thủ, Bồ-tát Bảo Ấn Thủ, Bồ-tát Bảo Thủ, Bồ-tát Phổ Quang, Bồ-tát Tinh Vương, Bồ-tát Kim Cang Thủ, Bồ-tát Kim Cang Tuệ, Bồ-tát Kim Cang Đại Tuệ, Bồ-tát Kim Cang Bộ, Bồ-tát Bất Động Tích Bộ. Bồ-tát Tam Giới Tích Bộ, Bồ-tát Vô Biên Bộ, Bồ-tát Vô Biên Tuệ, Bồ-tát Tinh Diệu Tuệ, Bồ-tát Kiên Cố Tuệ, Bồ-tát Thiện Tuệ, Bồ-tát Diệm Sí Tuệ, Bồ-tát Tối Thắng Tuệ, Bồ-tát Tăng Trưởng Tuệ, Bồ-tát Thường Thảm, Bồ-tát Thường Hỷ, Bồ-tát Hỷ Căn, Bồ-tát Diệt Ác Thú, Bồ-tát Trừ Cái Chướng, Bồ-tát Tự Tướng Trì Vô Cấu Quang, Bồ-tát Dũng Mãnh Tinh Tấn, Bồ-tát Tuệ Tích, Bồ-tát Thường Quán Sát, Bồ-tát Quán Tự Tại, Bồ-tát Đắc Đại Thế, Bồ-tát Cao Phong, Bồ-tát Hư Không Tạng, Bồ-tát Bất Thuấn, Bồ-tát Vô Hy Vọng, Bồ-tát Bảo Thượng, Bồ-tát Bảo Tư Duy, Bồ-tát Thiện Tư Duy, Bồ-tát Thiện Tư Nghóa, Bồ-tát Quyết Định Nghóa, Bồ-tát Tổng Trì Tự Tại Vương, Bồ-tát Trì Địa, Bồ-tát Trang Nghiêm Vương, Bồ-tát Sát Độ Trang Nghiêm, Bồ-tát Bảo Tích, Bồ-tát Bí Mật Nham, Bồ-tát Đế Thích Thiên, Bồ-tát Thủy Thiên, Bồ-tát Phạm Võng, Bồ-tát Minh Võng, Bồ-tát Thiên Quang, Bồ-tát Diệu Tý, Bồ-tát Diệu Nhãn, Bồ-tát Hương Tượng, Bồ-tát Tượng Trung Hương Tượng, Bồ-tát Sư Tử Tràng, Bồ-tát Thành Nghóa Tuệ, Bồ-tát Hải Tuệ, Bồ-tát Thiện Điều Ngự, Bồ-tát Tịch Tuệ, Bồ-tát Từ Thị, Bồ-tát Diệu Cát Tường Đồng Chân. Chúng Đại Bồ-tát như vậy có đến tám vạn bốn ngàn vị và Phạm vương, Đế Thích, các trời Hộ thế trong tam thiên đại thiên thế giới, cùng với các chúng Thiên vương có đại oai đức khác, hoặc chúng Long vương, chúng Dạ-xoa vương, chúng A-tu-la vương, chúng Ca-lầu-la vương, chúng Khẩn-na-la vương, chúng Ma-hầu-la-già vương, chúng Càn-thát-bà vương. Các chúng như vậy đều đến hội họp. Lại còn có Long vương A-na-bà-đạt-đa, Long vương Sa-già-la, Long vương Phược-lỗ-noa, Long vương Ma-na-tư, Long vương Đắc-xoa-ca, Long vương Kim Sắc, Long vương Vô Biên Sắc, Long vương Tô-thi-ma. Các Long vương như vậy cùng với trăm ngàn các rồng quyến thuộc đều đến hội này, thân gần lễ bái chiêm ngưỡng và nghe Thế Tôn thuyết pháp. Lại còn có chúng A-tu-la vương như: A-tu-la vương La-hầu, A-tu-la vương Tỳ-ma-chất-đa-la, A-tu-la vương Diệu Tý, A-tu-la vương Sa-la, A-tu-la vương Đa-la, A-tu-la vương Tịnh Giới, A-tu-la vương Đại Tiếu, A-tu-la vương Quảng Phúc, A-tu-la vương Tận Vô Biên. Các A-tu-la vương như vậy cùng với trăm ngàn A-tu-la quyến thuộc đến hội này để thân gần chiêm ngưỡng lễ bái và nghe Đức Thế Tôn nói pháp. Khi ấy, vua A-xà-thế nước Ma-già-đà cùng với cung tần quyến thuộc cũng đến hội này, thân cận chiêm ngưỡng đảnh lễ và nghe Đức Thế Tôn nói pháp. Cùng với bốn chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di đều đến hội này. Lại có chư Thiên ở cõi trời Địa cư, cõi trời Dục, Sắc giới, cõi trời Tịnh cư v.v… các chúng Thiên tử cũng đều đến hội họp, thân gần chiêm ngưỡng đảnh lễ và nghe Thế Tôn nói pháp. Lúc đó, Đức Thế Tôn ở giữa đại hội, có vô số trăm ngàn đại chúng trời, người cung kính vây quanh muốn nghe Thế Tôn nói pháp, Đức Phật bảo đại chúng: –Ta có chánh pháp tên là Phổ nhiếp các Bồ-tát Ma-ha-tát thượng thắng hạnh thanh tịnh diệu môn bởi vì pháp môn này có khả năng làm viên mãn tất cả hạnh. Nghóa là nếu Bồ-tát tu hạnh bố thí thì có thể đem lại sự thành tựu cho tất cả hữu tình. Nếu các Bồ-tát tu hạnh trì giới thì được viên mãn tất cả nguyện thù thắng. Nếu các Bồ-tát tu hạnh nhẫn nhục thì được đầy đủ tất cả tướng hảo. Nếu các Bồ-tát tu hạnh tinh tấn thì viên mãn được tất cả pháp Phật. Nếu các Bồ-tát tu hạnh thiền định thì có khả năng làm cho tất cả điều phục được tâm mình. Nếu các Bồ-tát tu hạnh trí tuệ thì có khả năng đoạn trừ hết tất cả phiền não. Nếu các Bồ-tát tu hạnh thuyết pháp thì có khả năng thành tựu biện tài không ngăn ngại. Nếu các Bồ-tát tu hạnh phước thù thắng thì có thể làm trưởng dưỡng tất cả hữu tình. Nếu các Bồ-tát tu hạnh trí vi diệu thì có thể thành tựu trí không chướng ngại. Nếu các Bồ-tát tu hạnh Xa-ma-tha thì có khả năng khiến tâm nghiệp của chúng sinh được điều phục khoái thích. Nếu các Bồ-tát tu hạnh quán vi diệu thì có khả năng xa lìa tất cả phân biệt. Nếu các Bồ-tát tu hạnh Từ thì được tất cả tâm không chướng ngại. Nếu các Bồ-tát tu hạnh Bi thì thân tâm không biếng nhác mệt mỏi. Nếu các Bồ-tát tu hạnh Hỷ thì có thể dạo chơi trong vườn pháp hỷ. Nếu các Bồ-tát tu hạnh Xả thì có khả năng đoạn trừ hai pháp trái, thuận. Nếu các Bồ-tát tu hạnh nghe pháp thì có khả năng đoạn trừ tất cả chướng ngại hệ lụy. Nếu các Bồ-tát tu hạnh xuất ly thì có khả năng loại trừ tất cả chấp trước. Nếu các Bồ-tát tu hạnh ở A-lan-nhã thì đạt được các pháp thiện đã làm đều không bị hoại mất. Nếu các Bồ-tát tu hạnh Niệm thì được các môn Tổng trì. Nếu các Bồ-tát tu hạnh Tuệ thì được tuệ thù thắng khéo phân biệt được các pháp. Nếu các Bồ-tát tu hạnh Trụ thì được tâm không ai sánh bằng. Nếu các Bồ-tát tu hạnh Thú hướng thì có khả năng biết được tất cả nghóa thú. Nếu các Bồ-tát tu hạnh Tứ niệm xứ thì có khả năng quán sát thân, thọ, tâm, pháp. Nếu các Bồ-tát tu hạnh bốn Chánh đoạn thì có khả năng đoạn trừ mọi pháp bất thiện và viên mãn tất cả pháp thiện. Nếu các Bồ-tát tu hạnh bốn Thần túc thì thân tâm được thanh tịnh khinh an. Nếu các Bồ-tát tu hạnh năm Căn thì có khả năng biết được căn tánh của chính mình và người khác. Nếu các Bồ-tát tu hạnh năm Lực thì không bị các phiền não làm khuất phục. Nếu các Bồ-tát tu hạnh bảy Giác chi thì hiểu biết các pháp một cách như thật. Nếu các Bồ-tát tu hạnh tám Chánh đạo thì có khả năng vượt khỏi mọi tà đạo. Nếu các Bồ-tát tu hạnh bốn Đế thì thành tựu được pháp bất động chuyển. Nếu các Bồ-tát tu hạnh bốn Vô ngại giải thì có khả năng đoạn trừ tất cả tâm nghi hoặc của hữu tình. Nếu các Bồ-tát tu hạnh Quy thú thì được trí tự tại. Nếu các Bồ-tát tu hạnh Thiện tri thức thì có thể tích tụ được các công đức. Nếu các Bồ-tát tu hạnh ý lạc thì không trái với tất cả thế gian. Nếu các Bồ-tát tu hạnh Thâm tâm thì được tất cả thú hướng tối thắng. Nếu các Bồ-tát tu hạnh Tương ưng thì có khả năng siêng năng dũng mãnh cứu giúp tất cả hữu tình xuất ly. Nếu các Bồ-tát tu hạnh trụ ở Tăng phường thì được nghe pháp mà không hoại mất. Nếu các Bồ-tát tu hạnh bốn Nhiếp pháp thì có khả năng nhiếp thọ tất cả hữu tình. Nếu các Bồ-tát tu hạnh nhiếp thọ chánh pháp thì không đoạn hạt giống Tam bảo. Nếu các Bồ-tát tu hạnh hồi hướng thì có thể trang nghiêm cõi Phật thanh tịnh. Nếu các Bồ-tát tu hạnh phương tiện thiện xảo thì có khả năng viên mãn được trí Nhất thiết trí. Đức Thế Tôn đã tuyên nói chánh pháp rộng lớn “Phổ nhiếp các Bồ-tát Ma-ha-tát tối thượng thắng hạnh thanh tịnh diệu môn” như vậy. Khi Thế Tôn đang nói pháp này, Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ hiện sức oai thần hầu bên phải Đức Phật. Khi ấy, Đại Bồ-tát Kim Cang Thủ ra trước Phật bạch rằng: –Thật hy hữu, thưa Thế Tôn! Như Lai đã khéo nói chánh pháp rộng lớn “Phổ nhiếp các Bồ-tát Ma-ha-tát tối thượng thắng hạnh thanh tịnh diệu môn.” Bạch Thế Tôn! Theo nghóa lý siêu việt trong lời dạy của Như Lai mà con hiểu thì nếu nay con được tất cả hạnh thù thắng của các Đại Bồ-tát, đều là từ hai hạnh phước và trí mà có. Nên biết tùy theo đối tượng mà thể nhập hai hạnh phước trí. Vì sao vậy? Vì các Bồ-tát tu hạnh phước có khả năng khiến tất cả hữu tình lìa các chướng ngại. Nếu tu hạnh trí thì có khả năng thuyết pháp yếu cho các hữu tình và làm cho chúng vui thích. Bạch Thế Tôn! Vì vậy các Đại Bồ-tát cần phải hòa hợp hai hạnh phước và trí. Vì sao? Vì Bồ-tát tu hạnh phước thì có khả năng viên mãn Phương tiện thiện xảo ba-la-mật-đa. Còn tu hạnh trí thì có khả năng viên mãn Trí tuệ ba-la-mật-đa. Thế nên hai hạnh này chính là hai loại Thánh đạo của Bồ-tát, có công năng thâu nhiếp hết tất cả đạo hạnh. Bồ-tát trụ vào đạo này thì có khả năng hàng phục các nghiệp ma chúng khó điều phục. Bồ-tát đã vượt thoát các đường ác của ma, không thoái chuyển nơi quả vị Chánh đẳng Chánh giác. Đây tức là Bồ-tát không còn thoái chuyển. Nhờ thế mà Bồ-tát có thể khéo làm sáng tỏ sự bí mật thậm thâm của chư Phật Như Lai không để ẩn tàng. Lúc đó trong hội có Đại Bồ-tát Tịch Tuệ đến trước Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ thưa: –Thưa Đại bí mật chủ! Bồ-tát thường gần gũi hầu các Đức Như Lai, vậy nay Bồ-tát có thể hoan hỷ nói về pháp bí mật của Như Lai. Xin Bồ-tát vì đại chúng mà nói. Cảnh giới này hàng Thanh văn, Duyên giác còn không vào được, huống nữa là các hạng phàm phu. Bồ-tát Tịch Tuệ đã thưa như vậy rồi nhưng Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ vẫn đứng im lặng. Lúc đó Bồ-tát Tịch Tuệ hiểu được sự im lặng ấy, liền ra trước Phật, bạch rằng: –Cúi xin Thế Tôn lệnh cho Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ, vì chúng hội này mà nói rõ pháp bí mật của Như Lai, để chúng Đại Bồ-tát nghe rồi hoan hỷ và cũng nhờ thế mà rộng tích tụ pháp phần Bồ-đề, thành tựu pháp bí mật của Như Lai, tu tập theo đúng chánh lý. Bấy giờ, Thế Tôn bảo Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ: –Ta nay khuyến thỉnh ông. Ông hãy vì đại chúng trong hội này mà tuyên nói pháp bí mật của Bồ-tát và pháp chân thật bí mật của Như Lai. Hiện nay cả chúng hội này rất muốn được nghe. Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ vâng lời dạy đến trước Đức Phật, bạch: –Bạch Thế Tôn! Theo lời Thế Tôn dạy, nay con sẽ tuyên nói pháp bí mật của Bồ-tát và pháp chân thật bí mật của Như Lai. Trong chúng hội này, nếu có người nào hiểu được chút ít, thì đó cũng là nhờ oai thần của Thế Tôn kiến lập. Ví như trong đêm tối màn đêm bao phủ, nếu có ngọn đuốc sáng chiếu khắp mọi nơi, thì rất dễ nhận ra các cảnh vật. Nay trong chúng hội này cũng lại như vậy, đối với pháp bí mật của Bồ-tát và pháp chân thật bí mật của Như Lai, có người nào nghe hiểu được chút ít, thì nên biết đó đều là nhờ oai thần của Như Lai kiến lập. Khi ấy, Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ nói với Đại Bồ-tát Tịch Tuệ: –Này thiện nam! Nay chúng hội này nghe pháp bí mật của Bồ-tát và pháp chân thật bí mật của Như Lai mà không kinh sợ, thì đó là điều vô cùng tốt lành. Sau khi Bồ-tát Kim Cang Thủ nói như thế, Đại Bồ-tát Tịch Tuệ bèn nói với tất cả đại chúng trong hội: –Này các nhân giả! Như Đức Phật đã dạy, có bốn điều không thể nghó bàn. Bốn điều ấy là gì? Một là không thể nghó bàn về nghiệp; hai là không thể nghó bàn về rồng; ba là không thể nghó bàn về định và bốn là không thể nghó bàn về Phật. Các nhân giả nên biết! Trong bốn điều ấy chỉ có Đức Phật Như Lai mới là điều không thể nghó bàn tối thượng bậc nhất. Nơi nào có các pháp Bồ-đề của chư Phật Chánh đẳng Chánh giác thì đều là do bốn điều không thể nghó bàn ấy thành lập. Thế nên, này các nhân giả! Các vị đối với pháp không thể nghó bàn của Bồ-tát và pháp không thể nghó bàn của Như Lai, nghe rồi không nên kinh sợ khiếp đảm mà nên sinh tâm vui thích thanh tịnh rộng lớn tối thượng. Lúc đó Bồ-tát Tịch Tuệ nhờ oai thần của Phật nên biết tất cả đại chúng trong hội này đều muốn nghe và tin theo pháp bí mật của chư Phật, Bồ-tát liền tung rải hoa trời cúng dường, hoa rải đó cao đến gối. Bấy giờ, Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ nói với Đại Bồ-tát Tịch Tuệ: –Thiện nam, hãy lắng nghe! Nay ta tuyên nói pháp chân thật bí mật của Bồ-tát. Tịch Tuệ nên biết! Đức Thế Tôn của chúng ta thuở xưa kia ở trong giáo pháp của Đức Như Lai Nhiên Đăng, đang ở địa vị Bồ-tát theo hầu Phật và được Đức Phật ấy thọ ký quả vị Giác ngộ cao tột đạo Chánh đẳng Chánh giác. Từ đó đến nay, ta luôn kề cận Bồ-tát Thích-ca, nhưng chưa từng thấy thân nghiệp của Bồ-tát có gì sai lầm và cũng chưa từng thấy có tướng tà vạy quanh co; miệng không nói sai lầm và cũng chưa bao giờ nghe nói lời hư vọng; tâm không khởi sai lầm và cũng chưa từng biết đến lỗi lầm đắm trước, mà chỉ thấy thân nghiệp của Bồ-tát hiện tướng oai nghi, vì muốn đem lại sự thành tựu cho tất cả hữu tình chứ không tự khen mình. Do thân tướng oai nghi của Bồ-tát không có cùng tận, cho nên mọi oai nghi của tất cả hữu tình thảy đều hòa nhập vào tướng oai nghi của Bồ-tát. Tuy vậy, nhưng Bồ-tát không cần phải dụng lực, không cần phải tìm hiểu mà vẫn an nhiên. Đối với các hữu tình cần dùng thiền định để hóa độ, liền hiện thiền định để hóa độ. Người cần dùng tiếng đàn, nhạc, ca hát để hóa độ, liền hiện tiếng đàn, nhạc, ca hát để hóa độ. Người cần dùng thân đồng nam để hóa độ, liền hiện thân ấy mà hóa độ. Người cần dùng thân đồng nữ để hóa độ, liền hiện thân ấy mà hóa độ. Người cần dùng thân con trai để hóa độ, liền hiện thân ấy mà hóa độ. Người cần dùng thân con gái để hóa độ, liền hiện thân ấy mà hóa độ. Người cần dùng thân thiếu niên để hóa độ, liền hiện thân ấy mà hóa độ. Người cần dùng thân trung niên để hóa độ, liền hiện thân ấy mà hóa độ. Người cần dùng thân già để hóa độ, liền hiện thân ấy mà hóa độ. Người cần dùng thân thấp hèn để hóa độ, liền hiện thân ấy mà hóa độ. Người cần dùng thân đồ tể để hóa độ, liền hiện thân ấy mà hóa độ. Người cần dùng thân câm ngọng để hóa độ, liền hiện thân ấy mà hóa độ. Người cần dùng thân đui điếc để hóa độ, liền hiện thân ấy mà hóa độ. Người cần dùng tướng ba đường ác và thân người để hóa độ, liền hiện các thứ thân ấy mà hóa độ. Người cần dùng thân trời để hóa độ, liền hiện thân ấy mà hóa độ. Người cần dùng thân Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già v.v… để hóa độ, liền hiện các thân ấy mà hóa độ. Người cần dùng thân Đế Thích để hóa độ, liền hiện thân ấy mà hóa độ. Người cần dùng thân Phạm vương để hóa độ, liền hiện thân ấy mà hóa độ. Người cần dùng thân Hộ thế để hóa độ, liền hiện thân ấy mà hóa độ. Người cần dùng thân Chuyển luân vương để hóa độ, liền hiện thân ấy mà hóa độ. Người cần dùng thân Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di để hóa độ, liền hiện các thân ấy mà hóa độ. Người cần dùng thân Thanh văn để hóa độ, liền hiện thân ấy mà hóa độ. Người cần dùng thân Duyên giác để hóa độ, liền hiện thân ấy mà hóa độ. Người cần dùng thân Bồ-tát để hóa độ, liền hiện thân ấy mà hóa độ. Người cần dùng thân Như Lai để hóa độ, liền hiện thân ấy mà hóa độ. Ngài hiện tất cả thân, chỉ trừ ở cõi Vô sắc mà thôi.  Phật nói kinh Đại thừa bí mật chẳng nghó bàn của Như Lai <卷 id="87624614">Quyển 2 <詞 id="87624615">Phẩm 1: Thân mật của Bồ-tát (Phần 2) Lại nữa, này Tịch Tuệ! Tất cả oai nghi sắc tướng của hữu tình đều có trong oai nghi sắc tướng của Bồ-tát, nhưng Bồ-tát vẫn không tìm hiểu cũng không phân biệt. Do Bồ-tát có tâm xả bình đẳng, không phân biệt cho nên mới tùy theo thân của chúng sinh mà hiện thân oai nghi, nhưng thân Bồ-tát không bị lay động. Do không lay động cho nên hiện khởi thân nghiệp. Tuy thân lìa tướng nhưng cũng không hoại thân thanh tịnh của Bồ-tát; thân ấy phát ra ánh sáng chiếu khắp địa ngục, làm cho tất cả hữu tình được an lạc. Lại nữa, Bồ-tát rộng vì tất cả hữu tình mà không tiếc thân mạng. Nếu các hữu tình đều đến xin thịt của Bồ-tát để ăn, Bồ-tát liền hiện ra trước cắt thịt cho họ, cho đến xương, máu, tinh tủy thảy đều cho cả. Tịch Tuệ nên biết! Bồ-tát vì tất cả hữu tình cho thịt trong thân v.v… theo nhu cầu của họ là do Bồ-tát biết thân là vô lượng, nên tùy theo đó mà biết pháp giới cũng vô lượng. Vô lượng tức là vô tận, thân vô tận môn, tức là pháp môn duyên sinh vô tận. Bồ-tát tùy đó mà hiện thân, chỉ vì muốn đem lại sự thành tựu cho tất cả hữu tình. Nếu có người với tâm tham nhiễm đắm trước sắc tướng đoan nghiêm đẹp đẽ, Bồ-tát liền hiện tướng người nữ đẹp đẽ, tùy theo tâm đắm nhiễm của gã nam tử kia mà đáp ứng như ý. Khi ấy người nữ ấy vì nhiễm trước, nên hình dung tiều tụy khô gầy rồi qua đời, căn môn rã ra hôi thối bất tịnh. Chàng nam tử kia vì vô trí nên chán ghét bỏ đi, tức thì thân người nữ bị hoại diệt kia, tự nhiên phát lên tiếng nói pháp trọng yếu, khiến cho tâm chàng nam tử khai ngộ, không thoái chuyển với tâm hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột. Lại nữa, này Bồ-tát Tịch Tuệ! Bồ-tát ở trong tam thiên đại thiên thế giới hiện ra thân to lớn, hoặc trong bảo cái hiện ra đầu ngón tay, cho đến kiếp thiêu lửa cháy rừng rực, Bồ-tát liền dùng bàn tay chụp lên lửa, nhưng thân không bị hoại. Lại nữa Bồ-tát còn hiện ra thân tướng, rộng cúng dường chư Phật Thế Tôn, chứa nhóm vòng hoa như núi Tu-di tích tụ hoa báu cao như ngọn núi, đều đem cúng dường chư Phật Như Lai. Lại đem tam thiên đại thiên thế giới làm thành một vạc lớn chứa đầy nước hương thơm ngang bằng với núi Tu-di, rồi rót vào đèn thắp cháy sáng rực cúng dường các Đức Như Lai. Lại tích tụ vô lượng, vô biên đèn sáng lớn chiếu sáng khắp tất cả để cúng dường Như Lai. Lại nữa, Bồ-tát dùng y đang mặc xối dầu lên, rồi đốt thành đuốc lớn cúng dường hết các Đức Như Lai; đuốc ấy cháy hừng hực, ánh sáng lan ra xa, chiếu đến vô lượng, vô biên cõi Phật. Các hữu tình được chứng kiến Bồ-tát hiện các việc thần thông biến hóa, thấy vậy rồi vô lượng, vô biên hữu tình phát tâm đạt đến quả vị Giác ngộ cao tột. Trong số đó, có các hữu tình kiêu mạn cống cao, Bồ-tát liền hiện thân đại lực Na-la-diên, hoặc hiện Bồ-tát Kim Cang Thủ tướng thật đáng sợ. Các hữu tình ấy thấy vậy kinh hoàng, liền hướng về Bồ-tát chiết phục tâm quy mạng đảnh lễ cầu xin nghe pháp. Lại nữa, Bồ-tát ở trong thành lớn và trong khu rừng bỏ tử thi, thấy những nơi ấy đầy ắp vô lượng, vô biên hữu tình, Bồ-tát liền dùng thân to lớn hiện tướng tử diệt, khiến cho loài hữu tình đang đọa làm súc sinh, dứt sạch nghiệp báo súc sinh cùng nhau lấy thịt của Bồ-tát diệt đó mà ăn, ăn rồi mạng chung đều được sinh Thiên. Nhờ nhân duyên như vậy nên đến thân cuối cùng được vào Niết-bàn. Vì thế nên biết, nguyện lực đời trước của Bồ-tát được thanh tịnh rồi, mới có thể ở trong nhiều kiếp đem nguyện đó làm việc lợi ích, mong các hữu tình khi lâm chung ăn thịt của ta mà được sinh cõi trời. Do nhân duyên như vậy, cho nên đến thân cuối cùng được vào Niết-bàn, khiến cho các hữu tình thành tựu ý niệm, thành tựu mong muốn và thành tựu nguyện lực. Tịch Tuệ nên biết! Đại Bồ-tát có những hạnh nguyện thù thắng như vậy. Ta nhớ đời quá khứ xa xưa, bốn phương của châu Diêm-phù-đề này có tám vạn bốn ngàn thành lớn, lại có trăm ngàn tụ lạc, huyện ấp, trăm ngàn muôn ức dân chúng ở trong đó. Khi ấy trong nước có tai nạn lớn tật bệnh nổi lên, nhân dân trong thành ấy sinh đủ chứng bệnh, hoặc ở trên thân chỗ bệnh chỗ không, bệnh trạng của mỗi người đều khác; hoặc là bệnh nhọt, bệnh sẩy, ghẻ lở, bệnh hủi, hoặc phong, huỳnh, đàm… người bệnh nặng, nhẹ lan tràn khắp nước, cho mời rất nhiều thầy thuốc giỏi, dùng đủ loại thuốc hay, nhưng vẫn không trị được tất cả bệnh khổ của người dân trong nước. Nhân dân do căn bệnh không thể trị liệu, không được cứu hộ, không có chỗ quay về tiếng khóc bi ai than vãn: –Ai là người có khả năng dứt trừ bệnh khổ của ta, hoặc là Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà… hoặc là người hoặc chẳng phải người, ai có khả năng dứt trừ bệnh tật của ta, thì ta sẽ đem hết tất cả tài bảo để dâng lên người ấy. Ta luôn vâng theo lời dạy của người ấy và suốt đời ghi nhớ ân sâu ấy. Tịch Tuệ nên biết! Lúc đó Đức Thích-ca Thế Tôn Như Lai đang làm vua trời Đế Thích tên là Diệu Nhãn, ở trên Thiên cung dùng Thiên nhãn thanh tịnh vượt hơn mắt người, quán thấy dân chúng chịu nhiều thứ bệnh khổ. Lại dùng Thiên nhó thanh tịnh, nghe hết tất cả tiếng kêu khóc thảm thiết của dân chúng. Thấy nghe như vậy rồi, Diệu Nhãn liền khởi lên tâm thương xót tự suy nghó: “Nay ta nên vì dân chúng đang không có nơi nương tựa, không có người cứu hộ, không có nơi quay về ấy mà làm chỗ nương tựa, làm chỗ cứu hộ, làm chỗ quay về cho họ.” Nghó vậy rồi, tức thời vua trời Đế Thích ở cách không xa một ngôi thành lớn tên Thiện tác trong cõi Diêm-phù-đề biến thành tướng nam tử tên là Thiện Tịch, ở trên hư không, rộng vì tất cả nhân dân trong cõi Diêm-phù-đề mà nói kệ khai thị: Thành lớn Thiện tác cách không xa Có vị nam tử tên Thiện Tịch Nếu như lấy thịt vị ấy ăn Thì liền tiêu trừ tất cả bệnh. Chớ nên kinh sợ hay khiếp đảm Tùy ý hoan hỷ lấy thịt ăn Đó là thuốc hay cứu dân chúng Vị ấy không hại, không hận sân. Lúc đó tất cả người dân bị nhiễm bệnh khổ trong quốc thành, tụ lạc, huyện ấp đều nghe tiếng kệ trong hư không, liền đến chỗ Thiện Tịch nơi thành lớn Thiện tác. Đến nơi, tất cả đều cắt thịt ăn để trị bệnh. Tuy nhiều người lấy thịt, nhưng thịt trên thân vẫn không hết. Lúc đó Thiện Tịch lại vì dân chúng mà nói kệ rằng: Nếu ta chứng quả Phật Bồ-đề Đây là pháp chân thật vô tận Do pháp chân thật nên thân ta Xin cứ lấy thịt cũng vô tận. Khi ấy, người nhiễm bệnh khắp bốn phương, tất cả dân chúng ở chỗ Thiện Tịch đều tùy ý lấy thịt trên thân, nhưng thân của Thiện Tịch vẫn trở lại như cũ, cũng không tăng giảm, tiếp tục cắt lấy thì liên tục có lại. Tất cả dân chúng trong nước ấy lấy thịt mà ăn, tất cả các thứ bệnh khổ thảy đều tiêu trừ, không còn bệnh hoạn, lo buồn, được an vui khoái lạc. Như vậy lần lượt nhân dân trong cõi Diêm-phù-đề này đều được dứt trừ các bệnh, lại được khinh an. Lúc đó, tất cả dân chúng, trai gái, đồng nam, đồng nữ đều tự nghó: “Vị thiện nam kia đã vì chúng ta mà dứt trừ các bệnh, khiến chúng ta không còn bệnh hoạn, thân được khinh an. Hôm nay chúng ta hãy đem vật gì để cúng dường.” Sau khi suy nghó, mọi người đều tập hợp lại một chỗ, đồng đến nơi Thiện Tịch. Đến nơi, tất cả đều chắp tay cung kính cùng nói kệ khen ngợi: Ngài, vị y chỉ khéo cứu hộ Ngài là Y vương, là thuốc hay Theo lời Ngài dạy đều hết bệnh Nay phải làm gì để cúng dường? Khi đó nam tử Thiện Tịch biến mất đi tướng hiện, trở lại thân Đế Thích, rộng vì dân chúng mà nói kệ rằng: Vàng bạc, tài bảo và ăn uống Tất cả thứ ấy ta không ưa Chỉ vì cứu hộ các hữu tình Mười thiện đạo nghiệp khiến viên mãn Bồ-đề hạnh nguyện tu kiên cố Làm nhân lợi lạc các hữu tình Cùng nhau phát khởi tâm thương mến Tất cả việc lợi càng thêm tăng Nghe rồi nên phát tâm Bồ-đề Lại khởi ý đại Từ tối thượng Khiến cho tích tụ nhân thù thắng Thập thiện nghiệp đạo đều thanh tịnh. Lại nữa, này Tịch Tuệ! Trời Đế Thích khi ấy nói kệ này rồi, liền trở về Thiên cung. Trai gái, đồng nam, đồng nữ, tất cả dân chúng trong cõi Diêm-phù-đề này, số ấy nhiều vô lượng, không có một ai bị đọa vào đường ác. Các hữu tình ấy sau khi mạng chung đều sinh lên cõi trời Tam thập tam. Sinh lên trời ấy rồi, vua trời Đế Thích liền vì các hữu tình ấy mà nói pháp khai thị chỉ dạy khiến họ được hoan hỷ, lợi lạc và khiến cho tâm hướng về quả vị giác ngộ của họ không còn thoái chuyển. Trong số đó, có các hữu tình xa lìa trần cấu, được Pháp nhãn tịnh. Lại nữa, này Tịch Tuệ! Vì thế nên biết các thân nghiệp đã làm của mật thân Bồ-tát được thanh tịnh rồi, liền xả bỏ thân mạng, luôn vì thành tựu vô lượng, vô biên tất cả hữu tình nên cuối cùng chứng được quả Giác ngộ cao tột. Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ lại bảo Đại Bồ-tát Tịch Tuệ: –Tịch Tuệ nên biết! Thân Bồ-tát là thân không phá hoại, là thân kiên cố, chân thật không sinh diệt. Nếu các hữu tình đáng dùng thân hữu hoại để hóa độ, liền hiện thân ấy mà hóa độ. Nếu các hữu tình đáng dùng thân không hoại để hóa độ, liền hiện thân ấy mà hóa độ. Đối với tất cả chủng loại đều không phá hoại, lửa không thể đốt, dao không thể cắt đứt, thân này là kiên cố chân thật, không thể phá hoại, là từ Kim cang mà thành. Thế nên, này Tịch Tuệ! Bồ-tát hiện ra thân tướng, chỉ vì đem lại sự thành tựu cho tất cả hữu tình, làm việc lợi ích. Tuy làm như vậy, nhưng Bồ-tát không suy nghó, cũng không phân biệt thân tướng ấy, biết rằng thân là lìa tướng, cho nên được pháp lìa tướng, cũng không phải là thân lìa tướng cùng với tất cả pháp lìa tướng có hai sự sai biệt. Nếu tướng tức là thân lìa tướng, thì tướng ấy tức là pháp lìa tướng. Như vậy do lìa tướng nên có thể theo đó mà thể nhập, nghóa là tự thân lìa tướng cùng với thân lìa tướng của tất cả hữu tình, cả hai đều bình đẳng. Vì sao? Vì tự thân lìa tướng và do thân của tất cả hữu tình lìa tướng nên thể nhập vào tất cả pháp giới lìa tướng. Do pháp giới lìa tướng, nên thể nhập vào pháp lìa tướng, nhưng trong đó thật không có một pháp nhỏ nào có thể nắm bắt được. Vì tự thân là chân như, cho nên thể nhập vào thân chân như của tất cả hữu tình; tất cả thân chân như của hữu tình thể nhập vào tự thân chân như. Lại nữa, tự thân chân như thì thể nhập vào tất cả pháp chân như. Do thể nhập vào pháp chân như cho nên thể nhập vào tất cả chân như của Phật. Lại do tự thân chân như, cho nên thể nhập vào chân như của quá khứ, vị lai, hiện tại; nhưng chẳng phải chân như của quá khứ cùng với chân như của vị lai, hiện tại kia có sự trái nhau. Chân như của quá khứ, vị lai, hiện tại tức là chân như của uẩn, xứ, giới; chân như của uẩn, xứ, giới tức là chân như thanh tịnh. Chân như nhiễm tịnh, tức là chân như của sinh tử Niết-bàn. Chân như của sinh tử Niết-bàn tức là chân như không có tạo tác. Chân như không có tạo tác tức là chân như của tất cả tạo tác. Này thiện nam! Điều mà gọi là chân như tức là thật tánh; thật tánh tức là như tánh, là không có tánh khác, không có tánh chủng loại, không có tánh sinh, không có tánh tranh luận, không có tánh chấp chặt. Vì chân như không có pháp nào là có thể nắm bắt. Nói pháp chân như là pháp không thể nắm bắt, là do vì chân như ấy không có sự nắm bắt, tức là nắm bắt như thị. Ở trong các pháp thủ, Bồ-tát thị hiện có pháp sở thủ. Nhưng chẳng phải chân như có thủ, có tạo tác. Do không thủ, cho nên không có tranh luận; do không tranh luận, nên đối với các sắc hiện có sở thủ, nhưng chân như ấy cũng không bị lay động. Thế nên dùng trí chân thật ấy để quán sát thân chân thật của Như Lai. Do quán thân Như Lai là bình đẳng, nên quán tự thân là chân như. Nói tóm lại quán sát kỹ tất cả thân là tánh chẳng phải thân, rốt ráo không sinh; biết rõ tất cả thân đều từ pháp duyên sinh mà thành, biết như vậy rồi mới có thể ngộ nhập vào Pháp thân môn kia. Do thể nhập vào Pháp thân môn ấy nên thành tựu Pháp thân, chẳng phải là uẩn, xứ, giới thân mà là Pháp thân rộng lớn tối thắng. Quán tưởng như thật, từ đó mà hiện thân, làm lợi lạc cho các hữu tình, cho đến tất cả sự thấy nghe hiểu biết đều là vì lợi lạc hữu tình. Tịch Tuệ nên biết! Ví như y vương Kỳ-bà tích tụ tất cả thuốc hay tối thượng ở thế gian, rồi chế biến tinh diệu hòa hợp làm thành tướng một người nữ sắc đẹp tuyệt vời mọi người ai cũng muốn ngắm nhìn, tùy theo sự thích ứng mà an lập thi tác, hoặc đến hoặc lui, đi, đứng, ngồi, nằm, phân biệt sự tướng, cũng chẳng phải phân biệt, chẳng phải lìa phân biệt. Những ai có bệnh, hoặc quốc vương, đại thần, trưởng giả, cư só đến chỗ người nữ mà y vương Kỳ-bà đã dùng thuốc hay làm thành kia, cùng nhau hòa hợp, hòa hợp rồi thì tất cả bệnh khổ đều dứt trừ, bệnh hết, được khinh an, lại được khoái lạc. Này Tịch Tuệ! Ông hãy quán vị y vương Kỳ-bà kia. Vị ấy đã dùng trí khéo léo dứt trừ các bệnh cho thế gian, còn các thầy thuốc khác không có trí lực này. Pháp thân tối thắng của Bồ-tát cũng như vậy. Nếu ai có thể như lý chân thật mà quán, thì tất cả trai gái, đồng nam, đồng nữ kia thân bị tham, sân, si thiêu đốt; còn ai có thể như thật mà quán Pháp thân, thì có thể dứt trừ tất cả phiền não, tâm đựơc khinh an, thân lìa sự thiêu đốt. Vì thế nên biết nguyện lực thanh tịnh đời trước của Bồ-tát, Pháp thân rộng lớn thù thắng của Bồ-tát, như thật mà quán thì chính là mật thân thanh tịnh của Bồ-tát. Tịch Tuệ nên biết! Pháp thân của Bồ-tát không phải do ăn uống mà thành, cũng không phải do đoàn thực nuôi dưỡng. Bồ-tát biết rõ tướng như vậy rồi, vì thương xót tất cả hữu tình mà thị hiện nhận ăn uống. Tuy có sự nắm bắt, nhưng không đắm trước tướng, cũng không phải vì tiếc thân mạng mà có sự nắm bắt trong sự nắm bắt, lại Pháp thân ấy không tăng, không giảm. Vì thế nên biết, Pháp thân của Bồ-tát không sinh, không diệt và cũng không khởi. Nhưng trong đó có thị hiện sinh diệt, tạo tác, chỉ vì đem lại sự thành tựu cho các hữu tình. Diệt tức là không diệt, cũng không tạo tác, đối với tất cả pháp nên biết như vậy. Nếu có sinh tức là nghóa hòa hợp, đối với tất cả pháp nên biết như vậy. Lại nữa, nên biết tất cả pháp kia sinh tức là không sinh, thân của Như Lai tức là Pháp thân, là pháp thực, là pháp lực, là pháp quy thú. Thân Như Lai là thân hư không, thân không gì sánh bằng, thân tối thắng trong tất cả ba cõi, thân thông đạt tất cả Như Lai, thân không thể ví dụ, không thể so sánh, thanh tịnh vô cấu, không nhiễm ô; là thân tự tánh sáng suốt, thân tự tánh không sinh, thân tự tánh không khởi, thân lìa tâm ý thức, thân tự tánh bóng trăng đẹp dưới nước, thân thành từ Không, Vô tướng, Vô nguyện; thân mười phương tối thắng rộng lớn như hư không, thân bình đẳng tất cả hữu tình, thân vô biên vô cùng; thân không chủng loại, không phân biệt; thân không hủy không khác, thân đối với trụ mà không trụ, được bất động; thân tự tánh vô sắc; thân tự tánh không có thọ, tưởng, hành, thức; thân không phải do địa giới mà thành, thân không phải do thủy, hỏa, phong giới mà thành; thân chẳng phải do chủng loại, chẳng phải do hòa hợp chủng, cũng chẳng phải do đại chủng mà thành; thân này không phải pháp chủng loại, tất cả thế gian không thể sánh bằng; thân này không phải do mắt sinh, không phải do nương nơi tai, không phải do quan năng của mũi, không phải do quan năng phân biệt của lưỡi, không phải do sự hòa hợp xúc của thân, không phải do ý tác thành… không phải do sự vận động của tâm, không phải do sự vận hành của ý thức, cũng không phải không chuyển, cũng không phải tùy chuyển. Thiện nam! Do vậy cần phải như thật mà quán thân Như Lai. Vị Bồ-tát ấy đối với thân Như Lai mà trụ vào tánh bình đẳng, được thanh tịnh rồi mới thực hành hạnh Bồ-tát. Cho đến tam thiên đại thiên thế giới, hoặc bốn đại châu, hoặc Diêm-phù-đề, tất cả vương thành, tụ lạc, quận ấp, Bồ-tát đối với tất cả những nơi ấy rộng vì hiện thân, nhưng ở trong đó không có sở hiện, cũng không đối ngại. Lại nữa, Bồ-tát có thể hiện thành thân ma ở khắp mười phương, ở trong chỗ hiện đó mà hiện không có đối ngại, ở trong chỗ không hiện mà hiện không có đối ngại. Do như vậy cho nên không thấy, không nghe, không hiểu, không biết, hiện ra là vì muốn đem lại sự thành tựu cho tất cả hữu tình. Bồ-tát đối với thân niệm xứ ấy cũng không tăng giảm. Bồ-tát tuy biết thân là vô thường, biết thân là khổ, biết thân là vô ngã, nhưng vì hữu tình mà thị hiện thân ấy để làm việc lợi ích. Bồ-tát biết thân vốn là tịch tónh, vì các hữu tình mà khởi lên thân phân biệt làm các lợi lạc. Bồ-tát biết rõ do nhân duyên mà thành ra thân ấy, nhưng đối với mỗi mỗi pháp nhân duyên ấy như thật mà quán, cũng không có người tạo tác, cũng không có người thọ nhận. Lại nữa, Bồ-tát có năng lực quán thân này là vô tri như cây, cỏ, ngói, gạch. Thân nghiệp Bồ-tát tuy đã thanh tịnh, nhưng vì hữu tình mà thị hiện thân ấy. Tịch Tuệ nên biết! Bồ-tát Thích-ca ban đầu ở chỗ Phật Nhiên Đăng phát tâm Bồ-đề, nghiệp của thân, khẩu, ý tất cả đều thanh tịnh và thân nghiệp cũng đầy đủ vô lượng, vô biên công đức. Giả sử quá hằng hà sa số kiếp, hoặc Đức Như Lai nói, hoặc ta nói về thân nghiệp rộng lớn thanh tịnh của thân mật Bồ-tát cũng không thể cùng tận.  Phật nói kinh Đại thừa bí mật chẳng nghó bàn của Như Lai <卷 id="87624616">Quyển 3 <詞 id="87624617">Phẩm 2: Mật ngữ của Bồ-tát Đại bí mật chủ Đại Bồ-tát Kim Cang Thủ lại bảo Đại Bồ-tát Tịch Tuệ: –Này thiện nam! Sao gọi là ngữ nghiệp thanh tịnh trong mật ngữ của Bồ-tát? Tịch Tuệ nên biết! Nơi nào Bồ-tát sinh ra thì nơi ấy chính là bản sinh của Bồ-tát. Tùy theo bản sinh của Bồ-tát tức là thể nhập vào âm thanh của Bồ-tát. Tất cả những âm thanh ngôn ngữ của hữu tình, các lời nói, ngôn từ diễn đạt để hiểu, nói chung là tất cả những lời nói về mọi sự tướng qua lại, quán sát kỹ về khổ vui… đều có trong âm thanh của Bồ-tát. Tuy vậy, nhưng Bồ-tát vẫn không chướng ngại, không chấp trước vào tri kiến, tất cả đều tùy chuyển. Cho đến những âm thanh vi tế như tiếng của muỗi, trùng, ruồi, bướm, Bồ-tát đều có thể hiểu rõ và nêu ra được, khiến cho các hữu tình nghe được âm thanh của Bồ-tát thân tâm được khinh an. Tùy theo những gì đã nghe mà nêu rõ ra, đều là từ miệng Bồ-tát nói ra, trong đó nói kệ rằng: Tùy các hữu tình vô cùng tận Chủng loại đó cũng nhiều vô kể Dù trong trăm kiếp nói không hết Chẳng nghó bàn này sao thể nói Ta dùng thí dụ như nghóa nói Nói pháp Bồ-tát cũng không mất Không tăng, không giảm như hư không Khởi tâm rộng lớn mà khai diễn. Lại nữa, này Bồ-tát Tịch Tuệ! Ở chỗ Phạm vương ấy, có tất cả loại âm thanh như loại âm thanh của Đế Thích, loại âm thanh của Thiên vương Hộ thế, loại âm thanh của các hàng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già…, cho đến mọi loại âm thanh của tất cả hữu tình. Bồ-tát đều dùng âm thanh tùy theo đối tượng mà hòa nhập. Lại nói kệ rằng: Phạm âm Bồ-tát hoan hỷ nói Siêu việt hơn cả tiếng Phạm vương Lời nói tương ứng hành Từ, Bi Hỷ, Xả bốn pháp đều hòa hợp Đế Thích ca vịnh tiếng vừa ý Âm thanh Bồ-tát lại bao trùm Tùy chỗ phát tiếng ca vi diệu Cần nên phân biệt các pháp nghóa. Chúng Khẩn-na-la tiếng vi diệu Tiếng của Bồ-tát vượt hơn cả Lửa tham thiêu đốt khiến dứt trừ Theo lời đã nói sinh vui thích. Tiếng vừa ý của trời cõi Dục Chư Thiên ca vịnh tiếng đều khác Pháp nghóa tùy thuận như lý nói Khiến cho tất cả sinh hoan hỷ Các hữu tình tham, sân, si, mạn Lại thêm kiêu ngạo, dối, nghi hoặc Nghe tiếng như nghóa của Bồ-tát Thảy đều chấm dứt tham, sân, si Tất cả các chúng trời cõi Sắc Nghe tiếng của Bậc Thượng Nhân rồi Tất cả đều sinh tâm hoan hỷ Nguyện cầu Bồ-đề sinh đường thiện. Các tiếng âm nhạc của các loài Ma-hầu, Càn-thát-bà và Rồng Nghe lời của Bậc Công Đức Hải Tất cả ai nấy rất mừng vui. Âm thanh vang khắp cả mọi nơi Người ở trong cõi Diêm-phù-đề Nghe tiếng vi diệu của Bồ-tát Nghe rồi tất cả được giải thoát Địa cư, Không cư, các cõi trời Âm thanh Bồ-tát đều hòa nhập Tùy theo chủng loại tiếng hòa nhập Tuyên nói chân thật quyết định pháp Ca-lăng-tần-già, câu-chỉ-la Ngỗng, nhạn, anh vũ và thu lộ Khổng tước, cộng mạng, câu-na-la Chim cát tường và loài uyên ương Sư tử, hổ, báo, beo, hươu, nai Voi, ngựa, tê, trâu, mèo, chó, heo Các loài thú chạy và chim bay Âm thanh hòa nhập đều hoan hỷ. Tất cả hữu tình loại bốn chân Hai chân, nhiều chân và không chân Âm thanh Bồ-tát đều hòa nhập Cảnh tỉnh khiến chúng sinh mến, sợ. Hữu tình trong ba ngàn thế giới Bậc thượng, trung, hạ đều sai khác Tam đồ và hàng trời, người kia Âm thanh Bồ-tát đều hòa nhập. Tuy thế Bồ-tát không phân biệt Không chấp, không buộc, không tư tưởng Tâm trụ thiền định, không tán loạn Tùy theo thích ứng hiện các tướng Thanh tịnh nguyện cầu của hữu tình Âm thanh diễn rõ trăm ngàn cõi Quá hằng hà sa số cũng vậy Tâm ấy không trì, không tìm hiểu. Quân ma trong ba ngàn thế giới Đều nghe tiếng lớn của Bồ-tát Nghe rồi kinh sợ vội quy tâm Chắp tay cung kính xin đảnh lễ. Các hữu tình thường hay tranh luận Tâm tăng thượng mạn không quy tín Nghe giọng thanh tịnh của Bồ-tát Chắp tay cung kính xin đảnh lễ. Điếc, ngọng cộng thêm những kẻ câm Cà lăm phá hoại các hữu tình Do nhờ tiếng hay của Bồ-tát Khi đã nghe rồi liền nói được. Phiền não thiêu đốt thêm bức bách Tạo tội, gây ác càng chất chồng Nhờ nghe tiếng thanh tịnh Bồ-tát Tâm được mát mẻ dứt các ác. Hữu tình nếu nghe tiếng vô thường Tức được nghe tiếng Phật, Pháp, Tăng Pháp Thí, Nhẫn, Giới cũng như vậy Tinh tấn, Định, Tuệ thảy đều nghe Tất cả công đức như biển ấy Trong vô lượng kiếp nói không cùng Âm thanh vô biên, trí vô biên Đều trụ tiếng Phật không đoạn mất. Lại nữa, này Tịch Tuệ! Nên biết trong âm thanh, ngôn ngữ của Đại Bồ-tát không có lời đắm trước, không có lời dữ tợn hung ác, không có lời si loạn, không có lời nhiễm ô, không có lời buộc mở, không có lời cao thấp, không có lời thô lỗ, không có lời ác ngang trái, không có lời khiếm lậu, không có lời ương ngạch cứng cõi, không có lời trái thuận, không có lời thoái thất, không có lời nói theo ác, không có lời nói trái nghịch nhau, không có lời nói tùy nhiễm, không có lời nói bất định, không có lời nói thô tháo, không có lời nói cống cao, không có lời nói giận dữ, không có lời nói chẳng hợp thời, không có lời nói tạp dục, không có lời nói hỷ ái tùy theo hoàn cảnh, không có những lời nói quyến luyến, không có lời nói dài dòng, không có lời nói quá nhanh, không có lời nói phá hoại các căn, không có lời nói hoại âm thanh, không có lời nói phá hoại tâm, không có lời nói tà vạy quanh co, không có lời nói yếu hèn, không có lời nói úp mở, không có lời nói suy thoái, không có lời nói trở mặt lật lưng, không có lời nói thâm hiểm, không có lời nói không xuất ly, không có lời nói không thương xót, không có lời nói phá hoại người khác, không có lời nói làm ly gián giữa mình và người, không có lời nói nói ra nói vào, không có lời nói chấp thủ, không có lời nói không thanh tịnh, không có lời nói không như lý, không có lời nói bất nhẫn, không có lời nói tạp loạn, không có lời nói vu khống hủy báng, không có lời nói phi pháp, không có lời nói cao ngạo đắc thắng, không có lời nói thấp hèn, không có lời nói quá thời, không có lời nói lỗi lầm sai trái, không có lời nói hư dối, không có lời nói tà vạy, không có lời nói mong cầu lợi dưỡng, không có lời nói không quy nhiếp, không có lời nói ngu si nghi ngờ, không có lời nói không khả ái, không có lời nói khoe khoang, không có lời nói khinh mạn, không có lời nói tự cho mình là cao cường, không có lời nói làm cho người khác phải chia lìa, không có lời nói tự khen công năng của mình, không có lời nói phá công năng người khác, không có lời nói chê trách, không có lời nói chèn ép người khác, không có lời nói không phải việc làm, không có lời nói trái với việc làm, không có lời nói phá hoại bí mật, không có lời nói không phòng hộ, không có lời nói khinh mạn người trí, không có lời nói hủy báng Hiền thánh, không có lời nói trau chuốc cho hay, không có lời nói tâng bốc, không có lời nói nêu lên lỗi lầm của người khác, không có lời nói như tên bắn, không có lời nói bàn về cái quấy của người khác, không có lời nói không cứu giúp, không có nói ra những lời nói tăng thượng mạn, không có lời nói tội nghiệp, không có lời nói không nhiêu ích. Tịch Tuệ nên biết! Lời nói mà Bồ-tát nói ra đều là Thần thông trí lực từ nơi quả báo phước hạnh mà thành, hạt giống thiện phát triển liên tục không có gián đoạn. Hễ có nói ra thảy đều thành tựu. Có lúc Bồ-tát đi đứng, nằm, ngồi dưới gốc cây, nếu có người đến chỗ của Bồ-tát hỏi: –Ngài có biết cây này có bao nhiêu lá không? Lúc đó Bồ-tát không nhìn cây ấy, cũng không đếm lá ấy, liền đáp: –Cây này có số lá. Y như lời Bồ-tát nói, số lá của cây ấy không có tăng giảm. Lại có người hỏi Bồ-tát: –Sông Khắc-già có bao nhiêu cát? Là trăm ư? Là ngàn ư? Là trăm ngàn ư? Là ức ư? Là trăm ức ư? Là triệu ư? Là trăm triệu ư? Là trăm trăm ức ư? Là trăm trăm triệu ư? Là vô lượng ư? Là a-tăng-kỳ ư? Là hơn a-tăng-kỳ ư? Là quá hơn a-tăng-kỳ ư? Là không thể đếm ư? Lúc đó Bồ-tát không nhìn sông ấy, không đếm số cát ấy liền đáp: –Con sông này có vô lượng cát. Y như lời Bồ-tát nói, số cát sông này không tăng không giảm, cũng đồng với số mà trí Như Lai đã biết. Lời của Bồ-tát nói ra như thật không hư vọng, không dựa vào các hàng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già v.v… và Thanh văn, Duyên giác để chứng biết, mà chỉ có Phật Như Lai mới có thể chứng biết. Này Tịch Tuệ! Các duyên như vậy cần phải biết. Lại nữa, này Tịch Tuệ! Ta nhớ thời quá khứ rất xa xưa, có một vị Tiên nhân tên là Diệu Ái, có một Bà-la-môn tên là Hắc Tướng. Lúc đó có một cây lớn Ni-câu-đà tên là Hiền thiện, nhành lá rất nhiều; bóng cây rợp mát ngang rộng đến một Câu-lô-xá. Tiên nhân Diệu Ái ở bên cây ấy, trải qua bảy ngày dùng thần lực quán sát kỹ lưỡng, biết rõ số lá của cây ấy. Sau một thời gian, Bà-la-môn Hắc Tướng đi vào thành khất thực, rồi đến dưới gốc cây ấy thọ thực, thọ thực xong bèn đến chỗ của Tiên nhân Diệu Ái, thăm hỏi nhau bằng những lời lẽ tốt đẹp, thật rất hoan hỷ, đàm luận rất lâu, cả hai đều thích. Lúc đó Tiên nhân hỏi: –Này đại Bà-la-môn, ngài có biết trong thế gian này ai có thể quán sát kỹ biết được số lá của cây lớn Ni-câu-đà này không? Bà-la-môn đáp: –Thưa Tôn giả, thế gian này cũng có người biết đấy. Tiên nhân hỏi lại: –Là ai? Bà-la-môn đáp: –Chính là ngài đấy. Ngài nên vì tôi mà nói đi. Tiên nhân nói: –Đại Bà-la-môn, ngài hãy nói cho tôi nghe. Lúc đó vị Bà-la-môn không nhìn cây ấy, không đếm số lá ấy, liền đáp bài kệ rằng: Số lượng đó là tám ngàn triệu Chín mươi hai ức số lá ấy Sáu mươi trăm ức số nên biết Mười sáu ngang bằng số nhánh ấy Lại nữa ba mươi triệu số lá Chín mươi sáu trăm trăm ức triệu Mười ba trăm trăm triệu số lá Số lượng này đều là lá cây Cây này có cành thêm có lá Số lượng như trên không tăng giảm Ta tùy trí lực như thật nói Ai nghi tự đếm không hề sai. Nghe như vậy, Tiên nhân Diệu Ái sinh tâm kinh dị, liền nói kệ rằng: Này Bà-la-môn trí thần thông Dùng lời chân thật đã khéo nói Thọ vương Ni-câu-đà Hiền thiện Đã biết như thật nhánh lá ấy Ngài cũng chưa từng nhìn cây ấy Và chưa bao giờ đếm lá ấy Số lượng nhánh lá thật khó lường Ngài dùng tâm trí biết rõ ràng. Tiên nhân nói kệ xong, lại hỏi: –Thưa đại Bà-la-môn, theo những lời ngài đã nói thì đó, là tự trí ngài biết, hay là nhờ vào sự trợ giúp của Hiền thánh mà biết? Bà-la-môn đáp: –Thưa Tôn giả! Nay ngài hãy lắng nghe! Tôi dùng trí của con người như thật mà nói, hư không có thể phá hoại được, nhưng lời nói này không có sai lầm. Bấy giờ, Đại bí mật chủ Đại Bồ-tát Kim Cang Thủ lại bảo Đại Bồ-tát Tịch Tuệ: –Này thiện nam! Vị Tiên nhân Diệu Ái thuở đó nay chính là Đại trí Xá-lợi-phất, Bà-la-môn Hắc Tướng nay chính là Thế Tôn Thích-ca Sư Tử. Do như vậy, cho nên Bồ-tát có Ngữ công đức hải, có khả năng an trụ vào công đức chân thật pháp nghóa như lý. Tịch Tuệ! Đây là ngữ nghiệp bí mật thanh tịnh của Bồ-tát. Trong số đó nếu có người hiểu được chút ít nào, ta cho rằng người đó là người có trí tuệ tối thượng.  <詞 id="87624618">Phẩm 3: Mật tâm của Bồ-tát (Phần 1) Đại bí mật chủ Đại Bồ-tát Kim Cang Thủ bảo Đại Bồ-tát Tịch Tuệ: –Sao gọi là mật tâm, nghiệp tâm thanh tịnh của Bồ-tát? Tịch Tuệ nên biết! Bồ-tát tạo các nghiệp là từ trí mà tạo chứ không phải do mạn tạo, không diệt thần thông diệu trí, mà lại dùng thần thông diệu trí để du hý thị hiện, kiến lập tất cả sự nghiệp thần thông đều từ nơi thế lực rộng lớn mà thành tựu. Trí tướng ấy có khả năng thành lập tất cả hành tướng. Lại nữa, thần thông diệu tuệ ấy có khả năng quán thấy các pháp. Lại nữa, thần thông trí tức là tướng vô tận đối với tất cả mọi nơi đều có thể tùy thuận. Lại nữa, thần thông trí có thể tùy theo đối tượng mà hiện tất cả sắc tướng, do đối với mỗi sắc ấy đều hiện ra khắp cả. Lại nữa, thần thông trí có khả năng hòa nhập vào tất cả âm thanh, do đối với khoảng trước sau âm thanh đều bình đẳng. Lại nữa, thần thông trí có khả năng quán sát hết tất cả tâm hữu tình, do dùng tự tánh của tâm quán sát nên có thể thấy. Lại nữa, thần thông trí có thể nhớ nghó việc trong vô biên kiếp, do vì khoảng trước sau không có gián đoạn. Lại nữa, thần thông trí có khả năng biết pháp của tất cả chủng loại, đều do hành tướng của giải thoát trí. Lại nữa, thần thông trí đối với pháp lậu tận thuận thời mà cầu, vì phân tỏ rõ thời điểm đó không để vượt quá. Lại nữa, thần thông trí tức là xuất thế gian vì là sự lựa chọn quyết định của bậc Thánh. Lại nữa, thần thông trí này hàng Thanh văn, Duyên giác đều không thể thấu triệt được nguồn gốc của nó. Lại nữa, thần thông trí tức là nghóa thậm thâm, có khả năng hàng phục các tà ma ngoại đạo. Lại nữa, thần thông trí có thể đưa đến Bồ-đề đạo tràng, hiện chứng tất cả pháp Phật tối thượng. Lại nữa, thần thông trí có thể tùy thuận chuyển diệu pháp luân. Lại nữa, thần thông trí có khả năng điều phục mọi việc của hữu tình. Lại nữa, thần thông trí được đại quán đảnh, được tự tại trong tất cả các pháp. Này Tịch Tuệ! Đấy là mật tâm nghiệp tâm thanh tịnh của Bồ-tát. Do tâm thanh tịnh cho nên không bị nhiễm ô, thanh bạch, trong sáng lìa các phiền não, có khả năng điều phục việc ác, làm các việc thiện, khéo đi vào thiền định giải thoát Chánh định, Chánh thọ, rốt ráo không đọa vào các nẻo. Tận pháp vô sinh tùy niệm liền sinh không bị Dục giới làm động, không do trói buộc sinh; không do trói buộc diệt; không do trói buộc khởi. Vì sao? Vì có khả năng giải thoát tất cả phân biệt, giải thoát mọi tạp nhiễm trói buộc, giải thoát sự điên đảo chấp thủ đeo bám. Như vậy là giải thoát sinh, giải thoát diệt, giải thoát khởi. Tuy là có sinh nhưng không có sở sinh. Như vậy là đầy đủ pháp Đại thừa của chư Phật. Nhưng pháp Phật ấy, trong mười phương nếu tìm cầu kỹ lưỡng chắc chắn thì không có sở đắc, cũng không phải là không sở đắc. Vì tất cả pháp Phật là không có sở đắc, cũng không phải không có sở đắc, cho nên mới có thể tùy theo đó mà được tất cả pháp, tất cả pháp Phật. Thế nên trong tất cả pháp, tất cả pháp Phật, không có pháp, cũng chẳng phải không có pháp. Tại sao vậy? Vì tất cả pháp xét cho kỹ để tìm cầu, thì không có sở đắc, cũng không phải không có sở đắc, tức là không có pháp nào có thể tính đếm được, vì tất cả pháp đã vượt ra ngoài sự tính đếm suy lường. Nếu biết rõ tánh của tất cả pháp là bình đẳng thì trong đó không có pháp cũng không phải không có pháp để chấp trước. Đây tức là nghóa của các pháp không chấp trước. Nếu thông đạt được nghóa này thì đó là nghóa của Đại vô. Nếu không thông đạt thì đó là vô nghóa, cũng không phải là vô nghóa, do vì hiện tiền an lập vô nghóa có thể thấy. Nếu bậc trí tuệ nào có thể biết rõ nó là chướng ngại, thì đó là tuệ vô ngại. Nếu đối với tuệ mà không chướng ngại, thì là không chấp trước. Nếu không chấp trước, thì không trụ. Nếu không trụ thì không tận. Nếu không tận thì không siêng, không nhác. Nếu không siêng, không nhác thì không phải không ngã. Nếu không phải không ngã thì là vô ngã. Nếu vô ngã thì không thủ. Nếu không nắm giữ thì không tranh cãi. Nếu không tranh cải thì là không tranh luận, như vậy là không luận. Đây gọi là pháp Sa-môn, chính là pháp của Sa-môn. Thí như hư không xưa nay bình đẳng. Do hư không bình đẳng, cho nên không phải Dục giới buộc, không phải Sắc giới buộc, không phải Vô sắc giới buộc. Do vậy nên đối với tất cả mọi nơi không bị trói buộc. Do không trói buộc, cho nên không có hình hiển sắc và các tướng trạng. Do không sắc tướng cho nên tùy thuận với giác liễu. Nếu tùy thuận giác liễu như vậy thì có thể phân biệt sai biệt đối với tất cả. Bồ-tát Tịch Tuệ hỏi: –Sao gọi là tùy thuận giác liễu? Sao gọi là phân biệt sai biệt? Bồ-tát Kim Cang Thủ đáp: –Không có một pháp nhỏ nào có thể được. Đấy gọi là tùy thuận giác liễu. Do giác liễu, cho nên có phân biệt sai biệt. Thế nên trong pháp đó mới có hai thuyết này. Tịch Tuệ nên biết! Đấy gọi là mật tâm nghiệp tâm thanh tịnh của Bồ-tát.  Phật nói kinh Đại thừa bí mật chẳng nghó bàn của Như Lai <卷 id="87624619">Quyển 4 <詞 id="87624620">Phẩm 3: Mật tâm của Bồ-tát (Phần 2) Đại bí mật chủ Đại Bồ-tát Kim Cang Thủ lại bảo Đại Bồ-tát Tịch Tuệ: –Này thiện nam! Mật tâm của Bồ-tát nghóa là tu hạnh Từ biết là vô ngã, nếu tu hạnh Bi thì không chúng sinh; nếu tu hạnh Hỷ, thì không thọ giả; nếu tu hạnh Xả thì không có nhân; nếu tu hạnh Bố thí thì thân được điều phục; nếu tu hạnh Trì giới, thì tâm được tịch tónh; nếu tu hạnh Nhẫn nhục thì tâm được vô tận tướng; nếu tu hạnh tinh tấn thì tâm lìa tướng; nếu tu hạnh Thiền định thì tâm được an định; nếu tu hạnh Tuệ thì tâm không suy xét; nếu tu hạnh bốn Niệm xứ thì tâm không có niệm, cũng không tác ý; nếu tu hạnh bốn Chánh đoạn thì tâm ngay thẳng bình đẳng; nếu tu hạnh bốn Thần túc thì tâm không hý luận; nếu tu Tín căn thì tâm không chấp trước; nếu tu Tinh tấn căn thì tâm không tìm hiểu; nếu tu Niệm căn thì tâm được trí tự nhiên; nếu tu Định căn thì trí tâm được tánh bình đẳng; nếu tu Tuệ căn thì được vô căn bản tâm; nếu tu năm Lực thì được tâm không khuất phục; nếu tu bảy Giác chi thì được tâm có tuệ phân biệt; nếu tu tám Chánh đạo thì tâm được vô sở tu; nếu tu Xa-ma-tha thì tâm được tịch chỉ; nếu tu Tỳ-bát-xá-na, thì được tâm vô sở quán; nếu tu bốn Thánh đế thì được tâm thông đạt Tất cánh không; nếu tu tác ý về Phật thì được tâm vô tác ý; nếu tu tác ý về Pháp thì được tâm bình đẳng với pháp giới; nếu tu tác ý về Tăng, thì tâm được vô trụ; nếu tu hạnh thành thục hữu tình thì được tâm bản lai thanh tịnh; nếu tu hạnh nhiếp thọ chánh pháp thì được tâm pháp giới không sai biệt; nếu tu hạnh trang nghiêm cõi Phật thì được tâm bình đẳng như hư không; nếu tu hạnh Vô sinh pháp nhẫn thì tâm được vô sở đắc; nếu tu hạnh Bất thoái chuyển địa thì được tâm không chuyển mà chuyển; nếu tu hạnh thành tựu các tướng thì được tâm vô tướng; nếu tu hạnh trang nghiêm quả Bồ-đề thì được tâm viên mãn ba cõi; nếu tu hạnh hàng phục các ma thì được tâm rộng nhiếp các hữu tình; nếu tu hạnh hướng đến giác ngộ thì được tâm tùy giác liễu tự tánh của pháp giới; nếu tu hạnh chuyển pháp luân thì được tâm không chuyển, cũng không phải không chuyển; nếu tu hạnh đại Niết-bàn thì được tâm tùy quán tự tánh của sinh tử. Này Tịch Tuệ! Nên biết nếu ai tu được, các pháp như trên thì được nhẫn Bồ-tát, được pháp bí mật của tâm, được tâm nghiệp thanh tịnh. Nếu Bồ-tát thanh tịnh như vậy rồi thì tâm của tất cả hữu tình cũng thanh tịnh. Có như vậy Bồ-tát mới có thể hòa nhập vào tâm của tất cả hữu tình, tất cả tâm của hữu tình đều từ tâm quang minh của đại Bồ-đề mà có. Ví như hư không, dù bất cứ nơi nào cũng đều hòa nhập vào cả. Tâm của Bồ-tát cũng lại như vậy, trụ vào tất cả xứ, để rồi hòa nhập tất cả xứ. Đại bí mật chủ Đại Bồ-tát Kim Cang Thủ tuyên nói chánh pháp chẳng thể nghó bàn về mật thân, mật ngữ và tâm mật của Bồ-tát. Lúc đó có bảy vạn hai ngàn trời và người trong hội phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ, ba vạn hai ngàn Bồ-tát được Vô sinh pháp nhẫn, tám vạn bốn ngàn người xa lìa trần cấu, được Pháp nhãn tịnh; tám ngàn Tỳ-kheo không thọ các pháp, tâm được giải thoát, ý giải lậu tận. Đồng thời tam thiên đại thiên thế giới chấn động ánh sáng rạng ngời chiếu khắp mọi nơi. Hư không tự nhiên mưa các hoa trời, lại trong hư không có trăm ngàn thứ âm nhạc vi diệu không trổi tự vang, trong tiếng âm nhạc đó phát ra tiếng như vầy: “Nếu các hữu tình đã được thọ ký rồi, thì mới được nghe chánh pháp của Đại bí mật chủ Đại Bồ-tát Kim Cang Thủ nói, nghe rồi thọ trì đọc tụng như lý tu hành, rồi đem truyền đạt rộng rãi cho người khác, vónh viễn không quên mất tâm Bồ-đề. Nên biết người ấy đã trồng nhiều căn lành mới được thành tựu, đã trồng rất nhiều căn lành ở nơi các Đức Phật, siêng năng tu hành tất cả phước hạnh tối thắng, tất cả hữu tình mà làm lợi ích lớn.”  <詞 id="87624621">Phẩm 4: Bồ-tát chấn hống âm thanh đến hội Khi ấy, Đức Phật hỏi Đại Bồ-tát Tịch Tuệ: –Này thiện nam! Ông có nghe trong hư không có những tiếng nhạc vi diệu không? Bồ-tát Tịch Tuệ bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Từ đầu con đã nghe, vậy đó là những âm thanh vi diệu gì? Cúi xin Thế Tôn hãy vì con mà nói. Phật bảo Tịch Tuệ: –Nay ông nên biết! Có vị Đại Bồ-tát tên là Chấn Hống Âm Thanh, đã từ chỗ Đức Như Lai Vân Âm Vương, thế giới Đại vân đến cõi Ta-bà này, để chiêm ngưỡng thân gần cúng dường ta và muốn nghe Bồ-tát Kim Cang Thủ nói chánh pháp, lại cũng muốn thấy chúng Đại Bồ-tát ở mười phương đến phó hội. Do vậy mà Bồ-tát Chấn Hống Âm Thanh tự ẩn thân tướng trụ giữa hư không, tuôn mưa xuống các hoa đẹp, trổi các điệu nhạc vi diệu để cúng dường ta, trong tiếng nhạc ấy phát ra âm thanh như vầy: “Thế Tôn Như Lai ở trong đại hội, rộng nói chánh pháp chưa được bao lâu.” Đức Phật nói lời này xong, Bồ-tát Chấn Hống Âm Thanh tức thời từ trên hư không xuống, vào trong Phật hội, đảnh lễ sát chân Phật và nhiễu quanh bên phải bảy vòng rồi đến trước Phật bạch rằng: –Đức Như Lai Vân Âm Vương ở thế giới Đại vân hỏi thăm Thế Tôn có ít bệnh, ít não không? Đi đứng có nhẹ nhàng không? Khí lực có an ổn không? Đức Phật Như Lai ấy còn nói như vầy: “Đại bí mật chủ Đại Bồ-tát Kim Cang Thủ có đại phương tiện khéo nói chánh pháp, là nhờ oai thần của Phật kiến lập, nên mới có thể thông đạt tất cả vô lượng pháp Phật.” Lúc đó Đức Thế Tôn khen Đại Bồ-tát Chấn Hống Âm Thanh: –Hay thay, này Thiện nam! Ông khéo đến trong chúng hội này, muốn nghe Đại bí mật chủ Đại Bồ-tát Kim Cang Thủ nói pháp bí mật chẳng nghó bàn của Như Lai. Vậy nay ông nên lắng nghe.  <詞 id="87624622">Phẩm 5: Trì Quốc Luân Vương đi trước (Phần 1) Bấy giờ các Bồ-tát trong chúng hội đều khởi lên ý nghó như vầy: “Đại bí mật chủ Đại Bồ-tát Kim Cang Thủ thuở xưa đã ở chỗ Phật Thế Tôn nào? Thân cận nghe pháp và gieo trồng nhiều căn lành, lại phát những đại thệ nguyện gì mà được như vậy; đầy đủ biện tài khéo nói các pháp?” Đức Thế Tôn biết được tâm nghi của các Bồ-tát, nên bảo Bồ-tát Tịch Tuệ: –Này thiện nam! Ta nhớ thời quá khứ trải qua a-tăng-kỳ kiếp, lại quá hơn số kiếp a-tăng-kỳ trước vô lượng, vô biên chẳng thể nghó bàn, có kiếp tên là Thiện hiện, thế giới tên Trang nghiêm, có Đức Phật ra đời hiệu là Vô Biên Công Đức Bảo Chúng Trang Nghiêm Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư Phật, Thế Tôn. Tịch Tuệ nên biết! Thế giới Trang nghiêm kia rộng lớn tốt đẹp an ổn sung sướng, nhân dân đông đúc, đất bằng phẳng như lòng bàn tay, không có các thứ sỏi đá, gai gốc nhơ bẩn, cỏ cây vườn rừng xanh tươi rậm rạp, trông thật đáng yêu. Lại còn có danh hoa, cỏ mịn xanh rờn mơn mởn tốt đẹp bao phủ cả mặt đất. Cũng như tướng tốt đẹp của chim Khổng tước, mỗi khi nó quay cổ sang phía bên phải, để lộ ra sắc hương làm cho mọi người vui thích. Khi nó đáp chân xuống đất thì thụt vô bốn ngón, cất cánh lên thì xòe ra bốn ngón. Nó luôn thích hợp với bốn mùa cực lạnh, nóng, vừa, mát. Gió thổi nhè nhẹ làm cho con người sảng khoái. Đất ấy trang nghiêm như Phệ-lưu-ly, nhân dân ở nơi ấy sắc tướng tốt đẹp, ít có tham, sân, si và các phiền não khác. Con người có sẵn lòng hiếu để yêu mến, đầy đủ thế lực, nghe nói những lời hay thì tự hiểu lấy. Trong giáo pháp của Thế Tôn Vô Biên Công Đức Bảo Chúng Trang Nghiêm Vương Như Lai có mười hai triệu chúng Thanh văn và ba mươi hai ức Bồ-tát. Con người thời đó sống đến ba mươi sáu ức tuổi mới mạng chung. Tịch Tuệ nên biết! Trong kiếp Thiện hiện, thế giới Trang nghiêm ấy, ở bốn đại châu mỗi đại châu rộng đến tám vạn bốn ngàn do-tuần; mỗi một do-tuần lại có một ngàn quốc thành, quận ấp, xóm làng bao bọc xung quanh. Trong thế giới Trang nghiêm ấy có nước lớn, thành trì tên là Cực thanh tịnh, chu vi của thành nước này rất lớn. Phía Bắc sáu mươi bốn do-tuần; phía Nam bốn mươi do-tuần; Đông, Tây cũng vậy. Có mười ngàn vườn làm cảnh trí trang nghiêm. Trong quốc thành ấy lại có mười ngàn châu thành, huyện ấp. Thành của nước ấy rất thanh tịnh, có đại Chuyển luân thánh vương tên là Trì Quốc, đầy đủ bảy báu, làm chủ trong bốn đại châu, đã từng ở chỗ các Đức Phật thuở trước gieo trồng rất nhiều căn lành, phước đức oai quang rất tối thắng, tâm không còn thoái chuyển nơi đạo Giác ngộ. Này Tịch Tuệ! Quốc thành của Chuyển luân thánh vương Trì Quốc đang ở đó ngang rộng bằng thẳng mười sáu do-tuần, rộng lớn đặc biệt, có bảy lớp tường làm bằng bảy báu, trên đó lại có bảy tầng lầu gác, bảy lớp lưới báu, treo các linh báu, bên trong tường xung quanh có bốn vườn lớn. Một là Chúng hoa; hai là Đức hỷ; ba là Khổng tước hỷ; bốn là Thời phân khoái lạc. Trong các vườn ấy đều có các ao lớn. Một là Hoan hỷ; hai là Hỷ thượng; ba là Hương thượng; bốn là Thuận lưu. Các ao ấy ngang dọc nửa do-tuần, đều dùng gạch báu làm tầng cấp, vàng Diêm-phù-đàn làm đáy, trải cát bằng vàng, trong ao chứa đầy nước bát công đức, lại có hoa sen mọc đầy cả bên trong. Lại có các loại chim như ngỗng, nhạn, thứu, uyên ương bơi lội trên nước. Chuyển luân thánh vương Trì Quốc có đến bảy vạn cung tần thể nữ tướng mạo đẹp đẽ lạ thường, luôn theo hầu một hoàng hậu quý báu. Các cung tần này đều đã phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ. Vua có một ngàn người con trai, thân tướng đoan nghiêm, mạnh mẽ vô úy, có khả năng hàng phục quân địch. Mỗi hoàng tử đều có đầy đủ hai mươi tám tướng đại trượng phu, có lòng tin thanh tịnh sâu sắc đối với pháp Giác ngộ cao tột. Này Tịch Tuệ! Đức Thế Tôn Vô Biên Công Đức Báo Chúng Trang Nghiêm Vương Như Lai khi đó, ở trong thành của nước lớn hết sức thanh tịnh. Chuyển luân thánh vương Trì Quốc cùng các Đại thần, Bà-la-môn, Trưởng giả cho đến tất cả nhân dân thảy đều cung kính tôn trọng cúng dường và có lòng tin thanh tịnh đối với Đức Như Lai Vô Biên Công Đức Bảo Chúng Trang Nghiêm Vương và chúng Tỳ-kheo, suốt một ức năm phụng thờ cúng dường, vui vẻ rộng đem các món ăn uống trân châu, y phục tốt đẹp, cho đến những vật thọ dụng đều dâng cúng các Tỳ-kheo, còn đem ba khu vườn dâng cúng để làm nơi dạo chơi nghỉ ngơi cho Đức Phật ấy. Này Tịch Tuệ! Vị Chuyển luân vương ấy có các thái tử tâm đều thanh tịnh, không buông lung, luôn thân cận Đức Phật và rất thích nghe chánh pháp, không bị dục lạc làm nhiễm trước. Do không buông lung, tâm luôn tịch tónh, thích nghe chánh pháp, cho nên không bao lâu các thái tử được năm thần thông, tất cả đều bay lên hư không cũng như Nga vương bay liệng tự tại từ vườn này đến vườn khác, từ thành ấp này đế thành ấp kia, cho đến dạo chơi khắp bốn đại châu; từ trên hư không nói kệ rằng: Chư Phật ra đời được lợi gì? Khắp cả nhân gian lợi thâm sâu Nhân giả nghe pháp tâm tinh tấn Trải qua trăm kiếp rất khó được Nay đây Thế Tôn vừa xuất thế Tuyên nói chánh pháp đạo tịch tónh Nay con thân cận Đấng Thiện Thệ Nhờ nghe chánh pháp sinh đường thiện Nghe chánh pháp rồi phá nẻo ác Nghe chánh pháp rồi đường thiện sinh Nhờ nghe chánh pháp phiền não diệt Tâm được mát mẻ vui tối thượng. Lúc ở hư không nói kệ này Tất cả đại địa sáu chấn động Trời, người hư không phát tiếng hay Tuôn trận mưa hoa ý vui thích Nếu người thấy được Phật Đại Sư Thì công đức này nói không hết Vậy nên đảnh lễ Đấng Lưỡng Túc Chắp tay chí thành sinh kính tín Thế Tôn hay biết tâm chúng sinh Chiếu theo trình độ mà nói pháp Nghe pháp trải qua ba sáu ức Mọi người đều trụ đạo Bồ-đề Lại còn có đến ba trăm ức Người được Pháp nhãn tịnh tối thượng Tất cả đều sinh tâm nhàm chán Quy Phật xuất gia nương chánh giáo Lại có bốn ức trăm ngàn triệu Người thọ tịnh giới làm Phật sự Nghe pháp cúng dường Phật Thế Tôn Xong rồi tất cả về chỗ cũ. Các thái tử nói kệ này xong, cùng cúng dường cho cha mình là Chuyển luân thánh vương Trì Quốc, lựa chọn Long kiên, hương Chiên-đàn đẹp dựng lên thành một lầu gác rộng lớn trang nghiêm đẹp đẽ lạ thường ngang dọc ngay thẳng mười do-tuần, phân chia đều bốn phương bốn góc. Lầu quán môn đều làm bằng Long kiên, hương Chiên-đàn, bào gọt tròn trịa như cung điện trời. Hương của Long kiên trị giá gần gấp đôi giá trị của vàng Diêm-phù-đàn. Lầu gác này được xây dựng khéo léo sắc sảo. Lúc đó Chuyển luân thánh vương muốn đến chỗ Đức Thế Tôn Vô Biên Công Đức Bảo Chúng Trang Nghiêm Vương Như Lai, chiêm ngưỡng đảnh lễ và lắng nghe chánh pháp. Đồng thời có các thái tử và các cung tần quyến thuộc theo hầu vua cha vào trong lầu gác lớn bằng chiên-đàn. Nhà vua ngồi trên tòa Sư tử được trang nghiêm bằng hoa sen. Thái tử, cung tần, các thần bề tôi, nhân dân đều tôn trọng dùng vô số vòng hoa, hương xoa và các loại y phục đẹp nhất, tràng phan bảo cái báu, âm nhạc vi diệu rộng đem cúng dường. Lại dùng lưới báu phủ lên lầu gác, mọi người cầm nắm đi trước, tức thời bay vọt lên hư không, cũng như vua loài Ngỗng bay đi tự tại. Đến trước chỗ Phật, tòa lầu gác từ từ hạ xuống mặt đất. Chuyển luân thánh vương Trì Quốc và thái tử, cung tần từ trong lầu bước ra nhẹ nhàng, trang nghiêm đến trước chỗ Phật đảnh lễ sát hai chân Ngài và chúng Tỳ-kheo. Đảnh lễ xong họ nhiễu quanh bên phải bảy vòng rồi đứng trước Phật, chắp tay lắng nghe chánh pháp. Lúc đó, Đức Thế Tôn Vô Biên Công Đức Bảo Chúng Trang Nghiêm Vương Như Lai biết Chuyển luân thánh vương Trì Quốc đến trong hội Phật muốn nghe pháp. Đức Phật liền theo ý muốn đó mà tuyên thuyết diệu pháp, chỉ bày được vui vẻ, lợi lạc. Phật dạy: –Này Đại vương! Đại vương nay nên biết! Có bốn pháp, nếu ai tu hành đúng như lý thì có thể an trụ Đại thừa hướng đến con đường thù thắng, tất cả thiện pháp không bị hoại mất. Bốn pháp là gì? Này Đại vương! Một là tin pháp, có khả năng hướng đến đạo thù thắng. Sao gọi là tin? Vì có tin thì mới có thể tùy thuận với hạt giống Hiền thánh, những gì không nên làm thì không làm. Hai là tôn trọng, có khả năng hướng đến đạo thù thắng. Do tôn trọng cho nên có thể nghe nhận được diệu pháp của các bậc Thánh nói, khi đã nghe pháp thì tai không nghe những việc bên ngoài. Ba là không ngã mạn, có khả năng hướng đến đạo thù thắng. Do không ngã mạn, nên sinh tâm quy kính đảnh lễ tất cả Hiền thánh. Bốn là tinh tấn, có khả năng hướng đến đạo thù thắng. Nhờ tinh tấn nên thân tâm đều được khinh an, hễ làm các thiện pháp đều được thành tựu. Này Đại vương! Bốn pháp này nếu tu hành đúng lý, thì có thể trụ vào Đại thừa hướng đến đạo thù thắng.  Phật nói kinh Đại thừa bí mật chẳng nghó bàn của Như Lai <卷 id="87624623">Quyển 5 <詞 id="87624624">Phẩm 5: Trì quốc luân vương đi trước (Phần 2) Lại nữa, này Đại vương! Có bốn pháp, nếu ai hành trì viên mãn, thì có thể trụ vào Đại thừa, thành tựu không buông lung, tâm không phóng đãng. Bốn pháp ấy là gì? Một là giới bảo hộ các căn; hai là quán lỗi lầm của dục; ba là nhiếp thọ tất cả tưởng vô thường; bốn là đối với pháp quyết định là mạng căn tối thượng. Đại vương, bốn pháp này, nếu ai thực hành viên mãn, thì có thể trụ vào Đại thừa, thành tựu hạnh không buông lung, tâm không phóng đãng. Này Đại vương! Lại có bốn pháp, nếu các vị vua chúa tu hành đầy đủ, thì gọi là bậc Quân vương nhân từ. Bốn pháp ấy là gì? Một là không rời bỏ tâm đại Bồ-đề; hai là đem pháp Bồ-đề giảng dạy cho người khác; ba là đem các căn lành để hồi hướng Bồ-đề; bốn là khi nghe được sức đại oai đức của Thế Tôn nghe thấy rồi, đối với oai lực của các hàng Trời, Người, Thanh văn, Duyên giác sinh tâm hoan hỷ. Tuy vậy, nhưng chỉ cầu đại lực của Phật mà thôi. Đại vương, bốn pháp này, nếu các vua chúa tu hành đầy đủ, thì gọi là bậc Quân vương nhân từ. Thế nên Đại vương phải thường tu hạnh không buông lung, lòng tin thanh tịnh hâm mộ chánh pháp, khởi lên sự ham muốn pháp mà siêng cầu chánh pháp, luôn dạo chơi trong vườn chánh pháp, nhưng không đắm trước cảnh giới. Vì sao? Đại vương nên biết! Dục là không bao giờ nhàm chán, mà khi hành giả đã nhàm chán thì là Thánh tuệ. Lại nữa, này Đại vương! Tuổi thọ thì ngắn ngủi mạng sống không lâu dài, đã qua đời khác thì tội nghiệp đáng sợ. Do vậy nên biết, phải luôn thân cận, cung kính, cúng dường chư Phật Như Lai, đem căn lành mà hồi hướng bốn chỗ. Bốn pháp ấy là gì? Một là hồi hướng quả báo vô tận; hai là hồi hướng pháp môn vô tận; ba là hồi hướng diệu trí vô tận; bốn là hồi hướng biện tài vô tận. Đại vương, lại có bốn pháp. Một là do thân thanh tịnh nên có thể thành tựu tuệ hạnh; hai là do lời nói thanh tịnh nên có thể thành tựu văn hạnh; ba là do tâm thanh tịnh nên có thể thành tựu giới hạnh; bốn là do tuệ thanh tịnh nên có thể thành tựu trí hạnh. Lại có bốn pháp: Một là do phương tiện viên mãn nên có khả năng thành thục hữu tình; hai là do tuệ viên mãn nên có khả năng hàng phục các ma; ba là do nguyện viên mãn nên có khả năng hành trì đúng như lời nói; bốn là do gặp Phật nên được viên mãn tất cả pháp Phật. Khi ấy, Chuyển luân thánh vương Trì Quốc ở chỗ Phật, được nghe chánh pháp, được chỉ bày những điều lợi ích, sinh tâm hoan hỷ thích thú khoái lạc, đem các chân châu diệu bảo vô giá và tất cả sở hữu thọ dụng của vua dâng lên cúng dường chư Phật, nguyện suốt đời tu các phạm hạnh, giữ gìn năm giới. Lúc đó, các cung tần của vua nghe chánh pháp của Đức Phật ấy nói xong, tâm rất vui thích phấn khởi hoan hỷ, đều đem y đang mặc và các món trang sức choàng lên thân Phật, nguyện suốt đời tu các phạm hạnh, giữ gìn năm giới, phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ. Lúc đó, Chuyển luân thánh vương Trì Quốc được các thiện lợi, tăng ích pháp tài, liền cùng với cung tần quyến thuộc chí thành đảnh lễ sát chân Phật và chúng đại Tỳ-kheo, nhiễu quanh bên phải bảy vòng xong vào trong lầu gác cao lớn vọt lên hư không bay đi tự tại, trở về trong thành của đại quốc rất thanh tịnh. Sau một thời gian, Chuyển luân thánh vương Trì Quốc chọn ngày trăng tròn, nghiêm giá đi dạo chơi xem ngắm các vườn hoa lớn, đánh trống thổi kèn, tấu lên những bản ca hay, đi trong cảnh thích thú vui nhộn. Lúc đó có hai cung nữ đứng đầu trong đoàn cung nữ, một tên là Vô Hủy, hai tên là Vô Tỷ cùng đến ao Hoan hỷ, tắm rửa sạch sẽ, mặc áo đến ngồi trên tòa Sư tử hoa sen. Ở trong tòa của hai cung nữ này đều có một đồng tử tự nhiên hóa sinh ngồi kiết già. Các đồng tử ấy có tướng mạo đoan nghiêm, đẹp đẽ không ai sánh bằng ai nấy đều thích nhìn ngắm. Trong khoảng sát-na, mỗi đồng tử bèn bay lên hư không, đồng thời trong hư không có tiếng Hiền thánh nói: “Hai đồng tử này, một vị tên là Pháp Tư, một vị tên là Pháp Tuệ.” Hai tên này có ra từ đó. Đồng tử Pháp Tư hóa sinh từ tòa cung nữ Vô Hủy. Đồng tử Pháp Tuệ hóa sinh từ tòa của cung nữ Vô Tỷ. Hai vị đồng tử ấy ngồi kiết già trong hư không cùng nói kệ rằng: Nhân giả, nay tôi được thiện lợi Đó là phát sinh tâm Bồ-đề Đã phát tâm rồi gặp Thế Tôn Khởi tâm thanh tịnh xin kính lễ: Biển lớn rộng sâu khó đến đáy Sinh tử xoay vần không dừng dứt Rộng cứu hữu tình vượt tử sinh Tâm Bồ-đề này nguyện giữ mãi. Có thế giới tên Vô hủy thân Có Thế Tôn hiệu Thời Phần Vương Ta từ nơi ấy đến cầu pháp Muốn thấy công đức của Mâu-ni Lúc ta mỗi mỗi ngồi kiết già Hóa sinh từ tòa của hai mẹ Cha ta, Trì Quốc đại Thánh vương Nên đến chắp tay xin kính lễ Mong cha hãy nghe lời con nói Trăm ức, ngàn kiếp mới được pháp Cho đến viên thành đại Bồ-đề Những gì đã được không rời bỏ Bởi Phật xuất thế thật rất khó Cha mẹ khó được ở pháp vị Nếu gặp thiện hữu trong khoảnh khắc Diệu bảo thanh tịnh tùy ý hiện Dục và tinh tấn, không phóng dật Xuất gia được lợi đủ chánh tri Siêng tu lợi ích tâm điều thuận Tàm, quý, đa văn đủ thiện giới Từ bi điều tịch vì hữu tình Rộng khiến tất cả được pháp nhẫn Tinh tấn, cần lực, tâm vô trước Thành thục nhiếp thọ các quần sinh Vì tâm lìa tướng nên hỷ lạc Đối với thân mạng không luyến tiếc Nghó nhớ chánh pháp như cứu lửa Nguyện được công đức của chư Phật Phụ vương tối thượng rất khó gặp Con đã tán thán pháp tối thượng Con từ cõi Phật kia mà đến Rồi lại trở về nơi cõi kia Chúng con đã trụ vị Bồ-tát Rộng hay nhiếp thọ các pháp thiện Trong sát-na được năm thần thông Tùy niệm, tùy quán ý hiểu rõ. Khi ấy, Chuyển luân thánh vương Trì Quốc cùng với cung tần quyến thuộc và hai đồng tử Trí giả Bồ-tát dùng sức thần thông bay lên hư không đồng đến hội của Đức Thế Tôn Vô Biên Công Đức Bảo Chúng Trang Nghiêm Vương Như Lai. Đến nơi tất cả đều đảnh lễ sát chân Phật, tất cả chúng hội đều tôn trọng cung kính. Lúc đó, Đức Phật ấy quán biết hai đồng tử là Phật tử chân chánh, rất muốn nghe đạo pháp Bồ-tát. Biết được ý đó, Đức Phật ấy liền tuyên nói chánh pháp thậm thâm. Đức Phật nói: –Này thiện nam! Nên biết các pháp là từ duyên sinh, trong đó không có chủ tể cũng không có tác giả, bên trong là không, bên ngoài không sở hành. Các pháp đều không, luống dối, không thật, đối với cái thấy và hành động đều là thanh tịnh, cũng như hư không không thể nắm bắt. Đức Phật ấy có nhiều pháp môn như vậy. Lúc tuyên nói pháp thanh tịnh ấy, có bảy mươi sáu triệu và ba ức người trong chúng hội được Vô sinh pháp nhẫn. Lúc bấy giờ Chuyển luân thánh vương Trì Quốc ở trong hội Phật, cúng dường trải qua bảy ngày đêm, rồi cùng với các con và cung tần quyến thuộc, trong khoảng sát-na đều trở về chỗ cũ. Sau một thời gian, Luân vương ngồi một mình trên tòa Sư tử hoa sen trong tòa lầu gác nghó như vầy: “Một ngàn đứa con của ta đều đã an trụ trong pháp Giác ngộ, nhưng trong số đó đứa nào thành quả vị Giác ngộ trước. Vậy nay ta nên bày ra một cách để thử nghiệm việc này.” Nghó vậy rồi, vua liền ra lệnh cho người hầu dùng bảy báu làm thành một cái bình đẹp. Cắt đặt đâu đó hoàn thành rồi, sai viết tên của ngàn đứa con bỏ vào trong bình đó. Sau đó, trong bảy ngày đêm dùng các thứ hương hoa, hương xoa, hương bột vi diệu… đánh trống, thổi loa, ca hát nghiêm thân cúng dường bình được đựng danh tự ấy. Lúc đó, trong hư không có mười ngàn trời, người hỗ trợ rải các thứ tốt đẹp cúng dường. Trải qua bảy ngày đêm cúng dường như vậy rồi mới cho triệu tập hết các cung tần quyến thuộc và ngàn người con cùng hai đồng tử đến tập hợp ở trước, rồi lại đem bình báu để lên giường bằng vàng quý báu, đặt để đâu đó rồi ra lệnh người hầu lấy tên trong bình ra. Vâng lệnh, người hầu đến bên bình lấy một tên đầu tiên, đến dâng lên vua. Tên ấy chính là thái tử Thanh Tịnh Tuệ. Sau đó, lần lượt lấy hết tên trong bình, tức thì trong khoảng sát-na cả đại địa sáu điệu chấn động, tất cả nhạc cụ mà các cung tần đang nắm đó, không trổi mà tự nhiên phát ra tiếng ca vi diệu. Tịch Tuệ nên biết! Thái tử Thanh Tịnh Tuệ, tên được lấy ra đầu tiên từ trong bình thuở đó đâu phải người nào lạ, chính là Đức Quá khứ Câu-lưu-tôn Như Lai trong hiền kiếp này. Người bốc tên kế tiếp là Thái tử Tối Thắng Quân, chính là Đức quá khứ Câu-na-hàm Mâu-ni Như Lai. Người bốc tên kế tiếp là Thái tử Tịch Chư Căn, chính là Đức quá khứ Ca-diếp Như Lai. Người bốc tên kế tiếp là Thái tử Nhất Thiết Nghóa Thành. Tịch Tuệ nên biết! Chính là ta đây. Người bốc tên kế tiếp là Thái tử Bảo Đới, sẽ thành Phật trong vị lai hiệu là Từ Thị Như Lai. Người bốc tên kế tiếp là Thái tử Ngưu Vương, sẽ thành Phật trong vị lai hiệu là Sư Tử Như Lai. Người bốc tên kế tiếp là Thái tử Điện Thiên, vị lai sẽ thành Phật hiệu là Đại Tràng Như Lai. Người bốc tên kế tiếp là Thái tử Hiền Vương, vị lai sẽ thành Phật hiệu là Diệu Hoa Như Lai. Người bốc tên kế tiếp là Thái tử Tịnh Quang Cát Tường, vị lai sẽ thành Phật hiệu Hoa Thị Như Lai. Người bốc tên kế tiếp là Thái tử Liên Hoa Nhãn, vị lai sẽ thành Phật hiệu là Thiện Túc Như Lai. Người bốc tên kế tiếp là Thái tử Vô Cấu Quang, vị lai sẽ thành Phật hiệu là Diệu Nhãn Như Lai. Người bốc tên kế tiếp là Thái tử Tịnh Trì, vị lai sẽ thành Phật hiệu là Diệu Tý Như Lai. Người bốc tên kế tiếp là Thái tử Tuệ Vương, vị lai sẽ thành Phật hiệu là Minh Diệm Như Lai. Người bốc tên kế tiếp là Thái tử Thiện Trang Nghiêm, vị lai sẽ thành Phật hiệu là Minh Châu Như Lai. Người bốc tên kế tiếp là Thái tử Tăng Trường Phần, vị lai sẽ thành Phật hiệu là Đạo Sư Như Lai. Người bốc tên kế tiếp là Thái tử Tịnh Nghiêm Vương, vị lai sẽ thành Phật hiệu là Trì Thắng Công Đức Như Lai. Người bốc tên kế tiếp là Thái tử Cát Tường Mật, vị lai sẽ thành Phật hiệu là Thắng Tài Như Lai. Người bốc tên kế tiếp là Thái tử Diệu Quang Thân, vị lai sẽ thành Phật hiệu là Trí Tích Như Lai. Người bốc tên kế tiếp là Thái tử Dũng Kiện, vị lai sẽ thành Phật hiệu là Bảo Tích Như Lai. Người bốc tên kế tiếp là Thái tử Bảo Xứng, vị lai sẽ thành Phật hiệu là Phổ Quang Minh Như Lai. Tịch Tuệ nên biết! Nói rộng như thế, trong một ngàn người con kia tiếp tục bốc, cho đến tên của Thái tử Đại Phong Trang Nghiêm, đương lai sẽ thành Phật hiệu là Vô Biên Công Đức Bảo Xưng Như Lai. Này Tịch Tuệ! Chỉ còn lại một tên duy nhất trong bình tự tại và người bốc cuối cùng là Thái tử Vô Biên Tuệ. Trong một ngàn người con, vị Thái tử này là nhỏ nhất. Lúc đó các người anh khinh chê, nói: –Các anh đây sẽ thành Phật, đã làm Phật sự, đã độ hữu tình, còn em cuối cùng làm gì đây? Thái tử Vô Biên Tuệ liền nói kệ rằng: Pháp Phật vô biên như hư không Hữu tình và tuệ cũng vô tận Hạnh nguyện thanh tịnh giới huân tu Nên nghe em nói hạnh nguyện này: Thọ lượng các anh số bao nhiêu Vương giả chúng hội số bao nhiêu Thọ lượng của em gom cả lại Nguyện chúng Thanh văn sẽ như vậy. Thái tử nói kệ ấy vừa xong Chúng trời hư không khen: Hay thay! Bồ-tát ý vui tịnh châu viên Lợi ích hữu tình vô cùng tận. Này Tịch Tuệ! Khi ấy, vị Thái tử nhỏ nhất Vô Biên Tuệ sẽ thành Phật hiệu là Lạc Dục Như Lai, vị Phật cuối cùng ở trong hiền kiếp. Tịch Tuệ! Thọ lượng của chư Phật và chúng Thanh văn trong hiền kiếp như thế nào, thì Đức Lạc Dục Như Lai cũng sẽ được như thế đấy. Vì Đức Như Lai kia khéo vui với dục nên Đức Như Lai ấy có tên là Lạc Dục. Lại nữa, này Tịch Tuệ! Ông hãy quán Đại Bồ-tát này, phương tiện khéo léo, tịnh giới đầy đủ, không hủy đại nguyện, thắng hạnh viên mãn. Chín trăm chín mươi chín vị Thái tử kia, cho đến Thái tử Vô Biên Tuệ, công đức như trên thảy đều thành tựu. Khi ấy, ngàn vị thái tử đều hỏi hai vị Bồ-tát đồng tử: –Pháp Tư, Pháp Tuệ! Hai vị thiện nam thuở xưa đã phát nguyện lực thù thắng gì mà nay được như vậy? Đồng tử Pháp Tư đáp: –Này các nhân giả! Tôi cùng với các vị đều như Kim Cang Thủ, thắng hạnh của Bồ-tát phải liên tục, không lìa sự bí mật vô thượng của tất cả Như Lai, không lìa tất cả pháp Phật đã dạy và sự tin hiểu. Đồng tử Pháp Tuệ đáp: –Nay tôi và các anh đầy đủ nguyện lực thù thắng, mong rằng tôi và các anh đều chứng Bồ-đề. Thành Bồ-đề rồi, ta đều khuyến thỉnh chuyển diệu pháp luân, đúng như nguyện lực của mình ở chỗ Đức Phật ấy đã được thọ ký Bồ-đề. Tịch Tuệ! Chuyển luân thánh vương Trì Quốc thuở ấy đâu phải người nào lạ, tức là Đức Nhiên Đăng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác, thuở xưa nhân ở trong địa vị Luân vương. Một ngàn Thái tử của vị Luân vương ấy chính là một ngàn vị Phật Như Lai ở trong hiền kiếp. Từ Đức Câu-lưu-tôn Như Lai cho đến Đức Lạc Dục Như Lai. Đồng tử Pháp Tư hóa sinh từ tòa của cung nữ Vô Hủy thuở đó tức là Kim Cang Thủ Đại bí mật chủ dùng thần lực hóa ra. Đồng tử Pháp Tuệ hóa sinh từ tòa của cung nữ Vô Tỷ thuở đó chính là Phạm vương Thi-khí. Tịch Tuệ! Các cung tần của Chuyển luân thánh vương Trì Quốc thuở đó chính là các chúng Bồ-tát trong hội này. Các cung tần ấy được một ngàn Thái tử hóa độ thành thục, đều được tâm an trụ vào Đại thừa không thoái chuyển với đạo Giác ngộ cao. Các cung nữ ấy ở trong hiền kiếp lần lượt được thọ ký Bồ-đề. Tịch Tuệ! Ông nên quán lý của pháp duyên sinh không trái nhau, các nhân căn lành và quả của hạnh thù thắng mà tâm đã phát không hề hoại mất. Nay các Bồ-tát Đại só trong hội này đều có thể tăng trưởng ý vui tối thắng.  Phật nói kinh Đại thừa bí mật chẳng nghó bàn của Như Lai <卷 id="87624625">Quyển 6 <詞 id="87624626">Phẩm 6: Bồ-đề đạo Phật bảo Bồ-tát Tịch Tuệ: –Nếu các Đại Bồ-tát muốn chứng quả vị Giác ngộ cao tột, thì nên học theo việc làm của Bồ-tát, không phải chỉ dùng lời nói để được đạo tối thắng mà cần phải tu hành chân thật mới được chánh đạo Bồ-đề. Sao gọi là Bồ-đề đạo? Là không gây tổn hại đối với tất cả chúng sinh, mà khởi tâm Từ siêng tu Ba-la-mật-đa, dùng bốn Nhiếp pháp rộng nhiếp tất cả; tu bốn phạm hạnh, siêng hành trì ba mươi bảy Phẩm trợ đạo, viên mãn sự nghiệp sáu Thần thông, dùng thiện phương tiện nhiếp hóa chúng sinh, trưởng dưỡng tất cả pháp hạnh căn lành. Đây gọi là đại Bồ-đề đạo. Lại nữa, này Tịch Tuệ! Bồ-đề đạo nghóa là ý tin vui, thâm tâm tôn trọng. Do tâm bình đẳng thanh tịnh ngay thẳng, không nịnh hót, do thực hành pháp bình đẳng, không tạo các tội nên không có sợ hãi. Pháp tăng trưởng Bồ-đề đạo là Bố thí ba-la-mật-đa. Bồ-đề đạo hướng đến an lạc đạo là Trì giới ba-la-mật-đa. Bồ-đề đạo không có tổn hại là Nhẫn nhục ba-la-mật-đa. Bồ-đề đạo kiến lập các pháp là Tinh tấn ba-la-mật-đa. Bồ-đề đạo không có tạp loạn là Thiền định ba-la-mật-đa. Bồ-đề đạo khéo hiểu biết là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Bồ-đề đạo thông đạt phát sinh trí vô ngại là đại Từ. Bồ-đề đạo không thoái chuyển là đại Bi. Bồ-đề đạo được hoan hỷ là đại Hỷ. Bồ-đề đạo hòa nhập chân như là đại Xả. Bồ-đề đạo khử trừ gai gốc là hay lìa nhiễm pháp tham, sân, hại, nghi v.v… Bồ-đề đạo thuận pháp an lạc là tâm không chướng ngại. Bồ-đề đạo lìa hiểm ác là không đắm trước sắc, thanh, hương, vị, xúc. Bồ-đề đạo lìa các pháp tà ngoại là khéo quán uẩn, xứ, giới. Bồ-đề đạo hàng phục các ma là hay trừ khử tất cả phiền não. Bồ-đề đạo pháp rộng lớn là lìa xa ý tưởng Thanh văn, Duyên giác. Bồ-đề đạo thuận với chánh pháp, là khả năng tùy thuận các trước với Đức Phật Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác, Bồ-đề đạo rộng lớn có thể chứa nhóm đại pháp bảo là hay tùy thuận tất cả trí bảo. Bồ-đề đạo thường khai sáng là có thể hiển phát trí quang vô ngại. Bồ-đề đạo hay khéo nói là được Thiện tri thức nhiếp thọ. Bồ-đề đạo lìa ý tưởng cao thấp là không trái thuận. Bồ-đề đạo lìa tối tăm thế gian là không sân giận biếng nhác. Bồ-đề đạo hướng đến đường thiện là lìa xa mọi pháp bất thiện. Bồ-đề đạo trụ nơi an lạc là hướng đến chứng pháp Niết-bàn rốt ráo. Tịch Tuệ nên biết! Các pháp trên đều là những pháp hành trì Đại Bồ-đề đạo của Bồ-tát. Nếu không phải hướng, không phải đạo, thì đó là Thanh văn, Duyên giác. Từ đó kiến lập chân thật Đại Bồ-tát thành tựu Chánh đẳng chánh giác.  <詞 id="87624627">Phẩm 7: Mật thân chẳng nghó bàn của Như Lai (Phần 1) Bấy giờ, Đại Bồ-tát Tịch Tuệ đến trước Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ thưa: –Thưa Đại bí mật chủ! Bồ-tát hãy vì tôi mà lược nói về bí mật của Như Lai. Sao gọi là pháp bí mật của Như Lai? Bồ-tát Kim Cang Thủ bảo Bồ-tát Tịch Tuệ: –Này thiện nam! Hãy lắng nghe, lắng nghe! Nay ta nương vào oai thần của Phật vì ông mà nói bí mật của Như Lai. Có ba thứ mật: Một là mật thân; hai là mật ngữ; ba là mật tâm. Sao gọi là mật thân của Như Lai? Này Tịch Tuệ! Nghóa là Như Lai ở trong không tư duy, không phân biệt mà có khả năng thị hiện các tướng oai nghi. Này thiện nam! Hoặc trời hoặc người, nếu có ai muốn thấy Như Lai ngồi rồi mới sinh tâm tôn trọng, liền khiến cho những người ấy thấy Như Lai ngồi; hoặc có trời, người muốn thấy Như Lai đi, liền cho những người ấy thấy Như Lai đi; hoặc có trời, người muốn thấy Như Lai đứng, liền khiến cho những người ấy thấy Như Lai đứng; hoặc có trời, người muốn thấy Như Lai nằm, liền khiến cho những người ấy thấy Như Lai nằm; hoặc có trời, người muốn nghe Như Lai nói pháp rồi mới sinh tâm tôn trọng, liền khiến cho những người ấy thấy Phật nói pháp; hoặc có trời, người muốn thấy Như Lai im lặng, liền khiến những người ấy thấy Như Lai im lặng; hoặc có trời, người muốn thấy Như Lai thiền định, liền khiến cho những người ấy thấy Như Lai thiền định; hoặc có trời, người muốn thấy Như Lai xả định, liền khiến cho những người ấy thấy Như Lai xả định; hoặc có trời, người muốn thấy Như Lai quán mà mắt không nháy, liền khiến cho những người ấy thấy Như Lai quán sát mà không nháy; hoặc có trời, người muốn thấy thần thông biến hóa của Phật, liền khiến cho những người ấy thấy thần thông biến hóa của Phật; hoặc có trời, người muốn quán tướng sắc vàng của Phật, liền khiến cho những người ấy thấy được thân sắc vàng; hoặc có người muốn thấy tướng màu bạc, màu thủy tinh, màu lưu ly, màu mã não, màu san hô, màu hổ phách, màu châu đỏ, màu châu trắng, cùng với các màu xanh, vàng, đỏ, trắng… như màu mặt trăng, màu mặt trời, màu lửa, màu ánh sáng tụ lại, màu Đế Thích, màu Phạm vương, màu tuyết, màu vàng của giống chim mái, màu châu sa, màu nước, màu hoa Vô ưu, màu hoa Chiêm-ba-ca, màu hoa Tô-ma-na, màu hoa Bà-sư-ca, màu hoa Câu-mẩu-bà, màu hoa Bát-nột-ma, màu hoa Bôn-noa-lợi-ca, màu các loại hoa đẹp, màu Tỳ-sa-môn Thiên vương, màu Trì Quốc Thiên vương, màu hoa sen mới nở, màu tạng bảo cát tường, màu ma-ni bảo, màu đế thanh bảo, màu hư không tịnh quang; các màu sắc tướng như vậy, cho đến sắc tướng vô biên công đức, Đức Như Lai tùy theo sự tin muốn của những trời, người ấy, mà khiến cho chúng thấy được thân sắc tướng của Phật. Lại nữa, này Tịch Tuệ! Cho đến tam thiên đại thiên thế giới, hằng hà sa số tất cả chúng sinh đều được thân người, các chúng sinh ấy đối với thân hình hiển sắc tướng và oai nghi của Phật Như Lai, tùy theo sự suy nghó tin hiểu thảy đều thành tựu. Như một chúng sinh tin hiểu cũng như vậy. Tất cả chúng sinh ấy đối với hình hiển sắc tướng và các oai nghi của Như Lai, suy nghó tin hiểu đều được thành tựu. Lại nữa, tâm tin hiểu của chúng sinh mỗi mỗi đều sai biệt. Tịch Tuệ! Do duyên như vậy, cho nên Như Lai rộng khiến tất cả chúng sinh đều tùy theo sự tin hiểu sự oai nghi mà sinh tâm hoan hỷ, rồi tùy theo khả năng tin hiểu đó khiến các chúng sinh hiểu biết sự oai nghi của Như Lai. Không phải vì thế mà làm cho thân tâm của Như Lai bị loạn động, cũng không tìm hiểu mà có thể biết hành nghiệp tâm ý sai biệt đời trước của tất cả chúng sinh. Thế nên, Đức Như Lai tùy ứng mà rộng hiện oai nghi. Ví như gương tròn trong sáng, đặt ở các nơi để soi các hình sắc, tùy theo treo chỗ nào, thì tất cả hình sắc đều hiện rõ trong gương, những hình sắc được in trong gương đó bình đẳng không tăng, không giảm, mà gương tròn ấy không có suy nghó, không có phân biệt. Này Tịch Tuệ! Đức Như Lai cũng như vậy, biết rõ tâm ý của tất cả chúng sinh, tùy theo sự hiện tướng mà khiến họ hoan hỷ. Tuy vậy, nhưng Phật Như Lai không có suy nghó, cũng không có phân biệt, lại không tìm hiểu. Đây gọi là mật thân của Như Lai. Lại nữa, này Tịch Tuệ! Thân của Như Lai không phải do uẩn, xứ, giới tạo thành, cũng không phải do nghiệp tạo thành, cũng không phải từ phiền não sinh, không từ nơi bào thai cha mẹ sinh ra, không phải Yết-la-lam v.v… đại chủng sinh ra, không phải máu, thịt, nhiễm ô, gân xương liền nhau, hơi thở ra vào v.v… nuôi dưỡng mà sinh ra. Lại nữa, này Tịch Tuệ! Thân Như Lai chính là chẳng phải thân, nghóa là Pháp thân như thân hư không, chẳng phải thân sắc tướng, mà là thân lìa các hý luận, không có sở hành. Nếu các chúng sinh để được hóa độ muốn thấy sắc tướng sinh lòng tin tôn trọng, thì Như Lai mới hiện sắc thân các cảnh đối ngại. Nếu các chúng sinh muốn pháp lìa tướng sinh lòng tin tôn trọng, đối với tất cả mọi nơi, tất cả chủng loại, không có cảnh đối ngại, thì ngay cả Thiên nhãn cũng không thể nhìn thấy. Tịch Tuệ nên biết! Cái thấy của tất cả đại chúng trong hội đều khác. Hoặc có chúng sinh, có người thấy thân Phật, có người lại không thấy. Hoặc có người xa thì thấy, mà gần lại không thấy; hoặc gần thấy mà xa không thấy. Hoặc xa cũng không thấy, mà gần cũng không thấy. Hoặc tâm chuyên chú thì thấy, tán loạn thì không thấy; hoặc tán loạn thì thấy mà chuyên chú thì không thấy. Hoặc người khác quán thì thấy, mình quán thì không thấy; hoặc mình quán thì thấy, mà người khác quán thì không thấy. Hoặc trong cảnh mộng thì thấy, mà khi tỉnh dậy thì không thấy; hoặc lúc thức thì thấy, lúc trong mộng thì không thấy. Hoặc trong định thì thấy, xả định lại không thấy; hoặc xả định thì thấy, mà trong định thì không thấy. Hoặc tưởng thiện thì thấy, tưởng bất thiện thì không thấy; hoặc tưởng bất thiện thì thấy, tưởng thiện thì không thấy. Hoặc tâm tỉnh thức thì thấy, tâm không tỉnh thức thì không thấy, hoặc tâm không tỉnh thức lại thấy, mà tỉnh thức thì không thấy. Hoặc tâm gia hạnh thì thấy, mà không gia hạnh thì không thấy; hoặc tâm không gia hạnh lại thấy, mà gia hạnh thì không thấy. Những thứ sai biệt như vậy và vô lượng tướng khác quán thân Như Lai. Thiên tử ở Sắc giới, thân tướng tịch tónh, sở hành tịch tónh, oai nghi tề chỉnh, tâm luôn trụ định, khéo tịch tónh, khéo điều phục như vậy, nhưng giương mắt lên cũng không thể quán thấy thân lượng sắc tướng của Như Lai. Vì sao? Vì thân Như Lai có đầy đủ vô lượng sắc tướng trang nghiêm, ngang bằng với hư không lấy Pháp thân làm tánh. Ví như hư không rộng lớn vô cùng, thân tướng của Như Lai cũng như vậy. Lại như hư không đâu đâu cũng có, thông đạt tất cả; thân tướng của Như Lai cũng lại như vậy, hòa nhập khắp tất cả và thông đạt hết tất cả. Lại như hư không lìa các hý luận; thân tướng Như Lai cũng lại như vậy, lìa mọi hý luận. Lại như hư không nuôi lớn tất cả chúng sinh; thân tướng Như Lai cũng lại như vậy, nuôi lớn tất cả chúng sinh. Lại như hư không không có chủng loại, không có phân biệt; thân tướng Như Lai cũng lại như vậy, không có chủng loại, không có phân biệt. Lại như hư không hòa nhập vào tất cả sắc tướng quang minh; thân tướng Như Lai cũng lại như vậy, hòa nhập vào tất cả sắc tướng quang minh. Lại như tất cả sắc tướng quang minh đều trụ trong hư không; thân tướng Như Lai cũng lại như vậy, tất cả sắc tướng quang minh của chúng sinh đều trụ vào thân Phật. Lại như tất cả thuốc thang, cỏ cây, vườn rừng đều nương vào hư không mà phát triển tươi tốt; thân tướng Như Lai cũng lại như vậy, làm tươi tốt tất cả căn lành của chúng sinh. Lại như hư không, không phải thường, không phải không thường, không thể đem lời nói để trình bày; thân Như Lai cũng lại như vậy, không phải thường, không phải vô thường, không thể dùng lời nói để trình bày, cũng không thể quán đảnh tướng của Như Lai. Lại nữa, này Tịch Tuệ! Ta không thấy có tất cả Trời, Người, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn v.v… ở thế gian mà có thể quán thấy đảnh tướng của Đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác. Vì sao? Này Tịch Tuệ! Ta nhớ lúc Đức Thế Tôn Như Lai thành đạo chưa được bao lâu, chuyển diệu pháp luân tại vườn Lộc dã chư Thiên đọa xứ, nước Ba-la-nại. Lúc đó, ở phương Đông có Đức Phật Thế Tôn hiệu là Chiêm-ba-ca Hoa Sắc, thế giới tên là Như huyễn, nước tên Điều oán. Thế giới ấy có vị Bồ-tát tên là Phong Trì, đến thế giới Ta-bà này chiêm ngưỡng đảnh lễ thân gần Đức Thế Tôn Như Lai. Đến rồi, đảnh lễ sát chân Phật, nhiễu quanh bên phải bảy vòng rồi đứng trước Thế Tôn. Khi ấy, Bồ-tát Phong Trì nương vào oai thần của Phật nghó như vầy: “Thân tướng của Phật Thế Tôn to lớn vô lượng, vô biên, không thể quán thấy đảnh của Ngài, nay ta đối với thân vô lượng, vô biên của Thế Tôn cầu xin thân có hạn lượng.” Bồ-tát Phong Trì nghó như thế rồi, tự thấy thân mình cao đến sáu vạn tám ngàn do-tuần, thấy thân tướng Phật cao tám trăm bốn mươi vạn do-tuần. Lại nghó như vầy: “Ta nay tự dùng sở đắc du hý thần lực để tính xem thân tướng vô biên của Như Lai.” Nghó như vậy rồi, Bồ-tát liền thừa oai thần Phật, tự dùng sức thần thông bay lên phương trên vượt qua trăm ngàn ức cõi Phật, có thế giới tên Đại liên hoa, Phật hiệu Liên Hoa Cát Tường Tạng Vương Như Lai, hiện đang nói pháp giáo hóa chúng sinh. Bồ-tát đến rồi, quán sát kỹ lưỡng, nhưng cũng không thể thấy được đảnh tướng của Như Lai, lại cũng không thể tính biết thân tướng Phật là bao nhiêu. Lúc đó Bồ-tát Phong Trì đến trước Đức Thế Tôn Liên Hoa Cát Tường Tạng Vương Như Lai, đảnh lễ sát chân Phật nhiễu quanh bên phải bảy vòng rồi đến trước bạch rằng: –Bạch Thế Tôn! Con đến đây cách thế giới Ta-bà gần xa bao nhiêu? Đức Phật ấy đáp: –Này thiện nam! Quá trăm ngàn ức triệu cõi Phật rồi mới đến thế giới này. Bồ-tát Phong Trì bạch với Đức Phật ấy: –Bạch Thế Tôn! Đã cách xa như thế sao con không thấy đảnh tướng của Đức Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni Như Lai và cũng không thể quán biết thân của Phật là bao nhiêu, cho nên con mới từ xa đến đây để thưa hỏi. Đức Phật ấy đáp: –Này thiện nam! Giả sử như nay ông dùng hết thần lực bay đến tất cả thế giới ở tận phương trên, trải qua hằng hà sa số kiếp đi chăng nữa, cũng không thể biết được thân vô biên của Phật Thích-ca. Lại nữa, này thiện nam! Giả sử đem hết tất cả pháp ra để ví dụ cũng không thể ví dụ. Đức Phật Thích-ca Như Lai có Giới, Định, Tuệ, Giải thoát, Giải thoát tri kiến, đầy đủ các công đức, hoặc thân, ngữ, tâm; hoặc sắc hoặc tướng, đem tất cả pháp ví dụ cũng không thể ví dụ hết được. Vì Đức Như Lai ấy vượt hơn số đếm, chỉ trừ hư không mới có thể ví dụ được. Những gì được gọi là Giới, Định, Tuệ, Giải thoát, Giải thoát tri kiến của Như Lai cũng như hư không; hoặc thân, ngữ, tâm, hoặc sắc hoặc tướng, ở đây nói, tất cả đều như hư không. Vì thế nên biết, hư không vô lượng, nên thân tướng của Như Lai cũng vô lượng. Tịch Tuệ! Bồ-tát Phong Trì ở chỗ Đức Phật Liên Hoa Cát Tường Tạng Vương Như Lai nghe nói vậy rồi sinh tâm hy hữu, vui vẻ phấn khởi thích thú khoái lạc, đảnh lễ sát chân Phật, nhiễu quanh bên phải bảy vòng, nương vào oai thần của Phật trong khoảng sát-na rời khỏi cõi Phật ấy, trở về thế giới Ta-bà, đứng trước Phật Thích-ca Mâu-ni, đảnh lễ sát chân Phật, nhiễu quanh bên phải ba vòng, chắp tay chí thành hướng lên Phật Thế Tôn nói kệ rằng: Tất cả pháp Phật rất rộng lớn Ngang bằng hư không thật vô biên Nếu ai muốn biết ngằn mé ấy Người ấy chiêu lấy sự tổn hại. Con đã vượt qua trăm ngàn ức hằng hà sa số các cõi Phật Đến thế giới của Phật Như Lai Vì muốn quán xem lượng thân Phật. Khi con đến cõi Phật kia rồi Thế giới tên là Đại liên hoa Nhưng vẫn không thể thấy đảnh Phật Cũng không biết được thân bao nhiêu. Hóa chủ Thế Tôn ở cõi ấy Hiệu là Cát Tường Tạng Vương Tôn Phật ấy biết rõ ý tưởng con Nên đã vì con nói thế này: Nếu người muốn dùng pháp thí dụ Để đem dụ pháp Phật vô biên Đã không biết được thân tướng Phật Trở lại chuốc lấy tội báng Phật. Chỉ có một pháp đem ví dụ Đồng với pháp Phật không có khác Đó là hư không rộng vô biên Không thể biết được ngằn mé đó. Như hư không kia thật to lớn Công đức của Phật cũng như vậy Là Giới, Định, Tuệ, Giải thoát môn Cùng với Giải thoát tri kiến thảy Như số lượng lớn của hư không Sắc tướng của Phật cũng như vậy Đảnh tướng cao rộng không thể quán Cùng với hư không giới không khác, Như hư không kia rất bao la Thân Phật rộng lớn cũng như trên Do thân rộng lớn thật vô biên Ánh sáng chiếu khắp cũng như vậy, Do ánh sáng rạng ngời như thế Mật ngữ rộng lớn cũng như vậy Mật ngữ rộng lớn không ngằn mé Mật tâm to lớn cũng như thế, Do vì mật tâm lớn như thế Lòng từ chư Phật cũng như vậy, Lòng Từ chư Phật rộng vô biên Trí Phật rộng lớn cũng như vậy, Bởi do trí Phật lớn như thế Nên thân Phật lớn cũng như vậy Bồ-đề phát sinh phước thù thắng Rộng lớn vô cùng cũng như vậy. Từ tâm Bồ-đề sinh ra phước Tướng thù thắng từ phước sinh ra Hư không giới rộng lớn vô biên Phát sinh các công đức tối thượng Chỗ có tất cả chúng sinh loại Rộng nhiếp tất cả các phước uẩn Tất cả Bồ-tát cũng như vậy Đều từ tâm Bồ-đề mà ra Chỗ có tất cả chúng Bồ-tát Tuyên nói phước uẩn thật rộng lớn Nếu hay hộ trì chánh pháp môn Hộ trì phước, tụ phước hơn nhiều Giả sử trí Gia hạnh của Phật Trải qua ức kiếp để tuyên dương Hộ trì chánh pháp phước vô biên Không thể biết hết số tận cùng. Tâm đại Bồ-đề sinh ra phước Hộ trì chánh pháp phước vô biên Nếu đem so sánh Không giải thoát Trong mười sáu phần không bằng một Không giải thoát môn đã nhiếp thuộc Cũng lại không lìa tâm Bồ-đề Hộ trì chánh pháp các phước môn Tất cả đều cùng nhiếp vào đấy. Nếu hay hiểu rõ pháp thú này Thì là Bồ-tát đại danh xưng Bồ-đề công đức được vô biên Đây chính là tu hạnh Bồ-tát. Khi con đã nói kệ này rồi Trăm ngàn ức cõi đều chấn động Có trăm ngàn ức hàng trời, người Đánh trống thổi kèn ca vô số, Có trăm ngàn ức số chúng sinh Đều phát tâm Bồ-đề rộng lớn Nghe đại oai thần Phật như vậy Nay con, Phong Trì như thật nói Phật có chẳng nghó bàn như vậy Vô lượng, vô biên, lại vô thượng Chư Phật rộng hiện các tướng môn Là trí tự nhiên chân bí mật. Tịch Tuệ nên biết! Nói như vậy tức là bí mật của Như Lai.  Phật nói kinh Đại thừa bí mật chẳng nghó bàn của Như Lai <卷 id="87624628">Quyển 7 <詞 id="87624629">Phẩm 7: Mật thân chẳng nghó bàn của Như Lai (Phần 2) Lại nữa, này Tịch Tuệ! Thân tướng của Như Lai, trong một chúng hội mà có người thấy, có người không thấy. Người được thấy thì hoan hỷ chiêm ngưỡng, còn người không thấy thì im lặng ngơ ngác. Tịch Tuệ nên biết! Đức Như Lai không nuôi sống bằng đoàn thực. Lại có chúng sinh thấy Phật cũng thọ thức ăn thế gian, có oai lực đầy đủ tu hạnh Bồ-đề, các chúng Hiền thánh thường đi theo sau nhận thức ăn vào trong bình bát. Do vậy nên chúng sinh thấy Phật Như Lai đều đem thức ăn bỏ vào trong bát. Các Hiền thánh ấy đã thọ thực rồi, nếu có chúng sinh ở trong pháp Phật đáng được hóa độ, căn lành đời trước nghiệp chướng đã hết, tuy đang hiện diện khắp nơi, nhưng không được ăn uống, phải chịu đói khát ốm gầy, do nhờ vào thiện lực đời trước đó, cho nên các chúng sinh ấy được ăn các thức ăn dư của Như Lai. Ăn uống no đủ rồi, tâm được khinh an thân thể tươi nhuần, thâm tâm thanh tịnh, liền phát tâm đạt đến quả vị Giác ngộ cao tột. Nếu các chúng sinh đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, ác thú, không thể phát tâm đại Bồ-đề. Vì lý do đó cho đến tận cảnh giới Niết-bàn. Tịch Tuệ nên biết! Như Lai không thọ thức ăn thế gian, mà Như Lai chỉ nuôi sống bằng Pháp thực. Thân Phật kiên cố như trời Na-la-diên, do chân thật cho nên không bị phá hoại, là từ Kim cang mà thành. Tịch Tuệ! Thân Như Lai không phải sinh từ thục tạng mà thành, cũng không phải từ sữa mẹ tạp nhạp bất tịnh mà thành. Thân Như Lai là vàng Diêm-phù-đàn, không có khiếm khuyết, không đoạn, lìa các lỗi lầm. Thân Như Lai đầy đủ oai lực, thể lại chắc chắn cũng như Kim cang, rất mềm mại như y Ca-tả-lân-na, ai sờ vào thân Phật đều được diệu lạc. Tịch Tuệ nên biết! Thuở nọ có các Thiên tử, Thiên nữ đầy đủ oai lực đảnh lễ sát chân Phật, khi đảnh lễ sờ vào chân Phật, sờ xong liền phát tâm đạt được quả vị Giác ngộ cao tột. Vì thế nên biết, Như Lai không sinh từ tạp nhiễm. Lại nữa, này Tịch Tuệ! Ở thế gian chúng sinh có tâm tham, chỉ thoáng thấy qua thân Như Lai, tự thân liền sinh tưởng lìa tham. Chúng sinh có tâm sân thoáng thấy qua thân Như Lai, liền khởi lên tâm Từ. Chúng sinh có tâm si thoáng thấy qua thân Như Lai, liền được trí sáng chiếu diệu. Chúng sinh có tâm đẳng phần thoáng thấy qua thân Như Lai, được lìa phiền não. Chúng sinh keo kiệt thoáng thấy qua thân Như Lai, liền tin hiểu xả pháp. Chúng sinh phá giới thoáng thấy qua thân Như Lai, liền tin hiểu giới pháp thanh tịnh. Chúng sinh có tâm giận dữ thoáng thấy qua thân Như Lai, liền được pháp nhẫn. Chúng sinh biếng nhác thoáng thấy qua thân Như Lai, liền khởi lên siêng năng. Chúng sinh có tâm tán loạn thoáng thấy qua thân Như Lai, liền được tịch định. Chúng sinh ngu si thoáng thấy qua thân Như Lai, liền được tuệ thù thắng. Này thiện nam! Nói tóm lại nếu các chúng sinh thoáng thấy qua thân Như Lai, không bao giờ xa lìa thiện pháp, tất cả sự bất thiện, nghi ngờ v.v… các nhiễm pháp thảy đều tiêu trừ, an lập thiện tâm. Tuy vậy, nhưng Như Lai vẫn thường an trụ không có xả phân biệt. Đây gọi là mật thân của Như Lai. Lại nữa, này Tịch Tuệ! Lại như Đức Như Lai hóa làm người để làm các Phật sự, mà tâm Phật Như Lai không có gia hạnh, không tìm hiểu, cũng không tác ý, cũng không có ý nghó như vầy: “Ta có thể hóa thành các hóa nhân, nhưng chúng sinh được hóa độ đó đáng được hóa độ, hoặc thế giới này hoặc thế giới khác, cho đến trăm ngàn ức thế giới tất cả chúng sinh, vì muốn thành thục làm việc lợi ích.” Đây gọi là mật thân của Như Lai. Lại nữa, này Tịch Tuệ! Thân Như Lai phóng ánh sáng lớn, có vô số trăm ngàn màu sắc. ánh sáng ấy chiếu khắp mười phương hằng hà sa số cõi Phật, thành thục khắp tất cả chúng sinh. Tuy vậy, nhưng Như Lai không có tìm hiểu, không gia hạnh, không tác ý. Đây gọi là mật thân trong thân nghiệp thanh tịnh của Như Lai. Tịch Tuệ nên biết! Đây chỉ lược nói về mật thân trong thân nghiệp thanh tịnh của Như Lai. Nếu nói rộng ra thì trải qua một kiếp hoặc hơn một kiếp cũng không thể hết được. Khi Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ nói pháp chẳng nghó bàn về mật thân của Như Lai, trong hội có mười ngàn người phát tâm đạt được quả vị Giác ngộ, tám ngàn Bồ-tát được Pháp nhẫn. Đồng thời trong hội có các chư Thiên rải hoa lên trên Đức Phật và cúng dường Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ. Lúc đó Đức Thế Tôn duỗi cánh tay phải sắc vàng rờ lên đảnh đầu của Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ khen ngợi: –Hay thay, hay thay, Đại bí mật chủ! Ông đã khéo tuyên nói pháp chẳng nghó bàn về mật thân của Như Lai mà ta đều biết cả. Pháp của ông đã nói ta nay tùy hỷ.  <詞 id="87624630">Phẩm 8: Mật ngữ chẳng nghó bàn của Như Lai (Phần 1) Đại bí mật chủ Đại Bồ-tát Kim Cang Thủ bảo Đại Bồ-tát Tịch Tuệ: –Sao gọi là mật ngữ nghiệp ngữ thanh tịnh của Như Lai? Từ đêm Như Lai chứng quả vị Giác ngộ cao tột cho đến đêm Như Lai vào đại Niết-bàn, trong khoảng thời gian đó, Đức Như Lai chưa từng nói một chữ, cũng không có nêu ra. Vì sao? Vì Đức Như Lai luôn ở trong chánh định, Như Lai cũng không thở ra hay thở vào, hoặc tầm hoặc tứ. Do không tầm tứ cho nên lời nói ra lìa các tà vọng. Đức Như Lai không có tầm, không có tứ, không có phân biệt, không có rộng phân biệt, không có nói, không có hiển thị, lại không nêu bày. Nhưng các chúng sinh lại nghe Như Lai tuyên nói, thật ra Như Lai luôn ở trong định. Đối với tất cả loại, tất cả thời, cũng dùng văn tự để nêu ra, nhưng lại không nêu ra. Chỉ vì có chúng sinh do dùng văn tự sinh lòng tin tôn trọng, từ đó họ cho rằng Đức Như Lai vì họ mà nói pháp. Nhưng tâm Phật Như Lai thường an trụ xả, không có phân biệt. Lại nữa, này Tịch Tuệ! Không phải từ môi, răng, lưỡi, cổ và mặt của Như Lai phát ra âm thanh, mà âm thanh của Như Lai phát ra là từ hư không, nhưng chúng sinh lại cho rằng âm thanh từ miệng Phật Như Lai phát ra. Tịch Tuệ nên biết! Lời nói của Như Lai có đầy đủ sáu mươi bốn tướng, thù thắng vi diệu: Một là lời nói trôi chảy; hai là nhu nhuyến; ba là ý vui; bốn là đáng mừng; năm là thanh tịnh; sáu là ly cấu; bảy là trong sáng rõ ràng; tám là ngọt ngào; chín là khiến muốn nghe; mười là không yếu kém; mười một là tròn đầy; mười hai là điều thuận; mười ba là không thô rít; mười bốn là không ác; mười lăm là thiện nhu; mười sáu là thích nghe; mười bảy là thân khoái thích; mười tám là tâm sinh dũng mãnh; mười chín là tâm vui; hai mươi là vui thích; hai mươi mốt là không nhiệt não; hai mươi hai là như những lời dạy; hai mươi ba là khéo biết rõ; hai mươi bốn là phân biệt rõ ràng; hai mươi lăm là thiện ái; hai mươi sáu là khiến sinh hoan hỷ; hai mươi bảy là khiến người khác theo lời dạy; hai mươi tám là làm cho người khác biết rõ; hai mươi chín là như lý; ba mươi là lợi ích; ba mươi mốt là lìa điều lỗi lầm tái phát trở lại; ba mươi hai là âm thanh như sư tử; ba mươi ba là âm thanh như rồng; ba mươi bốn là tiếng như sấm chớp; ba mươi lăm là tiếng như rồng chúa; ba mươi sáu là như tiếng ca hay của Khẩn-na-la; ba mươi bảy là tiếng như Ca-lăng-tần-già; ba mươi tám là tiếng như Phạm vương; ba mươi chín là tiếng như chim Cộng mạng; bốn mươi là như tiếng hay của trời Đế Thích; bốn mươi mốt là như tiếng trống sấm; bốn mươi hai là không cao; bốn mươi ba là không thấp; bốn mươi bốn là hòa nhập vào tất cả âm thanh; bốn mươi lăm là không khuyết giảm; bốn mươi sáu là không phá hoại; bốn mươi bảy là không nhiễm ô; bốn mươi tám là không chấp thủ; bốn mươi chín là đầy đủ; năm mươi là trang nghiêm; năm mươi mốt là biểu thị rõ ràng; năm mươi hai là viên mãn tất cả âm thanh; năm mươi ba là các căn khoái thích; năm mươi bốn là không hủy báng; năm mươi lăm là không khinh khi; năm mươi sáu là không lay động; năm mươi bảy là hòa nhập vào tất cả chúng hội; năm mươi tám là các tướng đầy đủ. Lại nữa, này Tịch Tuệ! Năm mươi chín là Như Lai nói ra khiến cho tất cả chúng sinh khắp mười phương thế giới sinh tâm hoan hỷ, nhưng Phật Thế Tôn không có ý nghó như vầy: “Ta tuyên nói các pháp như Khế kinh, Ứng tụng, Ký biệt, Phúng tụng, Tự thuyết, Duyên khởi, Bản sự, Bản sinh, Phương quảng, Hy pháp, Luận nghị, Thí dụ.” Lại còn pháp bí mật đi trước, nói pháp bản duyên, nói pháp về nhân đời trước, nói gần, nói nhiều, nói rộng, chỉ bày, an lập, phần vị, phân biệt giải thích rõ ràng về những điều Như Lai nói. Các pháp như vậy đối với tất cả đại chúng trong hội như: chúng hội Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di. Hoặc các chúng hội như: Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già… Đức Phật có khả năng tùy theo căn tánh tinh tấn, trình độ của mỗi chúng sinh mà ban pháp. Tất cả chúng hội nghe pháp rồi đều cho rằng pháp từ miệng Phật nói ra. Nhưng pháp mà Đức Như Lai nói ra đó không có những lời trùng lập lẫn nhau, mà các chúng hội đều tùy theo âm thanh hiểu rõ các pháp. Tịch Tuệ! đây gọi là mật ngữ của Như Lai. Lại nữa, này Tịch Tuệ! Sáu mươi là tất cả số lượng chúng sinh ấy thật vô lượng, hạnh của tất cả chúng sinh cũng vô lượng. Đức Như Lai dạy tâm hạnh của chúng sinh lược nói có tám vạn bốn ngàn chủng loại, chỉ vì chúng sinh căn tánh thấp kém mà khiến cho chúng hiểu rõ lời nói của Như Lai. Tịch Tuệ nên biết! Tâm hạnh của chúng sinh không có hạn lượng, trong thế gian lại có chúng sinh tham, có chúng sinh sân, có chúng sinh si, có chúng sinh đẳng phần. Tâm hạnh của mỗi mỗi chúng sinh có sự sai biệt. Nếu Đức Như Lai ở trong một kiếp hoặc hơn một kiếp, cho đến Như Lai trụ ở đời trăm ngàn kiếp, dù cho có thọ đến cùng tột đi chăng nữa cũng không thể nói hết tâm hạnh vô cùng của chúng sinh. Nếu Phật chỉ nói tâm hạnh vô biên của chúng sinh thì các chúng sinh không thể hiểu nỗi mà trái lại sinh si mê. Vì thế Đức Như Lai khéo dùng phương tiện trong vô lượng hạnh của chúng sinh lược nói có tám vạn bốn ngàn. Lại nữa, Như Lai đã nói các pháp, tùy theo tâm hạnh sai biệt của chúng sinh mà khiến cho họ được hiểu rõ. Tịch Tuệ! đây gọi là mật ngữ của Như Lai. Lại nữa, này Tịch Tuệ! Sáu mươi mốt là ngữ bí mật trí của Như Lai, hòa nhập vào tất cả tâm ý của chúng sinh, nhưng lời nói ấy không từ miệng Như Lai nói ra, chỉ từ hư không mà phát ra. Nếu có chúng sinh nào cho rằng lời nói từ miệng của Như Lai nói ra, thì chớ có ý nghó như vậy. Vì sao? Có chúng sinh hoặc thấy lời nói của Như Lai phát ra từ nhục kế, hoặc phát ra từ đảnh, hoặc phát ra từ rẽ tóc ngang trán, hoặc phát ra từ lông mày, hoặc phát ra từ trán, hoặc phát ra từ giữa chặng mày, hoặc từ lông trắng giữa mày, hoặc từ mắt phát ra, hoặc từ tai phát ra, hoặc từ mũi phát ra, hoặc từ má phát ra, hoặc từ miệng phát ra, hoặc từ cổ phát ra, hoặc từ cánh tay phát ra, hoặc từ tay phát ra, hoặc từ ngón tay phát ra, hoặc từ hai bên xương sườn phát ra, hoặc trước ngực phát ra, hoặc sau lưng phát ra, hoặc từ rún phát ra, hoặc từ âm tàng phát ra, hoặc từ đùi phát ra, hoặc từ đầu gối phát ra, hoặc từ ống chân phát ra, hoặc từ mắt cá chân phát ra, hoặc từ chân phát ra, hoặc từ tướng tốt phát ra, hoặc từ các lỗ chân lông phát ra. Các chúng sinh như vậy, hiểu biết khác nhau. Tịch Tuệ! đây gọi là mật ngữ của Như Lai. Lại nữa, này Tịch Tuệ! Sáu mươi hai là lời Như Lai nói ra tùy theo đó các chúng sinh mỗi mỗi tin hiểu, tùy theo các tâm ý của chúng sinh mà thành thục, tùy theo sự thích ứng mà khiến cho tất cả được hiểu rõ, nhưng Phật Như Lai luôn thường trụ xả, không có phân biệt. Ví như thế gian mượn các pháp mà tạo thành các âm nhạc, tùy theo người làm mà thành ra sắc sảo đẹp đẽ. Nhạc cụ này tay không rờ vào cũng không nhờ sức người mà chỉ cần gió thổi nhẹ qua là phát ra tiếng hay, tiếng phát ra đó đều là do gió nghiệp sai biệt đời trước thổi động vào. Lời nói của Như Lai cũng lại như vậy, tùy theo ý vui muốn của tất cả chúng sinh, gió trí thổi kích động vào, cũng chẳng phải Như Lai dụng lực mà phát ra. Như Lai tùy thuận tất cả nghiệp sai biệt đời trước và cảnh giới của chúng sinh, tùy theo sự thích ứng mà nói. Tịch Tuệ! Ví như tiếng vang tùy chỗ phát ra, chỗ phát ra tiếng ấy không phải ở trong, không phải ở ngoài, không phải ở giữa. Lời nói của Như Lai cũng lại như vậy, nói ra là vì biểu hiện tâm ý của chúng sinh, nhưng tiếng của Như Lai không phải ở trong, không phải ở ngoài, cũng không phải ở giữa. Lại như trong biển cả có bảo châu như ý, gọi là viên mãn tất cả ý vui, đem nó treo lên cây tràng cao, tự nhiên phát ra tiếng. Châu này có khả năng làm cho ý của tất cả chúng sinh vui. Tuy vậy, nhưng châu này không có phân biệt. Như Lai cũng lại như vậy, nói ra lời quý báu, thân tâm thanh tịnh, treo trên tràng đại Bi, tùy theo ý muốn của các chúng sinh, mà Như Lai phát ra lời nói vi diệu khiến cho họ được hiểu rõ, nhưng Phật Như Lai thường trụ xả, không phân biệt. Tịch Tuệ! đây gọi là mật ngữ của Như Lai. Lại nữa, này Tịch Tuệ! Sáu mươi ba là âm thanh của Phật Như Lai không có mức độ. Ta không thấy các hàng Trời, Người, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn ở thế gian mà có thể biết được ngằn mé và mức độ âm thanh của Như Lai. Vì sao vậy? Ta nhớ thuở nọ Đức Phật đang ở tại núi Thứu phong, thành Vương xá, các chúng Bồ-tát cùng nhau vây quanh tuyên nói pháp môn, âm thanh luôn thanh tịnh, rộng vì chúng sinh diễn bày rõ ràng. Sau đó nhờ lực gia trì của Đại Bồ-tát Từ Thị nên Tôn giả Đại Mục-kiền-liên nghó như vầy: “Mức độ âm thanh thanh tịnh của Như Lai vang được bao xa?” Nghó như vậy rồi liền ngay nơi tòa ẩn mất không hiện, tự dùng thần lực đến đảnh núi Tu-di để nghe thử âm thanh của Phật vang xa hay gần. Lại vận thần lực bay đến tam thiên đại thiên thế giới, lại quá hơn phía Tây của núi Tu-di, lại quá hơn bốn đại châu thế giới, lại quá hơn núi Thiết vi, núi Đại thiết vi, cho đến tận thế giới, rồi trở lại đứng trên đảnh núi Thiết vi lắng nghe mức độ âm thanh của Như Lai nhưng âm thanh của Như Lai vẫn bình đẳng không có tăng giảm. Khi ấy Đức Thế Tôn biết việc này rồi liền nghó như vầy: “Đại Mục-kiền-liên ý muốn thử xem mức độ âm thanh của ta, nay ta nên nhiếp thần lực.” Đức Thế Tôn nhiếp thần lực xong, Đại Mục-kiền-liên nương vào oai thần gia trì của Phật, tự dùng thần thông ở một phần phía Tây của thế giới này, quá chín mươi chín hằng hà sa số cõi Phật, đến một thế giới tên Quang minh tràng, nước ấy có Đức Như Lai hiệu là Quang Minh Vương, hiện đang nói pháp giáo hóa chúng sinh. Khi Tôn giả Đại Mục-kiền-liên đến thế giới ấy rồi, lắng nghe mức độ âm thanh của Đức Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni Như Lai, cũng như nghe tiếng người kia nói cách mười khuỷu tay, Đại Mục-kiền-liên ở thế giới kia nghe tiếng của Phật cũng lại như vậy, tiếng ấy bình đẳng không có tăng giảm. Thân của Đức Phật Quang Minh Vương Như Lai cao một trăm do-tuần, thân của các Bồ-tát cao năm mươi do-tuần. Lúc đó Đại Mục-kiền-liên tự dùng thần lực đi vòng trên bình bát mà các chúng Bồ-tát kia đang dùng. Các chúng Bồ-tát thấy hình tướng của Mục-kiền-liên như vậy liền chê cười bạch với Đức Phật: –Bạch Đức Thế Tôn có một con trùng nhỏ hình tướng của nó sao rất giống Sa-môn, đang đi vòng quanh trên bát. Đức Phật Quang Minh Vương bảo: –Này các thiện nam! Các ông chớ sinh tâm khinh mạn. Vì sao? Vì người đang đi trên bình bát này chính là đệ tử bậc nhất trong hàng Thanh văn của Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni Như Lai và cũng là người thần thông bậc nhất trong chúng đại Thanh văn. Lúc đó Tôn giả Đại Mục-kiền-liên đến trước Phật Quang Minh Vương Như Lai đảnh lễ sát chân, nhiễu quanh bên phải bảy vòng rồi đứng trước Phật. Đức Phật Quang Minh Vương bảo: –Này Tôn giả Đại Mục-kiền-liên! Các Bồ-tát ở đây khinh ông đó, vậy nay ông hãy nương vào sự gia trì của Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác, mà tự dùng thần lực hiện thần thông biến hóa. Tôn giả Đại Mục-kiền-liên thưa rằng: –Nay con vâng lời Phật dạy. Nói xong, Tôn giả liền ngồi kiết già, ở nơi bảo châu này biến hóa các việc. Đức Phật ấy bảo: –Nay đã đúng lúc. Tôn giả Đại Mục-kiền-liên liền bay lên hư không cao bằng bảy ức cây Đa-la, biến hóa các việc, ở ngang chỗ ngồi hiện ra trăm ngàn ức chân châu, anh lạc trang nghiêm khắp tất cả. Các thứ anh lạc ấy phát ra trăm ngàn ức tia sáng, mỗi mỗi tia sáng đều có hoa sen, trên các đài hoa sen đều có tượng của Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni ngồi; tượng Như Lai ấy tuyên nói chánh pháp âm thanh thanh tịnh. Đại Mục-kiền-liên bạch với Đức Phật Quang Minh Vương rằng: –Thưa Thế Tôn! Nay con ngồi kiết già, ở tất cả thế giới trong bốn đại châu này, cũng có thể khởi các thần thông biến hóa, cho đến tiểu thiên thế giới, trung thiên thế giới, tam thiên đại thiên thế giới này đều có thể khởi thần thông biến hóa. Đức Phật Quang Minh Vương bảo: –Nay đã đúng lúc. Khi ấy Tôn giả Đại Mục-kiền-liên ứng hiện thần thông biến hóa rồi thâu nhiếp thần lực trở lại đứng trước Phật. Lúc đó các Bồ-tát ấy đều sinh tâm hy hữu, đến trước Phật bạch: –Bạch Thế Tôn! Nay Tôn giả Đại Mục-kiền-liên này vì lý do gì mà đến thế giới này. Đức Phật ấy đáp: –Này các thiện nam! Đại Mục-kiền-liên này vì muốn thử xem mức độ âm thanh của Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni Như Lai nên mới đến thế giới này. Thế Tôn Quang Minh Vương Như Lai bảo Tôn giả Đại Mục-kiền-liên: –Từ nay trở đi, ông chớ có khởi tâm muốn thử xem mức độ âm thanh của Như Lai. Vì âm thanh thanh tịnh của Như Lai không có ngằn mé, không có mức độ. Giả sử có người dùng oai thế thần lực bay qua phía Tây hằng hà sa số kiếp, rốt cuộc rồi cũng không thể biết được ngằn mé âm thanh diệu luân của Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni Như Lai. Vì âm thanh diệu luân của Như Lai không có ngằn mé.  Phật nói kinh Đại thừa bí mật chẳng nghó bàn của Như Lai <卷 id="87624631">Quyển 8 <詞 id="87624632">Phẩm 8: Mật ngữ chẳng nghó bàn của Như Lai (Phần 2) Khi ấy Tôn giả Đại Mục-kiền-liên lễ sát chân Phật Quang Minh Vương rồi thưa: –Bạch Thế Tôn! Nay con xin sám hối tội, nay con xin sám hối tội, con muốn thử xem âm thanh vô lượng thanh tịnh diệu luân của Đức Thích-ca Mâu-ni Như Lai thật là tội nặng. Lại nữa, Thưa Thế Tôn! Con đến đây đã cách bao xa? Đức Phật Quang Minh Vương đáp: –Này Đại Mục-kiền-liên! Ông đã vượt qua chín mươi chín hằng hà sa số các thế giới rồi mới đến cõi này. Đại Mục-kiền-liên thưa: –Con từ đó đến đây thật xa, thân sức đã mệt mỏi, không thể trở về cõi Ta-bà được nữa rồi! Đức Phật Quang Minh Vương bảo: –Này Đại Mục-kiền-liên! Ý ông nghó sao? Ông chớ có khởi lên sự nhận thức rằng ông đã tự dùng thần lực để đến cõi này. Vì sao? Vì nhờ vào lực gia trì của Đức Thích-ca Mâu-ni Như Lai nên ông mới đến được đây. Nay ông muốn trở về cõi Ta-bà thì nên hướng về cõi ấy chí thành đảnh lễ Đức Thích-ca Như Lai. Này Đại Mục-kiền-liên! Nay ông nên biết! Nếu ông tự dùng thần lực để trở về cõi Ta-bà, thì dù có trải qua một kiếp cũng không thể đến, hoặc trong khoảng thời gian chưa đến đó, ta e rằng ông đã vào Niết-bàn rồi. Này Đại Mục-kiền-liên! Nay ông đến đây trong bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc, vậy đây là phương nào? Đại Mục-kiền-liên thưa: –Tâm con mê muội, không biết hiện nay đang ở tại phương nào? Đức Phật Quang Minh Vương nói: –Vì lẽ đó, cho nên ông nay nên biết nếu ông tự dùng thần lực trải qua một kiếp, cuối cùng rồi cũng không thể đến cõi Ta-bà. Đại Mục-kiền-liên thưa: –Nay Đức Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni đang ở tại phương nào? Đức Phật Quang Minh Vương đáp: –Đức Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni đang ở tại phương Đông. Khi ấy, Tôn giả Đại Mục-kiền-liên liền hướng về phương Đông đảnh lễ năm vóc sát đất, chí thành đảnh lễ Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni Như Lai mà nói kệ rằng: Lưỡng Túc Thế Tôn nhiếp thọ con Trời, người cúng dường đại oai đức Trí tuệ vô biên, tiếng vô biên Con nay muốn trở về cõi ấy. Này Tịch Tuệ! Lúc đó tất cả chúng hội tại núi Thứu phong, thành Vương xá nhờ sức oai thần của Đức Thích-ca Mâu-ni Như Lai, nên đều nghe tiếng than khóc của Tôn giả Đại Mục-kiền-liên. Khi ấy Tôn giả A-nan đến trước Phật thưa: –Bạch Thế Tôn! Tiếng đang khóc đó là tiếng của ai? Đức Phật bảo A-nan: –Đó là tiếng của Tỳ-kheo Mục-kiền-liên đã đến phương Tây cách thế giới này hơn chín mươi chín hằng hà sa số cõi Phật, đến thế giới Quang minh tràng, Thế Tôn cõi ấy hiệu là Quang Minh Vương Như Lai. Hiện nay Mục-kiền-liên đang ở cõi ấy muốn trở về cõi Ta-bà này, do vậy mà có tiếng khóc đó. A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Vì lý do gì mà Tôn giả Đại Mục-kiền-liên đến thế giới ấy? Phật đáp: –Đại Mục-kiền-liên sắp trở về cõi này, việc ấy rồi ông sẽ tự biết. Khi ấy, tất cả chúng hội trên núi Thứu phong đều chắp tay cung kính bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Chúng con muốn thấy thế giới Quang minh tràng, chiêm ngưỡng Thế Tôn Quang Minh Vương Như Lai và muốn thấy chúng Bồ-tát ở cõi ấy, cùng Tôn giả Đại Mục-kiền-liên. Đức Thế Tôn nhận lời khuyến thỉnh rồi, tức thời giữa chặng mày phát ra ánh sáng lớn tên Nhất thiết xứ thông đạt. Ánh sáng ấy chiếu khắp chín mươi chín hằng hà sa số cõi Phật, liên tục không gián đoạn và chiếu sáng cả thế giới Quang minh tràng. Lúc đó tất cả đại chúng trong hội đều thấy thế giới Quang minh tràng, chiêm ngưỡng Thế Tôn Quang Minh Vương Như Lai và thấy các Bồ-tát cùng Đại Mục-kiền-liên than khóc năm vóc gieo sát đất hướng đến Phật đảnh lễ. Lúc đó, Đức Thế Tôn Thích-ca Như Lai bảo Tôn giả Đại Mục-kiền-liên: –Nay ông nên theo ánh sáng của ta mà trở về cõi này. Tôn giả Đại Mục-kiền-liên nương vào ánh sáng của Phật Thế Tôn trong khoảng một niệm liền trở về cõi Ta-bà, đứng phía trước hướng lên Phật đảnh lễ sát chân và nhiễu quanh bên phải bảy vòng, lại một lần nữa chí thành gieo năm vóc sát đất thưa: –Bạch Thế Tôn! Con nay xin sám hối tội, con nay xin sám hối tội! Con đã muốn thử xem âm thanh vô lượng thanh tịnh diệu luân của Thế Tôn, thật là tội nặng. Con đã đến thế giới xa khác để nghe tiếng của Phật, khi con đến cõi kia rồi nghe tiếng Phật cùng với cái nghe ở đây không khác. Đức Phật bảo Mục-kiền-liên: –Theo như lời ông nói, âm thanh của Như Lai không có hạn lượng, cũng như hư không không có hạn lượng, không có ngằn mé, không thể lường được. Nếu hư không kia có thể lường được thì âm thanh của Như Lai cũng có thể lường được. Vì sao? Vì hư không rộng lớn. Âm thanh của Đức Như Lai cũng rộng lớn như vậy. Khi xưa, ở thành Vương xá nói về việc đi về của Tôn giả Đại Mục-kiền-liên có mười ngàn người phát tâm đạt đến quả vị Giác ngộ cao tột. Bồ-tát Kim Cang Thủ bảo Bồ-tát Tịch Tuệ: –Này Tịch Tuệ! Đây là mật ngữ của Như Lai. Lại nữa, này Tịch Tuệ! Sáu mươi tư là tất cả tâm, tâm sở của chúng sinh chuyển, mà một tâm của một chúng sinh lại nhiều hơn kia. Bồ-tát Tịch Tuệ hỏi: –Thưa Đại bí mật chủ! Nếu tâm, tâm sở của một chúng sinh chuyển, giả sử tất cả chúng sinh khắp cả tam thiên đại thiên thế giới đều chứng Duyên giác trải qua một kiếp để suy nghó tính đếm, so lường, tìm xét còn không được thay, huống nữa là tìm tất cả chúng sinh. Bồ-tát Kim Cang Thủ nói: –Tịch Tuệ! Ta nay bảo ông, để ông hiểu rõ là tâm, tâm sở của tất cả chúng sinh chuyển tức là âm thanh diệu luân của Như Lai phát ra các âm thanh để tuyên nói chánh pháp, khiến cho các chúng sinh đều hoan hỷ, nhưng Phật Thế Tôn thường trụ xả, không phân biệt. Lúc đó Bồ-tát Kim Cang Thủ nói kệ rằng: Chúng sinh trong ba ngàn thế giới Tất cả đều chứng quả Duyên giác Trải qua một kiếp để so lường Cũng không hiểu tâm một chúng sinh. Một chúng sinh trong thế gian này Chỉ Phật mới hiểu tâm ý ấy Tuy đã biết rõ tâm chúng sinh Nhưng Phật không tìm hiểu phân biệt, Cho đến tất cả loại chúng sinh Suy nghó nói chung có ba thứ Thế Tôn tùy loại mà đáp ứng Tuyên nói chánh pháp tiếng vi diệu. Trong pháp tự tại diễn diệu âm Tất cả người nghe đều vui thích Tùy chỗ tuyên nói gọi tướng sinh Dùng các pháp gọi khéo khai thị, Hễ có tất cả loại chúng sinh Sắc tướng, danh tự và tư duy Một lỗ chân lông phóng hào quang Như Lai tùy ứng khéo phân biệt. Nơi mà Thế Tôn đại Từ hóa Tất cả chân lông phóng ánh sáng Ánh sáng siêu xuất hơn thế gian Trong âm thanh luân nói diệu pháp. Giả sử Thế Tôn trải một kiếp Dùng các thí dụ khéo tuyên bày Nhưng Phật ngữ và âm thanh luân Rốt cuộc không biết được ngằn mé. Tất cả phiền não không sắc tướng Tất cả lời nói cũng không tướng Bởi do lời nói kia không tướng Phiền não không tướng tự tiêu diệt, Thế nên ngôn ngữ các sắc tướng Dù ở tại đâu cũng không được Do vậy rốt cuộc không thể được Phiền não sắc tướng cũng như trên. Bởi do ngôn ngữ là không thật Lời nói không trong cũng không ngoài Phiền não không thật cũng như vậy Tánh nhiễm chẳng trong cũng chẳng ngoài, Dùng một ít pháp không thể được Lời Phật nói ra khắp mười phương Phiền não không được cũng như thế Vì thế Đức Phật đã nói rõ. Tất cả lời nói của chúng sinh Phân chia ba bậc thượng, trung, hạ Ngữ ngôn không thân cũng không tâm Trong đó không trụ, chẳng không trụ, Ví như mượn pháp tạo nhạc cụ Gió thổi kích vào các tiếng vang Âm thanh phát ra không từ đâu Trong đó không có người tạo tác, Bởi do tánh thiện nơi đời trước Tất cả chúng sinh gió ý thổi Nên Phật Thế Tôn nói diệu âm Nhưng Ngài không có phân biệt tưởng. Ví như tiếng vang vọng trở lại Âm thanh không trong cũng không ngoài Thế Tôn nói ra tiếng vi diệu Không trong, không ngoài cũng như thế. Lại như châu báu không phân biệt Khiến các chúng sinh sinh vui thích Phật không phân biệt cũng như vậy Tất cả âm thanh đều viên mãn. Lại nữa, này Tịch Tuệ! Ngữ bí mật trí của Như Lai hòa nhập vào tất cả chúng sinh tuyên nói các pháp. Tùy theo mỗi chỗ sinh của tất cả chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới, Như Lai tùy theo tất cả ngôn ngữ âm thanh của các chúng sinh mà hòa nhập, dùng mỗi mỗi danh tự mà an lập Tứ đế. Này Tịch Tuệ! Đức Như Lai dạy về khổ, về nguyên nhân của khổ, về cái khổ đã được diệt, về con đường dẫn đến khổ diệt ấy. Đối với chư Thiên Địa cư, Như Lai nói như vầy: “Kha phệ, kha phược mâu lê, khâu phược na duệ, kha phược độ lỗ.” Lời nói này tức là khổ, là nguyên nhân của khổ, là cái khổ đã diệt, là con đường dẫn đến khổ diệt. Đối với chư Thiên Không cư, thì nói như vầy: “Đa rị đế, a phược rị đế, a phược rị đa vó nga di, a phược rị đa nó tát đa la ni.” Lời nói này tức là khổ, là nguyên nhân của khổ, là cái khổ đã diệt, là con đường dẫn đến khổ diệt. Đối với Tứ đại Thiên vương, nói như vầy: “Y ni, di ni, nại bì, nại la bì.” Lời nói này tức là khổ, là nguyên nhân của khổ, là cái khổ đã diệt, là con đường dẫn đến khổ diệt. Với chúng trời Đao-lợi nói như vầy: “A phược rị đa nó, a tây phược đế, xoa dã phược đế, xoa dã nậu nga di.” Lời nói này tức là khổ, là nguyên nhân của khổ, là cái khổ đã diệt, là con đường dẫn đến khổ diệt. Với chúng trời Dạ-ma nói như vầy: “Thâu lê, thâu la tây phược nó, thâu la xoa duệ, thâu la xoa dã bà phược nó.” Lời nói này tức là khổ, là nguyên nhân của khổ, là cái khổ đã diệt, là con đường dẫn đến khổ diệt. Với chúng trời Đâu-suất nói như vầy: “Ô kha lê, mục kha lê, vó phược nỗ, tán tả rị.” Lời nói này tức là khổ, là nguyên nhân của khổ, là cái khổ đã diệt, là con đường dẫn đến khổ diệt. Với chúng trời Hóa lạc nói như vầy: “Đa la đa, tán đa la đa, đa la xoa dã đa la mục kha.” Lời nói này tức là khổ, là nguyên nhân của khổ, là cái khổ đã diệt, là con đường dẫn đến khổ diệt. Với chúng trời Tha hóa tự tại nói như vầy: “Ha ha hô, ha ha vó na duệ, ha ha vó nga di, kha la nó nga di.” Lời nói này tức là khổ, là nguyên nhân của khổ, là cái khổ đã diệt, là con đường dẫn đến khổ diệt. Với chúng Thiên ma nói như vầy: “Áng nga lãm, áng nga la mẫu lam, áng nga la bá độ tang, áng nga la nó, tất đế la hát.” Lời nói này tức là khổ, là nguyên nhân của khổ, là cái khổ đã diệt, là con đường dẫn đến khổ diệt. Với Phạm chúng thiên nói như vầy: “Thuật tỳ, thuật tỳ cát rị, thuật tỳ vó xá na, thuật bà phược rị đa na.” Lời nói này tức là khổ, là nguyên nhân của khổ, là cái khổ đã diệt, là con đường dẫn đến khổ diệt. Với Phạm phụ thiên nói như vầy: “Di ha rị, tăng ha rị, sa la rị, sa la sa la ni.” Lời nói này tức là khổ, là nguyên nhân của khổ, là cái khổ đã diệt, là con đường dẫn đến khổ diệt. Với Phạm hội thiên nói như vầy: “Một la noa, một la noa tán đề, một la noa, một lỗ ha noa một lỗ ha nỗ ba xá ma.” Lời nói này tức là khổ, là nguyên nhân của khổ, là cái khổ đã diệt, là con đường dẫn đến khổ diệt. Với Đại phạm thiên nói như vầy: “Đa la nột rị, đa la tả câu rị, đa tát bộ rị, câu la phược ha nó.” Lời nói này tức là khổ, là nguyên nhân của khổ, là cái khổ đã diệt, là con đường dẫn đến khổ diệt. Với Thiểu quang thiên nói như vầy: “Hý hý, hộ hý, hô hộ, ha la nô tán đề.” Lời nói này tức là khổ, là nguyên nhân của khổ, là cái khổ đã diệt, là con đường dẫn đến khổ diệt. (Đoạn kế tiếp gồm có Vô lượng quang thiên, Quang âm thiên nói Tứ đế, bản tiếng Phạm vốn thiếu). Với Thiểu tịnh thiên nói như vầy: “Ô hý đa, nó phược hý đa, nỉ nga sất đa, nó nga ma nó.” Lời nói này tức là khổ, là nguyên nhân của khổ, là cái khổ đã diệt, là con đường dẫn đến khổ diệt. Với Vô lượng tịnh thiên nói như vầy: “Tây phược nó, tán tây phược nó, sát dã tây phược nó, a tây phược nó.” Lời nói này tức là khổ, là nguyên nhân của khổ, là cái khổ đã diệt, là con đường dẫn đến khổ diệt. Với Biến tịnh thiên nói như vầy: “Ba rị thế nó, ba rị thế nõ nại duệ, a phược na câu lê, bồ đà vó thuật đề.” Lời nói này tức là khổ, là nguyên nhân của khổ, là cái khổ đã diệt, là con đường dẫn đến khổ diệt. Với Quảng quả thiên nói như vầy: “A ngật rị đa, a ca la ni, a la noa vó nga đế, ca la noa nó sắt só.” Lời nói này tức là khổ, là nguyên nhân của khổ, là cái khổ đã diệt, là con đường dẫn đến khổ diệt. (Ở chín cõi trời trong đệ Tứ thiền cùng có Vô vân, Phước sinh, Vô tưởng, ba cõi trời đó trong bản văn Phạm còn thiếu). Với Vô phiền thiên nói như vầy: “A nậu nga ma na, a na nga ma na, a nậu tán đề, a nậu tán đề nga ma na.” Lời nói này tức là khổ, là nguyên nhân của khổ, là cái khổ đã diệt, là con đường dẫn đến khổ diệt. Với Vô nhiệt thiên nói như vầy: “Thuật đề, thuật đà phược đế, thuật đà ba rị thuật đà, đà đà nga ma nỉ.” Lời nói này tức là khổ, là nguyên nhân của khổ, là cái khổ đã diệt, là con đường dẫn đến khổ diệt. Với Thiện kiến thiên nói như vầy: “Hàm ma na, hàm ma di, ma na nậu nga ma dã, ma na nậu nga ma.” Lời nói này tức là khổ, là nguyên nhân của khổ, là cái khổ đã diệt, là con đường dẫn đến khổ diệt. Với Thiện hiện thiên nói như vầy: “Mục ngật để, mục ngật đa phược để, mục ngật đa mẫu lê, mục ngật đa ma đa nậu tán đề.” Lời nói này tức là khổ, là nguyên nhân của khổ, là cái khổ đã diệt, là con đường dẫn đến khổ diệt. Với Sắc cứu cánh thiên nói như vầy: “Nó sắt sỉ, a điên đa nó sắt sỉ, a yết lạp ba nó, a bát la để tán đề.” Tịch Tuệ nên biết! Các cõi trời như thế mỗi mỗi đều tùy theo ngôn ngữ của từng cõi mà được an lập Tứ đế; cùng với chúng Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già và chúng Kiên thân Dạ-xoa, chúng Trì man Dạ-xoa v.v… mỗi chúng đều tùy theo ngôn ngữ của mình mà được an lập Tứ đế. Này Tịch Tuệ! Các quốc độ trong châu Diêm-phù-đề này lược nói gồm một ngàn quốc độ, cho đến tất cả dân chúng trong mười sáu nước lớn, tùy theo mỗi địa phương, mỗi mỗi ngôn ngữ, mỗi mỗi âm thanh, mỗi mỗi tâm tưởng, Đức Như Lai đều hòa nhập vào tất cả ngôn ngữ âm thanh đó mà lập ra danh tự diễn nói Tứ đế khiến cho họ hiểu rõ. Từ người nước Thi-ca cho đến người ở tận biên giới, như vậy trong Diêm-phù-đề gồm một ngàn quốc độ, tất cả dân chúng đủ loại ngôn ngữ, đủ loại âm thanh, đủ loại tâm tưởng, cũng lập ra danh tự để nói Tứ đế. Như Lai tùy đó mà hòa nhập vào tất cả ngôn ngữ âm thanh, thảy đều hiểu rõ. Như vậy không phải tâm thức ngôn ngữ của Như Lai trải đều ra cả. Tịch Tuệ! Trong tiểu thiên thế giới này có chín mươi bốn ức triệu trăm ngàn thứ ngôn ngữ danh tự, tất cả đều nói Tứ đế, thâu nhiếp tất cả âm thanh nói ra đều cùng quy về một nghóa Tứ đế. Đó là Thắng nghóa đế, là Vô sinh đế, là Như thật đế, là Bất động đế. Tịch Tuệ! đây là mật ngữ của Như Lai. Lại nữa, này Tịch Tuệ! Lời nói của Như Lai có thể đoạn trừ tất cả nghi hoặc, không quyết định của chúng sinh, bao nhiếp tất cả chúng sinh trong mười phương vô lượng a-tăng-kỳ thế giới, dùng Phật trí biết được chúng sinh giới nhiều hơn địa giới. Tịch Tuệ! Muốn khiến cho tất cả chúng sinh đều được trí tuệ đầy đủ, ngang bằng với Tôn giả Xá-lợi Tử không khác. Vì lý do đó cho nên tất cả chúng sinh mỗi mỗi đều dùng trí tuệ như Xá-lợi Tử, đem việc nghi hoặc trong một kiếp, hoặc hơn một kiếp ra để cùng hỏi nhau suy nghó tính đếm, dò xét, như một chúng sinh lại hơn một. Từ đó các chúng sinh này mới đem việc nghi ngờ cùng suy nghó với nhau rồi đem hỏi Thế Tôn, chỉ trong một khảy móng tay Đức Thế Tôn đều trả lời hết cả. Thế nên Đức Thế Tôn hiểu rõ tâm niệm khởi lên của một chúng sinh mà rộng nhiếp tất cả chúng sinh. Đức Thế Tôn chỉ dùng một âm thanh tuyên nói cho các chúng sinh, khiến chúng đoạn trừ các lưới nghi, khiến họ đã đoạn nghi hoặc, đều sinh hoan hỷ. Này Tịch Tuệ! Đấy là ngôn ngữ của Như Lai có khả năng đoạn trừ tất cả nghi hoặc, không dứt khoát của chúng sinh, nhưng tâm và ngôn ngữ của Như Lai không có lay động, tất cả đều như thật mà nói. Tịch Tuệ nên biết! Những lời như vậy đều là lời hy hữu bí mật của Như Lai. Đó gọi là ngữ nghiệp thanh tịnh. Khi Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ nói bí mật ngữ của Như Lai, trong hội có ba vạn hai ngàn chúng sinh phát tâm đạt đến quả vị Giác ngộ cao tột. Các Bồ-tát ở hiền kiếp trong mười phương tất cả cõi Phật, đều tu hành phạm hạnh. ở cõi Phật ấy các Bồ-tát đều cúng dường Phật và Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ, rủ các bảo cái, rải các hoa đẹp, hoa cúng dường đó xoay tròn trong hội rồi tung ra trên thân Phật và Bồ-tát Kim Cang Thủ, rồi mới tung ra khắp tất cả chúng hội. Bảo cái ấy xoay tròn trên không rồi trụ che trên đảnh Phật. Các bảo cái này phát ra tiếng vi diệu như vầy: “Trong hiền kiếp, Bồ-tát chúng con đem bảo cái này dâng cúng Thế Tôn và Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ, cúi xin nạp thọ. Nơi nào mà Đức Như Lai hướng đến tuyên nói pháp chưa từng có, tất cả chúng hội nghe rồi tâm hy hữu càng thêm tăng.” Nói rồi tất cả đều hướng đến Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ chí thành đảnh lễ, sinh ý tưởng tôn trọng tối thượng, tất cả đều nói lên như vầy: “Thưa Đại bí mật chủ, hôm nay chúng tôi quyết chắc được thiện lợi, được nghe Bồ-tát Kim Cang Thủ tuyên nói pháp mật ngữ chẳng thể nghó bàn của Như Lai. Nếu các chúng sinh nghe rồi tin hiểu không còn nghi ngờ, thì các chúng sinh ấy sẽ được thân người, không luống uổng công và được Như Lai hóa độ, không còn thoái chuyển nơi quả vị Giác ngộ cao tột.”  Phật nói kinh Đại thừa bí mật chẳng nghó bàn của Như Lai <卷 id="87624633">Quyển 9 <詞 id="87624634">Phẩm 8: Mật ngữ chẳng nghó bàn của Như Lai (Phần 3) Khi ấy Đức Thế Tôn khen tất cả chúng hội: –Hay thay, hay thay! Rồi lại bảo Bồ-tát Tịch Tuệ: –Tịch Tuệ nên biết! Lý chân thật của Như Lai, chánh pháp của Như Lai và sự hành hóa của Như Lai tất cả thế gian thật khó tin hiểu. Nhưng chánh pháp này Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ có thể khéo tuyên thuyết. Không bao lâu nữa, nếu các chúng sinh được đầy đủ pháp này thì chánh pháp được tuyên thuyết. Chúng sinh nghe rồi sinh lòng tin hiểu, sinh tin hiểu rồi thọ trì không có kinh sợ và hiểu được nghóa thú, rõ tánh chân thật, người ấy sẽ được thọ ký quả vị Giác ngộ cao tột. Lúc Phật Như Lai khen ngợi Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ khéo nói chánh pháp, mười phương vô lượng a-tăng-kỳ thế giới sáu điệu chấn động. Lại có ánh sáng lớn chiếu sáng khắp cả, trên hư không tự nhiên mưa xuống các hoa đẹp, trống kèn ca hát tất cả đều trổi lên, có vô lượng chúng sinh phát tâm Bồ-đề, vô lượng Bồ-tát được Nhẫn tùy thuận, vô lượng Bồ-tát được Vô sinh pháp nhẫn, vô lượng Bồ-tát căn lành được thành thục và được Nhất sinh bổ xứ. Đồng thời trong đại chúng hội, trước Phật Thế Tôn, đại thủy trong sáu vạn tám ngàn do-tuần địa giới bỗng nhiên vỡ ra, vọt lên như là ác xoa, tụ cao đến không trung, thấu tận Phạm giới. Lúc đó tất cả tam thiên đại thiên thế giới hương thơm ngát cả. Khi ấy Phật bảo Đại Bồ-tát Tịch Tuệ: –Này Tịch Tuệ! Ông có thấy nước vọt lên đó không? Bồ-tát Tịch Tuệ thưa: –Có thấy, thưa Thế Tôn! Vậy đó là tướng gì? Phật bảo Tịch Tuệ: –Nay đại địa bỗng nhiên nứt ra, nước vọt lên đó không phải là điều để suy nghó. Nếu có người nào thọ trì chánh pháp này, các chúng sinh kia cũng như vậy, đối với chánh pháp hiểu lý như thật bỗng nhiên khai ngộ, tất cả vô minh kiến v.v… các tội nghiệp của các chúng sinh đều bừng sáng. Pháp quang vô tận tuệ biện tài thù thắng, giáo lý đã nói ra thảy đều xuất hiện. Đó chính là Bồ-tát Kim Cang Thủ vì các chúng sinh mà tuyên nói chánh pháp, khiến cho các chúng sinh sinh tâm hoan hỷ. Tịch Tuệ nên biết! Chánh pháp này đều là tướng bất cộng thù thắng của Như Lai.  <詞 id="87624635">Phẩm 9: Mật tâm chẳng nghó bàn của Như Lai Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ lại bảo Bồ-tát Tịch Tuệ: –Sao gọi là mật tâm nghiệp tâm thanh tịnh của Như Lai? Này Tịch Tuệ! Ví như chúng sinh ở cõi trời Vô sắc sinh ra, đồng lấy một thức làm đối tượng để duyên, sống đến tám vạn bốn ngàn kiếp. Thức ấy cũng không phải tùy theo các thức khác mà chuyển, thọ mạng hết rồi tùy nghiệp thành thục, tùy chỗ mà thọ sinh. Như Lai cũng lại như vậy, vì không trụ thức nên trong đêm Bồ-tát thành tựu quả vị Giác ngộ cao tột và trong đêm Như Lai vào đại Niết-bàn Vô dư y, trong khoảng thời gian đó Đức Phật Như Lai không có tâm chuyển, không có tâm tứ sát, không có tâm không tứ sát, không có tâm tri giải, không có tâm tư niệm, không có tâm hạn lượng, không có tâm tích tập, không có tâm ly tán, không có tâm động loạn, không có tâm cao, không có tâm thấp, không có tâm phòng vệ, không có tâm thú hướng, không có tâm dữ tợn, không có tâm quán sát kỹ, không có tâm não hại, không có tâm lưu đãng, không có tâm tịch định, không có tâm vui thích, không có tâm bức não, không có tâm an xứ, không có tâm biến hành, không có tâm phân biệt, không có tâm sai khác, không có tâm biến kế, không có tâm trụ trong Chỉ, không có tâm trụ trong Quán, không có tâm chạy theo thức, không tự tâm kiến lập, không quán sát tha tâm, không có tâm nương vào mắt; không có tâm nương vào tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không có tâm nương vào sắc, không có tâm nương vào thanh, hương, vị, xúc, pháp, không có tâm trụ vào đối tượng để duyên, không có tâm trụ vào ý xứ, không có tâm trụ nội xứ, không có tâm trụ ngoại xứ, không có tâm nương vào pháp hành, không có tâm nương vào trí hành, không có tâm quán sát các pháp quá khứ, vị lai, hiện tại. Này Tịch Tuệ! Đó là tâm nghiệp thanh tịnh của Như Lai. Tâm của Như Lai không nắm bắt một pháp nào, đối với các pháp Như Lai chỉ dùng tri kiến không chấp trước, không ngăn ngại mà chuyển. Tự tâm của Như Lai đã thanh tịnh, đối với các chúng sinh tâm không thanh tịnh, cũng lại không chấp kiến; không bị hữu kiến và vô kiến làm cho phân biệt. Tuy có thấy, nhưng không có hý luận về cái thấy và cái không thấy. Đây gọi là thấy được trí Như Lai, cái thấy này không tương ưng với cái thấy của Nhục nhãn, không tương ưng với cái thấy của Thiên nhãn, không tương ưng với cái thấy của Tuệ nhãn, không tương ưng với cái thấy của Pháp nhãn, không tương ưng với cái thấy của Phật nhãn, không tương ưng với cái nghe của Thiên nhó, không tương ưng với cái biết của Tha tâm trí, không tương ưng với suy nghó của Túc trụ tùy niệm trí, không tương ưng với kết quả của thần thông trí, không tương ưng với trí hữu lậu. Đối với tất cả pháp ấy có thể tương ưng là tri của tất cả pháp vô ngại, nhưng Phật Như Lai không có gia hạnh, cũng không tìm hiểu, không tác ý, khéo trụ vào trí sáng của Như Lai mà quán sát tâm hạnh của tất cả chúng sinh, biết rõ tất cả pháp hoặc nhiễm hoặc tịnh. Đức Như Lai có mười Lực, bốn Vô sở úy, mười tám pháp Phật bất cộng, không bao giờ rời bỏ trí Như Lai, nhưng Phật Như Lai đối với pháp này không có gia hạnh, không tìm hiểu, cũng không tác ý. Như Lai lìa tâm, ý, thức, thường trụ trong chánh định, nhưng không bỏ tất cả Phật sự, ở trong trí vô ngại đối với tất cả pháp Phật không có chấp trước. Này Tịch Tuệ! Ví như tượng Như Lai được Như Lai hóa ra, tượng được hóa ra đó không có tâm, ý, thức, không bị thân hành, ngữ hành, ý hành chuyển, nhưng nhờ sức gia trì của Phật nên có thể làm tất cả Phật sự. Đức Như Lai cũng như vậy, cùng với các hóa tượng không khác, do thấy tất cả pháp đều như biến hóa, cho nên không có phân biệt, không khởi phát thân, ngữ, tâm mà lại có thể làm tất cả Phật sự, nhưng không có gia hạnh, không có tìm hiểu, lại không tác ý. Vì sao? Vì Đức Như Lai đã biết rõ tự tánh của tất cả pháp tướng như hóa. Thế nên Như Lai tự giác ngộ rồi, vì thương xót nên bày phương tiện giác ngộ cho tất cả chúng sinh. Tịch Tuệ nên biết! Trí của Như Lai không trụ hữu vi, không trụ vô vi, không trụ uẩn, xứ, giới; không trụ trong, không trụ ngoài, không trụ thiện pháp, không trụ bất thiện pháp, không trụ vào thế gian, không trụ vào xuất thế gian, không trụ vào có tội, không trụ vào vô tội, không trụ hữu lậu, không trụ vô lậu, không trụ quá khứ, không trụ vị lai, không trụ hiện tại, không trụ trạch diệt, không trụ phi trạch diệt. Như vậy cho đến không trụ vào thức. Như Lai đối với tâm hạnh ý vui của tất cả chúng sinh, chỉ dùng tri kiến không chấp trước, không ngăn ngại mà chuyển. Tuy nhiên Như Lai không gia hạnh không tìm hiểu cũng không tác ý. Tịch Tuệ! Đây là mật tâm chẳng nghó bàn của Như Lai. Vì thế nên biết, Như Lai thường trụ chánh định, nhưng không lìa bỏ, mà biểu hiện trọn vẹn tâm ý của tất cả chúng sinh.  <詞 id="87624636">Phẩm 10: Tán thán công đức của Bồ-tát Kim cang Thủ Đại bí mật chủ Khi ấy Tôn giả Xá-lợi Tử đến trước Phật thưa: –Bạch Thế Tôn! Các Bồ-tát trong hiền kiếp ở mười phương thế giới hiện đang tu phạm hạnh ở chỗ Thế Tôn, trong số Bồ-tát này Bồ-tát Kim Cang Thủ thường theo sau Bồ-tát nào? Đức Phật bảo: –Này Xá-lợi Tử! Thôi, thôi, đấy là hạnh chẳng nghó bàn. Trời, người ở thế gian đối với hạnh của Bồ-tát, những người không sinh lòng tin trở lại chấp giữ lấy sự mê loạn. Nếu có chúng sinh được Thiện tri thức nhiếp thọ và nghe được pháp này rồi sinh lòng tin thanh tịnh, thì không còn sinh kinh sợ nữa. Xá-lợi Tử bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Con đối với Như Lai sinh lòng tin thanh tịnh cực độ. Cúi xin Thế Tôn hãy vì con mà nói. Phật bảo Xá-lợi Tử: –Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ thường đi sau ta, ông có thấy không? Xá-lợi Tử thưa: –Con nhờ vào oai thần của Phật nên nay mới được thấy, chứ không phải tự có thể thấy biết từ trước. Phật nói Xá-lợi Tử: –Đúng vậy, đúng vậy! Nay ông nên biết! Với các Bồ-tát ở hiền kiếp thì Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ thường theo sau, ở tất cả mọi nơi hiện ra hình tướng Bồ-tát Kim Cang Thủ. Đó là nhờ nguyện lực và thần thông lực từ quá khứ nên mới được như vậy. Xá-lợi Tử, cho đến các loài chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới, Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ cũng hiện hình tướng của mình và thường theo sau, nhưng đối với sở hiện gia trì trí lực vẫn chưa được viên mãn. Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Bồ-tát Kim Cang Thủ thường theo sau Bồ-tát Từ Thị, ông có thấy không? Xá-lợi Tử thưa: –Bạch Thế Tôn! Nay con mới thấy, chứ không phải đã thấy từ trước. Phật bảo Xá-lợi Tử: –Bồ-tát ấy thường theo sau, tự ông không thấy đó thôi. Hoặc các Bồ-tát, hoặc Pháp vương, Đế Thích, trời Hộ thế… ở thế giới khác thường đến thấy Bồ-tát Kim Cang Thủ cầm chày Kim cang theo sau Bồ-tát Từ Thị. Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Một thời các Bồ-tát trong hiền kiếp vì Bồ-tát Từ Thị mà hiện trăm ngàn ức việc biến hóa. Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ cũng theo sau các Bồ-tát để hỗ trợ gia trì. Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Cho đến khi Như Lai biến hóa, Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ cũng theo sau Phật, đem nguyện lực để hỗ trợ tuyên dương thánh hóa. Xá-lợi Tử, vì thế nên biết những việc như vậy đều là thần thông gia trì trí lực đầy đủ, không thể nghó bàn của Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ.  <詞 id="87624637">Phẩm 11: Bồ-tát khổ hạnh siêu xuất thù thắng, mượn duyên thọ thực để thành thục chúng sinh Khi ấy, Bồ-tát Tịch Tuệ thưa với Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ: –Thưa Bí mật chủ! Xin Bồ-tát hoan hỷ nói về việc Bồ-tát tu khổ hạnh, đến Bồ-đề tràng hàng phục ma quân, chuyển chánh pháp luân, trang nghiêm cõi Phật v.v… Nay tôi rất muốn nghe, xin Bồ-tát hãy nói cho. Những việc hy hữu như vậy Bồ-tát hiện chứng biết. Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ bảo Đại Bồ-tát Tịch Tuệ: –Tịch Tuệ nên biết! Từ việc Bồ-tát tu khổ hạnh cho đến các việc khác đều có đầy đủ vô lượng công đức trang nghiêm. Giả sử như trọn cả một kiếp cũng không thể rộng nói phân biệt hết được. Ta nay sẽ vì ông mà lược nói. Này Tịch Tuệ! Bồ-tát tu khổ hạnh không phải là một tướng. Bồ-tát chỉ vì hàng phục các ma và ngoại đạo, cho đến các tướng cấm giới, hoặc năm thứ lửa đốt thân và tất cả oai nghi khác đều là vì hàng phục chúng ma và ngoại đạo, khiến cho chúng được tối thắng tối thượng. Siêu xuất hơn thế nữa là tất cả cấm giới, sự tu hành, các việc khó làm, những việc ấy các hàng ngoại đạo không thể làm được nhưng Bồ-tát đều làm được, khiến cho chúng được thù thắng. Tịch Tuệ! Hoặc có chúng sinh thấy Bồ-tát đứng co một chân, hoặc thấy Bồ-tát đưa cao hai tay, hoặc thấy Bồ-tát ngó thẳng vào mặt trời, hoặc thấy Bồ-tát để năm thứ lửa đốt thân, hoặc thấy Bồ-tát đi bằng khủy tay, hoặc thấy Bồ-tát đứng yên không lay động, hoặc thấy Bồ-tát đưa hai chân lên trời, hoặc thấy Bồ-tát chúi đầu xuống đất, hoặc thấy Bồ-tát nằm trên đống gai, hoặc thấy Bồ-tát nằm trên phân bò, hoặc thấy Bồ-tát ngồi kiết già trên đá, hoặc thấy Bồ-tát nằm trên bức tường, hoặc thấy Bồ-tát nằm trên quả gai, hoặc nằm trên đòn tay, hoặc nằm trên đất, hoặc nằm trên áo tơi, hoặc thấy mặc áo cỏ, hoặc mặc áo da nai, hoặc lấy áo trùm lên thân, hoặc lại lõa hình, hoặc xoay theo mặt trời, hoặc mặc áo bị quăng bỏ ngoài nghóa địa, hoặc mặc áo da cây, hoặc ăn hạt cỏ dại, hoặc ăn rễ cây, hoặc ăn lá, hoặc ăn hoa, hoặc ăn quả, hoặc ăn cành, hoặc ăn nhánh, hoặc ăn ngó sen, hoặc sáu ngày không ăn, hoặc ăn đậu xấu, hoặc ăn lúa dé, hoặc ăn rơm khô, hoặc ăn đậu lộc, hoặc ăn đậu xanh, hoặc ăn lúa hoặc ăn dầu mè, hoặc ăn gạo, hoặc uống nước để sống, hoặc chỉ ăn váng sữa, hoặc uống mật hay uống sữa, hoặc nhịn mãi, hoặc ở trong chúng ma, hoặc ngồi một mình, hoặc đứng một bên. Tịch Tuệ! Các việc oai nghi như vậy và vô lượng khổ hạnh khó làm khác, Bồ-tát vì hàng phục ngoại đạo nên đều có thể hiện tướng ác khổ đồng với ngoại đạo. Bồ-tát trải qua sáu năm khổ hạnh như vậy, nhưng chưa bao giờ hủy hoại một tướng oai nghi ấy, thị hiện tu hành đầy đủ cấm giới, tinh tấn trau dồi. Những việc mà Bồ-tát đã làm đều không thoái lui, kiên cố, tối thắng, tối thượng. Sáu năm như vậy hiện ra các tướng, ngoài ra không tin hiểu việc gì khác. Những người tu cấm giới ấy hoặc tu cấm giới khác thấy Bồ-tát tu hành cấm giới như vậy thảy đều hàng phục. Tịch Tuệ! Dù ở bất cứ nơi nào, Bồ-tát hoặc làm hoặc hiện đều trụ trong tâm xả, lìa các lỗi lầm. Lại nữa, này Tịch Tuệ! Khi Bồ-tát tu khổ hạnh như vậy, có sáu mươi bốn triệu trời, người ở trong tam thừa, căn lành thành thục. Tịch Tuệ nên biết! Có các hàng trời, người tin hiểu đầy đủ, làm các thiện nghiệp. Hàng trời, người ấy thấy Bồ-tát ngồi an tường trong tòa lầu gác báu, nhập định A-hàn-pha-na-ca, thọ lạc trong định. Trọn sáu năm rồi Bồ-tát xả định. Trong các hàng trời, người, có người mong muốn pháp, có người chí tâm cầu pháp. Vì muốn thành thục họ, Bồ-tát tùy theo đó mà nói pháp thích ứng. Các hàng trời, người này thấy Bồ-tát và nghe thuyết pháp đều không có sai khác với việc làm. Tịch Tuệ nên biết! Đấy gọi là pháp môn đại trí tích tập đại Bi phương tiện hiểu rõ pháp lý thậm thâm không thể nghó bàn hàng phục tất cả tà ma ngoại đạo, nhập khổ hạnh trí thanh tịnh của Bồ-tát. Lại nữa, này Tịch Tuệ! Trong sáu năm Bồ-tát thành tựu sự thích ứng như vậy, thị hiện những việc khó làm. Qua sáu năm rồi, Bồ-tát đến sông Ni-liên, tùy thuận theo thế gian xuống sông tắm rửa sạch sẽ, tắm rửa xong liền lên bờ. Lúc đó có một cô thôn nữ trong làng tên là Thiện Sinh, vắt sữa từ một trăm con bò nấu cháo, với lòng tin thanh tịnh bưng sữa đến chỗ của Bồ-tát dâng lên cúng dường. Đồng thời cũng có sáu mươi ức chúng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già… mỗi vị đều sửa soạn thức ăn ngon thượng diệu dâng lên Bồ-tát. Tất cả đều thưa như vầy: –Cúi xin Đại só nhận thức ăn của con! Tịch Tuệ! Lúc đó Bồ-tát trước hết nhận cháo sữa của cô thôn nữ Thiện Sinh, rồi mới nhận hết tất cả thức ăn của sáu mươi ức Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà v.v… cúng, nhưng họ không thấy nhau, nên mỗi vị đều cho rằng Bồ-tát nhận thức ăn cúng dường của mình. Bồ-tát nhận rồi, sẽ chứng quả vị Giác ngộ cao tột. Bồ-tát rộng vì bố thí cho các chúng sinh, thành thục pháp căn lành của quả vị Giác ngộ cao tột. Tịch Tuệ! đấy là khổ hạnh siêu xuất thù thắng của Bồ-tát, là hạnh phương tiện thù thắng mượn duyên thọ thực để đem lại sự thành tựu cho chúng sinh.  Phật nói kinh Đại thừa bí mật chẳng nghó bàn của Như Lai <卷 id="87624638">Quyển 10 <詞 id="87624639">Phẩm 12: Bồ-tát đến Bồ-đề tràng Khi ấy Bồ-tát tắm rửa xong, lại nhận thức ăn, thể lực được khỏe mạnh trở lại, liền đến đại Bồ-đề tràng. Đến nơi, Bồ-tát bảo Thiên tử Thiện Địa và các chúng Thiên tử Địa cư bằng kệ rằng: Mặc cho đại địa không lay động Bồ-tát lìa ái đoạn trừ hại Nay ngồi dưới cây chứng Bồ-đề Các ngươi hãy trang nghiêm đất ấy. Lành thay! Địa cư thiên hoan hỷ Khắp ba ngàn cõi đều thanh tịnh Tung rải hoa thơm đẹp tối thượng Rảy nước hương thơm đều trong lành Tất cả Kiên thủ và Trì man Từ trời Thường kiêu đến Không cư Hoan hỷ chiêm ngưỡng Đấng Bồ-tát Rải các hoa đẹp ra cúng dường Bốn trời Hộ thế và chúng hội Cho đến tất cả bốn đại châu Khắp ba ngàn cõi lưới vàng ròng Phủ lên cúng dường Bậc Tối Thắng Chúa Đế Thích trong ba ngàn cõi Cúng dường Bồ-tát đại oai đức Trang nghiêm như cung trời Quảng thắng Khắp ba ngàn cõi cũng như vậy Thiên chúng Dạ-ma đều vui thích Phủ lưới lưu ly để trang nghiêm Khắp ba ngàn cõi trân báu lạ Dâng lên cúng dường Bậc Trung Thiên Chúng trời Đâu-suất đều vui thích Trải lưới trân châu để trang nghiêm Ngọc châu anh giống hình bán nguyệt Lại rải trân châu xuống như mưa Vua trời Hóa lạc và Thiên chúng Vàng Diêm-phù-đàn làm lưới báu Lưới vàng, chuông báu phát tiếng hay Khắp ba ngàn cõi nghe đều vui Trong các cõi đó có diệu bảo Ánh sáng vô biên chiếu rạng ngời Trời Tha hóa tự tại trang nghiêm Cúng dường tất cả nghóa vô úy Lại có Rồng và Càn-thát-bà Ma-hầu-la-già và Tu-la Đều tự trang nghiêm cung điện mình Và cũng trang nghiêm nơi Dục giới. Lại nữa, này Tịch Tuệ! Lúc đó Đại phạm Thiên vương thấy Bồ-tát đến Bồ-đề tràng tối thắng rồi, liền bảo tất cả Phạm chúng Thiên tử: –Này các nhân giả! Các vị có biết việc này không? Nay Đại Bồ-tát phát đại thệ nguyện, mặc giáp trụ rộng lớn, không bao giờ rời bỏ, lại đối với giáp trụ vững chắc ý không thoái chuyển, khéo thành tựu các hạnh Bồ-tát, tu các Ba-la-mật-đa, vượt qua bờ bên kia, được tự tại trong tất cả địa của Bồ-tát và có thể thanh tịnh tất cả ý vui của Bồ-tát, lại khéo thông đạt mỗi loại căn tánh của tất cả chúng sinh, thâm nhập phần vị bí mật của tất cả Như Lai, đã thoát khỏi các nghiệp ma, với tất cả căn lành đều không bị hoại tín, được kiến lập từ oai thần của chư Phật, rộng chỉ bày con đường giải thoát chân chánh cho tất cả chúng sinh, là bậc Đạo sư phá gãy tất cả cảnh giới của tà ma ngoại đạo. Bồ-tát là Bậc Dũng mãnh trong tam thiên đại thiên thế giới, là Bậc đại Y vương tích tập pháp dược, phủ lụa giải thoát, là Đấng đại Pháp vương phóng ánh sáng tuệ lớn, dựng cờ pháp lớn, tám pháp thế gian không thể làm nhiễm, sinh từ hoa sen chân thật thanh tịnh, đối với tất cả pháp Tổng trì không bao giờ quên, đại hải phát sinh lìa các tăng giảm, không lay không động như núi Tu-di, diệu thiện vô cấu, diệu thiện thanh tịnh, tự tịnh diệu tuệ, phát sinh từ đại ma-ni báu, được vô ngại trong tất cả pháp, sinh từ Đại phạm, tâm nghiệp thư thái, Bồ-tát có đầy đủ công đức như vậy. Nay Bồ-tát đến Bồ-đề đạo tràng, sắp chứng quả vị Giác ngộ cao tột, hàng phục quân ma, vì để viên mãn mười Lực, bốn Vô sở úy, mười tám pháp bất cộng của Như Lai rộng vì tất cả chuyển đại pháp luân, rống lên tiếng rống sư tử, rộng bố thí pháp cho tất cả chúng sinh, khiến các chúng sinh được Pháp nhãn thanh tịnh, đem chánh pháp để nhiếp phục các dị luận của ngoại đạo, vì muốn viên mãn thệ nguyện thuở xưa, vì muốn thân gần chư Phật Thế Tôn, ở trong các pháp được giàu có tự tại. Này các nhân giả! Các vị nên phát tâm siêng năng dũng mãnh đến chỗ Bồ-tát thân gần cúng dường. Lúc đó Đại phạm Thiên vương với tâm thanh tịnh lại nói với tất cả Phạm chúng Thiên tử: –Này các nhân giả! Nay bậc Bồ-tát ấy đã ở trong trăm ngàn kiếp siêng tu cấm giới, là bậc Đại só thanh tịnh tối thượng, nay đến Bồ-đề tràng sắp thành Chánh giác, các vị nên trang nghiêm đẹp đẽ khắp tất cả tam thiên đại thiên thế giới. Đại phạm Thiên vương liền nói kệ rằng: Bồ-tát thanh tịnh giới quyết định Rộng làm lợi ích khắp trời, người Trời, người cúng dường Thiên Trung Thiên Đến Bồ-đề tràng đại tịch mặc Hàng phục tất cả chúng ma quân Nhất thiết trí, trí biết chân chánh Tất cả pháp Phật đều viên minh Chuyển chánh pháp luân làm lợi lạc Đại trí rống lên tiếng sư tử Tất cả chúng sinh nghe đều vui Do đó khiến khai Pháp nhãn tịnh. Nhân Trung Tôn đến cây Bồ-đề Dị luận ngoại đạo đều nhiếp phục Thệ nguyện thuở xưa đều tròn đầy Sự nghiệp Chánh giác hiện khiến thành Nhân Trung Tôn đến cây Bồ-đề Lành thay, hòa hợp đều chuyên chí Tất cả các nơi đều trang nghiêm Trong tam thiên đại thiên thế giới Thấy khắp cõi Dục đều trang nghiêm, Như việc trang nghiêm nơi Dục giới Sắc giới trang nghiêm cũng như vậy. Lành thay, Phạm chúng tâm thanh tịnh Trang nghiêm khắp cả ba ngàn cõi Dục giới đều hiện việc cúng dường Thượng giới cũng hiện các việc ấy Tung rải hoa thơm đẹp tối thượng Tất cả nhạc báu đều trổi lên Thiên chúng trong tam thiên thế giới Thấy nghe hân hoan đều kính lễ, Cho đến cõi trời Sắc cứu cánh Tất cả trang nghiêm nơi cõi mình Càng lên càng trang nghiêm tối thắng Rộng hiện trang nghiêm các cõi trời Thiên nữ sáu mươi trăm ngàn ức Dựng tòa Kim cang Bồ-đề tràng Nước hương thơm rải khắp tất cả Lại tung rải các loại hoa đẹp Xếp các thứ báu trang nghiêm đất Đại Bồ-đề tràng trông rất đẹp Không thể nói hết công đức ấy. Đây có vô lượng thứ trang nghiêm Bồ-tát quyết định siêng tu giới Thế gian thiện lợi đại oai đức Sắp đến ngồi dưới cây Bồ-đề Hàng phục quân ma các ác tuệ Tất cả hòa hợp hạnh Thánh giả Trang nghiêm khắp cả ba ngàn cõi Bậc Thầy trời, người pháp tự tại Cúng dường Ngài dược phước vô biên Phạm chúng nghe đến Bậc Tôn Sư Trang nghiêm đẹp lạ ba ngàn cõi Hoa đẹp, tràng báu dùng trang nghiêm Biến hóa thế giới đều thành báu Hóa ức bảo cái đẹp trên không Như ánh nhật nguyệt trông rất đẹp Các hoa Sa-la thật tối thượng Hóa hiện giống như vườn Hoan hỷ Đại tiên đi dạo vui vẻ bước Biến hóa trang nghiêm thành bảy xe Hoa sen vàng báu phủ lớp kín Vây quanh bảy vòng thành ranh giới Thiên chủ Đế Thích tạo trang nghiêm Trời, người hy hữu xưa chưa thấy Thù thắng như cung trời Đao-lợi Bốn đại châu trang nghiêm như vậy Dạ-ma, Đâu-suất, Hóa lạc thiên Tha hóa nghiêm đồng Sắc cứu cánh Dũng mãnh siêng năng đều vội vã Cùng trang nghiêm Bồ-đề tối thượng Trang nghiêm thù thắng như Dục giới Trời, Rồng các chúng cũng như trên Trong khoảnh Sát-na đều hóa hiện. Bồ-tát bước đi trong cảnh ấy Số trăm ức Thiên nữ bốn phương Đến cây Bồ-đề cùng vây quanh Hương xoa, hương bột, các hoa đẹp Nước hương thơm rảy khắp các nơi Cây Bồ-đề được trang nghiêm đẹp Như cây Viên xanh trời Đao-lợi Bất cứ nơi nào cũng trang nghiêm Công đức như vậy không kể hết Chư Thiên kia số trăm ngàn ức Mỗi mỗi đều trang nghiêm đẹp đẽ. Lại nữa, này Tịch Tuệ! Bồ-tát đã đến Bồ-đề tràng rồi, trong khi hạ hai chân có tướng thiên bức luân đặt xuống đất, tức thời có ánh sáng rộng lớn xuất hiện. Ánh sáng ấy chiếu tận khắp tất cả các cõi địa ngục, bàng sinh, ngạ quỷ. Những chúng sinh nhận được ánh sáng ấy chiếu đến nên các khổ đều tạm được ngưng nghỉ. Ánh sáng ấy chiếu soi đến tận trong cung của Long vương Ca-lê-ca. Khi ấy Long vương Ca-lê-ca thấy ánh sáng của Bồ-tát chiếu rồi tâm sinh hoan hỷ phấn khởi vui mừng, liền nói kệ với quyến thuộc trong cung và các Long chúng: Như tia sắc vàng thật sáng chói Rực rỡ chiếu khắp cung Rồng ta Ta mong ánh sáng chiếu đến thân Từ đó sinh tâm đại hoan hỷ. Như ta trước kia ở chỗ Phật Xưa kia từng thấy ánh sáng này Nay đây lại thấy quyết không nghi Bậc Đại Vô Úy sắp xuất thế. Các ngươi đều đem hoa hương đẹp Hương xoa, hương bột, các vòng hoa Vàng ròng cùng với ngọc ma-ni Lại thêm anh lạc và thượng phục, Cùng trổi các thứ âm nhạc hay Châu báu trang nghiêm các lọng phướn Và báu làm thành diệu cao tràng Dâng lên cúng Bậc Thiên Nhân Sư, Cung điện Long vương đẹp lạ thường Trang nghiêm lộng lẫy đều thanh tịnh Các ngươi nên sinh tâm hoan hỷ Vậy hãy cùng nhau đến chỗ Phật. Bấy giờ, Long vương Ca-lê-ca cùng với cung nhân quyến thuộc của mình và các Long chúng, đều đem theo các thứ hương hoa, y phục, tràng phan, bảo cái thượng diệu cùng với các thứ nhạc cụ, đánh thổi ca hát bay lên hư không, nước hương thơm rảy khắp như mây lại mưa xuống hoa và ngọc báu của rồng. Long vương đã dùng oai lực thần thông như vậy, hiện các việc biến hóa đến chỗ Bồ-tát. Đến nơi cùng các quyến thuộc đảnh lễ sát chân Bồ-tát, trổi lên âm nhạc vi diệu, chí thành cúng dường. Cúng dường xong, Long vương liền nhiễu quanh bên phải rồi đứng trước Bồ-tát nói kệ vi diệu tán thán: Bậc Nhân Trung Tôn phóng ánh quang Chiếu khắp tất cả các cõi Phật Sát-na ác thú khổ đều dừng Long chúng chúng con được chiếu sáng Long chúng được ánh quang chiếu soi Đều sinh hoan hỷ nói như vầy: Bồ-tát thành Phật quyết không nghi Nên ánh sáng vàng chiếu như vậy. Có trăm ngàn ức chúng Long nữ Cầm nắm hương hoa rất cung kính Và y phục đẹp, các tràng phan Đến chỗ Bồ-tát dâng hiến cúng Nay ở nơi đây hoa bảo cái Tất cả đẹp đẽ rộng trang nghiêm Lại có cỏ thuốc, các cây cối Đều cúi hướng đến cây Bồ-đề Sông ngòi ngừng chảy im phăng phắc Gió im lay động thảy an nhiên Hôm nay Bồ-tát chứng Bồ-đề Hàng ma tối thắng ở thế gian Ánh sáng của Phạm vương, Đế Thích Và nhật nguyệt đều bị che khuất Mong ánh sáng chiếu được thanh lương Vì Phật xuất thế đều hoan hỷ. Lại có các bình diệu cát tường Quay tròn uyển chuyển giữa hư không Tiên chúng, Long chúng ở không trung Quay tròn bên phải cũng như vậy Hoặc trời, hoặc người ở thế gian Tất cả chí thành dâng cúng dường Hôm nay Bồ-tát chứng Bồ-đề Vì người cầu tuệ mở chánh đạo. Hôm nay chúng con ở chỗ Phật Oai quang càng tăng được thiện lợi Con xưa cúng dường Câu-lưu-tôn Và Ca-nặc-ca Đại Thánh Chúa, Đức Ca-diếp Thế Tôn tối thượng Cho đến hôm nay cúng Thích-ca Mong cầu Bồ-đề đại thần thông Hy hữu tối thắng xưa chưa thấy, Là Bậc Tối Thượng đức đầy đủ Phát Đại phạm âm sư tử rống Vững cầu Bồ-đề tâm quyết định Tâm đó siêu xuất không gì hơn Nhật nguyệt có lúc còn rơi rớt Núi chúa Tu-di có thể phá Hôm nay không trọn mười tôn lực Thế gian không thể có việc ấy. Lại nữa, này Tịch Tuệ! Lúc đó vị Ái phi Thượng thủ của Long vương Ca-lê-ca tên là Kim Quang, cùng với các Long nữ cung kính vây quanh đem các bảo cái đẹp đẽ đặc biệt, các loại y áo đẹp và vòng hoa trời, các loại trân châu anh lạc trang nghiêm khéo léo, các loại châu báu ma-ni đẹp tối thượng và các bình hương thơm vi diệu, trổi lên những bài ca hay đi đến chỗ của Bồ-tát. Đến nơi lễ kính rải các hoa báu lên cúng dường xong, vị ấy đứng trước Bồ-tát nói kệ rằng: Tâm không động loạn không sợ hãi Không tham, không sân cũng không si Bậc Vô nhiễm điều phục khó điều Hay lìa các ác không đắm trước Nay con đảnh lễ tịnh giải thoát Đại Tiên hãy nhổ mũi tên nghi Phóng đại trí quang phá vô minh Độ các khổ não ở thế gian Thế gian lạc lõng không người cứu Bồ-tát làm chỗ nương cứu độ Ánh sáng chiếu khắp trong ba cõi Trời, người hoan hỷ tâm thanh tịnh Hư không mưa xuống các hoa đẹp Và tung diệu y rộng trang nghiêm Thắng tướng như vậy con đã biết Hôm nay Đại Tiên thành Chánh giác Bậc Tối Thắng đến cây Bồ-đề Ngài, Bậc Vô Nhiễm hàng quân ma Dứt trừ lưói hắc ám phiền não Chứng đại Bồ-đề tâm vắng lặng, Ngài đã trải qua trăm ức kiếp Mong cầu Bồ-đề Phật quá khứ Làm việc khó làm vì thế gian Hôm nay viên mãn ý thù thắng. Lại nữa, này Tịch Tuệ! Lúc Bồ-tát sắp thành Chánh giác, có các Hiền thánh dùng sức oai thần loan báo, tức thời có một người cắt cỏ tên là Cát Tường, tự nhiên đứng bên phải Bồ-tát lựa các cỏ sạch. Cỏ này mềm mại như lông cổ của Khổng tước, lại như y Ca-tả-lân-na, sắc hương đầy đủ, tất cả đều quay qua phía bên phải. Người cắt cỏ liền đem cỏ ấy đến trước và dâng lên cho Bồ-tát và phát thâm tâm tối thắng quả vị Giác ngộ cao tột. Lại nữa, này Tịch Tuệ! Khi ấy người cắt cỏ Cát tường nhờ nguyện vững chắc ở đời trước nên đã phát nguyện rằng: “Con nguyện ở trong hiền kiếp, nơi các Bồ-tát thành Chánh giác, tại Bồ-đề tràng đều trải cỏ sạch.” Tại sao vậy? Này Tịch Tuệ! Ta nhớ quá khứ chín mươi mốt kiếp trước, trong hiền kiếp này có Đức Phật ra đời hiệu là Tỳ-bà-thi Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự, Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Trong giáo pháp của Đức Phật ấy, có một ngàn chúng Đại Bồ-tát viên mãn, tu trì phạm hạnh. Lúc đó Đức Tỳ-bà-thi vì các Bồ-tát trong hiền kiếp mà thọ ký quả vị Giác ngộ cao tột. Có một vị trưởng giả tên là Cụ Tuệ, ở trong đại hội nghe Đức Thế Tôn thọ ký Bồ-đề cho các Bồ-tát rồi, liền phát tâm cầu quả vị Giác ngộ cao tột, lại phát thệ nguyện: “Con nguyện trong hiền kiếp này, ở ngay chỗ Bồ-đề tràng của chư Phật, con đều trải tòa Sư tử thù thắng vi diệu, hoặc là cúng cỏ sạch.” Tịch Tuệ nên biết! Chớ có nghi ngờ, Cụ Tuệ thuở đó đâu phải người nào lạ, chính là người cắt cỏ Cát Tường dâng cỏ sạch cho Bồ-tát Thích-ca lúc thành Chánh giác. Do nhân duyên đó, ông nay nên biết! Người cắt cỏ Cát Tường ấy, từ nguyện lực đời trước ở chỗ Phật, hoặc là cúng cỏ sạch hoặc trải tòa Sư tử đẹp, tùy theo trí lực tin hiểu của các chúng sinh mà thành thục các căn lành, việc ấy là như vậy. Lại nữa, này Tịch Tuệ! Khi Bồ-tát đã đến cây Bồ-đề, thần cây Bồ-đề ấy và mười ngàn Thiên nữ thảy đều cầm các hoa đẹp và hương xoa v.v… đến trước Bồ-tát rải các hoa hương đẹp ra cúng dường rồi đảnh lễ sát chân Bồ-tát đồng thanh nói kệ rằng: Quy mạng oai đức Đại Vô Úy Thiện Tịch khéo điều phá các ác Lìa lỗi dũng mãnh đại oai quang Bậc Đạo Sư thanh tịnh vô nhiễm Cứu người khổ não không nương tựa Chỉ có Thánh Tôn mới ban vui Trừ sạch bệnh phiền não thế gian Là Đại Y Vương trị liệu khắp Quy mạng Bậc Lừng danh thanh tịnh Trời hoan hỷ tung rải mưa hoa Nay quyết định chóng thành Bồ-đề Khởi tâm đại Bi nhiếp tất cả Đến cây Bồ-đề lên thắng tòa Xua tan bóng tối của quân ma Giác ngộ tịch tónh chứng Bồ-đề Cũng như Phật trước đã giác ngộ Trải qua ức kiếp tu thanh tịnh Làm việc khó làm lợi thế gian Ý vui Đại Tiên nay đã mãn Ngồi dưới Bồ-đề thành Chánh giác. Lại nữa, này Tịch Tuệ! Lúc đó Bồ-tát đem cỏ sạch đến Bồ-đề tràng tự trải lên tòa Kim cang. Sau đó mới hướng đến cây Bồ-đề chúa cung kính đảnh lễ, nhiễu bên phải bảy vòng. Sau khi Bồ-tát trải cỏ liền có tám vạn bốn ngàn Thiên tử đem tám vạn bốn ngàn tòa Sư tử trang nghiêm đẹp đẽ dâng lên Bồ-tát. Tòa ấy cao rộng trang nghiêm tráng lệ được trang sức bằng các báu, phủ lưới báu và lưới trân châu, lại rủ anh lạc đan chéo nhau, khéo léo bày biện vô số trăm ngàn y phục vi diệu tối thượng. Khi ấy Bồ-tát liền hiện thân, mỗi thân đều ngồi trên tám vạn bốn ngàn tòa Sư tử. Nhưng các Thiên tử không thấy việc đó cứ cho rằng Bồ-tát ngồi trên tòa Sư tử của mình cúng mà chứng quả vị Giác ngộ cao tột. Do vậy nên các Thiên tử đều sinh tâm hoan hỷ thanh tịnh, tất cả đều không còn thoái chuyển nơi đạo Giác ngộ.  Phật nói kinh Đại thừa bí mật chẳng nghó bàn của Như Lai <卷 id="87624640">Quyển 11 <詞 id="87624641">Phẩm 13: Hàng ma Lại nữa, này Tịch Tuệ! Bồ-tát ngồi trên tòa Sư tử nơi Bồ-đề tràng rồi, từ lông trắng giữa chặng mày phóng ra ánh sáng lớn chiếu khắp mọi nơi; ánh sáng này gọi là ánh sáng cảnh tỉnh các ma. Lúc ấy, trong tam thiên đại thiên thế giới có trăm ức ma chúng được tiếp xúc với ánh sáng đó, tất cả đều ở yên trong cung điện của mình, lông trên thân đều dựng đứng, lại tự ở trong cung tâm sinh bực nhọc. Ánh sáng ấy che mất làm cho cung ma trở nên tối tăm. Lúc đó các ma nghó như vầy: “Vì lý do gì mà cung điện của chúng ta đều trở nên tối tăm thế này? Chẳng lẽ Bồ-tát Thích-ca ngồi Bồ-đề tràng chứng quả vị Giác ngộ cao tột ư?” Sau khi suy nghó như vậy, chúng ma liền quán thấy Bồ-tát đang ngồi tại Bồ-đề tràng. Thấy vậy bọn chúng liền ẩn hết vào trong cung. Mỗi một thiên ma ấy đều có vô lượng, vô số trăm ngàn ức Dạ-xoa theo hầu hạ bảo vệ. Chúng có đủ mọi sắc tướng, đủ mọi diện mạo, đủ mọi thân thể chạy tới chạy lui bàng hoàng kinh sợ. Có loại nhiều đầu, nhiều mắt, có nhiều khí giới, nhiều cờ xí vây tròn lại với nhau, rống lên tiếng đại ác, kêu gào khóc lóc, dựa vào oai lực của ma mà khởi lên nghiệp thông của ma. Các ma thủ lãnh chiếm cứ ngang dọc rộng đến hai vạn do-tuần, quyến thuộc của chúng rộng đến tám vạn bốn ngàn do-tuần đều bị oai lực của Bồ-tát nhiếp hóa đồng đến cây Bồ-đề. Tịch Tuệ nên biết! Các chúng ma đến nơi, liền vận sức ma nghiệp hóa hiện các tướng mạo xấu ác, cất lên những tiếng không vừa ý, bạo ngược hung tàn, kêu gào chấn động ý muốn thâu phục, hủy hại Bồ-tát, Lúc đó có các chúng sinh chưa lìa tham trong hội nghe tiếng ác đó sinh ra kinh sợ mà chết, hoặc người chưa chết thì chịu nhiều khổ não. Nhưng nhờ oai lực của Bồ-tát, nên tiếng ác kia liền dứt. Bồ-tát liền khởi tâm đại Bi thương xót sự bức não ấy mà dập tắt tướng ác đó để không còn nhiễu hại tất cả chúng sinh nữa. Tịch Tuệ nên biết! Đây là cảnh giới tối thắng phương tiện thiện xảo của Bồ-tát. Tuy nghe các tiếng cực ác đó, nhưng Bồ-tát vẫn không sinh kinh sợ. Vì sao? Vì Bồ-tát đã nghe các tiếng hoặc tốt, hoặc xấu đều như tiếng vang. Lại nữa, này Tịch Tuệ! Các chúng ma kia hiện các tướng ác để nhiễu hại Bồ-tát, nhưng có các chúng Hiền thánh tu hạnh Bồ-đề bảo vệ đại Bồ-đề tràng, dùng mười sáu thứ ngôn từ hủy báng các ma: –Này các kẻ ác kia, hãy chấm dứt ngay, chớ có ngoan cố mà khởi lên tướng xấu ác làm hại Bồ-tát Đại só. Vì sao? Nay bọn ma các ngươi muốn phá hoại Bồ-tát, nhưng lực Bồ-tát tối đại tối thượng, có khả năng hại các ngươi. Như người sức yếu kém mà muốn đọ sức với người khoẻ mạnh. Lại nữa, bọn ma các ngươi muốn thắng Bồ-tát, nhưng sức Bồ-tát có khả năng thắng các ngươi. Như vậy chẳng khác nào như quân yếu hèn đi chống chọi với đại quân hùng dũng. Lại nữa, bọn ma các ngươi muốn thắng vượt Bồ-tát, nhưng sức của Bồ-tát có khả năng thắng vượt các ngươi. Cũng như ánh sáng của các ngôi sao mà so với ánh sáng của mặt trăng. Lại nữa, bọn ma các ngươi muốn phá Bồ-tát, nhưng sức của Bồ-tát có khả năng phá các ngươi. Cũng như cuồng phong thổi trấu lép. Lại nữa, bọn ma các ngươi muốn bẻ gãy Bồ-tát, nhưng sức của Bồ-tát có khả năng bẻ gãy các ngươi, cũng như cây lớn bị chặt hết rễ. Lại nữa, bọn ma các ngươi muốn khủng bố Bồ-tát, nhưng sức của Bồ-tát có khả năng khủng bố các ngươi, cũng như bầy thú gặp phải đại sư tử. Lại nữa, bọn ma các ngươi muốn làm cho Bồ-tát bị khô cằn, nhưng sức của Bồ-tát có khả năng làm cho các ngươi khô cằn, cũng như mặt trời chiếu làm khô cạn nước đọng trong lỗ chân bò. Lại nữa bọn ma các ngươi muốn làm tan hoại Bồ-tát, nhưng sức của Bồ-tát có khả năng làm tan hoại các ngươi, cũng như một nước nhỏ ở biên cương muốn đánh một nước lớn. Lại nữa, bọn ma các ngươi muốn dò xét Bồ-tát, nhưng sức của Bồ-tát có khả năng dò xét các ngươi, như ở chỗ người ác muốn thoát khỏi sự chết. Lại nữa, bọn ma các ngươi muốn làm loạn Bồ-tát, nhưng sức của Bồ-tát có khả năng làm loạn các ngươi, cũng như khách buôn cất giữ của cải trân báu bị lửa thiêu đốt. Lại nữa, bọn ma các ngươi muốn làm cho Bồ-tát sinh đại ưu não, nhưng sức của Bồ-tát có khả năng làm cho các ngươi bị ưu não, như vua làm phi pháp bị mất vương vị. Lại nữa, bọn ma các ngươi muốn khởi tâm nhuế ác với Bồ-tát, nhưng sức của Bồ-tát có khả năng ngăn chặn tâm nhuế ác của các ngươi, cũng như chim Nhạn già bị cắt đôi cánh. Lại nữa, bọn ma các ngươi muốn giết Bồ-tát, nhưng sức của Bồ-tát có khả năng chận đứng tâm sát hại của các ngươi, như người qua đồng hoang hiểm nạn mà hết tài vật. Lại nữa, bọn ma các ngươi muốn cho Bồ-tát bỏ chạy, nhưng sức của Bồ-tát có khả năng khiến cho các ngươi bỏ chạy kinh hồn, như người muốn bơi qua biển cả lại phá thuyền bè. Lại nữa, bọn ma các ngươi muốn cho Bồ-tát héo gầy, nhưng sức của Bồ-tát có khả năng khiến cho các ngươi đều bị héo gầy, như lửa dữ thiêu rụi cây cỏ. Lại nữa, bọn ma các ngươi muốn đoạn trừ Bồ-tát, nhưng sức Bồ-tát có khả năng đoạn trừ các ngươi, như đại Kim cang đập nát đá nhỏ. Tịch Tuệ! Các chúng Hiền thánh tu hạnh Bồ-đề bảo vệ Bồ-đề tràng kia, dùng mười sáu thứ ngôn từ như vậy để hủy báng ma chúng, khen ngợi Bồ-tát, nhưng bọn ma vẫn chưa chịu khuất phục. Khi ấy Bồ-tát liền dùng diệu hạnh tích tụ trăm ngàn ức triệu kiếp. Đó là các pháp bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, thắng tuệ, Từ, Bi, Hỷ Xả, Niệm xứ, Chánh cần, Thần túc, Căn, Lực, Giác đạo, Giải thoát… Công dụng của các pháp này cực thiện nhu nhuyến tốt đẹp. Bồ-tát đưa cánh tay phải sắc vàng rờ trên đảnh ma, làm cho toàn thân ma dứt sạch nóng nảy. Bồ-tát khởi tâm đại Bi nhìn một cách hiền từ, thâm tâm giải thoát tất cả chúng sinh. Chư Phật Thế Tôn trong tất cả thế giới hiện tiền đều tác chứng Chánh niệm Chánh tri. Bồ-tát liền rờ tay sát đất, lúc đó đại địa diễn ra sáu tướng chấn động(<註 n="2"/>1). Đó là động, biến động, đẳng biến động; chấn, biến chấn, đẳng biến chấn; hống, biến hống, đẳng biến hống; dũng, biến dũng, đẳng biến dũng; bộc biến bộc, đẳng biến bộc; kích, biến kích, đẳng biến kích. Hiện bên Đông, lặng bên Tây; hiện bên Tây, lặng bên Đông; hiện bên Nam, lặng bên Bắc; hiện bên Bắc, lặng bên Nam; hiện ở bên lặng ở giữa; hiện ở giữa lặng ở bên. Sáu tướng chấn động như vậy khởi lên mười tám điệu biến hóa, khắp cả đại địa đều bị lay chuyển, trong khoảng sát-na hiện các tướng kỳ dị. Lúc đó bọn ma bạo ngược hung tàn kêu gào chấn động. Những bọn muốn làm hại và những bọn gây tội nghiệp, thấy tướng như vậy rồi đều sinh kinh sợ. Lại nhờ sức oai thần của Bồ-tát nên chúng nghe trong hư không nói kệ rằng: Phải nên quy mạng Thánh Đại só Là Bậc Tối Thượng trong chư Thiên Rộng thí vô úy đại Từ bi Khả năng cứu hết các quần sinh. Lại nữa, này Tịch Tuệ! Các ác ma nghe tiếng ấy xong, trong chúng có tám trăm vạn ức triệu các ác Dạ-xoa nép sát xuống đất than: –Cứu khổ, cứu khổ! Xin Bồ-tát cứu con! Còn các chúng ma khác đều muốn bỏ chạy, tuy cố gắng hết sức, nhưng chúng không thể tiến đến trước được. Vì lòng thương xót, nên toàn thân Bồ-tát phóng ra ánh sáng. Do được tiếp xúc với ánh sáng ấy nên các ma đều hết sợ hãi, tất cả đều trở lại trong cung. Tịch Tuệ! Lúc Bồ-tát vì các chúng ma hiện thần thông, có đến tám trăm vạn ức triệu chúng Dạ-xoa ác đều phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ. Trong hội có đến chín trăm chín mươi vạn ức triệu người phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ, tám vạn bốn ngàn Thiên tử, nhờ thiện lực đời trước đều được Vô sinh pháp nhẫn.  <詞 id="87624642">Phẩm 14: Chuyển pháp luân (Phần 1) Lại nữa, này Tịch Tuệ! Hoặc có trời, người biết Bồ-tát hàng phục ma quân; hoặc có trời, người biết tất cả các chúng ác ma ấy, nhưng chưa từng đến chỗ của Bồ-tát; hoặc có trời, người vừa biết Bồ-tát trải cỏ Cát tường liền tựu đến tòa Bồ-đề; hoặc có trời, người thấy Bồ-tát Thích-ca ngồi trên tòa Sư tử được trang nghiêm bằng các hoa sen; hoặc có trời, người thấy Bồ-tát ngồi trên đất; hoặc thấy Bồ-tát ngồi an tường dưới gốc cây Bồ-đề; hoặc thấy Bồ-tát ở tại cây Ba-lợi-chất-đa-la; hoặc cây Câu-tỳ-đà-la, hoặc dưới cây Bồ-đề; hoặc thấy Bồ-tát dưới gốc cây Bồ-đề do các báu tạo thành; hoặc có trời, người thấy cây Bồ-đề cao bằng một cây Đa-la; hoặc có trời, người thấy tòa Sư tử cao bằng một cây Đa-la; hoặc có trời, người thấy cây Bồ-đề cao bằng bảy cây Đa-la; hoặc có trời, người thấy tòa Sư tử cao bằng nửa cây Đa-la; hoặc thấy cây Bồ-đề cao đến tám vạn bốn ngàn do-tuần; hoặc thấy tòa Sư tử cao bốn vạn hai ngàn do-tuần; hoặc có trời, người thấy Bồ-tát hàng phục quân ma; hoặc có trời, người thấy một quân ma; hoặc có trời, người thấy nhiều chúng ác ma; hoặc thấy Bồ-tát dùng thần thông du hý phá chúng quân ma; hoặc thấy Bồ-tát ở trong hư không; hoặc thấy Bồ-tát ngồi tòa Sư tử ở trên hư không; hoặc thấy Bồ-tát ngồi trên tòa báu dưới cây Bồ-đề chứng quả vị Giác ngộ cao tột. Tịch Tuệ nên biết! Bồ-tát thành tựu vô lượng các cảnh giới thanh tịnh tối thượng, đều là từ đại Bồ-đề tràng tối thượng tối thắng, đầy đủ vô lượng công đức và hiện các tướng thù thắng như vậy. Lại nữa, này Tịch Tuệ! Bồ-tát ngồi tại Bồ-đề tràng tối thắng tối thượng hàng phục ma quân rồi liền có các chúng Bồ-tát đồng tu phạm hạnh thuở trước trong mười phương a-tăng-kỳ thế giới, đều đến nơi đó nói lên tiếng thanh tịnh vô úy như: tiếng tốt đẹp, tiếng vui thích, tiếng hoan hỷ, tiếng tấn tốc, tiếng lanh lẹ, tiếng lành thay, tiếng bất không, tiếng dũng mãnh, tiếng só phu, tiếng không thoái chuyển, tiếng tăng ích, tiếng cát tường, tiếng không nhiệt não, tiếng đại Bi thương xót, tiếng ý vui đời trước, tiếng không rời bỏ công đức, tiếng vừa ý, tiếng hòa hợp kiên cố, tiếng Bồ-tát du hý, tiếng lợi ích thù thắng, tiếng sát-na tương ưng, tiếng trí Nhất thiết trí, tiếng thành Đẳng chánh giác. Khi các Bồ-tát ấy nói ra những tiếng thanh tịnh như vậy, mười phương thế giới đều đến hội họp. Trong Bồ-đề tràng tối thượng tối thắng, các chúng Bồ-tát lại dùng trăm ngàn ức lời hay đẹp để khích lệ, bày biện các món cúng dường thù thắng vi diệu và dùng những lời khen ngợi tối thắng. Lúc đó các chúng Bồ-tát từng tu thiện hạnh đời trước, cùng với các Đại Bồ-tát ở tại Bồ-đề tràng, từ mười phương thế giới đến hội họp, cùng nhau khích lệ, cúng dường, khen ngợi như thế. Bồ-tát Thích-ca tuy hàng quân ma, nhưng ở chỗ ma không trái không thuận. Vì sao? Vì Bồ-tát đã lìa pháp trái thuận. Tâm Bồ-tát trong một sát-na tương ưng với tuệ thù thắng. Hoặc có sở tri, hoặc có sở kiến, hoặc có sở đắc, hoặc có sở chứng, tất cả những thứ ấy Bồ-tát đều thành tựu. Lại nữa, này Tịch Tuệ! Như Lai thành đạo quả rồi, chư Phật Như Lai ở mười phương vô lượng a-tăng-kỳ thế giới đều duỗi cánh tay phải rờ thân Bồ-tát và an ủi, khích lệ: –Thân thể Bồ-tát không mệt mỏi chứ? Tu tập có an lạc không? Dùng Tự nhiên trí để chứng phải không? Chứng đắc mà tâm không chướng ngại mà chứ? Dùng Bình đẳng trí để chứng ư? Tu tập không trở ngại chứ? Mặc áo giáp đại Bi ư? Làm cho hạt giống Tam bảo không đoạn tuyệt chứ? Được tự tại trong tất cả pháp chứ? Tịch Tuệ nên biết! Lúc bấy giờ, những ai đã có căn lành thành thục rồi, thì có thể đến gần Bồ-đề tràng và biết những việc làm thù thắng. Còn những ai căn lành chưa thành thục, thì không thể thân cận cũng không thể biết gì. Lại nữa, này Tịch Tuệ! Như Lai thành đạo quả rồi, trong bảy ngày đêm trầm lặng tư duy rõ về pháp lạc chân thật, rồi lại ngắm mãi cây Bồ-đề mắt không nháy. Lúc đó có trăm ngàn Thiên tử chí thành cúng dường khen ngợi đảnh lễ. Lại có trăm ngàn Thiên nữ đều cung kính đảnh lễ xưng tán. Các Thiên nữ ấy chiêm ngưỡng oai nghi thù thắng của Như Lai rồi, thảy đều phát tâm hướng tới quả vị Giác ngộ. Lại nữa, này Tịch Tuệ! Sau khi Như Lai thành tựu đạo quả, có bốn đại Thiên vương đều đem bát báu đến hiến cúng cho Thế Tôn. Bốn Thiên vương đó là: Thiên vương Trì Quốc ở phương Đông, Thiên vương Tăng trưởng ở phương Nam, Thiên vương Quảng mục ở phương Tây, Thiên vương Tỳ-sa-môn ở phương Bắc. Bốn Thiên vương này ở bốn đại châu đã đến chỗ Phật. Các chỗ khác cũng lại như vậy, có trăm ức Tứ đại thiên vương ở trăm ức bốn đại châu, đều cầm bình bát báu, cùng đến chỗ Phật cúng dường. Lúc đó Như Lai nhận bốn trăm ức cái bình bát báu, rồi liền dùng thần lực hợp thành một cái bát. Mỗi mỗi Tứ thiên vương đều khởi tâm như vầy: “Đức Như Lai đã nhận bát cúng dường của ta, rồi đây sẽ lần lượt thọ thực trong bát ấy.” Mỗi vị đều sinh tâm hoan hỷ thanh tịnh tối thượng, không còn thoái chuyển với đạo Giác ngộ cao tột. Lại nữa, này Tịch Tuệ! Sau khi Như Lai thành đạo, có hai vị khách buôn, một vị tên là Đát-la-bố-sa, một vị tên là Phược-lê-ca và hơn sáu vạn Thiên tử đều đến chỗ Phật. Những vị ấy là những vị đầu tiên dâng thức ăn thanh tịnh lên Thế Tôn. Hai khách buôn và các Thiên tử ấy do đời trước vốn đã phát nguyện nên thưa: –Tôi nguyện dâng thức ăn thanh tịnh đầu tiên lên Thế Tôn. Cúi xin Thế Tôn nhận thức ăn cúng dường đầu tiên của tôi. Tất cả sinh tâm hoan hỷ và đều được không thoái chuyển với đạo Giác ngộ cao tột. Lại nữa, này Tịch Tuệ! Khi Bồ-tát mới bước lên đại Bồ-đề tràng tối thắng, lúc đó Nhất thiết trí chưa viên mãn. Nay thành đạo quả rồi trí giác tròn đầy, nhưng chưa chuyển pháp luân rộng lớn, vì lợi ích chúng sinh. Vì sao? Từ lúc mới phát tâm cho đến nay, Bồ-tát ngồi Bồ-đề tràng thành Chánh đẳng giác, chỉ vì muốn làm lợi ích cho chúng sinh. Tịch Tuệ! Vì lý do đó, cho nên ông nay nên biết! Các vị Bồ-tát sau khi thành Bồ-đề rồi, mỗi vị đều như vậy, đều vì vô lượng chúng sinh mà làm lợi ích. Lại nữa, này Tịch Tuệ! Như Lai thành đạo quả rồi, lúc đó có Phạm vương tên Thi-khí, cùng với sáu trăm tám mươi vạn Thiên tử cõi Phạm chúng đều cung kính vây quanh rời khỏi Phạm giới, đến trước đảnh lễ sát chân Phật, nhiễu bên phải bảy vòng, chắp tay chí thành khuyến thỉnh Thế Tôn chuyển diệu pháp luân, thưa như vầy: –Cúi xin Thế Tôn, cúi xin Đấng Thiện Thệ vì chúng sinh mà chuyển diệu pháp luân. Trong hội có những người có đủ pháp khí, có khả năng hiểu biết những lời Phật dạy. Đó là do Thiên vương Trì Quốc thuở xưa có phát nguyện thù thắng rằng: “Tôi nguyện trong hiền kiếp chư Phật Như Lai thành đạo rồi đều khuyến thỉnh chuyển diệu pháp luân.” Lại nữa, này Tịch Tuệ! Nay không phải chỉ có Phạm vương Thi-khí khuyến thỉnh Như Lai chuyển diệu pháp luân. Vì sao? Vì Phạm vương Thi-khí vừa thỉnh xong, lại có mười ức chúng Phạm vương, mười ức chúng trời Đế Thích, mười ức chúng Bồ-tát cũng đều khuyến thỉnh Như Lai chuyển diệu pháp luân. Lúc đó Phạm vương Thi-khí biết Phật Thế Tôn im lặng nhận thỉnh, liền đến vườn nai chư Tiên đọa xứ thuộc nước Ba-la-nại, vì Phật Thế Tôn mà trải tòa Sư tử đẹp đẽ, cao bốn vạn hai ngàn do-tuần trang nghiêm vi diệu đặc biệt, đầy đủ tướng thù thắng, ai cũng thích xem, đem đặt trên đất. Phạm vương Thi-khí vừa thiết tòa Sư tử đẹp xong, theo đó tức thời lại có mười ức chúng Phạm vương, mười ức chúng trời Đế Thích, mười ức chúng Đại Bồ-tát vì Thế Tôn mà thiết lập tòa Sư tử hết sức đẹp đẽ, trang nghiêm đặc biệt, đầy đủ tướng thù thắng, ai cũng thích xem.  Phật nói kinh Đại thừa bí mật chẳng nghó bàn của Như Lai <卷 id="87624643">Quyển 12 <詞 id="87624644">Phẩm 14: Chuyển pháp luân (Phần 2) Bấy giờ Thế Tôn liền đến vườn nai chư Tiên đọa xứ, thuộc nước Ba-la-nại. Đến nơi, Thế Tôn hóa hiện mỗi thân đều ngồi nơi tòa Sư tử. Lúc đó, Phạm vương, Đế Thích, các Đại Bồ-tát ai nấy cũng đều thấy Như Lai ngồi trên tòa của mình cúng; ngồi trên tòa ấy chuyển đại pháp luân. Thấy vậy, các chúng đều sinh tâm hoan hỷ thanh tịnh, không còn thoái chuyển với đạo Giác ngộ cao tột. Khi Đức Thế Tôn đã ngồi trên tòa Sư tử tối thượng, tức thời mười phương vô biên thế giới đều chấn động, có ánh sáng lớn chiếu sáng khắp nơi. Lúc đó Đức Thế Tôn liền nhập Vô biên cảnh giới Tam-ma-địa. Khi Thế Tôn vào Tam-ma-địa ấy rồi, lúc ấy tam thiên đại thiên thế giới, tất cả đại địa bằng phẳng như lòng bàn tay. Lại có tất cả chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới, hoặc địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, trời, người các nẻo, tất cả các loài chúng sinh đều được an lạc, không có một chúng sinh nào bị tham, sân, si và các phiền não nhiễu hại, cùng khởi tâm Từ, tưởng nhau như cha mẹ. Lại nữa, khi Thế Tôn nhập Vô biên cảnh giới Tam-ma-địa ấy, có vô lượng a-tăng-kỳ Bồ-tát ở mười phương đều tập hội đến lắng nghe chánh pháp. Khi ấy tất cả những hạng có đầy đủ oai lực tận trong tam thiên đại thiên thế giới như Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân, Phi nhân v.v… đều đến Phật hội lắng nghe chánh pháp. Tịch Tuệ nên biết! Lúc Thế Tôn sắp nói pháp, khắp nơi trong tam thiên đại thiên thế giới, tất cả chúng trời, người đều đến tập hội vây kín xung quanh, đến nỗi một đầu sợi lông xen cũng không lọt. Tất cả đại chúng như vậy đều vì muốn nghe Thế Tôn tuyên thuyết chánh pháp. Khi biết tất cả trời, người đại chúng đều đã tập hội, Đức Thế Tôn liền xả định phát khởi tâm đại Bi, nhìn khắp tất cả chúng hội với con mắt hiền từ thanh tịnh. Đức Thế Tôn chuyển chánh pháp luân, dù là Sa-môn, Bà-la-môn và tất cả hạng người khác cũng đều cùng một pháp. Lại nữa, này Tịch Tuệ! Đức Như Lai chuyển pháp luân là vì tất cả chúng sinh, vì khiến cho tâm ý họ được hoan hỷ và để cho tất cả chúng sinh trong chúng hội, mỗi vị đều biết rõ pháp mà Phật nói. Khi Phật Thế Tôn sắp chuyển pháp luân, trước đó có mười phương vô lượng a-tăng-kỳ Bồ-tát đều đến tập hội lắng nghe chánh pháp. Đồng thời cũng có trăm ngàn ức triệu Thiên tử Dục giới, Thiên tử Sắc giới cũng tập hội đến lắng nghe chánh pháp. Khi ấy Đức Thế Tôn nói như vầy: –Này các nhân giả! Mắt không phải là thường pháp. Vì sao? Vì nếu lấy Khổ để nói, thì người đáng được độ nghe nói mắt này là khổ? Nếu đem vô ngã để nói, thì người đáng được độ nghe nói mắt là vô ngã. Nếu đem không để nói, thì người đáng được độ nghe nói mắt này là không. Nếu đem tịch tónh để nói, thì người đáng được độ nghe nói mắt này là tịch tónh. Nếu đem xa lìa để nói, thì người đáng được độ nghe nói mắt này là pháp xa lìa. Nếu đem vô thường để nói, thì người đáng được độ nghe nói mắt này là vô thường. Nếu đem không y chỉ để nói, thì người đáng được độ nghe nói mắt là không y chỉ. Nếu đem như huyễn để nói, thì người đáng được độ nghe nói mắt là như huyễn. Nếu đem như mộng để nói, thì người đáng được độ nghe nói mắt là như mộng. Nếu đem như bóng trăng in nước mà nói, thì người đáng được độ nghe nói mắt như bóng trăng in nước. Nếu đem hình bóng để nói, thì người đáng được độ nghe nói mắt như hình bóng. Nếu đem như tiếng vang để nói, thì người đáng được độ nghe nói mắt như tiếng vang. Nếu đem Không, Vô tướng, Vô nguyện, vô tác, vô sinh, vô khởi… để nói, thì người đáng được độ nghe nói mắt là Không, Vô tướng, Vô nguyện, vô tác, vô sinh, vô khởi. Nếu đem duyên sinh để nói, thì người đáng được độ nghe nói mắt là duyên sinh. Nói về mắt đã như thế thì tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng lại như vậy. Cho đến đem duyên sinh để nói, thì người đáng được độ nghe nói ý là duyên sinh. Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp nghóa ấy cũng vậy. Hoặc nghe nói về không, hoặc nghe nói năm uẩn là vô thường hoặc nghe nói mười tám giới là vô thường, hoặc nghe nói mười hai xứ là vô thường, hoặc nghe nói Khổ, hoặc nghe nói Tập, hoặc nghe nói Diệt, hoặc nghe nói Đạo, hoặc nghe nói bốn Niệm xứ, hoặc nghe nói bốn Chánh đoạn, hoặc nghe nói bốn Thần túc, hoặc nghe nói năm Căn, hoặc nghe nói năm Lực, hoặc nghe nói bảy Giác chi, hoặc nghe nói tám Chánh đạo, hoặc nghe nói Xa-ma-tha, hoặc nghe nói Tỳ-bát-xá-na, hoặc nghe nói về pháp duyên sinh, hoặc nghe nói về pháp tương ưng Thanh văn, hoặc nghe nói về pháp tương ưng Duyên giác, hoặc nghe nói về pháp tương ưng Đại thừa. Lại nữa, này Tịch Tuệ! Như Lai chuyển pháp luân đều vì tất cả chúng sinh, vì khiến cho tâm ý họ được hoan hỷ nên chuyển pháp luân. Lại nữa, Như Lai chuyển pháp luân là làm lợi ích rộng rãi cho tất cả chúng sinh. Giả sử như có người trí tuệ ngang bằng với Xá-lợi Tử, ý muốn trù lượng để hiểu rõ được pháp này, dù có trải qua trăm kiếp cũng không thể hiểu nỗi, huống là những người khác. Tịch Tuệ nên biết! Đức Như Lai từ lúc mới phát tâm, đến Bồ-đề tràng hàng phục quân ma, dùng tiếng rống sư tử vang dội trang nghiêm thù thắng, dùng thần thông du hý để chuyển đại pháp luân. Lúc làm việc lợi ích thù thắng như vậy, có tám vạn bốn ngàn trời, người phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ, vô lượng chúng sinh được thành thục trong địa vị ba thừa.  <詞 id="87624645">Phẩm 15: Đối tượng duyên (Phần 1) Khi ấy Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ bạch Đức Phật: –Bạch Thế Tôn! Như pháp mà Thế Tôn đã nói, phải chăng con đối với lời dạy của Như Lai có trái nghịch? Hay là tùy thuận? Lời Như Lai nói thật vô cùng sâu xa rộng lớn, lời Như Lai nói thật vô cùng sâu xa, bí mật. Tất cả thế gian khó tin, khó hiểu thấu được tận nguồn gốc của nó. Bạch Thế Tôn! Tâm của các Như Lai là chân thật quyết định. Con đây hiểu biết được pháp thậm thâm mà Như Lai đã nói, đều là nhờ trí thù thắng của Như Lai ở trong thân con. Đó chẳng phải là con có sẵn lực dụng só phu. Phật bảo Bí mật chủ: –Đúng vậy, đúng vậy! Thật đúng như lời ông vừa nói! Vì sao? Nay ông nên biết! Các Đức Như Lai an lập, thí dụ, diễn nói các pháp, mà các chúng sinh đều có trí thù thắng của Như Lai trong thân. Vì sao? Này Bí mật chủ! Chúng sinh ở khắp nơi theo nghe pháp bí mật trong lời dạy của Như Lai, nếu các chúng sinh ấy không tiếp nhận sức gia trì của Như Lai, mà có thể tùy thuận pháp tánh của Như Lai, thì việc này không thể xảy ra. Lại nữa, các chúng sinh đối với pháp thậm thâm bí mật của Như Lai đã nói, hoặc nghe, hoặc nói, hoặc hiểu biết, đều là do sức gia trì của Như Lai. Lại nữa, này Bí mật chủ! Chánh ngữ của Như Lai khi diễn nói, nên biết là từ pháp tánh như thật, pháp tánh chân thường của Như Lai. Lại cũng từ sở hành như thật, sở hành chân thường Như Lai. Thế nên Như Lai dùng chánh ngữ để nói chánh pháp. Này Bí mật chủ! Chư Phật Thế Tôn trong quá khứ, vị lai, hiện tại vì tất cả thế gian khó tin, khó hiểu chánh pháp Chánh đẳng chánh giác như vậy nên tuyên nói, dẫn dắt, rộng vì họ khai thị. Chúng sinh ấy nếu đối với chánh pháp thậm thâm khó tin, khó hiểu như vậy mà nghe rồi có thể sinh ra tin hiểu. Nên biết các chúng sinh ấy, không phải đã theo hầu gần gũi với một Đức Phật, mười Đức Phật mà đã từng ở chỗ trăm ngàn ức triệu Đức Phật theo hầu gần gũi. Nên biết, người này là Bồ-tát siêng tu phước hạnh. Lại nữa, này Bí mật chủ! Giả sử khi núi chúa Tu-di bị sụp đổ thì làm sao có người hoặc dùng đỉnh đầu, vai mà mang vác. Nếu chúng sinh ấy không trồng căn lành mà có thể đối với chánh pháp thậm thâm như vậy khởi lên một niệm tin hiểu thanh tịnh, thì không có điều đó. Huống nữa là thọ trì đọc tụng, theo lời dạy tu hành. Lại nữa, này Bí mật chủ! Nếu có chúng sinh có thể đối với chánh pháp Đại thừa, nghe rồi tin hiểu. Nên biết người này không phải đã theo hầu gần gũi một Đức Phật mà đã từng theo hầu gần gũi nhiều Đức Phật, đã rộng tu các thắng hạnh, gieo trồng căn lành trong pháp Đại thừa. Khi ấy Đại Bồ-tát Tịch Tuệ đến trước Phật bạch rằng: –Bạch Thế Tôn! Như Phật Thế Tôn nói pháp Cận chỉ, nghóa ấy thế nào mà gọi là Cận chỉ? Pháp Cận chỉ này từ đâu mà đến? Đức Phật dạy: –Này thiện nam! Cận chỉ tức là chấm dứt ý tưởng phiền não. Chấm dứt phiền não tức là chấm dứt ý tưởng tư duy phân biệt biến kế. Chấm dứt tư duy phân biệt biến kế tức là chấm dứt ý tưởng tác ý. Chấm dứt tưởng tác ý tức là chấm dứt ý tưởng điên đảo. Chấm dứt điên đảo tức là chấm dứt nguyên nhân duyên theo đối tượng. Chấm dứt nguyên nhân duyên theo đối tượng tức là chấm dứt ý tưởng vô minh, hữu ái. Chấm dứt vô minh, hữu ái tức là chấm dứt ý tưởng ngã, ngã sở. Chấm dứt ngã, ngã sở tức là chấm dứt ý tưởng danh sắc. Chấm dứt danh sắc tức là chấm dứt ý tưởng đoạn, thường kiến. Chấm dứt đoạn, thường kiến tức là chấm dứt ý tưởng hữu thân kiến. Tịch Tuệ nên biết! Nếu tương ưng với kiến chấp về nguyên nhân duyên theo đối tượng, tức là các phiền não cũng tùy chuyển, tất cả đều từ nơi hữu thân kiến mà khởi. Nếu ai có khả năng chấm dứt hữu thân kiến, thì các kiến ấy chấm dứt. Nếu chấm dứt hữu thân kiến, thì tất cả nguyện cầu cũng chấm dứt. Nếu chấm dứt hữu thân kiến, thì các phiền não cũng dứt. Tịch Tuệ! Ví như cây lớn bị chặt hết rễ thì tất cả cành, nhánh, lá đều bị khô héo. Hữu thân kiến này cũng lại như vậy. Nếu đã đạt pháp Cận chỉ, thì các phiền não cũng chấm dứt. Tịch Tuệ nên biết! Bởi do ban đầu chúng sinh không hiểu rõ hữu thân kiến, cho nên các thứ phiền não cứ bám theo đó mà sinh. Nếu người nào có khả năng hiểu rõ hữu thân kiến, thì các thứ phiền não đeo bám không theo đó phát sinh và cũng không bị nó làm hại. Bồ-tát Tịch Tuệ bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Làm sao để hiểu rõ hữu thân kiến? Đức Phật đáp: –Này Tịch Tuệ! Nếu thấy ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả v.v… mà không khởi, thì mới có thể hiểu rõ hữu thân kiến. Lại nữa, này Tịch Tuệ! Hữu thân kiến không trụ bên trong, không trụ bên ngoài cũng không trụ bất cứ nơi nào. Do không trụ cho nên thấy không chỗ trụ. Tịch Tuệ! Trí vô trụ ấy hiểu rõ hữu thân kiến kia một cách như thật. Lại nữa, này Tịch Tuệ! Hữu thân kiến tức là ý tưởng không. Nếu người nào tùy thuận với không trí nhẫn, thì không bị chấp thủ kiến. Như vậy người này hiểu rõ hữu thân kiến một cách như thật. Lại nữa, hữu thân kiến tức là thấy vô tướng, vô nguyện, vô tác, vô sinh, vô khởi v.v… cái thấy này không bị chấp thủ. Đây tức là hiểu biết hữu thân kiến một cách như thật. Lại nữa, này Tịch Tuệ! Hữu thân kiến tức là không thân, chẳng phải khai, chẳng phải hợp, tất cả đều là phân biệt không thật. Do phân biệt không thật, cho nên không có phân biệt cũng không lìa phân biệt. Do không phân biệt, không lìa phân biệt cho nên không có đối tượng tạo tác, không chướng, không khởi. Do không khởi cho nên không có đối tượng để hành. Do không đối tượng hành cho nên mới gọi là Cận chỉ. Bồ-tát Tịch Tuệ thưa: –Sao gọi là Cận tịch? Đức Phật đáp: –Này Tịch Tuệ! Có đối tượng duyên theo thì tâm như lửa đốt; nếu không có đối tượng để duyên và đối tượng tạo tác thì không có thiêu đốt, không có pháp thiêu đốt thì gọi là Cận tịch. Khi lửa cháy dữ, lại thêm củi vào thì lửa càng bốc lên. Nếu không có củi thì lửa liền tắt. Lửa của tâm duyên theo đối tượng cháy cũng lại như vậy. Nếu không có tâm duyên theo đối tượng thì lửa tự tắt. Tịch Tuệ! Bồ-tát đầy đủ phương tiện khéo léo, đối với các pháp duyên vào Bát-nhã ba-la-mật-đa thanh tịnh, hiểu rõ pháp bình đẳng thù thắng không diệt mất duyên căn lành, ngăn chặn không để khởi lên duyên nhiễm pháp phiền não, luôn tinh tấn với pháp Ba-la-mật-đa thù thắng, vónh viễn đoạn diệt duyên nhiễm pháp ma nghiệp phiền não, không bao giờ rời bỏ pháp duyên theo Bồ-đề phần thanh tịnh, không chấp trước vào duyên ý lạc của Thanh văn, Duyên giác, không rời bỏ pháp đối tượng duyên với tâm Nhất thiết trí tối thượng, quán niệm, tư duy thật rõ ràng, sâu sắc về không có đối tượng duyên theo, mong muốn khởi phát duyên tâm đại Bi với tất cả chúng sinh. Tịch Tuệ nên biết! Bồ-tát đầy đủ phương tiện khéo léo, đối với các pháp duyên theo Bát-nhã ba-la-mật-đa thanh tịnh đều được tự tại; với đối tượng duyên không sinh khởi liền tư duy quyết định; với đối tượng duyên hòa hợp sinh khởi cũng không nhàm chán lìa bỏ; với đối tượng duyên không tạo tác mà lại thể nhập; với đối tượng duyên thực thi các căn lành đều khiến cho thông suốt; với đối tượng duyên không có tướng liền khéo tư duy chọn lấy; với đối tượng duyên theo tâm Bồ-đề thì vónh viễn không chán lìa; với đối tượng duyên vô nguyện liền dùng tuệ chân chánh quán sát; với đối tượng duyên theo ba cõi thì không sinh chán bỏ. Bồ-tát dùng trí tuệ phương tiện đối với tất cả các đối tượng duyên theo không sinh khởi kia đều tự tại chuyển hóa. Nếu thấy đối tượng duyên bất tịnh liền trụ vào thân tâm thanh tịnh của Như Lai. Nếu duyên với vô thường thì trụ vào tâm không mệt mỏi đối với sinh tử. Nếu duyên với khổ sở thì khiến tất cả chúng sinh trụ vào tâm bình đẳng khoái lạc Niết-bàn. Nếu duyên với vô ngã thì trụ vào tâm đại Bi đối với tất cả chúng sinh. Nếu duyên với tham, thì ở trong chúng sinh có tâm tham, trụ tâm, dùng thuốc hay thanh tịnh mà khai sáng. Nếu duyên với sân thì ở trong chúng sinh có tâm sân, trụ tâm dùng thuốc Từ để khai sáng. Nếu duyên với si thì ở trong chúng sinh có tâm si, trụ tâm, đem thuốc hay duyên sinh để khai sáng. Nếu duyên với đẳng phần, thì ở trong chúng sinh đẳng phần, trụ tâm dùng thuốc hay vô thường tưởng để khai sáng. Nếu duyên với tâm lìa tham thì trụ tâm trong pháp Thanh văn để khai hóa. Nếu duyên với tâm lìa sân thì trụ tâm trong pháp Duyên giác để khai hóa. Nếu duyên với tâm lìa si thì trụ tâm trong pháp Bồ-tát để khai hóa. Nếu duyên với sắc thì trụ tâm liền được sắc tướng tối thượng của Như Lai. Nếu duyên với thanh thì trụ tâm liền được âm thanh vi diệu của Như Lai. Nếu duyên với hương thì trụ tâm liền được giới hương thanh tịnh của Như Lai. Nếu duyên với vị thì tâm liền được tất cả vị tối thượng trong các vị tướng đại nhân thù thắng thanh tịnh của Như Lai. Nếu duyên với xúc, thì trụ tâm liền được tay chân mềm mại mịn màng của Như Lai. Nếu duyên với pháp thì trụ tâm quyết định được tất cả pháp của Như Lai. Nếu duyên với thí thì trụ vào tâm liền được tướng tối thượng của Như Lai. Nếu duyên với Giới thì trụ vào tâm đối với cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh. Nếu duyên với Nhẫn thì trụ tâm liền được Phạm âm thân tướng vàng ròng vi diệu thanh tịnh. Nếu duyên với Tinh tấn thì trụ vào tâm cứu độ tất cả chúng sinh. Nếu duyên với Định thì trụ vào tâm khởi lên thần thông diệu dụng. Nếu duyên với Tuệ thì trụ vào tâm đoạn tất cả phiền não các kiến chấp tương tục của chúng sinh. Nếu duyên với Từ thì trụ tâm khởi lên sự không chướng ngại đối với tất cả chúng sinh. Nếu duyên với Bi thì trụ tâm khởi lên sự hộ trì chánh pháp. Nếu duyên với Hỷ thì trụ tâm khởi lên hoan hỷ thuyết pháp. Nếu duyên với Xả thì trụ vào tâm lìa các sự trái thuận, thành tựu tất cả sự nghiệp của chúng sinh. Nếu duyên với bốn Nhiếp pháp thì trụ tâm khởi lên sự thành thục tất cả chúng sinh.  Phật nói kinh Đại thừa bí mật chẳng nghó bàn của Như Lai <卷 id="87624646">Quyển 13 <詞 id="87624647">Phẩm 15: đối tượng duyên (Phần 2) Lại nữa, này Tịch Tuệ! Nếu các Bồ-tát muốn đối trị với đối tượng duyên lỗi lầm keo kiệt thì khởi và trụ tâm xả hết tất cả sở hữu của chính mình. Nếu vì đối trị với đối tượng duyên lỗi lầm phá giới thì khởi và trụ tâm trì giới. Nếu vì đối trị với đối tượng duyên lỗi lầm sân nhuế thì khởi và trụ tâm nhẫn nhục kiên cố. Nếu vì đối trị với đối tượng duyên lỗi lầm biếng nhác thì khởi và trụ tâm tinh tấn thành tựu lực thù thắng của Như Lai. Nếu vì đối trị với đối tượng duyên lỗi lầm tán loạn thì khởi và trụ tâm để được thiền định của Như Lai. Nếu vì đối trị với đối tượng duyên lỗi lầm nhiễm tuệ thì khởi và trụ tâm vào viên mãn trí vô ngại. Nếu vì tác ý với đối tượng duyên của Thanh văn thì khởi và trụ tâm tích tập Đại thừa. Nếu vì đối tượng duyên nhàm chán thì khởi và trụ tâm không tạo các tội. Nếu vì đối tượng duyên ác thú thì khởi và trụ tâm, trong khoảng sát-na cứu độ các ác thú. Nếu vì tác ý với đối tượng duyên cõi trời thì khởi và trụ tâm, hoặc thành hoặc hoại hậu biên. Nếu vì tác ý với đối tượng duyên cõi người thì khởi và trụ tâm không kiên cố. Nếu vì tác ý với đối tượng duyên niệm Phật thì khởi và trụ tâm được chư Phật nhiếp thọ. Nếu vì tác ý với đối tượng duyên niệm Pháp thì khởi và trụ tâm không keo kiệt Pháp. Nếu vì tác ý với đối tượng duyên niệm Tăng thì khởi và trụ tâm được pháp luân không thoái chuyển. Nếu vì tác ý với đối tượng duyên niệm Xả thì khởi và trụ tâm xả hết tất cả. Nếu vì tác ý với đối tượng duyên niệm Giới thì khởi và trụ tâm cầu nguyện Định giác chi thù thắng viên mãn. Nếu vì tác ý với đối tượng duyên niệm Thiên thì khởi và trụ tâm vào trí tuệ gia trì của Phật mà chư Thiên khen ngợi. Nếu vì tác ý với đối tượng duyên là thân thì khởi và trụ tâm, liền được thân thanh tịnh của Phật. Nếu vì tác ý với đối tượng duyên là ngôn ngữ thì khởi và trụ tâm, liền được lời nói thanh tịnh của chư Phật. Nếu vì tác ý với đối tượng duyên là tâm thì khởi và trụ tâm, liền được tâm bình đẳng thanh tịnh của Phật. Nếu vì duyên theo pháp hữu vi thì khởi và trụ tâm viên mãn trí của Như Lai. Nếu vì duyên theo pháp vô vi thì khởi và trụ tâm viên mãn trí của Phật. Tịch Tuệ nên biết! Những pháp như vậy hoặc có sở duyên, nhưng các Bồ-tát không thể không trụ vào pháp môn hiện tiền trí Nhất thiết trí. Lại nữa, khi trụ trong tất cả đối tượng duyên, các Bồ-tát đều hồi hướng về đạo Bồ-đề. Đây gọi là phương tiện khéo léo, quán sát thông đạt hiểu biết tất cả pháp của Bồ-tát. Tịch Tuệ! Ví như tất cả đại địa trong tam thiên đại thiên thế giới sản sinh các loại, các loại ấy đều là vật thọ dụng của tất cả chúng sinh. Các Bồ-tát cũng lại như vậy, có tất cả cảnh sở duyên đều là phương tiện khéo léo. Bồ-tát cùng thọ dụng Bồ-đề đạo phần, không đâu không thành thục Bồ-đề đạo pháp. Lại như sắc pháp, tất cả đều do bốn đại tạo thành, Phương tiện khéo léo của Bồ-tát cũng lại như vậy, hoặc có đối tượng duyên đều là do tướng Bồ-đề thù thắng hòa hợp tương ưng. Lại nữa, này Tịch Tuệ! Nếu có chúng sinh keo kiệt làm việc ác, Bồ-tát liền vì chúng sinh ấy mà Bố thí ba-la-mật-đa, Trì giới ba-la-mật-đa một cách viên mãn. Nếu các chúng sinh khởi tâm sân nhuế, biếng nhác, Bồ-tát liền vì họ mà Nhẫn nhục ba-la-mật-đa, Tinh tấn ba-la-mật-đa một cách viên mãn. Nếu các chúng sinh khởi tâm tán loạn và ngu si, Bồ-tát liền vì chúng sinh ấy mà Thiền định ba-la-mật-đa, Tuệ thù thắng ba-la-mật-đa một cách viên mãn. Nếu các chúng sinh không có lòng thương xót, Bồ-tát đối với chúng sinh ấy không có tâm nghịch hại. Nếu các chúng sinh có tâm nhiêu ích, thì Bồ-tát đối với chúng sinh ấy không có tâm tùy thuận. Nếu các chúng sinh thường được khen ngợi, Bồ-tát đối với chúng sinh ấy không có cao tâm. Nếu các chúng sinh không được khen ngợi, Bồ-tát đối với chúng sinh ấy cũng không có tâm thấp. Nếu thấy tất cả chúng sinh khổ não, Bồ-tát liền khởi tâm đại Bi. Nếu thấy tất cả chúng sinh vui thích, Bồ-tát liền khởi tâm hoan hỷ. Nếu thấy tất cả chúng sinh thô lỗ hung ác, Bồ-tát liền khởi tâm điều phục. Nếu thấy tất cả chúng sinh điều thuận, Bồ-tát liền khởi tâm từ ái. Nếu thấy chúng sinh có đầy đủ duyên lực, Bồ-tát liền khởi tâm ủng hộ. Nếu thấy chúng sinh có đầy đủ nhân lực, Bồ-tát liền khởi tâm nhiếp hóa, nhiếp hóa rồi mới theo đó mà trao truyền. Nếu thấy chúng sinh có trí tuệ sáng suốt, Bồ-tát liền vì chúng sinh ấy mà tuyên nói pháp thậm thâm. Nếu thấy chúng sinh có đầy đủ trí diễn thuyết, Bồ-tát liền vì chúng sinh ấy mà nói pháp rộng lớn. Nếu thấy chúng sinh như lý, Bồ-tát liền vì chúng sinh ấy mà lần lượt nói pháp. Nếu thấy chúng sinh ham thích văn cú, Bồ-tát liền dùng văn cú nói pháp tóm lược cho họ. Nếu thấy chúng sinh thích dùng Xa-ma-tha để hướng dẫn Bồ-tát liền vì chúng sinh ấy mà nói Tỳ-bát-xá-na. Nếu thấy chúng sinh thích dùng Tỳ-bát-xá-na để hướng dẫn, Bồ-tát liền vì chúng sinh ấy mà nói pháp để thể nhập Tam-ma-địa. Nếu thấy chúng sinh thích trì giới, Bồ-tát trước vì chúng sinh ấy mà nói pháp không cứu cánh, sau lại nói các việc khổ ở địa ngục. Nếu thấy chúng sinh thích đa văn, Bồ-tát liền vì chúng sinh ấy mà nói pháp không nghi hoặc. Nếu thấy chúng sinh thích Tam-ma-địa, Bồ-tát liền vì chúng sinh ấy mà nói pháp thể nhập tuệ. Nếu thấy chúng sinh thích ở nơi đồng trống, Bồ-tát vì chúng sinh ấy mà nói pháp tịch tónh. Nếu thấy chúng sinh thích tu hạnh Đầu-đà, Bồ-tát liền vì chúng sinh ấy mà nói pháp căn Thánh tuệ. Nếu thấy chúng sinh độn căn, Bồ-tát liền vì chúng sinh ấy mà nói pháp Văn tùy thuận. Nếu thấy chúng sinh chấp chặt tham lam, Bồ-tát liền vì chúng sinh ấy mà nói pháp bất tịnh. Nếu thấy chúng sinh chấp chặt vào pháp sân, Bồ-tát liền vì chúng sinh ấy mà nói pháp Từ tâm. Nếu thấy chúng sinh chấp chặt vào pháp si, Bồ-tát liền vì chúng sinh ấy mà nói pháp Duyên sinh. Nếu thấy chúng sinh có tánh đẳng phần, Bồ-tát liền tùy theo từng tánh một mà rộng nói pháp, như là pháp Bất tịnh, pháp Từ tâm, pháp Duyên sinh. Nếu người đáng dùng các pháp tùy thuận để độ, Bồ-tát liền vì chúng sinh ấy mà nói pháp Giới tăng thượng, pháp Tâm tăng thượng, pháp Tuệ tăng thượng. Nếu thấy chúng sinh đáng dùng tướng thù thắng của Phật để hóa độ, Bồ-tát liền vì chúng sinh ấy mà nói pháp chân thật tùy thuận Bồ-đề phần. Nếu thấy chúng sinh khinh mạn đáng được hóa độ, trước hết Bồ-tát ngăn chặn tánh khinh mạn rồi sau mới nói pháp. Nếu thấy chúng sinh luôn thích quán Thánh tướng Bồ-tát, Bồ-tát liền vì chúng sinh ấy mà hiện thân, nếu chúng sinh ấy căn chưa thuần thục thì không nên nói pháp. Nếu thấy chúng sinh ham thích nói pháp đáng được hóa độ, Bồ-tát liền vì chúng sinh ấy mà dùng duyên khởi thí dụ giải thích nói pháp. Nếu thấy chúng sinh thích pháp thậm thâm đáng được hóa độ, Bồ-tát liền vì chúng sinh ấy mà nói pháp Duyên sinh, Vô ngã, Vô nhân, Vô chúng sinh. Nếu thấy chúng sinh chấp trước các kiến, Bồ-tát liền vì chúng sinh ấy mà nói pháp Không. Nếu thấy chúng sinh khởi tâm tìm cầu, Bồ-tát liền vì chúng sinh ấy mà nói pháp Vô tướng. Nếu thấy chúng sinh khởi lên cầu nguyện, Bồ-tát liền vì chúng sinh ấy nói pháp Vô nguyện. Nếu thấy chúng sinh chấp trước các uẩn, Bồ-tát liền vì chúng sinh ấy nói pháp như huyển. Nếu thấy chúng sinh chấp trước các cõi, Bồ-tát liền vì chúng sinh ấy mà nói pháp khéo lựa chọn. Nếu thấy chúng sinh chấp trước các cảnh giới, Bồ-tát liền vì chúng sinh ấy nói pháp như mộng. Nếu thấy chúng sinh đắm trước Dục giới, Bồ-tát liền vì chúng sinh ấy nói pháp phiền não bức bách. Nếu thấy chúng sinh đắm trước Sắc giới, Bồ-tát liền vì chúng sinh ấy nói pháp các hành là khổ. Nếu thấy chúng sinh đắm trước Vô sắc giới Bồ-tát liền vì chúng sinh ấy mà nói pháp các hành là vô thường. Nếu thấy chúng sinh đáng dùng pháp khổ để hóa độ, Bồ-tát liền vì chúng sinh ấy nói pháp, khiến chúng sinh tâm hoan hỷ đối với Thánh chủng. Nếu thấy chúng sinh đáng dùng pháp lạc để hóa độ, Bồ-tát liền vì chúng sinh ấy nói pháp thiền định vô lượng. Nếu thấy chúng sinh đáng dùng pháp lạc thiện thú để hóa độ, Bồ-tát liền vì chúng sinh ấy mà nói pháp lạc thuần nhất. Nếu thấy chúng sinh đắm trước các tướng đáng được hóa độ, Bồ-tát liền vì chúng sinh ấy mà nói pháp vô ngã, vô thủ. Nếu thấy chúng sinh ham thích pháp Thanh văn đáng được hóa độ, Bồ-tát liền vì chúng sinh ấy mà trao truyền pháp thủ chứng. Nếu thấy chúng sinh thích pháp Duyên giác đáng được hóa độ, Bồ-tát liền vì chúng sinh ấy tuyên nói pháp tóm lược sự nghóa. Nếu thấy chúng sinh thích Bồ-tát mới phát tâm đáng được hóa độ, Bồ-tát liền vì chúng sinh ấy mà nói pháp thâm tâm phát khởi đại Bi. Nếu thấy chúng sinh đáng dùng pháp đạo hạnh mà Bồ-tát đã tu tập từ lâu để hóa độ, Bồ-tát liền vì chúng sinh ấy ở trong luân hồi nói pháp không biết mệt mỏi. Nếu thấy chúng sinh đáng dùng pháp không thoái chuyển của Bồ-tát để hóa độ, Bồ-tát liền vì chúng sinh ấy nói pháp trang nghiêm cõi Phật thanh tịnh. Nếu thấy chúng sinh đáng dùng pháp Nhất sinh bổ xứ của Bồ-tát để hóa độ, Bồ-tát liền vì chúng sinh ấy nói pháp trang nghiêm đại Bồ-đề tràng. Nếu thấy chúng sinh đáng dùng thân Phật để hóa độ, Bồ-tát liền vì chúng sinh ấy nói pháp hạnh thù thắng bất không tương tục của Bồ-tát. Tịch Tuệ nên biết! Các pháp như vậy đều là pháp đầy đủ trí tuệ phương tiện của các Đại Bồ-tát, được tự tại trong các đối tượng duyên thanh tịnh, cho nên rộng nói pháp Bất không. Vì khiến tất cả chúng sinh hoan hỷ nên Bồ-tát nói pháp. Lúc nói pháp này, trong hội có mười ngàn người phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ, năm ngàn Bồ-tát được Vô sinh pháp nhẫn.  <詞 id="87624648">Phẩm 16: Thọ ký Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim cang Thủ (Phần 2) Lúc ấy, các Bồ-tát trong hội đều khởi ý nghó như vầy: “Còn bao lâu nữa Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ mới thành tựu quả vị Giác ngộ cao tột? Cõi Phật ấy tên là gì? Bồ-tát thành Phật hiệu là gì? Quyến thuộc viên mãn số ấy bao nhiêu?” Khi ấy Đức Thế Tôn biết tâm niệm của các Bồ-tát liền mỉm cười; pháp mà chư Phật mỉm cười nhất định là có nhân duyên. Lúc đó, từ mặt Thế Tôn phóng ra vô lượng tia sáng xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, tía, xanh biếc. Các tia sáng ấy chiếu khắp vô lượng, vô biên thế giới đến tận cả Phạm thế, rồi ánh sáng ấy xoay trở lại chỗ Phật vòng quanh ba vòng bên phải rồi nhập vào đảnh Phật. Lúc đó Đại Bồ-tát Tịch Tuệ ở trước Đức Phật chắp tay cung kính, dùng kệ vi diệu thỉnh hỏi: Như tia sắc vàng diệu vô cấu Mặt như vầng trăng, thể rạng ngời Ánh sáng nhật quang xua tăm tối Thế Tôn mỉm cười vì lý gì? Tư thế tịch định tướng hoa sen Rống tiếng đại Bi tăng tấn lực Niệm trí công đức, xông diệu hương Thiện Thệ liên hoa cớ sao cười? Niệm như đèn sáng, định như dầu Đốt đèn Từ bi phá tam cấu Ánh sáng diệu tuệ xua tối tăm Thiện Thệ trí sáng vì sao cười? Vầng sáng Từ bi, tuệ quán sát Dứt trừ tam cấu, diệt tối tăm Tịnh khai mắt trí lợi thế gian Phật nhật diệu quang cớ sao cười? Phật biết ý ba cõi thế gian Chiếu thấu tất cả tâm trời, người Mắt hiền Thế Tôn nhìn chúng sinh Nay đây duyên cớ Thế Tôn cười? Bồ-tát Tịch Tuệ nói kệ xong, Đức Thế Tôn liền bảo Đại Bồ-tát Tịch Tuệ: –Nay Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ này, vào hiền kiếp ở chỗ chư Phật Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác, cầm chày Kim cang, thường xuyên cúng dường đem tâm lợi ích giữ gìn chánh pháp. Nay ở trong giáo pháp bí mật của ta xiển dương rộng rãi. Vì vô lượng tất cả chúng sinh mà thành thục căn lành Bồ-đề tối thượng. Trong hiền kiếp này, cho đến cuối cùng ở trong pháp của Đức Như Lai Lâu-chí mà nhập diệt, rồi sinh qua thế giới Cực lạc trong cõi của Đức Như Lai A-súc, Đức Như Lai A-súc vì các Bồ-tát mà nói một trăm lẻ tám ấn bí mật. Lúc đó, Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ nghe pháp bí mật ấy rồi, không nhờ gia hạnh mà đã hiểu rõ nghóa thú, tùy thuận theo lý như thật tu hành. Về sau lại ở chỗ vô lượng, vô số các Đức Như Lai thân gần cung kính tôn trọng cúng dường. Bồ-tát Kim Cang Thủ ở chỗ mỗi Đức Phật ấy, đều tu phạm hạnh hộ trì chánh pháp, rộng vì trăm ngàn ức chúng sinh mà thành thục pháp Giác ngộ. Về sau quá hằng hà sa số kiếp, viên mãn Bồ-đề pháp phần, rồi mới thành Bậc Chánh Đẳng Chánh Giác, hiệu là Kim Cang Bộ Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn xuất hiện ở đời. Thế giới ấy tên là Phổ tịnh, kiếp tên Thanh diệu. Này Tịch Tuệ! Thế giới Phổ tịnh, cõi nước của Đức Như Lai Kim Cang Bộ, an ổn sung sướng, trang nghiêm thanh tịnh trong suốt đẹp mắt, trời, người đông đúc, Bồ-tát vô kể, đầy đủ bảy báu, trang nghiêm đẹp đẽ lạ thường. Các thứ bảy báu như vàng bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách và ngọc châu đỏ, bảy thứ báu này được cất chứa cao đến tám bước ở trong thế giới ấy. Đất đai bằng phẳng như lòng bàn tay, mềm mại như Ca-tả-lân-ni, ai cũng thích rờ vào. Dựng tràng phan vi diệu, dây báu đan chéo nhau, hoa báu trời vi diệu rơi xuống khắp nơi, các thứ hương thơm tinh diệu xông tỏa, trong hư không âm nhạc tự nhiên trổi lên, không có các đường ác và hiểm nạn, thọ dụng tối thắng như cõi trời Đâu-suất. Lại nữa, thế giới ấy, tùy theo ý muốn mà được đầy đủ cung điện, nhà cửa, vườn rừng, lầu gác, ăn uống, y phục và các thứ trang nghiêm khác, tất cả đều đầy đủ tùy ý sử dụng. Sự thọ dụng này cũng giống như trời, người không khác; các trời, người lòng tin rộng lớn, thâm hiểu trí Phật. Lại nữa, ở thế giới ấy không nghe đến danh tự của hàng Nhị thừa Thanh văn, Duyên giác. Đức Phật ấy nói pháp thuần nhất thanh tịnh của Đại Bồ-tát, Đức Như Lai Kim Cang Bộ có trăm ngàn Bồ-tát làm quyến thuộc. Người trong thế giới ấy không hoại luật nghi, thọ mạng không giảm, không phá giới hạnh, không mất chánh kiến, cũng không có các hạng người điên cuồng, câm điếc, què, lưng gù, xin ăn, hung ác, tranh đấu, các căn khuyết giảm…; tất cả đều trang nghiêm đầy đủ hai mươi tám tướng thù thắng của trời, người. Đức Phật ấy thọ đến tám trung kiếp, trong khoảng thế gian đó không có trời, người chết yểu. Tịch Tuệ nên biết! Các việc của Đức Như Lai Kim Cang Bộ là như vậy và còn có vô lượng công đức thù thắng khác. Đức Phật Thế Tôn ấy khi muốn nói pháp liền phóng ánh sáng. Các chúng sinh thấy được ánh sáng này, liền biết Như Lai tuyên nói diệu pháp. Nếu có chúng sinh khởi lên suy nghó muốn đến chỗ Phật để chiêm ngưỡng nghe pháp, liền nhờ vào sức thần thông trí lực gia trì của Đức Phật ấy mà liền đến chỗ Phật. Hoặc có chúng sinh tự dùng thần lực để đến chỗ Phật, tức thì đại chúng trời, người đều đến tập hội. Lúc đó Đức Thế Tôn ấy liền bay lên hư không cao bằng trăm ngàn cây Đa-la, tất cả bốn đại châu đều thấy thân tướng rộng lớn của Như Lai. Lại mười phương thế giới đều nghe tiếng thanh tịnh vi diệu của Như Lai phát ra, tất cả chúng sinh nghe đều vui thích. Lại nữa, khi Đức Như Lai ấy tuyên nói chánh pháp cho các Bồ-tát, không có một chúng sinh nào trái với pháp mà Đức Như Lai đã nói. Các chúng sinh ấy căn tánh đều lanh lẹ hiểu biết nhanh chóng. Lại thế giới ấy không có vua, chỉ có Phật Thế Tôn Kim Cang Bộ Như Lai là Pháp vương tối thượng, tất cả chúng sinh ở cõi ấy không chấp, không ngã. Lại nữa, này Tịch Tuệ! Đức Kim Cang Bộ Như Lai ở trong cõi trời, người đó, muốn đi khất thực, thì lúc đó hoặc trời, hoặc người liền thấy Thánh tượng Như Lai đứng ở trước ôm cầm bình bát. Các trời, người ấy thấy thánh tượng rồi, đều muốn dâng thức ăn thanh tịnh lên Như Lai và tùy theo ý muốn mà các dụng cụ để ngồi, nằm và thức ăn trăm vị… thảy đều trang nghiêm đầy đủ. Đức Phật ấy biết đúng thời mà nhận sự cúng dường. Đức Phật nhận cúng dường rồi, liền rời khỏi nhà trở về Tăng phòng của Như Lai. Các Bồ-tát cũng tùy sự thích ứng mà nhập Tam-ma-địa. Tịch Tuệ nên biết! Thế giới mà Đức Như Lai kia ở đầy đủ như vậy và còn có vô lượng công đức thù thắng khác nữa, cho nên gọi là thế giới Phổ tịnh.  Phật nói kinh Đại thừa bí mật chẳng nghó bàn của Như Lai <卷 id="87624649">Quyển 14 <詞 id="87624650">Phẩm 16: Thọ ký Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim cang Thủ (Phần 2) Khi Đức Thế Tôn thọ ký cho Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ, trong hội có hai vạn người phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ, tất cả đều nguyện sinh vào cõi của Đức Kim Cang Bộ Như Lai, thế giới Phổ tịnh. Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ nghe Phật thọ ký như vậy tâm sinh vui thích phấn khởi hoan hỷ, liền ném chày Kim cang, tam thiên đại thiên thế giới sáu cách chấn động, trời mưa các hoa âm nhạc trổi lên. Lại ở trong tất cả chúng hội, tay phải tự nhiên hiện ra các vòng hoa màu sắc tươi đẹp tối thượng. Khi ấy, Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ ở trước Phật chắp tay chí thành nói kệ rằng: Đấng Pháp Vương quảng bác Diệu pháp tạng vô tận Vì lợi ích thế gian Khéo phân biệt các pháp. Đã ở trong các pháp Xả trừ ý keo kiệt Tùy pháp, nương pháp tu Con quy mạng Thiện Trụ. Phật tịnh hóa Bồ-tát Hạnh thanh tịnh viên mãn Danh xưng Công Đức Vương Vang khắp cả ba cõi, Hay ở trong thế gian Thường trì trí vô tận Khéo tu hạnh bình đẳng Đảnh lễ không chướng ngại, Nguyệt quang thật viên tịnh Biến tịnh lại thanh tịnh Nhật quang thật sáng rỡ Diệu quang càng tụ sáng, Phạm âm cực diệu âm Tịnh âm tiếng thâm diệu Tam bảo vượt kim quang Nên nay con đảnh lễ. Thường hiện thân tịnh diệu Lìa nói năng phân biệt Tuy là Đại Pháp Sư Nhưng không sinh pháp tưởng, Giải thoát các chúng sinh Nhưng không chúng sinh tưởng Thế gian làm thế nào Để báo đại ân Phật? Trong công đức thắng lợi Chỉ xuất gia mới báo Khi nghe Phật trao truyền Nên chuyển vô úy pháp Tùy chỗ thọ pháp môn Chân tu hành như lý. Khi ấy, Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ và tất cả đại chúng trong hội, đều đem các vòng hoa đẹp rải lên Đức Phật. Nhờ oai thần của Phật nên khi rải vòng hoa, tức thời khắp tam thiên đại thiên thế giới, đều hiện các vòng hoa đẹp trang nghiêm, tất cả tích tụ đến tám bước chân.  <詞 id="87624651">Phẩm 17: không có hai, không ngôn thuyết Khi ấy Đại Bồ-tát Tịch Tuệ đến trước thưa với Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ: –Thưa Bí mật chủ! Thế Tôn Như Lai đã thọ ký cho nhân giả rồi ư? Kim Cang Thủ đáp: –Này thiện nam! Đức Phật thọ ký cho tôi, tự tánh cũng như mộng. Tịch Tuệ hỏi: –Nay Bồ-tát được thọ ký, vậy có sở đắc gì? Kim Cang Thủ đáp: –Vì không có sở đắc, cho nên tôi mới được thọ ký. Tịch Tuệ hỏi: –Không sở đắc pháp gì? Kim Cang Thủ đáp: –Ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả đều là không sở đắc; uẩn, xứ, giới cũng không sở đắc cho đến thiện, bất thiện; tội, không tội; hữu lậu, vô lậu; thế gian, xuất thế gian; hữu vi, vô vi; hoặc nhiễm; hoặc tịnh; sinh tử, Niết-bàn đều không sở đắc. Tịch Tuệ hỏi: –Nếu không sở đắc, thì tại sao trong đó lại có thọ ký? Kim Cang Thủ đáp: –Do không sở đắc, cho nên trong đó dùng trí thông đạt mà được thọ ký. Tịch Tuệ hỏi: –Trí nào có hai mà có thể quán? Kim Cang Thủ đáp: –Nếu như có thể quán có hai thể được thọ ký, nhưng vì trí ấy có thể quán có hai, cho nên các Bồ-tát ở trong trí không hai đó mà thọ ký như vậy. Tịch Tuệ hỏi: –Nếu trí không hai có thể quán, thì tại sao có chủ thể thọ ký và đối tượng được thọ ký? Kim Cang Thủ đáp: –Hoặc chủ thể thọ ký hoặc đối tượng được thọ ký mà dùng tánh bình đẳng ở trong vô nhị tế đều không có sở đắc. Tịch Tuệ hỏi: –Thưa Bí mật chủ! Ở trong vô nhị tế thì làm sao có thọ ký? Kim Cang Thủ đáp: –Nếu tế kia như vậy thì chính là vô nhị tế. Thế nên, ở trong tế ấy thọ ký như vậy. Tịch Tuệ hỏi: –Sao gọi là Tế? Lại đối với xứ nào mới được thọ ký? Kim Cang Thủ đáp: –Thọ ký ngã tế xứ, thọ ký chúng sinh tế xứ, thọ giả tế xứ, nhân tế xứ. Tịch Tuệ hỏi: –Ngã tế xứ ở tại đâu? Kim Cang Thủ đáp: –Tức là Như Lai giải thoát tế xứ. Tịch Tuệ hỏi: –Như Lai giải thoát tế xứ tại đâu? Kim Cang Thủ đáp: –Như Lai giải thoát tế xứ tại vô minh, hữu, ái tế xứ. Tịch Tuệ hỏi: –Vô minh, hữu, ái tế xứ tại đâu? Kim Cang Thủ đáp: –Tại rốt ráo, vô sinh, vô khởi tế xứ. Tịch Tuệ hỏi: –Rốt ráo, vô sinh, vô khởi tế xứ tại đâu? Kim Cang Thủ đáp: –Tại chỗ không biểu hiện. Tịch Tuệ hỏi: –Nếu không biểu hiện thì làm sao khai thị? Kim Cang Thủ đáp: –Nếu có khai thị tức chẳng phải là không biểu hiện. Tịch Tuệ hỏi: –Thế nào là không khai thị? Kim Cang Thủ đáp: –Nếu có biểu hiện, thì không khai thị. Tịch Tuệ hỏi: –Nếu không khai thị thì làm sao dạy dỗ? Kim Cang Thủ đáp: –Nếu có dạy dỗ tức là không khai thị, nếu không khai thị thì không dạy dỗ. Tịch Tuệ hỏi: –Làm sao được dạy dỗ? Kim Cang Thủ đáp: –Tuy là có biểu hiện, nhưng không có tiếp nhận. Tịch Tuệ hỏi: –Sao gọi có biểu hiện mà không có tiếp nhận? Kim Cang Thủ đáp: –Nếu không chấp trước vào văn tự, tức là không tiếp nhận. Tịch Tuệ hỏi: –Thế nào là không chấp trước văn tự? Kim Cang Thủ đáp: –Là nghóa tùy thuận. Tịch Tuệ hỏi: –Sao lại gọi là nghóa tùy thuận? Kim Cang Thủ đáp: –Đối với nghóa mà không có kiến chấp. Tịch Tuệ hỏi: –Tại sao đối với nghóa mà không kiến chấp? Kim Cang Thủ đáp: –Hoặc là nghóa, hay chẳng phải nghóa, nếu ở trong đó mà tìm cầu thì không thể được. Tịch Tuệ hỏi: –Nếu đối với nghóa, không phải nghóa tìm cầu thì không thể được, vậy thì tìm cầu ở đâu? Kim Cang Thủ đáp: –Do đối với nghóa, chẳng phải nghóa tìm cầu không thể được, cho nên không có pháp để tìm cầu. Tịch Tuệ hỏi: –Nếu không có pháp để tìm cầu, như vậy đối với tất cả đều không tìm cầu sao? Kim Cang Thủ đáp: –Trong đó không có một pháp nhỏ nào để có thể tìm cầu. Vì sao? Vì không có pháp để tìm cầu, cho nên pháp tức là không pháp. Tịch Tuệ hỏi: –Vậy trong đó, cái nào gọi là pháp? Kim Cang Thủ đáp: –Tiếng gọi là pháp còn không thể được, thì làm gì có pháp. Này thiện nam! Phải nên biết như vậy. Nếu nói pháp là đối với văn tự, không trước không hành. Thế nên nói tất cả pháp là không có nói năng. Này thiện nam! Nếu có người nói và lời được nói ra, thì đó không phải là nói. Do không nói cho nên không có pháp cũng không phải như lý. Tịch Tuệ thưa: –Thưa Bí mật chủ! Nếu như vậy thì lời nói pháp của Như Lai cũng không phải là nói ư? Kim Cang Thủ đáp: –Này Tịch Tuệ! Ông không nghe trước ta đã vì ông mà nói rằng Thế Tôn Như Lai không nói một chữ đó sao? Do không nói cho nên Như Lai mới dùng thần thông nguyện lực tùy theo ý của các chúng sinh mà có nói ra. Tịch Tuệ hỏi: –Nếu có nói ra thì bị lỗi lầm gì? Kim Cang Thủ đáp: –Nếu có nói ra, thì mắc lỗi lầm về ngữ nghiệp. Tịch Tuệ hỏi: –Ngữ nghiệp ấy mắc lỗi lầm gì? Kim Cang Thủ đáp: –Mắc lỗi lầm về chấp trước văn tự tư duy. Tịch Tuệ hỏi: –Vậy thì làm thế nào để lìa lỗi lầm này? Kim Cang Thủ đáp: –Trong tất cả pháp, hoặc có nói ra, hoặc không có nói ra đều không có một pháp nhỏ nào mà có thể biểu hiện rõ. Do không biểu hiện cho nên lìa được lỗi lầm. Lại nữa, đối với bản thân mình mà không có khai thị cũng là lìa lỗi lầm. Tịch Tuệ hỏi: –Căn bản của lỗi lầm ấy là gì? Kim Cang Thủ đáp: –Lỗi lầm ấy thủ là căn bản. Tịch Tuệ hỏi: –Thủ chấp lấy gì làm căn bản? Kim Cang Thủ đáp: –Lấy chấp trước làm căn bản. Tịch Tuệ hỏi: –Chấp trước lấy gì làm căn bản? Kim Cang Thủ đáp: –Lấy phân biệt hư vọng làm căn bản. Tịch Tuệ hỏi: –Phân biệt hư vọng lấy gì làm căn bản? Kim Cang Thủ đáp: –Tăng thượng sở duyên kiến làm căn bản. Tịch Tuệ hỏi: –Tăng thượng sở duyên kiến lấy gì làm căn bản? Kim Cang Thủ đáp: –Lấy sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp làm căn bản của tăng thượng sở duyên. Tịch Tuệ hỏi: –Thế nào là không sở duyên? Kim Cang Thủ đáp: –Ái không liên tục tức là không sở duyên. Tịch Tuệ nên biết! Như Đức Phật đã nói, trong tất cả pháp, nếu đoạn ái tức là không sở duyên. Lúc Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ nói pháp này, trong hội có năm trăm Tỳ-kheo tâm được giải thoát, hai trăm Bồ-tát được Vô sinh pháp nhẫn.  <詞 id="87624652">Phẩm 18: Vào thành lớn khoáng dã thọ thực (Phần 1) Lúc đó Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ được thọ ký mãn nguyện rồi, tâm được an ủi sinh đại hoan hỷ, vui thích phấn khởi đến trước Phật bạch rằng: –Bạch Thế Tôn! Nay con ân cần thỉnh Thế Tôn đến nghỉ tại cung Bí mật của con, con xin cúng dường bảy ngày và cung thỉnh Bồ-tát, Thanh văn, đại chúng, ngưỡng mong Phật Từ Bi thương xót nhận thỉnh. Vì sao? Thưa Thế Tôn! Vì trong thành lớn Khoáng dã có rất nhiều Dạ-xoa, La-sát, Cưu-bàn-trà, Tất-xá-tả, Càn-thát-bà, Ma-hầu-la-già… cùng các loài chúng sinh khác đều ở trong đó, để cho chúng được thấy Thế Tôn, từ đó được lợi ích an lạc nhiều kiếp, dứt trừ tâm hung ác tàn bạo. Lại cũng khiến cho Tứ đại Thiên vương và các quyến thuộc được lợi ích an ổn trong nhiều kiếp. Nếu Thế Tôn thương xót con, thì đến cung của con; Bồ-tát, Thanh văn tùy ý thọ cúng. Nhờ công đức đó khiến cho vô lượng chúng sinh tăng trưởng căn lành, lại khiến chúng con viên mãn ý nguyện. Sau khi Bồ-tát Kim Cang Thủ thưa thỉnh, Đức Thế Tôn im lặng nhận lời. Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ biết Phật im lặng nhận lời, tâm sinh hoan hỷ phấn khởi vui vẻ, liền đảnh lễ sát chân Phật, nhiễu bên phải bảy vòng, rồi vội rời khỏi chúng hội, trở về thành lớn Khoáng dã nơi ngài đang ở. Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ về cung mình rồi, liền suy nghó: “Ta nay cúng dường như thế nào? Y theo cảnh giới trang nghiêm nào để trang nghiêm, khiến cho các Thiên tử cõi trời Dục giới, Sắc giới khởi tâm hy hữu, lại khiến các Đại Bồ-tát trong mười phương thế giới đến tập hội đều sinh tâm hoan hỷ. Lúc đó, ta sẽ cúng dường rộng lớn lên Thế Tôn.” Nghó như vậy rồi, Kim Cang Thủ tự nhớ lại: “Vào một thuở xa xưa, đêm đó, Đức Phật nhập Tam-ma-địa, định ấy gọi là Tịch tónh chẳng nghó bàn sở hành quảng đại. Ta cũng theo Phật nhập vào định đó. Về phương Đông, cách thế giới này quá hằng hà sa số cõi Phật, có một thế giới tên là Vô biên công đức bảo trang nghiêm, cõi ấy có Đức Phật hiệu là Trang Nghiêm Vương. Hóa chủ Thế Tôn ở cõi Phật ấy thọ ký Bồ-đề cho mười ngàn Bồ-tát. Lúc đó ta thấy cõi Phật ấy thật là chẳng thể nghó bàn, trời, người trang nghiêm, thù thắng hơn tất cả việc trang nghiêm vi diệu. Vậy nay, ta nên theo cách thức trang nghiêm ở cõi Vô biên công đức bảo trang nghiêm mà trang nghiêm, để cúng dường lên Thế Tôn.” Khi ấy, Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ liền nhập vào chánh định Đại trang nghiêm vương. Ở trong chánh định quán sát như thật, thấy ở thế giới Vô biên công đức bảo trang nghiêm kia đầy đủ các thứ vi diệu đặc biệt. Theo như sự quán biết đó, liền vận thần lực, ở trong thành lớn Khoáng dã này xếp đặt trang nghiêm không khác gì thế giới kia. Thế giới Vô biên công đức bảo trang nghiêm kia, Đông, Tây, Nam, Bắc, ngang dọc bằng phẳng sáu mươi bốn do-tuần, lấy lưu ly xanh làm đất, đế thanh đại bảo làm tường, rủ hoa châu anh lạc, trang nghiêm các thứ báu, vàng Diêm-phù-đàn làm hoa sen, cành lá bằng các báu, các thứ báu anh lạc xen lộn trải ra. Lại có vô số y báu cõi trời, có vô số châu anh trang sức, lại có vô số gấm lụa đẹp đẽ lạ thường, dùng vô số vòng hoa báu đẹp vi diệu rủ xuống, hương đốt, hương xoa các bình quý báu cũng vô số. Ai nấy nhìn thấy, ý sinh vui vẻ cho là lạ thường, hoặc thân hoặc tâm hoan hỷ khoái thích. Xuất hiện vô số báu công đức, lại hiện vô số sắc tướng trang nghiêm, lại có trăm ngàn tòa Sư tử trang nghiêm tuyệt đẹp, gối báu gát chân, võng báu chéo nhau, trang nghiêm hoa báu, rủ lưới chân châu, cất chứa giáp vòng cao đến tám bước. Lại trải ra vô số thiên y, trên hư không lại có lưới báu rủ che. Các thứ trang nghiêm vi diệu như vậy, ở trong các thế giới lớn khác xưa nay chưa từng thấy và cũng chưa từng nghe. Lại sửa soạn thức ăn trăm vị thanh khiết thượng diệu. Lại sắp xếp trăm ngàn tòa Sư tử, trang nghiêm đẹp đẽ đặt trên không trung. Mỗi mỗi tòa Sư tử trên không tự nhiên có các bảo cái đẹp rủ che, trang nghiêm đẹp đẽ lạ thường đầy đủ các tướng. Bấy giờ Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ ở trong định xếp đặt các tướng thù thắng tuyệt diệu như vậy, bày tòa Sư tử trang nghiêm xong. Sau khi xả định thì trời vừa sáng, sửa soạn thức ăn thanh khiết rồi, thân tâm thanh tịnh chuẩn bị cúng dường Thế Tôn Như Lai và Bồ-tát, đại chúng.  Phật nói kinh Đại thừa bí mật chẳng nghó bàn của Như Lai <卷 id="87624653">Quyển 15 <詞 id="87624654">Phẩm 18: Vào thành lớn khoáng dã thọ thực (Phần 2) Lúc đó, đã quá đêm, Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ bảo Tứ đại Thiên vương: –Này các nhân giả! Các vị nên biết, nay ta thỉnh Phật và Đại Bồ-tát, các chúng Thanh văn đến cung Bí mật của ta để cúng dường bảy ngày. Đức Thế Tôn vì thương xót ta nên đã nhận lời. Các vị đều có thần lực, có nhiều quyến thuộc, trong bảy ngày đêm chớ sinh buông lung, tâm chớ khởi loạn, cũng nên nghó mọi việc, chuyên nhất tinh cần cúng dường Đức Phật. Cho đến tất cả Dạ-xoa, La-sát, Tất-lệ-đa, Cưu-bàn-trà, Tất-xá-tả, Càn-thát-bà, Ma-hầu-la-già… cùng các loài chúng sinh khác ở trong thành lớn Khoáng dã này, đem lời của ta mà nói với họ: “Các chúng nên biết! Bồ-tát Kim Cang Thủ thỉnh Phật Thế Tôn đến thành lớn Khoáng dã này cúng dường bảy ngày. Vậy các chúng nên nhiếp các nhuế ác, phát tâm thanh tịnh, khởi ý hoan hỷ rộng lớn, trang nghiêm cúng dường Đức Thế Tôn, lắng nghe chánh pháp.” Khi ấy Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ bảo người con trưởng Kim Cang Quân: –Này Hiền giả! Nay ông hãy tự dùng thần lực đến Phạm giới, từ Phạm chúng thiên đến Sắc cứu cánh thiên, đến các chư Thiên ấy bảo rằng: “Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ thỉnh Phật Thế Tôn đến cung Bí mật trong thành lớn Khoáng dã cúng dường bảy ngày. Chư Thiên các vị muốn được thấy Phật, thì nên đến đây.” Kim Cang Quân người con trưởng của Bí mật chủ, vâng lệnh cha và làm y như lời dạy. Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ lại bảo người con thứ Diệu Tý: –Này Hiền giả! Nay ông hãy tự dùng thần lực đến Địa cư thiên, rồi đến Không cư thiên, Đâu-suất thiên, Hóa lạc thiên, Tha hóa tự tại thiên, đến những nơi ấy bảo: “Nay Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ thỉnh Phật Thế Tôn đến cung Bí mật trong thành lớn Khoáng dã cúng dường bảy ngày. Chư Thiên các vị! Ai muốn thấy Phật, thì hãy mau đến đấy.” Thứ tử Diệu Tý theo lời cha và làm y như lời dạy. Lúc đó, chỉ trong khoảng sát-na có vô số trăm ngàn Thiên tử ở Dục giới, Thiên tử ở Sắc giới, đông đảo đến trăm ngàn do-tuần, đầy chật cả hư không. Lúc đó đã qua đêm, Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ, liền vì Thế Tôn mà xếp đặt ngọa cụ trang nghiêm xong, gối phải quỳ sát đất chắp tay chí thành hướng về Thế Tôn nói kệ vi diệu khuyến thỉnh: Lành thay, Nhân Trung Tôn tối thắng! Lành thay, nhân Trung Tôn Thượng Só! Thế Tôn thù thắng xin giáng lâm Khi Phật Đại Mâu-ni đã đến. Lành thay, Lưỡng Túc Tôn tối thắng! Lành thay, Lưỡng Túc Tôn tối thượng! Lưỡng Túc Tối Thắng xin giáng lâm Khi Phật Đại Mâu-ni đã đến. Phật, Đại Liên Hoa tịnh giới sinh Nước định tinh tấn thường tăng trưởng Như ong tìm hoa đều trở về Tịch Tónh Liên Hoa nguyện giáng lâm. Trước tiên an lập bốn Thánh đế Mắt hiền Từ bi quán sát khắp Thường hay rống lên tiếng vô ngã Phật, Đại Sư Tử nguyện giáng lâm Giới là gốc rễ, niệm là cành Giác chi hoa đẹp thường tươi tốt Giải thoát trí quả thật tròn đầy Phật, Đại Thọ vương nguyện giáng lâm. Diệu tuệ thậm thâm thêm rộng lớn Nước định vắng lặng càng mát mẻ Các hạnh tỏa sáng Đại Đạo Sư Phật, công đức hải nguyện giáng lâm. Thành tựu đại Bi lễ cát tường Đại tuệ sáng suốt trang nghiêm khắp Hoa sen khai giác chúng đều về Phật, Nhật Quang Minh nguyện giáng lâm. Chánh ngữ chấn phục các tà luận Cây thuốc giải thoát cứu bệnh nặng Bầy nai tiểu căn đều khai sáng Phật, Đại Sơn Vương nguyện giáng lâm. Lúc đó Đức Thế Tôn nhận lời cầu thỉnh chí thành ân cần của Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ, biết giờ đã đến liền bảo chúng Tỳ-kheo: –Các vị hãy đắp y cầm bát đến chỗ của Kim Cang Thủ. Vị ấy đã thỉnh, xin cúng dường bảy ngày. Nay đã đến giờ, chúng Tăng cùng đến, nên nhờ người coi giữ Tăng phòng. Nay trong chúng này, các vị nào đã được thần thông, Bồ-tát, Thanh văn mỗi mỗi đều tự dùng thần lực bay lên hư không mà đi, còn các vị nào chưa đủ thần lực thì nên nương vào ánh sáng tròn đầy thanh tịnh của Như Lai bay lên không mà đi. Nói rồi, Đức Thế Tôn liền ẩn thân không hiện rời khỏi núi Thứu phong, thành Vương xá. Bồ-tát, Thanh văn cung kính vây quanh, phóng ánh sáng lớn chiếu khắp nơi. Các thiện nam, thiện nữ kẻ trước người sau ca vịnh tán thán và trổi lên trăm ngàn ức âm nhạc chấn động đại địa, trời mưa xuống đủ loại hoa báu đẹp lạ thường, ở trong cõi ấy hiện ra các đại oai lực của Phật: Tướng đại thần thông của Phật tướng đại thi tác của Phật, tướng đại biến hóa của Phật, tướng đại cát tường của Phật, tướng đại thắng quang của Phật, tướng đại oai nghi của Phật, đại du hý của Phật v.v… tự tại bay trong hư không, đến thành lớn Khoáng dã. Đức Thế Tôn bay giữa hư không cũng như con ngỗng chúa, đến đi an tường bay đi tự tại. Các chúng Thiên tử ở Dục giới, Sắc giới, từ xa thấy Thế Tôn bay cao lên hư không cũng như con ngỗng chúa uyển chuyển tự tại, đều sinh hoan hỷ khoái thích vui mừng. Lại như mặt trời mới mọc trong sáng đáng yêu, như trăng tròn trịa rạng ngời vô tận, các sao vây quanh, như chúa trời Đế Thích được thiên chúng vây quanh, như Đại Phạm vương được Phạm chúng quay quanh, Thiên chúng thấy rồi khởi tâm thanh tịnh hy hữu, tất cả đều cầm đủ loại hương hoa cúng dường Đức Phật như: hoa Ưu-bát-la, hoa Câu-mẩu-đà, hoa Bôn-noa-lợi-ca, hoa Mạn-đà-la, hoa Ma-ha mạn-đà-la, hoa Ba-lợi-chất-đa-la, hoa Ma-ha ba-lợi-chất-đa-la, hoa Mạn-thù-sa, hoa Ma-ha mạn-thù-sa, hoa Khả ái, hoa Đại khả ái, hoa Luân đại luân, hoa Lục sinh chư và các loại hương hoa thù thắng vi diệu khác. Các loại hoa này đều có trăm cánh hoặc ngàn cánh cùng với hoa Diệm quang, hoa Quang vị, hoa Biến hương, hoa Thường hương, hoa Thường khai, hoa Duyệt mục. Các loại hoa này và vô lượng hương hoa thù thắng vi diệu khác, rải khắp lên Đức Phật, rồi lại dựng tràng phan vi diệu đặc biệt, trổi lên trăm ngàn khúc nhạc lạ thường. Khi ấy Đức Thế Tôn hiện ra các tướng thù diệu, hương hoa, tràng phan, trổi các âm nhạc, các việc trang nghiêm như vậy, trong khoảnh khắc đã đến thành lớn Khoáng dã. Nhưng trước đó Đức Phật và đại chúng Bồ-tát, Thanh văn từ trên hư không hạ xuống cung của Tỳ-sa-môn Thiên vương. Lúc ấy khắp đại địa chấn động, nhưng rất nhu nhuyến, khả ái lạ thường và cũng không nhiễu não tất cả chúng sinh. Bấy giờ Tứ đại Thiên vương biết Đức Phật Thế Tôn đã đến thành Khoáng dã, đều từ chỗ mình trấn giữ, cùng các quyến thuộc đem đủ loại hương hoa vi diệu lạ thường đi đến chỗ Phật. Đến nơi, họ đảnh lễ sát chân Phật và rải các loại hương hoa vi diệu đang mang theo để cúng dường Đức Phật rồi chắp tay chí thành lui lại đứng sang một bên, các quyến thuộc cũng chí thành đảnh lễ sát chân Phật rồi đứng chắp tay. Đức Phật liền vì Tứ đại Thiên vương, quyến thuộc và cả chúng hội tuyên nói pháp yếu. Khi ấy có mười ngàn Dạ-xoa, La-sát, Rồng, Càn-thát-bà, Cưu-bàn-trà v.v… trong hội thấy tướng thù thắng của Phật liền phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ. Trong số cung tần, quyến thuộc của Tứ đại Thiên vương, có mười ngàn thiên nữ phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ. Lúc đó Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ cùng quyến thuộc của mình, theo như thế giới Vô biên công đức trang nghiêm, đem các loại hương hoa, hương xoa, hương bột, tràng phan, bảo cái đẹp đẽ lạ thường, trổi lên các khúc nhạc, vội đến chỗ Phật nơi cung điện của Tỳ-sa-môn Thiên vương. Đến nơi, họ đảnh lễ sát chân Phật, nhiễu phải bảy vòng rồi dùng các hương hoa nghiêm khiết chí thành cúng dường lên Thế Tôn. Các quyến thuộc tấu lên âm nhạc vi diệu, nghiêm trang tề chỉnh, quy mạng đảnh lễ nghênh đón Thế Tôn và đại chúng Bồ-tát, Thanh văn về nơi cung mình. Các vị đến nơi, theo thứ tự an tọa. Đức Thế Tôn ngồi trên tòa Sư tử được trang nghiêm bằng các thứ rất đẹp. Các Bồ-tát, Thanh văn, đại chúng cũng đều ngồi vào tòa. Khi đó Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ nói với Đế Thích, Phạm vương, Hộ thế v.v… và tất cả Thiên tử khác: –Các vị hãy siêng năng, tùy hỷ cúng dường Đức Thế Tôn một cách trang nghiêm, trọn vẹn, để được tăng trưởng phước cúng dường. Lúc ấy các Thiên tử thấy cảnh giới tối thắng và tòa Sư tử được trang nghiêm thù diệu rồi, sinh tâm hy hữu đều nói như vầy: –Tướng thù thắng được như vậy là từ thần lực nào? Là sức oai thần của Thế Tôn ư? Là sức oai thần của Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ ư? Ngay lúc đó, tất cả đều nghe tiếng trên hư không nói: –Các nhân giả! Các tướng thù thắng này đều là sức oai thần của Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ làm ra. Về phương Đông, cách thế giới này quá hằng hà sa số cõi Phật, có một thế giới tên là Vô biên công đức bảo trang nghiêm, Đức Phật hiệu là Trang Nghiêm Vương. Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ thấy được sự trang nghiêm thù diệu ở thế giới ấy, nên đã dùng thần lực trang nghiêm cung điện của mình thù thắng giống với thế giới kia. Đức Thế Tôn ngồi trên tòa Sư tử thù thắng rồi. Lúc đó tất cả Dạ-xoa, La-sát, Tất-xá-tả, Cưu-bàn-trà, Càn-thát-bà, Ma-hầu-la-già v.v… ở trong thành lớn Khoáng dã đều đến chỗ Phật Thế Tôn, đảnh lễ sát chân Phật chắp tay cung kính, lui đứng sang một bên. Lúc đó Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ bảo Tứ đại Thiên vương và tất cả chúng hội: –Các vị đến giúp ta, đồng phát tâm chí thành đem thức ăn trang nghiêm thanh tịnh dâng cúng Thế Tôn, nhờ đó mà khiến cho các vị được lợi ích lớn. Nói rồi, Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ cùng chúng hội quyến thuộc tự tay sạch sẽ thanh tịnh sửa soạn thức ăn trăm vị tối thượng. Bồ-tát với thâm tâm thanh tịnh, phát tâm tối thắng cúng dường Thế Tôn và các Bồ-tát, Thanh văn, đại chúng đều được no đủ. Khi Đức Thế Tôn cùng đại chúng thọ thực xong thì dâng nước hương thơm lên để Phật và đại chúng rửa tay, xong rồi lui ngồi một bên ở trước Phật để nghe pháp. Lúc đó, tất cả Dạ-xoa, La-sát, Tất-xá-tả v.v… ở thành lớn Khoáng dã, mỗi vị đều chí thành chiêm ngưỡng Thế Tôn, chắp tay cung kính quy mạng đảnh lễ.  Phật nói kinh Đại thừa bí mật chẳng nghó bàn của Như Lai <卷 id="87624655">Quyển 16 <詞 id="87624656">Phẩm 19: Hộ Thế (Phần 1) Bấy giờ Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ khuyến thỉnh Thế Tôn tuyên nói chánh pháp: –Cúi xin Thế Tôn vì các chúng sinh chưa phát tâm Bồ-đề, tùy nghi nói pháp, khiến cho họ nhập vào pháp lý, phát khởi tâm đại Bồ-đề an trụ không thoái chuyển. Lại còn làm cho Dạ-xoa, La-sát, Tất-xá-tả, Càn-thát-bà, Ẩn mật thần, Ma-hầu-la-già… các chúng hội này khiến cho chúng được tương ưng với các hạnh lành, lợi ích an lạc lâu dài và được tối thượng cao hiển trong tối thắng mà không giảm mất các thiện pháp. Khi ấy Thế Tôn bảo Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ và các chúng hội: –Này các nhân giả! Các vị hãy lắng nghe tác ý cực thiện. Nay ta tuyên nói khiến cho tất cả đều nhập vào pháp lý, tu các thiện hạnh lành. Này các thiện nam, thiện nữ, khiến hết tất cả đều được cao hiển tối thắng, đối với thiện pháp không bị hoại mất. Lúc đó Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ… và chúng hội đều nhất tâm lắng nghe. Đức Phật bảo đại chúng: –Này các nhân giả! Nếu thiện nam, thiện nữ nào phát thâm tâm hướng đến quả vị Giác ngộ rồi, mà có lòng tin thanh tịnh, muốn thấy chư Phật, ưa nghe chánh pháp, xả bỏ xan lận, tay buông tất cả, tích tụ lạc thiện, chuyên làm phước hạnh, xả tâm đầy đủ, trong việc bố thí lạc hạnh bình đẳng, tâm không chướng ngại, tâm không nhiễm ô, tin có nghiệp báo, lìa các phân biệt nghi hoặc do dự, nghiệp của thiện ác không có hoại mất. Biết được như vậy rồi, đối với mạng duyên những gì không nên làm thì không làm, không sát sinh, không trộm cắp, không tà nhiễm, không nói dối, không thêu dệt, không hai lưỡi, không nói lời ác, không tham, không sân, không tà kiến. Đối với mười nghiệp thiện này, phải chứa nhóm giữ gìn chắc chắn; còn đối với mười điều bất thiện nghiệp phải gấp xả bỏ không làm, rộng tu phạm hạnh, lòng tin thanh tịnh, cùng với Sa-môn, Bà-la-môn và những vị có giới, có đức đồng tu phạm hạnh trong pháp chánh đạo. Đối với các thiện pháp phải nghe nhiều, siêng năng hành trì, tác ý kiên cố, tương ưng với thiện hạnh, vắng lặng điều phục, luôn nói với lời từ ái, nhiếp phục các tà luận ngoại đạo, tu thiện lìa ác, không cao không thấp, không khen không chê, khởi lên chánh niệm trụ tâm vào định, đóng cửa ba cõi, diệt trừ các bệnh, lìa các gánh nặng, vượt khỏi nghi hoặc, siêu xuất các cõi. Người biết được như vậy mới là Thiện tri thức ở chỗ chư Phật và đệ tử Thanh văn, Sa-môn, Bà-la-môn, tùy theo sự thích ứng mà thân gần cung kính thừa sự tôn thờ. Những người ấy ở chỗ Thiện tri thức lắng nghe chánh pháp, chỉ bày được lợi ích vui vẻ. Những lời dạy ấy như là nói về bố thí sẽ được quả giàu có, trì giới thì sinh Thiên, đa văn đại trí tuệ, tịnh quán thì không loạn. Thực hành bố thí được quả báo bố thí, tâm bỏn sẻn thì mắc quả báo keo kiệt, trì giới thì được quả báo trì giới, hủy giới thì chịu quả báo hủy giới, nhẫn nhục thì được quả báo nhẫn nhục, sân nhuế thì chịu quả báo sân nhuế, tinh tấn thì được quả báo tinh tấn, biếng nhác phải chịu quả báo biếng nhác, thiền định được quả báo thiền định, tán loạn chịu quả báo tán loạn, tuệ thù thắng thì được quả báo tuệ thù thắng, ác tuệ phải chịu quả báo ác tuệ, thân làm thiện thì được quả báo thiện, thân làm ác thì mắc quả báo cõi ác, nói điều thiện thì quả báo thiện, nói ác thì được quả báo ác, ý nghó thiện thì được quả báo thiện, ý nghó ác thì được quả báo ác. Đây là thiện, đây là bất thiện; việc này nên làm, việc này không nên làm. Tạo nghiệp này rồi thì sẽ được lợi ích an lạc tương ưng thiện hạnh trong nhiều kiếp, tạo nghiệp này rồi phải chịu khổ não không có lợi ích, không tương ưng với thiện hạnh trong nhiều kiếp. Những pháp như vậy, ở chỗ Thiện tri thức nghe được những lời dạy ấy được lợi ích vui vẻ. Lại nữa, quán sát biết pháp khí này, tức là tuyên nói pháp thậm thâm, pháp đó là Không, Vô tướng, Vô nguyện, gia hạnh. Lại nói pháp vô sinh, vô khởi, vô ngã, vô nhân, vô chúng sinh, vô thọ giả, duyên khởi thậm thâm. Pháp này có thì pháp kia có, pháp này không nên pháp kia không. Pháp này có tức là sinh, pháp này không tức là diệt. Đấy là vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục xứ, lục xứ duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sinh, sinh duyên lão tử, ưu bi khổ não. Như vậy khối đại khổ uẩn sinh. Nếu pháp này không thì pháp kia không. Đó là pháp diệt. Nghóa là vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì lục xứ diệt, lục xứ diệt thì xúc diệt, xúc diệt thì thọ diệt, thọ diệt thì ái diệt, ái diệt thì thủ diệt; thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sinh diệt, sinh diệt thì lão tử, ưu bi khổ não diệt. Như vậy khối đại khổ uẩn diệt. Các pháp này hoặc sinh hoặc diệt, trong thắng nghóa đế không có một pháp nhỏ nào có thể được. Vì sao? Vì tất cả pháp đều là duyên sinh không có chủ tể, không có người tạo tác. Người thọ nhận do nhân duyên đó cho nên chuyển, nhưng trong đó không có pháp nào có thể chuyển, cũng không phải không chuyển, cũng không có pháp nào khác. Tùy chuyển, hòa hợp, ba cõi, chỉ do nghiệp phiền não chuyển, cho nên có thi thiết. Người ngu mê đối với pháp không thật mà quán cho là thật. Người trí nên biết không có một pháp nhỏ nào có tác giả, có thể nắm bắt. Do tác giả không thể nắm bắt, cho nên không có pháp có thể chuyển, cũng không phải không chuyển. Đã nói pháp thậm thâm như vậy, nếu ai nghe rồi mà không sinh nghi hoặc, thì người ấy nhập vào tất cả pháp tánh không chướng ngại, không chấp vào sắc, thọ, tưởng, hành, thức; không chấp vào nhãn-sắc, nhó-thanh, tỷ-hương, thiệt-vị, thân-xúc, ý-pháp. Nhãn thức cho đến ý thức tin rằng tự tánh của tất cả pháp vốn là không, tự tánh của tất cả pháp vốn là lìa. Này các nhân giả! Chúng sinh ấy tin Bồ-tát không thoái chuyển, vì tin pháp này, cho nên không có giảm mất. Thấy Phật, nghe Pháp, thừa sự Chúng thanh tịnh, dù sinh ra nơi nào cũng thường được thấy Phật, lắng nghe Chánh pháp, thừa sự Chúng thanh tịnh. Tùy nơi đã sinh ra đó phát khởi tinh tấn, siêng cầu thiện pháp. Vì tinh tấn cho nên đối với hàng bạch y không có việc nghóa lợi. Đó là vợ, con trai, con gái, nô tỳ, quyến thuộc và những thứ cần dùng thảy đều xả bỏ; đối với việc thanh niên vui chơi thỏa thích không sinh ái trước, mà lại khởi tâm hiền thiện, nguyện ở trong giáo pháp thanh tịnh của chư Phật Thế Tôn chánh tín xuất gia. Được xuất gia rồi luôn gần bậc Thiện tri thức, cùng Thiện tri thức đồng đẳng thiện đạo, lại còn có khả năng đạt chứng thiện đạo, lại còn có khả năng đạt được các thiện ý, lắng nghe thiện pháp. Tùy theo những gì đã nghe được, áp dụng tu hành chân thật, không dùng những lời lẽ trau chuốt, đầy đủ tuệ thù thắng, phát khởi tinh tấn, siêng cầu đa văn. Những gì mà mình đã nghe được đó đem diễn giảng rộng rãi cho người khác, nhưng không có mong cầu. Tuy đã được danh tiếng lợi dưỡng, nhưng tâm không đắm trước, dùng lời nói như thật để nói pháp cho người khác, Tùy theo điều mình nghe, tùy theo chỗ trụ cũng lại như vậy. Như thật mà vì người khác nói pháp, khiến cho người nghe pháp được đại Từ. Đối với tất cả chúng sinh khởi tâm đại Bi, không bao giờ nhàm chán hay xả bỏ việc đa văn. Còn đối thân mạng chỉ nương thiểu dục, tri túc, tịch tónh, viên mãn, thiện hạnh tăng trưởng, ưa chỗ vắng lặng, những pháp đã được nghe rồi phải quán sát kỹ lưỡng về nghóa của nó, đối với các nghóa lý thâu nhiếp không cho tán mất, không chấp chặt vào văn mà chỉ hướng đến thật nghóa, luôn rộng vì tất cả trời, người thế gian, chứ không phải vì mình, siêng năng tu tập thắng hạnh, rộng vì tất cả chúng sinh mà siêng cầu trí tối thắng vô thượng khiến cho chúng sinh ở trong Phật trí không có buông lung. Sao gọi là không buông lung? Là trước hết nhiếp phục các căn, mắt thấy sắc v.v… không chấp vào tướng, không trước tướng đẹp trong các cảnh sắc; đối với vị, đối với nhiễm biết đúng như thật, cho nên thường mong cầu xuất ly. Tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý biết pháp cũng lại như vậy. Người trí biết rõ như vậy rồi không nắm bắt tướng, không đắm trước tướng đẹp, đối với vị, đối với nhiễm biết đúng như thật, cho nên thường cầu xuất ly. Đây gọi là không buông lung. Lại nữa, không buông lung nghóa là có khả năng điều phục tâm mình rồi, lại tùy theo sự thích ứng mà nhiếp phục tâm người khác, khéo dứt trừ phiền não ái nhiễm pháp ái tùy chuyển, chấm dứt mọi dục tầm, sân tầm và hại tầm; tham, sân, si… các căn bất thiện cũng nên chấm dứt không cho chúng hiện hành, lại ngăn chặn thân, ngữ, ý nghiệp các hạnh bất thiện, không cố tác ý và cũng không khởi lên. Nói tóm lại là đoạn trừ tất cả tội bất thiện pháp. Đấy gọi là không buông lung. Này các nhân giả! Các pháp không buông lung như vậy, Bồ-tát phải siêng năng hành trì, thì mới được lòng tin thanh tịnh, không còn buông lung nữa. Này Đại bí mật chủ! Các vị nên biết! Nếu tin vào một pháp, thì thanh tịnh rộng lớn, có thể chuyên cầu thiện pháp đúng thời. Nếu tin đầy đủ vào Bổ-đặc-già-la thì sẽ lìa mọi sợ hãi đường ác trong đời khác, tâm không còn rơi vào các ác tác, thường được chúng Thánh khen ngợi. Lại nữa, này Bí mật chủ! Hành giả trụ pháp thì được chánh pháp thiện thú, thường ưa thấy Phật, an trụ trong Thánh đạo, được đại tự tại, được tự tại rồi, lại khiến người khác được pháp tự tại viên mãn, tâm trụ Bồ-đề được trí Như Lai. Lại nữa, này Bí mật chủ! Nếu người muốn diệu lạc tối thắng, thì nên tu chánh hạnh, tu pháp Niết-bàn rốt ráo. Đại Bí mật chủ, nay chúng hội này đều nhờ vào sức căn lành đời trước nên mới đến hội này, khéo tu chánh hạnh, đối với căn lành không bị giảm mất. Thế nào là được căn lành mà không bị giảm mất? Nghóa là tu hạnh không buông lung. Thế nên các hàng trời, người có các căn lành đều không bị giảm mất. Vì sao? Vì tâm của những người ấy không có buông lung, khéo hộ các cảnh, cho nên họ có khả năng lìa tất cả tham ái dục nhiễm, học tập pháp ái, ngăn chặn dục, sân, hại tầm. Lại có thể dứt trừ tác ý về các pháp bất thiện không chắc chắn, lìa tham, sân, si, đối với mọi lỗi lầm thô trọng của thân, khẩu, ý thảy đều chấm dứt, cho đến tất cả các thiện pháp, nếu có giảm mất đều không nên làm. Đây gọi là không buông lung. Nếu ai tin hiểu pháp không buông lung, thì có khả năng tùy thuận các việc tinh tấn. Nhờ tinh tấn cho nên không có buông lung, người ấy mới có thể tích tụ được công đức tu trì với niềm tin thanh tịnh. Do tu tập với niềm tin thanh tịnh và pháp tinh tấn không buông lung, cho nên có thể khởi chánh niệm, chánh tri. Nhờ chánh niệm, chánh tri, cho nên đối với tất cả pháp Bồ-đề phần không bị hoại mất. Nếu có đầy đủ niềm tin thanh tịnh, không buông lung, tinh tấn, chánh niệm, chánh tri, thì có khả năng tu tập pháp kiên cố. Này Đại bí mật chủ! Nếu Bồ-tát ở trong pháp kiên cố mà được giải thoát, thì đối với có, đối với không, biết đúng như thật. Thế nào là có? Thế nào là không? Nghóa là tu hành chân chánh pháp Thánh giải thoát. Đây tức là có; nếu không tu hành chân chánh pháp Thánh giải thoát, thì đó là không. Nếu có nghiệp có báo thì đó là có; nếu không nghiệp không báo thì đó là không. Nếu nhãn, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý trong thế tục đế thì đó là có; nhãn, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý trong thắng nghóa đế thì đó là không. Bồ-tát phát khởi tinh tấn đối với Bồ-đề thì đó là có; còn đối với đại Bồ-đề mà biếng nhác thì đó là không. Điên đảo khởi lên năm uẩn tức là có; pháp không do đâu mà khởi tức là không. Sắc là pháp vô thường, là khổ, là hoại diệt tức là có; sắc là pháp thường, là chắc chắn, là tương tục, là không hoại diệt, là an trụ tức là không. thọ, tưởng, hành, thức là pháp vô thường, là khổ, là hoại tức là có; thọ, tưởng, hành, thức là pháp thường, là chắc chắn, là tương tục, là không hoại diệt, là an trụ, tức là không. Vô minh duyên hành tức là có, vô minh, hành không thật tức là không. Hành duyên thức tức là có; hành, thức không thật tức là không. Thức duyên danh sắc tức là có; thức, danh sắc không thật tức là không. Danh sắc duyên lục xứ tức là có; danh sắc, lục xứ không thật là không. Lục xứ duyên xúc tức là có; lục xứ, xúc không thật là không. Xúc duyên thọ là có; xúc, thọ không thật là không. Thọ duyên ái là có; thọ, ái không thật là không. Ái duyên thủ là có; ái, thủ không thật là không. Thủ duyên hữu là có; thủ, hữu không thật là không. Hữu duyên sinh là có; sinh, hữu không thật là không. Sinh duyên lão tử, ưu bi khổ não là có; sinh, lão tử, ưu bi khổ não không thật là không. Bố thí được giàu có là có; bố thí chiêu cảm nghèo là không. Trì giới sinh Thiên là có; trì giới đọa ác thú là không. Đa văn đầy đủ đại tuệ là có; đa văn thành nhiễm tuệ là không. Thiền quán không tán loạn là có; thiền quán tán loạn là không. Không cố tác ý sinh khởi phiền não là có; cố tác ý sinh khởi phiền não là không. Người không khởi tăng thượng mạn hướng đến Niết-bàn là có, người tăng thượng mạn được Phật thọ ký là không. Đối với tất cả chỗ mà thông đạt được không tức là có; đối với bên trong chấp ngã là không. Dùng trí siêng năng hành trì để được giải thoát là có; ngã mạn tương ưng xa lìa là không. Lại nếu ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả đối với năm uẩn không thật mà tìm cầu pháp thật thì là không. Lại nữa, này Đại bí mật chủ! Bồ-tát siêng năng thực hành không buông lung, tác ý chắc chắn đối với có, đối với không, biết đúng như thật. Tất cả người trí thế gian đều hứa khả. Khi biết đúng như thật rồi, tuy là hành có, nhưng không chấp trước; tuy là hành không cũng không chấp trước. Như vậy là thông đạt thật nghóa mà Đức Phật Thế Tôn đã nói.  Phật nói kinh Đại thừa bí mật chẳng nghó bàn của Như Lai <卷 id="87624657">Quyển 17 <詞 id="87624658">Phẩm 19: Hộ Thế (Phần 2) Lại nữa, này Đại bí mật chủ! Trong tất cả pháp, Như Lai tóm lược mà nói có bốn pháp ấn. 1. Các hành vô thường. Vì các Sa-môn, Bà-la-môn và Trường thọ thiên chấp tiếng là thường, nên phá tưởng thường đó. 2. Các hành là khổ. Vì để phá các lạc tưởng mà hàng trời, người đã chấp. 3. Các pháp là vô ngã, phá ngã tưởng của các hàng ngoại đạo chấp ngã. 4. Niết-bàn vắng lặng, phá tăng thượng mạn của những kẻ tăng thượng mạn khởi hạnh tìm cầu. Nói vô thường tức là rốt ráo không có khái niệm pháp thường. Nói khổ là xa lìa ý tưởng nguyện cầu. Nói vô ngã là khái niệm tướng không. Niết-bàn vắng lặng là khái niệm không tướng tác chứng. Này Đại bí mật chủ! Pháp như vậy, nếu các Bồ-tát tin hiểu chắc chắn, siêng năng thực hành tu tập, thì đối với thiện pháp không bị giảm mất, mau chóng viên mãn pháp Bồ-đề phần. Khi ấy bốn vị đại Thiên vương Hộ thế đến trước Phật bạch: –Bạch Thế Tôn! Bốn Thiên vương chúng con được gọi là Hộ thế, vậy phải dùng pháp nào để hộ thế? Phật bảo bốn vị đại Thiên vương: –Này các nhân giả! Các vị nên tu hành chánh pháp, thì mới có thể hộ thế. Chánh pháp ấy là mười điều thiện: 1. Không giết hại. 2. Vui với sự giàu có của chính mình mà biết đủ không có so đo. 3. Không khởi nhiễm ô đối với vợ người khác. 4. Không phá hoại chúng người khác. 5. Không nói lời ác. 6. Nói đúng như thật. 7. Lời nói không trau chuốt. 8. Không mong cầu sự giàu có của người khác. 9. Dứt sân hận. 10. Chánh kiến thanh tịnh. Này các nhân giả! Mười thiện pháp này mới có thể hộ thế. Lại có tám pháp có thể hộ thế: 1. Hành trì theo lời dạy. 2. Dù bất cứ nơi nào cũng tôn trọng sư trưởng. 3. Thuận hành chánh đạo. 4. Tâm ý ngay thẳng. 5. Tâm luôn mềm mỏng. 6. Thường khởi tâm Từ đối với tất cả chúng sinh. 7. Không tạo các tội lỗi. 8. Tích tụ các căn lành. Tám pháp như vậy mới có thể hộ thế. Lại có sáu pháp có thể hộ thế: 1. Thân nghiệp hành trì, đối với Tôn sư và Thiện tri thức đồng phạm hạnh cho đến tất cả chúng sinh, đều khởi ý niệm tôn trọng yêu kính. Đây là đệ nhất thân nghiệp hòa kính. 2. Ngữ nghiệp hành Từ, đối với Tôn sư và Thiện tri thức đồng phạm hạnh, cho đến tất cả chúng sinh, đều khởi ý niệm vui thích tôn trọng. Đây là đệ nhị ngữ nghiệp hòa kính. 3. Ý nghiệp hành trì, đối với Tôn sư và Thiện tri thức đồng phạm hạnh, cho đến tất cả chúng sinh, đều khởi ý niệm vui thích tôn trọng. Đây là đệ tam ý nghiệp hòa kính. 4. Tất cả lợi dưỡng, cho đến ăn trong bát nhiều hay ít được như pháp nên chia đều cho Thiện tri thức đồng phạm hạnh cùng nhau thọ dụng, lại còn khởi ý niệm vui thích tôn trọng. Đây là đệ tứ lợi dưỡng hòa kính. 5. Đối với giới, tu pháp không đoạn, không khuyết, đầy đủ không nhơ, những gì đã nhận không sinh tham đắm chấp thủ, được người trí khen ngợi lìa sự chê bai, đem những giới pháp thanh tịnh như vậy, để cùng nhau tu trì với Thiện tri thức đồng tu phạm hạnh, lại còn khởi ý niệm vui thích tôn trọng. Đây là đệ ngũ giới tu hòa kính. 6. Đối với các pháp chánh kiến xuất ly và phần quyết trạch thù thắng, tùy theo pháp nào đó mà tu hành chân chánh, cùng với Thiện tri thức đồng phạm hạnh tu trì, lại còn khởi niệm vui thích tôn trọng. Đây là đệ lục đồng kiến hòa kính. Này các nhân giả! Sáu pháp hòa kính này mới có thể hộ thế. Lại có bốn pháp hộ thế: 1. Không tham, do không tham nên không đọa đường ác. 2. Không sân, do không sân, nên không đọa đường ác. 3. Không si, do không si, nên không đọa đường ác. 4. Không sợ, do không sợ, nên không đọa đường ác. Này các nhân giả! Bốn pháp như vậy mới có thể hộ thế. Lại có hai pháp có thể hộ thế. Một là có hổ; hai là có thẹn, đầy đủ được hai pháp này mới có thể hộ thế. Lại có một pháp có thể hộ thế. Đó là hạnh chân thật, do chân thật cho nên có thể hộ thế. Lại nữa, lời nói thiện không có quanh co, pháp này có thể hộ thế. Này các nhân giả! Các pháp như vậy, nếu các vị siêng năng hành trì, thì mới có thể hộ thế, tự mình hộ lại còn khuyến khích người khác cùng hộ. <卷 id="87624659">Phẩm 20: Khứ Lai Lúc đó Đức Thế Tôn liền nghó như vầy: “Nay ta nên vì chúng hội này mà tuyên nói chương cú đại thần chú bí mật, khiến cho chúng hội tương ưng với căn lành, pháp đại Bồ-đề được tồn tại mãi ở thế gian.” Nghó như vậy rồi, liền bảo Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ: –Ta xưa từng ở trong cung của Long vương A-ba-la-la và lúc mới thành đạo ở Bồ-đề tràng, đem tâm lợi ích nhiếp thọ thế gian, lúc đó ta nói chương cú đại thần chú, nay ông còn nhớ chăng? Bồ-tát Kim Cang Thủ bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Con còn nhớ rõ. Đức Phật bảo: –Này Bí mật chủ! Vậy nay ông hãy nói chương cú đại thần chú đó đi. Lúc đó Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ, từ chỗ ngồi đứng dậy đến trước Phật, quỳ gối chắp tay lễ sát chân Phật và nói chương cú đại thần chú: Đát nãnh tha. Hạ hổ la. Hổ la phược đế. Hổ hạ la noa. Tát ngô noa. Tả tả tả tả tả. Nó bố noa. Sô đát sát đa. Sát dã sát dạ. Đa sát dã tát ma. Thiết mạt nỉ các la. Hạ lô. Hạ lô phược đế. Thi la phược đế. Khẩn a vó thiết dã đế. Nó tát la ni. Nhạ nhạ. Nhạ nhạ mạt đế. A phược sất. Nó phược tra. Phược lật đa nô sa rị ni. Bộ đa nô tắc mật rị đế. Hô nó phược đa nô tắc mật rị đế. Hô na nga nam. Dược xoa noản. Nghiễn đà rị phược noãn ma hô la nga noãn. Sa tất để rị bà phược đế tát rị phược tát đỏa nam vó kế lãm đô ma ha bát rị phược đa. Tam dương tha đán Đà-la-ni. Nga rị nhạ đô tam mẫu nại la vó nga nhất đế. Lúc Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ nói chương cú bí mật này, tất cả cung ma thảy đều chấn động, đại địa lung lay, đại hải vọt nước lên, tất cả chúng hội thảy đều kinh sợ, đồng đến trước Phật đảnh lễ cầu cứu. Khi ấy Đức Thế Tôn lại dùng một chân ấn xuống đất, đại thiên thế giới thảy đều lay động. Đồng thời các chúng đều hướng đến chỗ Phật bạch như vầy: –Cứu con, thưa Thế Tôn! Cứu con, bạch Thiện Thệ! Tất cả chúng con thảy đều kinh sợ hoảng hốt. Đức Phật bảo: –Chớ sợ, chớ sợ, đó là cảnh giới oai thần chương cú đại thần chú của chư Phật, nó có khả năng làm cho đại địa chấn động, đại hải phun nước, mặt trời trên hư không cũng phải lung lay. Lúc đó Đức Thế Tôn liền vì Bồ-tát Kim Cang Thủ và các chúng hội lược nói pháp yếu theo như điều ứng trên. Đồng thời trong hội có tám vạn người phát tâm đại Bồ-đề, có vô lượng người trụ vào hữu học địa. Khi ấy trưởng tử của Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ là Kim Cang Quân đem lưới báu che trên Đức Phật, rồi đến trước bạch Phật rằng: –Bạch Thế Tôn! Bồ-tát làm thế nào để được không thoái chuyển nơi quả vị Giác ngộ cao tột. Đức Phật bảo: –Này thiện nam! Nếu Bồ-tát tu đầy đủ mười pháp, thì được không thoái chuyển nơi quả vị Giác ngộ. 1. Thường hành đại Bi vô ngại. 2. Thường khởi đại Bi không mệt mỏi. 3. Tinh tấn thành tựu các sự nghiệp. 4. Khéo tu Không tam-ma-địa. 5. Hiện tiền thông đạt thắng tu. 6. Thông đạt Nhất thiết xứ. 7. Có khả năng dùng diệu trí thanh tịnh ba đời. 8. Dùng phương tiện vô ngại, quán thật nghiệp báo. 9. Tuy đã hiểu biết không, nhưng vẫn gieo các công đức căn bản. 10. Như trên đã nói tự tánh thanh tịnh, khéo nhập Thánh đạo. Bồ-tát nếu đầy đủ mười pháp như vậy, thì đối với quả vị Giác ngộ thì được không thoái chuyển. Kim Cang Quân bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Bồ-tát nên tu pháp nào, để nghe pháp môn chẳng nghó bàn của Phật mà vẫn an nhiên không sợ hãi. Đức Phật bảo: –Này thiện nam! Bồ-tát nên tu tám pháp thì mới có thể nghe pháp môn chẳng nghó bàn của Phật rồi mà vẫn an nhiên, không sinh kinh sợ. 1. Tăng trưởng thắng tuệ. 2. Tăng trưởng diệu trí. 3. Thường được Thiện tri thức nhiếp thọ. 4. Đầy đủ đại tín giải. 5. Khéo thông đạt pháp như huyễn vô sinh. 6. Tin hiểu pháp vô thường. 7. Tâm hành bình đẳng cũng như hư không. 8. Đối với các pháp khéo biết tướng chướng ngại khởi lên. Bồ-tát nếu đầy đủ tám pháp như vậy, mới có thể nghe pháp môn chẳng thể nghó bàn của Phật, mà vẫn an nhiên, không sinh kinh sợ. Kim Cang Quân lại bạch Phật: –Bồ-tát nên tu pháp nào mới được tự tại trong các việc làm? Phật đáp: –Này thiện nam! Bồ-tát nên tu bốn pháp mới có thể tự tại trong tất cả việc làm. 1. Khéo tu pháp vô diệt hiện tiền, đầy đủ năm thần thông. 2. Khéo quán giải thoát môn thù thắng, đầy đủ bốn thiền định. 3. Siêu xuất hơn Phạm thế, đầy đủ bốn phạm hạnh. 4. Dùng tuệ phương tiện khéo tu vô sinh dù bất cứ nơi nào. Bồ-tát nếu đầy đủ bốn pháp như vậy, thì mới được tự tại trong tất cả việc làm. Kim Cang Quân lại bạch Phật: –Bồ-tát có bao nhiêu pháp môn? Đức Phật dạy: –Này thiện nam! Bồ-tát có bốn pháp môn. 1. Trí môn, khéo nhập vào căn tánh của tất cả chúng sinh. 2. Tuệ môn có khả năng phân biệt tuyên nói cú nghóa. 3. Đà-la-ni môn, khéo nhập vào tất cả ngôn âm Tổng trì. 4. Vô ngại giải môn, khéo tuyên nói các pháp vô tận. Đây là bốn pháp của Bồ-tát. Kim Cang Quân lại bạch Phật: –Bồ-tát có bao nhiêu lực? Đức Phật dạy: –Này thiện nam! Bồ-tát có chín lực. 1. Định lực, phát khởi đại Bi. 2. Tinh tấn lực, không thoái chuyển. 3. Đa văn lực, phát sinh thắng tuệ. 4. Tín giải lực, giải thoát viên mãn. 5. Tu tập lực, lìa tán loạn. 6. Nhẫn lực, khéo hộ trì chúng sinh. 7. Bồ-đề tâm lực, hàng phục các ma. 8. Đại Bi lực, thành thục chúng sinh. 9. Vô sinh nhẫn lực, viên mãn mười lực. Đây là chín lực của Bồ-tát. Khi Đức Phật Thế Tôn nói pháp này, trưởng tử Kim Cang Quân được Vô sinh pháp nhẫn, chứng pháp nhẫn rồi, lại bạch Phật: –Cúi xin Thế Tôn kiến lập oai thần, khiến cho chánh pháp này được tồn tại lâu dài trong cung của Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ và làm cho Bồ-tát được đầy đủ pháp khí, chúng sinh được văn tuệ ánh sáng chiếu khắp. Cho đến sau khi Như Lai nhập Niết-bàn, chánh pháp được lưu truyền rộng rãi trong Diêm-phù-đề này không bị diệt mất. Đức Thế Tôn liền nhận lời khuyến thỉnh của Kim Cang Quân rồi bảo Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ: –Này Bí mật chủ! Nay ông nên tuyên nói, lúc ta mới thành đạo nơi đại Bồ-đề tràng, ủng hộ các Bồ-tát, hàng phục nhiếp thọ các quân ma, có chương cú đại thần chú kiến lập gia hộ, khiến cho Chánh pháp nhãn tạng tồn tại lâu dài ở thế gian, nhiếp phục các ma pháp tà dị ngoại đạo. Lúc đó Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ vâng lời Phật dạy, từ chỗ ngồi đứng dậy, vén áo vai phải, gối phải quỳ sát đất chắp tay cung kính đảnh lễ Thế Tôn, nói đại chú rằng: Đát nãnh đà. Hổ lô. Hổ la. Hổ lê. Đề rị. Ha rị để. A cô thiết la sát duệ. Tả lê. Tả la phược đế. Sa rị sô rị. Sạn đế mạt lợi. Sí di. Sạn đế cát rị. Sát di. Thiết di. Phiến đế cát rị. Hổ hô. A lê. Cật cật rị. Kha rị. A vó thiết nỉ. La sa. La sa nó. Nhạ duệ. Nhạ dã phược đế. Thể rị. A phược rị đế. Vó phược rị đế. A phược rị đa. Nó. Mai đế rị bộ đa nam tăng nga la hô. Nại di. Nại ma tam bát nó. Đế lan noa đa la duệ. Bộ sa diệm sa tất đế nó vó tỳ du. Na nghê du. Dược sí tỳ du. Nghiễn đà rị vó tỳ du. Dược xoa tây tỳ du. Ma nô sa ma nô thí tỳ dược. Sa tất để rị bà phược đo tát nại tô khiếm. Lúc nói đại thần chú này, tất cả núi lớn thảy đều chấn động, đại địa rung chuyển, đại hải phun nước, tất cả tà pháp ngoại đạo đều được nhiếp phục quay về chánh pháp, khéo hộ tất cả chánh pháp bảo tạng. Tất cả Thiên chúng cùng nhau vui thích nói kệ rằng: Đại chú bí mật tuyên nói rồi Khiến cho chánh pháp mãi trường tồn Ba ngàn thế giới đều lay động Cầu Nhân Trung Tôn nguyện cứu hộ Đại Sư khéo nói lời chân thật Rộng vì chúng hội thí vô úy Oai thần kiến lập pháp môn này Khiến cho chánh pháp trường tồn mãi. Đức Thế Tôn ở trong cung của Kim Cang Thủ đã trải qua bảy ngày, rộng làm lợi ích cho vô lượng chúng sinh, cho đến tất cả hữu tình trong thành lớn Khoáng dã, dù bất cứ nơi nào cũng đều được lợi ích. Qua bảy ngày, Đức Thế Tôn liền rời khỏi cung bay lên hư không, Bồ-tát, Thanh văn, trời, người, đại chúng cung kính vây quanh. Lại có vô số trăm ngàn Dạ-xoa, La-sát, A-tu-la, Ca-lầu-la… kẻ trước người sau tiễn đưa Phạm thiên, Đế Thích, trời Hộ thế… trải lưới phát sáng trổi nhạc vi diệu, mưa xuống hoa đẹp. Đồng thời các quốc độ đều chấn động. Các việc như vậy đều nhờ vào sức thần thông oai đức gia trì thần biến và các việc oai nghi của Phật. Thí như ngỗng chúa bay lượn tự tại, rồi Đức Phật và đại chúng lần lần trở về núi Thứu phong. Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ nương oai thần của Phật theo sau.  Phật nói kinh Đại thừa bí mật chẳng nghó bàn của Như Lai <卷 id="87624660">Quyển 18 <詞 id="87624661">Phẩm 21: Bồ-tát Dũng lực đi trước Lúc đó Thế Tôn cùng các Bồ-tát, Thanh văn, đại chúng trở về núi Thứu phong, sau một thời gian rời khỏi nơi này vì các đại chúng tùy nghi nói pháp. Hôm đó, vua A-xà-thế biết Phật Thế Tôn đã trở về núi rồi, cùng với cung tần quyến thuộc và sáu vạn người trong thành Vương xá đều cầm các món cúng dường như hương hoa, hương xoa, hương bột vi diệu… ra khỏi thành Vương xá đến núi Thứu phong gặp Phật, đến rồi đảnh lễ sát chân Phật rồi đều đứng qua một bên. Vua A-xà-thế đến trước Phật bạch: –Bạch Thế Tôn! Sau khi con thiết triều xong trở về an nghỉ, con của con đến thưa: “Thưa phụ vương, Đức Thế Tôn Đại sư phó thỉnh ở cung Bồ-tát Kim Cang Thủ đã xong, nay đã trở về núi Thứu phong.” Nghe con của con nói thế, con liền suy nghó: “Đức Thế Tôn thật là hy hữu! Đức Phật đối với tất cả chúng sinh tùy chuyển đại Bi. Đối với tất cả chúng sinh, không có một chúng sinh nào mà Đức Thế Tôn buông bỏ; ở trong cung Kim Cang Thủ thành lớn Khoáng dã, phó thỉnh xong trở về đây, rộng vì chúng sinh thành thục lợi ích.” Thưa Thế Tôn! Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ rất là hy hữu, đầy đủ oai lực có khả năng tuyên nói pháp luật của Như Lai, sinh đại hoan hỷ. Như vậy, xưa kia Kim Cang Thủ đã từng gieo trồng công đức căn bản ở chỗ Phật Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác nào, mà nay có khả năng thành tựu biện tài như vậy? Phật bảo vua A-xà-thế: –Đại vương nên biết! Nếu chúng sinh không trồng căn lành, thì đối với việc như vậy thật khó tin hiểu, còn nếu quyết trồng căn lành, thì đối với việc này mới tin hiểu nổi! Này Đại vương! Giả sử mười phương hằng hà sa số thế giới, còn có thể tính đếm hết được ngằn mé của nó. Còn Đại bí mật chủ Kim Cang Thủ ở chỗ Đức Phật thân gần cúng dường, tu các phạm hạnh, thành tựu biện tài, giả sử như Phật Thế Tôn cũng không thể tính đếm được ngằn mé công đức ấy. Vì duyên đó, Đại vương nên biết nhân duyên xưa. Ta nhớ thời quá khứ a-tăng-kỳ kiếp, lại còn quá hơn đại vô lượng kiếp chẳng thể nghó bàn nữa, lúc đó có Đức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác xuất hiện ở thế gian hiệu là Đa Văn, là Đấng Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Thế giới ấy tên Cực nghiêm, kiếp tên Vô hủy. Đức Thế Tôn ấy vì đại chúng Bồ-tát thanh tịnh tuyên nói Chánh pháp. Đức Phật ấy dạy: –Này các thiện nam! Các vị nên biết! Nếu có Bồ-tát nào phát đại tinh tấn, đối với thân mạng thảy đều xả bỏ. Đức Phật ấy vừa dứt lời, trong hội có một Bồ-tát tên là Dũng Lực, đến trước Phật thưa: –Đúng vậy, thưa Thế Tôn! Đúng vậy, bạch Thiện Thệ! Như Phật đã nói, nếu có Bồ-tát phát đại tinh tấn đối với thân mạng thảy đều xả bỏ. Như con nay hiểu được nghóa Phật đã nói. Bồ-tát nếu sinh biếng nhác, thì làm sao chóng thành quả vị Giác ngộ. Vì sao? Vì các Bồ-tát hay phát tinh tấn ở trong sinh tử không khởi lên ý mệt mỏi nhàm chán. Bồ-tát ấy ở trong sinh tử thường được khen ngợi, không thích Niết-bàn, mà chỉ vì muốn thành thục chúng sinh. Bạch Thế Tôn! Bồ-tát siêng năng tu hành là vì lợi ích chúng sinh, đầy đủ tinh tấn, tín giải, tự có niềm vui ngay trong sinh tử, không ham cái vui Niết-bàn. Vì sao? Vì Bồ-tát làm lợi ích cho chúng sinh, tùy theo sự thích ứng mà thi tác, cũng tùy theo sự thích ứng đó mà được niềm vui. Nếu đã trụ vào Niết-bàn rồi thì làm sao thi tác. Vì thế cho nên các Bồ-tát được niềm vui ngay trong cảnh giới sinh tử. Vì siêng năng làm lợi ích chúng sinh, cho nên thường được thấy vô lượng chư Phật, thường nghe vô lượng chánh pháp thanh tịnh, thường hay thành thục vô lượng chúng sinh. Vì Bồ-tát trụ trong cảnh giới sinh tử, cho nên hay tùy nhập vào cảnh giới của chúng sinh. Nhưng đối với cảnh giới Niết-bàn lại không chấp trước hạnh xả. Bồ-tát trụ trong cảnh giới sinh tử là vì sợ đọa vào không phải cảnh giới. Vì sao? Vì trong không phải cảnh giới đó không thể làm lợi ích chúng sinh, không thể an trụ cảnh giới Như Lai, do không thể trụ cảnh giới Như Lai, cho nên không thể trưởng dưỡng tất cả chúng sinh. Sao gọi là không phải cảnh giới? Không phải cảnh giới là địa vị của Thanh văn, Duyên giác. Nếu trụ vào đó tức là xả bỏ chúng sinh, không thể thành thục. Vì sao? Vì cảnh giới Thanh văn, Duyên giác không phải là cảnh giới của Bồ-tát, vì Thanh văn, Duyên giác rất sợ sinh tử. Nếu hay nhiếp thọ vô lượng chúng sinh, thì chỉ có Đại Bồ-tát thanh tịnh vậy. Do đó cho nên Bồ-tát hay trụ cảnh giới sinh tử. Đại vương nên biết! Lúc đó Đức Đa Văn Như Lai khen Bồ-tát Dũng Lực rằng: –Hay thay Tráng só! Bồ-tát khéo nói lời này, lại còn tôn trọng những việc làm trong cảnh giới Bồ-tát, không đọa vào không phải cảnh giới. Bồ-tát Dũng Lực thưa hỏi Đức Phật Đa Văn: –Thế nào là tự cảnh giới của Bồ-tát? Đức Phật Đa văn đáp: –Này thiện nam! Tự cảnh giới của Bồ-tát là nhiếp thọ vô lượng cảnh giới sinh tử mà không sinh kinh sợ, luôn khen ngợi hạnh thù thắng của Bồ-tát mà không thích trụ vào địa vị Thanh văn, Duyên giác. Dùng trí không ngăn ngại mà hòa hợp ba cõi, hoặc bớt hoặc thêm vẫn luôn tăng trưởng tất cả căn lành. Dùng trí tăng ích mà thành thục các đức căn bản. Lại hay dùng Tận trí để thành tựu vô lượng phước hạnh. Tuy là quán vô sinh, nhưng hay thành tựu pháp hữu sinh. Tuy biết là không chúng sinh, nhưng hay thành thục tất cả chúng sinh. Tuy biết các pháp là lìa tánh nhưng hay nhiếp thọ chánh pháp. Tuy biết tự tánh của quốc độ chư Phật như Không nhưng lại dùng Diệu trí trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật. Tuy quán các Pháp thân của chư Phật là không tướng, nhưng luôn khéo cần cầu tướng hảo thù thắng vi diệu của Như Lai. Tuy quán các pháp vốn không tạo tác, nhưng lại dùng diệu trí tinh tấn tạo tác các đức căn bản. Tuy quán pháp hữu vi là không thật, nhưng đối với các sự nghiệp ít tìm cầu ít tạo tác, lại hay vì tất cả chúng sinh mà tùy nghi thi thiết. Tuy quán thân tâm lìa sự đắm trước, nhưng lại dùng diệu trí nói pháp không biết chán. Tuy lìa sự ồn ào, nhưng từ thiền định phát sinh không đắm trước thiền vị. Tuy đã hiểu rõ pháp thậm thâm, nhưng dùng diệu trí tùy các chúng sinh mà mỗi mỗi hành chuyển khéo nói pháp yếu. Tuy biết là vô sinh, nhưng dùng thiện trí khéo suy nghó rộng nhiếp ba cõi. Tuy dùng trí quán các pháp đều không, nhưng lại khéo bảo hộ quả sở đắc. Tuy quán cảnh giới Thanh văn, Duyên giác, nhưng lại cầu pháp khinh an giải thoát của Như Lai. Tuy không nhàm chán các hạnh Bồ-tát, nhưng thường quán cảnh giới của chư Phật. Này thiện nam! Đó tức là tự cảnh giới của các Bồ-tát. Lại nữa, này Đại vương! Lúc đó Bồ-tát Dũng Lực ở chỗ Đức Đa Văn Như Lai nghe pháp cảnh giới thanh tịnh như vậy rồi, sinh tâm hy hữu bạch với Đức Phật ấy: –Hy hữu thay! Đức Thế Tôn đã khéo nói tự cảnh giới môn chánh pháp thanh tịnh của các Đại Bồ-tát. Theo như con đã hiểu nghóa Phật đã nói, tức là Bồ-tát phải đầy đủ phương tiện thiện xảo, nhập vào tất cả pháp tự cảnh giới môn. Ví như hư không đều chiếu khắp tất cả hình sắc vạn tượng cảnh giới, nhưng lại không chấp trước, tất cả hình sắc vạn tượng cũng không chướng ngại, cảnh giới hư không cũng không chướng ngại. Bồ-tát đầy đủ phương tiện thiện xảo cũng lại như vậy, hiện tiền hiểu rõ tất cả pháp tự cảnh giới. Lại như hư không chiếu khắp tất cả hình sắc vạn tượng cảnh giới mà không chướng ngại, tất cả cây thuốc, cây độc, gai gốc, quả trái hương hoa, tất cả những cây ấy đều lớn lên trong hư không. Nhưng hư không lại không nhiễm, không tịnh, không trái, không thuận. Bồ-tát đầy đủ phương tiện thiện xảo cũng lại như vậy, từ tuệ phát sinh tất cả pháp tự cảnh giới môn, là dị sinh pháp, hữu học pháp, vô học pháp, Duyên giác pháp, Bồ-tát pháp, Như Lai pháp… Vì sao? Vì hiện chứng tất cả pháp. Lại như cỏ cây, rừng rú ở thế gian, lửa không thể bảo hộ. Vì sao? Vì lửa bốc lên thiêu đốt tất cả. Bồ-tát cũng lại như vậy, đối với tất cả pháp tự cảnh giới, tuệ quang phát lên thật rực sáng. Lại như thân Kim cang vững chắc lửa không thể đốt, dao không thể cắt, độc không thể trúng, tha lực không thể nhiếp phục. Bồ-tát cũng lại như vậy, không phải tập nhiễm của Thanh văn, không phải tập nhiễm của Duyên giác, không phải tập nhiễm phiền não của tất cả chúng sinh có thể làm nhiễm. Bồ-tát tùy theo các tập nhiễm đó, mà tinh cần tu tập, tăng trưởng tuệ lực, cho nên hiểu hết tất cả. Lại như Thủy thanh ma-ni bảo châu, có thể làm nước bẩn trở nên trong sạch. Bồ-tát cũng lại như vậy, dùng bảo tuệ thù thắng, làm thanh tịnh tất cả cấu phiền não của chúng sinh. Lại có một loại thuốc tên là lìa độc, nó không thể cùng chung với tất cả ác độc, nhưng có thể dứt trừ tất cả độc. Bồ-tát cũng như vậy, đầy đủ tuệ lực phương tiện, không cùng chung với tất cả phiền não của chúng sinh và phiền não của chính mình, nhưng lại có thể chấm dứt các độc phiền não của tất cả chúng sinh. Những việc như vậy đều là tất cả pháp tự cảnh giới môn. Đại vương nên biết! Lúc Bồ-tát Dũng Lực nói pháp này, có tám ngàn người phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ, hai trăm Bồ-tát được Vô sinh pháp nhẫn. Đại vương nên biết! Bồ-tát Dũng Lực ở trong pháp của Đức Đa Văn Như Lai thuở đó đâu phải người nào lạ, nay chính là Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ. Lúc đó vị Bồ-tát này mặc giáp tinh tấn kiên cố, đã từng ở chỗ nhiều Đức Phật, thân gần cung kính trồng nhiều căn lành.  <詞 id="87624662">Phẩm 22: Vua A-xà-thế hỏi đáp (Phần 1) Khi ấy, vua A-xà-thế khởi lên ý nghó như vầy: “Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ tay phải cầm chày Kim cang nặng nhẹ bao nhiêu mà sức đại oai lực của Bồ-tát có thể cầm nổi?” Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ biết được ý nghó của vua, nên liền bảo vua A-xà-thế: –Đại vương nên biết! Chày Kim cang này cũng nặng mà cũng nhẹ. Vua hỏi: –Vì lý do gì mà cũng nặng cũng nhẹ? Kim Cang Thủ đáp: –Vì muốn điều phục các chúng sinh ngã mạn cống cao, nên chày này nặng. Vì chỉ rõ chúng sinh không có ngã mạn, ngay thẳng nên chày này nhẹ. Trả lời xong, Bồ-tát Kim Cang Thủ đem chày Kim cang đặt trên mặt đất. Lúc đặt trên đất Bồ-tát dùng thần lực, tam thiên đại thiên thế giới chấn động sáu cách, rồi bảo vua A-xà-thế rằng: –Này Đại vương! Đại vương hãy nhấc thử đại chày Kim cang này xem. Vua A-xà-thế liền dùng dũng lực kiên cố để nhấc chày lên, tuy cố hết sức, nhưng vẫn không lay động bằng đầu sợi lông, liền sinh tâm hy hữu kính trọng đến trước chỗ Phật chắp tay thưa: –Bạch Thế Tôn! Con xưa đã từng ở trong chiến trận, một tay cầm bị giáp đại tượng ném ra xa, nhưng nay cở chày Kim cang này rất nhỏ, con cố hết sức, vẫn không thể nhấc nổi, huống nữa là đưa lên. Vì sao như vậy? Đức Phật bảo: –Này Đại vương! Chớ có buồn, chày Kim cang này thật rất nặng. Vua A-xà-thế liền thưa với chúa trời Đế Thích: –Kiều-thi-ca! Hãy nhấc thử đại chày Kim cang này xem. Vua A-xà-thế vừa dứt lời, chúa trời Đế Thích dùng thần lực dũng mãnh để nhấc chày lên, tuy cố hết sức, nhưng vẫn không lay động, liền sinh tâm hy hữu kính trọng, đến trước Phật thưa: –Bạch Thế Tôn! Lúc con cùng A-tu-la đấu với nhau, sức lực của con mạnh mẽ vô địch, tay phải nắm xe lớn rộng bảy trăm do-tuần của A-tu-la vương Tỳ-ma-chất-đa-la. Lúc con nắm kéo xe ấy như là trận cuồng phong, nhưng nay dốc hết sức lực vẫn không lay động nổi chày Kim cang này, chẳng lẽ Thế Tôn dùng đại oai thần đè lại ư? Phật đáp: –Này Kiều-thi-ca! Không phải do thần lực ta đè lại, mà là chày Kim cang kia quá nặng mà thôi. Này Kiều-thi-ca! Ý ông nghó sao? Núi chúa Tu-di có nặng lắm không? Vua trời đáp: –Núi chúa Tu-di rất nặng, nhưng đem ra để dụ cũng không bằng. Đức Phật nói: –Này Thiên chủ! Chày Kim cang này còn nặng hơn núi chúa Tu-di, nhưng Bồ-tát Kim Cang Thủ có thể dùng chày này đập nát các núi bao bọc xung quanh thành như trấu lép. Đó là đại thế lực của Kim cang. Khi ấy vua trời Đế Thích thưa với Tôn giả Đại Mục-kiền-liên rằng: –Đức Phật nói Tôn giả là bậc thần thông đệ nhất trong chúng Thanh văn, vậy nay xin Tôn giả hãy nhấc thử đại chày Kim cang này xem. Tôn giả Đại Mục-kiền-liên liền suy nghó: “Ta nay ở trước trời, người, đại chúng mà không nhấc nổi chày Kim cang này, e chẳng phải ta sinh mạn tâm ư?” Nghó vậy rồi liền vận sức thần thông, lúc sắp nhấc chày Kim cang, tức thời tam thiên đại thiên thế giới chấn động sáu cách, nước trong đại hải vọt lên, khắp cả đại địa đều lo sợ chấn động, chỉ có chày Kim cang là không lay động. Khi ấy Tôn giả Đại Mục-kiền-liên đến trước Phật đảnh lễ sát chân thưa: –Đức Thế Tôn cho rằng con là thần thông đệ nhất trong hàng Thanh văn, đầy đủ oai thần danh tiếng thế lực, có thể đem cả nước trong bốn biển lớn để trong lòng bàn tay, cũng có thể chuyển lay cả tam thiên đại thiên thế giới này. Cũng như có người dùng đồng tiền quay tròn trên đầu ngón tay, con có thể chận đứng mặt trời, mặt trăng trên hư không, ngăn oai quang không cho chuyển động; lại có thể ném núi chúa Tu-di qua cõi Phạm thế; lại có thể điều phục Nan-đà, Ô-ba-nan đà hai đại Long vương; lại có thể đi khất thực khắp thế giới Dương diễm. Nay chày Kim cang này lượng rất nhỏ, mà con cũng không nhấc nổi. Bạch Thế Tôn! Lẽ nào nay thần lực của con bị hao giảm ư? Phật bảo: –Này Đại Mục-kiền-liên! Chẳng phải thần lực của ông bị hao giảm, mà là oai lực của Bồ-tát gia trì, tất cả Thanh văn, Duyên giác không thể lay động nổi, huống là các chúng sinh khác. Lại nữa, này Mục-kiền-liên! Giả sử như tất cả núi chúa Tu-di trong hằng hà sa số cõi Phật đều lay động, chỉ có chày Kim cang đặt nơi nào thì nơi ấy không bị lay động. Mục-kiền-liên bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ đầy đủ thế lực lớn, có thể ném chày Kim cang này, thật là hy hữu! Đức Phật nói với Đại Mục-kiền-liên: –Giả sử các núi Tu-di trong tam thiên đại thiên thế giới hợp lại thành một núi cũng vẫn bị lay động, nhưng chày Kim cang này không thể lay động. Khi ấy Tôn giả Đại Mục-kiền-liên sinh tâm hy hữu ở trước Phật thưa: –Hy hữu thay, thưa Thế Tôn! Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ, đầy đủ thế lực lớn, có khả năng cầm chày Kim cang. Lực của Đại bí mật chủ là cha mẹ sinh ra ư? Là thần lực ư? Đức Phật bảo: –Này Đại Mục-kiền-liên! Lực mà cha mẹ sinh ra tùy chỗ, tùy nơi đều có hạn lượng, còn thần thông lực của các Bồ-tát thì vô tận vô hạn. Nếu ta nay đem chỉ bày thì sẽ khiến hàng trời, người thế gian đều sinh mê loạn. Lúc đó Thế Tôn quán sát khắp chúng hội, rồi bảo Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ: –Nay ông nên nhấc chày Kim cang lên. Lúc bấy giờ thần lực của Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ chấn động tam thiên đại thiên thế giới, Ngài liền dùng tay trái nhấc chày ném lên hư không, quay quanh bảy vòng rồi rơi vào nằm trong tay phải của Bồ-tát. Tất cả chúng hội đều sinh tâm hy hữu, chắp tay đảnh lễ Đại bí mật chủ và đồng nói lên như vầy: –Hy hữu thay, thưa Bí mật chủ! Bồ-tát có đầy đủ đại thế lực như thế, khéo nắm đại chày Kim cang tối thắng. Nguyện cho tất cả chúng sinh đều được lực thù thắng như vậy. Vua A-xà-thế lại hỏi Phật: –Bạch Thế Tôn! Bồ-tát phải tu đủ bao nhiêu pháp mới được lực thù thắng như vậy? Đức Phật đáp: –Này Đại vương! Bồ-tát nên tu mười pháp mới được lực thù thắng này: 1. Bồ-tát thà bỏ thân mạng, chứ không bỏ chánh pháp vô thượng. 2. Đối với tất cả chúng sinh khởi lên tâm khiêm hạ, tâm không tăng mạn. 3. Đối với tất cả chúng sinh yếu kém, khởi tâm thương xót, không sinh tổn hại. 4. Thấy chúng sinh đói khát, phải thí thức ăn ngon. 5. Thấy chúng sinh sợ hãi, phải ban cho sự vô úy. 6. Thấy chúng sinh tật bệnh, phải ban thuốc chữa trị. 7. Thấy chúng sinh nghèo cùng, phải ban cho chúng được đầy đủ. 8. Thấy tháp, miếu, hình, tượng Phật phải sửa sang trang nghiêm thanh tịnh. 9. Nói lời hoan hỷ an ủi chúng sinh. 10. Thấy chúng sinh mang vác nặng nhọc khốn khổ, thì nên vì họ mà trừ bỏ gánh nặng đó đi. Bồ-tát nếu đầy đủ mười pháp như vậy, thì mới được lực thù thắng như thế.  Phật nói kinh Đại thừa bí mật chẳng nghó bàn của Như Lai <卷 id="87624663">Quyển 19 <詞 id="87624664">Phẩm 22: Vua A-xà-thế hỏi đáp (Phần 2) Vua A-xà-thế lại hỏi Đức Phật: –Bồ-tát nên tu bao nhiêu pháp mới được tự tại, để hướng đến tự tại? Đức Phật đáp: –Này Đại vương! Bồ-tát nên tu tám pháp mới được pháp tự tại, để hướng đến tự tại. 1. Lời nói tốt đẹp tâm ý ngay thẳng. 2. Tâm luôn nhu nhuyến. 3. Tâm khéo yêu mến. 4. Tâm thường thẳng thắn bình đẳng. 5. Không quanh co. 6. Không dối gạt. 7. Không ganh ghét. 8. Tâm điều hòa thông suốt. Bồ-tát nếu đầy đủ tám pháp như vậy, mới được pháp tự tại, để hướng đến tự tại. Vua A-xà-thế lại hỏi Phật: –Bồ-tát nên tu bao nhiêu pháp mới trụ trong tự tại? Đức Phật đáp: –Này Đại vương! Bồ-tát phải tu bốn pháp mới có thể trụ trong tự tại. 1. Nếu sinh trong nhân gian, nguyện làm Chuyển luân thánh vương, gặp Phật ra đời. 2. Nguyện làm Đế Thích gặp Phật ra đời. 3. Nguyện làm Đại phạm Thiên vương, chủ cõi Ta-bà, gặp Phật ra đời. 4. Nguyện làm trưởng giả giàu có thù thắng, gặp Phật ra đời. Bồ-tát nếu đầy đủ bốn pháp như vậy, mới có thể trụ trong tự tại. Vua A-xà-thế hỏi Phật: –Bạch Thế Tôn! Tịnh tín lấy gì làm rốt ráo? Đức Phật đáp: –Này Đại vương! Lấy Thiện tri thức làm rốt ráo. Vua hỏi: –Đa văn lấy gì làm rốt ráo? Đức Phật đáp: –Đa văn lấy tuệ làm rốt ráo. Vua hỏi: –Bố thí lấy gì làm rốt ráo? Đức Phật đáp: –Bố thí lấy sự giàu có tột cùng làm rốt ráo. Vua hỏi: –Trì giới lấy gì làm rốt ráo? Đức Phật đáp: –Trì giới lấy việc sinh đường thiện làm rốt ráo. Vua hỏi: –Nhẫn nhục lấy gì làm rốt ráo? Đức Phật đáp: –Nhẫn nhục lấy tùy hộ chúng sinh làm rốt ráo. Vua hỏi: –Tinh tấn lấy gì làm rốt ráo? Đức Phật đáp: –Tinh tấn lấy sự khéo léo viên mãn tất cả pháp Phật làm rốt ráo. Vua hỏi: –Thiền định lấy gì làm rốt ráo? Đức Phật đáp: –Thiền định lấy Cận tịch làm rốt ráo. Vua hỏi: –Thắng tuệ lấy gì làm rốt ráo? Đức Phật đáp: –Thắng tuệ lấy sự dứt trừ các phiền não làm rốt ráo. Vua hỏi: –Lắng nghe pháp lấy gì làm rốt ráo? Đức Phật đáp: –Lắng nghe pháp lấy đoạn trừ mọi nghi hoặc làm rốt ráo. Vua hỏi: –Hỏi pháp lấy gì làm rốt ráo? Đức Phật đáp: –Hỏi pháp lấy lìa các tạp thuyết làm rốt ráo. Vua hỏi: –Ở chỗ vắng lặng lấy gì làm rốt ráo? Đức Phật đáp: –Ở chỗ vắng lặng lấy sự chứng đắc thiền định thần thông làm rốt ráo. Vua hỏi: –Quán tưởng lấy gì làm rốt ráo? Đức Phật đáp: –Quán tưởng lấy sự lìa niệm làm rốt ráo. Vua hỏi: –Thanh vô thường lấy gì làm rốt ráo? Đức Phật đáp: –Vô thường lấy thanh lìa các chấp trước làm rốt ráo. Vua hỏi: –Khổ thanh lấy gì làm rốt ráo? Đức Phật đáp: –Khổ thanh lấy việc không chấp giữ làm rốt ráo. Vua hỏi: –Vô ngã thanh lấy gì làm rốt ráo? Đức Phật đáp: –Vô ngã thanh lấy sự diệt ngã, ngã sở làm rốt ráo. Vua hỏi: –Thanh tịch tónh lấy gì làm rốt ráo? Đức Phật đáp: –Thanh tịch tónh lấy Tùy chỉ làm rốt ráo. Vua hỏi: –Tác ý sâu xa, chắc thật lấy gì làm rốt ráo? Đức Phật đáp: –Tác ý sâu xa, chắc thật lấy phát khởi chánh kiến làm rốt ráo. Vua hỏi: –Nếu lìa thân tâm lấy gì làm rốt ráo? Đức Phật đáp: –Lìa thân tâm lấy phát khởi thiền định thần thông làm rốt ráo. Vua hỏi: –Thánh đạo lấy gì làm rốt ráo? Đức Phật đáp: –Thánh đạo lấy quả Tam-muội hiện tiền làm rốt ráo. Vua hỏi: –Tín giải lấy gì làm rốt ráo? Đức Phật đáp: –Tín giải lấy giải thoát viên mãn làm rốt ráo. Vua hỏi: –Chư Phật ra đời lấy gì làm rốt ráo? Đức Phật đáp: –Chư Phật ra đời lấy sự thành tựu tất cả pháp Bồ-đề phần làm rốt ráo. Vua hỏi: –Như thế nào mới gọi là Phật ra đời? Đức Phật đáp: –Này Đại vương, tùy sự phát tâm Bồ-đề tức là Phật ra đời. Vua hỏi: –Thế nào là phát tâm Bồ-đề? Đức Phật đáp: –Là phát sinh đại Bi. Vua hỏi: –Thế nào là phát sinh đại Bi? Đức Phật đáp: –Là phát khởi lòng tin thanh tịnh. Vua hỏi: –Thế nào là phát khởi lòng tin thanh tịnh? Đức Phật đáp: –Nếu phát tâm Bồ-đề tức là phát lòng tin thanh tịnh. Vua hỏi: –Làm thế nào để phát tâm Bồ-đề? Đức Phật đáp: –Thâm tâm không thoái chuyển là phát tâm Bồ-đề. Vua hỏi: –Thế nào là thâm tâm không thoái chuyển? Đức Phật đáp: –Là phát khởi đại Bi. Vua hỏi: –Làm sao có thể phát khởi đại Bi? Đức Phật đáp: –Đối với tất cả chúng sinh, không sinh tâm nhàm chán, buông bỏ tức là đại Bi. Vua hỏi: –Làm thế nào để không nhàm chán, buông bỏ chúng sinh? Đức Phật đáp: –Là không vướng mắc vào cái vui của chính mình. Vua hỏi: –Thế nào là không vướng mắc vào cái vui của chính mình? Đức Phật đáp: –Là không bao giờ xa lìa Tam bảo. Vua hỏi: –Làm thế nào để không xa lìa Tam bảo? Đức Phật đáp: –Nếu luôn trừ khử tất cả phiền não, là không xa lìa Tam bảo. Bấy giờ vua A-xà-thế một lần nữa, ở trước Đức Phật cung kính bạch: –Hy hữu thay, thưa Thế Tôn! Hy hữu thay, bạch Thiện Thệ! Như Lai đã khéo nói pháp luật thanh tịnh, Như Lai đã khéo trình bày rõ ràng các học xứ, lại hay tùy thuận với chánh pháp mà chư Phật Thế Tôn đã nói, không hoại nhân quả, lìa xa chấp đoạn, thường, tùy theo những gì đã nói mà thành tựu sự nghiệp, quả báo thiện ác đều không hoại mất. Những lời Đức Phật đã dạy lìa mọi dối gạt. Giáo pháp thanh tịnh rộng lớn tối thượng như vậy, ai là người dám phá? Ai là người vấn nạn? Và ai sinh tâm hủy báng? Chỉ trừ những người không trồng căn lành, chịu nhiều tội nghiệp. Bạch Thế Tôn! Con xưa chưa từng trồng căn lành đối với Đức Phật, không thể tự cắt máu thịt để báo thâm ân Phật. Nay nguyện cầu oai lực của Phật gia hộ, tất cả phiền não, tất cả tội nghiệp của con thảy đều tiêu diệt. Bạch Thế Tôn! Đồng chân Bồ-tát Diệu Cát Tường là Thiện tri thức lợi lạc trong nhiều kiếp, đã dứt trừ các ác tác cho con, phóng ánh sáng pháp soi chiếu cho con, con cũng không thể báo được thâm ân ấy. Thế Tôn, Đấng Đại Từ Đại Thiện Tri Thức đã vì con mà nói về Chánh pháp truyền bá cùng khắp và phạm hạnh tối thượng.  <詞 id="87624665">Phẩm 23: Thiên tử Hiền vương Khi ấy Đại Bồ-tát Tịch Tuệ đến trước Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ thưa: –Những việc biến hóa của chư Phật Thế Tôn; Bí mật chủ! Ngài có thể biến hóa được những việc như vậy không? Bồ-tát Kim Cang Thủ nói: –Nay Đức Phật hiện làm chứng cho ta, hằng hà sa số chư Phật Như Lai có các việc biến hóa, ta đây cũng có thể theo Phật mà biến hóa như là các sắc tướng thần thông du hý, chỉ lấy thâm tâm thanh tịnh đời trước mà làm rốt ráo. Bồ-tát Tịch Tuệ lại thưa: –Nay tôi khuyến thỉnh Đại bí mật chủ, mong ngài dùng thần lực gia trì hộ niệm, khiến cho chánh pháp năm trăm năm về sau càng được lưu truyền rộng rãi, đem chánh pháp này nhiếp thọ và trao truyền cho các Bồ-tát. Bồ-tát Kim Cang Thủ nói: –Này thiện nam! Chư Phật Như Lai đã cùng gia trì chánh pháp này rồi. Vì sao? Vì nay chánh pháp này thành từ văn tự, nhưng văn tự đó không sinh khởi, không tận cùng cũng không diệt mất. Văn tự ấy và nghóa cũng không thể ẩn tàng, pháp thậm thâm mà Như Lai đã nói đó cũng không mai một. Vì sao? Vì không có pháp có thể sinh. Nếu pháp đã không sinh, thì không diệt, nên biết như vậy. Như Phật đã nói, dù Phật có ra đời hay không ra đời, các pháp vẫn thường trụ. Pháp ấy là pháp tánh, pháp giới, pháp trụ, chân thật thanh tịnh vì là pháp Như thị. Như trên đã nói, các pháp là từ duyên sinh cũng không trái nhau. Nếu pháp duyên sinh không trái nhau thì đó là chánh pháp, mà đã là chánh pháp thì không diệt mất. Nói như vậy mới là chánh pháp. Bồ-tát Tịch Tuệ thưa: –Thưa Bí mật chủ! Thế nào là mặc giáp tinh tấn nhiếp hộ chánh pháp? Bồ-tát Kim Cang Thủ đáp: –Nếu đối với tất cả pháp mà không trái nhau, thì có thể mặc giáp tinh tấn nhiếp hộ chánh pháp. Vì sao? Vì chánh pháp này không trái nhau với tất cả pháp. Bồ-tát Tịch Tuệ hỏi: –Vậy thì pháp nào trái nhau? Bồ-tát Kim Cang Thủ đáp: –Văn tự trái nhau thì pháp trái nhau, nhưng không trái nhau với sinh pháp. Nếu nó không trái nhau thì là nhiếp hộ chánh pháp. Bồ-tát Tịch Tuệ hỏi: –Nhiếp hộ chánh pháp ấy có trái nhau với tất cả thế gian không? Bồ-tát Kim Cang Thủ đáp: –Có, này thiện nam! Vì sao? Vì chúng sinh thế gian chấp trước các kiến, chấp lời nói Không. Đó tức là trái với thế gian. Lại còn cho rằng thế gian là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Nhưng thế gian là vô thường, là khổ, là vô ngã, là bất tịnh. Như vậy là trái với thế gian. Lại chúng sinh thế gian là thuận dòng sinh tử, nghịch dòng chánh pháp. Như vậy là trái với thế gian. Lại chúng sinh thế gian tôn trọng pháp đời này, người hộ chánh pháp tôn trọng pháp đời khác. Như vậy tức là trái với thế gian. Lại chúng sinh thế gian chấp uẩn, xứ, giới, người hộ chánh pháp nói tất cả pháp là không chấp trước. Như vậy là trái nhau với thế gian. Tịch Tuệ nên biết! Vì lý do đó cho nên người hộ chánh pháp trái nhau với thế gian. Bồ-tát Tịch Tuệ hỏi: –Thưa Đại bí mật chủ! Bồ-tát làm thế nào để nhiếp hộ chánh pháp? Bồ-tát Kim Cang Thủ đáp: –Việc nhiếp hộ của ta là không ngã, không chúng sinh, không pháp. Đó mới là nhiếp hộ. Bồ-tát Tịch Tuệ hỏi: –Việc ấy như thế nào? Bồ-tát Kim Cang Thủ đáp: –Là lìa ngã, lìa chúng sinh, lìa pháp, lìa ngã-chúng sinh-pháp; lìa quá khứ, lìa vị lai, lìa hiện tại; không lìa quá khứ-hiện tại-vị lai; lìa ba đời, không lìa ba đời; lìa chư Phật, không lìa chư Phật; lìa các cõi độ, không lìa các cõi, lìa pháp, không lìa pháp. Nếu thông đạt pháp như vậy tức có thể nhiếp hộ chánh pháp. Lúc đó Đức Thế Tôn khen Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ: –Hay thay, hay thay! Đại só! Ông đã khéo nhiếp hộ chánh pháp. Nếu đối với tất cả pháp mà không chấp, không thủ, tức là nhiếp hộ chánh pháp. Nếu đối với tất cả pháp có tướng hý luận mà không chấp thủ, không tập, cho đến tất cả phân biệt biến kế đều không phân biệt. Như vậy mới là nhiếp hộ chánh pháp. Khi ấy, trong hội có một vị Thiên tử tên là Hiền Vương ở trước Phật bạch: –Bạch Thế Tôn! Cận chỉ, Cận tịch là điều mà Thế Tôn đã nói. Theo lời Thế Tôn đã dạy thì tất cả các đối tượng duyên đều tịch chỉ mà không có đối tượng để quán, vì Cận tịch ấy không hòa hợp phát sinh lại các pháp. Tuy pháp Cận tịch vắng lặng, hoàn toàn tịch tónh, nhưng lại nắm giữ chánh pháp của Như Lai và cũng không xả bỏ. Tuy nắm giữ, nhưng đối với tất cả pháp không nắm giữ cũng không xả bỏ pháp nào. Khi vị Thiên tử nói pháp này, trong hội có một ngàn Tỳ-kheo được tâm giải thoát, một ngàn vị Thiên tử được Pháp nhãn tịnh. Lúc đó, Bồ-tát Tịch Tuệ hỏi Thiên tử Hiền Vương: –Làm thế nào để được biện tài? Thiên tử đáp: –Đoạn trừ tất cả tập khí, lìa đường nói năng, không có ký thuyết. Trong Thắng nghóa đế, không có một pháp nào có thể nắm bắt, cho nên được biện tài. Bồ-tát Tịch Tuệ hỏi: –Này Thiên tử! Làm thế nào để phát sinh biện tài? Thiên tử đáp: –Không biện tài, lìa biện tài. Vì sao? Không biện tài ở đây nói là nghóa không hòa hợp. Lìa biện tài ở đây nói là nghóa lìa hý luận. Lại nữa, này thiện nam! Như ông đã hỏi làm sao để được biện tài? Nếu vì người khác mà nêu rõ thức là không chuyển; nếu tự nêu rõ thức cũng không trụ, như vậy mới được biện tài. Nếu đối với các đối tượng duyên dùng ý để nêu rõ, thì lại không chướng ngại. Vì trong pháp tánh không có chỗ trụ, cho nên được biện tài. Lại trong tất cả pháp, trí không có chuyển, không có một pháp nhỏ nào trí có thể biết rõ, cho nên được biện tài. Lại trong pháp không trụ, không xuất, không nhập, siêu xuất các nhiễm pháp, cho nên được biện tài. Lại tất cả pháp không sinh mà sinh, không diệt mà diệt, cho nên được biện tài. Khi ấy Bồ-tát Tịch Tuệ bạch Phật: –Hy hữu thay! Thưa Thế Tôn! Thiên tử Hiền Vương này đầy đủ đại Biện tài. Phật bảo Tịch Tuệ: –Vị Thiên tử Hiền Vương này từ thế giới Cực lạc trong cõi Phật A-súc đến đây, để nghe chánh pháp Bí mật của Như Lai, do Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ nói. Vị Thiên tử này đã được tùy nhập vào tất cả pháp tướng Đà-la-ni, trong trăm kiếp không có cầu nguyện, mà tự nhiên được vô ngại biện tài, tùy nơi mà tuyên nói biện tài vô ngại.  <詞 id="87624666">Phẩm 24: nói thí dụ khen ngợi Công đức tổng trì vô tận (Phần 1) Bấy giờ Bồ-tát Tịch Tuệ bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Thế nào là tùy nhập tất cả pháp tướng Đà-la-ni? Đức Phật đáp: –Này Tịch Tuệ! Tùy nhập pháp tướng nghóa là trí tùy nhập văn tự vô tận. Như chữ A là tùy nhập tất cả pháp. Lại chữ A là phát sinh ra các pháp. Lại chữ A là các pháp đầu tiên sinh ra hậu tế. Lại chữ A đối với tất cả chỗ thành tựu sự nghiệp, tùy khởi ngữ nghiệp, không hiểu biết, không phải là không hiểu biết. Vì chữ A tùy nhập tất cả pháp. Đó gọi là tùy nhập pháp tướng Đà-la-ni-môn. Lại nữa, này Tịch Tuệ! Nói tùy nhập nghóa là đối với tất cả xứ không có một pháp nhỏ như vi trần nào mà có thể xuất, có thể nhập. Do không có văn tự nên từ đâu mà đến, lại nhập vào đâu và trụ vào chỗ nào. Vì trong văn tự không có trụ, nên nó cũng không đi đến đâu cả. Vì văn tự không hòa hợp, tức là không có văn tự mà có thể ký thuyết, cũng không phải là không thuyết, không tăng, không giảm. Vì không có văn tự, cho nên không có pháp này, cũng không có phi pháp mà có thể phân biệt. Vì không có văn tự cho nên không có pháp có thể sinh, không có pháp có thể diệt, không có pháp có thể thành, không có pháp có thể hoại. Tịch Tuệ nên biết! Tính đếm văn tự như vậy tức là tâm tính đếm; nếu tâm tính đếm tức là tất cả pháp tính đếm; nếu tất cả pháp tính đếm tức là không phải tính đếm. Vì sao? Vì pháp không thể tính đếm mà được. Vì pháp không tính đếm mà có thể tính đếm, cho nên tất cả pháp không thể tính đếm được. Như thế, tức là tùy nhập pháp tướng, tùy nhập vô sinh xưa nay như vậy. Nếu nhập vô sinh cũng lại không khởi, đây không có một pháp nhỏ nào mà có thể nhập. Thế nên, các pháp không nhập mà nhập. Này Tịch Tuệ! Nếu có thể nhập vào các tính đếm như vậy, thì đối với biện tài không thể đoạn. Vì sao? Vì pháp tánh không đoạn. Nếu thông đạt như vậy tức là tùy theo sự thích ứng mà vì người khác nói pháp, tùy theo những gì đã được nói ra đó hiện tiền tác chứng. Do tùy nhập vào các pháp tướng như vậy nên tùy nhập vào tướng chúng sinh. Vì tùy nhập vào tướng của chúng sinh nên tùy theo sự tín giải mà khéo nói các pháp. Này Tịch Tuệ! Bồ-tát được Đà-la-ni này rồi tâm ấy lìa cấu bẩn, ý vui thanh tịnh, chánh hạnh thanh khiết. Tâm ấy tối thắng, sự tu hành khéo trụ vào diệu tuệ tối thượng, chứng được thần thông kiên cố viên mãn, không bị quân ma phá hoại, hàng phục ngoại đạo, ngăn chặn phiền não, giải trừ oán kết, thân có sức lực, tâm không mệt mỏi, biện tài vô tận, diễn pháp vô biên, khéo nói vô cùng; thắng trí vô ngại, đầy đủ trí tuệ thậm thâm vi diệu, khéo nói pháp sâu xa, đa văn như biển; trụ Tam-ma-địa như núi Tu-di; tất cả chúng hội như vua sư tử; thế pháp thanh tịnh như hoa sen, trưởng dưỡng chúng sinh như là đại địa; cắt đứt ái phiền não cũng như nước lớn; thành thục chúng sinh như lửa dữ, khởi tâm bình đẳng đối với tất cả chúng sinh cũng như trăng sáng; phá phiền não si ám cũng như mặt trời chiếu; trừ oán phiền não cũng như người có sức mạnh mẽ; khéo điều phục tâm cũng như rồng mạnh; tuyên thuyết pháp âm như sấm sét lớn; rộng thí pháp vũ như trận mưa lớn; trị liệu các bệnh phiền não của chúng sinh như đại y vương; làm đại Pháp vương như vua tự tại; khéo hộ thế pháp như trời Hộ thế; khéo quán trời, người như chúa trời Đế Thích; tâm được tự tại, đầy đủ lực tăng thượng cũng như Phạm vương; không bị trói buộc cũng như chim bay; sợ những nơi ồn ào cũng như nai, khỉ; đối với tất cả chúng sinh nhẫn nhục các ác cũng như mẹ hiền; dạy dỗ trao truyền tài nghệ đa năng, mở các trường học cũng như cha hiền; thí các pháp bảo chảy hoài vô tận như Tỳ-sa-môn Thiên vương; được phước trang nghiêm, đầy đủ các tướng hảo mọi người thích ngắm nhìn sinh tâm hoan hỷ; đầy đủ bảy báu không bị nghèo cùng khốn khổ, nhiếp hóa người vô trí, khen ngợi người trí. Nhờ đầy đủ trí tuệ cho nên lìa các lỗi lầm; khéo hộ chư Thiên, khéo hộ loài Rồng và chúng Dạ-xoa…; nói pháp tự tại thần thông vô ngại, biết rõ được ý vui của tất cả chúng sinh, tùy nhập vào tất cả căn tánh của chúng sinh, nghe pháp không nhàm chán, không mong cầu tất cả danh tiếng, lợi dưỡng, thuyết pháp không keo kiệt. Do không nhiễm trước nên đầy đủ giới thanh tịnh. Do không oán hại nên nhẫn lực thanh tịnh. Khéo hay thành tựu các sự nghiệp, cho nên tinh tấn thanh tịnh. Do được tự tại nên thiền định thanh tịnh. Do trí trong sáng nên thắng tuệ thanh tịnh. Phạm hạnh tối thượng nên đầy đủ bốn vô lượng, khéo tu xuất thế tónh lự đẳng trì, thành tựu Bồ-đề Thánh đạo vô thượng. Do đầy đủ các tướng công đức như vậy, cho nên được quán đảnh Pháp vương vô thượng. Tịch Tuệ nên biết! Bồ-tát được Đà-la-ni, lại còn được vô lượng công đức như vậy. Nếu lại được thần lực gia trì của Như Lai, thì mọi sự nghiệp đều được công đức Đà-la-ni của Bồ-tát, dù có trải qua trăm ngàn năm xưng tán thí dụ cũng không thể hết được. Khi ấy Bồ-tát Tịch Tuệ hỏi Thiên tử Hiền Vương: –Nhân giả! Nay nhân giả chắc chắn được thiện lợi vì đã có thể khen ngợi công đức vô lượng, vô biên của Như Lai. Thiên tử Hiền Vương thưa với Bồ-tát Tịch Tuệ: –Thiện nam! Trong thắng nghóa đế, không có một pháp nhỏ nào được khen ngợi. Vì sao? Vì pháp không có tướng, không phải hình hiển sắc, cho nên không thể khen ngợi hết công đức vô biên ấy. Nếu trong hình hiển sắc ấy quyết định có tướng, thì mới có thể dùng ngôn từ tuyên nói khen ngợi.  Phật nói kinh Đại thừa bí mật chẳng nghó bàn của Như Lai <卷 id="87624667">Quyển 20 <詞 id="87624668">Phẩm 24: nói thí dụ khen ngợi công đức tổng trì vô tận (Phần 2) Khi ấy Thiên tử Hiền Vương bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Tất cả pháp không nhiếp thọ, không ngã, không thủ, không liên tục, không gián đoạn, nhưng lại dùng phương tiện tùy nghi thực hiện. Những người siêng năng tu hành, thì dùng chánh phương tiện hiện tiền được đắc pháp. Bạch Thế Tôn! Ví như dòng nước ngầm dưới mặt đất, con người phải nhờ đến sức lực, ra công đào hầm, hoặc đào giếng, nhờ nỗ lực cho nên lấy được nước. Nếu không đào hầm, đào giếng thì làm sao mà được nước. Người siêng năng dùng phương tiện cũng như vậy, do nỗ lực cho nên bất cứ ở đâu cũng thông đạt thắng trí. Nếu không siêng năng nỗ lực thì trí từ đâu mà có. Thế nên người cầu Bồ-đề phải luôn siêng năng dùng phương tiện phát khởi tinh tấn, thì mới được Thánh pháp ngay trong hiện tiền. Cũng như người mù ở thế gian, không thể thấy được những hình bóng sắc tướng. Chúng sinh bị phiền não che lấp cũng như thế, đối với pháp được sinh ra mà không thể thấy. Ví như người có mắt tại thế gian, ở trong chỗ tối tăm, nếu không có đèn sáng thì không thể thấy bất cứ hình bóng sắc tướng nào. Người tu Thiên nhãn cũng lại như vậy, nếu không có Thiện tri thức thuyết pháp hướng dẫn thì không thể tin hiểu pháp được. Lại như người đầy đủ Thiên nhãn thanh tịnh, không cần phải nhờ đến ánh sáng thế gian soi rọi. Bồ-tát cũng như vậy, việc làm đã xong không cần phải nhờ đến sự hướng dẫn dạy dỗ của người khác. Lại như người thế gian ở trong thai tạng, không thấy được gì cũng không thấy có sự tăng trưởng. Bồ-tát phát khởi tinh tấn cũng lại như vậy, tuy tu pháp Phật, nhưng không thấy Bồ-đề có tăng trưởng. Lại như đại Tuyết sơn vương, có các loại cây sinh sống nơi ấy, các cây ấy không bị phá hoại hay chết khô. Bồ-tát cũng như thế, siêng hành phương tiện, tu các chánh pháp, nương vào trí mà phát sinh, trong đó không bị phá hoại hay giảm mất. Lại như Chuyển luân thánh vương xuất hiện nơi thế gian, bảy báu cũng xuất hiện theo, nào là xe báu, voi báu, ngựa báu, châu báu, nữ báu, chúa tạng thần báu, binh thần báu. Bồ-tát cũng như vậy, nếu phát tâm Bồ-đề thì bảy báu cũng đi theo, nào là Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Thắng tuệ, phương tiện. Lại như Chuyển luân thánh vương thống lãnh bốn đại châu giới, đối với chúng sinh, thương nhớ bình đẳng, không có ý tưởng gì khác. Bồ-tát cũng như vậy, dùng bốn Nhiếp pháp rộng nhiếp chúng sinh không có ý tưởng nào khác. Bốn Nhiếp pháp là Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành và Đồng sự. Lại như Chuyển luân thánh vương đem vương pháp giáo hóa, tất cả đều không chiến đấu tranh tụng. Bồ-tát cũng như vậy, an cư nói pháp không có tất cả việc tà ngoại tranh tụng. Lại như tam thiên đại thiên thế giới trước nhất là thành lập núi đại Tu-di và biển cả. Bồ-tát cũng như thế, mới phát tâm Bồ-đề, trước phải kiến lập đại Bi kiên cố. Lại như mặt trời mới mọc, trước hết là chiếu núi cao. Bồ-tát cũng vậy, trước phát ánh sáng đại trí, khiến các chúng sinh phát khởi căn lành, được ánh sáng trí chiếu soi. Lại như đại địa nhận các hạt giống, tất cả cây cỏ rừng rú, đều nương đất mà sống tươi tốt bình đẳng. Bồ-tát được Đà-la-ni cũng lại như vậy, dùng pháp bình đẳng và tâm không đắm trước đối với tất cả chúng sinh, không có xả bỏ. Lúc đó Đức Thế Tôn khen Thiên tử Hiền Vương: –Hay thay, hay thay! Này Thiên tử! Ông đã khéo thí dụ tuyên nói về các pháp của Bồ-tát. Thiên tử nên biết! Giả sử như tất cả cỏ cây rừng rú, danh tướng đẳng tụ, pháp tụ, thanh tụ và hình sắc tụ, nhập vào khắp tất cả tâm hạnh của chúng sinh, dùng mọi danh tướng phân biệt, để tìm xét khắp tất cả chúng sinh, cho đến sự ăn uống thọ dụng của chúng sinh, đều làm thí dụ xưng dương tán thán. Bồ-tát được Đà-la-ni công đức có được không thể cùng tận. Này Thiên tử! Bồ-tát được Đà-la-ni, dù nói ra một pháp nhỏ nào đi nữa, cũng đều là lời Phật nói. Lại nữa, tất cả ánh quang minh của Sắc tướng, ánh quang minh của thanh, hương, vị, xúc, pháp thảy đều hiện tiền, có đủ biện tài mà không phải nghe và lệ thuộc vào người khác, không quán tướng khác mà nói. Đối với tất cả nơi chốn, nếu vị ấy hướng đến nơi nào thì đều thông đạt vô tận, vô biên, không dùng oai lực đó biến nhập tất cả, thân không thô lỗ, tâm không duyên theo đối tượng, đối với trăm ngàn chư Phật hiện tiền nói pháp vẫn không nhiễm trước. Bồ-tát nhờ oai thần của chư Phật kiến lập được Đà-la-ni, trí tuệ biện tài, nếu như nói pháp thì không có nhiễm trước, cũng không còn thoái chuyển. Này Thiên tử! Bồ-tát có ba pháp không bị đắm trước. Không chấp ngã. Không chấp trước chúng sinh. Không chấp trước pháp. Lại có ba loại thông đạt thanh tịnh. Ba loại ấy là gì? Pháp giới thanh tịnh. Chân như thanh tịnh. Thật tế thanh tịnh. Lại có ba thứ thông đạt vô tận. Ba thứ ấy là gì? Pháp vô tận. Văn tự vô tận. Diễn nói vô tận. Lại có ba thứ được thông đạt lực gia trì. Đó là những gì? Biện tài gia trì. Pháp nghóa gia trì. Nhập pháp gia trì. Lại có ba thứ thành tựu hoan hỷ. Thế nào là ba? Tuệ hoan hỷ. Trí hoan hỷ. Đoạn nghi hoan hỷ. Lại có ba pháp mau chóng. Ba pháp đó là gì? Niệm mau chóng. Tuệ mau chóng. Hành mau chóng. Khi Phật nói pháp công đức tổng trì tán thuyết thí dụ vô tận này, trong hội có tám trăm Bồ-tát được thể nhập Đà-la-ni môn.  <詞 id="87624669">Phẩm 25: CHÚC LỤY CHÁNH PHÁP Bấy giờ, Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ bạch Phật: –Cúi xin Thế Tôn dùng thần lực gia trì khiến cho chánh pháp năm trăm năm về sau được lưu truyền rộng rãi trong Diêm-phù-đề này. Đức Phật bảo: –Này Đại bí mật chủ! Ta có câu thần chú bí mật mật hộ chánh pháp, ông còn nhớ chăng? Câu thần chú ấy, ta xưa từng ở chỗ Đức Bảo nguyệt Như Lai, gần gũi lắng nghe. Bồ-tát Kim Cang Thủ bạch Phật: –Bạch Thế Tôn, con vẫn còn nhớ! Đức Phật bảo: –Này Bí mật chủ! Ông nay nên vì chúng hội này, mật hộ chánh pháp khiến cho tồn tại lâu dài ở thế gian. Vậy hãy nói câu thần chú xưa kia! Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ chắp tay đảnh lễ tất cả chư Phật trong mười phương rồi nói đại thần chú: –Đát nãnh đà. Nhạ dã. Nhạ dã mạt đế. Nhạ dã thiết đỗ lỗ. A lê. A mạt lê. A lỗ lực đế. Mạt di na mạt mạt tán đề. Ô đế. Ô đát mạt đế. Ô đát la ni. A rị a la ma ni. A rị đát ma ni. A mâu lê. Mâu la phược thất đế. Mâu la nỗ nga đế. A trất. Mạt trất. Mạt trất đế. A ni. Mani. Ma ni đế. Khô lỗ. Khô lỗ tán đề. Đạt rị ma. Nỗ nga đế. Đạt rị ma đát sí. Đạt rị ma bát la vó thi. Tát rị. Tát la tát rị. A tỳ nó. Tỳ na tán đề. Y hý. Y hạt nó. Y na nỗ nga di. Nó nga la hý ma la noãn. Nó rị già đát nó để rị tha dã nam. Mâu hạt na đạt rị ma nại vó thi noãn. Vó đà mạt na ngật lê xá nam. Ô nhập phược la na đạt rị ma nó để rị noản. A lạc xoa đạt rị ma cát thể ca nam. A vó thiết na nó rị phược noa tả. Bát la nga la hô mạo đề bát rị tả rị ca nam. Bát rị tam tắc đà bát na bát rị sa na. Ca dạ nỗ bát la na nam. Đạt rị ma thiết la phược ni ca nam. Tam mãn án hạt la đát sưu. Tát miệu nga đa nam. A phược lộ cát nam. Tát miệu cát bát la đế bát na nam. A mục khế bà phược đát sưu. Mãn đát la bát na nỉ ma bát la noa thiểm tô. Mãn đát la tán đề la di na ô na hạt lan noa. Nghê dã na a sô noa đa. A na phược mật rị nãnh đa nó xá na sa bà phược đát sưu. Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ nói câu đại thần chú bí mật ấy xong, tức thời tam thiên đại thiên thế giới đều chấn động, tất cả ma chúng cùng với quyến thuộc trong tam thiên đại thiên thế giới, đồng thời đến chỗ Phật Thế Tôn, đều cúi mình chắp tay đều bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Nếu các Pháp sư nói ra câu đại thần chú này, các ma chúng con đều đến thừa sự cung kính, làm cho đại chú oai lực tối thắng này, tất cả trời, người không thể phá hoại. Chúng con luôn âm thầm hộ vệ, khiến cho tất cả không tìm được sơ hở. Khi ấy Đức Thế Tôn quán sát khắp chúng hội rồi nói câu đại thần chú bí mật: –Nhạ duệ nột rị nhạ duệ. Nhạ dã mạt đế. Thiết di. Thiết đỗ lỗ nó rị già đát nó. A mâu lê. Mâu la bát rị thân nó. Ma la tắc nãnh. Vó đát la tát nó. Mục kết để. Mục kết đa phược đế. Thú đề. A tỳ nó. Bà dã mâu tả nó. Bà lỗ hạt ni. Nam đế vó nại duệ. Vó nãnh bát la ngật la mâu. Rồi nói kệ rằng: Chánh pháp nhiếp phục lời người khác Đem chánh pháp dạy khéo nhiếp thọ Thường hay hộ trì pháp bảo tạng Như Lai đã nói đại thần chú. Lại nói đại chú: –A di. Mạt di. Mạt mạt thân nó. A rị thể. A rị đà nỉ tát đa la ni. Câu đại thần chú này là thần chú triệu mời Tứ Thiên vương. Lại nói đại chú: –Đề rị. Đề la phược đế. Hỗ bát đế. Thú tỳ. Thú bà phược đế. Thiết di. Câu đại thần chú này là thần chú mời triệu chúa trời Đế Thích. Liền nói kệ: Đủ Từ khéo thuận đại nhẫn lực Vì lòng thương xót nói đại chú Hai pháp Hỷ, Xả đều viên mãn Phạm vương, Đế Thích đều triệu mời. Lại nói đại chú: –A la ni. Phược la ni. Kha khê. A mâu lê. Mâu la du đà nó. Câu đại thần chú này là thần chú nhiếp phục các quân ma. Thế Tôn nói kệ: Nay đại thần chú bí mật này Chấn động hàng phục tất cả ma Nhân Trung Thánh chủ lực gia trì Khéo nói kinh này rộng lưu bố Như Lai đã nói chánh pháp này Nên biết về sau khi mạt thế Tuyên nói thần chú mật gia trì Chấn động cũng như ngày hôm nay. Khi ấy chúng ma đều tụ tập, nói kệ: Các Thuyết pháp sư, bậc Đại trí Các ma chúng con phải mật hộ Khiến cho về sau khi mạt thế Chánh pháp này đây mãi lưu truyền. Khi ấy Thế Tôn bảo Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ: –Ông nên biết! Nay chánh pháp này, đã được oai thần của Như Lai gia trì nên không có một người nào ở trong chánh pháp này mà có sự động chuyển. Vì sao? Vì ta nhớ vào thời quá khứ xa xưa, có Đức Phật ra đời hiệu là Bảo Nguyệt Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Thế giới tên là Vô hủy, kiếp cũng tên là Vô hủy. Trong pháp Phật ấy, có hai vi Pháp sư, có đại oai đức danh xưng, thế lực. Một vị tên là Tuệ Thương; một vị tên là Đế Thọ. Hai vị Pháp sư ấy ở chỗ Đức Phật Bảo Nguyệt lắng nghe thọ trì câu đại thần chú này, trọn mãn nửa kiếp, Đức Bảo Nguyệt Như Lai chuyển chánh pháp luân, khiến cho trăm ngàn ức ma chúng trong tam thiên đại thiên thế giới đều thành tựu Thánh pháp Bồ-đề. Bồ-tát Tịch Tuệ bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Đức Bảo Nguyệt Như Lai hiện đang nói pháp, hay là đã Niết-bàn rồi? Đức Phật đáp: –Này Tịch Tuệ! Cách đây trăm vạn ức cõi Phật phương Đông có một cõi Phật tên là Vô hủy, Phật hiệu là Bảo Nguyệt, hiện đang nói pháp. Tuổi thọ của Đức Phật ấy đến mười ngàn kiếp. Trong cõi Phật ấy, có các ma chúng rất hung ác khó điều phục. Nhưng Đức Phật ấy nói câu đại thần chú này, nên bọn chúng đều bị điều phục; được điều phục rồi, tất cả đều thành thục viên mãn pháp Bồ-đề. Này Bí mật chủ nay ông nên biết! Ta cũng từng ở trong giáo pháp của Đức Bảo Nguyệt Như Lai, tu phạm hạnh thanh tịnh, thành tựu Thánh pháp Bồ-đề. Pháp Sư Tuệ Thượng thuở đó nay chính là ta đây, còn Pháp sư Đế Thọ thuở đó, nay chính là Bồ-tát Kim Cang Thủ. Tịch Tuệ nên biết! Thuở đó ta cùng với Bồ-tát Kim Cang Thủ siêng năng tinh tấn, tâm không buông lung. Ta ở chỗ Đức Thế Tôn ấy, tôn trọng cung kính rộng cúng dường, lắng nghe Đức Phật tuyên nói câu thần chú bí mật, hàng phục các ma nhiếp hộ chánh pháp. Lúc đó, Đức Thế Tôn quán sát khắp chúng hội, rồi nói với chúng hội: –Này các nhân giả! Sau khi Như Lai nhập Niết-bàn, ai có thể kham nhận thọ trì, hộ vệ chánh pháp tối thượng Bồ-đề thắng hạnh mà ta đã tích tập trong vô lượng a-tăng-kỳ kiếp không cho diệt mất? Khi ấy, có một vạn hai ngàn Bồ-tát trong hội, vì muốn hộ vệ chánh pháp, nên từ chỗ ngồi đứng dậy chắp tay đảnh lễ hướng lên Phật Thế Tôn nói kệ rằng: Nếu người xả bỏ thân mạng này Xả rồi không cầu các quả báo Chỉ vì thọ trì lời Phật dạy Chánh pháp thanh tịnh thật tối thượng. Lại có năm ngàn vị Thiên tử thuộc chúng Hiền vương chắp tay đảnh lễ, đến trước Đức Phật bạch: –Bạch Thế Tôn! Chúng con đều nguyện thọ trì Thánh pháp Bồ-đề của Như Lai. Các Thiên tử liền nói kệ: Rộng vì tất cả mọi chúng sinh Phát khởi tâm đại Bi kiên cố Con sẽ thọ trì pháp môn này Tối thượng thậm thâm Phật đã nói. Khi ấy vua trời Đế Thích, Phạm vương Thi-khí, Tỳ-sa-môn Thiên vương nói kệ: Nay chánh pháp này như thuốc hay Trị liệu tất cả bệnh chúng sinh Đương lai chúng con đều hộ trì Xin Phật biết tâm ý chúng con. Lúc bấy giờ Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ ở trước Đức Phật bạch: –Bạch Thế Tôn! Con cần phải thọ trì Thánh pháp Bồ-đề Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác mà Đức Như Lai đã tích tập trong vô lượng kiếp. Rồi nói kệ: Các pháp xưa nay không văn tự Nhưng lại mượn văn tự để nói Thánh Tôn thương xót nên tuyên bày Con nên thọ trì truyền lưu mãi. Lúc đó Đức Thế Tôn bảo Phạm vương Thi-khí: –Phạm vương nên biết! Bồ-tát có ba loại thừa sự cúng dường tối thượng. Đức Như Lai cũng từ việc thừa sự cúng dường tối thượng mà được phước vô lượng. Một là phát khởi tâm hướng đến quả vị Giác ngộ; hai là giữ gìn chánh pháp của chư Phật; ba là tùy theo pháp mà do mình đã nghe tu hành như thật. Này Đại phạm! Ba việc cúng dường tối thượng như vậy. Như Lai trụ một kiếp cho đến kiếp tận, hoặc sống đến vô lượng, phước báo cúng dường đó, dù có nói rộng ra cũng không thể hết được. Vì sao? Vì nếu người muốn cúng dường cho các Đức Như Lai một cách tối thượng, thì nên tu ba pháp cúng dường thanh tịnh rộng lớn tối thượng này. Lại nữa, này Đại phạm! Nếu có người đối với chánh pháp mà Như Lai đã nói, thọ trì một trong bốn câu kệ, thì tức là hộ trì Thánh pháp Bồ-đề của chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại. Vì sao? Vì chư Phật là từ pháp mà phát sinh giác ngộ. Thế nên, cúng dường Pháp siêu xuất hơn sự cúng dường tiền tài ở thế gian. Pháp cúng dường là tối thắng tối thượng đệ nhất trong các việc cúng dường tối thắng. Này Đại phạm! Ta nhớ thời quá khứ trong dòng họ Quang Minh Vương, có một thái tử tên là Cụ Tuệ, trong một đêm nọ chợt mộng nghe nói hai bài kệ, nghe rồi ghi nhớ, đến khi thức giấc suy nghó: “Ta nay được bảo tàng lớn”, liền la lớn lên rằng: “Ta nay được bảo tàng lớn.” Lúc đó, vua cha và mẫu hậu hỏi lý do. Thái tử liền trình bày đầy đủ việc trên rồi nói lại hai bài kệ cho cha mẹ nghe: Tài bảo thế gian trụ rồi tan Vua quan, nước, lửa, giặc, trộm cắp Chư Phật đa văn diệu pháp tài Dẫu trăm ngàn kiếp không hoại mất. Pháp cam lộ thường không phóng dật Phát tâm Bồ-đề lợi chúng sinh Tâm vắng lặng kiên cố cũng thế Không chấp vào cái vui tầm thường. Đại phạm! Khi thái tử nói lại hai bài kệ trong mộng cho cha mẹ nghe, có tám ngàn người thành thục tâm Bồ-đề, bốn vạn hai ngàn chúng sinh được sinh Thiên. Vì lý do đó, cho nên nơi nào có đa văn thanh tịnh pháp tài, thì phải siêng năng tinh tấn nương pháp mà tu hành chánh pháp, thì mới có thể nhiếp thọ người khác. Lại nữa, này Đại phạm! Có hai pháp có thể làm nhiều việc. Một là không khởi lên sự tổn hại đối với tất cả chúng sinh. Hai là siêng cầu đa văn không biết nhàm chán. Nếu ai có thể hành trì hai pháp này, thì đối với Chánh pháp nhãn tạng không bị đoạn diệt. Này Đại phạm! Ông ở nơi chư Phật trong hiền kiếp khuyến thỉnh thuyết pháp, hộ trì chánh pháp. Chư Phật Như Lai trong hiền kiếp ấy, nếu có chúng sinh thanh tịnh thì mới gặp Phật xuất thế. Thế nên, nay ông chớ nên nhàm chán. Vì sao? Này Đại phạm! Trong thời ác trược, nếu có người thọ trì chánh pháp trong một ngày đêm, thì được phước nhiều hơn người thọ trì chánh pháp trăm ngàn kiếp ở cõi Phật thanh tịnh. Thế nên, này Đại phạm! Ông nên phát khởi sức tinh tấn rộng lớn, trong thời ác trược, hộ trì kiên cố chánh pháp của Như Lai. Đức Thế Tôn quay sang bảo Tôn giả A-nan: –Nay ông nên thọ trì kiên cố Bộ Nhạ-la Đà-la-ni môn, phẩm Như Lai Bí Mật Kim Cang Thủ, vào đời mạt thế về sau vì người khác mà rộng tuyên nói. Ta nay đem chánh pháp này phó chúc cho ông, trong đời mạt thế đối với những chúng sinh tin hiểu yếu kém thì không nên nói pháp môn này, khiến họ si mê. Vì sao? Vì đối với chánh pháp này không thấu hiểu được tận nguồn gốc của nó. Nếu có người tự tại trong chánh pháp, đã thành tựu các sự nghiệp tối thắng, người ấy là pháp khí, thì nên đem chánh pháp này trao truyền cho họ, nghe rồi mà không sinh kinh sợ. Vì sao? Vì phát sinh chánh pháp vậy. Lúc đó Tôn giả A-nan ở trước Đức Phật bạch: –Bạch Thế Tôn! Nay con nhờ oai lực của Thế Tôn, thọ trì pháp này tùy theo khả năng mà tuyên nói lưu bố. Đức Phật bảo A-nan: –Ông nay có thấy Đại só Bồ-tát Kim Cang Thủ siêng năng hộ trì chánh pháp của Phật không? A-nan bạch Phật: –Con đã thấy, thưa Thế Tôn! Đức Phật bảo A-nan: –Nay ông cũng nên như vậy, đối với chánh pháp này tùy nghi mà nhiếp thọ, hộ trì kiên cố, tùy ứng mà tuyên nói. A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Kinh này tên là gì? Và chúng con thọ trì như thế nào? Đức Phật bảo A-nan: –Kinh này gọi là phẩm Kim Cang Thủ; cũng gọi là Tuyên Thuyết Bí Mật Như Lai; cũng gọi là Pháp Phật Chẳng Nghó Bàn; cũng gọi là Vô Lượng Phước Tụ. Những danh tự như vậy ông nên nghi nhận. Lại nữa, này A-nan! Nay ông nên biết! Nếu có người trụ Bồ-tát thừa, dùng mắt Phật mà quán sát, có người đem các châu báu đầy các cõi Phật, cho đến chứa từ đất lên tới đảnh, đem ra bố thí khắp tất cả, mà không mong báo đáp lại. Nếu lại có người không đem tâm tài lợi, làm theo điều thiện vì người khác diễn nói chánh pháp này, phước của người này hơn người kia. Đây gọi là Như Lai Bí Mật Vô Lượng Phước Tụ. Khi Phật nói phẩm Chúc lụy này, trong hội có ngàn ức người phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ, chín vạn sáu ngàn Bồ-tát được pháp nhẫn, tám vạm bốn ngàn người được Pháp nhãn tịnh, một ngàn sáu trăm Tỳ-kheo tâm được giải thoát, một ngàn sáu trăm Tỳ-kheo-ni cũng được tâm giải thoát. Mười phương vô lượng cõi Phật thảy đều chấn động, trăm ngàn trời, người ở trong hư không trổi các Thiên nhạc, mưa xuống các hoa đẹp cúng dường rồi đồng nói như vầy: –Mong sao chánh pháp này tồn tại mãi ở thế gian, lưu truyền rộng rãi ở cõi Diêm-phù-đề này. Phật nói kinh này xong, Đại bí mật chủ Bồ-tát Kim Cang Thủ và Bồ-tát Tịch Tuệ… cùng các chúng Bồ-tát, Hiền Vương…, các chúng Thiên tử, vua A-xà-thế… các đại Quốc vương, cùng các Bồ-tát khác, A-nan và các đại Thanh văn, cho đến tất cả thế gian, Trời, Người, A-tu-la, Càn-thát-bà… nghe Phật nói đều sinh tâm hoan hỷ tín thọ phụng hành.   Đây là quyển trong bản đời Minh, dùng để đối chiếu bản Tống và bản Nguyên. <釋 n="2">11. Sáu tướng chấn động: 1. Động: rung động; 2. Chấn: vang động; 3. Hống: gầm rống; 4. Dũng: vọt lên; 5. Bộc: nổ.