<經 id="n310">KINH ĐẠI BẢO TÍCH <卷 id="86423641">QUYỂN 1 <卷 id="86423642">Hán dịch: Đời Đại Đường, Tam tạng Pháp sư Bồ-đề-lưu-chí. Pháp hội 1: BA LUẬT NGHI (Phần 1) Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ Đức Phật ở núi Kỳ-xà-quật nơi thành Vương xá. Núi đó cao đẹp, cỏ cây hoa quả đều xanh tốt sum suê. Chúng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Tỳ-xá-bà, Khẩn-na-la… thường ở nơi đó. Trong núi lại có các loài như sư tử, cọp, sói, kỳ lân, voi, ngựa, gấu… Núi này có đủ các loài như chim công, chim két, nhồng, sáo, le le, chim nhạn, chim uyên ương, chim cộng mạng… Các loài chim muông trong núi nhờ oai thần của Phật nên tất cả đều không bị tham dục, sân, si làm não hại, chẳng giết hại ăn thịt nhau, thương yêu nhau như tình mẫu tử. Những cây mộc hương, cây am-ma-la, cây chân-thúc-ca, cây ni-câu-đà, cây chiên-đàn, cây trầm thủy mọc rậm thành rừng. Khắp núi đầy những hoa đẹp. Trên đất có những hoa như: a-đề-mục-đa, chiêm-bà, ba-tra, bà-sư-ca, tô-mạn-na, do-đề-ca. Dưới nước có những hoa sen xanh, hoa sen đỏ, hoa sen vàng, hoa sen trắng, hoa ca-la-sa, hoa ma-ha ca-la-sa. Màu hoa hương hoa xen nhau làm cho núi Kỳ-xà-quật vừa đẹp, vừa thơm diệu kỳ. Trên núi này, nửa đêm thường có mây bao phủ, văng vẳng tiếng sấm, lất phất mưa bay, nước tám loại công đức chảy thấm nhuần khắp núi. Trong chốc lát, mây mưa đều tan. Kế đó một cơn gió thoảng làm mát cả lòng người khiến thân tâm đều nhẹ nhàng thư thái. Trong núi ấy, nơi ở của chúng sinh và các loại cây quý tươi sáng như vòng hoa đẹp, muôn màu muôn vẻ, nguồn nước trong vắt hơn nước suối nguồn, khiến màu sắc càng đẹp hơn gấp bội. Trong núi này có loại cỏ dịu mềm đủ cả sắc lẫn hương, xanh mướt bóng láng như lông ức chim công, thơm như hoa bà-sư-ca, chạm đến mịn nhuyễn như bông đâu-la. Do đó mặt đất mềm dịu, làm êm chân người đi không bao giờ đau rát. Khi dẫm lên cỏ lún xuống, khi giở chân lên cỏ trở lại như cũ như tấm thảm xanh mướt. Trong núi có nhiều ao, hồ, suối chảy. Giữa nước trong mát đủ các loại hoa sen màu xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, tía, màu pha lê, màu vàng lửa… lớn như bánh xe mọc lên hương sen ngào ngạt khắp núi. Đỉnh núi có tòa sen báu lớn tốt đẹp, kim cương xanh làm cọng, lưu ly làm tua, vàng diêm-phù-đàn làm cánh rộng lớn, chiên-đàn làm gương, ngọc mã não làm nhụy. Tòa sen báu này to rộng mênh mông như biển lớn. Mười ức A-tu-la vương thường cầm mười ức lưới báu ma-ni nhiều màu giăng che phía trên bảo tòa. Mười ức Long vương rưới mưa thơm. Mười ức Kim sí điểu vương miệng ngậm giải lụa màu. Mười ức Khẩn-na-la vương chí thành chiêm ngưỡng. Mười ức Ma-hầu-la-già vương cung kính cúi nhìn. Mười ức Càn-thát-bà vương ca ngâm khen ngợi. Mười ức trăm ngàn đại Thiên đế bủa mây lành, rải các thứ hương bột, hương đốt, y phục, các thứ hoa, cùng tràng phan bảo cái. Mười ức Phạm vương cúi mình kính ngưỡng. Mười ức trời Tịnh cư chắp tay đảnh lễ. Mười ức Chuyển luân vương mang theo bảy loại báu đến núi ấy. Mười ức Hải vương rời biển lớn đến kính lễ bảo tòa. Tòa sen báu này lại có vô số châu báu như ý kết hợp trang nghiêm, mười ức bảo châu Quang minh ma-ni chiếu sáng, mười ức bảo châu Tịnh phước ma-ni xinh đẹp, mười ức bảo châu Biến chiếu ma-ni trong sạch, mười ức bảo châu Diệu quang ma-ni chói rỡ, mười ức bảo châu Tạp sắc ma-ni chiếu khắp, mười ức bảo châu Diêm phù tràng ma-ni vững vàng, mười ức bảo châu Kim cang sư tử ma-ni trang nghiêm, mười ức bảo châu Nhật tạng ma-ni rộng lớn, mười ức bảo châu Bất tư nghì ma-ni ánh đủ màu, mười ức bảo châu Như ý trang nghiêm vô tận. Bảo tòa liên hoa này từ nơi căn lành vô thượng của Đức Như Lai, là chỗ mà chí ý của Bồ-tát ái mộ khắp hiện các nơi. Bảo tòa này cũng từ pháp như huyễn mà có, cũng từ nghiệp lành, từ pháp tánh vô tránh, pháp tánh như mộng mà có. Pháp vô hành dùng để ấn. Thuận với lý vô trước, nên cùng khắp mười phương tất cả pháp giới. Do công đức thuận với cảnh giới Phật mà tạo nên. Giả sử trong vô lượng a-tăng-kỳ kiếp cũng không thể ca ngợi hết sắc tướng xinh đẹp và công đức trang nghiêm của tòa sen báu này được. Bấy giờ, Đức Thế Tôn ngồi kết già trên bảo tòa ấy. Bên bảo tòa có tám ngàn vị đại Tỳ-kheo đều hội họp như Tôn giả Kiều-trần-như, Tôn giả A-tháp-bà, Tôn giả Ma-sử-ba và các Tôn giả Ma-ha-nam, Ưu-đà-di, Gia-xá, Phú-na, Vô Cấu, Thiện Tý, Kiều-phạm-ba-đề, Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp, Già-da Ca-diếp, Na-đề Ca-diếp, Ma-ha Ca-diếp, Xá-lợi-phất, Đại Mục-kiền-liên, A-na-luật, Tu-bồ-đề, Ly-bà-đa, Phú-lâu-na Di-đa-la-ni Tử, Ưu-ba-ly, La-hầu-la, Nan-đà…, các vị Tỳ-kheo hàng đầu này đều đã giác ngộ đế lý tự tánh, hiện chứng thật tế, nhập bản tánh pháp, ra khỏi biển ba cõi. Các vị đi trong hạnh hư không của Như Lai, đều dứt hẳn phiền não, đều trụ nơi vô trụ, thực hành pháp không tịch tónh, dứt hết nghi hoặc đối với Đức Như Lai. Các vị đã vào trong biển trí tuệ của Phật, là bạn đem lại lợi ích cho thế gian. Các vị luôn hộ vệ tất cả chúng sinh, làm bạn đi sát theo họ. Các vị đã thông đạt cảnh giới Phật pháp. Các vị thệ nguyện hộ trì chánh pháp của chư Phật, hiện tiền được sinh chủng tánh Như Lai có thể hướng đến Nhất thiết chủng trí. Lại có tám ngàn vị Đại Bồ-tát đều hội họp. Đứng đầu là các vị: Bồ-tát Phổ Hiền, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, Bồ-tát Tối Thượng Trí Trí, Bồ-tát Tối Thượng Bảo Trí, Bồ-tát Nhất Thiết Ngữ Ngôn Trí, Bồ-tát Vô Trước Trí, Bồ-tát Hoa Thượng Trí, Bồ-tát Nhật Thượng Trí, Bồ-tát Nguyệt Thượng Trí, Bồ-tát Vô Cấu Thượng Trí, Bồ-tát Kim Cang Trí, Bồ-tát Viễn Trần Trí, Bồ-tát Quang Tràng, Bồ-tát Diệu Cao Tràng, Bồ-tát Bảo Tràng, Bồ-tát Vô Ngại Tràng, Bồ-tát Hoa Tràng, Bồ-tát Tịnh Tràng, Bồ-tát Nhật Tràng, Bồ-tát Đoan Nghiêm Tràng, Bồ-tát Ly Cấu Tràng, Bồ-tát Biến Chiếu Tràng, Bồ-tát Đà-la-ni Oai Đức, Bồ-tát Bảo Oai Đức, Bồ-tát Đại Oai Đức, Bồ-tát Kim Cang Trí Oai Đức, Bồ-tát Vô Cấu Oai Đức, Bồ-tát Nhật Oai Đức, Bồ-tát Nguyệt Oai Đức, Bồ-tát Phước Sơn Oai Đức, Bồ-tát Trí Chiếu Oai Đức, Bồ-tát Phổ Thắng Oai Đức, Bồ-tát Địa Tạng, Bồ-tát Hư Không Tạng, Bồ-tát Liên Hoa Tạng, Bồ-tát Bảo Tạng, Bồ-tát Nhật Tạng, Bồ-tát Thanh Tịnh Công Đức Tạng, Bồ-tát Pháp Hải Tạng, Bồ-tát Biến Chiếu Tạng, Bồ-tát Tề Tạng, Bồ-tát Thắng Liên Hoa Tạng, Bồ-tát Nhật Nhãn, Bồ-tát Tịnh Nhãn, Bồ-tát Vô Cấu Nhãn, Bồ-tát Vô Ngại Nhãn, Bồ-tát Phổ Minh Nhãn, Bồ-tát Thiện Lợi Trí Nhãn, Bồ-tát Kim Cang Nhãn, Bồ-tát Bảo Nhãn, Bồ-tát Hư Không Nhãn, Bồ-tát Phổ Nhãn, Bồ-tát Thiên Quan, Bồ-tát Chiếu Pháp Giới Ma-ni Quan, Bồ-tát Diệu Bồ-đề Ma-ni Quang, Bồ-tát Chiếu Thập Phương Quan, Bồ-tát Xuất Hiện Nhất Thiết Phật Tạng Quan, Bồ-tát Siêu Nhất Thiết Thế gian Quan, Bồ-tát Phổ Chiếu Quan, Bồ-tát Vô Ánh Tể Quan, Bồ-tát Chấp Trì Như Lai Sư Tử Tòa Quan, Bồ-tát Phổ Chiếu Pháp Giới Hư Không Quan, Bồ-tát Phạm Vương Kế, Bồ-tát Long Vương Kế, Bồ-tát Nhất Thiết Phật Biến Hóa Ảnh Tượng Kế, Bồ-tát Diệu Bồ-đề Kế, Bồ-tát Nhất Thiết Nguyện Hải Âm Thanh Ma-ni Vương Kế, Bồ-tát Phóng Nhất Thiết Như Lai Viên Quang Ma-ni Bảo Lôi Thanh Kế, Bồ-tát Nhất Thiết Hư Không Vô Sai Biệt Biểu Thị Ma-ni Bảo Võng Phú Kế, Bồ-tát Nhất Thiết Như Lai Pháp Luân Thanh Kế, Bồ-tát Nhất Thiết Tam Thế Danh Luân Thanh Kế, Bồ-tát Đại Quang, Bồ-tát Vô Cấu Quang, Bồ-tát Bảo Quang, Bồ-tát Ly Trần Quang, Bồ-tát Pháp Quang, Bồ-tát Tịch Tónh Quang, Bồ-tát Nhật Quang, Bồ-tát Thần Biến Quang, Bồ-tát Thiên Quang, Bồ-tát Phước Quang, Bồ-tát Trí Quang, Bồ-tát Pháp Quang Minh, Bồ-tát Thần Thông Quang, Bồ-tát Quang Chiếu, Bồ-tát Hoa Quang, Bồ-tát Giác Quang Minh, Bồ-tát Phạm Quang, Bồ-tát Phổ Chiếu Quang, Bồ-tát Phạm Âm, Bồ-tát Hải Âm, Bồ-tát Địa Hống Âm, Bồ-tát Thế Gian Vương Âm, Bồ-tát Sơn Vương Âm, Bồ-tát Sơn Vương Tướng Kích Âm, Bồ-tát Biến Pháp Giới Âm, Bồ-tát Nhất Thiết Pháp Hải Lôi Âm, Bồ-tát Tồi Phục Chư Ma Âm, Bồ-tát Đại Bi Lý Thú Vân Lôi Âm, Bồ-tát Biến Tức Nhất Thiết Thế Gian Khổ Não Âm, Bồ-tát Pháp Thắng Dũng, Bồ-tát Thù Thắng Dũng, Bồ-tát Trí Thắng Dũng, Bồ-tát Phước Tu-di Thắng Dũng, Bồ-tát Công Đức Tối Thắng Dũng, Bồ-tát Danh Văn Thắng Dũng, Bồ-tát Phổ Quang Thắng Dũng, Bồ-tát Đại Từ Thắng Dũng, Bồ-tát Trí Chiếu Thắng Dũng, Bồ-tát Như Lai Chủng tánh Thắng Dũng, Bồ-tát Quang Đức, Bồ-tát Thắng Đức, Bồ-tát Pháp Dũng Đức, Bồ-tát Biến Chiếu Đức, Bồ-tát Pháp Đức, Bồ-tát Nguyệt Đức, Bồ-tát Hư Không Đức, Bồ-tát Bảo Đức, Bồ-tát Thật Đức, Bồ-tát Quang Đức, Bồ-tát Trí Đức, Bồ-tát Bà-la-đế Vương, Bồ-tát Pháp Đế Vương, Bồ-tát Tượng Đế Vương, Bồ-tát Phạm Đế Vương, Bồ-tát Sơn Đế Vương, Bồ-tát Chúng Đế Vương, Bồ-tát Thiên Đế Vương, Bồ-tát Tịch Tịnh Đế Vương, Bồ-tát Bất Động Đế Vương, Bồ-tát Tối Thắng Đế Vương, Bồ-tát Bồ-đề Tịch Tónh Thanh, Bồ-tát Vô Trước Thanh, Bồ-tát Địa Thanh, Bồ-tát Đại Hải Thanh, Bồ-tát Âm Thanh, Bồ-tát Chiếu Pháp Thanh, Bồ-tát Hư Không Thanh, Bồ-tát Nhất Thiết Thanh, Bồ-tát Thiện Căn Lôi Thanh, Bồ-tát Phát Ngộ Bản Nguyện Thanh, Bồ-tát Tồi Nhất Thiết Ma Quân Thanh, Bồ-tát Trí Tu-di Giác, Bồ-tát Hư Không Giác, Bồ-tát Thanh Tịnh Giác, Bồ-tát Vô Ngại Giác, Bồ-tát Khai Ngộ Giác, Bồ-tát Chiếu Tam Thế Giác, Bồ-tát Bảo Giác, Bồ-tát Quảng Đại Giác, Bồ-tát Phổ Quang Giác, Bồ-tát Pháp Giới Lý Thú Chiếu Giác,… Các vị Đại Bồ-tát này đều an trụ hạnh nguyện Phổ Hiền, chỗ làm không trụ trước, vì biến khắp tất cả cõi Phật. Các vị biến hiện vô biên thân, vì gần gũi tất cả chư Phật. Các vị duyên cảnh giới thanh tịnh vô hạn, vì rõ biết tất cả thần biến của chư Phật. Các vị đến đi vô lượng, vì không ngớt qua đến chỗ chư Phật hiện thành Chánh đẳng giác. Các vị có ánh sáng lớn vô biên, vì trong biển thật tướng của tất cả pháp được trí ánh sáng vô biên. Các vị nói vô tận công đức trong vô biên kiếp, vì biện tài thanh tịnh. Các vị đồng hư không, vì trí sở hành cảnh thanh tịnh. Các vị không tựa nương chỗ nào, vì tùy ý lạc thế gian mà hiện sắc thân. Các vị xa lìa được sự ràng buộc che lấp, vì rõ biết không có chúng sinh giới. Các vị trí tuệ như hư không, vì phóng lưới quang minh khắp pháp giới. Các vị rốt ráo tịch tónh, vì tâm rất tịch tónh. Các vị trụ cảnh giới tánh trí tất cả Tổng trì. Các vị dũng mãnh vô úy nơi chánh định. Các vị mắt thấy suốt ngằn mé pháp giới. Các vị trụ vô sở đắc đối với tất cả pháp, dạo đi nơi biển trí vô biên, đã qua đến bờ trí tuệ Bát-nhã ba-la-mật-đa, đến Ba-la-mật-đa của tất cả thế gian, được tự tại nơi chánh định Ba-la-mật-đa. Lại có năm trăm vị Tỳ-kheo-ni cùng hội họp Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề, Tỳ-kheo-ni Cù-đàm-di, Tỳ-kheo-ni An Ổn, Tỳ-kheo-ni Ưu-bát-la Hoa, Tỳ-kheo-ni Dũ-cù-đàm-di, Tỳ-kheo-ni Gia-du-đà-la… làm thượng thủ. Lại có năm trăm vị Ưu-bà-tắc đều hội họp, hàng thượng thủ là các Ưu-bà-tắc: Thiện Oai Đức, Tuệ Quang, Thiên Oai Đức, Danh Xưng Oai Đức, Siêu Danh Xưng Oai Đức, Thiện Tuệ, Nguyệt Đức, Nguyệt Hoan Hỷ, Đại Hoan Hỷ, La Hầu Hiền, Đại Hiền… Lại có năm trăm vị Ưu-bà-di đến hội, dẫn đầu là các vị Ưu-bà-di Đại Quang, Thiện Quang, Thiện Thân, Khả Lạc Thân, Hiền Đức, Nguyệt Quang, Quang Minh, Thắng Quang, Thiện Nhãn… Và có vô lượng Trời, Rồng, tám bộ chúng cung kính hầu quanh Đức Phật. Đức Phật vì đại chúng mà nói ba luật nghi, luật tạng của tất cả Như Lai, hiện bày công hạnh của tất cả Bồ-tát, chiếu rõ pháp giới đi vào các pháp môn, có thể trang nghiêm tất cả cõi Phật, dẹp các tà luận, hàng phục ma oán, làm cho chúng sinh vui mừng, chỉ bày tâm loạn trược của hữu tình, tùy theo ý chúng sinh mà tuyên thuyết, khai thị soi chiếu các của chúng sinh khiến họ được tỏ ngộ. Lúc đó Tôn giả Đại Ca-diếp đứng dậy để hở vai áo bên phải, quỳ chắp tay bạch: –Bạch Thế Tôn! Nếu chúng sinh muốn cầu được mười Trí lực, bốn Vô sở úy của Phật, thì phải thọ trì và tu hành pháp gì? Thọ trì pháp gì để được tăng trưởng thành tựu đạo hạnh của Như Lai? Thọ trì pháp gì để được viên mãn công đức chứng Vô thượng Chánh giác? Đức Phật bảo Đại Ca-diếp: –Lành thay! Lành thay! Này Ca-diếp! Ông nay vì muốn làm an ổn, lợi ích cho thế gian trời và người nên mới có thể hỏi Phật việc như vậy. Ông lắng nghe kỹ và khéo suy nghó ghi nhớ. Ta sẽ vì ông mà phân biệt nói rõ. Tôn giả Đại Ca-diếp và đại chúng vâng lời dạy lắng nghe. Đức Phật bảo Ca-diếp: –Này Đại Ca-diếp! Nếu chúng sinh muốn cầu được Trí lực, Vô sở úy của Phật, những chúng sinh này, thật ra không có chút pháp gì để được, cũng không chỗ nương tựa để gieo căn lành. Này Đại Ca-diếp! Lúc Bồ-tát cầu Vô thượng Chánh giác, nếu có chỗ được đều là chấp trước. Nếu chấp trước là chấp lấy hữu vi ngoài Phật pháp, ngoài hữu vi chấp lấy vô vi. Như thế là đối với Phật pháp sinh sự chấp trước mà cho là giải thoát. Lúc chấp lấy giải thoát thì nắm cứng lấy Phật pháp chẳng bỏ rời. Nên biết người như vậy chẳng gọi là hướng đến đạo Vô thượng. Vì sao? Vì người này ở trong Phật pháp chấp có ngã mà chuyên cần tu tập, đó là vì luôn tương ưng với ngã chấp mà không lìa bỏ được, cũng chính là năng phân biệt và sở phân biệt. Do năng phân biệt và sở phân biệt đó mà bị nó làm hại. Khi đã bị nó làm hại thì rong ruổi chạy theo sự phân biệt. Nếu theo sự phân biệt để duyên cảnh thì có lưu chuyển; đã có lưu chuyển thì có quán xuyên; đã có quán xuyên thì có vọng tưởng; có vọng tưởng thì có phân biệt, do phân biệt càng thêm vọng tưởng; đã thêm vọng tưởng thì nhiều chấp trước mà lìa xa tịch tónh; đã lìa tịch tónh thì chạy theo cảnh duyên; đã chạy theo cảnh duyên thì có rong ruổi loạn động; đã có rong ruổi loạn động thì có mất mát hư hoại. Thế nào là mất mát hư hoại? Đó là mất sự an ổn. Thế nào là an ổn? Đó là vô phân biệt. Đã mất sự an ổn thì thường vào cảnh duyên; đã thường vào cảnh duyên thì hay thân cận; đã thân cận thì có phiền não; đã có phiền não thì có tương tục, có thêm lớn tương tục, có cùng khắp tương tục. Do đây lời nói tất cuồng loạn, tất sai lầm, liền có ưu não, có hối hận. Đã có hối hận thì nương tựa vô minh mà bị ưu não làm tổn hại. Nhưng thật ra trong đây không có chút pháp gì có thể nương tựa được. Dù vậy, do từ vọng tưởng sinh lưu trú mà bị vọng tưởng ràng buộc. Do sự ràng buộc này mà vọng tưởng tương tục, do đây nên gọi là vọng tưởng ràng buộc không có chân thật. Tất cả chỗ tham, sân, si đều hư vọng, là thêm phân biệt, là phân biệt khắp, là thêm chấp trước, là chấp trước khắp. Do đó không thể sớm được Vô thượng Bồ-đề. Này Ca-diếp! Như trên đây gọi là ái xứ. Thế nào gọi là ái xứ? Không có pháp nhất định gọi đó là ái, gọi là ái giả, gọi là ái xứ sở. Tuy nhiên có ái chỉ do chấp trước quá bền chắc. Khi gọi là chấp trước quá bền chắc thì là hư không ái. Nếu hư không ái sinh chấp trước thì người đó sẽ sinh ái chấp trước, là ngã ái chấp trước, là chúng sinh ái chấp trước, là thiện bất thiện ái chấp trước. Này Ca-diếp! Người như vậy, đối với tất cả pháp không mà phân biệt là chẳng phải không, đối với chẳng phải vật mà tưởng là vật. Thế nào là vật? Vật nói đây chính là Bồ-đề. Nếu cho Bồ-đề là vật, người đó do ngã tưởng mà có hữu ngã tưởng thì chẳng phải Bồ-tát. Sự chấp trong kia cũng là chẳng thể nắm bắt được, đây gọi là ngã chấp không chân thật, chỉ có danh từ ngã mà thôi. Nếu có thể viên mãn hữu tình thì viên mãn Bồ-đề. Thế nào gọi là viên mãn Bồ-đề? Chính là như huyễn. Thế nào gọi là như huyễn? Như huyễn đây là nói đại ngã, đại mạng. Nếu đem tưởng nương nơi tưởng, thì khác nào chẳng phải tưởng nương nơi chẳng phải tưởng. Nếu đem chẳng phải tưởng nương với chẳng phải tưởng thì như cuồng, như say. Nếu cuồng say là đem khổ chạy theo khổ. Nếu đem khổ chạy theo khổ thì chư Phật nói đó đều là kẻ ở trong vòng cuồng ngôn rảo chạy. Vì sao gọi là kẻ cuồng ngôn rảo chạy? Vì kẻ này nhiều tác ý. Đã nhiều tác ý thì có cống cao. Đã có cống cao thì có ngôn thuyết. Đã có ngôn thuyết thì càng thêm ngôn thuyết. Vì thêm nhiều ngôn thuyết, nên Phật gọi là kẻ ngôn thuyết, kẻ giáo thọ, kẻ thọ trì. Do đây nên các pháp đều từ tác ý mà được sinh trưởng. Này Đại Ca-diếp! Như trong hư không có mây nhóm giăng, mây này chẳng từ mười phương đến. Biết rõ mây nhóm như vậy chẳng phải từ mười phương, Đức Như Lai nói đúng sự thật, nói đúng nghóa, nói đúng lý. Vì nói đúng lý chân thật, nên Đức Như Lai gọi là Đấng Thật Ngữ. Này Đại Ca-diếp! Nói mây nhóm, chính là chẳng phải nhóm mà gọi là mây nhóm. Do đâu gọi là mây nhóm? Vì mây kia mỗi loại đều kết thành tướng trạng riêng biệt. Thế nào gọi là mỗi loại đều kết thành tướng trạng riêng biệt? Các loại tướng trạng ấy đều do sự mê lầm thấy là rộng lớn, thật ra trong đó không có tướng nhỏ, tướng lớn thật. Ông nhìn xem mây nhóm thành tướng rộng lớn kia, chính là chẳng phải tướng. Đã chẳng phải tướng thì chẳng thật có mây nhóm. Này Đại Ca-diếp! Như có kẻ bảo người khác rằng: “Nên cùng nhau qua chỗ râm mát mà ngồi.” Người trí bảo: ‘Tôi chẳng qua ngồi.” Kẻ kia nói: “Nay tôi chẳng nói như vậy, tôi chỉ nói là bóng râm mát.” Người trí lại bảo: “Anh nói râm mát chính nơi đó chẳng phải râm mát.” Này Đại Ca-diếp! Ông xem người trí kia thuận theo thế tục mà còn có thể tỏ ngộ như vậy. Này Đại Ca-diếp! Đức Như Lai đúng như thật biết rõ lý tánh chân thật của các pháp, rồi ở trong đại chúng tự tại tuyên thuyết. Này Đại Ca-diếp! Đức Như Lai thích ở trong pháp tùy thuận mà trụ nơi chẳng tùy thuận. Nơi ngã chấp của chúng sinh, ở Như Lai là Đệ nhất nghóa. Vì sao? Vì nay Đức Như Lai đã biết rõ ngã chấp kia, biết rõ sự chấp của chúng sinh là chẳng phải chấp. Đây là lời bí mật tối thắng của Đức Phật. Hoặc có kẻ ngu sinh lòng ngang trái tranh cãi với Đức Như Lai, do đây Phật nói thế gian tranh cãi với Phật, Phật chẳng bao giờ tranh cãi với thế gian. Thế nào là thế gian? Chính là chúng sinh. Tại sao chúng sinh gọi là thế gian? Đức Như Lai biết rõ thế gian như vậy nên gọi chúng sinh là thế gian. Như kẻ ngu kia chỗ hiểu biết sai lầm, bị sự biết sai này làm tổn hại. Những kẻ này thường tin và ở mãi trong thế gian, theo mãi nơi thế tục, đây gọi là vô minh. Vì sao? Vì họ ở trong sự tối tăm lớn nên gọi là ở thế gian; Nếu ở thế gian thì có tham; nếu đã có tham thì có sân; nếu đã có sân thì có si; nếu đã có si thì là bất tịnh; đã bất tịnh thì trái ngược. Trái ngược với ai? Trái với Như Lai và hàng Thanh văn. Đã trái ngược thì chống trả; đã chống trả thì thêm trái ngược. Thêm trái ngược thì thích hữu lậu; đã thích hữu lậu thì tâm mong cầu. Đã mong cầu hữu lậu thì mong cầu khắp; đã mong cầu khắp thì chẳng biết đủ; đã chẳng biết đủ thì nhiều gây tạo; đã nhiều gây tạo thì nhiều tham dục; đã nhiều tham dục thì kẻ đó chìm ngập trong ba cõi; đã tự chìm ngập trong ba cõi thì làm cho người khác cũng chìm ngập; đã làm người khác chìm ngập thì họ theo dòng và cũng trôi theo dòng; nếu theo dòng và trôi theo dòng thì thẳng đến chỗ chết; nếu thẳng đến chỗ chết thì chẳng đến được Niết-bàn; đã chẳng đến Niết-bàn thì đến chỗ lỗi quấy; đã đến chỗ lỗi quấy thì thẳng đến địa ngục. Này Đại Ca-diếp! Do tương ưng với pháp chẳng lành như vậy nên tâm trở thành giận hờn độc hại và chẳng biết che đậy. Chẳng che đậy đây là nói chẳng quán ngã chấp. Vì chẳng quán sát nên chấp làm một hợp tướng, do đây không thể tiêu diệt được ngã và ngã sở. Thế nào gọi là ngã chấp? Vì chấp trước chẳng đúng thật, ở nơi các thứ vọng tưởng tạo những nghiệp thế gian. Nơi đây họ chấp ngã tướng cho là ngã. Thế nào là ngã sở? Chính do tham dục gọi là ngã sở. Do các cảnh dục hòa hợp với thân mà có tâm tham. Đã có tâm tham thì hư hoại giới tụ. Do đây sinh tâm chẳng lành đối với sở hữu của người khác. Do giận hờn mà khinh khi hủy báng lẫn nhau. Thâu lấy tài vật làm sở hữu của mình rồi ôm ấp giữ gìn, chính đây gọi là ngã sở. Người có ngã sở thì có lưu chuyển; đã có lưu chuyển thì có mê lầm;. đã có mê lầm thì có phỉ báng; đã có phỉ báng thì có giận hờn; đã có giận hờn thì có giết hại; đã có hại nhau thì bị sự hại này đốt cháy; đã bị đốt cháy thì có khắp đốt cháy. Những lỗi trên đây đều do lòng tham dục nơi sở hữu, như nam nữ tưởng, mạng tưởng, nên gọi là ngã sở. Do những nghóa trên đây nên nói ngã sở thì đã là mắng nhiếc thân mình. Tất cả kẻ ngu đều lấy chấp ngã làm pháp của mình, cho nên gọi đó là ngã sở. Này Đại Ca-diếp! Nếu có chúng sinh chẳng nghe pháp này mà nói Bồ-đề và Bồ-tát hạnh tức là phi hạnh. Nên biết Bồ-tát hạnh thật không có chỗ thực hành mới chính là Bồ-tát hạnh. Này Đại Ca-diếp! Nếu Bồ-tát công hạnh viên mãn không kém, không thiếu, thanh tịnh, rất thanh tịnh, khắp thanh tịnh, thì có thể tuyên thuyết Đại pháp này, gọi là bậc có thế lực, bậc dũng mãnh tinh tấn. Chỗ thuyết pháp của Bồ-tát này đồng với hư không, chẳng chứa đọng, chẳng trệ ngại. Người làm đúng lý, người có công đức, người khéo tu hành, trọn chẳng bao giờ làm điều phi lý, không công đức, chẳng tu hành. Các ông phải thọ trì pháp này. Ở trong pháp này chớ sinh lòng chấp trước. Vì sao? Vì pháp của Như Lai nói là đệ nhất. Vì là bâïc căn tánh tối thượng thưa hỏi, nên ta đem Thắng pháp mà giải thuyết. Thế nào là Thắng pháp? Chính là không pháp chấp. Này Đại Ca-diếp! Bồ-tát như vậy hộ trì đầy đủ tịnh giới ban đầu, tâm chẳng cống cao, chẳng tạo nghiệp vô gián, chẳng phạm Tỳ-kheo-ni, chẳng gần gũi thế tục, không sát sinh, không trộm cắp, không dâm dục, không nói dối, không nói lời thêu dệt, không nói hai lưỡi, không nói lời ác và lìa bỏ tham dục, sân hận, tà kiến. Bồ-tát này chẳng tự não hại cũng chẳng não hại người khác, chẳng chung cùng với cảnh dục cũng chẳng thọ dục, chẳng bài bạc cũng chẳng bảo người. Bồ-tát này trọn chẳng gần gũi kẻ hai căn, chẳng đến nhà dâm nữ, đàn bà góa, chỗ có người nữ, chẳng gần gũi vợ người cũng chẳng gần gũi kẻ lưới chim bắt cá, kẻ săn bắn và Chiên-đà-la, chẳng đấu tranh và chẳng nắm tay người uống rượu. Bồ-tát lìa xa những việc trên đây như tránh chó điên cùng kẻ sát nhân. Do có lòng Từ nên đối với tất cả chỗ xa lìa trên, Bồ-tát không bao giờ sinh một niệm ác. Có hai mươi chỗ Bồ-tát phải xa lìa. Hai mươi chỗ đó là gì? 1. Đó là Bồ-tát xa lìa người nữ cũng chẳng cùng họ đùa cợt nói thô nói tục, chẳng cùng họ luận bàn cãi cọ. 2. Đối với cha mẹ và Tam-bảo, Bồ-tát tránh lỗi chẳng cung kính. 3. Chẳng thuyết pháp cho nhóm người nữ dưới số hai mươi, trừ khi có người nam. 4. Hoàn toàn chẳng đến hội thuyết pháp của chúng Tỳ-kheo-ni, cũng chẳng nên thăm hỏi các Tỳ-kheo-ni. 5. Chẳng viết thư từ cho người nữ. 6. Nếu vì người khác đem thư cho người nữ thì phải giao cho người chồng chớ trao cho vợ. 7. Thân tộc có mời riêng đều chẳng nhận không luận lúc nào. 8. Chẳng bao giờ có dục tâm ở trước người nữ dầu trong giây lát. 9. Lại cũng chẳng nên rời chỗ ở của mình đến chỗ khuất chuyện vãn với người nữ. 10. Chẳng cùng Tỳ-kheo-ni đi chung đường. 11. Chẳng lãnh y phục của Tỳ-kheo-ni bố thí, trừ lúc vì bốn chúng thuyết pháp. 12. Lúc được thí y, nên có quan niệm như mặt đất hứng chịu đồ vật rồi sau sẽ lãnh lấy y phục, chẳng nên nhìn riêng mặt của người bố thí. 13. Nếu nghe có Tỳ-kheo-ni khuyên người thí y phục thì chẳng nên nhận. 14. Nếu Tỳ-kheo-ni mời ăn uống, dù có bệnh cũng chẳng nhận huống là lúc không bệnh. 15. Nếu có đàn bà góa đến mời ăn, Tăng số chẳng đủ thì cũng chẳng thọ. 16. Cũng chẳng nên vào trong chúng Tỳ-kheo-ni. 17. Chẳng nên kêu Tỳ-kheo-ni đến. 18. Nếu Tỳ-kheo-ni đến kêu Bồ-tát, thì phải vòng tay ngước đầu quay lưng lại bỏ đi. 19. Lúc Bồ-tát thuyết pháp, nếu có Tỳ-kheo-ni đến đảnh lễ dưới chân, thì chớ động chân, mắt nên nhìn ngay hai bàn tay. 20. Bồ-tát chẳng nên chỉ nơi thân tu tập tinh tấn, mà tâm cũng phải siêng cần chánh niệm. Đối với tất cả cảnh duyên chớ sinh lòng tham, sân. Nên phát thệ nguyện vững chắc để cầu nhất thiết chủng trí. Khi được nghe pháp này rồi phải có lòng tin và nên siêng tu học. Này Đại Ca-diếp! Nếu có thiện nam hay thiện nữ muốn hướng đến Bồ-tát thừa, vừa nghe được pháp này nếu không có lòng tin thiết thực sâu chắc, thì hoàn toàn chẳng thể được Vô thượng Chánh giác. Vì sao? Vì do tu học mới chứng được quả Bồ-đề, chẳng phải không tu học mà có thể chứng được. Nếu không tu tập mà chứng được Bồ-đề, thì những loại mèo, thỏ… lẽ ra cũng được chứng. Tại sao? Phải có chánh hạnh mới chứng được Bồ-đề. Nếu không chánh hạnh mà vẫn được Bồ-đề, thì ngôn thuyết tiếng tăm lẽ ra cũng chứng được Bồ-đề. Ngôn thuyết ấy như vầy: “Ta sẽ là Phật! Ta sẽ là Phật!” Do lời nói ấy vô biên chúng sinh sẽ thành Chánh giác. Này Đại Ca-diếp! Chúng sinh nào tu học được hạnh này thì đáng gọi là hy hữu. Bởi vì chuyên chú nhất tâm trong một ngày đêm còn không thể được, huống là suốt một kiếp cho đến ngàn kiếp, vì thế Đức Như Lai xuất hiện ra đời là việc rất khó. Giả sử tất cả chúng sinh trong đại thiên thế giới đồng vì một chúng sinh trải qua trăm ngàn kiếp mà bảo rằng: Ngươi nên làm Phật! Ngươi phải làm Phật! Rồi đồng vây quanh lên tiếng xướng rằng: “Sẽ được thành Phật! Sẽ được thành Phật!” Bảo và xướng luôn như vậy không xen hở vẫn không thể nên được tâm Bồ-đề ban đầu, huống là có thể chứng quả vị Giác ngộ. Trong thời kỳ mạt pháp, sau khi ta diệt độ, các ông cũng đã nhập Niết-bàn, chư Thiên lại chẳng tin, chẳng hộ trợ, lúc đó có nhiều chúng sinh nghe công đức của Phật mà phát tâm Bồ-đề. Hoặc có hàng Tỳ-kheo dù đã phát tâm Bồ-đề nhưng vẫn phạm hai mươi lỗi trên. Này Đại Ca-diếp! Như hiện nay hàng đa văn Tỳ-kheo ở chỗ tịch tónh, hoặc ở xóm làng, siêng tu chánh pháp, thì đời mạt pháp sau này các Tỳ-kheo ở chỗ tịch tónh, hoặc ở xóm làng trái lại phạm lỗi cùng các Tỳ-kheo-ni hội họp luận bàn vấn đáp pháp nghóa. Các Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni này phần nhiều sinh nhiễm tâm, ít có người sinh pháp tâm. Này Đại Ca-diếp! Ông quan sát hạng người đó được tên Bồ-tát mà sa vào chỗ rất nguy hiểm thẳng đến ác thú. Trong thời kỳ mạt pháp đó, ban đầu họ vì pháp duyên mà gần gũi nhau, do thường thấy nhau nên lửa dục nhen nhúm trong lòng, động nơi môi miệng để nêu bày niệm dục. Ban đầu họ gần nhau như đệ tử cung kính A-xà-lê. Từ đó về sau họ sai người hỏi han thăm viếng rồi lần lần hẹn gặp nhau ngoài đường ngoài ngõ, kế đến trong chùa đứng xa liếc ngó nhau. Trong lúc ra vào họ hỏi thăm nhau, kết làm anh em, chị em. Vì họ thường gặp nhau nên sinh nhiễm tâm, đã có nhiễm tâm nên cùng nhau làm sự ô uế. Đã làm sự ô uế nên dùng danh từ chẳng phải phạm hạnh để kêu gọi nhau. Do đây họ thoái thất tâm Bồ-đề, mất quả lành, xa Niết-bàn, bỏ Phật, trái Pháp, chán Tăng. Những người này ở chỗ khuất sinh những niệm tưởng tham dục, sân hận, não hại. Những người này không có thắng nghiệp của Bồ-tát và bốn hạnh thanh tịnh. Như hiện nay, các Bồ-tát chuyên cần tu phạm hạnh, trái lại, đời mạt pháp sau này phần nhiều sinh lòng tham dục, sân khuể, não hại, trụ trong chủng loại ác hạnh, tặc hạnh, kiêu hạnh. Này Đại Ca-diếp! Ông quan sát đời vị lai những người phá hủy cấm giới nghe kinh này liền sinh lòng phỉ báng. Nếu có người đã trụ nơi giới để hành bố thí, sinh hoan hỷ phát tâm Bồ-đề, lúc sau nghe kinh này trở lại sinh lòng hủy báng. Này Đại Ca-diếp! Ông quan sát tướng mạo đó ở đời vị lai và nhớ thật kỹ. Nếu có người nghe kinh này mà sinh lòng hủy báng, có người trí ở trong chúng tu hành tịnh giới, thọ trì chánh pháp biết Tỳ-kheo ấy chẳng thực hành đúng pháp như trong kinh này đã nói, phải liền lánh xa. Vì hạng Tỳ-kheo này không có lòng mến ưa và kính trọng chánh pháp.  KINH ĐẠI BẢO TÍCH <卷 id="86423643">QUYỂN 2 Hán dịch: Đời Đại Đường, Tam tạng Pháp sư Bồ-đề-lưu-chí. <詞 id="86423644">Pháp hội 1: BA LUẬT NGHI (Phần 2) Này Đại Ca-diếp! Đời mạt pháp sau này có người dối bày tu hạnh Bồ-tát, sống phóng dật mà tự khoe khoang rằng hơn bậc Độc giác và A-la-hán. Những người này phi pháp, phi lý, không thể chữa trị được, họ sẽ đọa ác thú. Này Đại Ca-diếp! Đời mạt pháp sau này có người thực hành tà nghiệp, vì thuyết pháp mà đi khắp nơi. Họ chỉ thực hành những hạnh gần giống với sáu pháp Ba-la-mật-đa. Nếu có người đúng như thật giảng nói kinh này thì bị họ ganh ghét bỏ rơi. Đối với kinh này, họ sinh tà kiến hủy báng. Những người ngu si này chẳng rõ biết kinh này mà quở trách phá giới. Lại nữa, họ đã chẳng giữ gìn lời nói mà còn chẳng giữ gìn ba nghiệp của mình. Này Đại Ca-diếp! Đời mạt pháp sau này đều bị tặc hạnh làm ô uế, nên những người ngu si đây chẳng suy nghó lỗi quấy của mình, có thể phá hoại Vô thượng Bồ-đề. Do ôm ấp tội lỗi nên họ thẹn mà hủy báng quả vị Giác ngộ mà Đức Thế Tôn đã chứng. Này Đại Ca-diếp! Đời vị lai sau này nhiều Tỳ-kheo chẳng tùy thuận Tăng chúng, chẳng biết báo ân, mà thực hành khai phát. Thế nào là khai phát? Đó là khai phát trên người bằng những lời như: “Như Lai nói điều này”, thường dùng lời khôn khéo dối gạt mọi người để được cúng dường. Họ chẳng giữ gìn lời nói, chê trách giới biệt giải thoát của Như Lai. Chẳng nhiếp oai nghi, ở chỗ bất tịnh, rồi vì những người ở chỗ bất tịnh mà giảng nói những pháp môn. Này Đại Ca-diếp! Ta quan sát vào thời kỳ đó những pháp môn sai quấy có đến số năm trăm. Những người chẳng tu hành sẽ thường tùy thuận theo. Do đây, năm trăm phiền não của họ không một chút giảm bớt. Những việc làm của họ không khác người thế tục. Lần lần hàng phụ nữ có nhiều người bỏ chồng vào chùa để nghe pháp. Các Tỳ-kheo vì họ mà giảng nói pháp tương tợ Niết-bàn. Thời kỳ đó có những sự rất đáng sợ như vậy, mà họ lại ở trong đó mong cầu được lợi ích. Vì những cớ trên đây, nên người cầu đạo Bồ-đề chẳng nên gần gũi các Tỳ-kheo-ni, cũng chẳng nên làm những hạnh như vậy. Phải tránh tất cả sự giao du, bỏ các lợi dưỡng mà đi khất thực; bỏ y phục ưa thích mà mặc y phẩn tảo; bỏ tất cả lầu đài, phòng nhà, giường nệm chăn gối, mà ở bên khe suối, trong hang hóc, dưới bóng cây; xa y só thuốc men mà dùng thuốc cũ mốc. Rõ biết tất cả chúng sinh là thân thuộc đời trước của mình nên thật hành tâm đại Từ bi, thường phải cam chịu sự đánh đập mắng nhiếc, không bao giờ đánh đập mắng nhiếc người khác. Tránh xa tất cả nhà quyến thuộc, nhà thí chủ thân hữu. Phải tùy thuận trí hạnh xuất gia, chẳng nên đồng với người thế tục. Thường phải tùy thuận phụng trì giáo pháp Ba-la-đề-mộc-xoa. Này Đại Ca-diếp! Trong thế gian nếu có người sinh quan niệm trái với giới Biệt giải thoát, thì chính là móng lòng trái với Trí lực, Vô sở úy của Phật. Đã sinh lòng trái với Trí lực, Vô sở úy là sinh lòng trái với chư Phật ba đời. Do đây đời vị lai họ sẽ mang lấy quả báo khổ sở vô lượng. Khổ báo của họ trăm ngàn muôn ức lần cho đến ưu-ba-ni-sa-đà lần hơn sự đau khổ của tất cả chúng sinh của tam thiên đại thiên thế giới ở địa ngục. Nếu muốn khỏi sự khổ não như vậy, thì phải tránh xa những hạng Tỳ-kheo ác hạnh ấy. Giả sử đã cách xa họ ngàn do-tuần cũng còn phải tránh xa thêm, huống là gần họ. Nếu nghe tên của họ còn phải quên bỏ, huống là thấy mặt nghe tiếng mà chẳng tránh xa, do vậy phải nên quen gần một pháp. Thế nào là một pháp? Chính là tất cả pháp đều không chỗ có. Nếu được trí nhẫn các pháp không chỗ có, thì chẳng cần gần gũi, tôn thờ cúng dường những Tỳ-kheo ác như vậy. Lại phải thân cận hai pháp; là hai pháp nào? Một là cầu ngộ chứng các pháp vốn không chỗ có; hai là cầu ngộ chứng pháp tánh nhưng cũng chẳng nên sinh tâm mong cầu. Phải cầu thế nào? Như chỗ mong cầu đều chẳng thể nắm bắt được. Trong cái chẳng thể nắm bắt chẳng nên sinh tâm chẳng thể nắm bắt, như là chẳng sinh tà kiến. Được như vậy thì lìa được tất cả tâm trong ba cõi mà thuận Bồ-đề hạnh, lìa được tất cả tâm hữu tướng mà thuận Bồ-tát hạnh. Chính những điều đã nói trước kia là Bồ-tát hạnh. Do đây nên khi được nghe pháp này rồi cần phải xa lìa tà hạnh. Được như vậy thì sẽ được gần gũi phụng thờ Đức Phật Di-lặc vị lai. Người này tâm chẳng cống cao, cũng chẳng ty liệt, tự thấy sung sướng an vui được ra khỏi lưới ma và ác đạo. Này Đại Ca-diếp! Đời sau nếu có người nghe kinh điển này mà chẳng sợ hãi và thấy thân mình tùy thuận theo những điều đã dạy trong đó, lại có thể phát tâm thọ trì, Phật thấy rõ người này quyết định sẽ hộ trì chánh pháp. Này Đại Ca-diếp! Như ông trưởng giả giàu có lớn, con trai ông thấy những đồ vật trong nhà cho đến chậu đựng nước đều nghó là của cha mình. Về sau khi trưởng giả chết, tài sản hư hao, con trai ông tình cờ thấy chậu đựng nước, liền nhớ là vật của cha mình mà lấy cất hoặc đem theo. Này Đại Ca-diếp! Đời sau này các Tỳ-kheo cũng như vậy. Họ được nghe kinh này, liền nghó rằng đây là những lời từ Phạm âm nhu nhuyến vi diệu của Đức Như Lai nói ra. Lại có Tỳ-kheo nghe xong liền phỉ báng. Tỳ-kheo trì pháp đính chính với hàng Tỳ-kheo hủy báng rằng kinh này quả thật là của Đức Như Lai nói. Tỳ-kheo trì pháp này chúng ít yếu thế nên đem kinh điển này cất giữ ngày đêm và bị nhiều người phỉ báng! Này Đại Ca-diếp! Hạng Tỳ-kheo trì pháp đời sau này, ta thấy và biết rõ, ta đem họ giao phó cho Phật Di-lặc, và sẽ là những người bảo vệ chánh pháp của Như Lai trong thời kỳ cuối cùng, sau đó sẽ là bậc Đại thí chủ vô ngại. Này Đại Ca-diếp! Nếu người nào được nghe pháp này, tùy theo trí tuệ của mình mà tu hành, làm cho chúng sinh có chánh kiến và chánh tín thì đời vị lai được gặp Phật Di-lặc, trong pháp hội ban đầu đầy đủ phạm hạnh và cũng sẽ bảo vệ chánh pháp trong thời kỳ cuối cùng. Này Đại Ca-diếp! Ta quan sát khắp tất cả không có người nào không gần gũi ta mà chẳng hủy báng và sau khi nghe kinh điển này lại thọ trì đọc tụng trong thời kỳ năm mươi năm ở đời sau này là điều không thể có được. Trong thời kỳ đó, nếu người nào được gặp thân ta và kính thờ cúng dường, trong năm mươi năm ở đời sau này, sẽ thọ trì đọc tụng được kinh điển đây. Những người này chẳng đợi ta tán thán công đức, họ sẽ tự thành tựu Nhất thiết chủng trí. Lúc đó những người này sẽ nhớ đến ta, lòng họ vui mừng tự nói: Rất lạ kỳ, rất hy hữu! Đức Phật Thích-ca Mâu-ni khéo nhiếp thọ, hộ niệm chúng tôi. Này Đại Ca-diếp! Vì lẽ trên đây, các ông và mọi người phải học pháp này. Người học pháp này thời sự chứng được tất cả công đức, theo chỗ nguyện cầu đều không khó đối với họ. Đại Ca-diếp bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Việc làm của con đã trọn, đã xong, không còn cầu mong gì khác. Đối với pháp này con thoái thất đạo Vô thượng Bồ-đề. Con rất biết đủ, trọn không thể thành Nhất thiết chủng trí. Bạch Thế Tôn! Vô thượng Bồ-đề là sự quá hy hữu, hàng Thanh văn chúng con khó chứng được. Phật bảo Đại Ca-diếp: –Ta chẳng phải vì ông mà nói pháp này. Nhưng nay do ông hỏi nên ta vì người khác mà giảng nói. Đối với pháp này ông chớ sinh lòng nghi. Các ông cũng sẽ sớm chứng được Vô thượng Bồ-đề. Này Đại Ca-diếp! Nếu có chúng sinh khao khát pháp này, mong cầu pháp này, lần lần đều sẽ chứng Vô thượng Bồ-đề. Khi đã chứng được liền vì dứt tất cả tâm mong cầu nên tuyên nói chánh pháp cho chúng sinh. Này Đại Ca-diếp! Bồ-tát phải thành tựu bốn pháp và phát tâm tinh tấn. Những gì là bốn pháp? Tinh tấn như thế nào? Nghóa là chẳng cầu sắc, thọ, tưởng, hành, thức mà cầu pháp vô lậu, chính là không địa, thủy, hỏa, phong giới chẳng nói địa, thủy, hỏa, phong giới. Bao nhiêu ngôn thuyết đều gọi là phương tiện biểu thị. Những pháp biểu thị này đều chẳng phải có thật. Bồ-tát chẳng nên cho pháp biểu thị là chân thật. Đại Ca-diếp bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Đối với Như Lai chúng con thật sự không nghi ngờ. Nếu có người hỏi rằng pháp biểu thị đây nếu chẳng phải chân thật, thì âm thanh ngôn thuyết biểu thị của Phật cũng là hư vọng ư? Bạch Thế Tôn! Nếu có người hỏi như vậy, thì phải đáp thế nào? Đức Phật dạy: –Này Đại Ca-diếp! Đời vị lai có hàng Tỳ-kheo chẳng tu thân, giới, tâm và tuệ, nhiều sân hận, lời nói thô xẵng, không thể thọ trì, đọc tụng kinh điển này. Vì sao? Vì họ ở nơi sắc, thọ, tưởng, hành, thức mà sinh tâm. Hạng Tỳ-kheo ấy trụ trong pháp biểu thị kinh điển này mà như trụ trong sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Lại có một hạng Tỳ-kheo trụ nơi pháp tại gia, không cầu mong thắng nghóa. Như người mù lòa lấy tràng hoa bằng vàng đội lên đầu để trang sức mà họ chẳng tự thấy được. Đời sau này, hàng Tỳ-kheo này cũng như vậy. Họ nghe kinh điển đây còn chẳng thọ trì được văn tự ngôn thuyết, huống là có thể tu và chứng nhập thắng nghóa! Như bọn trẻ thơ bị người lớn la rầy quở mắng, lúc sau nghe đến tên người lớn, bọn trẻ thơ này đều sợ hãi. Hàng Tỳ-kheo sau này cũng như vậy, nghe trong kinh này cứ theo sự thật mà nói những điều lỗi lầm, họ đã chẳng ăn năn mà trở lại sợ hãi đối với kinh này. Như cột con ễnh ương nơi tay khỉ, mà con khỉ này chẳng quay mặt ngó đến. Hàng Tỳ-kheo đời sau này cũng như vậy. Họ nghe kinh điển đây liền chống trái chẳng đoái hoài đến cũng chẳng chịu đứng ở trước. Như chồn cáo bị chó đuổi chạy đến gò mả, vào hang sâu, xuống hầm sâu. Hàng Tỳ-kheo đời sau này cũng như vậy, họ nghe kinh điển đây bèn trốn tránh. Trên đây nói chồn cáo chạy là nói phạm giới cấm rồi hủy báng kinh này. Họ đã nghe kinh này mà bỏ đạo về nhà chạy theo cảnh dục, theo phụ nữ, theo đấu tranh, theo y thuật, theo xử đoán, rồi ở trong đó phạm nhiều cấm giới. Ta nói những người này như chồn chạy vào gò mả. Những người này sau khi chết đọa ác đạo, như chồn chui xuống hang. Những người này sẽ sa địa ngục, như chồn rớt xuống hầm sâu. Những người này trọn nên pháp tắc của chồn cáo, không thể ngộ nhập kinh điển này, chỉ có thể hủy báng và ca ngợi những lỗi lầm. Sau khi chết họ sẽ đọa đại địa ngục. Này Đại Ca-diếp! Như có người hỏi: “Nếu phương pháp biểu thị không phải chân thật, thì ngôn thuyết của Như Lai cũng chẳng chân thật. Còn nếu pháp biểu thị của Phật là chân thật, thì các pháp biểu thị cũng phải đều chân thật?” Người trí nên gạn lại họ rằng: “Nay Đại đức chấp lấy sự gì? Là chấp lấy không, hay chấp lấy pháp biểu thị?” Nếu họ nói là họ chấp lấy pháp biểu thị, thì nên bảo họ rằng Đại đức là Phật. Vì sao? Vì Đại đức có ngôn thuyết biểu thị pháp. Nếu họ nói là họ chấp lấy không, thì nên bảo họ chỉ rõ chấp lấy những không gì? Vì sao? Vì không thể lời nói gọi là không. Nếu họ chấp lấy biểu thị cho là không, hoặc nơi ngã, ngã sở, chúng sinh, thọ giả, chẳng phải không mà chấp là không, thì hỏi họ có thích tất cả pháp không chăng? Nếu họ nói là chẳng thích, thì nên bảo họ rằng từ lâu ông đã quên mất bổn phận Sa-môn Thích tử. Vì sao? Vì Đức Phật dạy tất cả là không, là vô ngã. Đức Phật chẳng nói có ngã, chúng sinh, thọ giả, hữu tình. Nếu họ nói rằng họ thích tất cả pháp không, thì nên bảo họ rằng lòng họ còn thích tất cả pháp không, huống là Đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác. Lại nữa, này Tôn giả! Nhãn là Như Lai hay nhó, tỷ, thiệt, thân, ý là Như Lai? Nếu họ nói rằng: Nhãn, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý là Như Lai, thì nên bảo họ rằng: Nay người cũng là Như Lai. Nếu họ nói nhãn, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý chẳng phải Như Lai, thì nên bảo họ rằng: Nhân giả! Người nói nhãn, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý biểu thị chẳng phải Như Lai, thế thì chẳng phải biểu thị chính là Như Lai vậy. Lẽ nào tôi chẳng hiểu chỗ này sao? Nếu họ nói nhãn, nhó… chẳng phải Như Lai, cũng chẳng phải rời nhãn, nhó… có Như Lai, thì nên bảo họ rằng: Đức Như Lai nói mười hai xứ: nhãn, nhó…; sắc, thanh,… đây chính là chúng sinh và là danh tự chúng sinh. Nay Nhân giả cho nhãn là Như Lai hay chẳng phải là Như Lai? Cho đến đến pháp là Như Lai hay chẳng phải là Như Lai? Nếu họ nói nhãn là Như Lai, cho đến pháp là Như Lai, thì nên bảo họ rằng cứ như lời Nhân giả nói thì tất cả chúng sinh và núi, rừng, cây, đất lẽ ra là Như Lai cả. Nếu họ nói nhãn chẳng phải là Như Lai, cho đến ý chẳng phải là Như Lai, thì nên bảo họ rằng cứ như lời Nhân giả thì Như Lai cũng chính là pháp và phi pháp? Nếu họ lại nói sắc chẳng phải là Như Lai, cho đến pháp chẳng phải là Như Lai, thì nên bảo họ rằng nếu như vậy có lẽ cho phi pháp là Như Lai chăng? Nếu họ nói cho rằng phi pháp là Như Lai, thì nên bảo họ rằng nếu như vậy thì những chúng sinh chẳng hiếu thảo với cha mẹ, chẳng kính trọng bâïc Sa-môn, Bà-la-môn và Sư trưởng, những kẻ sát sinh, trộm cướp cho đến tà kiến… lẽ ra là Như Lai cả. Nếu họ nói chẳng phải phi pháp là Như Lai, thì nên bảo họ rằng nếu chẳng phải phi pháp là Như Lai thì không có biểu thị. Nhân giả cho rằng cái không thể biểu thị là Như Lai ư? Này Đại Ca-diếp! Nên vấn đáp như vậy để chiết phục kẻ ngu si. Ta không thấy trong loài người hay cõi trời có ai đối luận được với người nói đúng pháp như vậy. Chỉ trừ hạng ngu si, sân hận không nhận lấy pháp đúng thật. Dù có vì họ mà khai thị, họ vẫn không có lòng tin, họ chê bai pháp Không mà bỏ đi. Này Đại Ca-diếp! Các ông phải thọ trì kinh này. Đời vị lai sau này, có các Tỳ-kheo thọ trì kinh điển đây sẽ có ba danh từ để biểu thị, chính là nói đoạn diệt: không vật, không uẩn và không cung kính. Kinh điển này sẽ bị họ hủy báng. Các ông xem vào thời kỳ đó, họ chẳng kính Phật, chẳng kính pháp. Họ chỉ theo danh tự biểu thị. Họ luống mang danh từ là Tăng mà không có thật đức. Dù họ xưng niệm danh hiệu của Phật, có người khai thị, họ cũng chẳng hiểu được. Như thế thì làm sao phụng trì Như Lai được. Dù họ thuyết pháp, mà họ chẳng biết được ý thú của Như Lai. Như thế thì làm sao được gọi là thuyết pháp giới. Cả bốn đôi tám chúng Thanh văn đệ tử Phật chỉ biết danh từ kia, mà chẳng biết thật nghóa đối với công đức kia. Họ vì bốn sự cúng dường mà hủy báng chánh pháp. Các Bồ-tát phải tinh tấn thọ trì, đọc tụng kinh điển này, hết lòng mến ưa tôn trọng, để làm người bảo hộ thành trì chánh pháp sau này. Này Đại Ca-diếp! Ta nhớ thuở quá khứ cả chín mươi mốt kiếp, thời kỳ không có chánh pháp, kinh điển này không có lưu hành. Ta lại nhớ thuở quá khứ có Đức Phật Hưu Tức Nhiệt Não trụ thế tám muôn bốn ngàn kiếp giáo hóa Bồ-tát, lợi ích chúng sinh. Ta lại nhớ thuở quá khứ có Đức Vô Biên Lực Như Lai trụ thế hai mươi ức kiếp, thực hành Bồ-tát đạo hai mươi ức kiếp, rồi sau mới chứng Vô thượng Bồ-đề. Này Đại Ca-diếp! Ông xem chư Phật tu tập biết bao nhiêu là công hạnh khó làm để lợi ích cho chúng sinh. Này Đại Ca-diếp! Đời trược ác mạt thế này, chúng ta không nên khinh tiện thân mình. Vì sao? Vì trong đời trược ác, cho đến có một người có thể với ta mà tin hiểu pháp này thì là rất hy hữu. Tất cả chúng sinh không làm tổn hại ta cũng là hy hữu. Vì sao? Vì pháp này là pháp lành của bâïc Trượng phu, nghóa là đối với các hành pháp mà không chấp lấy hành pháp, đây là khó hiểu khó biết. Nếu thấy có ngã kiến, chúng sinh kiến, thọ giả kiến, hữu tình kiến; nếu y theo các uẩn khởi thấy là có giới, có đa văn, có Phật, có Pháp, có Niết-bàn; nếu chấp có Niết-bàn thì Phật gọi đó là tà kiến. Vì sao? Vì chính Đức Phật đối với Niết-bàn vẫn không phân biệt và không có chỗ đắc. Do đây nếu có phân biệt cùng có chỗ đắc đối với Niết-bàn, Đức Phật đều gọi là tà kiến. Đã là tà kiến thì gọi là vô trí, đã là vô trí thì tổn hại, đã là tổn hại thì gọi là ngu phu, đã là ngu phu thì không ưa thích đại Bồ-đề và cũng xa lìa thắng đạo, cho đến xa lìa quả báo cõi trời. Này Đại Ca-diếp! Đời vị lai, sẽ có các Tỳ-kheo vì già yếu mà trang nghiêm y phục. Dù họ cạo bỏ râu tóc mà hủy hoại oai nghi, không có oai quang, hướng đến tà pháp. Do ý tội che chướng nên hoặc dối hiện oai nghi, hoặc dối hiện tu trì phạm hạnh, hoặc tự xưng không ai bằng ta. Họ dùng ba điều trên để tỏ rằng họ đã có chứng đắc, họ sa vào lỗi tăng thượng mạn. Lúc lâm chung họ nghó gẫm những lỗi mà họ đã phạm, tự biết giải đãi không siêng tu hành, lòng họ ăn năn đau khổ, sau khi chết họ phải đọa địa ngục. Này Đại Ca-diếp! Nay ta tuyên bố rõ ràng với các ông, Phật là Chân thiện tri thức của các ông, luôn thương mến muốn làm lợi ích cho các ông, không để các ông sau này phải chịu khổ nơi ba ác đạo. Này Đại Ca-diếp! Đức Phật không bao giờ cho những kẻ chấp lấy ngã kiến, chúng sinh kiến, thọ mạng kiến, hữu tình kiến được xuất gia trong chánh pháp của Đức Phật. Đức Phật đã không cho mà vẫn cố xuất gia thì đều là kẻ giặc ăn nhờ tín thí và cũng không thành được Tỳ-kheo chân thật. Này Đại Ca-diếp! Thà tuyệt thực chớ không nên đã được xuất gia trong chánh pháp ăn nhờ tín thí mà chấp lấy ngã, chúng sinh, thọ mạng, hữu tình cho đến chấp lấy Niết-bàn. Do đây, các Bồ-tát phải phát tâm tinh tấn, chẳng nên có kiến chấp ngã, chúng sinh, thọ giả, hữu tình cùng chấp lấy Niết-bàn, phải thuyết pháp để dứt trừ tất cả kiến chấp. Này Đại Ca-diếp! Kinh điển này, nay ta giao phó cho các Bồ-tát. Vì sao? Vì ý chí của các Bồ-tát đồng với Phật, là bạn lữ của Phật, có thể lãnh hội được sự giao phó của Đức Phật. Lúc đó, Đức Phật nói kệ rằng: Chúng sinh bị khổ bức Không có ai cứu hộ Chỉ trừ Đại Đạo Sư Đấng không còn hý luận. Chúng sinh chìm khổ não Tu tà đạo kém hèn Lần lần thêm dục tham Do đó đọa ác đạo Không ai dắt cứu hộ Ở mãi nơi hiểm nguy Thẳng đến trong tà đạo Trọn không chỗ an ổn. Ví như người cầm vốn Muốn lợi đi đường xa Giữa đường gặp giặc dữ Cướp hết tiền, hàng hóa Mất tiền của quay về Tiếc của tiền đau xót Mất luôn vốn mượn vay Bị nợ càng thêm khổ. Chúng sinh cũng như vậy. Vì pháp nên xuất gia Pháp tài xưa vâng giữ Thiện nghiệp đều tiêu sạch Chỉ cạo sạch râu tóc Ngu rơi vào các kiến Chấp ngã và chúng sinh Thọ giả, hữu tình tưởng Với Tỳ-kheo thuyết không Chẳng chấp nhân và ngã Họ khởi tâm hủy báng Mau sa vào địa ngục. Do nhân duyên sân hại Nên tìm điều bài bác Phạm lỗi sợ người hay Vu khống người phạm tội, Thân ác và miệng ác Ý nghiệp nhiều ác tưởng Điên đảo theo các kiến Người này sinh ác đạo. Đã tạo nhiều nghiệp ác Hẳn mau đọa ba đường Bị các khổ đốt thiêu Không ai cứu vớt được. Vị lai có Tỳ-kheo Tán loạn nhiều giận hờn Bức não người xuất gia Phát tâm hướng Bồ-đề. Đây là hạng đáng sợ Bài bác kinh như vậy Lại không lòng tín thọ Giáo pháp Phật Thích-ca. Họ giận hờn lẫn nhau Cùng nhau đều chịu khổ Rao bày lỗi lẫn nhau Tiếng xấu truyền lan khắp, Đem lỗi vu khống người Lỗi của mình thì giấu Người nhu hòa yếu thế Ác chúng đông thế mạnh Là biết chánh pháp suy Người ác thêm thế lực. Đệ tử quý của Phật Chính là thiện Tỳ-kheo Phải tìm đến nơi khác Ở nơi chốn an ổn. Giải thoát khỏi nơi ác Với họ khởi tâm Bi Kinh pháp Phật đã dạy Phải tự mình gẫm suy, Phật đã dạy như vậy Phải vui ở nơi khác. Khi chánh pháp hoại diệt Với bậc Thiện khó gặp Tập hợp cùng nhau đến Như Lai khen nơi ấy Nếu người bảo xứ đó Nạn xứ không thể ở Phải đến Bậc Đại Tiên Được Bồ-đề vô thượng. Có bậc Thiện chỉ bảo Chính các Ngài khéo dạy Nhiễu tháp cầu chân thật Chính thật lời Phật dạy Thiện Tỳ-kheo phải vui Đến đạo tràng an ổn Chẳng nên thường ở đấy Chìm trong tà bức ngặt. Tỳ-kheo phải đến đó Vì Phật nên du hành Thấy di tích của Phật Chốn an chỉ thuở xưa Nơi kinh hành, ngồi thiền Hoặc nhiễu, hoặc thiền tư Cùng nhau tụng, ca ngợi. Nhớ Phật nên rơi lệ Nói chỗ này Thế Tôn Đã kinh hành, thọ thực Xưa Phật từng ở đây Chuyển pháp luân vô thượng Hữu vi đều vô thường Giờ đâu còn thấy được Nhân và chúng Phi nhân, Trời, Rồng cùng vân tập Phật dạy khiến hoan hỷ Nay sao lại quạnh hiu? Nghó vậy cùng nhau đến Đại Bồ-đề đạo tràng. Đã đến vân tập rồi Phải đúng lý suy tư Chính chỗ này Đức Phật Thành Vô thượng Bồ-đề Bố dẹp ác ma quân Như loài dã can dữ. Đây là nơi đạo tràng Đấng Đại Giác từng ngự Quá khứ và vị lai Tòa của tất cả Phật. Bồ-đề đạo tràng này Xưa chư Thiên kính lễ Phật bảy ngày thiền tọa Chỉ quán dưới cội này. Nghỉ và cúng dường xong Lại đến vườn Lộc uyển Nơi Phật chuyển pháp luân Văng vẳng nghe Phạm âm Các thiện Tỳ-kheo ấy Đều nghẹn ngào rơi lệ. Vì muốn độ năm người Đạo Sư đã đến đây Năm người vừa thấy Phật Đều khởi tâm sầu lo Lập tức bàn với nhau, Chúng ta chớ đứng dậy. Lúc ấy Đức Đại Bi Thương tưởng quần sinh loại Vì họ tuyên diệu pháp Quả cam lộ tựu thành. Kính lễ nơi Chuyển pháp Nghẹn ngào tâm sầu muộn Đến chỗ Phật Niết-bàn Nhớ nơi tối hậu thân Dưới tàng đôi song thọ Vì lợi ích chúng sinh Bỏ thân phần chi tiết Nơi đó Bát-niết-bàn Hỡi ôi! Đức Thánh Tôn Đấng Thích-ca tịch diệt Nay chỉ còn nghe danh Tiếc thay không còn thấy. Ở đó Đại Đạo sư Sau cùng độ Thiện Hiền Dùng trí tiên tri bảo: Đây, nhập diệt lần cuối Khi tu tập mạng tận Hay khởi ý mạng chung Hoặc tự tu thân vong Sẽ đều sinh cõi thiện. Từ đây trở về sau Ở trong pháp sinh tử Những kẻ hủy phá giới Đều sẽ được cúng dường Nhận nhiều vật tín thí Mau đọa vào ác đạo Ông nhìn các Tỳ-kheo Có sai biệt như thế Bậc trí tu tuy sau Mau được thân Trời, Người Làm đèn soi thế gian Thương xót người cõi thế. Các Bồ-tát đại trí Tâm Từ lợi chúng sinh Thường tu tập hành sự Phấn chấn tâm hoan hỷ Sẽ thành Bậc Chánh giác Cũng theo hầu Di-lặc Cúng dường Đức Thế Tôn Trong chúng được thọ ký Tùy ý được ức niệm Là bậc Đại oai thần. Phật nói lời chân thật An ổn chúng như vầy Vị ấy không thấy Phật Mà cũng như thấy Phật. Ta xưa cầu Bồ-đề Lễ kính các Đức Phật Nếu các hàng nữ nhân Hướng Vô thượng Bồ-đề Ta và vô lượng Phật Đều sẽ hiện sách tấn Mau thành thân nam nhân Được thấy Phật Di-lặc Cúng dường Đức Phật ấy Mong cầu đều theo ý. Phải học theo người trí Tịnh tín mà xuất gia Quyết tâm lòng ưa thích Học pháp và trì giới Ở trước Phật Di-lặc Được nhận lời thọ ký. Cho nên nghe Chánh pháp Tin tưởng tu thiện hiền An trụ tâm kiên cố Độ các loài chúng sinh Ai trụ tâm như vậy Cầu mà không thể được Có tuệ và hạnh lành Bồ-đề không khó chứng Tu tập niệm Từ bi Lìa bỏ tâm siểm khúc Thường vui chốn không nhàn Chính là Bồ-đề đạo. Nếu người với pháp này Thuyết không mà không hành Nhưng được người kính lễ Đó là giặc đáng sợ. Nếu kẻ vì uống ăn Và các việc lợi dưỡng Thọ trì chánh pháp môn Nhưng cùng nhau bài bác Lời ác hại mạng người Nói là không đời trước Nơi đó bỏ thân người Đọa ác thú chịu khổ Hoặc ở trong pháp Phật Giả danh làm Tỳ-kheo Phỉ báng nơi khế kinh Khéo nói cấm giải thoát Tự đắc, ta hoằng pháp Chỉ có lời nói suông Tuy tà tướng Tỳ-kheo Chết mất thân Trời, Người Nếu hủy báng Trời, Người Và hủy báng cả Phật Kẻ hủy báng Pháp này Tội còn hơn kẻ kia Khéo phòng hộ ba nghiệp Khiến không khởi các ác Năng trừ ba ác hạnh Tất sẽ được Niết-bàn. Đức Phật bảo Đại Ca-diếp: –Sau khi Như Lai diệt độ, các Tỳ-kheo ở nơi Phật trồng căn lành sâu cũng đã nhập Niết-bàn, những chúng sinh đủ thắng ý lạc cũng qua đời cả. Lúc thời kỳ chánh pháp dứt, năm trăm năm sau, sẽ có hàng Tỳ-kheo lòng đầy tham dục mê chấp, thích lời ly gián não hại người khác, nói năng cộc cằn hung ác, thường ở trong ba điều như nghề nghiệp thuốc men, buôn bán và gần phụ nữ. Do ở trong ba điều trên nên thoái thất bốn điều: Mất giới hạnh, mất thiện đạo, mất quả chứng và mất như thật thấy Phật. Vì thoái thất bốn điều trên nên sinh ra bốn điều xí thạnh là tật đố hiềm ghét xí thạnh, giận dữ ác tâm hùng mạnh, tham đắm dòng họ hùng mạnh và tham đắm uống ăn chứa cất các thực phẩm, ưa thích y phục cất để đầy rương. Vì bốn điều xí thạnh trên đây nên họ không được pháp Sa-môn, cũng chẳng phát sinh quả chứng của Sa-môn. Họ nghe kinh này sẽ sa vào bốn điều: Một là hủy báng chánh pháp; hai là những điều Phật không cho phép họ lại đem giảng nói; ba là riêng vì hàng phụ nữ mà nói pháp yếu; bốn là hủy báng giới biệt giải thoát của Như Lai. Hàng Tỳ-kheo này nghe kinh điển đây càng thêm sinh lòng phá hoại chánh pháp, cùng nghiệp ác thêm lớn. Này Đại Ca-diếp! Như lấy mật đắng nhỏ vào mũi chó dữ, con chó đó sẽ thế nào, nó có hung dữ thêm chăng? Ca-diếp thưa: –Bạch Thế Tôn! Chó dữ đó càng thêm hung dữ. Đức Phật bảo Ca-diếp: –Này Đại Ca-diếp! Những người ác đã nói trên kia cũng như chó dữ cùng quỷ Tỳ-xá-xà. Họ thấy có Tỳ-kheo chân tu giới hạnh thanh tịnh, thọ trì kinh pháp này, giảng thuyết kinh pháp này, thiểu dục tri túc và ca ngợi thiểu dục tri túc, họ không sinh hoan hỷ mà còn ganh ghét hờn giận nói rằng: “Chúng ta ở nơi phi thời nên bị người ta khinh rẻ hủy nhục.” Do đây nên khi nghe nói kinh pháp này, họ liền hủy báng cho là không phải của Phật nói. Bọn họ theo duyên đó mà thêm tham dục, chẳng biết thiểu dục. Này Đại Ca-diếp! Phật dùng nhiều từ ngữ để tán thán người thiểu dục tri túc, là người dễ nuôi, người dễ đầy, người sạch sẽ, người có hạnh Đầu-đà, người rất đoan nghiêm. Phật cũng tán thán người ở A-lan-nhã, người phát tâm tinh tấn, người sinh hoạt thanh tịnh. Các ông chớ nên tụ tập học hỏi các thứ nhạc cụ như ống tiêu, ống sáo mà phải tu tập các pháp như trên. Các ông chớ nên như chụp chã đồng, chỉ luống có tiếng kêu, mà phải tùy thuận tu tập pháp của Như Lai dạy đây, cũng chẳng nên thêm lớn lòng sân hận cùng tham chấp sự vật, phải trụ nơi vô sự vô vật. Các ông chớ trụ trước nơi chỗ ở, mà phải vô sở trụ. Các ông chớ tự khoe, chớ nuôi loài bò, lừa… Các ông chớ sinh lòng biếng nhác trễ lười, mà phải phát tâm tinh tấn xa lìa pháp ác, tu tập pháp lành. Này Đại Ca-diếp! Phật thường khen ngợi sự tịch tónh ở A-lan-nhã xa lìa ồn náo. Nay Phật nói rõ hạnh dứt trừ rất thanh tịnh. Những kẻ không thực hành hạnh rất thanh tịnh, kẻ nhiều tham dục, kẻ tạo tội ác, tất sẽ hủy báng người có hạnh thanh tịnh. Này Đại Ca-diếp! Như kẻ ngu kia, giữa tháng tư uống chất tô sinh khát liền đến người xin nước uống. Được người kia bảo: Anh vừa uống chất tô chớ uống nước, vì sẽ có thể nguy đến tánh mạng. Kẻ ngu giận dữ mắng nhiếc, không nghe lời khuyên của người, rồi uống nước mà chết. Này Đại Ca-diếp! Cũng thế, đời vị lai, các Tỳ-kheo ưa chấp có, thích việc ác. Nếu có người thọ trì chánh pháp bảo họ, đây là việc nên làm, đây là việc chẳng nên làm. Họ sẽ giận dữ trách mắng và hủy báng kinh điển này. Hiện tại đây còn có nhiều người cạnh tranh với Như Lai huống chi là đời vị lai. Như Tỳ-kheo Hiền Hộ chẳng hạn, Phật chế giới khiến các Tỳ-kheo thọ pháp một lần ngồi ăn, Hiền Hộ giận hờn trọn ba tháng hạ không chịu đến chỗ Phật. Này Đại Ca-diếp! Hiện nay ở trước Phật còn có người khinh hủy phạm hạnh, huống là sau khi Phật diệt độ, những kẻ tham ăn, tham mặc, thuốc men ngủ nghỉ, thêm nhiều giận hờn. Những kẻ này nghe kinh pháp đây còn chẳng kính trọng Đức Như Lai Đại Sư, huống là đối với Tỳ-kheo trì giới. Này Đại Ca-diếp! Những người ấy gọi là bất thiện, cũng gọi là rất ác, Pháp bảo này sẽ ẩn mất. Trong đời ác trược sau này, thời kỳ mà người lành rất khó có, nếu thiện nam hay thiện nữ nào muốn được sự lợi ích lớn, tin giáo pháp của Phật, nghe kinh pháp rất sâu này rồi, nên vì người đúng lý, người có lòng tin mà giảng nói, chớ chẳng nói với người không đúng lý, không tin. Hiện nay, Phật cũng chỉ giảng nói với những người đúng lý, với những người có lòng tin mà thôi. Này Đại Ca-diếp! Như ngựa ác dở chẳng chịu mặc giáp, nếu bắt nó mặc giáp như ngựa hay, thời tất nó sẽ kinh sợ, huống là nghe tiếng loa, tiếng trống mà có thể chịu được. Này Đại Ca-diếp! Cũng vậy, Tỳ-kheo phá giới không có lúc nào ưa thích pháp lành cho đến họ nghe nói các pháp vô ngã, vì chấp ngã nên họ liền sợ hãi bài bác, huống là nghe đến pháp lành. Nếu thực hành pháp lành thời có thể hàng phục trăm ức quân ma và trọn không có sự đấu tranh. Các thiện Tỳ-kheo nên mặc giáp tinh tấn, chẳng hư công đức Đầu-đà, dứt sạch căn bản tham, sân, si, không tật đố, ly dục, thích nhàn tịnh, thường thức tỉnh. Trong mọi thời, mọi loài không khởi tâm tham dục. Nơi vật dụng không mong cầu. Trang bị áo giáp như thế chưa phải là pháp căn bản, nếu đã trang bị các loại giáp trên thì phải phát tâm Bồ-đề vô thượng, không nên chấp trước với tất cả xứ, huống là khởi ngã tưởng. Vì vậy không được chấp ngã, chúng sinh, thọ giả, hữu tình, không kiến chấp nam, nữ, địa, thủy, hỏa, phong, Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới, trì giới, phá giới, tánh không… Tóm lại, không nên có tất cả chấp, tất cả tưởng. Vì tất cả tưởng đều vô sở đắc. Này Đại Ca-diếp! Nếu có tham, Tỳ-kheo phải biết rõ và liền dứt trừ tâm tham ái, chẳng phải cứ trụ một chỗ mà được vô trụ. Chỉ trừ kẻ vọng ngữ. Do đây nên Như Lai hiệu là Đấng Thật Ngữ. Như Lai nói bao nhiêu tham ái đều là chẳng phải ngã. Các pháp như vậy là Sa-môn pháp. Các Sa-môn pháp đều vô sở đắc. Nếu người nào còn có tưởng chấp lấy pháp, thời là chấp ngã, chúng sinh… như núi Tu-di, mà thoái thất Thánh giáo. Nơi người này pháp Sa-môn không có được, cũng không thể trụ nơi Sa-môn pháp. Pháp quảng đại tối thắng này chẳng nên giảng nói với những kẻ ngu si kia, dầu chỉ một ít. Vì sao? Vì nếu họ chấp trước thì tất sẽ phải chịu khổ ở địa ngục trọn một kiếp. Này Đại Ca-diếp! Ông xem các Tỳ-kheo như Câu-ca-lợi, Đề-bà-đạt-đa, Khiên-đồ-đạt-la, Ca-lô-để-luân, Mẫu-đạt-đa-la, A-thấp-phiền, Bố-na-bà-tô, Tô-khí-đát-la, các Tỳ-kheo trên đây là những người thường ở gần bên Phật, nghe Phật thuyết pháp, thấy Phật kinh hành, thấy Phật đoan tọa, thấy Phật hiện thần thông đi đứng trên không gian, thấy Phật hàng phục hàng ngàn ngoại đạo, giữa đại chúng thấy Phật trừ dẹp tà pháp, mà họ còn chẳng có lòng tin mến đối với Phật. Vì họ luôn muốn hủy báng Phật nên càng ngày họ thêm lớn ác nghiệp. Nếu có người nghe danh hiệu Phật có lòng tin chắc là thật, thì mọi người nên đem hoa hương như núi Tu-di, phan lọng trùm cả đại thiên để cúng dường, vì người này tin Phật vậy. Huống là người đã tin Phật rồi bỏ dục lạc xuất gia, không kiến chấp, tu các môn tónh lự. Này Đại Ca-diếp! Người nào tin ưa kinh pháp này thì đáng gọi là hy hữu. Người này có thể khéo hộ trì giới cấm của Phật chế, có thể rõ biết pháp cam lồ này. Ví như trong đại chúng dùng da thối cùng những vật hôi nhơ cùng nhau chế làm hình người, hoặc làm các thứ mặt nạ, rồi sơn vẽ trau tria rất xinh đẹp. Có người lấy những thứ ấy mang lên mặt, hoặc gói lại xách đi. Như thế lẽ nào vì tướng mạo mà gọi là tốt ư! Biết rõ là vật hôi nhơ thì sẽ nhàm bỏ. Cũng vậy, với các ác Tỳ-kheo, phải dùng oai đức dung nghi của Như Lai để thẩm xét mới biết họ là cực ác. Do họ chấp ngã nhân mà sinh lòng tham ái. Nếu người rõ biết ngã chấp không thật, thì khi nghe kinh này tất ưa thích vui mừng. Nếu kẻ nào chấp trước thì nên biết là tà kiến. Đã có tà kiến thì không tin ưa lời dạy chân chánh nơi kinh này. Vì sao? Vì người chấp ngã thì có giận hờn. Nếu hàng bốn chúng nghe kinh pháp này mà giận ghét hủy báng thì không phải là Sa-môn. Dù họ có danh hiệu Sa-môn, nhưng không phải đệ tử Phật; ta cũng không phải Thầy của họ. Vì sao? Vì đệ tử Phật thì không nói dối; Phật không phải Thầy của kẻ hay nói dối. Nên biết rằng Phật là Đấng Thật Ngữ, có thể nói đúng thật tất cả pháp không. Này Đại Ca-diếp! Như Lai có thể phá ngã chấp, đấu tranh với nó. Nếu kẻ nào tranh cãi với Như Lai thì gọi là ác ma. Như Lai không cho ma chúng xuất gia thọ giới Cụ túc. Ý ông nghó thế nào? Như có người nói chim Thanh tước sinh được rồng lớn. Lời này có đáng tin và có đồng loại chăng? Ca-diếp bạch: –Bạch Thế Tôn! Lời đó không đáng tin, cũng không phải đồng loại. Đức Phật hỏi: –Như có người nói Kim sí điểu sinh loài phi điểu. Ông nghó thế nào? Ca-diếp bạch: –Bạch Thế Tôn! Lời đó không đáng tin, cũng không đồng loại. Đức Phật lại hỏi: –Như có người nói con đom đóm mang núi Tu-di bay lên không gian. Ông nghó thế nào? Ca-diếp bạch: –Bạch Thế Tôn! Lời đó không đáng tin, cũng không phải đồng loại. Đức Phật dạy: –Này Đại Ca-diếp! Những kẻ ác trên kia chấp ngã cho đến chấp Niết-bàn kêu Phật bằng Thầy lại càng chẳng phải đồng loại. Này Đại Ca-diếp! Như có Đế vương ở nước mình lãnh đạo nhân dân rất an lạc. Cạnh vua có các thị thần tuân hành chính hóa của vua. Lúc đó có người không ai quen biết, người này vì danh lợi mà học cách làm quan, không lãnh lệnh vua, tự ý ở giữa bá quan dối tuyên lệnh vua, bảo mọi người rằng các ngài phải ở nơi đây, làm như vầy. Cũng vậy, Đức Như Lai Pháp Vương quản trị cả đại thiên thế giới, nhiếp hóa tất cả tam thừa chúng sinh, đầy đủ mười Trí lực, viên mãn tất cả công đức, thực hành Phật sự vô biên an lạc. Có một hạng người đại chúng chưa từng quen biết, vì sinh sống mà nói tướng ngã, chúng sinh… cho đến Niết-bàn, chẳng tuân theo Thánh giáo vô ngã của Như Lai, vọng nói rằng Phật bảo việc này nên làm, việc này chẳng nên làm. Trong đại chúng có những người tin thuận Phật pháp, nghe lời nói trên đây nhận là Bậc Phước Điền thanh tịnh, liền đem của cải cung kính dâng cúng mãi trong thời gian chưa rõ họ là sai quấy! Kẻ ác này đồng với kẻ dối lệnh vua trong ví dụ kia. Sau khi ăn uống xong, họ ở chỗ đông người ngày ngày thường luận bàn việc vua, việc giặc, việc ăn mặc, việc dâm dật, việc phụ nữ, việc thuốc men, việc rượu trà, việc nhật thực, nguyệt thực, việc nhà vua đi về, việc dòng họ, việc ngày tốt xấu… Ngày đêm họ luôn suy tính luận bàn những việc như vậy, không có chánh niệm, chánh tuệ, hư mất oai nghi, ngủ mê lăn lộn miệng chảy nhớt dãi. Lúc thức tưởng nghó gì, lúc ngủ họ mơ thấy việc ấy. Đến lúc thức dậy, họ tụ nhau luận bàn chiêm bao tốt xấu. Họ đi đứng hành động không khác người thế tục. Họ nói không nhằm lúc, tâm niệm buông lung, thích đến xóm đông, đến nhà giàu sang. Họ không giữ được giới cấm của Phật. Họ riêng nói pháp cho phụ nữ, lúc nói pháp họ sinh nhiễm tâm, được cúng dường nhiều, tham trước luyến ái, chẳng biết hối hận. Họ được cúng thí tốt thì ca ngợi, trái lại thì chê trách. Lúc họ gặp nhau liền xem đồ được cúng của nhau. Họ hỏi nhau hôm nay thí chủ cúng món chi? Cho ai? Tiền bạc đồ dùng nhiều hay ít? Đây gọi là hạng chẳng tu hành, cũng gồm cả lỗi hủy báng chánh pháp. Này Đại Ca-diếp! Với hạng người ngu ác trên đây, các ông phải có lòng xót thương họ. Vì sao? Vì họ sẽ phải bị quả báo rất khổ não. Lúc ấy, Đức Thế tôn nói kệ rằng: Kẻ ngu vì mạng sống Theo học pháp vua quan Sau đó đến nơi khác Dối tuyên lời vua truyền Đến kia bàn chuyện mật Chớ để pháp vua trừng Kẻ ngu ở nơi đó Cũng vì nuôi dưỡng mạng. Huống gì Đức Thế Tôn Trong hơn trăm ngàn kiếp Xả bỏ các thân phần Làm các việc khó làm. Kẻ trái pháp vương gia Nô bộc bị trừng phạt Chẳng cần hỏi kẻ ấy Là làm hay không làm. Cúng cho Tỳ-kheo ấy Vật thực đủ món ngon Và y phục quý giá Tất cả đều cung kính Cần khổ cầu tài vật Cúng dường bậc Trì giới Không vì lo tự thân Cũng không lo cho con Không như người trụ pháp Ăn xong liền xả bỏ. Khi cùng nhau tụ tập Nói chuyện ăn khoái ý Nơi chỗ tụ hội kia Bàn chuyện giặc, chuyện vua Việc đấu tranh, trấn ải Và bàn việc uống ăn Ngày đêm bàn suy tính Việc vua đến hay đi, Hoặc nói rồi sẽ thắng Hoặc bảo sẽ bị bại Những việc không đáng bàn Luôn cùng nhau luận tính. Ngủ trên giường cực diệu Trầm mê say giấc nồng Đêm đến nhà giàu sang Cầu mong chỗ nhiều của Nói kia cúng cũng nhiều Nhưng chẳng phải tối thượng. Suy tính việc ấy rồi Ngồi rỗi bàn tán chuyện Kẻ ngu không siêng tu Như lừa luôn mang nặng. Ngủ say trong giấc mộng Thấy các tướng phân biệt Thức rồi truyền gọi người Đến cùng nhau luận thuyết Nói chớ cười, chớ lo Ông sẽ được an lạc Việc ấy sẽ mau thành Chớ sinh lòng lo nghó. Siêng đến các thôn ấp Đi đứng chẳng oai nghi Giống như loài vượn khỉ Đầu mắt ngó trước sau Đi vào trong xóm làng Thuyết pháp cho người nữ Rời bỏ Phật khế kinh Và giới thiện giải thoát Từ nhà gia chủ ra Ngó xem của nhiều ít Ít thì mắng chửi họ Cũng không chừa gia quyến. Khi cùng nhau tụ tập Bàn tán cùng hỏi nhau Được món gì, vật gì Hỏi đáp nhau các việc. Lược nói việc như vậy Trải qua cả trăm năm Suy tính việc như thế Vì nuôi sống bản thân Tranh đấu vì rượu ngon Và vì hương hoa thảy Là dược liệu cho thân Mong ít bệnh, ít não. Giả sử trăm Đức Phật Không thể cứu được nào Quăng bỏ việc tu hành Cùng tại gia nào khác. Với thân sinh ái trọng Không rời khỏi ngã, nhân Tu hành như thế kia Kẻ ấy đọa ác đạo. Có người khinh chánh pháp Thiêu đốt bị khổ thêm Kẻ ngu không tuệ giác Không khác người tại gia. Các đệ tử Đức Phật Thật tu hành Thanh văn Không vì nuôi dưỡng mạng Hủy phạm chút giới nhỏ. Bậc trí không tham thực Luôn sinh tưởng nhàm chán Tâm tu quán bất tịnh Để trả nợ thí chủ Xả bỏ các dục lậu Thấu rõ tất cả tưởng. Ta nghe như thế ấy Theo lời dạy xuất gia Người trí không hủy báng Với giáo pháp tánh không Luôn ưa thích cần cầu Sợ không thể thông hiểu. Bậc Đại trí dũng mãnh Thấu tỏ lý tánh không Hay bố úy quân ma Bậc ấy đáng cúng dường. Nếu hay lìa tham nhiễm Không hủy pháp tánh không Con Phật bậc dũng kiện Lưỡng Túc Tôn Ứng Cúng. Chánh pháp không trụ lâu Hiện đời nhiều ngu si Ít Tỳ-kheo nhu hòa Mong cầu không phóng dật Người trí phải sinh lo Không lâu tự diệt mất Sau này suốt đêm ngày Bàn tán về Thế Tôn: Đời, không ai cứu hộ Duy có Lưỡng Túc Tôn. Người tu học như vậy Rồi sẽ đều diệt ẩn Kẻ không hiểu như vậy Không hiểu lời mật ý Sẽ không cung kính Phật Và Chánh pháp Vô thượng. Chánh pháp sẽ diệt tận Nên mau phát tinh cần Cho đến chút thời gian Lắng nghe dù phút chốc. KINH ĐẠI BẢO TÍCH <卷 id="86423645">QUYỂN 3 Hán dịch: Đời Đại Đường, Tam tạng Pháp sư Bồ-đề-lưu-chí. <詞 id="86423646">Pháp hội 1: Ba LUẬT NGHI (Phần 3) Tôn giả Đại Ca-diếp thưa: –Bạch Thế Tôn! Rất lạ thay, những người ấy được nghe kinh pháp này, mà họ không có lòng yếm ly. Phật bảo Đại Ca-diếp: –Này Đại Ca-diếp! Nếu là kẻ có bốn điều sau đây, thì dù được nghe kinh pháp này, nhưng họ vẫn không yếm ly. Đó là nhiều phóng dật, không tin chắc nghiệp quả, không tin chắc đại địa ngục, không tin chắc mình sẽ chết. Lại có kẻ vì có bốn điều dưới đây nên không yếm ly như lúc tráng niên khỏe mạnh tự cậy sức mạnh, mê say dục lạc, ham uống rượu, không suy gẫm quan sát để hiểu biết. Nếu Tỳ-kheo có bốn điều dưới đây thì hủy báng Vô thượng Bồ-đề: Ác nghiệp thành thục chẳng biết phát lồ, chẳng rành nghiệp quả ác, làm uế dục với Tỳ-kheo-ni, cậy có Hòa thượng A-xà-lê, được nhiều người thương mến, theo thầy học tập vì tật đố mà khinh chê thầy là ít học. Này Đại Ca-diếp! Nếu có người được một pháp sau đây thì trọn nên bâïc Sa-môn, Bà-la-môn, đối với tất cả pháp tâm vô sở trụ. Này Đại Ca-diếp! Ví như có người rơi từ trên chót núi, liền cho rằng không có mặt đất cây cối rừng rậm, chỉ tưởng trống không mà dứt hơi thở. Những kẻ chấp pháp cũng như vậy. Nếu chấp có nhãn, nhó… cùng chấp có tướng nhãn, nhó… hoặc chấp sắc, thọ… hoặc chấp trì giới, đa văn, tàm quý, kinh hành, được Bồ-đề… Đây đều không phải là pháp của Sa-môn, Bà-la-môn. Nếu có tưởng chấp thì sẽ bị làm hại. Những gì làm hại? Chính là tham, sân, si vậy. Nếu chấp tướng nhãn, nhó… thì thấy có sắc, thành… khả ái hay không khả ái, tất bị nhãn, nhó… làm hại. Đã bị hại thì sẽ bị hại nơi trong vòng địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, trời và người. Do đâu mà bị hại? Do tưởng chấp. Sao gọi là tưởng chấp? Chính là chấp ngã và ngã sở, chấp nam, nữ, địa, thủy, hỏa, phong, chấp thây chết xanh bầm, tan rã, xương trắng, chấp thắng giải thoát, chấp kia có phần ít giải thoát, đây không phần ít giải thoát, chấp hiện chứng, ta tùy niệm khác với quá khứ, khác với hiện tại, ta là quá khứ, ta là hiện tại, cho đến chấp Niết-bàn, thấy ta được Niết-bàn, với các pháp sinh tưởng chấp. Này Đại Ca-diếp! Tóm lại, kẻ chấp trước thời với chỗ nào cũng sinh niệm tưởng, cho đến trong tánh không, họ vẫn có tất cả tưởng niệm. Đây đều chẳng phải pháp Sa-môn, Bà-la-môn, đều chẳng phải hạnh Sa-môn, hạnh Bà-la-môn. Này Đại Ca-diếp! Như Lai nói pháp Sa-môn, Bà-la-môn như hư không cùng với mặt đất. Vì sao? Vì hư không trọn không nghó rằng ta là hư không. Cũng vậy, bậc Sa-môn, Bà-la-môn trọn không tự nói ta là Sa-môn, Bà-la-môn. Các pháp cũng không tự nói là pháp Sa-môn, Bà-la-môn. Không tạo tác không trừ bỏ, đây gọi là Sa-môn, Bà-la-môn. Này Đại Ca-diếp! Như có kẻ giữa đêm tối múa tay chân, động đầu mặt, rồi nói rằng ta đùa cợt thế gian! Ta đùa cợt thế gian! Ý ông thế nào, họ đùa cợt ai? Tôn giả Ca-diếp thưa: –Bạch Thế Tôn! Kẻ đó tự đùa cợt lấy họ. Vì sao? Vì giữa đêm tối không có ai để họ đùa cợt cả. Đức Phật bảo Tôn giả Ca-diếp: –Này Tôn giả Ca-diếp, cũng vậy, nếu có Tỳ-kheo đến a-lan-nhã, hoặc đến dưới tàng cây, nhà vắng, đất trống quán tưởng nhãn, nhó… đều là vô thường, sắc, thanh… cũng đều vô thường. Ta thẳng đến Niết-bàn. Các Tỳ-kheo ấy tự luống khổ nhọc không phải hạnh của Sa-môn. Vì họ có rất nhiều tà chấp. Họ biết tướng nhãn, nhó… rồi vì muốn diệt nhãn, nhó… mà tu tập nhọc nhằn. Nếu ở nơi căn, trần, thức, ba chỗ đó mà biết rành thì sinh niệm phân biệt đối với ba chỗ ấy. Nếu đã ở nơi chỗ thấy biết mà sinh niệm phân biệt thì làm thế nào được tâm nhất tánh cảnh. Này Đại Ca-diếp! Thậm thâm Bồ-đề rất khó đến khó vào, khó có đủ tư lương. Thế nào gọi là tâm nhất tánh cảnh? Suy tìm cùng khắp cho đến một pháp cũng chẳng thể nắm bắt được. Nghóa là nhãn, nhó… đều chẳng thể có thật. Tất cả pháp đều chẳng có thật. Vì sao? Vì bản tánh như vậy. Tâm tánh vốn bất sinh, tất cả các pháp đều không có thật nên tâm đó chẳng thể nắm bắt được. Vì nếu quá khứ, hiện tại, vị lai là vô sở đắc thì là vô sở tác. Thế nào gọi là vô sở tác? Hoặc cũ hoặc mới đều chẳng thể tạo tác nên gọi là vô sở tác. Trong đây, quá khứ tâm không giải thoát, hiện tại tâm không giải thoát, vị lai tâm không giải thoát, tùy chỗ có tâm đều vô sở đắc, đây là tâm nhất tánh cảnh, chính đây gọi là nhập vào số của tâm vậy. Này Đại Ca-diếp! Ở vị lai sẽ có hàng bốn chúng chấp cho rằng nhãn, nhó… là hoại diệt. Đối với các uẩn chấp là vật thật có. Như Lai nói các uẩn dường như cảnh chiêm bao. Nhưng họ lại bảo chiêm bao là thật có, vì thế gian nói có chiêm bao; nếu không chiêm bao, lẽ ra mọi người không có sự mộng tưởng để biểu thị. Do đây chúng ta trong lúc ngủ mơ sinh mộng tưởng. Thật vậy, vì các uẩn có sở nhân nên gọi là như chiêm bao. Nếu uẩn đã không, thì chẳng nên nói các uẩn dường như cảnh chiêm bao! Những kẻ ngu si kia cho chiêm bao là thật có nên khi họ nghe kinh pháp này liền hủy báng. Trong hạng này lại có Tỳ-kheo-ni đối với các nhà thí chủ, vọng xưng rằng ta là bậc A-la-hán. Hoặc vì y cứ nơi trí thô cạn, họ nói hiện chứng được. Hoặc có Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di nghe kệ tụng trong kinh luật rồi nói tôi hiện chứng. Này Đại Ca-diếp! Lúc đó, hoặc có Tỳ-kheo đã thường ở a-lan-nhã trải qua hai, ba mươi năm tinh tấn tu tập, vì Phật pháp mà họ đến nơi Ưu-bà-tắc mới có lòng tin vừa được một ngày, rồi chỉ dùng lời không mà xướng thuyết lẫn nhau. Họ bảo rằng vì không không nên ta biết khắp tất cả, ta biết khắp tất cả. Hoặc có Tỳ-kheo nghe kinh pháp này rồi luận nói với nhau. Có người nghe sinh lòng hãi sợ, lại nói những người tại gia cùng xuất gia chẳng nên gần gũi các vị ấy, phải xa lìa, vì chẳng phải giáo sư. Vì sao? Vì hiểu biết của họ không tương hợp. Hoặc có người giảng nói pháp lý thậm thâm lại bị hàng tại gia, xuất gia khinh tiện bỏ rơi. Hiện nay đây Phật nói phạm hạnh thắng diệu còn ít người biết, huống chi đời vị lai đến cả người biết chút ít cũng đã qua đời. Lúc đó, một ngàn, hai ngàn Tỳ-kheo thuyết pháp khó có được một người hiểu biết đúng thật tin nhập diệu pháp. Trong hàng đó, hoặc có Tỳ-kheo đến nỗi không nói được suông câu huống là hiểu rõ. Này Đại Ca-diếp! Lúc đó, hàng tại gia, xuất gia chung nhau khinh hủy giáo pháp này. Nếu có Tỳ-kheo tinh tấn vì thêm lành dứt ác, nên bớt ngủ nghỉ, đầu hôm cuối đêm tinh tấn tu học. Các vị này tất bị kẻ khác ganh ghét, chê bai hoặc giết chết. Những kinh pháp như đây sẽ diệt mất. Hàng Tỳ-kheo đúng pháp cũng đều tiêu diệt. Trong lúc đó, người có trí thanh tịnh vô nhiễm hiểu rõ diệu pháp, phải tôn trọng kinh pháp này, tin sâu cung kính, cùng nhau họp ở nơi a-lan-nhã. Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ rằng: Pháp lành của ta dạy, Hợp với Đệ nhất nghóa Rằng uẩn không chắc thật Nên xem đó như mộng. Đời sau, các Tỳ-kheo Lòng ganh ghét loạn xạ Không phân biệt tôn ti Chỉ luống có danh tướng Lời Tỳ-kheo nói ra Tại gia cũng nói vậy Giáo pháp lúc bây giờ Đạo tục đồng cùng nói. Tỳ-kheo bảo kẻ tục Ông hiểu pháp hy hữu Chính là Phật Bồ-đề Đã phát quả Sơ địa! Lòng tự cho thấy pháp Gần gũi người tại gia Đây dâng cúng Tỳ-kheo Đồ cúng dường tối thượng. Các Tỳ-kheo này nói Tất cả lời đều thật Cùng tại gia thân nhau Rằng ta đã thấy pháp. Người ở đời vị lai Vì lợi dưỡng xuất gia Chẳng tuân theo chánh pháp Hủy hoại Bồ-đề đạo. Ta đem đạo dạy cho Gần ta chớ theo ai Ít lâu ngươi sẽ được Như chỗ ta đã được. Đây là ngôi tịch tónh Ta nói rõ cho ngươi Trong đại chúng đông người Làm hư giáo pháp Phật. Ví như bọn giặc cướp Lòng hung dữ hiểm độc Đánh phá thành xóm làng Cũng cướp tụ lạc lớn. Tỳ-kheo này cũng vậy Vô trí, nhiều ngu si Tuệ ít hay phạm lỗi Chấp ngã, chấp thọ mạng. Rời xa giáo pháp Phật An trụ trong kiến chấp Tự xưng A-la-hán Đầy lòng tăng thượng mạn. Họ ở giữa đại hội Đối trước chúng Tỳ-kheo Khoe mình nhiều trí tuệ Danh tiếng ít người có. Lúc đó có Tỳ-kheo Hoặc hành đúng chánh pháp, Bị họ ghét chê bai Chẳng phải là Phật tử. Chư Phật đại Bồ-đề Lúc đó bị hủy báng Chư Thiên lòng buồn lo Thường hướng nhau than thở. Chư Thiên tin chánh pháp Thấy mất chánh pháp luân Của Thích-ca Văn Phật Đau lòng lăn trên đất. Chư Thiên ca ngợi Phật Cùng tán thán pháp môn Khen ngợi phước điền Tăng Con yêu của chư Phật. Chúng ta chẳng còn nghe Pháp nhiệm mầu của Phật Thích-ca đã diệt độ Không hiểu ôm lòng mê. Tứ thiên, Đao-lợi thiên Vang lên tiếng tăm lớn Báo khắp cùng chư Thiên Đuốc pháp nay sắp tắt. Các vị được nghe Phật Nếu chẳng gần Như Lai Hàng Trời, Rồng sau này Sẽ ôm lòng hối hận. Trải qua vô số kiếp Vì mình cũng vì người Chịu đủ điều khốn khổ Rồi sau mới thành Phật. Đây là lời chư Phật Vì giáo hóa chúng sinh Giảng nói thiện pháp môn Nay đây sẽ ẩn mất. Kẻ giả dối ra đời Gây nhiều tội đáng sợ Là ma sư, ác ma Tha hồ nói lời ác. Dua dối nhiều ngu si Phỉnh gạt người khờ dại Hoặc giận hoặc chẳng hờn Chê Thầy, chê chánh pháp. Nghe tiếng Trời truyền xướng Các cõi trên đều buồn Tứ Thiên vương, loài người Cũng đều mang sầu khổ. Thần Dạ-xoa nhóm họp A-tra-phiệt-để thành Kêu lên tiếng hãi hùng Đôi mắt đồng rơi lệ. Đền đài châu báu đẹp Nghiêm lệ của chư Thiên Thảy đều mất quang huy Đen tối như đống đất. Cung điện xưa xinh đẹp Rất đáng mến, đáng ưa Nay mất cả oai quang Nhìn xem không còn thích. Chư Thiên cùng nhau đến Xưa kia chỗ Phật sinh Lăn trên đất kêu gào Càng thêm sầu thêm khổ. Ta từ trời xuống đất Đi qua các quốc thành Phật pháp đều trầm luân Nhìn khắp chẳng còn thấy. Khắp cả Diêm-phù-đề Chánh pháp đã suy tàn Bức não người xuất gia Nên chư Thiên than khóc. Cung trời trọn bảy ngày Nơi nơi mất oai quang Chư Thiên cũng bảy ngày, Thường buồn rầu than khóc Than ôi! Đấng Đại Hùng Xưa tôi từng gặp Ngài Nào ngờ nay chẳng thấy Lời Ngài cũng thành không. Phật thường ở Xá-vệ Chúng tôi đến kính lễ Nay thấy chỗ nhớ Người Càng thêm buồn than khóc. Và đây là rừng Lộc Phật Xưa ở nơi đây Chuyển pháp luân bốn Đế Chúng tôi thân nghe thấy! Nay thế gian tăm tối Chẳng kính mến lẫn nhau Đã gây tạo tội nhân Ắt sinh ba ác đạo. Trên trời nhiều cung điện Nay đều trống vắng người Chúng sinh Diêm-phù-đề Không chủ, không ai cứu. Chỗ kinh hành của Phật Nay hủy hoại hoang vu Pháp vương đã Niết-bàn Thế gian mất an lạc. Giữa chúng trời Đao-lợi Thiên chúa Thích Đề-hoàn Lòng khổ não ưu sầu To tiếng than thở khóc. Chư Thiên chúng Đao-lợi Chắp tay và xưng hiệu Nghe tiếng từ trong vườn Lần lượt vội chạy đến. Như vậy hàng Thiên chúng Tán thán Đấng Như Lai Từ xa thấy Thế Tôn Từng là Thầy thuyết pháp. Không uống cam lộ được Cũng tuyệt tiếng đàn ca Hàng chư Thiên như đây Lòng sầu cả sáu tháng. A-tu-la nghe nói Chánh pháp đã trống hư Liền kêu gọi lẫn nhau Đem binh đánh Đao-lợi. Diêm-phù các vua chúa Hủy hoại Phật luật nghi Chính trong thời kỳ này Trời cùng Tu-la chiến. Sinh vào trong ác đạo Có rất đông Tỳ-kheo Cũng nhiều Tỳ-kheo-ni Chịu đủ tất cả khổ. Tại gia phạm các tội Cư só phá Thi-la Tranh bài bác lẫn nhau Do đây đọa ác đạo. Phụ nữ làm việc ác Đều vào ba đường khổ Lúc hưng thịnh việc này Thế gian chẳng an tịnh. Có lúc qua tụ lạc Hoặc trốn vào núi rừng Vì lo sợ nhọc nhằn Mạng người thọ ngắn yểu. Khắp nơi nhiều trộm cướp Sự đói khát tràn lan Lúa má lại mất mùa Thêm sâu bọ phá hại. Đời nhiều nghèo đói khổ Loài người lúc chết rồi Ngạ quỷ nhiều sinh vào Chịu biết bao khổ sở. Những đồ cúng chùa tháp Vật dâng bốn phương Tăng Lúc đó các Tỳ-kheo Cùng nhau chia lấy hết. Sau khi Phật diệt độ Khổ như thế dẫy đầy Phải sớm cố siêng năng Chớ nhìn lui trở lại. Bao nhiêu kẻ ngu dại Người không tuệ, không căn Do nghiệp ngu đã thành Sớm đọa vào ác đạo. Phải thích giảng đọc tụng Trí tuệ do đây sinh. Người tu tuệ, tu tâm Mau sinh cõi lành tốt. Thường dùng trí quán sát Học đúng theo lời Phật Lìa hẳn những ràng buộc Sớm được đạo Niết-bàn. Chánh pháp chẳng còn lâu Phải gắng tu tinh tấn Phật nói đã cạn lời Suy gẫm lời chân chánh. Khi kiếp này đã qua Cả sáu mươi đại kiếp Hiệu Phật chẳng được nghe Làm sao có ưa thích. Đến thời kỳ cơ cận Sự đói khổ không cùng Dù cho đến mẹ con Cũng giết nhau ăn thịt. Lúc đó đến con đẻ Kinh hãi đi chẳng yên Dù ở trong nhà mình Vẫn lòng lo sợ sệt. Thấy nghe những việc này Rõ kia sinh tử khổ Ai là người có trí Mà lại thích, lại ưa. Vô minh là gốc sinh Phụ nữ là gốc dục Thân là cội gốc khổ Do đây phải xa lìa. Trong đời chúng sinh ngu Say đắm nơi nữ dục Người lìa được ngu si Sẽ được Niết-bàn đạo. Lúc giảng nói pháp này Chẳng bị quả báo ác Vì bác không nhân quả Nên phải sa ác đạo. Pháp công đức vô lậu Không không vô sở đắc Tịch tónh vốn không bền Nên phải mau hiểu rõ. Phật bảo Đại Ca-diếp: –Nếu có Tỳ-kheo hoặc người nào có thể trọn nên pháp đệ nhất này mà cầu pháp vô lậu thì nên bảo rằng đối với tất cả pháp, tâm không chỗ trụ. Này Đại Ca-diếp! Bồ-tát phải kiên cố tu tập. Thế nào là kiên cố? Thế nào là tu tập? Kiên cố là tâm kiên cố và tinh tấn kiên cố. Thế nào gọi là tâm kiên cố? Bồ-tát nghó rằng: “Cúng dường một Đức Phật cho đến cúng dường cả hằng hà sa chư Phật rồi sau mới phát một niệm cầu Phật đạo, sau đó lại trải quả hằng hà sa kiếp có một Đức Phật hiện ra đời, vì phát hằng hà sa tâm nguyện nên một lần được thọ thân người, cho đến thọ hằng hà sa thân người nghe pháp một câu phát trí tuệ sáng suốt, được lợi ích lớn nơi đạo Vô thượng Bồ-đề.” Bồ-tát nên phát tâm kiên cố như vậy. Bồ-tát lại dùng nhiều phương tiện để nhiếp lấy trí tuệ của Phật, dùng nhiều khổ hạnh để mong cầu, nhiều khổ hạnh để nhiếp thọ Phật trí. Bồ-tát phải có tâm kiên cố như vậy. Này Đại Ca-diếp! Nay Phật vì ông mà nói ví dụ. Những người trí do ví dụ mà được hiểu nghóa trên đây nói về sự nhờ nhiều khổ hạnh mà có thể được Vô thượng Bồ-đề, trải qua hằng hà sa kiếp không nên thôi nghỉ. Nếu hằng hà sa kiếp học tập mãi không thôi nghỉ, thì có thể hiện chứng Vô thượng Bồ-đề. Bồ-tát nên phát tâm kiên cố như vậy để thêm thế lực sách tấn, vónh viễn không rời bỏ đạo Vô thượng Bồ-đề. Bồ-tát đã phát tâm như vậy, đối với phải chỗ, không phải chỗ chẳng nên chấp lấy. Vì sao? Vì chấp lấy thì trở ngại đạo Vô thượng. Nếu Bồ-tát không chấp lấy phải chỗ, không phải chỗ thì sớm được Vô thượng Bồ-đề. Này Đại Ca-diếp! Ví như có người đem của báu này đầy cả đại thiên thế giới dùng bố thí. Nếu có người tin và thọ trì kinh điển thuận Bồ-đề của Phật nói, thì phước của người này hơn người bố thí kia. Này Đại Ca-diếp! Bồ-tát lại có tâm kiên cố, cho đến tâm kiên cố này cũng bất khả đắc. Do đây sự tu hành của Bồ-tát chẳng nên thôi nghỉ. Bồ-tát phải tu tập nhiều đến bao nhiêu? Tùy có bao nhiêu pháp tu tập. Nếu còn có một niệm không thể thấu rõ thì đều phải tu tập. Vì sao? Vì những pháp tu tập đó không biểu thị được, dù vậy nhưng là pháp tu tập tối thắng, nghóa là tâm tánh kiên cố vậy. Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ rằng: Vô tâm, khởi tâm tưởng Sẽ có bố úy lớn Ta sẽ thành, chẳng thành Việc này sẽ thế nào? Do thường suy thường nghó Kẹt ở nơi một bên Hủy báng đạo chánh pháp Nên chẳng được Bồ-đề. Đây là tâm giải đãi Chẳng phải tướng Bồ-đề Người này nghi tất cả Nghi Phật đến Thanh văn. Chẳng tu mà mong cầu Thánh hiền, các Phật pháp Chẳng phải do ngôn thuyết Thành được quả an lạc. Cần phải có tin ưa Mới thành được đại pháp Chẳng phải chỉ tâm lường Mà được pháp thắng diệu. Do một pháp thành được Tất cả hạnh đã tu Biết thắng pháp kia rồi Vì Phật nên siêng tu. Này Đại Ca-diếp! Do có thể thành tựu pháp này, Bồ-tát không gần gũi cúng dường chư Phật, tự biết chắc rằng tôi sẽ thành Vô thượng Chánh giác. Này Đại Ca-diếp! Bồ-tát tại gia có ba pháp tu tập có thể lợi ích đạo Bồ-đề: Vì Nhất thiết trí nên tin sâu phát nguyện, chẳng đắm trước nghiệp tại gia và giữ chắc năm giới. Bồ-tát tại gia có đủ ba điều trên thời có thể thành sáu pháp: được quả báo Thánh hiền, chẳng câm, chẳng ngọng, chẳng điếc; nghe pháp mau hiểu, đi đứng đoan nghiêm, lòng tin sâu chắc, nơi pháp thậm thâm chẳng kinh sợ, khi nghe pháp dễ hiểu dễ ngộ và mau được trụ bâïc không thoái chuyển. Đối với sáu pháp trên đây, phải khéo biết có năm điều chướng: lời ly gián, vọng ngữ, không có chí nguyện, tật đố và đắm trước năm dục. Bồ-tát tại gia có ba pháp cần tu hành: Thường có lòng muốn xuất gia, nên phải cung kính tôn trọng bâïc Sa-môn, Bà-la-môn, nếu người thuyết pháp chẳng phải đồng loại thời nên lánh xa, vì chẳng nên học tập theo những pháp tà đạo chẳng phải Phật đạo. Này Đại Ca-diếp! Bồ-tát lại phải tu học ba pháp: thường tùy thuận chư Phật, vì giảng dạy người khác nên tự mình siêng tu hành, tập rèn lòng Từ đối với chúng sinh. Bồ-tát lại phải gần gũi ba pháp: lìa hẳn sự đánh đập, chẳng mắng nhiếc người và ban sự vô úy cho người đang kinh sợ. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ rằng: Chẳng gần người hạ liệt Thấy người chẳng chánh trực Liền phải gấp lánh xa Như lánh xa rắn độc. Chẳng theo học đạo khác Phi lễ phải xa lìa Dường như thấy chó điên Vì phải đọa ác đạo. Nếu chấp trước theo người Cùng họ đi đường ác Nghe pháp Không thắng diệu Phải có lòng thích ưa. Với Tỳ-kheo không tịch Nên cung kính tôn thờ Thêm lớn sự đa văn Mà được sinh trí tuệ. Bâïc gần gũi Bồ-đề Mọi người phải kính lễ Gặp qua để học hỏi Sớm sinh những căn lành. Muốn trí tuệ thêm lên Như hoa sen trong nước Phải nghe nhiều chánh pháp Căn lành lớn càng thêm. Do trí tuệ thêm nhiều Có thể dứt hữu lậu Thành oai đức vô úy Đại trí rất tinh cần. Vì lợi ích mọi người Tự mình thành lợi ích Người tại gia phải bỏ Đừng đánh đập chúng sinh. Phát tâm cầu Bồ-đề Nơi pháp không thoái chuyển Thân không bệnh, xinh đẹp Mọi người điều kính ưa. Nếu tu tập lòng Từ Thoát khỏi ba ác đạo Cõi trời Đao-lợi kia Hưởng quả vui sung sướng. Thân trời nếu đã chết Chẳng sa đọa ba đường Sẽ sinh trong loài người Nơi nhà sang tôn quý, Thân đoan nghiêm xinh đẹp Chẳng bị người khinh chê Trời, Rồng theo hộ trì Tu hành đúng chánh pháp Thọ hưởng nơi thắng diệu Người kính trọng mến thương Giấc ngủ được an lành Lúc thức lòng an ổn Vì chư Thiên ủng hộ Nên chẳng sợ chẳng kinh. Pháp rộng lớn trên đây Nhiều lợi ích như vậy. Hàng tại gia, xuất gia Lại có lợi ích lớn Làm nảy nở trí tuệ Căn lành cho mọi người. Người sợ làm cho an Đưa đến quả Vô thượng Chỉ cầu Nhất thiết trí Chẳng mong mỏi cõi trời; Người này được tương ưng Chánh đạo cùng chánh tuệ Vì có căn lành này Chẳng còn đọa ác đạo. Được trí, được ba minh Khéo học ba vô lậu Trọn nên những công đức Như chư Phật đã thành. Đấng Tôn Quý trong đời Mọi người cung kính lễ Người lễ kính Như Lai Là bâïc nhất trong chúng. Nếu người còn tại gia Phát được tâm vô thượng Vì họ nói pháp yếu Ông nên lắng nghe đây. Này Đại Ca-diếp! Bồ-tát tại gia phải có ba điều: 1. Xa lìa những sự buông lung chơi bời theo thế gian. 2. Cho tặng lẫn nhau cùng lựa chọn ngày lành giờ tốt, nên thanh khiết tránh nhận lãnh nhiều. 3. Phải nên tinh tấn tu học chánh pháp. Hàng tại gia lại phải tu tập ba điều: 1. Chẳng làm trở ngại người thuyết pháp. 2. Phải khuyến thỉnh người thuyết pháp. 3. Thường thắp đèn đuốc. Và trọn chẳng được làm ba điều này, nếu làm thì sẽ mang thân phụ nữ: 1. Không được ngăn trở mẹ đến nghe chánh pháp và ra mắt Tỳ-kheo. 2. Không được ngăn trở vợ ra mắt Tỳ-kheo và đi nghe chánh pháp. 3. Không được phạm chỗ phi đạo của vợ. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ rằng: Nên thường có lòng tin Thắp sáng đèn với đuốc Liền được đôi mắt Phật Thanh tịnh không cấu nhơ. Do nơi mắt thanh tịnh Rõ các pháp sở tri Vì rõ được sở tri Nên biết pháp quá khứ Biết hiện tại cũng vậy Chẳng phân biệt vị lai Không có ba thứ tướng. Có ba thứ tướng này Bỏ lìa tướng thứ ba Tướng gọi là vô tướng Đều cùng là một nghóa. Phật dù nói các căn Nhưng pháp không căn bản Nơi đây sinh phân biệt Thì mất đạo Bồ-đề. Tịnh tu Phật nhãn rồi Hiện chứng tất cả pháp Như đây là Bồ-đề Vừa rồi đã khai thị. Pháp không khai thị được Cũng không hủy hoại được Các pháp như hư không Nên nói là khai thị. Phật tuyên nói nghóa này Để dạy chúng tại gia Thường thắp sáng đèn đuốc Được Phật nhãn rõ ràng. Chẳng chướng người thuyết pháp Giáo pháp của Thích-ca Trọn chẳng vào tam đồ Chẳng mắc sinh quả báo. Thường hay cầu thỉnh người Tuyên dương pháp tối thắng Do sức căn lành này Chuyển pháp luân vô thượng. Nếu có người với mẹ Ngăn trở nghe pháp lành Thọ thân nữ xấu xa Đui gù nhiều tội lỗi Chẳng thấy được màu sắc Cũng chẳng nghe tiếng tăm Ở nơi chỗ tối tăm Không khác loài chuột dơi. Với vợ sinh đố kî Ngăn trở việc tu hành Mãn thọ sau khi chết Sẽ mang thân gái xấu Tóc vàng, tròng mắt xanh Đen điu mắt mù lòa Chân què, lòng độc ác Tai điếc, miệng nhiều lời. Nhiều tội lỗi như đây Sớm có thân xấu ác Do dục nhiễm nhân duyên Mà bị chồng khinh ghét. Này Đại Ca-diếp! Bồ-tát tại gia không nên làm ba điều này: 1. Những đồ vật bố thí của người khác không luận nhiều ít tốt xấu, nếu người chủ chẳng mời thỉnh thì chẳng nên đem bố thí. 2. Người khác muốn xuất gia không nên làm trở ngại, còn người chưa xuất gia nên khuyên bảo xuất gia. 3. Thấy người xây dựng chùa tháp nên trợ giúp, không được nhân việc xây cất mà lạm lấy tiền của hay đồ vật. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ rằng: Của cải người bố thí Không phải chỗ chẳng cho Chỗ thí chẳng được ngăn Lạm dùng thời mắc tội Nên ở trước thí chủ Vòng tay đứng thẳng ngay. Trong đây nếu thiếu người Cung cấp cho Tăng chúng Phải theo lời thí chủ Đem công giúp cho người, Đồ uống cùng món ăn Cho đến thứ rẻ mọn Đúng theo lòng thí chủ, Chớ để họ oán hờn. Nếu ai muốn xuất gia Hoặc con hoặc quyến thuộc Bồ-tát nên thuận theo Chẳng nên làm trở ngại. Nguyện chúng sinh an lạc Nguyện được chứng Niết-bàn Bản nguyện tôi được tròn Nguyện thuyết pháp vô thượng. Lúc biết mình có lỗi Chớ để thân tâm nhơ Chớ mãi mãi lo rầu Mà bị phiền não nhiễm. Này Đại Ca-diếp! Bồ-tát tại gia lại chẳng nên làm ba điều này: 1. Chẳng nên buôn bán người nam người nữ. 2. Chẳng nên đem thuốc độc cho người. 3. Chẳng nên gần gũi những người làm các việc trên. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ rằng: Chớ buôn bán người nam Chẳng buôn bán người nữ Thuốc độc chớ cho người Người làm phải tránh xa Vì làm khổ chúng sinh Chư Thiên thường quở trách. Không luận đến xứ nào Lòng lo sợ bị hại Hằng ngày thêm buồn lo Nạn khổ bức thân thể Chết yểu tự diệt vong Do đây chẳng nên phạm. Lỗi này và tội khác Phật biết rõ nguyên nhân Lược nói một ít phần Răn dạy các Bồ-tát. Này Đại Ca-diếp! Bồ-tát tại gia lại chẳng nên làm ba điều dưới đây: 1. Chẳng nên đến nhà dâm nữ. 2. Chẳng nên gần gũi những người mai mối. 3. Chẳng ở chỗ hàng thịt sát sinh. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ rằng: Không đến nhà dâm nữ Nơi nhơ uế buông lung Người đời sẽ chê bai Vì gần gũi tệ dục. Đến đó, người trí biết Ắt quở trách rầy la Chiêu họa hại thân mình Do đây thường chết sớm. Lại chẳng nên gần gũi Kẻ mai mối gái trai Người cưới vợ lấy chồng Gần họ bị khi dễ. Nhà sát sinh hàng thịt Cũng phải tránh chớ qua Nơi đó người khôn ngoan Không bao giờ ca ngợi. Những tội lỗi sâu nặng Như Lai biết rõ ràng Vì những người lỗi lầm Nay Phật nói như thật. Giáo pháp của Phật dạy Đệ tử Phật phải rành Đúng theo pháp thọ trì Chỗ tu hành kết quả. Chúng sinh tu Thánh đạo Mau đến quả Niết-bàn Phật giảng cho hạng này Chẳng phải vì người ác. Này Đại Ca-diếp! Có ba điều Bồ-tát tại gia phải thực hành: 1. Ở nhà nên quan sát thân mạng của mình giả tạm như khách. 2. Với của cải đã bố thí có quan niệm như được chứa cất. 3. Với của cải chưa bố thí xem như xa lìa ta cả trăm do-tuần, chẳng có quan niệm chứa của để cho vợ con. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ rằng: Thường quan sát sự chết Mạng ta chẳng còn lâu Sản nghiệp cùng của tiền Nên thí gieo phước đức. Của chẳng để vợ con Cũng chẳng vì thân mình Đem bố thí cho người Được phước đức bền chắc. Ân cần cầu Phật đạo Chẳng sinh lòng cống cao Nếu rời các pháp lành Thường mang lấy tổn hại. Như trẻ thơ đùa giỡn Ăn chút ít chẳng no Pháp vị còn mỏng manh Dù tin nhưng khó vững. Nếu tu chẳng dũng mãnh Cách đạo thật xa vời Hoằng pháp nếu chẳng thôi Gọi là pháp rốt ráo. Nay Phật vì đại chúng Nói những pháp môn này Nếu ai hiểu rõ ràng Là bâïc Nhất thiết trí. Dùng trí khéo quan sát Lòng chán lìa nơi thân Thường chánh niệm tư duy Thời như đối trước Phật. Này Đại Ca-diếp! Bồ-tát tại gia thành tựu được ba pháp dưới đây thì không thoái chuyển nơi đạo Vô thượng Bồ-đề: 1. Cha mẹ chẳng tin Tam bảo thì làm cho cha mẹ có lòng tin, cha mẹ hủy phạm giới pháp thời khuyên cha mẹ giữ giới, cha mẹ tham lam bỏn sẻn thì khuyên cha mẹ bố thí, khen ngợi đạo Vô thượng Bồ-đề mà vì người khác thuyết pháp, đây là pháp thứ nhất được không thoái chuyển nơi đạo Vô thượng Bồ-đề. 2. Bồ-tát tại gia biết rõ đáng cúng dường cùng chẳng đáng cúng dường, cúng dường cho người đáng cúng, chẳng cúng dường cho người không đáng cúng, dù chẳng cúng nhưng vẫn có lòng Từ đối với họ, đây là pháp thứ hai được sự không thoái chuyển nơi đạo Vô thượng Bồ-đề. 3. Bồ-tát tại gia nhọc nhằn làm ra của cải, chẳng phung phí, chẳng để thất thoát, chẳng đem cho bừa bãi, phải nên cất giữ kỹ lưỡng. Dù vậy, nhưng đối với các bâïc Sa-môn, Bà-la-môn thanh tịnh cùng các chúng sinh vẫn bình đẳng bố thí cúng dường và không làm chướng ngại những người đồng bố thí. Đây là pháp thứ ba được sự không thoái chuyển nơi đạo Vô thượng Bồ-đề. Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn nói kệ rằng: Hàng Bồ-tát tại gia Cầu Vô thượng Bồ-đề Trọn nên ba căn lành Thẳng lên Vô thượng giác. Cha mẹ đối Tam bảo Tà kiến không lòng tin Khuyên cho phát tín tâm Khiến trụ nơi thắng pháp. Cha mẹ tham bỏn sẻn Khuyên bố thí làm lành Phạm giới khuyên giữ gìn Cũng khuyên tu trí tuệ. Bốn phương nên đi khắp Thỉnh cầu các Pháp sư Thuyết pháp để độ người Do đây thêm trí tuệ. Phạm giới khiến giữ giới Chưa tin khiến được tin Không tuệ khiến chuyên tu Do đây được bất thoái. Gặp Tỳ-kheo trí tuệ Giữ giới học rộng nhiều Nên cung kính theo gần Để thường thường học hỏi. Do đây hàng cư só Được Bồ-đề không thoái. Gặp người đức sâu dầy Hiểu đạo nhiều trí tuệ Bâïc này đáng tôn trọng Thân của đem cúng dường. Tiêu biểu lòng kính tin Trước kia Phật từng nói: Không tin thì không được Phát đại Bồ-đề tâm Trí tuệ thấy pháp mầu Mau nên lợi ích lớn Ở nơi các pháp diệu Chứng nhập chẳng khó khăn. Biết mình cũng biết người Nơi đây được lợi lớn Tương ưng pháp xuất thế Nên trí tuệ càng thêm. Bao nhiêu những của tiền Xưa nay thường chứa nhóm Không phải gìn giữ mãi Đem bố thí người tu. Tiền của được sau này Cũng mang ra bố thí Bố thí thường tinh tấn Phật quả ắt mau thành. Trì giới cùng chúng sinh Từ tâm thêm dõng kiện Bố thí độ chúng sinh Trước sau không đổi khác. Bố thí lòng trong sạch Trọn không chút mong cầu Bạc tiền đến ngọc vàng Đều vui lòng thí cả. Dũng mãnh thí tất cả Những công hạnh đã làm Hồi hướng Vô thượng thừa Bồ-đề đại giác đạo. Cúng dường nếu phi pháp Dù bố thí Trời, Người Chẳng bằng thuận pháp lành Cho một người hèn khó. Tinh tấn vì cầu pháp Nhờ pháp được tỏ thông Thắng đạo sinh trí mầu Chứng Bồ-đề vô thượng. Này Đại Ca-diếp! Bồ-tát tại gia sau khi phát Bồ-đề tâm nếu có ba điều dưới đây thì sẽ qua Thanh văn thừa mà nhập Niết-bàn: 1. Có một hạng người sợ ba ác đạo, xem đạo Vô thượng quá nặng quá khó, không chuyên tu tập những thiện căn đã từng tu tập, chẳng thích cầu pháp lành, nản lòng cho là khổ, đây là điều thứ nhất. Nếu có điều này thì thoái thất Bồ-đề tâm mà qua Thanh-văn thừa nhập Niết-bàn. 2. Có một hạng người lúc làm việc bố thí lòng không hoan hỷ, đã bố thí rồi lại hối hận, cũng chẳng hồi hướng cầu trí tuệ Phật. Nếu người có điều thứ hai đây thì thoái thất tâm Bồ-đề, mau qua Thanh văn thừa mà nhập Niết-bàn. 3. Lại có hạng người chẳng chuyên cần tinh tấn thực hành hạnh Đại thừa, chỉ thích cầu học rộng, do thiện căn hạ liệt mau nhập Niết-bàn. Đây là hạng thứ ba thoái thất Bồ-đề tâm qua Thanh văn thừa mà nhập Niết-bàn. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ rằng: Đã phát Bồ-đề tâm Chẳng tùy thuận chánh hạnh Thoái thất nơi Phật thừa Vào nơi Thanh văn đạo. Vẫn tin đại Bồ-đề Cũng không lòng giải đãi Do vô trí xan tham Nên phải bị trở ngại. Biết ân Phật trì giới Bố thí lòng siêng năng Ba-la-mật-đa được thành, Chứng Bồ-đề không khó. Do tâm tạo những ác Tâm cũng thích cúng dường Tâm chúng sinh nếu bền Sẽ là quả thế gian. Nếu lìa được ba lỗi Hồi hướng đại Bồ-đề Sẽ là Bâïc Thế Tôn Chứng Bồ-đề vô thượng. Này Đại Ca-diếp! Bồ-tát tại gia nếu có ba điều dưới đây, thì thoái thất đạo Bồ-đề, mà Bát-niết-bàn nơi Độc giác thừa: 1. Có hạng người dù đã phát tâm đại Bồ-đề nhưng bỏn sẻn chánh pháp. 2. Có hạng người ham coi sao coi hạn và đoán việc cát hung thế gian. 3. Lại có hạng người vì giải đãi mà không thể tu học khắp các pháp trợ Bồ-đề. Những hàng tại gia đã phát tâm đại Bồ-đề, nếu có ba lỗi trên thời sẽ thoái thất Đại thừa mà vào Độc giác thừa Bát-niết-bàn. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ rằng: Người bỏn sẻn chánh pháp Chẳng chịu dạy bảo người Sẽ qua Độc giác thừa Thoái thất đạo Vô thượng. Do hai loại nghóa ấy Mất lợi khổ liền sinh Gần gũi để tu hành Nghi hoặc Bồ-đề đạo. Đã tu Đại thừa pháp Lại xem đoán cát hung Chẳng phải chánh tín tâm Tất phải xa Phật đạo. Có thể chuyên tín nhạo Kiên cố đạo Bồ-đề Trọn không lễ trời thần Chỉ phụng thờ Đức Phật. Nếu có lòng tịnh tín Chẳng cầu muốn quả trời Có thể được Phật thừa Hiệu là Đấng Vô Thượng. Nếu lòng thích Bồ-đề Chẳng thờ cúng trời thần Không luận sinh chốn nào Thân đẹp xinh tráng kiện. Này Đại Ca-diếp! Bồ-tát tại gia vì có ba điều mà chịu lấy thân thể đen xấu: Lấy đèn sáng nơi tháp của Như Lai; đối với người tranh cãi kiện tụng mà tỏ vẻ giận dữ; với người đen xấu không can dự đến mình mà lại chê mắng. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ rằng: Lấy đèn sáng nơi tháp Hoặc làm tắt đèn thờ Chịu lấy thân đen điu Như lông đen chim quạ. Khinh chê người đen xấu Tôi trắng trẻo, anh đen Do lỗi khinh chê người Thọ lấy thân đen xấu. Phải khéo giữ gìn miệng Lỗi họa từ miệng ra Tùy theo nghiệp đã làm Sẽ chịu lấy nghiệp báo. Này Đại Ca-diếp! Bồ-tát tại gia vì có ba điều sau đây mà phải sinh vào nhà thợ thuyền: 1. Tự đã giữ được năm giới, hoặc bị tân khách ép mời mà uống rượu, hoặc tự mời người khác uống, thì sẽ thọ sinh vào nhà thợ thuyền, đây là điều thứ nhất. 2. Tự đã giữ được phạm hạnh, lại vì hòa hợp người khác mà khiến làm điều uế dục, nên sẽ thọ sinh vào nhà thợ thuyền. Đây là điều thứ hai. 3. Thấy người siêng năng đọc tụng kinh pháp mà nhà mình đang hưng công nên bảo kia rằng: Anh nên nghỉ đọc tụng để làm tiếp công việc cho tôi, do đây nên sẽ thọ sinh vào nhà thợ thuyền. Đây là điều thứ ba. Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn nói kệ rằng: Đem rượu mời người uống Uống rượu với bà con Vì uống rượu say sưa Bèn sinh vào nhà thợ. Làm kim dao chẳng biết Nghề khéo khác chẳng rành Chỉ được ngồi động tay Trước lò thụt ống bễ. Tự mình tu phạm hạnh Bảo người làm nghiệp dâm Mãn báo đã chết rồi Sẽ sinh vào nhà thợ. Làm kim dao chẳng biết Ống bễ chẳng được làm Chỉ biết quơ búa to Đập xuống đe rèn sắt. Bảo người bỏ đọc tụng Sau khi đã chết rồi Thọ sinh nhà thợ thuyền Đầu óc thường ngu tối. Chẳng biết thụt ống bễ Cũng chẳng biết đập rèn Do nghiệp báo nên khiến Làm hư hại đồ đạc. Phật có lời khuyên dạy Nói năng phải giữ lời Vónh viễn chớ dạy người Làm tất cả việc ác. Luân hồi sinh tử khổ Do tham ái mà ra Pháp lành phải siêng tu Lánh xa những pháp ác. Này Đại Ca-diếp! Bồ-tát tại gia nếu có ba điều dưới đây thì sẽ thọ sinh vào nhà vua chúa sang giàu, thân thể đoan nghiêm xinh đẹp, được mọi người kính yêu, thông minh khéo léo siêng năng chẳng biếng trễ: 1. Người tại gia vừa mới gặp bâïc Sa-môn, Bà-la-môn lần đầu, liền kính tin cúng dường những vật thực, y phục, thuốc men, đồ nằm cùng những vật cần dùng khác. Đây là điều thứ nhất. 2. Người tại gia giữ vững bản nguyện tu hành đúng như lời nói trọn chẳng vọng ngữ. Đây là điều thứ hai. 3. Người tại gia đối với bậc Sa-môn, Bà-la-môn đầy đủ giới hạnh, kính tin cúng dường các bâïc ấy mà lại có thể thọ học chánh pháp. Đây là điều thứ ba. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ rằng: Những người có trí tuệ Thấy bâïc giới học cao Phải sinh lòng vui mừng Thường đi theo học hỏi. Đã được lời dạy dỗ Nên đúng pháp cúng dường Bố thí đồ cần dùng Trọn không lòng hối hận. Đây là pháp bền chắc Cần phải tùy thuận làm Phật trí được tương ưng Khó được mà mau được. Do lòng tin sâu chắc Thẳng đến đại Bồ-đề Đường trí tuệ tu hành Phật đạo chứng chẳng khó. Sống trong pháp vô thượng Mong được pháp diệu mầu Phải thọ bảy Thánh tài Quả Niết-bàn được chứng. Sinh vào nhà tôn quý Thân xinh đẹp đoan nghiêm Ăn mặc đều cao sang Chứng Niết-bàn vô thượng. Như chỗ Phật khen ngợi Tu hành Tối thượng thừa Thanh tịnh diệu Niết-bàn Đây là quả Tối thắng. Đã tạo nên công hạnh Quả Đẳng lưu chẳng dừng Trăm ức kiếp trải qua Nghiệp này cũng chẳng mất. Này Đại Ca-diếp! Bồ-tát tại gia trọn nên ba điều vun trồng các căn lành cho đến chứng được Vô thượng Bồ-đề trọn chẳng thọ vui năm dục thế gian: 1. Người tại gia thọ trì năm giới, không ca ngợi vui năm dục với người khác, siêng năng tu tập nghiệp hạnh của mình. Lại phát nguyện rằng: Tôi từ nay chẳng gần gũi tất cả phụ nữ. Từ nay đến khi chứng Vô thượng Bồ-đề, nguyện tôi chẳng gặp sự vui năm dục thế gian. Đây là điều thứ nhất. 2. Người tại gia nghe kinh điển này, sinh lòng tin cầu quả đại Niết-bàn, tuy thọ trì giáo pháp này nhưng tránh né chẳng thực hành. Được người khác giảng giải và phát khởi, liền phải xa bỏ việc tránh né mà cố gắng thực hành. Do căn lành này được biện tài vô ngại, vô trước. Người này đời hiện tại hoặc lúc lâm chung sẽ được thấy Phật. Sau khi chết sinh lên cõi trời, không bao lâu sẽ chứng được Vô thượng Bồ-đề. Đây là điều thứ hai. 3. Bồ-tát tại gia đem những căn lành mà mình đã có đều hồi hướng Vô thượng Bồ-đề, chẳng ưa thích cảnh lục trần, của cải, chức tước, chẳng trìu mến quyến thuộc. Do tâm vô vi và quả vô vi nên mau chóng chứng Vô thượng Bồ-đề. Đây là điều thứ ba. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ rằng: Tại gia tu năm giới Khéo giữ, khéo hộ trì Chẳng gần gũi nữ nhân Trong đây sinh nhàm chán. Những pháp môn vô thượng Siêng tu chẳng chán nhàm Nếu có lỗi chẳng lành Mau ăn năn chừa bỏ. Những căn lành tu tập Đều hồi hướng Bồ-đề Do công đức lành này Sớm lìa vui năm dục. Thường được học biết rộng Đem chánh pháp dạy người Sinh lòng đại Từ bi Cầu Bồ-đề vô thượng. Đã nghe những lợi ích Phải sinh niệm hiền lành Các dục nhiễm nên xa Sớm được thành Phật đạo. Đại Ca-diếp bạch: –Bạch Thế Tôn! Kinh pháp này tên là gì? Nay chúng con phải phụng trì thế nào? Phật bảo Đại Ca-diếp: –Kinh này tên là Thuyết Tam Luật Nghi cũng tên là Tuyên Thuyết Bồ-tát Cấm Giới, cũng tên là Đồng Nhập Nhất Thiết Pháp. Phật nói kinh này rồi, Tôn giả Đại Ca-diếp, tất cả đại chúng, Trời, Rồng, tám bộ chúng… nghe lời Phật dạy đều rất vui mừng, tín thọ phụng hành. KINH ĐẠI BẢO TÍCH <卷 id="86423647">QUYỂN 4 Hán dịch: Đời Đại Đường, Tam tạng Pháp sư Bồ-đề-lưu-chí. <詞 id="86423648">Pháp hội 2: VÔ BIÊN TRANG NGHIÊM (Phần 1) <章 id="86423649">Phẩm 1: VÔ THƯỢNG ĐÀ-LA-NI (Phần 1) Tôi nghe như vầy: Một thời Đức Phật ở tại rừng trúc Ca-lan-đà, thành Vương xá cùng chúng đại Tỳ-kheo và vô lượng Đại Bồ-tát đều đến hội họp. Các Đại Bồ-tát này đều là bâïc Nhất sinh bổ xứ từ các cõi Phật khác vân tập đến đây. Lúc bấy giờ đại chúng vây quanh cung kính cúng dường Đức Thế Tôn, để được nghe pháp. Bấy giờ, trong chúng hội có một vị Bồ-tát tên là Vô Biên Trang Nghiêm liền rời chỗ ngồi, để hở vai áo bên phải, quỳ gối, chắp tay hướng lên Đức Phật bạch: –Bạch Thế Tôn! Con có chút ít nghi nay muốn thưa hỏi, xin Đức Như Lai thương xót giải bày. Đức Phật bảo Đại Bồ-tát Vô Biên Trang Nghiêm: –Thiện nam! Như Lai cho phép ông hỏi. Ta sẽ giải tỏa sự nghi ngờ của ông, khiến ông được hoan hỷ. Bấy giờ Đại Bồ-tát Vô Biên Trang Nghiêm bạch: –Bạch Thế Tôn! Con vì hướng đến cầu vô biên trí tuệ, mặc áo giáp tinh tấn, vì các Đại Bồ-tát cầu đại phương tiện thiện xảo, hướng về vô biên nghóa trí thiện xảo, quyết định đại trí khi mới phát khởi, rồi an trụ ở nơi đạo Bồ-đề. Bạch Thế Tôn! Con vì các Bồ-tát và cũng vì lợi lạc cho các loài hữu tình muốn cho các loài hữu tình hướng về tâm vô đẳng dụ, nên con mới thưa hỏi Thế Tôn. Bạch Thế Tôn! Con suy nghó các pháp thanh tịnh trí nghóa rất sâu xa, phương tiện thì rất to lớn, giản trạch được vô lượng thiện xảo quyết định, vì muốn đến cầu tòa Sư tử, thăng tòa của Sư tử Nhất thiết trí, chính khi vừa mới phát khởi sẽ dũng mãnh cần tu cho đến khi được quả vị không thoái chuyển, ngôn từ thiện xảo tích tập, mặc giáp trụ tinh tấn, vì những Bồ-tát như thế, cho nên con mới hỏi Thế Tôn. Bạch Thế Tôn! Nếu có Bồ-tát đối với các hữu tình có nguyện muốn họ vượt đến bờ giải thoát, lại có chí cầu vô ngại vô uý, trụ trong vô úy phương tiện tùy cơ diễn nói các pháp nghóa, trí phân biệt thiện xảo không tăng giảm, như thâït tuyên dương bản tánh, tự tánh các pháp, hướng nhập tâm vô đẳng dụ, tâm tối thắng, tâm vô thượng, được tự tại, vì các Bồ-tát này nên con thưa hỏi Như Lai. Bạch Thế Tôn! Nếu có chúng sinh cầu Tự nhiên trí, Vô sư trí, phá vỡ vô minh, vượt hơn tất cả trời, người, rất là thù thắng hiếm có, lợi lạc tất cả thế gian, muốn hướng cầu Đại trí vô úy, trừ Tự nhiên trí, muốn hiển thị vô biên tri kiến thiện xảo, nói vô lượng pháp quyết định, muốn đem ánh sáng soi chiếu cho thế gian trời, người, lại vì các chúng sinh ưa muốn khai thị vô thượng, vô ngại đại trí phương tiện, muốn làm tri kiến rốt ráo thanh tịnh, cầu nhất thiết trí thiện xảo địa. Con nay vì các Bồ-tát này, nên thưa hỏi Như Lai. Bạch Thế Tôn! Nếu các Bồ-tát trụ nơi địa này rồi sẽ mau chóng thành tựu viên mãn Như Lai địa và có thể chứng được phương tiện thiện xảo Ba-la-mật-đa chẳng thể nghó bàn. Do chút ít công dụng thành thục chúng sinh nên hiện tại có thể được trí tuệ như vậy, khiến các chúng sinh xa lìa pháp ác, tăng trưởng pháp thiện, chỉ bày đạo Bồ-đề chủng tánh chư Phật và hay an lập vô lượng chúng sinh, khiến không thoái chuyển nơi đạo Vô thượng Bồ-đề. Bạch Thế Tôn! Các Bồ-tát kia có thể mở con đường giác, đối với Phật pháp trong lòng rất vui mừng. Nay con vì những hạng Bồ-tát này mà thưa hỏi Như Lai. Bạch Thế Tôn! Đại chúng đây đều đã vân tập, nay đúng là lúc Thế Tôn nói pháp vi diệu, xin Đức Như Lai khai thị diễn nói pháp môn như thế, trao cho các Bồ-tát pháp môn ấy, làm cho được viên mãn nguyện chẳng nghó bàn và được căn lành Nhất sinh bổ xứ. Bạch Thế Tôn! Môn Đà-la-ni thiện xảo như thế, Như Lai tùy thời nên trao cho, khiến các Bồ-tát có thể thọ trì được vô lượng pháp môn lý thú, thiện xảo quyết định và dùng ngôn từ diễn nói các nghóa thú…, lại có người có chí ưa muốn sẽ chứng Bồ-đề, được an trụ nghiệp vô biên đại thần thông, thành thục vô lượng, vô số chúng sinh, nhiếp thọ trí thiện xảo của Như Lai, xin nguyện khai thị pháp môn ấy, sẽ khiến cho chúng sinh chứng đạo Bồ-đề. Bạch Thế Tôn! Trong vô lượng kiếp Thế Tôn đã phát thệ nguyện lớn khiến vô số chúng sinh an trụ và tự nhiên trí. Xin Thế Tôn diễn nói Đà-la-ni môn như vậy khiến các Bồ-tát thành tựu thiện căn và do oai lực gia trì của Như Lai mà giữ vững nguyện vô thượng chẳng thể nghó bàn. Bạch Thế Tôn! Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đã chứng vô lượng phương tiện thiện xảo, được trụ vào Vô úy địa chẳng thể nghó bàn, biết rõ ý muốn sai biệt của các chúng sinh, Phật đã chứng giác tuệ từ vô lượng kiếp đến nay. Bạch Thế Tôn! Các đại chúng này đang chiêm ngưỡng Như Lai không một lúc nào tạm dừng, đối với Nhất thiết trí và các pháp tạng, chí cầu không lười, ưa muốn không chán, nguyện nghe nghóa quyết định của Như Lai. Thế Tôn đã an trụ cảnh Nhất thiết trí, đã biết các Bồ-tát này và phát thú thiện xảo đã thành thục. Bạch Thế Tôn! Các pháp môn Đà-la-ni này là cú nghóa viên mãn, là tất cả các pháp quyết định thiện xảo. Pháp môn như thế, Như Lai nên nói, khiến cho các Bồ-tát người chưa được thuần thục, đều khiến cho được thành thục, còn người đã thuần thục, chóng được thần thông và Nhất thiết trí tâm giải thoát tri kiến. Bạch Thế Tôn! Nếu các Bồ-tát an trụ Bất định địa, các Bồ-tát này được dự nghe pháp rồi mà được thành tựu Nhất thiết trí cảnh. Bạch Thế Tôn! Con vì nhân duyên ấy mới dám bày tỏ thưa hỏi Thế Tôn như thế này, chỉ xin đại Từ uy linh gia hộ dìu dắt các Bồ-tát nói pháp như thế. Bạch Thế Tôn! Đời mạt thế sau này, trong thời kỳ đấu tranh, chúng sinh nhiều chấp trước làm hại lẫn nhau, thêm lớn tham, sân, si, hoại loạn chánh pháp. Khiến các Bồ-tát ở trong thời kỳ đó, dùng đức đại Từ bi chịu đựng mọi sự khổ để lưu hành diệu pháp này, không tranh đấu. Do không tranh đấu nên có thể nhiếp thọ đại Từ, đại Bi và sẽ chứa nhóm những căn lành. Con nay theo nghóa này thưa hỏi Như Lai vô ngại về nghóa lý của pháp môn quyết định. Bạch Thế Tôn! Thế nào là vô lượng pháp môn, quang minh pháp môn và tất cả pháp phương tiện phát khởi của các Bồ-tát? Lại nguyện Như Lai nói pháp môn bất diệt hoại tónh lặng và diễn nói vô biên vi mật pháp tạng, đầy đủ thành tựu niệm lực không đoạn, hàng phục ma oán và các ngoại đạo dị luận mà không bị họ đánh đổ bẻ gãy được. Chỉ xin Đức Như Lai diễn nói chánh pháp, khiến cho các chúng sinh tích chứa căn lành, cũng khiến cho chúng sinh tích chứa vô biên thiện xảo, thị hiện xuất sinh Nhất thiết trí, tùy niệm kết tập vô lượng pháp yếu, được các biện tài thanh tịnh đầy đủ, tương tục không làm rối loạn vô đẳng cú nghóa, muốn khiến chứng được vô lượng pháp môn và Đà-la-ni chân thật phương tiện, lại khiến cho chúng sinh phát khởi ý lạc, vì nói lưỡng tế gia hạnh trước sau, thị hiện các pháp quá khứ, hiện tại và vị lai, nhân tự tại, pháp vô sở trụ, nguyện các Tỳ-kheo thấy suốt bản sự của mười phương Như Lai, dùng thần thông vô úy biến hiện ở khắp các cõi Phật, trao cho chúng sinh Pháp nhãn thanh tịnh, cũng vì khai thị pháp chẳng thể nghó bàn, thành thục Phật trí thiện xảo phương tiện. Con vì những nguyên nhân nghóa ấy mới thưa hỏi Thế Tôn. Chỉ xin Thế Tôn diễn nói pháp Như Lai địa, phương tiện rộng lớn rất sâu xa, vì Nhất thiết trí nhiếp thủ các thiện xảo vô lượng chẳng thể nghó bàn pháp lý thú, khiến cho đại nguyện của Bồ-tát và phương tiện thiện xảo viên mãn. Các Bồ-tát này dự nghe pháp ấy rồi đều chứng được đại pháp quang minh, thành tựu Bồ-đề thù thắng thiện xảo và các đại hoằng thệ nguyện kia đều được viên mãn. Phật bảo Vô Biên Trang Nghiêm Đại Bồ-tát: –Lành thay! Lành thay! Này Vô Biên Trang Nghiêm! Nay ông vì các Bồ-tát trụ nguyện thanh tịnh phương tiện thiện xảo, cũng vì thương xót chúng sinh, nên dùng trí tuệ quyết định khéo thưa hỏi Như Lai. Công đức của ông không có hạn lượng. Ông lắng nghe và khéo suy nghó, Phật sẽ phân biệt giải thuyết cho, khiến các Bồ-tát đối với cảnh giới trí tuệ của Như Lai, được sinh vô lượng công đức. Bồ-tát Vô Biên Trang Nghiêm thưa: –Bạch Thế Tôn! Chúng con xin vui lắng nghe! Bấy giờ Đức Phật bảo Bồ-tát Vô Biên Trang Nghiêm: –Này thiện nam! Nếu các Bồ-tát vì cầu vô biên thiện xảo phương tiện, thì phải rõ biết ngữ ngôn bí mật của chư Phật, rồi thọ trì tư duy quan sát đúng lý. Quan sát như thế nào? Này Vô Biên Trang Nghiêm! Trí của Đức Như Lai nhiếp các phương tiện, những điều diễn thuyết đều thanh tịnh cả. Các Bồ-tát cần phải tiến tu pháp yếu này. Lời của chư Phật nói đều bình đẳng, an trụ nơi đại Bi, đối với khắp quần sinh, quyết định thành thục các loài hữu tình. Hoặc có hạng trụ nơi hạ thừa cầu được giải thoát trong đạo Thanh văn. Có hạng ở trong Niết-bàn chân thật tối thắng phát thệ rộng lớn viên mãn thành tựu Nhất thiết trí. Nay Phật an trụ giải thoát vô thượng, xa hẳn pháp hạ liệt của các thừa khác, đã khéo vào ngữ ngôn bí mật của chư Phật, nói câu lời vô tỉ rộng lớn thanh tịnh nhiếp thọ các pháp của Như Lai, khiến các hàng hữu tình theo căn tánh của họ mà được giải thoát thành thục. Dù vậy, nhưng nơi pháp yếu này thảy đều bình đẳng, chẳng thêm chẳng bớt, không thiếu sót, cho đến vô sắc và vô đẳng sắc vô biên tế tự tánh thanh tịnh. Lời diễn thuyết của chư Phật đều thấu rõ như thật bản tánh tự tánh, nhưng trọn không có pháp rõ thấu cùng chẳng rõ thấu. Vì sao? Vì tất cả pháp môn đều là Như Lai dùng giả danh mà tuyên thuyết. Nếu các pháp kia đã là giả danh thì chẳng thể dùng pháp để thi thiết, cũng không hiện bày. Vì không hiện bày, nên những điều Phật nói đều là thắng nghóa chân thật, tùy theo pháp mà đồng vào tất cả pháp. Với tất cả pháp chẳng trụ nơi phân biệt, cũng chẳng phải chẳng trụ. Do pháp phân biệt cùng chẳng phân biệt bình đẳng như thật mà chứng tất cả pháp vô sai biệt. Pháp vốn không có sinh, vì sinh pháp vô sở hữu. Pháp vốn không có pháp mà vì sinh vọng phân biệt chấp trước. Pháp vốn không có khởi, vì không tự tại. Pháp không có quán đãi vì hoàn toàn xả. Pháp không có tác dụng vì không có khứ lai. Pháp không có tự tánh vì siêu quá tất cả tự tánh. Pháp vốn bình đẳng không sai khác vì không hý luận. Tùy theo sự thực hành hành pháp mà phát nguyện thù thắng đều thành tựu cả, nhưng trong đây không có tác giả cho đến không có chút pháp bị được, vì đều quy về nơi không. Do những nghóa trên đây, nên Như Lai nói tất cả pháp như huyễn, như mộng, không có cao hạ. Chính đương lúc Phật dùng hoằng thệ thanh tịnh ấy để nhiếp hóa chúng sinh đây, cũng thật không có chút pháp gì có thể chấp lấy được cả. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Đây là pháp môn quang minh của các Bồ-tát. Do pháp môn này nên được tăng trưởng bản nguyện thù thắng. Như mặt trời mọc lên thì tỏa ánh sáng khắp nơi. Người tin hiểu được pháp môn này thì làm pháp quang minh cho tất cả chúng sinh. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Nếu các Bồ-tát, trong có chánh tư duy, ngoài không tán loạn, dứt được các chướng ngại, niệm Phổ quang Tam-muội và tin hiểu được pháp thậm thâm, thì cần nên quan sát các pháp môn này. Như Lai biết rõ tất cả pháp, dùng môn duyên khởi mà tuyên thuyết khai thị. Duyên khởi như vậy là hư vọng không thật, tự tánh bản tánh thảy đều không tịch. Tánh duyên khởi này cũng chẳng chân thật, dù nó có thể làm cho chúng sinh hết tạp nhiễm được thanh tịnh, nhưng tìm khắp mười phương đều chẳng thể nắm bắt. Vì chẳng nắm bắt nên không nhiếp thọ. Vì không nhiếp thọ nên với giáo thuyết của Phật còn nên xả ly huống là những phi pháp. Nói xả ly là vì nó chẳng phải có, là vô sở thủ, không có công dụng, bản tánh vốn thanh tịnh. Tất cả pháp không sai khác, vì rõ biết phân biệt bản tánh như thật. Tất cả pháp không có chỗ trụ, cũng không thể thấy, vì không có tánh riêng khác. Do đây nên tất cả pháp vốn không có chỗ trụ, không có chỗ nương chỉ do danh tự giả lập ra. Tất cả pháp đều không tịch, chẳng có tự tánh, vô trụ mà trụ. Vì vậy nên các pháp không có trụ xứ. Vì không nơi chỗ nên là tận, là diệt, là biến dịch. Như Lai chỉ dùng giả danh tuyên thuyết, mật ý như vậy cần phải rõ biết, chẳng nên chấp trước là thiện cùng bất thiện. Nếu chấp thiện pháp thì cũng sẽ chấp pháp bất thiện. Vì chấp pháp bất thiện nên sinh những khổ não. Phật dùng giả danh ở nơi đây nói là Khổ Thánh đế. Do chẳng chấp trước pháp thiện và bất thiện nên những chấp thọ kia dứt diệt. Như Lai ở nơi bị thiện pháp dứt đây mà giả nói là Tập Thánh đế. Vì rõ biết được Thánh đế thứ hai, vì diệt, vì tận, vì không ức tưởng, vì nhàm lìa, quan sát vô sở hữu, vì không tưởng, không thọ, không phân biệt, Như Lai nơi đây giả nói là Khổ diệt Thánh đế. Vì rõ biết Thánh đế thứ ba, là đạo quả chỗ mong cầu, như thật ngộ nhập tất cả pháp, vượt khỏi tất cả cảnh ức tưởng phân biệt hý luận, tương ưng tám Thánh đạo, tu tập Chánh kiến cho đến Chánh định, rõ biết Thánh đế là con đường diệt khổ. Phật dùng giả danh nói đây là Đạo diệt khổ, Thánh đế thứ tư. Chư Phật ở nơi đây lập ra: Biết khổ, dứt tập, chứng diệt và tu đạo. Đây là khổ, khổ tập, khổ diệt và khổ diệt đạo. Khổ này vốn không có, vì theo thế tục giả danh lập ra. Những vô minh này tất cả đều là phan duyên phân biệt, trong đây vốn vô trí. Vì sao? Vì vô trí nên cũng không có một chút phan duyên có thể chấp lấy được. Không có chỗ chứng, không có quang minh, không thể rõ biết, cũng chẳng thể nắm bắt. Như vậy thì trong đây sẽ có vật gì? Tất cả đều là những pháp hư vọng bại hoại không thật không chắc. Trong đây nếu lập ra có vật chắc thật, thì có chấp thường. Nếu cho là không thì thành chấp đoạn. Do đây chẳng nên phân biệt đối với pháp khổ. Do trí tuệ nên rõ biết tự tánh của vô trí là tự tánh của khổ, vì tương ưng với vô minh. Vô minh kia cũng chẳng cùng với vật tương ưng, đã chẳng tương ưng thì nó cũng không có. Vì chẳng tương ưng, nên vô minh chẳng phải là phân biệt cũng chẳng phải là chẳng phân biệt, chẳng tạo tác, chẳng hư hoại, cũng không tác giả, vì không thể tìm ra tác giả. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Đây là các Bồ-tát ngộ nhập tự tánh của vô minh mà thuận với minh pháp môn. Do pháp môn này có thể bỏ rời tất cả vô minh đen tối, hiện tiền chứng được tùy thuận minh pháp, có thể khéo tu tập Bồ-đề phần, khéo rõ biết các Thánh đế. Các Bồ-tát đây có thể được thanh tịnh nơi pháp môn này, nghóa là do vì bất sinh nên khổ được thanh tịnh. Vì chẳng phan duyên nên tập được thanh tịnh. Vì diệt tận nên diệt được thanh tịnh. Do tu tập nên đạo được thanh tịnh. Vì tín tâm bình đẳng nên đạo bình đẳng. Những pháp giả danh sai khác như vậy cần phải rõ biết. Đã rõ biết rồi thì phải dứt, phải chứng, phải tu. Đối với lời dạy của Như Lai, nếu hiểu rõ được, người đó liền biết khắp, liền dứt, liền chứng, liền tu tập. Do đây nên bâïc Thánh rõ biết như vậy rồi, đối với tất cả pháp chẳng lấy chẳng bỏ, liền được an trụ nơi pháp môn Tứ đế. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Tất cả pháp không có phân biệt, không có tăng trưởng, cũng chẳng tích tập. Vì bâïc thánh khéo rõ biết đúng như thật, nên chẳng phân biệt, chẳng hý luận, chẳng bỏ, chẳng lấy, mà thấy được như thật. Do đạo đế đoạn trừ, nên đối với những thiện pháp còn chẳng khởi phân biệt, cũng không hý luận, huống là pháp bất thiện. Do tương ưng với vô phân biệt nên cũng chẳng trụ nơi dứt pháp và dứt phi pháp. Đã hoàn toàn dứt thời không còn chấp pháp và phi pháp. Bậc này có thể rõ biết pháp chấp là hư vọng, pháp hư vọng đây trống rỗng vô sở hữu. Như trên đây là môn đế lý chứng nhập của những bâïc ấy. Do môn này, nên chẳng tham ái, chẳng sân hận; chứng được viên mãn đức xả, dứt được những kết sử, an trụ chánh đạo đến bờ kia, chứng nhập tánh nhưng không xuất không nhập. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Nay ông phải quan sát bản tánh của tất cả pháp đều không, tự tánh tịch tónh không có tác giả. Tất cả pháp đều chẳng thật, tương ưng với kết sử. Trong pháp không tự tánh đó chẳng nên chấp trước, lại cũng chẳng nên rời ngoài tự tánh và chẳng phải tự tánh mà có niệm phân biệt, đã rõ biết được nhân duyên thanh tịnh, thì với tất cả pháp duyên sinh chẳng nên hý luận. Duyên sinh kia vốn không tự tánh rốt ráo thanh tịnh, nhân duyên đó chẳng tương ưng lẫn nhau. Các pháp xoay vần, trong đó không có sở tác, không có sở hành, không có sự nghiệp. Vì tất cả pháp đối với nhau là không, nên không có tự tánh, không sở y, không sở trụ. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Trong diệu pháp này ông cần phải ngộ nhập. Được như vậy thời có thể tăng trưởng không bị tổn hoại, được pháp môn thanh tịnh phổ biến quang minh. Do nhiếp thọ nên được thanh tịnh. Vì không hý luận nên thành quang minh. Vì lìa kết sử không chỗ chấp trước nên được xuất ly. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Tất cả pháp chỉ có danh tướng để khai thị tuyên thuyết. Danh là tất cả uẩn chẳng phải sắc, tướng là những sắc pháp do tứ đại tạo thành. Danh tướng như vậy, tất cả đều là hư vọng chẳng chân thật. Vì chúng sinh điên đảo nên có chấp trước, hoặc chấp sắc là ngã, là ngã sở. Vì phân biệt nơi tướng mà có tên gọi, có chỉ bày, có tuyên thuyết. Hai thứ danh sắc như vậy đều chẳng thật. Tất cả đều là những pháp biến hoại hư vọng, như huyễn, như mộng. Thể của sắc chẳng bền chắc như cảnh chiêm bao, cho đến bốn uẩn cũng đều chẳng thật. Tất cả chỉ là văn tự thi thiết của thế tục thôi. Quan sát như vậy, lúc đã biết rõ thì chẳng thấy có khổ. Vì tương ưng với Thật đế nên không phan duyên, vì không phan duyên nên tâm vô sở hữu, vì vô sở hữu nên đâu có gì tương ưng với phan duyên kia. Do đây nên đối với cảnh giới Niết-bàn được bặt tưởng và dứt sở tri. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Tam giới do tưởng và tác ý sinh ra, nên gọi rằng tam giới hư vọng. Tưởng và tác ý cũng chẳng phải chân thật. Tưởng đây tức là chấp trước sắc. Bao nhiêu tác ý đều tương ưng với thọ, tưởng, hành, thức. Bản tánh của các pháp cũng chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, cho đến phi tưởng cũng chẳng phải tác ý. Tưởng và tác ý bản tánh đều không. Những ngôn thuyết cũng đều hư vọng, chỉ nhờ ngôn thuyết để làm cho tánh tịch tónh. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Bản tánh của các pháp vì là giả danh, nên chỗ nói ra cũng đều bình đẳng. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Thật đế trong pháp này, các Bồ-tát cần phải rõ biết. Nghóa là chư Phật Như Lai vì đã dứt rời tất cả kết sử, nên những điều diễn thuyết ra trọn chẳng luống hư. Nơi đây các ông phải khéo suy nghó, chớ có quan niệm chấp trước. Đối với tất cả pháp chớ phân biệt, chớ hý luận. Rõ tất cả pháp không có tự tánh, sinh lòng Từ bi đối với chúng sinh, tư duy ngộ nhập pháp môn như vậy, khai thị diễn thuyết để lợi ích tất cả. Pháp môn này thế nào? Nghóa là thấu rõ vô minh các pháp hữu vi, tỏ ngộ trí, kiến… các pháp vô vi. Phải chứng nhập trí thanh tịnh, không hý luận với tất cả pháp hữu vi, pháp vô vi. Chẳng phải số lượng mà vào số lượng, mà trụ số lượng, vì tùy thuận pháp chẳng phải số như vậy nên chứng nhập pháp môn vô vi thanh tịnh, chứng được trí tuệ quang minh chiếu khắp, nhiếp thọ các pháp làm cho chẳng mất chẳng hoại. Có thể dùng giác tuệ phương tiện thiện xảo rộng vì chúng sinh diễn thuyết các pháp. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Đây là các Bồ-tát chứng nhập môn Đà-la-ni. Do môn này, mà sinh ra giác tuệ sai biệt rộng lớn và có thể phát khởi trí thiện xảo diễn thuyết những pháp nghóa. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Trong đây gì là môn Đà-la-ni? Bâïc Bồ-tát này đối với các pháp có thể được Tổng trì phương tiện thiện xảo. Bồ-tát này an trụ nơi trí thiện xảo thanh tịnh mà thực hành biện tài thuyết pháp. Do giác tuệ nghóa vô ngại mà quán sát bản tánh, tự tánh của các pháp. Nhưng tất cả pháp tự tánh vốn không trụ, không danh, không tướng, không chỗ kiến lập, chẳng thể tuyên thị, chỉ dùng ngôn từ của thế tục để diễn thuyết. Tất cả pháp, bản tánh, tự tánh đều chẳng thể nêu bày, không đến không đi, không có văn tự, văn tự vốn thanh tịnh không có công dụng. Vì sao? Vì bản tánh của tất cả pháp đồng như hư không. Tất cả các pháp cũng như vậy, không tạo tác, không sinh khởi, vô tướng thanh tịnh. Dùng hư không để khai thị diễn thuyết, thời các pháp môn này là không có pháp môn, vì pháp môn thanh tịnh, rốt ráo không nhiễm cũng chẳng theo nơi nhiễm. Vì sao? Vì các pháp rốt ráo chẳng sinh khởi, tự tánh của pháp cũng chẳng sinh khởi. Do đây nên biết rằng tất cả pháp nói ra trong ba đời, tự tánh là vô tánh, nhưng cũng chẳng nên chấp các pháp là vô tánh. Đây là môn Đà-la-ni Vô sở trước của các Bồ-tát, vì pháp môn của các Bồ-tát đều thanh tịnh. Khai thị diễn thuyết tất cả pháp có hình tướng như vậy, hình tướng đó chính là chẳng phải hình tướng, chẳng tạo tác, chẳng hư hoại, chẳng tham ái, chẳng sân hận. Do đây nên biết môn hình tướng này là chẳng phải môn. Vì môn thanh tịnh nên được vào nơi pháp môn thanh tịnh không hình tướng. Vì muốn rõ biết môn hình tướng này là vô sở hữu. Chẳng dùng nghóa có mà tuyên thuyết như vậy, vì vô sở tác nên vào nơi pháp môn không hình tướng. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Pháp môn không hình tướng đã nói như vậy là Đà-la-ni thanh tịnh mà nói. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Pháp môn đã nói đó dường như hư không, tất cả pháp nương nơi hư không mà có sinh diệt. Pháp sinh diệt kia tánh đều bình đẳng. Khi quán như vậy thì không có sinh diệt, không chỗ nhiếp thọ. Với tất cả pháp phải biết như vậy. Tất cả pháp cũng chẳng phải nhiếp thọ, chẳng phải không nhiếp thọ, chẳng phải đồng, chẳng phải không đồng, cho đến không có chút pháp gì mà có thể được. Do đây có thể rõ được môn hình tướng này, vì được môn vô tướng thanh tịnh mà khai thị diễn nói. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Nói rằng vô tướng đó chính là không thân, không thân thi thiết, không danh, không cú, cũng không thị hiện. Nơi giáo nghóa này phải nên rõ biết môn không hình tướng kia đồng với hư không. Nói rằng hư không, cũng chẳng có hư không và thị thuyết hư không. Đây là pháp môn vô minh tùy thuận minh trí lực. Bồ-tát có thể chứng nhập lý thú phương tiện của môn Đà-la-ni. Do chứng nhập nên không có tranh luận cũng không quên mất, liền chứng nhập môn Đà-la-ni vô đoạn bí mật ngữ ngôn, như rồng Vô Nhiệt Não làm trận mưa to không ngớt hạt. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Nói Đà-la-ni trên đây là cú nghóa gì? Bồ-tát Vô Biên Trang Nghiêm nói: –Bạch Thế Tôn! Đà-la-ni là giả danh phương tiện tùy thuận các pháp bí mật; là nghiệp dụng liền ghi nhớ khắp các pháp; là những câu ngữ ngôn thuyết pháp. Do trí lực được vào số Đà-la-ni như vậy. Do thiện giác tuệ cần phải thọ trì công lực Bồ-đề vô lượng vô biên. Bạch Thế Tôn! Như chỗ con hiểu, phương tiện diễn thuyết trí vô biên này là vì muốn lợi ích cho tất cả chúng sinh nên khai thị lưu bố làm cho chánh pháp chẳng đoạn tuyệt. Bạch Thế Tôn! Đà-la-ni này là đại hư không, là đại phương quảng. Do nghóa đây nên có thể tuyên thuyết rộng khắp. Do tuyên thuyết bình đẳng có thể nhiếp thọ nên gọi là tùy thuận giáo pháp thiện xảo khai thị lưu bố rộng lớn. Vì văn tự sai biệt viên mãn mà được thành tựu biện tài vô ngại. Do quan sát nghóa thiện xảo ngôn thuyết nên được nghóa vô ngại biện tài. Vì quyết định các pháp thiện xảo khai thị nên được viên mãn pháp vô ngại biện tài. Thương xót chúng sinh dùng tâm đại Từ, đại Bi nên có thể nhiếp thọ. Do nhiếp thọ, nên tuần tự điều phục làm cho được thanh tịnh, không hý luận, có thể diễn thuyết pháp xả bình đẳng. Bạch Thế Tôn! Lúc diễn nói pháp môn phương tiện bí mật Đà-la-ni này, vô lượng, vô biên nghóa thiện xảo phát ra từ kim khẩu của Phật. Đức Phật bảo Vô Biên Trang Nghiêm Đại Bồ-tát: –Nói pháp môn chính là từ ngữ môn Nhất thiết trí của Như Lai. Trong môn này, do ngữ ngôn mà diễn thuyết được tất cả pháp. Như Lai an trụ nơi tự nhiên trí vô biên thanh tịnh rốt ráo thanh tịnh, từ nơi không chỗ an trụ, không chỗ tạo lập mà diễn ra pháp môn rộng lớn rất sâu. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Như Lai từng nói tất cả pháp đều là Phật pháp. Vì đối với các pháp có thể khéo biết rõ nên gọi là Phật pháp. Bản tánh của các pháp đồng với Phật pháp nên các pháp đều là Phật pháp. Do có thể rõ biết các pháp và phi pháp nên nói rằng có thể rõ biết tất cả pháp. Người có thể rõ biết các pháp, thì có thể rõ biết môn Đà-la-ni. Môn Đà-la-ni này có thể vào khắp tất cả pháp, nghóa là có thể nói năng diễn thuyết đàm luận. Tất cả những sự nói năng diễn thuyết đàm luận đều do nơi văn tự mà tuyên thị. Trong văn tự này, đầu là chữ “a”, rốt sau là chữ “hà”. Dường như lúc nhập thai, thọ thai, trụ thai, thời lấy mẹ làm trước. Lại như chủng tử và nuôi lớn thời dùng cha làm trước. Như uẩn tích tập lấy sinh làm trước tiên, sau đó là kiến lập và phân sai biệt, tiếp theo là sáu xứ các căn thành thục. Như vậy chữ “mẹ” là trước tiên. Tất cả văn tự hòa hợp sai biệt dùng chữ “mẹ” như vậy là trước. Phát sinh văn tự thời trước là chữ “a”, rốt sau là chữ “hà”, những văn tự khắc ở chặng giữa, tùy theo sự tương ưng, các văn tự hòa hợp có ra. Đây chính là có thể vào môn Ngữ ngôn Đà-la-ni. Lại phải rõ biết tất cả những hành pháp thảy đều hoại diệt. Như văn tự kia, đã viết học thành rồi liền sẽ trừ diệt. Tất cả nghiệp dụng lập ra đều sẽ hoại diệt. Như những hành pháp kia vì hòa hợp mà sinh, nó chẳng hòa hợp thời hoại diệt. Hai thứ tương ưng hòa hợp như vậy lập thành tất cả ái kết trong ba cõi, cũng do hai thứ hòa hợp như vậy lập thành tất cả pháp hữu vi. Quan sát như vậy, lần lần có thể thành tựu pháp môn vô tác, do đây có thể diễn thuyết môn Đà-la-ni sinh diệt, làm cho các Bồ-tát mau được viên mãn phương tiện thiện xảo. Như chữ “mẹ”, trước là chữ “a”, sau là chữ “hà”. Được như vậy rồi, nên dùng lời nói diễn thuyết đàm luận, khéo vào tất cả ngôn từ bí mật, lại phải rõ biết pháp vô ngại để khai thị tuyên thuyết. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Như mẫu tự, chữ "a" làm đầu, bao nhiêu văn tự theo đó lập thành, do tác ý mà có biên chép. Sau chữ "hà", không còn văn tự nào có thể kiến lập được nữa. Do hai thứ tác ý này có thể sinh tất cả hành pháp hữu vi. Hai thứ phân biệt đó đều không chân thật, vì nơi chân thật không có bản tánh tự tánh của văn tự, cũng không có phân biệt và chẳng phân biệt, mà trong đó cũng không có chút phần gì làm ra. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Tất cả các pháp do trí nhận biết. Trí này đều từ nơi văn tự mà được sinh khởi. Vì văn tự này chẳng thành tựu, nên trí kia cũng lại không hình tướng có thể được. Vì sao? Vì nơi chân thật vốn không có hình tướng. Do vào nơi không hình tướng như vậy nên rời bỏ tất cả sự nghiệp tạo tác. Vì vô tác nên rời bỏ tất cả sự hữu vi. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Đây là pháp môn Thanh tịnh thiện xảo Đà-la-ni. Nếu các Bồ-tát lúc học pháp môn này, thời có thể phát khởi tất cả sự nghiệp vô ngại, vì chúng sinh tuyên thuyết chánh pháp không thiếu bớt, chẳng trụ nơi chấp trước và có thể xa lìa những tưởng cùng tác ý, vì đã có thể vào nơi pháp Vô ngại trí, chứng Vô biên trí. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Nếu các Bồ-tát khi đã khắp dùng tất cả danh tự, mà rõ biết tất cả pháp chỉ có ngôn thuyết mà không chân thật. Biết như vậy rồi Bồ-tát cần phải vào môn phương tiện Đà-la-ni. Thế nào là nên vào môn phương tiện Đà-la-ni? Rõ biết tất cả danh ngôn vốn không chỗ trụ, nên chẳng trụ nơi các pháp, chẳng trụ trong, ngoài, chặng giữa, tất cả chỗ đều chẳng thể nắm bắt được. Chỉ nương ngôn thuyết mà lập ra danh tự. Với danh tự lập ra liền rõ biết như thật, là như thật. Do như thật này cần phải rõ biết tất cả pháp vốn không danh tự, không ngôn thuyết, đây là chỗ trí lực vô sở úy của chư Phật. Với tất cả pháp, Bồ-tát nên dùng pháp môn này để khai thị diễn thuyết. Như Lai nói tất cả pháp chẳng phải một tánh, chẳng phải khác tánh, vì các pháp không có tánh một tánh khác. Tất cả pháp này chẳng phải sinh, chẳng phải có. Những pháp tuyên thị như vậy cũng không. Pháp đã không thời chính nó là vô tướng. Đã vô tướng thời không nguyện cầu. Nếu các pháp đã là Không, là Vô tướng, là Vô nguyện, thì chẳng thể biết, chẳng thể biết khắp. Do đây chẳng nên nói các pháp là có, là không. Nói có, nói không chỉ là lời nói, trong đó chẳng nên chấp trước tất cả pháp là chân thật thắng nghóa. Vì sao? Như Lai thường nói nếu người có chấp trước tất cả pháp là chân thật thắng nghóa, thì với pháp nào cũng đều sinh chấp trước. Chấp trước như vậy đều là pháp bại hoại, là không, chỉ có hư vọng, phân biệt, hý luận. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Ông cần phải quan sát diễn thuyết các pháp, nhưng những pháp đó thật ra không thị không thuyết, làm sao ở trong đó lại có người vì người khác mà diễn thuyết. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Pháp thanh tịnh đây do Như Lai diễn bày ra. Người nào có thể rõ biết được thì đáng gọi là rất hy hữu. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Nay các ông ở trước ta được nghe pháp như vậy, dầu đa số có thể khéo rõ biết sinh thắng giải, trụ nơi tín tâm thanh tịnh, nhưng chúng sinh đời sau đối với pháp này ít người hiểu biết. Chỉ trừ những người hiện nay gần gũi bên Phật phát hoằng thệ: “Nguyện đời vị lai đem sự an lạc lợi ích cho chúng sinh, mà sẽ thọ trì giáo pháp của Như Lai. Những người hiện tiền thừa sự cúng dường Như Lai tin sâu hiểu chắc sẽ có thể chứng được môn Đà-la-ni này.” Này Vô Biên Trang Nghiêm! Do ngày trước cúng dường chư Phật, lại được tin hiểu giáo pháp thậm thâm, nên các Bồ-tát nguyện cầu Đại thừa hướng đến công hạnh sâu rộng. Hàng Thanh văn thừa nhàm lìa ba cõi nên siêng năng tu hành giáo pháp thậm thâm, những người này chưa từng được nghe giáo pháp thâm diệu này. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Đức Như Lai vì muốn lợi ích cho hạng hữu tình này, khiến họ chứng chủng trí rộng lớn vô lượng, nên lại nói giáo pháp thậm thâm. Giáo pháp này chẳng phải kẻ ngu phu nhiều, chấp trước chẳng mong cầu diệu pháp mà có thể hiểu, có thể làm được. Diệu pháp này là chỗ nương tựa của những người tu hành đúng lý đầy đủ căn lành, biết sợ tội mà cầu giải thoát. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Nay Phật vì các ông và tất cả đại chúng luôn thuyết pháp chẳng mệt mỏi nhàm chán. Do xưa kia lúc Phật còn thực hành đạo Bồ-tát, trong vô lượng kiếp tinh tấn tu học diệu pháp thậm thâm này. Đã tu học rồi bèn hồi hướng cho tất cả chúng sinh, làm thế nào sẽ vì các loài hữu tình mà chuyển được pháp luân vô thượng và vì các hữu tình thị hiện được trí tuệ vô thượng khiến cho hạt giống Phật chẳng dứt? Này Vô Biên Trang Nghiêm! Đây là do nguyện lực thuở xưa của Đức Như Lai vì muốn hạt giống Phật chẳng dứt và dùng oai lực gia hộ môn Đà-la-ni này, khai thị diễn thuyết pháp thậm thâm đây cho được lưu bố rộng khắp, khiến chúng sinh sẽ được ngộ nhập trong Phật pháp, khiến hạt giống Phật chẳng dứt. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Nay các ông nếu muốn học theo Phật, thời có chúng sinh nào mong cầu chánh pháp, các ông phải khai thị diễn thuyết chớ sinh lòng nhàm mỏi. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Các Bồ-tát ở trong đại chúng, đem pháp của mình đã được nghe mà diễn thuyết khai thị. Do đây sẽ được gần Phật trí, mau chứng được môn Đà-la-ni. Vì chứng Đà-la-ni nên dùng công lực ít mà có thể thọ trì pháp môn thanh tịnh sáng suốt. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Tất cả pháp bản tánh thanh tịnh. Bản tánh của các pháp nếu đã là chẳng phải tương ưng, chẳng phải không tương ưng, chẳng phải hòa hợp, chẳng phải không hòa hợp, thì trong các pháp vẫn không có pháp. Nếu pháp đã không có thì không chỗ nào có thể thị thuyết được, chỉ trừ khi để dứt tập nhân, vì dứt tập nhân nên được xa lìa, vì được xa lìa nên được tịch diệt. Như Lai vì muốn chúng sinh hiểu rõ nên tuyên thuyết. Tất cả pháp bản tánh tự tánh vốn là vô nhân, thì là nhân dứt. Vì vô nhân dứt nên không lìa không diệt. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Ông xem chỗ thuyết pháp của Phật thanh tịnh như vậy. Nếu người dùng pháp để quan sát Đức Như Lai, người đó nơi Đức Như Lai thấy chẳng thanh tịnh. Vì sao? Vì Như Lai chẳng phải pháp chẳng phải phi pháp. Như Lai còn chẳng an trụ chút pháp gì huống là phi pháp. Như Lai vượt khỏi các pháp biểu thị, không thể tuyên thuyết, vì tất cả ngữ ngôn đều thanh tịnh. Do đây nên Đức Như Lai rất là rộng sâu vô lượng. Đức Như Lai chẳng phải sắc biểu thị, chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức biểu thị, cũng chẳng phải sắc diệt tận giải thoát, chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức diệt tận giải thoát. Do đây nên Đức Như Lai tuyệt những pháp biểu thị cùng sắc, thọ… với các pháp chẳng phải tương ưng, chẳng phải không tương ưng, nhưng ở nơi tất cả pháp hữu vi, vô vi đều có thể khắp giải thoát, chẳng phân biệt, không hý luận. Như Lai chẳng tương ưng với sự chấp trước nơi sắc, cũng chẳng tương ưng với sự chấp trước nơi thọ, tưởng, hành, thức, đã dứt hẳn tất cả cội gốc chấp trước và cũng xa lìa cội gốc của các pháp. Nghóa là Đức Như Lai không hý luận, chẳng nhập chẳng xuất, vượt khỏi các dòng, chẳng trụ cảnh giới Phật vô thượng, cũng chẳng phải không trụ. Nên nói rằng Như Lai chẳng trụ nơi chút pháp gì, chẳng lấy chẳng bỏ. Lúc thuyết pháp cũng phải diễn thuyết như đã nói về vấn đề Như Lai. Vì Như Lai chẳng tương ưng nên pháp của Như Lai cũng chẳng tương ưng. Như pháp của Như Lai, tất cả pháp cũng vậy. Cứ nơi lý như thật thời các pháp đều như. Do đây nên Phật nói tất cả pháp đều là chân như. Tất cả pháp chân như cùng Phật chân như không sai không khác, chẳng phải nhất chẳng phải dị. Vì Như Lai an trụ nơi pháp vô phân biệt chẳng phải là biến kế chấp. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Như Lai thuyết pháp trọn chẳng siêu quá tất cả pháp. Vì sao? Vì không có chút pháp nào có thể siêu quá. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Lúc Đức Như Lai chứng được Vô thượng Bồ-đề, nhưng thật ra lúc đó không có pháp gì được, vì tất cả pháp đều chẳng thể nắm bắt, chẳng phân biệt, chẳng thấy có pháp cùng phi pháp, cũng không tác ý, nơi pháp tánh thanh tịnh chẳng an trụ, chẳng kiến lập. Lúc giản trạch rõ biết các pháp như vậy, cũng không có người rõ biết và giản trạch. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Văn cú Đệ nhất nghóa đã diễn thuyết đây là văn cú chẳng phải văn cú của Như Lai, vì văn cú vốn thanh tịnh. Do nghóa này nên các Bồ-tát chứng được trí tất cả văn cú thanh tịnh. Do đây có thể nhập môn Đà-la-ni lý nghóa vô biên, nhưng cũng không chút pháp gì có thể chứng nhập, vì không có đến cũng không có đi. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Văn cú đã nói đó, vốn không văn cú có thể được, vì văn cú vốn chẳng phải văn cú. Đối với tất cả văn cú cần phải rõ biết như vậy. Những văn cú như vậy là nhàm lìa văn cú, đã nhàm lìa văn cú thì là văn cú hư vọng. Nếu văn cú hư vọng thời là nhàm lìa văn cú. Tất cả văn cú đó là văn cú diệt tận, nếu văn cú diệt tận là văn cú chân như. Nếu văn cú chân như thời là văn cú rốt ráo. Nếu văn cú rốt ráo thời là văn cú Niết-bàn. Nếu văn cú Niết-bàn thời chẳng phải thế tục, không văn cú đặt ra cũng không thị thuyết. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Nói một câu được bình đẳng vào trong tất cả pháp. Thế nào là một câu? Chính là câu yếm ly. Trong yếm ly vốn không có câu. Tất cả câu đây còn là yếm ly, thời câu cũng chẳng phải câu vì câu thanh tịnh. Nếu câu thanh tịnh, thời Niết-bàn thanh tịnh. Nếu Niết-bàn thanh tịnh thời câu thanh tịnh. Những văn cú như vậy đều không thể nêu bày. Dầu dùng lời nói để hiển thị văn cú, nhưng lời nói đó tìm khắp mười phương vẫn không tìm được ai, vì ai mà nói. Nên tất cả lời lẽ đều không. Lời nói đã không thời không có nghóa. Chẳng nên ở trong đó phân biệt hý luận đặt ra những cú nghóa như vậy. Tất cả đều là cú nghóa không phân biệt, là cú nghóa không hý luận. Do đây nên người tu quán hạnh, lúc tìm cầu quan sát tất cả cú nghóa, phải biết đều là tịch diệt Niết-bàn. Những văn cú như vậy chẳng khác với Niết-bàn, cũng là chẳng thể nói hết. Nhưng chẳng phải là không khác vì lời nói và văn cú đều là hư vọng. Vì văn cú thanh tịnh nên phương tiện nói ra để biểu thị các cú nghóa, chẳng phải biểu thị chân thật. Nếu chẳng phải biểu thị cũng chẳng phải không biểu thị, thì ở trung đạo. Nếu ở trung đạo thì không phân biệt, vì trong đây đã dứt phân biệt. Lúc chứng nhập pháp tánh bình đẳng đây, không còn chỗ nào thực hành chút ít ác hạnh, vì là vô sở đắc. Như vậy không hành, cũng không biến hành, không đẳng cận hành. Chư Phật nói người tu Bồ-tát thừa, lúc không có chút pháp gì để có thể thực hành, đây chính là hành Bồ-tát hạnh, vì an trụ môn Đà-la-ni thanh tịnh vô thượng. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Nay Phật sẽ nói câu Đà-la-ni. Do câu này mà các Bồ-tát được Đà-la-ni có thể khai thị vô biên Pháp tạng. Các Bồ-tát này trụ bâïc vô tránh, vì có thể phá trừ những ngoại luận, vì rất tịch tónh, vì thuyết pháp rộng. Đây là câu Đà-la-ni của pháp môn: –Đát điệt tha nhã duệ. Vi nhã duệ. Ô kế. Ô ca phiệt để. A lộ kế. A lộ ca phiệt để. Bát ra bệ. Bát ra bà phiệt để. Na rị thiết nãnh. Nễ na rị thiết đàm phiệt để. Yết thế. Yết tha phiệt để. Thú thát nãnh. Bệ thú thát nãnh. Bát rị thú thát nãnh. Bệ thú thát nãnh. Bát rị thú thát nãnh. Cật rị gia. Cật rị gia phiệt để. Ôn đát ra ni. San đát ra ni. Ma ha tì xã duệ. Ma ha tỳ xã gia phiệt để. A nộ san địa. A bát ra để. San địa. Du già ma nại đà. Tất địa. Tất đà yết thê. Tất đà yết tha phiệt để. Ma để. Ma để bát ra bệ. Ôn đát rị. Ôn đát ra phiệt để. Nhó ma rị. Di ma ra nộ tán địa. Tát lê. Tát ra phiệt để. Tát ra nộ già để. Ta mãnh. Ta ma lam bà nhó già để. Yết để. A nễ già để. A bát ra để nễ phiệt để. Di thế sái. Di thế sái phiệt để. A ma hê nễ. Nễ ma hê nễ. Bát ra ma hê nễ. Ô hà ô đát ra nãnh. Ma ra bát na duệ. A thế sát. A nộ ba thế sát. A nộ già mê. A bát ra để già mê. A già đế. A na già để. Già để nhó thú đà nễ. Bát rị thú đệ. Cương kiệt sai chế na nễ dạ đế. Ma để bát ra tị đế. Ma để tỳ thú đà nễ. Tam mạn đa nộ yết đế. Mạn đa bát rị phược lê. Tam mạn đa tì thú đà. Nễ a nộ ba ngật ra hứ. A nễ ngật ra hứ đế. Hứ na ra thê. A ra tha tỳ thú địa bát ra mãnh. Hê đô nễ địa san ninh bát ra tị để. Bát ra tị đa phiệt để. Tỳ nễ thiết giả duệ. Tị nễ thuyết giả gia nộ yết đế. A nan đa ra thê. A nan đa bí ngật ra hế. Ma xã tỳ thú địa a nộ kiệt ra hế. Bát ra kiệt ra hà tỳ thú đà nễ. A địa da đa ma tỳ kiệt đế. Ma hứ ra đà tỳ thú đà nễ. Bí địa da nộ kiệt để. Bí địa da nộ tán địa. Bát rị thú đà nễ. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Đây là câu Đà-la-ni. Các Bồ-tát do câu này có thể nhớ rõ các Pháp tạng của vô lượng Như Lai, cũng có thể khai thị diễn thuyết làm cho chúng sinh trụ bâïc vô tránh, lại có thể được phương tiện vào tất cả nghóa lý, có thể rõ biết trí sai biệt rộng lớn vô lượng, tất cả hạnh nguyện đều được viên mãn. KINH ĐẠI BẢO TÍCH <卷 id="86423650">QUYỂN 5 Hán dịch: Đời Đại Đường, Tam tạng Pháp sư Bồ-đề-lưu-chí. <詞 id="86423651">Pháp hội 2: VÔ BIÊN TRANG NGHIÊM (Phần 2) <章 id="86423652">Phẩm 1: VÔ THƯỢNG ĐÀ-LA-NI (Phần 2) Khi ấy Phật bảo Bồ-tát Vô Biên Trang Nghiêm: –Ta sẽ nói môn Đà-la-ni trí địa sai biệt, trí tuệ thiện xảo kia, làm cho các Bồ-tát được phương tiện thiện xảo đà-la-ni. Do được Đà-la-ni này sẽ có thể rõ biết nghóa lý bí mật của các pháp là nơi nhãn căn thấy sắc Đà-la-ni, cho đến ý căn biết pháp Đà-la-ni. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Môn Đà-la-ni sáu căn thấy biết sáu trần thế nào? Này Vô Biên Trang Nghiêm! Các Bồ-tát do nhãn căn thấy sắc trần rồi, vì trí lực thông tỏ và niệm lực thiện xảo không mê vọng nên biết rõ sắc là vô thường sinh diệt chẳng dừng, ly biệt hoàn toàn do đây có thể ở trong nhãn giới chẳng chấp ngã và chẳng phải ngã, an trụ khéo kéo nơi nhãn xứ thanh tịnh nên chẳng phan duyên nơi sắc nhưng có thể thanh tịnh môn Đà-la-ni, khéo hay thấy rõ diệt yếm ly nên không hý luận. Do không hý luận, trụ không vọng niệm nên không có tích tập, trong việc hành đạo có thể xả bỏ nhãn, nhãn thức và các pháp đối tượng của mắt, không có phân biệt. Vì thấy biết thanh tịnh như thật nên rõ biết các pháp như huyễn, được trí rộng lớn không đồng với thế gian. Nói lược như vậy, cho đến các Bồ-tát dùng ý căn rõ biết pháp trần rồi, do trí lực sáng suốt và niệm lực không mê vọng biết rõ các pháp là vô thường sinh diệt chẳng dừng, chẳng chấp ngã và chẳng phải ngã, ý căn thanh tịnh chẳng chấp lấy pháp trần, ý căn thanh tịnh, chẳng chấp lấy pháp trần, chẳng phân biệt, chẳng hý luận, chẳng vọng niệm, chẳng huân tập, chẳng bị ràng buộc nơi ý thức và pháp trần, vì ý căn thanh tịnh như thật rõ biết nên rõ biết các pháp như huyễn được phước tuệ thù thắng không giống với thế gian. Bồ-tát này lại có thể đối với tất cả pháp không có kiến chấp là vô nhân, cũng chẳng ở nơi nhân thấy có duyên, chẳng ở nơi duyên thấy có nhân, rõ biết tất cả pháp đều chẳng tương ưng nhau, mà chứng nhập bản tánh thanh tịnh tịch diệt, chẳng sinh chẳng khởi, chẳng lưu chuyển, cũng chẳng phải dùng ngôn thuyết mà nói đến được. Tất cả pháp nghóa chẳng phải đồng phận, chẳng phải tương ưng, chẳng phải không tương ưng. Vì tất cả pháp không có tác giả. Vì không tác giả nên không thọ giả, không chúng sinh, không ngã. Những pháp cú đã nói đây chẳng phải như thật, chẳng phải không như thật. Vì với tất cả pháp chẳng thọ, chẳng chấp, đồng với Niết-bàn lìa hẳn sự chấp trước. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Đây là các Bồ-tát diễn nói môn Đà-la-ni phương tiện sai khác. Với tất cả pháp cần phải rõ biết. Lúc diễn thuyết như vậy, các Bồ-tát xa lìa nơi trong, cũng chẳng duyên lấy nơi ngoài, lại có thể quan sát không có thỉ chung. Nương theo bánh xe sinh tử vào trong thế gian, ở nhà vô minh mà trôi lăn cùng khắp. Dầu luân chuyển sinh tử như vậy, nhưng vẫn không sinh tử có thể được, cũng chẳng có thật là xe sinh tử. Dầu tùy chuyển theo sinh tử, rơi vào trong chỗ có thể nắm bắt của thế giới nhưng chúng sinh vì không hiểu rõ pháp này nên ở trong sinh tử rong ruổi chạy nhảy vui đùa khắp nơi, lại không thể hiểu rõ sự hư vọng điên đảo, chẳng phải chúng sinh lại tưởng là chúng sinh. Một khi đã bị tưởng trói buộc thì không thể hiểu rõ các pháp, đi vào các pháp phá hoại, cực phá hoại, bị chấp vào không tưởng. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Nếu các Bồ-tát có thể hiểu rõ pháp này thời mau được trí tuệ sáng suốt, thuyết pháp thanh tịnh, tu tập nhẫn nhục, có thể tinh tấn, sinh lòng đại Từ bi, chí nguyện vững chắc, có thể thành tựu phương tiện diễn thuyết như ngôn từ bí mật, dị danh sai biệt của các pháp, ngôn ngữ tối thắng tùy theo chỗ nhớ nghó, các ngôn từ kệ tụng cổ ngữ không chút sai lầm, làm cho chúng sinh trụ bâïc vô tránh, có thể phá hoại tất cả tà luận của ngoại đạo, để trừ sự tối tăm cho chúng sinh. Lúc Bồ-tát này thuyết pháp, được vô lượng chư Phật ở mười phương khen ngợi. Bồ-tát này phóng ánh sáng pháp chẳng thể nghó bàn, là pháp thí chủ, có thể khéo khai thị không mê lầm pháp tạng của chư Phật, không mê hoặc, có thể trọn nên hạnh nguyện thù thắng, theo sở nguyện của mình đều được viên mãn, có phương tiện thiện xảo chẳng thể nghó bàn, làm cho chúng sinh được mở mang tâm ý và có thể thị hiện nhân của giai đoạn trước và sau, phương tiện ba đời quá khứ, hiện tại và vị lai. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Trong pháp này các Bồ-tát phải siêng tu tập phát khởi môn Tam-ma-địa. Tu tập rồi thời chứng nhập được môn Đà-la-ni. Được tự tại nơi môn Đà-la-ni rồi thời có thể diễn thuyết những danh từ sai khác rộng lớn bí mật, có thể chứng nhập trí từ ngữ vô ngại, có thể thuận nhập nghóa lý thâm diệu, khéo rõ biết được ý nghóa của lời nói không một chút nghi hoặc. Tự mình có thể trụ bậc Nhẫn địa, không phải nhờ người chỉ dạy. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Nếu các Bồ-tát có thể phát nguyện dũng mãnh tinh tấn vì muốn làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, mà cầu được các pháp trí, thông đạt tất cả thừa, được Phật trí rốt ráo thanh tịnh thời chẳng khó khăn lắm. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Nơi đây diễn thuyết các pháp môn Đà-la-ni phương tiện thâm sâu, chính là Phật vì muốn nhiếp thủ các Bồ-tát mà khai thị. Nay Phật sẽ tuyên nói cho các Bồ-tát đều được khai ngộ, khéo giữ gìn được ngôn giáo bí mật. Phàm có chỗ làm đều có thể rõ biết nghóa của tất cả ngữ ngôn âm thanh. Lại có thể chứng nhập trí sai biệt thiện xảo. Đó là những pháp môn gì? Này Vô Biên Trang Nghiêm! Các Bồ-tát đủ giới đức thanh tịnh, an trụ nơi sức gia trì Thật đế, thời có thể thêm lớn được phương tiện bố thí, không ngã sở, không nhiếp thọ, tu tập phương tiện chứng lý nghóa chân thật của tất cả pháp, được pháp không thoái và khéo trụ nơi quả vị không thoái, mau được trí tuệ biện tài vô ngã rộng lớn như biển cả. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Đời sau đây ít người có thể cung kính thọ trì pháp này, chỉ trừ các Bồ-tát mong cầu pháp như thật thậm thâm. Vì muốn vào Pháp tạng của Như Lai nên mong cầu ưa thích tâm tăng thượng, khéo điều phục tâm, ưa chánh tư duy. Các Bồ-tát này tinh tấn tu học pháp thậm thâm này ngộ nhập lý nghóa thời có thể được trí vô ngại, cũng có thể rõ biết tự tánh bản tánh của tất cả pháp. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Giả sử Như Lai dùng các loại danh từ để diễn thuyết các pháp, nhưng đối với bản tánh tự tánh của các pháp cũng chẳng trái. Bản tánh tự tánh của pháp Như Lai khai thị không trái nhau. Như Lai nói pháp vô ngại. Chỗ diễn thuyết của Như Lai không có chủ thể thuyết, không có đối tượng để thuyết. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Như Lai đã được viên mãn phương tiện diễn thuyết Ba-la-mật-đa. Như Lai cũng không có chút pháp gì là được. Như Lai chẳng vì được pháp cùng không được mà thuyết pháp. Như Lai chẳng phải an trụ chút ít pháp, không xả bỏ, không vì sinh sống mà thuyết pháp. Như Lai cũng không vì được một ít phần pháp, cũng không phải không được mà thuyết pháp. Như Lai chẳng hành động cũng chẳng phải chẳng hành động, chỗ hành động của Như Lai là vô sở đắc. Chẳng nên cho rằng chư Phật làm công hạnh như thật. Vì sao? Vì không có chút pháp nào gọi là Như Lai. Chính đây là Như Lai an trụ chỗ trụ như vậy, thực hành chỗ làm như vậy. Nếu Như Lai dùng danh tự để gọi hiệu Như Lai, thì Như Lai cùng danh tự để gọi hiệu Như Lai chẳng phải khác chẳng phải không khác. Vì chẳng khác chẳng phải không khác nên chẳng được cho Như Lai là có đến có đi. Như Lai chẳng phải hý luận, đã vượt quá hý luận, cũng không có vượt quá. Như Lai cùng Như Lai tánh chẳng phải tức chẳng phải ly, là tánh chẳng hư vọng, là tánh chẳng đổi khác, không có chút pháp gì để khai thị diễn thuyết, cũng không có thị hiện. Như Lai chứng được bản tánh như thật của tất cả pháp. Nhưng bản tánh của tất cả pháp chẳng thể tuyên thuyết, vì tất cả pháp là vô sở hữu. Do đây Như Lai nói tất cả pháp là không có sự tạo tác, cũng không biến dị, chẳng sinh chẳng diệt, chẳng xuất chẳng ly, vì tất cả pháp rốt ráo thanh tịnh. Với tất cả pháp không có chỗ được, ở trong tất cả pháp không có chút gì sở đắc. Vì không chỗ được nên không có chỗ chứng. Như vậy là không có chút pháp gì có thể được. Nếu pháp là có thể được thời trong các pháp lẽ ra có thọ giả. Đã không thọ giả nên biết rằng tất cả pháp do chẳng sinh khởi mà không có chỗ được. Danh hiệu của Như Lai cũng do Thánh giáo dùng giả danh đặt ra, ngôn thuyết như vậy, bản tánh vốn thanh tịnh. Bâïc Thánh ở trong đó không có chút pháp gì là được, nhưng cũng không có pháp và phi pháp; cũng không có pháp gì gọi là Thánh và chẳng phải Thánh; không có chút pháp gì tương ưng với Thánh hay chẳng tương ưng. Với chỗ diễn thuyết của Như Lai đây, đều phải rõ biết như vậy, lại cũng chẳng nên phân biệt theo thế tục. Như Lai có thể diễn nói các pháp và phi pháp, cũng chẳng kiến lập có pháp và phi pháp. Như Lai có thể diễn thuyết pháp thiện và pháp chẳng thiện, cũng chẳng kiến lập có pháp thiện và pháp chẳng thiện. Như Lai có thể diễn thuyết tất cả pháp, nhưng cũng chẳng kiến lập có tất cả pháp. Như Lai có thể diễn thuyết không biểu thị, nhưng cũng chẳng kiến lập không biểu thị. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Pháp thậm thâm của Như Lai nói đây, người không có nghiệp thanh tịnh thì không thể rõ biết. Nếu người nào mong cầu Vô thượng Bồ-đề, cầu giải thoát sinh tử, cần phải hiểu rõ những pháp của Như Lai diễn thuyết. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Nếu các Bồ-tát hiểu rõ được pháp này, cần phải không do dự chẳng lấy chẳng bỏ, cũng chẳng thấy có chút pháp sinh diệt, không có hý luận chẳng phải không hý luận. Được vậy thì các Bồ-tát có thể diễn thuyết pháp chân thật này, cũng chẳng chấp trước pháp chân thật này. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Như núi Tu-di là chỗ nương tựa cho những cung điện của các chúng sinh có thiện căn phước đức, nơi đó chúng sinh hưởng thụ vui sướng. Cũng vậy, các Bồ-tát vun trồng căn lành thời được nghe và thọ trì Pháp bảo thậm thâm này, do đây Bồ-tát được Nhất thiết chủng trí. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Kinh pháp này có thể tùy thuận chứng nhập pháp trí vô thượng, vì muốn khai thị Pháp tạng Đà-la-ni của Đức Như Lai, nên lưu bố như vậy. Đà-la-ni này có thể nhiếp tất cả pháp chân thật rộng lớn, như pháp của chư Phật Như Lai diễn thuyết đều từ môn vô biên Đà-la-ni này. Vì muốn thanh tịnh tất cả pháp môn nên Như Lai khai thị diễn thuyết môn Đà-la-ni này. Môn này có thể nhiếp tất cả pháp trong Khế kinh làm cho không thành không hoại, không trước, sau, chặng giữa. Như Lai hộ niệm môn Đà-la-ni này, có thể làm vô lượng, vô biên Phật sự khắp mười phương thế giới. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Các Bồ-tát ở Sơ phẩm Đà-la-ni nói nghóa lý Trung phẩm và có thể thọ trì tất cả các pháp. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Các Bồ-tát nếu muốn hiểu rõ giáo pháp này, muốn lưu bố chánh pháp không dứt đoạn, muốn nhập pháp ấn vô trụ, muốn hiểu rõ môn bí mật vô ngại, muốn phát khởi gia hạnh đại tinh tấn, muốn hiểu rõ tánh tướng của các pháp để diễn thuyết, thời phải thọ trì giáo pháp của Như Lai diễn thuyết. Đã thọ trì rồi sẽ rõ biết tất cả ngôn từ bí mật, được trí diễn thuyết văn tự và hiểu rõ lý nghóa sai khác của các pháp. Vì muốn lợi ích an vui tất cả chúng sinh nên các Bồ-tát này lập ra thắng nghóa khéo tùy theo căn cơ mà truyền dạy cho chúng sinh được lợi ích. Hoặc tán dương giáo pháp, hoặc lưu truyền giáo pháp, hoặc diễn thuyết giáo pháp, vì thương xót muốn làm lợi ích chúng sinh mà cầu Phật trí, chẳng chấp trước, vì không chấp trước nên không chỗ lấy, cũng không quán sát pháp trí không hai cũng chẳng thị hiện nội trí, ngoại trí, chẳng sinh lòng nhàm đủ nơi chút ít pháp, chẳng dùng sức tinh tấn hạ liệt mà mong cầu trí vô thượng, phải siêng tu tất cả pháp thậm thâm. Có ai gạn hỏi thời tùy nghóa mà giải thuyết. Trụ nơi hạnh tự lợi và lợi tha, khéo quan sát tự tha tất cả pháp đều vô ngã. Ngã đã thanh tịnh, liền chứng nhập tất cả pháp thanh tịnh, thích diễn thuyết giáo pháp để khai thị, nếu có người hỏi hay không hỏi hoặc hỏi một đôi câu pháp đều chẳng bỏn sẻn chánh pháp. Các Bồ-tát nên hành bốn Tâm vô lượng như vầy: “Tôi vì lợi ích tất cả chúng sinh, nên ban cho họ Pháp bảo vô thượng thù thắng. Nay tôi sẽ làm cho tất cả chúng sinh tương ưng với Pháp bảo vô thượng. Dầu chúng sinh tạo nghiệp ác nặng, cũng chẳng có quan niệm bỏn sẻn chánh pháp đối với họ. Nay tôi sẽ làm pháp sự của Đức Như Lai, làm pháp sự Nhất thiết trí, làm cho chúng sinh thoát khỏi sự khổ. Tôi sẽ dùng thuyền pháp đưa chúng sinh qua khỏi dòng sinh tử, cho chúng sinh được tất cả sự an vui.” Các Bồ-tát phải phát tâm đại Bi như vậy. Do đây mau chứng được pháp thù thắng, với Đà-la-ni môn của kinh này diễn thuyết các pháp Tổng trì sai biệt, sẽ được thành tựu thoát hẳn sinh tử, không bị ngoại luận chiết phục, mà có thể chiết phục tất cả luận điệu của ngoại đạo và hàng phục quân ma. Các Bồ-tát vì muốn trừ diệt pháp tránh luận mà phải an trụ như vậy. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Tất cả Như Lai đều nhiếp thọ và khéo ghi nhớ môn Đà-la-ni này. Như thân rốt ráo của Bồ-tát trụ cung trời Đâu-suất, chư Thiên đều cúng dường, chúng sinh đều mến kính. Căn lành và phước đức của Bồ-tát này đã thành thục thù thắng. Chỉ còn một đời nên tất cả công đức bố thí, trì giới, trí tuệ đều viên mãn đầy đủ, là bâïc Chí tôn trong cõi đại thiên, là bâïc Phước đức thiện căn vô thượng, được tất cả loài hữu tình cung kính ca ngợi. Khi Bồ-tát này rời cung trời Đâu-suất xuống Diêm-phù-đề, thời sinh trong cung điện của dòng tôn quý nhất ở đô thành của đại quốc, được mọi người, mọi loài mến kính cúng dường. Cũng vậy, môn Đà-la-ni này an trụ trong tất cả pháp. Chính từ nơi môn này mà các pháp sinh và diệt. Các Bồ-tát đã an trụ nơi môn này thời thành thục tăng trưởng tất cả pháp, tự tại đối với tất cả pháp, làm chủ tất cả pháp. Thân sau cùng của Bồ-tát giáng sinh trong loài người dùng sức chánh định vô quán thị mà quan sát tất cả chúng sinh và quan sát toàn cõi đại thiên. Vì đã được môn Đà-la-ni vô thượng, dùng tâm rộng lớn trụ cảnh trí quảng đại, nên trọn chẳng tham luyến tất cả cảnh dục, cũng chẳng mong cầu những pháp xinh đẹp nhiễm ái. Vì trụ nơi trí không Tam-ma-địa, khéo quan sát được phương tiện vô tướng của tất cả pháp, nên đối với tất cả đều không chấp trước, rõ biết các pháp hữu vi trong ba cõi đều là lỗi, là họa, đâu nên tham, đâu nên lấy phải mau xa lìa, cầu cảnh giới tịch tónh giải thoát thù thắng. Dù Bồ-tát quan sát như vậy, nhưng không trụ trước nơi quan niệm ấy. Phát sinh lòng đại Bi, đại Từ đối với loài hữu tình, vì thành thục họ mà muốn xuất ly, dùng phương tiện thuận nhập trí tuệ thù thắng, được tự tại đối với các hữu tình, được môn phương tiện Đà-la-ni vô ngại đối với các pháp. Dùng trí phương tiện khéo quan sát tất cả hữu tình và khéo quan sát nghóa lý quyết định chẳng nghó bàn. Dù đang tuổi thanh xuân tươi đẹp mà trọn không ưa thích các cảnh dục lạc, xả bỏ tất cả các thứ vui chơi, tài sản, thân quyến, tư duy quan sát do tâm nhàm chán viễn ly mà mong cầu tịch tónh. Theo đó mà xuất gia, trọn nên phương tiện thậm thâm chẳng nghó bàn. Đem tất cả trí tuệ đã từng chứa nhóm mà thẳng đến đạo tràng Vô thượng Bồ-đề, chứng được Đà-la-ni vô thượng thậm thâm, thành tựu Tự nhiên trí, Vô ngại trí, an trụ Nhất thiết chủng trí, chuyển pháp luân thanh tịnh vô thượng, Phạm âm thâm diệu khai bày tri kiến cho tất cả trời, người và tất cả chúng sinh, như mặt trời giữa trưa tỏa ánh sáng khắp nơi. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Bồ-tát trụ nơi Đà-la-ni Nhất thiết chủng trí chứng Vô thượng Bồ-đề. Cú nghóa sai biệt của môn Đà-la-ni đó, các Bồ-tát khác không thể biết được. Nếu là bâïc Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ ngồi nơi đạo tràng, do trí thanh tịnh, không thầy mà tự được giác ngộ, thời chứng được môn Đà-la-ni trên đây. Cũng như bâïc Bồ-tát vì đạo Bồ-đề, nên trong vô lượng kiếp vun trồng căn lành, tu tập phạm hạnh được pháp nhẫn thậm thâm, vì thương xót tất cả chúng sinh nên do tâm đại Từ bi mà được chứng môn Đà-la-ni này. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Bồ-tát do môn Đà-la-ni này ngồi nơi đạo tràng sẽ chứng Vô thượng Bồ-đề. Nay Phật không thể thị thuyết cho ông được. Tự ông sẽ chứng được pháp môn đó khi mà ông đã đủ trí tuệ phải có của bâïc Bồ-tát. Pháp môn đó không thể chỉ bày, cũng không thể tuyên thuyết. Đây là pháp môn mà Bồ-tát tự mình phải hiểu rõ, là pháp môn vô biên, vô lượng, không có thí dụ. Pháp môn này siêu vượt tất cả thế gian, không cùng chung với Trời, Người, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn… thẳng đến pháp thanh tịnh vô thượng Nhất thiết chủng trí và Tự nhiên trí. Do trí thanh tịnh tự nhiên vô thượng này mà Bồ-tát có thể đi vào Tự nhiên trí thanh tịnh, có thể chuyển pháp luân thanh tịnh vô thượng, lần lượt nhiếp thủ chúng sinh đến trí vô thượng Nhất thiết chủng. Vì nơi các pháp môn và Niết-bàn đều được thanh tịnh, nên Bồ-tát khai thị diễn thuyết vô lượng pháp nghóa những uẩn, xứ, giới, duyên khởi… đồng thời cũng thị hiện trí thanh tịnh thiện xảo đối với uẩn, xứ… Bồ-tát lại làm cho chúng sinh phát khởi tâm hướng vào môn Thánh đế, đồng thời cũng thị hiện trí thanh tịnh thiện xảo nơi Thánh đế; phát sinh ba mươi bảy phẩm Bồ-đề phần và thị hiện trí thanh tịnh thiện xảo Bồ-đề phần; phát khởi Chỉ quán thiền thanh tịnh thiện xảo và thị hiện trí nhiếp trì Chỉ quán thiền thanh tịnh thiện xảo; phát khởi trí thiện xảo không tổn giảm có công dụng trì giữ không mê hoặc và thị hiện trí tuệ thanh tịnh không tổn giảm có công trì giữ không mê hoặc; phát khởi trí vô sinh trì giữ sự yếm ly hoàn toàn và thị hiện trí thiện xảo vô sinh thanh tịnh trì giữ sự yếm ly hoàn toàn, phát khởi trí thiện xảo trì giữ minh giải thoát và thị hiện minh giải thoát thanh tịnh thiện xảo, mà có thể diễn thuyết đại Niết-bàn. Nơi các pháp hữu vi, vô vi, hữu lậu, vô lậu, thế gian, xuất thế gian, dùng vô lượng danh nghóa để khai thị tuyên thuyết. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Như Lai nói phương tiện nhiếp trì khắp tất cả pháp của môn Đà-la-ni này. Đây là chỗ an trụ của tất cả công lực thiện xảo của Nhất thiết trí Đà-la-ni. Tùy theo bản nguyện của tất cả chúng sinh mà rưới pháp vũ, cho tất cả hữu tình khô khan đều được thấm nhuần đầy đủ diệu pháp. Các ông hàng Bồ-tát, phải theo Như Lai học pháp môn thậm thâm này, không được trái nghịch. Nơi Nhất thiết chủng trí Đà-la-ni này, không bao lâu các ông sẽ được nhiếp trì tự tại, làm cho chúng sinh được vô lượng lợi ích như Phật hôm nay. Các ông nên dùng vô lượng danh từ sai khác để khai thị tuyên thuyết môn Đà-la-ni trí tuệ thâm diệu này. Các ông phải mong cầu thắng giải nơi pháp này, chẳng được xa lìa tư lương Bồ-đề. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Thế nào là mong cầu thắng giải? Các Bồ-tát phải hiểu rõ tất cả các pháp vốn chẳng sinh chẳng diệt, không động không dừng, chẳng đến chẳng đi, tự tánh rỗng rang vắng lặng. Nơi tánh không ấy cũng không chấp trước, huống là nơi tướng mà lại chấp trước! Trong tánh không đó, không có tướng tưởng. Nếu ở nơi tánh không đó mà được không có tướng tưởng, thời có thể vào được pháp hữu vi không, chẳng có ngã, ngã sở, chẳng có tất cả ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả. Không tánh như vậy chẳng phải nhiễm trước, chẳng phải không nhiễm trước, chẳng phải ô cấu, chẳng phải không ô cấu, chẳng phải mê hoặc, chẳng phải không mê hoặc, chẳng phải tham ái, chẳng phải không tham ái, chẳng trụ nơi không cũng chẳng trụ chỗ nào, cũng chẳng kiến lập. Với không nếu yếm ly thời không tịch diệt, không có phân biệt, không khắp phân biệt, không thắng phân biệt, không có công dụng. Cho đến không có chút pháp gì có thể lấy. Tự tánh vốn thanh tịnh. Không tánh đó chính là bản tánh tự tánh của các pháp. Tất cả pháp hữu vi bản tánh đều không, cho đến pháp lành, pháp ác, hữu vi, vô vi, pháp thế gian, xuất thế gian, bản tánh cũng đều không như vậy cả. Các Bồ-tát nhiếp thọ được thắng giải như vậy, thời được vào nơi giải thoát và tri kiến giải thoát, cũng có thể nhiếp thọ vô cấu giải thoát và tư lương Bồ-đề. Thế nào là tư lương Bồ-đề? Chính là giới thanh tịnh, định thanh tịnh, tuệ thanh tịnh, giải thoát thanh tịnh, giải thoát tri kiến thanh tịnh, sáu môn Ba-la-mật-đa thanh tịnh. Nếu các pháp trên đều thanh tịnh thời là khắp thanh tịnh. Nếu khắp thanh tịnh thời là Vô cấu pháp môn: tâm tánh thanh tịnh chiếu sáng không có phiền não. Tâm đó thường trụ, bản tánh không tịch. Cũng không bị tri kiến, khách trần, phiền não ba thứ này làm nhiễm ô. Ba thứ này đều chẳng thật, rỗng không vô sở hữu. Tâm tánh đây chẳng tương ưng với phiền não thanh tịnh. Vì sao? Vì tâm này bản tánh tự thanh tịnh không hai, cũng không hai phần. Nếu có thể rõ biết tâm tánh như vậy, chẳng phải phiền não nhiễm ô mà làm ô nhiễm được, chẳng phải trong, ngoài, chặng giữa, tất cả đều chẳng thể nắm bắt. Chỉ trừ ra vọng tưởng nhân duyên hòa hợp thời có tâm niệm sinh khởi, dầu có tâm sinh nhưng cũng chẳng thể thấy, tìm cầu khắp mười phương cũng chẳng thể nắm bắt. Cũng không có tâm thấy được nơi tâm, phan duyên như vậy chẳng phải hòa hợp với tâm, tâm cũng chẳng hòa hợp với phan duyên, nhân duyên cũng chẳng phải tương ưng với tâm, tâm cũng chẳng tương ưng với nhân duyên, chỉ do nơi tâm mà tất cả pháp kia tương ưng với tâm. Bao nhiêu pháp tương ưng với tâm, chẳng biết lẫn nhau cũng chẳng thấy được, huống là những pháp chẳng tương ưng với tâm. Dùng Đệ nhất nghóa tư duy quan sát không có vật gì có thể tương ưng và chẳng tương ưng. Vì sao? Vì không có chút pháp nào tương ưng và chẳng tương ưng với chút pháp nào. Tất cả pháp tự tánh thanh tịnh. Tự tánh này cũng chẳng tương ưng với chút vật nào. Tự tánh của tất cả pháp tức là bản tánh. Nếu là bản tánh thời tất cả pháp kia đều không có tự tánh. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Nay ông nên biết rằng nếu dùng ngôn thuyết mà nói lên được bản tánh tự tánh của tất cả pháp, thời quyết không đúng lý. Trong các pháp không có chút pháp nào gọi là bản tánh tự tánh. Tất cả pháp bản tánh đều không. Tất cả pháp tự tánh vốn không tánh. Nếu đã là không, là không tánh thời kia là một tướng. Một tướng đây chính là không có tướng. Vì không có tướng nên bản tánh tự tánh được thanh tịnh. Nếu đã là không, là không tánh, thời bản tánh tự tánh kia chẳng thể dùng tướng để biểu thị, cho đến tất cả pháp cũng như vậy. Không, không tánh đây chẳng phải nhiễm, chẳng phải tịnh, nhưng là bản tánh của tất cả pháp. Nếu là bản tánh của tất cả pháp, thời chẳng phải do nhiễm tịnh kiến lập lên, mà là không trụ không khởi. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Ông nên quan sát tất cả pháp không trụ không khởi, không bị kiến lập, đã là bản tánh thanh tịnh, tại sao chúng sinh lại ở trong đó mà mê lầm? Đây là do chúng sinh trong thế gian ngồi trên xe hư vọng nên bị xe hư vọng làm mê lầm. Nói là ngồi xe, thật ra không có ngồi cũng chẳng phải không ngồi. Mà thế gian ngồi trên xe hư không rồi bị xe hư không ràng buộc. Nhưng thật ra xe hư không cũng là vô sở hữu. Những chúng sinh đây vì quá ngu si mà mê lầm. Nhưng thật ra không có ngu si cũng không có mê lầm. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Ông quan sát chúng sinh vì do ngu si nên ở trong pháp này chẳng rõ biết được mà ở mãi nơi tranh luận. Ở nơi tranh luận chính là chẳng phải ở. Nhưng thế gian vì mê lầm chẳng rõ biết được kia chính là thanh tịnh. Nếu chẳng ở thì gọi đó là ở, chính đây là căn lành thanh tịnh chẳng ở. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Pháp môn bí mật của Như Lai đây khó hiểu khó vào. Chỉ trừ các ông từ lâu đã tu hành pháp lành nên được rõ biết. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Như Lai từng nói ở nơi tranh luận thì chẳng phải là ở, vì là bất thiện. Nhưng bất thiện vẫn là vô sở hữu. Nếu ở trong vô sở hữu này chẳng rõ biết được ở cùng chẳng ở không sai khác, thì gọi là ở nơi tranh luận. Nếu được ở nơi căn lành thanh tịnh thì chẳng gọi là ở. Nếu chẳng ở thì không lỗi lầm. Vì không lỗi lầm thì có thể rõ biết pháp môn như vậy. Đã rõ biết, nếu chẳng thanh tịnh, thì không đúng lý. Những chúng sinh không có trí tuệ bị nhiều phiền não che đậy, giả sử nói chút ít pháp thuận rõ ràng, họ còn chẳng hiểu được, huống là pháp bí mật chẳng phải tùy thuận. Nếu không ở thì thanh tịnh. Thế nào là không ở? Nghóa là chẳng ở nơi pháp lành và cảnh giới xuất ly. Vì sao? Vì không có cảnh giới xuất ly và cảnh giới thi thiết. Nơi cảnh giới Niết-bàn, nếu chẳng trụ thì gọi là được Niết-bàn. Danh từ Niết-bàn đây cũng chỉ là giả thiết. Niết-bàn đây, không chỗ chứng được, cũng không có người chứng được. Nếu có chứng được, thì lẽ ra sau khi diệt độ lại có Như Lai. Nếu không được, lẽ ra sau khi diệt độ không có Như Lai. Sau khi diệt độ, đều không thể nói rằng có Như Lai hay không Như Lai. Câu không thể nói đây cũng là câu giả thiết của Như Lai thôi. Có những chúng sinh đối với pháp thậm thâm, chẳng chuyên cần tu hành mà lại sinh nghi lầm, hoặc cho rằng Như Lai có sắc, sau khi diệt độ có Như Lai. Hoặc cho rằng Như Lai không sắc, sau khi diệt độ không Như Lai. Cho đến hoặc cho rằng sau khi diệt độ chẳng phải có Như Lai chẳng phải không Như Lai. Nếu pháp đã là chẳng sinh chẳng diệt, sau khi pháp đó diệt, chẳng nên nói có nói không. Như Lai đây chẳng sinh chẳng diệt, sau khi diệt độ cũng chẳng nên nói có, nói không cho đến cũng chẳng nên nói hữu biên, vô biên…, tất cả đều chẳng thể nói. Nếu nói hữu biên thì không có chính giữa, nếu nói có chính giữa thì không hữu biên. Chính giữa trên đây là chẳng phải có, chẳng phải không. Nếu ở trong đây cho rằng thật có, thật không, thì trái với duyên khởi. Nếu có pháp nào chẳng phải từ nơi duyên khởi và chẳng phải duyên khởi, thì pháp đó chẳng diệt, chẳng trái với có, với không. Tất cả pháp từ nơi duyên khởi và pháp duyên khởi đều không có biên, không có chặng giữa, chẳng phải có chẳng phải không. Nếu đã chẳng phải có chẳng phải không, thì đâu có thể nói được. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Như Lai dùng đại phương tiện an trụ trong đó, vì phá vỏ vô minh cho chúng sinh mà khai thị diễn thuyết chẳng trái với duyên khởi. Tất cả các pháp đều vào duyên khởi. Nếu đã vào duyên khởi thì không có thuyết ở giữa hay ở biên. Nếu lìa lời nói thì không có chút pháp gì có thể được. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Nay ông nên quan sát pháp vô sở hữu, pháp không hữu biên gọi đó là trung đạo. Do nơi phương tiện mà nói có giác tuệ có thể nhiếp trì các pháp. Nhưng pháp nhiếp trì cũng chẳng thể nắm bắt, vì chẳng thể nắm bắt nên không có lời nói. Các ông là bâïc Trí giả nên biết tướng chân thật của tất cả pháp như vậy, chẳng đến chẳng đi, không có phần không có đoạn, chẳng một tánh chẳng khác tánh, đến bờ rốt ráo kia, không có chút pháp nào chẳng đến bờ kia. Đến bờ kia chính là Niết-bàn. Tất cả pháp đều là tướng Niết-bàn. Do đây nên biết rằng chẳng thể tuyên thuyết được, chỉ tùy theo thế tục nói là trung đạo. Trung đạo đây chính là thẳng đến đại Niết-bàn, nhưng cũng không có Niết-bàn là chỗ để đến. Nếu có Niết-bàn là chỗ để đến, thì nơi các pháp lẽ ra có đi có đến. Nhưng tất cả pháp bản tánh đều bình đẳng, nên Niết-bàn gọi là không chỗ đến. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Đây gọi là trung đạo, nhưng trung đạo tức chẳng phải là trung đạo. Vì sao? Vì không tăng không giảm, vì không có biên không có lấy. Nếu pháp đã vô biên thì đâu phải là hữu biên. Chính không có chỗ nơi là pháp vô biên. Hàng phàm phu đối với không chỗ nơi chấp là có biên có chỗ. Vì chấp có biên có chỗ nên chẳng được giải thoát. Tại sao không được giải thoát? Vì nơi chân thật vốn là không nơi chỗ. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Ông xem Như Lai dùng giác tuệ quyết định thiện xảo mới có thể diễn thuyết trung đạo như vậy. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Đối với tất cả pháp, chư Phật Như Lai không có nghi lầm, cũng không quên sót. Chư Phật Thế Tôn thường ở trong chánh định vô ngại tự tại, thường khéo quan sát trụ nơi chánh định tối thắng, dùng vô lượng tri kiến mà diễn thuyết. Chẳng ở nơi phi xứ để nói pháp thanh tịnh, nói pháp rốt ráo, nói pháp tịch tónh. Chỗ nói của Như Lai không dư không sót. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Như có bảo châu tên là Chủng chủng sắc ở trong biển lớn, dầu có vô lượng dòng nước chảy vào biển lớn, do hỏa lực của bảo châu làm cho nước biển chẳng đầy tràn. Đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác đã chứng Bồ-đề dùng hỏa lực trí tuệ có thể làm tiêu diệt phiền não của chúng sinh cũng như vậy. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Nếu có người trong mỗi ngày xưng niệm danh hiệu công đức của Như Lai, người này có thể lìa khỏi sự tối tăm, lần lần sẽ đốt tiêu những phiền não. Người xưng niệm Nam-mô Phật thì ngữ nghiệp chẳng luống không. Ngữ nghiệp này gọi là cầm đuốc lửa có thể đốt tiêu phiền não. Nếu có người nào được nghe danh hiệu của chư Phật Như Lai, thì lìa khỏi các sự tối tăm, cùng với người xưng niệm kia đồng là nhân của Niết-bàn. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Nay Phật vì những chúng sinh kính tin nơi Như Lai mà diệt trừ phiền não cho họ, nên rưới pháp vũ. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Đây là pháp chân thật của Như Lai nói. Vì chân thật nên không có chút pháp gì để khai thị diễn thuyết, mà nơi pháp này không thật không hư. Như Lai là đấng chân thật ngữ trụ nơi pháp chân thật, có thể diễn thuyết môn Đà-la-ni này. Pháp chân thật đây, ai sẽ có thể hiểu rõ được? Chính là các Bồ-tát, bâïc đã thấy biết như thật, thấy biết đầy đủ, thực hành những điều lành. Ngoài các bâïc này, người khác không hiểu rõ được. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Phải nên tùy thuận nơi nghóa này, tự phải chuyên niệm nơi pháp này, chẳng tin ưa nơi trí tuệ phát sinh do người khác. Vì muốn đem sự lợi ích an vui cho chúng sinh, nên cần tùy thuận nơi pháp này. Nếu có trí nhẫn tùy thuận pháp này thì an trụ trong chẳng tùy thuận. Những chúng sinh không học rộng, không có trí nhẫn tùy thuận, thì chẳng rõ biết được giáo pháp này. Những người thực hành theo kiến chấp của ngoại đạo, đi trên con đường khác thẳng đến ác đạo, chẳng làm điều lành, gần gũi với những người thực hành hạnh nghiệp tà ngoại, thì không thể vào được pháp môn này. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Nay ông nên quan sát, nếu lúc có người diễn thuyết Pháp tạng quang minh vô ngại này, tất cả chúng sinh vì không học rộng chưa điều phục tâm phàm phu, nên không có oai nghi. Do đó cách xa giáo pháp này, còn những chúng sinh có thể tự thân tu tập dầu chưa có trí nhẫn tùy thuận, những chẳng cách xa giáo pháp này. Huống là những người có trí nhẫn vô lậu, không chấp trước, có thể chuyển pháp luân vô ngại. Vì những người này đều trụ bâïc vô ngại. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Phật vì thành tựu những chúng sinh có thiện căn, vì gia trì cho chúng sinh được tri kiến thanh tịnh đối với pháp vô ngại, cũng vì muốn đem sự lợi ích an vui cho tất cả, nên Phật diễn nói môn Đà-la-ni này. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Nếu người nào ngộ nhập được pháp môn này, nên biết người đó đã trụ bâïc Bồ-tát, có thể mau chứng được Vô sinh pháp nhẫn, sẽ được thọ ký Vô thượng Bồ-đề. Các ông phải có thắng giải đối với pháp môn thậm thâm này. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Nay ông nên biết pháp môn này là chỗ ở của người không chấp trước, của trí vô sở đắc. Những người ngày trước đã từng cúng dường chư Phật, hay chuyên tâm tu tập lâu dài, khéo giữ thân oai nghi, khéo phòng hộ ngữ nghiệp, trí tuệ bình đẳng tùy theo ức niệm, tâm không trụ vào pháp nào, khéo thọ trì pháp này chẳng tiếc thân mạng, thì có thể lưu truyền kinh điển này. Đời sau, nếu có chúng sinh vì muốn được nghe pháp này nên chuyên cần tu tập, những người đây còn là khó có được, huống là những người có thể biên chép thọ trì, đọc tụng thông thuộc, khai thị tuyên thuyết. Những người đây chẳng bao lâu sẽ được môn thanh tịnh Đà-la-ni, sớm được trí tuệ thanh tịnh, sẽ được chứng nhập Nhất thiết chủng trí. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Ông xem Đức Như Lai vì các Bồ-tát cầu được Nhất thiết chủng trí mà khai thị diễn thuyết pháp tạng này, nhưng trong đó không có chút pháp gì là chẳng diễn thuyết. Thuyết pháp như vậy là không thuyết mà thuyết, có thể sinh và có thể khai thị pháp môn thanh tịnh. Tất cả pháp đồng như tướng hư không. Thế nào là đồng? Bởi tất cả pháp đồng với hư không, nhưng hư không này chẳng phải đồng chẳng phải không đồng. Tất cả pháp cũng chẳng phải đồng chẳng phải không đồng. Như hư không vô biên, các pháp cũng vô biên tế. Vì vô biên tế nên gọi là vô biên. Biên bờ của tất cả pháp là chẳng thể nắm bắt. Vì chẳng thể nắm bắt được nên là vô biên. Nếu ở trong pháp đây trụ được như vậy thì gọi là trụ pháp Như Lai. Trụ pháp Như Lai thì không có sự diễn thuyết. Nếu đã là không có sự diễn thuyết, thì đối với tất cả pháp dùng danh tướng giả theo đó để rõ biết, chẳng nên sinh lòng chấp trước. Nếu chẳng chấp trước thì chẳng rơi vào biên. Nếu rơi vào biên thì sẽ rơi vào khoảng giữa. Do đây cần phải xa lìa khoảng giữa và mé biên. Nếu đã xa lìa được khoảng giữa và biên, thì xa lìa tất cả. Nếu xa lìa tất cả thì không có sự diễn thuyết. Do đây được trí tuệ thanh tịnh, không chấp trước tất cả pháp, không đối tượng chấp giữ và không chủ thể chấp giữ. Vì sao? Vì các pháp là vô ngã, vì ngã vốn vô sở đắc, vì ngã tánh vốn không có tự tánh. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Như Phật từng nói các hành pháp vô thường. Diễn thuyết như vậy là nghóa không đổi khác, là nghóa chẳng tương ưng. Như Phật đã nói nghóa khổ của các cõi. Diễn thuyết như vậy là nghóa yếm ly, là nghóa Niết-bàn. Như Phật đã nói Niết-bàn tịch tónh. Diễn thuyết như vậy là nghóa bỏ lìa tất cả pháp hữu vi. Hoặc vô thường, hoặc các khổ, hoặc vô ngã, hoặc Niết-bàn, đây là những pháp môn của Như Lai diễn thuyết. Đây cũng là Như Lai khai thị bản tánh tự tánh của tất cả pháp. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Như Lai dùng các thứ danh từ, các thứ ngữ ngôn, các thứ phương tiện mà tuyên thuyết các pháp. Như Lai cũng chẳng lập ra khác với bản tánh của các pháp. Tánh chẳng phải một, tánh chẳng phải khác, tất cả pháp cũng chẳng phải một. Chẳng phải khác, do không thể thấy nên mau chứng vào tự tánh hư không thẳng đến tất cả pháp vô tướng. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Như Lai vì các Bồ-tát bản tánh thanh tịnh, tự tánh điều phục, nên phát khởi môn Đà-la-ni này. Trên đây nói điều phục là nói điều phục tham, sân, si, điều phục vô minh, để được thẳng vào pháp tánh bình đẳng. Tham, sân, si cùng người điều phục đều chẳng thể nắm bắt. Nếu chẳng thể nắm bắt chính đó là điều phục. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Tham, sân, si đúng như lý tìm cầu cũng chẳng thể nắm bắt. Bởi tham, sân, si rỗng không, hư vọng chẳng thật, nó phỉnh lầm hàng ngu phu, chính nó không chỗ an trụ, cũng chẳng thể nắm bắt. Nó từ hư vọng sinh, từ hư vọng diệt, bản tánh không tịch, cần phải biết như vậy. Phải biết thế nào? Như nó chẳng sinh, thì chẳng thật, cũng chẳng điên đảo. Tham, sân, si đây đều do vô minh hắc ám làm nguyên thủ, theo nơi đó mà sinh. Do theo nơi đó sinh nên tất cả đều là hư vọng chẳng thật. Tham, sân, si đây bản tánh thanh tịnh. Người thấy biết như vậy thì có thể được môn thanh tịnh chẳng nghó bàn và được môn Đà-la-ni. Người nào có thể ở trong pháp này khéo tư duy quán sát, thì gọi là được công hạnh Đà-la-ni và được công hạnh trí tuệ. Đây gọi là trí rõ biết bình đẳng, gọi là tư lương Bồ-đề thanh tịnh, gọi là bâïc tinh tấn chẳng phóng dật, gọi là bậc điều phục kiêu mạn phóng dật, gọi là chẳng hư hoại giới hạnh oai nghi, gọi là thân, ngữ, ý thanh tịnh, gọi là tùy thuận trí vô ngã, gọi là hay dứt hay lìa tưởng, gọi là xuất sinh vô lượng, vô biên phương tiện thiện xảo. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Nay ông nên quan sát trong pháp tin hiểu xuất ly này có thể khai thị diễn thuyết bản tánh tự tướng của tất cả pháp, có thể khai thị các pháp môn đây, có thể diễn thuyết tất cả pháp đồng tánh hư không. Người giảng thuyết cũng chẳng diễn bày, người được giảng thuyết cũng chẳng thể nắm bắt được. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Nay Phật nói pháp môn ngộ nhập của các Bồ-tát đây. Nếu các Bồ-tát đã học pháp môn này rồi, thì có thể được trí tuệ rất sâu như biển, tất cả ngoại luận không đè bẹp được, liền được công hạnh hướng đến Nhất thiết chủng trí, khéo diễn thuyết pháp yếu không do người khác dạy, được trí tuệ bình đẳng chẳng nghó bàn. Do trí tuệ nên không chấp trước, có thể diễn nói tất cả pháp môn không danh không tướng này. Có thể được gần gũi Phật trí và Tự nhiên trí. Chỗ có danh hiệu đều được tất cả danh tướng thanh tịnh, mau chứng được âm thanh phổ biến, âm thanh khoái ý, âm thanh thắng diệu, âm thanh thanh tịnh. Được các chúng sinh kính tin gần gũi thưa hỏi. Bồ-tát này dùng trí tuệ quyết định khéo giải đáp, lời nói phải thời, lời nói đúng lý, lời nói lợi ích, lời nói dịu dàng, lời nói nghóa quyết định, dùng một nghóa để diễn thuyết, có thể làm cho chúng sinh rõ biết nhiều nghóa. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Ông nay nên quan sát các Bồ-tát tu hành pháp này, có thể hiểu rõ Phật trí, được vô lượng công đức như vậy, dứt những tham ái, sân não, ngu si, có thể được trí sai biệt, làm xong những công hạnh nên làm, với tất cả chỗ đã khéo tu học, được trí nhẫn đầy đủ, chẳng thoái thất ý chí thanh tịnh, đứng vững nơi đại nguyện, đối với chúng sinh dùng lời tốt đẹp thăm hỏi. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Nếu các Bồ-tát ở trong pháp này đã chẳng siêng tu, nay chẳng siêng tu, ngày mai cũng chẳng siêng tu, thì không dự được phần ít nào nơi công đức thù thắng của Như Lai. Nếu các Bồ-tát ở trong pháp này có thể siêng năng tu tập, có chí cầu tất cả thì đúng như chỗ nguyện cầu, đúng như chỗ thực hành, đúng như chỗ hướng đến, đúng như chỗ ưa thích, sẽ được đầy đủ. Nếu có Bồ-tát ở trong pháp thậm thâm này có thể an trụ, có thể nhẫn thọ, khéo quan sát giản trạch, thì sẽ chứng được thần thông vô tận và trí đại thần thông, vượt qua tất cả trí thế gian, được Tự nhiên trí, Vô biên trí, Vô lượng trí. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Pháp môn xuất ly Đà-la-ni này, nếu có người nào siêng tu học, thì sẽ được gần đạo tràng Bồ-đề vì tất cả chúng sinh mà phát khởi tâm đại Từ, đại Bi thực hành những Phật sự. KINH ĐẠI BẢO TÍCH <卷 id="86423653">QUYỂN 6 Hán dịch: Đời Đại Đường, Tam tạng Pháp sư Bồ-đề-lưu-chí. <詞 id="86423654">Pháp hội 2: VÔ BIÊN TRANG NGHIÊM (Phần 3) <章 id="86423655">Phẩm 2: XUẤT LY ĐÀ-LA-NI Lúc bấy giờ Vô Biên Trang Nghiêm bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là pháp môn xuất ly Đà-la-ni? Đức Phật nói: –Này Vô Biên Trang Nghiêm! Đây là pháp ấn xuất ly tất cả văn tự. Tất cả pháp đều nhiếp vào trong đây. Thế nào gọi là nhiếp vào? Vì là bình đẳng. Tất cả các pháp đều vào nơi bình đẳng, cũng chẳng thấy pháp nào vào nơi bình đẳng, chẳng thể rõ biết, vì chẳng thể nắm bắt được. Nơi tự tánh như thật của tất cả pháp, lúc chẳng phân biệt, thì tất cả pháp đều nhiếp vào trong đó, vì xa rời sự có tạo tác và không tạo tác. Do các văn tự và ngữ nghiệp nên diễn thuyết các pháp. Hai thứ trên đây vì chẳng như thật, vì tánh bình đẳng nên tất cả văn tự và ngữ nghiệp thảy đều bình đẳng. Ở trong các pháp, bao nhiêu ngôn thuyết đều chẳng phải như thật. Đây là cú nghóa như thật của các pháp, bao nhiêu văn từ và ngữ nghiệp đều không có. Vì không có, nên không có chân thật khai thị diễn thuyết. Văn tự và ngữ nghiệp không chân thật đã nói đó, chính là câu không sai khác của các pháp, câu không tăng thêm, câu không kiến lập của các pháp. Nơi pháp thậm thâm này, không thể tuyên thuyết. Tất cả pháp đều chẳng phải chân thật, chẳng phải không chân thật. Vì sao? Vì bản tánh của tất cả pháp, chẳng phải dùng văn tự, ngữ nghiệp tuyên thuyết mà có thể thấy, có thể biết được. Tất cả pháp đều không bản tánh. Các pháp như vậy, chẳng phải tạo tác, chẳng phải không tạo tác, chẳng phải đồng, chẳng phải không đồng, chẳng phải tịch tónh, chẳng phải không tịch tónh. Dù vậy, nhưng các pháp cũng trụ nơi tịch tónh và không tịch tónh. Trong đây nói là trụ, cũng vẫn không chỗ trụ, cũng chẳng đổi khác. Lại cũng chẳng trụ nơi pháp chẳng đổi khác. Vì sao? Vì pháp vốn không trụ chẳng vào nơi toán số. Chẳng phải do toán số kiến lập ngôn giáo mà có thể làm cho các pháp vào nơi toán số. Tất cả văn tự, ngữ nghiệp diễn thuyết đều chẳng thể nắm bắt, chẳng trụ nơi chỗ nào và tất cả chỗ nào. Văn tự và ngữ nghiệp như vậy, không từ đâu lại, đi không chỗ đến, chẳng trụ ở giữa, chẳng trụ một bên. Vì tất cả văn tự và ngữ nghiệp là nghiệp mà chẳng phải nghiệp, vì chẳng phải công dụng. Vì nơi tất cả văn tự ngữ nghiệp, tự tánh là không, nên văn tự ngữ nghiệp cũng đều là không. Tự tánh đã không, nên tha tánh cùng tự tha tánh cũng đều không. Vì tự tha không, nên nó tịch tónh. Vì tịch tónh, nên nó tịch diệt. Nếu là tịch diệt, thì tất cả pháp chính là môn tịch diệt. Do đây nên được nói danh từ các pháp, hoặc nói văn tự, hoặc nói ngữ nghiệp. Tất cả môn đó cũng chẳng thể nắm bắt, vì môn thanh tịnh, vì vô sở hữu. Do các môn đó mà diễn thuyết các pháp, mà trong môn này rốt ráo thanh tịnh, có thể bình đẳng vào tất cả pháp. Đây là yếm ly. Thế nào là yếm ly? Chính là bản tánh tham. Tham, bản tánh của nó là thanh tịnh; đã thanh tịnh thì cứu cánh; đã cứu cánh thì đâu được có tham, đâu được có ngôn thuyết! Này Vô Biên Trang Nghiêm! Trên đây là lược nói môn thanh tịnh Đà-la-ni, là pháp môn vô phân biệt, không hý luận. Vào môn này rồi, có thể phá chướng nặng vô minh hắc ám, có thể tùy thuận giác minh. Nơi tất cả pháp, được vào môn quang minh thanh tịnh Pháp nhãn Đà-la-ni. Và có thể chứng được pháp môn văn tự sai biệt diễn thuyết. Do môn này bèn được vào Nhất thiết chủng trí và được gần chư Phật. Ở trong các pháp, là bâïc dũng kiện có thể phá dẹp ngoại đạo, hàng phục quân ma, có thể làm cho chúng sinh thêm lớn căn lành vào nơi Pháp tạng bí mật của Như Lai, liền được các pháp môn Đà-la-ni. Do pháp môn này, ở trong mười trí lực, được pháp quang lớn, mau thành tựu trí lực của Như Lai. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Chư Phật dùng mười trí lực làm sức mạnh, làm sức vô thượng vượt qua tất cả thế gian, có thể làm sư tử rống giữa đại chúng. Những gì gọi là mười trí lực? Này Vô Biên Trang Nghiêm! Như Lai dùng trí vô thượng nhất thiết chủng nơi thị xứ phi xứ, rõ biết như thật thị xứ phi xứ. Đây là trí lực thứ nhất của Như Lai. Do trí vô thượng này, Như Lai ở bâïc Đại tiên vì chúng sinh diễn thuyết chánh pháp và vì họ chuyển pháp luân vô thượng. Ngoài Như Lai, trời người thế gian trước đây không ai có thể chuyển pháp luân như thật. Như Lai lại dùng trí không phân biệt rõ biết như thật các nghiệp và thủ nhân của các nghiệp quá khứ, hiện tại, vị lai, là thiện, bất thiện, vô lượng hành tướng, không trụ trước, không chướng ngại. Đây là trí lực thứ hai của Như Lai. Như Lai dùng trí vô phân biệt nhất thiết chủng vô trước vô ngại, có thể khéo rõ biết vô lượng hành nghiệp của các loài hữu tình. Đây là trí lực thứ ba của Như Lai. Như Lai dùng trí vô thượng nhất thiết chủng biết rõ như thật tất cả vô lượng thắng giải phân biệt và vọng phân biệt. Đây là trí lực thứ tư của Như Lai. Như Lai rõ biết như thật tất cả vô lượng nhân, tất cả vô lượng duyên chỗ y trụ của thế gian. Đây là trí lực thứ năm của Như Lai. Như Lai rõ biết như thật, hoặc nhân hoặc duyên, tri kiến thẳng đến đạo. Đây là trí lực thứ sáu của Như Lai. Như Lai dùng Thiên nhãn vô ngại và trí vô thượng nhất thiết chủng rõ biết như thật sự sinh tử của hữu tình. Đây là trí lực thứ bảy của Như Lai. Như Lai rõ biết như thật tất cả tónh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí, ly nhiễm thanh tịnh, hoặc xuất hoặc nhập. Đây là trí lực thứ tám của Như Lai. Như Lai rõ biết như thật tất cả đời trước. Đây là trí lực thứ chín của Như Lai. Như Lai rõ biết như thật lậu tận. Đây là trí lực thứ mười của Như Lai. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Trí lực nhất thiết chủng vô lượng vô thượng như vậy, Như Lai đều thành tựu. Vì muốn cho các Bồ-tát và tất cả chúng sinh được nhiếp thọ nơi Phật trí và chứng pháp trí thanh tịnh, nên Như Lai tuyên thuyết vô biên Pháp tạng. Đức Phật lại bảo Đại Bồ-tát Vô Biên Trang Nghiêm: –Này thiện nam! Nay ông nên quan sát Như Lai nói trí lực thậm thâm thanh tịnh khó hiểu như vậy. Tất cả các pháp gọi là Như Lai và trí lực của Như Lai. Nhưng nơi các pháp đó cũng chẳng thể nắm bắt sự thấy và chẳng thể giải bày. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Trí lực đã nói trên đây là pháp môn vô thượng cứu cánh kiên cố của Như Lai. An trụ nơi đó mà Như Lai tuyên thị lý thú của pháp này. Do lý thú đây mà kiến lập trí lực, có thể diễn thuyết tánh không kiến lập của tất cả pháp đây, dùng đó làm trí lực. Những trí lực như vậy tánh không sinh khởi, không có tự tánh, lìa tự tánh. Mười trí lực của Như Lai viên mãn như vậy, có thể khai thị vô lượng, vô biên nghóa lý rất sâu. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Đây là pháp môn vô thượng của chư Phật. Trụ pháp môn này thì có thể diễn thuyết mười trí lực của Như Lai và có thể diễn thuyết môn thanh tịnh, môn khắp thanh tịnh của trí lực này. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Nay Phật lại vì các Bồ-tát nói môn Đà-la-ni, cho họ được thanh tịnh nơi pháp môn này. Ông nên lắng nghe và lãnh thọ. Đức Phật liền nói môn Đà-la-ni: –Đát điệt tha bát ra mâu chiết ninh nễ mâu chiết ninh mâu chiết ninh tùy bát ra muộn chiết nễ a chiết lê a tỳ gia trạch nễ bát ra bà nộ yết đế-đế thệ ma ha đế thệ a bát ra đễ gia mạt ra ni a na mạt ra ni a mạt ra noa tỳ thú đạt nễ nễ đà na bát ra phệ thiết nễ đột ra a nễ khất túng bát nễ mạt ngu mạt ngu tát phược lê tát phược ra vó thú đàn nễ mẫu đạt ra mẫu đạt ra vó thú đàn nễ tát bát rị phược lê tam mạn đa bát lê phược lê a yết ra nỗ ma để yết tha ta đàn nễ tăng yết ra ni ma chế đàn nễ thú lê thú ra mị rị duệ a cát ra ni ô ba na mạt để nễ na lê thiết nễ tam mạn đa ba lê phổ lý dã yết đế đà la nỗ yết đế a nễ mê thiết nễ a tán nễ mê thiết nễ đà la ni yết đế nễ đà na bát rị thú đàn nễ a nỗ đạt ra tỳ bà tỉ nễ bạt trí lệ bạt đạt ra phiệt đế mạc di mạc xí phiệt để san đà ra ni ô phiệt đà rị ni a nan đa bát ra bá phệ bát ra bộ da bát rị phược lê thiết nễ bát rị ta thiết nễ ma ha phược ca thế a ca xả ta mâu tát ra ni-nhó để di ra ca ra ni tát bà nhã bát thả tỳ thâu đạt nễ niết bàn na bát thả san na rị thiết nễ ta bà ha. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Đây là pháp ấn Đà-la-ni, tất cả pháp đều vào trong đó. Các Bồ-tát tu hành đúng theo đây thì được trí tuệ biện tài vô ngại, có thể khéo biết rõ câu xuất ly Đà-la-ni tối thắng. Thế nào gọi là câu xuất ly tối thắng? Đức Phật liền nói Đà-la-ni: –Tá yết ra á bát diễn đa tô mế rô ra đát na ta yết ra san nễ chiết gia a tỳ đát nễ a tam tỳ đát nễ a tỳ mạt lê bạt chiết ra san nễ niết bệ thiết nễ a khất sô tỳ nễ tăng khất sô tỳ nễ a khất sa gia a tị dạ dó khất sa gia a bát diễn đế a khất sử na khất sa diễn đa tát điệt lý thế a bát rị khất sa duệ a tỳ khất sớ tị nễ a tỳ yết lê a tỳ yết la nhã na yết ra ni ta bà ha. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Đây là câu xuất ly Đà-la-ni tối thắng. Các Bồ-tát tinh tấn tu tập pháp này, thì có thể thêm lớn trí tuệ như biển, có thể dùng tâm đại Từ an ủi chúng sinh rằng: “Ta truyền thọ pháp dược rộng lớn cho các người, phá trừ vô minh hắc ám của các người, dứt trừ phiền não sinh tử vô thỉ, vô chung của các người, cũng làm cho các người thoát khỏi tham ái, qua khỏi tất cả dòng sinh tử. Bồ-tát làm pháp quang rộng lớn, làm cho căn lành của chúng sinh được sinh trưởng có thể rốt ráo giải thoát. Bồ-tát này làm bâïc đạo thủ lành có thể vào nơi Nhất thiết chủng trí, cũng chẳng để có một chúng sinh nào thoái thất nơi trí vô thượng này.” Bồ-tát đây có thể dùng tâm đại Từ làm cho tất cả chúng sinh được tương ưng với pháp nghóa mà từ trước chưa từng nghe và lãnh thọ, làm cho họ được trí vô sinh tịch diệt, được biện tài vô ngại. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Nếu các Bồ-tát lúc muốn thuyết pháp, thì nên nhiếp niệm nơi câu Đà-la-ni này làm cho pháp nghóa chẳng gián đoạn. Nghóa là các Bồ-tát ngồi tòa Sư tử, dùng biện tài vô ngại suy gẫm vô lượng công đức của Như Lai, do đây trí tuệ được rộng lớn thanh tịnh. Lúc chúng sinh vân tập đến pháp hội để nghe pháp, Bồ-tát đối với họ nên có lòng đại Bi, dùng trí tuệ rộng lớn khai thị nghóa lý quyết định đúng như thật chẳng thêm chẳng bớt. Bồ-tát biết rõ căn tánh sai biệt của thính giả, dùng ngữ nghiệp và câu văn từ ngữ rõ ràng quyết định lành tốt vì họ mà diễn thuyết rộng rãi. Do sự diễn thuyết này có thể làm cho căn lành của Bồ-tát được tăng trưởng, dùng pháp thanh tịnh nhiếp hóa chúng sinh. Như Lai có thể dùng vô lượng thí dụ tuyên bày pháp môn Đà-la-ni như vậy. Các ông nếu có thể tuyên thuyết chánh pháp vô thượng như vậy, thì là an trụ nơi việc làm của Phật, các ông sẽ mau viên mãn bốn pháp Vô úy. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Các Bồ-tát này dùng trí tuệ phương tiện thanh tịnh rộng lớn có thể khéo tu tập những công hạnh phát khởi thần thông, có thể nhiếp thọ trí tuệ rộng lớn. Những gì là công hạnh phát khởi thần thông? Này Vô Biên Trang Nghiêm! Các Bồ-tát an trụ trong thần thông không có tưởng niệm nương gá, dường như hư không, khéo phân tích các đại chủng, biết rõ Như Lai thành tựu trí tuệ vô ngại vô biên. Do sức trí tuệ này, nơi tất cả pháp, Như Lai khéo quyết định biết rõ không có chút pháp nào là có thể rõ biết, trụ nơi không sở đắc, trụ nơi không gì sánh bằng, cũng chẳng thấy có sự không sở đắc, không gì sánh bằng, trụ nơi a-lan-nhã, trụ không chấp trước, trụ trí tuệ thanh tịnh, không có chút pháp nào mà chẳng biết rõ chẳng thấy rõ, xa lìa vô minh hắc ám, không bị chướng ngại, khéo an trụ nơi trí tuệ vô lượng, vô biên. Do đây Như Lai bình đẳng thấy biết tất cả pháp như huyễn, như mộng và có thể khai thị pháp tưởng quán vô minh. Vì thế nên Bồ-tát cần phải theo học trí tuệ vô ngại của Như Lai. Trí tuệ này có thể khéo rõ biết căn tánh thượng, trung, hạ của tất cả chúng sinh, làm cho các Bồ-tát an trụ công hạnh bình đẳng phát khởi thần thông. Do đây được thành tựu thần thông. Do sức thần thông này gia trì nên khéo an trụ được nơi giới, định, tuệ giải thoát, giải thoát tri kiến cùng sáu môn Ba-la-mật-đa. Do được chân thật gia trì nhiếp thọ nên có thể được vô lượng thần biến sai khác, được tự tại nơi thế gian, ngồi tòa Sư tử đánh trống pháp lớn, làm cho đại chúng trong các pháp hội thảy đều hoan hỷ và làm lợi ích lớn cho tất cả chúng sinh. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Ví như vòng núi Đại thiết vi do nghiệp lực tăng thượng của chúng sinh, nên bao quanh thế giới này. Nhờ vòng núi này che, nên chúng sinh không ngửi mùi địa ngục, không nghe tiếng địa ngục, không thấy địa ngục. Cũng vậy, các Bồ-tát khéo tu tập nơi pháp này rồi, vì chúng sinh mà trừ diệt tất cả pháp chướng ngại, trao cho tất cả pháp vô ngại. Các Bồ-tát đây dùng trí Kim cang khéo nhiếp thọ, ngộ nhập rất sâu nơi pháp này, trụ nơi vô sở đắc, được cam lộ rưới nhuần. Thế nào gọi là cam lộ rưới nhuần? Các Bồ-tát này không bị ma phiền não, ma ngũ uẩn và Thiên ma làm tổn hại. Dầu lúc chết có tử ma, nhưng cũng được tự tại chẳng có quan niệm là chết. Vì sao? Vì Bồ-tát này an trụ nơi Không, vô tướng, Vô nguyện, không phân biệt, chẳng sinh chẳng diệt, chẳng đến chẳng đi, chẳng trụ chẳng khởi, chẳng nhiễm chẳng tịnh, cũng chẳng khiếp nhược, không ngăn ngại, không chứng đắc, bỏ kiêu mạn, tâm thường khiêm hạ, trong lìa mê lầm, ngoài khéo rõ biết, không lệ thuộc nơi thấy, nghe, hiểu, biết; biết rõ các pháp đều bình đẳng, chứng nhập như thật trong pháp của Như Lai, an trụ nơi chân như chẳng hư vọng không đổi khác. Chính đây gọi là các Bồ-tát chứng nhập Bát-nhã ba-la-mật-đa. Bồ-tát an trụ nơi đây thì thành tựu được vô biên trí tuệ. Do sức trí tuệ này có thể chứng nhập trí chẳng nghó bàn và ngôn thuyết bí mật của Như Lai. Do đây có thể khéo rõ biết tất cả pháp, chỗ thấy biết chẳng thể nghó bàn, không phân biệt, không sở đắc, đồng như Bồ-đề chẳng thể nghó bàn, không phân biệt, không sở đắc. Bồ-tát này cũng chẳng phân biệt, chẳng tưởng niệm đồng với Bồ-đề. Trong nghóa Bồ-đề thường trụ, chẳng thành chẳng hoại, chẳng nhóm chẳng tan, mà có thể làm ra tất cả Phật sự. Nơi pháp môn tịch tónh đã nói đây, Bồ-tát chẳng chấp trước, cũng chẳng phân biệt những nghiệp quả báo, khéo rõ biết được nghiệp quả bình đẳng, vì bình đẳng nên chẳng thấy nghiệp quả, cũng chẳng phân biệt chấp trước. Vì sao? Vì các Bồ-tát này đã được nhẹ nhàng nơi phiền não và nghiệp chướng, đã xa lìa kết sử, đã rõ thấu các pháp môn và thấy biết Đà-la-ni này. Vì đã an trụ pháp môn thanh tịnh, nên các Bồ-tát này có thể đi giáo hóa mười phương thế giới, đủ hạnh thanh tịnh không trụ trước, chẳng bị thế pháp làm nhiễm ô, đáng là phước điền cho trời, người các thế gian gần gũi cúng dường. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Như Lai nói cúng dường bậc Bát địa Bồ-tát được vô lượng công đức, huống là Bồ-tát tu hành chứng nhập nơi pháp này. Nếu các Bồ-tát đối với Bồ-đề, với chúng sinh, với pháp chúng sinh, với pháp thế gian mà không chỗ được, không phân biệt, không hý luận, thì có thể rõ biết pháp này và tu hành đúng thật, có thể tiêu được sự cúng dường rộng lớn của thế gian. Tất cả chúng sinh nên đem sự cúng dường Phật mà cúng dường các Bồ-tát này. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Nếu các Bồ-tát tu học pháp này thì được đầy đủ tất cả sự cúng dường, lìa khỏi những sự bố úy cho đến có thể rời bỏ tất cả thân mạng. Các Bồ-tát này nơi các pháp không chỗ nhiếp thọ mà có thể nhiếp thọ pháp rộng lớn, ngồi tòa vô úy, như sư tử rống, hàng phục ngoại đạo và pháp của ngoại đạo, trừ dẹp ma vương Ba-tuần và đoàn quân ma, có thể diệt trừ tất cả sự che ngăn cho chúng sinh, sẽ dùng con thuyền pháp cứu độ chúng sinh, sẽ chỉ bày con đường Nhất thiết chủng trí cho chúng sinh, sẽ có thể dẫn dắt tất cả chúng sinh trên con đường tùy thuận Thánh đế, sẽ khai bày tất cả pháp Bồ-đề phần cho chúng sinh, sẽ dùng pháp thí dạy bảo chúng sinh, sẽ làm cho chúng sinh được pháp hỷ. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Nếu các Bồ-tát có thể tín thọ môn Đà-la-ni này, thì không khác gì những bâïc đã được thọ ký Vô thượng Bồ-đề. Các Bồ-tát này sẽ tự thọ ký cho mình: “Như Lai là Đấng Pháp Vương khai thị Pháp tạng này, có thể an lập ấn Đà-la-ni này, có thể kiến lập những pháp môn này. Như Lai nhiếp thọ chúng tôi, là cha của chúng tôi, là người thương xót chúng tôi.” Này Vô Biên Trang Nghiêm! Nếu Bồ-tát có thể ở nơi Như Lai có tâm quyết định tưởng là cha lành, thì sẽ được vào số chư Phật, như Phật không khác. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Trong pháp phẩm Đà-la-ni môn, đây là môn xuất ly Đà-la-ni thứ hai xuất Đà-la-ni ấn, diễn thuyết Pháp tạng của Đức Như Lai.  <章 id="86423656">Phẩm 3: THANH TỊNH ĐÀ-LA-NI (Phần 1) Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn quan sát bốn phương hiện các thứ thần thông, dùng sức thần thông làm cho các Bồ-tát trong pháp hội được thấy vô lượng chư Phật ở mười phương và nghe chư Phật thuyết pháp. Phật bảo Bồ-tát Vô Biên Trang Nghiêm: –Ông xem nơi tất cả pháp, Như Lai vô tác, vô vi, tịch tónh, mà làm được tự tại thần thông như vậy, trí lực vô úy như vậy. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Như Lai tánh chẳng phải một chẳng phải khác, chẳng phải chẳng một chẳng khác, vì không sở hữu nên chẳng phải có chẳng phải không, không tự tánh chẳng phải không tự tánh, nên biết rằng Như Lai tánh cho đến không có chút pháp gì là có thể được. Thấy biết như vậy lại cũng không có chút pháp gì là có thể thấy biết. Đã chẳng thể thấy thì không chỗ có cũng không chỗ lấy. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Như Lai tánh không chân thật chẳng không chân thật. Nếu là chân thật và chẳng chân thật thì có Như Lai tánh, không Như Lai tánh. Như Lai tánh lìa có lìa không, nhưng cũng chẳng từng lìa. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Tất cả pháp tự tánh bản tánh như hư không. Chư Phật Như Lai lúc chưa xuất thế, chưa từng có nói pháp môn như vậy. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Nơi pháp này, nếu các Bồ-tát hiểu rõ như vậy, thì có thể phát sinh vô lượng biện tài, có thể diễn thuyết các pháp, thấu rõ đức vô úy của Phật. Đức vô úy nói trên đây, nghóa là được đức vô úy tối thượng của Đức Như Lai, vì có thể đối với các pháp chẳng nhiếp thọ, chẳng tăng trưởng, chẳng thể được, chẳng khắp được, chẳng theo được. Dù Như Lai ra đời hay chẳng ra đời, pháp vẫn chẳng tăng giảm, chẳng khắp tăng giảm. Tự tánh bản tánh của các pháp vốn thường trụ, là trụ tánh định tánh của pháp giới. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Tất cả pháp trụ nơi định tánh của các pháp, vì chẳng thể nắm bắt như vậy, nên tất cả pháp đều là hư vọng phân biệt, chẳng phải do nghiệp báo mà được thành, do đây nên có thể vào nơi môn tất cả pháp không nghiệp báo. Vì các pháp không tự tánh như vậy, chẳng thật như vậy nên các nghiệp đối với quả chẳng phải là nhân sinh diệt, nơi sự dứt trừ các thú, các đạo cũng chẳng phải là nhân. Như Lai chỉ tùy theo thế tục, nói tất cả pháp có nhân có chẳng phải nhân, vì nhân tự tại, vì không có nhân, đây là đức vô úy của Như Lai. Vì Như Lai đầy đủ vô lượng biện tài nên được vào bâïc đại vô úy. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Thế nào là vô úy? Chính là bốn pháp vô sở úy của Như Lai. Bốn pháp vô sở úy này, hàng Duyên giác còn không có được, huống là hàng Thanh văn cùng các thế gian. Những gì là bốn? Một là, Như Lai xướng rằng: Ta là Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác, là bâïc biết tất cả, thấy tất cả, hoặc trời hoặc người, tất cả thế gian không ai có thể lập luận nói rằng Như Lai chẳng rõ biết được các pháp. Do đây nên Như Lai được tối thượng vô úy, ở giữa đại chúng như sư tử rống, Như Lai có thể diễn thuyết giáo pháp vô thượng rộng lớn rất sâu. Hai là, Như Lai xướng rằng: Ta là bâïc dứt sạch tất cả lậu phiền não, hoặc trời hoặc người, tất cả thế gian không ai có thể lập luận được rằng Như Lai chưa sạch hết các lậu. Vì sạch hết các lậu, nên Như Lai có thể trụ nơi rốt ráo an lạc, khai thị Pháp tạng vô thượng đã chứa nhóm từ vô lượng ức kiếp. Ba là, Như Lai diễn thuyết đạo xuất ly, tu tập nơi đó, dứt hẳn tất cả khổ, hoặc trời hoặc người, tất cả thế gian không ai có thể lập luận được rằng nơi đạo diệt khổ của Như Lai nói, tu tập theo đó chẳng được xuất ly. Như Lai chẳng thấy tướng xuất ly nên được rốt ráo an lạc, rồi vì chúng sinh thị hiện chủng tánh của pháp này, nên ở giữa chúng hội như sư tử rống. Bốn là, Như Lai tuyên nói những pháp chướng đạo, hoặc trời hoặc người, tất cả thế gian không ai có thể lập luận được rằng pháp chướng đạo của Như Lai nói là không chướng. Vì chẳng thấy có pháp chướng đạo nên Như Lai trụ nơi an lạc tăng thượng, Như Lai ở giữa đại chúng như sư tử rống. Như Lai có thể chuyển pháp luân vô thượng này, tất cả thế gian, hoặc trời, hoặc người đều không chuyển được. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Đây là bốn pháp vô sở úy của Như Lai. Các Bồ-tát tinh tấn tu học pháp này thì mau chứng được bâïc vô úy, là bâïc tối thắng trong trời, người. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Các Bồ-tát vì khéo tu tập pháp không, nên có thể phát sinh môn biến thanh tịnh chẳng nghó bàn. Do môn này, nơi tất cả pháp, các Bồ-tát tối sơ thấy rõ tất cả pháp đồng với tướng hư không, không hai không khác, tất cả pháp đều như vậy cả; nhưng với hư không, chẳng phân biệt cũng chẳng hý luận. Các Bồ-tát này được nghóa thiện xảo: không có chút pháp nào bị đem từ đâu lại, cũng chẳng đem đi đâu, cũng chẳng chứa nhóm. Do đây, Bồ-tát bèn có thể quan sát tất cả pháp không chứa nhóm, không đến, không đi; nơi tất cả pháp, làm mà không chỗ làm, thắp đuốc đại pháp, làm trí pháp cho các chúng sinh. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Ông xem pháp này đem lại bao nhiêu là lợi ích, bao nhiêu là sự nghiệp cho các Bồ-tát! Chính là mười Trí lực và bốn Vô sở úy của Phật. Lại cũng không có chút pháp gì có thể được, cũng chẳng phải không được. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Tất cả pháp đồng với tướng hư không. Vì để được lợi ích nên Như Lai khai thị diễn thuyết những quả báo cùng nghiệp nhân. Trong đó cũng không có được lợi ích. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Pháp thậm thâm này rất là khó tin đối với tất cả thế gian. Vì thế gian là diệt hoại, là hư vọng kiến lập, nên không thể tín thọ được pháp này và cũng chẳng biết được. Thế gian đều là phi pháp, do chấp trước nên nói có thế gian và chỗ an trụ. Giả sử cho đến có quan niệm chấp nơi pháp, cũng không có pháp để có thể chấp được. Do chấp trước nơi phi pháp, nên sinh ra sự tranh luận với Như Lai và pháp của Như Lai đã nói. Lại họ chẳng thể rõ tự tánh bản tánh của tất cả pháp, lại trái với pháp vô sinh. Vì thế nên họ không hiểu được giáo pháp thậm thâm này. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Như Lai vì tất cả trời, người, những hàng tin lời như thật, lời không hý luận vì dừng dứt tranh luận, xả bỏ các uẩn mà khai thị diễn thuyết giáo pháp như vậy. Trong đó không có uẩn cũng không có uẩn tận. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Trong đây đều không có pháp thiện, pháp bất thiện. Những pháp thiện, pháp bất thiện tất cả đều tịch tónh. Pháp thiện, pháp bất thiện đều chẳng biết nhau. Pháp thiện, pháp bất thiện chẳng che lấp nhau. Vì nhân duyên chấp trước pháp thiện, pháp bất thiện, nên Như Lai nói tất cả pháp thảy đều vô ký, vì không thể được pháp thiện, pháp bất thiện chân thật vậy. Nếu đã chẳng thể nắm bắt thì là vô ký, vì trong đó không có nhân, không thấy được nhân. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Nay ông nên quan sát tất cả pháp thảy đều vô ký. Nếu các Bồ-tát giác ngộ như vậy rồi thì đối với tất cả pháp, ngôn thuyết vô ký cũng chẳng thể nắm bắt. Pháp môn như vậy là vì các Bồ-tát như thật thấy pháp bất thiện, được xả viên mãn, chẳng trụ nơi pháp, do môn vô ký mà chứng nhập các pháp. Môn vô ký chính là chẳng phải môn. Nếu là chẳng phải môn thì chẳng thể nắm bắt. Nếu đã chẳng thể nắm bắt thì đó là thanh tịnh. Đây là chỗ các Bồ-tát vào pháp môn thanh tịnh Đà-la-ni. Do môn này, các Bồ-tát được trí tuệ chiếu suốt tất cả pháp, không còn ngu ám mê hoặc do dự đối với tất cả pháp và có thể được Pháp trí vô ngại, Tuệ nhãn thanh tịnh. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Nơi trong pháp này phải nên cầu thích. Thế nào là cầu thích? Nghóa là với tất cả pháp không lấy, không chấp, rốt ráo lìa bỏ, vượt qua ẩn trắc, không mong cầu. Chẳng quán đãi tất cả pháp hữu vi thế gian, thiện, bất thiện. Đây là bâïc bất phóng dật vô thượng, bâïc lìa phan duyên. Trong tất cả pháp, không đến không đi, không trụ, không kiến lập. Đây gọi là Tuệ nhãn thanh tịnh, vì rốt ráo bỏ lìa không chỗ chấp lấy. Khéo có thể quan sát bỏ lìa tất cả bản tánh tự tánh thì gọi là Tuệ nhãn. Tuệ nhãn trên đây là trí tánh yếm ly diệt tận. Trí tánh này vốn không sinh khởi, không tạo tác, bản tánh tịch tónh, lại cũng chẳng tương ưng với tịch tónh, vì đã dứt tương ưng, lại cũng chẳng phải đoạn dứt, chẳng phải không đoạn dứt, không thiếu không giảm. Đây gọi là Tuệ nhãn thanh tịnh, là đạo không hý luận. Do thành tựu Tuệ nhãn này, dùng Từ bi nhiếp thọ chúng sinh, khiến họ phát tâm. Duyên nơi chúng sinh mà phát khởi vô lượng diệu hạnh và có thể hiểu rõ tất cả pháp không có ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả. Bồ-tát này lúc chứng được Vô thượng Bồ-đề, tất nhiên có thể khai thị diễn thuyết Pháp tạng vô thượng và có thể thanh tịnh môn Đà-la-ni, vì làm cho giáo pháp theo chủng tánh của chúng sinh không đoạn dứt nên thiết lập pháp ấn. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Pháp môn thanh tịnh Đà-la-ni này, chư Phật luôn nhiếp thọ khai thị diễn thuyết. Mười phương chư Phật ba đời cũng đều tuyên nói pháp môn này, vì các Bồ-tát mà khai thị pháp tánh ba đời bình đẳng. Do đây đối với các pháp trong ba đời có thể ngộ nhập pháp môn này, vì thành tựu tuệ Tổng trì thanh tịnh ba đời của Bồ-tát. Các Bồ-tát này không có quan niệm thế gian, nơi pháp lành cùng pháp chẳng lành biết rõ không hai, không khác, các căn lành được sinh trưởng, thân, ngữ, ý ba nghiệp thảy đều thanh tịnh, có thể khắp thanh tịnh vô lượng pháp môn, vì để được tuệ thanh tịnh Tổng trì, cũng có thể khai diễn giáo pháp thanh tịnh không sinh khởi, không tạo tác, lại có thể khai thị tất cả pháp rốt ráo không tịch như hư không, lại có thể thị hiện trí tuệ rộng lớn mà vì người khai thị trí thanh tịnh, cũng có thể khai thị tất cả pháp và Bồ-đề như tánh hư không, mà vì người thị hiện đạo Nhất thiết chủng trí thanh tịnh, lại có thể khai thị đạo pháp thanh tịnh, tức là tùy sở nguyện được viên mãn Bồ-đề, có thể rõ biết chân chánh, diễn thuyết Thật đế phương tiện thiện xảo, mà có thể tuyên thuyết Đế lý không phân biệt, có thể khai thị trí tuệ của chư Phật, vì tùy thuận giác ngộ tất cả nghóa. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Nếu các Bồ-tát khéo tu học pháp này thì có thể mau thanh tịnh tư lương Bồ-đề, được trụ nơi Bồ-đề không có xa gần, chẳng trái với chút pháp gì, với các pháp hiện nói đây cũng chẳng thấy xa gần, chẳng dùng pháp và phi pháp để thấy Bồ-đề, đã thông đạt Bồ-đề dứt tuyệt các sự hiển bày, có thể dùng nghóa bình đẳng không hiển thị để biết rõ Bồ-đề, đến lúc quán nghóa tịch tónh của các pháp thì với Bồ-đề chẳng phân biệt, cũng chẳng thấy nghóa tịch tónh, nghóa chẳng tịch tónh, chẳng phải ngoài tịch tónh mà thấy chẳng tịch tónh, không có chút tưởng niệm là có năng quán, năng kiến, có thể thấy thanh tịnh với tất cả chỗ, cũng không có chút gì có thể thanh tịnh. Đây là Trí môn thanh tịnh của các Bồ-tát. Do trí môn này, mà các Bồ-tát có thể tùy niệm môn Đà-la-ni vô biên Pháp tạng của chư Phật Như Lai, khắp biết được bản tánh tự tánh của các loài hữu tình, khai thị diễn thuyết các Pháp tạng cho hữu tình, có thể khắp thanh tịnh các nghiệp trí tuệ, các nguyện cầu nơi Vô thượng Bồ-đề, hiện bâïc Đẳng giác không thoái chuyển, có thể theo niệm nguyện thanh tịnh. Mau được tự tại đối với tất cả pháp, có thể tu tập đức đại Từ, đại Bi của chư Phật, pháp tạng thiện xảo của tất cả Như Lai đều hiện ra trước và có thể thị hiện vô lượng, vô biên pháp quang rộng lớn, thân thường an trụ nơi trí cảnh của chư Phật. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Pháp môn vô lượng, vô biên này chỉ cho những pháp nào? Này Vô Biên Trang Nghiêm! Tất cả pháp như địa, thủy, hỏa, phong, hư không, thức giới đều vô lượng. Các hữu tình cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc đều vô lượng. Nhưng không có một chút hữu tình nào là có thể nắm bắt được và có thể biết, vì hữu tình là không. Thật ra, hữu tình giới này chẳng thể nắm bắt và chẳng thể biết, vì giới là không. Vì thế nên các pháp đồng Niết-bàn giới, nhập vào Niết-bàn. Tất cả các pháp đồng hướng vào chỗ chẳng thể nêu bày, vì nơi Niết-bàn giới không có chút phần nào là có thể nêu bày. Trong Niết-bàn giới không chướng ngại, không che đậy, vì đã vónh viễn thanh tịnh sự chướng ngại, ngăn che vậy. Nên Niết-bàn giới là thanh tịnh, là rất thanh tịnh. Niết-bàn giới này, cũng chẳng phải cảnh giới, vì xa lìa cảnh giới, vì không có cảnh giới, vì vượt ra khỏi cảnh giới, nhưng dùng tương tợ mà phương tiện nói là cảnh giới. Giới đã nói đó là an trụ nơi chẳng phải giới và chẳng phải chẳng phải giới. Trong lời nói cũng không có giới, chỉ dùng ngôn ngữ để nêu bày các pháp. Lời nói cùng người nói đều chẳng thể nắm bắt, chẳng thể biết. Tất cả lời nói đều là chẳng phải lời nói. Tất cả lời nói như vậy, như tánh hư không, đồng vào hư không. Do đây nên địa giới, thủy giới cho đến hư không giới đều không thể ngôn thuyết, không lực dụng năng thuyết. Thức giới đã nói đó, chỉ là dùng ngôn ngữ để thuyết bày các pháp, nhưng thức giới đó, giới cũng chẳng phải giới, chẳng vào các giới, chẳng tương ưng với giới cũng chẳng phải chẳng tương ưng, từ hư không sinh, vào nơi hư không. Thức giới như vậy chẳng ở trong, ngoài, chặng giữa. Tùy nhiếp thọ nơi phần hư không của nó mà hướng vào hư không, chẳng thể hiển bày, chẳng thể xem thấy. Nếu nó đã là không thể hiển bày thì nó không chỗ làm, trừ có duyên tương ưng nói là có thức giới. Đây là pháp môn của Bồ-tát chứng nhập. Tất cả các pháp bản tánh tự tánh như hư không. Bởi y nơi pháp giới mà khai thị diễn thuyết, nhưng cũng không có giới của các pháp, vì giới mà chẳng phải giới, nên tất cả pháp như hư không. Do đây Đức Như Lai nói tất cả pháp đều là hư không, vì khó lường được. Hiển bày tất cả pháp đều hư không tánh, vì bản tánh của các pháp như hư không, chỉ là dùng ngữ ngôn khai thị diễn thuyết thôi! Này Vô Biên Trang Nghiêm! Ông xem chỗ diễn thuyết từ nơi trí Như Lai thanh tịnh dường ấy. Giáo pháp thanh tịnh như vậy, không pháp có thể sinh, cũng không pháp truyền thọ. Đây là trí không điên đảo của các Bồ-tát. Vì thế nên các ông cần phải cầu thích trí tuệ không do người khác làm duyên, trí được không phân biệt, chẳng thêm phân biệt và có thể thanh tịnh được pháp môn lý nghóa chẳng thể nêu bày, vì do pháp trí thanh tịnh vậy. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Các loài phi điểu đi nơi đâu? Bồ-tát Vô Biên Trang Nghiêm bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Loài phi điểu bay đi nơi hư không. Đức Phật lại hỏi: –Này Vô Biên Trang Nghiêm! Hư không đi nơi đâu? Bồ-tát Vô Biên Trang Nghiêm bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Hư không chẳng đi đâu cả. Đức Phật nói: –Này Vô Biên Trang Nghiêm! Phải lắm! Tất cả pháp như hư không, không có chỗ đi. Pháp đi không chỗ đi đều chẳng thể nắm bắt. Vì thế nên các pháp không có chỗ đi, lại cũng chẳng đi. Bản tánh của các pháp không có đi, không có nói. Vì muốn các Bồ-tát được trí hư không thanh tịnh, nên Như Lai chuyển pháp môn này. Đây là pháp môn vô biên quang minh, soi sáng cùng khắp vô lượng, vô biên dường như hư không. Quang minh chiếu khắp đó cũng chẳng thể thấy. Các Bồ-tát được pháp môn này rồi thì có thể quan sát khắp mười phương thế giới và có thể liền thấy tất cả thế gian. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Đây là cảnh giới sở tri của trí tuệ Bồ-tát, cảnh giới thông đạt của trí Bồ-tát, chẳng phải cảnh giới của ngoại luận khác, vì họ không thể nói đến được. Nghóa lý của pháp này là chẳng thể diễn bày, vì pháp ấn ngữ ngôn không thể hiển thị được. Vì thế nên tất cả pháp không ấn, cũng chẳng tăng ấn, vì rõ biết chẳng ấn mà khéo léo tu tập. Dùng ấn hư không mà ấn tất cả pháp. Dùng ấn vô tướng có thể thị hiện hư không vô tướng kia không tướng hữu vi, không tướng ngữ ngôn. Do vì không vô nên nói hư không này. Vì hư không đã nói đó không có thật thể nên nói là không. Vì chân thắng nghóa, nên biết các pháp rốt ráo là không có ngôn thuyết. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Nay đây Như Lai sẽ nói Đà-la-ni ấn, những câu thanh tịnh, là những câu hư không. Vì trí thanh tịnh, nên như hư không không có câu, không có câu nên thanh tịnh, nên phải rõ không có các câu như vậy. Đức Phật liền nói chú: –Tỳ phiệt lê. Tỳ phiệt ra nỗ ta hê đế. Bát ra nỗ nễ. Nễ san nã vó phiệt ra ni. A tỳ dạ phiệt ca san nại thiết nễ. Bát ra bá lê. Bát ra bá ra nhó thâu đạt nễ. Niết tỳ yết bệ. A cá xa tam ma phiệt bà ra ni. Nễ tỉnh nghê. Tỉnh giả ba yết để. Tỉnh giá tỳ mâu chiết nễ. A nã đà nễ. A đá nẵng tỳ yết đế. Cương khất sa xiết na bát rị yết ma. Chế nê. A nỗ bát xiết nê. A tam minh. A ta ma ta mê. Địa tỳ da nhã nẵng a ha la ninh. Bát ra nhương chước sô tỳ thâu đà nễ. Thiết lê da bá na da nễ. Địa dựng kỳ ô đát ra ni. A dụ kê. A tỳ dụ kê. A tam bát ra dụ kê. A tỳ bát ra dụ kê. A hột ra bát đà niết hạ lê. Niết đề xa bát đà tỳ thâu đạt nễ. A để đa na yết đa bát ra để du bát na tỳ thâu đạt nễ. Ngật rị đa bát rị yết ma tỳ nễ đế. Nẵng đa ra tha nỗ yết đế. A tăng yết ra minh. A ngật ra bát đà tỳ thâu đạt nễ. Bát đà bát ra bệ đà nhương na tỳ thâu đạt nễ. Niết bá tư. Á bá ta tỳ thâu đạt nễ. Tam mạn đa nại xa địa xa tỳ da phiệt lư yết ninh. Nhó ra ngược bát đà niết ha lê. Bát ra nhã nhó thâu địa. Ô bá ta a bát ra minh ca ra ni. A cự la ba đạt ma nại rị thiết na nhó thâu đạt nễ. Bộ đá át ra tha san nại rị thiết nễ. A nộ mạo đà át tha nhó thâu đản nễ. Ta kiệt ra chất đa nỗ bát ra phệ thế. Mế rô bát rị tăng tát tha ninh. Ra thấp nhó bát ra đa bát nễ. Tát bà lộ ca địa bát đế da nhương na nại vó thâu đản nễ. A bát ra để cát đa. A tăng già nhương na nại rị thiết ninh. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Đây là ấn Đà-la-ni, những câu thanh tịnh diễn thuyết hư không. Nhưng câu phần đoạn đều không có phần đoạn. Vì không phần đoạn đều không có phần đoạn. Vì không phần đoạn, nên trong đó không có câu, không có câu thanh tịnh, vì tất cả pháp vẫn là thanh tịnh. Vì người phát tâm Đại thừa mong cầu pháp thanh tịnh thậm thâm, do vì thần lực Như Lai gia trì, nên những câu chú này được lưu bố. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Nếu người phát tâm muốn hiện tiền chứng đại Bồ-đề, muốn làm lợi ích cho chúng sinh, thì nơi những câu thần chú này, dù chưa từng nghe nhưng cũng hiểu rõ được, hoặc có trời Tịnh cư, hoặc chư Thiên thần thọ trì thần chú này, phải đem truyền thọ cho người đó. Nếu có người phát tâm Vô thượng Bồ-đề, chư Thiên thọ trì thần chú này cũng đem truyền dạy lại người đó. Đức Như Lai liền nói thần chú: –Ô ba tăng hà lê. Ta hà lê. Hột rị. Thất rị địa rị để nhó thâu đản nễ. Yết lượng nẵng át tha niết đệ siểm bát ra để bá để. Chất đa mạt nỗ nhó nhương na nhó thâu đản nễ. A địa da đát ma ma tứ át đà bát rị thâu đản nễ. Yết để tỉ mật lý để mạt để. A cát ra nễ cấp đa. Cấp đa bát để. Tát lê. Tát ra phiệt để. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Các vị Thiên thần ở trong núi Tuyết, nếu được thần lực của Như Lai gia trì, họ có thể truyền thọ pháp quang cho những người thuyết pháp. Đức Phật liền nói thần chú: –Mạt để nhó thâu đản nễ. Tô dục đa mị rị duệ. A kiệt ra tứ đa bát đà niết hà rị. A chỉ lã tỉ nễ. A nhó lã tỉ nễ. Uất tha nẵng tam bán ninh. Nhó nễ đa tam ma na bát nễ. Mạt để a yết la nộ nghiệt đế. KINH ĐẠI BẢO TÍCH <卷 id="86423657">QUYỂN 7 Hán dịch: Đời Đại Đường, Tam tạng Pháp sư Bồ-đề-lưu-chí. <詞 id="86423658">Pháp hội 2: VÔ BIÊN TRANG NGHIÊM (Phần 4) <章 id="86423659">Phẩm 3: THANH TỊNH ĐÀ-LA-NI (Phần 2) Này Vô Biên Trang Nghiêm! Chư Thiên thần ở núi Kê-la-bà có thể làm cho người thuyết pháp được sáu căn thanh tịnh, giúp ngữ nghiệp người thuyết pháp được tương tục không gián đoạn. Đức Phật liền nói thần chú: –Bát ra đa bát đát để. Phệ rô chiết na phiệt để. Một đà mạt để. Phược tô mạt để. Đạt ma mạt để. Át tam bát ra mưu sa phiệt để. Việt bá san nại rị thiết nẵng phiệt để. Ô ba tăng hà ra niết đệ xa phiệt để. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Các vị Thiên thần ở rừng Ta-la, có thể làm cho thân ngữ ý nghiệp của những người thuyết pháp đều thanh tịnh, làm cho tiếng tăm trong suốt, thanh tao, khả ái và có thể truyền cho lời ái ngữ, lời hòa thuận. Đức Phật liền nói thần chú: –Niết ra lam ba a nghiệt ra yết lê. Khất sái ma tỳ chế duệ. Niết bá ta phiệt để. Niết hà ra phiệt để. Ô xà phiệt để. Ô ba nẳng danh để. Ô ba tăng hà ra yết ra ni. A vó xả tha. Y hà đà ra ni mục khể. Đạt ma mục khê. Đạt ma ba tra lê. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Có các vị Thiên thần ở phía Nam núi Tuyết giúp thêm sức lực cho những người thuyết pháp, những người siêng tu hành pháp này, những người mong cầu pháp này, những người ưa thích pháp này. Đức Phật liền nói thần chú: –Yết rị da nẵng át tha vi tác nhã nễ. Kiêu xa rị da nộ nghiệt đế. Ô bá da tăng ngật rị tứ đế. Vi ninh mục đế. Phiến đa bát Như Lai vi tác ra nễ. Ô bá ta da xa phiệt để. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Có các vị Thiên thần ở bờ đại hải, vì nghe pháp nên làm cho các Pháp sư được an lạc. Đức Như Lai vì muốn lợi ích cho họ nên nói câu thần chú này. Thiên Đế Thích cũng có thể truyền cho họ những câu thần chú này. Thần chú đây là những câu có thể nhiếp triệu Đế Thích… Đức Phật liền nói thần chú: –Ma khí bát để. Ma tô mãng để. Nê bã a ra nhã. Xá chí bát để. Tát bà a tô ra nẵng. Niết ra già đa nễ. Mạt nhi sái dã. Tố bát ra để sắc só đa. Bát ra mãng a ra na nỗ tỉ. A tố ra nẳm. Nê phược nẳm a địa bát thầm. Tát nã. Bố ra tắt ngật rị đổ tứ niết. Nê vi tứ thử bả tế. Phược ta phược tát na. Bố lãng nại ra đô. Đa bế tứ a tố ra tát na. Đọa nặc a khất lâm. Đa phược bát thi chủy. Vi đồ dựng tứ đa. Ma ha tố ra. A tố lệ na ra bát ra diễn để. Tị đa đa ra tất đa. Na la địa thâu địa xa. Na mãng bột đà tứ dã. Dó át để sử duệ. Nẵng ma ngúc đa ra. Ma ha dã xá. Nê phược a tố ra tứ danh. Tăng nghiệt ra danh. Bột đà nhiếp đà. A nậu đa la. Thất ra mạt tư. Nê phược vi thệ da. Na ma bột đà để nẵng mãng tư. Tấn yết ra ma xiển na tư mạt nẳm. Bột đà nang danh nẳng phược tứ đa. Vi thệ duệ tố. Đa đa nên phược. A tố ra thất giả. Vi ninh đa phạm. Ngật lý đa đế. Ra khất sa nê phược nẳm. Ma nỗ sa nẳm. Ra khất sa vó na. Dục ế ha. Đạt ma nễ nê thế. Ô đa lang để. Tô bát ra để sắc sỉ đa. Ninh ngật lý tứ đa. Đa phược dạ a tố ra. A ra khứ sái ta dược xoa khẩn na ra. Nẵng già cưu bàn tra bộ đa đa nễ. Tỳ xá giá na nẵng ra đa tha. A giả la tất thả nẵng. Bát ra bát đô tứ. Ấn na ra ấn na ra. Bố ra tắt ngật lý đa. A để nghiêm tỳ ra. Phiến thẻ giả. A nghiệt ra bố lộ sa. Tế vó nang. Bát ra nhương mạn đô tứ. Nê mạt na ra. Bột địa ma ta tha vi thứ lộ đa. A mạt xả ế ha. Tố đa ra tứ thị. A ra khất sa mạt na tứ đa. Ta ha tát ra nê đa ra. Tố mục khê am bá ta lệ. Bát rị phược lý đa. Ô ba muộn nhương tát phược cam yết nang. Bố ra mê tứ đổ tứ danh. Giả ngật rị đảm. A để bát thỉ giá. A nỗ bát ra một đa. A giả tố bát rị để sắc sỉ đa. Ngật lý chiêm tứ. Cứ xá lam bố ra mê. Ma nộ thế số. Mang tứ bát để. Bố ra phược hư mâu tứ. Nê phược nẫm. Bố thệ ấn để. Đáp phược mang nộ sá. Bột đà tứ dã ngật rị đắc phược. Tát đắc ca lam. Bố xà bệ sát để. Đế mạc hô. Ma ha phược mãng ninh. Vi giả lam bá phược nan giả. Tố thứ bá để. Nê phược lai dã tứ. Mãng địa dã tứ thị. Dã khứ sớ tứ bá lý phược lý đỗ. Bát ra lạm ma. Ha rị ma hồng giả. Đa phược tứ ca. Vi xá na a ngật ra phược tứ. Ta đa để ma để. Tố ra đa bát ra để. Ta ra đa ta đa tha. Bát ra bộ tát kiến đà. A nễ ra giả mãng ra giả. Ma ha ma nghê. Ma ha tát kiến đà. Ma ha kế đô. Tố bát ra địa giả. Ma ha ma ra. Ế đế dược xoa. Ma ha đế nặc. A ra khất sằn để bá phược nam đa phược. Ma hộ dược xoa bát rị phược lộ. Duệ na thâu bá tứ phược ta phược. Ma tố tát phược phược tố để nặc. Ma ha đế nặc ma ha ngưỡng nễ. Ma ha bát ra ha ra nộ chế phược. A vó tứ ta na gia đa thế phược giả. Tố danh rô mộ ra đà nễ. Đa phược phược ta phược. Tát phược nê phược. Bố ra tắt ngật rị đỗ. Thứ bà để. Bà phược nẳng ô bà ta. Bát ra ma muộn giả tứ. Để nặc ta. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Thần chú này là những câu có thể nhiếp triệu Thiên đế… Nếu các Bồ-tát hướng đến Bồ-đề, sau đó vì nhiếp thọ chúng sinh mà an trụ trong nhiếp pháp, do thần chú trên đây nên sẽ được Thiên đế Thích… truyền thọ các câu thần chú. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Gì là những câu có thể nhiếp triệu Tứ Thiên vương và các quyến thuộc? Đức Phật liền nói kệ: Dạ-xoa không giận não Người tu tập pháp này Trưởng tử vua Đa Văn Cha con đều cung kính. San-xà-già, Da-xoa Các đoàn quân lữ mạnh Thường ủng hộ những người Nơi pháp này ưa thích. Trì Quốc đại thân vương Hằng đem quyến thuộc theo Thường ủng hộ những người Khéo diễn thuyết pháp này. Quyến thuộc thần Xú Mục, Tự mình và quân chúng Tất cả sẽ ủng hộ Người tu tập kinh này. Tăng Trưởng đại Thiên vương Quyến thuộc và quân lữ Đều thường theo vệ hộ Người ưa thích pháp này. Thần La-sát Tràng Phan La-sát Đại Tràng Lực Đều ở tại phương Đông Nhiếp vào câu chú này. Tự mình và quyến thuộc Thường gần gũi thủ hộ Người đọc tụng thọ trì Pháp môn thậm thâm này. Thần Hề-ly-mạt-để Lam-bà, Tỳ-yết-giá Và thần Tát-đà-đa Đồng ở tại phương Nam Hầu hạ Thiên đế Thích Đều nhiếp trong chú này Thường giúp thêm tinh lực Cho người trí thuyết pháp. Và các thần La-sát Kiếm-ly, Tam-mật-đa Cùng Già-la-hệ-sí Với thần Mật-thất-đa Đồng ở tại phương Tây Thần chú này nhiếp đến Tất cả thường ủng hộ Người thuyết pháp rõ nghóa. Và các thần La-sát Thật Đế, Hữu Thật Đế Tin sâu nơi pháp này. Đồng ở tại Bắc phương. Vì muốn họ ủng hộ Phật nhiếp họ vào đây Do oai lực Như Lai Đều chắp tay mà đứng. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Đây là những câu có thể nhiếp triệu Tứ Thiên vương, các quyến thuộc và hàng thị tùng. Đức Phật liền nói thần chú: –Tán ninh vi xá nễ. Ma ha tát lê. Ma ha yết nễ. Ma ha yết nhã nễ. Bát ra bộ đa vi thệ duệ. Đà phược xả a nghiệt ra. Ô bá phược tác nễ. A nễ lã tế nẳng đô ta ha. Nẳng nẳng phiệt nang nại xa nễ xá. Chiết đỏa rị lộ ca bá ra nễ. Đổ tứ minh ra nhã nẳng ô chiết tha. A phệ thiết na. Y ha tát mạn phược ha ra thá. Vật ra thệ ninh tiết ra ha. Tát mê chiết đột địa xá. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Những câu gì có thể hàng phục ma Ba-tuần? Ông nên lóng nghe nghó kỹ. Đức Phật liền nói thần chú: –Mật để lệ. Mật đa ra phược để. Ca lộ ninh. Ca lộ nẳng phược để. Vi bộ để. Vi bộ đa phược để. Bát ra mâu chiết nễ. Bát ra mâu chiết nẳng phược để. Ngật rị đa ngật rị đa phược để. A nộ nghinh danh. A nộ nghinh mãng phược để. Ô bá đa xiết na nễ. Già ma vi phược nhương nễ. Đế rị sắc nẵng ta mâu, châu sát nễ. Nễ tiết rị tứ đa mang ra phược lam. Ôn đa ra nang phược để. Bát ra để dữ đa ra phược để. Ô bế khứ sa nộ ta tứ đế a lam ma nang vi thâu đà nễ. Ninh na ra xá nẵng. A tam mộ ha nễ. Nễ sắc tra bát ra bán giả ninh. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Đây là những câu chú hàng phục ma Ba-tuần. Do những câu chú này, Thiên ma và ma quân không có cơ hội quấy nhiễu. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Gì là những câu có thể nhiếp triệu Đại Phạm thiên? Ông lắng nghe và nghó kỹ. Đức Phật liền nói thần chú: –A địa bát để. Ma ha tất thá nẵng phiệt để. Ta phược viêm ngật rị đa. Tất tha nẵng danh để. Nẵng nẵng ma hộ vi vó đà. Bát ra để dữ bá tát tha nẵng già là nẵng. A địa già tát tha nẵng bát để. Thứ đà tát tha nẵng tiết đỗ. Ta hàm bát để. A địa yết lãng đa. Vi thứ đà nẵng. Thứ bà bát rị. Bát ra thứ bá địa mục đa. Bát ra bột đa thất rị đa. Nễ phược ta nang. Bát ra bộ đa. Bát ra bá. Nễ tiết ra khê đa giá ma. Ta phược tất để già ma. Bát ra để dữ bá tát tha nẵng. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Đây là những câu có thể nhiếp triệu Đại Phạm thiên. Do thần chú này, Đại Phạm thiên có thể truyền thọ cho những người thuyết pháp cả văn cú phạm hạnh thanh tịnh viên mãn. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Gì là những câu Pháp quang minh của Tịnh cư thiên? Ông lắng nghe và nghó nhớ kỹ. Đức Phật liền nói thần chú: –Vi thâu đà nẵng phược để. Án để ma già rô nễ. Già ma ma phược. Ô ta đả nễ. Bát ra niết danh đa nễ. Bát rị diễn đa. Bát ra để dữ ba tất tha nẵng bát gia. Phược ta nẵng. A lại da vi thâu đà nễ. A nhương bát diễn đa già ra nễ. Án để ma nễ xá. Bát ra để dữ bá tất tha ninh. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Do thần chú này, chư Thiên cõi trời Tịnh cư có thể truyền thọ những pháp tạng của Như Lai cho các Bồ-tát. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Với các Thiên vương, Nhân vương, A-tu-la vương, Ca-lâu-la vương, Long vương, hoặc những hàng quỷ thần oai đức lớn, hoặc oai đức nhỏ, không luận tin hay chẳng tin, Như Lai đều truyền thọ câu Đà-la-ni, làm cho những người đã tin được thêm lớn lòng tin đối với pháp này, những kẻ không tin thì mặc nhiên bỏ đó, chẳng cho họ nói năng, cãi cọ. Lúc diễn thuyết pháp này, nếu có ai đến làm chướng nạn, do thần chú này thì đều hàng phục. Trong đây gì là những câu thần chú có thể nhiếp thủ người có lòng tin? Đức Phật liền nói thần chú: –Ngu rô nã lê. A giả bát lệ. Ta phược tỳ niết ha ra. Cú mạt nê. Niết nhương nẵng bát ra để vi rô dị ninh. Chỉ đa san giả nẵng nễ. Chỉ đa bát rị yết danh. Chỉ đa tam bát ra ta nã nễ. Ma nẵng tứ dã. Ha rị sái già ra nễ. Vi nhương nẵng tứ da. A nộ ta phược để. A nộ đạt ma nộ bế khứ sái ninh. Tứ đô san na rị xá nễ. Đa tha a khứ sát ra bát na. Niết nê xá. Thâu địa đa phược để. Dã tha tiết đa. Dã tha nỗ cú lội bá ma. Ô bán mãng niết nê hiệp. Vi thứ địa đa. Đát đa ra già lê. Nẵng giả yết đáp vi diêm. Tam bát ra ta na át tha đổ ta ma. Dã tha nộ cú lại giả mục khê. Ô ba tăng hạ ra dụ nễ xá. A xá da tứ dã. Vi thứ địa gia. Dã tha thứ địa để. La khứ sái nẵng la khứ sái nễ. La khứ sái nẵng phược để. La khứ sái nang vi thâu đà nễ. Bát ra để phệ đà át tha. San na rị xá nễ. Cú xá ra mạo tha tác mê. Ha. Bát ra vi giả duệ. Ta ma ta ra nễ. Ngật rị đa nộ a ra khứ sử. Tát để dã át thế. Tát để dã nẳm. Tố vi thâu địa đế. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Trên đây là những câu nhiếp thủ người có lòng tin thanh tịnh và cũng có thể truyền trao nghóa lành cho Pháp sư diễn thuyết pháp này. Như Lai lại nói những câu nhiếp phục người chẳng tin. Đức Phật liền nói thần chú: –Khứ sái mê. Khứ sái ma phược để. Mê đa ra bát rị yết ma. Bát ra để giữ ba ta tha ninh. Già lội nang bát ra để lã ta. Tứ đa nỗ kiếm ba. Tán nặc nẵng nễ. Tăng yết ra ha phược tát đỗ. Tứ đa phược tát đỗ. Tán na ra xá nễ. Bát rị phược nặc nễ gia. Phược nặc nễ. Ky ba dương đa ra. Tế phược nễ. Nẵng đát đa ra nê thế tát tha đáp vi gia. Dã đa ra vó yết ra ha phược để nộ. Tát ma tiết lãng đà. Bát ra na lã nễ. Ô ba giá ra san na rị xá nễ. Nễ xá ra dạ vi thứ đà nễ. A đa ma nộ già danh. Bát ra ô ba tăng ha la nễ. Niết danh đa nễ. A nộ ra khứ sa. Bát ra để giữ ba ta tha ninh. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Đây là những câu điều phục người bất tín, chẳng cho họ tạo những lỗi ác, bằng không họ còn ganh ghét pháp lành, huống là đối với pháp vô thượng này. Cho nên Phật vì diệt tất cả những lỗi ác và đoạn trừ tất cả phiền não mà nói câu chú này. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Như Lai thấy chúng sinh, những kẻ không có lòng tin thanh tịnh, hoặc muốn tranh đấu, hoặc muốn tổn hại, hoặc muốn não loạn, mà họ đến gần Như Lai. Như Lai liền biết tâm niệm của họ, theo căn cơ của mỗi người, Như Lai dùng các pháp môn làm cho họ được giác ngộ, cho họ hết những ý nghó chẳng lành mà phát khởi các căn lành. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Như Lai an trụ trong mười tám pháp Bất cộng, có thể khéo rõ biết tâm hạnh của chúng sinh và rõ biết những phương pháp để nhiếp độ. Những gì là mười tám pháp Bất cộng của Phật? Này Vô Biên Trang Nghiêm! Từ lúc thị hiện chứng Vô thượng Bồ-đề cho đến nhập Vô dư Niết-bàn, trong thời gian đó Đức Như Lai trọn không lầm lỗi, không lời thô bạo, không quên mất niệm, không có chẳng trạch xả, không các thứ tưởng, không có tâm chẳng định, tinh tấn bất thoái, niệm bất thoái, chí nguyện bất thoái, đẳng trì bất thoái, tuệ bất thoái, giải thoát bất thoái, giải thoát tri kiến bất thoái, tất cả thân nghiệp hành động theo trí tuệ, tất cả ngữ nghiệp nói năng theo trí tuệ, tất cả ý nghiệp là trí tuệ, tri kiến về quá khứ, hiện tại và vị lai đều không trụ trước, không chướng ngại. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Vì Như Lai thành tựu mười tám pháp Bất cộng này nên vô lượng tri kiến thảy đều thành tựu, có thể khai thị diễn thuyết pháp môn thanh tịnh Đà-la-ni này, làm cho những hữu tình bất tín sinh lòng tin thanh tịnh. Làm cho người đã tin được trí thanh tịnh nơi pháp môn này. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Theo chỗ ưa thích, Như Lai dùng các thứ ngôn ngữ để phân biệt giải thuyết môn Đà-la-ni này, nhưng chẳng thể nói được một phần trăm về lý nghóa dứt nghi của môn Đà-la-ni này, cho đến trăm ngàn muôn ức phần cũng chẳng nói được một. Vì pháp môn này là môn vô lượng, là môn chẳng nghó bàn, vì môn này có thể được Nhất thiết chủng trí. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Nay Như Lai dùng vô lượng danh ngôn vì các ông mà khai thị diễn thuyết pháp môn này, muốn cho các ông rõ biết khắp vô lượng môn, được Đà-la-ni. Đức Phật liền nói thần chú: –Đát điệt tha a rị duệ. A rị gia phược để. A rị gia nỗ yết đế. Nễ đà ninh. Nễ đà nẵng phược để. Phược đỗ bát đa danh. Phược ra đỗ ky xiết nã già la nễ. A già xá vi thâu đà nễ. A nộ khứ sát ky nễ. A ninh khứ sát ky nễ. A vi tiết đa bát ra danh. A nộ bá tiết để nễ. Niết bạn nẳng bát tha vi thâu đà nễ. Vi gia ba nễ khứ sử bát để. A nộ bá na. Ninh lộ đà bá ra danh. Tát phược nhương niết bạn nẵng. Ninh ba ra xá ninh. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Đây là ấn Đà-la-ni, câu có thể thanh tịnh, câu danh thuyết đặc biệt khác lạ. Do thọ trì pháp môn Đà-la-ni này, dùng công dụng ít mà có thể chứng Bồ-tát vị, được sai biệt diệu trí và gần đại Bi. Do rõ biết nghóa nên chứng ngộ được Nhất thiết chủng trí. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Câu Đà-la-ni này là đại lương dược vì có thể phá trừ được các trọng bệnh. Lại có thể trừ diệt vô minh, vô trí, những chướng rất tối tăm. Thuận với minh pháp mà chuyển viên mãn. Thuận minh pháp gì mà chuyển viên mãn? Nghóa là vì thuận với minh pháp nên trí viên mãn, mà có thể hiện tiền chứng được trí Túc mạng minh. Vì thuận với minh pháp nên trí thiện xảo, mà được trí Thiên nhãn minh. Vì tùy thuận minh pháp nên xa lìa các phiền não, mà hiện tiền chứng được trí Lậu tận minh. Do đây lại có thể thành tựu tất cả pháp môn Ba-la-mật-đa cho đến Nhất thiết chủng trí. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Ông xem Như Lai có thể khéo thuyết pháp rộng lớn như vậy, khéo viên mãn những phương tiện thiện xảo như vậy. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Như Lai thành tựu đại trí như vậy có thể khéo trụ nơi Nhất thiết chủng trí, mười Lực, bốn Vô sở úy, mười tám pháp Bất cộng. Đây là bảo tạng vô thượng kết tinh của những căn lành đã tu từ vô lượng, vô số ức kiếp. Do đó nên khéo an trụ được nơi những pháp môn này. Nay Như Lai vì các ông khai thị diễn thuyết pháp môn thanh tịnh Đà-la-ni này, để được thành thục Phật pháp. Nếu có thiện nam, thiện nữ nào phát tâm cầu đến đại Bồ-đề mà muốn tu học theo Phật, muốn ủng hộ Phật pháp, muốn thọ trì vô lượng Pháp tạng của Phật, đối với pháp này phải siêng tu tập chẳng phóng dật, chẳng tham đắm chấp trước nơi ba cõi, phải khéo gia trì Nhất thiết trí, khéo tu tập những phương tiện thanh tịnh nơi sắc, thọ, tưởng, hành, thức, với Thật đế siêng tu tập thanh tịnh, trong các pháp phải thích cầu trí tuệ thanh tịnh. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Vì nội tâm thanh tịnh nên tất cả pháp thanh tịnh; vì nội tâm thanh tịnh nên tất cả pháp tịch tónh; vì nội tâm tịch diệt nên tất cả pháp tịch diệt; vì nội tâm không chấp giữ nên tất cả pháp không chấp giữ; vì nội tâm chẳng trụ nên các pháp chẳng trụ; vì nội tâm diệt nên tất cả pháp diệt; vì nội tâm không tạo tác nên tất cả pháp không tạo tác; vì nội tâm không đến không đi nên tất cả pháp cũng không đến không đi. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Những pháp môn đây làm cho các Bồ-tát nội tâm được thanh tịnh. Vì bản tánh tất cả pháp là không phân biệt nên nội tâm cũng chẳng khởi phân biệt, nhưng có thể thọ trì môn thanh tịnh Đà-la-ni, rời bỏ tham lam, sân nhuể, cống cao; được chư Phật khen ngợi; làm Pháp chủ vô thượng tối thắng của chúng sinh. Sẽ có thể chứng được trí thanh tịnh, biện tài không ngăn ngại, nơi tiền hậu tế được trí thanh tịnh, có thể biến ký biệt nhưng hay tùy niệm theo tánh trung đạo và có thể chứng được Vô sinh pháp nhẫn, co thể chứng đạt tánh duyên khởi nguyện thù thắng, có thể thanh tịnh các nguyện hạnh, có thể khắp thọ trì tất cả pháp bất cộng, lời nói ra đại chúng đều tín thọ, có thể chuyển đại pháp luân. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Do được Đà-la-ni nên các Bồ-tát quyết định sẽ chứng Vô sinh pháp nhẫn, được tất cả pháp trí thanh tịnh, nghóa là tất cả pháp không sinh không diệt. Tất cả pháp đây đều ở trong môn diệt hoại, môn diệt hoại này đồng là tướng không sinh, đã là không sinh thì không diệt. Quán sát như thật vậy rồi, Bồ-tát đối với tất cả pháp xa lìa tất cả tướng. Đã lìa tướng thì chẳng chấp trước, chẳng hý luận. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Đây là các Bồ-tát dùng trí vô sinh khéo quan sát mà có thể chứng nhập các môn Đà-la-ni này, do đây mau chứng được Vô sinh pháp nhẫn, biện tài không ngăn ngại. Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghóa này nói kệ rằng: Nếu pháp hư vọng sinh Sinh xong tất diệt hoại Các pháp chẳng phải có Nắm lấy được cái gì? Các pháp chẳng phải có Không có không thể lấy Pháp chẳng thể nắm bắt Thì nắm lấy nơi đâu? Nếu chẳng rõ các pháp Tự tánh chẳng thể đắc Người này duyên theo tướng Chẳng được Đà-la-ni. Các pháp như hư không Nên diễn thuyết khai thị Hư không và khai thị Cả hai không sở hữu. Hai thứ này đã không Các pháp cũng là không Hiểu pháp được như vậy Người này được Tổng trì. Rõ biết không khởi đầu Chẳng phân biệt giữa, sau Các pháp rời phân biệt Tất cả đều là không. Nếu đã không cứng thật Chẳng thật chẳng phải có, Y chân lý các pháp Nắm lấy đâu thể được! Rõ các pháp như vậy Tự tánh không sở hữu Nay Phật lược nói họ Được Tổng trì thanh tịnh. Các pháp như hư không Cũng rỗng đồng hư không Dùng tuệ thường quan sát Người này được Tổng trì. Các pháp không sở hữu Chẳng sinh cũng chẳng khởi Không có không thể lấy Thế nào nắm lấy được? Tất cả pháp vô tướng Tự tánh không hý luận Tất cả đều lìa tướng Thuyết pháp không sở hữu. Nếu hiểu được như vậy Đúng thật lý các pháp Người này không phân biệt Mà là nắm lấy được. Tự tánh của các pháp Vì không nên chẳng được Rõ nghóa không sở hữu Người này được Tổng trì. Nếu quán sát như vậy Không nhiễm tất cả pháp Trí không không phân biệt Người này nắm được pháp. Nghóa không, nghóa vô thường Nghóa yếm ly, nghóa khổ Nếu dùng tuệ hiểu rõ Người này trí thêm lớn. Hiển nói không chấp giữ Nghóa Niết-bàn như lý Kiên tâm không phân biệt Cũng chẳng phân biệt pháp. Do đây nhận rõ được Các pháp chẳng bền chắc Là không, không chấp giữ Tịch tónh, không, khó thấy. Hiểu pháp xong diễn thuyết Diễn thuyết không phân biệt Không đắm, không phân biệt Trì được pháp môn này. Nếu hiểu pháp tướng rồi Rõ được là không tướng. Người này nơi các pháp Chẳng có tưởng xả ly Người này rõ được nghóa Pháp của Phật đã nói Nghóa lý rất bí mật Người này hiểu theo Phật. Nếu quán sát đúng lý Tất cả pháp vô lượng Xa lìa các số lượng Hiểu được nghóa lý này Nếu quán sát các pháp Không danh và không tướng Rõ thấu được nghóa này Trí người này thêm lớn. Các nguyện đều thù thắng Theo đúng lý quán niệm Các nguyện và các sắc Không trụ, chống người ấy. Rõ nghóa pháp môn này Quán sát được đúng lý Trong nghóa lý các pháp Người này không nghi hoặc. Nếu dùng tuệ quán sát Tướng của tất cả pháp Quyết định hiểu rõ đó Người này chứng vô tướng. Đối với nghóa lý này Hiểu rõ khéo an trụ Được vô úy như vậy Mau chứng được Phật pháp. Chẳng hý luận nơi pháp Bình đẳng không phân biệt Tương ưng hiểu pháp rồi Không lầm nghóa yếm ly. Tịch diệt không phân biệt Tịch tónh dứt các uẩn Bình đẳng với các pháp Được biện tài đúng lý. Tu tập được Từ bi Lợi ích các chúng sinh Khéo tương ưng an trụ Hiểu được đạo Vô thượng. Nếu rời tướng chúng sinh Hiểu được pháp vô ngã Cùng nghóa không hý luận Thật lý chẳng hý luận. Nếu nghe pháp này rồi Được lòng tin thanh tịnh Người này sẽ gặp Phật Di-lặc Lưỡng Túc Tôn. Họ làm ta vui mừng Ở trong chúng hội này Nghe hiểu được pháp đây Làm được bâïc Hiền thiện. Người kính mến Như Lai Thì sẽ không phá hoại Do nghe được pháp này Được bâïc Hiền thiện mến. Nếu ở trong Hiền kiếp Muốn được thấy chư Phật Tu học pháp môn này Chư Phật đều hoan hỷ. Muốn thấy Vô Lượng Thọ Cùng Phật A-súc-bệ Oai quang đại danh xưng Phải học pháp môn này. Nếu muốn thành Bồ-đề Pháp tịch tónh tối thắng Hoặc cầu ngôi Chuyển luân Phải học pháp môn này. Nếu muốn cầu Vô thượng Môn thiện xảo Tổng trì Phải học pháp môn này Tinh tấn chớ phóng dật. Nếu muốn thành nguyện lớn Rộng tối thượng thù thắng Cầu chứng được Bồ-đề Pháp môn này phải học. Pháp môn Đà-la-ni Phật nói trong kinh này Là ấn pháp vô thượng Khai thị được các pháp. Thật nghóa trong các pháp Dùng Tổng trì khai thị Pháp môn hư không này Giải quyết nghóa vô biên. Pháp này khai thị được Những thiện pháp đã nói Nghóa Tổng trì thiện xảo Do sức Đà-la-ni. Tổng trì là trí tuệ Trì được tất cả pháp Nghóa Tổng trì thiện xảo Dùng tuệ rõ biết được. Nơi đây giải thích nhiều Đã nói rõ Phật pháp Dùng nghóa để khai thị Đạo Bồ-đề vô thượng. Trí sai biệt thiện xảo Chính khai thị pháp này Nếu học tập pháp này Chứng Bồ-đề vô thượng. Khai thị văn pháp này Pháp môn lành vô thượng Được trí phương tiện rồi Nên diễn thuyết pháp này. Chưa từng nói chủng tánh Vô thượng của các pháp Nơi nghóa này phải học Khai thị pháp cam lộ. Người trí nếu muốn cầu Trí vô ngại của Phật Nếu học tập nghóa này Sẽ được trí vô thượng. Ta ở trong quá khứ Vô lượng, vô số kiếp Nếu chẳng học pháp này Đã chẳng chứng tịch diệt. Do ta từng cúng dường Vô lượng trăm ngàn Phật Do đây rõ biết được Diễn thuyết pháp vô thượng. Ta vì các chúng sinh Làm vô biên lợi ích Các ông cũng nên làm Sẽ được Tổng trì này. Nếu có thể rõ biết Pháp ấn Đà-la-ni Người trí do một câu Vào được pháp môn này. Trí tuệ Phật vô thượng Cũng không có số lượng Do Phật đủ trí tuệ Khai thị được pháp này. Người trí cầu nơi đây Liền rõ nghóa Bồ-đề Nghóa của pháp môn này Nên học pháp vô úy. Người trí nếu muốn cầu Tánh trí tuệ rộng lớn Tôn trọng cung kính Phật Phải học pháp môn này. Nếu muốn chuyển pháp luân Và thổi pháp loa lớn Người trí đúng chân lý Cần học pháp môn này. Nếu muốn phóng quang minh Soi khắp vô biên tế Lúc mong cầu Phật pháp Phải học đúng pháp này. Với trời, người, thế gian Nếu muốn làm thượng thủ Phải cần học kinh này Quyết định tất cả pháp. Muốn cầu trí rộng lớn Phát khởi các công đức Thích cầu trí tuệ Phật Phải học theo pháp này. Muốn học theo pháp môn Thích cầu trí tuệ Phật Vô thượng không hý luận Phải học nghóa lý này. Nếu muốn thích khai thị Vô ngại trí thuyết pháp Tu học pháp này rồi Sẽ nói pháp cam lộ. Nếu muốn soi muôn ức Vô lượng, vô biên cõi Người này phải khéo tu Giáo pháp của kinh này. Pháp môn vô thượng đây Trừ sạch được các pháp. Trong kinh này đã nói Tất cả pháp thanh tịnh. Đấng chủng trí Thế Tôn Diễn thuyết pháp rộng lớn Vì Bồ-tát mà nói Kinh này là vô thượng. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Do đây nên Bồ-tát sau khi ưa thích giáo pháp này rồi, vì nhiếp thọ pháp này cho được dài lâu, lại vì thương xót chúng sinh, nên biên chép, thọ trì, đọc tụng. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Nếu có người được nghe pháp này, thường có quan niệm kính mến Như Lai, những người này sẽ được vô biên Pháp tạng của Như Lai, sẽ được các môn Đà-la-ni và đầy đủ biện tài, mau được tự tại đối với tất cả pháp, sẽ nhiếp thọ đầy đủ Phật độ trang nghiêm chẳng nghó bàn, chúng Bồ-tát và chúng Thanh văn cũng chẳng nghó bàn. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Nếu các Bồ-tát an trụ nơi tất cả pháp không hý luận do môn Đà-la-ni thanh tịnh nên các pháp môn đó thường được hiện tiền, nhiếp thọ được công đức thù thắng chẳng nghó bàn. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Đây là pháp thanh tịnh Đà-la-ni thứ ba. Thời kỳ sau đây, nếu các Bồ-tát muốn theo Phật để học pháp môn Đà-la-ni này, thì phải gần gũi bạn lành, lánh xa bạn ác, ủng hộ các pháp môn này, trọn đời thọ trì pháp ấn thanh tịnh Đà-la-ni, dù phải bỏ thân mạng. Ví như trăng tròn đêm rằm tháng tám chiếu sáng rực rõ hơn tất cả các vì sao. Ba pháp ấn Đà-la-ni này nhiếp thọ tất cả pháp môn cũng như thế. Trong tất cả Khế kinh, pháp này quang minh tối thắng bậc nhất. Các Bồ-tát do tôn trọng pháp môn này nên được vô lượng biện tài. Vô lượng biện tài đây chính là không phóng dật. Những gì là không phóng dật? Nghóa là nơi những pháp này tư duy quán sát đúng như lý, chẳng sinh vọng niệm, do đây có thể làm cho trí nhẫn được thanh tịnh. Các Bồ-tát tinh tấn cầu sự không phóng dật thì phải khéo tu tập pháp môn này. Vì muốn cho pháp này được dài lâu, nên tâm thường khiêm hạ tôn trọng chánh pháp, biên chép quyển kinh chẳng rời nơi tay. Thấy người có chí mong cầu pháp này, phát tâm hướng đến đại Bồ-đề, thì phải vì họ mở bày diễn thuyết, bảo họ đọc tụng biên chép, đúng theo nghóa mà giải thích cho họ, chẳng nên ẩn giấu pháp môn của mình đã thọ trì. Phải nguyện cho chúng sinh được Phật pháp vô thượng này, phải làm cho tất cả chúng sinh thường chẳng khuyết giảm các Phật pháp. Các Bồ-tát này chẳng keo kiệt pháp, thường thích đem ban bố cho người, nơi nghóa lý chẳng giấu giếm, đều vì người diễn giải, không có chút pháp gì mà chẳng mở bày. Này Vô Biên Trang Nghiêm! Vì an lạc lợi ích các chúng sinh, các ông phải thọ trì pháp môn thanh tịnh Đà-la-ni này. Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn lại bảo Tôn giả A-nan-đà: –Ông nên thọ trì pháp môn này. Hàng đệ tử kính thờ ta, cũng phải thọ trì kinh điển này. A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Do thần lực của Phật, con đã thọ trì. Do con thành tựu pháp môn này nên vô lượng pháp môn đều được hiện tiền. Đức Phật nói: –Đúng như lời ông! Này A-nan! Do oai lực của Phật và vì pháp môn này thanh tịnh rộng khắp, nên những người thọ trì pháp môn này, những người gần gũi ta thọ trì được pháp này, thì vô lượng pháp môn đều được hiện tiền. Do đây nên ông phải thọ trì vô lượng Pháp tạng của Như Lai. Lúc Phật nói pháp này rồi, trong pháp hội, vô lượng Bồ-tát chứng được Đại pháp quang minh. Do được pháp quang minh nên vô lượng pháp môn của chư Phật nói đều được hiện tiền, được gần Nhất thiết chủng trí, được thành tựu những nguyện cầu thù thắng trang nghiêm. Đức Phật bảo A-nan: –Ông xem bản tánh của các pháp rất sâu như vậy. Như Lai có thể ở nơi pháp không danh tướng mà diễn thuyết danh tướng, lại có thể mở bày bản tánh của các pháp, lại cũng trừ sạch làm cho được thấy thanh tịnh. Dù nói các pháp nhưng không pháp gì là có thể nói và cũng không có người nói. Này A-nan! Nếu có thể quan sát pháp tánh như vậy thì có thể phát sinh được vô lượng trí tuệ. Lúc Phật nói pháp này, vô số Bồ-tát chứng Vô sinh pháp nhẫn, vô lượng chúng sinh phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Trong a-tăng-kỳ kiếp về sau sẽ chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, lại hay có vô lượng biện tài. Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn gia trì môn Đà-la-ni này, phóng ánh sáng lớn chiếu khắp vô lượng, vô biên thế giới của chư Phật. Do ánh sáng này, các Bồ-tát ở các thế giới kia đều được nghe môn Đà-la-ni này và được thành thục pháp phần Bồ-đề. Trong những thế giới đó lại có vô lượng chúng sinh phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Lúc đó tất cả chúng sinh đều được an lạc. Chư Thiên rưới hoa trời, ở giữa đại hội xướng lên rằng: “Nguyện tất cả chúng sinh đồng được Phật tuệ.” Bồ-tát Vô Lượng Biện Tài bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Pháp môn này tên gọi là gì? Chúng con phải phụng trì thế nào? Phật bảo Bồ-tát Vô Lượng Biện Tài: –Pháp môn này hiệu là Đà-la-ni Vương, cũng gọi Đà-la-ni Ấn, cũng gọi là Tam Phẩm Nhiếp Trì Thiện Xảo. Các ông phải phụng trì. Đây là pháp môn thiện xảo vô biên biện tài nhiếp tất cả nghóa. Nhờ pháp môn này mà chiếu rõ được tất cả pháp, dứt tất cả nghi, do vậy các Bồ-tát phải phụng trì pháp môn này. Lúc bấy giờ vì cúng dường pháp nên tất cả đại chúng dùng hoa năm sắc rải lên Đức Phật. Đức Phật nói kinh này rồi, các vị Đại Bồ-tát, toàn thể chúng hội và trời, người, tám bộ chúng, nghe lời Phật dạy đều rất vui mừng, tín thọ phụng hành. KINH ĐẠI BẢO TÍCH <卷 id="86423660">QUYỂN 8 Hán dịch: Đời Tây Tấn, Tam tạng Pháp sư Trúc Pháp Hộ. <詞 id="86423661">Pháp hội 3: MẬT TÍCH KIM CANG LỰC SÓ (Phần 1) Tôi nghe như vầy: Một thời Đức Phật đến thành Vương xá, tại núi Linh thứu cùng chúng đại Tỳ-kheo đều đến hội họp, bốn muôn hai ngàn Bồ-tát, tám muôn bốn ngàn đại Thánh thần thông tự tại từ những cõi Phật ở mười phương khác vân tập đến đây. Các vị này đã được pháp nhẫn không thoái chuyển, là bậc Nhất sinh bổ xứ đã được Tổng trì, biện tài vô ngại, đi khắp vô số cõi Phật ở mười phương dùng thần thông để tự an vui, với chúng sinh một lòng bình đẳng, tiêu trừ oán địch, hàng phục ngoại ma, rõ thấu cội gốc của chúng sinh trong ba cõi, vào khắp tất cả môn Ba-la-mật-đa, phương tiện khôn khéo, thường ở nơi yên lặng thảnh thơi, chư Phật ca ngợi tuyên dương công đức. Từ vô số kiếp các vị phụng hành Bồ-tát hạnh, tích lũy công đức lâu xa, đã từ lâu tâm bình đẳng như mặt đất, trong vô số Phật độ tu tập thanh tịnh, đã trừ những ấm cái, rời các chướng ngại, thân thể mạnh mẽ, ý chí như kim cang, oai đức như sư tử không hề khiếp sợ, ánh sáng hơn cả mặt trời, mặt trăng, suốt ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai đều thấu tỏ pháp phiền não, thâm nhập vào pháp duyên khởi vi diệu, truyền dạy không mệt mỏi, trừ bỏ hẳn tưởng thường hằng, chứng nhập tất cả Tam-muội chánh định, chúng sinh mười phương nghe tiếng đều đến thưa hỏi, giáo huấn chúng sinh không đoạn Tam bảo, tích đức vô lượng làm hưng thịnh Phật pháp, vượt qua địa vị Thanh văn, Duyên giác, Từ bi vô tận thương xót hướng đạo cho khắp chúng sinh, đạt bốn phạm hạnh, bốn ân đầy đủ, tùy thời khai hóa, chứng đạt ba môn giải thoát và tam đạt trí, qua lại ba cõi như mặt trời, mặt trăng, đi đến bốn châu như Chuyển luân vương. Các vị dùng trí tuệ dũng mãnh độ sinh, già, bệnh, chết, vào trong năm đường như đuốc sáng soi tối tăm. Tâm các vị không trụ trước như hoa sen mọc trong bùn. Công hạnh của các vị không tăng giảm, không thương ghét dường như hư không. Phụng trì Tam tạng như thụ đại ấn của quốc vương. Các vị không chìm đắm với tám pháp của thế gian; vào trong tám nạn giáo hóa chúng sinh bị nguy ách, dùng trí tuệ chuyển pháp luân bất thoái, dẹp trừ loạn trược hiển bày pháp không chân chánh, giáo hóa chúng sinh trong ba cõi đạt đến Nhất thiết trí, mười tám pháp Bất cộng của Phật, chỉ dạy cho chúng sinh ngu mê lìa ba độc như gió thổi mây tan, dùng thuyền chánh pháp đưa chúng sinh thấy rõ mười hai biển, thoát khỏi luân hồi sinh tử, đi đến ba xứ và mười hai nhân. Các Bồ-tát trong hội có đầy đủ công huân như thế. Danh hiệu của các vị là: Bồ-tát Nguyệt Thí, Bồ-tát Nguyệt Anh, Bồ-tát Tịch Anh, Bồ-tát Thủ Anh, Bồ-tát Quang Anh, Bồ-tát Quang Thủ, Bồ-tát Thủ Tích, Bồ-tát Thủ Tịch, Bồ-tát Câu Tỏa, Bồ-tát Long Hân, Bồ-tát Long Thí, Bồ-tát Chấp Tượng, Bồ-tát Mật Thiên, Bồ-tát Duyên Thắng, Bồ-tát Duyên Thủ, Bồ-tát Thường Cử Thủ, Bồ-tát Thường Hạ Thủ, Bồ-tát Bảo Ấn Thủ, Bồ-tát Bảo Chưởng, Bồ-tát Phổ Thế, Bồ-tát Tú Vương, Bồ-tát Kim Cang Ý, Bồ-tát Kim Cang Bộ, Bồ-tát Bất Động Hành Tích, Bồ-tát Quá Tam Thế Độ, Bồ-tát Vô Lượng Tích, Bồ-tát Vô Lượng Ý, Bồ-tát Hải Ý, Bồ-tát Kiên Ý, Bồ-tát Thượng Ý, Bồ-tát Trì Ý, Bồ-tát Tăng Ý, Bồ-tát Thường Thảm, Bồ-tát Thường Tiếu, Bồ-tát Hỷ Căn, Bồ-tát Thiện Chiếu Oai, Bồ-tát Ly Cấu, Bồ-tát Khí Ác Thú, Bồ-tát Khử Chúng Cái, Bồ-tát Cực Tinh Tấn, Bồ-tát Trí Tích, Bồ-tát Thường Quán, Bồ-tát Quang Thế Âm, Bồ-tát Đại Thế Chí, Bồ-tát Sơn Đảnh, Bồ-tát Hư Không Tạng, Bồ-tát Bất Thuấn, Bồ-tát Bất Mộ Lạc, Bồ-tát Bảo Thượng, Bồ-tát Bảo Tâm, Bồ-tát Tư Thiện, Bồ-tát Thiện Tư Nghóa, Bồ-tát Châu Kết Tổng, Bồ-tát Hào Vương, Bồ-tát Tịnh Vương, Bồ-tát Nghiêm Độ, Bồ-tát Bảo Sự, Bồ-tát Ân Thí, Bồ-tát Đế Thiên, Bồ-tát Thủy Thiên, Bồ-tát Đế Võng, Bồ-tát Minh Võng, Bồ-tát Dụ Thiên, Bồ-tát Tích Khoái, Bồ-tát Tý Thiện, Bồ-tát Bạch Tượng, Bồ-tát Hương Thủ, Bồ-tát Chúng Hương Thủ, Bồ-tát Sư Tử, Bồ-tát Anh Phổ, Bồ-tát Lợi Ý, Bồ-tát Diệu Ngự, Bồ-tát Đại Ngự, Bồ-tát Tịch Ý, Bồ-tát Di-lặc, Bồ-tát Phổ Thủ, Bồ-tát Đồng Chân… như vậy có tám muôn bốn ngàn vị Đại Bồ-tát đều đến hội họp. Lúc bấy giờ tam thiên đại thiên thế giới cao lớn nguy nga, Đế Thích, Phạm thiên, Tứ Thiên vương, chư Thiên, Long thần, A-tu-la, Ca-lâu-la, Chân-đà-la, Ma-hưu-lặc, Kiền-đạp-hòa cùng quyến thuộc đều đến hội họp. Long vương A-nậu-đạt, Long vương Hòa Luân, Long vương Ma-na-tư, Long vương Đa Châu, Long vương Tuyết Sắc, Long vương Vô Lượng, Long vương Tu Thâm và vô số trăm ngàn Long vương khác cùng các quyến thuộc đều hội đến. A-tu-la vương Nhàn Cư, A-tu-la vương Tỳ-ma-chất-đa, A-tu-la vương Quyết Hà, A-tu-la vương Thuận Thọ, A-tu-la vương Anh Lạc, A-tu-la vương Cuồng Hoặc, A-tu-la vương Đoạn Tuyệt, A-tu-la vương Chấp Quỷ, cùng các quyến thuộc đồng đến hội họp. Quốc vương Tần-bà-ta-la ở nước Ma-kiệt-đà và cung nhân quyến thuộc đều đến hội họp. Các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, tín só, tín nữ đồng đến hội họp. Chư Thiên thần cõi Dục, chư Thiên cõi Sắc cho đến Tịnh cư thiên đều đến hội. Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn vì vô lượng, vô số đại chúng mà thuyết pháp, tuyên nói công hạnh của các Bồ-tát đại só. Pháp của Phật nói đây tên là Tịnh tế quảng bố đạo nghóa. Những gì gọi là Bồ-tát hạnh? Dùng hạnh bố thí giáo hóa chúng sinh, cứu tế nguy hiểm ách nạn. Tu hạnh giới cấm, viên mãn mười điều lành. Thực hành nhẫn nhục, đầy đủ tướng tốt vẻ đẹp trang nghiêm nơi thân. Cần hành tinh tấn, đầy đủ tất cả công đức. Thực hành thiền định, ý chí an hòa tịch tónh chẳng nghó bàn. Thực hành trí tuệ dứt những trần lao thành trí tuệ thánh, giáo hóa những người chưa thông đạt. Thực hành học rộng được vô ngại biện tài không ngăn ngại, diễn thuyết trôi chảy, người nghe liền tin chịu. Thực hành công đức khuyên chúng sinh làm vô lượng phước. Thực hành Thánh minh được vô lượng biện tài. Thực hành tịch tónh phát khởi chúng sinh chẳng thể nghó bàn. Thực hành chánh quán trừ bỏ tà hạnh những việc vô ích. Thực hành Từ tâm thường tu nhân hòa chẳng tổn hại. Thực hành Bi tâm muốn cứu giúp chúng sinh trước sau chẳng nhàm. Thực hành Hỷ tâm dùng pháp lạc để tự vui, cũng giáo hóa chúng sinh khiến họ mộ đạo. Thực hành Hộ tâm dứt vô lượng tội, khai thị tội phước đem chánh pháp lợi mình lợi người. Thực hành nghe pháp trừ bỏ sự ràng buộc của các ấm khiến không tự đại. Thực hành xuất gia rời bỏ tâm ân ái mến luyến cùng những thói quen thế tục. Thực hành nhàn cư thành lập yếu nghóa chẳng thoái thất nhất tâm. Thực hành chí nguyện được Tổng trì chẳng quên chánh pháp đem giáo hóa chúng sinh. Thực hành tư niệm hiểu rõ thông đạt tất cả. Thực hành du bộ hiểu rõ nghóa lý có lợi ích không tổn hại. Thực hành chỉ ý quán sát sự đau ngứa nơi thân và tâm ý các pháp. Thực hành ý đoạn dứt hết tất cả tội ác, tu tất cả diệu hạnh. Thực hành thần túc thân tâm nhẹ nhàng, đến nơi nguy ách cứu nạn chúng sinh. Thực hành các căn nhãn, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý đều tịch tónh chẳng tán loạn. Thực hành các lực tiêu trừ trần lao những lỗi quấy, thường kềm chế được lấy mình và giáo hóa chúng sinh. Thực hành giác ý pháp khinh an để đạt chánh kỷ. Thực hành đạo nghiệp vượt khỏi những đường tà của chín mươi sáu phái ngoại đạo. Thực hành chân chánh thành tựu nhân nghóa không mừng không giận. Thực hành giải biện thấy rõ tâm của chúng sinh mà vì đó khai thị. Thực hành tự quy, thân mình tự đạt chẳng mong nhờ người. Thực hành thiện hữu công huân thông tỏ dùng đức tuệ để tế độ. Thực hành thuần tánh luôn luôn hòa thuận không khi dối. Thực hành đúng thời, vượt khỏi tất cả nạn. Thực hành Thánh hiền, hành động đặc biệt khác hơn mọi người. Thực hành ngồi yên, thường phụng hành những pháp đã được nghe. Thực hành bốn ân, nhóm họp đại chúng để diễn thuyết kinh pháp. Thực hành chánh pháp, thuận theo giáo pháp của Tam bảo làm cho chẳng đoạn tuyệt. Khuyến trợ nhiêu ích giáo hóa chúng sinh, nghiêm tịnh cõi Phật. Thực hành quyền phương tiện đầy đủ tất cả Bi trí. Đức Thế Tôn rộng tuyên tất cả nghiệp hạnh thanh tịnh của Bồ-tát như vậy. Lúc bấy giờ Kim cang lực só hiệu là Mật Tích, cầm Kim cang xử đứng hầu bên phải Đức Thế Tôn, đến trước Đức Phật bạch: –Như Lai chí chân nói pháp yếu về những công hạnh thanh tịnh của Bồ-tát. Bạch Thế Tôn! Đối với pháp mà Như Lai vừa nói, con quán sát suy nghó rằng tất cả hạnh nghiệp ấy đều là đức trí hạnh nghiệp của Bồ-tát. Vì sao? Vì những hạnh nghiệp công đức ấy đều là chỗ vui thích của các Bồ-tát, dùng đó để nhiếp độ chúng sinh. Tuệ nghiệp đó, Bồ-tát trong đời tạp loạn phần nhiều ưa thích. Nếu các Bồ-tát hiểu rõ công đức tu hành tuệ hạnh, là thực hành chân thật chí thành đệ nhất. Vì sao? Vì những công đức tuệ hạnh là phương tiện thiện xảo Ba-la-mật-đa đầy đủ phước tuệ. Tuệ nghiệp này là Trí ba-la-mật-đa của Bồ-tát, trong đó đầy đủ tất cả công hạnh. Công đức và trí tuệ khắp đầy đủ tất cả đạo hạnh của các Bồ-tát mà ân đức khắp cứu độ chúng sinh, vượt khỏi cảnh ma đến bâïc không thoái chuyển sẽ thành bâïc Vô thượng Bồ-đề. Các vị thấu tỏ pháp bổn, không thoái chuyển gần với chư Phật và đều đạt được bí mật tạng chánh yếu của Như Lai, tâm ý thông tỏ chưa từng vướng ngăn. Lúc đó Bồ-tát Tịch Ý nói với Mật Tích Kim Cang lực só: –Mật Tích vừa nói hai sự nghiệp gần trí tuệ của Đức Như Lai. Ông có thể thích an trụ tuyên dương nghiệp bí mật của Như Lai. Đó là pháp chẳng phải bâïc Thanh văn, Duyên giác biết được huống là những hàng phàm phu! Lúc đó Mật Tích Kim Cang lực só yên lặng chẳng đáp. Bồ-tát Tịch Ý liền bạch: –Bạch Thế Tôn! Mật Tích phải chẳng có thể chiếu cố đến chúng hội này mà diễn bày mật hạnh của Bồ-tát và pháp bí mật của Như Lai. Toàn thể chúng hội đều khát ngưỡng muốn được nghe đó. Nếu được nghe diễn thuyết pháp này thì trong tâm của chúng hội tất sẽ rất vui mừng phụng hành Bồ-tát hạnh, sẽ thành tựu đầy đủ những sự mật yếu, tâm tánh sẽ điều hòa vào nơi vô thượng đại Từ. Đức Phật bảo Mật Tích Kim Cang lực só: –Ông có thể lãnh thọ trọng trách vì đại hội mà diễn thuyết mật hạnh của Bồ-tát và bí yếu của Như Lai. Chư Phật đồng hoan hỷ khuyến tấn ông tuyên nói đạo hành phẩm của các Bồ-tát. Đại hội sẽ thích nghe. Kim cang lực só bạch: –Bạch Thế Tôn! Con có thể kham nhẫn chút ít vì đại hội mà tuyên thuyết mật hạnh của Bồ-tát và pháp bí yếu của Như Lai. Mong Như Lai giúp oai thần, nhờ Như Lai trợ tuệ quang, con mới dám vâng Thánh chỉ của Phật để tuyên bày. Như lúc trời tối phải nhờ ánh sáng của ngọn đèn mới có thể thấy rõ hình sắc đẹp xấu và đến đi qua lại bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc. Nếu được như vậy con mới lãnh chỉ của Phật, dầu chỗ biết của con ít kém thô thiển cũng xin hoan hỷ diễn bày. Đức Phật nói: –Lành thay! Đã phải lúc cho ông tuyên thuyết. Mật Tích nói với Bồ-tát Tịch Ý: –Xin ngài lắng nghe và cũng xin đại hội nghe mật hạnh của Bồ-tát cùng pháp bí yếu của Đức Như Lai chớ kinh nghi sợ sệt. Bồ-tát Tịch Ý liền tuyên bố toàn đại hội: –Đức Như Lai tuyên bố bốn pháp chẳng nghó bàn, do đây được thành đạo Chánh giác Vô thượng và thành Bậc Tối Chánh Giác. Những gì là bốn? Đó là tạo lập công nghiệp chẳng thể nghó bàn, chí nguyện chẳng thể nghó bàn, thiền định chẳng thể nghó bàn, chỗ làm của chư Phật không có ngằn mé. Đó là bốn pháp chẳng nghó bàn. Các vị nên biết, bốn pháp chẳng thể nghó bàn này là sở hành chẳng thể nghó bàn của Phật, là pháp tối tôn để thành Chánh giác cho nên gọi là bốn pháp chẳng thể nghó bàn. Các ngài nếu nghe những điều chẳng thể nghó bàn của các Bồ-tát và của chư Phật, thì chẳng nên có lòng sợ sệt, phải vui mừng hớn hở, hết lòng kính tin mới có thể đạt được đại đạo. Bồ-tát Tịch Ý liền nhập chánh định làm cho tất cả đại hội nghe Phật pháp không còn có người mang tâm phỉ báng, đều hoan hỷ, mọi người đều tập họp về đạo tràng. Trời rưới các thứ hoa đúng theo ý muốn của đại chúng để rải cúng dường Phật, cũng rải khắp đại hội. Mật Tích nói với Bồ-tát Tịch Ý: –Xin lắng nghe, khéo nghó nhớ. Nay tôi sẽ tuyên bố mật hạnh của Bồ-tát và pháp bí yếu của Như Lai. Lời nói của Đức Phật và Bồ-tát rất thành thật, không quan niệm phân biệt để truyền đạo riêng khác, luôn thuận theo năm hạnh của Bồ-tát. Bồ-tát không dua vạy, chẳng khi dối, chẳng cống cao, lúc thị hiện tương ưng thì biến hóa tự tại, do tâm tự tại chẳng phân biệt hạnh nghiệp tà nịnh phi pháp, cẩn thận việc làm nơi thân, dùng oai nghi lễ tiết giáo hóa chúng sinh, miệng không nói những lời hư vọng. Oai nghi của Bồ-tát không thể hạn lượng. Theo hạnh nghiệp của chúng sinh dùng tất cả oai nghi lễ tiết để có thể khai hóa. Chỗ làm cũng như học vấn, tư duy, thiền quán, âm thanh, ngôn từ đều làm cho được rành rẽ. Chỗ làm của nam, của nữ hành động đi đứng oai nghi lễ tiết đều đúng theo lớn nhỏ. Đến trẻ nít còn bú mà đáng được giáo hóa, Bồ-tát cũng đều cẩn thận oai nghi. Với những hàng lão thành, trung niên, thiếu niên, đáng được giáo hóa đúng theo oai nghi lễ tiết, tôn ti, sang hèn, trí ngu, làm cho kẻ bít lấp được khai thông, người đần độn được tỏ thấu, việc làm nhiều ít đều đúng oai nghi lễ tiết. Với người đáng được độ thì dạy dỗ khai hóa. Với các loài địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, Trời, Rồng, tám bộ chúng, nhân phi nhân, thì dìu dắt những kẻ đáng giáo hóa. Với hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Tín nam, Tín nữ, Đế Thích, Phạm thiên, Tứ Thiên vương, chư Thiên thần, ai đáng được giáo hóa thì dạy bảo họ. Bồ-tát đều biết rõ chúng sinh sâu, cạn, dày, mỏng, khó độ, dễ độ. Đúng theo bệnh cho thuốc mà vì họ thuyết pháp, khiến người tham dâm chẳng tham của cải, kiến lập oai nghi theo lễ tiết của họ. Bồ-tát ở nơi đó, thường tịch nhiên vô vi, đem thân tu hành chẳng rời tịch mặc, hiển bày oai nghi nơi thân. Nếu có người tham lam ganh ghét, đều vì họ thị hiện tùy thời cứu tế chẳng tiếc thân mạng. Bồ-tát thân hành thanh tịnh, thể diễn quang minh. Những chúng sinh khổ não nơi địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, cứu tế họ khỏi nạn khổ, đặt họ ở nơi an ổn. Nếu có chúng sinh nhiều bỏn sẻn tham lam, Bồ-tát theo sở thích của họ mà hiện những thứ trân bảo của cải làm cho họ trụ nơi nghiệp lành. Cho đến theo sở thích của họ mà tự bố thí cho những đầu, mắt, da, thịt, gân, xương, tủy, não, vợ, con, ngựa, xe, tôi tớ, áo cơm. Nếu họ đòi món ngon vật lạ, áo mền tốt đẹp, Bồ-tát cũng đều làm cho họ vừa ý để họ phát tâm lành. Bồ-tát vì chúng sinh mà hiện vô số thân ở vô lượng thế giới mười phương, nhân duyên phương tiện của Bồ-tát cũng không thể cùng tận. Theo cơ cảm hiện vô lượng thân khai hóa chúng sinh đưa họ vào chánh pháp. Nếu có chúng sinh nhiều tham dục mê tình sắc, Bồ-tát hiện thân phụ nữ xinh đẹp truyệt trần, làm cho người đó thích mến xem dường bảo châu, rồi hiện hôi, dơ, xấu xa đáng nhàm, kế hiện chết mất, dùng đó để diễn những pháp vô thường, khổ, không, tất cả ba cõi như huyễn, như hóa, không chút gì chân thật, làm cho người nghe tâm ý tỏ thông bèn phát tâm Vô thượng Bồ-đề và được không thoái chuyển. Bồ-tát lại dùng một lọng báu che khắp cõi đại thiên, lại có thể đem nhét vào trong hạt cải. Nếu lúc nạn lửa cháy đốt khắp thế giới, Bồ-tát có thể để tất cả trên bàn tay mình, thân Bồ-tát cũng chẳng lớn thêm. Bồ-tát có thể đồng thời cúng dường tất cả chư Phật ở mười phương, trước mỗi Đức Phật đồng thời đều có thân Bồ-tát. Bồ-tát có thể biến những hoa đẹp nhiều như núi Tu-di bọc trong vạt áo hóa thành lọng hoa dâng cúng Như Lai. Bồ-tát có thể biến một lư hương lớn bằng ngàn cõi Phật, biến một ngọn đèn bằng núi Tu-di ánh sáng chiếu hằng hà sa cõi nước để cúng dường Phật. Bồ-tát dùng vải lụa quấn thân mình, rưới dầu làm ngọn đèn, tự đốt thân mình, ánh sáng chiếu khắp cõi đại thiên, làm cho chúng sinh người thấy kẻ nghe đều tưởng niệm đến cảnh giới Bồ-tát mà phát đạo tâm vô thượng. Bồ-tát mặc áo giáp hoằng thệ hiện thế lực lớn tay cầm chày Kim cang đứng hầu bên Phật, mọi người sợ hãi phải quy y đảnh lễ. Bồ-tát thị hiện lực só thân chết thây sình vất bỏ trong gò mả, chim muông đến ăn thịt, những cầm thú này sau khi chết đều được sinh lên cõi trời. Có được như vậy đều là nhân duyên của Bồ-tát từ thuở xưa cho đến khi diệt độ. Duyên đó là gì? Vì bản nguyện của Bồ-tát tự thệ rằng: “Giả sử có loài người, hoặc muông thú chim chóc, lúc ăn da thịt thây chết của tôi đều thêm lớn căn lành, họ sẽ được sinh lên cõi trời sau khi báo thân họ đã mãn.” Thưa Bồ-tát Tịch Ý! Ngài nên phải quan sát công hạnh tùy nghi hóa độ của Bồ-tát như vậy. Thuở quá khứ lâu xa, cõi Diêm-phù-đề này rộng lớn, có tám muôn bốn ngàn nước, nhân dân đông nhiều không tính đếm được. Thời kỳ đó loài người ăn mặc tự nhiên giàu có đầy đủ, châu báu vô số, nhà cửa tốt đẹp, hoa thơm trái ngọt sum suê khắp nơi. Lúc đó có nhiều chúng sinh mang lấy bệnh khổ, đau nhức ngứa ngáy, kêu gào rên rỉ trăm ngàn lương y không trị được. Lúc đó Bồ-tát hiện là lương y trị lành bệnh cho mọi người, dùng tâm Từ theo săn sóc người bệnh như tôi tớ. Lại thuở quá khứ lâu xa, có Thiên đế Thích hiệu Thiện Tự Tại, ở trên trời nhìn xuống thấy nhân loại bị nhiều bệnh khổ, Thiên nhó nghe tiếng rên rỉ kêu khóc của mọi người, động lòng Từ bi suy nghó: “Các người kia nay đang gặp nguy khó không có chỗ để nương tựa. Ta nay nên đến cứu tế, với người không ai cứu giúp thì cứu giúp, với người không có chỗ nương tựa làm chỗ nương tựa, với người không biết chốn quay về làm chỗ quay về.” Bấy giờ, tại cõi Diêm-phù-đề có một nước lớn tên Cụ lưu. Thiên đế Bồ-tát liền đến một nơi gần thành đó hiện làm thân thú tên Nhân Lương, rồi hiện ra tiếng rao truyền giữa hư không để phổ biến cho tất cả mọi người trong cõi Diêm-phù-đề rằng: Cách nước Cụ lưu này chẳng xa Có một thú lớn tên Nhân Lương Ai ăn được thịt con thú này Thì thoát khỏi được tất cả khổ. Các người chớ nghi ngờ sợ sệt An lòng đến lấy thịt mà ăn Thú không hung dữ, thịt sạch ngon Chính là thuốc hay trị các bệnh. Lúc đó tất cả người bệnh hoạn trong các xóm làng, thôn ấp, thành thị của nước đó nghe âm thanh ấy đồng dắt nhau đến chỗ đó thẻo lấy thịt thú Nhân Lương mang về ăn, tất cả đều được lành bệnh. Thân thể của thú Nhân Lương thịt hoàn lại như cũ. Bấy giờ khắp nước đều vang lên tiếng nói kệ của thú kia: Vì thệ nguyện thuở xưa. Độ chúng sinh thành Phật. Khiến tôi được diệu trí Cứu cánh không cùng tận, Đều tập học cấm giới Dùng da thịt bố thí Dùng lời chí thành này Mau gặp đạo chánh chân. Tiếng đồn truyền ra, lần lượt những người bệnh ở khắp cõi Diêm-phù-đề đua nhau đến lấy thịt thú Nhân Lương để ăn. Ăn xong, thịt hoàn lại như cũ, thân thú Nhân Lương không hề tổn giảm. Chỉ trong bảy ngày mà thiên hạ đều khỏi nạn bệnh tật. Dầu mọi người được hết thân bệnh, nhưng những tâm bệnh như tham, sân, si… vẫn chưa tiêu. Sau khi được khỏe mạnh an vui, mọi người nghó rằng chúng ta biết lấy gì để báo đáp ân nghóa của thú Nhân Lương? Thiên hạ rủ nhau đến nước Cụ lưu, ở trước thú Nhân Lương đồng cung kính nói kệ rằng: Hỡi này thú Nhân Lương Nhờ thịt người điều trị Thiên hạ khỏi bệnh khổ Lấy gì báo ân người? Liền lúc đó thân thú Nhân Lương ẩn mất, hiện trở lại thân Thiên đế Thích bảo đại chúng: Thân tôi ngày hôm nay Chẳng cần nhà cửa ở Chẳng dùng đồ uống ăn Vàng bạc cùng trân bảo Chẳng dùng xe voi đẹp Chẳng màng xe ngựa hay. Hàng gái trai già trẻ Nên đồng tâm hòa thuận Nên theo chánh bỏ tà Cùng làm mười nghiệp lành Từ tâm đối với nhau Mến thương và giúp đỡ Xem nhau như ruột thịt Đối nhau như mẹ con Chớ làm tổn hại nhau Là báo ân Nhân Lương. Lúc đó đại chúng nghe lời dạy của Thiên đế, đều cảm động phụng hành mười nghiệp lành đầy đủ thanh tịnh, không để thiếu sót. Sau khi chết họ không đọa vào nạn ác thú, ba đường khổ, đều tự nhiên được sinh lên cõi trời Đao-lợi, lại được Thiên đế khai thị thuyết pháp, tất cả đều phát tâm Vô thượng Bồ-đề, được tâm không thoái chuyển. Thưa Bồ-tát Tịch Ý! Bồ-tát tu mật hạnh được thân thanh tịnh, chẳng tiếc thân mạng đem bố thí cứu khổ chúng sinh, sau đó khai hóa khiến họ hướng đến đạo Vô thượng. Phật bảo Bồ-tát Tịch Ý: –Này Tịch Ý! Các Bồ-tát hành các mật hạnh bền vững chắc chắn không ai phá hoại được dường như Kim cang. Thân Bồ-tát tan hoại vì muốn chúng sinh học theo đạo. Dầu ai muốn phá hủy đều không thể được. Chúng sinh vì theo Bồ-tát học pháp nên an trụ chỗ bất hoại. Giáo pháp của Bồ-tát này tuyên thuyết, lửa chẳng cháy được, dao chẳng chặt được. Thân Bồ-tát mạnh mẽ không ai hủy hoại được. Này Tịch Ý! Thân của Bồ-tát thuận theo pháp luật dìu dắt chúng sinh. Tâm của Bồ-tát chẳng vắng bặt cũng chẳng vọng tưởng. Thân của tất cả chúng sinh bản tánh đều không, thân của Bồ-tát cũng vậy. Rõ biết thân mình bản tánh là không, bản tánh của tất cả pháp cũng là không. Các pháp bản tánh không, biết thân mình quy về nơi bản không, tất cả pháp cũng vốn không. Các pháp đã vốn không, thân mình tự nhiên cũng quy về nơi không. Thân mình đã vốn không thì các pháp quá khứ, vị lai, cùng hiện tại cũng không. Đã rõ các pháp quá khứ, vị lai, hiện tại là vốn không, thân mình cũng không, chẳng lầm, chẳng loạn, chẳng trái nhau.Vì tất cả đều vốn không nên những hành pháp quá khứ, vị lai, hiện tại, năm ấm, mười hai nhập, mười tám giới và các đại chủng đều chẳng trái nhau, cho đến sinh tử cùng vô vi cũng tự nhiên vốn không, vì sinh tử vốn không chỗ sinh, vì không sinh nên vốn là không. Này Tịch Ý! Đã là không thì bình đẳng không khác, vốn không tranh tụng, vì vốn không trái nhau. Do đây nên gọi rằng Như Lai vốn không. Như Lai không hình tượng toàn quy về bản thể không, vì khắp thị hiện tất cả sắc tượng, hình tượng Như Lai tất cả vốn không, chính đây gọi là hình tượng của Đức Như Lai. Do đây nên Bồ-tát thị hiện tất cả sắc tượng, cho đến hiện tướng Như Lai, nhưng chưa từng tạo hiện hình tượng. Vì không hình tượng, không chống trái nên mới khắp hiện tất cả hình tượng. Tự quan sát thân mình bản vô, tất cả thân cũng bản vô. Tự quán sát pháp thân, tất cả các thân đều không có thân. Quán thân Như Lai hiểu rõ tất cả thân đều từ nhân duyên sinh. Vì rõ Pháp thân bản lai không thân, nhân duyên cùng Pháp thân bèn thành Pháp thân. Không ấm, nhập, giới, đại chủng thì gọi là Pháp thân. Thực hành bình đẳng tiêu trừ cảnh duyên của chúng sinh duyên lấy. Này Tịch Ý! Như thần y Kỳ-bà hợp các thứ cỏ thuốc bện thành hình đồng tử trẻ đẹp, cũng đi đứng nằm ngồi. Hoặc có vua, quan, hào tộc, trưởng giả đến nhà Kỳ-bà để xem đồng tử do cỏ thuốc bện thành, rồi cùng nó ca hát đùa giỡn, bệnh tật của mọi người đều tiêu trừ được an lành. Này Tịch Ý! Ông xem thần y Kỳ-bà trị bệnh cho thế gian, những y sư khác không thể làm được. Các Bồ-tát phụng hành Pháp thân, nếu những chúng sinh nhiều tham, sân, si, không luận già trẻ nam nữ, cùng Bồ-tát gần gũi mến vui thì phiền não trần lao đều tiêu dứt. Sự lợi ích này đều do bản nguyện đầy đủ của Bồ-tát. Này Tịch Ý! Các Bồ-tát khéo tu Pháp thân, thì các Bồ-tát này là Pháp thân, không còn phải dùng ăn uống, nhưng vì thương xót chúng sinh mà hiện ăn hiện uống. Pháp thân của Bồ-tát chẳng tăng chẳng giảm, chẳng sinh chẳng diệt, không đầu không cuối, nhưng thuận theo tập tục mà hiện có sinh tử. Dầu hiện sinh tử, nhưng hiểu rõ tất cả pháp đều là không sinh. Thị hiện có sinh để nói lên tất cả pháp là vô vi, là không hội họp, dầu có sinh nhưng đều là không sinh. Bồ-tát hoặc tự thị hiện thân căn tàn tật, nhưng Pháp thân chẳng hư tổn, dùng pháp tự vui, hiểu rõ Phật thân. Này Tịch Ý! Nếu người muốn hiểu biết Phật thân, nên hiểu rằng chính là thân hư không, không gì ngang hàng, là chí tôn trong ba cõi, thí cho chúng sinh thân không có chỗ quy tụ, chẳng thể thí dụ, không gì sánh kịp, thân ấy thanh tịnh rời trần cấu. Phật thân vốn thanh tịnh, vốn không nhiễm ô, tự nhiên sáng sạch trọn không trần lụy tối tăm, bản tánh nhân hòa đều là không sinh. Thân đó vắng lặng không hệ thuộc nơi tâm ý thức. Thân đó tự nhiên, như huyễn, như hóa, như sóng nắng trên đường, như trăng dưới nước. Thân đó đã rốt ráo Không, Vô tướng, Vô nguyện. Thân đó cùng khắp mười phương hư không, tâm đều bình đẳng rõ thấu bản nguyên của ba cõi, không có tôi ta với tất cả chúng sinh. Thân đó không thể hạn lượng, không tạo tác, không tưởng niệm, không trụ trước, trụ nơi chân đế không biến đổi. Thân đó không sắc tượng mà tự nhiên hiện sắc tượng, không đau đớn mà hiện đau đớn, tự nhiên không tưởng niệm mà hiện có tưởng niệm, không tình thức mà tự nhiên hiện các tình thức, không địa, thủy, hỏa, phong mà hiện thân địa, thủy, hỏa, phong, thấu rõ tất cả pháp thế gian đều hư vọng chẳng thật, mắt không chỗ thấy, tai không chỗ nghe, mũi không ngửi mùi, lưỡi không nếm vị, thân không cảm xúc, tiêu hẳn tình thức, ý không phan duyên, tâm chẳng chuyển dời, không tâm ý thức, hiểu rõ chân đế không có tiến thoái. Này Tịch Ý! Pháp thân của Đức Như Lai, nếu có Bồ-tát đến được thân này thì không công hạnh Bồ-tát nào chẳng đầy đủ, hóa hiện thân mình khắp cả thành ấp xóm làng trong cõi đại thiên. Tất cả chúng ma đều không biết được việc làm của Bồ-tát, hiện nay chẳng hiện. Bồ-tát hiểu rõ cả những nghiệp vi diệu. Dù không chỗ hiện mà hiện khắp tất cả, cũng chưa từng có quan niệm ra làm, cùng thấy nghe hay biết. Có tu hành điều chi là để khai hóa chúng sinh. Chẳng do sự hành động nơi thân mà mất bốn Như ý túc. Vì lợi ích chúng sinh mà Bồ-tát hiện thân mình để hiển bày nghóa vô thường, khổ, không và chẳng phải thân, thấu rõ các thân bản tánh tịch tónh, mà vì chúng sinh hiện thân hư hoại. Thị hiện báo ứng thọ thân, thuận theo bốn pháp điên đảo, rõ biết thân mình như cỏ cây tường vách ngói đá, vì chúng sinh mà hiện thân thanh tịnh. Này Tịch Ý! Ta từng làm Bồ-tát, từ khi được Phật Nhiên Đăng thọ ký đến nay, dùng mật hạnh ẩn thân thanh tịnh, dầu miệng có tuyên thị nhưng đều không ngôn thuyết. Lại nữa, này Tịch Ý! Như Lai thuyết pháp thuận theo thời nghi. Do được tự tại nên thân Bồ-tát bí mật, chỉ lược nói những điều cốt yếu để tuyên bày sự tịch tónh bí mật của thân mình. Giả sử muốn thuyết minh đầy đủ, trải qua hằng sa kiếp cũng không thể trình bày hết. Lúc đó Mật Tích Kim Cang lực só bảo Bồ-tát Tịch Ý: –Thế nào gọi là bí mật? Bồ-tát dùng lời nói thanh tịnh, thuận theo mỗi loài chúng sinh cho đến trong tất cả loài cầm súc, Bồ-tát cũng hiện ra bao nhiêu ngôn ngữ, bao nhiêu lời, bao nhiêu tiếng, thuận theo chỗ hiểu biết của mỗi loài mà diễn giải giáo pháp, cùng mọi loài chuyện vãn nhau, nói những việc khổ vui thiện ác. Tiếng nói của Bồ-tát không chỗ nào chẳng suốt chẳng đến. Hoặc ca hát, hoặc giận mừng đều thuận theo tiếng nói của mỗi chúng sinh mà tùy nghi dạy dỗ. Bồ-tát biết rõ tâm ý mỗi loài có thể tin pháp gì, ưa thích hạnh gì, rồi thuận theo đó mà làm cho họ được vào đạo. Bồ-tát Tịch Ý hỏi Mật Tích Kim Cang lực só: –Âm thanh của Bồ-tát giáo hóa như thế nào? Mật Tích nói: –Tùy theo tất cả âm thanh của chúng sinh, lại chỗ tùy thuận của Bồ-tát không có hạn lượng. Chúng sinh trong các loài tâm niệm đều riêng khác, tiếng nói cũng chẳng đồng, không thể tính kể xiết, Bồ-tát đều thuận theo tâm niệm và tiếng nói của mỗi loài, dầu vậy nhưng Bồ-tát vẫn không nói năng. Chính đây gọi là suốt đến tất cả âm thanh của tất cả chúng sinh, đồng thời hiểu rõ là vô sở hữu. Cần phải quán rằng: Tất cả âm thanh ngôn từ của Bồ-tát đều là chẳng thể nghó bàn, lời nói không có chỗ tận cùng. Đây là Bồ-tát tùy thời nghi giáo hóa không thể lấy gì để ví dụ được, là chẳng nghó bàn, là vô cùng vô tận, tự tại tuyên thuyết vô số ngữ ngôn: Hoặc nói tiếng Đế Thích, tiếng Phạm thiên, tiếng Tứ Thiên vương, tiếng Trời, Rồng, Thần, tiếng A-tu-luân, Chân-đà-la, Kiền-đạp-hòa, Ma-hưu-lặc, Nhân phi nhân, tùy theo âm thanh thượng, trung và hạ, hay dở, tốt xấu đều làm cho tất cả được vui mừng kính tin chánh pháp. Nói xong, Mật Tích Kim Cang lực só nói kệ tụng rằng: Dùng ngôn ngữ ấy Giải quyết đa nghi Thuyết giảng vô số Pháp độ chúng sinh. Trị bằng tâm Từ Và bằng lực Bi Rộng giảng tuyên thuyết Lòng người đều vui. Thiên đế hội họp Cất tiếng dịu dàng Tiếng này điều hòa Hơn mọi âm thanh. Hòa theo kỹ nhạc Dùng giọng yêu thương Nhân dịp này nói Lời kinh dạy răn. Tiếng tốt dịu dàng Như tiếng Na-la Âm thanh như vậy Thảy đều đầy đủ Tham nghe hết tham Dâm tâm không khởi. Tất cả sơn thần Đều thích âm nhạc Nghe tiếng diệu âm Như nhạc ở non Ở tại cõi Dục. Thanh âm chư Thiên Thảy đều khởi theo Thật đáng ưa thích. Tiếng Pháp âm ấy Theo thời phương tiện Hoặc ca hoặc tụng Tiêu trừ tham, sân Dẹp bỏ nghi mạn Và tánh tự cao. Đã nghe tiếng ấy Trở về tựa nương Để nghe đạo mầu Của Bồ-tát nói. Ở tại cõi Sắc Tất cả chư Thiên Đều vui hân hoan. Tâm ý của họ Do đã được nghe Ngôn giáo diệu kỳ Vui đẹp phát tâm Nguyện thành Phật đạo. Rồng Kiền-đà-la Và tám bộ chúng Nghe tiếng pháp này Tựa muôn loại nhạc. Khi Bồ-tát nói Âm giáo diệu kỳ Chúng sinh đều thích Tâm vui phấn khởi. Tiếng ấy chứa đầy Vô số âm thanh. Thiên hạ Diêm-phù Nơi người dân ở Tiếng ấy khắp vào Tất cả chúng sinh Nếu được nghe qua Đều được độ thoát. Thiên thần hư không Thần ở đại địa Tiếng Bồ-tát đến Đều tới nơi kia Để nghe lời dạy. Không ai không vui Giải quyết chỗ nghi Tâm đều hoan hỷ. Chim loan, hồng hộc Cưu, nhạn, oan ương Diều, quạ, chim công Loài chim trên núi Dưới nước, trên bờ Nếu nghe tiếng này Đều được vừa ý Lòng đều vui đẹp. Sư tử, hổ, lang Gấu, beo, khỉ, vượn Hươu, nai, chồn, cáo Voi, ngựa, chó, heo Cừu, dê, trâu, bò Ở rừng ở nhà Nghe được tiếng này Hân hoan khả ý. Bốn chân, hai chân Các loại hình mạo Hoặc có nhiều chân Hoặc không có chân Đều vui nghe pháp Hiểu rõ âm thanh Đều sinh tâm hối Bỏ các tà nghiệp. Trong cõi đại thiên Các nước nghe tiếng Vua, quan, thứ dân Giàu sang, hạ tiện Địa ngục, ngạ quỷ Và loài súc sinh Chư Thiên và người Nghe các loại tiếng Bỏ tà vọng kiến Chỉ niệm chí chân Cũng không tưởng cầu Không còn tranh tụng Vâng theo thiện nghiệp Chí tâm giữ đạo. Lời pháp khiến họ Theo đúng thời tiết Tự thân chuyên nhất Nhẫn vì chúng tịnh. Do lời dạy ấy Trăm ức quốc gia Theo đó thông đạt Vô số ức người Không nương tài nghiệp Tâm không sở hữu. Tại các quốc độ Có loài quỷ ma Nếu chúng được nghe Tiếng hòa nhã ấy Thương yêu lẫn nhau. Cứu độ như thế Đi đứng, ra vào Đều là độ chúng. Giả sử chúng sinh Có trăm ngàn ức Tâm có hoài bảo Vô số chí niệm Nghe lời nói này Thảy đều thông suốt Như nhìn ngón tay Cúi đầu lễ lạy. Nằm ngủ, điếc câm Nói chẳng ra lời Không chân què thọt Bệnh tật nặng nề Thanh âm của Bồ-tát Vi diệu tốt lành Lời giảng hòa nhã Cực hay cực tịnh Tâm họ luôn nhớ Bụi trần hiểm nguy. Lời Bồ-tát dạy Nếu ai được nghe Vô số phiền não Thảy đều tiêu diệt. Pháp âm thanh tịnh Khai hóa chim muông Lòng vui mát mẻ. Lời Bồ-tát nói Chúng sinh đều nghe Kinh pháp chư Phật Và của Thánh chúng Bố thí, trì giới Thực hành nhẫn nhục Tinh tấn, nhất tâm Và pháp trí tuệ Dạy giữ trong tâm. Công hạnh Bồ-tát Ức trăm ngàn kiếp Khó thể nói hết Không thể tận cùng Tâm Từ vô lượng Diễn thuyết Phật âm Vang mười phương cõi. KINH ĐẠI BẢO TÍCH <卷 id="86423662">QUYỂN 9 Hán dịch: Đời Tây Tấn, Tam tạng Pháp sư Trúc Pháp Hộ. <詞 id="86423663">Pháp hội 3: MẬT TÍCH KIM CANG LỰC SÓ (Phần 2) Mật Tích Kim Cang lực só nói: –Thưa Bồ-tát Tịch Ý! Miệng Bồ-tát chưa từng nói ra những lời nhiễm ô, lời ác, lời bất nhân, lời sân hận, ngu si, cũng chẳng nói lời dua nịnh, lời kết oán, lời cợt đùa chế giễu. Lúc nói Bồ-tát chẳng cười vô lối, chẳng thốt ra lời châm chọc, lời thô bạo. Lòng Bồ-tát không hề có quan niệm não hại, chấp trước, tranh đấu, bực tức, ỷ thị, cống cao, buông lung, trái lý. Không lúc nào Bồ-tát để mất nghi tiết, lỗi thời, không tham dục, độc ác. Thân thể Bồ-tát toàn vẹn, thanh âm viên diệu. Tâm không thiên lệch bè phái, không che giấu, chẳng oán hiềm, chẳng tà kiến, chẳng chấp tôi ta, chẳng khuấy rối người. Bồ-tát không truyền rao lỗi của người, chẳng thất ngôn, thường nhẫn nhịn, luôn hòa thuận, bỏ hành vi phi pháp, không coi rẻ chánh pháp, chẳng ca ngợi người của mình, chẳng phá hoại bạn của người. Mình được điều tốt điều hay chẳng lấy đó làm vui thích, thấy người khác được khen tặng chẳng ganh hờn. Chẳng hủy báng người trí, chẳng khinh khi người hiền, chẳng buộc tội người, chẳng tìm chỗ dở của người, siêng dạy bảo người chí nguyện cầu đạo Vô thượng. Thưa Bồ-tát Tịch Ý! Đây là Bồ-tát ngôn hạnh tương ưng, tinh thần dũng kiện, công đức báo ứng chỗ làm chắc chắn, lời nói chí thành, thực hành đúng như lời. Giả sử có người đến dưới cây to đứng quan sát rồi hỏi người khác rằng: –Anh biết cây này có bao nhiêu lá chăng? Người đại trí chẳng nhìn cây cũng chẳng đếm số, mà có thể nói đúng số lá như người đã đếm. Đối với đạo đức, người trí chẳng suy lường liền biết số lượng, ở giữa đại chúng nói bày rành rẽ, lời nói của người này cùng người đại trí trước kia đồng nhau không khác. Nếu có người hỏi cát trong sông lớn có bao nhiêu hạt? Nước trong sông lớn có bao nhiêu thăng? Về việc này chỉ bâïc đại Thánh mới biết. Chư Thiên cho đến Trời, Rồng, tám bộ chúng, loài người, đến bậc Thanh văn, Duyên giác đều không biết rõ. Duy chỉ có Phật Thế Tôn mới biết rõ được. Cứ theo đây để quán sát, Đức Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, trí tuệ không thể tính lường, tuyên thuyết vạn ức thanh âm, chúng sinh đều được nghe, đều được hiểu. Thưa Bồ-tát Tịch Ý! Thuở quá khứ có một vị Thần tiên hiệu là Lâu-di thường ở dưới cội cây Nhân hiền, trọn mười hai năm vừa quan sát vừa đếm lá cây. Sau đó có Phạm chí tên Tịch Nhiên đến dưới cây Nhân hiền, thấy Đại tiên ngày đêm quan sát cùng đếm lá cây. Phạm chí hỏi nguyên do. Đại tiên bảo rằng tôi đếm lá cây để biết có bao nhiêu lá. Lúc đó Phạm chí Tịch Nhiên chẳng nhìn cây, chẳng đếm lá mà nói kệ rằng: Có tám ngàn cây Tám ngàn ức lá Cành có chín ngàn Sáu trăm hai mươi Lòng có năm cành Hai trăm năm mươi Nụ có sáu ngàn Sáu trăm sáu mươi. Thánh sư muốn biết Số lá bao nhiêu Đếm theo nhánh cây Số lá phân bố Thì biết rõ ràng. Xin thưa như vậy Đại tiên nếu nghi Xin đếm lại đó. Đại tiên Lâu-di khen ngợi: –Lành thay! Lành thay! Ông nói thật đúng như số lá cây. Ông không tính đếm mà biết rõ số lá cây đúng như của tôi đã từ mười hai năm tính đếm. Xin Phạm chí vui lòng cho tôi biết duyên cớ vì sao chẳng xem, chẳng đếm mà lại biết như tôi đã tính đếm? Phạm chí nói: –Thưa Đại tiên! Chẳng phải người cũng chẳng phải trời giúp tôi. Do tôi chí thành tu tập chánh hạnh, đúng theo đế lý chân thật không phân biệt đấu tranh. Thưa Bồ-tát Tịch Ý! Thần tiên Lâu-di thuở xưa chính là Tôn giả Xá-lợi-phất. Phạm chí Tịch Nhiên là Đức Thích-ca Mâu-ni Thế Tôn hiện nay. Cần phải giữ gìn lời dạy chân chánh tuyệt đối này, trụ nơi pháp trí đúng với pháp nghi. Thưa Bồ-tát Tịch Ý! Nghiệp hạnh Bồ-tát rất vi mật, trí tuệ vô cực vô lượng vô hạn, thuận theo thời nghi mà thị hiện, không thể nói, không thể nghó lường đến được. Thưa Bồ-tát Tịch Ý! Những gì là tâm mật? Tâm niệm thanh tịnh, chẳng mất thần thông, dùng trí tuệ thần thông để tự vui, lúc thị hiện luôn trụ nơi thần thông, hành đại Bi dùng thần thông biến hóa vô số, vô lượng, hiển bày tất cả, ở trong nhà trí tuệ đế lý thần thông, mắt thấy rõ tất cả pháp. Đây là trí tuệ thần thông vô cực chánh chân hiện khắp tất cả của Bồ-tát. Trí tuệ thần thông này hiển hiện các hình tượng, các sắc thân, vẫn không có sắc. Bồ-tát dùng trí tuệ thần thông hiển hiện những thanh âm. Bồ-tát có thể quan sát tất cả tâm niệm tư tưởng của tất cả chúng sinh, theo căn lành của họ mà tùy thời nghi khai hóa, luôn nhớ nghó không bao giờ quên sót. Bồ-tát không quan niệm khứ lai mà hiện thần túc vô ngại đi khắp ba cõi chẳng chướng, chẳng trệ, không chấp trước, không tạo lập. Trí tuệ thần thông của Bồ-tát dứt tất cả hữu lậu. Chỗ thấy biết sâu xa huyền diệu, thị hiện vào sinh tử để độ đời. Trí tuệ thần thông của Bồ-tát siêu việt tất cả hàng Thanh văn, Duyên giác. Ngồi dưới cội Bồ-đề, hàng phục quân ma, thấu hiểu tất cả Phật pháp, thuận theo thời nghi chuyển chánh pháp luân, khai hóa tất cả chúng sinh đưa họ vào luật pháp đến bâïc Nhất sinh bổ xứ. Thưa ngài Tịch Ý! Đây là tâm hạnh thanh tịnh bí mật của Bồ-tát. Nếu tâm chân thật thanh tịnh thì trọn vô trụ vô quy, thường hỷ lạc, an thích điều hòa rốt ráo lành tốt, nhập phổ tuệ Tam-muội, chẳng diệt độ hẳn, chẳng nhàm cõi Dục. Giả sử Bồ-tát sinh trong cõi Dục, vẫn không đắm trước, chẳng bị ràng buộc, chẳng có kết sử. Vì sao? Vì Bồ-tát đã khỏi hẳn tất cả vọng tưởng, sạch trần cấu, không điên đảo, không chấp trước, đã thoát sinh, già, bệnh, chết. Dầu Bồ-tát hiện có sinh mà vẫn không sinh. Bồ-tát trụ nơi Đại thừa để thành tựu tất cả Phật pháp, dùng đây cứu hộ tất cả chúng sinh, mà vẫn chẳng thể nắm bắt, không cứu không hộ, rõ tất cả pháp của chư Phật, tất cả các pháp đều quy về Phật pháp. Tất cả pháp đều là tất cả Phật pháp, tất cả Phật pháp là tất cả pháp, chẳng phải pháp cũng chẳng phải phi pháp. Vì sao? Vì tất cả pháp bản lai chẳng thể nắm bắt, không xứ sở, không số, không lượng. Rõ biết tất cả pháp, vốn không nương tựa tất cả pháp, không cầu không được. Bồ-tát thấy có được, vẫn không có tâm mừng lo, vì không tâm mừng lo nên không chướng ngại, không trụ trước. Vì không trụ trước nên không có tôi ta, vì không tôi ta thì không lãnh thọ, vì không lãnh thọ thì không tranh tụng, vì không tranh tụng thì không loạn động. Không loạn động chính là pháp của bâïc Sa-môn. Tâm Bồ-tát bình đẳng như hư không, chẳng đọa Dục giới, chẳng ở Sắc giới, chẳng trụ Vô sắc giới. Tất cả đều không trụ trước, không khen không chê, vì tất cả pháp đều chẳng thể nắm bắt. Đây là tâm mật của Bồ-tát. Thưa Bồ-tát Tịch Ý! Tâm mật của Bồ-tát thực hành đại từ vì không chấp tôi ta, thực hành đại Bi vì không có chúng sinh, thực hành hoan hỷ vì không có mạng sống, bởi tế độ nên rõ thấu không thọ mạng, thực hành bốn cách bố thí vì tâm không xan lẫn, phụng hành cấm giới vì tâm điều hòa, thực hành nhẫn nhục vì tâm bất động, tu hành tinh tấn vì tư duy tịch tónh, nhất tâm chánh định vì tâm vô trụ, biết rõ Thánh tâm vì không chỗ làm, tu bốn Niệm xứ vì không ý không niệm, thực hành bốn Chánh cần vì tâm hiểu rõ chẳng sinh chẳng diệt, thần túc bay đi vì tâm rộng rãi không ngằn mé, dốc lòng chánh tín vì tâm không trở ngại, nếu tu tinh tấn thì tâm hành vắng lặng, trụ nơi chánh niệm vì tâm hành được tự tại, trụ nơi chánh định vì tâm bình đẳng vô phân biệt, trụ nơi trí tuệ vì tâm không vọng tưởng, thế lực tự tại vì thuận theo nguồn tâm, dùng ý giác sát vì có tuệ phân biệt, phụng hành đạo nghiệp vì tâm không chỗ tưởng, tâm ý vắng bặt vì đạm bạc không suy tư, quan sát nội tâm vì chỗ thấy biết không chấp trước, tu hành Thánh hiền vì hiểu tâm rốt ráo, tâm thường niệm Phật vì trí tuệ sáng suốt, không có vọng tưởng, tâm suy gẫm đại đạo vì chí nguyện vô lượng, thường niệm chánh pháp vì tâm bình đẳng, thường niệm Thánh chúng vì tâm vô trụ dạy dỗ chúng sinh, tâm thường thanh tịnh vì hộ chánh pháp, thuận theo pháp giới vì tâm không biến hoại, thanh tịnh Phật độ vì tâm đồng hư không, đầy đủ tướng tốt vì tâm không phân biệt hình tướng, thường trụ nhẫn nhục vì tâm không điên đảo, trụ bâïc không thoái vì tâm không thoái chuyển, trang nghiêm đạo tràng vì ở trong ba cõi mà tâm chẳng nhiễm ô, hàng phục nghiệp ma vì tâm nhiếp thọ chúng sinh, đem đạo pháp truyền dạy vì tâm bình đẳng hiểu biết tất cả pháp, thường chuyển pháp luân vì pháp không chuyển, tâm không thoái chuyển nơi Niết-bàn, giải thích nguồn sinh tử vì tâm bình đẳng tự nhiên. Thưa Bồ-tát Tịch Ý! Nếu Bồ-tát được Vô sinh pháp nhẫn thì tâm rất vi mật, rất thanh tịnh. Tâm đã thanh tịnh thì hiểu rõ và đi vào tâm thanh tịnh của tất cả chúng sinh. Tâm của chúng sinh vào nơi đạo tâm mà bị chiếu sáng. Như hư không bình đẳng vào khắp tất cả những pháp hữu hình vô hình, đạo tâm vào khắp tâm hành của tất cả chúng sinh cũng như vậy. Lúc Mật Tích Kim Cang lực só diễn thuyết thân, khẩu, tâm mật chẳng nghó bàn của Bồ-tát, có bảy muôn hai ngàn các vị trời, người phát tâm Vô thượng chánh chân, ba muôn hai ngàn Bồ-tát được Vô sinh pháp nhẫn, mười bốn ngàn người xa lìa trần cấu được Pháp nhãn tịnh, tám ngàn Tỳ-kheo tâm ý vô lậu. Liền đó cả đại thiên thế giới chấn động sáu cách, ánh sáng lớn chiếu khắp mười phương, giữa hư không mưa các thứ hoa, các thứ nhạc khí tự nhiên hòa tấu. Trong tiếng âm nhạc diễn ra những lời như vầy: “Những ai nghe được pháp của Mật Tích Kim Cang lực só này diễn nói, nếu có lòng ưa thích kính tin, thì sẽ được thọ ký, sẽ mến thích kinh điển và thọ trì đọc tụng, vì người giảng nói, chẳng thoái đạo tâm, sẽ vun trồng những công đức lành. Những người này đã từng cúng dường vô số chư Phật lợi ích chúng sinh.” Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Tịch Ý: –Ông có nghe những lời diễn nói của âm nhạc đó chăng? Bồ-tát Tịch Ý thưa: –Bạch Thế Tôn! Con nghe rõ. Do oai thần của ai mà có tiếng nhạc như vậy? Phật bảo Bồ-tát Tịch Ý: –Này Tịch Ý! Đó là Lôi Âm Bồ-tát từ nước Vũ thị của Phật Lôi Âm Vương, đến thế giới Ta-bà này để ra mắt đảnh lễ ta, muốn hỏi pháp yếu và muốn nghe giáo pháp bí mật của Như Lai, nên ẩn thân trên hư không rải hoa cúng dường Phật và kinh pháp, cùng làm tiếng âm nhạc nói ra những lời như vậy. Đức Phật dạy vừa dứt tiếng, Bồ-tát Lôi Âm từ hư không hiện thân xuống cúi đầu lễ chân Phật, đi nhiễu Phật bảy vòng ở trước Phật bạch: –Bạch Thế Tôn! Lôi Âm Vương Như Lai kính lời viếng thăm vô lượng, Thế Tôn có đi đứng an lành, ngồi nằm khỏe khoắn không? Đức Phật bảo Lôi Âm Bồ-tát: –Lành thay! Chánh só, ông cố ý đến thăm viếng Như Lai, muốn được nghe kinh pháp bí mật. Hiện nay Mật Tích Kim Cang lực só thừa oai thần của Phật mà tuyên thuyết pháp yếu. Lúc đó, trong đại hội có các Bồ-tát tự nghó: “Mật Tích Kim Cang lực só này chứa nhóm công đức từ đời nào? Phát đạo tâm ở chỗ Đức Phật nào? Phát nguyện như thế nào mà hiện nay được biện tài rộng lớn như vậy?” Đức Phật biết tâm niệm của chúng trong đại hội liền bảo Bồ-tát Tịch Ý: –Về thời quá khứ vô số chẳng nghó bàn kiếp, có Đức Phật hiệu là Vô Lượng Huân Bảo Cẩm Tịnh Vương Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác Thế Tôn, hiện ra nơi thế giới Trang nghiêm trong kiếp Thiện kiến. Cõi nước của Đức Phật ấy đó có oai đức khác thường nhân dân đông nhiều, giàu có an lạc. Mặt đất bằng phẳng, không có cát đá gai góc, thuần là ngọc báu như lưu ly, thủy tinh, minh châu, san hô, hổ phách, xa cừ, mã não. Mặt đất mềm nhuyễn như y phục của chư Thiên, hương thơm ngào ngạt thêm ánh sáng màu rất đẹp. Cỏ mọc tươi tốt mềm dẻo, đi trên đó êm mát như tấm thảm cõi trời. Khí hậu ôn hòa không quá lạnh quá nóng. Người nước đó tánh tình nhân từ hòa nhã, thân, khẩu, ý đều tịch tónh, phiền não mỏng nhẹ, tất cả đều có oai lực tự tại, nghe pháp đều hiểu nghóa. Pháp hội của Đức Phật đó có mười hai ức đại Tỳ-kheo, ba mươi hai ức đại Bồ-tát. Đức Phật đó trụ thế ba mươi sáu ức tuổi. Trong nước Trang nghiêm có bốn thành lớn tên Khoái kiến. Mỗi thành vuông rộng tám mươi muôn dặm, cách nhau bốn trăm dặm. Trong mỗi thành có cả ngàn quận huyện. Thời tiết điều hòa, ngũ cốc sung túc. Nhân dân thân cao bốn dặm. Nơi đại thành Khoái kiến ở bốn mặt lại có các nội thành đều tên Thanh tịnh là nơi vua ngự. Mặt Đông và Tây ngang rộng hai ngàn năm trăm sáu mươi dặm, mặt Nam và Bắc ngang rộng một ngàn hai trăm tám mươi dặm. Mỗi thành có một vạn quận huyện, một vạn khu vườn để du ngoạn vô cùng thanh tịnh do bảy báu hợp thành. Trong thành có Chuyển luân vương hiệu Dũng Quận đầy đủ bảy thứ báu như kim luân, bạch tượng, ngựa xanh biếc, minh nguyệt thần châu, vợ ngọc nữ, chủ tạng thần, chủ binh đại tướng. Vua cai trị cả bốn châu thiên hạ. Vua đã từng cúng dường quá khứ chư Phật phát tâm Vô thượng Bồ-đề, được tâm không thoái chuyển. Ở giữa thành Khoái kiến có một lâu đài rất to lớn, mỗi mặt ngang rộng sáu trăm bốn mươi dặm, do bảy thứ báu tạo thành. Có bảy vòng tường vách vây quanh, bảy lớp đường đi, bảy lớp lụa báu phủ quanh, lại có bảy lớp hào. Trong lâu đài có bốn vườn cây ăn trái trổ hoa xinh tươi. Vườn thứ nhất tên Diệu hoa, vườn thứ hai tên Công huân a, thứ ba tên Sơn hà, thứ tư tên Xuân an. Có bốn chiếc ao đầy nước, mỗi ao ngang rộng hai mươi dặm đều có lan can do bảy báu làm thành. Ao làm bằng tử kim, cát ở đáy ao bằng tử kim lưu ly. Nước tám vị hợp sinh ra hoa báu. Các loại chim thiên nga, uyên ương bơi đùa trong ao. Ao thứ nhất tên là Thí tài, thứ hai tên Thượng quật, thứ ba tên Thượng hương, thứ tư tên Diệu ngự. Có bảy vạn sáu ngàn cung nữ ở trong cung, đều đẹp như ngọc nữ cõi trời, đoan chánh, mỹ lệ vô cùng. Ngọc nữ báu, chánh hậu của vua cũng các cung nữ đều phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Vua có ngàn thái tử đều xinh đẹp, đủ hai mươi tám tướng tốt, sức lực mạnh mẽ, tánh nết nhân hòa, cũng đều phát tâm Bồ-đề. Thuở đó Đức Phật Vô Lượng Huân Bảo Cẩm Tịnh Vương đi đến thành Thanh tịnh. Vua Dũng Quận suốt một ức năm cúng dường Phật và đại chúng Bồ-tát, Thanh văn những y phục, đồ uống ăn, thuốc men, đồ nằm, nhà cửa, giảng đường, tinh xá, cùng vườn tược suối ao. Mỗi vị Tỳ-kheo, vua sai hai người theo hầu hạ. Ngàn vị vương tử thường chí tâm cúng dường Phật và thích nghe kinh pháp, chẳng ưa ái dục, bỏ việc chơi đùa, vì chí tâm chẳng phóng dật, thọ trì kinh điển nên không bao lâu đều được năm thứ thần thông. Khi được thần thông rồi, ngàn vương tử như Ngỗng chúa bay vọt lên hư không tự tại vô ngại, bay khắp tất cả quận huyện, các thành các nước, cho đến bốn châu thiên hạ. Đến đâu các vương tử cũng đều vì đại chúng mà tuyên thuyết kệ rằng: Chư Phật hiện ra đời Lâu xa khó gặp gỡ Sinh làm người thế gian Cũng là rất khó được. Mọi người nên chí thành Đều tin thích nghe kinh Trong trăm ngàn ức kiếp Lại càng khó gặp gỡ. Nay Như Lai Thế Tôn Đã hiện ra trong đời Muốn mọi người được độ Nên nói những kinh pháp. Chúng tôi gần bên Phật Thưa thỉnh được dạy dỗ Cầu trí tuệ sáng suốt Phụng hành lời Phật dạy. Do thọ trì kinh pháp Thoát khỏi các ác thú Được thêm lớn căn lành Ở nơi chỗ rất an. Vì được nghe chánh pháp Tiêu trừ các trần lao Do được tuệ đa văn Nên được chân chánh pháp. Đem pháp đã được nghe Tuyên dương vị cam lộ Do đây hiện điềm lành Đất chấn động sáu cách Tuyên bố cùng trời, người Chư Thiên đồng ca ngợi Đồng thời rải hoa trời Hoa kia đủ các loại. Chúng sinh đều đến hội Số đông chẳng thể lường Đấng Chí Tôn khai hóa Đều được vào Thánh đạo. Đại chúng cúi đầu lạy Nơi chân Đức Thế Tôn Rồi đều đứng chắp tay Cung kính hầu bên Phật. Như Lai Thiên Nhân Sư Thấy rõ lòng đại chúng Tùy thời nghi căn tánh Đem kinh pháp dạy truyền. Tất cả đại chúng kia Được nghe pháp Phật dạy Ba mươi sáu ức người Đồng phát tâm Vô thượng. Lại có ba trăm ức Người nghe chánh pháp âm Thấy rõ tất cả pháp Được Pháp nhãn thanh tịnh. Những người đó đều nhàm Gia nghiệp cùng tục duyên Ở trong pháp hội kia Xuất gia tu học đạo. Lại có vô số chúng Ức tỉ triệu muôn người Đến pháp hội nghe kinh Quy y làm Tín só. Sau khi nghe kinh pháp Cúi đầu lạy chân Phật Đồng chắp tay từ biệt Lễ Phật trở về nhà. Này Tịch Ý! Các vị vương tử đó cùng Chuyển luân vương xây dựng lầu đài bằng gỗ chiên-đàn, rộng lớn thanh tịnh trang hoàng cực đẹp. Cửa nẻo đều bằng châu báu. Vua cho đốt một thăng gỗ thơm ngưu đầu chiên-đàn, mùi hương bay khắp thiên hạ. Tòa lâu đài bằng gỗ ngưu đầu chiên-đàn ấy vô cùng to lớn, suốt bốn trăm dặm đều được trang hoàng hiện sức thần oai, nguy nga đồ sộ. Ở bốn phương chánh, bốn góc, bốn trụ đều an ổn, bằng phẳng an ổn, không tạp loạn. Vì muốn đến nghe pháp với Đức Phật Vô Lượng Huân Bảo Cẩm Tịnh Vương, nên vua Dũng Quận khuyên bảo quyến thuộc trong cung cùng đại thần bá quan và nhân dân già trẻ. Mọi người nên biết rằng thân người khó được gặp Phật ra đời lại càng khó, nay chúng ta nên đến lễ kính Đức Phật để được nghe kinh pháp. Nhà vua cùng các vương tử, phu nhân, thể nữ, các quan và nhân dân vào ngồi trên tòa được trang sức bởi trăm ngàn thứ báu trong lầu hương, trổi nhạc đàn ca, đồng đem theo nhiều thứ hoa hương, y phục, tràng phan, bảo cái để cúng dường Phật. Tất cả đều giữ tâm ý nhân hòa. Lầu hương như chim phụng hoàng bay lên hư không đến chỗ Phật ngự. Khi đến đại hội lầu hương bay nhiễu Phật bảy vòng rồi dừng lại một phía. Vua Dũng Quận cùng đại chúng ra khỏi lầu hương đến lễ chân Phật và lễ Thánh chúng, nhiễu Phật bảy vòng, rồi ở trước Đức Phật bạch: –Bạch Thế Tôn! Từ lâu chúng con đã được nghe tiếng Phật, nhưng vì việc nước quá nhiều dần dà đến ngày nay mới được và pháp hội thấy dung nhan Phật. Lòng chúng con không xiết hổ thẹn tự trách lấy mình. Ngưỡng mong Đức Đại Từ lượng tình thương xót. Đức Phật Vô Lượng Huân Bảo Cẩm Tịnh Vương thấy vua cùng quyến thuộc đều có lòng thành thật muốn nghe pháp liền thuận theo tâm bệnh của họ mà ban tuyên chánh pháp. Đức Phật dạy: –Này Đại vương! Muốn học Đại thừa chẳng trái Thánh đạo phải thực hành bốn điều. Bốn điều ấy là gì? Một là hết lòng tin Tam bảo, phụng thờ các bâïc Hiền thánh, những điều chẳng nên làm phải tránh xa. Hai là chí tâm nghe kinh pháp, nghe rồi thọ trì. Ba là bỏ tánh kiêu căng ngạo mạn, nhất tâm cung kính các bâïc Hiền thánh. Bốn là tinh tấn nhiếp thân, khẩu, ý thực hành hạnh lành. Nếu Đại vương thuận theo bốn điều trên thì có thể tu học Đại thừa chẳng trái Thánh đạo. Này Đại vương! Lại có bốn điều cần phải giữ gìn chớ phóng dật. Bốn điều ấy là gì? Giữ gìn sáu căn thấy hoại hại của ái dục, hiểu tất cả thọ và tưởng, biết rõ vô thường, do nghiệp nhân mà có mạng căn. Này Đại vương! Bồ-tát lại có bốn việc mà đạo pháp được sinh. Bốn điều ấy là gì? Một là chẳng bỏ đạo tâm. Hai là cũng khuyên người khác phát tâm. Ba là chứa nhóm cội công đức để giúp đạo tâm, những pháp được nghe hiểu thấu nghóa lý. Bốn là với tất cả Đế Thích, Phạm vương, Tứ Thiên vương, cho đến bâïc Thanh văn, Duyên giác đều đem giáo pháp Đại thừa rộng lớn khuyến hóa tất cả. Này Đại vương! Do đây nên phải thường không phóng dật, kính tin Tam bảo, ưa thích nghóa lý của vô lượng đạo pháp, luôn thọ trì chánh pháp, vui nơi chánh pháp. Nếu tinh tấn tìm cầu đạo pháp, thì Đại vương chẳng còn tham ưa những trần cảnh. Vì sao? Đại vương nên biết rằng tham dục không có thời gian nhàm đủ, như người uống nước mặn càng uống càng khát. Gặp được bâïc Hiền thánh khai thị mới biết hạn chế tham dục, mạng người rất ngắn vui ít, khổ nhiều, có sinh tất có tử phải biết đời sau, luôn lo sợ cho tâm ý ở vị lai. Nay Đại vương cúng dường Như Lai, do công đức này được bốn điều lợi ích: Một là đời đời giàu có đầy đủ; hai là công đức phước báo không cùng không tận; ba là được tuệ sáng suốt vô lượng; bốn là biện tài vô ngại. Lại sẽ được bốn điều lợi ích: nơi thân thực hành những nghiệp công đức thanh tịnh, lời nói thanh tịnh đúng cấm giới, tâm niệm thanh tịnh học rộng không nhàm, được trí tuệ sáng suốt thanh tịnh. Lại có bốn điều lợi ích: Một là phương tiện khéo léo tu hạnh thanh tịnh dạy bảo chúng sinh vào nơi trí tuệ; hai là dùng nghiệp thanh tịnh hàng phục quân ma; ba là thệ nguyện thanh tịnh việc làm tương ưng với lời nói, tất cả các Phật pháp đều thanh tịnh; bốn là chứa nhóm công đức được gặp chư Phật. Vua Dũng Quận sau khi nghe Đức Phật dùng tuệ phân biệt giảng nói nghóa lý sâu xa trong kinh, lòng vua vui đẹp liền cởi chuỗi ngọc kết bằng trăm ngàn trân bảo anh lạc đang đeo nơi cổ dâng lên cúng dường Phật. Vua thọ năm giới trọn đời tu tập phạm hạnh. Phu nhân và thể nữ của vua nghe Phật thuyết pháp cũng đều vui vẻ tâm ý nhu hòa không bị ràng buộc, đồng cởi chuỗi ngọc châu báu đeo trên thân để cúng dường Phật. Phu nhân và thể nữ xin vua cho được xuất gia làm Sa-môn suốt đời tu phạm hạnh. Vua liền cho phép. Lúc đó vua Dũng Quận vâng nhận pháp vô cực, được pháp tài xong liền lạy chân Phật đi nhiễu bảy vòng, rồi cùng các thể nữ, bá quan vào lầu hương, bay lên hư không trong giây lát bay về nước Thanh tịnh. Đến ngày rằm trăng tròn, nhà vua cùng quyến thuộc trong cung vào vườn hoa trổi nhạc đờn ca. Hai vị chánh phu nhân, một vị tên Bất Hành Bộ, một vị tên Vô Hư Tổn, sau khi tắm gội dùng hương thơm xông ướp y phục ngồi trên giường báu, tự nhiên có hai hài đồng hiện ra ngồi kết già trên gối của mỗi phu nhân. Hai hài đồng này dung nhan xinh đẹp đủ hai mươi tám tướng tốt. Đồng thời trên hư không có trăm ngàn chư Thiên cất tiếng khen rằng: Hai vị hài đồng này một tên Pháp Ý, một tên Pháp Niệm, đều sẽ tu hành Thánh pháp. Pháp Niệm hài đồng ngồi trên gối của phu nhân Bất Hành Bộ, Pháp Ý hài đồng ngồi trên gối của phu nhân Vô Hư Tổn. Hai vị hài đồng đồng cất tiếng nói kệ rằng: Nếu ai giữ thân mình Phát được tâm Bồ-đề Những bâïc Học só ấy Tạo nên phước đức lành. Những người này từng gặp Đức Như Lai ra đời Thường có lòng vui mừng Nhất tâm cúng dường Phật. Vì sự nghiệp thần thông Sớm được Phật cứu độ Tiêu hết vòng sinh tử Chứng tịch diệt vô sinh. Nếu phát tâm Bồ-đề Giữ bền không quên mất Vì cứu độ chúng sinh Phá hoại vòng sinh tử. Ở thế giới Thượng phương Cách đây vô lượng cõi Thế giới kia có Phật Danh hiệu là Thời Tiết. Chúng tôi từ cõi ấy Muốn nghe pháp đến đây Muốn thấy Phật Công Huân Cùng quốc độ của Phật. Lúc ấy hai hài đồng Rời gối mẹ xuống đất Cùng nhau tiến lên đường Đến chỗ Đức Thế Tôn. Cúi đầu lễ chân Phật Một bên ngồi chắp tay Bốn phương nói Phật đức Nên lại muốn nghe kinh. Phật pháp rất khó gặp Nghe nhận lại khó hơn Vì được nghe pháp ấy Nên thưa Bậc Thắng Nhân Chí thành theo Phật đạo Nghiệp chánh chân vô thượng Đạo pháp của chư Phật Là rất khó được gặp Người ưa mến nghóa kinh Cũng lại khó gấp bội! Hôm nay được nhàn rảnh Cùng thân hữu chuộng pháp Tùy thuận theo pháp tắc Phụng kính tin pháp giáo Càng mộ càng tinh tấn Sở hành không phóng dật. Vì được làm Sa-môn Nơi nhàn cư như thế Thường niệm trụ như thế Của ấy thật vô lượng. Tâm hổ thẹn thường mang Biết nghe rộng khó gặp Tâm Từ đầy đủ khắp Thương nghó mọi chúng sinh Nếu đạt được pháp sâu Thì pháp nhẫn mới có. Kể mọi uy thế mạnh Tâm đó không khiếp nhược Cứu độ mọi chúng sinh Khai hóa tất cả khó. Nếu ở chỗ một mình Tạo nghiệp không xiết nghó Vì không tham thân mình Thọ mạng cũng như vậy. Học cấm giới không chán Luôn nghó đến đạo pháp Do đó được hiểu rõ Và được công huân trên. Nếu học được như thế Là bậc nhất khó gặp. Nghiệp của Pháp vương ấy Thật là không gì hơn. Yếu nghóa các pháp ấy Báo ứng rất đầy đủ Chúng ta nên đến đó Thánh an ở chỗ Phật. Các bậc minh trí kia Thọ đạo hạnh Bồ-tát Phụng hành pháp thanh bạch Để dùng tuyên bố giáo. Tùy thời mà nhàn tónh Chứng được năm thần thông Nhân biết ấy mà nghó Tu hành pháp đạm bạc. Vua cùng hai thái tử Và phu nhân, thể nữ Đều là bậc trí sáng Thực hành Bồ-tát đạo Dùng tuệ thông đã đạt Kinh hành trong hư không Đi đến chỗ Thế Tôn Công huân trí như biển Cúi đầu lễ chân Phật Quy y Nhân Trung Tôn. Tất cả đều hòa đồng Cùng đến chắp tay lễ. Pháp Ý hỏi Phật trước Thay cho tất cả chúng: Chỉ xin Đại Thánh Tôn Vì con nói đạo pháp. Tối thắng biết chúng con Trong tâm chỗ nghó gì Xin vì phân biệt nói Pháp nghóa thật sâu xa. Tất cả các pháp ấy Đều từ nhân duyên khởi Tất cả vốn vô chủ Đều do nhân duyên sinh. Trong thì chẳng có thật Ngoài thì làm gì có? Tất cả các pháp ấy Khác nào như hư không? Vì xét được gốc ngọn Vô tác thấy thanh tịnh. Cũng như hư không kia Không thể giữ nó được? Phật dùng nhiều phương tiện Vì chúng sinh tuyên thuyết Phân biệt nói pháp ấy Chỗ sâu xa chánh chân. Bảy mươi sáu hài đồng Và hai ức tỉ chúng, Nhất thời đều được thành Pháp nhẫn rất nhu thuận. Lúc đó Chuyển luân thánh vương Dũng Quận cùng các thái tử và quyến thuộc vạn dân trọn bảy ngày đêm nhiễu Phật cúng dường, lễ tạ Phật đồng trở về cung. Một hôm vua Dũng Quận ngồi một mình an ổn trên lầu đài Thanh tịnh tự nghó: “Các con của ta đều phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Nay nên thử xem vương tử nào sẽ chứng đạo Vô thượng trước nhất.” Nhà vua bèn bảo thợ làm bình bằng bảy báu để trên đài cao bốn mươi chín thước. Nhà vua truyền ngàn thái tử mỗi người biên danh hiệu mình trên thẻ bằng bảy báu để vào bình. Mọi người trọn bảy ngày đêm dùng các hương hoa cúng dường bình bảy báu. Qua bảy ngày nhà vua đem bình bằng bảy báu ấy để trên án vàng bảo ngàn thái tử rút thẻ. Lúc đó thái tử Tịch Ý được thẻ đệ nhất, cùng lúc ấy cả đại thiên thế giới chấn động sáu cách, tất cả kỹ nhạc tự nhiên hòa tấu. Thuật đến đây, Đức Phật bảo Bồ-tát Tịch Ý: –Này thiện nam! Thái tử Tịch Ý, con của nhà vua Dũng Quận thuở quá khứ kia chính là Đức Câu-lưu Tôn Như Lai. Thái tử kế hiệu Ly Danh chính là Đức Câu-na-hàm Mâu-ni Như Lai. Thái tử thứ ba tên Tịch Căn chính là Đức Ca-diếp Như Lai. Thái tử thứ tư tên Nhất Thiết Khổ Lợi chính là thân của ta, Thích-ca Mâu-ni Phật hiện nay. Thái tử thứ năm tên Vũ Thất chính là Đức Di-lặc Như Lai. Thái tử thứ sáu tên Minh Nguyệt Châu Phục sẽ thành Phật hiệu là Sư Tử. Thái tử thứ bảy sẽ thành Phật tên là Diệu Anh. Thái tử thứ tám tên Hiền Thị sẽ thành Phật hiệu là Cúng Dường. Thái tử thứ chín tên Quang Thủ sẽ thành Phật hiệu là Diệu Hoa. Thái tử thứ mười tên Liên Hoa sẽ thành Phật hiệu là Phụng Dưỡng. Thái tử mười một tên Ly Cấu Quang sẽ thành Phật hiệu là Thiện Mục. Thái tử thứ mười hai tên Binh Thị sẽ thành Phật hiệu là Khoái Tỳ. Thái tử thứ mười ba tên Ý Diệu sẽ thành Phật hiệu là Diễm Quang. Thái tử thứ mười bốn tên Tịnh Phục Tịnh sẽ thành Phật hiệu là Diễm Vị. Thái tử thứ mười lăm tên Phú Huân sẽ thành Phật tên là Vô Thoái Một. Thái tử thứ mười sáu tên Ly Cấu Tịnh sẽ thành Phật hiệu là Chấp Đức. Thái tử thứ mười bảy tên Kiên Cường sẽ thành Phật hiệu là Bảo Sự. Thái tử thứ mười tám tên Bảo Xưng sẽ thành Phật hiệu là Vô Khâm Thế. Tuần tự như vậy lần lần đến vị Thái tử rút được thẻ thứ chín trăm chín mươi chín, sau đây sẽ thành Phật hiệu là Vô Lượng Đức Bảo Xưng. Thái tử tên Ý Vô Lượng rút được thẻ cuối cùng sẽ thành Phật thứ một ngàn trong một ngàn Đức Phật ở hiền kiếp này hiệu là Lâu Do Như Lai. Này Tịch Ý! Sau khi rút thẻ, ngàn thái tử cùng nhau vui cười và nói rằng sau này tôi thành Phật, sẽ hàng phục quân ma, chuyển đại pháp luân, cứu độ vô lượng chúng sinh. Lúc đó thái tử Ý Vô Lượng thấy mình rút được thẻ sau rốt, sẽ thành Phật cuối cùng, trong lòng sầu não tự gieo mình xuống đất lập thệ rằng: “Đạo pháp của chư Phật chẳng thể nghó lường, chúng sinh giới cũng là vô hạn, chí nguyện của tôi cũng chẳng nghó bàn. Tôi nguyện khi các anh tôi thành Phật giáo hóa đệ tử, thọ mạng dài ngắn, Sa-môn Thánh chúng nhiều ít, lúc tôi thành Phật cũng đồng như vậy. Nếu lời nguyện của tôi trên đây sau này được đúng như vậy, xin cõi đại thiên vì tôi mà hiện điềm lành.” Thái tử Ý Vô Lượng vừa lập thệ xong, đại thiên thế giới liền chấn động sáu cách, trời rưới các thứ hoa, tất cả nhạc khí tự nhiên hòa tấu. Giữa hư không có tiếng khen rằng: Sẽ được như nguyện, về sau này thành Phật hiệu là Lâu Do Như Lai Đẳng Chánh Giác. Này Tịch Ý! Vì sao tên của Đức Phật ấy là Lâu Do? Bởi vì Thái tử lúc ấy sầu não tự gieo mình xuống đất và lập thệ nguyện. Do việc ấy nên hiệu của Đức Thế Tôn ấy là Lâu Do. Thái tử Ý Vô Lượng sau khi phát nguyện, liền nói kệ rằng: Đạo pháp của chư Phật Đồng như cõi hư không Ý giác dường như huyễn Chúng sinh giới vô tận. Phát nguyện hiện điềm lành Giới cấm thành thanh tịnh Các ngài nên lóng nghe Lời thệ nguyện của tôi. Tập họp chư nhân giả Tuổi thọ lượng bao nhiêu Chư Phật Đại Thánh vương Tất cả đều thấy rõ. Thọ mạng của chư Phật Cùng với tôi không khác. Thành Phật tên Lâu Do Chúng Tỳ-kheo cũng vậy Không ít hơn Phật khác Nên tuyên nói lời đó. Chư Thiên giữa hư không Cất tiếng vui nói kệ: Bậc thanh tịnh hiện nay Thệ nguyện tất sẽ thành Vì tất cả chúng sinh Nên lập thệ nguyện lớn. Đức Phật bảo Bồ-tát Tịch Ý: –Ông có biết thái tử Ý Vô Lượng ấy không? Bồ-tát Tịch Ý thưa: –Bạch Thế Tôn! Không. Đức Phật nói: –Này Tịch Ý! Vương tử Ý Vô Lượng sẽ là vị Phật cuối cùng trong hiền kiếp hiệu Lâu Do Như Lai. Này Tịch Ý! Ông xem các Bồ-tát thiện quyền phương tiện, thành tựu giới hạnh phát nguyện rộng lớn đi khắp trong ba cõi không lúc nào ngừng nghó. Lâu Do Như Lai riêng một mình giáo hóa chúng sinh cùng ngàn Phật ra đời chỗ độ chúng sinh đồng nhau không khác. Này Tịch Ý! Hai vị vương tử nhỏ hơn hết trong ngàn vị vương tử tự lập thệ nguyện. Vương tử Pháp Ý nguyện rằng: “Lúc các vương huynh thành Phật, tôi sẽ làm Kim cang lực só luôn giữ oai nghi gần gũi bên Đức Phật, quan sát tất cả pháp bí yếu của chư Như Lai, được chư Như Lai giao phó, rộng nghe tất cả pháp bí mật quan trọng của chư Phật, tin tưởng ưa thích không có nghi ngờ.” Vương tử Pháp Niệm phát nguyện rằng: “Lúc các vương huynh thành Phật, tôi sẽ là người thỉnh mời và hỗ trợ chư Phật chuyển pháp luân.” Này Tịch Ý! Ông có biết Chuyển luân thánh vương Dũng Quận là ai không? Bồ-tát Tịch Ý thưa: –Bạch Thế Tôn! Không. Đức Phật hỏi: –Này Tịch Ý! Vua Dũng Quận là tiền thân của Đức Định Quang Như Lai. Ngàn vị vương tử là tiền thân của ngàn Đức Phật trong hiền kiếp, từ Phật Câu-lưu-tôn thứ nhất đến Phật Lâu Do thứ một ngàn. Vương tử Pháp Ý chính là Mật Tích Kim Cang lực só đây. Vương tử Pháp Niệm hiện nay là Phạm thiên Thức Kỳ. Phu nhân, thể nữ trong cung vua thuở trước là những người đến dự pháp hội hôm nay. Những người ngày trước được các vương tử khuyên xuất gia làm Sa-môn và những người được các vương tử giáo hóa, trong hiền kiếp này họ sẽ lần lượt được thọ ký thành Phật. Này Tịch Ý! Ông hãy quán sát pháp mười hai duyên khởi không loạn, do công đức thuở trước nên được quả báo ứng. Các Bồ-tát chí thành phát tâm công đức không bao giờ mất. Các Bồ-tát sẽ được đầy đủ mười trí lực viên mãn hạnh nguyện của mình. Do đây nên có Bồ-tát nào muốn được sớm thành Phật phải học đòi theo hạnh nguyện của ngàn vương tử Bồ-tát, siêng năng phụng hành Phật đạo. Những gì là Phật đạo? Chẳng nên có tâm tổn hại chúng sinh, thêm lớn lòng Từ thực hành sáu Độ, thường tu phạm hạnh tu tập bốn ân, thực hành các phẩm trợ đạo đầy đủ thần thông, phương tiện quyền xảo để trọn nên cội công đức. Các hạnh trên đây chính là Phật đạo. Này Tịch Ý! Đạo đó tâm thanh tịnh thì thấu đạt bản tánh. Đạo đó hòa nhã chí ý an ổn. Đạo đó chất phác mà không dua nịnh. Đạo đó rộng khắp không chỗ chướng ngại. Đạo đó bình đẳng không có sự bè đảng thiên lệch. Đạo đó vô úy chẳng phạm các điều ác. Đạo đó giàu có Bố thí ba-la-mật-đa. Đạo đó đầy đủ Giới ba-la-mật-đa. Đạo đó chẳng tranh luận được, là Nhẫn ba-la-mật-đa. Đạo đó lìa chấp trước, là Tinh tấn ba-la-mật-đa. Đạo đó không tán loạn, là Thiền định ba-la-mật-đa. Đạo đó khéo quyết trạch, là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Đạo quy về nơi trí tuệ của mình, phụng hành đức đại Từ. Đạo đó chẳng có ý tà vạy, đến nơi đại Bi. Đạo đó cảm thọ vui vẻ, thực hành lòng đại Hỷ. Đạo đó trụ nơi vi diệu đến bâïc đại Xả. Đạo đó trừ các khổ não, diệt bỏ những vọng tưởng tham hại, sân hận. Đạo đó đến chỗ an lành, không có lòng nguy hại. Đạo đó giáo hóa kẻ khó điều phục, dứt trừ sự đắm mê nơi sắc, thanh, hương, vị, xúc. Đạo đó hàng phục ma vương cùng quyến thuộc của ma khiến họ bỏ tâm ngạo mạn và trừ dẹp những giặc oán thù. Đạo đó tiêu trừ các ấm các nhập, không chỗ chấp trước. Đạo đó bỏ việc ma, ở trong trần lao mà được tự tại. Đạo đó đem tâm hướng về Vô thượng, lìa tâm niệm Nhị thừa. Đạo đó huân tập các công hạnh thành trí giác bình đẳng. Đạo đó ngự nơi tòa báu lớn, tùy thuận Nhất thiết trí. Đạo đó thường phân biệt, trí tuệ sáng suốt vô ngại. Đạo đó nêu bày hạnh lành thâu nhiếp các bạn lành. Đạo đó bỏ hầm hố, tiêu trừ các kết sử. Đạo đó bỏ trần lao vượt khỏi sự sân hận tranh đấu. Đạo đó về nơi an ổn hết những điều quấy ác. Đạo đó về nơi cát tường, hướng đến nghiệp Niết-bàn. Trên đây là Bồ-tát thực hành ba mươi hai điều Phật đạo. Trụ nơi Phật đạo này, Bồ-tát sẽ được mau thành quả Vô thượng Bồ-đề. KINH ĐẠI BẢO TÍCH <卷 id="86423664">QUYỂN 10 Hán dịch: Đời Tây Tấn, Tam tạng Pháp sư Trúc Pháp Hộ. <詞 id="86423665">Pháp hội 3: MẬT TÍCH KIM CANG LỰC SÓ (Phần 3) Lúc bấy giờ Bồ-tát Tịch Ý lại hỏi Mật Tích Kim Cang lực só: –Đức Như Lai có bao nhiêu pháp bí yếu? Những pháp bí yếu của Như Lai, tất cả hàng Thanh văn và Duyên giác chẳng thể hiểu được, nói gì đến kẻ phàm phu là hạng mê tối. Lành thay! Ngài Mật Tích, xin ngài vui lòng ban tuyên những pháp bí yếu của Đức Như Lai. Tất cả chúng hội đều muốn được nghe. Mật Tích Kim Cang lực só nói: –Thưa Bồ-tát Tịch Ý! Lắng nghe cho kỹ và khéo suy nghó ghi nhớ. Nay tôi sẽ trình bày bí yếu của Như Lai, có ba sự: Một là thân bí mật, hai là khẩu bí mật và ba là ý bí mật. Sao gọi là thân bí mật? Ở nơi thân, Đức Như Lai không tưởng nghó cũng không nhớ đến mà hiện đủ tất cả oai nghi lễ tiết. Nếu có hàng trời hay người tự thích kinh hành, lúc thấy Đức Như Lai kinh hành, họ tự nghó rằng Đức Như Lai Thế Tôn là trên hết. Những người và trời ấy liền thấy thân mật của Đức Như Lai. Tâm Đức Phật không hề suy nghó mong mỏi mà tất cả chúng sinh nhìn thấy oai nghi diệu đức chí chân của Đức Như Lai. Nếu có hàng trời hay người thích ngồi, thì họ thấy Đức Như Lai ngồi. Nếu có hàng trời hay người thích nằm, thì họ thấy Như Lai nằm. Nếu thích nghe kinh, thì họ thấy Đức Như Lai thuyết kinh. Nếu thích yên lặng, thì họ thấy Đức Như Lai im lặng. Nếu thích thiền định, thì họ thấy Đức Như Lai nhập Tam-muội. Nếu có hàng trời hay người mắt nhìn chẳng nháy, thì họ thấy mắt của Như Lai chưa lúc nào nháy. Hoặc hạng ý tự tại có người thích ánh sáng, thì họ thấy Đức Như Lai có ánh sáng vô ngại. Có người thích màu tử kim, thì họ thấy màu vàng tử ma. Hoặc có hàng trời hay người thích màu bạc, màu thủy tinh, màu lưu ly, màu mã não, màu xa cừ, màu hoàng kim, màu trân châu, các màu trắng, đỏ, vàng, hồng, tía, màu trăng sáng, màu châu ngọc, màu lửa, màu sáng mặt trời, màu Tứ Thiên vương, Đế Thích, Phạm vương, A-tu-la tạp loạn, hoặc màu trung phần, màu hoa Tu-di, hoặc có người nghó tưởng màu vi diệu, màu dược hình, màu bích ngọc, màu hoa vô ưu, màu hoa chiêm-bặc, màu hoa tư-di, màu hoa sen xanh, màu hoa sen vàng, màu hoa sen hồng, màu hoa sen trắng, hoặc có người rõ màu trời Đao-lợi, màu dung nhan của Tỳ-sa-môn vương, thân hình Tứ Thiên vương, các vị thủ tạng: Thanh đế, Hoàng đế, Xích đế, Bạch đế hoặc màu của hư không thanh tịnh. Hoặc hàng trời hay người tâm chí vô lượng, phẩm sắc đều riêng khác, thì họ cũng thấy Đức Như Lai có bao nhiêu những màu sắc phẩm lượng công đức. Thưa Bồ-tát Tịch Ý! Như vậy, giả sử tất cả chúng sinh nhiều vô số trong hằng sa thế giới, những loài có mạng sống luyến ái lẫn nhau, sinh sản lẫn nhau, đều hết tội ác được có thân người từ tư tưởng mà sinh. Giả sử một người trong số đó chỗ sinh ra cũng như tất cả chúng sinh kia, Đức Như Lai cũng thấy họ có bao nhiêu phẩm sắc oai nghi lễ tiết và chỗ ưa thích trong lòng họ chẳng thể hạn lượng, đều muốn xét biết hết ngôn hành bổn mạt của họ và do nhân duyên này, Đức Như Lai Chí Chân đều riêng hiện hình tượng Phật oai nghi lễ tiết ngôn hành ở nơi chúng sinh ấy. Cũng như một người tâm được giải thoát, chẳng cùng người thứ hai chung đồng, muốn tuyên bày tâm thật được giải thoát cho đến nơi đạo. Chỉ Như Lai chí chân mới có thể làm vui đẹp lòng tất cả chúng sinh. Vì vui đẹp lòng chúng sinh mà Như Lai hiển thị sắc tượng oai nghi lễ tiết, về ngôn hành cũng như vậy. Thưa Bồ-tát Tịch Ý! Ví như tấm gương sáng, tùy đem hình sắc gì đến soi, thì hiện hình sắc ấy chẳng mất, chẳng sai, chẳng biến đổi. Gương sáng soi hình vẫn không có tưởng niệm. Cũng như vậy, Như Lai dầu đem chánh pháp cứu tế tất cả chúng sinh mà không có tưởng niệm, không tâm lợi dưỡng, có thể làm cho lòng chúng sinh vui đẹp. Tùy theo pháp cạn sâu cao thấp để khai hóa độ thoát ba cõi mê hoặc. Đây là thân hành bí yếu của Đức Như Lai. Mật Tích Kim Cang lực só lại bảo Bồ-tát Tịch Ý: –Bí yếu của Như Lai cũng chẳng phân biệt các ấm, các nhập, không quy theo tội phước, không sinh trần lao, không thành phụ mẫu, không phải bào thai nơi bốn đại, cũng không có thịt xương, công đức được nghe không đọa theo hương hoa, đều không sở hữu, chẳng thuộc nơi sắc, không thở ra hít vào, thọ mạng diệt hết. Muốn biết thân Phật, thì chính là Pháp thân. Thân không hình sắc, không các vọng tưởng. Thân sắc tướng Phật được hiện ra đó, là vì chúng sinh ham ưa xinh đẹp, cầu ngôi tôn quý mà hiện hình tướng ấy ra cho mắt họ được thấy. Pháp tướng vốn vắng bặt, vì khiến tất cả chúng sinh kính mộ trí tuệ, có ý hướng Thiên nhãn nên Đức Phật hiện tướng. Thưa Bồ-tát Tịch Ý! Nếu có các chúng sinh ở chung một pháp hội thì đều riêng thấy thân Phật. Có người do ý duyên nên họ thấy Phật ở xa, ngó lại chỗ cũ họ chẳng thấy Phật ở chỗ cũ. Thấy Phật ở xa mà chẳng thấy ở chỗ cũ ấy là vì không có ý duyên vậy. Người ngó dùng loạn ý để duyên thì chẳng thấy. Nếu đem thân mình để suy xét sự thấy ấy, vì bận thấy người khác nên chẳng thấy thân mình. Người ngủ chiêm bao thấy cảnh vật, sau khi thức thì không còn thấy. Những cảnh thấy trong định, lúc xuất định không còn thấy. Những cảnh thấy lúc thường, lúc nhập định không còn thấy. Những cảnh thấy nơi rỗng không yên tónh, lúc chẳng yên tónh thì chẳng thấy. Ở nơi rỗng không yên tónh thì không gì chẳng thấy. Sự thấy ấy không tạo tác, rời nơi không tạo tác thì không chỗ thấy. Nếu rời nơi không tạo tác mới có chỗ thấy, thì là không thấy tất cả vậy. Thưa Bồ-tát Tịch Ý! Thân Phật ấy từ vô số sự đều theo duyên mà hiển hiện thấy khác hoặc thân sắc của Phật, thân sắc oai nghi tịch tónh như chư Thiên mà tự tâm được định rồi sau đó lại loạn. Thân Phật ấy không có ngằn mé, cũng không giới hạn, không ngăn ngại, không vọng tưởng, chẳng thể tưởng được, chẳng thể hạn định được. Thân Phật ấy không có ngần ấy hình tượng, không có chỗ nào chẳng cùng khắp. Ví như hư không, chẳng có vọng tưởng. Cũng vậy, thân Phật vónh viễn không tư tưởng. Ví như hư không vào khắp tất cả hình sắc. Cũng vậy, thân Phật khắp soi tất cả chúng sinh. Ví như hư không khắp vào các sắc, cùng khắp trong ấy. Cũng vậy, thân Phật soi khắp chúng sinh, không chỗ nào chẳng thấy. Ví như hư không, trưởng dưỡng tất cả cỏ cây trăm giống lúa. Cũng vậy, thân Phật chí chân nuôi lớn tất cả cội công đức. Ví như hư không chẳng kể là thường hay vô thường, cũng không có ngày đêm. Cũng vậy, thân Phật chẳng thường, chẳng vô thường, chẳng ai thấy được đỉnh đầu Phật. Thưa Bồ-tát Tịch Ý! Đức Phật Thế Tôn hiện khắp trên cõi trời và trong thế gian. Ma vương và Phạm thiên không ai dám đối diện với Phật để xem đỉnh đầu Ngài. Chúng Trời, Rồng, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân, cho đến bâïc Thanh văn, bâïc Duyên giác cùng các Bồ-tát không ai kham nhiệm thấy được đỉnh đầu Phật. Do đâu biết được như vậy? Sau khi thành đạo, Đức Phật đến thành Ba-la-nại chuyển pháp luân. Lúc ấy, ở phương Đông cách đây rất xa có thế giới tên Hoài điều, Phật cõi ấy hiệu Tư Di Hoa. Trong thế giới Hoài điều ấy có một vị Bồ-tát tên là Ưng Trì đến cõi Ta-bà này để kính cẩn cúng dường Đức Phật và thưa hỏi. Bồ-tát Ưng Trì lễ chân Đức Phật rồi đi nhiễu bảy vòng, xong ngài đứng lại trước Đức Phật. Lúc ấy Bồ-tát Ưng Trì nghó: “Ta muốn đo biết thân lượng của Như Lai.” Bồ-tát Ưng Trì liền tự biến thân mình cao ba trăm ba mươi sáu muôn dặm, nhìn lên thân Đức Phật thấy cao năm trăm bốn mươi ba muôn triệu cho đến hai muôn ức dặm, liền tự nghó: “Ta đã được thần túc thông tự tại, ta lại đo lường thân Đức Phật cao lớn thế nào?” Nương oai đức của Phật, Bồ-tát Ưng Trì dùng thần túc bay lên phương trên cách đây trăm ức hằng hà sa quốc độ, đến thế giới Liên hoa nghiêm, cõi ấy có Phật hiệu Liên Hoa Thượng, là Đấng Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác hiện đang thuyết pháp. Bồ-tát Ưng Trì dừng lại nơi ấy nhìn ra xa vẫn không thấy được đỉnh đầu của Đức Thích-ca Mâu-ni Phật, chẳng biết được thân Phật cao lớn rộng xa bao nhiêu. Lúc ấy Bồ-tát Ưng Trì đến đảnh lễ Đức Phật Liên Hoa Thượng đi nhiễu ba vòng, ở trước Phật bạch: –Bạch Thế Tôn! Con từ cõi Ta-bà đến đây, chẳng rõ xa gần bao nhiêu? Đức Phật Liên Hoa Thượng nói: –Cõi Ta-bà cách đây trăm ức hằng hà sa thế giới, ông từ cõi ấy mà đến đây. Bồ-tát Ưng Trì thưa: –Bạch Thế Tôn! Con bay lên trên đến ngần ấy thế giới mà vẫn chẳng thấy được đỉnh đầu của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni. Chẳng rõ thân Đức Phật ấy cao lớn bao nhiêu trăm ngàn ức hằng hà sa thế giới? Đức Phật Liên Hoa Thượng nói: –Này thiện nam! Ông dùng sức thần túc từ đây lại bay lên trên trải qua hằng hà sa kiếp vẫn còn chẳng thấy được đỉnh đầu Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, cũng chẳng biết được ngằn mé của thân Phật ấy. Này thiện nam! Phải biết thân Phật không có giới hạn vòi vọi như vậy chẳng ví dụ được. Chư Phật Thế Tôn chẳng thể ghi chép hay nói lên được. Vì không có gì so sánh nên nói là chẳng thể ví dụ được. Giới cấm của Như Lai cũng không thể ví dụ được. Tam-muội chánh định, trí tuệ, giải thoát, tri kiến giải thoát, thân, khẩu và ý ba nghiệp cùng các tướng hảo của Như Lai cũng không gì ví dụ được. Tất cả chúng sinh dùng bao nhiêu phẩm loại ví dụ ca ngợi giới cấm, chánh định, trí tuệ, giải thoát, tri kiến giải thoát, thân, khẩu và ý cùng các tướng tốt của Như Lai thì cũng như là hư không, chẳng đến ngằn mé được. Thân của Như Lai không có giới hạn! Lúc ấy Bồ-tát Ưng Trì nghe lời dạy của Đức Liên Hoa Thượng Như Lai rất đỗi vui mừng được sự chưa từng có, liền đảnh lễ chân Phật đi nhiễu bảy vòng, nương oai đức của Phật, dùng thần lực của mình, trong khoảng phát ý niệm, không còn thấy nơi cõi nước Liên hoa nghiêm kia mà thấy hiện đến cõi Ta-bà này, qua chỗ Phật Thích-ca Mâu-ni, đảnh lễ chân Phật, đi nhiễu bảy vòng rồi ở trước Đức Phật nói kệ khen ngợi rằng: Muốn biết rõ thân Phật Được ví như hư không Ngằn mé là dường bao Do xả nghiệp tạo tác Tôi bay lên phương trên Hơn cả trăm ngàn ức Vô lượng hằng hà sa Vượt qua bao nhiêu cõi Muốn thấy đỉnh đầu Phật Bay mãi lên phương trên Đến thế giới Liên hoa Muốn biết hạn thân Phật Vẫn chẳng thấy được đỉnh. Thế giới kia có Phật Hiệu là Liên Hoa Thượng Biết ý muốn của con Nên vì con giảng nói: Nếu dẫn những ví dụ Để luận Phật Thế Tôn Thì chẳng thuận Phật giáo Là hủy báng Như Lai. Nếu muốn biết ví dụ Chư Phật pháp bình đẳng Như hư không vô hạn Thật không có ngằn mé. Giới, định, tuệ của Phật Giải thoát, trí giải thoát Nghiệp, sắc thân cũng vậy Như hư không vô hạn. Muốn xem đỉnh đầu Phật Đồng như xem hư không Như hư không trùm khắp Thân Phật khắp cũng vậy. Như hư không trùm khắp Phật quang chiếu khắp nơi Phật quang chiếu chỗ nào Ngôn từ đến chỗ ấy Như chỗ ngôn từ đến Tâm Phật cũng như vậy. Tâm Phật trải rộng khắp Lòng Từ ban khắp nơi. Như lòng Từ khắp ban Trí tuệ cũng cùng khắp. Như trí tuệ khắp cùng Thân Phật cũng dường ấy Công đức cũng như vậy Đạo tâm cũng chẳng khác. Như công đức đạo tâm Biết sắc thân cũng vậy. Như tất cả chúng sinh Hưởng thọ phước đức phẩm Một người phát đạo tâm Phước đức cũng ngần ấy. Như người phát tâm kia Có công đức danh xưng Nếu ai thọ chánh pháp Công đức hơn người kia Dù tất cả chư Phật Trăm ức kiếp giảng nói Công đức trì chánh pháp. Chẳng hết được ngằn mé Có ai phát đạo tâm Mà hộ trì chánh pháp Người thích hiểu không vô Mười sáu không được một. Vì thích hiểu không vô Thì chẳng mất đạo tâm Chấp trì pháp tôn thượng Tuệ này mới hòa đồng. Đến được pháp lý này Bồ-tát dũng mãnh tu Được đến công đức Phật Phụng tu Phật đạo hạnh. Lúc Bồ-tát Ưng Trì nói kệ, cả ức thế giới chấn động, trăm ngàn ức chư Thiên trổi ngàn ức kỹ nhạc. Vô số ức ngàn người phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Mật Tích Kim Cang lực só lại nói: –Thưa Bồ-tát Tịch Ý! Về thân Như Lai bí yếu ấy, nếu các chúng sinh đều hợp chung một pháp hội, hoặc có người thấy được thân Như Lai, hoặc có người chẳng thấy được. Người thấy được thì vui mừng nhìn xem thân Như Lai. Người chẳng được thấy thì nín lặng mà quán xét. Như Lai chẳng ăn mà chúng sinh đều thấy Đức Như Lai ăn uống. Thưa Bồ-tát Tịch Ý! như có Thiên tử tên Tinh Lực mới được dạy đạo. Thiên tử ấy lấy bát đựng cơm của Như Lai đem cấp cho những kẻ đói thiếu. Mọi người đều đến ra mắt Đức Như Lai mà ăn, thấy Đức Như Lai cầm cơm lên đưa cơm vào trong miệng, cơm tự nhiên lại trở vào bát. Thuở xa xưa, đức Như Lai gieo trồng những cội công đức, sinh ở chỗ nào cũng bố thí cho những kẻ đói thiếu. Những người đói khổ không được ăn, Đức Như Lai xót thương đem đồ ăn đến cho họ. Ăn xong, những thức ăn ấy, họ đều được thân thể khỏe mạnh, tiêu trừ trần lao, hết vọng tưởng, tâm họ nhân hòa, phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Vì thế nên phải biết rằng Đức Như Lai chẳng ăn. Đức Như Lai Chí Chân lấy pháp làm món ăn. Vì sao? Vì thân của Đức Như Lai là thân Kim cang chẳng phá hoại được. Thân của Như Lai không có sinh tạng cũng không có thục tạng, không có đại tiện, tiểu tiện bất tịnh, cũng không có đàm dãi nhơ uế. Thân của Như Lai như màu vàng tử ma không khiếp không nhược, chẳng có kinh sợ. Bồ-tát Tịch Ý thử xem xét thân của Như Lai không gì sánh bằng, rất đẹp lạ bền vững như chất Kim cang, mà lại dịu mềm như áo trời mịn nhuyễn. Có lúc thân của Như Lai hiển hiện sự vi diệu vô thượng. Chư Thiên ngọc nữ đảnh lễ sát chân Đức Phật, chạm chân Đức Phật cảm thấy rất mịn màng mềm dịu không gì ví dụ được, họ đều phát tâm Vô thượng Bồ-đề, mãi mãi xa rời trần cấu. Hoặc có người tham dâm, người sân hận, người ngu si, người đẳng phần thấy thân của Như Lai. Mắt của họ vừa thấy thì những phiền não tham, sân, si và đẳng phần của họ đều được tiêu trừ, không có trần cấu. Hoặc có những người tham lam, phạm giới, sân hận, lười biếng, loạn tâm, ngu si được thấy thân của Như Lai thì khiến họ trở thành những người bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, nhất tâm, trí tuệ. Tóm lại, những người xa rời pháp lành mà thấy thân của Như Lai thì bỏ được tâm bất thiện mà tu công đức. Lấy tâm chẳng vọng tưởng để nhìn xem Đức Như Lai mới gọi là chân đạo. Thưa Bồ-tát Tịch Ý! Đó là pháp bí yếu của thân Đức Như Lai. Đức Như Lai ứng hiện biến hóa tự tại, dùng pháp khai hóa hiểu biết tâm ý của chúng sinh mà thuyết pháp cho họ được giải thoát. Đối với chúng sinh kia, Đức Như Lai vốn không tác không hành, chưa bao giờ Đức Như Lai Chí Chân nghó rằng: “Tôi sẽ hóa hiện thân hình.” Những chúng sinh được hóa độ tâm họ tự quan niệm rằng: “Đức Như Lai Chí Chân ở trước chúng tôi. Từ vô số thế giới, Đức Như Lai đến thế giới này. Từ thân Như Lai phóng quang minh vô lượng màu sáng. Quang minh ấy chiếu suốt hằng hà sa quốc độ. Chúng sinh do quang minh ấy mà được khai hóa.” Vì thế nên ở Như Lai không có tác nghiệp, không có công hạnh. Thưa Bồ-tát Tịch Ý! Thân của Như Lai là bí yếu, bao nhiêu là tâm niệm, bao nhiêu là sự ban bố tuyên thuyết, bao nhiêu là thành tựu chúng sinh phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Chẳng thể tính kể được sự bí yếu của thân Như Lai. Lúc nói thân hành bí yếu của Như Lai, có mười ngàn người phát tâm Vô thượng Bồ-đề, tám ngàn Bồ-tát được Vô sinh pháp nhẫn. Chư Thiên, A-tu-la, người thế gian khen ngợi Mật Tích Kim Cang: –Lành thay! Lành thay! Nhạc trời chẳng trổi tự kêu. Hư không mưa hoa trời. Đức Thế Tôn đặt tay mặt lên đỉnh đầu Mật Tích Kim Cang lực só khen ngợi: –Lành thay! Lành thay! Khéo nói pháp bí yếu của thân Như Lai như vậy. Lời Mật Tích tuyên nói ấy như lời Phật dạy không khác. Mật Tích Kim Cang lực só nói với Bồ-tát Tịch Ý: –Thế nào là khẩu bí yếu của Đức Như Lai? Thưa Bồ-tát Tịch Ý! Từ đêm Đức Như Lai thành Tối Chánh giác đến lúc nhập Vô dư Niết-bàn, khoảng thời gian ấy Đức Như Lai ban bố một văn tự bèn có thể tuyên thuyết phân biệt tất cả vô hạn nghóa lý, vô số ức năm giảng diễn khắp các pháp. Vì sao? Vì Đức Như Lai thường định. Đức Như Lai Chí Chân không thở ra hít vào, không tư niệm, không chỗ làm, không tư tưởng, đều không có chỗ làm. Dù miệng tuyên thuyết, nhưng Đức Như Lai vẫn không tưởng niệm không chỗ làm. Chỗ làm của Đức Như Lai không làm không chẳng làm, không lời không nói, chẳng nghó tưởng có người. Tất cả Tam-muội chánh thọ siêu việt, những điều Đức Thế Tôn đã nói đều dùng văn tự mà phân biệt diễn thuyết. Tất cả chúng sinh đều riêng cho rằng: “Đức Như Lai vì tôi mà giảng nói kinh pháp.” Đây gọi là Đức Như Lai đối với chúng sinh không có tưởng niệm. Sở quán của Như Lai luôn biết chỉ túc. Âm thanh vang ra từ miệng Thế Tôn, người nghe đều hoan hỷ. Như Lai dùng ngôn từ đó để tuyên nói. Đức Như Lai ban một âm thanh đều khắp tất cả chỗ tưởng, chỗ niệm của tất cả chúng sinh, không ai là chẳng vui đẹp. Ngôn từ của Như Lai phát ra sáu mươi phẩm âm thanh sai khác. Đó là âm thanh cát tường, âm thanh êm dịu, âm thanh đáng ưa, âm thanh thanh tịnh đẹp ý, âm thanh rời cấu nhơ, âm thanh rõ sáng, âm thanh vi diệu, âm thanh nghe rõ, âm thanh không rối loạn, âm thanh không huyên náo, âm thanh của bậc thầy, âm thanh không cứng rắn, âm thanh không thô xẵng, âm thanh thiện thuận, âm thanh an trọng, âm thanh hòa lành, âm thanh theo tâm đúng lúc, âm thanh vui vẻ, âm thanh gợi lòng yêu an ổn, âm thanh không nhiệt não, âm thanh đứng đắn, âm thanh thức đạt, âm thanh thân cận, âm thanh ý thích, âm thanh mừng rỡ, âm thanh dạy dỗ hiền hòa, âm thanh rõ ràng, âm thanh siêng cần, âm thanh nhẫn nại, âm thanh lớn rõ, âm thanh vang trừ ô uế, âm thanh như sư tử rống, âm thanh như rồng gầm, âm thanh như mưa tốt, âm thanh như sấm dậy, âm thanh chân-đà-la kỹ, âm thanh như chim loan hót, âm thanh như chim ưng kêu, âm thanh như tiếng chim anh vũ, âm thanh như sét nổ, âm thanh chẳng mất, âm thanh chẳng bạo, âm thanh vào trong tất cả tiếng vang, âm thanh chẳng phi thời, âm thanh không thiếu, âm thanh không khiếp, âm thanh sung sướng, âm thanh thông sướng, âm thanh giới cấm, âm thanh ngon ngọt, âm thanh tiến hành, âm thanh rộng khắp, âm thanh đầy đủ, âm thanh các căn không sứt mẻ, âm thanh chẳng nhẹ mau, âm thanh vô trụ, âm thanh vang vào khắp các chúng hội, âm thanh tuyên bày các công đức. Đó là sáu mươi phẩm âm thanh của Đức Như Lai. Âm thanh của Đức Như Lai thông khắp mười phương thế giới của chư Phật làm vui đẹp lòng tất cả chúng sinh. Đức Như Lai không có tâm tưởng niệm rằng ta sẽ vì chúng sinh mà miệng tuyên nói kinh Trường hàng, kinh Trùng tụng, kinh Kệ tụng, kinh Bản sinh, kinh Bản sự, kinh Tự thuyết, kinh Nhân duyên, kinh Phương quảng, kinh Vị tằng hữu, kinh Thí dụ, kinh Luận nghị, kinh Thọ ký, ban bố xa gần cho họ hiểu biết, tuyên thuyết pháp nghóa để khai hóa họ. Lại ở trong các chúng hội, Đức Như Lai chí chân tuyên thuyết pháp nghóa. Thân cận bên Đức Phật có các chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Thanh tín só, Thanh tín nữ, chúng Trời, Rồng, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân Phi nhân. Chúng hội ấy, tùy theo căn tánh, chỗ tu tinh tấn, tùy pháp sở thích mà làm cho họ được nhập đạo. Do thuận nhập đạo nên tìm cầu chúng sinh bèn rõ biết không có nhân mà giáo hóa họ. Các chúng sinh ấy tự nghó rằng âm thanh từ miệng Đức Như Lai phát ra. Đức Như Lai chẳng riêng rẽ thuyết pháp cho họ, mà tùy theo tâm họ sai khác, ngôn ngữ đúng lúc mỗi mỗi đều nghe pháp mà được tỏ ngộ. Đây gọi là khẩu bí mật của Đức Như Lai. Thưa Bồ-tát Tịch Ý! Vô số chúng sinh tâm hành chẳng kể được. Ngôn ngữ của họ có đến tám muôn bốn ngàn. Dìu dắt hạng chúng sinh hạ liệt vô minh tối tăm ấy vào chánh pháp của Như Lai cho họ được khai ngộ. Lại nữa, tâm hành của chúng sinh chẳng hạn lượng được. Nếu có chúng sinh hoặc tham dâm, hoặc sân hận, hoặc ngu si, hoặc đẳng phần, Đức Như Lai tùy theo thời nghi vào trong đó để cứu tế cho họ được vô sở trụ. Nhưng Đức Như Lai không có tâm niệm vào trong chúng sinh vì họ phân biệt hành nghiệp tội phước, dùng phương tiện quyền xảo đều vì họ nói pháp riêng khác. Chúng sinh vô hạn chẳng thể đếm kể tính lường được, chỗ làm của họ chẳng đồng, Đức Như Lai thiện quyền phương tiện ban tuyên bao nhiêu phẩm pháp. Lời dạy của Đức Như Lai đều khắp vào tâm họ, tùy theo bản hạnh của họ mà tuyên bố đạo nghiệp cho họ đều được hiểu biết nhập đạo. Đây gọi là sự bí yếu của Đức Như Lai. Hoặc có vị Bồ-tát vào trong bí yếu của Đức Như Lai, những vị ấy chẳng biết mà cho rằng Đức Như Lai Chí Chân diễn nói môn hữu vi, nhưng thật ra pháp của Đức Như Lai đều là vô vi. Lại nữa, Đức Như Lai tuyên nói một âm thanh. Chúng sinh tưởng là có ngôn thuyết bèn chỉ tưởng nhớ ưa thích âm thanh của Đức Như Lai mà hư vọng tưởng nhớ chỗ được nói. Chẳng nên có quan niệm như vậy. Mà phải biết rằng miệng của Đức Như Lai vónh viễn không có nói năng. Vì sao? Hoặc có chúng sinh nghe âm thanh của Như Lai phát ra từ tướng bạch hào giữa chặng hai chân mày lại cho là ở đỉnh đầu, hoặc có người tưởng là tóc, biết là màu xanh biếc, đứng nơi giữa trời, mắt rất sáng đẹp. Mọi người chẳng kham nhìn kỹ Đức Như Lai được. Sở dó hiện ra cho họ thấy, là để tiêu trừ các điều sái quấy, bỏ những tâm ganh hại. Nếu thấy cổ, vai, cánh tay thì trừ các họa ngầm. Nếu thấy ngón tay, hoặc hông, hoặc có ngợi khen từ lưng đến chân, hoặc là bụng, rốn, âm tàng, gối, bắp chân thì hết sân hâïn, hoặc do đó mà được có những tướng tốt hơn hẳn thế gian. Hoặc có người tưởng niệm Đức Như Lai Chí Chân, nghe âm thanh của Đức Như Lai, tùy theo căn tánh lanh lợi hay chậm lụt và sở thích của họ chỗ đáng được độ mà khai hóa. Đức Như Lai khai diễn âm thanh giáo hóa chúng sinh đều làm cho họ vào đạo. Dầu vậy nhưng Đức Như Lai cũng không có tưởng niệm. Thưa Bồ-tát Tịch Ý! ví như nhạc khí, điều chỉnh âm điệu, lấy tay đánh đó phát ra tiếng nhạc du dương thanh thoát. Không phải tại nơi nhạc khí làm ra âm thanh ấy. Đều do nơi các duyên hòa hợp mà có tiếng hay. Cũng vậy, ngôn từ của Đức Như Lai khai hóa tâm chúng sinh, do họ mà thuyết giáo. Với những chúng sinh ấy, Đức Như Lai diễn thuyết không có riêng tư, đều do túc duyên đã tạo lập công hạnh mà có thành quả đặc biệt diệu kỳ. Ở nơi chúng sinh, Đức Như Lai siêu tuyệt vốn dó là do sự đặc biệt diệu kỳ sẵn từ trước. Thưa Bồ-tát Tịch Ý! Ví như tiếng kêu to có âm vang đến xa. Âm vang ấy chẳng ở tại trong, chẳng ở tại ngoài, chẳng ở chặng giữa. Cũng vậy, Đức Như Lai phát âm khai hóa tâm chúng sinh. Lời lẽ ngôn giáo ấy chẳng từ nơi thân phát ra, cũng chẳng phải từ nơi tâm, chẳng trong, chẳng ngoài, chẳng từ chặng giữa. Ví như trong biển lớn có minh châu như ý phát ánh sáng làm vừa ý tất cả mọi người. Nếu đặt minh châu ấy trên đầu ngọn phướn chiếu khắp thành thị, tùy theo lòng cầu muốn của mọi người, minh châu ấy hiện ra bảo vật đồ dùng vừa theo ý muốn của mọi người. Minh châu ấy vẫn không có tưởng niệm. Cũng vậy, Đức Như Lai bảo tâm thanh tịnh nắm phướn đại Bi, theo căn tánh của chúng sinh không đâu là chẳng ứng, đều làm cho họ được khai ngộ. Dầu hiển thị giáo hóa như vậy, nhưng cũng không có tưởng niệm. Đây là sự tuyên giáo bí yếu của Đức Như Lai. Mật Tích Kim Cang lại nói với Bồ-tát Tịch Ý: –Tôi xem khắp trên trời và trong thế gian, các Ma vương, Phạm thiên, Sa-môn, Phạm chí, chư Thiên và nhân dân đều chẳng thể hạn lường được âm thanh, ngôn từ của Đức Như Lai tuyên nói. Vì sao? Như chính tôi nhớ lại ngày trước Đức Thích-ca Mâu-ni Thế Tôn đây ở tại núi Linh thứu, có các Bồ-tát quyến thuộc vây quanh. Có hội thuyết pháp tên là Tịnh Âm Tràng do Bồ-tát Di-lặc kiến lập. Đức Thế Tôn rộng vì chúng hội mà ban bố pháp âm. Lúc ấy Tôn giả Đại Mục-kiền-liên tự nghó: “Ta muốn thử biết coi âm vang của Đức Như Lai đến bao xa.” Liền đó Tôn giả Đại Mục-kiền-liên từ chỗ ngồi bỗng nhiên biến mất, hiện đứng trên đỉnh núi Tu-di vẫn nghe âm thanh của Như Lai như ở gần trước mắt. Tôn giả bèn dùng thần lực bay đi đến cuối mé ngoài tam thiên đại thiên thế giới, đứng trên đỉnh núi Đại thiết vi tột mé ngoài, vẫn còn nghe tiếng nói của Như Lai như cũ không khác, vẫn như gần bên chớ chẳng phải xa. Lúc ấy Đức Như Lai nghó: “Đại Mục-kiền-liên muốn thử âm thanh thanh tịnh của Như Lai. Ta nên trợ hiển thần túc cho ông ấy.” Tôn giả Đại Mục-kiền-liên nương oai thần của Đức Như Lai, dùng thần túc bay qua thế giới phương Tây xa đến qua khỏi chín mươi chín hằng hà sa thế giới của chư Phật. Nơi ấy có thế giới tên Quang minh phan, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu Quang Minh Vương Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác hiện đang thuyết pháp. Tôn giả Đại Mục-kiền-liên đến thế giới Quang minh phan ấy mà vẫn nghe âm thanh của Đức Như Lai Thích-ca Mâu-ni như tiếng nói của người đối diện. Quốc độ của Đức Phật ấy có ánh sáng rất lớn. Đức Phật Quang Minh Vương thân hình cao bốn mươi dặm. Các Bồ-tát thân hình cao hai mươi dặm. Bát đựng đồ ăn của các Bồ-tát cao một dặm. Lúc ấy Tôn giả Đại Mục-kiền-liên đi vòng trên vành bát. Các Bồ-tát bạch Đức Phật Quang Minh Vương: –Bạch Thế Tôn! Con trùng này từ đâu đến, mình nó mặc y phục Sa-môn đang đi trên vành bát. Đức Quang Minh Vương Như Lai bảo các Bồ-tát ấy: –Các thiện nam! Cẩn thận chớ sinh lòng khinh mạn hiền giả ấy. Hiền giả tên Đại Mục-kiền-liên, là đệ tử thần thông đệ nhất trong hàng Thanh văn tại pháp hội của Đức Thích-ca Mâu-ni Phật ở thế giới Ta-bà. Đức Quang Minh Vương Phật bảo Tôn giả Đại Mục-kiền-liên: Các Bồ-tát ở cõi nước ta và các Thanh văn thấy thân ông nhỏ thấp nên có lòng khinh mạn. Ông nên tự hiển thần thông và nương oai đức của Phật Thích-ca Mâu-ni. Tôn giả Đại Mục-kiền-liên rời vành bát đến trước Đức Phật Quang Minh Vương đảnh lễ dưới chân, đi quanh bảy vòng rồi bạch: –Bạch Thế Tôn! Nay con muốn thân này kiết già ngồi tại đây được chăng? Đức Phật nói: –Tùy ý ông muốn. Tôn giả Đại Mục-kiền-liên liền bay vọt lên hư không cao trăm ức trượng, hiện là một chiếc giường báu, tự ngồi kiết già trên giường ấy. Từ giường báu ấy rũ thòng ức trăm ngàn triệu xâu chuỗi châu báu. Mỗi viên châu báu trên mỗi chuỗi phóng trăm ngàn tia sáng. Mỗi tia sáng đều có hoa sen báu. Trên tất cả hoa sen báu đều hiện có Phật Thích-ca Mâu-ni ngồi tuyên thuyết pháp âm thanh tịnh đồng như Đức Phật Thích-ca Mâu-ni. Hiện thần thông xong, Tôn giả Đại Mục-kiền-liên trở lại trước Đức Phật Quang Minh Vương. Các Bồ-tát bên ấy được chưa từng có, bạch Đức Phật: –Bạch Thế Tôn! Ngài Đại Mục-kiền-liên do việc gì mà đến thế giới Quang minh phan này? Đức Phật nói với các Bồ-tát bên ấy: –Vì muốn biết âm vang của Đức Thích-ca Mâu-ni Phật xa bao nhiêu nên ông ấy bay đến đây. Đức Phật Quang Minh Vương bảo Tôn giả Đại Mục-kiền-liên: –Ông chẳng nên thử âm vang của Đức Như Lai Chí Chân. Âm vang của Như Lai vô hạn, không có xa gần, mà ông muốn biết chừng hạn thì rất lầm rồi. Dầu cho ông có dùng thần túc đi qua phương Tây mãi không ngừng quá hằng hà sa kiếp, cũng chẳng biết được chừng hạn âm vang của Như Lai. Âm vang của chư Phật Thế Tôn rộng xa vô hạn, siêu tuyệt vô lượng chẳng gì ví dụ được. Tôn giả Đại Mục-kiền-liên sụp lạy sám hối: –Bạch Thế Tôn! Đúng vậy, con thật kém sáng suốt. Âm thanh của Phật vô lượng, mà con lại ngang bướng sinh lòng muốn biết chừng hạn xa gần. Đức Phật Quang Minh Vương bảo Tôn giả Đại Mục-kiền-liên: –Ông đi quá xa, vượt qua khỏi chín mươi chín hằng hà sa thế giới mà đến cõi này. Tôn giả Đại Mục-kiền-liên bạch: –Bạch Thế Tôn! Rất xa, rất xa. Nay thân con quá nhọc mệt chẳng thể trở về được. Đức Phật nói: –Ý ông nghó thế nào, phải chăng ông tự dùng thần lực mà đến được đây? Ông chớ quan niệm như vậy. Phải biết đó là do oai đức của Phật Thích-ca Mâu-ni nên ông mới có thể đến đây được. Ông phải vói đảnh lễ Phật Thích-ca Mâu-ni, oai thần của Đức Phật ấy sẽ đem ông về đến bản quốc. Giả sử ông tự dùng thần lực, dù đi suốt một kiếp cũng về không đến. Lúc ông về đến sẽ không kịp thấy Phật Thích-ca Mâu-ni nhập diệt. Ông nghó thế nào, ông có biết phải từ hướng nào để trở về chăng? Bản quốc Ta-bà ở hướng nào chăng? Tôn giả Đại Mục-kiền-liên thưa: –Bạch Thế Tôn! Con quên mất phương hướng, thực chẳng biết bản quốc ở chỗ nào, ở hướng nào. Đức Phật dạy: –Đức Thích-ca Mâu-ni Phật ở về hướng Đông. Liền lúc ấy, Tôn giả Đại Mục-kiền-liên hướng về phương Đông, vói kính lễ Đức Thích-ca Mâu-ni Phật, rồi quỳ chắp tay nói kệ rằng: Đấng tôn quý trời người Oai đức cao vòi vọi Trời người đều cung kính Rủ lòng thương xót con. Âm vang Phật vô lượng Trí tuệ Phật không ngằn Xin hiển cõi Ta-bà Con muốn về bản quốc. Lúc ấy tại núi Linh thứu, các vị Xá-lợi-phất… nghe tiếng xướng kệ của Tôn giả Đại Mục-kiền-liên đều rất ngạc nhiên. Tôn giả A-nan bước lên bạch Đức Phật: –Bạch Thế Tôn! Ai tuyên kệ quy mạng kính lễ Đức Thế Tôn như vậy? Đức Phật nói: –Này A-nan! Đó là Đại Mục-kiền-liên ở tại thế giới Quang minh phan của Đức Phật Quang Minh Vương Như Lai Chí Chân cách cõi này chín mươi chín hằng hà sa thế giới về phương Tây. Ông ấy muốn trở về đây nên tuyên kệ kính lễ. Tôn giả A-nan lại hỏi: –Bạch Thế Tôn! Duyên cớ gì mà Tôn giả Đại Mục-kiền-liên đến thế giới Quang minh phan ấy? Đức Phật nói: –Này A-nan! Chờ Đại Mục-kiền-liên về tới, ông sẽ hỏi ý ấy. Đại chúng đều bạch Đức Phật: –Bạch Thế Tôn! Chúng con muốn được thấy thế giới Quang minh phan và Đức Quang Minh Vương Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác. Cũng muốn được thấy Tôn giả Đại Mục-kiền-liên đi nơi cõi ấy. Đức Phật biết lòng khao khát của chúng hội, liền từ tướng bạch hào giữa chặng mày phóng ra tia sáng lớn tên Câu Thọ, chiếu suốt qua chín mươi chín hằng hà sa thế giới đến cõi Quang minh phan. Chúng hội đều thấy thế giới Quang minh phan và Đức Quang Minh Vương Như Lai Chí Chân. Tôn giả Đại Mục-kiền-liên thấy tia sáng của Đức Phật liền cúi mình kính lễ. Đức Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni vói bảo Tôn giả Đại Mục-kiền-liên nương tia sáng ấy để trở về bản quốc. Tôn giả Đại Mục-kiền-liên nương theo tia sáng của Đức Phật, trong khoảnh khắc về đến núi Linh thứu, đảnh lễ chân Đức Phật, đi quanh bảy vòng, quỳ gối chắp tay ăn năn tự trách: –Bạch Thế Tôn! Con tự mê lầm. Âm vang của Đức Như Lai chẳng thể hạn lượng mà con lại muốn thử. Con đi mãi quá xa. Đến đâu cũng vẫn nghe âm thanh của Đức Như Lai y như ở gần bên như nhau không khác. Âm thanh của Đức Như Lai thật là vòi vọi không ngằn mé. Đức Phật nói: –Đúng như lời ông nói. Thanh âm của Đức Như Lai suốt đến xa không lấy gì ví dụ được. Muốn biết thanh âm của Đức Như Lai vang đến xa gần, cũng như là đo hư không muốn biết ngằn mé. Như hư không cùng khắp vô biên, tiếng nói của Đức Như Lai vang suốt không ngằn mé. Thưa Bồ-tát Tịch Ý! Đang lúc nói phẩm Đại Mục-kiền-liên đi và về, ở trong khắp hội ấy có một vạn người phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Đây là ngôn từ bí mật của Đức Như Lai. Thưa Bồ-tát Tịch Ý! Bồ-tát nghó thế nào? Tâm niệm của tất cả chúng sinh có thể biết được chăng? Bồ-tát Tịch Ý nói: –Tâm niệm của một người, tư tưởng khó hạn định. Giả sử tất cả chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới suốt cả một kiếp cùng tính đếm nhiều ít cũng chẳng biết được. Huống là tâm niệm tư tưởng của tất cả chúng sinh, cũng vậy không thể hạn lượng được. Mật Tích Kim Cang lực só nói: –Thưa Bồ-tát Tịch Ý! Theo lời Bồ-tát nói, như hạn lượng của tâm tưởng tất cả chúng sinh, âm thanh diễn nói của chư Phật cũng vô hạn như thế. Huống là tâm tánh của tất cả chúng sinh, không có hình tưởng, không thể tính đếm hay ví dụ được. Mật Tích Kim Cang lực só liền nói kệ rằng: Chúng sinh cõi đại thiên Đều khiến thành Duyên giác Một người trong một kiếp Tâm niệm chẳng biết được. Tất cả tâm tưởng niệm Đức Phật đều biết rõ Phật dùng tâm vô tưởng Đều biết tất cả niệm. Tưởng niệm trong ba đời Của tất cả chúng sinh Pháp từ miệng Thế Tôn Ban khắp đều hiểu rõ. Tùy chúng sinh tưởng niệm Phật tuyên giảng kinh điển Thanh âm ấy tại tâm Mà diễn nên đạo pháp. Như tất cả chúng sinh Nghó tưởng các danh sắc Một lông chân của Phật Phóng ánh sáng cũng vậy. Như danh sắc, tâm niệm Của tất cả chúng sinh Thanh âm của Phật diễn Hơn số tưởng của chúng. Phật ban tuyên tất cả Dẫn dụ kể tưởng niệm Tiếng kia chẳng thôi nghỉ Lời Phật không ngằn mé. Ai có thể mến lời Không sắc nói không nói Không sắc không có nói Tiêu diệt không sắc trần. Giả sử trần không sắc Tất cả chẳng thể được Do vì không sắc trần Rốt ráo chẳng thể được. Dù nói nhưng chẳng thật Không trong cũng không ngoài Trần lao đồng hư không Nên gọi không trong ngoài. Lời nói chẳng thể được Phật nói suốt mười phương Trần lao cũng vô hạn Đây kiến lập nơi chỗ. Lời nói thượng, trung, hạ Của tất cả chúng sinh Không thân, khẩu, ý nghiệp Chẳng bỏ cũng chẳng lấy. Dường như xướng kỹ kia Âm nhạc của chư Thiên Cũng không thân, khẩu nghiệp Mà âm thanh hòa khắp. Tâm chúng sinh cũng vậy Vốn thanh tịnh như thế Phật đều ban lời dạy Tâm Phật không tưởng niệm. Ví như vang theo tiếng Không trong cũng không ngoài Lời Phật nói cũng vậy Không trong không ở ngoài. Vô niệm như diệu bảo Lời Phật đẹp chúng sinh Lời Phật không vọng tưởng Lợi ích cho mọi loài. Mật Tích Kim Cang lực só nói với Bồ-tát Tịch Ý: –Đó là khẩu ngôn bí yếu của Đức Như Lai. Lại khẩu bí yếu của Đức Như Lai, tùy theo âm thanh ấy mà vì chúng sinh thuyết pháp khai hóa. Cõi đại thiên này giả sử có bao nhiêu loài, Đức Như Lai Chí Chân tuyên bố dạy dỗ, theo tiếng nói của họ, dùng những danh hiệu chẳng thể kể hết chí thành giáo hóa. Đây gọi là Khổ, Tập, Diệt, Đạo; gọi là Địa thần ủng hộ. Tâm Phật kiên cố, bản ý ở nơi đây. Thần chú rằng: –A bì, a bà mâu lê, già a ha na di, kha ca ưu đầu. Thần chú này hộ trì tất cả, thế nên gọi là Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Trong hư không, tất cả chư Thiên đều khen lời nói ấy, đồng tuyên chú rằng: –Hoạt tri, a hoạt tri, a hoạt tra ca di, a hòa ni nê lê. Thần chú này cứu hộ tất cả, thế nên gọi là Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Chư Thiên ở trời Tứ Thiên vương lại nói chú rằng: –Y nê di nê, đa bế đa đa bế, duy lô. Thần chú này cứu tất cả chúng sinh, thế nên gọi là pháp Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Chư Thiên ở trời Đao-lợi nói chú rằng: –Quán tập, chủ diệt hết, là không nêu lên điều cốt yếu. Thần chú này cứu hộ tất cả chúng sinh hồi chuyển. Chư Thiên ở trời Dạ-ma thứ ba nói chú rằng: –Thủ lê, đạo la, tư hòa lê, đạo la, tê tuy da, đạo tê tuy da bỉ hòa ni. Thần chú này cứu hộ tất cả. Chư Thiên ở trời Đâu-suất thứ tư nói chú rằng: –Một mình chạm mặt, trở lại chứa nghiệp. Thần chú này cứu hộ tất cả. Chư Thiên ở trời Hóa lạc thứ năm nói chú rằng: –Chỗ tế độ đều độ hết, ủng hộ người tế độ, chủ yếu độ người nữ. Thần chú này cứu hộ tất cả. Chư Thiên ở trời Tha hóa tự tại thứ sáu nói chú rằng: –A hô sự nghiệp, hô hòa nê di, a la ni hàm. Thần chú này cứu hộ tất cả. Chư Phạm thiên ở cõi trời thứ bảy nói chú rằng: –Có sự nghiệp, giống sự nghiệp, cây nhân duyên để độ nhân duyên. Thần chú này cứu hộ tất cả. Chư Thiên Phạm thân ở cõi trời thứ tám nói chú rằng: –Thanh minh, tạo thanh tịnh, gió thanh tịnh, động thanh tịnh. Thần chú này cứu hộ tất cả. Chư Thiên Phạm mãn ở cõi trời thứ chín nói chú rằng: –Vô cực để, câu tương khứ, đạo ngự chủ, niệm kiên yếu. Thần chú này cứu hộ tất cả. Chư Thiên Phạm độ ở cõi trời thứ mười nói chú rằng: –Hòa na hòa na tán đề, hòa na ha ha na, hòa na câu ma na. Thần chú này cứu hộ tất cả. Chư Thiên Đại Phạm ở cõi trời thứ mười một nói chú rằng: –Mộc mật, mộc mật tiên bỉ diệc tiên ấn thị. Thần chú này cứu hộ tất cả. Chư Thiên Quang diệu ở cõi trời thứ mười hai nói chú rằng: –Y hài hài, tương hài khứ, thân cận. Thần chú này cứu hộ tất cả. Chư Thiên Thiểu quang ở cõi trời thứ mười ba nói chú rằng: –Lấy bỏ, không bỏ nhau, không khiến bỏ, không chỗ đến. Thần chú này cứu hộ tất cả. Chư Thiên Vô lượng quang ở cõi trời thứ mười bốn nói chú rằng: –Quán tập, đều cung tập, tập diệt hết, tập vô lượng. Thần chú này cứu hộ tất cả. Chư Thiên Quang âm ở cõi trời thứ mười lăm nói chú rằng: –Để đoạn hết, đoạn tự tại, thuận theo hòa, thường thanh tịnh. Thần chú này cứu hộ tất cả. Chư Thiên Ước tịnh ở cõi trời thứ mười sáu nói chú rằng: –Có chỗ đến, có thể về, gần chỗ đến, để gần chỗ đến. Thần chú này cứu hộ tất cả. Chư Thiên Thiểu tịnh ở cõi trời thứ mười bảy nói chú rằng: –Thanh tịnh, thanh tịnh, tịnh rồi lại tịnh, trở về thanh tịnh. Thần chú này cứu hộ tất cả. Chư Thiên Vô lượng tịnh ở cõi trời thứ mười tám nói chú rằng: –Không có ngã, không ngô ngã, chẳng phải cống cao tự đại. Thần chú này cứu hộ tất cả. Chư Thiên Tịnh nan đệ ở cõi trời thứ mười chín nói chú rằng: –Giải thoát để độ tích giải, độ vốn cận giải. Thần chú này cứu hộ tất cả. Chư Thiên Quảng quả cõi trời thứ hai mươi, chư Thiên ngự từ cõi trời thứ hai mươi mốt nói chú rằng: –Lấy vô tác, vô sở tác trừ sở tác, sở tác cứu cánh. Thần chú này cứu hộ tất cả. Mật Tích Kim Cang lực só nói: –Đây gọi là Khổ, Tập, Diệt, Đạo, nên phải phụng hành, nên phải khai hóa mà theo luật giáo hiển hiện nghiệp vi diệu vô cực. Chư Thiên Ly từ cõi trời thứ hai mươi hai, chư Thiên Giả sử cõi trời thứ hai mươi ba, chư Thiên Thiện hiện cõi trời thứ hai mươi bốn, chư Thiên Cứu cánh cõi trời thứ hai mươi lăm, cõi Tịnh cư có bốn cõi trời, đó là chư Thiên Phụng hành quyết liễu nhất xứ cứu cánh, chư Thiên Chân cứu cánh, chư Thiên Vô sân khuể và chư Thiên Bất thân cận. Thưa Bồ-tát Tịch Ý! Chư Thiên ấy lập thệ chí thành lợi ích chúng sinh như vậy. Chư quỷ thần Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, quỷ thần Ca-lư-tích và quỷ thần Trì Hoa, những ngôn từ tuyên dạy của họ đều riêng khác nhau. Những nước lớn ở Diêm-phù-đề này có một ngàn, mỗi nước lớn đều riêng có quận lớn. Riêng mười sáu nước lớn ở đây đều nhiếp hộ lẫn nhau bằng trị chính, mỗi nước đều khác nhau. Tất cả loài người và các hàng phi nhân, ngôn ngữ của họ đều khác nhau, âm thanh chẳng đồng, lời có khinh trọng. Như Lai thánh tuệ tùy theo âm hưởng và tùy thời đưa vào làm cho đúng, có danh hiệu và chủng loại. Như Thích chủng là dòng họ Thích, An Tức, Nguyệt Chi, Đại Tần, Kiếm Phù, Náo Động, Khâu Từ, Vu Điền, Sa Lặc, Thiền Thiện, Ô kỳ. Các nước trước sau như Hung Nô, Tiền Ti, Ngô, Thục, Tần và các giống di địch như Tha-la-đa, ngu dân, dã nhân cùng các Tu man gia chú, xứ nữ nhân, nước Mâu-đậu-tra, nước Nhân duyên, nước Ba-la-nại, nước Số thụ, nước Kim Bản, nước Tỳ-la-bản, nước Kỳ-tì-sa, nước Ích Bản, nước Thượng Bản, nước Tha đàm và các nước ở phía Bắc, phía Tây cho đến trong biển các loài thủy tộc và các thủy thần, ngôn ngữ đều khác nhau, chi tháo của họ chẳng đồng, âm thanh cũng sai khác. Đức Như Lai chí chân tùy theo ngôn ngữ âm thanh của họ mà nhập vào trong ấy rồi khai thị giáo hóa họ, xây dựng họ nơi chánh chân. Thưa Bồ-tát Tịch Ý! Cõi đại thiên này có tám mươi bốn ức trăm ngàn vạn loài chúng sinh. Ngôn ngữ của họ đều khác nhau. Tính kể tất cả đều quy về một nghóa, trí tuệ chí chân, chí thành không phẫn nộ. Đây là ngôn từ bí yếu của Đức Như Lai. Thưa Bồ-tát Tịch Ý! ngôn từ của Đức Như Lai giải quyết lưới nghi của tất cả chúng sinh làm cho họ không còn kết sử. Tất cả chúng sinh mười phương, chủng loại nhiều hơn đất đại địa, gây nghiệp riêng khác, Đức Như Lai đều làm cho hết tội đến được thân loài người. Do thân người từ tư tưởng phát sinh trí tuệ biện tài dũng mãnh như Trưởng lão Xá-lợi-phất. Hợp tất cả vào trí tuệ của một bậc Thánh khiến tất cả chúng sinh đều được trí tuệ thánh minh như trước. Như vậy trong một kiếp, nếu qua một kiếp mà trí tuệ thiền tư quán sát các tưởng để tìm rõ gốc ngọn của một người mà không giáo huấn được thì phải theo hai người để được dạy dỗ. Trí tuệ sáng suốt nhờ đó giải tỏa sự nghi ngờ của chúng sinh để đi đến chỗ Như Lai. Như Lai chỉ trong khoảnh khắc như gảy móng tay nói rõ tất cả gốc ngọn. Đại thánh là như vậy thường đem nhất tâm nhập vào tâm niệm tất cả chúng sinh, có thể phân biệt vì có trí tuệ sáng suốt. Chỉ cần một ngôn từ là quyết đoán hết lưới nghi. Tất cả được trí tuệ, được hân hoan vì được nghe Như Lai, đạt đến trí tuệ sáng suốt. Như Lai khiến cho tất cả rõ ràng rồi dùng ý tịch tónh Như Lai giải quyết tất cả nghi ngờ trước sau khiến không còn dư sót. Đó là ngôn từ bí yếu của Như Lai nhập âm hưởng vào trong ngôn giáo. Những việc như vậy không thể nói hết. Ngôn từ của Đức Như Lai chẳng thể hạn lượng được, không gì ví dụ được. Lúc nói ngôn từ bí yếu của Đức Như Lai, có hai vạn hai ngàn chúng sinh phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Tất cả chúng hội được chưa từng có, tất cả được nghe Mật Tích Kim Cang lực só nói về sự nghiệp ngôn từ bí mật của Như Lai, mọi người đều vui mừng, từ tòa ngồi đứng dậy, cúi đầu tự quy Mật Tích Kim Cang. KINH ĐẠI BẢO TÍCH <卷 id="86423666">QUYỂN 11 Hán dịch: Đời Tây Tấn, Tam tạng Pháp sư Trúc Pháp Hộ. <詞 id="86423667">Pháp hội 3: MẬT TÍCH KIM CANG LỰC SÓ (Phần 4) Mật Tích Kim Cang lực só lại nói với Bồ-tát Tịch Ý: –Thế nào là tâm bí yếu của Đức Như Lai? Tâm Như Lai thanh tịnh. Do đâu mà biết như vậy? Tất cả chư Thiên sinh ra do một thức tuệ mà sống tám muôn bốn ngàn kiếp. Lại nữa, thần thức của chư Thiên chẳng cải biến làm thức khác, cho đến tâm được định, lại được thọ mạng nữa. Từ thân đó chết rồi, nhân nơi hành nghiệp của họ thọ sinh thân khác. Như vậy, thưa Bồ-tát Tịch Ý, Đức Như Lai từ đêm thành Phật đạo đến ngày diệt độ, trong khoảng thời gian ấy, Đức Như Lai không nghi, cũng không xoay chuyển lại, tâm không suy nghó, không duyên đi, tâm không có chẳng vững chắc, tâm không hợp nơi đâu, tâm không tán, không loạn, không dời, không đi, không gìn, không lặng, không lỗi thời, không mê, không cầu lý, không tối, không sinh, không vui mừng, không khiếp sợ, không dừng, không qua, không tưởng, không trông, không cầu tưởng, không tiêu diệt, tâm không xem, không biết, không chỗ trụ, tâm không xem tâm kẻ khác, mắt không thấy, tai không nghe, mũi không ngửi, lưỡi không nếm, thân không chạm, tâm không tưởng niệm, ý chẳng dựa nơi sắc, thanh, hương, vị, xúc đẹp tốt thơm ngon mịn trơn, tâm chẳng nương theo pháp, tâm không chỗ vui, tâm chẳng phải chẳng vui, tâm chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, tâm chẳng vào nơi pháp, tâm chẳng vượt trí tuệ, tâm chẳng xem quá khứ, chẳng xem vị lai, chẳng xem hiện tại. Tâm của Như Lai là tâm Thánh thanh tịnh vòi vọi. Tâm Như Lai chẳng tạo nghiệp tội phước. Với tất cả pháp, trí tuệ không chướng ngại mà thị hiện khắp. Tâm Phật thanh tịnh chẳng thấy tâm kẻ khác chẳng thanh tịnh. Chỗ được thấy ấy cũng không chỗ xem. Nếu là chỗ xem cũng không có vọng tưởng, không phóng dật, thấy chỗ được nhìn xem cũng không chạy theo, xem có được thấy trọn không có chỗ thấy. Chỗ thấy của Đức Như Lai, chẳng phải Nhục nhãn thấy, chẳng phải Thiên nhãn thấy, chẳng phải Tuệ nhãn thấy, chẳng phải Pháp nhãn thấy, chẳng phải Phật nhãn thấy, chẳng khiến Thiên nhó nghe, chẳng khiến xem tâm kẻ khác, chẳng tạp niệm nhớ biết sự quá khứ, chẳng nương thần thông mà làm biến hóa, chẳng nương sở hữu. Các phiền não đã hết, với tất cả pháp đều không hội hợp, không chỗ chướng ngại, không cát tường, không các nghiệp, vónh viễn không phan duyên. Trí tuệ Như Lai chiếu sáng mà dường như không có, đều biết rõ tất cả tâm hành của chúng sinh, mười Trí lực, bốn Tuệ vô úy, mười tám pháp Bất cộng, đây cũng như vậy tiến thoái không có làm, xả bỏ tâm ý thức, không xa rời Như Lai Tam-muội chánh định, làm tất cả Phật sự, tất cả các pháp tuệ đều không ngăn ngại, đều không chấp trước. Thưa Bồ-tát Tịch Ý! Đức Như Lai Chí Chân hóa làm tượng Như Lai. Hóa Như Lai ấy không có tâm ý thức, thân, khẩu, ý nghiệp, hành động thị hiện đều rốt ráo chân chánh, tùy thời có thể làm Phật sự. Hóa Như Lai không có suy tưởng, cũng không cầu nhớ. Thưa Bồ-tát Tịch Ý! Đạo tâm cũng vậy, như Hóa Như Lai không khác. Biến hóa ấy chỗ tưởng niệm không tưởng niệm, không thân, khẩu, ý, nhân duyên tiến thoái, mắt nhìn thấy đó đều làm Phật sự, cũng không sở hữu. Gọi là biến hóa ấy thì đều không chỗ làm, các pháp như biến hóa. Đức Như Lai biết được như biến hóa mà thành Bâïc Tối Chánh Giác. Đã thành Bâïc Chánh Giác rồi, trí tuệ của Đức Như Lai chẳng dừng ở năm ấm, mười hai nhập, cũng không mười tám giới, chẳng dừng ở trong ở ngoài, không thiện, không bất thiện, không hiện thế, không độ thế, không có phiền não, không có chẳng phiền não, không chán trần lao tranh cãi, chẳng ở vô vi, có số không có số, không có ba thuở quá khứ, hiện tại, vị lai xoay quanh qua lại, chẳng ở hữu vi có chỗ quán sát, chẳng ở vô vi mà quán sát. Trí tuệ Như Lai cũng vậy không có chỗ dừng ở như vậy. Đức Như Lai Chí Chân đối với chí tánh của tất cả chúng sinh hiển hiện trí tuệ nhân từ, không có tổn hại mà cứu tế nguy ách. Bồ-tát Tịch Ý nên biết, Bí yếu của Đức Như Lai nếu có chỗ vào ban tuyên giáo hóa thì không đâu chẳng khắp thấu. Lại nữa, bí yếu của Đức Như Lai không có hạn lượng, tuyên giáo bí mật không thể cùng tận. Lúc Mật Tích Kim Cang nói phẩm Như Lai bí yếu, vô số thế giới chấn động sáu cách, ánh sáng lớn chiếu đến mười phương, thấy mười phương vô lượng cõi Phật. Trời mưa các thứ hoa, các nhạc khí chẳng đánh tự kêu. Vô ượng số người phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Vô số Bồ-tát được Vô sinh pháp nhẫn. Vô hạn người được Nhu thuận pháp nhẫn. Vô số Bồ-tát được Nhất sinh bổ xứ. Công đức vang xa, do nhân duyên ấy nên các chúng Bồ-tát ở hiền kiếp trong tất cả Phật quốc mười phương đều là bậc tịnh tu phạm hạnh, vì cúng dường pháp nên đồng tung hoa dâng lên Mật Tích Kim Cang lực só. Hoa được tung lên ấy hóa thành lọng hoa. Thừa oai thần của Đức Phật, tất cả lọng ấy đều đến chỗ Đức Phật, bay vòng quanh Đức Phật và Mật Tích Kim Cang lực só ba vòng, che khắp chúng hội. Các lọng hoa báu ấy lại dừng ở hư không ngay trên Đức Phật. Từ các lọng báu ấy vang ra âm thanh không gì so sánh được: –Kính thưa Thế Tôn! Các Bồ-tát ở hiền kiếp sai chúng tôi đến cúng dường Đại Thánh và Mật Tích Kim Cang, dâng pháp cúng dường đã ban tuyên chỗ nói bí yếu chẳng thể nghó bàn của Đức Như Lai Chí Chân. Đây là oai thần của Đức Như Lai làm ra cả. Lúc ấy cả chúng hội nghe những lời trên đều rất vui mừng vòng tay đảnh lễ Mật Tích Kim Cang lực só rồi cung kính nói: –Bạch Thế Tôn! Chúng con được lợi lành, rất vui mừng được thấy Mật Tích Kim Cang, được nghe ngôn giáo bí yếu chẳng thể nghó bàn của Đức Như Lai. Nếu có chúng sinh được nghe yếu nghóa của kinh điển này mà tin ưa, bởi gần đạo nghiệp nên chẳng hồ nghi, chưa từng do dự vào lời huấn thị của Đức Như Lai thì phải xem những người ấy là chẳng thoái chuyển, sẽ đến đạo Vô thượng chánh chân. Lúc ấy Đức Phật khen Mật Tích Kim Cang: –Lành thay! Lành thay! Khéo nói những lời ấy. Đức Phật lại bảo Bồ-tát Tịch Ý: –Công huân của Như Lai rất là chí chân, đủ bốn Tuệ vô sở úy, đúng như Mật Tích Kim Cang đã ca ngợi. Ai được nghe pháp này chẳng kinh chẳng sợ, hiểu được ý nghóa, nếu có thể thọ trì, học tập, đọc tụng, vì người rộng giảng thuyết, thì chẳng lâu sẽ được thọ ký Vô thượng Bồ-đề, mau đạt đạo Vô thượng chánh chân, thành Bậc Tối Chánh Giác. Bấy giờ nơi đất ở giữa chúng hội đạo tràng ấy, trước mặt Đức Thế Tôn liền nứt ra sâu sáu mươi tám trăm ngàn do-tuần, tự nhiên có vòi nước to bằng vành xe phun cao lên hư không đến cõi Phạm thiên rưới khắp cõi đại thiên. Đức Phật bảo Bồ-tát Tịch Ý: –Ông có thấy vòi nước lớn phun lên hư không rưới khắp cõi đại thiên chăng? Bồ-tát Tịch Ý thưa: –Bạch Thế Tôn! Con đã thấy. Xin Đấng Thiên Trung Thiên thương xót dạy cho biết là điềm lành gì? Đức Phật bảo Bồ-tát Tịch Ý: –Này Tịch Ý! Ông nên biết vòi nước ấy, đất không có tư tưởng, không có ý nứt rã, nước tự nhiên phun lên. Các vị Pháp sư cũng vậy. Nếu thọ trì kinh pháp này, phụng hành đúng theo đây, thì đều sẽ làm nứt rã sáu mươi hai thứ tà kiến, sẽ được trí tuệ biện tài. Các vị Chánh só ấy vì chúng sinh mà giỏi nói chánh pháp, làm vui đẹp lòng đại chúng. Lại nữa, này Tịch Ý! Người biết kinh điển như vầy đều thoát khỏi nạn trong ba đường ác đạo. Lúc ấy Tôn giả Xá-lợi-phất tiến lên bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Nay các chúng Bồ-tát trong hiền kiếp ở tại thế giới chư Phật mười phương thanh tịnh tu phạm hạnh, sau khi các Bồ-tát ấy thành Phật, có phải vị Mật Tích Kim cang này sẽ đều tay cầm chày Kim cang hầu hạ phía sau chăng? Đức Phật nói: –Thôi đi! Này Xá-lợi-phất! Việc ấy chẳng thể nghó bàn được. Chư Thiên và người đời nghe được lời ấy hoặc sẽ mê lầm việc làm của Bồ-tát, hoặc có thể chẳng tin. Tôn giả Xá-lợi-phất thưa: –Bạch Thế Tôn! Nếu người hữu học gieo trồng những gốc lành sẽ tin ưa đó. Chúng con đều sẽ lãnh thọ lời giảng dạy của Đức Như Lai. Đức Phật dạy: –Này Xá-lợi-phất! Ông có thấy Mật Tích Kim Cang ấy đứng hầu phía sau Đức Phật chăng? Xá-lợi-phất thưa: –Vâng, con đã thấy. Đức Phật dạy: –Đó là do thần thông lực bản nguyện nên ông ấy đứng hầu như vậy. Các chúng Bồ-tát trong hiền kiếp thành Phật, Mật Tích lực só thường sẽ đứng hầu cũng như đứng hầu ta vậy. Đó là do thệ nguyện từ trước nên ông ấy có sức thần thông tự tại như vậy. Này Xá-lợi-phất! Giả sử tất cả chúng sinh trong cõi đại thiên vị lai thành Phật, đều sẽ cần hầu hạ, lúc được thành Phật ông ấy cũng cầm chày Kim cang, tự mình thị hiện đều đứng hầu phía sau. Dầu biến hóa như vậy, nhưng oai đức thần thông của vị Chánh só ấy chưa có tổn hao. Này Xá-lợi-phất! Ông có thấy nay Mật Tích Kim Cang thường đứng hầu phía sau Bồ-tát Di-lặc chăng? Xá-lợi-phất thưa: –Bạch Thế Tôn! Con đã thấy. Nhờ Thánh chỉ của Đức Phật mà con được nghe việc từ nào tới giờ chưa được nghe. Đức Phật nói: –Này Xá-lợi-phất! Ông ấy thường hầu Bồ-tát Di-lặc mà các ông chẳng thấy thôi. Lúc ấy, các Bồ-tát ở phương khác đến cùng Đế Thích, Phạm thiên và Tứ Thiên vương đều thấy Mật Tích Kim Cang đứng hầu phía sau Bồ-tát Di-lặc và hầu các Bồ-tát ở hiền kiếp. Bồ-tát Di-lặc và các Bồ-tát trong hiền kiếp hóa làm ức trăm ngàn triệu chúng Bồ-tát khai thị cứu độ chúng sinh. Mật Tích Kim Cang lực só đều đứng hầu phía sau các hóa Bồ-tát ấy. Chánh só Mật Tích này có oai đức chẳng thể nghó bàn, thần thông biến hóa vòi vọi dường ấy, sáu phép thần thông trí tuệ chẳng có hạn lượng. Lúc ấy Bồ-tát Tịch Ý nói với Mật Tích Kim Cang: –Có thể nào ngài vui lòng nói cho biết Đức Như Lai cần tu khổ hạnh, trang nghiêm đạo thọ hàng phục quân ma mà chuyển pháp luân gầy dựng Thánh đế. Mật Tích Kim Cang nói: –Thưa Bồ-tát Tịch Ý! Công đức của Đức Như Lai chẳng thể hạn lượng. Giả sử sống lâu một kiếp nói công đức ấy cũng không thể nói hết. Nay tôi theo oai thần của Đức Phật mà nói sơ lược những điều cốt yếu. Thưa Bồ-tát Tịch Ý! chỗ làm của Bồ-tát chẳng vì một sự việc mà cần tu khổ hạnh. Vì muốn cứu tế hàng dị học ngoại tà, từ nơi thân hành tùy nghi hiển thị oai nghi, nhân đó mà hóa độ được những chúng tà kiến ngoại học. Bồ-tát hiện thân tối thắng tôn quý đệ nhất, siêng làm khổ hạnh không ai bằng được, thị hiện oai nghi lễ tiết mà tất cả hàng ngoại học tà dị không theo kịp được. Với hàng tà ngoại ấy, Bồ-tát ở một chương cú giảng giải vô lượng nghóa. Hoặc hiện lên phương trên, hoặc hiện đi quanh qua lại mặt trời mặt trăng, hoặc hiện thần thông bay đến chỗ ở ẩn của các Tiên nhân, hoặc hiện là Quốc sư, Cư só, hoặc hiện làm Thánh đế, Tứ Thiên vương, Đế Thích, Phạm vương, Chuyển luân thánh vương, hoặc hiện thân khổ hạnh nằm trên gai góc, hoặc hiện nằm trên cỏ, trên trấu, trên đất, hoặc hiện chỗ nằm đáng sợ, không đáng sợ, hoặc hiện ăn trái, mặc áo rách, hoặc nằm trên nước lầy, hoặc hiện mặc áo đỏ, hoặc hiện cùng ở cùng đi với nhóm lõa thể, hoặc hiện ăn khổ hạnh như ăn đậu, ăn mè, ăn củ cải, ăn khoai, ăn rau, ăn gai, ăn lá bông trái, ăn táo, hoặc ngày ăn một lần, hoặc ăn hai lần, hoặc hiện thường ăn, hoặc hiện bảy ngày ăn một lần, hoặc mười lăm ngày ăn một lần, hoặc một tháng ăn một lần, hoặc ăn một giọt bơ, một giọt dầu, một giọt mật, hoặc uống một giọt nước, một giọt sữa, hoặc hiện chẳng ăn, hoặc hiện thường đứng, hoặc hiện thường ngồi, hoặc hiện nhiều cử chỉ khác không thể kể xiết. Đây là những khổ hạnh mà Bồ-tát thị hiện. Bồ-tát hiện làm khổ hạnh đủ sáu năm, chẳng phải chỉ một hạnh khổ, mà thị hiện đầy đủ ngần ấy thứ, lại còn siêng tu tinh tấn vượt hơn cả khổ hạnh ấy. Các chúng sinh chẳng thấy hết được oai nghi cử chỉ của Đức Như Lai, cũng chẳng biết được hành vi của Bồ-tát. Nếu có chúng sinh hay hành đạo, đáng được hóa độ mới có thể thấy được oai nghi cử chỉ của Bồ-tát. Bồ-tát hành động không có hư luống. Đây là Bồ-tát siêng tu đầy đủ khổ hạnh khai hóa sáu mươi triệu người, ba trăm vạn chư Thiên và nhân dân đều được nhập đạo. Lúc ấy Bồ-tát hành sự vi diệu, ngồi đài cao lầu báu mà thị hiện sinh không có các hoạn nạn trọn được an ổn; thường ở trong Tam-muội chánh định, mà lại hiện khổ hạnh sáu năm. Rồi lại thấy Bồ-tát đứng dậy đi. Lúc ấy chư Thiên cầu pháp lạc chẳng mến thế tục, ở bên Bồ-tát chẳng mong gì khác chỉ mong được nghe pháp Đại thừa. Lúc ấy có Bồ-tát tên là Pháp Chủng ưa thích Đại thừa nhập vào đại Bi. Lại có pháp điển tên là Nhập bất tư nghì pháp môn, lại gọi là Phổ nhiếp, hàng phục các tà tất cả chúng ma, vào trong khổ nạn trọn được an lành. Thưa Bồ-tát Tịch Ý! Bồ-tát siêng tu khổ hạnh đủ sáu năm rồi thị hiện oai nghi tinh tấn. Bồ-tát rời chỗ ngồi đi đến bên bờ sông Ni-liên-thiền. Vì thuận theo thế gian nên Bồ-tát cố ý đến sông Ni-liên-thiền tắm rửa sạch sẽ rồi rời sông đến đứng một mình ở chỗ khác. Bấy giờ có nàng Di-ca tên là Thiện Ấm vắt sữa ngàn con bò cho trăm con bò uống. Vắt sữa trăm con bò này cho mười con bò uống. Vắt sữa mười con bò này cho một con bò uống. Nàng vắt lấy sữa con bò sau cùng này để nấu cháo sữa. Cháo sữa ấy sôi bắn lên cao vài mươi trượng. Nàng Di-ca lấy làm lạ. Có vị Phạm chí bàn rằng, người sắp thành Phật mới đáng ăn cháo sữa này. Nàng Di-ca mang cháo sữa đến chỗ Bồ-tát. Cũng có sáu vạn chúng Trời, Rồng, Càn-thát-bà… đều mang theo thức ăn ngon ngọt đặt biệt khác lạ, đồng đến chỗ Bồ-tát. Tất cả đại chúng đều thưa bạch Bồ-tát: –Xin Bồ-tát xót thương nhận đồ cúng dường. Lúc ấy Bồ-tát nhận cháo sữa của nàng Di-ca Thiện Ấm rồi ăn. Bồ-tát cũng nhận lấy thức ăn của sáu vạn chúng chư Thiên, chư Thần và đều thị hiện ăn. Những người dâng cúng thức ăn lên Bồ-tát, đều tự thấy Bồ-tát chỉ riêng nhận ăn đồ cúng dường của mình mà không thấy nhận của người khác. Mỗi mỗi người đều tự nghó rằng Bồ-tát riêng nghó tưởng nhận ăn đồ của mình dâng cúng, Ngài sẽ thành tựu Vô thượng Bồ-đề, thành Bâïc Đẳng Chánh Giác. Họ đều rất vui mừng và đều phát đạo tâm, được không thoái chuyển. Đây gọi là nhận lấy thức ăn dâng cúng. Vì khai hóa chúng sinh nên thị hiện sáu năm siêng tu khổ hạnh. Thưa Bồ-tát Tịch Ý! Đó là Bồ-tát tùy theo thế tục nhận đồ cúng dường mà ăn khiến thân thể khí lực đầy đủ an hòa rồi đi đến dưới cây. Có Địa thần tên Thiện Địa thiên tử bảo chư Thiên tử khác và các Địa Hành Thiên thần giữ đất chẳng cho rúng động. Sau khi đến dưới cây, Bồ-tát dọn dẹp sạch sẽ. Cõi đại thiên lúc ấy bỗng nhiên thanh tịnh, rưới hoa, thiêu hương, nước thơm tưới đất. Trời Ca-lưu-tích cầm hoa rời Thiên cung ở trong hư không thấy Bồ-tát thì vui mừng mưa các thứ hoa. Bốn vị Thiên vương cùng quyến thuộc bay đến bốn phương dùng màn lưới vàng tử kim che khắp cõi đại thiên để cúng dường. Trong cõi đại thiên, chư Thiên vương cùng chư Thiên quyến thuộc trời Đao-lợi, trời Dạ ma, trời Đâu-suất, trời Hóa lạc, trời Tha hóa tự tại giăng màn báu cùng trân châu minh châu cúng dường. Chúng Trời, Rồng, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-na, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già đều dùng thần thông sửa sang trang nghiêm tất cả cõi Dục. Lúc ấy có vị Đại phạm Thiên vương tên Oai Thần Tự Tại, là chủ cõi đại thiên đến chỗ cây Bồ-đề. Đại phạm Thiên vương ấy bảo các Phạm thiên: –Các vị phải biết, Bồ-tát Đại só đây ở chỗ chư Phật quá khứ tu hành chánh hạnh, trồng các cội công đức, đảnh lễ quy mạng vô số chư Phật, nguyện lớn chí ý vững mạnh, đầy đủ Bồ-tát hạnh. Phụng tu các Ba-la-mật-đa đều được tự tại, chí tánh hòa nhã khéo tu thanh tịnh, vào hết căn tánh của tất cả chúng sinh, thông đạt tất cả bí yếu của Như Lai, vượt qua tất cả ma sự, đầy đủ công đức không kính ngưỡng nương tựa người khác, kiến lập đạo pháp Vô thượng, là Đại đạo sư cứu tế chúng sinh ban tuyên kinh điển, khiến tất cả chúng sinh hợp nhất dũng mãnh bạt trừ cảnh ma, vónh viễn không bị nghiệp ma làm nhiễu loạn đạo pháp, là đại y vương chữa lành bệnh chúng sinh, đội mão giải thoát làm đại pháp vương trí tuệ sáng suốt diễn Thánh đế vô thượng, chẳng bị tám pháp thế tục trói buộc, như hoa sen chẳng vấy bùn, nắm giữ các pháp chẳng sót quên như sông biển, trí chẳng hạn lượng như núi Tu-di chẳng động lay, rửa sạch tâm mình như nước rửa bụi. Không hề tự cao đại mà thường khiêm hạ, như châu minh nguyệt trừ tối và các thứ nhơ trược, với tất cả pháp được tự tại, chứa các cội công đức, dường như Phạm thiên là đệ nhất trên trời. Ngài đến dưới cây hàng phục quân ma, sẽ được đạo Vô thượng chánh chân thành Bâïc Tối Chánh Giác, đầy đủ mười thứ trí lực của chư Phật, bốn Vô sở úy, mười tám pháp Bất cộng, chuyển đại pháp luân, làm sư tử hống sung mãn tất cả, ban pháp thí đượm nhuần muốn làm thanh tịnh đạo nhãn cho tất cả chúng sinh, nhiếp lấy các pháp, dẹp trừ chín mươi sáu thứ ngoại tà, bản nguyện đầy đủ, thấy rõ cảnh giới chư Phật mười phương, là bậc Đại thánh oai đức tự tại, là bậc Độ sinh bậc nhất. Phạm thiên các vị phải khiêm hạ cung kính Bồ-tát. Lúc ấy Đại phạm Thiên vương ở trước chúng Phạm thiên nói kệ rằng: Chánh hạnh thanh tịnh Quyết pháp thượng diệu Thương xót thế gian Cũng thương chư Thiên. Đấng Thiên trung Thiên Tối tôn ở thế Đại Thánh nay ở Dưới cội Bồ-đề Sẽ hàng phục ma Cùng ma quyến thuộc Được Vô thượng giác, Thành Nhất Thiết Trí. Hưởng thọ pháp lạc Tối chánh giác rồi Liền từ đó dậy Chuyển chánh pháp luân. Đại trí vô cùng Tiếng đại sư tử Vui đẹp tất cả Tâm của chúng sinh. Chỉ vì thanh tịnh Pháp nhãn chúng sinh Đạo sư đi đến Dưới cội Bồ-đề Hàng phục ma quân Tiêu diệt dị học. Vốn đã đầy đủ Thệ nguyện thuở xưa Chánh giác Pháp thân Sở kiến vô ngại. Chư Thiên khi ấy Đến chỗ Phật nói: Lành thay! Tất cả Hãy cùng hòa đồng Phải trang nghiêm khéo Ba ngàn giới địa Trang sức tốt đẹp Từ cõi Dục này Đến Sắc, Vô sắc Đều đẹp như vậy. Lành thay! Phạm thiên Tâm ngài nhân hòa Ba ngàn cõi này Thảy đều nghiêm tịnh Dục giới cũng thế Do trong sạch đẹp Nên nơi cúng dường Hơn các nơi kia. Danh hương, hương bột Các hoa thuận nghóa Châu báu sáng rực Trống cùng kỹ nhạc Có người nào thấy Không ai chẳng mừng Và Phạm Thiên vương Khắp ba ngàn cõi Từ Phạm Thiên vương Đến Ca-ni-tra Cùng các Phạm thiên Đều sinh thanh tịnh. Ở trong hư không Đệ nhất tôn thần Bậc Thiên Trung Thiên Bậc nhất thấy tịnh. Sáu mươi ức triệu Chư Thiên đều đến Vì Đại Bồ-tát Sắp Kim cang tràng Rải các hoa trời Cúng dường như mưa. Các hương, thủy hương Dùng làm sạch đất. Giường tòa châu báu Sắp xếp nhiều tòa Trang hoàng nghiêm tịnh. Phật tọa Bồ-đề Chư Thiên chúng con Thảy đều hò reo: Tùy nơi yên ổn Khiến cho thanh tịnh. Lúc ấy Mật Tích Kim Cang nói với Bồ-tát Tịch Ý: –Lúc Bồ-tát sắp đến ngồi dưới cội cây, từ lòng bàn chân nơi tướng thiên bức luân phóng ra ánh sáng chiếu khắp cả cõi đại thiên. Tất cả chúng sinh nơi địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh ngừng dứt sự khổ não. Ánh sáng đại quang minh ấy soi chiếu đến địa ngục Hắc nhó. Lúc ấy địa ngục Hắc nhó nhờ ánh sáng của Đức Thế Tôn, chúng ở địa ngục này đều vui mừng hớn hở tập họp đông như mây. Bấy giờ chư Thiên đều nói bài tụng rằng: Ánh kim quang đỏ tía Từ giữa mày phóng ra Chiếu soi thân chúng con Làm cho lòng vui mừng. Con gặp Phật quá khứ Thấy điềm tướng tốt ấy Đại hùng, quyết không nghi Nhất định Phật xuất thế. Lành thay! Tạp hoa man Hương hoa và hương xoa Với tử bích ngọc châu Tay phải mặc áo đẹp Đánh trống trổi kỹ nhạc Và treo các phan lọng Cùng dựng cả phướn lớn Cúng dường Đức Thế Tôn. Người trong các địa ngục Nhờ ánh sáng thanh tịnh Được cúng dường Đức Phật Cung kính theo Đại Thánh. Khi ấy trong Hắc nhó đại địa ngục, vua và chúng trong cung đều hội họp, những người cùng đến hội họp này đều đem theo hoa hương, tạp hương, hương xoa, y phục, phướn, lọng, kỹ nhạc, ra khỏi cung bay lên hư không, hóa làm đám mây báu, mưa ra hạt châu minh nguyệt, danh hương, hương bột, hương chiên-đàn cùng hoa trân châu, nhờ chư Long đại thần thần túc biến hóa, đi đến chỗ Bồ-tát, cúi lạy chân Bồ-tát, đi quanh bên phải ba lần, đều đem tất cả những thứ cúng dường dâng lên Bồ-tát và trổi các kỹ nhạc để cúng dường, dùng kệ tụng khen ngợi Đức Thế Tôn rằng: Giống như có bảo địa Trang nghiêm thật phong phú Bồ-đề hoa quả tốt Được ngồi đạo tràng này Như sông Định không chảy Như trăng ở hư không Thành Phật khắp tất cả Hàng phục mọi ma quân. Thế Tôn, Bậc Chúng Hựu Như mặt trời rực sáng Giống như trong sáu thông Như vua ong hòa âm Diễn nói tuệ quang minh. Như bánh xe Phạm thiên Đức Phật nay xuất thế Như kho tàng không hạn. Ánh sáng nhật nguyệt kia Cùng ánh sáng Thích, Phạm Ánh Năng Nhân vừa hiện Che khuất tất cả sáng. Chiếu khắp trong điện con Biết Phật hiện ra đời Điềm lành vui mừng Biết nay Phật xuất hiện. Thấy nghe Câu-lưu-tôn Câu-na Mâu-ni Phật Ca-diếp đến Bồ-đề Vừa nghe tiếng ấy rồi Thấy được Vô đẳng luân Ứng điềm cùng kia đồng Lòng sinh rất vui mừng Nay ắt sẽ có Phật. Thế Tôn, con thiện lợi Được rộng cúng dường Phật Lấy bốn sự thế quang Phụng tín hành cung kính. Phúc đức gom góp được Toàn cúng Bậc mắt sáng Đấng soi sáng cho đời Thành Phật Vô Đẳng Luân. Bấy giờ Bồ-tát đi đến vùng đất của Long vương Ca-lân ở. Long vương thấy Phật trong lòng rất vui mừng, liền tự ra khỏi cung điện, đến cội Bồ-đề, rồi đứng bên phải Phật. Lại có một người tên là Cát An, ở đằng xa thấy Phật. Nhân đó chàng đi tìm cho được cỏ tốt cầm ở trên tay và tiến dần về cội Bồ-đề để ngắm nhìn Bồ-tát. Chàng thấy chư Thiên đang tuyên xướng những âm thanh rất dịu dàng vi diệu, cao siêu vời vợi và khả ý khoái lạc vô thượng để ca ngợi Bồ-tát. Chàng cứ đi quanh quẩn tiến dần đến chỗ Bồ-tát. Mùi thơm của cỏ xông ngào ngạt khắp nơi, màu cỏ đẹp đẽ tươi mát khác nào màu Thiên y. Chàng đem cỏ ấy dâng lên cúng cho Bồ-tát, rồi cúi đầu lễ chân Bồ-tát và đi nhiễu quanh Bồ-tát bảy lần để tỏ lòng ngưỡng mộ. Bởi tâm nhân hòa của chàng đã đến được chỗ không thoái chuyển, nên liền phát khởi được đạo Chánh chân chẳng thể nghó bàn. Tâm chàng tự nghó: “Chẳng nên làm những việc gì không nên làm, quán sát được như thế thì không có việc tốt lành gì mà không đến và sẽ được tốt lành.” Do lúc ấy dâng cúng cỏ lên cho Bồ-tát, nên chàng đã phát được đạo ý Vô thượng chánh chân. Sở dó vì sao? Vì nguyện xa xưa nên được như vậy. Tịch Ý nên biết, đây là bản nguyện đời trước của Cát An mà tôi nhớ nghó biết như thế. Thưa Bồ-tát Tịch Ý! Tôi nhớ thuở quá khứ cách đây chín mươi mốt kiếp, lúc Đức Phật Duy Vệ xuất thế đủ mười đức hiệu, có ngàn vị Tỳ-kheo tu hạnh thanh tịnh được Phật Duy Vệ thọ ký sẽ thành Bâïc Tối Chánh Giác ở hiền kiếp. Trong pháp hội ấy có vị Trưởng giả tên Hữu Chí nghe sự thọ ký ấy cho Bồ-tát liền tự nghó: “Ở hiền kiếp, lúc các Bồ-tát sắp thành Phật, tôi sẽ cúng dường cỏ tốt để trải tòa sư tử trang nghiêm thanh tịnh an hòa nhu nhuyến. Nhân đó tôi được phát tâm Vô thượng Bồ-đề.” Thưa Bồ-tát Tịch Ý! Trưởng giả Hữu Chí thuở trước đó, nay là Cát An. Vì bản nguyện mà vị ấy dâng cỏ tốt và phát đạo tâm. Sau này vị ấy sẽ thành Phật hiệu là Bảo Tịnh Sư Tử Như Lai Chí Chân. Lúc Bồ-tát nhận lấy cỏ trải dưới cội Bồ-đề, Thọ thần và một vạn Thiên nữ đều đem những túi đựng hoa trời, hương trời, cùng phan lọng đến lễ lạy cúng dường nghênh tiếp Bồ-tát và nói kệ khen ngợi Phật: Không hãi, không chỗ sợ Không khiếp, không sợ nạn Bậc Kiến lập khó gặp Không nhiễm, không si ác Không tội dữ hiểm họa Không ghen ghét, không ngu Lìa dục được giải thoát Cúi đầu lễ Thánh Tôn. Lấy luật hóa độ người Ngang ngược và tà hạnh Khéo làm thầy thuốc giỏi Trị liệu mọi khổ tật. Thấy người không được cứu Không đèn sáng để về Nay Phật hiện ra đời Cứu thoát cả ba đời. Chư Thiên cùng đại chúng Mang lòng vui hớn hở Tất cả khắp mưa hoa Bao nhiêu loại hoa ấy Là chư Thiên cúng dường Cả áo mặc tốt kia Sẽ được thành Phật đạo Đều phát tâm vui mừng. Bởi ngồi dưới thọ vương Tâm không hề sợ hãi Dùng vị cam lộ này Làm rách lưới trần lao, Thấu suốt chỗ tónh lặng Đến Phật đạo tối tôn Như chư Phật quá khứ Thấu suốt pháp tối thắng Chỗ phụng hành cốt yếu Tu số kiếp vô lượng Tích góp bao khổ hạnh Vì muốn độ chúng sinh. Xưa nguyện đã được thành Nay chính là thời đó Sẽ được đạo bậc nhất Xin thương xót giảng diễn. Mật Tích Kim Cang lực só nói với Bồ-tát Tịch Ý: –Lúc đó Đức Phật mang cỏ đi đến cội Bồ-đề, trải dưới cội cây, cúi đầu lạy và đi nhiễu bảy vòng quanh cây. Ngay khi Đức Phật trải tòa xong, tám vạn bốn ngàn vị Thiên tử thấy Bồ-tát trải tòa tâm sinh vui mừng, liền sắp xếp tám vạn bốn ngàn tòa sư tử rất vi diệu đặc thù, vô cùng cao rộng do các loại báu làm thành. Dùng báu quý hiếm làm lan can, xung quanh dựng lên các hàng trướng dọc theo đường trang điểm bằng tử kim, dùng trân châu treo rủ xuống ở khoảng giữa. Các linh đều bằng các loại ngọc minh nguyệt dạ quang treo la liệt, khi cất tiếng kêu âm thanh rất hòa nhã thanh tao. Có vô số y trời phủ lên trên. Khi đó Bồ-tát tự biến thân mình hiện khắp tám vạn bốn ngàn tòa sư tử mà các Thiên tử không hề biết. Vị nào cũng tự nghó: “Bồ-tát ngồi ở tòa sư tử của ta thành Tối Chánh Giác.” Do đó tâm chư Thiên đều vui mừng hớn hở, được tâm không thoái chuyển. Thưa Bồ-tát Tịch Ý! Lúc bấy giờ Bồ-tát dùng oai thần làm cho Ma vương hay biết. Ma vương liền cùng quyến thuộc vô số ức trăm ngàn triệu quỷ thần đều mặc giáp, cầm vũ khí hiển thần thông thế lực đến chỗ Bồ-tát bao vây khắp ba trăm ba mươi sáu vạn dặm. Ma vương Ba-tuần cùng quyến thuộc quỷ thần ấy, dung mạo của họ đều khác nhau, đầu mặt chẳng giống nhau, tiếng kêu nói của chúng đều sai khác, chúng hiện chẳng biết bao nhiêu là hình tượng, binh khí nghiêm chỉnh, cảnh huống rất đáng sợ. Chúng chẳng thuận nhân nghóa, làm chuyện rất quấy, chẳng theo đạo đức, chuyên việc tàn bạo, gầm thét kêu la vang động cả ba cõi. Giả sử người phàm chưa ly dục mà nghe âm thanh ấy, thì máu sẽ theo mũi miệng mà trào ra, hoặc kinh sợ mà chết. Lúc ấy Bồ-tát không chút sợ sệt cũng không e ngại, lại phát lòng từ Bi. Những âm thanh hãi hùng ấy tự nhiên tiêu diệt, chẳng rõ về đâu. Vì sao? Vì tâm Bồ-tát thanh tịnh, muốn an ổn cho chúng sinh để họ không bị quấy nhiễu, không bị nguy hiểm hoạn hại nên khéo dùng phương tiện dù nghe âm thanh ấy mà thấu rõ vốn là hư trống, vốn là không có. Thấy ma chúng đến, ánh sáng từ nơi thân Bồ-tát càng chiếu ra rực rỡ. Bồ-tát bảo Ma vương Ba-tuần: –Thôi đi Ba-tuần, chớ có hiện ra cảnh tượng vô ích ấy. Chớ có sinh lòng sân độc rồi tự chuốc lấy tai họa vào thân mà phải mãi mãi chẳng an. Vì sao? Này Ba-tuần, hôm nay Ba-tuần sinh tâm muốn hại Bồ-tát, nhưng Bồ-tát có đức Từ rộng, có dũng mãnh lớn, đại Bi vô tận, đại Từ vô cực hàng phục kẻ ác nghịch. Ba-tuần muốn làm loạn Bồ-tát, nhưng tâm Bồ-tát vốn thanh tịnh, trần lao cấu trược đã tiêu trừ, Ba-tuần chẳng những không hại được Bồ-tát, trái lại giúp thêm cho Bồ-tát. Ba-tuần muốn đem lửa đom đóm sánh với ánh sáng mặt trời, trùng thú nhỏ làm kinh sợ sư tử, chân bé gầy đạp ngã cổ thụ to, nước vũng chân trâu so với biển cả. Ba-tuần nên bỏ tâm oán hận mê lầm, chuyển quyến thuộc hung tàn thành bạn đạo pháp, bỏ phi pháp về Thánh đạo. Ma vương Ba-tuần thấy Bồ-tát oai đức vòi vọi, nghe tiếng từ bi, lòng ma vui mừng kính ngưỡng hướng về chánh đạo. Thưa Bồ-tát Tịch Ý! Lúc ấy Bồ-tát tự nghó: “Từ số kiếp chẳng thể tính kể được, ta chứa công đức, nhân hạnh thành tựu, đời đời phụng pháp tu hành, vì thương tưởng chúng sinh bị tai khổ trong ba cõi mà tu tập trí tuệ nhân từ, ai dám hủy hoại được, chỉ có đại địa chứng minh.” Từ trong y Ca-sa, Bồ-tát đưa tay sắc vàng tử kim rờ khắp thân mình. Chẳng bỏ đại Bi, muốn cứu độ chúng sinh, Bồ-tát cất tay hữu lên hướng về mười phương. Liền đó toàn cõi Đại Thiên sáu lần chấn động, có âm thanh tự nhiên phát ra. Âm thanh ấy vang suốt đến các cõi Phật mười phương. Ma vương Ba-tuần cùng ma quyến thuộc ở trên hư không, nghe âm thanh ấy đều tự trách mình sái quấy mà ưa thích pháp lành. Lúc ấy Bồ-tát ban bố vô úy đại Bi thương xót. Ma và quỷ thần hướng đến Bồ-tát, tự nhiên từ hư không đi xuống, tâm họ quy y phát tâm ủng hộ rồi ẩn mất không còn. Đó là Bồ-tát thương xót chúng ma quỷ thần mà phóng đại quang minh. Họ đều được rời khỏi sự khủng bố sợ hãi mà đều trở về Thiên cung. Lúc Bồ-tát thị hiện hàng phục Ma vương và ma quyến thuộc, có tám quỷ thần phát tâm Vô thượng Bồ-đề, chín mươi hai ức tải người được tâm nhân hòa không thoái chuyển, tám muôn bốn ngàn Thiên tử vì đã trồng cội công đức nên được Vô sinh pháp nhẫn. Thưa Bồ-tát Tịch Ý! do Bồ-tát hàng phục chúng ma ấy, vô số trời người được lợi lành lớn. Dù vậy, nhưng tâm Bồ-tát không có phân biệt, cũng không có nạn ma, vì đã bỏ hẳn các tội hại. Chư Thiên và thế gian tùy theo căn lành của chính mình, đều được thấy Bồ-tát. Hoặc có người thấy Bồ-tát ngồi trên tòa Sư tử hoa sen báu, hoặc thấy ở dưới đất, hoặc thấy ở hư không, hoặc thấy ở dưới cội cây, hoặc thấy ở cung trời Đao-lợi ngồi dưới cây báu, hoặc thấy ngồi trên tòa sư tử cao bảy nhẫn, hoặc thấy ngồi trên tòa sư tử cao mười dặm, hoặc hai mươi dặm, hoặc bốn mươi dặm, hoặc có chư Thiên nhân thấy Bồ-tát ngồi trên tòa sư tử cao bốn vạn hai ngàn do-tuần dưới cội cây Bồ-đề cao tám vạn bốn ngàn do-tuần. Thưa Bồ-tát Tịch Ý! cảnh giới của Bồ-tát chẳng có hạn lượng, chẳng thể nghó bàn, vì thế nên đạo tràng rất là thù đặc. Nếu có chúng sinh nào căn tánh thuần thục thì được thấy công hạnh của Bồ-tát, còn người căn tánh loạn động thì chẳng hay chẳng biết. Bồ-tát lúc vừa mới thành tựu viên mãn Phật đạo, bảy ngày đêm an trụ trong pháp lạc nhìn cây Bồ-đề mắt chẳng nháy. Bấy giờ có trăm ngàn ức chư Thiên đến ca ngợi cúng dường, đặt bàn ngọc, dâng thức ăn, thấy Đức Như Lai đã thành Phật đạo, đều phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Tứ đại Thiên vương đều cầm bát đến dâng lên Đức Như Lai. Như thế giới đại thiên này có trăm ức phương vực, mỗi phương vực có Tứ đại Thiên vương. Tất cả trăm ức Tứ đại Thiên vương đều cầm bát đến dâng lên, Đức Như Lai đều nhận lấy cả. Do oai thần của Đức Như Lai làm cho các vị đại Thiên vương đều chẳng thấy nhau, đều tự nghó rằng Đức Phật nhận lấy bát của mình sẽ dùng đựng thức ăn. Do đó các vị đại Thiên vương trong tâm vui mừng đều phát tâm Vô thượng Bồ-đề, đến chẳng thoái chuyển. Trưởng giả Đề-vị, Ba-lợi cùng năm trăm thương gia ngồi xe đi ngang qua đạo tràng. Đức Phật muốn độ họ nên thị hiện oai thần, ngựa xe của đoàn thương gia ấy tự nhiên đứng dừng lại không tiến lên được. Trưởng giả cùng các thương gia đều lấy làm lạ chẳng rõ cớ. Chư Thiên ở hư không bảo họ: –Đức Phật đã xuất hiện thế gian, các người nên đến cúng dường. Nghe tiếng chỉ bảo trên hư không, Trưởng giả và đoàn thương gia mừng rỡ, đều mang mật bún đề hồ đến dâng lên Đức Phật. Đồng thời tám mươi bốn ngàn chư Thiên cũng dâng thức ăn lên Đức Phật. Đức Phật đều nhận lãnh. Những người và chư Thiên ấy, đời trước đã từng phát nguyện: Lúc Đức Như Lai thành đạo, tôi sẽ là người dâng cúng thức ăn đầu tiên. Muốn cho họ toại bản nguyện, nên oai thần của Đức Phật làm cho họ chẳng thấy nhau, chẳng biết nhau, mỗi người đều tự thấy chỉ có riêng mình cúng dường, do đó họ đều rất vui mừng được chẳng thoái chuyển Vô thượng Bồ-đề. KINH ĐẠI BẢO TÍCH <卷 id="86423668">QUYỂN 12 Hán dịch: Đời Tây Tấn, Tam tạng Pháp sư Trúc Pháp Hộ. <詞 id="86423669">Pháp hội 3: MẬT TÍCH KIM CANG LỰC SÓ (Phần 5) Mật Tích Kim Cang lực só nói với Bồ-tát Tịch Ý: –Bồ-tát đến dưới cội Bồ-đề để thành Phật đạo. Đức Như Lai Chí Chân chưa chuyển pháp luân khai đạo chúng sinh, mà đã hóa độ vô lượng chúng sinh nhiều hơn số chúng sinh được tế độ từ lúc mới phát đạo tâm đến khi ngồi dưới cội Bồ-đề. Đức Như Lai Chí Chân vừa thành Phật đạo, bấy giờ Phạm Thiên vương Diệu Thức cùng sáu mươi tám vạn ức triệu trăm ngàn Phạm thiên quyến thuộc đến chỗ Đức Phật, đảnh lễ sát dưới chân, đi quanh bên hữu bảy vòng, trụ ở trước Đức Phật cung kính bạch rằng: –Xin Đấng Đại Bi chuyển pháp luân tuyên bố đạo hóa. Có nhiều chúng sinh đáng được độ nghe Phật thuyết pháp có thể hiểu biết vâng làm. Thưa Bồ-tát Tịch Ý! Phạm Thiên vương Diệu Thức đã ân cần khuyến thỉnh Đức Thế Tôn chuyển pháp luân, mười ức Phạm thiên, mười ức Thiên đế và mười ức trăm ngàn triệu các Bồ-tát cũng khuyến thỉnh Đức Thế Tôn chuyển pháp luân. Lúc Đức Thế Tôn sắp chuyển pháp luân, Phạm Thiên vương Diệu Thức đến khu vườn Lộc uyển ở thành Ba-la-nại trần thiết tòa Sư tử báu đẹp trang nghiêm cao ba ngàn hai trăm tám mươi dặm. Mười ức Phạm thiên, mười ức Thiên đế, mười ức trăm ngàn triệu các Bồ-tát cũng vì Đức Thế Tôn mà trần thiết tòa Sư tử cao rộng đều đồng nhau, ai cũng tự nghó: “Đức Như Lai sẽ ngồi trên tòa Sư tử của mình để chuyển pháp luân.” Bấy giờ Đức Như Lai đến khu vườn Lộc uyển ở thành Ba-la-nại ngồi trên tòa Sư tử. Các vị Phạm, Thích và Bồ-tát đều tự nghó rằng: “Đức Như Lai riêng ngồi trên tòa Sư tử của mình.” Lúc Đức Như Lai vừa ngồi xong, mười phương vô lượng cõi Phật độ chấn động sáu cách. Khi ấy Đức Như Lai nhập vô cực giới Tam-muội, tức thời toàn cõi đại thiên đều bằng phẳng như bàn tay. Tất cả chúng sinh ở địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, trên trời, trong loài người đều được an ổn, không dâm, nộ, si, tiêu bệnh ba độc, lòng họ thanh tịnh thương yêu nhau như cha, như mẹ, con cái, như anh em, chị em. Vô số các Bồ-tát từ vô hạn Phật cõi ở mười phương đến nghe Đức Phật thuyết pháp. Trong cõi Đại thiên, vô số chúng Trời, Rồng, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân đồng đến chỗ Đức Phật muốn nghe kinh pháp. Đại chúng đến dự hội đông đầy khắp cả cõi đại thiên không còn chỗ nào trống chừng sợi lông sợi tóc. Tất cả thính chúng đều nhất tâm khát khao đạo pháp. Đức Thế Tôn thấy đại chúng đã nhóm họp đông đủ liền chuyển pháp luân, vì các hàng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên, Ma vương, Đại phạm Thiên vương và người thế tục mà tuyên bố chánh pháp, tùy thời nghi, theo tâm chúng sinh, đều làm cho họ được hiểu biết tỏ ngộ tuân hành đạo pháp. Đức Như Lai Chí Chân vì họ mà phân biệt, tuyên nói pháp này: –Câu-lân nên biết, nhãn căn vô thường, biết rõ nhãn căn vô thường thì theo luật giáo. Nhãn căn độc khổ, không có tôi ta, nhãn căn như huyễn, như hóa, như sóng nắng trên đường, như bóng trăng, như mộng, như ảnh, như vang, theo luật giáo này mới chịu phụng hành Không, Vô tướng, Vô nguyện. Nhãn căn vốn trống không, vắng lặng, đạm bạc theo duyên mà khởi. Nhó, tỷ, thiệt, thân và ý căn cũng vậy. Tất cả đều vô thường. Do nghe nói vô thường thì hiểu là khổ, không có tôi ta, vắng lặng đạm bạc, Không, Vô tướng, Vô nguyện. Vì chẳng thấu tỏ nên theo duyên mà khởi. Năm ấm vô thường, dù nói năm thứ nhưng đều vô thường, nghe nói năm ấm vô thường thì hiểu là rỗng không vậy. Sáu trần và bốn đại chủng cũng vậy. Bốn Niệm xứ, bốn Chánh cần, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác chi, tám Đạo hạnh. Do được nghe ba mươi bảy phẩm Trợ đạo mà hiểu vô thường, rỗng không, bèn theo luật giáo. Người thích Thanh văn thì chẳng ưa Duyên giác. Người thích Duyên giác thì chẳng muốn Thanh văn. Nếu mộ hai thừa thì chẳng nói Đại thừa. Nếu tuyên Đại thừa, được nghe nghóa thú ấy thì chẳng ham nghe lời nói về Thanh văn và Duyên giác.” Thưa Bồ-tát Tịch Ý! Đức Như Lai tùy theo tâm sở thích của chúng sinh mà chuyển pháp luân đều làm cho họ được độ. Dù cho trí tuệ như Tôn giả Xá-lợi-phất trải qua trăm ngàn năm suy nghó chỗ sở nhập của bản hạnh đạo nghóa cũng chẳng lường biết được, huống là người khác. Lúc nói về Bồ-tát đến ngồi dưới cội Bồ-đề, hàng ma thành đạo và chuyển pháp luân, có tám muôn bốn ngàn người trong đại hội phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Lúc bấy giờ Mật Tích Kim Cang tiến đến bạch: –Bạch Thế Tôn! Vừa rồi con tuyên nói bí yếu của Như Lai phải chăng không sai trái hủy báng Như Lai? Bí yếu của Như Lai rất là huyền diệu rộng lớn không ngằn mé, thế gian khó tin được. Dù nói bí yếu của Như Lai mà tâm con tự nhớ là trí tuệ của Như Lai nhập trong thân con, chớ chẳng phải là sức của con. Đức Phật dạy: –Đúng như vậy. Như lời của Mật Tích đã nói. Đạo tuệ của Như Lai nhập vào chỗ nào thì không ai là chẳng được an ổn. Hàng đệ tử Phật ban tuyên kinh điển, đều nương nhờ oai thần của Như Lai. Vì nhập vào thân không pháp đạo tuệ huyền diệu của Như Lai nên không ai là chẳng thông đạt. Nếu muốn bảo chúng sinh tự kiến lập Như Lai chánh pháp, tuyên nghóa nhu thuận, thì chưa bao giờ có. Nay ông suy gẫm Chân đế, nương đạo tuệ của Như Lai mà được sức vô úy diễn nói pháp ấy. Nói rằng Chân đế chính là pháp ấy. Vì sao? Chân đế ấy là đạo Vô thượng chánh chân mà chư Phật quá khứ, chư Phật vị lai, chư Phật hiện tại đều tuân hành. Giả sử có ai ban tuyên kinh điển bí yếu này đúng pháp không sai thì đều sẽ thành Phật. Nếu có người nghe nói kinh này mà tin ưa, thì được tất cả thế gian đều kính mến tin tưởng. Giả sử có người dùng đầu hoặc vai mang núi Tu-di đứng giữa hư không, việc này còn có thể được. Người không có đức thì chẳng kham nhiệm được nghe kinh điển này. Hoặc đã được nghe cũng khó tin. Hoặc đã tin nhưng chẳng thể mến thích. Huống lại là thọ trì, đọc tụng, giảng thuyết. Nếu có người nghe kinh này mà tin ưa thọï trì, đọc tụng, vì người khác giảng thuyết, người này đời trước đã từng cúng dường vô số ức trăm ngàn triệu ức chư Phật Thế Tôn. Đây là bâïc Chánh só vun trồng cội công đức, chí gìn giữ Đại thừa, quyết định được thọ ký. Huống là người chí thành hay phụng hành. Lúc ấy Bồ-tát Tịch Ý tiến lên bạch: –Bạch Thế Tôn! Thế nào là nghóa vắng lặng đạm bạc? Đức Phật bảo Bồ-tát Tịch Ý: –Này thiện nam! Nghóa vắng lặng đạm bạc là tiêu diệt trần lao và đạm bạc những ô nhiễm. Do tiêu trần lao nên mới gọi là trừ các tham dục vọng tưởng. Do trừ dục tưởng thì không tư lự. Do không tư lự thì chẳng chấp trước. Do chẳng chấp trước thì không hành nghiệp nhân duyên. Do không hành nghiệp nhân duyên thì không vô minh, ân ái. Do không vô minh, ân ái thì tiêu diệt tôi ta. Do tiêu diệt tôi ta thì không danh sắc. Do không danh sắc thì tiêu nghiệp chấp đoạn, chấp thường. Do không nghiệp đoạn diệt chấp thường thì tiêu tham thân. Này thiện nam! Các nhân duyên quả báo tùy theo các nghiệp chấp kiến điên đảo mà thành trần lao, đều do tham thân mà thành họa hoạn ấy. Do không tham thân thì bỏ cả sáu mươi hai thứ chấp kiến. Do không tham thân thì vắng bặt các duyên. Do không tham thân thì tất cả tham dục tự nhiên đạm bạc. Do không tham thân thì các hy vọng vắng lặng tiêu diệt. Ví như nhổ cây thì rễ, gốc, thân, nhánh, lá, hoa, trái đồng thời đều trừ, cây ấy vónh viễn không còn có. Hành giả cũng vậy. Do tiêu tham thân thì không còn có những sáu mươi hai thứ kiến chấp. Do tiêu tham thân nên đều trừ tất cả các pháp sở thọ, họa hoạn trần lao, năm ấm, sáu nhập. Do không tham thân nên không có các họa hoạn trần lao năm ấm. Bồ-tát Tịch Ý thưa: –Bạch Thế Tôn! Vì chẳng dứt trừ tham thân nên có cái tôi cái ta? Đức Phật dạy: –Này thiện nam! Vì còn có cái tôi, cái ta nên chẳng dứt trừ tham thân. Vì còn có nhân, thọ mạng nên chẳng dứt tham trước. Cái được thấy ấy chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, không có nơi chỗ. Suy tìm tất cả chỗ đều không có cái được thấy. Vì không có cái được thấy nên không có phân biệt. Đây gọi là dứt được kiến chấp tham thân, tham thân đều rỗng không. Do trí pháp nhẫn nhu thuận hay hiểu biết pháp không nên không còn các chấp kiến kia, thân mình không có tưởng đều không có chỗ làm, không có sinh, không có khởi. Đây mới gọi là pháp nhẫn nhu thuận chẳng còn các kiến chấp, là dứt tham thân. Này thiện nam! Nếu chẳng tham thân thì giải thoát thân không có thân. Sao gọi là không có thân? Thân do bốn đại chủng hợp thành vốn không có tên. Do biết như vậy nên hiểu là hư ngụy, nên gọi là chẳng chân thật, là chẳng có được, đều do vọng tưởng mà có. Nếu không cầu mong, chẳng vọng tưởng, chẳng mê chẳng lầm, chẳng làm chẳng ở, thì không tham sân. Vì không tham sân nên gọi là vắng lặng, là đạm bạc. Tiêu diệt những gì mà gọi là vắng lặng? Tiêu các nhân duyên gọi là vắng lặng. Vì sao? Vì từ các nhân duyên ấy mà làm cho tâm hừng hẫy. Do không nhân duyên thì tâm chẳng hừng hẫy. Ví như do nhân duyên hai khúc gỗ cọ nhau nên có lửa hẫy hừng. Không gỗ, không lửa thì không hẫy hừng. Cũng vậy, do duyên đối kia làm cho tâm hừng hẫy. Do không duyên đối thì không hừng hẫy. Lại nữa, này thiện nam! Bồ-tát Đại só dùng sức phương tiện tùy thời tiêu diệt nhân duyên mà chẳng tiêu diệt những cội gốc công đức. Chẳng hưng khởi nhân duyên trần lao, hưng phát các công hạnh, các Ba-la-mật-đa. Vứt bỏ các sự ma, các nghiệp tà mà chẳng bỏ đạo hạnh nghiệp duyên của chư Phật. Bỏ nhân Niết-bàn mà chẳng bỏ ba mươi bảy phẩm Đạo nghiệp. Tâm chẳng ưa luyến Thanh văn, Duyên giác. Chẳng bỏ đạo tâm chí chân của Bồ-tát. Vì quán không vô mà khởi đại Bi. Xét các nhân duyên để không duyên theo tướng. Tuyên giảng chí đức, chẳng vì vọng tưởng mà mất đạo tâm. Vì không mong cầu nên nhàm các nhân đối đãi, các nạn trong ba cõi. Chỉ không có sinh duyên mà chẳng bỏ sở sinh. Không ngờ vực, tu các công đức, làm các đạo hạnh. Đây là Bồ-tát quyền trí nhập định mà được tự tại. Duyên vô thường ư? Chẳng nhàm sinh tử mà được tự do, vì không chỗ sợ. Duyên có khổ ư? Kiến lập chúng sinh nơi Niết-bàn an ổn, vì đã được kiến lập. Duyên vô ngã ư? Thương xót làm cho chúng sinh được an lạc, vì thực hành đại Bi. Duyên hư vô ư? Vì tâm được Như Lai tám phần Thánh đạo. Duyên dục hành ư? Vì làm thuốc thanh tịnh cho những bệnh tham ái. Ban tuyên chánh pháp ư? Vì làm cho tâm họ an trụ vững chắc. Duyên sân hận ư? Vì tuyên thuốc tâm Từ để chúng hết sân hận. Duyên ngu si ư? Vì chúng ngu si mà ban cho thuốc mười hai nhân duyên để trị tâm bệnh cho họ chẳng di động. Duyên đẳng phần ư? Với những chúng sinh đồng đều ba sự tham, sân, si, đem ba pháp giáo hóa trị tâm bệnh họ, giảng thuốc vô thường. Duyên vô dục ư? Vì muốn khai hóa hàng Thanh văn. Rời sân hận ư? Vì làm cho tâm họ được đứng vững nơi Duyên giác thừa. Rời ngu si ư? Vì khai hóa tâm họ an lập nơi Đại thừa. Duyên sắc tượng ư? Vì tâm ấy khắp an trụ đến được thân tượng của Như Lai. Duyên âm thanh ư? Vì tâm được an trụ thanh âm của Như Lai. Duyên các mùi hương ư? Vì tâm an lập giới hương của Như Lai. Duyên các mùi vị ư? Vì tâm được an trụ đạo vị của Như Lai. Duyên đại nhân tướng ư? Vì tâm an trụ được tướng hảo trang nghiêm. Duyên mịn trơn ư? Vì tâm an trụ được tay chân nhu nhuyến của Như Lai. Duyên Kinh pháp ư? Vì tâm an trụ đến được ý vô sinh của Như Lai. Duyên Bố thí ư? Vì tâm an trụ tại đầy đủ những tướng hảo. Duyên Trì giới ư? Vì tâm an trụ tại Phật độ nghiêm tịnh. Duyên Nhẫn nhục ư? Vì tâm an trụ tại Phạm âm của Như Lai. Duyên Tinh tấn ư? Vì tâm an trụ ở hóa độ chúng sinh. Duyên Thiền định ư? Vì tâm an trụ ở hưng khởi thần thông. Duyên Trí tuệ ư? Vì tâm an trụ ở dứt các tà kiến, dứt lưới sáu mươi hai điều nghi chấp. Duyên Từ tâm ư? Vì với tất cả chúng sinh tâm bình đẳng chẳng mang lòng tổn hại. Duyên xót thương Bi tâm ư? Vì lập tâm cứu tế chúng sinh. Duyên Hỷ duyệt ư? Vì tâm an trụ tại ưa thích nghe pháp. Duyên Xả ly ư? Vì lập tâm vứt bỏ các họa nguy ách của kết sử. Duyên bốn ân ư? Vì giữ gìn tâm, khai hóa dìu dắt chúng sinh. Duyên tham sân ư? Vì gầy dựng tất cả sở hữu để ban bố cho chúng sinh. Duyên phạm ác ư? Vì tồn tâm an lập giới hạnh thanh tịnh của Như Lai. Duyên tranh luận ư? Vì tâm an trụ tại trí biện của Như Lai. Duyên oán hại ư? Vì tồn tâm an lập mười Trí lực và bốn Vô sở úy của Như Lai. Duyên loạn động ư? Vì tâm an trụ được Tam-muội của Như Lai. Duyên tà trí ư? Vì tâm an lập trí Ba-la-mật-đa vô ngại đầy đủ cho chúng sinh. Duyên hạ thừa ư? Vì tâm an trụ ở chỗ tích chứa công đức, chí ở Đại thừa. Duyên thuận ứng ư? Vì tồn tâm an hòa, chẳng phạm các điều ác phi pháp. Duyên ác thú ư? Vì tâm an trụ ở chỗ cứu hộ tất cả chúng sinh ác thú, đọa bát nạn. Duyên chư Thiên ư? Vì tồn tâm, hiểu rõ những hội hợp đều sẽ biệt ly. Duyên chúng nhân ư? Vì tâm an trụ tại tất cả diệu thiện. Duyên niệm Phật ư? Vì tập thấy chư Phật. Duyên niệm Pháp ư? Vì tồn tâm phụng hành đạo pháp mà bỏ sự vô ích. Duyên niệm Tăng ư? Vì gầy dựng pháp không thoái chuyển. Duyên thí cho ư? Vì tâm an trụ chẳng rời bỏ chúng sinh. Duyên cấm giới ư? Vì đầy đủ sở nguyện. Duyên niệm thiên ư? Vì tồn tâm, an lập đủ trọn công đức Nhất sinh bổ xứ. Duyên thân hành ư? Vì đến được Phật thân. Duyên khẩu ngôn ư? Vì tâm an trụ các ngôn giáo kinh điển của Phật. Duyên tâm ý ư? Vì tồn tâm được Phật ý. Duyên hữu vi ư? Vì tâm an trụ tại tích chứa công đức, tự được đầy đủ. Duyên vô vi ư? Vì tâm an trụ tại đầy đủ Thánh tuệ vậy. Này thiện nam! Như vậy chẳng phải từ nơi không duyên, không hóa độ mà đến được đạo Đại thừa, đều do duyên tâm mà được đến Phật đạo, được đến Nhất thiết trí. Nếu có Bồ-tát đều do nơi duyên hóa mà dẫn đạo Nhất thiết trí thì đó là thiện quyền phương tiện của Bồ-tát, đều do thấy các pháp, đều mang lòng dẫn đến đạo Nhất thiết trí. Vì như cõi đại thiên chứa nhận tất cả đất đai, chúng sinh, cỏ cây, sông biển, không thứ gì chẳng bao gồm. Tất cả đều mong nhờ nơi đó mà được sinh hoạt. Này thiện nam! Cũng vậy, tất cả các duyên đều do Bồ-tát thiện quyền phương tiện thực hành những công hạnh thù thắng Đệ nhất dẫn đến Nhất thiết trí. Như các hình sắc đều có bốn đại chủng. Cũng vậy, Bồ-tát thiện quyền phương tiện tạo lập các duyên đều đến Phật đạo. Vì sao? Các chúng sinh hưng khởi tội nghiệt, đối với Bồ-tát chẳng những không báo đền mà Bồ-tát duyên nơi đây thực hành Bố thí ba-la-mật-đa liền có thể thành tựu đầy đủ Giới ba-la-mật-đa. Nếu có người giận thù mang lòng độc hại, bấy giờ Bồ-tát thực hành Nhẫn ba-la-mật-đa liền đó sung mãn Tinh tấn ba-la-mật-đa. Nếu thấy chúng sinh ở nơi ồn ào náo nhiệt, tâm họ không an ổn, duyên đây mà Bồ-tát hành Thiền ba-la-mật-đa, bỗng nhiên thành tựu Trí ba-la-mật-đa. Nếu có chúng sinh che chướng tối tăm, Bồ-tát vì họ mà dứt trừ lưới kết phược chướng ngại. Nếu có chúng sinh siêng tu tập, Bồ-tát bèn vì họ tiêu trừ tất cả chỗ chấp trước, cúi đầu khen ngợi chỉ thị cho họ tự quay về. Với kẻ ưa chê bai hủy báng, Bồ-tát cũng tùy thuận ý của họ, làm cho họ chẳng sinh tâm hủy báng. Nếu thấy người cần khổ bị vô số khổ não, Bồ-tát liền khởi đại Bi cứu họ khỏi khổ. Nếu thấy người an lạc, Bồ-tát rất vui mừng mà nhiếp thọ họ. Nếu thấy những loài cang cường khó hóa độ, Bồ-tát tùy thời dìu dắt huấn thị cho họ phát đạo tâm. Thấy người nhân hòa, Bồ-tát ở nơi họ tu tập chí hạnh phát khởi đạo tâm cho họ. Nếu có chúng sinh, kẻ có thế lực có duyên với Bồ-tát thì Bồ-tát tùy thuận hưng khởi khiến họ phát khởi đạo tâm. Nếu có lực só báo ứng nghiệp hạnh, Bồ-tát liền thuận nhiếp thủ dạy dỗ phát khởi đạo tâm. Đây gọi là tùy duyên mà được tự tại. Bồ-tát tùy thuận thiện quyền phương tiện, biết rõ chúng sinh, đúng thời mà thuyết pháp theo chỗ báo ứng, chí nguyện ái mộ, giáo hóa khai thị phân giải, đều làm cho chúng sinh thản nhiên tinh tấn nơi đại đạo Thánh tuệ, vì họ mà luận nghóa sâu xa vô thượng. Bồ-tát để lòng Từ rộng lớn vì chúng sinh mà giải bày đạo chí chân, lần lượt vì họ mà ban tuyên chỉ dạy đạo nhân vô thượng ấy, giải thích phân biệt chương cú. Bồ-tát lấy một câu pháp mà diễn xướng bao nhiêu nghóa. Với người ưa vắng lặng, Bồ-tát vì họ phân biệt quán xét tất cả. Với người thích giác quán, Bồ-tát đem quán giải thoát Tam-muội giảng thuyết cấm giới, lại vì họ mà tuyên giảng địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Do nghe pháp ấy mà hiểu sự vô thường không cứu không hộ, khiến họ cầu đạo hộ. Nếu người có chánh định, Bồ-tát vì họ mà luận Tuệ ba-la-mật-đa. Với người hâm mộ ở chỗ nhàn nhã, Bồ-tát giáo hóa họ tịnh thân, miệng, ý. Với người biết tri túc, Bồ-tát vì họ mà hiển phát hạnh nghiệp công đức của bậc Thánh hiền. Với người có quan niệm tự đại ngu tối, Bồ-tát sẽ vì họ tuyên bố tinh tấn học rộng nghe nhiều. Với người tham dục, Bồ-tát chỉ bảo cho họ biết họa hoạn bất tịnh vô ích. Với người hay giận thù, Bồ-tát khuyên họ phát tâm Từ, chẳng mang lòng oán hại. Với người ngu lầm, Bồ-tát dạy họ pháp mười hai nhân duyên phát khởi sinh tử. Với người đẳng phần phiền não, Bồ-tát vì họ diễn nói vô thường, khổ, không, vô ngã. Với người ham mê sắc dục, Bồ-tát giảng dạy sự bất tịnh. Với người nhân từ đến nỗi ngu tối không hiểu biết, Bồ-tát vì họ chỉ bảo sự duyên khởi tội lỗi. Với người tà kiến, Bồ-tát vì họ quyết rõ pháp không vô. Với người mang lòng hy vọng, Bồ-tát diễn nói hạnh không vọng tưởng. Với người cố chấp nơi thệ nguyện, Bồ-tát dạy họ không nguyện cầu. Với người ưa nơi năm triền cái, Bồ-tát vì họ phân tích năm ấm như huyễn, như hóa hư ngụy không thật. Với người tham chấp các đại chủng, Bồ-tát vì họ giải rõ bốn đại chủng, mười tám giới như bóng, do hình chiếu mà hiện. Với người dựa theo các nhập, Bồ-tát giảng nói mười hai thứ nhập, trong sáu căn, ngoài sáu trần đều chẳng phải sở hữu của ta. Như cảnh chiêm bao lúc thức không còn có. Với người nương cõi Dục, Bồ-tát vì họ giảng nói phân biệt tất cả vạn vật đều về nơi vô thường. Với người chấp thủ cõi Sắc, Bồ-tát vì họ diễn nói tất cả hạnh nghiệp chúng sinh đều là gốc khổ não. Giả sử có người coi trọng cõi Vô sắc, Bồ-tát tuyên bố tất cả các pháp đều không có cái tôi và cái ta. Với người khó hóa độ, Bồ-tát bảo họ siêng tu tập pháp Thánh hiền. Với người dễ hóa độ, Bồ-tát sẽ vì họ khai thị pháp Vô thượng chí chân. Với người muốn sinh ở cõi trời, cõi người, Bồ-tát vì họ ca ngợi giới phẩm thanh tịnh. Với người thích Thanh văn thừa, Bồ-tát giảng dạy chỉ rõ pháp bốn Đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Với người mộ Duyên giác thừa, Bồ-tát khai thị mười hai nhân duyên lấy vô minh làm gốc. Với người học hạnh Đại thừa, Bồ-tát nhân đó lưu bố sáu pháp Ba-la-mật-đa, bốn Đẳng, bốn Ân để dắt dẫn họ. Với người mới phát tâm, Bồ-tát xem xét chí tánh của họ mà dạy dỗ. Với người đủ các công hạnh chẳng nhàm sinh tử, Bồ-tát chỉ dạy pháp không nạn để họ được chẳng thoái chuyển. Với người không thoái chuyển, Bồ-tát nhân đó phân biệt nói Phật độ thanh tịnh. Với bâïc Bồ-tát đại nhân Nhất sinh bổ xứ, Bồ-tát hiển thị đạo tràng Bồ-đề chí chân. Này thiện nam! Bồ-tát được tự tại theo duyên giáo hóa tuyên bố đạo pháp không có sai lầm, dùng ngôn từ khéo léo làm vui đẹp lợi ích chúng sinh. Lúc Đức Thế Tôn nói lời trên đây, trong pháp hội có một vạn người phát tâm Vô thượng Bồ-đề, năm trăm Bồ-tát được Vô sinh pháp nhẫn. Bấy giờ, trong chúng hội có các Bồ-tát thầm nghó: “Lực só Mật Tích Kim Cang này bao giờ thành Phật? Lúc ông ấy thành Phật hiệu là gì? Quốc độ ấy tên gì? Công đức nghiêm tịnh thuộc về loại gì? Thành tựu chúng Bồ-tát thế nào?” Đức Thế Tôn biết tâm niệm của các Bồ-tát liền mỉm cười. Vô số ức trăm ngàn tia sáng từ miệng Đức Phật phóng ra chiếu thấu vô hạn thế giới mười phương, che cả ánh sáng của mặt trời mặt trăng, trùm cả cung điện của ma. Những tia sáng ấy trở về nhiễu vòng quanh Đức Phật vô số vòng rồi từ đỉnh đầu Đức Phật mà thâu vào. Bồ-tát Tịch Ý liền đứng dậy để hở vai áo bên phải, chắp tay lễ Phật, nói kệ ca ngợi để hỏi ý cười của Đức Phật: Cao vọi như núi vàng Diệu quang sạch bụi trần Tâm Phật vững vắng lặng Như mặt trời trên không. Tia sáng ấy rất sáng Tiêu trừ các tối tăm Cớ chi hiện như vậy? Xin Thế Tôn giải bày. Sạch sẽ như hoa sen Mọc ở trong bùn sình Gốc cọng ở trong nước Lớn lên không cấu nhơ. Công đức rất thơm tho Ý niệm càng xa rộng Cúi xin an nhiên nói Cớ chi lại vui cười? Tâm trí Phật an ổn Vắng lặng và nhu hòa Lòng Từ càng thêm lớn Tiêu trừ những cấu uế. Dùng ánh sáng trí tuệ Trừ bỏ các tối tăm An trụ như hoa sen Vứt bỏ các hồ nghi. Thêm thương tu đạo tràng Phụng hành được tự tại Miệng Phật phóng quang minh Khô cạn các ái dục Khai hóa các chúng sinh Cho mắt họ sáng sạch. An trụ tiêu nghịch tặc Trừ bỏ những tội lỗi Khắp tất cả chúng hội Ngưỡng nhìn tướng mạo Phật Cớ chi Phật vui cười? Cúi xin phân biệt nói. Đức Phật bảo Bồ-tát Tịch Ý: –Ông có thấy Mật Tích Kim Cang ấy chăng? Bồ-tát Tịch Ý thưa: –Bạch Thế Tôn! Con đã thấy ông ấy. Đức Phật dạy: –Mật Tích Kim Cang đã và đang cúng dường chư Như Lai ở hiền kiếp, hộ trì chánh pháp, khai thị lợi ích vô lượng chúng sinh. Từ thân ấy chết, ông ấy sẽ sinh về nước Diệu lạc của Đức Phật A-súc. Từ đó về sau gặp vô số chư Phật, tịnh tu phạm hạnh. Qua khỏi số kiếp ấy, ông ấy chứa nhóm công đức sẽ thành Phật hiệu Kim Cang Bộ Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác. Cõi nước tên Phổ tịnh. Kiếp hiệu Nghiêm tịnh. Cõi nước Phổ tịnh hợp bảy báu là vàng, bạc, lưu ly, thủy tinh, xa cừ, mã não, san hô, trân châu làm thành, nhân dân giàu vui đông đảo như cung trời Đâu-suất. Cõi nước ấy không có ba ác đạo và tám nạn, trời và người chẳng riêng biệt, tất cả đều mến mộ Phật đạo vi diệu. Cõi ấy không có hai thừa, không có tên Thanh văn, Duyên giác, thuần là Bồ-tát. Đức Kim Cang Bộ Như Lai tuyên thuyết pháp Đại thừa không thoái chuyển. Chúng Bồ-tát ở cõi Phổ tịnh đông chẳng thể tính đếm hạn lượng được. Cõi ấy không có người tánh ác ganh ghét phá giới tà kiến. Người cõi ấy đều đạt đến chỗ cứu cách mến thích Phật pháp, tâm tánh hiền hòa, đều đủ hai mươi tám tướng tốt trang nghiêm thân thể. Đức Kim Cang Bộ Như Lai tại thế sống tám tiểu kiếp, thường vì chúng hội trời, người thuyết pháp, thân phóng quang minh chiếu khắp cõi nước. Các hàng trời, người được quang minh Phật chiếu đến đều được giải quyết các điều nghi khen ngợi chánh pháp, về theo Đức Phật. Mọi người đều nghó rằng tôi phải đến chỗ Phật để học hỏi kinh điển. Có người dùng thần thông của mình đi đến chỗ Phật. Có hàng hữu học nương oai thần của Phật mà đến. Đức Phật Kim Cang Bộ ở trên hư không cách mặt đất trăm ngàn nhẫn tuyên cáo pháp âm khắp mười phương làm vui đẹp tất cả những người đến dự hội. Đức Phật chỉ tuyên pháp Đại thừa Vô thượng đại đạo cho các Bồ-tát. Cõi nước Phổ tịnh ấy không một ai chống báng lời giáo huấn của Đức Phật. Cõi nước ấy không có vua chúa, chỉ có Đức Phật Thế Tôn là vị Pháp vương. Ở cõi nước ấy, tất cả nhân dân đều có trí tuệ, không chấp tôi ta, không có ngã sở, chẳng làm chủ nhà ruộng riêng. Do lòng Từ xót thương của Đức Phật, chiều tối người cõi nước ấy thấy Đức Kim Cang Bộ Như Lai hiện thân tượng đắp y mang bát đứng trước nhà mình, liền tự nghó Đức Như Lai thương con muốn đến nhà con thọ trai. Đêm ấy họ sắm sửa thức ăn, trần thiết ghế bàn. Sáng hôm sau đến giờ thọ trai, Đức Phật và Thánh chúng đến nhà họ thọ trai xong, sau khi rửa tay, Đức Phật vì người nhà thí chủ mà thuyết kinh pháp. Thí chủ ấy được pháp không thoái chuyển nơi đạo Vô thượng Chánh giác. Thuyết kinh xong Đức Phật trở về tinh xá như lúc Đức Phật ngồi yên nơi tịnh thất. Lúc bấy giờ các Bồ-tát cõi ấy đều theo bản hạnh nhập vào Tam-muội mà tự tu tập. Này Tịch Ý! Cõi nước của Đức Phật Kim Cang Bộ có công đức trang nghiêm thanh tịnh đặc thù như vậy. Lúc Đức Thế Tôn nói lời thọ ký cho Mật Tích Kim Cang lực só, trong chúng hội có hai vạn người phát tâm Vô thượng Bồ-đề phát nguyện sinh về cõi nước ấy. Đức Phật thọ ký rằng lúc Đức Phật Kim Cang Bộ thành đạo, trong đại chúng đây ai nguyện được thấy thì đều sẽ được sinh về cõi Phổ tịnh ấy và sẽ được Đức Phật ấy thọ ký Vô thượng Bồ-đề. Nghe Đức Phật thọ ký, Mật Tích Kim Cang vui mừng hớn hở dồi chày Kim cang đang cầm lên hư không. Liền đó khắp cõi đại thiên chấn động sáu cách, ánh sáng chiếu mười phương, hoa trời tuôn xuống như tuyết rơi, các thứ âm nhạc tự nhiên trổi lên. Tay mặt của tất cả mọi người trong pháp hội tự nhiên có nhiều thứ hoa hương phan lọng xinh đẹp, đều cầm lấy mà đi. Bấy giờ Mật Tích Kim Cang cầm hoa hương, phan lọng đi vòng quanh Đức Phật nói kệ ca ngợi: Pháp rộng khắp tự tại Pháp tạng chẳng cùng tận Thuyết pháp rất rành rẽ Lợi ích cho chúng sinh. Phật phó chúc cho con Thường thích dùng pháp thí Phụng hành đúng chánh pháp Nguyện tự quy Phật đạo. Trí tuệ hay thanh tịnh Công hạnh đã sáng suốt Danh hiệu thấu ba đời Công đức trọn rốt ráo. Trí Phật suốt ba chỗ Thánh đức không chấp trước Tự tại độ chúng sinh Giáo hóa khỏi khổ ách. Thanh tịnh như mặt trăng Dung nhan rất sáng rỡ Chiếu đến chỗ rất xa Dường như mặt trời sáng. Phật âm rất dịu hòa Như tiếng trời Phạm thiên Từ bi tuyên lời dạy Kính lễ Đấng Chí Tôn. Tự hiển hiện thân hình Thị hiện có thọ mạng Xin Phật tuyên pháp âm Diễn nói các văn tự. Dù diễn nói kinh pháp Nhưng không niệm có pháp Dù độ khắp chúng sinh Nhưng không tưởng có nhân. Thế Tôn thương giáo hóa Ai báo được ân Phật Giả sử tất cả chúng Chứa đức vô lượng kiếp Chỉ thưa hỏi Phật pháp Chí chẳng ở nghiệp khác Mình phụng hành Phật hạnh Lại dạy bảo người khác. Nhiễu Phật và chúng hội đủ bảy vòng xong, Mật Tích Kim Cang cầm các thứ hoa và lọng báu tung lên cúng dường Đức Phật. Vừa lúc tung hoa, khắp bốn thiên hạ tự nhiên hóa sinh bao nhiêu thứ hoa trang nghiêm tám lớp đường sá, những ao nước tám vị công đức, nương oai thần của Phật, không đâu là chẳng khắp. Lúc đó Bồ-tát Tịch Ý hỏi Mật Tích Kim Cang: –Đức Như Lai đã thọ ký Phật đạo cho ngài? Mật Tích Kim Cang đáp: –Bồ-tát đã thấy Đức Phật thọ ký. Sự thọ ký ấy tự nhiên như chiêm bao. Hỏi: –Ngài được thọ ký là đến chỗ nào? Đáp: –Chỗ được thọ ký ấy là không chỗ đến. Hỏi: –Chẳng đến chỗ nào? Đáp: –Chẳng đến tôi ta, chẳng được nhân và thọ mạng, chẳng được năm ấm, sáu trần, bốn đại chủng, chẳng thấy công nghiệp độ đời hiện tại, chẳng đến các tội cùng chẳng tội, không có lậu và vô lậu, không có trần lao sân hận, không có hữu vi và vô vi, không có sinh tử và Niết bàn, tất cả đều chẳng đến mới gọi là thọ ký. Hỏi: –Nếu không chỗ đến thì ai được thọ ký? Đáp: –Không chỗ đến ấy mới gọi là đến. Hỏi: –Nếu không tôi ta thì ai được thọ ký? Đáp: –Người thọ ký và người được thọ ký đều bình đẳng, bản tế không có hai, không có khác. Hỏi: –Nếu không bản tế, thì ai được thọ ký ấy? Đáp: –Bản tế không sinh, cũng không diệt, không có hai. Do bản tế ấy mà ngày nay được thọ ký. Hỏi: –An trụ bản tế nào mà được thọ ký? Đáp: –An trụ nơi tự nhiên, bản tế không hai, bản tế không ngã, không nhân, không thọ mang, an trụ nơi tự nhiên mới gọi là được thọ ký. Hỏi: –Tôi ta bản tế an trụ chỗ nào? Đáp: –An trụ chỗ Đức Như Lai an trụ. Hỏi: –Không chỗ hay biết là biết chỗ nào? Đáp: –Chỗ hay biết ấy, là không chỗ biết. Hỏi: –Nếu không chỗ bảo nói là không chỗ nói, giả sử không chỗ nói thì dạy những gì? Đáp: –Dạy không chỗ dạy. Hỏi: –Thế nào là dạy không chỗ dạy? Đáp: –Tất cả các pháp đều không chỗ dạy. Hỏi: –Giả sử không chỗ dạy thì làm sao biết đó? Đáp: –Giả sử không chỗ dạy thì chỗ biết dường ấy. Hỏi: –Thế nào là dạy chỗ biết? Đáp: –Chẳng hỏi chỗ biết. Hỏi: –Thế nào là chẳng hỏi chỗ biết? Đáp: –Tâm không phóng dật. Hỏi: –Thế nào là tâm không phóng dật? Đáp: –Tự về nơi yếu nghóa. Hỏi: –Thế nào là tự về nơi yếu nghóa? Đáp: –Chẳng thấy vô nghóa. Hỏi: –Sao gọi là chẳng thấy vô nghóa? Đáp: –Chẳng lấy nơi nghóa cũng chẳng phải vô nghóa mới gọi là nghóa. Hỏi: –Sao gọi là chẳng lấy nơi nghóa cũng chẳng phải vô nghóa mới gọi là nghóa? Đáp: –Chẳng lấy nơi nghóa cũng chẳng phải vô nghóa ấy là đạo nghóa. Hỏi: –Nếu lấy vô nghóa thì chẳng thành pháp nghóa ư? Đáp: –Pháp nghóa ấy sao lại là nghóa! Vì sao? Người xu hướng nơi nghóa thì là phi pháp, chẳng thành là pháp. Hỏi: –Thế nào là pháp? Đáp: –Pháp không âm hưởng mới gọi là pháp. Hỏi: –Pháp không âm hưởng sao gọi là pháp? Đáp: –Nơi pháp ấy không có văn tự mới gọi là pháp. Pháp ấy không chỗ được. Pháp ấy không âm thanh, không ngôn từ. Hỏi: –Sao gọi là chỗ đến? Đáp: –Như chỗ đến được, đây mới gọi là tất cả không đến. Rời lìa nơi có được, nên gọi là tôi đến được Như Lai. Tu tập các pháp mới có thể đến được. Có thể dứt bặt tâm tôi ta. Tất cả chỗ tuyên bày là ánh sáng của trí tuệ. Nhân nơi văn tự ấy mà tuyên bày công nghiệp của Như Lai. Chẳng lấy không đến, chẳng lấy sẽ đến. Hỏi: –Chỗ đến ấy, chỗ nào chẳng được? Đáp: –Lời nói từ nơi miệng là chẳng được. Lời nói từ nơi miệng, trong tâm dựa theo văn tự là chẳng được. Hỏi: –Thế nào gọi là được? Đáp: –Không chỗ đến ấy, không chỗ dạy ấy. Không chỗ dạy ấy, biết thì là chẳng biết tự, chẳng biết tha. Chẳng biết tự, chẳng biết tha mới gọi là được. Hỏi: –Chẳng được thì cái gì làm căn bản nó. Còn được thì cái gì làm căn bản nó? Đáp: –Sở thọ là căn bản. Hỏi: –Cái gì làm căn bản của sở thọ? Đáp: –Chỗ dựa nhờ làm căn bản. Hỏi: –Cái gì làm căn bản của chỗ dựa? Đáp: –Hư ngụy vọng tưởng làm căn bản. Hỏi: –Cái gì làm căn bản của hư ngụy vọng tưởng? Đáp: –Trần lao làm căn bản của hư ngụy vọng tưởng. Hỏi: –Chỗ nào làm căn bản của hư ngụy vọng tưởng trần lao? Đáp: –Luyến trước làm căn bản. Hỏi: –Những gì làm căn bản của luyến trước? Đáp: –Sắc, thanh, hương, vị, xúc làm căn bản. Hỏi: –Chỗ gì là cội gốc luyến trước? Đáp: –Ân ái kết tập gọi là cội gốc luyến trước. Ở nơi những chỗ luyến trước ấy mà không luyến mộ thì gọi là không luyến trước. Thưa Bồ-tát Tịch Ý! Ân ái kết tập ấy, tìm cầu chỗ luyến trước thì vónh viễn không có chỗ luyến trước. Lúc Đức Phật Thế Tôn thọ ký cho Mật Tích Kim Cang và tuyên nói lại pháp ấy, trong chúng hội có năm trăm vị Tỳ-kheo được lậu tận ý giải, hai trăm vị Bồ-tát được Vô sinh pháp nhẫn. KINH ĐẠI BẢO TÍCH <卷 id="86423670">QUYỂN 13 Hán dịch: Đời Tây Tấn, Tam tạng Pháp sư Trúc Pháp Hộ. <詞 id="86423671">Pháp hội 3: MẬT TÍCH KIM CANG LỰC SÓ (Phần 6) Bấy giờ Mật Tích Kim Cang lực só được Đức Phật thọ ký cho, sở nguyện đã đủ, chỗ mong đã toại, vui mừng vòng tay thưa: –Bạch Thế Tôn! Ngưỡng vọng Đấng Đại Thánh quang lâm đến cõi Khoáng dã quốc độ Quỷ vương tại cung xá Mật Tích của con thọ trai bảy ngày. Con cũng kính thỉnh các Bồ-tát và các Đại Thanh văn cùng đến chỗ con ở thọ bữa ăn mọn bảy ngày. Tại quốc độ Quỷ vương Khoáng dã, các chúng quỷ thần yêu ma, Càn-thát-bà, Ma-hầu-la-già và những chúng sinh khác được thấy Đức Phật Thế Tôn và chư Hiền thánh, được nghe kinh pháp tất sẽ được mãi mãi an vui không có các họa hoạn, bèn sẽ bỏ lòng sân hận độc hại trái nghịch. Tứ Thiên vương cùng quyến thuộc đến cõi Quỷ vương Khoáng dã nếu được thấy Đức Như Lai nghe thuyết pháp tất sẽ được an hòa chẳng bị ách nạn. Vì lòng xót thương và muốn khai hóa vô số chúng sinh khiến họ vun trồng cội công đức nên Đức Phật yên lặng nhận lời thỉnh bảy ngày cúng dường của Mật Tích. Mật Tích Kim Cang thấy Đức Phật yên lặng nhận lời thỉnh của mình, lòng vui mừng hớn hở cúi lạy chân Phật đi nhiễu bên hữu ba vòng rồi lui đi, bỗng nhiên ẩn mất trở về nước Khoáng dã nơi cung xá của mình. Sau khi về đến cung xá, Mật Tích Kim Cang tự nghó: “Ta nên vì Đức Thế Tôn mà trang nghiêm cung điện cho hàng chư Thiên cõi Dục, cõi Sắc được chưa từng có, các Bồ-tát ở các thế giới mười phương đều vui mừng. Ta còn nhớ thuở trước một đêm ôm ấp chí nguyện tôn thờ đạo pháp chẳng thể nghó bàn, nay cũng sẽ như vậy. Về phương Đông cách đây hằng hà sa quốc độ có thế giới tên là Vô lượng bảo đức tịnh, Đức Phật ở cõi đó hiệu là Tịnh Vương. Ta nên mượn tòa Sư tử cao lớn trang nghiêm thanh tịnh ở cõi ấy.” Lúc ấy Mật Tích Kim Cang nhập Tịnh bảo vương Tam-muội, liền đó các tòa Sư tử cao lớn trang nghiêm tốt đẹp như ở quốc độ Vô lượng bảo đức tịnh bỗng nhiên hiện đến nước Khoáng dã Quỷ thần vương. Các tòa ấy từ Đông đến Tây hai ngàn bốn trăm tám mươi dặm, từ Nam đến Bắc một ngàn hai trăm tám mươi dặm dùng lưu ly, thủy tinh và xa cừ làm đất. Vô lượng hương thơm rải khắp nơi. Có vô số lò hương báu đốt hương thù diệu. Rải các hoa trời. Trang trí bao nhiêu là phẩm vật cực hảo màu sắc đẹp sáng làm vui đẹp lòng người, làm thư thái thân người. Bốn bên tòa Sư tử cao quý trang nghiêm ấy lại tự nhiên có ức trăm ngàn triệu vô số những tòa Sư tử, các báu làm chân, làm bao lơn, vô số Thiên y trải lên trên, những hoa sen báu, những trân châu thanh tịnh và các thứ báu đặt khắp trên đất. Trang trí vô lượng tòa Sư tử cao lớn trang nghiêm thanh tịnh chẳng thể nghó bàn như thế xong, Mật Tích Kim Cang từ Tam-muội an tường xuất định, liền trong đêm ấy sắm sửa những thức ăn uống lành ngon. Trang trí sắm sửa đã xong tất cả, đêm còn chưa sáng, lực só nói với Tứ Thiên vương rằng: –Các vị nên biết ngày hôm nay Đức Thế Tôn sẽ đến cung xá tôi thọ trai thỉnh bảy ngày. Các Bồ-tát và hàng Thanh văn cũng cùng đến. Các vị chớ nên phóng dật. Phật rất khó gặp, ức đời mới có. Đều phải nhất tâm nhàm tục mộ đạo cung kính phụng Phật, để được khỏi sinh tử đến nơi chí đạo, chánh pháp khó được nghe, thời cơ cũng khó được gặp. Ba cõi không cậy được, chỉ có đạo mới có thể nhờ như hư không khắp nơi không chướng ngại. Chớ để loạn tâm phóng dật. Nên cùng quyến thuộc cúng dường Đức Phật bảy ngày. Chớ dựa nơi thân tâm, nên lấy đạo làm gốc. Chớ theo việc khác mà tổn trái đạo giáo, nên chuyên tinh nhất tâm cúng dường Đức Như Lai, khiến cho cõi nước của vua, các Thổ địa, Quỷ thần, Càn-thát-bà… đều quy y Phật, kính nghe đạo pháp. Các vị nên rõ, tôi đã thỉnh Đức Thế Tôn cúng dường quy mạng rồi siêng nghe Đức Thế Tôn thuyết pháp để tuyên bố khắp nơi cho tất cả đều được lợi ích. Như vậy mới gọi là báo đáp ân Đức Phật. Mật Tích lực só có hai người con trai tên là Mật Binh và Thiện Phần. Lực só bảo con trưởng là Mật Binh: –Ngươi đi bố cáo khắp cả địa thần, hư không thần, trời Tứ Thiên vương, trời Đao-lợi, trời Dạ-ma, trời Đâu-suất, trời Hóa lạc, trời Tha hóa tự tại, lên đến trời Thiên ma, cho tất cả đồng hay rằng ngày hôm nay Đức Thích-ca Mâu-ni Thế Tôn sẽ đến cõi nước Quỷ vương Khoáng dã tại cung xá Mật Tích Kim Cang lực só thọ thỉnh cúng dường. Các Bồ-tát và hàng Thanh văn cũng đồng đến. Ai muốn thấy Phật nghe pháp thì đến dự hội. Thái tử Mật Binh lãnh lệnh, giây lát đã truyền rao khắp nơi. Lực só lại sai con thứ Thiện Phần dùng thần thông đi bố cáo khắp các cõi trời Sắc giới, từ trời Sơ thiền Phạm chúng thiên đến trời Tứ thiền Sắc cứu cánh thiên, rằng ngày hôm nay Đức Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni Phật sẽ đến thọï cúng dường tại cung xá của Mật Tích Kim Cang lực só ở nước Quỷ vương Khoáng dã. Ai muốn thấy Phật nghe pháp thì đến dự hội. Thiện Phần lãnh lệnh, giây lát đã truyền rao khắp trời cõi Sắc. Trong khoảnh khắc sau, chư Thiên cõi Dục và chư Thiên cõi Sắc cùng nhau đến dự hội và dừng ở hư không ngồi theo thứ tự khắp một khoảng ngang rộng trên dưới đều bốn muôn dặm. Đạo tràng đã trần thiết trang nghiêm sắm dọn xong, Mật Tích Kim Cang chắp tay hướng về phía Đức Phật đang ngự mà bạch rằng: –Giờ thọ trai đã đến, xin Phật Thế Tôn cùng chư Hiền thánh chúng quang lâm. Lực só tiếp nói kệ: Đại Thánh Lưỡng Túc Tôn Trên hết trong trời, người Nay trai thời đã đến Thỉnh Đức Phật quang lâm. Giới đức như sen nở Tinh tấn càng tăng trưởng Tàm quý trên chở che Đấng Tối Thắng đoái thương Kiến lập nơi Thánh đế Từ bi ban ân lớn. Không ngã, không ngã sở Đấng Sư Tử đoái thương Giới hạnh học nghe rộng Hoa giác ý xinh tươi Trái giải thoát đầy đủ Cây thù thắng quang lâm. Công đức lớn hơn biển Ý Phật sâu lại rộng Định trong sạch là ý Hạnh tinh tấn vững mạnh Từ bi làm đạo tràng Chuỗi trí tuệ trang nghiêm Bản tuệ sáng mở tỏ Xin Đại Thánh từ cố. Trí vô động Đệ nhất Dùng dược thọ chữa bệnh, Học, Vô học thịnh sáng Đấng Tối Thắng quang lâm. Đức Thế Tôn thấy Mật Tích Kim Cang bạch đã đến giờ liền bảo đại chúng nên sớm chuẩn bị đắp y, cầm bát đến chỗ Mật Tích Kim Cang bảy ngày thọï thỉnh. Trong hàng Thanh văn và các Bồ-tát, những vị có thần thông thì tự dùng thần lực đi theo Đức Phật, những vị không có thần thông thì đứng vào trong ánh sáng của Đức Phật, nương oai thần của Đức Phật đều được đi cả. Lúc Đức Phật lên đường, các Bồ-tát đi trước dẫn đường, các Thanh văn đi hầu phía sau, chúng Trời, Rồng cầm hoa hương kỹ nhạc chầu trên không, chư Thiên nữ nói kệ ca ngợi Đức Phật rằng: Vui mừng phát quang minh Âm nhạc tự nhiên vang Trời mưa các thứ hoa Chấn động cả thế giới. Phật oai đức rất lớn Thần thông ba-la-mật Phật biến hóa vô hạn Rất mừng được thấy Phật. Phật cát tường vô lượng Phật thần thánh vô biên Phật oai nghi vô cùng Phật công đức vô hạn. Phật đến núi Linh thứu Tại trong tám núi lớn Bay lên giữa hư không Vô ngại như vua nhạn. Chư Thiên cõi Dục và chư Thiên cõi Sắc thấy Đức Phật Thế Tôn từ hư không mà đến dường như mặt trời sáng hiện trong nước, như mặt trăng tròn đứng giữa các vì sao, như Thiên đế tôn quý trong hàng chư Thiên, như Phạm vương chói che chúng hội, tất cả đều rất vui mừng liền rải bao nhiêu thứ hoa trời xanh, vàng, đỏ, trắng cúng dường Đức Phật như là hoa ý, hoa đại ý, hoa nhu nhuyễn, hoa đại nhu nhuyễn, hoa trú dạ thọ, hoa ly cấu, những thứ hoa trăm cánh, ngàn cánh đến trăm ngàn cánh. Chư Thiên cũng nổi mây rải các thứ hương trời: Hương thiện diệu, hương thường huân, hương ô diên, hương thường hữu, đồng thời cũng trổi âm nhạc trời. Giây lát sau, Đức Phật cùng các Bồ-tát và chúng Thanh văn đến nước Quỷ vương Khoáng dã thuộc cõi của Tứ Thiên vương dừng lại tại cung điện của họ. Lúc Đức Phật vừa dừng bước thì cả địa đại chấn động có ánh sáng chiếu khắp mười phương. Tứ Thiên vương thấy Đức Phật đến, vội vàng cùng quyến thuộc mang hương hoa, phan lọng trổi nhạc đàn ca đến trước Đức Phật đảnh lễ đi vòng bên hữu ba vòng rồi rải hương hoa cúng dường, xong rồi đồng chắp tay đứng qua một phía. Đức Thế Tôn vì Tứ Thiên vương mà ban tuyên kinh pháp. Một vạn ba ngàn quỷ thần yêu ma phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Một vạn ngọc nữ cũng phát tâm như vậy. Bấy giờ Mật Tích Kim Cang cùng các con, cung nhân thể nữ và quyến thuộc cầm hương hoa, phan lọng trổi nhạc đến chỗ Đức Phật đảnh lễ đi nhiễu bên phải bảy vòng, rồi rải hoa rải hương cúng dường, tất cả đều theo thứ tự mà ngồi. Tòa Sư tử của Đức Phật ngự cao lớn trang nghiêm hơn cả. Các Bồ-tát và hàng Thanh văn vẫn ngồi nơi chỗ của mình. Chư Thiên cõi Dục và chư Thiên cõi Sắc thấy những tòa Sư tử được trần thiết ấy rất cao lớn trang nghiêm thì lấy làm lạ tự nghó: “Sao Mật Tích lực só tìm đâu được những tòa Sư tử báu đẹp trang nghiêm huyền diệu thù thắng thế này?” Thừa oai thần của Đức Phật, ở trên không tự nhiên có tiếng bảo: “Các vị muốn biết ư, về phương Đông cách đây quá hằng hà sa cõi nước có thế giới tên là Vô lượng tịnh, Phật hiệu là Tịnh Vương Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác. Mật Tích đã từng thấy cõi vi diệu trang nghiêm thanh tịnh ấy. Nay vì pháp mà trưng vời những tòa cao rất vi diệu ấy. Lúc Đức Thích-ca Mâu-ni Phật vừa ngồi lên tòa Sư tử cao rộng xong, trong nước Quỷ vương Khoáng dã, chúng quỷ thần yêu ma, Càn-thát-bà, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già đồng đến lễ Phật rồi đứng qua một phía chắp tay cung kính. Mật Tích Kim Cang nói với Tứ Thiên vương và những chúng đến dự hội: –Thưa các vị, nay những thức ăn uống đã sẵn sàng, các vị nên cùng tự tay cần mẫn dâng cúng lên Đức Phật và Bồ-tát thánh chúng. Vì sao? Vì như lời Đức Phật đã dạy, nếu ai có thể hoan hỷ ủng hộ hưng công cúng dường thì được phước đức vô lượng. Đối với thí chủ, phước cũng chẳng giảm. Mật Tích Kim Cang cùng các con và cung nhân quyến thuộc tự tay sớt thức ăn lành ngon nhất tâm cung kính dâng cúng Đức Phật và Thánh chúng. Đức Phật và Bồ-tát Thánh chúng đều được sung mãn. Chư vị ăn uống, dâng nước rửa và Mật Tích Kim Cang kê chiếc ghế nhỏ ngồi ở trước Đức Phật bạch: –Bạch Thế Tôn! Mong Đấng Từ Bi phải thời thuyết pháp cho các loài chúng sinh rõ được đạo vô sinh. Người chưa phát tâm được phát đạo tâm. Người đã phát đạo tâm được lên bâïc không thoái chuyển. Cũng làm cho chúng quỷ thần yêu ma, Càn-thát-bà đây mãi mãi được an ổn không họa hoạn vui hòa nhân từ. Chư Thiên, người đời cùng chúng sinh trong ba cõi được tâm nguyện thù tuyệt siêu việt thế gian. Đức Phật bảo Mật Tích Kim Cang và toàn thể đại chúng: –Lắng nghe, lắng nghe! Phải khéo suy ngẫm. Nếu thiện nam, thiện nữ nhập được pháp môn an trụ bền vững, thì được tâm nguyện thù đặc không chỗ phân biệt sai thất. Mật Tích lực só cùng đại chúng vâng dạ lắng nghe. Đức Phật dạy: –Nếu thiện nam, thiện nữ dốc lòng ngưỡng tín khéo theo đạo pháp nhiều sự thuận nghi muốn thấy các bâïc Hiền thánh để được nghe pháp, lòng chẳng ganh ghét, chẳng lẫn tiếc, giơ tay bố thí, bỏ thói quen thích theo thế tục, chỗ phước bố thí chẳng mong báo đáp, chẳng mang lòng não hại, ý chí trong sạch chuyên tinh nhất tâm chẳng hề bạo dữ, tin nhân quả báo ứng, ưa thích nghiệp lành chẳng có hồ nghi do dự, thấy rõ lý thanh bạch biết quả chẳng mất. Thà bỏ thân mạng chớ chẳng phạm tội ác. Luôn nhân từ không giết hại, không trộm cướp, chẳng tà dâm, chẳng phạm nói dối, nói hai lưỡi, nói ác khẩu và nói lời thêu dệt, chẳng ghen ghét, giận thù và si mê. Chẳng phạm mười ác mà hành mười lành, cũng khuyên người khác làm như vậy. Thường bình đẳng thành tín thấy hàng Sa-môn phụng trì giới hạnh tinh tấn tu hành tư duy tu tập, đúng nghóa tiết, vắng lặng đạm bạc, chẳng luyến trước, chẳng tà ngữ, chí tánh nhân từ, rời bỏ pháp ác sốt bạo, chói sáng như ngọn đuốc, tâm tánh bình hòa, không nói lời khinh hủy, bỏ tuyệt ngủ nghê, dứt rời tâm đường đột phiền não, luôn luôn huệ thí. Thường cung kính tôn trọng các bâïc Sa-môn thanh tịnh ấy đồng như Phật và đệ tử Phật. Thường theo hầu cận khiêm hạ đảnh lễ chẳng làm trái ý, thường phụng sự các Thiện tri thức ấy. Do vì mến pháp nên dùng pháp thí cứu tế nguy ách, ban tuyên chánh pháp để giáo hóa người, bố thí được giàu, trì giới sinh Thiên, nghe rộng thêm trí, tu hành hợp đạo, bố thí thì của nhiều, xan tham thành ngạ quỷ; trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, nhất tâm và trí tuệ thì lần nhập đạo pháp, phạm giới thì đọa địa ngục, giận hờn thì xấu xí, lười biếng thì bỏ đạo, loạn tâm thì sinh tội, ngu si thì tối tăm. Đó là do nơi thân, nơi khẩu, nơi ý mà có quả báo. Ba nghiệp phạm ác thì mãi mãi chẳng an, sa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Giữ gìn ba nghiệp chẳng phạm thì sinh lên trời, sinh trong người, ở chỗ chư Phật, mãi mãi an vui không có họa hoạn. Phải vì mọi người mà khai thị quả báo tội phước, chỗ kết quả của điều thiện ác. Nếu thấy người có căn lành pháp khí, thì vì họ mà giảng pháp sâu xa, những pháp Không, Vô tướng, Vô nguyện, đi không chỗ đi, đến không chỗ đến, không ngã, không nhân, không thọ, không mạng. Vì họ mà phân biệt pháp vi diệu mười hai nhân duyên, do dựa vào sự này nên có sự kia sinh, nếu chẳng dựa vào sự này thì sự kia chẳng sinh, do đây mà thành kia, chẳng do thì chẳng thành. Do vô minh mà thành hành, do hành mà thành thức, do thức mà thành danh sắc, do danh sắc mà thành lục nhập, do lục nhập mà thành xúc, do xúc mà thành thọ, do thọ mà thành ái, do ái mà thành thủ, do thủ mà thành hữu, do hữu mà thành sinh, do sinh mà thành lão tử hợp thành khối đại khổ, thành thân bốn đại ấm. Vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì lục nhập diệt, lục nhập diệt thì xúc diệt, xúc diệt thì thọ diệt, thọ diệt thì ái diệt, ái diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sinh diệt, sinh diệt thì không có lão tử khổ lụy vì ngũ ấm tứ đại, mà mãi mãi an vui, không còn họa hoạn. Bởi diệt dứt hết thì không còn có. Vì sao? Vì khởi cái này thì sinh cái kia, không khởi cái này thì không có cái kia. Cũng như trồng cây mới sinh chồi rễ, cội nhánh, lá hoa trái. Nhổ cây không chồi thì đâu còn nhánh lá hoa trái nữa. Tỏ ngộ đế lý, không có vô minh, không còn chấp trước thì chẳng còn gì kéo níu sinh khởi mười hai chi. Tất cả đều do duyên mà đối sinh. Không có duyên thì không có đối sinh. Cả ba cõi đều vốn không, đều từ không mà sinh, đều từ có mà tử. Vì chẳng thấu đạt không vô mà cho rằng từ nơi có mà thành ra sinh, chẳng biết có ấy rỗng không, do chấp lấy có ngã mà thành ra tử vậy. Biết không thì chẳng sinh, rõ có thì chẳng tử. Vì tội nó theo, trần lao nó đến nên điên đảo khổ não si tối chẳng thật. Vì họ mà tuyên chân đế ứng theo nghi tiết quán sát đúng pháp, mà ở nơi pháp không có tạo tác. Chẳng có chỗ tạo thì không có thoái chuyển cũng không chẳng thoái chuyển. Chẳng có nạn qua lại xoay quanh. Giả sử phân biệt nơi pháp mà phân biệt không chấp trước, nhận biết là vốn không, tất cả các pháp đều đạm bạc vắng lặng. Gầy dựng cho người ấy, hoặc Bồ-tát ấy thường được thấy Phật, chẳng rời bên Phật, chẳng mất sự nghe Pháp, chẳng trái Thánh chúng. Sinh về nơi nào đều thấy chư Phật. Dầu có thác sinh mà chẳng sinh về chỗ không có Phật. Vì sinh ra được thấy Phật nên không phóng dật, mộ cầu pháp chân chánh tinh tấn. Siêng tu tập theo đây nên chẳng màng gia nghiệp mà hay giữ gìn tịnh hạnh, chẳng luyến vợ con tôi tớ, giữ gìn nhà cửa mà siêng gắng thọï trì chánh pháp, không chơi bời phóng túng ái dục. Chư Phật Thế Tôn thuyết giáo, vì dốc lòng tin mà xuất gia tu hành. Sau khi tin pháp Phật xuất gia thì làm bạn lữ chân chánh với thiện tri thức để thọ nghiệp chân chánh, tánh hạnh vi diệu, nghe pháp huyền diệu, lấy sự hành đạo làm trọng yếu mà chẳng chưng diện, giác ý đệ nhất mà chẳng nhàm đủ, thường cầu học rộng. Như pháp được nghe vì người khác mà giảng rộng. Tâm không mong lợi dưỡng cung kính mà giảng thuyết kinh điển. Từ nơi trí tuệ đã được học hỏi, nhân lúc đi đứng mà vì người giảng thuyết, làm cho người nghe pháp thêm lớn lòng đại Từ, mà đối với chúng sinh phát tâm đại Bi, đến được học rộng, không lẩn tiếc, chẳng tham thân mạng, ít muốn ít cầu mà biết vừa đủ, trọng nghiệp lành, vui cúng dường, thích rảnh rang vắng vẻ chuyên ròng giữ tiết. Theo nơi pháp được học mà suy ngẫm nghóa thú, về nơi chính nghóa suy xét phụng hành chớ chẳng thiên về văn sức. Chẳng riêng vì mình và vì chúng sinh cầu Đại thừa tối thượng, chí mộ Phật thừa thành không phóng dật. Thế nào là không phóng dật? Do vì đã thấu đạt cảnh giới nên nhãn chẳng thấy sắc, chẳng thọ vọng tưởng, chẳng trước văn sức, rõ sắc là nạn, dù có mến thích liền bỏ nó qua, biết nó vốn là không. Nếu tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân chạm xúc, ý biết pháp cũng như vậy, chẳng biết pháp, chẳng vọng tưởng, chẳng trước pháp rõ pháp là nạn, dù có mến thích liền rời bỏ, biết rõ pháp là không. Nói rằng không phóng dật đó, tâm mình không sinh cũng hộ trợ tâm người khác. Bỏ vui ái dục vào nơi pháp lạc. Chẳng tưởng tham dục, không tưởng giận hờn, không tưởng nguy hại; không có nghiệp hành tham dục, giận thù, ngu si; không có những căn bản ác ấy. Thân chẳng làm điều ác, miệng chẳng nói quấy, tâm chẳng nghó bẩn. Chẳng làm trái với tâm niệm. Chẳng phạm tất cả những pháp bất thiện. Như trên đây gọi là không phóng dật. Do vì không phóng dật mà thường đúng tiết hạnh, biết rõ có, biết rõ không, biết rõ không không có. Sao gọi là có, gì gọi là không? Người tu hạnh bình đẳng thì có Hiền thánh giải thoát. Người tu hạnh tà ngoại thì không có Hiền thánh giải thoát. Lại cũng có quả báo tội phước, hoặc có quả báo không tội phước. Hoặc có nhãn, hoặc không nhãn. Cho đến hoặc có ý hoặc không ý. Lại có thể biết rõ sắc là pháp vô thường, khổ, không, biệt ly thì gọi là có chí học đạo. Còn chấp sắc là pháp có thường còn mãi không biệt ly, bởi không có tuệ bình đẳng mà có niệm chấp ấy nên có tưởng hành thức khổ, có trọn pháp vô thường, khổ, không, biệt ly. Lại từ vô minh làm duyên mà sinh ra nghiệp bất thiện. Nếu không có vô minh thì không có hành. Từ sinh làm duyên mà có già, bệnh, chết. Nếu không có sinh thì không có già bệnh chết. Bố thí thì nên phước lớn. Nghèo thiếu do không thí xả. Cùng khổ thì do tham ganh. Bỏn sẻn thì không có của nhiều. Phụng pháp thì đến đạo. Chẳng thuận nghi tắc thì chẳng thành đạo nghiệp. Bồ-tát tinh tấn thì được trí tuệ lớn. Bồ-tát giải đãi thì chẳng được đạo. Người chẳng tự tôn tự đại là thật được bí quyết lạ. Người cống cao thì chẳng đến Niết-bàn. Nếu khắp vắng lặng thì đến Niết-bàn. Người chấp tôi ta, tham thân thọ mạng thì chẳng đến đạo tuệ. Vì thế nên làm người phải thuận theo thời nghi. Đức Phật lại dạy: –Nếu thiện nam, thiện nữ tu phổ minh trí, hoặc có chỗ biết, hoặc không chỗ biết, hoặc ở nơi đời, hoặc không ở nơi đời, hoặc có thiên thật, hoặc không thiên thật, đều không chấp trước. Đức Như Lai minh chứng tất cả pháp dạy bốn pháp thí: 1. Tất cả vạn vật đều về nơi vô thường. 2. Tất cả chỗ có đều là khổ độc. 3. Tất cả các pháp đều không có ngã. 4. Tất cả hữu hình đều đến nơi không, vô vi Niết-bàn tịch diệt. Vì thế nên nói rằng tất cả vạn vật đều về nơi vô thường. Hơn nữa chúng sinh ngu tối mê lầm tự nghó là có thường. Đức Như Lai thuyết pháp dứt trừ sự chấp có thường ấy. Tất cả chỗ có đều là khổ độc. Chúng sinh mê tối cho là có vui. Đức Như Lai thuyết pháp dứt trừ quan niệm có vui của họ. Tất cả các pháp đều không có ngã. Chúng sinh chấp là có ngã. Đức Như Lai thuyết pháp dứt trừ ý tưởng có ngã ấy. Tất cả hữu hình đều về nơi rỗng không. Chúng sinh mê muội lại tưởng đều là có. Đức Như Lai vì họ nên thuyết pháp dứt trừ tưởng chấp là có ấy, để được Niết-bàn vắng lặng. Tất cả chúng sinh quan niệm tự đại. Đức Như Lai thuyết pháp khiến người tự đại chẳng còn cống cao, vất bỏ chấp trước. Vì được nghe vô thường mà họ hiểu đều rỗng không, đây mới hiểu rõ nghóa vô thường. Nghóa ấy là thế nào? Tất cả vạn vật đều chẳng sinh, chẳng tăng, chẳng khởi, chẳng diệt. Đây mới gọi là ngộ nhập vónh viễn vô thường. Vì được nghe nói là khổ mà họ trừ được lòng cầu mong, năm ấm rỗng không không có sinh khởi. Đây là nghóa của khổ. Vì nghe nói tất cả pháp đều không có ngã mà phụng trì môn không giải thoát, với ngã và vô ngã không thấy có hai tướng sai khác. Đây là nghóa vô ngã. Vì được nghe Niết-bàn tịch diệt nên quyết chí đến không tưởng thọ, chẳng sinh chẳng diệt là đều diệt định không có đầu, có cuối. Đây mới gọi là hiểu rõ nghóa không. Vì thế chẳng lấy vô tướng mà làm chỗ chứng. Nếu có Bồ-tát hay thực hành như vậy thì chưa từng trái mất tất cả những công hạnh đạo phẩm. Do vô tướng hành mà khắp đầy đủ ba mươi bảy phẩm đạo pháp của chư Phật. Lúc Đức Thế Tôn ở tại cung điện của Mật Tích Kim Cang, theo bệnh mà thuyết pháp, trong chúng hội liền có hai vạn trời, người phát tâm Vô thượng Bồ-đề, vô số người thọ năm giới. Bấy giờ Tứ Thiên vương tiến lên thưa: –Bạch Thế Tôn! Xin thương chỉ dạy chúng con phải hộ trì thế gian như thế nào? Đức Phật dạy: –Các ông nên đem mười pháp hạnh hộ trì ở thế gian chúng sinh. Những gì gọi là mười pháp hạnh? 1. Chẳng sát hại sinh mạng của tất cả loài hữu tình. 2. Chẳng trộm lấy tài vật của kẻ khác. 3. Chẳng phạm đến vợ của người khác. 4. Chẳng lưỡng thiệt làm tranh cãi cho người. 5. Chẳng vọng ngôn khi dối người. 6. Chẳng ác khẩu dùng lời làm thương tổn người. 7. Chẳng ỷ ngữ, tất cả lời nói ra đều không thêu dệt trau chốt. 8. Chẳng có lòng ganh ghét đây kia. 9. Ở nơi những sự lành dữ chẳng nổi giận nóng. 10. Thường tu học chánh kiến chẳng theo tà kiến nghi ngờ. Này các ông! Các ông đem mười điều này hộ trì thế gian mới là đúng với giáo pháp. Lại có tám pháp hộ trì thiên hạ. Những gì gọi là tám pháp hộ trì? 1. Hành động đúng với chánh pháp không hề trái. 2. Thờ kính các bâïc tôn trưởng chẳng có lòng khinh mạn. 3. Nói lời dịu dàng, không nói lời cộc cằn. 4. Khiêm nhượng từ tốn cung kính thuận thảo. 5. Luôn luôn thành thật chất phác, không gian xảo lọc lừa. 6. Thường tu nhân hòa mà không nịnh bợ. 7. Với tất cả điều ác đều không phạm. 8. Đem các công đức lành lợi ích cho thế gian. Lại có sáu việc hộ trì thiên hạ. Những gì gọi sáu việc hộ trì? 1. Thân thường thực hành nhân từ chẳng tổn hại chúng sinh. 2. Miệng nói lời nhân từ chẳng thốt ra lời hung ác. 3. Ý niệm nhân từ chẳng hung bạo. 4. Khắp cai quản sự nghiệp để được lợi dưỡng. 5. Khắp hộ trì cấm giới mà không để sai phạm. 6. Khắp đem chánh kiến để khai đạo kẻ tà vạy. Lại có bốn sự việc thường là những sự đứng đầu để hộ trì thế gian. Những gì là bốn? 1. Phàm có lập công hạnh gì không bao giờ tham lam ganh ghét. 2. Chẳng có lòng giận thù hại người. 3. Chẳng vì ngu dốt, mà che đậy để thêm chỗ chẳng biết. 4. Đi đến chỗ nào chẳng có lòng sợ sệt. Lại có hai sự dùng để hộ trì thế gian nhân dân. Những gì là hai? 1. Tự hổ thẹn từ vô số kiếp chẳng theo đúng đạo pháp. 2. Xấu hổ với người, tự trách mình chẳng thâm nhập đạo pháp cứu hộ tất cả chúng sinh. Đức Phật dạy Tứ Thiên vương: –Các ông nên thi hành các pháp ấy để hộ trì thế gian thiên hạ, vì kiến lập được các pháp hạnh như vậy mới hộ trì thế gian được. Mật Tích Kim Cang lực só tiến lên lễ Phật rồi bạch Phật: –Bồ-tát nên thực hành pháp không giận nóng để đến đạo Vô thượng Bồ-đề như thế nào? Đức Phật dạy: –Này thiện nam! Bồ-tát có mười việc thực hành pháp không giận nóng để đến đạo Vô thượng Bồ-đề. Những gì là mười pháp? 1. Thường thực hành lòng nhân từ chẳng phạm tổn hại. 2. Chẳng chán nhàm các tai nạn, thường tu tập lòng đại Bi. 3. Sự nghiệp được làm đều siêng năng tinh tấn mà có thù đặc. 4. Thường phụng hành pháp môn giải thoát không đến được Tam-muội. 5. Từ nhân duyên phát khởi nhập vào trí tuệ. 6. Dùng quyền phương tiện vào khắp tất cả. 7. Thấu rõ ba đời: Quá khứ, vị lai và hiện tại. 8. Dùng Chân đế quán thấy khắp không chỗ chướng ngại. 9. Tuân phụng đạo pháp nhập vào tất cả pháp. 10. Tất cả các pháp đều về rỗng không. Mật Tích Kim Cang lại bạch Đức Phật: –Bạch Thế Tôn! Bồ-tát có bao nhiêu pháp để được không khiếp sợ khi nghe pháp chẳng nghó bàn của Đức Phật? Đức Phật dạy: –Này thiện nam! Bồ-tát có tám pháp, khi nghe pháp chẳng nghó bàn của Đức Phật thì không khiếp sợ. Những gì là tám? 1. Công đức được tạo ra thường có thể đạt đến rốt ráo. 2. Nhất tâm thiền quán tư duy thông đạt chẳng tán loạn. 3. Vì làm thiện hữu mà được thuận tùng. 4. Tâm thường dốc lòng tin thích pháp vi diệu. 5. Vì hiểu các pháp đều như huyễn hóa. 6. Hiểu rõ tất cả pháp chẳng thể nghó bàn. 7. Rõ tất cả pháp chẳng thể nắm bắt như hư không. 8. Thông suốt tất cả pháp là tướng hư dối. Mật Tích Kim Cang lại bạch: –Bạch Thế Tôn! Sao gọi rằng Bồ-tát được tự tại nơi pháp Bồ-tát? Đức Phật dạy: –Này thiện nam! Vì có bốn pháp mà Bồ-tát được tự tại nơi pháp Bồ-tát. Những gì là bốn? 1. Tuân hành như huyễn Tam-muội thông suốt tất cả pháp nhập vào năm thứ thần thông mà đặc biệt siêu việt. 2. Vì ba giải thoát môn hơn cả bốn thiền. 3. Dùng trí Ba-la-mật-đa để tu bốn phạm hạnh. 4. Hành quyền phương tiện đủ sáu Ba-la-mật-đa. Mật Tích Kim Cang lại bạch: –Bạch Thế Tôn! Bồ-tát có bao nhiêu pháp nhập vào pháp môn? Đức Phật dạy: –Này thiện nam! Có bốn pháp, Bồ-tát nhập vào pháp môn. Những gì là bốn? 1. Nhập vào môn thiền quán biết rõ đầy đủ căn bản tất cả chúng sinh. 2. Nhập vào môn trí tuệ biết rành tất cả chương cú nghóa lý và vì chúng sinh mà diễn thuyết. 3. Nhập vào môn Tổng trì, tất cả chỗ được thọ trì đều nhớ luôn chẳng quên. 4. Nhập vào môn biện tài do đó mà có thể làm vui đẹp lòng tất cả chúng sinh. Mật Tích Kim Cang lực só lại bạch: –Bạch Thế Tôn! Vì có bao nhiêu đạo lực mà Bồ-tát gầy dựng nên hạnh Bồ-tát? Lại những đạo lực ấy không ai đương cự được, do đó mà hàng phục chúng ma. Đức Phật dạy: –Này thiện nam! Bồ-tát có tám đạo lực hàng phục chúng ma không ai đương cự được. Những gì là tám? 1. Sức mạnh đạo tâm tánh hạnh thanh tịnh. 2. Sức mạnh tinh tấn chẳng thoái chuyển. 3. Sức mạnh nghe rộng phụng hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. 4. Sức mạnh nhẫn nhục hộ trì các chúng sinh. 5. Sức mạnh vô sinh chẳng mang lòng sân hận. 6. Sức mạnh chẳng hư vọng đầy đủ giải thoát. 7. Sức mạnh tu đạo hạnh đầy đủ trí tuệ. 8. Dùng sức đại Bi khai hóa chúng sinh. Lúc Đức Phật nói những pháp ấy, Mật Tích Kim Cang lực só và năm trăm người con trai được Vô sinh pháp nhẫn. Vì được pháp nhẫn nên họ đồng tiến lên bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Ngưỡng mong Thế Tôn đem tám pháp yếu ấy truyền khắp thiên hạ. Vì thương chúng con nên làm cho cung điện Mật Tích này tự nhiên rộng rãi. Khi Phật diệt độ rồi, do căn bản công đức này quang minh chiếu khắp làm cho lưu bố khắp nơi mà chẳng mất. Đức Phật thấy biết tâm niệm hộ pháp của các người con trai của Mật Tích, bèn bảo Mật Tích Kim Cang rằng: –Mật Tích kham nhiệm được chương cú pháp yếu này. Lúc ta đến ngồi dưới cội Bồ-đề, ma vương đem binh đến, ông cùng các Bồ-tát đến dùng oai thế ủng hộ ta nên hàng phục được ma binh. Nay ông lại phải ủng hộ mạt thế sau này làm cho pháp yếu được lưu bố khắp Diêm-phù-đề đến tận mười phương, làm cho chánh pháp được còn lâu, chế ngự tất cả dị học ngoại đạo. Mật Tích Kim Cang được Đức Phật khuyên bảo liền rời chỗ ngồi quỳ lạy chắp tay tuyên thần chú rằng: –Hê lê. Hưu lưu hưu lưu. Kỳ cường tiêu tụ. Các la nhãn động diêu quy cứu. Nhẫn lực lực tận. Tịch phạ tác giác chí y lê khư khưu. Khư lê. Khư lê. Hộ vô trạch. Trụ thắng sinh vãng hoàn vô khúc dó từ thọ chi điều hòa thành thí trì dó chư thiên long cáo quỷ thần, Càn-thát-bà, yêu mị nhược Nhân phi nhân, thường cát an ổn, động ư sơn vương, diệc chấn đại địa. Dụng thuyết thử chú cố, nhiếp phục ngoại đạo, pháp quân sở cứu, quảng diệu pháp viêm, đốc tín thị cú. Nghe thần chú này rồi, các Thiên chúng đồng cất tiếng khen ngợi: Chánh pháp trụ rất lâu Vang cả đại thiên giới Tất cả đại chúng đồng Tự đến trước Pháp vương Quy mạng cho hết tội Ban cho không nạn sợ Ai trì ngôn giáo này Khiến chánh pháp còn mãi. Đức Thế Tôn ở cung điện Mật Tích Kim Cang tại nước Quỷ vương Khoáng dã thọ cúng dường bảy ngày khai thị giáo hóa vô số chúng sinh. Giữa ngày thứ bảy, Đức Phật bỗng rời cung điện Quỷ vương Khoáng dã, cùng các Bồ-tát và hàng Thanh văn bay lên hư không. Tất cả chư Thiên ở trên ấy đồng cúng dường Đức Phật và khắp Thánh chúng. Chư Thiên nữ đều đồng ca ngợi phóng ánh sáng lớn. Trăm thứ nhạc cõi trời, nhạc cõi người tự hòa tấu. Trên hư không mưa các loại hoa thơm đẹp. Khắp cõi Phật đều chấn động. Như vua phượng hoàng, Đức Phật trở về núi Linh thứu. Tại núi Linh thứu, Đức Phật cùng chúng Tỳ-kheo và các Bồ-tát quyến thuộc vây quanh đều tư duy đạo giáo. Bấy giờ vua A-xà-thế ra khỏi thành La-duyệt-kỳ cùng với hàng trưởng giả Phạm chí kính tin Tam bảo đến núi Linh thứu. Nhân dân khắp nước nghe Đức Phật trở về đều vân tập, xế trưa rời thành đến núi Linh thứu. Mọi người đảnh lễ chân Phật đi quanh bên phải bảy vòng rồi ở qua một bên. Vua A-xà-thế tiến lên bạch Đức Phật: –Bạch Thế Tôn! Hôm trước con từng họp quần thần tham nghị. Lúc ấy có các Tỳ-kheo đến chỗ thái tử tuyên bố rằng: –Hôm nay Đức Thế Tôn qua đến nước Quỷ vương Khoáng dã tại cung điện Mật Tích Kim Cang thọ trai. Bạch Thế Tôn! Nghe được lời tuyên bố ấy, con cho là rất lạ lùng chưa từng có. Chư Phật Thế Tôn thật chẳng thể nghó bàn mới có thể ban ân đức đại Bi thương xót cứu vớt khắp cả chúng sinh dường như hư không, nên mới ngự đến cung điện Mật Tích Kim Cang lực só tại nước Quỷ vương Khoáng dã. Đại nguyện của Đức Phật không thể ví dụ được, không có lời nói hết được. Nếu có ai được Đức Như Lai giảng dạy, không ai là chẳng được an vui lợi ích. Bạch Thế Tôn! Mật Tích Kim Cang vun trồng cội công đức thế nào mà được biện tài to lớn ấy? Đức Phật dạy: –Này Đại Vương! Giả sử mười phương đều như số cát sông Hằng, mỗi mỗi hạt cát còn có số hạn, chư Phật được Mật Tích Kim Cang lực só gần gũi cúng dường không thể tính đếm được, do đó mà lực só ấy được đại biện tài như vậy. Này Đại vương! Vô lượng số kiếp quá khứ có Đức Phật hiệu là Tức Ý Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác, thế giới tên là Tuyển Chủ, kiếp hiệu là Bất di. Đức Phật Tức Ý ấy thuần giáo hóa chúng Bồ-tát đều làm cho tinh tấn cả. Lúc ấy có Bồ-tát hiệu là Dũng Lực lễ Phật Tức Ý, bạch rằng: –Như chỗ con lãnh hội ý nghóa của Đức Phật đã dạy, nếu có Bồ-tát nào nghó rằng con sẽ chóng đến đạo Vô thượng, thành Tối chánh giác, Bồ-tát nào nghó như vậy thì gọi là giải đãi. Tại sao? Bồ-tát ấy chẳng tinh tấn nhàm sợ sinh tử. Nếu có Bồ-tát thấy sinh tử hoạn nạn thì thấy được kết sử triền phược, chẳng nhập Niết-bàn chỉ hóa độ chúng sinh, thì mới thành Tối chánh giác. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Pháp của Bồ-tát là siêng tu tập đạo hạnh khắp trong sinh tử, khai đạo lợi ích vô lượng chúng sinh cho họ nhập Vô dư Niết-bàn, mà cũng không chỗ được giáo hóa. Vì thế, bạch Thế Tôn! Bồ-tát hạnh phải trọng sinh tử, chẳng kính nhập Niết-bàn. Bồ-tát hạnh trọng sinh tử rồi phụng thờ vô lượng chư Phật, khai đạo lợi ích vô lượng chúng sinh, nghe học vô số pháp, nhập vào tâm niệm của chúng sinh, chí nguyện sở hành kính hạnh Niết-bàn, trọng các quán hạnh. Nếu thấy có Bồ-tát sợ sinh tử khổ hoạn thích hạnh Niết-bàn, thì nên quan niệm rằng: “Bồ-tát này chắc là đọa lạc, vì bỏ mất hạnh Như Lai, có lỗi với chúng sinh.” Sao gọi là Bồ-tát mà chẳng thuận theo hạnh Bồ-tát lại thích Thanh văn địa, Duyên giác địa, đây đáng gọi là không có hạnh Bồ-tát, là hạnh Thanh văn. Vì sao? Hạnh của hàng Thanh văn sợ khổ hoạn sinh tử. Còn Bồ-tát đi trong vô lượng sinh tử mà chẳng bị ràng buộc. Đức Tức Ý Như Lai khen Bồ-tát Dũng Lực rằng: -Lành thay! Lành thay! Lời nói ấy rất hay, ngôn giáo thuần thục. Bồ-tát hành đạo bỏ sự an vui của chính mình mà chẳng bỏ người khác, thường xét lỗi mình mà chẳng tìm lỗi người. Dũng Lực Só Bồ-tát lại bạch: –Bạch Thế Tôn! Thế nào là Bồ-tát hạnh? Đức Phật Tức Ý dạy: –Này thiện nam! Tự chính lấy việc làm của mình mà vì chúng sinh tuyên nói sự thành bại khổ nạn sinh tử. Chịu lấy vô lượng khổ hoạn của sinh tử mà không khiếp sợ. Chẳng thích bâïc Thanh văn và bậc Duyên giác mà chuyên tu tập việc làm của Bồ-tát. Chẳng luyến thiền định, ở trong ba cõi biết rõ thiền định. Biết rành các ác đạo, tu tập các môn phương tiện. Biết hết cả công đức thiền định trí tuệ giải thoát chẳng cùng tận. Phát trí tuệ vô sinh, vì người mà ban tuyên tất cả pháp bản lai không có, trí cũng vô sở đắc. Biết các chúng sinh mà không có tôi ta. Dùng trí tuệ khai hóa tất cả chúng sinh cho họ hiểu các pháp tịch diệt. Thọ trì các pháp, thông các cõi Phật. Biết tất cả như hư không, cõi Phật thanh tịnh, trí tuệ sáng sạch. Do trí tuệ thấu suốt tất cả pháp không tăng không giảm, mà dùng tướng tốt trang nghiêm trí tuệ vô sở đắc. Nhân đó mà tuân thờ tất cả cội công đức chẳng quên bỏ, ít não bớt việc. Với các chúng sinh, thường làm việc cứu vớt hoạn nạn. Thân tâm đạm bạc chứa công bồi đức chẳng chán nhàm. Phát khởi thiền quán thấu rõ chánh định nhất tâm. Phương tiện thấu suốt các pháp thâm diệu. Nếu đem tuyên bố bao nhiêu giáo pháp, phân biệt quán hạnh thành tựu quả đức. Khai hóa luật Thanh văn, Duyên giác. Mến thích công hạnh giải thoát của Đức Như Lai, thực hành Bồ-tát hạnh, thị hiện công việc của Đức Như Lai làm. Đó là Bồ-tát hạnh. Đức Phật dạy tiếp: –Này Đại vương! Bấy giờ Bồ-tát Dũng Lực nghe Đức Tức Ý Như Lai dạy pháp ấy, lại bạch: –Bạch Thế Tôn! Thật rất khó chưa từng có, nay Đức Thế Tôn tuyên dạy công hạnh mà các Bồ-tát phải thực hành. Bạch Thế Tôn! Cứ theo chỗ con hiểu lời Đức Phật dạy thì thiện quyền phương tiện là pháp của Bồ-tát thực hành. Bạch Thế Tôn! Như hư không chứa đựng tất cả vạn vật mười phương, vì tất cả hình sắc mà hiển hiện thể của nó chẳng thể tính lường, hiện bao trùm tất cả những loại có hình, với hư không vẫn không chướng ngại. Bạch Thế Tôn! Cũng vậy, do thiện quyền phương thiện mà các Bồ-tát được tự tại ở nơi tất cả pháp. Những pháp đã được học và pháp chưa được học, pháp phàm phu và pháp Phật đều do nơi đó. Lại như luồng lửa lớn đi đến đâu, cỏ cây đều bị cháy. Cũng vậy, Bồ-tát tự tại đi trong các pháp. Dùng lửa trí tuệ đốt cháy ngu si của ba cõi tối tăm. Lại như kẻ trượng phu nổi giận hung dữ làm tổn hại người khác chẳng kể khốn nạn. Cũng vậy, Bồ-tát dùng thiện quyền phương tiện Bát-nhã ba-la-mật-đa tự tại dứt trừ trần lao của tất cả chúng sinh. Lại như thủy thanh châu được để vào nước đục thì nước liền trong suốt. Cũng vậy, Bồ-tát dùng thiện quyền phương tiện làm tiêu tan tất cả trần lao ba thứ cấu trược. Lại như thuốc giải độc tên là tiêu trừ, nếu đem để vào tất cả chất độc, thì tất cả chất độc đều tiêu tan hẳn. Cũng vậy, Bồ-tát dùng thiện quyền phương tiện dạo đi khắp chỗ họa nạn tam giới, cầm trí quyền xảo dứt trừ trần lao ái dục của chúng sinh. Bạch Thế Tôn! Vì thế nên biết rằng thiện quyền phương tiện là hạnh tự tại nơi tất cả pháp của Bồ-tát. Này Đại vương! Lúc Bồ-tát Dũng Lực nói pháp ấy, có vô số người phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Đại vương muốn biết Bồ-tát Dũng Lực thuở xa xưa ấy là ai chăng? Chiùnh là Mật Tích Kim Cang lực só ngày nay. Bồ-tát này vững mạnh tinh tấn, mặc áo giáp hoằng thệ vòi vọi như vậy, cúng dường vô số chư Phật rỡ rỡ dường ấy chẳng gì ví dụ được. Khi ấy vua A-xà-thế tự nghó: “Chày Kim cang của Mật Tích Kim Cang nặng bao nhiêu? Ta có sức rất khỏe chẳng biết có cầm được chăng?” Mật Tích Kim Cang lực só biết tâm niệm của nhà vua bèn để chày Kim cang xuống đất. Vừa lúc lực só để chày xuống đất, cả cõi đại thiên chấn động sáu cách. Mật Tích Kim Cang lực só nói với vua A-xà-thế: –Nhà vua thử cầm lên xem. Vua A-xà-thế có sức mạnh lực só, liền tận lực dở lên, những vẫn không sao lay động được chày Kim cang. Nhà vua lấy làm lạ chưa từng có, tiến lên bạch Đức Phật: –Bạch Thế Tôn! Thân con có sức khỏe đại lực só lại mặc áo giáp rất quý lạ. Con có thể bắt voi lớn nắm vòi ném thân voi đến đâu cũng được. Sao hôm nay dở chày Kim cang nhỏ này lại chẳng nhúc nhích chừng lông tóc. Sao lại có sự lạ như vậy? Đức Phật dạy: –Này Đại vương! Chày Kim cang này trọng ở nơi đức, chẳng thể dùng sức mạnh mặc áo giáp và sức mạnh ném voi lớn mà dở lên được. Mật Tích Kim Cang lực só nói với Thiên đế Thích: –Thưa ngài Kiều-thi-ca, ngài có danh hiệu là Chấp Trì Kim cang. Ngài thử cầm chày Kim cang này lên xem sao. Lúc ấy Thiên đế dùng thần lực vô hạn, hiển tột thần thông muốn cầm chày Kim cang ấy lên mà vẫn chẳng cầm lên được. Thiên đế tiến lên bạch Đức Phật: –Bạch Thế Tôn! Con cùng chư Thiên đánh nhau với A-tu-la. Con dùng một ngón tay ném A-tu-la Duy Chất như ném một viên đạn nhỏ, làm cho A-tu-la phải bỏ chạy. Nay chày Kim cang này nhỏ xíu như vậy sao con lại cầm lên không nổi? Đức Phật dạy: –Này Kiều-thi-ca, chày Kim cang này trọng nơi đức. Chẳng nên đem so sánh với thân lớn ba trăm ba mươi sáu muôn dặm của A-tu-la. Này Kiều-thi-ca, ý ông nghó sao? Núi Tu-di có nặng chăng? Thiên đế thưa: –Bạch Thế Tôn! Núi Tu-di rất nặng. Đức Phật nói: –Này Kiều-thi-ca! Giả sử có đại lực só thần lực vô lượng tay mặt cầm chày Kim cang này để bên núi Tu-di. Lực só ấy đứng vào giữa cất hai thứ lên, núi Tu-di vẫn còn hơi nhẹ chẳng bằng trọng lượng của chày Kim cang này. Này Kiều-thi-ca! Mật Tích Kim Cang lực só nếu dùng chày Kim cang này có thể đập núi Thiết vi, núi Đại thiết vi và núi Kim cang làm cho nát ra như bụi. Dù như vậy, Mật Tích Kim Cang còn chưa hiện hết thần lực, không thể nào ví dụ cho hết được. KINH ĐẠI BẢO TÍCH <卷 id="86423672">QUYỂN 14 Hán dịch: Đời Tây Tấn, Tam tạng Pháp sư Trúc Pháp Hộ. <詞 id="86423673">Pháp hội 3: MẬT TÍCH KIM CANG LỰC SÓ (Phần 7) Bấy giờ Mật Tích Kim Cang lực só nói với Tôn giả Đại Mục-kiền-liên: –Thưa Tôn giả Đại Mục-kiền-liên, Đức Thế Tôn khen Tôn giả thần thông đệ nhất. Nay Tôn giả thử cầm chày Kim cang này lên xem sao? Tôn giả Đại Mục-kiền-liên có đại thần lực dời được bốn biển lớn. Tôn giả khởi thần thông muốn cầm chày Kim cang lên làm rúng động cả cõi đại thiên nhưng vẫn không lay động được chày Kim cang ấy chừng lông tóc. Rất lấy làm lạ, Tôn giả Đại Mục-kiền-liên đến sát bên chân Phật bạch rằng: –Bạch Thế Tôn! Đức Phật từng khen thần thông của con. Con từng thử thần thông của mình làm rúng động cả cõi đại thiên như khều cái bát nhỏ ném qua cõi nước khác. Con từng hàng phục khai hóa Long vương Nan Đầu Hòa Nan. Con còn có thể nuốt khúc gỗ lớn bằng núi Tu-di. Vừa tác ý là con có thể nắm kéo mặt trời, mặt trăng đứng lại, lấy tay rờ mó. Như vậy mà nay con không thể lay động được chày Kim cang nhỏ xíu này chừng lông tóc! Phải chăng con đã mất thần thông rồi? Đức Phật dạy: –Ông chẳng mất thần thông. Này Đại Mục-kiền-liên! Thần thông của Bồ-tát có oai thế rất lớn. Thần thông của Thanh văn và Duyên giác chẳng bằng được. Giả sử những núi Tu-di của hằng hà sa thế giới hợp lại làm một núi Tu-di còn có thể lay động được, chớ chẳng thể lay nổi chày Kim cang này. Bồ-tát lập hạnh, oai lực chẳng thể nghó bàn vòi vọi như vậy. Tôn giả Đại Mục-kiền-liên được chưa từng có, bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Bồ-tát Đại só có được oai lực lớn, như Mật Tích Kim Cang đây cầm chày Kim cang. Bạch Thế Tôn! Sức lực của Mật Tích Kim Cang đây là do cha mẹ sinh, hay là do thần thông? Đức Phật dạy: –Đó là sức mạnh do cha mẹ sinh. Nếu Bồ-tát mà dùng sức mạnh thần thông thì có thể thị hiện thấu khắp trên trời và thế gian. Đức Phật bảo Mật Tích Kim Cang lực só: –Ông nên cầm chày Kim cang lên. Mật Tích Kim Cang bước động cõi đại thiên, dùng tay phải cầm chày Kim cang lên ném thẳng vào hư không. Chày ấy ở trên hư không lộn quanh bảy vòng rồi rơi trở lại dừng ở trên tay phải của Mật Tích Kim Cang. Tất cả chúng hội đều được chưa từng có, đồng vòng tay lễ chân Đức Phật, đồng xướng lên rằng: –Khó bì kịp, khó bì kịp! Mật Tích Kim Cang có sức lực rất vi diệu. Cầu mong các chúng sinh đều được thế lực vô cùng như vậy. Vua A-xà-thế tiến lên bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Bồ-tát có bao nhiêu công hạnh nên được sức lực như vậy? Đức Phật dạy: –Bồ-tát có mười hạnh lớn khiến được oai lực ấy. Những gì là mười? 1. Siêng thọ trì chánh pháp thà bỏ thân mạng. 2. Chưa từng tự cao tự đại, luôn khiêm hạ lễ kính chúng sinh. 3. Gặp chúng sinh kiên cường khó dạy bảo thì nhẫn nhục chịu đựng. 4. Thấy người đói khát thì đem món ăn ngon để bố thí cho họ được no đủ. 5. Thấy kẻ sợ sệt thì an ủi cho họ được an. 6. Nếu có chúng sinh bị bệnh nặng thì lo thuốc men chạy chữa. 7. Nếu có ai yếu đuối bị người khinh mạn thì kính thương che chở. 8. Lấy nước hồ sạch trét vách điện miếu thờ Phật vá chỗ nứt bể. 9. Thấy người côi cút nghèo khổ thiếu thốn thường mang vác nặng nhọc, thì giúp đỡ cho họ được khỏi sự nặng nhọc khổ sở. 10. Nếu có người không chỗ nương nhờ thì thường giúp đỡ họ, nói ra giữ đúng lời không hề quên bỏ. Đó là mười hạnh lớn của Bồ-tát. Vua lại bạch hỏi: –Bạch Thế Tôn! Bồ-tát nhân hòa là có bao nhiêu pháp để Bồ-tát tới lui đó đây luôn luôn hòa nhã chẳng hề nóng giận? Đức Phật dạy: –Bồ-tát nhân hòa có tám pháp. Những gì là tám? 1. Chí tánh chất trực không có dua dèm. 2. Tánh nết hòa nhã thường không dối nịnh. 3. Tâm ý thuần thục trọn không hư vọng. 4. Tâm hành kiên quyết không hề kém yếu. 5. Lòng không mê lầm luôn luôn nhân hòa. 6. Làm chỗ nhờ cậy cho người đời được đức hạnh lạ. 7. Tâm trí tỏ thấu mà không chấp trước. 8. Tư duy tội phước mà tâm không tưởng niệm. Đó là tám pháp nhân hòa của Bồ-tát. Đức Phật dạy tiếp: –Bồ-tát lại có bốn pháp chí tánh thuần thục đi khắp đó đây mọi nơi. Những gì là bốn? 1. Ở nhân gian làm Chuyển luân thánh vương được thấy chư Phật hưng khởi đạo tâm bất thoái. 2. Ở trên trời làm Thiên đế Thích, vua của chư Thiên, thường thấy chư Phật chẳng trái đạo pháp. 3. Nếu ở trên Phạm thiên thì được tự tại vun trồng đạo nghiệp, chẳng hư đạo tâm. 4. Mặc dù ở nhân gian hay trên cõi trời như vậy nhưng thường sinh về cõi Phật thanh tịnh diện kiến chư Phật nghe Đức Thế Tôn thuyết pháp. Đó là bốn pháp. Vua A-xà-thế lại bạch: –Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là ngồi nơi đáng tin cậy? Đức Phật dạy: –Này Đại vương! Là chỗ ngồi của thiện hữu. Vua lại hỏi: –Bạch Thế Tôn! Bố thí thì ngồi ở đâu? Đức Phật dạy: –Này Đại vương! Bố thí thì ở chỗ giàu lớn lắm của nhiều báu. Người trì giới thì được sinh lên cõi trời. Người nhẫn nhục thì sắc mặt vui vẻ thường được xinh đẹp. Người tinh tấn thì siêng tu thông suốt vượt hơn mọi người. Người thiền quán thì thường được chánh định vắng lặng, các căn chẳng loạn động. Người trí tuệ thì dứt các trần lao họa hoạn cấu nhiễm. Người nghe rộng thì được có đại trí, giải quyết sự nghi ngờ của mọi người nếu được hỏi, làm cho không còn thắc mắc. Người siêng học thì nhóm họp nhập vào đạo Vô thượng chánh chân. Người suy xét vô thường, vô ngã vắng lặng thì ở tại chỗ nào đều tiêu trừ điên đảo. Đó là ngồi nơi đáng tin cậy. Vua lại hỏi: –Bạch Thế Tôn! Tâm niệm thuận thời thì được ngồi chỗ nào? Đức Phật dạy: –Này Đại vương! Quán vô thường, khổ, không tịch thì ngồi ở chánh kiến chẳng sa vào tà nghiệp. Thân tâm thanh tịnh thì ngồi tại thiền định phát khởi thần thông. Vua lại hỏi: –Bạch Thế Tôn! Đạo ở chỗ nào? Đức Phật dạy: –Này Đại vương! Ngồi vững không thoái thoát thì thành tựu đạo quả không còn nạn khổ của ba cõi. Vua lại hỏi: –Bạch Thế Tôn! Không thoái thoát thì ngồi tại chỗ nào? Đức Phật dạy: –Này Đại vương! Người không thoái thoát thì ngồi tại nơi giải thoát họa hoạn sinh tử. Vua lại hỏi: –Bạch Thế Tôn! Phật ngồi tại đâu? Đức Phật dạy: –Này Đại vương! Ngồi tại ba mươi bảy pháp đạo phẩm đã được tu tập không có phá hoại, chuyển pháp luân mãi mãi không bao giờ đoạn tuyệt giáo pháp Tam bảo. Vua lại hỏi: –Bạch Thế Tôn! Ai hưng khởi Phật? Đức Phật dạy: –Này Đại vương! Chíùnh là người hay phát lòng tin chí quyết tỏ thấu bản lai không vô. Vua lại hỏi: –Bạch Thế Tôn! Ai phát khởi lòng tin chí quyết? Đức Phật dạy: –Này Đại vương! Nếu là người hay phát Bồ-tát tâm. Vua lại hỏi: –Bạch Thế Tôn! Ai phát Bồ-tát tâm? Đức Phật dạy: –Này Đại vương! Người có chí tánh định chẳng tán loạn. Vua lại hỏi: –Bạch Thế Tôn! Ai có chí tánh định chẳng tán loạn? Đức Phật dạy: –Này Đại vương! Người thi hành đại Bi chưa bao giờ dứt. Vua lại hỏi: –Bạch Thế Tôn! Ai chẳng dứt lòng đại Bi? Đức Phật dạy: –Này Đại vương! Người chẳng rời bỏ tất cả chúng sinh. Vua lại hỏi: –Bạch Thế Tôn! Ai chẳng rời bỏ chúng sinh? Đức Phật dạy: –Này Đại vương! Người làm mình an vui và làm an vui tất cả chúng sinh. Vua lại hỏi: –Bạch Thế Tôn! Ai làm mình an vui và làm an vui đến chúng sinh? Đức Phật dạy: –Này Đại vương! Người hưng long đạo pháp chẳng dứt tuyệt Tam bảo. Vua lại hỏi: –Bạch Thế Tôn! Ai chẳng dứt Tam bảo? Đức Phật dạy: –Này Đại vương! Vất bỏ trần lao là chẳng dứt Tam bảo. Vua A-xà-thế lễ Phật, bạch: –Bạch Thế Tôn! Đức Thế Tôn thật là chưa từng có! Đức Như Lai ban dạy vào đúng pháp luật. Đức Như Lai ban dạy, pháp được nói ra tột đến nhu thuận rời lìa nghiệp đoạn diệt và hữu thường mà chẳng quên mất quả báo ứng, vào chỗ gầy dựng, làm không loạn động, không có những nghiệp thiện ác, tịnh, bất tịnh. Siêng tu đạo hạnh không trái không mất. Bạch Thế Tôn! Người nào nhập vào hạnh nguyện ấy thì giải quyết mọi điều nghi ngờ thuận theo giáo pháp chánh chân của Đức Như Lai. Người nào nghe pháp ấy mà sinh lòng ngờ vực, đó là vì đời trước chẳng vun trồng cội đức, theo bạn ác, chẳng tin và hủy báng chánh pháp. Bạch Thế Tôn! Chúng con đời trước có trồng cội đức, chẳng phải là không công đức. Nay con được nghe chánh pháp, muốn báo ân sâu của Đức Phật mà chí ý chẳng thể báo đáp được trọn vẹn. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi từ mẫn vì chúng con mà giải quyết nghi ngờ hiển hiện đại quang minh. Đức Thế Tôn khéo dạy đầy đủ phạm hạnh, là bậc thân hữu chí thiện được đại nhân từ, là hàng thiện hữu. Bấy giờ Bồ-tát Tịch Ý hỏi Mật Tích Kim Cang lực só: –Ngài kiến lập kinh pháp này phải chăng là để lưu bố cho tất cả tương lai? Mật Tích Kim Cang nói: –Thưa Bồ-tát Tịch Ý! kiến lập kinh pháp này để lưu bố khắp thiên hạ ở Diêm-phù-đề sau khi Đức Như Lai diệt độ thời kỳ mạt thế sau cùng, làm cho các Pháp sư, các vị Chánh só đều được soi sáng. Thưa Bồ-tát Tịch Ý! Đức Phật kiến lập kinh điển quan trọng này, được chư Phật đều hộ trì. Vì sao? Ai thọ trì được kinh này thì là khéo học chánh pháp chẳng chấp văn tự, ngôn từ chẳng cùng tận, không ai dứt ngang được. Thưa Bồ-tát Tịch Ý! Đức Như Lai Chí Chân chẳng bỏ các pháp. Vì sao? Kia không chỗ sinh. Đã không chỗ sinh thì không chỗ diệt. Vì thế nên Đức Như Lai nói: “Đức Như Lai xuất thế là không chỗ sinh. Chỗ đứng của Như Lai là đứng tại pháp giới. Pháp trụ như pháp, có Phật hay không Phật, Phật pháp vẫn thường trụ. Bởi trụ như vậy nên mười hai duyên khởi được chẳng sai trái, duyên khởi chẳng rối loạn, chẳng loạn chánh pháp.” Lại xét pháp ấy thường không có ngôn thuyết nên được gọi là chánh pháp, vì không có ngôn thuyết. Bồ-tát Tịch Ý hỏi: –Thưa ngài Mật Tích! Ngài hộ trì chánh pháp mặc áo giáp hoằng thệ. Vì vậy mà ngài mặc áo giáp ư? Mật Tích Kim Cang nói: –Thưa Bồ-tát Tịch Ý! Mặc áo giáp hoằng thệ hộ trì chánh pháp, chẳng làm loạn các pháp, chẳng nắm lấy pháp ấy. Vì sao? Chánh pháp ấy, tất cả các pháp đều không chỗ loạn. Đó là hộ trì chánh pháp. Bồ-tát Tịch Ý hỏi: –Sao gọi rằng làm loạn chánh pháp? Mật Tích Kim Cang nói: –Nương tựa nơi hãi sợ là thành mê loạn. Thưa Bồ-tát Tịch Ý, rốt ráo không loạn, nghóa là ý nghóa không loạn, mới được gọi là hộ trì chánh pháp. Bồ-tát Tịch Ý hỏi: –Thưa ngài Mật Tích! Chừng có phương tiện nào, lúc tất cả thế gian rối loạn, nhân đó mà hộ trì chánh pháp chăng? Mật Tích Kim Cang nói: –Thưa Bồ-tát Tịch Ý! Nhân vì loạn mà hộ trì vậy. Vì sao? Do vì thế gian dựa theo tà nghi sáu mươi hai kiến chấp. Chỗ làm của Bồ-tát lấy rỗng không làm căn bản. Vì thế nên cùng tất cả thế gian làm loạn nhau. Lại vì thế tục kia quan niệm có thường còn, nên họ lập có tôi ta cho là sạch, là an. Bồ-tát luôn tỏ thấu các pháp vô thường, khổ, không, chẳng phải thân, không có tôi ta. Thế nên gọi là cùng tranh biện với thế gian. Tùy theo thế gian chìm trong dòng nước sinh tử, Bồ-tát phương tiện ngược dòng tận nguồn trái lại dòng sinh tử, chứa công tích đức. Vì thế nên gọi là cùng thế gian tranh loạn nhau. Người đời dựa nương năm ấm, mười hai nhập, mười tám giới. Người làm hạnh Bồ-tát, nơi tâm không dính mắc một pháp nào cả. Vì thế nên gọi là cùng thế gian tranh loạn. Vì sao? Vì chẳng đồng với trần lao. Thưa Bồ-tát Tịch Ý! Vì thế nên hộ trì chánh pháp là cùng thế gian tranh loạn nhau. Bồ-tát Tịch Ý hỏi: –Thưa ngài Mật Tích! Hành giả làm thế nào hộ trì chánh pháp? Mật Tích Kim Cang nói: –Thưa Bồ-tát Tịch Ý! Vì thọ trì chánh pháp mà hộ trì thân mình cũng hộ trì thân chúng sinh, hộ trì tất cả pháp, nhưng vẫn không có chỗ hộ trì. Bồ-tát Tịch Ý lại hỏi: –Thưa ngài Mật Tích, thọ trì thế nào? Mật Tích Kim Cang nói: –Thưa Bồ-tát Tịch Ý! Bặt dứt tôi ta, chúng sinh vắng lặng. Chúng sinh đã lặng thì ba đời lặng. Ba đời đã lặng thì Phật pháp lặng. Phật pháp đã lặng thì Phật độ lặng, Phật độ đã lặng thì các pháp lặng. Ở nơi các pháp mà không có chỗ về đến thì gọi là hộ trì chánh pháp vậy. Bấy giờ Đức Thế Tôn khen Mật Tích Kim Cang: –Lành thay! Lành thay! Đó gọi là hộ trì chánh pháp. Hộ trì chánh pháp ấy, là không chỗ hộ trì, không chỗ quên mất. Lại người hộ trì chánh pháp là thọ trì tất cả, nơi tất cả tưởng mà không vọng tưởng. Đã không có tưởng thì ở nơi các vọng tưởng không để phóng túng. Đây gọi là ở trong tất cả pháp mà không phóng dật, mới gọi là đạo pháp. Lúc ấy trong pháp hội có một Thiên tử tên là Hiền Vương tiến tới bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Ngôn từ của chư Phật rất là vắng bặt. Người được nghe thấy, thế nào là phải? Đức Phật dạy: –Này Hiền Vương! Nghóa vắng bặt của ngôn từ chánh giáo, tất cả chỗ lãnh hội cùng công hạnh đều vắng bặt vậy. Người ấy nhẫn thọ được chánh giáo. Vì đã hay nhẫn thọ được nên hay bùng cháy. Vì đã hay bùng cháy nên hay chói sáng. Vì đã hay chói sáng nên vắng bặt thành là lặng lẽ. Đây là hộ trì chánh pháp của Như Lai. Mới gọi là chúng của chư Như Lai Tổng trì Phật đạo. Chỗ trì như vậy chẳng trì pháp lại chẳng xả pháp. Lúc Đức Phật đáp lời Thiên tử Hiền Vương, có một ngàn Tỳ-kheo được lậu tận ý giải thành A-la-hán. Một ngàn Thiên tử xa trần lìa cấu được Pháp nhãn thanh tịnh. Bồ-tát Tịch Ý hỏi Thiên tử Hiền Vương: –Ngài từ đâu được biện tài ấy? Thiên tử Hiền Vương nói: –Thưa Bồ-tát Tịch Ý! nếu ai có thể dứt trừ tất cả chướng ngại đều vô sở đắc, được Đệ nhất nghóa không nương vào đâu thì gọi là biện tài. Tự mình hiểu rõ, thần thức chẳng chuyển đổi, chẳng do người mà biết, cũng không chỗ lập, đây mới gọi là biện tài. Tâm ý chẳng thả theo chỗ chấp trước, nếu có thể phụng hành pháp không chỗ chấp trước mới được biện tài này. Nếu do suy gẫm tất cả các pháp qua lại hiển bày đều phải biết rõ nhận biết tin chắc mới được biện tài. Thưa Bồ-tát Tịch Ý! Hành giả như vậy được biện tài này, họ không chỗ trụ, không chỗ hành, vượt qua khỏi dòng sóng bốn nạn sinh, già, bệnh, chết. Họ không chỗ sinh, không chỗ khởi cũng không chỗ diệt. Không bị ai diệt được mới gọi là vượt qua khỏi, là được biện tài. Bồ-tát Tịch Ý hướng tới bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Bồ-tát Hiền Vương này từ cõi nào đến cõi này mà có biện tài như vậy? Đức Phật dạy: –Này Tịch Ý! Thiên tử Hiền Vương từ nước của Đức Phật A-súc mà đến, chết kia sinh về đây, vì muốn được nghe kinh điển bí yếu của Như Lai. Tịch Ý nên biết, Thiên tử Hiền Vương được ứng nhập nhà pháp Tổng trì. Giả sử một kiếp hoặc hơn một kiếp tuyên nói công đức của ông ấy cũng chẳng hết được ngằn mé biện tài. Bồ-tát Tịch Ý lại bạch: –Bạch Thế Tôn! Sao gọi là nhà pháp Tổng trì? Đức Phật dạy: –Này Tịch Ý! Trên nói được nhập nhà pháp Tổng trì đó là nhập nơi trí tuệ văn tự vô tận, tất cả pháp đều vào trong nhà này. Ở nơi tất cả pháp đều không chỗ làm, hiểu rõ nhà pháp phụng hành nhà pháp. Với các văn tự dùng âm thanh để tuyên bày. Những lời từ miệng thốt ra làm thành sự pháp, chẳng nghó niệm sự pháp cũng chẳng phân biệt đó mà tuyên bố tất cả sự âm thanh. Đây gọi là nhập vào công hạnh nhà pháp Tổng trì. Lại nữa, này Tịch Ý! Pháp mà nhập vào được đó lại là pháp vô sở đắc. Chỗ được gọi là nhập, phát ra trí tuệ. Văn tự kia không từ đâu đến nhập vào trong nhà. Lại văn tự ấy chẳng hiện trong nhà cũng chẳng hiện ra ngoài. Lại không chỗ hướng đến cũng không có phương diện. Lại văn tự ấy xoay vần trình bày cũng chẳng tưởng niệm. Văn tự chẳng thuận với pháp cũng chẳng trái với pháp, không các tưởng niệm. Văn tự ấy đều không có ngôn thuyết cũng không chẳng ngôn thuyết, cũng không tăng thêm, không tổn giảm. Lại văn tự ấy chẳng thấy có khởi, không chỗ hoại diệt, không làm văn tự cũng không chỗ mất. Lại nữa, này Tịch Ý! Như số văn tự, tâm số cũng vậy. Tất cả đều như vậy. Số của các pháp có chỗ quay về. Nếu là số của các pháp thì kia là vô số. Vì sao? Chẳng về nơi pháp số, không có số mới gọi là pháp số. Tùy thuận pháp số như vậy mới gọi là nhập vào nhà pháp. Chẳng nhập vào quá khứ, nhập vào pháp vô sinh không chỗ đến. Kia không chỗ sinh bởi không chỗ đến thì nhập vào chỗ nào. Do không chỗ nhập mà nhập vào các số như vậy mới đến được pháp môn. Tự thấy bản lai không có thì được an trụ nhập vào hạnh nghiệp nhà pháp Tổng trì. Nhập vào tâm chúng sinh. Do nhập vào tâm chúng sinh mà tùy theo tâm chúng sinh chỗ đáng được độ mà vì họ thuyết pháp. Nếu lãnh thọ Tổng trì mới gọi là ý vắng lặng. Này Tịch Ý! Do tâm lìa cấu uế nên tâm được thanh tịnh nghiêm trang hòa nhã sáng suốt, tánh ấy siêu việt, đi đứng an tường, trí tuệ không mất, chí nguyện kiên cố, chỗ nên độ ấy mà chẳng phá hoại được, các tà ngoại khác không ai chẳng bị dẹp phục, tiêu trừ trần lao, diệt các oán tặc, thân lực rất mạnh, tâm không khiếp nhược, biện tài vô tận, chỗ nói vô lượng, chỗ quy vô hạn, trí tuệ vô ngại nhập vào giác ý rất sáng suốt, ban tuyên lời chánh chân thâm diệu. Chỗ được nghe rộng như sông như biển. Tam-muội chánh định vững như núi Tu-di ở tại giữa biển lớn. Ở trong đại chúng như vua Sư tử. Chẳng nhiễm thế tục như hoa sen chẳng dính bùn nước. Chẳng có ghét thương, lòng mở rộng như mặt đại địa, lúa đậu cỏ cây nhân nơi đó mà sinh trưởng, muôn dân được an vui. Rửa sạch bụi nhơ như nước trong, khai hóa chúng sinh. Đốt các nạn độc như ngọn lửa hừng đốt cháy cỏ rác. Dạy dỗ khắp chúng sinh như luồng gió lớn thổi không sót chỗ, Tâm hành bình đẳng như mặt trăng tròn chiếu các tinh tú. Tiêu trừ tham, sân, si như ánh nắng soi bóng tối. Phục tâm ý thức như dũng tướng đè bẹp cường địch. Điều hòa tâm mình như Long vương thuần thục theo đúng thời tiết. Như thuần âm sấm nổ rồi mới mưa, cũng vậy, Bồ-tát điều hòa tâm mình, diễn bày mưa pháp nhuần thấm ba cõi. Tuyên nước pháp cam lộ trừ sạch tâm nhơ uế, như trời mưa rửa sạch bụi trần. Chữa lành các bệnh tật tham, sân, si như lương y trị bệnh mọi người. Chí giữ gìn vô vi, phụng hành chánh pháp, đây là Pháp vương trị dạy mười phương. Cũng như quốc vương cai trị muôn dân bảo hộ khai hóa tất cả sinh, già, bệnh, chết. Như bốn vị Thiên vương trị vì bốn thiên hạ, cũng như Thiên đế Thích, vua trời Đao-lợi dạy dỗ chư Thiên. Cũng vậy, Bồ-tát ở tại cõi Dục giáo hóa chúng sinh, với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, sạch như minh châu. Điều phục tâm ý luôn được tự tại, như Phạm Thiên vương chúa tể trời người. Tâm Bồ-tát thanh tịnh không hề dính mắc, như chim bay trong hư không không bị chạm đụng. Hành động đúng pháp an tường, như lộc vương đi theo bầy nai, kính vâng pháp giáo mến các chân hạnh. Như mẹ thương con làm cho được an ổn. Dạy chúng sinh các kỹ thuật như nghiêm phụ dạy bảo con cháu. Đức lớn tự trang nghiêm dùng ba mươi hai tướng Đại nhân, phước tướng xen đẹp có tám mươi tùy hình hảo và bao nhiêu vẻ tốt. Được tất cả thế gian cùng kính ngưỡng, chẳng bị tà kiến ràng buộc. Có đủ bảy Thánh tài chẳng bị nghèo thiếu, được mười phương chư Phật hộ niệm, được bậc Minh trí ngợi khen, được hàng thông đạt ca tụng và chư Thiên đều thủ hộ cúng dường, được các bạn lành luôn tiếp trợ, là tối thượng trong hàng thuyết pháp, đủ sáu phép thần thông tự tại. Lại thấu nhập tánh hạnh và căn trí của tất cả chúng sinh để ban tuyên Kinh pháp chưa hề lười mỏi. Không bao giờ mong mỏi lợi dưỡng. Chỉ thích đem chánh pháp ban bố chẳng hề luyến tiếc. Trong lòng thanh tịnh không có sai phạm, nhẫn nhục sáng suốt không có lầm lỗi. Sự nghiệp được làm đều có thể đến trọn vẹn cả. Thanh tịnh tinh tấn tâm tánh an hòa, nhất tâm thanh tịnh trừ bỏ tội cấu, giác ý thản nhiên, trí tuệ thanh tịnh, tu bốn phạm hạnh không hề buông lung để thành tựu công nghiệp độ thế. Thiền định Tam-muội được nên chánh thọ đến Bồ-tát đạo và Phật đạo vô thượng. Có thể thành tựu được khắp những hành nghiệp được làm, chẳng giữa chừng biếng nghỉ đạt đến quả vị không thoái chuyển. Này Tịch Ý! Bồ-tát đại só nhập vào nhà pháp Tổng trì công đức vô lượng vòi vọi như vậy. Giả sử có vị Bồ-tát ở thế gian trăm ngàn năm chẳng làm việc gì khác, chỉ chuyên khen ngợi hạnh Tổng trì ấy cũng chẳng thể tuyên nói hết được. Bấy giờ Bồ-tát Tịch Ý nói với Thiên tử Hiền Vương: –Ngài được lợi lành rất lớn vô cùng. Hôm nay Đức Như Lai khen ngợi công đức của ngài rỡ ràng như vậy. Thiên tử Hiền Vương nói với Bồ-tát Tịch Ý: –Thưa Bồ-tát Tịch Ý! Ở nơi các pháp ấy thật ra không thể được công đức để ngợi khen. Lại các pháp ấy không có sắc, không có tượng, không có hình mạo, công hạnh như vậy không thể tuyên xướng ngợi khen hết được. Thiên tử Hiền Vương hướng tới bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Tất cả các pháp chẳng nhận lấy được, không có tôi ta cũng không ngã sở. Vì thế nên chẳng thể truyền thọ cho người cũng chẳng thể tập họp lại được. Bạch Thế Tôn! Nếu có người thích tu hành pháp này thì nên hành bình đẳng, hoặc siêng phụng hành tu pháp bình đẳng thì đến được pháp môn này. Như đại địa đây, đất ở trên nước, nước ở trên gió. Khắp trong thiên hạ trên mặt đất này, giả sử có người đào đất ra công gắng sức thì được có nước để uống dùng không cần phải tìm ở phương xa. Trí tuệ Như Lai vào khắp trong tánh hạnh của tất cả chúng sinh. Như Lai giải thoát, tùy theo pháp môn mà tu tinh tấn, do phương tiện này thành đại tuệ quang minh. Bạch Thế Tôn! Vì thế nên thiện nam, thiện nữ muốn cầu Phật đạo phải thường tu hành tinh tấn. Lấy gì để tinh tấn? Phải dùng các pháp môn ấy. Bạch Thế Tôn! Như kẻ sinh manh không thấy được màu sắc bao giờ. Giả sử có người chẳng tu hành tinh tấn thì gọi là kẻ ngu tối ngu muội chẳng thấy các pháp hoặc gốc hoặc ngọn. Bạch Thế Tôn! Như người mắt sáng nhờ ánh sáng mà được thấy. Chẳng có ánh sáng thì tăm tối không thấy, ngoại trừ tiên nhân Thiên nhãn của Tiên nhân. Cũng vậy, người rời xa bạn lành không được khai hóa chẳng hiểu được các pháp quán để thấy những pháp được thọ. Như Thiên nhãn thấy chẳng cần ánh sáng, nếu có thiện nam được trí tuệ tự nhiên thành đại trí đức. Bạch Thế Tôn! Như chim bay trong đồng trống ngang qua đầm rộng chẳng thấy hư không cùng đồng ruộng có thêm có bớt. Cũng vậy, tất cả Bồ-tát tinh tấn tu hành nhập vào đạo phẩm chẳng thấy Phật đạo có tăng có giảm. Bạch Thế Tôn! Như núi Tuyết kia, mưa tuyết rơi sương sinh trưởng cây cối chẳng bị các cơn gió làm tai hại. Cũng vậy, Bồ-tát theo đúng thời tu hành phát sinh trí tuệ sáng soi thấu tất cả chúng sinh không có số lượng, đi ở chỗ nào không có quên mất. Bạch Thế Tôn! Như Chuyển luân thánh vương sinh trong dòng quý tộc đủ bảy báu xuất hiện. Những gì là bảy báu? Một là xe tử kim có ngàn căm. Hai là voi trắng có sáu ngà. Ba là ngựa thần nhiều màu, đầu đen bờm đỏ. Bốn là châu minh nguyệt có tám cạnh. Năm là vợ ngọc nữ miệng thơm như hoa sen, thân thơm chiên-đàn. Sáu là đại thần chủ tạng linh như Thánh. Bảy là chủ binh đại tướng coi binh bốn cõi. Cũng vậy, Bồ-tát Đại só lúc bảy báu xuất hiện thì tự nhiên đạo bảo xuất hiện thế gian. Những gì là bảy báu? Đó là báu Bố thí ba-la-mật-đa, Trì giới ba-la-mật-đa, Nhẫn nhục ba-la-mật-đa, Tinh tấn ba-la-mật-đa, Thiền định ba-la-mật-đa, Bát-nhã ba-la-mật-đa và báu Thiện quyền phương tiện Ba-la-mật-đa xuất hiện thế gian cứu độ tất cả. Như vua Chuyển luân đi khắp bốn cõi nước chẳng tính đếm được nhân dân có bao nhiêu tâm niệm. Cũng vậy, Bồ-tát Đại só dùng pháp bốn ân nhiếp cứu chúng sinh chẳng tưởng chúng sinh có bao nhiêu phẩm loại, hiểu nó là bản lai không có. Như vua Chuyển luân cai trị bốn cõi, ngồi yên trên ngai, không người đấu tranh, không xử phải quấy, mà dân chúng tự nhiên thuận theo mệnh lệnh của nhà vua. Cũng vậy, Bồ-tát ngồi tòa Phật pháp không kẻ đấu tranh, các bè đảng ma dầu mang lòng ác mà tự nhiên đến hàng phục. Bạch Thế Tôn! Như cõi đại thiên này trước hết thiết lập núi Thiết vi, núi Đại thiết vi, núi Tu-di. Cũng vậy, Bồ-tát trước hết gầy dựng Đại thừa, kế lập đại Bi, chí tánh nhân hòa là vô thượng hơn cả. Như mặt trời mới mọc trước tiên chiếu ánh sáng đến núi Thiết vi, núi Đại thiết vi, núi Tu-di rồi sau đó mới chiếu đến các chỗ khác. Cũng vậy, Bồ-tát phóng sáng trí tuệ chiếu khắp ba cõi, dùng tâm nhân hòa trước soi đến chúng sinh, ánh sáng Đại thừa trừ tối ba độc đều được thần thông. Bạch Thế Tôn! Tất cả cây cối quận huyện, thôn ấp đều y cứ trên đất liền. Trăm giống cỏ cây đều nhờ nương nơi đất mà sinh trưởng. Từ mặt đất, muôn vật sinh ra mà được tự tại. Cũng vậy, tất cả cội công đức của Bồ-tát đều nhân nơi đạo tâm nuôi lớn Thánh tuệ mà thành Chánh giác. Đức Phật khen Thiên tử Hiền Vương: –Lành thay! Lành thay! Thiện nam khéo dẫn ví dụ để nói lên công hạnh của Bồ-tát. Lại Này thiện nam! Như chúng sinh giới cùng với pháp giới được đến Tổng trì. Trí tuệ của Bồ-tát cũng như vậy, được biện tài không ngại, lời nói không cùng tận không bị ngăn che, không ngớt không nghỉ. Với kinh pháp của chư Phật tuyên thuyết chẳng khiếp chẳng sợ. Vì Bồ-tát đã được môn Tổng trì nên chỗ nói ra chẳng có lòng khiếp sợ. Bồ-tát như vậy được ba vô ngại: 1. Tổng trì vô ngại. 2. Biện tài vô ngại. 3. Đạo pháp vô ngại. Bồ-tát lại có ba sự được vào hạnh nghiệp thanh tịnh: 1. Tự nhiên thanh tịnh. 2. Bản vô thanh tịnh. 3. Bản tế thanh tịnh. Lại có ba sự Bồ-tát được vào vô tận: 1. Kinh pháp không cùng tận. 2. Nghóa văn tự không cùng tận. 3. Tuyên lời dạy bảo không cùng tận. Bồ-tát lại được vào ba chỗ vô trụ xứ: 1. Thánh tuệ vô trụ xứ. 2. Ngôn từ văn nghóa vô trụ xứ. 3. Chỗ tu kiến lập cũng vô trụ xứ. Bồ-tát lại có ba quyết định: 1. Ứng theo cơ mà tuyên bày. 2. Liền phát biện tài. 3. Trí tuệ đúng thời. Bồ-tát lại được có ba trí tuệ giải quyết nhanh: 1. Giải quyết nghi ngờ khiến không còn thắc mắc. 2. Dứt hẳn do dự khiến không còn trầm ngâm. 3. Làm vui đẹp lòng tất cả chúng sinh. Lúc Đức Phật nói lời trên đây, trong đại hội có tám ngàn Bồ-tát được môn Tổng trì. Bấy giờ Mật Tích Kim Cang lực só hướng tới bạch Đức Phật: –Bạch Thế Tôn! Cúi mong Thế Tôn kiến lập pháp điển, sau khi Thế Tôn diệt độ, trong thời mạt thế sau cùng, chánh pháp lưu bố khắp Diêm-phù-đề được còn lâu chẳng dứt mất. Đức Thế Tôn quan sát khắp bốn phương xong nói kệ rằng: Nhiếp căn thì được thắng Dứt căn không bị hại Không vốn đã dứt không Phục bè đảng binh ma. Giải thoát biết thanh tịnh Vô úy biết chỗ sợ Vất bỏ cả gánh nặng Là thần chú y sư. Hàng phục ngoại dị học Dùng pháp để cứu nhiếp Hộ trì người hành pháp Thần chú của Phật nói. Vô ngã để trừ ngã Nghóa ấy phải vượt qua Đối với Tứ Thiên vương Nói câu không nhuần thấm. Mạnh siêng giữ chương cú Tịnh lại tịnh Chánh giác Phạm thiên, Thiên đế Thích Làm nên thừa như đây. Từ Thị thông nhẫn kia Bởi quán sát đại Bi Được Phạm thiên ái kính Người ấy không chỗ phạm. Khoáng dã rời không trống Không căn gọi là tịnh Hàng phục binh tướng ma Nên nói thần chú này. Đấng Thế Tôn kiến lập Kinh lời nghóa hay này, Bấy giờ lưu bố khắp Tùy cơ hay lãnh thọ. Bởi nói chú thuật này Trời đất đều chấn động Chư ma thảy đều đến Đều tuyên nói như vầy: Dùng lời giữ đầu cổ Đây gọi là Pháp sư Nếu tay được kinh này Về đến chỗ Phật nói. Lúc ấy Đức Phật bảo Mật Tích Kim Cang lực só: –Đã kiến lập kinh điển này rồi, nay kiến lập không ai làm loạn động được. Vì sao? Ta nhớ lại thuở quá khứ có Đức Phật ra đời hiệu là Bảo Nguyệt Như Lai Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Thế giới ấy tên là Vô duyệt. Trong đời Đức Phật Bảo Nguyệt ấy, có hai Tỳ-kheo làm Pháp sư. Một vị tên là Trí Tịch, một vị tên là Trì Chí Thành. Hai vị đều có oai thần biến hóa đức cao vòi vọi. Hai vị lãnh thọ chương cú thần chú này nơi Phật Bảo Nguyệt mà phụng trì. Sau khi Phật Bảo Nguyệt diệt độ, hai vị ấy trì pháp nửa kiếp. Sau đó trăm ngàn ức loài ma trong cõi đại thiên đều được khai hóa tuân theo đạo Vô thượng chánh chân. Này Mật Tích! Ông muốn biết hai vị Tỳ-kheo Pháp sư thuở xưa ấy là ai chăng? Pháp sư Trí Tịch là tiền thân của ta, Thích-ca Mâu-ni Phật. Còn Pháp sư Trì Chí Thành là tiền thân của Mật Tích Kim Cang. Các chương cú ấy làm cho kinh pháp này được nhiều sự lợi ích hộ trì thành tựu chánh pháp. Bấy giờ Đức Thế Tôn nhìn xem tất cả chúng hội bốn phía mà tuyên bố rằng: –Các Chánh só! Ai là người có thể gánh vác được đạo Tổng trì Vô thượng chánh chân mà Như Lai đã từ trăm ngàn ức triệu vô số kiếp chứa công tích đức, tất cả chúng sinh nhờ đây mà được tế độ, chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại đều do đây mà sinh. Trong chúng hội có ba vạn hai ngàn vị Bồ-tát rời chỗ ngồi đứng dậy vòng tay cúi đầu lễ Phật rồi nói kệ rằng: Xả bỏ thân mạng mình Tư duy khéo vắng lặng Thọ trì kinh pháp này Được chư Phật khen ngợi. Kinh điển này như thuốc Chữa trị tất cả bệnh Thọ trì ngôn giáo này, Phát sinh tâm ý Phật. Liền đó Thiên tử Hiền Vương cùng năm trăm Thiên tử nói kệ rằng: Tất cả các chúng sinh Siêng quán tưởng chứa đức Thọ trì kinh điển này Được tối thắng thâm diệu. Mật Tích Kim Cang cũng nói kệ như sau: Nghóa ấy không văn tự Mà lại tuyên văn tự Đức Thế Tôn ban tuyên Con nay phải phụng trì. Lúc bấy giờ Đức Như Lai bảo Phạm thiên và Thiên đế Thích: –Như Lai có ba điều chẳng thể hạn lượng được, nên thành bâïc cúng dường vô thượng công đức vô cùng cực. Những gì là ba? 1. Chí tâm nhân hòa phát đạo tâm mình. 2. Đem đạo tâm đã được phát mà hộ trì chánh pháp. 3. Đúng như pháp được nghe mà giảng giải cho mọi người. Đích thân thực hành ba điều như vậy nên được đến công đức chẳng thể tính lường được. Phạm thiên nên biết, do ba sự ấy mà chứa công tích đức, dầu cho ta ở đời một kiếp phân biệt rộng nói cũng chẳng thể nói hết được. Này Phạm thiên! Thế nên phải tùy thuận cung kính phụng sự ba điều của Như Lai. Phạm thiên cúng dường Như Lai lãnh thọ bốn câu kệ tụng mà ba đời chư Phật đã tuyên nói, lãnh thọ rồi ủng hộ. Vì sao? Chư Phật Thế Tôn đều từ pháp này mà sinh. Vì thế nên cúng dường pháp. Cúng dường pháp chẳng cần đến áo cơm. Bởi pháp cúng dường là hơn hết trong những sự cúng dường. Vì thế nên Phạm thiên phải đem chánh pháp để cúng dường nhau, là cúng dường Chân đế, không dùng áo cơm. Đức Phật tự nhớ Phạm Thiên vương thuở quá khứ từng sinh làm Vương thái tử tên là Ý Hành, mến ưa đạo pháp. Một hôm nằm mơ nghe bốn câu kệ tụng này: Nếu mãi buông lung không đường thoát Vì chúng sinh nên phát đạo tâm Nơi yên tónh tùy thuận siêng tu Xả thí không tham mình người an. Vương thái tử nghe dạy bài kệ tụng ấy, sau khi tỉnh giấc suy gẫm rành rẽ, trong lòng rất vui mừng, liền nói kệ ca ngợi lời kệ tụng: Mừng thay rất an vui Được Pháp tạng vô tận Nên thí cho kẻ nghèo Khiến mọi người no đủ. Này Phạm thiên! Khi ấy Vương thái tử được tạng an lập đế, hiểu văn tự vốn không, tự nghó rằng sẽ đem nghóa bài kệ ấy làm cho chúng sinh nghèo thiếu được no đủ. Vương thái tử đến thưa vua cha và mẹ: –Nếu có kho bảy báu: vàng, bạc, lưu ly, thủy tinh, xa cừ, mã não, san hô, chăng con rất vui mừng nếu được đem bố thí cho người nghèo khó. Cha mẹ nên biết rằng tất cả của cải chẳng phải là vật báu bền chắc, thường bị nước lụt, hỏa hoạn, trộm cướp, oan gia trái chủ, quan quyền, con bất hiếu làm tiêu tan. Trí tuệ nghe rộng học nhiều không cần áo cơm rất là khó được. Cha mẹ nói: –Hay lắm, cho phép con lấy của kho bố thí, như lòng con muốn. Vương thái tử liền bố thí khắp các người nghèo thiếu. Rõ biết ba cõi rỗng không làm cho họ được trí tuệ vô tận khó được. Vương thái tử nghe một bài kệ bốn câu mà giáo hóa được tám ngàn người khuyên phát đạo tâm Vô thượng Bồ-đề, vô số chúng sinh được sinh cõi trời. Thế nên, này Phạm thiên! Người nào lãnh thọ pháp thâm diệu này, thọ trì, đọc tụng, vì người giảng nói, nghe đó vui mừng, thì được công đức vô lượng, được tạng vô thượng. Này Phạm thiên! Hành pháp Đại thừa có ba sự pháp lợi ích rất nhiều cho Bồ-tát: 1. Giải và hạnh được lập nhẫn thọ không nhàm. 2. Lấy giải để kiến lập, lấy hạnh làm trọng yếu, giữ gìn lời nói là thứ nhất, chẳng móng tâm tổn hại chúng sinh. 3. Chẳng rời bỏ đại Bi. Đó là ba sự. Vì thế nên, này Phạm thiên! Muốn làm lợi ích cho chúng sinh thì phải siêng khuyến trợ kinh điển này. Lại có hai sự mà hạnh nguyện được lập ra chẳng bị quên mất: 1. Lúc Phật mới thành đạo, đến thỉnh cầu Đức Phật chuyển chánh pháp luân. 2. Phạm thiên phải thỉnh cầu, trong hiền kiếp này, một ngàn vị Phật đương lai chuyển chánh pháp luân giáo hóa những chúng xuất gia làm hạnh Bồ-tát, như Đức Phật Thế Tôn làm Pháp vương tự tại khéo giáo hóa dạy dỗ ít ai bằng được. Này Phạm thiên! Vì lẽ ấy nên Đức Phật làm cho tất cả mọi người trừ bỏ già, bệnh, chết đến quả Vô vi, với sắc chẳng chấp trước. Vì hiểu lẽ ấy nên chịu được các sự khổ, không vọng mong cầu, làm chúa tể trời người, tạo lập ba pháp nhẫn, chấp trì chánh pháp thọ trì đọc tụng. Lãnh thọ kinh này là rất khó. Phải quan niệm rằng: “Bồ-tát trong trăm ngàn ức triệu kiếp tu hạnh thanh tịnh, trang nghiêm thanh tịnh Phật độ, ủng hộ chánh pháp, mau được thành Bâïc Chánh Giác.” Lúc bấy giờ Đức Phật bảo A-nan: –Này A-nan! Ông phải lãnh thọ kinh điển này, thọ trì, đọc tụng, giảng nói cho mọi người. A-nan bạch Đức Phật: –Thưa vâng! Bạch Thế Tôn! Con sẽ thọ trì làm cho được kiên cố. Đức Phật dạy: –Này A-nan! Chớ đem pháp này truyền cho kẻ chẳng phải pháp khí, chớ trao cho ác tri thức. Nên truyền cho bạn lành, những người mộ đạo thích học, những người này sẽ phụng trì thủ hộ. Này A-nan! kinh điển này chẳng về nơi phi pháp mà sẽ về nơi người hạp căn khí, họ có thể phụng hành pháp này và thương cứu chúng sinh. Lại kinh này không có vọng tưởng. Tinh tấn hành trì thì có điềm lành hiện tiền. Người hành trì kinh này thì được nhiều phước báo. A-nan thưa: –Bạch Thế Tôn! Con sẽ thọ trì kinh này, nương oai thần của Đức Phật, con sẽ làm cho thường được lưu bố khắp nơi. Nếu ai lãnh thọ pháp này, thừa oai thần của Đức Phật, hào quang chiếu xa. Những người ấy chẳng còn theo nghiệp hạnh sai quấy. Bạch Thế Tôn! Kinh này danh hiệu là gì, phụng hành thế nào? Đức Phật dạy: –Kinh này tên là Phật Sở Huấn Hối (Lời dạy của Đức Phật). Lại có tên là Mật Tích Kim Cang Lực Só Sở Tuyên Bố Nghóa (Pháp nghóa của Mật Tích Kim Cang Lực Só tuyên bố). Lại tên là Như Lai Công Huân Báo Ứng (Công huân báo ứng của Như Lai). Lại có tên là Như Lai Bí Yếu Kinh Pháp Chi Phẩm (Phẩm pháp bí yếu của Như Lai). Này A-nan! Ông phải phụng trì như vậy. Vì người khác phân biệt giảng nói chớ có mong cầu lợi dưỡng. Chỉ vì vô lượng công đức mà thuận theo pháp luật nên phụng trì vậy. Tại sao? Giả sử dùng Phật nhãn thấy khắp Phật độ và cõi nước mười phương, từ mặt đất lên cao đến trời Đao-lợi, trong đó đầy những bảy thứ châu báu và trăm thứ uống ăn đem cúng dường Đức Như Lai, nếu có người lãnh thọ kinh này, thọ trì đọc tụng phụng hành, vì người mà giảng nói không có lòng cầu lợi dưỡng thì được công đức nhiều hơn. Và có người nào đem y thực vật dụng cúng dường kinh yếu này, tuyên công đức của Như Lai thì được phước vô lượng, không gì để ví dụ được. Lúc Đức Phật nói kinh này, có vô lượng chúng sinh phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Vô số Bồ-tát được Vô sinh pháp nhẫn. Vô số Bồ-tát đến bâïc Nhất sinh bổ xứ. Hiền giả A-nan, Mật Tích Kim Cang lực só, Bồ-tát Tịch Ý và các vị đại Thanh văn, chúng trời, người, cùng hàng A-tu-la, Càn-thát-bà, tất cả chúng hội nghe lời Đức Phật dạy, mọi người đều hoan hỷ vui mừng, cúi đầu đảnh lễ rồi lui ra. KINH ĐẠI BẢO TÍCH <卷 id="86423674">QUYỂN 15 Hán dịch: Đời Tây Tấn, Tam tạng Pháp sư Trúc Pháp Hộ. <詞 id="86423675">Pháp hội 4: THIÊN TỬ TỊNH CƯ (Phần 1) Tôi nghe như vầy: Một thời Đức Phật ở thành Vương xá, trong núi Kỳ-xà-quật cùng hội họp với các vị Đại Bồ-tát và chúng Tỳ-kheo sáu vạn người, thảy đều an trụ nơi Vô thượng Bồ-đề, các vị ấy đều là hàng Thanh văn được nhiều người biết. Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn, sau giờ ngọ trai, nhập Tam-muội. Vì oai thần lực của Tam-muội ấy nên cõi đại thiên chấn động. Các vị Phạm thiên, Đế Thích, Hộ thế Tứ Thiên vương đồng đến chỗ Đức Phật, đầu mặt lạy sát chân Đức Phật rồi đứng qua một bên. Thiên tử Tịnh cư, Thiên tử Hoan Hỷ, Thiên tử Thiện Hoan Hỷ, Thiên tử Đại Hoan Hỷ, Thiên tử Hiền Hoan Hỷ, Thiên tử Thiện Ái, cùng với trời Đâu-suất, trời Tự tại, trời Đại Tự tại, tất cả chư Thiên đại chúng đều đến chỗ Đức Thế Tôn, đầu mặt lạy chân Phật rồi nhất tâm đứng qua một bên. Lúc ấy Thiên chúng Tịnh cư bạch Đức Phật: –Bạch Thế Tôn! Các pháp của Bồ-tát nhiếp thọ tu hành mà chư Phật quá khứ đã nói, xin Thế Tôn diễn nói phân biệt chỉ dạy cho. Cũng để làm lợi ích an lạc nhiều chúng sinh, thương xót thế gian lợi an cho hàng trời người. Sau khi Như Lai diệt độ, các Bồ-tát đời sau nghe được pháp này sinh lòng ưa thích, đối với Vô thượng Bồ-đề biết đúng như thực chẳng có lòng nghi, rốt ráo an trụ hạnh không phóng dật, được khỏi các sự khổ, chẳng còn thoái chuyển đạo Vô thượng Bồ-đề. Bạch xong, Thiên chúng Tịnh cư và Thiên chúng Đâu-suất yên lặng đứng một bên. Lúc ấy có vị Thiên tử tên Kim Cang Tồi vì Thiên chúng nói kệ cầu thỉnh Đức Thế Tôn: Trăm phước đức mãn nên thưa hỏi Trời, người kính ái nên thưa hỏi Trụ không phóng dật nên thưa hỏi Y vương của chúng nên thưa hỏi Pháp cú không lỗi xin diễn nói. Âm thanh tối thắng tuệ sáng suốt Hay dứt trăm ngàn những nghi hối Hay phóng ánh sáng nên thưa hỏi. Như mặt trời hay trừ tối tăm Như mặt trăng hay trừ nóng bức Với oán với thân hay bình đẳng Nhẫn điều khó nhẫn như đại địa. Cũng như nước sạch rửa bụi nhơ Như lửa đốt cháy lưới phiền não Tâm ý thanh tịnh nên thưa hỏi Vô ngại biện tài xin diễn nói. Như y só chữa bệnh chúng sinh Như Tỳ-sa-môn nhiều của báu Cung cấp cho những kẻ nghèo khổ Như mây trừ được ba thứ nóng Câu ấy tối thắng mong được nói. Như bẻgãy tên độc phiền não Phiền não uế nhơ gian dối trá Khéo hay điều phục cho an vui Nhớ thương chúng sinh nên thưa hỏi. Tàm quý tuệ sáng niệm vững chắc Không gian, không tham và dua vạy Khối đức vô tướng nên thưa hỏi. Giận hờn oán ghét đã dứt hẳn Với các chúng sinh vui nhẫn chịu Sắc mặt vui vẻ nhìn chúng sinh Thường hay vui vẻ hỏi han trước. Với các chúng sinh tưởng bạn thân Độ các chúng sinh đến bờ kia Chắp tay cung kính nhất tâm thỉnh. Đấng Thập Lực Thiện Thệ Phật bảo Mong phải giờ dạy dứt lòng nghi Trời người nghe được đạo hạnh này Thấy được các tướng mạo Đệ nhất Khiến họ biết được Đại Trượng Phu. Đức Phật dạy: –Này Kim Cang Tồi! Ông nên lắng nghe, khéo suy nghó nhớ lấy, sẽ vì ông mà nói. Kim Cang Tồi Bồ-tát thưa: –Con xin lắng nghe nhận lãnh! Đức Phật dạy: –Này Kim Cang Tồi! Có một trăm lẻ tám tướng trong chiêm bao được thấy, hành giả tu tập Bồ-tát thừa cần nên biết. Những gì là một trăm lẻ tám tướng? 1. Trong chiêm bao được thấy Đức Như Lai cùng mình nói chuyện; thấy thân Như Lai tốt đẹp. 2. Lại thấy Đức Như Lai yên lặng. 3. Lại thấy Đức Như Lai che đầu mà ngồi. 4. Lại thấy Đức Như Lai ngồi quay lưng lại. 5. Lại chiêm bao thấy thân Như Lai màu hồng. 6. Lại thấy thân Như Lai như hình vẽ nhiều màu. 7. Lại thấy Đức Như Lai đi. 8. Lại thấy Đức Như Lai vì người khác thuyết pháp. 9. Lại thấy Đức Như Lai dùng thần thông đi trong hư không. 10. Lại thấy Đức Như Lai nhập Niết-bàn. 11. Lại thấy trà-tỳ thân Như Lai. 12. Lại chiêm bao thấy được xá-lợi của Như Lai. 13. Lại thấy được tóc của Như Lai. 14. Lại chiêm bao thấy tháp báu chưa từng có của Như Lai. 15. Lại thấy tháp báu trang nghiêm của Như Lai. 16. Lại thấy tháp thần thông của Như Lai. 17. Lại chiêm bao thấy hào quang của Như Lai. 18. Lại nghe tiếng của Như Lai mà chẳng thấy thân. 19. Lại chiêm bao thấy thân Như Lai. 20. Lại thấy vòng hoa và hương thoa choàng vào Như Lai. 21. Lại chiêm bao thấy Như Lai mặc y nhơ bẩn. 22. Lại chiêm bao nghe pháp chưa từng được nghe. 23. Lại chiêm bao thấy mình vì người khác nói pháp chưa từng được nghe, khi thức giấc không thấy cho đến chẳng nhớ. 24. Lại thấy vị Pháp sư chưa từng thấy. 25. Lại thấy mình ngồi pháp tọa vì người khác nói pháp. 26. Lại chiêm bao thấy được vô úy. 27. Lại thấy đạo tràng. 28. Lại thấy Như Lai kinh hành. 29. Lại thấy Như Lai chuyển pháp luân. 30. Lại thấy tháp Như Lai nhập Niết-bàn. 31. Lại chiêm bao thấy được cái y của Như Lai. 32. Lại thấy được cái bát của Như Lai. 33. Lại chiêm bao thấy một mình Như Lai. 34. Lại thấy Như Lai có đông người vây quanh. 35. Lại thấy cái lọng của Như Lai. 36. Lại thấy đôi giày của Như Lai. 37. Lại thấy Như Lai ngồi. 38. Lại thấy mình dâng thức ăn cho Như Lai. 39. Lại chiêm bao thấy mình dâng y cho Như Lai. 40. Lại thấy mình dâng hoa cho Như Lai. 41. Lại chiêm bao thấy mình đi vào núi. 42. Lại thấy mình lõa thể. 43. Lại thấy mình đi bốn hướng. 44. Lại thấy phương chưa từng có. 45. Lại thấy mình đi trong nước đục. 46. Lại chiêm bao thấy trời kéo mây tuôn mưa. 47. Lại thấy đại địa xoay. 48. Lại chiêm bao thấy mình đi giữa đàn lang sói chồn cheo. 49. Lại thấy mình có bệnh. 50. Lại thấy mình té núi không chỗ vịn níu. 51. Lại chiêm bao thấy mình bị trói đem giết. 52. Lại thấy đi trong đao gươm. 53. Lại thấy mình đi trong hư không. 54. Lại thấy mình cầm đuốc cháy. 55. Lại chiêm bao thấy Bồ-tát ra khỏi cung vượt thành. 56. Lại chiêm bao thấy được kinh. 57. Lại chiêm bao nghe tiếng Đà-la-ni. 58. Lại nghe tiếng Tam-muội. 59. Lại chiêm bao nghe tiếng kinh Phương quảng. 60. Lại chiêm bao nghe tiếng Pháp sư ấy. 61. Lại chiêm bao thấy trong chiêm bao được bài kệ. 62. Lại thấy trong chiêm bao được kinh pháp. 63. Lại thấy được nghe tiếng Pháp tạng. 64. Lại thấy được nghe tên Phật ở thế giới khác. 65. Lại thấy được nghe tên Bồ-tát ở cõi khác. 66. Lại thấy mình đi vào trong biển. 67. Lại thấy mình gom góp châu báu. 68. Lại thấy mình ở đỉnh núi Tu-di. 69. Lại thấy mình lên núi. 70. Lại thấy mình lên đến đỉnh núi. 71. Lại thấy mình lên trên cây. 72. Lại thấy rồng voi. 73. Lại thấy mình cỡi voi. 74. Lại thấy mình cỡi ngựa. 75. Lại thấy mình phát thệ nguyện chân thực. 76. Lại chiêm bao thấy cây có trái. 77. Lại chiêm bao thấy cây có hoa. 78. Lại chiêm bao thấy tòa thành chưa từng thấy. 79. Lại chiêm bao thấy ao lớn A-nậu. 80. Lại chiêm bao thấy chư Thiên. 81. Lại chiêm bao thấy rồng. 82. Lại thấy mình đi ở Diêm-phù-đề khác. 83. Lại tự thấy mặc bạch y. 84. Lại thấy đầu mình đội tràng báu. 85. Lại thấy vòng hoa ở trên đầu mình. 86. Lại thấy mình hốt lấy hoa rời để rải. 87. Lại thấy mình đánh trống và người khác trổi nhạc. 88. Lại chiêm bao thấy mặt trời, mặt trăng. 89. Lại thấy mình lấy đồ bất tịnh tự thoa vào thân mình. 90. Lại thấy mình làm vua. 91. Lại thấy mình làm phụ tướng của vua đi trong đại chúng. 92. Lại thấy mình ngồi xe đi vào vườn rừng. 93. Lại thấy địa phương tụ lạc, tăng phường, nhà phòng đại chúng chưa từng thấy. 94. Lại thấy được lọng. 95. Lại thấy mình vì nhiều người mà thuyết pháp. 96. Lại thấy mình vào tụ lạc. 97. Lại thấy mình xây cầu. 98. Lại thấy mình tập họp ghe thuyền. 99. Lại thấy mây sấm chớp. 100. Lại thấy được đao và mặc giáp. 101. Lại thấy được đồ khí cụ. 102. Lại thấy mình dạy đạo cho chúng sinh. 103. Lại tự thấy vào trong vườn rừng. 104. Lại thấy những đống lúa. 105. Lại thấy mình trị bệnh cho chúng sinh. 106. Lại thấy được nghe tiếng thọ ký. 107. Lại chiêm bao thấy mình giác ngộ đạo lý. 108. Lại thấy được bình đầy. Đó gọi là một trăm lẻ tám tướng. Này Kim Cang Tồi! Nếu chiêm bao thấy Như Lai che đầu mà ngồi, người này trước kia thấy Thiện tri thức tu tập nghiệp lành thuyết pháp lại gây ra những sự lưu nạn cho Thiện tri thức ấy. Người này nay cần phải dùng tâm vô ngại tu tập những sự kiện cần cho công việc thuyết pháp. Nếu chiêm bao thấy Như Lai ngồi xây lưng lại, người này ngày trước làm lưu nạn với người xuất gia, gây lưu nạn cho người nghe pháp. Nay người này cần phải siêng sắp đặt chỗ ngồi thuyết pháp, khuyến khích nhiều người nghe pháp, thì trừ được nghiệp chướng ấy. Đó là tướng đầu của bâïc trụ Địa thứ bảy, cũng là tướng của các bâïc từ Địa thứ nhất đến Địa thứ bảy. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Nếu chiêm bao thấy tượng Phật bằng đất hồ, đây là tướng Địa thứ nhất của hàng Bồ-tát. Người này trước kia có lúc chê bai Pháp sư thuyết pháp. Người này nay phải ở trước kinh và tượng Phật, hoặc tháp Phật, dùng tâm vô ngại đầu đội đèn cúng dường để trừ sạch nghiệp chướng. Nếu thấy tượng Phật vẽ, đây là thấy tướng trong các bâïc Bồ-tát ở Địa thứ năm. Người này nên đem hương hoa cúng dường tượng Phật. Nếu thấy cúng dường Phật tượng đó là thấy tướng của các bâïc Bồ-tát trụ Địa thứ sáu. Nếu chiêm bao thấy Như Lai đi, người này phải siêng tu tinh tấn, học tập đọc tụng. Đấy là tướng của bâïc Bồ-tát trụ Địa thứ ba. Người này phải thường làm pháp thí, lại phải quét tháp Phật phá trừ kiêu mạn, dùng đây để trừ sạch nghiệp chướng. Chiêm bao thấy các Bồ-tát đến chỗ Đức Phật, đó là tướng gì? Thấy Như Lai hướng đến chỗ ăn, đây là tướng Địa thứ nhất. Thấy Đức Như Lai hướng đến chỗ kinh hành, đây là tướng Địa thứ hai. Thấy Như Lai hướng đến chỗ thuyết pháp, đây là tướng Địa thứ ba. Thấy Như Lai ngồi yên lặng, đây là tướng Địa thứ tư. Thấy Như Lai ngồi chỗ vắng vẻ, đây là tướng Địa thứ năm. Thấy Như Lai ngâm vịnh, đây là tướng Địa thứ sáu. Thấy Như Lai chạy mau, đây là tướng Địa thứ bảy. Thấy Như Lai hiện thần thông, đây là tướng Địa thứ tám. Thấy Như Lai biến hóa, biến hóa đi, đây là tướng Địa thứ chín. Thấy Như Lai đang đi quay ngó lại cùng nói pháp không, đây là tướng bậc Bồ-tát trụ Địa thứ mười. Này Kim Cang Tồi! Nếu chiêm bao tự biết mình vì chúng sinh thuyết pháp mà chẳng biết pháp được thuyết, đây là tướng Địa thứ hai. Người này sau lúc Như Lai nhập Niết-bàn, chê bai Pháp sư thuyết pháp mà chẳng tự biết lỗi. Người nên tìm Thiện tri thức để cúng dường lắng nghe pháp lành chẳng tìm lỗi của Pháp sư, dùng đây để trừ sạch nghiệp chướng. Nếu chiêm bao nghe Phật nói về bố thí, đây là tướng Địa thứ nhất. Nghe Phật nói trì giới, đây là tướng Địa thứ hai. Nghe Phật nói nhẫn nhục, đây là tướng Địa thứ ba. Nghe Phật nói tinh tấn, đây là tướng Địa thứ tư. Nghe Phật nói thiền, đây là tướng Địa thứ năm. Nghe Phật nói Bát-nhã, đây là tướng Địa thứ sáu. Nghe Phật nói đại Bi, đây là tướng Địa thứ bảy. Nghe Phật nói vô ngại, đây là tướng Địa thứ tám. Nghe Phật nói Tam-muội, đây là tướng Địa thứ chín. Nghe Phật nói thành tựu trí lực, đây là tướng Địa thứ mười. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Trong chiêm bao thấy Phật dùng thần thông đi trong hư không, đây là tướng Địa thứ bảy. Nghe Phật thọ ký, người này phải thường tôn trọng tu tập yên lặng thành tựu pháp nhẫn thậm thâm, được như vậy thì mau thành Chánh giác. Thấy Như Lai ở trong hư không, đây là tướng Địa thứ nhất. Thấy Như Lai ăn, đây là tướng Địa thứ hai. Thấy ánh sáng của Phật, đây là tướng Địa thứ ba. Thấy Phật thuyết pháp, đây là tướng Địa thứ tư. Thấy Phật hiện thần thông, đây là tướng Địa thứ năm. Thấy Phật nhập Tam-muội, đây là tướng Địa thứ sáu. Thấy Phật phóng quang đi lại trong hư không, đây là tướng Địa thứ bảy. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Nếu chiêm bao thấy Phật nhập Niết-bàn, người này đời trước hủy báng chánh pháp, xuất gia cầu lợi dua dối. Nay người này phải siêng cúng dường Tam bảo, phụng thí người thuyết pháp. Ngày ba thời nhất tâm tinh tấn như vậy để trừ sạch nghiệp chướng thấy những tướng của các bâïc trụ Địa thứ năm trước. Nếu chiêm bao thấy trà-tỳ thân Như Lai, đây là tướng Địa thứ nhất, người này đời trước là ác khẩu tri thức thấy người hủy báng chánh pháp mà tùy hỷ, người này phát tâm Bồ-đề chẳng được lâu, người này phải cầm đèn ở trước người thuyết pháp hoặc ở trước tháp Phật nhất tâm sám hối trong bảy ngày bảy đêm. Mỗi ngày ba thời khuyên mọi người nghe pháp. Dùng đây để trừ sạch nghiệp chướng. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Chiêm bao thấy được xá-lợi của Như Lai, đây là tướng Bồ-tát trụ Địa thứ ba. Chiêm bao thấy gần gũi Như Lai nghe thọ ký được độ, đây là tướng những Địa khác. Chiêm bao thấy được tóc của Như Lai, đây là tướng Địa thứ nhất. Thấy được móng của Như Lai, đây là tướng Địa thứ hai. Thấy được xá-lợi của Phật, đây là tướng Địa thứ ba. Thấy được răng của Phật, đây là tướng Địa thứ tư. Thấy được răng cửa của Phật, đây là tướng Địa thứ năm. Thấy được bạch hào của Phật, đây là tướng Địa thứ sáu. Thấy được tay của Phật, đây là tướng Địa thứ bảy. Thấy được mão của Phật, đây là tướng Địa thứ tám. Thấy trà-tỳ thân Như Lai mà toàn thân chẳng tan rã, đây là tướng Địa thứ chín. Thấy toàn thân của Như Lai, đây là tướng Địa thứ mười. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Chiêm bao thấy được tóc của Như Lai chẳng tan rời, đây là tướng Bồ-tát trụ Địa thứ chín. Chiêm bao thấy ở trước Phật thọ Bồ-đề ký thì trừ được nghiệp chướng sinh tử. Thấy được tóc của Phật lúc còn tại gia, đây là tướng Địa thứ nhất. Thấy được tóc của Phật lúc đã xuất gia, đây là tướng Địa thứ hai. Thấy ở trong chợ được tóc của Phật, đây là tướng Địa thứ ba. Thấy ở trong thành được tóc của Phật, đây là tướng Địa thứ tư. Thấy ở thành nội được tóc của Phật, đây là tướng Địa thứ năm. Thấy ở thành ngoại được tóc của Phật, đây là tướng Địa thứ sáu. Thấy ở trong vườn nhà được tóc của Phật, đây là tướng Địa thứ bảy. Thấy ở trên xe được tóc của Phật, đây là tướng Địa thứ tám. Thấy ở hư không được tóc của Phật, đây là tướng Địa thứ chín. Thấy ở trong Tam-muội được tóc của Phật, đây là tướng Địa thứ mười. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Chiêm bao thấy tháp Phật, đây là tướng nghiệp chướng ít, có chút ít ma nghiệp, nếu gần gũi bạn lành khéo hiểu pháp nhẫn được Đà-la-ni. Đây là tướng của tất cả mười Địa. Thấy tháp Phật bằng đất, đây là tướng Địa thứ nhất. Thấy tháp Phật bằng đá, đây là tướng Địa thứ hai. Thấy tượng Phật bằng đất bằng đá, đây là tướng Địa thứ ba. Thấy tháp Phật có lan can, đây là tướng Địa thứ tư. Thấy tháp Phật có cột đá bao quanh, đây là tướng Địa thứ năm. Thấy tháp Phật lợp bằng vàng, đây là tướng Địa thứ sáu. Thấy tháp Phật bằng bảy báu, đây là tướng Địa thứ bảy. Thấy lưới linh báu che trùm trên tháp Phật, đây là tướng Địa thứ tám. Tướng thấy này nếu mới lên Địa thứ bảy mà thấy thì là nghiệp ma của chánh giác. Còn nếu Địa thứ chín và Địa thứ mười mà thấy thì là thấy chẳng điên đảo. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Chiêm bao thấy tháp Phật trang nghiêm, chẳng bao lâu giác ngộ đạo Bồ-đề, được chư Thiên nhớ tưởng. Đây là tướng của Bồ-tát trụ Địa thứ tám. Chiêm bao thấy tháp thần thông của Như Lai, đời này sẽ sạch hết nghiệp chướng. Đây là tướng của Bồ-tát trụ Địa thứ tám. Nếu Bồ-tát tưởng nhớ: “Đây nên rời ác tri thức, nên tu tập tín tâm ở trụ Địa thứ nhất, nên tu tập trí trụ Địa thứ hai, nên tu tập nhiều tín giải ở trụ Địa thứ ba, nên tu hành lâu ở trụ Địa thứ tư, nên tu tịnh tín giải ở trụ Địa thứ năm, nên tu tập tâm bình đẳng ở trụ Địa thứ sáu, nên hiểu Đệ nhất nghóa ở trụ Địa thứ bảy, nên tu tập trang nghiêm cõi Phật ở trụ Địa thứ tám, nên thọ trì ở trụ Địa thứ chín, phải không điên đảo ở trụ Địa thứ mười. Nếu trụ trước vào các Địa mới đạt được, thì nên biết đó là ma nghiệp.” Nếu là người trụ nơi Địa thứ bảy thì chẳng thể khi dối được, nhưng không có thiện xảo phương tiện. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Nếu chiêm bao nghe tiếng nói của Như Lai mà chẳng thấy thân hình, đây là tướng Bồ-tát trụ Địa thứ tư. Bởi an trụ nơi địa vị tự tại phá hoại chúng sinh thấy Phật địa, xuất gia mà dua dối thuyết pháp. Người này phải ngày ba thời, đêm ba thời tu tập tâm thanh tịnh để trừ sạch nghiệp chướng. Nếu chiêm bao thấy cúng dường Như Lai, đây là tướng Địa thứ nhất cho đến Bồ-tát trụ Địa thứ chín. Bồ-tát như vậy có thể thành tựu Đà-la-ni, được chư Phật hộ niệm. Bồ-tát này nên tu tập tâm bình đẳng, được như vậy sẽ mau thành đạo quả Vô thượng. Nếu chiêm bao thấy đứng cúng dường Như Lai, đây là tướng của Bồ-tát trụ Địa thứ nhất. Nếu thấy ngồi cúng dường Phật, đây là tướng Địa thứ hai. Nếu thấy trang nghiêm cúng dường Phật, đây là tướng Địa thứ ba. Nếu thấy cùng quyến thuộc đồng cúng dường Phật, đây là tướng Địa thứ tư. Thấy cùng chúng đông đồng cúng dường Phật, đây là tướng Địa thứ năm. Thấy cùng quyến thuộc và chúng đông đồng cúng dường Phật, đây là tướng Địa thứ sáu. Thấy tất cả trang nghiêm thành tựu cúng dường Phật, đây là tướng Địa thứ bảy. Thấy ca ngợi cúng dường Phật, đây là tướng Địa thứ tám. Thấy hiện thần thông cúng dường Phật, đây là tướng Địa thứ chín, biết rõ tất cả ma sự. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Nếu chiêm bao thấy mình đem vòng hoa và bột hương chiên-đàn cúng dường tháp Phật, đây là thấy tướng của Địa thứ nhất đến Địa thứ năm. Đây là lúc trước ít thực hành Bố thí ba-la-mật-đa. Sau khi thức giấc nhớ lấy tướng ấy sinh trưởng tâm bố thí, đây là tướng Địa thứ nhất. Sinh trưởng tâm trì giới, đây là tướng Địa thứ hai. Sinh trưởng tâm nhẫn nhục, đây là tướng Địa thứ ba. Sinh trưởng tâm tinh tấn, đây là tướng Địa thứ tư. Sinh trưởng tâm thiền, đây là tướng Địa thứ năm. Sinh trưởng tâm vô ngại mau khắp đến tất cả Địa không thoái chuyển. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Chiêm bao thấy Đức Như Lai mặc y nhơ bẩn, người này có nhiều pháp chướng. Nếu là Bồ-tát đến bâïc thành tựu thì trong chiêm bao ít khi chiêm bao thấy thọ báo. Chiêm bao thấy nghe pháp chưa từng được nghe, người này từng cúng dường nhiều Đức Phật, nhiều đời làm thầy thuyết pháp. Đây là nói thấy tướng Địa thứ nhất đến Địa thứ bảy. Đây là tu hành đúng như lời Phật dạy. Đây là mau giác ngộ đạo Bồ-đề. Nếu nghe Phật nói nhiều pháp, đây là tướng Địa thứ nhất. Nếu nghe rồi có quan niệm thắc mắc còn muốn được nghe Đức Phật nói lại, đây là tướng Địa thứ hai. Nếu nghe rồi dứt hết lòng nghi, đây là tướng Địa thứ ba. Nếu nghe Phật nói Đà-la-ni, đây là tướng Địa thứ tư. Nếu nghe nói tướng tốt của Phật, đây là tướng Địa thứ năm. Nếu nghe Phật nói Đệ nhất nghóa đế, đây là tướng Địa thứ sáu. Nếu nghe Phật nói tất cả pháp, đây là tướng Địa thứ bảy. Tướng các Địa như vậy nên biết. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Nếu chiêm bao thấy được pháp chưa từng học, học xong chẳng quên chẳng mất, chẳng thấy hoặc quên mất. Người này đời trước vì tâm lợi dưỡng chẳng thanh tịnh mà thuyết pháp. Nay phải dùng tâm thanh tịnh cung cấp nhiếp thủ người học đạo, dùng tâm chẳng dua vạy tìm cầu tất cả vật dụng cung cấp cho người thuyết pháp người học đạo, dùng đây để trừ sạch nghiệp chướng. Nếu chiêm bao nghe pháp chẳng quên, đây là tướng Địa thứ nhất. Nếu thức dậy quên mất, đây là tướng Địa thứ hai. Do đây mà biết nghiệp ma nghiệp chướng. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Chiêm bao thấy vị Pháp sư chưa từng thấy. Người này được các Bồ-tát nhớ tưởng, ít nghiệp chướng. Cứ theo chỗ được thấy mà biết là thấy tướng từ Địa thứ nhất đến Địa thứ sáu của Bồ-tát. Nếu thấy Pháp sư ấy nói kệ chẳng nói kinh, đây là tướng Địa thứ nhất. Nếu thấy nói kinh, đây là tướng Địa thứ hai. Nếu thấy nói kinh và nói kệ, đây là tướng Địa thứ ba. Nếu thấy nói các thứ pháp, đây là tướng Địa thứ tư. Nếu thấy nói pháp thậm thâm, đây là tướng Địa thứ năm. Nếu thấy nói pháp vô ngại, đây là tướng Địa thứ sáu. Này Kim Cang Tồi! Nếu chiêm bao thấy mình ngồi pháp tòa thuyết pháp, người này đời trước đã từng vì Đức Phật mà trải dọn pháp tòa, người này là bậc pháp khí pháp nhẫn thậm thâm. Đây là tướng các Địa từ Địa thứ nhất đến Địa thứ tám. Nếu chiêm bao thấy mình ngồi pháp tòa thích thuyết pháp, đây là tướng Địa thứ nhất. Nếu thấy chẳng phải thích thuyết pháp, đây là tướng Địa thứ hai. Nếu thấy nhẫn thích thuyết pháp, đây là tướng Địa thứ ba. Nếu thấy không biện thuyết, đây là tướng Địa thứ tư. Nếu thấy thuyết phàm phu giới, đây là tướng Địa thứ năm. Nếu thấy thuyết Thanh văn giới, đây là tướng Địa thứ sáu. Nếu thấy thuyết Bồ-tát giới, đây là tướng Địa thứ bảy. Nếu thấy thuyết Phật giới, đây là tướng Địa thứ tám. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Nếu trong chiêm bao tự thấy biết mình được vô úy, Bồ-tát này đã qua khỏi tất cả nghiệp chướng, đã vượt qua Địa thứ tám thấy các chỗ của Địa thứ chín. Nếu chiêm bao thấy mình được sự không sợ hãi, có nói ra được mọi người thích nghe, đây là thấy tướng Địa thứ nhất. Nếu chiêm bao thấy được sự không sợ hãi, thuyết pháp được tài vật, đây là thấy tướng Địa thứ hai. Nếu thấy được pháp lợi không sợ hãi, đây là thấy tướng Địa thứ ba. Nếu thấy Thiện tri thức không sợ hãi, đây là tướng đệ Địa thứ tư. Nếu thấy tư duy thiện tâm không sợ hãi, đây là thấy tướng Địa thứ năm. Nếu thấy được thân an lạc không sợ hãi, đây là thấy tướng Địa thứ sáu. Nếu thấy tâm an lạc không sợ hãi, đây là thấy tướng Địa thứ bảy. Nếu thấy được thần thông không sợ hãi, đây là thấy tướng Địa thứ tám. Nếu thấy được thọ ký không sợ hãi, đây là thấy tướng Địa thứ chín. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Nếu chiêm bao thấy đạo tràng, Bồ-tát này thuần thiện tâm hướng đạo không thoái chuyển. Đây là thấy các tướng của Địa thứ mười. Nếu chiêm bao thấy đạo tràng chẳng thấy cây, đây là tướng Địa thứ nhất. Nếu chiêm bao thấy cây đạo tràng chẳng thấy Bồ-tát, đây là tướng Địa thứ hai. Nếu thấy nhiều cây bao quanh, đây là tướng Địa thứ ba. Nếu thấy lá cây đầy đủ trọn vẹn, đây là tướng Địa thứ tư. Nếu thấy tất cả hoa lá cây đều đầy đủ, đây là tướng Địa thứ năm. Nếu thấy trái cây trọn vẹn, đây là tướng Địa thứ sáu. Nếu thấy trải pháp tòa, đây là tướng Địa thứ bảy. Nếu thấy người vây quanh, đây là tướng Địa thứ tám. Nếu thấy rồng vây quanh, đây là tướng Địa thứ chín. Nếu thấy chư Thiên vây quanh tán hoa nghe tiếng hoan hỷ, đây là tướng Địa thứ mười. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Nếu chiêm bao thấy Như Lai kinh hành, Bồ-tát này phải siêng tu tinh tấn, siêng bố thí, an ủi quyến thuộc chẳng tìm lỗi của họ. Người này chiêm bao thấy các tướng của Bồ-tát trụ Địa thứ bảy. Nếu chiêm bao thấy Phật kinh hành chỗ đất chẳng sạch, đây là tướng Địa thứ nhất. Nếu thấy Phật kinh hành chỗ đất sạch sẽ, đây là tướng Địa thứ hai. Nếu thấy Phật trải tòa kinh hành, đây là tướng Địa thứ ba. Nếu thấy Phật ngồi lại, đây là tướng Địa thứ tư. Nếu thấy có cây bao quanh, đây là tướng Địa thứ năm. Nếu thấy có tán hoa, đây là tướng Địa thứ sáu. Nếu thấy có che trên pháp tòa cao, đây là tướng Bồ-tát trụ Địa thứ bảy. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Nếu chiêm bao thấy Như Lai chuyển pháp luân, đây là người ở bâïc không thoái chuyển thấy các tướng của Bồ-tát trụ Địa thứ bảy, đã sạch các nghiệp chướng. Nếu chiêm bao thấy Phật ngồi, đây là thấy tướng Địa thứ nhất. Nếu thấy Phật trải pháp tòa, đây là thấy tướng Địa thứ hai. Nếu thấy trải pháp tòa nhiều màu, đây là tướng Địa thứ ba. Nếu thấy tán hoa trên pháp tòa, đây là tướng Địa thứ tư. Nếu thấy các châu báu che lợp trên pháp tòa cao, đây là tướng Địa thứ năm. Nếu nghe tiếng ca ngâm khen ngợi trong hư không, đây là tướng Địa thứ sáu. Nếu thấy lọng trắng và lưới châu báu che phía trên, đây là thấy tướng Địa thứ bảy. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Nếu chiêm bao thấy tháp Phật nhập Niết-bàn, Bồ-tát này thấy các tướng Địa thứ tám, gần đạo quả vô thượng, nghiệp chướng ít. Nếu thấy bụi đất bám vào tháp, đây là thấy tướng Địa thứ nhất. Nếu thấy tháp sạch sẽ không bụi, đây là thấy tướng Địa thứ hai. Nếu trên tháp có mọc cỏ, đây là tướng Địa thứ ba. Nếu thấy cỏ xanh trùm trên tháp, đây là tướng Địa thứ tư. Nếu thấy các cây hoa bao quanh tháp, đây là tướng Địa thứ năm. Nếu thấy các cây hoa quả bao quanh tháp, đây là tướng Địa thứ sáu. Nếu thấy nhiều hạng chúng sinh vây quanh, đây là tướng Địa thứ bảy. Nếu thấy phướn lọng trang nghiêm tháp Phật, đây là tướng Địa thứ tám. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Nếu chiêm bao thấy được y áo của Như Lai, Bồ-tát này thấy các tướng từ Địa thứ nhất đến Địa thứ tám, nghiệp chướng ít. Bồ-tát này phải siêng tu để thành tựu trí niệm Phật. Nếu thấy được y nhơ bẩn của Như Lai, đây là thấy tướng Địa thứ nhất. Nếu thấy được y sạch sẽ của Như Lai, đây là thấy tướng Địa thứ hai. Nếu thấy được y của Như Lai nhuộm xong, đây là thấy tướng Địa thứ ba. Nếu thấy được y của Như Lai đập xả xong, đây là thấy tướng Địa thứ tư. Nếu thấy được y phóng quang của Như Lai, đây là thấy tướng Địa thứ năm. Nếu thấy được một cái y của Như Lai, đây là thấy tướng Địa thứ sáu. Nếu thấy được ba cái y của Như Lai, đây là thấy tướng Địa thứ bảy, tướng tinh tấn, tướng chẳng tinh tấn. Bồ-tát này trừ ma nghiệp mà có còn chỗ nghi. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Chiêm bao thấy được bát của Như Lai, Bồ-tát này được Phật hộ niệm. Đây là thấy tướng từ Địa thứ nhất đến Địa thứ tám của Bồ-tát. Bồ-tát này là pháp khí văn tuệ tu trí nhẫn không nghiệp chướng, như vậy là thẳng đến đạo vô thượng. Nếu thấy được bát của Phật nhơ không sạch, đây là thấy tướng Địa thứ nhất. Nếu thấy được bát của Phật không và sạch sẽ, đây là tướng Địa thứ hai. Nếu thấy được bát của Phật đầy thức ăn, đây là thấy tướng Địa thứ ba. Nếu thấy được bát của Phật đầy hoa, đây là tướng Địa thứ tư. Nếu thấy được bát của Phật đầy quả, đây là tướng Địa thứ năm. Nếu thấy được bát của Phật đầy cơm, đây là tướng Địa thứ sáu. Nếu thấy được bát của Phật đầy hương, đây là thấy tướng Địa thứ bảy. Nếu thấy được bát của Phật đầy vòng hoa và hương, đây là thấy tướng Địa thứ tám. Nếu thấy được y và bát của Phật, đây là thấy tướng Địa thứ chín. Nếu thấy ở trên hư không được bát của Phật, đây là thấy tướng Địa thứ mười. Bồ-tát này phải biết rõ ma nghiệp để trừ nghiệp chướng lúc mới phát tâm chẳng siêng tu. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Nếu chiêm bao thấy một Đức Như Lai, người này phải ở yên tónh chuyên tu Tam-muội Không. Người này có nghiệp chướng tạp của Địa thứ tám, phải siêng tu tâm thanh tịnh. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Nếu chiêm bao thấy thân Như Lai ở trong chúng đông, Bồ-tát này phải ưa thích nhiếp thủ nhiều người. Bồ-tát này thấy tướng của các Địa phải siêng tinh tấn hành đạo. Nếu thấy các hàng cư só vây quanh Như Lai, đây là thấy tướng Địa thứ nhất. Nếu thấy quan liêu quyến thuộc của vua vây quanh Như Lai, đây là thấy tướng Địa thứ hai. Nếu thấy hàng Bà-la-môn vây quanh Như Lai, đây là thấy tướng Địa thứ ba. Nếu thấy vua vây quanh Như Lai, đây là thấy tướng Địa thứ tư. Nếu thấy rồng vây quanh Như Lai, đây là tướng Địa thứ năm. Nếu thấy Tứ đại Thiên vương vây quanh Như Lai, đây là tướng Địa thứ sáu. Nếu thấy Thiên đế Thích vây quanh Như Lai, đây là tướng Địa thứ bảy. Nếu thấy Phạm thiên vây quanh Như Lai, đây là thấy tướng Địa thứ tám. Nếu thấy Tịnh cư Thiên vây quanh Như Lai, đây là thấy tướng Địa thứ chín. Nếu thấy các Bồ-tát vây quanh Như Lai, đây là thấy tướng Địa thứ mười. Bồ-tát này trừ được ma nghiệp. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Chiêm bao thấy được lọng của Như Lai, Bồ-tát này ở bực tối hậu thấy các tướng của các Địa Bồ-tát, hiểu ma nghiệp và tạp nghiệp, cầu lợi dưỡng mau hướng về đạo vô thượng. Nếu thấy được lọng bằng lá cây bằng cỏ, đây là thấy tướng Địa thứ nhất. Thấy lọng bằng trúc, đây là thấy tướng Địa thứ hai. Thấy lọng bằng vỏ cây hoa, đây là thấy tướng Địa thứ ba. Thấy lọng lớn, đây là thấy tướng Địa thứ tư. Thấy lọng bằng sắt lá, đây là thấy tướng Địa thứ năm. Thấy lọng bằng đồng, đây là thấy tướng Địa thứ sáu. Thấy lọng bằng vàng, đây là thấy tướng Địa thứ bảy. Thấy lọng bằng bảy báu, đây là thấy tướng Địa thứ tám. Thấy lọng có lưới linh rủ thòng xuống, đây là thấy tướng Địa thứ chín. Bồ-tát này nên biết ma nghiệp thuộc Địa thứ sáu. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Chiêm bao thấy giày da của Như Lai là thấy tất cả tướng của Địa thứ mười. Bồ-tát này phải siêng tinh tấn tu tập hướng đến đạo Bồ-đề. Bồ-tát này thuộc về hàng được thọ ký. Nếu đến trong thôn xóm thấy giày Phật, đây là thấy tướng Địa thứ nhất. Trong tăng phòng thấy giày Phật, đây là tướng Địa thứ hai. Trong vườn nhà thấy giày Phật, đây là tướng Địa thứ ba. Chỗ kinh hành thấy giày Phật, đây là thấy tướng Địa thứ tư. Trong phòng thấy giày Phật, đây là thấy tướng Địa thứ năm. Trong chỗ tọa thiền thấy giày Phật, đây là thấy tướng Địa thứ sáu. Trong nước sông thấy giày Phật, đây là thấy tướng Địa thứ bảy. Trong núi thấy giày Phật, đây là thấy tướng Địa thứ tám. Trên hư không thấy giày Phật, đây là thấy tướng Địa thứ chín. Nếu chiêm bao thấy thần thông biến hóa thấy giày Phật, đây là tướng Địa thứ mười. Bồ-tát này trừ được ma nghiệp. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Chiêm bao thấy Phật ngồi, Bồ-tát này thấy các tướng từ Địa thứ nhất đến Địa thứ sáu. Bồ-tát này phải thích tu hạnh tịch tónh, ít nghiệp chướng chưa thành tựu công hạnh. Chiêm bao thấy Phật không trải chỗ ngồi, đây là thấy tướng Địa thứ nhất. Thấy Phật trải chỗ ngồi, đây là thấy tướng Địa thứ hai. Thấy Phật hiển hiện trải chỗ ngồi, đây là thấy tướng Địa thứ ba. Thấy Phật trải các pháp tòa để ngồi, đây là thấy tướng Địa thứ tư. Thấy Phật trải pháp tòa xong xuôi, đây là thấy tướng Địa thứ năm. Thấy Phật trải pháp tòa tốt, đây là tướng Địa thứ sáu. Bồ-tát này phải biết rõ ma nghiệp. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Chiêm bao thấy dâng thức ăn cho Như Lai, đây là thấy tướng Địa thứ nhất đến Địa thứ bảy. Bồ-tát này phải siêng tinh tấn tu tập hướng đến đạo Bồ-đề. Bồ-tát này ít nghiệp chướng. Thấy Phật vào nhà đứng mà dâng thức ăn, đây là thấy tướng Địa thứ nhất. Thấy Phật ngồi trong nhà mà dâng thức ăn, đây là thấy tướng Địa thứ hai. Thấy Phật đứng ngoài ngõ mà dâng thức ăn, đây là thấy tướng Địa thứ ba. Thấy Phật ở trong chợ mà dâng thức ăn, đây là thấy tướng Địa thứ tư. Thấy Phật ở tại cửa thành mà dâng thức ăn, đây là thấy tướng Địa thứ năm. Thấy Phật ở trong Tăng phòng mà dâng thức ăn, đây là thấy tướng Địa thứ sáu. Thấy Phật ở trong phòng mình mà dâng thức ăn, đây là thấy tướng Địa thứ bảy, trừ ma nghiệp. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Chiêm bao thấy mình dâng y cho Như Lai, đây là thấy tướng từ Địa thứ nhất đến Địa thứ tám. Bồ-tát này phải siêng tu Tam-muội Vô tướng hướng đến Bồ-đề. Thấy lòng cung kính dâng y cho Phật, đây là thấy tướng Địa thứ nhất. Thấy dâng y trắng cho Phật, đây là thấy tướng Địa thứ hai. Thấy dâng y nhuộm rồi cho Phật, đây là thấy tướng Địa thứ ba. Thấy dâng y nhiều màu cho Phật, đây là thấy tướng Địa thứ tư. Thấy dâng y màu hoàng kim cho Phật, đây là thấy tướng Địa thứ năm. Thấy dâng y bằng bảy thứ báu cho Phật, đây là thấy tướng Địa thứ sáu. Thấy dâng y màu bảy báu cho Phật, đây là thấy tướng Địa thứ bảy. Thấy dâng y trời cho Phật, đây là thấy tướng Địa thứ tám. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Chiêm bao thấy mình dâng hoa cho Như Lai, đây là thấy các tướng từ Địa thứ nhất đến Địa thứ sáu. Bồ-tát này nhiều nghiệp chướng, thiện căn khó sinh. Nếu chiêm bao thấy dâng hoa Mạn-đà-la cho Phật, đây là thấy tướng Địa thứ nhất. Thấy tán hoa dâng Phật, đây là tướng Địa thứ hai. Thấy đem các thứ hoa nhiều màu dâng Phật, đây là tướng Địa thứ ba. Thấy đem hoa đặt trên mình Phật, đây là tướng Địa thứ tư. Thấy mình cầm hoa đặt vào tay Phật, đây là tướng Địa thứ năm. Thấy đem hoa trời dâng Phật, đây là tướng Địa thứ sáu. Trừ ma nghiệp, trừ hai thứ nghi hối của người mới hành đạo. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Nếu chiêm bao thấy vào núi, trong lòng sinh nghi ngờ, sinh hủy báng, phải biết người này nhiều nghiệp chướng, nhiều bệnh đau đớn, ít trí tuệ. Người này phải phát khởi lòng không nghi ngờ đối với tất cả chúng sinh, dùng tâm này xu hướng Bồ-đề. Để thấy được Địa thứ nhất đến Địa thứ năm, vị Bồ-tát này phải trong bảy năm, ngày đêm sáu thời khởi tâm thanh tịnh. Địa thứ nhất, siêng năng vui thích tu tập trí tuệ sáng suốt. Địa thứ hai, cung cấp. Địa thứ ba, cúng dường Tam bảo. Địa thứ tư, siêng năng tinh tấn. Địa thứ năm, tu tập pháp nhẫn thậm thâm. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Chiêm bao thấy mình lõa thể, phải biết mình không nghiệp chướng, đây là thấy tướng Địa thứ nhất. Thấy ở trong thành, tự thấy mình lõa thể, đây là thấy tướng Địa thứ hai. Thấy ở nơi A-lan-nhã, tự thấy mình lõa thể, đây là thấy tướng Địa thứ ba. Thấy ở trong núi, tự thấy mình lõa thể, đây là thấy tướng Địa thứ tư, phải biết ma nghiệp. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Nếu chiêm bao thấy mình đi qua bốn hướng Đông nam, Tây nam, Đông bắc, Tây bắc, đây là thấy tướng Địa thứ nhất. Người này bỏ Thiện tri thức, ít trí tuệ, giải đãi, nhiều lo, nhiều não, bị nhiều người cười, nhiều bệnh đau đớn, tâm nhiều cuồng điên. Vì tu thiện căn mà cầu xuất gia rồi trở lại hoàn tục, nghèo khổ không có của cải, nhiều bệnh, vì lợi dưỡng mà chê bai Pháp sư, hủy báng chánh pháp chẳng tin chẳng hiểu. Người này phải phát khởi tâm chánh trực trở lại, gần gũi kính mến Pháp sư, siêng tu tất cả tâm xả thí vô ngại, hướng đến Bồ-đề. Người này cho đến hiểu được bâïc Địa thứ sáu, dùng tâm nhu nhuyến trung thượng để tiêu trừ tội lỗi. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Chiêm bao thấy đi qua phương chưa từng thấy, đây là thấy các tướng Địa thứ ba. Người này có nghiệp chướng ma nghiệp, phải siêng tu căn thanh tịnh, cúng dường Tam bảo, thấy tướng Địa thứ nhất. Nếu siêng tu không, thấy tướng Địa thứ hai. Nếu tu pháp nhẫn thấy tướng Địa thứ ba. Cho đến an trụ Địa thứ sáu. Tự biết Bồ-tát này là người từ Địa thứ nhất ra, có nhiều thiện căn cũng có nhiều bất thiện căn. Người này xả mạng chẳng sinh lòng sầu não, bỏ ác tri thức, gần gũi người tin hiểu biết chánh pháp, không gian ngụy. Như vậy thì trừ sạch được nghiệp chướng. Nếu là người vì lòng gian trá mà trộm pháp, thì phải thường gần gũi Thiện tri thức. Người này chiêm bao thấy mình đi trong nước đục, đây là thấy tướng Địa thứ nhất. Thấy mình đi trong bọt nước đục, đây là thấy tướng Địa thứ hai. Thấy mình ở trong nước sâu mà đi, đây là thấy tướng Địa thứ ba. Thấy mình đi trong nước cạn, đây là thấy tướng Địa thứ tư. Thấy mình đi trong nước trong, đây là thấy tướng Địa thứ năm. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Chiêm bao thấy nổi mây tuôn mưa, đây là thấy tướng từ Địa thứ nhất đến Địa thứ bảy. Bồ-tát này nhiều ma nghiệp vì dùng sức tự tại mà khuấy phá Pháp sư. Đời trước xuất gia, vì lợi dưỡng mà quở rầy Pháp sư. Nếu Pháp sư theo pháp khuyên sám hối, lại thường chống trái lời dạy bảo. Người này phải siêng tu hạnh nhẫn nhục, sinh lòng tín giải rời lìa lợi dưỡng, chuyên làm lợi cho người khác. Dùng đây để trừ sạch nghiệp chướng. Nếu chiêm bao thấy bụi đất mây mưa, đây là thấy tướng Địa thứ nhất. Thấy mây đen, đây là thấy tướng Địa thứ hai. Thấy mây cuồn cuộn, đây là thấy tướng Địa thứ ba. Thấy mây sấm nổ, đây là thấy tướng Địa thứ tư. Thấy mây chớp kinh sợ, đây là thấy tướng Địa thứ năm. Thấy mưa đá, đây là thấy tướng Địa thứ sáu. Ma nghiệp thuộc mỗi mỗi địa nên biết. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Nếu chiêm bao thấy đất lay động, đây là thấy tướng Địa thứ nhất. Người này từ lâu thực hành sơ nghiệp, nhiều sơ nghiệp, nhiều chướng sơ nghiệp làm khủng bố chúng sinh. Người này phải tu hạnh vô úy ban bố cho chúng sinh, giữ gìn ba nghiệp thân, khẩu, ý. Dùng đây để trừ sạch nghiệp chướng. Nếu chiêm bao thường thấy đất lay động, đây là thấy tướng sơ nghiệp của Địa thứ nhất. Thấy đất lay phá thành trì đốt cháy chúng sinh, đây là thấy tướng Địa thứ hai. Thấy đất lay động thật lâu, đây là thấy tướng Địa thứ ba. Thấy mình phát thệ nguyện chân thật, đây là thấy tướng Địa thứ tư, Địa thứ năm, Địa thứ sáu. Thấy siêng tu Tổng trì, đây là thấy tướng Địa thứ bảy. Thấy chư Thiên đại oai đức đều đến hội họp, đây là tướng Địa thứ tám. Thấy các rồng đến tăng thêm khí lực, đây là thấy tướng Địa thứ chín. Thấy Phạm thiên đến, đây là thấy tướng Địa thứ mười. Chiêm bao nghe lời nói bí mật của Như Lai cõi đất lay động, thuộc về tướng các Địa nên biết. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Nếu chiêm bao thấy mình ở trong nhóm tranh cãi kiện cáo, đây là thấy tướng nghiệp chướng của Địa thứ tư trở lại. Hoặc thấy tướng ma nghiệp của Địa trên cho đến Địa thứ bảy. Người này chẳng siêng tu tập nhiếp thủ hàng phục người phi pháp. Đời trước vì lợi dưỡng mà chống trái người thuyết pháp, lại gian trá thuyết pháp để tự sinh sống. Người này phải học phương tiện, phải khéo tu sáu pháp Ba-la-mật-đa để trừ sạch nghiệp chướng. Nếu thấy ở trong nhóm tranh cãi kiện cáo, bị giận quở rồi có lòng kinh sợ, đây là thấy tướng Địa thứ nhất. Thấy bị dao chém, đây là thấy tướng Địa thứ hai. Thấy bị ném đất gậy đánh, đây là thấy tướng Địa thứ ba. Thấy bị mắng nhiếc, đây là thấy tướng nghiệp chướng ma nghiệp của Địa thứ tư. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Chiêm bao tự thấy mình bệnh, đây là thấy tướng nghiệp chướng của Địa thứ nhất, Địa thứ hai. Người này trước kia làm nhiều sự gian nan cho thế gian và xuất thế gian. Muốn pháp thí nhiều nhưng lại đoạn tuyệt. Muốn tài thí nhiều nhưng rồi cũng lại đoạn tuyệt. Người này phải nên cung cấp cho người tu hành chánh pháp, phải tu tâm vô ngại, tâm chẳng phóng dật, tâm chẳng kiêu mạn, để tiêu trừ nghiệp chướng. Nếu thấy bệnh thuộc về tướng các địa khác, phải biết tướng ma nghiệp. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Chiêm bao thấy té núi không nơi nương dựa, người này đời trước ở nơi tâm lành lại chuyên gian trá, nhiều chẳng tin hiểu, nhiều nghiệp chướng, ma nghiệp tăng thạnh thân tâm kém yếu, thọ pháp mau được nhưng lại quên mất, sinh tâm dục lạc giữa chừng buông bỏ. Hoặc thấy của nhiều mà bỏ lìa. Hoặc thấy Phật pháp mà bỏ lìa. Bỏ lìa nhẫn nhục. Gần gũi ác hạnh, chẳng gần pháp lành. Ở bên người tín giải sâu mà chẳng sinh tín giải. Người này thấy tướng nghiệp chướng của Địa thứ nhất, Địa thứ hai. Nếu chiêm bao thấy mình đi trong núi đao, đây là thấy tướng nghiệp chướng Địa thứ nhất. Thấy mình té trong núi đá, đây là thấy tướng Địa thứ hai. Ở địa khác không nghiệp chướng, không ma nghiệp, phải sinh lòng tin, trong thời gian ba tháng, ngày ba thời, đêm ba thời luôn sám hối. Phải quán pháp nhân duyên của thế gian, phải tu hạnh cúng dường. Dùng đây để tiêu trừ nghiệp chướng. KINH ĐẠI BẢO TÍCH <卷 id="86423676">QUYỂN 16 Hán dịch: Đời Tây Tấn, Tam tạng Pháp sư Trúc Pháp Hộ. <詞 id="86423677">Pháp hội 4: THIÊN TỬ TỊNH CƯ (Phần 2) Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Bồ-tát trong chiêm bao thấy mình bị trói đem giết, người này ma nghiệp quá nặng, chẳng phải nghiệp chướng. Người này phải tu định vô ngại và tu tâm Từ để trừ chướng ấy. Người này thấy tướng nghiệp chướng của Địa thứ nhất đến Địa thứ sáu. Nếu chiêm bao thấy bị trói ở trong rừng tử thi, đây là thấy tướng Địa thứ năm. Thấy bị trói có hàng xóm vây quanh, đây là thấy tướng Địa thứ sáu. Ma nghiệp này do vì chẳng siêng tu, phải vì đạo vô thượng mà tấn tu tăng thượng. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Nếu chiêm bao tự biết mình ở trong chỗ có đao, đây là thấy tướng nghiệp chướng của Địa thứ nhất đến Địa thứ năm. Người này nhiều ác tri thức, nhiều gian nan, đời trước từng ở bâïc trên làm khổ người trì giới. Người này phải tu yên tónh, không giận hờn, không lòng chướng ngại, chuyên siêng làm lợi cho người, để tiêu trừ nghiệp chướng. Chiêm bao thấy người cầm các thứ dao, tự thấy mình ở trong đó, đây là thấy tướng nghiệp chướng của Địa thứ nhất. Thấy người cầm một con dao, thấy mình ở trong đó, đây là thấy tướng Địa thứ hai. Thấy người cầm gậy gộc, thấy mình ở trong đó, đây là thấy tướng Địa thứ ba. Thấy người cầm đá, thấy mình ở trong đó, đây là thấy tướng Địa thứ tư. Thấy đứng trong nhóm người tay không, đây là thấy tướng Địa thứ năm. Tiêu trừ ma nghiệp. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Chiêm bao thấy mình ở trong hư không, người này ở bâïc Tín địa được Vô sinh pháp nhẫn. Người này được chư Thiên hộ niệm. Người này phải tu oai nghi tốt, phải thường tu tinh tấn, khuyên chúng sinh phát tâm cầu đạo Vô thượng. Người này thấy các tướng từ Địa thứ nhất đến Địa thứ bảy: Nếu chiêm bao thấy mình ở trong hư không đi đứng, đây là thấy tướng Địa thứ nhất. Thấy ở trong hư không gặp Tiên nhân, đây là thấy tướng Địa thứ hai. Thấy Sa-môn, đây là thấy tướng Địa thứ ba. Thấy rồng, đây là thấy tướng Địa thứ tư. Thấy chư Thiên, đây là thấy tướng Địa thứ năm. Thấy Phạm thiên, đây là thấy tướng Địa thứ sáu. Thấy Bồ-tát hoặc thấy Như Lai, đây là thấy tướng Địa thứ bảy, tiêu trừ ma nghiệp. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Nếu chiêm bao thấy mình cầm đuốc, đây là thấy tướng Địa thứ nhất đến Địa thứ năm. Bồ-tát này phải siêng tu minh tuệ, chẳng kể thân mạng, chẳng màng uống ăn, phải hành thiền, chẳng sinh nghi hối, phải tinh tấn như vậy. Nếu trụ Địa thứ nhất, phải tu đối trị. Nếu trụ Địa thứ hai, phải tu thiền. Nếu trụ Địa thứ ba, phải tu Từ. Nếu trụ Địa thứ tư, phải tu Bi. Nếu trụ Địa thứ năm, phải tu Xả. Lại nếu trụ Địa thứ nhất, phải tu niệm Phật để thấy sáng. Nếu trụ Địa thứ hai, phải tu phóng giải. Nếu trụ Địa thứ ba, phải tu văn tuệ. Nếu trụ Địa thứ tư, phải tu thọ trì. Nếu trụ Địa thứ năm, phải tu không. Như vậy thì được trí tuệ sáng. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Nếu chiêm bao thấy Bồ-tát rời cung vượt thành, đây là thấy tướng Địa thứ nhất đến Địa thứ sáu. Người này tăng gia tinh tấn được không thoái chuyển ở tại hàng được thọ ký Vô thượng Bồ-đề, mau gần đạo Vô thượng. Nếu chiêm bao thấy Bồ-tát đi bộ ra khỏi cung thành, đây là thấy tướng Địa thứ nhất. Thấy ngồi xe bò đi ra, đây là thấy tướng Địa thứ hai. Thấy ngồi xe ngựa đi ra, đây là thấy tướng Địa thứ ba. Thấy ngồi xe voi đi ra, đây là thấy tướng Địa thứ tư. Thấy ngồi xe người kéo mà ra khỏi cung thành, đây là thấy tướng Địa thứ năm. Thấy ngồi xe đi trong hư không mà ra, đây là thấy tướng Địa thứ sáu. Tiêu trừ ma nghiệp. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Nếu chiêm bao thấy được kinh, đây là thấy các tướng Địa thứ nhất đến Địa thứ ba. Người này nhiều nhân duyên hay hủy hay báng, nhiều gian nan. Người này phải nhất tâm tu sám hối tội lỗi, thường tinh tấn tu hành. Nếu chiêm bao thấy được kinh điển thế tục và kinh pháp Thanh văn, đây là thấy tướng Địa thứ nhất. Thấy được kinh tương ưng với Đàn-na ba-la-mật-đa, đây là thấy tướng Địa thứ hai. Thấy được kinh tương ưng với pháp Đại thừa thậm thâm, đây là thấy tướng Địa thứ ba, cho đến Địa thứ bảy. Hoặc thấy chư Thiên trao cho, hoặc thấy Bồ-tát trao cho, hoặc thấy Như Lai trao cho. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Nếu chiêm bao nghe tiếng công đức của chánh pháp, đây là thấy các tướng của Địa thứ nhất đến Địa thứ sáu. Người này hiện tiền được Tổng trì. Người này nghiệp chướng ít, ma nghiệp thêm thịnh. Người này phải bố thí pháp, chẳng tìm lỗi của người khác thì được thanh tịnh. Chiêm bao nghe phát ra tiếng hương Đà-la-ni, đây là tướng Địa thứ nhất. Nghe văn tự Đà-la-ni, đây là tướng Địa thứ hai. Nghe và biên chép Đà-la-ni, đây là tướng Địa thứ ba đến Địa thứ sáu. Người này chẳng nên tham luyến ba cõi, phải siêng tu ở riêng một mình. Người này nghiệp chướng ít, ma nghiệp ít, mà phiền não thêm thạnh, phải nghe học nhiều pháp môn, phải tu thiền quán. Nếu tương ưng hữu giác hữu quán Tam-muội, đây là trụ Địa thứ nhất. Nếu tương ưng vô giác thiểu quán Tam-muội, đây là trụ Địa thứ ba. Nếu tương ưng vô giác vô quán Tam-muội, đây là trụ Địa thứ tư. Tương ưng với phạm xứ không xứ Tam-muội, đây là trụ Địa thứ năm. Tương ưng với hiện nhất thân Tam-muội, đây là trụ Địa thứ sáu. Tương ưng với đại thông Tam-muội, đây là trụ Địa thứ bảy. Tương ưng với xuất sinh Phật trang nghiêm Tam-muội, đây là trụ Địa thứ tám. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Nếu chiêm bao nghe tiếng kinh Đại Phương Quảng, đây là thấy tướng Địa thứ nhất đến Địa thứ sáu. Bồ-tát này ít chướng mà chậm hướng đến đạo vô thượng. Bồ-tát này phải tu pháp tín giải, quyết định nhẫn, siêng học hỏi tướng trì giới, tôn trọng các bâïc sư trưởng, như vậy thì hướng đến Vô thượng Bồ-đề. Nếu chiêm bao nghe tiếng kinh Đàn-na ba-la-mật-đa, đây là tướng Địa thứ nhất. Nghe tiếng kinh Giới, đây là tướng Địa thứ hai. Nghe tiếng kinh Nhẫn, đây là tướng Địa thứ ba. Nghe tiếng kinh Tinh tấn, đây là tướng Địa thứ tư. Nghe tiếng kinh Thiền định, đây là tướng Địa thứ năm. Nghe tiếng kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa, đây là tướng Địa thứ sáu. Trừ người chẳng siêng tu tập và người được Phật hộ trì thiện tâm thành tựu. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Nếu chiêm bao nghe tiếng nói tên Tỳ-kheo thuyết pháp, đây là thấy tướng Địa thứ nhất đến Địa thứ tư. Bồ-tát này nhiều gian nan, nhiều nghi hối, ít trí tuệ. Người này phải y chỉ thiện tri thức, phải tu tâm vô ngại, phải phương tiện khuyên tất cả chúng sinh tu tâm không nghi hối. Như vậy thì được thanh tịnh. Nếu chiêm bao thấy mình nghe tên Pháp sư trước đã được nghe, đây là tướng Địa thứ nhất. Nghe tên Pháp sư chưa được thấy, đây là tướng Địa thứ hai. Nghe tên Pháp sư ở thế giới khác, đây là tướng Địa thứ ba. Nghe tên của Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ, hoặc nghe tên của bâïc ưa thích bâïc Địa trên, đây là tướng Địa thứ tư. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Nếu chiêm bao thấy mình được biện tài, đây là tướng Địa thứ nhất đến Địa thứ ba. Bồ-tát này là căn khí biện tài. Nếu xa lìa ba pháp sau đây thì mau được trí tuệ sáng suốt. Những gì là ba? Một là thấy người được lợi mà ganh ghét, hai là vì lợi dưỡng mà gian trá, ba là vì lợi dưỡng mà gần gũi. Phải xa lìa ba pháp ấy mới được lợi ích trí tuệ biện tài. Chiêm bao thấy mình nói ít kệ tụng, đây là tướng Địa thứ nhất. Thấy hay nói các thứ kệ tụng, đây là tướng Địa thứ hai. Thấy nói nghóa kệ sâu xa, đây là tướng Địa thứ ba, hay nói nhiều kệ về bâïc Địa trên. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Chiêm bao thấy mình được biện tài thuyết kinh, đây là tướng Địa thứ nhất đến Địa thứ tám. Người thấy tướng này là có nhiều công đức nhân duyên, phải siêng tu giới đức, phải tu cúng dường thù thắng, cúng dường người giữ hạnh thanh tịnh, chẳng nên khinh mạn. Như vậy thì trong chiêm bao sẽ chịu nghiệp chướng, ít bị khổ báo. Người này phát sinh trí biện tài của bâïc Địa thứ nhất. Chiêm bao thấy nói kinh Phương đẳng, đây là tướng Địa thứ hai. Thấy nói các thứ kinh, đây là tướng Địa thứ ba. Thấy nói nhân duyên trước, đây là tướng Địa thứ tư. Thấy nói ba đời, đây là tướng Địa thứ năm. Thấy nói ba la mật, đây là thấy tướng Địa thứ sáu. Thấy nói kinh thậm thâm, đây là thấy tướng Địa thứ bảy. Thấy nói tất cả quyết định, đây là thấy tướng Địa thứ tám. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Nếu trong chiêm bao nghe tiếng Đà-la-ni, đây là thấy tướng từ Địa thứ nhất đến Địa thứ bảy. Người này ít nghiệp chướng, bị các phiền não, phải hỏi bâïc Trí giả pháp tu tịnh mặc, được giải thoát. Chiêm bao thấy ở trong thôn xóm nghe tiếng Đà-la-ni, đây là tướng Địa thứ nhất. Thấy ở trong phòng nghe tiếng Đà-la-ni, đây là tướng Địa thứ hai. Thấy ở trong Tăng phòng nghe tiếng Đà-la-ni, đây là tướng Địa thứ ba. Thấy ngồi ở A-lan-nhã nghe tiếng Đà-la-ni, đây là tướng Địa thứ tư. Thấy ngồi nghe tiếng Đà-la-ni, đây là tướng Địa thứ năm. Thấy ở trong vườn nhà nghe tiếng Đà-la-ni, đây là tướng Địa thứ sáu. Thấy ở đỉnh núi nghe tiếng Đà-la-ni, đây là tướng Địa thứ bảy. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Nếu trong chiêm bao nghe danh hiệu của Như Lai ở thế giới phương khác mà trước đây chưa từng được nghe. Người này thấy tướng thọ ký của Địa thứ nhất đến Địa thứ tám. Vì kiêu mạn tự tại nên chẳng hướng đến đạo vô thượng, nhiều ma nghiệp, vì lợi dưỡng mà tu oai nghi bất tịnh, sau đó mới hướng đến đạo. Chiêm bao thấy được nghe danh Phật phương khác, thấy tu rồi kiêu mạn, đây là thấy tướng Địa thứ nhất. Thấy trì giới rồi kiêu mạn, đây là thấy tướng Địa thứ hai. Thấy nghe học rồi kiêu mạn, đây là thấy tướng Địa thứ ba. Thấy được phương tiện rồi kiêu mạn, đây là thấy tướng Địa thứ tư. Thấy nghi rồi kiêu mạn, đây là thấy tướng Địa thứ năm. Thấy được trí rồi kiêu mạn, đây là thấy tướng Địa thứ sáu. Thấy thuyết pháp rồi kiêu mạn, đây là thấy tướng Địa thứ bảy. Thấy thọ trì rồi kiêu mạn, đây là thấy tướng Địa thứ tám. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Nếu trong chiêm bao được nghe tiếng của Bồ-tát nào đó ở thế giới nào đó, đây là thấy tướng Địa thứ nhất đến Địa thứ năm. Người này được Bồ-tát ức niệm, ít phiền não, phải rời lìa kiêu mạn và khuyên nhiều người tu trí, như vậy thì được tương ưng. Chiêm bao thấy được nghe tiếng Bồ-tát nào đó ở thế giới nào đó, được Đà-la-ni, đây là thấy tướng Địa thứ nhất. Thấy xuất gia, đây là thấy tướng Địa thứ hai. Thấy khổ hạnh, đây là thấy tướng Địa thứ ba. Thấy đạo tràng hàng ma, đây là thấy tướng Địa thứ tư. Thấy đại giác ngộ, đây là thấy tướng Địa thứ năm. Nếu chiêm bao thấy được nghe tiếng Bồ-tát nào đó ở thế giới nào đó, nghe nhiều, nghe thấy bất định, thiện tâm yếu kém, đây là thấy tướng Địa thứ nhất. Thấy trụ tại tâm nghi, đây là thấy tướng Địa thứ hai. Thấy thoái tâm phóng dật, đây là thấy tướng Địa thứ ba. Thấy tăng thượng phóng dật, đây là thấy tướng Địa thứ tư. Thấy nhiều định, đây là thấy tướng Địa thứ năm. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Chiêm bao thấy ở trong biển, Bồ-tát này tinh tấn. Đây là thấy tướng Địa thứ nhất đến Địa thứ tám. Bồ-tát này phải tu đa văn tinh tấn tuệ giải. Chiêm bao thấy ở trong biển không chỗ y chỉ, đây là thấy tướng Địa thứ nhất. Thấy ở bờ biển, đây là thấy tướng Địa thứ hai. Thấy ngồi thuyền, đây là thấy tướng Địa thứ ba. Thấy đi qua, đây là thấy tướng Địa thứ tư. Thấy lên thuyền, đây là thấy tướng Địa thứ năm. Thấy ngồi trong nước, đây là thấy tướng Địa thứ sáu. Thấy ngồi trong giữa thuyền, đây là thấy tướng Địa thứ bảy. Thấy trong thuyền đầy châu báu mình ngồi trên đó muốn ra khỏi biển, đây là thấy tướng Địa thứ tám. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Chiêm bao thấy chứa nhóm châu báu, đây là thấy tướng Địa thứ nhất đến Địa thứ ba. Người này gặp nhiều khổ não. Phải thích tu tịnh nghiệp, chẳng tìm chỗ dở của người, biết ân người thuyết pháp. Phải hướng đến như vậy. Chiêm bao thấy đào đất được châu báu, đây là thấy tướng Địa thứ nhất. Thấy được châu báu lẫn lộn trong đất, đây là tướng Địa thứ hai. Thấy được châu báu lẫn lộn trong cỏ, đây là tướng Địa thứ ba. Đây là tướng ma nghiệp chẳng siêng tinh tấn, hoặc là tướng ma nghiệp, nghiệp chướng chẳng siêng tu phương tiện của Địa thứ tư đến Địa thứ sáu. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Chiêm bao thấy có đỉnh núi Tu-di, người này không thoái chuyển. Đây là thấy tướng Địa thứ nhất đến Địa thứ năm. Người ấy có chút ít công đức, vì gần ác hữu gian trá không có tín tâm. Phải gần Thiện tri thức tu chẳng gian trá, tu nhiều về tín giải, phải xu hướng như vậy. Chiêm bao thấy ở tại núi Tu-di, đây là thấy tướng Địa thứ nhất đến Địa thứ sáu. Thấy ở tại đỉnh núi Tu-di, đây là thấy tướng Địa thứ bảy. Thấy mình trông ra bốn phía, đây là thấy tướng Địa thứ tám. Thấy mình ngồi trên đỉnh Tu-di, đây là thấy tướng Địa thứ chín. Thấy núi Tu-di lay động, đây là thấy tướng Địa thứ mười. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Chiêm bao thấy đi lên núi, đây là thấy tướng Địa thứ nhất đến Địa thứ năm, trừ hại tất cả phiền não nghiệp chướng, với người thuyết pháp chẳng có tâm cung kính. Người này phải tu chẳng siểm khúc để trừ nghiệp chướng. Như vậy thì hướng đến Bồ-đề, thấy tướng Địa thứ nhất thì ngày ba thời siêng tu tinh tấn. Thấy tướng Địa thứ hai thì siêng tu niệm Phật. Thấy tướng Địa thứ ba thì tu Tam-muội Không. Thấy tướng Địa thứ tư thì tu đại Bi. Thấy tướng Địa thứ năm thì tu tuệ. Chiêm bao thấy đi lên núi, đây là thấy tướng Địa thứ nhất. Thấy ở giữa núi, đây là thấy tướng Địa thứ hai. Thấy ở trên núi, đây là thấy tướng Địa thứ ba. Thấy đứng trên núi nhìn xem, đây là thấy tướng Địa thứ tư. Thấy ngồi trên núi, đây là thấy tướng Địa thứ năm. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Nếu chiêm bao thấy đi lên núi, đây là thấy tướng Địa thứ nhất đến Địa thứ bảy. Bồ-tát này ít nghiệp chướng, mà ma nghiệp tăng thịnh. Bồ-tát này phải xả bỏ tất cả vật sở ái, cúng dường người có trí tuệ. Ở bên người trí tuệ phải đè dẹp kiêu mạn. Chiêm bao thấy đi lên bảy núi lớn cho đến đi lên núi Tu-di, đây là thấy tướng Địa thứ bảy. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Chiêm bao thấy trèo lên cây, đây là thấy tướng Địa thứ nhất đến Địa thứ tư, phải hiểu biết nghiệp chướng và ma nghiệp. Người này phải gần gũi y chỉ Thiện tri thức, được trí tuệ sáng suốt, luôn luôn phải quyết rõ pháp nghóa. Như vậy thì hướng đến Vô thượng Bồ-đề. Chiêm bao thấy mình trèo lên cây đầy đủ nhánh lá râm mát, đây là thấy tướng Địa thứ nhất. Thấy leo lên cội hương thọ, đây là thấy tướng Địa thứ hai. Thấy leo lên cội hoa thọ, đây là thấy tướng Địa thứ ba. Thấy leo lên cội quả thọ, đây là thấy tướng Địa thứ tư. Đây là thấy tướng siêng tinh tấn. Nếu chẳng siêng tinh tấn thì là ma nghiệp. Nếu thấy cây trên chỗ cao đầy đủ nhánh, lá, bông, trái thì trừ được nghiệp chướng. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Chiêm bao thấy long tượng, đây là thấy tướng Địa thứ nhất đến Địa thứ sáu. Bồ-tát này thực hành bố thí mà chẳng thực hành tuệ, thiếu kém căn lành, cần phải tu tín căn, phải tu thiện niệm. Như vậy thì tương ưng với Địa thứ nhất kia. Chiêm bao thấy long tượng chẳng được sạch sẽ, đây là thấy tướng Địa thứ hai. Thấy bạch long tượng, đây là thấy tướng Địa thứ ba. Thấy bạch long tượng sáu ngà, đây là tướng Địa thứ tư. Thấy long tượng trang nghiêm, đây là tướng Địa thứ năm. Thấy long tượng cầm phướn lọng, đây là tướng Địa thứ sáu. Thấy long tượng vui giỡn múa, đây là tướng Địa thứ bảy. Chiêm bao thấy mình trèo lên lưng long tượng, đây là thấy tướng Địa thứ nhất đến Địa thứ bảy, một đời sẽ được Bâïc Như Lai Ứng Cúng, nhiều hy vọng được nhập Pháp trí. Bồ-tát này phải siêng tu tinh tấn, khuyên người xa rời lừa dối gian trá, phải luôn tri túc và thích bố thí, như vậy thì được thanh tịnh. Chiêm bao thấy trèo lên lưng voi, đây là tướng Địa thứ nhất. Thấy mặc y trắng leo lên lưng voi, đây là tướng Địa thứ hai. Thấy mặc y nhuộm leo lên lưng voi, đây là tướng Địa thứ ba. Thấy mặc y các thứ màu lên lưng voi, đây là tướng Địa thứ tư. Thấy mặc y nhuộm trang nghiêm đầy đủ lên lưng voi, đây là tướng Địa thứ năm. Thấy đội mão lên lưng voi, đây là tướng Địa thứ sáu. Thấy cầm lọng trang nghiêm lên lưng voi, đây là tướng Địa thứ bảy. Trừ được ma nghiệp. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Chiêm bao thấy leo lên lưng ngựa, đây là thấy tướng Địa thứ nhất đến Địa thứ tư. Bồ-tát này phải nương tựa và tu Giới ba-la-mật-đa. Người này ít nghiệp chướng mà nhiều ma nghiệp, phải siêng tu không tuệ, tu tín căn thì được thanh tịnh. Chiêm bao thấy mình leo lên lưng ngựa đứng, đây là thấy tướng Địa thứ nhất. Thấy lên lưng ngựa đi, đây là tướng Địa thứ hai. Thấy lên lưng ngựa chạy, đây là tướng Địa thứ ba. Thấy lên lưng ngựa trang nghiêm, đây là tướng Địa thứ tư. Trừ được tăng thượng mạn ma nghiệp. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Chiêm bao thấy mình phát thệ nguyện thành thật, đây là tướng của tất cả Địa, từ Địa thứ nhất đến Địa thứ mười. Người này nhiều nghiệp chướng, nhiều ma nghiệp. Bồ-tát này phải làm việc thiện, tu tập xuất sinh Tam-muội, phải tu oai nghi chân chánh, chẳng chứa nhóm nhiều thì trừ được nghiệp chướng. Chiêm bao thấy mình phát thệ bố thí thành thật, đây là tướng Địa thứ nhất. Thấy phát thệ vì giải trừ sự trói buộc, đây là tướng Địa thứ hai. Thấy phát thệ vì giải trừ bệnh, đây là tướng Địa thứ ba. Thấy phát thệ vì bố thí, giải trừ sự trói buộc và giải trừ bệnh cho người trong thành trì, đây là tướng Địa thứ tư. Thấy phát thệ vì quốc vương, đây là tướng Địa thứ năm. Thấy phát thệ vì Diêm-phù-đề, đây là tướng Địa thứ sáu. Thấy phát thệ vì bốn châu thiên hạ, đây là tướng Địa thứ bảy. Thấy phát thệ vì tiểu thiên thế giới, đây là tướng Địa thứ tám. Thấy phát thệ vì đại thiên thế giới, đây là tướng Địa thứ chín. Chiêm bao thấy phát thệ, lúc mặt trời mọc, đi dưới đất trời mưa hoa trời, đây là thấy tướng Địa thứ mười. Trừ được ma nghiệp từ Địa thứ nhất đến Địa thứ sáu. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Chiêm bao thấy cây có trái, đây là thấy tướng Địa thứ nhất đến Địa thứ bảy, thành tựu đầy đủ pháp thọ ký. Bồ-tát này phải tu hạnh bố thí chẳng cầu báo, chánh trực chẳng tìm lỗi người khác, như vậy thì được thanh tịnh. Chiêm bao thấy cây có ít quả, đây là tướng Địa thứ nhất. Thấy cây có nhiều trái, đây là tướng Địa thứ hai. Thấy cây có trái đắng, đây là thấy tướng Địa thứ ba, Địa thứ tư. Thấy cây cỏ thuốc, đây là thấy tướng Địa thứ năm. Thấy cây cõi trời, đây là thấy tướng Địa thứ sáu. Thấy cây có trái ngọt, đây là thấy tướng Địa thứ bảy. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Chiêm bao thấy cây có hoa, đây là thấy tướng Địa thứ nhất đến Địa thứ bảy. Bồ-tát này nên tu tập các căn lành, chẳng gần gũi bốn chúng. Như vậy thì được hướng đến đạo Vô thượng. Chiêm bao thấy cây nhiều hoa không hương thơm, đây là thấy tướng Địa thứ nhất. Thấy cây có hoa thơm, đây là thấy tướng Địa thứ hai. Thấy cây có nhiều hoa thơm, đây là tướng Địa thứ ba. Thấy cây có hoa, có trái xen lẫn nhau, đây là tướng Địa thứ tư. Thấy cây có hoa, không có lá, đây là tướng Địa thứ năm. Thấy cây hoa trời, đây là thấy tướng Địa thứ sáu. Thấy cây Bồ-đề, đây là thấy tướng Địa thứ bảy. Ngoại trừ người ở tại tay ác tri thức, giải đãi chẳng tinh tấn, có ma nghiệp của Địa trên, đầy đủ tất cả kiến chấp. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Chiêm bao thấy tòa thành chưa từng thấy, đây là thấy tướng Địa thứ nhất đến Địa thứ sáu. Bồ-tát này có nghiệp chướng Vô sinh pháp nhẫn, phải trước tu tập kiên cố Tam-muội, Tam-muội Không, tâm không chướng ngại, tu khổ hạnh, như vậy thì được thanh tịnh. Chiêm bao thấy thành trì mới xây cất, đây là tướng Địa thứ nhất. Thấy tòa thành xây cất xong, đây là tướng Địa thứ hai. Thấy trong thành đường sá, chợ búa đã hoàn thành, đây là tướng Địa thứ ba. Thấy chỗ du hý đã hoàn thành, đây là tướng Địa thứ tư. Thấy ao nước đã hoàn thành, đây là tướng Địa thứ năm và Địa thứ sáu. Ngoại trừ người ở tại tay của ác tri thức, giải đãi chẳng tinh tấn, có ma nghiệp địa trên và đầy đủ kiến chấp. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Chiêm bao thấy ao của Long vương A-nậu-đạt, đây là thấy tướng Địa thứ nhất đến Địa thứ tám. Bồ-tát này ít phiền não, mau phát sinh tuệ sáng. Nếu không gian trá, siêng tu tinh tấn chẳng màng thân mạng, đem tất cả đồ cần dùng làm vừa ý người khác, như vậy thì được thanh tịnh. Chiêm bao thấy bờ ao A-nậu-đạt, đây là thấy tướng Địa thứ nhất. Thấy trong ao, đây là thấy tướng Địa thứ hai. Thấy ao toàn diện, đây là thấy tướng Địa thứ ba. Thấy tay mình chạm mặt nước, đây là tướng Địa thứ tư. Thấy rửa tay, đây là tướng Địa thứ năm. Thấy ngồi bên bờ ao, đây là tướng Địa thứ sáu. Thấy Long vương A-nậu, đây là tướng Địa thứ bảy. Thấy vào Long cung cho thêm khí lực, đây là tướng Địa thứ tám. Trừ được ma nghiệp Địa thứ chín. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Chiêm bao thấy Thiên tử, đây là thấy tướng các Địa trên Địa thứ năm. Bồ-tát này ít nghiệp chướng, ít ma nghiệp như giọt nước rất nhỏ. Phải trong thời gian ba tháng siêng tu tịch tónh, trừ nghiệp chướng được sáng sạch. Như vậy, Bồ-tát này phải niệm Phật mười phương, phải tu chẳng sầu não. Chiêm bao thấy Tứ đại Thiên vương, đây là thấy tướng Địa thứ sáu. Thấy Đao-lợi Thiên tử, đây là thấy tướng Địa thứ bảy. Thấy Đâu-suất Thiên tử, đây là thấy tướng Địa thứ tám. Thấy Phạm thiên Thiên tử, đây là thấy tướng Địa thứ chín. Thấy Tịnh cư thiên Thiên tử, đây là thấy tướng Địa thứ mười. Địa thứ nhất thì tương ưng tất cả, thấy ma nghiệp, thành tựu thiện tâm thấy tất cả mười Địa. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Chiêm bao thấy rồng, đây là thấy tướng Địa thứ nhất đến Địa thứ tám, sẽ thành tựu thuận nhẫn. Bồ -tát này dù siêng tu tinh tấn, nhưng luôn luôn ngừng nghỉ, dầu siêng tu phương tiện nhưng lại hay buông bỏ. Bồ-tát này có nhiều của cải phải đem cung cấp cho Pháp sư, cho đến vật sở ái cũng đem cho, sau đó mới có tâm hướng đến đạo Vô thượng. Chiêm bao thấy ở trên núi thấy rồng, đây là thấy tướng Địa thứ nhất. Thấy ở đồng trống thấy rồng, đây là thấy tướng Địa thứ hai. Thấy ở trên bờ ao thấy rồng, đây là thấy tướng Địa thứ ba. Thấy ở trong rừng thấy rồng, đây là thấy tướng Địa thứ tư. Thấy ở trong chỗ đông người thấy rồng, đây là tướng Địa thứ năm. Thấy ở trong thành vua thấy rồng, đây là tướng Địa thứ sáu. Thấy có đông người vây quanh mà thấy rồng, đây là tướng Địa thứ bảy. Thấy ở trong hư không thấy rồng, đây là thấy tướng Địa thứ tám. Trừ ma nghiệp, nghiệp chướng Địa thứ nhất đến Địa thứ sáu. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Chiêm bao thấy đi đến Diêm-phù-đề phương khác, đây là thấy tướng Địa thứ nhất đến Địa thứ sáu. Bồ-tát này nếu được pháp nhẫn thì ít có chướng, nếu chẳng siêng tu thì chẳng được nhẫn. Nếu giải đãi gian trá, nếu sinh tín căn thì được thanh tịnh. Chiêm bao thấy mình đến Diêm-phù-đề phương khác, nếu chẳng thích thấy Diêm-phù-đề, đây là tướng Địa thứ nhất. Nếu thích thấy, đây là tướng Địa thứ hai. Nếu thấy làng chợ thành ấp khả ái, đây là tướng Địa thứ ba. Nếu thấy vườn nhà nhiều hoa, đây là tướng Địa thứ tư. Nếu thấy đại chúng vui mừng, đây là tướng Địa thứ năm. Nếu thấy cùng nhau vui chơi, đây là tướng Địa thứ sáu. Trừ được ma nghiệp. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Chiêm bao thấy mặc bạch y, đây là thấy tướng Địa thứ nhất đến Địa thứ tám. Bồ-tát này nghiệp chướng thanh tịnh, ma nghiệp tăng trưởng cường thịnh. Bồ-tát này sinh tâm mến ưa chính pháp, lại hay thoái giảm công đức, nhiều những gian nan. Bồ-tát này chẳng nên tiếc rẻ tất cả vật, như vậy thì được thanh tịnh. Như tự thấy tất cả vật dụng và đồ dùng cho người đều vui thích, không tiếc thân mạng, học rộng, tu căn lành. Chiêm bao thấy mặc y áo cũ tốt, đây là tướng Địa thứ nhất. Thấy mặc y mới vạt dài, đây là tướng Địa thứ hai. Thấy y dài, đây là thấy tướng Địa thứ ba. Thấy y đã đập giũ, đây là thấy tướng Địa thứ tư. Thấy y đã đập giũ vuốt thẳng, đây là thấy tướng Địa thứ năm. Thấy y đã được nhuộm, đây là thấy tướng Địa thứ sáu. Thấy y màu voi trắng, đây là thấy tướng Địa thứ bảy. Thấy y cõi trời, đây là tướng Địa thứ tám. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Chiêm bao thấy được vòng chuỗi báu choàng đầu, đây là thấy tướng Địa thứ nhất đến Địa thứ chín. Bồ-tát này không nghiệp chướng, không ma nghiệp, phải tự trách lỗi mình chẳng trách người, cầu pháp tu văn tuệ, chẳng gây đấu tụng. Như vậy thì được thanh tịnh. Chiêm bao thấy được vòng chuỗi choàng đầu bằng một thứ báu, đây là tướng Địa thứ nhất. Hai thứ báu đến bảy thứ báu, là tướng Địa thứ hai cho đến Địa thứ bảy. Thấy được vòng chuỗi báu ngọc Ma-ni choàng đầu của Chuyển luân thánh vương, đây là Địa thứ tám. Thấy được vòng chuỗi choàng đầu cõi Trời, đây là tướng Địa thứ chín. Trừ được ma nghiệp. Thấy tướng Địa thứ nhất ấy thì khởi lên nghiệp tướng như vui đùa giải đãi, gần gũi với người vui đùa giải đãi, không phải là người ham học hỏi, cần phải biết rõ. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Chiêm bao thấy đầu mình đội vòng hoa, đây là tướng Địa thứ nhất đến Địa thứ tám. Bồ-tát này thực có nghiệp chướng. Nếu đoạn đầu, giữa, sau sinh tâm định thiện, xả thí tất cả vật chẳng sầu não thì được thanh tịnh. Chiêm bao thấy được vòng hoa một màu, là tướng Địa thứ nhất. Thấy được vòng hoa màu xấu, là tướng Địa thứ hai. Thấy được vòng hoa nhiều màu, là tướng Địa thứ ba. Thấy được vòng hoa tất cả thứ hoa, đây là tướng Địa thứ tư. Thấy được vòng hoa rồng, đây là tướng Địa thứ năm. Thấy được vòng hoa trời, đây là tướng Địa thứ sáu. Thấy được vòng hoa các thứ hoa trời, đây là tướng Địa thứ bảy. Thấy được vòng hoa đủ các thứ hoa trời đẹp, đây là tướng Địa thứ tám. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Chiêm bao thấy nhặt được các thứ hoa, đây là tướng Địa thứ nhất đến Địa thứ sáu. Bồ-tát này phải khuyến hóa người tu tinh tiến. Nếu có thế lực chẳng nên lấn hiếp người khác. Chiêm bao thấy nhặt được hoa có sắc không hương, đây là tướng Địa thứ nhất. Thấy được hoa có sắc có hương, là tướng Địa thứ hai. Thấy được hoa màu vàng kim, là tướng Địa thứ ba. Thấy được hoa nhiều loại màu, là tướng Địa thứ tư. Thấy được hoa màu xanh biếc, là tướng Địa thứ năm. Thấy được các loại hoa màu xanh biếc, là tướng Địa thứ sáu. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Chiêm bao thấy đánh trống là tướng Địa thứ nhất đến Địa thứ chín. Bồ-tát này nghiệp chướng ma chướng tăng trưởng cường thịnh, phải siêng tu Đa văn tinh tấn, với tất cả chúng sinh có tâm bình đẳng. Như vậy thì được thanh tịnh. Chiêm bao thấy ở hư không đánh trống, là tướng Địa thứ nhất. Thấy ở đất bằng đánh trống, là tướng Địa thứ hai. Thấy ở trong thôn xóm đánh trống, là tướng Địa thứ ba. Thấy ở trong thành lớn đánh trống, là tướng Địa thứ tư. Thấy ở trong đại chúng đánh trống, là tướng Địa thứ năm. Thấy ở trên nhà đánh trống, là tướng Địa thứ sáu. Thấy ở trong núi đánh trống, là tướng Địa thứ bảy. Thấy ở đỉnh núi Tu-di đánh trống, là tướng Địa thứ tám. Thấy trong không gian phía trên núi Tu-di đánh trống, là tướng Địa thứ chín. Trừ được ma nghiệp, siêng tu trí tuệ. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Chiêm bao thấy nhâït thực, nguyệt thực, đây là thấy tướng Địa thứ nhất đến Địa thứ sáu. Bồ-tát này trước kia hủy diệt thiện pháp, nhiều phiền não gây ác nghiệp. Phải đem tất cả vật sở hữu bố thí chẳng mong báo đền thì sẽ được thanh tịnh. Chiêm bao thấy mặt trời, mặt trăng mới mọc, đây là thấy tướng Địa thứ nhất và Địa thứ hai. Thấy mây, là tướng Địa thứ ba. Thấy mây nhóm lại, đây là tướng Địa thứ tư. Thấy mây tan, là tướng Địa thứ năm. Thấy không có bụi mù, đây là tướng Địa thứ sáu. Thấy giờ mặt trời, mặt trăng đứng ngay giữa trời, thì trừ được ma nghiệp nghiệp chướng. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Chiêm bao thấy lấy vật nhơ bẩn thoa trên mình, đây là thấy tướng Địa thứ nhất đến Địa thứ ba. Bồ-tát này đời trước mắng nhiếc Hiền thánh, tập hạnh ác. Bồ-tát này phải ở trong khoảng thời gian ba năm, ngày đêm sáu thời siêng tu tập sám hối, tự hậu chẳng có lòng khinh mạn người khác, phải tu tín giải thật nhiều, như vậy thì được thanh tịnh. Chiêm bao thấy lấy bùn xanh tự thoa vào thân, đây là thấy tướng Địa thứ nhất. Thấy thoa nửa thân mình, là tướng Địa thứ hai. Thấy thoa khắp cả thân mình, là tướng Địa thứ ba. Cho đến Địa thứ sáu phải xét biết ma nghiệp. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Chiêm bao thấy mình làm vua, đây là tướng Địa thứ nhất đến Địa thứ mười. Bồ-tát này có căn có dầy mà cũng nhiều gian nan, chẳng nên trông người khác cúng dường, chẳng sinh lòng gian trá đối với người, tu tập hạnh chất trực bố thí, mình có trì giới thì cùng người chung, chẳng tự khen, chẳng chê người, như vậy để hướng đến đạo Bồ-đề. Chiêm bao thấy mình làm vua, nếu thấy ở trong thôn xóm chỗ khủng bố, là tướng Địa thứ nhất. Thấy ở trong tăng phòng, là tướng Địa thứ hai. Thấy ở trong vườn nhà, là tướng Địa thứ ba. Thấy ở trong miếu thờ trời, là tướng Địa thứ tư. Thấy ở trong thành lớn, là tướng Địa thứ năm. Thấy ở trong núi, là tướng Địa thứ sáu. Thấy làm vua Diêm-phù-đề, là tướng Địa thứ bảy. Thấy làm Chuyển luân vương, là tướng Địa thứ tám. Thấy ở trong biển, là tướng Địa thứ chín. Thấy ở tại đỉnh núi Tu-di, là tướng Địa thứ mười. Trừ được ma nghiệp chẳng siêng tinh tấn. Phải thường niệm Phật và Bồ-tát. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Chiêm bao thấy ở trước vua, hoặc ở trước quan Phụ tướng, hoặc ở trong đại chúng, đây là thấy tướng Địa thứ nhất đến Địa thứ tám, thấy những thứ phiền não. Bồ-tát này phải giáo hóa chúng sinh, phải làm việc cúng dường, siêng tu tập thì được thanh tịnh. Chiêm bao thấy ở trước vua, hoặc quan, hoặc ở giữa đại chúng bố thí, là tướng Địa thứ nhất. Thấy trì giới, là tướng Địa thứ hai. Thấy nghe pháp, là tướng Địa thứ ba. Thấy thiền định, là tướng Địa thứ tư. Thấy thọ trì, là tướng Địa thứ năm. Thấy thần thông, là tướng Địa thứ sáu. Thấy thuyết pháp, là tướng Địa thứ bảy. Thấy quyến thuộc thành tựu, là tướng Địa thứ tám. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Chiêm bao thấy ngồi xe tại vườn tại rừng, đây là thấy tướng Địa thứ nhất đến Địa thứ chín. Bồ-tát này chẳng biết là thế gian lợi dưỡng uống, ăn, bị ma kéo trói, ít nghiệp chướng. Phải cung cấp đồ cần dùng cho Pháp sư, phải tu tập tịch mặc. Như vậy mà hướng đến đạo Bồ-đề. Bồ-tát này thấy tướng Địa thứ nhất thì không trí, thấy tướng Địa thứ hai thì không tuệ, thấy tướng Địa thứ ba thì không trí quyết định, thấy tướng Địa thứ tư thì không trí thiền, thấy tướng Địa thứ năm thì không trí vô ngại, thấy tướng Địa thứ sáu thì không trí xuất sinh, thấy tướng Địa thứ tám thì không trí trang nghiêm, thấy tướng Địa thứ chín thì không nguyện trí. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Chiêm bao thấy thôn xóm, Tăng xá, phòng ốc, chưa từng thấy, đây là thấy tướng Địa thứ nhất đến Địa thứ sáu. Bồ-tát này nhiều gian nan, phải thường niệm Phật thì được thanh tịnh. Chiêm bao thấy thôn xóm, Tăng xá, phòng ốc, thấy mình ở trong đó tu tín tâm bố thí, tu tất cả tín giải, đây là thấy tướng Địa thứ nhất. Thấy có việc làm, là tướng Địa thứ hai. Thấy trang nghiêm, là tướng Địa thứ ba. Thấy trang nghiêm xong, là tướng Địa thứ tư. Thấy bốn chúng tụ hội, là tướng Địa thứ năm. Thấy Thiên chúng, là tướng Địa thứ sáu. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Chiêm bao thấy được lọng là thấy tướng Địa thứ nhất đến Địa thứ bảy, được Phật hộ trì. Bồ-tát này nhiều gian nan, chẳng bị khuất phục, chẳng nên có ác ý với người thuyết pháp thì được thanh tịnh. Thấy được lọng hoa đẹp, là tướng Địa thứ nhất. Thấy được lọng lưu ly, là tướng Địa thứ hai. Thấy được lọng và được hoa, là tướng Địa thứ ba. Thấy được lọng cứng chắc, là tướng Địa thứ tư. Thấy được lọng cán có vẽ vời, là tướng Địa thứ năm. Thấy được lọng có lưới linh, là tướng Địa thứ sáu. Thấy được lọng có lưới báu trùm rủ, là tướng Địa thứ bảy. Trừ được ma nghiệp chẳng siêng tinh tấn. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Chiêm bao thấy thuyết pháp cho nhiều người, đây là thấy tướng Địa thứ nhất đến Địa thứ mười. Bồ-tát này phải biết ma nghiệp nghiệp chướng. Muốn được biện tài quyết định, phải đi ra tìm cầu, với tất cả đồ vật chẳng nên mến luyến, với người cầu pháp thì sinh lòng tin thanh tịnh, tu giới và sáu pháp hòa kính, như vậy thì được thanh tịnh. Chiêm bao thấy thuyết pháp về vấn đề thế nào tu hành bố thí, đây là thấy tướng Địa thứ nhất. Thấy nói về vấn đề thế nào là mười pháp lành, đây là thấy tướng Địa thứ hai. Thấy nói về vấn đề thế nào là nghe học, đây là thấy tướng Địa thứ ba. Thấy nói về vấn đề thế nào là hạnh Đầu-đà, đây là thấy tướng Địa thứ tư. Thấy nói về vấn đề thế nào nói về pháp không, đây là thấy tướng Địa thứ năm. Thấy nói về vấn đề thế nào nói về quở trách tập quán, đây là thấy tướng Địa thứ sáu. Thấy nói về vấn đề thế nào nói về không nhiễm trước, đây là thấy tướng Địa thứ bảy. Thấy nói về vấn đề thế nào nói về trang nghiêm định, đây là thấy tướng Địa thứ tám. Thấy nói về vấn đề thế nào nói về trang nghiêm Phật, đây là thấy tướng Địa thứ chín. Thấy nói về vấn đề thế nào nói về thời gian vi diệu, đây là thấy tướng Địa thứ mười. Thấy tướng Địa thứ nhất thì được Thí tài, thấy tướng Địa thứ hai thì được Giới tài, thấy tướng Địa thứ ba thì được Phương tiện tài, thấy tướng Địa thứ tư thì được đủ bảy Thánh tài, thấy tướng Địa thứ năm thì được Phụng cấp tài, thấy tướng Địa thứ sáu thì được Quyết đoán tài, thấy tướng Địa thứ bảy thì được Quyết định tài, thấy tướng Địa thứ tám thì được Thông vô ngại tài, thấy tướng Địa thứ chín thì được Hành tài, thấy tướng Địa thứ mười thì được Đắc tài. Địa thứ nhất thì căn lành tăng thượng, Địa thứ hai thì giới tăng thượng, Địa thứ ba thì phương tiện tăng thượng, Địa thứ tư thì chỗ tạo sở tác tăng thượng, Địa thứ năm thì mười hai nhân duyên tăng thượng, Địa thứ sáu thì nhẫn sâu xa tăng thượng, Địa thứ bảy thì hoại trí tăng thượng, Địa thứ tám thì hoại tướng giáo hóa chúng sinh tăng thượng, Địa thứ chín thì điều phục tăng thượng, Địa thứ mười thì hoại tướng tịnh Phật quốc độ tăng thượng. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Chiêm bao thấy thành quách mới lập, đây là thấy tướng Địa thứ nhất đến Địa thứ tám, thọ ký không thoái chuyển. Bồ-tát này phải gần gũi cúng dường người thậm thâm tín giải nhiều quyết định. Bồ-tát này nghi hối chướng pháp, phải cúng dường Pháp sư để trừ nghi hối thì được thanh tịnh. Trụ trong đó là tướng Địa thứ nhất. Nghi đạo là được thành Phật hay chẳng được thành Phật, là tướng Địa thứ hai. Nghi trí giáo hóa chúng sinh, là tướng Địa thứ ba. Nghi xuất sinh định, là tướng Địa thứ tư. Nghi trí ưng tác, là tướng Địa thứ năm. Nghi đạo quả, là tướng Địa thứ sáu. Nghi xuất sinh, là tướng Địa thứ bảy. Nghi du hý, là tướng Địa thứ tám. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Chiêm bao thấy kết bè để qua dòng nước đục, đây là thấy tướng Địa thứ nhất đến Địa thứ bảy. Bồ-tát này nghiệp chướng và ma nghiệp tăng trưởng hưng thịnh. Phải phát khởi tâm nguyện tăng thượng kiên cố chẳng hư hoại, hòa hợp tương ưng vô sinh sáng sạch. Nếu trí phương tiện gian nan, là tướng Địa thứ nhất. Nếu muốn tu Chánh cần mà thân giải đãi, là tướng Địa thứ hai. Nếu tâm chẳng phải thời, là tướng Địa thứ ba. Hoặc trí phải thời, là tướng Địa thứ tư. Hoặc ít Vô úy, là tướng Địa thứ năm. Nếu giáo hóa gian nan, là tướng Địa thứ sáu. Nếu Phật pháp gian nan, là tướng Địa thứ bảy. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Chiêm bao thấy lái thuyền, đây là thấy tướng Địa thứ nhất đến Địa thứ sáu. Bồ-tát này nếu bình đẳng hành sáu pháp Ba-la-mật-đa có gian nan, thì nên hành sáu pháp Ba-la-mật-đa không nương tựa thì được thanh tịnh. Chiêm bao thấy làm thuyền chưa xong, là tướng Địa thứ nhất. Thấy làm thuyền xong, là tướng Địa thứ hai. Thấy hai thuyền chung chỗ, là tướng Địa thứ ba. Thấy cột hai thuyền lại, là tướng Địa thứ tư. Thấy đại chúng ngồi thuyền, là tướng Địa thứ năm. Thấy vào trong thuyền rồi đi, là tướng Địa thứ sáu. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Chiêm bao thấy mây sấm phóng chớp sáng, đây là tướng Địa thứ nhất đến Địa thứ năm. Bồ-tát này ít nghiệp chướng mà ma nghiệp tăng trưởng hưng thịnh. Phải tu niệm lành, tu Đà-la-ni, xả bỏ vật mình yêu thích thì được thanh tịnh. Chiêm bao thấy mây mưa sấm chớp mà kinh sợ, là tướng Địa thứ nhất. Nếu chẳng kinh sợ, là tướng Địa thứ hai. Nếu ghi nhớ pháp, là tướng Địa thứ ba. Nếu trụ đỉnh núi ghi nhớ, là tướng Địa thứ tư. Nếu ở hư không ghi nhớ, là tướng Địa thứ năm. Trừ được ma nghiệp. Nếu là các Địa trên thì thấy rồng đến tụ hội phụng sự việc làm mà chẳng kinh sợ. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Chiêm bao thấy được trang nghiêm, đây là thấy tướng Địa thứ nhất đến Địa thứ ba. Bồ-tát này nghiệp chướng và ma nghiệp tăng trưởng hưng thịnh. Phải gần gũi Nhẫn ba-la-mật-đa, Tinh tấn ba-la-mật-đa và Bát-nhã ba-la-mật-đa thì được thanh tịnh. Chiêm bao được dao nhơ bẩn, là tướng Địa thứ nhất. Được dao không dơ bẩn, là tướng Địa thứ hai. Được dao bén, là tướng Địa thứ ba. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Chiêm bao thấy được khí vật, đây là thấy tướng Địa thứ nhất đến Địa thứ bảy. Bồ-tát này chẳng nhất định có ma nghiệp và nghiệp chướng, phải siêng thực hành bốn Nhiếp pháp thì được thanh tịnh. Phải trừ sự thoái thất của Địa thứ sáu để được tăng lên Địa thứ bảy. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Chiêm bao thấy chỉ đường sá cho chúng sinh, đây là tướng của mười Địa. Tướng ấy hiện ra phải biết rõ nghiệp chướng và phiền não chướng. Phải gần gũi cúng dường Pháp sư, xả bỏ tất cả vật, siêng tu tinh tấn hướng về đạo Vô thượng. Chiêm bao thấy ngồi xe chuyển động trên đường, là tướng Địa thứ nhất. Chỉ cho chúng sinh con đường đến vườn nhà, là tướng Địa thứ hai. Chỉ đường đến thành, là tướng Địa thứ ba. Chỉ đường đến A-lan-nhã, là tướng Địa thứ tư. Chỉ đường vào núi, là tướng Địa thứ năm. Chỉ đường đến biển, là tướng Địa thứ sáu. Chỉ đường lên trời, là tướng Địa thứ bảy. Chỉ đường Thanh văn, là tướng Địa thứ tám. Chỉ đường Bồ-tát, là tướng Địa thứ chín. Chỉ đường Phật, là tướng Địa thứ mười. Rõ biết ma nghiệp, rõ biết phiền não nghiệp đây thì sáu Địa trước không có lỗi vậy. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Chiêm bao thấy vào trong vườn, vào trong rừng, đây là thấy tướng Địa thứ nhất đến Địa thứ tám. Bồ-tát này trong chiêm bao bị ma nghiệp, phiền não nghiệp. Trong chiêm bao thì kinh sợ, thức dậy thì sầu khổ. Phải tu pháp không, nghe pháp sâu xa, phải nín lặng, lìa ngủ nghỉ. Phải gần gũi người quyết định nói đạo pháp thì được thanh tịnh. Chiêm bao thấy mình thoái ngôi vua mà sinh kinh sợ, đây là tướng Địa thứ nhất. Thấy phá giới nên kinh sợ, là tướng Địa thứ hai. Thấy chánh pháp mất hết nên kinh sợ, là tướng Địa thứ ba. Thấy Pháp sư chết nên kinh sợ, là tướng Địa thứ tư. Thấy bị lửa đốt cháy nên kinh sợ, là tướng Địa thứ năm. Thấy bị kinh sợ, là tướng Địa thứ sáu. Thấy té núi kinh sợ, là tướng Địa thứ bảy. Thấy Đức Phật nhập Niết-bàn nên kinh sợ, là tướng Địa thứ tám. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Chiêm bao thấy đống ngũ cốc, đây là thấy tướng Địa thứ bảy trở lên. Bồ-tát này đời trước từng cúng dường chư Phật, nhiều gian nan, chẳng theo tất cả thế gian, chẳng nhìn chẳng bỏ, giữ gìn ba nghiệp. Chiêm bao thấy mình gom lúa, là tướng Địa thứ bảy. Thấy mình gom lúa khắp đại thiên, đây là tướng Địa thứ tám. Thấy đống ngũ cốc chín, là tướng Địa thứ chín. Thấy cắt lúa, là tướng Địa thứ mười. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Chiêm bao thấy trị bệnh chúng sinh, đây là thấy tướng Địa thứ nhất đến Địa thứ tám. Bồ-tát này ít nghiệp chướng, ma nghiệp tăng trưởng hưng thịnh, phải tu đại Bi, siêng khuyến hóa, chẳng sinh nghi hối thì được tương ưng. Chiêm bao thấy trị bệnh trẻ con, là tướng Địa thứ nhất. Thấy trị bệnh phụ nữ, là tướng Địa thứ hai. Thấy trị bệnh người lớn, là tướng Địa thứ ba. Thấy trị bệnh nóng nhiệt, là tướng Địa thứ tư. Thấy trị bệnh bạch lại, là tướng Địa thứ năm. Thấy trị bệnh tàn phế, là tướng Địa thứ sáu. Thấy trị bệnh suy nhược khô gầy, là tướng Địa thứ bảy. Thấy trị bệnh quỷ, là tướng Địa thứ tám. Trừ được ma nghiệp. Phải tu tập hạnh nhẫn nhục, thành tựu tâm đại Bi của Bồ-tát. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Chiêm bao nghe mình được thọ ký Bồ-đề, đây là tướng của mười Địa, phải biết rõ ma nghiệp và nghiệp chướng. Chiêm bao được thọ ký đạo, là tướng Địa thứ nhất. Thọ ký Bồ-tát hạnh, là tướng Địa thứ hai. Thọ ký nhẫn, là tướng Địa thứ ba. Thọ ký nguyện, là tướng Địa thứ tư. Thọ ký Tam-muội, là tướng Địa thứ năm. Thọ ký tuệ, là tướng Địa thứ sáu. Thọ ký phương tiện, là tướng Địa thứ bảy. Thọ ký Nhất thiết trí vượt hơn bâïc Thanh văn, bâïc Bích-chi-phật, là tướng Địa thứ tám. Thọ ký Nhất sinh bổ xứ, là tướng Địa thứ chín. Chiêm bao tự nghe được thọ ký Phật quán đảnh, là tướng Địa thứ mười. Bồ-tát này phải tu đại Bi, Bát-nhã ba-la-mật-đa và thiện quyền phương tiện. Như vậy mới hướng đến đạo. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Nếu chiêm bao thấy giác ngộ đạo Bồ-đề, đây là thấy tướng Địa thứ nhất đến Địa thứ tám. Bồ-tát này phải cảnh giác đại Bi, phải siêng tu tinh tấn tín tâm thiện tâm. Hướng về sự biết rõ như vậy là Địa thứ tám. Thấy chấn động đại thiên thế giới, là tướng Địa thứ chín. Thấy phóng quang, chư Thiên to tiếng ca ngợi, vui cười, là tướng Địa thứ mười. Tướng ma nghiệp chẳng siêng tu tinh tấn từ Địa thứ nhất đến Địa thứ mười như vậy. Lại nữa, này Kim Cang Tồi! Nếu chiêm bao thấy được bình đầy, đây là thấy tướng tất cả mười Địa, phải biết như thế này. Nếu thấy ở trong xóm mà được, là tướng Địa thứ nhất. Nếu thấy ở trong cửa mà được, là tướng Địa thứ hai. Nếu thấy ở giữa đường mà được, là tướng Địa thứ ba. Nếu thấy ở dưới cây mà được, là tướng Địa thứ tư. Nếu thấy đứng mà được, là tướng Địa thứ năm. Nếu thấy ngồi mà được, là tướng Địa thứ sáu. Nếu thấy ở tại đỉnh núi mà được, là tướng Địa thứ bảy. Nếu thấy ở hư không mà được, là tướng Địa thứ tám. Nếu thấy lúc ăn mà được, là tướng Địa thứ chín. Nếu thấy trang nghiêm xe cộ, hoặc trong vườn nhà mà được, là tướng Địa thứ mười. Đây là tướng ma nghiệp nghiệp chướng của các Địa, phải cảnh giác biết rõ, như vậy thì thanh tịnh hướng đến đạo Vô thượng Bồ-đề. Lúc đó Đức Thế Tôn nói kệ rằng: Thấy được tướng như vậy Quyết định không có nghi Đại só phải như vầy Chớ thấy lỗi của người Đức của người khó lường. Biển lớn đốt cháy được Trong lửa sinh nước được Có được những tướng ấy Nếu thoái thất Bồ-đề Không hề có việc ấy. Nếu dùng cả hai vai Vác gánh núi Tu-di Đi đến khắp mười phương Hằng hà sa thế giới Những công việc như vậy Còn có thể làm được Tâm Bồ-đề như đây Không bao giờ thoái chuyển. Đại địa lật úp được Không bao giờ có sự Thoái chuyển tâm Bồ-đề. Chút công đức trong ấy Nếu người có tâm lành Hướng đến đạo vô thượng. Có bốn pháp vô lượng Thế gian không biết được Hư không giới khó biết Chúng sinh giới cũng vậy. Phật biết tâm Bồ-đề Ai gặp phải nên biết Việc làm của Bồ-tát Chẳng nên khinh hủy báng. Lấy một cọng cỏ nhỏ Lường được nước biển lớn Việc làm của chúng sinh Chẳng thể nghó bàn được. Giả sử nước biển lớn Nấu sôi như đồng sôi Vì thân mạng của mình Còn có thể uống hết. Với công hạnh Bồ-tát Trọn chẳng nên khinh hủy Sự khổ uống đồng sôi Khổ ấy chẳng tính được. Hoặc có nghiệp chướng ngại Hoặc bị ma làm loạn Chỗ người ấy thọ sinh Trọn không có ưu hối. Nếu người vì vui say Nơi vật chất ngu si Phá giới đáng chán ghét Chẳng đáng được cung kính, Với những kẻ như vậy Chẳng nên khinh mạn họ Việc làm của chúng sinh Rất khó biết rõ được. Như ông Xá-lợi-phất Yên lặng nhập thiền định Hay ở trong nhất tâm Chỉ biết năm mươi tâm. Cũng như các Thế Tôn Một niệm biết vô lượng Chẳng nên với chư Phật Mà sinh lòng nghi ngờ. Cũng như A-la-hán Chẳng biết cảnh giới mình Huống là có thể biết Cảnh giới của chúng sinh. Vì thế nên mọi người Chẳng nên nói như vầy: Tôi có thể biết được Tâm niệm của chúng sinh. Ta thấy người nhuộm áo Chốc lát mặc áo trắng Khoảng niệm niệm cũng vậy Niệm niệm có đổi khác Huống ai lại biết được Kẻ chân thật ngu khổ. Như vua A-xà-thế Giết hại cha ruột mình Lại đối với Như Lai Vua sinh lòng ác nghịch. Rồi vua trong một niệm Rất ăn năn tội lỗi Liền trừ được tội báo Thoát khỏi khổ ác đạo. Huống là người sinh được Tâm lành thanh tịnh tốt Tâm ấy có lúc buộc Tâm ấy có lúc mở. Thân này là vô ký Cũng không có sở tri Làm sao khiến thân này Mà có những lỗi ác. Thân này cũng chẳng nên Gần gũi với thân sắc Và lại cũng chẳng nên Giết hại thân người khác. Ví như khối vàng ròng Rớt vào trong phân nhơ Chất vàng luôn sạch sẽ Phân nhơ chẳng nhiễm được. Người ấy dù tham vui Say mê pháp thế gian Công đức thực của họ Tâm lành không tổn giảm. Vương tử, Trưởng giả tử Cười đùa trong đại chúng Tất cả các Đại vương Nhìn thấy đều vui mừng. Trong hàng chúng sinh đây Hoặc trong người, trên trời Hoặc ăn độc chẳng chết Hoặc vào lửa chẳng cháy Huống là Bâïc Trí Giác Mà có sự tổn giảm. Người ngu si thế gian Cúng Duyên giác, Thanh văn Chẳng bằng cúng Bồ-tát Phước điền tâm thanh tịnh Bình đẳng dường như Phật. Bồ-tát đồng như Phật Thấy tâm lành rất sâu Chẳng thể suy lường được. Như bố thí bảy báu Đầy hằng sa thế giới Nếu biên chép kinh này Cùng công đức thọ trì Đem sánh phước bố thí Khó sánh hơn gấp bội Khéo được lợi ích lớn Tâm Bồ-đề chẳng mất. Nếu người vì của cải Mà vào trong biển lớn Tất sẽ được châu báu Của cải giàu có lớn. Nếu trì tất cả kinh Có thể dạy nhiều người Mà chẳng nghe kinh này Chẳng biết hạnh chúng sinh Do nhân duyên như vậy Phải biết chân như thắng. Chẳng tự khen đức mình Chẳng hủy báng người khác Tâm lành hành tịnh hạnh Tinh tấn chẳng thoái chuyển. Nếu muốn mau giác ngộ Đạo Bồ-đề đệ nhất Thích ở A-lan-nhã Luôn gìn giữ sáu căn Xa lìa các xóm làng Tu đức Từ đệ nhất Như vậy sẽ mau chóng Chứng được đạo Bồ-đề. Lúc Đức Thế Tôn nói kinh này, sáu vạn trời, người được không thoái chuyển Vô thượng Bồ-đề. Mười tám na-do-tha trời, người khác, những trời, người chưa phát tâm, nay phát tâm Bồ-đề, vì được nghe kinh này nên được trừ diệt tội sinh tử trong tám mươi kiếp. Đức Phật dạy tiếp: –Vì những sự lợi ích lớn như vậy, nếu ai muốn chẳng mất Bồ-đề, phải thọ trì đọc tụng thông thuộc khéo nhớ suy kinh điển này, siêng tu phương tiện, nhẫn thọ hoan hỷ phụng hành. Lúc ấy trong chúng có mười ngàn Bồ-tát sinh lòng nghi hối muốn thoái thất tâm Bồ-đề muốn trở về nhà, chẳng biết lỗi nghiệp chướng và ma nghiệp, nay nhờ nghe kinh này, tội lỗi tiêu trừ, ở trước Đức Thế Tôn sinh chút lòng tin, trừ sạch hai mươi kiếp ma nghiệp, chẳng rời khỏi chỗ ngồi được đến bâïc Nhất sinh bổ xứ, sẽ sinh về thế giới phương khác. Lúc Bồ-tát Di-lặc thành Phật ở thế giới này, mười ngàn Bồ-tát ấy sẽ thành Phật đồng thời với Bồ-tát Di-lặc, vì các Bồ-tát ấy nhờ nghe kinh này mà trừ sạch được ma nghiệp và phiền não trong hai mươi kiếp. Đức Phật dạy tiếp: –Bồ-tát chỉ nghe kinh này còn được nhiều lợi ích, huống là thọ trì, đọc tụng, giảng thuyết kinh này. Đức Phật nói kinh này rồi, chúng trời, người, A-tu-la cùng toàn thể chúng hội hoan hỷ tín thọ phụng hành. KINH ĐẠI BẢO TÍCH <卷 id="86423678">QUYỂN 17 Hán dịch: Đời Đại Đường, Tam tạng Bồ-đề-lưu-chí. <詞 id="86423679">Pháp hội 5: NHƯ LAI VÔ LƯỢNG THỌ (Phần 1) Tôi nghe như vầy: Một thời Đức Phật ở tại thành Vương xá, trong núi Kỳ-xà-quật, cùng chúng đại Tỳ-kheo một vạn hai ngàn người đều hội họp. Các ngài này đều là bâïc đại Thanh văn được nhiều người biết. Đó là Tôn giả A-nhã Kiều-trần-như, Tôn giả Mã Thắng, Tôn giả Đại Danh, Tôn giả Hữu Hiền, Tôn giả Vô Cấu, Tôn giả Danh Văn, Tôn giả Thiện Xưng, Tôn giả Viên Mãn, Tôn giả Kiều-phạm-ba-đề, Tôn giả Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp, Tôn giả Già-da Ca-diếp, Tôn giả Na-đề Ca-diếp, Tôn giả Ma-ha Ca-diếp, Tôn giả Xá-lợi-phất, Tôn giả Đại Mục-kiền-liên, Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên, Tôn giả Ma-ha Kiếp-tân-na, Tôn giả Ma-ha Châu-na, Tôn giả Phú-lâu-na Di-đa-la-ni Tử, Tôn giả A-nâu-lâu-đa, Tôn giả Ly-bà-đa, Tôn giả Nan-đà, Tôn giả La-hầu-la, Tôn giả A-nan-đà… các Tôn giả này đều là bậc Thượng thủ. Lại có chúng Đại Bồ-tát, như Bồ-tát Phổ Hiền, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, Bồ-tát Di-lặc và các Đại Bồ-tát trong kiếp Hiền trước sau vây quanh Phật. Lại cùng Hiền Hộ… mười sáu vị Chánh só đều hội họp. Đó là các Bồ-tát Thiện Tư Duy Nghóa, Bồ-tát Tuệ Biện Tài, Bồ-tát Quán Vô Trụ, Bồ-tát Thiện Hóa Thần Thông, Bồ-tát Quang Tràng, Bồ-tát Trí Thượng, Bồ-tát Tịch Căn, Bồ-tát Tuệ Nguyện, Bồ-tát Hương Tượng, Bồ-tát Bảo Tràng… làm Thượng thủ. Các Đại Bồ-tát này đều tuân tu hạnh Phổ Hiền, đầy đủ tất cả hạnh nguyện Bồ-tát, an trụ trong tất cả công đức, đến bờ Phật pháp rốt ráo kia, nguyện ở trong tất cả thế giới thành Đẳng chánh giác. Lại nguyện sinh cung trời Đâu-suất, ở đó thọ chung giáng sinh ở hông bên phải, hiện đi bảy bước phóng ánh sáng lớn chấn động khắp thế giới mà xướng lên rằng: “Nơi tất cả thế gian, ta là tôn quý hơn cả.” Đế Thích và Phạm thiên đều đến thân cận cúng dường. Lại hiện học tập sáu pháp kỹ nghệ hơn người, ở vương cung nhàm chán năm dục, thấy người già, bệnh, chết liền biết đời là vô thường, rời bỏ ngôi vua vượt thành học đạo, cởi lụa là chuỗi ngọc mặc y hoại sắc, khổ hạnh sáu năm. Ở cõi năm trược này có thể thị hiện như vậy. Vì thuận theo thế gian, đến tắm tại sông Ni-liên rồi đi tới đạo tràng. Long vương ca tụng nghênh tiếp. Các Bồ-tát đi nhiễu bên phải ngợi khen. Lúc đó Bồ-tát nhận lấy cỏ tự tay trải dưới cội cây Bồ-đề rồi ngồi kiết già. Lại hiện quân ma bao vây làm hại. Dùng sức định tuệ hàng phục ma oán, thành Bậc Vô Thượng Chánh Giác. Phạm vương thỉnh chuyển pháp luân dũng mãnh vô úy. Âm thanh của Phật vang rền, đánh trống pháp, thổi loa pháp, dựng tràng pháp, thắp đuốc pháp, nhiếp chánh pháp và các thiền định, mưa Pháp vũ nhuần thấm quần sinh, chấn động sấm pháp khai ngộ tất cả cõi nước, quang minh chiếu khắp thế giới, mặt đất rúng động, cung ma sụp đổ, Ma vương Ba-tuần kinh sợ, phá giặc phiền não, xé lưới tà kiến, xa rời ác pháp, sinh lớn thiện pháp, với món đồ ăn của tín thí có thể ăn có thể tiêu, vì điều phục chúng sinh mà tuyên dương diệu lý, hoặc hiện mỉm cười trên đỉnh phóng trăm ngàn tia sáng hào quang rực rỡ, thọ ký Bồ-đề, hoặc thành Phật đạo, hiện nhập Niết-bàn, khiến vô lượng hữu tình đều được quả vô lậu, thành thục căn lành cho vô biên Bồ-tát. Trong tất cả cõi Phật đều có thể thị hiện như vậy. Ví như nhà ảo thuật biết rõ ảo thuật có thể hiện ra những tướng nam nữ…, ở trong các tướng ấy thật chẳng thể nắm bắt được. Cũng vậy, các Bồ-tát khéo học vô biên ảo thuật công đức nên hay thị hiện biến hóa, hay khéo biết rõ đạo biến hóa, nên ở các cõi nước hiện đại Từ bi đều có thể lợi ích tất cả quần sinh. Thành tựu vô biên hạnh nguyện Bồ-tát. Thông đạt bình đẳng vô lượng nghóa môn. Tu thành đầy đủ tất cả pháp lành. Bình đẳng thẳng vào trong các cõi Phật. Thường được chư Phật khuyến tấn và gia hộ oai thần. Được tất cả Như Lai rõ biết ấn khả. Vì giáo hóa các Bồ-tát mà làm A-xà-lê. Thường tu tập thành tựu vô biên công hạnh. Thông đạt tất cả pháp giới hạnh. Hay biết rành rẽ hữu tình và cõi nước. Cũng thường đi đến cúng dường chư Phật. Hiện các thứ thân hình như là ảnh tượng. Khéo học Nhân-đà-la võng, phá lưới ma, hoại các lưới tà kiến, vào lưới hữu tình, vượt qua khỏi quyến thuộc phiền não bạn ma dân ma. Hơn hẳn bâïc Thanh văn và Bích-chi-phật. Nhập môn Không, Vô tướng và Vô nguyện, mà hay an trụ phương tiện thiện xảo. Chẳng hề thích Niết-bàn của Nhị thừa. Được các Tam-muội không sinh không diệt và các môn Đà-la-ni. Các căn quảng đại, biện tài quyết định, nơi tạng pháp Bồ-tát hay biết rõ Phật hoa Tam-muội, tùy thời ngộ nhập. Đủ tất cả các thứ thiền định sâu xa. Tất cả chư Phật đều hiện ra trước. Trong khoảng một niệm đi khắp cõi Phật, quanh vòng qua lại vẫn chẳng khác thời gian, đối với nạn và không nạn cả hai bên đều biết rõ, diễn bày thực tế, khéo biết sai biệt. Được Phật biện tài, trụ hạnh Phổ Hiền. Hay phân biệt rõ ngôn ngữ của chúng sinh. Vượt hơn tất cả pháp thế gian. Biết rành tất cả pháp xuất thế. Được tư cụ tự tại Ba-la-mật-đa, gánh vác các loài hữu tình làm bạn không mời. Có thể chấp trì Pháp tạng của tất cả Như Lai. An trụ chẳng dứt chủng tánh tất cả Phật. Thương mến hữu tình mở bày pháp nhãn cho họ. Bít cửa ác đạo, mở cửa thiện đạo. Với tất cả hữu tình xem như cha mẹ anh em. Lại xem chúng sinh không khác thân mình. Chứng được tất cả, khen ngợi công đức Ba-la-mật-đa. Khéo biết rõ, khen ngợi tất cả công đức của Như Lai và khen ngợi công đức pháp. Chúng Đại Bồ-tát vô lượng, vô biên như vậy đều đến hội họp. Bấy giờ Tôn giả A-nan, từ tòa ngồi đứng dậy, tề chỉnh y phục, để hở vai áo bên phải, gối bên phải quỳ sát đất, chắp tay bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Thân sắc các căn của Phật đều thanh tịnh, uy quang rực rỡ khác nào như một khối vàng nung, lại như một tấm gương sáng ngời mà từ trước đến nay con chưa từng thấy, vui mừng được chiêm ngưỡng sinh lòng hiếm có. Thế Tôn ngày nay nhập đại tịch tónh, làm hạnh Như Lai, thảy đều viên mãn, khéo hay kiến lập hạnh Đại trượng phu, nhớ nghó chư Phật quá khứ, vị lai và hiện tại. Thế Tôn vì sao nghó như thế ấy? Bấy giờ Đức Phật bảo A-nan: –Nay ông làm sao biết được nghóa ấy? Hay là có chư Thiên đến bảo ông chăng? Hay do thấy ta và tự biết? Tôn giả A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Con thấy điềm ánh sáng hy hữu của Như Lai cho nên con nghó như thế mà hỏi Thế Tôn chứ không phải do chư Thiên mà hỏi Đức Thế Tôn. Phật bảo A-nan: –Lành thay! Lành thay! Ông nay thích muốn hỏi, phải là có được biện tài quan sát vi diệu mới có thể hỏi được Như Lai nghóa như thế. Ông là người vì tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và trụ nơi đại Bi lợi ích chúng sinh như hoa Ưu-đàm hiếm có, Đại só xuất hiện thế gian, mới hỏi được nghóa ấy. Lại vì thương xót lợi ích các chúng sinh, nên mới có thể hỏi Như Lai nghóa như thế. Này A-nan! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khéo hay khai thị vô lượng tri kiến. Vì sao? Vì tri kiến của Như Lai không có chướng ngại. Này A-nan! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, muốn trụ ở thế gian, có thể trụ vô lượng, vô số trăm ngàn ức na-do-tha kiếp chỉ như trong thời gian ăn chừng khoảnh khắc, nếu lại tăng hơn số lượng như trên, mà thân và các căn của Như Lai không hề có sự tăng giảm. Vì cớ sao? Vì Như Lai chứng đắc Tam-muội tự tại đến được ở bờ bên kia, nên đối với các pháp được tự tại thù thắng. Vì thế, này A-nan! Nghe cho kỹ nhớ nghó cho khéo, ta sẽ vì ông phân biệt giải nói. A-nan bạch Phật: –Vâng, thưa Thế Tôn! Con nguyện rất muốn được nghe. Bấy giờ Phật bảo A-nan: –Đời quá khứ xa xưa a-tăng-kỳ vô số đại kiếp, có Đức Phật ra đời hiệu là Nhiên Đăng. Trước Đức Phật ấy vô lượng, vô số kiếp, có Đức Phật Khổ Hạnh xuất hiện ở đời. Trước Phật Khổ Hạnh, lại có Đức Như Lai hiệu là Nguyệt Diện. Trước Phật Nguyệt Diện vô số lượng, có Đức Phật Chiên-đàn Hương. Trước Đức Phật Chiên-đàn Hương, có Đức Phật Tô-mê-lư-tích. Trước Đức Phật Lư Tích lại có Đức Phật Diệu Cao Kiếp, như thế trở lên có Đức Phật Ly Cấu Diện, Đức Phật Bất Nhiễm Ô, Đức Phật Long Thiên, Đức Phật Sơn Thanh Vương, Đức Phật Tô-mê-lư-tích, Đức Phật Kim Tạng, Đức Phật Chiếu Diệu Quang, Đức Phật Quang Đế, Đức Phật Đại Địa Chủng Tánh, Đức Phật Quang Minh Xí Thạnh Lưu Ly Kim Quang, Đức Phật Nguyệt Tượng, Đức Phật Khai Phu Hoa Trang Nghiêm Quang, Đức Phật Diệu Hải Thắng Giác Du Hý Thần Thông, Đức Phật Kim Cang Quang, Đức Phật Đại A-già-đà Hương Quang, Đức Phật Xả Ly Phiền Não Tâm, Đức Phật Bảo Tăng Trưởng, Đức Phật Dũng Mãnh Tích, Đức Phật Thắng Tích, Đức Phật Trì Đại Công Đức Pháp Thí Thần Thông, Đức Phật Ánh Tệ Nhật Nguyệt Quang, Đức Phật Chiếu Diệu Lưu Ly, Đức Phật Tâm Giác Hoa, Đức Phật Nguyệt Quang, Đức Phật Nhật Quang, Đức Phật Hoa Anh Lạc Sắc Vương Khai Phu Thần Thông, Đức Phật Thủy Nguyệt Quang, Đức Phật Phá Vô Minh Ám, Đức Phật Chơn Châu San Hô Cái, Đức Phật Để Sa, Đức Phật Thắng Hoa, Đức Phật Pháp Tuệ Hống, Đức Phật Hữu Sư Tử Hống Nga Nhạn Thanh, Đức Phật Phạm Âm Long Hống. Như thế những Đức Phật đã xuất hiện ở thế gian, kiếp số cách nhau đều hơn số lượng trước đó. Trước Đức Phật Long Hống chưa ra đời vô lượng số kiếp, có Đức Phật Thế Trụ. Trước Đức Phật Thế Trụ vô biên, số kiếp có Đức Phật ra đời, hiệu là Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Viên Mãn, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Trượng Phu, Điều Ngự Só, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Này A-nan! Trong pháp của Đức Phật kia có một vị Tỳ-kheo, tên là Pháp Xứ, có hạnh nguyện thù thắng và niệm tuệ lực tăng thượng. Tâm vị đó kiên cố bất động, phúc trí thù thắng, nhân tướng đoan nghiêm. Này A-nan! Vị Tỳ-kheo Pháp Xứ kia đi đến chỗ Đức Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai, để hở vai áo bên phải đảnh lễ sát chân của Phật, hướng Phật chắp tay khen ngợi rằng: Quang minh vô lượng của Như Lai Tất cả thế gian không ví được Mặt trời, mặt trăng, báu ma-ni Ánh quang của Phật đều che hết. Thế Tôn hay diễn chỉ một âm Hữu tình các loại đều tùy hiểu. Lại hay hiện một thân Diệu sắc Khiến cho chúng sinh tùy loại thấy. Giới, định, tuệ, tinh tấn, đa văn Tất cả hữu tình không bằng được. Tâm chảy giác tuệ như biển lớn Biết suốt được cả pháp rất sâu Tận hoặc tội lỗi đáng thọ cúng Như thế Thánh đức chỉ Thế Tôn. Phật có đại uy quang thù thắng Soi khắp mười phương vô lượng cõi Con nay khen ngợi các công đức Mong mỏi phúc đức bằng Như Lai. Hay cứu tất cả các thế gian Sinh, già, bệnh, chết mọi khổ não Nguyện sẽ an trụ tam-ma-địa Diễn thuyết Thí, Giới, các pháp môn Nhẫn nhục, Tinh tấn và Định, Tuệ Sau sẽ thành Phật độ chúng sinh. Vì cầu Vô thượng đại Bồ-đề Cúng dường mười phương chư Diệu giác Trăm ngàn câu-chi na-do-tha Hơn cả số lượng cát sông Hằng. Lại nguyện sẽ được đại thần quang Rọi soi cõi Phật như hằng sa Và lấy vô biên thắng tấn lực Cảm được thù thắng Quảng tịnh cư. Như vậy trong vô lượng cõi Phật Làm lợi ích quần sinh an ổn Đại só tối thắng trong mười phương Ai nấy lòng mừng được vãng sinh. Chỉ Phật Thánh trí mới biết được Nay con mong cầu sức kiên cố Ví chìm Vô gián các địa ngục Như thế nguyện trọn chẳng hư Đức Vô Ngại Trí khắp thế gian Xin hiểu lòng con là như thế. Lại nữa, này A-nan! Tỳ-kheo Pháp Xứ khen ngợi công đức của Đức Phật rồi, bạch: –Bạch Thế Tôn! Con nay phát tâm hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chỉ xin Thế Tôn vì con diễn nói những pháp như thế, khiến cho thế gian được thành đạo Đại Bồ-đề không gì sánh bằng, đủ để nhiếp thọ thanh tịnh trang nghiêm cõi Phật. Đức Phật bảo vị Tỳ-kheo: –Ông nên phải tự thanh tịnh cõi Phật. Pháp Xứ bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Con không có uy lực để tự nhiếp thọ được, chỉ xin Như Lai nói sự thanh tịnh trang nghiêm ở các cõi Phật khác, chúng con nghe rồi thệ nguyện sẽ viên mãn. Bấy giờ Đức Thế Tôn, vì đó rộng nói hai mươi mốt ức thanh tịnh Phật độ trang nghiêm đầy đủ. Khi nói pháp ấy, trải qua một ức năm. Này A-nan! Tỳ-kheo Pháp Xứ ở trong hai mươi mốt ức cõi Phật kia, nơi nào có sự nghiêm tịnh hết đều nhiếp thọ. Khi đã nhiếp thọ rồi, đầy đủ năm kiếp suy nghó tu tập. A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Đức Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai kia thọ lượng được bao nhiêu? Đức Thế Tôn bảo: –Đức Phật kia thọ lượng đủ bốn mươi kiếp. Này A-nan! Hai mươi mốt câu-chi cõi Phật kia, Tỳ-kheo Pháp Xứ còn nhiếp thọ cõi Phật hơn cả số lượng kia. Khi đã nhiếp thọ như thế rồi liền đi đến chỗ Đức Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai, đảnh lễ sát hai chân Phật, đi quanh Phật bảy vòng, lui đứng về một bên bạch: –Bạch Thế Tôn! Con đã nhiếp thọ đầy đủ công đức trang nghiêm cõi Phật. Đức Phật dạy: –Nay chính là thời gian mà ông nên nói đầy đủ khiến cho chúng hội đều được vui mừng, cũng khiến cho cả đại chúng sẽ nhiếp thọ viên mãn cõi Phật. Pháp Xứ bạch: –Bạch Thế Tôn! Xin Đức Đại Từ để tâm nghe cho, con nay sẽ đem nói nguyện thù thắng này. Giả sử khi con thành Phật, nước con còn có địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh thì con nguyện chẳng thành Chánh giác. Giả sử khi con thành Phật, hàng trời, người nước con sau khi mạng chung còn trở lại ba ác đạo thì con nguyện chẳng thành Chánh giác. Giả sử khi con thành Phật, hàng trời, người ở nước con chẳng đều thân màu vàng ròng thì con nguyện chẳng thành Chánh giác. Giả sử khi con thành Phật, hàng trời người ở nước con sắc thân chẳng đồng, có kẻ xấu người đẹp thì con nguyện chẳng thành Chánh giác. Giả sử khi con thành Phật, hàng trời, người ở nước con chẳng biết Túc mạng, ít nhất là biết sự việc trong trăm ngàn ức na-do-tha kiếp thì con nguyện chẳng thành Chánh giác. Giả sử khi con thành Phật, hàng trời, người ở nước con chẳng được Thiên nhãn, thấy được trăm ngàn ức na-do-tha cõi nước chư Phật thì con nguyện chẳng thành Chánh giác. Giả sử khi con thành Phật, hàng trời, người ở nước con chẳng được Thiên nhó, ít nhất là nghe lời thuyết pháp của trăm ngàn ức na-do-tha chư Phật và chẳng thọ trì hết, thì con nguyện chẳng thành Chánh giác. Giả sử khi con thành Phật, hàng trời, người ở nước con chẳng được Tha tâm trí, ít nhất là biết tâm niệm của chúng sinh trong trăm ngàn ức na-do-tha cõi nước, thì con nguyện chẳng thành Chánh giác. Giả sử khi con thành Phật, hàng trời, người ở nước con chẳng được Thần túc, khoảng một niệm qua đến trăm ngàn ức na-do-tha nước Phật, thì con nguyện chẳng thành Chánh giác. Giả sử khi con thành Phật, hàng trời, người ở nước con nếu sinh lòng tưởng nghó tham chấp thân thể thì con nguyện chẳng thành Chánh giác. Giả sử khi con thành Phật, hàng trời, người ở nước con, nếu chẳng nhất định thành Phật, chứng đại Niết-bàn thì con nguyện chẳng thành Chánh giác. Giả sử khi con thành Phật, quang minh có hạn lượng, chẳng chiếu đến trăm ngàn ức na-do-tha cõi nước chư Phật thì con nguyện chẳng thành Chánh giác. Giả sử khi con thành Phật, thọ mạng còn có hạn lượng, trăm ngàn ức na-do-tha kiếp thì con nguyện chẳng thành Chánh giác. Giả sử khi con thành Phật, hàng Thanh văn trong nước con mà có người tính đếm được, cho đến chúng sinh trong cõi đại thiên đều thành bâïc Duyên giác cùng nhau chung tính đếm suốt trăm ngàn kiếp mà biết được số lượng ấy thì con nguyện chẳng thành Chánh giác. Giả sử khi con thành Phật, hàng trời, người trong nước con thọ mạng không có hạn lượng, trừ họ có bản nguyện dài ngắn tự tại. Nếu chẳng như vậy thì con nguyện chẳng thành Chánh giác. Giả sử khi con thành Phật, hàng trời, người ở nước con mà còn nghe danh từ bất thiện thì con nguyện chẳng thành Chánh giác. Giả sử khi con thành Phật, mười phương vô lượng chư Phật chẳng đều ngợi khen xưng tụng danh hiệu của con thì con nguyện chẳng thành Chánh giác. Giả sử khi con thành Phật, chúng sinh ở mười phương chí tâm tin ưa muốn sinh về nước con cho đến mười niệm, nếu không được sinh thì con nguyện chẳng thành Chánh giác. Giả sử khi con thành Phật, chúng sinh ở mười phương phát tâm Bồ-đề, tu các công đức chí tâm phát nguyện muốn sinh về nước con. Lúc họ mạng chung, con và đại chúng vây quanh hiện ra trước mặt họ. Nếu không như vậy thì con nguyện chẳng thành Chánh giác. Giả sử khi con thành Phật, chúng sinh ở mười phương nghe danh hiệu của con, chuyên nhớ nước con, trồng những cội công đức, chí tâm hồi hướng muốn sinh về nước con mà chẳng được toại nguyện thì con nguyện chẳng thành Chánh giác. Giả sử khi con thành Phật, hàng trời, người ở nước con chẳng đều đầy đủ ba mươi hai tướng Đại nhân thì con nguyện chẳng thành Chánh giác. Giả sử khi con thành Phật, chúng Bồ-tát ở cõi nước khác sinh về nước con đều rốt ráo đạt được bậc Nhất sinh bổ xứ. Trừ người có bản nguyện tự tại hóa độ, vì chúng sinh mà mặc giáp hoằng thệ chứa công đức hóa độ tất cả, đi qua các nước Phật tu hạnh Bồ-tát, cúng dường chư Phật mười phương, khai hóa hằng sa vô lượng chúng sinh khiến họ được an lập nơi đạo Chánh chân vô thượng, vượt hơn công hạnh của hạng tầm thường, hiện tiền tu công đức Phổ Hiền. Nếu không như vậy thì con nguyện chẳng thành Chánh giác. Giả sử khi con thành Phật, Bồ-tát trong nước con nương thần lực Phật đi cúng dường chư Phật, khoảng bữa ăn nếu không đến khắp vô số, vô lượng ức na-do-tha cõi nước thì con chẳng thành Chánh giác. Giả sử khi con thành Phật, Bồ-tát trong nước con ở trước chư Phật hiện công đức mình, nếu những thứ dùng để cúng dường không có đủ theo ý muốn thì con nguyện chẳng thành Chánh giác. Giả sử khi con thành Phật, Bồ-tát trong nước con chẳng thể diễn nói Nhất thiết trí thì con nguyện chẳng thành Chánh giác. Giả sử khi con thành Phật, Bồ-tát trong nước con chẳng được thân Kim cang Na-la-diên thì con nguyện chẳng thành Chánh giác. Giả sử khi con thành Phật, hàng trời, người và tất cả vạn vật trong nước con trang nghiêm thanh tịnh sáng rỡ hình sắc đặc biệt tột vi diệu không ai lường biết được, dù là có Thiên nhãn mà biện biệt được danh số ấy thì con nguyện chẳng thành Chánh giác. Giả sử khi con thành Phật, Bồ-tát trong nước con, cho đến người công đức ít nhất mà chẳng thấy biết đạo tràng thọ màu sáng vô lượng cao bốn trăm muôn dặm thì con nguyện chẳng thành Chánh giác. Giả sử khi con thành Phật, Bồ-tát trong nước con nếu đọc tụng thọ trì diễn thuyết kinh pháp mà chẳng được trí tuệ biện tài thì con nguyện chẳng thành Chánh giác. Giả sử khi con thành Phật, trí tuệ biện tài của Bồ-tát trong nước con mà có hạn lượng thì con nguyện chẳng thành Chánh giác. Giả sử khi con thành Phật, nước con thanh tịnh soi thấy tất cả vô lượng, vô số chẳng thể nghó bàn thế giới chư Phật mười phương, như gương sáng soi hiện hình gương mặt, nếu không như vậy thì con nguyện chẳng thành Chánh giác. Giả sử khi con thành Phật, từ mặt đất lên đến hư không, những cung điện, lâu đài, ao nước, cây hoa, tất cả vạn vật trong nước con đều dùng vô lượng châu báu, trăm ngàn thứ hương hợp lại làm thành xinh đẹp kỳ lạ hơn hàng trời, người. Hương ấy xông khắp vô lượng thế giới mười phương. Bồ-tát nghe mùi hương ấy đều tu hạnh Phật. Nếu không như vậy thì con nguyện chẳng thành Chánh giác. Giả sử khi con thành Phật, những loài chúng sinh của vô lượng chẳng nghó bàn thế giới mười phương, được quang minh con chiếu đến thân, thân họ nhu nhuyến hơn hẳn hàng trời, người. Nếu không như vậy thì con nguyện chẳng thành Chánh giác. Giả sử khi con thành Phật, những loài chúng sinh của vô lượng chẳng nghó bàn thế giới mười phương nghe danh hiệu con mà chẳng được các pháp Tổng trì của Bồ-tát, Vô sinh pháp nhẫn của Bồ-tát thì con nguyện chẳng thành Chánh giác. Giả sử khi con thành Phật, hàng nữ giới của vô lượng chẳng nghó bàn thế giới mười phương nghe danh hiệu của con vui mừng tin ưa phát tâm Bồ-đề nhàm ghét thân người nữ, nếu sau khi chết mà họ còn sinh thân người nữ lại thì con nguyện chẳng thành Chánh giác. Giả sử khi con thành Phật, chúng Bồ-tát trong vô lượng chẳng nghó bàn thế giới mười phương thế giới nghe danh hiệu của con sau khi thọ chung thường tu phạm hạnh đến thành Phật đạo. Nếu không như vậy thì con nguyện chẳng thành Chánh giác. Giả sử khi con thành Phật, hàng trời, người trong vô lượng chẳng nghó bàn thế giới mười phương nghe danh hiệu của con rồi năm vóc gieo xuống đất, cúi đầu vái lạy vui mừng tin ưa tu hạnh Bồ-tát thì được chư Thiên và người đời đều kính trọng. Nếu không như vậy thì con nguyện chẳng thành Chánh giác. Giả sử khi con thành Phật, hàng trời, người trong nước con muốn được y phục liền tùy nguyện hiện đến, y phục đẹp đúng pháp như Phật khen ngợi tự nhiên mặc trên thân. Nếu còn phải may cắt nhuộm giặt thì con nguyện chẳng thành Chánh giác. Giả sử khi con thành Phật, hàng trời, người trong nước con hưởng thọ khoái lạc chẳng như bâïc lậu tận Tỳ-kheo thì con nguyện chẳng thành Chánh giác. Giả sử khi con thành Phật, Bồ-tát trong nước con tùy ý muốn thấy vô lượng nước Phật trang nghiêm thanh tịnh mười phương thì liền được toại nguyện, đều được soi thấy ở trong những cây báu, như thấy mặt mình hiện rõ trong gương sáng. Nếu không như vậy thì con nguyện chẳng thành Chánh giác. Giả sử khi con thành Phật, chúng Bồ-tát ở cõi nước phương khác nghe danh hiệu của con, từ đó đến lúc thành Phật nếu các căn thân còn thiếu xấu chẳng được đầy đủ thì con nguyện chẳng thành Chánh giác. Giả sử khi con thành Phật, chúng Bồ-tát ở cõi nước phương khác nghe danh hiệu của con thảy đều chứng được thanh tịnh giải thoát Tam-muội, khoảng một lúc phát ý, cúng dường vô lượng chẳng thể nghó bàn chư Phật Thế Tôn, mà không mất tâm chánh định. Nếu không như vậy thì con nguyện chẳng thành Chánh giác. Giả sử khi con thành Phật, chúng Bồ-tát ở cõi nước phương khác nghe danh hiệu của con, sau lúc thọ chung sinh nhà tôn quý. Nếu không như vậy thì con nguyện chẳng thành Chánh giác. Giả sử khi con thành Phật, chúng Bồ-tát ở cõi nước phương khác nghe danh hiệu của con vui mừng hớn hở tu hạnh Bồ-tát đầy đủ cội công đức. Nếu không như vậy thì con nguyện chẳng thành Chánh giác. Giả sử khi con thành Phật, chúng Bồ-tát ở cõi nước phương khác nghe danh hiệu của con thảy đều chứng được Tam-muội bình đẳng, an trụ trong Tam-muội này luôn cúng dường vô lượng, vô số chư Phật cho đến đạt đạo Bồ-đề không thoái chuyển. Nếu không như vậy thì con nguyện chẳng thành Chánh giác. Giả sử khi con thành Phật, chúng Bồ-tát trong nước con tùy chí nguyện của mỗi người muốn được nghe pháp liền tự nhiên được nghe. Nếu không như vậy thì con nguyện chẳng thành Chánh giác. Giả sử khi con thành Phật, chúng Bồ-tát ở cõi nước phương khác nghe danh hiệu của con mà chẳng liền được đến bâïc không thoái chuyển thì con nguyện chẳng thành Chánh giác. Giả sử khi con thành Phật, chúng Bồ-tát ở cõi nước phương khác nghe danh hiệu của con mà chẳng liền được pháp Nhẫn thứ nhất, pháp Nhẫn thứ hai và pháp Nhẫn thứ ba, nơi các Phật pháp chẳng liền được bâïc không thoái chuyển thì con nguyện chẳng thành Chánh giác. Khi ấy, Phật bảo A-nan: –Tỳ-kheo Pháp Xứ kia, ở trước Đức Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai, phát nguyện như thế rồi, nhờ uy thần của Phật, mà nói bài tụng rằng: Nay đối Như Lai phát hoằng nguyện Ngày sau chứng Vô thượng Bồ-đề Nếu không đầy đủ các nguyện trên Chẳng thành Thập Lực Vô Thượng Tôn. Tâm không tham thường hay bố thí Rộng giúp nghèo cùng khỏi mọi khổ Lợi ích thế gian khiến an vui Chẳng thành ngôi Pháp Vương cứu đời. Con chứng Bồ-đề ngồi đạo tràng Tiếng đồn không khắp mười phương giới Vô lượng, vô biên cõi Phật khác Chẳng thành Thập Lực Thế Trung Tôn. Mới đến Vô thượng đại Bồ-đề Xuất gia tham cầu nơi dục cảnh Niệm tuệ kia chẳng chịu siêng làm Chẳng làm Điều Ngự Thiên Nhân Sư. Nguyện được Như Lai vô lượng quang Khắp soi mười phương các cõi Phật. Nguyện diệt tất cả tham, giận, si Đoạn cả thế gian các ác thú. Nguyện được mở sáng con mắt tuệ Ở trong các cõi phá tối tăm Trừ diệt các nạn khiến không còn. Ở yên trời người có đại uy. Tu tập bản hạnh thanh tịnh rồi Là được vô lượng thắng uy quang Trời, trăng, chư Thiên, lửa ma-ni Chỗ có ánh sáng đều soi mờ. Trượng phu tu hành bậc Tối thắng Với nghèo cùng kia là khó thấy Tròn đầy thiện pháp không ai sánh. Sư tử hống trong cả đại chúng Xưa kia cúng dường Phật Nhiên Đăng Nhiều kiếp siêng tu mọi khổ hạnh Vì cầu các tuệ uẩn tối thắng Đầy đủ bản nguyện trời, người tôn Trí kiến Như Lai không chỗ vướng Tất cả hữu vi đều tỏ suốt. Nguyện con thành Phật không ai bằng. Trí giả tối thắng chân Đạo sư Nếu con sẽ chứng đại Bồ-đề Hoằng nguyện như thế thật viên mãn. Nguyện động tam thiên đại thiên giới Thiên cung trên không đều mưa hoa Lúc ấy đại địa đều chấn động Thiên hoa cổ nhạc khắp trên không Mưa ra chiên-đàn và hương bụi Xướng rằng vị lai sẽ thành Phật. Phật bảo A-nan: –Tỳ-kheo Pháp Xứ kia, ở trước Đức Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai và các Trời, Người, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn… rộng phát đại hoằng thệ nguyện như thế, đều đã được thành tựu hiếm có ở thế gian, phát nguyện như thế rồi, như đã thật an trụ công đức, đã đầy đủ trang nghiêm uy đức rộng lớn thanh tịnh cõi Phật. Khi tu tập hạnh Bồ-tát như thế, trải qua vô lượng, vô số chẳng thể nghó bàn, không ức na-do-tha trong trăm ngàn kiếp, chưa bao giờ từng khởi tưởng tham giận, ngu si, tham dục, làm hại và giận tức, không khởi tưởng sắc, thanh, hương, vị, xúc. Đối với mọi chúng sinh thường yêu mến kính trọng như thân thuộc, tánh khí ôn hòa rất dễ ở chung. Nếu có người đến cầu gì đều không nghịch ý, khéo nói khuyên dụ không điều gì chẳng vừa lòng, giúp đỡ của cải nuôi dưỡng thân mạng cho họ. Thường thiểu dục tri túc ở nơi tịch tónh, tâm thức thông minh không có kiêu vọng, tánh khí điều thuận không có bạo ác. Đối với các loài hữu tình thường mang lòng Từ bi nhẫn nhục, tâm không dối trá cũng không lười biếng, khéo nói sách tấn cầu các Bạch pháp, khắp vì quần sinh dũng mãnh không lùi, lợi ích thế gian, đại nguyện viên mãn, phụng sự Sư trưởng, tôn kính Phật, Pháp, Tăng. Đối với Bồ-tát hạnh thường mặc áo giáp, chí ưa tónh lặng lìa các nhiễm trược. Vì khiến chúng sinh thường tu Bạch pháp, ở trong thiện pháp làm thượng thủ, trụ Không, Vô tướng, Vô nguyện, không tạo tác, không sinh, không khởi, không diệt, không có kiêu mạng. Bậc Chánh só ấy khi hành Bồ-tát đạo, thường giữ lời nói năng, không nói lời hại người hại mình, dùng ngữ nghiệp lợi mình và người. Nếu vào thành vua hoặc làng xóm, tuy thấy các sắc tâm không nhiễm trược, vì tâm thanh tịnh nên không yêu không giận. Khi ấy Bồ-tát đối với Đàn ba-la-mật-đa đã tự làm rồi, lại hay khiến người khác làm tuệ thí như Thí ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa, làm hai hạnh trước đều được viên mãn. Do thành tựu được các căn lành như thế, cho nên sinh chỗ nào cũng có vô lượng ức na-do-tha kho báu ẩn hiện ra. Bồ-tát lại khiến vô lượng, vô biên số chẳng thể nghó bàn bao nhiêu các loài chúng sinh an trụ nơi quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Như thế vô biên các Bồ-tát chúng khởi các diệu hạnh, cúng dường phụng sự các Thế Tôn cho đến khi thành Phật, đều không thể dùng ngôn ngữ phân biệt mà có thể biết được, hoặc làm Luân vương, Đế Thích, trời Tô-diệm-ma, trời Đâu-suất-đà, trời Hóa lạc, trời Thiện hóa, trời Tha hóa tự tại, trời Đại phạm Thiên vương đều hay phụng sự cúng dường chư Phật và hay thỉnh Phật chuyển pháp luân. Hoặc làm vua cõi Diêm-phù-đề và các Trưởng giả, Tể quan, Bà-la-môn, Sát-đế-lợi… trong các chủng tánh ấy đều hay tôn trọng cúng dường chư Phật, lại hay diễn nói vô lượng pháp môn. Từ đó sẽ mãi bỏ thế gian thành Vô thượng giác. Song, Bồ-tát kia thường hay lấy y phục, đồ nằm, thức uống ăn, thuốc thang thượng diệu, suốt đời cúng dường tất cả Như Lai để cho Như Lai được an vui. Như thế các loại căn lành đều viên mãn, không thể dùng ngôn ngữ nói cho hết được ngằn mé. Trong miệng của vị Bồ-tát thường phát ra chiên-đàn diệu hương, hương thơm này xông khắp vô lượng, vô biên cho đến ức na-do-tha trăm ngàn thế giới, lại từ tất cả các lỗ lông, lại xông ra mùi hương thơm hơn cả mùi hương của trời, người, hoa Ưu-bát-la thượng diệu khí hương. Bồ-tát tùy theo sinh ở chỗ nào đều được tướng tốt đoan nghiêm thù thắng viên mãn, lại được của cải tự tại Ba-la-mật-đa, tất cả vật dụng không thiếu một thứ gì, như là các hương hoa, cờ phướn, lọng báu, thượng diệu y phục, thức ăn uống, thuốc thang và các kho tàng tiềm ẩn, đều từ trong lòng bàn tay của Bồ-tát tự nhiên hiện ra, các lỗ chân lông của Bồ-tát đều phát ra tất cả âm nhạc của Trời, Người, bởi nhân duyên ấy, hay khiến vô lượng, vô số chẳng thể nghó bàn các chúng sinh… an trụ nơi quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Này A-nan! Ta đã nói công hạnh tu hành xưa kia của Bồ-tát Pháp Xứ. Bấy giờ A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Vị Bồ-tát Pháp Xứ kia thành tựu Bồ-đề ở quá khứ, hiện tại hay vị lai và ở thế giới phương khác phải chăng? Phật bảo A-nan: –Ở phương Tây cách đây mười vạn ức cõi Phật, ở nơi kia có thế giới tên là Cực lạc. Tỳ-kheo Pháp Xứ ở thế giới kia thành Phật, hiệu là Vô Lượng Thọ, hiện nay đang thuyết pháp, có vô lượng Bồ-tát và Thanh văn chúng cung kính vây quanh. Này A-nan! Đức Phật kia có ánh sáng soi khắp cõi khác, vô lượng, vô số chẳng thể nghó bàn, ta nay chỉ lược nói thôi. Ánh sáng của Phật kia soi khắp phương Đông các quốc độ nhiều như cát sông Hằng. Các phương Nam, Tây, Bắc, phương Trên, phương Dưới và bốn phương góc cũng như thế, chỉ trừ bản nguyện uy thần của chư Phật thêm thôi, còn đều soi chiếu hết. Ánh sáng của chư Phật hoặc thêm một tầm, hoặc thêm một do-tuần cho đến ức na-do-tha trăm ngàn do-tuần ánh sáng, chiếu khắp cả cõi Phật. Này A-nan! Bởi vì nghóa ấy mà Phật Vô Lượng Thọ lại còn có cái tên khác là Vô Lượng Quang, Vô Biên Quang, Vô Trước Quang, Vô Ngại Quang, Quang Chiếu Vương Đoan Nghiêm Quang, Ái Quang, Hỷ Quang, Khả Quán Quang, Bất Tư Nghì Quang, Vô Đẳng Quang, Bất Khả Xưng Lượng Quang, Ánh Tế Nhật Quang, Ánh Tế Nguyệt Quang, Yểm Đoạt Nhật Nguyệt Quang. Ánh hào quang của Đức Phật ấy thanh tịnh rộng lớn khiến chúng sinh thân tâm vui vẻ, lại khiến tất cả trừ trong cõi Phật, Trời, Rồng, Dạ-xoa, A-tu-la… đều vui mừng. Này A-nan! Ta nay khai thị ánh sáng của Phật kia đầy đủ một kiếp nói không thể hết được. Lại nữa, này A-nan! Đức Như Lai Vô Lượng Thọ kia, các Thanh văn chúng không thể nào tính lượng mà biết được ngằn mé. Giả sử khiến các Tỳ-kheo đầy ức na-do-tha trăm ngàn số lượng đều như Đại Mục-kiền-liên thần thông tự tại, sớm tối đi khắp cả đại thiên thế giới, chỉ trong một khoảnh khắc trở về đến bản xứ, dầu các vị ấy có thần thông như thế trải qua ức na-do-tha trăm ngàn số năm, muốn cùng nhau tính đếm các Thanh văn chúng trong pháp hội đầu tiên, cho dù tận hết thần lực cho đến khi diệt độ, đối với trăm phần cũng không biết được một phần các chúng Thanh văn ấy đối với ngàn phần, trăm ngàn phần cho đến ở ba-ni-sát-đàm phần cũng không thể nào biết được một. Này A-nan! Ví như trong biển lớn tám vạn bốn ngàn do-tuần, dùng mắt cực quan sát cũng không biết được bờ mé của biển lớn, nếu có trượng phu chẻ đầu của một sợi lông chia làm năm mươi phần, rồi lấy một phần trong năm mươi phần ấy chỉ chấm một giọt nước ở trong biển cả kia. Này A-nan! Một giọt nước ở trên đầu của một sợi lông kia so với nước ở trong đại hải cái nào là nhiều? A-nan bạch Phật: –Giả sử lấy nước ngàn do-tuần thấy hãy còn ít, huống chi chỉ lấy một phần giọt nước trên đầu của một sợi lông đâu có thể đem so sánh cho được! Phật bảo A-nan: –Giả sử Tỳ-kheo đầy ức na-do-tha trăm ngàn số lượng, đều như Mục-kiền-liên, trải qua trăm ngàn na-do-tha năm, đều cùng nhau đếm số lượng chúng Thanh văn trong hội đầu tiên của Đức Như Lai Vô Lượng Thọ, số lượng mà có thể biết được chỉ có thế bằng một giọt nước ở đầu sợi lông mà thôi, ngoài ra không thể nào mà biết hết được, còn chỗ không biết không trắc lượng được cũng như nước của biển lớn, các chúng Bồ-tát cũng nhiều như thế, không thể tính đếm mà có thể biết được. Này A-nan! Đức Phật kia sống lâu vô lượng, vô biên, không thể biết được. Kiếp số nhiều hay ít, Thanh văn, Bồ-tát và chư Thiên, Nhân sống lâu cũng vậy. A-nan bạch Phật: –Lạy Thế Tôn! Đức Phật kia ra đời thời gian đã bao nhiêu lâu mà được thọ mạng sống lâu vô lượng như thế? Phật bảo A-nan: –Phật kia thọ sinh đến nay đã mười kiếp. Lại nữa, này A-nan! Thế giới Cực lạc kia đầy đủ trang nghiêm, đất nước phồn vinh, trời, người đông đúc, chí ý hòa thuận thường được an vui. Không có địa ngục, súc sinh và cõi Diêm-ma vương. Có các thứ hương thơm thơm lừng cùng khắp, trên mỗi bảo tràng treo đủ loại phướn lọng và các chuông báu, đầy đủ trăm ngàn các thứ diệu tạp sắc. Này A-nan! Cõi nước của Đức Như Lai kia có rất nhiều cây báu, hoặc thuần là hoàng kim, bạch ngân, lưu ly, pha lê, xích châu, mã não, ngọc thọ, chỉ làm thành bằng một thứ châu báu mà không lẫn với các châu báu khác, hoặc lấy hai thứ châu báu cho đến bảy thứ châu báu trang nghiêm. Này A-nan! Vàng kia làm cây, lấy vàng làm thân cây, bạc làm lá cây và hoa quả. Cây bạc thì lấy bạc làm thân cây, vàng làm lá cây và hoa quả. Cây mã não, mã não làm thân cây, mỹ ngọc làm lá cây và hoa quả. Cây mỹ ngọc, thì lấy ngọc làm thân cây, bảy báu làm lá và các hoa quả. Hoặc có cây vàng, thì lấy hoàng kim làm gốc cây, bạc làm thân cây, lưu ly làm cành, pha lê làm thân, xích châu làm lá, mã não làm hoa, mỹ ngọc làm quả. Hoặc có cây bạc, lấy bạc làm gốc cây, hoàng kim làm thân cây, ngoài ra như cành, quả… trang sức cũng như cây vàng. Cây lưu ly, lưu ly làm gốc cây, hoàng kim làm thân cây, bạc làm cành cây, pha lê làm thân, xích châu làm lá, mã não làm hoa, mỹ ngọc làm quả. Các loại cây pha lê, trân châu, mã não… đều dùng các thứ báu khác nhau để làm thành như lưu ly… lại có cây ngọc, ngọc làm gốc, hoàng kim làm thân, bạc làm cành, lưu ly làm nhánh, pha lê làm lá, xích châu làm hoa, mã não làm quả. Lại có vô lượng châu báu ma-ni, các thứ báu trang nghiêm cây khắp cả trong nước đó, các cây báu ấy chói sáng rực rỡ, đời không thể sánh được, còn dùng bảy báu làm màn lưới che trên các cây báu ấy, màn lưới ấy mềm mại như đâu-la-miên. Lại nữa, này A-nan! Phật Vô Lượng Thọ có cây Bồ-đề cao mười sáu ức do-tuần, cành lá rủ khắp tám ức do-tuần, gốc cây nổi trên mặt đất cao năm ngàn do-tuần, chu viên cũng vậy, lá, hoa, quả, thường có vô lượng trăm ngàn thứ thứ sắc đẹp và các trân bảo thù thắng trang nghiêm như Nguyệt quang ma-ni bảo, Thích-ca-tỳ-lăng-già bảo, Tâm vương ma-ni bảo, Hải thừa lưu chú ma-ni bảo, Ánh sáng chiếu khắp vượt hơn cả trời, người. Ở trên cây này có treo các vòng vàng bảo châu anh lạc trang nghiêm khắp cả như Lư-giá-già bảo, Mạt-ta bảo và các trân châu màu xanh, đỏ, trắng, các thứ báu dùng làm chuỗi ngọc, có Sư tử vân tụ bảo… để làm vàng ngọc trang sức các cột báu, lại lấy chuông bằng vàng trân châu tạp bảo giăng mắc vào các mắt lưới, với những vàng ngọc báu cho khắp trên cây đó, dùng pha lê vạn tự bán nguyệt bảo… trang sức phản ảnh chiếu sáng lẫn nhau. Gió hiu hiu thổi phát ra thứ thứ tiếng, khiến cho các chúng sinh ở trên ngàn thế giới tùy vui sai khác nhau, đối với pháp sâu xa chứng Vô sinh nhẫn. Này A-nan! Các hữu tình ở ngàn thế giới kia, nghe tiếng này rồi trụ không thoái chuyển nơi Vô thượng Bồ-đề và vô lượng, vô số hữu tình được Vô sinh pháp nhẫn. Lại nữa, này A-nan! Nếu có chúng sinh nào thấy cây Bồ-đề nghe tiếng, ngửi hương, hưởng quả vị ấy, hoặc nghó xúc chạm vào ánh sáng ấy của cây công đức, do nhân duyên ấy cho đến khi Niết-bàn, năm căn không bị hoạn nạn, tâm không tán loạn, đều ở trong đạo quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác không thoái chuyển, lại do thấy cây Bồ-đề kia cho nên được ba thứ nhẫn. Những gì là ba? 1. Tùy Thanh nhẫn. 2. Tùy Thuận nhẫn. 3. Vô sinh pháp nhẫn. Đây đều là do bản nguyện uy thần gia hộ của Phật Vô Lượng Thọ và đời trước tu tónh lặng, vì không có ví dụ nào để so sánh, vì không khuyết diệt, vì khéo tu tập, vì khéo thành tựu.  KINH ĐẠI BẢO TÍCH <卷 id="86423680">QUYỂN 18 Hán dịch: Đời Đường, Tam tạng Pháp sư Bồ-đề-lưu-chí. <詞 id="86423681">Pháp hội 5: như lai VÔ LƯỢNG THỌ (Phần 2) Lại nữa, này A-nan! Thế giới Cực lạc kia, không có các núi Hắc sơn, núi Thiết vi, núi Đại Thiết vi, núi Diệu cao … A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Nếu như không có cõi trời Tứ Thiên vương, cõi trời Tam thập tam, thì các núi ấy y vào đâu mà trụ được? Phật bảo A-nan: –Theo ý ông nghó thế nào? Núi Diệu cao trở lên còn có trời Dạ-ma, cho đến trời Tha hóa tự tại và chư Thiên Sắc giới… y vào đâu mà trụ được? A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Thật là do nghiệp lực chẳng thể nghó bàn mà trụ được. Phật bảo A-nan: –Nghiệp lực của Phật và chúng sinh, ông có biết được không? A-nan thưa: –Không, bạch Thế Tôn! Con đối với trong pháp này thật không có điều gì phải nghi hoặc cả, nhưng vì muốn phá trừ lưới ngờ nên mới hỏi như thế. Phật bảo A-nan: –Thế giới Cực lạc kia đất đó không có biển mà có các con sông, sông hẹp nhất cũng đến mười do-tuần, nước lúc ít nhất cũng ngập mười hai do-tuần, lượng sâu rộng của các con sông ấy, hoặc hai mươi, ba mươi cho đến trăm số, hoặc có những con sông sâu rộng đến ngàn do-tuần. Nước sông mát mẻ đủ tám công đức, lưu thông chảy suốt, phát ra tiếng mầu nhiệm, ví như trăm ngàn thứ nhạc của chư Thiên, âm thanh này của nước khiến cho cả thế giới An lạc đều nghe khắp. Có các danh hoa cứ theo ven nước mà trôi xuống, hòa cùng với gió hiu hiu thổi động xông ra các loại hương thơm. Ở bên bờ sông có nhiều cây chiên-đàn, cành đẹp lá rậm dày giao nhau che trên mặt sông, nở hoa kết hạt thơm tho ngào ngạt đáng thích. Mọi loài nhàn du tùy ý đi lại vui vẻ, hoặc bơi trên sông tắm rửa chơi đùa, cảm giác giống như nước của trời, khéo chiều lòng người: sâu, cạn, lạnh, nóng thỏa thích. Này A-nan! Dưới đất của con sông lớn toàn rải bằng vàng, có những mùi thơm của chư Thiên mà đời không thể ví dụ được. Hương thơm ấy cứ theo gió thổi bay khắp ngào ngạt, mùi thơm của nước chảy ra cũng không kém. Hoa trời Mạn-đà-la, hoa Ưu-bát-la, hoa Ba-đầu-ma, hoa Câu-vật-đầu, hoa Phân-đà-lợi che khắp trên mặt ao. Lại nữa, này A-nan! Dân chúng ở nước kia, có lúc cùng rủ nhau đi du lãm ở bến sông. Có người lại không thích nghe âm hưởng của những dòng sông chảy, thì dù có được Thiên nhó thông trọn cũng không thể nghe được gì. Hoặc có người thích nguyện nghe, tức thời lãnh ngộ được trăm ngàn vạn thứ tiếng vui vẻ đáng yêu như là tiếng Phật, Pháp, Tăng, tiếng nghỉ ngơi, tiếng vô tánh, tiếng Ba-la-mật-đa, tiếng mười Lực, bốn Vô sở úy, tiếng thần thông, tiếng không tạo tác, tiếng không sinh không diệt, tiếng tịch tónh, tiếng biên tịch tónh, tiếng cực tịch tónh, tiếng đại Từ, đại Bi, tiếng Vô sinh pháp nhẫn, tiếng Quán đảnh thọ vị, được nghe các loại tiếng như thế rồi, liền được những sự vui vẻ ưa muốn rộng lớn rồi cùng tương ứng với quán sát, tương ứng với yếm ly, tương ứng với diệt hoại, tương ứng với tịch tónh, tương ứng với biên tịch tónh, tương ứng với cực tịch tónh, tương ứng với nghóa vị, tương ứng với Phật, Pháp, Tăng, tương ứng với Lực vô úy, tương ứng với Thần thông, tương ứng với Chỉ tức, tương ứng với Bồ-đề, tương ứng với Thanh văn và tương ứng với Niết-bàn. Lại nữa, này A-nan! Thế giới Cực lạc kia, không nghe thấy tên ác thú, không có tên chướng ngại phiền não ngăn che, không có tên địa ngục, diêm-ma, súc sinh, không có tên tám loại nạn, cũng không có cái tên về cảm thọ khổ, về cảm thọ không khổ không lạc, giả thiết khổ không còn có huống chi là có thực khổ, vì thế mà nước kia gọi tên là Cực lạc. Này A-nan! Nay ta lược nói nhân duyên của nước Cực lạc, nếu nói rộng thì cùng kiếp cũng không thể hết được. Lại nữa, này A-nan! Nước Cực lạc kia, các chúng sinh, hoặc đã sinh, hoặc hiện sinh, hoặc sẽ sinh, đều được sắc thân diệu mầu như thế, hình dáng đoan chánh, thần thông tự tại, phước lực đầy đủ, thọ dụng các loại cung điện, vườn rừng, y phục, ẩm thực, hương hoa, anh lạc tùy ý muốn dùng thứ gì đều được như ý nghó, ví như cõi trời Tha hóa tự tại. Lại nữa, này A-nan! Trong cõi nước của Đức Phật kia có những món ăn vi tế, các loài hữu tình chỉ nếm thử mà không ăn, giống như cõi trời thứ sáu tùy ý tưởng niệm mà thôi, ăn uống như thế cũng như là đã ăn rồi, sắc lực được tăng trưởng phát triển mà không có sự đại, tiểu tiện cấu uế. Lại có vô lượng như ý diệu hương, như hương bôi, hương bột, mùi hương này xông khắp cả cõi Phật kia và hoa để rải, tràng phan cũng đều đầy rẫy. Nếu muốn ngửi mùi hương nào đều được tùy theo ý nguyện. Còn như không muốn, thì trọn không bao giờ phải chịu cả. Lại có vô lượng thượng diệu y phục, mũ báu, vòng xuyến, hoa tai, giây vòng, hoa man, vòng đeo mọi thứ châu báu trang nghiêm, vô lượng quang minh, trăm ngàn diệu sắc, hết đều đầy đủ tự nhiên tại thân. Lại có lưới giăng bằng vàng, bạc, trân châu diệu bảo, treo các chuông báu trang sức khắp nơi, nếu có loài hữu tình nào cần dùng cung điện lầu vườn cao thấp, dài ngắn, rộng hẹp, vuông tròn và các giường tòa dùng áo bọc phủ trên đó, dùng các món châu báu để trang trí tô điểm, ở trước chúng sinh tự nhiên phát hiện, mọi người đều bảo nhau ở nơi cung điện ấy. Lại nữa, này A-nan! Cõi nước Cực lạc, chúng sinh không có tướng sai biệt, thuận theo phương tục mà có tên trời, người. Này A-nan! Ví như người hạ tiện Bán-trạch-ca kia so với Luân vương thì làm sao mà sánh dụ được với Luân vương, uy quang đức vọng thảy đều không có. Lại như Đế Thích so với trời thứ sáu, uy quang mọi loại đều không thể sánh kịp, vườn tược, cung điện, y phục các đồ trang sức, tôn quý tự tại, địa vị, thần thông cả đến biến hóa cũng không thể ví với Đế Thích được, chỉ có thọ pháp lạc là không sai khác thôi. A-nan nên biết! Hữu tình ở nước kia giống như cõi trời Tha hóa tự tại. A-nan! Cõi nước Cực lạc kia, vào những buổi sáng tối khắp cả bốn phương, gió hòa hiu hiu thổi động, không nghịch không loạn, thổi các loại tạp hoa, có các loại hơi hương thơm tho, xông khắp cả cõi nước đó. Tất cả hữu tình được gió thổi chạm vào thân thể, thì được sự an hòa điều thích giống như Tỳ-kheo được Diệt tận định. Gió đó thổi động từng cây bảy báu, hoa bay dồn lại thành đống cao lượng khoảng bảy người chồng lên nhau, các loại màu sắc ánh sáng soi rực rỡ cả cõi Phật. Ví như có người lấy hoa rải khắp mặt đất rồi lấy tay gạt làm cho bằng phẳng, tùy các thứ hoa tạp sắc lẫn lộn phân bố, các đống hoa kia cũng như thế, hoa này rất vi diệu rộng lớn mềm mại như Đâu-la miên, nếu như có các hữu tình nào giẫm chân vào hoa kia ngập sâu khoảng bốn ngón tay, tùy theo sự nhấc chân lên lại như lúc ban đầu. Sau thời gian sáng chiếu rồi hoa ấy tự nhiên biến mất vào lòng đất, hoa cũ đã biến mất, đại địa trở lại trong sạch, rồi lại mưa hoa mới hoàn lại khắp nơi. Cứ như thế trưa, chiều, đầu đêm, giữa đêm, cuối đêm gió thổi hoa thành đống hoa cũng như thế. Này A-nan! Tất cả các thứ báu trân kỳ rộng lớn này, không có một thứ gì mà không sinh ra ở nơi nước Cực lạc thế giới. Này A-nan! Trong nước Phật kia có hoa sen bảy báu, mỗi mỗi bông hoa sen bảy báu ấy có vô lượng trăm ngàn ức lá, lá sen có vô lượng trăm ngàn trân kỳ dị sắc, dùng trăm ngàn ma-ni diệu bảo trang nghiêm, dùng lưới báu che phủ bên trên hoa sen, càng làm thêm sự trang sức sáng đẹp cho nhau. Này A-nan! Hoa sen kia, hoặc nửa do-tuần, hoặc một, hai, ba, bốn cho đến trăm ngàn do-tuần, mỗi một hoa sen ấy phát ra ba mươi sáu ức na-do-tha trăm ngàn ánh sáng, trong mỗi một ánh sáng ấy lại xuất hiện ra ba mươi sáu ức na-do-tha trăm ngàn chư Phật, thân như sắc vàng, đủ ba mươi hai tướng trượng phu, tám mươi tướng tốt tùy hình thù thắng trang nghiêm, phóng ra trăm ngàn ánh sáng soi khắp thế giới. Các Đức Phật ấy hiện đi đến thế giới phương Đông vì chúng thuyết pháp, đều vì an lạc cho vô lượng hữu tình ở trong Phật pháp. Phương Nam, Tây, Bắc, bốn phía, trên, dưới, cũng như thế. Lại nữa, này A-nan! Thế giới Cực lạc không có hôn ám, cũng không có hỏa quang, suối hồ kia đều không có, cũng không trụ trước cả cái danh nhà cửa vườn rừng và biểu thị cái tượng ấu đồng sắc loại, cũng không có cái biểu tượng trời, trăng ngày đêm, đối với tất cả chỗ tiêu thức đã không cũng không có cả danh hiệu, chỉ trừ Đức Như Lai gia uy. Này A-nan! Chúng sinh sẽ sinh nước kia, tất cả đều là rốt ráo Bồ-đề đến xứ Niết-bàn. Vì cớ sao? Nếu lìa tà định tu hoặc bất định tu, thì không thể biết rõ được nhân duyên kiến lập kia. Này A-nan! Ở phương Đông, thế giới nhiều như cát sông Hằng, trong mỗi mỗi thế giới Phật nhiều như cát sông Hằng, chư Phật kia… đều ca ngợi Đức Phật A-di-đà có vô lượng công đức. Phương Nam, Tây, Bắc, bốn phía, trên, dưới chư Phật khen ngợi cũng như thế. Vì sao? Vì cõi Phật ở phương khác, có chúng sinh nào nghe danh hiệu của Như Lai Vô Lượng Thọ, cho đến phát khởi một niệm tịnh tín vui mừng yêu mến, có căn lành gì đều hồi hướng nguyện sinh về nước của Phật Vô Lượng Thọ, thì tùy theo nguyện đều được vãng sinh, đạt quả vị không thoái chuyển, cho đến Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, trừ năm tội vô gián, hủy báng chánh pháp và hủy báng Thánh Tăng. Này A-nan! Nếu có chúng sinh ở cõi Phật khác phát tâm Bồ-đề, chuyên niệm Phật Vô Lượng Thọ và thường trồng nhiều căn lành, phát tâm hồi hướng nguyện sinh về nước kia, người ấy tới khi mạng chung, Đức Vô Lượng Thọ Phật cùng với chúng Tỳ-kheo trước sau vây quanh hiện trước người ấy, người này liền theo Đức Như Lai vãng sinh về nước kia được không thoái chuyển, sẽ chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Bởi vậy, này A-nan! Nếu có thiện nam, thiện nữ nào nguyện sinh sang thế giới Cực lạc, muốn được thấy Đức Phật Vô Lượng Thọ, nên phải phát tâm Vô thượng Bồ-đề, lại phải chuyên niệm quốc độ Cực lạc, đem căn lành chứa góp được để hồi hướng về Tịnh độ, do thế mà được thấy Phật và sinh về nước kia, được không thoái chuyển cho đến Vô thượng Bồ-đề. Này A-nan! Nếu chúng sinh ở nước khác phát tâm Bồ-đề, tuy không chuyên niệm Phật Vô Lượng Thọ, cũng không thường trồng nhiều căn lành, tùy tự thân tu hành các công đức lành, hồi hướng và nguyện sinh về cõi nước của Đức Phật kia, người ấy đến khi mệnh chung, Đức Phật Vô Lượng Thọ liền khiến hóa thân, cùng với các Tỳ-kheo trước sau vây quanh, Phật Hóa thân cũng có hào quang tướng tốt như Phật thật không khác, hiện ra trước người ấy nhiếp thọ dẫn dắt. Người này liền theo Hóa Phật vãng sinh về nước đó, được không thoái chuyển nơi đạo Vô thượng Bồ-đề. Này A-nan! Nếu có chúng sinh trụ Đại thừa, đem tâm thanh tịnh hướng về Đức Như Lai Vô Lượng Thọ, cho đến niệm mười niệm Phật Vô Lượng Thọ nguyện sinh về nước đó, nghe pháp sâu xa liền sinh lòng tin hiểu, tâm không nghi hoặc cho đến được một niệm tịnh tâm, phát khởi một niệm tâm niệm Phật Vô Lượng Thọ, người ấy tới khi mệnh chung như ở trong chiêm bao thấy Phật Vô Lượng Thọ, nhất định sinh sang nước kia, được không thoái chuyển nơi đạo Vô thượng Bồ-đề. Này A-nan! Vì nghóa lợi ấy, cho nên vô lượng, vô số chẳng thể nghó bàn, không gì so sánh số chư Phật Như Lai trong vô biên thế giới, đều cùng nhau khen ngợi công đức vô lượng của Phật Vô Lượng Thọ. Phật bảo A-nan: –Phương Đông thế giới nhiều như số cát sông Hằng, trong mỗi mỗi thế giới có Bồ-tát nhiều như cát sông Hằng, vì muốn chiêm lễ cúng dường Phật Vô Lượng Thọ và Thánh chúng lại đến chỗ Phật Vô Lượng Thọ. Phương Nam, Tây, Bắc, phương Trên, phương Dưới và bốn phương góc cũng lại như thế. Bấy giờ Đức Thế Tôn nói bài tụng rằng: Các cõi Phật phương Đông Số như cát sông Hằng Trong cõi Phật như thế Hằng sa chúng Bồ-tát Đều hiện thần thông đến Lễ Phật Vô Lượng Thọ. Ba phương các Thánh chúng Cũng cùng về lễ hầu Trong hằng sa giới kia Hào quang các biện luận Trụ sâu vui Thiền định Bốn tâm Vô sở úy Đều đem các diệu hoa Danh hương đều đáng thích Gồm tấu các nhạc trời Trăm ngàn tiếng hòa nhã Dâng cúng Thiên Nhân Sư. Tiếng đồn khắp mười phương Uy thần lực rốt ráo Khéo học các pháp môn Trong các món cúng dường Siêng tu không lười biếng Công đức cùng trí tuệ Hay phá mọi tối tăm Đều đem tâm tôn trọng Phụng cúng mọi trân diệu. Kia xem lợi thù thắng Chúng Bồ-tát vô biên Nguyện mau thành Bồ-đề Cõi tịnh như An lạc. Thế Tôn biết lòng muốn Rộng lớn chẳng nghó bàn Mỉm cười hiện kim dung Thành báu như sở nguyện. Biết các pháp như huyễn Cõi Phật như mộng, hưởng Thường phát thệ trang nghiêm Sẽ thành cõi vi diệu. Bồ-tát dùng nguyện lực Tu thắng hạnh Bồ-đề Quốc độ như ảnh tượng Phát các tâm hoằng thệ Nếu cầu khắp thanh tịnh Lợi thù thắng vô biên Nghe danh Phật thắng đức Nguyện sinh nước An lạc. Nếu có các Bồ-tát Chí cầu cõi thanh tịnh Thấu suốt pháp vô ngã Nguyện sinh nước An lạc. Lại nữa, này A-nan! Bồ-tát ở thế giới Cực lạc, đối với đạo Vô thượng Bồ-đề, đều an trụ Nhất sinh bổ xứ, chỉ trừ các Đại Bồ-tát phát đại nguyện mặc đại giáp trụ làm sư tử hống vì độ quần sinh tu đại Niết-bàn. Lại nữa, này A-nan! Các chúng Thanh văn ở trong cõi Phật kia thân đều có hào quang chiếu soi tám thước, hào quang của Bồ-tát chiếu soi cực trăm ngàn thước, trừ hai vị Bồ-tát quang minh thường chiếu soi tam thiên đại thiên thế giới. A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Hai vị Bồ-tát kia tên là gì? Phật bảo A-nan: –Ông nay nghe cho kỹ, hai vị Bồ-tát kia một tên là Quán Tự Tại, hai là tên Đại Thế Chí. Này A-nan! Hai vị Bồ-tát này, từ thế giới Ta-bà bỏ thọ lượng rồi đi đến nước kia. Này A-nan! Bồ-tát sinh ở thế giới Cực lạc kia, đều đủ ba mươi hai tướng, thân thể nhu nhuyến, các căn thông lợi, trí tuệ thiện xảo, đối với pháp sai biệt không pháp nào chẳng thấu suốt, thiền định thần thông du hý tuyệt vời, đều không phải kẻ bạc đức căn tánh chậm lụt. Trong các hàng Bồ-tát kia có người được Sơ nhẫn, hoặc Đệ nhị nhẫn vô lượng, vô biên, hoặc có người chứng được Vô sinh pháp nhẫn. Này A-nan! Bồ-tát ở nước kia cho đến khi chứng được Bồ-đề không đọa ác thú, sinh ra ở chỗ nào cũng biết được túc mệnh đời trước của mình, chỉ trừ trong đời ác năm trược xuất hiện ra ở đời. Này A-nan! Bồ-tát ở nước kia, vào lúc buổi sớm mai, cúng dường vô lượng trăm ngàn các Dức Phật ở phương khác, tùy theo chỗ mong cầu các loại hoa man, hương bôi, hương bột, cờ phướn, dù lọng và các âm nhạc, do thần lực của Phật đều hiện trong lòng bàn tay để cúng dường chư Phật. Đồ cúng dường to lớn rất nhiều như thế, vô số, vô biên chẳng thể nghó bàn. Nếu lại cầu các loại danh hoa, hoa có vô lượng trăm ngàn sắc quang, đều hiện trong tay để dâng cúng chư Phật. Này A-nan! Những loại hoa tung rải phụng tán kia liền ở trong hư không biến thành lọng hoa, lọng nhỏ cũng đầy khắp mười do-tuần, nếu như không tán hoa mới, thì hoa đã tán trước đây không bao giờ rơi rụng. Này A-nan! Hoặc có lọng hoa đầy khắp hai mươi do-tuần, như thế ba mươi, bốn mươi cho đến tam thiên đại thiên thế giới. Các Bồ-tát này thấy vậy sinh lòng hy hữu, được sự rất vui mừng, vào mỗi buổi sáng, phụng sự cúng dường, tôn trọng tán thán vô lượng trăm ngàn na-do-tha Đức Phật và gieo trồng các gốc lành rồi, ở trong sáng sớm lại trở về bản quốc. Đều do bản nguyện gia uy của Phật Vô Lượng Thọ và đã từng cúng dường Như Lai, gốc lành được tương tục không khuyết giảm, khéo tu tập, khéo nhiếp thủ các nghiệp thiện, khéo thành tựu mà được như thế. Lại nữa, này A-nan! Các chúng Bồ-tát ở thế giới Cực lạc kia, nói năng điều gì đều tương ứng với Nhất thiết trí, thọ dụng gì đều không nhiếp thủ, du hành khắp cả các cõi Phật mà không ưa, không chán cũng không mong cầu, không tưởng mong cầu, không tư tưởng, không phiền não tưởng, không ngã tưởng, không có tưởng đấu tranh trái nhau giận tiếc. Vì sao? Vì các Bồ-tát kia, đối với tất cả chúng sinh, có tâm đại Từ bi lợi ích, có tâm nhu nhuyễn không chướng ngại, tâm không ô trược, tâm không oán giận, tâm bình đẳng điều phục tónh lặng, tâm nhẫn nhục điều phục, tâm đẳng dẫn trừng tịnh không tán loạn, tâm không bị che khuất, tâm tịnh, tâm cực tịnh, tâm chiếu soi, tâm không trần cấu, tâm đại uy đức, tâm thiện, tâm rộng lớn, tâm không gì sánh, tâm thậm thâm, tâm ái pháp, tâm hỷ pháp, tâm thiện ý, tâm bỏ tất cả chấp trước, tâm đoạn tất cả phiền não cho chúng sinh, tâm đóng tất cả các nẻo ác thú, làm hạnh trí tuệ ấy rồi thành tựu vô lượng công đức. Đối với thiền định giác phần hay khéo diễn nói, mà thường tự tại nơi quả Vô thượng Bồ-đề siêng tu tập rồi ban bố rộng khắp. Nhục nhãn phát sinh có được sự chọn lọc, Thiên nhãn xuất hiện giám sát cõi Phật, Pháp nhãn thanh tịnh, viễn ly được mọi chấp trước, Tuệ nhãn thông suốt được đến bờ bên kia, Phật nhãn thành tựu giác ngộ khai thị, sinh trí tuệ vô ngại vì người khác rộng nói, ở trong ba cõi bình đẳng siêng tu, đã tự điều phục cũng hay điều phục tất cả hữu tình, hay khiến được Xa-ma-tha thù thắng, đối với tất cả pháp chứng Vô sở đắc, khéo hay thuyết pháp ngôn từ xảo diệu, siêng tu cúng dường tất cả chư Phật, bỏ dẹp tất cả phiền não cho hữu tình, được tất cả Đức Như Lai duyệt khả mới hay được như thế, suy nghó như thế. Khi khởi suy nghó như thế, thì có thể tập hợp, được thấy tất cả các pháp là vô sở đắc, dùng trí phương tiện tu hành pháp diệt, khéo biết thủ, xả, lý và phi lý thú, đối với trong lý và phi lý thú đều được thiện xảo. Đối với ngôn ngữ thế gian lòng không ưa muốn, kinh điển xuất thế thành tín siêng tu, thiện xảo tìm cầu tất cả các pháp, cầu tất cả các pháp tăng trưởng hiểu biết, biết tất cả pháp bản lai không thật chẳng thể nắm bắt. Đối với những chỗ sở hành cũng không lấy hoặc bỏ, giải thoát già, bệnh an trụ các công đức, từ trước đến nay lúc nào cũng an trụ thần thông siêng tu thâm pháp, đối với pháp thậm thâm không bao giờ thoái chuyển, đối với pháp khó giải đều thông suốt, được đạo Nhất thừa không còn nghi hoặc, đối với giáo pháp của Phật không phải do người khác mà được giác ngộ. Trí tuệ sâu rộng ví như biển lớn, Bồ-đề cao lớn ví như núi Tu-di, tự thân uy quang vượt hơn mặt trời, mặt trăng. Phàm suy nghó chọn lựa đều tương ứng với trí tuệ, tâm trong sạch cũng như núi Tuyết, vô biên công đức quang minh chiếu khắp đốt cháy củi phiền não, đối với lửa trí tuệ không hề bị thiện ác làm dao động, tâm tónh lặng thường an ổn như quả đại địa, tẩy rửa hoặc nghiệp phiền não như nước thanh tịnh, tâm không sở chủ cũng giống như lửa, không chấp trước thế gian cũng giống như gió, nuôi dưỡng hữu tình giống như đất, quan sát các thế giới cũng như hư không, gánh vác chúng sinh như cỗ xe tốt, không nhiễm thế pháp như hoa sen, tiếng Pháp âm xướng xa như sấm động, mưa tất cả pháp như cơn mưa lớn, bóng sáng che cho Hiền thánh như Đại Tiên kia, hay điều phục như đại Long tượng, dũng mãnh vô úy như Sư tử vương, che mát chúng sinh như cây Ni-câu-đà, tha luận bất động như núi Thiết vi, tu từ vô lượng như cát sông Hằng, các thiện pháp vương hay làm người dẫn đường như Đại Phạm thiên, không chứa góp giống như chim bay, bẻ gãy tha luận như Kim sí vương, khó gặp hiếm có như hoa Ưu-đàm, tâm trượng phu tối thắng chánh trực tu hành khéo léo không bao giờ lười biếng. Đối với các kiến hoặc thiện xảo quyết định, nhu hòa nhẫn nhục, không có tâm ghen ghét, luận pháp không chán, cầu pháp không mệt, thường siêng diễn nói lợi ích chúng sinh, giới như lưu ly trong ngoài sáng sạch, khéo nghe các pháp làm của báu thù thắng, nói năng điều gì đều khiến cho chúng sinh vui mừng kính phục, lấy trí tuệ dựng cờ đại pháp, thổi loa đại pháp, đánh trống đại pháp, thường ưa siêng năng tu hành dựng các pháp biểu, do ánh sáng trí tuệ tâm không mê hoặc, xa các tội lỗi cũng không tổn hại, bởi tâm thuần tịnh lìa các uế nhiễm. Thường làm tuệ thí, vónh viễn xả bỏ xan tham, bản tánh ôn hòa, thường mang lòng thẹn hổ, tâm tịch tónh, trí tuệ minh sát, làm đèn cho thế gian, phá ám cho chúng sinh, kham thọ lợi dưỡng làm ruộng phước thù thắng, làm đại Đạo sư khắp giúp mọi loài. Xa lìa yêu ghét, tâm tịnh không lo, dũng tiến không sợ, làm đại pháp tướng, rõ biết địa ngục, điều phục tự tha, lợi ích hữu tình, nhổ các tên độc, làm Thế gian giải, làm Thế gian sư, dẫn đạo quần sinh bỏ các ái trược, mãi lìa ba cấu, thần thông tự tại, nhân lực, duyên lực, nguyện lực, phát khởi lực, thế tục lực, xuất sinh lực, thiện căn lực, Tam-ma-địa lực, văn lực, xả lực, giới lực, nhẫn lực, tinh tấn lực, định lực, tuệ lực, Xa-ma-tha lực, Tỳ-bát-xá-na lực, thần thông lực, niệm lực, giác lực, tồi phục nhất thiết đại ma quân lực, tinh tha luận pháp lực, năng phá nhất thiết phiền não oán lực và thù thắng đại lực. Đầy đủ uy phúc tướng tốt đoan nghiêm, trí tuệ biện tài thiện căn viên mãn, mắt trong, mày dài người đều yêu mến, thân thể thanh khiết, xa lìa ngạo nghễ, đem tâm tôn trọng, phụng sự chư Phật, ở chỗ chư Phật gieo trồng các gốc lành, nhổ sạch kiêu mạn, lìa tham, sân, si, thù thắng cát tường, tối thắng trong hàng Ứng cúng, an trụ cảnh trí thù thắng, tuệ quang hiển hách trang nghiêm, tâm sinh vui mừng dũng mãnh vô úy, phúc trí đầy đủ không có hạn lượng, nói nghe khai thị mọi loài, tùy chỗ nghe pháp đều được rõ suốt, pháp phần Bồ-đề dũng mãnh siêng tu, thường an trụ nơi Không, Vô tướng, Vô nguyện và các Tam-ma-địa không sinh không diệt, đi khắp chốn đạo tràng, xa lìa hẳn hai thừa cảnh. Này A-nan! Ta nay chỉ nói lược công đức chân thật của các Đại Bồ-tát sinh ở thế giới Cực lạc kia, tất cả đều như thế. Này A-nan! Giả sử thân ta sống lâu trăm ngàn ức na-do-tha kiếp, dùng vô ngại biện, muốn khen ngợi đầy đủ công đức chân thật của các Đại Bồ-tát chúng cũng không thể nào cùng tận được! Này A-nan! Các Đại Bồ-tát kia dù cho hết thọ mệnh cũng không thể biết được. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo A-nan: –Đấy là thế giới Cực lạc của Đức Phật Vô Lượng Thọ, ông nên từ tòa đứng dậy chắp tay cung kính năm vóc gieo xuống đất vì Đức Phật làm lễ. Đức Phật kia tiếng đồn khắp cả mười phương, mỗi mỗi phương kia, Phật nhiều như số cát sông Hằng, đều cùng ca ngợi không ngại không đoạn. Lúc ấy, Tôn giả A-nan liền từ tòa ngồi đứng dậy, để hở vai áo bên phải, mặt hướng về hướng Tây, chắp tay năm vóc gieo xuống đất, bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Con nay muốn được thấy Đức Như Lai Vô Lượng Thọ ở thế giới Cực lạc và cúng dường phụng sự vô lượng trăm ngàn ức na-do-tha Phật và chúng Bồ-tát, trồng các gốc lành. Bấy giờ Đức Phật Vô Lượng Thọ, ở trong lòng bàn tay phóng ra ánh sáng lớn soi khắp trăm ngàn na-do-tha cõi nước khác, các cõi nước của các Đức Phật, có các núi lớn như: Hắc sơn, Bảo sơn, núi Tu-di, núi Mê lư, núi Đại Mê lư, núi Mục-chân-lân-đà, núi Ma-ha Mục-chân-lân-đà, núi Thiết vi, núi Đại Thiết vi, vườn rừng rậm rạp và các cung điện, thiên nhiên mọi vật, do ánh sáng của Phật đều được soi chiếu thấy hết, ví như có người dùng Thiên nhãn thanh tịnh quan sát khoảng một tầm thôi mà thấy hết được các vật sở hữu ở dưới đất, lại như ánh sáng của mặt trời khi xuất hiện vạn vật đều thấy rõ. Trong các nước kia, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, đều thấy hết được Đức Như Lai Vô Lượng Thọ như Tu-di sơn vương. Khi chiếu soi cõi nước của các chư Phật, khi ấy các cõi Phật đều thấy rõ hiện như ở gần đây mà thôi, vì ánh sáng thù thắng cực thanh tịnh của Đức Như Lai Vô Lượng Thọ mà được như vậy, thấy cả tòa cao kia và các Thanh văn, Bồ-tát chúng… số nhiều ví như đại địa bị nước lụt tràn đầy khắp, cây cối núi sông đều chìm hết không hiện chỉ thấy có nước lớn mà thôi. Cũng như thế, này A-nan! Trong cõi nước của Đức Phật kia không có tha luận và các loại dị hình, chỉ trừ ánh sáng một tầm của tất cả đại Thanh văn chúng và ánh sáng chiếu trăm ngàn tầm củavô số các Đại Bồ-tát, ánh sáng của Đức Như Lai Vô Lượng Thọ Ứng Chánh Đẳng Giác kia, rợp che tất cả Thanh văn và Bồ-tát. Thanh văn, chúng trời, người… ở thế giới Cực lạc kia, tất cả đều trông thấy Thích-ca Như Lai ở thế giới Ta-bà nói pháp và Tỳ-kheo chúng vây quanh. Bấy giờ Phật bảo Bồ-tát Di-lặc: –Ông có thấy đầy đủ thanh tịnh uy đức trang nghiêm cõi Phật và thấy trong hư không có rừng cây, vườn tược, suối chảy, ao ngòi không? Ông có thấy đại địa cho đến trời Sắc cứu cánh, ở trong hư không rải hoa như rừng cây để trang nghiêm, lại có cả các loài chim ở hư không giới, phát ra các thứ tiếng giống như tiếng nói của Phật mà thế giới khắp nghe, các loài chim ấy đều là do biến hóa mà thành chứ không phải súc sinh thật đâu, ông có thấy không? Đức Di-lặc bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Vâng, con đã thấy. Phật lại bảo Di-lặc: –Ông có thấy các chúng sinh ấy vào du-thiện-na trăm ngàn cung điện rồi, du hành như hư không không có sự trở ngại, cúng dường chư Phật khắp cả các cõi và thấy các hữu tình kia ngày đêm niệm Phật tương tục không? Di-lặc bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Ví như cõi trời Tam thập tam, trời Dạ-ma… vào trong cung điện trăm do-tuần, hoặc năm trăm do-tuần chơi đùa vui vẻ, con coi thấy thế giới Cực lạc người trụ thai, giống như trời Dạ-ma ở trong cung điện, lại thấy chúng sinh ở trong hoa sen ngồi kết già tự nhiên hóa sinh. Bấy giờ Bồ-tát Di-lặc lại bạch: –Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì chúng sinh ở nước kia lại có người sinh bằng thai hoặc hóa sinh? Phật bảo Di-lặc: –Nếu có chúng sinh sa đọa vào những sự nghi hối chứa góp căn lành, mong cầu Phật trí, trí phổ biến, trí chẳng nghó bàn, trí không gì sánh, trí uy đức, trí quảng đại, do căn lành không sinh lòng tin được, vì nhân duyên ấy nên phải ở trong cung điện trong năm trăm năm, không được nhìn thấy Phật, không được nghe pháp, không được thấy chúng Bồ-tát và Thanh văn. Nếu có chúng sinh nào đoạn trừ nghi hối chứa góp căn lành, mong cầu trí Phật cho đến trí quảng đại, tin tưởng nơi căn lành của mình, người ấy ở trong hoa sen ngồi kiết già, hốt nhiên hóa sinh trong nháy mắt mà sinh ra, ví như người ở nước khác đến. Bồ-tát ấy cũng lại như thế, ở nước khác phát tâm lại sinh ở nước Cực lạc, được thấy Phật Vô Lượng Thọ phụng sự cúng dường và các chúng Bồ-tát và Thanh văn. Này A-dật-đa! Ông xem người có trí tuệ thù thắng, nhân người kia có tuệ lực rộng nên được hóa sinh ở nước Cực lạc kia ở trong hoa sen ngồi kiết già. Ông xem những kẻ hạ liệt, ở trong năm trăm năm, không được trông thấy Phật, không được nghe pháp, không được thấy chúng Bồ-tát và Thanh văn, không biết phép tắc uy nghi của Bồ-tát, không hay tu tập các công đức, không có nhân lành phụng sự Phật Vô Lượng Thọ. Những người này đều là nhân khi xưa khi nghi hối mà gây ra như thế, ví như con của nhà vua Sát-đế-lợi bị phạm pháp, bị giam ở nội cung tối tăm, tuy ở trong cung điện lầu các được trang sức đẹp đẽ bằng các thứ trân bảo, màn báu giường bằng vàng, trải chăn đệm rất dày êm, danh hoa khắp cả đất, đốt đại bảo hương, ăn uống đầy đủ, nhưng lại bị khóa vàng cõi Diêm-phù-đề khóa cả hai chân. Phật bảo Di-lặc: –Theo ý ông nghó thế nào? Tâm của vương tử kia có vui được không? Di-lặc thưa: –Không thể vui được! Bạch Thế Tôn! Khi vương tử bị giam ở nội cung tối tăm, bị khóa hai chân nên thường suy nghó muốn được thoát ra khỏi, cầu xin những người thân quen biết như cư só, tể quan, trưởng giả, cận thần để mong được thoát ra. Thái tử của nhà vua tuy mong ra khỏi nhưng trọn không được toại lòng, cho đến vua Sát-đế-lợi, lòng sinh vui vẻ mới được giải thoát. Phật bảo Di-lặc: –Đúng vậy, đúng vậy! Nếu có người đọa lạc vào sự nghi hối, gieo trồng các căn lành, mong cầu trí Phật cho đến trí quảng đại, đối với tự căn lành không sinh lòng tin, do nghe danh hiệu của Phật mà khởi lòng tin, dù có sinh ở trong hoa sen trong nước kia cũng không được ra khỏi hoa sen. Các chúng sinh kia ở trong bào thai hoa sen, tưởng như đang ở trong vườn thượng uyển và ở trong cung điện. Vì sao? Vì ở trong kia trong sạch không có mọi thứ uế ái, tất cả không có một sự gì là không đáng vui cả. Song các chúng sinh kia ở trong năm trăm năm, không thấy Phật, không được nghe pháp, không thấy Bồ-tát và chúng Thanh văn, không được cúng dường phụng sự cho Phật, không được hỏi Pháp tạng của Bồ-tát, xa lìa tất cả căn lành thù thắng, bọn họ ở trong đó không sinh lòng vui mừng, không hay xuất hiện tu tập thiện pháp. Trong đời xa xưa tội lỗi hết rồi song sau mới được ra, ở trong lúc được ra kia, tâm mê mờ cả trên dưới bốn phương. Nếu như trong năm trăm không nghi hoặc, thì sẽ được cúng dường vô lượng trăm ngàn câu-chi na-do-tha Phật, gồm gieo trồng vô lượng, vô biên căn lành. Này A-dật-đa nên biết! Sự nghi hoặc là sự tổn hại lớn nhất đối với các Bồ-tát! Bấy giờ Bồ-tát Di-lặc bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Ở nơi cõi nước này, Bồ-tát sẽ sinh nước Cực lạc số là bao nhiêu? Phật bảo Di-lặc: –Trong cõi Phật độ này có bảy mươi hai ức Bồ-tát, các vị này đã ở vô lượng ức na-do-tha trăm ngàn chỗ Phật, gieo trồng các căn lành đạt quả không không thoái chuyển sẽ được sinh sang nước Cực lạc kia, ngoài ra còn có các Bồ-tát khác do ít căn lành được sinh sang nước kia, không thể nào tính đếm được. Này A-dật-đa! Từ nơi cõi nước của Đức Như Lai Nan nhẫn, có mười tám ức Bồ-tát không thoái chuyển sẽ được sinh sang thế giới Cực lạc. Trong nước Phật Bảo Tạng ở phương Đông bắc, có chín mươi ức Bồ-tát không thoái chuyển sẽ sinh cõi kia. Từ trong nước Vô Lượng Thanh Như Lai, có hai mươi ức Bồ-tát không thoái chuyển sẽ sinh nước kia. Từ trong nước của Quang Minh Như Lai, có ba mươi hai ức Bồ-tát không thoái chuyển sẽ sinh cõi kia. Từ trong nước Long Thiên Như Lai, có mười bốn ngàn Bồ-tát không thoái chuyển sẽ sinh nước kia. Từ trong nước Thắng Thiên Lực Như Lai, có mười hai ngàn Bồ-tát không thoái chuyển sẽ sinh nước kia. Từ trong nước Sư Tử Như Lai, có năm trăm Bồ-tát không thoái chuyển sẽ sinh nước kia. Từ trong nước Ly Trần Như Lai, có tám mươi mốt ức Bồ-tát không thoái chuyển sẽ sinh nước kia. Từ trong nước Thế Thiên Như Lai, có sáu mươi ức Bồ-tát không thoái chuyển sẽ sinh nước kia. Từ trong nước Thắng Tích Như Lai, có sáu mươi ức Bồ-tát không thoái chuyển sẽ sinh nước kia. Từ trong nước Nhân Vương Như Lai, có mười câu-chi Bồ-tát không thoái chuyển sẽ sinh nước kia. Từ trong nước Thắng Hoa Như Lai, có năm trăm Bồ-tát, đủ đại tinh tấn hướng đến Nhất thừa, ở trong bảy ngày khiến chúng sinh lìa trăm ngàn ức na-do-tha kiếp sinh tử lưu chuyển, các vị ấy cũng sẽ được sinh thế giới Cực lạc. Từ trong nước Phát Khởi Tinh Tấn Như Lai, có sáu mươi chín ức Bồ-tát không thoái chuyển sẽ sinh nước kia. Đến nước kia rồi, cúng dường lễ bái Như Lai Vô Lượng Thọ và chúng Bồ-tát. Này A-dật-đa! Nếu ta nói đủ các phương Bồ-tát sinh về thế giới Cực lạc, hoặc đã đến, nay đến, sẽ đến, vì cúng dường lễ bái chiêm ngưỡng Đức Phật Vô Lượng Thọ… chỉ nói tên thôi, cùng kiếp cũng không hết được. Này A-dật-đa! Ông xem các Bồ-tát Ma-ha-tát kia được lợi ích, như nghe danh hiệu của Đức Phật kia, chỉ sinh một niệm tâm vui mừng, sẽ được công đức như đã nói ở trên. Tâm hạ liệt không ngạo nghễ, thành tựu thiện căn hết đều tăng thượng. Này A-dật-đa! Vì thế ta bảo ông và trời, người trong thế gian, A-tu-la… pháp môn này phó chúc cho ông, ông nên phải ưa mến tu tập, cho đến trải qua một ngày đêm thọ trì, đọc tụng sinh lòng hiếm có, ở trong đại chúng, vì người khác khai thị, nên khiến viết chép giữ gìn kinh này, đối với trong kinh này sinh tưởng như bậc Đạo sư. Này A-dật-đa! Cho nên Bồ-tát Ma-ha-tát, muốn khiến vô lượng các chúng sinh… chóng an trụ không thoái chuyển nơi quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác và muốn thấy sự trang nghiêm rộng lớn kia, nhiếp thọ công đức viên mãn thù thắng ở cõi Phật kia, phải phát khởi sức tinh tấn nghe pháp môn này, giả sử trải qua lửa mạnh đầy trong đại thiên thế giới, vì cầu pháp không sinh tâm thoái lui siểm dối, đọc tụng, thọ trì, viết chép kinh quyển này, cho đến khoảng giây phút vì người khai thị, khuyên khiến nghe ngóng, không sinh lo não, giả như phải vào chỗ lửa lớn cũng không nên nghi hối. Vì sao? Vì vô lượng ức các Bồ-tát kia, tất cả đều cầu pháp môn này, tôn trọng nghe ngóng không sinh lòng làm trái ngược, vì thế các ông phải cầu pháp môn này. Này A-dật-đa! Các chúng sinh được lợi lành lớn lao kia, ở đời mai sau cho đến khi chánh pháp diệt, sẽ có chúng sinh gieo trồng các căn lành, đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, do Đức Như Lai kia uy lực gia hộ mà được pháp môn rộng lớn như thế, được tất cả các Đức Như Lai khen ngợi duyệt khả. Nếu đối với pháp kia nhiếp thủ gìn giữ, sẽ được trí Nhất thiết trí rộng lớn, tùy theo ý muốn trồng các căn lành. Nếu có thiện nam, thiện nữ nào hiểu rõ nghóa rộng lớn trong pháp kia, hãy nên nghe sẽ được đại hoan hỷ và hãy thọ trì, đọc tụng, rộng vì người khác nói, thường ưa tu hành. Này A-dật-đa! Vô lượng ức số các Bồ-tát cầu thỉnh pháp này, không từng chán trái, cho nên các ngươi, thiện nam và thiện nữ, ở đời mai sau đối với pháp môn này hoặc đã cầu, hiện cầu và sẽ cầu đều được thiện lợi. Này A-dật-đa! Như Lai chỗ nên làm đều đã làm. Các ông nên phải an trụ chỗ không còn nghi ngờ và gieo trồng các căn lành, nên phải tu học khiến cho không còn nghi ngờ nữa, không nên tham vào tất cả chủng loại trân bảo để thành tựu lao ngục. Này A-dật-đa! Phật ra đời rất khó, thân lìa tám nạn cũng là khó được, pháp môn vô thượng của chư Phật Như Lai, các pháp sâu xa mười Lực, Vô úy, Vô ngại, Vô trước và pháp của Bồ-tát ba-la-mật…, người hay thuyết pháp cũng khó khai thị. Này A-dật-đa! Người khéo thuyết pháp không phải dễ gặp được, khi kiên cố tin sâu cũng rất khó gặp, cho nên ta nay như lý tuyên nói, các ông tu tập nên theo lời dạy. Này A-dật-đa! Nay ta đem pháp môn này và các Phật pháp chúc lụy cho ông, ông phải tu hành đừng để cho pháp môn này bị diệt mất. Pháp môn rộng lớn vi diệu như thế, đã được tất cả chư Phật khen ngợi, không nên làm trái lời Phật dạy mà bỏ đi, sẽ khiến cho các ông không được lợi lành, sẽ phải thâu đêm chìm đắm đủ mọi khổ ách. Cho nên ta nay làm đại phó chúc này sẽ khiến cho pháp môn này được tồn tại dài lâu bất diệt. Nên phải siêng năng tu hành thuận theo lời của ta dạy bảo. Khi ấy Đức Thế Tôn nói bài tụng rằng: Nếu như trước chưa tu phước đức Trọn không nghe pháp vi diệu này Dũng mãnh thành được các lợi lành Nên nghe kinh sâu xa như thế. Người kia từng thấy các Thế Tôn Hay làm đuốc sáng soi đời trước Nghe nhiều Tổng trì như biển lớn Họ được Thánh hiền lòng vui mừng. Người hạ liệt lười biếng tà kiến Chẳng tin Như Lai chánh pháp ấy Nếu từng theo luật trồng căn lành Hạnh cứu đời kia thường tu tập. Ví như người lòa thường tối tăm Không thể dẫn đường cho người khác Thanh văn đối Phật trí cũng vậy Làm sao giác ngộ hữu tình khác Như Lai công đức Phật tự biết Chỉ có Thế Tôn hay mở bày Trời, Rồng, Dạ-xoa đều không kịp Nhị thừa tự tuyệt ở danh ngôn. Nếu các hữu tình sẽ thành Phật Tu vượt Phổ Hiền đến bờ kia Diễn nói công đức của một Phật Trải qua nhiều kiếp chẳng nghó bàn Trung gian khi ấy thân diệt độ Thắng tuệ của Phật không lường được. Vì thế tin nghe phải đầy đủ Và được bạn lành thường nhiếp thọ Được nghe diệu pháp sâu như thế Thường được Thánh tôn đều kính trọng Như Lai thắng trí khắp hư không Nghóa nói ra chỉ có Phật ngộ. Bởi thế các trí só bác văn Nên tin ta nói lời như thực Được làm thân người là rất khó Gặp Phật ra đời lại khó hơn! Tín tuệ phải nhiều đời mới được Vì thế người tu nên tinh tấn. Diệu pháp như thế đã nghe rồi Thường nhớ chư Phật lòng vui mừng Người kia kiếp trước thực bạn ta Khéo hay ưa muốn Phật Bồ-đề. Bấy giờ Đức Thế Tôn nói kinh này rồi, trời, người trong thế gian có một vạn sáu ngàn na-do-tha ức chúng sinh xa lìa trần cấu, được Pháp nhãn tịnh; hai mươi ức chúng sinh được pháp quả vị A-la-hán, sáu ngàn tám trăm Tỳ-kheo các lậu đã tận, tâm được giải thoát; bốn mươi ức Bồ-tát đối với đạo Vô thượng Bồ-đề trụ không thoái chuyển, mặc đại giáp trụ sẽ thành Chánh giác, có hai mươi lăm ức chúng sinh được pháp nhẫn không thoái, có bốn vạn ức na-do-tha trăm ngàn chúng sinh đối với đạo Vô thượng Bồ-đề chưa từng phát ý, hay mới gieo trồng các căn lành, nguyện sinh về thế giới Cực lạc thấy Phật A-di-đà, đều sẽ sinh về cõi nước của Đức Như Lai kia. Các phương khác lần lượt được thành Phật cùng tên là Diệu Âm, có tám vạn ức na-do-tha chúng sinh được thọ ký pháp nhẫn thành Vô thượng Bồ-đề, là những loài hữu tình mà Phật Vô Lượng Thọ kia khi xưa tu hành đạo Bồ-tát đã thành thục cho, những hữu tình này đều sẽ sinh thế giới Cực lạc, nhớ nghó chỗ phát tự nguyện khi xưa đều được thành mãn. Bấy giờ tam thiên đại thiên thế giới chấn động sáu cách, gồm hiện các loại thần biến hiếm có, phóng ánh sáng lớn chiếu khắp thế giới, vô lượng ức na-do-tha trời, người, ngay lúc đó âm nhạc không trỗi mà tự vang, mưa hoa trời Mạn-đà-la, hoa ngập tới gối cho đến cõi trời A-ca-nị-tra, làm ra các loại vi diệu thù thắng để cúng dường. Phật nói kinh này rồi, Bồ-tát Di-lặc… và Tôn giả A-nan, tất cả đại chúng nghe Phật nói đều rất hoan hỷ tín thọ vui mừng.  KINH ĐẠI BẢO TÍCH <卷 id="86423682">QUYỂN 19 Hán dịch: Đời Đại Đường, Tam tạng Pháp sư Bồ-đề-lưu-chí <詞 id="86423683">Pháp hội 6: NHƯ LAI BẤT ĐỘNG (Phần 1) <章 id="86423684">Phẩm 1: THỌ KÝ TRANG NGHIÊM Tôi nghe như vầy: Một thời Đức Phật ở thành Vương xá tại núi Kỳ-xà-quật cùng một ngàn hai trăm năm mươi vị đại Tỳ-kheo, chúng đại Tỳ-kheo này đều là bậc A-la-hán được nhiều người biết. Các vị đã dứt hết những phiền não, tâm tuệ giải thoát tự tại không ngại như con rồng lớn, việc làm đã xong, cắt được gánh nặng, đạt được lợi ích của chính mình, hết các ràng buộc, thông đạt Chánh giác đến bờ kia, chỉ riêng Tôn giả A-nan còn ở bâïc Hữu học. Lúc ấy Tôn giả Xá-lợi-phất từ chỗ ngồi đứng dậy để hở vai áo bên phải, gối phải chấm đất, chắp tay hướng lên Đức Phật bạch: –Bạch Thế Tôn! Thuở xưa các Đại Bồ-tát hướng đến Vô thượng Bồ-đề thế nào? Rộng tu các hạnh thanh tịnh, mặc áo giáp tinh tấn công đức trang nghiêm thế nào? Các Đại Bồ-tát ấy do mặc áo giáp nên được không thoái chuyển nơi đạo Vô thượng Bồ-đề. Bạch Thế Tôn! Hạnh nguyện và sự phát tâm ấy, xin Đấng Đại Từ khai thị diễn thuyết cho. Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát ấy vì lợi ích an lạc chư Thiên và nhân dân mà chuyên cần tu tập các hạnh thanh tịnh mặc áo giáp tinh tấn, do đó mà lợi ích an lạc tất cả chúng sinh và sẽ làm ánh sáng Phật pháp lớn cho chúng Bồ-tát hiện tại và vị lai, vì họ tán dương nên công đức chứng được căn lành. Các Bồ-tát nghe pháp này rồi chuyên cần tu học chân như pháp tánh sẽ được Vô thượng Bồ-đề. Đức Phật dạy: –Lành thay! Lành thay! Này Xá-lợi-phất! ông có thể thưa hỏi Như Lai về tịnh hạnh quang minh, giáp trụ rộng lớn, công đức sâu dày của các Đại Bồ-tát thuở quá khứ để nhiếp thọ các Đại Bồ-tát vị lai. Lắng nghe, lắng nghe, suy gẫm đúng lý, ta sẽ vì ông mà nói. Ngài Xá-lợi-phất thưa: –Bạch Thế Tôn! Chúng con xin muốn được nghe. Đức Phật dạy: –Này Xá-lợi-phất! Từ đây qua phương Đông, quá một ngàn thế giới có quốc độ tên là Diệu hỷ. Thuở xưa có Đức Phật hiệu Quảng Mục Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác xuất hiện trong nước Diệu hỷ ấy, vì các Đại Bồ-tát nói pháp vi diệu, dùng sáu pháp Ba-la-mật-đa làm đầu. Lúc ấy có một Tỳ-kheo từ chỗ ngồi đứng dậy, để hở vai áo bên phải, gối phải chấm đất, chắp tay hướng lên Đức Quảng Mục Như Lai mà bạch rằng: “Bạch Thế Tôn! Như lời Đức Phật đã dạy giáo pháp và chí nguyện tu hành của Bồ-tát.” Đức Quảng Mục Như Lai nói: “Này Tỳ-kheo, nay ông cần phải biết giáo pháp Bồ-tát rất khó tu tập. Tại sao? Vì Bồ-tát đối với chúng sinh chẳng có lòng sân hại.” Tỳ-kheo ấy bạch rằng: “Bạch Thế Tôn! Từ hôm nay con phát tâm Vô thượng Bồ-đề, dùng lòng không dua dối, lời nói chân thật chẳng đổi khác để cầu Nhất thiết chủng trí. Từ nay cho đến chừng nào chưa được Vô thượng Bồ-đề, đối với tất cả chúng sinh nếu con sinh lòng sân hại thì chính là trái bỏ chư Phật Như Lai hiện đang thuyết pháp trong vô lượng, vô số, vô biên thế giới. Bạch Thế Tôn! Nay con phát tâm Nhất thiết chủng trí này hồi hướng như vậy. Nếu giữa chừng con lại phát tâm Thanh văn, Duyên giác thì là khi dối tất cả chư Phật. Bạch Thế Tôn! Nay con phát tâm Nhất thiết chủng trí này hồi hướng như vậy, cho đến chừng nào chưa được Vô thượng Bồ-đề, đối với tất cả chúng sinh nếu con sinh lòng ái dục, sân hại, ngu si, hoặc tương ưng với hôn trầm, cống cao, ác tác thì là khi dối tất cả Như Lai. Bạch Thế Tôn! Nay con phát tâm Nhất thiết chủng trí này hồi hướng như vậy, cho đến chừng nào chưa được Vô thượng Bồ-đề, nếu con sinh lòng nghi hoặc, lòng sát hại, lòng trộm cắp, hoặc sinh khởi tà kiến, dâm dục, nói dối, nói lời ác khẩu, nói hai lưỡi làm tổn hại chúng sinh thì con đã khi dối tất cả chư Phật.” Lúc ấy có Tỳ-kheo khác nghó rằng: “Vị Bồ-tát này do mới phát tâm mặc áo giáp tinh tấn, đối với tất cả chúng sinh chẳng bị sân hại… làm lay động.” Nhân vì có niệm nghó ấy nên trong nước Diệu hỷ đặt hiệu cho Bồ-tát ấy là Bất Động. Đức Quảng Mục Như Lai thấy Bồ-tát ấy được hiệu Bất Động cũng tùy hỷ khen hay. Tứ Thiên vương, Đế Thích, Phạm vương nghe danh hiệu ấy cũng đều tùy hỷ. Này Xá-lợi-phất! Lúc ấy Bồ-tát Bất Động ở trước Đức Quảng Mục Như Lai bạch rằng: “Bạch Thế Tôn! Nay con phát tâm Nhất thiết chủng trí hồi hướng Vô thượng Bồ-đề như vậy, cho đến chừng nào chưa chứng Vô thượng Bồ-đề, chỗ tu hành nếu trái lời ấy thì khi dối chư Phật, Như Lai hiện đang thuyết pháp tại vô lượng, vô số thế giới. Bạch Thế Tôn! Nay con phát đại tâm hồi hướng Vô thượng Bồ-đề như vậy, cho đến chừng nào chưa được Vô thượng Bồ-đề nếu ở nơi mỗi mỗi lời nói chẳng tương ưng với niệm Phật và Nhất thiết chủng trí là khi dối tất cả chư Phật. Bạch Thế Tôn! Nay con phát tâm hồi hướng như vậy, cho đến chừng nào chưa chứng Vô thượng Bồ-đề, nếu đời đời làm người tại gia mà chẳng xuất gia là khi dối tất cả chư Phật. Bạch Thế Tôn! Nay con phát đại tâm hồi hướng như vậy, cho đến chừng nào chưa chứng Vô thượng Bồ-đề, đời đời xuất gia nếu chẳng khất thực, chẳng một lần ngồi ăn, chẳng ăn tiết giảm, chẳng trì ba y, chẳng đắp y phấn tảo, chẳng theo chỗ mà ngồi, chẳng thường ngồi, chẳng ở A-lan-nhã, chẳng ở dưới cây, chẳng ngồi chỗ trống, chẳng ở gò mả là khi dối tất cả chư Phật. Bạch Thế Tôn! Nay con phát tâm đại Bồ-đề này hồi hướng như vậy, cho đến chừng nào chưa được Nhất thiết chủng trí, nếu con chẳng thành tựu biện tài vô ngại thuyết các diệu pháp là khi dối vô số chư Phật. Bạch Thế Tôn! Nay con phát tâm như vậy, cho đến chừng nào chưa được Vô thượng Bồ-đề, nếu con chẳng an trụ ba oai nghi hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc kinh hành là con khi dối vô lượng chư Phật. Bạch Thế Tôn! Nay con phát tâm vô thượng, cho đến chừng nào chưa được Nhất thiết chủng trí, nếu đối với chúng sinh con phạm tội căn bản, hoặc nói vọng ngữ và những lời huyên náo thế tục khác, hoặc khởi lòng xấu đến luận thuyết của người khác là khi dối vô số chư Phật. Bạch Thế Tôn! Nay con phát tâm Nhất thiết chủng trí này an trụ hồi hướng Vô thượng Bồ-đề, hoặc có lúc thuyết pháp cho hàng phụ nữ, nếu con chẳng khởi cảm tưởng vô thường, khổ, không, vô ngã mà lại nghó lấy tướng người nữ và nhe răng cười là con khi dối tất cả chư Phật. Bạch Thế Tôn! Nay con phát tâm Nhất thiết chủng trí hồi hướng an trụ Vô thượng Bồ-đề, nếu trong khi thuyết pháp nhìn ngó chỉ trỏ khinh dể hoặc thấy các Bồ-tát khác mà chẳng nghó tưởng đến bậc đại sư là con khi dối vô số chư Phật. Bạch Thế Tôn! Nay con phát tâm Nhất thiết chủng trí hồi hướng Vô thượng Bồ-đề, trừ Sa-môn đệ tử của chư Phật, nếu con ngồi nghe pháp và lễ lạy Sa-môn, Bà-la-môn ngoại đạo là khi dối tất cả chư Phật. Bạch Thế Tôn! Nay con phát đại tâm này cho đến Vô thượng Bồ-đề, lúc thực hành tài thí, pháp thí, nếu lòng con còn có bỉ thử, với chỗ đáng cúng dường lại sinh lòng giản dị là khi dối tất cả chư Phật. Bạch Thế Tôn! Nay con phát tâm Nhất thiết chủng trí, cho đến Vô thượng Bồ-đề, nếu thấy các người tội sắp bị hình phạt mà chẳng xả thân mạng để cứu hộ họ là khi dối tất cả chư Phật.” Này Xá-lợi-phất! Lúc Bồ-tát Bất Động ấy tu đại hạnh như vậy cho đến chừng nào chưa chứng quả Vô thượng Bồ-đề, không một chúng sinh nào sắp bị hình phạt mà chẳng cứu hộ họ. Này Xá-lợi-phất! Thuở ấy có một vị Tỳ-kheo nghó rằng: “Đức Như Lai đối với đại hạnh ấy nên tác chứng minh. Chúng Trời, Người, A-tu-la... kia cũng nên chứng kiến.” Này Xá-lợi-phất! Lúc ấy Đức Quảng Mục Như Lai biết tâm niệm của Tỳ-kheo ấy liền phán rằng: “Đúng như vậy! Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác chứng kiến đại hạnh ấy, các thế gian chúng Trời, Người, A-tu-la… cũng chứng kiến. Nếu có Đại Bồ-tát nào mặc áo giáp đại tinh tấn như vậy hướng đến Vô thượng Bồ-đề, đều sẽ thành Phật đạo.” Này Xá-lợi-phất! Lúc ấy Bồ-tát Bất Động bạch Đức Quảng Mục Như Lai rằng: “Bạch Thế Tôn! Nay con phát tâm Nhất thiết chủng trí này, cho đến chừng nào chưa chứng Vô thượng Bồ-đề, giữa chừng nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di nào phạm tội, mà con đi nói tội phạm của họ là trái bỏ chư Phật Như Lai. Bạch Thế Tôn! Con tu công hạnh ấy nguyện thành Vô thượng Bồ-đề, làm cho cõi nước con rộng lớn thanh tịnh, chúng Thanh văn đều không có lầm lỗi. Bạch Thế Tôn! Nay con phát tâm Nhất thiết chủng trí, cho đến chừng nào con chưa chứng Vô thượng Bồ-đề, nếu sinh tưởng niệm dâm dục tiết ra bất tịnh, cho đến trong lúc chiêm bao, là trái bỏ chư Phật Như Lai. Bạch Thế Tôn! Con tu đại hạnh này chứng Vô thượng Chánh giác, khiến trong nước con những Bồ-tát xuất gia trong lúc chiêm bao cũng không tưởng dục tiết ra bất tịnh. Bạch Thế Tôn! Nay con phát tâm Nhất thiết chủng trí, cho đến chứng được Vô thượng Bồ-đề, trong nước con, nếu hàng nữ nhân còn có lỗi lầm của người nữ như các nước khác thì con chẳng ở ngôi Chánh giác. Nếu ở ngôi Chánh giác là khi dối tất cả chư Phật.” Này Xá-lợi-phất! Nếu Bồ-tát do công năng đại nguyện ấy thành tựu thì tùy niệm xuất sinh các pháp như vậy có thể thuyết pháp cho tất cả chúng sinh. Này Xá-lợi-phất! Thuở ấy có Tỳ-kheo thưa Bồ-tát Bất Động rằng: “Bạch Đại só, nếu đây là tâm thành không thoái chí, lời nói không hư vọng, thì xin ngài dùng ngón chân lay động mặt đất.” Bồ-tát Bất Động nương oai thần của Phật và sức bản nguyện căn lành làm cho mặt đất Diệu hỷ ấy chấn động sáu cách; đó là chấn, đại chấn và biến chấn, động, đại động và biến động. Này Xá-lợi-phất! Đúng như lời phát nguyện thuở xưa, Bồ-tát Bất Động nay đã hoàn thành tất cả công hạnh. Vì thế nên có Bồ-tát nào muốn chứng Vô thượng Bồ-đề thì nên học theo Bồ-tát Bất Động. Nếu có Bồ-tát nào khéo tu những hạnh nguyện ấy thì sẽ được như cõi nước Diệu hỷ ấy và có thể mau chứng Vô thượng Bồ-đề. Lúc ấy Xá-lợi-phất bạch Phật rằng: –Bạch Thế Tôn! Lúc Bồ-tát Bất Động mới phát tâm có bao nhiêu Thiên tử đến dự hội? Đức Phật dạy: –Này Xá-lợi-phất! Thuở ấy trong đại thiên thế giới có bao nhiêu Tứ đại Thiên vương và cùng Đế Thích, Ma vương, Phạm Thiên vương… đều hoan hỷ chắp tay xướng lên rằng: “Những đại nguyện công đức được nghe hôm nay là những điều mà từ trước chúng tôi chưa từng nghe. Lúc Bồ-tát Bất Động thành Phật, trong cõi nước ấy chẳng phải hạng căn lành thấp kém mà được làm chúng sinh ở nước ấy". Xá-lợi-phất bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Như lời Phật đã dạy, áo giáp công đức của Bồ-tát Bất Động mặc là chỗ chưa từng có ở các Bồ-tát khác. Đức Phật dạy: –Này Xá-lợi-phất! Đúng như vậy! Các Bồ-tát khác mặc áo giáp lớn phát tâm hướng đến Vô thượng Bồ-đề, không giống như Đại Bồ-tát Bất Động. Này Xá-lợi-phất! Công đức của Bồ-tát Bất Động thành tựu, tất cả Bồ-tát trong kiếp Hiền này thảy đều không có. Này Xá-lợi-phất! Thuở ấy Đức Quảng Mục Như Lai thọ ký Vô thượng Bồ-đề cho Bồ-tát Bất Động mà dạy rằng: “Này thiện nam! Ở đời sau này, ông sẽ làm Phật hiệu là Bất Động Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.” Đức Quảng Mục Như Lai thọ ký Vô thượng Bồ-đề cho Bồ-tát Bất Động, như Đức Phật Nhiên Đăng thọ ký cho ta vậy. Này Xá-lợi-phất! Lúc Bồ-tát Bất Động được thọ ký có quang minh lớn chiếu khắp thế giới, đại địa chấn động sáu cách giống như ngày trước lúc ta chứng Nhất thiết chủng trí, cõi đại thiên này cũng chấn động sáu cách. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Thuở ấy tất cả cỏ cây lùm rừng đều ngả ngọn hướng về phía Bồ-tát Bất Động, cũng như ngày trước lúc ta chứng Bồ-đề, tất cả cỏ cây đều ngả hướng về ta vậy. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Lúc Bồ-tát Bất Động được thọ ký, ở cõi nước Diệu hỷ ấy có bao nhiêu hàng Trời, Rồng, Dạ-xoa, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, tất cả đều chắp tay đảnh lễ Bồ-tát Bất Động. Như lúc ta chứng Vô thượng Bồ-đề trong cõi này, tất cả hàng Trời, Rồng tám bộ chúng đều chắp tay đảnh lễ ta vậy. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Lúc Bồ-tát Bất Động được thọ ký, trong nước Diệu hỷ ấy, người nữ mang thai đều được an lành, người mù được thấy, người điếc được nghe, không khác ngày ta thành Phật vậy. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Lúc Bồ-tát Bất Động phát nguyện hướng đến Vô thượng Bồ-đề và lúc Đức Như Lai Quảng Mục thọ ký, cả hai lúc ấy tất cả chúng sinh đều không có nạn hoạnh tử, cũng giống như lúc ta chứng Nhất thiết chủng trí. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Lúc Bồ-tát Bất Động được thọ ký, có hương duyệt ý thơm khắp thế giới, cũng như ngày trước lúc ta chứng đại Bồ-đề có hương thích ý thơm ngát khắp mọi nơi. Xá-lợi-phất bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát Bất Động ấy thành tựu những công đức rộng lớn như vậy. Đức Phật dạy: –Này Xá-lợi-phất! Được Đức Như Lai Quảng Mục thọ ký, Bồ-tát Bất Động ấy chẳng phải chỉ có những công đức ấy, lại còn có thể được vô biên công đức Ba-la-mật-đa. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Lúc Bồ-tát Bất Động được thọ ký, thế gian, như Trời, Người, A-tu-la..., lòng họ đều vui mừng nhu thuận hiền lành, cũng như lúc ta thành đạo Bồ-đề, chúng trời, người... đều vui mừng vậy. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Lúc Bồ-tát Bất Động được thọ ký, có đại Dạ-xoa tay cầm chày Kim cang hầu hạ Bồ-tát, như ta không khác. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Lúc Bồ-tát Bất Động được thọ ký, chúng trời, người rải những hoa đẹp và hương nước, hương bột lên trên Bồ-tát, giống như lúc ta chứng đạo Bồ-đề. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Lúc Bồ-tát Bất Động được thọ ký, có chúng trời, người đều hai mươi ức vị phát tâm Vô thượng Bồ-đề được Đức Quảng Mục Như Lai thọ ký thành Phật. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Lúc Bồ-tát Bất Động được thọ ký, những hoa sen xanh, hoa sen vàng, hoa sen đỏ, hoa sen trắng nở khắp đại địa, cũng như Bồ-đề đạo tràng của ta hoa nở trùm khắp. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Lúc Bồ-tát Bất Động được thọ ký, có vô lượng chư Thiên ở trên hư không rải những Thiên y choàng trên mình Bồ-tát và đồng xướng rằng cầu nguyện Bồ-tát này mau chứng Vô thượng Bồ-đề, như lúc ta được Nhất thiết chủng trí chư Thiên rải y cúng dường. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Thuở ấy thế gian, Trời, Người, A-tu-la… thấy Bồ-tát Bất Động được thọ ký Vô thượng Bồ-đề đều rất vui mừng, còn hơn là người đời cha mẹ sinh con trai. Cũng như lúc ta chứng Nhất thiết chủng trí, chúng trời, người... đều rất vui mừng. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Khắp cõi nước Diệu hỷ ấy, tất cả trời, người, do thần lực của Đức Như Lai Quảng Mục, đều nghe Bồ-tát Bất Động được thọ ký, họ cúng dường nhiều thứ y phục tốt và món ăn ngon lành, như mọi người cúng dường Tỳ-kheo lúc tháng Ca-đề đã mãn. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Lúc Bồ-tát Bất Động được thọ ký, chúng sinh ở cõi Dục mang những món ăn ngon và tấu nhạc trời để dâng cúng dường. Này Xá-lợi-phất! Bồ-tát Bất Động được thọ ký rồi có nhiều công đức thành tựu như vậy. Tôn giả Xá-lợi-phất bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác rất là hy hữu, khéo nói cảnh giới của chư Phật chẳng thể nghó bàn. Cũng vậy, cảnh giới thiền định, cảnh giới loài Rồng chẳng thể nghó bàn, các nghiệp nhân và quả báo chẳng thể nghó bàn! Bạch Thế Tôn! Bồ-tát Bất Động ấy lúc mới phát tâm nhiếp thọ công đức thù thắng như vậy, được Đức Quảng Mục Như Lai thọ ký, lại hoàn thành những công đức lớn chẳng thể nghó bàn ấy. Đức Phật dạy: –Đúng như vậy! Đúng như lời ông nói đó! Bấy giờ Tôn giả A-nan thưa Tôn giả Xá-lợi-phất: –Bạch Đại đức, Bồ-tát mới phát tâm ấy mặc áo giáp tinh tấn, Đức Thế Tôn lược nói phần ít công đức vẫn còn chưa hết. Xá-lợi-phất nói: –Đúng như vậy! Đức Như Lai chỉ lược nói thôi. Vì sao? Vì Bồ-tát ấy an trụ nơi sự mới phát tâm, mặc áo giáp tinh tấn thành tựu vô lượng công đức chẳng thể nghó bàn. Tôn giả Xá-lợi-phất lại bạch Đức Phật rằng: –Bạch Thế Tôn! Nay Thế Tôn đã lược khen Bồ-tát Bất Động mặc áo giáp tinh tấn có công đức thù thắng rồi, cúi mong Đức Thế Tôn vì nhiếp thọ các Bồ-tát hiện tại và vị lai mà tuyên nói rộng cho. Đức Phật dạy: –Này Xá-lợi-phất! Bồ-tát Bất Động lúc mới phát tâm mặc áo giáp tinh tấn có công đức chẳng thể nghó bàn như vậy, nay ta vì ông mà nói phần ít. Lắng nghe, lắng nghe và khéo suy gẫm đó! Tôn giả Xá-lợi-phất bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Chúng con muốn xin được nghe. Đức Phật dạy: –Này Xá-lợi-phất! Bất Động Bồ-tát phát nguyện như vầy: “Giả sử hư không có đổi khác, hoằng thệ của con trọn chẳng thoái chuyển.” Do chí nguyện ấy nên bao nhiêu công đức, Bồ-tát Bất Động đều sớm thành tựu cả. Này Xá-lợi-phất! Ta chẳng thấy các Bồ-tát ở kiếp Hiền này, có ai mặc áo giáp tinh tấn như Bồ-tát Bất Động. Này Xá-lợi-phất! Công hạnh tu hành của Bồ-tát Bảo Tràng so với Bồ-tát Bất Động trong một ít phần cho đến phần ca-la cũng chẳng bằng một. Này Xá-lợi-phất! Bồ-tát Bất Động mặc áo giáp tinh tấn, vô lượng Bồ-tát khác đều không bằng được. Này Xá-lợi-phất! Bồ-tát Bất Động do thệ nguyện kiên cố ấy mà chứng Vô thượng Bồ-đề nay hiện ở thế giới Diệu hỷ hiệu là Như Lai Bất Động Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Như Lai Bất Động lúc tu hạnh Bồ-tát thuở xưa, có ai đến xin đầu mắt, tủy não, tay chân đều vui vẻ xả cho chẳng trái ý một ai. Này Xá-lợi-phất! Bất Động Như Lai từ khi mới phát tâm đến lúc chưa chứng Vô thượng Bồ-đề, do đại nguyện như vậy nên không mang những bệnh tật phong, nhiệt, đàm, đau đầu… Này Xá-lợi-phất! Như Lai Bất Động thuở xưa lúc hành Bồ-tát đạo được những pháp chưa từng có như vậy. Này Xá-lợi-phất! Vì thuở xưa đời đời sinh ra, Bồ-tát ấy cúng dường phụng thờ chư Phật, ở chỗ chư Phật ấy Bồ-tát thường tu phạm hạnh, vì thế nên đời nào cũng lại lấy tên là Bất Động, cả đời nào sinh ở cõi nước nào cũng nhằm đời có Phật, thường thấy Phật. Này Xá-lợi-phất! Ví như Quán đảnh Đại vương dòng Sát-đế-lợi ở trong nước được tự tại hơn cả, từ một cung điện sang qua một cung điện, chân vua chẳng đi trên đất, hưởng thụ vui năm dục. Bồ-tát Bất Động lúc tu Bồ-tát đạo, đời đời thường tu phạm hạnh, cúng dường chư Phật. Bồ-tát ấy thuyết pháp chỉ dạy đều tương ưng với Ba-la-mật-đa, ít có tương ưng với Thanh văn địa, có thể làm cho các Bồ-tát thẳng vào an trụ Vô thượng Bồ-đề. Do vì Bồ-tát ấy phát tâm an trụ Vô thượng Bồ-đề như vậy nên được công đức lợi ích rộng lớn như vậy. Bồ-tát Bất Động lại đem căn lành pháp thí hồi hướng Vô thượng Bồ-đề phát nguyện như vầy: “Lúc tôi thành Phật, tất cả Bồ-tát trong nước tôi, do oai lực của Phật, nghe tôi thuyết pháp đều thọ trì, đọc tụng hay phụng sự chư Phật Như Lai, từ một cõi Phật đến một cõi Phật, cho đến chừng nào chưa chứng Vô thượng Bồ-đề, thường chẳng xa rời chư Phật Thế Tôn, cũng như tôi vậy, chỉ trừ người đến cung trời Đâu-suất ở ngôi Bổ xứ. Vì sao? Vì pháp của Bồ-tát tự nhiên như vậy. Nếu từ cung trời Đâu-suất giáng thần ở thai mẹ, lúc từ hông phải sinh ra thì đại địa chấn động.” Này Xá-lợi-phất! Thân sau cùng của Bồ-tát có điềm tướng như vậy. Này Xá-lợi-phất! Như Tỳ-kheo đủ Thần túc thông vào trong cung điện như ở hư không, oai nghi đứng ngồi đều không chướng ngại. Cũng vậy, thân sau cùng của Bồ-tát dù ở thai mẹ mà như ở hư không, tất cả thứ bất tịnh nhơ uế trong thai bào chẳng nhiễm ô được, mùi hôi cũng chẳng nhiễm đến. Này Xá-lợi-phất! Như Lai Bất Động lúc hành Bồ-tát đạo thuở xưa phát nguyện như vầy: “Nếu tôi thành Phật, trong nước tôi những người hành Bồ-tát thừa và những người hành Thanh văn thừa đều dứt hết ma nghiệp. Trong tất cả thời, tất cả các loại ma chúng chẳng có được dịp, như tôi lúc hành Bồ-tát đạo dứt tất cả ma nghiệp, các Bồ-tát ấy cho đến chưa thành những công đức lớn thường siêng nhiếp thọ tu hành Bồ-đề hạnh.” Này Xá-lợi-phất! Như Lai Bất Động lúc hành Bồ-tát đạo thuở xưa, khi diễn thuyết các pháp và lúc lắng nghe pháp, thân và tâm của Bồ-tát ấy chẳng biết mỏi mệt. Vì sao? Vì lúc mới phát tâm hành Bồ-tát đạo, Bồ-tát đã được oai lực Pháp thân. Này Xá-lợi-phất! Như Lai Bất Động lúc hành Bồ-tát đạo đã phát nguyện như vầy: “Lúc tôi thành Phật, trong nước tôi, các Bồ-tát đều được Pháp thân viên mãn như tôi không khác.”  <章 id="86423685">Phẩm 2: CÔNG ĐỨC TRANG NGHIÊM CÕI PHẬT Lúc bấy giờ Tôn giả Xá-lợi-phất bạch Đức Phật rằng: –Bạch Thế Tôn! Thế Tôn đã nói Đức Như Lai Bất Động lúc hành Bồ-tát đạo có công đức rộng lớn rồi. Mong Thế Tôn lại nói rộng cõi nước công đức trang nghiêm thù thắng hiện tại của Đức Bất Động Như Lai, để cho hàng hữu tình tu Bồ-tát thừa nghe công đức ấy sinh lòng kính mến muốn thấy Đức Như Lai Bất Động để lễ bái cúng dường, hàng hữu tình ở Thanh văn thừa chứng bậc Vô học nghe cõi nước ấy công đức trang nghiêm cũng mong được chiêm lễ cúng dường phụng thờ. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Lành thay! Lành thay! Này Xá-lợi-phất! Nay ông có thể hỏi được nghóa ấy Lắng nghe lắng nghe, khéo suy gẫm, ta sẽ vì ông phân biệt giải nói. Xá-lợi-phất bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Chúng con muốn xin được nghe. Đức Phật dạy: –Này Xá-lợi-phất! Lúc Đức Như Lai Bất Động chứng Nhất thiết chủng trí, phóng quang minh lớn chiếu khắp cả thế giới, đại địa chấn động sáu cách. Trong thế giới ấy, chúng sinh biết Như Lai Bất Động chứng Vô thượng giác, suốt bảy ngày đêm họ không có tưởng đến ăn uống, không nhớ tưởng đến đói khát, cũng không có mỏi mệt, yên nghỉ ngủ nghê, chỉ có an lạc vui mừng ưa thích điều lành. Lúc ấy, chúng sinh và chư Thiên cõi dục ở nước Diệu hỷ ấy không có dâm dục. Vì sao? Vì do bản nguyện lực của Như Lai Bất Động nên làm cho các chúng sinh nước ấy hiện đời nhiếp thọ những công đức ấy. Này Xá-lợi-phất! Lúc Đức Bất Động Như Lai chứng Nhất thiết chủng trí, bao nhiêu những chúng sinh ở nước Diệu hỷ đều chí thành chắp tay hướng lên Đức Như Lai Bất Động. Vì khát ngưỡng Phật nên hiện đời họ có thể nhiếp thọ vô lượng công đức như vậy. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! quốc độ của Đức Như Lai Bất Động công đức trang nghiêm, vô lượng thế giới khác chẳng sánh kịp. Này Xá-lợi-phất! Do Đức Như Lai Bất Động lúc hành đạo Bồ-tát phát hoằng thệ nguyện nên quốc độ ấy thù thắng trang nghiêm, như hôm nay ta thành tựu bản nguyện. Này Xá-lợi-phất! Lúc Đức Như Lai Bất Động thành Vô thượng Chánh giác, khoảng sát-na hay giây lát tất cả chúng sinh ở nước Diệu hỷ hoặc có Thiên nhãn hay không có Thiên nhãn, họ đều được thấy Đức Như Lai Bất Động. Này Xá-lợi-phất! Đó cũng là bản nguyện của Đức Như Lai ấy làm cho các loài hữu tình được công đức ấy. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Lúc Đức Như Lai Bất Động ngồi đạo tràng chứng Vô thượng Bồ-đề, Thiên ma Ba-tuần chẳng sinh lòng quấy nhiễu làm chướng ngại. Lại có vô số chư Thiên đem những hoa hương và kỹ nhạc trời đến cúng dường Đức Như Lai, đều cầm bột mịn Chiên-đàn rải trên mình Đức Phật. Hoa và hương ấy ở trên hư không hợp thành lọng báu. Đó đều là do bản nguyện của Đức Như Lai Bất Động mà thành tựu như vậy. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Lúc Đức Như Lai Bất Động thành Vô thượng Bồ-đề, quang minh lớn chiếu khắp thế giới, ánh sáng của mặt trời, mặt trăng và của chư Thiên đều bị che lấp. Đó cũng là do bản nguyện của Đức Như Lai ấy viên mãn nên nay hiện điềm tướng ấy. Tôn giả Xá-lợi-phất bạch Đức Phật: –Bạch Thế Tôn! Đức Như Lai Bất Động lúc hành đạo Bồ-tát thật có áo giáp tinh tấn rộng lớn có thể phát hoằng thệ nguyện như vậy. Do thuở xưa tu hạnh nguyện Bồ-tát nên làm cho vô lượng chúng sinh trồng những cội lành nơi Vô thượng Bồ-đề, lại đem căn lành hồi hướng Vô thượng Bồ-đề để trang nghiêm quốc độ thanh tịnh. Đúng như vậy, hồi hướng nguyện lực thảy đều viên mãn cả. Đức Phật dạy: –Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Nước Diệu hỷ ấy có cây Bồ-đề do bảy báu làm thành cao một do-tuần, thân cây chu vi nửa câu-lô-xá, nhánh lá che rợp một do-tuần, dưới có nền thềm rộng bốn do-tuần, Đức Như Lai Bất Động ngồi trên ấy chứng đạo Bồ-đề. Bốn phía cây Bồ-đề ấy có những cây Đa-la và cây Tô-mạn-na bày hàng khắp nơi. Gió thổi lay động nhánh lá phát ra tiếng hòa nhã, âm nhạc trong đời không sánh kịp. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Cõi nước của Đức Phật ấy không có ba ác đạo là địa ngục, súc sinh và ngạ quỷ. Tất cả chúng sinh đều thành tựu mười nghiệp lành. Đất bằng như lòng bàn tay, màu hoàng kim, không có hầm hố, gai góc, ngói sạn. Đất ấy mềm dịu như bông Đâu-la miên. Lúc đi đất ấy lún xuống, cất chân lên đất trở lại như cũ. Này Xá-lợi-phất! Nước ấy không có ba loại bệnh của phong, nhiệt và đàm phát sinh ra. Này Xá-lợi-phất! Trong nước ấy, tất cả hữu tình không có vọng ngữ. Thân không hôi dơ xấu xí. Với tham, sân, si thảy đều yếu mỏng. Trong nước ấy không có lao tù giam nhốt chúng sinh, cũng không có hàng ngoại đạo dị học. Trong nước ấy tất cả cây mọc lên thường có bông trái. Lại có cây lạ tên là Kiếp-ba, trên cây hiện ra y phục tốt đủ năm màu bóng láng sáng chói, tỏa hương thơm, tất cả thời gian không bị đổi. Như hoa trời rất thơm tho, y phục cũng có mùi thơm như vậy. Người dùng y phục ấy, thân họ cũng có mùi thơm như vậy. Như ở cõi này, nhà giàu sang y phục dư nhiều, mặc dùng như ý. Này Xá-lợi-phất! Chúng sinh nước ấy cần dùng đồ uống ăn, thì đồ uống ăn theo tâm niệm hiện ra, không có đại tiểu tiện dơ uế, như ở trời Đao-lợi. Này Xá-lợi-phất! Lâu đài cung điện ở nước ấy đều nghiêm sức bằng bảy báu, bốn phía có nhiều ao tắm đầy nước tám công đức thọ dụng theo tâm niệm của người. Lại có nhiều vườn tược đều xinh đẹp thanh tịnh. Chúng sinh nước ấy phần đông lấy pháp lạc làm lẽ sống. Này Xá-lợi-phất! Người nước ấy không có tật đố. Tất cả nữ nhân nước ấy siêu việt hơn nữ bảo của Chuyển luân thánh vương, được công đức như chư Thiên, nếu so sánh thì chẳng bằng một phần trong trăm ngàn muôn ức phần, cho đến ưu-ba-ni-sa-đà phần cũng chẳng bằng một. Này Xá-lợi-phất! Người nước ấy theo nghiệp báo của họ chiêu cảm những ghế giường đều bằng bảy báu đầy đủ sự trang nghiêm xinh đẹp, gối êm ái như bông Đâu-la-miên. Đó là do nguyện lực thuở xưa của Đức Như Lai Bất Động mà thành tựu những sự nghiêm hảo như vậy. Này Xá-lợi-phất! Những thức ăn món uống của người nước ấy màu sắc hương vị đều như cõi trời. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Như ở Uất-đơn-việt không có vua riêng, cũng vậy, nước Diệu hỷ chỉ có Đức Như Lai Bất Động là Đấng Pháp Vương. Như trời Đao lợi phụng sự Đế Thích, người nước Diệu hỷ đều thờ Đức Như Lai Bất Động. Này Xá-lợi-phất! Ông phải biết nước Diệu hỷ của Đức Như Lai Bất Động có công đức trang nghiêm. Này Xá-lợi-phất! Chúng sinh nước ấy, lòng họ không phóng dật. Vì sao? Cũng là do nguyện lực của Đức Như Lai Bất Động. Bấy giờ có một Tỳ-kheo nghe Đức Phật khen ngợi công đức trang nghiêm của cõi nước Diệu hỷ, bèn sinh lòng tham trước, bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Nay con nguyện sinh về nước của Đức Như Lai Bất Động. Đức Phật dạy: –Ông ngu mê như vậy làm sao sinh về nước ấy được. Vì sao? Chẳng phải do lòng ái luyến mà được sinh. Chỉ có trồng những gốc lành tu những phạm hạnh mới được sinh về nước ấy. Này Xá-lợi-phất! Ở nước Diệu hỷ, tùy theo ý muốn của chúng sinh nước ấy có ao đầy nước tám công đức thanh tịnh liền hiện ra, uống rửa hay tắm đều vừa ý người. Người nào chẳng muốn thì liền chẳng thấy có ao nước. Này Xá-lợi-phất! Trong nước Diệu hỷ ấy, gió thơm mát reo vui làm đẹp lòng người. Gió thơm ấy được chư Thiên làm ra mùi thơm và tùy theo lòng người mà có thổi đến hay không thổi đến. Đó là do nguyện lực thuở xưa của Đức Như Lai Bất Động nên có công đức trang nghiêm như vậy. Này Xá-lợi-phất! Ở nước Diệu hỷ ấy, y phục và đồ trang sức của hàng nữ nhân đều từ nơi cây sản xuất tùy ý người dùng. Nữ nhân nước ấy không có lỗi lầm của người nữ. Chẳng phải như những người nữ ở cõi này nhiều tật đố, nói lời hai lưỡi và nói lời ác khẩu. Nữ nhân ở nước Diệu hỷ ấy lúc thai nghén đến khi sinh nở, mẹ con đều khỏe mạnh, cũng không có ô uế. Vì sao? Tất cả công đức ấy đều do bản nguyện lực của Đức Như Lai Bất Động tạo thành. Này Xá-lợi-phất! Trong nước Diệu hỷ ấy có những sự an ổn khoái lạc như vậy. Này Xá-lợi-phất! Trong nước của Đức Như Lai Bất Động không có buôn bán đổi chác, cũng không trồng tỉa ruộng nương, người nước ấy thường hưởng nhàn nhã vui sướng. Này Xá-lợi-phất! Trong nước Diệu hỷ ấy, lúc ca ngâm du hý không bao giờ có tâm tương ưng với sự dâm dục mà chỉ thọ hưởng pháp lạc thôi. Này Xá-lợi-phất! Trong nước Diệu hỷ ấy, bao nhiêu cây Đa-la, cây Tô-mạn-na đều bày hàng ngay thẳng đều đặn, gió nhẹ thổi động phát ra âm thanh hòa nhã. Âm nhạc của chư Thiên cũng chẳng bằng tiếng gió động cây reo ở nước ấy. Này Xá-lợi-phất! Nếu Bồ-tát nào muốn nhiếp thọ cõi Phật thì nên nhiếp thọ công đức như vậy và tịnh tu cõi Phật như Đức Như Lai Bất Động lúc hành đạo Bồ-tát nhiếp thọ cõi nước thanh tịnh trang nghiêm. Này Xá-lợi-phất! Trong nước Diệu hỷ không có lúc nào, chỗ nào tối tăm cả. Dù có mặt trời, mặt trăng mà không hiện ánh sáng. Vì sao? Vì quang minh lớn của Đức Như Lai Bất Động thường chiếu sáng khắp cả nước vậy. Này Xá-lợi-phất! Ví như lâu đài cao lớn, đóng kín tất cả cửa ngõ rồi đặt ma-ni bảo châu ở trong nhà. Người trong nhà cả ngày lẫn đêm thường thấy sáng rực. Ở nước Diệu hỷ, tất cả chúng sinh thấy quang minh rực rỡ của Đức Như Lai Bất Động cũng như vậy. Lâu đài cao lớn dụ cho thế giới Diệu hỷ kia. Ma-ni bảo châu dụ cho Đức Như Lai Bất Động. Ánh sáng của ma-ni bảo châu dụ cho ánh quang minh của Đức Phật. Người trong lâu đài dụ cho chúng sinh trong nước Diệu hỷ. Này Xá-lợi-phất! Lúc Đức Như Lai Bất Động bước đi, tự nhiên có hoa sen ngàn cánh đế chân, hoa sen ấy màu hoàng kim, thế gian không có thứ gì làm ví dụ được. Đó cũng là do nguyện lực thù thắng của Đức Phật hiện thành. Bấy giờ Tôn giả Xá-lợi-phất bạch Đức Phật: –Bạch Thế Tôn! Lúc Đức Như Lai Bất Động vào trong nhà, hoa sen màu vàng ròng có đỡ chân Đức Phật ấy chăng? Đức Phật dạy: –Này Xá-lợi-phất! Việc ấy không quan trọng, đâu cần phải thưa hỏi. Này Xá-lợi-phất! Đức Như Lai Bất Động lúc đi vào xóm làng nhà cửa, hoa sen ngàn cánh liền hiện lên đỡ chân. Nếu có thiện nam hay thiện nữ nghó rằng: “Nếu Đức Như Lai quang lâm đến nhà này, những hoa sen đỡ chân Đức Như Lai nên tụ lại tại một chỗ.” Hoa sen liền theo tâm niệm họ mà tụ lại. Nếu lại có người muốn hoa sen trụ ở hư không, thì hoa theo ý họ mà trụ ở hư không. Đó là do sức oai thần của Đức Bất Động Như Lai. Này Xá-lợi-phất! Hoa sen dưới chân Đức Phật ấy ban cho mọi người để xây tháp cúng dường. Này Xá-lợi-phất! Vì diễn thuyết chánh pháp, Đức Như Lai Bất Động đi khắp nước Diệu hỷ, đi tới đâu cũng đều có hoa sen màu vàng ròng ngàn cánh hiện lên đỡ chân. Lúc Đức Như Lai Bất Động hiện đến giáo hóa ở cõi nước khác, hoa sen màu vàng ròng ngàn cánh cũng hiện ở cõi nước ấy. Do oai thần của Đức Phật ấy khắp cõi nước Diệu hỷ đều dùng hoa sen màu vàng ròng ngàn cánh trang nghiêm nước ấy.  <章 id="86423686">Phẩm 3: CHÚNG THANH VĂN Lại Này Xá-lợi-phất! Lúc thuyết pháp Đức Như Lai Bất Động có thể khéo điều phục vô lượng chúng sinh làm cho họ chứng quả A-la-hán, an trụ thiền định nơi tám giải thoát, số người ấy rất đông. Này Xá-lợi-phất! Đức Như Lai Bất Động có vô lượng, vô số chúng Thanh văn. Ta chẳng thấy có toán sư hay đệ tử của toán sư nào có thể tính được số Thanh văn ấy. Này Xá-lợi-phất! Như ở cõi nước ta, những người được quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm đông vô số kể. Ở nước Diệu hỷ người chứng quả A-la-hán nhiều vô số cũng như vậy. Này Xá-lợi-phất! Như bậc Tu-đà-hoàn quả, mệt mỏi với bảy lần thọ sinh, vì họ thuyết pháp họ mới được A-la-hán quả, ta gọi họ là bậc bảy lần thọ sinh. Ở nước Diệu hỷ, có người nghe Đức Như Lai Bất Động thuyết pháp lần đầu được quả Tu-đà-hoàn, nghe pháp lần thứ hai được quả Tư-đà-hàm, nghe pháp lần thứ ba được quả A-na-hàm, nghe pháp lần thứ tư chứng quả A-la-hán. Những người chẳng nhất định một đời chứng quả A-la-hán thì gọi là người giải đãi. Này Xá-lợi-phất! Ở nước Diệu hỷ, người được quả Tu-đà-hoàn thì thân hiện đời ấy chứng được quả A-la-hán, chẳng phải như cõi này phải trải qua bảy đời thọ sinh. Ở nước ấy, người được quả Tư-đà-hàm thì hiện đời liền chứng quả A-la-hán, chẳng phải như cõi này phải trải qua một lần sinh lên trời, một lần trở lại nhân gian mà gọi là Tư-đà-hàm. Ở nước ấy, người được quả A-na-hàm thì hiện đời ấy được quả A-la-hán, chẳng phải như cõi này phải sinh lên cõi trời rồi mới từ đó chứng A-la-hán, không còn sinh trở lại nhân gian nên gọi là A-na-hàm. Này Xá-lợi-phất! Đức Như Lai Bất Động nói hành vị sai biệt của chúng Thanh văn, cho đến an lập Thánh quả như vậy. Nếu thiện nam, thiện nữ nào rõ được pháp ấy thì chẳng ở phàm phu và bậc Hữu học mà chết, họ ở bậc Vô học A-la-hán mới nhập diệt độ. Này Xá-lợi-phất! Nói bậc Vô học đó là giả danh kiến lập ở nơi quả A-la-hán. Này Xá-lợi-phất! Chúng Thanh văn của Đức Như Lai Bất Động ở nước Diệu hỷ ấy đều thanh tịnh đầy đủ an định kiên cố. Này Xá-lợi-phất! Chúng Thanh văn của Đức Như Lai Bất Động giả danh để kiến lập những vị là đại A-la-hán các lậu phiền não đã hết, việc làm đã xong, vất bỏ gánh nặng sinh tử đã được tự lợi sạch hết kết sử ba cõi chánh giáo giải thoát. Các A-la-hán ấy phần đông an trụ trong thiền định tám giải thoát. Này Xá-lợi-phất! Đức Như Lai Bất Động có những chúng Thanh văn đầy đủ công đức trang nghiêm như vậy. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Trong nước Diệu hỷ, dùng ba báu là vàng, bạc, lưu ly làm thềm từ Diêm-phù-đề lên đến trời Đao-lợi. Chư Thiên Đao-lợi nếu muốn đến gặp Đức Như Lai Bất Động để đảnh lễ cúng dường, họ đi theo thềm báu ấy mà xuống đến chỗ Đức Phật. Chư Thiên ấy thấy người Diêm-phù-đề giàu có hưng thịnh thì sinh lòng mến thích mà nói rằng: “Chúng ta có phước báo cõi trời, người Diêm-phù-đề có phước báo loài người. Phước thù thắng của người không khác phước trời của chúng ta mà còn hơn là khác, vì ở nhân gian có Đức Như Lai Bất Động hiện đang thuyết pháp.” Vì lẽ ấy nên chư Thiên thường thích nhân gian. Này Xá-lợi-phất! Nếu người Diêm-phù-đề lên cõi trời thì họ sẽ không ưa thích. Vì sao? Vì họ nghó Đức Như Lai Bất Động thường ở nhân gian thuyết pháp làm cho họ được lợi ích. Vả lại phước báo của họ chẳng khác cõi trời. Vì thế nên cõi trời Đao-lợi chẳng bằng nhân gian. Này Xá-lợi-phất! Ở nước Diệu hỷ do thần lực của Phật, trời và người thấy được nhau. Như ở đây loài người nhìn thấy trăng sao, người ở cõi ấy nhìn lên cung điện chư Thiên cũng như vậy. Đó cũng là sự thành tựu do nguyện lực của Đức Như Lai Bất Động khi còn tu hành Bồ-tát hạnh thuở xưa. Này Xá-lợi-phất! Đức Bất Động Như Lai thuyết pháp âm thanh vang khắp tam thiên đại thiên thế giới, bốn chúng nghe pháp không có trống khuyết. Này Xá-lợi-phất! Chúng Thanh văn ở nước Diệu hỷ chỉ trông mong Pháp thực, không tưởng đến thứ ăn khác. Lúc nghe pháp, họ nhất tâm tịch tónh, hoặc ngồi hoặc đứng thân tâm không mỏi mệt. Này Xá-lợi-phất! Đức Như Lai Bất Động ở trên hư không thuyết pháp cho đại chúng. Các Thanh văn ấy không luận có thần thông hay không có thần thông, do oai lực của Đức Phật, tất cả đều ở trên hư không dùng ba oai nghi đi, đứng và ngồi mà nghe pháp. Các Thanh văn ấy lúc muốn nhập Niết-bàn, thì họ ngồi kiết già mà diệt độ. Khi ấy đại địa chấn động. Khi diệt độ xong, chư Thiên và nhân dân đều đến cúng dường. Hoặc có vị A-la-hán lúc muốn diệt độ, trong thân họ phát ra lửa mà tự trà-tỳ. Hoặc có vị diệt độ thân thể tự nhiên tan biến không lưu xá-lợi. Hoặc có vị lúc diệt độ họ du hành trong không gian như mây ngũ sắc giây lát tiêu tan không còn dấu tích. Hoặc có vị lúc diệt độ hiện ở hư không rơi xuống như trận mưa đến đất thì tiêu hết. Này Xá-lợi-phất! Đó là do lúc hành đạo Bồ-tát, Đức Như Lai Bất Động có phát thệ rằng: “Nếu tôi thành Phật thì chúng Thanh văn ở nước tôi dùng ba oai nghi mà nhập diệt.” Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Ở nước Diệu hỷ, chúng Thanh văn phần nhiều được bốn Vô sở úy, người được bốn Thần túc còn đông hơn. Này Xá-lợi-phất! Ở nước Diệu hỷ, chúng Thanh văn thành tựu đầy đủ công đức như vậy. Tôn giả Xá-lợi-phất bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Đức Như Lai Bất Động có hàng Thanh văn thành tựu công đức rộng lớn viên mãn.  KINH ĐẠI BẢO TÍCH <卷 id="86423687">QUYỂN 20 Hán dịch: Đời Đại Đường, Tam tạng Pháp sư Bồ-đề-lưu-chí. <詞 id="86423688">Pháp hội 6: NHƯ LAI BẤT ĐỘNG (Phần 2) <章 id="86423689">Phẩm 4: CHÚNG BỒ-TÁT Bấy giờ Tôn giả Xá-lợi-phất tự nghó: “Đức Thế Tôn đã nói về chúng Thanh văn ở nước Diệu hỷ đầy đủ công đức rồi, ta lại muốn nghe đầy đủ công đức của các Bồ-tát ở nước ấy. Vì sao? Vì tất cả công đức đều từ đây phát sinh.” Đức Thế Tôn biết tâm niệm ấy liền bảo Tôn giả Xá-lợi-phất: –Này Xá-lợi-phất! Trong nước Diệu hỷ của Đức Như Lai Bất Động có vô lượng trăm ngàn ức chúng Bồ-tát đều tập hợp đến. Những Bồ-tát xuất gia, do thần lực của Đức Phật, theo pháp được nghe đều lãnh ngộ và thọ trì, đọc tụng được cả. Này Xá-lợi-phất! Ở cõi này ta nói pháp rất ít, so sánh với pháp tạng của Đức Như Lai Bất Động nói trăm phần, ngàn phần cho đến ưu-ba-ni-sa-đà phần cũng chẳng bằng một. Này Xá-lợi-phất! Đó là do Đức Như Lai Bất Động lúc tu Bồ-tát đạo có phát nguyện rằng: “Lúc tôi thành Phật, trong nước tôi các Bồ-tát do thần lực của tôi theo pháp mà họ được nghe đều lãnh ngộ, thọ trì, đọc tụng được cả”. Này Xá-lợi-phất! Các Bồ-tát ở nước Diệu hỷ do bản nguyện thần lực của Đức Như Lai Bất Động, nghe pháp của Đức Phật ấy nói đều có thể lãnh thọ, đọc tụng thông thuộc. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Các Bồ-tát ở nước Diệu hỷ, nếu lòng họ muốn đến cõi nước của chư Phật khác, vừa khởi tâm thì liền qua đến, thân hình, y phục, ngôn ngữ, âm thanh đều khéo đồng với người địa phương ấy. Sau khi đến, đảnh lễ và cúng dường chư Phật và lắng nghe chánh pháp, khéo thưa hỏi. Việc xong họ trở về bản quốc. Này Xá-lợi-phất! Trong Hiền kiếp này sẽ có chiùn trăm chiùn mươi sáu Đức Phật Như Lai xuất thế. Nếu có Bồ-tát nào thích thấy Đức Như Lai Bất Động thì nên nguyện sinh về nước Diệu hỷ của Đức Như Lai ấy. Này Xá-lợi-phất! Nếu thiện nam, thiện nữ nào từ cõi này và những cõi khác mạng chung hoặc đã sinh, hoặc đang sinh, hoặc sẽ sinh về nước Diệu hỷ của Đức Như Lai Bất Động thì ắt chẳng tin ở bậc Thanh văn. Vì sao? Vì họ thực hành Phật đạo thường gặp Đức Như Lai, Thiên ma Ba-tuần chẳng có dịp tiện lợi. Với bậc Nhị thừa Thanh văn và Bích-chi-phật, họ đã dứt hẳn quan niệm, họ thường ở tại các đại hội Như Lai và quyết định sẽ được Vô thượng Bồ-đề. Này Xá-lợi-phất! Ông cần phải biết, nếu ở tại cõi nước thanh tịnh của Đức Như Lai Bất Động, các chúng sinh ấy trọn không thoái chuyển, chẳng thể dẫn nhiếp, cũng không thoái lui. Họ an trụ Vô thượng Bồ-đề có thế lực lớn chẳng bị lay động, trọn không thoái chuyển. Này Xá-lợi-phất! Nếu có thiện nam, thiện nữ cõi này hay ở thế giới khác lúc mạng chung sinh về nước Diệu hỷ ấy, thì lúc sinh họ được ý nghó rằng: “Tôi đã vào nhà Như Lai ở an trong thành vô úy.” Này Xá-lợi-phất! Các Bồ-tát nước Diệu hỷ ấy có chuyện luận bàn đều tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa. Họ tôn kính lẫn nhau tưởng là bậc Đạo sư của nhau. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Ở nước Diệu hỷ, các chúng Bồ-tát, người tại gia rất ít, xuất gia thì đông, tất cả đều do thần lực của Đức Như Lai Bất Động, ở nơi pháp được nghe liền có thể lãnh ngộ, thọ trì, đọc tụng. Này Xá-lợi-phất! Hàng tại gia Bồ-tát ở nước ấy dù chẳng thường ở trong pháp hội, nhưng do thần lực của đức Phật, lúc đứng lúc ngồi đều nghe được pháp và liền lãnh hội, thọ trì, đọc tụng thông thuộc. Hàng xuất gia Bồ-tát dầu ở phương sở khác cũng được như vậy. Các Bồ-tát ấy bỏ thân lấy thân, với kinh pháp đã được nghe trọn chẳng quên mất, tùy ý nguyện vãng sinh về các cõi Phật. Đây cũng là sự trang nghiêm do công đức bản nguyện của Đức Như Lai Bất Động. Này Xá-lợi-phất! Nếu Bồ-tát nào muốn trong một đời thấy vô lượng trăm ngàn ức na-do-tha chư Phật thì nên nguyện sinh về nước của Đức Như Lai Bất Động. Nếu Bồ-tát nào được sinh về nước ấy thì liền thấy vô lượng chư Phật trồng các cội lành, lại có thể vì vô số trăm ngàn chúng sinh mà diễn thuyết pháp yếu khiến các chúng sinh tăng trưởng gốc lành. Này Xá-lợi-phất! Trong Hiền kiếp này chư Phật sắp xuất thế, nếu các Bồ-tát đem y phục, ẩm thực, ngọa cụ và y dược các thứ cần dùng cúng dường chư Phật ấy rồi xuất gia, xuất gia xong, ở chỗ chư Phật tịnh tu phạm hạnh, đem căn lành ấy so sánh với phước đức tương ưng Ba-la-mật-đa của các Bồ-tát ở chỗ Đức Như Lai Bất Động tu trong một đời cũng chẳng bằng một phần trăm, một phần ngàn, cho đến ưu-ba-ni-sa-đà phần cũng chẳng bằng một. Đây cũng là công đức thanh tịnh trang nghiêm cõi Phật của Đức Như Lai Bất Động. Này Xá-lợi-phất! Nếu có Bồ-tát từ cõi này hay cõi khác khi mạng chung hoặc đã sinh, đang sinh, hoặc sẽ sinh về nước của Đức Như Lai Bất Động, tất cả đều được bậc không thoái chuyển. Vì sao? Ở nước ấy, Thiên ma Ba-tuần chẳng làm chướng ngại cũng không có ma nghiệp làm nhiễu loạn. Này Xá-lợi-phất! Ví như loài rắn độc bị thần chú chế phục chẳng làm hại được, tất cả những trùng vật khác thấy rắn độc này cũng chẳng lo sợ. Những rắn độc này dầu không độc hại, nhưng vì bản nghiệp mà thọ thân rắn ấy. Thiên ma Ba-tuần ở nước Diệu hỷ cũng như vậy, do Đức Như Lai Bất Động lúc tu Bồ-tát đạo bản nguyện căn lành hồi hướng như vầy: “Lúc tôi thành Phật sẽ điều phục các ma chẳng làm chướng não, các ma cũng chẳng làm chướng não các Bồ-tát, các Thanh văn và tất cả phàm phu ở nước tôi.” Nhưng các ma ấy, do nghiệp đời trước chiêu cảm mà thọ lấy thân hình ma sinh vào cõi trời nước Diệu hỷ để tự trách, tự ăn năn tội nghiệp từ vô thỉ của họ. Được có thân và tên Thiên ma ấy, dù được tự tại, nhưng họ thường sinh lòng chán ghét. Lúc Đức Như Lai Bất Động thuyết pháp, các quyến thuộc ma thường dự nghe. Nghe xong lòng họ thanh tịnh mến luyến chúng Thanh văn, mà tự nghó rằng làm thế nào an trụ được cảnh tịch tónh thiểu dục tri túc. Chúng ma ấy thường sinh lòng xuất gia mà không có ý tưởng làm chướng ngại. Vì thế nên ở nước Diệu hỷ tất cả Bồ-tát, Thanh văn và phàm phu do oai lực hoằng thệ của Đức Như Lai Bất Động lúc hành đạo Bồ-tát mà thường được an lạc. Đây cũng là sự trang nghiêm thù thắng của nước Diệu hỷ. Bấy giờ Tôn giả Xá-lợi-phất bạch Đức Phật: –Bạch Thế Tôn! Nếu có thiện nam, thiện nữ đem bảy báu đầy cả cõi đại thiên để bố thí cầu nguyện sinh về nước Diệu hỷ thì do hạnh nguyện này mà họ trọn chẳng sa vào bậc Thanh văn và Bích-chi-phật. Từ một nước Phật đến một nước Phật, họ tuần tự cúng dường phụng sự chư Phật Như Lai và nghe pháp. Dù chưa chứng Vô thượng Bồ-đề, nhưng được thấy trăm ngàn muôn ức cho đến vô lượng na-do-tha chư Phật, ở chỗ chư Phật họ trồng những cội lành. Bạch Thế Tôn! Nếu thiện nam, thiện nữ do phương tiện này, đem bảy báu đầy cõi đại thiên ra bố thí thì do căn lành ấy mà vãng sinh nước Diệu hỷ. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Đúng như vậy! Này Xá-lợi-phất! Họ khéo sinh khéo về, những Bồ-tát như vậy đầy trong nước ấy. Này Xá-lợi-phất! Ví như vàng mỏ nấu luyện tinh thuần loại bỏ tạp chất chỉ còn lại chất vàng rồi đem làm thành đồ trang sức. Ở nước Diệu hỷ, các Bồ-tát an trụ ở chân thật cũng như vậy, các Bồ-tát thanh tịnh ấy, nay ông cần phải biết. Này Xá-lợi-phất! Các Bồ-tát ở nước Diệu hỷ hoặc đã sinh, đang sinh, hoặc sẽ sinh, tất cả đều thực hành nhất hạnh, đó là an trụ nơi Phật hạnh. Này Xá-lợi-phất! Thế nào là Phật hạnh, đó là hạnh vượt hơn bậc Thanh văn và Bích-chi-phật. Nói thực hành một hạnh là giả danh của hạnh ấy. Vì thế nên, này Xá-lợi-phất! Nếu Bồ-tát thích thực hành một hạnh ấy, phải nguyện sinh về nước Diệu hỷ của Đức Như Lai Bất Động. Này Xá-lợi-phất! Các Bồ-tát được ta thọ ký không thoái chuyển nên sinh về nước của Đức Như Lai Bất Động. Các Bồ-tát sinh về nước ấy ta chẳng rời bỏ họ. Này Xá-lợi-phất! Ví như Quốc vương Quán đảnh dòng Sát-đế-lợi, có nước địch xâm lăng, vua nghe tin nghó rằng những phi hậu và các con của mình chẳng kham chống lại quân địch và những của cải châu báu nên thâu vào cung thành, chẳng bị địch quân xâm hại. Quốc độ của vua an tịnh vững vàng, oai chấn địch quân chẳng lo tai nạn. Ta chẳng rời bỏ các Bồ-tát cũng như Quốc vương kia đối với các phi hậu, vương tử và tài bảo vậy. Người tu hạnh Bồ-tát cần phải biết. Trong nước Diệu hỷ không có sự lo sợ như ở cung thành. Vua nước địch như Ba-tuần khó làm chướng ngại cho người tu Bồ-tát hạnh ở nước ấy. Quốc vương Quán đảnh chẳng bị quân địch xâm nhiễu. Cũng vậy, Đức Như Lai chẳng bị thiên ma nhiễu não. Này Xá-lợi-phất! Ví như có người sợ chủ nợ đi qua nước khác thì không bị chủ nợ cưỡng đoạt. Vì sao? Vì chủ nợ và người nhà của y chẳng đến đó được. Các Bồ-tát sinh về nước Diệu hỷ thì tuyệt đường theo dõi của ma Ba-tuần cũng như vậy. Này Xá-lợi-phất! Ở Ta-bà này, Thiên ma Ba-tuần thường làm chướng ngại cho các Bồ-tát và Thanh văn. Ở nước Diệu hỷ, các chúng Thiên ma chẳng làm nghiệp ma. Các Bồ-tát ở nước ấy hoặc đã sinh, đang sinh, hoặc sẽ sinh, thường không có sự sợ hãi. Vì sao? Do Đức Như Lai Bất Động lúc hành đạo Bồ-tát có bao nhiêu căn lành đều hồi hướng như vầy: “Khi tôi thành Phật, ở nước tôi chúng thiên ma chẳng làm chướng ngại và không làm ma sự.” Này Xá-lợi-phất! Ví như có trượng phu giỏi uống thuốc độc có thể làm cho tiêu hóa làm cho thức ăn không có độc hại. Thiên ma ở nước ấy cũng như vậy thường làm lợi ích mà chẳng làm tổn hại. Này Xá-lợi-phất! Nước Diệu hỷ của Đức Như Lai Bất Động thành tựu vô lượng công đức như vậy. Bấy giờ Tôn giả Xá-lợi-phất tự nghó: “Nay tôi mong muốn được thấy nước Diệu hỷ, Đức Như Lai Bất Động và chúng Bồ-tát, Thanh văn.” Đức Phật biết tâm niệm của Tôn giả Xá-lợi-phất, liền chẳng rời chỗ ngồi dùng thần lực đều làm cho thấy tất cả, rồi hỏi Tôn giả Xá-lợi-phất: –Này Xá-lợi-phất! Ông có thấy chăng? Tôn giả Xá-lợi-phất bạch: –Vâng, con đã thấy. Bạch Đức Thế Tôn! Đức Phật hỏi: –Này Xá-lợi-phất! Ông thấy chư Thiên và loài người ở nước ấy có chút ít tướng sai khác nhau chăng? Tôn giả Xá-lợi-phất bạch: –Bạch Thế Tôn! Con chẳng thấy có chút tướng nào khác nhau. Vì sao? Vì con thấy người nước Diệu hỷ từ y phục, uống ăn cho đến đồ trân ngoạn đều là những thứ mà chư Thiên dùng. Đức Như Lai Bất Động ở giữa đại chúng thuyết pháp như tòa núi hoàng kim chói sáng, chúng Thanh văn đông vô lượng, vô biên. Ví như có người đi giữa biển lớn trông ra bốn phía chẳng biết bờ mé, con nhìn ngó chúng Thanh văn ấy cũng như vậy. Chúng Thanh văn ấy theo chỗ nghe Pháp thân tâm họ chẳng động lay như nhập thiền định, chẳng phải như người cõi này nhập định có lúc lay động. Bạch Thế Tôn! Nếu thiện nam, thiện nữ đem bảy báu đầy cõi đại thiên ra bố thí thì do căn lành ấy, họ khéo được vãng sinh về thế giới Diệu hỷ. Vì sao? Vì họ cũng được không thoái chuyển như vậy. Bạch Thế Tôn! Ví như sứ giả của nhà vua cầm ấn phù đi qua nước khác, dọc đường các quan trấn phòng chẳng làm trở ngại. Vì sao? Vì thế lực của ấn vua nên không bị người ngăn trở. Các Bồ-tát ấy cũng vậy, hoặc từ cõi này, hoặc từ thế giới khác sau khi mạng chung, hoặc đã sinh, hoặc đang sinh, hoặc sẽ sinh về nước Diệu hỷ ấy, tất cả đều được không thoái chuyển Vô thượng Bồ-đề, từ một cõi Phật đến một cõi Phật thường chẳng xa rời chư Phật Thế Tôn, họ sẽ mau chứng Vô thượng Bồ-đề. Tôn giả Xá-lợi-phất lại bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Bồ-tát sinh ở nước ấy cùng với bậc Tu-đà-hoàn quả ở cõi này không khác nhau. Vì sao? Vì như bâïc Tu-đà-hoàn quả chẳng còn đọa vào ác đạo, các Bồ-tát hoặc đã sinh, hoặc đang sinh, hoặc sẽ sinh về nước Diệu hỷ ấy, tất cả chẳng còn đọa ác đạo, cũng chẳng sa vào bậc Thanh văn và bậc Bích-chi-phật, cho đến trong lúc chưa chứng Vô thượng Bồ-đề, từ một cõi Phật đến một cõi Phật chẳng rời chư Phật và chúng Thanh văn. Đức Phật dạy: –Đúng như vậy, này Xá-lợi-phất! Các Bồ-tát sinh về nước ấy chẳng vào bậc Thanh văn và Bích-chi-phật, cho đến trong lúc chưa chứng Vô thượng Bồ-đề, từ một cõi Phật đến một cõi Phật thường được hiện tiền cúng dường chư Phật và sẽ chứng được Phật quả. Này Xá-lợi-phất! Như người chứng quả Tu-đà-hoàn thì quyết định sẽ được Thanh văn Bồ-đề, trọn chẳng đọa ác đạo. Cũng vậy, các Bồ-tát ở cõi này hay ở cõi khác sinh về nước ấy thì quyết định sẽ chứng Vô thượng Bồ-đề. Từ một cõi Phật đến một cõi Phật, chư vị thường được hiện tiền cúng dường chư Phật, trọn chẳng xa rời Vô thượng Bồ-đề. Tôn giả Xá-lợi-phất lại bạch: –Bạch Thế Tôn! Ở cõi này có những bậc Tư-đà-hàm hướng và Tư-đà-hàm quả cho đến những bực A-la-hán hướng và A-la-hán quả cùng với các Bồ-tát sinh ở nước ấy đồng nhau không khác. Đức Phật dạy: –Này Xá-lợi-phất! Ông chớ nói như thế. Vì sao? Vì chỉ có các Bồ-tát ở cõi này được Đức Phật thọ ký mới không khác với các Bồ-tát sinh ở nước ấy. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Bồ-tát ngồi đạo tràng ở cõi này cùng với Bồ-tát sinh ở nước ấy không khác. Vì sao? Vì các Bồ-tát ở nước ấy thực hành hạnh Phật chẳng bị Thiên ma phá hoại, trọn chẳng vào bậc Nhị thừa, từ một cõi Phật đến một cõi Phật, họ thường cúng dường tất cả chư Phật, cho đến chứng quả Vô thượng Bồ-đề. Bấy giờ Tôn giả A-nan nghó rằng: “Nay ta nên xét sức biện tài của trưởng lão Tu-bồ-đề.” Nghó xong Tôn giả hỏi trưởng lão Tu-bồ-đề: –Bạch Trưởng lão! Chúng ta nên nhìn xem Đức Như Lai Bất Động và chúng Thanh văn cùng nước Diệu hỷ ấy. Trưởng lão Tu-bồ-đề bảo Tôn giả A-nan: –Ông muốn thấy Đức Như Lai Bất Động nay ông nên nhìn lên phương Trên. A-nan nhìn phương Trên rồi thưa: –Tôi nhìn tột phương Trên đều trống không, vắng lặng. Tu-bồ-đề nói: –Đức Như Lai Bất Động, chúng Thanh văn và cõi Phật ấy cũng như vậy, như là thấy phương Trên. Bấy giờ Xá-lợi-phất bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Như Phật đã dạy, Bồ-tát ở cõi này được thọ ký cùng với Bồ-tát sinh ở nước Diệu hỷ không khác. Bạch Thế Tôn! Nay con chẳng rõ đồng nhau ở chỗ nào? Đức Phật dạy: –Này Xá-lợi-phất! Vì pháp giới bình đẳng nên được không có khác.  <章 id="86423690">Phẩm 5: CÔNG ĐỨC TRANG NGHIÊM NIẾT-BÀN Bấy giờ Tôn giả Xá-lợi-phất lại suy nghó: “Đức Thế Tôn đã nói Đức Như Lai Bất Động lúc tu Bồ-tát đạo công đức vô biên, Đức Thế Tôn lại nói nước Diệu hỷ cùng chúng Thanh văn, chúng Bồ-tát đức nghiệp thù thắng rộng lớn trang nghiêm. Nay mong Đức Thế Tôn khai thị về việc Đức Như Lai Bất Động diệt độ hóa tích thế nào?” Đức Phật biết tâm niệm của Xá-lợi-phất bèn dạy rằng: –Này Xá-lợi-phất! Ngày Đức Như Lai Bất Động nhập Niết-bàn, hóa thân phân bố khắp tất cả thế giới, ở trong địa ngục nói những diệu pháp, đem pháp điều phục vô lượng hữu tình đều sẽ chứng được quả A-la-hán. Nhưng thời gian này người được chứng quả đem so sánh với trước lúc Đức Phật ấy diệt độ những người chứng quả Vô học số lượng càng tăng. Liền trong ngày ấy, Đức Như Lai Bất Động thọ ký cho Đại Bồ-tát Hương Tượng rằng: “Sau khi ta diệt độ, ông sẽ thành Phật hiệu là Kim Liên Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác.” Này Xá-lợi-phất! Đức Như Lai Kim Liên ấy cõi nước, công đức và số chúng Thanh văn đồng như Đức Như Lai Bất Động. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Lúc Đức Như Lai Bất Động nhập Niết-bàn, khắp đại địa đều chấn động. Tất cả cõi đại thiên gầm rống phát ra tiếng. Tiếng ấy vang suốt đến trời Sắc cứu cánh. Chư Thiên nghe tiếng ấy biết rằng Đức Như Lai Bất Động nhập Niết-bàn. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Trong nước Diệu hỷ, bao nhiêu rừng cây và cỏ thuốc đều ngả ngọn về phía Đức Như Lai Bất Động nhập Niết-bàn. Chư Thiên đều mang tràng hoa, hương thơm và những y phục rải trên thân Phật. Những hoa hương được rải ấy bao bọc giáp vòng cao một do-tuần. Trong cõi đại thiên, bao nhiêu hàng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già... đều hướng về Đức Như Lai Bất Động chắp tay đảnh lễ. Chư Thiên ở cõi khác, do thần lực của Đức Phật, cũng đều được thấy Đức Phật nhập Niết-bàn. Suốt bảy ngày đêm, chư Thiên ấy lòng buồn rầu, chẳng màng đến sự vui thú, cũng không có tưởng niệm dục lạc, họ bảo nhau rằng: “Đức Như Lai Bất Động là ánh sáng của thế gian, là con mắt của chúng sinh, sao nay nhập diệt quá sớm vậy!” Này Xá-lợi-phất! Nếu có Bồ-tát từ cõi Ta-bà này, hoặc từ cõi khác sau khi mạng chung sinh về nước Diệu hỷ. Nếu đã hiện tại sinh về nước ấy họ đều được thọ ký Vô thượng Bồ-đề, chẳng phải lấy số trăm để tính được, mà phải lấy số ngàn và số trăm ngàn để tính. Số trăm ngàn Bồ-tát ấy phải biết là vào số chư Phật, đều vào số chư Phật, vào số Nhất thiết chủng trí tánh. Nếu có Đại Bồ-tát nào sẽ sinh về nước ấy cũng đều được nhập số chư Phật. Này Xá-lợi-phất! Trừ hàng Bồ-tát không thoái chuyển, các Bồ-tát khác ở cõi này nếu chẳng được nghe Đức Như Lai Bất Động môn của công đức, pháp. Đó đều là bị ác ma nhiếp thọ. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Sau khi Đức Như Lai Bất Động nhập Niết-bàn cho đến thời gian chánh pháp còn ở đời, các Bồ-tát sinh ở nước Diệu hỷ cũng sẽ vào trong số ấy. Vì sao? Vì do nguyện lực của Đức Như Lai Bất Động. Các Bồ-tát nếu ở thời gian sau thọ sinh về nước Diệu hỷ phải đọc tụng một trăm lẻ tám pháp môn. Đọc tụng rồi mới có thể thọ trì tất cả pháp kia. Đức Như Lai Bất Động an lập một trăm lẻ tám pháp môn bản tánh. Sau khi ta diệt độ, nếu có Bồ-tát nào sẽ sinh về nước Diệu hỷ cũng phải đọc tụng một trăm lẻ tám pháp môn và có thể thọ trì tất cả pháp môn. Này Xá-lợi-phất! Đức Như Lai Bất Động khéo nhiếp thọ các Bồ-tát. Đức Phật dù đã diệt độ, nhưng tiếng Phật thuyết pháp và công đức trang nghiêm vẫn không khác lúc Đức Phật còn ở đời. Này Xá-lợi-phất! Lúc diệt độ, từ thân Đức Như Lai Bất Động phát lửa để tự trà-tỳ, xá-lợi đều là màu hoàng kim. Như cây Đê-di-la, mỗi phần đoạn đều có chữ Vạn. Xá-lợi của Đức Như Lai ấy cũng vậy. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Xá-lợi của Đức Như Lai Bất Động phần nào cũng tròn đầy, trong ngoài đều có tướng cát tường. Như cây Bổ-ca-la, tùy chỗ mở, trong ngoài đều có lằn cát tường. Xá-lợi của Đức Như Lai ấy cũng vậy. Này Xá-lợi-phất! Vì cúng dường xá-lợi, chúng sinh nước Diệu hỷ xây tháp bảy báu khắp cả cõi đại thiên, lại đem hoa sen ngàn cánh màu vàng ròng để cúng dường. Cõi đại thiên ấy lấy tháp hoa để trang nghiêm. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Ở nước Diệu hỷ, nếu các Bồ-tát nào sắp diệt độ, lúc lâm chung không bao giờ mất chánh niệm, mà thấy những tướng lành tốt. Hoặc có Bồ-tát thấy cõi mình sắp sinh về không có Phật, mình đang làm Phật ở đó; hoặc có Bồ-tát thấy cõi mình sắp sinh về có Phật, mình sẽ phụng thờ; hoặc thấy có Bồ-tát nhập thai mẹ; hoặc thấy có Bồ-tát mặc giáp trụ lớn; hoặc thấy có Bồ-tát bỏ nhà xuất gia; hoặc thấy có Bồ-tát ngồi đạo tràng hàng ma; hoặc thấy có Bồ-tát chứng Nhất thiết chủng trí; hoặc thấy có Bồ-tát ở thế giới ấy thành Chánh giác, chuyển chánh pháp luân; hoặc có Bồ-tát trụ trong hư không tự thân lần lần diệt mất chẳng sót chút gì. Ví như đốt cỏ khói bốc cao lần lần cháy tan đến tắt mất. Này Xá-lợi-phất! Các Bồ-tát đã diệt độ rồi, chư Thiên và nhân dân lo bố thí cúng dường. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Đức Như Lai Bất Động sau khi nhập đại Niết-bàn, chánh pháp trụ thế đến trăm ngàn kiếp. Lúc đó Tôn giả Xá-lợi-phất bạch rằng: –Bạch Thế Tôn! Chánh pháp của Đức Như Lai Bất Động trụ thế trăm ngàn kiếp, là loại kiếp nào? Đức Phật dạy: –Này Xá-lợi-phất! Hai mươi tiểu kiếp làm một kiếp. Chánh pháp ấy trụ thế trăm ngàn kiếp như vậy. Này Xá-lợi-phất! Lúc chánh pháp ấy diệt rồi, có ánh sáng lớn chiếu mười phương. Đại địa đều chấn động phát âm thanh lớn. Nhưng chánh pháp ấy không bị Thiên ma phá hoại được. Cũng không do Đức Như Lai ấy và chúng Thanh văn tự ẩn mất. Chỉ vì thời gian ấy ít người nghe pháp, phần đông không ham thích, nên người thuyết pháp đều xa lánh họ. Với chánh pháp đã ít nghe nên càng thêm sự bất tín. Bất tín đã tăng trưởng thì không chuyên cần tu tập. Các Tỳ-kheo thông hiểu chánh pháp sẽ rút lui ẩn dật, thấy mọi người không ham thích chánh pháp nên chẳng còn ra hoằng tuyên. Do đó lời dạy của Đức Như Lai Bất Động dần dần mai một.  <章 id="86423691">Phẩm 6: NHÂN DUYÊN VÃNG SINH Bấy giờ Tôn giả Xá-lợi-phất bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát dùng sức căn lành nào làm nhân duyên để được vãng sinh về nước Diệu hỷ của Đức Như Lai Bất Động? Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Này Xá-lợi-phất! Nếu Đại Bồ-tát muốn sinh về nước Diệu hỷ thì phải học theo Đức Như Lai Bất Động thuở xưa, lúc hành đạo Bồ-tát phát thệ nguyện rộng lớn rồi cầu nguyện sinh về nước ấy. Hạnh nguyện như vậy có thể làm nhân duyên sinh về nước Diệu hỷ. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Lúc thực hành Bố thí Ba-la-mật-đa, Đại Bồ-tát đem căn lành ấy hồi hướng Vô thượng Bồ-đề, nguyện được hội ngộ Đức Như Lai Bất Động. Do nhân duyên này sẽ được sinh về nước Diệu hỷ. Đại Bồ-tát thực hành Giới ba-la-mật-đa, cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vậy. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Ánh sáng của Đức Như Lai Bất Động chiếu khắp cõi đại thiên. Bồ-tát nguyện cầu đời sau sẽ thấy ánh hào quang ấy chứng Vô thượng Chánh giác. Do thấy quang minh rồi thành đại Bồ-đề, lại đem ánh sáng nơi thân để chiếu khắp thế giới. Bồ-tát do nhân duyên này sẽ được sinh về nước Diệu hỷ. Này Xá-lợi-phất! Chúng Thanh văn của Đức Phật ấy số đông vô lượng, vô biên. Bồ-tát nguyện được thấy chúng Thanh văn ấy. Thấy rồi khởi công hạnh chứng Phật Bồ-đề. Lúc chứng Phật Bồ-đề rồi cũng có vô lượng, vô biên chúng Thanh văn như vậy. Do nhân duyên này, Bồ-tát sẽ được sinh về nước Diệu hỷ. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Trong nước ấy có vô lượng, vô biên chúng Bồ-tát. Nên luôn trụ niệm rằng: “Tôi muốn thấy các Bồ-tát ấy tu hành thiền định, tôi sẽ theo học, cùng các Bồ-tát ấy hội họp đồng học, đồng tu, đồng đến rốt ráo. Tôi nguyện sẽ được hội ngộ với người muốn cầu viên mãn đại Từ bi, với người muốn cầu đại Bồ-đề, với người bỏ rời tâm Nhị thừa, với người an trụ tánh rỗng không chân thật, với người nhớ niệm danh hiệu của Phật Như Lai, Pháp và Tăng. Này Xá-lợi-phất! Có thiện nam, thiện nữ nào được nghe danh hiệu của các hàng Bồ-tát như vậy, sẽ được thọ sinh ở nước Diệu hỷ, huống là đem căn lành Bát-nhã ba-la-mật-đa hồi hướng đến Đức Như Lai Bất Động. Do nhân duyên này, người ấy quyết định được sinh về nước Diệu hỷ. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Nếu Đại Bồ-tát nguyện sinh về nước ấy, nên quán tưởng cảnh tượng ở phương Đông vô lượng thế giới có chư Phật Như Lai thuyết pháp vi diệu và chúng Thanh văn theo niệm tưởng hiện rõ ra trước mắt: “Nguyện tôi sẽ thành Phật thuyết pháp vi diệu và chúng Thanh văn đều như Đức Phật ấy.” Này Xá-lợi-phất! Các Bồ-tát nên tu ba thứ tùy niệm căn lành nguyện cùng tất cả chúng sinh bình đẳng cùng tu tập hồi hướng Vô thượng Bồ-đề. Này Xá-lợi-phất! Bồ-tát hồi hướng căn lành như vậy không có hạn lượng. Giả sử tất cả chúng sinh đều riêng cầm một cái bát lớn bằng hư không mà nói rằng: “Xin ngài đem căn lành ấy chia cho chúng tôi.” Nếu căn lành ấy có sắc tướng đem cấp cho chúng sinh đều đầy tất cả bát của họ rồi họ đều cầm đi, nhưng căn lành ấy vẫn không cùng tận, vì hồi hướng Vô thượng Bồ-đề không có hạn lượng, chẳng thể di chuyển. Này Xá-lợi-phất! Ba thứ tùy niệm căn lành thành tựu ấy hồi hướng Nhất thiết chủng trí, do căn lành ấy mà Tam bảo chuyển theo. Nếu có Bồ-tát nào thành tựu căn lành ấy thì chẳng còn đọa tất cả ác đạo mà có thể trừ dẹp ma Ba-tuần và các ma chúng, tùy ý thích sinh về nước Diệu hỷ hay bất cứ một nước nào ở mười phương. Vì thế nên với tùy niệm căn lành này, Đại Bồ-tát cần tích tập. Khi tích tập nó rồi nên hồi hướng đến Đức Như Lai Bất Động. Do đây sẽ được sinh về nước Diệu hỷ. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Nước Diệu hỷ của Đức Như Lai Bất Động có công đức trang nghiêm rộng lớn mà trong vô lượng cõi Phật khác không có. Vì thế nên Bồ-tát phải phát tâm như vầy: “Tôi đem căn lành này nguyện sẽ thấy nước ấy. Nước ấy trang nghiêm nguyện sẽ nhiếp thọ. Cũng nguyện sẽ thấy các Bồ-tát ở nước ấy.” Này Xá-lợi-phất! Do nhân duyên trên đây, Bồ-tát sẽ được sinh về nước Diệu hỷ. Này Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát nguyện sinh về nước ấy phải phát tâm nguyện ưa thích tăng thượng. Nếu thiện nam, thiện nữ phát nguyện tăng thượng, ta đều thọ ký cho họ sẽ được sinh về nước Diệu hỷ. Này Xá-lợi-phất! Ví như có tòa thành không có lầu đài, vườn rừng, ao hồ, cũng không có chỗ cho voi ngựa qua lại. Vua trong thành ấy dù có thế lực ở yên, nhưng vì tòa thành trống trơn nên chẳng phải là tòa thành trang nghiêm. Cõi Ta-bà của ta đây cũng vậy. Vì không có những công đức như nước Diệu hỷ nên chẳng phải là cõi trang nghiêm. Này Xá-lợi-phất! Nếu cõi Ta-bà của ta có những công đức trang nghiêm ấy, thì sẽ như cõi nước trang nghiêm thù thắng của Đức Như Lai Bất Động. Này Xá-lợi-phất! Nếu Đại Bồ-tát phát nguyện sẽ nhiếp thọ thanh tịnh cõi Phật, thì nên như Đức Như Lai Bất Động thuở trước hành đạo Bồ-tát tu tập công đức trang nghiêm cõi nước thanh tịnh và phải nhiếp thọ công đức như vậy. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Như ta ngày nay được Vô thượng Bồ-đề điều phục vô lượng chúng sinh đều được chứng quả Nhị thừa, hàng Thanh văn của ta giáo hóa điều phục đều nhóm họp cả lại để so sánh với hàng Thanh văn của Đức Như Lai Bất Động thì chẳng bằng một phần trăm, một phần ngàn, cho đến ưu-ba-ni-sa-đà phần cũng chẳng bằng một. Vì sao? Vì số ấy vô lượng vậy. Nếu nói về phần giải thoát thì không khác. Này Xá-lợi-phất! Lúc Đức Di-lặc Như Lai xuất thế, chúng Thanh văn và những người được điều phục so sánh với chúng Thanh văn của Đức Như Lai Bất Động cũng như số trên, chẳng bằng một phần ưu-ba-ni-sa-đà. Này Xá-lợi-phất! Ông nên biết, do Đức Như Lai Bất Động một hội thuyết pháp có thể điều phục vô lượng hữu tình, nên người được Đức Như Lai ấy nhiếp thọ không ai có thể biết được số lượng. Này Xá-lợi-phất! Cộng chung tất cả chúng Thanh văn và những người được chúng Thanh văn này điều phục của ta, Thích-ca Mâu-ni Phật, của Di-lặc Phật và của tất cả chư Phật trong Hiền kiếp, đem so sánh với số chúng Thanh văn của Đức Như Lai Bất Động cũng vẫn không bằng một phần ưu-ba-ni-sa-đà. Vì sao? Vì số quá nhiều vậy. Giải thoát thì không khác. Lúc đó Tôn giả Xá-lợi-phất bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Theo chỗ con nhận hiểu ý nghóa của Thế Tôn đã dạy thì nước Diệu hỷ chính là nước A-la-hán chớ chẳng phải là nước phàm phu. Vì sao? Vì nước ấy bậc chứng A-la-hán quá nhiều . Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Đúng như vậy! Này Xá-lợi-phất! Như lời ông nói, trong nước ấy bậc A-la-hán rất đông nhiều. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Cõi đại thiên này, số lượng tinh tú chẳng nhiều bằng chúng Thanh văn ở nước của Đức Như Lai Bất Động. Do vì một hội thuyết pháp của Đức Như Lai ấy có vô lượng hữu tình được quả A-la-hán. Này Xá-lợi-phất! Số lượng tinh tú ở toàn cõi đại thiên này chỉ bằng số hữu tình được quả A-la-hán trong một hội thuyết pháp của Đức Phật ấy. Chúng Thanh văn ở các pháp hội không có số lượng. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Hàng chư Thiên và nhân dân vun trồng cội đức ở nước ấy, trời, người cõi khác dù dùng Thiên nhãn cũng chẳng thấy được, dù đến tại nước ấy dùng Thiên nhãn vẫn chẳng thấy được. Nếu ai nghe công đức này rồi thọ trì, đọc tụng thông thuộc, người này đã thấy nghe Đức Như Lai Bất Động lúc hành đạo Bồ-tát, vì thế nên nay nghe pháp môn công đức này liền có lòng tin thanh tịnh. Này Xá-lợi-phất! Trong các cõi nước ở tất cả thế giới phương Đông, hoặc người Bồ-tát thừa, hoặc người Thanh văn thừa đọc tụng thông thuộc pháp môn này, số người ấy rất đông nhiều. Những bậc Thanh văn và Bồ-tát ấy do nguyện lực của họ, đã sinh, đang sinh, hoặc sẽ sinh về nước Diệu hỷ của Đức Như Lai Bất Động. Chỉ trừ các bậc Bồ-tát không thoái chuyển, vì các Bồ-tát không thoái chuyển ở trong các cõi nước ấy sẽ thành Vô thượng Bồ-đề. Trong các thế giới ở mười phương cũng đều như vậy. Này Xá-lợi-phất! Đức Như Lai Bất Động làm bậc Thượng thủ trong hàng Bồ-tát thừa ở tại nước Diệu hỷ và các cõi nước phương khác. Này Xá-lợi-phất! Nếu có thiện nam, thiện nữ nghe pháp môn công đức của Đức Như Lai Bất Động mà khéo có thể thọ trì đọc tụng thông thuộc rồi nguyện sinh về nước ấy thì từ khi đó đến lúc mạng chung, người ấy được Đức Như Lai Bất Động thường hộ niệm, không cho các ma và quyến thuộc ma làm lòng họ thoái chuyển, phải biết những người ấy từ nay đến lúc được Vô thượng Bồ-đề không có sự lo sợ thoái chuyển, cũng không bị hại vì nước, lửa, dao, gậy, độc trùng, ác thú, cũng không bị người hay quỷ thần làm kinh sợ. Vì sao? Vì thường được sự ủng hộ của Đức Như Lai Bất Động, vì sẽ được sinh về nước Diệu hỷ. Này Xá-lợi-phất! Như mặt trời dù ở rất xa nhưng chiếu ánh nắng sáng cho chúng sinh Diêm-phù-đề. Cũng vậy, Đức Như Lai Bất Động có thể làm ánh sáng cho các Bồ-tát ở những cõi khác. Này Xá-lợi-phất! Như Tỳ-kheo có Thiên nhãn có thể thấy những hình sắc tốt xấu ở phương xa. Cũng vậy, dù ở tại nước mình, Đức Như Lai Bất Động đều thấy tất cả hình loại của các Bồ-tát ở những thế giới khác. Này Xá-lợi-phất! Như Tỳ-kheo được tâm tự tại có Thần thông ba-la-mật-đa ấy rồi có thể biết rõ tâm niệm của tất cả hữu tình, mặc dầu ở rất xa. Cũng vậy, Đức Như Lai Bất Động biết rõ tâm của các Bồ-tát ở các thế giới khác. Này Xá-lợi-phất! Như Tỳ-kheo có Thiên nhó có thể nghe được âm thanh rất xa. Cũng vậy, có những chúng sinh ở các thế giới khác nguyện rằng: “Tôi nguyện được sinh về nước Diệu hỷ.” Đức Như Lai Bất Động liền nghe lời nói của họ. Này Xá-lợi-phất! Các hạng thiện nam, thiện nữ ấy, Đức Như Lai Bất Động đều biết rõ họ tên. Nếu ai thọ trì, đọc tụng thông thuộc pháp môn công đức này thì đều được Đức Như Lai Bất Động thấy biết và đã hộ niệm họ. Lúc ấy Tôn giả Xá-lợi-phất bạch rằng: –Bạch Thế Tôn! Rất là hy hữu! Đức Như Lai Bất Động hộ niệm chúng Đại Bồ-tát ấy. Đức Phật dạy: –Đúng như lời ông nói. Này Xá-lợi-phất! Các Đại Bồ-tát ấy được Đức Như Lai hộ niệm. Vì sao? Vì hộ niệm các Bồ-tát nên tất cả chúng sinh đều được hộ niệm. Này Xá-lợi-phất! Như Đại vương Quán đảnh có nhiều kho lẫm chứa đầy lúa đậu, nghiêm lệnh cho quan chủ ty phải khéo giám sát giữ gìn. Vì sao? Vì để cứu tế nhân dân lúc có nạn đói kém. Này Xá-lợi-phất! Các Bồ-tát ấy, sau khi Đức Như Lai diệt độ, sẽ chứng Vô thượng Bồ-đề. Lúc chánh pháp thiếu kém, có thể làm mùa trúng lớn. Đức Như Lai cũng như vậy, khéo có thể hộ niệm các Bồ-tát ấy. Này Xá-lợi-phất! Ở cõi Ta-bà này có các Bồ-tát sẽ nghe pháp môn Như Lai Bất Động công đức, họ có thể thọ trì, đọc tụng thông thuộc nguyện sinh về nước Diệu hỷ, phải biết những người này được Bất thoái chuyển. Nếu có Bồ-tát khác nơi pháp môn này khéo có thể thọ trì, đọc tụng thông thuộc rồi khai thị giảng thuyết cho vô lượng chúng sinh, khiến các chúng sinh ấy vun trồng cội công đức như vậy và sẽ gần gũi Vô thượng Bồ-đề. Này Xá-lợi-phất! Nếu có Bồ-tát nguyện mau chứng Vô thượng Bồ-đề, thì phải thọ trì, đọc tụng thông thuộc pháp môn này rồi khai thị giảng thuyết cho chúng sinh. Vì sao? Đại Bồ-tát phải giảng thuyết pháp môn công đức này để tạo nghiệp đại trí tuệ. Phải phát khởi tích tập như vậy. Do vì phát khởi tích tập, nên các vị ấy hiện đời sẽ sạch phiền não. Này Xá-lợi-phất! Vì thế nên hàng Thanh văn thừa nghe pháp môn này nên thọ trì, đọc tụng thông thuộc rồi khai thị diễn thuyết cho chúng sinh. Vì sao? Vì do thọ trì chánh pháp như vậy, thiện nam, thiện nữ ấy hiện đời sẽ chứng bậc Vô học. Này Xá-lợi-phất! Nếu có thiện nam, thiện nữ tín tâm thanh tịnh nơi pháp môn xưng tán công đức này, phải nên vì người khác luôn luôn diễn nói. Những người ấy chẳng ngoài hai đời sẽ được quả vô lậu. Này Xá-lợi-phất! Pháp môn công đức của Như Lai Bất Động đây, chẳng phải là hàng ngu cạn mà có thể thọ trì được. Người có trí tuệ sâu rộng mới thọ trì được. Này Xá-lợi-phất! Thiện nam, thiện nữ nào sẽ thấy chư Phật, chắc chắn đích thân sẽ được pháp môn xưng tán công đức này. Này Xá-lợi-phất! Ví như vô giá bảo châu từ biển lớn mang về. Ý của ông nghó sao, ai sẽ là người được trước? Tôn giả Xá-lợi-phất bạch: –Bạch Thế Tôn! Các quốc vương, vương tử, đại thần là người được trước. Đức Phật dạy: –Này Xá-lợi-phất! Pháp môn công đức của Như Lai Bất Động cũng vậy, Bồ-tát được trước. Các Bồ-tát ấy sẽ được không thoái chuyển, nếu nghe pháp môn này liền có thể thọ trì, đọc tụng thông thuộc. Các Bồ-tát ấy vì Vô thượng Bồ-đề, ở nơi tánh chân như sẽ siêng năng tu học. Tôn giả Xá-lợi-phất bạch: –Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ-tát muốn ở Bậc không thoái chuyển, khi nghe pháp môn xưng tán công đức này phải thọ trì, đọc tụng thông thuộc. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát an trụ pháp môn này, ở trong pháp tánh sẽ chẳng thoái chuyển. Đức Phật dạy: –Này Xá-lợi-phất! Giả sử có người đem vàng ròng đầy Diêm-phù-đề ra bố thí để trông mong được nghe pháp này, nhưng trọn chẳng được nghe. Vì sao? Vì pháp môn công đức này chẳng phải các chúng sinh phước bạc sẽ chấp trì được. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Nếu hàng Thanh văn thừa nghe pháp môn công đức này rồi thọ trì, đọc tụng vì Vô thượng Bồ-đề và vì tương ưng chân như mà siêng năng tu tập, người ấy ở thân đời sau sẽ được thành tựu, hoặc trong hai đời thì được bậc Nhất sinh bổ xứ, hoặc là ba đời, chẳng bao giờ vượt quá, sẽ thành Bậc Chánh Giác. Nếu họ nghe pháp môn xưng tán công đức Như Lai Bất Động này rồi thì phải đọc tụng thông thuộc, lại khai thị diễn thuyết cho vô lượng chúng sinh. Này Xá-lợi-phất! Như Chuyển luân thánh vương do nghiệp đời trước mà cảm bảy báu hiện ra. Cũng vậy, do bản nguyện lực của Đức Như Lai Bất Động, hôm nay ta nói pháp môn công đức này. Này Xá-lợi-phất! Nơi pháp môn xưng tán công đức này, các Đại Bồ-tát đã nghe, hoặc sẽ nghe, đó đều là do Từ bi nguyện lực của Đức Như Lai Bất Động lúc hành đạo Bồ-tát thuở trước. Hoặc sẽ ở nơi chư Phật trong Hiền kiếp, họ dự nghe khai thị pháp môn này, như hôm nay ta khai thị diễn thuyết bao nhiêu danh số chẳng thêm chẳng bớt. Vì thế nên các Bồ-tát nào muốn mau chứng Vô thượng Bồ-đề, thì nơi pháp môn xưng tán công đức này phải thọ trì, đọc tụng thông thuộc và diễn nói cho người khác. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Nếu thiện nam, thiện nữ nào vì cầu pháp môn này nên đến xóm làng, thành ấp kia để lắng nghe, thọ trì, đọc tụng thông thuộc, thì dù họ là hàng xuất gia mà ở nhờ nhà bạch y tại gia, ta nói họ cũng không có lỗi, cũng cho họ ở. Vì sao? Vì họ muốn sau khi họ chết, pháp môn này sẽ chẳng ẩn mất vậy. Này Xá-lợi-phất! Nếu thôn ấp ấy ở xa xôi các người ấy cũng phải đến ở đó lắng nghe, thọ trì, đọc tụng khai thị diễn thuyết pháp môn này. Này Xá-lợi-phất! Thiện nam, thiện nữ ấy đối với pháp môn xưng tán công đức này nếu là đã được lưu hành, hoặc ở người khác có quyển kinh này, họ phải đến nơi đó biên chép. Người kia nếu yêu cầu phải dứt niệm tham, hoặc bảo kinh hành, hoặc bảo ngồi, bảo đứng, họ đều phải chìu theo chỗ yêu cầu của người kia để biên chép kinh này. Nếu đến thôn xóm ấy tìm chẳng được, thì phải qua địa phương kế cận tìm cầu kinh này để biên chép, thọ trì, đọc tụng thông thuộc, rồi lại khai thị diễn thuyết cho người khác. Nếu đến địa phương khác vẫn tìm cầu chẳng được, họ phải phát thệ như vầy: “Với Vô thượng Bồ-đề tôi chẳng nên có ý nghó thoái chuyển, vì tôi đã được nghe tên pháp môn xưng tán công đức Như Lai Bất Động, người ấy đối với tôi muốn tôi được lợi ích nên khiến tôi lắng nghe.” Này Xá-lợi-phất! Pháp môn xưng tán công đức Như Lai Bất Động này, có ai diễn thuyết được và người dự nghe, đều do sức oai thần của Đức Như Lai cả. Tôn giả Xá-lợi-phất bạch: –Bạch Thế Tôn! Sau khi Đức Như Lai diệt độ, do oai lực của ai mà được nghe pháp môn này? Đức Phật dạy: –Này Xá-lợi-phất! Sau khi ta diệt độ, do sức oai thần của Đức Như Lai Bất Động nên sẽ được nghe. Hoặc do Tứ đại Thiên vương, Thiên đế Thích... sẽ siêng gia hộ cho các vị Pháp sư tuyên dương pháp môn này. Và các Bồ-tát ấy vì bản nghiệp thành thục nên Tứ đại Thiên vương... dùng oai thần gia hộ sách tấn làm cho họ được nghe pháp môn này. Tôn giả Xá-lợi-phất bạch: –Bạch Thế Tôn! Pháp môn như vầy có thể thành tựu được công đức rộng lớn. Đức Phật dạy: –Đúng như vậy! Đúng như lời ông nói! Này Xá-lợi-phất! Nếu trong nước nào bị tai nạn sấm sét mưa đá và những sự kinh khủng khác, các thiện nam, thiện nữ ấy phải nên chuyên nghó nhớ Đức Như Lai Bất Động và xưng danh hiệu của Ngài, thì các tai nạn ấy sẽ được tiêu trừ. Đó là do vì thuở xưa Đức Như Lai ấy đã cứu vớt trăm ngàn loài rồng thoát khỏi khổ não. Lại do vì Từ bi bản nguyện chắc thật chẳng luống, hồi hướng căn lành nguyện cầu viên mãn, nên xưng danh hiệu Ngài thì tai hoạn tự tiêu trừ. Chỉ trừ những hữu tình có túc nghiệp thành thục. Tôn giả Xá-lợi-phất bạch: –Bạch Thế Tôn! Các Bồ-tát muốn hiện đời chứng Vô thượng Bồ-đề, phải như Đức Như Lai Bất Động tu hạnh nguyện thuở xưa. Đức Phật dạy: –Đúng như vậy. Này Xá-lợi-phất! Đúng như lời ông nói. Ít có Bồ-tát nào đã có thể tu thanh tịnh cõi Phật hay sẽ tu như Đức Như Lai Bất Động. Này Xá-lợi-phất! Các Bồ-tát được như Đức Như Lai Bất Động đều sẽ chứng Vô thượng Bồ-đề, đối với Phật tánh và Nhất thiết chủng trí cùng nhiếp thọ Phật độ thảy đều đồng như nhau cả. Về phần chúng Bồ-tát và chúng Thanh văn chẳng phải là không có ưu việt, nhưng về phần giải thoát thì không khác. Bấy giờ chúng trời cõi Dục và Phạm thiên… đều hướng về Đức Như Lai Bất Động chắp tay đảnh lễ mà xướng ba lần: –Nam-mô Như Lai Bất Động Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh giác rất là hy hữu. Nam-mô Thích-ca Mâu-ni Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác khéo nói được pháp môn xưng tán công đức ấy. Chư Thiên cõi Dục đem hoa trời Mạn-đà-la và các thứ hương trời rải trên Đức Phật. Các hoa hương được rải lên ấy hợp lại thành lọng ở trên hư không. Chư Thiên cũng vói rải hoa hương đến Đức Như Lai Bất Động để cúng dường. Lúc ấy Thiên đế Thích nghó rằng: “Tôi và chư Thiên cõi Dục cùng hàng bốn chúng đều muốn được thấy Đức Như Lai Bất Động.” Đức Phật biết ý nghó của Thiên đế nên liền hiện lên hư không ngôi kết già. Do thần lực của Đức Phật, tất cả đại chúng đều an trụ trên hư không và đều thấy nước Diệu hỷ, Đức Như Lai Bất Động, chúng Bồ-tát và chúng Thanh văn bên ấy. Được thấy rồi, tất cả đại chúng đều quỳ gối bên phải hướng về Đức Như Lai Bất Động. Đại chúng ở cõi này đồng nghó rằng: “Phải chăng vì thấy Đức Như Lai Bất Động mà chư Thiên cung trời Đao-lợi đến hội họp để lễ bái cúng dường.” Lúc ấy Thiên đế Thích nghó rằng chư Thiên ở nước Diệu hỷ kia do nhân tướng mà có ngã kiến. Nhân dân ở nước ấy ăn mặc hưởng thụ chẳng khác chư Thiên ở nước ấy. Đức Thế Tôn sau khi nhiếp thần thông bảo Thiên đế Thích: –Này Thiên-đế, nhân dân ở nước Diệu hỷ đều hưởng thọ phước vui cõi Trời, hãy nên ưa thích. Những chúng nhân này được thấy Đức Như Lai Bất Động và ưa thích sự hưởng thụ phước trời của nước Diệu hỷ, sau khi mạng chung họ sẽ được sinh về nước của Đức Như Lai Bất Động. Các chúng sinh ở những thế giới khác cũng như vậy. Tôn giả Xá-lợi-phất nói với Thiên đế Thích: –Ngài thấy Đức Thích-ca Mâu-ni Phật và Đức Như Lai Bất Động, do nhân duyên này, ngài sẽ được sự lợi ích lành trong hiện đời, huống là ngài đã được pháp hơn người. Thiên đế Thích lúc ấy lại nghó rằng: “Các chúng sinh ấy nghe pháp môn công đức này cũng được lợi ích lành. Huống là được sinh về nước của Đức Như Lai Bất Động.” Đức Phật bảo Thiên đế Thích: –Hàng Bồ-tát thừa sẽ sinh về nước ấy cũng được lợi ích lành. Vì sao? Vì các Bồ-tát ấy đều được an trụ bậc không thoái chuyển. Nếu các Bồ-tát khác hiện đời nguyện sinh về nước ấy, phải biết đều là người an trụ bậc không thoái chuyển cả. Lúc Đức Phật nói pháp môn này, có năm trăm Tỳ-kheo được tâm giải thoát nơi pháp vô lậu, năm ngàn Bồ-tát, sáu ngàn Tỳ-kheo-ni, tám ngàn Ưu-bà-tắc, mười ngàn Ưu-bà-di và vô lượng Thiên tử cõi Dục đều phát nguyện sinh về nước Diệu hỷ của Đức Như Lai Bất Động. Đức Phật liền thọ ký cho họ đều sẽ được vãng sinh về nước ấy. Nếu có chúng sinh nào sẽ phát nguyện sinh về nước ấy, Đức Phật cũng đều thọ ký họ sẽ được vãng sinh. Bấy giờ khắp cõi đại thiên chấn động sáu cách. Đó là động, biến động và đẳng biến động; chấn, biến chấn và đẳng biến chấn. Do vì được sự gia trì của pháp môn xưng tán công đức Như Lai Bất Động này vậy. Đức Phật nói kinh này rồi, Tôn giả Xá-lợi-phất... và các thế gian chư Thiên, nhân dân, A-tu-la, Càn-thát-bà, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, tất cả đại chúng nghe lời Đức Phật dạy đều rất vui mừng tín thọ phụng hành.  KINH ĐẠI BẢO TÍCH <卷 id="86423692">QUYỂN 21 Hán dịch: Đời Đại Đường, Tam tạng Pháp sư Bồ-đề-lưu-chí. <詞 id="86423693">Pháp hội 7: MẶC ÁO GIÁP TRANG NGHIÊM (Phần 1) Tôi nghe như vầy: Một thời Đức Phật ở thành Vương xá tại Trúc lâm Ca-lan-đà cùng chúng đại Tỳ-kheo và Đại Bồ-tát đều hội họp. Các Bồ-tát này đều từ các cõi Phật đến. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn được vô lượng trăm ngàn đại chúng vây quanh cung kính cúng dường. Trong chúng hội có vị Đại Bồ-tát tên là Vô Biên Tuệ, từ chỗ ngồi đứng dậy để hở vai áo bên phải, quỳ gối bên phải chấm đất cúi đầu kính lạy, rồi chắp tay hướng lên Đức Phật mà bạch rằng: –Bạch Thế Tôn! Con có chút nghi ngờ xin hỏi Đức Như Lai, mong Đức Như Lai hứa khả cho. Ngài Vô Biên Tuệ Bồ-tát nói kệ: Đấng Đại Hùng Trượng Phu Thế gian chẳng ai bằng Nay con vì chúng sinh Có chút nghi xin hỏi: Chẳng rời tòa Sư tử Hiện thân khắp mười phương Trong tất cả dị luận Không ai khuynh động được. Tạng trí không ngằn mé Trí lực cũng vô lượng Uy lực của Thế Tôn Độ khắp cả thế gian. An trụ Nhất thiết trí Khéo trụ ở mười Lực Đại sư tử vô úy Đấng Tối Thắng Vô Thượng. Đức Như Lai có đủ Mười tám pháp Bất cộng Chiếu sáng khắp thế gian Xô dẹp các ngoại đạo Biết rõ tất cả pháp Vì thế không ai trên Đại Đạo Sư trọn lành. Con có nghi xin hỏi Trí ly cấu vô biên Trí biển lớn chẳng động Trí cảnh giới không ngại. Con có nghi xin hỏi: Thế Tôn khéo tu tập Nơi đạo không còn lầm Đại Đạo Sư an ổn. Con có nghi xin hỏi: Đã qua khỏi dòng dữ Dứt trừ hết trói buộc Nhổ được các tên độc. Con có nghi xin hỏi: Đã phá vỏ vô minh Hết nóng lửa phiền não Khéo an trụ thanh lương. Con có nghi xin hỏi: Vô thượng trí vô úy Trí vô ngại vô trước Pháp hải Nhất thiết trí Như Lai đã chứng được Phật vô lượng công đức Chứng trí đều viên mãn Hết tất cả phiền não, Phá tất cả kiến chấp Thế Tôn chứa nhóm nhiều Vô lượng công đức lớn Pháp vương chẳng nghó bàn. Con có nghi xin hỏi: Phật trí tuệ thù thắng Chiếu khắp các thế gian Diễn rộng ánh sáng pháp, Biển công đức vô biên Pháp quang của Đạo Sư Chiếu khắp các thế gian Vì thế trong thế gian Ánh sáng Phật pháp hiện Biển pháp Nhất thiết trí Biện tài không gì trên Tinh tấn chẳng nghó bàn, Thanh tịnh rời kiến chấp Vì Phật nhãn vô biên Trí cảnh cũng vô biên Đấng thế gian vô đẳng. Con có nghi xin hỏi: Đại Mâu-ni Pháp Vương Dứt được chúng sinh mê Bạch Phật con sẽ hỏi Trông mong được hứa cho Con xem tất cả chỗ Trên trời và nhân gian Không ai bằng Như Lai. Đấng soi sáng cùng khắp Đầy đủ các công đức Đại Trượng Phu trang nghiêm Pháp Vương chẳng nghó bàn. Sáng rực trong các Thánh Ví như núi Tuyết lớn Chỗ các báu đoan nghiêm Thế Tôn ngồi pháp tọa Đoan nghiêm cũng như vậy. Diệu âm đại tinh tấn Hay tuyên lời đẹp dạ, Nếu chúng sinh được nghe Căn lành đều thanh tịnh. Phật thù thắng trong người Thường diễn ánh sáng pháp Nhờ vậy mà chúng sinh Tùy ý liền khai ngộ. Biết thời biết chúng hội Đấng Đạo Sư biết người Diễn bày ánh sáng pháp Dùng trí tuệ đúng thời. Đấng Phạm Âm tinh tấn Xin ban lời thanh tịnh Như trời mưa ướt đất Chánh pháp khắp nhuần mát. Thế Tôn ở trong chúng Khắp tuyên pháp vũ rồi Hy vọng ở pháp này Chúng sinh đều đầy đủ. An trụ trên tất cả Như vua ở Diệu cao Ban pháp cho chúng sinh Khiến đại chúng hoan hỷ. Đại Hùng Lưỡng Túc Tôn Cảnh giới chẳng nghó bàn Tất cả các chúng sinh Không ai có thể biết Vô lượng đại Trượng phu Chúng hội đã hòa hợp Nương nhờ Đại Mâu-ni Chí cầu cảnh giới Phật. Con hướng đến cảnh Phật Nên đến họp tại đây Đạo Sư trí vô ngại Thế nào sớm khai ngộ. Con theo ý mình thích Chiêm ngưỡng muốn thỉnh hỏi Xin Thế Tôn khai thị Để dứt hết nghi hoặc. Nếu nghe pháp vô thượng Thì được lòng hoan hỷ Hớn hở khắp cả thân Dứt được các lưới nghi. Pháp Vương Vô Thượng Tôn Nhất thiết trí vô úy Bậc thấy biết tất cả Con nghi xin được hỏi. Đối với tất cả pháp Phật không chút nghi hoặc. Đại Đạo Sư tinh thuần Con nghi xin được hỏi: Đấng dứt nghi vô thượng Với pháp chẳng nghi hoặc Biển công đức vô biên Con nghi xin được hỏi: Ánh sáng lượng vô biên Công đức lớn vô biên Trí thanh tịnh vô biên Con nghi xin được hỏi: Trí tinh tấn vô biên Trí cảnh giới vô biên Trí lợi ích vô biên Con nghi xin được hỏi: Thế Tôn trí vô biên Lìa hữu biên và vô biên Dứt được tất cả nghi Con nghi xin được hỏi: Pháp Vương chẳng nghó bàn Thương xót nghe con hỏi Cho phép con sẽ hỏi Đức Phật tuyên dạy cho Xin hỏi Nhất Thiết Trí Đức Thích-ca Mâu-ni Nếu thương cho phép con Xin giải quyết điều nghi. Đức Thế Tôn bảo Đại Bồ-tát Vô Biên Tuệ: –Này Vô Biên Tuệ! Nay đối với ta, ông khát ngưỡng khẩn cầu muốn hỏi Như Lai bao nhiêu điều. Nếu ông có điều gì muốn hỏi, ta sẽ giải đáp cho. Đức Thế Tôn nói kệ: Này Vô Biên Tuệ! Muốn hỏi điều gì Ông đều nên hỏi Ta sẽ giải đáp. Theo điều ông hỏi Mỗi việc đem hỏi Tùy ý thích ông Phật sẽ nói ngay. Ta vì ông nói Hết không còn nghi Theo chí nguyện cầu Hợp chỗ ông hỏi. Nay ông hỏi Phật Đúng lúc, đúng nghóa Vì phải thời hỏi Ta quyết định nói. Theo ý ông thích Hỏi điều nên hỏi Ta đều tùy thuận Vì ông diễn nói. Ông hỏi đúng thời Ta nói đúng lúc Dứt nghi cho ông Sẽ không còn nghi. Ta là Pháp Vương Thấu nghóa rốt ráo Với tất cả pháp Không còn nghi hoặc. Ta với các pháp Chánh giác khó suy Theo ý chúng sinh Hỏi sẽ giải đáp. Phật với các pháp Đều không còn nghi Đúng lúc bạch hỏi Sẽ mau diễn nói. Nay vì ông nói Không còn nghi hoặc Theo ý ông thích Giải thích điều nghi Ta thường biết rõ Thời và chúng hội Các loài chúng sinh Ý hướng chẳng đồng. Cũng thường quán sát Tất cả chúng sinh Dục hay không dục Thảy đều thấy rõ. Nếu hàng trí giả Hay khéo tu hành Ta đều đúng thời Khai ngộ Chánh pháp. Nếu người vô trí Ngu si, mê loạn Họ không tuệ sáng Chẳng tôn trọng pháp. Nếu không tôn trọng Chẳng mong cầu pháp Dầu nghe pháp này Không có trí sáng. Người thiện xảo pháp Nơi pháp mong cầu Nếu nghe pháp này Được trí sáng lớn. Người thích Đại thừa Cầu thỉnh Thế Tôn Nghe pháp này rồi Được trí sáng lớn. Phật vô thượng trí Trí chẳng nghó bàn Nên người nguyện cầu Nghe đều thỏa mãn. Thích trí vô ngại Cầu Tối Thượng Tôn Họ nghe pháp này Được lợi ích lớn. Nếu có trí tánh Cầu chẳng nghó bàn Họ nghe pháp này Được trí vô thượng. Nếu có chúng sinh Cầu Phật đạo tràng Chuyển pháp vô thượng Nghe pháp hoan hỷ. Người thích tinh tấn Tôn sùng chánh pháp Nghe pháp ly cấu Mừng rỡ hớn hở. Nếu có chúng sinh Thích khéo tu tập Ta dùng pháp quang Nói pháp vô thượng. Gánh những gánh nặng Khuyến tu vô biên Họ nghe pháp này Vui mừng đầy đủ. Nếu người mong cầu Pháp lành tư duy Ta vì thương mến Vì họ giải nói. Ta thương các ông Tùy các ông hỏi Ta sẽ giải quyết Dứt nghi các ông. Từ nhiều ngàn năm Ta khéo tu hành Trừ hẳn nghi lầm Biết ý ông thích. Nếu có điều nghi Cho phép ông hỏi Sẽ vì ông nói Dứt hết nghi hoặc. Nếu có điều nghi Cho phép ông hỏi Theo ý ông muốn Ta sẽ nói cho. Nếu có điều nghi Cho phép ông hỏi Ta trụ chánh pháp Không hề động lay. Lúc ấy Đại Bồ-tát Vô Biên Tuệ bạch: –Bạch Thế Tôn! Con đối với Bồ-tát thừa có chút nghi, nay sẽ xin hỏi. Bạch Thế Tôn! Thế nào là bậc Thiện trượng phu xa rời sự sợ hãi, nhất tâm chánh niệm vì chúng sinh mà mặc giáp trụ lớn? Nơi giáp trụ lớn mà trang nghiêm đó; phát lòng rất mến thích mà tôn trọng đó; dùng sự không phóng dật mà đi xe Đại thừa ấy; dùng con đường sạch sẽ bằng thẳng lớn, không có những gò đống, ngói đá, gai góc dơ dáy, lùm rừng kiến chấp; cũng không có gai độc, hầm hố khổ não; cũng không có sự trói buộc sợ sệt gian nan; con đường bằng phẳng đúng lý ngay ngắn không cong queo; con đường không chướng ngại; đốn sạch lùm rừng; xé nát tất cả lưới; rời xa tối tăm; trừ bỏ ái trước, vì xả bỏ hòa hợp để hướng đến Vô thượng Bồ-đề. Bạch Thế Tôn! Con đối với nghóa này mà bạch hỏi. Thế nào là Thiện trượng phu? Thế nào giáp trụ lớn, mặc giáp trụ ấy đi xe Đại thừa, do con đường lớn ấy mà sẽ hướng đến Vô thượng Bồ-đề? Đức Thế Tôn nên diễn nói các Đại Bồ-tát giáp trụ trang nghiêm, an trụ nơi đạo, an trụ nơi các pháp lý thú thiện xảo. Vì ở nơi pháp lý thú an trụ thiện xảo nên có thể phát khởi ánh sáng thiện xảo của các pháp lý thú. Vì có ánh sáng pháp nên chẳng bỏ giáp trụ ngồi nơi Đại thừa, dùng sức tinh tấn không thoái chuyển, gốc không vọng niệm và sức trí tuệ tương tục có thể mau thành tựu pháp giới lý thú rành rẽ khéo giỏi, qua ngồi đạo tràng chuyển chánh pháp luân để vì chúng sinh mà diễn thuyết chánh pháp. Tất cả chúng sinh đúng như sở nguyện của họ, đúng như chỗ hướng đến của họ mà giải thoát sinh tử. Bạch Thế Tôn! Con muốn làm lợi ích an vui chúng sinh nên hỏi nghóa Đại thừa ấy. Đức Thế Tôn Như Lai là Bậc biết tất cả, thấy tất cả, xin chỉ dạy dùng những pháp gì để thành tựu nhất thiết chư pháp hải ấn Tam-muội của các Đại Bồ-tát. Do Tam-muội này khiến các Đại Bồ-tát được chẳng thoái chuyển nơi Vô thượng Bồ-đề. Đức Thế Tôn Như Lai biết thấy thành tựu các pháp chưa từng có, giỏi về phương thuốc làm nên trí tuệ cho chúng sinh. Vì thế nên con bạch hỏi. Đại Bồ-tát Vô Biên Tuệ lại nói kệ: Vì các Đại Bồ-tát Con hỏi Đức Thế Tôn Đấng Nhất Thiết Tri Kiến Nghóa Phật pháp thậm thâm Chỗ tu hành Đại thừa Định nào hướng đến được? Nay con đều thỉnh hỏi Lợi ích các chúng sinh. Thế nào Thiện trượng phu Mặc được giáp vô biên? Mặc giáp như vậy rồi Sẽ hướng đến thế nào? Khởi thích muốn thế nào? Thế nào mến pháp ấy? Thế nào đại tinh tấn? Thế nào chẳng phóng dật? Thế nào các Bồ-tát Đi xe Đại thừa này? Ngồi rồi lại thế nào? Việc ấy xin được nói. Thế nào trụ Đại thừa Hướng đến đạo Bồ-tát? Cúi xin Đấng Đạo Sư Mau vì con tuyên nói. Thế nào là đường bằng Bình đẳng để hướng đến? Với rừng rậm kiến chấp Luôn chặt đốn chẳng mệt? Ở trong các cảnh giới Thế nào được siêu việt? Pháp bình đẳng thế nào? Phá rách lưới tham ái? Thế nào trừ hắc ám Được ánh sáng đại trí? Các Đại Bồ-tát ấy Sẽ hướng đến thế nào? Hay quan sát ra sao Rời xa những trói buộc? Thế nào các Bồ-tát Lìa trói buộc ở yên? Thế nào các Bồ-tát Vượt qua bố úy lớn Giỏi khéo các pháp nghóa Hướng đến nơi vô thượng Bồ-tát mặc những gì? Giáp trụ lớn vô biên Mặc giáp trụ ấy rồi Ngồi nơi Đại thừa này? Thế nào các Bồ-tát Hướng đến đường bằng phẳng? Nay con kính bạch hỏi Thế Tôn nên giải đáp Bồ-tát làm sao được Giáp trụ lớn trang nghiêm Trang nghiêm Vô thượng thừa? Thế Tôn nên diễn nói An trụ nơi đạo này Và trang nghiêm đạo ấy. Nghóa thiện xảo các pháp Thế Tôn nên diễn nói Thế nào biết rõ được Lý thể của pháp giới? Ánh sáng pháp thiện xảo, Thế Tôn nên diễn nói Thế nào các Bồ-tát Được ánh sáng pháp ấy? Rốt ráo tất cả pháp Thế Tôn nên diễn nói: Thế nào các Bồ-tát Được ánh sáng pháp rồi? Chẳng bỏ giáp trụ lớn Do đây mà hướng đến? Thế nào các Bồ-tát, An trụ Đại thừa này Tinh tấn chẳng thoái chuyển Do đây mà hướng đến? Thế nào các Bồ-tát Chí niệm thường kiên cố Hay dùng sức trí lớn Mà khéo điều phục được? Thế nào được pháp giới Nghóa lý thú thiện xảo? Pháp Vương chẳng nghó bàn Xin Thế Tôn tuyên nói. Thế nào được mau chóng Đến đạo tràng Bồ-đề Chuyển pháp luân thanh tịnh Thế gian chẳng chuyển được? Thế nào chẳng lay động Để diễn nói các pháp Vì tất cả chúng sinh Như ngày xưa đã nguyện Do diễn nói các pháp Giải thoát hẳn sinh tử Làm sao cho chúng sinh Rốt ráo được an lạc Vì lợi ích chúng sinh Con hỏi Đức Thế Tôn: Bậc thấy biết tất cả Xin vì con diễn nói Nên dùng những pháp gì Làm cho các Bồ-tát Thành tựu tất cả pháp Hải ấn Đại Tam-muội? Người ham cầu Phật pháp Khát ngưỡng đại Bồ-đề Nếu nghe được pháp này, Toàn thân đều hớn hở. Phật dạy: –Lành thay! Lành thay! Này Đại Bồ-tát Vô Biên Tuệ, thuở quá khứ ông đã cúng dường phụng thờ vô lượng chư Phật, trồng những cội lành, họp các công đức chẳng thể tính lường được. Ở nơi pháp thậm thâm này ông ham cầu khát ngưỡng. Dùng đại nguyện để thành tựu chúng sinh mà ông phát khởi đại Bi bạch hỏi Đức Phật. Ông nên lắng nghe, khéo suy gẫm, nay ta sẽ vì ông diễn nói các Đại Bồ-tát do thành tựu công đức mà hướng đến Vô thượng Bồ-đề. Đại Bồ-tát Vô Biên Tuệ bạch: –Bạch Thế Tôn! Con xin được nghe. Phật dạy: –Này Đại Bồ-tát Vô Biên Tuệ! Vì Vô thượng Bồ-đề mà mặc giáp trụ; vì muốn nhiếp lấy chúng sinh mà mặc đại giáp trụ; vì thanh tịnh bố thí cho chúng sinh mà mặc đại giáp trụ; vì các chúng sinh nên trì giới thanh tịnh mà mặc đại giáp trụ; vì các chúng sinh nên nhẫn nhục thanh tịnh mà mặc đại giáp trụ; vì các chúng sinh nên tinh tấn thanh tịnh mà mặc đại giáp trụ; vì các chúng sinh nên thiền định thanh tịnh mà mặc đại giáp trụ; vì các chúng sinh nên trí tuệ thanh tịnh mà mặc đại giáp trụ; vì làm cho các chúng sinh được an lạc mà mặc đại giáp trụ; vì phát khởi tâm làm lợi ích cho các chúng sinh mà mặc đại giáp trụ; vì đối trị tham, sân, si cho các chúng sinh mà mặc đại giáp trụ; vì làm phương tiện cho đại công đức mà mặc đại giáp trụ; vì khéo viên mãn trí vô thượng mà mặc đại giáp trụ; vì cứu hộ sinh tử bố úy cho các chúng sinh mà mặc đại giáp trụ; vì muốn hiển hiện viên mãn trí không gì sánh bằng mà mặc đại giáp trụ; vì giao chiến với các ma, quyến thuộc ma và ma nghiệp; cũng vì giao chiến với tất cả ngoại đạo, những hạng người đi trong đường hiểm rừng rậm kiến chấp trong cõi đại thiên này mà mặc đại giáp trụ. Này Vô Biên Tuệ! Các Đại Bồ-tát mặc đại giáp trụ như vậy rồi chẳng rời bỏ giáp trụ mà phát khởi đại tinh tấn, có thể vào được trong tất cả loài chúng sinh lấy hạnh nhẫn nhục để an trụ, xa rời bố úy, chẳng kinh, chẳng sợ, chẳng động, chẳng loạn mà còn mặc vô biên giáp trụ như là giáp trụ cứu hộ tất cả chúng sinh, giáp trụ cắt đứt tất cả lùm rừng kiến chấp, giáp trụ phá các quân ma, giáp trụ có thể truyền trao trí tuệ, giáp trụ làm vô biên cầu đò, giáp trụ thoát khỏi các gánh nặng, giáp trụ tăng trưởng tín tâm thanh tịnh, giáp trụ ở vững nơi giới luật, giáp trụ trừ sạch nghiệp chướng, giáp trụ tất cả trí lực thanh tịnh, giáp trụ sức phương tiện thiện xảo, giáp trụ có thể dứt tất cả chấp trước, giáp trụ trí tuệ chẳng thoái chuyển chẳng hối hận. Này Vô Biên Tuệ! Các Đại Bồ-tát mặc đại giáp trụ như vậy rồi cũng chẳng bỏ rời cho đến tận cùng biên tế, sức tinh tấn kiên cố vô biên chẳng bao giờ động lay mà hướng đến Vô thượng Bồ-đề. Lúc đó Thế Tôn nói kệ rằng: Bồ-tát mặc giáp trụ Để nhiếp hóa chúng sinh Vì chúng sinh vô biên Mặc giáp cũng vô biên. Vì bố thí thanh tịnh Khiến tất cả đầy vui Vì lợi ích chúng sinh Mà mặc giáp trụ này. Vì trì giới thanh tịnh Lợi ích cho thế gian Vì làm lợi chúng sinh Mà mặc giáp trụ này. Vì nhẫn nhục thanh tịnh Dũng mãnh khéo an trụ Vì làm lợi chúng sinh Mà mặc giáp trụ này. Vì tinh tấn thanh tịnh Thành tựu không thoái chuyển Vì làm lợi chúng sinh Mà mặc giáp trụ này. Vì thiền định thanh tịnh Cảnh sở hành cũng vậy Vì làm lợi chúng sinh Mà mặc giáp trụ này. Vì trí tuệ thanh tịnh Vô lậu và vô thượng Vì làm lợi chúng sinh Mà mặc giáp trụ này. Tất cả các chúng sinh Thích gì sẽ cho đủ Khéo biết ý nghóa ấy Mà mặc giáp trụ này. Bồ-tát với chúng sinh Hay làm sự lợi ích Dùng bốn Nhiếp thanh tịnh Ban khắp trong các cõi. Nếu bệnh tham, sân, si Sẽ làm người đối trị Trao thuốc cho chúng sinh Tật bệnh đều tiêu trừ. Do đây các Bồ-tát Hay khéo mặc giáp trụ Nơi công đức tư lương Được vô biên phương tiện. Chúng sinh khổ sinh tử Bức bách chẳng an ổn Ta thường làm cứu hộ Mặc giáp trụ vô biên. Vô biên khổ sinh tử Ta hay khiến giải thoát Lưới ái kiến trói buộc Tất cả đều sẽ đoạn. Với lưới phiền não này Làm đoạn được tất cả Sức tinh tấn kiên cố Dũng mãnh mà mặc giáp. Tất cả các chúng sinh Khiến trụ đường an lạc Do đây đến Niết-bàn An ổn mà vô thượng. Do sức đại tinh tấn Mà mặc giáp trụ này Sẽ cùng tất cả ma Chiến đấu chẳng mệt nhọc. Với những nhà ngoại đạo Nắm chặt các kiến chấp Đi trong rừng rậm hiểm Mặc giáp làm lợi họ. Và vô lượng chúng khác Đi ở trong phi đạo Đều lợi ích cho họ Nên mặc giáp vô biên. Mặc giáp trụ ấy rồi Chẳng rời bỏ giáp trụ Khởi sức Đại tinh tấn Mặc giáp trụ kiên cố. Vào trong cõi chúng sinh Do nhẫn nhục được an Thành tựu kiên cố nhẫn Mặc giáp trụ vô thượng. Rời xa các bố úy Cũng không có kinh sợ Mặc vô biên giáp trụ Tất cả siêng tu tập. Khéo mặc Đại giáp trụ Thường hay Chánh giác ngộ Tịch diệt chẳng động lay Chẳng loạn, chẳng thoái chuyển. Mặc giáp như vậy rồi Trí giả lại nên mặc Giáp cứu hộ chúng sinh Giáp phá hoại quân ma Giáp cầu đò vô biên Tất cả giáp đều mặc Người trí tuệ dũng mãnh Mặc giáp được ở an Vì bỏ gánh rất nặng Mà mặc giáp vô thượng. Độ tất cả chúng sinh Đều khiến thoát gánh khổ Thêm lớn tin thanh tịnh Khéo điều nhiếp sáu căn Tương ưng với tịnh giới Nên mặc giáp vô thượng. Thành tựu trí dũng mãnh Bồ-tát hay an trụ Oai nghi đúng Giới luật Mặc giáp không lay động. Xưa ở trong chúng Thánh Tu các hạnh thanh tịnh Thế nên mặc giáp trụ Mà thường chẳng khiếp nhược. Dùng trí yêu chúng sinh Lợi ích các thế gian Thông đạt các phương tiện Mặc giáp khéo an trụ Với trí phương tiện khéo Bồ-tát thông đạt được. Mặc giáp như vậy rồi Dứt trừ các kết phược Rời xa tất cả chấp Chánh tín chẳng sai trái Người trí mặc giáp trụ Hướng đến đạo Vô thượng. Bồ-tát hay quyết định Tự lợi và lợi tha Do sức đại tinh tấn Kiên cố chẳng thoái chuyển. Đức Phật dạy tiếp: –Lại nữa, này Vô Biên Tuệ! Trong vô lượng kiếp, Đại Bồ-tát mang những gánh nặng, mặc giáp trụ lớn. Giáp trụ như vậy hoặc là ma, hoặc là quyến thuộc ma, hoặc là sứ giả của ma và những chúng sinh đi nơi lùm rừng rậm rạp ác hiểm tà kiến đều chẳng thấy được. Vì sao? Vì giáp trụ ấy không có hình sắc hiển bày, không tướng không đối, bỏ tướng rời tướng, không có danh tự vậy. Này Vô Biên Tuệ! Giả sử có cây phi tiễn lượng như núi Tu-di, bén nhọn bắn đến cũng không thể làm hư được. Giả sử tất cả chúng sinh trong cõi đại thiên đều làm ma, mỗi chúng sinh ma đều riêng có ngần ấy quyến thuộc quân ma, tất cả đồng thời buông mũi tên lượng như núi Tu-di, họ cũng chẳng thể làm hư hoại giáp trụ của các Đại Bồ-tát, dù là làm hư chừng bằng sợi lông. Đối với các Đại Bồ-tát, còn chẳng thể làm cho các vị có ý niệm khác huống là làm động tới thân. Các Đại Bồ-tát này nếu có một tâm niệm dẹp trừ họ, thì có thể làm cho quân ma ấy tan nát tiêu diệt. Khéo an trụ giáp trụ như vậy mà chẳng động thì tất cả chúng sinh không có ai phá hoại được. Vì sao? Vì là không tướng, vì chẳng phải sở hành mà chúng sinh thấy được. Tất cả chúng sinh chẳng thấy biết được các Đại Bồ-tát, mà Bồ-tát thì có thể biết rõ tất cả pháp. Vì thấy biết đúng thật nên mặc giáp trụ lớn để cứu hộ tất cả chúng sinh. Với tất cả pháp không có chấp trước, vì muốn lợi ích tất cả chúng sinh. Với tất cả pháp cũng vô sở đắc thế nên chúng sinh chẳng thấy biết được giáp trụ như vậy, vì giáp trụ ấy không có hình tướng, không có lộ bày, không có ngôn thuyết. Giáp trụ ấy chẳng tương ưng với sắc, với thọ, tưởng, hành, thức, chẳng tương ưng với nội, ngoại và trung gian, cũng chẳng tương ưng với chẳng phải nội, ngoại, trung gian, chẳng tương ưng với xứ, với giới, chẳng tương ưng với địa, thủy, hỏa, phong và không đại chủng, chẳng tương ưng với cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc, chẳng tương ưng với hữu tác, vô tác, hữu tác vô tác và phi hữu tác phi vô tác, chẳng tương ưng với Thanh văn địa, Bích-chi-phật địa và Phật địa, chẳng tương ưng với đường ngữ ngôn, chẳng tương ưng với sắc nhân và sắc tướng, chẳng tương ưng với nhân của thọ, tưởng, hành, thức và tướng của thọ, tưởng, hành, thức, chẳng tương ưng với tướng và phi tướng, với tất cả pháp chẳng tương ưng cũng chẳng phải chẳng tương ưng, không có trói buộc, không có giải thoát, cũng chẳng phải toán số hay thí dụ mà biết được, vì tất cả pháp vượt quá các số. Giáp trụ như vậy, tất cả pháp kiến đều chẳng thể nắm bắt được. Sắc kiến chẳng thể nắm bắt, thọ kiến chẳng thể nắm bắt cho đến thức kiến chẳng thể nắm bắt, cho đến không có chút pháp kiến nào có thể nắm bắt được cả. Giáp trụ như vậy, chẳng cùng tất cả pháp tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng cùng sắc, thọ, tưởng, hành, thức tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng. Với tất cả pháp hoặc tương ưng hoặc chẳng tương ưng kia đều rời xa. Giáp trụ như vậy không có tạo tác vì không có tác giả, không có tướng vì chẳng phải tướng, không có tướng xứ sở, không có tướng hòa hợp, không có phân biệt, không có động lay, không có phan duyên, không có tánh để thấy được. Người mặc giáp trụ cũng chẳng thể nắm bắt. Mặc giáp như vậy cũng chẳng thể thấy được. Vì sao? Vì lúc các Đại Bồ-tát mặc giáp trụ mà chẳng thấy có ai là người mặc giáp, mặc giáp chỗ nào, từ đâu mặc giáp, cũng chẳng thấy tôi có thể mặc giáp, chẳng thấy áo giáp được tôi mặc, cũng chẳng thấy có chỗ này mặc giáp, chỗ kia mặc giáp, cũng chẳng thấy có mặc giáp như vậy. Vì các chúng sinh nơi tất cả pháp không chỗ hành, không chỗ kiến nên các Đại Bồ-tát mặc giáp trụ như vậy, cũng là mặc giáp trụ của Đức Như Lai mặc, thân chẳng thể nắm bắt, tâm chẳng thể nắm bắt, ý chẳng thể nắm bắt, vì chẳng thể nắm bắt nên xa rời phân biệt. Nếu các Bồ-tát còn chút pháp, hay là được chút pháp mà hiện tại mặc giáp trụ hay là sẽ mặc giáp trụ, thì chẳng nên gọi rằng mặc đại giáp trụ. Nếu tâm Bồ-tát vượt quá các pháp mới gọi là mặc đại giáp trụ chẳng nghó bàn. Các Đại Bồ-tát chẳng vì số ít chúng sinh mà mặc đại giáp trụ, cũng chẳng vì một kiếp chúng sinh mà mặc đại giáp trụ, cũng chẳng vì trăm kiếp, ngàn kiếp cho đến trăm ngàn na-do-tha câu-chi kiếp chúng sinh mà mặc đại giáp trụ, chính là vì vô lượng, vô số kiếp chúng sinh mà Đại Bồ-tát mặc đại giáp trụ, vì thế nên gọi rằng mặc vô lượng đại giáp trụ. Lúc mặc đại giáp trụ, Đại Bồ-tát mặc giáp trụ chẳng sinh tưởng là chúng sinh, mặc giáp trụ chẳng khởi tưởng là ngã, mặc giáp trụ rời lìa tưởng có chúng sinh, mặc giáp trụ diệt trừ tưởng có ngã, mặc giáp trụ biết rõ tánh chúng sinh, mặc giáp trụ biết rõ tánh ngã, mặc giáp trụ vượt quá thọ và tưởng, mặc giáp trụ biết rõ tất cả, pháp không có tướng tạo tác, là tướng rỗng không, là tướng vô tướng, là tướng vô nguyện, là tướng không sinh, là tướng không diệt, mặc giáp trụ biết rõ tánh tướng sai biệt của tất cả pháp và tánh tướng vô sai biệt của tất cả pháp, mặc giáp trụ biết rõ sự tướng của tất cả pháp và vô sự trạng của tất cả pháp. Này Vô Biên Tuệ! Nếu còn ở nơi sự tướng mà mặc giáp trụ, thì trọn chẳng gọi rằng mặc đại giáp trụ, vì các Đại Bồ-tát chẳng ở nơi sự tướng mà cầu đại trí tuệ nên gọi là mặc đại giáp trụ. Lúc ấy Đức Thế Tôn nói kệ rằng: Trong vô lượng ngàn kiếp Mặc giáp lớn vô biên Vì muốn cho chúng sinh Giải thoát các khổ não. Giáp trụ lớn như vậy Hoặc ma hay ma sứ Và kẻ tạo nghiệp ma Mắt họ chẳng thấy được. Cùng với những chúng sinh Đi nơi rừng chấp kiến Họ cũng chẳng thấy được Giáp trụ chẳng nghó bàn. Giáp trụ này không sắc Không hình, không đối đãi Giáp trụ chẳng nghó bàn Mắt thường chẳng thấy được. Không danh cũng không tướng Rời xa tất cả tướng Giáp trụ này vô biên Nên không tướng thấy được. Giả sử tên như núi Đồng loạt nhắm bắn vào Giáp trụ chẳng nghó bàn Khiến tên tự gãy nát. Tất cả ma trong đời Cũng mang tên như núi Nhắm ngay đại giáp trụ Đồng loạt bắn thẳng vào Nhưng đại giáp trụ này Chẳng tổn chừng đầu lông. Giáp trụ chẳng nghó bàn Chẳng gì phá hư được Vì thế nên Bồ-tát Thân tâm chẳng biến đổi. Giáp trụ chẳng nghó bàn Ai làm khuynh động được Bồ-tát chẳng nghó bàn Nếu dùng một tâm niệm Muốn dẹp trừ chúng ma Quân ma liền lui tan. Đại giáp trụ như vậy Chưa từng có lay động Tất cả các chúng sinh Không ai có thể thấy. Tất cả các chúng sinh Chẳng biết tướng giáp trụ Vì thế các chúng sinh Mắt họ chẳng thấy được. Bồ-tát làm chỗ dựa Biết được tất cả pháp Dường như thắng Kim cang Đấy là người khéo mặc. Chẳng thọ tất cả pháp Cứu hộ các chúng sinh Thuận theo pháp của Phật Đấy là người khéo mặc. Giáp trụ không chỗ lấy Tùy thuận tất cả pháp Giáp trụ chẳng nghó bàn Đây là người, khéo mặc Giáp trụ không thị hiện Trị sạch tất cả pháp Các pháp rời ngôn thuyết Không ai thị hiện được Chẳng tương ưng với sắc Thọ, tưởng, hành và thức Cũng đều chẳng tương ưng Cũng đều chẳng hòa hợp, Chẳng tương ưng với trong Chẳng tương ưng với ngoài Chẳng tương ưng trong ngoài Cũng đều chẳng hòa hợp, Chẳng tương ưng với xứ Chẳng tương ưng với giới Hoặc trong xứ, trong giới Cũng đều chẳng hòa hợp, Chẳng tương ưng với địa Chẳng tương ưng thủy, hỏa Phong và không cũng vậy Chẳng tương ưng chẳng hiệp, Chẳng tương ưng Dục giới Sắc giới, Vô sắc giới Cũng đều chẳng tương ưng Cũng đều chẳng hòa hợp. Tất cả không thật có Chẳng cùng các hữu tác Chẳng cùng các vô tác Tương ưng và hòa hợp. Giáp trụ chẳng nghó bàn Không trụ, không hòa hợp Không buộc, không giải thoát Cũng không chẳng tương ưng. Giáp trụ không biên tế Chẳng cùng Thanh văn địa Chẳng cùng Độc giác địa Tương ưng và hòa hợp. Cho đến chư Phật địa Và cùng tất cả pháp Tất cả chẳng tương ưng Tất cả chẳng hòa hợp. Tất cả đường ngôn ngữ Không có thể đến được Vì giáp trụ vô biên Vô thể, khó nghó bàn Nên chẳng cùng tất cả Tương ưng chẳng tương ưng. Giáp trụ chẳng nghó bàn Vượt quá tất cả số Giáp trụ này vô thượng Không buộc không chẳng buộc, Cũng không có tướng sắc Tướng thọ, tưởng, hành, thức Chẳng cùng các tướng ấy Tương ưng và hòa hợp. Chẳng cùng các pháp tướng Tương ưng chẳng tương ưng Cũng chẳng cùng vô tướng Tương ưng và hòa hợp. Giáp trụ này vô thượng Không buộc không giải thoát Trong tất cả các pháp. Chẳng vào một pháp nào. Trong tất cả các pháp Giáp trụ chẳng nắm bắt Vì thế nên vô thượng Gọi là chẳng nghó bàn. Giáp trụ không có sắc Không thọ cũng không tưởng Không hành cũng không thức Chẳng nhiếp trong các uẩn. Bậc dũng mãnh như vậy Mặc đại giáp trụ này Thân tâm vô sở đắc Chẳng thấy chút pháp nhỏ. Vì vượt quá nghó suy Tâm thanh tịnh an trụ Mà thường không khiếp nhược Gọi là chẳng nghó bàn. Mặc giáp trụ kiên cố Tâm mình không lay động Chẳng kể số lượng kiếp Gọi là chẳng nghó bàn. Giáp trụ không số lượng. Chẳng lấy pháp phi pháp Vì không có thời lượng Nên gọi không thể lường. Chẳng khởi chúng sinh tưởng Cũng không có ngã tưởng Vì biết được tưởng này Tất cả tưởng chẳng sinh. Cũng biết tất cả pháp Pháp ấy đều vô tướng Mặc giáp trụ như vậy Gọi là chẳng nghó bàn. Đức Phật dạy tiếp: –Lại nữa, này Vô Biên Tuệ! Đại giáp trụ ấy có tên là Diệu pháp nghiêm cụ trang nghiêm, cũng tên là Tối thượng vì không thể hoại, cũng tên là Nhất thiết pháp vô sai biệt, vì chẳng làm sai biệt chút pháp nào. Các Đại Bồ-tát mặc giáp trụ ấy, giữ sức đại trí tuệ ngồi nơi Đại thừa, Tối thượng thừa, Vô đẳng đẳng thừa, Đại nhiếp thọ thừa, Vô biên nhiếp thọ thừa. Tất cả chúng sinh ngồi nơi thừa này, thì trong thừa này đều dung thọ tất cả, mà thừa này chẳng hề tăng giảm, có thể làm cho chúng sinh đều an vui mà ở, cũng làm cho chúng sinh an vui mà ra. Nếu có chúng sinh nào ngồi nơi thừa quyết định an vui này thì thân tâm họ không có nhọc mệt lao khổ. Này Vô Biên Tuệ! Thừa này chói che tất cả thế gian Trời, Người, A-tu-la, Thanh văn, Duyên giác và các thừa khác mà sẽ xuất ly. Đại thừa này không đến, không đi, không ở không thấy, không biết, lúc trước chẳng thể nắm bắt, lúc sau chẳng thể nắm bắt, lúc giữa chẳng thể nắm bắt, ba đời bình đẳng, dường như hư không chẳng nhiễm tạp bởi trần lao, không có đối đãi, không có chướng ngại, cũng không chấp trước. Vì do thừa này mà sẽ xuất ly. Đại thừa này vô lượng vì chẳng lường được. Đại thừa này vốn không tướng chướng ngại vì chẳng ở nơi tướng. Đại thừa này tối thượng đệ nhất. Người ngồi thừa này không có tâm khiếp nhược mà hướng đến Vô thượng Chánh giác. Này Vô Biên Tuệ! Thừa này như ngọn đèn, như mặt trời, mặt trăng làm ánh sáng lớn cho các chúng sinh. Đại thừa này cũng vậy, ánh sáng của nó chiếu khắp cõi đại thiên không gì che, không gì chướng ngại được, có thể dùng biển lớn công đức vô biên mà hướng đến Vô thượng Bồ-đề. Này Vô Biên Tuệ! Thừa này xa rời sự u ám, hay trừ được bệnh của tất cả thế gian, vượt quá tất cả pháp thế gian nhiếp lấy chúng sinh lớn, chẳng phải các chúng sinh hạ liệt mà có thể ngồi được, chỉ trừ người có thể mặc đại giáp trụ. Như ta đã nói, người ở trong vô lượng kiếp cứu hộ chúng sinh, cúng dường chư Phật trồng các cội lành tư lương thanh tịnh thì có thể ngồi được. Những hàng Thanh văn, Duyên giác và các hạng hạ liệt bị ràng buộc ở thế gian, tương ưng với thế gian, hoặc hạng tăng thượng mạn, những ngoại đạo chẳng tin, họ còn chẳng muốn nghe tên của Đại thừa này huống là có thể ngồi nơi thừa này. Nếu có chúng sinh nào dạo đi trong cảnh giới chẳng nghó bàn, ngồi ở Đại thừa này rồi như nguyện thù thắng của mình mà hướng đến Vô thượng Bồ-đề. Này Vô Biên Tuệ! Thừa này không thời gian biên tế, sơ tế, trung tế và hậu tế chẳng thể biết rõ được. Thừa này tế đoạn chẳng thể nắm bắt. Vô biên tế là thừa tế này, vô lượng tế là thừa tế này. Này Vô Biên Tuệ! Thừa này vô biên tế, cũng không có trung tế, không có chút ít tế mà có thể đoạn dứt được. Nói là tế đoạn dứt, bởi vì không có chút ít tế nên nói là tế đoạn, vì chẳng phân biệt tế nên nói là tế đoạn, như thế gọi là tế đoạn của thừa này. Tế vô sở hữu mà nói là trung tế, tế vô sở hữu mà nói là biên tế, tế vô sở hữu mà dùng tế để nói, ở trong tế ấy, tế chẳng thể nắm bắt. Vì là chẳng thể nắm bắt nên biên tế, trung tế không có tế, không có đoạn mà nhập vào tế môn. Vì nhập vào tế môn nên thừa này vượt quá nơi đó. Vượt quá này cũng vô sở đắc. Này Vô Biên Tuệ! Những gì là tế? Đó là đoạn thường tế, vì vào trong ngôn ngữ, nên tế là chẳng phải tế. Đoạn thường tế ấy chẳng có biên tế, bởi tướng của tế ấy là tướng vô biên. Nói là tế đó không có phân biệt, vì dứt phân biệt, nên vượt quá nơi tế, rời xa đoạn thường. Này Vô Biên Tuệ! Người có thân kiến thì ở nơi tế môn có chỗ y chỉ. Nếu là người không có thân kiến thì ở nơi tế môn không có chấp trước. Vì không có chấp trước nên có thể vượt quá đoạn thường tế. Này Vô Biên Tuệ! Đoạn thường tế ấy không có thật, chỉ là lời nói phỉnh phờ ở trong ba cõi phân biệt có hai tế đoạn và thường. Đối với hai tế ấy, nếu chẳng nắm lấy, nếu chẳng tương ưng mới có thể vượt quá chấp kiến đoạn thường ở nơi hai tế môn mà không chỗ chấp trước. Này Vô Biên Tuệ! Nếu Đại Bồ-tát chưa rời thân kiến thì chẳng gọi là mặc đại giáp trụ, ngồi nơi Đại thừa, với tế môn kia là có chấp trước. Dầu có muốn dứt tế lại khởi tưởng niệm dứt tế, lại là có phân biệt tiền tế, hậu tế. Nếu Đại Bồ-tát đã rời thân kiến thì gọi là mặc đại giáp trụ ngồi nơi Đại thừa, với tế môn ấy chẳng có chỗ chấp, đã vượt quá hai tế dùng thừa an lạc mà hướng đến Vô thượng Bồ-đề. Này Vô Biên Tuệ! Các Đại Bồ-tát dùng sức đại trí tuệ, ở nơi tất cả pháp trụ tế, có thể chẳng đoạn chẳng phá mà phương tiện khôn khéo nhiếp lấy chỉ quán tu tập vô tướng, được chứng vô tướng thì được chư Phật trao cho ánh sáng pháp. Do ánh sáng pháp mà tất cả tế đoạn dứt. Đối với tế đoạn ấy cũng không nắm lấy, không có chút ít tế nào ở tế môn kia hoặc là tương ưng hay chẳng tương ưng, hoặc ghi nhớ hay chẳng ghi nhớ. Với tất cả pháp, phương tiện khôn khéo an trụ chỉ quán bèn được vô biên ánh sáng đại pháp. Vì ánh sáng đại pháp nên rời xa tối tăm bố úy mà dựng đại pháp tràng, phát đại Phạm âm, rống tiếng đại Sư tử mà bảo chúng sinh rằng: “Mọi người mau đến nơi Đại thừa này, đại an lạc thừa này, đại điều ngự thừa này, đại phát thú thừa này để hướng đến Vô thượng Bồ-đề.” Đại Bồ-tát vì chúng sinh mà diễn ánh sáng pháp. Vì ánh sáng pháp có thể làm cho chúng sinh mặc đại giáp trụ ngồi Đại thừa này. Này Vô Biên Tuệ! Đại Bồ-tát ở nơi Đại thừa này, ở nơi đại giáp trụ này chí có lòng lẫn tiếc, nên nguyện cầu cho chúng sinh phát tâm Bồ-đề mặc giáp trụ này và ngồi Đại thừa này. Các chúng sinh ấy ở nơi Đại thừa và đại giáp trụ này cũng chớ lẫn tiếc mà phải luân chuyển khuyến cáo chúng sinh khác, lại cũng nguyện cầu các chúng sinh mặc giáp trụ và ngồi Đại thừa này để được ra khỏi. Lúc các Đại Bồ-tát an trụ trong hạnh nguyện ấy, các vị nhiếp thủ cõi Phật, thanh tịnh cõi Phật quốc, nhiếp thủ Thanh văn và các Bồ-tát để được viên mãn công đức. Do biển đại công đức vô biên này mà hướng đến Vô thượng Bồ-đề. Này Vô Biên Tuệ! Đại thừa này đồng với pháp giới, bờ này hay bờ kia đều không có gì để được nhưng có thể vận tải tất cả chúng sinh từ đây đến ở trong pháp giới, tương ưng với pháp giới, tương ưng với giáp trụ không có chỗ tương ưng. Nếu ở nơi Đại thừa đồng pháp giới này mà chuyên cần tu tập thì hướng đến Vô thượng Bồ-đề. Này Vô Biên Tuệ! Như pháp giới không có nhiễm bởi trần cảnh, không ai phá hoại được, không gì nhiễm được. Cũng vậy, Đại thừa này không bị hoại, không bị nhiễm. Vì không hoại, không nhiễm nên sẽ đến Nhất thiết chủng trí. Vì thế nên thừa này tên là Đại thừa. Thừa này vô ngại, tất cả Trời, Người, A-tu-la ở thế gian chẳng làm thoái chuyển được. Do vì thừa này không chấp trước nên sẽ đến Nhất thiết chủng trí, vì thế nên thừa này tên là Đại thừa. Gọi là Đại thừa có nghóa là đại trang nghiêm. Tất cả trang nghiêm đều vào trong Đại thừa này. Vô Biên Tuệ Bồ-tát bạch: –Bạch Thế Tôn! Trong Đại thừa này lẽ nào lại có những trang nghiêm hữu vi ư? Đức Phật dạy: –Này Vô Biên Tuệ! Đúng như vậy! Ta tùy thuận thế tục nên ở trong Đại thừa này cũng nói tất cả cõi là trang nghiêm. Này Vô Biên Tuệ! Như Chuyển luân vương, Đế Thích và Phạm vương đều từ Đại thừa này xuất sinh, hoặc đã xuất sinh, hoặc sẽ xuất sinh, dù ở ngôi tôn quý mà chẳng bị lỗi lầm sinh tử phiền não làm nhiễm trước, có thể ở nơi năm dục mỗi mỗi đều vừa chừng. Đã vừa chừng rồi thì nhàm bỏ mà có thể biết rõ được đạo xuất ly. Nếu các Đại Bồ-tát ngồi Đại thừa này dù thọ lãnh sinh tử nhưng ở đâu cũng chẳng bị ô nhiễm mà thấy được sự lỗi lầm, có thể biết xuất ly. Nếu ở nơi đây ta chưa nói các pháp và các trang nghiêm, do tướng của thừa này, các Đại Bồ-tát ấy cũng có thể biết được các pháp và các trang nghiêm kia mà hướng đến Vô thượng Bồ-đề. Khi ấy Đức Thế Tôn nói kệ rằng: Đại thừa vô thượng thừa Thừa này chẳng nghó bàn Nếu ai ngồi thừa này Đều sẽ được ra khỏi. Thừa này chẳng nghó bàn Vô lượng, vô biên tế Là chỗ nương tựa lớn Nên gọi là Đại thừa. Tất cả các chúng sinh Ngồi nơi Đại thừa này Thừa này vẫn không giảm Cũng lại không có tăng. Tất cả các chúng sinh Ngồi nơi Đại thừa này An lạc mà hướng đến Trong ấy không khổ não. Nếu các Đại Bồ-tát Từ thừa này hướng đến Thẳng tiến không làm khác Thân tâm chẳng mỏi nhọc. Soi sáng khắp thế gian Trời, Người, A-tu-la Sẽ ở Đại thừa này Mà hướng đến vô thượng. Chói che các Duyên giác Và các Thanh văn thừa Ở nơi Đại thừa này Mà hướng đến vô thượng. Không đi cũng không đến Không trụ, không tiền tế Không hậu tế, trung tế Không được, không chỗ thấy Ba đời đều bình đẳng Dường như trong hư không. Thừa này cũng như vậy Rời xa các phiền não Thừa này không đối đãi Không chướng cũng không ngại Hay cứu tất cả loài Chỗ hướng không chấp trước. Thừa này không có lượng Cũng không tất cả tướng Tự tánh chẳng nắm bắt Vô úy chẳng nghó bàn. Có ai ngồi thừa này Thì được vô sở úy Ở trong chư Phật pháp Không chướng cũng không ngại. Dùng thừa này hướng đến Chiếu sáng khắp thế gian Như mặt trời sáng lớn Không lúc nào chẳng chiếu. Thừa này chẳng hoại được Không gì che khuất được Vô lượng đức tư lương Mà hướng đến vô thượng. Thừa này vượt thế gian Ra khỏi hẳn ba cõi Rời xa các tối tăm Thẳng đến quả vô lậu. Thừa này chỉ nhiếp lấy Tất cả các Bồ-tát Còn các chúng sinh khác Trong ấy chẳng dung thọ. Nếu có người trí tuệ Trong vô lượng ngàn kiếp Siêng tu tập phương tiện Mới ngồi được thừa này. Thanh văn và Duyên giác Tất cả hàng ngoại đạo Trí nhỏ và tà kiến Chẳng ngồi được thừa này. Nếu có các chúng sinh Hướng đến nơi phi đạo Hạng này kém phước đức Chẳng kham nghe thừa này. Nếu có các chúng sinh Với pháp chẳng nghó bàn Khôn khéo mà du hý Ngồi được Đại thừa này Theo chỗ họ kiến lập Những thệ nguyện thù thắng Ở trong chánh đạo này Mà hướng đến vô thượng. Thừa này không biên tế Cũng không có trung tế Biên tế và trung tế Thảy đều chẳng nắm bắt. Bởi tế chẳng nắm bắt Nên thừa này không tế Vì tất cả tế đoạn Nên an lạc hướng đến. Thừa này vô biên tế Vô biên là thừa tế Thừa này vô lượng tế Vô lượng là thừa này. Thừa này vô tế đoạn Vô tế là tế đoạn Chẳng phân biệt nơi tế Đoạn cũng chẳng thể được. Thừa tế không biên tế Cũng không có trung tế Cũng không tế, không tế Tế tánh vô sở hữu. Nơi tế không tế tướng Chẳng phải tế làm tướng Ở trong các tế ấy Tế tướng vô sở hữu. Phi tế nói tế môn Thừa này đã vượt quá Ở chỗ quá lượng kia Tương ưng chẳng nắm bắt. Ta nói đoạn thường tế Hữu biên, vô biên tế Tất cả tế như vậy Tế kia chẳng phải tế. Tất cả tế vô biên Tế tướng vô sở hữu Tự tánh tất cả tế Trong ấy chẳng phân biệt. Trong các tế như vậy Vì dứt nơi phân biệt Nên biên cùng vô biên Tất cả đều được dứt. Nếu còn có thân kiến Thì nói các tế môn Chấp trước các tế ấy Là người không chỗ dựa. Nếu không có thân kiến Chẳng chấp các tế môn Chẳng trước tất cả tế Là người hay soi sáng. Tất cả tế, phi tế Các tế chẳng chân thật Tất cả tế tánh tướng Đều là vô sở hữu. Chẳng thọ tất cả tế Nơi tế đều vượt qua Chẳng trước các tế môn Hay dứt được thân kiến. Nếu ở nơi thân kiến Chẳng dứt chẳng rời xa Thì chẳng mặc giáp trụ Chẳng ngồi nơi Đại thừa. Vì chấp thọ các tế Phân biệt các tế tướng Tiền tế và hậu tế Đều phân biệt tất cả. Nếu ở nơi thân kiến Hay dứt được tất cả Là mặc giáp vô biên Ngồi nơi thừa vô thượng. Chẳng trước các tế môn Là bậc Đại trí tuệ Có thể nơi các tế Đều vượt qua tất cả. Do đây trong Phật pháp An lạc mà hướng đến Bồ-tát khéo quán sát Hay dùng sức trí tuệ Chẳng có được chút pháp Dứt được trừ diệt được Thường dùng phương tiện khéo Khéo nhiếp lấy Chỉ quán. Vì biết rõ một tướng Các tướng đều biết rõ An trụ ở chánh pháp Được ánh sáng đại pháp. Do pháp quang minh này Quyết xong các tế kia Chẳng thấy có chút tế Là tế hay phi tế. Chỗ tương ưng được kia Không chấp trước tất cả Nếu thấy chúng sinh khổ Khuyến dụ mà bảo rằng: Ngươi đến nơi thừa này An vui mà xuất ly Thọ sinh ở chốn nào Hay làm ánh sáng pháp. Mặc giáp ngồi Đại thừa Cũng đem đây khai thị Thừa này, giáp trụ này Chí có lòng lẫn tiếc. Cũng khiến các chúng sinh Mặc giáp ngồi Đại thừa Ngồi thừa an lạc này Mà hướng đến Vô thượng. Các Bồ-tát như vậy An trụ đây tu hành Hay ở trong Phật pháp Mau hướng đến vô thượng Thanh tịnh các cõi Phật Nhiếp thọ hàng Thanh văn Và các chúng Bồ-tát Công đức phuớc trang nghiêm.  KINH ĐẠI BẢO TÍCH <卷 id="86423694">QUYỂN 22 Hán dịch: Đời Đại Đường, Tam tạng Pháp sư Bồ-đề-lưu-chí. <詞 id="86423695">Pháp hội 7: MẶC ÁO GIÁP TRANG NGHIÊM (Phần 2) Đức Phật dạy tiếp: –Này Vô Biên Tuệ! Ta nhớ thuở xưa lúc ta tu Bồ-tát hạnh, ta mặc giáp trụ như vậy và ngồi Đại thừa như vậy vượt quá các tế, diệt được tối tăm, trừ được bố úy, ở chỗ vô lượng trăm ngàn câu-chi na-do-tha chư Phật, dùng sức đại tinh tấn nghe giáp trụ trang nghiêm và Đại thừa trang nghiêm này của Đại Bồ-tát, ta vui mừng hớn hở. Lúc ta quan sát pháp ấy, đối với Đức Phật Thế Tôn, ta cung kính tôn trọng, chẳng nghó tưởng rằng ta mặc giáp trụ như vậy, ta có giáp trụ như vậy, ta được pháp như vậy, ta có pháp như vậy, ta có các loại pháp như vậy. Lúc ấy ta không có quan niệm có ngã, ta rời xa thân kiến, rời xa ngã mạn, lòng không có cao hạ, không có phân biệt. Vì muốn nhiếp thọ tất cả chúng sinh, hộ trì Pháp tạng của chư Phật Như Lai, thành thục vô lượng trăm ngàn câu-chi na-do-tha chúng sinh, ta không hề có một tâm niệm mỏi nhọc. Lúc ấy ta chẳng bỏ giáp trụ, ngồi vô biên thừa. Trong nhiều đời ta có thể phá quân ma. Các quyến thuộc ma đều thoái bại tiêu diệt. Các sứ giả ma kinh sợ bỏ chạy. Tất cả hàng ngoại đạo và những phái tương ưng với dị đạo đều bị ta hàng phục, đặt họ vào chỗ an ổn. Tất cả dị luận, ta đều dẹp trừ. Tất cả ngoại đạo đều hàng phục ta. Những chúng sinh rong ruổi theo đường tà, ta làm cho họ ở nơi thừa này trồng các cội lành. Ta vì các chúng sinh mà khai thị giáp trụ và giáp trụ trang nghiêm. Ta cũng vì chúng sinh mà diễn thuyết các loại pháp Đại thừa an lạc như vậy. An trụ trong thừa này thì được tất cả đồ dùng an vui, đó là đồ dùng an vui hữu vi của Chuyển luân vương, của Đế Thích và của Phạm vương. Lúc ta vì các chúng sinh nói pháp này, ta làm cho các chúng sinh vào trong pháp ấy phát sinh chủng tánh chư Thánh, dựng tràng đại pháp, rống tiếng sư tử mà hướng đến Vô thượng Bồ-đề. Này Vô Biên Tuệ! Các Đại Bồ-tát phải mặc đại giáp trụ như vậy, rồi đúng như lý mà quan sát chọn lọc. Đại Bồ-tát phải ở nơi pháp nào để hướng đến? Đối với tất cả pháp, Đại Bồ-tát có thể thấy biết rõ hết không có phân biệt. Vì sao? Các Đại Bồ-tát an trụ chánh đạo vì biết đúng lý vậy. Các Đại Bồ-tát hướng đến chánh đạo vì thấy đúng lý vậy. Thanh tịnh đúng lý thì chẳng phân biệt, chẳng phải chẳng phân biệt, mà ở trong phân biệt và chẳng phân biệt thấy biết bình đẳng. Nếu còn thấy có pháp cầu được, tìm được thì chẳng bình đẳng, thì chẳng an trụ trong sự thấy biết thanh tịnh đúng lý. Do vì không phân biệt, không chẳng phân biệt nên ở trong phân biệt, chẳng phân biệt kia được chẳng chấp thủ. Do vì chẳng chấp thủ nên rời xa phân biệt và chẳng phân biệt. Ở trong đạo này không có thương xót, không có hành thí, không có tăng ích, cũng không lấy và bỏ, đứng nơi đạo bình chánh, cũng chẳng phân biệt quá khứ, hiện tại, vị lai; có thể biết rõ khắp tập chủng của tất cả phân biệt, đối với tất cả pháp được an trụ bình đẳng, không có nghóa điên đảo mới được gọi là an trụ ở đạo này vậy. Này Vô Biên Tuệ! Những gì là đạo và đạo thanh tịnh? Đó là tám chi Thánh đạo: Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm và Chánh định. Chánh kiến dứt trừ được thân kiến, vượt qua cảnh sở hành của tất cả kiến chấp và tất cả các kiến chấp, đối với tất cả chỗ đều được thanh tịnh, mà biết rõ được tất cả phân biệt, hoặc là thắng phân biệt hoặc là khắp phân biệt thì không phân biệt, không thắng phân biệt, không khắp phân biệt, chẳng an trụ tà tư duy, dứt tà tư duy. Thấy được chánh mạng, thấy được tưởng chánh mạng, thấy được mạng thanh tịnh, an trụ mạng thanh tịnh, đúng như lý thấy được thân nghiệp thanh tịnh, ngữ nghiệp thanh tịnh và ý nghiệp thanh tịnh, an trụ nơi chánh nghiệp. Chánh kiến ngữ nghiệp, đối với ngữ nghiệp đều có thể thấy biết, an trụ nơi chánh ngữ có thể đối trị thanh tịnh. Chánh kiến tinh tấn, khéo nhiếp tinh tấn, an trụ chánh tinh tấn. Chánh kiến ức niệm mà không có niệm cũng không có tác ý, không chỗ chấp thủ, dùng niệm thanh tịnh an trụ nơi chánh niệm. Chánh kiến Tam-muội, ở trong Tam-muội không chỗ nương tựa mà có thể thanh tịnh tri kiến Tam-muội, an trụ ở chánh định. Này Vô Biên Tuệ! Lúc thấy như vậy, các Đại Bồ-tát được chánh kiến thanh tịnh đối với tất cả chỗ và an trụ nơi đạo thanh tịnh. Đạo thanh tịnh ấy là chỗ tu hành của Thiện trượng phu, là chỗ mà trí giả tôn trọng, chúng Thánh hài lòng, chư Phật khen ngợi; chẳng phải là chỗ đi của tất cả ma, ma dân, ma sứ, ma thiên; cũng chẳng phải là chỗ đi của những hàng ngoại đạo, những người nương tựa vào sự tranh luận đang đi trong rừng rậm kiến chấp hướng đến phi đạo; cũng chẳng phải chỗ đi của tất cả hàng ái trước Niết-bàn. Vì sao? Vì người an trụ vô vi thì đối với Niết-bàn có chỗ phân biệt. Nếu phân biệt Niết-bàn thì phân biệt các hành pháp. Vì sao? Vì ở trong Niết-bàn giới vượt quá tất cả động niệm phân biệt, còn không có vô vi huống là có hữu vi. Đạo này có thể sạch hết tất cả phân biệt, còn không có chút vô vi phân biệt lẽ nào lại có tất cả hữu vi phân biệt. Nếu ở nơi Thánh đạo mà có phân biệt thì chẳng gọi là an trụ nơi Thánh đạo. Nếu dứt tất cả động niệm phân biệt thì gọi là an trụ Thánh đạo, là an trụ đạo vô úy, là an trụ đạo an ổn, là an trụ đạo an lạc. Đạo này có thể đến chỗ không già, bệnh, chết, lo, khổ. Đạo này có thể đến chỗ không có tự tánh, vượt qua các tánh. Đạo này có thể đến chỗ rời xa tất cả tánh và chẳng phải tánh. Đạo này có thể đến chỗ không hiện bày tướng sắc và tướng chẳng phải sắc. Đạo này như hư không khắp tất cả chỗ, có thể đến trong đại cung điện vô thượng. Đi như thế không còn lui trở lại thì được bao nhiêu là an ổn khoái lạc. Đại cung điện ấy chẳng hiện bày được, không có các sự tướng, không có chút hữu vi, không có chút vô vi, đã diệt hữu vi, đã bỏ vô vi, chẳng cho chúng sinh sự an lạc hữu vi, an lạc vô vi. Này Vô Biên Tuệ! Những người ưa thích hữu vi Niết-bàn, họ còn chẳng cầu sự an lạc hữu vi huống là có thể cầu đại cung điện ấy. Trong đại cung điện ấy không có thi thiết, mát mẻ, tịch tónh nên gọi là Niết-bàn. Vì diệt tham, sân, si, dứt các tập chướng, phá lưới ái kiến, cạn dòng vô minh, nhổ những tên độc, hết pháp bất thiện nên gọi là Niết-bàn. Vì rời xa tất cả kiêu mạn, tật bệnh, khổ sở bức não nên gọi là Niết-bàn. Vì chẳng phải chỗ sở hành của tâm ý thức và tâm sở nên gọi là Niết-bàn. Vì dứt hết các tranh luận, các kết sử cho đến pháp tưởng nên gọi là Niết-bàn. Vì tuyệt các ý ưa thích và chỗ sở cầu của ý ưa thích, cũng không có phân biệt và tướng bị phân biệt nên gọi là Niết-bàn. Này Vô Biên Tuệ! Đó là thể tánh của đại Bát-niết-bàn. Niết-bàn vô biên chẳng thể tuyên nói được. Nếu có chỗ hướng đến thì chẳng phải đạo này. Đạo cũng là không có ngôn thuyết, chẳng thể tuyên nói được. Nếu lúc dùng đạo này hướng đến đại Niết-bàn đại cung điện, các Đại Bồ-tát cũng làm cho vô lượng trăm ngàn chúng sinh an trụ nơi đạo này. Này Vô Biên Tuệ! Lúc ở trong đạo này mà hướng đến, các Đại Bồ-tát không có mệt mỏi, cũng không có lo buồn, tùy nguyện mà cầu, tùy nguyện mà trang nghiêm, tùy chỗ trang nghiêm đều trang nghiêm cả, tùy chúng sinh được nhiếp độ mà thuyết pháp cho họ, khiến các chúng sinh đều được hoan hỷ. Vì sao? Vì đạo này không gì bằng, hay đối trị sạch, chỗ làm đã rốt ráo. Chư Phật Thế Tôn cùng hàng Thanh văn và Duyên giác đều ở nơi đạo này mà hướng đến, chẳng hề trái với đạo này. Chưa đến địa kia, chưa như sở nguyện thì trọn chẳng rời lìa đạo này. Địa kia là gì? Là đại Niết-bàn địa, là đại cung điện địa. Ví như hư không chẳng có gì để ví dụ ngoại trừ đem hư không để ví dụ hư không. Rộng lớn, trống rỗng, vắng lặng gọi là hư không. Cung điện Niết-bàn cũng như vậy, là rộng lớn, rỗng không, vắng lặng, không có chủ tể cũng không có ngã sở. Tất cả chúng sinh dù vào trong ấy không ai có thể nhiếp lấy chừng bằng đầu lông. Rộng lớn không tịch, rộng lớn vô lượng gọi là đại Niết-bàn, gọi là đại cung điện. Này Vô Biên Tuệ, đạo thù thắng của các Đại Bồ-tát này chẳng phải hàng Thanh văn, Duyên giác có được. Người an trụ đạo này thành tựu tất cả công đức tư lương, được không thoái chuyển, làm lợi ích lớn cho các chúng sinh, lấy hạnh thù thắng làm đại trang nghiêm, do đạo này mà phát tâm hướng đạo. Sự trang nghiêm như vậy cũng chẳng phải hàng Thanh văn, Duyên giác có được. Lúc an trụ nơi đạo này, các Đại Bồ-tát hoặc làm Luân vương không chút đoái tiếc, có oai đức lớn và thần thông biến hiện, biết rõ được thế gian và xuất thế gian. Các vị hoặc làm Đế Thích hay Đại phạm Thiên vương không bị tham luyến, xa rời kiêu mạn, thích thấy chư Phật, thích nghe chánh pháp, thành thục vô lượng trăm ngàn chư Thiên, hướng đến Vô thượng Bồ-đề. Bấy giờ Đức Thế Tôn nói kệ rằng: Đạo Bồ-tát thù thắng Trong đời không có trên Chư Thánh và Nhị thừa Đều hướng đến đạo này. Tất cả các Bồ-tát Hướng đến đại Bồ-đề Vì được đạo trang nghiêm Đem đạo này khai thị. Nếu ở trong đạo này Đã đến hay đang đến Họ đều dùng Chánh kiến An trụ ở đạo này. Tất cả các Bồ-tát Nếu dùng bình đẳng kiến Mà đi trong đạo này Thì an lạc hướng đến. Đạo này rất thù thắng Đạo này là vô thượng Hay dạy bảo như thật Trong ấy không chấp trước. Nếu trụ ở đạo này Đi ở trong đạo này Tất cả người có trí Ý họ chẳng khuynh động Chẳng nói nơi đạo này Có chút ít khuynh động. Do đây không chỗ động Thường rời xa lay động Ta nói nơi đạo này Không động không hành thí Cũng không có tăng ích Nên đạo này vô thượng. Tất cả các Bồ-tát Khéo ở nơi đạo này. Đạo này không có yêu Lại cũng không có ghét Đạo chẳng phải quá khứ Chẳng hiện tại, vị lai Chẳng phân biệt thời gian Nên tu tập như vậy. Đạo này không phiền não Đạo này không phân biệt Chẳng trái với thật nghóa Nên an trụ như vậy. Trụ nơi đạo tối thắng Không trụ là an trụ Người an trụ đạo này Hay được tánh thanh tịnh. Ta nói tám Thánh đạo Sở hành của chư Thánh Người an trụ đạo này Bồ-đề chẳng khó được. Chỗ Bồ-tát nương nhờ An trụ đạo như vậy Hay được đạo thanh tịnh Mỗi mỗi mà hướng đến. Đạo này là tối thượng Của Thiện só tu hành Chỗ Như Lai khen ngợi Trí này là vô thượng. Ma và chúng quân ma Cùng quyến thuộc của ma Ngoại đạo chúng sinh khác Chẳng phải chỗ họ đi. Người phân biệt Niết-bàn. Chẳng ở thắng đạo này Ngu bị phân biệt hại Chẳng đến được Niết-bàn Người vượt qua phân biệt Không tưởng, không phân biệt Ở trong đại đạo này Do đây mà hướng đến. Thắng đạo của chư Thánh Người ngu đều rời xa Nếu người hành pháp này Đạo này là Vô thượng. Đại đạo Tối thắng này Hay đến chỗ vô thượng Trong ấy không ưu não Không sợ, không tai nạn Đại đạo Vô thượng này Không sắc, không hình tướng. Chẳng thể dùng sắc tướng Mà có thể hiện bày Đại đạo an ổn này Chánh trực vô sở úy. Do đạo này hướng đến Đại Niết-bàn rốt ráo Đại đạo thanh tịnh này Dường như thái hư không Tất cả không chướng ngại Hướng đến đại Niết-bàn. Nếu đến được Niết-bàn Đến rồi không còn lui Đại Niết-bàn như đây Tối thượng thắng an lạc. Niết-bàn đại cung điện Không tịch chẳng thể lường Nên gọi đại Niết-bàn Cũng gọi đại cung điện. Trong đại Niết-bàn này Diệt ba độc phiền não Nếu ai đến trong ấy Không lui không thọ sinh. Niết-bàn đại không tịch Dường như thái hư không Vì rộng lớn không tịch Trong đó không chướng ngại. Niết-bàn Đại cung điện Lìa hẳn khổ ưu não Chỗ cảnh giới vô biên Gọi đó là Niết-bàn. Niết-bàn không số lượng Số lượng chẳng thể được Tánh trong mát tịch diệt Gọi đó là Niết-bàn. Niết-bàn không thi thiết Đạo vị cũng vô thượng Vô lượng, không phân biệt Phân biệt chẳng thể được. Ta vì các Bồ-tát Khai thị đạo lớn này Nếu ai ở đạo này Thì gần đến Niết-bàn. Nếu an trụ đạo này Thắng an lạc trong đời Tất cả đều sẽ được Gọi là bậc Vô úy. Khéo an trụ đạo này Lòng họ không ô nhiễm Do đạo này thanh tịnh Gọi là bậc Vô úy. Vì thấy đạo bình đẳng Hay giác ngộ tất cả Trong tất cả tư cụ Chẳng tham trước tất cả. Chỗ Bồ-tát dựa nhờ Đạo chân thật thù thắng Lợi ích các chúng sinh Dũng mãnh mà hướng đến. Nếu được đạo Vô thượng Đạo trang nghiêm tối thượng Khiến chúng đều hoan hỷ Do đạo này hướng đến. Đạo này rất thù thắng Hay khiến ý thanh tịnh Tùy theo chỗ ưa cầu Tất cả sẽ hướng đến. Nếu được ngôi Thánh vương Chuyển luân oai đức lớn Hay bỏ ngôi vua lớn Xuất gia đi học đạo. Nếu được ngôi Đế Thích Ngôi Đại phạm Thiên vương Không tham những ngôi ấy Người này khéo thuận đạo. Các chỗ học thế gian Hay biết rõ tất cả An trụ trong đạo này Mới là người thật ngữ. Đức Phật dạy tiếp: –Này Vô Biên Tuệ! Lúc ở trong đạo này mà hướng đến, Đại Bồ-tát vì nhiếp thủ tám Chánh đạo nên tu hành một pháp, đó là chẳng làm các pháp bất thiện. Lại vì nhiếp thủ tám Chánh đạo nên tu hành hai pháp, một là ở trong theo pháp lành tư duy đúng lý, hai là ở ngoài theo pháp lành thỉnh hỏi đúng lý. Lại vì nhiếp thủ tám Chánh đạo nên tu hành hai pháp, một là biết rõ các pháp đúng sự, hai là biết rõ không có sự, không có trụ, không có phân biệt. Lại vì nhiếp thủ tám Chánh đạo nên tu hành hai pháp, một ở trong tùy thuận trí tuệ, hai là ở ngoài không chỗ chấp trước. Lại vì nhiếp thủ tám Chánh đạo nên tu hành hai pháp, một là tự tin không chỗ phân biệt, hai là nếu chúng sinh chưa có lòng tin thì tôi làm cho họ an trụ trong đạo này. Lại vì nhiếp thủ tám Chánh đạo nên tu hành hai pháp, một là ở nơi việc đã làm có thể thấy biết như thật, hai là ở nơi việc được làm không chấp trước. Lại vì nhiếp thủ tám Chánh đạo nên tu hành ba pháp, một là nơi khổ thủ uẩn biết rõ từng uẩn một, hai là nơi thủ uẩn không khổ thì siêng cầu và rất thích, ba là ở nơi các pháp hòa hợp thì chuyên tu rời xa. Lại vì nhiếp thủ tám Chánh đạo nên tu hành ba pháp, một là tuyên nói pháp tối thượng, lời chẳng sai trái, tùy nói pháp nghóa lòng không có niệm tranh luận, hai là chẳng chấp trước tất cả văn tự, ba là nhiếp lấy tất cả các pháp. Lại vì nhiếp thủ tám Chánh đạo nên tu hành bốn pháp, một là dùng chánh phương tiện ở nơi nghóa, hai là dùng chánh phương tiện tùy theo nghóa mà làm tương ưng, ba là dùng chánh phương tiện thuận theo pháp để quán sát, bốn là dùng chánh phương tiện chẳng khởi tất cả chấp trước. Lại vì nhiếp thủ tám Chánh đạo nên tu hành bốn pháp, một là có thể dùng thệ nguyện kiên cố để tự giữ gìn tu hành đúng như lời, hai là có thể dùng sáu căn khôn khéo hướng đến nơi đạo, ba là có thể làm cho ý lạc thanh tịnh, bốn là có thể an trụ hạnh chẳng phóng dật. Này Vô Biên Tuệ! Các Đại Bồ-tát dùng pháp hành này để nhiếp thủ Chánh đạo mới được gọi là người tùy thuận đạo, vì quán tất cả pháp tánh rỗng không, vì không tên, vì không tướng, vì không nguyện, vì không sinh, vì không tác, vì nhàm chán, vì rời lìa, vì tịch diệt, vì xuất ly. Lúc được ánh sáng pháp quán sát sinh được dứt hết thì chẳng ở nơi vô sinh mà khởi cảm tưởng sinh, liền ở lúc ấy siêu thăng ly sinh ra khỏi phi pháp mà được đạo thanh tịnh và vô sinh nhẫn. Vì đạo thanh tịnh nên vượt quá tất cả tưởng niệm, chẳng còn có phi tưởng, diệt đạo tưởng, rời pháp tưởng, ra khỏi lưới vô minh, dùng minh để tu tập. Những pháp đáng được đều có thể được cả. Dùng minh để tu tập thì được những pháp gì? Dùng minh tu tập thì được thọ tưởng diệt, được tất cả pháp quyết định thiện xảo, được tùy bí mật thuận với pháp tánh. Lúc hành đạo này, các Đại Bồ-tát chẳng trụ ở xứ, chẳng bị tướng làm hại, biết tất cả pháp đồng với hư không, sinh như hư không sinh, tánh như tánh hư không, không có chút tướng làm chướng ngại. Đạo ấy thanh tịnh chẳng sợ tai họa. Mặc đại giáp trụ chẳng bị bắt trói. Ngồi nơi Đại thừa không chỗ mê lầm. Rời các chướng nạn dường như hư không. Ở trong đạo ấy, Đại Bồ-tát hướng đến Vô thượng Bồ-đề, vì các chúng sinh mà làm ánh sáng lớn. Này Vô Biên Tuệ! Đây là đạo thù thắng của Đại Bồ-tát, chẳng phải sở hành của hàng Thanh văn và Duyên giác. Khi ấy Đức Thế Tôn nói kệ rằng: Vì nhiếp tám Chánh đạo Diễn nói các pháp hành Nếu trụ trong đạo này Đây là đại tinh tấn. Người tu hành pháp lành Được tất cả thời gian Chẳng làm pháp bất thiện Hạnh ấy nhiếp nơi đạo. Bồ-tát, bậc Tu tập Trong thì suy đúng lý Ngoài thì cầu thỉnh hỏi Hạnh ấy nhiếp nơi đạo. Bồ-tát, bậc Quan sát Như Sự biết chân chánh Như Lý trụ đúng pháp Hạnh ấy nhiếp nơi đạo. Bồ-tát, bậc Nương nhờ Ở trong thì biết rõ Ở ngoài thì chẳng chấp Hạnh ấy nhiếp nơi đạo. Bồ-tát, bậc Vô úy Tự tin không phân biệt Khiến người phát lòng tin Hạnh ấy nhiếp nơi đạo. Bồ-tát, bậc Tư duy Sạch các nghiệp đã làm Với nghiệp không chỗ chấp Hạnh ấy nhiếp nơi đạo. Bồ-tát, bậc Không trói Thường biết khổ thủ uẩn Cầu thủ uẩn không khổ Hạnh ấy nhiếp nơi đạo. Bồ-tát, bậc Thiện trí Tu hạnh rời hòa hợp Rời được các hòa hợp Hạnh ấy nhiếp nơi đạo. Bồ-tát, bậc Tư nghị Tùy nghóa hay biết rõ Diễn thuyết không trái cãi Hạnh ấy nhiếp nơi đạo. Bồ-tát, bậc Đủ tuệ Chẳng chấp ở văn tự Nhiếp trì tất cả pháp Hạnh ấy nhiếp nơi đạo. Bồ-tát, bậc Hành pháp Hay tương ưng với pháp Cũng tương ưng với nghóa Hạnh ấy nhiếp nơi đạo. Bồ-tát, bậc Thuận đạo Giữ vững thệ kiên cố Tu hành đúng như lời Hạnh ấy nhiếp nơi đạo. Bồ-tát đạo thanh tịnh Khéo sạch các ý lạc Trụ pháp chẳng phóng dật Hạnh ấy nhiếp nơi đạo. Bồ-tát tất cả thời Siêng tu các hạnh ấy Thân tâm được an lạc Hạnh ấy nhiếp nơi đạo. Bồ-tát, bậc Chánh niệm Trụ ở đạo thanh tịnh Biết rõ tất cả pháp Rỗng không chẳng có tướng. Bồ-tát, bậc Quan sát Hay khiến nguyện thanh tịnh Cũng chẳng trụ vô nguyện Rời xa tất cả tướng. Bồ-tát quán đúng lý Lý thể đều bình đẳng Với các pháp vô sinh Không có chút nghi hoặc. Bồ-tát, bậc Diệu trí Hay quán sát các pháp Nhàm lìa và tịch diệt Thấy rõ mà hướng đến. Bồ-tát, bậc Quán pháp Như lý thấy pháp sinh Chẳng ở sinh thấy sinh Chẳng ở diệt thấy diệt. Bồ-tát, bậc Tinh tấn Lúc quán sát như vậy Rời khỏi nơi phi pháp Siêu thăng trong chánh vị. Bồ-tát, bậc Diệu trí Đạo này là thanh tịnh Mau đến an ổn lớn Thành tựu nhẫn vô thượng. Bồ-tát, bậc Diệu trí Tùy thuận quán các pháp Vượt quá tất cả tưởng Thường trụ ở vô tưởng. Bồ-tát, bậc Diệu trí Đạo này hay trừ sạeh Rời xa nơi đạo tưởng Cũng chẳng trụ pháp tưởng. Bồ-tát, bậc Diệu trí Vì đạo này trị sạch Ra khỏi lưới vô minh Mà được ánh sáng pháp. Bồ-tát, bậc Diệu trí Hay tu tập nơi minh Truyền dạy các chúng sinh Do đây mà hướng đến. Bồ-tát, bậc Tu trí Vì được tất cả pháp Quyết định nghóa thậm thâm Đại phương tiện thiện xảo. Bồ-tát, bậc Tu trí Phương tiện rời các tưởng Tùy thuận pháp bí mật Hay biết nghóa quyết định. Bồ-tát, bậc Diệu trí Dùng ánh sáng pháp lớn Diệt được các thọ, tưởng Do đây mà hướng đến. Bồ-tát, bậc Diệu trí Chẳng trụ ở đạo ấy Vì chẳng trụ đạo ấy Nơi đạo mà hướng đến. Bồ-tát, bậc Vô úy Hay biết tất cả pháp Dường như hư không tịnh Không bị tướng chi phối. Bồ-tát biết các pháp Tánh nó đồng hư không Vì các pháp như không Thanh tịnh mà không nhơ. Bồ-tát trụ như vậy Chẳng bị tướng làm ngại Mau vì các chúng sinh Diễn thuyết để truyền dạy. Bồ-tát, bậc Diệu trí Tất cả đạo thanh tịnh Nơi đạo không tai hoạn Vô ngại mà hướng đến. Đạo thanh tịnh như vậy Mau đến đại Bồ-đề Có thể chứng vô vi Bình đẳng mà hướng đến. Bồ-tát đại giáp trụ Đại thừa và đại đạo Như hư không vô ngại Thanh tịnh mà hướng đến. Đến thừa này, đạo này Như đến thái hư không Rời xa tất cả tướng Vô tướng mà hướng đến. Đại thừa bình đẳng thừa Rộng lớn dường hư không Nơi đạo thanh tịnh này Thừa ấy sẽ hướng đến. Tất cả các Bồ-tát Tôn trọng nơi pháp này Vì tất cả chúng sinh Dũng mãnh mà hướng đến. Nếu đến đại Bồ-đề Trụ đạo thù thắng này Chẳng phải hàng Nhị thừa Ở đây hướng đến được. Bồ-tát chánh ức niệm Hay khiến đạo thanh tịnh Dùng đạo thanh tịnh này Mà hướng đến vô thượng. Đức Phật dạy tiếp: –Này Vô Biên Tuệ! Lúc hướng đến như vậy, các Đại Bồ-tát hay dùng phương tiện khéo để chánh liễu tri vô lượng Niệm xứ, Chánh cần, Căn, Lực, Giác chi giải thoát, đẳng trì đẳng chí, thần túc chỉ quán, vô lượng công đức thù thắng trang nghiêm. Vì muốn hàng phục các thế gian nên Đại Bồ-tát mặc đại giáp trụ. Vì siêu xuất ba cõi nên Đại Bồ-tát ngồi nơi Đại thừa. Vì nhiếp thọ Trời, Người, A-tu-la nên Đại Bồ-tát an trụ đạo ấy mà hướng đến Vô thượng Bồ-đề. Này Vô Biên Tuệ! Lúc các Đại Bồ-tát mặc đại giáp trụ, ngồi 'nơi Đại thừa, an trụ nơi đạo ấy nếu chẳng dùng Từ, Bi, Hỷ, Xả soi khắp chúng sinh, chẳng yêu chúng sinh như mình, thì giáp trụ Đại thừa đại đạo ấy cả đại địa chẳng kham chịu được, tất cả chúng sinh chẳng thân cận được. Nếu Đại Bồ-tát dùng từ bi lợi ích chúng sinh mà mặc đại giáp trụ ngồi Đại thừa an trụ đạo ấy, thì giáp trụ Đại thừa đại đạo ấy, tất cả thế gian Trời, Người, A-tu-la chẳng thể làm được. Tất cả hàng ngu phu tham luyến thế gian ở mãi thế gian cũng chẳng thấy được. Vì thương xót tất cả chúng sinh mà các Đại Bồ-tát mặc đại giáp trụ, có thể dùng giáp trụ gia trì địa giới và thủy, hỏa, phong giới, làm cho địa giới này chẳng nghiêng úp, tất cả chúng sinh khỏi kinh sợ, lại có thể làm cho thủy giới, hỏa giới và phong giới tùy theo chỗ thích ứng mà phát khởi hiệu năng. Các Đại Bồ-tát từ lúc mới phát tâm hướng đến giáp trụ tới nay mặc đại giáp trụ ấy ngồi Đại thừa ấy dùng đạo thanh tịnh mà hướng đến Nhất sinh bổ xứ. Lúc Đại Bồ-tát đến cội Bồ để ngồi đạo tràng, trong cõi đại thiên này, chỗ đạo tràng kiên cố do kim cang làm thành, nếu chẳng gia trì thì tất sẽ rung động, nghiêng úp. Dầu là làm thành bằng kim cang kiên cố nhưng không kham chịu đựng được đại giáp trụ Đại thừa đại đạo ấy. Thuở xưa, vì các Đại Bồ-tát thệ nguyện khởi tâm Từ bi đối với chúng sinh, vì mười phương chư Phật, các Đại Bồ-tát đồng khen ngợi, nên dầu là núi Kim cang, núi Tu-di, các núi báu cùng các núi lớn nhất, nếu chẳng gia trì, thì đều cũng chẳng kham chịu đựng được đại giáp trụ Đại thừa đại đạo ấy. Lại vì bản nguyện lực của các Đại Bồ-tát, bản nguyện lực của chư Phật, đối với tất cả chúng sinh chẳng làm não, chẳng làm hại, chẳng làm tổn, chẳng làm oán, chẳng làm thù, chẳng lấn hiếp, chẳng bức ngặt, vì muốn cho chúng sinh được an lạc, nên mặc đại giáp trụ ngồi Đại thừa an trụ trong đạo ấy mà hướng đến Vô thượng Bồ-đề. Này Vô Biên Tuệ! Lúc mặc giáp trụ, các Đại Bồ-tát mặc giáp trụ trí tuệ, cầm dao gậy trí tuệ, hồi hướng đại trí tuệ, ngồi hồi hướng thừa, hướng ánh sáng trí tuệ, an trụ đạo quang minh, dùng con mắt trí tuệ sáng suốt quan sát các pháp mà hướng đến Nhất thiết chủng trí. Vì muốn nhiếp thủ Nhất thiết chủng trí, vì tất cả chúng sinh mà tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, Bố thí ba-la-mật-đa, Trì giới ba-la-mật-đa, Nhẫn nhục ba-la-mật-đa, Tinh tấn ba-la-mật-đa và Thiền ba-la-mật-đa. Tất cả đều dùng tuệ làm người dẫn đường, dùng tuệ để tu tập, dùng tuệ để làm nhiếp trì mà hồi hướng Vô thượng Bồ-đề. Khi ấy Bồ-tát Vô Biên Tuệ bạch rằng: –Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát có bao nhiêu là trí tuệ đều có thể nhiếp trì khắp tất cả chỗ thành tựu vô lượng các Phật pháp. Đức Phật dạy: –Đúng như vậy! Này Vô Biên Tuệ! Đúng như lời ông vừa nói. Các Đại Bồ-tát có bao nhiêu là trí tuệ khắp tất cả chỗ nhiếp tất cả pháp, mặc đại giáp trụ đi xe lớn (Đại thừa) trên con đường lớn ấy, mỗi mỗi đều dùng tuệ làm người dẫn đường mà hướng đến. Này Vô Biên Tuệ! Dù có trí tuệ mà không dùng tuệ làm người dẫn đường thì ở trong đạo ấy chẳng thể hướng đến được. Nếu có trí tuệ dùng tuệ làm người dẫn đường, khắp tất cả chỗ tùy chuyển tùy hành, dùng tuệ để nhiếp trì, dùng tuệ để phòng ngự, mới được gọi là mặc đại giáp trụ đi xe lớn (Đại thừa) trên con đường lớn ấy, dùng pháp an ổn làm lợi ích cho thế gian, có thể khai mở mắt Tuệ, dùng mắt tuệ quan sát, thân tuệ chiếu sáng phóng ánh sáng lớn mà hướng đến Vô thượng Bồ-đề. Này Vô Biên Tuệ! Đó là các Đại Bồ-tát mặc giáp trụ thì giáp trụ trang nghiêm, an trụ Đại thừa thì Đại thừa trang nghiêm, thực hành đại đạo thì đại đạo trang nghiêm mà hướng đến Vô thượng Bồ-đề. Này Vô Biên Tuệ! Các Đại Bồ-tát giáp trụ trang nghiêm, Đại thừa trang nghiêm và đại đạo trang nghiêm, tất cả công đức nhiều thứ trang nghiêm, nếu ta nói cho đủ, dù đến vô lượng kiếp cũng nói không hết được. Nay vì làm cho các ông được biết rõ, cũng vì các Bồ-tát vị lai, giáp trụ trang nghiêm, Đại thừa trang nghiêm, đại đạo trang nghiêm, vô lượng công đức tư lương trang nghiêm, mà ta lược nói một phần ít. Các Bồ-tát ấy nếu nghe pháp của ta cũng nên mặc đại giáp trụ, ngồi ở Đại thừa, an trụ đại đạo ấy dùng công đức trang nghiêm mà hướng đến Vô thượng Bồ-đề. Đức Thế Tôn nói kệ rằng: Ta nói bốn Chánh cần Cũng nói bốn Niệm trụ Tất cả thiện phương tiện Do nơi chẳng phóng dật. Đầy đủ chánh ức niệm Khéo tương ưng với pháp Dũng tiến để ra khỏi Do nơi chẳng phóng dật. Căn, Lực, Bồ-đề phần Mặc giáp ngồi xe lớn Dùng đây làm thị vệ Bồ-tát sẽ hướng đến. Thiền định, chánh giải thoát Đẳng trì và đẳng chí Dùng đây làm thị vệ Bồ-tát sẽ hướng đến. Đại Từ, Bi, Hỷ, Xả Mặc giáp ngồi xe lớn Dùng đây làm thị vệ Bồ-tát sẽ hướng đến. Thành tựu các Chỉ, Quán Thần túc và thần biến Dùng đây làm thị vệ Bồ-tát sẽ hướng đến. Vô lượng các công đức Mặc giáp ngồi xe lớn Nơi đạo không mỏi nhọc Bồ-tát sẽ hướng đến. Tinh tấn chẳng phóng dật Mặc giáp ngồi xe lớn Biết rõ các Niệm xứ Bồ-tát sẽ hướng đến. Ánh sáng đại giáp trụ Hàng phục các thế gian Mặc giáp trụ này rồi Mới gọi là bậc Trí. Hướng đến Nhất thiết trí Ra khỏi hẳn ba cõi Ngồi xe lớn này rồi Mới gọi là bậc Trí. Đại đạo thanh tịnh đạo Chói che các thế gian Trời, Người, A-tu-la Mới gọi là bậc Trí. Các Bồ-tát như vậy Khắp vì các chúng sinh Trong tất cả thời gian Tinh tấn mặc giáp trụ Bồ-tát chẳng tu tập Đại Từ và đại Bi Đại Hỷ và đại Xả Đại địa chẳng chịu nổi. Bồ-tát chẳng tu tập Sự lợi ích đúng lúc Cho các chúng sinh kia Đại địa chẳng chịu nổi. Bồ-tát chẳng tu tập Thương yêu các chúng sinh Như thương yêu chính mình Đại địa chẳng chịu nổi. Bồ-tát chẳng tu tập Từ bi trụ Đại thừa Các núi và biển cả Đại địa chẳng chịu nổi. Bồ-tát chẳng tu tập Từ bi với chúng sinh Trụ nơi Đại thừa này Chúng sinh chẳng thân cận. Nếu mặc giáp trụ này Từ quang chẳng chiếu sáng Với đại giáp trụ ấy Chúng sinh chẳng thân cận. Nếu mặc giáp trụ này Biển công đức vô biên Gia trì bốn đại chủng Nó mới kham chịu nổi. Vì nhiếp thủ chúng sinh Dùng từ quang chiếu khắp Gia trì bốn đại chủng Nó mới kham chịu nổi. Vì nhiếp thủ chúng sinh Thành tựu đại Bồ-đề Gia trì bốn đại chủng Nó mới kham chịu nổi Chẳng khinh hại chúng sinh Mặc đại giáp trụ này Đại thừa mà xuất ly Đây gọi là bậc Trí . Đại phương tiện khôn khéo Tất cả đều gia trì Vô thượng mà xuất ly Đây gọi là bậc Trí. Do đây nên đại địa Chẳng úp cũng chẳng nghiêng Thủy, hỏa, phong, đại chủng Phát hiệu năng thích ứng. Nhưng các Đại Bồ-tát Mặc giáp lại vô biên Ngồi nơi Đại thừa này Dùng đạo mà hướng đến Thành Nhất sinh bổ xứ Đến bậc tối hậu thân Trải tòa dưới thọ vương Ngồi trên đất kiên cố. Ở chỗ đạo tràng này An trụ như Kim cang Thân tâm chẳng mỏi nhọc Hiện chứng Nhất thiết trí. Bồ-tát, bậc Vô úy Nếu chẳng dùng gia trì Đất ấy sẽ nghiêng úp Hư hoại chẳng còn thành. Tất cả cõi đại địa Nếu chẳng được gia trì Dù bằng chất Kim cang Đều phải nghiêng úp cả. Thuở xưa Đại Bồ-tát Thệ nguyện lớn trang nghiêm Đối với các chúng sinh Đã khởi niệm đại Từ. Hiện tại mười phương cõi Trong quốc độ chư Phật Đấng Lưỡng Túc Biến Tri Đều hộ niệm tất cả. Giả sử các núi đá Núi Tu-di, núi báu Núi Kim cang, Luân vi Kiên cố đứng sừng sững, Bồ-tát, bậc Trí tuệ Nếu chẳng dùng gia trì Đối với đại giáp trụ Các núi chẳng chịu nổi. Chư Phật, các Bồ-tát Dùng thần lực gia trì Chúng sinh và đại địa Kham gần, kham chịu nổi. Mặc đại giáp trụ này Chẳng làm não chúng sinh Giáp trụ này vô thượng Dùng cỗ xe hướng đến. Mặc đại giáp trụ này Chẳng làm hại chúng sinh Giáp trụ chẳng nghó bàn Dùng cỗ xe hướng đến. Mặc đại giáp trụ này Chẳng não hại chúng sinh Vì chúng sinh trị bệnh Dùng cỗ xe hướng đến. Đầy đủ đạo thù thắng Tối thanh tịnh vô thượng Chẳng não hại oán thù Chân chánh mà an trụ. Mặc giáp trụ trí tuệ Lên xe trí tuệ đến Giáp trụ chẳng bị hư Hồi hướng đạo Vô thượng. Bồ-tát, bậc Nương nhờ An trụ ánh sáng tuệ Dùng tuệ xem các pháp Mà hướng đến Vô thượng. Bồ-tát đạo thù thắng Giáp trụ và Đại thừa Đây do tuệ quang khởi Cho nên tâm thanh tịnh. Nương các Ba-la-mật Hướng đến đại Bồ-đề Tuệ nhiếp tuệ thanh tịnh Dùng tuệ làm tiên phong. Tất cả Ba-la-mật Dùng tuệ làm tiên phong Tuệ nhiếp tuệ thanh tịnh Hay truyền trí vô thượng. Bồ-tát chẳng nghó bàn Hay phát ánh sáng tuệ Hay thắp đèn trí tuệ An lạc mà hướng đến. Vì phát ánh sáng tuệ Do đó Tuệ nhãn khai Nơi Phật Vô thượng trí Thấy rõ mà hướng đến. Bồ-tát, bậc Dũng mãnh Giáp trụ lại vô biên Vì vô biên trang nghiêm Gọi là đại giáp trụ. Bồ-tát, bậc Đại trí Đại thừa đại trang nghiêm Nơi Phật Nhất thiết trí Vô nhiễm mà hướng đến. Bồ-tát, bậc Đại trí Đại đạo đại trang nghiêm Thù thắng chẳng nghó bàn Thanh tịnh mà hướng đến.  KINH ĐẠI BẢO TÍCH <卷 id="86423696">QUYỂN 23 Hán dịch: Đời Đại Đường, Tam tạng Pháp sư Bồ-đề-lưu-chí. <詞 id="86423697">Pháp hội 7: MẶC ÁO GIÁP TRANG NGHIÊM (Phần 3) Đức Phật dạy tiếp: –Này Vô Biên Tuệ! Các Đại Bồ-tát ở nơi cảnh giới vô biên giáp trụ, cảnh giới vô biên Đại thừa và cảnh giới vô biên đại đạo mà hướng đến. Vì sao? Vì có thể tùy nhập tất cả xứ vậy. Các Đại Bồ-tát vì muốn tùy nhập tất cả pháp nên mặc đại giáp trụ, vì muốn tùy nhập tất cả pháp nên ngồi nơi Đại thừa, vì muốn tùy nhập tất cả pháp nên an trụ đại đạo này, vì ở nơi tất cả pháp được bình đẳng mà hướng đến. Nhưng ở giáp trụ này chẳng có được chút ít pháp nào hoặc trong hoặc ngoài, hoặc thô hoặc tế, hoặc xa hoặc gần; hoặc quá khứ, hiện tại, vị lai; hoặc hữu vi, vô vi, hoặc trụ, hoặc chẳng trụ. Nơi tất cả pháp, nếu giáp trụ này chẳng chọn lọc được gì, chẳng giải quyết được gì, chẳng hiểu biết được tất cả, chẳng tùy thuận hòa nhập với chúng sinh, chẳng chứng đắc gì cả, chẳng vượt qua được các thứ bậc tu hành thì chẳng thể gọi là mặc Đại giáp trụ. Nơi tất cả pháp, nếu giáp trụ này chọn lọc được, giải quyết được, biết khắp được, tùy thuận gia nhập được, tác chứng được, vượt qua thứ bậc được thì mới được gọi là mặc đại giáp trụ. Lại Đại thừa này không có chút pháp nào hoặc trong hoặc ngoài, cho đến hồi hướng Nhất thiết chủng trí, biết khắp, tùy thuận gia nhập, chứng đắc và vượt qua được nên gọi thừa này là Đại thừa, là pháp thiện xảo thừa, là Niết-bàn thừa, là Vô thượng thượng thừa, là Vô đẳng đẳng thừa. Lại đại đạo này cũng không có chút pháp nào hoặc trong hoặc ngoài, cho đến có thể ở nơi tất cả pháp bình đẳng chân chánh đại đạo mà hướng đến. Đạo bình đẳng chân chánh này không có chút pháp nào mà chẳng biết khắp, thế nên đạo này gọi là vô thượng đạo, vô số lượng đạo, vô đẳng đẳng đạo. Này Vô Biên Tuệ! Các Đại Bồ-tát mặc đại giáp trụ, các vị có thể khắp tùy nhập trong hiện hành tâm và tâm sở của tất cả chúng sinh, có thể khắp làm sạch hết tạp nhiễm phiền não của tất cả chúng sinh. Các vị trụ nơi Đại thừa làm thêm lớn căn lành cho tất cả chúng sinh. Các vị an trụ đại đạo này khuyến hóa chúng sinh với tất cả pháp lành. Này Vô Biên Tuệ! Vì mỗi mỗi chúng sinh, mỗi mỗi tâm hành cùng tận bờ sinh tử mãi mãi lưu chuyển, nên các Đại Bồ-tát cầu thuốc trí tuệ, chẳng rời bỏ giáp trụ mà có thể kiên cố mặc đại giáp trụ, mặc giáp trụ vô lượng, mặc giáp trụ khó nghó bàn, mặc giáp trụ thanh tịnh, mặc giáp trụ vô biên, mặc giáp trụ không chấp thủ, mặc giáp trụ biết tâm tưởng của chúng sinh, mặc giáp trụ biết không có chúng sinh, mặc giáp trụ biết không có ngã, mặc giáp trụ biết tự tánh của chúng sinh, mặc giáp trụ tùy giác tự tánh của chúng sinh, mặc giáp trụ biết tự tánh của ngã, mặc giáp trụ tùy giác tự tánh của ngã, mặc giáp trụ biết tự tánh bên trong, mặc giáp trụ tùy giác tự tánh bên trong, mặc giáp trụ biết tự tánh bên ngoài, mặc giáp trụ tùy giác tự tánh bên ngoài, mặc giáp trụ biết tự tánh trong ngoài, mặc giáp trụ tùy giác tự tánh trong ngoài, mặc giáp trụ biết tự tánh các pháp, mặc giáp trụ tùy giác tự tánh các pháp, mặc giáp trụ biết tất cả pháp vô sở đắc, mặc giáp trụ biết tự tánh các pháp vô sở đắc, mặc giáp trụ biết rõ tất cả pháp, mặc giáp trụ vô biên, mặc giáp trụ vô trung, mặc giáp trụ vô trung biên, mặc giáp trụ chẳng quá khứ, mặc giáp trụ chẳng vị lai, mặc giáp trụ chẳng hiện tại, mặc giáp trụ không tạo tác, mặc giáp trụ không có người tạo tác. Này Vô Biên Tuệ! Với giáp trụ ấy, các Đại Bồ-tát cũng không có mặc, cũng chẳng tùy theo đó mà giác ngộ, cũng chẳng kết thúc, cũng chẳng rời bỏ, cũng chẳng hiện chứng. Vì không giáp trụ mà mặc giáp trụ. Vì chẳng tùy theo đó giác ngộ mà có thể giác ngộ. Vì chẳng kết thúc mà có thể kết thúc. Vì chẳng rời bỏ mà có thể thoát khỏi. Vì chẳng chứng đắc mà có thể chứng đắc. Vì không có thừa mà trụ Đại thừa. Chẳng ở nơi Đại thừa mà có ra làm điều gì. Không chỗ ra làm mà ra làm tất cả. Nhưng ở nơi Đại thừa không có chút chi gọi là ra làm. Nếu có ra làm thì chẳng phải là ra làm nữa vì hành vi ra làm kia là không thể có được. Vì là không thể có được nên cũng không có thừa, dùng thừa để an trụ, dùng vô sở đắc mà an trụ Đại thừa, rời xa hướng đến, chẳng tới cứu cánh, chẳng tới Niết-bàn. Vì là không thể có được nên chẳng phải đạo làm đạo, hướng đến nơi đạo do vì bình chánh. Đạo bình đẳng chân chánh ấy không có chỗ ra làm, không có ai ra làm, không có chỗ làm, không từ đâu làm. Cũng không có tạo tác, không có ai là người tạo tác. Cũng chẳng phải hòa hợp, chẳng phải chẳng hòa hợp. Tất cả đều nhàm chán, tất cả đều chẳng cầu mong. Vì sao? Đạo bình đẳng chân chánh ấy với tất cả pháp chẳng đồng chẳng khác. Vì chẳng tương ưng nên chẳng sinh khởi có tưởng đối với các pháp, rời tất cả pháp, không nhơ không sạch. Tánh cuả các pháp cũng vậy không nhơ không sạch. Vì thế nên đạo ấy gọi là đạo không ô nhiễm. Dùng cái không thể tiến mà tiến lên, dùng cái không thể nhiếp mà nhiếp thủ. Đạo ấy sâu xa, không sinh không khởi, không xuất không tác, không đắc không hành, không xứ không trụ, không chướng không sự. Nơi tất cả sự mà có thể hiển hiện rõ ràng. Nơi tất cả sự mà không sai biệt. Chẳng xoay chuyển theo sự, do vì vô sự mà đến chỗ vô thượng. Này Vô Biên Tuệ! Nơi giáp trụ ấy, thừa ấy, đạo ấy, các Đại Bồ-tát phải biết như vậy. Nhưng giáp trụ ấy, thừa ấy và đạo ấy không chỗ thấy được, không chỗ biết được. Vì chẳng thể nắm bắt được vậy. Ai mặc giáp trụ, ai trụ thừa ấy, ai hành đạo ấy, cũng chẳng thấy được, cũng chẳng biết được, cũng chẳng thể được. Này Vô Biên Tuệ! Nếu các Đại Bồ-tát nghe pháp ấy rồi mà chẳng kinh chẳng sợ, đọc tụng, tuyên nói, nơi pháp lý thể không có sai trái, tùy thuận tu hành mà sinh lòng ưa thích, nhập vào thắng giải. Vì pháp ấy mà phải siêng năng tinh tấn. Nếu ở nơi pháp ấy mà quyết định lý thể phương tiện khôn khéo có khả năng nhiếp thọ, thì là mặc giáp trụ ấy, trụ nơi thừa ấy, hành ở đạo ấy. Vì ở nơi pháp vô sở đắc sâu xa ấy mà hướng đến, nên hết bờ sinh tử, là Bậc Chánh Giác, có thể dùng vô biên công đức trang nghiêm để xuất hiện ở thế gian. Này Vô Biên Tuệ! Ở trong pháp ấy, các Đại Bồ-tát phải sinh lòng ưa thích phát khởi đại tinh tấn mà không phóng dật. Ở nơi pháp sâu xa này, nếu có chúng sinh nào vừa sinh lòng ưa thích, ta bảo người ấy được lợi ích rất lớn. Huống là người có thể siêng năng tinh tấn chẳng phóng dật, giới hạnh thanh tịnh mà hướng đến. Này Vô Biên Tuệ! Ông xem pháp ấy bao nhiêu là rộng lớn, bao nhiêu là thù thắng, bao nhiêu là thanh tịnh! Ta ở nơi pháp ấy ân cần khen ngợi muốn khiến chúng sinh phát lòng ưa thích, họ sẽ được mãi mãi an ổn, khoái lạc, lợi ích. Vì là nhàm chán, vì là tịch diệt, vì là rõ biết khắp. Này Vô Biên Tuệ! Ông lại nên xem pháp ấy có thể trao cho đầy đủ sự an lạc thế gian và xuất thế gian. Có bao nhiêu chúng sinh thiếu thốn, vì họ ở nơi thâm pháp ấy mà thoái thất, nên họ rời xa tất cả sự đầy đủ an vui thế gian và xuất thế gian vậy. Này Vô Biên Tuệ! Ông lại xem hiện tiền pháp báu thậm thâm của Đức Như Lai bao nhiêu là đầy đủ lợi ích, bao nhiêu là dễ được! Nay ở nơi pháp sâu xa ấy, ông phải siêng tu tập. Lúc ta diễn nói pháp báu ấy, có những hạng ngu phu còn chẳng muốn nghe huống là có thể thọ trì. Hiện tiền pháp báu của Đức Như Lai đầy đủ lợi ích, họ chẳng thích lắng nghe, chẳng muốn thưa hỏi. Nếu ở thời kỳ mạt thế năm trăm năm sau, lúc chánh pháp diệt, Đức Phật và pháp báu cùng người trì pháp cả ba ngôi báu đều chẳng còn, họ làm sao có thể thích nghe muốn hỏi được. Này Vô Biên Tuệ! Mặc dầu vậy nhưng lúc sau ấy, nếu người được Đức Như Lai khéo gia trì, cũng làm cho họ được pháp báu thậm thâm kia. Này Vô Biên Tuệ! Thời kỳ bố úy kia, pháp báu sâu xa ấy thật không có tổn giảm, cũng không diệt tận, chỉ vì ở nơi pháp ấy không có ai lắng nghe, không có ai thọ trì. Ngoại trừ những người ở trước Đức Phật khát ngưỡng lắng nghe, mặc giáp trụ. Đến thời kỳ ấy, họ sẽ có thể ưa thích lắng nghe thọ trì pháp báu ấy. Thời kỳ sau ấy, chúng sinh nào nghe pháp ấy rồi có thể sinh lòng tin thanh tịnh, ta bảo người ấy sẽ được thành tựu pháp báu quảng đại ấy. Huống là những người hiện nay ở trong pháp báu ấy mà có thể sinh lòng tin thanh tịnh siêng tu hành. Này Vô Biên Tuệ! Lúc mặc giáp trụ vô thượng vô lượng tối đại, các Đại Bồ-tát phải nghó rằng: “Tôi vì tất cả chúng sinh thiếu thốn, đó là những kẻ thiếu giới, thiếu nghe, thiếu tuệ, thiếu giải thoát, thiếu giải thoát tri kiến, nên đem pháp báu lớn này để làm cho họ được đầy đủ.” Do vì pháp báu lớn này làm cho đầy đủ, nên họ được thoát khỏi sự thiếu thốn. Làm cho họ được đầy đủ những tài sản giới, văn, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến. Làm tắt hết những lửa tham, sân, si. Làm lành tất cả bệnh tật. Thuốc hay vô thượng đều khiến họ được uống. Nhờ uống thuốc ấy mà các bệnh đều tiêu trừ, được đại an lạc, rời hẳn hữu dư mà chứng thanh lương, tánh vô thượng Niết-bàn. Không còn thừa những tư duy quán sát, chẳng cầu tất cả hữu vi vô vi. Vì sao? Bởi Niết-bàn này là tối thượng an lạc, tất cả chỗ đáng cầu đều không còn thừa. Chỗ cầu đã thôi hẳn đã dứt hết. Này Vô Biên Tuệ! Các Đại Bồ-tát mặc đại giáp trụ như vậy rồi lại vì thương xót nhiếp thủ tất cả các chúng sinh mà ngồi xe lớn (Đại thừa) ấy. Với Đại thừa ấy, chư Phật quá khứ đã ngồi mà xuất ly, chư Phật vị lai sẽ ngồi mà xuất ly, chư Phật hiện tại hiện đang ngồi mà xuất ly. Không có người đi, cũng không có thừa, cũng không có xuất ly. Vì sao? Vì là Không, Vô tướng, Vô nguyện, không sinh, không tạo tác. Chẳng phải đã xuất ly, chẳng phải nay xuất ly, chẳng phải sẽ xuất ly. Người ngồi thừa ấy để xuất ly như thế là khéo xuất ly mà không chấp trước, với tất cả pháp chẳng phải có hòa hợp, chẳng phải không hòa hợp, không đến, không đi. Lúc thừa ấy ở nơi đạo mà xuất ly cũng chẳng phải hòa hợp chẳng phải chẳng hòa hợp, không đến, không đi. Lúc thừa ấy, đạo ấy ở nơi đại giáp trụ mà xuất ly cũng chẳng phải hòa hợp, chẳng phải chẳng hòa hợp, không đến, không đi, vì tất cả đều chẳng thể nắm bắt được. Này Vô Biên Tuệ! Các Đại Bồ-tát dùng giáp trụ ấy, thừa ấy và đạo ấy mà hướng đến Vô thượng Bồ-đề. Lại lúc dùng giáp trụ ấy, thừa ấy, đạo ấy mà hướng đến, Đại Bồ-tát chẳng suy nghó: “Hoặc pháp phàm phu, hoặc pháp Thanh văn, hoặc pháp Duyên giác, hoặc pháp chư Phật, những pháp ấy đối với ta hoặc xa hoặc gần.” Đại Bồ-tát cũng chẳng nghó: “Hoặc pháp Không, hoặc pháp Vô tướng, hoặc pháp Vô nguyện, hoặc pháp không sinh khởi, hoặc pháp không tạo tác, những pháp ấy đối với ta hoặc xa hoặc gần.” Đại Bồ-tát cũng chẳng nghó: “Hoặc nhàm chán, hoặc xa lìa, hoặc diệt tận, cho đến Đại Bát-niết-bàn, những pháp ấy đối với ta hoặc xa hoặc gần.” Này Vô Biên Tuệ! Đại giáp trụ ấy, thừa ấy và đạo ấy, tất cả Bồ-tát, tất cả Duyên giác, tất cả Thanh văn và tất cả chúng sinh chẳng làm động được mà hướng đến Vô thượng Bồ-đề. Này Vô Biên Tuệ! Chư Phật Thế Tôn ở nơi giáp trụ ấy, thừa ấy và đạo ấy được bất động rồi các chư Phật Bát-niết-bàn. Vì sao? Vì tất cả các pháp chẳng thể động được. Vì tất cả pháp tánh, tướng của pháp tánh, tướng viễn ly, tướng thanh tịnh, khắp thanh tịnh. Chẳng thể dùng tướng mà làm quan sát, làm thắng quan sát, làm khắp quan sát. Tất cả pháp tướng, tánh của pháp tướng, chẳng thể dùng tánh mà làm quan sát, làm thắng quan sát, làm khắp quan sát. Tất cả các pháp không tánh, không tướng, chẳng hiển bày được, chẳng diễn nói được. Đây là tánh tướng chân thật của các pháp. Này Vô Biên Tuệ! Cũng vậy, giáp trụ ấy, thừa ấy, đạo ấy, tướng chân thật của nó chẳng thể hiển bày, chẳng thể diễn nói được. Vì khiến chúng sinh sẽ biết rõ, tăng trưởng ánh sáng tất cả pháp, nên ở nơi giáp trụ ấy, thừa ấy, đạo ấy, ta mượn những điều đó mà sơ lược nói như vậy. Nay nếu ông muốn ở nơi giáp trụ ấy, thừa ấy, đạo ấy theo nghóa mà thực hành, ông chớ dùng những việc ra làm, chớ dùng hiển bày, chớ dùng nói năng, mà phải tùy theo nghóa để thực hành. Theo nghóa để thực hành ấy không có chút gì phải thực hành cũng không có chút gì tùy theo thực hành. Nếu là nghóa quấy thì chẳng nên tùy theo thực hành. Nếu là nghóa đúng thì phải tùy theo thực hành. Lúc tùy theo nghóa thực hành, chẳng theo tiếng để thực hành, chẳng theo chữ để thực hành, chẳng theo lời để thực hành, chẳng theo hành giả, cũng chẳng theo nó mà chuyển. Những gì là nghóa? Đó là bí mật mà nói. Ở nơi bí mật mà nói phải theo đó mà tỏ ngộ, phải dùng lòng tin mà thực hành. Dùng lòng tin thực hành thì ở trong nghóa đúng không có phân biệt. Nơi vô phân biệt mới nên tùy theo thực hành. Nên tùy theo thực hành đây chính là chẳng thực hành cũng chẳng tùy theo thực hành. Vì sao? Ở trong nghóa đúng không có chút thực hành, không có chút tùy theo thực hành, không có chút khắp thực hành. Vì rời xa thực hành nên chẳng nên tùy theo thực hành. Chẳng tùy theo chỗ tương ưng với Bồ-đề mà thực hành, chẳng tùy theo chỗ tương ưng với lưu chuyển mà thực hành. Ở nơi tương ưng và chẳng tương ưng ấy đều chẳng phải tác ý, đều chẳng phải chánh niệm, vì niệm thanh tịnh vậy. Vì thế nên chẳng nên tùy theo thực hành. Này Vô Biên Tuệ! Ở trong nghóa đúng, ông nên tùy hành, chớ có tùy hành khác. Nếu tùy hành khác tức là quên mất mà theo dõi âm thanh, theo dõi văn tự, theo dõi ngôn ngữ. Nơi ngôn ngữ ấy chẳng rời bỏ được. Biết khắp âm thanh, vượt khỏi văn tự, giác ngộ ngôn ngữ thì chẳng theo nó mà hành, thì chẳng lưu chuyển. Ở trong nghóa đúng, tùy hành như vậy, tùy nhập như vậy thì không có chút hành, vì hành đã dứt hết. Này Vô Biên Tuệ! Lúc ở nơi nghóa đúng mà hành thì chớ có lấy hành mà hành nơi nghóa. Nếu chẳng lấy hành mà hành nơi nghóa thì là chẳng đến cũng chẳng lui. Nếu được chẳng đến chẳng lui thì ở nơi giáp trụ ấy, thừa ấy, đạo ấy được tùy thuận hướng đến Vô thượng Bồ-đề mà làm lợi ích lớn cho chúng sinh. Này Vô Biên Tuệ! Nếu ở nơi pháp ấy nói như vậy, tùy theo nghóa mà hành, có thể tùy nhập được thì tâm chẳng điên đảo không có nghi hoặc, thành tựu thắng giải. Ở nơi giáp trụ ấy, thừa ấy, đạo ấy, nếu chưa nhiếp thủ thì được nhiếp thủ chóng sẽ hướng đến. Nếu có ai chưa mặc giáp trụ ấy thì sẽ chóng được mặc. Nếu có ai chưa ngồi nơi thừa ấy thì sẽ chóng được ngồi. Nếu có ai chưa an trụ nơi đạo ấy thì sẽ chóng được an trụ. Này Vô Biên Tuệ! Những chúng sinh ấy sẽ đạt được phước đức tư lương rộng lớn, được chư Phật Thế Tôn hộ niệm, với Pháp không sai trái, đồng hàng với chư Tăng. Này Vô Biên Tuệ! Ông đã đạt được vô lượng căn lành, ở đời mạt pháp sau, ông sẽ dùng pháp ấy nhiếp hóa chúng sinh, ông sẽ vì chúng sinh mà gánh vác lấy gánh nặng, được phước đức vô lượng, khó nói kể được. Lúc ấy Đức Thế Tôn nói kệ rằng: Bồ-tát, bậc Vô úy Lúc mặc giáp trụ ấy Vì lợi ích chúng sinh Mà mặc giáp vô biên. Chúng sinh nếu nghèo thiếu Khổ sở không pháp tài Không giới, không đa văn Không tuệ, không giải thoát Mặc giáp vô biên ấy Khiến pháp được đầy đủ. Vì pháp được đầy đủ Tất cả được an lạc Vì bỏ những nghèo khổ Diễn thuyết pháp vô thượng. Người nghe đều sạch trần Được ở đạo an lạc Giới uẩn được sung túc Đa văn như biển cả Bèn được tuệ tối thượng Do đây dứt trói buộc. Giải thoát khắp chiếu sáng Giải thoát Chánh tri kiến Nếu người hiện chứng được Tất cả được an lạc. Lửa lớn tham, sân, si Thường đốt cháy hừng khắp Do đó chúng sinh khổ Tôi làm tắt lửa ấy Trao thuốc cho chúng sinh Trừ hết tất cả bệnh. Nếu bệnh đã tiêu trừ Đến được cõi Niết-bàn Bỏ hẳn các dư thừa Thẳng đến chỗ an lạc. Từ trong an lạc ấy Không có ai thoái lui Tất cả vui hữu vi Ở đó không còn cầu. Đại an lạc vô thượng Ở đó đều sẽ chứng Dùng pháp không hý luận Thành thục các chúng sinh. Tất cả đều sẽ được Đại an lạc cứu cánh Người hướng đến như vậy Thẳng qua không trở lại. Ra khỏi nơi hướng đến Thường được thắng an lạc Ở trong đại an lạc Ưa muốn hay chẳng muốn Hướng đến hay chẳng hướng Tất cả đều sẽ dứt. Mặc giáp như vậy rồi Sẽ ngồi nơi thừa ấy Vì thương các chúng sinh Đều nhiếp thủ tất cả. Quá khứ Phật Thế Tôn Thừa ấy đã xuất ly, Vị lai Phật Thế Tôn Thừa ấy sẽ xuất ly, Hiện tại Phật Thế Tôn Thừa ấy nay xuất ly, Thế nên Đại thừa ấy Không Phật nào chẳng ngồi. Tất cả Đấng Tối Thắng Nương tựa lớn của đời Do thừa ấy xuất ly Chẳng sinh ra thừa tưởng. Chẳng phải thừa làm thừa Chẳng phải đạo làm đạo Chẳng phải xuất làm xuất Xuất ly nên vô thượng. Lúc thừa ấy xuất ly Chưa có chút xuất ly Vì rỗng không, vô tướng Vì vô nguyện, vô tác Chẳng thừa chẳng xuất ly Mới gọi là Đại thừa. Tất cả đều bình đẳng Do đây mà hướng đến Thừa ấy không hòa hợp Cũng không không hòa hợp Hướng đến đạo Vô thượng Hiện chứng đại an lạc. Thừa ấy không tương ưng Cũng không chẳng tương ưng Không xứ, không chỗ dựa Do đây mà hướng tới. Đạo ấy không có đến Đạo ấy cũng không đi Được chánh đạo ấy rồi Tịch tónh mà hướng đến. Ta nói nơi đạo ấy Thừa ấy, giáp trụ ấy Nơi pháp không chỗ dựa Tịch tónh tối vô thượng. Tất cả pháp phàm phu Tất cả pháp Thanh văn Tất cả pháp Duyên giác Tất cả chẳng nắm bắt. Nơi tất cả pháp Phật Pháp ly cấu vô thượng Chẳng xa cũng chẳng gần Tất cả chẳng nắm bắt. Pháp rỗng không, vô tướng Pháp vô nguyện, vô tác Chẳng xa cũng chẳng gần Tất cả chẳng nắm bắt. Các pháp yểm, ly, diệt Pháp Niết-bàn tịch tónh Chẳng xa cũng chẳng gần Tất cả chẳng nắm bắt. Thừa ấy, giáp trụ ấy Đạo ấy vô sở thủ Vô thượng không thể động Rốt ráo chẳng nắm bắt. Tự tánh tất cả pháp Tướng chân thật hy hữu Chẳng đem thi thiết được Vì pháp tánh không vậy. Thừa ấy, giáp trụ ấy Đạo ấy không hiển bày Như tự tánh các pháp Tánh ấy cũng như vậy. Trong tất cả các pháp Tướng, tánh chẳng nắm bắt Nơi pháp không tánh, tướng Ta lược khai thị cho. Trong tất cả các pháp Tất cả tự tánh tướng Nơi ta nói như vầy: Rốt ráo vô sở hữu. Thừa ấy và đạo ấy Giáp ấy tự tánh tướng Ở đó cầu ngôn thuyết Rốt ráo cũng chẳng có. Vì ngôn thuyết chẳng có Đó là tướng hy hữu Ở trong ngôn thuyết ấy Lời lẽ cũng chẳng có. Các pháp chẳng lường được Vô thắng vô biên lượng Tất cả chẳng thể lường Thế nên pháp vô thượng. Thừa ấy, giáp trụ ấy Đạo ấy cũng như vậy Ở trong vô tướng ấy Phải tùy nhập như vậy. Vì khiến các chúng sinh Biết khắp siêng tu tập Chóng được ánh sáng pháp Nên ta nói như vầy: Các pháp không ngôn ngữ Tất cả chẳng nói được Ở trong các pháp ấy Tất cả phải tùy nhập. Vì pháp không ngôn thuyết Nơi ấy phải tùy hành Hành không có chút hành Tất cả pháp không hành. Không cầu mà thích cầu Không hành mà tùy hành Người tùy hành như vậy Chẳng quan sát nơi nghóa. Nay ông nơi thật nghóa Tất cả phải tùy hành Âm thanh và ngôn ngữ Nơi ấy chớ tùy chuyển. Trong âm thanh ngôn ngữ Nếu được chẳng tùy chuyển Mới tùy hành nơi nghóa Đây là người cầu nghóa. Những gì gọi là nghóa Phải biết thuyết bí mật Bởi tin vô phân biệt Nghóa ấy mới tùy hành. Biết rõ nghóa như vậy Được nơi thuyết bí mật Không trước, không chỗ chấp Chẳng hành, chẳng tùy chuyển. Nếu là có tùy hành Tức là tùy chấp trước Nếu là không tùy hành Tất cả chẳng tùy chuyển. Do đây chánh ức niệm Rời xa nơi tùy chuyển Bồ-đề và sinh tử Chẳng tương ưng cả hai. Nơi ấy cũng vô niệm Vô niệm là chánh niệm Vì nơi niệm thanh tịnh Gọi là người thanh tịnh. Nếu tu hành khác đây Rời xa pháp vô thượng Ông phải ở nghóa ấy Như lời mà tu tập Nếu là tùy ngôn ngữ Tức là tùy âm thanh. Chẳng vượt quá nơi ấy Đồng với pháp thế gian Âm thanh và văn tự Chẳng nên tùy nó chuyển. Phải biết nghóa chân thật Không hành để tùy hành Thật nghóa không âm thanh Cũng không có văn tự Vì vượt qua ngôn ngữ Mới gọi là thật nghóa. Nghóa ấy nên tùy hành Tùy hành vô sở hữu Vì hành đã dừng dứt Mới gọi là thật nghóa. Ở trong chân thật nghóa Chẳng hành dùng làm hành Đây thời chẳng thoái chuyển Chẳng rời bỏ giáp trụ. Tùy thuận đại giáp trụ Đại thừa và đại đạo Hướng đến chỗ an lạc Lợi ích các chúng sinh. Những pháp an ổn ấy Nay ta nói cho ông Ông phải tùy nghóa hành Ông dứt được nghi hoặc. Nếu người ngồi thừa ấy Ngồi rồi sẽ hướng đến Chóng đến đại Bồ-đề Hiện chứng Vô thượng giác. Nơi Tối thượng thừa ấy Chẳng thừa là chóng thừa Với đạo, với giáp trụ Nghóa ấy cũng như vậy. Nơi pháp vô thượng ấy Người siêng năng tu tập Các chúng sinh như vậy Được chư Phật hộ niệm. Thời kỳ bố úy sau Ông phải khai pháp ấy Rộng vì các chúng sinh Mà làm họ lợi ích. Thời kỳ bố úy sau Nếu khai được pháp ấy Phát sinh phước vô thượng Số ấy chẳng lường được. Đức Phật dạy tiếp: –Này Vô Biên Tuệ! Giáp trụ của Đại Bồ-tát mặc gọi là đại thắng, cũng gọi là vô biên thắng, cũng gọi là đại trang nghiêm. Thừa của các vị ngồi gọi là Đại thừa, cũng gọi là vô biên quang, cũng gọi là diệu trang nghiêm. Đạo của các vị hành gọi là vô lượng trang nghiêm tư lương, cũng gọi là vô lượng phương tiện tư lương. Do nơi đạo ấy mà các Đại Bồ-tát hướng đến Vô thượng Bồ-đề. Lại nữa, này Vô Biên Tuệ! Thuở xưa quá vô lượng kiếp, lại gấp bội số kiếp ấy, có Đức Phật xuất thế hiệu là Chiên-đàn Hương Quang Minh Như Lai Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Kiếp ấy tên là Điện Quang, cõi nước tên là Quang Minh. Cõi nước ấy, mặt đất bằng phẳng không có những nhơ uế ngói sạn gai góc. Hoàng kim và bạch ngân làm cát, bày hàng ngăn ranh rất đẹp mắt. Trong quốc độ ấy, mỗi châu trong bốn châu thiên hạ rộng hai ức do-tuần. Trong mỗi châu lại có bốn vạn tám ngàn thành lớn. Mỗi tòa thành ấy rộng mười do-tuần, dài hai mươi do-tuần, tường hào trang nghiêm tráng lệ rất cao. Trong mỗi thành có tám câu-chi người ở, chia ra mười ngàn tụ lạc, có một ngàn khu vườn bao vòng rất đẹp. Trong quốc độ ấy lại có nhiều thứ cây hoa, cây trái, cây hương, cây y phục, cây thượng vị và cây kim cang xen lẫn nghiêm sức. Những ao hồ ven bờ ngay thẳng, đầy nước bát công đức, đủ bốn màu hoa sen thường đua nở. Đức Chiên-đàn Hương Quang Minh Như Lai ấy thọ sáu mươi tám câu-chi na-do-tha tuổi. Lại có sáu mươi câu-chi na-do-tha chúng Thanh văn làm quyến thuộc. Thuở ấy, nhân dân trong nước Quang minh dung nhan xinh đẹp an ổn sung sướng, tham, sân, si nhẹ mỏng, dễ giáo hóa; dạy bảo chút ít họ liền biết rõ tánh tướng các pháp. Này Vô Biên Tuệ! Thuở ấy có Chuyển luân thánh vương tên là Nhất Thiết Nghóa Thành đầy đủ bảy báu, bốn phương thần phục. Trong châu Diêm-phù-đề ấy có một tòa thành dài rộng bốn mươi do-tuần, nhân dân đông đúc, an ổn, giàu vui. Nội thành cung điện rộng năm do-tuần, dùng bảy báu để trang sức bên trong. Cây đa-la đẹp treo những linh lạc, trùm với lưới bằng vàng ròng. Chánh điện của nhà vua thuần bằng lưu ly biếc, rộng một do-tuần, bốn mặt có ngàn trụ. Trên cung điện ấy lại có ngàn tầng lầu cao lớn nghiêm đẹp, trang sức với những châu báu. Trước điện có ao nước thơm trong vắt, bên cạnh lại có mười sáu ao nhỏ thơm sáng làm bằng bảy báu. Trong mỗi mỗi ao nước chảy xao động vang ra âm thanh vi diệu như trổi nhạc. Mỗi mỗi ao nhỏ có tám bậc thềm, ao lớn có ba mươi hai bậc thềm. Mỗi mỗi bậc thềm thuần bằng vàng ròng. Cây báu bày hàng, lưới báu giăng che, mùi thơm thượng diệu lan khắp cả thành, nên gọi ao nước ấy là ao Hương quang. Này Vô Biên Tuệ! Luân vương ấy có bốn phu nhân: Vị thứ nhất tên Vô Biên Âm, vị thứ hai tên là Hiền Thiện Âm, vị thứ ba tên là Chúng Diệu Âm, vị thứ tư tên là Nga Vương Âm. Mỗi phu nhân đều riêng có hai con trai: Người thứ nhất tên Bất Không Thắng, người thứ hai tên Hiền Thắng, người thứ ba tên Long Thắng, người thứ tư tên Thắng Âm, người thứ năm tên Diệu Âm, người thứ sáu tên Phạm Âm, người thứ bảy tên Thắng Vân và người thứ tám tên Vân Âm. Thể nữ có sáu ức người, con trai họ có mười ngàn người. Thuở ấy, Luân vương Nhất Thiết Nghóa Thành ở trong nội cung đang vui chơi với quyến thuộc, bỗng thấy trên hư không có một Đức Như Lai nhan sắc vi diệu xuất hiện bảo Luân vương: –Đại vương nên mặc giáp trụ vô thượng, ngồi thừa vô thượng mà hướng đến Vô thượng Bồ-đề, trao thuốc trí tuệ cho các chúng sinh. Chớ nên say đắm nơi năm dục của hàng Trời, Người. Đại giáp trụ ấy có thể nhiếp thọ vô thượng an lạc. Vô thượng thừa ấy có thể đưa vào vườn hoa vô thượng, đã vào trong ấy thì chẳng còn lui về. Tất cả những thứ dục lạc của trời, của người đều là những pháp vô thường biến đổi hư hoại, thế của nó chẳng còn lâu, giây lát thì biến đổi tiêu diệt. Luân vương Nhất Thiết Nghóa Thành nghe lời trên đây rồi, bạch cùng Đức Như Lai hiện trên hư không: –Ai là người chỉ dạy được đại giáp trụ ấy, như giáp trụ ấy mà mặc vào? Ai là người chỉ dạy được Đại thừa ấy, như Đại thừa ấy mà ngồi ngự đó? Ai là người chỉ dạy được đại đạo ấy, như đại đạo ấy mà hướng đến vậy? Đức Như Lai ấy bảo: –Này Đại vương! Có Đức Chiên-đàn Hương Quang Minh Như Lai đang ngự nơi đạo tràng. Đại vương nên đến chỗ ấy. Đức Thế Tôn ấy sẽ vì Đại vương mà chỉ dạy cho pháp mặc đại giáp trụ, ngồi nơi Đại thừa, đến nơi đại đạo. Dạy bảo xong, Đức Như Lai ấy bỗng nhiên chẳng còn hiện. Này Vô Biên Tuệ! Thấy việc ấy rồi, Luân vương Nhất Thiết Nghóa Thành kinh sợ, sửng sốt, phát tâm hy hữu chẳng còn thích các thứ dục lạc của trời, của người; nhàm bỏ tất cả các hành hữu vi mà cầu đại giáp trụ Đại thừa đại đạo. Luân vương cùng tám vương tử, bốn phu nhân cùng các thể tử, các thể nữ đồng đi đến chỗ Đức Chiên-đàn Hương Quang Minh Như Lai. Khi đã đến trước Đức Phật, Luân vương với quyến thuộc cung kính cúi lạy chân Đức Phật, đem một trăm hoa đẹp bằng bảy báu rải trên Đức Phật và đem vô lượng chi-bà-la dâng lên Đức Phật và chúng Thanh văn. Lại suốt mười ngàn năm dâng cúng tất cả đồ cần dùng. Sau đó Luân vương rời bỏ ngôi vua, cùng các quyến thuộc xuất gia trong chánh pháp của Đức Chiên-đàn Hương Quang Minh Như Lai. Này Vô Biên Tuệ! Lúc ấy Đức Chiên-đàn Hương Quang Minh Như Lai biết lòng chí thành ưa thích của Tỳ-kheo Nhất Thiết Nghóa Thành và các quyến thuộc của vị ấy, liền vì họ mà khai thị giáp trụ trang nghiêm và Đại thừa trang nghiêm. Tỳ-kheo ấy được nghe pháp rồi phát tâm kiên cố vì pháp thậm thâm mà trọn đời ngồi ngay ngắn để tư duy siêng năng chẳng thoái thất, thường gần gũi Đức Như Lai, với tất cả sự dục lạc thế gian được không động niệm. Này Vô Biên Tuệ! Thuở ấy Đức Chiên-đàn Hương Quang Minh Như Lai hỏi Tỳ-kheo Nhất Thiết Nghóa Thành: –Này thiện nam! Nay ông mặc đại giáp trụ, ngồi ở Đại thừa hướng đến đạo ư? Do nơi đạo ấy có thể thành tựu Nhất thiết chủng trí, Vô đẳng đẳng trí. Ông phải tinh tấn siêng năng đúng theo lý mà tu tập. Tỳ-kheo ấy bạch: –Bạch Thế Tôn! Nay con chẳng thấy có pháp gì gọi là giáp trụ, cũng chẳng thấy có ai mặc giáp trụ, cũng chẳng thấy từ đâu mặc giáp trụ, cũng chẳng thấy có chỗ mặc giáp trụ. Bạch Thế Tôn! Nay con chẳng thấy có pháp gì gọi là thừa, cũng chẳng thấy có ai ngồi Đại thừa, cũng chẳng thấy từ đâu có Đại thừa, cũng chẳng thấy có chỗ ngồi Đại thừa. Bạch Thế Tôn! Nay con chẳng thấy có pháp gì tên là đạo, cũng chẳng thấy có người do đạo này mà đã hướng đến hay nay hướng đến, cũng chẳng thấy từ đâu có đạo, cũng chẳng thấy có xứ sở của đạo. Bạch Thế Tôn! Con đối với Vô thượng Bồ-đề, hoặc xa hoặc gần, hoặc quá khứ, vị lai, hiện tại đều không có được, không có thấy. Hiện nay lúc con quan sát như vậy, thật không có chút pháp nào để thân cận và chứng nhập. Bạch Thế Tôn! Nếu con không chứng, có nên hỏi con rằng: “Ông mặc đại giáp trụ, ngồi Đại thừa và hướng đến đạo ư?” Thế Tôn là Đấng biết tất cả, là Đấng thấy tất cả. Vì thế chỗ con theo pháp tu hành, chỉ có Thế Tôn mới biết rõ được, mà chẳng phải là cảnh giới của hàng Thanh văn và Duyên giác. Này Vô Biên Tuệ! Lúc ở trước Đức Như Lai kia bạch như vậy, Tỳ-kheo Nhất Thiết Nghóa Thành và quyến thuộc của ông chứng được Vô sinh pháp nhẫn của Bồ-tát. Vì được Vô sinh pháp nhẫn nên đều được không thoái chuyển. Đức Chiên-đàn Hương Quang Minh Như Lai đều thọ ký cho họ, quá năm trăm a-tăng-kỳ kiếp tất cả đều chứng Vô thượng Bồ-đề. Họ nghe Đức Phật thọ ký vui mừng hớn hở bay vọt lên hư không, cao bằng bảy cây đa-la nói kệ ca ngợi Đức Phật rằng: Tiếng tăm lớn vô lượng Vững vàng như Tu-di Đức Phật Nhất thiết trí Hay diễn các công đức. Phật nhãn đều thấy rõ Dường như mặt trời sáng Tôn nghiêm giữa đại hội Con lạy chân Thế Tôn. Vô lượng đức tư lương Phật trí đã viên mãn Chúng con cũng sẽ được Thế Tôn Vô Thượng Trí. Ánh sáng lớn vô thượng Chiếu khắp cõi trời, người Khai thị các Pháp tạng Biển công đức vô biên. Trí tuệ thường không mất Chánh giác rời phiền não Tuệ quang đại tinh tấn Con lễ công đức sâu. Đại long đại trang nghiêm Tướng tốt để nghiêm thân An trụ như Tu-di Nhiếp chúng không ai sánh. Làm Đạo Sư cho đời Chói che hàng trời, người Diễn thuyết không sợ hãi Con lễ thắng Trượng phu. Thế Tôn đại tịch mặc Biển công đức vô biên Khai Pháp nhãn cho con Khiến con mặc giáp trụ. Nhưng con tất cả thời Là người ngồi Đại thừa Thường ở nơi đạo này Hướng đến không còn thừa. Đức Mâu-ni dũng mãnh Biết rõ tất cả pháp Trong đời không ai hơn Chúng con đều quy mạng. Này Vô Biên Tuệ! Lúc Đức Chiên-đàn Hương Quang Minh Như Lai nói pháp ấy thành thục vô lượng, vô số chúng sinh. Từ đó về sau, Tỳ-kheo Nhất Thiết Nghóa Thành và quyến thuộc cúng dường phụng thờ vô lượng, vô số chư Phật, quá năm trăm a-tăng-kỳ kiếp chứng Vô thượng Bồ-đề hiệu là Siêu Vô Biên Cảnh Giới Vương Như Lai. Quốc độ của Đức Phật ấy, từ công đức đến rộng lớn đều đồng với thế giới Quang minh của Đức Chiên-đàn Hương Quang Minh Như Lai. Chúng Thanh văn cũng số vô lượng. Các phu nhân và các vương tử quyến thuộc cũng quá năm trăm a-tăng-kỳ kiếp chứng Vô thượng Bồ-đề. Này Vô Biên Tuệ! Các Đại Bồ-tát mặc đại giáp trụ ngồi Đại thừa ở trong đạo ấy cầm đuốc đại pháp, làm ánh sáng đại pháp, phóng tia sáng đại pháp, dựng tràng đại pháp, đánh trống đại pháp, ngồi thuyền đại pháp để nhiếp đại pháp mà hướng đến, đi chỗ đi của Đại Bồ-tát, mưa pháp vũ để nhuần ướt chúng sinh đều làm cho vui mừng, dũng mãnh tinh tấn hướng đến Vô thượng Bồ-đề. Này Vô Biên Tuệ! Lúc an trụ đạo ấy, Đại Bồ-tát được ánh sáng pháp. Do ánh sáng ấy nên thấy được duyên khởi của tất cả pháp tự tánh vốn không, tự tánh không có tướng, tự tánh không có khởi. Chẳng ở trong sắc mà thấy có sắc, chẳng ở trong thọ, tưởng, hành, thức mà thấy có thọ, tưởng, hành, thức. Chẳng ở trong thức mà thấy có thức khác với duyên khởi của thức. Biết rõ tướng của thức, tự tánh vốn không, tự tánh không có tướng, tự tánh không có khởi chỉ thuộc các duyên, thấy duyên hòa hợp, các duyên cũng là không, là vô tướng, là vô khởi. Lúc thấy như vậy, chẳng ở trong nhãn căn mà thấy có nhãn căn. Tỷ, thiệt, thân và ý căn cũng vậy. Chẳng ở trong ý căn thấy có ý căn khác với duyên khởi của ý căn. Biết rõ tướng của ý căn, tự tánh vốn không, tự tánh vô tướng, tự tánh vô khởi. Cho đến địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới, Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới không có người tạo tác, không có người thọ nhân. Chẳng ở chút pháp nào thấy có chút pháp khác với duyên mà sinh khởi. Đều thuộc các nhân duyên tự tánh không có tướng, tự tánh không có khởi. Tánh của nhân duyên cũng là không, là không tướng, là không khởi. Này Vô Biên Tuệ! Đó là lúc an trụ nơi đạo ấy, các Đại Bồ-tát quan sát duyên khởi. Quán sát như vậy rồi có thể dùng trí tuệ ở trong duyên khởi chứng được chân thật tế. Do nơi ánh sáng tất cả pháp ấy mà mười Phật trí lực, bốn Vô sở úy, mười tám pháp Bất cộng, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, cho đến tất cả Phật pháp đều được viên mãn. Bấy giờ Đức Thế Tôn nói kệ rằng: Bồ-tát, bậc Vô úy Hay an trụ như vậy Làm ánh sáng đại pháp Diệu trí để hướng đến Dựng cao cờ đại pháp. Cờ này không có trên Trong tất cả Phật pháp Chánh niệm để hướng đến. Trí tuệ khéo du hý Pháp thí cho chúng sinh Tuôn trận mưa đại pháp Vô úy để hướng đến. Đem pháp nhuần chúng sinh Đều làm cho vui mừng Do đây các Bồ-tát Diệu thiện để hướng đến. Các Bồ-tát như vậy Được ánh sáng đại pháp Hay ở trong chánh pháp Dũng mãnh khéo an trụ. Do ánh sáng pháp này Biết rõ tất cả pháp Do các duyên sinh khởi Tất cả không cứng chắc. Các pháp tự tánh không Tự tánh không có tướng Tự tánh không có sinh Tự tánh không có thể. Các pháp do các duyên Hòa hợp mà chung khởi Vì các duyên hòa hợp Tự tánh vô sở hữu. Bồ-tát hay quan sát Rõ các duyên cũng không Các duyên tự tánh không Tự tánh không có tướng Cũng không có sinh khởi Cũng chẳng có sở tác. Người quan sát như vậy Siêng tu tập nơi pháp Vì duyên khởi vô thể Các duyên chẳng phải duyên. Đúng lý quán như vậy Hay biết tất cả pháp Quán những sắc, thọ, tưởng Hành, thức cũng như vậy Đều do các nhân duyên Mà các uẩn sinh khởi. Các uẩn không có thật Vì tánh bản lai không. Tánh không nên không tướng Tất cả không có khởi Các uẩn xa rời tướng Rời tướng thì không sinh. Không sinh thì không diệt Tướng các uẩn như vậy Không tướng vọng có tướng Tướng ấy từ đâu có. Vì các pháp vô thể Uẩn ấy cũng không tánh Giới và xứ cũng vậy Tất cả do duyên khởi. Tự tánh bản lai không Không tướng, không có thể Trong tất cả các pháp Pháp thể chẳng thể được. Biết rõ tất cả pháp Người tư duy danh nghóa Cõi Dục, Sắc, Vô sắc Tất cả do duyên khởi Tự tánh bản lai không Không tướng cũng không thể. Xem trí năng quán ấy Đâu biết được cảnh kia Trí ấy và cảnh ấy Thường xa rời tự tánh. Sở khởi và các duyên Hai thứ đều vô tác Có thể biết như vậy Đây là tướng chân thật. Không tướng đem tướng nói Bồ-tát do đây chứng Mà cũng chẳng phân biệt Là tướng hay vô tướng. Người thiện trí như đây Thấy được tướng chân thật Ở trong các pháp giới Chẳng thấy chút pháp tướng. Các pháp và pháp giới Cả hai đều vô tướng Các pháp rời xa tướng Gọi đó là pháp giới. Nói tên là pháp giới Không giới, không phi giới Dù gọi là pháp giới Nhưng chẳng thể nắm bắt. Lúc tư duy nghóa ấy Không niệm chẳng nắm bắt Vì rời các phân biệt Được ánh sáng đại pháp. Vì các pháp không tánh Ánh sáng cũng không tánh Vì quán sát như vậy Lại được ánh sáng pháp. Chẳng thấy trí năng quán Cái thấy cũng chẳng thấy Vì thấy pháp hư vọng Gọi đó là chánh quán. Ánh sáng chẳng nghó bàn Vô biên và vô lượng Thấy các pháp đều không Gọi là chẳng phân biệt. Nếu thấy pháp có tướng Người thường không chứng nhập Nghe tịnh pháp âm này Phải sinh lòng mừng vui. Nếu thấy pháp không sinh Người thường không phân biệt Nghe tịnh pháp âm này Vắng lặng được an lạc. Nếu trong đời mạt pháp Được nghe pháp vô thượng Nên biết chúng sinh ấy Chứa công đức đã lâu. Nếu trong đời mạt pháp Được nghe pháp vô thượng Phải ở trong pháp ấy Mau chóng mà hướng đến.  KINH ĐẠI BẢO TÍCH <卷 id="86423698">QUYỂN 24 Hán dịch: Đời Đại Đường, Tam tạng Pháp sư Bồ-đề-lưu-chí. <詞 id="86423699">Pháp hội 7: MẶC ÁO GIÁP TRANG NGHIÊM (Phần 4) Lại nữa, này Vô Biên Tuệ! Lúc các Đại Bồ-tát quan sát tất cả pháp như vậy, thì ở nơi các pháp được ánh sáng pháp. Chẳng ở trong không mà thấy không, cũng chẳng rời ngoài không mà thấy không, chẳng thấy có chút pháp tương ưng với không. Nếu đã chẳng tương ưng, thì chẳng đem không để không, chẳng thấy không cũng chẳng thấy chẳng không, cũng chẳng dùng thấy để quan sát tất cả pháp. Lúc thấy như vậy, thì chẳng ở vô tướng mà thấy vô tướng, chẳng ngoài vô tướng mà thấy vô tướng, cũng không có chút pháp cùng vô tướng hoặc tương ưng hoặc chẳng tương ưng. Chẳng ở vô tướng dùng vô tướng để thấy. Chẳng ở hữu tướng dùng hữu tướng để thấy. Chẳng phải hữu tướng để thấy, chẳng phải vô tướng để thấy. Vô sinh và vô tác cũng như vậy. Chẳng ở trong tận mà thấy tận, cũng chẳng khác tận mà thấy tận. Chẳng thấy có chút pháp cùng với tận tương ưng hoặc chẳng tương ưng. Cũng chẳng ở nơi tận mà dùng tận để thấy. Cũng chẳng ở nơi tận mà dùng vô tận để thấy. Chẳng tận để thấy, chẳng phải vô tận để thấy. Lúc quan sát như vậy, các Đại Bồ-tát không có chút pháp hoặc thấy được, hoặc chẳng thấy được; hoặc hiển rõ được, hoặc chẳng hiển rõ được; hoặc hướng đến được, hoặc chẳng hướng đến được; hoặc biết rõ được, hoặc chẳng biết rõ được. Này Vô Biên Tuệ! Đó là Đại Bồ-tát an trụ nơi ánh sáng đại pháp của đạo ấy. Vì ánh sáng đại pháp nên thấy tất cả pháp đều không có giới hạn, đối với ở bên, với ở giữa cũng không kiến chấp. Vì không kiến chấp nên ở trong Phật pháp cần nên hướng đến Bồ-đề. Bấy giờ Đức Thế Tôn nói kệ rằng: Chẳng nơi Không thấy không Chẳng khác Không thấy không Người thấy được như vậy Gọi đó là thấy Không. Chẳng an trụ chút pháp Cũng chẳng thấy chút pháp Tương ưng với Không ấy Hoặc là chẳng tương ưng. Không do tự tánh không Nơi Không, không chấp giữ Do vì không chấp giữ Biết được tất cả pháp. Nơi thấy không chấp giữ Nơi quán không chỗ chấp Biết được thấy và quán Cả hai đều chẳng thọ. Nơi thấy đều thanh tịnh Nơi quán chẳng nắm bắt Quán các pháp như vậy Rốt ráo không chỗ chấp. Chẳng dùng Vô tướng thấy Chẳng dùng Vô tướng quán Cũng chẳng ở Vô tướng Mà quán là Vô tướng. Vô tướng, không hiển bày Vô nguyện không thể đắc Không có chút pháp thể Để mà tu tập được. Chẳng niệm nơi Vô tướng Cũng chẳng niệm Vô nguyện Không phân biệt như vậy Hiển rõ tướng, vô tướng. Chẳng hướng đến vô tướng Cũng chẳng vào vô tướng Không đến, không chỗ vào Hiển rõ bình đẳng trụ. Người trí chẳng thấy tướng Cũng chẳng thấy vô tướng Chẳng thấy, chẳng tư duy Tất cả không hiển rõ. Nếu người thường tư duy Không tư duy, không hiển Nơi tư duy, hiển rõ Mà an trụ bình đẳng. Như ở nơi vô tướng Vô tác cũng như vậy Dù hiển không chỗ hiển Vì tư duy biết rõ. Vô sinh cũng như vậy Không có chút pháp sinh Tự tánh không thật có Hiển rõ mà không thể. Hoặc sinh hoặc vô sinh Hoặc tác hoặc vô tác Cũng không chút chấp kiến Người trí chẳng phân biệt. Niệm tuệ không động lay Hiển rõ không nghó chọn Là có hay không thể Bình đẳng rời các tánh. Chẳng nơi tận thấy tận Cũng chẳng thấy vô tận Hiển rõ không chỗ thấy Tận trí không gì trên. Hoặc tận hoặc vô tận Cả hai chẳng phân biệt Do vì không phân biệt Trụ vô niệm bình đẳng. Nơi tận thấy vô tận Cũng không thấy vô tận Như vậy lúc thấy tận Chẳng chấp tận, vô tận. Nếu nơi tận, vô tận Tất cả không chỗ chấp Do vì không chỗ chấp Nên tận trí thường tỏ. Cảnh giới của tận trí Sở đắc của vô úy Vì hiển rõ pháp ấy Bồ-tát khéo an trụ. Lúc ấy trong đại chúng lại có Đại Bồ-tát tên là Thắng Tuệ từ chỗ ngồi đứng dậy để hở vai áo bên phải, gối phải chấm đất chắp tay hướng lên bạch Đức Phật: –Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát vì muốn nhiếp lấy Nhất thiết trí mà khởi công tu hành. Vì khởi công tu hành nên được ánh sáng đại pháp, ở nơi ánh sáng đại pháp không có chút pháp thấy được. Vì ánh sáng pháp nên biết rõ tất cả pháp, nào là hữu vi, vô vi, thế gian, xuất thế gian, hoặc thuận hoặc nghịch, hoặc hý luận hoặc không hý luận. Bạch Đức Thế Tôn! Ánh sáng pháp ấy, đâu phải các Đại Bồ-tát chẳng tu hành mà sẽ được. Đức Phật dạy: –Này Thắng Tuệ! Các Đại Bồ-tát không có chút tu hành, không có thắng tu hành, chẳng tùy tu hành, chẳng biến tu hành mà có thể được vô biên ánh sáng đại pháp. Các Đại Bồ-tát còn chẳng thể nắm bắt, chẳng thể thấy, huống là Bồ-tát hạnh mà sẽ có được sẽ thấy được ư? Thế sao lại thấy bao nhiêu kiếp tu hành có thể được ánh sáng đại pháp. Tất cả hành tuệ của Đại Bồ-tát, sở hành thanh tịnh được ánh sáng pháp. Công hạnh của ánh sáng pháp chẳng phải công hạnh số lượng, chẳng phải công hạnh tùy tướng thì từ đâu mở bày tất cả các công hạnh. Nhưng chỗ tu hành dù chẳng phải mở bày công hạnh mà cũng chẳng rời lìa. Này Thắng Tuệ! Lúc an trụ nơi hạnh ấy, các Đại Bồ-tát xả bỏ tất cả hạnh không chỗ chấp lấy. Người đủ công hạnh ấy, chẳng phải công hạnh số lượng, chẳng phải công hạnh tùy tướng, không có tướng không có hành mới có thể được ánh sáng đại pháp ấy. Khi đó Đức Thế Tôn nói kệ rằng: Bồ-tát không chỗ hành Mà cũng không có hạnh Được không có sở hành Vô úy mà hướng đến. Chưa từng có thắng hạnh Cũng không có biến hạnh Không hạnh, không thắng hạnh Bình đẳng mà hướng đến. Hạnh ấy không thị hiện Cũng không có các tướng Không có tướng, không hành Đây là tướng của hành. Bồ-tát vô tướng hành Chẳng trụ ở các sự Không hành, không chỗ trụ Người trí mới thành tựu. Không hành thì không động Hạnh ấy là vô thượng Làm được hạnh bất động Dũng tiến mà hướng đến. Bồ-tát chẳng nắm bắt Hành cũng chẳng thể thấy Cũng chẳng thấy sắc thân Đây là người thiện thuận. Không sắc, không hình tướng Nên không tất cả hạnh Nơi thấy không sở thủ Đây là vô tỷ hạnh. Bồ-tát vô thượng hạnh Chẳng tùy theo thi thiết Cũng không có dời đổi Trong ấy không sở chấp. Vì hạnh không thi thiết Mới là hạnh vô thượng Nếu được hạnh như vậy Thì được ánh sáng pháp. Bồ-tát chỗ tu hành Không lời không kiếp lượng Hay dùng vô lượng kiếp Nói rõ các công hạnh. Bồ-tát hạnh thanh tịnh Thanh tịnh diệu an trụ Xả bỏ tất cả hạnh Không có người nhiếp thủ Bồ-tát trụ nơi xả Thủ hộ nơi các hạnh Đã bỏ tất cả hạnh Diệu an trụ nơi xả. Bồ-tát vô biên hạnh Rời biên và vô biên Hạnh kia không bị động Gọi là vô thượng hạnh. Bồ-tát vô tướng hạnh Hạnh ấy là vô thượng Lúc tu hành hạnh ấy Siêu việt các ma giới. Bồ-tát vô tướng hạnh Sáng tỏ nơi vô tướng Hoặc tướng và vô tướng Đều không có sở y. Bồ-tát trụ trí ấy Hạnh ấy khéo thành tựu Không có chút sở hành Gọi là người chẳng làm. Bồ-tát thường thanh tịnh Nơi hạnh không e sợ Chánh niệm mà hướng đến Đây là khéo an trụ. Đại Bồ-tát Thắng Tuệ lại bạch: –Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát có bao nhiêu sự tu hành rất là thậm thâm, chẳng phải là chỗ tu hành của những kẻ ngu phu hữu tướng hữu vi mà có thể tu hành chút ít được. Bạch Thế Tôn! Không có chút pháp vào trong hạnh ấy, nên hạnh ấy là hạnh bình đẳng của Đại Bồ-tát. Công hạnh của Đại Bồ-tát chẳng phải số lượng biên tế mà lường được. Đại Bồ-tát Thắng Tuệ nói kệ khen Đức Phật rằng: Đấng Đại Hùng Chánh Giác Vô Thượng Lưỡng Túc Tôn Diễn thuyết hạnh thậm thâm Lợi ích các Bồ-tát. Thế Tôn diệu biện tài Lượng ấy thật khó lường. Đấng biện tài vô biên Đại Trượng phu tối thắng Pháp Vương dứt nghị luận Đây do Chánh Biến Tri Vì các Đại Bồ-tát Nói hạnh vô thượng ấy. Thế Tôn hay diễn thuyết Về phương tiện diệt hành Nơi hành đều vượt qua Người trí sẽ hướng đến. Đại Long chẳng nghó bàn Cảnh giới trí vô biên Chánh Giác Lưỡng Túc Tôn Khéo khai diệu hạnh ấy. Chỗ Thế Tôn khai thị Hạnh bất động tịch mặc Hạnh ấy không động được Nên gọi hạnh vô tỷ. Đại Hùng Đại Mâu-ni Chỗ tu hành thuở xưa Nói do nhiều kiếp hành Không ai có thể đến. Bồ-tát nghe pháp ấy Dù ở tại thế gian Mà ở nơi chủng trí Chẳng bao lâu sẽ chứng. Chúng con thương chúng sinh Ở trong đời mạt pháp Nơi pháp vô thượng kia Hay làm người hộ trì. Chúng con nghe pháp ấy Ở trong đời mạt pháp Vì tất cả chúng sinh Mà hay làm hay nói. Chúng con dùng ánh sáng Ở trong đời mạt pháp Vì các người cầu pháp Mà làm lợi ích lớn. Chúng con phát thệ nguyện Ở trong đời mạt pháp Vì tất cả chúng sinh Hộ trì mà kiến lập. Chúng con thường nghó nhớ Ở trong đời mạt pháp Cúng dường biển chư Phật Nguyện trì pháp vô thượng. Chúng con nơi Pháp tạng Sẽ làm Thắng trượng phu Nguyện trì pháp môn ấy Thủ hộ khiến còn lâu. Chúng con nơi nước pháp Thệ nguyện đều uống hết Mà với pháp môn ấy Sẽ làm người thủ hộ. Chúng con nghe pháp rồi Ở trong đời mạt pháp Nguyện làm đại Trượng phu Thọ trì Phật chánh pháp. Chúng con thà mất mạng Chẳng bỏ pháp vô thượng Nguyện ở trong pháp ấy Mà làm người trì pháp. Chúng con trì pháp ấy Chưa từng mừng là đủ Khát ngưỡng nghe pháp ấy Những Khế kinh quyết định. Chúng con ở mạt thế Vì những người cầu pháp Sẽ diễn chánh pháp ấy Khiến họ đều hoan hỷ. Pháp vương chẳng nghó bàn Hay làm nương tựa lớn Xin thương gia hộ con Nhớ con người trì pháp. Đức Thế Tôn dạy: –Này Thắng Tuệ! Lành thay! Lành thay! Ông có thể ở trong đời mạt pháp sau này, vì muốn hộ trì các pháp ấy mà mặc đại giáp trụ. Cũng không khác thuở xưa các Đại Bồ-tát ở chỗ Đấng Tối Thắng cúng dường phụng thờ trồng các cội lành, lâu dài tu phạm hạnh, mặc đại giáp trụ, hộ trì chánh pháp của chư Phật Thế Tôn. Bấy giờ Đức Thế Tôn nói kệ rằng: Đời sợ hãi về sau Ông sẽ trì pháp ấy Vì lợi ích chúng sinh Đem pháp ấy khai thị. Đời mạt pháp về sau Ông trì pháp tối thắng Nếu ai nghe pháp này Sẽ sinh lòng ưa thích. Trong đời mạt sau này Ông làm người trì pháp Ta nói pháp thậm thâm Ông sẽ đều thọ trì. Khế kinh bí mật ấy Ông nghe phải ghi nhớ Ở trong lý thể ấy Chớ có lại nghi hoặc. Nghóa quyết định thậm thâm Ông nghe phải ghi nhớ Lợi ích các chúng sinh Làm người trì Pháp tạng. Đem pháp thí tất cả Khắp nhuần các chúng sinh Nghe xong khiến mừng vui Khắp thân tâm hoan hỷ. Vì các đạo Bồ-tát Những lý thể sở hành Và Tu-đa-la ấy Mà thọ trì trọn vẹn. Ông sẽ rộng độ được Vô lượng các chúng sinh Trong tất cả thế gian Chẳng có thể độ được. Ông vì trì pháp ấy Lợi ích các thế gian Được những phước thù thắng Do đây mà hướng đến. Nay ta nói pháp ấy Ông đều phải thọ trì Trong đời mạt sau này Vì người trí diễn nói. Đời nay và đời sau Người trì được pháp ấy Thì có thể thọ trì Chánh pháp của ngàn Phật. Vì tất cả chúng sinh Hộ trì pháp môn ấy Ở đời mạt sau này Mà làm lợi ích lớn. Nếu người ở đời sau Hộ trì được pháp ấy Họ chẳng ở một Phật Gần gũi và cúng dường. Nếu người ở đời sau Hộ trì được pháp ấy Họ đã phụng thờ nhiều Đấng khéo nói pháp ấy. Được ở trong pháp ấy Không có chút nghi hoặc Mạt thế hộ trì pháp Đây là người trí tuệ. Mặc giáp lớn vô biên Chiến đấu là thù thắng Mà ở trong mạt thế Mới trì được pháp ấy. Họ ở nơi chánh pháp Lưới nghi đều đã trừ Nghe pháp không chỗ sợ Mới trì được pháp ấy. Đức Phật dạy tiếp: –Này Thắng Tuệ! Vì thế nên nếu có thiện nam, thiện nữ, người siêng cầu công đức lớn tối thắng, ở trong thời kỳ mạt thế vì pháp thậm thâm, phải mặc giáp trụ, thọ trì, đọc tụng, giải thuyết nghóa ấy. Lại nữa, này Thắng Tuệ! Ta nhớ thuở xưa quá vô lượng kiếp, lại quá gấp bội số lượng kiếp ấy có Đức Phật xuất thế hiệu là Biến Chiếu Như Lai Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Kiếp ấy tên Siêu thắng. Cõi nước ấy tên Ly Cấu, mặt đất bằng phẳng rộng lớn trang nghiêm thanh tịnh do bảy báu tạo thành. Đại châu ấy rộng dài bảy muôn do-tuần. Trong đại châu ấy có sáu vạn thành lớn. Mỗi mỗi thành lớn ngang dọc đều mười sáu do-tuần, có tường hào bao bọc giáp vòng, lâu đài nghiêm sức, cửa cổng thù thắng, ai thấy cũng hoan hỷ. Cây đa-la đẹp bày hàng khắp nơi, có trăm ngàn khu vườn để trang nghiêm. Trong các khu vườn ấy trưng bày nhiều đài ghế trang nghiêm, ao hồ đầy nước, bờ thềm bằng các chất báu vòng quanh bằng thẳng ra vào an ổn. Bên các bờ ao hồ, những cây thơm đẹp như trầm thủy, chiên-đàn và đa-ma-la rậm rạp ngay hàng. Trong mỗi mỗi thành ấy, đều có mười ngàn câu-chi nhân dân. Vì tất cả nhân dân ấy đều đã thành tựu mười nghiệp lành nên tất cả đều hưởng thọ sự an lạc ấy. Thuở ấy Đức Biến Chiếu Như Lai ban đầu từ sơ kiếp mà vượt quá hai trăm kiếp để xuất hiện trong ấy, vì thế nên kiếp ấy có tên là Siêu thắng. Trong kiếp ấy có năm trăm Đức Như Lai lần lượt xuất hiện, mỗi mỗi cõi nước đều do bảy báu làm thành. Sau khi Đức Phật ấy diệt độ, chánh pháp trụ thế đều mười ngàn năm. Năm trăm Đức Như Lai như vậy xuất hiện giáo hóa thế gian, có rất đông pháp hội Thanh văn và Bồ-tát. Mỗi mỗi pháp hội đều có số câu-chi na-do-tha vô lượng Bồ-tát hướng đến đạo Nhất thừa, được Vô sinh pháp nhẫn. Trong kiếp ấy có Chuyển luân vương tên là Dũng Mãnh Quân, có đầy đủ bảy báu, trị bốn châu thiên hạ. Ở châu Diêm-phù-đề có một tòa thành lớn rộng sáu mươi do-tuần, có tám mươi câu-chi nhân dân sống an ổn, sung sướng, giàu có đông đúc. Đại thành ấy có bảy lớp tường hào, bảy lớp hàng cây, bảy lớp đường sá, bảy lớp lâu đài, bảy lớp linh võng, một ngàn khu vườn trang nghiêm bao quanh đại thành. Mỗi mỗi khu vườn ngang rộng hai mươi do-tuần, đều có bảy lớp tường rào, bảy lớp mành lưới, nhiều thứ trang nghiêm, tất cả đều xinh đẹp, những trân ngoạn châu báu như cung trời. Mỗi khu vườn lại có một trăm ao hồ, bờ ao bằng báu Tỳ-lưu-ly, bậc thềm bằng ngọc mã não, trong ao nhiều hoa đẹp, trên ao cây báu bày hàng. Trong đại thành, chánh điện của Luân vương lớn bảy do-tuần, xây bằng hoàng kim và ngọc màu xanh, bao bọc bằng trụ báu, trang sức bằng ngọc lưu ly, dùng lưới ma-ni-châu che trùm. Những cây đa-la rậm rạp ngay thẳng. Trong ấy có hai mươi ao nước, đáy lót kim ròng, trên che lưới vàng, báu tạp lưu ly làm cầu, thềm đường thuần bằng hoàng kim, trong ao hoa sen bốn màu đua nở. Chuyển luân vương Dũng Mãnh Quân có hai ngàn thể nữ, sáu vạn con trai. Trong lúc cùng quyến thuộc hưởng vui năm dục nơi khu vườn ấy, Luân vương tự nghó: “Những dục lạc đều vô thường sẽ mau biến hoại. Ta phải quyết chí cầu Phật pháp. Nếu được nghe pháp rồi, ta sẽ y theo tu hành để được lợi ích an vui mãi mãi.” Luân vương vừa suy nghó xong, trên hư không bỗng có Thiên tử hiện ra bảo: –Lành thay! Này Chuyển luân vương! Hiện nay có Đức Biến Chiếu Như Lai xuất thế diễn thuyết chánh pháp, đoạn đầu, giữa, rốt sau đều lành. Đại vương nên đến chỗ Đức Như Lai ấy sẽ được nghe chánh pháp và sẽ mãi mãi được an lạc lợi ích, thành tựu trọn vẹn Phật pháp. Nghe lời chỉ bảo của Thiên tử, Luân vương vui mừng hớn hở, liền đem quyến thuộc cùng đến chỗ Đức Biến Chiếu Như Lai đảnh lễ chân Phật mà bạch: –Bạch Thế Tôn! Dùng những pháp gì có thể nhiếp được chư pháp thiện xảo phương tiện, có thể làm cho phạm hạnh được viên mãn, con sẽ tu hành. Đức Như Lai Biến Chiếu vì Luân vương mà khai thị rộng rãi các pháp. Nghe pháp xong, Luân vương và quyến thuộc cung kính cúng dường Đức Phật và đại chúng suốt hai muôn năm. Sau đó Luân vương xuất gia trong chánh pháp của Đức Như Lai Biến Chiếu. Do nghe pháp, Tỳ-kheo Dũng Mãnh Quân được căn lành thọ pháp, căn lành trì pháp, căn lành thuyết pháp, được nghe pháp gì đều ghi nhớ suy gẫm chẳng quên, siêng năng tu tập vô lượng công đức rồi phát nguyện rằng: “Nguyện thọ trì ba thời kỳ chánh pháp của Đức Như Lai, vì các hàng chúng sinh mà tuyên thuyết.” Đối với chư Như Lai trong kiếp Siêu thắng, Tỳ-kheo Dũng Mãnh Quân đều thân cận cúng dường thờ phụng, đều có thể thọ trì hiện tiền chánh pháp, trung thời chánh pháp và hậu thời chánh pháp của chư Như Lai ấy, giáo hóa thành thục bốn muôn tám ngàn câu-chi na-do-tha chúng sinh hướng đến Vô thượng Bồ-đề, phương tiện điều phục vô lượng chúng sinh, an trụ Thanh văn thừa và Bích-chi-phật thừa. Trong kiếp ấy, Đức Như Lai tối thắng hiệu là Điện Quang. Lúc nghe Đức Như Lai Điện Quang thuyết pháp, Tỳ-kheo Dũng Mãnh Quân được Vô sinh nhẫn. Như Lai Điện Quang thọ ký rằng: “Ở đời vị lai, ông Dũng Mãnh Quân cúng dường vô lượng ngàn Phật Thế Tôn, thọ trì ba thời chánh pháp của chư Như Lai, làm lợi ích vô lượng, vô số chúng sinh, an lập trăm ngàn câu-chi na-do-tha chúng sinh nơi Vô thượng Bồ-đề, vô lượng chúng sinh nơi Thanh văn thừa. Như vậy quá a-tăng-kỳ kiếp chứng Vô thượng Bồ-đề hiệu là Vô Biên Tinh Tấn Quang Minh Công Đức Siêu Thắng Vương Như Lai. Cõi nước của Đức Phật ấy chứa họp vô lượng công đức thanh tịnh, an ổn giàu vui, nhân dân đông nhiều, có đông chúng Thanh văn và Bồ-tát. Đức Phật ấy thọ đến năm tiểu kiếp. Chánh pháp trụ một tiểu kiếp, giáo pháp lưu truyền khắp nơi, được trời, người thọ trì. Xá -lợi, tháp miếu khắp các cõi nước.” Này Thắng Tuệ! Thế nên các Đại Bồ-tát ở nơi pháp thanh tịnh thậm thâm ấy phải tôn trọng thọ trì tu tập, dùng pháp nghiêm cụ để trang nghiêm thân mình. Vì dùng pháp để trang nghiêm nên chứng được thân Na-la-diên kiên cố do kim cang tạo thành của Đức Như Lai. Giả sử khắp cõi đại thiên, tất cả chúng sinh tận lực muốn phá hoại thân kiên cố ấy cũng không thể xô ngã được. Ở trong chúng Trời, Người, A-tu-la diễn tả ánh sáng pháp, không có ai địch luận được. Nếu có chúng sinh nào ở nơi pháp sâu xa ấy thọ trì, đọc tụng siêng năng tu tập, tùy theo ý thích của họ mà thọ sinh nơi nhà vọng tộc lớn thanh tịnh, cho đến ngồi dưới cội Bồ-đề, đầy đủ tiếng tăm, quốc độ đẹp lạ, chẳng xen dị đạo. Còn không có tên Phạm chí Giá-la-ca, huống là có bọn ác kiến cầu tà. Các điều bất thiện cũng chưa từng nghe, làm gì có người tu tập căn chẳng lành. Có thể dùng ngón chân phóng ánh sáng lớn chiếu khắp vô biên tất cả thế giới. Các chúng sinh gặp ánh sáng ấy đều được an lạc sẽ chứng Vô thượng Bồ-đề. Này Thắng Tuệ! Thế nên các Đại Bồ-tát nếu ở trong pháp của ta mà siêng tu hành thì sẽ được công đức thù thắng như vậy. Nếu ta nói cho đủ, dù cùng kiếp cũng chẳng nói hết được. Đức Thế Tôn lại bảo Đại Bồ-tát Vô Biên Tuệ: –Này Vô Biên Tuệ! Nếu có người an trụ nơi đạo Bồ-tát ấy, siêng tu pháp sâu xa thanh tịnh như vậy, tương ưng với không, tương ưng với tịch tónh, thì được ánh sáng pháp. Dùng ánh sáng pháp thấy tất cả pháp tự tánh không có khác. Vì tánh không khác nên chỗ thấy thanh tịnh. Vì chỗ thấy thanh tịnh nên không có pháp kiến, cũng không có pháp rời lìa tự tánh thấy. Pháp kiến thanh tịnh, cũng không có thanh tịnh, không có người thanh tịnh, không có thời gian thanh tịnh. Có thể được cảnh giới thanh tịnh trí. Thấy các pháp giới chẳng phải giới, chẳng phải phi giới. Giới kiến thanh tịnh xa rời các thứ tánh tưởng của các giới. Vì rời tánh tưởng nên ở nơi giới lý thể bí mật ngôn từ có thể hiểu rõ, lại có thể biết khắp các pháp phi giới. Vì thấy pháp giới không sai biệt, chẳng thể hoại, chẳng đổi khác nên được phương tiện thiện xảo nơi lý thể của tất cả pháp giới. Do phương tiện thiện xảo biết khắp được lý thể của pháp giới. Dùng sức đẳng trì ở nơi lý thể sai biệt của các pháp giới tùy thuận thẳng vào. Lúc an trụ công hạnh ấy, dùng phương tiện thiện xảo đối với tất cả pháp không trụ, không trước. Vì không đắm trước có thể ở nơi tất cả pháp giới lý thể, tùy chỗ thích ứng mà khai thị. Vì sức đẳng trì lại có thể sinh khởi những tónh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí, du hý thần thông biến một làm nhiều, biến nhiều làm một, với núi đá tường vách bay qua tự tại không chướng ngại. Phương tiện thiện xảo biết được bốn giới hòa hợp, chẳng ở nơi giới mà biết tất cả giới hợp cùng không giới. Nơi không giới chẳng buộc ràng chẳng lệ thuộc. Do trí thiện xảo giới hòa hợp ấy mà ở nơi tất cả giới phương tiện tu tập. Do tu tập mà quyết liễu thủy giới. Có thể ở nơi thủy giới hoặc làm cho lên khói hoặc phát lửa. Hoặc ở trong ấy làm cho khói lửa cháy phừng, cho đến nhiều thứ biến hiện để làm lợi ích cho các chúng sinh. Vì có thể an trụ pháp giới lý thể phương tiện khéo léo nên không lay động, tùy ý thích nơi cõi Phật nào đó, có thể ở nơi các cõi chuyển hình thai tạng, thọ thân hóa sinh, thường thấy mười phương tất cả thế giới chư Phật Như Lai. Chư Như Lai ấy, danh hiệu như vậy, dòng họ như vậy, chúng hội như vậy, thuyết pháp như vậy đều biết rõ ràng. Lúc đó, trong chúng hội lại có Đại Bồ-tát tên Vô Biên Thắng tiến lên bạch Đức Phật: –Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát an trụ pháp gì mà có thể được công đức tối thắng như Đức Thế Tôn vừa nói? Đức Phật bảo Đại Bồ-tát Vô Biên Thắng: –Này Vô Biên Thắng! Các Đại Bồ-tát đối với tất cả pháp không chỗ an trụ thì có thể được công đức tối thắng như ta đã nói. Này Vô Biên Thắng! Các Đại Bồ-tát nếu an trụ nơi sắc, thọ, tưởng, hành, thức; nếu trụ nơi địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới; nếu trụ nơi Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới, ở kinh này, ta chẳng nói được các công đức ấy. Nhưng các Đại Bồ-tát, ở nơi các pháp, không chỗ an trụ, chẳng vào chẳng ra, nên ta nói họ sẽ được biển lớn vô biên công đức. Vì sao? Vì các Đại Bồ-tát không có chút pháp có thể được có thể trụ. Cũng không có chút pháp vào được ra được. Các vị khéo an trụ được nơi lý thể của các pháp mà không chỗ lay động. Vì sao? Vì các Đại Bồ-tát không an trụ, không lay động. Vì không động lay nên không có cao, không có hạ. Vì không cao hạ nên rời xa nơi cao, chẳng an trụ nơi hạ. Vì chẳng an trụ nên gọi là khéo an trụ. Người khéo an trụ thì không có chỗ an trụ. Người không có chỗ an trụ thì chẳng an trụ nơi chỗ. Các Đại Bồ-tát chẳng ở nơi chút pháp nào hoặc có an lập, hoặc có tích tập, không xứ không trụ, không khởi không tác. Vì sao? Vì nơi chỗ chẳng thể nắm bắt. Vì không có nơi chỗ nên không có phân biệt. Vì không có phân biệt nên bất động xứ mà an trụ, như pháp giới mà an trụ. Không có xứ mà an trụ thì không có an trụ. Với xứ và không có xứ đều không có chấp trước. Gọi đó là thiện trụ. Này Vô Biên Thắng! Các Đại Bồ-tát ở nơi pháp lý thể mà an trụ. An lập như vậy là an trụ nơi vô trụ, không có chỗ an trụ mà an trụ, thấy tất cả pháp, không có phân biệt. An trụ nơi hạnh không phân biệt như vậy, dùng hạnh như vậy thấy tất cả pháp không có chỗ động là an trụ nơi chân như lý, là tương ưng với chân như lý bất động, là tương ưng với chân như lý bất thủ. Bấy giờ Đức Thế Tôn nói kệ rằng: Bồ-tát chánh ức niệm Nơi nghóa khéo tư duy Chẳng trụ trong các pháp Gọi đó là người trí. Chưa từng có chút pháp Làm được chỗ an lập Do vì không an lập Vô úy mà hướng đến. Chẳng an lập nơi sắc Cũng chẳng lập nơi thọ Nơi các tưởng, các hành Và nơi thức cũng vậy. Chẳng an trụ nơi uẩn Các giới và các xứ Hoặc xứ hoặc phi xứ Cũng thường không chỗ trụ. Chẳng an trụ địa giới Cũng chẳng trụ thủy giới Hỏa giới và phong giới Cũng thường không chỗ trụ. Chẳng an trụ Dục giới Sắc giới, Vô sắc giới Vì được không an lập Nên chẳng trụ ba cõi Và ở hư không giới Nơi ấy không chỗ trụ. Vì không có chỗ trụ Bình đẳng mà hướng đến Vẫn không có chút pháp Trong ấy an trụ được. Nếu được không chỗ trụ Đây là người diệu trí. Diệu trí không chỗ trụ Không trụ là thiện trụ Được an trụ như vậy Thì trụ trong pháp giới. Vì tương ưng vô trụ Kia thường hay thiện trụ Không trụ không y chỉ Nơi pháp được an trụ. Nếu được không y chỉ Thì thường không sở động Chẳng nhập cũng chẳng xuất Bình đẳng khéo an trụ. Nơi pháp trụ như vậy Đó là Bậc dũng mãnh. Tất cả pháp không cao Tất cả pháp không thấp Không sở động như vậy Khéo an trụ pháp giới. Vì an trụ chẳng động Thì được vô thượng trụ Chẳng trụ nơi tương ưng Đấy là Bậc dũng mãnh. Chẳng trụ ở trụ xứ Nơi xứ không sở động Thành tựu vô trụ xứ Mà được thiện an trụ. Hoặc xứ, hoặc phi xứ Tất cả không sở động Trụ ở bất động xứ Mới gọi là bất động. Nếu trụ bất động xứ Tất cả không chỗ trụ Chẳng niệm xứ, phi xứ Thường trụ vô phân biệt. Vì chẳng trụ nơi xứ Thì không có sở động Nơi xứ không sở động Tất cả được vô trụ. Nếu được vô trụ xứ Xứ, phi xứ chẳng động. Nếu nơi xứ chẳng động Là thiện trụ nơi xứ. Thiện trụ xứ an trụ Thì trụ vô sở trụ Hay thấy tất cả pháp Trụ tương ưng trụ pháp. Thấy các pháp như vậy Các thứ vô sở trụ Vô trụ không an trụ Thiện xảo nơi pháp trụ. Thường trụ ở các pháp Mà không có phân biệt Vì rời các phân biệt Đấy là Bậc bất động. Nếu hay trụ bất động Nơi hành không phân biệt Rời xa xứ, phi xứ Đấy là Bậc quán sát. Nếu hay quán bất động Tất cả không chỗ động Các pháp thường bình đẳng Như vậy mà hướng đến. Trụ tương ưng chân như Chân như mà bất động Người được vô động xứ Thường trụ nơi vô xứ. Đại Bồ-tát Vô Biên Thắng lại bạch: –Bạch Thế Tôn! Rất là hy hữu! Thế Tôn có thể an lập các Đại Bồ-tát ở nơi pháp lý thể không có hư phược, không có giải thoát. Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát ở nơi pháp lý thể khéo an lập chẳng cùng với chút pháp hoặc tương ưng hoặc chẳng tương ưng, hoặc hòa hợp hoặc chẳng hòa hợp, hoặc nhiếp thủ hoặc chẳng nhiếp thủ, hoặc có chỗ quay về hoặc không chỗ quay về, hoặc tham hoặc ly tham, hoặc sân hoặc ly sân. Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát ở trong tất cả pháp lý thể thiện xảo an lập. Giả sử có chúng sinh cúng dường cung kính, Đại Bồ-tát ấy chẳng có lòng tham ái. Chúng sinh hủy nhục bức não, Đại Bồ-tát ấy cũng chẳng sân hận. Các Đại Bồ-tát ấy không có các thứ tưởng, rời tất cả pháp, chẳng thấy có chút pháp, có thể cùng với chút pháp tương ưng hoặc chẳng tương ưng, vì vượt qua tương ưng và chẳng tương ưng. Các vị rời xa tưởng tương ưng chẳng tương ưng, biết rõ tưởng tương ưng chẳng tương ưng, vượt khỏi sự biết rõ, chẳng ở nơi chút pháp hoặc tiến hoặc lui, hoặc có chỗ hướng đến hoặc không có chỗ hướng đến mà làm tương ưng. Ở trong tất cả pháp lý thú, các vị không có vọng niệm cũng không có nắm giữ, dùng phương tiện khéo léo chẳng hoại pháp tánh. Bạch Thế Tôn! Lúc an trụ nơi tất cả pháp như vậy, các Đại Bồ-tát có thể dùng thiện xảo tuyên nói tất cả pháp giới lý thú, tất cả Phật pháp mau được viên mãn. Đức Thế Tôn bảo Đại Bồ-tát Vô Biên Tuệ: –Này Vô Biên Tuệ! Ở trong Phật pháp, lúc các Đại Bồ-tát không chỗ an lập không chỗ an trụ thì thấy Phật pháp, không có an lập không có sở trụ, cũng không thắng trụ, cũng không biến trụ, thấy Phật pháp trụ. Vì sao? Vì chẳng khuynh động, vì chẳng lưu chuyển, vì chẳng đổi khác. Tương ưng với tất cả pháp giới mà an trụ mới gọi là tất cả pháp giới lý thú thiện xảo an lập. Này Vô Biên Tuệ! Ở trong Phật pháp, các Đại Bồ-tát không trụ, không chẳng trụ, không thắng trụ, không biến trụ, không xứ trụ, không phi xứ trụ, cũng không sở động, không phân biệt, không thắng phân biệt, không biến phân biệt, mới gọi là tất cả pháp giới lý thú thiện xảo an lập. Này Vô Biên Tuệ! Các Đại Bồ-tát chẳng thấy chút pháp, có thể cùng chút pháp mà làm an lập, cũng chẳng thấy có tất cả pháp xứ làm thắng an lập, cũng không phân biệt, không thắng phân biệt, không biến phân biệt, mới gọi là tất cả pháp giới lý thú thiện xảo an lập. Này Vô Biên Tuệ! Các Đại Bồ-tát chẳng thấy chút pháp hoặc ở hoặc đi, cũng không phân biệt, không thắng phân biệt, không biến phân biệt. Các vị thấy tất cả pháp như hư không trong sạch, ánh sáng chiếu suốt rời xa phiền não, vì ánh sáng chiếu tất cả pháp, nên mới gọi là được phương tiện khéo léo nơi tất cả pháp giới lý thú, chẳng dùng an lập để quán pháp giới. Vì sao? Vì chẳng ở nơi pháp giới có chút an lập vậy. Ví như hư không và phong giới không có xứ sở cũng không thấy được, không chỗ an lập, không chỗ y chỉ, không hiện bày được. Pháp giới cũng như vậy, không chỗ vào được, không chỗ thấy được, không chỗ an lập, không chỗ nương tựa, cũng không biết rõ, cũng không hiện bày. Các Đại Bồ-tát vì không hiện bày nên tương ưng với như như giới mà an trụ. Này Vô Biên Tuệ! Tất cả pháp giới không sinh không mệnh, không già, không chết, không thăng không trầm, không cảnh giới hiện bày. Đó là pháp giới. Không có cảnh giới đổi khác chính là pháp giới mà pháp giới ấy khắp tất cả chỗ. Này Vô Biên Tuệ! Pháp giới không đi đâu, cũng không có chỗ đi đâu. Vì không chỗ đi đâu nên mới gọi là tương ưng với pháp giới mà an trụ. Trong pháp giới như như không có xứ cũng không có phi xứ. Vì sao? Vì pháp giới như như, tự tánh như như không thật có vậy. Này Vô Biên Tuệ! Các Đại Bồ-tát nghe ta nói đây thì ở nơi tất cả pháp giới lý thể được vô biên ánh sáng đại pháp. Do ánh sáng pháp được Vô sinh nhẫn, chóng viên mãn mười Lực, mười tám pháp Bất cộng của Đức Phật. Vì muốn thành thục căn lành rộng lớn, tư lương thù thắng cho tất cả chúng sinh, vì muốn chủng tánh Như Lai không đoạn tuyệt nên mau đến đạo tràng chuyển pháp luân, che khuất cung ma, xô dẹp dị luận, làm đại Sư tử hống của bậc Thiện trượng phu mà vì chúng sinh diễn thuyết diệu pháp tùy theo sở thích của họ, tùy theo chí nguyện của họ, tùy theo chỗ hướng đến chánh giải thoát của họ, đều làm cho tất cả đồng đến Vô thượng Bồ-đề. Khi ấy Đức Thế Tôn nói kệ rằng: Tất cả Bồ-tát Chẳng trụ các pháp Ở trong Phật pháp Không chỗ an lập. Tất cả Bồ-tát Vì không an lập Ở trong Phật pháp Vô úy hướng đến. Tất cả Bồ-tát Thấy các Phật pháp Không trụ, không xứ Diệu thiện an lập. Tất cả Bồ-tát Chẳng trụ nơi xứ Hay thấy các pháp Không trụ, không thoái. Tất cả Bồ-tát Thấy pháp không trụ Phật pháp bất động Chẳng cầu Phật pháp. Tất cả Bồ-tát Thấy pháp không khác Phật pháp bất động Cũng chẳng suy tìm. Tất cả Bồ-tát Thấy pháp như vậy Nơi pháp khéo léo Phương tiện an trụ. Tất cả Bồ-tát Thấy luôn bình đẳng Chẳng trụ Phật pháp Cũng không phi trụ, Thường không trụ xứ Cũng chẳng không xứ, Thường không phân biệt Chẳng không phân biệt. Các loại phân biệt Thường không thật có. Tất cả Bồ-tát Tương ưng vô trụ Nơi những thời xứ Mà không có động. Tất cả Bồ-tát Nơi pháp lý thú Lúc trụ bình đẳng Gọi là thiện trụ. Tất cả Bồ-tát Nơi pháp lý thú Chẳng thấy chút pháp Hay trụ bình đẳng. Tất cả Bồ-tát Hay thấy các pháp Đều không xứ sở Cũng chẳng rời xứ Được không chốn động Cũng chẳng thân cận. Tất cả Bồ-tát Nơi tất cả pháp Lý thú thiện xảo Phương tiện an trụ. Trụ không chỗ trụ Gọi là Bồ-tát. Tất cả Bồ-tát Chẳng ở chút pháp Hoặc đến, hoặc đi Phân biệt an trụ Bấy giờ mới trụ Các pháp lý thú. Tất cả Bồ-tát Nơi pháp lý thú Cả thảy an trụ Hay khởi vô biên Ánh sáng đại pháp. Do ánh sáng pháp Trụ bình đẳng kiến Thấy tất cả pháp Và pháp lý thú Như hư không tịnh Như bóng, như tượng Bình đẳng vô cấu. Tất cả Bồ-tát Biết rõ các kiến Cũng không biết rõ Lìa xa tự tánh. Tất cả Bồ-tát Quán sát như vậy Với tất cả pháp Lý thú mà trụ. Hay ở pháp giới Kiên cố siêng tu Gọi là pháp giới Lý thú phương tiện. Tất cả Bồ-tát Chẳng trụ pháp giới Quán sát pháp giới Rốt ráo chẳng có. Tất cả Bồ-tát Quyết rõ pháp giới Thấy tất cả pháp Như gió, hư không. Dù không an lập Mà tất cả chỗ Pháp giới cũng vậy Khắp ở các nơi. Pháp giới khó suy Không thể hiện bày Với các Bậc trí Chẳng làm thân cận. Giới không thị hiện Mới là pháp giới. Không có trụ xứ Gọi là an trụ. Pháp giới vô sinh Không mệnh, không già Không tử, không trầm Cũng không xuất ly. Pháp giới khó suy Không dến, không đi. Pháp giới phi uẩn Chẳng giới, chẳng xứ Cũng chẳng rời xứ Mà không bị động. Pháp giới như như Tự tánh chẳng có Tất cả Bồ-tát Biết rõ như vậy. Pháp giới khó suy Được ánh sáng pháp Do đây hướng đến Qua đến đạo tràng Mà nơi các pháp Không còn nghi hoặc. Chẳng có bị động Dùng ánh sáng pháp Làm cho chúng sinh Được đại an lạc. Đức Thế Tôn dạy tiếp: –Này Vô Biên Tuệ! Các Đại Bồ-tát có thể ở nơi pháp sâu xa như vậy mà siêng tu tập, thì được ánh sáng đại pháp như vậy, dùng trí tuệ ấy hướng đến Vô thượng Bồ-đề.  KINH ĐẠI BẢO TÍCH <卷 id="86423700">QUYỂN 25 Hán dịch: Đời Đại Đường, Tam tạng Pháp sư Bồ-đề-lưu-chí. <詞 id="86423701">Pháp hội 7: MẶC ÁO GIÁP TRANG NGHIÊM (Phần 5) Lại nữa, này Vô Biên Tuệ! Ta nhớ thuở xưa quá hai a-tăng-kỳ kiếp, lúc ấy có Đức Phật xuất thế hiệu là Nguyệt Đăng Vương Như Lai Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Kiếp ấy tên Cam lộ. Cõi nước tên Thanh tịnh. Cõi nước ấy bằng pha lê, thường có ánh sáng chiếu khắp nơi. Nếu có chúng sinh nào gặp ánh sáng ấy thì được sạch sẽ, đẹp đẽ, đoan nghiêm. Vì thế nên cõi nước ấy có tên là Thanh tịnh, không có tên thành ấp tụ lạc riêng. Trong nước ấy đường sá rất đẹp, dây vàng ngăn lối. Khoảng cách giữa các con đường tất cả đều đồng nửa câu-lô-xá. Trụ báu sáng chói, cây đa-la đẹp đều số tám mươi bốn bày hàng trong mỗi khoảng cách ấy. Trong đó lại có bốn ao nước, quanh ao có lầu đài bảy báu là chỗ ở của nhân dân. Che trên thì có linh võng, treo rủ xuống thì có dải lụa, đồ trân ngoạn đẹp lạ như cung trời. Chúng sinh ở nước ấy tịch tónh an lạc, đều đã thành tựu mười nghiệp đạo lành, dung mạo đoan nghiêm, thọ mạng dài lâu, tham, sân, si mỏng, dễ khai ngộ, dùng chút ít phương tiện đã biết rộng các pháp. Đức Phật Nguyệt Đăng Quang trụ thế mười câu-chi tuổi. Sau khi Đức Phật ấy diệt độ, chánh pháp trụ thế một câu-chi năm. Có mười hội thuyết pháp. Mỗi pháp hội đều có hai mươi câu-chi na-do-tha chúng Thanh văn ở bậc học địa, các chúng Bồ-tát hướng đến Nhất thừa số đến vô lượng. Này Vô Biên Tuệ! Cây Bồ-đề báu của Đức Nguyệt Đăng Vương Như Lai cao một trăm do-tuần, chu vi năm mươi do-tuần, gốc bằng ngọc san hô, thân bằng ngọc lưu ly, nhánh bằng hoàng kim, lá bằng ngọc mã não. Đạo tràng dọc ngang đều một trăm do-tuần, khắp vòng có bậc thềm, bao quanh có lan can. Cây đa-la đẹp bày hàng ngay thẳng, linh vàng lưới báu giăng che trang nghiêm. Tòa đại Bồ-đề cao ba do-tuần trải nệm êm nhuyễn, trăm ngàn diệu y xen kẽ rủ xuống, hai mươi tràng phan dựng bày một bên. Đức Phật Nguyệt Đăng Vương ngồi trên tòa đại Bồ-đề ấy mà chứng Vô thượng Bồ-đề. Thuở ấy nước Thanh tịnh không có ba đường ác và tên đường ác, cũng không có các nạn và tên các nạn. Đức Phật Nguyệt Đăng Vương thường ở trong tất cả các thế giới hóa hiện thân Phật chuyển chánh pháp luân. Này Vô Biên Tuệ! Đức Phật Nguyệt Đăng Vương có hai vị Bồ-tát: vị thứ nhất tên là Vân Âm, vị thứ hai tên là Vô Biên Âm. Hai vị Bồ-tát ấy bạch Đức Phật Nguyệt Đăng Vương: –Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát ở trong tất cả pháp lý thể mà được phương tiện thiện xảo an lập như thế nào? Vì muốn các Đại Bồ-tát ở trong tất cả pháp lý thể được phương tiện thiện xảo an lập nên Đức Phật Nguyệt Đăng Vương vì hai vị Bồ-tát mà nói rộng pháp ấy. Các Đại Bồ-tát nghe pháp ấy xong, ở trong tất cả pháp lý thể được phương tiện thiện xảo an lập. Hai vị Bồ-tát Vân Âm và Vô Biên Âm sau đó hai muôn năm không ngủ nghỉ, không tham dục, không sân não, chẳng tưởng đến ăn đến nằm, cũng không tưởng đến bệnh hoạn thuốc thang, chẳng thích vui chơi du ngoạn trong thế gian. Lúc Đức Phật Nguyệt Đăng Vương thuyết pháp, liền trên pháp tòa, hai vị Bồ-tát ấy được Vô sinh nhẫn. Đức Như Lai ấy hỏi hai vị Bồ-tát: –Này thiện nam! Ở trong tất cả pháp lý thể, thiện xảo phương tiện an lập như vậy, các ông có cầu chăng? Hai vị Bồ-tát ấy bạch: –Bạch Thế Tôn! Con còn chẳng thấy có danh từ tất cả pháp lý thể thiện xảo an lập, cũng chẳng thấy có pháp tất cả pháp lý thể thiện xảo an lập, huống là tất cả pháp lý thể phương tiện thiện xảo an lập. Bạch Thế Tôn! Con cũng chẳng được tất cả pháp, con cũng chẳng được tất cả pháp an lập. Nơi tất cả pháp không có trụ, không có chẳng trụ. Bạch Thế Tôn! Con thấy như vậy đâu còn nên hỏi: “Ở trong tất cả pháp lý thể phương tiện thiện xảo an lập như vậy, ông có cầu chăng? Hay là chẳng cầu chăng?” Bạch Thế Tôn! Con cũng chẳng thấy ở trong tất cả pháp lý thể phương tiện thiện xảo an lập như vậy mà làm người cầu. Con cũng chẳng thấy có hoặc trong hoặc ngoài, hoặc trung gian, hoặc tất cả pháp, hoặc pháp lý thể phương tiện thiện xảo mà an lập. Con cũng chẳng thấy có pháp hoặc trong, hoặc ngoài, hoặc trung gian, hoặc tất cả pháp, hoặc pháp lý thể phương tiện thiện xảo mà có thể an lập được. Bạch Thế Tôn! Con cũng chẳng thấy, cho đến có chút pháp trong, ngoài, trung gian lý thể phương tiện thiện xảo an lập mà có thể hướng đến được, mà có thể thân cận được. Bạch Thế Tôn! Đã không có chút pháp hướng đến được, thân cận được, ở trong ấy con sẽ an lập cái gì? Bạch Thế Tôn! Con cũng chẳng thấy quá khứ, hiện tại, vị lai làm chỗ an lập. Nếu chỗ an lập đã không thật có, con ở chỗ nào mà có thể an lập được? Bạch Thế Tôn! Vì không có an lập nên chẳng phải tương ưng với an trụ hay chẳng an trụ, chẳng phải tương ưng với vô tận, vô sinh. Bạch Thế Tôn! Con cũng chẳng thấy từ ai, do ai, chỗ nào, lúc nào tâm ý thức của con hoặc sinh hoặc diệt. Sao lại còn nói rằng dùng tâm ý thức ở nơi tất cả pháp lý thể phương tiện thiện xảo an lập? Này Vô Biên Tuệ! Lúc hai vị Bồ-tát Vân Âm và Vô Biên Âm ở trước Đức Nguyệt Đăng Vương Như Lai bạch như vậy, có một ngàn Bồ-tát được Vô sinh nhẫn, một ngàn câu-chi Bồ-tát phát tâm Bồ-đề. Lúc ấy Đức Phật Nguyệt Đăng Vương lại bảo hai vị Bồ-tát: –Này thiện nam! Ông dùng vô trụ mà trụ, vô xứ mà trụ, ở nơi tất cả pháp lý thể, phương tiện thiện xảo an lập. Này thiện nam! Tất cả các pháp cũng như vậy. Vì tùy thuận thế tục đạo mà Đức Như Lai hiện chứng Vô thượng Bồ-đề. Nếu ở nơi Đức Như Lai thì chẳng theo thế tục hiện chứng Vô thượng Bồ-đề cũng như vậy. Này thiện nam! Các pháp không có xứ cũng chẳng phải không có xứ. Nếu là xứ và không có xứ đều là theo thế tục. Nếu theo thế tục thì ở trong ấy không có chút pháp để có thể sinh được, để có thể thấy được. Này thiện nam! Vì thế nên phải siêng năng tu tập mau ở nơi các pháp được chứng giải thoát. Hai vị Bồ-tát ấy ở trước Đức Như Lai Nguyệt Đăng Vương nghe pháp ấy rồi liền bay lên hư không nói kệ khen ngợi Đức Phật rằng: Pháp Vương chẳng nghó bàn Được pháp chưa từng có Đấng Biến Tri Lưỡng Túc Phật pháp không quá trên. Do vì pháp vô thượng Như Lai đời không bằng Tất cả pháp vô sinh Nay con được nhẫn ấy. Con thường chẳng phân biệt Hoặc sinh hoặc vô sinh Cũng chẳng niệm như vậy Tất cả không phân biệt. Pháp Vương Đại Mâu-ni Công đức rời ngôn niệm Xin nói pháp thanh tịnh Khiến chúng đều hoan hỷ. Nơi thắng đức của Phật Muốn biết biên tế ấy Dù trải vô lượng kiếp Cũng chẳng thể biết được. Vì công đức vô biên Tối thắng không quá trên Tất cả pháp không sinh Con cũng chẳng phân biệt. Con ở trong Phật pháp Chưa từng có hủy hoại Chẳng nói các căn lành Thế nào có thể được. Các pháp không thị hiện Không sinh cũng không tướng Vô tướng nhẫn như vậy Ở đây cũng đều chứng. Nay nhẫn của con được Rốt ráo không thoái chuyển Nên ở Nhất thiết trí Do đây sinh hoan hỷ. Nơi pháp của Như Lai Con quyết định không nghi Cũng nơi tất cả pháp Rời xa những nghi hoặc. Trong Phật pháp vô thượng Nay con được nhẫn ấy Con cũng chẳng phân biệt Cũng không chẳng phân biệt. Hai vị Bồ-tát ấy nói kệ xong, đi nhiễu bên phải Đức Nguyệt Đăng Vương ba vòng, đem hoa trời, hương trời rải trên Đức Phật. Đức Nguyệt Đăng Vương Như Lai liền thọ ký rằng: “Hai vị Vân Âm và Vô Biên Âm quá hai muôn kiếp sẽ chứng Vô thượng Bồ-đề.” Hai vị Bồ-tát ấy nghe Đức Phật thọ ký vui mừng hớn hở quan sát kỹ Đức Phật rồi nhập các thiền định du hý thần thông ẩn hiện tự tại khói lửa phát sáng. Hai vị lại vì chúng sinh thuyết pháp khai thị khiến hai mươi bốn câu-chi trời, người đều hướng đến Vô thượng Bồ-đề. Hai vị Bồ-tát ấy trọn đời siêng tu phạm hạnh, ở nơi trung thời và hậu thời chánh pháp của Đức Nguyệt Đăng Vương đều có thể hộ trì. Trong thời kỳ ấy lại giáo hóa thành thục bốn câu-chi chúng sinh hướng đến Vô thượng Bồ-đề. Hai vị Bồ-tát ấy lần lượt cúng dường phụng thờ thân cận trăm ngàn Đức Phật và đều thọ trì Tam-muội chánh pháp của chư Phật. Quá hai muôn kiếp lại gặp Đức Bảo Tràng Như Lai theo chuyển pháp luân giáo hóa thành thục vô lượng chúng sinh hướng đến Vô thượng Bồ-đề. Cõi nước của Đức Bảo Tràng Như Lai thanh tịnh, không có hàng Thanh văn chỉ có những bậc Nhất sinh bổ xứ Bồ-tát. Lúc Bảo Tràng Như Lai sắp nhập diệt mới thọ ký cho Vân Âm Bồ-tát kế sẽ thành Phật hiệu là Nhật Đăng Vương Như Lai, cõi nước thành tựu trang nghiêm chứa nhóm vô lượng, vô biên công đức; Bồ-tát, Thanh văn đại chúng viên mãn. Sau khi Đức Nhâït Đăng Vương Như Lai diệt độ, Vô Biên Âm Bồ-tát kế sẽ thành Phật. Đức Phật dạy tiếp: –Này Vô Biên Tuệ! Do vì pháp môn này vô sở đắc, vô ngôn thuyết nên chẳng thể hiện bày được, không sinh không diệt. Các Đại Bồ-tát phải đúng như lý chuyên cần tu tập. Nếu có Bồ-tát an trụ nơi tất cả pháp lý thể phương tiện thiện xảo an lập, dùng vô sở đắc được Vô sinh nhẫn viên mãn Phật pháp. Dùng vô lượng công đức để làm trang nghiêm mà hướng đến Vô thượng Bồ-đề. Này Vô Biên Tuệ! Ta chẳng bao giờ nói các Đại Bồ-tát rời ngoài pháp ấy mà có riêng chút pháp nào có thể mau thành tựu Nhất thiết chủng trí. Nếu có ai ở nơi pháp Không thậm thâm không sinh, không diệt ấy mà siêng tu tập thì chóng được Bồ-tát pháp giới lý thể phương tiện thiện xảo và Đà-la-ni, đầy đủ biện tài không ngăn ngại vô thượng nhiếp hóa, được chư Phật Thế Tôn đều khen ngợi, dùng pháp nghiêm cụ để trang nghiêm, có thể viên mãn bố thí, an trụ thanh tịnh trì giới, được thanh tịnh nhẫn, vô thượng tinh tấn, vô duyên thiền định, dùng đại trí tuệ hướng đến Vô thượng Bồ-đề, ở trong những thắng pháp là tối thù thắng, chóng được gọi là bậc Nhất thiết trí, ngồi nơi đạo tràng, bốn Đại Thiên vương mang lọng báu đến thỉnh chuyển pháp luân, làm ánh sáng lớn cho hàng trời, người đều làm cho họ hướng đến Vô thượng Bồ-đề. Lại nữa, này Vô Biên Tuệ! Nếu các Đại Bồ-tát có thể ở nơi Nhất thiết pháp hải ấn Tam-muội mà siêng tu tập, thấy tất cả pháp đồng với pháp giới. Lúc thấy như vậy, chẳng ở nơi pháp giới thấy tất cả pháp, chẳng ở nơi tất cả pháp thấy pháp giới mà tinh tấn tu tập. Do tất cả pháp các giới hòa hợp, phương tiện thiện xảo ở nơi tất cả pháp các giới hòa hợp mà không chấp trước cũng không sở động; nơi tất cả pháp các giới hòa hợp, phương tiện thiện xảo cũng không chấp trước cũng không phân biệt. Có thể ở trong một pháp hòa hợp mà thấy tất cả pháp hòa hợp. Có thể ở trong tất cả pháp hòa hợp mà thấy một pháp hòa hợp. Chẳng ở nơi tất cả pháp hòa hợp mà thân cận một pháp hòa hợp. Chẳng ở trong một pháp hòa hợp mà thân cận tất cả pháp hòa hợp. Vì có thể biết rõ một pháp ấy nên cũng có thể biết rõ tất cả các pháp. Vì có thể biết rõ tất cả pháp nên ở nơi một pháp ấy chỗ đáng được biết rõ cũng có thể biết rõ. Chẳng đem các pháp thân cận một pháp, ở trong các thủ uẩn hòa hợp đều có thể biết rõ. Chẳng ở nơi các thể tánh tướng của các thủ uẩn, hoặc có hòa hợp hoặc không hòa hợp mà sinh chấp trước. Lúc các Đại Bồ-tát thực hành như vậy, nếu có các pháp do các nhân duyên hòa hợp mà sinh, nếu có các pháp do các nhân duyên hòa hợp mà thành, nơi các pháp ấy đều có thể biết rõ. Nếu có các pháp nhân duyên hòa hợp do nhiều thứ tánh tương ưng nhau mà khởi, nơi các pháp ấy cũng có thể biết rõ, cũng không chấp trước mà tùy thuận biết rõ tướng hiện bày của tất cả pháp, cũng có thể biết rõ hoặc là tướng hoặc vô tướng, cũng có thể biết rõ các giới sai biệt, các giới nhiều thứ tánh tướng sai biệt, cũng có thể biết rõ lấy gì làm nhân. Chẳng dùng phiền não để thân cận hướng đến các pháp duyên khởi. Cũng ở nơi pháp thế gian, pháp xuất thế gian, chẳng có chống trái mà tùy thuận biết rõ tất cả các pháp thế gian và xuất thế gian. Tướng ấn thế gian đều khắp biết rõ. Dùng một pháp môn mà có thể biết rõ tất cả pháp môn. Dùng tất cả pháp môn lại có thể biết rõ một pháp môn. Chẳng dùng các pháp môn để thân cận một pháp môn, cũng chẳng dùng một pháp môn để thân cận các pháp môn. Pháp môn như vậy đều có thể tịnh trị cả. Này Vô Biên Tuệ! Ở trong pháp ấy, các Đại Bồ-tát siêng tu tập, dùng một môn lý thể ngôn giáo mà có thể biết rõ tất cả các pháp tánh cùng một vị, ở nơi các pháp được thắng vô tránh như lý tịch tónh, chẳng còn chống trái, có thể ở giữa đại hội khen nói pháp ấy, siêng năng tu tập được tất cả pháp hải ấn Tam-muội. Tu tập như vậy, hoặc có tránh luận hoặc không tránh luận đều làm cho tịch tónh, như lý mà an trụ, tùy thuận dứt trừ kiêu mạn và phóng dật, ở nơi giáo thuyết quyết định có thể khéo thọ trì, những danh ngôn sai biệt cũng có thể biết rõ, với pháp giới lý thể thì phương tiện siêng tu, nơi các pháp môn khéo yên lặng nhớ nghó sẽ dùng pháp gì, tương ưng với pháp gì, hoặc là chẳng tương ưng, có thể dùng phương tiện nơi nghóa quyết định an trụ thanh tịnh niệm. Này Vô Biên Tuệ! Ở nơi pháp môn ấy, các Đại Bồ-tát an trụ như vậy, dùng chút ít gia hạnh được Nhất thiết pháp hải ấn Tam-muội. Dùng vô lượng pháp Hải ấn Tam-muội ấy để hướng đến Vô thượng Bồ-đề. Lúc đó Đức Thế Tôn nói kệ rằng: Ông xem tất cả pháp Chảy vào trong pháp giới Các pháp đồng pháp giới Lý thể đều bình đẳng. Lại xem nơi pháp giới Chảy vào trong các pháp Pháp giới đồng các pháp Lý thể cũng bình đẳng. Chẳng ở trong pháp giới Quán sát tất cả pháp Cũng chẳng rời pháp giới Mà thấy tất cả pháp. Chẳng ở trong các pháp Quán sát nơi pháp giới Cũng chẳng rời các pháp Mà thấy nơi pháp giới. Biết rõ các thứ giới Pháp giới các thể tánh Tất cả pháp hòa hợp Thiện xảo không chỗ trụ. Tất cả thời và xứ Các thứ tánh hòa hợp Không trụ, không chỗ nương Cũng không có chốn giữ. Hòa hợp tánh sai biệt Phân biệt, chẳng phân biệt Cả hai cái đều không Người trí thấy bình đẳng. Vì biết một hòa hợp Nên biết các hòa hợp. Vì biết các hòa hợp Nên biết một hòa hợp. Hòa hợp chẳng hòa hợp Một tánh sai biệt tánh Chẳng thân cận phân biệt Cũng không chấp, không trước. Biết rõ tất cả pháp Pháp ấy không hòa hợp Cũng chẳng niệm hòa hợp Không chấp không đắm trước. Biết rõ tất cả pháp Tướng hiện bày của nó Cũng chẳng niệm thân cận Không chấp, không đắm trước. Nghiệp và nghiệp quả báo Tất cả đều biết được Nơi ấy chẳng chống trái Đấy là người tinh tấn. Nghiệp và kẻ tác nghiệp Hai tướng hòa hợp ấy Biết tướng, vô tướng kia Đấy là người tinh tấn. Nơi các giới hòa hợp Các giới tánh sai biệt Biết nó thường bình đẳng Đây là người tinh tấn. Tướng nhân quả hệ thuộc Tất cả đều biết được Nơi các duyên pháp ấy Mặc giáp như lý trụ. Biết được pháp xuất thế Nơi các pháp thế gian Không có chút trái nhau Trụ bình đẳng như vậy. Cũng biết pháp thế gian Nơi các pháp xuất thế Cũng không chút trái nhau Trụ bình đẳng như vậy. Thế gian chỗ nên làm Tất cả các tướng ấn Tùy thuận hay quan sát Trụ bình đẳng biết khắp. Hay dùng một pháp môn Biết rõ các pháp môn Cũng dùng các pháp môn Biết rõ một pháp môn. Chẳng dùng một pháp môn Thân cận các pháp môn Chẳng dùng các pháp môn Thân cận một pháp môn. Trong tất cả pháp môn Bình đẳng khắp thanh tịnh Nơi pháp không dị tướng Đây là người Quan sát. Nơi các pháp ngôn giáo Mà hay bình đẳng nói Thường trụ tánh bình đẳng Đây là người Quan sát. Nơi các pháp ngôn giáo Như lý hay thấy biết Bèn được khéo tương ưng Đây là bậc Phương tiện. Chẳng phát khởi tránh luận Chẳng làm duyên tránh luận Tất cả chẳng trái nhau Đây là bậc Tương ưng. Thường khởi phát vô tránh Vô tránh được tương ưng Bình đẳng chẳng trái nhau Đây là bậc Trí tuệ. Ở trong pháp lý thể Dứt hẳn các tranh luận Mặc giáp như lý tu Đây là bậc Dũng mãnh. Khắp quan sát như vậy Thuần một không trái cãi Được ở trong pháp hội Khen nói pháp vô thượng Các Bồ-tát như vậy Thành tựu tất cả pháp. Đại hải ấn Tam-muội Đây là bậc Chánh niệm. Siêng tu tập như vậy Thuần một không trái cãi Dứt tranh luận tương ưng Thành tựu Tam-muội ấy. Như lý mà an trụ Hay biết thuyết bí mật Biết ngã và ngã mạn Dứt cao mạn, kiêu căng. Trong ngôn giáo quyết định Thành tựu phương tiện khéo Cũng biết danh sai biệt Đây là bậc Có trí. Trong các pháp lý thể Như lý siêng tu tập Hay thấy các pháp môn Đây là bậc Thấy pháp. Siêng tu tập như vậy Hay biết tất cả pháp Pháp gì cùng tương ưng Pháp gì chẳng tương ưng. Trong tất cả các pháp Người niệm nghiệp thanh tịnh Được ở nghóa quyết định Mà được phương tiện khéo. Trong tất cả các pháp Người tinh tấn tư duy Biết rõ tất cả pháp Mới được Tam-muội ấy. Đức Phật dạy tiếp: –Lại nữa, này Vô Biên Tuệ! Ở trong pháp ấy, các Đại Bồ-tát siêng tu tập lại có pháp năng nhiếp Tam-muội. Lắng nghe, lắng nghe! Ông phải khéo suy nghó. Ta sẽ giải thuyết cho. Đại Bồ-tát Vô Biên Tuệ bạch: –Vâng! Bạch Thế Tôn! Con xin muốn được nghe. Đức Phật dạy: –Này Vô Biên Tuệ! Các Đại Bồ-tát có môn pháp quang minh có thể sinh ra các pháp lý thể phương tiện thiện xảo, cũng hay sinh ra tất cả pháp ấn, hay nhập môn tất cả pháp ấn. Nơi tất cả pháp chỗ đáng được làm thì có thể biết có thể vào. Nơi pháp quang minh có thể được có thể nói. Dùng pháp quang minh tùy thuận thẳng vào môn chư pháp cú. Gì gọi là môn pháp quang minh mà có thể sinh ra thiện xảo quang minh? Đó là hay biết rõ giáo môn dị danh, giáo môn bí mật, sự môn dị danh, sự môn nhiếp thủ, các môn sai biệt. Thế nào ở nơi đó mà được biết rõ thì có thể sinh ra môn Tam-muội, môn tất cả pháp giới lý thể, nhập vào nơi một nghóa có thể tùy theo biết rõ các pháp quang minh. Này Vô Biên Tuệ! Nơi các pháp lý thể phương tiện thiện xảo thậm thâm ấy, các Đại Bồ-tát hoặc hiện nay tu hành, hoặc sẽ tu hành, hoặc hiện nay cầu, hoặc sẽ cầu, nghe pháp môn ấy dùng chút ít gia hạnh được đại quang minh nhập vào các pháp môn. Từ pháp môn ấy lại phát khởi quang minh. Dùng quang minh ấy tùy theo pháp môn nào, tùy theo sở hành nào đáng vào đáng làm? Như pháp môn ấy, dùng sức Tam-muội quan sát các pháp môn, nơi môn Tam-muội xuất sinh trí tuệ mà có thể biết rõ lý thể như thật. Vì sức Tam-muội, vì quan sát pháp môn, vì sinh trí tuệ, dùng môn Tam-muội biết rõ pháp giới an trụ thiện phương tiện hay phát khởi quang minh tất cả pháp môn, được tất cả pháp hải ấn Tam-muội. Này Vô Biên Tuệ! Thế nào là pháp môn? Đó là ấn chữ A, ấn tất cả pháp vô minh làm ra. Công hạnh được viên mãn, chữ A làm đầu. Vì ngăn dứt vô minh không có sở tác, nên các Đại Bồ-tát phải nhập vào ấn môn vô tướng. Dùng ấn chữ Ả, ấn tất cả pháp, nghiệp dị thục quả, nghiệp chỗ làm ra, nghiệp quả hòa hợp, vì biết rõ nghiệp quả hòa hợp duyên, nên các Đại Bồ-tát phải nhập vào ấn môn vô duyên không nghiệp, không quả, không hòa hợp. Dùng ấn Các hành ấn tất cả pháp, vì phát khởi tất cả pháp trí quang minh nơi các thứ nghiệp, nghiệp chỗ làm ra, nên các Đại Bồ-tát phải nhập vào ấn môn tất cả các hành thiện xảo, dùng ấn chữ Nả ấn tất cả pháp. Dùng chữ Ma trợ giúp hiển bày danh ngôn, cùng các thứ pháp mà làm tương ưng. Vì biết rõ Nả và Mạ trợ giúp lẫn nhau nên các Đại Bồ-tát phải nhập vào ấn môn không hòa hợp, không hỗ trợ, không danh tánh. Dùng ấn Vô biên ấn tất cả pháp, tất cả phân biệt là chẳng thể nắm bắt. Vì rời phân biệt, nên các Đại Bồ-tát phải nhập vào ấn môn không phân biệt. Dùng ấn Vô tế ấn tất cả pháp tế chẳng hòa hợp. Vì tận nơi tế, nên các Đại Bồ-tát phải nhập vào ấn môn không tầm, không tứ, không ngôn thuyết. Dùng ấn Không các thứ tự tánh ấn tất cả pháp. Vì dùng tướng khởi tác của một tự tánh dứt trừ các thứ tự tánh tưởng, nên các Đại Bồ-tát phải nhập vào ấn môn chủng chủng tự tánh. Dùng ấn Muốn tương ưng hòa hợp ấn tất cả pháp. Vì hiện khởi hữu vi các công hạnh viên mãn ly dục tịch tónh không hòa hợp, nên các Đại Bồ-tát phải nhập vào ấn môn trí tận tham dục thấy không hòa hợp. Này Vô Biên Tuệ! Đó là ấn môn Đại Bồ-tát ấn tất cả pháp. Do ấn môn này mà phải nhập vào trong tất cả pháp. Này Vô Biên Tuệ! Lại còn có môn không chướng ngại, môn không hòa hợp mà các Đại Bồ-tát phải tùy theo ngộ nhập. Thế nào là môn không chướng ngại, môn không hòa hợp? Dùng hư không ấn ấn tất cả pháp, nên các Đại Bồ-tát phải nhập vào ấn môn không chấp trước. Dùng ấn Không nhàn ấn tất cả pháp, nên các Đại Bồ-tát phải nhập vào ấn môn không hai. Dùng ấn Tịch tónh ấn tất cả pháp, nên các Đại Bồ-tát phải nhập vào ấn môn chỉ tức. Dùng ấn Vô môn ấn tất cả pháp, nên các Đại Bồ-tát phải nhập vào ấn môn bất động. Dùng ấn Vô xứ ấn tất cả pháp, nên các Đại Bồ-tát phải nhập vào ấn môn không nhiễm. Dùng ấn Tánh không ấn tất cả pháp, nên các Đại Bồ-tát phải nhập vào ấn môn vô đắc. Dùng ấn Vô tướng ấn tất cả pháp, nên các Đại Bồ-tát phải nhập vào ấn môn thiện xảo tu tập phương tiện. Dùng ấn Vô nguyện ấn tất cả pháp, nên các Đại Bồ-tát phải nhập vào ấn môn thiện tịch tónh nguyện quang minh. Dùng ấn Vô tham ấn tất cả pháp, nên các Đại Bồ-tát phải nhập vào ấn môn khắp biết phân biệt như thật. Dùng ấn Vô sinh ấn tất cả pháp, nên các Đại Bồ-tát phải nhập vào ấn môn sinh chánh trí thấy vô sinh. Dùng ấn Tịch diệt ấn tất cả pháp, nên các Đại Bồ-tát phải nhập vào ấn môn ly uẩn. Dùng ấn Tận tướng ấn tất cả pháp, nên các Đại Bồ-tát phải nhập vào ấn môn sinh tận. Dùng ấn Pháp giới ấn tất cả pháp, nên các Đại Bồ-tát phải nhập vào ấn môn hiển hiện pháp giới thiện xảo. Dùng ấn Vô niệm ấn tất cả pháp, nên các Đại Bồ-tát phải nhập vào ấn môn thật không phân biệt bình đẳng. Dùng ấn Ly tánh ấn tất cả pháp, nên các Đại Bồ-tát phải nhập vào ấn môn biết khắp tất cả tự tánh. Dùng ấn Niết-bàn ấn tất cả pháp, nên các Đại Bồ-tát phải nhập vào ấn môn như thật tịch tónh thuận diệt. Này Vô Biên Tuệ! Đó là các Đại Bồ-tát ở nơi môn tất cả pháp không chướng ngại, môn chẳng hòa hợp, môn vượt qua tất cả đoạn kiến thường kiến, môn vô biên tế, môn tiền hậu tế, vì yếm ly, vì tịch diệt, vì chỉ tức, vì thanh lương. Các Đại Bồ-tát ở nơi ấn môn tất cả pháp ấy tùy học, tùy nhập. Vì khéo tu hành các pháp môn ấy mà được tất cả pháp hải ấn Tam-muội. Tam-muội ấy tương ưng với lý như thật, có thể nhiếp trí chư pháp thiện phương tiện. Vì thế nên với ấn môn ấy, các Đại Bồ-tát phải khéo tu hành, an trụ nơi tất cả pháp hải ấn Tam-muội quan sát tất cả pháp mà có thể sinh ra vô lượng, vô biên ánh sáng đại pháp. Này Vô Biên Tuệ! Ví như biển lớn, nước nhiều vô lượng, không ai có thể lường được dung lượng ấy. Tất cả pháp cũng như vậy, trọn không có ai đo lường được. Lại như biển lớn, tất cả các dòng nước đều chảy vào trong ấy. Tất cả các pháp vào trong pháp ấn cũng như vậy. Thế nên gọi là hải ấn, ấn tất cả pháp đều vào trong các pháp hải ấn, ở trong ấn ấy thấy tất cả pháp đồng pháp ấn. Lại như Rồng chúa và các chúng rồng, các thân chúng to lớn có được biển lớn vào được biển lớn, nơi biển lớn ấy dùng làm chỗ ở. Cũng vậy, các Đại Bồ-tát ở nơi vô lượng trăm ngàn kiếp khéo tu các công hạnh mới nhập được ấn môn Tam-muội ấy, dùng ấn môn ấy làm trụ xứ, vì muốn chứng được các Phật pháp, vì khéo viên mãn Nhất thiết trí nên thành tựu các pháp ấn môn như vậy. Lúc chuyên cần tu học pháp môn ấy, chư Đại Bồ-tát có thể tu học tất cả pháp môn và thấy tất cả pháp môn. Vì ở tại pháp môn ấy nên có thể phát khởi ánh sáng các pháp, vào trong biển tất cả pháp. Vì thế nên pháp ấy gọi là tất cả pháp hải ấn Tam-muội. Lại như biển lớn là chỗ chứa họp những trân báu lớn. Cũng vậy, Tam-muội ấy là chỗ chứa họp tất cả pháp và pháp thiện xảo. Này Vô Biên Tuệ! Nếu có chúng sinh nào vì được tri kiến vô thượng của Phật, với Tam-muội ấy hoặc đã cầu, hoặc sẽ cầu, hoặc hiện nay cầu, thì người ấy có thể cầu trí tuệ nhất thiết pháp hải viên mãn. Do nghóa ấy nên ta đem pháp ấn ấy phó chúc cho ông. Đời mạt pháp năm trăm năm sau, lúc chánh pháp diệt, ông dùng pháp ấn ấy để ấn các chúng sinh. Vì chúng sinh nào được pháp ấn ấy ấn cho thì đều được không thoái chuyển nơi Vô thượng Bồ-đề, thành tựu Phật pháp, chóng ngồi đạo tràng chuyển pháp luân vô thượng nối thạnh giống Phật, tùy thuận an trụ nơi Bậc Nhất Thiết Trí, có thể ở nơi Đại Bát-niết-bàn Bát-niết-bàn vô thượng mà Bát-niết-bàn, khiến hàng trời, người thọ trì chánh pháp. Này Vô Biên Tuệ! Nếu các Đại Bồ-tát muốn nhiếp lấy vô lượng công đức thù thắng như vậy, thì ở nơi pháp thậm thâm ấy phải chuyên cần ưa thích và không phóng dật. Lại nữa, này Vô Biên Tuệ! Ta nhớ thuở xưa quá vô lượng a-tăng-kỳ kiếp, lại quá bội số ấy có Đức Phật ra đời hiệu là Siêu Quá Tu-di Quang Vương Như Lai Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Kiếp ấy tên là Thiện trụ. Cõi nước tên là Duyệt ý. Trong kiếp ấy, chúng sinh thọ mạng chẳng hạn lượng được, an ổn giàu đủ, đều an trụ nơi thiện pháp. Vì thế mà kiếp ấy có tên là Thiện trụ. Cõi nước ấy rộng rãi nghiêm sức nhiều thứ đẹp lạ, người thấy đều vui hòa đẹp dạ, hương thơm lan khắp mọi nơi. Vì thế nên quốc độ ấy có tên là Duyệt ý. Trong bốn châu thiên hạ, ba châu đồng rộng tám muôn do-tuần, trong mỗi châu có hai vạn thành. Mỗi thành rộng mười do-tuần. Chỉ có châu Diêm-phù-đề rộng một câu-chi do-tuần, có tám vạn thành, mỗi thành rộng hai mươi do-tuần, những lâu đài tường rào khắp nơi, các thứ y thọ, vị thọ, hoa thọ, quả thọ, bảo đa-la thọ trang nghiêm thành ấp. Trong nước ấy lại có tòa đô thành rộng trăm do-tuần, hai muôn khu vườn bao bọc quanh thành. Trong các khu vườn có những đầm ao đầy nước trong mát, hoa đẹp trái ngọt sum suê, hương thơm lan khắp làm đẹp ý mọi người, chim muông hót kêu hòa nhã. Thuở ấy Đức Phật Siêu Quá Tu-di Quang Vương ngự trong một khu vườn thuyết pháp cho đại chúng. Này Vô Biên Tuệ! Đức Siêu Quá Tu-di Quang Vương Như Lai thọ mười tiểu kiếp. Sau khi Đức Phật ấy diệt độ, chánh pháp trụ thế mãn một tiểu kiếp. Thuở ấy, Đức Phật Siêu Quá Tu-di Quang Vương thuyết pháp bốn hội. Mỗi pháp hội các chúng Thanh văn trụ bậc Hữu học đều có năm trăm câu-chi na-do-tha. Chúng A-la-hán và các Bồ-tát đều có năm mươi câu-chi na-do-tha. Đức Như Lai ấy có hai vị Bồ-tát tên Dũng Mãnh Quân và Dũng Mãnh Lực. Hai vị Bồ-tát ấy đầy đủ thần thông, được Vô sinh nhẫn. Hai vị tiến tới bạch Đức Phật ấy: –Bạch Thế Tôn! Dùng những pháp gì để thành tựu tất cả pháp hải ấn Tam-muội của Đại Bồ-tát? Đức Phật ấy đem cú môn này mà rộng tuyên thuyết. Lúc nói pháp ấy, có mười ngàn Bồ-tát được Vô sinh nhẫn. Hai vị Bồ-tát Dũng Mãnh Quân và Dũng Mãnh Lực chứng tất cả pháp hải ấn Tam-muội và chứng tất cả Tam-muội của Bồ-tát. Do chứng như vậy, hai vị Bồ-tát ấy có thể ở trong tất cả Phật độ hiển hiện thần thông biến hóa, phóng ánh sáng lớn, phát diệu âm thanh tịnh thuyết pháp cho chúng sinh và thành thục được tám câu-chi người hướng đến Vô thượng Bồ-đề. Đức Siêu Quá Tu-di Quang Vương Như Lai thọ ký cho hai vị Bồ-tát ấy quá một trăm kiếp đều sẽ thành Phật. Trong trăm kiếp ấy, mỗi mỗi kiếp đều cúng dường phụng thờ năm trăm Như Lai. Nơi chánh pháp của chư Như Lai ấy, sơ thời, trung thời và hậu thời đều có thể thọ trì làm lợi ích lớn cho chúng sinh. Trong thời gian ấy thường nhất tâm bất loạn, mỗi đời đều thọ hóa sinh, chẳng thoái thất Tam-muội thần biến thuyết pháp độ các chúng sinh. Quá trăm kiếp, hai vị Bồ-tát ấy lại gặp Đức Vô Biên Công Đức Như Lai, cúng dường thân cận, khéo hay du hý vô lượng Tam-muội thần biến giải thoát. Ở chỗ Đức Vô Biên Như Lai, hai vị Bồ-tát ấy có tên Ly Ưu và Thiện Trụ, theo Đức Như Lai chuyển chánh pháp luân, giáo hóa vô lượng, vô số chúng sinh cho an trụ bậc Tam thừa. Đức Như Lai ấy lại thọ ký rằng: “Sau khi ta diệt độ, Ly Ưu sẽ chứng Vô thượng Bồ-đề, hiệu là Vô Biên Biện Tài Như Lai. Sau khi Đức Như Lai này diệt dộ, Thiện Trụ sẽ chứng Vô thượng Bồ-đề hiệu là Tối Thắng Quang Minh Như Lai. Hai Đức Như Lai ấy đồng thọ một kiếp. Cõi nước chứa họp vô lượng công đức.” Này Vô Biên Tuệ! Nếu các Đại Bồ-tát vì tất cả pháp hải ấn Tam-muội thì phải phát lòng ưa thích, khởi đại tinh tấn chẳng tiếc thân mạng, dùng chẳng phóng dật để tu hành. Lúc đó, trong đại chúng lại có Đại Bồ-tát tên là Tuệ Nghóa rời chỗ ngồi tiến lên bạch: –Bạch Thế Tôn! Rất là hy hữu! Thế Tôn vì muốn các Đại Bồ-tát được tất cả pháp trí thiện xảo và được Nhất thiết trí của Như Lai, mà nói tất cả pháp hải ấn Tam-muội. Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát được tất cả pháp hải ấn Tam-muội thì quyết định sẽ được chư pháp lý thể phương tiện thiện xảo, mau đến đạo tràng dùng biển lớn vô biên công đức ấy mà hướng đến Vô thượng Bồ-đề, thường thấy chư Phật siêng tu chánh pháp cùng tăng đồng hàng. Có thể tiêu được sự cúng dường Như Lai Tối Thượng, vượt qua bậc Thanh văn, Bích-chi-phật. Đức Thế Tôn bảo Đại Bồ-tát Tuệ Nghóa: –Đúng như lời ông nói. Này Tuệ Nghóa! Các Đại Bồ-tát được tất cả pháp hải ấn Tam-muội thì được vô lượng công đức thù thắng. Nếu an trụ ở tất cả pháp hải ấn Tam-muội, thì có thể dùng chư pháp lý thể thiện xảo phương tiện quyết định hướng đến Vô thượng Bồ-đề. Này Tuệ Nghóa! Ví như núi Tu-di vương do các chất báu hợp thành, mọc lên từ biển lớn, cao tám muôn bốn ngàn do-tuần đứng sừng sững chói sáng. Cũng vậy, các Đại Bồ-tát do Tam-muội ấy khéo hướng đến phát xuất từ biển lớn tất cả tạng pháp sáng che tất cả, an trụ vô thượng, trong trời, người thế gian rất sáng ngời rực rỡ. Lại như mặt trăng tròn sáng, tinh tú bao quanh. Cũng vậy, các Đại Bồ-tát có thể ở trong tất cả đại chúng trời, người thế gian làm ánh sáng lớn. Này Tuệ Nghóa! Ông xem pháp ấy có ai là chẳng ưa thích, chẳng phát khởi tinh tấn mà lại phóng dật? Chỉ trừ những chúng sinh hạ liệt phước bạc. Nếu các chúng sinh có đại trí tuệ thì có thể thành tựu pháp rộng lớn ấy. Pháp rộng lớn ấy đầy đủ công đức, được các Đại Bồ-tát nhiếp thủ như ta đã nói. Nếu có thể nhiếp thủ được pháp tài rộng lớn ấy thì được sự thị vệ của hàng trời, người và sự hộ niệm của mười phương chư Phật, các Đại Bồ-tát. Đức Thế Tôn bảo Đại Bồ-tát Vô Biên Tuệ: –Này Vô Biên Tuệ! Nếu siêng tu học pháp ấy, các Đại Bồ-tát có thể làm lợi ích lớn cho chúng sinh, trừ hết tất cả sự nghi hoặc, giải tất cả kết sử, dứt bỏ các tập khí, đoạn trừ các phiền não, vượt những tham ái, qua khỏi biển sinh tử, diệt hẳn tối tăm, rời hẳn kinh sợ, mau dùng thiện xảo biết được tâm của tất cả chúng sinh. Nói lời ấy xong, Đức Thế Tôn phóng ánh sáng lớn. Ánh sáng ấy chiếu khắp vô số thế giới, sáng hơn cả ánh sáng của tất cả mặt trời, mặt trăng. Phóng ánh sáng ấy rồi, Đức Phật lại dạy: –Này Vô Biên Tuệ! Các Đại Bồ-tát nếu có thể siêng tu hải ấn Tam-muội, cũng hiện đại thần biến, phóng ánh sáng lớn, làm Đại sư tử hống diễn thuyết pháp ấy, vượt qua khỏi ba cõi, làm đại chiếu minh như ta ngày nay không khác. Đại Bồ-tát Vô Biên Tuệ bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Ngưỡng mong Đức Như Lai gia trì pháp ấy. Đời mạt pháp, nếu có chúng sinh nào nghe tên pháp ấy sẽ được vô lượng, vô biên công đức. Bấy giờ vì muốn gia trì pháp môn ấy, Đức Thế Tôn lại phóng quang minh, lấy một ngón tay làm chấn động khắp cõi đại thiên khiến các chúng sinh được đại an lạc. Liền đó trong pháp hội, hàng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già rải hoa trời, y trời. Các kỹ nhạc trời đồng thời hòa tấu. Vô lượng chư Thiên tay cầm y trời phất phới đầy trong hư không đồng thanh xướng rằng: –Lạ thay, lạ thay! Cảnh giới chư Phật chẳng thể nghó bàn. Nếu có ai thọ trì pháp ấy thì kham thọ sự cung kính lễ lạy của tất cả chúng sinh. Bấy giờ Đức Thế Tôn lại bảo Đại Bồ-tát Vô Biên Tuệ: –Này Vô Biên Tuệ! Thời kỳ mạt thế, chúng sinh bạc phước chẳng được nghe giáp trụ trang nghiêm và Tam-muội trang nghiêm ấy. Nếu có chúng sinh nào có phương tiện khéo léo nhiếp đại tư lương mới được nghe. Nếu ở nơi pháp ấy, ai siêng tu hành thì được ba đời chư Phật Thế Tôn nhiếp thọ. Này Vô Biên Tuệ! Thời kỳ đầy dẫy sự sợ hãi trong đời mạt pháp, pháp môn này ta phó chúc cho các ông. Ta ở trong vô số câu-chi na-do-tha kiếp chứa họp các tạng pháp bảo vô thượng đầy đủ công đức vô biên an lạc, hiện nay các ông đều đã được, tất cả khổ uẩn các ông đều đã xả bỏ. Các ông dùng biển lớn vô biên công đức để chóng đến Vô thượng Bồ-đề. Đại Bồ-tát Vô Biên Tuệ cùng năm trăm Đại Bồ-tát và các cư só do thương chủ Hiền Hộ làm dẫn đầu cùng đảnh lễ chân Đức Phật, bạch rằng: –Bạch Thế Tôn! Chúng con tùy theo năng lực mà thọ trì pháp đại Bồ-đề của Đức Như Lai để làm lợi ích lớn cho các chúng sinh đời mạt pháp. Các Đại Bồ-tát đều rời chỗ ngồi đem những hoa đẹp rải trên Đức Phật, cởi diệu y trên thân dâng lên cúng dường mà bạch rằng: –Bạch Thế Tôn! Chúng con đem căn lành này hồi hướng cho tất cả chúng sinh. Nguyện cho tất cả chúng sinh đều được viên mãn pháp phần Bồ-đề, thành tựu Nhất thiết chủng trí của Như Lai. Nguyện cho chúng sinh đời mạt pháp đều thành tựu tất cả căn lành. Lúc ấy, vì muốn tất cả Đại Bồ-tát hoan hỷ, Đức Thế Tôn nói kệ rằng: Vì tất cả chúng sinh Phát khởi lợi ích lớn Trì pháp Phật Bồ-đề Pháp vương sư tử hống. Trong đời mạt pháp sau Nếu những người cầu pháp Nghe pháp rộng lớn ấy Tất cả được an lạc. Như ta đã từng nói Nếu người thấy pháp ấy Nghe được Khế kinh ấy Thì được tùy ý thích. Nếu người có trí tuệ Tu tập phương tiện khéo Nghe pháp tối thượng ấy Thân tâm rất vui mừng. Nếu ở pháp hội này Hiện tiền thấy ta nói Được nghe pháp ấy rồi Khéo có thể ưa thích. Trong đời mạt pháp sau Sinh phước lớn cho ông Vô số, vô biên lượng Rộng lớn không ngằn mé. Trong đời mạt pháp sau Nếu ai thọ trì được Pháp của Pháp vương nói Được Đức Phật nhiếp thọ. Trong đời mạt pháp sau Trì pháp Phật Bồ-đề Chính là người tối hậu Trì pháp vô lượng Phật. Lúc Đức Thế Tôn nói pháp ấy rồi, có vô lượng Bồ-tát được Vô sinh nhẫn, vô lượng chúng sinh thành thục căn lành. Đại Bồ-tát Vô Biên Tuệ và các Đại Bồ-tát, tất cả thế gian, Trời, Người, A-tu-la… nghe lời dạy của Đức Phật đều rất vui mừng tín thọ phụng hành.  KINH ĐẠI BẢO TÍCH <卷 id="86423702">QUYỂN 26 Hán dịch: Đời Lương, Tam tạng Pháp sư Mạn-đà-la. <詞 id="86423703">Pháp hội 8: PHÁP GIỚI THỂ TÁNH VÔ PHÂN BIỆT (Phần 1) Tôi nghe như vầy: Một thời Đức Phật ở tại nước Xá-vệ trong vườn Kỳ-thọ Cấp cô độc cùng với tám ngàn vị đại Tỳ-kheo. Có một muôn hai ngàn Đại Bồ-tát từ vô lượng cõi Phật đến. Lại có ba muôn hai ngàn vị Thiên tử, tất cả đều hướng về Đại thừa. Trong đại chúng ấy có Đại Bồ-tát tên là Văn-thù-sư-lợi Đồng tử và vị Thiên tử tên là Bảo Thượng. Lúc ấy Thiên tử Bảo Thượng suy nghó: “Hôm nay nếu Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi thuyết pháp, làm cho cung ma đều tối tăm mất cả oai đức, khiến ma Ba-tuần lo sầu khiến chúng ma khéo điều phục, những kẻ tăng thượng mạn thì phá trừ tăng Thượng mạn, người tự ghi nhớ sở đắc khéo tu hành thì được quả Sa-môn, người đã được quả lại càng tăng thượng, khiến chủng tử Phật, Pháp và Tăng nối luôn chẳng dứt, khiến nhiều chúng sinh phát tâm Bồ-đề làm cho Bồ-đề của Đức Như Lai chứa nhóm từ vô lượng a-tăng-kỳ kiếp được còn lâu. Lúc Đức Như Lai tại thế hoặc sau khi diệt độ thường được nghe pháp ấy tùy theo thừa của họ hướng tới chóng được diệt độ.” Biết tâm niệm của Thiên tử Bảo Thượng, Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi: –Văn-thù-sư-lợi! Ở trong đại chúng này, ông nên tuyên nói một ít pháp. Nay trong đại chúng này muốn được nghe pháp nơi ông. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Con nên nói pháp gì? Đức Phật dạy: –Ông nên nói về pháp giới thể tánh nhân duyên. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch: –Bạch Thế Tôn! Tất cả pháp giới là pháp giới thể tánh. Ra ngoài pháp giới không có được nghe. Sao Thế Tôn bảo nhân nơi pháp giới mà nói pháp? Đức Phật dạy: –Này Văn-thù-sư-lợi! Chúng sinh kiêu mạn nếu nghe pháp ấy tất sinh lòng kinh quái. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch: –Bạch Thế Tôn! Thể tánh pháp giới không có kinh quái. Sự kinh quái ấy tức là thể tánh pháp giới. Xá-lợi-phất hỏi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi: –Thưa Tôn giả Văn-thù-sư-lợi! Nếu tất cả pháp đều là thể tánh pháp giới thì chúng sinh chỗ nào có ô nhiễm, có thanh tịnh, vì thể tánh pháp giới không có nhiễm tịnh? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: –Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Các chúng sinh ấy thân kiến điên đảo chấp ngã và ngã sở. Hàng phàm phu ấy phát khởi ngã tưởng, chấp trước ngã tưởng và chấp trước tha tưởng mà phát khởi tâm và tâm sở. Những tâm và tâm sở ấy tạo tác các nghiệp thiện hoặc các nghiệp bất thiện. Do hành nghiệp ấy làm nhân mà các chúng sinh ấy có được quả báo. Nếu đã có sinh thì có nhiễm ô. Chính nhiễm ô ấy là thể tánh pháp giới. Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Nếu biết nhiễm ô là thể tánh pháp giới thì gọi là bạch tịnh. Nhưng nơi Đệ nhất nghóa không có nhiễm ô, không có hoặc pháp nhiễm hoặc pháp tịnh. Lúc Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói pháp ấy có năm trăm Tỳ-kheo dứt hết phiền não, được tâm vô lậu. Xá-lợi-phất nói với Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi: –Pháp giới được nói ấy không có sai lầm. Bồ-tát nói pháp ấy rồi có hơn trăm Tỳ-kheo đều dứt phiền não, được tâm vô lậu. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: –Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Pháp giới ấy, có phải trước kia bị trói buộc mà nay được giải thoát chăng? Xá-lợi-phất nói: –Thưa Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Pháp giới ấy chẳng phải trước bị trói buộc mà nay được giải thoát. Văn-thù-sư-lợi nói: –Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Chư Tỳ-kheo ấy, nay ở chỗ nào tâm được giải thoát? Xá-lợi-phất nói: –Thưa Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Hàng Thanh văn điều phục như vậy rất đông, đều dứt phiền não được tâm giải thoát. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: –Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Đại đức có phải là đệ tử Thanh văn của Đức Phật chăng? Xá-lợi-phất nói: –Đúng như vậy! Tôi là đệ tử Thanh văn của Đức Phật. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: –Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Có phải Đại đức dứt phiền não mà được tâm vô lậu giải thoát chăng? Xá-lợi-phất nói: –Tôi được tâm vô lậu giải thoát. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: –Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Đại đức dùng những tâm nào để được giải thoát? Là tâm quá khứ, tâm vị lai hay tâm hiện tại? Thưa Đại đức! Tâm quá khứ đã diệt, tâm vị lai chưa đến, tâm hiện tại chẳng an trụ. Đại đức dùng tâm nào để được giải thoát? Xá-lợi-phất nói: –Thưa Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Chẳng phải tâm quá khứ được giải thoát, chẳng phải tâm vị lai, tâm hiện tại được giải thoát. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: –Thưa Đại đức! Sao lại nói tâm được giải thoát? Xá-lợi-phất nói: –Thưa Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Ở nơi Thế đế mà nói là tâm được giải thoát. Trong Đệ nhất nghóa đều không có tâm trói buộc, tâm giải thoát. Văn-thù-sư-lợi nói: –Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Có phải Đại đức muốn khiến thể tánh pháp giới có Thế đế và Đệ nhất nghóa đế chăng? Xá-lợi-phất nói: –Thưa Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Thể tánh pháp giới không có Thế đế và Đệ nhất nghóa đế. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: –Thưa Đại đức! Sao Đại đức nói ở nơi Thế đế tâm được giải thoát. Xá-lợi-phất nói: –Thưa Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Phải chăng không có tâm được giải thoát? Văn-thù-sư-lợi nói: –Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Nếu tâm có trong, ngoài và giữa thì có được giải thoát. Nhưng tâm không có trong, ngoài và giữa nên không có trói buộc và giải thoát. Lúc đó trong đại chúng có hai trăm Tỳ-kheo nghe lời của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói liền rời chỗ ngồi nói: –Nếu không có giải thoát, không có tâm giải thoát, sao chúng tôi lại xuất gia tu hành? Nếu không có xuất thế sao lại phải tu hành? Nói thô ngữ ấy xong, hai trăm Tỳ-kheo bỏ chúng mà đi. Muốn điều phục nhóm Tỳ-kheo ấy, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi hóa ra một Tỳ-kheo đón trước đường. Nhóm Tỳ-kheo ấy đến chỗ hóa Tỳ-kheo hỏi: –Đại đức từ đâu đến đây? Hóa Tỳ-kheo nói: –Thưa chư Đại đức! Tôi ở nơi chỗ nói của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi không hiểu, không biết, chẳng tin, chẳng hướng.Vì thế nên tôi bỏ chúng mà đi đến đây. Nhóm Tỳ-kheo ấy nói: –Chúng tôi cũng vậy! Vì chẳng hiểu, chẳng biết, chẳng tin, chẳng hướng nên chúng tôi bỏ chúng mà đi đến đây. Hóa Tỳ-kheo hỏi: –Chư Đại đức ở trong chỗ nói của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi có chỗ nào không thích hợp, trái nghịch ý các vị mà các vị bỏ đi? Nhóm Tỳ-kheo ấy nói: –Thưa Đại đức! Vì Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói không có hướng quả, không có chứng quả lại không có giải thoát. Chúng tôi tự nghó nếu không có hướng quả, không có chứng quả, không có giải thoát thì có nghóa gì để chúng tôi tu hành phạm hạnh, nếu không có xuất thế cớ chi lại tu hành? Vì nghó như vậy mà chúng tôi bỏ đi. Hóa Tỳ-kheo hỏi: –Có phải vì không hiểu, vì phỉ báng, vì mắng nhiếc mà chư Đại đức bỏ đi chăng? Nhóm Tỳ-kheo ấy nói: –Thưa Đại đức! Chúng tôi không có phỉ báng mắng nhiếc. Chỉ vì chẳng thấy giải thoát mà chúng tôi bỏ đi. Hóa Tỳ-kheo liền khen ngợi: –Lành thay! Lành thay! Thưa chư Đại đức! Nay chúng ta nên cùng nhau suy luận. Nếu chẳng phải mắng nhiếc thì chẳng phải tranh tụng. Chẳng phải tranh tụng là pháp Đệ nhất nghóa Sa-môn. Tâm của chư Đại đức là tướng dạng gì? Là màu xanh, vàng, đỏ, trắng hay màu tím, màu pha lê? Là thật, là chẳng thật? Là thường, là vô thường? Là sắc, là phi sắc? Nhóm Tỳ-kheo ấy nói: –Thưa Đại đức! Tâm chẳng phải sắc, chẳng thấy được, không có hình bóng cũng không có xúc đối, không nơi chỗ, không chỉ bày. Hóa Tỳ-kheo nói: –Thưa chư Đại đức! Tâm đã chẳng phải sắc, không thấy được, không có hình bóng cũng không xúc đối, không nơi chỗ, không chỉ bày. Nhưng tâm ấy ở trong, ở ngoài hay ở chính giữa của trong ngoài ư? Nhóm Tỳ-kheo ấy nói: –Không phải vậy! Hóa Tỳ-kheo nói: –Thưa chư Đại đức! Tâm các vị đã không hình sắc, không có xúc đối, không nơi chỗ, không chỉ bày, chẳng phải ở trong, ngoài và chính giữa, mà nó có chánh thành tựu không? Nhóm Tỳ-kheo ấy nói: –Không phải vậy. Hóa Tỳ-kheo nói: –Thưa chư Đại đức! Nếu tâm chẳng thật, không thành tựu, thì thế nào giải thoát? Nhóm Tỳ-kheo ấy nói: –Chẳng phải vậy. Hóa Tỳ-kheo nói: –Thưa chư Đại đức! Vì nghóa ấy nên Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói thể tánh pháp giới không có nhiễm tịnh. Thưa chư Đại đức! Vì các vị là phàm phu điên đảo chấp ngã và ngã sở mà phát khởi tâm, đi trong các cảnh giới mà sinh khởi tâm phan duyên. Đây là tất cả những pháp phan duyên sinh diệt, chẳng trụ pháp biến đổi. Nếu tâm duyên nơi xuất gia thọ giới Cụ túc, tu đạo đắc quả thì thể tánh của tâm ấy rỗng không chẳng có thật, chỉ từ vọng tưởng phát khởi. Nếu là vọng tưởng chẳng thật thì là chẳng sinh, chẳng trụ, chẳng diệt. Nếu đã là chẳng phải sinh, trụ, diệt thì không có trói buộc cũng không có giải thoát, không hướng, không được quả. Vì nghóa ấy nên Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói thể tánh pháp giới không nhiễm, không tịnh, cũng không hướng, không chứng, không có giải thoát. Nghe hóa Tỳ-kheo giải bày, nhóm Tỳ-kheo ấy được vô lậu giải thoát. Được giải thoát rồi, nhóm Tỳ-kheo ấy liền trở về chỗ Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, đều tự cởi y Uất-đa-la-tăng dâng cúng cho Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi mà thưa: –Thưa Tôn giả Văn-thù-sư-lợi! Tôn giả khéo thủ hộ chúng tôi. Chúng tôi vì chẳng tin hướng pháp điều phục thậm thâm ấy mà rời lìa bỏ đi. Tu-bồ-đề hỏi: –Chư Đại đức! Các vị được những gì, giác ngộ những gì, mà đều tự cởi y Uất-đa-la-tăng để cúng dường Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi? Nhóm Tỳ-kheo ấy nói: –Thưa Đại đức Tu-bồ-đề! Nay chúng tôi không được, không giác, nên chúng tôi cúng dường Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi. Thưa Đại đức Tu-bồ-đề! Trước đây vì có ý tưởng có chỗ đắc nên chúng tôi bỏ chúng mà đi. Nay chúng tôi đã bỏ được ý tưởng có chỗ đắc nên chúng tôi trở lại. Tu-bồ-đề nói: –Cớ sao các vị nói như vậy? Nhóm Tỳ-kheo ấy nói: –Thưa Đại đức Tu-bồ-đề! Chấp trước nơi danh là lay động ái trước. Nếu người có lay động, có ái trước thì không hướng, không đắc. Thưa Đại đức Tu-bồ-đề! Nếu không hướng đắc thì ở chỗ ấy có thể dứt được tất cả lay động, ái trước. Tu-bồ-đề nói: –Ai điều phục các vị? Nhóm Tỳ-kheo ấy nói: –Thưa Đại đức Tu-bồ-đề! Người không có sở đắc, không có sở giác là người điều phục chúng tôi. Người ấy chẳng sinh cũng chẳng diệt độ, chẳng phải thiền định cũng chẳng loạn tâm. Tu-bồ-đề nói. –Ai điều phục các vị? Nhóm Tỳ-kheo ấy nói: –Trưởng lão nên hỏi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi. Bấy giờ Tôn giả A-nan hỏi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi: –Các vị Tỳ-kheo ấy được ai điều phục? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: –Thưa Đại đức A-nan! Người không có các ấm, giới, nhập, cũng chẳng phải phàm phu, chẳng phải Thanh văn, chẳng phải Duyên giác, chẳng phải Bồ-tát, chẳng phải Như Lai, chẳng phải tương ưng với thân, chẳng phải tương ưng với ngữ, chẳng phải tương ưng với ý. A-nan nói: –Thưa Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói ai vậy? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: –Thưa Đại đức A-nan! Nếu Đức Như Lai biến hóa ra hóa nhân, thì hóa nhân ấy có tương ưng chăng? A-nan nói: –Thưa Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Hóa nhân không có pháp gì để có thể cùng tương ưng hay chẳng tương ưng. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: –Thưa Đại đức A-nan! Thể tánh tất cả pháp là hóa. A-nan nói: –Theo chỗ Bồ-tát nói, thể tánh tất cả các pháp là hóa? Văn-thù-sư-lợi nói: –Thưa Đại đức A-nan! Hóa nhân ấy đã điều phục các Tỳ-kheo ấy. Như hóa nhân điều phục, tất cả Thanh văn cũng như vậy. Điều phục như vậy chính là điều phục. Nếu người chẳng hiểu điều phục như vậy, nên biết đó là người tăng thượng mạn. A-nan nói: –Thưa Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Tỳ-kheo tăng thượng mạn ấy có thể biết được chăng? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: –Thưa Đại đức A-nan! Giới tụ thanh tịnh tức là lay động, nên biết đó là tăng thượng mạn. Định tụ, tuệ tụ, giải thoát tụ và giải thoát tri kiến tụ thanh tịnh tức là lay động, nên biết đó là tăng thượng mạn. Nếu suy nghó tôi được tôi chứng là lay động vọng tưởng, nên biết đó là tăng thượng mạn. Kinh sợ thân kiến, cũng không như hư không, nhập Nhất đạo cũng không, lời nói trên đây là chánh thuyết, nên biết đó là tăng thượng mạn. Nếu Tỳ-kheo nói thân kiến là không cho đến nhập Nhất đạo không, không như vậy là bình đẳng không, nên biết đó là tăng thượng mạn. Vì sao? Thưa Đại đức A-nan! Thân kiến khác với không, vì khác nên thân kiến tức là không. Nói không cùng với khác, chẳng nói khác tức là không. Lại nữa, thưa Đại đức A-nan! Nếu có kinh sợ vô minh, có ái hỷ, minh giải thoát, nên biết đó là tăng thượng mạn. Vì sao? Vì nếu có hai tướng thì chẳng phải giải thoát. Thưa Đại đức A-nan! Nếu có Tỳ-kheo kinh sợ tham, sân, si mà mừng ba giải thoát, sợ bốn điên đảo mà mừng bốn tướng, sợ năm triền cái mà mừng năm Căn, sợ sáu nhập mà mừng sáu phép thần thông, sợ bảy thức trụ mà mừng bảy pháp Trợ đạo, sợ tám tà mà mừng tám Thánh đạo, sợ chiùn chỗ ở của chúng sinh mà mừng chiùn Thứ đệ định, sợ mười bất thiện mà mừng mười vô lậu thiện, sợ hữu vi giới mà mừng pháp vô vi, nên biết đó là kẻ tăng thượng mạn. Vì sao? Vì tất cả thứ ấy đều là lay động, đều là hý luận. Thưa Đại đức A-nan! Nếu có lay động, nếu có hý luận thì tâm liền tự cao, tự tại nhiếp lấy, dựa theo vọng tưởng, bằng lòng với chỗ thành tựu. Những thứ như vậy gọi là tự tại. Vì tự tại nên sinh ra kiêu mạn. Tỳ-kheo như vậy thì gọi là có tăng thượng mạn. Vì sao? Thưa Đại đức A-nan! Sao gọi là hữu vi giới không? Đó là đem không vào không. Nên biết Tỳ-kheo ấy có tăng thượng mạn. A-nan hỏi: –Thưa Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Thế nào là Tỳ-kheo không tăng thượng mạn? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: –Thưa Đại đức A-nan! Nếu có Tỳ-kheo bên trong tịch tónh thì bên ngoài cũng tịch tónh. Tất cả cảnh giới bình đẳng hay chẳng bình đẳng, có hay không, hữu vi hay vô vi đều không có lay động cũng không có vọng tưởng, không chẳng vọng tưởng; không hai không một; không trang nghiêm, không chẳng trang nghiêm; chẳng có hý luận, chẳng chấp trước chỗ thấy biết ban đầu, đối với tất cả pháp đều bình đẳng, cũng không có bình đẳng, không chẳng bình đẳng; không có một pháp có thể làm được bình đẳng, chẳng bình đẳng. Chẳng động, chẳng lay như vậy thì không có vọng tưởng, không chẳng vọng tưởng, lại chẳng chấp trước, cũng chẳng thấy vọng tưởng, huống là hướng đến giải thoát được quả trí chứng, không bao giờ có lay động. Thưa Đại đức A-nan! Tỳ-kheo như vậy không có tăng thượng mạn cũng không hý luận, xa tướng tự tha, bỏ những ái trước, vì tất cả ái trước chẳng phải ái trước. Rời lìa những phan duyên giác quán tư duy, tư duy giải thoát, giải thoát hướng, không có người nhận lấy, thảy đều là nhân tịch tónh, duyên tịch tónh. Ngã thân và ngã sở thân ấy qua đến bờ kia, chẳng thấy có pháp gì là giải hướng đoạn và chứng. Nếu có Tỳ-kheo tu hành như vậy thì không tăng thượng mạn, vì bình đẳng rỗng không. Biết rõ tất cả các pháp bình đẳng không có thượng hạ, hoặc thiện bất thiện, nên làm chẳng nên làm, hữu lậu, vô lậu, thế gian, xuất thế gian, hữu vi, vô vi, những pháp thượng hạ động lay như vậy không gì chẳng phải là vọng tưởng cũng chẳng thấy biết. Các pháp như vậy đều thấy bình đẳng, dụ như hư không. Thưa Đại đức A-nan! Nếu có Tỳ-kheo hiểu rõ như vậy thì gọi là thiện giải thoát. Tỳ-kheo ấy không tăng thượng mạn. Vì nghóa ấy nên Đức Như Lai nói: “Nếu có Tỳ-kheo hiểu rõ các pháp bình đẳng dụ như hư không, nếu động chạm hư không thì không bị chấp trước nơi xúc, pháp của Sa-môn cũng như vậy. Lúc Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói lời trên đây, trong đại chúng có hai trăm Tỳ-kheo đều dứt hết phiền não, được pháp vô lậu giải thoát. Bấy giờ Thiên tử Bảo Thượng hỏi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi: –Thế nào là Bồ-tát không tăng thượng mạn? Xin Bồ-tát cứ như thật mà nói cho. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: –Này Thiên tử! Nếu có Bồ-tát, Nhất thiết trí tâm, Vô đẳng đẳng tâm, Tam giới tối thắng tâm, vượt qua các hàng Thanh văn và Duyên giác dùng các cảnh giới ngoài để an trụ tâm, nhưng cũng tu hành tất cả căn lành, vì tăng thượng vì giáo hóa chúng sinh, vì nhiếp lấy chánh pháp để nói cho chúng sinh khác và người khác về Nhất thiết trí tâm, tâm ấy như thật hiểu bản thể bình đẳng, theo đúng như chỗ nghe thể tánh của tâm mình mà hiểu biết thể tánh của tất cả chúng sinh. Vì hiểu biết thể tánh của tất cả các pháp nên hiểu biết thể tánh của tất cả căn lành. Vì hiểu biết thể tánh của tất cả thiện căn nên hiểu biết và diễn thuyết thể tánh của Bồ-tát. Đó là Bồ-tát như thật nói thọ ký. Lại nữa, này Thiên tử! Nếu Bồ-tát bố thí thì tùy chỗ thí cho, tùy chỗ nguyện thí và những bố thí khác tất cả đều vô ngại. Bố thí không chỗ y cứ, chẳng chấp trước, chẳng quan niệm, chẳng hay biết. Vì chẳng hay biết nên tức là không. Nếu có thể được như vậy thì hiểu biết thể tánh bố thí. Vì hiểu biết thể tánh bố thí nên hiểu biết thể tánh như thật. Vì hiểu biết thể tánh như thật nên hiểu biết thể tánh các pháp. Vì hiểu biết thể tánh các pháp nên hiểu biết thể tánh tất cả các chúng sinh. Vì hiểu biết thể tánh tất cả chúng sinh nên nói thể tánh Bồ-tát. Này Thiên tử Bảo Thượng! Đây gọi là vì Bồ-tát bố thí thanh tịnh nên nói thọ ký. Lại nữa, này Thiên tử! Nếu có Bồ-tát hiểu biết thân thì hiểu biết giới, hiểu biết khẩu thì hiểu biết giới, hiểu biết ý thì hiểu biết giới, hiểu biết thân và khẩu thì hiểu biết quan niệm tịch tónh. Vì hiểu biết quan niệm tịch tónh nên hiểu biết chúng sinh tịch tónh. Vì hiểu biết chúng sinh tịch tónh nên hiểu biết tất cả pháp tịch tónh. Vì hiểu biết tất cả pháp tịch tónh nên hiểu biết như thật tế tịch tónh. Vì hiểu biết như thật tế tịch tónh nên được pháp tịch tónh, nhân tịch tónh, duyên tịch tónh. Tùy theo chỗ được nghe tất cả các pháp mà có thể tuyên thuyết tịch tónh. Này Thiên tử! Đây gọi là vì Bồ-tát giới thanh tịnh nên như thật nói thọ ký vậy. Lại nữa, này Thiên tử! Nếu có Bồ-tát biết pháp tánh rốt ráo là không, biết pháp tánh rốt ráo tự tại, đối với các chúng sinh có thể nhẫn nhịn những sự ác độc mà tâm chẳng sinh khởi quan niệm nhẫn nhịn, chẳng nghó sự ngoài, chẳng trái chúng sinh, hay diệt tất cả điều ác. Như tánh của các chúng sinh, thể tánh của nhẫn cũng vậy. Như thể tánh của nhẫn, tánh Bồ-đề cũng vậy. Như tánh Bồ-đề, thể tánh tất cả pháp cũng vậy. Như biết thể tánh tất cả pháp như thật, pháp chân như cũng vậy. Như chỗ nghe đồng tận pháp tánh, pháp tánh giới rốt ráo không. Pháp tánh rốt ráo không, nói đó là hành thuận nhẫn. Đây gọi là Bồ-tát chân thật tịnh nhẫn nói thọ ký. Lại nữa, này Thiên tử! Bồ-tát biết thận trọng tất cả pháp hành rời lìa những tư duy, không có những trang nghiêm mà thành tựu hạnh xả tiến. Như có chỗ làm cũng không chỗ làm, chỗ biết vững chắc có thể rời lìa tất cả. Trong thì tánh tịch tónh, ngoài thì hóa độ chúng sinh. Vì biết tinh tấn tịch tónh nên Bồ-đề tịch tónh. Vì biết Bồ-đề tịch tónh nên biết tất cả các pháp tịch tónh. Vì biết các pháp tịch tónh nên biết như thật tế tịch tónh, như pháp đã được nghe. Vì tánh tinh tấn tịch tónh nên tất cả đều có thể tuyên thuyết. Đây gọi là Bồ-tát thanh tịnh tinh tấn như thật nói thọ ký. Lại nữa, này Thiên tử! Nếu Bồ-tát nhập thiền chư pháp bình đẳng không tăng giảm thì do sức thiền mà tâm an trụ. Vì tâm an trụ nên thức không chỗ trụ. Vì thức không chỗ trụ nên bảy giác tâm bình đẳng. Vì bảy giác tâm bình đẳng nên được thiền định bình đẳng. Vì được thiền định bình đẳng nên biết Bồ-đề bình đẳng. Vì biết Bồ-đề bình đẳng nên biết tất cả chúng sinh bình đẳng. Vì biết tất cả chúng sinh bình đẳng nên biết các pháp bình đẳng. Nếu biết các pháp bình đẳng như vậy thì tùy chỗ pháp được nghe có thể tuyên thuyết các pháp thể tánh bình đẳng. Đây gọi là Bồ-tát thanh tịnh thiền định như thật nói thọ ký. Lại nữa, này Thiên tử! Nếu có Bồ-tát Tuệ nhãn thanh tịnh thì thấy biết như thật, với tất cả pháp, tùy thấy pháp nào đều không chỗ thấy, không có động lay, được trí không động, không hành, không nhân, không duyên, hành, cũng chẳng hành các pháp oai nghi, cũng chẳng phải chẳng hành. Chẳng hành nhân duyên biết các pháp bình đẳng chẳng cứu chẳng hành. Vì sao? Nếu chẳng hành là không phân biệt, dứt diệt các vọng tưởng hy vọng tham trước. Đó là Bồ-tát rời lìa các sở hữu. Bồ-tát cũng hành tất cả chỗ hành của chúng sinh, vì muốn giáo hóa họ, vì muốn chứa họp tất cả pháp trợ Bồ-đề, vì nhiếp thủ chánh pháp, vì chẳng dứt mất giống Tam bảo. Chỗ sở hành của Như Lai, nơi thể tánh thanh tịnh của tất cả pháp không có phân biệt. Vì dùng thể tánh thanh tịnh Bát-nhã ấy nên biết Bồ-đề thể tánh thanh tịnh. Vì biết Bồ-đề thể tánh thanh tịnh nên biết chúng sinh thể tánh thanh tịnh. Vì biết chúng sinh thể tánh thanh tịnh nên biết thể tánh thanh tịnh của tất cả pháp. Vì biết thể tánh thanh tịnh của tất cả pháp nên ở nơi thể tánh của các pháp được như thật trí. Vì được như thật trí nên tùy sự được nghe là pháp giới tánh tuyên nói vô phân biệt. Đây gọi là Bồ-tát tuệ nhãn thanh tịnh như thật nói thọ ký. Lại nữa, này Thiên tử Bảo Thượng! Bồ-tát quán thân, hành Thân niệm xứ, biết quá khứ thân không có biên tế, biết vị lai thân không có hướng đến, biết thân hiện tại như cỏ cây, ngói đá, tường vách. Nếu có thể quán thân, thân hành như vậy thì thể tánh si hành của thân tịch tónh, tư duy đồng hành cũng không phát khởi, chẳng tư duy chẳng khởi tự tại. Đây gọi là rời lìa ngã, thức không chỗ trụ, tu thân niệm xứ hành, cũng không có pháp tu hành được, cũng chẳng phải chẳng tu hành. Biết tất cả pháp không có thể tánh, chẳng phải chẳng có tánh. Quán thân như vậy mà tu thân hành. Quán tâm như huyễn hóa, biết tâm như tiếng vang, biết tâm như thật, thọ vui chẳng luyến, thọ khổ chẳng khổ, thọ chẳng vui khổ chẳng mất chánh niệm, chẳng chấp vô minh, rời lìa thọ, chẳng bị thọ kéo dắt. Đây gọi là như thật thấy biết Thọ niệm xứ. Nếu có thể quán thọ như vậy, hành giả ở nơi thọ, tâm không sở hành, tâm chẳng an trụ. Tất cả tâm ấy cũng chẳng buông bỏ, tâm Bồ-đề cũng chẳng quên mất, cũng chẳng xa rời. Đây gọi là quán tâm, thực hành Tâm niệm xứ. Khéo biết nơi pháp, thấy pháp, hành pháp, không niệm, không tư duy, nhập vào pháp tánh không có thân, thọ và tâm, chẳng phải quán pháp tướng phát khởi kiến hành nhập vào pháp tánh. Đây gọi là quán pháp, thực hành Pháp niệm xứ. Thể tánh của tất cả pháp hòa hợp, tụ hợp không có vật như hư không. Như sự được nghe, không tưởng niệm không tư duy tự nhiên thuyết Pháp niệm xứ. Đây gọi là biết rõ tịnh Pháp niệm xứ nói thọ ký. Lại nữa, này Thiên tử Bảo Thượng, Bồ-tát ấy tâm Nhất thiết trí được tự tại, như chỗ giáo hối chánh an trụ chẳng bố thí, chẳng loạn động, chẳng thất niệm; nơi tất cả căn lành ban đầu phát khởi, tâm vô cấu hiện hành, tùy chỗ sở hành đều xả được tất cả, quở tâm phạm giới, chẳng nương tựa nơi giới, nhẫn không tranh cãi thân, khẩu, ý đối với chúng sinh, chẳng có tâm sân hận, chẳng phát khởi tinh tấn theo Thanh văn và Duyên giác thừa, chẳng tưởng niệm tư duy tất cả pháp lành, chẳng nương vào các thiền định Thứ đệ, tâm không sở hành, chẳng thấy hành ác kiến chấp, chẳng hành các pháp. Nhập vào tất cả pháp như chư Thánh. Nơi các cảnh giới đều không sở hành. Dù gần chẳng phải Thánh mà thân, khẩu, ý nghiệp chưa bao giờ bị quở trách. Chẳng vì tin mà cầu pháp lành. Độc hành không có bạn. Muốn tự mình vượt qua thế gian, hành hạnh tinh tấn. Dứt hẳn tham dục, sân hận, ngu si, tâm không phiền não. Vì chẳng phá giới nên cũng chẳng thân cận kẻ hành ác hạnh. Không có dua vạy, vì nội hạnh thanh tịnh. Không nói lời tán loạn, vì khẩu nghiệp thanh tịnh. Không mong cầu, vì biết đủ nơi của đã có. Chẳng phải là kẻ sai khiến, vì chẳng phải sống tà mạng. Là người không chứa nhóm, vì tùy chỗ có được đều tự biết đủ. Là người không hy vọng, vì rời lìa ham muốn ba cõi. Là người tri túc, vì rời lìa sự tìm cầu sái quấy. Là người tịch tónh, vì hiểu tất cả pháp đều tịch tónh. Là người hiện sân, si, vì bỏ hạnh thế gian. Là người không hý luận, vì dứt các hý luận. Là người chẳng sinh trở lại, vì dứt ái dục, sân và si. Là người tham tìm hiểu chánh pháp, vì điều phục kiêu mạn. Là người hiểu biết dễ, vì khéo điều tâm. Là người khéo thủ hộ, vì thủ hộ giới tụ. Là người khéo giải thoát, vì tuệ tụ thanh tịnh. Là người chẳng xả bỏ, vì hành Thánh chủng. Là người không thoái chuyển, vì phát tâm Bồ-đề trọn vẹn rốt ráo. Là người không có sở dụng, vì tất cả thế hạnh. Là người không tránh tụng, vì bình đẳng tất cả chúng sinh. Là người khéo tự thủ hộ, vì thủ hộ kẻ khác. Là người điều phục tự tâm, vì chẳng tìm lỗi người khác. Là người lìa các hy vọng, vì hộ giới thanh tịnh. Là người thuyết pháp rộng, vì không lẫn tiếc. Là người ưa thủ hộ, vì thủ hộ tâm tất cả chúng sinh. Là người mới phát tâm, vì họp tất cả thiện pháp. Là người không có dị hạnh, vì được một vị đối với tất cả pháp. Là người chẳng lay động, vì dứt các lay động. Là người chẳng xem dòng họ, vì giáo hóa chúng sinh. Là người bình đẳng chúng sinh, vì nhiếp thủ tất cả chúng sinh. Là người ban đầu quán không, vì tất cả pháp. Là người điều phục các kiến chấp, vì khéo giáo hóa. Là người không có tưởng và hành, vì điều phục các chúng sinh tưởng và hành. Là người biết vô nguyện, vì sở nguyện đầy đủ khéo điều phục. Là người biết tất cả vì quán vô tác. Là người hành thiện, vì chẳng biết đủ. Là người không có vật mà quán vật, vì thị hiện chẳng phải vật mà là vật. Là người chẳng tư duy quan sát, vì ngã tịch tónh. Là người không tự ngã, vì quán hóa chúng sinh để được vô ngã. Là người không gì chẳng phải là đạo hạnh, vì hóa độ các chúng sinh rời lìa kết sử. Là người tâm phương tiện được rốt ráo, vì tu hành Bát-nhã. Là người định tánh không dời, vì trọn chẳng chứng tất cả Thanh văn thừa và Duyên giác thừa. Là người rời lìa đạo và phi đạo, vì Đệ nhất nghóa. Là người rời lìa hạnh và phi hạnh, vì tất cả phàm phu chứng chánh hạnh. Là người không trang nghiêm không chẳng trang nghiêm, vì không chẳng hy vọng các pháp. Là người chẳng tự khen, vì chẳng hý luận kẻ khác. Là người có trí không gì sánh bằng, vì đủ Phật pháp. Là người Vô sinh pháp nhẫn, vì tất cả pháp nhẫn không sinh không diệt. Đây gọi là Bồ-tát được tự tại. Này Thiên tử Bảo Thượng! Bậc Bồ-tát tùy sinh ở chỗ nào chẳng phải là chẳng biết mà sinh, mà do nơi biết để sinh. Và do Bồ-tát ấy nhiếp thủ sinh tử tự tại nên cũng được thành tựu đầy đủ Phật pháp. Bồ-tát ấy chẳng phải lưu chuyển sinh tử. Do sức bản nguyện sinh ở chỗ nào đều được trí tự tại. Đây gọi là Bồ-tát được trí tự tại. Bồ-tát chẳng phải do được ngằn mé mà gọi là trí tự tại. Nếu chẳng dứt tuyệt tất cả căn lành, đây gọi là Bồ-tát được trí tự tại. Bồ-tát chẳng phải vì được các căn lành mà gọi là trí tự tại. Không nhàm đủ đối với các căn lành, đây gọi là trí tự tại. Bồ-tát chẳng phải vì chẳng sinh trong ba cõi mà được gọi là tự tại. Vì giáo hóa chúng sinh nên sinh trong ba cõi, đây gọi là tự tại. Bồ-tát chẳng phải vì rời lìa kết sử tự thân mà được gọi là tự tại. Vì các chúng sinh dứt kết sử nên siêng tu tinh tấn, đây gọi là Bồ-tát được trí tự tại. Bồ-tát chẳng vì thân mình mà được gọi là tự tại. Vì tịch tónh các khổ não của tất cả chúng sinh mà gọi là tự tại. Bồ-tát chẳng phải vì xả bỏ mà tự tại. Vì nhiếp thủ giáo hóa chúng sinh mà gọi là tự tại. Bồ-tát chẳng phải tự dứt tham, sân, si mà được gọi là tự tại. Vì dứt tham, sân, si, các kết sử của tất cả chúng sinh mà được gọi là tự tại. Bồ-tát chẳng phải tự chứng Diệt đế mà được gọi là tự tại. Vì các chúng sinh mà chứng Diệt đế nên được gọi là tự tại. Bồ-tát chẳng phải tự dứt phiền não mà được gọi là tự tại. Bồ-tát vì tăng trưởng các căn lành nên chẳng dứt phiền não mà gọi là được tự tại. Bồ-tát chẳng phải vì chứng ba pháp môn giải thoát nên gọi là được tự tại. Vì Bồ-tát hiểu rõ ba pháp môn giải thoát nên gọi là tự tại. Bồ-tát chẳng phải tự tại tịch diệt năm ấm mà gọi là được tự tại. Vì xả bỏ gánh nặng cho tất cả chúng sinh nên gọi là tự tại. Bồ-tát chẳng phải do diệt sáu căn mà gọi là được tự tại. Vì biết căn tánh thượng, hạ của các chúng sinh nên gọi là tự tại. Bồ-tát chẳng phải do sinh phần tận diệt nên gọi là được tự tại. Bồ-tát vì do chẳng đoạn tuyệt sinh phần nên gọi là tự tại. Bồ-tát chẳng phải được quả Thanh văn, Duyên giác giải thoát mà gọi là được tự tại. Bồ-tát đạo tràng được quả giải thoát thọ dụng tất cả các chúng sinh nên gọi là tự tại. Lúc Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi diễn thuyết phẩm Tự Tại như vậy, trong đại chúng ấy có ba vạn hai ngàn Thiên tử đều phát đạo tâm chánh chân vô thượng. Đức Thế Tôn khen ngợi: –Lành thay! Lành thay! Khéo nói tất cả Bồ-tát thọ ký. Này Văn-thù-sư-lợi! Nếu có Bồ-tát nghe nói Bồ-tát thọ ký như vậy nhất hướng tin hiểu, chẳng kinh sợ thì chư Phật Như Lai vì họ mà thọ ký đạo Chân thật vô thượng. Thiên tử Bảo Thượng nói với Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi: –Nay Bồ-tát diễn thuyết về thọ ký. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: –Này Thiên tử! Tôi nói thọ ký, tôi có pháp ấy. Có người nào hiểu rõ thì tôi nói thọ ký. Này Thiên tử! Nay tôi chẳng được cho đến một pháp, cũng không hiểu rõ thì làm sao nói thọ ký. Thiên tử Bảo Thượng nói: –Thưa Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Hằng sa chư Phật Thế Tôn lẽ nào không giải hướng mà đắc quả ư? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: –Này Thiên tử! Chư Phật Thế Tôn chẳng vì giải hướng đắc quả mà thuyết pháp. Thiên tử nói: –Thưa Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Chư Phật Thế Tôn thuyết pháp thế nào? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: –Này Thiên tử! Chư Phật Thế Tôn cũng chẳng phân biệt thể tánh mà thuyết pháp. Không sinh, không diệt, không nhân, không duyên, không đến, không đi, không có chúng sinh chẳng phải không chúng sinh, không ô nhiễm, không bạch tịnh, không sinh tử, không Niết-bàn, chư Phật Thế Tôn thuyết pháp như vậy. Thiên tử hỏi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi: –Chư Phật Thế Tôn chẳng vì Niết-bàn mà thuyết pháp, cớ sao gọi là Phật xuất thế?  KINH ĐẠI BẢO TÍCH <卷 id="86423704">QUYỂN 27 Hán dịch: Đời Lương, Tam tạng Pháp sư Mạn-đà-la. <詞 id="86423705">Pháp hội 8: PHÁP GIỚI THỂ TáNH VÔ PHÂN BIỆT (Phần 2) Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: –Này Thiên tử! Vì hiểu rõ thể tánh của thân kiến nên gọi là Phật xuất thế. Này Thiên tử! Vì thị hiện thể tánh của vô minh, hữu và ái nên gọi là Phật xuất thế. Vì hiểu rõ thể tánh của tham, sân, si nên gọi là Phật xuất thế. Này Thiên tử! Thị hiện thể tánh bình đẳng của điên đảo gọi là Phật xuất thế. Này Thiên tử! Hiểu rõ thể tánh của các kiến chấp gọi là Phật xuất thế. Này Thiên tử! Hiển bày thể tánh pháp giới của ấm, giới và nhập gọi là Phật xuất thế. Này Thiên tử! Phật xuất thế là các pháp không sinh, đây gọi là diễn thuyết pháp không sinh. Pháp không sinh ấy đều không có sinh tử cũng không có Niết-bàn. Thiên tử nói: –Thưa Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Nên vì chúng sinh mà nói đạo pháp trang nghiêm chánh chân vô thượng. Vì sao? Thưa Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Chư Phật xuất thế không có chỗ tăng trưởng. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: –Này Thiên tử! Biết ân báo ân. Thiên tử nói: –Người có sự tạo tác nên biết báo ân. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: –Này Thiên tử! Thiên tử muốn cho Đức Như Lai có sự tạo tác ư? Thiên tử nói: –Thưa Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Đức Như Lai không có sự tạo tác. Chư Phật Như Lai đến nơi vô vi, đạo vô vi không có tạo tác. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: –Này Thiên tử! Ông nói vô vi đó, là không có báo ân hay là chẳng phải chẳng báo ân? Thiên tử nói: –Thưa Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Pháp như vậy chẳng nên nói với hàng mới phát tâm. Vì sao? Vì nếu nghe pháp ấy mà sinh lòng kinh sợ thì sẽ thoái chuyển. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: –Này Thiên tử! Nếu có Bồ-tát mới phát tâm Vô thượng Bồ-đề mà kinh sợ thoái chuyển, thì người ấy ở nơi hạng thoái chuyển. Thiên tử nói: –Thưa Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Cớ sao Bồ-tát nói lời ấy? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: –Này Thiên tử! Nếu có Bồ-tát mới phát đạo tâm mà kinh sợ bậc Thanh văn, Duyên giác thì thoái chuyển. Nếu lẫn tiếc, phá giới, sân hận, giải đãi tán loạn và ngu si thì an trụ bậc bất thoái. Thiên tử nói: –Thưa Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Thế nào mà an trụ? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: –Này Thiên tử! Nếu có Bồ-tát mới phát đạo tâm an trụ trong pháp giới bình đẳng thì gọi là khéo an trụ. Bồ-tát mới phát tâm ấy gọi là an trụ. Thiên tử nói: –Thưa Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Đến mức nào gọi là Bồ-tát mới phát tâm? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: –Này Thiên tử! Nếu có Bồ-tát mới phát tâm tu hành không, vô tướng và vô tác, hiểu biết tất cả pháp không sinh, không diệt, thì gọi là Bồ-tát mới phát tâm. Thiên tử nói: –Thưa Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Thế nào gọi là cửu hành? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: –Này Thiên tử! Tất cả phàm phu gọi là cửu hành, vì họ ở trong sinh tử chẳng biết sự khởi thể. Thiên tử lại hỏi: –Thưa Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Thế nào gọi là Bồ-tát cửu hành? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: –Này Thiên tử! Nếu có Bồ-tát hành nơi ái nhiễm, vì để hóa độ các chúng sinh ái nhiễm mà cũng chẳng cùng ở với ái nhiễm, thì gọi là Bồ-tát cửu hành. Bồ-tát hành nơi sân hận để hóa độ các chúng sinh sân hận mà chẳng cùng ở với sân hận, cũng hành nơi ngu si để hóa độ các chúng sinh ngu si mà chẳng cùng ở với ngu si, cũng hành nơi đẳng phần để hóa độ các chúng sinh đẳng phần mà chẳng cùng ở với đẳng phần kết sử, thì gọi là Bồ-tát cửu hành. Này Thiên tử! Nếu có Bồ-tát vì hóa độ chúng sinh mà quan sát tất cả tướng mà chẳng phân biệt pháp giới thể tướng, thì gọi là Bồ-tát cửu hành. Thiên tử nói: –Thưa Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Thế nào gọi là Bồ-tát không thoái chuyển? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: –Này Thiên tử! Nếu có Bồ-tát quan sát tất cả pháp không tai hoạn không chẳng tai hoạn, quan sát pháp giới thể tánh không tai hoạn không chẳng tai hoạn, thì gọi là Bồ-tát chẳng thoái chuyển. Lại nữa, này Thiên tử! Nếu có Bồ-tát cũng thoái cũng chẳng thoái, thì gọi là Bồ-tát chẳng thoái chuyển. Vì sao? Vì thoái là thoái các điều thiện của Dục giới. Lại nữa, này Thiên tử! Bồ-tát vì chẳng biết chẳng hiểu nên thoái. Vì biết và hiểu nên không có tranh tụng, đây gọi là bất thoái. Vì sao? Hiểu tất cả tánh pháp tánh, vì tôi hiểu được tất cả pháp tánh nên chẳng còn thoái chuyển, đây gọi là không thoái. Ở nơi Phật pháp không nghi ngờ, chẳng tin theo lời người khác, rời lìa phải và chẳng phải, tâm ban đầu thanh tịnh không có tật đố cũng không động lay, trí tuệ chiếu sáng, được tự tại với tất cả pháp, hiểu rõ Phật pháp. Đây gọi là Bồ-tát không thoái chuyển. Thiên tử nói: –Thưa Văn-thù-sư-lợi! Thế nào gọi là Bồ-tát nhất sinh? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: –Này Thiên tử! Nếu Bồ-tát biết tất cả các sinh cũng chẳng sinh, biết tất cả chúng sinh sinh tử. Ở trong các sinh khéo có thể thuyết pháp giáo hóa chúng sinh. Chỗ sinh, không nắm giữ không chẳng nắm giữ. Các sinh rời lìa sinh tử thủ, chẳng đến chẳng đi, chẳng trên chẳng dưới, vì tất cả pháp đều bình đẳng. Cũng biết nhân duyên hòa hợp tăng trưởng tất cả chúng sinh. Thân, khẩu, tâm ý đều bình đẳng. Tất cả chúng sinh không có cảnh giới, an trụ cảnh giới chư Phật nhập vào pháp giới, vì pháp giới bình đẳng nên bình đẳng hiểu rõ tâm chúng sinh. Khéo hiểu biết phải thời đến ngồi đạo tràng. Đây gọi là nhất sinh. Này Thiên tử! đó gọi là Bồ-tát nhất sinh. Thiên tử Bảo Thượng lại hỏi: –Thưa Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Thế nào gọi là Bồ-tát bất sinh cũng được tự tại ở nơi tất cả? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: –Này Thiên tử! Nếu có Bồ-tát biết các hành nghiệp, vì chẳng phải kiêu mạn. Bồ-tát ấy bất sinh cũng được tự tại ở tất cả. Lại nữa, này Thiên tử! Bồ-tát xả bỏ được tất cả rốt ráo chẳng thoái tâm Bồ-đề đã có, đây gọi là bất sinh. Nếu chẳng cùng ở với các tật đố kết sử, đây gọi là được tự tại ở tất cả. Nếu có Bồ-tát thành tựu đầy đủ oai nghi pháp tắc, các công đức giới, đây gọi là bất sinh. Chẳng cùng ở với phạm giới, đây gọi là được tự tại ở tất cả. Nếu có Bồ-tát tâm chẳng trái bỏ tất cả chúng sinh, đây gọi là bất sinh. Chẳng cùng ở với các sân hận kết sử, đây gọi là được tự tại ở tất cả. Nếu có Bồ-tát căn lành vững chắc chẳng động lay, đây gọi là chẳng sinh. Ở trong căn lành phát khởi ý siêng năng tinh tấn dũng mãnh, đây gọi là được tự tại ở tất cả. Nếu có Bồ-tát nhập các thiền định và định thứ lớp, đây gọi là bất sinh. Chẳng đam mê thiền lạc, đây gọi là được tự tại ở tất cả. Nếu có Bồ-tát siêng tinh tấn cầu học trí tuệ Bát-nhã không nhàm, đây gọi là bất sinh. Chẳng cùng ở với ngu si, đây gọi là được tự tại ở tất cả. Nếu có Bồ-tát chẳng sân não tranh tụng, đây gọi là bất sinh. Chẳng cùng ở với sân não các tranh tụng, đây gọi là được tự tại ở tất cả. Nếu có Bồ-tát như thật ngữ, đây gọi là bất sinh. Nếu an trụ như thật thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát nội tâm tịch tónh thì gọi là bất sinh. Nếu chẳng ô nhiễm các cảnh giới ngoài thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát viên mãn tâm Nhất thiết trí thì gọi là bất sinh. Nếu chẳng cầu hạ thừa thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát giác sát ma nghiệp thì gọi là bất sinh. Nếu hàng phục ma nghiệp thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát được thế gian quang minh thì gọi là bất sinh. Nếu thế pháp chẳng nhiễm ô thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát chẳng trái nghịch chỗ an trụ thì gọi là bất sinh. Nếu chẳng tùy theo chỗ sở tác thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát rời lìa các kiêu mạn phóng dật thì gọi là bất sinh. Nếu có trí tuệ thành tựu Thánh lạc thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát chẳng thoái thất bản nguyện thì gọi là bất sinh. Bản nguyện xuất thế thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát thuận hành duyên sinh thì gọi là bất sinh. Chẳng chấp pháp duyên sinh thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát dùng tận trí quán Nhất thiết pháp không thì gọi bất sinh. Nếu đủ các căn lành thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát dùng phương tiện trí phát khởi sự tạo tác sinh lòng đại Bi siêng tu hạnh tinh tấn thì gọi là bất sinh. Nếu an trụ được ở các pháp giải thoát thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát chẳng ô nhiễm nơi tất cả pháp thì gọi là bất sinh. Nếu dứt các kiến chấp mà vì người thuyết pháp thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát khéo tư duy chẳng thấy các pháp thì gọi là bất sinh. Nếu đắc lực mà chẳng chứng tất cả pháp thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát quán tất cả pháp tánh không thì gọi là bất sinh. Nếu chẳng buông bỏ tất cả chúng sinh thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát chẳng trụ ba cõi thì gọi là bất sinh. Vì chúng sinh nên chẳng nhập Niết-bàn thì gọi là được tự tại. Lại nữa, này Thiên tử! Nếu có ngôn ngữ thì là lay động ngôn ngữ, là vọng tưởng ngữ, là chấp trước ngữ, là có phát khởi. Này Thiên tử! Nơi tất cả pháp không có ngôn ngữ, chẳng hành chẳng động, không có các hý luận ngữ, chẳng bỏ chúng sinh, cũng chẳng diệt độ, không có chỗ ngôn thuyết. Này Thiên tử! Nếu không có ngôn thuyết thì cũng không có văn tự, không có sở thuyết. Nếu có tác dụng thì có phát khởi ngôn thuyết văn tự. Này Thiên tử! Do nghóa ấy nên Bồ-tát hạnh chẳng thể dùng để nói, chẳng thể có quan niệm, đây gọi là Từ tâm, đây gọi là không sát sinh, ở trong hàng Thánh được gọi là tự tại. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói pháp ấy xong, Đức Thế Tôn khen ngợi: –Lành thay! Lành thay! Văn-thù-sư-lợi khéo vì các Bồ-tát mà nói bất sinh tự tại. Này Văn-thù-sư-lợi! Nếu Bồ-tát tự tại vô ngại hành pháp như vậy thì Bồ-tát ấy chóng được chư Phật thọ ký đạo Vô thượng. Lúc nghe pháp ấy, trong đại chúng có năm trăm Bồ-tát được Vô sinh pháp nhẫn và liền được Đức Thế Tôn thọ ký đạo Chánh chân vô thượng, đều sẽ thành Phật hiệu ấy, tại cõi Phật ấy. Bấy giờ, ở trong đại chúng có một vị Thiên tử suy nghó: “Thiên tử Bảo Thượng chừng nào sẽ thành đạo Vô thượng? Hiệu là gì? Cõi Phật ra sao?” Do thần lực của Đức Phật, Tôn giả A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Thiên tử Bảo Thượng ấy chừng nào sẽ thành đạo Chánh chân vô thượng? Phật độ ra sao? Được thành Phật rồi hiệu là gì? Đức Phật dạy: –Này A-nan! Thiên tử Bảo Thượng quá trăm ngàn kiếp sẽ thành Phật đạo hiệu là Bảo Trang Nghiêm Như Lai tại phương Đông, cõi nước tên là Bảo trang nghiêm, kiếp tên là Bảo lai. Này A-nan! Cõi nước Phật Bảo Trang Nghiêm ấy giàu vui, rất đáng ưa thích, của báu nhiều, nhân dân đông, không có các nạn cũng không có ác đạo. Này A-nan! Trong cõi Phật ấy không có những ngói đá, gai góc, cát đất, gò nổng, hang núi. Mặt đất bằng phẳng do ba thứ báu tạo thành là vàng Diêm-phù-đàn, lưu ly và pha lê xen lẫn nhau rất đáng ưa thích. Có lưới vàng che phía trên. Này A-nan! Như trời Hóa lạc, cung điện, vườn ao, y phục dư dật, cõi nước Bảo Trang Nghiêm cũng như vậy. Nước ấy không có danh từ Thanh văn thừa và Duyên giác thừa, chỉ có Bồ-tát hưởng thọ những pháp lạc, nhập những thiền định trang nghiêm, hiện những thứ thần thông để tự vui. Không có sự vui nào khác ngoại trừ sự vui Pháp hỷ thiền duyệt, vì thế nên nước ấy tên là Bảo Trang Nghiêm. Đức Phật Bảo Trang Nghiêm ấy thọ sáu mươi sáu ức tuổi. Có sáu mươi sáu ức Bồ-tát xuất gia. Bồ-tát tại gia đông vô lượng, vô biên. Lúc thuyết pháp cho các Bồ-tát, Đức Bảo Trang Nghiêm Như Lai bay lên hư không cao tám mươi ức cây đa-la, ngồi kiết già phóng ra ngàn tia sáng chiếu đến cõi nước ấy, rưới những hoa trời, hương trời trổi nhạc trời, mỗi mỗi thứ đều có trăm ngàn thứ âm thanh thuyết pháp nghe khắp cả nước. Nói pháp Vô tận chủ Đà-la-ni. Sao gọi là pháp Vô tận chủ Đà-la-ni? Tất cả các pháp, vì tịch tónh làm chủ nên hiển thị thân tâm, ý tưởng tịch tónh. Tất cả các pháp, vì quán chiếu làm chủ nên hiển thị phân biệt nơi tất cả pháp. Tất cả các pháp, vì thiện tư duy làm chủ nên hiển thị tất cả pháp tịch tónh. Tất cả các pháp, vì thiện hành làm chủ nên hiển thị tất cả pháp khả tác quang minh chiếu sáng. Tất cả các pháp, vì trí quang minh chiếu bình đẳng làm chủ nên hiển thị các pháp không có tăng giảm. Tất cả các pháp, vì quyết định làm chủ nên hiển thị các pháp tăng trưởng. Tất cả các pháp, vì trí tuệ làm chủ nên hiển thị tất cả pháp không tranh tụng. Tất cả các pháp, vì thiện quán làm chủ nên hiển thị tất cả pháp không có sân. Tất cả các pháp, vì chánh niệm làm chủ nên hiển thị tất cả pháp chẳng thất niệm. Tất cả các pháp, vì đạo dẫn làm chủ nên hiển thị tất cả các pháp tướng nghóa. Tất cả các pháp, vì tuệ phân biệt làm chủ nên hiển thị tất cả pháp thanh tịnh ý. Tất cả các pháp, vì Không tịch làm chủ nên hiển thị các pháp dứt các kiến đạo. Tất cả các pháp, vì Vô tướng làm chủ nên hiển thị tất cả các pháp tịch tónh. Tất cả các pháp, vì Vô nguyện làm chủ nên hiển thị các pháp dứt các đạo. Tất cả các pháp, vì không tạo tác làm chủ nên hiển thị các pháp rời sự tạo tác. Tất cả các pháp, vì không xuất ly làm chủ nên hiển thị tất cả pháp không xuất ly. Tất cả các pháp, vì không sinh làm chủ nên hiển thị tất cả các pháp không cùng tận. Tất cả các pháp, vì lìa dục làm chủ nên hiển thị tất cả các pháp không thác loạn. Tất cả các pháp, vì không hai làm chủ nên hiển thị tất cả pháp hiện tại trí. Tất cả các pháp, vì không hai làm chủ nên hiển thị tất cả các pháp lìa hai. Tất cả các pháp, vì không nương tựa làm chủ nên hiển thị tất cả các pháp bất động. Tất cả các pháp, vì không chúng sinh làm chủ nên hiển thị các pháp chúng sinh bình đẳng. Tất cả các pháp, vì tịch tónh làm chủ nên hiển thị tất cả các pháp không biến đổi. Tất cả các pháp, vì chẳng được làm chủ nên hiển thị tất cả các pháp vô hành. Tất cả các pháp, vì không có chỗ làm chủ nên hiển thị tất cả các pháp rời xứ sở. Tất cả các pháp, vì không định làm chủ nên hiển thị tất cả không có pháp, được tự tại. Tất cả các pháp, vì nhân duyên làm chủ nên hiển thị tất cả các pháp vượt hơn. Tất cả các pháp, vì dũng mãnh làm chủ nên hiển thị tất cả các pháp chẳng gì hơn. Tất cả các pháp, vì không lỗi làm chủ nên hiển thị tất cả các pháp không sinh khởi. Tất cả các pháp, vì như làm chủ nên hiểu thị tất cả các pháp không gì chẳng như. Tất cả các pháp, vì như thật tế làm chủ nên hiển thị tất cả pháp không hư hoại. Tất cả các pháp, vì pháp tánh làm chủ nên hiển thị tất cả các pháp thuần một vị. Tất cả các pháp, vì như thật làm chủ nên hiển thị các pháp ba đời bình đẳng. Tất cả các pháp, vì chẳng thể làm chủ nên hiển thị chẳng chấp tất cả pháp ngôn ngữ đàm luận. Tất cả các pháp, vì thiền định làm chủ nên hiển thị tất cả các pháp tịch tónh. Tất cả các pháp, vì pháp tánh làm chủ nên hiển thị tất cả pháp không có người. Tất cả các pháp, vì Bồ-đề làm chủ nên hiển thị tất cả các pháp bình đẳng. Này A-nan! Đức Bảo Trang Nghiêm Như Lai ngồi trên hư không chưa đứng dậy, vì các Bồ-tát diễn nói pháp Vô tận chủ Đà-la-ni, Đà-la-ni làm chủ ấy, trong cõi ấy có vô lượng a-tăng-kỳ Đại Bồ-tát được pháp nhẫn. A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Chưa từng có vậy. Chư Như Lai tự nhiên không tạo tác trong pháp quá khứ, vị lai, hiện tại được trí không chướng ngại. Đức Phật dạy: –Này A-nan! Nay ta vì ông mà nói chư Phật Như Lai tự nhiên không tạo tác ở trong pháp quá khứ, vị lai, hiện tại được trí không chướng ngại. A-nan nói với Thiên tử Bảo Thượng: –Thưa Thiên tử! Thiên tử được lợi lành lớn. Được Đức Như Lai thọ ký cho đạo vô thượng. Thiên tử Bảo Thượng nói: –Thưa Đại đức A-nan! Đều không có pháp, chẳng nên nói thọ ký. Vì sao? Vì sắc chẳng phải Bồ-tát, chẳng nên nói thọ ký cho sắc. Thọ, tưởng, hành và thức chẳng phải Bồ-tát, chẳng nên nói thọ ký cho thọ, tưởng, hành và thức. Địa giới chẳng phải Bồ-tát, chẳng nên nói thọ ký cho địa giới. Thủy giới, hỏa giới và phong giới chẳng phải Bồ-tát, chẳng nên nói thọ ký cho thủy, hỏa và phong giới. Nhãn chẳng phải là Bồ-tát, chẳng nên nói thọ ký cho nhãn. Nhó, tỷ, thiệt, thân và ý chẳng phải Bồ-tát, chẳng nên nói thọ ký cho nhó, tỷ, thiệt, thân và ý. Danh sắc chẳng phải là Bồ-tát, chẳng nên nói thọ ký cho danh sắc. Quá khứ, vị lai và hiện tại chẳng phải là Bồ-tát, chẳng phải nói thọ ký cho ba đời bình đẳng. Nhân kiến chẳng phải là Bồ-tát, chẳng nên nói thọ ký cho nhân kiến. Sinh diệt chẳng phải là Bồ-tát, chẳng nên nói thọ ký cho sinh diệt. Thưa Đại đức A-nan! Danh từ Bồ-tát là giả danh, là câu tịch tónh. Nếu pháp rốt ráo là tịch tónh thì không có thọ ký. Thưa Đại đức A-nan! Luận về thọ ký là nhiếp lấy tất cả lời đã được thuyết pháp. Thưa Đại đức A-nan! Cũng không có pháp để Bồ-tát nắm lấy được, là trong là ngoài, hoặc thiện bất thiện, hoặc hữu vi vô vi, rồi sau mới thọ ký. Thưa Đại đức A-nan! Bồ-tát thọ ký là, tất cả các pháp không có sở thuộc gọi đó là thọ ký. Tất cả pháp chẳng chấp giữ gọi đó là thọ ký. Tất cả pháp không có xứ sở gọi đó là thọ ký. Tất cả pháp không cư ngụ gọi đó là thọ ký. Tất cả pháp không có xuất sinh gọi đó là thọ ký. Tất cả pháp không có vọng tưởng gọi đó là thọ ký. Thưa Đại đức A-nan! Luận về Bồ-tát thì thọ ký như vậy. Khi ấy Đức Thế Tôn khen ngợi: –Lành thay! Lành thay! Này Thiên tử! Bồ-tát thông đạt được các pháp ấy thì có thể nói thọ ký như vậy, như chư Phật Thế Tôn tuyên nói thọ ký Vô thượng Bồ-đề. Lúc nói pháp ấy, ma Ba-tuần và các quyến thuộc đồng đến chỗ Đức Phật đứng qua một phía nói: –Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên gì chỉ nói thọ ký Bồ-tát mà chẳng nói thọ ký Thanh văn? Đức Phật đáp: –Này Ba-tuần! Bồ-tát ấy, chư Thiên và nhân dân khắp cõi đại thiên đều nghe biết nên nói thọ ký Bồ-tát. Hàng Thanh văn chẳng phải là hàng được trời, người nghe biết nên chẳng nói thọ ký Thanh văn. Nói thọ ký Bồ-tát thì có nhiều chúng sinh phát tâm Bồ-đề, nên nói thọ ký Bồ-tát. Nói thọ ký Thanh văn thì Bồ-tát thoái chuyển nên chẳng nói thọ ký Thanh văn. Bấy giờ Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói với Ba-tuần: –Nay ông do duyên cớ gì mà đến tại chúng hội này? Ba-tuần nói: –Thưa Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Do Đức Phật Thế Tôn tuyên nói thọ ký đạo vô thượng cho Thiên tử Bảo Thượng rằng sẽ thành Phật hiệu là Bảo Trang Nghiêm Như Lai, mà chẳng thọ ký cho Thanh văn, làm cung điện, đền đài, lan can, cây báu, vườn rừng của tôi rung chuyển chạm nhau phát ra âm thanh nói: “Thích-ca Như Lai vì Thiện tử Bảo Thượng mà thọ ký đạo Vô thượng.” Lại nghe có tiếng nói: “Ba-tuần này! Nay ông đến chỗ đại chúng ấy chớ khiến lại thọ ký Bồ-tát sinh đến cung của ông.” Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: –Này Ba-tuần! Tuyên nói thọ ký Bồ-tát, nay ông chẳng vui ư? Ma nói: –Thưa Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Tôi thật chẳng vui. Nói thọ ký A-la-hán cho tất cả chúng sinh ở Diêm-phù-đề tôi không sầu não, nếu chỉ thọ ký cho một Bồ-tát được Vô thượng Bồ-đề thì tôi sầu não chẳng nói được. Vì sao? Vì tuyên nói thọ ký Vô thượng Bồ-đề cho Bồ-tát thì cung điện của tôi tối om chẳng còn sáng. Rồi vị Bồ-tát ấy sẽ đem pháp ba thừa cứu vớt vô lượng a-tăng-kỳ chúng sinh ra khỏi ba cõi. Vì cớ sự ấy mà tôi lo buồn vô hạn. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: –Này Ba-tuần! Ông nên trở về đi thôi. Ông không có thế lực gì ngăn trở được người thành tựu phương tiện đầy đủ hạnh Bát-nhã ba-la-mật-đa rốt ráo hướng đến đạo Vô thượng Bồ-đề. Vì sao? Vì các Bồ-tát ấy đã rời những trói buộc của ma, thành hạnh rốt ráo, khéo biết phương tiện hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Lúc ấy thần lực của Đức Phật khiến ma Ba-tuần hỏi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi: –Thưa Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Thế nào là Bồ-tát tu hạnh rốt ráo khéo biết phương tiện hành Bát-nhã ba-la-mật-đa? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: –Này Ba-tuần! Nếu có Bồ-tát rời lìa tất cả những công hạnh chút ít phần nhỏ, đó gọi là Bồ-tát thành tựu hạnh rốt ráo. Nếu thấy tất cả kết sử ma nghiệp, đều có thể lợi ích cho đạo Vô thượng, đó gọi là Bồ-tát khéo biết phương tiện. Chẳng cùng đi với tất cả kết sử, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Lại nữa, này Ba-tuần! Nếu tâm Bồ-tát vì cứu vớt trọn vẹn các chúng sinh nên dùng đại trang nghiêm mà tự trang nghiêm, đó gọi là Bồ-tát rốt ráo tâm hạnh. Nếu dùng bốn Nhiếp pháp để nhiếp chúng sinh, đó gọi là Bồ-tát khéo biết phương tiện. Nếu rốt ráo quán tất cả chúng sinh thể tánh tịch diệt, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Lại nữa, này Ba-tuần! Nếu có Bồ-tát xả tất cả sở hữu trong thân, ngoài thân đều có thể bố thí, tâm Bồ-đề trọn vẹn rốt ráo, đó gọi là Bồ-tát tâm hạnh rốt ráo. Nếu Bồ-tát vì tất cả chúng sinh mà khởi tâm làm người nhận lãnh, đó gọi là Bồ-tát khéo biết phương tiện. Nếu có Bồ-tát với người xin, người thọ biết như thật tế, hành bình đẳng hạnh, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Lại nữa, này Ba-tuần, nếu có Bồ-tát ở nơi các pháp lành từ lúc mới phát tâm trọn chẳng thoái chuyển, đó gọi là Bồ-tát rốt ráo hành nơi tâm Bồ-đề. Nếu có Bồ-tát chẳng bị kẻ khác bức bách, có thể xả bỏ tự lợi, đó gọi là Bồ-tát khéo biết phương tiện. Nếu Bồ-tát nhớ nghóa chẳng nhớ văn tự, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Lại nữa, này Ba-tuần, nếu thấy kẻ đến xin đều chẳng trái bỏ họ, đó gọi là Bồ-tát rốt ráo tâm hạnh. Nếu có Bồ-tát họp các căn lành nguyện cầu Nhất thiết trí, đó gọi là Bồ-tát khéo biết phương tiện. Bồ-tát khéo biết thể tánh của các pháp, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Bấy giờ Thiên tử Bảo Thượng nói với Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi: –Quyến thuộc của ma Ba-tuần này nên dùng thần lực nạp chúng vào trong bụng. Nếu để vậy chúng có thể làm trở ngại cho những thiện nam, thiện nữ hướng về Đại thừa. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói với Thiên tử: –Chẳng như lời ông nói, nên nạp Ba-tuần để vào bụng của Bồ-tát. Lại nữa, này Thiên tử! Ông đã thọ trì tướng Phật trang nghiêm thọ lạc đệ nhất, làm cho ma Ba-tuần ngồi tòa Sư tử, do thần lực của Đức Phật biết thuyết pháp như Phật. Ba-tuần nghe lời nói ấy kinh sợ muốn ẩn thân rời đại chúng mà chẳng ẩn được, vì bị thần lực của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi giữ lại và làm cho ma Ba-tuần làm thân tướng Đức Phật ngồi tòa sư tử. Tất cả đại chúng thấy biết là ma Ba-tuần. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi hỏi: –Này Ba-tuần! Nay ông có được đạo chư Phật chăng, mà ông lại được thân Phật ngồi tòa sư tử? Do thần lực của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, ma Ba-tuần nói: –Thưa Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, Đức Thế Tôn còn chẳng được đạo Bồ-đề, huống là tôi mà được. Vì sao? Vì Bồ-đề là tướng báo ân, chẳng phải lìa dục mà được, chẳng phải giải huống mà được. Lại nữa, Bồ-đề là được tướng vô vi, vì kia được tướng vô vi biết rõ tướng không, đó gọi là Bồ-đề. Vì chẳng phải không mà biết rõ là không. Biết rõ tướng vô tướng, đó gọi là Bồ-đề, vì chẳng phải lấy vô tướng để biết rõ tướng vô tướng. Biết rõ tướng vô nguyện, đó gọi là Bồ-đề, vì chẳng phải lấy vô nguyện để biết tướng vô nguyện. Biết rõ thể tánh pháp giới, đó gọi là Bồ-đề, vì chẳng phải lấy thể tánh để biết thể tánh. Biết rõ chân như tướng không phân biệt gọi là Bồ-đề, vì chẳng phải lấy như để biết như. Biết rõ an trụ nơi như thật tế, đó gọi là Bồ-đề, vì chẳng phải lấy an trụ như thật tế để biết an trụ như thật tế. Biết rõ thể tánh không ngã, không nhân, không chúng sinh, không thọ giả, đó gọi là Bồ-đề, vì không có người biết. Thưa Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Nếu có Bồ-tát nào nghe nói tướng Bồ-đề như vậy, nghe rồi, có thể ở nơi các pháp thể tánh không chỗ phân biệt thì gọi là Phật. Lúc ma Ba-tuần dùng biện tài của Phật để nói pháp ấy, có năm trăm Bồ-tát được Vô sinh pháp nhẫn. Bấy giờ Trưởng lão Xá-lợi-phất nói với Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi: –Thưa Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Thật là chưa từng có! Bồ-tát dùng thần lực làm cho ma Ba-tuần hiện thân Phật đủ tướng hảo, ngồi tòa Sư tử và nói pháp thậm thâm ấy. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: –Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Tất cả cỏ cây rừng rậm không có tâm đều có thể làm thân tướng Như Lai và đều có thể thuyết pháp. Tôi cũng có thể khiến Đại đức Xá-lợi-phất làm thân Phật đủ tướng hảo, dùng biện tài của Phật mà thuyết pháp. Lúc đó Xá-lợi-phất suy nghó: “Ta nên ẩn khỏi đại chúng này. Nếu không, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi hoặc giả làm cho ta làm thân Phật đủ tướng tốt để đùa cợt ta, làm cho ta mang tiếng giả làm Đức Thế Tôn.” Do thần lực của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi giữ lại nên Xá-lợi-phất muốn ẩn đi mà không ẩn được. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi biết tâm niệm của Xá-lợi-phất, liền biến Xá-lợi-phất làm thân Phật đủ tướng tốt ngồi tòa Sư tử. Tất cả đại chúng đều thấy biết như vậy. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói với Xá-lợi-phất: –Đại đức nên cùng ma Ba-tuần luận thuyết, như Phật luận thuyết với Phật. Xá-lợi-phất đang mang thân Phật hỏi ma Ba-tuần cũng đang mang thân Phật: –Này Ba-tuần! Luận về Bồ-đề, thể tánh của nó là những gì? Ba-tuần nói: –Biết rõ tất cả pháp bình đẳng là thể tánh Bồ-đề. Biết rõ hai pháp là thể tánh Bồ-đề. Nhất thiết trí quán là thể tánh Bồ-đề. Chẳng phải chẳng thể tánh, chẳng phải hành chẳng phải chẳng hành, dứt hẳn tất cả các hành chẳng hành, chẳng phải đạo chẳng phải chẳng đạo, đó gọi là Bồ-đề của chư Phật Thế Tôn. Ba-tuần hỏi Xá-lợi-phất: –Trưởng lão Xá-lợi-phất! Chư Phật Như Lai an trụ chỗ nào? Xá-lợi-phất nói: –An trụ nơi bình đẳng trong sinh tử, an trụ nơi Niết-bàn bất động, an trụ nơi tánh như thật của tất cả các kiến chấp, an trụ nơi kết sử của tất cả chúng sinh, an trụ nơi căn bản của tất cả pháp, an trụ nơi hai pháp hữu vi và vô vi, các an trụ đều chẳng an trụ vì không có an trụ. Này Ba-tuần! Chư Phật Như Lai an trụ như vậy. Xá-lợi-phất lại hỏi Ba-tuần: –Nên tìm cầu Bồ-đề ở chỗ nào? Ba-tuần nói: –Đại đức Xá-lợi-phất! Từ thân kiến căn bản mà tìm cầu Bồ-đề. Từ vô minh hữu ái mà tìm cầu Bồ-đề. Từ điên đảo kết sử mà tìm cầu Bồ-đề. Từ chướng ngại che lấp mà tìm cầu Bồ-đề. Xá-lợi-phất nói: –Này Ba-tuần! Do nhân duyên gì mà ông nói như vậy? Ba-tuần đáp: –Đại đức Xá-lợi-phất! Như thật biết rõ các pháp như vậy thì gọi là Bồ-đề. Lúc nói pháp ấy, có tám trăm Tỳ-kheo dứt hết phiền não, được tâm vô lậu. Vì tin lời của Xá-lợi-phất và ma Ba-tuần, nên có ba vạn hai ngàn Thiên tử phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Vì muốn điều phục chư Thiên tử nên Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi khiến ma Ba-tuần và Xá-lợi-phất làm thân Phật đủ tướng tốt. Việc xong, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi thâu nhiếp thần lực, Xá-lợi-phất và ma Ba-tuần trở lại thân mình như cũ. Lúc đó từ các cõi Phật bốn phương có một ngàn Bồ-tát ngự hư không mà đến chỗ Đức Phật, đảnh lễ chân Phật, đi nhiễu bên phải rồi đứng qua một phía bạch Đức Phật: –Bạch Thế Tôn! Chúng con nghe nói kinh Pháp Giới Thể Tánh Vô Phân Biệt nên đến đây thủ hộ chánh pháp. Chúng con thọ trì, thủ hộ kinh này, đọc tụng thông thuộc giảng nói cho người khác để nhiếp thủ chánh pháp. A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Các Bồ-tát này từ xứ nào đến? Đức Phật dạy: –Này A-nan! Các Bồ-tát ấy, mỗi nhóm đều tụ họp ở các cõi nước của chư Phật. Các Bồ-tát ấy đều do Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi giáo hóa, thường vì họ mà nói kinh Pháp Giới Thể Tánh Vô Phân Biệt để khai hóa họ. Vì báo ân kinh ấy mà chư Bồ-tát đến đây và để chiêm ngưỡng, kính lễ, đi nhiễu Đức Như Lai, cũng muốn lễ bái cúng dường Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đồng thời phát nguyện thủ hộ kinh này. Do những cớ trên mà các Bồ-tát ấy đến đây. Này A-nan! Sau khi ta nhập Niết-bàn, các Bồ-tát này sẽ rộng lưu truyền thủ hộ chánh pháp ấy tại cõi Diêm-phù-đề này. Này A-nan! Ở chỗ trăm ngàn Đức Phật, các Bồ-tát ấy lập chí dũng mãnh hộ trì chánh pháp. Bấy giờ, trong đại chúng có Đế Thích, Phạm vương, chư Thiên vương Hộ thế bạch Đức Phật: –Bạch Thế Tôn! Hoặc đây hoặc kia có những thiện nam, thiện nữ hộ trì chánh pháp, chúng con sẽ thủ hộ cung cấp phục dịch cho họ không có khổ não. Đức Phật khen Đế Thích, Phạm vương và chư Thiên vương Hộ thế: –Lành thay! Lành thay! Các vị có thể dũng mãnh thủ hộ những người ái hộ chánh pháp. Đó chính là cúng dường chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại và ái hộ chánh pháp. Đức Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi: –Văn-thù-sư-lợi! Ông thọ trì kinh này để rộng lưu truyền tại Diêm-phù-đề ở thời kỳ mạt thế sau. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch: –Bạch Thế Tôn! Lúc hỏa tai khởi lên, hư không chẳng được thọ trì mà cũng chẳng bị đốt cháy. Bạch Thế Tôn! Như thể tánh hư không, tất cả pháp đây cũng như vậy. Các pháp đây chẳng sinh, chẳng diệt. Nếu pháp không sinh, không diệt thì cũng không thọ trì. Vì thể tánh các pháp là không thọ trì, đúng như pháp thể tánh, thọ trì các pháp cũng như vậy. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Cúi mong Thế Tôn thọ trì kinh này để cho các thiện nam, thiện nữ gieo trồng căn lành. Nếu người cúng dường pháp thì ham thích kinh này. Bạch Thế Tôn! Đúng như vậy, thọ trì kinh này vì điều phục kiêu mạn và những oán ghét nên không bị ai làm trở ngại, ở đời tương lai sẽ rộng lưu truyền ở Diêm-phù-đề. Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn từ nơi thân phóng ánh sáng chiếu khắp đại thiên thế giới đều thành màu hoàng kim, rồi bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi: –Này Văn-thù-sư-lợi! Ánh sáng của Như Lai chiếu khắp, kinh này cũng như vậy. Người tâm hành vô ngại trọn vẹn nơi Phật pháp, thiện nam, thiện nữ ấy tay họ cầm kinh này. Đức Phật lại bảo A-nan: –Này A-nan! Ông thọ trì kinh này, đọc tụng thông thuộc diễn nói cho người khác, như vậy là ông cúng dường chư Phật Như Lai quá khứ, vị lai, hiện tại vậy. A-nan bạch: –Bạch Thế Tôn! Kinh này tên là gì và thọ trì thế nào? Đức Phật dạy: –Này A-nan! Kinh này có tên là Pháp Giới Thể Tánh Vô Phân Biệt, cũng tên là Bảo Thượng Thiên Tử Sở Vấn, cũng tên là Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Sở Thuyết. Ông nên khéo thọ trì như vậy. Đức Phật nói kinh này rồi, Đại đức A-nan, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, Thiên tử Bảo Thượng, các Bồ-tát từ các cõi Phật đến, cùng Trời, Người, A-tu-la và tất cả thế gian đều rất vui mừng hoan hỷ tín thọ phụng hành.  KINH ĐẠI BẢO TÍCH <卷 id="86423706">QUYỂN 28 Hán dịch: Đời Ngụy (Nguyên), Tam tạng Pháp sư Phật-đà-phiến-đa. <詞 id="86423707">Pháp hội 9: ĐẠI THỪA THẬP PHÁP Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ Đức Bà-già-bà ở đại thành Vương xá, trong núi Kỳ-xà-quật cùng với năm trăm vị đại Tỳ-kheo đại A-la-hán và vô lượng, vô biên Đại Bồ-tát. Trong chúng hội có một Đại Bồ-tát tên là Tịnh Vô Cấu Bảo Nguyệt Vương Quang rời chỗ ngồi để hở vai áo bên phải, gối phải quỳ trên đài hoa sen đến trước Đức Phật chắp tay bạch rằng: –Bạch Thế Tôn! Tỳ-kheo hành Đại thừa trụ Đại thừa, hành Đại thừa thế nào, trụ Đại thừa thế nào? Bạch Thế Tôn! Do nghóa gì mà Đại thừa ấy gọi là Đại thừa, lại do nghóa gì mà gọi là trụ Đại thừa? Đức Phật dạy: –Lành thay! Lành thay! Này Tịnh Vô Cấu Bảo Nguyệt Vương Quang! Ông có thể khéo hỏi nghóa sâu xa ấy. Lắng nghe, lắng nghe, khéo suy nghó! Nay ta vì ông mà phân biệt giải nói. Bồ-tát Tịnh Vô Cấu Bảo Nguyệt Vương Quang nghe Đức Phật hứa khả liền bạch: –Vâng, bạch Thế Tôn! Con xin đảnh thọ Thánh giáo. Đức Phật dạy: –Này thiện nam! Đại Bồ-tát thành tựu mười pháp là hành Đại thừa, là trụ Đại thừa. Những gì là mười? 1. Tín thành tựu. 2. Hạnh thành tựu. 3. Tánh thành tựu. 4. Thích tâm Bồ-đề. 5. Thích nơi pháp. 7. Quán chánh pháp hạnh. 8. Hành pháp thuận pháp. 9. Xả bỏ mạn, đại mạn. Khéo hiểu giáo pháp bí mật của Như Lai. 10. Tâm chẳng mong cầu Thanh văn thừa và Duyên giác thừa. Bồ-tát Tịnh Vô Cấu Bảo Nguyệt Vương Quang bạch: –Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát tín thành tựu cho đến tâm chẳng mong cầu Nhị thừa? Đức Phật dạy: –Này thiện nam! Đại Bồ-tát hành hạnh chẳng dua vạy, được hạnh nhu nhuyến. Bồ-tát ấy tin Bồ-đề Vô Thượng Chánh chân Chánh giác của chư Như Lai. Tin chư Như Lai ở trong một niệm nói sự việc cả ba đời. Tin Như Lai tạng không già, không chết, vô lượng vô biên, không sinh, không diệt, không thường, không đoạn. Tin thật tế pháp giới Nhất thiết trí, chỗ biết của Đấng Nhất Thiết Trí, Phật lực, Vô sở úy, pháp Bất cộng của chư Phật. Tin tướng không thể thấy đảnh của chư Phật. Tin ba mươi hai tướng của chư Phật và tám mươi vẻ đẹp kèm theo trang nghiêm thân Phật, thân Phật có ánh sáng tròn đầy. Tin chỗ nói của Thanh văn của Duyên giác, của Bồ-tát và tin những lời nói lành. Tin đời này, đời trước. Tin người chánh hạnh, người trụ chánh hạnh, hoặc đó là Sa-môn hay Bà-la-môn. Tin nghiệp quả lành rất đáng ưa thích, là vi diệu tối thắng, như là chúng trời và vua trời, loài người và vua loài người. Tin nghiệp quả bất thiện chẳng đáng ưa thích, là khổ não vô lượng, như tại địa ngục, hoặc tại ngạ quỷ, tại súc sinh. Tin như vậy rồi, Bồ-tát ấy rời lìa ba pháp: Một là nghi, hai là mê lầm, ba là chẳng quyết định. Này thiện nam! Đại Bồ-tát thành tựu đức tin như vậy thì gọi là Tín thành tựu. Đức Thế Tôn để làm rõ nghóa ấy nên lại nói kệ rằng: Tin là tăng thượng thừa Người tin là Phật tử Thế nên người có trí Phải thường thân cận tin. Tin là pháp tối thượng Người tin không nghèo thiếu Thế nên người có trí Phải thường thân cận tin. Nếu là người bất tín Chẳng sinh các pháp lành Dường như hạt giống cháy Chẳng mọc được mầm ra. Này thiện nam! Thế nào là Đại Bồ-tát hạnh thành tựu? Này thiện nam! Vì hạnh thành tựu, Đại Bồ-tát cạo bỏ râu tóc mặc Pháp phục, bỏ nhà xuất gia. Đã xuất gia rồi, tu học giới và hạnh Bồ-tát, cũng tu học giới hạnh Thanh văn và giới hạnh Duyên giác. Tu học như vậy rồi, nơi thân, khẩu, ý nghiệp của Bồ-tát ấy, ác nghiệp đều tiêu diệt. Những gì gọi là thân nghiệp bất thiện? Đó là sát sinh, trộm cướp và tà dâm. Dùng ngói đá, đao gậy ném đánh người khác làm thương tổn tay chân…, hoặc đến, hoặc đi làm những việc khinh khi, lăng nhục. Đó gọi là nghiệp bất thiện của thân. Những gì gọi là khẩu nghiệp bất thiện? Đó là nói dối, nói lời thêu dệt, nói hai lưỡi và nói lời ác khẩu, những lời nói bất thiện, chê bai hủy báng chánh pháp những kinh điển Đại thừa thậm thâm, rao nói chỗ lỗi dở của Hòa thượng, A-xà-lê..., những người an trụ trong chánh pháp. Đó gọi là khẩu nghiệp bất thiện. Này thiện nam! Những gì gọi là ý nghiệp bất thiện? Đó là quá nhiều tật đố, lẫn tiếc và tà kiến. Tiếc ganh, vì lợi danh thân ái…, cậy nhà, cậy sắc, ỷ cậy tuổi trẻ khỏe mạnh, ỷ cậy không bệnh, ỷ cậy thọ mạng, ỷ cậy đa văn, ỷ cậy tu hành, quan niệm ái dục, sát hại, sân não... và quan niệm đất nước, y phục, ẩm thực, ham chỗ ở, xe cộ giường nằm..., ham ăn, ham uống; ham con cái, trâu bò cày cấy làm ăn, lo tôi tớ, lo người làm công và lúa gạo, vải lụa, kho đụn, những của cải. Hành giả ham những sự ấy rồi, nếu có một tổn thất thì trong lòng sinh lo buồn khổ não. Hành giả do tham ái tưới ướt nội tâm nên sinh những manh nha ở tâm sau. Lược nói ý nghiệp không khác gì bánh xe lăn chuyển. Đó gọi là ý nghiệp bất thiện. Bồ-tát ấy rời lìa ác nghiệp nơi thân, khẩu và ý. Với Hòa thượng tưởng là Tôn trưởng, với A-xà-lê tưởng là bậc Thầy, với những người khác hoặc già hoặc trẻ sinh lòng cung kính. Lúc ở một mình, Bồ-tát ấy nghó rằng: “Tôi không nên như vậy. Tôi đã phát khởi tâm độ tất cả chúng sinh, cứu tất cả chúng sinh, làm cho chúng sinh an trụ trong chánh định hạnh. Hiện nay tự thân tôi các căn chẳng điều, tu hành chẳng siêng. Tôi phải siêng tu hành điều nhiếp các căn. Tôi tu hành như vậy, các chúng sinh thấy tôi tâm họ điều phục, tùy thuận lời dạy bảo của tôi. Chư Phật hoan hỷ, hàng Trời, Rồng tám bộ chúng cũng đều hoan hỷ.” Này thiện nam! Như thế đó gọi là Bồ-tát biết hổ thẹn (Tàm). Bồ-tát ấy lại tự nghó rằng: “Chớ để người đạo kẻ tục quở trách được thân, khẩu, ý nghiệp các oai nghi của tôi như là hủy hoại giới hạnh, hoặc tác kiến hạnh, hoặc tác hành hạnh, hoặc hành tà mạng. Bồ-tát ấy thực hành sự hổ thẹn như vậy rồi, ngày đêm nhiếp tâm quan sát giới hạnh. Quan sát giới hạnh xong không có những lo sầu, rời lìa những chướng ngại. Tu hành như vậy xong, ở trong chánh pháp của chư Phật, Bồ-tát ấy tu tập các công hạnh. Những công hạnh ấy gọi là Bồ-tát biết hổ thẹn (Quý). Này thiện nam! Bồ-tát thành tựu những hạnh như vậy, gọi đó là hạnh thành tựu. Để làm rõ nghóa ấy, Đức Thế Tôn nói kệ rằng: Hạnh là tăng thượng thừa Phật thừa và Nhị thừa Vì thế nên người trí Tu những hạnh vi diệu. Bồ-tát tiếng tăm lớn Thành tựu hạnh vô úy Nên chứng được Bồ-đề Của chư Phật đã nói. Này thiện nam! Thế nào là Đại Bồ-tát tánh thành tựu? Này thiện nam! Đại Bồ-tát tánh tự ít tham dục, sân hận, ngu si, chẳng tiếc lẫn, chẳng rít rắm, chẳng thô bạo, chẳng ngã mạn, chẳng nóng vội, điều hòa nhu nhuyến, lời lành dịu dàng, dễ cùng ở chung. Bồ-tát ấy đối với tất cả sự cúng dường thượng thắng đúng như tâm dâng hiến những vật sở hữu y phục uống ăn chia cấp cho người. Thí xả xong liền sinh lòng vui mừng hớn hở, cho đến xả thí những phần trên thân thể. Thực hành hạnh ấy, Bồ-tát thấy Như Lai hoặc hàng Thanh văn lòng rất hoan hỷ. Đại Bồ-tát thành tựu pháp như vậy gọi đó là tánh thành tựu. Vì muốn làm rõ nghóa ấy, Đức Thế Tôn nói kệ rằng: Thấy khói liền biết lửa Thấy uyên ương biết nước Tướng lạ biết Bồ-tát Bồ-tát đại trí tuệ Chẳng rít, chẳng não chúng Bỏ những hạnh dua vạy Vì khéo tin chúng sinh Đây gọi Bồ-tát tánh. Này thiện nam! Thế nào gọi là Đại Bồ-tát ưa thích tâm Bồ-đề? Này thiện nam! Đại Bồ-tát vì có tướng Bồ-đề nên phát tâm Bồ-đề. Lúc chưa phát tâm Bồ-đề, hoặc chư Phật Như Lai, hoặc chư Thanh văn khuyên phát tâm Bồ-đề. Đây là tướng mới phát tâm của Bồ-tát. Này thiện nam! Bồ-tát ấy nghe nói có Bồ-đề, nghe tâm Bồ-đề có công đức lớn, nghe rồi phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Đây là tướng thứ hai phát tâm Bồ-đề của Bồ-tát. Này thiện nam! Bồ-tát ấy thấy các chúng sinh không có chủ, không người thân, không ai cứu ai hộ, không ai độ được khiến họ đến bờ bên kia. Bồ-tát liền vì các chúng sinh ấy mà sinh lòng Từ bi mà nói rằng: “Tôi sẽ làm người cứu hộ cho các chúng sinh bơ vơ ấy.” Do nhân duyên ấy mà Bồ-tát phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Đây là tướng thứ ba phát tâm Bồ-đề của Bồ-tát. Này thiện nam! Bồ-tát ấy vì thấy thân tướng đầy đủ của Như Lai mà sinh lòng vui mừng, sinh lòng phấn khởi. Do nhân duyên này mà Bồ-tát phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Đây là tướng thứ tư phát tâm Bồ-đề của Bồ-tát. Này thiện nam! Bồ-tát ấy vì làm lợi ích cho các chúng sinh kia, cho họ được an ổn vui vẻ nên tu các hạnh Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định và Bát-nhã. Này thiện nam! Thế nào là Bồ-tát tu hạnh Bố thí? Này thiện nam! Bồ-tát suy nghó rằng: “Tôi phải bố thí thế nào? Tôi phải làm như vầy: cần ăn cho ăn, cần uống cho uống, cần giường nằm cho giường nằm; cần y phục, nón mũ, giày dép, đồ trang sức... đều cho tất cả, cho đến cắt thịt thân mình mà bố thí.” Bố thí như vậy nguyện được Vô thượng Bồ-đề, mà chẳng cầu lấy phước báo tài vật, chẳng an trụ nơi sự tướng. Đây gọi là Bồ-tát thực hành Bố thí. Này thiện nam! Thế nào là Bồ-tát tu hạnh Trì giới? Này thiện nam! Bồ-tát ấy trước tiên tự điều thuận thân nghiệp, điều thuận khẩu nghiệp, điều thuận ý nghiệp. Tất cả ác nghiệp đều lìa bỏ. Giữ gìn giới hạnh chẳng khuyết giảm, chẳng sót, chẳng tạp. Trì giới như vậy hồi hướng Vô thượng Bồ-đề, mà tâm Bồ-tát ấy chẳng bị chấp chặt nơi giới. Đây gọi là Bồ-tát tu hạnh Trì giới. Này thiện nam! Thế nào là Bồ-tát tu hạnh Nhẫn nhục? Này thiện nam! Bồ-tát nếu nghe hoặc kẻ đạo, người tục hoặc mắng nhiếc nói xấu, hoặc đánh đập cột trói, hoặc chặt tay chân đều nhẫn được cả. Tu hạnh nhẫn nhục như vậy, Bồ-tát hồi hướng Vô thượng Bồ-đề, chẳng vì nhẫn như vậy mà sinh lòng kiêu mạn. Đây gọi là Bồ-tát tu hạnh Nhẫn nhục. Này thiện nam! Thế nào là Bồ-tát tu hạnh Tinh tấn? Này thiện nam! Bồ-tát suy nghó như vầy: “Hư không giới vô lượng vô biên, chúng sinh giới cũng vô lượng, vô biên, chỉ một mình tôi không bạn lữ làm cho họ nhập vào Vô dư Niết-bàn giới. Vì nhân duyên ấy mà Bồ-tát phát khởi hạnh tinh tấn. Ban đầu nhiếp trì tự thân. Nhiếp trì tự thân rồi quán thọ, quán tâm, quán pháp. Chánh quán nơi thọ, tâm và pháp rồi hành trì tâm hạnh. Đã hành trì tâm hạnh rồi kế đến tu hành các hạnh thấy pháp. Trì tâm ý như thế xong, vì làm cho những ác bất thiện chưa sinh phải dứt diệt chẳng sinh nên Bồ-tát phát khởi dục cần tinh tấn. Vì làm cho những thiện pháp chưa sinh được phát sinh nên Bồ-tát phát khởi dục cần tinh tấn. Kế đến Bồ-tát lại tu hành Như ý túc thứ nhất, Như ý túc thứ nhì, thứ ba cho đến thứ tư. Tu hành như vậy chẳng sinh tâm kiêu mạn. Đây gọi là Bồ-tát tu hành Tinh tấn. Này thiện nam! Thế nào gọi là Bồ-tát tu hạnh Thiền định? Này thiện nam! Bồ-tát vì chẳng tham trước nơi dục, chẳng tham trước nơi diệt, chẳng tham trước nơi sự lìa dục, chẳng tham trước thân mình, chẳng tham trước thân người; chẳng tham trước sắc, thọ, tưởng, hành, thức; chẳng tham trước Dục giới, chẳng tham trước Sắc giới; chẳng tham trước nơi Không, nơi Vô tướng, nơi Vô nguyện; chẳng tham trước thế giới này, chẳng tham trước thế giới vị lai mà làm hạnh bố thí. Chẳng nương tựa nơi Thí, nơi Giới, nơi Nhẫn nhục, nơi Tinh tấn, nơi Thiền định. Bồ-tát tu hạnh thiền định như vậy hồi hướng Vô thượng Bồ-đề mà chẳng sinh phân biệt. Đây gọi là Bồ-tát tu hạnh Thiền định. Này thiện nam! Thế nào là Bồ-tát tu hạnh Bát-nhã? Này thiện nam! Bồ-tát thường suy nghó rằng: “Tôi hóa độ chúng sinh.” Hóa độ rồi lại nghó rằng: “Tôi hóa độ vô lượng, vô biên chúng sinh giới khiến họ nhập vào Vô dư Niết-bàn giới mà không có một chúng sinh nhập vào Niết-bàn giới. Vì sao? Vì như Đức Phật đã dạy rằng tất cả các pháp không có ngã, không có nhân, không có chúng sinh, không có thọ mạng.” Bồ-tát tu Tuệ như vậy hồi hướng Vô thượng Bồ-đề. Nguyện như vậy mà ở nơi trí tuệ chẳng sinh phân biệt. Đây gọi là Bồ-tát tu hạnh Bát-nhã. Này thiện nam! Đại Bồ-tát phát tâm Bồ-đề như vậy, gọi là Bồ-tát ưa thích tâm Bồ-đề. Để làm rõ nghóa ấy, Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng: Dường như trân bảo châu Chẳng bỏ rời ánh sáng Lại như vàng trong mỏ Luyện xong càng thêm sáng. Bồ-tát tánh như vậy Càng sáng tâm Bồ-đề Nhị biên thanh tịnh rồi Ma chẳng quấy hại được. Này thiện nam! Thế nào là Bồ-tát ưa thích nơi pháp? Này thiện nam! Đại Bồ-tát tánh tự ưa thích nơi pháp, vui mừng nơi pháp và thấm nhuần nơi pháp. Nếu thấy người biết pháp, hoặc Sa-môn hoặc Bà-la-môn, tùy vật sở hữu đều đem dâng cúng và chắp tay cung kính. Cung kính cúng dường rồi, từ nơi người biết pháp ấy mà được nghe pháp chưa từng được nghe. Cầu được chánh pháp như thế rồi, Bồ-tát như thật tu hành. Đối với người biết pháp trì pháp ấy, Bồ-tát tưởng là Tôn trưởng, là Hòa thượng, là A-xà-lê, quan niệm rằng: “Từ lâu tôi mất bậc Đạo sư nay bỗng được gặp nên tưởng là bậc Đạo sư.” Bồ-tát lại nghó: “Tôi thường bị ràng buộc tại ngục tù thế gian, không hiểu biết, không ai cứu, chẳng biết hỏi ai, nay bỗng gặp Đạo sư.” Bồ-tát lại nghó: “Từ lâu tôi mãi ngủ ở thế gian ngu si như người mù, nay bỗng nhiên được người mở mắt cho.” Bồ-tát lại nghó: “Từ lâu tôi chìm sâu trong bùn không ai cứu vớt, nay bỗng được người vớt lên.” Bồ-tát lại nghó: “Từ lâu tôi mất bậc Đạo sư dẫn đạo chúng sinh, nay bỗng được gặp bậc Đạo sư.” Bồ-tát lại nghó: “Từ lâu tôi bị nhốt ở chỗ nghèo khổ hoạn nạn thế gian không ai cứu tiếp, nay được gặp người cứu tiếp.” Bồ-tát lại nghó: “Từ lâu tôi mắc bệnh khó lành không có lương y điều trị được, nay gặp được lương y.” Bồ-tát lại nghó: “Từ lâu tôi bị lửa tham dục đốt cháy chưa nhờ mây lành mưa tưới, nay bỗng được mây lành tuôn mưa.” Vì nhân duyên thích pháp mến thầy như vậy, nên Bồ-tát nhẫn chịu những sự khổ não như lạnh nóng, các chúng sinh hay làm não hại người như muỗi mòng... đều nhẫn chịu được, cũng nhẫn chịu được sự đói khát, thấy chúng sinh vui sướng chẳng sinh lòng ham muốn. Bồ-tát suy nghó: “Dù tôi hưởng thọ sự khoái lạc thế gian, không bằng nếu tôi được nghe một câu chánh pháp. Nghe xong có thể thành văn tuệ, sinh ý tưởng văn tuệ.” Do vì ưa thích chánh pháp như vậy, nên Bồ-tát làm việc bố thí chẳng có lòng ưu sầu cho đến không hề có sự lo khổ. Vì thế mà Bồ-tát suy nghó: “Tôi vì nghe một câu pháp của Đức Như Lai nói, dầu cho có vào ở A-tỳ địa ngục từ một kiếp đến trăm ngàn kiếp cũng không thấy khổ nhọc, mà tu hành Nhất thiết chủng trí. Nếu có người nào chưa được chánh pháp của Phật, tôi có thể làm cho họ được.” Này thiện nam! Bồ-tát ưa thích pháp như vậy thì gọi là Bồ-tát ưa thích nơi pháp. Vì muốn tuyên bày nghóa ấy, Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng: Người đại trí cầu pháp Đó là các Bồ-tát Cầu pháp không chán đủ Do vì tâm cung kính. Thường cầu nơi chánh pháp Gọi là tướng Bồ-tát Nghe rồi thường nhớ nghó Lại tu hành đúng pháp. Này thiện nam! Thế nào là Bồ-tát quán chánh pháp hạnh? Này thiện nam! Đại Bồ-tát quán tất cả pháp như huyễn, dối gạt phàm phu vì họ ngu si không có chánh tuệ. Tất cả pháp hư vọng như giấc mộng vì chỉ là niệm tưởng. Tất cả pháp như trăng trong nước vì chẳng phải là việc có thật. Tất cả pháp như ảnh trong gương vì không có chúng sinh. Tất cả pháp như tiếng vang do hư không và âm thanh sinh ra. Tất cả pháp sinh diệt do nhân duyên tạo thành. Tất cả pháp không sinh vì là tánh chân như. Tất cả pháp không diệt vì là không sinh. Tất cả pháp không tạo tác vì không có sự tạo tác. Tất cả pháp như hư không vì không nhiễm ô. Tất cả pháp tịch tónh vì thể tánh không nhiễm. Tất cả pháp lìa cấu uế vì lìa tất cả cấu uế. Tất cả pháp vónh diệt vì vốn diệt phiền não. Tất cả pháp không có sắc vì chẳng thể thấy được. Tất cả pháp lìa tâm, ý và ý thức vì không có thân. Tất cả pháp không trụ vì diệt tất cả tàng thức. Tất cả pháp không mong cầu vì lìa sự thân ái đây kia. Tất cả pháp không đắm trước vì lìa tất cả cảnh giới phiền não. Tất cả pháp như rắn độc vì không có sức phương tiện chú thuật. Tất cả pháp như cây chuối vì chẳng chắc thật. Tất cả pháp như bọt nước vì tánh không có lực vậy. Này thiện nam! Bồ-tát quán chánh pháp hạnh như vậy thì gọi là Bồ-tát quán chánh pháp hạnh. Vì tuyên bày nghóa ấy, Đức Thế Tôn nói kệ rằng: Tất cả pháp như huyễn Che đậy tâm chúng sinh Hư vọng như chiêm bao Phải thọ trì như vậy. Pháp như trăng trong nước Vì bóng hình nổi lên Pháp như ảnh trong gương Người trí phải xét biết. Này thiện nam! Thế nào là Bồ-tát quán pháp thuận pháp? Này thiện nam! Đại Bồ-tát dù quán sắc vô thường mà chẳng do diệt sắc để chứng nhập pháp giới. Dùng Như thật trí, đối với các pháp hiện hữu ở trong pháp giới, như thật biết rõ các pháp tướng, khéo ghi nhớ, khéo tu tập; các tướng hiện có; trong pháp giới ấy, có cái được gọi là người giảng nói, người tu tập và người ghi nhận, tự nhiên nhập vào pháp giới hạnh như vậy. Như với sắc, với thọ, tưởng, hành thức, Bồ-tát dùng như thật quán, chân chánh quán sát rồi mà chẳng diệt thức, chẳng chán lìa thức để chứng nhập pháp giới. Đối với tất cả pháp hiện có trong pháp giới, dùng Như thật trí, như thật chứng biết. Trong các pháp ấy có những tên gọi đều khéo nói, khéo biết, khéo tu, khéo ghi nhớ. Do vì khéo biết, khéo tu và khéo ghi nhớ nên tự nhiên nhập pháp giới hạnh như vậy. Như quán biết vô thường, quán biết khổ, vô ngã và bất tịnh cũng như vậy. Quán sắc vô thường khéo biết như vậy, ở trong sắc ấy chẳng còn sinh ý tưởng hoảng sợ. Vì sao? Vì như thật biết sắc từ hư vọng sinh ra, Bồ-tát khéo biết như thật như vậy. Thọ, tưởng, hành, thức đều vô thường, khổ, vô ngã và bất tịnh, ở trong thọ, tưởng, hành và thức ấy chẳng sinh ý tưởng không sợ. Vì sao? Vì như thật biết thọ, tưởng, hành và thức là hư vọng, Bồ-tát khéo như thật biết như vậy. Này thiện nam! Ví như nhà ảo thuật khéo giỏi và đệ tử của ông ta hóa ra bốn binh chủng, đó là tượng binh, mã binh, xa binh, bộ binh. Người có trí xem thấy chẳng kinh sợ. Vì sao? Vì người trí biết đó là những thứ hư vọng do nhà ảo thuật hóa ra để dối gạt mọi người. Này thiện nam! Bồ-tát quán sắc vô thường như vậy. Quán vô thường rồi ở trong sắc ấy chẳng sinh ý tưởng hoảng sợ. Vì sao? Vì như thật biết sắc do hư vọng sinh khởi, Bồ-tát khéo như thật biết như vậy. Này thiện nam! Bồ-tát quán thọ cho đến thức vô thường như vậy. Quán vô thường rồi ở trong thọ cho đến thức chẳng sinh ý tưởng hoảng sợ. Vì sao? Vì như thật biết thọ cho đến thức do hư vọng sinh khởi, Bồ-tát khéo như thật biết như vậy. Này thiện nam! Bồ-tát quán pháp thuận pháp như vậy. Bấy giờ, Bồ-tát Tịnh Vô Cấu Bảo Nguyệt Vương Quang bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Thế nào là Bồ-tát quán sắc vô thường mà chẳng rời sắc, nói nơi pháp giới, chứng nơi pháp giới, tập học pháp giới, dùng sức trí tuệ như thật chứng biết tất cả các pháp? Đức Phật dạy: –Này thiện nam! Vì ông hỏi nên nay ta nói ví dụ. Này thiện nam! Ví như trong thế gian, người có trí lấy các chất độc, lấy chất độc rồi hoặc nấu, hoặc cao, hoặc hợp với chất thuốc khác. Hợp với các chất thuốc khác rồi, vì tài lợi mà đem bán thuốc độc ấy, những người trí này chẳng tự uống. Vì sao? Vì người trí ấy suy nghó rằng chớ để thân mình do thuốc độc này mà phải chết mất. Này thiện nam! Đại Bồ-tát tâm thuận hướng đến Niết-bàn, tâm nhuần hướng đến Niết-bàn, tâm nhuần chảy về Niết-bàn, tâm chánh thủ Niết-bàn, mà Đại Bồ-tát chẳng chứng Niết-bàn. Vì sao? Bồ-tát suy nghó: “Chớ để thân ta do nhân duyên ấy mà thoái chuyển Bồ-đề.” Lại nữa, này thiện nam! Ví như có người phụng thờ lửa. Họ tôn trọng cung kính giữ gìn ngọn lửa, mà họ chẳng có tâm niệm dùng hai tay nắm bốc lửa. Vì sao? Vì tâm niệm họ không để cho thân họ vì nhân duyên ấy mà phải thân đau tâm khổ. Này thiện nam! Đại Bồ-tát dù tâm thuận hướng về Niết-bàn cho đến thuận hướng đến bờ Niết-bàn, mà Đại Bồ-tát chẳng chứng Niết-bàn. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát suy nghó rằng: “Chớ để thân ta do nhân duyên ấy mà thoái Bồ-đề trí.” Đại Bồ-tát Tịnh Vô Cấu Bảo Nguyệt Vương Quang bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Như chỗ con hiểu, theo pháp nghóa được Đức Phật nói thì Bồ-tát phải thường ở thế gian. Đức Phật dạy: –Đúng như vậy! Bồ-tát phải thường ở tại thế gian. Đại Bồ-tát Tịnh Vô Cấu Bảo Nguyệt Vương Quang bạch: –Bạch Thế Tôn! Bồ-tát ở tại thế gian phải thế nào để khỏi bị thế gian làm ô nhiễm? Đức Phật dạy: –Này thiện nam! Nay ta vì ông mà nói ví dụ. Này thiện nam! Ví như có người khéo hiểu phương tiện bắt các cầm thú. Người ấy dùng sức chú thuật cùng đùa với rắn độc, nắm rắn độc hoặc ngậm hoặc rờ vuốt. Đùa giỡn với rắn độc như vậy mà trọn chẳng bị nhân duyên ấy làm mất mạng. Vì sao? Vì có sức chú thuật thiện xảo. Này thiện nam! Đại Bồ-tát ở tại thế gian hành thế gian pháp, vì có sức đại trí phương tiện thiện xảo cùng các thuốc độc phiền não ác đùa giỡn, mà chẳng bị nhân duyên kia làm thoái Bồ-đề. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát đã thành tựu sức trí tuệ phương tiện thiện xảo. Đại Bồ-tát Tịnh Vô Cấu Bảo Nguyệt Vương Quang bạch: –Bạch Thế Tôn! Rất lạ lùng! Rất lạ lùng thay! Đấng Thiện Thệ rất ít có, rất khó có! Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát tâm hướng đến Niết-bàn mà chẳng chứng Niết-bàn, dù ở tại thế gian mà chẳng bị thế gian làm ô nhiễm. Nay con quy y các Bồ-tát. Bạch Thế Tôn! Nếu có thiện nam, thiện nữ được nghe hạnh Bồ-tát như vậy mà sinh lòng vui mừng, người ấy đã từng trồng căn lành từ quá khứ. Vì sao? Nếu người nào nghe pháp môn này cho đến một thời gian chừng khoảng khảy ngón tay mà sinh lòng hy hữu, thì người ấy đã được chư Phật thọ ký. Vì sao? Vì người ấy nghe pháp môn này mà chí tâm lắng nghe kỹ. Đức Phật dạy: –Đúng như vậy. Như lời ông nói. Lúc Đức Phật nói pháp môn ấy, có năm trăm Tỳ-kheo được tâm vô lậu. Được tâm vô lậu rồi các vị đứng dậy chỉnh y vai phải, gối phải chấm đất chắp tay bạch: –Bạch Thế Tôn! Các Bồ-tát đáng được cung kính, phải nên lễ kính các Bồ-tát. Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: –Đúng như vậy. Này thiện nam! Các Đại Bồ-tát quán pháp thuận pháp như vậy thì gọi là Bồ-tát quán pháp thuận pháp. Để làm rõ nghóa ấy, Đức Thế Tôn nói kệ rằng: Phải kính đại trí tuệ Phải kính đại vô úy Phải kính người chánh phục Phải kính người Phật sinh. Vì dùng sức phương tiện Vì trí tuệ thiện xảo Vượt qua hàng Thanh văn Bồ-tát có trí lớn Biết rõ năm ấm hư Vì sinh diệt chẳng định Thấy thế gian lửa cháy Nên chẳng chứng Niết-bàn. Lại nữa, này thiện nam! Thế nào là Đại Bồ-tát rời lìa mạn, đại mạn? Này thiện nam! Mạn được nói đó là sinh tâm như vầy: Nay những gì tôi có như nhà cửa, dòng họ, hình sắc, sức lực và những thứ vàng bạc, châu báu, hoặc tượng binh, mã binh, xa binh, bộ binh.. chẳng kém người khác. Nếu có người sinh tâm kiêu mạn như vậy thì gọi là mạn, vì họ chẳng có lòng kính nể người khác. Này thiện nam! Thế nào gọi là đại mạn? Nếu có người quan niệm rằng: Thân thể, dòng họ, tài sản của tôi cho đến bốn binh chủng của tôi hơn người khác. Do đó mà không có lòng kính nể người khác. Đây gọi là đại mạn. Này thiện nam! Kiêu mạn và đại mạn ấy Đại Bồ-tát đều đã rời bỏ. Đây gọi là Bồ-tát rời lìa mạn, đại mạn. Vì tuyên bày nghóa ấy, Đức Thế Tôn nói kệ rằng: Rời mạn, lìa đại mạn Thường hành tâm Từ bi Vì dùng tâm nhuần đó Ở đời chẳng phóng dật. Dù làm việc khất thực Việc lớn của Bồ-tát Thuyết pháp làm lợi ích Cho trời và cho người. Lại nữa, này thiện nam! Thế nào là Bồ-tát hiểu giáo pháp bí mật của Như Lai? Này thiện nam! Đại Bồ-tát ở trong các kinh có ẩn chứa những nghóa thâm mật thì khéo biết như thật. Này thiện nam! Những gì là giáo nghóa thâm mật của Như Lai? Này thiện nam! Phật thọ ký cho hàng Thanh văn được Vô thượng Bồ-đề. Việc ấy chẳng phải như vậy. Như Phật bảo A-nan: “Lưng ta đau nhức.” Việc ấy chẳng phải như vậy. Như Phật nói với các Tỳ-kheo: “Nay ta già suy, các ông vì ta mà tìm thị giả.” Việc ấy chẳng phải như vậy. Như Phật bảo Đại Mục-kiền-liên: “Ông nên đến hỏi y vương Kỳ-bà, bệnh của ta phải uống thứ thuốc nào?” Việc ấy chẳng phải như vậy. Như Phật theo đuổi các nhà ngoại đạo nhiều nơi để luận nghóa tranh thắng họ. Việc ấy chẳng phải như vậy. Như gai Khư-đà-la đâm chân Như Lai. Việc ấy chẳng phải như vậy. Như Phật thường nói: “Đề-bà-đạt-đa là kẻ oan cừu đời trước của ta, ông ấy thường theo tìm dịp hại ta mãi.” Việc ấy chẳng phải như vậy. Như Phật ngày trước vào thành Xá-vệ trong thôn Xa-lê-gia của Bà-la-môn khất thực khắp nơi rồi đi ra với cái bát không. Việc ấy chẳng phải như vậy. Như nàng Chiên-giá-ma-na-tỳ Tôn-đà-lê dùng gáo gỗ độn bụng, để vu báng Như Lai. Việc ấy chẳng phải như vậy. Như ngày trước Phật nhận lời thỉnh an cư ba tháng tại nước Tỳ-lan-đa của Bà-la-môn Tỳ-lan-nhã mà ăn cơm lúa mạch. Việc ấy chẳng phải như vậy. Đại Bồ-tát Tịnh Vô Cấu Bảo Nguyệt Vương Quang bạch: –Bạch Thế Tôn! Lời nói vừa rồi đó phải ghi nhận thế nào? Vì sao Thế Tôn thọ ký cho hàng Thanh văn được Vô thượng Bồ-đề? Đức Phật dạy: –Này thiện nam! Ta thọ ký cho hàng Thanh văn được Vô thượng Bồ-đề đó là vì ta thấy họ có Phật tánh. Đại Bồ-tát Tịnh Vô Cấu Bảo Nguyệt Vương Quang bạch: –Bạch Thế Tôn! Hàng Thanh văn ấy dứt hữu lậu, rời ba cõi, phần thọ sinh đã đoạn, mà vì họ có Phật tánh nên được Đức Như Lai thọ ký Vô thượng Bồ-đề, việc ấy như thế nào? Đức Phật dạy: –Này thiện nam! Nay ta vì ông mà nói ví dụ. Này thiện nam! Ví như Quán đảnh Chuyển luân thánh vương có đủ ngàn vương tử, cứ theo vương tử nào lớn nhất sẽ truyền ngôi vua. Nhưng vì vương tử ấy căn tánh ngu độn nên đáng lẽ sơ giáo lại trung giáo, đáng lẽ trung giáo lại hậu giáo, tất cả các nghề nghiệp chú thuật, vương tử ấy vì ngu độn nên đáng lẽ sơ học thì trung học, đáng lẽ trung học thì hậu học. Này thiện nam! Ý của ông nghó sao? Vương tử ấy học như vậy xong lại chẳng phải là con trai trưởng của Luân vương ư? Đại Bồ-tát Tịnh Vô Cấu Bảo Nguyệt Vương Quang bạch Phật: –Thưa không, bạch Thế Tôn! Thưa không, bạch Thiện Thệ! Người đó vẫn đúng là vương tử. Đức Phật dạy: –Này thiện nam! Cũng vậy. Có Bồ-tát vì căn tánh chậm lụt nên đáng sơ học lại trung học, đáng trung học lại hậu học, y theo pháp quán năm ấm của chúng sinh dứt diệt phiền não. Diệt phiền não rồi sau mới được Vô thượng Bồ-đề. Này thiện nam! Hàng Thanh văn ấy do nhân duyên như vậy mà được Vô thượng Bồ-đề, lẽ nào lại có thể nói rằng hàng Thanh văn chẳng được thành Chánh giác ư? Đại Bồ-tát Tịnh Vô Cấu Bảo Nguyệt Vương Quang bạch: –Bạch Thế Tôn! Con chẳng bao giờ thấy có ai, là Người hay Trời, là Ma vương hay Phạm vương mà có thể nói hàng Thanh văn chẳng được thành Chánh giác. Không bao giờ có người nào nói được chỉ trừ hạng Nhất xiển đề. Đức Phật dạy: –Này thiện nam! Nay ta lại vì ông mà nói ví dụ. Này thiện nam! Bồ-tát căn tánh bén nhạy trụ địa thứ mười, trừ hai thứ vô ngã mà ngồi đạo tràng. Đó là vì trừ nên ngồi vào đạo tràng, hay là chẳng trừ mà ngồi vào đạo tràng? Đại Bồ-tát Tịnh Vô Cấu Bảo Nguyệt Vương Quang bạch: –Bạch Thế Tôn! Đã trừ rồi ngồi vào đạo tràng vậy. Đức Phật dạy: –Này thiện nam! Bồ-tát căn tánh lanh lợi ấy do nhân duyên như vậy lẽ nào lại chẳng thành Chánh giác ư? Đại Bồ-tát Tịnh Vô Cấu Bảo Nguyệt Vương Quang bạch: –Bạch Thế Tôn! Được thành Chánh giác. Đức Phật dạy: –Này thiện nam! Trường hợp lời nói trên đây cũng như vậy. Đại Bồ-tát Tịnh Vô Cấu Bảo Nguyệt Vương Quang bạch: –Bạch Thế Tôn! Vì cớ gì mà Thế Tôn ngày trước bảo ngài A-nan rằng: “Lưng ta đau nhức?” Đức Phật dạy: –Này thiện nam! Ta quan sát thương xót chúng sinh đời sau mà nói rằng lưng ta đau nhức, để các người bệnh biết rằng thân Phật là thân Kim cang mà còn có đau lưng huống là chúng ta và những người khác. Vì cớ ấy nên ta mới có lời nói như vậy. Mà các người ngu lại cho là thật, cho là Phật có bệnh đau lưng... như vậy là họ tự hại và làm hại người khác. Này thiện nam! Như ngày trước ta bảo các Tỳ-kheo: “Nay ta già yếu, các ông nên vì ta mà tìm thị giả.” Ta nói như vậy cũng là vì thương xót đời sau các Thanh văn đệ tử già yếu phải cần người chăm sóc cung cấp để khỏi thoái chuyển. Mà những người ngu lại cho rằng thật, họ cho rằng Phật già yếu cần thị giả. Này thiện nam! Ngày trước ta bảo Đại Mục-kiền-liên đến hỏi y vương Kỳ-bà về cách uống thuốc. Ta nói như vậy cũng là vì thương xót đời sau hàng Thanh văn đệ tử, người có bệnh cần phải dùng thuốc, họ nhớ rằng Phật là thân Kim cang mà còn phải uống thuốc huống là họ và các người khác. Mà những người ngu lại cho là thật, họ cho rằng thân Phật là thân bệnh hoạn. Này thiện nam! Lúc Đại Mục-kiền-liên vâng lời ta đến hỏi thuốc nơi y vương Kỳ-bà. Kỳ-bà không mặt mũi nào dám chỉ thuốc cho Như Lai nên chẳng đáp thẳng mà chỉ nói rằng: “Chỉ nên ăn tô (chất sữa), chỉ nên ăn tô.” Đó là Như Lai thị hiện nghiệp báo để cho hàng Thanh văn đệ tử đời sau nhớ biết mà chẳng thoái chuyển. Này thiện nam! Ngày trước Như Lai đuổi theo các nhà ngoại đạo khắp nơi như Ni-kiền Tử... để luận nghóa tranh thắng. Đó là vì ta quan sát thương xót các chúng sinh đời sau. Khiến các chúng sinh ấy nhớ biết rằng Phật Như Lai Chánh Chân Chánh Giác mà còn có oan gia huống là chúng ta và những người khác. Mà các người ngu lại cho là thật, họ cho rằng Phật Như Lai thật có oan gia. Này thiện nam! Chuyển luân thánh vương do chút ít phước mà còn không có oan gia, huống là Như Lai đã thành tựu vô lượng, vô biên công đức. Này thiện nam! Ngày trước gai Khư-đà-la đâm vào chân Đức Như Lai. Đó là ta vì thương chúng sinh đời sau mà thị hiện nghiệp báo, để họ nhớ biết rằng Như Lai thành tựu vô lượng, vô biên công đức mà còn có nghiệp báo huống là chúng ta và các người khác. Do đó mà họ tránh bỏ nghiệp, nhưng những người ngu lại cho là thật, họ cho rằng Như Lai bị gai đâm chân. Đại Bồ-tát Tịnh Vô Cấu Bảo Nguyệt Vương Quang bạch: –Bạch Thế Tôn! Có phải Đề-bà-đạt-đa là oan cừu từ đời trước của Phật, ông ấy tìm dịp để hại Phật? Đức Phật dạy: –Này thiện nam! Nếu không có Thiện tri thức Đề-bà-đạt-đa thì trọn chẳng biết được Như Lai công đức vô lượng, vô biên. Này thiện nam! Đề-bà-đạt-đa là Thiện tri thức. Ông ấy tranh thắng với ta mà thị hiện oan gia để hiển bày vô lượng công đức của Như Lai. Này thiện nam! Ông bạn lành Đề-bà-đạt-đa ở trong nội cung nói với vua A-xà-thế làm hại Như Lai. Lúc ấy nhà vua cố ý thả voi Hộ Tài để đạp ta. Như Lai thấy voi liền điều phục nó. Vô lượng chúng sinh thấy Như Lai điều phục được voi Hộ Tài đều sinh lòng kính ngưỡng mà phát tâm tin mến quy y Tam Bảo, đó là Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo. Do cớ sự như vậy nên biết Đề-bà-đạt-đa là Thiện tri thức từ lâu theo làm oan gia của Phật. Mà các người ngu lại cho đó là thật, họ nói Đề-bà-đạt-đa hại Phật, là oan gia của Phật. Này thiện nam! Cho đến từ quá khứ trong năm trăm đời sinh chỗ nào, Đề-bà-đạt-đa là Thiện tri thức mà thị hiện làm oan gia để hiển bày các Bồ-tát và Như Lai có vô lượng công đức. Nhưng các người ngu lại cho là thật, họ cho rằng Đề-bà-đạt-đa là kẻ hại Phật, là oan gia của Phật. Do sự nhận định bất thiện ấy nên các người ngu ấy phải đọa trong ba đường ác: Địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh, những xứ khổ não. Vì sao? Này thiện nam! Đề-bà-đạt-đa là Thiện tri thức. Ông ấy đã khéo tu vô lượng công đức thù thắng, khéo tu căn lành, gần gũi chư Phật gieo trồng cội công đức, tâm hướng về Đại thừa, thuận theo Đại thừa, đến bờ Đại thừa, đã gần Vô thượng Bồ-đề. Vì các người ngu kia hủy báng ông ấy nên đời vị lai họ sinh vào trong các ác đạo địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh. Đại Bồ-tát Tịnh Vô Cấu Bảo Nguyệt Vương Quang bạch: –Bạch Thế Tôn! Còn việc Thế Tôn vào khất thực trong thôn Bà-la-môn Xa-lê-gia tại thành Xá-vệ mang bát không mà ra là thế nào? Đức Phật dạy: –Này thiện nam! Việc ấy cũng là vì thương xót chúng sinh đời sau mà hiện ra như vậy. Để cho người đời sau nhớ biết rằng: Đức Phật đầy đủ vô lượng công đức còn mang bát không mà đi ra, huống là chúng ta và các người khác. Này thiện nam! Có kẻ bảo đó là ma Ba-tuần khuyên các nhà Bà-la-môn, trưởng giả, Cư só đừng cúng dường Như Lai. Lời nói ấy cũng chẳng đúng. Vì sao? Này thiện nam! Ma vương Ba-tuần không có năng lực khuyên được các trưởng giả đừng dâng cúng cho Như Lai. Này thiện nam! Việc ấy chớ nên quan niệm như vậy. Vì Ma vương không đủ sức ngăn chận sự cúng dường cho Như Lai. Đó là Như Lai sai khiến Ma vương đến nói với các trưởng giả... để họ không cúng dường. Này thiện nam! Như Lai đã diệt hết các chướng ngại, đã thành tựu vô lượng công đức thù thắng, không bao giờ có ai làm chướng ngại được sự cúng dường Như Lai. Như Lai không có nghiệp báo thật, chỉ vì muốn cho các chúng sinh đắc đạo mà thị hiện các sự việc phương tiện thiện xảo như vậy. Này thiện nam! Như Lai nếu đoạn một bữa ăn, khiến hàng Thanh văn và Ma vương, Trời, Rồng tám bộ chúng cùng chư Thiên nghó rằng chớ để quyến thuộc sinh lòng lo khổ. Vì những sự việc như vậy nên Như Lai ngày đêm thị hiện khiến họ sinh một tâm niệm bất thiện, cho đời sau biết rằng Như Lai đã vượt khỏi ba cõi mà còn có sự việc ấy huống là chúng ta và các người khác. Lúc ta hiện ra sự việc ấy, có bảy vạn chư Thiên sinh lòng tin thanh tịnh đối với Như Lai. Biết lòng tin của tám vạn chư Thiên ấy, Như Lai liền vì họ mà thuyết pháp. Họ nghe pháp rồi đều được Pháp nhãn thanh tịnh. Này thiện nam! Vì sự lợi ích như vậy và vì quan sát thương xót các chúng sinh đời sau nên thị hiện các sự việc ấy. Như Lai không có nghiệp báo như vậy. Đại Bồ-tát Tịnh Vô Cấu Bảo Nguyệt Vương Quang bạch: –Bạch Thế Tôn! Còn việc nàng Tôn-đà-lê dùng gáo gỗ độn bụng để vu báng Như Lai thì thế nào? Phật dạy: –Này thiện nam! Việc ấy cũng chẳng phải vậy. Như Lai đã thành tựu vô lượng công đức, không có hoạn nạn về nghiệp báo. Này thiện nam! Thần lực của Đức Như Lai có thể đem những người như nàng Tôn-đà-lê ra ngoài vô lượng hằng hà sa thế giới, mà vẫn bị vu báng đó là Như Lai dùng sức phương tiện hiển thị nghiệp báo. Đời sau này hàng đệ tử của ta, người phước bạc dù được xuất gia trong pháp của Phật mà bị vu báng hoặc lại thoái thất, bởi họ chẳng suy nghó lời dạy của Phật mà quan niệm rằng: “Nay tôi đã bị vu báng, tôi chẳng nên còn ở trong chánh pháp của Phật.” Vì muốn cho những hàng đệ tử ấy nhớ biết rằng chư Phật Như Lai đầy đủ trọn vẹn tất cả pháp lành, đã dứt pháp ác, mà còn có ác đối, bị vu báng như vậy, huống là họ và những người khác. Vì họ nhớ biết như vậy nên chẳng còn thoái thất mà vẫn tu phạm hạnh. Này thiện nam! Nàng Tôn-đà-lê... sinh ác tâm, do thần lực của Phật, làm cho họ chiêm bao để được khai ngộ: “Nếu ta thật vu báng Đức Phật, lúc thân ta chết ắt phải đọa ác đạo.” Này thiện nam! Nếu Như Lai biết là người có thể phòng hộ được thì liền phòng hộ họ. Vì thế nên Như Lai thị hiện sự việc như vậy. Này thiện nam! Không có một chúng sinh nào mà Như Lai bỏ sót, nên thị hiện như vậy. Đại Bồ-tát Tịnh Vô Cấu Bảo Nguyệt Vương Quang bạch: –Bạch Thế Tôn! Còn việc ngày trước Đức Như Lai ở tại nước Tỳ-lan-đa nhận lời thỉnh an cư ba tháng của Bà-la-môn Tỳ-lan-nhã mà ăn cơm lúa mạch là thế nào? Đức Phật dạy: –Này thiện nam! Cũng là vì thương chúng sinh đời sau mà ta hiện ra sự việc ấy. Này thiện nam! Như Lai thật biết các Bà-la-môn, cư só… thỉnh an cư mà chẳng cúng dường nhưng vẫn nhận lời an cư tại xứ ấy. Vì sao? Này thiện nam! Tại chỗ ta an cư ấy có năm trăm con ngựa, phần lúa mạch của bầy ngựa ấy cung cấp đủ cho chúng Tăng trong ba tháng. Này thiện nam! Bầy ngựa ấy đều là Đại Bồ-tát đã từng trồng cội phước đức, mà vì gặp bạn ác gây tạo nghiệp ác nên phải sinh làm thân súc sinh. Này thiện nam! Người chăn nuôi bầy ngựa ấy chính là Bồ-tát Nhâït Tạng do nguyện lực mà sinh ở đó. Bồ-tát Nhâït Tạng khuyến cáo năm trăm con ngựa phát tâm Bồ-đề cho chúng được thoát khỏi ác báo. Cũng vì việc ấy mà Bồ-tát nguyện sinh ở đó. Do sức khéo giỏi chăn nuôi của Bồ-tát mà năm trăm con ngựa ấy đều nhớ được đời trước phát tâm Bồ-đề giác ngộ bản tâm. Này thiện nam! Vì thương bầy ngựa ấy mà Như Lai nhận lời thỉnh an cư ở xứ ấy. Lúa mạch, phần ăn của người chăn ngựa, thì cấp cho Như Lai, phần lúa mạch của năm trăm con ngựa thì cấp cho chúng Tăng. Này thiện nam! Người chăn ấy dùng âm thanh của loài ngựa dạy năm trăm con ngựa ấy sám hối khuyên chúng phát tâm. Lại làm cho bầy ngựa sinh lòng kính trọng đối với Tam bảo. Này thiện nam! Quá ba tháng, năm trăm con ngựa ấy bỏ thân sinh lên trời Đao-lợi. Như Lai vì họ thuyết pháp khiến họ được thọ ký Vô thượng Bồ-đề. Này thiện nam! Ở xứ ấy có bao nhiêu người chăn ngựa, người giữ ngựa, Như Lai thọ ký cho họ sẽ thành tựu tâm, tự điều phục được đạo Duyên giác. Này thiện nam! Trong thế gian không có món ăn nào mà khi Đức Như Lai ăn lại chẳng thành mùi vị thơm ngon vi diệu. Này thiện nam! Giả sử các vật như đất gạch, ngói đá… được Như Lai ăn cũng đều thành món ăn có mùi vị vi diệu cả. Này thiện nam! Món ăn được Như Lai ăn đều thành thượng vị cả, trong cõi đại thiên khắp thế gian không có món ăn của ai ăn mà có thể sánh bằng được. Vì sao? Vì Như Lai đã được tướng tốt của bậc đại Trượng phu, được thượng vị trong các vị, được thượng vị trong các món ăn vậy. Này thiện nam! Nay ông phải nhận biết các món của Như Lai ăn đều có vị vi diệu không món nào sánh bằng. Này thiện nam! Tỳ-kheo A-nan vì thương mến ta nên nói rằng: “Đức Như Lai vốn dòng Chuyển luân thánh vương bỏ ngôi xuất gia sao lại phải ăn cơm lúa mạch?” Biết tâm niệm A-nan, Đức Như Lai liền trao một hạt cơm lúa mạch cho A-nan mà bảo rằng: “Ông nếm coi đó là mùi vị gì?” A-nan ăn rồi lấy làm lạ lùng bạch với ta rằng: “Bạch Thế Tôn! Con sinh trưởng trong hoàng gia mà chưa bao giờ được ăn món nào có mùi vị ngon thơm như vậy.” Này thiện nam! Do ăn thượng vị ấy mà A-nan thân tâm an ổn bảy ngày chẳng cần ăn. Này thiện nam! Do những cớ sự ấy nên biết Như Lai không có nghiệp báo. Nhưng các Cư só, Bà-la-môn kia thỉnh chúng Tỳ-kheo thanh tịnh có đức qua ở xứ ấy mà chẳng cúng dường, cũng để thị hiện quả báo. Này thiện nam! Bà-la-môn kia thỉnh Phật và Tăng mà chẳng cúng dường, ông nên xem thần lực của Như Lai, Như Lai thọ ký Bà-la-môn kia chẳng bị đọa vào ác đạo. Này thiện nam! Trong hàng chư Tăng, năm trăm Tỳ-kheo cùng ta an cư, lúc ấy có bốn mươi Tỳ-kheo có nhiều tâm tham, vì họ chẳng quán được hạnh bất tịnh. Nếu họ được món ăn ngon vừa ý thì sẽ đều thoái đạo. Do họ ăn cơm lúa mạch của ngựa nên họ chẳng sinh lòng dục, quá bảy ngày, cả bốn mươi Tỳ-kheo ấy đều được quả A-la-hán. Này thiện nam! Như Lai có trí phương tiện thiện xảo biết rõ tâm tánh của chúng sinh, vì độ chúng sinh mà Như Lai nhận sự thỉnh mời ấy. Này thiện nam! Đại Bồ-tát khéo thành tựu những sự thị hiện giáo pháp thậm thâm bí mật như vậy. Nếu biết như vậy thì gọi là khéo hiểu giáo pháp bí mật của Như Lai. Vì tuyên bày nghóa ấy, Đức Thế Tôn nói kệ rằng: Khéo biết pháp môn tiệm Và biết pháp môn đốn Trong tâm khéo biết rõ Các Bồ-tát thị hiện. Khéo biết bí mật giáo Xa lìa những nghi hoặc Khéo biết lời Phật dạy Những giáo pháp bí mật. Đại Bồ-tát Tịnh Vô Cấu Bảo Nguyệt Vương Quang bạch: –Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát chẳng cầu Thanh văn thừa và Duyên giác thừa? Đức Phật dạy: –Này thiện nam! Dù Đại Bồ-tát có ở địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh chịu khổ rất nặng chẳng thể kể nói, nhưng tâm các vị vẫn chẳng cầu Thanh văn thừa và Duyên giác thừa, cũng không có tâm cầu tự giải thoát, chẳng nghó thiểu dục, chẳng nghó thiểu tác, chẳng làm sự thiểu dục chẳng làm sự thiểu tác. Này thiện nam! Với các chúng sinh thiện nghiệp, Bồ-tát cùng họ đồng sự, nhưng chính là Bồ-tát khuyên họ làm lành phát tâm Vô thượng Bồ-đề vậy. Này thiện nam! Vì thành tựu pháp như vậy nên Đại Bồ-tát chẳng cầu Thanh văn thừa và Duyên giác thừa. Vì tuyên bày nghóa ấy, Đức Thế Tôn nói kệ rằng: Thường giáo hóa chúng sinh Tâm chẳng biết mệt mỏi Với Vô thượng Bồ-đề Vững chắc chẳng thoái chuyển. Tâm Bồ-tát chẳng động Dường như núi Tu-di Tu tập tâm Từ bi Chẳng cầu đạo Nhị thừa. Đại Bồ-tát Tịnh Vô Cấu Bảo Nguyệt Vương Quang bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Như Lai đã nói Bồ-tát thành tựu những pháp như vậy nên gọi là hành Đại thừa, trụ Đại thừa. Nhưng Như Lai chẳng nói do nghóa gì mà Đại thừa ấy được tên là Đại thừa. Đức Phật dạy: –Này thiện nam! Nay ta hỏi ông, tùy ý ông đáp. Này thiện nam! Chuyển luân thánh vương mang đủ bốn binh chủng đi qua những con đường. Con đường được Thánh vương đi ấy dùng danh từ gì để gọi? Đại Bồ-tát Tịnh Vô Cấu Bảo Nguyệt Vương Quang bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Con đường ấy gọi là vương đạo, là đại đạo, là vô úy đạo, là vô ngại đạo, là con đường hơn tất cả đường của các quốc vương. Đức Phật dạy: –Này thiện nam! Con đường hành hóa của chư Phật Như Lai Chánh Chân Chánh Giác gọi là Đại thừa, là Thượng thừa, là Diệu thừa, là Thắng thừa, là Vô thượng thừa, là Vô thượng thượng thừa, là Vô đẳng thừa, là Vô đẳng đẳng thừa, là Bất ác thừa. Này thiện nam! Vì nghóa ấy nên gọi là Đại thừa. Đại Bồ-tát Tịnh Vô Cấu Bảo Nguyệt Vương Quang bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Thế Tôn nói danh nghóa Đại thừa như vậy thật là rất hay. Lúc Đức Như Lai nói mười pháp Đại thừa ấy, Ma vương Ba-tuần suy nghó: “Ngày nay Sa-môn Cù-đàm vượt qua cảnh giới của ta. Nếu ta sắp xếp đem bốn binh chủng làm não ông Cù-đàm thì ông ấy chẳng nói pháp môn ấy được.” Nghó xong, Ma vương Ba-tuần mang bốn binh chủng đến núi Kỳ-xà-quật nơi thành Vương xá. Lúc ấy Đại Bồ-tát Tịnh Vô Cấu Bảo Nguyệt Vương Quang thấy ma Ba-tuần mang bốn binh chủng đến muốn làm não Đức Như Lai để Như Lai chẳng nói pháp môn ấy được, Bồ-tát liền hiển hiện thần thông khiến ma Ba-tuần đến ngã tư đường trong thành Vương xá xướng to: –Hỡi nhân dân thành Vương xá! Nên biết rằng ngày hôm nay tại núi Kỳ-xà-quật, Sa-môn Cù-đàm vì bốn chúng thuyết pháp đoạn đầu, giữa, rốt sau đều hoàn thiện, văn nghóa sâu xa đầy đủ phạm hạnh thanh tịnh. Mọi người nên đến núi Kỳ-xà-quật nghe Sa-môn Cù-đàm thuyết pháp. Mọi người nghe pháp sẽ được đại an lạc, đại lợi ích. Được sự khuyến cáo của Ma vương Ba-tuần, nhân dân trong thành Vương xá: Bà-la-môn, Sát-lợi, Trưởng giả, Cư só... mang theo hoa hương, phướn lọng ra khỏi thành Vương xá đến núi Kỳ-xà-quật, chỗ Đức Thế Tôn ngự, đảnh lễ chân Phật, tôn trọng tán thán rồi ngồi một phía. Ma vương Ba-tuần cũng cùng bốn binh chủng đến chỗ Như Lai hóa ra hoa trời Mạn-đà-la rải cúng Như Lai rồi ngồi một phía. Biết ma ngồi xong, Đại Bồ-tát Tịnh Vô Cấu Bảo Nguyệt Vương Quang nói với Ma vương Ba-tuần: –Này Ba-tuần! Duyên cớ gì ông mang binh ma đến muốn làm não và ngăn trở Đức Như Lai nói pháp môn ấy? Nay ông phải đối với Đức Như Lai sinh lòng hổ thẹn, lòng sám hối. Bằng không ông sẽ tự hại mãi mãi và mắc khổ báo. Nghe lời Bồ-tát, Ma vương Ba-tuần chắp tay lễ chân Đức Phật, sinh lòng hổ thẹn, lòng sám hối mà bạch: –Ngày hôm nay tôi rất sợ Như Lai. Rất lạ lùng thay Như Lai! Xin Đức Đại Thọ nhận sự sám hối của tôi. Tôi ngu si không có trí tuệ, không có trí thiện xảo, chẳng tự tiếc thân mà sinh ác tâm đối với Như Lai, lại muốn pháp môn ấy dứt tuyệt. Lành thay! Xin Thế Tôn nhận sự sám hối của tôi. Đức Phật dạy: –Lành thay! Lành thay! Này Ba-tuần! Trong pháp của Phật, nếu có thiện nam, thiện nữ hay khởi tâm sám hối để cầu thanh tịnh thì sẽ nuôi lớn căn lành. Lành thay cho Ba-tuần! Bấy giờ Ma vương Ba-tuần đến đứng trước Đức Phật bạch: –Bạch Thế Tôn! Phải chăng các kinh của Phật đều dứt tuyệt lời nói ác và lời nói chẳng lành? Đức Phật đáp: –Đúng như vậy. Ma vương Ba-tuần bạch: –Sao Như Lai là Pháp vương, là Pháp chủ đủ pháp tự tại mà gọi tôi là Ba-tuần, lại dùng tên ấy để gọi tôi? Đức Phật dạy: –Này Ba-tuần! Nay ta vì ông mà nói ví dụ. Này thiện nam! Ví như vị trưởng giả cư só giàu có vô lượng chỉ có một con trai rất thương yêu chẳng rời mắt, đem sinh mạng mình buộc chặt với con. Nhưng đứa con trai ấy tánh tình ngang ngược rất hung dữ. Vì thương yêu nên vị trưởng giả cư só dùng gậy đánh nó, muốn nó bỏ tánh xấu. Này thiện nam! Trưởng giả cư só ấy đánh đập đứa con như vậy mà có ác tâm chăng? Ma vương Ba-tuần bạch: –Bạch Thế Tôn! Không có ác tâm. Vì thương yêu muốn cho con nên người mà làm như vậy. Đức Phật dạy: –Này thiện nam! Phải biết rằng Như Lai Chánh Chân Chánh Giác biết rõ tâm tánh căn dục của chúng sinh. Kẻ nên dùng lời ác được độ thì Như Lai dùng lời ác, kẻ nên dùng im lặng không nói mà được độ thì Như Lai dùng sự im lặng, kẻ nên dùng đuổi xua mà được độ thì Như Lai dùng đuổi xua, kẻ nên dùng thuyết pháp được độ thì Như Lai vì họ mà thuyết pháp, kẻ nên dùng nhiếp thọ để được độ thì Như Lai nhiếp thọ họ, kẻ nên thấy sắc thân Phật mà được độ thì Như Lai thị hiện sắc thân cho họ thấy, kẻ nên nghe tiếng, hoặc nghe mùi vị, chạm xúc mà được độ thì Như Lai hiện thuyết pháp cho đến hiện mùi vị và chạm xúc để độ họ. Ma vương Ba-tuần vui mừng hớn hở lại chắp tay đảnh lễ chân Đức Phật mà bạch: –Bạch Thế Tôn! Phàm chỗ nào, xứ nào có nói pháp môn này, hoặc thôn xóm, thành ấp, vương đô, con vì nghe pháp nên đến nơi ấy hộ trì pháp môn này, cũng thủ hộ pháp khí, thọ trì pháp môn này. Bạch Thế Tôn! Lúc con đến nơi ấy tất có các tướng dạng, các tướng tịch tónh rời lìa chướng thùy miên, con lại làm cho những bậc Pháp khí thượng thắng ở các nơi khác đến đó hỏi pháp, hoặc đọc tụng, hoặc thọ trì, tất cả đều được thân tâm an lạc chẳng sinh lòng kiêu mạn. Tùy người nói pháp này hoặc nói rộng hoặc nói lược, đều khiến sinh lòng hoan hỷ đối với Như Lai và Như Lai cũng sinh lòng hoan hỷ đối với họ. Các chúng sinh ấy, khi lòng họ đã hoan hỷ thì căn lành thêm lớn, pháp ác tiêu diệt. Lúc ấy, trong đại chúng có các nhà ngoại đạo Ni-kiền Tử... nghe Ma vương Ba-tuần đối trước Đức Phật sám hối phát nguyện như vậy lòng họ rất vui mừng hớn hở vô lượng, được Vô sinh nhẫn. Tôn giả A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên gì lúc nói pháp này mà các ngoại đạo ấy được Vô sinh nhẫn? Đức Phật dạy: –Này A-nan! Quá vô lượng kiếp về trước, tại thành Vương xá, núi Kỳ-xà-quật này có Đức Phật hiệu là Thượng Lực Túc Như Lai Chánh Chân Chánh Giác. Đức Phật ấy thuyết pháp tại nơi đây. Đức Phật ấy thuyết pháp xong, có các ngoại đạo đến muốn làm não hại Như Lai, họ lại muốn làm trở ngại Đức Phật nói pháp môn này. Nhưng sau khi nghe pháp, các ngoại đạo ấy sinh lòng vui mừng ca ngợi Đức Phật ấy và sinh lòng kính ngưỡng. Do nhân duyên ấy nên trong sáu mươi kiếp, họ chẳng bị đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh mà chỉ thọ sinh ở trong cõi người, cõi trời. Sinh ở chỗ nào họ vẫn nhớ nghó Đức Phật Thượng Lực Túc ấy. Dù họ nhớ Phật mà không gặp bạn lành. Này A-nan! Các ngoại đạo thuở xưa ấy là các nhà ngoại đạo Ni-kiền Tử... trong đại chúng đây vậy. Các nhà ngoại đạo ấy thuở xưa có ác ý muốn trở ngại pháp môn này và làm não Đức Phật Thượng Lực Túc. Nhưng sau khi nghe pháp sinh lòng vui mừng kính ngưỡng niệm Phật, nay đáng được ta thọ ký Vô thượng Bồ-đề huống là họ lại được Vô sinh nhẫn. Lúc Đức Thế Tôn nói pháp môn trên đây, có một muôn hai ngàn chúng sinh xa trần lìa cấu được Pháp nhãn thanh tịnh, hai muôn chúng sinh phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Tôn giả A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Nếu có thiện nam, thiện nữ đối với pháp môn này sinh một niệm kính tin thì được vô lượng công đức, huống là người đọc tụng, thọ trì, ủng hộ, rộng nói cho người khác. Đức Phật dạy: –Này A-nan! Nếu có thiện nam, thiện nữ khuyên vô lượng chúng sinh phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Lại có thiện nam, thiện nữ, nơi pháp môn này, sinh một niệm kính tin, đọc tụng vì người mà rộng nói được phước nhiều hơn người trên. Vì sao? Này A-nan! Bởi pháp môn này là con đường của Nhất thiết chủng trí. Này A-nan! Nếu có nam tử, nữ nhân nghe pháp môn này và thấy Pháp sư thọ trì pháp môn này mà sinh ác ý thì mắc tội vô lượng hơn tội trước. Đại Bồ-tát Tịnh Vô Cấu Bảo Nguyệt Vương Quang bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Nếu có nam tử, nữ nhân hủy báng kinh này thì mắc tội thế nào mà Đức Như Lai nói mắc tội hơn trước. Đức Phật dạy: –Này thiện nam! Nếu có nam tử, nữ nhân trong một thời gian móc mắt của tất cả chúng sinh; nếu lại có nam tử, nữ nhân sinh một niệm ác ý đối với pháp môn này và người thọ trì thì mắc tội hơn người trên. Vì sao? Vì pháp môn này có tên là Quang minh, hay ban bố con mắt trí tuệ cho tất cả chúng sinh. Tôn giả A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Chẳng nên ở trước nam tử, nữ nhân bất tín mà nói pháp môn này. Vì sao? Vì cần phải thủ hộ chúng sinh vậy. Bạch Thế Tôn! Con từng thấy người tạo nghiệp duyên hủy báng chánh pháp phải đọa vào địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh. Đức Phật dạy: –Này A-nan! Nên nói pháp môn này, chẳng nên chẳng nói. Vì sao? Vì để làm nhân cho họ, khiến họ tu hành được Vô thượng Bồ-đề. Tôn giả A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Pháp môn này nên đặt tên là gì và phụng trì thế nào? Đức Phật dạy: –Này A-nan! Do vì nói mười pháp nên gọi pháp môn này là Thập Pháp Pháp Môn, phải thọ trì như vậy. Lại cũng gọi là Tịnh Vô Cấu Bảo Nguyệt Vương Quang Bồ-tát Sở Vấn, phải thọ trì như vậy. Lúc Đức Phật nói pháp môn này rồi, Tôn giả A-nan, Đại Bồ-tát Tịnh Vô Cấu Bảo Nguyệt Vương Quang và các Đại Bồ-tát, Thanh văn cùng Trời, Rồng, tám bộ chúng, tất cả chúng hội nghe lời Phật dạy đều rất vui mừng đảnh thọ phụng hành.  KINH ĐẠI BẢO TÍCH <卷 id="86423708">QUYỂN 29 Hán dịch: Đời Đại Đường, Tam tạng Pháp sư Bồ-đề-lưu-chí. <詞 id="86423709">Pháp hội 10: VĂN-THÙ-SƯ-LỢI PHỔ MÔN Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ Đức Phật ở tại thành Vương xá trong núi Kỳ-xà-quật cùng với tám trăm vị đại Tỳ-kheo và bốn muôn hai ngàn vị Đại Bồ-tát. Bấy giờ có vị Bồ-tát tên Vô Cấu Tạng cùng chúng Bồ-tát chiùn muôn hai ngàn vị cung kính vây quanh từ hư không đến. Đức Thế Tôn liền bảo đại chúng: –Các Bồ-tát ấy được Đức Phổ Hoa Như Lai ở thế giới Biến thanh tịnh hạnh khuyến cáo đến thế giới Ta-bà này để được nghe ta giảng dạy pháp môn Phổ nhập Bất tư nghì. Các Bồ-tát khác cũng sẽ đến họp. Đức Thế Tôn tuyên bố xong, các chúng Bồ-tát đông vô lượng vô biên ở cõi khác và cõi này đều đến núi Kỳ-xà-quật đảnh lễ chân Phật rồi ngồi qua một phía. Bồ-tát Vô Cấu Tạng tay cầm hoa sen bằng bảy báu ngàn cánh đến chỗ Đức Như Lai đầu mặt lạy chân Phật mà bạch: –Bạch Thế Tôn! Đức Phổ Hoa Như Lai ở thế giới Biến thanh tịnh hạnh sai con mang hoa báu này dâng Đức Thế Tôn. Như Lai ân cần thăm hỏi Thế Tôn vô lượng ít bệnh, ít não khỏe mạnh an vui. Bạch xong, Bồ-tát Vô Cấu Tạng liền bay lên hư không ngồi kiết già. Lúc đó Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi rời chỗ ngồi để hở vai áo bên phải, quỳ gối phải cung kính chắp tay, bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Con nhớ thuở xa xưa đã từng nghe Đức Phổ Đăng Phật nói pháp môn Phổ nhập Bất tư nghì. Lúc ấy con được tám ngàn bốn trăm ức na-do-tha Tam-muội, lại biết được bảy mươi bảy muôn ức na-do-tha Tam-muội. Lành thay Đức Thế Tôn! Mong Thế Tôn xót thương vì các Bồ-tát mà dạy pháp môn ấy. Đức Phật dạy: –Này Văn-thù-sư-lợi! Nay ông lắng nghe, khéo suy nghó, ta sẽ nói cho. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch: –Vâng, bạch Thế Tôn! Con xin được nghe. Đức Phật dạy: –Này Văn-thù-sư-lợi! Nếu các Bồ-tát muốn học pháp ấy thì phải tu tập các môn Tam-muội. Đó là Sắc tướng Tam-muội, Thanh tướng Tam-muội, Hương tướng Tam-muội, Vị tướng Tam-muội, Xúc tướng Tam-muội, Ý giới Tam-muội, Nam tướng Tam-muội, Nữ tướng Tam-muội, Đồng nam tướng Tam-muội, Đồng nữ tướng Tam-muội, Thiên tướng Tam-muội, Long tướng Tam-muội, Dạ-xoa tướng Tam-muội, Càn-thát-bà tướng Tam-muội, A-tu-la tướng Tam-muội, Ca-lâu-la tướng Tam-muội, Khẩn-na-la tướng Tam-muội, Ma-hầu-la-già tướng Tam-muội, Địa ngục tướng Tam-muội, Súc sinh tướng Tam-muội, Diêm-ma-la giới Tam-muội, Tham tướng Tam-muội, Sân tướng Tam-muội, Si tướng Tam-muội, Bất thiện pháp Tam-muội, Thiện pháp Tam-muội, Hữu vi Tam-muội, Vô vi Tam-muội. Này Văn-thù-sư-lợi! Nơi các Tam-muội ấy nếu các Bồ-tát khéo thông đạt thì đã tu học pháp ấy. Này Văn-thù-sư-lợi! Thế nào gọi là Sắc tướng Tam-muội? Thế Tôn liền nói kệ rằng: Quán sắc như đống bọt Nó không có chắc thật Vì chẳng nắm giữ được Đó tên Sắc Tam-muội. Lại nữa, này Văn-thù-sư-lợi! Thế nào gọi là Thanh tướng Tam-muội? Thế Tôn liền nói kệ: Quán thanh như âm vang Tánh nó chẳng nắm bắt Các pháp cũng như vậy Không tướng, không sai biệt Biết rõ đều tịch tónh Đó tên Thanh Tam-muội. Lại nữa, này Văn-thù-sư-lợi! Thế nào gọi là Hương tướng Tam-muội? Thế Tôn liền nói kệ rằng: Dù là trăm ngàn kiếp Thường ngửi các thứ hương Như biển nạp các dòng Mà không hề chán đủ. Hương ấy nếu là thật Lẽ ra phải đầy đủ Chỉ có tên gọi giả Kỳ thật chẳng nắm bắt. Do không thể giữ được Mũi cũng không thật có Biết rõ tánh không tịch Đó tên Hương Tam-muội. Lại nữa, này Văn-thù-sư-lợi! Thế nào gọi là Vị tướng Tam-muội? Thế Tôn liền nói kệ rằng: Lưỡi kia chỗ nếm biết Mặn, chua các thứ vị Đều từ các duyên sinh Tánh nó không thật có. Nếu biết được như vậy Nhân duyên hòa hợp khởi Biết nghóa chẳng nghó bàn Đó tên Vị Tam-muội. Lại nữa, này Văn-thù-sư-lợi! Thế nào gọi là Xúc tướng Tam-muội? Thế Tôn liền nói kệ: Xúc chỉ có tên gọi Tánh nó chẳng nắm bắt Mịn, trơn, ấm các pháp Đều từ các duyên sinh. Nếu biết được xúc tánh Nhân duyên hòa hợp khởi Rốt ráo không thật có Đó tên Xúc Tam-muội. Lại nữa, này Văn-thù-sư-lợi! Thế nào gọi là Ý giới tướng Tam-muội? Thế Tôn liền nói kệ: Dù họp cả đại thiên Vô lượng các chúng sinh Nhất tâm cùng suy tìm Ý giới chẳng nắm bắt, Chẳng ở trong hay ngoài Cũng chẳng thể tu tập Chỉ dùng những giả danh Gọi là có các tướng. Dường như là huyễn hóa Không trụ, không xứ sở Biết rõ nó tánh không Đó tên Ý Tam-muội. Lại nữa, này Văn-thù-sư-lợi! Thế nào gọi là Nam tướng Tam-muội? Thế Tôn liền nói kệ: Tự cho mình nam tử Thấy kia là nữ nhân Do tâm phân biệt này Mà sinh lòng ái dục. Lòng dục không thật có Tâm tướng chẳng nắm bắt Do vì vọng phân biệt Nơi thân tưởng là nam. Trong ấy thật không nam Ta nói như bóng nắng Biết nam tướng là không Đó tên Nam Tam-muội. Lại nữa, này Văn-thù-sư-lợi! Thế nào gọi là Nữ tướng Tam-muội? Thế Tôn liền nói kệ: Bốn đại giả làm nữ Trong ấy không thật có Lòng phàm phu mê hoặc Nắm lấy cho là thật. Nữ nhân như huyễn hóa Người ngu chẳng biết được Vì vọng thấy nữ tướng Mà sinh lòng nhiễm trước. Ví như huyễn hóa nữ Mà chẳng thật nữ nhân Kẻ vô trí mê hoặc Bèn sinh tưởng dục ái. Biết rõ như vậy rồi Tất cả nữ không tướng Tướng nữ đều vắng bặt Đó tên Nữ Tam-muội. Lại nữa, này Văn-thù-sư-lợi! Thế nào gọi là Đồng nam tướng Tam-muội? Thế Tôn liền nói kệ: Như cây không rễ nhánh Thì chẳng có được hoa Vì đã chẳng có hoa Nên trái cũng chẳng sinh. Do không có nữ nhân Đồng nam cũng chẳng có Tùy ở người phân biệt Giả gọi tên như vậy. Biết rõ nữ nhân ấy Và đồng nam chẳng có Quan sát được như vậy Là Đồng nam Tam-muội. Lại nữa, này Văn-thù-sư-lợi! Thế nào gọi là Đồng nữ tướng Tam-muội? Thế Tôn liền nói kệ: Như chặt cây Đa-la Trọn chẳng còn sống lại Đâu có người trí tuệ Cầu trái hạt trong ấy. Nếu ai biết rõ được Các pháp là không sinh Chẳng nên khởi phân biệt Đồng nữ là năng sinh. Lại như hạt lúa cháy Mầm lúa chẳng còn sinh Đồng nữ cũng như vậy Là Đồng nữ Tam-muội. Lại nữa, này Văn-thù-sư-lợi! Thế nào gọi là Thiên tướng Tam-muội? Thế Tôn liền nói kệ: Do tín tâm thanh tịnh Và do các nghiệp lành Thọ thắng báo chư Thiên Thân đoan chánh xinh đẹp. Các cung điện trân bảo Chẳng phải do xây dựng Hoa đẹp Mạn-đà-la Cũng không người gieo trồng. Chẳng nghó bàn như vậy Đều do sức nghiệp lành Hiện được các thứ tướng Như lưu ly trong sạch. Thân đẹp xinh như vậy Và các cung điện thảy Đều từ hư vọng sinh Đó tên Thiên Tam-muội. Lại nữa, này Văn-thù-sư-lợi! Thế nào gọi là Long tướng Tam-muội? Thế Tôn liền nói kệ: Thọ lấy thân loài rồng Do chẳng tu hạnh nhẫn Nổi mây tuôn mưa lớn Đầy khắp Diêm-phù-đề. Chẳng từ thuở trước, sau Cũng chẳng ở chặng giữa Mà hay tuôn nước mưa Lại chảy về biển cả. Các loài rồng như vậy Huân tập tánh sai biệt Khởi lên các thứ nghiệp Nghiệp cũng không có sinh. Tất cả chẳng chân thật Kẻ ngu cho là có Biết rõ được như vậy Đó là Long Tam-muội. Lại nữa, này Văn-thù-sư-lợi! Thế nào là Dạ-xoa tướng Tam-muội? Thế Tôn liền nói kệ: Là thân đại Dạ-xoa Từ nơi tự tâm khởi Trong ấy không có thật Vọng sinh sự hoảng sợ, Cũng không có lòng sợ Mà sinh lòng kinh sợ Vì quán pháp chẳng thật Không tướng, không sở đắc. Chỗ không vô tịch tónh Hiện tướng Dạ-xoa kia Biết hư vọng như vậy Là Dạ-xoa Tam-muội. Lại nữa, này Văn-thù-sư-lợi! Thế nào là Càn-thát-bà tướng Tam-muội? Thế Tôn liền nói kệ: Họ thật không có tướng Danh ngôn giả bịa đặt Biết tướng là chẳng tướng Là Càn-thát Tam-muội. Lại nữa, này Văn-thù-sư-lợi! Thế nào là A-tu-la tướng Tam-muội? Thế Tôn liền nói kệ: Ấn định tướng Tu-la Tướng ấy vốn không sinh Không sinh nên không diệt Là Tu-la Tam-muội. Lại nữa, này Văn-thù-sư-lợi! Thế nào là Ca-lầu-la tướng Tam-muội? Thế Tôn liền nói kệ: Lấy vô thân làm thân Danh tự giả bịa đặt Danh tướng không thật có Là Ca-lầu Tam-muội. Lại nữa, này Văn-thù-sư-lợi! Thế nào là Khẩn-na-la tướng Tam-muội? Thế Tôn liền nói kệ: Pháp vô tác làm tác Gọi là Khẩn-na-la Biết đó là không sinh Khẩn-na-la Tam-muội. Lại nữa, này Văn-thù-sư-lợi! Thế nào là Ma-hầu-la-già tướng Tam-muội? Thế Tôn liền nói kệ: Kia do nơi danh tự Theo thế tục an lập Trong ấy không có pháp Mà vọng khởi phân biệt. Biết rõ phân biệt ấy Tự tánh không thật có Vì tướng ấy tịch tónh Ma-hầu-la Tam-muội. Lại nữa, này Văn-thù-sư-lợi! Thế nào là địa ngục tướng Tam-muội? Thế Tôn liền nói kệ: Địa ngục không, vô tướng Tánh ấy rất thanh tịnh Trong ấy không người tác Do tự phân biệt sinh. Lúc ta ngồi đạo tràng Biết tướng vô sinh này Vì vô tướng, vô sinh Tánh ấy như hư không Tướng ấy đều tịch tónh Là Địa ngục Tam-muội. Lại nữa, này Văn-thù-sư-lợi! Thế nào là Súc sinh tướng Tam-muội? Thế Tôn liền nói kệ: Như mây hiện hình sắc Trong ấy không có thật Làm cho người vô trí Nơi ấy sinh mê hoặc. Nơi loài súc sinh kia Thọ lấy các thứ thân Như mây trong hư không Hiện ra các sắc tượng. Biết rõ nghiệp như huyễn Chẳng sinh lòng mê hoặc Tướng ấy vốn tịch tónh Là Súc sinh Tam-muội. Lại nữa, này Văn-thù-sư-lợi! Thế nào là Diêm-ma-la giới tướng Tam-muội? Thế Tôn liền nói kệ: Gây tạo thuần nghiệp ác Và tạo các nghiệp tạp Lưu chuyển cõi Diêm-la Thọ lấy các sự khổ. Thật không cõi Diêm-la Cũng không người lưu chuyển Tự tánh vốn vô sinh Các khổ dường cảnh mộng Nếu quán được như vậy Diêm-ma-la Tam-muội. Lại nữa, này Văn-thù-sư-lợi! Thế nào là Tham tướng Tam-muội? Thế Tôn liền nói kệ: Tham từ phân biệt sinh Phân biệt cũng chẳng có Vô sinh cũng vô tướng Trụ xứ chẳng nắm bắt. Tham tánh như hư không Cũng không có kiến lập Phàm phu vọng phân biệt Do đó sinh tham nhiễm. Pháp tánh vốn vô nhiễm Thanh tịnh như hư không Tìm cầu khắp mười phương Tánh nó chẳng nắm bắt. Vì chẳng biết tánh không Thấy tham sinh lòng sợ Không có sợ sinh sợ Ở đâu được an vui. Ví như kẻ ngu si Sợ sệt cõi hư không Vì sợ mà rong chạy Lánh không chẳng muốn thấy. Hư không khắp tất cả Chỗ nào rời nó được Vì kẻ ngu mê hoặc Sinh phân biệt điên đảo. Tham vốn không tự tánh Vọng sinh tâm nhàm lìa Như người muốn lánh không Trọn không thoát khỏi được. Các pháp tánh tự lìa Dường như là Niết-bàn Chư Phật trong ba đời Biết tham tánh là không. Ở trong cảnh giới ấy Chưa lúc nào bỏ lìa Người kinh sợ nơi tham Suy gẫm cầu giải thoát. Tham tự tánh như vậy Rốt ráo thường thanh tịnh Lúc ta chứng Bồ-đề Rõ thấu đều bình đẳng. Nếu chấp tham là có Sẽ bỏ lìa nơi tham Do hư vọng phân biệt Mà nói bỏ lìa tham. Đây là tâm phân biệt Thật không gì để bỏ Tánh nó chẳng nắm bắt Cũng không có hoại diệt. Trong bình đẳng thật tế Không giải thoát phân biệt Nếu giải thoát nơi tham Nơi không cũng giải thoát. Hư không cùng với tham Vô tận, không sai biệt Nếu ai thấy sai biệt Phật bảo phải bỏ rời. Tham thật không có sinh Vọng khởi sinh phân biệt Tham ấy bản tánh không Chỉ có danh tự giả. Chẳng nên do giả danh Mà sinh lòng chấp trước Vì biết tham không nhiễm Thì là rốt ráo không. Chẳng do diệt hoại tham Mà được nơi giải thoát Pháp tham cùng Phật pháp Bình đẳng tức Niết-bàn Người trí phải nên biết Rõ tham tịch tónh rồi Nhập vào cõi tịch tónh Đó tên Tham Tam-muội. Lại nữa, này Văn-thù-sư-lợi! Thế nào là Sân tướng Tam-muội? Thế Tôn liền nói kệ: Do nhân duyên hư vọng Mà khởi lòng giận dữ Không ngã chấp làm ngã Và do tiếng thô ác. Khởi lòng sân quá mạnh Dường như là ác độc Âm thanh và giận dữ Rốt ráo không thật có. Như dùi gỗ ra lửa Cần nhờ sức các duyên Nếu duyên chẳng hòa hợp Thì lửa chẳng sinh được. Âm thanh chẳng đẹp ý Rốt ráo không thật có Biết thanh tánh là không Sân cũng chẳng còn sinh. Sân chẳng ở nơi thanh Cũng chẳng ở trong thân Nhân duyên hòa hợp khởi Rời duyên chẳng sinh được. Như nhân sữa làm duyên Hòa hợp sinh tô lạc Sân tự tánh không khởi Nhân nơi tiếng thô ác. Người ngu chẳng biết được Nhiệt não tự đốt cháy Phải nên biết như vầy Rốt ráo không thật có. Sân tánh vốn tịch tónh Chỉ có nơi giả danh Giận dữ tức thật tế Bởi nương chân như khởi Biết rõ như pháp giới Thì gọi Sân Tam-muội. Lại nữa, này Văn-thù-sư-lợi! Thế nào là Si tướng Tam-muội? Thế Tôn liền nói kệ: Vô minh thể tánh không Vốn tự không sinh khởi Trong ấy không chút pháp Mà nói được là si. Phàm phu nơi vô si Hư vọng sinh lòng si Nơi vô trước sinh trước Dường như giữ hư không. Lạ thay cho kẻ ngu Chẳng nên làm mà làm Các pháp đều chẳng có Do nhiễm sinh phân biệt. Như muốn lấy hư không An trí ở một chỗ Dù trải ngàn muôn kiếp Không hề tích tụ được. Kẻ ngu từ hồi nào Trải chẳng nghó bàn kiếp Vọng khởi kết ngu si Mà không chút phần tăng. Như người nắm hư không Không bao giờ tăng giảm Nhóm ngu si nhiều kiếp Không tăng giảm cũng vậy. Lại như ống tiêu kia Hút gió không hạn lượng Ngu si mê dục lạc Không lúc nào chán đủ. Si ấy không thật có Không căn, không trụ xứ Vì căn chẳng phải có Cũng không si để tận. Bởi vì si vô tận Biên tế chẳng nắm bắt Thế nên các chúng sinh Ta chẳng thể làm tận. Dù ta trong một ngày Độ được cõi đại thiên Có bao nhiêu chúng sinh Đều khiến nhập Niết-bàn Trải qua chẳng nghó bàn Vô lượng ngàn muôn kiếp Ngày ngày độ như vậy Chúng sinh giới chẳng tận. Si giới, chúng sinh giới Cả hai đều vô tướng Nó đều như huyễn hóa Nên chẳng làm tận được. Si tánh với Phật tánh Bình đẳng không sai khác Nếu phân biệt nơi Phật Người ấy ở ngu si. Si và Nhất thiết trí Tánh đều chẳng nắm bắt Nhưng các chúng sinh ấy Với si đều bình đẳng. Chúng sinh chẳng nghó bàn Si cũng chẳng nghó bàn Do vì chẳng nghó bàn Chẳng nên khởi phân biệt. Tâm tư duy như vậy Suy lường chẳng nắm bắt Si cũng chẳng thể lường Vì nó không biên tế. Đã không có biên tế Từ đâu mà sinh được Vì tự tánh không sinh Tướng cũng chẳng nắm bắt. Biết si không có tướng Quán Phật cũng như vậy Phải nên biết như vậy Tất cả pháp không hai. Tánh si vốn tịch tónh Chỉ có danh tự giả Lúc ta chứng Bồ-đề Cũng rõ si bình đẳng Quán sát được như vậy Gọi là Si Tam-muội. Lại nữa, này Văn-thù-sư-lợi! Thế nào là Bất thiện Tam-muội? Thế Tôn liền nói kệ: Biết tham, sân, si ấy Tất cả các phiền não Có bao nhiêu hành tướng Hư vọng không chân thật Quán sát được như vậy Là Bất thiện Tam-muội. Lại nữa, này Văn-thù-sư-lợi! Thế nào là Thiện pháp Tam-muội? Thế Tôn liền nói kệ: Các ông phải nên biết Những người sở thích thiện Tâm niệm đều sai khác Đều đồng nơi một hạnh Dùng một tướng xuất ly Mà biết rõ tất cả Vì thảy đều tịch tónh Gọi là Thiện Tam-muội. Lại nữa, này Văn-thù-sư-lợi! Thế nào là Hữu vi Tam-muội? Thế Tôn liền nói kệ: Các ông phải nên biết Tất cả pháp hữu vi Chẳng phải được tạo tác Cũng không cân lường được. Ta biết rõ các hành Tánh nó không chứa họp Tất cả đều tịch tónh Gọi Hữu vi Tam-muội. Lại nữa, này Văn-thù-sư-lợi! Thế nào là Vô vi Tam-muội? Thế Tôn liền nói kệ: Tánh vô vi tịch tónh Trong ấy không đắm trước Cũng lại chẳng xuất ly Chỉ có tên gọi giả. Vì chúng sinh chấp trước Mà nói tên gọi ấy Biết rõ được như vậy Là Vô vi Tam-muội. Lúc Đức Thế Tôn nói kệ chẳng nghó bàn vi diệu như vậy, có chiùn muôn hai ngàn Bồ-tát được Vô sinh pháp nhẫn, ba muôn sáu ngàn Tỳ-kheo dứt hết phiền não tâm được giải thoát, bảy mươi hai muôn ức na-do-tha chư Thiên, sáu ngàn Tỳ-kheo-ni, một trăm tám mươi muôn Ưu-bà-tắc, hai ngàn hai trăm Ưu-bà-di đều phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi lại bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Mong Đức Thế Tôn vì các Bồ-tát mà diễn nói tên gọi của các môn Tam-muội, làm cho người nghe các căn thông lợi, được trí tuệ sáng đối với các pháp, chẳng bị khuất phục bởi những chúng sinh tà kiến, cũng làm cho họ chứng được bốn biện tài không ngăn ngại, nơi một văn tự mà biết được nhiều loại văn tự, nơi các thể văn tự biết được một văn tự. Lại dùng vô biên biện tài vì các chúng sinh mà khéo thuyết pháp, cũng làm cho chứng được pháp nhẫn thậm thâm, trong một sát-na biết tất cả hành, tất cả hành ấy mỗi hành lại có vô biên hành tướng đều biết rõ được cả. Đức Phật dạy: –Này, Văn-thù-sư-lợi! Có Tam-muội tên Vô biên ly cấu. Nếu Bồ-tát được Tam-muội ấy thì hiện được tất cả các sắc thành tịnh. Có Tam-muội tên Khả úy diện. Bồ-tát được Tam-muội ấy có oai quang lớn sáng che cả mặt trời, mặt trăng. Có Tam-muội tên Xuất diệm quang. Bồ-tát được Tam-muội ấy, sáng che được ánh sáng của tất cả Đế Thích và Phạm thiên. Có Tam-muội tên Xuất ly. Bồ-tát được Tam-muội ấy làm cho chúng sinh xa rời tất cả tham, sân, si. Có Tam-muội tên Vô ngại quang. Bồ-tát được Tam-muội ấy, chiếu sáng được tất cả cõi Phật. Có Tam-muội tên Vô vong thất. Bồ-tát được Tam-muội ấy, thọ trì được giáo pháp của chư Phật nói và cũng có thể vì người khác mà diễn nói nghóa Phật pháp. Có Tam-muội tên Lôi âm. Bồ-tát được Tam-muội ấy, khéo có thể hiển thị tất cả ngôn âm lên đến trời Phạm Thiên. Có Tam-muội tên Hỷ lạc. Bồ-tát được Tam-muội ấy, có thể làm cho các chúng sinh đầy đủ hỷ lạc. Có Tam-muội tên Hỷ vô yểm. Bồ-tát được Tam-muội ấy, có ai thấy nghe ngài đều không chán đủ. Có Tam-muội tên Chuyên nhất cảnh nan tư công đức. Bồ-tát được Tam-muội ấy, có thể thị hiện tất cả thần biến. Có Tam-muội tên Giải nhất thiết chúng sinh ngữ ngôn. Bồ-tát được Tam-muội ấy thì khéo tuyên nói được tất cả ngữ ngôn. Trong một chữ nói tất cả chữ, biết tất cả chữ cùng như một chữ. Có Tam-muội tên Siêu nhất thiết Đà-la-ni vương. Bồ-tát được Tam-muội ấy, khéo biết rõ được các Đà-la-ni. Có Tam-muội tên Nhất thiết biện tài trang nghiêm. Bồ-tát được Tam-muội ấy, khéo phân biệt được tất cả văn tự và các thứ ngôn âm. Có Tam-muội tên Tích tập nhất thiết thiện pháp. Bồ-tát được Tam-muội ấy có thể làm cho chúng sinh đều nghe tiếng Phật, tiếng Pháp, tiếng Tăng, tiếng Thanh văn, tiếng Duyên giác, tiếng Bồ-tát, tiếng Ba-la-mật-đa. Lúc Bồ-tát trụ Tam-muội như vậy thì làm cho các chúng sinh nghe tiếng ấy không dứt. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Mong Thế Tôn gia hộ cho con được vô ngại biện tài để nói công đức thù thắng của pháp môn ấy. Đức Phật nói: –Lành thay! Lành thay! Tùy ý nguyện của ông. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi lại bạch rằng: –Bạch Thế Tôn! Nếu có Bồ-tát nơi pháp môn ấy mà thọ trì, đọc tụng không có nghi hoặc, thì nên biết rằng người này ở trong thân hiện tại được bốn Thể biện tài, là Thiệp tật biện tài, Quảng đại biện tài, Thậm thâm biện tài và Vô tận biện tài. Tâm ngài thường hộ niệm các chúng sinh tùy chỗ tu hành của họ. Người nào sắp thoái thất hư hoại, ngài đều có thể giác ngộ họ cho họ không thoái hoại. Đức Thế Tôn khen: –Lành thay! Lành thay! Văn-thù-sư-lợi có thể khéo phân biệt được nghóa ấy. Như người bố thí được quả báo giàu có lớn, người trì cấm giới quyết định sinh Thiên, người có thể thọ trì được kinh điển này thì hiện đời được biện tài quyết không hư vọng. Như ánh sáng mặt trời chiếu ra thì trừ được tối tăm, như Bồ-tát ngồi tòa Bồ-đề thành Đẳng chánh giác quyết định không nghi, người thọ trì, đọc tụng kinh điển này thì hiện đời được biện tài cũng như vậy. Này Văn-thù-sư-lợi! Nếu có người ở hiện đời muốn cầu biện tài thì nơi kinh điển này phải tin ưa thọ trì, đọc tụng, vì người mà giảng rộng chớ sinh lòng nghi hoặc. Bấy giờ Bồ-tát Vô Cấu Tạng bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Sau khi Phật nhập Niết-bàn, nơi pháp môn này, nếu các Bồ-tát tâm không nghi hoặc mà thọ trì, đọc tụng rộng giảng thuyết cho người, thì con sẽ nhiếp thọ thêm biện tài cho họ. Lúc ấy Ma vương Ba-tuần lo rầu khổ não rơi lệ đến chỗ Đức Phật mà bạch: –Ngày xưa lúc Như Lai chứng Vô thượng Bồ-đề, con đã lo rầu rồi. Hôm nay Như Lai lại nói pháp môn này con càng thêm khổ não nhiều như trúng phải tên độc. Nếu các chúng sinh nghe kinh điển này quyết định không thoái chuyển nơi Vô thượng Bồ-đề mà Bát-niết-bàn, làm cho thế giới con phải trống rỗng. Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác hay làm cho tất cả chúng sinh khổ sở đều được an vui. Mong Như Lai thương xót chẳng hộ niệm kinh điển này để con được an ổn hết lo khổ. Đức Thế Tôn bảo Ba-tuần: –Chớ ôm lòng lo khổ. Nơi pháp môn này ta chẳng gia hộ. Các chúng sinh cũng chẳng Niết-bàn. Thiên ma Ba-tuần nghe lời này vui mừng hết buồn lo liền ẩn mất. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi tiến tới bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Có mật ý gì mà Thế Tôn hôm nay bảo Ba-tuần rằng Phật chẳng gia hộ pháp môn này? Đức Phật dạy: –Này Văn-thù-sư-lợi! Dùng không gia hộ để gia hộ pháp môn này, vì thế nên ta nói với Ba-tuần như vậy. Bởi tất cả pháp thật tế bình đẳng đều quy nơi chân như đồng với pháp giới rời các ngôn thuyết, vì là tướng không hai nên không có gia hộ. Do lời thành thật không có hư vọng của ta như vậy có thể làm cho kinh điển này rộng lưu truyền tại Diêm-phù-đề. Dạy xong, Thế Tôn bảo A-nan: –Này A-nan! Kinh này tên là Phổ Nhập Bất tư nghì Pháp Môn. Nếu ai thọ trì được kinh điển này là thọ trì tám muôn bốn ngàn pháp môn, hai sự thọ trì ấy giống nhau không sai khác. Vì sao? Vì ta ở nơi kinh này thông đạt rồi mới có thể vì các chúng sinh mà diễn nói tám muôn bốn ngàn pháp môn. Thế nên, này A-nan! Ông phải khéo hộ trì đọc tụng lưu truyền pháp môn này chớ để quên mất. Phật nói kinh này rồi, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, Bồ-tát Vô Cấu Tạng, Tôn giả A-nan và các thế gian Trời, Người, A-tu-la… tất cả chúng hội nghe lời Đức Phật dạy đều rất vui mừng hoan hỷ, tín thọ phụng hành.  KINH ĐẠI BẢO TÍCH <卷 id="86423710">QUYỂN 30 Hán dịch: Đời Đại Đường, Tam tạng Pháp sư Bồ-đề-lưu-chí. <詞 id="86423711">Pháp hội 11: XUẤT HIỆN QUANG MINH (Phần 1) Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ Đức Phật ở tại núi Kỳ-xà-quật ngoài thành Vương xá cùng với chúng đại Tỳ-kheo năm trăm vị, tất cả đều được đại tự tại. Lại có tám mươi na-do-tha Đại Bồ-tát đều là bâïc Nhất sinh bổ xứ, Di-lặc Bồ-tát làm Thượng thủ. Lại có bốn mươi na-do-tha Đại Bồ-tát, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi làm Thượng thủ. Lúc ấy, trong đại hội có một đồng tử tên Nguyệt Quang rời chỗ ngồi đứng dậy để hở vai áo bên phải, quỳ gối phải đảnh lễ chân Đức Phật, chắp tay cung kính bạch: –Bạch Thế Tôn! Thuở xưa Như Lai tu hạnh nghiệp gì mà có thể được các quang minh như là Quyết định quang minh, Nhiếp thủ quang minh, Phát khởi quang minh, Hiển hiện quang minh, Chủng chủng sắc quang minh, Vô tạp sắc quang minh, Hiệp tiểu quang minh, Quảng đại quang minh, Thanh tịnh quang minh, Biến thanh tịnh quang minh, Vô cấu quang minh, Cực vô cấu quang minh, Ly cấu quang minh, Tiệm tăng trưởng quang minh, Tiển tịnh quang minh, Cực tiển tịnh quang minh, Vô biên quang minh, Cực vô biên quang minh, Vô lượng quang minh, Cực vô lượng quang minh, Vô số lượng quang minh, Cực vô số lượng quang minh, Tốc tật quang minh, Cực tốc tật quang minh, Vô trụ quang minh, Vô xứ quang minh, Xí thạnh quang minh, Chiếu diệu quang minh, Ái nhạo quang minh, Đáo bỉ ngạn quang minh, Vô năng chướng quang minh, Bất động quang minh, Chánh trực quang minh, Trụ vô biên xứ quang minh, Sắc tướng quang minh, Chủng chủng sắc tướng quang minh, Vô lượng sắc tướng quang minh, Thanh huỳnh xích bạch sắc tướng quang minh, Hồng sắc tướng quang minh, Pha lê sắc tướng quang minh, Hư không sắc tướng quang minh. Các thứ quang minh như vậy, mỗi quang minh đều cùng năm sắc màu ánh sáng hòa hợp hiển hiện, cho đến các màu xanh, vàng, đỏ, trắng... mỗi màu cũng cùng vô lượng, vô biên các thứ sắc quang hòa hợp hiển hiện. Đức Thế Tôn vì Nguyệt Quang mà nói kệ đáp: Ta dùng chẳng nghó bàn Nghiệp lành làm nhân duyên Xa lìa những mê hoặc Nên được các quang minh. Lại dùng nhiều công hạnh An trụ trong Phật đạo Dùng hư không vô tác Hiện hòa hợp quang minh. Ví như trong ngoại pháp Các thể tướng sai khác Trong ấy không, vô ngã Không tác, không tâm ý. Lại như bên trong thân Không, vô ngã, vô tác Trong ấy thị hiện được Nhiều thứ loại âm thanh. Do vô tác như vậy Hiện vô biên sắc quang Tùy theo chỗ sở thích Đều làm cho đầy đủ. Hoặc trong một quang minh Phát sinh hai màu sắc Đều có thượng, trung, hạ Mà hiển hiện sai khác, Hoặc trong một quang minh Phát sinh ba màu sắc Đều có thượng, trung, hạ Mà hiển hiện sai khác, Hoặc trong một quang minh Phát sinh bốn màu sắc Đều có thượng, trung, hạ Mà hiển hiện sai khác, Hoặc trong một quang minh Phát sinh năm màu sắc Đều có thượng, trung, hạ Từ tịnh nghiệp phát sinh, Hoặc trong một quang minh Phát sinh sáu màu sắc Đều có thượng, trung, hạ Từ phương tiện phát sinh. Hoặc trong một quang minh Phát sinh bảy màu sắc Đều có thượng, trung, hạ Từ thiện nghiệp phát sinh, Hoặc trong một quang minh Phát sinh tám màu sắc Đều có thượng, trung, hạ Từ thắng thiện phát sinh, Hoặc trong một quang minh Phát sinh chín màu sắc Đều có thượng, trung, hạ Từ tư lương phát sinh. Hoặc trong một quang minh Phát sinh mười màu sắc Đều có thượng, trung, hạ Từ Bố thí phát sinh. Hoặc ở trong một sự Phát sinh hai mươi sắc Đều có thượng, trung, hạ Từ Trì giới phát sinh. Hoặc ở trong một sự Lại sinh ba mươi sắc Đều có thượng, trung, hạ Từ Nhẫn nhục phát sinh. Hoặc ở trong một sự Phát sinh bốn mươi sắc Đều có thượng, trung, hạ Từ Tinh tấn phát sinh. Hoặc ở trong một sự Phát sinh năm mươi sắc Đều có thượng, trung, hạ ï Từ Thiền định phát sinh. Hoặc ở trong một sự Phát sinh sáu mươi sắc Đều có thượng, trung, hạ Từ Trí tuệ phát sinh. Hoặc ở trong một sự Lại sinh bảy mươi sắc Đều có thượng, trung, hạ Do tâm Từ phát sinh. Hoặc ở trong một sự Phát sinh tám mươi sắc Đều có thượng, trung, hạ Do tâm Bi phát sinh. Hoặc ở trong một sự Phát sinh chiùn mươi sắc Đều có thượng, trung, hạ Do tâm Hỷ phát sinh. Hoặc ở trong một sự Phát sinh trăm màu sắc Đều có thượng, trung, hạ Do tâm Xả phát sinh. Hoặc ở trong một sự Lại sinh ngàn màu sắc Đều có thượng, trung, hạ Từ ngàn công đức sinh. Hoặc ở trong một sự Phát sinh muôn màu sắc Đều có thượng, trung, hạ Từ phước tư lương sinh. Hoặc ở trong một sự Hiện một câu-chi sắc Đều có thượng, trung, hạ Do tịnh tín phát sinh. Hoặc ở trong một sự Hiện hai câu-chi sắc Đều có thượng, trung, hạ Do tùy hỷ phát sinh. Hoặc ở trong một sự Hiện ba câu-chi sắc Đều có thượng, trung, hạ Do khinh an phát sinh. Hoặc ở trong một sự Hiện bốn câu-chi sắc Đều có thượng, trung, hạ Do tôn trọng Phật sinh. Hoặc ở trong một sự Hiện năm câu-chi sắc Đều có thượng, trung, hạ Do tôn trọng Pháp sinh. Hoặc ở trong một sự Hiện sáu câu-chi sắc Đều có thượng, trung, hạ Do tôn trọng Tăng sinh. Hoặc ở trong một sự Hiện bảy câu-chi sắc Đều có thượng, trung, hạ Do tôn trọng Giới sinh. Hoặc ở trong một sự Hiện tám câu-chi sắc Đều có thượng, trung, hạ Do tôn trọng Định sinh. Hoặc ở trong một sự Hiện chiùn câu-chi sắc Đều có thượng, trung, hạ Do khắp thương mến sinh. Hoặc ở trong một sự Hiện mười câu-chi sắc Đều có thượng, trung, hạ Do không phóng dật sinh. Lại từ một lỗ lông Hiện ra các quang minh Quang ấy có nhiều tên Nay sẽ nói cho ông. Phật có một quang minh Tên là Vân tịnh chiếu Quang ấy do tích tập Vô lượng căn lành sinh. Bởi từ thuở xa xưa Thấy có những chúng sinh Mắc nhiều bệnh đau khổ Ta sinh lòng thương xót, Cấp cho các y dược Làm cho họ lành bệnh Do bởi nhân duyên ấy Mà được quang minh này. Phật lại có quang minh Tên là Nhãn thanh tịnh Đem đèn sáng cúng Phật Nên được quang minh này. Phật lại có quang minh Tên là Nhó thanh tịnh Đem âm thanh cúng Phật Nên sinh quang minh này. Phật lại có quang minh Tên là Tỷ thanh tịnh Đem nước thơm cúng Phật Nên sinh quang minh này. Phật lại có quang minh Tên là Thiệt thanh tịnh Đem thượng vị cúng dường Nên sinh quang minh này. Phật lại có quang minh Tên là Thân thanh tịnh Đem y phục cúng dường Nên sinh quang minh này. Phật lại có quang minh Tên là Tâm thanh tịnh Thường tin mến nơi Phật Nên sinh quang minh này. Phật lại có quang minh Tên là Sắc thanh tịnh Họa vẽ hình tượng Phật Nên sinh quang minh này. Phật lại có quang minh Tên là Thanh thanh tịnh Thường ca ngợi chánh pháp Nên sinh quang minh này. Phật lại có quang minh Tên là Hương thanh tịnh Thường cung kính chư Tăng Nên sinh quang minh này. Phật lại có quang minh Tên là Vị thanh tịnh Tùy ý đều thí ban Nên sinh quang minh này. Phật lại có quang minh Tên là Xúc thanh tịnh Đem hương hoa cúng dường Nên sinh quang minh này. Phật lại có quang minh Tên là Pháp thanh tịnh Do nhiếp thọ các pháp Nên sinh quang minh này. Phật lại có quang minh Tên là Địa thanh tịnh Quét rửa đất Phật, Tăng Nên sinh quang minh này. Phật lại có quang minh Tên là Thủy thanh tịnh Đem giếng suối cúng dường Nên sinh quang minh này. Phật lại có quang minh Tên là Hỏa thanh tịnh Cầm lửa đem cúng dường Nên sinh quang minh này. Phật lại có quang minh Tên là Phong thanh tịnh Cầm quạt đem cúng dường Nên sinh quang minh này. Phật lại có quang minh Tên là Uẩn thanh tịnh Đem thân cúng dường Phật Nên sinh quang minh này. Phật lại có quang minh Tên là Giới thanh tịnh Vì thường tu tâm Từ Nên sinh quang minh này. Phật lại có quang minh Tên là Đế thanh tịnh Vì thường lìa vọng ngữ Nên sinh quang minh này. Phật lại có quang minh Tên là Sát thanh tịnh Thường làm sự bố thí Nên sinh quang minh này Phật lại có quang minh Tên là Thanh thanh tịnh Do ca ngợi Đức Phật Nên sinh quang minh này Phật lại có quang minh Tên là Niệm thanh tịnh Do khen ngợi Tam-muội Nên sinh quang minh này. Phật lại có quang minh Tên là Biện thanh tịnh Do khen Đà-la-ni Nên sinh quang minh này. Phật lại có quang minh Tên là Nhâït hòa hợp Do hòa hợp tranh cãi Nên sinh quang minh này. Phật lại có quang minh Tên là Hiển hiện nghóa Do thông đạt không tánh Nên sinh quang minh này. Phật lại có quang minh Tên là Thanh sắc tướng Đem sen xanh cúng dường Nên sinh quang minh này. Phật lại có quang minh Tên là Huỳnh sắc tướng Đem Chiêm-bặc cúng dường Nên sinh quang minh này. Phật lại có quang minh Tên là Xích sắc tướng Đem trân châu cúng dường Nên sinh quang minh này. Phật lại có quang minh Tên là Bạch sắc tướng Đem hoa vàng cúng dường Nên sinh quang minh này. Phật lại có quang minh Tên là Thắng công đức Dùng nhiều màu nghiêm sức Nên sinh quang minh này. Phật lại có quang minh Tên là Long oai lực Đem cờ rồng cúng dường Nên sinh quang minh này. Phật lại có quang minh Tên là Tượng oai lực Đem cờ voi cúng dường Nên sinh quang minh này. Phật lại có quang minh Tên là Sư tử vương Đem cờ sư tử cúng Nên sinh quang minh này. Phật lại có quang minh Tên gọi là Ngưu vương Đem cờ ngưu vương cúng Nên sinh quang minh này. Phật lại có quang minh Tên là Nguyệt thanh tịnh Quét rửa tháp thờ Phật Nên sinh quang minh này. Phật lại có quang minh Tên là Long điều phục Đem dải lụa cúng thí Nên sinh quang minh này. Phật lại có quang minh Tên Dạ-xoa điều phục Bởi hay quan sát kỹ Nên sinh quang minh này. Phật lại có quang minh Tên là Giác ngộ nữ Bởi rời lìa nữ tướng Nên sinh quang minh này. Phật lại có quang minh Tên là Giác ngộ nam Bởi rời lìa nam tướng Nên sinh quang minh này. Phật lại có quang minh Tên Kim cang oai lực Do nghiệp trí thanh tịnh Nên sinh quang minh này. Phật lại có quang minh Tên là Hiển hiện không Do khai thị thế báo Nên sinh quang minh này. Phật lại có quang minh Tên Giác ngộ chân thật Do rời lìa điên đảo Nên sinh quang minh này. Phật lại có quang minh Tên Hiển thị Phật ngữ Do khen ngợi pháp giới Nên sinh quang minh này. Phật lại có quang minh Tên là Ly chư quá Do khen ngợi thắng giải Nên sinh quang minh này. Phật lại có quang minh Tên Trang nghiêm phổ chiếu Do khen thí đèn đuốc Nên sinh quang minh này. Phật lại có quang minh Tên là Ly ân ái Do khen ngợi định tuệ Nên sinh quang minh này. Phật lại có quang minh Tên là Ly chư tập Do khen tiền tế trí Nên sinh quang minh này. Phật lại có quang minh Tên là Ly chư trước Do khen vô sinh trí Nên sinh quang minh này. Phật lại có quang minh Tên là Ly chư thú Do khen lậu tận trí Nên sinh quang minh này. Phật lại có quang minh Tên là Xả ly xứ Do khen ngợi Khổ trí Nên sinh quang minh này. Phật lại có quang minh Tên là Phật thần biến Do khen Thần thông lực Nên sinh quang minh này. Phật lại có quang minh Tên là Siêu hý luận Do khen Nhất thiết trí Nên sinh quang minh này. Phật lại có quang minh Tên là Hiện chúng sắc Do khen ngợi Thần túc Nên sinh quang minh này. Phật lại có quang minh Tên là Lạc thiện hữu Do khen ngợi giác tánh Nên sinh quang minh này. Phật lại có quang minh Tên là Nhãn tiền tế Do khen nhãn tiền tế Nên sinh quang minh này Phật lại có quang minh Tên là Nhãn tận tế Do khen ngợi vô tận Nên sinh quang minh này Phật lại có quang minh Tên là Hữu tế quang Do khen ngợi vô hữu Nên sinh quang minh này. Phật lại có quang minh Tên là Bất khả hoại Vì khen ngợi diệt tánh Nên sinh quang minh này. Phật lại có quang minh Tên là Vô biên tế Do khen ngợi vô tế Nên sinh quang minh này. Phật lại có quang minh Tên là Vô hữu tướng Do khen ngợi vô vi Nên sinh quang minh này. Phật lại có quang minh Tên là Vô biến dị Do khen vô sai biệt Nên sinh quang minh này. Phật lại có quang minh Tên đó là Bất nhập Do khen ngợi vô trước Nên sinh quang minh này Phật lại có quang minh Gọi là Bất xuất quang Do khen ngợi vô khởi Nên sinh quang minh này. Phật lại có quang minh Tên là Vô khởi quang Do khen chẳng xuất hiện Nên sinh quang minh này.  Phật có ánh sáng Vô biểu thị Hay thành thục được các quần sinh. Phật có ánh sáng Pháp bản tánh Ánh sáng chấn động câu-chi cõi. Phật có ánh sáng Điều phục ma Ánh sáng oai đức làm ma sợ. Phật có ánh sáng Phước đức tràng Người trì tên ấy khỏi nguy ách. Phật có ánh sáng Hữu lực tràng Người trì tên ấy khỏi oán thù. Phật có ánh sáng Tịch tónh tràng Người trì tên ấy khỏi tham dục. Phật có ánh sáng Thiền định tràng Người trì tên ấy khỏi tà hạnh. Phật có ánh sáng Đa văn tràng Người trì tên ấy được khen ngợi. Phật có ánh sáng Duyệt ý tràng Người trì tên ấy không sầu lo. Phật có ánh sáng Tịnh giới tràng Người trì tên ấy khỏi phá giới. Phật có ánh sáng Diệu hương tràng Người trì tên ấy không hôi hám. Phật có ánh sáng Pháp thậm thâm Người trì tên ấy không nghi hoặc. Phật có ánh sáng Vô sở trụ Người trì tên ấy khỏi ba cõi. Phật có ánh sáng Ly phân biệt Người trì tên ấy không chấp lấy. Phật có ánh sáng Diệu cao sơn Người trì tên ấy không bị động. Phật có ánh sáng Bí mật hạnh Người trì tên ấy không sở trước. Phật có ánh sáng Giải thoát hạnh Người trì tên ấy không buộc trói. Phật có ánh sáng Thiện điều phục Người trì tên ấy được điều nhu. Phật có ánh sáng Vô động dao Người trì tên ấy khỏi tham nhiễm. Phật có ánh sáng Thiện điều thuận Người trì tên ấy giới viên mãn. Phật có ánh sáng Chúng thiện hạnh Người trì tên ấy không bị nhiễm. Phật có ánh sáng Đa lợi ích Người nghe tên ấy khỏi các lỗi. Phật có ánh sáng Thắng tri kiến Người nghe tên ấy không mê hoặc. Phật có ánh sáng Cầu lợi ích Người nghe tên ấy không giận dữ. Phật có ánh sáng Tâm thích duyệt Người nghe tên ấy được an vui. Phật có ánh sáng Vô nhiệt não Người trì tên ấy biết không tánh. Phật có ánh sáng Không vô tánh Người trì tên ấy vượt hý luận. Phật có ánh sáng Vô y chỉ Người trì tên ấy chẳng lay động. Phật có ánh sáng Ly mê hoặc Người trì tên ấy chẳng do dự. Phật có ánh sáng Vô trụ xứ Người trì tên ấy khỏi ngu tối. Phật có ánh sáng Yểm nhục thân Người trì tên ấy sẽ chẳng thọ. Phật có ánh sáng Vô sở thủ Người trì tên ấy lìa văn tự. Phật có ánh sáng Vô hữu si Người trì tên ấy lìa ngôn thuyết. Phật có ánh sáng Vô khứ xứ Người trì tên ấy biết vị lai. Phật có ánh sáng Phổ biên tế Người trì tên ấy biết quá khứ. Phật có ánh sáng Vô dữ đẳng Người trì tên ấy biết vô lậu. Phật có ánh sáng Chứng thánh giả Người trì tên ấy biết tối thượng. Phật có ánh sáng Vô cấu nhiễm Người trì tên ấy lìa chấp trước. Phật có ánh sáng Ly trần bộn Người trì tên ấy không tối che. Phật có ánh sáng Vô ái luyến Người trì tên ấy lìa sở y. Phật có ánh sáng Tối thắng thượng Người trì tên ấy dẹp luận khác. Phật có ánh sáng Thiểu tráng niên Người trì tên ấy thành sáu hạnh. Phật có ánh sáng Tối tôn thắng Người trì tên ấy trí vô ngại. Phật có ánh sáng tên Tốc tật Người trì tên ấy thành Thắng tăng. Phật có ánh sáng tên Hữu tướng Người trì tên ấy biết thâm pháp. Phật có ánh sáng tên Vô tướng Người trì tên ấy lìa kiêu mạn. Phật có ánh sáng tên Vô sinh Người trì tên ấy được vô đắc. Phật có ánh sáng tên Niệm Phật Được chư Như Lai thường khen ngợi. Ở nhiều chỗ Phật tu các hạnh Mới được thành ánh sáng như vậy. Thân Phật hiện ra các ánh sáng Số vi trần ngàn câu-chi cõi Vô lượng câu-chi cõi như vậy Số ấy lại như cát biển lớn. Mỗi mỗi vi trần những ánh sáng Đều có bao nhiêu những quyến thuộc Ánh sáng chiếu khắp cõi không Phật Hóa làm thân Như Lai thanh tịnh Diễn nói pháp thậm thâm vi diệu An trụ trong chúng sinh nhẫn nhục. Phật có ánh sáng tên là Phật Khiến các chúng sinh trụ Phật đạo. Phật có ánh sáng tên là Pháp Thanh tịnh chiếu sáng không vết nhơ. Phật có ánh sáng tên là Tăng Được chư Phật Như Lai khen ngợi. Phật có ánh sáng tên Thanh tịnh Ánh sáng thù thắng rất khó được. Phật có ánh sáng tên là Hoa Lợi ích chúng sinh được thành thục. Phật có ánh sáng tên là Phạm Hoặc tên Đế Thích, hoặc tên Thiên Tên Nguyệt, tên Long, tên Dạ-xoa Tên A-tu-la, Ca-lâu-la Hoặc tên là Vương, tên Phụ nữ Hoặc tên Đồng nữ, tên Đồng nam. Các thứ ánh sáng của Phật ấy Đều có pháp lành độ đồng loại Hay khiến vô lượng câu-chi chúng Đều được thành tựu đạo Bồ-đề. Phật có ánh sáng tên Trí tuệ Hoặc có tên Giới, hoặc tên Từ Hoặc tên Bi, tên Hỷ, tên Đăng Hoặc hiệu Đồ hương, hoặc Âm nhạc. Những loại ánh sáng của Phật ấy Đều tùy bản hạnh làm tên nó Đều nhiếp vô lượng loài chúng sinh Do đó thành tựu ánh sáng ấy. Phật có ánh sáng tên Tôn trọng Được chư Phật Như Lai ngợi khen Với giáo pháp Phật thường cung kính Do đó thành tựu ánh sáng ấy. Mắt Phật nhìn thấy số chúng sinh Một lỗ lông hiện nhiều ánh sáng Mà mỗi mỗi các ánh sáng kia Đều có quyến thuộc đồng vây quanh. Tùy các chúng sinh tâm họ niệm Nhờ ánh sáng Phật đều thành thục Nếu được nghe nói ánh sáng ấy Hay sinh lòng mừng rất mến thích: Người này thuở xưa chỗ chư Phật Đã từng được nghe kinh như vậy. Phật có ánh sáng tên Tối thắng Quyến thuộc số tám mươi câu-chi Xưa từng một kệ khen ngợi Phật Thế nên thành tựu ánh sáng ấy. Phật có ánh sáng tên Vô ưu Quyến thuộc tám mươi na-do-tha Trì pháp của một Như Lai nói Thế nên thành tựu ánh sáng ấy. Phật có ánh sáng tên Thắng tịnh Quyến thuộc số tám mươi câu-chi Nếu thọ trì được một Tam-muội Thì được thành tựu ánh sáng ấy.  Quá khứ có Phật Tên là Tối Thắng Phật ấy trụ thế Thọ vô lượng tuổi Ban đầu thành đạo Ở trong pháp hội Chúng có tám mươi Na-do-tha số. Lúc ấy ở tại Diêm-phù-đề này Có một vị vua Tên là Lạc Thanh. Vua ấy lại có Năm trăm vương tử Dung nhan đoan chánh Người thấy đều mừng. Lúc ấy quốc vương Oai đức tự tại Đối với Tam bảo Lòng rất mến tin. Vườn tược thắng diệu Của quốc vương kia Đều đem phụng thí Cho Phật Tối Thắng. Ở chỗ kinh hành Trong vườn tược ấy Lại có vô lượng Cây Chiêm-bặc-ca Cây Câu-luật-đà Cây Chân-thúc-ca Ưu-đàm-bát-la Ba-la-ba-tra Cây Thi-lợi-sa Và cây Vô ưu. Số cây đều có Tám mươi câu-chi Các cây như vậy Đông hạ đều tươi Hoa trái cành lá Màu sáng bóng tốt Hương thơm vi diệu Ướp thân Như Lai. Có các Tỳ-kheo Thân màu vàng ròng Các vị đều ngồi Dưới rừng cây ấy Dũng mãnh tinh tấn Được Đà-la-ni. Đức Phật Tối Thắng Thương quốc vương ấy Và các vương tử Cùng đại chúng khác Nên nói quang minh Quyết định như vậy. Quốc vương nghe rồi Trong lòng vui mừng Nói vô lượng kệ Khen ngợi Như Lai. Quốc vương lại đem Tám mươi câu-chi Lọng báu vi diệu Phụng hiến Đức Phật. Mỗi chiếc lọng báu Dùng châu ma-ni Nghiêm sức giáp vòng Trong lưới trên lọng. Châu ma-ni ấy Mỗi hạt giá trị Tám mươi câu-chi Vàng Diêm-phù-đàn. Mỗi chiếc lọng ấy Có đủ tám mươi Câu-chi hạt châu Để làm chuỗi ngọc. Châu ma-ni ấy Màu bóng láng nhuần Thường phóng ánh sáng Cả ngày lẫn đêm. Mỗi một tia sáng Chiếu trăm do-tuần Sáng ấy chói sáng Che lấn trời, trời. Lọng ấy còn có Tám mươi câu-chi Dải báu sư tử Tám mươi câu-chi Vòng báu chỉ vàng Nghiêm sức bốn mặt. Lại có nhiều thứ Trân kỳ màu đẹp Xen lẫn trang nghiêm Lưới báu trân châu Dùng lọng như vậy Che khắp vườn tược. Trên ấy lại có Hoa tô-ma-na A-đề-mục-đa Mục-chân-lân-đà Ưu-đàm-bát-la Hoa sen xanh thảy. Vô lượng lọng hoa Nhiều thứ như vậy Mỗi chiếc lọng đều Vừa với lưới báu Dùng y tơ vàng Tên Câu-tra-ma Để làm lọng đẹp Che trùm trên ấy. Giường báu Chiên-đàn Chân bằng vàng ròng Số giường cũng có Tám mươi câu-chi Chiếu nệm lụa màu Để trải trên giường. Lúc ấy tất cả Các loài chúng sinh Tận trời Hữu đảnh Đều đến dự hội Ở chỗ Như Lai Nghe kinh điển này. Trời, Rồng, Dạ-xoa Càn-thát-bà vương Ma-hầu-la-già Và A-tu-la Nghe kinh này rồi Đều rất vui mừng Nói trăm ngàn kệ Khen ngợi Như Lai. Tất cả đều phát Nguyện đại Bồ-đề Chúng Trời, Rồng, Thần Và A-tu-la Dùng lòng kính tin Mưa hoa Mạn-đà Trân châu các báu Để dâng cúng dường. Lúc ấy lại có Tám mươi câu-chi Trời đại oai lực Nghe kinh này rồi Lòng họ vui mừng Phát nguyện Bồ-đề Ở đời vị lai Được quang minh ấy. Đức Phật Tối Thắng Biết sở nguyện họ Liền thọ ký họ Đều sẽ thành Phật. Lúc đó lại có Tám mươi câu-chi Thích Đề-hoàn Nhân Cùng các Phạm chúng Nghe nói kinh điển Thấy sáng như vậy Lòng họ vui mừng Phát tâm Bồ-đề Đều được thọ ký Tương lai thành Phật. Lúc đó lại có Tám mươi câu-chi Na-do-tha rồng Nghe kinh này rồi Phát tâm Bồ-đề Đều được thọ ký. Lúc đó lại có Tám mươi câu-chi Kim sí điểu vương Nghe kinh này rồi Kiên trì năm giới Cũng được thọ ký. Lúc đó lại có Tám mươi câu-chi Càn-thát-bà vương Nghe kinh này rồi Tấu ngàn thứ nhạc Âm thanh vi diệu Cúng dường Đức Phật Được Phật thọ ký. Lại có tám mươi Na-do-tha số Dạ-xoa quỷ vương Nghe kinh này rồi Lòng rất kính tin Trí tuệ của Phật Tất cả đều được Thọ ký Bồ-đề. Nguyệt Quang nên biết Đức vua Lạc Thanh Cúng dường các thứ Cho Phật Tối Thắng Nào phải người lạ Chính là ông đấy. Ngày xưa ông nhờ Nghe kinh điển này Thế nên hôm nay Ông lại thưa hỏi. Sau ta nhập diệt Lúc chánh pháp ta Sắp phải diệt hoại Với kinh giáo này Nếu có người nào Sinh lòng kính tin Thì nói rộng được Kinh điển như vậy.  Nếu ở vị lai nói kinh này Đó là hộ trì chánh pháp ta Dường như người dẫn đường đoàn buôn Cũng gọi là hộ trì bảo tạng. Nếu ở vị lai nghe kinh này Lòng vui thích khoảng khảy ngón tay Nên biết đó là oai thần Phật Cũng do đức Văn-thù gia hộ Người ấy liền được thấy chư Phật Truyền cho bí pháp được sáng suốt. Nếu người chất trực lòng nhu nhuyến Thường siêng cúng dường lên chư Phật Tu hành vô ngã, lòng từ nhẫn Người ấy mến thích kinh điển này. Nếu người thường ôm lòng chẳng thiện Tham cầu lợi danh không chán đủ Nơi pháp tịch tónh không thích ưa Người này chẳng thích kinh điển này. Nếu người cúng dường chư Như Lai Khéo biết rõ được pháp thâm diệu Nơi chánh trí Phật lòng kính tin Người này mến thích kinh điển này. Nếu người tán loạn lòng không sạch Thường làm hàng thịt khó điều phục Làm tôi tớ cho các cảnh dục Người này chẳng thích kinh điển này. Nếu người thường thích a-lan-nhã Ở nơi riêng vắng lòng tịch tónh Chẳng ham lợi danh và thân thuộc Người này mến thích kinh điển này. Nếu người tùy thuận bạn xấu ác Tổn hoại pháp lành của mình người Nơi giới và định nhiều tổn thất Người này chẳng thích kinh điển này. Nếu người chí nguyện rất thanh tịnh Thường dùng trí tuệ quán các pháp Được Thiện tri thức hộ niệm cho Người này mến thích kinh điển này. Nếu người ràng buộc nhà thân hữu Mang cho hoa quả khiến hoan hỷ Lòng không chánh trực nhiều dua vạy Người này chẳng thích kinh điển này Nếu người thường nhớ ân chư Phật Nơi thắng thiện căn lòng ưa mến Hồi hướng Bồ-đề không dua vạy Người này mến thích kinh điển này. Nếu người luyến mê nơi phụ nữ Nhiều y phục đẹp để nghiêm sức Thường muốn cùng họ đồng du hý Người này chẳng thích kinh điển này. Nếu người thâm tâm không nương dựa Nơi các cảnh dục không bị nhiễm Chẳng vì uống ăn mà dua nịnh Người này mến thích kinh điển này. Nếu người dẫn dạy các quần sinh Mà nói dâm dục không tội lỗi Đó là phỉ báng tam thế Phật Người này chẳng thích kinh điển này. Nếu người tín nguyện thường kiên cố Phát khởi tinh tấn cầu thiện pháp Chẳng sinh mỏi mệt và khinh mạn Người này mến thích kinh điển này. Nếu người ràng buộc với phụ nữ Thường nhớ nghó mãi các cảnh dục Chẳng tu trí tuệ lợi ích rộng Người này chẳng thích kinh điển này. Nếu người ngồi yên ở núi rừng Tu tập trí tuệ thường thanh tịnh Chẳng tham tất cả đồ tư sinh Người này mến thích kinh điển này. Nếu người nơi mắt tiền hậu tế Mà thường mê hoặc chẳng rõ được Người này ngu si bị ma ám Người này mến thích kinh điển này. Nếu người nơi mắt tiền hậu tế Thường thông đạt rõ không mê hoặc Người này thoát khỏi lưới tà ma Người này mến thích kinh điển này. Nếu nơi mắt hữu biên vô biên Người thường mê hoặc chẳng rõ được Người này ngu si bị ma ám Người này chẳng thích kinh điển này. Nếu nơi mắt hữu biên vô biên Người thường thông đạt không mê hoặc Người này thoát khỏi lưới tà ma Người này mến thích kinh điển này. Nếu người nơi tướng mắt thành hoại Mà thường mê hoặc chẳng rõ được Người này ngu si bị ma ám Người này chẳng thích kinh điển này Nếu người nơi tướng mắt thành hoại Mà thường thông đạt không mê hoặc Người này thoát khỏi lưới tà ma Người này mến thích kinh điển này. Cho đến tai, mũi, lưỡi, thân, ý Sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp Địa, thủy, hỏa, phong cùng thể tánh Sự vật, chúng sinh và với khổ Uẩn, giới, thế sinh, thanh danh, đế Tham, sân, si, mạn, ái, phú, kiêu Xan, tật, siểm, cuống, phẫn và hận Nên biết mỗi mỗi đều như vậy. Nếu người nơi mắt tận bờ kia Mà thường mê hoặc chẳng rõ được Người này sa vào hạnh phàm phu Người này chẳng thích kinh điển này. Nếu người nơi mắt tận biên kia Mà thường thông đạt không mê hoặc Người này lìa các hạnh phàm phu Người này mến thích kinh điển này. Nếu người nơi mắt diệt hoại kia Mà thường mê hoặc chẳng rõ được Người này sa vào hạnh phàm phu Người này chẳng thích kinh điển này. Nếu người nơi mắt diệt hoại kia Mà thường thông đạt không mê hoặc Người này lìa các hạnh phàm phu Người này mến thích kinh điển này. Nếu người nơi mắt tịch diệt kia Mà thường mê hoặc chẳng rõ được Người này sa vào hạnh phàm phu Người này chẳng thích kinh điển này. Nếu người nơi mắt tịch diệt kia Mà thường thông đạt không mê hoặc Người này lìa các hạnh phàm phu Người này ưa thích kinh điển này. Nếu người nơi mắt không đến, đi Mà thường mê hoặc chẳng rõ được Người này sa vào hạnh phàm phu Người này chẳng thích kinh điển này. Nếu người nơi mắt không đến, đi Mà thường thông đạt chẳng mê hoặc Người này lìa các hạnh phàm phu Người này ưa thích kinh điển này. Nếu người chẳng rõ mắt vô ngã Nơi mắt tận tánh thường mê hoặc Người này sa vào hạnh phàm phu Người này chẳng thích kinh điển này. Nếu người rõ được mắt vô ngã Nơi mắt tận tánh thường thông đạt Người này lìa các hạnh phàm phu Người này mến thích kinh điển này. Nếu người chẳng rõ mắt vô ngã Nơi Nhẫn hành xứ thường mê hoặc Người này sa vào hạnh phàm phu Người này chẳng thích kinh điển này. Nếu người rõ được mắt vô ngã Nơi Nhẫn hành xứ thường thông đạt Người này lìa các hạnh phàm phu Người này mến thích kinh điển này. Nếu người chẳng rõ mắt tận tánh Họ chẳng thành tựu Vô y giới Vì chẳng thành tựu Vô y giới Người này chẳng thích kinh điển này. Nếu người rõ được mắt tận tánh Họ thành tựu được Vô y giới Vì đã thành tựu Vô y giới Người này mến thích kinh điển này. Nếu người chẳng rõ mắt tận tánh Họ chẳng thành tựu Vô lậu giới Vì chẳng thành tựu Vô lậu giới Người này chẳng thích kinh điển này. Nếu người rõ được mắt tận tánh Họ thành tựu được Vô lậu giới Vì đã thành tựu Vô lậu giới Người này mến thích kinh điển này. Nếu người chẳng rõ mắt tận tánh Họ chẳng thành tựu Vô lậu tuệ Vì chẳng thành tựu Vô lậu tuệ Người này chẳng thích kinh điển này. Nếu người rõ được mắt tận tánh Họ thành tựu được Vô lậu tuệ Vì đã thành tựu Vô lậu tuệ Người này mến thích kinh điển này. Nếu người chẳng rõ mắt tận tánh Nơi nhãn không tánh thường mê hoặc Họ chẳng sinh được trí Tổng trì Người này chẳng thích kinh điển này. Nếu người rõ được mắt tận tánh Nơi mắt không tánh thường thông đạt Họ hay sinh được trí Tổng trì Người này mến thích kinh điển này. Nếu người biết rõ mắt tận tánh Họ thành tựu được trí Tổng trì Cho đến trí vô thượng vô trước Người này mến thích kinh điển này. Nếu người chẳng thích kinh điển này Nơi mắt tận tánh thường mê hoặc Họ bị thoái thất các thiền định Chứng trí vô thượng thật là khó. Nếu người mến thích kinh điển này. Nơi mắt tận tánh thông đạt được Họ được thành tựu các thiền định Chứng trí vô thượng chẳng phải khó. Nếu người biết rõ mắt tận tánh Nơi tướng vô ngã thông đạt được Họ thường được nghe pháp như vậy Sâu tin hiểu rõ được không nghi. Nếu người tư duy mắt tận tánh Ngày đêm siêng năng không lười mỏi Họ được thành tựu Tổng trì biện Thường diễn thuyết được kinh điển này. Nếu người tư duy kinh điển này Thành tựu xuất hiện quang minh trí Họ được hiển phát chư Như Lai Nơi mắt không tánh hay thông đạt. Giả sử xây dựng trăm ngàn tháp Cúng dường tất cả các Thế Tôn Nếu người tư duy kinh điển này. Chỗ được công đức lại hơn kia. Giả sử trăm ngàn các kỹ nhạc Cúng dường xá-lợi của Như Lai Nếu người được nghe kinh điển này Chỗ được công đức lại hơn kia. Mắt Phật thấy rõ các chúng sinh Đều đồng Như Lai mà cúng dường Quá vô lượng câu-chi số kiếp Chẳng bằng thọ trì kinh điển này. Nếu người ở trong khế kinh này Thọ trì diễn thuyết bốn câu kệ Với người này phải nên cung kính Dường như Đấng Tối Thắng Đại Bi. Ta ở thuở xưa trăm ngàn kiếp Lưu chuyển trong ba cõi sinh tử Từng ở chỗ vô lượng chư Phật Vì Khế kinh này mà cúng dường. Hoặc thắp vô lượng trăm ngàn đèn Tim đèn đều bằng do-tuần lớn Vì ở kinh này được tự tại Vì thế cúng duờng Đại Đạo Sư. Hoặc dùng hoa Chiêm-bặc-bà-lợi Hoa Tô-ma-na, hoa Vô ưu Đem vòng hoa này và phướn lọng Các thứ cúng dường tháp Như Lai. Thuở xưa ta ở trong sinh tử Có người đến cầu ta đều thí Hoặc thí hoa trái các rừng vườn Hoặc thí cầu bến và suối giếng Hoặc thí voi trắng và kỳ lân Hoặc thí ngựa báu và thể nữ Hoặc thí giường vàng, màn trân bảo Hoặc thí chuỗi ngọc, vòng hoa đẹp Mỗi món như vậy cả trăm ngàn Vì Khế kinh này nên không tiếc.  KINH ĐẠI BẢO TÍCH <卷 id="86423712">QUYỂN 31 Hán dịch: Đời Đại Đường, Tam tạng Pháp sư Bồ-đề-lưu-chí. <詞 id="86423713">Pháp hội 11: XUẤT HIỆN QUANG MINH (Phần 2) Ta xưa vì kinh này Hộ trì giới thanh tịnh Thường tu tập định tuệ Và thí các chúng sinh. Ta xưa vì kinh này Người ác đến hủy mắng Ta thường thương xót họ Với họ chẳng gia hại. Ta xưa vì kinh này Ai xin đều bố thí Đều tùy họ ưa thích Đều làm cho hoan hỷ. Ta xưa vì kinh này Dâng cho các cung điện Trang nghiêm những lưới báu Cúng dường lên chư Phật. Ta xưa vì kinh này Xả các thứ trân ngoạn Và đem châu ma-ni Cúng dường lên chư Phật. Ta xưa vì kinh này Thường ghi nhớ ân người Cho đến nghe một kệ Luôn tôn trọng người ấy. Ta xưa vì kinh này Tôn trọng người trì giới Cho đến chỗ kinh hành Thường cung kính nơi ấy. Ta xưa vì kinh này Hoặc ở trong sinh tử Cho đến có chút ân Thường mong báo đáp họ. Ta xưa vì kinh này Chẳng báng pháp cầu lợi Thương mến hàng thân hữu Và tất cả chúng sinh. Ta xưa vì kinh này Nghe nhiều, giỏi giảng thuyết Không chấp trước các pháp Chẳng lẫn tiếc với người. Ta xưa vì kinh này Nếu có tâm niệm xấu Liền sám hối tội tiêu Chẳng để nó tăng trưởng. Ta xưa vì kinh này Thân làm vương, thái tử Được bao nhiêu trân bảo Hương hoa và hương bột Ta liền phát tịnh tâm Dâng cúng lên chư Phật. Ta xưa vì kinh này Thương những kẻ lao tù Bị các thứ khổ sở Đem thân mình thay họ. Ta xưa vì kinh này Bỏ những vui năm dục Thường mỗi tháng lục trai Thọ trì các cấm giới. Ta xưa vì kinh này Thường tu hành nhẫn nhục Cho đến với vợ con Cũng chẳng sinh tham lẫn. Ta xưa vì kinh này Khiến những người nghèo đói Thảy đều được an vui Đầy đủ những của báu. Ta xưa vì kinh này Mà nhiếp thọ tất cả Sa-môn, Bà-la-môn Và các loài chúng sinh. Ta xưa vì kinh này Làm lợi cho tất cả Thường làm đại thí chủ Chẳng tiếc với người xin, Hoặc nơi cây hoa quả Chẳng cho người đốn chặt Thí khắp các chúng sinh Tùy ý đều đầy đủ. Thuở xưa ta bố thí Lòng ta thường bình đẳng Trì giới đủ công đức Phá giới không tàm quý Người chứng đại thần thông Dưới đến loài phàm ngu Ta đều tôn trọng họ Cung kính chu cấp cả. Thuở xưa ta bố thí Lòng ta không cao hạ Chẳng cầu sinh cõi lành Chí ưa thích kinh này, Hoặc làm cho trong nước Đều không có oán địch Điều phục các loài rồng Đúng thời mưa nhuần mát. Nguyệt Quang ông phải biết Trải qua vô lượng kiếp Ta vì cầu kinh này Tu tập các khổ hạnh Dù trong trăm ngàn kiếp Tuyên nói chẳng hết được. Ông đã có tịnh tín Thuở mạt thế tương lai Phải sinh tâm chánh niệm Diễn nói kinh điển này. Ta dùng mắt Phật xem Thấy rõ đời vị lai Có bao nhiêu công hạnh Đều biết rõ tất cả. Nếu có các Tỳ-kheo Vì cầu trí vô thượng Hay dùng tâm tịnh tín Diễn nói kinh điển này Người ấy và chỗ ở Ta biết rõ tất cả. Nếu thuở vị lai sau Nghe kinh này mà thích Chí nguyện và phương tiện Ta biết rõ tất cả. Nếu những người hạ liệt Chẳng nghe kinh điển này Chê bai người tuyên thuyết Ta biết rõ tất cả. Nếu có các Tỳ-kheo Và các Tỳ-kheo-ni Được nghe kinh điển này Cảm thương mà khóc lóc Ta đều thọ ký họ Được thấy Đấng Tối Thắng. Nguyệt Quang ông phải biết Thần thông lực của Phật Hoặc người tâm thanh tịnh Hoặc người chẳng thanh tịnh Hoặc người có tín giải Ta đều biết rõ cả. Nếu có các chúng sinh Chí nguyện thường tịch tónh An trụ các thiền định Chẳng dính mắc sinh tử Cho đến những tập khí Đều vónh viễn dứt hẳn Các công đức như vậy Ta đều biết rõ cả. Hoặc có các chúng sinh Mê chấp pháp hư vọng Hoặc có các chúng sinh Với Phật lòng mến thích Những việc đời vị lai Ta đều biết rõ cả. Nếu có các chúng sinh Nhiễm trước vui thế gian Với Phật chủng Bồ-đề Chẳng khéo khai phát được Do vì nhân duyên ấy Lui mất các phương tiện. Nếu có người biết được Chư Phật Bồ-đề chủng Người ấy tất sẽ được Vô biên quang thanh tịnh. Nguyệt Quang ông phải xem Những quang minh như vậy Mỗi mỗi sự nhân duyên Thảy đều có sai khác. Ông dùng sức trí tuệ Phải biết rõ tất cả Nếu bỏ ác tri thức Mà gần gũi bạn lành Hộ trì giới thanh tịnh Thành tựu Phật quang minh. Ông phải hộ các căn Rời bỏ không tàm quý Tu hành các pháp lành Hộ trì các chúng sinh. Ông phải bỏ tranh cãi Thấu tỏ nơi tánh không Chẳng tham cầu lợi dưỡng Nghe nhiều, giỏi giảng thuyết. Ông phải xem lợi dưỡng Dường như là phẩn nhơ Chớ vì phẩn lợi dưỡng Ô nhiễm tâm thanh tịnh Thường cầu tìm trí tuệ Sẽ được lợi vô thượng. Ông phải tu Phật đạo Quán Phật đồng pháp tánh Thường thắp đuốc đại pháp Soi khắp trong thế gian. Ông phải như núi to Tâm an trụ bất động Bị chưởi hoặc bị đánh Đều nhẫn được tất cả. Ông phải vì chúng sinh Làm bạn lành chân thật Phải bỏ tâm hạ liệt Thường tu hạnh thanh tịnh. Ông dùng tâm kiên cố Diễn nói pháp vô thượng Kinh vi diệu như đây Nên trao người Từ tâm. Muốn cầu trí vô thượng Chớ sợ hãi sinh tử Do đây bỏ được ác Sẽ được lợi thù thắng. Ví như người trí sáng Khéo hay dùng được lửa Hoặc nấu chín thức ăn Chẳng bị lửa cháy phỏng. Nếu là kẻ ngu si Không có phương tiện khéo Để lửa chạm vào tay Liền bị lửa cháy phỏng. Cũng như người trúng độc Mê muội tâm cuồng loạn Dùng lửa để cứu trị Do đó mà được lành. Nguyệt Quang ông phải biết Người trí cũng như vậy Nương ý biết ý không Nên ở trong sinh tử, Nương nhãn biết nhãn không Không chấp trước nơi nhãn Nếu biết được như vậy Ở nhãn cũng vô hại. Nếu biết nhãn tánh không Thành tựu trí chân thật Vì do trí chân thật Sẽ phát được ánh sáng. Nếu biết nhãn tánh không Dứt hẳn lòng tham dục Vì không có tham dục Sẽ phát được ánh sáng. Tất cả những phiền não Sân, si và ngã chấp Phú, não cùng xan, tật Vô tàm và vô quý Phẫn, hận cùng cống cao Kiêu mạn và thượng mạn Siểm, cuống cùng phóng dật Mỗi món nói như tham, Nếu được trí chân thật Biết rõ nhãn tịch diệt Do vì biết tịch diệt Sẽ phát được ánh sáng. Nếu được trí chân thật Trụ trong Phật lý thú Vì ở trong lý thú Sẽ phát được ánh sáng. Nếu được trí chân thật Trụ trong Phật phương tiện Vì ở trong phương tiện Sẽ phát được ánh sáng. Nếu chẳng tu thật trí Mà rời được chướng não Và thành ra ánh sáng Ta chưa từng nghe thấy. Nếu siêng tu thật trí Rời hẳn những chướng não Thuận theo công hạnh ấy Sẽ phát ra ánh sáng. Nếu cầu hạnh tối thắng Phải học tập kinh này Cúng dường chư Như Lai Được thật trí phương tiện. Nếu tu trí chân thật Phải cúng dường như Phật Thành phát ra ánh sáng Như trái nằm trong tay. Nếu mê nhãn vô ngã Thì mất pháp Sa-môn Người ấy chẳng nên được Phát ánh sáng như vậy. Nếu biết nhãn vô ngã Thì nên pháp Sa-môn Người ấy sẽ chứng được Phát ánh sáng như vậy. Nếu biết nhãn tận tế Thì biết nhó sinh tế Do biết nhó sinh tế Nên thành pháp Sa-môn. Nếu chẳng biết khắp được Biên tế của nhãn tánh Thì cũng chẳng biết khắp Biên tế của nhãn sinh Người ấy chẳng được thành Phát ánh sáng như vậy. Nếu có thể biết khắp Biên tế của nhãn tánh Thì cũng biết khắp được Biên tế của nhãn sinh Người ấy sẽ chứng được Phát ánh sáng như vậy. Nếu chẳng khéo biết rõ Biên tế của nhãn tánh Thì chẳng khéo biết rõ Biên tế của nhãn sinh Người ấy chẳng được thành Phát ánh sáng như vậy. Nếu khéo biết rõ được Biên tế của nhãn tánh Thì khéo biết rõ được Biên tế của nhãn sinh Người ấy sẽ chứng được Phát ánh sáng như vậy. Nếu chẳng hiện biết rõ Biên tế của nhãn tánh Thì chẳng hiện biết rõ Biên tế của nhãn sinh Người ấy chẳng được thành Phát ánh sáng như vậy. Nếu được hiện biết rõ Biên tế của nhãn tánh Thì cũng hiện biết rõ Biên tế của nhãn sinh Người ấy sẽ chứng được Phát ánh sáng như vậy. Nếu chẳng khéo biết rõ Biên tế của nhãn tánh Thì chẳng khắp biết rõ Biên tế của nhãn sinh Người ấy chẳng được thành Phát ánh sáng như vậy. Nếu khéo biết rõ được Biên tế của nhãn tánh Thì cũng khéo biết rõ Biên tế của nhãn sinh Người ấy sẽ chứng được Phát ánh sáng như vậy. Nếu chẳng khéo biết rõ Thanh tịnh của nhãn tánh Thì cũng chẳng khéo biết Thanh tịnh của nhó tánh Người ấy chẳng được thành Phát ánh sáng như vậy. Nếu khéo biết rõ được Thanh tịnh của nhãn tánh Thì cũng khéo biết rõ Thanh tịnh của nhó tánh Người ấy sẽ chứng được Phát ánh sáng như vậy. Tất cả nhó, tỷ, thiệt Thân, ý cùng sắc, thanh Hương, vị, xúc và pháp Địa, thủy, hỏa, phong đại Tánh sự thế gian khổ Uẩn, giới thế sắp sinh Cùng với thanh, hương thảy Tất cả đều như thế. Đức Thế Tôn bảo Đồng tử Nguyệt Quang: –Này thiện nam! Nếu có chúng sinh nào phát tâm hướng đến Đại thừa vì họ muốn được thành tựu viên mãn xuất hiện quang minh như vậy, thì có tám mươi căn lành làm tư lương. Những gì là tám mươi? Đó là hộ niệm chúng sinh. Không có lòng làm tổn hại. Với giới cấm thanh tịnh thì phụng trì không kém khuyết. Tâm thường bình đẳng. Không có dua vạy, cũng không có tâm xan, tật, tham, cuống. Sâu tin kinh điển vi diệu Đại thừa. Cũng chẳng mến luyến giàu sang, kiêu căng, phóng dật. Đầy đủ sức nhẫn nại. Chí nguyện không thoái thất. Ý thích thanh tịnh. Ở a-lan-nhã. Chẳng nương ở quyến thuộc, lợi dưỡng, danh vọng. An trụ các thiền định xuất hiện quang Tam-muội. Với người có giới hạnh chẳng siểm khúc mà phụng thờ. Với người đồng phạm hạnh thì phát khởi ý thích thù thắng. Vì kính mến pháp nên rất tôn trọng các Hòa thượng và A-xà-lê. Thấu rõ Khế kinh. Tuyên thuyết khéo giỏi. Lời nói thành thật. An trụ chánh tư duy. Siêng trồng căn lành. Thường làm việc bố thí. Biết rõ nghiệp ma. Giữ kín các căn. Lời nói an tường rõ ràng. Biết rành chân đế. Cũng hay biết rõ tự tướng của các địa vị. Cầu vô tận sắc. Chẳng tiếc thân mạng. Dạy dỗ bốn chúng tuyệt suy tưởng thế gian. Rời các tà kiến cho rằng không có đời sau. Chẳng hiện tướng lạ phỉnh kẻ chưa học. Thường tự hết sức đem pháp mà mình đã học ra khai thị cho người. Chẳng bao giờ khen ngợi âm thanh ca vịnh. Cũng chẳng khen ngợi đồ trang sức. Chứng nhập các đế lý. Đầy đủ đa văn. Rời bỏ ngủ nghỉ. Siêng cầu chánh pháp. Tôn trọng Đức Phật. Phát tâm Bồ-đề. Bỏ sự nghiệp thế gian. Tu tập các học xứ. Vì mến pháp nên nương tựa các bạn hay giỏi. Cầu tìm các căn lành không có lòng chán đủ. Mến thích xuất gia. Hộ trì Phật pháp. Chẳng khởi ác nghiệp. Với giáo pháp không nghi ngờ. Khéo nói ví dụ. Khai thị bí mật. Với đại Bồ-đề chí cầu không mỏi. Chưa hề quên mất kinh điển đã được học. Chẳng bỏ tự học. Điều phục dị luận. Cầu đạo giải thoát xuất ly. Tu vô lượng công hạnh. Tâm mình quyết định nơi pháp trí kia. Thấy rõ nhân quả luân hồi nối nhau. Chẳng luyến trước ba cõi. Rời lìa tăng thượng mạn. Với kẻ bất tín thì xây dựng đối trị. Rõ thấy quả báo sai biệt ở đời vị lai. Khéo biết tiền tế chẳng nhờ mượn duyên người khác. Nơi hạnh viễn ly thì siêng năng tu tập. Nơi tướng tốt của Phật thì trang nghiêm toàn vẹn. Đó là tám mươi tướng. Lại nữa, này Nguyệt Quang! Tám mươi pháp ấy vào trong năm pháp. Những gì là năm pháp? Đó là biết sinh tử, biết Niết-bàn, biết phiền não hết sạch, biết tăng thượng, biết phước quả. Lại nữa, này Nguyệt Quang! Năm pháp ấy vào trong hai pháp. Đó là tâm thanh tịnh trang nghiêm và sắc thanh tịnh trang nghiêm. Lại nữa, này Nguyệt Quang! Hai pháp ấy vào trong một pháp. Đó là có thể thành tựu vô ngại giải thoát của chư Phật Như Lai. Lại nữa, này Nguyệt Quang! Lại có tám mươi pháp khéo có thể thành tựu vô ngại giải thoát của chư Phật Như Lai. Những gì là tám mươi pháp? Đó là bố thí tư lương. Trí tuệ rộng lớn. Tu giới thanh tịnh. Rời phiền não nóng bức. Xô dẹp kiêu mạn. Lời nói dịu dàng. Với các sự việc không việc gì chẳng biết, phải thời đúng lúc. Cũng biết bạn lành. Hướng đến Đại thừa. Mặc giáp tinh tấn. Oai nghi lợi ích cho người. Với kẻ sa vào phiền não thì làm cho họ dứt nghi lầm. Phá trừ pháp ác. Tu hành pháp lành. Chẳng làm bạn với người ác. Gieo trồng căn lành không chán đủ. Phát tâm Bồ-đề dũng mãnh tinh tấn. Hay biết ma sự. Chứng các đế lý. Chân thật cúng dường. Quyết rõ không nghi. Lòng nhớ đến chúng sinh, thường ôm lòng tế độ. Chẳng chấp trước ba cõi. Phát khởi tâm rộng lớn. Với chúng sinh bất thiện thì chỉ cho họ thấy lỗi ác. Bỏ tham, sân, si. Chẳng mong cầu lợi năm dục. Thành thục chúng sinh. Sửa sang tháp của Phật. Tôn trọng cung kính các bậc Thánh. Thân cận phụng thờ người an trụ Đại thừa. Không bao giờ khen ngợi người ở thừa hạ liệt. Rời xa hàng Thanh văn. Xô dẹp oán địch. Với Phật Thế Tôn thì cúng dường rộng lớn. Phụng thờ cúng dường với tâm thù thắng. Được trí vô ngại. Đầy đủ biện tài. Dùng các thí dụ để khai thị chánh pháp. Chẳng bao giờ sai trái với tánh không. Cầu pháp không biếng trễ. Phát bày nghóa sâu xa. Đủ đại Tổng trì. Thuyết pháp không nhiễm trước. Có thể truyền bá rộng rãi hóa đạo không nhàm chán. Viên mãn các công hạnh. Có oai đức lớn. Biện tài không trở ngại. Thành tựu đa văn. Chẳng khen ngợi người ác. Tu các nghiệp lành. Hiểu rõ các uẩn. Rời bỏ các kiến chấp. Thông đạt nhân tánh. Vượt hơn chỗ sở hành. Xa rời cảnh quấy. Phát sinh lòng tin thanh tịnh. An trụ chánh đạo. Ưa thích Đại thừa. Bình đẳng nhiếp thọ. Chẳng chấp trước vô ngã. Chẳng nhàm sinh tử thích cầu Niết-bàn. Vì thiểu dục nên ở a-lan-nhã. Thường đi khất thực không lười mỏi. Tùy có được gì trong lòng sinh vui mừng biết đủ. Rời vô tàm quý. Thân cận chư Phật. Cùng ở với bạn lành. Bỏ các phi loại. Thương các phàm phu. Đồng hạnh chúng sinh. Với Phật có lòng tin thanh tịnh. Rời lìa chẳng phải pháp khí. Với người trái nhau thì chẳng cùng họ chuyện vãn. Người chẳng đến cầu thì chẳng chỉ dạy, nếu có người đến cầu thì theo cơ nghi mà thuyết pháp. Bình đẳng với món ăn. Thường làm việc khắp bố thí mở cửa bố thí lớn. Này Nguyệt Quang! Tám mươi pháp ấy có thể được vô ngại giải thoát của chư Phật. Được nghe pháp ấy, Đồng tử Nguyệt Quang rất vui mừng, liền ở trước Đức Phật nói kệ rằng: Đức Phật biết nhãn tận biên tế Nên hay xuất hiện trí thanh tịnh Vì hay xuất hiện trí thanh tịnh Nên đủ Như Lai thanh tịnh quang. Đức Phật biết rõ nhãn vô ngã Nên hay xuất hiện thanh tịnh âm Vì hay xuất hiện thanh tịnh âm Nên đủ Như Lai tướng Phạm âm. Thuở xưa Đức Phật lợi chúng sinh Nên hay thành tựu ngữ thanh tịnh Vì hay thành tựu ngữ thanh tịnh Lợi ích vô lượng các thế gian. Đức Phật biết rõ nhãn tánh không Nên hay thành tựu trí Tổng trì Vì hay thành tựu trí Tổng trì Xuất hiện Như Lai vô lượng quang. Đức Phật biết rõ nhãn sai biệt Tên khác của nhãn cũng vô biên Vì biết danh tự khác vô biên Xuất hiện Như Lai vô lượng quang. Phật biết văn tự sai biệt môn Biết nhãn rỗng không lìa văn tự Vì biết nhãn không lìa văn tự Xuất hiện Như Lai vô lượng quang. Nếu người suy gẫm nhãn vô ngã Thì biết lời Phật là chân thật Vì biết lời Phật là chân thật Xuất hiện Như Lai quyết định quang. Như Lai thành tựu thắng thần thông Liền biết vô biên nhãn diệt hoại Vì biết rõ được nhãn diệt hoại Lợi ích tất cả các thế gian. Đại Bi Tối Thắng Lưỡng Túc Tôn Rõ thấu vô biên nhãn sinh khởi Như Phật biết được nhãn sinh khởi Con nguyện cũng mau được như vậy. Nhó, tỷ, thiệt, thân cùng với ý Sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp Cho đến thế gian thanh danh thảy Phải biết quan sát đều như vậy. Đại Bi Tối Thắng Lưỡng Túc Tôn Đã đủ Bố thí ba-la-mật Như Phật Bố thí ba-la-mật Con nguyện cũng mau được như vậy. Đại Bi Tối Thắng Lưỡng Túc Tôn Đã đủ Tịnh giới ba-la-mật Như Phật Tịnh giới ba-la-mật Con nguyện cũng mau được như vậy. Đại Bi Tối Thắng Lưỡng Túc Tôn Đã đủ Nhẫn nhục ba-la-mật Như Phật Nhẫn nhục ba-la-mật Con nguyện cũng mau được như vậy. Đại Bi Tối Thắng Lưỡng Túc Tôn Đã đủ Tinh tấn ba-la-mật Như Phật Tinh tấn ba-la-mật Con nguyện cũng mau được như vậy. Đại Bi Tối Thắng Lưỡng Túc Tôn Đã đủ Thiền định ba-la-mật Như Phật Thiền định ba-la-mật Con nguyện cũng mau được như vậy. Đại Bi Tối Thắng Lưỡng Túc Tôn Đã đủ Trí tuệ ba-la-mật Như Phật Trí tuệ ba-la-mật Con nguyện cũng mau được như vậy. Đại Bi Tối Thắng Lưỡng Túc Tôn Đã đủ Pháp thân ba-la-mật Như Phật Pháp thân ba-la-mật Con nguyện cũng mau được như vậy. Đại Bi Tối Thắng Lưỡng Túc Tôn Đã đủ vô biên sắc thanh tịnh Như Phật đả đủ sắc thanh tịnh Con nguyện cũng mau được như vậy. Đại Bi Tối Thắng Lưỡng Túc Tôn Đã đủ vô biên ý thanh tịnh Như Phật đã đủ ý thanh tịnh Con nguyện cũng mau được như vậy. Đại Bi Tối Thắng Lưỡng Túc Tôn Đã đủ vô biên thắng công đức Như Phật đã đủ thắng công đức Con nguyện cũng mau được như vậy. Đại Bi Tối Thắng Lưỡng Túc Tôn Đã đủ vô biên sắc tướng tốt Như Phật đã đủ sắc tướng tốt Con nguyện cũng mau được như vậy. Đại Bi Tối Thắng Lưỡng Túc Tôn Đã đủ vô biên thanh thanh tịnh Như Phật đã đủ thanh thanh tịnh Con nguyện cũng mau được như vậy. Đại Bi Tối Thắng Lưỡng Túc Tôn Đã đủ vô biên đại thần biến Như Phật đã đủ đại thần biến Con nguyện cũng mau được như vậy. Đại Bi Tối Thắng Lưỡng Túc Tôn Vì độ chúng sinh ở ba cõi Như Phật hóa độ chúng sinh ấy Con nguyện cũng mau được như vậy. Đại Bi Tối Thắng Lưỡng Túc Tôn Đã khỏi vô biên hạnh sinh tử Như Phật đã khỏi hạnh sinh tử Con nguyện cũng mau được như vậy. Đại Bi Tối Thắng Lưỡng Túc Tôn Đã khỏi vô biên hạnh tham dục Như Phật đã khỏi hạnh tham dục Con nguyện cũng mau được như vậy. Đại Bi Tối Thắng Lưỡng Túc Tôn Đã khỏi vô biên hạnh sân hận Như Phật đã khỏi hạnh sân hận Con nguyện cũng mau được như vậy. Đại Bi Tối Thắng Lưỡng Túc Tôn Đã khỏi vô lượng hạnh ngu si Như Phật đã khỏi hạnh ngu si Con nguyện cũng mau được như vậy. Đại Bi Tối Thắng Lưỡng Túc Tôn Đã khỏi vô lượng hạnh tham, sân Như Phật đã khỏi hạnh tham, sân Con nguyện cũng mau được như vậy. Đại Bi Tối Thắng Lưỡng Túc Tôn Đã khỏi vô lượng hạnh sân, si Như Phật đã khỏi hạnh sân, si Con nguyện cũng mau được như vậy. Đại Bi Tối Thắng Lưỡng Túc Tôn Đã khỏi vô lượng tham si hạnh Như Phật đã khỏi tham si hạnh Con nguyện cũng mau được như vậy. Đại Bi Tối Thắng Lưỡng Túc Tôn Đã khỏi vô biên hạnh đẳng phần Như Phật đã khỏi hạnh đẳng phần Con nguyện cũng mau được như vậy. Đạo Sư đã khỏi hạnh tham dục Làm lợi ích khắp các thế gian Như Phật lợi ích các thế gian Con nguyện cũng nên trí như vậy. Đạo Sư đã khỏi hạnh sân hận Làm lợi ích khắp các thế gian Như Phật lợi ích các thế gian Con nguyện cũng nên trí như vậy. Đạo Sư đã khỏi hạnh ngu si Làm lợi ích khắp các thế gian Như Phật lợi ích các thế gian Con nguyện cũng nên trí như vậy. Đạo Sư đã khỏi hạnh tham, sân Làm lợi ích khắp các thế gian Như Phật lợi ích các thế gian Con nguyện cũng nên trí như vậy. Đạo Sư đã khỏi hạnh sân, si Làm lợi ích khắp các thế gian Như Phật lợi ích các thế gian Con nguyện cũng nên trí như vậy. Đạo Sư đã khỏi hạnh tham, si Làm lợi ích khắp các thế gian Như Phật lợi ích các thế gian Con nguyện cũng nên trí như vậy. Đạo Sư đã khỏi hạnh đẳng phần Làm lợi ích khắp các thế gian Như Phật lợi ích các thế gian Con nguyện cũng nên trí như vậy. Như Lai đầy đủ trí thù thắng Điều phục tất cả chúng chư Thiên Con nguyện cũng nên trí như vậy Được làm Điều Ngự Thiên Nhân Sư. Như Lai đầy đủ trí thù thắng Điều phục tất cả các Long chúng Con nguyện cũng nên trí như vậy Được làm Điều Ngự Thiên Nhân Sư. Như Lai đầy đủ trí thù thắng Điều phục tất cả chúng Dạ-xoa Con nguyện cũng được trí như vậy Được làm Điều Ngự Thiên Nhân Sư. Như Lai đầy đủ trí thù thắng Điều phục tất cả Càn-thát-bà Cho đến vô lượng Cưu-bàn-trà Và có bao nhiêu các quyến thuộc Con nguyện thành tựu trí như vậy Được làm Điều Ngự Thiên Nhân Sư. Như Lai đầy đủ trí thù thắng Biết rõ nghóa chân thật các pháp Con nguyện thành tựu trí như vậy Với nghóa chân thật không còn nghi. Như Lai biết rõ khổ vô biên Lợi ích tất cả loài quần sinh Con nguyện thành tựu trí như vậy Với khổ tận kia không còn nghi. Như Lai biết rõ nhân tận biên Lợi ích tất cả loài quần sinh Con nguyện thành tựu trí như vậy Với nhân tận kia không còn nghi. Như Lai đầy đủ trí thù thắng Rõ thấu hành nghiệp của thế gian Con nguyện thành tựu trí như vậy Với nghiệp thế gian không còn nghi. Như Lai đầy đủ trí thù thắng Rõ thấu thế gian xứ phi xứ Con nguyện thành tựu trí như vậy Lợi ích tất cả các thế gian. Như Lai đầy đủ trí thù thắng Rõ thấu các nghiệp quả thế gian Con nguyện thành tựu trí như vậy Lợi ích tất cả các thế gian. Như Lai đầy đủ trí thù thắng Rõ thấu các chủng tánh thế gian Con nguyện thành tựu trí như vậy Lợi ích tất cả các thế gian. Như Lai đầy đủ trí thù thắng Rõ thấu tất cả hạnh sáu loài Con nguyện thành tựu trí như vậy Lợi ích vô lượng các thế gian. Như Lai đầy đủ trí thù thắng Rõ thấu các thắng giải thế gian Con nguyện thành tựu trí như vậy Lợi ích tất cả các thế gian. Như Lai đầy đủ trí thù thắng Rõ thấu tất cả các căn tánh Con nguyện thành tựu trí như vậy Lợi ích tất cả các thế gian. Như Lai đầy đủ trí thù thắng Rõ thấu tónh lự các Tam-muội Con nguyện thành tựu trí như vậy Lợi ích tất cả các thế gian. Như Lai đầy đủ trí thù thắng Rõ thấu các công hạnh giải thoát Con nguyện thành tựu trí như vậy Lợi ích tất cả các thế gian. Như Lai đầy đủ trí thù thắng Rõ thấu sở hành của đẳng phần Con nguyện thành tựu trí như vậy Lợi ích tất cả các thế gian. Như Lai đầy đủ trí thù thắng Rõ thấu sở hành của đẳng chí Con nguyện thành tựu trí như vậy Lợi ích tất cả các thế gian. Như Lai biết rõ về sinh tử Lưu chuyển đều do phiền não sinh Con nguyện cũng được trí như vậy Lợi ích tất cả các thế gian. Như Lai tất cả đều biết rõ Lợi ích thế gian không ai bằng Con nguyện cũng được trí như vậy Lợi ích tất cả các thế gian. Như Lai khéo trụ nơi đẳng trì Phát khởi trí phương tiện thù thắng Nguyện con cũng được trí như vậy Lợi ích tất cả các thế gian. Như Lai đầy đủ trí thù thắng Rõ thấu vô biên hạnh đời trước Con nguyện cũng được trí như vậy Lợi ích tất cả các thế gian. Như Lai đầy đủ trí thù thắng Rõ thấu sinh tử không có biên Con nguyện cũng được trí như vậy Lợi ích tất cả các thế gian. Như Lai đầy đủ trí thù thắng Rõ thấu tất cả phiền não hết Con nguyện cũng được trí như vậy Lợi ích tất cả các thế gian. Như Lai đầy đủ trí thù thắng Thành tựu Vô thượng Chánh đẳng giác Con nguyện cũng được trí như vậy Lợi ích tất cả các thế gian. Như Lai đầy đủ trí thù thắng Rời các phiền não và tập khí Con nguyện cũng được trí như vậy Lợi ích tất cả các thế gian. Như Lai đầy đủ trí thù thắng Biết rõ dục nhiễm chướng Bồ-đề Con nguyện cũng thành trí như vậy Lợi ích tất cả các thế gian. Như Lai đầy đủ trí thù thắng Biết rõ pháp xuất ly sinh tử Con nguyện cũng được trí như vậy Lợi ích tất cả các thế gian. Như Lai biết rành nơi pháp nghóa Giác ngộ vô lượng các chúng sinh Con nguyện cũng được trí như vậy Lợi ích tất cả các thế gian. Như Lai biết rõ về pháp tánh Như huyễn, như mộng, như sóng nắng Con nguyện cũng được trí như vậy Lợi ích tất cả các thế gian. Như Lai biết rõ về thế gian Tất cả văn tự và ngôn thuyết Con nguyện cũng được trí như vậy Lợi ích tất cả các thế gian. Như Lai đầy đủ thắng biện tài Khai thị pháp thậm thâm vi diệu Con nguyện cũng được trí như vậy Lợi ích tất cả các thế gian. Như Lai khéo điều thân, ngữ, ý Tất cả đều tùy trí tuệ hành Con nguyện cũng được trí như vậy Lợi ích tất cả các thế gian. Như Lai biết rõ cả ba đời Không lấy, không luyến, không chướng ngại Con nguyện cũng được trí như vậy Lợi ích tất cả các thế gian. Như Lai khéo tu giới, định, tuệ Nơi ấy tất cả không thoái chuyển Con nguyện cũng được trí như vậy Làm Đại Bi Tôn trong ba cõi. Như Lai khéo tu hạnh giải thoát Giải thoát tri kiến không thoái chuyển Con nguyện cũng được trí như vậy Làm Đại Bi Tôn trong ba cõi. Như Lai khéo tu nơi chánh quán Trời, Người thế gian không ai bằng Con nguyện cũng được trí như vậy Làm Đại Bi Tôn trong ba cõi. Như Lai đầy đủ trí thù thắng Nơi các thế pháp không ô nhiễm Con nguyện cũng được trí như vậy Làm Đại Bi Tôn trong ba cõi. Như Lai biết rõ về thế gian Đều thấy rõ các thể, các loài Con nguyện cũng được trí như vậy Nơi các thể ấy không còn nghi. Như Lai biết rành mé tận sinh Nên ở nơi ấy không mê hoặc Con nguyện cũng được trí như vậy Nơi tánh tận sinh được không nghi. Như Lai biết rõ mé tịch tónh Nên ở nơi ấy không nghi hoặc Con nguyện cũng được trí như vậy Nơi tánh tịch tónh được không nghi. Như Lai biết rõ mé lưu chuyển Nên ở nơi ấy không nghi hoặc Con nguyện cũng được trí như vậy Nơi tánh lưu chuyển không còn nghi. Như Lai biết rành tiền hậu tế Nên đầy đủ được trí vô sư Con nguyện cũng được trí như vậy Nơi tiền hậu tế không còn nghi. Như Lai biết rành mé chuyển sinh Nên đầy đủ được trí vô sư Con nguyện cũng được trí như vậy Nơi tánh chuyển sinh không còn nghi. Như Lai biết rành tiền hậu tế Nơi nhãn đoạn thường không chấp trước Con nguyện cũng được trí như vậy Nơi tiền hậu tế không còn nghi. Như Lai biết rành mé tận sinh Nơi nhãn đoạn thường không chấp trước Con nguyện cũng được trí như vậy Nơi tánh tận sinh không còn nghi. Nếu người chẳng rõ tiền hậu tế Thì họ chấp lấy nơi tham dục Như Lai chứng biết tiền hậu tế Nên nơi tham dục không ô nhiễm. Nếu người chẳng rõ mé hữu vô Thì họ chấp lấy nơi tham dục Như Lai chứng biết mé hữu vô Nên nơi tham dục không ô nhiễm. Nếu người chẳng rõ tận vô tận Thì họ chấp lấy nơi tham dục Như Lai chứng biết tận vô tận Nên nơi tham dục không ô nhiễm. Nếu người chẳng rõ chuyển vô chuyển Thì họ chấp lấy nơi tham dục Như Lai chứng biết chuyển vô chuyển Nên nơi tham dục không ô nhiễm. Sân, si, phẫn, phú và tật, cuống Siểm khúc, cống cao với mạn, kiêu Bố thí, Trì giới cùng Nhẫn nhục Thiền định, Trí tuệ đều như vậy. Lúc ấy Đức Thế Tôn biết tâm niệm sâu kín của Đồng tử Nguyệt Quang, liền mỉm cười phóng ánh sáng màu hoàng kim chiếu khắp vô lượng, vô biên thế giới. Ở các thế giới ấy làm lợi ích xong, ánh sáng ấy trở về nhiễu quanh Đức Phật ba vòng rồi từ trên đỉnh đầu của Đức Phật mà thâu vào. Bồ-tát Di-lặc liền từ chỗ ngồi đứng dậy, để hở vai áo bên phải, gối phải chấm đất đảnh lễ chân Đức Phật, rồi chắp tay cung kính nói kệ khen ngợi bạch hỏi Đức Phật: Tiếng Ca-lăng-tần-già Mây sấm sư tử rống Phát tiếng trống pháp lớn Cớ gì Phật mỉm cười? Sáng hơn ngàn mặt trời Âm thanh hay thanh tịnh Công đức rất hy hữu Cớ gì hiện quang minh? Thí, giới, nhẫn, tinh tấn Định, tuệ thảy trang nghiêm Tất cả đều viên mãn Cớ gì hiện quang minh? Tiếng của Phật nhu nhuyến Thường xa rời thô ngữ Khéo chữa bệnh chúng sinh Cớ gì hiện quang minh? Đại Bi Lưỡng Túc Tôn Biết nhãn thường không tịch Dùng Phạm âm thanh tịnh Vì chúng sinh diễn thuyết. Nhó, tỷ, thiệt, thân, ý Cho đến các thanh danh Các Khổ, Tập, Diệt, Đạo Trí nhẫn cũng như vậy. Đại Bi Lưỡng Túc Tôn Biết nhãn tận sinh tế Tịch tónh và lưu chuyển Tất cả đều không tịch. Nhó, tỷ, thiệt, thân, ý Sắc, thanh, hương, vị, xúc Cho đến các thanh danh Tất cả đều như vậy. Phật lại nói nhân duyên Xa rời nơi đoạn thường Chẳng tự, chẳng tha tác Do các duyên mà sinh. Phật lại dùng các môn Khai thị gốc sự khổ Hoặc lại dùng các nghóa Khen ngợi Phật quang minh, Dùng vô lượng ngôn từ Diễn nói pháp tịch diệt Không nhân, không thọ giả Không ngã, không chúng sinh. Quá khứ vô lượng Phật Cũng dùng chẳng nghó bàn Trăm ngàn các kệ tụng Diễn nói pháp như vậy. Đức Như Lai diễn thuyết Pháp công đức chân thật Không nói, không người nói Pháp được nói cũng không. Phật nói pháp tối thắng Giác ngộ các chúng sinh Chư Thiên và Dạ-xoa Người nghe đều được tỏ. Tất cả A-tu-la Ý thích đã thanh tịnh Vô lượng hàng chúng nhân Lưới nghi đều trừ hết, Biết rõ tánh của tham Diệt hoại sân cùng si Ái mạn và vô minh Siểm, tật với hý luận Cho đến các khổ uẩn Đều bỏ rời tất cả. Các cú nghóa như vậy Rốt ráo đều thanh tịnh Như Lai nơi một pháp Thông đạt các thứ danh. Số ấy trăm ngàn vạn Cho đến chẳng nghó bàn Nơi vô lượng chư Phật Khéo học pháp như vậy Mà ở trong một pháp Diễn thuyết không cùng tận. Như Lai khéo rõ thấu Tất cả các pháp môn Cũng hay phân biệt biết Danh cú thượng, trung, hạ, Tu học nơi tất cả Các ngôn từ khác lạ Mà tuyên nói khéo hay Nghóa vi diệu Đệ nhất. Tiếng thanh tịnh như vậy Nhân duyên hòa hợp khởi Cũng chẳng nương lưỡi họng Cho đến nơi thân tâm. Đại địa động sáu cách Chúng mười phương đều họp Chắp tay chiêm ngưỡng Phật Mong trừ nghi cho chúng. Như Lai khéo biết rõ Nhãn tận sinh biên tế Tự tánh thường không tịch Không đến cũng không đi Không trụ, không xứ sở Thâm nhập nơi thật tế. Mắt Phật không chướng ngại Vì thế nay con hỏi: Như Lai khéo biết rõ Tánh nhãn tiền hậu tế Tận vô tận lưu chuyển Tự tánh thường không tịch Khai thị các pháp nghóa Khiến thế gian hoan hỷ Tiếng Đức Phật mỹ diệu Cớ gì hiện mỉm cười? Phật biết tiền hậu tế Tánh nhãn thường không tịch Rời ngôn từ phân biệt Cớ gì miệng mỉm cười? Phật biết nhãn vô lượng Các lời lẽ tuyên nói Bản tánh thường không tịch Cớ gì hiện mỉm cười? Phật biết mé tận sinh Tánh nhãn thường không tịch Bỏ rời các phiền não Chứng trí Phật Bồ-đề Đủ danh tiếng thù thắng Cớ gì hiện mỉm cười? Phật từ lâu tu học Diễn thuyết chẳng nghó bàn Rõ thấu tánh nhãn không Lìa cấu thường thanh tịnh, Vô lượng các tâm hành Một niệm đều biết rõ Quang minh chiếu thế gian Đó là thoại tướng gì? Đại Tiên Đẳng Chánh Giác Tối Thắng Lưỡng Túc Tôn Phiền não đều đã trừ Tâm Phật thường tịch tónh Như Lai trí thù thắng Thấu suốt mé nhãn tận Lại do nhân duyên gì Mà nay hiện mỉm cười? Nhó, tỷ, thiệt, thân, ý Sáu trần và bốn đại Cho đến các thanh danh Tất cả đều như vậy. Phật biết nhãn vô ngã Cũng thấu nhó vô thường Và rõ tỷ tánh không Cớ gì hiện mỉm cười? Phật biết thiệt vô ngã Cũng thấu thân vô thường Và rõ ý tánh không Cớ gì hiện mỉm cười? Phật biết sắc vô ngã Cũng thấu thanh vô thường Và rõ hương tánh không Cớ gì hiện mỉm cười? Phật biết vị vô ngã Cũng thấu xúc vô thường Và rõ pháp tánh không Cớ gì hiện mỉm cười? Phật biết địa vô ngã Cũng thấu thủy vô thường Và rõ hỏa tánh không Cớ gì hiện mỉm cười? Phật biết phong vô ngã Cũng thấu tánh vô thường Và rõ sự tánh không Cớ gì hiện mỉm cười? Biết thế gian vô ngã Cũng thấu khổ vô thường Và rõ uẩn tánh không Cớ gì hiện mỉm cười? Phật biết giới vô ngã Cũng thấu thế vô thường Và rõ sinh tánh không Cớ gì hiện mỉm cười? Phật biết thanh vô ngã Cũng thấu danh vô thường Và rõ đạo tánh không Cớ gì hiện mỉm cười? Phật biết trí vô ngã Rõ tịch tónh vô thường Và chúng sinh tánh không Cớ gì hiện mỉm cười? Phật biết tánh, vô tánh Cũng biết ngã, phi ngã Và rõ ý thích không Cớ gì hiện mỉm cười? Thấy sinh tử vô ngã Cũng thấu thường vô thường Và rõ Niết-bàn không Cớ gì hiện mỉm cười? Như Lai tâm giải thoát Danh tiếng khắp ba cõi Đế Thích cùng Nhân vương Long thần đều cúng dường. Như Lai khéo biết rõ Biên tế nhãn tận sinh Cho đến nơi tịch tónh Cớ gì hiện mỉm cười? Vô lượng hàng Phật tử Đều họp ở chúng hội Từ miệng Phật sinh ra Từ pháp biến hóa sinh Đều đến đứng trước Phật Chắp tay mà tôn trọng. Con vì các chúng ấy Hỏi duyên cớ phóng quang. Như Lai khéo biết rõ Nhãn tánh không, vô ngã Vượt lên trên tất cả Người tại gia tu học. Phật dùng trí bình đẳng Rõ pháp không sai biệt Như Lai ý thích biết Chắng dùng thần thông thấy. Phật biết nhãn vô ngã Tánh không chẳng đến đi Trí thanh tịnh vô biên Cớ gì hiện mỉm cười?  KINH ĐẠI BẢO TÍCH <卷 id="86423714">QUYỂN 32 Hán dịch: Đời Đại Đường, Tam tạng Pháp sư Bồ-đề-lưu-chí, người xứ Thiên Trúc. <詞 id="86423715">Pháp hội 11: XUẤT HIỆN QUANG MINH (Phần 3) Như Lai đã hết nơi sinh tế Đại Bi che khắp các thế gian Pháp Vương Tối Thắng Nhân Trung Tôn Mong nói cớ gì hiện mỉm cười? Vô lượng, vô biên Đại Bồ-tát Và các Thiên chúng oai đức khác Đều ở hư không cầm lọng đẹp Cả đại địa này đều chấn động. Thuở xưa ai ở chỗ Như Lai Mãi mãi tu hành các thiện pháp Đấng Đại Bi tâm ý bình đẳng Mong nói cớ gì hiện mỉm cười? Thuở xưa ai cúng dường chư Phật Được nghe pháp này lòng vui mừng Đạo Sư Tối Thắng Nhân Trung Tôn Mong nói cớ gì hiện mỉm cười? Âm thanh của Phật đẹp ý chúng Như tiếng nhạn chúa rất mỹ diệu Tự nhiên vô lượng tiếng hòa nhã Mong nói cớ gì phóng quang minh? Vô lượng câu-chi lời phúng tụng Khuyên khen vui nhận lời tương ưng Như tiếng Câu-chỉ-la thù thắng Mong nói cớ gì phóng quang minh? Tiếng thuyết pháp vang như trống sấm Nghe khắp vô biên ngàn ức cõi Lòng Từ tiếng thô hoặc lời dịu Cớ gì phóng quang minh kim sắc? Rõ sinh vô sinh, tận vô tận Biết nhãn tánh lìa không đến đi Pháp cam lộ soi sáng thế gian Cớ gì phóng quang minh kim sắc? Biết nhãn khởi tác thường không tịch Không đến, không đi, không chỗ trụ Như sóng nắng, bóng nước, bọt nước Nhân duyên gì thị hiện mỉm cười? Nhó, tỷ, thiệt, thân và ý căn Sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp Cho đến âm thanh và danh thảy Phải biết tất cả cũng như vậy. Thân Phật Kim cang thường bất hoại Đầy đủ trăm ngàn tướng thù thắng Thân không cơ quan mà vận động Mong nói cớ gì hiện mỉm cười? Vế đùi tròn đầy, gót chân dài Bụng không lộ bày như sư tử Rốn sâu xinh đẹp có tròn đủ Mong nói cớ gì hiện mỉm cười? Sắc vàng thân sạch rời trần cấu Mỗi mỗi sợi lông màu xanh biếc Xoay hữu hướng lên mùi thơm phức Mong nói cớ gì hiện mỉm cười? Thân đẹp tròn đầy thường an trụ Dường như cây chúa Ni-câu-đà Tất cả công đức để trang nghiêm Âm thanh khiến chúng lòng vui đẹp. Tay dài tròn trịa, vai xinh đẹp Cổ thon đầy tròn hiện rõ ngấn Đi khắp vô biên trăm ngàn cõi Chỉ dạy chúng sinh đường chánh tà. Răng trắng sạch trong như ngọc tuyết Tướng lưỡi rộng dài trùm khắp mặt Má như sư tử, mũi thẳng dài Đều từ phương tiện tịnh tâm sinh. Hương hoa sen xanh từ miệng Phật Mùi thơm Chiên-đàn khắp thân Phật Thuở xưa đã rộng tu lòng Từ Ý thích thanh tịnh thường tiếp nối. Lòng chân của Phật bằng đầy đẹp Dẫm trên mặt đất không cong lõm Như bước đi voi chúa, sư tử Vượt qua tất cả các thế gian. Tướng Thiên bức luân đẹp đoan nghiêm Nét sáng thù thắng thường hiện rõ Hành động đều lợi ích quần sinh Ai thấy đều sinh lòng tín ngưỡng. Một ngón phát ra ngàn tia sáng Chiếu khắp vô biên các Phật quốc Thuở xưa siêng tu những hạnh lành Nên được những tướng trang nghiêm Thành tựu sắc thân không ai sánh. Gương mặt đoan nghiêm rất thù thắng Thần biến lợi ích các thế gian Mong nói cớ gì hiện mỉm cười? Bắp chân tròn thẳng như nai chúa Thân chẳng cúi thấp như sư tử Xuất hiện làm đèn sáng thế gian Mong nói cớ gì hiện mỉm cười? Âm tàng ngựa chúa không nhiễm trần Lòng tay đầy bằng, tay quá gối Hy hữu Tối Thắng Thiên Nhân Sư Mong nói cớ gì hiện mỉm cười? Từ thân Phật phóng vô biên quang Sắc đẹp tịch tónh mà hằng chiếu Lòng Phật luôn luôn thường thanh tịnh Diễn thuyết vô biên những Khế kinh. Chẳng phải những kẻ chấp đoạn thường Mà tịnh tu được pháp như vậy Nếu bỏ rời được các biên kiến Chóng thành thân thanh tịnh của Phật. Tiếng trống trời mây sấm vang xa Tiếng chim hồng ca-lan trong trẻo Âm nhạc cõi trời muôn ngàn thứ Mong nói cớ gì phóng quang minh? Đạo Sư một tiếng diễn thuyết pháp Khiến người phá giới dứt lỗi lầm Như Lai thuyết pháp lời giọng hay Đều là pháp thậm thâm hy hữu. Lông trắng trâu chúa giữa chặng mày Chiếu khắp trăm ngàn những Phật quốc. Mắt đẹp màu xanh như nước biếc Đỉnh đầu vun cao không thể thấy Răng trắng kín bằng đủ bốn mươi Dường như báu pha lê trong sáng Đều từ vô lượng tịnh nghiệp sinh Mong nói cớ gì hiện mỉm cười? Như Lai viên mãn thân công đức Thành tựu vô biên sắc vi diệu Xuất hiện quang minh đẹp hy hữu Mong nói cớ gì hiện mỉm cười? Đại Bi Tối Thắng Lưỡng Túc Tôn Rõ thấu chí thích của chúng sinh Đã được vô ngại đại biện tài Mong nói cớ gì hiện mỉm cười? Như Lai đã đến được bờ kia Đầy đủ ba minh và sáu thông Thị hiện vô biên thanh tịnh quang Mong nói cớ gì hiện mỉm cười? Phật ở thuở xưa vô lượng kiếp Cúng dường trăm ngàn chư Thế Tôn Nhân quả như vậy chẳng hư mất Mong nói cớ gì hiện mỉm cười? Phật ở thuở xưa vô lượng kiếp An trụ những đẳng trì vi diệu Biết nhãn sinh biên và tận biên Mong nói cớ gì hiện mỉm cười? Quá khứ, vị lai và hiện tại Nơi ấy Đạo Sư đều biết rõ Tịnh trí vô ngại chẳng nghó bàn Mong nói cớ gì hiện mỉm cười? Bấy giờ Đức Thế Tôn ở trong đại chúng dùng tay sắc vàng xoa đầu Đồng tử Nguyệt Quang mà nói kệ: Đồng tử lắng nghe Nay ta giao ông Pháp Bồ-đề này Kinh Xuất Hiện Quang. Ở đời ác sau Lúc pháp sắp diệt Phải vì chúng sinh Khai thị diễn thuyết. Ta dùng Phật nhãn Thấy đời vị lai Nơi kinh thậm thâm Pháp vi diệu này Hoặc thích chẳng thích Đều biết rõ cả. Nếu có chúng sinh Chí cầu Phật đạo Thường niệm chư Phật Nên truyền kinh này. Nếu lòng tín ngưỡng Lại thích náo nhiệt Mãi mê ngủ say Chẳng thích kinh này, Dù được xuất gia Trong pháp của Phật Với pháp Niết-bàn Lại chẳng ưa thích, Người ngu như vậy Uống ăn của thí Nghe pháp hữu vi Có nhiều tội lỗi. Vẫn luyến thế gian Chẳng hề kinh sợ Người ngu như vậy Trí giả quở trách. Dù mặc pháp phục Mà không trí tuệ Đức Phật đã dạy Lời nói chân thật Vô trí nếu nghe Chẳng tin nhận được. Người ngu như vậy Chớ cùng ở chung Nếu người được nghe Pháp thù thắng này Chẳng sinh vui mừng Lòng chẳng ưa thích Những người như vậy Bị ta quở trách Dù được thân người Vẫn là luống qua. Nếu người được nghe Pháp thậm thâm này Sinh được lòng mừng Rất ưa, rất thích Người ấy đã từng Gặp gỡ chư Phật Quyết định sẽ được Vô thượng Bồ-đề. Nếu người ngu si Bị ác kiến hại Đứt mất tuệ mạng Xa rời Bồ-đề Vì thế nên phải Bỏ thầy bạn ác Thân cận cung kính Người trí tuệ sáng. Tất cả thế gian Có nhiều tội ác Chúng sinh thường đọa Trong ba đường ác Đều từ ngu si Mê lầm phát sinh Theo mê lưu chuyển Chẳng được tự tại Vứt bỏ chánh pháp Làm những phi pháp Thế nên phải rời Những người ngu tiểu. Như người đi xe Tự làm té ngã Đã tạo nghiệp ác Sinh vào địa ngục Miệng nói lời ác Tự chuốc tổn hại Như cầm búa bén Tự chém thân mình Chẳng biết các pháp Do nhân duyên tạo Theo nghiệp thọ báo Không ai cứu được. Gần gũi minh sư Để làm thiện hữu Mà bèn tự nói Tu tập không vô, Đã chứng vô vi Sinh chấp đoạn diệt Như phá thân khí Tâm cũng mất theo. Ưa nói những lời Trau chuốt văn hoa Tham đắm nơi đây Trọn không lợi ích. Thà bị rắn độc Cắn cho phải chết Chớ trọn chẳng làm Người đọa ác thú. Người ngu thuyết pháp Làm hư căn lành Khiến vô lượng chúng Sa đọa địa ngục. Đại chúng các ông Phải nên quan sát Đồng tử Nguyệt Quang Hiện đứng trước Phật Thuở xưa đã từng Cúng dường vô lượng Hằng hà sa số Chư Phật Thế Tôn Kiên cố tu hành Cầu trí vô thượng. Lòng ông chẳng luyến Tất cả các cõi Biết nhãn sinh biên Rốt ráo thanh tịnh Rời các hý luận Không bị nhiễm trước Vì muốn lợi ích Vô lượng chúng sinh Diễn nói kinh điển Hiện Quang vô thượng. Người ngu không thể Tu học pháp này Với người tu hành Dòm ngó lỗi lầm. Thế nên phải bỏ Những người ngu si Chẳng nên gần gũi Tu học pháp ấy. Những người ngu si Ưa thích tranh cãi Chẳng thể siêng tu Hạnh không tranh luận Những người như vậy Không tâm hợp lý Vì thế chẳng nên Cung kính khen ngợi. Những người ngu si Biếng nhác giải đãi Thân, ngữ, ý nghiệp Thường làm điều ác Không có tịnh giới Trí tuệ, đa văn Thường tưởng cảnh dục Thích nơi náo nhiệt. Các ông nên xem Người ngu như vậy Chủng tộc và thân Thảy đều xấu ác. Giận thù hung dữ Hình mạo xấu xa Dù sinh làm người Thân thường hạ liệt Chấp trước ngã tướng Mê nơi chân lý Không có trí tuệ, Phân biệt lời hay Nghe pháp tánh không Chẳng ưa chẳng thích. Như Lai Thế Tôn Từ lâu xa rời Tất cả thế gian Ngôn ngữ hý luận. Nơi đây phàm phu Rất hay nhiễm trước Trọn đời của họ Chẳng rõ biết được. Dù khen trì giới Chẳng tu phạm hạnh Miệng nói đúng pháp Thân làm phi pháp Tự nói là luật Thường hành phi luật. Phật dạy đệ tử Mặc y hoại sắc Những người phá giới Mà mặc y này Càng thêm kiêu mạn. Với tâm phóng dật Họ ăn của thí Như nuốt lửa đỏ. Đã bỏ gia đình Không vui năm dục Ở trong Phật pháp Lại không diệu lạc Thích những hạnh tạp Chẳng rời hai biên Bao nhiêu ý thích Đều chẳng thanh tịnh, Người ngu như vậy Ở trong đại chúng Không khác chồn cáo Nhập bầy sư tử, Dù nói những pháp Tịch tónh như vậy Cũng chẳng biết rõ Nghóa không chân thật. Được người ca ngợi Sinh lòng ngạo mạn Chẳng nhớ Đại Sư Thẹn hổ khiêm hạ Nhận vật bất tịnh Như được châu báu Vui mừng cầm giữ Lòng không tạm bỏ. Bọn này hạ liệt Dù lại xuất gia Gìn giữ oai nghi Chấp trì y bát Chỉ có hình tướng Không trí tuệ thật. Dù lại thế phát Chẳng bỏ ác tâm Sa vào đảo kiến Trái pháp Sa-môn Thoái thất nơi đạo Niết-bàn tịch tónh, Cũng không được quả Của Sa-môn chứng Vô minh phiền não Chẳng giảm mảy may Đi dạo xóm làng Tự xưng tịch tónh. Người ngu vô trí Chẳng biết đạo chánh Lòng họ thích muốn Chỉ là bất thiện Vì cầu lợi dưỡng Mà ở chùa chiền Chẳng chịu tu tập Chánh nhân Niết-bàn Hôn trầm ưa ngủ Chỉ muốn an thân Thường ưa thực hành Những sự như vậy. Dù ở chùa am Trải qua nhiều năm Do điên đảo kiến Mất đạo Niết-bàn Trọn chẳng thể được Đạo quả Sa-môn, Phá hư chánh kiến Trái phạm cấm giới Thích y phục tốt Trang nghiêm thân mình Nơi các dục lạc Thường sinh ái nhiễm. Nếu vào thành ấp Hiện tướng kiêu mạn Thân nghiệp phóng túng Chẳng giữ oai nghi. Hoặc vào thành ấp Dạo đi rao nói: Ở tại chùa am Trong hang núi kia Mọi người nên biết Là chỗ tôi ở. Bước chậm ngó xuống Đi đứng an tường Phát ngôn dối lạ Hiện tướng La-hán Khiến chúng bạch y Đều bảo nhau rằng: Tỳ-kheo Lan-nhã Thật là bậc Thánh. Hoặc tại chùa am A-lan-nhã kia Thấy có người đến Liền chỉ thị rằng: Tôi ở chỗ này Ngày đêm kinh hành. Hoặc trải cỏ mịn Làm chỗ tónh tọa Hoặc vào tụ lạc Đến nhà bạch y Dối hiện ân cần Hỏi thăm an ổn. Nói bàn vua giặc Những sự thế tục Hoặc do nhiễm tâm Ở trước người nữ Nhiều thứ phương tiện Tự khen đức mình Tôi làm ruộng phước Cho người trong đời. Tôi bỏ ngôi vua Xuất gia tu hành Cung nhân thể nữ Đều sinh cõi trời. Mọi người nghe nói Càng thêm cung kính Cúng dường đủ thứ Y phục ẩm thực Xin ngài thương xót Thường đến nhà tôi. Tham ưa vị ngon Chẳng biết tội lỗi Bị ma làm hại Như rùa sa lưới. Với chúng lan-nhã Kiêu căng danh lợi Khi dở chê bai Tỳ-kheo tinh tấn Lòng mê danh lợi. Càng sinh tham luyến Vì cớ sống còn Thường làm dối trá Thêm lớn nghiệp ác. Nơi thân, ngữ, ý Nếu có thí chủ Tịnh tâm cúng dường Do vì giải đãi Làm tổn phước họ. Người ngu như vậy Thường sinh ác dục Nơi pháp tánh không Lòng chẳng thuận chịu.  Nếu ở trong Phật pháp Rời được lỗi như vậy Siêng tu chẳng phóng dật Được pháp này chẳng khó. Với lợi, với phi lợi Khen, chê, khổ, vui thảy Thế pháp chẳng động được Được pháp này chẳng khó. Quán thân tưởng bất tịnh Năm uẩn tưởng độc hại Ăn uống tưởng chữa bệnh Được pháp này chẳng khó. Dù mặc y phục tốt Cũng chẳng sinh kiêu mạn Chỉ để che hổ thẹn Được pháp này chẳng khó. Chẳng cậy ỷ sắc lực Với ăn không tham luyến Chỉ nuôi sống để tu Được pháp này chẳng khó. Biết rõ những hữu không Nơi dục không giữ bỏ Thường tu hạnh không tịch Được pháp này chẳng khó. Núi cách một do-tuần Ngồi một mình tu thiền Quán hữu vi vô ngã Được pháp này chẳng khó. Quán nhãn tận sinh biên Và tướng nhãn lưu chuyển Siêng tu đạo nhãn tịnh Được pháp này chẳng khó. Nhó, tỷ, thiệt, thân, ý Sắc, thanh, hương, vị, xúc Cho đến âm thanh, danh Tất cả đều như vậy. Đời vị lai như vậy Vô lượng các Tỳ-kheo Người siêng, người biếng trễ Tất cả đều phải biết. Người gặp bạn thiện, ác Tu tập, chẳng tu tập Sinh tín và bất tín Tất cả đều phải biết. Người gặp thiện, ác hữu Nơi đạo các căn tận Tu tập, chẳng tu tập Tất cả đều phải biết. Nếu ưa thích Bồ-đề Hoặc một, hai, ba tháng Lúc sau lại thoái thất Tất cả đều phải biết. Nếu người nghe pháp này Sinh được lòng ưa thích Dù có lúc thoái thất Rồi lại được lòng tin. Nếu người nghe pháp này Chẳng rời được phóng dật Họ sinh ý nghó rằng Kinh này phi Phật thuyết. Nếu người nghe pháp này Bị ma nó nhiếp trì Trước dù phát lòng tin Sau thì lại vứt bỏ. Không ưa thích chánh pháp Dối gạt cầu danh lợi Du hành nơi tụ lạc Khen nói Đà-la-ni Tam-muội Tổng trì sáng Thật ra họ chẳng hiểu Ràng buộc nơi năm dục Tham cầu những thế nghiệp Dùng lời lẽ phân biệt Chê người tu pháp không. Họ không có niệm tuệ Trọn đời họ luống qua. Người ngu bỏ pháp không Đó là họ phá giới Sẽ đọa ngục A-tỳ Trọn chẳng được sinh Thiên. Nếu trong một sát-na Tạo lập ngàn tòa tháp Chẳng bằng nghe kinh này Thọ trì bốn câu kệ. Đem trăm ngàn vòng hoa Cúng dường nơi Phật pháp Chẳng bằng nghe kinh này Suy gẫm bốn câu kệ. Nếu người xây bảo tháp Số nhiều như hằng sa Chẳng bằng khoảng sát-na Suy gẫm kinh điển này. Đem hoa rải cúng dường Nơi trăm ức cõi Phật Chẳng bằng khoảng sát-na Suy gẫm kinh điển này. Ca-sa trăm ngàn ức Dâng cúng lên chư Phật Chẳng bằng khoảng sát-na Suy gẫm kinh điển này. Phật nhãn thắng thanh tịnh Không gì chẳng thấy biết Nếu ưa thích kinh này Sẽ được mắt của Phật. Quá khứ vô số kiếp Có Phật hiệu Nhiên Đăng Ta làm tiên Ma-nạp Cầm hoa đến cúng dường Phật ký ta thành Phật Hiệu Thích-ca Mâu-ni Sẽ ngồi nơi đạo tràng Diễn nói kinh điển này. Còn ông làm đồng tử Nghe ta được thọ ký Vui mừng phát lòng tin Chắp tay phát thệ nguyện: Nếu Ma nhận thành Phật Tôi sẽ giúp giáo hóa Đến lúc Ngài diệt độ Tôi hộ trì pháp tạng. Như Phật Nhiên Đăng kia Nói kinh Xuất Hiện Quang Ma nhận cùng đồng tử Lúc ấy cùng nghe thọ. Thuở xưa ta đã từng Đem hoa sen thơm đẹp Cúng dường Phật Nhiên Đăng. Thuở ấy ở pháp hội Ông phát nguyện như vậy Trong mạt pháp của ta Thọ trì kinh điển này Rộng tuyên thuyết lưu truyền. Nếu người nghe pháp này Lòng chẳng sinh bực dọc Hay thọ trì, đọc tụng Thì gọi Đại trượng phu. Ông phải ở đời sau Trì pháp khó nghe này Rộng vì các chúng sinh Phân biệt nghóa thú ấy. Ta trong đời quá khứ Lúc chánh pháp sắp diệt Trì kinh Hiện Quang này Rộng nói cho chúng sinh. Người ngu chẳng siêng tu Hủy báng kinh pháp này Ta dù nghe họ chê Cũng chẳng sinh phiền giận. Ta thường tu nhẫn nhục Lợi ích cho thế gian Do nhẫn lực thành tựu Thân tướng hảo trang nghiêm. Này Đồng tử, phải xem Thân Phật diệu viên mãn Sắc vàng rất thanh tịnh Đều từ nhẫn lực sinh. Ngón chân ta ấn đất Chấn động vô biên cõi Mà chúng sinh chẳng té Đều là do nhẫn lực. Ta từ một lỗ lông Phóng trăm ngàn ánh sáng Thanh tịnh chiếu tất cả Đều do thắng nhẫn lực. La-sát rất đáng sợ Hút lấy tinh khí người Thường mến kính nơi ta Đều do thắng nhẫn lực. Những quyến thuộc của ta Khéo điều phục được tâm Với Như Lai tôn trọng Đều do thắng nhẫn lực. Trăm ngàn thứ âm nhạc Khắp ở trong đại chúng Khen ngợi Phật công đức Đều do thắng nhẫn lực. Trăm ngàn vị Long vương Sân độc rất đáng sợ Thấy Phật liền vui mừng Đều do thắng nhẫn lực. Chúng Dạ-xoa, La-sát Cầm trăm ngàn vòng hoa Đồng đến cúng dường Phật Đều do thắng nhẫn lực. Vô lượng trăm ngàn cõi Hiện tại chư Như Lai Khen ngợi công đức ta Đều do thắng nhẫn lực. Tám ngàn Cưu-bàn-trà Và A-tra-phạ-ca Rải hoa cúng dường ta Đều do thắng nhẫn lực. Sáu mươi trăm câu-chi Chúng Dạ-xoa vương thảy Đồng đến cúng dường ta Đều do thắng nhẫn lực. Lại có ngàn Long vương Ma-na-bà-già thảy Dâng ta xích trân châu Đều do thắng nhẫn lực. Trăm ngàn Đâu-mâu-lô Cùng với Thi-khí-tỳ Cúng dường ta âm nhạc Đều do thắng nhẫn lực. Trăm ngàn Cưu-bàn-trà Tỳ-lô Thích-ca thảy Cúng dường ta hương hoa Đều do thắng nhẫn lực. Long vương giữ đại địa Hiện ra nửa thân rồng Chắp tay cung kính ta Đều do thắng nhẫn lực. Có trăm ngàn câu-chi La-hầu, A-tu-la Tịnh tâm cúng dường ta Đều do thắng nhẫn lực. Này Nguyệt Quang, phải xem Phật quang chiếu đến đâu Hết khổ được an vui Đều do thắng nhẫn lực. Trăm ngàn chúng chư Thiên Rải hoa trời cúng dường Họ bỏ vui năm dục Đến ở gần Như Lai. Ông xem Phật thần thông Tiếng diễn thuyết thí giới Khắp mọi nơi đều nghe Đều do thắng nhẫn lực. Tiếng diễn thuyết uẩn giới Và tiếng nói bốn đế Khắp mọi nơi đều nghe Đều do thắng nhẫn lực. Do thần thông của ta Nghe hư không thuyết pháp Nhãn tận biên tịch tónh Sinh biên cũng tịch tónh. Do thần thông của ta Nghe hư không thuyết pháp Nhãn từ nhân duyên sinh Không đến cũng không đi. Do thần thông của ta Nghe hư không thuyết pháp Quan sát nhãn tịch tónh Do đó sinh chư Phật. Do thần thông của ta Nghe hư không thuyết pháp Nhãn tận biên tịch tónh Do đó sinh chư Phật. Do thần thông của ta Nghe hư không thuyết pháp Nhãn biên tế tịch tónh Do đó sinh chư Phật. Do thần thông của ta Nghe hư không thuyết pháp Nhãn sinh biên tịch tónh Do đó sinh chư Phật. Do thần thông của ta Nghe hư không thuyết pháp Nhãn lưu chuyển tịch tónh Do đó sinh chư Phật. Do thần thông của ta Nghe hư không thuyết pháp Nhãn vô sinh tịch tónh Do đó sinh chư Phật. Do thần thông của ta Nghe hư không thuyết pháp Nhãn tịch diệt tịch tónh Do đó sinh chư Phật. Nhó, tỷ, thiệt, thân, ý Sắc, thanh, hương, vị, xúc Cho đến âm thanh, danh Tất cả đều như vậy. Tham, sân, si, phẫn, phú Tật đố và siểm, cuống Cống cao cùng kiêu mạn Nói rộng cũng như vậy. Đồng tử Nguyệt Quang nghe Đức Phật nói pháp tối thắng như vậy, vui mừng chắp tay bạch Đức Phật: –Bạch Thế Tôn! Ngày mai con muốn thỉnh Như Lai và đại chúng đến nhà con thọ trai. Mong Như Lai từ mẫn nhận lời. Đức Phật biết ý nguyện của Đồng tử thanh tịnh. Đức Phật cũng biết sẽ lợi ích vô lượng chúng sinh, nên xót thương mà im lặng nhận lời thỉnh của Đồng tử. Đồng tử Nguyệt Quang liền đảnh lễ chân Phật, đi nhiễu bên phải ba vòng, vui mừng trở về nhà cùng với quyến thuộc và chúng Trời, Rồng, tám bộ chúng đồng nghiêm sức thành Vương xá. Nơi ngã tư đường giăng bày màn che bằng lụa màu. Màn ấy cao rộng che khắp mọi nơi, dây vàng kết xen, chuỗi ngọc thòng rủ, những lá phan sư tử, hoa vàng câu vòng trăm ngàn thứ để trang sức. Lại còn có hoa báu rất lạ xen lẫn nhau mà làm thành vòng hoa, hoa Chiêm-bặc, vòng hoa Mục-chân-lân-đà; vô lượng, vô số thứ vòng hoa như vậy thòng rủ giáp vòng trong màn trướng báu. Khắp nơi đều trang nghiêm. Trong ấy sắm đặt chỗ ngồi, đốt những hương quý: Hương Tất-lực-ca, hương Đô-ma-giá, hương Chiên-đàn, hương Uất kim thơm tho vui dạ. Hòa hợp nhiều thứ diệu hương như vậy để dùng cúng dường. Còn đem nước thơm rưới khắp mặt đường. Hoa đẹp phủ trên đất chỗ nào cũng đầy khắp. Các Thiên nữ, A-tu-la nữ, Ma-hầu-la nữ số đông vô lượng, lòng họ vui mừng vì muốn thành tựu nhân Bồ-đề nên đồng đến nghiêm sức đại thành ấy. Trong thành khắp nơi nghiêm sức đã xong, đến giờ ngọ trai, Đồng tử Nguyệt Quang đến bạch Đức Phật: –Bạch Thế Tôn! Mong Thế Tôn vì lợi ích các chúng sinh mà vào đại thành. Bấy giờ Đức Phật và đại chúng đi vào cửa thành. Ngay lúc Đức Phật hạ chân xuống, khắp mặt đất trong thành đều chấn động. Trăm ngàn ức thế giới mươi phương cũng đều chấn động. Trong thời gian ấy, kẻ mù được thấy, kẻ điếc được nghe, kẻ khổ được vui, kẻ xấu thành đẹp, kẻ nghèo được no đủ, không con có con, không áo có áo, không vàng bạc châu báu có vàng bạc châu báu, không thân thuộc được thân thuộc, người thiếu đồ trang sức thì được có đồ trang sức. Còn có các loài chim như Câu-chỉ-la, chim Anh vũ, chim Khổng tước, chim Xá-lợi, chim Ca-lăng. Những chim ấy thấy Đức Phật, chúng vui mừng hót ra những âm thanh vi diệu. Ai nghe tiếng hót ấy cũng đều đẹp dạ. Đức Phật lại dùng thần lực hóa hiện vô lượng cây hoa Chiêm-bặc-ca. Trăm ngàn chúng sinh cầm hoa thanh tịnh ấy và các thứ hương khác rải lên cúng dường Đức Phật. Các A-tu-la nữ và Ma-hê-thủ-la cầm xích trân châu và bột Chiên-đàn vui vẻ kính rải trên Đức Phật. Chúng A-tu-la và chúng trời cầm lọng báu bằng hoàng kim bạch ngân đứng trên hư không che cho Như Lai. Đức Phật lại dùng thần lực hóa hiện vô lượng cây hương Chiên-đàn, trăm ngàn cây Kim cang, bảo khí và y phục. Những cây như vậy vô lượng vô biên trân bảo trang nghiêm, hoa lá rậm rạp. Đó là do quả báo phước đức của tất cả chúng sinh chung lại kết thành. Gió nhẹ thổi động, hơi thơm tối thắng vi diệu lan khắp vô lượng cõi Phật. Trăm ngàn chúng sinh đồng rải cúng Đức Phật. Vô lượng chúng sinh, hữu tình và phi tình như vậy đều do thần lực của Đức Phật hóa hiện. Nếu có ai mong cầu, do thần lực ấy, đều làm cho đầy đủ theo ý muốn của họ cả. Lúc Đức Phật vào thành, tất cả đại chúng nghe tiếng hay lạ trên hư không. Tiếng ấy diễn xướng chẳng thể nghó bàn, cũng chẳng biết từ đâu xuất phát, nói lên trăm ngàn kệ tụng để tuyên diệu pháp. Lúc Đức Thế Tôn mới vào thành. Hư không có tiếng nói như vầy Rõ tham tận biên thường không tịch Chứng thật tánh ấy được Bồ-đề. Lúc Đức Thế Tôn mới vào thành Hư không có tiếng nói như vầy Rõ tham sinh biên thường không tịch Chứng thật tánh ấy được Bồ-đề. Lúc Đức Thế Tôn mới vào thành Hư không có tiếng nói như vầy Rõ tham biên tế thường không tịch Chứng thật tánh ấy được Bồ-đề. Lúc Đức Thế Tôn mới vào thành Hư không có tiếng nói như vầy Rõ tham tịch tónh thường không tịch Chứng thật tánh ấy được Bồ-đề. Lúc Đức Thế Tôn mới vào thành Hư không có tiếng nói như vầy Rõ tham lưu chuyển thường không tịch Chứng thật tánh ấy được Bồ-đề. Lúc Đức Thế Tôn mới vào thành Hư không có tiếng nói như vầy Rõ tham không có thường không tịch Chứng thật tánh ấy được Bồ-đề. Lúc Đức Thế Tôn mới vào thành Hư không có tiếng nói như vầy Rõ tham không sinh thường không tịch Chứng thật tánh ấy được Bồ-đề. Lúc Đức Thế Tôn mới vào thành Hư không có tiếng nói như vầy Rõ tham tịch diệt thường không tịch Chứng thật tánh ấy được Bồ-đề. Sân, si, phẫn, phú cùng tật, cuống Siểm khúc, cống cao, kiêu mạn, ưu Khổ, Tập, Diệt, Đạo và hữu tình Đồng nam, đồng nữ với phụ nữ. Trượng phu dưỡng dục gồm sáu căn Sáu trần, bốn đại tánh sự vật Thế gian khổ uẩn giới thế sinh Âm thanh, danh, pháp khác cũng vậy. Pháp Vương diễn nói tiếng vi diệu Tất cả chúng sinh đều vui mừng Chư Thiên, thế nhân cùng nghe rồi Thích muốn ở nơi Như Lai thừa. Lúc Đức Thế Tôn mới vào thành Hư không có tiếng nói như vầy Nơi sức bố thí Phật rất thích Do sức bố thí chứng Bồ-đề. Lúc Đức Thế Tôn mới vào thành Hư không có tiếng nói như vầy Nơi thanh tịnh giới Phật rất thích Do sức tịnh giới chứng Bồ-đề. Lúc Đức Thế Tôn mới vào thành Hư không có tiếng nói như vầy Nơi hạnh nhẫn nhục Phật rất thích Do sức nhẫn nhục chứng Bồ-đề. Lúc Đức Thế Tôn mới vào thành Hư không có tiếng nói như vầy Nơi hạnh tinh tấn Phật rất thích Do sức tinh tấn chứng Bồ-đề. Lúc Đức Thế Tôn mới vào thành Hư không có tiếng nói như vầy Nơi hạnh thiền định Phật rất thích Do sức thiền định chứng Bồ-đề. Lúc Đức Thế Tôn mới vào thành Hư không có tiếng nói như vầy Nơi đại trí tuệ Phật rất thích Do sức trí tuệ chứng Bồ-đề. Sức thần thông phước đức trí tuệ Sức phương tiện sắc, sức danh xưng Sức nghiệp nhân duyên, sức tín văn Sức bố thí và sức tịch tónh Sức điều phục thật tế đế thiện Sức vô úy hoan hỷ lợi lạc Từ, Bi, Hỷ, Xả, Nhẫn, Vô não Không, vô tướng, vô tác cũng vậy. Đấng Thập Lực Thánh Chúa Thiên Tôn Công đức danh văn vô đẳng lượng Khi vừa vào thành mới hạ chân Đã làm lợi ích nhiều chúng sinh. Xưa ở ba cõi tu tịnh nghiệp Thêm lớn hạnh lành cho chư Thiên Tất cả thế gian đều tôn ngưỡng Nghe lời Phật nói đều vui mừng. Lúc Phật vào thành mới hạ chân Thành ấp đại địa đều chấn động Đồng thấy tịnh quang minh của Phật Thảy đều khát ngưõng sinh vui mừng. Thế Tôn vào thành lợi ích lớn Trời, Người đại chúng lòng vui mừng Ba cõi từ đất đến không gian Đều khen Như Lai khéo an lạc. Túc luân của Phật vừa ấn đất Tịnh quang chiếu khắp chưa từng có Trong thành ngựa hay vang tiếng diệu Trên không các chim cũng vui mừng. Lại có chúng nữ nhân thanh tịnh Tay chân hoàn xuyến và chuỗi ngọc Nhiều thứ trang sức báu như vậy Chẳng gõ tự vang tiếng diệu kỳ. Các nàng cùng đến vui mừng rỡ Đồng thanh khen ngợi Thắng Cát Tường. Đui điếc, tàn phế được lành lặn Đều là quả thù thắng của Phật. Thế Tôn vào thành người đều mừng Trời người rải hoa cúng dường Phật Khắp trong hư không vang tiếng diệu Vô lượng chư Thiên rất vui mừng. Còn có những chúng sinh mất trí Đã hết cuồng loạn lòng vui mừng Nữ nhân thai nghén lòng lo sợ Nhờ ánh sáng Phật được an vui. Hoặc có các nam nữ hổ thẹn Vì họ nói pháp rời cấu nhiễm Đều sinh lòng thanh tịnh vui mừng Đảnh lễ dưới chân Đức Mâu-ni. Hoặc cầu Như Lai đạo vô thượng Hoặc cầu Bồ-tát, Thanh văn thừa Như vào thành Chiên-đàn tối thắng Chiêm ngưỡng Tôn nhan tự vui mừng. Phật tuệ thấu rõ hạnh mọi người Tùy thuận thế gian làm lợi ích Pháp tài sâu xa cho Bồ-tát Trân bảo thượng diệu thí chúng sinh.  Lúc Thế Tôn vào thành Hư không nói như vầy Nếu thích nhãn tận biên Thì tôn trọng Đức Phật. Thế Tôn vừa vào thành Hư không nói như vầy Nếu thích nhãn tận biên Thì tịnh tín Đức Phật. Nếu thích nhãn tận biên Được Phật bất hoại tín Tịnh tín được nối nhau Do quán nhãn tận biên. Nếu thích nhãn tận biên Được pháp bất hoại tín Tịnh tín được nối nhau Do quán nhãn tận biên. Nếu thích nhãn tận biên Được Tăng bất hoại tín Tịnh tín được nối nhau Do quán nhãn tận biên. Nếu thích nhãn tận biên Được giới không chấp trước Tịnh giới được nối nhau Do quán nhãn tận biên. Nếu thích nhãn tận biên Rời ác thú tham dục Rời bỏ tham tương tục Do quán nhãn tận biên. Nếu thích nhãn tận biên Rời ác thú sân hận Rời bỏ sân tương tục Do quán nhãn tận biên. Nếu thích nhãn tận biên Rời ác thú ngu si Rời bỏ si tương tục Do quán nhãn tận biên. Nếu quán nhãn tận biên Thì được trí Bồ-đề Trí Bồ-đề tương tục Do quán nhãn tận biên. Cho đến nhãn sinh biên Biên tế và lưu chuyển Tịch tónh cùng không có Vô sinh với tịch diệt. Các pháp môn như vậy Nói đồng như nhãn tận. Nếu thích nhãn tận biên Thì thường không nghi hoặc Do vì không nghi hoặc Liền được Phật thần thông. Nếu thích nhãn sinh biên Thì thường không nghi hoặc Do vì không nghi hoặc Liền được Phật thần thông. Nếu thích nhãn biên tế Thì thường không nghi hoặc Do vì không nghi hoặc Liền được Phật thần thông. Nếu thích nhãn lưu chuyển Thì thường không nghi hoặc Do vì không nghi hoặc Liền được Phật thần thông. Nếu thích nhãn tịch tónh Thì thường không nghi hoặc Do vì không nghi hoặc Liền được Phật thần thông. Nếu thích nhãn vô sinh Thì thường không nghi hoặc Do vì không nghi hoặc Liền được Phật thần thông. Nếu thích nhãn không có Thì thường không nghi hoặc Do vì không nghi hoặc Liền được Phật thần thông. Nếu thích nhãn tịch diệt Thì thường không nghi hoặc Do vì không nghi hoặc Liền được Phật thần thông. Nhó, tỷ, thiệt, thân, ý Sắc, thanh, hương, vị, xúc Cho đến âm thanh, danh Tất cả đều như vậy. Biết nhãn sinh vô biên Phát khởi trí vô biên Do vì trí vô biên Nói pháp này cũng vậy. Biết nhãn tận vô biên Nơi nhãn không chướng ngại Do vì không chướng ngại Được Phật vô ngại trí. Nhó, tỷ, thiệt, thân, ý Sắc, thanh, hương, vị, xúc Cho đến âm thanh, danh Tất cả đều như vậy. Lúc Thế Tôn vào thành Trăm ngàn loài chúng sinh Nghe hư không thuyết pháp Không nghi công đức Phật Dù có khởi tham dục Chẳng hư Phật trí tuệ, Hoặc có khởi tham dục Thoái thất Phật công đức Hoặc dù khởi tham dục Mà cầu Vô thượng trí Siêng tu pháp bất cộng Chẳng thích Thanh văn thừa. Người ngu tu tập thiền Ưa nơi thiền định vui Bèn sinh tăng thượng mạn Nói được quả Sa-môn. Người ngu tu tập thiền Không trí nhãn tận biên Dù trải trăm ngàn kiếp Vẫn không được giải thoát, Với tất cả ái sinh Đều nhiễm trước trong ấy Nếu biết sinh tánh không Chỗ thấy thường thanh tịnh. Nếu người tu tứ thiền Không trí nhãn tận biên Dù trải trăm ngàn kiếp Nơi thiền chẳng thanh tịnh. Nếu chứng được đẳng dẫn Không trí chứng tận biên Vì chẳng biết chứng tận Thường hành nơi chứng lậu. Nếu chấp trước nơi tưởng Không trí tưởng tận biên Vì chẳng biết tưởng tận Thường hành nơi tưởng lậu. Nếu luyến trước thế gian Không trí thế tận biên Vì chẳng biết thế tận Thường hành nơi thế lậu. Nếu ở tâm hữu lậu Không trí tâm tận biên Vì chẳng biết tâm tận Thường hành nơi tâm lậu. Nếu ở pháp hữu lậu Không trí pháp tận biên Vì chẳng biết pháp tận Thường hành nơi pháp lậu. Nếu đủ pháp Đầu-đà Không trí nhãn tận biên Vì chẳng biết nhãn tận Chẳng phải thật Đầu-đà. Dù mặc y hoại sắc Không trí nhãn tận biên Vì chẳng biết nhãn tận Chẳng phải ứng pháp phục. Dù sinh nhà quý tộc Không trí nhãn tận biên Vì chẳng biết nhãn tận Chẳng phải nhà thanh tịnh. Dù quyến thuộc đông nhiều Không trí nhãn tận biên Chóng đọa trong ác thú Quyến thuộc chẳng cứu được. Dù giỏi thanh minh luận Không trí nhãn tận biên Vì chẳng biết nhãn tận Chẳng đạt được thanh minh. Dù giỏi các công xảo Không trí nhãn tận biên Vì chẳng biết nhãn tận Chẳng phải giỏi công xảo. Dù với nhiều gạn hỏi Rộng giải thích một chữ Không trí nhãn tận biên Chẳng phải giải nghóa đúng. Dù học với người trí Chẳng biết mật chẳng mật Không trí nhãn tận biên Không có được nơi pháp. Dù rõ các luận thuyết Thế luận và các pháp Không trí nhãn tận biên Như té vực níu dây. Dù giỏi nơi thanh minh Suy đoán tướng tốt xấu Và văn tự, âm vận Đọc tụng đều rõ suốt Chẳng biết nhãn tận biên Người ấy vẫn vô trí. Dù biết tướng nữ nhân Lời tà làm mê hoặc Cách đấm bóp hết mỏi Những ảo thuật bí mật Chẳng biết nhãn tận biên Người ấy vẫn vô trí. Dù diễn thuyết trăm tông Không sót mất một chữ Chẳng biết nhãn tận biên Lời nói vẫn vô nghóa. Nhãn sinh biên như vậy Biên tế cùng lưu chuyển Cho đến nơi tịch diệt Nên biết cũng như thế. Nhó, tỷ, thiệt, thân, ý Sắc, thanh, hương, vị, xúc Cho đến âm thanh, danh Tất cả đều như vậy. Dù đọc tụng thanh luận Mà biết hết nghóa ấy Chẳng biết nhãn tận biên Họ vẫn là hạ liệt. Dù tụng bốn Vi-đà Thần chú đều thông thuộc Chẳng biết nhãn tận biên Họ vẫn là hạ liệt. Như vậy nhãn sinh biên Biên tế và lưu chuyển Cho đến nơi tịch tónh Phải biết cũng như vậy. Nhó, tỷ, thiệt, thân, ý Sắc, thanh, hương, vị, xúc Cho đến âm thanh, danh Tất cả đều như vậy.  KINH ĐẠI BẢO TÍCH <卷 id="86423716">QUYỂN 33 Hán dịch: Đời Đại Đường, Tam tạng Pháp sư Bồ-đề-lưu-chí, người xứ Thiên Trúc. <詞 id="86423717">Pháp hội 11: XUẤT HIỆN QUANG MINH (Phần 4) Lúc Thế Tôn vào thành Vô lượng các chúng sinh Nghe tiếng nói hư không Được trí nhãn tận biên. Lúc Thế Tôn vào thành Vô lượng các chúng sinh Nghe tiếng nói hư không Biết rõ nhãn tự tánh Rốt ráo không, vô ngã Đều được nhãn thanh tịnh. Nhó, tỷ, thiệt, thân, ý Sắc, thanh, hương, vị, xúc Cho đến âm thanh, danh Tất cả đều như vậy. Tham, sân, si, phẫn, mạn Xan, tật, cuống, cống cao Cho đến nơi phóng dật Phải biết cũng như vậy. Lúc Thế Tôn vào thành Vô lượng loài chúng sinh Nghe tiếng hư không nói Danh hiệu của chư Phật, Hoặc nghe diệt hoại tham Danh hiệu không gì bằng, Hoặc nghe diệt hoại sân Danh hiệu lợi cho đời, Hoặc nghe hết ngu si Danh hiệu dẹp kiêu mạn, Hoặc nghe dạy thế gian Tên Đạo sư tịch tónh, Hoặc nghe hiện trí tuệ Tên lợi ích thế gian, Hoặc nghe hiện phương tiện Tên lợi ích chúng sinh, Hoặc nghe hàng phục ma Tên không có hận thù, Hoặc nghe đem pháp dạy Tên thị hiện giải thoát, Hoặc nghe tên rộng độ Những chúng sinh khốn khổ, Hoặc nghe Đấng Nhân Tôn Tên cứu tế chúng sinh Được nghe danh hiệu Phật Đều được nhãn thanh tịnh. Hư không và nước biển Cho đến núi Tu-di Tất cả đều lường được Trí Phật không cùng tận. Nếu nơi nhãn tận quyết định được Thành tựu Pháp thân chẳng là khó. Nếu thành tựu được thắng Pháp thân Sẽ được vô biên trí Tổng trì. Nếu được vô biên trí Tổng trì Tỏ ngộ vô lượng những Khế kinh. Nếu ngộ vô lượng những Khế kinh Nơi Phật thần thông được chẳng khó. Nếu nơi nhãn sinh quyết định được Thành tựu Pháp thân chẳng là khó. Nếu hay thành tựu thắng Pháp thân Sẽ được vô biên trí Tổng trì. Nếu được vô biên trí Tổng trì Tỏ ngộ vô lượng những Khế kinh. Nếu ngộ vô lượng những Khế kinh Nơi Phật thần thông được chẳng khó. Như vậy nhó, tỷ, thiệt, thân, ý Sắc, thanh, hương, vị và xúc, pháp Cho đến âm thanh cùng với danh Phải biết tất cả đều cũng vậy. Lúc ấy đại địa đều chấn động Biển lớn, các núi cũng chấn động Chúng A-tu-la và chư Thiên Tất cả thảy đều sinh hoan hỷ. Ma và ma quân hết siểm khúc Đều cầu thành tựu Phật trang nghiêm. Chư Thiên các xứ cung điện đẹp Lòng sạch vui mừng bảo nhau rằng: Đạo Sư nay đã hiện ra đời Vì lợi tất cả chúng trời, người. Chúng Địa cư thiên ở cung mình Cũng đều vui mừng bảo nhau rằng: Lành thay! Đạo Sư nay xuất thế Làm nhân an lạc khắp thế gian. Chúng Không cư thiên nghe lời ấy Thảy đều vui mừng sinh tịnh tín Dùng tiếng đẹp dạ khen ngợi Phật: Đạo Sư xuất hiện lợi thế gian. Chúng Tứ Thiên vương nghe lời ấy Thảy đều vui mừng sinh tịnh tín Dùng tiếng thù thắng khen ngợi Phật: Đạo Sư xuất hiện lợi thế gian Chư Thiên Đao-lợi nghe lời ấy Thảy đều vui mừng sinh tịnh tín Dùng tiếng thù thắng khen ngợi Phật: Đạo Sư xuất hiện lợi thế gian. Chư Thiên Dạ-ma nghe lời ấy Thảy đều vui mừng sinh tịnh tín Dùng tiếng thù thắng khen ngợi Phật: Đạo Sư xuất hiện lợi thế gian Chúng ta phải phát tâm Bồ-đề Chí cầu Như Lai vô thượng trí Đấng Tối Thắng, người trời nương tựa Độ thoát tất cả loài chúng sinh. Chư Thiên Đâu-suất nghe lời ấy Thảy đều vui mừng sinh tịnh tín Dùng tiếng thù thắng khen ngợi Phật: Đạo Sư xuất hiện lợi thế gian Phật trải câu-chi vô số kiếp. Tu tập vô biên hạnh thù thắng Dạy đạo an ổn cho chúng sinh Khiến thoát sinh tử chứng Niết-bàn. Chư Thiên Hóa lạc nghe lời ấy Thảy đều vui mừng sinh tịnh tín Dùng lời thù thắng khen ngợi Phật: Đạo Sư xuất hiện lợi thế gian. Chư Thiên Tha hóa nghe lời ấy Thảy đều vui mừng sinh tịnh tín Dùng tiếng vi diệu khen ngợi Phật: Đạo Sư xuất hiện lợi thế gian Như Lai đã khỏi hẳn sinh tử Hàng phục chúng ma và ngoại đạo Thành tựu Vô thượng Phật Bồ-đề Cứu vớt quần sinh lên bờ giác. Các chúng Phạm thiên nghe lời ấy Thảy đều vui mừng sinh tịnh tín Dùng tiếng vi diệu khen ngợi Phật: Đạo Sư xuất hiện lợi thế gian. Như vậy xoay vần nghe tiếng nhau Quyến thuộc Phạm thiên đều mừng rỡ Đạo Sư xuất hiện lợi thế gian Ma quân sợ sệt đều lo khổ. Trên đến chư Thiên Sắc cứu cánh Nghe Phật xuất hiện lợi thế gian. Như vậy xoay vần tiếng nghe khắp Tu-la tổn giảm, chư Thiên tăng Cung điện ác ma đều trống vắng Quyến thuộc chư Thiên đều đông nhiều. Dùng sức vô úy hàng chúng tà Mau thành tối thắng đại Bồ-đề Trong khoảng sát-na trời biết khắp Thế Tôn xuất thế lợi quần sinh Lành thay! Thế gian Đại Đạo Sư Đem mắt thanh tịnh cho chúng sinh.  Lúc Thế Tôn vào thành Người khổ vì tham dục Nghe nói bất tịnh quán Tham dục dứt không còn. Lúc Thế Tôn vào thành Người khổ vì sân hận Nghe nói pháp Từ bi Sân hận dứt không còn. Lúc Thế Tôn vào thành Người khổ vì ngu si Nghe nói pháp trí tuệ Ngu si dứt không còn. Lúc Thế Tôn vào thành Người khổ vì kiêu mạn Nghe pháp lìa kiêu mạn Kiêu mạn dứt không còn. Lúc Thế Tôn vào thành Người khổ vì tật đố Nghe pháp lìa tật đố Tật đố dứt không còn. Lúc Thế Tôn vào thành Người khổ vì xan lẫn Nghe pháp lìa xan lẫn Xan lẫn dứt không còn. Lúc Thế Tôn vào thành Người khổ vì phẫn nộ Nghe pháp lìa phẫn nộ Phẫn nộ dứt không còn. Nếu tu hạnh điều phục Nghe vô biên pháp này Thì vào biển Đa văn Thành tựu môn Tổng trì. Lại nghe tiếng hư không Đem hoa cúng dường Phật Thành tựu thắng công đức Đại bi thần thông thuyết. Lại nghe tiếng hư không Khen ngợi thân Như Lai Chỗ sinh và chủng tộc Tiếng nói đều thù thắng. Như loài chúng sinh ấy Thần thông tùy loại nói Nhãn, nhó, tỷ, thiệt, thân Hoặc sắc, hoặc thanh thảy Co duỗi hoặc cúi ngửa Hiện bày đều thù thắng. Như Lai vượt thế gian Mà làm đèn thế gian Thị hiện các sắc tượng Đều là Phật thần thông. Phàm phu ưa luyến sắc Vì hiện các thứ thân Tùy theo loài chúng sinh Nói sắc không kiên cố. Nếu người nhiều chấp trước Như Lai hiện thần lực Tùy họ khí, phi khí Dạy họ pháp đối trị. Chúng sinh từ nhiều đời Chưa từng cúng dường Phật Kiên cường khó điều phục Đem địa ngục bảo họ. Nếu người mê nghiệp đạo Cố chấp ưa hý luận Đức Phật khiến họ nghe Pháp dứt chấp hý luận. Lại nghe tiếng hư không Nhãn tánh quyết định không Không đến cũng không đi Không tướng, không sở hữu. Lại trăm ngàn chúng sinh Nghe hư không diễn thuyết Nhục nhãn và Tuệ nhãn Cho đến nói Pháp nhãn. Sức thần biến của Phật Nghe tiếng nói giới, định Trí tuệ và giải thoát Tiếng giải thoát tri kiến. Chúng sinh có nhiều loài Hiện thần biến đúng chỗ Dùng ngôn ngữ tùy loại Diễn thuyết pháp chân thật. Nếu có các chúng sinh Thích tu thí, giới, nhẫn Thần thông tùy loại nói Tiếng thí, giới, nhẫn nhục. Sức thần biến của Phật Tùy căn tánh chúng sinh Vì họ rộng phân biệt Khiến thọ trì diễn thuyết. Do thần biến của Phật Nghe nói uẩn, giới, xứ Trói, mở hoặc gần, xa Tướng địa vị sai biệt. Lại nghe nói các địa Vô lượng trí chiếu sáng. Lại nghe phiền não tập Có lìa, có chẳng lìa. Do thần biến của Phật Nghe nói tánh trời, người Do nghiệp quả chẳng đồng Thọ sinh có sai biệt. Hoặc nơi chúng nữ nhân Hóa thân nữ xinh đẹp Hư không nói nên chán Người nghe trừ lòng dục. Nếu nơi xá-lợi Phật Có lòng sâu tin tưởng Đức Phật liền ứng hiện Vì nói pháp vô thượng. Câu-luật-đà, Ca-diếp Kiếp-tân-na, Nan-đà Ma-ha Ca-diếp-ba Và Kiều-trần-na thảy Tùy chỗ họ ưa thích Nghe nói pháp Thanh văn. Trời và A-tu-la Cùng các chúng Dạ-xoa Quyến thuộc Tỳ-lị-ca Vô lượng Cưu-bàn-trà Do Phật lực được nghe Thần chú đà-la-ni: Nhứt trí tỉ. Tất trí tỉ. Y ra tô y ra. Ô nang tỉ. Mạn nang tỉ. Ô xí. A nộ xí. A khất sai la mang nang di. Đà la ni nễ sắc tra nễ danh. Đa ca nễ. Y danh mãn đa ra. Nễ ha ra. A bất rị bộ để. Nễ ra a sát ra. Vi gia khất lí dạ đế. A sát ra phược ra nhó đế. Ca ra phạ hê ninh. Tát nhương vi xà ni để nhương nẳng. Bát ra xá tát đế xá tát đa. Bát ra xá tát đa. Đa ra nghiệt đa bộ danh. Ám phạ ra ám phạ ra. Li la phạ nẳng thất giả. Chất đa vi phạ nhó đa. Chất đa a nan đa. Ô bế rạ ha phạ nhó đa bộ danh. Nang nam. Ca na a ca ni vi phạ nhó đa. Thất li sắc tra. A ma la ninh ma la. Phất lý để nẳng ra thủy giả. Ha ha lý. Ma ma lý. Phư ra ni. Để sắc tra. Chước sô ni ha ra. Ô địa ri đa phạ chỉ. An tra ri. Cú tra ri. Kế đô. Tô kế đô. Tố phả ra nễ. Ca ra nễ. Cú tố ma nễ duệ. Ca ca lê. Khước khư lê. Ninh bát la mộ lê. Để sắc tra hê. Đà la ni. Na ca ni ha ra. Bát ra la dã để. A để bát ra la dã để. Án đa ra bát đề. Án đa ra đa phạ địa thất giá. Ha hê ri. Ma khư lý. Y ni tam bà lê. Để sắc tra hê. Đà-la-ni. Trấm bộ lô nhã đề. Lại dùng nhiều tiếng hay Của Tỳ-sa-môn vương Đề-đầu-lại-tra thảy Nói chú pháp chân thật. Vô lượng tiếng như vậy Phật thần thông tuyên nói Thần thông đã vô lượng Sở thuyết cũng vô biên. Hoặc ở cõi không Phật Sức thần thông biến hóa Thân Phật và Thánh chúng Như việc thấy hôm nay. Trong chẳng nghó bàn cõi Hiện vô lượng biến hóa Mới sinh đi bảy bước Bỏ ngôi vua xuất gia Đạo tràng thành Chánh giác Suy gẫm pháp đã được Vì chúng chuyển pháp luân Thị hiện nhập Niết-bàn, Và dùng sức thần thông Diễn thuyết các thứ pháp Khiến vô lượng chúng sinh Thành tựu trí thù thắng. Lúc ấy Đức Phật hiện Chúng Phạm thiên vây quanh Diễn nói bốn Nhiếp pháp Sáng thêm bốn Nhiếp hạnh. Lúc ấy Đức Phật hiện Chúng Long vương vây quanh Diễn nói lỗi hận thù Khiến họ bỏ lòng giận. Lúc ấy Đức Phật hiện Chúng Dạ-xoa vây quanh Diễn nói lỗi tổn hại Khiến bỏ lòng tổn hại. Lúc ấy Đức Phật hiện A-tu-la vây quanh Vì nói lỗi đấu tranh Khen ngợi tu nhẫn nhục. Lúc ấy Đức Phật hiện Ca-lâu-la vây quanh Diễn nói lỗi sai trái Khen ngợi lòng hòa hợp. Lúc ấy Đức Phật hiện Càn-thát-bà vây quanh Dùng vô biên ái ngữ Ca ngợi Đức Như Lai. Lúc ấy Đức Phật hiện Ma-hầu-la vây quanh Quở trách pháp ngoại đạo Khen ngợi lời Phật dạy. Lúc ấy Đức Phật hiện Chúng quỷ thần vây quanh Cùng ca ngợi Như Lai Những công đức hy hữu. Đức Phật hiện thần biến Khiến trăm ngàn chúng sinh Nghe nói nhãn tận biên Rốt ráo hay thông đạt. Thế Tôn hiện thần biến Khiến trăm ngàn chúng sinh Nghe nói nhãn sinh biên Rốt ráo hay thông đạt. Như Lai hiện thần biến Khiến trăm ngàn chúng sinh Nghe nói nhãn biên tế Rốt ráo hay thông đạt. Đạo Sư hiện thần biến Khiến trăm ngàn chúng sinh Nghe nói nhãn lưu chuyển Rốt ráo hay thông đạt. Đại Hùng hiện thần biến Khiến trăm ngàn chúng sinh Nghe nói nhãn tịch tónh Rốt ráo hay thông đạt. Đại Lực hiện thần biến Khiến trăm ngàn chúng sinh Nghe nói nhãn vô sinh Rốt ráo hay thông đạt. Đại Từ hiện thần biến Khiến trăm ngàn chúng sinh Nghe nói nhãn vô hữu Rốt ráo hay thông đạt. Đại Bi hiện thần biến Khiến trăm ngàn chúng sinh Nghe nói nhãn tịch diệt Rốt ráo hay thông đạt. Ứng Cúng hiện thần biến Khiến trăm ngàn chúng sinh Nghe nói nhãn vô ngã Rốt ráo hay thông đạt. Biến Tri hiện thần biến Khiến trăm ngàn chúng sinh Nghe nói nhãn vô nhân Rốt ráo hay thông đạt. Lưỡng Túc hiện thần biến Khiến trăm ngàn chúng sinh Nghe nhãn không chúng sinh Rốt ráo hay thông đạt. Thiện Thệ hiện thần biến Khiến trăm ngàn chúng sinh Nghe nhãn không thọ mạng Rốt ráo hay thông đạt. Vô Thượng hiện thần biến Khiến trăm ngàn chúng sinh Nghe nhãn không dưỡng dục Rốt ráo hay thông đạt. Điều Ngự hiện thần biến Rộng vì các chúng sinh Quở trách nơi thế trí Chẳng cho ưa mến nó. Thế Đăng hiện thần biến Rộng vì các chúng sinh Quở trách nơi thế lợi Khen công đức vô vi. Đức Phật hiện thần biến Rộng vì các chúng sinh Quở trách trí hữu lậu Khen ngợi tuệ vô lậu. Như Lai hiện thần biến Rộng vì các chúng sinh Quở trách thế gian thiền Khen ngợi định xuất thế. Thế Tôn hiện thần biến Rộng vì các chúng sinh Quở trách giới hữu lậu Khen học xứ vô lậu. Đạo Sư hiện thần biến Rộng vì các chúng sinh Quở trách lỗi tâm nhỏ Khen ngợi đức tâm lớn. Đại Hùng hiện thần biến Khen ngợi tu thân giới Tu tâm và tu tuệ Vô lậu cùng vô y. Đại Lực hiện thần biến Khen ngợi đạo diệt khổ Người ham mê hý luận Bị chư Phật quở trách. Đại Từ hiện thần biến Rộng vì các chúng sinh Phân biệt nhãn dứt lỗi Khai thị tướng tịch diệt. Nhó, tỷ, thiệt, thân, ý Sắc, thanh, hương, vị, xúc Cho đến âm thanh, danh Tất cả đều như vậy. Đại Bi hiện thần biến Rộng vì các chúng sinh Người tuổi trẻ khỏe mạnh Chỉ dạy vô biên lỗi. Đại Bi hiện thần biến Rộng vì các chúng sinh Người sinh xứ kiêu dật Chỉ dạy vô biên lỗi. Đại Bi hiện thần biến Rộng vì các chúng sinh Người thọ dụng phóng dật Chỉ dạy vô biên lỗi. Đại Bi hiện thần biến Rộng vì các chúng sinh Người tự tại phóng dật Chỉ dạy vô biên lỗi. Đại Bi hiện thần biến Rộng vì các chúng sinh Người phóng dật nơi sắc Chỉ dạy vô biên lỗi. Đại Bi hiện thần biến Rộng vì các chúng sinh Những người nữ phóng dật Chỉ dạy vô biên lỗi. Đại Bi hiện thần biến Rộng vì các chúng sinh Phóng dật nơi y phục Chỉ dạy vô biên lỗi. Đại Bi hiện thần biến Rộng vì các chúng sinh Phóng dật nơi rượu say Chỉ dạy vô biên lỗi. Đại Bi hiện thần biến Rộng vì các chúng sinh Làm vua mà phóng dật Chỉ dạy vô biên lỗi. Đại Bi hiện thần biến Rộng vì các chúng sinh Nơi giới luật phóng dật Chỉ dạy vô biên lỗi. Đại Bi hiện thần biến Rộng vì các chúng sinh Phóng dật nơi trí tuệ Chỉ dạy vô biên lỗi. Như vậy Phật thần biến Thiền, xảo, tăng thượng mạn Giàu, nói giỏi, quyến thuộc Âm nhạc và ca vịnh Danh xưng cùng tán thán Cúng dường với lợi dưỡng Mỹ diệu, cuống, siểm, kiêu Vô tàm và vô quý Cống cao đầy khinh mạn Phóng dật, tham cũng vậy. Đại Bi hiện thần biến Khai thị các chúng sinh Người tâm ý hạ liệt Dạy họ tưởng thù thắng. Đại Bi hiện thần biến Khai thị các chúng sinh Kẻ tự khinh lui bỏ Dạy họ sức tinh tấn. Đại Bi hiện thần biến Khai thị các chúng sinh Kẻ tham chấp của cải Dạy họ pháp tri túc. Lại hóa cung điện thơm Cũng hóa cung điện đẹp Đều có lầu gác tốt Hóa Phật ngồi trong ấy. Lại hóa các Thiên nữ Ở điện hoa Chiêm-bặc Đều hiện nửa thân mình Cầm vòng hoa cúng dường. Lại hóa các Thiên nữ Ở điện hoa Bà-sư Đều hiện nửa thân mình Cầm vòng vàng cúng dường. Lại hóa Tu-la nữ Ở cung hoa Ma-lợi Đều hiện nửa thân mình Cầm vòng hoa cúng dường. Lại hóa các Thiên nữ Ở cung hoa sen xanh Đều hiện nửa thân mình Ca ngợi Phật công đức. Lại hóa các Phạm thiên Ngồi cung điện vàng ròng Mà hiện cả toàn thân Tiếng Từ ca ngợi Phật. Lại hóa các Thiên nữ Nhiều thứ trang nghiêm thân Vòng ngọc khua chạm nhau Vang tiếng khua vi diệu Nói các pháp hữu vi Dời đổi không kiên cố. Người ngu vọng phân biệt Chẳng biết được như thật Đồ trang sức phát thanh Chẳng từ thân tâm ra Không đến cũng không đi Cũng không có phương sở Cho đến nơi sắc tâm Tất cả đều như vậy. Người ngu chẳng suy được Sinh nghi hoặc nơi ấy Đồ trang sức như vậy Phát ra âm thanh hay Vang đến trăm ngàn cõi Giải thoát vô lượng chúng. Các người phải quán sát Trí tự nhiên của Phật Thân vô biên công đức Vượt khỏi ái hý luận Tịch tónh không các lỗi Rời chấp trị tâm lòa Dùng tướng hảo trang nghiêm Thân ý đều thanh tịnh. Các người xem Đức Phật Bước đi như sư tử Như ngỗng chúa, voi chúa Thỏa mãn chúng sinh nguyện, Thành tựu phước thù thắng Tướng chân thật trang nghiêm Khiến khắp các chúng sinh Chiêm ngưỡng không chán đủ. Các người xem Đức Phật Đấng đủ đại Từ bi Dù đem chút vật thí Cũng được phước vô lượng, Có thể khiến chúng sinh Trong trăm ngàn ức kiếp Cho đến chứng Niết-bàn Phước quả không cùng tận. Các người xem Đức Phật Thành tựu giới vô lậu Khiến các loài chúng sinh Đều cung kính đảnh lễ. Vô lượng chúng chư Thiên Rời bỏ cung điện mình Chẳng còn ham vui chơi Đến thân cận Thế Tôn. Các người xem quần ma Kính tin nơi Đức Phật Hoặc cầm quạt cán vàng Đứng hầu hai bên Phật. Năm trăm người con ma Đem hoa trời duyệt ý Rải lên trên Đức Phật Mong cầu Tuệ vô thượng. Đã từng khen và cúng Chư Phật thuở quá khứ Ngày nay gặp Thế Tôn Tất cả đều mừng rỡ Cũng dùng vô lượng lời Ca ngợi Đức Như Lai. Bấy giờ con của ma Tên gọi là Xả Ái Đầu tiên ca ngợi Phật Biết được nhãn tận biên Cũng rõ nhãn sinh biên Cho đến nhãn tịch diệt Lại biết nhãn tận thảy, Vô biên danh nghóa cú Dùng ngôn từ thiện xảo Diễn thuyết cho chúng sinh Mà ở trong danh nghóa Không chấp không nghi hoặc, Biết rõ không đến đi Không giữ cũng không bỏ Tự tánh thường không tịch Xa rời nơi văn tự Cũng không người thọ trì Đọc tụng và tu hành. Thuở xưa chư Như Lai Đã từng chỉ dạy rộng Chỉ dùng danh tự giả Mà thật không chỗ nói. Tự tánh không như vậy Vượt khỏi uẩn, xứ, giới Không vọng cũng không chân Không xứ, không phi xứ Cho đến ngôn ngữ dứt Tâm hành xứ cũng diệt. Những kẻ ngu chấp tướng Thấy Phật có vào thành Đức Phật rời các tướng Mà người ngu vọng nhận. Lúc Thế Tôn vào thành Nếu có người vui mừng Đó là nhận thấy tướng Tất sẽ phải lo buồn. Nếu rời phân biệt tướng Thì chẳng thấy vào thành Chẳng thấy tướng hành động Được tuệ không phân biệt. Nếu dùng tướng thấy Phật Thì thấy có vào thành Chuyển pháp dạy chúng sinh Đều phân biệt tất cả. Nếu dùng tướng thấy Phật Cho đến lòng vui mừng Người này ở hạnh ma Cảnh ma thường hiện tiền. Nếu dùng tướng thấy Phật Sẽ thấy tướng đổi khác Người này tất lo buồn Được người trí xót thương. Nơi pháp nếu thấy được Thì có lo mất pháp Nơi Phật nếu thấy sinh Thì có thấy Niết-bàn. Nếu tu hành nhiều kiếp Biết rõ tất cả tưởng Chẳng phân biệt nhập thành Cũng không tưởng Niết-bàn. Nếu biết tâm tướng không Thì ở chỗ Phật đi Chẳng phân biệt vào thành Cũng không tưởng Niết-bàn. Nếu người biết như vậy Thì thấy được chư Phật Cũng rõ được tánh không Rốt ráo không sinh diệt. Trải qua vô lượng kiếp Phật tu tập khổ hạnh Để chứng nơi tánh không Người ngu chẳng biết được. Lúc Thế Tôn vào thành Trăm ngàn chúng vây quanh Nhân phi nhân thảy Tịnh tâm mà cúng dường. Nếu trong khoảng sát-na Suy gẫm nhãn tận biên Thấu rõ các tướng không Được phước hơn phước trên Cho đến phần toán số Đều không thể bì kịp. Như vậy nhãn sinh biên Biên tế và lưu chuyển Cho đến nơi tịch diệt Nên biết cũng như thế. Nhó, tỷ, thiệt, thân, tâm Sắc, thanh, hương, vị, xúc Cho đến âm thanh, danh Tất cả đều như vậy.  Bấy giờ Thế Tôn Đi vào trong thành Ngón chân ấn đất Khắp nơi chấn động Các núi đều nghiêng Hướng về phía Phật Trời, người vì pháp Đều đến kính lễ. Lúc Đức Thế Tôn Đi vào trong thành Vua trời, vua người Chúng A-tu-la Cùng chúng Dạ-xoa Đều bỏ thành mình Đến chỗ Đức Phật Vui vẻ cúng dường. Ngay lúc Thế Tôn Đi vào trong thành Lại có vô lượng Loài chim giống lạ Anh vũ, Khổng tước Ca-lăng-tần-già Thấy đức thù thắng Của Phật Như Lai Vui mừng bay liệng Trong khoảng hư không Đều hót những tiếng Âm thanh vi diệu. Ngay lúc Thế Tôn Đi vào trong thành Do sức công đức Oai thần của Phật Làm cho vô lượng Trăm ngàn chúng sinh Người mù được thấy Kẻ điếc được nghe Những người tàn phế Khiến được toàn vẹn Người chẳng an vui Khiến được an vui. Ngay lúc Thế Tôn Đi vào trong thành Ở trong hư không Nghe nói như vầy: Nếu đem các tướng Để thấy Đức Phật Chẳng gọi là người Cúng dường Đức Phật, Cũng chẳng biết rõ Tánh nhãn tận biên. Nếu rời các tướng Để trồng cội đức Thì biết rõ được Tánh nhãn tận biên. Vì biết rõ được Tánh nhãn tận biên Thì biết rõ được Công đức chư Phật. Nơi nhãn tận biên Không có chấp tàng, Nơi nhãn sinh biên Không có dựa nương, Nơi nhãn tịch tónh Không có động niệm, Người này chính là Thấy được Như Lai. Nơi nhãn sinh biên Không có phân biệt, Nơi nhãn biên tế Không có ý nghóa, Nơi nhãn diệt hoại Không có biểu thị, Người này chính là Thấy được Như Lai. Nơi nhãn vô hữu Không có nhiễm trước, Nơi nhãn vô sinh Không có nhiếp thọ, Nơi nhãn tịch diệt Không có chấp trước, Người này chính là Thấy được Như Lai. Vì biết nhãn tận Nơi căn tu tập, Vì biết nhãn biên Nơi căn quyết định, Vì biết nhãn sinh Nơi căn tự tại, Người này chính là Thấy Đức Như Lai. Biết nhãn vô hữu Nên thông đạt sắc, Biết nhãn diệt hoại Nên quan sát pháp, Biết nhãn vô sinh Nên tu tập đạo, Người này chính là Thấy Đức Như Lai. Vì biết đúng thật Nhãn tận biên tế Nên cũng biết rõ Nơi nghiệp sai biệt. Vì biết rõ được Nơi nghiệp sai biệt Người này chính là Thấy Đức Như Lai. Vì biết đúng thật Nơi nhãn sinh biên Nên cũng biết rõ Nơi khổ sai biệt. Vì biết rõ được Nơi khổ sai biệt Người này chính là Thấy Đức Như Lai. Vì biết đúng thật Nơi nhãn diệt hoại Nên cũng biết rõ Nơi khổ diệt hoại. Vì biết rõ được Nơi khổ diệt hoại Người này chính là Thấy Đức Như Lai Vì biết đúng thật Nơi nhãn vô hữu Nên cũng biết rõ Xa rời các tướng. Vì biết rõ được Lìa các tướng đây Người này chính là Thấy Đức Như Lai. Vì biết đúng thật Nơi nhãn vô sinh Nên cũng biết được Lìa xa tập khí. Vì biết rõ được Lìa xa tập khí Người này chính là Thấy Đức Như Lai. Lại biết đúng thật Nhãn tánh vô thường Nên cũng biết rõ Rời nơi chướng ngại. Vì biết rõ được Xa lìa chướng ngại Người này chính là Thấy Đức Như Lai. Lại biết đúng thật Nhãn không văn tự Nên cũng biết rõ Nơi Phật trí lực. Vì biết rõ được Nơi Phật trí lực Người này chính là Thấy Đức Như Lai. Lại biết đúng thật Nhãn tánh không đến Nên cũng biết rõ Nơi rời các dục. Vì biết rõ được Rời lìa các dục Người này chính là Thấy Đức Như Lai. Lại biết đúng thật Tu tập thiền định Nên cũng biết rõ Nơi rời phiền não. Vì biết rõ được Nơi rời phiền não Người này chính là Thấy Đức Như Lai. Người này cũng được Thành tựu những trí: Nhãn tiền tế trí Nhãn vô trụ trí Nhãn vô sinh trí Phật thần thông trí, Nhãn hạ liệt trí Nhãn thù thắng trí Trí hạ liệt trí Trí thanh tịnh trí, Giới thanh tịnh trí Thân luật nghi trí Thanh thanh tịnh trí Ngữ luật nghi trí, Tâm thanh tịnh trí Xứ sai biệt trí Chư tâm pháp trí Tâm quá thất trí, Nghiệp thanh tịnh trí Tâm luật nghi trí Trí quá thất trí Thanh thanh tịnh trí, Uẩn sai biệt trí Uẩn nhân duyên trí Nhãn biến tri trí Khổ xuất sinh trí, Vô lậu giới trí Giới nhân duyên trí Khổ nhân duyên trí Khổ nhân tận trí, Chư hữu vi trí Tận vô tận trí. Lại biết đúng thật Mười hai nhân duyên Hữu sở hành trí Vô sở hành trí Hữu tướng, vô tướng Hữu vi, vô vi Kiến lập nhiếp thọ Tự tha tâm trí. Lại biết đúng thật Nhãn tận sinh biên Biên tế tịch tónh Cho đến lưu chuyển Vô hữu vô sinh. Tánh của tịch diệt Khiến các chúng sinh Được trí thanh tịnh Các thế lực trí Và tinh tấn trí. Lại biết đúng thật Nhất dị môn trí Trí biết ý thích Của các chúng sinh. Lại biết đúng thật Ý thích thù thắng Của các chúng sinh Tâm thanh tịnh trí Nghiệp dị thục trí Chư căn giới trí Tâm biến dị trí Tuệ giải thoát trí Biến giải thoát trí Thắng biện tài trí. Lại biết đúng thật Các chúng sinh ác Người chẳng thích pháp Khiến họ khát ngưỡng Lại biết đúng thật Nơi các nghóa lý Biết thời tu tập Không có giải đãi. Lại biết đúng thật Các thần thông lực Phân tích các pháp Không có chướng ngại. Lại biết đúng thật Những nghóa rộng lớn Cùng với ngôn giáo Đều liền hiểu rõ. Lại biết đúng thật Bạn lành cùng ở Y phục uống ăn Đều có tiết lượng. Lại biết đúng thật Nơi các vô tác Pháp Đà-la-ni Đều siêng tu tập. Lại biết đúng thật Thân tâm không lỗi Xa lìa tăng giảm Cầu đạo vô thượng. Lại biết đúng thật Oai lực thần thông Ở trong hư không Hiện thân biến hóa Thành tựu vô lượng Trăm ngàn chúng sinh Đều khiến vui mừng Phát tâm tịnh tín. Với chư Như Lai Trí thích tôn trọng, Nơi pháp lìa dục Trí thích tu tập, Nơi các Thánh chúng Trí thích cúng dường, Nơi đại Bồ-đề Trí thích hồi hướng, Nơi Đà-la-ni Trí thích diễn thuyết, Nơi các ý lạc Trí khéo quan sát, Nơi định Thánh nhân Trí khéo biết rõ, Nơi các hộ niệm Trí hay quyết định, Nơi tâm vô biên Trí khéo nơi nhập, Nơi tụng vô biên Trí hay diễn thuyết, Nơi các dục kết Trí hay giác ngộ, Nơi hàng hạ liệt Trí chẳng đọa lạc, Nơi ác tri thức Trí phải xa lìa, Nơi Thiện tri thức Trí hay thân cận, Nơi các vấn đáp Trí hay quyết trạch, Nơi xứ phi xứ Trí hay hiểu rõ, Nơi địa, phi địa Trí hay biết rõ, Nơi thượng, trung, hạ Trí hay phân biệt: Những trí hữu vi Và trí vô vi, Trí nơi sự vật Trí phi sự vật, Trí nơi nhiếp thọ Trí phi nhiếp thọ, Trí nơi tu tập Trí phi tu tập, Trí nhãn phi nhãn Trí nhãn cộng tướng, Trí nhãn sai biệt Trí nhãn tự tánh. Nhó, tỷ, thiệt, thân Cho đến thanh danh Hai mươi lăm pháp Cũng đều như vậy. Nếu người suy gẫm Nhân duyên tánh nhãn Chân thật không tịch Rốt ráo vô ngã Người này có thể Thành tựu chân thật Quyết định trí tâm Chánh định như vậy. Nếu người suy gẫm Nhân duyên khởi nhãn Quyết định biết rõ Tướng nhãn vô thường Người này có thể Biết rõ đúng thật Nhãn và nhân duyên Rốt ráo không có. Nhó, tỷ, thiệt, thân Cho đến thanh, danh Hai mươi lăm pháp Cũng đều như vậy. Lúc Đức Thế Tôn Đi vào trong thành Ngón chân ấn đất Hiện sự hy hữu Nay tôi nói lược Chút phần công đức Khiến khắp chúng sinh Người nghe vui mừng. Bậc Thầy Trời Người Từ một lỗ lông Xuất hiện vô lượng Trăm ngàn quang minh Mỗi mỗi quang minh Khắp vô lượng cõi Vì các chúng sinh Mà làm Phật sự. Nếu người thuở xưa Cúng dường chư Phật Lâu dài tu hành Bố thí, trì giới Người ấy được nghe Lời nói như đây Về sự thần biến Vui mừng mến thích. Nếu người biết rõ Chư Phật thần biến Chẳng phải sở hành Của hàng Thanh văn Người ấy được nghe Thần biến như vậy Sẽ sinh tín giải Phát tâm hy hữu. Bậc Thầy Trời Người Sức chẳng nghó bàn Hiện ra như vậy Các thứ thần biến Hay khiến vô lượng Trăm ngàn chúng sinh Thân cận cúng dường Nơi chư Như Lai. Bậc Thầy Trời Người Sức chẳng nghó bàn Diễn nói vô lượng Trăm ngàn Khế kinh Khiến các chúng sinh Nghe lời đã nói Sinh lòng tín thọ Khởi tâm vui mừng. Lúc Đức Thế Tôn Đi vào trong thành Dùng sức thần thông Ở trong hư không Nói lời như vầy: Biết nhãn tận biên Cho đến tịch diệt Nhãn tánh sở nhân Chẳng đến, chẳng đi Rốt ráo không tịch. Nhó, tỷ, thiệt, thân Cho đến thanh, danh Hai mươi lăm pháp Cũng đều như vậy. Lúc Đức Thế Tôn Đi vào trong thành Ở trong hư không Phát tiếng vi diệu Khen ngợi Như Lai Các thứ danh hiệu Khiến cho đại chúng Sinh lòng tin hiểu. Đấng Nhân Trung Tôn Đời hiện tại nay Gọi là Pháp Vương Xô dẹp quân ma, Nếu người được nghe Danh hiệu như vậy Thì hàng phục được Tất cả chúng tà. Đấng Nhân Trung Tôn Đời hiện tại nay Gọi là Pháp Vương Xô dẹp tham dục, Nếu người được nghe Danh hiệu như vậy Thì rời bỏ được Tất cả tham dục. Đấng Nhân Trung Tôn Đời hiện tại nay Gọi là Pháp Vương Xô diệt hận thù, Nếu người được nghe Danh hiệu như vậy Thì rời bỏ được Tất cả hận thù. Đấng Nhân Trung Tôn Đời hiện tại nay Gọi là Pháp Vương Xô dẹp ngu si, Nếu người được nghe Danh hiệu như vậy Thì rời bỏ được Tất cả ngu si. Đấng Nhân Trung Tôn Đời hiện tại nay Gọi là Pháp Vương Xô dẹp kiêu mạn, Nếu người được nghe Danh hiệu như vậy Thì rời bỏ được Tất cả kiêu mạn. Đấng Nhân Trung Tôn Đời hiện tại nay Gọi là Pháp Vương Xô dẹp hờn giận, Nếu người được nghe Danh hiệu như vậy Thì rời bỏ được Tất cả giận hờn. Đấng Nhân Trung Tôn Đời hiện tại nay Gọi là Pháp Vương Xô dẹp tật đố, Nếu người được nghe Danh hiệu như vậy Thì rời bỏ được Tất cả tật đố. Đấng Nhân Trung Tôn Đời hiện tại nay Gọi là Pháp Vương Xô dẹp hư cuống, Nếu người được nghe Danh hiệu như vậy Thì rời bỏ được Tất cả hư cuống. Đấng Nhân Trung Tôn Đời hiện tại nay Gọi là Pháp Vương Xô dẹp kiến chấp, Nếu người được nghe Danh hiệu như vậy Thì rời bỏ được Tất cả kiến chấp. Đấng Nhân Trung Tôn Đời hiện tại nay Gọi là Pháp Vương Xô dẹp hý luận, Nếu người được nghe Danh hiệu như vậy Thì rời bỏ được Tất cả hý luận. Đấng Nhân Trung Tôn Đời hiện tại nay Gọi là Pháp Vương Chánh pháp thanh tịnh, Nếu người được nghe Danh hiệu như vậy Thì hiểu rõ được Chánh pháp thanh tịnh. Đấng Nhân Trung Tôn Đời hiện tại nay Gọi là Pháp Vương Thông đạt các nghiệp, Nếu người được nghe Danh hiệu như vậy Thì hiểu rõ được Tất cả các nghiệp. Đấng Nhân Trung Tôn Đời hiện tại nay Gọi là Pháp Vương Đầy đủ thần thông, Nếu người được nghe Danh hiệu như vậy Thì thành tựu được Oai đức thần thông. Đấng Nhân Trung Tôn Đời hiện tại nay Gọi là Pháp Vương Đủ Ba-la-mật-đa, Nếu người được nghe Danh hiệu như vậy Thì thành tựu được Sáu Ba-la-mật-đa. Đấng Nhân Trung Tôn Đời hiện tại nay Gọi là Pháp Vương Rõ thấu các hạnh, Nếu người được nghe Danh hiệu như vậy Thì rõ thấu được Tất cả các hạnh. Đấng Nhân Trung Tôn Đời hiện tại nay Hiệu Sinh Thanh Tịnh Quang minh Tổng trì, Nếu người được nghe Danh hiệu như vậy Thì thành tựu được Thọ sinh thù thắng. Đấng Nhân Trung Tôn Đời hiện tại nay Hiệu Sắc Thanh Tịnh Quang minh Tổng trì, Nếu người được nghe Danh hiệu như vậy Thì thành tựu được Diệu sắc thù thắng. Đấng Nhân Trung Tôn Đời hiện tại nay Hiệu Thân Thanh Tịnh Quang minh Tổng trì, Nếu người được nghe Danh hiệu như vậy Thì thành tựu được Sắc thân thù thắng. Đấng Nhân Trung Tôn Đời hiện tại nay Hiệu Tánh Thanh Tịnh Quang minh Tổng trì, Nếu người được nghe Danh hiệu như vậy Thì thành tựu được Chủng tộc thù thắng. Đấng Nhân Trung Tôn Đời hiện tại nay Gọi là Danh Xưng Quang minh Tổng trì, Nếu người được nghe Danh hiệu như vậy Thì thành tựu được Danh xưng rộng lớn. Đấng Nhân Trung Tôn Đời hiện tại nay Hiệu là Bố thí Trì giới, Nhẫn nhục Tinh tấn, Thiền định Trí tuệ, Tổng trì, Nếu người được nghe Danh hiệu như vậy Thì thành tựu được Bố thí, Trì giới Cho đến Trí tuệ Đà-la-ni môn. Đấng Nhân Trung Tôn Đời hiện tại nay Hiệu là Pháp Vương Thành tựu không tánh Nếu người thọ trì Danh hiệu như vậy Thì diễn thuyết được Nghóa chư pháp không. Đấng Nhân Trung Tôn Đời hiện tại nay Hiệu là Pháp Vương Thành tựu vô ngã Nếu người thọ trì Danh hiệu như vậy Thì diễn thuyết được Nghóa không sinh diệt. Đấng Nhân Trung Tôn Đời hiện tại nay Hiệu là Pháp Vương Nhãn tịnh Tổng trì, Nếu người thọ trì Danh hiệu như vậy Thì diễn thuyết được Nghóa nhãn tận biên. Nhó, tỷ, thiệt, thân Cho đến thanh, danh Hai mươi lăm pháp Và những hoa hương Đèn, lọng, y phục Thảy đều như vậy.  KINH ĐẠI BẢO TÍCH <卷 id="86423718">QUYỂN 34 Hán dịch: Đời Đại Đường, Tam tạng Pháp sư Bồ-đề-lưu-chí, người xứ Thiên Trúc. <詞 id="86423719">Pháp hội 11: XUẤT HIỆN QUANG MINH (Phần 5) Lúc Đức Thế Tôn Đi vào trong thành Dùng sức thần thông Chẳng thể nghó bàn Ở trong hư không Vang tiếng vi diệu Diễn nói các thứ Hạnh Đà-la-ni Khiến các đại chúng Nghe lời như vậy Đà-la-ni ấy Nơi nhãn tận biên Sinh biên biên tế Lưu chuyển tịch tónh Vô sinh, vô hữu Tịch diệt các pháp Đều hay thông đạt An trụ rốt ráo. Dùng sức bố thí Rốt ráo nhiếp lấy, Dùng sức trì giới Rốt ráo thành tựu, Dùng sức nhẫn nhục Rốt ráo trang nghiêm, Dùng sức tinh tấn Rốt ráo phát khởi, Dùng sức trí tuệ Rốt ráo tuyên thuyết, Rời các văn tự Ngôn ngữ, âm thanh Cho đến sắc tâm Rốt ráo thanh tịnh. Hữu lậu, vô lậu Hoặc nghóa, hoặc lợi Thảy đều không tịch Rốt ráo thanh tịnh. Cũng chẳng nương tựa Tất cả các cõi An trụ rốt ráo Tổng trì Tam-muội. Không đến, không đi Chẳng thiện, chẳng ác Cho đến vô ký Tự lợi, lợi tha Các tướng như vậy Thanh tịnh rốt ráo, Cũng chẳng an trụ, Oai đức tự tại Thanh văn, phàm phu Pháp của chư Phật Cũng chẳng an trụ. Nơi nhãn tận biên Sinh biên biên tế Cho đến tịch diệt Các hạnh như vậy Rốt ráo tịch tónh Hoặc sinh, chẳng sinh Là khổ, là lạc Hoặc khen, hoặc chê Thảy đều rời lìa. Rốt ráo thanh tịnh Rốt ráo chiếu minh Không Đà-la-ni Hiểu rõ như vậy. Đó là an trụ Chỗ đi của Phật. Đó là an trụ Chỗ làm của Phật. Đó là an trụ Thần thông của Phật. Đó là an trụ Trí tuệ của Phật. An trụ như thế Nhãn tận biên lực. An trụ như thế Nhãn sinh biên lực. An trụ như thế Nhãn biên tế lực. Cho đến an trụ Sức của tịch diệt. Nhó, tỷ, thiệt. thân Cho đến thanh, danh Hai mươi lăm pháp Cũng lại như vậy. Đà-la-ni ấy Thành sức thù thắng Của Phật Như Lai. Đà-la-ni ấy Nên sức oai đức Của Phật Như Lai, Vào trọn hành xứ Của Phật Như Lai, Trụ trọn cảnh giới Của Phật Như Lai. Khiến các thế gian Nơi chúng Tu-la Rời tâm chấp nhứt Trụ hạnh Phạm thiên, Hay khiến vô lượng Trăm ngàn Dạ-xoa Và Cưu-bàn-trà Thảy đều vui mừng, Cũng khiến vô lượng Chúng Càn-thát-bà Và các La-sát Mến ưa điều phục. Giả sử Phạm chúng Dùng âm thanh diệu Nơi cú nghóa ấy Chẳng tuyên nói được. Chẳng phải tâm pháp Mà tính biết được Chẳng phải tâm pháp Mà thọ trì được Đà-la-ni ấy Mắt chẳng thấy được, Đà-la-ni ấy Cũng chẳng đến thân, Đà-la-ni ấy Mắt chẳng thấy được, Cũng chẳng đến nơi Hành xứ của mắt. Tai, mũi, lưỡi, thân Cho đến thanh, danh Hai mươi lăm pháp Cũng lại như vậy. Lại nói nơi nhãn Tận biên, sinh biên Biên tế, lưu chuyển, Cho đến tịch diệt Không có ngã, nhân Chúng sinh, thọ giả, Cho đến không có Bổ-đặc-già-la. Vô tướng, vô vi Chẳng đến, chẳng đi Các tướng như vậy Thảy đều biết rõ. Lại nói biết rõ Nhãn của pháp tánh, Lại nói biết rõ Pháp thành tựu nhãn Trí nhãn, Tuệ nhãn Phạm nhãn, Thiên nhãn Phạm sinh đắc nhãn Thiên sinh đắc nhãn, Phạm dị thục nhãn Thiên dị thục nhãn Phạm nhân sinh nhãn Thiên nhân sinh nhãn, Thiên thần biến nhãn Thiên tinh tấn nhãn Hạ liệt sinh nhãn Thù thắng sinh nhãn. Rời lìa Diêm-la Mắt của thế gian Lìa mắt Dạ-xoa Rồng, Cưu-bàn-trà, Những mắt nhiệt não Mắt chẳng nhiệt não Con mắt thanh tịnh Mắt chẳng thanh tịnh, Mắt rộng mắt hẹp Mắt Thanh văn thừa Mắt của thiền định Mắt Tam-ma-địa, Mắt của cảnh giới Mắt của tưởng sinh Mắt của tham sinh Mắt rời tham sinh, Mắt từ nhân sinh Mắt phi nhân sinh Mắt của tương ưng Mắt phi tương ưng, Mắt y môn sinh Mắt phi môn sinh Mắt nhân duyên sinh Mắt nhân môn sinh, Mắt chẳng phải thịt Mắt trí thanh tịnh Mắt không thật có Mắt chẳng nắm bắt. Tai, mũi, lưỡi, thân Cho đến thanh, danh Hai mươi lăm pháp Cũng lại như vậy. Bấy giờ Thế Tôn Ở trên hư không Lại phát vô lượng Âm thanh vi diệu Diễn nói những pháp Thắng Đà-la-ni Đều là của Phật Biến hóa ra cả. Đà-la-ni rằng: Hê lư. Ma lư ma lư. Tứ đệ. Y nê. Nhó nê. Cú lộ nhó canh. Cú lộ nhó canh. Cú lư. Ma lư. Cú noa đế. A ra nghệ. A hê lư. Nhó nhó lư đế. Tố nhó lư. Nhó lư nhó lư. Biền tỷ lư. A tỷ lư. Tố đế thế. Đà nễ. Ma nễ. Già nễ. Già rị đế. Tố già lê. Bát rị dã nhiên nẳng nê. A nỗ lô nhó kế. Vi lộ mê. Tố bà niết lý thế. A thí rị lư. Tát ma bát ra bổn đế. Bát ra vó hê. Đà la ni. Để sắc sỉ ha. Tố để a thế. Bôï nhượng già già nẵng. Cung bàn noa. Phạ sa phạ nẳng. Bá rị đố lý dã ninh. Bát rị già noa ninh. Ma nẳng sa. Tố lộ chỉ đa. Bát na. Ác sát ra. A tì la tỷ dã. Bát ra để sắc tra ha. Đà la ni. A nhó đa. Ngu nê tì. Đà-la-ni như vậy Của chư Phật Thế Tôn Đầy đủ đại thần thông Trí tuệ vô biên lượng Rời lìa các chấp trước Niệm xứ đều thanh tịnh Không sắc, không đến đi Chẳng phải phương phương sở Không tướng, không ngôn thuyết Vượt quá những hý luận Bồ-tát siêng năng tu Rốt ráo được thanh tịnh. Giả sử dùng trăm ngàn Na-do-tha kệ tụng Diễn nói chừng một câu Chẳng hết được biên tế. Chư Thánh chỗ khen ngợi Thanh tịnh không nhiễm trước Tất cả các chúng hội Thảy đều sinh tôn trọng. Đà-la-ni như vậy Thiện pháp oai thần lực Hay xô dẹp phiền não Khiến được những thắng lợi Công đức và trí tuệ Rộng lớn như biển cả Thành tựu sức nhẫn nhục Tâm an trụ chẳng động. Bồ-tát thường tu tập Bậc trí thường khen ngợi Bỏ rời sự nghèo cùng Sẽ được của báu lớn. Đà-la-ni như vậy Thêm lớn các công đức. Thường dùng câu không tánh Chân thật để trang nghiêm. Do bỏ những văn tự Gọi đó là không tánh Để bỏ nơi tâm thức Gọi đó là pháp tánh. Đà-la-ni như vậy Rời cấu, thường thanh tịnh An trụ nơi thật trí Hiện các thứ lợi ích Làm cho các chúng sinh Vui mừng phát tịnh tâm. Vô lượng chúng Dạ-xoa Và chúng Cưu-bàn-trà Chư Quỷ vương như vậy Lòng họ rất vui mừng. Đà-la-ni như vậy Tịch tónh không hý luận Mến ưa các chúng sinh Đều khắp ban an vui. Trong nhiều trăm ngàn kiếp Thường ở trong các loài Làm vô lượng lợi ích Thanh tịnh không ô nhiễm. Hoặc dùng trăm ngàn kệ Diễn nói pháp cam lộ Khiến vô lượng chúng sinh Đều sinh lòng vui mừng. Thuở xưa vô lượng Phật Dùng ý lạc thanh tịnh Nơi Đà-la-ni này Thường tư duy pháp tánh. Thích, Phạm, chư Thiên chúng Long vương và Tu-la Nghe Đà-la-ni này Lòng họ rất vui mừng. Đà-la-ni như vậy Trải qua các cõi nước Thường không có tai nạn Bệnh khổ và ưu não. Tất cả các chúng sinh Mọi loài đều vui thích Nguyện Đà-la-ni này Thường ở nơi tăm tối. Đà-la-ni như vậy Tùy thân tâm ở đâu Cổ họng và môi lưỡi Sinh vô lượng công đức. Nếu thường thọ trì được Được vô lượng công đức Lợi ích nhiều chúng sinh Đều làm cho vui mừng. Đà-la-ni như vầy Rời lìa những tội ác Diễn thuyết pháp vi diệu Được vô tận biện tài Khiến trăm ngàn chúng sinh Đều dứt trừ nghi hoặc Xô phá các kiêu mạn Được vô lượng công đức. Đà-la-ni như vậy Pháp rất sâu vi mật Người trí thường suy nghó Dũng mãnh siêng tu tập Mặc áo giáp trí tuệ Diệt trừ các phiền não Thêm lớn tâm công đức Mến thích không nhàm đủ. Đà-la-ni như vậy Đủ danh gọi rộng lớn Rõ được tận, vô tận Sinh biên, vô sinh biên Dùng trí tuệ như vậy Các thứ tự trang nghiêm Trăm ngàn các Như Lai Tôn trọng mà cúng dường. Đà-la-ni như vậy Đủ hai thứ minh hạnh Nương tựa nơi thắng định Hướng đến đạo Bồ-đề Tùy thuận nơi Chỉ quán Thông đạt Tuệ vô lậu. Dùng tịnh tín Căn, Lực Thành tựu nơi hai tay Dùng Tịnh tấn, Nhẫn nhục Thành tựu nơi hai vú Trí tuệ ba-la-mật Dùng làm tướng đỉnh đầu Tu-đa-la làm dây Xâu vòng hoa bốn Biện. Thuở xưa đã tu hành Các thứ công đức lành Và vô lượng thí dụ Tất cả đều trang nghiêm. Đà-la-ni như vậy Đủ vô lượng công đức Nơi nhãn tiền hậu tế Tận biên, vô tận biên Hoặc sinh hoặc vô sinh Biên tế, phi biên tế Tịch tónh, chẳng tịch tónh Lưu chuyển, phi lưu chuyển Vô hữu và vô sinh Tịch diệt cùng vô ngã Không nhân, không thọ giả Cho đến không chúng sinh, Vô lượng môn như vậy Tất cả đều hiểu rõ Tai, mũi, lưỡi, thân, tâm Sáu trần và bốn đại Cho đến thế sinh, danh Tất cả đều như vậy. Như trên đã ca ngợi Đà-la-ni vi diệu Tịch tónh thắng công đức Cảnh giới của chư Phật Thật nghóa Đà-la-ni Văn tự chẳng tỏ được Vì thuận theo thế gian Chỉ dùng giả danh nói. Lúc ấy Đức Thế Tôn và đại chúng đến nhà Đồng tử Nguyệt Quang trải tòa mà ngồi. Đồng tử biết Đức Phật ngồi xong, đích thân mang các thức cúng dường vi diệu dâng lên Đức Như Lai và hàng đại chúng. Phẩm vật cúng dường ấy thuần do sức chẳng nghó bàn của thiền định phước đức căn lành thù thắng làm thành. Lúc cúng dường như vậy cũng chẳng vì mình mà khắp khiến vô lượng chúng sinh phát tâm hướng đến Bồ-đề được lợi lành lớn. Đồng tử cúng dường rộng khắp tất cả. Đức Thế Tôn thọ trai xong, ở giữa đại chúng bảo Đồng tử Nguyệt Quang: –Này thiện nam! Nếu có thiện nam, thiện nữ an trụ nơi Đại thừa mà thực hành công hạnh bố thí, cúng dường thì có tám mươi thứ công đức thù thắng. Những gì là tám mươi thứ? Đó là thành thục chúng sinh. Dùng lời khéo để nhiếp thọ. Viên mãn tướng vi diệu. Các căn chẳng kém thiếu. Rời bỏ sinh tử. Chứng nhập Niết-bàn. Hết các kết sử. Được thắng tự tại. Đầy đủ công đức. Trang nghiêm Phật độ. Quyến thuộc thanh tịnh. Có oai đức lớn. Đầy đủ trí tuệ. Thành tựu công hạnh tối thượng thù thắng. Viên mãn công hạnh không gì trên, không gì sánh bằng. Trừ diệt tập khí. Tăng trưởng tất cả trí hạnh Như Lai. Thân và xá-lợi được các thế gian và hàng Thanh văn, Duyên giác cúng dường. Dẹp phá người ác. Có thể khiến Trời, Rồng, tám bộ chúng, Thần vương và Phạm Thiên vương đều sinh lòng tín ngưỡng. Có oai đức lớn. Tuyên nói Khế kinh, Ứng tụng, Thọ ký, Tự thuyết, Phúng tụng, Thí dụ, Nhân duyên, Bản sự, Bản sinh, Phương quảng, Vị tằng hữu, cho đến luận nghóa, thọ trì diễn thuyết lòng không biếng mỏi. Nơi pháp không lẫn tiếc. An trụ Phật đạo. Cõi nước tối thắng. Danh sắc thanh tịnh. Chứng Pháp thân. Được không sợ hãi. Thành tựu phước đức. Che khuất các ngoại đạo. Đủ pháp bậc Thiện nhân. Bỏ việc làm kẻ ác. Tin nhân của phước trí. Hòa hợp Phật pháp. Hàng phục chúng ma. Không có mê hoặc đối với pháp an lạc của Đức Phật dạy. Phá diệt ác dục. Đủ oai đức lớn. Tu Bồ-tát hạnh. Được thắng thần thông. Rời bỏ sinh tử. Thành tựu chúng sinh. Khen vô biên hạnh. Nhiếp thọ công đức. Khuyên dạy chúng sinh. Thọ dụng pháp lạc. Tu hành tuệ thí. Nhập môn đại trí. Trụ nơi noãn pháp. Chủng tánh quyết định. Tu hành pháp nhẫn. An trụ Phật đạo. Này Đồng tử! Nếu các thiện nam, thiện nữ tu tập công hạnh bố thí thì thành tựu đầy đủ tám mươi thứ công đức thù thắng như vậy. Bấy giờ Đức Thế Tôn nói kệ rằng: Các Bồ-tát đại trí Đầy đủ hạnh bố thí Được tám mươi công đức Ta đã lược giảng nói. Lại có các công đức Vô lượng khó nghó bàn Đều từ bố thí sinh Nay sẽ nói phần ít. Ông bình đẳng bố thí Khắp đủ cả đại hội Công hạnh bố thí ấy Người trí phải tu tập. Bố thí ấy chứa được Khối phước chẳng nghó bàn Thân tướng tốt trang nghiêm Tất cả đều viên mãn, Chỗ sinh và dòng tộc Cõi nước và nhà cửa Danh xưng cùng sắc tâm Tất cả đều thanh tịnh. Chư Thiên sự thần biến Và cung điện, thể nữ Thanh tịnh vô ngại biện Đều từ bố thí sinh. Bố thí thắng tư lương Chư Phật đều khen ngợi Đây là cội an trụ Ban đầu của Bồ-đề. Các Bồ-tát tinh tấn Không nghi hoặc bố thí An trụ tâm quyết định Siêng tu hạnh bố thí Tâm bố thí như vậy Thành tựu phước thù thắng. Bồ-tát siêng tu tập Sẽ chứng Phật Bồ-đề Do oai lực bố thí Thành tựu thắng thần thông Chấn động muôn ức cõi Chẳng tổn hại chúng sinh. Do bố thí dẫn đến Tịnh giới và đa văn Chánh tín cùng tinh tấn Tam-muội, tuệ vô lậu. Do bố thí dẫn đến Căn, lực, Bồ-đề phần Chánh đoạn và thần túc Rời xa các tập khí. Do bố thí dẫn đến Âm thanh diệu thanh tịnh Trong trăm muôn ức cõi Khai thị vô biên pháp. Do tịnh tín hành thí Mau được các thần thông Vì thành tựu thần thông Phải siêng tu bố thí. Vô lượng hàng Thiên chúng Trăm ngàn A-tu-la Rồng, Thần và Dạ-xoa Cùng quyến thuộc vây quanh Đều ngồi lầu gác đẹp Mà du hý tự tại. Các Thần vương như vậy Thấy người siêng bố thí Đều đứng dậy tiếp rước Trải tòa mời cúng dường. Người bố thí như vậy Đầy đủ oai đức lớn Sức thần thông tự tại Nhiếp thọ các Thiên vương Cưu-bàn-trà, Dạ-xoa Thảy đều đến quy phục Và chúng Càn-thát-bà Cũng hiến các âm nhạc. Kẻ giặc sinh lòng lành Người ác sẽ xa lìa Của báu không tổn giảm Kho tàng đều đầy đủ. Do vì tu bố thí Thành tựu thắng tư lương Cho đến trí tuệ Phật Chẳng hành pháp ngoại đạo. Người ấy không bệnh não Thủ hộ Đà-la-ni Được những sức thù thắng Đều do bố thí sinh. Người bố thí như vậy Tu tập đạo Bồ-đề Chẳng gặp ác tri thức Được bạn lành đồng đạo. Còn có các Bồ-tát Tu tập hạnh bố thí Thành tựu chẳng nghó bàn Đà-la-ni trí tuệ Dùng vô lượng kệ tụng Diễn thuyết các Tổng trì Tất cả không chướng ngại Chẳng mất nơi bản nghóa. Tâm Bồ-đề rộng lớn Chí nguyện thường kiên cố Đầy đủ các tịnh giới Rời bỏ các ma nghiệp, Chẳng ham vui năm dục Chuyên siêng cầu chánh niệm Lòng thường không mê hoặc Cũng chẳng sinh tham ái Sân hận các phiền não Đều biết rõ đúng thật Nơi tất cả cảnh giới Chẳng chấp, chẳng mê hoặc. Người ấy khéo biết rõ Các phiền não như vầy Do nhân duyên hòa hợp Hay sinh những lỗi lầm Cho đến nơi Phật pháp Hoặc nhân hoặc nhân nhân Tác dụng nhân như vậy Tất cả đều rõ được. Người ấy hay biết rõ Nhãn tận biên nhân tánh Rời xa các mê lầm Nơi nhãn không bị nhiễm. Người ấy biết rõ được Nhãn sinh biên biên tế Lưu chuyển và tịch tónh Vô hữu với vô sinh Cho đến chỗ tịch diệt Các nhân tánh như vậy Rời xa các mê hoặc Nơi nhãn không ô nhiễm. Người ấy biết rõ được Nhãn tiền tế ngôn thuyết Theo thế tục giả lập Trong ấy không có thật. Người ấy hay biết rõ Nhãn hậu tế ngôn thuyết Theo thế tục giả lập Trong ấy không có thật. Người ấy hay biết rõ Nhãn sinh biên biên tế Lưu chuyển và tịch tónh Vô hữu với vô sinh Cho đến chỗ tịch diệt Các ngôn thuyết như vậy Theo thế tục giả lập Trong ấy không có thật. Người ấy hay biết rõ Nhãn tiền tế ngôn thuyết Chỉ nhân duyên hòa hợp Trong ấy không chấp trước. Người ấy hay biết rõ. Nhãn hậu tế ngôn thuyết Chỉ nhân duyên hòa hợp Trong ấy không chấp trước. Người ấy hay biết rõ Nhãn sinh biên biên tế Lưu chuyển và tịch tónh Vô hữu với vô sinh Cho đến chỗ tịch diệt Các ngôn thuyết như vậy Chỉ nhân duyên hòa hợp Trong ấy không chấp trước. Người ấy hay biết rõ Nhãn tiền tế ngôn thuyết Tự tánh không biểu thị Trong ấy không ô nhiễm. Người ấy hay biết rõ Nhãn hậu tế ngôn thuyết Tự tánh không biểu thị Trong ấy không ô nhiễm. Người ấy hay biết rõ Nhãn sinh biên biên tế Lưu chuyển và tịch tónh Vô hữu với vô sinh Cho đến chỗ tịch diệt Các ngôn thuyết như vậy Tự tánh không biểu thị Trong ấy không ô nhiễm. Tai, mũi, lưỡi, thân, ý Sáu trần và bốn đại Cho đến thế sinh danh Tất cả đều như vậy. Người ấy hay biết rõ Tham dục tức Phật đạo Tự tánh không sai biệt Nơi tham không bị nhiễm Tất cả các Phật đạo Phải cầu nơi phiền não. Biết tánh không sai biệt Là nhập môn Tổng trì Nói tham là Tổng trì Tổng trì tức là tham. Biết tánh không sai biệt Là học môn Tổng trì Cúng dường tham như thế Tức là cúng dường Phật Vì cúng dường nơi Phật Mà thành tựu Tổng trì. Người ấy hay biết rõ Sân hận tức Phật đạo Tự tánh vô sai biệt Nơi sân không bị nhiễm. Sân tức là Tổng trì Tổng trì tức là sân Biết tánh không sai biệt Là học môn Tổng trì. Cúng dường sân như vậy Cũng là cúng dường Phật Do cúng dường nơi Phật Thành tựu môn Tổng trì. Người ấy hay biết rõ Ngu si tức Phật đạo Tự tánh không sai biệt Nơi si không bị nhiễm Nếu biết rõ đúng thật Biên tế của tánh si Tức là tu Phật đạo Thành tựu môn Tổng trì. Si tức là Tổng trì Tổng trì tức là si Biết tánh không sai biệt Là học môn Tổng trì. Cúng dường si như vậy Tức là cúng dường Phật Do cúng dường nơi Phật Thành tựu môn Tổng trì. Cúng dường si như vậy Tức là cúng dường Pháp Do cúng dường nơi Pháp Thành tựu môn Tổng trì. Cúng dường si như vậy Tức là cúng dường Tăng Do cúng dường nơi Tăng Thành tựu môn Tổng trì. Cúng dường si như vậy Tức là cúng dường Giới Do cúng dường nơi Giới Thành tựu môn Tổng trì. Cúng dường si như vậy Là cúng dường Tinh tấn Vì cúng dường Tinh tấn Thành tựu môn Tổng trì. Cúng dường si như vậy Là cúng dường Tán thán Vì cúng dường Tán thán Thành tựu môn Tổng trì. Cúng dường si như vậy Là cúng dường Phật pháp Do cúng dường Phật pháp Thành tựu môn Tổng trì. Cúng dường si như vậy Là cúng dường Pháp tánh Do cúng dường Pháp tánh Thành tựu môn Tổng trì. Cúng dường si như vậy Là cúng dường Chân như Do cúng dường Chân như Thành tựu môn Tổng trì. Cúng dường si như vậy Là cúng dường vô sinh Do cúng dường vô sinh Thành tựu môn Tổng trì. Cúng dường si như vậy Là cúng duờng vô diệt Do cúng dường vô diệt Thành tựu môn Tổng trì. Cúng dường si như vậy Là cúng dường vô tận Do cúng dường vô tận Thành tựu môn Tổng trì. Cúng dường si như vậy Là cúng dường vô hữu Do cúng dường vô hữu Thành tựu môn Tổng trì. Cúng dường si như vậy Là cúng dường vô biên Do cúng dường vô biên Thành tựu môn Tổng trì. Cúng dường si như vậy Là cúng dường ba cõi Do cúng dường ba cõi Thành tựu môn Tổng trì. Cúng dường si như vậy Là cúng dường tịch tónh Do cúng dường tịch tónh Thành tựu môn Tổng trì. Cúng dường si như vậy Là cúng dường lưu chuyển Do cúng dường lưu chuyển Thành tựu môn Tổng trì. Cúng dường si như vậy Là cúng dường vô chuyển Do cúng dường vô chuyển Thành tựu môn Tổng trì. Cúng dường si như vậy Là cúng dường vô hữu Do cúng dường vô hữu Thành tựu môn Tổng trì. Cúng dường si như vậy Là cúng dường vô sinh Do cúng dường vô sinh Thành tựu môn Tổng trì. Cúng dường si như vậy Là cúng dường tịch diệt Do cúng dường tịch diệt Thành tựu môn Tổng trì. Cúng dường si như vậy Là cúng dường bất lai Do cúng dường bất lai Thành tựu môn Tổng trì. Cúng dường si như vậy Là cúng dường vô hành Do cúng dường vô hành Thành tựu môn Tổng trì. Cúng dường si như vậy Là cúng dường vô vi Do cúng dường vô vi Thành tựu môn Tổng trì. Cúng dường si như vậy Là cúng dường khổ thảy Do cúng dường khổ thảy Thành tựu môn Tổng trì. Cúng dường si như vậy Là cúng dường Khổ trí Do cúng dường Khổ trí Thành tựu môn Tổng trì. Cúng dường si như vậy Là cúng dường Tập trí Do cúng dường Tập trí Thành tựu môn Tổng trì. Cúng dường si như vậy Là cúng dường Diệt trí Do cúng dường Diệt trí Thành tựu môn Tổng trì. Cúng dường si như vậy Là cúng dường Đạo trí Do cúng dường Đạo trí Thành tựu môn Tổng trì. Cúng dường si như vậy Là cúng dường Pháp trí Do cúng dường Pháp trí Thành tựu môn Tổng trì. Cúng dường si như vậy Là cúng dường Loại trí Do cúng dường Loại trí Thành tựu môn Tổng trì. Cúng dường si như vậy Là cúng Vô sinh trí Do cúng Vô sinh trí Thành tựu môn Tổng trì. Cúng dường si như vậy Là cúng dường Tận trí Do cúng dường Tận trí Thành tựu môn Tổng trì. Cũng thế nơi Chánh đoạn Niệm trụ và Thần túc Năm căn và năm lực Bảy giác, tám Chánh đạo Gồm Xa-ma-tha kia Tỳ-bát-xá-na thảy Nơi chiùn loại pháp này Tất cả đều như vậy. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Đồng tử Nguyệt Quang: –Này Thiện nam! Nếu có chúng sinh an trụ nơi Đại thừa thành tựu môn Đà-la-ni như đã nói ở trên thì phải xa rời tám mươi hạng người. Tám mươi hạng người ấy là những ai? Đó là những kẻ giết cha, giết mẹ, giết A-la-hán, có tâm nghó giết hại mà làm thân Phật ra máu, phá hòa hợp Tăng, tặc trú xuất gia, không có căn, hai căn, tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà tinh tấn, tà niệm, tà định, chẳng biết chỗ, chẳng biết lúc, chẳng biết pháp, chẳng biết đạo, chẳng biết lượng, chẳng biết tự tha, đối với Phật, Pháp, Tăng và các học xứ chẳng biết tôn trọng, đối với hạnh chẳng phóng dật và cảnh giới thù thắng cũng chẳng tôn ngưỡng, chẳng biết pháp, chẳng biết luật, chẳng biết học xứ, chẳng biết tội ấy là trọng hay khinh, chẳng biết giới ấy là hư là khuyết, cũng chẳng biết hạnh tu ấy là tế là thô, cũng chẳng biết nghiệp là vị lai là hiện tại, với sự hạ liệt cũng chẳng biết rõ, khen Thanh văn thừa, phá chê pháp Như Lai, khuyến thị khai đạo Bích-chi-phật thừa, xa rời nhàm bỏ chánh đạo vô thượng, phá giới, phá kiến, phá các oai nghi, đi nơi phi đạo, nói có ngã nhân, nói có chúng sinh, nói có thọ giả, nói có Bổ-đặc-già-la, chí ý hạ liệt, khởi tham, sân, si, đoạn kiến, thường kiến, không kiến, vô nhân kiến, chẳng thấy có, chẳng thấy không, chẳng thấy nghiệp, chẳng thấy tinh tấn, chẳng biết nghiệp, chẳng biết nghiệp nhân, chẳng biết dị thục, chẳng biết dị thục nhân, chẳng biết các căn, chẳng biết các căn nhân, chẳng biết giới, chẳng biết nhân của giới, chẳng biết giải thoát, chẳng biết nhân của giải thoát, chẳng biết đạo, chẳng biết nhân của đạo, chẳng biết phiền não, chẳng biết nhân của phiền não, chẳng biết thí, chẳng biết nhân của thí, chẳng biết tiền tế và hậu tế, chẳng biết nhân của tiền tế và hậu tế, chẳng biết sinh tử, chẳng biết nhân của sinh tử, chẳng biết hữu lậu, chẳng biết nhân của hữu lậu, chẳng biết tận chẳng phải tận, chẳng biết hữu chẳng phải hữu, chẳng biết biên tế chẳng phải biên tế, chẳng biết tịch tónh chẳng phải tịch tónh, chẳng biết chuyển chẳng phải chuyển, chẳng biết tánh chẳng phải tánh, chẳng biết sinh chẳng phải sinh, chẳng biết diệt chẳng phải diệt. Này Đồng tử! Nếu thiện nam, thiện nữ muốn thành tựu môn Đà-la-ni đã được nói ở trên, thì phải rời bỏ tám mươi hạng người phi pháp ấy. Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng: Nếu người chẳng biết rõ Tận ngằn mé nhãn sinh Là lạc lối Tổng trì Người trí nên rời xa. Nếu người biết được nhãn Không ngã, không chúng sinh Người ấy trụ Tổng trì Người trí nên thân cận. Nếu người biết được nhãn Sinh tận lìa văn tự Người ấy trụ Tổng trì Người trí nên thân cận. Nếu người biết được nhãn Tịch tónh không chỗ trụ Người ấy trụ Tổng trì Người trí nên thân cận. Nếu người biết được nhãn Tự tánh không chỗ trụ Người ấy trụ Tổng trì Người trí nên thân cận. Nếu người biết được nhãn Không chuyển, không sắc tướng Người ấy trụ Tổng trì Người trí nên thân cận. Nếu người biết được nhãn Không sinh tánh tịch diệt Người ấy trụ Tổng trì Người trí nên thân cận. Nếu người biết được nhãn Tự tánh rời danh tướng Chư Phật không nói được Không khen, nêu bày được Người ấy trụ Tổng trì Người trí nên thân cận. Nếu người biết được nhãn Tự tánh lìa danh tướng Không ai tư duy được Thọ trì, diễn thuyết được Người ấy trụ Tổng trì Người trí nên thân cận. Tánh Tổng trì như vậy Văn tự chẳng nói được Không có các phương sở Chẳng phải chỗ tâm đến. Pháp ấy không hoan hỷ Cũng chẳng ở sân hận Bất động như núi chúa Dù nói nhưng không được. Tổng trì thật không có Cho đến ngã cũng vậy Ngã đã không tự tánh Tổng trì cũng không có. Tổng trì tự tánh không Kẻ ngu cho là có Do đây vọng phân biệt Chẳng tỏ, sinh ưu não. Nếu biết rõ tánh tham Cho đến Tổng trì không Hai thứ phân biệt ấy Rốt ráo chẳng nắm bắt. Nếu biết không, tánh không Tổng trì cũng chẳng có Cho đến Bồ-đề phần Tam-ma-địa cũng không. Nếu người biết rõ được Tổng trì và không tánh Cho đến Tam-ma-địa Thì cũng biết được nhãn. Nếu với nhãn tận biên Khéo biết rõ như thật Thì ở môn Tổng trì Rốt ráo thành tựu được. Nếu với nhãn sinh biên Khéo biết rõ như thật Thì ở môn Tổng trì Rốt ráo thành tựu được. Nếu với nhãn biên tế Khéo biết rõ như thật Thì ở môn Tổng trì Rốt ráo thành tựu được. Nếu với nhãn tịch tónh Biết rõ được như thật Thì ở môn Tổng trì Rốt ráo thành tựu được. Nếu với nhãn lưu chuyển Biết rõ được như thật Thì ở môn Tổng trì Rốt ráo thành tựu được. Nếu với nhãn vô hữu Biết rõ được như thật Thì ở môn Tổng trì Rốt ráo thành tựu được. Nếu với nhãn vô sinh Biết rõ được như thật Thì ở môn Tổng trì Rốt ráo thành tựu được. Nếu với nhãn tịch diệt Biết rõ được như thật Thì ở môn Tổng trì Rốt ráo thành tựu được. Nếu với nhãn đổi khác Biết tận biên như thật Thì ở môn Tổng trì Rốt ráo thành tựu được. Nếu với nhãn đổi khác Biết sinh biên như thật Thì ở môn Tổng trì Rốt ráo thành tựu được. Nếu với nhãn đổi khác Biết biên tế như thật Thì ở môn Tổng trì Rốt ráo thành tựu được. Nếu với nhãn đổi khác Biết tịch tónh như thật Thì ở môn Tổng trì Rốt ráo thành tựu được. Nếu với nhãn đổi khác Biết lưu chuyển như thật Thì ở môn Tổng trì Rốt ráo thành tựu được. Nếu với nhãn đổi khác Biết vô hữu như thật Thì ở môn Tổng trì Rốt ráo thành tựu được. Nếu với nhãn đổi khác Biết vô sinh như thật Thì ở môn Tổng trì Rốt ráo thành tựu được. Nếu với nhãn đổi khác Biết tịch diệt như thật Thì ở môn Tổng trì Rốt ráo thành tựu được. Tai, mắt, mũi, thân, ý Sáu trần và bốn đại Cho đến thế sinh, danh Tất cả đều như vậy. Nếu nơi nhãn tiền tế Không có tướng đổi khác Không giữ, không phân biệt Thì trụ môn Tổng trì. Nếu nơi nhãn tận biên Không có tướng đổi khác Không giữ, không phân biệt Thì trụ môn Tổng trì. Nếu nơi nhãn sinh biên Không có tướng đổi khác Không giữ, không phân biệt Thì trụ môn Tổng trì. Nếu nơi nhãn biên tế Không có tướng đổi khác Không chấp, không phân biệt Thì trụ môn Tổng trì. Nếu nơi nhãn tịch tónh Không có tướng đổi khác Không chấp, không phân biệt Thì trụ môn Tổng trì. Nếu nơi nhãn lưu chuyển Không có tướng đổi khác Không chấp, không phân biệt Thì trụ môn Tổng trì. Nếu nơi nhãn vô hữu Không có tướng đổi khác Không chấp, không phân biệt Thì trụ môn Tổng trì. Nếu nơi nhãn vô sinh Không có tướng đổi khác Không chấp, không phân biệt Thì trụ môn Tổng trì. Nếu nơi nhãn tịch diệt Không có tướng đổi khác Không chấp, không phân biệt Thì trụ môn Tổng trì. Tai, mũi, lưỡi, thân, ý Sáu trần và bốn đại Cho đến thế sinh danh Tất cả đều như vậy. Tham, sân, si, phẫn, mạn Tật, cuống, xan, ưu, não Tên độc, lỗi lầm nhơ Nghiệp thiện ác cuồn cuộn Không sinh cũng không diệt Không đến cũng không đi Không động cũng không khác Chẳng tác cũng chẳng hành Chẳng minh cũng chẳng ám Chẳng lưu, bỏ bạo lưu Không tận và không trụ Chẳng hành, chẳng bất hành Chẳng văn tự, phan duyên Chẳng xuất cũng chẳng nhập Phân biệt vọng tưởng thảy Cả sáu mươi hai môn Đều riêng theo nghóa lý Tất cả đều như vậy. Nếu biết nhãn tiền tế Cho đến nơi thượng hạ Không chấp, không phân biệt Là trụ môn Tổng trì. Nếu biết nhãn tận biên Cho đến nơi thượng hạ Không chấp, không phân biệt Là trụ môn Tổng trì. Nếu biết nhãn sinh biên Cho đến nơi thượng hạ Không chấp, không phân biệt Là trụ môn Tổng trì. Nếu biết nhãn biên tế Cho đến nơi thượng hạ Không chấp, không phân biệt Là trụ môn Tổng trì. Nếu biết nhãn tịch tónh Cho đến nơi thượng hạ Không chấp, không phân biệt Là trụ môn Tổng trì. Nếu biết nhãn lưu chuyển Cho đến nơi thượng hạ Không chấp, không phân biệt Là trụ môn Tổng trì. Nếu biết nhãn vô hữu Cho đến nơi thượng hạ Không chấp, không phân biệt Là trụ môn Tổng trì. Nếu biết nhãn vô sinh Cho đến nơi thượng hạ Không chấp, không phân biệt Là trụ môn Tổng trì. Nếu biết nhãn tịch diệt Cho đến nơi thượng hạ Không chấp, không phân biệt Là trụ môn Tổng trì. Tai, mũi, lưỡi, thân, ý Sáu trần và bốn đại Cho đến thế sinh, danh Tất cả đều như vậy. Nơi tướng địa bất biến Không thủ, không phân biệt Người biết rõ như vậy Thành tựu môn Tổng trì. Nơi tướng địa không sinh Không chấp, không phân biệt Người biết rõ như vậy Thành tựu môn Tổng trì. Nơi tướng địa không diệt Không chấp, không phân biệt Người biết rõ như vậy Thành tựu môn Tổng trì. Nơi tướng địa chứng nhập Không chấp, không phân biệt Người biết rõ như vậy Thành tựu môn Tổng trì. Nơi tướng địa xuất ly Không chấp, không phân biệt Người biết rõ như vậy Thành tựu môn Tổng trì. Nơi tướng địa vô nguyện Không chấp, không phân biệt Người biết rõ như vậy Thành tựu môn Tổng trì. Nơi tướng địa vô trụ Không đến cũng không đi Vô biên và vô tận Tương ưng, chẳng tương ưng Lìa danh tự kế đạt Quan sát và lưu chuyển Vô hữu và tu trị Không ngôn thuyết biểu thị Tịch tónh, không chỗ nương Niệm trụ và Chánh đoạn Thần túc và Căn, Lực Giác chi, Đạo, Vô úy Các tướng địa như vậy Không chấp, không phân biệt Người biết rõ như vậy Thành tựu môn Tổng trì. Nếu với ngã không nhập Không chấp, không phân biệt Người biết rõ như vậy Thành tựu môn Tổng trì. Nếu với ngã không xuất Không chấp, không phân biệt Người biết rõ như vậy Thành tựu môn Tổng trì. Nếu với ngã vô tướng Không chấp, không phân biệt Người biết rõ như vậy Thành tựu môn Tổng trì. Nếu với ngã vô nguyện Không chấp, không phân biệt Người biết rõ như vậy Thành tựu môn Tổng trì. Nếu với ngã vô trụ Không chấp, không phân biệt Người biết rõ như vậy Thành tựu môn Tổng trì. Nếu với ngã không sinh Không chấp, không phân biệt Người biết rõ như vậy Thành tựu môn Tổng trì. Nếu với ngã không diệt Không chấp, không phân biệt Người biết rõ như vậy Thành tựu môn Tổng trì. Nếu với văn tự ngã Không chấp, không phân biệt Người biết rõ như vậy Thành tựu môn Tổng trì. Nếu lìa văn tự ngã Không chấp, không phân biệt Người biết rõ như vậy Thành tựu môn Tổng trì. Biết nhãn tiền hậu tế Rời xa nơi đoạn thường Tự tánh nhân duyên không Đạo Sư phương tiện nói. Nếu lúc diễn thuyết pháp Mà phân biệt tướng nhãn Người ấy vọng phân biệt Chẳng gọi chân thuyết pháp. Nếu lúc tư duy pháp Mà phân biệt tướng nhãn Người ấy vọng phân biệt Chẳng gọi chánh tư duy. Nếu lúc tu tập pháp Mà phân biệt tướng nhãn Người ấy vọng phân biệt Chẳng gọi chân tu tập. Nếu biết nhãn tánh không Thì chẳng hướng Bồ-đề Chư Phật với người ấy Thường hiện trước thuyết pháp. Nếu chẳng biết được nhãn Thì cũng chẳng biết sắc. Nếu người biết được nhãn Thì cũng biết được sắc. Nếu người biết được sắc Thì cũng biết được nhãn. Tai, mũi, lưỡi, thân, ý Sáu trần và bốn đại Cho đến thế sinh, danh Tất cả đều như vậy. Nếu lúc diễn thuyết pháp Phân biệt nơi nhân tướng Người ấy vọng phân biệt Chẳng gọi là thuyết pháp. Nếu lúc diễn thuyết pháp Phân biệt tướng tịch tónh Người ấy vọng phân biệt Chẳng gọi là thuyết pháp. Nếu lúc diễn thuyết pháp Phân biệt nơi tướng đạo Người ấy vọng phân biệt Chẳng gọi là thuyết pháp. Nếu lúc diễn thuyết pháp Phân biệt nơi tướng không Người ấy vọng phân biệt Chẳng gọi là thuyết pháp. Nếu lúc diễn thuyết pháp Phân biệt nơi tích tập Người ấy vọng phân biệt Chẳng gọi là thuyết pháp. Nếu lúc diễn thuyết pháp Phân biệt nơi sự vật Người ấy vọng phân biệt Chẳng gọi là thuyết pháp. Nếu lúc diễn thuyết pháp Phân biệt nhãn, nhiếp thủ Người ấy vọng phân biệt Chẳng gọi là thuyết pháp. Chẳng biết rõ nơi nhãn Thì sinh lòng tham dục Nếu biết rõ được nhãn Thì tham dục chẳng sinh. Tai, mũi, lưỡi, thân, ý Sáu trần và bốn đại Cho đến thế sinh, danh Tất cả đều như vậy. Nếu lúc diễn thuyết pháp Phân biệt các thứ giới Người ấy vọng phân biệt Chẳng gọi là thuyết pháp. Nơi chí nguyện chẳng thoái Rõ thấu nơi tánh không Được các môn Tam-muội Người ấy khéo thuyết pháp. Nơi chí nguyện chẳng thoái Với nhãn rời phân biệt Do vì không phân biệt Người ấy khéo thuyết pháp. Chẳng rõ nhãn tánh không Cũng mê tự tánh nhãn Do vì chẳng biết rõ Thì chẳng nên thuyết pháp. Nếu biết nhãn tánh không Thì biết tự tánh nhãn Do vì biết rõ nhãn Người ấy nên thuyết pháp. Chẳng biết nhãn tánh không Cũng mê cú tự tánh Do vì chẳng biết rõ Thì chẳng nên thuyết pháp. Nếu biết nhãn tánh không Thì biết cú tự tánh Do vì biết được rõ Người ấy nên thuyết pháp. Chẳng biết nhãn tánh không Cũng mê văn tự tánh Do vì chẳng biết rõ Thì chẳng nên thuyết pháp. Nếu biết nhãn tánh không Thì biết văn tự tánh Do vì biết được rõ Người ấy nên thuyết pháp. Chẳng biết nhãn tánh không Cũng mê danh tự tánh Do vì chẳng biết rõ Thì chẳng nên thuyết pháp. Nếu biết nhãn tánh không Thì biết danh tự tánh Do vì biết được rõ Người ấy nên thuyết pháp. Chẳng biết nhãn tánh không Cũng mê sắc tự tánh Do vì chẳng biết rõ Thì chẳng nên thuyết pháp. Nếu biết nhãn tánh không Thì biết sắc tự tánh Do vì biết được rõ Người ấy nên thuyết pháp. Chẳng biết nhãn tánh không Y thế tướng phân biệt Chẳng thể khéo tùy thuận Điều phục các chúng sinh. Nếu biết nhãn tánh không Chẳng y tướng phân biệt Thì khéo tùy thuận được Điều phục các chúng sinh. Chẳng rõ nhãn có không Mà thuyết pháp giữa chúng Người ấy tham lợi dưỡng Mọi người chẳng tín thọ. Nếu biết nhãn có không Mà thuyết pháp giữa chúng Người ấy chẳng tham trước Mọi người đều tín thọ. Chẳng rõ nhãn tánh không Mà ngồi trên pháp tọa Dù nói nhiều thí dụ Mọi người chẳng tín thọ. Nếu biết nhãn tánh không Mà ngồi trên pháp tòa Những thí dụ được nói Mọi người đều tín thọ. Nhó, tỷ, thiệt, thân, ý Sáu trần và bốn đại Cho đến thế sinh, danh Tất cả đều như vậy. Lúc Đức Thế Tôn nói kinh Xuất Hiện Quang Minh này xong, Đồng tử Nguyệt Quang và các đại chúng, tất cả thế gian Trời, Người, A-tu-la... nghe lời Phật dạy đều rất vui mừng hoan kỷ, tín thọ phụng hành.  KINH ĐẠI BẢO TÍCH <卷 id="86423720">QUYỂN 35 Hán dịch: Đời Đại Đường, Tam tạng Pháp sư Huyền Trang. <詞 id="86423721">Pháp hội 12: BỒ-TÁT TẠNG (Phần 1) <章 id="86423722">Phẩm 1: GIÁO HÓA TRƯỞNG GIẢ Tôi nghe như vầy: Một thời Đức Bạc-già-phạm an cư mùa mưa tại thành Thất-la-phiệt. Sau ba tháng, tự tứ và may vá y phục xong, Đức Bạc-già-phạm cùng chúng đại Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi vị du hóa các nước. Đức Bạc-già-phạm ấy thành tựu danh xưng rộng lớn vi diệu, xuất hiện ở thế gian được hàng trời, người ca tụng công đức là Đấng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Viên Mãn, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Bạc-già-phạm. Đức Bạc-già-phạm ấy ở sâu nơi tự chứng đầy đủ thần thông, oai đức sáng chói trùm khắp tất cả thế gian chư Thiên, Ma vương, Phạm vương, A-tu-la…, thường vì thế gian mà nói pháp vi diệu. Lời khai thị của Đức Bạc-già-phạm trước, sau, giữa đều lành, văn nghóa khéo léo, hay thuần nhất, viên mãn phạm hạnh trong sáng. Khi ấy bốn bộ chúng, hàng vua chúa, các quan, các nhà ngoại đạo, Sa-môn, Bà-la-môn và các Trưởng giả cùng Trời, Rồng, tám bộ chúng… đều mang vô lượng thứ y phục, thực phẩm, mền nệm, thuốc men, các thứ cúng dường tốt đẹp hơn hết để dâng lên Đức Như Lai. Bấy giờ Thế Tôn được đại chúng vây quanh cúng dường, cung kính, tôn trọng, ca ngợi đã lần lần du hóa đến nước Ma-kiệt-đà tại thành Vương xá rồi ở lại núi Linh thứu. Trong thành Vương xá có Trưởng giả tên là Hiền Thủ. Trưởng giả ấy đã từng gần gũi chư Phật quá khứ, trồng các căn lành phước đức rất lớn, thuộc dòng quý tộc giàu có, sản nghiệp của báu đều đầy đủ. Trưởng giả Hiền Thủ nghe đại Sa-môn giòng họ Thích chứng Vô thượng Bồ-đề cùng đại chúng đến tại nước này. Đức Phật Thế Tôn ấy xuất hiện ở thế gian có danh xưng rất lớn, đủ mười hiệu, thành tựu thần thông, trí tuệ, nói pháp vi diệu, cho đến viên mãn phạm hạnh thanh bạch. Trưởng giả Hiền Thủ suy nghó: “Nay ta nên đến núi Linh thứu để được diện kiến Đức Như Lai. Nếu ta được thấy Đức Phật tất sẽ được lợi lành.” Suy nghó xong, Trưởng giả Hiền Thủ cùng năm trăm vị Trưởng giả ra khỏi thành Vương xá hướng đến núi Linh thứu. Buổi sáng hôm ấy, Đức Thế Tôn mặc y Tăng-già-lê mang bát cùng chúng Tỳ-kheo thị tùng rời núi Linh thứu hướng đến thành Vương xá, Đức Phật đi trước đại chúng. Oai nghi của Ngài nghiêm chỉnh, bước đi tự tại nghiêm trang. Vì giáo hóa chúng sinh mà Ngài hiện thân đi khất thực. Lúc sắp vào thành, Đức Phật dừng lại giữa đường, Trưởng giả Hiền Thủ và năm trăm vị Trưởng giả từ xa trông thấy Đức Phật oai nghiêm siêu việt, thân màu hoàng kim mà ai cũng thích nhìn, đủ ba mươi hai tướng Đại trượng phu, các căn tịch định, thần thái đạm bạc, đạt đến chỗ tối thượng, nhẹ nhàng, khoan thai, an tịnh; nhiếp hộ các căn như đại long tượng, thanh tịnh không náo loạn như ao suối đứng trong. Chân Ngài bước trên hoa sen hồng trăm ngàn ức cánh do bảy báu hợp thành, được vô số trời, người, Dạ-xoa cúng dường, mưa hoa trời to lớn rải trên Đức Như Lai. Hoa trời ấy như dòng thác đổ tràn đầy mặt đất. Các vị Trưởng giả chiêm ngưỡng Đức Thế Tôn với vô lượng trăm ngàn công đức trang nghiêm đang từ xa đi đến xong, liền ngợi khen là chưa từng có, dùng lòng thanh tịnh đến chỗ Đức Phật đảnh lễ chân Phật rồi đứng qua một bên và bạch: –Bạch Thế Tôn! Thật chưa từng có! Thần lực của Như Lai chói sáng, che khắp chư Thiên, chư Tiên cùng Ma vương, Phạm vương. Oai đức của Như Lai đủ cả danh xưng to lớn. Vầng hào quang diệu sắc bao trùm khắp đại chúng. Thân tướng Như Lai như tòa núi vàng lớn, dung mạo đoan nghiêm không ai sánh bằng. Thế Tôn thành tựu tất cả những pháp hy hữu, lạ thường. Con suy ngẫm Thế Tôn oai đức như vậy quan sát những tướng gì mà vứt bỏ gia nghiệp để chứng ngộ đại Bồ-đề? Liền đó Trưởng giả Hiền Thủ ở trước Đức Phật nói kệ rằng: Xưa con từng nghe Đức Thế Tôn Sắc đẹp cát tường danh xưng lớn Nay thấy oai quang hơn chỗ nghe Như tượng vàng ròng đủ mọi đức. Thân sắc Như Lai tựa núi vàng Cao rộng nghiêm tịnh nhìn không chán Chúng Tỳ-kheo oai đức trang nghiêm Giống như trăng tròn giữa sao trời. Đảnh tướng Như Lai không ai thấy Cao bày rực rỡ hơn Tu-di Búi tóc tròn đầy tuần tự xoắn Đảnh tướng bằng nghiêng như lọng Trời, Tóc biếc mềm mượt xoay bên phải Như ngọc thanh bảo của Thiên đế Sạch chói hơn lông của chim công Nay con chiêm ngưỡng không biết chán. Diện mạo đoan nghiêm, trán phẳng bằng Mày sáng sạch như vành cung trời Lông trắng chặng mày chói rực rỡ Ánh sáng chiếu suốt như vầng trăng. Mắt trong diệu hiền rất đẹp lạ Người thấy đều sinh lòng mến thích Nay con chiêm ngưỡng chẳng tạm rời Đảnh lễ mắt Phật thế gian nương. Sống mũi cao, bằng, dài và thẳng Lần rộng tròn trịa như thỏi vàng Môi đỏ bóng sáng rất thanh tịnh Như trái Tần-bà, ngọc Ma-ni. Răng đẹp sạch trắng thêm sáng bóng Đồng màu sữa và ngó sen non Răng kín bằng phẳng rất sạch sáng Do điều thuận đại định cảm nên, Răng trong, răng ngoài chân sâu chắc Trên dưới khít khao đều tề chỉnh Răng Phật sáng trắng hơn tất cả Như nhạn chúa ở giữa đàn nhạn. Tướng lưỡi của Phật rất rộng dài Che mặt mỏng sạch như hoa sen Như màu đồng đỏ châu Ma-ni Lóng lánh như gương mặt trời mọc. Vành tai của Phật rất đoan nghiêm Cõi trời, cõi người chẳng nghe thấy Dòng giống Cù-đàm tướng toàn vẹn Vô úy giống như sư tử chúa. Con ngắm tướng yết hầu của Phật Hay như chất cam lộ thế gian Trong sạch sáng suốt không vết nhơ, Đủ đại thần lực chẳng nghó bàn. Trước cổ ngang, rộng, dài và thẳng Ở giữa đều không có lằn nhăn Đấng Thiên Trung Thiên vượt cõi người Thường ăn chất vị đệ nhất vị. Đầu, vai tròn trịa đều đầy bằng Ngực, hông hùng mãnh oai dung thạnh Tướng của Thế Tôn đời chưa nghe Như trên núi cao mặt trời sáng. Tay chân, hai vai và sau gáy Bảy chỗ sáng sạch đều đầy bằng, Cánh tay tròn dài như vòi voi Bàn tay thòng xuống rờ đụng gối. Thân mình rộng dầy như thú vương Viên mãn như cây Ni-câu-luật Sức Na-la-diên hợp thành thân Đủ trọn đại lực và nhẫn lực. Lông trên thân Phật đều hướng lên Cứ mỗi lỗ lông mọc một lông Bụi khói chẳng đóng như hoa sen Xoắn về bên phải mà nhuyễn mịn. Con xưa nghe truyền tướng ẩn kín Âm tàng sâu như chúa ngựa trời, Vế đùi tròn trịa lần lần thon Tướng ấy dường như chúa nai trời. Chân dầy nổi vun, gót tròn dài, Bàn tay màng mỏng như nhạn chúa Bằng dầy vót dài hai mươi ngón Móng màu xích đồng như hoa sen. Hai chân tướng vành xe ngàn căm Sáng sạch vi diệu đủ trang nghiêm Như Lai dạo bước nơi thế gian Hai mắt cá chân chẳng chạm nhau, Cách đất bốn ngón đi trên không Những bông sen đỏ theo chân hiện Đoái nhìn an tường bước tượng vương Tiến lên đoan túc như vua trời. Đại Thánh oai nghiêm không chỗ sợ Giữa chúng vượt hơn sư tử vương Sắc đẹp chói lấp Tỳ-sa-môn Oai quang hơn trăm ngàn mặt trời. Thiên vương, Phạm vương còn không bằng Có ai hơn được Đức Như Lai Đi đứng thuyết pháp độ chúng sinh Thiên, Tiên, Long, Thần đều cung kính Hoặc trổi nhạc trời rải hoa trời Lả tả ngập tràn đầy hư không. Nay thấy Thế Tôn đại thần thông Nên con trộm sinh lòng nghi hoặc Trước kia do có công đức gì, Mà Phật xuất gia chứng vô thượng? Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Trưởng giả Hiền Thủ: –Này Trưởng giả! Ta xem thấy tất cả chúng sinh ở thế gian bị mười sự khổ bức bách: Một là sinh khổ. Hai là lão khổ. Ba là bệnh khổ. Bốn là tử khổ. Năm là sầu khổ. Sáu là oán hận. Bảy là khổ thọ. Tám là ưu thọ. Chín là thống não. Mười là bị nỗi khổ lớn sinh tử lưu chuyển. Này Trưởng giả! Ta thấy mười sự khổ ấy bức bách chúng sinh. Ta vì được Vô thượng Bồ-đề để xuất ly sự khổ ấy, nên ta dùng lòng tịnh tín bỏ cung dòng Thích thẳng đến đạo Vô thượng. Muốn tuyên lại nghóa ấy, Đức Thế Tôn nói kệ rằng: Ta thấy các phàm phu Bị nhốt ngục lưu chuyển Thường bị sinh, lão, bệnh Các khổ làm bức bách, Sầu lo và oán hận Những chết chóc kéo dắt Vì trừ khổ lao ngục Nên ta thích xuất ly. Lại nữa, này Trưởng giả! Ta thấy tất cả chúng sinh ở thế gian bị mười thứ não hại ghét ganh lẫn nhau. Những gì là mười? 1. Đã từng ở nơi thân mình làm điều chẳng lợi ích nên sinh lòng não hại. 2. Hiện nay ở nơi thân mình làm điều chẳng lợi ích nên sinh lòng não hại. 3. Sẽ ở nơi thân mình làm điều chẳng lợi ích nên sinh lòng não hại. 4. Đã từng ở nơi sở ái của mình làm điều chẳng lợi ích nên sinh lòng não hại. 5. Hiện nay ở nơi sở ái của mình làm điều chẳng lợi ích nên sinh lòng não hại. 6.Sẽ ở nơi sở ái của mình làm điều chẳng lợi ích nên sinh lòng não hại. 7.Đã từng ở nơi mình chẳng ưa mến mà làm điều lợi ích nên sinh lòng não hại. 8. Hiện nay ở nơi mình chẳng ưa mến mà làm điều lợi ích nên sinh lòng não hại. 9. Sẽ ở nơi mình chẳng ưa mến mà làm điều lợi ích nên sinh lòng não hại. 10. Ở những nơi lỗi lầm mà làm điều chẳng lợi ích nên sinh lòng não hại. Này Trưởng giả! Ta thấy mười điều não hại ấy làm não hại tất cả chúng sinh ở thế gian. Ta vì được Vô thượng Bồ-đề để ra khỏi sự não hại ấy nên dùng lòng tin thanh tịnh rời bỏ cung họ Thích hướng đến đạo Vô thượng. Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghóa ấy nên nói kệ rằng: Chúng sinh ganh ghét nhau Đều do mười não sinh Nơi mình và mình ưa Ba đời đều não hại. Hoặc nơi mình chẳng ưa Lại làm những lợi ích, Oán ghét do đây sinh Ba đời đều não hại. Thứ mười nơi lỗi lầm Sinh trưởng khổ oán ghét Ta thấy những lỗi ấy Chán sợ nên xuất gia. Lại nữa, này Trưởng giả! Ta thấy tất cả chúng sinh ở thế gian vào trong mười thứ rừng rậm ác kiến. Do chấp dị kiến mà chẳng tự ra khỏi. Những gì là mười? 1. Rừng rậm ác kiến về ngã kiến. 2.Rừng rậm ác kiến về hữu tình kiến. 3. Rừng rậm ác kiến về thọ mạng kiến. 4. Rừng rậm ác kiến về sổ thủ thú kiến. 5. Rừng rậm ác kiến về đoạn kiến. 6.Rừng rậm ác kiến về thường kiến. 7.Rừng rậm ác kiến về vô tác kiến. 8. Rừng rậm ác kiến về vô nhân kiến. 9. Rừng rậm ác kiến về bất bình đẳng nhân kiến. 10.Rừng rậm ác kiến về tà kiến. Này Trưởng giả! Ta thấy chúng sinh vào trong mười thứ rừng rậm ác kiến không tự ra được. Ta vì được Vô thượng Bồ-đề để dứt hẳn những ác kiến ấy nên dùng lòng tin thanh tịnh rời bỏ cung họ Thích hướng đến đạo Vô thượng. Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghóa ấy mà nói kệ rằng: Tất cả kẻ phàm phu Vào rừng rậm ác kiến Ngã kiến, hữu tình kiến Và cùng thọ mạng kiến, Đoạn kiến với thường kiến, Chấp vô tác kiến thảy Vì an lập chánh kiến Nên ta đi xuất gia. Lại nữa, này Trưởng giả! Ta thấy tất cả chúng sinh ở thế gian từ vô số kiếp gây tạo đủ trăm ngàn na-do-tha câu-chi tội lỗi, thường bị mười thứ tên độc lớn bắn trúng. Những gì là mười? 1. Tên độc ái luyến. 2. Tên độc vô minh. 3.Tên độc dục nhiễm. 4. Tên độc tham lam. 5. Tên độc lỗi lầm. 6. Tên độc ngu si. 7. Tên độc kiêu mạn. 8. Tên độc kiến chấp. 9. Tên độc có. 10. Tên độc không có. Này Trưởng giả! Ta thấy chúng sinh bị mười thứ tên độc ấy bắn trúng nên ta cầu Vô thượng Bồ-đề để dứt hẳn những tên độc ấy. Do đó mà ta dùng lòng tịnh tín rời bỏ cung giòng Thích hướng đến đạo Vô thượng. Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghóa ấy mà nói kệ rằng: Quá câu-chi đại kiếp Chúng sinh bị tên ái Tên vô minh làm mù, Từ tối vào trong tối. Tên dục trong các uẩn, Nhiễm trước gọi tên tham, Tên lỗi lầm muộn loạn, Mang mũi tên ngu si, Cống cao khởi tên mạn, Trái cãi sinh tên kiến, Do tên có, không có, Sa vào có và không. Các phàm phu ngu si Mũi nhọn do miệng họ Cùng nhau sinh tranh luận: Đây thực, đây chẳng thực! Vì nhổ những tên độc Như Lai hiện ở đời Cứu người trúng tên độc, Xuất gia thành đạo Thánh. Lại nữa, này Trưởng giả! Ta thấy tất cả chúng sinh ở thế gian do mười thứ ái luyến kiến lập căn bản. Những gì là mười? Đó là do ái nên cầu, do cầu nên được, do được nên có ngã sở, do ngã sở nên nắm chặt, do nắm chặt nên tham dục, do tham dục nên say đắm, do say đắm nên bỏn sẻn, do bỏn sẻn nên thâu góp, do thâu góp nên gìn giữ, do gìn giữ nên cầm khí giới, cãi kiện, chê bai sinh ra nhiều sự khổ. Lại do nơi đấy mà phát ra lời nói ly biệt, nuôi lớn những sự ác bất thiện. Này Trưởng giả! Ta thấy chúng sinh do mười thứ ái nhiễm kiến lập căn bản nên cầu Vô thượng Bồ-đề để được pháp không căn bản không chỗ nương tựa. Do đó ta dùng lòng tin thanh tịnh rời bỏ cung họ Thích hướng đến đạo Vô thượng. Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghóa ấy mà nói kệ rằng: Ái nhiễm hại chúng sinh Tìm theo những dục lạc Được lợi sinh ngã sở Do đây mà nắm chặt. Tôi phải được phải làm Dục tham càng thêm lớn Những say đắm bỏn sẻn Nối nhau mà sinh khởi. Quá tham lam bỏn sẻn Nên chứa thâu càng nhiều Do chứa nên giữ gìn Sinh nhiều lỗi không hở. Người ngu vì giữ gìn Khí giới tàn hại nhau Gieo những nghiệp bất thiện Do đây sinh quả khổ. Thấy nhân duyên ái rồi Các khổ chẳng còn sinh Trí giác không căn, trụ Hơn hết trong trí giác. Lại nữa, này Trưởng giả! Ta thấy tất cả chúng sinh ở thế gian do mười thứ tánh ác tà mà kiến lập tà định. Những gì là mười? 1. Tà kiến. 2. Tà tư duy. 3. Tà ngữ. 4. Tà nghiệp. 5. Tà mạng. 6. Tà tinh tấn. 7. Tà niệm. 8. Tà định. 9. Tà giải thoát. 10. Tà giải thoát tri kiến. Này Trưởng giả! Ta thấy chúng sinh do mười thứ tà tánh ấy kiến lập tà định. Ta muốn chứng Vô thượng Bồ-đề để ra khỏi các tà tánh như vậy nên dùng lòng tin thanh tịnh rời bỏ cung họ Thích mà hướng đến đạo Vô thượng. Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghóa ấy mà nói kệ rằng: Chúng sinh chấp tà kiến, Tà tư duy cảnh giới, Tuyên nói những tà ngữ, Và làm những tà nghiệp. Tà mạng, tà tinh tấn, Tà niệm và tà định, Thành tựu tà giải thoát, Và đến tà tri kiến. Tà tánh quyết định tụ Chỗ nương của kẻ ngu Vì khiến trụ chánh kiến, Hướng đến đạo Vô thượng. Lại nữa, này Trưởng giả! Ta thấy tất cả chúng sinh ở thế gian do mười thứ nghiệp đạo bất thiện mà hay kiến lập ở nơi tà đạo phần nhiều phải đọa vào ác thú. Những gì là mười? 1. Giết hại. 2. Không cho mà lấy. 3. Tà dâm. 4. Nói dối. 5. Nói lời ly gián. 6. Nói lời thô bỉ. 7. Nói lời thêu dệt. 8. Tham lam. 9. Giận thù. 10. Tà kiến. Này Trưởng giả! Ta thấy chúng sinh do mười thứ nghiệp bất thiện ấy, hướng theo đường tà nên phần đông phải sa vào ác đạo. Ta vì muốn chứng Vô thượng Bồ-đề siêu xuất tất cả các tà đạo nên dùng lòng tịnh tín rời bỏ cung họ Thích hướng đến đạo Vô thượng. Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghóa ấy mà nói kệ rằng: Não hại mạng chúng sinh Cướp trộm của cải người Làm điều tà dâm dục Mau đọa vào địa ngục. Nói thô ngữ, ly gián Nói dối trái tịch tónh Phàm phu nói thêu dệt Bị ngu si buộc ràng. Tham lam tài sản người Thường sinh lòng thù hận Khởi các thứ tà kiến Người ấy đọa đường ác. Ba nghiệp do thân khởi Bốn nghiệp từ miệng sinh Ý hay thành ba nghiệp Nên gọi là làm ác. Làm những nghiệp ác rồi Dắt đến trong ác đạo Nay ta hiện thế gian Tế độ khiến ra khỏi. Lại nữa, này Trưởng giả! Ta thấy tất cả chúng sinh ở thế gian do mười thứ pháp nhiễm ô mà ở tại phiền não, sa vào trong phiền não nhơ nhớp. Những gì là mười? 1. Sẻn tham nhơ nhớp. 2.Ác giới nhơ nhớp. 3. Giận tức nhơ nhớp. 4. Lười biếng nhơ nhớp. 5. Tán loạn nhơ nhớp. 6.Ác tuệ nhơ nhớp. 7. Không theo chánh giáo nhơ nhớp. 8. Tà nghi nhơ nhớp. 9. Không tin hiểu nhơ nhớp. 10. Không cung kính nhơ nhớp. Này Trưởng giả! Ta thấy chúng sinh bị mười thứ nhơ nhớp ấy làm nhơ nhớp. Ta vì chứng Vô thượng Bồ-đề được pháp không nhơ nhớp vô thượng nên dùng lòng tin thanh tịnh rời bỏ cung dòng họ Thích hướng đến đạo Vô thượng. Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghóa ấy mà nói kệ rằng: Phần đông các chúng sinh Bị mười thứ nhơ nhớp Thích hữu vi phiền não Chẳng hề biết chán lìa. Sẻn tham làm nhơ nhớp Tất cả phàm phu dại Phạm giới chẳng tịch tónh Chẳng tập tu Chánh định Giận tức trái Nhẫn nhục, Lười biếng hư Chánh cần. Lòng họ chẳng chuyên trụ Người tà trí ngu độn Chẳng tuân theo lời dạy Của cha mẹ, sư trưởng. Chúng sinh bị lưới nghi Chẳng cầu trí soi chiếu Chê bai pháp thâm diệu Của Đức Phật dạy truyền Mặc lấy áo vô minh Khinh tiện nơi Thánh uẩn. Thấy được nhơ nhớp ấy Có ai thích hữu vi Phải siêng cầu tịch diệt Vô vi không nhơ nhớp. Lại nữa, này Trưởng giả! Ta thấy tất cả chúng sinh ở thế gian bị mười thứ triền phược trói buộc. Những gì là mười? 1. Bị lưới bỏn sẻn trói buộc. 2. Bị màn vô minh che mờ. 3. Bị phiền não làm mê say, sa vào hố ngu si. 4. Bị dòng nước lũ ái dục đẩy trôi chìm đắm. 5. Bị tên độc tà kiến bắn trúng. 6. Bị khói đặc giận thù che lấp. 7. Bị ngọn lửa tham dục đốt cháy. 8. Bị thuốc độc lỗi lầm làm mê loạn. 9. Bị những gai độc năm triền cái làm trở ngại. 10.Thường ở trong dòng nước sinh tử trong đồng hoang đói khát, lười mỏi đối với Chánh cần. Này Trưởng giả! Ta thấy chúng sinh bị mười thứ triền phược ấy trói buộc nên ta cầu Vô thượng Bồ-đề để chứng pháp không triền phược. Ta dùng lòng tin thanh tịnh rời bỏ cung họ Thích hướng đến đạo Vô thượng. Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghóa ấy mà nói kệ rằng: Tuổi già nuốt trẻ mạnh Tuổi già mất tươi đẹp Tuổi già tổn niệm tuệ Trọn bị thần chết nuốt. Bệnh xô ngã thế lực Cướp đoạt tâm dũng mãnh Làm hư cả căn thân Yếu đuối không nơi dựa. Chết như quỷ La-sát Độc hại rất đáng sợ Thường ở mãi thế gian Uống cạn mạng chúng sinh. Ta đã chán thế gian Già, bệnh, chết bức bách Nên cầu pháp xuất gia An lành không già chết. Đời bị ba thứ lửa Ta thấy không ai cứu Rưới mưa pháp cam lộ Tắt mất ba lửa độc. Thấy những kẻ lạc đường Sinh mù lòa tăm tối Vì muốn làm mắt sáng Dẫn đường nên xuất gia. Chúng sinh khởi lòng nghi Uẩn cái nó che lấp Vì trừ hối não ấy Nên xuất gia thuyết pháp. Kẻ ngu chống trái nhau Rình rập hại lẫn nhau Vì hòa giải oán ghét Giúp đời nên xuất gia. Với cha mẹ, sư trưởng Chống khinh, không cung kính Vì dẹp tràng kiêu mạn Nên ta đi xuất gia. Thấy tham lam hại đời Do tiền của hại nhau Vì được bảy Thánh tài Dứt trừ những pháp tham, Hoặc đến nỗi hại nhau Lợi mình trọn vô ích Thấy vậy ta xả thân, Cầu rời ngục ba đường. Xưa chưa biết ba cõi Sự lợi ích chân thật Vì mở sự lợi thật Nên ta đi xuất gia. Thấy người đến địa ngục Nghiệp nhân ác quá nhiều Chịu vô biên khổ não Vì cứu mà xuất gia. Thấy các loài muông thú Thường giết hại lẫn nhau Muốn làm chỗ nó nương Thương chúng mà xuất gia. Thấy các loài ngạ quỷ Rất khổ vì đói khát Vì chứng đại Bồ-đề Thí cam lộ bất tử. Loài người khổ vì cầu Chư Thiên khổ vì chết Thấy khổ khắp ba cõi Vì cứu mà xuất gia. Ta thấy người tham dục Rời xa lòng tàm quý Hiếp bức cả thân thuộc Hoang dâm hơn heo chó, Lại thấy nhũng kẻ ngu Bị gái đẹp nuốt chửng Phóng dật gây tội ác Vì bỏ nên xuất gia. Thấy chúng sinh kiếp trược Ma khiến tội ác sai Ta muốn điều phục họ Xuất gia thành Chánh giác. Tại gia là gốc tội Xuất gia đến Bồ-đề Nên bỏ cả quốc thành Để hết hẳn sinh tử. Năm trăm vị Trưởng giả nghe lời Đức Phật dạy, được sự chưa từng có, mới biết Đức Như Lai là Bậc Chân Giác. Các Trưởng giả liền ở trước Đức Phật khác miệng đồng lời nói kệ rằng: Chúng con kinh sợ già chết bức Xin Phật tuyên dạy hết khổ ấy Phật rời ba cõi đến thanh tịnh Tánh thanh tịnh rời hẳn ba cõi. Xin cứu chúng sinh thoát ba cõi Và người tại gia bị nhốt giam Thế Tôn lìa nhiễm giải thoát nhất Rời xa trần cấu lòng thanh tịnh. Điều Ngự lớn trong pháp điều ngự Xin mở cửa cam lộ vi diệu Đủ tướng diệu sắc Đại trượng phu Trời, người thế gian không ai sánh. Đấng Tối Thắng không ai sánh bằng Xin nói pháp mầu cứu muôn loại Dứt hẳn ba độc hết tội lỗi Tuệ nhãn sạch trong, tiêu màn lòa Sạch bụi lìa tối mở lưới si Xin Đức Thế Tôn tuyên pháp diệu. Chúng sinh quá khổ không chỗ nương Đắm ao ba cõi không ai cứu Xin Phật khởi lòng Từ rộng cứu Mau vớt lên bờ cao an ổn. Sông to kiêu mạn, nước xoáy si Bệnh tật kiện tụng sóng dập dồn, Chúng sinh trôi chìm không ai vớt Xin Phật Từ bi cứu thoát nguy. Ngàn ức mặt trời chói núi vàng Thân Phật chói sáng hơn sáng ấy Xin dùng tiếng Phạm âm thắng diệu Tuyên bố pháp đoan nghiêm tối thượng. Tự tánh các pháp vốn thanh tịnh Thể tướng rỗng suốt như minh châu Không người tạo tác, không người nhận Biến chánh giác chẳng từ ngoài được Tự nhiên đầy đủ Lực, Vô úy Hiển hiện vô biên hạnh tịnh diệu Trí giải vô biên như hư không Xin Đấng Pháp Vương tuyên diệu pháp. Bấy giờ Đức Thế Tôn suy nghó: “Năm trăm vị Trưởng giả này căn lành đã thành thục, có thể lãnh thụ diệu pháp. Nay ta nên nói pháp cho họ phát tâm xuất gia dứt trừ phiền não, được trí tuệ vô lậu.” Nghó xong, Đức Phật liền bay lên ngồi kiết già trên hư không. Các Trưởng giả thấy Phật hiện thần biến, khen là chưa từng có, càng kính trọng tín ngưỡng Phật hơn. Đức Thế Tôn bảo các Trưởng giả: –Các ông lắng nghe! Trong đời có mười sự khổ bức bách. Đó là sinh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ, sầu khổ, oán khổ, khổ thọ, ưu thọ và thống não sinh tử. Mười sự khổ bức bách như vậy làm khổ chúng sinh. Nay các ông có muốn giải thoát chăng? Lại nữa, này các Trưởng giả! Trong đời có mười thứ não hại. Đó là với thân của mình từng làm sự chẳng lợi ích, nay làm sự chẳng lợi ích, sẽ làm sự chẳng lợi ích; với chỗ ta từng yêu thích làm sự chẳng lợi ích, với chỗ ta hiện nay yêu thích làm sự chẳng lợi ích, với chỗ ta sẽ yêu thích làm sự chẳng lợi ích; với chỗ ta từng chẳng ưa làm sự lợi ích, với chỗ ta hiện chẳng ưa làm sự lợi ích, với chỗ ta sẽ chẳng ưa làm sự lợi ích và ở nơi tất cả lỗi chẳng lợi ích sinh lòng não hại. Mười sự não hại ấy các ông có muốn giải thoát chăng? Lại nữa, này các Trưởng giả! Trong đời có mười thứ rừng rậm dị kiến ác kiến. Đó là ngã kiến, chúng sinh kiến, thọ mạng kiến, sổ thủ thú kiến, đoạn kiến, thường kiến, vô tác dụng kiến, vô nhân kiến, bất bình đẳng kiến và tà kiến. Mười rừng rậm ác kiến ấy các ông có muốn giải thoát chăng? Lại nữa, này các Trưởng giả! Trong đời bị mười thứ tên độc lớn bắn trúng. Đó là ái độc, vô minh độc, dục độc, tham độc, quá thất độc, ngu si độc, mạn độc, kiến độc, hữu độc và vô độc. Mười thứ tên độc ấy các ông có muốn giải thoát chăng? Lại nữa, này các Trưởng giả! Trong đời có mười thứ pháp ái căn bản. Đó là do vì ái nên tìm cầu, do vì cầu nên được, do vì được nên có ngã sở hữu, do vì sở hữu nên nắm chặt, do vì nắm chặt nên tham dục, do vì tham dục nên say đắm, do vì say đắm nên bỏn sẻn, do vì bỏn sẻn nên góp chứa, do vì góp chứa nên gìn giữ, do vì gìn giữ nên dùng những khí giới tranh chấp, kiện tụng, chê bai, hủy báng, chia rẽ; những pháp ác bất thiện khổ não nhân đây mà phát khởi. Mười thứ pháp ái căn bản như vậy nay các ông có muốn giải thoát chăng? Lại nữa, này các Trưởng giả! Trong đời có mười thứ tà tánh. Đó là tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà tinh tấn, tà niệm, tà định, tà giải thoát, tà giải thoát tri kiến. Mười thứ tà tánh như vậy nay các ông có muốn giải thoát chăng? Lại nữa, này các Trưởng giả! Trong đời có mười nghiệp đạo bất thiện. Đó là hại mạng, chẳng cho mà lấy, tà dâm, nói dối, nói lời ly gián, nói lời thô ác, nói lời thêu dệt, tham dục, giận thù và tà kiến. Mười nghiệp đạo bất thiện như vậy nay các ông có muốn giải thoát không? Lại nữa, này các Trưởng giả! Trong đời có mười thứ pháp cấu uế nhiễm ô. Đó là bỏn sẻn cấu uế, phá giới cấu uế, giận hờn cấu uế, giải đãi cấu uế, tán loạn cấu uế, ác kiến cấu uế, chẳng tuân lời dạy cấu uế, nghi hoặc cấu uế, bất tín cấu uế và chẳng cung kính cấu uế. Mười thứ cấu uế nhiễm ô như vậy nay các ông có muốn giải thoát không? Lại nữa, này các Trưởng giả! Trong đời có mười việc lưu chuyển trong sinh tử rất đáng sợ. Đó là trói buộc trong lưới bỏn sẻn ganh ghét, che lòa trong màn vô minh, sa vào hố sâu ngu si, trôi chìm trong dòng nước lũ ái dục, trúng tên tà kiến, khói phẫn hận xông lấp, lửa mạnh tham dục đốt cháy, độc dược lỗi lầm làm mê, gai độc năm triền cái ngăn trở và chạy quanh trong đồng hoang đói kém. Mười việc lưu chuyển trong sinh tử rất đáng sợ. Như vậy nay các ông có muốn giải thoát chăng? Năm trăm vị Trưởng giả đồng thanh nhất tâm bạch: –Bạch Thế Tôn! Nay chúng con muốn được giải thoát mười sự khổ bức bách như là sinh, già, bệnh, chết, sầu oán, ưu, khổ, sinh tử não hại, rộng nói như thế… cho đến sự bức bách đi quanh trong đồng hoang đói kém chúng tôi đều muốn được giải thoát tất cả. Đức Phật dạy: –Này các Trưởng giả! Các ông nghe kỹ. Nay ta sẽ nói chánh pháp yếu. Này các Trưởng giả! Nhãn chẳng cầu giải thoát. Vì sao? Vì nhãn không tác, không dụng; nhãn chẳng thể suy nghó được, chẳng thể hay biết được nên nhãn chẳng phải là ta, các ông phải thọ trì như vậy. Cho đến nhó, tỷ, thiệt thân và ý đều chẳng cầu giải thoát. Vì nhó đến ý không tác, không dụng; chẳng thể suy nghó được, chẳng thể hay biết được nên nhó đến ý cũng chẳng phải là ta, các ông phải thọ trì như vậy. Lại nữa, này các Trưởng giả! Cầu giải thoát. Vì sao? Vì sắc không tác, không dụng; không thể suy nghó được, không thể hay biết được. Vì thế nên sắc chẳng phải là ta, các ông phải thọ trì như vậy. Như sắc, năm trần: thanh, hương, vị, xúc và pháp cũng đều chẳng cầu giải thoát. Vì sao? Vì đều không tác, không dụng; không thể suy nghó được, không thể hay biết được, nên đều chẳng phải là ta, các ông phải thọ trì như vậy. Lại nữa, này các Trưởng giả! Sắc uẩn chẳng cầu giải thoát. Vì sao? Vì sắc uẩn không tác, không dụng; không thể suy nghó được, không thể hay biết được, nên sắc uẩn chẳng phải là ta, các ông phải thọ trì như vậy. Bốn uẩn thọ, tưởng, hành và thức cũng đều chẳng cầu giải thoát. Vì chúng không tác, không dụng; không thể suy nghó được, không thể hay biết được nên đều chẳng phải là ta, các ông phải thọ trì như vậy. Lại nữa, này các Trưởng giả! Địa đại chẳng cầu giải thoát. Vì sao? Vì địa đại không tác, không dụng; không suy nghó được, không hay biết được nên địa đại không phải là ta, các ông phải thọ trì như vậy. Thủy đại, hỏa đại, phong đại, không đại và thức đại cũng đều chẳng cầu giải thoát, vì đều không tác, không dụng; không suy nghó được, không hay biết được nên đều chẳng phải là ta, các ông phải thọ trì như vậy. Lại nữa, này các Trưởng giả! Các pháp đều chẳng thật, do phân biệt mà sinh khởi, nó nương theo các duyên, không có năng lực. Nó chuyển đổi theo các duyên. Nếu có các duyên thì giả lập các pháp, nếu không có các duyên thì không có các pháp giả. Này các Trưởng giả! Tất cả các pháp chỉ là giả đặt để ra, trong ấy đều không có sự sinh, sự già, sự chết, sự khởi đầu hay sự tận cùng, chỉ có tịch diệt thanh tịnh, dứt hẳn các loại sinh tử là đáng nương theo. Các ông phải biết như vậy. Này các Trưởng giả! Tất cả các pháp đều chẳng có thật, do phân biệt mà sinh khởi, y cứ theo các duyên, nó yếu kém không năng lực theo các duyên mà chuyển đổi. Nếu có các duyên thì giả lập các pháp. Nếu không có các duyên thì không có pháp giả. Này các Trưởng giả! Tất cả các pháp chỉ là giả lập, trong ấy đều không có sự sinh, già, chết, sự khởi đầu hay sự tận cùng, chỉ có tịch diệt thanh tịnh, dứt hẳn các loại sinh tử là đáng để nương theo. Như thế, này các Trưởng giả! Nếu có phân biệt không thật thì có tác ý giả lập bất chánh. Nếu không phân biệt chẳng thật thì không tác ý giả lập bất chánh. Nếu có tác ý bất chánh thì có vô minh giả lập. Nếu không tác ý bất chánh thì không có vô minh giả lập. Nếu có vô minh thì có các hành giả lập. Nếu không có vô minh thì không có các hành giả lập. Nếu có các hành thì có thức giả lập. Nếu không có các hành thì không có thức giả lập. Nếu có thức giả lập thì có danh sắc giả lập. Nếu không có thức thì không có danh sắc giả lập. Nếu có danh sắc thì có sáu nhập giả lập. Nếu không có danh sắc thì không có sáu nhập giả lập. Nếu có sáu nhập thì có xúc giả lập. Nếu không có sáu nhập thì không có xúc giả lập. Nếu có xúc thì có thọ giả lập. Nếu không có xúc thì không có thọ giả lập. Nếu có thọ thì có ái giả lập. Nếu không có thọ thì không có ái giả lập. Nếu có ái thì có thủ giả lập. Nếu không có ái thì không có thủ giả lập. Nếu có thủ thì có hữu giả lập. Nếu không có thủ thì không có hữu giả lập. Nếu có hữu thì có sinh giả lập. Nếu không hữu thì không có sinh giả lập. Nếu có sinh thì có lão, tử giả lập. Nếu không có sinh thì không có lão, tử giả lập. Này các Trưởng giả! Thế nào là lão? Đó là tình thức tối suy, đầu bạc tóc rụng, da dùn mặt nhăn, thọ mạng tổn giảm, các căn suy kém, hành động bất tiện, đó gọi là già. Thế nào là tử? Đó là diệt mất đổi đời, các uẩn tan rã hư hại, bỏ Chúng đồng phận, đó gọi là chết. Sự già ấy, sự chết ấy hợp lại gọi là lão tử. Này các Trưởng giả! Nếu có sinh thì có giả lão tử. Nếu không có sinh thì không có giả lão tử. Thế nào là sinh? Đó là sinh ấy… đồng sinh khởi, các uẩn xuất hiện và có các căn, xứ hội hợp chúng đồng phận, đó gọi là sinh. Này các Trưởng giả! Nếu có hữu thì có giả sinh. Nếu không có hữu thì không có giả sinh. Thế nào là hữu? Đó là dục hữu, sắc hữu và vô sắc hữu; phước nghiệp, phi phước nghiệp và bất động nghiệp, đó gọi là hữu. Này các Trưởng giả! Nếu có thủ thì có giả hữu. Nếu không có thủ thì không có giả hữu. Thế nào là thủ? Đó là dục thủ, kiến thủ, giới cấm thủ và ngã thủ, đó gọi là thủ. Này các Trưởng giả! Nếu có ái thì có giả thủ. Nếu không có ái thì không có giả thủ. Thế nào là ái? Đó là sắc ái, thanh ái, hương ái, vị ái, xúc ái và pháp ái, đó gọi là ái. Này các Trưởng giả! Nếu có thọ thì có giả ái. Nếu không có thọ thì không có giả ái. Thế nào là thọ? Đó là nhãn xúc sinh ra thọ; nhó xúc, tỷ xúc, thiệt xúc, thân xúc, ý xúc sinh ra thọ, đó gọi là thọ. Này các Trưởng giả! Nếu có xúc thì có giả thọ. Nếu không có xúc thì không có giả thọ. Thế nào là xúc? Đó là nhãn xúc, nhó xúc, tỷ xúc, thiệt xúc, thân xúc và ý xúc, đó gọi là xúc. Này các Trưởng giả! Nếu có sáu xứ thì có giả xúc. Nếu không có sáu nhập thì không có giả xúc. Thế nào là sáu xứ? Đó là nhãn xứ, nhó xứ, tỷ xứ, thiệt xứ, thân xứ và ý xứ, đó là sáu xứ. Này các Trưởng giả! Nếu có danh sắc thì có giả sáu xứ. Nếu không có danh sắc thì không có giả sáu xứ. Thế nào là danh sắc? Đó là thọ tưởng, tư, xúc, tác ý, bốn đại giới và sắc sở tạo của bốn đại giới tạo ra, đó là danh sắc. Này các Trưởng giả! Nếu có thức thì có giả danh sắc. Nếu không có thức thì không có giả danh sắc. Thế nào là thức? Đó là nhãn thức, nhó thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức, đó gọi là thức. Này các Trưởng giả! Nếu có hành thì có giả thức. Nếu không có hành thì không có giả thức. Thế nào là hành? Đó là sắc tư, thanh tư, hương tư, vị tư, xúc tư và pháp tư, đó gọi là hành. Này các Trưởng giả! Nếu có vô minh thì có giả hành. Nếu không có vô minh thì không giả hành. Thế nào là vô minh? Đó là không biết tiền tế, không biết hậu tế; không biết tiền tế, hậu tế, không biết bên trong, không biết bên ngoài; không biết cả trong ngoài, không biết Khổ, không biết Tập, không biết Diệt, không biết Đạo, không biết duyên, không biết duyên khởi, với pháp duyên sinh hoặc đen hoặc trắng; có duyên, không duyên; có quang ảnh, không quang ảnh; có tội, không tội: đáng thân cận, không đáng thân cận; không biết, không thấy, không nhìn rõ, không thấu hiểu, đó gọi là vô minh. Này các Trưởng giả! Nếu có tác ý bất chánh thì có giả lập vô minh. Nếu không tác ý bất chánh thì không có giả lập vô minh. Thế nào gọi là tác ý bất chánh? Đó là quan niệm rằng ở quá khứ, ta có những tên họ nào? Ở những chỗ nào? Thuộc những loài nào? Đến vị lai, ta sẽ có tên họ gì? Ở chỗ nào? Thuộc loài nào? Lại đối với nội thân sinh nhiều nghi hoặc: Thế nào gọi là ta, ta là ai, là có hay là không, là hư hay là thực, là dòng họ, là chỗ nào, là loài nào, xưa ta chỗ nào đến ở chỗ nọ? Phát khởi những tác ý bất chánh như vậy. Từ trong sáu kiến giải tùy sinh ra một kiến giải nào rồi chấp là có ngã, chấp là không ngã, hoặc y nơi ngã mà cho là ngã, hoặc chẳng y nơi ngã mà cho là ngã. Lại hư vọng phát khởi kiến chấp ngã tức thế gian hoặc do duyên phát khởi là thường, là hằng, chẳng chuyển, chẳng biến còn hoài mãi mãi. Đó gọi là tác ý bất chánh. Này các Trưởng giả! Nếu có phân biệt chẳng thật thì có sự giả lập tác ý bất chánh. Nếu không có sự phân biệt chẳng thật thì không có sự giả lập tác ý bất chánh. Thế nào gọi là phân biệt chẳng thật? Đó là ngã, hữu tình, thọ mạng giả, trượng phu, sổ thủ, sinh giả, ý sinh, ma-nạp-bà, tác giả, thọ giả, đó gọi là chẳng thật. Mà lại có phàm phu không học hiểu biết hư vọng phát khởi phân biệt là ngã, là hữu tình, là mạng giả, phân biệt là trượng phu, là sổ thủ, là sinh giả, là ý sinh, là ma-nạp-bà, là tác giả, là thọ giả, đó là phân biệt chẳng thật. Này các Trưởng giả! Nếu có sự phân biệt chẳng thật ấy thì có sự giả lập tác ý bất chánh. Nếu không có sự phân biệt chẳng thật thì không có sự giả lập tác ý bất chánh. Này các Trưởng giả! Nếu có tác ý bất chánh thì có giả lập vô minh. Nếu không tác ý bất chánh thì không có giả lập vô minh. Nếu có vô minh thì có giả lập các hành. Nếu không có vô minh thì không có sự giả lập các hành. Như vậy cho đến nếu có sinh thì có giả lập lão tử. Nếu không có sinh thì không có giả lập lão tử. Bấy giờ Đức Phật dạy: –Này các Trưởng giả! Nay các ông phải biết tất cả các pháp đều do phân biệt chẳng thực phát khởi, đều y theo các duyên, nó yếu kém vô lực theo các duyên mà chuyển. Nếu có các duyên thì có giả pháp, nếu không có các duyên thì không có giả pháp. Này các Trưởng giả! Tất cả các pháp chỉ là giả lập, trong ấy đều không có sự sinh, sự già, sự chết, sự tận cùng và đến cả sự khởi đầu, chỉ có tịch diệt thanh tịnh, dứt hẳn các loài sinh tử đáng để nương theo. Này các Trưởng giả! Ví như ao nước lớn, các loài tôm cá nương nơi sức gì để ở? Các Trưởng giả thưa: –Bạch Thế Tôn! Các tôm cá ấy nương nơi sức nước để ở. Đức Phật dạy: –Đúng như vậy! Này các Trưởng giả! Nước ấy có nghó rằng tôi có sức lực chăng? Các Trưởng giả thưa: –Bạch Thế Tôn! Nước ấy không năng, không lực, nào có suy nghó gì. Đức Phật bảo: –Đúng như vậy! Này các Trưởng giả! Các pháp do phân biệt chẳng thật phát khởi cũng như vậy, chỉ là giả đặt bày, nó không năng không lực, tùy theo các duyên mà chuyển. Có các duyên thì có giả pháp, không có các duyên thì không có giả pháp. Này các Trưởng giả! Các pháp chỉ là giả lập, trong ấy đều không có sự sinh, già, chết, sự tận cùng hay sự khởi đầu, chỉ có tịch diệt thanh tịnh dứt hẳn các loài sinh tử đáng được nương theo. Vì thế nên các ông phải quan sát một cách chân chánh các duyên như vậy chẳng phải là chỗ an ổn, khó thể bảo trì được, rồi sinh tâm sợ sệt, đào tẩu, lánh xa nó. Các ông lại phải quan sát đó là pháp gì, do sợ pháp gì mà đến đây? Lúc các ông chánh quán như vậy thì không pháp để được, không sợ, không bỏ. Tại sao? Tất cả các pháp đều là chẳng thể nắm bắt, vì tất cả thứ cầu mong đều chẳng thể nắm bắt; tất cả pháp là vô ngã vì rời lìa trần cấu; các pháp không chúng sinh vì xa rời ngã; các pháp không thọ mạng vì ra khỏi sinh, già, bệnh, chết, sầu lo, khổ não bức bách; các pháp không sổ thủ thú vì ba đời dứt đoạn; các pháp không danh tự vì tất cả ngôn ngữ không thể nói; các pháp không đắm trước vì không chỗ duyên; các pháp tịch tónh vì là tướng tịch diệt; các pháp phổ biến vì là tánh hư không, các pháp tánh không vì không định thuộc; các pháp không động vì không chỗ nương; các pháp y cứ nơi thực tế vì an trụ nơi thiện trụ tương ưng với không động; các pháp chẳng thể khai xiển vì rời lìa tướng sóng tràn; các pháp chẳng thể hiển thị vì không tướng, không hình, không có quang ảnh, rời lìa các hành; các pháp chẳng phải sở hữu của ngã vì rời ngã sở, các pháp chẳng thể phân biệt vì rời tâm, ý, thức; các pháp không ái tàng vì vượt quá nhãn thức cho đến nhó, tỷ, thiệt thân và ý thức; các pháp chẳng thể cất dời vì rời sinh, trụ, hoại; các pháp không tác, không dụng vì rời tâm, ý, thức; các pháp thuộc nơi duyên vì tánh yếu kém. Này các Trưởng giả! Ta nói về nhãn ấy, là pháp do bốn đại chủng tạo ra, nó là pháp vô thường, không thường trụ, không hằng còn, chẳng bền chắc, yếu kém, mau hư, khó bảo tín được, là chỗ tập hợp của các sự khổ não nhiều bệnh, nhiều tai hại. Nhãn ấy đã như vậy, các ông chớ nên nương theo nó. Với nhó, tỷ, thiệt, thân và ý cũng như vậy, các ông chớ nên nương theo nó. Các ông phải quán sát như vậy. Lại nữa, này các Trưởng giả! Nhãn như đống bọt nước chẳng rờ nắm được; nhãn như bóng nước nổi chẳng dừng lâu; nhãn như sóng nắng do nghiệp cảm ái sinh; nhãn như cây chuối tánh không bền chắc; nhãn như trò ảo thuật từ điên đảo phát khởi; nhãn như cảnh mộng chỉ hư vọng thấy; nhãn như tiếng vang hệ thuộc các duyên; nhãn như bóng sáng do ánh sáng nghiệp ảnh hiện; nhãn như mây nổi tụ hợp tán loạn; nhãn như lóe chớp sát-na bèn dứt; nhãn không có chủ như đất; nhãn không có ngã như nước; nhãn chẳng phải hữu tình như lửa, nhãn chẳng phải thọ mạng như gió; nhãn chẳng phải sổ thủ thú như hư không; nhãn chẳng thực y cứ nơi các đại chủng; nhãn là rỗng không rời ngã và ngã sở; nhãn là vô tri như cỏ cây, đất đá; nhãn không có sự tạo tác do gió cơ quan chuyển vận; nhãn ấy hư giả, là đống mục nhơ; nhãn ấy dối trá, là pháp tan rã, bể hư, dứt mất; nhãn như gò giếng thường bị sự già suy bức ngặt; nhãn không ở yên trọn về nơi mòn, dứt. Này các Trưởng giả! Nhãn có nhiều lỗi, các ông phải quán sát như vậy, cho đến ý và tất cả các pháp cũng phải quán sát như vậy. Lại nữa, này các Trưởng giả! Tất cả các pháp chỉ có vọng dục. Kẻ ngu vì không biết là vọng dục, nên họ lầm gọi là nhãn, lầm gọi là nhó, cho đến lầm gọi là ý. Này các Trưởng giả! Chỉ có vọng dục thôi, mà kẻ ngu vì chẳng biết là vọng dục, nên họ lầm gọi là sắc, là thanh, là hương, vị, xúc, pháp. Này các Trưởng giả! Chỉ có vọng dục thôi, mà kẻ ngu vì chẳng biết là vọng dục, nên họ lầm gọi là sắc uẩn, là thọ uẩn, là tưởng, hành, thức uẩn. Này các Trưởng giả! Chỉ có vọng dục thôi, mà kẻ ngu vì chẳng biết là vọng dục, nên họ lầm gọi là địa đại chủng, là thủy, hỏa, phong, không, thức đại chủng. Này các Trưởng giả! Chỉ có vọng dục thôi, mà kẻ ngu vì chẳng biết là vọng dục, nên họ lầm gọi là hữu vi, là vô vi. Cho đến tất cả các pháp cũng như vậy. Này các Trưởng giả! Nay các ông phải bỏ vọng dục mà hướng đến vô dục. Với vợ con, nhà cửa, của cải, các ông phải biết rõ là hư vọng chẳng nên chấp trước. Vì chẳng chấp trước nên dùng lòng tịnh tín rời bỏ nhà cửa đến nơi không nhà thì sẽ được vô dục. Này các Trưởng giả! Thế nào gọi là xuất gia vô dục? Đó là an trụ nơi giới Biệt giải thoát, nhiếp trì đầy đủ oai nghi đi đứng, rất sợ phạm tội nhỏ, thọ học luật nghi, thành tựu giới uẩn. Này các Trưởng giả! Nếu các ông phụng trì giới được rồi thì đối với sáu căn, sáu cảnh, năm uẩn và sáu đại chủng biết rõ là hư giả đều chẳng chấp trước. Vì chẳng chấp trước nên gọi là pháp xuất gia vô dục. Này các Trưởng giả! Nếu chẳng chấp trước nơi nhãn cho đến thức đại chủng thì chẳng bảo hộ. Chẳng bảo hộ những gì? Đó là nhãn chẳng bảo hộ cho đến thức đại chủng chẳng bảo hộ. Vì chẳng bảo hộ nên không phiền não. Nếu không phiền não thì gọi là nhẹ nhàng. Thế nào là nhẹ nhàng? Đó là không sở kiến. Nếu không sở kiến thì chẳng y cứ nơi vật mà phát khởi lòng sân hại. Do không sân hại thì không tự hại, chẳng nghó hại người, chẳng nghó hại cả mình và người. Vì không hại nên bèn chứng nhập nơi Vô dư đại Niết-bàn. Này các Trưởng giả! Các ông phải biết ai chứng nhập nơi Niết-bàn? Này các Trưởng giả! Nhãn chẳng nhập Niết-bàn. Nhó, tỷ, thiệt, thân và ý chẳng nhập Niết-bàn. Nhưng do nơi nhãn, do nơi nhó, tỷ, thiệt, thân và ý phát khởi vọng chấp, hoặc chấp là ngã, hoặc chấp là ngã sở. Nếu xa rời hẳn tức là Niết-bàn. Xa rời những gì mà là Niết-bàn? Nếu xa rời tham tức là Niết-bàn. Nếu xa rời sân tức là Niết-bàn. Nếu xa rời si tức là Niết-bàn. Nếu rời xa vô trí tức là Niết-bàn. Lại nữa, này các Trưởng giả! Quá khứ vô trí chẳng thể xa rời được, vị lai vô trí chẳng thể xa rời được, hiện tại vô trí chẳng thể xa rời được. Nhưng cần phải nhân nơi xa rời vô trí mà chánh trí phát khởi. Này các Trưởng giả! Thế nào là trí? Đó là tận trí. Thế nào là tận trí? Quá khứ không phải tận trí, vị lai chẳng phải tận trí, hiện tại chẳng phải tận trí, nhưng do xa rời vô trí mà tận trí ấy phát sinh. Trí ấy chẳng xa rời trí. Do xa rời nhãn vô trí mà trí ấy phát sinh. Lại nữa, này các Trưởng giả! Nhãn chẳng phải là ngã sở. Nếu đã chẳng phải ngã sở, thì chẳng nắm lấy. Nếu chẳng nắm lấy tức là tối thượng. Nếu là tối thượng tức là giải thoát. Chỗ nào giải thoát? Ở chỗ chấp ngã mà được giải thoát, ở chỗ chấp chúng sinh, ở chỗ chấp thọ mạng, ở chỗ chấp sổ thủ, ở chỗ chấp đoạn, chấp thường, ở chỗ chấp tất cả, cho đến ở chỗ chấp phân biệt mà được giải thoát. Hành giả nếu có thể ở nơi chấp mà được giải thoát thì chẳng phân biệt. Nếu chẳng phân biệt thì chẳng phải phân biệt, chẳng phải chẳng phân biệt. Thế nào là chẳng phân biệt? Đó là chẳng phân biệt ngã và ngã sở. Lúc bấy giờ hành giả ở nơi tất cả pháp đều ly tán mà chẳng chứa để, bỏ mà chẳng lấy. Vì xả nên tịch diệt giải thoát trừ khiển, tối thắng giải thoát, rời các trói buộc. Ở những chỗ nào gọi là trừ khiển? Ở chỗ tất cả khổ mà được trừ khiển. Các ông nếu cầu ra khỏi thì chớ ở nơi một pháp nào mà sinh lòng nắm lấy. Vì sao? Vì nếu có nắm lấy thì có sợ hãi, nếu không nắm lấy thì không có sợ hãi. Lại nữa, này các Trưởng giả! Nhãn chẳng phải tịch diệt; nhó, tỷ, thiệt, thân và ý chẳng phải tịch diệt, sắc, thanh… chẳng phải tịch diệt, cho đến thức đại chủng chẳng phải tịch diệt. Nhưng nhân nơi nhãn… phát khởi chấp trước; hoặc chấp làm ngã, hoặc chấp làm ngã sở. Nếu xa rời chấp ấy tức là tịch diệt. Xa rời những gì mà được tịch diệt? Đó là xa rời tham mà được tịch diệt, xa rời sân mà được tịch diệt và do xa rời vô trí mà được tịch diệt. Lại nữa, này các Trưởng giả! Quá khứ vô trí chẳng thể xa rời được, vị lai vô trí chẳng thể xa rời được, hiện tại vô trí chẳng thể xa rời được. Nhưng xa rời vô trí mà được trí phát sinh. Này các Trưởng giả! Trí là gì? Đó là tận trí. Tận trí là gì? Quá khứ chẳng phải tận trí, vị lai chẳng phải tận trí, hiện tại chẳng phải tận trí. Nhưng, này các Trưởng giả! Do vì rời vô trí mà trí ấy được phát sinh. Trí ấy chẳng rời xa trí. Nhân vì xa rời nhãn vô trí cho đến thức đại vô trí mà trí ấy được phát sinh. Nhãn... cho đến thức đại ấy chẳng phải là ngã sở. Nếu không phải ngã sở thì chẳng nắm lấy. Nếu chẳng nắm lấy tức là tối thượng. Nếu là tối thượng tức là giải thoát. Chỗ nào giải thoát? Ở chỗ ngã chấp mà được giải thoát. Ở chỗ chấp hữu tình, ở chỗ chấp thọ mạng cho đến ở chỗ chấp phân biệt tất cả mà được giải thoát. Hành giả nếu có thể ở nơi chấp được giải thoát thì chẳng phân biệt. Nếu chẳng phân biệt thì chẳng phải phân biệt, chẳng phải chẳng phân biệt. Thế nào là chẳng phân biệt? Đó là chẳng phân biệt ngã và ngã sở. Lúc bấy giờ hành giả ly tán chẳng chứa, bỏ mà chẳng lấy. Vì bỏ nên tịch diệt giải thoát trừ khiển, tối thắng giải thoát, rời các sự trói buộc. Ở chỗ nào trừ bỏ? Ở chỗ tất cả khổ mà được trừ bỏ. Các ông nếu cầu ra khỏi chớ ở nơi một pháp nào mà sinh lòng chấp trước. Vì sao? Vì nếu có chấp trước thì có sợ hãi, nếu không chấp trước thì không sợ hãi. Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghóa ấy nên nói kệ rằng: Chấp trước sinh sợ hãi Do đây vào ác đạo Thấy có sợ hãi này Trí giả chẳng nên lấy. Các ông tu Thánh đạo Cần phải khéo quan sát Thấy như vậy thì được Khác đấy thì chẳng được. Tất cả chỗ đều không Hư, động chẳng chắc thật Tham dối gạt thế gian Nơi ấy chớ sinh loạn. Ta đã biết pháp Không Rõ các pháp chẳng bền Lặng yên được an lành Chứng diệu lạc vô động. Nếu biết rõ các pháp Đều rỗng không như vậy Thì giải thoát các khổ Và dứt hết tranh luận. Muốn ái thọ tất cả Thì sinh các tai họa Ái thọ nên chấp thủ Chấp thủ sinh các hữu, Do hữu mà có sinh Vì sinh xa tịch diệt Có đủ già, bệnh, chết Các khổ lớn như vậy. Không dục nên không thủ Không thủ nên không hữu Không hữu nên không sinh Già, bệnh, chết cũng không. Tụ tập đồ sinh sống Đều vứt bỏ tất cả Và bỏ vợ con yêu Giữ oai nghi Tỳ-kheo, Chớ tham thân và của Lành thay nhớ tri túc Chớ như Chiên-đà-la Tham, sân tâm hạ tiện, Chớ cậy mình trì giới Khinh hủy người phạm giới Ỷ giới lấn người khác Đây là thật phá giới. Ví như nai bị bắt Hoặc trói hoặc bị giết Người mắc lưới kiêu mạn Bị trói giết cũng vậy. Mạn làm hư tâm lành Lại tổn thiện mình, người Nên chớ khinh phá giới Huống người giữ phạm hạnh. Phải học bậc Đại tiên Thường ở chỗ không nhàn Chớ luyến tiếc thân mạng Hướng tịch tónh giải thoát. Phải xa rời luận bổn Của Thuận thế, Ni-kiền Nên mến pháp thậm thâm Tương ứng với chân không. Mười hai xứ trong ngoài Ta nói tâm làm gốc Kia lại do nghiệp sinh Nghiệp do tư tưởng có. Nhãn sắc đều làm duyên Mà sinh khởi nơi thức Thiếu duyên thì chẳng sinh Ví như lửa do củi. Các pháp sinh như vậy Hòa hợp sinh lẫn nhau Không tạo tác, thọ nhận Hiện tác dụng như huyễn. Tất cả pháp trong ngoài Ta đã biết là không Kẻ ngu điên đảo chấp Cho là ngã, ngã sở. Trong nhãn không hữu tình Các xứ ngoài cũng không Chẳng ngã, chẳng thọ mạng Các pháp đều như thế. Nhãn chẳng nghó giải thoát Nhó, tỷ, thiệt cũng vậy Thân, ý không tác giả Quán các pháp cũng vậy. Ví như trong biển lớn Sóng dậy thành đống bọt Người sáng suốt thấy rõ Biết đống bọt chẳng bền. Thể chất của năm uẩn Người trí biết chẳng bền Nên giải thoát sinh tử Sầu ưu tai hoạnh khổ. Xuất gia trong Phật pháp Biết các pháp như huyễn Chẳng hư thọ tín thí Thì gọi cúng dường Phật. Năm trăm vị Trưởng giả nghe pháp ấy xong, liền xa trần rời cấu, ở trong các pháp được Pháp nhãn thanh tịnh. Như y phục sạch sẽ không màu để vào màu nhuộm thì mau ăn màu, các Trưởng giả ấy mau được Pháp nhãn thanh tịnh cũng vậy. Khi ấy Đức Thế Tôn lại bảo các Trưởng giả: –Này các Trưởng giả! Ta nói nhãn ấy, tánh nó là khổ mà lại cháy phừng. Những gì cháy phừng? Đó là lửa tham, lửa sân, lửa si cháy phừng, lửa sinh, già, bệnh, chết, sầu, lo, khổ sở, các pháp bất an cháy phừng. Như thế, này các Trưởng giả! Ta nói tự tánh của nhó, tỷ, thiệt thân và ý là khổ mà lại đang bốc cháy. Những gì cháy phừng? Đó là lửa tham, lửa sân, lửa si cháy phừng; lửa sinh, già, bệnh, chết, sầu, lo, khổ não cùng các pháp bất an cháy phừng. Này các Trưởng giả! Ta nói sắc ấy, tánh nó là khổ mà lại cháy phừng. Những gì cháy phừng? Đó là lửa tham, lửa sân, lửa si cháy phừng. Cho đến thanh, hương, vị, xúc, pháp lại cũng như vậy. Này các Trưởng giả! Ta nói sắc uẩn, tánh nó là khổ mà lại cháy phừng. Những gì cháy phừng? Đó là lửa tham, lửa sân, lửa si cháy phừng. Cho đến thọ, tưởng, hành thức uẩn cũng lại như thế. Này các Trưởng giả! Ta nói Địa giới, tánh nó là khổ mà lại cháy phừng. Những gì cháy phừng? Đó là lửa tham, lửa sân, lửa si cháy phừng. Như thế cho đến thủy, hỏa, phong, không, thức giới, tự tánh là khổ mà lại cháy phừng. Những gì cháy phừng? Đó là lửa tham, lửa sân, lửa si, sinh, già, bệnh, chết, sầu lo, khổ não cùng các pháp bất an cháy phừng. Vì thế nên, này các Trưởng giả! Nay ta chẳng chấp nhãn, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý, các ông cũng phải học theo như vậy. Nay ta chẳng chấp sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, cho đến chẳng chấp các sắc uẩn…, các địa giới…, đời này đời sau, các ông cũng phải học theo như vậy. Này các Trưởng giả! Ở nơi nhãn, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý, nếu các ông chẳng chấp trước thì chẳng nương nơi nhãn mà an trụ, chẳng nương nơi nhó, tỷ, thiệt thân, ý mà an trụ. Lúc các ông chẳng nương nơi sắc, thanh, hương, vị, xúc pháp thì các ông chẳng nương nơi tất cả pháp mà an trụ. Lúc các ông chẳng nương nơi sắc uẩn cho đến thức uẩn mà an trụ, thì các ông chẳng an trụ nơi sắc uẩn cho đến thức uẩn. Lúc các ông chẳng nương nơi địa, thủy, hỏa, phong, không, thức giới thì các ông chẳng an trụ nơi địa giới cho đến thức giới. Các ông chẳng nương nơi đời này, đời sau và tất cả thế gian để an trụ, lúc các ông chẳng nắm lấy tất cả pháp như vậy thì các ông chẳng nương nơi tất cả pháp để an trụ. Nếu các ông có thể chẳng nương nơi tất cả pháp để an trụ, thì gọi là chẳng phải sẽ có, chẳng phải chẳng sẽ có. Các ông nếu rõ biết chẳng phải sẽ có, chẳng phải chẳng sẽ có ấy, ta gọi các ông đã giải thoát những khổ sinh, già, bệnh, chết. Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghóa ấy mà nói kệ rằng: Lửa sinh tử phừng phực Đốt cháy các thế gian Bị khổ không thể cứu Hư mất nơi Thánh đạo. Như Lai chiếu thế gian Lâu mới hiện một lần Không sát-na xa rời Phải khởi tinh tấn vững. Tu tập các chánh hạnh Tuệ quán phải xét biết Như tuệ quán sẽ được Khác đây thì chẳng được. Nếu tu tập nơi đây Phải biết tất cả không Thấu rõ pháp không rồi Tâm không, Bồ-đề không. Tham, sân cùng với si Ba thứ lửa độc ấy Đốt người ngu thế gian Ngủ mãi chẳng hay biết. Sinh, già, bệnh và chết Sầu ưu các khổ não Biết thế gian khổ rồi Chớ an trụ các pháp. Khi ấy, năm trăm vị Trưởng giả thưa: –Bạch Thế Tôn! Nay chúng con muốn ở chỗ Đức Phật xuất gia thọ giới cụ túc, tu hạnh thanh tịnh chẳng biết có được Thế Tôn thương xót hứa cho chăng? Đức Phật bảo: –Lành thay! Tỳ-kheo! Họ liền được gọi là xuất gia đủ các giới rồi thành tựu pháp Tỳ-kheo. Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghóa ấy mà nói kệ rằng: Thọ nhận ca-sa rồi Râu tóc tự nhiên rụng Tất cả đều cầm bát Liền đó thành La-hán. Biết được La-hán rồi Ở trước chúng Tỳ-kheo Và đối hàng chư Thiên Thế Tôn tự tuyên nói Thuở xưa giúp ích đời Rộng làm sự bố thí Tùy thọ sinh chốn nào Thường được nhiều an vui. Nay họ được gặp Phật Lại có lòng tịnh tín Do lòng họ thanh tịnh Nên Phật nói diệu pháp Nghe pháp được La-hán Lìa hẳn nơi ngã kiến Chứng pháp không hiện tiền Giải thoát nơi sinh tử. KINH ĐẠI BẢO TÍCH <卷 id="86423723">QUYỂN 36 Hán dịch: Đời Đại Đường, Tam tạng Pháp sư Huyền Trang. <詞 id="86423724">Pháp hội 12: BỒ-TÁT TẠNG (Phần 2) <章 id="86423725">Phẩm 2: THỌ KÝ TRỜI KIM-TỲ-LA Ở giữa đường, Đức Thế Tôn làm cho các Trưởng giả chứng nhập Thánh quả, dùng oai thế Như Lai mà vào thành Vương xá, bốn chúng vây quanh oai nghi nghiêm chỉnh. Lúc ấy, trong hàng chư Thiên, thần Dạ-xoa thủ hộ thành Vương xá có Đại Thiện thần vương hiệu là Kim-tỳ-la nghó rằng: “Nay Đức Như Lai hình tướng rất lạ, là Bậc Tối Thắng trong thế gian khó được gặp, đáng được sự cúng dường của trời, của người. Chúng ta hôm nay phải mang những món cúng thượng diệu dâng lên Đức Như Lai.” Suy nghó xong, Kim-tỳ-la vương đem thức ăn uống tối thắng đầy đủ hương vị diệu sắc trọn vẹn dâng lên Đức Phật. Đức Thế Tôn thương sự hiến dâng ấy nên nạp thọ. Lúc ấy, sáu muôn tám ngàn vị Đại Dược-xoa của Kim-tỳ-la vương thống lãnh ở trên hư không đều sinh lòng tùy hỷ, dùng âm thanh thanh viễn xướng rằng: –Lành thay! Lành thay! Kim-tỳ-la vương bảo chúng Dạ-xoa: –Ta đã dâng lên Đức Phật những món cúng vi diệu. Các ngươi cũng nên đem món cúng dường hiến cho chư Tỳ-kheo Tăng. Do đó các ngươi sẽ được lợi ích an lạc mãi mãi. Chúng Dạ-xoa vâng lời truyền dạy của Thần vương đem món ăn thượng vị cúng dâng cho chư Tỳ-kheo Tăng. Chư Tăng xót thương nhận lấy các thức cúng dường. Bấy giờ Đức Thế Tôn vì khất thực mà vào thành Vương xá. Khất thực xong, Đức Phật trở về chỗ cũ. Có vô lượng ngàn chúng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, cùng vô lượng ngàn Nhân phi nhân, vô lượng câu-chi na-do-tha trăm ngàn chúng sinh khác đồng tùy tùng theo sau Đức Phật. Bấy giờ Đức Như Lai về đến một vùng đất rộng rãi tối thắng, trải tọa cụ rồi ngồi như thường ngày. Kim-tỳ-la vương và bộ thuộc đem những hoa trời, hoa Mạn-đà-la, hoa Mạn-thù-sa, hoa Ưu-bát-la, hoa Bát-đầu-ma, hoa Câu-vật-đầu, hoa Phân-đà-lợi, cũng đem các thứ hương bột cõi trời rải trên Đức Phật để cúng dường rồi chắp tay kính lễ Đức Phật. Lễ Phật xong, chư Thần vương đứng yên trước Đức Phật. Đức Phật biết rõ tâm niệm của Kim-tỳ-la vương và bộ thuộc nên liền mỉm cười. Theo pháp thường của chư Phật mỗi khi mỉm cười thì từ diện môn phóng ra nhiều thứ ánh sáng có vô lượng màu sắc, như là màu sáng xanh, vàng, đỏ, trắng, màu sáng hồng, sáng vàng, sáng bạc, sáng màu thủy tinh. Ánh sáng ấy chiếu khắp vô lượng, vô biên tất cả thế giới che khuất cả ánh sáng mặt trời, mặt trăng, dưới chiếu thấu địa ngục làm cho chúng sinh địa ngục vui vẻ, trên chiếu suốt trời Phạm thế. Công việc chiếu soi đã xong, các ánh sáng ấy quay trở lại vòng quanh Đức Phật bảy lần, rồi hoặc thu vào đảnh Đức Phật, hoặc thu vào hai vai, hai gối Đức Phật. Theo pháp thường của chư Phật, lúc thọ ký cho chúng sinh địa ngục thì ánh sáng thu vào dưới hai bàn chân Đức Phật, nếu thọ ký cho súc sinh thì quang minh thu vào lưng Đức Phật, nếu thọ ký cho loài quỷ thì quang minh thu vào trước bụng Đức Phật, nếu thọ ký cho loài người thì quang minh thu vào hông bên trái của Đức Phật, nếu thọ ký cho chúng trời thì quang minh thu vào hông bên phải của Đức Phật, nếu thọ ký cho bậc Thanh văn thì quang minh thu vào hai gối Đức Phật, nếu thọ ký cho bậc Độc giác thì quang minh thu vào hai vai Đức Phật, nếu lúc thọ ký cho các vị Đại Bồ-tát sẽ thành Vô thượng Chánh giác thì quang minh thu vào đỉnh đầu Đức Phật. Trưởng lão A-nan-đà thấy Đức Thế Tôn mỉm cười phóng quang, liền trịch y bảy điều bên vai phải, gối phải chấm đất, chắp tay lễ chân Đức Phật rồi nói kệ bạch Phật: Đấng soi sáng thế gian Cớ gì phóng quang minh? Đấng lợi ích thế gian Cớ gì hiện mỉm cười? Nay ai gieo giống Thánh Làm nhân Phật Bồ-đề Nay thọ ký cho ai? Ai đáng được giải thoát? Đại Đạo sư hùng mãnh Chẳng vô cớ mà cười Nguyện Mâu-ni sẽ nói Duyên cớ phóng quang minh. Đức Thế Tôn liền nói kệ đáp ngài A-nan: Kim-tỳ-la tịnh tâm Dâng những thức cúng dường Cho Đấng cứu thế gian Nên ta hiện mỉm cười. Báo Thần vương hết rồi Sinh lên trời Đao-lợi Hưởng mãn phước trời ấy Sinh lên trời Dạ-ma Rồi lại sinh Đâu-suất Hưởng báo vui cõi trời, Mãn phước sinh loài người Làm bậc vua trí tuệ Cai quản vua bốn châu Tự tại Chuyển luân vương, Mãn báo nhân vương rồi Sinh lên trời Phạm thế Trên trời và nhân gian Luôn qua lại thẳng ngớt, Thường hưởng thụ diệu lạc Hai mươi câu-chi kiếp Rốt sau bỏ ngôi vua Xuất gia cầu Phật đạo Đủ các thiện duyên rồi Thành Vô thượng Bồ-đề. Ba muôn chúng Dược-xoa Do dâng cúng Đức Phật Bỏ báo Dược-xoa xong Sinh lên trời Đao-lợi, Sau gặp Phật Di-lặc Được quả A-la-hán Đã nhận ân hóa đạo Mỗi vị liền cúng Phật. Cả chúng Dược-xoa kia Vì an trụ Bồ-đề Do nơi căn lành ấy Chẳng sinh các ác đạo. Hoặc có ngàn Dược-xoa Thường cúng dường chư Phật Cầu Vô thượng Bồ-đề Để lợi ích chúng sinh, Hoặc hai ngàn, ba ngàn Cầm hương hoa, vòng hoa Sẽ cúng dường chư Phật Để được Phật Bồ-đề, Hoặc có nhiều câu-chi Sẽ cúng dường chư Phật Tu tự tánh thanh tịnh Sau chứng đại Bồ-đề. Kim-tỳ-la Thần vương Đủ sức đại thần thông Cũng phát nguyện rộng lớn: Tôi sẽ thành Chánh Giác. Từng cúng đường chư Phật Phát đủ những hoằng thệ Nay lại cúng dường ta Hướng đến đạo Vô thượng. Do sức căn lành ấy Rời bỏ các ác đạo Sẽ gặp Phật Di-lặc Lại dâng nhiều lọng báu, Dâng nhiều lọng báu rồi Lại dâng nhiều y báu, Dâng nhiều y phục rồi Liền bỏ nhà xuất gia Tròn đủ năm trăm năm Chuyên tu hành phạm hạnh Cầu Bồ-đề tối thượng Để lợi ích chúng sinh, Vì thành tựu nguyện ấy Nên tu hành sáu độ Suốt hằng hà sa kiếp Thường chuyên cần chẳng nghỉ. A-nan, ông phải biết Vì thị hiện mà nói Hạnh thù thắng của họ Lại thêm quá số trên Như đã nói ví dụ Số kiếp hằng hà sa Được thấy chư Phật kia Sẽ cúng dường to lớn. Lạ thay! Trí thắng diệu Lạ thay! Tâm vô thượng Các chúng Đại Đạo sư Danh xưng chẳng gọi được Sau sẽ thành Chánh giác Tất cả chúng tôn ngưỡng Hiệu Ngài là Y Vương Vang khắp mười phương cõi. Bảy mươi câu-chi năm Thuyết pháp độ chúng sinh Đấng Lưỡng Túc Tôn ấy Lâu sẽ nhập tịch diệt Thuyết pháp hai mươi hội Điều phục tâm chúng sinh Một đại hội tối hậu Trọn hai trăm ức năm. Những đại hội đã nói Độ vô lượng Thanh văn Như số lượng Thanh văn Chúng Bồ-tát cũng vậy. Lợi ích chúng sinh xong Phật mới nhập Niết-bàn Chánh pháp trụ thế gian Trải qua trăm ngàn năm. Suốt trong năm trăm kiếp Tỳ-kheo ấy thành Phật Nơi mỗi mỗi kiếp ấy Ngàn Đức Phật xuất hiện. Những người có trí tuệ Suy gẫm pháp thủy quán Phải phát tâm dũng mãnh Hành đa văn chánh lý, Xa rời phi chánh lý Thường tu pháp chánh lý Phải tu tập đa văn Do đây lớn trí tuệ. Bốn pháp nghóa căn bản Tế độ các Bồ-tát Là thí, giới, văn, xả Đường Bồ-đề hiền thiện Vì chúng nói pháp này Thừa vô thượng tối thắng Khai diễn đạo Thanh văn Khéo dứt các lưới nghi. Những ai có thỉnh hỏi Nay ta đều hứa khả Đấng Chiếu thế khó gặp Hay nói pháp thâm diệu. Kim-tỳ-la vương ở trước Đức Phật được nghe thọ ký hớn hở vui mừng được sự chưa từng có, nghó rằng: “Nay Đức Thế Tôn sẽ lên núi Linh thứu. Ta phải vun trồng chút ít căn lành nơi Đức Phật.” Suy nghó xong, Kim-tỳ-la vương bảo với chúng thuộc hạ: –Các ngươi nên biết! Đức Như Lai sẽ lên núi Linh thứu. Các ngươi phải phát tâm dũng mãnh tùy theo khả năng của mình mà sắm sửa cúng dường. Liền đó Thần vương cùng thuộc hạ rời thành Vương xá thẳng đến núi Linh thứu, toàn con đường chặng giữa đều dọn hết cỏ rác, gai góc, ngói gạch, sỏi đá, khắp nơi sạch sẽ như mặt gương sáng. Các vị ấy lại rưới nước thơm rồi lót thảm tốt cùng rải hoa đẹp khắp con đường, xông hương thơm dọc theo bên dường và dựng những tràng phan, treo những bảo cái trên cây, giăng những lụa màu trên hư không làm lưới che phủ ở trên con đường, rồi lại trổi những âm nhạc trời trước sau đều đầy đủ. Con đường ấy rất rộng bằng suốt một lằn tên. Khắp nơi theo hai bên đường che rợp với những loài hoa mọc dưới nước như các thứ sen xanh, vàng, đỏ, trắng, xen trong hoa sen có những chim đẹp như uyên ương. Dùng lụa màu dệt bằng chỉ vàng ròng trải lên mặt đường, trên đó lại trải lưới bảy báu. Kim-tỳ-la vương trần thiết trang nghiêm con đường Đức Phật sẽ đi qua xong, liền tự biến hóa thân mình rất cao lớn, cùng các thuộc hớn hở vui mừng phát những tâm thù thắng như tâm sướng thích, tâm điều thiện, tâm nhu nhuyễn, tâm thanh tịnh, tâm ly cái, tâm sung mỹ, tâm quy y Phật, tâm quy y Pháp, tâm quy y Tăng, tâm Bồ-đề bất động, tâm không thoái chuyển, tâm không gì bằng, tâm không gì sánh bằng, tâm vượt khỏi ba cõi, tâm đại Từ, tâm đại Bi đối với tất cả chúng sinh, tâm đại Hỷ, tâm đại Xả, tâm Phật pháp khí, tâm kiên, tâm cố, tâm không thể hoại, tâm không hủ bại, tâm rời bỏ bậc Thanh văn và Độc giác, tâm thành lập Bồ-tát địa. Phát khởi và an trụ trong những tâm nguyện ấy xong, các vị đến chỗ Đức Như Lai đảnh lễ chân Đức Phật, đi nhiễu ba vòng, đứng qua một bên chắp tay nói kệ bạch Đức Phật rằng: Con đã vì Thế Tôn Làm món cúng vô thượng Phật là Đấng Tôn Quý Diễn nói pháp vô thượng Mười Lực đã thành tựu An trụ các vô úy Những sự lợi chúng sinh Như Đạo Sư đã làm. Đủ ba mươi hai tướng Tám mươi tùy hình tốt Đời nhờ như mặt trời Chiếu sáng khắp thế gian, Chuyển vi diệu pháp luân Mười hai hành tối thắng Tuyên bố pháp sâu diệu Lợi ích các chúng sinh, Hiển thị các thần biến Như nghi thức của Phật Vì nhiều câu-chi chúng Mà làm sự lợi ích. Vị lai chư Đại Hùng Giúp đời như mặt trời Tuyên dương Thánh pháp ấy Giác ngộ thành Vô thượng, Làm nhà, làm thuyền bè Làm đường, làm nẻo về Vì chúng sinh mù tối Bố thí cho Tuệ nhãn. Năm loài các chúng sinh Phật sẽ làm chỗ dựa Giải thoát các sự khổ Như chư Phật đã lìa. Phật là Lưỡng Túc Tôn Là trời trong các trời Thiên đế, chúng Long thần A-tu-la thờ kính Soạn sửa đồ cúng dường Trong đời không gì bằng. Phật tạo nghiệp thượng diệu Không có ai tương tự Như Pháp Vương Thế Tôn Đầy đủ ba mươi hai Phước tướng rất vi diệu Đời không ai sánh bằng. Đức Thế Tôn vì Kim-tỳ-la vương mà nói kệ rằng: Các người cúng dường Phật Gieo nhân pháp tối thượng Thù thắng trong hữu tình Đắc Bồ-đề không xa. Cúng dường Đấng Thế Tôn Chiếu sáng đời nương theo Bậc đáng được cúng dường Của Trời, Rồng và Người Ngộ Bồ-đề thượng diệu Ngồi đạo thọ tối thắng Dẹp trừ các ác ma Vì chúng sinh thuyết pháp. Lúc bấy giờ Đức Như Lai ở giữa đại chúng dùng đại oai đức, đại thần thông, đại tông thế và các thứ biến hóa đại tự tại mà phóng đại quang minh chấn động cả đại địa, hoa sen lớn mưa xuống khắp hư không, trăm ngàn na-do-tha câu-chi nhạc trời đồng hòa tấu. Cả đại chúng đều hoan hỷ chưa từng có, thấy thần biến ấy lại càng kính ngưỡng Đức Phật hơn. Đức Như Lai chân bước trên hoa sen lớn như bánh xe theo đường đã trang nghiêm mà đến núi Linh thứu. Đến núi rồi, Đức Phật bảo Trưởng lão A-nan-đà: –Ông vì Đức Như Lai mà sắp đặt bảo tòa thù thắng, đó là tòa tối thắng, là pháp tòa vi diệu, là tòa vượt hơn hết tất cả ba cõi; là tòa ngồi của Phật, Bậc Tôn Thắng, là tòa ngồi của Như Lai. Ta sẽ ngồi trên ấy, vì muốn lợi ích cho tất cả chúng sinh mà nói kinh Đại thừa về chỗ nương tựa của Bồ-tát hạnh tên là Vi Diệu Cát Tường Đại Bồ-tát Tạng. Kinh ấy có thể làm cho núi nghi ngờ của tất cả chúng sinh lở sụp. Kinh ấy có thể làm cho lưới nghi ngờ của tất cả chúng sinh đứt tuyệt. Kinh ấy có thể làm cho gốc nghi ngờ của tất cả chúng sinh chẳng mọc được. Vì kinh Đại thừa ấy lợi ích an lạc các chúng sinh, ta vì thương xót đại chúng và hàng trời, người nên mới mở dạy. Bấy giờ, Trưởng lão A-nan-đà y theo lời Đức Phật mà sắp đặt pháp tọa. Trong đại chúng, sáu mươi tám câu-chi Thiên tử tự cởi thượng y mà trải trên pháp tòa. Đức Phật như thường lệ ngồi lên pháp tòa nhìn các Thiên tử mà nói kệ rằng: Chư Thiên trải y phục Tối thắng thượng vi diệu Đại Đạo Sư cứu thế Ngồi yên trên pháp tòa, Đến bờ kia các pháp Như Lai lên ngồi rồi Đại địa động sáu cách Khiến chúng đều vui mừng, Phóng quang chiếu Phật độ Và chói các núi cao Thế Tôn hiện thần thông Tế độ người ưa pháp. Trời, Rồng và chúng sanh Cưu-bàn-trà, Ngạ quỷ Những chúng Bố-đát-na Thấy nhau không chướng cách, Trăm ngàn na-do-tha Câu-chi các Thiên tử Thấy Phật phóng quang minh Rất là khó gặp gỡ. Vua Tần-bà-sa-la Cùng các quan vây quanh Đến chỗ Đức Thế Tôn Như Lai đời nương tựa. Phật biết Trời, Rồng, Người Đại chúng đều ngồi xong Vì lợi ích chúng sinh Nhìn ngó khắp bốn phương Tuyên cáo người có nghi Nên hỏi nơi Thế Tôn Phật dìu dắt chúng sinh Lưới nghi khéo dứt trừ. Lúc ấy bao nhiêu chúng sinh trong cõi đại thiên đều đến hội họp để nghe pháp. Vì nghe pháp nên họ đều dứt lặng ngoại duyên, tâm an trụ một cảnh. Đức Phật bảo Trưởng lão Đại Mục-kiền-liên: –Ông hãy xem hôm nay có Tỳ-kheo nào ở xa chưa về dự hội thì nên mời về. Bấy giờ Tôn giả Đại Ca-diếp đang ở phía Nam núi Tuyết. Trưởng lão Đại Mục-kiền-liên đã biết nên dùng thần thông đến thưa: –Hôm nay Đức Như Lai ở tại núi Linh thứu vì đại chúng chư Thiên, Ma vương, Phạm vương, Sa-môn, Bà-la-môn, A-tu-la mà nói diệu pháp. Đức Thế Tôn đang chờ, Tôn giả nên mau về, chớ để chúng tôi phải chướng ngại sự nghe pháp. Trưởng lão Đại Ca-diếp bảo Tôn giả Đại Mục-kiền-liên: –Tôn giả về trước, tôi sẽ đến sau. Nói xong, Đại Ca-diếp chẳng đứng dậy, hiện thần thông lực vào thành Vương xá dẫn đạo bốn bộ chúng cùng đến núi Linh thứu đảnh lễ chân Đức Phật rồi ngồi gần bên Đức Phật. Tôn giả Đại Mục-kiền-liên dùng thần thông lực về đến chỗ Đức Phật đã thấy Đại Ca-diếp đã ngồi ở đó rồi liền thưa: –Thưa Tôn giả Đại Ca-diếp! Tôn giả đã thành tựu đại thần thông lực rất mau chóng, có thể chẳng cần đứng dậy rời chỗ ngồi mà hiện thần thông biến hóa như vậy. Trưởng lão Đại Ca-diếp nói: –Đức Thế Tôn khen Tôn giả là Thần thông đệ nhất, nay tôi hiện chút pháp mọn có gì đáng kể.  <章 id="86423726">Phẩm 3: THÍ NGHIỆM BỒ-TÁT Lúc bấy giờ Trưởng lão Xá-lợi-phất đứng dậy trịch y Uất-đa-la-tăng bên vai phải, gối phải chấm đất chắp tay cung kính bạch: –Bạch Thế Tôn! Nay con có chút việc để hỏi. Mong Như Lai, Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác xót thương hứa khả vì con mà giải thuyết. Đức Phật bảo Trưởng lão Xá-lợi-phất: –Cho phép ông hỏi. Nay Đức Như Lai sẽ giải thuyết khiến lòng ông vui mừng. Xá-lợi-phất thưa: –Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát thành tựu mấy pháp mà thân nghiệp không lỗi, ngữ nghiệp không lỗi, ý nghiệp không lỗi. Thành tựu mấy pháp mà thân nghiệp thanh tịnh, ngữ nghiệp thanh tịnh, ý nghiệp thanh tịnh. Thành tựu mấy pháp mà thân nghiệp bất động, ngữ nghiệp bất động, ý nghiệp bất động, chẳng bị thiên ma và chúng ma quân lay chuyển. Từ lúc đầu mới phát tâm Nhất thiết trí tu hành chánh hạnh, từng bậc tăng tiến, thiện xảo phương tiện vì tất cả chúng sinh mà làm Đạo sư thù thắng, Đạo sư cùng khắp, làm đuốc sáng lớn, làm cây thang lớn, làm cầu, làm thuyền, làm người tế độ, làm bờ kia, làm nhà, làm người cứu vớt, làm chỗ về, làm chỗ đến, mà vẫn có thể chẳng bỏ tâm Nhất thiết trí? Xá-lợi-phất muốn tuyên lại nghóa ấy nên nói kệ bạch Phật: Bồ-tát nghóa thế nào Mà ở đại Bồ-đề? Sao gọi đức và pháp Do đó ngộ vô thượng? Lại làm những hạnh gì Lợi ích các chúng sinh? Đã tu tập pháp gì Thành Phật, Nhân Trung Tôn? Phục ác ma thế nào Trụ Bồ-đề tối thắng Chấn động câu-chi cõi Ngộ Vô thượng Chánh giác? Bồ-tát là nghóa gì Câu ấy là thế nào? Thế nào là Bồ-đề Và Phật pháp vô thượng? Thế nào đi trong đời Lợi ích các chúng sinh Chẳng nhiễm như hoa sen Giải thoát câu-chi chúng? Thế nào là Trời, Rồng Và phi nhân cúng dường? Những điều con thưa hỏi Xin Từ bi giải thuyết. Đức Phật bảo Trưởng Lão Xá-lợi-phất: –Lành thay! Lành thay! Nay ta sẽ phân biệt giải thuyết. Này Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát thành tựu một pháp thì có thể nhiếp thọ những pháp của ông đã hỏi và vô lượng, vô biên Phật pháp khác. Thế nào là một pháp? Đó là Bồ-đề tâm và tín nguyện đầy đủ. Này Xá-lợi-phất! Đó gọi là Đại Bồ-tát thành tựu một pháp thì có thể nhiếp thọ vô biên Phật pháp. Xá-lợi-phất thưa: –Bạch Thế Tôn! Thế nào là tín nguyện đầy đủ. Lại do nghóa gì mà gọi là Bồ-đề tâm. Đức Phật dạy: –Này Xá-lợi-phất! Tín nguyện đầy đủ đó là vì bền chắc chẳng thể phá hoại được, là nói vững vàng chẳng thể động được. Nói chẳng động là vì không đánh mất. Vì không đánh mất thì có thể khéo an trụ. Vì khéo an trụ nên chẳng thoái chuyển. Vì chẳng thoái chuyển nên quan sát chúng sinh. Vì quan sát chúng sinh nên gốc đại Bi tăng trưởng. Vì gốc đại Bi tăng trưởng nên chẳng mỏi mệt. Vì chẳng mỏi mệt nên thành thục chúng sinh. Vì thành thục chúng sinh nên biết tự vui. Vì biết tự vui nên không hy vọng. Vì không hy vọng nên chẳng nhiễm trước mọi thứ. Vì chẳng nhiễm trước nên làm chỗ dựa cho chúng sinh. Vì làm chỗ dựa cho chúng sinh nên săn sóc các chúng sinh hạ liệt. Vì săn sóc chúng sinh hạ liệt nên làm người cứu tế. Vì làm người cứu tế nên làm chốn nương về. Vì làm chốn nương về nên chẳng vội gấp. Vì chẳng vội gấp nên khéo quan sát. Vì khéo quan sát nên không oán ghét. Vì không oán ghét nên khéo điều nhiếp tín nguyện. Vì khéo điều nhiếp tín nguyện nên không chỗ để còn. Vì không chỗ để còn nên khéo thanh tịnh. Vì khéo thanh tịnh nên trắng tốt đẹp. Vì trắng tốt đẹp nên rời cấu uế bên trong. Vì rời cấu bên trong nên khéo thanh tịnh bên ngoài. Này Xá-lợi-phất! Bền chắc, khó phá hoại cho đến bên trong thì rời cấu uế, bên ngoài thì khéo thanh tịnh như vậy, đó gọi là tín nguyện đầy đủ. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Bồ-đề tâm có tướng mạo gì? Này Xá-lợi-phất! Bồ-đề tâm không có lỗi lầm vì chẳng bị tất cả phiền não làm ô nhiễm. Bồ-đề tâm ấy nối nhau chẳng tuyệt vì chẳng chứng quả trong các thừa khác. Bồ-đề tâm ấy bền chắc khó động chuyển vì chẳng bị dị luận lôi kéo lấn đoạt. Bồ-đề tâm ấy chẳng thể phá hoại vì tất cả Thiên ma chẳng khuynh đảo được. Bồ-đề tâm ấy thường hằng chẳng biến đổi vì là chỗ chứa nhóm tư lương căn lành. Bồ-đề tâm ấy chẳng lay động được vì quyết có thể độc chứng các Phật pháp. Bồ-đề tâm ấy khéo an trụ vì khéo an trụ nơi bậc Bồ-tát. Bồ-đề tâm ấy chẳng gián đoạn vì chẳng bị các pháp khác đối trị. Bồ-đề tâm ấy như kim cang vì khéo có thể xuyên suốt Phật pháp sâu xa. Bồ-đề tâm ấy thắng thiện bình đẳng vì đối với các thứ dục giải của các loài chúng sinh không gì chẳng đồng đều. Bồ-đề tâm ấy tối thắng thanh tịnh vì tánh nó chẳng ô nhiễm. Bồ-đề tâm ấy không có trần cấu vì phát sinh trí tuệ sáng. Bồ-đề tâm ấy rộng rãi vô ngại vì gồm nhận tánh của tất cả chúng sinh. Bồ-đề tâm ấy rộng lớn vô biên vì như hư không. Bồ-đề tâm ấy không có chướng ngại vì khiến trí vô ngại đi khắp tất cả vô duyên đại Bi chẳng đoạn tuyệt. Bồ-đề tâm ấy đáng nên thân cận vì được hàng trí giả khen ngợi. Bồ-đề tâm ấy giống như hạt giống vì có thể sinh tất cả các Phật pháp. Bồ-đề tâm ấy nó hay gầy dựng vì hay gầy dựng tất cả sự hỷ lạc. Bồ-đề tâm ấy phát sinh các nguyện vì do nơi giới thanh tịnh. Bồ-đề tâm ấy khó phá diệt được vì do an trụ nơi nhẫn. Bồ-đề tâm ấy chẳng bị chế phục vì do chánh tinh tấn. Bồ-đề tâm ấy rất tột tịch tónh vì y cứ tất cả đại thiền định. Bồ-đề tâm ấy không có kém thiếu vì tuệ tư lương khéo viên mãn. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Bồ-đề tâm ấy tức là căn bản giới, định, tuệ, giải thoát và giải thoát tri kiến của Đức Như Lai. Bồ-đề tâm ấy lại là căn bản mười Lực, bốn Vô úy, mười tám pháp Bất cộng của Đức Như Lai. Xá-lợi-phất thưa: –Bồ-đề tâm ấy là nói vì tâm ấy dùng Bồ-đề làm sinh thể nên gọi là Bồ-đề tâm. Đức Phật dạy: –Đúng vậy! Này Xá-lợi-phất! Vì các Đại Bồ-tát thành tín, tín nguyện Bồ-đề tâm nên gọi là Bồ-đề Tát-đỏa, là Quảng đại Tát-đỏa, là Cực diệu Tát-đỏa, là Thắng xuất nhất thiết tam giới Tát-đỏa, cũng gọi là thân nghiệp không lỗi, ngữ nghiệp không lỗi, ý nghiệp không lỗi, thân nghiệp thanh tịnh, ngữ nghiệp thanh tịnh, ý nghiệp thanh tịnh, thân nghiệp vô động, ngữ nghiệp vô động, ý nghiệp vô động. Vì Đại Bồ-tát có đủ các nghiệp thanh tịnh như vậy nên chẳng bị Thiên ma và chúng ma quân phá rối, từ lúc đầu phát tâm Nhất thiết trí, tu hành chánh hạnh, từng bậc tăng tiến, phương tiện thiện xảo chẳng bị tất cả thế pháp ô nhiễm, có thể vì chúng sinh mà làm đại Đạo sư, thắng Đạo sư, phổ Đạo sư; làm đuốc sáng lớn, nấc thang lớn; làm cầu, làm thuyền, làm người tế độ, làm bờ kia, làm nhà, làm người cứu, làm chỗ về chỗ đến. Này Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát phát tâm Nhất thiết trí như vậy thì ma và quân ma không quấy nhiễu được. Đức Phật lại bảo Xá-lợi-phất: –Các Đại Bồ-tát do đủ tín nguyện thanh tịnh như vậy, phát tâm Vô thượng Bồ-đề xong thì nhiều lòng tin thanh tịnh, thích thấy các bậc Hiền thánh, ưa nghe chánh pháp, chẳng bỏn sẻn, mở rộng lòng và tay mà bố thí lớn, vui thích sự xả bỏ và sự bố thí đồng đều. Đối với tất cả chúng sinh, lòng Bồ-tát không chướng ngại, không nhơ đục, không rối loạn, chẳng xen tạp. Đối với nghiệp nhân và nghiệp quả báo, lòng Bồ-tát rất phụng kính, không nghi ngờ, không lo lắng; biết pháp thiện ác quả báo chẳng hư mất, dù gặp lúc nạn nguy đến tánh mạng cũng chẳng sinh khởi điều ác, chẳng sát sinh, trộm cướp, tà dâm, nói dối, nói lời ly gián, nói lời ác, nói lời thêu dệt, tham nhiễm, sân hận và ngu si tà kiến. Vì dứt nghiệp đạo bất thiện như vậy mà Bồ-tát phụng hành mười nghiệp đạo lành. Do vì đủ lòng tin nên đối với các Sa-môn, Bà-la-môn chánh chí chánh hạnh, đủ đức đủ giới, tâm Bồ-tát thuần thanh tịnh thành tựu pháp điều thuận, đầy đủ đa văn, siêng học hỏi tu chánh tác ý điều thiện tịch tónh; gần gũi tịch diệt, chẳng phát khởi tranh tụng sai quấy, những lời thô ác, khéo biết tín nguyện chẳng phải là chẳng khéo biết, tương ưng với pháp thiện, lìa xa pháp ác, chẳng cao ngạo bồng bột, tánh rời lìa tháo động, tánh rời lìa lời thô ác, lời nói không phù phiếm, giữ chánh niệm, tâm an trụ nơi diệu định, khéo dứt gốc sinh tử, không trúng tên độc, rời bỏ gánh nặng, vượt khỏi nghi ngờ lo lắng và thân sinh tử đời sau. Đối với những Thiện hữu tri thức như chư Phật Thế Tôn, Đại Bồ-tát, Thanh văn và Duyên giác, khi đã biết rõ rồi thì thân cận kính nhường thờ phụng. Lại đem pháp thí nhiếp thọ tuyên thuyết diệu pháp chỉ dạy vui mừng. Đó là nếu thực hành hạnh bố thí thì được giàu có lớn, nếu thật hành hạnh trì giới thì được sinh lên trời hưởng lạc, nếu thích đa văn thì được trí tuệ lớn, nếu tu thiền định thì rời sự trói buộc. Lại mở bày nhiều thứ pháp thù thắng vi diệu thanh tịnh: đây là bố thí, đây là quả báo của bố thí, đây là bỏn sẻn, đây là quả báo của bỏn sẻn, đây là trì giới, đây là quả báo của trì giới, đây là phạm giới, đây là quả báo của phạm giới, đây là nhẫn nhục, đây là quả báo của nhẫn nhục, đây là sân hận, đây là quả báo của sân hận, đây là chánh cần, đây là quả báo của chánh cần, đây là lười biếng, đây là quả báo của lười biếng, đây là tónh lự, đây là quả báo của tónh lự, đây là loạn tâm, đây là quả báo của loạn tâm, đây là trí tuệ, đây là quả báo của trí tuệ, đây là ác tuệ, đây là quả báo của ác tuệ, đây là thân diệu hạnh, đây là quả báo của thân diệu hạnh, đây là thân ác hạnh, đây là quả báo của thân ác hạnh, đây là ngữ diệu hạnh, đây là quả báo của ngữ diệu hạnh, đây là ngữ ác hạnh, đây là quả báo của ngữ ác hạnh, đây là ý diệu hạnh, đây là quả báo của ý diệu hạnh, đây là ý ác hạnh, đây là quả báo của ý ác hạnh, đây là thiện đây là bất thiện, đây nên làm, đây chẳng nên làm, đây nếu được làm rồi thì được mãi mãi lợi ích an vui, đây nếu làm rồi thì mãi mãi bị khổ không lợi ích. Này Xá-lợi-phất! Vì hàng thiện hữu, hành giả tuyên thuyết những pháp như trên để được lợi mừng rồi, biết rõ người kham làm đại pháp khí thì liền khai thị pháp Không thậm thâm vi diệu, đó là pháp Không, pháp Vô tướng, pháp Vô nguyện, pháp không hành, pháp không sinh, pháp không khởi, pháp không ta, pháp không người, pháp không thọ mạng, pháp không chúng sinh. Lại khai thị duyên khởi thậm thâm, đó là do vì đây có nên kia có, đây sinh nên kia sinh, vô minh làm duyên cho hành, hành làm duyên cho thức, thức làm duyên cho danh sắc, danh sắc làm duyên cho sáu xứ, sáu xứ làm duyên cho xúc, xúc làm duyên cho thọ, thọ làm duyên cho ái, ái làm duyên cho thủ, thủ làm duyên cho hữu, hữu làm duyên cho sinh, sinh làm duyên cho lão, tử, sầu than, ưu khổ, thân tâm nhiệt não, các thứ sinh khởi một khối khổ lớn như vậy. Lại nữa, đây không nên kia không, đây diệt nên kia diệt, đó là vô minh diệt nên hành diệt, hành diệt nên thức diệt, cho đến sinh diệt nên lão tử diệt, như thế khối khổ lớn cũng diệt. Này Xá-lợi-phất! Lại nên diễn nói trong ấy không có một pháp nào là có thể được mà có thể diệt được. Vì sao? Vì các pháp kia đều từ nhân duyên sinh không có chủ tể, không có người tạo tác, không có kẻ thọ nhận chỉ theo nhân duyên chuyển đổi. Lại cũng không có một pháp nào lưu chuyển xoay vần, cũng không chuyển vận theo. Chỉ do vì si vọng mà giả lập ba cõi theo phiền não khổ mà lưu chuyển, chỉ là giả đặt. Lúc hành giả như thật quán sát si vọng, không có một pháp nào có thể tạo ra pháp khác. Trong ấy không có người tạo tác, vì người tạo tác chẳng thể nắm bắt, cho đến không có một pháp lưu chuyển xoay vần, vì lưu chuyển cũng chẳng thể nắm bắt được. Này Xá-lợi-phất! Hành giả nếu nghe pháp thậm thâm như vậy rồi mà không nghi, không lo, khéo nhập vào tánh không chướng ngại của các pháp, thì hành giả này chẳng chấp trước nơi sắc, chẳng chấp trước nơi thọ, tưởng, hành, thức, chẳng chấp trước nhãn sắc và nhãn thức, chẳng chấp trước nhó, tỷ, thiệt, thân, ý, pháp cùng với ý thức, vì đều chẳng thể nắm bắt được. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát tín thọ pháp tánh Không như vậy rồi thì chẳng thoái thất sự thấy Phật, nghe Pháp và phụng Tăng. Đời đời sinh ra nơi đâu đều chẳng rời sự thấy Phật, nghe Pháp và phụng Tăng, mà sinh ra trước chỗ Đức Phật chuyên cần tinh tấn, chí cầu pháp lành. Người ấy an trụ chánh cần rồi chẳng lưu luyến ở nhà với nam nữ quyến thuộc, tôi tớ và tài sản. Người này chẳng bị dâm dục làm phiền nhiễu, ở đời hiện tại mau bỏ sự lạc thú của tuổi trẻ, dùng lòng tịnh tín ở trong Phật pháp mà xuất gia nhập đạo. Sau khi xuất gia được các bậc Thiện tri thức, thầy lành bạn lành, tư duy lành, tín nguyện lành. Do vì tín nguyện lành nên khéo nghe học chánh pháp, kiên quyết tu hành, chẳng phải chỉ cố ngôn thuyết là trọn đủ. Người này thành tựu giác tuệ, ưa thích học hỏi nhiều không chán đủ. Dùng tâm không nhiễm đem pháp đã được nghe mà giảng nói cho người. Đối với lợi dưỡng, danh dự, cung kính không có lòng hy vọng. Chẳng bao giờ bỏ chánh nghóa mà vọng thuyết pháp. Đúng như pháp đã nghe, đúng như pháp đã an trụ mà giảng thuyết. Đối với chúng nghe pháp thì sinh lòng đại Từ. Đối với chúng sinh thì sinh lòng đại Bi. Này Xá-lợi-phất! Hành giả vì có trí tuệ đa văn như vậy nên chẳng màng đến thân mạng, thiểu dục tri túc tịch tónh an vui, dễ cung cấp, dễ nuôi, thường thích nơi vắng lặng thanh nhàn để suy gẫm ý nghóa chánh pháp đã được học. Y theo thật nghóa mà chẳng theo văn. Người này làm chỗ nương tựa cho Trời, Người, A-tu-la…, chẳng chuyên vì mình mà vì các chúng sinh cầu Đại thừa như là Phật trí, Vô đẳng trí, Vô đẳng đẳng trí, Thắng xuất tam giới trí. Này Xá-lợi-phất! Ta nói người ấy được pháp chẳng phóng dật đệ nhất. Này Xá-lợi-phất! Thế nào gọi là pháp chẳng phóng dật? Đó là các căn tịch tónh. Thế nào là các căn tịch tónh? Đó là mắt thấy sắc chẳng lấy tướng mạo, như thực biết rõ sắc say đắm, sắc họa hoạn và sắc xuất ly. Như vậy, tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân giác xúc, ý biết pháp chẳng lấy tướng mạo, như thực biết rõ pháp say đắm, pháp tai họa và pháp xuất ly. Này Xá-lợi-phất! Đó gọi là tâm chẳng phóng dật. Lại nữa, chẳng phóng dật là điều phục tự tâm, khéo hộ tâm người, trừ lòng thích phiền não mà thích chánh pháp. Chẳng sinh khởi ý tưởng tham dục, sân hận, tàn hại. Chẳng phát khởi ba căn bất thiện tham, sân và si. Chẳng phát khởi thân ác hạnh, ngữ ác hạnh và ý ác hạnh. Chẳng phát khởi tác ý chẳng đúng lý. Chẳng phát khởi tất cả pháp ác bất thiện. Đây gọi là chẳng phóng dật. Này Xá-lợi-phất! Các Đại Bồ-tát ấy đã chẳng phóng dật, siêng tu tập tác ý đúng pháp. Nếu pháp là có thì biết đúng thật là có, nếu pháp là không có thì biết đúng thật là không có. Quán sát trong ấy những gì là có, những gì là không có, liền dùng sức trí tuệ liền biết đúng như thật. Nếu chân chánh tu tập thì Thánh giải thoát có. Nếu tà tu tập thì Thánh giải thoát không có. Không có nghiệp báo, việc ấy là có. Có nghiệp báo việc ấy là không có. Lại nữa, nhãn là có, còn có nhãn là không có. Cho đến ý là có, còn có ý là không có. Lại nữa, sắc là pháp vô thường, khổ, biến dị; việc đó là có. Còn sắc là thường trụ, chẳng biến chẳng hoại, việc đó là không có. Cho đến thọ, tưởng, hành và thức vô thường, khổ, biến dị, việc đó là có. Còn thọ, tưởng, hành và thức thường trụ, chẳng biến, chẳng hoại, việc đó là không có. Lại nữa, vô minh làm duyên thì có các hành. Nếu không vô minh thì không có các hành. Cho đến dùng sinh làm duyên thì có lão tử. Nếu không có sinh thì không có lão tử. Lại nữa, bố thí cảm giàu có, việc ấy là có. Còn bố thí cảm bần cùng, việc ấy là không có. Trì giới sinh thiên, việc ấy là có. Còn phạm giới sinh thiên, việc ấy là không có. Văn sinh đại trí tuệ, việc ấy là có. Các ác tuệ hay sinh đại trí tuệ, việc ấy là không có. Tu chánh định rời lìa sự trói buộc, việc ấy là có. Tu chánh định mà bị trói buộc; việc ấy là không có. Lại nữa, nếu tác ý đúng lý mà có trói buộc và tác ý chẳng đúng lý mà rời sự trói buộc thì cả hai đều không có. Nếu các Bồ-tát phát khởi chánh cần thì có Bồ-đề, nếu phát khởi giải đãi thì không có Bồ-đề. Nếu không kiêu mạn xuất gia thọ ký, việc ấy gọi là có, nếu kiêu mạn thì không có tịch diệt. Lại nữa, khắp tất cả chỗ là tánh không, việc ấy là có. Khắp tất cả chỗ, có ta, có người, có chúng sinh, thọ mạng, trượng phu… việc ấy là không có. Này Xá-lợi-phất! Nếu các Đại Bồ-tát thực hành chẳng phóng dật, có thể khéo tu tập, tác ý đúng lý, người trí thế gian đồng biết là có thì thi thiết là có, người trí thế gian đồng biết là không có thì thi thiết là không có. Này Xá-lợi-phất! Nếu quyết định nói có thì không phải chân chánh biết rõ, nếu quyết định nói không có cũng gọi là chẳng phải chân chánh biết rõ. Vì sao? Vì thật nghóa được chư Phật Thế Tôn tuyên nói, có thể tùy theo chỗ giác ngộ mà hiểu rõ. Này Xá-lợi-phất! Chư Phật Thế Tôn đủ sức đại trí tổng nhiếp các pháp đặt trong bốn Ô-đà-nam. Những gì là bốn? Đó là tất cả hành vô thường, tất cả hành khổ, tất cả pháp vô ngã, Niết-bàn tịch diệt. Này Xá-lợi-phất! Tất cả hành vô thường được diễn nói, đó là Như Lai vì các chúng sinh quan niệm thường còn mà dứt trừ quan niệm thường còn của họ. Tất cả hành khổ được diễn nói, đó là Như Lai vì các chúng sinh quan niệm vui mà dứt trừ quan niệm vui của họ. Tất cả pháp vô ngã được diễn nói, đó là Như Lai vì các chúng sinh quan niệm ngã mà dứt trừ quan niệm ngã của họ. Pháp Niết-bàn tịch diệt được diễn nói, đó là Như Lai vì các chúng sinh có sở đắc điên đảo mà dứt trừ tâm hữu sở đắc điên đảo của họ. Này Xá-lợi-phất! Các Đại Bồ-tát ấy nếu nghe Như Lai nói tất cả hành vô thường thì có thể nhập vào rốt ráo vô thường. Nếu được nghe tất cả hành khổ thì có thể phát khởi tâm chán lìa mong muốn. Nếu được nghe tất cả pháp vô ngã thì có thể tu tập pháp môn chánh định diệu giải thoát. Nếu được nghe nói tịch diệt, Niết-bàn thì có thể tu tập chánh định vô tướng mà chẳng phi thời nhập vào chân tế. Này Xá-lợi-phất! Nếu các Đại Bồ-tát kheo tu tập được pháp như vậy thì trọn chẳng thoái thất tất cả pháp lành và mau viên mãn tất cả Phật pháp.  KINH ĐẠI BẢO TÍCH <卷 id="86423727">QUYỂN 37 Hán dịch: Đời Đại Đường, Tam tạng Pháp sư Huyền Trang. <詞 id="86423728">Pháp hội 12: BỒ-TÁT TẠNG (Phần 3) <章 id="86423729">Phẩm 4: TÁNH CHẲNG NGHÓ BÀN CỦA NHƯ LAI (Phần 1) Lúc bấy giờ Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Các Đại Bồ-tát ấy khéo an trụ nơi đức tin thanh tịnh như vậy rồi, lại có thể tín thọ mười thứ pháp chẳng nghó bàn của Như Lai Chánh Biến Tri, phụng trì chắc thật thanh tịnh không lầm, không nghỉ, chẳng phân biệt sai khác, lại càng hớn hở vui mừng phát ý tưởng cho là hy hữu lạ lùng. Những gì gọi là mười pháp chẳng nghó bàn của Như Lai? 1. Tín thọ thân Như Lai chẳng nghó bàn. 2. Tín thọ âm thanh Như Lai chẳng nghó bàn. 3. Tín thọ trí Như Lai chẳng nghó bàn. 4. Tín thọ quang minh Như Lai chẳng nghó bàn. 5. Tín thọ giới và chánh định Như Lai chẳng nghó bàn. 6. Tín thọ thần thông Như Lai chẳng nghó bàn. 7. Tín thọ lực Như Lai chẳng nghó bàn. 8. Tín thọ vô úy Như Lai chẳng nghó bàn. 9. Tín thọ đại Bi Như Lai chẳng nghó bàn. 10.Tín thọ Phật pháp bất cộng Như Lai chẳng nghó bàn. Đó gọi là mười pháp chẳng nghó bàn. Nếu có Đại Bồ-tát vì cầu pháp mà phát khởi chánh cần chẳng khiếp, chẳng thoái, chẳng bỏ rời mà phát tâm như vầy: “Nay tôi chưa được pháp chẳng nghó bàn thà khiến gió chuyển xoay thân tôi da thịt gân xương thọ khổ não lớn, hoặc máu thịt khô kiệt, chớ tâm tôi vẫn siêng tu tinh tấn không tạm bỏ giữa chừng.” Này Xá-lợi-phất! Các Đại Bồ-tát đã được tín giải nếu nghe mười thứ pháp chẳng nghó bàn của Như Lai như vậy thì tín thọ phụng trì chắc thật thanh tịnh không nghi, lại càng hớn hở rất vui mừng phát sinh tưởng nghó là hy hữu lạ lùng. Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghóa ấy mà nói kệ rằng: Thân Phật chẳng nghó bàn Là Pháp thân hiển hiện Không trung chẳng thấy được Chỉ Phật tử tin được. Các chúng sinh nhiều loài Âm thanh chẳng nghó bàn Theo tiếng mà thuyết pháp Tin cảnh giới chư Phật. Tất cả loài quần sinh Ba đời căn tánh khác Phật đều biết rõ cả Tin là chẳng nghó bàn. Chư Phật vô biên quang Quang minh chẳng nghó bàn Chiếu khắp mười phương cõi Vô biên số cõi Phật. Phật giới luật vượt đời Chẳng nương nơi thế pháp Thần túc chẳng nghó bàn Bồ-tát tín thọ được. Chúng sinh chẳng biết được Cảnh giới của Như Lai Như Lai thường tại định Giải thoát chẳng nghó bàn. Pháp giới chẳng tạp nhau Chỉ Phật lực biết được Các trí lực của Phật Như hư không vô biên. Vì lợi một chúng sinh Mà trụ vô biên kiếp Khiến họ được điều phục Tâm đại Bi như vậy. Tất cả các quần sinh Nhiều thứ pháp vấn nạn Một tiếng làm vui hiểu Vô úy chẳng nghó bàn. Thành Nhất thiết chủng trí Thấy rõ tất cả pháp Và Phật pháp bất cộng Phật trí đều thấy cả. Tất cả pháp chư Phật Khó nghó bàn như vậy Có ai kính tin được Là khéo trụ đức tin. Này Xá-lợi-phất! Thế nào là Đại Bồ-tát đối với thân Như Lai chẳng nghó bàn mà tín thọ phụng trì chân thật thanh tịnh, không nghi ngờ lại càng hớn hở rất vui mừng phát sinh tưởng nghó là hy hữu lạ lùng? Này Xá-lợi-phất! Thân Như Lai dứt hẳn tất cả pháp ác bất thiện. Vì sao? Vì hay thành tựu tất cả các pháp lành vi diệu. Thân Như Lai xa rời tất cả mũi dãi, đàm nhớt, mủ máu, đại tiện, tiểu tiện nhơ uế. Vì sao? Vì từ lâu xa Như Lai đã giải thoát tất cả xương, thịt, gân mạch. Thân Như Lai tự tánh sạch sẽ. Vì sao? Vì từ lâu xa Như Lai đã rời lìa tất cả phiền não cấu uế. Thân Như Lai vượt thoát hẳn thế gian. Vì sao? Vì chẳng bị thế pháp làm ô nhiễm. Thân Như Lai là vô lượng công đức, từ lâu đã chứa họp tư lương phước trí, là chỗ nương tuệ mạng của tất cả chúng sinh. Thân Như Lai là chỗ huân tu vô lượng giới thanh tịnh, là chỗ huân tu của vô lượng chánh định, vô lượng tuệ và giải thoát tri kiến giải thoát. Thân Như Lai là chỗ nghiêm sức của các bông hoa công đức. Thân Như Lai như hình ảnh vi diệu trong gương sạch, như bóng trăng tròn sáng trong nước trong lành và chói sáng như ánh nắng. Thân Như Lai chẳng thể nghó bàn cùng với hư không giới và cả pháp giới tánh. Thân Như Lai thanh tịnh không ô nhiễm rời xa tất cả những uế trước ô nhiễm. Thân Như Lai tức là vô vi rời xa tất cả những tướng hữu vi. Thân Như Lai là thân hư không, là thân không gì bằng, là thân không gì sánh bằng, là thân mà tất cả ba cõi đều không so sánh bằng được, là thân không ví dụ được, là thân không gì sánh bằng. Thân Như Lai thanh tịnh không cấu nhơ, rời lìa phiền não tự tánh trong suốt. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Thân Như Lai chẳng thể lấy tiền tế để cầu, chẳng thể lấy hậu tế để cầu, chẳng thể lấy hiện tại để cầu, chẳng thể lấy dòng họ chỗ đang sinh để cầu. Thân Như Lai chẳng thể lấy sắc để cầu, chẳng thể lấy tướng để cầu, chẳng thể lấy đẹp tốt để cầu. Thân Như Lai chẳng thể lấy tâm để cầu, chẳng thể lấy ý để cầu, chẳng thể lấy thức để cầu. Thân Như Lai chẳng thể lấy sự thấy để cầu, chẳng thể lấy sự nghe để cầu, chẳng thể lấy sự tưởng nhớ để cầu, chẳng thể lấy sự biết rõ đề cầu. Thân Như Lai chẳng thể lấy uẩn để cầu, chẳng thể lấy xứ để cầu, chẳng thể lấy giới để cầu. Thân như Lai chẳng thể lấy sinh để cầu, chẳng thể lấy trụ để cầu, chẳng thể lấy hoại diệt để cầu. Thân Như Lai chẳng thể lấy thủ để cầu, chẳng thể lấy xả để cầu, chẳng thể lấy xuất ly để cầu, chẳng thể lấy hành để cầu. Thân Như Lai chẳng thể lấy hiển sắc để cầu, chẳng thể lấy tướng mạo để cầu, chẳng thể lấy hình sắc để cầu, chẳng thể lấy đến để cầu, chẳng thể lấy đi để cầu. Thân Như Lai chẳng thể lấy tác ý tịnh giới để cầu, chẳng thể lấy tác ý đẳng quán để cầu, chẳng thể lấy tác ý Thánh tuệ để cầu, chẳng thể lấy tác ý giải thoát để cầu, chẳng thể lấy tác ý tri kiến giải thoát để cầu. Thân Như Lai chẳng thể lấy hữu tướng để cầu, chẳng thể lấy vô tướng để cầu, chẳng thể lấy các pháp tướng để cầu. Thân Như Lai chẳng thể lấy sự tăng ích lực để cầu, chẳng thể lấy sự tăng ích vô úy để cầu, chẳng thể lấy sự tăng ích vô ngại biện tài để cầu, chẳng thể lấy sự tăng ích thần thông để cầu, chẳng thể lấy sự tăng ích đại Bi để cầu, chẳng thể lấy sự tăng ích Phật pháp bất cộng để cầu. Này Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát muốn cầu thân Như Lai thì phải như huyễn, như hóa, như trăng trong nước, tự tánh như vậy mà cầu thân Như Lai. Này Xá-lợi-phất! Thân Như Lai là thân Không giải thoát, Vô tướng giải thoát và Vô nguyện giải thoát, là thân không đổi khác, là thân không động không hoại, là thân không phân biệt, là thân không nương tựa, là thân không tư lự. Thân Như Lai là thân đã được an trụ, thiện trụ, chẳng biến động. Thân Như Lai là thân tự tánh sắc không có sắc, là thân tự tánh thọ không có thọ, là thân tự tánh tưởng không có tưởng, là thân tự tánh hành không có hành, là thân tự tánh thức không có thức. Thân Như Lai là thân không có bốn đại vô hữu vô sinh, là Pháp thân hiếm có. Thân Như Lai chẳng phải cảnh của mắt, nó chẳng ở trong hình sắc cũng chẳng ở ngoài; chẳng nương nơi tai, chẳng ở trong âm thanh cũng chẳng ở ngoài; chẳng phải mũi biết được, chẳng ở trong mùi hương cũng chẳng ở ngoài; chẳng phải lưỡi hiển hiện được, chẳng ở trong vị nếm cũng chẳng ở ngoài; chẳng hợp với thân, chẳng ở trong xúc chạm cũng chẳng ở ngoài. Thân Như Lai chẳng nương nơi tâm để chuyển, chẳng nương nơi ý để chuyển, chẳng nương nơi thức để chuyển, thường an trụ bất động, chẳng phải là xoay về cũng chẳng chuyển theo. Này Xá-lợi-phất! Thân Như Lai cùng với hư không cao tột pháp giới, tận hư không giới. Này Xá-lợi-phất! Đó gọi là điều thứ nhất: Thân Như Lai chẳng nghó bàn. Các Đại Bồ-tát ấy nghe thân Như Lai chẳng nghó bàn như hư không rồi, kính tin thanh tịnh không nghi, lại càng thêm hớn hở vui mừng phát ý tưởng rất hy hữu diệu kỳ. Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghóa ấy mà nói kệ rằng: Câu-chi na-do kiếp Hành vô lượng hạnh lớn Khéo sạch thân ba nghiệp Được thân Phật vô đẳng. Tâm Từ khắp mười phương Khởi đại Bi bố thí Rời xa sự tà dâm Được thân thắng hư không. Nơi Thế Tôn phước điền Phật tử rộng cúng dường Xả thí y phục quý Như vô lượng hằng sa, Phụng trì giới thanh tịnh Như trâu ly giữ đuôi Dù thân bị đập nát Đối oán thù đại nhẫn, Tinh tấn ba-la-mật Tu hành tột khổ nhọc Phát thệ nguyện rộng lớn Cầu thân Phật thường trụ, Thích quán các cảnh định Thích trí tuệ phương tiện Thích quán pháp giới tánh Nguyện thân đồng pháp giới. Nơi Phật tu hành rồi Thành Diệu giác vô đẳng Được thân hư không lớn Trắng trong rời bụi nhơ. Tánh Không không ngã, nhân Vô tướng chẳng nói được Chứng thân Như Lai này Quá cảnh giới của nhãn. Ý tịnh rời sắc, thanh Vốn không không khởi tác Người thấy thân Chân như Thì thấy mười phương Phật. Như các thứ ảo thuật Hóa voi, ngựa, người cuồng Dối gạt kẻ ngu khờ Như vậy xem mười phương Vô lượng Phật ba đời Đồng ở thân Pháp tánh Hư không không gì sánh Pháp giới tột thanh tịnh. Như vậy, này Xá-lợi-phất! Đó gọi là thân Như Lai chẳng nghó bàn. Đại Bồ-tát kính tin thanh tịnh không nghi càng thêm hớn hở vui mừng phát ý tưởng hy hữu diệu kỳ. Lúc đó Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Thế nào là Đại Bồ-tát ở nơi âm thanh Như Lai chẳng nghó bàn tin nhận, vâng theo thanh tịnh không nghi, lại càng hớn hở vui mừng phát ý tưởng hy hữu diệu kỳ? Này Xá-lợi-phất! Như Lai ra đời, thương xót các chúng sinh nên diễn bày chánh pháp để giáo hóa. Âm thanh của Đức Phật phát ra vừa bằng với chúng hội, vì do nơi sức chúng sinh được điều phục. Âm thanh của Như Lai biến khắp vô lượng thế giới mười phương, vì làm cho lòng chúng sinh hoan hỷ. Này Xá-lợi-phất! Nhưng chư Như Lai phát ra âm thanh dù khắp cả thế giới mà chẳng nghó là ta vì chúng Tỳ-kheo thuyết pháp, vì chúng Tỳ-kheo-ni thuyết pháp, vì chúng Ưu-bà-tắc thuyết pháp, vì chúng Ưu-bà-di thuyết pháp, vì chúng Bà-la-môn, chúng Sát-đế-lợi, chúng Trưởng giả, chúng chư Thiên, chúng Phạm thiên… thuyết pháp. Như Lai cũng chẳng nghó rằng nay ta diễn nói Khế kinh, Trùng tụng, Thọ ký, Kệ tụng, Tự thuyết, Duyên khởi, Bổn sự, Bổn sinh, Phương quảng, Vị tằng hữu, Thí dụ, Luận nghị. Với mười hai phần giáo như vậy, Đức Như Lai chưa bao giờ nghó là vì chúng mà diễn bày. Này Xá-lợi-phất! Như Lai tùy theo các chúng nhóm họp đến, đó là chúng Tỳ-kheo cho đến chúng Phạm thiên, như các môn Chánh cần họ đã được nghe, mà vì họ thuyết pháp. Vì thích nghe pháp nên các chúng sinh ấy đều riêng tự cho là đã được nghe tiếng nói pháp từ miệng Phật phát ra. Nhưng tiếng nói pháp ấy đối với các loại ngôn từ của họ nói đều không chướng ngại, họ đều riêng hiểu biết nơi pháp mà họ được rõ. Đây gọi là âm thanh chẳng thể nghó bàn được. Này Xá-lợi-phất! Chư Phật Như Lai do phước thuở trước mà cảm quả báo âm thanh có vô lượng tướng. Đó là âm thanh hiền từ, âm thanh vừa ý, âm thanh vui lòng, âm thanh thanh tịnh, âm thanh ly cấu, âm thanh mỹ diệu, âm thanh thích nghe, âm thanh rành rẽ, âm thanh chẳng cứng chẳng rít, âm thanh làm cho thân tâm vui đẹp thơ thới, âm thanh làm cho tâm hớn hở, âm thanh làm cho tâm vui mừng, âm thanh phát khởi hỷ lạc, âm thanh dễ hiểu, âm thanh dễ biết, âm thanh chánh trực, âm thanh khả ái, âm thanh khả hỷ, âm thành mừng rỡ, âm thanh đẹp ý, âm thanh sư tử hống, âm thanh sấm nổ lớn, âm thanh biển vang lớn, âm thanh Khẩn-na-la thần ca ngâm, âm thanh Ca-lăng-tần-già kêu hót, âm thanh Phạm thiên, âm thanh trống trời, âm thanh cát tường, âm thanh nhu nhuyễn, âm thanh hiển sướng, âm thanh sâu xa như sấm to, âm thanh tất cả chúng sinh các căn đều mừng, âm thanh vừa xứng tất cả chúng hội, âm thanh thành tựu tất cả tướng vi diệu. Này Xá-lợi-phất! Âm thanh của Như Lai đầy đủ những công đức thù thắng như vậy và còn vô lượng, vô biên công đức trang nghiêm. Đây gọi là điều thứ hai: Âm thanh chẳng nghó bàn của Như Lai. Các Đại Bồ-tát ấy nghe âm thanh chẳng nghó bàn của Như Lai đầy đủ vô lượng công đức thù thắng tin nhận, vâng thờ thanh tịnh không nghi, càng thêm hớn hở vui mừng phát ý tưởng hy hữu diệu kỳ. Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghóa ấy mà nói kệ rằng: Đức Phật phát diệu âm Gọi là Phạm âm thanh Do pháp này đầy đủ Khiến Phạm thiên vui mừng. Mâu-ni diễn diệu âm Từ đại Bi phát ra Tương ứng với đức Từ Cũng tương ưng Hỷ, Xả. Âm thanh đầy đủ ấy Tắt lửa tham chúng sinh Dứt trừ độc giận thù Phá vỡ những si tối. Giả sử châu Diêm-phù Có vô lượng tiếng người Dù được nghe khắp cả Vẫn chẳng ngộ giải thoát, Tiếng trời, đất, hư không Nghe không ngộ cũng vậy Nếu nghe tiếng của Phật Chắc chứng được Niết-bàn. Loài hai chân, bốn chân Nhiều chân và không chân Đều đồng tiếng với họ Cho họ rõ thiện ác. Trong ba ngàn thế giới Âm thanh thượng, trung, hạ Theo các loại âm thanh Giáo hóa khiến giải thoát, Giảng bày không phân biệt Không trói, không nhiếp thọ Tại định nói chân đế Người nghe hết phiền não. Vô biên chúng sinh nghe Âm thanh Phật, Pháp, Tăng Và Thí, Giới, Văn, Nhẫn Âm thanh Phật như vậy. Tiếng Phật không hạn lượng Thanh trí đều vô biên Tin chắc âm thanh Phật Chỉ trí tuệ Bồ-tát. Khi ấy, Đức Phật lại bảo Xá-lợi-phất: –Thế nào là Đại Bồ-tát đối với đại trí chẳng nghó bàn của Như Lai mà tin nhận, vâng thờ thanh tịnh không nghi càng thêm hớn hở vui mừng phát ý tưởng hy hữu diệu kỳ? Này Xá-lợi-phất! Trí thấy biết vô ngại của Như Lai không thể nghó bàn, ở trong tất cả pháp nương nơi đó mà phát khởi. Các Đại Bồ-tát thì có thể tín thọ vâng thờ, càng thêm hớn hở vui mừng phát ý tưởng hy hữu diệu kỳ. Này Xá-lợi-phất! Như Lai vì phát sinh tín tâm nên nương nơi Trí ba-la-mật-đa của Như Lai mà rộng nói những ví dụ. Những người có trí bèn được hiểu biết. Này Xá-lợi-phất! Giả sử có người đem cây, nhánh, gốc, lá của tất cả thảo mộc trong những thế giới số bằng cát sông Hằng chất lại thành một đống lớn rồi đốt cháy thành than đen. Đem hết số than đen ấy đổ vào trong biển của hằng sa thế giới. Sau đó trăm ngàn năm mới lấy đem mài tất cả thành nước mực. Này Xá-lợi-phất! Trí thấy biết vô ngại của Như Lai thành tựu, lấy một giọt nước mực trong biển lớn ấy, do sức trí thấy biết nên phân tích biết rõ ràng đó là do cây hay nhánh, lá, hoa, quả… trong thế giới ấy làm thành. Vì sao? Vì Như Lai khéo thông đạt pháp giới nên biết rõ được giọt mực ấy từ cây lá trong thế giới ấy làm thành. Theo thứ tự như vậy cho đến nói rộng ra. Này Xá-lợi-phất! Đó gọi là Như Lai Chánh Biến Tri có đủ sức đại thần thông như vậy, có đủ sức đại oai đức như vậy, có đủ sức đại tông thế như vậy. Thế nên có thiện nam, thiện nữ đối với trí thấy biết rộng lớn của Như Lai mà tin nhận thanh tịnh, lại sinh lòng ái kính đối với Phật, thì căn lành của thiện nam, thiện nữ ấy chẳng có ngằn mé, họ mau dứt khổ. Vì sao? Vì Như Lai khéo thông đạt pháp giới. Do vì thông đạt nên nếu có chúng sinh nào đối với Như Lai mà phát khởi chút căn lành thì mãi đến lúc dứt hết khổ, căn lành ấy vẫn chẳng hư hoại. Này Xá-lợi-phất! Nay ta sẽ vì ông mà nói ví dụ nữa, khiến cho người trí do đây mà hiểu nghóa. Ví như có nam tử sống trăm tuổi. Người này tán chia một đầu sợi lông ra làm một trăm năm mươi phần, rồi lấy một phần lông thấm một giọt nước đem đến chỗ ta mà nói rằng: “Xin gởi giọt nước này cho Ngài, sau đây nếu tôi cần dùng xin Ngài ban lại cho tôi.” Như Lai nhận giọt nước ấy đem để trong sông Hằng, nước sông Hằng hòa lẫn cuốn chảy thẳng đến biển lớn. Sau đó trăm năm, người ấy đến xin ta trả lại giọt nước đã gởi. Này Xá-lợi-phất! Như Lai thành tựu trí thấy biết chẳng thể nghó bàn. Do trí này mà Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thấy biết giọt nước ấy ở trong biển lớn, bèn lấy một phần lông đến trong biển lớn thấm giọt nước ấy để trao lại cho người gởi. Này Xá-lợi-phất! Ví dụ ấy có ý nghóa gì? Đó là chúng sinh đã từng đem một giọt nước nhỏ căn lành gởi vào tay phước điền của Như Lai thì còn mãi chẳng mất. Như vậy, này Xá-lợi-phất! Nếu có thiện nam, thiện nữ đối với trí chẳng nghó bàn của Như Lai mà tin nhận thanh tịnh, sinh lòng ái kính; vì tưởng niệm Như Lai mà cúng dường nhiều thứ, lại đem hoa đẹp rải lên dâng cúng, thì căn lành của người này không ai biết được ngằn mé, mau dứt hết khổ. Vì sao? Vì Như Lai khéo thông đạt pháp giới, nên có ai phát khởi một tâm niệm lành đối với Như Lai thì cùng tận bờ mé khổ vẫn chẳng hư hoại. Bấy giờ Trưởng lão Xá-lợi-phất bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Trí chẳng nghó bàn của Như Lai có phải rời thức mà chuyển chăng? Đức Phật đáp: –Không phải. Xá-lợi-phất lại bạch: –Bạch Thế Tôn! Nếu như vậy thì thế nào là trí và thế nào là thức? Đức Phật dạy: –Này Xá-lợi-phất! Có bốn thứ thức trụ. Vì thức y cứ nơi đó mà an trụ nên gọi là thức trụ. Bốn thứ thức trụ ấy là gì? 1.Sắc thức trụ, thức duyên nơi sắc, thức trụ trong sắc, do đó mà sinh ưa thích trụ trước càng thêm lớn mạnh vững chắc rộng lớn. 2.Thọ thức trụ, thức duyên nơi thọ, thức trụ trong thọ, do đó mà sinh ưa thích trụ trước càng thêm lớn mạnh vững chắc rộng lớn. 3. Tưởng thức trụ, thức duyên nơi tưởng, thức trụ trong tưởng, do đó mà sinh ưa thích trụ trước càng thêm lớn mạnh vững chắc rộng lớn. 4. Hành thức trụ, thức duyên nơi hành, thức trụ trong hành, do đó mà sinh ưa thích trụ trước càng thêm lớn mạnh vững chắc rộng lớn. Những tướng như vậy gọi đó là thức. Lại lấy những gì gọi đó là trí? Đó là chẳng trụ trong năm thọ uẩn mà tỏ thấu thức uẩn thì gọi là trí. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Gọi là thức, đó là có thể rõ biết địa đại chủng, thủy đại chủng, hỏa đại chủng và phong đại chủng thì gọi là thức. Gọi là trí, đó là chẳng trụ trong bốn đại chủng, có thể khéo thông đạt được pháp giới của thức mà chẳng xen tạp nhau thì gọi là trí. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Gọi là thức, đó là có thể rõ biết sắc được mắt nhận biết, thanh được tai nhận biết, hương được mũi nhận biết, vị được lưỡi nhận biết, xúc được thân nhận biết và pháp được ý nhận biết thì gọi là thức. Gọi là trí, đó là bên trong tịch tónh chẳng đi bên ngoài chỉ y nơi trí, chẳng ở nơi một pháp nào mà sinh phân biệt và các thứ phân biệt thì gọi là trí. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Theo cảnh giới mà sinh thì gọi là thức, theo tác ý mà sinh thì gọi là thức, theo phân biệt mà sinh thì gọi là thức. Còn không lấy, không nắm, không có chỗ duyên, không chỗ rõ biết, không có phân biệt thì gọi là trí. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Gọi là thức, đó là trụ nơi pháp hữu vi. Vì sao? Vì trong pháp vô vi thức không hiện hành được. Nếu rõ thấu được pháp vô vi thì gọi là trí. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Trụ nơi sinh diệt thì gọi là thức. Không sinh, không diệt, không có chỗ trụ thì gọi là trí. Này Xá-lợi-phất! Các hành tướng như vậy hoặc là thức hoặc là trí, đó gọi là đại trí chẳng nghó bàn thứ ba của Như Lai. Nếu các Đại Bồ-tát nghe đại trí chẳng nghó bàn không chướng, không ngại trong tất cả pháp, y đó mà sinh khởi như vậy liền kính tin thanh tịnh không nghi càng thêm hớn hở vui mừng phát ý tưởng hy hữu diệu kỳ. Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghóa ấy mà nói kệ rằng: Vô lượng hằng sa cõi Cây, cỏ, lá, bông, trái Đều đốt thành tro mực Ức năm mài nơi biển Thập Lực, trí sâu diệu Lấy một giọt bảo rành Biết rõ cây cõi nào Mài thành giọt mực này Đem trần thủy mười phương Trình bày trước Như Lai. Trí Phật đồng hư không Biết khắp không nghi trệ Tâm chúng sinh mười phương Tham, sân, si hiện hành Đều biết được như thật Giải thoát không tăng giảm Mười trí lực của Phật Soi sáng khắp pháp giới Không phân biệt tư lự Phật tử hay tin nhận. Bấy giờ, Đức Phật lại bảo Xá-lợi-phất: –Thế nào là Đại Bồ-tát đối với đại quang chẳng nghó bàn của Như Lai mà kính tin thanh tịnh không nghi càng thêm hớn hở vui mừng phát ý tưởng hy hữu diệu kỳ? Này Xá-lợi-phất! Vì chư Phật Như Lai thông đạt pháp giới nên chẳng thể nghó bàn. Do vì thông đạt nên tất cả Như Lai phóng quang minh lớn chiếu khắp tam thiên đại thiên thế giới Phật mà không chướng ngại. Này Xá-lợi-phất! Ví như trong hư không không có mây mù, mặt trời lên cao phóng ánh sáng lớn chiếu khắp thế gian. Chư Phật Như Lai phóng đại quang minh chiếu khắp tất cả cũng như vậy. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Trong thế gian, ánh sáng ngọn đèn dầu đối với ánh sáng lửa đom đóm thì rộng lớn chói sáng hơn nhiều. Ánh sáng ngọn đuốc sáng hơn đèn dầu. Đống lửa trước sân lại sáng hơn lửa đuốc. Dược thảo phát ánh sáng lại hơn đống lửa. Ánh sáng tinh tú lại hơn dược thảo. Trăng tròn chiếu sáng hơn tinh tú. Trời nắng giữa trưa sáng gấp bội ánh trăng. Thân trời Tứ Thiên vương cùng cung điện, thềm vách, đồ trang nghiêm phát ánh sáng hơn mặt trời không gì ví dụ được. Cứ như vậy mà so sánh đến ánh sáng phát ra từ thân trời Tha hóa tự tại cùng cung điện, thềm vách, đồ trang nghiêm hơn ánh sáng trước. Ánh sáng của các trời Phạm chúng, Phạm phụ, Phạm vương, Thiểu quang, Vô lượng quang, Quang âm, Thiểu tịnh, Vô lượng tịnh, Biến tịnh, Quảng quả, Hũu tưởng, Vô tưởng, Vô phiền, Vô nhiệt, Thiện hiện, Thiện kiến và Sắc cứu cánh Thiên phát ra là tối đệ nhất so với các ánh sáng trước. Đem ánh sáng trời Sắc cứu cánh so với ánh sáng của Như Lai Chánh Biến Tri, thì ánh sáng của Đức Như Lai hơn kia nhiều, chiếu sáng vi diệu thanh tịnh rộng lớn đệ nhất, chẳng gì ví dụ được. Vì sao? Này Xá-lợi-phất! Ánh sáng của Như Lai chẳng thể nghó bàn. Ánh sáng ấy từ vô lượng Giới tụ phát sinh, từ Đẳng trì tụ phát sinh, từ Tuệ tụ, Giải thoát tụ và Giải thoát tri kiến tụ phát sinh. Từ vô lượng công đức như vậy phát sinh ánh sáng của Như Lai. Này Xá-lợi-phất! Bao nhiêu ánh sáng trong tam thiên đại thiên thế giới so với ánh sáng của Như Lai chẳng bằng một phần trăm, cho đến chẳng bằng một phần ưu-ba-ni-sa-đà, ví dụ toán số đều chẳng đếm được. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Như đem vàng Diêm-phù-đàn để trong vàng thường, nó làm cho vàng thường ấy như đống mực không còn chói sáng. Ánh sáng của tam thiên đại thiên thế giới ở trước ánh sáng của Như Lai thì mất cả sự chói sáng cũng như vậy. Lại nữa, tất cả những ánh sáng ở thế gian trước ánh sáng của Như Lai thì không còn gọi được là có sáng, có chói nữa. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Ông phải biết rằng nếu Như Lai chẳng vì thương xót các chúng sinh nên nhiếp lấy ánh sáng nơi thân còn một tầm, mà chỉ dùng ánh sáng sinh ra từ một phần ít hạnh nghiệp cũng chiếu được khắp cả tam thiên đại thiên thế giới làm cho ánh sáng của mặt trời, mặt trăng không còn phát hiện. Và như vậy thì chẳng còn phân biệt có ngày, có đêm, chẳng phân biệt có tháng, nửa tháng, ngày, giờ, thời tiết, năm tháng. Chỉ vì thương các chúng sinh mà Như Lai hiện chiếu sáng một tầm. Này Xá-lợi-phất! Nếu Như Lai Chánh Biến Tri khởi ý muốn dùng ánh sáng chiếu khắp vô lượng, vô biên, vô số thế giới thì có thể chiếu khắp. Vì sao? Vì Như Lai đã được đệ nhất Bát-nhã ba-la-mật-đa. Này Xá-lợi-phất! Nay ta vì ông lại nói ví dụ để thuyết minh lại nghóa ấy. Những người có trí càng hiểu rõ thêm. Ví như có người đem tam thiên đại thiên thế giới nghiền nát làm vi trần để trong tay áo rồi đi qua phương Đông quá những thế giới như số vi trần ấy mới bỏ rơi một vi trần, lần lượt đi và bỏ rơi đến hết số vi trần ấy, mà chưa hết những thế giới ở phương Đông. Các phương Nam, Tây, Bắc, Đông nam, Tây nam, Đông bắc, Tây bắc, Trên, Dưới cũng như vậy. Này Xá-lợi-phất! Ý ông nghó sao? Có người nào có thể đến được bờ mé các thế giới ấy chăng? Xá-lợi-phất thưa: –Bạch Thế Tôn! Không có. Đức Phật dạy: –Này Xá-lợi-phất! Bao nhiêu ánh sáng có trong các thế giới ấy vô lượng, vô biên chẳng nghó bàn được. Mà ánh sáng của Như Lai là đệ nhất hơn cả. Tất cả ánh sáng của tất cả thế giới ấy so với ánh sáng của Như Lai không bằng một phần trăm cho đến chẳng bằng một phần ưu-ba-ni-sa-đà, toán số ví dụ chẳng thể đếm được. Này Xá-lợi-phất! Như Lai khởi ý muốn dùng ánh sáng chiếu khắp tất cả thế giới thì có thể chiếu khắp. Vì sao? Vì đức Như Lai đã được đệ nhất Bát-nhã ba-la-mật-đa. Này Xá-lợi-phất! Ánh sáng của Như Lai không có chướng ngại. Bao nhiêu tường vách, hoặc những cây cối, hoặc những núi Luân vi núi Đại Luân vi, núi Càn-đà-ma-đạt-na, núi Mục-chân-lân-đà, núi Đại Mục-chân-lân-đà, núi Y-sa-đà-la, Tuyết sơn, Hắc sơn và núi Tu-di đều chẳng che chướng được ánh sáng của Như Lai. Ánh sáng của Như Lai đều có thể soi suốt chiếu khắp tam thiên đại thiên thế giới. Này Xá-lợi-phất! Những chúng sinh ít trí tuệ chẳng tin hiểu được ánh sáng của Như Lai. Hoặc có chúng sinh thấy ánh sáng của Như Lai chỉ chiếu có một tầm. Kế có kẻ thấy chiếu hai tầm. Kế có kẻ thấy chiếu một câu-lô-xá. Kế có người đại trí cho đến thấy ánh sáng của Như Lai chiếu khắp tam thiên đại thiên thế giới. Này Xá-lợi-phất! Phạm Thiên vương, chúa của trăm ngàn thế giới có thể thấy ánh sáng của Như Lai chiếu khắp trăm ngàn thế giới. Lần lượt như vậy, đến bậc Đại Bồ-tát lên bậc Thượng địa có thể thấy ánh sáng của Như Lai chiếu khắp vô lượng, vô biên thế giới. Này Xá-lợi-phất! Vì thương xót các chúng sinh nên Như Lai lại phóng ánh sáng chiếu khắp các cõi chúng sinh cùng tận hư không. Này Xá-lợi-phất! Đó gọi là ánh sáng chẳng nghó bàn thứ tư của Như Lai. Các Đại Bồ-tát nghe Như Lai nói ánh sáng lớn ấy chẳng thể nghó bàn như hư không rồi không lầm, không nghi tin nhận thanh tịnh càng thêm hớn hở vui mừng phát ý tưởng hy hữu kỳ diệu. Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghóa ấy mà nói kệ rằng: Ánh sáng mặt trời, trăng Của Đế Thích, Phạm thiên Cho đến Sắc cứu cánh Không bằng ánh sáng Phật. Ánh sáng Sắc cứu cánh Chiếu khắp cõi đại thiên So một tia sáng Phật Chẳng bằng một phần nhỏ. Đức Phật phóng ánh sáng Chiếu khắp cõi hư không Các chúng sinh trí lớn Mới thấy được như vậy. Ánh sáng Phật vô biên Bằng với cõi hư không Tùy chúng sinh được độ Thấy ánh sáng sai khác, Như người mù bẩm sinh Chẳng thấy sáng mặt trời Họ chẳng thấy ánh sáng Nói mặt trời không sáng. Các chúng sinh hạ liệt Chẳng thấy ánh sáng Phật Họ chẳng thấy sáng chiếu Nói không ánh sáng Phật, Hoặc thấy sáng một tầm Hoặc thấy câu-lô-xá Hoặc đến một do-tuần Hoặc khắp cõi đại thiên Hoặc đã trụ Thượng địa. Bậc Bồ-tát đại trí Ở Địa tám hoặc chín Cho đến Địa thứ mười Phật trên cả mười Địa Vầng sáng vô biên, lượng Chiếu chẳng nghó bàn cõi Để làm các phật sự. Chư Phật chẳng nghó bàn Phật quang không nghó bàn Người tin và được phước Cũng là chẳng nghó bàn. Khi ấy, Đức Phật lại bảo Xá-lợi-phất: –Thế nào là Đại Bồ-tát đối với chúng tịnh giới và chúng chánh định chẳng nghó bàn của Như Lai mà kính tin thanh tịnh không nghi càng thêm hớn hở vui mừng, phát ý tưởng hy hữu diệu kỳ? Này Xá-lợi-phất! Các ông phải biết chánh thuyết như vầy: “Nếu các chúng sinh ở thế gian phụng trì giới hạnh thanh tịnh không nhiễm. Do vì thanh tịnh nên biết bậc ấy thành tựu thân nghiệp thanh tịnh, thành tựu ngữ nghiệp thanh tịnh, thành tựu ý nghiệp thanh tịnh. Bậc ấy dù ở thế gian mà chẳng bị thế pháp ô nhiễm. Phải biết bậc ấy là Bà-la-môn, là bậc rời lìa các điều ác, là Sa-môn, là bậc tịch tónh, là bậc tu thiền định đệ nhất, là bậc được Thiền ba-la-mật-đa đệ nhất. Chúng sinh ấy là Như Lai.” Nói như vậy là chánh thuyết. Tại sao? Này Xá-lợi-phất! Ta chẳng bao giờ thấy ở thế gian hoặc chư Thiên, hoặc Ma vương, hoặc Phạm vương, hoặc Sa-môn, hoặc Bà-la-môn và các Trời, các A-tu-la… có vô lượng, vô biên chúng tịnh giới chẳng nghó bàn, chúng chính định chẳng nghó bàn bằng Như Lai. Tại sao? Này Xá-lợi-phất! Vì Như Lai đã được Giới ba-la-mật-đa, Thiền ba-la-mật-đa đệ nhất. Này Xá-lợi-phất! Nay ông có muốn nghe Phật nói ví dụ về Giới ba-la-mật-đa của Như Lai chăng? Xá-lợi-phất thưa: –Bạch Thế Tôn! Nay đã phải lúc. Nếu các Tỳ-kheo nghe Phật nói ví dụ về Giới ba-la-mật-đa của Như Lai, họ sẽ cùng nhau thọ trì như chỗ đã được nghe. Đức Phật dạy: –Lành thay! Lành thay! Này Xá-lợi-phất! Ta sẽ vì ông mà phân biệt giải nói. Này Xá-lợi-phất! Ý ông nghó thế nào? Chúng sinh và đại địa, đằng nào nhiều hơn? Xá-lợi-phất thưa: –Bạch Thế Tôn! Như con hiểu ý nghóa lời Phật nói, thì chúng sinh nhiều chớ không phải đại địa nhiều. Đức Phật dạy: –Đúng như vậy. Này Xá-lợi-phất! Chúng sinh nhiều chớ chẳng phải đại địa nhiều. Này Xá-lợi-phất! Giả sử trong tam thiên đại thiên thế giới có bao nhiêu chúng sinh, những loài noãn sinh, thai sinh, thấp sinh, hóa sinh, hoặc có sắc, hoặc không sắc, hoặc có tưởng, hoặc không tưởng, hoặc chẳng phải có tưởng chẳng phải không tưởng, tất cả chúng sinh ấy trong khoảng sát-na, đồng thời được thân người rồi trong khoảng sát-na đều chứng quả Vô thượng Bồ-đề. Mỗi Đức Phật ấy lại hóa làm bao nhiêu Phật. Mỗi Hóa Phật ấy đều có ngàn đầu, mỗi đầu, ấy đều có ngàn miệng, mỗi miệng đều có ngàn lưỡi. Mỗi Hóa Phật ấy đều có đủ mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn biện tài không ngại; lại thành tựu biện tài vô ngại, vô tận của chư Phật. Này Xá-lợi-phất! chư Phật ấy dùng bao nhiêu lưỡi ấy thi thố biện tài vô ngại, vô tận nương theo tất cả Giới ba-la-mật-đa của Như Lai mà xưng tán vô lượng, dù trải qua câu-chi na-do-tha trăm ngàn đại kiếp xưng tán luôn như thế cũng không xưng tán hết khắp được Giới ba-la-mật-đa của Như Lai. Này Xá-lợi-phất! Giới ba-la-mật-đa của Như Lai vô lượng, vô biên, vô tận, chẳng thể nghó bàn. Trí tuệ vô thượng và biện tài vô chướng, vô ngại, vô tận của chư Phật cũng vô tận chẳng thể nghó bàn. Cho đến các Hóa Phật chưa đến đồng thời nhập Niết-bàn xưng tán các giới của Như Lai cũng không thể cùng tận. Vì sao? Giới ba-la-mật-đa của Như Lai và trí tuệ vô thượng biện tài vô ngại của chư Phật, cả hai đều là chẳng nghó bàn, vô lượng vô số cùng với cõi hư không tánh bình đẳng. Này Xá-lợi-phất! Giả sử tất cả chúng sinh trong hằng sa thế giới ở mười phương trong khoảng một sát-na đều được thân người rồi, đều thành đạo Vô thượng Bồ-đề, cũng nói y theo trên đến chỗ cùng với cõi hư không tánh bình đẳng. Tại sao? Này Xá-lợi-phất! Do vì Như Lai đã chứng được Giới ba-la-mật-đa đệ nhất. Đức Phật lại bảo Xá-lợi-phất: –Nay ông có muốn nghe nói ví dụ về Thiền ba-la-mật-đa của Như Lai chăng? Xá-lợi-phất thưa: –Bạch Thế Tôn! Nay đã phải lúc. Nếu chư Tỳ-kheo nghe Phật nói ví dụ về Thiền ba-la-mật-đa của Như Lai sẽ đồng phụng trì đúng như chỗ được nghe. Phật dạy: –Này Xá-lợi-phất! Giả sử có thời kỳ thế gian này đến kiếp hỏa thiêu do mặt trời thứ bảy. Vì mặt trời ấy mọc ra nên cả tam thiên đại thiên thế giới đồng thời bị cháy, cháy mạnh, cháy lớn, cháy khắp lớn mạnh. Này Xá-lợi-phất! Phải biết Như Lai ở tại trong những thế giới đang cháy khắp lớn mạnh như vậy, hoặc kinh hành, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm, những chỗ ấy thành tựu mười sự rất hy hữu kỳ diệu chẳng thể nghó bàn. Những gì là mười? 1. Chỗ Như Lai đi đứng ấy, chẳng cần đến công lực, đều bằng phẳng như trong lòng bàn tay. Đây là sự rất hy hữu kỳ diệu chẳng nghó bàn thứ nhất. 2. Chỗ Như Lai đi đứng ấy tự nhiên nổi cao sạch đẹp, không có lẫn lộn ngói đá. Đây là sự rất hy hữu kỳ diệu chẳng nghó bàn thứ hai. 3.Chỗ Như Lai đi đứng ấy tự nhiên rộng rãi, bằng phẳng, trang nghiêm thanh tịnh để cho Như Lai thọ dụng. Đây là sự rất hy hữu kỳ diệu chẳng nghó bàn thứ ba. 4. Chỗ Như Lai đi đứng ấy tự nhiên sinh những cỏ thơm xanh mướt, mềm mại, trơn láng cuốn về phía hữu. Đây là sự rất hy hữu kỳ diệu chẳng nghó bàn thứ tư. 5. Chỗ Như Lai đi đứng ấy tự nhiên xuất hiện tám thứ nước công đức như nhẹ, mát, mềm, đứng lặng, không nhơ, trong sạch, thích uống và uống nhiều không sinh bệnh. Đây là sự rất hy hữu kỳ diệu chẳng nghó bàn thứ năm. 6.Chỗ Như Lai đi đứng ấy tự nhiên có gió mát hòa thuận nhẹ nhàng. Đây là do hạnh nghiệp trước của Như Lai cảm ứng mà có gió mát dịu ấy. Ví như ngày rất nóng nực, xế trưa có một chàng trai vì quá nóng bức nên chạy đến tắm trong sông Hằng. Sau khi tắm rửa sạch sẽ, mát mẻ thư thái, chàng trai ấy leo lên bờ bên kia sông thấy gần đó có khu rừng cây xanh mát, bèn đi vào rừng ấy. Lại thấy trong ấy có trải sẵn giường nệm rộng rãi mịn nhuyễn, gối chăn mềm mại. Chàng trai liền lên giường ấy hoặc ngồi hoặc nằm. Bốn phía giường lại có gió mát thổi nhẹ liên tục. Cũng vậy, này Xá-lợi-phất! Như Lai ở trong thế giới đang cháy khắp lớn mạnh mà đi đứng nằm ngồi, tự nhiên nơi ấy có gió mát thổi nhẹ liên tục. Đây là sự rất hy hữu kỳ diệu chẳng nghó bàn thứ sáu. 7.Chỗ Phật đi đứng ấy tự nhiên sông, rạch, ao, hồ xuất hiện các loại hoa dưới nước, như là hoa sen xanh, hoa sen vàng, hoa sen đỏ, hoa sen trắng. Các hoa ấy thơm ngát màu sắc sáng rỡ, ai thấy đều vui thích. Đây là sự rất hy hữu kỳ diệu chẳng nghó bàn thứ bảy. 8. Chỗ Phật đi đứng ấy tự nhiên nơi đất bằng và gò cao đều mọc các thứ hoa đẹp thơm thế gian chưa từng có. Đây là sự rất hy hữu kỳ diệu chẳng nghó bàn thứ tám. 9.Chỗ Phật đi đứng ấy tự nhiên thành chất kim cang cứng bền. Đây là sự rất hy hữu kỳ diệu chẳng nghó bàn thứ chín. 10. Chỗ Phật đi đứng ấy, phải biết đó là Phật linh miếu, thế gian chư Thiên, hoặc Ma vương, hoặc Phạm vương, hoặc Sa-môn, hoặc Bà-la-môn, Trời, Người, A-tu-la… đều cung kính cúng dường tôn trọng tán thán. Đây là sự thành tựu rất hy hữu kỳ diệu chẳng nghó bàn thứ mười. Mười sự rất hy hữu kỳ diệu chẳng nghó bàn ấy đều do hạnh nghiệp đời trước của Như Lai thành tựu. Vì sao? Vì Như Lai khéo thông đạt pháp giới. Do vì thông đạt nên Như Lai nhập chánh định ấy, y cứ tâm chánh định ấy mà thọ lạc không thoái. Dù trải đến hằng sa đại kiếp, Như Lai cũng vẫn chưa từng khởi tâm thoái thất với chánh định. Y nơi tâm chánh định ấy, trong khoảng thời gian một bữa ăn, Như Lai trụ một kiếp hoặc trăm kiếp, ngàn kiếp đến trăm ngàn câu chi kiếp, hoặc nhiều hơn số kiếp trên. Vì sao? Vì Như Lai đã thành tựu Thiền ba-la-mật-đa đệ nhất. Do vì đã thành tựu nên Như Lai có đủ đại thần lực như vậy, có đủ oai đức lực như vậy, có đủ đại tông thế lực như vậy. Này Xá-lợi-phất! Như các Thiên tử Phi tưởng phi phi tưởng xứ sinh thức của họ duyên một cảnh đến tám vạn bốn ngàn kiếp, chừng nào mà thọ mạng chánh định chưa dứt, sinh thức của họ chẳng bị cảnh giới thức khác di chuyển. Này Xá-lợi-phất! Các Thiên tử ấy do sức chánh định thế gian mà còn được an trụ trong thời gian như vậy, huống là Thiền ba-la-mật-đa của Như Lai mà lại không an trụ lâu. Này Xá-lợi-phất! Như Lai từ đêm mới chứng Vô thượng Bồ-đề cho đến đêm nhập Vô dư đại Niết-bàn giới, trong khoảng thời gian giữa ấy, tâm của Như Lai chưa có lúc nào rời khỏi chánh định. Vì thế nên gọi chánh định ấy là tâm không hồi chuyển, là tâm không sở hành, là tâm không quan sát, là tâm không động lự, là tâm không lưu đảng, là tâm không nhiếp tụ, là tâm không tán loạn, là tâm không cao cử, là tâm không trầm hạ, là tâm không phòng hộ, là tâm không phú tàng, là tâm không hân dũng, là tâm không vi nghịch, là tâm không ủy tụy, là tâm không động dao, là tâm không kinh hỷ, là tâm không hôn trầm, là tâm không phân biệt, là tâm không dị phân biệt, là tâm không biến phân biệt. Lại nữa, chánh định ấy là tâm chẳng theo thức, là tâm chẳng y nhãn; là tâm chẳng y nhó, tỷ, thiệt, thân, ý; là tâm chẳng y sắc, là tâm chẳng y thanh, hương, vị, xúc, pháp; là tâm chẳng đến các pháp, là tâm chẳng rời trí; là tâm chẳng quan niệm quá khứ, chẳng quán niệm vị lai, chẳng quan niệm hiện tại. Này Xá-lợi-phất! Như Lai an trụ trong chánh định, tâm rời lìa như vậy không có một pháp nào là có thể được, mà ở trong tất cả pháp phát sinh sự thấy biết vô ngại. Vì sao? Vì là công dụng vậy. Này Xá-lợi-phất! Như Lai chẳng khởi khỏi chánh định, rời lìa tâm, ý, thức mà hay làm các Phật sự. Vì sao? Vì là không có công dụng vậy. Này Xá-lợi-phất! Các Đại Bồ-tát ấy nghe giới chẳng nghó bàn và chánh định của Như Lai rồi kính tin thanh tịnh không nghi càng thêm hớn hở vui mừng phát ý tưởng hy hữu kỳ diệu. Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghóa ấy mà nói kệ rằng: Vô lượng, vô đẳng trăm ngàn kiếp Ở trong các loài tu giác hạnh Giới, văn, định, nhẫn, không phóng dật Đạo sư hay tu nhân Diệu giác, Nghiệp quả tối thắng rất thanh tịnh Tịnh giới quảng diệu vượt các cõi Giới đức của Phật như trời tịnh Trong sạch, không nhơ dường hư không. Từ đêm Phật mới chứng Bồ-đề Đến đêm Phật nhập đại Niết-bàn Tâm Phật không hành, không duyên khác Chưa bao giờ khởi xuất đại định. Giới tụ của Phật không thoái, khuyết Giải thoát thần lực cũng như vậy Trụ chánh định trải vô lượng kiếp Đức Phật không tư cũng không tưởng. Trí Phật như không chẳng nghó tưởng Minh đạt duyên vô, chiếu ba đời Không tâm ý thức, không cải biến Chỉ có Bồ-tát tin nhận được. Bấy giờ, Đức Phật lại bảo Xá-lợi-phất: –Thế nào là Đại Bồ-tát đối với thần lực chẳng nghó bàn của Như Lai kính tin thanh tịnh không nghi hoặc lại càng thêm hớn hở vui mừng phát ý tưởng hy hữu kỳ diệu? Này Xá-lợi-phất! Như Lai được thần thông chẳng thể nghó bàn chẳng thể tuyên nói. Nay sẽ vì ông mà phương tiện khai hiển. Này Xá-lợi-phất! Như Lai thường nói trong chúng Thanh văn của Đức Phật, người được thần thông thì Trưởng lão Đại Mục-kiền-liên là đệ nhất. Này Xá-lợi-phất! Nếu đem thần thông ấy để so sánh thì chẳng thấy có thần thông nào của hàng Thanh văn mà bằng được thần thông của Bồ-tát. Lại nếu đem so sánh thì chẳng thấy có thần thông nào của Thanh văn và của Bồ-tát mà bằng được thần thông của Phật. Đây gọi là thần thông chẳng nghó bàn của Như Lai. Các Đại Bồ-tát vì muốn được thần thông của Phật càng phải phát khởi thượng phẩm tinh tấn thì có thể chứng được Này Xá-lợi-phất! Nay các ông có muốn nghe nói ví dụ về thần thông chẳng nghó bàn của Phật chăng? Xá-lợi-phất thưa: –Bạch Thế Tôn! Nay đã phải lúc. Chư Tỳ-kheo nếu được nghe ví dụ về thần thông mà Phật tuyên dạy rồi sẽ đồng thọ trì. Đức Phật dạy: –Lắng nghe, ta sẽ vì ông mà tuyên nói! Này Xá-lợi-phất! Ý ông nghó thế nào? Tôn giả Đại Mục-kiền-liên có được đại thần thông không? Xá-lợi-phất thưa: –Bạch Thế Tôn! Ngày trước con từng nghe Đức Như Lai tuyên bố rằng Tôn giả Đại Mục-kiền-liên là bậc thần thông đệ nhất trong hàng Thanh văn. Đức Phật dạy: –Đúng như vậy. Này Xá-lợi-phất! Nay ta sẽ vì ông mà nói rộng về ví dụ. Này Xá-lợi-phất! Ví như chư Thanh văn đông như rừng rậm, mía mè, lúa đậu, tre lau, đầy khắp cả tam thiên đại thiên thế giới và đều được thần thông như Đại Mục-kiền-liên, chư Thanh văn ấy dùng sức tinh tấn thế lực chớp nhoáng đều hiển hiện thần thông biến hóa. Muốn đem thần thông ấy so với thần thông của Như Lai, thì chẳng bằng một phần trăm, một phần ngàn, cho đến chẳng bằng một phần ưu-ba-ni-sa. Vì sao? Vì Như Lai đã được thần thông biến hóa Ba-la-mật-đa đệ nhất. Này Xá-lợi-phất! Giả sử Như Lai lấy một hạt cải ném xuống đất, chúng Thanh văn ấy đồng thời hiển hiện thần thông biến hóa cũng chẳng lay động được hạt cải ấy. Vì sao? Vì Như Lai đã được thần thông biến hóa Ba-la-mật-đa đệ nhất. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Đừng nói đến tam thiên đại thiên thế giới, giả sử tất cả chúng sinh trong hằng sa thế giới ở mười phương, những loài noãn sinh, thai sinh, thấp sinh, hóa sinh, có sắc, không sắc, có tưởng, không tưởng, Phi tưởng phi phi tưởng đều là Thanh văn thành tựu thần thông đệ nhất như Tôn giả Đại Mục-kiền-liên. Tất cả Thanh văn ấy hiển đại thần thông biến hóa cũng chẳng lay động được hạt cải mà Như Lai đã ném xuống đất ấy. Vì sao? Vì Như Lai đã được Thần thông ba-la-mật-đa đệ nhất. Đây gọi là Như Lai có đủ đại thần thông lực, có đủ đại oai đức lực, có đủ đại tông thế lực như vậy. Lúc bấy giờ Đức Bạc-già-phạm lại bảo Xá-lợi-phất: –Này Xá-lợi-phất! Ông có từng nghe thời kỳ phong kiếp khởi lên, có ngọn gió lớn tên là Tăng-già-đa. Ngọn gió ấy thổi đem cả tam thiên đại thiên thế giới này từ núi Tu-di, các biển lớn… rời khỏi vị trí cao cả do-tuần rồi làm nát ra bột chăng? Xá-lợi-phất thưa: –Ngày trước con ở trước Phật đích thân nghe nói việc ấy. Đức Phật nói: –Này Xá-lợi-phất! Đúng như vậy. Lúc phong tai khởi lên, lại có ngọn gió lớn tên là Tăng-già-đa thổi cả tam thiên đại thiên thế giới những núi Tu-di, biển lớn… cao cả trăm do-tuần rồi làm nát ra bột. Hoặc thổi lên cao hai trăm do-tuần, hoặc ba, bốn, năm trăm do-tuần, hoặc một ngàn, hai, ba, bốn ngàn do-tuần, hoặc đến vô lượng trăm ngàn do-tuần rồi làm nát ra bụi nhỏ theo gió bay tản mất cả trọn không còn gì, huống là núi đá mà tồn tại được. Ngọn gió ấy lại thổi tan cung trời Dạ-ma, cung trời Đâu-suất, cung trời Hóa lạc, cung trời Tha hóa tự tại, cung trời Ma-la, cung trời Sơ thiền, Nhị thiền, cho đến cung trời Tam thiền, Biến tịnh thiên đều tan thành vi trần tản mất không còn gì. Này Xá-lợi-phất! Giả sử ngọn gió Tăng-già-đa ấy vụt nổi lên thổi y của Như Lai, thì chẳng thổi động được chút y chừng bằng sợi lông nhỏ, huống là thổi động được chéo y hay toàn cả cái y của Như Lai. Vì sao? Vì Như Lai đã thành tựu thần thông chẳng nghó bàn, oai nghi chẳng nghó bàn, diệu hạnh chẳng nghó bàn, đại Bi chẳng nghó bàn vậy. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Giả sử hằng sa thế giới mười phương có những luồng gió mạnh như vậy nổi lên sắp thổi tan các thế giới ấy. Bấy giờ Như Lai dùng một đầu ngón tay mang các thế giới ấy đến xứ khác, hoặc làm cho gió ấy mất hết sức lực phải thổi vụt trở lại, mà thần thông biến hóa và tất cả oai lực của Như Lai không hề tổn giảm. Này Xá-lợi-phất! Thần thông của Như Lai không thể nghó bàn, khó nghe, khó tin, chỉ có các Đại Bồ-tát mới có thể tin nhận được và kính tin thanh tịnh không lầm, không nghi, càng thêm hớn hở vui mừng phát ý tưởng hy hữu diệu kỳ. Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghóa ấy mà nói kệ rằng: Giả sử chúng sinh trong ba cõi Tất cả biến thành chúng Thanh văn Đều được thần thông biến hóa lớn Đồng với Tôn giả Đại Mục-liên, Như Lai có đại thần thông lực Lấy một hạt cải ném xuống đất Tất cả Thanh văn hiện thần thông Chẳng lay động được hạt cải ấy. Giả sử trong mười phương thế giới Số nhiều như số cát sông Hằng Ngọn gió Tăng-già-đa nổi lên Có thể thổi tan các thế giới Những ngọn gió Tăng-già-đa ấy Đem thổi y phục của Như Lai Tận thế lực gió chẳng động được Phần nhỏ y phục như đầu lông. Đấng Đại Mâu-ni dùng một lông Ngăn gió lớn ấy chẳng cho thổi Phật có đủ thần lực dường ấy Vô biên, vô lượng như hư không. Này Xá-lợi-phất! Đây gọi là đại thần thông lực chẳng nghó bàn của Như Lai mà các Đại Bồ-tát kính tin thanh tịnh không nghi càng thêm hớn hở vui mừng phát ý tưởng hy hữu diệu kỳ. KINH ĐẠI BẢO TÍCH <卷 id="86423730">QUYỂN 38 Hán dịch: Đời Đại Đường, Tam tạng Pháp sư Huyền Trang. <詞 id="86423731">Pháp hội 12: BỒ-TÁT TẠNG (Phần 4) <章 id="86423732">Phẩm 4: TÁNH CHẲNG NGHÓ BÀN CỦA NHƯ LAI (Phần 2) Đức Phật lại bảo Xá-lợi-phất: –Thế nào là Đại Bồ-tát đối với trí lực chẳng nghó bàn của Như Lai mà kính tin thanh tịnh không nghi càng thêm hớn hở vui mừng phát ý tưởng hy hữu diệu kỳ? Này Xá-lợi-phất! Chư Phật Như Lai có đủ mười Lực như vậy. Vì thành tựu mười Lực, nên Như Lai Đẳng Chánh Giác ở giữa đại chúng cất tiếng sư tử hống chân chánh, tự xưng: “Ta ở Bậc Đại Tôn Thánh chuyển pháp luân thanh tịnh mà tất cả thế gian hoặc Trời, hoặc Ma vương, hoặc Phạm vương, hoặc Sa-môn, hoặc Bà-la-môn đều chẳng thể chuyển đúng pháp được.” Này Xá-lợi-phất! Những gì gọi là mười Lực của Như Lai? Một là Xứ phi xứ trí lực, hai là Nghiệp báo trí lực; ba là Chủng chủng giới trí lực; bốn là Chủng chủng giải trí lực; năm là Chủng chủng căn trí lực; sáu là Nhất thiết biến hành hành trí lực; bảy là Tónh lự giải thoát Tam-ma-địa Tam-ma-bát-đề tạp nhiễm thanh tịnh trí lực; tám là Tùy niệm tiền thế túc trụ tác chứng trí lực; chín là Tử sinh tác chứng trí lực; mười là Lậu tận tác chứng trí lực. Này Xá-lợi-phất! Vì Như Lai đã thành tựu mười Lực như thế nên ở trong đại chúng có thể chuyển phạm luân mà tất cả thế gian không thể chuyển được. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Thế nào là Xứ phi xứ trí lực của Như Lai? Này Xá-lợi-phất! Đó là trí lực vô thượng của Như Lai biết rõ xứ và phi xứ. Với xứ Như Lai biết như thật là xứ và với phi xứ biết như thật là phi xứ. Thế nào là xứ, thế nào là phi xứ? Này Xá-lợi-phất! Phi xứ là không chỗ nhiếp thọ. Như thân làm việc ác, miệng nói lời ác, ý nghó điều ác, mà chiêu cảm quả báo được mừng, được vui, đáng ưa, vừa ý, thì không bao giờ có việc ấy. Xứ là có chỗ nhiếp thọ như thân làm việc ác, miệng nói lời ác, ý nghó điều ác mà chiêu cảm quả báo không mừng không vui, không đáng ưa, không vừa ý thì có việc ấy. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Phi xứ là không chỗ nhiếp thọ. Như thân làm việc thiện, miệng nói lời thiện, ý nghó điều thiện mà chiêu cảm quả báo không được mừng, không được vui, không đáng ưa, không vừa ý thì không bao giờ có việc ấy. Xứ là có chỗ nhiếp thọ, như thân làm việc thiện, miệng nói lời thiện, ý nghó điều thiện mà chiêu cảm quả báo được mừng, được vui, đáng ưa, vừa ý thì có việc ấy. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Phi xứ là không chỗ nhiếp thọ. Nghóa là do xan tham mà chiêu cảm quả báo giàu có, do phạm giới mà sinh vào cõi trời, cõi người, do giận thù mà được thọ thân đoan chánh, do lười biếng mà được thiền, do tán loạn mà nhập chánh định, do ác tuệ mà dứt hẳn tất cả tập khí tương tục. Nói như vậy thì không bao giờ có. Xứ là có chỗ nhiếp thọ. Nghóa là do xan tham mà chiêu cảm quả báo bần cùng, do phá giới mà chiêu cảm quả báo địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ; do giận thù mà chiêu cảm quả báo xấu xí, do lười biếng mà chẳng đắc thiền, do tâm loạn mà chẳng nhập chánh định, do ác tuệ mà chẳng dứt hẳn được tập khí tương tục. Nói như vậy thì có việc ấy. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Phi xứ là không chỗ nhiếp thọ. Nghóa là do bố thí mà chiêu cảm quả báo bần cùng, do trì giới mà đọa địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, do nhẫn nhịn mà chiêu cảm quả báo xấu xí, do chánh cần mà chẳng được thiền, do nhất tâm mà chẳng nhập chánh định, do Thánh tuệ mà chẳng dứt hẳn tập khí tương tục. Nói như vậy thì không bao giờ có việc ấy. Xứ là có chỗ nhiếp thọ. Nghóa là do bố thí mà cảm được giàu có, do trì giới mà sinh về cõi trời, cõi người, do nhẫn nhịn mà cảm thân đoan chánh, do chánh cần mà đắc thiền, do nhất tâm mà nhập chánh định, do Thánh tuệ mà dứt hẳn tập khí tương tục. Nói như vậy thì có việc ấy. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Phi xứ là không chỗ nhiếp thọ. Nghóa là do sát sinh mà chiêu cảm quả báo trường thọ, do trộm cắp mà chiêu cảm quả báo được giàu có, do hành tà dâm mà chiêu cảm quả báo được vợ trinh lương. Nói như vậy thì không bao giờ có việc ấy. Xứ là có chỗ nhiếp thọ. Nghóa là do sát sinh mà chiêu cảm quả báo đoản mạng, do trộm cắp mà chiêu cảm quả báo nghèo cùng, do hành tà hạnh mà chiêu cảm quả báo vợ chẳng trinh lương. Nói như vậy thì có việc ấy. Lại phi xứ là không chỗ nhiếp thọ. Nghóa là người từ bỏ việc sát sinh lại chiêu cảm quả báo đoản mệnh, người không trộm cắp mà chiêu cảm quả báo bần cùng, người xa rời hạnh tà dâm mà chiêu cảm quả báo vợ không trinh lương. Nói như vậy thì không bao giờ có việc ấy. Xứ là có chỗ nhiếp thọ. Nghóa là người rời sát sinh thì cảm báo được trường thọ, người rời trộm cắp thì cảm báo được giàu có, người rời hạnh tà dâm thì cảm báo được vợ trinh lương. Nói như vậy thì có việc ấy. Này Xá-lợi-phất! Tất cả nghiệp đạo thiện, bất thiện, xứ và phi xứ như vậy nay ta sẽ nói tóm lược để hiển thị chỗ cốt yếu. Người nói dối mà chẳng chịu quả báo phỉ báng thì không có sự việc ấy, nếu chiêu cảm quả báo phỉ báng thì có việc ấy. Người xa lìa sự nói dối mà bị quả báo phỉ báng thì không có việc ấy, nếu chẳng bị quả báo phỉ báng thì có việc ấy. Người nói lời ly gián mà chiêu cảm quả báo được quyến thuộc sum họp thì không có sự việc ấy, nếu chẳng cảm được thì có sự việc ấy. Người xa rời lời nói ly gián mà chịu quả báo quyến thuộc tan nát thì không có sự việc ấy, nếu cảm được quyến thuộc sum họp thì có sự việc ấy. Người nói lời thô ác mà cảm được thường nghe âm thanh vừa ý thì không có sự việc ấy, nếu nghe âm thanh chẳng vừa ý thì có việc ấy. Người xa rời lời thô ác mà cảm nghe âm thanh chẳng vừa ý thì không có sự việc ấy, nếu nghe âm thanh vừa ý thì có sự việc ấy. Người nói lời thêu dệt mà cảm được lời dạy bảo ai cũng tin nhận thì không có việc ấy, nếu chẳng tin nhận thì có sự việc ấy. Người xa lìa lời nói thêu dệt mà cảm phải lời dạy bảo người chẳng tín thọ thì không có việc ấy, nếu được tín thọ thì có việc ấy. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Người tham lam mà cảm báo tài sản chẳng tan bại thì không có việc ấy, nếu cảm báo tan mất thì có việc ấy. Người rời tham lam mà cảm báo tài sản tan mất thì không có việc ấy, nếu cảm báo chẳng tan mất thì có việc ấy. Người có tâm giận thù mà chẳng đọa đường ác thì không có việc ấy, nếu đọa thì có việc ấy. Người xa lìa lòng hận thù mà chẳng sinh vào đường lành thì không có sự việc ấy nếu được sinh thì có việc ấy. Người tà kiến chấp nhận nhân tà kiến mà đắc đạo thì không có việc ấy, nếu chẳng đắc đạo thì có việc ấy. Người chánh kiến chấp nhận nhân chánh kiến mà chẳng được Thánh đạo thì không có việc ấy, nếu được Thánh đạo thì có việc ấy. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Người tạo tội vô gián mà tâm được an thì không có việc ấy, nếu bất an thì có việc ấy. Này Xá-lợi-phất! Người giới hạnh thanh tịnh mà tâm bất an thì không có sự việc ấy, nếu tâm an thì có việc ấy. Này Xá-lợi-phất! Nếu quan niệm có sở đắc mà được thuận nhẫn thì không có việc ấy, nếu không được thuận nhẫn thì có việc ấy. Người tin hiểu pháp Không mà chẳng được thuận nhẫn thì không có việc ấy, nếu được thuận nhẫn thì có việc ấy. Này Xá-lợi-phất! Nếu ác tác mà được tâm an ổn thì không có việc ấy, nếu chẳng được tâm đó thì có việc ấy. Người nhiếp tâm mà chẳng được tâm an thì không có việc ấy, nếu tâm được an thì có việc ấy. Này Xá-lợi-phất! Người nữ mà làm Chuyển luân vương, làm Thiên Đế Thích, làm Phạm Thiên vương thì không có việc ấy. Nếu trượng phu mà làm thì có việc ấy. Người nữ xuất thế làm Phật thì không có việc ấy, nếu chuyển thân nữ rồi làm Phật thì có việc ấy. Này Xá-lợi-phất! Nếu người ở Bậc đệ bát nhẫn chưa chứng sơ quả mà xuất định thì không có việc ấy, nếu chứng quả rồi mà xuất thì có việc ấy. Nếu đến Thánh lưu mà còn thọ thân sinh tử thứ tám thì không có việc ấy, nếu chính nơi các uẩn thân này mà nhập Niết-bàn thì có việc ấy. Nếu bậc Nhất lai mà còn thọ thân sinh tử thứ ba thì không có việc ấy. Nếu chính nơi các uẩn thân này mà nhập Niết-bàn thì có việc ấy. Nếu bậc Bất hoàn mà còn sinh lại nơi đây thì không có việc ấy, nếu ở nơi kia mà nhập Niết-bàn thì có sự việc ấy. Nếu A-la-hán lại còn tiếp tục thọ sinh thì không có sự việc ấy, nếu chẳng còn tiếp tục thọ sinh thì có sự việc ấy. Này Xá-lợi-phất! Nếu chư Thánh nhân mà còn cầu tà sư và nhận lời tà thì không có sự việc ấy, nếu chẳng cầu tà sư và chấp nhận lời tà thì có sự việc ấy. Này Xá-lợi-phất! Bậc Bồ-tát được vô sinh pháp nhẫn mà có thoái chuyển thì không có sự việc ấy, nếu nhất định được Vô thượng Bồ-đề không còn thoái chuyển thì có sự việc ấy. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Nói phi xứ là không chỗ nhiếp thọ như các Bồ-tát an tọa đạo tràng chưa chứng Bồ-đề mà rời khỏi tòa thì không có sự việc ấy. Nói xứ là có chỗ nhiếp thọ, như các các Bồ-tát an tọa đạo tràng, chứng Phật đạo rồi rời khỏi tòa thì có sự việc ấy. Này Xá-lợi-phất! Nói phi xứ nghóa là nói, nếu chư Như Lai mà còn tập khí tương tục thì không có sự việc ấy. Nói xứ là nói tất cả Như Lai tập khí đã dứt hẳn thì có sự việc ấy. Này Xá-lợi-phất! Nếu cho rằng trí của Như Lai còn có chướng ngại thì không có sự việc ấy, còn nói trí Phật không gì ngăn ngại thì có sự việc ấy. Này Xá-lợi-phất! Nếu có ai thấy được đỉnh đầu của Như Lai thì không có sự việc ấy. Không ai có thể thấy được đỉnh đầu của Phật thì có sự việc ấy. Này Xá-lợi-phất! Nếu có người biết được tâm an trụ của Như Lai thì không có sự việc ấy. Nếu chẳng thể biết được thì có sự việc ấy. Này Xá-lợi-phất! Nếu nói Như Lai có tâm bất định mà chứng đắc thì không có sự việc ấy. Tâm chư Phật Thế Tôn thường ở tại chánh định thì có sự việc ấy. Này Xá-lợi-phất! Nếu chư Phật Như Lai lời nói không chân thật thì không có sự việc ấy. Chư Phật là Đấng nói lời chân thật, lời chắc chắn, lời không đổi khác thì có sự việc ấy. Này Xá-lợi-phất! Chư Như Lai còn có lầm lỗi thì không có sự việc ấy. Do vì không lầm lỗi mà gọi là chư Phật, là Bạc-già-phạm thì có sự việc ấy. Này Xá-lợi-phất! Về bốn pháp Vô úy và mười tám pháp Bất cộng cũng phân biệt giảng rộng như trên. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Nói phi xứ là không chỗ nhiếp thọ cho đến nói Như Lai nơi đời hiện tại sự thấy biết có chướng, có ngại thì không có sự việc ấy. Nói xứ là có chỗ nhiếp thọ. Phật Bạc-già-phạm nơi đời hiện tại sự thấy biết không chướng, không ngại thì có sự việc ấy. Này Xá-lợi-phất! Đây gọi là Xứ phi xứ trí lực của Như Lai chẳng thể nghó bàn, vô lượng, vô biên. Ví như hư không không có giới hạn, Xứ phi xứ trí lực của Như Lai cũng không có giới hạn. Nếu có ai muốn cầu tìm ranh giới của trí lực Xứ phi xứ của Như Lai thì chẳng khác người muốn tìm cầu ranh giới của hư không. Này Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát nghe trí lực Xứ phi xứ chẳng nghó bàn của Như Lai như hư không rồi kính tin thanh tịnh không nghi càng thêm hớn hở vui mừng phát ý tưởng hy hữu diệu kỳ. Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghóa ấy mà nói kệ rằng: Mười phương hư không vô biên lượng Trí Xứ phi xứ cũng vô biên Đã biết như thật trí Xứ phi xứ Vì chúng rộng nói pháp vi diệu. Người thành tựu căn khí giải thoát Biết công hạnh ấy Phật mới dạy Người chẳng có căn khí giải thoát Biết trí ấy rồi bèn rời bỏ. Giả sử hư không lay động được Mười phương đại địa đồng thời rã Bậc Đại Thánh Tôn thế xuất thế Trí Xứ phi xứ đều như thật. Này Xá-lợi-phất! Đây là trí lực Xứ phi xứ thứ nhất của Như Lai. Do thành tựu trí lực này mà Như Lai Chánh Đẳng Giác ở giữa đại chúng cất tiếng sư tử hống chân chánh tự xưng: “Ta là Bậc Đại Thánh chuyển đại pháp luân mà tất cả thế gian, các Sa-môn, Bà-la-môn, Ma vương, Phạm vương… đều không thể chuyển đúng pháp được.” Thế nào là Nghiệp báo trí lực của Như Lai? Này Xá-lợi-phất! Như Lai Đẳng Chánh Giác dùng trí lực vô thượng biết được đúng như thật những nghiệp và quả báo thuở quá khứ, vị lai và hiện tại, hoặc nguyên nhân, hoặc nơi chốn, hoặc các quả báo khác nhau đều biết rõ. Thế nào là Đức Như Lai biết rõ đúng như thật? Như Lai đúng như thật biết rõ nghiệp báo trong đời quá khứ, nếu gieo nhân thiện xa rời bất thiện sẽ làm nhân cho thiện căn đời vị lai. Hay quả báo thuở quá khứ được nhân bất thiện, xa rời thiện pháp sẽ làm nhân cho bất thiện căn đời vị lai. Các tướng nghiệp và báo như vậy, Như Lai ở tại đây đều biết rõ như thật. Hoặc các nghiệp báo sẽ thuận với liệt phần ở đời vị lai, hoặc các nghiệp báo sẽ thuận với thắng phần ở đời vị lai, các tướng như vậy Như Lai ở tại đây đều biết rõ đúng thật. Hoặc các nghiệp báo thuận với liệt phần ở hiện tại và thuận với thắng phần ở vị lai; các nghiệp báo thuận với thắng phần ở hiện tại và thuận với hạ liệt phần ở vị lai, các nghiệp báo thuận với hạ liệt phần ở hiện tại và cũng thuận với liệt phần ở vị lai, những nghiệp báo thuận với thắng phần ở hiện tại và cũng thuận với thắng phần ở vị lai, các tướng như vậy Như Lai ở tại đây đều biết rõ đúng thật. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Hoặc các nghiệp báo ở quá khứ là phương tiện hạn hẹp mà ở vị lai là phương tiện rộng lớn, hoặc các nghiệp báo tạo tác ít mà được thắng tiến lớn, hoặc các nghiệp báo tạo tác rộng lớn mà được thắng tiến ít, các tướng như vậy đều biết rõ đúng thật. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Hoặc các nghiệp báo sẽ được nhân tánh Thanh văn, sẽ được nhân tánh Độc Giác, sẽ được nhân tánh Phật, các tướng như vậy Như Lai đều biết rõ đúng thật. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Hoặc các nghiệp báo hiện tại thì khổ mà có thể cảm được báo vui khác ở vị lai, hoặc các nghiệp báo hiện tại thì vui mà có thể cảm lấy báo khổ khác ở vị lai, hoặc các nghiệp báo hiện tại khổ cảm được báo khổ khác ở vị lai, hoặc các nghiệp báo hiện tại vui cảm được báo vui khác ở vị lai, các tướng nghiệp báo như vậy Như Lai đều biết rõ đúng thật. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Như Lai biết rõ được như thật tất cả hữu tình ở quá khứ, vị lai, hiện tại; hoặc nghiệp, hoặc nhân, hoặc các quả báo khác, hoặc chính là nó, hoặc xa lìa, hoặc có tùy thuận chẳng khác phần, các tướng như vậy Như Lai đều biết rõ như thật rồi vì các hữu tình mà tuyên nói như thật. Này Xá-lợi-phất! Trí lực biết rõ như thật nghiệp nhân quả báo quá khứ, vị lai, hiện tại của Như Lai Chánh Đẳng Giác vô lượng, vô biên chẳng nghó bàn. Ví như hư không vô biên, vô tế, trí lực nghiệp báo của Như Lai vô biên, vô tế cũng như vậy. Nếu có ai muốn tìm cầu biên tế của trí lực nghiệp báo ấy, thì không khác gì người tìm cầu biên tế của hư không. Này Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát nghe trí lực nghiệp báo của chư Như Lai chẳng nghó bàn như hư không rồi kính tin thanh tịnh không nghi càng thêm hớn hở vui mừng phát ý tưởng hy hữu diệu kỳ. Bấy giờ, Thế Tôn muốn tuyên lại nghóa ấy mà nói kệ rằng: Như Lai khéo biết nhân khác quả Mắt sáng thấy rõ nghiệp như thật Thấu suốt ba đời đều vô ngại Biết như thật nghiệp của hữu tình Tất cả hàm linh trong năm loài Sẽ được thành các nhân vui khổ Nếu chuyển được nhân thì khổ chuyển Như Lai soi tỏ biết như thật. Dị báo thiện ác tất cả nghiệp Theo đúng cho nên nhân khác báo Dường như viên ngọc nằm trong tay Như Lai nhìn rõ biết như thật. Các báo nghiệp nhân dù là ít Được quả vô lượng ở vị lai Hoặc vô lượng nhân cảm quả ít Như Lai thấy khắp biết như thật. Hoặc nhân sẽ chứng quả Thanh văn Hoặc hạnh sẽ chứng quả Độc giác Hoặc nghiệp sẽ cảm quả vô thượng Như Lai biết rõ không sót thừa. Hoặc có nghiệp lúc nhân thì khổ Nghiệp ấy sẽ cảm được báo vui Hoặc nghiệp lúc tạo nhân thì vui Sẽ mắc quả khổ Phật đều biết. Hoặc nghiệp nhân quả đều khổ cả Hoặc nghiệp đều vui cả quả nhân Hoặc nghiệp tự thể, nhân tự thể Như Lai đều biết rõ như thật. Quả khổ xoay vần cả ba đời Hữu tình trôi lăn trong năm nẻo Trí lực nghiệp báo của Như Lai Đều biết như thật không sai sót. Này Xá-lợi-phất! Đây gọi là trí lực Nghiệp báo thứ hai của Như Lai. Do thành tựu trí lực này nên Phật ở giữa đại chúng cất tiếng sư tử hống tự xưng rằng: “Ta ở Bậc Đại Thánh chuyển pháp luân rộng lớn thanh tịnh, mà thế gian những Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên, Ma vương, Phạm vương… đều chẳng chuyển được đúng pháp.” Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Thế nào gọi là Chủng chủng giải trí lực của Như Lai? Này Xá-lợi-phất! Như Lai Đẳng Chánh Giác dùng trí lực vô thượng biết được như thật các loài hữu tình kia chẳng phải là một dục giải, là nhiều loại dục giải. Này Xá-lợi-phất! Ta sẽ vì ông mà phân biệt nói rộng ra. Các loài hữu tình kia, hoặc có kẻ ở trong tham dục mà phát sinh sân hận, hoặc có kẻ ở trong sân hận mà phát sinh tham dục, hoặc ở trong ngu si mà phát sinh tham dục hay sân hận, các tướng như vậy Phật đều biết rõ như thật. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Hoặc có chúng sinh ở nơi pháp bất thiện phát sinh ý niệm bất thiện, hoặc ở nơi pháp thiện phát sinh ý niệm thiện, Phật đều biết rõ như thật. Hoặc có những hữu tình ở nơi phương tiện hạ liệt phát sinh hiểu biết rộng lớn, hoặc ở nơi phương tiện rộng lớn phát sinh hiểu biết hạ liệt, hoặc do sự hiểu phương tiện hạ liệt ấy sẽ ở nơi thắng tiến, hoặc do sự hiểu phương tiện thắng tiến ấy sẽ ở nơi hạ liệt, hoặc do sự hiểu ấy sẽ gieo giống tà định, hoặc do sự hiểu ấy sẽ gieo giống chánh định, hoặc do sự hiểu ấy sẽ gieo giống chánh định giải thoát, Phật đều biết rõ như thật. Hoặc do sự hiểu ấy sẽ đến cõi Dục, hoặc sẽ đến cõi Sắc, hoặc sẽ đến cõi Vô sắc, hoặc sẽ đến khắp ba cõi, Phật đều biết rõ như thật. Hoặc do sự hiểu ấy thuận phần hạ liệt sẽ được thắng tiến, hoặc được thắng tiến sẽ ở nơi hạ liệt, Phật đều biết rõ như thật. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Hoặc do sự hiểu ấy mà đời sau sẽ nhận lãnh nhiều đời sống, sẽ nhận lãnh nhiều loài, nhiều sự thọ dụng, Phật đều biết rõ như thật. Hoặc do sự hiểu ấy mà sẽ thoái đọa, hoặc do sự hiểu ấy mà gieo giống giải thoát, Phật đều biết rõ như thật. Đã biết rõ rồi, theo chỗ tương ứng, Phật rộng vì các hữu tình mà diễn thuyết đúng như pháp. Này Xá-lợi-phất! Chủng chủng giải trí lực của Như Lai chẳng thể nghó bàn, không ngằn, không mé giống như hư không. Các Đại Bồ-tát ấy nghe Chủng chủng giải trí lực chẳng nghó bàn như hư không của Như Lai rồi kính tin thanh tịnh không nghi càng thêm hớn hở vui mừng phát ý tưởng hy hữu diệu kỳ. Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghóa ấy mà nói kệ rằng: Đời hiểu biết nhiều loại Xưa, nay nhiều vô lượng Tâm nhiều loại giải ấy Đạo Sư đều biết rõ. Hoặc kẻ có niệm tham Lại sẽ trụ sân hận, Hoặc hiện trụ sân hận Si mê, Phật biết rõ. Trong si khởi tham giải Phân biệt khó nghó bàn Xen tạp lưu chuyển khởi Đạo Sư đều tỏ tường. Các phương tiện hạ liệt Mà sinh hiểu biết lớn Hoặc tăng thêm phương tiện Đạo Sư đều hay biết. Tùy theo nơi tà tánh Lại vào chỗ phi đạo Hiểu giải thoát ba cõi Như Lai đều biết rõ. Chủng loại sinh các loài Các thọ dụng sai biệt Hoặc thoái thất đọa lạc Lưỡng Túc Tôn đều rõ. Biết các thứ kia rồi Đạo Sư phương tiện thuyết Đây, Phật lực thứ ba Bồ-tát mới tin được. Này Xá-lợi-phất! Đây gọi là Chủng chủng giải trí lực thứ ba của Như Lai. Do thành tựu trí lực ấy nên Như Lai Chánh Đẳng Giác ở giữa đại chúng cất tiếng sư tử hống chân chánh tự xưng rằng: “Ta ở Bậc Đại Thánh hay chuyển pháp luân thanh tịnh mà các thế gian, Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên, Ma vương, Phạm vương... đều chẳng thể chuyển đúng pháp được.” Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Thế nào là Chủng chủng giới trí lực của Đức Như Lai? Này Xá-lợi-phất! Như Lai Chánh Đẳng Giác dùng trí lực vô thượng như thật biết rõ các thứ cảnh giới của tất cả thế gian. Do các cảnh giới ấy mà các chúng sinh gây tạo hành nghiệp phước, gây tạo hành nghiệp phi phước, hành nghiệp bất động, hoặc do cảnh giới ấy mà gieo giống xuất ly. Các cảnh giới ấy, Như Lai ở nơi đây biết rõ như thật. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Như Lai như thật biết rõ nhãn giới, sắc giới và nhãn thức giới, cho đến ý giới, pháp giới và ý thức giới. Các giới như vậy biết rõ như thế nào? Đó là như thật biết rõ trong không, ngoài không, trong ngoài không. Như Lai lại như thật biết rõ địa giới, thủy giới, hỏa giới và phong giới. Biết rõ các giới ấy như thế nào? Đó là biết rõ như không giới. Những Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới đều biết rõ như thật, vì rõ khắp chỗ phân biệt phát khởi. Lại như thật biết rõ cảnh giới hữu vi, vì là tướng tạo tác vậy; như thật biết rõ cảnh giới vô vi, vì là tướng không có tạo tác vậy; biết rõ tạp nhiễm giới, vì tướng nó do phiền não dẫn phát ra; biết rõ cảnh giới thanh tịnh, vì tướng nó tự thể sáng sạch. Lại như thật biết rõ các hành giới, vì là tướng vô minh chẳng thuận lý vậy; biết rõ Niết-bàn giới, vì là tướng sáng thuận lý. Này Xá-lợi-phất! Vì thế nên hoặc là cảnh giới có thể an lập thế gian, cảnh giới này được thế gian y cứ mà an trụ, như vậy hoặc là cảnh giới hay phát khiên dẫn, hoặc là cảnh giới hay hưng kiến lập, hoặc cảnh giới hay khởi phương tiện, hoặc là cảnh giới hay sinh ý dục, hoặc là cảnh giới hay khởi phiền não, hoặc là cảnh giới hay làm chỗ nương tựa, các giới như vậy có vô lượng, vô biên cũng đều được Như Lai biết rõ như thật. Đã biết rõ rồi theo chỗ tương ứng mà vì chúng sinh rộng giảng nói đúng như pháp. Này Xá-lợi-phất! Trí lực Chủng chủng giới chẳng nghó bàn của Như Lai không có giới hạn như hư không. Nếu có ai muốn tìm cầu ranh giới của trí lực chủng chủng giới ấy, thì không khác gì người muốn cầu tìm ranh giới của hư không. Các Đại Bồ-tát ấy nghe Chủng chủng giới trí lực chẳng nghó bàn như hư không của Như Lai rồi kính tin thanh tịnh không nghi càng thêm hớn hở vui mừng phát ý tưởng hy hữu diệu kỳ. Bấy giờ, Thế Tôn muốn tuyên lại nghóa ấy mà nói kệ rằng: Các chúng sinh thế gian Nương tựa các cảnh giới Tùy chỗ họ lưu chuyển Như Lai đều biết rõ. Phước, phi phước, bất động Và thuận với xuất ly An trụ cảnh giới ấy Chứng tịch diệt Niết-bàn, Hoặc nhãn giới, sắc giới Và cùng nhãn thức giới, Nhó, tỷ, thiệt, thân, ý Biết rõ các giới ấy Lại biết rõ pháp giới Và cùng ý thức giới Nội ngoại giới đều không Phật biết rõ như thật. Địa giới và thủy giới Hỏa giới cùng phong giới Bốn giới cùng không giới Đều biết rõ như thật. Hoặc Dục giới, Sắc giới Và cùng Vô sắc giới Khắp phân biệt chỗ khởi Phật biết rõ như thật. Như hư không vô biên Giới vô biên cũng vậy Phật đều biết rõ cả Mà chẳng nói ta biết. Các giới vốn không sinh Vốn cũng không có diệt Đây gọi cảnh Niết-bàn Đức Như Lai biết rõ. Như hư không vô biên Trí chư Phật cũng vậy Do trí ấy biết rõ Các cảnh giới đổi khác. Đã biết các loại giới Điều phục các chúng sinh Phật trí lực thứ tư Bồ-tát hay tin được. Này Xá-lợi-phất! Đây gọi là Chủng chủng giới trí lực của Như Lai. Do thành tựu trí lực này mà Như Lai Đẳng Chánh Giác ở giữa đại chúng cất tiếng sư tử hống chân chánh tự xưng rằng: “Ta ở Bậc Đại Thánh chuyển pháp luân thanh tịnh mà các thế gian, Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên, Ma vương, Phạm vương… đều không thể chuyển đúng pháp được.” Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Thế nào là Chủng chủng căn trí lực của Như Lai? Này Xá-lợi-phất! Như Lai Đẳng Chánh Giác dùng trí lực vô thượng có thể biết rõ như thật về tướng các căn tánh sai biệt của tất cả chúng sinh. Các tướng ấy Như Lai biết rõ như thực thế nào? Này Xá-lợi-phất! Đó là Như Lai biết rõ như thật độn căn, trung căn, lợi căn, thắng căn, liệt căn. Do khắp phân biệt theo các căn tánh mà Như Lai biết rõ như thật chúng sinh khởi các thứ tham, khởi các thứ sân, khởi các thứ si, hoặc khởi giả lập tham, sân, si, hoặc khởi tham, sân, si nhỏ mỏng, hoặc khởi tham, sân, si điên đảo, hoặc khởi điều phục tham, sân, si. Hoặc nhân bất thiện sinh ra các căn, hoặc các căn do nhân thiện sinh ra, Như Lai đều biết rõ như thật. Cũng biết rõ các căn do nhân bất động sinh ra, hoặc các căn do nhân xuất ly sinh ra. Này Xá-lợi-phất! Như Lai biết rõ như thật nhãn căn, nhó căn, tỷ căn, thiệt căn, thân căn, ý căn, nam căn, nữ căn, mạng căn, lạc căn, khổ căn, ưu căn, hỷ căn, xả căn, tín căn, chánh cần căn, niệm căn, định căn, tuệ căn, vị tri đương tri căn, tri căn, tri dó căn. Các tướng căn sai biệt như vậy Như Lai đều biết rõ như thật. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Như Lai biết rõ như thật các căn ấy, nhân nơi nhãn căn sẽ trụ nơi nhó căn mà không trụ nơi các căn tỷ, thiệt, thân kia, hoặc nhân nơi nhó căn sẽ trụ nơi tỷ căn; hoặc nhân nơi tỷ căn sẽ trụ nơi thiệt căn; hoặc nhân nơi thiệt căn sẽ trụ nơi thân căn; hoặc nhân nơi thân căn sẽ trụ nhãn căn. Các căn như vậy Như Lai đều biết rõ như thật. Này Xá-lợi-phất! Hoặc các chúng sinh trụ nơi bố thí căn mà tu trì giới phương tiện, bấy giờ Như Lai dùng trí Thắng liệt căn mà vì họ nói pháp bố thí. Hoặc có chúng sinh trụ nơi trì giới căn mà tu bố thí phương tiện thì vì họ nói về trì giới. Hoặc có chúng sinh an trụ nhẫn nhục căn mà tu tinh tấn phương tiện, thì vì họ nói về pháp nhẫn nhục. Hoặc có chúng sinh trụ nơi tinh tấn căn mà tu nhẫn nhục phương tiện, thì vì họ nói về pháp tinh tấn. Hoặc an trụ thiền định căn mà tu tuệ phương tiện thì vì họ nói về pháp thiền. Hoặc an trụ tuệ căn mà tu thiền phương tiện thì vì họ nói về chánh tuệ. Các căn sai biệt về tất cả phần Bồ-đề như vậy Như Lai đều biết rõ như. Này Xá-lợi-phất! Hoặc có chúng sinh an trụ căn Thanh văn mà lại tu Độc giác phương tiện, thì Như Lai dùng Chủng chủng chư căn trí vì họ mà nói Hạ thừa. Người an trụ Độc giác căn mà tu Thanh văn phương tiện thì vì họ mà nói Trung thừa. Người an trụ đại thừa căn mà tu phương tiện Nhị thừa, thì Như Lai dùng chư căn trí vì họ nói Đại thừa. Người an trụ hạ liệt căn mà tu Đại thừa phương tiện thì dùng Chư căn trí vì họ nói Nhị thừa. Nếu có các chúng sinh không có căn kham nhẫn, không có tướng kham nhẫn, Như Lai biết họ là phi pháp khí không kham nhẫn rồi bèn bỏ để đó. Nếu các chúng sinh có căn kham nhẫn, có tướng kham nhẫn, Như Lai biết rõ như thật là người pháp khí có kham nhẫn liền ân cần trịnh trọng vì họ thuyết pháp cho họ được ngộ nhập. Như vậy, này Xá-lợi-phất! Như lai biết rõ các hữu tình các căn thuần thục và chẳng thuần thục, các căn xuất ly và chẳng xuất ly Căn tánh của các hữu tình, Như Lai đúng như thật biết rõ tất cả; an trụ tướng như vậy, phương tiện như vậy, tin hiểu như vậy, nguyên nhân chính như vậy, các duyên như vậy, đẳng lưu như vậy và cứu cánh cũng như vậy. Này Xá-lợi-phất! Chủng chủng căn trí của Như Lai chẳng thể nghó bàn không ngằn, không mé giống như hư không. Nếu có ai muốn tìm cầu ranh giới Chư căn trí lực của Như Lai thì chẳng khác gì người muốn tìm cầu ranh giới của hư không. Các Đại Bồ-tát nghe căn lực như hư không ấy rồi kính tin thanh tịnh không nghi càng thêm hớn hở vui mừng phát ý tưởng hy hữu diệu kỳ. Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghóa ấy mà nói kệ rằng: Đấng Giác Ngộ mọi loài tôn kính Khéo rõ tánh hạnh của hữu tình Tùy theo căn tánh có thể kham Như Lai vì họ mà thuyết pháp. Căn hạ, trung, thượng kham nhẫn được Trí lực của Phật khởi trong ấy Xem tâm giải thoát của họ rồi Đấng Lưỡng Túc Tôn liền thuyết pháp. Nếu người các căn hay phát khởi Phiền não mỏng nhẹ tương tục ít Khéo thấu căn tánh của người ấy Như Lai tùy thuận vì thuyết pháp. Nếu các trượng phu có căn lành Tùy chỗ siêng tin mà khai thị Lại theo căn hành tướng sai biệt Nói các thắng nghóa định tuệ thảy. Nếu người phát khởi siêng tín nguyện Như Lai tùy thuận nói tịnh đạo Biết họ có đủ công hạnh rồi Dạy họ thắng pháp vượt các khổ. Có căn quyết định Phật Bồ-đề Mê lầm tu theo hạnh Nhị thừa Phật dạy Đại thừa thành Chánh giác Đây là trí lực thứ năm vậy. Này Xá-lợi-phất! Đây gọi là Chủng chủng căn trí lực thứ năm của Như Lai. Do thành tựu trí lực thứ năm này mà Như Lai ở giữa đại chúng cất tiếng sư tử hống chân chánh tự xưng rằng: “Ta ở Bậc Đại Thánh hay chuyển pháp luân thanh tịnh mà các thế gian, Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên, Ma vương, Phạm vương… đều chẳng chuyển được đúng pháp.” Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Thế nào là Biến thú chư hành trí lực của Như Lai? Này Xá-lợi-phất! Như Lai Chánh Đẳng Giác dùng vô thượng trí lực biết rõ như thật biến hành chư hành. Này Xá-lợi-phất! Các tướng như vậy biết rõ thế nào? Đó là biết rõ tánh hữu tình là tánh chánh định, là tánh bất chánh định, là tánh tà định. Thế nào là tánh chánh định? Đó là do phương tiện tu tập đời trước khai phát trí tuệ căn tánh lanh lợi mà phát sinh tánh ấy, hoặc chư Phật có vì họ thuyết pháp hay chẳng thuyết pháp. Như Lai biết nhân quả đời trước của chúng sinh ấy kham nhẫn pháp khí liền tùy chỗ tương ứng thuyết pháp cho họ mau được giải thoát. Thế nào là tánh bất định? Đó là do sức ngoại duyên mà thành thục tánh ấy. Nếu được giáo thọ, giáo giới đúng như pháp thì được giải thoát. Nếu giáo thọ, giáo giới chẳng đúng pháp thì chẳng được giải thoát. Như Lai vì họ mà tùy thuận nói pháp nhân duyên tương ứng. Họ nghe được chánh pháp rồi đúng theo lý mà tu hành chứng quả giải thoát. Vì muốn cho các chúng sinh được những sự lợi ích an lạc giải thoát như vậy mà Phật xuất thế. Thế nào gọi là tánh tà định? Đó là tánh chúng sinh bị phiền não che lấp, chẳng tu tập nghiệp hạnh thanh tịnh, thức tánh bạc nhược ngu si sâu dầy an trụ trong lưới tà kiến, chẳng phải căn khí chánh pháp, dù chư Như Lai có vì họ thuyết pháp hay chẳng thuyết pháp, họ cũng chẳng kham nhẫn chứng quả giải thoát. Như Lai biết hữu tình ấy chẳng phải là pháp khí rồi liền bỏ để đó. Vì thế nên, này Xá-lợi-phất! Các Đại Bồ-tát vì thương muốn làm lợi ích cho hàng chúng sinh ấy, nên mặc giáp hoằng thệ vào trong đám quân tà kiến để giáo hóa điều phục. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Như Lai biết rõ như thật ba thứ tham hành, hoặc do tướng tịnh mỹ mà phát khởi tham hành, hoặc do tướng luyến ái mà phát khởi tham hành, hoặc do nghiệp nhân đời trước mà phát khởi tham hành. Như Lai lại biết rõ như thật ba thứ sân hành, hoặc do tướng tổn hại mà phát khởi sân hành, hoặc do quan sát quá nhiều mà phát khởi sân hành, hoặc do phiền não đời trước mà phát khởi sân hành. Như Lai lại biết rõ như thật ba thứ si hành, hoặc có si hành do vô minh phát sinh, hoặc có si hành do vọng có thân kiến mà phát sinh, hoặc có si hành do nghi mà phát sinh. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Như Lai biết rõ như thật các hành. Có người đối với hai hành khổ lạc đều có thể mau thông hiểu vì các căn của họ rất bén nhạy. Có người hai hành khổ lạc đều chậm thông hiểu, vì các căn của họ chậm lụt. Lại biết rõ như thật hành chậm, thông cũng chậm vì bỏ sở duyên. Hoặc hành chậm còn thông thì mau vì đạo chẳng ngừng dứt. Hoặc hành mau còn thông thì chậm vì dũng quyết tiến lên; hoặc hành mau, thông mau, vì chẳng phải tánh ấy. Lại biết rõ như thật hoặc có các hành sức giản trạch đầy đủ mà chẳng phải sức tu tập. Hoặc có các hành sức tu tập đầy đủ mà không phải sức giản trạch. Hoặc có các hành hai sức giản trạch và tu tập đều đầy đủ. Lại biết rõ như thật hoặc có các hành tín nguyện đầy đủ mà chẳng phải phương tiện đầy đủ. Hoặc có các hành phương tiện đầy đủ mà chẳng phải tín nguyện đầy đủ. Hoặc có các hành tín nguyện và phương tiện đều đầy đủ. Hoặc có các hành tín nguyện và phương tiện đều chẳng đầy đủ. Lại biết rõ như thật hoặc có các hành thân nghiệp thanh tịnh mà chẳng phải do ngữ và ý. Hoặc có các hành ngữ nghiệp thanh tịnh mà chẳng phải do thân và ý. Hoặc có các hành ý nghiệp thanh tịnh mà chẳng do thân và ngữ. Hoặc có các hành chẳng phải thân, ngữ, ý. Hoặc có các hành do thân, ngữ, ý mà được thanh tịnh. Như vậy cho đến chúng hữu tình chỗ có các hành hoặc nhân lưu chuyển, hoặc nhân chẳng lưu chuyển, hoặc nhân cả hai đều lưu chuyển và chẳng lưu chuyển, Như Lai dùng trí vô ngại nên biết rõ như thật. Này Xá-lợi-phất! Trí lực Biến thú chư hành của Như Lai chẳng nghó bàn được, không ngằn, không mé giống như hư không. Các Đại Bồ-tát nghe trí lực chẳng nghó bàn như hư không ấy rồi kính tin thanh tịnh không nghi càng thêm hớn hở vui mừng phát ý tưởng hy hữu diệu kỳ. Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghóa ấy mà nói kệ rằng: Như Lai như thật biết các hành Biết được hữu tình tánh chánh định Lại biết tướng bất định thành thục Và các căn nhân pháp tương ứng. Các hành ba thứ tham tương ưng Và hợp cùng ba thứ sân si Vô biên phiền não tương ứng hành Nhân duyên, Đức Phật đều thật biết. Người có khổ hành mà lợi căn Hoặc có hành ấy mà độn căn Người có lạc hành căn lợi độn Đấng Đại Đạo Sư biết như thật. Người có độn hành và độn tu Hoặc là hành độn mà lợi tu Hoặc là hành mau mà tu chậm Hoặc là đều mau hoặc đều chậm, Hoặc có các hành giản trạch sinh Chẳng do tu tập đạo lực khởi Hoặc tu tập sinh chẳng giản trạch Câu sinh biệt dị cũng tương ưng, Hoặc có các hành sinh tín nguyện Mà chẳng phải là phương tiện tịnh Hoặc phương tiện tịnh chẳng tín nguyện Phật, Đấng Biến Tri đều rõ cả. Hoặc có tịnh tu nơi thân nghiệp Chẳng phải ngữ, ý nghiệp thanh tịnh Hoặc có ngữ tịnh và thân tịnh Mà ý nghiệp kia chẳng thanh tịnh, Hoặc có nội tâm thường thanh tịnh Hai nghiệp thân, ngữ chẳng thanh tịnh Hoặc có ngữ tịnh và ý tịnh Mà thân nghiệp họ chưa được tịnh, Hoặc thân, ngữ, ý tịnh chẳng tịnh Các hành lưu chuyển và tịch diệt Đấng Chánh Biến Tri biết như thật Đây là Phật trí lực thứ sáu. Này Xá-lợi-phất! Đây gọi là Biến thú hành trí lực của Như Lai. Do trí lực thứ sáu ấy mà Như Lai tự xưng là Bậc Đại Thánh chuyển pháp luân thanh tịnh mà tất cả thế gian đều chẳng chuyển đúng pháp được. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Thế nào là Tónh lự giải thoát Tam-ma-địa, Tam-ma-bát-đề phát khởi tạp nhiễm thanh tịnh trí lực của Như Lai? Này Xá-lợi-phất! Như Lai Chánh Đẳng Giác dùng trí lực vô thượng biết rõ như thật hoặc mình, hoặc người, tất cả những pháp Tónh lự giải thoát Tam-ma-địa, Tam-ma-bát-đề phát khởi tạp nhiễm thanh tịnh. Các tướng như vậy biết rõ như thật thế nào? Đó là biết rõ như thật do nhân, do duyên mà tất cả hữu tình có thể bị tạp nhiễm; lại như thật biết do nhân, do duyên mà tất cả hữu tình có thể được thanh tịnh. Này Xá-lợi-phất! Nhân gì, duyên gì có thể khiến tạp nhiễm? Đó là do tác ý chẳng xứng lý làm nhân, do vô minh làm duyên khiến các hữu tình phát khởi tạp nhiễm. Như vậy vô minh làm nhân các hành làm duyên; các hành làm nhân các thức làm duyên; các thức làm nhân danh sắc làm duyên; danh sắc làm nhân sáu nhập làm duyên, sáu nhập làm nhân các xúc làm duyên; các xúc làm nhân cảm thọ làm duyên; do thọ làm nhân ái luyến làm duyên; tham ái làm nhân chấp thủ làm duyên; do thủ làm nhân các hữu làm duyên; do hữu làm nhân lấy sinh làm duyên; do sinh làm nhân lão tử làm duyên; phiền não làm nhân các nghiệp làm duyên; kiến chấp làm nhân tham ái làm duyên; tùy miên làm nhân các triền cái làm duyên. Do các nhân và duyên như vậy làm cho tất cả hữu tình phát khởi tạp nhiễm. Những tướng như vậy Như Lai đều biết rõ như thật. Này Xá-lợi-phất! Nhân gì và duyên gì làm cho thanh tịnh? Có hai nhân và hai duyên có thể làm cho tất cả hữu tình thanh tịnh. Đó là do tha thuận âm và tác ý như lý của chính mình làm nhân và Xa-ma-tha duyên một cảnh cùng Tỳ-bát-xá-na thiện xảo phương tiện làm duyên. Lại có hai nhân và hai duyên làm cho thanh tịnh. Đó là trí chẳng thể đến và chẳng thể đi. Lại có hai nhân và hai duyên làm cho thanh tịnh. Đó là quán vô sinh và chứng chánh định. Lại có hai nhân và hai duyên làm cho thanh tịnh. Đó là hành cụ túc và minh vô minh giải thoát tác chứng. Lại có hai nhân và hai duyên làm cho thanh tịnh. Đó là tu môn giải thoát và trí tánh giải thoát. Lại có hai nhân và hai duyên làm cho thanh tịnh. Đó là tùy giác đế và tùy đắc đế. Những nhân và duyên như vậy có thể làm cho hữu tình thanh tịnh. Các tướng như vậy Như Lai đều biết rõ như thật. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Như Lai biết rõ như cảnh giới tạp nhiễm của các hữu tình và cảnh giới thanh tịnh của các hữu tình. Hoặc có cảnh giới tạp nhiễm nhập vào cảnh giới thanh tịnh; hoặc có cảnh giới thanh tịnh nhập vào cảnh giới tạp nhiễm. Đây đều do như thật quán. Hoặc có cảnh giới tạp nhiễm nhập vào cảnh giới tạp nhiễm; hoặc có cảnh giới thanh tịnh nhập vào cảnh giới thanh tịnh. Đây đều do chấp tăng thượng mạn. Tất cả tướng trên đây Như Lai đều biết rõ như thật. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Như Lai dùng trí như thật ở trong các tónh lự siêu việt, trong tạp sai biệt đều biết rõ. Đó là ly dục ác bất thiện pháp hữu tầm, hữu tứ, ly sinh hỷ lạc, an trụ đầy đủ nơi tónh lự tối sơ. Như Lai an trụ tónh lự tối sơ rồi từ Diệt tận định mà xuất định. Như vậy cho đến nhập Diệt tận định rồi từ Sơ tónh lự mà xuất định. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Như Lai ở nơi tám giải thoát dùng trí như thật hoặc thuận thứ lớp mà nhập, hoặc lại nghịch thứ mà nhập, hoặc thuận nghịch nhập, hoặc gián tạp nhập. Như vậy thế nào là tám thứ giải thoát? Đó là trong có sắc tướng quán ngoài sắc là giải thoát ban đầu, trong không sắc tướng quán ngoài sắc giải thoát là giải thoát thứ hai; nơi tịnh giải thoát hoặc nơi tịnh tánh khởi tịnh giải là giải thoát thứ ba; hư không vô biên xứ định là giải thoát thứ tư; thức vô biên xứ định là giải thoát thứ năm; vô sở hữu xứ định là giải thoát thứ sáu; phi tưởng phi phi tưởng xứ định là giải thoát thứ bảy; diệt thọ tưởng định là giải thoát thứ tám. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Như Lai dùng trí như thật hoặc an trụ trong một Tam-ma-địa mà lại thị hiện Tam-ma-địa và Tam-ma-bát-đề khác hoặc lại thị hiện các thứ quán giải. Dù như vậy mà chư Như Lai đối với các đẳng trì chưa từng hỗn loạn. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Chư Phật Như Lai chẳng do duyên nơi Tam-ma-địa mà nhập Tam-ma-địa. Hoặc y nơi một tam-ma-địa mà thành tựu tất cả những Tam-ma-địa khác. Hoặc chẳng khởi một Tam-ma-địa mà có thể nhập khắp tất cả Tam-ma-địa. Lại chư Như Lai tâm thường an trụ trong định không xoay vần duyên. Lại chư Như Lai không bao giờ có tâm bất định. Lại chư Như Lai an trụ chánh định thâm diệu, không ai có thể thấy biết được chánh định của Như Lai được. Này Xá-lợi-phất! Tam-ma-địa của hàng Thanh văn đạt được bị Tam-ma-địa của Độc giác che lấp. Tam-ma-địa của các Độc giác được bị Tam-ma-địa của Bồ-tát che lấp. Tam-ma-địa của các Bồ-tát bị Tam-ma-địa của Phật che lấp. Tam-ma-địa của chư Phật không gì che lấp được. Tại sao? Do vì trí không che lấp của Như Lai thường hiện khởi. Này Xá-lợi-phất! Như Lai biết như thật, giáo thọ như vậy, giáo giới như vậy mà có thể phát khởi các Tam-ma-địa của Thanh văn, Duyên giác. Như Lai lại dùng giáo thọ, giáo giới như vậy có thể phát khởi diệu Tam-ma-địa của các Bồ-tát. Chư Phật Như Lai biết rõ như thật rồi bèn truyền thọ khuyên dạy như vậy. Này Xá-lợi-phất! Trí lực phát khởi Tónh lự giải thoát Tam-ma-địa, Tam-ma-bát đề tạp nhiễm thanh tịnh của Như Lai không ngằn, không mé chẳng thể nghó bàn cũng như hư không. Nếu có ai muốn tìm ranh giới định lực của Như Lai thì chẳng khác nào với kẻ tìm ranh giới của hư không. Này Xá-lợi-phất! Các Đại Bồ-tát nghe trí lực Thiền định giải thoát chẳng thể nghó bàn như hư không của Như Lai rồi, liền kính tin thanh tịnh, không nghi càng thêm hớn hở vui mừng phát ý tưởng hy hữu diệu kỳ. Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghóa ấy mà nói kệ rằng: Do đây hữu tình khởi tạp nhiễm Do đây hữu tình được thanh tịnh Đại Hùng biết rõ như vậy rồi Rộng vì tuyên dương pháp vi diệu. Do tác ý trái lý làm nhân Vô minh làm duyên sinh tạp nhiễm Vô minh làm nhân hành làm duyên Cho đến xoay vần sinh các khổ, Tác ý trái lý và vô minh Làm căn bản sinh các chi kia Chư Phật biết rõ như thật rồi Tùy chỗ đáng nên tuyên diệu pháp. Tất cả cội gốc của tạp nhiễm Đó là nghiệp hành và vô minh Lại từ duyên ấy sinh ra thức Triển chuyển như vậy sinh các khổ, Do chỗ nói tùy thuận âm kia Và do nội tâm quán đúng lý Do hai nhân, hai duyên này Tất cả chúng sinh chứng thanh tịnh. Do chỉ, tác ý đúng lý nhân Và do chánh quán làm duyên kia Mà các chúng sinh chứng giải thoát Đại Sư đều biết rõ như thật. Hành giả an trụ giới thanh tịnh Quán sát các pháp đều không tịch Đã khéo tu tập môn giải thoát Xa rời sinh tử khổ bức ngặt, Điều đó chư Phật đều thật biết Tất cả chúng sinh hạnh thanh tịnh Không, Vô tướng nguyện giải thoát môn Thiện Thệ tùy căn tánh hiển thị. Độc giác tối thắng và Thanh văn Thuận nghịch, nhập xuất các tónh lự Như Lai tuyên bày chỗ chứng kia Như có gai độc và oán thù. Định giải thoát của chư Phật chứng Rốt ráo không oán không gai độc Phải biết lực thứ bảy của Phật Không thiền định nào xô dẹp được. Này Xá-lợi-phất! Đây gọi là Chư định trí lực của Như Lai. Do được trí lực thứ bảy này mà Như Lai tuyên bố ta là Bậc Đại Thánh chuyển pháp luân thanh tịnh mà tất cả thế gian đều chẳng chuyển đúng pháp được. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Thế nào là Túc trụ tùy niệm tác chứng trí lực của Như Lai? Này Xá-lợi-phất! Như Lai Chánh Đẳng Giác dùng trí lực vô thượng tùy theo chỗ ghi nhớ đều biết rõ như thật. Này Xá-lợi-phất! Như Lai đúng như thật biết rõ vô lượng đời trước của Phật và của tất cả hữu tình khác. Hoặc ghi nhớ một đời mười đời, trăm đời, ngàn đời, đến câu-chi na-do-tha trăm ngàn đời thảy đều có thể nhớ biết rõ. Như Lai lại nhớ biết rõ kiếp hoại, kiếp thành, kiếp thành hoại, hoặc vô lượng kiếp hoại, vô lượng kiếp thành, vô lượng kiếp thành hoại. Hoặc nhớ biết rõ trăm câu-chi kiếp, đến vô lượng trăm ngàn câu-chi na-do-tha kiếp. Như Lai có thể nhớ biết rõ đời trước của Phật đã từng ở tại xứ ấy, có tên ấy, họ ấy, dòng ấy, có sắc ấy, tướng ấy, hình dạng ấy, sống bao lâu, khổ vui ra sao, từ chỗ ấy chết rồi sinh chỗ kia, từ xứ kia chết rồi sinh xứ này. Vô lượng đời trước của mình và của kẻ khác, Như Lai đều nhớ biết rõ từng chi tiết. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Như Lai biết rõ đúng như thật nghiệp nhân đời trước của tất cả hữu tình. Do nghiệp nhân ấy mà hữu tình đến sinh xứ này. Biết rõ nghiệp nhân ấy của họ rồi, Như Lai theo đúng chỗ tương ứng dạy mà thuyết pháp cho họ. Như Lai biết rõ như thật tất cả hữu tình đời trước có tâm niệm nối tiếp không hở, duyên theo cảnh như vậy mà sinh tâm như vậy, do cảnh duyên ấy không đủ nên tâm ấy dứt. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Hoặc có một hữu tình tâm niệm xoay đổi tuần tự mãi mãi nối tiếp như vậy cả hằng sa kiếp, lời nói chẳng thể kể xiết, cho đến tất cả hữu tình đều có tâm niệm như vậy, Như Lai nhớ đến, liền có thể biết rõ như thật tất cả tâm niệm ấy. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Như Lai y theo tâm niệm xoay đổi của tất cả hữu tình đến tận cùng cả câu-chi kiếp kể nói chẳng hết được mà trí lực của Phật cũng không cùng tận. Trí lực Túc trụ tùy niệm tác chứng của Phật chẳng thể nghó bàn, không gì bằng, không gì sánh, là vô lượng, vô số chẳng thể tuyên nói, lại chẳng thể nói là có ngằn mé. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Như Lai dùng thần lực Phật làm cho hữu tình nhớ biết đời trước rồi bảo họ rằng: “Nay ngươi nên nhớ đời trước đã trồng căn lành như vậy, hoặc ở chỗ Phật, hoặc ở chỗ Thanh văn, hoặc ở chỗ Độc giác, hoặc nơi chánh pháp mà trồng căn lành. Các căn lành như vậy ngươi phải nhớ biết hết.” Các hữu tình ấy nhờ thần lực Phật nhớ đến đều biết rõ vô lượng căn lành đời trước của mình. Như Lai dùng thần lực làm cho hữu tình nhớ biết căn lành đời trước rồi theo đúng chỗ nên dạy mà thuyết pháp cho họ. Này Xá-lợi-phất! Hoặc có hữu tình được sự chẳng thoái chuyển nơi Vô thượng Chánh giác tùy theo sở nguyện mà cầu giải thoát; hoặc theo Thanh văn thừa, hoặc theo Độc giác thừa, hoặc phát tâm Vô thượng Bồ-đề, Như Lai đều biết rõ như thật. Này Xá-lợi-phất! Trí lực Túc trụ tùy niệm tác chứng của Phật chẳng thể nghó bàn, là vô lượng, vô số, không ngằn, không mé bằng với hư không. Nếu có ai muốn suy tìm biên tế trí lực của Phật, thì chẳng khác gì người muốn suy tìm biên tế của hư không. Này Xá-lợi-phất! Các Đại Bồ-tát nghe trí lực Túc trụ chẳng thể nghó bàn như hư không như vậy rồi, liền kính tin chẳng lầm chẳng nghi, vui mừng hớn hở phát ý tưởng hy hữu diệu kỳ. Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghóa ấy nên nói kệ rằng: Vô lượng câu-chi na-do kiếp Trí lực của Phật đều biết rõ Phật nhớ đời trước mình và người Như xem trái cây trên bàn tay, Nhớ biết rõ họ tên, sắc tướng Sống chết chỗ kia, sinh chốn này Hữu tình có đủ nghiệp nhân ấy Biết chỗ đáng dạy mà thuyết pháp, Các đời quá khứ không ngằn mé Bao nhiêu tâm niệm của hữu tình Tâm ấy nối tiếp sinh niệm ấy Trí lực của Phật biết rõ cả. Một hữu tình cho đến tất cả Tâm niệm nối tiếp không ngừng hở Đã qua số kiếp như hằng sa Không thể dùng lời kể nói hết. Cho đến câu-chi số kiếp sau Phật biết rõ cả tâm niệm họ Trí lực Như Lai vẫn vô tận Nên gọi trí Phật như biển cả. Tất cả hữu tình tín nguyện lành Đã từng cúng dường chư Phật Thánh Phật dùng thần lực gia hộ họ Khiến nhớ tịnh hạnh đã từng tu. Như Lai biết rõ các hữu tình Quá khứ đã tu các phước hạnh Biết họ đã trụ trí ba thừa Giải thoát không thoái đạo Vô thượng. Trí biết quá khứ không ngằn mé Chẳng thể nghó bàn, chẳng sánh bằng Phật trí lực Túc trụ thứ tám Các Đại Bồ-tát tin nhận được. Này Xá-lợi-phất! Đây gọi là trí lực Túc trụ của Phật. Do được trí lực thứ tám này nên Như Lai tuyên bố: “Ta ở ngôi Thế Tôn chuyển pháp luân lớn thanh tịnh mà tất cả thế gian chẳng thể chuyển được.” Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Thế nào là trí lực Thiên nhãn thông tác chứng của Như Lai? Này Xá-lợi-phất! Như Lai ứng Cúng Chánh Đẳng Giác dùng trí lực Thiên nhãn thanh tịnh vô thượng vượt hơn tất cả mà nhìn xem các loài hữu tình chết nơi đây sinh về kia, hoặc liệt hoặc thắng, hoặc nhan sắc đẹp hay xấu, hoặc đến cõi lành, hoặc qua loài ác, đúng như nghiệp nhân mà họ đã gây nên. Tất cả tướng sai khác như vậy, Như Lai đều thấy rõ đúng như thật. Như Lai lại thấy rõ nghiệp hành của các hữu tình gây tạo. Các hữu tình gây tạo nghiệp xấu ác nơi thân như vậy, nơi khẩu như vậy, nơi ý như vậy, sinh tà kiến chê bai Hiền thánh. Do nghiệp nhân tà kiến như vậy nên khi chết họ đọa vào các ác đạo, hoặc sinh vào địa ngục, hoặc sinh vào súc sinh, hoặc sinh vào loài ngạ quỷ. Như Lai cũng thấy biết rõ các hữu tình gây tạo nghiệp lành tốt nơi thân, nơi khẩu, nơi ý như vậy, chẳng chê bai Hiền thánh, tu tập chánh kiến. Những hữu tình này nương nơi nghiệp nhân chánh kiến như vậy, sau khi chết sinh về cõi lành, hoặc sinh lên trời, hoặc sinh trong thế giới an lạc. Như Lai lại dùng Thiên nhãn thanh tịnh xem thấy thế giới nhiều thứ tướng trạng của chư Phật khắp mười phương hơn số cát sông Hằng, hết hư không tế, cao tột pháp giới, chẳng thể tuyên nói được. Hoặc thấy có cõi nước bị hỏa tai, có cõi nước đang bị phá hoại, có cõi nước đang hình thành. Hoặc thấy các hữu tình lúc chết, lúc sinh. Hoặc thấy các Đại Bồ-tát từ cung Đâu-suất giáng thần vào thai mẹ, hoặc thấy có Bồ-tát xuất thai, hoặc thấy mỗi phương đều đi bảy bước, hoặc thấy đang vào ở nội cung, hoặc thấy đang xuất gia khổ hạnh, hoặc thấy thành Vô thượng Bồ-đề, hoặc thấy đang chuyển đại pháp luân, hoặc thấy có chư Phật xả thọ mạng nhập đại Niết-bàn. Như Lai dùng Thiên nhãn thanh tịnh hoặc thấy trong các thế giới mười phương chúng Thanh văn rốt ráo nhập Niết-bàn, hoặc thấy các vị Độc giác hiện thần thông báo đáp phước thí chủ rồi nhập Niết-bàn. Lại có những thứ mà các loài hữu tình chẳng thấy được, nhưng Thiên nhãn của Như Lai đều thấy rõ. Có những thứ mà Thiên nhãn của Tiên nhân năm thông, của Thanh văn, của Độc giác và của Bồ-tát đều chẳng thấy được, nhưng Thiên nhãn của Phật đều thấy rõ ràng. Này Xá-lợi-phất! Như Lai dùng Thiên nhãn thanh tịnh quan sát các loài hữu tình nơi vô lượng thế giới: Những chúng sinh nào là của Như Lai hóa độ, những chúng sinh nào thấy Như Lai rồi mới hóa độ được. Bấy giờ Như Lai tùy chỗ đáng được lợi ích mà hiện thân ở trước họ làm cho họ được tỏ ngộ. Còn những chúng sinh khác thì không hay biết. Này Xá-lợi-phất! Trí lực Thiên nhãn tùy niệm tác chứng của Như Lai chẳng thể nghó bàn, không có ngằn mé đồng với hư không. Những kẻ tìm cầu ranh giới của Thiên nhãn Như Lai thì chẳng khác người tìm ranh giới của hư không. Này Xá-lợi-phất! Các Đại Bồ-tát nghe trí lực chẳng thể nghó bàn như hư không này rồi liền kính tin, vui mừng hớn hở phát ý tưởng hy hữu diệu kỳ. Bấy giờ, Thế Tôn muốn tuyên lại nghóa ấy nên nói kệ rằng: Thiên nhãn của Phật rất thanh tịnh Do vô lượng kiếp tu tịnh nghiệp Phật dùng Thiên nhãn thấy mười phương Vô lượng thế giới Phật thanh tịnh, Hoặc hoại, hoặc thành, hoặc thành hoại Cho đến hoặc trụ, hoặc hỏa tai Hoặc có Phật, hoặc không có Phật Mắt Phật tự nhiên đều thấy rõ. Hữu tình nhiều loài khó nghó bàn Cho đến loài có sắc, không sắc Hoặc đọa loài ác, sinh cõi lành Mắt Phật tự nhiên đều thấy rõ, Hoặc thấy câu-chi Phật hiện tại Hoặc thấy Như Lai nhập Niết-bàn Cũng thấy Thanh văn hoặc Duyên giác Chứng quả hiện thông đến phước thí, Có các Bồ-tát độ chúng sinh Hoặc đến bậc gần Vô thượng giác Ngôi báu Như Lai không chướng ngại Mắt Phật tự nhiên đều thấy rõ. Thiên nhãn của Phật rất thanh tịnh Thấy rõ các loài rất vi tế Trí lực thứ chín chẳng nghó bàn Các Đại Bồ-tát hay tin nhận. Này Xá-lợi-phất! Đây gọi là trí lực Thiên nhãn tùy niệm tác chứng. Do trí lực thứ chín này mà Phật tuyên bố: “Ta là bậc Thế Tôn chuyển pháp luân lớn mà tất cả thế gian chẳng chuyển được.” Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Thế nào là trí lực Lậu tận tác chứng của Như Lai? Này Xá-lợi-phất! Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác dùng trí lực vô thượng biết rõ như thật là hết các lậu là vô lậu, tâm giải thoát, tuệ giải thoát, tự nhiên thông đạt, tác chứng đầy đủ mà an trụ ngôi vị ấy biết rõ đúng thật: Ta đã dứt hết dòng sinh, đã thành tựu phạm hạnh, việc làm đã xong chẳng còn thọ sinh thân sau. Này Xá-lợi-phất! Trí lực vô lậu của Như Lai rất thanh tịnh sáng suốt, dứt hẳn tất cả tập khí nối tiếp. Hàng Thanh văn cũng như hàng Độc giác dù là vô lậu mà chỉ dứt trừ được phần ít tập khí, rời xa đại Bi và các biện tài vô úy. Chỉ có Như Lai các lậu dứt hẳn mà đủ cả Phật pháp vi diệu, dứt trừ tất cả tập khí nối tiếp, đủ đức đại Bi, biện tài, vô úy bao trùm các hữu tình trong tất cả thế gian dù chẳng hở một sát-na tâm niệm mà trí lực của Như Lai vẫn luôn thanh tịnh vô lậu. Vì sao? Vì Như Lai không có tập khí nghiệp, tập khí phiền não, tập khí quên mất oai nghi. Này Xá-lợi-phất! Như hư không luôn trong sạch chẳng lẫn lộn với tất cả bụi khói mây mù. Cũng vậy, trí lực vô lậu của Như Lai chẳng lẫn lộn với tất cả phiền não tập khí. Này Xá-lợi-phất! Chư Phật Như Lai an trụ nơi trí lực vô lậu ấy rồi có thể nói pháp vô lậu, vô chấp cho những chúng sinh hữu lậu, hữu chấp. Các phiền não các chấp trước của tất cả chúng sinh đều từ hư vọng phân biệt khởi lên. Đức Như Lai quan sát biết rõ như vậy rồi, vì muốn họ chẳng còn khởi lên các phiền não, các chấp trước, nên theo đúng chỗ đáng dạy mà dùng các ví dụ để thuyết pháp cho họ biết rõ như thật phiền não đều hư vọng. Vì biết là hư vọng mà họ chẳng chấp lấy. Vì chẳng chấp lấy mà rốt ráo họ chứng Niết-bàn. Này Xá-lợi-phất! Như Lai biết rõ đúng như thật tất cả hữu tình các phiền não khởi diệt, các phiền não hiện hành. Biết rõ rồi, Như Lai theo đúng chỗ nên dạy mà thuyết pháp. Này Xá-lợi-phất! Trí lực vô lậu tác chứng của Như Lai chẳng thể nghó bàn, không có ngằn mé, đồng với hư không. Nếu có kẻ muốn tìm cầu ranh giới trí lực vô lậu của Như Lai, thì chẳng khác gì người tìm biên tế của hư không. Này Xá-lợi-phất! Các Đại Bồ-tát nghe trí lực vô lậu chẳng thể nghó bàn của Như Lai như hư không rồi liền kính tin, vui mừng hớn hở phát ý tưởng hy hữu diệu kỳ. Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghóa ấy nên nói kệ rằng: Trí Phật vô lậu rất thanh tịnh Rộng lớn vô lượng không chướng ngại Do thành trí lực thứ mười này Mà nói đạo Bồ-đề tịnh diệu. Trí vô lậu của hàng Thanh văn Còn thừa tập khí theo ràng buộc Trí lực vô lậu của Đạo Sư Tất cả tập khí như tro tàn. Có người chứng bậc Duyên giác thừa Rời xa đại Bi với biện tài. Chỉ có chư Phật trí vô lậu Đầy đủ đại Bi với biện tài. Chư Phật ở nơi trí vô lậu Biết rõ tướng lậu của chúng sinh Đều từ hư vọng phân biệt sinh Mà họ chưa biết chân lý ấy. Đức Phật đại bi dạy bảo họ Pháp vô thường, bất tịnh, vô ngã Họ thấy các pháp không thể tính Sẽ chứng quả Như Lai tịch tónh. Các pháp không ngã, không chúng sinh Không thọ, không nhân, không tạo tác Hữu tình phân biệt hư vọng chấp Phật khởi lòng bi cứu thoát họ. Từ bi của Phật chẳng nhàm mỏi Trí lực luôn tròn chẳng quên mất Vì thế chư Phật thường phương tiện Vì độ chúng sinh mà thuyết pháp. Trí lực thứ mười dẹp phục cả Không có ranh giới đồng hư không Vì Phật thường ở trí lực này Mà vô lượng pháp đời luôn có. Này Xá-lợi-phất! Đây là trí lực vô lậu của Như Lai. Do thành tựu trí lực thứ mười này mà Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác tuyên bố: “Ta ở ngôi Thế Tôn, ở giữa đại chúng như sư tử rống chuyển pháp luân lớn mà tất cả thế gian, Trời, Người, Sa-môn, Bà-la-môn, Ma vương, Phạm vương đều chẳng chuyển đúng pháp được. Này Xá-lợi-phất! Do nghe công đức chẳng thể nghó bàn của Như Lai mà các Đại Bồ-tát đối với mười Trí lực ấy tin nhận vâng làm, tâm niệm thanh tịnh, không lầm, không nghi, càng vui mừng hớn hở phát ý tưởng hy hữu diệu kỳ.  KINH ĐẠI BẢO TÍCH <卷 id="86423733">QUYỂN 39 Hán dịch: Đời Đại Đường, Tam tạng Pháp sư Huyền Trang. <詞 id="86423734">Pháp hội 12: BỒ-TÁT TẠNG (Phần 5) <章 id="86423735">Phẩm 4: TÁNH CHẲNG NGHÓ BÀN CỦA NHƯ LAI (Phần 3) Bấy giờ Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Thế nào là Đại Bồ-tát đối với đức tánh không sợ hãi chẳng thể nghó bàn của Như Lai mà kính tin tâm chí thanh tịnh không lầm không nghi càng thêm vui mừng hớn hở phát ý tưởng hy hữu diệu kỳ? Này Xá-lợi-phất! Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác có bốn đức không sợ hãi chẳng thể nghó bàn. Do thành tựu bốn đức không sợ hãi này mà Như Lai ở giữa đại chúng tuyên bố: “Ta ở ngôi Thế Tôn như sư tử rống chuyển pháp luân lớn mà tất cả thế gian, Trời, Người, Ma vương, Phạm vương, Sa-môn, Bà-la-môn đều chẳng chuyển được đúng pháp. Này Xá-lợi-phất! Những gì gọi là bốn đức không sợ hãi? Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác thành tựu trí lực cao tột nên ở giữa đại chúng tuyên bố: “Ta là Bậc Chánh Đẳng Giác. Trong đại chúng ấy chẳng thấy có ai hoặc người hoặc trời mà có thể ở trước Như Lai chỉ trích rằng đối với pháp ấy Ngài chẳng phải là Chánh Đẳng Giác. Này Xá-lợi-phất! Vì sao Như Lai có hiệu là Chánh Đẳng Giác? Vì đối với tất cả các pháp, Như Lai có thể bình đẳng chánh giác, không có gì là chẳng bình đẳng. Hoặc pháp phàm phu, hoặc pháp Thánh nhân, hoặc pháp chư Phật, hoặc pháp hữu học, hoặc pháp vô học, hoặc pháp Độc giác, hoặc pháp Bồ-tát tất cả đều bình đẳng rốt ráo. Hoặc pháp thế gian, hoặc pháp xuất thế gian, hoặc có tội, hoặc vô tội, hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu, hoặc hữu vi, hoặc vô vi, tất cả pháp như vậy, Như Lai đều có thể bình đẳng chánh giác, vì thế nên gọi Phật là Bậc Chánh Đẳng Giác. Này Xá-lợi-phất! Thế nào gọi là tánh bình đẳng? Tự thể của các kiến cùng với tánh Không kia, tánh nó bình đẳng. Tự thể của sắc tướng cùng với Vô tướng kia, tánh nó bình đẳng. Tự thể của ba cõi cùng với Vô nguyện kia, tánh nó bình đẳng. Tự thể của pháp sinh cùng với không sinh kia, tánh nó bình đẳng. Tự thể của các hạnh cùng với không hạnh kia, tánh nó bình đẳng. Tự thể của pháp khởi cùng với không khởi kia, tánh nó bình đẳng. Tự thể của tánh tham cùng với không tham kia, tánh nó bình đẳng. Tự thể của ba đời cùng chân như kia, tánh nó bình đẳng. Tự thể của vô minh, hữu ái cùng với minh giải thoát, tánh nó bình đẳng. Tự thể của sinh tử lưu chuyển cùng với Niết-bàn tịch tónh, tánh nó bình đẳng. Vì đối với tất cả pháp Như Lai đều bình đẳng chánh giác nên gọi Phật là Bậc Chánh Đẳng Giác. Đức không sợ hãi ấy của Như Lai chẳng thể nghó bàn, Như Lai lại dùng đại Bi để làm phương tiện. Chân như bình đẳng, chân tánh là như tánh, chẳng phải bất như tánh, là tánh chẳng đổi khác, là tánh không che giấu tội, là tánh không sợ sệt, là tánh không lui sụt, là tánh không trái cãi. Do cớ ấy mà sáng rỡ cả đại chúng, hay làm cho họ vui đẹp, toàn thân thơ thới, sinh lòng tin thanh tịnh mà vui mừng hớn hở. Này Xá-lợi-phất! Tất cả chúng sinh ở thế gian không ai có thể đối với đức không sợ hãi của Như Lai mà sinh sự chống cãi. Vì sao? Vì đức không sợ hại của Như Lai không có gì để tranh cãi được, như tánh bình đẳng ở pháp giới tánh lưu truyền cùng khắp trong các thế giới không ai chống đối được. Này Xá-lợi-phất! Như đức không sợ hãi của Như Lai nơi tất cả pháp thậm thâm vi diệu khó biết mà có thể giác ngộ một cách bình đẳng chân chánh. Như Lai an trụ đại Bi như vậy, dùng các thứ ngôn ngữ âm thanh, các thứ pháp môn mà khai thị pháp vi diệu cho các hữu tình. Nếu ai có thể y theo pháp ấy mà tu tập hạnh viễn ly thì mau chóng dứt hết khổ. Nếu có hữu tình chẳng phải bậc Đại sư mà tự xưng là Đại sư, chẳng phải Chánh đẳng giác mà tự xưng là Chánh đẳng giác, do đức không sợ hãi chẳng nghó bàn của Như Lai khiến các hữu tình ấy đều bị che lấp đi ngạo mạn phải bỏ chạy trốn. Này Xá-lợi-phất! Đức không sợ hãi của Như Lai chẳng thể nghó bàn, không ngằn, không mé, cũng như hư không. Nếu có kẻ muốn tìm cầu ranh giới của đức không sợ hãi ấy thì chẳng khác gì kẻ muốn đi tìm cầu ranh giới của hư không. Này Xá-lợi-phất! Các Đại Bồ-tát nghe nói đức không sợ hãi chẳng thể nghó bàn ấy rồi liền kính tin không lầm, không nghi, liền vui mừng hớn hở phát ý tưởng hy hữu diệu kỳ. Này Xá-lợi-phất! Đây gọi là đức không sợ hãi thứ nhất: Chánh đẳng giác. Do thành tựu đức không sợ hãi này mà Như Lai ở giữa đại chúng như sư tử rống chuyển pháp luân lớn mà tất cả thế gian chẳng thể chuyển được đúng pháp. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác vì đã thành tựu trí lực cao tột nơi ở giữa đại chúng tuyên bố: “Ta nay đã hết tất cả phiền não tập khí. Trong đại chúng ấy, không có ai hoặc người, hoặc trời có thể ở trước Như Lai mà chỉ trích rằng Ngài vẫn còn có phiền não ấy chưa dứt. Này Xá-lợi-phất! Thế nào là tánh phiền não dứt tận của Như Lai? Này Xá-lợi-phất! Như Lai ở trong Dục giới phiền não, tâm đã khéo giải thoát, vì đã dứt hẳn tất cả tập khí tham dục. Như Lai ở nơi Sắc, Vô sắc giới phiền não, tâm đã khéo giải thoát, vì đã dứt hẳn tất cả tập khí sân hận. Như Lai ở nơi vô minh phiền não, tâm đã khéo giải thoát, vì đã dứt hẳn tất cả tập khí si mê. Như Lai ở nơi các kiến phiền não, tâm đã khéo giải thoát, vì đã dứt hẳn tất cả tập khí phiền não hiện hành. Vì cớ như vậy nên gọi Như Lai là phiền não đã hết. Này Xá-lợi-phất! Thuyết pháp như trên là y cứ nơi thế tục chớ chẳng phải thắng nghóa. Trong thắng nghóa không có một pháp nào ở trước Thánh trí, có thể biết rõ, có thể dứt hẳn, có thể tu tập, có thể chứng nhập. Vì sao? Này Xá-lợi-phất! Nói là dứt hết đó chưa bao giờ chẳng dứt hết, tánh vốn rốt ráo hết chẳng do đối trị mà nói là hết. Tánh như thật là hết. Vì tánh như thật là hết nên không có pháp nào bị hết. Vì không pháp bị hết thì chính là vô vi. Vì vô vi nên không sinh, không diệt cũng không có trụ. Thế nên nói rằng Như Lai xuất thế. Nếu không xuất thế thường trụ pháp tánh, thường trụ pháp giới thì Thánh trí tuệ chuyển vận trong ấy. Dù chuyển vận như vậy mà không có chuyển, không có hoàn. Này Xá-lợi-phất! Do pháp môn thắng nghóa ấy nên không có các phiền não, cũng không có phiền não hết mà có thể chứng đắc. Như Lai an trụ nơi đại Bi như vậy rồi vì các hữu tình mà tuyên nói pháp phiền não dứt hết. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Đức không sợ hãi của Như Lai chẳng thể nghó bàn, lại dùng đại Bi để làm phương tiện, là chân như bình đẳng, là chân tánh, là như tánh chẳng phải là bất như tánh, là tánh chẳng đổi khác, tánh chẳng che giấu tội, tánh không sợ sệt, tánh không lui sụt, tánh không tranh cãi. Vì thế nên đã làm sáng rỡ đại chúng khiến họ vui mừng, toàn thân thơ thới, sinh lòng kính tin thanh tịnh vui mừng hớn hở. Này Xá-lợi-phất! Chúng sinh trong đời không có ai đối với đức không sợ hãi của Như Lai mà có thể sinh sự tranh cãi. Vì sao? Vì đức không sợ hãi ấy chẳng tranh cãi được. Chân như bình đẳng ở trong pháp giới có tánh lưu truyền cùng khắp trong các thế giới không ai làm tổn hại được. Đức chẳng sợ hãi của Như Lai chẳng thể nghó bàn như vậy, là vô lượng, vô số, không có ngằn mé thành tựu pháp vi diệu. Do Như Lai dùng đại Bi huân tập nơi tâm mà vì các chúng sinh nói pháp chấm dứt phiền não khiến họ dứt hẳn các phiền não. Này Xá-lợi-phất! Đức không sợ hãi của Như Lai chẳng thể nghó bàn, không ngằn, không mé giống như hư không. Nếu có kẻ muốn tìm cầu ranh giới ấy thì chẳng khác gì kẻ muốn tìm ranh giới của hư không. Này Xá-lợi-phất! Các Đại Bồ-tát nghe Đức Như Lai tuyên nói đức không sợ hãi chẳng thể nghó bàn ấy rồi, liền kính tin, không lầm, không nghi, vui mừng hớn hở phát ý tưởng hy hữu diệu kỳ. Đây gọi là đức không sợ thứ hai: Lậu tận. Do thành tựu đức không sợ hãi ấy, Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác ở giữa đại chúng như sư tử rống tuyên bố: “Ta là Thế Tôn chuyển pháp luân lớn, tất cả trời, người thế gian ai chẳng chuyển được.” Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác thành tựu trí lực cao tột nên ở giữa đại chúng tuyên bố: Phật nói pháp chướng đạo thì nhất định là pháp chướng đạo giải thoát. Trong thế gian này hoặc người, hoặc trời không có ai ở trước Như Lai mà có thể chỉ trích rằng Ngài nói pháp chướng đạo ấy chẳng phải chướng đạo.” Này Xá-lợi-phất! Thế nào gọi là pháp chướng ngại đạo? Này Xá-lợi-phất! Có một pháp hay làm chướng ngại, đó là tâm chẳng thanh tịnh. Lại có hai pháp hay làm chướng ngại, đó là không hổ và không thẹn. Lại có ba pháp hay làm chướng ngại, đó là thân làm điều ác, miệng nói lời ác và ý nghó điều ác. Lại có bốn pháp hay làm chướng ngại, đó là do tham dục mà làm sự việc chẳng nên làm, do sân giận mà làm sự việc chẳng nên làm, do si mê mà làm sự việc chẳng nên làm và do sợ hãi mà làm sự việc chẳng nên làm. Lại có năm pháp hay làm chướng ngại, đó là sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu. Lại có sáu pháp hay làm chướng ngại, đó là chẳng kính Phật, chẳng kính Pháp, chẳng kính Tăng, chẳng kính luật nghi, chẳng kính chánh định, chẳng kính chánh tuệ. Lại có bảy pháp hay làm chướng ngại, đó là mạn, thắng mạn, thắng thượng mạn, tăng thượng mạn, tà mạn, hạ mạn và ngã mạn. Lại có tám pháp hay làm chướng ngại, đó là tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà cần, tà niệm, tà định. Lại có chín pháp hay làm chướng ngại, đó là nơi chính thân mình ở trong ba đời quá khứ vị lai và hiện tại mà làm nên việc chẳng lợi ích rồi sinh sự não hại; đối với chỗ mà mình mến thích ở trong ba đời mà làm sự chẳng lợi ích rồi sinh sự não hại; đối với chỗ mà mình không mến thích ở trong ba đời mà làm việc chẳng lợi ích rồi sinh não hại. Lại có mười pháp hay làm chướng ngại, đó là mười nghiệp đạo bất thiện. Đây là nói lược mười loại pháp hay làm chướng ngại. Vì muốn ngăn dứt hẳn các loại pháp chướng ngại ấy mà Như Lai vì các hữu tình tuyên nói chánh pháp. Này Xá-lợi-phất! Cho đến tất cả tác ý trái với chân lý tương ưng với các kết sử, hoặc do nơi các pháp mà có quan niệm ưa ham tương ưng với điên đảo mà trái đạo giải thoát, có ái kiến chấp trước đối với pháp có mà ưa ham, nơi thân, ngữ, ý nghiệp có chỗ nương tất cả sự tướng ấy Như Lai biết rõ đều là chướng ngại cả. Đã biết rõ rồi, Như Lai nói là pháp hay chướng ngại. Này Xá-lợi-phất! Đức không sợ hãi ấy của Như Lai chẳng thể nghó bàn lấy đại Bi làm phương tiện, chân như bình đẳng là chân tánh, như tánh, chẳng phải bất như tánh, là tánh không đổi khác, tánh không che giấu lỗi, tánh không sợ hãi, tánh không lui sụt, tánh không tranh cãi. Vì cớ ấy nên làm cho đại chúng sáng rỡ khiến họ vui đẹp, toàn thân thơ thới, sinh lòng tin thanh tịnh vui mừng hớn hở. Này Xá-lợi-phất! Chúng sinh trong đời không có ai đối với đức không sợ hãi của Như Lai mà có thể tranh cãi. Vì sao? Vì đức không sợ hãi của Như Lai chẳng tranh cãi được, như tánh bình đẳng ở tánh pháp giới lưu truyền cùng khắp trong các thế giới, không ai trái hại được. Đức không sợ hãi ấy là vô lượng, vô số chẳng thể nghó bàn, không gì sánh bằng, không thể tuyên nói, thành tựu pháp vi diệu. Nhưng do đại Bi huân tập nơi tâm nên Như Lai vì các hữu tình mà nói pháp chướng ngại, vì muốn họ ngăn dứt hẳn pháp chướng ngại ấy. Này Xá-lợi-phất! Đức không sợ hãi của Như Lai chẳng thể nghó bàn vô biên, vô lượng như hư không. Nếu kẻ muốn tìm cầu ranh giới của đức không sợ hãi ấy thì chẳng khác gì kẻ muốn tìm ranh giới của hư không. Này Xá-lợi-phất! Các Đại Bồ-tát nghe Như Lai tuyên nói đức không sợ hãi chẳng thể nghó bàn ấy như hư không rồi liền kính tin không lầm, không nghi vui mừng hớn hở phát ý tướng hy hữu diệu kỳ. Đây gọi là đức không sợ hãi thứ ba: Tuyên nói pháp chướng ngại. Do thành tựu đức không sợ hãi ấy, Như Lai ở giữa đại chúng như sư tử rống chuyển pháp luân lớn mà tất cả thế gian chẳng thể chuyển được. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác thành tựu trí lực vô thượng ở giữa đại chúng tuyên bố rằng: “Ta nói Thánh đạo xuất ly mà nếu tu tập có thể dứt hẳn khổ đạo. Nếu hữu tình nào tu tập đạo ấy thì quyết định giải thoát.” Trong đại chúng, hoặc người, hoặc trời, không có ai ở trước Đức Như Lai mà có thể chỉ trích rằng đạo mà Ngài tuyên thuyết không thể giải thoát. Này Xá-lợi-phất! Thế nào gọi là đạo của Thánh giải thoát? Này Xá-lợi-phất! Có một pháp hay làm cho chúng sinh thanh tịnh giải thoát rốt ráo, đó là Thánh đạo. Lại có hai pháp hay làm cho chúng sinh giải thoát rốt ráo, đó là Xa-ma-tha và Tỳ-bát-xá-na. Lại có ba pháp hay làm cho chúng sinh giải thoát rốt ráo, đó là pháp môn giải thoát Không, pháp môn giải thoát Vô tướng và pháp môn giải thoát Vô nguyện. Lại có bốn pháp hay làm cho chúng sinh giải thoát rốt ráo, đó là duyên nơi thân để quán niệm, duyên nơi thọ để quán niệm, duyên nơi tâm để quán niệm và duyên nơi pháp để quán niệm. Lại có năm pháp hay làm cho chúng sinh giải thoát rốt ráo, đó là Tín căn, Tấn căn, Niệm căn, Định căn và Tuệ căn. Lại có sáu pháp hay làm cho chúng sinh giải thoát rốt ráo, đó là niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Xả và niệm Thiên. Lại có bảy pháp hay làm cho chúng sinh giải thoát rốt ráo, đó là Niệm giác chi, Trạch pháp giác chi, Tinh tấn giác chi, Hỷ giác chi, Khinh an giác chi, Định giác chi và Xả giác chi. Lại có tám pháp hay làm cho chúng sinh giải thoát rốt ráo, đó là tám chi Thánh đạo, đó là Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh cần, Chánh niệm và Chánh định. Lại có chín thứ pháp căn bản vui thích hay làm cho chúng sinh giải thoát rốt ráo, đó là duyệt, hỷ, khinh an, an tức lạc, định, như thật trí, kiến, yểm ố và ly dục giải thoát. Lại có mười pháp hay làm cho chúng sinh giải thoát rốt ráo, đó là mười nghiệp đạo lành. Như Lai vì các hữu tình tuyên nói pháp hành giải thoát của bậc Thánh như vậy. Này Xá-lợi-phất! Cho đến tất cả những đạo pháp chánh thiện Bồ-đề, hoặc tương ưng với giới tụ, hoặc tương ưng với định tụ, hoặc tương ưng với tuệ tụ, hoặc tương ưng với giải thoát tụ, hoặc tương ưng với giải thoát tri kiến tụ hoặc tương ưng với Thánh đế đều gọi là hạnh năng giải thoát. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Hay khéo giải thoát là nói chánh hạnh. Nói là chánh hạnh có nghóa là ở trong pháp ấy không có một pháp nào hoặc tăng, hoặc giảm; hoặc đến, hoặc đi; hoặc chấp, hoặc bỏ. Vì sao? Vì không phải người hành chánh hạnh mà hành một thứ giác phần. Nếu có thể đúng như thật mà thấy biết tất cả các pháp đều là tánh không hai, thì gọi đó là hạnh xuất ly của bậc Thánh. Này Xá-lợi-phất! Đức không sợ hãi ấy của Như Lai chẳng thể nghó bàn, lấy đại Bi làm phương tiện, chân như bình đẳng là chân tánh như tánh, chẳng phải bất như tánh, là tánh chẳng đổi khác, tánh chẳng che giấu lỗi, tánh chẳng lui sụt, tánh không sợ hãi, tánh chẳng tranh cãi. Vì thế nên làm sáng rỡ đại chúng khiến họ vui đẹp, toàn thân thơ thới, sinh lòng tin thanh tịnh vui mừng hớn hở. Này Xá-lợi-phất! Chúng sinh trong đời chẳng có ai đối với đức không sợ hãi của Như Lai mà có thể tranh cãi. Vì sao? Vì đức không sợ hãi của Như Lai chẳng tranh cãi được, tánh chân như bình đẳng ở tánh pháp giới lưu truyền cùng khắp trong các thế giới không ai làm tổn hại được. Hạnh giải thoát của bậc Thánh như vậy vô lượng, vô biên chẳng thể nghó bàn chẳng gì sánh bằng, chẳng tuyên nói được, thành tựu pháp vi diệu. Nhưng vì đại Bi huân tập nơi tâm nên Như Lai khai thị diễn nói hạnh giải thoát của bậc Thánh cho chúng sinh. Nếu có chúng sinh nào hiểu rõ như thật tu hành chánh đạo, thì quyết định giải thoát, mau rốt ráo hết khổ. Này Xá-lợi-phất! Đức không sợ hãi của Như Lai không ngằn, mé như hư không. Nếu có kẻ nào muốn tìm cầu ranh giới của đức không sợ hãi ấy thì chẳng khác gì kẻ muốn tìm cầu ranh giới của hư không. Này Xá-lợi-phất! Các Đại Bồ-tát nghe đức không sợ hãi chẳng thể nghó bàn của Như Lai rồi liền kính tin không lầm, không nghi vui mừng hớn hở phát ý tưởng hy hữu diệu kỳ. Đây gọi là đức không sợ hãi thứ tư: Nói đạo giải thoát của bậc Thánh. Do Như Lai thành tựu đức không sợ hãi thứ tư ấy nên ở giữa đại chúng như sư tử rống chuyển pháp luân lớn mà tất cả thế gian hoặc Người, hoặc Trời, Ma vương, phạm vương, Sa-môn, Bà-la-môn đều không thể chuyển đúng pháp được. Này Xá-lợi-phất! Bốn đức không sợ hãi ấy của Như Lai không ngằn, không mé như hư không, tất cả chúng sinh không thể thấu rõ được ranh giới ấy. Các Đại Bồ-tát nghe đức không sợ hãi chẳng thể nghó bàn của Như Lai như hư không rồi liền kính tin không lầm, không nghi càng thêm vui mừng hớn hở phát ý tưởng hy hữu diệu kỳ. Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghóa ấy mà nói kệ rằng: Tự nhiên chánh giác ngộ Các pháp tánh bình đẳng Vì Như Lai thấy khắp Nên hiệu Chánh Đẳng Giác. Hoặc các pháp phàm phu Pháp hữu học, vô học Pháp Độc giác tối thắng Phật pháp đều bình đẳng. Tất cả pháp thế gian Thiện, bất thiện, bất động Và các pháp xuất thế Đường Niết-bàn bình đẳng. Không, Vô tướng, Vô nguyện Vô vi và hữu vi Không sinh và không khởi Đều thấy tánh bình đẳng. Biết tánh bình đẳng rồi Theo chỗ đáng tuyên nói Độ thoát các hữu tình Đại Mâu-ni Vô Úy Đã giải thoát ba cõi Rồi khai thị giải thoát Chư nhân, thiên, thánh tôn Hiển vô úy thứ hai. Phật biết rõ pháp chướng Tập khí chẳng chứng đạo Hạ liệt chẳng thanh tịnh, Chẳng có lòng hổ thẹn Không luôn giữ nghiệp thân Nghiệp khẩu và nghiệp ý Tham, sân, si, sợ hãi Sát sinh trộm của người Tà dâm và vọng ngữ Say rượu chẳng kính nhường Bảy mạn, tám chi tà Đều không phải đạo pháp, Chín điều hại nhiều tội Mười nghiệp đạo bất thiện Tư duy chẳng hợp lý Ngu si không giải thoát Điên đảo tu các hạnh Chấp hư vọng, phóng dật Phật biết nói chướng ngại Là vô úy thứ ba. Môn thanh tịnh vô lượng Tu tập chứng Bồ-đề Phật tự nhiên thông đạt Nói pháp môn cam lộ, Cho đến số vô lượng Rất nhiều pháp mầu lành Trợ Bồ-đề thanh tịnh Được chư Phật ngợi khen. Nếu đã khéo tu tập Mà chẳng chứng giải thoát Hẳn không có việc này Đấng Thập Lực nói thật Nếu tư duy đúng lý Dứt phiền não rộng lớn Quán các pháp bình đẳng Khéo tu tập hạnh Thánh Chẳng chấp trước các tướng Là pháp là phi pháp Thì giải thoát sợ lo Phật đã nói như vậy. Khéo biết tất cả pháp Rỗng trống như hư không Thấy như ảo như mơ Thì giải thoát các cõi, Nếu phóng dật tạo nghiệp Luân hồi trong các cõi Nên Phật thương chúng sinh Muốn họ chứng giải thoát. Đấng Mâu-ni Thập Lực, Thuyết pháp độ thế gian Là vô úy thứ tư Thanh tịnh như hư không. Này Xá-lợi-phất! Đây gọi là đức không sợ hãi chẳng nghó bàn của Như Lai mà các Đại Bồ-tát kính tin không lầm, không nghi vui mừng hớn hở phát ý tưởng hy hữu diệu kỳ. Bấy giờ Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: Này Xá-lợi-phất! Thế nào là Đại Bồ-tát đối với đức đại Bi chẳng thể nghó bàn của Như Lai mà kính tin chẳng lầm, chẳng nghi vui mừng hớn hở phát ý tưởng hy hữu diệu kỳ? Này Xá-lợi-phất! Chư Phật Như Lai thường chuyển tâm đại Bi. Vì sao? Vì chư Phật Như Lai chẳng bỏ tất cả chúng sinh, vì thành thục chúng sinh nên tất cả thời gian tâm đại Bi thường khởi luôn chẳng dứt. Này Xá-lợi-phất! Đại Bi ấy của Như Lai vô lượng như vậy, chẳng thể nghó bàn, không gì sánh bằng như vậy, vô biên như vậy, chẳng thể nói như vậy, lợi lạc như vậy, lâu dài như vậy mà tùy thuận chúng sinh, cho đến tất cả ngữ nghiệp của Như Lai, đối với đại Bi ấy cũng khó tuyên nói. Vì sao? Vì Bồ-đề của Như Lai đã chứng được không thể nghó bàn, đại Bi của Như Lai vì chúng sinh mà phát khởi cũng chẳng thể nghó bàn như vậy. Này Xá-lợi-phất! Như Lai chứng được Bồ-đề như thế nào? Này Xá-lợi-phất! Do Như Lai nhập vô căn, vô trụ như vậy nên chứng được Bồ-đề. Những gì là căn? Những gì là trụ? Có thân là căn, hư vọng phân biệt là trụ. Nơi hai pháp ấy, Đức Như Lai biết rõ tánh bình đẳng nên nói do Như Lai nhập vô căn vô trụ nên chứng được Vô thượng Bồ-đề. Chúng sinh chẳng thể biết rõ được hai pháp ấy. Như Lai đối với họ phát khởi đại Bi, nay ta quyết định sẽ khai thị cho họ biết rõ pháp vô căn, vô trụ như vậy. Này Xá-lợi-phất! Luận về Bồ-đề, tánh của nó tịch tónh. Hai pháp gì gọi là tịch và tónh? Bên trong là tịch, bên ngoài là tónh. Vì sao? Vì tánh của nhãn căn là không lìa rời ngã và ngã sở, tánh của nhó, tỷ, thiệt, thân và ý căn là không rời lìa ngã và ngã sở. Nếu biết rõ như vậy thì gọi là tịch. Thật biết rõ tánh của nhãn căn là không rời thì chẳng duyên theo sắc trần, cho đến như thật biết rõ ý căn là không rời thì chẳng duyên theo pháp trần. Nếu biết rõ như vậy thì gọi là tónh. Tất cả chúng sinh đối với hai pháp tịch tónh ấy chẳng biết rõ. Như Lai với họ phát khởi đại Bi, nay ta quyết định sẽ khai thị cho họ biết rõ hai pháp tịch và tónh. Này Xá-lợi-phất! Ta đã chứng Bồ-đề tự tánh thanh tịnh. Thế nào gọi là tự tánh thanh tịnh? Này Xá-lợi-phất! Tánh Bồ-đề, thể nó không nhiễm ô. Tánh Bồ-đề cũng như hư không. Tánh Bồ-đề là tánh hư không. Bồ-đề với hư không bình đẳng, bình đẳng tánh rốt ráo thanh tịnh. Phàm phu ngu si chẳng biết được tự tánh thanh tịnh như vậy nên bị khách trần phiền não làm ô nhiễm. Tất cả chúng sinh đối với tự tánh thanh tịnh ấy chẳng biết rõ được. Đức Như Lai với họ phát khởi đại Bi, nên ta nay quyết định sẽ khai thị cho họ biết rõ tự tánh thanh tịnh như vậy. Này Xá-lợi-phất! Ta đã chứng Bồ-đề không nhập, không xuất. Thế nào gọi là hai pháp nhập và xuất? Nhập là nói chấp các pháp. Xuất là nói chẳng chấp các pháp. Như Lai thấy rõ pháp tánh bình đẳng không nhập, không xuất, cũng như Như Lai thấy rõ không có bờ bên này không có bên kia. Vì sao? Vì tánh của tất cả pháp rời lìa thử ngạn và bỉ ngạn. Chứng được pháp ấy nên gọi là Như Lai. Đối với pháp tánh không nhập không xuất ấy, tất cả chúng sinh không biết rõ được. Như Lai với họ phát khởi đại Bi, nay ta quyết định sẽ khai thị cho họ biết rõ pháp tánh không nhập, không xuất. Này Xá-lợi-phất! Ta đã chứng Bồ-đề không tướng, không cảnh. Thế nào gọi là không tướng, không cảnh? Chẳng được nhãn thức gọi là không tướng, không quán đối với sắc gọi là không cảnh. Cho đến chẳng được ý thức gọi là không tướng, chẳng quán đối với pháp gọi là không cảnh. Này Xá-lợi-phất! Không tướng, không cảnh ấy là sở hành của chư Thánh. Sở hành ấy là gì? Đó là vì kẻ phàm phu ngu si trong ba cõi đối với sở hành của chư Thánh không thể thực hành được nên chẳng biết rõ không tướng, không cảnh. Như Lai đối với họ phát khởi đại Bi. Nay ta quyết định sẽ khai thị cho họ biết rõ pháp không tướng, không cảnh ấy. Này Xá-lợi-phất! Nói Bồ-đề ấy không có quá khứ, vị lai, hiện tại, ba đời bình đẳng, ba tướng luận dứt. Thế nào gọi là ba tướng luận dứt? Với đời quá khứ tâm không đoái niệm, với đời vị lai thức không chạy đến, với đời hiện tại ý không phát khởi. Tâm, ý và thức ấy không có an trụ, chẳng phân biệt quá khứ, chẳng chấp trước vị lai, chẳng hý luận hiện tại. Tất cả chúng sinh chẳng giác ngộ được tánh bình đẳng ba đời, ba luận thanh tịnh. Như Lai đối với họ phát khởi đại Bi. Nay ta quyết định khai thị làm cho họ giác ngộ ba đời, ba luân bình đẳng thanh tịnh như vậy. Này Xá-lợi-phất! Ta đã chứng Bồ-đề vô vi, vô tánh. Sao gọi là vô vi, vô tánh? Tánh Bồ-đề ấy chẳng phải nhãn thức biết được cho đến chẳng phải ý thức biết được. Nói vô vi là không sinh, không diệt cũng không có trụ. Vì lìa hẳn ba tướng ấy nên gọi là vô vi. Này Xá-lợi-phất! Người biết tánh vô vi phải biết hữu vi. Vì sao? Vì tự tánh của các pháp tức là vô tánh. Luận về vô tánh tức là thể tánh không hai. Vì tất cả chúng sinh chẳng giác ngộ được vô tánh, vô vi ấy nên Như Lai đối với họ mà phát khởi đại Bi. Nay ta quyết định sẽ khai thị cho họ giác ngộ vô tánh, vô vi ấy. Này Xá-lợi-phất! Ta đã chứng Bồ-đề dấu tích không sai biệt. Sao gọi là dấu tích không sai biệt? Chân như và pháp tánh, cả hai đều gọi là dấu tích. Tánh không khác biệt, tánh không an trụ gọi là không sai biệt. Thực tế của các pháp gọi là dấu tích. Tánh không dao động gọi là không sai biệt. Tánh không của các pháp gọi là dấu tích. Tánh chẳng thể nắm bắt gọi là không sai biệt. Các pháp Vô tướng gọi là dấu tích. Tánh chẳng thể tìm gọi là không sai biệt. Các pháp Vô nguyện gọi là dấu tích. Tánh không phát khởi gọi là không sai biệt. Không tánh của chúng sinh gọi là dấu tích. Tức thể tánh là Không gọi là không sai biệt. Tướng hư không ấy gọi là dấu tích. Tánh chẳng thể nắm bắt gọi là không sai biệt. Tánh ấy không sinh gọi là dấu tích. Tánh ấy không diệt gọi là không sai biệt. Tánh ấy vô vi gọi là dấu tích. Tánh ấy không hành, không trụ gọi là không sai biệt. Là tướng Bồ-đề gọi là dấu tích. Tánh ấy tịch tónh gọi là không sai biệt. Là tướng Niết-bàn gọi là dấu tích. Tánh ấy không sinh gọi là không sai biệt. Này Xá-lợi-phất! Vì tất cả chúng sinh chẳng giác ngộ được dấu tích không sai biệt ấy, nên Như Lai đối với họ phát khởi đại Bi: Nay ta quyết định sẽ khai thị cho họ giác ngộ dấu tích không sai biệt ấy. Này Xá-lợi-phất! Nói Bồ-đề ấy, không thể dùng thân để chứng, không thể dùng tâm để chứng. Vì sao? Vì tánh của thân là vô tri, không có tác dụng ví như cỏ cây, đất đá, tường vách. Tánh của tâm cũng vậy, ví như việc huyễn hóa, như sóng nắng, như trăng đáy nước. Nếu giác ngộ được thân tâm như vậy thì gọi là Bồ-đề. Này Xá-lợi-phất! Chỉ do ngôn ngữ thế tục mà giả danh Bồ-đề. Thực tánh của Bồ-đề chẳng thể nói gọi được, chẳng thể dùng thân để được, chẳng thể dùng tâm để được, chẳng thể dùng pháp để được, chẳng thể dùng phi pháp để được, không thể dùng chân thật để được, chẳng thể dùng phi chân thật để được, chẳng thể dùng sự thật để được, chẳng thể dùng hư vọng để được. Vì sao? Vì tánh Bồ-đề lìa rời ngôn ngữ, rời lìa tất cả pháp tướng. Lại vì Bồ-đề không có hình trạng để thông ngôn thuyết. Như hư không kia không có hình, không có chỗ nên chẳng nói được. Này Xá-lợi-phất! Cứ như thật mà tìm cầu thì tất cả pháp đều không thể nói. Vì sao? Vì trong các pháp đều không có ngôn ngữ. Trong ngôn ngữ cũng không có các pháp. Vì tất cả chúng sinh chẳng giác ngộ được chân lý của các pháp như vậy, nên Như Lai đối với họ phát khởi đại Bi. Nay ta quyết định sẽ khai thị chân lý của các pháp ấy cho họ giác ngộ nghóa lý chân thật như vậy. Này Xá-lợi-phất! Nói Bồ-đề ấy không giữ lấy, không cất chứa. Những gì gọi là không giữ lấy, không cất chứa? Biết rõ nhãn căn thì gọi là không giữ lấy, chẳng quán sắc trần thì gọi là không cất chứa. Này Xá-lợi-phất! Như Lai chứng Bồ-đề không giữ lấy, không cất chứa ấy nên chẳng giữ lấy nhãn căn, chẳng sắc trần, chẳng trụ nơi thức; cho đến chẳng giữ lấy ý căn, chẳng cất chứa pháp trần, chẳng trụ nơi thức. Dù chẳng trụ nơi thức mà Như Lai biết rõ được chỗ trụ của tất cả chúng sinh. Biết rõ thế nào? Đó là chúng sinh trụ ở bốn pháp. Những gì là bốn? Tất cả chúng sinh, tâm của họ trụ nơi thức, tâm của họ trụ nơi thọ, tâm của họ trụ nơi tưởng, tâm của họ trụ nơi hành. Như Lai biết như, thật rõ trụ và chẳng trụ như vậy. Vì tất cả chúng sinh chẳng giác ngộ được thực tế vô trụ như vậy nên Như Lai đối với họ phát khởi đại Bi. Nay ta quyết định sẽ khai thị cho họ giác ngộ thực tế vô trụ ấy. Này Xá-lợi-phất! Nói Bồ-đề là tên khác của không. Do không không nên Bồ-đề cũng không. Do Bồ-đề không nên các pháp cũng không. Thế nên Như Lai đúng với tánh không ấy đã giác ngộ tất cả các pháp. Như Lai chẳng do Không mà giác ngộ pháp tánh không tánh. Như Lai do trí nhất lý mà giác ngộ pháp tánh Không. Không với Bồ-đề, tánh ấy không hai. Vì không hai nên chẳng thể nói: đây là Bồ-đề, đây là tánh không. Nếu có hai pháp thì mới có thể nói: đây là Bồ-đề, đây là tánh không. Bởi pháp không hai nên không có hai tướng, không danh, không tướng, không hành, rốt ráo chẳng hành cũng chẳng hiện hành. Nói là không là xa rời nắm lấy. Trong Thắng nghóa đế không có pháp để được. Vì tánh không nên nói là không. Như nói thái hư là hư không, nhưng tánh thái hư chẳng thể nói, gọi được. Pháp không ấy nói tên là không, nhưng tánh không ấy chẳng nói, gọi được. Các pháp ngộ nhập thật không có tên mà giả lập tên gọi, nhưng tên gọi ấy không phương, không xứ. Các pháp cũng không phương, không xứ như tên gọi ấy. Như Lai biết rõ các pháp từ xưa nay không sinh, không khởi. Biết như vậy rồi chứng giải thoát, nhưng thật tánh ấy không buộc không mở. Phàm phu ngu si chẳng giác ngộ được tánh Bồ-đề ấy, nên Như Lai đối với họ phát khởi đại Bi. Nay ta quyết định khai thị cho họ giác ngộ thật tánh Bồ-đề như vậy. Này Xá-lợi-phất! Tánh Bồ-đề bình đẳng với hư không. Nhưng tánh của hư không chẳng phải là có bình đẳng, không bình đẳng. Tánh Bồ-đề cũng vậy, chẳng phải là có bình đẳng hay không bình đẳng. Như các pháp tánh không, chân thật, chẳng thể nói là bình đẳng hay chẳng bình đẳng. Như Lai giác ngộ tất cả pháp bình đẳng, không pháp nào chẳng bình đẳng. Giác ngộ đúng thật không có chút pháp nào có thể gọi là bình đẳng và chẳng bình đẳng. Lượng trí như thật của Như Lai cùng tột lượng các pháp. Thế nào gọi là trí như thật? Đó là biết rõ các pháp vốn không có mà sinh, sinh rồi lìa tan, không có chủ mà sinh, không có chủ mà tan. Hoặc sinh hoặc tan đều tùy theo các duyên, trong ấy không có một pháp nào hoặc sinh hoặc tan, cũng không gì tùy theo. Vì thế nên gọi Như Lai dứt các nẻo đường mà nói pháp vi diệu. Vì tất cả chúng sinh chẳng giác ngộ được pháp dứt các nẻo đường ấy, nên Như Lai đối với họ phát khởi đại Bi. Nay ta quyết định sẽ khai thị cho họ giác ngộ pháp dứt các nẻo đường ấy. Này Xá-lợi-phất! Nói Bồ-đề là như. Những gì gọi là tướng như? Như tướng Bồ-đề, các sắc cũng vậy, đồng chân như ấy, không có thoái, mà không đến khắp. Thọ, tưởng, hành và thức cũng vậy, đồng chân như, không ấy chẳng đến khắp. Này Xá-lợi-phất! Như tướng Bồ-đề đồng chân như ấy, tánh của bốn đại cũng như vậy, đồng chân như ấy không có thoái lui mà chẳng đến khắp. Cho đến nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới, ý giới, pháp giới, ý thức giới cũng như vậy. Như tướng Bồ-đề chỉ là giả bày, tất cả các pháp uẩn, xứ, giới cũng giả bày ra như vậy. Biết rõ tướng như vậy thì gọi là như. Này Xá-lợi-phất! Như Lai thật giác ngộ chẳng điên đảo, biết rõ tất cả như chặng đầu, giữa và rốt sau cũng vậy. Vì sao? Vì chặng đầu không sinh, rốt sau không đến, đoạn giữa rời xa. Tất cả như vậy gọi là như. Một pháp như vậy, tất cả pháp cũng vậy. Tất cả pháp như vậy, một pháp cũng vậy. Chẳng phải trong tánh như mà có thể được một tánh và nhiều tánh. Tất cả chúng sinh chẳng giác ngộ được pháp như ấy, nên Như Lai vì họ mà phát khởi đại Bi. Nay ta quyết định sẽ khai thị cho họ giác ngộ pháp chân như ấy. Này Xá-lợi-phất! Nói Bồ-đề là nhập nơi hành và nhập nơi vô hành. Những gì gọi là hành và vô hành? Này Xá-lợi-phất! Phát khởi pháp lành gọi là hành. Tất cả các pháp chẳng thể nắm bắt gọi là vô hành. An trụ nơi tâm vô trụ gọi là hành. Môn giải thoát vô tướng Tam-muội gọi là vô hành. Nói hành là cân lường, toán số quan sát nơi tâm. Nói vô hành là vượt qua cân lường toán số. Thế nào nói là vượt qua cân lường…? Vì tất cả chỗ không có tác dụng của các thức. Này Xá-lợi-phất! Nói hành là ở chỗ ấy quán sát hữu vi. Nói vô hành là ở chỗ ấy chứng nơi vô vi. Phàm phu ngu si chẳng giác ngộ được pháp nhập hành, vô hành ấy nên Như Lai vì họ mà phát khởi đại Bi. Nay ta quyết định sẽ khai thị cho họ giác ngộ pháp nhập hành, vô hành như vậy. Này Xá-lợi-phất! Nói Bồ-đề là không lưu không thủ. Những gì gọi là không lưu không thủ? Vì lìa bốn lưu tánh nên gọi không lưu. Bốn lưu tánh ấy là gì? Lìa bốn lưu tánh là lìa dục lưu tánh, lìa hữu lưu tánh, lìa vô minh lưu tánh và lìa kiến lưu tánh. Vì lìa bốn thủ tánh nên gọi không thủ. Bốn thủ tánh ấy là gì? Lìa bốn thủ tánh là lìa dục thủ tánh, lìa hữu thủ tánh, lìa kiến thủ tánh và lìa giới thủ tánh. Bốn thủ ấy đều do vô minh mà tối tăm, bờ ao nước ái ứ đọng. Do chấp ngã nên cảm thọ uẩn, xứ, giới. Trong ấy, Như Lai biết rõ như thật căn bản của ngã thủ mà tự chứng thanh tịnh, cũng làm cho chúng sinh chứng được thanh tịnh. Này Xá-lợi-phất! Vì đã chứng thanh tịnh ấy nên ở trong các pháp, Như Lai không có phân biệt. Vì sao? Vì phân biệt thì phát khởi suy tưởng chẳng đúng chân lý. Mà chứng thanh tịnh ấy chỉ là tương ưng với chân lý nên chẳng phát khởi vô minh. Vì chẳng phát khởi vô minh nên chẳng phát khởi được mười hai hữu chi. Nếu chẳng phát khởi mười hai hữu chi thì là vô sinh. Nếu vô sinh thì đó là quyết định. Nếu là quyết định thì đó là liễu nghóa. Nếu là liễu nghóa thì đó là thắng nghóa. Nếu là thắng nghóa thì đó là nghóa không nhân. Nếu là nghóa không nhân thì đó là nghóa chẳng nói được. Nghóa chẳng nói được là nghóa duyên khởi. Các nghóa duyên khởi chính là nghóa pháp. Nghóa các pháp chính là nghóa Như Lai. Này Xá-lợi-phất! Nếu có thể quán duyên khởi như vậy thì chính là quán pháp. Nếu quán pháp tức là quán Như Lai. Quán như vậy thì rời ngoài chân như không có sở quán. Trong ấy thế nào là có sở hữu? Đó là tướng và duyên. Hai pháp ấy, nếu có thể quán không tướng, không duyên tức là chân thật quán. Như Lai do giác ngộ các pháp bình đẳng như vậy nên bình đẳng. Phàm phu ngu si không giác ngộ được tánh không lưu, không thủ ấy. Như Lai vì họ mà phát khởi đại Bi. Nay ta quyết định sẽ khai thị cho họ giác ngộ tánh không lưu, không thủ ấy. Này Xá-lợi-phất! Nói Bồ-đề ấy, tánh nó thanh tịnh, không có cấu nhơ, không có chấp trước. Thế nào gọi là thanh tịnh, không có cấu nhơ và không có chấp trước? Vì Không nên thanh tịnh, vì Vô tướng nên không cấu nhơ, vì Vô nguyện nên không chấp trước. Lại vì không sinh nên thanh tịnh, vì không tạo tác nên không cấu, vì không nắm giữ nên không chấp. Lại là tự tánh nên thanh tịnh, vì khắp sạch nên không cấu, vì sáng sạch nên không chấp. Lại vì không hý luận nên thanh tịnh, vì lìa hý luận nên không cấu, vì hý luận tịch tónh nên không chấp. Lại vì là chân như nên thanh tịnh, là pháp giới nên không cấu, là thực tế nên không chấp. Lại vì hư tónh nên thanh tịnh, vì không chướng ngại nên không cấu, vì không tịch nên không chấp. Lại vì biết rõ khắp bên trong nên thanh tịnh, vì chẳng hành bên ngoài nên không cấu, vì chẳng thể được nên không chấp. Lại vì khắp biết rõ uẩn nên thanh tịnh, vì là tự thể giới nên không cấu, vì xứ tổn giảm nên không chấp. Lại vì quá khứ tận trí nên thanh tịnh, vì vị lai Vô sinh trí nên không cấu, vì hiện tại Pháp giới trụ trí nên không chấp. Tánh thanh tịnh không cấu, không chấp như vậy đồng đến một câu, đó là câu tịch tónh. Những tịch tónh ấy là tột tịch tónh. Tột tịch tónh là khắp tịch tónh. Khắp tịch tónh gọi là Đại Mâu-ni. Này Xá-lợi-phất! Dường như thái hư, Bồ-đề cũng vậy. Như tánh Bồ-đề, các pháp cũng vậy. Như tánh các pháp, chân thật cũng vậy. Như tánh chân thật, cõi nước cũng vậy. Như tánh cõi nước, Niết-bàn cũng vậy. Vì thế nên nói các pháp bình đẳng của Niết-bàn, cũng gọi là cứu cánh, vì không có tướng biên tế; không có đối trị, vì rời tướng đối trị. Các pháp như vậy xưa nay thanh tịnh không cấu, không chấp. Này Xá-lợi-phất! Nơi tất cả các pháp sắc, vô sắc… như vậy, Như Lai giác ngộ như thật, xem thấy tánh của hữu tình thanh tịnh không cấu, không chấp, liền phát khởi đại Bi. Nay ta quyết định sẽ khai thị cho các hữu tình giác ngộ pháp thanh tịnh không cấu, không chấp. Này Xá-lợi-phất! Đức đại Bi chẳng thể nghó bàn ấy của Như Lai chẳng do công dụng nhậm vận thường chuyển, lưu bố khắp đầy mười phương thế giới không có chướng ngại. Này Xá-lợi-phất! Đức đại Bi của Như Lai chẳng thể nghó bàn không ngằn, không mé giống như hư không. Nếu có ai muốn tìm cầu ranh giới của đức đại Bi ấy thì chẳng khác gì kẻ muốn tìm cầu ranh giới của hư không. Này Xá-lợi-phất! Các Đại Bồ-tát nghe đức đại Bi của Như Lai chẳng thể nghó bàn đồng hư không rồi liền kính tin không lầm, không nghi vui mừng hớn hở phát ý tưởng hy hữu diệu kỳ. Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghóa ấy mà nói kệ rằng: Chư Phật chứng Bồ-đề Không căn, không chỗ trụ Như chỗ Phật đã chứng Đem dạy cho chúng sinh Chư Phật chúng Bồ-đề Tịch tónh, tột tịch tónh Thấy nhãn căn trong không Thấy sắc trần ngoài không. Hữu tình chẳng giác ngộ Tịch tónh tột tịch tónh Phật biết rõ cú nghóa Vì họ khởi đại Bi. Tánh Bồ-đề sáng sạch Thanh tịnh đồng hư không Vì chúng sinh chẳng rõ Nên Phật khởi đại Bi. Chư Phật chứng Bồ-đề Không đến đi, lấy bỏ Vì chúng sinh chẳng rõ Nên Phật khởi đại Bi. Chư Phật chứng Bồ-đề Không tướng, không cảnh giới Là sở hành của Thánh Phàm phu chẳng biết được, Vì họ chẳng biết rõ Hoặc biết mà chẳng thấu Như Lai đối với họ Phát khởi lòng đại Bi. Tự tánh của vô vi Không sinh cũng không diệt Cũng vẫn không có trụ Ba luận luôn giải thoát, Phàm phu chẳng giác ngộ Tự tánh của hữu vi Phật thương khởi đại Bi Dạy chân lý như vậy. Bồ-đề chẳng phải thân Cũng chẳng phải tâm chứng Tự tánh thân vô tri Tâm như việc huyễn hóa, Phàm phu chẳng giác ngộ Tánh thể của thân tâm Phật thương khởi đại Bi Dạy diệu lý như vậy. Chư Phật tự nhiên chứng Bồ-đề thắng rộng lớn Ngồi an dưới thọ vương Quan sát tánh chúng sinh Trèo lên xe sinh tử Chạy vòng khắp các loài Vì thấy họ như vậy Nên Phật khởi đại Bi. Bị kiêu mạn phá hoại Kiến chấp luôn ràng buộc Với khổ tưởng là vui Vô thường tưởng là thường Chấp là tịnh, là ngã Là chúng sinh, thọ giả Như Lai quan sát thấy Vì họ khởi đại Bi. Tánh tất cả chúng sinh Che trùm trong màn si Không có ánh sáng tuệ Như mây che mặt trời, Như Lai quan sát thấy Vì họ khởi đại Bi Dùng trí sáng không nhơ Soi sáng đường cho họ. Chúng sinh vào ác đạo Thường mê mất đường chính Đọa địa ngục, ngạ quỷ Hoặc đọa loài súc sinh Chư Phật đã biết rõ Dẫn dắt đi đường chính Nay Phật thấy họ rồi Khởi đại Bi khai thị. Phật biết tất cả pháp Chân như và thật tánh Thanh tịnh cùng hư không Chứng thành chân giải thoát Chúng sinh chẳng biết được Pháp tịnh diệu như vậy Như Lai vì thương họ Mà phát khởi đại Bi. Này Xá-lợi-phất! Đây gọi là đức đại Bi không thể nghó bàn của Như Lai. Các Đại Bồ-tát nghe đức đại Bi chẳng thể nghó bàn ấy rồi liền kính tin không lầm, không nghi càng thêm vui mừng hớn hở phát ý tưởng hy hữu diệu kỳ.  KINH ĐẠI BẢO TÍCH <卷 id="86423736">QUYỂN 40 Hán dịch: Đời Đại Đường, Tam tạng Pháp sư Huyền Trang. <詞 id="86423737">Pháp hội 12: BỒ-TÁT TẠNG (Phần 6) <章 id="86423738">Phẩm 4: TÁNH CHẲNG NGHÓ BÀN CỦA NHƯ LAI (Phần 4) Bấy giờ Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Này Xá-lợi-phất! Thế nào là Đại Bồ-tát đối với Phật pháp bất cộng chẳng thể nghó bàn của Như Lai mà kính tin không lầm, không nghi vui mừng hớn hở phát ý tưởng hy hữu diệu kỳ? Này Xá-lợi-phất! Như Lai thành tựu mười tám Phật pháp bất cộng. Do thành tín mười tám pháp Bất cộng ấy nên Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác ở giữa đại chúng như sư tử rống tuyên bố rằng: “Ta ở ngôi Thế Tôn chuyển pháp luân lớn mà tất cả thế gian hoặc Người, hoặc Trời, Ma vương, Phạm vương, Sa-môn, Bà-la-môn đều chẳng thể chuyển được đúng pháp.” Những gì gọi là mười tám pháp Phật bất cộng? Này Xá-lợi-phất! Như Lai ở đời không có các sự lầm lỗi. Vì không lầm lỗi nên gọi là Như Lai. Thế nào gọi là không có lầm lỗi? Này Xá-lợi-phất! Thân nghiệp của Như Lai không lầm lỗi. Tất cả thế gian, hoặc kẻ ngu người trí đều không thể đúng pháp chỉ trích là Như Lai có lỗi lầm nơi thân nghiệp. Vì sao? Vì thân nghiệp của Phật Thế Tôn rốt ráo không lỗi lầm. Này Xá-lợi-phất! Chư Phật Như Lai bước đi trong đời luôn ngó thẳng đến trước. Tất cả cử chỉ, hoặc xoay mình quay lại, hoặc cúi xuống hoặc ngước lên, đắp y, cầm bát, đến lui qua lại, đi đứng ngồi nằm đều không mất oai nghi, luôn đoan nghiêm tường tự. Này Xá-lợi-phất! Như khi Như Lai đi vào thành ấp, hoặc lúc trở về, hai bàn chân đạp trên không mà tướng thiên bức luân hiện rõ trên đất, mùi thơm đẹp lạ và hoa sen vàng tự nhiên vọt ra đỡ chân Như Lai. Nếu có tất cả loài hữu tình trong loài súc sinh được chân Phật chạm phải, thì hưởng thọ vui khoái mãn bảy ngày đêm, sau khi chết được sinh về cõi lành an vui. Này Xá-lợi-phất! Như Lai mặc y phục, y phục ấy chẳng dính vào thân. Như lượng của bốn ngón tay Như Lai, ngọn gió tỳ-lam chẳng lay động được. Này Xá-lợi-phất! Ánh sáng nơi thân của Như Lai chiếu sáng luôn không ngớt, chạm đến chúng sinh thì làm cho họ vui thích. Này Xá-lợi-phất! Vì không có tất cả thân tướng lỗi lầm như vậy nên nói là thân nghiệp của Như Lai không có lỗi lầm. Như chính Phật tự chứng thân nghiệp không lỗi lầm, cũng vì chúng sinh tuyên nói pháp ấy khiến họ dứt hẳn thân nghiệp lỗi lầm. Này Xá-lợi-phất! Ngữ nghiệp của Như Lai không có lỗi lầm. Tất cả thế gian, hoặc người trí kẻ ngu đều không thể chỉ trích là ngữ nghiệp của Như Lai có lỗi lầm. Vì sao? Vì Như Lai là Đấng nói đúng thời, Đấng nói lời như thật, Đấng nói sự thật, Đấng nói phải thời, Đấng làm đúng như lời nói, Đấng khéo giảng giải từ ngữ, Đấng nói lời mà người nghe vui thích, Đấng không nói lập lại, Đấng nói văn nghóa trang nghiêm, Đấng phát một âm nào cũng đều khiến người nghe tin hiểu vui đẹp. Này Xá-lợi-phất! Vì tất cả lời nói không có tướng lỗi lầm như vậy nên gọi rằng ngữ nghiệp của Như Lai không lầm lỗi. Như tự mình chứng ngữ nghiệp không lỗi, Như Lai cũng vì chúng sinh nói pháp ấy khiến họ dứt hẳn lỗi lầm nơi ngữ nghiệp. Này Xá-lợi-phất! Tâm niệm của Như Lai không lỗi lầm. Tất cả thế gian, hoặc người trí kẻ ngu không thể rình tìm, đúng pháp chỉ trích được rằng tâm nghiệp của Như Lai có lỗi. Vì sao? Vì Như Lai chẳng xả pháp định thậm thâm mà có thể phát khởi làm những Phật sự, ý chẳng dao động với tất cả pháp mà trí vô ngại nhậm vận thường chuyển nên nói Như Lai tâm nghiệp không lỗi lầm. Như tự mình chứng tâm không lỗi, Như Lai cũng vì chúng sinh mà nói pháp ấy khiến cho họ dứt hẳn lỗi lầm nơi tâm. Này Xá-lợi-phất! Vì thân, ngữ, tâm không có lỗi lầm như vậy nên gọi đó là pháp Phật bất cộng thứ nhất của Như Lai: Các nghiệp không có lỗi lầm. Này Xá-lợi-phất! Thế nào là Như Lai phát ngôn, âm thanh không có thô bạo? Vì Như Lai không phát âm một cách thô bạo nên tất cả thế gian, hoặc Ma vương hoặc quyến thuộc Ma, hoặc chư Thiên, hoặc các nhà ngoại đạo đều chẳng thể rình tìm được chỗ sơ suất của Như Lai. Này Xá-lợi-phất! Âm ngôn của Như Lai vốn không thô bạo, không có khuynh hướng thô bạo. Vì sao? Vì từ lâu Như Lai đã lìa hẳn những tham ái và giận hờn. Dù được tất cả chúng sinh tôn kính mà tâm Như Lai chẳng cao hứng. Dù bị khinh khi cũng chẳng có niệm buồn. Này Xá-lợi-phất! Việc làm của Như Lai không có quá thời và chẳng cứu cánh, cũng chẳng vì việc ấy mà có ăn năn và theo việc ấy mà phát ngôn thô bạo. Này Xá-lợi-phất! Như Lai không có tranh cãi với thế gian nên không có lời thô bạo. Đức Như Lai luôn dừng ở chánh định vô tranh, không chấp ngã, ngã sở, cũng không có sở thủ, rời xa những triền phược nên không có lời thô bạo. Này Xá-lợi-phất! Như tự mình chứng vô lượng âm ngôn không thô bạo, Phật cũng vì chúng sinh nói pháp ấy, cho họ dứt hẳn những thô bạo. Đây gọi là pháp Phật bất cộng thứ hai của Như Lai: Lời nói không thô bạo. Này Xá-lợi-phất! Thế nào là Như Lai không quên mất chánh niệm? Vì Đức Như Lai không quên mất chánh niệm nên chẳng bao giờ phát sinh mê loạn với một pháp nào. Vì sao? Vì Như Lai đã trụ trong tónh lự giải thoát Tam-ma-địa, Tam-ma-bát-đề, không si mê. Vì Như Lai quán thấy không chướng ngại những tâm hành động chuyển của các hữu tình, vì theo chỗ đáng dạy mà vì họ tuyên nói diệu pháp không quên mất, vì ở trong các pháp nghóa giảng giải biện tài không chướng ngại không quên mất, vì đối với quá khứ, vị lai và hiện tại, trí vô ngại thấy suốt vô lượng không quên mất. Như tự mình chứng chánh niệm không quên mất, Như Lai cũng vì chúng sinh nói pháp khiến cho họ chứng được chánh niệm ấy. Đây gọi là pháp Phật bất cộng thứ ba của Như Lai: Chánh niệm không quên mất. Này Xá-lợi-phất! Thế nào là Như Lai không có tâm chẳng định? Này Xá-lợi-phất! Khi đi, đứng, ngồi, nằm, hoặc ăn uống, hoặc nói nín, Như Lai luôn ở sâu trong định không bao giờ rời xa. Vì sao? Vì Như Lai chứng được Thiền định ba-la-mật-đa thậm thâm tối thắng, đã thành tựu tónh lự thậm thâm không chướng, không ngại. Này Xá-lợi-phất! Không có loại hữu tình nào hoặc nhập định hay xuất định mà có thể thấy được tâm và tâm sở của Như Lai, chỉ trừ lúc Như Lai dùng thần lực gia bị cho họ. Như tự mình đã chứng được tâm thường ở trong chánh định, Như Lai cũng vì các hữu tình nói pháp ấy làm cho họ rời hẳn tâm tán loạn. Đây gọi là pháp Phật bất cộng thứ tư của Như Lai: Không có tâm chẳng định. Này Xá-lợi-phất! Thế nào là Như Lai không có các tư tưởng khác? Nếu có tự tưởng khác thì có thể có tâm niệm không bình đẳng. Tâm Như Lai thường bình đẳng nên đối với tất cả pháp, Như Lai không có tư tưởng khác. Này Xá-lợi-phất! Như Lai với các cõi Phật không có tư tưởng khác lạ, vì cõi Phật như hư không. Với các hữu tình, Như Lai không có các loại tưởng, vì tánh hữu tình vô ngã. Với chỗ chư Phật, Như Lai không có các tư tưởng khác, vì trí bình đẳng pháp tánh không có sai biệt. Với tất cả pháp, Như Lai không có các tư tưởng khác, vì pháp lìa dục tánh nó bình đẳng. Với người trì giới, Như Lai không yêu; với người phá giới, Như Lai không giận; với kẻ ân đều đền đáp; với kẻ oán không lòng hại; với người được độ đều bình đẳng; với kẻ tà định không có lòng khinh mạn, đều bình đẳng an trụ trong tất cả các pháp, vì thế nên nói Như Lai không có tư tưởng khác. Như tự mình đã chứng không có tư tưởng khác, Như Lai cũng vì chúng sinh mà tuyên nói pháp ấy làm cho họ dứt hẳn các thứ tư tưởng khác. Đây gọi là pháp Phật bất cộng thứ năm của Như Lai: Không có tưởng khác. Này Xá-lợi-phất! Thế nào là Như Lai chẳng biết rõ mà xả? Này Xá-lợi-phất! Như Lai đã tu tập xong Thánh đạo mà chứng đức xả ấy, chẳng phải là chưa tu Thánh đạo mà chứng. Đức Như Lai đã tu nơi tâm, đã tu nơi giới, đã tu nơi tuệ mà chứng đức xả ấy, chẳng phải chưa tu mà chứng. Này Xá-lợi-phất! Đức xả của Như Lai là tùy theo trí tuệ mà hiện hành, chẳng phải tùy ngu si. Đức xả của Như Lai là xuất thế, chẳng theo thế gian. Đức xả của Như Lai là bậc Thánh là xuất ly; chẳng phải chẳng Thánh, chẳng xuất ly. Đức xả của Như Lai thường chuyển pháp luân thanh tịnh thương mến chúng sinh chẳng bỏ rời. Đức xả của Như Lai nhậm vận thành tựu, vì chẳng theo nơi đối trị. Này Xá-lợi-phất! Đức xả của Như Lai, chẳng cao cũng chẳng hạ liệt, an trụ được nơi bất động rời xa hai bên, vượt khỏi tất cả suy lường xem xét, quán đãi theo thời cũng chẳng quá thời, không lay động không suy tư, không phân biệt, không dị phân biệt, không tu không tổn, không có kiêu căng phóng dật, không có thị hiện, là chân tánh, là như tánh, là tánh chẳng hư vọng, chẳng phải tánh chẳng như, có vô lượng đức tánh như vậy. Này Xá-lợi-phất! Đức đại xả của Như Lai thành tựu như vậy, vì muốn chúng sinh được viên mãn đức xả ấy mà nói pháp này. Đây gọi pháp Phật bất cộng thứ sáu của Như Lai: Đức xả không phân biệt. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Thế nào gọi là chí mong cầu không lui giảm của Như Lai? Những gì là chí mong cầu không lui giảm? Đó là chí mong cầu nơi pháp lành. Lại còn có nghóa gì gọi là chí mong cầu của Như Lai? Chí mong cầu đại Từ của Như Lai không giảm. Chí mong cầu đại Bi của Như Lai không giảm. Chí mong cầu thuyết pháp của Như Lai không giảm. Chí mong cầu điều phục chúng sinh của Như Lai không giảm. Chí mong cầu thành thục chúng sinh của Như Lai không giảm. Chí mong cầu giải thoát của Như Lai không giảm. Chí mong cầu giáo đạo Bồ-tát của Như Lai không giảm. Chí mong cầu nối giống Tam bảo khiến chẳng đoạn tuyệt của Như Lai không giảm. Tất cả Như Lai chẳng theo nơi dục mà hành động. Chí mong cầu của Như Lai dùng trí tuệ làm người dẫn đường. Như tự mình đã chứng chí mong cầu không lui giảm, cũng vì chúng sinh tuyên nói pháp ấy khiến họ chứng được chí mong cầu Nhất thiết trí trí viên mãn. Đây gọi là chí mong cầu không giảm, pháp Phật bất cộng thứ bảy của Như Lai. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Thế nào gọi là chánh cần không lui giảm của Đức Như Lai? Đó là chánh cần chẳng bỏ chúng sinh được hóa độ. Chánh cần không có ý xua đuổi chúng nghe pháp. Giáo hóa chẳng lui mất như vậy nên gọi chánh cần của Như Lai chẳng giảm. Này Xá-lợi-phất! Nếu có chúng sinh thích nghe pháp, đáng là pháp khí, có thể nghe pháp mãi cả kiếp không biết mỏi, gặp thính chúng như vậy, Như Lai cũng thuyết pháp suốt kiếp chẳng rời pháp tòa, chẳng ăn uống mà thuyết pháp luôn chẳng nghỉ. Giả sử cách xa hằng hà sa thế giới có một chúng sinh thuộc giới hạn giáo hóa của Phật, Như Lai liền đích thân đến tại chỗ họ để giáo hóa cho họ được ngộ nhập. Chánh cần của Như Lai không hề mỏi nhọc nhàm chán. Này Xá-lợi-phất! Thân của Như Lai không hề mỏi mệt, lời nói và thân tâm của Như Lai cũng không hề mỏi mệt. Vì sao? Vì thân, lời nói và tâm của Như Lai luôn khinh an. Này Xá-lợi-phất! Từ nhiều kiếp Như Lai phát khởi tinh tấn và ca ngợi đức tinh tấn, vì chúng sinh mà nói pháp ấy cho họ siêng tu tập đức tinh tấn để được chứng Thánh giải thoát. Đây gọi là pháp Phật bất cộng thứ tám của Như Lai: Đức chánh cần không giảm. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Thế nào là Như Lai đối với tất cả pháp và tất cả chủng tánh tất cả niệm không lui giảm? Vì niệm của Như Lai không lui giảm vậy. Này Xá-lợi-phất! Như Lai chứng được Vô thượng Bồ-đề, quán trí không gián đoạn. Tâm của tất cả chúng sinh nối tiếp biết các sự quá khứ, vị lai, ở trong ấy Như Lai đều biết rõ không có quên mất. Biết như thật tâm hành của chúng sinh rồi, Như Lai không hề tác ý trong đó mà sự nhớ biết của Như Lai không lui giảm. Này Xá-lợi-phất! Như Lai an lập ba tụ chúng sinh, căn tánh ngộ nhập hiểu biết và tu hành của họ, xét biết rõ rồi Như Lai chẳng để ý nghó nhớ quan sát nữa, mà Như Lai thường vì họ thuyết pháp đúng chỗ chẳng hề thôi nghỉ. Vì sao? Vì đức niệm của Như Lai không lui giảm vậy. Như tự mình chứng niệm không lui giảm, cũng vì chúng sinh mà tuyên nói pháp ấy cho họ vónh viễn dứt niệm thoái giảm. Đây gọi là pháp Phật bất cộng thứ chín của Như Lai: Đức niệm không giảm. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Thế nào là Tam-ma-địa của Phật không thoái giảm? Này Xá-lợi-phất! Tam-ma-địa của Phật và tất cả pháp, tánh ấy bình đẳng, chẳng phải không bình đẳng. Vì sao? Vì tất cả pháp và tất cả chủng pháp không có tánh gì chẳng bình đẳng. Này Xá-lợi-phất! Do nhân duyên gì mà Tam-ma-địa của Phật không giảm? Vì chân như bình đẳng thì Tam-ma-địa bình đẳng, vì Tam-ma-địa bình đẳng thì Như Lai bình đẳng. Vì hay chứng nhập tánh bình đẳng như vậy, nên Tam-ma-địa ấy gọi là đẳng định. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Nếu tham tế bình đẳng thì lìa tham tế bình đẳng. Nếu sân tế bình đẳng thì lìa sân tế bình đẳng. Nếu si tế bình đẳng thì lìa si tế bình đẳng. Nếu hữu vi tế bình đẳng thì vô vi tế bình đẳng. Nếu sinh tử tế bình đẳng thì Niết-bàn tế bình đẳng. Vì Như Lai chứng nhập tánh bình đẳng như vậy nên Tam-ma-địa của Như Lai không lui giảm. Vì sao? Vì tánh bình đẳng không thoái giảm. Này Xá-lợi-phất! Tam-ma-địa của Phật chẳng phải tương ưng với nhãn, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý. Tại sao? Do không tương ưng vậy, nhưng nơi Như Lai sáu căn không thiếu. Tam-ma-địa của Phật chẳng y nơi địa, thủy, hỏa, phong bốn đại, chẳng y nơi Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới, chẳng y nơi thế gian này và thế gian khác. Tại sao? Do không nương tựa vậy. Vì thế mà không lui, không giảm. Đã tự chứng Tam-ma-địa không giảm, Đức Như Lai cũng vì chúng sinh tuyên nói pháp ấy cho họ chứng được các Tam-ma-địa. Đây gọi là pháp Phật bất cộng thứ mười của Như Lai: Tam-ma-địa không giảm. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Thế nào là trí tuệ không giảm của Như Lai? Này Xá-lợi-phất! Những gì là trí tuệ của Như Lai? Đó là trí biết rõ các pháp chẳng nhờ người khác, trí nói diệu pháp cho các hữu tình, trí thiện xảo vô tận, trí hiểu biết không ngại, trí phân biệt tất cả nghóa, trí ngộ nhập một nghóa cả trăm ngàn đại kiếp nói cũng chẳng hết, trí dứt lưới nghi khi được nghe, trí nơi tất cả chỗ không chướng ngại, trí lập và nói ba thừa, trí thấu rõ khắp tám muôn bốn ngàn tâm hành của hữu tình, trí mở dạy tám muôn bốn ngàn pháp tạng. Này Xá-lợi-phất! Trí tuệ của Như Lai không ngằn, không mé, không có cùng tận. Vì trí tuệ ấy chẳng thể cùng tận vậy. Do trí tuệ ấy chẳng cùng tận, nên từ trí tuệ ấy thuyết pháp cũng không cùng tận, vì thế mà gọi trí tuệ của Như Lai không lui giảm. Như tự chứng trí tuệ không giảm, Như Lai cũng vì chúng sinh nói pháp ấy cho họ chứng được trí tuệ vô tận. Đây gọi là pháp Phật bất cộng thứ mười một của Như Lai: Trí tuệ không giảm. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Thế nào là giải thoát không giảm của Như Lai? Này Xá-lợi-phất! Những gì là giải thoát của Như Lai? Này Xá-lợi-phất! Hàng Thanh văn thừa do ngộ âm thanh mà được giải thoát. Hàng Độc giác thừa do ngộ các duyên mà được giải thoát. Chư Phật Như Lai xa rời tất cả chấp trước hai bên mà được giải thoát, nên gọi là Như Lai giải thoát. Giải thoát ấy, với tiền tế thì không trói buộc, với hậu tế thì không chuyển hành, với hiện tại thì không trụ trước. Này Xá-lợi-phất! Giải thoát hai chấp nhãn với sắc. Cũng vậy, giải thoát hai chấp nhó với thanh, tỷ với hương, thiệt với vị, thân với xúc. Vì nương nơi giải thoát nên nhiếp thọ không chấp. Này Xá-lợi-phất! Tâm cùng với trí, tự tánh sáng sạch, thể không vết không nhơ. Vì thế nên chư Phật do sát-na tâm tương ưng tuệ mà chứng được Vô thượng Bồ-đề. Theo chỗ chứng Bồ-đề của mình, Như Lai cũng vì chúng sinh nói pháp ấy khiến cho họ chứng viên mãn Bồ-đề. Đây gọi là pháp Phật bất cộng thứ mười hai của Như Lai: Giải thoát không giảm. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Thế nào là tất cả thân nghiệp của Như Lai do trí dẫn đường và theo trí mà chuyển? Này Xá-lợi-phất! Do Phật đã thành tựu thân nghiệp ấy nên tất cả hữu tình hoặc thấy Như Lai liền điều phục, hoặc nghe Như Lai thuyết pháp cũng đều điều phục. Vì thế nên Như Lai hoặc hiện yên lặng điều phục chúng sinh, hoặc hiện uống ăn điều phục chúng sinh, hoặc hiện các oai nghi điều phục chúng sinh, hoặc hiện những tướng thù thắng điều phục chúng sinh, hoặc hiện tùy hình tốt đẹp để điều phục chúng sinh, hoặc hiện tướng không thấy đảnh để điều phục chúng sinh, hoặc hiện tướng quán sát điều phục chúng sinh, hoặc hiện thần quang chiếu sáng điều phục chúng sinh, hoặc hiện bước đi cất chân hạ chân điều phục chúng sinh, hoặc hiện qua lại thành ấp điều phục chúng sinh. Này Xá-lợi-phất! Nói tóm lại, không có oai nghi nào của Phật mà chẳng điều phục chúng sinh, vì thế nên nói tất cả thân nghiệp của Như Lai do trí làm người dẫn đường, theo trí mà chuyển. Như tự chứng thân nghiệp như vậy, Như Lai cũng vì chúng sinh nói pháp ấy cho họ chứng nhập thân trí như vậy. Đây gọi là pháp Phật bất cộng thứ mười ba của Như Lai: Thân nghiệp theo trí chuyển. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Thế nào là tất cả ngữ nghiệp của Như Lai do trí làm người dẫn đường và theo trí mà chuyển? Này Xá-lợi-phất! Phật Như Lai không bao giờ thuyết pháp hư dối. Do trí làm người dẫn đường nên lời Phật thọ ký đều tròn đủ cả. Lời Phật nói ra đều rõ ràng vi diệu. Này Xá-lợi-phất! Ngôn ngữ của Phật theo hiện thật mà chuyển chẳng thể nghó bàn. Nay sẽ lược kể: Ngôn ngữ của Phật là lời nói dễ hiểu rõ, là lời nói dễ biết rõ, lời nói chẳng cao đại, lời nói chẳng ty hạ, lời nói thù thắng, lời nói chẳng tà khúc, lời nói chẳng vấp váp, lời nói chẳng phiền loạn, lời nói chẳng ngập ngừng, lời nói chẳng thô cứng, lời nói chẳng ẩn mất, là lời nói nhu hòa, lời nói đáng vui thích, lời nói chẳng trống thiếu, lời nói chẳng nhẹ rung, lời nói chẳng lập cập, lời nói chẳng phiền muộn, lời nói chẳng quá mau, lời nói khéo quyết đoán, lời nói khéo giảng giải, lời nói tột hay tốt, lời nói thắng diệu, lời nói khéo xướng đạo, lời nói thanh lớn, lời nói như sấm nổ, lời nói không sót thừa, lời nói như uống cam lộ, lời nói có ý nghóa, lời nói đáng gần gũi, lời nói phóng khoáng, lời nói đáng yêu, lời nói không nhiễm trần, lời nói rời trần cấu, lời nói không nhơ, lời nói không đục, lời nói không lỗ mãng, lời nói oai nghiêm, lời nói không chướng ngại, lời nói hay dạy dỗ, lời nói sáng sạch, lời nói chánh trực, lời nói không khiếp sợ, lời nói không khuyết giảm, lời nói chẳng nhẹ gấp, lời nói hay sinh vui mừng, lời nói làm cho thân khoan khoái, lời nói làm cho tâm hớn hở, lời nói làm hết tham, lời nói làm dứt sân, lời nói làm mất si, lời nói trừ ma, lời nói dẹp ác, lời nói xô ngã dị luận, lời nói có biểu thị, lời nói như tiếng trống trời, lời nói mà người trí vui thích, lời nói như tiếng Tiên điểu, lời nói như tiếng Thiên đế, lời nói như tiếng Phạm thiên, lời nói như tiếng hải triều, lời nói như tiếng vân lôi, lời nói như tiếng động đất động núi, lời nói như tiếng chim hồng hạc chúa, chim khổng tước chúa, chim hoàng ly, chim mạng mạng, chim ngỗng chúa, chim nhạn chúa; lời nói như tiếng lộc vương, như tiếng nhạc, như tiếng loa, như tiếng tiêu, lời nói dễ biết dễ hiểu, lời nói rành rẽ, lời nói đẹp dạ, lời nói đáng lắng nghe, lời nói sâu xa, lời nói không ngọng nghịu, lời nói vui tai, lời nói sinh căn lành, lời nói không thiếu văn cú, lời nói khéo trình bày văn cú, lời nói đúng văn cú, đúng nghóa, đúng pháp, đúng thời, đáp đúng, chẳng lỗi thời, lời nói biết căn tánh thắng liệt, lời nói trang nghiêm bố thí, lời nói trì giới thanh tịnh, lời nói truyền dạy nhẫn nhục, lời nói luyện tập tinh tấn, lời nói khiến thích thiền định, lời nói ngộ nhập chánh tuệ, lời nói khéo nhóm đức Từ, lời nói đức Bi không mỏi, lời nói đức Hỷ trong sạch, lời nói chứng nhập đức Xả, lời nói an lập ba thừa, lời nói nối vững Tam bảo, lời nói an lập ba tụ, lời nói thanh tịnh ba giải thoát, lời nói tu khắp đế lý, lời nói tu khắp trí tuệ, lời nói người đạt chẳng chê, lời nói bậc Thánh khen ngợi, lời nói lượng như hư không, lời nói thành tựu vi diệu Nhất thiết chủng. Lời nói của Như Lai vô lượng, vô biên thanh tịnh vi diệu như vậy, vì thế nên nói ngữ nghiệp của Như Lai dùng trí làm người dẫn đường, theo trí mà chuyển. Như tự mình đã chứng ngữ nghiệp như vậy, Như Lai cũng vì chúng sinh mà tuyên nói pháp ấy khiến họ được chứng nhập ngữ nghiệp như vậy. Đây gọi là pháp Phật bất cộng thứ mười bốn của Như Lai: Ngữ nghiệp theo trí chuyển. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Thế nào là tất cả ý nghiệp của Như Lai dùng trí làm người dẫn đường, theo trí mà chuyển. Này Xá-lợi-phất! Luận về Như Lai thì tâm, ý và thức đều chẳng nói được. Luận về Như Lai thì phải do trí để cầu, vì trí tăng thượng nên gọi là Như Lai. Trí của Như Lai theo đến tâm của tất cả chúng sinh, theo vào ý của tất cả chúng sinh, chẳng rời thức của tất cả chúng sinh, đốt sạch các pháp, các Tam-ma-địa, chẳng theo các duyên, vượt qua tất cả cảnh giới sở duyên, xa rời duyên sinh, dứt ba cõi các loài, vượt khỏi giống kiêu mạn, giải thoát nghiệp ma, rời các dua nịnh dối trá; bỏ ngã, ngã sở; dứt trừ vô minh si ám, khéo tu các trợ đạo chi, đồng với hư không, chẳng có phân biệt, không khác biệt với pháp giới. Này Xá-lợi-phất! Như Lai chứng nhập ý nghiệp như vậy, trí làm người dẫn đường theo đúng tâm của chúng sinh mà thuyết pháp cho họ cũng chứng nhập ý ấy. Đây gọi là pháp Phật bất cộng thứ mười lăm của Như Lai: Ý nghiệp theo trí chuyển. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Thế nào là Như Lai đối với đời quá khứ dùng trí không chấp trước, không chướng ngại chuyển hành? Này Xá-lợi-phất! Tại sao trí ấy gọi là chuyển hành? Này Xá-lợi-phất! Như Lai dùng trí không chướng ngại có thể biết được trong vô lượng, vô biên đời quá khứ có bao nhiêu cõi nước hoặc thành hoặc hoại, tất cả sự việc xảy ra đó vô lượng, vô số, Như Lai đều xét biết. Cho đến trong những cõi nước ấy có bao nhiêu cây cỏ, rừng rậm, cây thuốc, tất cả những việc ấy Như Lai đều biết rõ. Trong các cõi nước, thân tướng của chúng sinh, sự giả lập của chúng sinh, tất cả những tướng ấy Như Lai đều biết rõ. Lại nữa, trong những cõi ấy, có bao nhiêu chủng tánh và sắc tướng của chúng sinh, Như Lai đều biết rõ. Trong đó có chư Phật xuất thế, chư Phật thuyết chánh pháp, những việc ấy Như Lai đều phân biệt biết rõ như thật. Trong đó có bao nhiêu chúng sinh do Thanh văn thừa đắc đạo, hoặc do Độc giác thừa, hoặc Đại thừa đắc đạo, Như Lai đều biết rõ. Cho đến những cõi ấy có hình tướng sai biệt, chúng Tỳ-kheo Tăng, thọ lượng, chánh pháp trụ thế, uống ăn, thở hít Như Lai đều biết rõ. Này Xá-lợi-phất! Tướng dạng đời quá khứ của tất cả hữu tình, hoặc chết, hoặc sinh, hoặc cõi, hoặc loài, ở nơi đấy Như Lai đều biết rõ thật. Các hữu tình ấy bao nhiêu chủng tánh, bao nhiêu căn tánh, bao nhiêu hành tánh, bao nhiêu hiểu biết, có vô lượng thứ sai biệt Như Lai đều biết rõ. Như Lai lại biết những tâm niệm nối tiếp nhau của tất cả chúng sinh ấy, như là những tâm không xen tạp như vậy, những tâm sinh khởi như vậy, Như Lai đều biết rõ. Này Xá-lợi-phất! Hoặc dùng hiện trí, hoặc dùng chủng loại trí, Như Lai chứng biết được tất cả tâm nối tiếp đã quá vãng trong đời quá khứ. Tự mình đã chứng trọn vẹn trí ấy, Như Lai cũng vì chúng sinh mà nói pháp ấy khiến cho họ được chứng nhập trí như vậy. Đây gọi là pháp Phật bất cộng thứ mười sáu của Như Lai: Trí không chướng ngại biết đời quá khứ. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Thế nào là Như Lai đối với đời vị lai dùng trí không chấp trước, không chướng ngại chuyển hành? Vì sao trí ấy gọi là chuyển? Này Xá-lợi-phất! Trong đời vị lai có bao nhiêu vị Phật, hoặc sẽ xuất hiện, hoặc sẽ diệt độ, hoặc lại sẽ có, hoặc lại sẽ không, ở tại đây Như Lai đều biết rõ. Cho đến hỏa kiếp thiêu ở vị lai, thủy kiếp hoại ở vị lai, phong kiếp ở vị lai, cho đến tất cả các cõi Phật sẽ tồn tại lâu hay mau, tất cả những sự khác biệt ấy, ở tại đây Như Lai đều biết rõ. Như thế cho đến, trong đời vị lai, các cõi Phật có bao nhiêu địa giới, có bao nhiêu vi trần, có bao nhiêu cỏ cây, lùm rừng, cây thuốc, cho đến bao nhiêu tinh tú khác biệt, ở tại đây Như Lai đều biết rõ. Như thế cho đến khắp đến trong mỗi mỗi cõi Phật ở vị lai chư Phật, Độc giác, Thanh văn và Bồ-tát xuất hiện ra đời, hoặc uống ăn, hoặc đi đứng, hoặc thở hít, ở tại đây Như Lai đều biết rõ. Cho đến mỗi mỗi vị Phật giáo hóa sai khác, quan sát tánh của hữu tình sẽ chứng giải thoát, hoặc nương Thanh văn thừa, hoặc nương Độc giác thừa, hoặc nương Đại thừa mà chứng giải thoát, ở tại đây Như Lai đều biết rõ. Cùng tận đời vị lai, trong mỗi mỗi cõi Phật có bao nhiêu chúng sinh chỗ sinh ra sai khác, cho đến tâm và tâm sở của chúng hữu tình ấy, ở tại đây Như Lai đều biết rõ. Tự mình đã chứng được trí ấy, Như Lai cũng vì chúng sinh mà tuyên nói pháp ấy khiến họ chứng được trí như vậy. Đây gọi là pháp Phật bất cộng thứ mười bảy của Như Lai: Trí không chướng ngại biết đời vị lai. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Thế nào là Như Lai đối với đời hiện tại dùng trí không chướng ngại, không đắm trước chuyển hành? Vì sao trí ấy gọi là chuyển? Này Xá-lợi-phất! Như Lai đối với trong tất cả cõi Phật hiện tại ở mười phương có ba loại phương tiện đều như thật biết rõ; có bao nhiêu vị Phật, chúng Bồ-tát, chúng Thanh văn, chúng Độc giác, có bao nhiêu sai khác Như Lai đều biết rõ. Như Lai biết rõ những sắc tướng của các tinh tú, cỏ cây, lùm rừng,… trong đời hiện tại; cho đến tất cả địa giới, vi trần trong mười phương ở hiện tại, Như Lai đều biết rõ. Này Xá-lợi-phất! Tất cả thủy giới chẳng thể nghó bàn trong các cõi nước ở mười phương, Như Lai dùng đầu một sợi lông mà chấm từng giọt cho đến hết, số không thể lường như thế đều phương tiện biết rõ. Đối với tất cả hỏa giới bốc cháy khác nhau trong các cõi nước ở mười phương, Như Lai đều phương tiện biết rõ. Đối với tất cả phong giới nương sắc hiện khởi trong các cõi nước ở mười phương, Như Lai đều phương tiện biết rõ. Đối với hư không giới không ngằn mé trong các cõi nước ở mười phương, Như Lai đều phương tiện biết rõ. Này Xá-lợi-phất! Như Lai biết rõ ba loại chúng sinh giới trong hiện tại, cho đến biết rõ hiện tại địa ngục chúng sinh giới, sinh nhân và xuất nhân của họ; biết rõ hiện tại súc sinh giới, sinh nhân và xuất nhân; biết rõ hiện tại ngạ quỷ giới, sinh nhân và xuất nhân; biết rõ hiện tại nhân gian chúng sinh giới, sinh nhân và tử nhân; biết rõ hiện tại thiên thượng chúng sinh giới, sinh nhân và tử nhân; biết rõ hiện tại các tâm, tâm sở nối tiếp của tất cả chúng sinh, có tánh phiền não hoặc rời tánh phiền não; biết rõ hiện tại những chúng sinh được hóa độ có căn tánh sai biệt, hiện tại những chúng sinh chẳng phải được hóa độ có căn tánh sai biệt. Tất cả các căn sai biệt của chúng sinh vô lượng như vậy, Như Lai đều biết rõ thật. Này Xá-lợi-phất! Như Lai biết rõ tất cả các pháp trong hiện tại như thế, chẳng phải trí của Như Lai tùy theo hai thức hành mà vì để chúng sinh ngộ nhập pháp không hai nên nói pháp ấy khiến họ giác ngộ trí như vậy. Đây gọi là pháp Phật bất cộng thứ mười tám của Như Lai: Trí không chướng ngại biết đời hiện tại. Này Xá-lợi-phất! Chư Phật Như Lai thành tựu mười tám pháp Phật bất cộng như vậy viên mãn không thừa, phóng ánh sáng chiếu sáng tất cả đại chúng khắp mười phương. Lại vì ánh sáng hiếm có hy hữu, kỳ đặc tên Xưng công đức pháp ấy, nên che khuất tất cả chúng hội thiên ma. Này Xá-lợi-phất! Pháp Phật bất cộng của Như Lai chẳng thể nghó bàn không ngằn, không mé như hư không. Nếu có người muốn tìm cầu ranh giới của pháp Phật bất cộng ấy thì chẳng khác gì người muốn tìm cầu biên tế của hư không. Các Đại Bồ-tát nghe pháp Phật bất cộng của Như Lai chẳng. thể nghó bàn như hư không rồi liền kính tin không lầm, không nghi càng thêm vui mừng hớn hở phát ý tưởng hy hữu diệu kỳ. Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghóa ấy nên nói kệ rằng: Thân, ngữ, ý nghiệp của Đạo Sư Không có lỗi lầm cũng không động Và dùng pháp ấy độ chúng sinh Đây là pháp Bất cộng của Phật. Tâm Phật chẳng cao cũng chẳng thấp Rốt ráo rời xa sân và ái Luôn luôn không tranh, dứt hẳn tranh Là pháp Bất cộng của Như Lai. Đạo Sư nơi pháp và cùng trí Giải thoát sở hành không vọng niệm Những trí vô ngại cũng không mất Là pháp Bất cộng của Như Lai. Hoặc đứng, hoặc ăn, hoặc kinh hành Hoặc ngồi, hoặc nằm tâm thường định Không loạn cũng không chúng sinh tuởng Là pháp Bất cộng của Như Lai. Đạo Sư nơi cõi nước chư Phật Hữu tình và Phật không dị tưởng Đại trí an trụ tánh bình đẳng Là pháp Bất cộng của Như Lai. Đạo Sư không có xả giản trạch Vì khéo tu đạo thắng quyết định Không có phân biệt, phân biệt khác Là pháp Bất cộng của Như Lai. Thiện dục Đạo Sư không lui giảm Thường chung cùng Từ bi phương tiện Điều phục chúng sinh rộng vô lượng Là pháp Bất cộng của Như Lai. Đạo Sư tinh tấn thường không giảm Hóa độ chúng sinh lượng vô biên Ba nghiệp điều phục các chúng sinh Là pháp Bất cộng của Như Lai. Đạo Sư đại niệm thường không giảm Ngồi tòa Bồ-đề thành Chánh giác Giác ngộ các pháp vô lượng giác Là pháp Bất cộng của Như Lai. Không có phân biệt, phân biệt khác Tự nhiên an trụ định bình đẳng Tónh lự chẳng nương tất cả pháp Là pháp Bất cộng của Như Lai. Trí tuệ của Phật rất kiết tường Liễu đạt tất cả hạnh chúng sinh Diễn nói pháp mầu tùy ý rõ Là pháp Bất cộng của Như Lai. Thanh văn, Độc giác chứng giải thoát Giải thoát của Phật rất thù thắng Vô ngại ly cấu như hư không Đại xả của Phật khó nghó bàn Chư Phật xưa nay không tâm niệm Tự tánh giải thoát tâm tương tục Như pháp giải thoát vì chúng nói Là pháp Bất cộng của Như Lai. Chúng sinh mắt thấy Phật oai nghi Hoặc đứng, hoặc đi vào thành ấp Tướng tốt quang minh hiển hiện ra Họ được điều phục đồng tu thiện Đạo Sư từ oai phóng quang minh Vô lượng chúng sinh thọ an lạc Quang minh chiếu khắp độ chúng sinh Là pháp Bất cộng của Như Lai. Đạo Sư tự nhiên diễn pháp âm Chúng sinh đều nghe tùy ý hiểu Được nghe tiếng pháp như vang ứng Là pháp bất cộng của Như Lai. Đạo Sư vónh viễn không ý nghiệp Những hành nghiệp chuyển đều do trí Trí vào trong tâm của chúng sinh Là pháp Bất cộng của Như Lai. Các Tam-ma-địa và tónh lự Khéo tu thành mãn lìa hý luận Trụ tánh bình đẳng như hư không Là pháp Bất cộng của Như Lai. Nơi tất cả pháp đời quá khứ Bao nhiêu cõi nước bao nhiêu chúng Trí Phật vô ngại đều biết rõ Là pháp Bất cộng của Như Lai. Nơi tất cả pháp đời vị lai Thế giới sẽ có hoặc sẽ không Chúng sinh, quốc độ và chư Thánh Phật đều biết rõ không dư sót Đạo Sư quan sát đời vị lai Tâm tónh không bao giờ tán loạn Chúng sinh và pháp biết như thật Là pháp Bất cộng của Như Lai. Nơi tất cả pháp đời hiện tại Phật trí vô ngại đều biết rõ Cảnh giới của Phật đồng hư không Là pháp Bất cộng của Như Lai. Đã nói pháp Bất cộng của Phật Đủ số mười tám chẳng nghó bàn Chân như thật tánh đồng hư không Các Đại Bồ-tát tin nhận được. Này Xá-lợi-phất! Đây gọi là Như Lai thành tựu mười tám pháp Phật bất cộng. Do thành tựu mười tám pháp ấy nên Như Lai ở giữa đại chúng như sư tử rống tuyên bố rằng: “Ta ở Bậc Thế Tôn hay chuyển pháp luân thanh tịnh mà tất cả thế gian hoặc Người hoặc Trời, Ma vương, Phạm vương, Sa-môn, Bà-la-môn đều chẳng thể chuyển đúng pháp được.” Này Xá-lợi-phất! Các Đại Bồ-tát đã an trụ nơi đức tin thanh tịnh, đối với mười điều chẳng nghó bàn và mười thứ pháp chẳng thể nghó bàn của Như Lai, đều kính tin, tâm chí thanh tịnh, chẳng mê mờ, chẳng nghi ngờ, càng thêm vui mừng hớn hở phát ý tưởng hy hữu diệu kỳ. 