<經 id="n309">Kinh TỐI THẮNG VẤN BỒ-TÁT THẬP TRỤ TRỪ CẤU ĐOẠN KẾT <卷 id="113335677">Quyển 1 Hán dịch: Đời Dao Tần, Sa-môn Trúc Phật Niệm, người Lương châu. <詞 id="113335678">Phẩm 1: Hướng dẫn Nghe như vầy: Một thời, Đức Phật trú tại vườn Nại thị, thuộc thành Tỳ-xá-ly cùng với chúng đại Tỳ-kheo tám vạn bốn ngàn người và mười vạn bốn ngàn Bồ-tát, đều là những bậc Thánh giả thông đạt tất cả, đắc được Tổng trì, Biện tài vô ngại, Tam-muội thường định, trí tuệ tự tại, thông hiểu mười hai duyên khởi, chứng pháp Vô sinh nhẫn sâu xa, đi khắp năm cõi, quán sát dạy bảo, đem trí rộng lớn của Phật che chở chúng sinh, cứu độ tùy theo căn cơ, gìn giữ oai nghi, không mất phẩm chất. Tên của mười vạn bốn ngàn vị Bồ-tát ấy là: Thường Tịnh, Bảo Tích, Bảo Só, Bảo Ấn Thủ, Bảo Tạng, Thủ Ý, Chuyển Pháp Luân, Trừ Ấm Cái, Thí Liên Hoa Hạnh, Sư Tử, Nhật Quang, Kiến Chánh Phản Tà, Bất Trí Viễn, Vô Tổn Chí, Trì Địa, Trì Ma, Tạo Hóa, Thủy Quang, thí Tướng, Ứng Thanh, Kim Anh, Từ Thị, Nhu Thủ… Bấy giờ, các vị Chủ thế gian, Tứ Thiên vương, Thích Đề-hoàn Nhân, chư Thiên Đao-lợi, Diệm-ma, Đâu-suất, Hóa tự tại, Tha hóa tự tại, Phạm thiên vương bậc nhất cùng các chúng Phạm đều đến chỗ Phật. Chư Thiên, rồng, quỷ, thần, Kiền-đạp-hòa, A-tu-luân, Ca-lưu-la, Chân-đà-la, Ma-hưu-lặc, Nhân và Phi nhân cũng đều đến vân tập. Vô số ức ngàn chúng như vậy vây quanh nghe Đức Như Lai nói pháp. Thấy chỗ ở của mình bị rúng động, ma Ba-tuần liền dẫn đồ chúng đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân rồi đứng qua một bên. Trong kiếp Hiền này, các vị Chánh só cũng đều đến vân tập chỗ Phật. Khi ấy, Đức Như Lai dùng ánh sáng của tướng lưỡi chiếu khắp tam thiên đại thiên cõi nước. Thấy ánh sáng ấy, mọi người đều nói với nhau: “Hôm nay tại cõi Nhẫn, Đức Phật Thích-ca Văn phóng ra ánh sáng lớn khắp cả mười phương”. Trong ánh sáng ấy, các bậc Bồ-tát cao hạnh nói như vầy: “Đức Năng Nhân Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác ở thế giới Sa-ha phóng ra ánh sáng vi diệu, diễn nói mười ngàn Tam-muội cho các bậc Đại nhân. Đây chẳng phải là việc làm của hàng Duyên giác, Thanh văn. Chúng ta, mỗi người nên đem vật cúng dường đến cõi Nhẫn ấy để dâng cúng, kính lễ, thân cận Đức Như Lai”. Về phương Đông, cách đây chín vạn hai ngàn cõi, có cõi nước tên là Thịnh diệu, Đức Phật hiệu là Thù Thắng Như Lai. Hầu cận Đức Phật là Bồ-tát Chấp Chí, bậc Đại só thông tuệ, trụ không thoái chuyển. Gặp được ánh sáng ấy, Bồ-tát như được thúc đẩy liền đến chỗ Đức Thắng Diệu Như Lai đảnh lễ, quỳ xuống bạch Phật: –Kính thưa Thánh giả! Con muốn đến cõi Nhẫn để vấn an, hầu thăm Đức Phật Thích-ca Văn và học hỏi những điều chưa được nghe. Phật Thắng Diệu bảo: –Này thiện nam! Nay thật đúng thời, ông nên đi, chớ nghi. Đức Phật lại dặn Bồ-tát Chấp Chí: –Đến cõi Nhẫn, ông nên thực hành năm mươi lăm việc, luôn phải ghi nhớ, chớ để quên mất. Năm mươi lăm việc là: Bình đẳng đối với người bố thí và không bố thí. Bình đẳng đối với người trì giới và phạm giới. Bình đẳng đối với người nhẫn nhục và không nhẫn nhục. Bình đẳng đối với người tinh tấn và không tinh tấn. Bình đẳng đối với người Thiền định và tâm loạn. Bình đẳng đối với người trí sáng và ngu tối. Bình đẳng đối với người thân và kẻ oán. Bị mắng chửi cũng xem như không. Không phân biệt ba thừa. Cũng không có các tưởng phân biệt khác. Không thấy thiện, cũng không thấy ác. Không thấy cõi Phật là tịnh, cũng không thấy cõi Phật là bất tịnh. Nếu thấy chúng sinh đọa vào đường ác thì không kinh sợ. Nên xem các bậc thượng só như Đức Thế Tôn. Tâm thường nhất như, không có hai. Nếu thấy có kẻ giết hại, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói lời thêu dệt, say rượu, mê loạn, ganh ghét, sân hận, ngu si, tranh giành lẫn nhau, tâm tưởng tà kiến, vô thường cho là thường thì đều xem như nhau, tâm không tăng giảm. Chớ thấy mình giữ giới đầy đủ, hưởng phước tốt đẹp. Chớ cho mình bố thí, được phước báo lớn. Cũng chớ cho: Nay tuổi thọ của ta tăng thêm vô lượng. Cũng chớ cho thân tướng của ta là tốt đẹp, nhẹ nhàng, được dạy dỗ đặc biệt, còn bọn phàm phu kia thì thấp kém, nhơ xấu. Trừ bỏ bảy mạn, mười hai vô úy. Đây là năm mươi lăm việc Bồ-tát nên nhớ tu hành. Phật dạy Chấp Chí: –Này Chấp Chí! Thiện nam, thiện nữ nào tâm ý thanh tịnh, trụ hẳn trong định thì có thể đến cõi ấy. Giả sử người giữ gìn phạm hạnh ở cõi Ta đến trăm ngàn kiếp, cũng không bằng giữ tâm bình đẳng trong khoảng khảy móng tay ở thế giới Sa-ha. Việc làm này hơn trước gấp ngàn vạn lần. Khi ấy, năm vạn Bồ-tát đều phát thệ nguyện: “Chúng con đầy đủ tâm ý thanh tịnh, nguyện làm hộ vệ cho Bồ-tát Chấp Chí đến hầu thăm Đức Năng Nhân Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác”. Nhanh như khoảng thời gian lực só co duỗi cánh tay, Bồ-tát Chấp Chí cùng năm vạn Bồ-tát bỗng nhiên ẩn mất ở thế giới mình, xuất hiện ở thế giới Nhẫn, hầu thăm Đức Năng Nhân, cung kính đảnh lễ, lui đứng một bên. Bấy giờ, nhìn thấy chúng hội đã ngồi ổn định, Đức Thế Tôn bảo bốn bộ chúng: –Các ông có thấy Bồ-tát Chấp Chí? Chúng đáp: –Dạ thấy, thưa Thế Tôn. Phật dạy: –Này các Thiện nam! Bậc Đại só này siêu việt ba cõi, hiểu biết sâu xa, biện tài thông đạt, Từ bi vô lượng, thần túc biến hóa, dạy đạo, khuyên người tinh tấn, đi khắp nơi làm nhiều lợi ích. Lúc đó, ở trên tòa, Bồ-tát Tối Thắng nương oai thần của Phật, từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ sát chân rồi thưa: –Bạch Đức Thiện Thệ! Con căn tánh ngu si, có điều muốn hỏi, nếu được Đức Thiện Thệ cho phép, con sẽ trình bày. Phật bảo Tối Thắng: –Ông cứ tự nhiên hỏi, Như Lai sẽ giải thích cho. Được Phật cho phép, Bồ-tát Tối Thắng liền hỏi: –Bạch Thế Tôn! Như Lai Chí Chân nhập Tam-muội gì mà phóng ra ánh sáng hơn cả mặt trời, mặt trăng? Nếu có chúng sinh thấy ánh sáng ấy thì chắc chắn mọi sở nguyện đều sẽ được như ý, không mất thiện căn. Đây là thần thông gì mà biến hóa vi diệu vậy? Phật bảo Tối Thắng: –Điều ông hỏi rất hay, oai lực ánh sáng, lời dạy của Như Lai đã khai hóa, tiếp độ chúng sinh nhiều nơi. Như Lai tùy nghi nhập ức trăm ngàn Tam-muội, đến khắp vô lượng cõi Phật nhiều hơn số cát sông Hằng. Như Lai quán sát, biết rõ đầy đủ vô số triệu triệu căn tánh, tâm hành của chúng sinh như dâm dục, sân hận, ngu si, hung bạo, tự thị, cống cao, phóng dật. Tối Thắng bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Bồ-tát từ lúc mới phát tâm cho đến khi thành Phật, ở Địa thứ nhất, Địa thứ hai, cho đến Địa thứ mười, đoạn diệt bao nhiêu kết sử, tiêu trừ bao nhiêu trần cấu? Bồ-tát hiểu rõ trong và ngoài thân vô sinh như thế nào? Bồ-tát tự xưng là bố thí rộng mà không trừ sự đoạn diệt như thế nào? Bồ-tát thực hành giới đầy đủ, chẳng bao giờ phạm, cũng chẳng hủy phá giới để khỏi thoái chuyển như thế nào? Thế nào là Bồ-tát chỉ nói nhẫn mà không thực hành, nên trở lại làm hạnh phàm phu? Thế nào là Bồ-tát chuyên cần tinh tấn, không biếng nhác mà có nghiệp kiêu mạn, lười biếng tích tập từ xưa? Thế nào là Bồ-tát nhập pháp định ý, cho dù thiên lôi chấn động nhưng tâm cũng không tán loạn? Bồ-tát mới phát tâm tu hành không để gián đoạn như thế nào? Bồ-tát biết sự an ổn không thể bỏ như thế nào? Tâm Bồ-tát độc tôn siêu việt khác chúng như thế nào? Thế nào là chỗ hướng tâm của Bồ-tát không ai có thể biết? Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Tối Thắng: –Hay thay, hay thay! Những điều ông hỏi thật là lợi ích, thật là sâu sắc. Nay Ta sẽ diễn nói nghóa ấy cho ông. Việc làm của Bồ-tát chẳng thể nghó bàn, trí tuệ vô biên không ai có thể bằng, nên mới có thể phát tâm, rống tiếng sư tử ở trước Đức Như Lai. Ông hãy lắng nghe, khéo ghi nhớ kỹ. Tối Thắng liền thưa: –Vâng, con xin ghi nhận. Phật dạy: –Bồ-tát phát tâm cầu đạo Vô thượng, trước phải đoạn trừ tà kiến, thân kiến, giới thủ, có trí hiểu rõ khổ đế, phát khởi chí nguyện, giữ giới đầy đủ, luôn tự quán xét việc làm của mình, nguyện lìa xa việc phàm tục. Vì tánh năm ấm chẳng thể thủ đắc nên đạo cũng chẳng thể thủ đắc. Vậy làm sao ngoại đạo có thể dựa vào sắc, thọ, tưởng, hành, thức mà độ thoát chúng sinh được. Này Tối Thắng! Hạnh quán năm ấm cũng không, hạnh quán chúng sinh cũng không, cũng lại không thấy có người để độ. Giáo pháp ấy không thể nêu bày, chẳng phải hàng La-hán, Bích-chi-phật đạt được. Bồ-tát Tối Thắng bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Chẳng từ hạnh quán năm ấm là không mà được đạo, chẳng từ hạnh quán chúng sinh là không mà được đạo. Vậy có thể từ pháp tứ cấm mà được đạo chăng? Đức Phật dạy: –Chẳng phải vậy. Tối Thắng bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Nếu không từ bốn pháp ấy mà được, thì có thể từ pháp “không” mà được chăng? Đức Phật dạy: –Chẳng phải vậy. Bồ-tát Tối Thắng lại thưa: –Chẳng từ pháp “không”, chẳng từ bốn việc mà được đạo. Vậy hôm nay Như Lai và đại chúng chẳng thành đạo Vô thượng, cũng chẳng được phước báo sao? Phật dạy: –Việc thành đạo Vô thượng chỉ cần không trụ vào tánh có, cũng không trụ vào tánh không, là thành Đẳng chánh giác. Tối Thắng bạch Phật: –Sắc, thọ, tưởng, hành, thức; pháp nội, ngoại; thiện, ác; hữu lậu, vô lậu; hữu vi, vô vi; tên gọi các pháp của Như Lai nói là gì? Làm sao dùng danh tự, tư tưởng đó để dạy bảo cho tất cả chúng sinh? Phật dạy: –Này thiện nam! Hành không có danh, cũng không có tưởng niệm, chẳng thấy hai pháp ra vào, đến đi, lên xuống nên gọi là Nhất thiết trí. Bồ-tát nên dùng mười pháp để biết rõ việc của mười Địa. Mười pháp là Khổ, Tập, Diệt, Đạo đế, Diệt tận vô sinh, tự biết thân mình và người khác, biết sáu phái ngoại đạo và sáu mươi hai tà kiến đều hư rỗng. Khi hành pháp này, Bồ-tát sẽ trừ được hữu tích và vô tích. Trừ hữu tích và vô tích như thế nào? Đạo là tích, phi đạo là vô tích. Đến đi là tích, không đến đi là vô tích. Bồ-tát nên nhớ tu các trụ địa, đoạn trừ hành khổ, lửa dâm dục, độc sân hận, gai ngu si; phát tâm Từ bi khắp cả bốn phương, tuy có tâm thương nhưng ý không có tưởng. Chẳng vì mình mà làm việc bố thí, thí cho tất cả chúng sinh mà không có nuối tiếc. Làm việc bố thí, Bồ-tát không thấy mình cho, cũng không thấy người nhận và tài vật thí. Nhớ giao tiếp với người hiền thiện. Thường khiêm cung, không cống cao. Khi nói pháp, Bồ-tát không thấy có pháp, vượt ra chỗ nói pháp và không có tưởng về pháp. Ngày Bồ-tát xuất gia là cắt đứt ái dục, dùng pháp hoàn toàn không để đoạn trừ sự luyến ái, cầu đạo thành Phật, không lệ thuộc vào tướng đẹp; cũng chớ cho: “Ta được đạo trước, còn người kia thành đạo sau”. Bồ-tát truyền bá giáo pháp, chứ chẳng bao giờ hủy hoại pháp, luôn hướng đến đạo quả, không bị dục trần lôi kéo, thường nhớ nghó diệt trừ tâm cống cao, chẳng cầu phước báo và tài vật quý để tự dùng riêng. Bồ-tát đã ghi nhận lời nói chân thật thì không còn tưởng về ngôn ngữ đó. Xem thân như hư không, nhưng không tưởng chấp không. Đó là Bồ-tát thành tựu tích Địa thứ nhất thanh tịnh bằng khổ trí. Lại nữa, với sự hiểu rõ khổ, tập, Bồ-tát thực hành trăm ngàn thiền định. Nếu muốn được định ý Tam-muội như tâm Phật thì chẳng thể dùng sắc tướng, vẻ đẹp, hành động theo thói quen mà đạt đến trụ thứ nhất. Bồ-tát cũng chẳng nên hy vọng làm thì có kết quả như vậy, không làm thì không có kết quả như vậy. Do thường biết vậy, nên không nhớ quá khứ, chẳng lo nghó vị lai, chẳng nghó hiện tại và cảnh giới tái sinh. Chẳng từ năm ấm, sáu trần, cũng chẳng lìa năm ấm sáu trần mà được pháp này. Nên tư duy chỗ sinh diệt của sáu vô căn bản. Sáu vô căn bản là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Lại nên biết rõ chỗ sinh khởi của sáu trần, quán sát biết rõ sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Cũng lại chẳng bằng sự thấy, nghe, nhớ, biết của tâm, ý, thức mà được trụ Địa thứ nhất thanh tịnh. Chẳng dùng pháp sinh diệt hư vọng, tưởng thường còn mà được Địa thứ nhất thanh tịnh. Chẳng do không chánh, không tà, không tạo tác, ý bình đẳng, dứt sự tìm cầu, chẳng có thị phi mà được trụ địa thanh tịnh. Cũng chẳng từ một, hai, ba, bốn, cho đến trăm ngàn định ý, cũng chẳng lìa trăm ngàn định ý mà được trụ địa thanh tịnh. Chẳng vì tâm ý hiểu rõ trong ngoài các niệm vọng tưởng, việc phải trái, cũng chẳng vì hiểu rõ sắc, thọ, tưởng, hành, thức mà được trụ địa thanh tịnh. Cũng chẳng thể dùng giới văn, định ý, trí tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, mười lực vô biên, bốn vô sở úy, mười tám pháp căn bản quý báu của chư Phật, ý tưởng, tri kiến, ngã tưởng, vô ngã tưởng, chỗ sinh diệt của năm ấm, sáu trần, cũng không có chỗ trụ, cũng không có chỗ không trụ mà được trụ địa thanh tịnh. Đó gọi là trụ địa thanh tịnh thứ nhất của Bồ-tát. Trụ địa này chẳng phải là chỗ trú của sắc, thọ, tưởng, hành, thức; cũng chẳng phải là chỗ ở của mắt và sắc, tai và tiếng, mũi và mùi, lưỡi và vị, thân và xúc. Vì sao? Vì mắt chẳng thể tự thấy được các tướng, hiểu pháp không sinh, không diệt, vô thỉ vô chung. Đây gọi là Bồ-tát được thanh tịnh nơi quả vị ở hàng Sơ địa, thành tựu đầy đủ đạo tuệ, làm đúng những điều Như Lai đã dạy. Khi nhớ nghó những điều ấy, thì liền hiểu ngay, có thể dạy cho người khác đọc tụng và có khả năng thông suốt toàn bộ pháp tạng thâm yếu của chư Phật. Phật bảo Tối Thắng: –Này thiện nam! Bồ-tát nên hành đủ sáu Độ vô cực, xả bỏ thân tướng, không có tham cầu, chẳng sinh ba niệm chấp trước pháp, đây gọi là thí Độ vô cực. Muốn biết sự tận cùng không lệ thuộc vào thân Phật, thì Bồ-tát phải thông đạt pháp không, đây gọi là trì giới Độ vô cực. Chẳng tự cho rằng ta thành tựu ba mươi hai tướng tốt, hiểu rõ các pháp chỉ là giả danh bằng văn tự, tướng mạo, trụ pháp bất sinh, đây gọi là nhẫn Độ vô cực. Quán rõ sự hoạt động của tất cả pháp, cũng không nghe, không thấy, không thực hành theo pháp đạo só; thấy điều thiện chẳng vui, gặp việc ác cũng chẳng buồn, ý vượt qua thân sơ, đây gọi là tấn Độ vô cực. Tâm chẳng khởi niệm làm cho loạn tưởng, tự giữ vắng lặng, ý thức an định, đây gọi là thiền Độ vô cực. Hiểu rõ tướng sắc không, phá bỏ sắc không, cũng chẳng tự cao, chẳng tự đại, thông hiểu tướng các pháp chỉ là một, cũng chẳng phải một, đây gọi là trí Độ vô cực. Bồ-tát dùng phương tiện quyền xảo cứu độ chúng sinh một cách thích hợp, khiến cho không còn sót một ai. Này Tối Thắng! Hàng Bồ-tát phát tâm ở bậc Sơ địa, tu hành bằng pháp trí khổ Thánh đế, nên được đầy đủ các Tam-muội, các đà-lân-ni, trí tuệ tự tại. Lại nữa, Bồ-tát trụ ở cõi Dục được mười ngàn Tam-muội này, nên dùng phước báo của khổ trí, đẳng trí để hiểu rõ mười pháp: tham dục, sân hận, kiêu mạn, ngu si, hoài nghi, thân kiến, tà kiến, nội kiến, giới kiến, đạo kiến. Biết rõ mười pháp như vậy rồi, Bồ-tát nên trừ sạch, chớ để sinh trở lại. Ở cõi Sắc và Vô sắc, Bồ-tát lại dùng khổ trí và đẳng trí để hiểu rõ mười tám kết sử. Tuy hiểu rõ như vậy, nhưng không phá hủy, cũng không làm cho tăng trưởng. Này Tối Thắng! Ông nên biết! Hàng sơ học phát ý trụ ở cõi Dục, Sắc và Vô sắc giới dùng tập nghóa, đẳng nghóa để tư duy, diệt tận mười chín nạn oán đối, tai hoạn tang thương, phiền não kết sử. Ở trong ba cõi, Bồ-tát quán sát mười chín pháp mê muội, hai mươi hai đạo trong ba cõi, cũng nên tư duy trọn vẹn về ba mươi bốn Thánh ý vô lậu, đủ các công đức, quán vô thường, khổ, không, vô ngã, hiểu pháp không hai. Bồ-tát tu như thế thì được hạnh thanh tịnh ở Địa thứ hai.  <詞 id="113335679">Phẩm 2: Ở lại để hóa độ Bấy giờ, Bồ-tát Tối Thắng bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Bồ-tát ở Địa thứ hai làm thế nào để được đầy đủ các hạnh, kết quả không trái với ý nguyện? Phật bảo Tối Thắng: –Bồ-tát ở Địa thứ hai thường phải tư duy về giới của mình thanh tịnh, biết ân nặng, siêng tu nhẫn nhục, cung kính, nhún nhường, tâm thường vui vẻ, tươi cười giảng nói, hành Từ bi lớn, hiếu thuận Sư trưởng, chánh tín Tam bảo, học tuệ nhiệm mầu, không sinh tham nhiễm, chấp có thường còn. Người chấp thường thì cho: Trong vòng luân hồi có đạo thường. Đạo thường thì không đúng, mà đúng thì không phải thường. Đó mới gọi là đúng. Đúng tức là không đúng, có gì gọi là đúng? Cho nên, này Tối Thắng! Bồ-tát biết đạo không có cao thấp, cũng không có hình tướng; dù hư không có thường, lời nói có hình tướng thì chân đạo cũng không thể thấy được. Tâm vị ấy như nhiên, không bị ràng buộc, tu tập công đức, không lìa chư Phật, không bị gián đoạn nửa chừng, diệt tận tất cả điều ác, tâm được an định, không bị giao động, chí như kim cang, không lệ thuộc người khác, biết được gốc của các pháp dứt trừ các cấu bẩn, tiêu diệt tối tăm. Pháp của vị ấy chiếu sáng rực rỡ khắp nơi, làm cho tâm ý ngay thẳng, không có dối trá, tâm hành bình đẳng, không có phân biệt. Từ khi phát tâm cho đến nay, Bồ-tát luôn giữ tâm thanh tịnh. Nhờ gốc thanh tịnh nên các cấu bẩn bị loại trừ, tắm trong dòng nước mát, rửa sạch các phiền não. Tâm tin của Bồ-tát vững chắc, không bị lay động, ý bố thí rộng lớn không có bến bờ, tâm như hư không, không có cùng tận, dung nạp nuôi dưỡng tất cả chúng sinh thấp hèn, làm cho họ được độ thoát. Vì sao? Vì trí tuệ của Bồ-tát đã thuần thục, không điều gì là không biết, tâm trùm khắp mọi nơi, không có ngằn mé, Từ bi rộng lớn, chứa hết tất cả, biện tài thông suốt, thường luôn hổ thẹn, hạnh nguyện kiên cố không bị trở ngại. Năng lực hiểu đạo của vị ấy thấu triệt tất cả, biện tài hơn người, ai cũng kính mến. Bồ-tát không quên các Tổng trì đã được, không bao giờ giảng nói điều không cần thiết, không còn hoài nghi về trăm ngàn thiền định. Nghe pháp thiện ác, Bồ-tát không có vui buồn, không tự cao, cũng không tự ti, đi đứng khoan thai, không mất oai nghi. Bồ-tát hiểu rõ mười hai xứ, biết năm ấm và chỗ sinh khởi của sáu trần. Lại dùng khổ, tập, tận, đạo hiểu rõ mười hai duyên khởi, thông suốt trọn vẹn từ vô minh, hành cho đến sinh tử, quán sát năm căn, tư duy đầy đủ, không còn chìm đắm trong luân hồi sinh tử, tiêu diệt các lậu bằng tám mươi bốn trí. Bồ-tát nguyện lưu lại hóa thân để giáo hóa trong một kiếp. Cũng như thân ta đây, tất sẽ vào Vô-dư Niết-bàn, nhưng không diệt độ hẳn, vẫn ở lại để hóa độ, nói pháp vi diệu cho vô số chúng vây quanh trước sau, tại cõi Hiền minh. Tối Thắng nên biết! Về phương Bắc, cách cõi Hiền minh này mười ba ức hằng hà sa cõi Phật, có thế giới tên là Bất động chuyển, Phật hiệu là Chiếu Ý Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác hiện đang thuyết pháp. Ở thế giới này không có tên của Thanh văn, Duyên giác, chỉ thuần những bậc tu theo hạnh Đại thừa, lấy Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ, Thần thông để làm niềm vui; dùng trí vô cực bao phủ toàn thân, tùy thời phân biệt ý nghóa sâu xa của từng câu, từng đoạn. Tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả của những vị ấy rộng như hư không, xem chúng sinh thì biết rõ tâm tánh, rưới mưa pháp vị cam lồ vô cực, làm cho người hưởng được không còn kết sử nóng giận. Những vị ấy tu hành ba Tam-muội: Không, Vô tướng, Vô nguyện; vượt qua sinh tử, đứng bờ vô vi, thâu phục ma trần lao và tâm độc hại. Thần túc của Đức Phật ấy biến hóa vô cùng, đến khắp vô lượng cõi Phật. Người được vị ấy giáo huấn không biết đây là hóa thân, nên cho là Phật thật. Trong quá khứ, hằng hà sa chư Phật đều để lại hóa thân Phật, tiếp độ chúng sinh, làm cho đạt được vô vi, cho nên sự ẩn mình tùy duyên hóa độ của Như Lai là không thể nghó bàn. Các Đức Phật trong vị lai như Đức Từ Thị cũng đều lưu lại hóa thân Phật để dắt dẫn chúng sinh. Ta tuy diệt độ nhưng hóa thân Phật thì không diệt độ. Vì vậy, này Tối Thắng! Hóa cũng không hóa, Phật cũng không Phật, hiểu rõ không tịch, không có hai, ba tướng. Bồ-tát ở Địa thứ hai thường nên tu tập các pháp huyễn hóa, quán sát địa trí tuệ, địa thành tín, địa kiến, địa bạt, địa cuối cùng, địa của bậc Thanh văn, Duyên giác đạt đến. Bồ-tát tuy chữa lành bệnh, nhưng không thủ chứng. Này Tối Thắng! Giả sử Bồ-tát ở Địa thứ hai muốn chứng đắc quả vị Thanh văn hay Duyên giác thì chẳng có gì là khó. Ví như có người tay cầm vòng hoa hay ngọc châu minh nguyệt ném lên hư không, trong thời gian nó chưa rơi xuống đất, Bồ-tát đã đoạn trừ sạch các phiền não, kết sử, lậu hoặc; không còn khổ sinh, già, bệnh, chết, ưu sầu, bi não. Tuy biết đã đoạn trừ hết các phiền não, nhưng Bồ-tát không giữ sự chứng đắc. Vì sao? Vì chưa quán sát căn cơ thượng trung hạ của chúng sinh. Tâm Bồ-tát kiên cố hướng đến chỗ cứu cánh, nổi lên đám mây không triền cái, phát ra tiếng sấm trí tuệ, làm mưa thuốc cam lồ, đem cho vật quý chân đế, không đoạn trừ ba nghiệp, ý niệm trong sáng như nước tinh khiết, tự trang nghiêm thân bằng cấm giới, tô điểm thân thể bằng các phước đức, cung phụng các bậc Hiền thánh giác ngộ tôn quý, cho đến khi trụ Nhất sinh bổ xứ. Ở ngôi vị này, Bồ-tát học các bản nghiệp của chư Phật trong hiện tại đã làm, học các Tổng trì không có chỗ trụ, luôn phát khởi ý tưởng làm trang nghiêm đạo tràng. Trong lúc đi đứng, Bồ-tát luôn thực hành pháp quán niệm hơi thở. Tâm vững chãi tự tại, ý chí kiên cường, không sợ hãi nơi chốn đông người. Tâm phát nguyện viên thành, đáng được ái kính. Bồ-tát nói pháp lợi ích an vui cho các chúng sinh. Tâm ấy đặc biệt siêu việt khác chúng. Này Tối Thắng! Nếu tướng “không không” mà có thể nắm giữ được thì thủ thuật lạ của ngoại đạo cũng chẳng làm gì được. Do vậy, hàng Thanh văn, Duyên giác thường được tôn kính. Khi ấy, Đức Thế Tôn lại bảo Bồ-tát Tối Thắng: –Này Tối Thắng! Bồ-tát ở Địa thứ hai thông đạt pháp không, lìa xa các nghiệp của thân, bỏ những lời nói gây họa của miệng, trừ các loạn niệm của ý, tiêu diệt ba uế, chế phục ba nạn, trừ năm sự che lấp, truy tìm mười hai duyên khởi mà nguồn gốc là vô minh và hành; trừ bỏ dần, không để năm thượng phần, hạ phần kết sử ở khắp tam giới tăng trưởng; tư duy mười một bệnh khổ não, bỏ các bệnh tham đắm bốn đại, hiểu rõ các pháp ác, tránh việc thế tục, trừ các tập tục, đoạn trừ ái dục, nóng giận, tham nhiễm, nhổ sạch gốc rễ không để cho phát triển. Bồ-tát thường nhớ tư duy về vô ngã, đứng vững nơi bốn niềm tin, trụ bốn Ý chỉ, thành tựu bốn Ý đoạn, ý chí kiên cường, thông hiểu tạng pháp bảo Thất giác chi, hành trì tám Thánh đạo, luôn nhớ tám điều giác ngộ của bậc Đại nhân. Này Tối Thắng! Bồ-tát ở hàng nhị địa giữ tâm điều ý, biết rõ các niệm đều không, không thật có, nên được thọ ký ở ngôi Bồ-tát thượng vị. Bồ-tát chẳng làm các việc, cũng chẳng bỏ các việc, học trí bậc thượng tuy có tôn quý nhưng không tự cao, quán biết các pháp chỉ là một pháp, không tưởng chấp hai, ba, không khởi tưởng chẳng có lợi ích, không bị giới hạn nơi tưởng có không, biết rõ tưởng không có xứ sở, nhưng không trụ nơi đó. Bồ-tát chỉ cần thanh tịnh chánh giác như sự thanh tịnh của chư Phật, khéo điều phục tâm, trụ chánh không tà, quán biết tất cả thiện ác đều là không, không có điều gì là không thông hiểu. Bồ-tát cũng không thấy có tịnh, không tịnh, có quán, không quán, chân không là một, cũng không thấy một, biết một bỏ một, không trụ nơi một, cũng không từ một mà sinh các tưởng. Bồ-tát học tập ý thù thắng, không học hữu hạn, không thấy có hữu hạn, có thắng, có thua, không để tâm tán loạn chạy theo pháp trong ngoài, khéo phòng ngừa thức, định không thoái chuyển. Bồ-tát tuy ở trong ba cõi mà không đắm nhiễm nơi ba cõi, quán sát các tánh biết rõ không có gốc rễ. Người biết không có gốc rễ, được gọi là Bồ-tát trụ Địa thứ hai thanh tịnh. Bồ-tát tự điều phục tâm mình, quán gốc các pháp biết tất cả đều là vô thường, không có chỗ vào, cũng không có chốn ra, không có thiện, bất thiện, danh dự tốt-xấu, được-mất, chê-khen, tán dương phỉ báng, khổ-vui. Bồ-tát điều hòa tâm ý, không có âu lo. Ở bất cứ nơi nào Bồ-tát cũng mở bày kho tàng pháp lớn, vào biển pháp lớn, tìm cầu bảy tuệ, làm khô ba ái, ngăn chặn bốn dòng, tu sáu pháp trọng yếu, thành tựu hạnh viên mãn. Này Tối Thắng! Hàng Bồ-tát Đại só đầy đủ các pháp rồi, biết pháp không có hình tướng, không thể thấy được. Đó gọi là Bồ-tát ở Địa thứ hai tu tập được hạnh thanh tịnh.  <詞 id="113335680">Phẩm 3: Quán KHÔNG Bấy giờ, Bồ-tát Tối Thắng bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Bồ-tát ở Địa thứ ba làm thế nào để hạnh của mình được thanh tịnh? Đức Thế Tôn dạy: –Này Tối Thắng! Bồ-tát Tấn học không nên nhớ nghó tạp loạn, học rộng hiểu nhiều nhưng không cho là đủ, không đi sâu vào nguồn gốc chữ nghóa, văn tự khi nói pháp; khiêm tốn đối với mọi người; làm trang nghiêm cõi nước, nhưng không chấp cõi nước, làm các việc lành, không có cống cao. Bồ-tát mới phát tâm tu hành, chớ để cho gián đoạn, nguyện thành tựu công đức, ý chí vững sáng, quán các chúng sinh, nói pháp hỷ lạc. Bồ-tát mới phát tâm nên lấy đạo làm gốc, nhờ vậy mà đạt được đạo quả tónh lặng. Bồ-tát nhớ nghó bố thí rộng khắp tất cả, kiến lập chí nguyện trì giới đầy đủ, chuyên tâm tinh tấn, tu hành không biếng nhác, thường luôn an vui, lấy đạo làm sự nghiệp, làm người dẫn đường cho kẻ lạc lối. Nhờ hiểu pháp của bậc đại trí nên từ khi mới phát tâm, Bồ-tát không trụ vào nơi nào, dùng Từ bi rộng lớn không ai có thể biết được, nhổ gốc tham dục, lập hạnh Đại thừa, hành pháp Từ bi, thương người chưa được cứu độ, vui mừng thấy người được độ, bình đẳng đối với tất cả chúng sinh, không giao động trước cảnh khổ vui, giúp đỡ tất cả chúng sinh đi vào cửa đạo, được các Đức Như Lai hộ trì, ghi nhớ thuận theo lời dạy của mười phương chư Phật, cứu độ tất cả chúng sinh khổ nạn ở trong năm đường, phát triển đạo pháp, làm cho Tam bảo trường tồn, không còn sai lầm, liền thành đạo quả, thuận theo giới luật, làm khuôn mẫu cho đời, giảng dạy sự quý báu không cùng tận của trí tuệ. Giống như hư không không có cùng tận, Nhất thiết trí của Bồ-tát cũng không có cùng tận, tâm thức Như Lai cũng như vậy; không có hai: Sinh diệt, thường đoạn Tam-muội định ý, trí tuệ giải thoát ấy vượt qua cái biết của thân kiến, có không, gần xa, cũng không thể thấy được. Tối Thắng nên biết! Pháp chính yếu sâu xa của tất cả chư Phật không có cùng tận, cũng không có đầu mối. Cả ba đời: Quá khứ, vị lai, hiện tại có hợp ắt có tan, không thấy có một cái gì có tập họp, có thành tựu mà không tan rã. Sự thay đổi đó chẳng phải một, do bốn đại tạo thành. Đất, nước, gió, lửa chúng ta không thể xúc chạm, không thể thấy được. Bồ-tát dùng trí tuệ để hiểu biết tâm hành của chúng sinh, giữ vững bản nguyện không thể nghó bàn. Tất cả các pháp không từ đâu sinh, cũng không đi về đâu, tìm không thể biết được. Do pháp không có chỗ sinh, cũng không có sinh; sinh đã không sinh thì cái gì gọi là sinh? Do vậy, này Tối Thắng! Bồ-tát phát tâm không có cùng tận, chẳng thể thiết lập tâm ý, hình tướng nơi các pháp, cũng không dua nịnh mong cầu các pháp. Tâm ấy ngay thẳng, vượt hơn mọi người. Bồ-tát tu pháp an tâm, pháp tự quán thân mình và người đều rỗng không, không sinh tưởng khác; quán thân không ô nhiễm nhưng không thể thủ đắc, cũng không có người chứng đắc, hiểu rõ tất cả chỉ là một. Đi, đứng, tới, lui, Bồ-tát quán sát các loại thân của chúng sinh trong tam giới đều do vô minh, ái dục mà bị khổ não, hiểu rõ pháp không hai, không thể thấy; biết thọ, tưởng, hành trong và ngoài đều như hư không, không có sinh diệt. Lại nữa, Tối Thắng! Bồ-tát Tấn học quán hơi thở ra vào dài ngắn, nhanh chậm, biết rõ hơi thở đi qua mỗi lỗ chân lông trên thân; hơi thở ra là ấm, hơi thở vào là mát, thấu rõ sự vận hành lặng lẽ của hơi thở không có hình tướng. Bồ-tát quán thân, biết rõ thức cũng không có xứ sở, tâm ấy thanh tịnh, bình đẳng, ngay thẳng, nhu hòa, không có thô loạn. Bồ-tát tin tâm ấy một cách chân chánh, chưa từng thay đổi, ý chí kiên cường không yếu đuối, không ai có thể oán ghét làm hại. Vì sao? Vì phạm hạnh đã viên mãn, không ai có thể bì kịp, không ai có thể hủy báng. Một người vô tội, tâm cấu đã tiêu trừ thì dựa vào đâu mà vu khống họ? Bồ-tát nguyện làm cho bánh xe chánh pháp thường luân chuyển ở đời để mọi người sớm được trí tuệ vi diệu, làm ánh sáng chiếu khắp những nơi tối tăm, như mặt trời không bị mây che, trồng gốc thiện đạo, tự quán vô ngã không có chỗ sinh, quán pháp trong ngoài cũng đều như vậy; cũng lại không thấy có chỗ sống chết, chỗ sinh diệt, cho đến không nghe thấy La-hán, Duyên giác và Phật. Nếu tưởng có thấy thì chẳng phải là thấy, không có tưởng về thấy, cũng không dừng ở tưởng thanh tịnh đó, vì tưởng đó chưa rốt ráo. Đó là thấy “không”, không có cái để thấy. Lại nữa Tối Thắng! Tâm không ở trong, cũng không ở ngoài, không trụ nơi đạo, cũng không trụ nơi thế tục, không trụ có, cũng không trụ không, không bị sinh diệt, cũng không dao động, không ngằn mé, rộng sâu không đáy, cũng không có âm vang, gốc ngọn đều chấm dứt. Do vậy Tối Thắng! Bồ-tát nên quán thế này: Quán sự không quán, thấy cái không thấy. Bồ-tát tu hành là không, là diệt, là không có sở hữu. Bồ-tát trụ Địa thứ ba nên dùng các pháp định khiến ý chuyên nhất, thanh tịnh, vắng lặng. Người tu như vậy là ứng hợp với Niết-bàn, ứng hợp với vô sinh. Pháp này là pháp không, không cũng không có, tạm dùng văn tự gọi là pháp tánh. Bồ-tát hiểu rõ pháp tánh không duyên với đến đi, tu pháp ý đoạn nhưng vì thương thế gian mà thị hiện có tên gọi. Pháp ác chưa sinh, Bồ-tát nên tinh tấn chế ngự, chớ để sinh khởi. Pháp ác đã sinh thì nên chế ngự ý, khiến cho đoạn diệt. Pháp thiện chưa sinh, Bồ-tát nên tinh tấn làm cho sinh. Pháp thiện đã sinh thì nên làm cho tăng trưởng, chớ để giảm mất. Bồ-tát trụ Địa thứ ba thực hành định thần túc, đắc định hỷ lạc, dứt các tâm hành, thâu thần túc lại để giữ thân tâm. Nhờ định tinh cần nên trừ được các điều ác, lại thâu thần túc để giữ thân tâm, dùng định của ý trừ các tâm hành, thâu thần túc để giữ thân tâm, dùng định của trí tuệ trừ các tâm hành. Bồ-tát thâu thần túc, gom giữ thân tâm khiến được nhập vào các căn: Tín, tấn, niệm, định, tuệ; đi vào giải thoát. Pháp Phật không có cùng tận, không ta, không người, cũng không nhân duyên, không có trói buộc; người tham thì chấp thường, kẻ sinh tử khổ thì chấp đoạn. Tất cả đều hư rỗng, vậy mà chúng sinh lại mến chuộng thân tướng, chấp vào họ tên, tạo tác trong nhiều đời, đau khổ theo sau như bóng theo hình không rời nửa bước, như xe quen đi theo lối cũ, không biết manh mối đầu đuôi. Bồ-tát thực hành Thiền định nhưng không lệ thuộc vào định, chánh quán không chấp trước, diệt tận tưởng tham nên được thanh tịnh giải thoát; hiểu rõ các hành nên ý không còn phiền não, không còn luân hồi sinh, già, bệnh, chết; tuệ nhãn rực sáng chiếu khắp thế gian, nhổ sạch mười hai nhân duyên, đầy đủ trí tuệ. Lại nữa, Tối Thắng! Bồ-tát Đại só nên tu hành năng lực thần đức. Vì thần lực này, uy lực của ngoại đạo, Thiên ma không thể hủy hoại, không ai có thể ngăn cản. Lực tín, tấn, niệm, định, tuệ ấy là pháp mà Bồ-tát thường phải tu tập. Thứ đến, Bồ-tát tiến dần theo pháp Hoa thất giác ý, thực hành mười lăm tâm bằng pháp này, đoạn tâm keo kiệt, hành Bồ-tát đạo, thành tựu trí tuệ vi diệu sâu xa không thoái chuyển. Pháp Hoa giác ý này là vô vi, không tạo tác, trừ bỏ xấu ác, hạnh bất thiện. Tinh tấn giác hoa hợp với người biếng nhác, nếu người phóng dật thì dùng pháp này chế ngự, chớ để buông lung. Hoan hỷ giác hoa là pháp ứng hợp với chi thiền thứ ba, thâu nhiếp các loạn tưởng, được vắng lặng vô vi. Ỷ giác ý hoa làm cho không còn tham nhiễm, thấy rõ các pháp, không còn bị lệ thuộc. Tín giác hoa làm cho ý chí thêm kiên cố, diễn nói pháp vi diệu không còn hoài nghi. Bồ-tát cũng nên tư duy về vô trước giác hoa, đoạn trừ một trăm lẻ tám tâm tham nhiễm. Bồ-tát lại phải tu tập tám đạo của Hiền thánh: Đẳng niệm (chánh kiến), đẳng định (chánh tư duy), đẳng ngữ (chánh ngữ), đẳng hành (chánh nghiệp), đẳng nghiệp (chánh mạng), đẳng tập (chánh tinh tấn), đẳng ý (chánh niệm), đẳng định (chánh định) thì vượt qua được tám nạn, thoát khỏi sáu trần, biết rõ ba pháp Tam-muội. Người đầy đủ các hạnh này được gọi là Bồ-tát trụ Địa thứ ba thanh tịnh. Này Tối Thắng! Bồ-tát Đại só tu tập tuệ môn, biết rõ pháp “không không”, không có hình tướng, không thể thấy được. Nói pháp cho người, Bồ-tát hết tâm giảng dạy đúng với chánh pháp, không nói sai khác. Nếu có giúp đỡ cho người thì không được mong đền đáp, cũng không cầu tiếng khen của người. Từ việc bố thì cho đến việc cúng dường, làm bất cứ việc gì, Bồ-tát cũng không vì mình mà làm, nên trước cầu cho chúng sinh an ổn, sau đó mới lo cho mình. Sở dó Bồ-tát đạt được sự an ổn là nhờ công đức bố thí. Bố thí dù có khổ nhọc cũng không thấy mệt mỏi, chán đủ; thương xót tất cả chúng sinh. Với tâm Từ lớn, Bồ-tát nhổ sạch sự già, chết; dạy pháp tinh tấn cho người biếng nhác. Sở dó người dũng mãnh là nhờ tinh tấn. Vì muốn độ thoát các loài chúng sinh, Bồ-tát thường nên tự nghó: “Nhờ chúng sinh mà ta đạt được đạo quả, đầy đủ các nghiệp công đức”. Bồ-tát làm hết khả năng nhưng không mong cầu phước báo. Vì sao? Vì nhờ tâm thanh tịnh và thấm nhuần giáo pháp cho nên không mong cầu. Còn người thế gian do mong cầu mà mất đi sự lợi ích. Bồ-tát dùng lực trí tuệ này để giữ gìn tất cả pháp, làm cho tất cả chúng sinh ở chỗ mình đều được an ổn, không còn oán hận. Bồ-tát tạo dựng sự nghiệp được an lạc, vững chắc nên thâu phục được tất cả mọi người mà không ai có thể chống đối. Này Tối Thắng! Bồ-tát phát thệ nguyện rộng khắp khó lường, trí tuệ vô biên không có cùng tận, giống như vàng của trời không còn cấu bẩn. Vì sao? Vì không còn nhiễm ô, trần cái tiêu trừ, tham dục dứt hẳn, các tâm xấu ác không thể khuấy động, ý chí kiên cường, không thua điều ác, chế ngự niệm tà, không để nóng giận, ngu si, tham đắm sinh khởi, trừ sạch năm dục, cống cao tự đại và không làm những pháp bất thiện khác. Bồ-tát trụ Địa thứ ba thường phải giữ gìn tâm này, hiểu rõ pháp bên trong không có hình tướng, không thể thấy được, giả sử tâm ấy có tướng thì pháp tánh bị hủy mất, vứt bỏ gánh nặng và các cấu uế. Cho nên Bồ-tát gìn giữ tâm này, chớ có biếng nhác, xét tìm tâm thức không có xứ sở, không thể thấy được, không có tưởng. Người tâm tán loạn nên thâu nhiếp ý, khiến cho được định. Người không có trí tuệ thì nên tu dưỡng cho đến khi thành tựu. Đối với tất cả chúng sinh thọ thân hình có công đức, hoặc không có công đức, Bồ-tát đều phải độ thoát, khiến cho họ đạt đến Đại thừa, suy nghó về Đại thừa cũng không có dấu vết. Bồ-tát dạy cho tất cả chúng sinh đi vào pháp hành, ý chí kiên cường sẽ thành tựu đạo quả ở Địa thứ thứ ba thanh tịnh. Tại những nơi hiểm nạn, Bồ-tát đều tạo lập công đức vó đại, tuy được phước báo nhưng không thể nắm bắt. Tâm cũng như vậy, Bồ-tát không thể thấy được. Vì sao? Vì bằng trí tuệ, Bồ-tát quán biết không có quá khứ, vị lai, hiện tại. Này Tối Thắng! Bồ-tát nên tu học tâm đại Từ. Nếu có chúng sinh khổ nạn, hết tâm cầu xin cứu giúp để bảo toàn thân mạng thì Bồ-tát thà mất mạng, chịu nhiều khổ não mà cứu thoát họ, chứ không làm trái với thệ nguyện. Người hành từ ấy phải bình đẳng như cái cân, nếu được lợi ích cũng không lấy đó làm vui, bị hủy báng cũng không ưu buồn. Đó là Bồ-tát tùy thời hành từ. Hành từ ấy là dùng ba nghiệp thân, miệng, ý thanh tịnh, không làm việc ác, không nghó điều tà. Tuy một mình giữa chốn trần lao ngu si, Bồ-tát không sợ, cũng không tự đại, nhớ pháp đã học, không bỏ trí lớn và các tuệ thần thông, thông suốt pháp chư Phật. Tùy chỗ mong cầu của người mà Bồ-tát đáp ứng, không làm trái nghịch tâm họ. Đức Thế Tôn lại bảo Tối Thắng: –Này Tối Thắng! Thuở xa xưa, ở Địa thứ ba thanh tịnh, ta tu học công đức cùng vô số bè bạn không thể tính đếm. Trong số đó, nhiều người đã thoái chuyển, không thể nói hết. Từ Địa thứ nhất đến Địa thứ ba, ta phát nguyện rộng lớn không thoái chuyển. Trong thời gian ấy, ta tạo công đức cũng không thể tính lường, lại còn bố thí các vật trân bảo quý báu hiếm có: Đất nước, vợ con, tài sản… không thể kể hết. Ta chỉ nhớ nghó, nguyện bố thí cho những ai đến xin. Ta đã bố thí chín ngàn chín trăm chín mươi chín cái đầu. Sau cùng, ta gặp hổ đói suy nhược gần chết, không đủ sức để vồ lấy con mồi, nên muốn ăn con mình để bảo tồn mạng sống. Nó duỗi thân, giơ móng vuốt đến trước muốn vồ lấy con. Khi đó, ta nói với hai người bạn là Từ Thị và Nhu Thuận: “Nay đúng là lúc, ai có thể lập tâm dũng mãnh siêu việt, đem thân thí cho thú đói kia?”. Hai vị ấy nhìn nhau, miệng tuy không nói nhưng ta biết tâm họ muốn thoái chuyển, có ý muốn rút lui. Nên từ trên đỉnh núi, ta liền nhảy xuống hang sâu. Lúc đó, trời Thủ Đà Hội liền hạ xuống đỡ ta, hóa ra cam lồ giống như thân ta, cho con hổ đói ấy được ăn no đủ. Mẹ con hổ đều được cứu sống, mà ta không bị tổn hại. Nếu tính thêm thân đó thì ta thí đủ cả vạn cái đầu. Cho nên, này Tối Thắng! Bồ-tát Tấn học ở Địa thứ ba tu tập cũng có vị thoái lui, tâm không kiên cố. Giả sử thân ta có vào miệng hổ, hổ cũng không thể ăn, cũng không dám đến gần. Vì sao? Vì công đức của Ta đã tạo có thần lực nên được tự tại đối với tất cả pháp. Ta tu tập sám hối, chưa từng che dấu tội lỗi, dùng vô lượng sự bố thí để trợ giúp công đức. Bồ-tát tu học, giải bày nghóa đạo, chuyên cần thực tập pháp của bậc Đại só, ý chí kiên cố, không bỏ thệ nguyện, dùng giáp vô cực bao phủ thân mình. Phật bảo Tối Thắng: –Này Tối Thắng! Hàng Bồ-tát Tấn học trụ ở Địa thứ ba thường phải chuyên tâm không cho thay đổi, không để trần cảnh làm dao động tâm, thường lìa xa các trần lao phiền não, tự thân biết đủ, không có mong cầu, tâm không dong ruổi vướng mắc vào tưởng, không cầu địa vị cao sang quyền quý, làm cho tất cả chúng sinh tu tập như pháp, giảng giải trí bậc thượng khiến cho người đồng được như mình. Ta và người là một, không có sai khác. Tùy theo nhân duyên mà Bồ-tát thị hiện độ họ. Bồ-tát không nên dùng sinh, chẳng phải không có sinh, vô sinh, bất sinh để làm địa của mình thanh tịnh. Bồ-tát lấy sự không mê hoặc, không bao giờ dùng pháp mê hoặc, không biết pháp vượt khỏi trần lao gọi là mê hoặc. Người mê hoặc nên không thấy mình mê hoặc. Bồ-tát không mê, không hoặc, hiểu biết sâu xa về huyễn hoặc, thích ứng với chân không. Này Tối Thắng! Bồ-tát hiểu rõ các hành là “không”, không thật có nên được vào pháp. Ở nơi thống khổ, Bồ-tát làm cho tất cả chúng sinh đều được an lạc, đầy đủ. Này Tối Thắng! Đó gọi là Bồ-tát Tấn học ở Địa thứ ba được hạnh thanh tịnh.  <詞 id="113335681">Phẩm 4: Sắc nhập Bấy giờ, Bồ-tát Tối Thắng bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Bồ-tát Sinh quý ở Địa thứ tư làm thế nào để hạnh của mình được thanh tịnh? Phật bảo Tối Thắng: –Này Tối Thắng! Bồ-tát Sinh quý ở Địa thứ tư thường phải phụng hành pháp của bậc chân nhân; nhớ thường hay tọa thiền tại nơi thanh vắng, không tham nhiễm tâm dục, sân hận, ngu si, ý luôn hướng đến sự ít muốn, biết đủ, không bỏ mười hai hạnh Đầu-đà, gìn giữ cấm giới như đề phòng rắn độc; thấy dục nhơ bẩn như bị lửa đốt, trừ ý ái dục không để phát sinh; khởi ý nhìn chúng sinh như tưởng Niết-bàn; bố thí tất cả, không tiếc thân mạng, không kiêu mạn cống cao đối với mọi người, không luyến tiếc của cải, cũng không thấy mình cho, có người nhận và vật thí; tu pháp tâm thức của Bồ-tát, ban bố giáo pháp cho đại chúng, dạy cho chúng sinh về những điều họ đã phát nguyện để đạt được kết quả; tích tụ công đức vì đạo Vô thượng; tu tập một mình ở nơi núi rừng thanh vắng; dầu được nhiều hay ít đồ vật cũng phải biết đủ; tạo lập các nghiệp công đức cho được viên mãn; tìm hiểu, học hỏi cùng khắp để được trí tuệ biện tài, nhưng không lấy làm mệt mỏi, cực nhọc; quán sát thân thể từ đầu đến chân; dùng trí tuệ biết rõ chỗ niệm khởi một cách trọn vẹn; lìa bỏ các việc ác, tu hành môn giải thoát, sự giải thoát ấy là pháp của Bồ-tát; tư duy cho thấu đạt nguồn gốc các pháp; thường biết rõ tướng thành hoại của năm ấm; quán biết bốn đại: Đất, nước, gió, lửa; thấy biết chỗ sinh khởi căn bản của sáu trần và mười hai nhân duyên sâu xa không có ngằn mé, sinh tử biến đổi không có cùng tận; nhớ giữ không quên lời dạy bảo chân thật, không chấp ngã nhân, tuổi thọ dài ngắn, đạt được sự vắng lặng vô vi; hiểu biết tất cả hành nghiệp vô thường là hư rỗng, không thật. Lại nữa, Tối Thắng! Bồ-tát trụ Địa thứ tư thường phải hộ trì cõi Phật; trí tuệ vô biên hiểu rõ đạo và đời. Hạnh và trí của Bồ-tát không có cùng tận, thành tựu tất cả công đức, trang nghiêm cõi nước, thành tựu xứ sở tùy theo thứ lớp công đức mình tạo; biển tuệ vô biên, dung nạp tất cả không có chán đủ; cứu độ cho tất cả chúng sinh ở khắp nơi. Bồ-tát lấy việc tu hành này làm đầu, là tối tôn, tối thượng, không ai bì kịp. Bồ-tát ghi nhận điều đã học, nhớ mãi không quên, được gốc thiện rồi không để giảm mất. Vì sao? Vì dùng pháp tôn quý nên lìa xa duyên trói buộc. Nhờ vậy mà được thọ ký nhập vào nhà chánh só, nhờ chuyên cần nên ý không thoái chuyển, tự đạt được đầy đủ thánh nghiệp vô thượng, thành tựu những điều ước nguyện nhưng không thấy có thành tựu, nếu thấy có thành tựu thì chẳng phải thành tựu. Bồ-tát tu hành như vậy thì không có cái để thấy. Bồ-tát thực hành định ý, thâu nhận các pháp, các hạnh đã làm không để giảm mất, chế phục tâm ý là đạo nghiệp của Bồ-tát, tu hành nghiêm túc, không nghó tưởng lăng xăng. Vì sao? Vì nhằm lìa xa các điều ác, không cho duyên theo trần cảnh, chuyên cần cúng dường vào ruộng phước của bậc cao thượng. Đối với tất cả chúng sinh, Bồ-tát phát tâm không với thân tâm ái nhiễm, mà bằng tình thương vô biên rộng lớn, cao thượng; tinh tấn giữ giới như người bảo hộ đôi mắt; dạy người phạm giới chớ có làm ác, nên tinh tấn tu hạnh nhẫn nhục. Người tu nhẫn là rất khó. Tuy ở ngôi vị tôn quý, giàu sang sung sướng nhưng Bồ-tát không khinh chê kẻ xấu xí, bần cùng. Này Tối Thắng! Nhẫn nhục là khó, lại thêm tinh tấn thì không gì có thể sánh bằng. Bên cội Bồ-đề, Bồ-tát ngồi kiết già bất động, thân thẳng, chánh niệm. Nếu có người đến nói: “Hãy tránh chỗ khác, ta muốn ngồi nơi đây”, Bồ-tát phải nên kiên cố, chớ để họ thâu phục. Bồ-tát phải quyết chứng được Phật đạo, đầy đủ các tướng tốt, thâu phục ma rồi mới bỏ chỗ ấy. Đó gọi là tinh tấn khó đạt được. Sự chuyên tâm định ý cũng khó như vậy. Khi Bồ-tát Sinh quý nhập định, thiên lôi sấm nổ chấn động khắp nơi, muốn làm cho tâm Bồ-tát động loạn, nhưng chẳng thể được, dù chỉ là một mảy lông. Này Tối Thắng! Đó gọi là định ý. Định ý như vậy nên nói là khó. Bồ-tát dùng trí tuệ tu các công đức, không làm phiền nhiễu chúng sinh, luôn hòa nhã, đi đứng ra vào khoan thai, đầy đủ oai nghi, pháp phục tề chỉnh. Đó gọi là Bồ-tát dùng trí tuệ tu tập công đức, kiên cường, không ai có thể gây hại. Bồ-tát hiểu rõ chân như u huyền, sâu xa, rộng lớn, vi diệu, chiếu sáng khắp nơi, nên tâm ý chuyên nhất không có tán loạn. Bồ-tát thường phải nhớ nghó đến tất cả chúng sinh, như kẻ không có nơi nương tựa, Bồ-tát tạo phương tiện cho họ được nương tựa; người mù tối, Bồ-tát làm cho được thấy ánh sáng; người không có chỗ quay về, Bồ-tát làm chỗ cho họ quay về. Đối với những người ở nơi thấp kém, Bồ-tát làm bạn thân thiết. Đối với những người dối trá, Bồ-tát dạy cho tu pháp ngay thẳng. Gặp kẻ hung hăng, Bồ-tát dạy cho pháp nhẫn nhục. Đối với kẻ trang sức lòe loẹt, Bồ-tát dạy cho pháp không phô trương. Gặp kẻ vong ân, Bồ-tát dạy cách báo ân. Nếu người muốn ở cõi trời, Bồ-tát dạy cho hành thập thiện. Người muốn thoái lui, Bồ-tát dạy cho tu nghiệp công đức. Nếu gặp kẻ cống cao, Bồ-tát dạy cho pháp không tự đại. Đối với kẻ soi mói lỗi người, Bồ-tát dạy cho không nên tìm chỗ dở của người, không nhớ khuyết điểm của người. Nếu người hành nghiệp tà, Bồ-tát liền đến giúp đỡ, khiến cho đi vào đường chánh. Những loài chúng sinh như vậy đến gặp, Bồ-tát đều vui mừng thọ giáo, tâm không sân hận, được dạy cho pháp tiến thoái việc này nên làm, việc này không nên làm; việc này là đúng, việc này là không đúng tâm không còn tăng giảm, tin vào tội phước, biết có báo ứng. Giả sử Bồ-tát ở thành phố gần gũi người thế gian thì cũng như ở nơi núi rừng hoang vắng không khác, không tham lợi dưỡng, không tiếc thân mạng, tâm thường thanh tịnh, ý không thị phi, thường giữ lỗi của miệng, không nói lời chia rẽ, không mong cầu cúng dường và cung kính, biết tiết chế vừa đủ, tâm thường nhu hòa, không còn thô ác, vượt qua sinh tử, dứt các hoạn khổ. Do đây, Bồ-tát đạt được quả vị Đại thừa, tuệ tâm của Bồ-tát không ai thấy được. Bồ-tát qua lại trong sinh tử, thấy không thực có. Bằng phương tiện thiện xảo, Bồ-tát dạy bảo rõ ràng, hóa độ hợp thời, làm cho chấm dứt luân hồi. Sự luân hồi ấy không có đến, cũng không có đi. Bồ-tát hiểu rõ tất cả đều không, không có xứ sở. Nếu chấp có thì liền bám vào hữu. Ở trong pháp bố thí, Bồ-tát không chấp có, cũng lại không thấy không có sở hữu. Vì sao? Vì hành sáu Độ vô cực là không thấy có, cũng không có sở hữu. Vì vậy, Tối Thắng! Bồ-tát bố thí là không có hạn lượng, nếu thấy có hạn lượng thì chẳng phải chân thật bố thí. Giả sử, chọn lựa người này nên cho, người kia không nên cho, phân biệt cao thấp, ý có thị phi, bố thí không đều khắp thì không phải là bố thí. Nếu bố thí mà không chấp trước, không khởi một niệm phân biệt thì mới gọi là bố thí. Người làm việc bố thí thì thân được an ổn, sống lâu; đứng, ngồi, tụng niệm thì thân thể được định, khí lực dồi dào, qua lại trong sinh tử không bị thiếu thốn, sinh ra liền có thần túc thông, đi đến đâu cũng được người cung kính, được Thiên nhãn thông thấy khắp mười phương cõi, tai nghe được âm thanh xa vô cùng, đạt được hương vi diệu Giới, Định, Tuệ, Giải thoát, Giải thoát tri kiến, thân được xông ướp đủ loại hương công đức, thân thể sạch thơm ai cũng ưa thích, thường ăn thức hảo hạng, mùi vị thơm ngon; nhờ gieo phước trong quá khứ nên được tướng tốt đẹp, thanh tịnh không nhơ, được người giúp đỡ, tùy theo chỗ thiếu thốn mà được cung cấp, thân thường không bệnh, không sinh, không chết, không còn các khổ, luôn được an ổn, đầy đủ tất cả, thành tựu viên mãn ba mươi hai tướng của bậc Đại nhân, tám mươi vẻ đẹp, mở bày Pháp tạng, không sinh tham dục, viên mãn tuệ đạo, không thiếu thốn một cái gì. Người đến cầu xin, Bồ-tát cho hết tất cả, không luyến tiếc nên đạt được Nhất thiết trí, các thần thông, Thánh tuệ độ thoát tất cả, được sự an lạc nơi pháp dược kinh điển sâu xa, ngồi nơi đạo tràng Bồ-đề thâu phục ma quân và các quyến thuộc của ma. Bồ-tát không dùng sắc để bố thí, biết sắc là không, sắc vốn tự không, sắc chẳng tự biết nên mới biết sắc là không. Này Tối Thắng! Bồ-tát thông hiểu tánh sắc là không, liền đứng đầu trong tất cả đạo pháp, thành tựu pháp nhãn, làm tất cả đạo, là bậc tôn quý trong ba đời, một mình không bè bạn. Do đây nên Bồ-tát được đầy đủ các thần thông trí tuệ. Này Tối Thắng! Bồ-tát Sinh quý không bao giờ tin theo pháp tà điên đảo. Nếu thấy chúng sinh thờ phụng, cúng tế, cầu phước, Bồ-tát không được thay đổi tâm để lấy vật thực nuôi mình. Nếu thấy chúng sinh lập hạnh độc tôn vô thượng, Bồ-tát cũng không động chuyển, bỏ theo đạo nhỏ. Biết pháp mình tu là sâu xa, không pháp nào sánh bằng, nên Bồ-tát chuyên cần tinh tấn, không nghó tưởng theo người khác. Tuy có các pháp với nhiều hình thức khác nhau, Bồ-tát thường dùng pháp tánh để quán sát hiểu rõ. Mặc dù sống chung với những người như vậy, Bồ-tát không đổi chí hướng đi theo đạo khác. Giả sử Phật xuất hiện ở đời rồi nhập Niết-bàn, chánh pháp để lại cũng bị diệt mất, hàng Thánh chúng giáo hóa cũng không còn, tuy Tam bảo không còn nhưng Bồ-tát vẫn thâm tín, tâm không thay đổi đi theo niệm tà, thường tu tập vô lượng kinh văn vi diệu sâu xa, thấy (hiểu) khắp tất cả mười hai bộ loại kinh, dùng phương tiện quyền xảo nhập vào tất cả chỗ mà không tham danh tiếng, hiện thân biến hóa nhưng không tự khen mình. Này Tối Thắng! Bồ-tát Sinh quý hành theo chánh kiến, biết “không” chẳng thật, không chánh, không ngay, chánh cũng không có. Bồ-tát hiểu rõ như vậy gọi là chánh đạo. Lại nữa, Tối Thắng! Bồ-tát tu tập trí tuệ, hiểu rõ sự có không, thông đạt chân không nhưng không chấp trước; lại nên tu hành các văn tuệ không thật có, đoạn trừ Khổ đế và Tập đế, dứt sạch tập ái, liền chứng đạo quả, dùng trí bình đẳng chiếu soi để dứt trừ dâm dục, sân hận, ngu si, các phiền não cấu bẩn, chứng đạt trí pháp thượng trung hạ; lấy trí tư duy quán sát hai cõi trên. Với tha tâm trí, Bồ-tát biết rõ tâm niệm của các chúng sinh, biết bậc trí vô sinh không còn sinh tử, thọ thai nhơ uế. Bồ-tát dùng trí diệt tận để hiểu rõ năm ấm, đoạn trừ đầu mối sinh diệt của nó. Bồ-tát cần phải thực hành, tư duy về ba căn: Vị tri, dó tri và vô tri. Nên học những căn này cho đến khi thành đạo. Từ hàng cư só cho đến hàng Tu-đà-hoàn nên tu tập căn vị tri. Từ hàng Tư-đà-hàm đến A-na-hàm nên học căn dó tri. Từ hàng A-la-hán cho đến khi thành Phật nên học căn vô tri. Bồ-tát nên tu tập định, thiền, trí quán chiếu bậc Sơ thiền nhất tâm có giác, có quán; bậc thiền tiếp theo không giác có quán; từ bậc thiền thứ hai đến định vô tưởng không có giác, quán; tâm ấy vắng lặng không còn dao động, thường niệm chăm chú nhập vào chánh định. Này Tối Thắng! Bồ-tát ngày đêm không được nghó: “Ta biết giữ giới của bậc chân nhân, cũng biết người làm ác không có giới, nhưng không có tâm ý phân biệt; biết tất cả đều hư rỗng, không có tưởng loạn niệm một, hai, trước, giữa, sau”. Bồ-tát chuyên cần niệm Phật, Pháp, Tăng, giới, thí, thiên, hơi thở, thân, khổ, chết; biết tất cả đều không có xứ sở. Bồ-tát tư duy trừ năm kết sử, tôn kính sáu pháp trọng yếu, thực hành bốn Thần túc, giáo dưỡng đại chúng tâm thẳng ý ngay, phấn chấn không sợ Sa-môn, ngoại đạo, dị học, trời, ma, Phạm và các chúng khác đến nạn vấn; không còn thấy một mảy may ngã tưởng dấy khởi. Nhờ chứng đạt như vậy, nên Bồ-tát làm việc thường được an ổn, không còn sợ hãi, được lực tinh tấn đứng hàng thứ nhất. Ở giữa đại chúng, Bồ-tát rống tiếng Sư tử chuyển bánh xe pháp lớn. Sa-môn, tịnh chí, Phạm, Thích, chúng ma, tất cả ngoại đạo… đều không thể chuyển bánh xe pháp, chỉ trừ Như Lai. Thân Như Lai làm bằng kim cang, các lậu đã sạch, không còn mảy bụi. Giả sử có hằng hà sa số ức chúng sinh cũng không dám nói Phật chưa hết các lậu. Lời nói của Đức Như Lai chân thật không có hai, quả báo thiện ác rõ ràng không sai. Ngoài tất cả chúng bỏ pháp bên trong, không thấy một ai dám trái lời Phật dạy. Pháp chính yếu của đạo được Hiền thánh giảng nói, ai thực hành thì đắc đạo, phạm sai lầm thì mắc tội. Điều này không trái lời Như Lai dạy, cũng không thấy dạy có chỗ sinh ra, không điều gì là không dạy, dạy không có chấp thủ. Biết dạy bảo một cách sâu xa, đó gọi là chân đạo. Này Tối Thắng! Bồ-tát Sinh quý cầu thành Phật đạo, nên tu hành không để sơ hở, sai lầm. Người muốn nghe pháp, Bồ-tát nên nói pháp vi diệu, bỏ những điều không cần thiết, khiến cho họ đạt được đầy đủ như ý nguyện, hoặc bố thí cho chỗ không kinh sợ với tâm chưa từng thay đổi, không còn hoài nghi, không khởi tâm nhị kiến phân biệt đẹp xấu, cũng không tư duy về thiện ác sai khác. Bồ-tát thực hành theo tánh của pháp thì không được mong cầu, cũng không nhớ nghó hưởng công đức ấy, làm chỉ vì các loài hữu tình nên không học theo hạnh (tâm) Thanh văn, Duyên giác; cũng không cho rằng có chỗ thành tựu, làm cho tất cả chúng sinh không lìa tạng Phật; biết tất cả là không, Phật pháp cũng không, do nhân duyên tưởng mà sinh ra. Nhờ quán như vậy nên Bồ-tát biết không thể thấy nó, cũng không có hình tướng, nói có hình tướng tức là hủy tướng pháp, tướng là vô tướng, tướng chẳng tự sinh, sinh vốn không có mầm gốc, vậy do đâu có sinh? Tướng “một” không có hình, không thể thấy. Đó gọi là đạo Vô thượng chân chánh. Này Tối Thắng! Bồ-tát Sinh quý trụ Địa thứ tư, tu tập để hạnh của mình được thanh tịnh, không thể lìa bỏ trí tuệ, thần thông của chư Phật, bố thí cho người một cách thích hợp, người chỉ cần mở miệng xin thì liền được, không có gì mà Bồ-tát không cho. Bồ-tát theo giáo pháp của Phật, không bỏ thệ nguyện, ý chí kiên cường, an lạc sung mãn, thực hành hạnh thí đạt được vô nguyện, vì các nguyện ấy nên tạo nhân duyên thiện, ở trong ba cõi không ai có thể sánh bằng. Bồ-tát nguyện cho công đức ấy đến khắp tất cả. Sự nghiệp và ý chí của Bồ-tát thường hằng kiên định, tâm của Nhất thiết trí không chỗ nào là không vào, cho nên gọi là không tịch. Bồ-tát làm việc bố thí vượt qua các tướng chấp trước, thâu phục chúng ma, khiến cho không được tự tại. Này Tối Thắng! Bồ-tát Sinh quý thường nhớ tu bốn tuệ không chướng ngại: Tuệ không chướng ngại đối với pháp chân đế, tuệ không chướng ngại đối với nghóa thâm yếu của bậc Thánh, tuệ không chướng ngại đối với trí biện tài và tuệ không chướng ngại đối với lời nói rõ ràng. Đó gọi là Bồ-tát hành trí tuệ siêu việt khác chúng. Bồ-tát đoạn sạch tâm nghi, chứng đạt vô vi nên độ thoát cho vô lượng, vô số chúng sinh không thể tính đếm đến chỗ an ổn vónh viễn, trừ bỏ tưởng chấp thường, tư duy về vô thường, đoạn trừ dục ái, sắc ái và vô sắc ái, dứt sạch vô minh, kiêu mạn, tẩy trừ tham thân. Bồ-tát xem thân năm ấm này là đồ rỉ chảy, trói buộc, bất tịnh, như bọt nước, không bền chắc, huyễn hóa không thật. Vậy mà kẻ ngu si ở thế gian lại tham nhiễm không thấy chán mệt. Pháp của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng vô thường nhưng không thể thấy, không có hình tướng, không có chủ, cũng không có tên gọi. Bồ-tát nên quán sát kỹ sắc, sắc chẳng phải là vật sở hữu của ngã, cũng chẳng phải do ngã tạo thành, nó từ không sinh có, do có hình sắc nên liền có thần thức, do có thần thức liền sinh năm ấm, do có năm ấm nên nhiễm sáu tình, do nhiễm sáu tình nên có si, hành, cho đến già, bệnh, chết, ưu sầu, khổ não, lưu chuyển luân hồi qua lại trong tam giới, trôi lăn khắp năm đường không có ngày dừng. Đó là do nhân duyên hội họp tạo thành. Do cái này có nên cái kia có, do cái này không nên cái kia không. Do cái này sinh nên cái kia sinh, do cái này diệt nên cái kia diệt. Pháp của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng như vậy, thảy đều hư rỗng không có hình chất. Người trí thấu đạt hết thảy gốc ngọn đều “không” thì cần gì phải lao nhọc, làm khốn khổ thần thức. Này Tối Thắng! Bồ-tát Sinh quý xả bỏ tưởng sắc, tâm không còn nhiễm ô, hiểu rõ tất cả gốc ngọn nhưng không có nắm giữ, cũng không thấy thành, không thấy bại, biết các pháp vốn tịch mặc rỗng không, không có động chuyển, siêu việt tất cả. Người đạt được như vậy mà cho là còn lỗi lầm thì điều này chẳng đúng. Bồ-tát học Nhất thiết trí, giảng rộng nghóa ấy, thông đạt các pháp là “không”, không thật có. Do vậy, này Tối Thắng! Bồ-tát cần phải siêng năng tu học, học mà không học, nên tu hạnh này, hành mà không hành. Đó là Bồ-tát Sinh quý trụ Địa thứ tư được hạnh thanh tịnh. q Kinh TỐI THẮNG VẤN BỒ-TÁT THẬP TRỤ TRỪ CẤU ĐOẠN KẾT <卷 id="113335682">Quyển 2 <詞 id="113335683">Phẩm 5: THẤU TRIỆT KHÔNG Bấy giờ, Bồ-tát Tối Thắng lại bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Bồ-tát ở trong Trụ thứ năm nên làm thanh tịnh hạnh của mình như thế nào? –Này Tối Thắng! Bậc Đại só tu hành thường phải lìa xa nhà cửa, tài sản, cũng chớ gần gũi chốn phồn hoa, đô hội, tu công đức lành, trừ bỏ tâm tật đố, lìa xa nhân duyên tụ hội, thường nhớ hòa hợp, tránh xa sự tranh cãi, nên nói giữ miệng, không chia rẽ người, thường nên hạ mình không được cao ngạo, tuy nhiều tài năng nhưng không được khinh người, đoạn trừ vô minh, diệt năm thủ ấm, dứt các hành đưa đến già bệnh chết chẳng khởi phiền não, cũng chẳng theo sáu mươi hai tà kiến, chẳng tự cao cũng chẳng tự ti, vượt qua tám việc thế gian nhưng không cao ngạo, thường biết hiếu thuận, bỏ các khổ não, chẳng theo si ám, tỉnh giác không mê, độ các tâm cấu bẩn, sợ hãi, không để gây tội. Đối với năm ấm cho đến ma thân sinh tử, ma tội, ma chết, ma thiên, nên tư duy chế ngự, không tạo duyên sinh lại. Có thể kiến lập văn tuệ như vậy, nên hành như thế mà không thủ đắc. Thâm nhập ý tuệ, học không biết chán, không tự mãn, không có tham muốn nhưng không điều gì là không ưa thích, tâm luôn vui vẻ, hoan hỷ thọ nhận, thân an tâm định, ý hòa nhã không phiền não, học thông gốc pháp, nói pháp vô tận, tâm hướng về đạo, tự giữ giới cấm, thích theo chân chánh, không ở chỗ tà, thích tuệ vi diệu, phân biệt các pháp Độ vô cực, hiểu được các kinh sách Đại thừa của Bồ-tát, khéo dùng phương tiện quyền xảo tùy theo sự ưa thích, tâm lại hiểu rõ thông suốt tất cả, thường ưa lắng nghe pháp không sinh diệt, liễu đạt mười hai nhân duyên, thấu suốt vô thường, diễn bày thông suốt khổ đế, cũng không có ngã, ngã sở, thấu rõ Không, Vô tướng, Vô nguyện, hiểu rõ khổ sinh tử, thành tựu công đức, lắng nghe nhớ nghó, hâm mộ Tam bảo, biết việc thế tục, cũng biết đạo pháp, thực tâm gần gũi bạn pháp, thâm nhập các pháp, trừ bỏ sự thiếu thốn, thích thọ trì chánh đạo, độ người vô trí khiến cho thành tựu nghiệp công đức, thức tâm sáng suốt, tránh xa chúng ác, buộc thân đạt trí làm lợi chúng sinh, sống nơi an ổn, cũng không ôm hận, mong được hạnh vô cực vi diệu tối thượng. Lại nữa, Tối Thắng! Bồ-tát tu hành phải nên niệm pháp của chư Phật. Làm thế nào để thành Vô thượng đạo? Bồ-tát có thể thành tựu từ nơi văn tuệ, tùy thời chứng nhập không bỏ thứ lớp. Trước nghe âm thanh ấy, sau đó tư duy, quán sát sâu xa biết hoạt động của tâm, điều thân tự độ và cứu chúng sinh, không chấp vô thường cũng không đắm trước. Thẩm sát nhân duyên các việc nên làm, ngã, nhân, thọ, mạng, quá khứ, hiện tại, vị lai. Thành tựu nghiệp công đức, biết rõ thiền định, Không, Vô tướng, Vô nguyện, tự thủ hộ, không theo tham dục, thực hành Tam-muội, tu tập chánh thọ. Như vậy Tối Thắng! Bồ-tát tu hành nhập trăm ngàn định không cho là khó, không chỗ nào Bồ-tát không đến, chỉ không nguyện sinh cõi trời Vô sắc và Quang âm, cũng không nhập mãi trong định diệt tận, biết rõ bản tế, tư duy nắm giữ, thông suốt Bản vô nhưng không thủ chứng. Vì sao? Vì lý do chúng sinh thông suốt vô ngã nên thực hành đại Từ, không bỏ đại Bi, vào khắp nơi hiểm họa của sinh tử, lìa xa tâm tham đắm mong cầu, dạng người phạm pháp không được làm quấy, phương tiện quyền biến giáo hóa khắp nơi. Tùy theo chúng sinh tâm nhiễm ái dục mà dạy quán hạnh bất tịnh. Sau đó, Bồ-tát mới thủ chứng Niết-bàn. Tuy thị hiện diệt độ mà không diệt độ. Bồ-tát tu hành làm việc độ sinh không có cùng tận, làm các việc này khiến tâm không ân hận, không mất giới pháp oai nghi thể tiết, ra vào an tường không có thô tháo. Nếu muốn không tranh cãi thì chẳng bằng tự giữ sự im lặng của Hiền thánh, chỉ nên tịch tónh mà không nói năng. Sự im lặng ấy chính là sự tịch tónh sáng suốt không vuông tròn cao thấp. Sự mặc nhiên của Hiền thánh chính là sự quán sát hộ trì thân, khẩu, ý. Nếu nói thì chớ để đồng với xứ. Thân ham muốn bất động, tâm không biến đổi, cũng không mong mong cầu, lại không vọng vọng tưởng, đó là việc làm của bậc Đại só. Muốn không bị sắc mê hoặc thì phải giữ tâm chân chánh. Với tâm chân chánh thì liền có thể đạt được vô vi tịch diệt. Nếu không nuôi dưỡng mình bằng sự tịch tónh thì không được tự khen cũng không được bất nhân. Người không tự cao cũng không tự ti mới gọi là tùy thuận pháp. Chẳng có mất cũng chẳng có cái để mất, vì hiểu tất cả vốn không, nên không có được mất. Quán ba đời bình đẳng không có sai khác. Mắt, sắc tướng và thức không có chỗ dừng trụ; tai, âm thanh và thức; mũi, mùi hương và thức; lưỡi, mùi vị và thức; thân, vật thô tế và thức; ý, pháp và thức, tất cả đều không có chủ, cũng không có chỗ trụ, cũng không có ngã. Quán tất cả các pháp hành đều không có ngã sở, thấy được vô ngã, đó gọi là tuệ. Hiểu rõ vật hiện hữu cũng như không hiện hữu, tất cả thảy đều rỗng không, thanh tịnh. Tâm thường chẳng lìa gốc các pháp, tư duy lìa xa chín chỗ ở của chúng sinh. Vì sao? Vì sự luân hồi lưu chuyển chìm đắm qua các cõi, không thoát khỏi mang thân chúng sinh trong chín chỗ; thân khác, tưởng khác gọi là người hay trời. Lại nữa, Tối Thắng! Hoặc có chúng sinh, thân chẳng phải một loại mà thành tựu một tưởng, đó là thân Phạm thiên hiện hình đầu tiên ở thế gian, do tham đắm vị ngọt mà dần dần mất uy tướng của trời. Lại có chúng sinh, thân chẳng khác nhau mà có vô số tưởng, đó là trời Quang âm, công đức nghi dung, oai thần đặc biệt. Hoặc có chúng sinh một thân một tưởng, đó là trời Biến tịnh, oai nghi đến đi cực kỳ vi diệu. Lại có chúng sinh, ý hướng dến niệm hư không vô lượng, tâm không chấp trước hữu cũng không hướng đến sự diệt mất, đó gọi là trời Không nhập. Lại có chúng sinh, ý buộc vào thức tưởng, loại bỏ hình thể, lại không khiến tư tưởng có ý mong cầu, đó gọi là trời thức nhập. Lại có chúng sinh, không có tham cầu, trừ bỏ chuyện đúng sai, nội tâm sung mãn, không khởi tưởng đắm trước các mùi vị, đó gọi là trời Bất dụng nhập. Lại có chúng sinh, kiến lập thệ nguyện cầu đạo vô vi, quán Vô sắc giới không có hình tướng, cho là Niết-bàn vô vi, vô tác, cũng không có người tạo tác; hết tâm tinh cần nguyện sinh về đó, thọ tám vạn bốn ngàn tuổi, số kiếp đã mãn, tuổi thọ đã hết, thần thức người ấy hướng theo năm đạo, thân trung ấm liền đến những chỗ thích hợp, thần thức người ấy sẽ nhập vào bào thai, lúc này mới biết mình chưa thật được diệt độ, si tâm hưng thịnh liền sinh sân hận, tâm nghó miệng nói, tạo tội sâu nặng, nói lời hư vọng trái với lời dạy của bậc Hiền thánh, dối gạt thế gian, sống không chân thật. Từ lâu ta đã tu hành khổ hạnh, chưa đạt đến Niết-bàn mà cho là đã được Niết-bàn, rõ ràng không nghi. Tại sao ta vẫn còn trong sinh tử? Hôm nay mới biết mình chưa đạt Niết-bàn, cũng không phải người đắc đạo thần thông. Trong lúc tư niện liền sinh về cõi ác, vì người ấy hủy báng bậc Hiền thánh. Như vậy Tối Thắng! Bồ-tát tu hành muốn thành tựu đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì phải thường nên nhớ nghó tư duy lìa bỏ chín chỗ ở của chúng sinh, không được mong cầu tạo nhân duyên tránh xa tất cả niệm về chúng sinh, ngã, nhân, thọ mạng, cũng chớ tư duy nhớ chuyện thế tục, diệt trừ tất cả các niệm tưởng. Bồ-tát tu hành với năm mươi tâm đặc biệt, pháp hướng, pháp thứ, tinh tấn thành tựu đạo quả. Từ pháp thứ nhất nhập vào khổ pháp nhẫn, tăng trưởng thiện căn đồng với hạnh vô lậu. Từ Trụ thứ năm đến quả vị Như Lai, phải đầy đủ thiện căn, tư duy năm dục, đoạn trừ ái dục, diệt gốc bất thiện ở Dục giới, bằng tuệ khổ nhẫn tư duy gốc khổ. Trong cõi vô hình, thân không có hình sắc, nên không thể tư duy gốc khổ. Do vậy, Bồ-tát chẳng nên ở cõi vô hình để trừ pháp Dục giới. Gốc bất thiện tăng trưởng có chín mươi việc, tuệ được vô lậu cũng có chín mươi. Dùng mười pháp chính yếu đối trị gốc bất thiện và trần cấu thô tế của Dục giới. Còn lại tám mươi pháp, đoạn trừ tám mươi bất thiện căn bản. Tuy chưa đoạn trừ sạch nhưng cũng làm cho phiền não mỏng dần. Tận đạo Thánh đế cũng có vô lậu hợp với pháp, cũng có hữu lậu hợp với pháp. Bồ-tát tu hành ở Trụ thứ năm, tuy đoạn hữu lậu hợp pháp nhưng chẳng đoạn vô lậu hợp với pháp, nơi tánh vô vi cũng có hợp với pháp. Khi ấy, Bồ-tát tu hành chỉ đoạn trừ hữu vi, không đoạn trừ vô vi tương ưng với pháp. Như vậy Tối Thắng! Bồ-tát tu tập nên hành trì năm phần pháp tánh, tư duy hiểu rõ pháp không hai. Giới thân hộ mạng thanh tịnh không tham, cấu uế đã trừ, chúng định thành tựu, đó gọi là thân định. Phân biệt các quán không còn các tưởng, cũng lại không khởi niệm tưởng đắm trước, hiểu rõ không có một nên gọi là thân tuệ. Ba đời giải thoát, không còn một chút nhơ bẩn, tâm không thoái chuyển cũng không kinh sợ, đó gọi là thân giải thoát. Việc làm đã xong, biết rõ đã giải thoát ra khỏi ba cõi, đó gọi là thân giải thoát tri kiến. Nếu duyên hữu vi thì gọi là thân giải thoát. Nếu duyên vô vi thì gọi là thân kiến tuệ giải thoát. Hữu lậu, vô lậu cũng như vậy. Này Tối Thắng! Đó gọi là Bồ-tát tu hành, học tập pháp sắc duyên tận, nhưng chưa thể đoạn trừ pháp phi sắc duyên tận. Thế nào gọi là pháp sắc duyên tận và phi sắc duyên tận? Sắc duyên tận là: Như mắt thấy hình sắc liền sinh nhãn thức, phân biệt việc đúng sai, thiện ác, khởi ý nhiễm chấp không bỏ. Bồ-tát tu hành phải nên dùng trí chế ngự khiến cho không sinh, trừ bỏ hạnh bất tịnh nhơ uế. Phi sắc duyên tận thì chẳng có trí can thiệp vào, không sinh nhãn thức, chẳng phân biệt việc thiện ác, đúng sai. Vì sao? Vì chẳng phải là cảnh giới có thể thâu giữ. Nay sẽ nêu ví dụ để tự hiểu. Bậc đại trí nhờ ví dụ mà hiểu được. Ví như có người ngủ say, thần thức an tónh, thân thể bất động, không ai khuấy nhiễu, mắt không thấy sắc, thức không giao động, không khởi niệm tưởng, mắt đã ở trong, sắc dạo bên ngoài. Khi ấy, tâm sáng suốt, mắt không gia công, thức không tán loạn, sắc chợt ứng hiện liền qua, không có dừng trụ trệ ngại. Vì sao? Vì tự tánh không, không có sở hữu. Như vậy Tối Thắng! Bồ-tát tu hành thường nên tư duy, quán sát phân biệt, đoạn trừ pháp phi sắc duyên tận, nên học tập biết rõ phi sắc duyên tận chẳng có chẳng không, cũng không thành bại, lại nên tu hành tâm chánh của Hiền thánh trừ diệt tâm tà, thành tựu trăm ngàn định ý Tam-muội, thấy rõ năm pháp tà tâm, ba pháp tà phi tâm, niệm phương tiện định ở các địa ấy. Sơ thiền vẫn còn ý tà, tà kiến điên đảo chẳng ở sáu thức, ở trong thân của sáu thức, bốn tà tận diệt, cùng nhau liên kết, chẳng cách ly nhau, cho nên tà kiến không thông với thức. Năm thức chắc chắn không có lực phương tiện, tuệ ý thức có lực phương tiện. Từ thiền trung gian trở lên, không có ý tà, nhưng có tà kiến và ba mươi sáu pháp cùng thọ với nhau. Nhập Sơ thiền chỉ còn ý tà, và mười tám pháp cùng thọ với nhau. Nhập vào trong năm thức ấm, tuy có tà ý nhưng chẳng tự biết. Trong thiền trung gian tuy có tà kiến nhưng chẳng tự tương ưng. Từ Bồ-tát phát ý đến trụ Địa thứ tư, hành tuệ nhẫn nhục với khổ trí, tiêu diệt tà kiến, lìa xa ý tà. Bồ-tát tu hành muốn tiến lên trụ Địa thứ sáu, hành trí huyền thông, đoạn trừ duyên ba cõi, hợp với chân tế, thì trước tiên phải tinh cần đoạn trừ bệnh tai ương phóng dật, ngu si do dự cùng với năm tà trùm khắp ba cõi không có chỗ trống khuyết. Mười tám gốc kết sử sinh ra trăm lẽ tám pháp. Có khổ không tập tương ưng với nhau, có tập không khổ tương ưng với nhau, si, ái và không cùng sinh với nhau. Ở trong khổ môn, diệt trừ vô minh kết sử. Vô minh của Tập đế mà không trừ tận thì sẽ còn tái sinh, cũng chẳng thể dứt trừ ái khổ. Ngồi nơi cội Bồ-đề dứt các tâm nghi, chánh trụ Phật đạo, chẳng hoại ý khác, thành đạo Vô thượng chánh giác, tế độ muôn loài chúng sinh vô số vô lượng, hiểu rõ các pháp khởi diệt, duyên đắm nhiễm chấp đều là hư rỗng. Khi Bồ-tát ở Trụ thứ năm đắc pháp phi tận duyên khởi tánh không thì các bệnh trần cấu cũng đều tiêu trừ, thường dùng năm pháp chế ngự ái nhiễm, nhổ gốc rễ bệnh thông với sáu thức ở khắp ba cõi, khiến cho không tăng trưởng. Dùng năm thuốc trị sân nhuế ở cả sáu thức, chẳng bằng ở đầu nguồn một mình. Mạn có năm pháp, một thân ý thức ở ba chỗ, gốc rễ ăn sâu khó lay động. Bốn thuốc trị tà kiến, một thân ý thức cũng ở ba chỗ, qua lại không dừng nghỉ. Bốn hạnh nghi ngờ và thân ý thức lại ở ba chỗ san tham, tật đố, tư duy, không ở ba chỗ ngủ nghỉ, tỉnh ngộ, phải nên lìa xa không cho tạp lộn, bỏ các phiền não không còn si ám, thoát khỏi sợ hãi, không để ở chung, thường nhớ kiến lập tâm Nhất thiết trí, theo tuệ sáng suốt chân thật thấu rõ vô ngại, nếu không có ngã sở thì không có ngã, trừ bỏ ngã kiến nên gọi là khổ tuệ. Các sở hữu của tập đều không sở hữu, đều có gốc ngọn, cũng không có trụ xứ, không nhiễm ái nên gọi là tập tuệ. Biết rõ tập là pháp cần trừ diệt, học đạo chánh chân, biết vô bản tế, tiêu diệt hết thảy nên gọi là tận tuệ chiếu soi các tâm, trong sáng như mây tan, không một cấu bẩn. Này Tối Thắng! Đó gọi là đạo tuệ của Bồ-tát quán sát chiếu soi năm ấm, biết gốc bốn đại, hiểu bệnh lục suy, biết rõ bốn Đế, mười hai nhân duyên, vạch trần tất cả các kết sử hưng khởi trong ba đời, hiểu rõ năm ấm, các pháp sinh diệt, không còn thấy các pháp có đến đi, có trần cấu, cũng lại không thấy có sinh, già, chết. Vì sao? Vì không nắm bắt bản tánh của nó, vì nhân duyên diệt nên lìa các sự dính mắc đoạn trừ. Các pháp cấu bẩn đã đoạn trừ thì không còn chướng ngại, vững tin ngôn giáo, không còn lay động. Quán các pháp giống như huyễn, như hóa, như cảnh trong mộng, như cây chuối, như gợn nắng, như tiếng vang, như ảnh trong gương, như bọt nước. Quán sắc tướng, ngã, nhân, thọ mạng, hiểu sắc như thật không có chỗ sinh, quán rõ pháp này đều thanh tịnh, rỗng không, không có sở hữu. Hiểu năm ấm này cùng ngã, nhân, thọ mạng thật như huyễn hóa. Tâm thức vô hình không thể thấy, cũng không thấy chuyển động có xứ sở. Lại nên hiểu rõ nghiệp chẳng phải thường, khổ, không, chẳng phải thân. Biết như vậy mới là đạt được tuệ nghóa về năm ấm, các pháp không có biên tế về sinh diệt. Không thấy có đất, nước, gió, lửa, sinh không có tăng giảm. Quán pháp giới cũng không có cứng mềm. Nghiên cứu về tánh nước thì thấy không có nước, không có chỗ thấm nhuần. Tư duy về giới vực của lửa thì không thấy có nóng. Hiểu rõ cảnh giới gió, không thấy có giao động tăng trưởng. Phân tích bốn đại, không thấy có sinh diệt, tăng giảm; liền có thể hiểu biết tuệ ngôn số, tuệ rộng, tuệ sâu, tuệ không có gì bằng. Khi mắt thấy sắc liền sinh thức tưởng, dùng pháp giới quán biết rõ tất cả đều rỗng không. Lại dùng pháp giới quán, tai nghe âm thanh, cũng không tiếng có chỗ đến, chợt tự sinh tự diệt. Mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý với pháp, không đắm trước cũng không đoạn trừ, không có thạnh suy. Quán đầy đủ tánh hạnh chúng sinh, giữ ý không khởi, tất cả thảy đều bình đẳng, không thể chia cách, không chút vọng tưởng, không có khác không, không thể đo lường, Pháp thân, Niết-bàn đồng như hư không, pháp giới chân tế đồng như hư không. Như vậy Tối Thắng! Bậc đại tu hành nên quán mắt rỗng không, không có ngã, ngã sở, chẳng phải chẳng có ngã, ngã và vô ngã đều là không. Người hiểu được ngã không thì ở trong các suy cũng không bị ràng buộc, không đắm nhiễm, cũng không đoạn trừ. Đó gọi là Bồ-tát đối với sáu pháp trần mà không khởi diệt. Mắt và sắc là suy đầu tiên của các rối loạn. Giả sử khi nhìn thấy vật mà không bị vật chuyển thì sáu trần thanh tịnh, không nhơ uế, thành tựu quả lớn, không còn ưu buồn sợ hãi. Còn nếu đối với sáu trần mà tâm bất tịnh thì tổn tánh đạo. Bồ-tát phát nguyện hành đại Từ bi che khắp tất cả chúng sinh, thọ khổ vì họ, không cho là thống khổ, cũng không tránh nạn nguy hiểm lo sợ gần xa, độ những chúng sinh không thích đạo, khuyên hành bố thí, tu công đức lành. Đó gọi là Bồ-tát tu hành tư duy quán pháp. Năm ấm, sáu suy đều không có xứ sở, hình tướng đến đi. Nếu đem Khổ, Tập, Tận, Đạo phân tích năm ấm thì có sinh phải có diệt, có tăng phải có giảm, tất cả đều không có hình tướng, khổ sinh già bệnh chết, khổ não ưu buồn, khổ oán gặp nhau, khổ thương xa lìa, khổ cầu mà không được. Nói tóm lại năm ấm thạnh là khổ. Này Tối Thắng! Đó gọi là biết Khổ. Tìm xét căn nguyên khổ ấy phát sinh là do Tập, tham nhiễm ái dục, ngắm nhìn bảo vật chẳng biết là huyễn, nếu biết mà xa lìa thì gọi là biết Tập. Trừ sạch các cấu không còn sinh lại, tham muốn dứt sạch, không để tái sinh, sắc hiện liền diệt không cho ngăn trệ, hiểu rõ tập thường tịch nên gọi là biết tận. Thông hiểu tám Chánh đạo không có thể tánh; hiểu chỗ dùng trụ, thân sơ, xa gần; biến hóa vô cùng, quét sạch trần cấu, chiếu sáng ngu si và thể còn mất, không hình không tiếng, dẫn đầu các mê hoặc vào đường vô vi, nên gọi là biết Đạo. Bồ-tát phân tích bốn Đế cũng không thủ chứng, vì muốn cứu hộ tất cả chúng sinh ở trong sinh tử. Tướng chân đế không hình, không tướng nên không thể thấy. Hiểu rõ như thật thì ứng với pháp tánh. Ngôn giáo của thế tục giả nói có tên. Kỳ thật, thể của văn tự không sinh không diệt. Người không đắm nhiễm thì được tâm Thánh đế, chẳng nghó có không, thấu rõ bản chất. Tất cả các sắc đều bình đẳng, cũng không sinh tâm cao thấp, đó gọi là phân biệt Thánh đế. Thánh đế của Bồ-tát kỳ thật có một, không có hai, không đắm chí chân cũng không mong cầu, không tưởng cầu sắc cũng không tưởng cầu vô sắc, đối với tưởng và vô tưởng bình đẳng không hai. Đó gọi là tướng chân đế. Người đã thấu rõ tướng như thật thì hiểu được tướng năm ấm, tướng độc hại của năm ấm sinh, tướng phiền não. Bồ-tát phải nên tư duy diệt trừ trăm nàn khổ, quy tất cả về pháp không, không trừ diệt, không khởi niệm nên gọi là Khổ đế. Thông hiểu chỗ sinh ra năm ấm, trừ bỏ ái nhiễm gọi là Tập đế. Nếu tâm không còn tham luyến, không vọng tướng mong cầu, không khởi ý phân biệt, không ở chung với tâm ngu si của ba đời, cũng không trụ ở nơi sở đắc, trần lao trừ sạch. Đó gọi là Tận đế. Người muốn thành tựu đạo Vô thượng Chánh chân thì phải hiểu rõ Khổ, Tập, Tận; đoạn trừ sạch tâm nghi, tà kiến. Này Tối Thắng! Bồ-tát ở trong trụ Địa thứ năm nên làm thanh tịnh hạnh mình như vậy.  <詞 id="113335684">Phẩm 6: Căn Môn Bấy giờ, Bồ-tát Tối Thắng bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Bồ-tát Thượng vị trụ ở Địa thứ sáu nên thanh tịnh hạnh mình như thế nào? Phật bảo Tối Thắng: –Này Tối Thắng! Bồ-tát Thượng vị thường phải tu hành sáu Độ vô cực, chẳng ái luyến thành quả đạt được, bỏ tâm Thanh văn, muốn cõi nước thanh tịnh thì không có ý Duyên giác, phát tâm rộng lớn chẳng khởi tâm nhỏ. Thấy người nghèo khổ, trước tự trừ tâm tham của mình, đem đồ đến cho người ấy, khiến họ no đủ. Có vật quý báu đem cho người, không có ý hối tiếc, lìa xa ngã, ngã sở, bỏ tâm chấp thường, trí ấy vô lượng không có cùng tận, mong muốn được nghe pháp vi diệu sâu xa. Thân, miệng, ý thanh tịnh, không phạm giới nào. Thường ủng hộ người trì giới. Bồ-tát thượng vị tâm luôn luôn nhân từ, không làm thương hại chúng sinh, tự thân không giết, thấy người giết hại nên khuyên tu thiện. Không trộm vật của người, dầu là mảy lông. Giả sử có người phạm giới thì dạy họ sám hối. Thường giữ tâm chuyên nhất không phạm dâm dật. Nếu thấy người phạm thì khuyên tu tịnh hạnh. Thường nói lời chân thành, không nói hai lời để chia rẽ người. Nếu có người tranh cãi thì nên hòa giải làm cho không tranh, nói lời can gián chân tình khiến cho tất cả hành thiện. Không được mắng chửi khiến người sân hận, gặp người sân hận phải nhớ hành nhẫn nhục. Có tâm hổ thẹn, không nói lời hung ác, nói phải giữ miệng, không được nói dối. Tư duy bình đẳng đối với tất cả mọi người, bỏ tâm kiêu mạn, không nên oán ghét, không sinh tướng sân đối với chúng sinh. Thường phải tự chế phục mình, mong muốn làm được như trên. Nếu nay không hành nhẫn nhục thì sau này sẽ xấu xí. Tâm thường ngay thẳng, không khinh hậu học. Người ở trong đạo pháp, tâm luôn vui vẻ, tâm ấy thanh tịnh không có phiền não, ưa thích pháp vô tỉ sâu xa vi diệu, đem bốn điều không sợ thâu phục ngoại học, khiến họ tu tịnh nghiệp ra khỏi nơi ấy. Tâm ở tại đạo hành theo nhân từ. Nếu gặp bậc Sa-môn, dị học, phạm chí thì phải làm việc của thầy cho bằng được. Vì sao? Vì thành Phật đạo, thành Nhất thiết trí. Tâm thường mềm mỏng, không hành thô bạo. Gặp người sai quấy, nếu không tự giữ được mình thì không nên làm, không để sơ hở có hành vi phi pháp, cũng không có tâm Thanh văn, Duyên giác. Ở các chỗ sai phạm, cũng không si ám, thường hành tinh tấn, không biếng nhác, không giao tiếp với các kẻ kiến giả sử gặp người tệ ác cũng không chống đối, không nói chuyện làm việc theo họ, giữ giới trọn vẹn không để vi phạm, gần bậc trí tuệ học hiểu pháp sâu xa, cũng không có ý nhàm chán xa lánh, thâm tín tịnh giới, tu hành chân chánh, không bị tà kiến làm ô nhiễm gìn giữ pháp ấy, tu hành như pháp, tất cả chúng sinh khen ngợi đức ấy, gìn giữ pháp luật, thanh tịnh không nhơ, tu hành kiên cố, thấu suốt bản tâm, không thể nói sai lời, nói có lỗi lầm. Vì sao? Vì hành chánh đạo không theo tà đạo, giới pháp trọn vẹn lại không mê hoặc, diễn giảng cùng khắp, giữ gìn chánh giác của chư Phật, tự vui chính mình, không cầu bên ngoài, thường biết dừng đủ không có tham luyến, tâm ý thuần thục trừ sạch các ác, thân ý lặng lẽ không có hân lạc, thường ưa thích nơi thanh vắng, không gần những chỗ ồn ào, có khả năng phân tích đạo pháp, không học theo ngoại đạo, oai nghi tề chỉnh chưa từng thất lễ, không dùng tư duy phục tốt để làm đẹp, thề như bản nguyện, không gì bằng công đức, không vì thứ ngon ngọt mà loạn tâm ý, tự có đạo lực giữ gìn đức nghiệp, tu thuận theo giới không phóng dật buông lung, thì Trời người hộ vệ khiến thành cứu cánh. Niệm rãi tâm Từ khắp các loài chúng sinh. Thường tu tâm Bi, nhẫn các phiền não, tinh tấn thủ hộ khiến không biếng nhác, tâm hành bình đẳng, thiện ác không hai, vì tất cả chúng sinh mà gánh gánh nặng, thường quán sát rõ, không làm hao tổn, không cho tâm thức chạy theo các tưởng, không nghó điều ác, không truyền điều sai cho người, hộ tất cả ý, thâu nhiếp ý, kiên cố không cho vọng khởi, theo sự tư duy thường niện bố thí, nuôi dưỡng tất cả loại chúng sinh, luôn hành nhẫn nhục, không khởi tâm khác, chí nguyện tinh tấn trọn không thoái chuyển, thiền tư lặng lẽ đắc định an ổn, thuận theo trí tuệ thông suốt các nghóa, diễn nói sâu rộng cũng không chán đủ, tu học hết thảy giới pháp yếu, duyên theo bạn lành để đạt các pháp, lìa các thầy ác, xa các tà học. Tà học là chẳng phải đạo chân chánh, không tham đắm trang sức thân tướng, biết rõ vạn vật thảy đều vô thường, công đức giới ấy tịnh như vàng ròng, ý thí thanh tịnh không có hối hận, tâm ý thanh tịnh trọn không hư dối, sở học vi diệu không có phiền não, tâm ý sáng suốt không có cấu bẩn, bản hạnh thanh tịnh tâm không nóng nảy, tuy ở chỗ mê hoặc nhưng không theo dâm dục, ý không tán loạn thường luôn an định, đứt các trói buộc không còn sinh lại, thông suốt vắng lặng trọn không sai lầm, giới đủ không khuyết, không có rò ró, sống theo pháp yếu không được quên bỏ, theo định căn của chư Phật đã phân biệt mà độ chúng sinh với tâm bình đẳng. Hiện tiền nhập giải thoát môn, dạo chơi các Tam-muội bằng Nhất thiết trí. Không tham thân mạng, không còn một niệm loạn tướng, không chấp ngã, nhân, thọ mạng, cũng không tư duy sắc thọ tướng hành thức, không. Không nương vào thân, miệng và bốn đại tạo sắc, hiểu tướng chân đế ấy như thật, phân biệt sắc tạo, một không có hai. Lại nên tư duy thấy rõ mắt sắc, tai tiếng, mũi mùi, lưỡi vị, thân xúc, tâm pháp thảy đều thanh tịnh, một tướng vô tướng. Bằng pháp Không, Vô tướng, Vô nguyện, quán sát các pháp không có hình tướng. Vượt qua ba cõi không tham đắm nhiễm, cởi bỏ tất cả không còn trói buộc, lại không sinh niệm cũng không thấy sinh. Vì sao? Vì tất cả pháp đều không có chỗ sinh. Thường nên từ mẫn, không nghó giết hại, trộm cắp. Nuôi dưỡng tất cả chúng sinh khiến cho sống an lạc, không được thi ân bằng cách dối gạt lấy tài bảo của người. Lìa xa sắc dục, không nên tà dâm. Không dối gạt người, nói lời trung tín, nhận người can gián, tâm không mê muội, tâm luôn luôn tôn kính các bậc trưởng lão. Với tâm nhân từ, dạo khắp các phương làm cho tất cả thảy đều vui thích, khoan dung rộng lượng chỉ dạy chánh giáo đúng như pháp luật với niệm bình đẳng, cũng không tức giận các loài chúng sinh cho mình đã đủ các hạnh, không tinh tấn thêm. Diễn nói rốt ráo độ các chúng sinh, tháo gỡ sự che đậy cho tất cả chúng sinh Bồ-tát thượng vị, đại chủ của pháp, giảng rộng pháp tam thừa vô cực, công đức hơn núi Tu-di, trí tuệ vượt cả sông biển, đạo siêu việt hư không, không thể lấy gì để ví dụ. Tối Thắng nên biết! Vì tất cả chúng sinh ngu si, biếng nhác, phóng dật, chẳng thuận theo giáo pháp, nên luân hồi sinh tử triền miên, bị mê mờ nên không thoát khỏi ba cõi. Do vậy, Như Lai thương xót không gì bằng. Vì tuân theo gốc tất cả các pháp, vì tất cả pháp mà đạo trừ tập ái, gốc hai mươi hai bệnh theo xúc. Các pháp này chẳng phải là pháp, cũng chẳng phải là phi pháp, cũng không có ngôn giáo, cũng không thể nói. Vì sao? Vì nếu không có pháp thì cũng không có sinh, cũng không có diệt, người nói pháp cũng không thấy có nói. Như vậy Tối Thắng! Bồ-tát thượng vị phân biệt tư duy xúc có sinh thì xúc có diệt. Bồ-tát quán sự đối đãi của xúc ấy. Với sáu xúc làm căn bản, phải nên biết nó. Cũng nên biết sáu xúc không làm căn bản, bảy xúc cùng với thọ nhập. Lại nữa, Bồ-tát tư duy quán sát xúc, với ba cánh lạc làm căn bản thì bảy cánh lạc ngọn ngành ít có phần ấy. Lại nữa Tối Thắng! Bồ-tát nên tư duy, khi rõ xúc lạc tự tương ưng với bốn xúc cùng với thọ nhập thì không nên đắm nhiễm. Lại nữa, Bồ-tát nên tư duy, khi vô minh xúc cùng với ba xúc tự tương ưng, lại cùng với mười một xúc ít có phần ấy, thì nên tư duy không để đắm nhiễm. Lại nữa Tối Thắng! Khi xúc của phi minh và phi vô minh tự tương ưng thì mười một xúc khác ít có phần ấy. Lại nữa, khi ái dục xúc tự tương ưng thì mười một xúc ít có phần ấy. Giả sử, sân nhuế xúc tự thâu giữ lấy nhau thì mười một xúc ít có phần ấy. Lại nữa, thọ lạc xúc cùng mười hai xúc ít có phần ấy. Thọ khổ xúc với mười một xúc ít có phần ấy. Thọ không khổ không lạc với mười ba xúc ít có phần ấy. Lại nữa, Bồ-tát! Khi nhãn thức xúc tự tương ưng ứng với nhau thì tám xúc ít có phần ấy. Tai, mũi, lưỡi, thân cũng như mắt không có khác. Sắc tướng xúc cùng với năm xúc làm thể, liền liên kết với bảy xúc. Nếu âm thanh xúc cùng với ba xúc làm thể thì cùng liên kết với mười một xúc. Nếu mùi hương xúc cùng với hai xúc làm thể thì khi ấy cùng liên kết với chín xúc. Nếu khi mùi vị xúc làm thể thì cùng liên kết với mười một xúc. Nếu khi vật thô mịm cùng với ba xúc làm thể thì cùng liên kết với mười ba xúc. Hoặc khi pháp xúc cùng với hai mươi hai xúc làm thể thì cùng liên kết với tất cả các xúc. Bồ-tát bậc thượng vị nên tư duy chỗ xúc hưng suy, sinh diệt, mỗi mỗi phân biệt không cho tăng giảm, có thể tiêu diệt các kết sử của dục trần, tâm cũng không tướng chấp thường cũng không thấy ngã, nhân, sinh, diệt, đoạn, thủ. Như vậy Tối Thắng! Bồ-tát trụ Địa thứ sáu với tâm chân đế không niệm có không, thấu rõ pháp không thì biết rõ các xúc chỉ là một. Bồ-tát nên biết! Nếu khi xúc hữu đối cùng nhất căn làm thể thì biệt cùng với tám căn liên kết với nhau. Bồ-tát thượng vị lại nên tư duy, tâm chuyên nhất, mỗi mỗi biết rõ, tâm không đắm nhiễm. Bồ-tát lại nên quán sát xúc quảng ngữ cùng với năm căn làm thể, khi ấy, biệt cùng với tám căn liên kết với nhau, chớ để tâm đắm nhiễm. Bồ-tát lại nên tư duy minh xúc cùng với ba cánh lạc làm thể, khi ấy, biệt cùng với chín căn liên kết với nhau. Lại nữa, khi vô minh xúc tự làm thể thì cùng với sáu căn liên kết với nhau. Khi phi minh, phi vô minh xúc làm thể thì cùng với mười một căn liên kết với nhau, ái dục xúc cũng cùng với bốn căn liên kết với nhau, sân nhuế xúc cũng cùng với bốn căn liên kết với nhau. Thọ lạc xúc cùng với hai căn làm thể, thì cùng với chín căn liên kết với nhau. Thọ khổ xúc cùng với hai căn làm thể, thì cùng với sáu căn liên kết với nhau. Thọ không lạc không khổ xúc cùng với một căn làm thể, khi ấy cùng với vô căn liên kết với nhau. Lại nữa, Bồ-tát! Khi mắt xúc tự làm thể, thì cùng với chín căn liên kết với nhau. Tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng lại như vậy. Ý xúc cùng với năm căn làm thể, khi ấy cùng với tám căn liên kết với nhau. Sắc xúc cùng với hai căn làm thể, liền cùng với năm căn liên kết với nhau. Lại nữa, Bồ-tát cũng nên tư duy mùi hương xúc cùng với sáu căn làm thể, khi ấy liền cùng với chín căn liên kết với nhau. Mùi vị cùng với hai căn làm thể, khi ấy liền cùng với mười một căn liên kết với nhau. Nếu khi vật thô mịn xúc cùng với một căn làm thể, liền cùng với tám căn liên kết với nhau. Bồ-tát lại nên quán biết! Pháp xúc cùng với mười chín căn làm thể, liền cùng với mười ba căn xúc liên kết với nhau. Bồ-tát nên tư duy kỹ! Nếu trừ bỏ tham đắm thì không tạo xúc, liền có thể đầy đủ tất cả các nguyện, dùng thân tướng tốt sắc vàng trang nghiêm chiếu sáng khắp nơi, hiểu rõ các pháp đều là không tịch, hiểu biết gốc pháp cũng không phải là pháp, cũng không phải là phi pháp. Vì sao? Vì nếu không có pháp thì không có sinh, cũng không có diệt, người nói pháp cũng không thấy có nói, pháp phi chân thật, giả gọi vậy. Trong có sáu thọ, ngoài có sáu nhập, các loại năm ấm và nhất thiết nhập đều hư tịch, đều giả danh. Sự phân biệt chương cú và tất cả pháp, theo quán chân đế không có năm ấm. Các loại bốn đại và gốc hai mươi hai xúc không có đoạn diệt, cũng không phải là thường hay vô thường, cũng không kiên cố nên gọi các pháp là không thể nói. Tất cả các pháp xưa nay thanh tịnh, là không, là tịch, không có tên gọi. Tánh tất cả pháp và danh xưng ấy đều không có sở hữu, lời dạy của chư Phật cũng như vậy. Thường phải tu tập pháp không xứ sở. Tu pháp không xứ sở là thế nào? Tức là tu tập biết rõ sự kinh sợ không có chỗ sinh, tu không tham dục, hành pháp chân đế, học tập bản vô, hành khắp pháp giới, tu tập bản tế, biết rõ tất cả đều không, tất cả các pháp đều không có chỗ trụ, không có tập hành. Như vậy Tối Thắng! Bồ-tát trụ Địa thứ sáu, hiểu các pháp không, tu tập oai nghi lễ tiết, không thủ vị lai, xả bỏ quá khứ, không nghó hiện tại cũng không có ngã sở, không có thọ thủ, cũng không có chủ, lại không che đậy nhưng không thể thấy. Vì cứu cánh không nên không có tận diệt. Giả sử có văn tự cũng là giả danh. Nếu không có tận diệt thì không có sinh. Vì sự kinh sợ của ý chí bản tịnh ấy cũng không có sinh. Sự tu tập ấy cũng không có tiếng vang, cũng không thấy có tiến, cũng không thấy có lùi. Truy tầm nguồn gốc của nó thì không có đáy, không sinh, không diệt. Đây gọi là đạt đến bản không. Giảng nói bình đẳng cũng không niệm tướng, không gần, không xa cũng không tung tích, đó gọi là tập. Tập còn có nghóa là thâm nhập luật pháp, tất cả các pháp giả có tên gọi, cũng không có chỗ đến đi, không thấy, không nghe, không được, không mất. Đó gọi là thường trụ nơi ba cõi. Người khéo hành trì pháp như vậy gọi là tập. Thế nào gọi là pháp? Nghóa là pháp không niệm pháp, cũng không hủy bại, lại không lo sợ, cũng không mong cầu, nếu không mong cầu thì không có tướng quả báo. Nếu không có niệm sự báo đáp thì trừ được tất cả phiền lụy của tướng trông chờ. Không nghó tướng vị lai, hiện tại không dừng trụ, không nhớ nghó quá khứ, người hành như vậy liền có thể được đầy đủ tất cả đồng với ba đời. Nếu đồng với ba đời thì không thể nói. Vì không dừng trụ nên độ được chúng sinh. Tối Thắng nên biết! Như Lai xuất hiện diễn nói pháp này khiến chúng sinh được qua bờ giác. Có Phật hay không Phật thì pháp tánh vẫn thường trụ, pháp giới tự nhiên không biến đổi. Pháp giới tụ như vậy gọi là tịch nhiên. Vì sao pháp giới tự nhiên? Vì không có ngã và ngã sở nên gọi là tự nhiên. Nếu khi Bồ-tát chấp vào ngã sở, thì thân ý mình có chỗ vướng mắc, quán xem nhân duyên sự thọ thân năm ấm, thấy chỗ xoay quanh của tên gọi, sắc, tư tưởng, ngôn từ qua lại đều y vào thức tri, danh hiệu giả bày, trong tâm toan tính. Quán sát các nhập, bốn đại, tận gốc ngọn, khi ấy Bồ-tát nghó: Ta nên tinh tấn độ người trong ba cõi, khiến cho họ xả bỏ bệnh tham, sân, si, tu tập đạo giáo, nhập vào ba môn giải thoát. Hoặc lại tư duy khiến cho chúng sinh đạt được đạo tích, thành A-la-hán, chứng đắc bốn quả; hoặc lại suy niệm về Ý chỉ, Ý đoạn, Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy phần Bồ-đề, tám chi Thánh đạo, Không, Vô tướng, Vô nguyện, bốn Chân đế, diệt trừ trần lao. Người có tư tưởng này làm quyến thuộc với chúng sinh thì pháp giới sẽ có sự khuyết giảm. Bồ-tát trụ Địa thứ sáu, với tâm xa lìa không cùng Thanh văn, Duyên giác, hành nghiệp Bồ-tát, phát nguyện Đại thừa, tâm ý rộng lớn, tự tâm nghó: Nếu ta làm việc Phật, cầu tuệ đạo thì không làm suy giảm trăm ngàn hành xử, ta sẽ bố thí tài pháp, xả bỏ tâm bỏn sẻn, giữ giới thanh tịnh, đoạn trừ nhơ uế thủ hạnh cẩn trọng, kiến lập nhẫn nhục, trừ bỏ sân nhuế, hành động nhu hòa. Hoặc tu tinh tấn độ tâm biếng nhác, nỗ lực tu tập không bỏ những thiện ác trước đây. Hoặc ở chỗ thanh vắng tu tập chánh thọ, ý không tán loạn, sớm được nhất tâm, từ Tam-muội xuất ra phụng hành nghóa ấy, hóa độ chúng sinh bằng sáu Độ vô cực. Vì cầu Phật đạo. Muốn thành bậc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, Bồ-tát trụ Địa thứ sáu phải hàng phục chúng ma, chuyển pháp luân vô thượng độ thopát chúng sinh, vì Phật vónh tịch mà diệt độ vậy. Thấu triệt Thánh tuệ, học sửa trụ địa, tuyên dương nghiệp mười lực của Đức Như Lai, bốn điều không sợ, mười tám pháp Bất cộng thù thắng, phân biệt biện tài, thông đạt vô ngại, cũng không tưởng cầu cõi Sắc, vô sắc, không có tham luyến. Trước người đáng độ, Bồ-tát phân tích năm ấm không có khởi diệt, sinh, già, chết là tướng phiền não, hiểu biết pháp không đó là khổ đế. Hiểu biết năm ấm từ nhân duyên khởi, vạn vật hiện hữu đều do tưởng cầu, biết rõ ý ấy nhưng không phân biệt đúng sai. Tuy không mong cầu nhưng không quên hẳn, đó là Tập đế. Chẳng hòa đồng với việc quá khứ, hiện tại, vị lai, cũng không có tâm cầu mong trụ ở trong ấy, biết rõ đã diệt trừ hết thảy, không còn mong cầu, đó là tận đế. Người muốn đạt đạo phải biết rõ khổ, tập, tận, dùng tám mươi bốn trí của bậc Thánh được tôn sùng để trừ bỏ lưới nghi, duyên trói buộc, đó là tận đế. Phân biệt bốn đế, tất cả vật hiện hữu, tâm biết việc thiện ác, khổ lạc của thế gian, biết rõ tất cả nhưng không mong cầu, cũng không thủ chứng, đó là Bồ-tát hành đạo đế. Hiểu rõ thân không, tịch diệt chẳng khởi, cũng không làm hại, cũng không trừ tội, không thủ không xả, cũng không đoạn trừ, không thấy có thân, không thấy có người bố thí tạo tác, chẳng ở hai bên, cũng không ở giữa. Như vậy Tối Thắng! Bồ-tát thượng vị thường nên tư duy, trừ tai họa liên kết của gốc hai mươi hai cánh lạc mới có thể tu tập nghiệp của Bồ-tát tôn sùng. Này Tối Thắng! Đó là Bồ-tát thượng vị ở trong trụ Địa thứ sáu làm thanh tịnh hạnh của mình.  <詞 id="113335685">Phẩm 7: Quảng Thọ Khi ấy, Bồ-tát Tối Thắng bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Bồ-tát A-tỳ-bà-đế ở tron trụ Địa thứ bảy nên làm thanh tịnh hạnh mình như thế nào? Phật bảo Tối Thắng: –Này Tối Thắng! Bồ-tát ở trong trụ Địa thứ bảy thường hành bố ví nhưng không mong cầu quả báo, lìa bỏ sự chấp trước, không thấy có ngã, tuy độ chúng sinh nhưng không thấy có độ, cũng lại không thấy ngã, nhân, thọ, mạng, đoạn diệt mười tám gốc chấp thường, giữ tánh các nhập lìa xa tưởng các suy nhập điên đảo, cũng không mong cầu sinh trong ba cõi, thường muốn thân cận nương tựa các pháp Phật, niệm giới, niệm thiên, niệm thí, niệm Không, Vô tướng, Vô nguyện, cũng lại không thấy có người nhập đạo. Tuy biết có chứng vô tưởng không, nhưng không nhập vào cảnh giới ấy. Thanh tịnh thân, khảu, ý, vượt qua vô nguyện, thương xót tất cả loài chúng sinh, bình đẳng như nhau, xem các pháp bình đẳng vô chủ, không, cũng không có chỗ nhập. Vì muốn làm bậc dẫn đường nên không cống cao, nhẫn chịu tất cả quả báo ứng, chỉ dạy một đường, không nương danh sắc, lại xa tà nghiệp, không nhiễm đắm trước, tướng mong cầu diệt nên không luân hồi, tự điều ý mình, tuệ không chướng ngại, thoát khỏi ba đường không nhiễm khát dục. Bồ-tát giảng dạy đúng thời, ra vào tới lui không mất oai nghi, tất cả ý vọng tướng tham cầu mãi mãi không sinh, thẩm xét rõ ràng các sự thọ thủ, giải bày công việc không có mê lầm, cũng không có tâm so sánh hơn thua, thường nên tư duy pháp tịch nhiên, pháp tịch nhiên ấy gọi là pháp không thoái chuyển. Người như vậy được chư Phật khen ngợi, trao cho danh hiệu tuệ vô sinh. Vì sao? Vì vô tâm đối với tất cả pháp, người vô tâm như vậy thì vô sinh, vô sinh chính là chỗ kiên cố không thoái chuyển. Tâm của Bồ-tát mới phát vững chãi, thường phải thủ hộ tâm thệ nguyện lớn, giống như kim cương không gì phá được. Bồ-tát ở trong vô lượng hiểm họa sinh tử, thí tất cả sở hữu không mong cầu, bình đẳng đối xử tất cả chúng sinh, nguyện độ hết thảy chúng sinh, dùng pháp vô vi của Phật cứu độ họ, tuy độ chúng sinh nhưng không có ai được độ. Đạt đến vô vi là hiểu rõ tất cả pháp không có sinh, phân biệt thông suốt tất cả các pháp, thường hành tinh tấn không cho sai sót, thâm nhập tuệ ấy thấu triệt tất cả, rõ hạnh Sa-môn, đủ Nhất thiết trí, các sự ái nhiễm không còn tăng giảm, dứt các vọng kiến, không còn tham tiếc, được không thoái chuyển. Tuy ở ba cõi mà không khởi tưởng chấp trước. Nếu khởi tướng chấp trước thì sinh ở biên địa. Người ở biên địa chấp ngã, ngã sở, dựa vào việc làm của mình mong cho tất cả được phước trợ giúp. Người ví như vậy liền bị ba chướng ngại: ngã, nhân, tưởng, thí; bị lưu chuyển sinh tử, thế tục trói buộc, không bao giờ được đạo vượt đời. Tối Thắng nên biết. nếu khi bố thí, Bồ-tát này không chấp ngã, ngã sở, không thấy có người thọ nhận thì không có chấp thủ. Giả sử có bố thí thì không được mong cầu quả báo ứng. Bồ-tát bố thí trợ giúp tất cả với tâm cầu đạo Vô thượng chân chánh ba đời bình đẳng không có quá khứ, vị lai, hiện tại. Thấu rõ Pháp thân không ở sinh tử, không trụ Niết-bàn. Giáo hóa tất cả đều không có chỗ trụ, tâm tánh nhu hòa thương xót chúng sinh hiểm nạn, cứu độ tất cả chúng sinh với tâm bình đẳng, gần gũi học hỏi bậc Thiện tri thức, tâm cầu kinh điển để dứt các nghi, luôn nhớ xả bỏ không ham gia nghiệp, thấu rõ các tướng, thông đạt vô hình, quán sát các pháp, hiểu rõ chân chánh các pháp không từ đâu sinh, giải bày một phẩm, trừ sạch các niệm, dứt các loạn tưởng, xả các tà kiến, trừ bỏ trần lao, tịch nhiên thẩm xét, tâm ý điều hòa, không gây làm hại cũng không nhiễm ô. Nếu ai đạt đến chỗ này thì được gọi là không thoái chuyển. Với sự nhất tâm, Bồ-tát hòa nhập quần chúng, dùng thần thông thị hiện giáo hóa. Hiểu các cõi Phật là không, không có sở hữu, sớm đạt đến chỗ rốt ráo. Hiểu rõ đầy đủ căn tánh chúng sinh, Bồ-tát tùy theo đó mà thị hiện giáo hóa. Tối Thắng nên biết, Bồ-tát trụ Địa thứ bảy tinh tấn dũng mãnh, Tam-muội như huyễn thường hiện trước mặt, tùy theo tâm ý của chúng sinh mà đến độ thoát họ, hoặc vào năm cõi mà cứu độ họ, không bỏ bản nguyện. Theo thệ nguyện ấy thường được thành tựu các loại thức. Với tài hùng biện, ngôn ngữ diễn đạt, âm thanh rõ ràng, Bồ-tát nói pháp, trước phải biết rõ mạng căn và chỗ hướng đến. Muốn thành tựu đạo, ngồi nơi cội Bồ-đề thì phải đầy đủ công đức, đạo tràng trang nghiêm, thông các pháp Phật. Bồ-tát thường nên tư duy sự thoái chuyển và không thoái chuyển, thành tựu các pháp quán cực vi diệu, thấu rõ biên địa ấy không có xứ sở, không có tận cùng cũng không có sinh. Bồ-tát tư duy trí nhẫn bất thoái, biết rõ các pháp tụ tán vững chãi, trí nhẫn bất thoái vónh viễn diệt độ. Tuy ở chỗ phóng dật nhưng biết rõ các pháp nên trí nhẫn bất thoái không dong ruổi. Lại đối với các pháp, hiểu rõ chỗ khởi và không khởi của năm ấm. Nhẫn bất thoái là hiểu rõ các pháp không có âm vang, nghóa là không có tiếng dội trở lại. Bất thoái trí là ở nơi các pháp đầy đủ các sự tốt đẹp, sáu Độ vô cực đầy khắp cả hư không mà không khuyết giảm. Bất thoái nhẫn là tuy các pháp không đến không đi nhưng trong các oai nghi đi đứng nằm ngồi không lúc nào là không ứng hiện. Bất thoái trí là pháp tánh thường trụ, trụ chỗ vô trụ, không có xứ sở. Bất thoái nhẫn là đối với các pháp không có tự tôn, tự ti, không cao, không thấp. Bất thoái trí là đối với các pháp, xả ly đoạn diệt, chấp có tâm thường. Bất thoái nhẫn là do các khổ mà sinh lo sợ, nên biết tất cả đều không, không có xứ sở. Bất thoái trí là đối với các pháp, bỏ các sự che đậy, trùm khắp như hư không, xả trừ sáu việc. Bất thoái nhẫn là đối với các pháp, tiêu trừ trần cấu, không nhớ không quên. Bất thoái trí là đối với các pháp, không chỗ nào không ứng hiện, cũng không hợp không tan, tuy ở nơi các pháp nhưng đoạn trừ trần lao không còn dư sót. Bất thoái nhẫn là nhờ theo tuệ ấy, hành mà không hành, không biết gì cả nhưng không có gì mà không biết, không nghó, không thấy. Bất thoái trí là các pháp không động, không ai có thể làm cho dao động, tịch nhiên rỗng lặng, không có niệm tưởng Bất thoái nhẫn là các pháp hoại diệt không có thoái chuyển, đều đã diệt sạch không thể sinh lại. Bất thoái trí là đối với tất cả pháp, không trụ trước sau, tự tánh như hư không. Bất thoái nhẫn là tất cả các pháp đều ở chỗ tu hành ẩn tịch mặc, không chướng ngại cũng không hoạn nạn. Bất thoái trí là trụ tánh pháp giới, thường tùy theo thời hiển bày các pháp. Bất thoái nhẫn là tất cả các pháp đềuo tịch không niệm, không xả, không đắm, không nhiễm. Bất thoái trí là nương theo các pháp vượt qua bờ giác, không thấy đây-kia, có độ hay không độ. Bất thoái nhẫn là không niệm các nhập ưu, não, sinh, già, bệnh, chết của các pháp. Bất thoái nhẫn là thâu giữ các pháp mà không thủ đắc, được pháp lục độ, ý chí thâm diệu. Bất thoái nhẫn là lìa các cấu bẩn chấp vào các pháp, sạch sẽ không nhơ. Bất thoái nhẫn là đối với tất cả pháp tu hành bình đẳng, cũng không thoái chuyển. Bất thoái nhẫn là không thấy sự tạo tác về chủng tánh các pháp, biết rõ là một. Bất thoái trí là đối với tất cả các pháp, không có mong cầu cũng không buồn lo. Bất thoái nhẫn là do các pháp cùng nhau phát khởi, tuy không dừng nghỉ giữa đường, nhưng biến nhác nên đọa vào nơi biên địa. Bất thoái trí là hiểu rõ bản vô, không tiến không thoái. Bất thoái nhẫn là đoạn trừ chỗ vang vọng của các pháp, thảy đều như hư không, không có tướng mạo, không xả bản vô, pháp tánh vốn tự như vậy. Bất thoái trí là đối với tất cả pháp, không có chướng ngại, không đến không đi, không buộc, không thoát cũng không có sinh. Bất thoái nhẫn là trừ các ác nhơ bẩn, hạnh được thanh tịnh. Bất thoái trí là giảng bày các pháp, tâm định trí phát, hàng phục ác ma, cởi bỏ trói buộc, tâm đạo hưng thịnh. Bất thoái nhẫn là độ sạch hết thảy nhan duyên ân ái và kẻ khinh mạn các pháp. Bất thoái trí là lìa danh ác của tất cả pháp, danh bản vô úy, không được cũng không mất. Bất thoái nhẫn là khiến tất cả pháp không buông không giữ, không chết cũng không sinh. Bất thoái trí bỏ tâm tham đắm, rốt ráo trọn vẹn không có tăng giảm. Bất thoái trí là làm pháp căn bản, sinh ra trong ba cõi một mình thù thắng. Bất thoái nhẫn là tư duy gốc khổ, truy tầm biết rõ nó từ đâu sinh. Bất thoái trí là phân biệt nhân duyên ý thức của căn môn. Bất thoái nhẫn là Bồ-tát trọn không làm trái với thệ nguyện của mình. Bất thoái trí là thường sẽ hóa sinh, không vì thân này mà thọ thai phần. Bất thoái nhẫn là tư duy các loại hưng suy của ấm nhập. Bất thoái trí là biết rõ trong thân, khởi quán bất tịnh từ đầu đến chân không có gì đáng tham đắm. –Này Tối Thắng! Bồ-tát thường nên tư duy phân biệt biết rõ, người mới khởi học tâm Bồ-tát phải dùng bất thoái nhẫn để quán sát thất bản, không có sinh diệt, nắm giữ, đoạn trừ. Lại nên tư duy bát bản của Hiền thánh thảy đều không thấy có sinh diệt, thủ xả. Này Tối Thắng! Giả sử tùy theo tâm lượng mà thọ sinh, hoặc sinh cõi Sắc, năm Địa, mười Địa, sáu Địa, bốn Địa, ba Địa, hai Địa, một Địa, người ở ngôi vị thấp nhất cũng nên tư duy đầy đủ thất bản. Trong cõi Vô sắc lại có mười một, người biết rõ không tịch, không thoái chuyển có thể thành tựu Khổ nhẫn, Khổ trí, Tập, Tận, Đạo nhẫn và trí Hiền thánh, cũng sẽ biết rõ tám huyền thông nhẫn, trừ năm mươi hai lậu vô minh. Bồ-tát trụ Địa thứ bảy thường nương vào Sơ thiền, hành sáu thánh trí, tu Tam-muội, và ba duyên phạm đường nơi hỷ căn. Nếu dựa vào trung thiền mà không thủ chứng thì nên tu bảy trí không giác có quán, tâm hành thủ hộ Không, Vô tướng, Vô nguyện. Giả sử Bồ-tát niệm tam y hiền, biết rõ mười tuệ, không niệm giác quán Không, Vô tướng, Vô nguyện, an lạc tự vui. Khi ấy, Bồ-tát ở trong tư thiền lại nên biết rõ mười sáu thánh trí, cũng không có giác quán, hành ba phạm đường gìn giữ ý mình không cho tán mất, có thể nhập vào bảo tạng của Bồ-tát, hành theo trí nhẫn, hiểu rõ không còn ung nhọt, không bị năm mươi hai lậu trói buộc, biết rõ các pháp, phát khởi theo thứ lớp, sớm được pháp Thánh tuệ không thoái chuyển. Nếu Bồ-tát tu mười sáu trí thù thắng thì không còn hoài nghi, tà kiến, dứt trừ tất cả các trói buộc, tâm ấy kiên cố không khiếp nhược, ý chí vững chãi không hôn mê, đạo nơi ba cõi không có chướng nạn, chí như kim cương không gì phá được, tâm thường hỗ thẹn, ý hay chiếu soi thông đạt tất cả, trí như ánh sáng chiếu diệu khắp nơi, ngôn từ biện tài thông suốt vô ngại, sớm được Tổng trì chưa từng thất niệm, được hạnh quyết định không còn trầm mê, ở bất cứ đâu cũng hành nghiệp Phật, làm việc bình đẳng, tâm không tăng giảm, nói lời nhu hòa không hại một ai, tánh không thô tháo, thẩm xét an tường, biết rõ căn cơ người rồi mới nói pháp, biết rõ năm ấm, thấu triệt các nhập, hiểu các pháp một cách đầy đủ, thấy rõ nhân duyên báo ứng của ba đời, biết tâm niệm của người mà ví họ nói về quả báo thiện ác, xứ, phi xứ, tâm tuệ sâu xa không có bờ mé, hiểu các phương tiện tùy thời giáo hóa, biết thời đi đứng ra vào tới lui, biết việc nên làm hay không nên làm, uy nghi an tường không mất tư cách, ở nơi đâu cũng hưng phát tâm đạo Vô thượng Chánh chân. Như vậy Tối Thắng, Bồ-tát ở bất cứ nơi đâu cũng nói pháp độ người khiến đắc thành đạo quả, thoát khỏi các nạn, được an ổn vónh viễn, không sinh vào tám chỗ không an vui, đến cõi nước nào cũng được tự tại, nghe giảng pháp yếu liền được độ thoát, thọ trì phụng hành những lời dạy ấy, liền đạt được pháp không thoái chuyển, hiểu rõ tuệ không không từ đâu sinh, liền thành đạo Vô thượng Chánh chân. Bồ-tát thường nên dùng phương tiện quyền xảo, nhưng không được nghó rằng, ta nay đã hàng phục sắc, tướng không còn bản ngã mong cầu, không sinh tâm nhỏ cũng không thủ chứng. Đó gọi là Bồ-tát không còn thoái chuyển, biết rõ pháp mười hai nhân duyên, do vô minh mà có sinh tử. Tìm hiểu chỗ sinh ấy thì không thể thấy, cũng không thể quán, cũng chẳng có tướng, cũng chẳng phải không có tướng, chẳng phải chẳng có tướng, chẳng phải chẳng vô tướng, thông đạt gốc nhân duyên ấy, không thấy việc làm có chánh hay không chân chánh và thượng trung hạ cũng lại không thấy có tội phước báo ứng hay việc làm hạnh bất thiện, hiểu rõ các pháp đều không có sinh, tu gốc các pháp không thấy hợp tan, đó gọi là nhân duyên sinh khởi. Nếu không có duyên thì không có ưu hoạn. Nếu không ưu hoạn tức là vô minh, hành diệt thì sinh, già, ưu, bi, khổ não diệt. Đó là người thông đạt pháp mười hai nhân duyên. Tất cả tên gọi các pháp đều có nhân, do nhân duyên hợp tan nên chẳng có ngã hay vô ngã, chẳng có người hay không người, cũng lại không thấy có ngã nhân thọ mạng, sinh, già, vô thường, chẳng thấy có nhập và sở nhập, biết rõ thức nhập đều không có chỗ nhập. Người thâm nhập như vậy thì thấu rõ tất cả pháp thoái chuyển, không thoái chuyển. Này Tối Thắng! Bậc Đại só không thoái chuyển muốn đầy đủ tất cả pháp, nên hiểu rõ vô thường, khổ, không, vô ngã, tuy biết hư tịch nhưng vì chúng sinh nên không thủ chứng. Bồ-tát tu hành thanh tịnh không nhiễm hữu vi, còn chúng sinh chẳng thấu rõ gốc rễ pháp hữu vi. Hiểu rõ mười hai nhân duyên và pháp hữu vi ấy, Bồ-tát làm người dẫn đường thông đạt vô vi. Tuy ở cảnh giới vô vi những Bồ-tát hành pháp Không, Vô tướng, Vô nguyện, không trụ vô vi mà thủ chứng nó. Biết rõ vô thường là pháp sinh diệt, tu hành công đức không có biếng nhác, quán nguồn gốc khổ của chúng sinh ấy thọ, chỉ dạy chúng sinh ấy tự tỉnh giác, quán sự diệt của các pháp không có tận cùng, quán thọ, ý, pháp không có xứ sở, quán vô sinh không thấy sinh, quán gánh nặng ấy của chúng sinh, quán hữu lậu, vô lậu, ba cõi bất diệt, hành bốn Tâm vô lượng, thương kẻ hậu học, giữ ý không nhiễm, không xả đạo Duyên giác của đệ tử. Như vậy Tối Thắng! Bồ-tát ý chí thanh tịnh, sáng suốt, thị hiện theo sự ưa thích của người, thích hợp với chúng sinh làm cho được toại nguyện không có tổn giảm. Với tuệ công đức, tâm ý sáng suốt, Bồ-tát nhìn thấy sắc, thấu rõ tánh không, tu tập nhẫn nhục không khởi loạn tưởng. Nếu có người sân uế, mắng chửi, Bồ-tát chỉ niệm pháp ấy, hiểu rõ trong ngoài đều không, không có sở hữu, cũng không hoài nghi về sự giới hạn nói không, không thấy có mình và người. Vì sao? Vì bậc không thoái chuyển, vì người xin mà hoan hỷ cho họ. Giả sử có người xin đầu, Bồ-tát tâm rất vui cho, không trái với người, không có tham tiếc. Nếu xin vợ con thì liền đem cho, tâm không thay đổi. Chỉ giảng nói đạo Vô thượng chánh nhân, không ân cần khuyến tấn người làm Kim luân vương, Đế Thích, Phạm thiên. Nói pháp vi diệu cho hết thảy nhân sinh phát tâm học đạo Bồ-tát. Bằng thần thông, Bồ-tát dạo khắp mười phương gặp Phật, lễ bái cúng dường chư Phật Thế Tôn. Giả sử trong ba ngàn tam thiên đại thiên thế giới đầy ắp vật quý báu, Bồ-tát cũng không khích tâm tướng đắm nhiễm. Tất cả vật được nhìn thấy Bồ-tát cũng không nghó là của ta, tâm ý thanh tịnh chẳng cầu sắc tưởng. Vì thân pháp chẳng thể thấy nên Bồ-tát thấy tất cả người như pháp giới trụ, sớm được đạo nhãn, thần tuệ đầy đủ. Nhờ được tuệ nhãn nên biết tất cả đều không có sở hữu, hiểu rõ pháp tánh chân tế-là như vậy, liền đợc Phật nhãn và mười tám pháp bản, pháp nhãn phân biệt, thông đạtb vô ngại, đầy đủ mười lực, gìn giữ đại nguyện liền đến cảnh giới vô vi bất tử. Tối Thắng nên biết, Bồ-tát tu hành theo Nhất thiết trí, tu tập trụ trước mà không trụ trước, hiểu rõ trụ này, trụ mà không trụ, học mà không học. Bồ-tát thường niệm pháp không tịch, tùy thuận các pháp mà không trái nghịch, không vì tùy thuận mà bình đẳng, không vì phản nghịch mà đọa nơi biên địa, không vì học theo tà đạo mà rơi vào cảnh giới ma, cũng không học theo Đại thừa cầu may. Vì sao? Vì chẳng bỏ pháp yếu kiên cố. Vì không có pháp nên không phạm sai trái, vì tự biết nên không có tạo tác, có thể chuyên tâm chế ngự năm ấm, khiến không luân hồi, vượt qua cõi ma, không thể che tâm Bồ-tát. Khi ấy, Tối Thắng bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Thế nào là Bồ-tát không thoái chuyển, trụ mà không tru, học mà không học? Phật bảo Tối Thắng: –Này Tối Thắng! Bồ-tát trụ Địa thứ bảy ở trong ba cõi mà không nhiễm ba cõi cũng không có sở tập. Không tập học là nói về bên trong, không cầu tập là nói về bên ngoài. Tuy tập ở bên ngoài nhưng không theo đệ tử. Xem vô sở học cũng chẳng phải là Duyên giác. Tập nghóa là tập học sinh tử, tập tu của Bồ-tát, là học vô tư, tập mà không tập, học mà không học. Tập là danh sắc, tập là nhân duyên, tập là ngã kiến, tập là ái nhiễm, tập là ngã sở cũng chẳng phải ngã sở, tập là tuy tham nhưng học tập bố thí, tập là tuy phạm giói nhưng học hộ trì giới, lại không vì trì giới mà cống cao. Tập cũng sân nhuế nhưng học tập nhẫn nhục, tập là biếng nhác nhưng học tập tinh tấn, tập là ý an loạn nhưng học tập nhất tâm, tập là vô minh nhưng học tập trí tuệ, tập tuy không có quả báo nhưng học tập công đức, tập là nghiệp thế tục nhưng học tập nói đạo tập là trói buộc nhưng học tập độ thoát. Như vậy tối thắng, Bồ-tát trụ Địa thứ bảy tập mà không tập, học mà không học, đạt được tuệ vô cực đối với tất cả pháp không thấy có được mất, cũng không có nhập cũng chẳng phải không nhập, chẳng thể dùng sắc để nhập, thọ, tưởng, hành thức cũng như vậy. Không từ số pháp mà đạt được hữu cực, cũng lại không từ số phi pháp mà đạt được vô cực, cầu Nhất thiết trí. Bồ-tát nên trụ trí như vậy. Không được nghó là có ta tạo tác, người hiểu như vậy là Nhất thiết trí. Bồ-tát muốn cầu Nhất thiết trí thì nên cầu từ bốn đại tạo sắc. Vì sao? Vì chấp thân nên chướng ngại, thọ sinh theo bốn loại. Người không chấp thân thì xa lìa ái dục. Bồ-tát trụ thì trụ với trí như vậy, vượt qua các cõi, trụ mà không trụ, không chấp có sinh nên không bị sinh. Nếu thấy sinh thì đó là phi sinh. Vì biết vô sinh nên gọi là tuệ vô sinh. Những người biết như vậy gọi là bậc Đại thừa vô hạng vô cực bình đẳng. Khi Phật nói lời này, mười hai ức trăm ngàn Thiên tử đều đắc Vô sinh pháp nhẫn, bảy vạn hai ngàn người đều phát tâm đạo Vô thượng bình đẳng. Khi ấy từ trên các tòa Thanh văn tôn quý, trưởng lão Ca-diếp, Xá-lợi-phất, Ma-ha Mục-kiền-liên, A-na-luật, Ly-việt, Nan-đầu-bà-la, Phân-nậu, Văn-đà-ni-phất, Không Tu-bồ-đề cả thảy năm trăm vị A-la-hán liền từ tòa đứng dậy, chỉnh lại y áo, quỳ gối phải chấm đất, đầu mặt lễ sát chân Phật, đồng thời cùng cất tiếng bi ai, nghẹn ngào, nức nở, lấy tay chùi nước mắt, bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Chỗ thấy của chúng con hạn hẹp, đã hạn mất hạt giống Thánh, Phật đạo thâm thúy chẳng do tẩy rửa. Nếu có người nam, người nữ nào, thậm chí kẻ phàm phu ở trong ba đường ác muốn cầu đạo thì nên phát tâm tôn quý cầu thành Phật. Vì sao? Vì như Đức Phật ngày nay, đem trăm ngàn pháp nói cho chúng con chẳng thể thành Bồ-tát phát ý, các vị A-la-hán tự hối hận, nghó mình không bằng ai, nay tuy đắc đạo xưng là La-hán, đầy đủ sáu thông, công đức thanh khiết, siêu việt ba cõi nhưng chẳng bằng người trăm ngàn vạn kiếp tạo tội ngũ nghịch, đọa xuống địa ngục vô trạch, mong chờ tội diệt, hết thời hạn còn có ngày ra, tiến tu cho đến diệt độ, phát tâm thành đạo Bồ-tát. Ngày nay căn của chúng con đã hoại, gặp thời mà không được lợi ích. Vì sao? Vì hạt giống Bồ-tát đã bị thiêu cháy như đồ đựng bị lủng chảy không thể chứa vật, chẳng thể thành đạo Bồ-tát. Các loài có hình như chim, thú, côn trùng, loài một chân, hai chân, cho đến trăm ngàn chân dựa vào đất mà sống, ăn đồ ngon ngọt, mặc áo mịn màng, đời sống của muôn thú lệ thuộc vào đất. Chúng ta tuy đắc đạo nhưng còn nuôi dưỡng bốn đại, vậy chúng ta và muôn thú có gì khác nhau? Các loài kia tuy tạp cấu nhưng dần dần sẽ thoát khỏi thân hình súc sinh, gieo trồng công đức không ngừng nghỉ, thành bậc Đại thừa, chư Thiên và muôn loại đều nhờ họ mà độ thoát. Còn chúng ta thật là thấp kém, chẳng bằng những vị ấy. Các vị A-la-hán đều buồn rầu, hối hận việc tu của mình. Khi ấy, một ngàn bảy trăm vị trong hội, trước đây tu pháp Thanh văn, Duyên giác nhưng chưa đi sâu vào đạo nên chuyển hướng phát tâm vô thượng kiên cố, liền ở trên tòa đắc được Vô sinh pháp nhẫn diễn nói đại pháp lục độ, tuyên dương bốn Thánh đế khổ, tập, tấn, đạo, bốn ân, bốn vô lương tâm, giáo huấn hết thảy chúng sinh khiến cho phát tâm đạo. Khi ấy, Xá-lợi-phất nương oai thần của Phật, bảo khắp các vị Bồ-tát trong hội: Khi xưa ta ở địa vị phàm phu hoặc từ trụ thứ nhất tấn tu đến Trụ thứ năm, lại còn thối đọa trở lại sơ trụ. Lại từ sơ trụ tiến đến Trụ thứ năm hoặc thứ sáu, trải qua sáu mươi kiếp như vậy cuối cùng chẳng thể đạt được không thoái chuyển, liền khởi tâm hối tiếc. Nếu đem trì giới thanh tịnh thì sở nguyện chắc được như ý, không phạm những điều sai trái, dùng pháp trí tuệ soi sáng khắp nơi. Bồ-tát trụ được không thoái chuyển, không chấp vào sự bố thí hay không bố thí, cũng không thấy có giới nhẫn nhục, tinh tấn, nhất tâm trí tuệ, cũng lại không theo pháp của cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc, cũng lại không theo hành động của thân, khẩu, ý, đối với tất cả pháp đều không có nhiễm chấp, xem như huyễn, như hóa, như gợn nắng, như tiếng vang từ đầu đến cuối của sự bám trụ đều thanh tịnh, không có ngã, ngã sở, thọ mạng, dài ngắn, không thấy tên gọi đạo tục, phải trái, cũng không tự nghó ta đang mong cầu là đúng hay đang không mong cầu là đúng, không có tưởng buồn vui, không duyên, không tạo tác, không thấy có sinh, không thấy có sự thấy, cũng không thấy xứ sở. Người học như vậy là học không tham, sân, si, không tăng giảm, không đọa vào cõi ác, không có tâm thoái chuyển. Người muốn thành Phật thì phải tập tu như vậy, chẳng tạo tội cũng chẳng tạo phước, chẳng có giới cũng chẳng phải không có giới, chẳng có tướng, các pháp bình đẳng không có sai khác. Khi Xá-lợi-phất nói những lời này, thì có vô số trăm ngàn chúng sinh đều phát tâm đạo Vô thượng Chánh chân. Khi ấy, Tối Thắng bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! sao nói tất cả các pháp là như huyễn, như hóa, như gợn nắng? Phật bảo Tối Thắng: –Này Tối Thắng! Ví như vật được hòa hiện, chẳng có đến cũng chẳng có đi, không có xứ sở nên hiểu các pháp cũng lại như vậy, không từ đâu đến cũng chẳng đi về đâu, tánh nó trụ như vậy không có biến đổi, cũng không có ai tạo tác các pháp. Thân Như Lai có hai: Một là thân biến hóa, hai là thân pháp. Thân pháp thì không thể thấy cũng không có hình tướng. Thân biến hóa thì như hư không, vô hình. Này Tối Thắng! Với bản hạnh tu tập của bậc không thoái chuyển thì có thể làm Sư tử rống giữa đại chúng hành pháp không tuệ không ai bì kịp, luôn tập thuần thục các pháp thanh tịnh vô cùng thâm diệu chẳng thể nghó bàn, chẳng thể đong lường. Như vậy Tối Thắng bậc Đại só không thoái chuyển ở trong trụ Địa thứ bảy nên thanh tịnh hạnh mình như thế. q Kinh TỐI THẮNG VẤN BỒ-TÁT THẬP TRỤ TRỪ CẤU ĐOẠN KẾT <卷 id="113335686">Quyển 3 <詞 id="113335687">Phẩm 8: ĐỒNG CHÂN Lúc bấy giờ, Bồ-tát Tối Thắng thưa: –Bạch Thế Tôn! Bậc Bồ-tát thứ tám làm thế nào mà trụ vào quả vị thứ tám để tu hành thanh tịnh? Phật bảo Tối Thắng: –Bậc Bồ-tát thứ tám thường xuyên bằng thần thông làm lợi ích chúng sinh tùy theo căn cơ, xem xét ý muốn của họ mà thị hiện, lại dùng thần thông đi khắp các cõi nước Phật, quán sát việc làm đặc biệt thù thắng của chư Phật, trở về tự trang nghiêm cõi nước Phật của mình đích thân đến hầu hạ kính lễ các Đức Phật, quán thân tướng của Phật là không, không thật có. Tu tập hiểu biết các nhẫn, phân biệt các căn, thường nhập định Tam-muội như huyễn biết nó vốn là không, theo công đức đã làm được không có sự mong cầu, không có hình tướng, vượt khỏi ba cõi, hoàn toàn không còn bị trói buộc, Tuệ không bằng ý niệm, không có sinh diệt, vì không có sự sinh nên gọi là Tuệ. Làm không thấy làm, cũng không thấy có người tạo tác nên gọi là Tuệ. Không có ranh giới, khoảng giữa, đều không dừng lại cũng không lõm xuống. Tuệ là thanh tịnh không lệ thuộc vào thức. Vì sao? Do không tưởng niệm nên Tuệ vô hạn, bằng diệu lực phương tiện không bị lệ thuộc vào tham dục, cũng chẳng trụ nơi sắc hoặc vô sắc, tuy cũng ở nơi ô nhiễm mà không bị đắm trước. Thế nên Tối Thắng, Đây được gọi là Đại Trí. Xa lìa tham dục, sân giận, ngu si, không ở chỗ ngu tối, hoàn toàn không còn chướng ngại, không dính mắc, đoạn tuyệt. Bỏ mười hai nhân duyên mà căn bản là vô minh nên không còn thấy ta và người. Vô ngã thì không có ngã, không trụ tham dục, rõ nó chỉ là một, không cầu sắc tưởng lại không nghó ở trong các sắc. Nên gọi là Tuệ nghiệp của Bồ-tát thứ tám. Hoàn toàn không còn lệ thuộc theo duyên, không bị các tai họa phiền não, không hợp với nghi, cũng không hữu vi, chẳng phải không hữu vi. Không cầu phước chẳng phải không có công đức, vượt qua các việc ác phi pháp. Vì sao? Vì không thấy pháp tánh thường tồn nên kẻ ngu làm việc phi pháp, không thấy thân tâm bị phiền não quấy rối, ý không bị vọng tưởng. Thế nên Tối Thắng, đó gọi là Tuệ. Phân biệt không quán, biết rõ vô sinh, không cho tăng trưởng, đoạn diệt chấp thường, khống chế sáu giác quan, hoàn toàn không nhìn sai lạc, thệ nguyện sâu xa không có giới hạn. Đồng Chân tu hành, giữ gìn cấm giới, không vượt thứ tự. Nếu thấy người thoái lui rơi vào quả vị thấp, thường khuyến khích, dẫn dắt họ được ở quả vị cao. Tùy thuận phụng sự pháp, không bỏ tu luật nghi của chư Phật, thân tâm vui vẽ vô cùng, tăng thêm sự an lạc nơi đạo, gìn giữ Pháp thân, không dứt đoạn dòng Thánh, giải thoát không còn trói buộc, tu tập pháp thế gian và xuất thế gian. Nhờ pháp tánh nên không bỏ các học xứ, giữ gìn giới cấm, nên được thanh tịnh không cùng tận. Ở trong sinh tử đến đây đã chấm dứt. Sự qua lại khắp cả năm đường cũng phải dừng nghỉ, chỗ ở vô thường cũng diệt tận. Các học phái khác chứng được ngũ thông nhưng không xa lìa trí thế gian. Cầu được sống lâu, về sau bị mất thần túc, chết rơi vào sinh tử. Chúng sinh nào siêng năng tu hành ngũ giới, thập thiện thì sẽ sinh vào cõi trời, người. Siêng tu năm giới trong cõi trời dục, thì được hưởng đầy đủ công đức. Nếu có chúng sinh tu tập Định, không ở cõi Sắc, dùng sự hỷ lạc làm thức ăn, tịch tónh vô tưởng làm Niết-bàn thì đây là tự mình khống chế mình chứ không phải đạt đến chỗ diệt độ hoàn toàn. Bậc Bồ-tát thứ tám quán sát rõ nơi đómà không bị nhiễm chấp, thường diễn giảng pháp, khuyên người siêng năng tu học xa lìa nơi ấy. Tối Thắng nên biết, việc làm của Đồng chân cũng xa lìa con đường Nhị thừa. Từ Tu-đà-hoàn đến Bích-chi-phật đều còn lỗi lầm. Bồ-tát hoàn toàn không còn nghó đến pháp A-la-hán. Vì sao? Vì tâm của A-la-hán còn lệ thuộc nơi đạo Niết-bàn. Bồ-tát không học cách tu của Duyên giác, bởi vì Duyên giác không phát khởi tâm Từ thương xót rộng lớn. Người tu học theo đây đều chẳng phải là chân chánh. Nếu có Bồ-tát tu học muốn được biển trí tuệ hoàn toàn, đến tận nguồn gốc mà chưa thể đạt được, lập nguyện không bỏ tất cả chúng sinh, tu pháp của Như Lai vì tánh bất diệt. Tuệ vô cùng cực nên không thể thấy được, diễn giảng đạo quả liền được thành tựu, Bồ-tát nói lời chân thật, phát khởi thệ nguyện rộng lớn. Mười lực vô úy, mười tám pháp Bất cộng thù thắng cũng không thể nghó bàn, không thể cùng tận. Bậc Bồ-tát thứ tám hóa độ khắp nơi, giữ tâm thực hành hạnh nhẫn nhục không thể nghó bàn, tâm không nghó trái, không làm các việc ác, không tăng thêm sự giận dữ sân hận đối với chúng sinh, lại không có ý tranh đua với người khác, không dẫn dắt họ đi đến sự lỗi lầm. Cẩn thận giữ gìn thân không phạm tội, miệng không nói dối, đem những hành động của mình che chở chúng sinh, không theo việc tà, suy nghó về việc làm thiện, ý không tham dục, có thể trang nghiêm thân như thân tưởng Phật. Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Tối Thắng: “Bồ-tát đồng chân thường phải học về ngôn ngữ, ý nghóa âm thanh”. Thế nào là Bồ-tát học về ý nghóa âm thanh? Đó là Bồ-tát biết các pháp không, chẳng nhiễm chấp kíên chấp, tư duy vô tướng nên không loạn niệm, phân biệt, vô nguyện xa lìa hẳn ba cõi, pháp không dâm dục, tánh vốn thanh tịnh, không còn sinh khởi phiền não, thấu rõ vô minh không còn ngu tối. Nên suy nghó về các pháp của quá khứ, hiện tại, vị lai. Các pháp tự nhiên hoàn toàn không có chỗ sinh, không thấy khởi diệt, sinh tử, không bị báo ứng. Tin thật có quả báo của việc làm thiện ác, miệng thanh tịnh không nói dối. Tâm vị ấy sáng suốt, hạnh không ô nhiễm. Càng tăng trưởng việc làm thù thắng, không bỏ tất cả chúng sinh. Thường tự xem pháp như mộng huyễn. Giả như có ý niệm tà liền tự biết được. Tánh thường hòa nhã giữ gìn tâm mình khiến không sinh điều ác, thường sinh ở cõi thanh tịnh chân chánh. Nếu ở nhân gian thì đầy đủ các đức, tám mươi tướng tốt, giọng nói trong trẻo như tiếng chim loan, hoặc nói tiếng rất hay như Phạm thiên không hề nói phù phiếm, bỏ dâm dục, giận dữ, ngu si không còn lo buồn, hoàn toàn không đem đến cho người thái độ xấu và tâm thù hận, công đức đã tạo chưa từng bị mất, tùy theo căn cơ của họ làm cho được an lạc, thường nói pháp khuyến khích cho tất cả, thâu phục ngoại đạo và các học phái khác, xa lìa khổ não không còn ách nạn. Đầy đủ các pháp của chư Phật, thường nhẫn nhục đối với người, thân tâm đạt đến sự tónh lặng, dù phải chịu sự mắng chửi vẫn im lặng không đáp trả. Nếu bị chúng sinh đánh đập không nghó đến oán thù, cũng như đất chấp nhận tất cả vạn vật, hoàn toàn không còn tâm phân biệt và ý nghó thêm bớt. Vì sao? Vì pháp tánh xưa nay vốn không. Nếu bị sân hận hoàn toàn không oán thù, xem thái độ giận dữ ấy như huyễn, nên phát khởi ý tốt không đem tâm chống trái. Đối với người có ý niệm ác nên xem như không biết, tự suy nghó: “Ta đã biết rõ nó là không, nên phải xa lìa không nên gần gũi với họ. Đối với người tức giận ta nên cẩn thận. Giả sử có người đến khen ngợi thì ta chẳng vui mừng, hoặc bị người đánh đập cũng không nên buồn khổ. Vì sao? Vì thấy thân mình và sự đau đớn bị đánh đều do những nghiệp cũ, để chế phục tâm. ở nơi vắng lặng suy xét trong thân có đủ thứ sinh, già, bệnh, chết, vô thường, thống khổ, lo buồn, sợ hãi, đói khát, nóng lạnh. Lại quán sát thân này hư hoại, là pháp vô thường, thân này là vật chứa các khổ, là nơi tập họp các bệnh, trống rỗng chỉ là bốn đại, thân này không ngã, không sinh, không diệt. Chúng sinh nơi ba cõi bị trôi nổi trong vòng ái dục, chìm đắm lưu chuyển không dứt, nên trước tiên phải kềm chế tâm không cho tăng trưởng, lại nghó đến nguồn gốc của dòng lưu chuyển, ở trong ba cõi phải chịu sinh tử, thọ thân không ngừng. Cũng nên suy nghó về dòng tà kiến, chúng sinh ngu si điên đảo bị lệ thuộc sáu mươi hai tà kiến, nên mê muội theo dòng đời. Chúng sinh nơi ba cõi lưu chuyển trong vô minh, bị mê mờ ngu si không biết đường chân chánh, lấy bất tịnh làm tịnh, rơi lại trong dòng dục, lấy khổ làm vui, lấy vô thường làm thường, lấy chẳng phải thân làm thân, cũng không nghó từ bỏ tham muốn ô uế, tự hại mình, mãi mãi không lo tu tập, già rồi dâm dục không dứt, có của cải không bố thí, không tiếp nhận lời Phật dạy. Đó là bốn thứ ngăn che làm tăng trưởng gốc ái do ý niệm cùng với hành động của thân tiếp xúc cùng nhau. Như vậy, này Tối Thắng! Bồ-tát vào sâu Thiền định quán sát, trừ bỏ ác dục và tư tưởng xấu. Ở trong thân này, nhớ nghó đến Tam bảo, quán xét vô thường, khổ, không, vô ngã, theo lời dạy của bậc Hiền, Thánh tâm không còn khổ, vui. Tu tập bốn Thánh đế, xét thấu đáo nghóa ấy, sinh là khổ đế, ái là Tập đế, thanh tịnh là diệt đế, thoát khỏi là đạo đế. Nhàm chán thân hình này không một chút đáng tham, nghó kỹ nguồn gốc từ đâu sinh ra, theo tánh quán sát mới biết gốc khổ là từ thân sinh ra. Tập nhân do ái sinh, ái diệt khổ diệt, không còn ái dục thì chứng được đạo. Thường theo tâm Từ, không có ý hại, nuôi dưỡng giáo hóa, thương xót chúng sinh, cần phải cứu vớt khổ sinh tử cho họ, hòa nhã niềm nở đối với mọi người, khuyến khích giáo hóa họ phát khởi đạo tâm, bằng lời nói thông suốt biết rõ tướng chân thật của các pháp, thông hiểu các pháp, tùy lúc thể nhập vào, hỏi thì trả lời ngay, đối ứng không trở ngại, lời nói đúng lúc, văn từ không nhầm lẫn. Bồ-tát bằng tâm “Từ” thương xót tất cả, nghó đến khắp chúng sinh, những loại có thân hình không tránh khỏi sự đau đớn, bệnh tật, già chết, nên dùng phương tiện làm ra cho chúng được giải thoát; lại khởi tâm “Bi” thương xót tất cả các loài bị các khổ về đói khát, nóng lạnh, được mất, lầm lỗi, gian nan, nghó đến phương tiện khiến cho họ được an vui; lại bằng tâm “Hỷ” nghó đến thế gian đều có các hoạn nạn, lo khổ, sợ hãi nên ta phải dùng phương tiện thích hợp làm cho họ được an ổn lâu dài. Thường bằng tâm che chở, Bồ-tát nguyện độ các chúng sinh đang bị tám nạn trong ba cõi đối với người ngu si mê muội không thấy đạo chân chánh, muốn cứu giúp họ đạt đến vô vi, thương xót chúng sinh tâm không thay đổi. Tuy thực hành những pháp này tâm không nhiễm chấp, không vì sự lao khổ mà sinh tâm thoái lui, khát ngưỡng đạo chân chánh vô thượng đối với các thông tuệ không nhàm chán. Dù được tiếp xúc năm thứ, ca, nhạc, múa, hát cũng không vui thích, hiểu rõ thế gian đều là huyễn hóa, tất cả vạn vật đều trở về vô thường, không bị tám pháp làm lay động, thường xa lìa như tránh kiếp lửa, không ở trong đó bị người gây phiền não. Nếu người khác muốn đem sự sân giận đến với mình, thì hoàn toàn không đáp trả lại dầu chỉ bằng đầu sợi tóc, được cung kính cũng không dám xâm phạm đến người. Giả sử có người muốn hại Bồ-tát, cắt thân ra từng phần bỏ khắp nơi, đều có thể nhẫn nhịn không sinh loạn tưởng. Vì muốn đầy đủ phạm hạnh nên Bồ-tát lại quán pháp của thân và tâm hợp, thành, tan, diệt có gì đáng để tham muốn mà cho là quý báu. Nhờ kết quả này, chắc chắn được thân Phật, thành tựu đầy đủ kho tàng bí mật của Như Lai, lập chí nguyện lớn, suy xét nguồn gốc của đạo. Bồ-tát thực hành phương tiện biến hóa vô cùng, ở trong hàng ngoại đạo và các học phái khác, hiện thân vào trong lửa, nằm ngồi tự do, từ trong lửa ấy ra mà không bị tổn hại, hướng dẫn mọi người biết đạo chân thật, sửa đổi tâm mình, tu hành thanh tịnh, giáo hóa người ngu khiến tâm họ được trở về chân chánh, nhờ đó sinh lên cõi trời, diễn giảng pháp, hiểu rõ địa vị ở cõi trời cũng bị suy tán. Bồ-tát dùng phương tiện vào khắp mọi nơi, Đế Thích, Phạm vương, Tứ Thiên vương đều quy y mà đãnh lễ. Nhờ vào sự tích chứa công đức thù thắng, chẳng phải là chỗ của Nhị thừa đạt đến, trí tuệ thần thông, phạm hạnh cũng vô biên. Tâm rộng lớn không bờ mé, cũng không có hạn lượng, lời nói lợi ích không làm tổn hại đến mảnh lông. Vì thế nên Tuệ không cùng tận, phân biệt mỗi pháp của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân tâm, biết rõ đều không, không thật có, đạt đến nhẫn tuệ, chứng đắc các trí, không nghó tất cả là thường, ngay đó liền được trí tuệ tột bậc. Với người, nếu nói lời gì thì nghó về lời dạy ấy như âm vang trong núi, hiểu được điều này gọi là quyền tuệ. Lại xét về tánh không của các pháp hữu vi, vô vi, sự thật là vắng lặng, chỉ có tên gọi mà thôi, không nghó mình đã chứng đạo quả, những kẻ khác thì thua kém không bằng mình. Lại không tự nghó mình tu hành giới luật, tôn trọng giáo pháp, hoàn toàn không sinh ra những ý niệm ấy. Đó là quyền tuệ phạm hạnh vô biên. Nếu có Bồ-tát thực hành nhẫn hòa, nhẫn không, nhẫn đãnh, nhẫn không thoái chuyển, quán sát như thật không có hư vọng. Tu ba phạm trú không, không có nguồn gốc, không ý niệm chắc thật, không quán tư tưởng mà cũng không nghó có tưởng. Cũng không mong cầu để sinh tưởng nguyện. Pháp giới chỉ một tướng, không có hình dáng, nghó đến sinh tử không có đầu mối kết thúc, không có người bố thí, chẳng có vật bố thật, không thấy quá khứ, hiện tại, vị lai, xoay vần qua lại đều không chân thật. Quá khứ đã diệt, hiện tại không trú, vị lai không sinh, có đức không thấy vô đức, vô đức không thấy có đức, không phải có đức, chẳng phải vô đức, chẳng phải không có đức, chẳng phải không, không có đức. Biết rõ có đức hay vô đức đều vắng lặng không tịch, không có tên gọi sinh, diệt, thường, đoạn. Lại quán vô sinh không thấy chỗ sinh, không thấy vô sinh, phân biệt hữu sinh cùng vô sinh đều hư huyễn không thật, chỉ một chẳng phải hai, không thấy độ thoát thế gian chứng được đạo quả, lại cũng không thấy trước sau, khoảng giữa. Đối với văn tự lời dạy không thấy phân tán, không hợp với đời, lại không thấy nhóm họp mà cùng lưu chuyển. Như vậy, này Tối Thắng! Tu tập Phạm hạnh sâu xa khó lường, không thể nghó bàn, không ai sánh kịp, không thấy Đạo nhẫn cùng Trí nhẫn hòa hợp, cũng chẳng thấy Trí nhẫn cùng Đạo nhẫn hòa hợp cũng không phải không hòa hợp. Không thấy vô đạo cùng với vô trí hòa hợp, không thấy vô trí cùng với vô đạo hòa hợp, đạo nhẫn và đạo tự nó không cùng hòa hợp, chẳng phải không có hòa hợp, cũng chẳng không, không hòa hợp. Vì sao? Vì tự tánh của nó là không. Tối Thắng nên biết, Thế gian có hai pháp khiến người mới học có sự nghi ngờ. Thế nào là hai pháp sinh ra sự nghi ngờ? Ở đây, có Bồ-tát tu trăm ngàn pháp, chấp trước Niết-bàn, cho là giải thoát. Người nào tu hành như vậy sẽ bị tổn giảm. Hoặc có Bồ-tát biết tánh Niết-bàn là hoàn toàn giải thoát nên không sinh nhiễm chấp, tuy có lập ra sinh tử nhưng không theo, không bỏ, biết rõ chỉ là một, không có tên gọi khác nhau. Bồ-tát có tuệ nhẫn hoàn toàn không sinh tâm phân biệt, bình đẳng đối với Đại thừa, hiểu rõ tuệ không, không chấp trước, không đoạn diệt không bị nhiễm ô mới gọi là bình đẳng, quán rõ tánh bình đẳng không trói buộc, không giải thoát, không tạo tác nên không có chỗ sinh, không thấy tự nhiên mà có sinh diệt, người giải thoát như vậy mới gọi là tự nhiên. Không thấy có tự nhiên, không thấy không có tự nhiên, biết rõ tự nhiên đều không thật có, đó là thanh tịnh, đó là diệt tận. Như vậy, này Tối Thắng! Bồ-tát từ lâu đã thành tựu tuệ vô cùng cực, hành tuệ vô sinh không thể cùng tận. Ban đầu mới tu học cho đến lúc ngồi dưới gốc cây nơi đạo tràng, thâu phục ma oán, thánh đạo Vô thượng, trước phải nhập vào những tuệ Định ý này sau đó mới đi vào Định Sư tử Vấn Tấn Độc Bộ, phóng ra ánh sáng lớn chiếu khắp tam thiên đại thiên thế giới, người thấy ánh sáng này đều do tuệ nhẫn, thấy rõ hào quang bao quanh, ý thức nhu hòa, tâm không hung bạo. Thường bằng tâm Từ bi hộ trì thân, miệng, ý lời nói thanh tịnh trước sau đều không tổn giảm, tùy theo vô vi tôn sùng Phật đạo, ở trong Tam-muội tâm không loạn tưởng. Đối với người khiêm tốn không khinh miệt, công đức đạo quả ngày càng tăng trưởng, sự trói buộc oán ác không còn mầm móng, có thể đến các cõi Phật khác, biết rõ ánh sáng và sự thần thông cảm ứng, tùy thuận giáo hóa chúng sinh, độ thoát tất cả. Suy tìm ánh sáng đó rõ là không thật có, lại phân biệt rõ các tướng cũng không chân thật, nên phân biệt tướng trạng sinh khởi của sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Thế nào để quán sát rõ tướng của năm ấm? Người thấy có ánh sáng cho là sắc, phần vật chất của thân hình cũng cho là sắc, nhận lấy đem cho cũng là sắc, giữ gìn thân mình cũng là sắc, nếu cùng với người khác cũng gọi là sắc. Thứ đến phải biết sự sinh diệt của thọ. Do những gì mà có thọ này? Khổ thọ, lạc thọ, bất khổ bất lạc thọ, thường nhớ nghó phân biệt mà không có khổ, vui làm sao lại có thọ. Việc này không đúng, người hiểu rõ đây là tướng thọ. Ghi nhận cho đến trôi chảy mãi không dừng, nhớ đến quá khứ hiện tại, vị lai, hoặc nam hoặc nữ và vô số biên ý niệm khác. Không có hạn lượng gọi là tư tưởng, hiểu rõ tướng này không đến không đi cũng không nơ chốn, giả dối không thật, cũng không có tên nên gọi là tư tưởng. Bồ-tát thấy rõ các pháp thiện, ác, hữu ký, vô ký, hữu lậu, vô lậu, hữu vi, vô vi nên có sự tạo tác mà không bị chướng ngại. Có khi Bồ-tát thấy người làm việc thiện không làm việc ác, thấy người làm ác không làm điều thiện, hoặc có lúc không làm thiện cũng không làm ác thì phân biệt ngay trong niệm đó, không thấy thiện cũng không thấy ác, Này Tối Thắng! Đó gọi là Hành. Lại nữa nên hiểu rõ do nhân gì mà có Thức. Thức chẳng phải một tướng, Pháp của nhãn, nhỉ, tỷ, thiệt, thân, ý cũng gọi là thức. Pháp của sắc, thanh, hương, vị, xúc, căn cũng gọi là Thức. Lại biết rõ pháp khổ, vui, thịnh, suy cũng gọi là thức, ngay trong tư tưởng cũng gọi là Thức, lìa tư tưởng cũng gọi là thức, có thiện có ác cũng gọi là thức, không thiện không ác cũng gọi là thức. Chẳng phải có thiện, chẳng phải có ác, cũng gọi là thức. Hiểu rõ thức này từ đâu sinh, từ đâu diệt, biết rõ không sinh cũng không diệt, thông suốt như vậy là Thức. Như vậy, này Tối Thắng! Bồ-tát Phạm hạnh bỏ thân thọ hình thì thân, căn, ý, thức không bao giờ tán loạn, không nhận lấy thân trung ấm nên không có chướng ngại. Chúng sinh bỏ thân thì thần thức ở trung ấm, tùy theo nghiệp nặng nhẹ mà có chướng ngại. Bồ-tát Đại só ngay trong ý nghó, tùy theo ý muốn liền được thọ thân không bị chướng ngại. Tối Thắng nên biết, Bồ-tát Đồng chân thường làm bạn với Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ cùng nhau xem xét sự thanh tịnh của cõi Phật, lựa chọn cõi Phật tốt đẹp tối thắng nhất, giữ lại những hình ảnh tốt đẹp đó để làm Phật sự. Bậc Bồ-tát thứ tám chứng được tự tại, tùy duyên hóa độ chúng sinh khắp nơi, thuyết giảng đạo pháp không cùng tận, thường dùng pháp lành giáo hóa làm cho chúng sinh ưa thích. Lúc ấy, trong hội chúng, các Bồ-tát đều suy nghó: “Hôm nay Đức Như Lai tuyên thuyết tuệ nghiệp khen ngợi hạnh Đồng chân, công đức quả báo không gì sánh bằng. Nay thấy sự tu hành của bậc Đại só Tối Thắng thực hành theo hạnh nghiệp của Đồng chân, không sai khác. Nếu Bồ-tát Tối Thắng thành đạo chánh giác vô thượng, khi được thành Phật thì tên hiệu là gì? Cõi nước Phật đó được công đức trang nghiêm thanh tịnh như thế nào? Các Bồ-tát thành tựu những gì, giữ gìn pháp luật có sai khác không? Bấy giờ, Đức Thế Tôn biết rõ tâm niệm của đại chúng trong hội, nên mỉm cười. Có vô số ức trăm ngàn ánh sáng từ miệng Đức Phật phát ra, chiếu đến vô số thế giới khắp mười phương, che lấp cả ánh sáng mặt trăng, mắt trời và cung điện của ma, ánh sáng xoay lại chiếu quanh Đức Phật vô số vòng rồi đi vào trên đầu. Lúc ấy, các Bồ-tát ở trong hội từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo bên phải chắp tay lễ Phật thưa hỏi về ý nghóa mỉm cười: Thế Tôn không mỉm cười vô cớ, xin được nghe ý đó. Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo đại chúng: Các ông thấy Bồ-tát Tối Thắng này không? Đáp: “Thưa, chúng con thấy.” Đức Phật bảo những Bồ-tát trong hội: trong tiền kiếp này, trở về quá khứ một trăm Đức Phật, có Đức Phật ra đời hiệu là Sư Tư Oai Như Lai, xuất hiện ở đời là bậc Chí chân, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Vi Thượng Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, hiệu Phật, Thế Tôn. Tên cõi nước ấy như nay không khác. Cõi nước ấy rất xinh đẹp, năm loại ngũ cốc tự nhiên, có rất nhiều như, nhân dân phồn thịnh, thành quách nghiêm chỉnh đều được làm bằng bảy báu, vàng bạc lưu ly, thủy tinh, xà cừ, mã não, san hô, hổ phách và ngọc báu ma-ni. Cõi Phật đó bằng phẳng, có tám đường thông nhau do vật báu làm thành, mặt đất mềm mại giống như vải lụa trời, như cõi trời Đâu-suất, y phục, thức ăn, cung điện, nhà cửa, vườn hoa, ao tắm lầu gác nguy nga đẹp đẽ, cõi nước của Phật ấy uy đức như vậy. Chu Thiên, loài người tự nhiên hiện ra, trổi các âm nhạc, treo các phướn lụa, dựng cờ, lọng, đốt các hương thơm mưa những hoa báu đẹp, giữ gìn chánh pháp không cho gián đoạn, hướng dẫn làm lợi ích cho vô lượng chúng sinh. Bồ-tát Tối Thắng bỏ thân nơi cõi ấy, sẽ sinh vào thế giới Cực Lạc của cõi Phật Vô Nộ. Lúc Tối Thắng sinh vào cõi đó, Đức Phật Vô Nộ thuyết ra tám ngàn bốn trăm pháp môn khác nhau cho các Bồ-tát, tuyên dương giáo Pháp nhưng đồng một ý nghóa, thuyết pháp không gián đoạn Tam bảo, làm cho chúng sinh được vào quả vị Không thoái chuyển. Khi thuyết giảng như vậy, mọi người ở trong hội đều khen ngợi: “Lành thay! Lành thay! Bậc Đại só Tối Thắng được thọ ký thành Phật thật là nhanh, nguyện đời vị lai được sinh vào nước này, gặp lúc Đức Như Lai Sư Tử Oai xuất hiện trong đời, mong gặp được đạo pháp của Phật, tu hạnh Đồng chân như Bồ-tát Tối Thắng”. Khi ấy các Bồ-tát trong hội chúng lại nghó: “Làm thế nào khiến cho chúng sinh đều được pháp Tuệ nhẫn trí như hiện nay”. Ai nghe được lời này thì không còn sợ hãi do dự. Bấy giờ, Thế Tôn bảo Tối Thắng: –Bồ-tát thực hành đầy đủ các đức, trình bày vô lượng lời dạy đặc biệt, tùy thời thị hiện đến khắp mọi nơi. Hoặc làm phàm phu thân già cô độc, hoặc làm trẻ con, lại dùng phương tiện vào bốn đạo, cùng làm bạn với bậc chứng quả Tu-đà-hoàn, liền nói pháp cao hơn làm cho họ không biếng nhác. Nương phương tiện vào quả vị Tư-đà-hoàn, khuyến khích đoạn trừ nguy hiểm của năm tai họa, khiến được không còn bảy lần trở lại sinh tử. Hoặc ở cõi trời diễn giảng pháp cam lồ, hành giả ấy hoàn toàn không trở lại thế gian, cũng ở với bậc thánh không còn cấu nhiễm, vì họ giảng nói sáu mươi tám pháp khổ của thân, chê trách các pháp cấu uế đó làm chướng ngại đạo Vô thượng, làm mất trí tuệ sáng suốt, tổn hại giáo pháp. Hoặc hiện đạo Duyên giác của chư Phật, hiển bày mười tám pháp thần túc biến hóa, bằng sự giáo hóa im lặng khiến cho người thấy được giải thoát, dùng trí tuệ quyền xảo bên trong thích ứng tâm người, tùy bệnh cho thuốc khiến được thuyên giảm. Hoặc cùng với hàng mới học, ban đầu phát tâm nhập định thanh tịnh, khiến các chúng sinh thấy rõ sắc thân, thấy tam thiên đại thiên cõi Phật như tâm bàn tay, cùng nhau cúng dường, qua lại trong đó mà không tăng không giảm, khiến họ phát tâm chân chánh nơi đạo Vô thượng. Lúc đó, có Bồ-tát tên là Cứu Sướng, từ chỗ ngồi đứng dậy, quỳ gối chắp tay trước Phật thưa: Bạch Thế Tôn! định Tam-muội này có tên là gì? Mà làm cho thấy được tam thiên đại thiên cõi nước, cảnh giới khắp mười phương như ở trong tâm bàn tay. Chúng sinh ở trong đó đều cung kính cúng dường mà không thấy tăng giảm? Đức Phật bảo Bồ-tát Cứu Sướng: Định Tam-muội ấy gọi là thanh tịnh, sắc thân hiện khắp hiển bày dung chứa khắp nơi mà cảnh giới, cõi nước vẫn như thế không thêm bớt. Giả sử tam thiên đại thiên cõi nước và vô lượng hằng hà sa cõi nước chư Phật ở trong tâm bàn tay, cùng làm việc bố thí tạo các phước đức, nằm, ngồi, kinh hành tùy ý vui vẻ thì chúng sinh trong đó đều không biết nhau, thân ta ở đâu và thân thể không bị xúc chạm, Cứu Sướng nên biết. Đó là việc làm do oai thần của Bồ-tát Đồng Chân, ngay nơi sự hóa hiện ấy cũng không thấy thân mình, dầu ở chỗ nào vẫn làm cho chúng sinh không có tâm tăng giảm. Bấy giờ, trên tòa những người đến trong hội như: Trời, Rồng, Quỷ thần, Càn-đạp-hòa, A-tu-luân, Ca-lưu-la, Chân-đà-la, Ma-hưu-nặc, người và phi nhân đều có ý nghó muốn Bồ-tát Tối Thắng thị hiện thần biến Định ý thanh tịnh. Thế Tôn biết tâm niệm chúng hội đều có ý nghó như vậy, liền bảo Bồ-tát Tối Thắng: Này Tối Thắng! Ông nên vì tất cả chúng sinh và những người đến trong hội này mà thị hiện Tam-muội Định ý thanh tịnh để họ càng thêm tâm tin. Khi ấy, Bồ-tát Tối Thắng nương theo oai thần của Phật cung kính vâng lời Phật dạy liền nhập Tam-muội chánh định ở trên tòa, khiến cho hằng sa cõi nước khắp mười phương, Trời, Rồng, loài người, Quỷ thần, vua cùng quyến thuộc tôn quý của trời và Bồ-tát khác ở trong hội đều hiện rõ trong tâm bàn tay. Hoặc người thiền định, hoặc người kinh hành, hoặc người làm Phật sự có nhiều công đức, hiện ra những việc đặc biệt kỳ lạ khó ví dụ được, hiện thần túc rồi, tất cả chúng hội trong mười phương đến đây đều trở về chỗ của mình. Bồ-tát Tối Thắng cũng ngồi chỗ cũ, mặc y phục trang nghiêm, đầy đủ oai nghi. Khi ấy, Bồ-tát Cứu Sướng bảo Bồ-tát Tối Thắng: Nhân giả đã hiện oai thần Tam-muội, công đức ấy siêu việt vô cùng không có giới hạn, oai thần hiện rõ thật không ai bằng, mới có thể dung chứa thế giới trong mười phương, ở trên bàn tay phải của vị ấy mà không tăng giảm. Để đạt được hạnh của Bồ-tát Đồng chân chúng ta cần phải tạo thêm công đức, tinh tấn tu pháp định ý thanh tịnh, thực hành hạnh của Bồ-tát Đồng chân. Bấy giờ, Bồ-tát Tối Thắng đáp: Đúng vậy! Đúng vậy! Như lời ông nói. Nếu có các Bồ-tát mới phát tâm, muốn tu tập pháp Đồng chân, phải suy nghó siêng năng thành tựu đạo quả, khiến không còn thoái lui. Bồ-tát tinh cần có hai mươi việc nên thực hành, tăng trưởng ủng hộ không để thiếu sót. Hai mươi pháp không tổn giảm là gì? Đó là đối với Bồ-tát tu hạnh Đồng chân phát nguyện rộng lớn, tâm không giới hạn, muốn cứu vớt mọi ách nạn nguy hiểm, gọi là tinh tấn không còn thoái lui. Lại nữa, Bồ-tát tập họp đồ chúng để giáo huấn đạo lý không có hình tướng, thường nói về âm thanh không, vô, hư tịch. Đó là hạnh Đồng chân không còn thoái lui. Lại nữa, Bồ-tát ban bố công đức khiến cho người thấp kém đang bị ràng buộc trong tối tăm, trước tiên diệt trừ ý tham không còn tưởng niệm sau đó hướng dẫn họ thực hành bố thí. Lại nữa Bồ-tát thấy có người bị tai nạn liền đích thân đến giáo hóa, an ủi làm cho họ không còn khổ nữa. Thường tăng trưởng niệm lành, tâm không biến đổi. Lại nữa, Bồ-tát thực hành việc khó làm trải qua vô số kiếp khó tìm cầu được bậc thầy sáng suốt để hỏi về giới luật, giữ gìn tu tập chánh pháp, thường nghó đến việc khống chế sáu trần. Lại nữa, Bồ-tát cầu đạo Vô thượng, tâm không lệ thuộc vào sự ô nhiễm, thường xuyên tu tập các thần thông trí tuệ, thực hành chỉ quán bỏ tâm tham ái. Lại nữa Bồ-tát tùy thời thích hợp hiểu rõ những người chưa giác ngộ, dạy bảo họ không còn tâm si được thông suốt, sau đó mới dạy về các phương tiện. Lại nữa, Bồ-tát phát tâm thệ nguyện, đầy đủ tướng tốt trang nghiêm, làm thanh tịnh cõi nước đó thành màu hoàng kim, dẫn dắt quyến thuộc cũng đều như vậy. Lại nữa Bồ-tát phát nguyện cứu độ rộng lớn, không có khiếp nhược, không bị trở ngại, tuy ở chốn sinh tử không từ nan khổ nhọc, quyết chí kiên cố điều phục ngoại đạo. Lại nữa Bồ-tát tạo vô số công đức, thường nghó đến chúng sinh đang bị trói buộc, không có tâm nghó đến mình, nghó về Tứ đế hiểu rõ bằng Tuệ quán. Lại nữa, Bồ-tát mặc áo giáp đồng, thệ nguyện suốt vô số kiếp cầu đạo Vô thượng, hoàn toàn không nghó Ta đã thực hành đạo chân thật, người không thực hành như vậy sẽ bị tổn giảm. Lại nữa, Bồ-tát có tâm bao dung đối với phàm phu, người đến quy y, dạy cho đạo vi diệu, chỉ dẫn con đường cho họ hướng đến, xét khả năng của người đó dạy cho pháp cam lồ. Lại nữa, Bồ-tát quán sát phong tục thế gian đối với pháp luật nhà vua chế ra chớ nên chống lại, đối với việc thiện thì tuân theo, việc ác cần phải tránh xa, không tự cao ngạo hủy hoại phong tục. Bồ-tát phải học cách đi vào quần chúng, hoặc chúng Phạm chí, hoặc chúng Trưởng giả, chọn lựa lễ nghi nên đi thì đi, nên ngồi thì ngồi, nên nằm thì nằm, hợp với oai nghi, không bị sai lầm. Đó là Bồ-tát Đồng chân biết đi vào quần chúng. Lại nữa Bồ-tát thường phải tu tập pháp Vô sinh nhẫn, tuệ không khởi diệt, đầy đủ tất cả Phật pháp, đi đến vô lượng cõi Phật khắp mười phương, muốn được đầy đủ các pháp môn trí tuệ, hiểu rõ trí tuệ không cùng tận, phải nhớ nghó tu tập hạnh đồng chân. Lại nữa Bồ-tát giữ điều đúng, chế ngự cái sai không theo pháp tà, đấy đủ bố thí Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ, phương tiện khéo léo, ba mươi bảy phẩm trợ đạo, không vô tướng, vô nguyện. Tâm không còn chán nản, biếng nhác, hoàn toàn không quên thệ nguyện. Đó là tâm kiên cố của hạnh Đồng chân. Bồ-tát tích chứa gốc công đức lành, ngay rơi thân triền phược này tu các tướng tốt để trang nghiêm mình, diệt trừ kiêu mạn, vô minh, tà kiến. Bồ-tát Đồng chân hoàn toàn thanh tịnh, không bị cấu nhiễm, không thấy cảnh giới có sạch có nhơ. Khi ấy đầy đủ công đức vô lượng tướng tốt phước đức thảy đều đầy đủ, không biếng nhác cũng không thoái lui. Vì sao? Vì Bồ-tát Đồng chân phát thệ nguyện rộng lớn không bỏ bản nguyện, ban bố tuệ nghiệp tinh tấn không biếng nhác. Đó là Bồ-tát tu hạnh Đồng chân. Lại nữa, Bồ-tát phân biệt pháp huyễn hóa, dối trá, biết nó là hư tịch cũng không có hình thể để mà thấy được, trưỡng dưỡng tinh tấn chuyên tu bản nghiệp, đối với mười sáu phần không bỏ chút nào. Bồ-tát hành Từ bi luôn tự suy xét dục là đời sống của ta, từ đâu sinh ra, nên suy nghó kỹ để vượt ra khỏi sinh tử. Bởi vì người đời tự khởi thức tưởng, do ý nhiễm chấp, phát khởi lửa dục, thiêu đốt căn lành, đọa vào năm đường đều do vô minh, tham dục trói buộc. Nếu Bồ-tát nào phân biệt năm thứ tham dục đều không chân thật, siêng năng tư duy về dục thì hoàn toàn không bị nó chi phối. Ví như nghe ở nơi đồng trống, phương khác có người khổ hạnh đoạn dục, Bồ-tát liền dùng phương tiện dẫn dắt chúng sinh đến chỗ ấy, thấy người khổ hạnh đoạn dục, tâm ý mát mẻ không bị phiền não nóng bức, khiến chúng sinh ấy đều phát đạo tâm, từ bỏ năm dục, tuần tự hướng dẫn đến các cõi Phật lễ bái cúng dường chư Phật Thế Tôn. Lại dẫn dắt họ vào pháp sâu xa, sau đó mới ban đủ ân đức bố thí, trì giới, nhẫn nhục và lập chí tinh tấn, chuyên tâm nhập định, ý niệm không tán loạn, tu tập nhiều trí tuệ không bờ bến. Như vậy, này Cứu Sướng! Đó là sự tu tập của Bồ-tát Đồng chân, làm lợi ích khắp tất cả. Nếu có Bồ-tát mới tu học, đọc tụng, giảng giải bàn luận hai mươi hạnh nguyện sau đó mới phát nguyện làm theo việc làm của Bồ-tát Đồng chân. Lúc Bồ-tát Tối Thắng thuyết pháp này, có một vạn bảy ngàn người đều phát thệ nguyện rộng lớn không cùng tận, ưa thích tụ tập hai mươi hạnh nguyện của Bồ-tát Đồng chân, có mười ngàn Trời, người chứng được Pháp Vô sinh nhẫn, lại có vô số chúng sinh tăng thêm công đức không còn thoái lui. Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Tối Thắng: Lành thay Đại só đã làm được nhiều lợi ích độ thoát vô số chúng sinh. Nếu có Bồ-tát phát tâm rộng lớn tích chứa công đức không hề nhàm chán, tăng thêm sự khuyến khích hỗ trợ mà tu pháp bố thí, vì muốn giáo hóa chúng sinh, giải thoát đi vào Niết-bàn, mãi mãi không trở lại. Thế nên, Tối Thắng, Bồ-tát Đồng chân đã tu tập công đức không thể lường, nếu có Bồ-tát mới phát tâm muốn học thường phải tu tập hai mươi hạnh nguyện, sau đó đi vào kho tàng pháp bảo sâu xa. Thế nên, Tối Thắng phải học như vậy. Người học như thế thì thuận theo đạo của Bồ-tát thứ tám.  <詞 id="113335688">Phẩm 9: ĐỊNH Ý Khi ấy, Bồ-tát Tối Thắng bạch Đức Phật: –Bồ-tát Thường Tịnh trú địa vị thứ chín được thanh tịnh như thế nào? Đức Thế Tôn bảo Tối Thắng: –Bồ-tát ở địa vị thứ chín tu tập pháp môn Định ý nhất tâm, hiểu rõ Tam-muội chánh định mà không bị hao tổn. Đối với tịnh hay bất tịnh thường nhất tâm. Tuy ở trong chốn trần lao, sân hận mà không khởi vọng tưởng sinh ra những ý niệm nào. Xét biết tâm, ý, thức đắm trước cửa chúng sinh, đều bị trói buộc trong kết sử khổ não, do quả báo đã làm nên đưa đến hoạn nạn, muốn cầu pháp phương tiện, nên dùng phuơng tiện khéo léo gì để diệt hết, hoàn toàn giải thoát. Bậc Đại só Bồ-tát thứ chín nên nghó về các tưởng đắm trước đó, những tưởng không đúng với chánh pháp, do vô minh, hành, đưa đến kết quả ấy, nhất tâm nghó về đạo, niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm giới, niệm thí, niệm thiên, niệm hơi thở, niệm thân, niệm chết, hộ trì tất cả không còn phiền não nhiễu loạn, siêng năng tinh tấn như cứu nạn lửa, đầy đủ tất cả đạt được chí nguyện nơi đạo quả, thực hành các thông tuệ được trọn vẹn, thường nghó thương xót tất cả, do đâu mà chúng sinh bị các tai nạn khổ não. Tự suy xét thấy nguồn gốc đó đều do vô minh mà có hành, do hành mà sinh có thức. Thức đã có chỗ chứa nên gọi là Danh sắc, Danh sắc đã sinh đủ thành Sáu nhập, trong ngoài duyên nhau sinh ra Xúc, tâm đắm nhiễn sinh ra Thọ, hiểu rõ khổ vui sinh ra ái, ái đã sinh thì Thủ sinh cho đến sinh ra lão, bệnh, tử, sầu ưa khổ não, dần dần tăng trưởng kết quả ái dục. Bồ-tát thứ chín quán sát suy nghó sâu xa về quả báo đó, sự trói buộc của tuần lao là hư dối không thật, xét kỹ duyên của quả báo vốn không thật, lại biết sự phân biệt của chúng sinh quả thật đều không thật có, ứng không có chỗ ứng, báo không có chỗ báo bằng sự thanh tịnh quán pháp chân thật, làm cho chúng sinh được thanh tịnh, thường nghó khuyến khích tu tập Định ý, trước dùng phương tiện quyền biến quán sát một cõi Phật có bao nhiêu chúng sinh lập thệ nguyện vững, tạo các công đức, tu tập cây Bồ-đề trang nghiêm vô thượng. Có bao nhiêu chúng sinh thiền tịch nhập định, biến hóa thần thông hóa hiện khắp nơi. Có bao nhiêu chúng sinh, gánh gánh nặng cho người, thay họ chịu khổ khiến không còn khổ não. Có bao nhiêu chúng sinh đoạn trừ ba thứ kết sử, chứng Tu-đà-hoàn. Có bao nhiêu chúng sinh ba độc đã giảm nhẹ, chứng được Tư-đà-hàm, hoàn toàn xa lìa khổ. Có bao nhiêu chúng sinh không còn nạn của năm hạ phần kết sử, không trở lại thế giới này nữa. Có bao nhiêu chúng sinh đoạn trừ năm thượng phần kết sử được tự tại giải thoát an vui. Bằng ngũ nhãn thần thông quán sát, đến tận những nơi tối tăm nhất. Vào thời không có pháp thì các hàng Duyên giác cư trú nơi núi rừng, tùy thời xuất hiện, ở nhân gian giáo hóa. Bồ-tát lại suy nghó về chỗ ấy nên gần gũi hay không nên gần gũi. Thế nào là bậc Thiện nam nhất tâm quán sát các loài chúng sinh trong một cảnh giới của Phật, lập nguyện vững chắc, tạo các công đức, siêng năng tu tập cây Bồ-đề trang nghiêm vô thượng. Đó là bậc Thiện nam, ở vào địa vị thứ chín thấy chúng sinh nào có tâm kiên cố, liền bày phương tiện quyền biến cùng làm Thiện tri thức, tùy thời giáo hóa càng thêm tinh tấn, tăng trưởng lợi ích, ủng hộ thành tựu chí nguyện vững chắc không bị hủy hoại. Dạy bảo khai thị khiến cho biết pháp thâm sâu, không lo nghó các hoạn nạn gần xa. Giả sử trước mặt có nạn lửa lớn thiêu đốt một cõi Phật tiêu tan cùng một lúc, nhưng trong có con đường đi đến cõi khác mà nghe ở cõi đó có Phật diễn giảng đạo pháp, pháp không sinh diệt, không già không chết, liền tiến tới quỳ xuống quy y nên thân không bị thiêu đốt, cũng không bị phiền não nóng bức, được thấy Đức Phật lễ bái cúng dường, tích tụ công đức và các pháp thù thắng khác, liền được thành tựu không còn thoái lui. Giả sử gặp biển lớn, nước đầy mênh mông như một cõi Phật trên dưới xung quanh đều như nhau ngay đó vị ấy lập thệ nguyện quy y, cũng không sợ khó, tạo lập công đức, chí nguyện vững chắc không thể lay động. Đó gọi là Bồ-tát thứ chín ở trong đại Từ bi, gồm không bỏ tất cả chúng sinh. Bồ-tát thứ chín quán sát các chúng sinh đó thiền tịch nhập định, thần thông biến hóa thích ứng khắp nơi như thế nào? Bồ-tát này nếu thấy chúng sinh ở chỗ xa vắng hoặc núi sâu, chỗ không có người, nhiếp tâm tư duy vào tầng thiền thứ nhất, thiền thứ hai, thiền thứ ba, thứ tư của bốn tầng thiền. Lúc đó, Bồ-tát thấy chúng sinh ấy, lại từ tầng thiền thứ tư của bốn thiền trở lại thiền thứ ba, thứ hai, thứ nhất của bốn thiền. Bồ-tát lại thấy chúng sinh chỉ vào thiền thứ nhất mà không vào thiền thứ hai, thứ ba, thứ tư, hoặc vào thiền thứ hai mà không vào thiền thứ nhất, thứ ba, thứ tư; hoặc vào thiền thứ ba mà không vào thiền thứ nhất, thứ hai, thứ tư; hoặc vào thiền thứ tư mà không vào thiền thứ nhất, thứ hai, thứ ba. Khi ấy Bồ-tát cũng thấy chúng sinh vào không xứ, thức xứ, bất dụng xứ, hoặc có khi Bồ-tát thấy chúng sinh chỉ vào không xứ mà không vào thức xứ và bất dụng xứ, hoặc riêng vào thức mà không vào không xứ, bất dụng xứ; hoặc riêng vào bất dụng xứ mà không vào không xứ và thức xứ; hoặc ở trong thiền thứ tư của bốn thiền mà không lên xuống ba tầng thiền kia. Bậc Bồ-tát thứ chín, liền đến nơi vị ấy cùng làm bạn lành khiến cho thành tựu công đức không để nhàm chán, có thể làm cho chúng sinh đạt đến chỗ kiên cố. Thế nên gọi vị đó là bậc thứ chín. Bồ-tát thứ chín gánh gánh nặng cho người, thường thay họ chịu khổ, khiến không còn khổ não như thế nào? Bồ-tát đó dùng phương tiện khéo léo đi vào trong năm đường, tùy lúc thích hợp ban các y phục, thức ăn, chỗ ở, thuốc men đầy đủ cho người bệnh, ở nơi ba đường tám nạn, đích thân đến cứu độ, đến trước người ấy khiến họ không còn chịu khổ, hoặc vào trong chốn địa ngục, ngạ quỷ ban cho tất cả được no đủ. Đó là Bồ-tát thứ chín vì chúng sinh gánh gánh nặng cho họ. Bồ-tát khuyên người đoạn trừ ba kết sử khiến được quả Tu-đà-hoàn, thành tựu quả vị hoàn toàn xa lìa khổ như thế nào? Đó là Bồ-tát nương vào phương tiện thiện xảo thuyết pháp giáo hóa cho hàng Thanh văn, Duyên giác, nói về Niết-bàn an lạc tịch nhiên vô vi. Hoặc có lúc dạy về pháp không sinh, không diệt, không tịch cho hàng Đại só Bồ-tát. Có thể biết được tâm niệm chúng sinh ấy rồi mới diễn giảng Đại thừa phương đẳng, các pháp Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ, đại Từ, đại Bi, bốn Thiền, bốn Vô lượng tâm, Căn, Lực, Giác chi, tám Thánh đạo và ba phạm trú. Người đó nghe rồi, tâm ý bừng sáng, toàn thân xúc động, tùy theo khả năng khuyến khích tinh tấn khiến chứng đắc đạo quả. Hoặc có lúc Bồ-tát thấy chúng sinh ấy vốn đã phát tâm Bồ-tát, nhàm chán nghó mình không thể đạt được, muốn thoái lui vào đạo Thanh văn. Lúc đó, Bồ-tát đến chỗ người ấy bảo: Ông tích chứa công đức đến nay đã sắp thành tựu, các tướng đẹp và ánh sáng sẽ trang nghiêm thân, giáo hóa chúng sinh đạt đến cõi Phật, vì sao lại thoái lui trụ vào đạo thấp kém? Người ấy nghe rồi tự hối hận. Than ôi, thật đáng hổ thẹn. Bồ-tát liền dùng thần thông khiến người ấy thấy sự oán trách: Ta phải cố gắng dũng mãnh, tích tập công đức, lập chí nguyện lớn, vì tất cả chúng sinh không bỏ nguyện của mình. Khi Bồ-tát sinh khởi niệm như vậy, trời đất chấn động sáu cách làm cho cung điện của ma không đứng vững. Lúc đó, ác ma sinh ý nghó: Vừa rồi trời đất chấn động sáu cách, do điềm lành gì hiện ra như vậy? Hay là Đức Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác xuất hiện ở đời? Nếu không phải vậy, chắc là bậc vô dục đắc quả A-la-hán, khiến điềm lành ứng hiện như vậy. Nếu không như thế, thì bậc Bồ-tát phát tâm Đại thừa, lập nguyện vững chắc, muốn cầu làm Phật, vượt lên ba cõi, thương xót các nạn, cứu độ mười phương, làm cho cảnh giới ta trống rỗng không còn người hầu cận. Nếu chẳng phải như vậy, chắc là vị vua bị tội sinh ở trong một trăm hai mươi tám địa ngục Cách tử, dùng lý cai trị, giáo hóa, tâm không thiên vị, hoặc có thể do thần biến của vị ấy gây ra. Nếu không như vậy, ta có vạn người con mạnh mẽ cường tráng, tài năng uy lực phi thường, kề cận bên ta thống lãnh sáu cảnh trời ở cõi Dục. Người con nhỏ nhất của ta tên là Ác Tử, tính tình hung bạo, hành động không có nhân từ, ta sai đi tìm hiểu việc làm của vua ở địa ngục, quyết đoán thiện ác, phân biệt hiền ngu, cũng có thần thông chấn động trời đất, có vua gọi là Trị Tội, dùng pháp trị không cao thấp, hay là do thần biến của vị ấy cảm ứng ra. Ác ma lại suy nghó: Ta có người hầu tên là A-bàn, cũng có thể biến hiện vô lượng oai đức. Ngày sinh ra trời đất chấn động lớn, hoặc lúc qua đời mặt đất cũng chấn động mạnh, hoặc có thể hiện điềm kỳ lạ này. Ma vương suy nghó bao nhiêu niệm như vậy, lại bằng Thiên nhãn quán sát tam thiên đại thiên thế giới, Lúc ấy, thấy người đoạn dục chứng quả Tu-đà-hoàn, nay lại phát tâm Đại thừa. Biết rằng chính người này muốn cảnh giới của ta trống rỗng nên ma vương tìm cách hủy hoại tâm lành của vị ấy. Bấy giờ, ma ác đem quân đến chỗ người đó, thấy Bồ-tát Thường Tịnh bậc thứ chín nên tâm lo sợ, sởn gai ốc liền tự rút lui không dám tiến đến trước. Đó là do thần đức cảm ứng của Bồ-tát Thường Tịnh khiến cho bậc Tu-đà-hoàn chứng đạo Vô thượng, lập vững thệ nguyện quyết không thoái lui. Bồ-tát bậc thứ chín quán sát chúng sinh, biết ba kết sử đã giảm nhẹ, đắc quả Tư-đà-hàm, không còn dục, sân, si hoàn toàn xa lìa khổ như thế nào? Đó là Bồ-tát quán xét chúng sinh ấy, từ xưa đến nay dồn chứa công đức, có người lợi căn, có người độn căn. Hoặc thấy chúng sinh tâm ý đã thuần thục sắp thành đạo quả khiến tâm họ không thoái lui, đến được đạo lớn. Hoặc thấy người độn căn khuyến khích cho họ tinh tấn, đầy đủ công đức, thành tựu đạo quả. Bồ-tát dẫn dắt khiến cho tâm họ không còn biếng trể, có khả năng thành tựu bốn đạo quả hoặc vượt qua quả vị thứ tư, không bị dừng lại ở quả A-na-hàm đều là nhờ công đức của Bồ-tát Thường Tịnh bậc thứ chín, chưa từng trái bỏ tâm nguyện rộng lớn. Bồ-tát tinh tấn tu tập không thể kể hết, không chấp vào kết quả của mười hai nhân duyên, Bồ-tát địa vị thứ chín tu tập, thường tịnh để đạt được sự thanh tịnh. Hoặc từ người khác nghe pháp tùy thuận, tự xét thân mình, niệm đúng theo pháp, tinh chuyên nhất tâm giữ chí học hỏi, thường ở chỗ vắng lặng không ồn ào, biết phương tiện định ý tịch tónh, quán xét căn cơ của người hoàn toàn không hư vọng. Đó là Bồ-tát ở quả vị Tu-đà-hàm có tăng trưởng lợi ích. Bồ-tát giúp đỡ dẫn dắt chúng sinh đoạn trừ tai họa nguy hiểm của năm kết sử trói buộc như thế nào? Vị ấy trên cõi trời liền nhập diệt, không trở lại thế giới này. Lúc đó, Bồ-tát đến cõi trời ấy thuyết pháp không sinh, không đoạn diệt cho họ, liền ngay trước họ nhập diệt tận định, đi vào diệt độ. Các vị trời A-na-hàm ở cảnh giới ấy trong tâm phát sinh ý nghó nên nhập diệt vào Niết-bàn vô dư y. Bồ-tát tuy hiện pháp đặc biệt như vậy nhưng tâm không thay đổi, bằng nhiều ý tưởng, Bồ-tát nhớ đến ở vô số kiếp lâu xa, đều biết rõ hành động ở nơi cảnh giới đó, không ra đi cũng không trở lại, không thấy nơi dừng lại, quán xét không có sự sinh vốn không có xứ sở, tự đoạt đến sự thanh tịnh thản nhiên vô vi. Đó là Bồ-tát ở quả vị A-na-hàm có sự tăng ích. Bồ-tát quán sát chúng sinh giúp đỡ bậc Hữu học đạt được sự không chấp trước như thế nào? Đó là Bồ-tát bậc thứ chín dùng Thiên nhãn quán sát trong tam thiên đại thiên thế giới ai được lậu tận sắp chứng đạo quả. Quán như vậy rồi. Hoặc thấy có mười, một trăm, một ngàn cho đến vô số người không tính kể cùng lúc đoạn hết kết sử, chứng A-la-hán không còn cấu nhiễm. Khi ấy, Bồ-tát bằng diệu lực thần thông trong một ngày ở khắp tam thiên đại thiên thế giới, dùng phương tiện quyền xảo ủng hộ những người ấy khiến cho họ đạt được tâm nguyện không còn nhiễm chấp, xa lìa sinh tử đạt được sự vắng lặng vô vi. Đó là Bồ-tát đối với quả vị A-la-hán có sự tăng ích. Bồ-tát khuyến khích Duyên giác được sự không đắm trước như thế nào? Đó là Bồ-tát bằng Thiên nhãn thanh tịnh quán sát chỗ núi cao đất bằng, tối tăm, tịch tónh của các thế giới, một mình ở chỗ vắng lặng, tư duy về bốn mươi ba pháp Chỉ định ý. Bấy giờ, Bồ-tát đến chỗ ấy, cách đó không xa, dùng cỏ trải trên đất, ngồi kiết già, giữ tâm trước mặt cũng không nhìn nghiêng bên trong tự suy nghó sẽ hiện phương tiện quyền xảo biến hóa, hoặc hiện âm thanh sấm sét, điện chớp, hoặc hiện ra cây cối va chạm nhau bên trong phát ra ánh sáng rực hơn lửa, hoặc phát ra tiếng chim hót thú kêu rất hay. Khi ấy, Bồ-tát ở trước chúng đó bỗng nhiên thay đổi thân mình bay vọt lên giữa hư không, hiện mười tám phép thần biến ẩn hiện tự tại. Có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, thân xuất ra nước lửa mà không bị tổn hại. Hàng Duyên giác thấy sự biến hóa kỳ lạ thù thắng ấy đều sinh tâm niệm: Chúng ta phải sớm thành Phật đạo, cũng sẽ có cái tướng trang nghiêm nơi thân, nên cùng nhau tinh tấn tu tập không để biếng trể. Vào lúc khác, bấy giờ, những vị ấy cùng nhau ra khỏi núi rừng, đến thôn xóm khất thực từng nhà để nuôi mạng sống. Khi ấy, hoặc nghe tiếng chuông trống, âm nhạc, hoặc tiếng kêu khóc bi thảm, trong tâm thương xót hoảng hốt như bị lửa đốt, bỗng nhiên tự ngộ, dứt sạch lậu hoặc tâm được giải thoát. Cho nên gọi là Duyên giác không đắm nhiễm. Đó là việc làm của Bồ-tát thứ chín, trí tuệ thông suốt không cùng tận. Hàng Duyên giác tuy có ánh sáng tướng công đức nhưng không bằng tướng công đức mỗi sợi lông của Như Lai. Gom tất cả lại tướng công đức mỗi sợi lông trên bộ phận cơ thể cũng không bằng tướng công đức ở giữa lông mày của Như Lai. Lại đem công đức ấy gom lại tất cả cũng không bằng tướng công đức ở đỉnh đầu của Như Lai. Giả sử chúng sinh ở trong tam thiên đại thiên thế giới hết tâm tin Phật, tin Pháp, tin Tăng gấp trăm ngàn vạn lần cũng không bằng một phần trăm ngàn vạn lần người tin và thực hành pháp. Dầu có người tin thực hành pháp đầy khắp tam thiên đại thiên thế giới, công đức trí tuệ nghe pháp ấy vẫn không bằng công đức của bậc chứng Tu-đà-hoàn. Lại từ bậc Tu-đà-hoàn theo từng bậc tính toán cho đến bậc vô cấu trí tuệ trăm ngàn vạn lần cũng không bằng công đức trí tuệ của bậc Duyên giác. Giả sử những vị Duyên giác đầy trong tam thiên đại thiên thế giới cũng không bằng công đức trí tuệ của một vị Bồ-tát mới phát tâm. Giả sử trí tuệ hiểu biết của vị ấy trăm ngàn vạn lần cũng không bằng công đức đã làm của một vị Không thoái chuyển. Lại nữa, khắp trong tam thiên đại thiên thế giới, trăm ngàn vạn lần công đức trí tuệ của vị Không thoái chuyển cũng không bằng trăm vạn ngàn lần công đức đã tạo của vị Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ. Giả sử Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ đầy khắp trong tam thiên đại thiên thế giới cũng không bằng tuệ lực công đức của một Như Lai. Như vậy, này Tối Thắng! Bồ-tát Địa thứ chín tâm được sáng suốt biết rõ tâm của chúng sinh trong ba đời, tùy bệnh chữa trị cứu giúp khắp tất cả. Ta nhớ khi còn ở Địa thứ chín đã độ thoát chúng sinh không thể kể hết. Từ lúc mới phát tâm cho đến Địa thứ chín trong thời gian đó Ta đã độ được A-la-hán một tăng-kỳ, trừ sạch tâm cấu nhiễm hoàn toàn không còn chút nào. Từ Tu-đà-hoàn đến A-na-hàm lại có một a-tăng-kỳ thực hành Tứ đế, diệt tưởng tri về Tập, khuyến khích chúng sinh phát tâm Bồ-tát, lập chí kiên cố, không còn thoái lui một a-tăng-kỳ. Trước khi giáng thần xuống cõi Dục sinh lên cõi trời Đâu-suất, trừ mười chín sự tư duy đưa đến không thành tựu và những nguy hiểm của dục, hiện tài dũng mãnh không sợ hãi, dứt trừ tất cả chỗ dừng lại của thần thức, các pháp hữu lậu giả dối đều diệt tận bằng tâm vô lậu tu các pháp giải thoát, dùng kiếm trí tuệ sắc bén cắt bỏ tham dục trần lao, thực hành đạo Bồ-tát, chứng đắt thần thông. Sinh tử đã đoạn, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không còn thọ thân đời sau nữa. Bồ-tát như thật biết đã tu pháp đại Từ bi, oai nghi cử chỉ cũng không thiếu khuyết, trụ vào công đức trí tuệ kiên cố. Tất cả các ma và hàng ngoại đạo không thể biết được hạnh nghiệp của Bồ-tát. Bồ-tát vì các dục lậu của chúng sinh nên giảng pháp vô lậu, vô sinh diệt, trừ các tưởng chấp không còn ngăn ngại. Tối Thắng nên biết! Lúc ta tư duy vào tuệ vô tận, quán pháp thọ sinh của Phật quá khứ, thực hành bình đẳng không thiên vị. Đối với pháp của hàng phàm phu và đạo của Thánh hiền, pháp tu hành của bậc Hữu học, Vô học, Duyên giác, Bồ-tát, chư Phật Thế Tôn đều bình đẳng. Thế tục và đạo, phiền não không phiền não, hữu vi, vô vi, hữu lậu, vô lậu, đối với các pháp này cũng đều bình đẳng. Nên xưng danh hiệu là Đẳng Chánh Giác. Tu pháp bình đẳng ấy thì ta với người đều như nhau, không thấy có sinh diệt. Tự nghó sự tu hành còn nhiều lầm lỗi, phải nên giữ gìn giới cấm, tu pháp bình đẳng. Nếu tâm tán loạn không được tinh chuyên phải chế ngự không để buông lung. Hiểu rõ định loạn đều không thật có, tất cả bình đẳng đồng với tự nhiên. Khi có ý nghó trong tâm không có sự hổ thẹn nên tìm cách khiến sinh sự sợ hãi. Hoặc có lúc thân, miệng, ý nghó ác làm việc bất thiện, phải nên suy nghó để diệt trừ hết không cho tăng trưởng. Nếu tâm nghó đến các pháp hữu lậu: ganh ghét, ngu si, nghi ngờ dùng cách khéo léo làm cho mất hẳn. Hoặc nghó đến việc sát sinh, trộm cắp, dâm dục, nói dối, uống rượu, phải nên suy nghó nguồn gốc của sự tai họa. Hoặc tâm tham dục đắm trước địa vị, không có sự cung kính. Có người thỉnh cầu dạy bảo thì che giấu kinh điển, chê bai hủy bỏ giới cấm, không tuân theo pháp luật, dạy họ học thiền không đúng theo pháp định, hoàn toàn không còn tưởng nhớ đến Phật, Pháp, Tăng, sinh tâm kiêu mạn đối với Pháp sư. Nếu có người làm chướng ngại đạo như vậy thì không nên gần gũi tu tập. Hoặc sinh khởi các tâm kiêu mạn như: mạn, quá mạn, mạn quá mạn, ngã mạn, tà mạn, ty liệt mạn, nên giữ Tuệ ý hoàn toàn không còn sinh khởi, hiểu rõ chúng không thật có, đều không có chỗ sinh, bình đẳng không hai, cũng không số lượng, tự nhiên không có xứ sở. Đó gọi là bình Đẳng Chánh Giác của Bồ-tát. Nếu tâm sinh vọng tưởng tán loạn: tà kiến, tà niệm, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạn, tà phương tiện, tà ý, tà định thường phải ngăn tâm không cho tổn hại. Hoặc có lúc tâm sinh ý niệm trái ngược, đối với người, ta nên cung kính thì lại khinh miệt, như hiện tại ta khinh miệt họ, hoặc vị lai sẽ xâm phạm, đối với những gì ta không ưa đó là đối tượng ganh ghét thì nay ta phải cung kính, ở hiện tại ta nên cung kính họ và vị lai còn phải cung kính nữa. Lại suy nghó từ xưa đến nay những gì đã từng xâm phạm ta, nay ta đang phải chịu sự xâm phạm, nào biết vị lai lại không bị xâm phạm hay sao, giả như trong tâm có ý tưởng như vậy thì làm hủy hoại cành nhánh Thánh đạo, rơi vào điên đảo, phát sinh sự ngăn che, lệ thuộc tà kiến, nhiễm ô ân ái, tự mình quên mất rời hẳn cõi người. Hoặc có lúc tâm nhớ nghó mười điều ác, buông lung làm theo con đường ác ấy: sát sinh, trộm cướp, dâm dục, nói dối, nói ác, nói chia rẽ, nói lời thêu dệt, sân hận, tật đố, tà kiến. Nếu thân miệng ý đều sinh đủ các pháp này thì phải xa lìa, không còn tạo duyên, nên diệt trừ các pháp này làm cho không còn ngăn ngại. Phải nên suy nghó do đâu ác diệt, do đâu thiện sinh, hiểu rõ thiện ác đều không thật có, chẳng phải chân thật, bình đẳng không hai. Bồ-tát tuy được trụ Địa thứ chín thường nên suy nghó về cấu uế này. Sở dó ta được thành đạo Vô thượng, được thọ ký Bồ-tát đều do vào mười diều ác ngu si đã tạo ra, mà được đầy đủ năm phần Pháp thân, thẳng đến một đường, không còn đường nào nữa. Phân biệt rõ ràng về Không, Vô tướng, Vô nguyện. Lại cần siêng năng tu tập bốn Niệm xứ. Thế nào là bốn? Đó là: thân, thọ, tâm, pháp. Hiểu rõ không quán, đạt được bốn thiền, bốn vô lượng tâm, bốn không định, tám giải thoát, chín thứ đệ thiền, cầu phương tiện xa lìa chỗ sinh vào chỗ vô sinh. Cho nên gọi là đạo Thánh hiền bình đẳng đều có cùng tận mà không có cùng tận, hiểu rõ tận và vô tận đều là vô sinh. Tất cả trần lao là điều Bồ-tát đã diệt tận, không làm sinh lại nên gọi là vô tận. Dục ái trói buộc là điều Bồ-tát đã diệt tận không còn phát sinh gọi là vô tận. Sân nhuế, tham lam là điều Bồ-tát đã diệt tận, nếu không còn nữa là vô tận. Đạo mê mờ là điều Bồ-tát phải diệt tận, nếu không mê mờ gọi là vô tận. Tâm thấy có pháp môn giải thoát là điều Bồ-tát phải diệt tận, không có người giải thoát gọi là vô tận. Pháp Tứ niệm xứ là điều Bồ-tát phải đoạn, không còn đoạn Tứ niệm xứ gọi là vô tận. Căn, lực, Giác chi, bát chánh đạo là điều Bồ-tát phải diệt tận, nếu không còn nữa gọi là vô tận. Bốn quả Sa-môn là điều Bồ-tát phải diệt tận, không có bốn quả Sa-môn gọi là vô tận. Có đạo Duyên giác, đó là sự tận của Bồ-tát, hiểu không có đạo Duyên giác là vô tận. Có đạo Bồ-tát là sự tận của Bồ-tát, nếu không còn nữa gọi là vô tận. Bình Đẳng Chánh Giác là sự tận của Bồ-tát, không bình Đẳng Chánh Giác gọi là vô tận. Đắc thành Phật đạo là sự tận của Bồ-tát, không thấy có thành Phật đạo gọi là vô tận. Đến cây Bồ-đề, đó là sự tận của Bồ-tát, không dừng ở đó gọi là vô tận. Tu tướng tốt và làm thanh tịnh cõi Phật, đó là sự tận của Bồ-tát. Giáo hóa chúng sinh xiển dương chánh pháp, đó là sự tận của Bồ-tát. Tu các pháp Không, Vô tướng, Vô nguyện, đó là sự tận của Bồ-tát. Mong cầu thực hành công đức, ban bố đạo lớn, đó là sự tận của Bồ-tát. Bồ-tát ở chỗ không có cao thấp, không thấy trong ngoài ở giữa là sự tận của Bồ-tát. Không thấy chỗ tu hành của phàm phu cũng không thấy sự tu hành của Thánh hiền, đó là sự tận của Bồ-tát. Bồ-tát tuy ở trong sinh tử đối với pháp nhiễm ô không bị đắm nhiễm là sự tận của Bồ-tát. Bồ-tát thuyết về diệt quán, diệt vô sinh cũng không đối với diệt mà nhận lấy sự diệt độ đó là sự tận của Bồ-tát. Hiểu rõ chân tế không tùy thuộc là sự tận của Bồ-tát. Không mong cầu xa lìa đối với cõi ma, đó là sự tận của Bồ-tát. Tu trí tuệ rộng lớn, không dùng trí tuệ hạn hẹp, đó là sự tận của Bồ-tát. Thường biết tu tập hành trì đúng lúc là tận của Bồ-tát. Đối với các duyên khởi không xa lìa, đó là tận của Bồ-tát. Không theo chân đế, chẳng phải không có chân đế, đó là sự tận của Bồ-tát. Đối với pháp môn thiền giải thoát không thấy loạn định, đó là sự tận của Bồ-tát. Tuy ở nhân gian vẫn ở yên không thay đổi, đó là sự tận của Bồ-tát. Đi vào thế tục ở chỗ ồn náo mà không mất oai nghi, đó là sự tận của Bồ-tát. Nếu ở trong Thiền định không diệt thân ý là sự tận của Bồ-tát. Không thấy bố thí chẳng phải không có Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ. Không thấy có tu hành chẳng phải không tu hành, đó là sự tận của Bồ-tát. Giác ngộ tam minh, sinh con mắt trí, đó là sự tận của Bồ-tát. Thần thông tự tại không bị trần lao, đó là sự tận của Bồ-tát. Dù sinh hay diệt ở nơi ái dục mà vẫn nhàm chán mỏi mệt, đó là sự tận của Bồ-tát. Tu đạo Tu-đà-hoàn mà không bỏ sự thực hành Đại thừa, đó là sự tận của Bồ-tát. Thấy Phật pháp diệt không hoảng hốt lo sợ, cũng không thấy kiếp số ngắn dài, đó là sự tận của Bồ-tát. Không thấy câu, chữ, nghóa cùng thuộc loại, không thuộc loại, đó là sự tận của Bồ-tát. Dâm dục, sân hận, ngu si không hành động theo, đó là sự tận của Bồ-tát. Không khởi pháp nhẫn cho đến tuệ vô sinh, đó là sự tận của Bồ-tát. Ở trong chín loài chúng sinh Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới, đó là sự tận của Bồ-tát. Dạo khắp chốn nhân gian, quận, huyện, thành ấp, cung điện của trời rồng các cung điện tốt đẹp, ở đó tu các oai nghi phù hợp, có thể thân cận không thể thân cận, đó là sự tận của Bồ-tát. Như vậy, này Tối Thắng! Đó là pháp môn bao trùm hữu tận và vô tận của Bồ-tát trụ Địa thứ chín, hành động của Bồ-tát cần phải đầy đủ sự tận và vô tận giải thoát. Chúng sinh có tập và khổ, Bồ-tát cũng có tập nên theo đó nói về tánh khổ chân đế. Nếu mắt thấy sắc có khổ, vui, tư duy nhãn thức đều là vắng lặng, do tu pháp bình đẳng. Bồ-tát thường đem chánh pháp giáo hóa chúng sinh đạt đến tịch nhiên vô vi, đó là Bồ-tát vì khổ của chúng sinh mà xiển dương tuệ về khổ: sinh, già, bệnh, chết, sầu bi khổ não, oán ghét gặp gỡ, thương yêu phải xa lìa, mong cầu không được cũng đều là khổ. Tóm lại năm ấm thạnh là khổ, biết rõ khổ này cũng không sinh diệt. Như vậy, Tối Thắng đó là pháp môn tận và vô tận của Bồ-tát. Hoặc Bồ-tát yhấy tập của chúng sinh liền vì họ nói về nguồn gốc chấp ái, tâm ái thâm sâu nhiễm chấp khó trừ, trước hết ta phải nguyện diệt trừ, nếu không diệt được quyết không chứng đạo. Khi ấy, Bồ-tát nhập vào pháp quán “ngắm dung nhan” ở trước chúng sinh hiện ra hình tướng của mình, mọi người nhìn thấy đều khen ngợi, trong một khoảnh khắc biến thành hình tướng xấu xí, người thấy tâm liền thay đổi, sinh tưởng vô thường thân này chẳng phải chân thật, không bền chắc, nhan sắc dung mạo, hình sắc của ta tuyệt đẹp trong đời, vậy thì không bao lâu sẽ bị hủy hoại như người thế gian, nên phải tự lo tu tập, trừ bỏ ân ái không còn đắm nhiễm. Như vậy, Bồ-tát vì “Tập” của chúng sinh mà có sự lợi ích. Hoặc Bồ-tát thấy “Diệt” của chúng sinh dùng phương tiện thiện xảo để thuyết pháp các pháp, đã sinh thì phải diệt, đã thành thì phải hoại. Giả sử sống lâu ức hằng hà sa kiếp cũng phải bị diệt tận không thể tồn tại mãi. Các ông nên biết pháp vô thường chuyển biến như huyễn hóa không chân thật. Bồ-tát hiểu rõ không chân thật nên được thanh tịnh không nhiễm ô. Tập do chứa nhóm không xả bỏ được, bằng pháp diệt tận quán không thật có, không thấy có sự sinh diệt. Nếu tâm sinh kiêu mạn ngu si, chấp thường chấp đoạn, nên bằng không tuệ, vô tướng, vô nguyện mà phân biệt chúng. Hoặc có lúc Bồ-tát nói đến con đường đạt đến cứu cánh, dạy các Thiện nam nên nhớ nghó bảy chỗ quán thọ ở nơi năm ấm, biết rõ sự sinh khởi và hoại diệt, chúng sinh do đây bị nguy hiểm của ấm ngăn che. Suy nghó về sự sinh khởi của sắc, sắc tướng có trước từ ngã sinh ra thức để chấp trứôc, do thức tiếp xúc sinh ra thọ, hợp tác với nhau phát sinh ý tưởng chuyển thành hành nghiệp. Đây do một sắc mà thành năm pháp, thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy. Hoặc Bồ-tát thấy chúng sinh khởi mười tám giới độc hại ngăn che nhiễu loạn tâm kiên cố của người, làm cho bị trở ngại không đến được bờ bên kia, liền bằng phương tiện thiện xảo để cứu giúp, nhờ đầy đủ các phương tiện thiện xảo ấy làm cho họ được thành tựu không bị đọa lạc. Có Bồ-tát thấy chúng sinh tâm thường an trụ, ý niệm ái đã diệt, không thấy có xa lìa, cũng không có đối tượng để xa lìa, đó gọi là bảy chỗ quán pháp đầy đủ, đối với pháp quán hành cũng không tùy tiện xả bỏ, theo sự nhanh chậm, phân biệt nóng lạnh, tự mình đầy đủ dạy người thực hành cũng được đầy đủ. Như vậy, này Tối Thắng! Bồ-tát bậc thứ chín thực hành pháp chỉ quán không có sợ hãi, Phạm vương, Đế Thích, Tứ Thiên vương, trời, rồng, Sa-môn, phạm chí, ma không thể cản trở sự thực hành pháp chỉ quán, đối với pháp chánh giác không bị chướng ngại. Vì sao? Vì Bồ-tát hiểu rõ tất cả các pháp đều bình đẳng. Đối với pháp của phàm phu và đạo của Thánh hiền tâm như hư không, không thiên vị. Đối với pháp của bậc Hữu học, Vô học, Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát, Phật đều bình đẳng. Hoặc thấy có pháp hữu lậu và vô lậu, phân biệt được pháp thế gian và xuất thế gian, trừ hết mọi hệ luî chấp trước mới thành Bồ-tát đạo. Vì sao? Vì không quán nên gọi là tự nhiên, phát sinh tự nhiên, tiêu diệt tự nhiên, không cùng với thật, vô tướng với tướng, vô nguyện với nguyện đều bình đẳng, ở trong ba cõi tự nhiên. Lại nên suy nghó đối với chỗ sinh và vô sinh, đều bình đẳng, pháp quán vô hành bình đẳng với pháp, quán, y cùng vô y, bằng nhau cùng với không bằng nhau, phát khởi và không có sự phát khởi đều tự nhiên, chẳng phải tự nhiên, đối với ba cõi đều bình đẳng, không thấy Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới. Bồ-tát phải nên suy nghó đối với dâm dục, sân hận, ngu si, đạo và trí tuệ sáng suốt đều tự nhiên, giải thoát sự trói buộc của ái dục thì đắc đạo quả, vào cảnh giới Niết-bàn, biết rõ tự nhiên bình đẳng không hai. Đó là Bồ-tát vì chúng sinh thực hành đại Từ bi, thị hiện vô số nhân duyên, tùy theo căn cơ của chúng sinh nên phân biệt thuyết như vậy, làm cho được an trụ thuận theo Đại thừa, tiêu diệt hết gốc khổ não. Khi ấy, Bồ-tát ở trong Đại chúng một mình không sợ hãi, siêu tuyệt không ai bằng, dùng các phước đức làm chuỗi anh lạc trang nghiêm nơi thân. Hoặc Bồ-tát ở trong Chúng Đại só xiển dương đạo Phật tôn quý, thương xót hàng Thanh văn chưa đạt thượng trí, tuy được lậu tận nhưng không ai rời bỏ sự chứng đắc, chỉ giải thoát trói buộc cho mình mà không có tâm rộng lớn. Lại nghó hàng Duyên giác không phát tâm lợi ích rộng lớn, thánh trí biện tài thanh tịnh không chướng ngại có thể biết được căn tánh và ý muốn của người khác, nhưng chỉ biết giữ mình an trụ mà không làm tịnh cõi nước. Vì thế, Bồ-tát vượt khỏi hạng ấy, phân biệt rõ ràng đạt được đạo Vô thượng, cứu giúp khắp mười phương không cùng tận, tâm thường thương xót những người chưa đạt được đạo, bằng diệu lực dũng mãnh thâu phục ngoại đạo, thường chuyển pháp luân làm cho không bị đoạn tuyệt, pháp lớn thù thắng vi diệu lưu chuyển mãi ở đời. Như vậy Tối Thắng, Bồ-tát bậc thứ chín thị hiện phương tiện giáo hóa đến bất cứ nơi đâu, biết rõ Niết-bàn như tướng Niết-bàn, nghóa là có chân đế chẳng phải có chân đế, không tuệ, không chủ cũng không trú xứ cho nên gọi là vô vi tự nhiên an lạc, không ở chỗ kia, không ở chỗ này, hoàn toàn không xứ sở, không có hình tướng đối đãi, trú nơi không chỗ trú, trụ ấy gọi là trú nơi pháp giới. Gọi là tận không chỗ sinh, là Niết-bàn vô vi tịch diệt. Chỉ còn ba mươi bốn kết sử vi tế, ngoài ra không bị các trần lao làm chướng ngại. Bồ-tát bậc thứ chín khi đạt được chánh giác, hiện tại diệt bốn, vị lai diệt bốn, quá khứ diệt bốn. Đức Phật ngồi dưới gốc cây Bồ-đề thâu phục các ma, điều phục tâm ý vào định vô hình, quán hết tam thiên đại thiên thế giới. Nay ta ở trong đời ngũ trược này được thành Phật, những điều mong cầu đã thành tựu không còn nghi ngờ, Ta nên nương theo phương tiện thiện xảo vì chúng sinh tuyên dương nghóa đạo, dứt trừ các lậu trói buộc giống như ta ngày nay. Khi ấy, các Đức Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác từ chỗ của mình hướng đến khen ngợi: Hôm nay ở phương ấy, nước ấy có vị Phật xuất hiện đủ ba mươi hai tướng của bậc Đại nhân, tám mươi vẽ đẹp trang nghiêm thân, ánh sáng phá tan chỗ tối tăm, âm thanh như tiếng chim loan. Lành thay dòng giống giác ngộ không bị đoạn tuyệt. Khi mười phương Phật nói lời này thì tam thiên đại thiên thế giới chấn động sáu cách, các trời, rồng, thần, Càn-đạp-hòa, A-tu-luân, Ca-lưu-la, Chân-đà-la, Ma-hưu-lặc, người và phi nhân, ma và Thiên ma đều kinh ngạc lo sợ chỗ ở không được an ổn, cùng nhau tụ tập đến chỗ Phật, cúi đầu lễ dưới chân xin quy y, thân cận Đức Như Lai thành Tối chánh giác, họ được thanh tịnh không còn oán hận, đều được tôn trọng đến thành cam lồ, đầy đủ pháp lành và đạo pháp vô lậu, tâm được dũng mãnh, tự tại giải thoát. Bồ-tát quán sát chúng sinh tùy theo tâm niệm thị hiện ban bố đều như ý niệm, dứt hết trần lao, hoàn toàn vô vi tịch diệt, khiến chúng sinh từ bỏ chấp ngã, xả bỏ bỉ thử, không có tiếng khác nhau, không bị vướng nơi pháp, không nương phi pháp, chẳng phải không nương, chẳng phải không không nương. Biết rõ các pháp bình đẳng biến đổi như hư không, như tiếng vang, như huyễn như hóa, không thật có, vượt qua được bờ sinh tử không còn trở lại luân hồi. Đó là công đức của Bồ-tát bậc thứ chín làm hưng thịnh đạo nghiệp không cùng tận. Đã tu tập chân chánh không còn nghi ngờ, đối với các pháp vô lậu không bị nhiễm ô, ở trong nhiễm ô không thấy có chấp trước, hoàn toàn vượt qua Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới, trở về tuệ vô sinh, diễn giảng khắp nơi khiến đều được nghe biết. Như vậy, Tối Thắng! Sự nghiệp tu hành của Bồ-tát bậc thứ chín oai thần vó đại vượt hẳn thế gian, hoặc ở trong chúng giữ gìn oai nghi không mất phép tắc, hành động cử chỉ nhìn, ngó đúng với chánh pháp, mặc y phục không sang trọng se sua. Nếu muốn vào thành ấp, quận huyện nên đắp pháp y, bưng bát, tâm thường thư thái, bước đi ngay thẳng, đi đứng nằm ngồi tâm thường quán sát, lời nói nhu hòa không hung ác thô bạo, thuyết giảng rộng rãi như hư không, không còn vướng mắc, hoàn tất việc khó làm, không tạo nhân duyên quả báo nữa, việc làm của Bồ-tát chỉ chú trọng nơi Phật đạo. Như vậy, Tối Thắng, Bồ-tát trụ bậc thứ chín thì gọi là trụ bậc nhất chẳng phải là trụ bậc thứ chín, cũng chẳng phải trụ từ Sơ địa cho đến Địa thứ năm, thứ sáu, thứ bảy, thứ tám Bồ-tát tinh tấn tu tập pháp của mười Địa: Thành địa, Đế địa, Vô khủng cụ địa cũng gọi là địa của Như Lai, Đạo địa, Định địa, Vô sở úy địa, Quán địa, Tuệ địa, Tự nhiên tánh địa. Bồ-tát đã thành tựu pháp của mười Địa này thì không gọi là Bồ-tát. Mà được xưng là bậc Như Lai Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, không ai có thể sánh bằng, đầy đủ mười tám pháp thù thắng, thuyết pháp đúng thời, các hạnh đầy đủ, thị hiện sinh lên cõi trời Đâu-suất thanh tịnh không còn cấu uế, hoặc thị hiện giáng thần tiếp độ chúng sinh. Đó gọi là Bồ-tát ở Địa thứ chín đầy đủ hạnh thanh tịnh. q Kinh TỐI THẮNG VẤN BỒ-TÁT THẬP TRỤ TRỪ CẤU ĐOẠN KẾT <卷 id="113335689">Quyển 4 <詞 id="113335690">Phẩm 10: Thành đạo Khi ấy, Bồ-tát Tối Thắng bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Bồ-tát bậc thứ mười đối với Địa thứ mười được hạnh thanh tịnh như thế nào? Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Tối Thắng: –Đó là Bồ-tát tu đạo thần thông vi diệu độ khắp chúng sinh, dùng văn tự diễn bày thông suốt về tính không của các pháp, siêng tu giữ giới. Công đức của vị ấy nhiều vô lượng không thể nghó bàn, không có giới hạn, tất cả loài người không thể bì kịp. Trời, rồng, quỷ thần và tôn thần khen ngợi công đức của vị ấy cũng không nói được, bậc Hiền thánh cũng không thể nói hết nếu có nói ra chỉ là văn tự, Bồ-tát thị hiện thần túc đến khắp các cõi nước ở mười phương để hầu cận, đảnh lễ chư Phật Thế Tôn, lại nhập vào Tam-muội Định ý giải thoát, đến khắp hằng hà sa cõi nước chư Phật, được gặp các bậc Chánh giác, nghe pháp cao thượng vượt qua các nghiệp tà, vững chí sáng suốt, không bị lay động, tâm như hư không, không có tưởng niệm, phân biệt hiểu rõ sự sinh diệt của pháp giới; giáo pháp vị ấy nói ra đều hợp ấn thánh, tự tại trong Tam-muội không có sai phạm. Giáo pháp mười phương chư Phật nói ra cùng với pháp luật của bậc thánh không trái ngược nhau, lời nói ra vi diệu thù thắng; quán sát các thế giới đều bình đẳng như hư không, ý nhớ nghó đầy đủ pháp môn giải thoát. Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ biện luận thông suốt, cứng hợp căn cơ, tâm hưởng ứng với đạo tuệ. Thế nào là tâm? Thế nào là đạo tuệ? Thông suốt sách vở thế gian, thị hiện đi vào nghiệp tà, đó là tâm. Chuyên tinh nhất tâm nơi pháp xuất thế đó là đạo tuệ. Xả bỏ sự keo kiệt, làm việc bố thí không nghó đến sự báo đáp, giữ tâm hòa thuận, suy xét rõ ràng đó là tâm. Vào định vắng lặng, không khởi các tưởng, sống đạm bạc, không xa lìa giới hạn của bậc Thánh, đó là đạo tuệ. Nếu ở tại sinh tử mà siêng tu các pháp thì dù ở trong đó cũng không nhàm chán, đó là tâm Bồ-tát. Nếu Bồ-tát ở nơi không yên ổn trong tám nạn, tâm không khởi điên đảo thấy có hai, có thể vượt qua hoàn toàn các bệnh, đó là đạo tuệ. Đối với pháp thế gian, khen ngợi Niết-bàn là đạo vô vi, công đức đã tạo không hề hao tổn, đó gọi là tâm. Đối với pháp không Bồ-tát đều tự tại, thấu đạt sự thanh tịnh không thật có, đó là đạo tuệ. Quán sát người ở trước mặt, tùy theo căn cơ của họ mà phân biệt, nói pháp thích hợp, đó là tâm. Bồ-tát nhập định, bằng tuệ quán từ một pháp cho đến trăm, ngàn tướng của các pháp đó là đạo tuệ. Quyết định ban cho những vật sở hữu như: đất nước, của cải, vợ con mà không có sự luyến tiếc, đó là tâm. ở nơi bình đẳng, không có đạo ba thừa, đến đạo tràng thanh tịnh, quy y Phật đạo, đó là đạo tuệ. Đó là Bồ-tát bậc thứ mười, đạo tâm đã đi vào khắp nơi, giữ gìn thân, miệng, không buông lung, khen ngợi đủ tám điều tâm niệm của bậc Đại nhân, nghó đến hạnh ít muốn biết đủ, tu tập giữ giới không có nhiễm ô, có thể làm sạch phiền não cho chúng sinh. Nếu thấy chúng sinh nào tự khen mình, chê người, tự đại, cống cao, kiêu mạn, ỷ mình giàu có, thường nhớ nghó các pháp bất thiện, dâm dật, sân hận, ngu si, hạng người như vậy, Bồ-tát có thể nói đức nhẫn nhục, khiến họ thuận theo, đạt được Vô sinh nhẫn, ở trong đạo lập chí siêng năng thì các nguy hiểm không đưa đến được, ý dũng mãnh tinh tấn, tâm không thoái lui, biết rõ tất các công đức đã tạo tác, không thấy có sự tập họp mãi, cũng không thấy có sự phân tán hẳn, phước nghiệp đã tạo không có chỗ trụ, không phải không có chỗ trụ, đều cùng tương ưng mà không có sự tương ưng, không thấy có tương ưng, không thấy không tương ưng, không tương ưng chẳng tương ưng, đó là quán sát kỷ, tâm thương ưa thích pháp môn tiền định giải thoát, suy nghó về bốn cách ăn, trừ bỏ sự tham đắm, quán sát tận diệt không khởi định ý, đã nghe thì ghi nhớ, có thể đọc tụng, tuệ không tán loạn, hiểu rõ nguồn gốc không có xứ sở, muốn tìm nguồn gốc cũng không thể được. Bồ-tát vì các chúng sinh nên thuyết giảng ba mươi bảy phẩm trợ đạo, hiểu rõ pháp không vô tướng, vô nguyện, thường phụng trì tôn trọng Phật đạo, tùy theo đối tượng khiến họ đắc đạo quả. Chư Phật Thế Tôn đã từng tuyên thuyết cũng không ngoài lẽ ấy, nhân đó phát xuất chân đế, cho đến diệt độ cũng như vậy, không có tâm tạp loạn vọng tưởng khác. Như vậy, này Tối Thắng! Bồ-tát bậc thứ mười dùng phương tiện quyền xảo không bị ngăn ngại, vì không ngăn đạo nên tu tập đến Chánh giác, vì các chúng sinh mà chuyển pháp luân, khiến họ được địa kiên cố không thoái chuyển. Bồ-tát bậc thứ mười lập vững thệ nguyện, cứu độ chúng sinh không sợ nguy khó. Ví như thợ giỏi làm dấu ấn cho người, biết họ tên người ấy, liền ghi nhớ để làm con dấu, tùy loại ghi nhớ không có nhầm lẫn. Bậc Đại só Bồ-tát cũng vậy, dùng ấn Hiền thánh, ấn vào sinh tử, tùy theo đối tượng mà hiện ra không hề sai lầm, cần phải suy nghó thế này: “ấn không phải là cục bùn, bùn không phải là ấn nhưng nó có khả năng hiện ra tên họ, danh hiệu.” Thánh tuệ của Bồ-tát cũng như vậy, đem bảo ấn trí tuệ, ấn vào chúng sinh, tùy theo khả năng mà hiện ra tên gọi, liền cthể sinh giáo lý ba thừa. Giống như gieo lúa vào ruộng tốt thì cây lúa dần dần trưởng thành. Lúa hư, mầm sinh thì không còn trở lại như cũ nữa. Suy nghó kỹ thì mầm không phải là hạt giống, cũng không lìa hạt giống. Bồ-tát Đại só cũng như vậy, đầy đủ nhân duyên mới giảng pháp luật, quán các chúng sinh đã có phiền não, ba tai họa, sáu trần, mười hai nhân duyên, tà, nghi, thân kiến, vọng tưởng điên đảo, liền vì họ mà thuyết giảng về pháp khổ, không, vô thường, vô ngã, sau đó mới thuyết theo đúng pháp tánh, phân biệt Khổ, Tập, Diệt, Đạo, bỏ gánh nặng xuống, hoàn toàn được tịch diệt, lại nên xét kỹ về nguồn gốc nhân duyên sinh ra khổ não ấy, đều do vô minh, không có trí tuệ đưa đến sinh, già, bệnh, chết, khổ não. Ta phải tìm cách tiêu trừ các bệnh ấy, dần dần làm cho họ đi vào pháp luật của Hiền thánh. Do vô minh diệt nên sinh, già, bệnh, chết hoàn toàn không còn. Bồ-tát diễn nói pháp không quán tịch nhiên làm cho người nào biết quay về thì có chỗ nương tựa, trí tuệ sáng suốt, thông đạt đến giải thoát, chúng sinh đều tôn sùng, tu tập. Trí vi diệu hiểu rõ dâm đục, sân giận, ngu si đều không sai khác, suy tìm đến nguồn gốc cũng vậy, nên trừ được cái niệm vọng tưởng, hoàn toàn không còn hối hận sinh tâm thêm bớt, xa lìa tất cả ấm, cái và kết sử trói buộc, tâm không bị chướng ngại, thường được tự tại trong pháp môn giải thoát, ca ngợi công đức Tam bảo, thường suy nghó xa lìa nguy hiểm của tham dục, có thể ban bố công đức đã huân tập cho chúng sinh. Bồ-tát tinh tấn đối với pháp môn ấy không còn nghi ngờ, chỉ dạy không tuệ, khai mở dẫn dắt chúng sinh, các pháp đã học hoàn toàn không chấp trước, lần lượt thành tựu không thoái chuyển, tuyên dương kinh điển, làm thanh tịnh cõi Phật dẫn dắt chúng sinh đi vào cảnh giới Phật, làm cho họ được giải thoát, không còn sinh diệt. Đó là kinh điển vô thượng cũa Thế Tôn. Bồ-tát nên quán thế này để nhập vào Địa thứ mừơi không thể nghó bàn, tu tập pháp môn bình đẳng không hai, thông hiểu ba đời, không đoạn mất Tam bảo, từ bỏ ba cấu uế, thành tựu ba môn giải thoát. Bồ-tát đối với họ biểu hiện sự việc không thể nghó bàn, từ lúc mới phát tâm cho đến Địa thứ mười, thường khen ngợi sự tu hành, giữ giới của Bồ-tát, hương thơm giới đức xông tỏa khắp nơi, được thành tựu các tuệ thông suốt, có thể diễn thuyết vô lượng pháp môn, đối với văn tự không còn chấp trước, cũng không phân biệt nơi chốn, hiểu rõ cảnh giới. Nếu bậc Hữu học thức lệ thuộc nơi sắc, tâm thuận theo, mang hy vọng bị trói buộc không bỏ, đi trong sinh tử, xoay vòng qua lại, ý thường mê loạn không thể tự cứu, bị lưới nghi ấy thì rơi vào sinh tử, luân hồi trong năm đường không có lúc dừng nghỉ. Bồ-tát giữ tâm chân chánh, chế ngự các loạn tưởng, không chạy theo năm ấm mà đoạn trừ ấm, cái; cũng không cho sắc, thọ, tưởng, hành, thức có sinh, có diệt, tư duy về pháp quán hơi thở ra, vào; phân biệt sắc do tứ đại tạo ra; đất, nước, gió, lửa đều có tự tánh riêng của nó. Nếu làm cho thức kia không ở nới năm ấm thì có thể thành tựu, không hoại pháp giới, thức không chạy theo mười hai trần lao: mắt nhìn sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý đối với pháp. Đó là thức của tuệ căn vô lậu, không phải là thức của sinh tử nhiễm ô. Nếu không chạy theo các pháp bên ngoài thì không còn mong cầu. Giả sử có nơi nương tựa, liền sinh thức tưởng, có sự mong cầu cũng gọi là thức. Bồ-tát phải học không lệ thuộc nhập nào cả nên tâm không sinh niệm, không có sự ưa thích, công lao bố thí không cầu đáp trả. Đây là loại thức hữu vi hữu lậu, tu hành vô vi mới là vô thức. Bồ-tát thắp sáng đèn trí tuệ, dựng đuốc vô vi, chiếu ánh sáng lớn, hiển bày giáo pháp thù thắng không gì bằng, chỉ cầu sự chết thực bên trong, không tìm sự trau chuốt bên ngoài. ở nơi đạo, Pháp thân Bồ-tát không ai sánh bằng, có thể ở khắp các cõi nước chư Phật hiện ra trong ấy, tự tại không sợ hãi; lại đối với các pháp, hoàn toàn không nắm giữ, cũng không chọn lựa, không thấy có cao thấp, tâm được tự tại, không khiếp sợ, tùy theo ngôn ngữ của họ để giáo hóa, hoặc vì chúng sinh mà nói pháp môn sâu xa, tạo ra điều kiện để họ từ bỏ tất cả, hiểu rõ được tâm niệm của chúng sinh, ý muốn hướng đến thiện, ác, đều đem họ đến khắp cõi nước chư Phật. Chư Phật Thế Tôn đã tu pháp bình đẳng, không thấy chúng sinh và cõi Phật thanh tịnh. Nếu thấy có sự tu hành là hủy bỏ pháp giới do đó tâm Bồ-tát không có chỗ trụ. Nếu thấy có chúng sinh là trụ nơi phân biệt nên đối với pháp tánh sinh ra sự ràng buộc do nhận thức; không khởi không diệt, thức không chỗ trụ, đó là đạo tuệ vô vi thanh tịnh. Nếu không có pháp bình đẳng đạo tuệ thì chư Phật Thế Tôn không từ mẫn xuất hiện ở đời. Thệ nguyện của Bồ-tát hành theo nghiệp vốn là không, cũng không dừng nơi thệ nguyện đó mà đạt đến lẽ tự nhiên, không có siêng năng để được thành tựu, không thấy nhàm chán có sự lười biếng; đối với pháp quán bình đẳng, không sinh, không diệt, dũng mãnh tinh tấn nên được thọ ký Bồ-tát, có thể phân biệt hoàn toàn kinh điển, chọn lấy trí tuệ, vứt bỏ phiền não, quán sát sinh tử và diệt độ không khác nhau, thường nhớ nghó nghóa thâm sâu của kinh điển, dò xét xa gần đều vắng lặng không có dấu vết, dù độ chúng sinh cũng không nhớ tưởng, thân gần tri thức, tâm không đắm trước, không chấp ngã và tuổi thọ, suy nghó phân biệt về Không, Vô tướng, Vô nguyện đều không sinh không diệt; hoặc ở trong cõi Dục suy nghó về ái dục ô uế, bất tịnh, hoặc thọ thân ở cõi Sắc, vô sắc biết rõ sự bất tịnh, vì muốn khai ngộ giáo hóa chúng sinh mê hoặc nên nói nghóa chân đế này, phân biệt “không” “vô” đều không có nơi chốn, không thấy tạo tác có hình chất, không tạo không tác, không thấy nương tựa, trụ nơi không chỗ trụ, cũng không căn bản, không thấy đọa vào ba đường ác, không thấy sinh lên cõi trời đầy đủ thức ăn tự nhiên chỉ bày rõ đường vào đạo mà không có sự mong cầu, không có đối tượng tạo tác, đối với các pháp quán đạt đến lẽ tự nhiên, tướng các pháp cũng không cùng tận, giống như hư không, không có ranh giới. Bồ-tát bậc thứ mười dạy người bố thí, không có tư tưởng ngăn ngại, bằng cách bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, tuyên dương trí tuệ, phương tiện quyền xảo, Từ, Bi, Hỷ, Xả, cứu giúp kẻ nghèo khốn, phát triển đạo lớn. Bồ-tát bậc thứ mười tuy chưa ngồi tòa Như Lai nhưng có thể thông suốt nguồn biển tuệ, làm thanh tịnh trang nghiêm cõi nước, phóng ra ánh sáng lớn chiếu khắp chúng sinh, đem chánh pháp giáo hóa họ trở về với đạo, lập vững tuệ nghiệp, thành tựu Đại thừa, được mười phương chư Phật luôn ủng hộ và dùng oai thần trợ giúp thêm công đức cho vị ấy, cho đến lúc thành Phật được nhất thiết chứng đạo Vô thượng không để cho chúng ma quấy nhiễu. Bồ-tát bậc thứ mười biết được công đức đã đầy đủ, muốn thành Phật ngồi dưới gốc cây Bồ-đề, trước tiên nên tu tập bốn Niệm xứ, phân biệt thân, ý đều có tánh riêng của nó, liền tự quán sát sự sinh, diệt, hưng, suy của thân, tâm tụ vui mừng hoàn toàn xa lìa khổ não. Bằng định tinh tấn, Bồ-tát quán thân này do nhân duyên hợp thành, suy nghó kết quả thân này do nhân duyên hòa hợp thì tại thành, nhân duyên tan hoại thì mất đi, nên biết thân này không có chủ tể, cũng không đáng tham. Vì sao lại chấp trước sắc thân này? Chớ nên chạy theo sự mê hoặc của năm ấm, bốn đại, cái nhập. Thân này là không vì không thấy bốn đại là pháp của ngã, chỉ do các hành tích tập nhiều kiếp nay mới có được. Vì sao chấp trước thân mong manh không kiên cố này? Nay ta được sắc thân Như Lai và Pháp thân Phật, sắc thân là do tích tụ công đức giống như kim cang không thể bị hoại. Thân hữu lậu của thế tục đầy khắp hằng hà sa thế giới trong mười phương không bằng công đức như đầu sợi lông của sắc thân Như Lai. Bồ-tát tự nghó: “do vô lượng công đức mới thành tựu sắc thân này. Nay nhờ vào hình tướng này nên nhận được Pháp thân của Như Lai, lội trong sinh tử, qua lại năm đường, chịu vô lượng khổ không thể kể hết. Nay thọ sắc thân của Như Lai không còn nghó đến tai họa, khổ não ngày xưa đã chịu. Từ nay mãi mãi xa lìa các phiền não, không còn tham đắm vào năm dục;” quán thân mình, rồi quán thân người khác đều không nơi chốn, tu tập hạnh thanh tịnh, không còn lỗi lầm, đó là Bồ-tát tu Pháp thân niệm xứ. Bồ-tát suy nghó pháp thọ niệm xứ như thế nào? Đó là từ lúc mới phát tâm cho đến lúc thành Phật, trong khoảng thời gian đó, Bồ-tát chịu nhiều thống khổ không thể kể hết, chuyên tâm lập chí không thể mong cầu Phật đạo, không nhớ nghó đến những thống khổ đã trải qua. Nếu thấy người đang đau khổ, đi vào nẻo ác, Bồ-tát liền cứu vớt họ, khiến không còn khổ, thường nghó đến chúng sinh không tự tỉnh ngộ, quyết không để họ rơi vào sự trói buộc của dục. Từ xưa đến nay, xúc và thọ của ta không thật, không có, đều không có chỗ sinh khởi. Giả sử có cảm thọ không khổ, không lạc thì đó là vô ký không thể gọi tên. Người tu tập tham đắm lạc thọ thì tự mình xa lìa chỗ ngồi của Như Lai, không thích ứng với giới luật của Như Lai, không thích ứng với giới luật của chư Phật. Từ nay mãi mãi dứt hẳn không còn sống theo cảm thọ, khiến chúng sinh quán thọ không có chủ tể. Hoặc chúng sinh kia đối với sắc thọ cảm thọ hoặc tốt, hoặc xấu; đối với sắc đáng ưa, sắc không đáng ưa, sắc do bốn đại: địa, thủy, hỏa, phong tạo ra thì khiến họ biết rõ điều vắng lặng, không thật có; hoặc có chúng sinh trước khổ, sau vui; hoặc có chúng sinh trước vui, sau khổ nên thuyết kinh thâm sâu để họ làm chủ cảm thọ như mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý cùng với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp từ nhân duyên sinh cũng từ nhân duyên diệt nên suy nghó khổ, vui đều không khổ, vui; lại nên phân biệt cảm thọ trong ngoài: hoặc có lạc thọ sinh ở hiện tại, hoặc quá khứ, hoặc vị lai; hoặc có lạc thọ từ ái trói buộc sinh ra nên thức càng thêm đắm trước, không thể xa lìa; hoặc có lạc thọ từ si ái sinh ra nên tư duy chánh quán, mới được tiêu diệt, hoặc có lạc thọ do tà nghi sinh ra dần dần tăng trưởng nên dùng bốn vô thường trừ bỏ khiến không còn sinh; hoặc có lạc thọ từ bốn thọ sinh ra thì dùng định vô tướng để diệt trừ các thọ; hoặc có lạc thọ từ năm ấm sinh ra nên tư duy về pháp bảy Giác chi, khiến không còn sinh; hoặc có lạc thọ từ sáu pháp nơi thân sinh ra thì phân biệt rõ Không, Vô tướng, Vô nguyện, hoặc có lạc thọ từ bảy thức sinh ra thì phải lập chí tinh tấn, không tạo các duyên; hoặc có lạc thọ từ tám pháp thế gian sinh ra thì nên hạ mình, không nên cao ngạo; hoặc có lạc thọ từ chín phiền não sinh ra thì phải cố gắng hoàn toàn, xa lìa chín xứ; hoặc có lạc thọ từ mười tai họa sinh ra thì phải bỏ sự mong cầu, không nghó đến của cải không chân chánh; hoặ có lạc thọ từ bảy vực sâu và bốn kết sử sinh ra thì phải suy nghó ánh sáng lớn của trí tuệ; hoặc có lạc thọ từ chỗ ở của chín loại chúng sinh và ba pháp quán sinh ra thì phải giữ ý vào định không tịch; hoặc có lạc thọ không phải nhân quá khứ, hiện tại, ái vị lai, hoặc không phải nhân vị lai, hiện tại, ái quá khứ, hoặc không phải nhân quá khứ, vị lai, ái hiện tại hoặc không phải nhân quá khứ, ái vị lai, hiện tại, hoặc không phải nhân vị lai, ái quá khứ, hiện tại, hoặc không phải nhân hiện tại, ái vị lai, quá khứ. Đối với các pháp ấy, Bồ-tát suy nghó về bảy xứ và ba pháp quán, diệt trừ mười ba thứ độc hại rực cháy. Khi ấy Bồ-tát suy nghó tiếp về sự sinh khởi của lạc thọ, hoặc có lạc thọ do tám tà kiến và sáu thức ở thân cùng nhau gặp gỡ sinh ra lạc thọ, nên càng phát triển ấm, trần, các nhập. Đó là Bồ-tát dùng quán giải thoát, phân biệt thọ này hoàn toàn không còn; hoặc có lạc thọ và mười pháp bất thiện, ô uế-làm nhân duyên cho nhau, bằng tuệ nghiệp đoạn trừ năm loại lưới nghi. Nếu hiện tại sinh thì diệt trong hiện tại cũng không cho sinh trong vị lai, nếu đã sinh quá khứ thì cũng diệt trong hiện tại, đó là Bồ-tát dùng quán giải thoát diệt trừ mười lăm lưới nghi. Bồ-tát phải suy nghó pháp niệm xứ như thế nào? Bồ-tát này giữ ý, chế ngự tâm tán loạn làm cho chuyên nhất, có tạo tác quyết chắc có đối tượng, tự quán tâm mình, rồi quán tâm người khác, tâm ổn định không thay đổi thì đến chỗ nào, đi, lại, ra, vào, cử động đều nhẹ nhàng, luôn luôn tinh cần hộ trì tâm mình: có duyên nó sinh, không duyên nó diệt, không duyên nó sinh, có duyên nó diệt, ở nơi mình duyên khởi thì do nơi mình duyên diệt, ở nơi người khác duyên khởi thì ở nơi người khác duyên diệt, hoặc duyên khởi, diệt cũng không ở trong, không ở ngoài, không ở giữa; đối với bên trong có duyên khởi, diệt hay không duyên khởi, diệt, hoặc do tham dục, sân hận, ngu si, bảy kết sử, bảy mạn, bảy kiết trụ, bảy giải, bảy quán, bảy nhẫn tuệ nghiệp, hoặc nhân đây mà có duyên khởi, diệt hay không duyên khởi, diệt đều do nơi tâm, nhân nơi tâm sinh ra bốn mươi lăm pháp tối tăm này ý thức đã tạo tác mà không tự biết, ý không biết ý thì cái gì là nguồn gốc, đã không nguồn gốc thì làm gì có ý? Bồ-tát phân biệt tâm, ý, thức, pháp, thông đạt qua lại không có nơi chốn. Đó là Bồ-tát dùng quán giải thoát biết nguồn gốc của tâm duyên không thể nắm bắt được, cũng không thấy tâm hợp với thiện, ác, không hợp chẳng hợp thích ứng với quán giải thoát. Bồ-tát lại suy nghó mười hai nhân duyên sâu xa không cùng tận: đối với quả đã trồng thì báo ứng không mất, đối với pháp giới tâm không đắm nhiễm; quán pháp giới từ nhân duyên sinh thì biết rõ các pháp không thật có, tự nhiên vắng lặng, nương nhau tồn tại, chỗ tạo tác của tâm không có hình chất cũng không thấy được, tìm tướng mạo cũng không thấy màu sắc hình tướng. Bồ-tát thông đạt thánh tuệ liền nhập vào pháp vô sinh, không còn sinh khởi, không trụ ở quả vị Thanh văn, Duyên giác, thường tự giữ ý thuận theo Phật pháp, bên trong vui mừng tự suy nghó: “Nay ta đã hàng phục được tâm, bỏ tham chấp sinh tử, nhập vào biển trí tuệ, do đó ta được đạo Vô thượng chân chánh thành Tối chánh giác”. Đó là Bồ-tát đối với pháp Niệm xứ được tự tại. Bồ-tát đối với pháp Niệm xứ, quán sát phân biệt như thế nào? Đó là Bồ-tát tu tập chánh pháp ban đầu không quên mất cho đến lúcthành Phật đạo cũng không xã bỏ, bên trong tự quán pháp mình, bên ngoài quán pháp người. Bồ-tát biết tướng các pháp không một, không hai, cũng không ba, bốn, đều quy về nơi Không, Vô tướng, Vô nguyện, các pháp đều bình đẳng, xa lìa tà kiến, phân biệt nguồn gốc của mười hai duyên khởi, thường nhớ nghó sự thành, bại, thạnh, suy của pháp giới, hữu lậu, vô lậu, hữu vi, vô vi, pháp thiện, pháp ác, hữu ký, vô ký. Lúc ấy, Bồ-tát suy nghó quán sát tự sinh thức tưởng, không lệ thuộc pháp giới, không thấy phi pháp và ngã, cũng không khởi niệm phân biệt người, tuổi thọ. Hoặc có Bồ-tát tự khởi pháp tưởng chấp trước ngã của mình, nuôi dưỡng mạng sống kia, suy nghó về đoạn diệt, vô thường là có thường, vạn vật trong thiên hạ đều không tồn; đối với vô thường, chấp không có hợp tan, hoặc đối với các pháp sinh tưởng điên đảo: không tự nó thường không, có tự nó thường có, không thì không sinh có, có thì chẳng sinh không, không tự nhiên sinh, không tự nhiên diệt, không chẳng tự thấy ngã tự nhiên có, có chẳng tự thấy ngã tự nhiên không. Bồ-tát bậc thứ mười dùng trí tuệ thông suổt phân biệt có không, diệt trừ chấp thường về ngã, nhân, tuổi thọ đều bình đẳng không thật có, quán sát bậc nhất nghóa không vi diệu, bậc nhất tánh không cũng không sinh có, có tự thường có, không biết sự không của không, không tự nó thường không, không biết sự có của có. Bồ-tát dùng tuệ phân biệt: có tự tánh là không, không tự tánh cũng không, không chẳng tạo có, có chẳng tạo ra không; chấp có, chấp không là pháp sinh tử không phải là pháp Niết-bàn bậc nhất, không tự nó chẳng phải là không, không mà không biết không, không tự tánh là không; có tự nó không phải là có, có mà không biết có, có tự tánh là không, có tức là không, không tức là có, cho nên, đối với tánh các pháp, Bồ-tát phân biệt từng loại, suy nghó phân biệt tất cả các pháp là thường, vô thường, sinh diệt thường đoạn, hữu vi, vô vi, hữu lậu, vô lậu, pháp thiện, pháp ác, hữu ký, vô ký, có tên gọi, không có tên gọi cũng đều vắng lặng, cũng không thể ghi nhận được cái tịch diệt đó, tự quán pháp mình và quán pháp người, đối với các tưởng chấp trước cũng không suy nghó về tưởng, hiểu rõ pháp Không, Vô tướng, Vô nguyện, đối với pháp giới tìm cầu Phật pháp và cấm giới đều không nơi chốn, cũng không đường đi, không thấy đồ người đạt đến giải thoát, cũng không thấy chìm đắm trong sinh tử, ở trong pháp đó khai mở dẫn dắt tất cả chúng sinh, có thể phát tâm đại Bi không bị ngăn che, đối trị các bệnh phìên não, hiểu rõ các kết sử trói buộc là không thật có, phân biệt năm đường, bình đẳng dạy dỗ, tuy ở trong cõi Dục mà không có khiếp sợ, hiểu rõ ba độc nên không bị ngăn ngại, đạt đến chỗ này gọi là bậc Đại só. Bồ-tát an trụ vào đạo phương tiện quyền xảo không thể nghó bàn, Khổ, Tập, Diệt, Đạo đều trở về tự nhiên, ở trong tự nhiên không thấy sinh diệt, tâm ý như hư không, không thật có, không nghó đến chỗ ở, tìm cầu pháp giới, hư không giới và chỗ ở của chúng sinh cũng không chỗ trụ, tất cả các pháp đều bình đẳng như hư không. Đó là Bồ-tát tùy lúc dẫn dắt thuận theo đạo pháp, tuy độ chúng sinh cũng không thấy độ Bồ-tát nào quán pháp tư thân và quán pháp người khác thì có thể tự ngăn chận tâm đạt được trí tuệ, biết rõ các pháp đều trở về giải thoát, có thể giáo hóa tất cả chúng sinh, hiển bày đạo chân chánh vô thượng, được pháp vô vi tự nhiên, không thấy chỗ sinh, không bỏ pháp vô sinh, vô khởi diệt. Đó là Bồ-tát đối với pháp Niệm xứ được tự tại. Đức Phật lại bảo Tối Thắng: –Bồ-tát thứ mười phải nên suy nghó pháp tứ chánh cần, thường nhớ nghó phân biệt hiện tại trước mặt pháp ác chưa sinh thì ngăn chận không cho sinh, pháp ác đã sinh thì làm đoạn diệt, pháp thiện chưa sinh thì mong cầu sinhkhởi, pháp thiện đã sinh thì làm tăng trưởng, thường phải siêng năng, tinh tấn tu tập, tự giữ tâm mình không cho tán loạn, từ xưa đến nay, nhờ công đức tạo được nên không mất oai nghi phép tắc, hành động bình đẳng nên có thể chế ngự được tâm, suy xét những lỗi lớn trong tai họa là do ba căn bất thiện làm đọa vào nẻo ác, luân hồi trong năm đường không có dừng nghỉ. Vì thế Bồ-tát phải siêng năng, tinh tấn tu hành mới có thể tiêu diệt nguồn gốc ác bất thiện, không còn sinh loạn tưởng nữa, thường tự quán sát kết quả của pháp bất thiện. Việc làm xấu ác này không phải đạo chân chánh. Nay ta xa lìa các việc phi pháp, tu tập bậc nhất nghóa, diệt hết phiền não, trừ sạch sân giận, phân biệt nguồn gốc mười hai nhân duyên, pháp lành chưa có thì tạo lập công đức làm sinh mầm móng, không cho hư hoại, làm thanh tịnh tâm mình không còn lỗi lầm, không bị lệ thuộc vào các dục trói buộc trong ba cõi, xa lìa sự đắm trước, hoàn toàn không còn vướng mắc, có thể dẫn đến Nhất thiết trí, đối với các tuệ sâu xa không bị tổn giảm cho nên công đức đã đạt được đều do siêng năng mà thành đạo quả. Đó là Bồ-tát đối với pháp Tứ chánh cần được tự tại. Bồ-tát này lại nên suy nghó, phân biệt thần túc. Bồ-tát tuy được định ý thần túc, lúc sắp thành đạo ở Địa thứ mười cần phải tu tập định như lúc mới học, phải chuyen tâm nhập định, suy nghó về bốn vô lượng tâm, tăng thêm tâm thương xót tất cả. Bồ-tát cân bằng thân và tâm, chuyên chú nhập vào thiền thứ nhất lại nhập vào thiền thứ hai, lại chuyên tâm ra khỏi Sơ thiền, nhập vào thiền thứ ba; ở trong thiền ấy nhất tâm suy nghó, ra khỏi thiền thứ ba lại nhập Sơ thiền; ở trong thiền ấy biến hiện thần túc, ra khỏi Sơ thiền rồi nhập vào thiền thứ tư. Khi ấy Bồ-tát ở trong thiền thứ tư biến hiện thần túc; dùng thân nâng tâm, dùng tâm hỗ trợ thân, ban đầu như hạt cải, chuyển dần lớn như hạt đậu rồi lớn dần như trái nho, siêng năng tăng thêm cho đến hai mươi mốt ngày, thân, tâm nhẹ nhàng không còn ngăn ngại. Cho nên Bồ-tát lại nhập vào định ý và thí nghiệm thần túc, có thể nương thần túc biến hóa ra một ức người, đứng vững không thoái lui, thành tựu định thần túc. Bồ-tát lại thị hiện thần thông khắp nơi không cùng tận, từ cõi Diêm-phù-đề đến cõi trời thứ nhất, thứ hai, thứ ba cho đến cõi trời thứ sáu. Chư Thiên thấy rồi đều nghó thế này: “Hôm nay Bồ-tát thị hiện thần thông phát ra ánh sáng chiếu khắp nơi chư Thiên chúng ta cùng nhau ủng hộ Bồ-tát thành tựu Phật đạo”. Chư Thiên dùng các loại hương hoa, y phục cõi trời, cam lồ tự nhiên để cúng dường. Trong trường hợp này, Bồ-tát dẫn dắt chư Thiên, loài người đạt được thần túc, đều được lợi ích. Trong quá khứ hằng hà sa Bồ-tát tu tập mười Địa được hạnh thanh tịnh đều ở nơi đây biểu hiện thần túc, nhất tâm quán sát, tìm cầu phương cách, có thể hiện các việc biến hóa, dùng sức tinh tấn thành tựu đạo quả, hành động tự tại không gì nghịch lại được, muốn giáo hóa ai thì hàng phục được họ, xét rõ căn cơ đều khiến được đầy đủ kết quả, ma hoặc ma trời không thể quấy nhiễu. Lúc ấy, Bồ-tát dùng Thiên nhãn quán sát tam thiên đại thiên thế giới, có người có dâm dục, sân hận, ngu si, không dâm dục, sân hận, ngu si; có người có hạnh thanh tịnh, có người có định ý, không có định ý, có người có loạn ý, không có loạn ý. Bồ-tát đều biết và phân biệt ý muốn của các căn. Bồ-tát dùng thiên nhó nghe tiếng của chúng sinh có thể tùy theo thứ lớp biết âm thanh của họ để giáo hóa. Bồ-tát dùng sức thần túc nhập vào chánh định thấy rõ tất cả ý muốn căn tánh của người, thấy được nguồn gốc từ đâu đến. Đó là Bồ-tát thực hành thần túc. Lúc ấy, Bồ-tát lại suy nghó: Căn, Lực, bảy Giác chi, tám Thánh đạo, tín, niệm, tinh tấn, định ý, tuệ căn. Bồ-tát thường dùng trí thần thông vi diệu, quán sát có bao nhiêu chúng sinh thành tựu, Căn, Lực, Giác chi, Thánh đạo, các tuệ thần thông. Lúc ấy, Bồ-tát dùng tha tâm thông quán chúng sinh ở trước mặt: Hoặc có người tín căn thành tựu đầy đủ, thường tu pháp tám Thánh đạo bình đẳng, tâm luôn chánh kiến không ở cõi ma, tin biết sinh tử thống khổ vô lượng, lại biết Niết-bàn an lạc vô vi, tin có Tam bảo sáng suốt ở thế gian, không tin chín mươi sáu phái ngoại đạo; đối với các thông tuệ không còn nghi ngờ, tích chứa nhiều công đức làm hưng thạnh chánh pháp, ở trong đơ giữ vững tâm tin không khó. Bồ-tát dùng trí thần thông vi diệu không chướng ngại, quán sát các chúng sinh ấy ngày đêm tu hành tinh tấn, ngồi, nằm, kinh hành, tâm không lười biếng, nhờ sự tinh tấn nên các căn đầy đủ giống như y trời bao trùm khắp bốn phương trên, dưới bằng nhau không chênh lệch. Bấy giờ, có người đến một phía cầm một góc y, đưa lên, di chuyển thì ba góc kia di chuyển theo, tinh tấn căn cũng vậy. Nếu có người tu tập tinh tấn căn thì nên biết người ấy đầy đủ tất cả các pháp. Nhờ có tinh tấn biến thành tựu niệm căn. Tâm không tán loạn gọi là định căn; thường dùng phương tiện giữ tâm một chỗ, phân biệt thiện ác, tâm như hư không, đó là tuệ căn. Bồ-tát bậc thứ mười vào định thần thông vi diệu, đoán biết tướng thọ thai của chúng sinh, phân biệt nam, nữ, nam căn, nữ căn, một đời, mười đời, trăm đời, ngàn đời đến vô số đời đều hiểu rõ không cùng tận. Đó là Bồ-tát tu tập đầy đủ pháp môn, suy nghó các quả vị, trí tuệ biện tài không ai sánh bằng, ngay nơi tâm niệm chấn động đến các cõi nước khắp mười phương, đi khắp các cõi nước chư Phật, chiếu ra ánh sáng. Người nào thấy ánh sáng này đều được độ thoát. Bồ-tát đối với các cõi nước lập ra pháp luật, khiưến họ tuân theo, phụng từ kinh điển mà hiển thánh, cũng làm an lạc lợi ích dân chúng nước ấy, đẫn dắt họ thấm nhuần diệu pháp, nghe không nhàm chán, thường hiểu rõ dòng họ, quyến thuộc dân chúng nước ấy, giáo hóa không phân biệt, cũng quán biết tâm ý chúng sinh, liền diễn nói sáu pháp Ba-la-mật, chế ngự loạn niệm của chúng sinh, dần dần cứu giúp tất cá, tự làm vị dẫn đường, dẫn dắt chúng sinh đi vào tuệ thiện pháp, thường nhớ nghó nhập định nên không mất thần túc, tu tập thần thông, phân biệt ba đời, quá khứ, hiện tại, vị lai, trí tuệ vô biên nên suy nghó học kho tạng Phật pháp thâm sâu, cũng nên học tất cả các pháp của chư Phật, hiểu rõ các pháp thì không còn bị lệ thuộc, học cách diễn bày kho tạng bảy báu không cùng tận, học cách dùng trí thần thông thành tựu cõi nước, tu tập ánh sáng chiếu khắp mười phương, được định ý của Phật, chấn động cõi nước; học phương tiện quyền xảo, giáo hóa ngoại đạo, học giữ giới thành tựu đạo quả; học cách hội họp để chuyển pháp luân, tự thân học được thành Nhất thiết trí, sự học thành tựu, không còn gì để học. Đức Phật bảo Tối Thắng: Đó là Bồ-tát tu hành an trụ Địa thứ mười, tiến tới thành Phật, sửa sinh cõi nước, sinh vào cõi Đâu-suất giáo hóa trời, người, hiện pháp thù thắng đặc biệt, quán sát sinh vào dòng họ cõi nước nào? Từ cõi Đâu-suất hạ sinh xuống nhân giann, trải qua ba mươi sáu lần, xoay vần qua lại giáo hóa trời người, trong thời gian đó độ thoát vô số chúng sinh, bằng phương tiện quyền xảo vượt len ba cõi không hề khiếp sợ, sau đó hạ sinh xuống nhân gian, tu khổ hạnh sáu năm, chuyên tâm chịu khổ, thân như cây khô. Tuy Ta thị hiện việc khó làm ở cõi này nhưng ta vẫn đang ở cõi Phật khác giáo hóa tám mươi bốn ức na-do-tha, trời, người, đều khiến họ được quả vị không thoái chuyển. Chúng sinh ở cõi này thấy thân hình của ta cho là đã chết, không còn mạng sống, họ đi qua, chất củi thiêu đốt nhưng không cháy, bằng phương tiện thiện xáo nhất tâm tinh chuyên phát triển thánh tuệ, không bỏ sự mong cầu của chúng sinh, trừ những gì không cần thiết ra thì yêu mến chúng sinh vô cùng. Cho nên Bồ-tát hiện đủ các việc khó làm. Bồ-tát bậc thứ mười khai hóa chúng sinh không lià xa sinh tử, độ mọi người giác ngộ như Phật. Nếu Bồ-tát muốn mau thành đạo Vô thượng, như trong khảy móng tay được than màu hoàng kim, đầy đủ mười lực, bốn vô sở úy, mười tám pháp Bất cộng thù thắng. Bồ tảt trong một ngày thành tựu quyến thuộc nhưng không cầu các thứ tốt xấu cõi nước ấy, chỉ vì chúng sinh có tâm cao ngạo, khen mình, chê người, không bỏ tự đại, cho nên Bồ-tát hiện thọ bào thai, tùy theo thế gian phương tiện biến hóa, sinh vào chỗ nào cũng làm nhiều lợi ích. Bồ-tát bậc thứ mười không có hiệu Bồ-tát, thường gọi danh hiệu Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Vị Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Đại Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, hội đủ vô lượng phước, được chư Phật ủng hộ, được chư Thiên bảo vệ, đã diễn nói pháp thì có nhân duyên đúng thời thích hợp làm gì cũng lợi ích cả. Tối Thắng nên biết! Sở dó gọi là cõi Phật vô hiệu, là vì cách đây bảy mươi bảy hằng hà sa cõi nước chư Phật về hướng Đông nam, có thế giới kia gọi là Nhân hiền, Đức Phật gọi là Thiên Nhãn. Nước ấy không có đạo Thanh văn. Duyên giác, không có danh hiệu cũng không có pháp sinh diệt, cùng tuyền trao cho nhau biết giải thoát là không nên chấp giái thoát, nghe pháp không được giái thoát, hiểu rõ không khó, cũng không còn ba độc dâm dục, sân giận, ngu si, ghi nhớ tất cả thật không cùng tận. Ta làm việc Phật sự ở cõi nước kia, chúng sinh ở đây cũng không biết chỗ ở của ta. Đó là những điều Bồ-tát đã đật được. Đó là Bồ-tát bậc thứ mười trụ trong mười Địa làm thanh tịnh hành động của mình.  <詞 id="113335691">Phẩm 11: diệt tâm Bấy giờ, Bồ-tát Tối Thắng ở trước Đức Phật thưa: –Bồ-tát quán sát vô thường phân biệt nghóa không như thế nào? Hiểu rõ thân mình trong ngoài không có chủ tể, tâm được tự tại, việc làm đầy đủ? Đức Thế Tôn bảo Tối Thắng: –Tâm Bồ-tát ở chỗ không tham đắm, luận giảng các pháp không bị ngăn ngại, biết rõ căn tánh người là pháp mộng huyễn, biết rõ tâm nguyện thiện ác của chúng sinh, và nhân duyên báo ứng của sự đến đi, hoặc tịnh, bất tịnh, khổ vui, tốt xấu, thuận nghịch, trói buộc, định loạn, cảnh giới, biết tất cả đều là hư vô không thực. Lại nữa, Bồ-tát bằng túc mạng thông, thuyết pháp đúng lúc, khiến chúng sinh biết được chỗ không tịch, thần túc không ngăn ngại đều thấy tất cả, đố là Bồ-tát quán biết nguồn gốc của nó là không, hoặc hiện thân Phật rồi diệt độ, chỉ dùng phương tiện, hoàn toàn không diệt độ, biết hết chúng sinh xưa nay thanh tịnh, hoặc hiện thân rã rời phân tán khắp nơi để mà thuyết pháp, cho biết đó là bất tịnh nhơ cấu uế, làm cho những người chấp thường diệt trừ tham ái, lại khen ngợi người dứt sạch hết các lậu hoặc đến cửa Niết-bàn. Giả như các lậu chưa đoạn sạch thì không chứng được, lại vì chúng sinh khen ngợi vô lậu, tất cả việc lành đạt đến tuệ vô tận, thực hành đại Từ bi an trụ Thiền định trong trong thiền thứ ba, thứ tư, rồi đạt đến tứ không định, chứng được pháp không, vô tướng vô nguyện, tu tập ba mươi bảy phẩm trợ đạo, dùng phương tiện quyền xảo hóa độ tất cả, quán các chúng sinh kia ở trong tám nạn, dứt bỏ các phiền não hoàn toàn không cấu nhiễm, bằng đạo Hiền thánh không ngăn ngại, vào trong sinh tử khiến đến Niết-bàn, cũng dùng pháp đại trí quyền tuệ, hóa độ hàng Thanh văn và Duyên giác, tùy theo khả năng tiến đến đạo tràng, hoặc ở trong phiền não loạn động dạy người thực hành tịch tónh không khởi các tưởng, hoặc có chúng sinh chấp trước các loại phiền não hay không phiền não hiện không thực có, khiến cho mọi người đạt đến chỗ không còn chấp trước, tuy ở trong cảnh giới nhưng qua lại khắp nơi, không khởi tướng chấp trước, không có sự ngăn ngại, thường nói pháp vi diệu cho chúng sinh, hữu lậu vô lậu, hữu vi vô vi, pháp thiện pháp ác, đều biết rõ không có ngăn ngại, hiểu rõ gốc pháp tâm hành của chúng sinh, tùy theo hình dáng của họ mà đưa vào vô vi, tùy theo tập tục dạy họ hiểu rõ pháp, đối với tưởng của tâm, ý, thức, không còn sinh diệt, bằng quyền tuệ giáo hóa, thường được tự tại. Như vậy Tối Thắng! Bồ-tát thực hành pháp quán, hiểu rõ nguồn gốc của thân trong ngoài không có chủ tể, thường nhớ tu hành không nhàm chán hoàn toàn an vui, lại khiến cho chúng sinh mong được phước đức ấy, thực hành đại Từ bi không còn khiếp sợ, sau đó mới hiểu thân không có chủ tể, và pháp trong ngoài cũng như vậy, xem các chúng sinh ấy như xương thịt của mình. Hoặc có sự cầu xin thì trước họ sau mới đến mình, tâm đại Bi vững chắc cứu độ tất cả làm cho được công đức thù thắng, tâm thức vắng lặng không bị lay động, quán sát nguồn gốc của thân không còn tham chấp, lại vì chúng sinh mà nói bất tịnh, thân này như bức thành hoàn toàn trống rỗng, thân như khe suối luôn luôn tuôn chảy, thân như lửa dữ đốt cháy củi không ngừng, cũng như sông hồ chảy về biển không đầy, thế nên Tối Thắng! Bồ-tát chỉ dạy về cách suy nghó phân biệt biết về bất tịnh, cũng làm cho người học được tưởng bất tịnh, vào sâu biện tài cũng không ngăn ngại, đạt được pháp Tổng trì không bị quên mất, lời dạy đúng theo thứ lớp, thường được Tam-muội chánh định sâu xa, thường vào nơi vắng lặng và các Ba-la-mật, hàng phục các ma oán bỏ tà niệm loạn tưởng, thế nên Tối Thắng! Bồ-tát quán thân biết rõ trong ngoài không có nơi chốn, cũng như huyễn hóa, ảnh tưởng, âm vang, sóng nắng, ánh chớp, nhập vào pháp chân đế, phân biệt pháp giới, xa lìa tham đắm, siêng tu chánh giác, biết tất cả các pháp Không, Vô tướng, Vô nguyện, sinh cũng không sinh, không sinh cũng không sinh, tùy ở chỗ sinh mà cũng không có hai, dù ở chỗ nào khai mở hướng dẫn hóa độ chúng sinh, quyết chí dũng mãnh không bỏ đạo tâm, ngồi dưới cây Bồ-đề lập thệ nguyện. Hôm nay ta nguyện thề, nếu ta không thành Chánh đẳng giác quyết không rời khỏi chỗ này, giữ tâm bình đẳng, không bỏ Phật đạo, thường ở ba cõi cũng không lệ thuộc, tự quán pháp của mình và người khác cũng như vậy, mong cầu trí tuệ thanh tịnh sâu xa, biết rõ tưởng của thường đều là tưởng của vô thường. Lại nữa, Tối Thắng! Bồ-tát nhớ nghó như ta ngày nay thọ thân hữu lậu do đâu mà có? Bởi do nhiều kiếp tích chứa công đức không thành, tập họp trí nghiệp mới có thân này, không nghó đạo Duyên giác và Thanh văn, nếu có người đến gặp mình thì tâm không lo sợ cũng không nghi ngờ, thực hành bố thí từ bỏ các loạn tưởng, tự mình suy nghó, khi ta thành đạo, thân có tướng tốt trang nghiêm màu hoàng kim, dạy dỗ chúng sinh giữ gìn cấm giới không đọa vào đường ác, nhẫn nhục thuận đạo, các căn không khởi không loạn, siêng năng tinh tấn, bỏ tâm tự đại, Tam-muội chánh định tâm không tán loạn, thành tựu đại trí xa lìa trần tục, bằng lời dạy khéo léo để đạt đến không cùng cực, việc làm của bậc thánh trí chưa từng lầm lỗi, ở chỗ vững chắc như chỗ của Phật, biện tài phương tiện tùy thuận theo đúng nghóa lý, tâm ghi nhớ tất cả không làm sai lời dạy của đạo, làm mãn nguyện chúng sinh, không còn tiến đến thoái chuyển không bị đọa lạc, giáo pháp nói ra cùng nhau giữ gìn, tự mình không hiềm khích không nói lỗi của người, những lời dạy bảo phù hợp với giới luật, thực hành đạo Bồ-tát thường xét lỗi mình, thà bỏ mạng sống không nói lời chia rẽ, nếu có chúng sinh đến xin quy y cũng không lấy làm vui, nếu họ không đến cũng chẳng lo buồn, nghe điều thiện không vui nghe điều ác chẳng giận, tùy thuận tất cả quyết đến đạo tràng thề thành Phật đạo, không trái cấm giới, trước cứu nguy ách cho người không tự cầu an, ban cho bảy báu mà không hối tiếc, thâm nhập giáo pháp thần thông vô ngại, lại dùng thần lực quán căn cơ sâu cạn cao thấp của chúng sinh, phân biệt thánh tuệ vì đó mà thuyết pháp, làm mà không chấp trước cũng không cùng tận, tuy tâm duyên theo các lậu nhưng không bị đắm nhiễm, không lấy đó làm chứng đắc, quán sát pháp tánh mà không có ngã, chánh pháp vắng lặng thanh tịnh không còn vướng mắc, ba đời thay đổi, pháp không chỗ trú, nhìn về quá khứ hoàn toàn không còn, không xét đời vị lai có chướng ngại hay không có chướng ngại, không nghó hiện tại có sự tồn tại. Như vậy, này Tối Thắng! Bồ-tát quán khắp ức triệu, pháp không chỗ khởi pháp không chỗ diệt, thân thực hành thanh tịnh không làm ác, miệng nói lời tịnh tâm thường chí thành, ý trong sạch không làm mười điều ác, đó là Bồ-tát ứng hợp với Ba-la-mật, liền được chư Phật thọ ký, tuệ căn rộng lớn công đức đầy đủ, Bồ-tát bậc thứ mười định không thoái chuyển, phụng trì chánh pháp không sai trái, tính tình hòa thuận việc làm đầy đủ, được mười lực của Phật chí như kim cang, biết rõ nguồn gốc của pháp có khởi có diệt, hiểu rất cả tâm bệnh nặng nhẹ của người, biết rõ bao nhiêu chúng sinh tánh hạnh không đồng, thọ lãnh quả báo thảy đều biết rõ. Bồ-tát thọ quả báo như thế nào? Dùng trí tuệ sáng suốt trừ bỏ tối tăm, suy nghó quả đã chứng được. Tối Thắng nên biết, cầm kiếm hiểu biết chặt bỏ nghi ngờ, các việc đã làm đều vì chứng quả, do chứng quả ấy mà tu hành bố thí khắp nơi, trì giới đầy đủ như bình an lành, tâm hành nhẫn nhục như Đại só Tần Đầu, tinh tấn siêu việt như vua Thiện Nham, nhập vào Thiền định vi diệu như Bồ-tát Không Tuệ, chứng quả tâm tuệ không thể dời đổi, Bồ-tát bố thí bình đẳng không hai, không thấy ngã của ta có bao nhiêu tưởng, đối với người và vật đều bình đẳng, người và vật bình đẳng thì được các pháp bình đẳng, biết pháp bình đẳng thì chánh giác bình đẳng, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ đều bình đẳng không sai khác, hiểu tất cả sinh không có chỗ sinh, sinh cũng không sinh, không sinh cũng không sinh, hiểu sinh không sinh mới phù hợp với pháp tánh. Như vậy, Tối Thắng! Bồ-tát quán sát rõ tất cả các pháp chân chánh, không khởi phiền não mà cho đầy đủ, bỏ tất cả sinh mà không thấy chỗ sinh, đã từng bố thí không thấy sự bố thí. Hoặc có Bồ-tát bằng sự bố thí mà cầu đạo, lại bằng tưởng đắm trước mà mong diệt độ, đêu do tạp độc trở lại nơi sinh tử, chấp ngã từ xưa vô số kiếp, đã từng ở cõi này làm Chuyển luân vương Hoàng đế Phi Hành, tùy theo ý niệm tự nhiên hiện trước mặt không dám sai phạm, con cháu kế tục trải qua sáu mươi chín trung kiếp, thời gian đó thực hành Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ, dựng tháp bảy báu cao đến Phạm thiên đầy cả thế giới. Ở thế giới đó có Đức Phật hiệu là Dũng Tấn, có chín mươi ức trăm ngàn na-do-tha La-hán tùy tùng, Bồ-tát Đại só không thể tính hết, ta đích thân cúng dường tứ sự, áo mền, thức ăn, giường nằm đồ ngồi, thuốc thang, đất nước, của cải, vợ con, voi ngựa, bảy báu, tôi tớ, binh lính và nhân dân, hết làng cúng dường Đức Thế Tôn ấy. Khi ấy, ta bố thí nhưng có tâm đắm trước, do đó nên đọa lạc vào sinh tử, mất hết công đức bố thí ấy nên không có quả báo, tính ra công đức làm lúc đó thì nhỏ như một sợi lông, ngày nay có tồn tại cũng không thấy được, như vậy Tối Thắng! Bồ-tát bố thí, bố thí cũng không bố thí, không thấy bố thí cũng chẳng thấy không bố thí, bố thí cũng chẳng bố thí, người bố thí bình đẳng thì được pháp bình đẳng, hiểu rõ thí và không thí chính là tự nhiên, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ cũng như vậy. Biết rõ trí không tịch cũng không có trí, đối với trí và vô trí đều là trí tuệ. Lại nữa, này Tối Thắng! Bồ-tát suy nghó pháp bảo. Thế nào là pháp bảo? Đó là bốn Niệm xứ, bốn Chánh cần, bốn Như ý túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác chi, tám Thánh đạo, thần thông Tam-muội, các Ba-la-mật, phân biệt từng loại không có ngã sở, từ bỏ tối tăm khiến biết trí sáng, lập vững trí tuệ khai hóa chúng sinh, bỏ các gánh nặng tâm không còn do dự, tu trì cấm giới, thân tâm tịch tónh, lại còn suy nghó, lập vững trí tuệ quý báu, cũng không do tâm sinh mà bị lệ thuộc, ý lìa ba đời cũng không trong ngoài, không bị lệ thuộc nơi ấm cái, bốn đại, các nhập chứng đắc diệt độ mà không thấy diệt độ, bằng hoa bảy Giác chi làm vòng hoa, tám phẩm hiền thánh dùng làm quả, trang nghiêm đạo tràng dùng làm nhà cửa, dẫn dắt chúng sinh đật đến vô vi, đạt đến tịch nhiên không già bệnh chết, cũng không có các khổ não vui buồn, vượt qua ba cõi mà không sợ hãi, quán người và vật đều thanh tịnh, ta và người thanh tịnh thì người và vật cũng thanh tịnh, hiểu rõ thanh tịnh là không thực có. Bồ-tát từ lúc mới phát tâm đến nay, phải nhớ nghó thanh tịnh khởi tâm vi diệu, trong thời gian ấy, hoàn toàn không sinh tâm dâm dục, sân giận ngu si, cũng không đem tâm nhiễu loạn chúng sinh, cùng không sinh tâm đối với hàng Nhị thừa, làm vị thượng thủ ở nơi đại chúng, dù ở trong giàu sang cũng không cao ngạo, luôn che chở không bỏ chúng sinh, tâm vốn là không thảy đều chẳng thực, tâm không có tâm cũng không trói buộc, đó là tâm Kim cang của Bồ-tát, không gì làm hư hoại, nuôi dưỡng pháp lành khiến không mất mát, suy nghó sâu xa, thệ nguyện rộng lớn không thể nghó bàn, xét tất cả tánh không thấy sự sinh khởi cũng không thấy sự thành tựu, quán việc huyễn hóa ở đời đều không chân thật, dùng quán thanh tịnh biết là điên đảo, không lệ thuộc các pháp, thích ứng không thích ứng đều bỏ cả, người có nhiều mong cầu không thấy hiện tại có sự tập họp, không thấy quá khứ vị lai có sự tan rã, qua khứ không đầu mối, vị lai cũng không đầu mối, phân biệt hiện tại đều không nơi chốn, xét tìm chánh pháp cũng không nắm bắt được, Bồ-tát lập ý ngăn chận điên đảo, không thành vọng tưởng là mục đích của Bồ-tát, vào sáu mươi hai tà kiến là mục đích của Bồ-tát, vào thân kiến, giới thủ, tà kiến là mục đích của Bồ-tát, trâm ngâm do dự là mục đích của Bồ-tát, cầu mong phước trời là mục đích của Bồ-tát, hoặc vào địa ngục không chấp sự khổ là mục đích của Bồ-tát, hoặc háo thân vào trong đường ngạ quỷ, súc sinh là mục đích của Bồ-tát, Bồ-tát tuy ở trong địa ngục vô gián vẫn dốc lòng cứu độ chúng sinh thoát khổ, đạt đến vô vi, an lạc lâu dài, cũng không bị những nguy hiểm về sinh diệt loạn tưởng, suy nghó pháp giới cũng không thể được. Vì sao? Vì người do pháp sinh, pháp do người sinh, tự sinh tự diệt cũng không có sự chết, người không rời tánh, tánh không rời người, người, vật tự nhiên cũng không thấy dấu vết, ngã tuổi thọ của ta cũng như vậy, ngã của ta tự nhiên thì các pháp tự nhiên, pháp tự nhiên nên đạo tự nhiên, hiểu được như vậy thì đạt được không quán, liền được tự nhiên đạt đến đạo, đạo tự nhiên đạt đến diệu quán không hai, cũng không thấy hai, Bồ-tát lại có Tam-muội rất nhanh, nhập vào Tam-muội này, trong một khoảng khắc đi khắp hằng hà sa cõi nước chư Phật trong mười phương, lễ bái cúng dường chư Phật Thế Tôn, trở lại chỗ cũ mà không ai biết cả, ngay tại chỗ ngồi cũng không đổi tư thế nhập vào Tam-muội chánh định đi đến ức trăm na-do-tha hằng hà sa cõi nước chư Phật ở phương Đông, lễ bái cúng dường chư Phật Thế Tôn, thăm hỏi lắng nghe giáo pháp vi diệu, bỗng nhiên hiện lên vô lượng hằng hà sa cõi Phật ở phương Đông lễ bái cúng dường chư Phật Thế Tôn, lại hiện qua vô lượng cõi nước ở phương Nam, trở lại vô lượng cõi nước ở phương Bắc, bốn phía trên dưới cũng như vậy.ở trong chúng dù ngồi đó hay xuất qua chỗ khác không ai biết cả, như vậy Tối Thắng! Bồ-tát vào định ý Tam-muội này, ở khoảng khắc đi đến vô lượng cõi nước khắp mười phương, bỗng nhiên trở lại chỗ cũ, khi các vị đó ngồi chúng sinh không biết, như ta ngày nay ở trong đại chúng diễn thuyết nghóa pháp, có hai ức Bồ-tát không rời chỗ ngồi nghe pháp mà không ai biết cả, do hạnh Bồ-tát thuần thục. Khi ấy Bồ-tát Tối Thắng ở trước bạch Phật: –Các vị Chánh Só này đã nhập vào Tam-muội gì khiến cho các Bồ-tát qua lại khắp nơi mau chóng như thế? Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Tối Thắng: –Hãy để lại Tam-muội mà Bồ-tát đã nhập. Lại có Tam-muội tên là Vô Ngại Thông là chỗ mà chư Phật Thế Tôn thường cư trú, Như Lai nhập Tam-muội này rồi trong một hơi thở đi khắp ức hằng hà sa cõi nước chư Phật, cũng khiến cho chư Phật nơi mười phương đi đến cõi này, không nhiễu loạn chúng sinh nên không ai biết cả, hoặc đem tất cả nước biển khắp mười phương di chuyển lên hư không giống như treo ngọc sáng ai cũng thấy cả, không làm cho các loài chủng tộc có kinh sợ gì cả, đây gọi là Tam-muội thông tuệ. Lúc ấy, ở trong hai ức vị Đại só thượng thủ, có một Bồ-tát tên là Hải Tạng, ngay tại chỗ ngồi suy nghó: Như Lai chắc sẽ khiến mình hiện thần lực Tam-muội, liền ngay chỗ ngồi đứng dậy, đi đến tòa cao trước chúng hội, đảnh lễ Phật và các bậc dẫn đầu, đến trước Đức Phật chắp tay thưa: –Phật đạo sâu xa không thể ví dụ được, đạo Vô thượng chân chánh thật khó sánh kịp. Như ngày nay, con thấy tất cả Bồ-tát và bốn bộ chúng các tôn thần, trời và những người đến trong hội thấy Bồ-tát này ở trong đại chúng rống lên tiếng rống Sư tử. Vả lại, mọi người khát ngưỡng pháp của Đức Như Lai đã lâu rồi, đời nay khó gặp, con có điều muốn hỏi, nếu được Đức Như Lai cho phép con mới dám thưa. Đức Thế Tôn bảo Hải Tạng: –Ông nên hỏi theo nghi ngờ của mình, Như Lai sẽ phân biệt rõ ràng cho ông, khiến các Bồ-tát và các người trong hội đều được vui mừng, dùng lửa lớn của kiếm trí tuệ để thiêu đốt rừng rậm ngu si của ông. Bấy giờ, Bồ-tát Hải Tạng bạch Phật: –Thưa Thế Tôn! Đúng vậy, vừa rồi ở trên tòa con tự suy nghó, hai ức chánh só này, từ lâu đã tích chứa đầy đủ công đức, điều phục tâm ý, chí ở đạo pháp chứa nhiều căn lành mới được chánh định này, từ vô số kiếp phụng sự chư Phật lễ bái cúng dường, nhờ thần thông của Bồ-tát mà chánh só này vì các chúng sinh ban cho voi ngựa bảy báu khíên cho chúng sinh được thành Phật đạo, hoặc vì người thoái chuyển không kiên cố mà thực hành Tam-muội định ý chánh thọ này, hoặc có Bồ-tát bằng phiền não nên đi vào sinh tử, khiến cho chúng sinh hoàn toàn không còn sự thống khổ, hoặc có Bồ-tát nhập vào Từ Tam-muội, khiến cho chúng sinh xa lìa ganh ghét, lại có Bồ-tát phát khởi tâm Bi, khiến cho chúng sinh hiểu nghóa vô thường, hoặc có Bồ-tát ở trong định ý Hỷ có người nhìn thấy đều hiểu rõ không tịch, lại có Bồ-tát phát tâm kim cang, khiến chúng sinh thành tựu thệ nguyện, hoặc có Bồ-tát ý chí rộng lớn dẫn dắt tất cả vào cõi nước mình, hoặc có Bồ-tát bằng Pháp thân khiến chúng sinh được ban đầu, giữa, cuối đều thiện, lại có Bồ-tát ở nơi tám nạn xiển dương Tam bảo khiến không đoạn tuyệt, hoặc có Bồ-tát dùng phương tiện quyền xảo tùy theo chúng sinh mà hiển hóa thích hợp, hoặc có Bồ-tát ở chỗ thanh vắng quán pháp hữu vi như huyễn như hóa, hoặc có Bồ-tát thích ở không tuệ quán thân thể này như tường vách kia, hoặc có Bồ-tát tâm ý ngay thẳng, làm việc thanh tịnh không bị nhiễm ô, hoặc có Bồ-tát tính tình chuyên nhất, những nơi đi qua mà không nhầm lẫn, lại có Bồ-tát tâm hướng đến đạo nhất thừa, không khiến cho chúng sinh nghe tên ba thừa, lại có Bồ-tát ý muốn hiểu rõ tẩy rửa hết phiền não cho người mê hoặc. Bấy giờ, Đức Thế Tôn ở giữa đại chúng khen ngợi Bồ-tát: –Lành thay! Lành thay! Bồ-tát Hải Tạng mới có thể đứng trước ta rống lên tiếng rống của Sư tử trong đại chúng này, khen ngợi sự nhập định ý của Bồ-tát, khiến cho những người trong hội đều được nghe biết, các vị chánh só này ở trong định ý Tam-muội chánh định không thể nghó bàn, không ai sánh kịp, chẳng phải chỗ hàng Nhị thừa có thể suy lường được, Bồ-tát tích chứa công đức không phải vì mình mà nghó cứu vớt chúng sinh đang bị khổ não. Giả sử tam thiên đại thiên cõi nước, gió trong cõi đó, thổi đầy cả thế giới xoay vần rất nhanh bị cuốn theo gió, nếu có người nào chứng được kiến đạo, tâm muốn một mình đi qua lại vào trong đó liền làm được ngay, không bị trở ngại, huống chi là thần thông Tam-muội chánh định của Bồ-tát không thể nghó bàn, chỉ trong ý nghó đi qua vô lượng hằng hà sa cõi nước, lại dùng sáu độ và pháp thập thiện, giáo hóa chúng sinh chỉ sạy đường lành, tâm họ hoàn toàn được an ổn không lay chuyển, chí hạnh tịch tónh không loạn động, tâm hành của họ không ai sánh kịp, nhờ đời trước đầy đủ các đức, chí hạnh thứ tự không phân biệt chủng loại, tâm Từ vô lượng không cùng tận, tất cả các pháp thường tự tồn tại, chúng sinh không hiểu cho là có thay đổi, pháp pháp tự sinh, pháp pháp tự diệt, pháp không sinh pháp, pháp không diệt pháp, pháp sinh pháp diệt tánh không đổi dời, đó là đạo của Đại só Bồ-tát, chẳng phải hàng phàm phu sánh kịp, các chúng sinh ở trong sinh tử không hiểu được đạo, cho pháp tánh có sự biến đổi, dù có như vậy việc này không đúng. Từ lúc có Bồ-tát mới phát tâm đến nay, thực hành bố thí, trì giới đầy đủ các đức, được kết quả thành đạo, do hiểu không quán hư vô tịch tónh, khen ngợi việc làm thần diệu xưa nay đều đã thành tựu, vào địa tu hành của các Bồ-tát, ở trong vô lượng cõi Phật thù thắng, dẫn dắt chúng sinh vượt qua bờ sinh tử, hiểu rõ cản cơ tùy thời giáo hóa cứu độ tất cả, hoặc dùng phép tắc oai nghi cuả thế tục, hoặc dùng thần thông đạo tuệ giáo hóa muôn loài, phân biệt sự sinh diệt phiền não cuả sáu tình, sự phát khơỉ cuả mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý, mắt vô thường cũng không chân thật, đi không có chỗ đi, đến cũng không dấu vết, tai, mũi, miệng, thân, ý cũng như vậy. Pháp quá khứ, vị lai, hiện tại không thấy sinh cũng không thấy diệt, chúng sinh ngu hoặc chấp có tướng thường. Vì sao? Tối Thắng nên biết! Trí phương tiện quyền xảo cuả Đại só Bồ-tát đầy đủ, thực hành vô lượng các Ba-la-mật, lập vững niềm tin tu tập các pháp được các Đức Như Lai khen ngợi, Từ bỏ vọng tưởng được vô lượng trí, biện tài vô ngại thường tự hổ thẹn, quán pháp không sinh không bị lay động, hoặc bằng tướng tốt trang nghiêm cõi Phật, làm việc và pháp tương ưng không trái, nhập vào đạo Nhất thiết trí sâu xa, hỏi nghe chánh pháp không biết nhàm chán, chỉ dùng quyền trí siêu tuyệt hàng phục các ma, hoặc đến chỗ có tưởng không tưởng, đến cung Phạm thiên Đế Thích, hoặc đến hằng hà sa cõi nước khắp mười phương, đi khắp mọi nơi thuyết giảng Phật pháp sâu xa không thể nghó bàn, từ bỏ kiêu mạn cũng không hơn thua. Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Tối Thắng: –Bồ-tát Đại só tu vô lượng pháp môn thành bậc Chánh giác, bốn Niệm xứ, bốn Chánh cần, bốn Như ý túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác chi, tám Thánh đạo, hiểu biết rộng rãi không hề thiếu sót, dùng pháp tứ niệm xứ, hữu vi vô vi, hữu ký vô ký, hữu lậu vô lậu, đầy đủ mười lực, các pháp vô úy Tam-muội chánh thọ đoạn trừ ấm cái, phân biệt hiểu rõ, tâm không thoái chuyển, sau đó dùng Tam-muội chánh thọ, vượt hơn tuệ nghiệp năm mươi bảy pháp, Bồ-tát nên nhớ không nên quên mất, nếu có người bố thí cầu phước chư Thiên, hoặc cầu ở trong cung điện quỷ thần các rồng, hoặc bằng tâm bố thí cầu sinh Tứ Thiên vương, hoặc muốn làm tướng quân trong hai mươi tám vị quỷ thần, đây không được chân thật không như ý nguyện. Bấy giờ, Đức Thế Tôn vì Bồ-tát Tối Thắng nói kệ rằng: Thân tịnh không làm ác Miệng không phạm bốn lỗi Ý không nghó tội chướng Là Tổng trì Bồ-tát Khen ngợi vô lượng đức Tâm không còn tham tiếc Thần thông trừ tối tăm Là Tổng trì Bồ-tát Lúc dạy người bố thí Không có sự mong cầu Bỏ nguyện đọa ba đường Công đức đều hao tổn Xưa ta cầu Chánh giác Nhớ lại vô số kiếp Bằng phương tiện quán sát Vào năm đường sinh tử Ở trong a-tăng-kỳ Tu tập tạo công đức Do không được tự tại Nên ở bốn vực sâu Nay tuy được thành Phật Làm vua cõi tam thiên Đây nhờ bỏ tưởng niệm Được vào cửa giải thoát Đạo tràng phóng hào quang Ức thần đến quy y Các Sa-môn, thiện thần Đều trở về nương tựa. Thế nên này Bồ-tát Tối Thắng! Phải chuyên tâm từ bỏ tưởng mong cầu, hiểu rõ pháp giới một tướng không hai, trang nghiêm cõi Phật, trí tuệ sáng suốt không mất, không khuyến khích tạo nghiệp, bố thí khắp tất cả mà không bố thí, không sáng suốt không chỗ sinh, bình đẳng nhất thừa không thấy ba bốn. Tối Thắng! Phải nên phân biệt bốn đế, khổ từ đâu sinh cũng do đâu diệt? Thân năm ấm này là nguồn gốc của khổ, do quán sâu xa nên tâm mong cầu diệt hết. Khổ do tập sinh nên diệt hết không còn, có sáu mươi hai tà kiến điên đảo, dùng vô lượng trí hiểu rõ tất cả, lại dùng bốn đế quán mười hai nhân duyên khởi từ đâu, sinh do đâu diệt, dần dần suy nghó mới biết là tịch tónh, hành động cuả thân, khẩu, ý cũng không có chủ tể, không có người nhận cũng không có đến đi, không có chỗ trú, từ quả Tu-đà-hoàn đến bậc Chánh giác cũng như vậy, biết rõ cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc.Lại nữa Tối Thắng! Bồ-tát suy nghó biết ra khỏi khổ, nguyên nhân cuả khổ, sự diệt tận khổ, con đường ra khỏi khổ, suy nghó đúng như thật, lại phân biệt mười sáu pháp sâu xa khó lường cuả Bồ-tát, ba mươi sáu nẻo cấu uế bất tịnh, nhơ bẩn, khen ngợi tuệ của bậc chứng đạo quả vô thượng, ban lời chỉ dạy dẫn dắt dần dần, đều được thấu đạt kho tàng thâm sâu của chư Phật, lời dạy ra hoàn toàn không dối, hoặc hiện trưởng giả của cải giàu có, nhân đó làm việc bố thí giúp đỡ chúng sinh, qua lại khắp nơi khiến thành Phật đạo, hoặc dùng hương hoa, ánh sáng cờ lọng soi chiếu khắp nơi đều được đầy đủ, lại dùng thần túc chấn động chư Thiên, tuyên dương Phật đạo hướng đến nhất thừa, nên ta nhiều kiếp không bị ràng buộc, lại thị hiện đạo Thanh văn, Duyên giác, ẩn vào rừng sâu không thị hiện diệt độ, lại vào long cung hóa độ các loài rồng được đạo tự tại. Thế nên Tối Thắng! Công đức của Bồ-tát không thể tính kể, chẳng phải do miệng tuyên dương, do ý suy nghó, hoặc có khi Bồ-tát sinh vào nhà vua Chuyển luân, các thế giới cõi trời cũng được hướng dẫn làm mười phương đều thiện, hoặc thấy chúng sinh đang ở trong đói khát, dùng cam lồ khiến họ được đầy đủ, gánh vác các khổ não cho chúng sinh xa lìa ái dục, hình tượng của Bồ-tát không thể tính kể. Lại nữa, Tối Thắng! Bồ-tát nên nhớ một ngàn bảy trăm pháp môn định ý khiến các vị A-la-hán thành quả chánh giác. Lại có pháp môn Định ý ánh sáng, khiến các Bồ-tát hiển bày pháp môn Tổng trì. Lại có pháp môn Định ý bóng mát của cây Bồ-đề, tam thiên thế giới đều được che mát. Lại có pháp môn Định ý mưa ngọc thần khắp thế giới phóng ra trăm ngàn ức vô số ánh sáng, mỗi sánh sáng đều phát ra vô số tiếng khổ, không, vô thường, vô ngã, người nghe được tiếng này đều phát tâm Bồ-đề không còn thoái lui. Lại có pháp môn Định ý thủy tinh trong sáng khiến cho thế giới khắp mười phương trong suốt không màu, lại phát ra vô số tiếng âm nhạc, người nghe tiếng âm nhạc này tự biết đời trước của mình, rồi biết về cảnh giới vị lai mình đến. Lại có pháp môn Định ý ánh sáng như mặt trăng tròn đầy, vượt hơn trong chúng như mặt trăng ở giữa các ngôi sao. Lại có pháp môn ánh sáng như mặt trời, làm ánh sáng cho chúng sinh biết nẻo hướng tới. Lại có pháp môn ánh sáng oai thần truyền trao Đại thừa không ai có thể biết được. Lại có pháp môn Định ý ánh sáng tướng đỉnh không thấy được, ở trong chúng được cung kính vượt bậc. Lại có pháp môn Định ý ánh sáng tướng lưỡi, ở trong chúng tin thọ không phỉ báng. Như vậy Tối Thắng! Bồ-tát nhập vào một ngàn bảy trăm pháp môn Định ý ánh sáng vô lượng thanh tịnh như trên, ngay tại chỗ ngồi có vô số chúng sinh nghe được pháp môn này, phát tâm đối với đạo chân chánh vô thượng, từ xưa đến nay chưa từng nghe thấy, ngay Lúc ấy, về phương Đông cách đây vô số hằng hà sa thế giới có một Bồ-tát tên Bảo Dũng đem các quyến thuộc vây quanh trước sau, chắp tay hướng Phật nói kệ khen ngợi: Thân sắc rất thù thắng Tôn quý nhất loài người Không phiền não cấu uế Ban cho vô lượng đức Ánh sáng chiếu trăm ức Trong sáng rõ vô cùng Từ bi thương mọi người Làm vua ba ngàn cõi Hôm nay chúng con đến Muốn nghe tuệ cam lồ Xin nói lúc được cứu Như khát gặp được nước Lúc Đạo sư xuất hiện Như hoa Ưu-đàm-bát Căn bệnh của chúng con Nhờ cứu được thoát khỏi Nay con đến xứ ấy Cách đây vô số cõi Khát ngưỡng đã từ lâu Nguyện khai thị chúng con. Bấy giờ, Bồ-tát Bảo Dũng dùng kệ khen ngợi Đức Phật rồi lại đảnh lễ nơi chân Phật ngồi theo thứ tự. Lúc ấy, Đức Thế Tôn bảo những người trong hội: –Chư vị hãy lắng nghe! Lắng nghe và ghi nhớ kỹ, Như Lai sẽ giảng nói rõ ràng về hạnh không sinh diệt của Bồ-tát, pháp khoáng trước, giữa, sau đều thiện, hãy ghi nhớ trong tâm. Các vị Bồ-tát bạch Đức Thế Tôn: –Nguyện xin được nghe. Đức Thế Tôn bảo: –Đạo chẳng phải là sinh, sinh chẳng phải là đạo, vô tưởng là đạo, vô là đạo hữu chẳng phải đạo, không chấp là đạo, chấp chẳng phải đạo, có sự mong muốn thành đạo đây cũng chẳng phải đạo, không thành không muốn mới gọi là đạo, ý lệ thuộc căn môn chẳng phải chân đạo, phòng hộ căn môn mới chính là đạo. Khi đó, Bồ-tát trong hội lại sinh ý nghó: Thế nào là hành không sinh diệt? Lại nói là đạo, nay nói Niết-bàn chẳng phải là đạo sao? Đức Thế Tôn biết tâm niệm của đại chúng, liền bảo các Bồ-tát: –Niết-bàn khác với đạo như thế nào? Đáp: –Không khác. Đức Thế Tôn bảo: –Nếu Niết-bàn khác với đạo, vì sao ở trên nói Niết-bàn là đạo chăng? Đây là vô vi, đây là diệt tận, đây là chỗ an lạc, hoặc nói đây là chỗ Sáu nhập, do cái này sinh nên các kia sinh, do các này diệt nên cái kia diệt, vậy Niết-bàn là đạo chăng? Đáp: –Bạch Thế Tôn không phải. Đức Phật bảo: –Lành thay! Lành thay! Như lời ông nói, đạo chẳng phải là Niết-bàn, Niết-bàn chẳng phải đạo, sinh vốn là diệt nhưng diệt chẳng phải là sinh. Đạo vốn là Niết-bàn nhưng Niết-bàn chẳng phải đạo. Danh sách Sáu nhập cũng như vậy. Khi ấy trong chúng hội nghe nói pháp về hạnh không sinh diệt này, khi quán pháp môn định ý đều chứng đắc, tâm không sinh diệt không còn thoái chuyển. q Kinh TỐI THẮNG VẤN BỒ-TÁT THẬP TRỤ TRỪ CẤU ĐOẠN KẾT <卷 id="113335692">Quyển 5 <詞 id="113335693">Phẩm 12: Thần Túc Khi ấy, Bồ-tát Tối Thắng thưa: –Bạch Thế Tôn! Bồ-tát đối với bố thí, trì giới, nhẫn nhục, Thiền định và trí tuệ có tiến, có thoái lui như thế nào? Lại có Bồ-tát từ khi mới phát tâm đến lúc thành Phật, chưa từng ở trong thai mẹ mà chỉ luôn hóa sinh, dùng thần thông để đến các cõi Phật mà không hề có tưởng về các cõi ấy. Kính xin Thế Tôn phân biệt rõ ràng cho những người học đạo Bồ-tát ở đời vị lai biết nơi hướng đến. Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Tối Thắng: –Hãy lắng nghe và suy nghó cho kỹ, ta sẽ vì ông mà giảng nói, phân biệt rõ ràng. Bồ-tát Tối Thắng thưa: –Bạch Thế Tôn! Con rất muốn nghe. Đức Phật bảo: –Bồ-tát nào tu hành Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định và Trí tuệ mà có tâm niệm, có tưởng lệ thuộc vào tất cả các pháp, hoặc có tưởng về có thế giới, không thế giới, thấy có tưởng về chúng sinh, không chúng sinh, thấy có tâm, tưởng đến đi, không đến đi, thấy có ý niệm về hiện tại, không hiện tại, thấy có tâm chấp đoạn, chấp thường thì những vị ấy sẽ thành tựu Căn, Lực ở Địa thứ nhất, tương ưng với mười pháp. Mười pháp ấy là gì? Đó là thần thông phước đức của Như Lai không có giới hạn. Giống như một tướng không gì trở ngại, danh hiệu của bậc Chánh giác không có nhiễm ô, tất cả các pháp không thấy vượt qua, ba thừa mà Đức Phật giáo hóa không thấy chỗ hướng đến, không đắm nhiễm vào cảnh giới, hiểu rõ danh hiệu là không có quá khứ, hiện tại và vị lai. Đó gọi là danh tướng tức là Nhất thiết trí, cũng gọi là pháp giới. Vì lo nghó đến đạo nên họ luôn giữ gìn ý chí, không để tâm bị thoái lui. Như vậy, này Tối Thắng! Các pháp là không, không có xứ sở, đến cũng không biết từ đâu đến, đi cũng chẳng biết diệt từ chỗ nào. Bồ-tát cũng nên thực hành trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn như vậy. Trì giới cũng không phải trì giới, nhẫn nhục cũng chẳng phải là nhẫn nhục, biết rõ tinh tấn cũng không thấy có tinh tấn. Người nào giữ giới thì không nên làm những điều thiếu sót, giả sử mình bị phạm giới cũng không ân hận, trì giới hoàn hảo cũng chẳng vui mừng. Như vậy mới gọi là Bồ-tát thành tựu việc trì giới. Bồ-tát thực hành nhẫn nhục, tâm không tăng, không giảm, dù bị người khác đến chặt thân ra thành từng đoạn, Bồ-tát vẫn giữ tâm kiên cố không hề lay động. Bồ-tát đầy đủ về bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ thì chư vị không còn tưởng về chấp thường hay đoạn, không phá bỏ cả hai, không sinh, không diệt, đối với tội phước đều bình đẳng không khác. Lại nên tư duy về ba tướng Không, Vô tướng, Vô nguyện để đi vào ngôi nhà giải thoát, thanh tịnh, chẳng thấy “Không” hòa hợp với tướng và nguyện; tướng và nguyện cũng chẳng hòa hợp với không, không thấy Vô nguyện hòa hợp với không và tướng, chẳng thấy không và tướng hòa hợp hay chẳng phải không hòa hợp, không thấy Vô tướng hòa hợp với Không và Vô nguyện; chẳng thấy Không và Vô nguyện hòa hợp hay chẳng phải không hòa hợp với Vô tướng, quá khứ, hiện tại, vị lai cũng vậy. Lại nữa, này Tối Thắng! Thần thông của Bồ-tát không thể nghó bàn là cảnh giới của bậc đại long, nên không thể nghó bàn, cũng không chấp vào thế tục, lại chẳng xa lìa thế tục, đến đi, qua lại, đều không nhất định, các pháp Tướng, Nguyện cũng vậy. Trước hết, Bồ-tát nên tinh tấn tu hành đạo quả, Thánh đạo là tự nhiên, không có bờ bến, cho nên mong cầu biết được đầu mối của Thánh đạo thì đối với pháp hiền Thánh, sẽ bị tổn hại. Như vậy, này Tối Thắng! Nghóa lý của pháp thanh tịnh để tu hành phạm hạnh của Bồ-tát là vô cùng thâm sâu. Bồ-tát nào tu tập nguồn cội công đức thì được cốt lõi vi diệu của pháp sâu xa này, được diệt độ ở Niết-bàn Vô dư y. Truyền dạy cho chúng sinh không có giới hạn, không có đến đi thì mới gọi là đạo. Bồ-tát thị hiện ở trong ái dục, quán sát căn cơ của chúng sinh mà thuyết pháp cho họ. Hoặc có khi nhập định diệt tận, dứt hẳn hơi thở ra vào, thân thể sưng phù, các thứ bất tịnh chảy ra, chúng sinh thấy liền khởi tưởng vô thường. Lại quán sát định tónh hay tán loạn của chúng sinh mà tùy nghi thị hiện làm cho họ được giải thoát. Bằng oai nghi, đạo hạnh, Bồ-tát dạy cho họ dứt trừ tất cả gánh nặng. Năm pháp Thần thông là việc làm của Bồ-tát, mười tám Vi tế là việc làm của Bồ-tát, mười sáu kim cương là việc làm của Bồ-tát, hai mươi mốt Giới của hàng Hiền thánh tu tập là việc làm của Bồ-tát, ngồi nơi gốc cây Bồ-đề tư duy ba mươi bốn pháp là việc làm của Bồ-tát, đối với bố thí, trì giới mà không thấy có ngã và ngã sở là việc làm của Bồ-tát, phân biệt quá khứ, hiện tại, vị lai trôi chảy không ngừng là việc làm của Bồ-tát. Như vậy, này Tối Thắng! Cảnh giới tu tập của Bồ-tát rất khó lường, biết rõ báo ứng mới được đến Đạo, biết rõ các pháp đều do nhân duyên hòa hợp, như âm thanh trong hư không, nhờ có nhó thức mới nghe được, lời dạy trong sách vở chẳng phải chân thật, tùy duyên tập hợp, tùy duyên tan rã, còn duyên thì tập hợp, hết duyên thì tan rã. Tan không tự biết do đâu mà tan, tụ không tự biết do đâu mà tụ. Lúc ấy, Bồ-tát Tối Thắng thưa: –Lành thay, lành thay! Bạch Thế Tôn! Thế Tôn đã khéo phân biệt nói rõ tường tận nhân duyên của các pháp này, mặc áo giáp công đức lớn cho hàng Bồ-tát, làm cho vô số người phát tâm Bồ-đề mạnh mẽ, khen ngợi công đức và cảnh giới của Bồ-tát cùng ý nghóa nơi mười pháp công đức và danh hiệu của Như Lai, làm cho tất cả chúng hội đều được nghe, hiểu, trí tuệ của Như Lai không gì làm chướng ngại. Bồ-tát nào được nghe pháp này thì các ấm, suy (trần), triền cái đều vónh viễn tiêu trừ, khiến các chúng sinh đều được thông suốt. Bạch Thế Tôn! Từ nay, chúng con sẽ cung kính vâng theo lời dạy bảo, dẫn dắt của Như Lai, thực hành thuần thục, không dám buông lung, lơi lỏng tâm ý, thường phân biệt rõ ràng tất cả lời lẽ, câu cú, nghóa lý, tâm bình đẳng như hư không, thực hành hạnh Từ bi khắp tất cả, tùy theo căn cơ chúng sinh mà giáo hóa, thường đem bốn Tâm vô lượng để che chở cho họ, dùng thức ăn cam lồ để diệt trừ tất cả sân hận, phiền não, dứt bỏ mười pháp, xa lìa ba độc, nhổ sạch chín phiền não, loạn tưởng, ma chết, bụi trần vónh viễn không còn làm tổn hại tâm họ, phân biệt tường tận mười hai nhân duyên, từ vô minh duyên hành đến sinh, già, chết. Lại tư duy về sự đoạn diệt của duyên khởi: Vô minh diệt thì hành diệt cho đến già, bệnh, chết cũng vậy. Tùy theo chủng loại để quán sát căn cơ của họ, rồi cho thuốc để giữ tâm kiên cố, quán sát sự suy nghó và điều lành của chúng sinh đã làm rồi nói pháp khiến tâm họ không còn rong ruổi, các tưởng nhơ uế không còn sinh khởi. Vì thế, bạch Thế Tôn! Những lời dạy mà hàng Bồ-tát đã giảng nói, chỉ bày làm lợi ích và thành tựu rất nhiều cho chúng sinh. Bồ-tát đối với họ như mẹ thương con, tùy lúc mà nuôi nấng không có ý thêm, bớt, thường trụ trong chánh kiến không theo những học phái ngoại đạo; ở giữa đại chúng như sư tử chúa, tư duy về đất, nước, lửa, gió trong thân thể, đất mạnh thì nước yếu, nước mạnh thì lửa yếu, lửa mạnh thì gió yếu. Bốn đại đều mạnh thì tinh thần suy yếu, thần thức liền rời khỏi thân, khi chết thì không nương nhờ nơi họ hàng phục mà chỉ nương tựa nơi pháp lành. Lại phải tư duy pháp quán sâu xa về Tam-muội Thiền định tự tại của chư Phật, thuận theo pháp này thì không mất oai nghi, đạo hạnh, không còn phân biệt hữu lậu, vô lậu, vượt trên hành động theo tám pháp của thế gian, sự được, mất, khen, chê không còn làm cho tâm bị ô nhiễm, hoàn toàn không chấp thủ ngã, nhân, thọ mạng. Chúng sinh nào có kiến chấp điên đảo, đến chất vấn phương pháp tu hành của Bồ-tát, dù một kiếp hay đến trăm ngàn kiếp thì vẫn lãnh thọ được lời dạy lưu loát không gì chướng ngại của Bồ-tát ở bậc trụ thứ nhất. Cho nên việc làm của Bồ-tát là không thể theo kịp, không thể dùng ví dụ để so sánh. Vì sao? Vì do thần thông của Bồ-tát tạo ra đến khắp mười phương từ cõi Phật này đến cõi Phật khác để lễ bái, cung kính cúng dường chư Phật, đến đâu cũng luôn làm cho chúng sinh thực hành theo đạo pháp, dứt sạch tất cả các tai nạn, oán kết và những điều khổ não từ xưa đến nay. Làm thế nào để trở thành quyến thuộc của Bồ-tát? Do từ bỏ kiêu mạn, tự cao, tự đại, hoặc ở giữa đại chúng, âm thanh lưu loát như tiếng Phạm thiên, khiến cho ba bộ chúng đạt được chí nguyện, dẫn dắt họ vào Địa vô vi hoàn toàn được diệt độ. Cũng như rồng lớn làm nổi lên đám mây rộng lớn vô tận, làm mưa khắp tam thiên đại thiên thế giới, trăm loại cỏ cây đều được thấm nhuần nên càng thêm tăng trưởng. Hàng Bồ-tát Đại só cũng vậy, dùng âm thanh trong suốt như nước có tám vị giải thoát để ban bố giáo pháp, khiến cho chúng sinh trong tam thiên thế giới đều được nhờ ân cứu độ. Bậc giải thoát ấy chí nguyện như kim cương trong ngoài đều trong suốt. Lại dùng thần thông, giới cấm pháp luật để làm chuỗi anh lạc trang sức nơi thân, các tướng sáng rực như núi bằng vàng ròng, đến đâu cũng đều giáo hóa cho chúng sinh, những ai nghe pháp cũng đều dốc tâm kính tin, không nghi ngờ. Lại khiến cho chúng sinh vào Tam-muội Giác ý, khiến cho các loài có hình ở trong tam thiên thế giới như: Côn trùng đi, bay, bò, lội đều tự biết đời trước của chúng; làm cho chúng sinh biết được nguồn gốc của khổ, nhờ đó họ đều phát tâm Bồ-tát, kính giữ và tu hành theo pháp Thiền định của Đức Như Lai. Bấy giờ, các chúng sinh nghe pháp đều tinh tấn, nương nơi oai thần Phật, biết rõ cảnh giới sẽ đến, kẻ ở gần người ở xa ai cũng đến đạo tràng thanh tịnh vi diệu. Những người đến đạo tràng ý chí vững chắc, hoàn toàn không còn sợ hãi, những chúng sinh căn tánh lanh lợi, trải qua một ngày, hai ngày, ba ngày cho đến bảy ngày, sau khi qua đời được sinh lên cõi trời, đến khi đức hạnh được thành tựu đầy đủ thì được sinh về các cõi Phật ở khắp mười phương. Các chúng sinh ở cõi trời tay cầm vô số hoa, các hương thơm và phẩm vật tự nhiên có được để cúng dường các đại chúng và những người đến dự trong chúng hội. Các loài hoa ấy ở trong hư không, không rơi xuống đất, tự nhiên biến thành đài báu rực rỡ, phát tiếng rền vang để khen ngợi: “Chúng con được lợi ích hoàn hảo, được nương nhờ phước đức cúng dường này mới có thể đạt được Tam-muội Giác ý, làm cho tam thiên đại thiên thế giới đều được mãn nguyện. Như vậy, bạch Thế Tôn! Chúng con chắc chắn đạt được lợi ích viên mãn”. Lại dùng hoa cúng dường riêng cho Bồ-tát Tối Thắng, thưa: “Hôm nay chúng con nương nhờ ân đức Từ bi của Bồ-tát mà được Tam-muội Giác ý, được tham dự vào pháp hội này. Chúng sinh nào nghe Tam-muội Giác ý mà không dốc tâm kính tin, nên biết người ấy đời trước chưa được gặp Tam-muội này. Lúc ấy, Đức Thế Tôn bảo hội chúng: –Ta đã tu Tam-muội này từ vô số a-tăng-kỳ kiếp cho nên hôm nay ta được thành tựu Phật trí, vô số hằng hà sa chư Phật trong quá khứ và vị lai cũng đã và sẽ tu Tam-muội Giác ý này, oai đức của Tam-muội không thể đo lường. Ai nghe được tên Tam-muội cũng đều phát tâm Bồ-tát rộng lớn không thể tính kể. Bốn bộ chúng đều hiểu được ý nghóa của Tam-muội này, lại có trăm ngàn người trong pháp hội ở ngay chỗ ngồi phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Bấy giờ, Đức Thế Tôn phóng ra ánh sáng Tam-muội Giác Hoa Định ý, chiếu đến các loài nơi địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh khắp tam thiên đại thiên thế giới, làm cho họ được tiêu trừ hết các khổ não, được sinh trở lại cõi người, biết rõ đời trước của mình. Lúc ấy, thấy điềm lành này, bốn ức người trong chúng hội đều nhàm chán, họ suy nghó: “Sống thì phải chết đều do nhân duyên, chết chỗ này sinh chỗ kia liên tục không dứt, nguyên nhân là do dâm dục và tham ái. Chúng con nguyện sinh về nước không có tham dục mới tu tập được Thiền định của Tam-muội Giác ý”. Lúc ấy, biết được suy nghó của đại chúng Đức Phật dạy: “Về phương Tây cách đây vô số cõi Phật, có Đức Phật hiệu là Vô Lượng Thọ, cõi ấy thanh tịnh không có tham, sân, si tất cả đều nhất tâm từ hoa sen hóa sinh, không do tình dục của cha mẹ mà sinh, chỉ toàn là nam không có nữ giới, không có đại tiểu tiện, dùng Thiền duyệt, pháp hỷ để làm thức ăn, không có tướng, niệm, thức, cung kính lẫn nhau như cha, như mẹ, vị nào muốn sinh vào nước ấy thì hãy phát thệ nguyện”. Bấy giờ, bốn ức người trong chúng hội đều phát nguyện cầu được sinh về nước ấy. Đức Thế Tôn lại phóng ra ánh sáng Tam-muội Giác ý chiếu đến cõi nước kia làm cho bốn ức người được thấy Đức Như Lai Thế Tôn và hàng Bồ-tát hóa sinh. Nước ấy rộng lớn toàn bằng vàng, bạc, ngọc lưu ly và các loại châu báu hợp thành, không có các khổ của ba đường ác và tám nạn. Thấy nước ấy rồi, bốn ức người đều tùy theo ý nguyện của họ mà được đồng thời sinh về nước ấy và được tu Tam-muội Giác ý, những điều này do phát nguyện mà có được và nhờ sự cảm ứng của Tam-muội Giác ý mà đầy đủ phước đức như vậy.  <詞 id="113335694">Phẩm 13: Cung kính Bấy giờ, Bồ-tát Tối Thắng thưa: –Bạch Thế Tôn! Bồ-tát nào thường nghe pháp của Đức Phật mà cung kính vui mừng vô hạn? Đức Phật bảo: –Giáo pháp này giống như thần dược Na-đề, người nào uống thần dược này thì tinh thần sảng khoái, tự nhiên thấm nhuần đầy đủ, các bệnh tham, sân, si được trừ diệt hết. Người nào nghe được ý nghóa một câu của pháp này, cho đến bậc Đại thừa thì không còn vọng tưởng, được xa lìa các cõi ác, chí nguyện tự tại đạt được những điều chưa đạt, các căn đầy đủ không hề khiếm khuyết. Giả sử có người dốc tâm siêng năng tu tập chánh hạnh, không nghó điều gì khác, chỉ thuận theo pháp ấy thì các bệnh phiền não tự nhiên tiêu trừ. Thiện nam! Thiện nữ nào được nghe pháp, tin tưởng và cung kính chánh pháp nên ngồi ngay ngắn bên gốc cây, nhất tâm tư duy. Giả sử, vừa sinh tâm sai lầm, hoặc ý không định tónh, phải tự chánh niệm. Nếu ai không chịu diệt trừ tâm ác, dù siêng năng, khổ cực nhiều kiếp cũng không được ở trong đạo pháp, thì biết đến bao giờ mới đạt được pháp vô lậu, nương pháp bình đẳng mà được giải thoát? Như vậy, này Tối Thắng! Người thuận theo chánh pháp thì không ở, cũng không lìa ba cõi, lại dùng ba phép quán niệm và bảy pháp để tự đề phòng, thường sám hối tội lỗi đã tạo từ trước, về sau không dám tái phạm, sẽ được mười tám pháp Bất cộng, bốn pháp không sợ hãi, năm Căn, năm Lực và pháp môn Thiền định giải thoát của chư Phật, diễn nói chánh pháp bình đẳng không hai, thân bằng vàng ròng, tướng tốt trang nghiêm, dùng vô số công đức để làm chuỗi anh lạc, âm thanh giáo huấn đến khắp mười phương. Này Tối Thắng! Bồ-tát ấy sẽ đạt được mười pháp công đức. Đó là: –Nhất tâm tư duy chánh pháp đã được nghe, theo Thiện tri thức không chống trái, không tự đại cũng không tự ti, thường ở mức bình thường, không làm theo nghiệp hư dối, chắc chắn vào được trí tuệ sâu xa, tâm không tán loạn, vui vẽ bố thí không có hối tiếc, khi bố thí không phân biệt người nhận, chấm dứt các khổ, giảng nói vô ngã, thần thông tự tại bằng phương tiện thiện xảo. Đó là mười pháp đạt được mười công đức. Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ rằng: Chú tâm nghe giáo pháp Thuận đạo không tưởng, nguyện Nương tựa Thiện tri thức Bố thí không hối tiếc Thương người như chính mình Cao thấp hay xấu đẹp Đều nhất tâm cung kính Đạt được mười công đức. Này Tối Thắng! Pháp phương tiện thiện xảo bằng trí tuệ độ đạt đến phương đẳng Đại thừa của hàng Bồ-tát. Vì thương thế gian nên Như Lai xuất hiện ở đời; lại thị hiện bao nhiêu hành pháp khác nhau, hoặc hiện thừa Thanh văn, Duyên giác, hoặc ẩn tu trong rừng sâu núi thẳm, hoặc kinh hành để tự thức tỉnh, xét kỹ trong thân không còn một chút gì để tham luyến. Do đó, phải tự tư duy: Đây là sự giáo hóa của Như Lai, nên luôn luôn ghi nhớ, tin tưởng lời dạy của ta thì được giải thoát đối với pháp hiện tại, tuy ở nơi ngoại đạo vẫn không bỏ chánh pháp, vì họ mà đánh lên tiếng trống pháp. Pháp ấy không có tưởng, không có các niệm, diệt trừ hết các phiền não cho chúng sinh. Những người trong hội đến với tuệ thù thắng, hành động khác nhau, tánh khí bất đồng, những người như vậy nhiều không thể tính kể, ưa thích nghe kinh cũng không giống nhau, người bỏ thật theo giả cũng không thể tính được. Ngay đây, số lượng những người ấy khó thể biết. Hoặc có Bồ-tát chuyên quán pháp môn giải thoát, tuy thực hành đầy đủ nhưng lại tham diệt độ, sở dó có việc như vậy, là do chưa hiểu rõ phương tiện khéo léo, nên còn bị cản trở. Như Lai dùng thần thông dẫn dắt khiến cho Bồ-tát ấy hiểu rõ, họ mới tự biết đó chẳng phải là hạnh của Bồ-tát; lại bị ma Ba-tuần quấy nhiễu, do bị thoái lui nên trở lại phàm phu. Tối Thắng nên biết, suốt ngày đêm, bằng ba minh, Như Lai quán sát những ai căn tánh ám độn, thoái lui, không tiến tới, những ai tiến tới trước, đạt được ngôi vị Bồ-tát. Người thoái lui nhiều như cát sông Hằng, mà người được tiến tới chỉ như đầu sợi lông, ta tự biết mà không cần dùng thần thông. Người nào mà tâm ban đầu kiên cố, giả sử có thành tựu thì người ấy sẽ diệt trừ hết gốc rễ chúng sinh. Pháp vô vi thì chắc chắn không sinh diệt, nhưng chúng sinh ngu si lại cho là chẳng chân thật. Phương tiện quyền xảo căn cứ vào chân đế, nếu muốn nghe thâm yếu của Pháp, phải từ pháp nhẫn và mười hai nhân duyên, trước phải hiểu rõ Không, Vô tướng, Vô nguyện, thông suốt các pháp là vô thường, chẳng phải chân thật, chẳng có ngã, nhân, thọ mạng, hư ngụy, như vậy. Đức Phật lại bảo Bồ-tát Tối Thắng và chúng hội: –Nhớ lại khi xưa, lúc chưa thành Phật, ta được các Đức Như Lai dạy bảo, dùng thần lực để dẫn dắt, cũng chính là hạnh nguyện mà ta mong cầu đạt được. Đó chính là sự thanh tịnh và chí hướng an ổn. Hôm nay, ta đã thành Như Lai Đẳng Chánh Giác, đầy đủ các hạnh hiện ra nơi thế gian, là đều do ta giữ gìn tâm ý không thoái lui, chúng Bồ-tát đông không thể tính kể thị hiện thần thông không có giới hạn, thâu phục ác ma khiến cho chúng phải thất tán. Khi ta vào thành ấp, xóm làng, những chúng sinh nào được thấy ta liền dốc tâm nghe kinh, không nghó gì khác, làm cho ngôi Tam bảo hưng thịnh, và tồn tại lâu dài, những ai muốn cầu pháp thì đều được đầy đủ và đạt được sự an lạc. Đức Phật lại dạy Bồ-tát Tối Thắng: –Chúng sinh nào tin theo pháp Không, Vô tướng, Vô nguyện nên thực hành ba mươi sáu pháp để không bị tổn hại. Bồ-tát thực hành ba mươi sáu pháp khiến không bị tổn hại như thế nào? Nghóa là Bồ-tát phân biệt về ba Hướng không còn phiền não, tuy ở nơi ái dục nhưng không bị ô nhiễm, đối với pháp quán vô thường cũng không có tưởng quán, tâm hành thanh tịnh, không mất pháp tánh, cầu mong các pháp môn giải thoát của bậc Hiền thánh, vì muốn chứng đạo để cứu độ chúng sinh. Bồ-tát này đã đoàn trừ kiến chấp sai lầm, biết tất cả các pháp là vô thường, nên không chấp thủ nơi Đẳng chánh giác, tùy duyên sinh diệt để đoạn trừ các phiền não, thực hành mọi việc không hề vì mình, biết rõ nguồn gốc của chúng sinh vốn không sinh, tuổi thọ giảm dần, không tồn tại lâu dài, thân mạng này mất đi, đổi dời như huyễn hóa, đối với quá khứ thì hoàn toàn chấm dứt không còn dấu vết, vị lai thì không có hình bóng, lại phải thọ thân sau, hiện tại thì luôn trôi chảy luống qua, không biết đi về đâu, biết rõ nghiệp, trí tuệ và thần thức tồn tại. Bồ-tát đạt được không tuệ phải siêng tu ba việc: trói buộc, giải thoát và không trói buộc, lại phải tu tập để đoạn trừ ba việc này, không nương vào không tuệ để chứng quả, cúng dường thân mạng để mong được đến đạo tràng, đối với tham dục và không tham dục, cũng chẳng lìa tham dục, Thiền định của chư Phật thường ở trước mặt; đến di, qua lại, chẳng sinh, chẳng tưởng, thường dốc tâm nơi thần thông, trí tuệ; chứng đắc pháp tạng mà không thấy có chứng đắc, dùng Niết-bàn vô sinh làm nhà, như như, như vậy, không hình không tướng, vốn không có giới hạn, mà giới hạn cũng chẳng phải giới hạn, thường không có thường, tư duy vô thường, tuy thấy sinh tử, cũng chẳng thấy sinh tử; vào năm cõi biết là không có năm cõi, chính mình đã xa lìa sự trói buộc của phiền não, tu tập pháp vô vi, không mong cầu, không hy vọng, cứu độ chúng sinh như hư không, mà hư không thì không thành tựu. Mọi hoạt động của thân và miệng đều không bị tổn hại. Đó gọi là ba mươi sáu việc là pháp vi diệu để hàng Bồ-tát Tối Thắng thực hành, hàng Thanh văn, Duyên giác không thể theo kịp, phải khéo quán sát pháp này, để diễn nói cho chúng sinh, để dứt trừ tranh cãi cho họ. Sở dó như vậy là vì rất ít chúng sinh có tâm tin, phàm có giảng nói pháp nhân duyên, nghiệp báo thì nên trụ vào tâm vô sinh. Nếu quán sát thấy tâm ý của chúng sinh không kiên cố, thì nên dần dần khai mở, khiến cho họ được giải thoát, tuy đã chấm dứt việc được mất nhưng cũng nên khiêm nhường đừng tự khen mình. Giả sử có nghi ngờ thì nên dùng pháp vốn không có để quán ba đời đều bình đẳng, không sai khác, lại không thấy bình đẳng, cũng chẳng thấy không bình đẳng; thấy cũng không thấy, lại cũng không thấy, huống nữa là có sắc tướng, sắc tự không phải sắc, vốn không có sắc, thức của sắc là không có thức, lại có thức sao? Nhờ có tai, âm thanh và có thức nên nhận biết được âm thanh bên ngoài; mũi, hương và có thức nên tự sinh ra mùi hôi, nhờ có lưỡi, vị và có thức nên phân biệt được ngon, dở; nhờ có thô tế và có thức nên thân biết được sự trơn, nhám; nhờ có ý, pháp và có thức mà biết được thiện, ác đã tạo trước đây, biết rõ các pháp không có chỗ trụ, mà sự “không có chỗ trụ” ấy cũng không tồn tại. Tối Thắng nên biết, ngã, ngã sở và tất cả các pháp đều thanh tịnh, cũng chẳng thấy có thanh tịnh, các pháp ngã và ngã sở vốn không thật có, cũng chẳng thấy có, sự có; “không” tự nó vốn là “không”, cũng chẳng thấy là không, tất cả trí tuệ, sự hiểu biết, Bồ-tát đều không thật có. Trí tuệ, sự hiểu biết của Bồ-tát không nương vào thân, miệng mà có, không tự đề cao, cũng không tự ti. Từ xưa đến nay đều tự nhiên thông suốt. Bồ-tát nào hiểu rõ “không tuệ” như vậy, liền chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, kiến lập chánh pháp và làm được nhiều điều lợi ích. Bấy giờ, trong chúng hội, bốn bộ chúng và tám loại quỷ thần đều rất vui mừng. Tất cả đều cung kính, dùng các loài hoa hương của cõi trời như: hoa ý, hoa đại ý, tung rải trên Đức Phật và các Bồ-tát đệ tử lớn của Phật, các loài hoa ấy đầy khắp trong hư không, các loại âm nhạc tự nhiên trổi lên. Lại có chư Thiên chật cả hư không, họ đều phát ra âm thanh lớn như sấm sét tự nhiên khen: “Hôm nay, chúng ta được nghe pháp, từ xưa chưa từng có. Đức Phật đã giảng nói về không cho hàng Bồ-tát, khiến cho chư vị được kiên cố về thân, khẩu, ý”. Pháp mà Đức Phật đã vận chuyển cho hàng Trời, người ở vườn Lộc Dã trước đây đã chưa nói đầy đủ. Hôm nay, chúng ta được nghe Đức Như Lai nói vềø pháp không, vô, không sinh và không diệt, đó là nghóa lý tối thượng, là độc nhất vô nhị, thật không thể kể lường, từ xưa đến giờ, chúng ta chưa bao giờ được nghe Pháp như vậy. “Lành thay! Bạch Thế Tôn! Thế Tôn đã làm cho tâm ý chúng con được dứt hẳn do dự, trừ bỏ nghi ngờ, không còn phiền não gì nữa” Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo chúng hội: –Bồ-tát có trí tuệ hiểu rõ, thì vì tất cả chúng sinh, nên gốc rễ của các pháp tâm không còn lìa bỏ huống chi là pháp không, vô. Điều này chẳng phải như vậy. Bồ-tát tu tập thì không nên khởi tâm phải, quấy. Nếu tâm niệm đối với các pháp không bị lệ thuộc, thì pháp thật là sâu xa không thể nghó bàn, còn nếu hành động bằng trí tuệ cạn cợt, vì chưa thông suốt thì sẽ rơi vào bốn loại điên đảo và phát sinh ấm cái. Muốn bỏ pháp này để học hiểu pháp kia, thì lại bị mắc vào mười hai nhân duyên, rồi sinh ra pháp khác nữa; kế đến là dùng cả đời mình để tiếp thâu cả sáu mươi hai loại kiến chấp và cuối cùng là phải chịu đựng tất cả các trần lao phiền não. Những Bồ-tát như vậy, các ông đừng nên ở chung, nhưng cũng không lìa bỏ. Thế gian bị ngu si cho đến chết cũng vì loạn tưởng, và sự tạo tác của tâm ý. Cho nên, nếu thấy người tinh tấn, các ông không nên kính mộ, gặp kẻ biếng lười, cũng đừng khinh dễ; gặp người giữ Giới hay người phá Giới đều giữ tâm ý như nhau. Hễ nhẫn nhục thì tu tập được viên mãn đầy đủ, còn giận dữ thì bị đọa vào đường ác. Các ông hãy nhất tâm không loạn động, thì các tưởng không thể khởi lên, có trí tuệ thì nhổ sạch hết gốc khổ, phải dứt bỏ các niệm và xa lìa thế sự. Thế nào là thế sự? Đó là năm ấm, sáu tần, bốn đại, bốn khổ, mười tám giới, mười hai nhân duyên là những pháp không tương ưng với tâm. Đó là các pháp thế tục. Đức Phật bảo Bồ-tát Tối Thắng: –Nếu Bồ-tát thực hành bố thí trong ba đời mà không nghó đến sự phước báo ở đời quá khứ, không nhớ đến vật mà mình đã bố thí, người nhận tài vật ấy, và nơi chốn đã bố thí trong đời quá khứ; cũng không nhớ nghó mình trong dòng họ ấy, gia đình ấy, tên như thế ấy. Bấy giờ, bố ví như vậy thì đời hiện tại mới được phước báo. Giả sử, hôm nay làm phước để mong sau này được nhiều phước báo, thì sự bố thí ấy sẽ chẳng được thành tựu, mà còn rơi vào sai lạc, là người của cõi ác ma, là kẻ đoạn mất dòng giống Phật. Những Bồ-tát ấy, sẽ không bao giờ đến đạo chánh chân Vô thượng thành bậc Chánh giác tối tôn được. Sở dó như vậy, là do chấp thủ vào tưởng. Bố thí mà chấp thủ vào tưởng, thì chẳng thể có phước báo chân thật. Nếu Bồ-tát nào muốn bố thí ở hiện tại và vị lai, thì phải giữ tâm ý kiên cố, đừng khở các loạn tưởng. Có khi Bồ-tát chỉ bố thí một ít y phục, thức ăn uống, đồ nằm và thuốc trị bệnh, nhưng thuận theo ý người cần, thì sẽ thành tựu Vô thượng Đẳng chánh giác, hiểu rõ tánh không của các pháp, thông đạt pháp chẳng có tưởng, pháp không cũng chẳng có sinh, hiểu rõ các pháp không thông đạt là một, không có tạo tác, không có đối tượng bố thí, không thấy lúc đến cũng chẳng thấy lúc đi, quán tánh không của các pháp biết rõ không có hình tướng, các phẩm về giới, định, tuệ, giải thoát và giải thoát tri kiến, ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Như của pháp giới, Định của pháp giới, quán pháp giới, không chấp thủ về pháp giới; Như của Phật, Định của Phật, quán thân Phật, không chấp thủ về Phật, Phật là vô ngã, cũng không có sự sinh, tâm ý sáng suốt về đạo, tâm ý sáng suốt về pháp, tâm ý sáng suốt về Tăng. Mười ba hạnh quán về trí tuệ vô lậu này, quá khứ, hiện tại và vị lai cũng đều có mười ba hạnh, Phật đã thấy được tất cả các cảnh giới, biểt rõ các cảnh giới ấy không có đến, đi, chẳng thấy sinh ra, pháp tự nó là như thế, cũng chẳng thấy động, chẳng thấy xoay chuyển lại, tất cả chúng sinh tự khởi thức, tưởng; đối với người không có tâm tin đều giáo hóa cho họ, khiến cho họ thanh tịnh ba môn được vào nhà Như Lai, biết các pháp có bao nhiêu hành tướng không hoàn hảo, được nói ra khác nhau vì người nghe không đồng. Vì muốn thanh tịnh ba môn và năm nhẫn nên Bồ-tát nghó đến chuyện pháp luân vô ngại, trước hết phải thực hành mười ba pháp quán vô lậu, đó là tuệ căn và trí vô ngại. Như vậy, này Tối Thắng! Vì chúng sinh nên Bồ-tát thị hiện vô lượng, vô biên, không thể nghó bàn các danh hiệu trong pháp giới, đều là do năng lực trí tuệ và phương tiện khéo léo của Bồ-tát tạo ra. Lúc ấy, Bồ-tát Tối Thắng thưa: –Bạch Thế Tôn! Bồ-tát nhập vào chánh định, tu hành phương tiện thiện xảo, giữ trí không tán loạn như thế nào? Đức Phật dạy: –Này Tối Thắng! Đó là Bồ-tát nhập vào định không chấp thủ, dùng thân, miệng, ý để giáo hóa không bị chướng ngại, quán sát cõi nước của chư Phật như thấy rõ viên ngọc trong tâm bàn tay, giáo hóa chúng sinh mà không chấp thủ; nhờ năng lực không chướng ngại của Phật, Bồ-tát phóng ra ánh sáng lớn để chuyển pháp luân, giáo hóa tất cả chúng sinh, hoặc làm quyến thuộc với các Bồ-tát, dùng trí của Phật làm chuỗi anh lạc để trang sức nơi thân an trú như Phật, đến các cõi nước như Phật đã đến, làm thanh tịnh các cõi nước, dùng pháp giáo hóa của Phật mà độ thoát cho chúng sinh, vị ấy thệ nguyện bằng trí tuệ của mình, đem giáo pháp để dạy cho mọi người. Đó là Bồ-tát đã nhập vào Tam-muội Định ý tối thắng của chư Phật, sự hành hóa không thể nghó bàn, không sợ hãi hoạn nạn, thuận theo tâm, không nhàm chán, không thoái lui cũng không hề mệt mỏi, không bỏ pháp đang nương tựa để theo những pháp khác. Vì sao? Vì Bồ-tát ấy đã có ý chí rộng lớn ở trong các pháp, thệ nguyện rộng lớn không thể hủy hoại, phát tâm tu học chánh pháp của Phật không cùng tận, che chở cho chúng sinh không hề lìa bỏ, hiểu rõ chúng sinh là không và các pháp cũng vậy, các pháp là không và tánh của đạo cũng vậy, khéo quán sát sự đến đi trong các cõi của tất cả chúng sinh, ban rải tâm Từ lớn cho tất cả, không sai trái đối với pháp thực hành của chư Phật trong ba đời và thành tựu hết thảy các pháp không có hình tượng. Vì sao? Vì giống như có người treo viên ngọc quý Như ý trong không trung, mọi người nhìn thấy đều rất vui mừng, màu sắc viên ngọc vô cùng đẹp đẽ, chiếu sáng không gì trở ngại. Nhưng viên ngọc không tự nói mình chiếu sáng rộng lớn. Bồ-tát Đại só cũng vậy, dùng tâm như viên ngọc quý nói ra lời trí tuệ, tất cả ánh sáng trí tuệ ấy chiếu soi đến khắp tam thiên đại thiên thế giới, nhưng cúng không tự cho mình có ánh sáng trí tuệ chiếu soi. Vì sao? Bởi Bồ-tát này vì các chúng sinh, không vì bản thân mình, muốn khiến các chúng sinh đến được cửa giải thoát nên dùng ấn Phật Thánh đế ấn chứng cho họ; làm thanh tịnh cõi Phật, che chở, giúp cho các chúng sinh, xa lìa tất cả niệm, mắt trí tuệ chiếu soi khắp nơi, biết rõ nguồn gốc của sinh tử, tám pháp công đức của quá khứ, hiện tại, vị lai, đạt được Lậu tận thông và diệt hết tưởng tri mà La-hán và Duyên giác không thể đạt được.Bồ-tát biết rõ tánh của các pháp như huyễn, như hóa, như dợn nắng, như cây chuối, như tiếng vọng, như ảnh trong gương, như trăng đáy nước, như bong bóng nước, như bọt nước, như giấc mộng đều chẳng chân thật. Năm ấm khổ, không này chẳng phải là thân mà là do bốn đại hợp thành. Lại nên tư duy sáu đại: Địa, thủy, hỏa, phong, không và thức ở trong ba cõi, cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc đều là cõi Vô thường, Pháp thân Niết-bàn mới là cõi Phật, hiểu rõ cảnh giới sinh tử và pháp Niết-bàn tuy một mà không hai, cũng chẳng có nhiều, bốn đại, ngã và ngã sở cũng vậy. Ngã, ngã sở là không vì các pháp là không, các pháp là không nên sáu pháp niệm cũng vậy; không rơi vào tà kiến, không ở trong sinh tử, cũng không chứng đắc nửa chừng. Đó gọi là Bồ-tát thấu đạt được cốt yếu của pháp, tu hành không uổng, thọ dụng không phí, ở an ổn trong đạo, luôn được lợi ích. Lại có Bồ-tát dùng bốn Tâm vô lượng suy xét sâu xa nguồn gốc của sinh tử để cứu độ chúng sinh, đem tài sản để giúp đỡ và dẫn dắt họ vào đạo. Bồ-tát dùng tâm Từ bi lớn nên nhìn khắp núi sông vách đá, cây cối, cành lá đều thành bảy báu, liền dùng để ban khắp cho chúng sinh khiến cho họ được chứng đạo. Khi ấy, Bồ-tát quán sát chúng sinh, có những người bị vướng mắc vào khổ nên vì họ giảng nói năm ấm là khổ, là già, là không chân thật, do tập khởi của sắc nên chấp thủ vào khổ, diệt trừ sự tập khởi thì chứng đạo. Sự khổ có rất nhiều mà tập khởi là nguồn gốc, đoạn trừ hai việc trên đây mới gọi là đạo.  <詞 id="113335695">Phẩm 14: DŨNG MÃNH Bấy giờ, Bồ-tát Tối Thắng bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Bồ-tát mới phát tâm tu hành không gián đoạn như thế nào? Bồ-tát tâm ý luôn luôn an ổn như thế nào? Đức Thế Tôn bảo Tối Thắng: –Bồ-tát mới phát tâm nên học những pháp cần phải học, không lệ thuộc trong sinh tử; chẳng phải lo ngại về ngã, ngã sở; đối với quá khứ, hiện tại, vị lai cũng không hề sợ hãi. Cho nên, Bồ-tát có thể dũng mãnh phá bỏ tà kiến, mới vừa nghe pháp liền thành tựu được Tín căn, tâm ý luôn hướng đến Niết-bàn tịch diệt, xa lìa sự tạo tác thế gian, chỉ một tâm kính mộ đạo Chánh chân Vô thượng, dốc tâm học hỏi lắng nghe và khen ngợi kinh điển, giả sử có gặp điều gì khổ, vui cũng không mệt mỏi. Sở dó như vậy là vì tâm của Bồ-tát rất kiên cố, không gì làm dao động được. Trải qua một đời, hai đời hoặc ba đời, đến khi đúng thời thì đạt được Thiền định và Tam-muội Chánh thọ của Như Lai, lại đạt được Tam-muội “Tin nhận không quên” và Tam-muội “Tổng trì quyết định” rồi dần dần đạt đến pháp Vô sinh nhẫn. Đó là sự tu hành không gián đoạn của Bồ-tát mới phát tâm. Bồ-tát chuyên tâm nên không vướng mắc vào sắc tướng, không phân biệt thường, vô thường, khổ vui, xấu đẹp, xa gần. Lại chẳng nghó pháp quá khứ, hiện tại, vị lai, chẳng nghó mình sẽ thành Phật, là bậc Chí tôn trong tam thiên đại thiên thế giới; không nghó có tưởng, không nghó tưởng về sinh, tưởng chấp thủ, tưởng đắm nhiễm, tưởng trói buộc, tưởng về tâm, thọ nhận vô lượng pháp môn vi diệu, không trở lại cũng không thấy có trở lại, không nhàm chán cũng không thấy có nhàm chán, không đủ cũng không thấy là đủ, không phế bỏ cũng không thấy phế bỏ, không xả bỏ, không hư hoại, không thấy cũng chẳng có sự thấy, không tăng cũng không giảm, không sai khác cũng chẳng biến đổi, không tự nhiên hành cũng chẳng phải không có hành. Vì sao? Vì cho là tự nhiên, tức là bao trùm khắp cả hư không, pháp giới. Bồ-tát thành tựu thệ nguyện, rộng lớn vô lượng, vô biên, không có giới hạn như vậy, vì muốn cứu độ cho tất cả chúng sinh nên không nhàm chán, không lo sợ cũng chẳng thoái lui. Vì sao? Vì muốn hóa độ cho tất cả chúng sinh được vào Niết-bàn, nên Bồ-tát an trụ suốt mười bảy kiếp không hề lìa bỏ, biết rõ các pháp trong ba đời vắng lặng như hư không, là không, là vô ngã, vì sao? Vì muốn từ chỗ này đến chỗ kia, Bồ-tát Đại só bay lên hư không, dùng Thiên nhãn quán sát để xem thử có bao nhiêu chúng sinh nương nơi địa đại và có bao nhiêu chúng sinh nương nơi hư không. Nhưng khi quán sát, Bồ-tát thấy chúng sinh nơi hư không không thể tính kể, không có giới hạn. Bồ-tát lại dùngThiên nhãn để tư duy: “Hôm nay, ta đã quán sát quá xa xôi. Ta nên từ bốn châu thiên hạ chung quanh núi Tu-di để xem thử nơi hư không có bao nhiêu chúng sinh không có hình tướng và bao nhiêu chúng sinh có hình tướng”. Đức Phật bảo: –Này Tối Thắng! Bồ-tát dùng Thiên nhãn còn không thể biết có bao nhiêu chúng sinh không có hình tướng. Vì sao? Vì chẳng phải là cảnh giới của Bồ-tát. Hôm nay, ta dùng ví dụ để giải thích lại ý nghóa này, những ai có mắt sáng sẽ nhờ đây mà hiểu rõ. Như trong một khoảng hư không bằng tám khuỷu tay trên dưới đều không có chỗ hở, số lượng chúng sinh không có hình tướng ở trong đó bằng số chúng sinh có hình tướng trong bốn châu thiên hạ. Muốn biết được số đó thì phải lấy từ số một của số lượng chúng sinh ấy đến một ức, lấy một ức làm thành một, lại lấy từ một đó đến một ức, rồi lấy một ức này làm thành một nữa, lấy như vậy đến lần thứ bảy, muốn biết số lượng chúng sinh không có hình tướng trong khoảng hư không đó, thì số lượng ấy là như vậy. Đức Phật dạy: –Này Tối Thắng! Lúc Bồ-tát dùng Thiên nhãn để xem chúng sinh không có hình tướng trong hư không, cũng giống như người đang nhìn vào một tảng đá lớn hình vuông, trên dưới đồng chất không một chỗ hở, thì cũng không biết được số lượng (chúng sinh không có hình tướng hư không), Bồ-tát từ khi mới phát tam học đạo cho đến chứng quả vị Bồ-tát, nên hóa độ bao nhiêu chúng sinh mà tâm không hề lay động. Nên biết, vị ây không bị ma quấy nhiễu, ở trong ba cõi, nương tựa Thiện tri thức, hoàn toàn không còn sợ hãi, Bồ-tát an trụ như vậy rồi, chắc chắn không bao lâu sẽ được thọ ký, thực hành phương tiện quyền biến, khuyến khích giúp đỡ cho chúng sinh, truyền trao pháp Niết-bàn cho họ, nói là chắc chắn được diệt độ, lại thêm về pháp ấn bốn đế của Như Lai, phân biệt rõ để chỉ dạy đường hướng cho họ. Có chúng sinh nào không chịu giác ngộ, Bồ-tát dùng vô số phương tiện để giáo hóa cho họ, do huân tập si mê nên tạo ra các khổ, đoạn trừ ái dục thì không còn chấp thủ, liền được chứng đắc quả vị chánh giác. Tất cả sự yên lặng của bậc Thánh tức là giải thoát. Sở dó gọi là giải thoát, vì thoát khỏi sinh, già, bệnh, chết. Vị ấy không chết cũng chẳng bị chết, không giải thoát cũng chẳng được giải thoát. Giải thoát ở chỗ nào? Nghóa là không chấp thủ, không bị trói buộc, không có diệt, chẳng có sinh, không có thành tựu, không có chỗ hướng đến, mới là khế hợp với đạo chân chánh. Do mê lầm nên chúng sinh không thể hiểu rõ. Vì thương xót họ nên Như Lai xuất hiện ở đời, ở những nơi Như Lai đến đều thị hiện làm bậc Đạo sư. Chúng sinh nào nghe pháp rồi, liền đạt đến quả vị Không thoái chuyển. Có người nào hoan hỷ giữ gìn Chánh pháp, liền đạt đến pháp Vô sinh nhẫn. Bồ-tát phát tâm luôn tư duy về mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và phân biệt sáu trần là do đâu mà sinh, do đâu mà diệt, pháp tự sinh pháp, pháp tự diệt pháp, không thấy tà, không thấy chánh, không tạo, không tác, không thấy có ngã sở hay chẳng phải ngã sở, không nương vào tánh bên trong để tự quán sát, chẳng nương vào ngoại cảnh để phân biệt; nên tư duy sắc, thọ, tưởng, hành, thức không phải là sắc trong quá khứ, sắc quá khứ không ở bên trong, không ở bên ngoài, không ở chặng giữa, cũng không phải là thọ, tưởng, hành, thức trong quá khứ; thọ, tưởng, hành, thức quá khứ thì không ở trong, không ở ngoài, không ở chặng giữa, không trụ vào sắc quá khứ, chẳng phải không trụ vào sắc quá khứ, không ở bên này, không ở bên kia; cũng chẳng phải mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý và pháp trong quá khứ thì không ở trong, không ở ngoài, không ở chặng giữa; chẳng phải là sự diệt hết tưởng tri trong quá khứ; mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý và pháp trong quá khứ, không ở trong, không ở ngoài, không ở chặng giữa. Sự diệt hết các tưởng tri về sắc, thọ, tưởng, hành, thức, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý ở vị lai và hiện tại cũng vậy. Lại nữa, này Tối Thắng! Bồ-tát dùng thần thông, trí tuệ để tu hành không chướng ngại. Tất cả công đức trí tuệ của chư Phật, nếu tổng cộng hết thì gấp mười, gấp trăm, gấp ngàn vạn lần, không phải như Bồ-tát phát tâm làm an ổn cho một chúng sinh, khiến chúng sinh ấy phát tâm Vô thượng, thành tựu Nhất thiết trí, đầy đủ tất cả các pháp của chư Phật, đoạn trừ hết các vọng tưởng, không còn nghi ngờ; Trời, người đều cung kính lễ bái, thấy rõ các pháp đều huyễn hóa không chân thật. Tất cả chúng sinh có hình tướng, khi hướng đến đạo, liền được năng lực thần thông của Như Lai. Lúc ấy, mười bốn ức chúng ở trên tòa chiêm ngưỡng oai đức thần thông của Đức Như Lai, trông thấy Đức Như Lai hiện ra các oai lực thần biến. Biết được suy nghó của đại chúng, từ nơi tòa, Đức Phật liền phóng ra ánh sáng lớn, trong mỗi lỗ chân lông trên thân Ngài cũng đều phóng ra trăm ngàn ức tia sáng, trong mỗi tia sáng có trăm ngàn ức ngọc báu dạ quang, được điêu khắc hoa văn đẹp đẽ, các ngọc báu xen lẫn với các loại hoa tỏa nhiều mùi hương bao trùm ở trên; trên bốn góc của ngọc báu treo bốn chuỗi anh lạc, trên mỗi ngọc báu lại có trăm ngàn ức màn báu, trên mỗi màn báu tự nhiên có trăm ngàn ức tòa sen Sư tử, trên mỗi tòa sen có trăm ngàn ức màu sắc đặc biệt, trong mỗi màu có trăm ngàn ức ngọc báu ma-ni ở trên hoa sen, trên mỗi hoa sen lại có trăm ngàn ức loại châu báu đặc biệt kết thành lọng, dưới mỗi lọng có trăm ngàn ức Đức Như Lai đang thuyết pháp, mỗi Đức Như Lai có trăm ngàn ức cõi nước, trong mỗi cõi nước có trăm ngàn ức ao tắm tự nhiên, nơi mỗi ao tắm có trăm ngàn ức các loại chim như: chim le le, chim nhạn, chim uyên ương tự nhiên vui đùa. Bấy giờ, ngồi nơi tòa có kết bằng nhiều loại ngọc báu, các Đức Như Lai Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác phóng ra trăm ngàn ức ánh sáng, trong mỗi ánh sáng đều có hóa Phật, mỗi hóa Phật đều diễn nói công đức tu hành của Bồ-tát mới phát tâm, mười hai nhân duyên, vô thường, khổ, không, vô ngã. Đạt đến Niết-bàn; trong mỗi pháp môn đều vận chuyển trăm ngàn ức pháp không thoái chuyển, trước kia chưa từng chuyển vậy hôm nay Đức Như Lai chuyển, thị hiện các oai nghi, thần thông biến hóa cúa Phật chưa từng thấy, chưa từng nghe, không thể nghó bàn, không thể suy lường. Khi ấy, những người trong chúng hội đều khen ngợi là sự kỳ diệu đặc biệt chưa từng có, nhờ có phước đức nên chúng ta mới thấy được sự thần thông biến hóa này. Đức Như Lai biến hóa vô số thần thông được sáng rực rỡ, vô số Như Lai được hóa ra nhiều như kho tàng Như Lai, không trụ nơi trụ, không hình tượng, không nguồn gốc, đạt được những điều không thể đạt được, sâu xa vi diệu, không chân thật, không hư dối, trí tuệ rộng lớn, diệt trừ mê hoặc, cũng không hủy hoại, thành tựu pháp giới, các pháp của Đức Phật trong quá khứ, hiện tại, vị lai đều xuất hiện, phát ra năng lực của Như Lai làm lợi ích các cõi Phật, là pháp ấn của Phật để phát sinh đạo Bồ-tát. Ở trong Pháp hiện tại Như Lai là đấng Pháp vương mắt thanh tịnh, mắt tuệ thanh tịnh, chủng tánh thuần thục, mắt Phật không chướng ngại, do mắt tuệ biết phân biệt ý nghóa từng câu mà mở bày pháp môn, nhờ bậc Thiện tri thức được thành tựu đạo tâm, không bỏ cảnh giới, không làm mất chủng tánh; che chở, giúp đỡ tất cả chúng sinh bằng cách thành tựu đời sống gia đình, ở giữa mọi người không hề sợ hãi, dùng phương tiện thiện xảo để giáo hóa thích hợp, danh và đức đều thanh tịnh, không mong cầu, nguồn gốc đều chân chánh, tăng trưởng trí tuệ, phá tan mây triền cái, trí tuệ như lửa cháy mạnh thiêu đốt nghi ngờ chồng chất, xiển dương Chánh pháp vang dội nơi Đạo tràng, bốn Tâm vô lượng nắm giữ không quên, chín quán, sáu nghiệp, dũng mãnh không sợ hãi, tín, niệm, định, tuệ thực hành không cùng tận, nhập vào Thiền định Tam-muội quán sát khắp mười phương, lễ bái, cung kính, cúng dường các Đức Phật. Như vậy, này Tối Thắng! Đó là tâm không hư hoại của Bồ-tát. Giống như tánh không tự nhiên của Bồ-tát, người có mắt biết đó là không, không cũng chẳng tự biết nói ta là không, Bồ-tát thực hành theo bản nguyện cũng như vậy, độ thoát cho người nhiều như cát sông Hằng, lại nhiều hơn số đó nữa, đến các cõi mà chư Phật ở để cứu độ chúang sinh nhiều không thể đếm kể, Bồ-tát cũng không nghó: “Hôm nay, ta đã cứu độ bao nhiêu chúng sinh, làm cho họ đạt đến Niết-bàn tịch tónh, vô vi”. Cũng không nói: “Nhờ phước báo này, ta sẽ thành đạo Chánh chân Vô Thượng”. Bồ-tát mới phát tâm, giữ tâm kiên cố, từ khi mới phát tâm cho đến thành đạo, ngồi nơi gốc Bồ-đề, thâu phục các ma, những phước nghiệp công đức đã thực hành ấy, tất cả đều vì chúng sinh, không phải vì mình. Giống như hư không bao trùm khắp, nhưng không tự biết nói rằng ta là hư không. Ánh sáng trí tuệ, thần thông, phước đức của Như Lai, tiếp độ chúng sinh đều thành bậc Pháp nhãn, không xa lìa, không chấp thủ, tất cả các pháp không thể trở ngại, không ngã, không nhân, bằng gươm bén phương tiện thiện xảo của ánh sáng trí tuệ. Chánh pháp của tất cả chư Phật đã giáo hóa có vô lượng công đức, phá trừ hết các lưới nghi trong sự tu hành của Bồ-tát. Bồ-tát tu hành ba phạm đường thanh tịnh, không có không, không có cái chẳng không, không cũng không sinh, cũng không thật có, không ngã, không nhân, không tuổi thọ, không mạng sống, không thấy sinh cũng không thấy tử, tự mình giác ngộ không thể nghó bàn, không bỏ cảnh giới, vô tưởng cũng không, không sinh cũng không thấy sinh, không thấy sự xuất ly, không đến, không đi, không tạo, không tác, thành tựu đạo quả trong vô lượng pháp giới, cảnh giới hư không không có giới hạn, không bị trói buộc, nhưng Bồ-tát vì chúng sinh mà tạo các chỗ ở, ngã sở này cũng chẳng phải ngã sở. Nếu có khởi lên các tưởng về ngã, ngã sở, Bồ-tát nương tâm ývào căn bản của điều lành, dùng vô lượng trí tuệ để thanh tịnh đạo của mình và từ bỏ những tâm ý nhơ uế. Như vậy, này Tối Thắng! Bồ-tát nhập vào Tam-muội tịnh quán, quán sát chúng sinh ở khắp mười phương nhiều như cát sông Hằng, ai thích hợp pháp để tu hành, ai thích hợp trí tuệ để tu hành, ai thích hợp với hạnh thanh tịnh để tu hành. Chúng sinh nào lãnh hội Chánh pháp, Bồ-tát liền nói cho họ hai mươi lăm pháp. Hai mươi lăm pháp ấy là gì? Đó là các pháp không tướng, các pháp không hình, các pháp nhẫn, các pháp tưởng, các pháp không nguồn gốc, các pháp về cảnh giới không phân biệt, các pháp không bị chấp thủ, các pháp không hai, các pháp không vượt qua, các pháp không thể gián đoạn, các pháp sâu xa không thể suy lường, các pháp giác ngộ cho người chưa giác ngộ, các pháp có năng lực không thể hủy hoại, các pháp thành tựu cho người chưa thành tựu, các pháp không hủy bỏ mà hủy bỏ, các pháp không thường mà thường, các pháp không nhiễm ô, các pháp thanh tịnh, các pháp quán sát về tánh, các pháp vô lậu, các pháp quá khứ đã xã bỏ, các pháo dứt trừ lưới nghi, các pháp không do trí tuệ cạn cợt quyết định, các pháp vốn không và không có tên của khổ. Đó là hai mươi lăm pháp tu hành thanh tịnh của Bồ-tát. Lại nữa, Bồ-tát tu hành ba trí nhẫn: Quá trí, Vô quá trí và chẳng phải Quá trí cũng chẳng phải Vô quá trí. Bồ-tát tu hành Quá trí như thế nào? Nghóa là không bỏ pháp giới, thân thể vốn không. Đây là sự tu hành của Như Lai, chẳng phải của Duyên giác, La-hán. Vô quá trí là trí tuệ tăng thượng, là sự tu hành của Hiền thánh, Duyên giác, chẳng phải là sự tu hành của Phật, La-hán. Chẳng phải Quá trí cũng chẳng phải Vô quá trí là sự tu hành của La-hán chẳng phải của Phật, Duyên giác. Quá trí là gì? Đó là sự hành hóa của Phật, chẳng phải là của La-hán và Bích-chi-phật. Đối với trí này, trong một khảy móng tay, bằng trí tuệ, Bồ-tát nghó: “Ta nên cứu giúp cho vô lượng, vô số chúng sinh khiến họ đạt được trí tuệ không có giới hạn, Tam-muội kim cương cũng không thoái chuyển, thệ nguyện rộng lớn vượt hẳn La-hán và Bích-chi-phật. Đó gọi là Quá trí, chẳng phải là sự tu hành của bậc Hiền thánh, Bích-chi, Bồ-tát. Bất quá trí là gì? Là sự tu hành của bậc Hiền thánh, Bích-chi. Bồ-tát phát tâm tu học trí này, vì muốn pháp giới thanh tịnh nên dẫn dắt chúng sinh, tuyên dương Phật pháp, diễn bày trí tuệ giải thoát, vì đạo Vô thượng mà cầu đến đạo tràng. Nếu có chúng sinh đi đến chỗ Bồ-tát, đem đầu, mắt, tuỷ, não, nước, thành, vợ con và những vật yêu thích. Chỉ trừ cha mẹ, Sư trưởng, đều bố thí hết cho người xin, bố thí mà không cầu sự báo đáp. Như vậy, một đời đến trăm đời, một kiếp đến trăm kiếp, đem của cải ra bố thí mà vẫn không thấy có vật bố thí, không thấy vật là của ai, từ đâu mà có, vốn từ đâu đến, diệt rồi đi về đâu. Hiểu rõ vật không có nguồn gốc, không thấy nhà cửa để dừng nghỉ. Lúc ấy, Bồ-tát dùng trí tuệ quán sát về không, nên không thấy thân, không thấy vật, không thấy người và cũng không thấy bố thí chỗ nào. Nhưng Bồ-tát này đã tích chứa công hạnh từ lâu, tâm ý nhạy bén, muốn mau đến đạo Vô thượng, ưa cứu giúp chúng sinh, làm thanh tịnh cõi Phật; Bồ-tát thích thanh vắng nên thường ẩn tu trong rừng sâu, tâm ý luôn tịch tónh, đạt niệm trước mặt, tư duy quán chiếu, đầy đủ các công hạnh bố thí rồi, được thành tựu đạo quả Chánh chân Vô thượng, làm bậc Chánh giác tối tôn. Khi Đức Phật ấy ra đời, thân tướng trang nghiêm, cứu giúp chúng sinh đến bờ giải thoát. Bậc Thánh giả vào cảnh giới Niết-bàn Vô dư y rồi, sau đó Ta mới thành đạo quả. Đức Phật bảo Bồ-tát Tối Thắng: –Suy nghó và hạnh nguyện của Bồ-tát đều không sai lầm. Đức Như Lai khi còn ở đời, việc giáo hóa hoàn tất mới vào Niết-bàn Vô dư. Chánh pháp đã diệt hết, đời không có Phật, một kiếp, hai kiếp đến trăm kiếp, Bồ-tát ẩn tu trong núi sâu, tự trách: “Than ôi! Thật là uổng công, Phật diệt độ đã lâu, đời Tượng pháp cũng diệt hết, chúng sinh có duyên lành cũng không còn nữa”. Bồ-tát buồn bã, liền đi kinh hành đến gốc cây, dùng móng tay tách vỏ cây, làm hở ra một khoảng trống, phát ra tiếng kêu. Nhờ đó Bồ-tát bỗng nhiên giác ngộ, liền chứng đắc đạo quả Chánh chân Vô thượng. Nhìn quanh chẳng thấy ai, Bồ-tát ẩn mất hình tướng, không chuyển pháp luân, thị hiện giống như phàm phu nhưng vượt trên thế gian. Đó là Bất quá trí, là sự tu hành của Hiền thánh Bích-chi, chẳng phải của Phật, La-hán. Không phải Quá trí và không phải Bất quá trí là gì? Là sự tu hành của La-hán, chẳng phải của Phật và Bích-chi-phật. Từ xưa đến nay, Bồ-tát đã siêng năng tu tập trí này, vì muốn chứng đắc quả vị Chánh chân Vô thượng thành bậc Giác ngộ tối tôn nên tu hành Bố thí, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định và Trí tuệ. Hoặc bố thí đầu, mắt, nước, tài sản, vợ con tôi tớ. Có ai xin gì đều cho hết, tự đâm vào thân, máu chảy nhiều như nước bốn biển, bố thí thân thể cho khắp trong bốn châu thiên hạ, nhưng làm như thế mà vẫn không chứng quả, liền dần dần thoái lui, trở lại phàm phu, lo sợ sinh tử, không còn dũng mãnh, tinh tấn, nghó lại việc đã làm từ trước luôn ân hận đến nỗi muốn bỏ thân này, xa lìa chúng sinh. Lâu dần, vị ấy dùng phương tiện tìm thầy để thưa hỏi, lãnh thọ về pháp của thừa Thanh văn, mới được giác ngộ. Nghó lại công sức đà làm từ trước, vị ấy tự trách mình không theo kịp. Đó là chẳng phải Quá trí cũng chẳng phải Bất quá trí, là sự tu hành của La-hán, không phải Phật và Bích-chi-phật. Hạnh thanh tịnh tương ưng của Bồ-tát là gì? Đó là sự tu hành của Phật, La-hán và Bích-chi-phật, hạnh thanh tịnh nghóa là ba giải thoát môn thanh tịnh, ba Nhãn thanh tịnh, ba tụ thanh tịnh, thanh tịnh về giới, định, tuệ, giải thoát và giải thoát tri kiến. Từ ba pháp lành đến mười tám pháp vô lậu, pháp lành của thế gian và xuất thế gian đều thanh tịnh. Phật, Bích-chi-phật và A-la-hán đều tu hạnh thanh tịnh này cho đến khi chứng đạo không hề thoái lui, không khởi các tưởng cũng không thấy, không khởi, không diệt cũng chẳng biết nơi dừng lại, có đầu tiên, có cuối cùng và có nơi cất giữ; đã không đạt là không có đầu tiên và cuối cùng thì đâu còn nơi chốn. Khi ấy, Bồ-tát Tối Thắng thưa: –Bạch Thế Tôn! Bồ-tát xa lìa tham dục, tâm không tăng giảm, cũng không nghó đến khổ vui, tốt xấu, trước sau, ở giữa, quá khứ, vị lai, hiện tại, thiền chỉ, Tam-muội, cũng chẳng nghó về ngã đối với tham dục và không tham dục như thế nào? Đức Phật dạy: –Này Tối Thắng! Bậc Bồ-tát không còn tham dục ở trong cõi Dục, đến khắp nơi để thuyết pháp, giáo hóa, tâm tuy không còn đắm nhiễm nhưng vẫn giống như ở trong tro nóng nơi hầm lửa rất sâu, vì thương chúng sinh bị ràng buộc trong bốn lưu, chìm đắm trong mười hai biển, muốn tìm đường để thoát ra nhưng không biết nơi hướng đến, tự chịu đựng chẳng từ khó nhọc, phân biệt về sự sinh diệt của năm ấm sắc, thọ, tưởng, hành và thức; tư duy về sự sinh diệt của bốn đại như bong bóng nước, như dợn nắng, như cây chuối, như huyễn, như hóa hư dối không thật có, cũng chẳng bền chắc. Vì sao? Vì pháp sâu xa khó thể biết được tường tận; sắc pháp rất sâu xa, Đạo cũng như vậy; năm ấm sâu xa, pháp thế gian cũng vậy, pháp thế gian sâu xa, cõi hư không cũng vậy, khéo léo quán sát cõi hư không và pháp giới cũng không thấy có thức, tưởng, ngã, nhân, tuổi thọ và mạng sống, biết rõ các pháp này như huyễn hóa, tư duy về tám nơi không an ổn ở thế gian, những sự nhơ uế, nhiễm ô ngăn cản người đến với Đạo, quán sát tư duy thì thấy chúng đều không có xứ sở. Vì sao? Vì pháp là vô thường, khổ, không, vô ngã, những ai có mắt đều thông đạt điều này. Đó là tâm không tăng, không giảm của Bồ-tát, không còn thấy khổ, vui, lành dữ, tốt xấu, không vướng mắc về duyên khởi trong ba đời. Địa chủng là cứng, là cảnh giới tự nhiên; tánh của thủy là ẩm ướt, mềm mại; tánh của hỏa là phát triển, hủy diệt, là tánh nóng tự nhiên; tánh của phong là dao động, chuyển động không dừng, quán sát về tánh của pháp thì vắng lặng không có. Bốn đại địa, thủy, hỏa, phong từ đâu sinh ra, do đâu mà diệt. Nếu Bồ-tát phân biệt về pháp giới, giả sử địa đại tăng thì tánh của thủy, hỏa, phong đều không bằng nó, thần thức chìm mất, không còn tương ưng, địa đại nặng thì thần thức nhẹ nên sắp lìa bỏ thân; nếu thủy tăng thì địa, hỏa và phong giới sẽ dần suy yếu, thần thức sẽ đổi dời không còn tồn tại trong thân nữa. Như có người ở trong nhà vắng vẻ, muốn đi xây ngôi nhà khác, trước tiên bước chân phải ra khỏi cửa, đó là địa đại tăng, Kế đó, tay phải ra khỏi cửa là thủy đại tăng, tiếp theo chân trái ra khỏi cửa là hỏa đại tăng, khi tay trái ra khỏi cửa phong đại tăng, đang trên đường đi đến gọi là thần thức đã đi mất, đến làng xóm tức là vào nơi năm đường, biết rõ như vậy mới gọi là thông đạt về pháp giới, không cứng, không mềm, không nóng, không nhẹ. Cứng là sự tồn tại, mềm là sự đến, nóng là sự đạt đến, nhẹ là sự hướng đến. Bồ-tát phân biệt về pháp giới như thế, quán sát biết rõ tất cả đều không có nơi chốn, tư duy về pháp giới, tánh tự khác nhau, sự trưởng dưỡng thần thức và thân thể đều sai khác. Ở trong bốn đại, hỏa đại lớn mạnh hơn hết, còn ba đại kia tánh tự tương ưng. Vì sao? Bồ-tát nên quán sát bốn đại bên trong và bên ngoài như thế. Bốn đại của chúng sinh trong ba cõi cũng không giống nhau, nếu muốn tìm nguồn gốc của chúng thì không thể biết được, lại nên tư duy về sự hướng đến sáu căn, mắt là không, nhãn thức cũng không, biết rõ về không mới gọi là pháp giới. Bồ-tát lại phải tư duy để hiểu rõ về sáu trần, khi mắt thấy sắc, sắc cũng không có, vật đi vào sắc uẩn cũng không có, cho đến tai, mũi, miệng, thân và ý cũng vậy. Bồ-tát nên học tướng chân thật, chẳng phải tướng chân thật, tướng đạo, chẳng phải tướng đạo; tướng không, chẳng phải tướng không. Bồ-tát học về tướng chân thật, chẳng phải tướng chân thật như thế nào? Đối với điều này, Bồ-tát biết rõ vốn là không, do vốn là không phải một mà cũng chẳng phải hai, biết đạo để chứng nhưng cũng không chứng, không thấy sự chứng quả cũng chẳng thấy sự không chứng quả; không thấy có quả vị Ứng cúng cũng chẳng thấy không có quả vị Ứng cúng, biết rõ Ứng cúng hay chẳng phải Ứng cúng. Đó là tướng chân thật. Tướng chân thật của Bồ-tát là ở nơi không cũng chân thật mà xa lìa không cũng chân thật; không tồn tại cũng chẳng phải không tồn tại. Đó là tướng chân thật Tam-muội Kim cương, cũng nương vào không làm căn bản để tu hành đạt được diệt tận, biết rõ ba việc này cũng là tướng chân thật. Tướng chân thậtcủa Bồ-tát là thông đạt bên trong không thật có, biết bên ngoài không có sự giác ngộù, không thấy ưa thích cũng chẳng thấy không có ưa thích; không thấy có thị xứ và phi xứ cũng là tướng chân thật, bên trong thì chánh kiến không gián đoạn, bên ngoài thì thị hiện, nếu ở nơi vắng vẻ thì tâm tịch tónh, còn ở nơi ồn ào thì tâm tán loạn, biết sự tồn tại và đến đi của khổ đều như nhau. Tướng chân thật ấy là đạo để chứng, biết rõ năm ấm là không, năm ấm không có chủ tể, duyên khởi của chúng cũng là không, không trụ cũng không thấy trụ vào Tuệ tận tưởng, không trụ ở nghi kết cũng chẳng phải không trụ, không trụ nơi năm pháp cũng không theo mười điều lành, mười điều ác là ngọn nguồn của thế gian. Đó là tướng chân thật. Bồ-tát thực hành tướng chân thật như vậy thì không hề thoái lui. Chẳng phải tướng chân thật là: Nghóa thù thắng bậc nhất của hư không giới, biết hư không là vắng lặng, nương nơi sự giải thoát mà không bị trói buộc. Đó là chẳng phải tướng chân thật của Bồ-tát. Bồ-tát học tướng đạo và chẳng phải tướng đạo như thế nào? Nghóa là do dự, nghi kết, thế gian đều không đáng ưa mến, tự mình gây hại rồi rơi vào trong khổ, đó là tướng đạo. Thân hiện tại tạo tác thì đời sau sẽ chịu quả báo, không nương bậc thầy, không nhờ Thiện tri thức cũng là tướng đạo. Chẳng phải tướng đạo của Bồ-tát là thế nào? Chẳng phải tướng đạo là ba mươi bảy phẩm, nơi hướng đến của pháp hữu vi, vô vi, không ở hai bên cũng chẳng xa lìa hai bên, không theo duyên cũng không lìa duyên, không trụ vào duyên cũng không tùy thuộc duyên, không vượt qua cũng chẳng phải không vượt qua, không quả báo cũng chẳng phải không có quả báo, không có một, hai, ba hay bốn cho đến mười cũng chẳng phải không có mười, chẳng có chỗ sinh cũng chẳng phải không sinh, không diệt tận cũng chẳng phải không diệt tận, không sinh diệt cũng chẳng phải không sinh diệt, không giáo hóa cũng chẳng phải không có giáo hóa, chẳng hiểu rõ về không cũng chẳng phải không hiểu rõ về không, không tư duy về pháp chỉ cũng chẳng phải không tư duy về pháp chỉ. Nếu Bồ-tát quán sát hai mươi bốn việc thì biết rõ nguồn gốc của sự phân biệt là tâm, không còn sinh tử, xa lìa trói buộc, không có tâm hơn thua cũng không hung dữ, không tự đề cao mình, không hạ thấp người, liền đạt được Tam-muội “Phân thân khắp nơi” là định tối thượng trong trăm ngàn loại định, là tôn là quý, không có gì hơn, chẳng phải là cảnh giới của Lla-hán và Bích-chi-phật. Khi ấy, ngồi nơi tòa, đang ở trong Tam-muội Chánh thọ tên là “Nhất tâm không sợ hãi” Đức Thế Tôn làm cho bốn bộ chúng đều chánh niệm như nhau, không có loạn tưởng. Lúc đó, Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Tối Thắng: –Hãy lắng nghe và ghi nhớ kỹ, hôm nay ta sẽ nói rõ pháp Tam-muội này cho ông, làm cho mọi người trong chúng hội không còn nghi ngờ. Bồ-tát Tối Thắng thưa: –Bạch Thế Tôn! Đúng vậy, con rất ưa thích nghe, vì ưa thích nghe nên được an ổn. Phật bảo Bồ-tát Tối Thắng: –Có Tam-muội tên là Tiêu tan các kết sử, khiến cho vô số chúng sinh có hình tướng trong vô lượng cõi nước, trừ bỏ các khổ đau, không còn các phiền não. Lại có Tam-muội tên là Quang minh từ bi rất dũng mãnh, khiến các chúng sinh không còn oán kết. Lại có Tam-muội tên là Công đức sung mãn, Như Lai nhập vào Tam-muội này, làm cho các chúng sinh không còn tưởng về đói khát. Lại có Tam-muội tên là Thanh tịnh, Như Lai nhập vào Tam-muội này, làm cho các chúng sinh được pháp nhãn thanh tịnh. Lại có Tam-muội tên là Nhó căn thanh tịnh, Như Lai nhập vào Tam-muội này, làm cho các chúng sinh được Thiên nhó thông. Lại có Tam-muội Tâm ý tịch tónh, Như Lai nhập vào Tam-muội này, làm cho các chúng sinh bỏ tà về chánh. Lại có Tam-muội Trừ bỏ điều ác, Như Lai nhập vào Tam-muội này, làm cho các chúng sinh tu hành mười điều lành. Lại có Tam-muội tên là Độc hành, Như Lai nhập vào Tam-muội này, làm cho các chúng sinh không còn tà kiến, thọ trì chánh đạo. Lại có Tam-muội Đi đến các cõi, Như Lai nhập vào Tam-muội này, khiến chúng sinh đến với đạo không còn mê lầm. Lại có Tam-muội Hoàn thành các việc, Như Lai nhập vào Tam-muội này, khiến các chúng sinh trừ bỏ giới ác, thành tựu giới thanh tịnh. Lại có Tam-muội tên là An lạc hổ thẹn, Như Lai nhập vào Tam-muội này, khiến chúng sinh thực hành nhẫn nhục. Lại có Tam-muội tên là Phước đức tinh tấn, Như Lai nhập vào Tam-muội này, khiến chúng sinh biếng nhác phát tâm mạnh mẽ. Lại có Tam-muội tên là Tự mình chứng đắc, Như Lai nhập vào Tam-muội này, khiến chúng sinh bị vọng tưởng mau thành Thiền định. Lại có Tam-muội tên là Hàng phục, Như Lai nhập vào Tam-muội này, khiến chúng sinh ngu si, chấp trước đạt được trí tuệ tự ngộ. Lại có Tam-muội tên là Không còn các lậu, Như Lai nhập vào Tam-muội này, khiến chúng sinh không có tâm tin được an trú trong tín căn. Lại có Tam-muội tên là Công đức tổng trì, Như Lai nhập vào Tam-muội này, khiến các chúng sinh ít học được học hiểu nhiều. Lại có Tam-muội tên là Phép tắc oai nghi, Như Lai nhập vào Tam-muội này, khiến các chúng sinh có oai nghi tề chỉnh, đầy đủ lễ tiết. Lại có Tam-muội tên là Ân huệ bố thí, Như Lai nhập vào Tam-muội này, làm cho chúng sinh vướng mắc vào tham dục, vónh viễn không còn ái dục. Lại có Tam-muội tên là Vượt qua, Như Lai nhập vào Tam-muội này, làm cho chúng sinh giận dữ đoạn trừ sân hận. Lại có Tam-muội tên là Không còn mê hoặc, Như Lai nhập vào Tam-muội này, làm cho chúng sinh ngu si được huân tập trí tuệ. Lại có Tam-muội tên là Đi đến khắp nơi, Như Lai nhập vào Tam-muội này, làm cho chúng sinh không bị vướng vào ba cõi. Lại có Tam-muội tên là tất cả thân thể hình sắc, Như Lai nhập vào Tam-muội này, làm cho chúng sinh trong các cõi nước ở khắp mười phương hóa ra trăm ngàn ức hình sắc, nhưng các chúng sinh ấy đều không biết nhau. Hôm nay, ta nói sơ lược các Tam-muội ấy. Giả sử người chưa thành Phật có nói từ kiếp này qua kiếp khác, cho đến một trăm kiếp về các Tam-muội mà Như Lai đã nhập vào, đều không thể nói hết, chỉ có Phật thế Tôn mới nói được như vậy. Khi ấy, Bồ-tát Tối Thắng bạch Phật: –Thật kỳ diệu thay! Thân tướng của Như Lai biến hóa không thể nghó bàn, không thể suy lường, dùng phương tiện thiện xảo không có hình tướng để tự trang nghiêm, Tam-muội mà Như Lai đã nói, đã nhập vào này xưa nay chưa từng thấy, xưa nay chưa từng nghe. Bồ-tát nào nghe danh hiệu của Tam-muội này mà nhất tâm thọ trì, đọc tụng thì dù ở chỗ nào cũng luôn được tự tại, hoặc khuyến khích người khác hoan hỷ, vì để cúng dường Phật pháp. Đây chẳng phải là cảnh giới của các Thanh văn, thừa Duyên giác cũng không thể sánh kịp. Người nào hủy báng Tam-muội Thiền định này thì thường bị ngu si, chưa từng hiểu biết; giả sử được làm thân người cũng bị đọa vào địa ngục vô gián, một phần rất nhỏ của tội ấy cũng không thể nói hết. Người nào ghét bỏ Tam-muội định ý này thì tội lỗi rất khó suy lường trải qua các kiếp thường bị điếc, đui, câm, ngọng, chẳng bao giờ nghe chánh pháp, tuy được làm người nhưng luôn luôn bị nhiều khổ đau, vì nói hai lưỡi, nói lời đối trá nên miệng không thể nói được. Nếu chẳng phải là Bồ-tát học rộng hiểu nhiều mà có thể kính tin Tam-muội Chánh định này, hoặc có ai khuyến khích phát tâm đọc tụng tu tập định này thì được thấy chư Phật trong mười phương. Hôm nay, ta lại giảng giải về định ý này, phải chí tâm dốc tâm mới đạt được chánh định. Lúc ấy, Bồ-tát Tối Thắng nương oai thần của Phật, lại bạch Phật: –Hôm nay, các Bồ-tát, bốn bộ chúng Trời, rồng, thần, quỷ trong chúng hội này muốn nhìn thấy sự cảm ứng Tam-muội định ý của Như Lai, để có thể nương nhờ vào Tam-muội này mà được thấm nhuần và thành tựu nhiều điều. Cúi xin Thế Tôn rũ lòng thương mà phóng ra ánh sáng lớn đến các cõi Phật ở khắp mười phương, các chúng sinh đã thuần thục trong các cõi ấy nương nhờ ánh sáng, đều được giáo hóa và độ thoát. Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền chấp nhận, và vẫn ngồi nơi tòa, đang ở trong Tam-muội Chánh thọ tên là “Hữu túc chỉ luân định ý”, phóng ra ánh sáng lớn, ánh sáng ấy chiếu đến cõi Ta-bà này rồi, lại chiếu đến hằng sa cõi nước khắp đến mười phương, các Bồ-tát và trăm ngàn ức chúng sinh trong các cõi nước khắp mười phương, nương theo ánh sáng này mà đến thế giới Ta-bà. Về phương Đông, cách đây chín mươi sáu hằng hà sa cõi nước của chư Phật, có Đức Phật hiệu là Bảo Tịnh Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc. Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn đang thuyết pháp. Nước ấy có Bồ-tát Biện Thông đã trụ bậc Không thoái chuyển. Thấy ánh sáng này, Bồ-tát liền đến chỗ Như Lai Bảo Tịnh, đầu mặt đảnh lễ sát chân Phật rồi đứng sang một bên. Khi ấy, Như Lai Bảo Tịnh nói với Bồ-tát Biện Thông: –Ông hãy đến cõi kia, giữ đúng oai nghi, hợp với phép tắc. Vì sao? Vì chúng sinh ở cõi ấy tánh khí cứng cõi, hành động hung bạo, ông chớ thấy vậy mà khổ hay vui. Họ rất kiêu mạng, không thuận theo chánh pháp, nếu ông thấy họ có điều gì xấu, ông đừng nên bậc bội, được như vậy mới có thể biết được lúc nào là đúng thời. Các Bồ-tát ở cõi Phật kia thưa với Phật của mình: “Thật may mắn! Chúng con đã có lợi ích tốt lành, nhờ phước đức đời trước đã thấy đầy đủ nên không bị sinh vào cõi Ta-bà ấy”. Khi ấy, trong khoảng thời gian bằng lực só co duỗi cánh tay, Bồ-tát Biện Thông và mười ngàn Bồ-tát cũng đến cõi Ta-bà, đứng trước Đức Phật Thích-ca. Bấy giờ, Đức Thế Tôn biết vậy, ngài bảo Bồ-tát Tối Thắng: –Ông có thấy Bồ-tát Biện Thông và các Bồ-tát khác không? Bạch Thế Tôn! Con đã thấy. Đức Phật bảo: –Bồ-tát này đạt được nghóa biện tài bậc nhất, Từ, Bi, Hỷ, Xả, lời nói nhu hòa, chí nguyện cao cả, khi nói nét mặt luôn tươi cười, vui vẻ, hỏi không lặp lại, lời nói gọn gàng, cứu độ chúng sinh như Phật đã cứu độ, thành tựu quả vị Bồ-tát Không thoái chuyển. Bấy giờ, Bồ-tát Biện Thông và mười ngàn Bồ-tát đảnh lễ sát chân Đức Thế Tôn, nhiễu quanh bên phải, chắp tay hướng Phật, nói kệ khen ngợi: Tiếng lành công đức Phật Chấn động khắp mười phương Những nơi Nhân Tôn đến Đều nhờ ân cứu độ. Cảnh giới Phật thanh tịnh Chẳng nghe năm đường ác Nơi này đến nơi kia Từ bi không gì bằng. Nay Thế Tôn xuất hiện Trong đời thật khó có Phước đức như Tu-di Con cúi đầu đảnh lễ. Giả sử tu tinh tấn Một kiếp đến trăm kiếp Chẳng bằng trong chốc lát Cõi Nhẫn hành tâm bi Các Đức Phật ra đời Trước chọn cõi thanh tịnh Chỉ riêng Đức Thế Tôn Nhận cõi đời năm trược. Lành thay, thật khó có Phật bình đẳng cứu độ Dạy khắp cả ba thừa Khiến thanh tịnh ba nghiệp Đã thành đạo Bồ-tát Tâm không hề thoái chuyển Ý chí càng tinh tấn Nên con xin đảnh lễ. Đoạn trừ các nghi ngờ Tu tập mười nghiệp thiện Trí tuệ như biển sâu Nói đầøy đủ Phật pháp Nếu ở tại nước con Ức kiếp làm Đạo sư Chẳng bằng ở cõi này Mỗi kiếp độ một người Ở vô lượng hằng sa Vô số các cõi nước Không nghe các khổ não Tám nơi không an ổn Người cõi này cứng cỏi Thân chứa nhiều cấu uế Nước Bốn đế chân như Tẩy rửa đều thanh tịnh Chúng con dốc tâm tin Từ xa đến quy y Muốn nghe pháp Định ý Kính xin Phật diễn nói. Khi ấy, dùng kệ khen ngợi xong, Bồ-tát Biện Thông bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Bồ-tát chí tâm kiên cố, thọ trì Tam-muội Định ý như thế nào để nghe lời dạy không biết nhàm chán? Lời nói và hành động của Bồ-tát tương ưng với nội tâm nhu nhuyến như thế nào? Đức Phật bảo Bồ-tát Biện thông: –Hãy lắng nghe và suy nghó kỹ, ta sẽ nói rõ điều này cho ông. –Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Đức Phật bảo Bồ-tát Biện Thông: –Bồ-tát tu hành định tâm, thành tựu bốn pháp khiến tâm ý được kiên cố, thọ trì được định này, nghe lời dạy cũng không nhàm chán. Bốn pháp ấy là gì? Đó là: Bốn Tâm vô lượng, tâm không biếng nhác, cứu độ chúng sinh như huyễn như hóa, trí tuệ chư Phật không ai sánh bằng. Này Biện Thông! Đó là bốn pháp mà Bồ-tát thành tựu thì ý chí kiên cố, có thể thọ trì định này. –Bồ-tát nhất tâm chánh niệm, lời nói không sai lầm như thế nào? Phật bảo Bồ-tát Biện Thông: –Đối với điều này, Bồ-tát phải thành tựu bốn pháp. Bốn pháp ấy là gì? Đó là: Bồ-tát chỉ nói chúng sinh là không, nói các pháp là không, không chấp thủ điều đã chứng đắc; khuyến khích, khen tngợi công đức Bồ-tát đã làm; phân biệt được các pháp thiện ác, hữu vi, vô vi; nghó đến việc thực hành các phương tiện thiện xảo. Đó là bốn pháp. –Bồ-tát tăng trưởng căn lành không để giảm sút như thế nào? Phật bảo Bồ-tát Biện Thông: –Có bốn pháp làm tăng trưởng căn lành. Bốn pháp ấy là gì? Một là tâm tin, hai là sự học hỏi, ba là bố thí, bốn là con đường giải thoát, đó là bốn pháp làm cho Bồ-tát tăng trưởng căn lành. –Bồ-tát tâm không tán loạn cũng không nghi ngờ như thế nào? Phật bảo Bồ-tát Biện Thông: –Phải nên tư duy bốn pháp, nhất tâm không tán loạn. Bốn pháp ấy là gì? Đó là: Tâm luôn định tónh, giữ gìn lễ tiết, không mong lợi dưỡng, không cầu danh tiếng. Đó là bốn pháp làm cho tâm không tán loạn. Lại có bốn pháp tăng trưởng căn lành. Bốn pháp ấy là gì? Đó là: dạy cho người khởi tâm tin, bố thí không mong đền đáp, làm vị vua ủng hộ chánh pháp, lời dạy của Bồ-tát không trái với chánh pháp. Đó là bốn pháp để tu hành. Lại có bốn pháp, Bồ-tát phải nên tư duy, từ Địa này đến Địa khác, hoặc tiến tới hoặc thoái lui. Bốn pháp ấy là gì? Dạy chúng sinh tu tập căn lành, xa lìa điều ác, không làm điều ngu si, không bỏ thệ nguyện tâm không yếu đuối. Đó là bốn pháp tu hành của Bồ-tát. Lại có bốn pháp Bồ-tát cần phải thọ trì. Bốn pháp ấy là gì? Đó là: giáo hóa chúng sinh bằng phương tiện thiện xảo, tạo lập niềm tin cho những phàm phu, sự cứu độ không hư dối, hiện tượng oai nghi của Phật để tiếp độ chúng sinh. Đó là bốn pháp Bồ-tát nên giữ gìn. Lại có bốn pháp Bồ-tát nên tư duy. Bốn pháp ấy là gì? Đó là: Tùy nghi mà sinh hoạt, không đắm nhiễm sự ăn mặc, tùy theo sinh hoạt của người khác, luôn chấp nhận khổ, vui. Đó là bốn pháp tu hành của Bồ-tát. Lại có bốn pháp, bốn pháp ấy là gì? Đó là tự điều phục tâm tánh, luôn phát đạo tâm, không bỏ phương tiện thiện xảo, chuyên tâm niệm Phật. Đó là bốn pháp. Lại có bốn pháp Bồ-tát nên tư duy. Bốn pháp ấy là gì? Nghóa là: Bồ-tát nên nghó ở riêng một mình, bỏ tâm Thanh văn và Bích-chi-phật, cầu pháp không nhàm chán, dạy chánh pháp đã được nghe cho người khác. Đó là bốn pháp. Lại có bốn pháp Bồ-tát nên tư duy. Bốn pháp ấy là gì? Nghóa là: Mong có được châu báu để cho người nghèo thiếu, mong có thuốc thang để trị bệnh, cầu nghóa lý không nhàm chán và chịu đựng tất cả các khổ. Đó là bốn pháp. Lại có pháp Bồ-tát nên tư duy. Bốn pháp ấy là gì? Thực hành nhẫn làm cho không sinh, vượt qua tận cùng nhẫn, tư duy về nguồn gốc mười hai nhân duyên, đối với nhẫn, nhẫn không chấp thủ đều xa lìa. Đó là bốn pháp. Lại có bốn pháp Bồ-tát nên tư duy. Bốn pháp ấy là gì? Đó là: Tư duy quán sát về sự bất tịnh của thân thể, đếm hơi thở ra vào, thực hành pháp thanh tịmh, luôn luôn khiêm nhường. Đó là bốn pháp. Lại có pháp Bồ-tát nên tư duy. Bốn pháp ấy là gì? Phải quán sát chúng sinh thích hợp với pháp gì sau đó mới cho thuốc, luôn nghó cung kính, không được tự cao; ở trong đại chúng không vướng mắc vào lợi dưỡng; thực hành phương tiện thiện xảo, giáo hóa không trở ngại. Đó là bốn pháp. Lại có năm pháp Bồ-tát nên tư duy. Năm pháp ấy là gì? Thọ trì pháp bình đẳng không bị quên sót; quán sát thân mình, thân người bình đẳng không khác nhau; làm việc với Thiện tri thức, hoàn toàn dứt hẳn các kết sử. Đó là năm pháp. Lại có năm pháp Bồ-tát nên tư duy. Năm pháp ấy là gì? Tự xét lỗi mình, không thấy lỗi người; khiến cho người ác thực hành tâm Từ, hiểu rõ các pháp không vướng mắc các duyên, tâm đạo kiên cố không hề quên mất, thực hành theo tâm đạo của người đi trước. Đó là năm pháp. Lại có năm pháp Bồ-tát nên tư duy. Năm pháp ấy là gì? Luôn luôn bố thí trước rồi mới dạy cho người khác thực hành bố thí, khi bố thí luôn nhất tâm, không lựa chọn, không nhìn thấy phải, quấy của chúng sinh; đều được giải thoát đối với các pháp sâu xa, chí thành làm trang nghiêm đạo tràng của Phật. Đó là năm pháp. Lại có năm pháp Bồ-tát nên tư duy. Năm pháp ấy là gì? Biết sự sinh diệt của các hành dùng lực vô úy không bỏ chúng sinh; biết rõ các trí, cũng biết rõ trí Tăng thượng, không chống trái nhau. Đó là năm pháp. Lại có năm pháp Bồ-tát nên tư duy. Năm pháp ấy là gì? Ở trong năm đường mà hoàn toàn được giải thoát; cung kính, lễ bái cúng dường chư Phật; nhập vào Tam-muội về tâm Từ để tự an lạc, Phật trí vô lượng hiện ở trước mặt, vô lượng Tam-muội không thể nghó bàn. Đó là năm pháp. Lại có năm pháp Bồ-tát nên tư duy. Năm pháp ấy là gì? Phát nguyện rộng lớn, không hề hối hận; nói lời thiết thực, không nói những lời vô ích; nương vào Thiền không vướng mắc Thiền, giữ niệm không chấp thủ, không ham thích chỗ ở. Đó là năm pháp. Đại Bồ-tát Biện Thông từ lâu đã tu tập Định ý này, liền đạt được Chánh thọ của Như Lai. Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói pháp này xong, có hai ức chư Thiên, loài người phát tâm Vô thượng Chánh chân, lại có năm ngàn Thiên tử đạt được pháp Vô sinh nhẫn. Lúc ấy, các Bồ-tát trong các cõi Phật đều đem hoa, hương đến cúng dường. Hoa cúng dường rải cao đến đầu gối. q Kinh TỐI THẮNG VẤN BỒ-TÁT THẬP TRỤ TRỪ CẤU ĐOẠN KẾT <卷 id="113335696">Quyển 6 <詞 id="113335697">Phẩm 15: Phân thân Phật bảo Bồ-tát Tối Thắng: –Đại Bồ-tát nhập vào định Phân thân, đầy đủ mười loại an trú chân như. Mười loại ấy là gì? Biết tất cả các thế giới đều an trú chân như, tất cả phương đều an trú chân như, tất cả số kiếp đều an trú chân như, tất cả chúng sinh đều an trú chân như, tất cả các pháp đều an trú chân như, tất cả các hạnh Bồ-tát đều an trú chân như, trong tất cả các nguyện đều an trú chân như, trong tất cả các định đều an trú chân như, tất cả chư Phật Thế Tôn đều an trú chân như, tất cả đại địa đều an trú chân như. Bồ-tát nào đạt được định Phân thân này thì thành tựu mười loại an trú chân như như vậy. Bồ-tát nhập vào định Phân thân đến tất cả chúng sinh như thế nào? Này Tối Thắng! Ở đây, khi Đại Bồ-tát nhập vào định Phân thân, trước nhập định bên trong thân, xuất định bên ngoài thân, nhập định bên ngoài thân, xuất định bên trong thân; nhập định ở thân này, xuất định ở thân khác, nhập định ở thân khác, xuất định ở thân này; nhập định ở thân người, xuất định ở thân Dạ-xoa, nhập định ở thân Dạ-xoa, xuất định ở thân rồng; nhập định ở thân rồng, xuất định ở thân A-tu-la; nhập định ở thân A-tu-la, xuất định ở thân trời; nhập định ở thân trời, xuất định ở thân Phạm thiên; nhập định ở thân Phạm thiên, xuất định ở thân của cõi Dục; nhập định ở thân cõi trời, xuất định ở thân địa ngục; nhập định ở thân địa ngục, xuất định ở thân cõi người; nhập định ở thân người, xuất định ở cõi khác; nhập định nơi một ngàn thân, xuất định ở một thân; nhập định ở một thân, xuất định nơi một ngàn thân; nhập định ở một ức thân, xuất định nơi một thân thân; nhập định nơi một thân, xuất định ở một ức thân; nhập định nơi chúng sinh có hình tướng ở Nam Diêm-phù-đề, xuất định nơi chúng sinh có hình tướng ở Tây Ngưu hóa châu; nhập định nơi chúng sinh có hình tướng ở Tây Ngưu hóa châu, xuất định nơi chúng sinh có hình tướng ở Bắc Câu-lô châu; nhập định nơi chúng sinh có hình tướng ở Bắc Câu-lô châu, xuất định nơi chúng sinh có hình tướng ở Đông Thắng Thần châu; nhập định nơi chúng sinh có hình tướng ở phương Đông, xuất định nơi chúng sinh có hình tướng ở ba phương còn lại; nhập định nơi chúng sinh có hình tướng ở ba phương, xuất định nơi chúng sinh có hình tướng ở bốn phương; nhập định nơi chúng sinh có hình tướng ở bốn phương, xuất định nơi chúng sinh có hình tướng và mạng sống ở tất cả các biển; nhập định nơi chúng sinh có hình tướng và mạng sống ở tất cả các biển, xuất định nơi thân của thần biển; nhập định nơi thân thần biển, xuất định nơi thủy chủng trong biển; nhập định nơi thủy chủng trong biển, xuất định nơi địa chủng ở biển; nhập định nơi địa chủng ở biển, xuất định nơi hỏa chủng ở biển; nhập định nơi hỏa chủng ở biển, xuất định nơi phong chủng ở biển; nhập định nơi phong chủng ở biển, xuất định nơi bốn đại; nhập định ở bốn đại, xuất định nơi không có pháp; nhập định nơi không có pháp, xuất định nơi núi Tu-di; nhập định nơi núi Tu-di, xuất định nơi núi bảy báu; nhập định nơi núi bảy báu, xuất định nơi trăm loài cỏ cây, núi, sông, vách đá; nhập định nơi trăm loài cỏ cây, núi, sông, vách đá, xuất định nơi hương hoa tinh khiết và tất cả các vật dụng quý báu; nhập định nơi hương hoa tinh khiết và tất cả các vật dụng quý báu, xuất định nơi tất cả các y phục, thực phẩm của hết thảy chúng sinh trong bốn phương, phương trên và phương Dưới; nhập định nơi tất cả các y phục, thực phẩm của hết thảy chúng sinh trong bốn phương, phương trên và phương Dưới, xuất định nơi thân chúng sinh có hình tướng trong cõi Tam thiên; nhập định nơi thân chúng sinh có hình tướng trong cõi Tam thiên, xuất định nơi chúng sinh có hình tướng ở cõi Tam thiên đại thiên; nhập định nơi chúng sinh có hình tướng ở cõi Tam thiên đại thiên, xuất định nơi chúng sinh có hình tướng trong trăm ngàn ức cõi Tam thiên đại thiên; nhập định nơi chúng sinh có hình tướng trong trăm ngàn ức cõi Tam thiên đại thiên, xuất định nơi thân chúng sinh có hình tướng trong vô hạn cõi; nhập định nơi thân chúng sinh có hình tướng trong vô hạn cõi, xuất định ở thân các chúng sinh có hình tướng ở vô số cõi; nhập định nơi thân các chúng sinh có hình tướng ở vô số cõi, xuất định nơi thân chúng sinh có hình tướng trong vô lượng cõi Phật; nhập định nơi thân chúng sinh có hình tướng trong vô lượng cõi Phật, xuất định nơi thân chúng sinh có hình tướng trong vô biên cõi Phật; nhập định nơi thân chúng sinh có hình tướng trong vô biên cõi Phật, xuất định nơi thân chúng sinh có hình tướng trong vô kể các cõi Phật; nhập định nơi thân chúng sinh có hình tướng trong vô kể các cõi Phật, xuất định nơi thân chúng sinh có hình tướng trong không thể nghó bàn các cõi Phật; nhập định nơi thân chúng sinh có hình tướng trong không thể nghó bàn, vô hạn, vô lượng cõi Phật, xuất định nơi thân chúng sinh có hình tướng trong vô hạn vô lượng không thể nghó bàn cõi Phật; nhập định nơi thân chúng sinh có hình tướng ở cực xa, xuất định nơi thân chúng sinh ở cực xa; nhập định nơi chúng sinh ở cực gần, xuất định nơi chúng sinh ở cực gần; nhập định nơi mắt, xuất định nơi mắt; nhập định nơi tai, xuất định nơi tai; nhập định nơi mũi, xuất định nơi mũi; nhập định nơi lưỡi, xuất định nơi lưỡi; nhập định nơi thân, xuất định nơi thân; nhập định nơi ý, xuất định nơi ý; nhập định nơi thân của mình, xuất định nơi thân của mình; nhập định nơi thân người khác, xuất định nơi thân người khác; nhập định nơi thân của mình và nhập định nơi tất cả chúng sinh có hình tướng, xuất định nơi vô số vô hạn, vô lượng, không thể tính kể các cõi; nhập định nơi vô số, vô hạn, vô lượng không thể tính kể các cõi, xuất định nơi tất cả chúng sinh có hình tướng; nhập định nơi Thanh văn, xuất định nơi Bích-chi-phật; nhập định ở Bích-chi-phật, xuất định nơi Thanh văn; nhập định nơi tự thân, xuất định ở thân Phật; nhập định ở thân Phật, xuất định nơi tự thân; nhập định trong một niệm, xuất định trong trăm ức kiếp; nhập định trong trăm ức kiếp, xuất định trong một niệm; nhập định trong hiện tại, xuất định trong hiện tại; nhập định trong quá khứ, xuất định trong quá khứ; nhập định ở vị lai, lại nhập định ở ba đời. Như vậy, Bồ-tát tùy theo định đã nhập, tùy theo định đã xuất mà nhập vào định ở cõi hư không, xuất định ở cõi hư không. Tối Thắng nên biết! Như có người bị quỷ dựa nhập, đi đâu cũng bị quỷ thần điều khiển mà không hề hay biết, nhưng quỷ thần chỉ dựa vào thân người ấy chứ không hiện ra hình tướng. Đại Bồ-tát cũng vậy, nhập định trong tâm, xuất định ở bên ngoài; nhập định bên ngoài, xuất định bên trong. Như thần thức đã ra khỏi thân người chết, không có chỗ nương tựa, cũng không lay động, thân cũng không biết chỗ ở của thần thức, thần thức đi thọ thân khác cũng không biết thân đời trước đang ở đâu. Tối Thắng nên biết! Đại Bồ-tát cũng vậy, ban đầu nhập vào định “Hữu”, quán sát tất cả đều bình đẳng, rồi lại nhập vào định “Không”, thấy tất cả đều không, sinh trước diệt sau đều không biết nhau. Bồ-tát lại nên quán sát như tâm tự tại của bậc giải thoát, một thân có thể hóa ra nhiều thân, nhiều thân trở lại làm một; biết là không từ một thân ẩn mất mà liền sinh ra nhiều thân, cũng không biết được từ nhiều thân ẩn mất mà sinh ra trong một thân, không từ nhiều thân sinh ra nhiều thân, không từ nhiều thân sinh ra một thân Đại Bồ-tát cũng vậy, nhập định ở một thân, xuất định nơi nhiều thân; nhập định ở nhiều thân, xuất định nơi một thân. Ví như mặt đất được ẩm ướt là nhờ vào nước, nên sinh ra vạn vật không giống nhau. Cõi người, cõi ma đều được thấm nhuần, vạn vật cũng chẳng tự biết mình được sinh ra, nước cũng chẳng biết mình là thấm nhuần. Đại Bồ-tát cũng vậy, đạt Tam-muội này rồi, một làm thành vô số, vô số lại làm thành một, vô số chẳng biết nó được làm thành một, một cũng chẳng biết nó được làm thành vô số. Như vậy, này Tối Thắng! Đó là Tam-muội Phân thân đến tất cả chúng sinh của Đại Bồ-tát. Bồ-tát ở Địa thứ tám tu hành an trú trong Tam-muội này thì đạt được mười tôn hiệu của Phật, lại thêm đạt được mười công đức được tán thán. Những gì là mười? Đó là tôn hiệu Như Lai, là theo đúng phép chân như mà tu hành; Tôn hiệu Phật là giác ngộ tất cả các pháp, từ bờ bên này đến bờ bên kia; Tôn hiệu Tối Thắng là được chúng sinh cung kính cúng dường; Tôn hiệu Nhất Thiết Trí là đầy đủ tất cả trí đức; Tôn hiệu Vô Tận là che chở, giúp đỡ cho tất cả chúng sinh; Tôn hiệu Đạo sư là khiến các chúng sinh thấy rõ con đường chân chánh; Tôn hiệu Vô Đẳng Luân là đầy đủ các trí và các pháp giới của tất cả chúng sinh; Tôn hiệu Diệu Quang là cho tất cả chúng sinh đều được nhờ ân soi sáng; Tôn hiệu Mười Lực là thành tựu hạnh nguyện, đạt trí phân biệt các pháp, không chấp thủ, không bị nhiễm ô; Tôn hiệu Nhất thiết hiện là khiến cho tất cả các pháp đồng nhất, tự tại, đạt đến bờ bên kia. Như vậy, này Tối Thắng! Đó là mười tôn hiệu Phật và mười công đức được khen ngợi của Đại Bồ-tát, đều là nhờ sức oai thần của Tam-muội này. Đại Bồ-tát an trụ trong Tam-muội này, đạt được mười loại ánh sáng tự chiếu rực rỡ. Mười loại ánh sáng ấy là gì? Đó là: Ánh sáng của chư Phật tự chiếu rực rỡ; ánh sáng của tất cả các thừa đều được dẫn đến đạo tràng, tỏa sáng xung quanh; ánh sáng giáo hóa tất cả chúng sinh dùng làm hương xông; ánh sáng ban bố không sợ hãi cho vô số xứ sở ở khắp pháp giới; ánh sáng giải thoát khỏi tất cả các ái dục; ánh sáng cảm hóa được tất cả các chúng sinh; ánh sáng không nương tựa, không chấp thủ của chư Phật; ánh sáng tư duy hoàn hảo đạt đến giải thoát của bậc Đẳng chánh giác; ánh sáng tánh chân thật như vậy của tất cả các pháp; ánh sáng nói về pháp vô thượng diệt trừ các kết sử. Nếu Đại Bồ-tát an trụ trong Tam-muội này thì đạt được mười loại ánh sáng tự chiếu sáng rực rỡ như thế. Bồ-tát lại nên khéo léo tu học mười hạnh không dấu vết. Mười hạnh ấy là gì? Hạnh không dấu vết về sự niệm thân; hạnh không dấu vết về miệng; hạnh không dấu vết về ý; ở những nơi không có tham dục, thực hành hạnh lìa dục; không vì pháp hữu vi, không làm hại chánh pháp, không bỏ trí tuệ, tu tập trí vô sinh, đối với các pháp nên học hay không nên học có trí đầy đủ; đạt trí không hình tướng, thấu rõ nghóa lý thanh tịnh. Đại Bồ-tát an trú trong Tam-muội này, có nhiều khả năng khác nhau để đoạn trừ sự vướng mắc về các duyên. Từ một thân nhập vào nhiều loại định, hoặc xuất định, hoặc tư duy trong định, đối với định cũng chẳng có định; từ nhỏ biến thành lớn, từ lớn biến thành nhỏ; từ hẹp biến thành rộng, từ rộng biến thành hẹp; từ co làm cho duỗi ra, từ duỗi làm cho cong lại; không thân làm cho có thân, có thân biến thành không thân; hoặc xuất định nhập định, hoặc nhập định xuất định; nhơ bẩn khiến không nhơ bẩn, không nhơ bẩn làm thành nhơ bẩn. Người chứng Tam-muội này, có khả năng phá vỡ tất cả các cảnh giới như người đập bể bình sành. Giống như pháp thuật thần chú phòng hộ linh nghiệm, có nhiều loại sắc, có nhiều loại thanh, hoặc bị thần chú ngăn cấm, hoặc bị tiếng huyễn sai khiến; thần chú thì sai khiến phần tinh thần, tiếng huyễn thì sai khiến tướng bên ngoài; nhận thấy sắc huyễn là của nhãn thức, nghe được tiếng huyễn là chức năng của nhó thức, ngửi thấy hương huyễn là chức năng của tỷ thức, nếm biết vị huyễn là chức năng của thiệt thức, nhận biết được các hình tướng và vật chất là chức năng của thân thức, truy tìm huyễn hóa từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên không thể suy lường là chức năng của ý thức. Như vậy, Đại Bồ-tát an trú trong Tam-muội này, hoặc phân tán ra, hoặc tụ tập lại, hiện ra rất nhiều biến hóa. Tối Thắng nên biết! Ta sẽ nói ví dụ để người có mắt hiểu rõ điều này. Như chư Thiên cùng A-tu-la đánh nhau, chư Thiên thắng A-tu-la. Khi ấy, A-tu-la biết mình thua, liền bày kế hóa ra ao tắm có các loại hoa sen. Thân A-tu-la cao lớn bảy ngàn do-tuần nhưng đều ẩn mất và các binh chúng trốn trong những đường rỗng của các cọng sen, nên chư Thiên tìm không thấy. Đó là nhờ A-tu-la hiểu rõ pháp huyễn. Đại Bồ-tát thông đạt về sự huyễn của tất cả các trí tuệ cũng vậy, từ Địa này đến Địa khác, trí tuệ không hề giảm sút. Bồ-tát nào cũng đều đạt đến như thế. Bồ-tát dùng trí tuệ để thâu tóm hết các pháp như huyễn. Như vậy, Bồ-tát nhập vào định toàn thân, hiện ra định phân tán các pháp. Ví như có người hoặc ở cõi người, hoặc ở cõi quỷ lấy hạt giống gieo xuống đất, thường xuyên tưới để cây được lớn lên, hạt giống thì gieo xuống đất nhưng quả thì trổ trên cây, hạt giống trước chẳng phải là hạt giống sau, hạt giống sau chẳng phải là hạt giống trước, hạt giống trước chẳng khác hạt giống sau, hạt giống sau chẳng khác hạt giống trước. Bồ-tát Đại só tự thọ hình tướng, trụ vào Tam-muội này cũng vậy, có thể xa lìa hữu, không ở nơi hữu. Cũng như nam nữ giao hợp, tinh của người nam, huyết của người nữ, còn thần thức thì nương gá vào đó. Trải qua mười tháng trong thai mẹ, tùy theo sự chi phối của phước nghiệp đã làm đời trước, thân thể tay chân dần dần đầy đủ, sáu căn trọn vẹn, chủng tánh thuần thục; có thức và sáu căn nguồn gốc khác nhau, sáu căn thâu nhận tướng của các Hữu, tùy theo nghiệp lành dữ đã tạo mà thọ thân ở đời sau, sự sống từ xưa đến nay đều như huyễn, như hóa. Bồ-tát Đại só cũng vậy, tâm giải thoát Tăng thượng là cha mẹ, trí tuệ là thần thức để đi thọ sinh, nhập vào định Vô Hữu, xuất định ở định Hữu; hoặc nhập và định Hữu, nhưng không an trú vào Địa nào, có thể cưỡi mây ở trong hư không, làm sấm làm chớp, tùy thời phun mưa làm cho khắp nơi đều được thấm nhuần. Như cung điện loài rồng không ở trong hư không, cũng chẳng phải là chỗ ở của loài rồng, mà loài rồng lại ở trong hư không hiện ra nhiều biến hóa, hoặc tỏa ánh sáng, hoặc khiến cho chúng sinh ngước lên hư không là nhìn thấy mình. Cung điện nhà cửa loài rồng thì nương nơi mặt đất mà chúng lại tuôn mưa trên hư không, phép biến hóa của chúng thật kỳ lạ. Đại só Bồ-tát cũng vậy, an trú trong Tam-muội này và trong các pháp huyễn hóa, nhập định không hình tướng, xuất định có hình tướng; nhập định có hình tướng, lại xuất định không hình tướng. Như vậy, này Tối Thắng! Bồ-tát an trụ trong Tam-muội này, biến hư không thành đất, biến đất thành hư không một cách dễ dàng. Giống như cung điện Thủy tinh quang trên trời do nhiều loại châu báu làm thành. Khi lên điện này, Phạm thiên Đại tự tại có thể từ xa nhìn thấy tất cả các cung Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân và phi nhân cho đến ba đường ác, núi Tu-di, núi Thiết vi, núi Đại thiết vi, núi đá đen, núi đá đen lớn, núi bảy báu, sông, hồ, biển cả, đô thành, làng xóm, núi sông, cây cối, cỏ thuốc, hoa quả các hình tướng vật chất tốt xấu, sạch bẩn, cho đến các hình tướng vi tế của hư không trong một ngàn thế giới, trăm ngàn thế giới, tam thiên đại thiên thế giới… Các ánh sáng đều soi chiếu nhau không bị che lấp. Như người ở cõi này thấy rõ quần áo mắc trên giá, cũng như soi gương sáng thấy rõ nét mặt; ở trong Trời ấy cũng như vậy, đi đứng tới lui, uống ăn ngủ nghỉ đều rõ ràng trước mắt như nhìn viên ngọc trong tâm bàn tay. Đại Bồ-tát cũng vậy, an trú trong định phân thân tất cả chúng sinh, được tự tại đối với các Tam-muội, đạt định tự tại của Phật, định tự tại giáo hóa chúng sinh, định tự tại thực hành các pháp, định tự tại thành tựu các hạnh, định tự tại đầy đủ giải thoát lớn mạnh, định tự tại đối với các Tam-muội, định tự tại trong việc ra vào đi đứng, định tự tại đạt các trí tuệ, định tự tại làm một khoảng khảy móng tay thành một kiếp. Như vậy, Bồ-tát nào an trú trong Tam-muội này thì được an lạc trong mười định tự tại của bậc Đẳng chánh giác. Đại Bồ-tát thị hiện oai lực đạt mười điều không sợ hãi. Mười điều ấy là gì? Nghóa là thị hiện oai lực Phật sáng rỡ hơn cả hư không, tinh tấn không ngừng nghỉ đối với các pháp Bất hoại, đạt được Ba-la-mật; thị hiện hạnh nguyện Bồ-tát không hề sợ hãi, khẩu nghiệp tự tại như Phật, đạt được Ba-la-mật; thị hiện làm thanh tịnh thế giới nhơ uế; ở giữa chúng sinh thị hiện pháp không thể nghó bàn; hiện bày các kinh pháp không gián đoạn của Bồ-tát; thị hiện đến cõi Phật cúng dường lễ bái; thị hiện trí tuệ thực hành pháp không thể nghó bàn; thị hiện hiểu rõ Tam-muội nhưng không sợ hãi; thị hiện nhập định vi diệu, biết rõ chúng sinh các cõi, dùng thừa Bồ-tát để độ thoát cho họ; thị hiện pháp làm thanh tịnh cõi Phật, không gián đoạn thệ nguyện Bồ-tát để tự chiếu sáng không hề sợ hãi. Ở giữa thế tục, Đại Bồ-tát thị hiện hình tượng Phật cũng không sợ hãi, thị hiện chuyển pháp luân để giáo hóa chúng sinh, hiện bày nguồn gốc căn lành của chư Như Lai, tu hành theo Phật thừa được thành tựu, hiển bày đầy đủ oai lực về ý và đạt được Ba-la-mật. Lại nữa, Đại Bồ-tát tư duy thấu đạt rõ ràng về Pháp Nhẫn Bất khởi, vô số vô hạn các pháp đã tu hành trong trăm ngàn ức kiếp đều hiện rõ trước mặt, hiển bày oai lực và xiển dương chánh pháp. Lại nữa, trong từng năm, từng tháng, từng ngày, từng đêm, từng giờ, từng phút, Bồ-tát đều luôn tỉnh giác tâm ý, chỉ trong khoảng một khảy móng tay, bằng trí tuệ, Bồ-tát biết rõ các việc trong cả ba đời không hề sai chạy, mà cũng chẳng sợ hãi. Như vậy, này Tối Thắng! Đại Bồ-tát an trú trong Tam-muội này có thể hiển bày sáng rỡ các pháp Ba-la-mật, đạt mười điều không sợ hãi, ở giữa đại chúng nhập định chánh thọ phân thân như bụi trần. Đây là sự tu hành phương tiện thiện xảo của Bồ-tát ở Địa thứ tám.  <詞 id="113335698">Phẩm 16: Thân nhập lại Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Tối Thắng: –Lại nữa, Bồ-tát xem xét lại các phân thân để làm các thân nhập lại, phân biệt biết rõ tất cả đều không có xứ sở. Khi ấy, ở nơi thân nhập lại, Bồ-tát nhập vào định ý như pháp giới, ở trong các định đều rất tự tại, trong mỗi lỗ chân lông trên thân cũng đều nhập vào Tam-muội định ý và đạt được tự tại. Bồ-tát ở trong các pháp giới mà thị hiện pháp huyễn, phân biệt rõ ràng các pháp thế gian ở đời trước và đời sau, biết trăm ngàn ức việc trong thế giới, thấu đạt tất cả những sự tốt xấu và thấy được các đệ tử quyến thuộc của bậc Đẳng chánh giác ở các cõi Phật trong vô số vô hạn a-tăng-kỳ kiếp; đối với những pháp tịnh hay bất tịnh thảy đều bình đẳng, không bỏ pháp lành, Đại thừa không mất, tâm ý kiên cố không hề dao động. Ở các thế giới Phật trong một kiếp, trăm kiếp, trăm ngàn kiếp, ức kiếp, trăm ngàn ức kiếp, vô hạn vô lượng a-tăng-kỳ không thể xưng kể số kiếp, cho đến số kiếp mà toán số không thể đếm, tâm ý không thể lường được, Bồ-tát nhập vào Tam-muội chánh thọ rồi lại xuất định ở đó; nhập định ở chỗ này, xuất định ở chỗ kia, liền làm cho thành tựu chúng sinh ở thế giới ấy; không bỏ mất chánh pháp của thể tánh pháp giới; qua lại ba đời không hề trở ngại để thuyết pháp giáo hóa khiến cho chúng sinh biết nơi hướng đến, tuệ nhãn phân ra và nhập vào các pháp. Đối với các pháp giới, Bồ-tát đều được tự tại, đạt đầy đủ định về tai nghe được khắp nơi, đạt Ba-la-mật cũng không trở ngại; nhập vào định ý nơi mũi, không mất phương tiện thiện xảo; khéo léo nhập định nơi lưỡi, hiểu rõ sự vướng mắc vào mùi vị, thành tựu định Phân thân, đến đi đều vô ngại và nhập vào định Phân ý khắp nơi mà vẫn thuận theo trí thức của mình. Đại Bồ-tát quán sát như vậy, biết rõ như vậy, nhập định ở thân này, đạt được mười ngàn ức Tổng trì của Bồ-tát, tùy theo thế tục mà chuyển pháp luân ở đời; lại đạt được mười ngàn ức hạnh kho tàng thanh tịnh; lại đạt được mười ngàn ức căn môn siêu việt Nhất thiết trí; lại đạt được mười ngàn ức thần thông đi đến khắp nơi vô ngại; lại được mười ngàn ức định hơn hẳn các loại định; lại được mười ngàn ức thần túc vào cõi hư không, không có giới hạn; lại được mười ngàn ức năng lực làm cho các hành dần dần tăng nhiều; lại đạt mười ngàn ức mong cầu được dứt hẳn các tưởng; lại đạt được mười ngàn ức thiền định, hiện bày tâm không chấp thủ; lại đạt được mười ngàn ức oai lực thần biến hiện rõ trước mặt. Như vậy, này Tối Thắng! Đại Bồ-tát đạt được mười ngàn ức hạnh như thế. Lại nữa, Bồ-tát nên nhớ nghó tới mười ngàn ức pháp tu hành làm chuỗi ngọc anh lạc để tự trang sức; lại nên tu hành mười ngàn ức phương pháp để cứu độ chúng sinh; lại nên tu hành mười ngàn ức Thừa, khiến cho các chúng sinh nương theo các Thừa này mà được giải thoát; lại nên tu hành mười ngàn ức Tam-muội như ngọn lửa bừng cháy, chiếu sáng rực rỡ làm cho các thế giới không còn chỗ nào tối tăm, u ám; lại đạt được mười ngàn ức biện tài vô ngại về nghóa; lại đạt được mười ngàn ức thệ nguyện, tâm không dao động, dù có ai xem xét; lại đạt được mười ngàn ức niềm tin vững chắc, không có các kiến chấp điên đảo; lại đạt được mười ngàn ức con đường chân chánh trong những nơi qua lại và an trú của Bồ-tát mà không để lại dấu vết; lại đạt được mười ngàn ức ánh sáng phát ra từ khuôn mặt; lại đạt được mười ngàn ức mẫu mực, hiển bày oai đức của Bồ-tát; lại đạt được mười ngàn ức gốc rễ thanh tịnh để làm thanh tịnh đạo tràng. Như vậy, này Tối Thắng! Đại Bồ-tát có vô lượng công đức tự bao bọc quanh mình, làm trang nghiêm đạo tràng mà không bỏ mất pháp tu căn bản, là cách thức để đạt đạo của Bồ-tát. Bồ-tát nào có được các dụng cụ này thì đạt quả vị Bồ-tát và được khen ngợi, xông ướp hương thơm phước đức, được mọi người cung kính, ở trong chúng làm việc gì cũng được lợi ích, phước đức đời hiện tại không thể cùng tận. Bồ-tát nào trụ trong Tam-muội Định ý pháp giới tự tại thì được sinh vào nhà hào tộc, không ở chỗ thấp hèn, được làm quyến thuộc với các Bồ-tát. Bồ-tát trụ vào Tam-muội này rồi, từ xa nhìn thấy rõ ràng tất cả các danh hiệu của mười ức a-tăng-kỳ chư Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác và các cõi nước lớn nhỏ ở phương Đông, cũng đều biết rõ danh hiệu của mười ức a-tăng-kỳ các cõi Phật và chư Như Lai ở phương Nam, Tây, Bắc, bốn góc, phương trên và phương Dưới. Lại thực hành hạnh Bồ-tát, hướng dẫn cho các Bồ-tát ở các cõi Phật ấy về những phương pháp làm thanh tịnh cõi Phật. Bồ-tát phóng ra vô số ánh sáng, như ánh sáng nơi thân Như Lai, hiện ra mắt của Như Lai không thể nghó bàn; thần thông về tai của Như Lai không thể suy lường, thần thông về mũi của Như Lai nhiều không thể tính kể, thần thông về lưỡi của Như Lai rộng lớn không ngằn mé, thần thông về tâm của Như Lai rõ tất cả các hình tướng, pháp thần thông vô thượng của Như Lai cứu độ vô hạn. Đạo của Như Lai không có thượng trung hạ mà thành tựu đầy đủ, tiếng lành của Như Lai lưu truyền rộng rãi, pháp luân của Như Lai luôn luôn vận chuyển, không chỉ vận chuyển ở đời hiện tại, các đệ tử của Như Lai đang thưa hỏi về pháp, chánh pháp của Như Lai vô lượng không thể đoạn dứt, căn lành của Như Lai đáng được tán thán, sự hành hóa giảng thuyết của Như Lai cho khắp tất cả chúng sinh, không ai có thể đảm nhận được. Dòng họ của Như Lai thành tựu, khiến chúng sinh cả ba đời đều quy phục, tất cả các pháp của Như Lai để chỉ dạy cho người ngu và hiện ra pháp xứ của Như Lai để hiện bày ánh sáng trí tuệ. Như vậy, này Tối Thắng! Đại Bồ-tát hiện ra cảnh giới thanh tịnh để làm chỗ ở, nương thần lực Phật tuôn mưa pháp cam lồ, ở trong tất cả các cảnh giới chư Phật có giảng dạy điều gì cũng đều hiện bày Phật pháp, ở nơi thân hình huyễn hóa không chân thật mà thấu rõ tánh các pháp là hưng khởi tự nhiên, không hề lay động, ở nơi các pháp hình tướng mà biết rõ hết các nghóa lý, đầy đủ vô lượng công đức của Như Lai không thể cùng tận. Như vậy, này Tối Thắng! Đại Bồ-tát trụ trong Tam-muội này, đến khắp các phương không hề trở ngại. Lại nữa, Bồ-tát trụ trong Tam-muội này đối với các ấm và các Nhập cũng không chướng ngại, tâm là pháp huyễn, biết nơi chốn của pháp là vô lượng, vô biên, không có giới hạn. Các Bồ-tát nhập vào Tam-muội tự tại này, liền biết được tên hiệu của chư Phật Như Lai Đẳng Chánh Giác, từ mỗi mỗi danh hiệu đến mười ngàn ức a-tăng-kỳ chư Phật Như Lai, từ mỗi mỗi danh hiệu cho đến trăm ngàn ức cõi Phật, thân của các Bồ-tát đều an trú trong vô lượng vô hạn tưởng của tâm và tưởng của ý, lại an trú trong vô vi làm phương tiện thiện xảo để an lập xứ sở, không quên sót tất cả các pháp vì để vượt qua các tri kiến, luôn gần gũi biển trí nên ít hiện bày trí tuệ, an trụ thì có chỗ ở mà thị hiện các pháp không có xứ sở; vì kiến lập cõi Phật nên thị hiện để giảng nói rộng rãi các pháp, không phân biệt trước sau; thị hiện các căn không chướng ngại, trí tuệ sắc bén, khéo léo dùng trí để phân biệt nên không bỏ các oai nghi để kiến lập các cảnh giới; vì không trở lại nên thị hiện trí tuệ, vì trí tuệ thanh tịnh vô ngại nên thị hiện thành tựu Đẳng chánh giác, biết rõ pháp giới không tăng không giảm. Đại Bồ-tát an trụ trong Tam-muội này, liền đạt đến đạo quả của Đại thừa. Đại Bồ-tát nên tu tập không nhàm chán về mười pháp môn hướng đến các biển. Mười pháp ấy là gì? Đó là: Thấy biển Phật không nhàm chán, thấy biển người chuyển động hay không chuyển động vẫn giáo hóa không nhàm chán. Đối với biển pháp tăng trưởng trí tuệ không nhàm chán. Đối với biển phước điền không khởi tâm nhàm chán; an trụ vào biển không có pháp, không quán hạnh và công đức của thần túc nhưng không có xứ sở, cũng không nhàm chán; hiển bày biển trí sáng suốt, giữ gìn trí tuệ không thể phân tán; an trụ trong biển các căn nên từ Địa này đến Địa khác không hề tán loạn; trụ vào biển tâm ý nên biết rõ khắp tất cả chúng sinh có bao nhiêu tâm, bao nhiêu ý, biết vô số tâm tăng hay giảm; trụ vào biển tu hành nên đầy đủ các nguyện, trụ vào biển thệ nguyện nên mong được thành tựu rốt ráo về con đường giải thoát thanh tịnh. Đại Bồ-tát an trụ trong Tam-muội này liền đạt được mười pháp môn hướng đến các biển không hề nhàm chán. Đó là sự tu hành của Đại só Bồ-tát. Đại Bồ-tát nên tư duy về mười pháp vô sinh bậc nhất. Mười pháp ấy là gì? Đó là: Vô sinh thứ nhất, là quán sát bậc nhất về chúng sinh; vô sinh thứ hai là quán sát bậc nhất về sự tôn quý của chư Thiên; vô sinh thứ ba là quán sát bậc nhất về Phạm thiên Tối Thắng; vô sinh thứ tư là quán sát bậc nhất về tâm của trời Hộ thế không hủy hoại; vô sinh thứ năm là quán sát bậc nhất về chúng sinh tự mình giác ngộ không bè bạn; vô sinh thứ sáu là quán sát bậc nhất về sự hàng phục ma vương, tâm định tónh không tán loạn; vô sinh thứ bảy là quán sát bậc nhất về sự không hình tướng ở năm cõi; vô sinh thứ tám là quán sát bậc nhất về các chúng sinh không bị nhiễm ô; vô sinh thứ chín là quán sát bậc nhất về sự tôn quý của chư Phật và chánh pháp; vô sinh thứ mười là quán sát bậc nhất về sự tự tại đối với con đường giải thoát hiện bày. Đại Bồ-tát nên tư duy về mười pháp vô sinh bậc nhất như vậy. Lại nữa, Bồ-tát nên tư duy về mười nơi hướng đến của chúng sinh. Mười nơi hướng đến ấy là gì? Đó là: Xuất gia bền bỉ để giáo hóa chúng sinh, kiến lập lực không thoái chuyển để tinh tấn tu hành, nhờ lực thanh tịnh không vướng mắc nên tất cả các pháp Không chẳng bị nhiễm ô, nhờ lực dừng nghỉ nên được tự tại và thành tựu các pháp, nhờ lực đạt được tâm lay động hay chẳng lay động nên hiểu rõ các ý nghóa, nhờ đầy đủ pháp lực tự nhiên nên thành tựu trí tuệ lớn, nhờ lực thành tựu biện tài vô ngại nên dùng để thuyết pháp, thành tựu năng lực vô úy, đứng vững trong các pháp, thành tựu năng lực ý đoạn nên biết được điều chưa biết, Trí thành tựu năng lực vô nhị nên không còn sinh diệt. Này Tối Thắng! Đại Bồ-tát nên tư duy về mười lực. Đó là: lực tối thắng, lực không gì sánh bằng, lực không trên không dưới, lực vô lượng, lực nuôi dưỡng, lực không lay động, lực sinh vào cõi lành, lực không oán ghét, lực trí tuệ sáng suốt, lực cần khổ chứa nhóm các hạnh. Đó là mười lực nên tu hành. Lại nữa, Bồ-tát nên tư duy về mười lực. Mười lực ấy là gì? Đó là: lực nhập vào định hoàn hảo, lực thanh tịnh hoàn hảo, lực vi diệu hoàn hảo, lực Pháp thân hoàn hảo, lực pháp thế gian hoàn hảo, lực hiểu rõ các pháp hoàn hảo, lực các căn tịch tónh hoàn hảo, lực chưa từng có hoàn hảo, lực giác ngộ hoàn hảo, lực vượt qua hoàn hảo. Đại Bồ-tát an trụ mười lực này liền đạt được định ý. Đại Bồ-tát nên tư duy về hai mươi lực để đạt được Định. Hai mươi lực ấy là gì? Đó là: lực của bậc Đại nhân, lực gần gũi Thiện tri thức, lực cứu cánh của bậc Đẳng chánh giác, lực được thân cận do tu các Thiện căn, lực ướp hương vô lượng căn lành, lực vượt qua điều không thể vượt qua của Như Lai, lực trừ bỏ tâm nhơ uế không sinh diệt, lực giúp cho niệm của Bồ-tát không gián đoạn, lực trang nghiêm làm cho Bồ-tát được hoan hỷ, lực hỗ trợ Bồ-tát không bỏ mất các pháp, lực diệt trừ làm cho tâm Bồ-tát không còn ràng buộc, chấp trước, lực làm mãn nguyện sự không mong cầu của Bồ-tát, lực thành tựu tâm tư duy về định của Bồ-tát, lực đạt được các căn không sai lầm, tán loạn của Bồ-tát, lực kiến lập Pháp vương, lực không chấp trước về nơi vô lượng thân, lực đạt được trí tuệ phương tiện thiện xảo, lực đối với tất cả các pháp không sợ hãi hoạn nạn, lực kiến lập nguồn gốc không còn phiền não cho chúng sinh, lực đối với chúng sinh tự mình giác ngộ không quấy nhiễu người khác. Đại Bồ-tát trụ trong định này mới đạt được lực không còn chấp trước. Bồ-tát nào vượt trên La-hán, Bích-chi-phật mới có thể đạt được định lực này.  <詞 id="113335699">Phẩm 17: Tài biện luận Bấy giờ, Bồ-tát Tối Thắng bạch Phật: –Thế nào là Bồ-tát đầy đủ các đức để đáp ứng những ham muốn của chúng sinh, khiến họ được đầy đủ tất cả, không còn mong cầu gì nữa? Đức Phật bảo Bồ-tát Tối Thắng: –Hãy lắng nghe và khéo suy nghó, Ta sẽ phân biệt rõ ràng cho ông. Từ khi mới phát tâm đến khi thành Phật, Bồ-tát phải làm trang nghiêm thanh tịnh đạo tràng, phóng sánh sáng lớn chiếu soi cảnh giới của mình và làm cho những chốn tối tăm đều được có ánh sáng ấy. Những ai thấy được ánh sáng này thì tâm không còn lo âu, sợ hãi; không bị các hoạn nạn; tâm chẳng những rất mạnh mẽ mà còn luôn luôn hoan hỷ, làm tăng trưởng các công đức, không bỏ hạnh thanh tịnh, tự thanh tịnh đức hạnh để tu đạo Vô thượng, làm cho các hạnh nghiệp công đức không thể cùng tận và trí tuệ thì vô bờ bến. Pháp thực hành của Bồ-tát cũng là hạnh không giới hạn, Thừa Bồ-tát thẳm sâu không đáy, cảnh giới của Bồ-tát là không thể nghó bàn, La-hán và Bích-chi-phật không thể suy lường được. Sự hóa độ của Bồ-tát lại không ngằn mé, Bồ-tát thành tựu các đức không giới hạn, tu hành thanh tịnh không bỏ thệ nguyện rộng lớn và đi trên con đường giải thoát để chỉ dạy đạo pháp. Muốn bàn luận về các pháp của Bồ-tát dù chỉ một phần nhỏ như đầu sợi lông cũng không thể được. Đại Bồ-tát trải qua vô số kiếp được làm Bồ-tát, sau đó mới thành tựu đạo Bồ-tát. Người nào đến gần gũi, phụng sự Bồ-tát thì được thỏa mãn mọi ước nguyện, được khuyên phát tâm và thành tựu oai đức như Bồ-tát, tiếng lành lan xa, những người nghe tiếng tốt của người này đều đến phụng sự, hộ vệ, cúng dường để làm ruộng phước tốt lành cho đời sau. Nếu chúng sinh nào nhìn thấy Bồ-tát, họ liền được Bồ-tát giảng nói pháp về trí tuệ vô thượng, nghe pháp không thấy nhàm chán, ban bố ánh sáng trí tuệ cho mọi người mà vẫn không mất pháp tánh. Vì sao? Vì chúng sinh nghe pháp, tiếp nhận lời dạy chân chánh, trí tuệ được tăng trưởng nên ban bố và tuyên thuyết những lời giáo huấn chân chánh không bao giờ cạn dứt. Đại Bồ-tát an trú trong Tam-muội này có thể ban phát các công đức lành cho khắp tất cả. Bằng tâm ý rộng lớn vô lượng vô hạn không thể tính kể, tùy theo các duyên đối với mỗi ý, Bồ-tát nhập vào Định Tam-muội rồi lại xuất Định, tự tỉnh giác, quán sát về pháp tánh. Nhờ Tam-muội này mà biết được cảnh giới của các Tam-muội, như: Tam-muội phân biệt vô số, Tam-muội ý định tónh quán sát, Tam-muội quán sát rộng rãi khắp nơi, Tam-muội quán sát không tham dục, Tam-muội quán sát về tướng, Tam-muội quán sát sự biểu hiện, Tam-muội quán sát về oai nghi, Tam-muội quán sát về sự nương tựa, Tam-muội quán sát về niệm, Tam-muội quán sát về sự đối đãi, Tam-muội quán sát về Hỷ, Tam-muội quán sát về sự an ổn, Tam-muội quán sát về sự phòng hộ, Tam-muội quán sát về con đường giải thoát. Các Tam-muội phát sinh hay chưa phát sinh đều xả bỏ hết, tuy ở trong pháp lạc của Thiền định nhưng cũng không dính mắc trong Định. Tối Thắng nên biết! Giống như cung điện của đại Long vương A-nậu-đạt do bảy báu làm thành, suối A-nậu-đạt là nơi bắt nguồn của bốn sông lớn, nơi bốn cửa sông nước chảy cuồn cuộn mà không làm cỏ cây bị hư hại, nước suối trong suốt như hư không. Lúc ấy, từ bốn cửa, bốn con sông chảy ra bốn phương, rồi đều đổ vào biển cả. Bốn con sông ấy gồm: thứ nhất sông Hằng-già, chảy ra từ miệng voi, thứ hai sông Tư-đầu chảy ra từ miệng Sư tử, thứ ba sông Tư-đà chảy ra từ miệng bò, thứ tư sông Bà-xoa chảy ra từ miệng ngựa. Bốn con sông lớn này từ bốn miệng chảy ra bốn phương rồi đều đổ về biển cả. Nước sông Hằng-già chảy ra từ thân voi bằng ngọc báu xa cừ. Nước sông Tư-đầu chảy ra từ thân sư tử bằng kim cương. Nước sông Tư-đà chảy ra từ thân bò bằng mã não. Nước sông Bà-xoa chảy ra từ thân ngựa bằng lưu ly xanh. Bốn loại châu báu ấy đều là châu báu cõi trời, không phải ở cõi người. Bốn con sông lớn này, lúc ban đầu mỗi sông đều rộng một do-tuần, mà nước chảy rất yên lặng. Mỗi sông lón đều chảy quanh về bên phải suối thần bảy vòng rồi mới đổ vào biển. Khoảng cách giữa bảy vòng ấy cách nhau một do-tuần, giữa những khoảng này lại mọc lên vô số hoa sen đủ màu sắc như hoa sen Ưu-bát, hoa Bát-đầu-mâu, hoa Tu-kiền-đề. Trong những hoa ấy lại có nhiều loại châu báu. Lại có nhiều loại hương xông thượng hạng có mùi thơm kỳ diệu. Nhiều loại châu báu đều chiếu sáng nhau, những người nhìn thấy không biết nhàm chán. Nhiều loại châu báu kỳ lạ, quý hiếm hiện bày trong khoảng một do-tuần đều chiếu sáng nhau, như ngọc ma-ni chỗ nào cũng chiếu sáng. Trong bảy vòng ấy lại có nhiều loại chim lạ, tiếng hót véo von, rộn vui thánh thót. Lại có hàng trăm loại cỏ cây thần dược, hương thơm theo gió lan tỏa khắp các dòng sông. Cung điện A-nậu-đạt và nhà cửa bốn phía Đông Tây nam Bắc khoảng năm mươi do-tuần toàn trang trí bằng bảy loại châu báu xen lẫn nhiều loại ngọc ma-ni với đủ màu sắc. Lại có rất nhiều loại ngọc ma-ni được treo trong hư không để làm mặt trời mặt trăng và các vì sao. Ở đó dùng gỗ Ngưu-đầu chiên-đàn làm củi đốt. Trong cung điện này, mỗi ngày rưới xuống ba lần các loại hoa thơm như: hoa sen Ưu-bát, hoa Câu-mâu-đầu, hoa Phân-đà-lợi, hoa Tu-kiền-đề, hoa Mãn-nguyện-kiền-đề. Ánh sáng của các loại châu báu làm thành cung điện phản chiếu lẫn nhau tỏa sáng rực rỡ. Như hồ A-nậu-đạt là nơi bốn con sông lớn bắt nguồn rồi đổ về biển cả, Đại Bồ-tát cũng vậy, đạt được bốn sông biện tài vô ngại, phân biệt bốn đạo để quay về biển trí. Như sông Hằng-già từ miệng của con voi có thân bằng xa cừ chảy về biển, Đại Bồ-tát cũng vậy, từ miệng các pháp lành phát ra vô số ý nghóa, thông tỏ kho tàng bí mật của Như Lai để giảng nói ý nghóa sâu xa, làm cho các pháp đều có tên gọi, ban bố pháp vị, thắp lên ánh sáng trí tuệ, khiến cho tất cả chúng sinh đều được trở về biển trí không bờ bến. Ví như sông Tư-đầu từ miệng của con Sư tử có thân bằng kim cương đổ về biển cả, Đại Bồ-tát cũng vậy, diễn nói chánh pháp, ngồi tòa Kim cang như Phật, hộ trì chúng sinh khiến họ đều được soi sáng, giữ trí bền chắc như kim cương, vào biển vô ngại. Ví như sông Tư-đà từ miệng của con bò có thân bằng mã não rồi chảy về biển cả, Đại Bồ-tát cũng vậy, giảng pháp thông suốt, mọi điều nghi ngờ đều được sáng tỏ, cũng khiến cho chúng sinh không còn tranh cãi, tùy theo căn cơ của họ mà giảng giải các nghóa lý, làm cho tất chúng sinh đều được thuần thục các hạnh và đều quay về biển, không còn vướng mắc các duyên. Ví như sông Bà-xoa từ miệng của con ngựa có thân bằng lưu ly xanh chảy về biển cả, Đại Bồ-tát cũng vậy, đại biện tài vô ngại, tư duy và thị hiện các pháp trong trăm ngàn ức kiếp mà không khi nào cùng tận; giữ gìn làm tăng trưởng các pháp lành, đạt đến chánh đạo, khiến cho những người giữ giới đều được quay về biển Phật đồng một vị. Giống như bốn con sông lớn chảy quanh về bên phải hồ A-nậu-đạt bảy vòng, chảy ra bốn phương rồi đổ về bốn biển, Đại Bồ-tát cũng vậy, thân miệng và ý hành đều thành tựu không còn sai trái, chí nguyện tu hành luôn lấy trí tuệ làm đầu. Lại như bốn con sông chảy ra bốn phương rồi đổ về bốn biển, Đại Bồ-tát cũng vậy, nương vào bốn biện tài trí tuệ, hướng đến bốn phương, ở đó Bồ-tát nên quán sát những nơi mà tất cả chư Phật an trú để phụng sự và cung kính lễ lạy theo đúng oai nghi. Bồ-tát lại hiện ra ánh sáng pháp rực rỡ của tất cả chư Phật, giữ gìn pháp Tổng trì không để quên mất, lại hiện bày trí tuệ và các Ba-la-mật, đầy đủ các hạnh căn bản của Bồ-tát, lại thị hiện tâm Từ bi lớn, chuyển pháp luân cho các chúng sinh. Như bốn dòng sông chảy quanh hồ A-nậu-đạt bảy vòng, trong bảy vòng ấy có nhiều loại hoa như hoa sen Ưu-bát, hoa Câu-mâu-đà, hoa Phân-đà-lợi, hoa Tu-kiền-đề, hoa Mãn-nguyện-kiền-đề và các loại hoa tỏa ngát hương khắp nơi, Đại Bồ-tát cũng vậy, từ khi mới phát tâm đến khi thành Phật, trong khoảng thời gian ấy luôn giáo hóa dẫn dắt chúng sinh, thuyết pháp, khuyến khích, làm cho chúng sinh đạt được Không thoái chuyển, giảng dạy các pháp Thiền định trong trăm ngàn ức kiếp không lúc nào thấy mệt mỏi, còn một người chưa được giải thoát thì Bồ-tát nguyện không bỏ họ. Bồ-tát lại làm thanh tịnh cõi Phật, trang nghiêm an trú trong các Địa, nhập vào Tam-muội định ý, bước đi như Sư tử, hướng đến đạo tràng, ý chí như kim cương, không gì trở ngại được. Lại như trong bảy vòng quanh hồ A-nậu-đạt tự trang trí đẹp đẽ bằng bảy cây báu, có vô số hoa quả thơm lừng, Đại Bồ-tát cũng vậy, làm thanh tịnh trang nghiêm các cõi Phật bằng cây ba mươi bảy đạo phẩm, bằng hoa tâm đạo luôn luôn tỉnh giác tư duy về chánh pháp. Như cung điện A-nậu-đạt rộng năm mươi do-tuần, thanh tịnh hoàn toàn, không hề có gió bụi, Đại Bồ-tát cũng vậy, tâm đạo thanh tịnh không một chút tì vết, tâm ý luôn luôn có đủ các công đức căn lành và vô số pháp môn định ý. Như thành quách bao bọc hồ A-nậu-đạt được làm bằng gỗ Ngưu đầu chiên-đàn và nhiều loại gỗ quý, Đại Bồ-tát cũng vậy, sự suy nghó của tâm đạo được bao quanh bởi trăm ngàn ức trí thấy biết, luôn đầy đủ thệ nguyện, tâm vốn không có thần thông mà thực hành thần thông, thành tựu trí tuệ, những pháp lành căn bản thảy đều thanh tịnh. Như đất trong cung điện A-nậu-đạt toàn trải bằng trân châu hổ phách, đâu đâu cũng tỏa ra nhiều ánh sáng chiếu soi rực rỡ, Đại Bồ-tát cũng vậy, nhập vào trí tuệ vi diệu, cứu độ chúng sinh nhiều không thể nghó bàn, khiến cho họ dứt trừ ưu não, tự làm đẹp bằng nhiều chuỗi ngọc quý báu nhưng vẫn không bỏ mất thể tánh pháp giới, an trú trong ngôi nhà vô vi của chư Như Lai, tâm ý không bao giờ thoái chuyển. Như Long vương A-nậu-đạt là người che chở cho các loài rồng nhỏ, làm cho chúng không còn sợ hãi, những thần rồng tùy tùng đều có oai đức và tiểu Long vương trong biển đều đến chầu triều, chúc tụng Long vương; Đại Bồ-tát cũng vậy, là vị che chở giúp đỡ cho tất cả các chúng sinh bị sợ hãi, tùy thời nuôi nấng khiến cho họ không còn gì bất mãn, ở trong hay vượt ngoài các cõi tâm đều bình đẳng như hư không, tuy sống giữa đời mà ánh sáng trí tuệ luôn luôn sáng tỏ, thương giúp chúng sinh như thể thân mình không khác. Như hồ A-nậu-đạt phát nguồn từ bốn con sông lớn chảy khắp Diêm-phù-đề, quanh co uốn khúc rồi cũng chảy về biển cả, những nơi các sông chảy qua đều được thấm nhuần, Đại Bồ-tát cũng vậy, nương nơi bốn con sông trí, đưa chư Thiên như trời Dạ-ma, Đế Thích Phạm thiên, loài người và phi nhân đến biển đại trí, từ khi phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, mười lực, vô sở úy, mười tám pháp Bất cộng cho đến khi thành Phật, chắc chắn không thoái chuyển. Bốn sông trí gồm: Thứ nhất: Sông Trí nguyện, là luôn luôn thệ nguyện cứu độ chúng sinh, nên đối với tự thân không còn chấp thủ. Thứ hai: Sông Trí đầy đủ giải thoát không giới hạn, là làm thanh tịnh đạo Bồ-tát, bao gồm tất cả các cõi, qua lại khắp nơi mà không bị lệ thuộc, học rộng không cùng tận, giảng nói ý nghóa vô thường, khổ, không, vô ngã bằng trí tuệ siêu việt ba cõi. Thứ ba: Sông Trí định ý của Bồ-tát, nghóa là tự trang nghiêm bằng vô số Định, đi đến các cõi Phật ở khắp mười phương để lễ bái, phụng sự, cúng dường chư Phật Thế Tôn và diễn nói biển pháp không cùng tận của chư Phật. Thứ tư: Sông Đại từ bi, nghóa là khiến cho chúng sinh được an trú vững chắc không thoái chuyển trong Từ bi, nhổ sạch tất cả các khổ, khiến họ không còn bức não, lại dùng vô số phương tiện thiện xảo dẫn dắt họ luôn hướng về phía trước, không còn lưu luyến. Biển mười lực chứa nhiều châu báu, các chúng sinh vướng mắc vào các duyên đều biết nơi để hướng đến. Như bốn con sông lớn bắt nguồn từ hồ A-nậu-đạt đều đổ về biển cả vô cùng vô tận không thể nghó bàn, Đại Bồ-tát cũng vậy, thệ nguyện rộng lớn tăng thượng, thành tựu trí nguyện, tu hạnh Bồ-tát, trí tuệ quán sát các pháp cũng không cùng tận, thành đạo Vô thượng không bị trở ngại. Bồ-tát cũng biết Định ý nhóm họp khắp nơi của chư Phật, an vui trong niềm vui của các Đức Phật. Như hồ A-nậu-đạt phát nguồn từ bốn dòng sông lớn, mỗi sông lại phân ra năm trăm nhánh sông, mọi nhánh sông đều đổ về biển cả mà không làm tổn hại đến các chúng sinh, Đại Bồ-tát cũng vậy, nương vào trí tuệ, thệ nguyện không bao giờ bị lay động, tu hành ban rải tâm Từ cho tất cả chúng sinh, thị hiện có tướng hay không tướng đều biết rõ tất cả các pháp, thực hành trí vô ngại mà không bỏ gốc rễ của các pháp, chỉ dạy con đường giải thoát mà vẫn an trú trong Địa không ngăn ngại. Như trong bảy vòng quanh hồ A-nậu-đạt có nhiều vật quý báu tỏa ánh sáng rực rỡ như ánh sáng mặt trời, soi chiếu khắp nơi, cách xa trăm lần ngàn lần cũng đều sáng rõ; những người có mắt thấy cung điện A-nậu-đạt đủ năm màu sắc đẹp đẽ như mặt trời giữa hư không, khắp nơi đều được soi sáng, mọi vật chất đều có ánh sáng không chướng ngại nhau và các vật báu va chạm nhau làm phát ra nhiều âm thanh rất êm tai, nghe mãi không nhàm chán, Đại Bồ-tát cũng vậy, trụ trong Định ý tự tại khắp pháp giới này, nhìn thấy trong mỗi lỗ chân lông có vô số vô lượng ức trăm ngàn Đức Như Lai và các Bồ-tát, Thanh văn ở cõi Phật ấy, chúng hội có bao nhiêu người đang nghe pháp rồi thọ trì, ghi nhớ và đọc tụng ngày đêm. Để cứu độ các chúng sinh chìm đắm trong vực sâu sinh tử, Bồ-tát thị hiện thân Như Lai ở khắp pháp giới không thể nghó bàn, lại thị hiện đến các thế giới, gần gũi chư Phật để lễ bái, phụng sự, cúng dường và nghe pháp. Bồ-tát nhập vào định trong trăm ngàn kiếp mà không thấy lâu, chẳng thấy mau, cũng không thấy lớn, chẳng thấy nhỏ. Bồ-tát lại quán sát trong mỗi lỗ chân lông có các Đức Phật Như Lai cùng các cõi nước, thành quách và các đệ tử thân cận, ở đó có bao nhiêu chúng sinh thì Bồ-tát qua lại khắp nơi thị hiện bấy nhiêu hình tướng và lời nói khác nhau, làm cho mọi chúng sinh đều được mãn nguyện, rồi cùng nhau vui vẻ, nhưng Bồ-tát cũng không thấy chật hẹp hay rộng rãi. Vì sao? Vì Bồ-tát nào nhập vào Định ý pháp giới thì tâm ý đều nhỏ nhiệm, không có hình tướng nên rất khó thấy biết, hành động thì vô cùng vi tế, không thể nào dẫn dụ được, sinh khởi rồi chấm dứt, Bồ-tát cũng không tự biết. Cảnh giới Tam-muội không thể nghó bàn, cảnh giới mà tư duy Thiền định đạt đến cũng không thể nghó bàn, chư Phật an trú ở chỗ cũng không xứ sở, hiển bày các oai nghi rất khó thực hành, không bao giờ nửa chừng mà bỏ hạnh Bồ-tát; bị rơi vào cảnh giới không bền chắc của các ma, vẫn an trú trong vô vi, đạt oai đức thanh tịnh, đạt mười lực căn bản của Như Lai, vì cầu đạo Vô thượng vô hạn mà tu hành theo nghóa lý sâu xa nhiệm mầu của chánh pháp không gì trở ngại. Đại Bồ-tát cũng vậy, tùy theo tâm ý của mình mà ở trong Tam-muội, trong khoảng một niệm biết rõ sự việc trong ba đời, lại có thể phân biệt rõ ràng các cõi do thiện ác đưa đến, tự tại đối với các pháp giới, không nương bên trong, cũng chẳng tựa bên ngoài, tìm cầu gốc ngọn, không thấy đầu mối, không có nơi chốn, cũng không ý tưởng, biện luận các nghóa lý để vượt qua các tưởng, đến các cõi Phật để lễ bái, phụng sự, cúng dường không thấy nhàm chán. Bồ-tát lại nhập vào các pháp giới, tư duy, phân biệt tường tận về nguồn gốc của chúng, không trụ vô vi, cũng không rơi vào một bên, tu tập tất cả các trí mà không vướng mắc vào trí, tuy có đến đi mà chẳng thấy có qua lại, quán sát trí như huyễn hóa mà thật ra cũng không có huyễn hóa; tham, sân, si của chúng sinh cũng như vậy, muốn tìm nguồn gốc của chúng không thể thấy được. Bồ-tát làm thanh tịnh các thế giới mà không thấy có sự thanh tịnh, chỉ dạy cho các chúng sinh khổ do đâu mà sinh khởi; khổ, không, ngã, nhân, thọ mạng đều không thật có. Để hiện bày nhiều sự thay đổi vô thường, Bồ-tát không ở trong sinh tử cũng không trụ Niết-bàn, vượt qua tất cả các kiếp để hóa độ các cõi chết, quán thấy các tướng mạo mà tâm ý không hề bị nhầm lẫn. Bằng phương tiện thiện xảo, Bồ-tát viên mãn các trí một cách chắc thật, đạt sự thanh tịnh hoàn toàn, tâm ý không hề dao động, quán sát các thế giới và các chúng sinh có tới lui hoặc không tới lui, làm cho họ đều được độ thoát, khiến cho trí tuệ các chúng sinh không bị suy giảm, oai nghi của tất cả các pháp giới thế gian đều tuần tự đúng theo chánh pháp. Bồ-tát quán sát không nhàm chán những công hạnh của Phật, nương vào kho tàng của chư Phật để đạt các pháp như châu báu. Đối với các Tam-muội, Bồ-tát thị hiện không ngăn ngại, tự nhiên được giữ gìn như vậy, thông suốt nghóa lý sâu xa của các pháp, tuyên dạy đạo pháp không cùng không tận, đạt trí tuệ biện tài thông đạt tự thể, diễn nói pháp Tổng trì và các tạng pháp bí mật của chư Phật. Tự mình đã lìa hẳn tham, sân, si, Bồ-tát cũng làm cho chúng sinh được từ bỏ tham, sân, si. Trong vô số kiếp, Bồ-tát thực hành phương tiện thiện xảo, hiển bày nhiều phương pháp thích hợp, tùy loại chúng sinh mà giáo hóa, khiến cho họ được giải thoát. Tất cả các pháp tự nhiên giải thoát, cũng không thấy có tự nhiên, hóa độ hay không hóa độ, Bồ-tát đều an trú trong tâm Từ bi lớn, đối với các chúng sinh cũng không thấy có ý tưởng về chúng sinh. Đếm hơi thở ra vào, khi có hơi thở ra, lúc có hơi thở vào, Bồ-tát luôn biết rõ các thế giới, tánh vốn tự nhiên, pháp tự thường trụ, hành giả vướng mắc vào thức nên mới thành ra không được định tónh. Bồ-tát không bị dao động nên diễn nói các pháp luôn được lưu loát, tuy giáo hóa chúng sinh nhưng cũng không thấy có giáo hóa. Bồ-tát đạt ba tụ giới thanh tịnh, nhập vào nhà Như Lai, khởi tưởng về pháp, tâm không sợ hãi nên thuyết pháp thanh tịnh, vận chuyển pháp luân không thoái chuyển. Tâm đạo luôn luôn lớn mạnh, hoàn toàn không có tâm La-hán, Bích-chi. Như vậy, này Tối Thắng! Đại Bồ-tát chứng đắc Tam-muội Định ý tự tại trong khắp pháp giới này, việc lớn được phát triển, hoàn toàn đạt quả vị Bồ-tát một cách chắc chắn.  <詞 id="113335700">Phẩm 18: Phương tiện bằng trí tuệ Lại nữa, này Tối Thắng! Đại Bồ-tát nên tư duy và luôn nhớ tu hành Tam-muội Định Tuệ bằng phương tiện thắng trí thứ mười. Bồ-tát tu hành Tam-muội này như thế nào? Này Tối Thắng! Ở đây Đại Bồ-tát có Tam-muội tên là Vô lượng định ý. Bồ-tát trụ trong Tam-muội này, quán sát biết vô số tạo tác của thân, miệng, ý, quán sát biết vô lượng cõi Phật để đến đó làm trang nghiêm, quán sát biết vô số chúng sinh để đến điều phục họ; quán sát biết vô lượng chúng sinh thành tựu trí tuệ nhờ đã được giáo hóa, quán sát biết vô số ánh sáng lớn được phóng ra để tiếp độ những người chưa được hóa độ, quán sát biết vô lượng ánh sáng oai tướng của bậc Đại nhân được phóng ra chiếu sáng khắp nơi, quán sát biết rõ để vận chuyển vô lượng bánh xe chánh pháp mà chư Thiên, trời Dạ-ma, Phạm thiên, Đế Thích, bốn Đại Thiên vương, loài người, loài ma đều không thể vận chuyển, quán sát biết vô số Bồ-tát làm người đứng đầu để dẫn dắt cho các chúng sinh ở các cõi Phật, tuy đạt Phật lực nhưng không lệ thuộc vào lực ấy, tự buông thả thân tâm mà cũng không thấy có sự buông thả, đạt trí tuệ giống như Phật nhưng cũng không lệ thuộc vào trí tuệ, hành hóa như Phật đã hành hóa, nương vào thần thông của Phật để đến vô lượng cảnh giới, dùng sự thanh tịnh của Phật để làm cho các hành động được thanh tịnh, nhờ vào hành động của Phật mà không lệ thuộc các hạnh ấy, nhờ sự suy lường của Phật mà vượt qua mọi suy lường, nhờ vào Định mạnh mẽ của Phật nên không còn khiếp nhược và thực hành Phật sự bằng sự thanh tịnh của Phật. Đại Bồ-tát trụ trong Tam-muội này, có trí quán sát khắp tất cả các trí, lại dùng trí quán sát khắp tất cả ấy để quán sát tất cả các trí tuệ. Quán sát các trí tuệ rồi mới tu hành trí tuệ. Vì tu hành trí tuệ nên tiếp nhận được lời dạy trí tuệ. Tiếp nhận được lời dạy trí tuệ nên tư duy về diệu trí. Tư duy về diệu trí rồi mới cầu các duyên về trí tuệ, các duyên về trí tuệ phát khởi liền đạt trí giải thoát. Đạt trí tuệ giải thoát nên được giải thoát hoàn toàn. Vì giải thoát hoàn toàn nên ứng hợp với Pháp và Luật giải thoát vô thượng, làm tăng trưởng hạnh Bồ-tát, thành tựu đạo Bồ-tát, tâm Bồ-tát được tăng tấn, kham nhẫn các khổ của Bồ-tát, làm cho những điều ác của Bồ-tát phải thoái lui, nhập vào tạng pháp của Bồ-tát, giữ gìn ánh sáng của Bồ-tát, diệt trừ các tối tăm của Bồ-tát, an trú trong địa Bồ-tát, hiện bày tướng Bồ-tát, thông suốt nhó căn của Bồ-tát, làm thanh tịnh âm thanh của Bồ-tát. Bồ-tát nghe những điều này không bị dao động, không lo sợ, cũng không thoái chuyển, tâm không chán nản, cũng chẳng nghó đến sự lợi ích, không thanh thản cũng chẳng nghi ngờ, không dứt bỏ nửa chừng, cũng không bị lệ thuộc. Bồ-tát thấy nghe được như vậy là vì đối với bất cứ chúng sinh nào, Bồ-tát cũng đều tùy loại mà hòa nhập, xem xét các phép tắc rồi phát thệ nguyện rộng lớn làm bậc mô phạm cho các chúng sinh ấy, nương pháp Đại thừa để vào sông biển Phật, đi thẳng đến các cõi đúng nơi muốn đến. Đại Bồ-tát thường nên tư duy về ba thệ nguyện lớn, giữ gìn thệ nguyện để dẫn dắt chúng sinh từ bờ bên này đến bờ bên kia. Ba thệ nguyện lớn gồm: Một là thệ nguyện lớn bậc thượng thượng, hai là thệ nguyện lớn bậc thượng trung, ba là thệ nguyện lớn bậc thượng hạ. Lại nữa, Bồ-tát có ba loại thệ nguyện: Một là thệ nguyện bậc trung thượng, hai là thệ nguyện bậc trung trung, ba là thệ nguyện bậc trung hạ. Lại nữa, Bồ-tát lại có ba loại thệ nguyện: Một là thệ nguyện bậc hạ thượng, hai là thệ nguyện bậc hạ trung, ba là thệ nguyện bậc hạ hạ. Tối Thắng nên biết! Đại Bồ-tát đạt Tam-muội Định Tuệ bằng phương tiện thắng trí thứ mười này mới có thể đạt được thệ nguyện lớn bậc thượng thượng, nuôi dưỡng chúng sinh, làm thanh tịnh cõi Phật, theo phương tiện thực hành trí tuệ, thoát khỏi sự trói buộc của ái dục, khéo léo tu học và thâm nhập pháp Nhất tướng của Bồ-tát, biết rõ các tướng cũng không có tướng, khéo léo hiểu rõ các pháp huyễn hóa của Bồ-tát, làm cho chúng sinh được kiên cố tâm ý, luôn dốc hết tâm vì tất cả chúng sinh. Chư Như Lai Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác đời quá khứ, hiện tại và vị lai thực hành tâm Từ bi lớn, che chở cho tất cả; chúng sinh nào không có trí tuệ thì làm cho họ có trí tuệ sáng suốt, người nào mù không có mắt thì làm cho họ có mắt sáng, ai không được cứu giúp thì làm cho người cứu giúp cho họ, khiến họ được viên mãn tất cả các pháp của chư Phật, làm cho các chúng sinh hay mong cầu được từ bỏ các tưởng về pháp. Vì sao? Giống như trong kho báu của vị trưởng giả chứa vô số châu báu như: vàng, bạc, ngọc quý, xa cừ, mã não, trân châu, hổ phách. Lại có thêm ngọc quý Như ý minh nguyệt đẹp đẽ bậc nhất, chiếu sáng rực rỡ khắp nơi, từng phần của viên ngọc này đều tự chiếu sáng, Bồ-tát cũng vậy, có được viên ngọc tâm ý phát ra ánh sáng pháp môn trí tuệ, dùng ánh sáng trí tuệ này soi chiếu khắp nơi, thông đạt đến đi không hề trở ngại, nhập vào Định ý này không có gì khó khăn. Như viên ngọc chiếu sáng được là bản tánh tự nhiên của nó đã như vậy, không ai có thể ngăn không cho nó chiếu sáng được. Vì sao? Vì thể tánh tự nhiên không thể làm cho không tự nhiên được. Tự nhiên cũng là không tự nhiên, không tự nhiên cũng là không tự nhiên, không thấy chúng sinh là tự nhiên, không thấy chúng sinh cũng là không tự nhiên. Tối Thắng nên biết, chúng sinh cũng phát xuất từ tự nhiên mà cũng phát xuất từ không tự nhiên. Chúng sinh phát xuất từ tự nhiên mà cũng phát xuất từ không tự nhiên là thế nào? Chúng sinh phát xuất từ tự nhiên nghóa là luân hồi không dứt trong giới hạn năm cõi, một thân, trăm thân, hay ngàn vạn thân, một kiếp, trăm kiếp, hoặc ngàn vạn kiếp, bỏ thân này lại thọ thân khác, kết thành bốn đại, nuôi lớn năm ấm. Đó là ý nghóa chúng sinh phát xuất từ tự nhiên. Chúng sinh phát xuất từ không tự nhiên nghóa là chúng sinh thể tính vốn không, không cũng không có thức, không có tưởng, niệm. Khi ấy, từ bốn phương có bốn trận gió nổi lên: một là trận gió mang hơi đất thổi đến không, hai là gió mang hơi nước thổi đến không, ba là gió mang hơi lửa thổi đến không, bốn là hơi gió, cũng chính là gió không. Bốn đại và thần thức bỗng nhiên gặp nhau, năm pháp ấy tập họp lại mới thành hình thể, gặp trời thì làm trời, gặp người thì làm người, ái nhiễm thân hình nào thì thành thân hình ấy. Giả sử chỉ có địa đại, không có thủy, hỏa, phong thì không thành. Nếu chỉ có thủy đại, không có địa, hỏa, phong cũng không thể thành. Nếu chỉ có hỏa đại, không có địa, thủy, phong cũng không thể thành. Nếu chỉ có phong đại, không có địa, thủy, hỏa thì cũng không thành. Bồ-tát nên quán sát thức là tánh không bao trùm cả pháp giới, bốn đại và thần thức tương ưng làm thành thân năm ấm, có bền chắc bao nhiêu cũng nhanh chóng trở về cõi hư không. Thức thì nhận biết được lạnh nóng, lớn nhỏ, trơn nhám, cứng mềm, nếu biết xa lìa không, chuyên tâm tư duy, tâm niệm trống không các tưởng, rỗng lặng, không tạo tác thì liền được tỏ ngộ, ở trong cõi hư không, chẳng đến cuộc đời này, được nhập vào Niết-bàn Vô dư y. Còn nếu thần thức chậm chạp, trì trệ, luôn ngơ ngác, hoảng hốt, không quyết định chắc chắn vào sự xa lìa không, cho rằng thân mình là hư không, do tạo tác nên phải sinh về các cõi, gặp thiện thì thành thiện, gặp ác thì thành ác. Gặp thiện thì chúng sinh tin có thiện ác, biết có đời này đời sau, biết có tôn ti người lớn kẻ nhỏ, nhàm chán những thống khổ ở đời nên tu tập điều thiện không biết mệt mỏi, lâu dần sẽ được thành đạo. Gặp ác thì thần thức lìa bỏ hẳn các điều thiện, theo những điều ác, luân hồi sinh tử, chịu khổ sở trong địa ngục, thần thức luôn bị khổ não, không một phút tạm ngừng. Sau đó mới tỉnh ngộ ra, nhớ lại những điều mình đã làm là trái với giới luật, dần dần hối cải, bỏ ác làm lành. Từ khi mới phát tâm cho đến trải qua nhiều đời nhiều kiếp tích lũy công đức, đầy đủ tất cả các công hạnh mới được thành đạo. Đó gọi là chúng sinh phát xuất từ không tự nhiên. Bồ-tát quán sát tự nhiên và không tự nhiên như thế nào? Tự nhiên là pháp thế tục, không tự nhiên là đạo. Tự nhiên là trói buộc, không tự nhiên là giải thoát. Tự nhiên là có, không tự nhiên là không. Tự nhiên là có thức, không tự nhiên là không còn thức. Tự nhiên là có tên gọi, có sinh, già, có bệnh, có chết, không tự nhiên là pháp bất sinh bất diệt, cũng không luân hồi trong năm cõi. Bồ-tát nên nhớ nghó đến việc bỏ pháp tự nhiên, tu hạnh không tự nhiên, có ánh sáng trí tuệ không bị chướng ngại. Trừ bỏ các pháp tự nhiên rồi thì chúng không còn phát khởi nữa, nhưng Bồ-tát cũng không thấy có sự trừ bỏ. Bồ-tát làm cho tất cả các thế giới trong khắp mười phương đều được thanh tịnh, hóa độ cho những người chưa được hóa độ, tuy có gần gũi họ cũng không thấy có sự gần gũi, làm việc cho người cũng không thấy mình cực khổ; đối với những trách nhiệm nặng nề, phiền toái, Bồ-tát luôn làm người đứng đầu để dẫn dắt mọi người nhập vào biển pháp, mong cầu đạt được định không tán loạn, có được vô số vô lượng châu báu như năm phần Pháp thân, Không, Vô tướng, Vô nguyện, thiền định, giải thoát, tướng tốt, thần thông, tâm không lo âu, cũng không sợ hãi. Lại có Tam-muội tên là Định vô vi, Bồ-tát trụ trong Tam-muội này, dùng ánh sáng Thiền định rực rỡ để làm cho chúng sinh được thanh tịnh, không thấy nhàm chán và giảng nói tánh không của các pháp cho họ. Các chúng sinh thông hiểu về không, nghe xong liền được giác ngộ, hồi tâm hướng đạo, không hề thoái lui. Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Tối Thắng: –Giống như Như Lai đang trụ trong Định ý tự tại khắp pháp giới này, bằng Thiên nhãn, quán sát trong khoảng mênh mông không cùng tận của hư không, nơi ở của các chúng sinh “không tự nhiên”, trong khoảng thời gian một khảy móng tay có trăm ngàn ức chúng sinh nhiều không thể tính kể sắp sửa thọ thân để sinh về các cõi. Lúc ấy, vô số hằng sa chư Phật Thế Tôn đều dùng hóa thân ở trong cõi hư không nói cho thần thức bốn khí pháp hư vô, đến không rồi lại xa lìa không, xa lìa Thức cũng vậy. Nếu các chúng sinh ấy nương vào hư không để thọ thân thì chỉ có thần thức, ngã là không mà chấp là có, thì khiến họ vónh viễn xa lìa không. Còn đối với các chúng sinh tư duy quán sát về không thì ở trong cõi hư không, họ liền xả bỏ hình chất của thần thức, nhập vào Niết-bàn Vô dư y, không đến cuộc đời này thọ thân năm ấm, cũng không còn khổ não. Trí tuệ thiện xảo của Như Lai là vô hình, cứu độ cho thần thức được nhập vào cõi hư không, rồi Như Lai hiện ra sự thần biến đặc biệt kỳ diệu để giáo hóa cho họ, hoặc thị hiện các cõi nước thanh tịnh của chư Phật, có khi lại thị hiện sự im lặng của bậc Hiền thánh, kinh hành, tụng niệm không ngừng nghỉ. Thần thức tuy không nhìn thấy nhưng oai nghi lễ tiết của chư Phật vẫn luôn luôn hoàn hảo. Bồ-tát nên quán sát như hư không bao trùm vô số cõi nước, mà hư không cũng không nghó: “Ta bao trùm vô số cõi nước”, hư không cũng không cho: “Mình có nhiều công lao”. Vì sao? Vì hư không là bao trùm, bản tánh của nó đã như vậy. Pháp là không biến đổi, tự nhiên thường trụ, pháp không chuyển động, cũng không thế này thế kia, không sinh, không diệt, cũng không dời đổi. Vì sao? Vì pháp giới hư không tánh nó tự như vậy. Bồ-tát lại nên tư duy về thần thức của hư không. Thần thức có ba tướng: Một là tướng thú, hai là tướng hối, ba là tướng không thú cũng không hối. Thứ nhất, thần thức của hư không có tướng Thú như thế nào? Thú nghóa là hướng đến các cõi thọ sinh, phát triển các ấm, tùy theo thần thức ái nhiễm loại nào thì thọ thân loại ấy. Bồ-tát nên biết, thần thức của hư không cũng có trung ấm (trung chỉ). Thần thức hợp với bốn khí, hướng đến trung ấm, trung ấm thọ thân, trải qua nửa tháng, một tháng, hai tháng, ba, bốn năm hoặc mười hai tháng, trung ấm liền từ nơi hư không hướng đến năm cõi. Vào năm cõi, trung ấm ở hẳn trong đó. Trung ấm vào năm cõi rồi, trải qua một tháng, hai tháng, hoặc mười hai tháng, trung ấm của chư Thiên hóa sinh thì không có thời hạn năm tháng ngày giờ, các loài địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh cũng có trung ấm, nhưng không loài nào giống loài nào. Trung ấm của thần thức trong hư không thì mờ nhạt vô hình không thể thấy được, chỉ có bậc Nhất sinh bổ xứ và chư Phật Thế Tôn mới nhìn thấy được. Đây là Đại Bồ-tát có trung ấm trong hư không hướng đến các cõi để thọ sinh. Thứ hai, thần thức trong hư không có tướng Hối như thế nào? Hối nghóa là: bốn khí hòa hợp, thần thức ở trong đó, tướng Hối thọ thân hình ấy nhưng tâm niệm trống không các tưởng, rỗng lặng, không tạo tác, không lệ thuộc vào tưởng. Chư Phật Thế Tôn giáo hóa cho thân ấy về Phật tánh, vừa nghe dạy xong, thân ấy liền được giác ngộ và nhập vào Niết-bàn Vô dư y. Tối Thắng nên biết! Chư Phật Thế Tôn ở trong ba đời giáo hóa chúng sinh, làm cho họ được đạt đến bờ bên kia nhiều không thể tính kể. Chỉ vì chúng sinh, chư Phật qua lại trong ba đời, làm các việc cần khổ, dùng vô số phương tiện để giáo hóa khiến cho họ được độ thoát. Tuy làm nhiều việc khổ nhưng chư Phật cũng không nghó mình có công lao, lại cũng chẳng thấy mệt mỏi, chán nản. Như Lai xuất hiện ở đời, biến hóa ra các thân Phật trong hư không, nơi ở của trung ấm và thần thức, giảng dạy pháp vô thượng rất vi diệu cho chúng. Vô số thần thức ở giai đoạn trung ấm lúc cha mẹ giao hợp liền được giác ngộ, tiếp nhận lời dạy về Pháp, rồi ngay nơi đó được nhập vào Niết-bàn Vô dư y. Chư Phật Thế Tôn ở khắp mười phương hóa độ chúng sinh cũng nhiều không gì có thể ví dụ được. Đó là Đại Bồ-tát trụ trong Tam-muội Định ý tự tại khắp pháp giới, có thể thực hành thắng trí bằng phương tiện thiện xảo, tu hành vô lượng pháp và đạt được quả vị Bồ-tát. Thứ ba, thần thức trong hư không có tướng không Thú cũng không Hối như thế nào? Không Thú cũng không Hối nghóa là: thần thức ở trong pháp tánh của cõi hư không, hình chất của trung ấm thì như bóng, như ánh sáng, rất mực vi tế, tâm niệm trống không ý thức, nhưng đến cũng không đạt đến cảnh giới vô vi mà lui lại cũng không vào cõi nhân gian. Đó là thần thức có tướng không Thú cũng không Hối của Đại Bồ-tát. Khi ấy, Bồ-tát Tối Thắng bạch Phật: –Như Thế Tôn đã nói, hình tướng thần thức của hư không và trung ấm của hư không như ánh sáng, như bóng, chỉ có Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ và chư Phật Thế Tôn mới thấy được. Vậy nếu cho rằng bốn khí, thần thức và thân trung ấm trong hư không có qua lại, thì cảnh giới Niết-bàn và bậc nhất nghóa cũng phải có thần thức và phải có trung ấm. Nếu có thần thức và có trung ấm thì cảnh giới Niết-bàn và thần thức của hư không cùng trung ấm của hư không có khác nhau không? Giả sử khác nhau thì không có Niết-bàn, mà không có Niết-bàn thì không có đạo quả và pháp ba thừa. Pháp giới sinh tử và cảnh giới Niết-bàn cũng chẳng khác nhau. Niết-bàn là sinh tử, sinh tử cũng là Niết-bàn. Bạch Thế Tôn! Nghe Phật dạy về thần thức của hư không và trung ấm của hư không thì con càng thêm phân vân. Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Tối Thắng: –Cảnh giới Niết-bàn và bậc nhất nghóa cũng có thần thức và trung ấm. Thần thức và trung ấm của Niết-bàn cùng với thần thức và trung ấm của hư không, pháp tánh của chúng không giống nhau. Thần thức của Niết-bàn lặng yên bất động, không thay đổi, cũng không có cõi sinh đến, không hướng đến các cõi, cũng không có sinh, già, bệnh, chết, lo buồn khổ não. Trong Niết-bàn, thần thức hoàn toàn diệt cũng không phải hoàn toàn diệt; thần thức đã sinh cũng chẳng có sinh. Trung ấm của Niết-bàn thì lấy sự tịch tónh hoàn toàn làm trung ấm. Lại nữa, này Tối Thắng! Như Lai xuất hiện ở đời cũng như chư Như Lai Đẳng Chánh Giác trong quá khứ, hiện tại và vị lai, không nhập Niết-bàn cũng không diệt độ hoàn toàn. Nếu chư Phật Thế Tôn nhập Niết-bàn thì chẳng phải bậc Chánh giác, chẳng trọn vẹn thệ nguyện. Lại nữa, này Tối Thắng! Chư Phật Thế Tôn trong ba đời có danh hiệu đến nay, Ta chưa từng thấy vị nào nhập Niết-bàn cả. Giả như vào đời vị lai mà có chư Phật xuất hiện trong pháp giới thì chư vị vẫn qua lại sinh hoạt trong Niết-bàn Hữu dư y, chứ không nhập vào Niết-bàn Vô dư y. Tối Thắng nên biết! Thần thức của Như Lai và thần thức của Niết-bàn không có gì khác nhau, nhưng thần thức của Niết-bàn thì không hình không ảnh, cũng không ánh sáng, không động, không dời đổi; còn thần thức của Như Lai thì có động, có dời đổi. Thức kia và thức này là chỉ một không khác, chỉ có động và không động là khác nhau mà thôi. Bồ-tát nên quán sát hư không cũng có thần thức và trung ấm, Niết-bàn cũng có thần thức và trung ấm. Nếu có pháp nào ở ngoài Niết-bàn mà có thần thức, có trung ấm thì này Tối Thắng! Đó là thần thức của hư không và trung ấm của hư không. Cho nên, thần thức của Niết-bàn và trung ấm của Niết-bàn cùng với thần thức và trung ấm của hư không là khác nhau. q Kinh TỐI THẮNG VẤN BỒ-TÁT THẬP TRỤ TRỪ CẤU ĐOẠN KẾT <卷 id="113335701">Quyển 7 <詞 id="113335702">Phẩm 19: Giáo hóa chúng sinh Bấy giờ, Bồ-tát Tối Thắng bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Làm thế nào Đại Bồ-tát vượt qua sinh tử thực hành việc khó làm, từ một cõi Phật này đến cõi Phật khác, dạy dỗ chúng sinh trang nghiêm đạo tràng. Tuy giáo hóa chúng sinh mà không thấy giáo hóa, cũng không thấy chúng sinh được giáo hóa, lại không có sự giáo hóa của mình. Vì sao? Vì quán sát pháp tánh như hư không, vắng lặng không sở hữu. Đức Phật bảo Bồ-tát Tối Thắng: –Đúng vậy! Đúng vậy! Như ông đã nói! Đại Bồ-tát, duy trì thệ nguyện rộng lớn, tâm không ngằn mé, dạy bảo chúng sinh làm thanh tịnh cõi Phật. Tuy giáo hóa chúng sinh nhưng không thấy giáo hóa và không thấy chúng sinh. Vì sao? Vì quán sát tánh của các pháp như hư không, vắng lặng không sở hữu, đều là không vắng lặng, không hình, không tướng, không thể thấy được. Pháp của tất cả các pháp, tự nó là không. Chúng ssinh của chúng sinh tự nó là không. Cõi nước của cõi nước tự nó là không. Bồ-tát của Bồ-tát tự không. Như vậy, này Tối Thắng! Bồ-tát nên quán sát như vậy, vào sâu trong các pháp sẽ hiểu biết các pháp đồng một tướng. Trí tuệ hiểu biết các pháp vắng lặng, vô vi không bị nhiễm chấp, Đại Bồ-tát cũng như vậy, điều phục tâm ý, hướng tâm ý đến đạo, tâm khó bị hủy hoại, nhất định chứng đắc đạo Bồ-đề vô thượng, ý chí vững như Kim cang cũng không thoái chuyển. Lấy cây đạo Anh lạc làm pháp vô vi, từ lúc mới phát tâm cho đến lúc ngồi nơi đạo tràng nơi cội Bồ-đề, có những chúng sinh đã hàng phục, đang được hàng phục và chưa hàng phục. Trong thời gian ấy không khởi tâm kiêu mạn, mạn ta thắng họ không bằng, mạn ta bằng họ, mạn họ hơn ta cũng như vậy, tăng thượng mạn, tăng trung mạn, hạ thượng mạn, hạ trung mạn, hạ hạ mạn, cứ như vậy, Đại Bồ-tát cần phải suy nghó tư duy về những mạn này, cũng không sinh tâm tật đố, che giấu, cống cao. Bồ-tát luôn nhập Thiền định xem xét chúng sinh nào đáng độ hay không đáng độ, dùng phương tiện quyền xảo vào tám nạn xứ của năm đường. Nếu có chúng sinh nào đáng được nhận sự giáo hóa, thì nên làm bạn lành giáo hóa cho họ, hoặc làm cha mẹ, anh em, bà con, hoặc làm bậc Tôn trưởng rất giàu có, tùy sự thiếu thốn của chúng sinh mà bố thí cho họ, xuất ra nhiều vàng, bạc, trân báu, xa cừ, mã não, trân châu, hổ phách tốt đẹp, ngọc minh nguyệt, ngọc như ý, hoặc dùng thức ăn, giường nằm, đồ dùng thuốc thang đều đem bố thí, không có luyến tiếc. Lại có người đến chỗ Bồ-tát khẩn khoản cầu xin đầu, mắt, tay, chân, cõi nước, tài vật, vợ con, đủ các bảy báu, Bồ-tát có thể đem bố thí mà cũng không nghó đến thí. Khi ấy, Bồ-tát hội nhập vào Tam-muội pháp giới Tự tại định ý, dùng phương tiện quyền xảo thuyết pháp Hư vô cho chúng sinh đó. Các ông nên biết! Pháp ấy không tạo tác cũng không có đối tượng tạo tác. Phân biệt sáu căn đều không có đối tượng chủ thể. Nếu mắt thấy sắc, sắc cũng không chướng ngại, chúng sinh do mê muội nên từ trong đó khởi lên thức, phân biệt tư duy mà nhận thức không chủ thể. Nếu tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân biết xúc chạm, ý phân biệt pháp, Bồ-tát quán sát đều không thật có. Pháp sinh thì tùy đối tượng mà sinh, pháp diệt thì tùy đối tượng mà diệt. Sinh không biết sinh, diệt khôngbiết diệt, mười hai nhân duyên, mười tám giới cũng như vậy. Hoặc khi Bồ-tát nhập vào Tam-muội Sư tử phấn tấn, có thể thị hiện rất nhiều thần thông biến hóa. Ở trong Tam-muội đó phát ra âm thanh thanh tịnh, hiện ra cõi nước được trang hoàng các thứ báu, hương hoa thơm ngát, năm màu óng ánh, oai nghi thanh nhã, ý chí vững vàng không thể dời đổi. Lại hiện ra vô lượng pháp môn Định ý, những pháp mà Như Lai thường ưa thích và tất cả các pháp căn bản của chúng sinh đều được hiện ra. Khi ấy, Bồ-tát lại dùng thần túc nhập vào Định vô lượng mà tự hiện ra một hoa sen, rồi nồi kiết già trên ấy, sắc thân Bồ-tát hiện ra có vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ kiếp công đức các pháp, làm tiêu sạch các dấu vết chấp trước về tưởng đã phát sinh, hướng dẫn Bồ-tát đi đến con đường giải thoát, nương vào Nhất thiết trí giảng thuyết pháp cam lồ, trí tuệ sáng suốt, hiện bày tuệ Phật, không bị cấu nhiễm. Hoặc dựng tháp bằng bảy báu khắp trong thiên hạ, hai thiên hạ, ba thiên hạ, bốn châu thiên hạ, lên đến Phạm thiên hay cứu cánh thiên, sống lâu rất nhiều kiếp mà không diệt độ. Hoặc khi Bồ-tát dùng phương tiện quyền xảo nhập vào vô vi Tịnh định đủ các căn lành, không bỏ Nhất thiết trí của Như Lai, dùng sức Tam-muội giáo hóa chúng sinh. Hoặc có chúng sinh nghe âm thanh giáo hóa mà được độ thoát. Hoặc có chúng sinh nghe mùi hương giáo hóa mà được giải thoát. Hoặc có chúng sinh biết mùi vị mà được độ thoát. Hoặc có chúng sinh thân được xúc chạm mà được độ thoát. Hoặc có chúng sinh nhờ hiểu được pháp trần mà được giải thoát. Khi ấy, Bồ-tát lại suy nghó: Chúng sinh nào nghe âm thanh, là đều là đều muốn nghe về sự thanh tịnh của ta. Hôm nay ta sẽ diễn bày tám câu bằng tám thứ âm thanh của Như Lai: Đó là tiếng Khổ, tiếng Tập, tiếng Diệt, tiếng Đạo, thấy khổ hướng đến khổ, thấy tập hướng đến tập, thấy diệt hướng đến diệt, thấy đạo hướng đến đạo. Khi chúng sinh nghe những âm thanh như vậy, mà tâm ý chưa khai ngộ, muốn thấy ánh sáng và thân thể của mình, Bồ-tát liền vào định, dùng thiền quán bình đẳng, liền biến hóa các cõi núi, sông, đá, vách, cây cối, hoa quả, đều làm bằng bảy báu: Xa cừ, mã não, thủy tinh, san hô, lưu ly, hổ phách, đều phát ra ánh sáng, phản chiếu rực rỡ che lấp ánh sáng của mặt trời, mặt trăng. Khi ấy, tâm ý của chúng sinh chưa tỏ ngộ lại muốn thấy ánh sáng mặt trời mặt trăng, thì Bồ-tát quán sát biết được tâm niệm của họ, liền nhập vào Tam-muội Vô ngại tâm niệm, rồi phóng ra ngàn ức vô số ánh sáng từ lỗ chân lông, mỗi tia sáng có hoa sen bằng bảy báu, mỗi hoa sen có đài bảy báu, trên mỗi đài có lọng bằng bảy báu, dưới mỗi lọng có tòa bằng bảy báu. Trên mỗi tòa đều có Đức Như Lai thuyết giảng cho chúng sinh về nguồn gốc khổ. Sinh là khổ, không khổ, chính là không khổ đế. Sinh là tập, không còn tập, chính là không Tập đế. Sinh là diệt không còn gì để diệt, chính là không diệt đế. Sinh là đạo, không còn gì để tu, chính là không đạo đế. Những chúng sinh kia nghe âm thanh và thấy ánh sáng, khii nghe âm thanh khổ, tâm sinh nhàm chán, đều dấy tưởng khởi về khổ, không, vô ngã. Không còn tưởng sinh diệt, thì ngay tại chỗ ngồi diệt hết nguồn gốc khổ ứng hợp với âm thanh thanh tịnh. Khi ấy những chúng sinh trên tòa nghe hương nhưng tâm ý chưa tỏ ngộ, liền phát sinh ý niệm: Tâm ý chúng ta ưa thích hương vi diệu, nhưng hôm nay bậc Thánh giả chỉ giảng thuyết về âm thanh. Bồ-tát biết tâm niệm của chúng sinh ấy liền nhập vào Tam-muội cực vi Chúng hương định ý, liền biến hóa ra cõi nước núi, sông, đá, vách, cây cối, hoa quả đều được xông thơm bằng đá các loại Ngưu-đầu, Chiên-đàn, Lưỡi gà, Ngải nạp, Bạt hương, mộng kinh, Mộc mật tô hợp, hoa Phân-đà-lợi, hoa Tu-càn-đề, hoa Mãn nguyện càn-đề, hoa Thanh liên phương, các loài hoa nhiều đến trăm ngàn thứ như vậy, tỏa khắp bốn phương, không nơi nào không nghe mùi hương. Bấy giờ, chúng sinh tuy đã nghe hương rồi, nhưng tâm ý vẫn chưa khai ngộ, ý muốn làm cho trong hương ấy phát ra lời dạy của đạo. Khi ấy, Bồ-tát biết tâm niệm của chúng sinh, liền từ trong hương đó thuyết sáu pháp quan trọng, khi nghe hương này tâm họ đều được khai ngộ, tất cả các hoạn nạn ở thế gian không còn sinh nữa, dứt hết các khổ liền thành tựu đạo quả. Bấy giờ, những chúng sinh trên tòa ưa thích mùi vị nhưng tâm ý chưa tỏ ngộ, liền nghó: Tâm ý của chúng ta ưa thích mùi vị vi diệu, nhưng hôm nay bậc Thánh giả, chỉ giảng thuyết về mùi hương, thật chẳng phải điều ta ưa thích. Biết được tâm niệm của chúng sinh ấy, Bồ-tát liền nhập vào Tam-muội Cực vi tịnh vị định ý, liền biến hóa ra núi sông, đá, vách, cây cối, hoa quả, đều làm bằng cam lồ, tự nhiên ăn uống, mùi hương xông lên vô lượng vị thơm ngon. Khi ấy, chúng sinh tuy được mùi hương này nhưng tâm ý vẫn chưa tỏ ngộ, ý muốn được dâng tặng tự nhiên và thấy hình ảnh ấy mới thoả mãn ý nguyện của mình. Bồ-tát biết được tâm niệm của chúng sinh ấy, bèn nhập Tam-muội rất nhanh không ngại, liền biến hóa ra núi sông, đá, vách, cây cối, hoa quả, đều làm chúng sinh, một chúng sinh mang nhiều thứ cam lồ tự nhiên, trong thức ăn cam lồ phát ra những âm thanh, vị ngọt ở bên ngoài do lưỡi nếm biết, hai pháp kết hợp lại mới phát sinh phiền não. Hôm nay ta tự kềm chế, biết đủ, vì muốn làm cho thân thể không sinh bệnh hoạn. Ví như xe cần bôi dầu mỡ thì mới chở được vật nặng, mắc bệnh lở loét thì phải có thuốc chửa trị mới hết bệnh. Phát giáo hóa này đều xuất ra mùi vị, chúng sinh biết được vị ấy, tâm ý liền khai ngộ, tất cả các hoạn nạn thế gian không còn sinh khởi, dứt trừ hết các khổ liền thành tựu đạo quả. Khi ấy, những chúng sinh trên tòa ưa thích xúc chạm sự mềm mại nhưng tâm ý chưa tỏ ngộ liền nghó: Hôm nay, tâm ý của chúng ta còn tham đắm vào sự tiếp xúc, nhưng bậc Thánh giả chỉ giảng thuyết về mùi vị vi diệu, thật chẳng phải sự ưa thích của ta. Bồ-tát biết được tâm niệm của chúng sinh ấy, liền nhập vào Tam-muội cực dục vi tế Nhu thuận định ý, liền biến hóa ra cõi nước núi, sông, vách đá, cây cối hoa quả, đều làm chúng sinh, mỗi chúng sinh đều mặc y phục tự nhiên, dùng tơ lụa và năm sắc của Trời để quấn quanh, chúng sinh thấy vậy liền dùng tay rờ vào mà không giữ được, có cảm giác mềm mại, nhưng không thể lấy được, ý niệm về y phục, người có trăm phước mới đạt được. Tâm của chúng sinh chợt tỉnh ngộ tự trách mình, vì sao lại đắm trước y phục này? Lẽ nào tự mình lệ thuộc, lại thêm phiền não. Thân hình là xương khô bao bọc lấy máu thịt, liền nghe trong hư không phát ra những âm thanh: Nam tử nên biết! Năm thứ vui của người đời chẳng thật có, tâm đắm trước vào sự mềm mại, càng tăng thêm trói buộc, nghó như vậy tự trách mình và trừ bỏ tham ái này. Khi ấy, chúng sinh nghe tiếng trong hư không mới giác ngộ hết khổ đời này, không còn sinh nữa, dứt hết các khổ liền thành tựu đạo quả. Bấy giờ, ở trên tòa, có hạng chúng sinh tham muốn về pháp, tâm ý chưa tỏ ngộ, liền suy nghó: Tâm ý của chúng ta thích về pháp vi diệu, nhưng hôm nay bậc Thánh giả chỉ nói về sự tiếp xúc thật chẳng phải là điều thích thú của ta. Bồ-tát biết được tâm niệm của những chúng sinh này, liền nhập vào Tam-muội Vô lượng Pháp giới định ý, hóa hiện cõi nước, núi, sông, đá, vách, cây cối hoa quả đều làm chúng sinh, mỗi chúng sinh đều nói sáu pháp Độ vô cực Không, Vô tướng, Vô nguyện, Thiền định giải thoát, hữu vi, vô vi, hữu lậu, vô lậu. sinh, diệt, đoạn thường, tất cả đều không thật có. Hoặc khi Bồ-tát chỗ hướng đến của tâm ý chúng sinh, liền bày ra những phương tiện để hiện tướng sâu sắc thân, ẩn hiện tự do, bay đi tự tại trong hư không làm đủ mười tám sự biến hóa qua lại trong hư không chẳng bị trở ngại. Hoặc thị hiện cõi nước, thành quách để diễn nói pháp Phật khiến cho các loại chúng sinh ấy đạt đến Thiền định chính yếu của chư Phật không thể nghó bàn. Khi ấy toàn thể nhân dẩntong những thành quách mà Bồ-tát biến hóa ra, mọi người đều không oán hận nhau, mà cư xử với nhau cung kính như cha mẹ, anh em, khiêm cung, nhã nhặn, thường bày tỏ niềm kính trọng. Khi ấy Bồ-tát khác nhập vào ánh sáng Không dụ khiến cho các Bồ-tát khác nhập vào ánh sáng này, ngồi kiết già, hoặc ở tòa cao, hoặc ngồi hoa sen, biến khắp tất cả các nơi trong thế giới. Hoặc hiện thân Phật ngồi tòa sen báu, diễn thuyết sáu pháp Độ vô cực của chư Phật Không, Vô tướng, Vô nguyện, Thiền định giải thoát, lại dùng mười tám pháp Bất cộng, bôn Vô sở úy của Như Lai để gia hộ cho chúng sinh, nhờ đó mà được cứu độ. Bấy giờ, Bồ-tát lại dùng sức thần thông phóng ra ánh sáng lớn hiện ra trăm ngàn ức cõi nước chư Phật. Mỗi ánh sáng đều chiếu thấu trăm ngàn ức chúng sinh, nương theo ánh sáng ấy, chúng sinh đến nghe pháp này đều được độ thoát. Mỗi lỗ chân lông phát ra mười ức hào quang, mỗi hào quang có mười ức cõi nước. ở trong cõi nước ấy có ngọc báu Ma-ni tự nhiên xuất hiện dùng đủ loại trân báu xen lẫn trong ấy. Ngọc Ma-ni này được treo giữa hư không cách mặt đất mười nhận, Ánh sáng của ngọc báu chiếu rực rỡ khắp nơi. Lại có ngọc báu ma-ni rất kỳ lạ dùng để trang nghiêm. Trên mỗi ngọc báu có cõi nước chư Phật nhiều mười hằng sa và mười ức trăm ngàn lâu đài nhà cửa. Mỗi lâu đài có tòa Sư tử bằng hoa sen báu nhiều mười ức trăm ngàn cõi Phật. Mỗi tòa Sư tử có hoa sen thần báu nhiều mười ức trăm ngàn cõi Phật. Trên mỗi hoa sen có mười ức trăm ngàn Đức Như Lai ngồi tòa Sư tử. Mỗi Đức Như Lai phóng ra hào quang lớn che khắp mười ức trăm ngàn cõi Phật. Mỗi cõi Phật có công đức không sợ sệt như Sư tử của mười ức trăm ngàn Đức Như Lai. Mỗi công đức không sợ sệt như Sư tử có mười ức trăm ngàn chúng sinh cư trú. Mỗi chúng sinh có mười ức trăm ngàn cõi nước chư Phật hiện ra. Mỗi cõi Phật có mười ức trăm ngàn câu pháp, ý nghóa và pháp của chư Phật. Mỗi mỗi pháp của ý nghóa, câu pháp có mười ức trăm ngàn kinh pháp dược sinh ra đốt cháy phiền não, cho đến các pháp môn Thiền định cũng như vậy. Trong mỗi pháp môn diễn ra vô lượng của các trí tuệ và pháp không thoái chuyển, rất nhiều loại trí có ý nghóa khác nhau. Trong mỗi lần chuyển pháp luân độ mười ức trăm ngàn chúng sinh làm cho họ được thuần thục. Mỗi cõi nước chúng sinh lại có mười ức trăm ngàn nước Phật. Các Đức Phật đều giáo hóa thế giới của mình trở thành cõi thiện, khiến cho chúng sinh ở cõi đó thành tựu Phật đạo. Bồ-tát hhội nhập Tam-muội này, tự hiện ra vô lượng thần thông biến hóa, cảnh giới Tam-muội này chưa từng hiện hữu, chưa từng thấy được. Sự giáo hóa rất kỳ lạ, tâm không thể đo lường, ý không thể vẽ nên. Trong ngoài, giữa đều không thấy chỗ nào cả, không thấy đến cũng chẳng thấy đi. Vì sao? Vì thể tánh của các pháp tự nhiên như vậy. Tu hành suốt trăm kiếp nhằm diệt trừ cấu uế, thực hành thệ nguyện của Như Lai để cứu giúp chúng sinh. Lại ở trong vô lượng, vô số kiếp không chấp, không trú, không bị nhiễm, cũng không kiến lập văn tự, suy tìm nguồn gốc hoàn toàn không nơi chốn. Nếu có người muốn đặt ra những cách thức nào đó để tìm cho được những hình tướng do Định này biến hóa ra thì sự việc này rất sâu xa không thể nghó bàn. Đây chính là hành pháp của chư Phật ứng ra mà thôi, chẳng phải là sự tối thắng do La-hán Bích-chi-phật tu chứng được, hãy nên suy nghó về ý nghóa này. Bồ-tát chấp nhận khổ, đi vào trong tám nạn để quán sát tâm ý của chúng sinh có ái dục hay không ái dục, có ái dục nhiều hay ít cũng đều biết hết, có giận dữ hay không giận dữ, giận dữ nhiều hay ít cũng đều biết hết, có ngu si hay không ngu si, ngu si nhiều hay ít cũng đều biết hết. Nếu chúng sinh nào có tâm ái dục, tham đắm về nữ sắc, chọn lựa những tính chất đẹp, mập, trắng tâm say đắm không thể xa lìa, thì khi ấy Bồ-tát phải dùng phương tiện, giả bày những phưong cách rộng lớn để chỉ bày pháp quán sát sự nhơ bẩn và tưởng về bất tịnh, cho nên ở trước chúng sinh hiện thân vô thường, bốn đại tan rã, rơi vãi khắp nơi. Một ngày, hai ngày, cho đến bảy ngày, thân thể sình lớn, rất nhơ bẩn hôi hám. Đến khi thây chết máu thịt tiêu hết, chỉ còn gân xương nối nhau. Lại hiện ra các hình tướng khác, hoặc bày xương sọ, xương mặt, xương chậu, tất cả đều chất thành đống, lâu ngày biến thành màu trắng giống như màu sắc của chim hạc, qua nhiều năm tháng trở thành đất mùn. Bồ-tát quán sát chúng sinh như vậy liền tỏ ngộ, biết được dục là sai lầm. Hàng phàm phu đọa vào đường ác, chẳng quay về với đạo chân chánh, tâm tự hối cải, muốn quay lại như xưa mà không kịp nữa, bèn theo bậc Thánh tu tập phạm hạnh, hội nhập giáo lý uyến thâm thanh tịnh, tẩy sạch cấu bẩn dâm dục, rèn luyện tâm trí, chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, làm thanh tịnh cõi nước Phật của mình và giáo hóa chúng sinh. Đó là Bồ-tát quán xét thấy tâm ái dục của chúng sinh liền thuyết pháp cho họ thành tựu đạo quả, Bồ-tát nên biết hoặc có chúng sinh không có tâm ái dục, ý dừng ở pháp nhỏ, không mong cầu đạo lớn. Bồ-tát khuyến khích họ cố gắng thành tựu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, dùng pháp không hai của kho tàng trí tuệ hướng dẫn chỉ bày cho họ biết con đường chân chánh, đứng vững nơi pháp Đại thừa, không nhận lấy đạo nhỏ, từ vô số kiếp tích luỹ nhiều công đức làm việc thiện không mỏi mệt. Những chúng sinh này do tâm ý còn mê hoặc, không phân biệt được đâu là thật hay giả, ngày nay mới tự hiểu nhưng chưa đạt đến hoàn toàn. Thế nào là đạo không hai của Bồ-tát? Bồ-tát thực hành dậo không hai là thường thanh tịnh nhưng không lệ thuộc nơi thanh tịnh. Bên trong ưa thích sự thanh tịnh mà bên ngoài giáo hóa chúng sinh, đó là đạo không hai của Bồ-tát. Bồ-tát thường vắng lặng mà bên ngoài vẫn thị hiện như loạn động, ưa thích sự tịch tónh mà giáo hóa chúng sinh, đó là đạo không hai. Bồ-tát vào định chưa từng bị loạn, từ Thiền định xuất ra giáo hóa chúng sinh, đó là đạo không hai. Bồ-tát bố thí, tâm chưa từng hối hận, quyết tâm không tưởng về quả báo với ý chí vững chắc. Bên ngoài giáo hóa chúng sinh khiến họ diệt trừ ba tưởng, đó là đạo không hai. Bồ-tát giữ gìn đầy đủ giới chưa bao giờ khiếm khuyết, lại đem giới luật giáo hóa chúng sinh, đó là đạo không hai. Bồ-tát vốn trí thâm sâu, suy nghó hiểu biết rộng xa, không tự khen về tài giỏi của mình, bên trong nhất tâm không bị nhiễm ô, đó là đạo không hai, nắm giữ trí tuệ, sự biến hóa không có giới hạn, bên trong giữ tâm ý không cho phân tán, cũng dùng pháp này giáo hóa chúng sinh, khiến cho họ vượt qua hoang vắng không còn lo buồn, đó là đạo không hai. Bồ-tát tu tập Tam-muội Nhẫn chánh định, hiện thân chịu các sự khổ, ở nơi hang núi, chỗ không người, hoặc ở gần thôn xóm, thị hiện đi khất thực, hoặc trải qua một năm cho đến trăm ngàn năm, hoặc trải qua một kiếp cho đến trăm ngàn kiếp, trong thời gian ấy hiện thân chịu vô lượng khổ. Bấy giờ, ở trong núi có người hoặc phi nhân, hoặc La-sát, các loài quỷ hai chân, bốn chân và nhiều chân, mỗi loài cầm dao gậy đến hại Bồ-tát, hoặc dùng dao bén cắt mũi Bồ-tát, mũi liền hiện trở lại như trái Diêm-phù. Này Tối Thắng! Trái Diêm-phù là lấy một sinh hai, lấy hai sinh bốn, lấy bốn sinh tám, lấy tám sinh mười sáu, lấy mười sáu sinh ba mươi hai quả, lần lượt như thế cả cây đều là quả, lại không thấy thân cây, cũng không thấy cành, nhánh lá. Bồ-tát vào Thiền định thực hành nhẫn cũng như thế. Nếu như có người đến cắt mũi Bồ-tát, cắt một sinh hai, cắt hai sinh bốn, cắt bốn sinh tám, cắt tám sinh mười sáu, cắt mười sáu sinh ba mươi hai cái mũi, lần lượt như thế, toàn thân là mũi, không thấy thân hình cũng không thấy tay, chân, đầu, mắt. Chúng sinh chỉ thấy mũi nhiều vô số, liền khi ấy khởi tâm hối hận đã lấy mũi của Bồ-tát, xin nguyện được thấy thân thể ban đầu của Bồ-tát. Lúc ấy, Bồ-tát ra khỏi Tam-muội, tâm ý an ổn, từ định hiện trỏ lại thân thể ban đầu dần dần cử động, hơi thở bình thường và từ từ mở mắt như đã nói. Chúng sinh thấy vậy cùng nhau gieo mình năm vóc sát đất đảnh lễ quy y, xin được hầu cận bên cạnh Bồ-tát. Khi ấy Bồ-tát quán xét tâm niệm của chúng sinh, tùy thời thích hợp căn cơ mà độ thoát cho họ. Bồ-tát lại nhập vào Tam-muội, nội tâm thanh tịnh vắng lặng, không có ý niệm gì. Lại có chúng sinh đến chỗ Bồ-tát, cùng nhau vây quanh móc mắt của Bồ-tát, mắt của Bồ-tát trở lại nhiều như lưu ly rạn nứt. Giả sử có người lấy lưu ly rạn nứt ấy, như lấy trái Tỳ-la rải trên đất, nát như hạt cải không thể thâu lại được, nhưng tướng ánh sáng của những mãnh vụn ấy vẫn sáng rực soi chiếu tất cả. Chúng sinh thấy hình thể của Bồ-tát toàn là mắt, chứ không thể thấy được hình tướng ban đầu, liền khi ấy phát khởi ý niệm hối hận về việc đã làm, cùng tự trách mình, mong muốn thấy được hình thể ban đầu của Bồ-tát. Lúc ấy, Bồ-tát ra khỏi Tam-muội, tâm ý an ổn, từ định hiện trở lại thân thể ban đầu. Chúng sinh thấy vậy cùng nhau gieo mình năm vóc sát đất đảnh lễ quy y, nguyện xin được ở bên cạnh Bồ-tát để thân cận cúng dường. Bấy giờ, Bồ-tát quán xét những ý nghó của chúng sinh, tùy thời thích hợp căn cơ mà độ thoát cho họ. Khi ấy Bồ-tát trở lại nhập vào Tam-muội, nội tâm vắng lặng không có ý niệm khác. Có những chúng sinh đến chỗ Bồ-tát tay cầm dao bén chặt bỏ tay chân của Bồ-tát, nhưng tay chân sinh trở lại giống như cây Cù-đa-la. Cây Cù-đa-la là một loại cây nếu có người đến chặt bỏ hết nhánh lá, đem chẻ ra từng đoạn và rải khắp nơi, chỉ trong khoảnh khắc nhờ đất mà cành nhánh lá trở lại thành cây. Bồ-tát cũng như vậy. Khi ấy Bồ-tát cũng như thế, thân thể tay chân đều bị chặt hết không còn như cũ. Chúng sinh chỉ thấy hình tướng của Bồ-tát khi đã mất hết tay chân, liền sinh tâm hối hận, tự trách mình, nguyện muốn thấy được hình thể ban đầu của Bồ-tát. Lúc ấy, Bồ-tát ra khỏi Tam-muội, tâm ý an ổn, từ định hiện trở lại thân thể ban đầu, dần dần cử động, hơi thở bình thường, từ từ mở mắt như đã nói. Chúng sinh thấy vậy cùng nhau gieo mình năm vóc sát đất đãnh lễ quy y, nguyện xin được thân cận bên cạnh Bồ-tát. Bấy giờ, Bồ-tát quán xem xét tâm niệm của chúng sinh, tùy thời thích hợp với căn cơ mà độ thoát cho chúnng sinh. Đó là Bồ-tát biết được tâm ái dục hay không ái dục, ái dục nhiều hay ít của chúng sinh. Bồ-tát cũng không nghó: Ta ở trong trần lao mà bỏ mất việc làm vô ích, cũng lại không nghó: những chúng sinh này dể dàng dạy bảo cho tốt. Những việc Bồ-tát làm mà không thấy làm, cũng lại không thấy có người thọ nhận sự giáo hóa. Việc làm và người được giáo hóa đều vắng lặng, cũng không thấy một, cũng chẳng thấy không là một. Đã không có một thì làm sao nói một. Nói là một pháp cũng chỉ là giả danh. Nói mắt, mắt cũng chỉ là giả danh. Tai, mũi, lưỡi, thân, ý, cho đến sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp cũng vậy. Sở dó Bồ-tát nói một pháp là muốn chỉ bày pháp môn và thị hiện vô lượng pháp môn, dẫn dắt đến không pháp để giáo hóa chúng sinh. Thế nào là chúng sinh có tâm giận dữ hay không giận dữ, giận dữ nhiều hay ít, Bồ-tát đều biết tất cả? Đức Phật bảo với Tối Thắng: –Bồ-tát đi vào trong vô lượng cõi Phật, xem xét từng động vật có hình dạng như các loài côn trùng bay đi, bơi lội, loài động vật sống có hơi thở cho đến loài kiến, những chúng sinh này có tâm giận dữ hay không giận dữ, giận dữ nhiều hay ít Bồ-tát đều biết rõ hết, tùy theo sự lựa chọn để đáp ứng những loại thuốc thích hợp cho chúng. Giả sử có chúng sinh nhiều giận dữ, liền thị hiện cho họ thấy về khổ, không, vô thường. Hoặc có cầm thú nhai nuốt lẫn nhau, hoặc có giặc cướp đao binh làm hại, hoặc bị nạn lửa nước trôi chảy thiêu đốt, các sự biến hiện ra như thế không thể kể hết. Giả sử tâm chúng sinh ấy giác ngộ được thì ngay nơi cảnh giới ấy liền được giáo hóa giải thoát. Nếu có chúng sinh thấy sự vô thường biến đổi mà tâm không giác ngộ thì bấy giờ, Bồ-tát lại dùng trí tuệ quyền xảo nhập vào Tam-muội Nhẫn Tam-muội đó gọi là Quán vô thường. Lại có Tam-muội gọi là Từ để hàng phục cấu uế. Nếu có Đại Bồ-tát nhập vào Tam-muội này liền có thể hàng phục các tâm giận dữ. Nếu có loài xấu ác, La-sát, Dạ-xoa, quỷ thần, đạo tặc muốn đến làm hại Bồ-tát mới đi nửa đường liền quay trở lại. Vì sao? Vì năng lực của định Từ ấy che chở khắp mười phương, nên vô số cõi nước được cứu giúp, do nhập vào Tam-muội Từ này. Pháp giải thoát có mười việc. Đó là: Tu tập trí tuệ sâu xa, thực hành vô lượng hạnh nghiệp, ghi nhận tất cả, ý nghó không quên mất. Do không có giới hạn nên dùng pháp giới làm giới hạn, để nhập vào không giới hạn. Sự tu tập của chư Phật ở quá khứ, hiện tại và vị lai là dùng pháp ấn vô thượng để ấn chứng. Nương vào năng lực của Như Lai để tăng thêm lợi ích cõi Phật. Thường tự lập chí. Làm thanh tịnh đạo tràng. Xây dựng hạnh nghiệp Bồ-tát. Người thực hành như vậy là thích ứng với pháp luật nên không còn sự sinh được mắt trí tuệ bỗng nhiên đại ngộ, tuệ nhãn thanh tịnh, vónh viễn không còn màn phiền não, được mắt chủng tánh, được mắt Phật thanh tịnh và mắt tuệ thấy khắp, mắt phân biệt sâu xa, mắt pháp thường ổn định, mắt Thiện tri thức dùng để giúp đỡ, mắt đạo thâm sâu, nhờ được mắt biện tài nên lời nói hơn hết, được mắt không nghi ngờ nên tâm không phân biệt đây kia, cũng không do dự, hội nhập mắt pháp môn dẫn dắt kẻ mê mờ, phân biệt nghóa lý, khai mở pháp cam lồ, thân cận Thiện tri thức, thành tựu tâm Đạo. Những cảnh giới không gì làm trở ngại cũng không có ai có thể hủy hoại chỉ trích. Đó là Bồ-tát phân biệt các loại mắt, thành tựu đạo nghiệp, làm bạn lành cứu giúp thế gian, dự đoán những gì chưa phát sinh thì cần phải làm gì, xây dựng thiện căn, giáo hóa không bị chướng ngại, công đức thành tựu thì đạt được sở nguyện, chân chánh nhập thai, đạt được giải thoát, dứt trừ lưới nghi. Trí tuệ trùm khắp như mây giăng đầy hư không. Dùng pháp bậc Thánh làm sạch những cấu uế của tâm. Chí nguyện đã lập luôn luôn hiển hiện, những hoạt động của tâm không bị trở ngại, tâm tin kiên cố thì công đức không cùng tận. Thân cận kính lễ chư Phật, diệt trừ các tưởng buồn vui. Đạo tâm thâm sâu, chọn lấy trí tuệ trân bảo để cúng dường bậc trí, như hoa hương thơm đẹp nhờ gió mang đi ai cũng đều nghe, những nơi cấu uế đều được làm sạch. Này Tối Thắng nên biết! Ta đang ở trong cõi Diêm-phù-đề, nước ấy tên là Tỳ-xá-ly, dùng mắt thường xem xét các cõi nước khắp mười phương có những nỗi thống khổ buồn lo không hơn cõi này, nhưng lại sinh ra dòng họ của Như Lai. Chúng sinh cõi này hôi hám, mùi hôi bay lên tận hư không cách mười ngàn do-tuần, nhưng trời đối với người, người là nhân của trời, trời cũng biết xem xét túc mạng của mình: Ta đã tích lũy công đức từ thân người, nếu không từ thân người mà gieo trồng những gốc công đức thì không có được những phước lạc an vui. Tối Thắng nên biết, khi ấy các vị trời, mỗi vị đem theo tùy tùng muốn đến thế gian cùng trụ vào hư không. Mùi hôi của nhân gian tỏa khắp như mây, hàng trời nghe được mùi tanh hôi bất tịnh của nhân gian, tất cả đều trở về chỗ cũ, không muốn đến nhân gian nữa. Sở dó như vậy là do mùi hương tinh khiết của họ không chịu được mùi tanh. Đại Bồ-tát thực hành tâm từ tâm Từ bi rộng lớn, không lựa chọn cõi nước đẹp hay xấu, sạch hay nhơ để giáo hóa, cũng không có tâm niệm là ta thích giáo hóa cõi này hay không thích giáo hóa cõi kia. Như ta ngày nay, nơi thế giới Nhẫn này giáo hóa tất cả chúng sinh. Như Lai Chánh Đẳng Chánh Giác ở khắp mười phương từ xa khen ngợi các Đức Phật trong mỗi cõi đều bảo với bốn chúng: Phương này phương kia khen ngợi dòng họ, tên tuổi của Phật, hiệu là Năng Nhân Như Lai. Trong thế giới Nhẫn kia có năm thứ hổn trược, năm loại vũ khí để đâm chém, năm thứ dao kiếm, năm ngọn lửa hừng hực, năm thứ rối loạn, năm loại không thể cứu được, năm nạn khó trừ, ở những nơi đó, Đức Năng Nhân giáo hóa được chúng sinh. Điều rất kỳ lạ là giảng dạy các pháp Độ vô cực của bậc Hiền thánh. Thân thanh tịnh của chư Thiên không có cấu uế, vừa đến tầng mây hôi hám họ liền bỏ về cõi trời, đến cung điện đi ra vườn sau, xuống ao Vô ưu trong bảy ngày bảy đêm tắm rửa, nhưng vẫn lo sợ mùi hôi thế gian còn vướng vào thân, tâm của những vị này hoàn toàn không ưa thích trở lại thế gian. Khi ấy mùi hương của chư Thiên theo gió bay xa đến không giới một vạn tám ngàn do-tuần. Chư Thiên tuy có hương với năng lực như vậy nhưng không bằng mùi hương của người trì giới vô dục này. Bồ-tát nên quán sát cấc phước của chư Thiên hưởng được cho là vónh cữu, khi thiên sứ xuất hiện thì hối hận không kịp, nguyện được sinh vào cõi người để tạo các công đức, khi đó thì tâm ý của họ còn chọn thơm hôi gì nữa. Bồ-tát cũng vậy, tuy ở trong khổ não, bị năm ngọn lửa đốt cháy hừng hực, nhưng tâm vẫn không mệt mỏi, không hối hận ý thường nhớ nghó giáo hóa chúng sinh. Nếu có người được thần thông của bậc Thánh thì dùng thần lực đó đưa một người đến cõi xông ướp hương thưm trong hư không, khi trở lại thế gian thân thể được xông ướp hương thơm trải qua hai mươi mốt giờ mùi hương mới hết. Người vô dục giữ giới hoàn toàn đầy đủ trải qua kiếp này đến kiếp khác mà hương giới đức vónh viễn không dứt. Bồ-tát sinh ở thế gian, sống trong thế gian nhưng làm ngọn đèn sáng lớn ở cõi đời, tuy óc cần lao nhưng không cho là khổ, ý đạo tăng trưởng, tâm không giảm sút. Đó là Bồ-tát quán sát chúng sinh có sân giận hay không, có sân giận nhiều hay ít, Bồ-tát đều biết rõ hết. Khi ấy Bồ-tát Tối Thắng bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Thế nào là Bồ-tát nhất tâm tư duy quán sát chúng sinh có ngu si hay không ngu si, ngu si nhiều hay ít, Bồ-tát đều biết hết? Đức Phật bảo với Tối Thắng: –Bồ-tát nhập vào Tam-muội Minh tuệ chánh thọ, quán khắp thế giới đến tận hư không. Trong ấy có những loài chúng sinh một chân, hai chân đến vô số chân, hàng Thiên, Long, Quỷ thần, A-tu-luân, Ca-lưu-la, Chiên-đà-la, Ma-hưu-lặc, Nhân và phi nhân Bồ-tát đều rõ nguồn gốc của chúng, phân biệt từng loại, xác định rõ ràng. Nếu có chúng sinh nhiều ngu si liền dùng phương tiện giảng thuyết mười hai nhân duyên: Vô minh duyên lành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên sáu nhập, sáu nhập duyên xúc (cánh lạc), xúc duyên thọ (thống) thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sinh, sinh duyên lão tử, ưu bi khổ não cùng các tâm tưởng loạn bất tịnh. Dùng trí tuệ vô tận giảng thuyết thông suốt mười hai nhân duyên theo chiều thuận hay nghịch. Vô minh diệt hành diệt, hành diệt thức diệt, thức diệt danh sắc diệt, danh sắc diệt Sáu nhập diệt, Sáu nhập diệt xúc (cánh lạc) diệt, xúc diệt thọ (thống) diệt, thọ diệt, ái diệt, ái diệt thủ diệt, thủ diệt hữu diệt, hữu diệt sinh diệt, sinh diệt tử diệt, tử diệt sầu bi khổ não và các hành bất tịch diệt. Hữu hậu là khổ não lớn. Niết-bàn là vi diệu. Bồ-tát quán xét các hành tướng như vậy để giảng thuyết tận cùng nguồn gốc các pháp. Nếu có chúng sinh ngu si, đầy những kiến chấp, nhận thức không rõ ràng thì Bồ-tát dẫn dắt họ tuần tự đi vào nơi yên tónh, làm cho họ hiểu rõ pháp vốn không, pháp không sinh diệt, không thường không doạn, phân biệt tướng sinh diệt của ba đời. Do những việc làm ngu si đời trước, ý thức không thể diệt được, mở rộng pháp môn, hiển bày trí tuệ vi diệu phát triển đạo Phật, đầy đủ các đức, không xả bỏ các Thiện tri thức của Bồ-tát, thường ở nơi thanh vắng của Bồ-tát, hội nhập pháp quán chính yếu sâu xa của Như Lai. Lại tư duy về mười pháp chính yếu. Tư duy về mười pháp chính yếu là gì? Gần gũi kho tàng giác ngộ tướng của Pháp thân. ý niệm không thể nghó bàn gom lại làm một. Hiểu về không, vô niệm cũng không gì cả. Tự khởi tự diệt cũng không chủ thể. Các hành nghiệp trong quá khứ không có đầu mối, không thể nắm giữ nên xuất sinh các cảnh, pháp giới, hư không cảnh giới cũng không cùng tận, tự cởi bỏ những trói buộc, vứt bỏ chấp trước về chúng sinh, nương vào căn lành thành tựu Nhất thiết trí, đạt đến cảnh giới trí tuệ vô lượng, trí tuệ nhanh chóng đều được thành tựu, đầy đủ tâm mong muốn của Bồ-tát, làm thanh tịnh lời nói và việc làm của Bồ-tát. Đạo nghóa của Như Lai chưa từng đánh mất, không bỏ tất cả pháp tướng của pháp tánh, vì đã hiểu biết sâu xa, ý không sai lầm, tâm vững chắc như kim cang không có năng lực nào hủy hoại được. Những diều được chư Phật thọ ký thì tất cả chúng sinh không ai có thể vượt qua, giảng thuyết không hai không hề lay chuyển. Đó là mười pháp cốt yếu của Bồ-tát tiến tới thành Đạo quả, chứng đắc Đạo không khó. Này Tối Thắng! Đó là pháp vô tận vi diệu của Bồ-tát, cần phải nhớ nghó mà tu tập.  <詞 id="113335703">Phẩm 20: BA ĐạO DIệT Độ Bấy giờ, Bồ-tát Tối Thắng từ chỗ ngồi đứng dậy, quỳ gối chắp tay bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Như Lai chí chân đạo đức không cùng tận, Như Lai không cần đến người hướng dẫn mà đạt đến giải thoát, siêng năng thanh tịnh tu tập, đạt đến kim cang Tam-muội không thể lường được. Hôm nay, nghe Như Lai nói về ba đạo diệt độ quy về một, không phải hai cũng không chấp vào hai. Nếu xét như vậy thì đâu cần dốc cầu đạo Vô thượng chí chân? Bạch Thế Tôn! Nguyện xin Thế Tôn diễn bày chánh pháp khiến cho những người ưa thích ngoại đạo, vónh viễn không còn nhận thức mê lầm. Bấy giờ, Đức Thế Tôn quay thân sắc vàng nhìn khắp những người đến dự hội, yên tónh hoàn toàn, tất cả đều nhất tâm không còn ý niệm nào khác; đưa mắt nhìn Tối Thắng và bảo: –Lời hỏi rất hay, thật khó được nghe! Như Lai sẽ giảng rõ cho ông để cho những người học đời sau hoàn toàn không còn nghi ngờ. Tối Thắng bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Con muốn được nghe. Phật bảo Tối Thắng: –Nguồn gốc của đạo thanh tịnh, không sinh các cấu uế. Vì thể tánh thanh tịnh nên các pháp thanh tịnh, tuần tự sẽ phân biệt Hữu học, Vô học. Bậc Vô học thanh tịnh thì được thanh tịnh cả ba đời nên thấu tỏ ba cõi. Đây là Tam-muội vi tịnh. Tối thắng nên biết! Ba đạo diệt độ phẩm loại và mục đích không giống nhau. Thân thể là gốc bẩn. ý niệm là ao bẩn. Tưởng là bụi trần lăng xăng. Thức là đầu mối. Trong bốn pháp trên, nếu diệt một còn ba thì không được thanh tịnh, diệt hai còn hai cũng không dược thanh tịnh, diệt ba còn một vẫn chưa thanh tịnh, diệt hết bốn thứ không còn tồn tại mới đạt đến thanh tịnh. Nhất thiết trí thanh tịnh cũng vậy. Từ dự lưu đến vô sinh, từ Trụ thứ nhất đến Trụ thứ mười đều diệt bốn hoàn, bốn quy, bốn ngại. Bốn đó là: Thân thể là gốc bẩn, phàm phu dẫy đầy. ý niệm là ao bẩn tuôn chảy bốn phía. Tưởng là bụi trần lăng xăng phát sinh tám vạn ái dục. Thức là đầu mối trói buộc trong ba cõi. Do vậy, bậc Thánh giả phô bày ba đạo tùy theo sự hơn kém. Nhưng thật ra, diệt độ không sai biệt gì cả. Đạo ở Niết-bàn không xa rời sự vắng lặng. Niết-bàn của Bồ-tát lấy việc độ người làm tên gọi. Niết-bàn của Bích-chi-phật lấy sự thị hiện thần túc làm tên gọi. Niết-bàn của Thanh văn lấy việc sự hạn hẹp làm tên gọi. Lại nữa, này Tối Thắng! Niết-bàn của Bồ-tát dùng Từ, Bi, Hỷ, Xả để giáo hóa chúng sinh. Giả sử, hướng dẫn một người vào đạo thì thân tâm được an lạc, hoan hỷ vô cùng. Khi ấy, ý thức hoàn toàn vắng lặng, trong sáng, không có niệm đạo và đời. Các giác quán thanh tịnh, Niết-bàn đối với các dục hoàn toàn diệt tận, không còn có đối tượng thì gọi là vô niệm. Người học vô niệm tuy có học cũng không thấy học; tuy có sắc cũng như không sắc, cũng không thấy săc, tâm, ý, thức, niệm cũng không có tâm, ý, thức, niệm. Từ thân năm ấm cho đến vô hình, Pháp thân thanh tịnh không có niệm và đối tượng để niệm. Tối Thắng nên biết! Niết-bàn như vậy đâu phải là xa, chớ nên quán sát như thế. Sở dó như vậy vì Pháp thân vô niệm quán thể vô hình gọi là Niết-bàn. Thể tánh của Niết-bàn tức là pháp quán một mà không hai, cũng không sai khác. Niết-bàn không do tên gọi, không thể thấy, cũng không thể đặt tên gọi Niết-bàn. Này Tối Thắng! Đó là Bồ-tát học đạo thanh tịnh của Niết-bàn mà đối với đạo nên niệm không niệm. Tối Thắng nên biết! Bồ-tát muốn thực hành và hiểu rõ thể tánh Niết-bàn của đạo thanh tịnh này, cần phải tu hành hạnh thanh tịnh. Bồ-tát làm thé nào để tu hành thanh tịnh? Luôn luôn làm cho thân, khẩu, ý thanh tịnh không có lầm lỗi. Thân thanh tịnh không có lầm lỗi là như thế nào? Đó là Bồ-tát nội thân đã thanh tịnh và hiểu rõ ngoại trần cũng thanh tịnh, nội thân đã rỗng không và hiểu và hiểu ngoại trần cũng rỗng không, nội thân đã vắng lặng và biết ngoại trần cũng vắng lặng, nội thân giải thoát và ngoại trần cũng như vậy. Bồ-tát nên suy nghó về pháp quán, biết rõ biếng nhác, kiêu mạn cũng không biếng nhác, kiêu mạn. Tự mình không kiêu mạn thì đạo đâu có kiêu mạn. Cho nên. Bồ-tát hiểu rõ thân không kiêu mạn. Bồ-tát khởi niệm quán về sự nhơ bẩn của thế gian. Thân như ảnh, tiếng vọng, không thấy tướng thanh tịnh, đạt được vô tướng thanh tịnh liền chứng Niết-bàn. Đó là đạo Niết-bàn thanh tịnh không sai biệt của Đại Bồ-tát. Tối Thắng lại bạch Phật: –Thân của Bồ-tát thanh tịnh dục, dục mà chẳng phải dục là thế nào? Phật bảo Tối Thắng: –Bồ-tát trở lại trong năm đường, lưu chuyển trong sinh tử, dùng phương tiện giáo hóa thích hợp, đúng thời, nói về thân thanh tịnh tức là bàn về Vô sinh. Người thấy được sinh tử tức là chẳng còn sinh tử, hiểu rõ Vô sinh. Sinh, tử là một không có khác, cũng không có nhiều tên sai biệt. Bồ-tát lại nên hiểu rõ sự tạo tác của thân để đạt dược Vô sinh. Sự sinh, tử này tức là biết rõ sự tạo tác của thân, hiểu rõ pháp trong lẫn ngoài. Sự tạo tác của thân là gì? Sự thay đổi trong ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai. Quá khứ không dấu vết, hiện tại không dừng lại, vị lai không tên gọi. Lại nữaTối Thắng! Quá khứ đã dứt sạch, vị lai thì vô cùng, hiện tại đang biến chuyển, cũng nên tư duy pháp tận, không tận là như thế nào? Nghóa là Bồ-tát phân biệt, hiểu rõ tướng hư không thanh îinh. Không tận kia là vắng lặng, vô vi không có tưởng niệm. Khởi vọng niệm đối với giới luật của bậc Thánh liền có nhiều lỗi lầm lớn. Phật bảo Tối Thắng: –Thuở xưa, Ta thành Phật ngồi bên cội Bồ-đề suốt bốn mươi chín ngày đêm, nhìn cây Bồ-đề không chớp mắt, nhớ nghó hằng sa chư Phật trong quá khứ do đâu mà tự giác ngộ, chứng được pháp gì trước tiên? –Này Tối Thắng! Ta lại nhớ nghó hằng sa chư Phật trong quá khứ, đạt được Pháp thân trước, sau mới thành Tối chánh giác. Nhân duyên hòa hợp có thức, có tưởng, biết nhân duyên đó là không, không tưởng, không bị nhiễm chấp; cũng lại không thấy sinh, diệt, thường, đoạn. Này Tối Thắng! Sự quán sát như vậy là thân thanh tịnh. Thân thanh tịnh tức là trở về biển trí tuệ. Tối Thắng nên biết, nghóa trở về biển trí có mười việc. Đó là: Trở về biển của Phật thì pháp không hình để quán sát. Trở về biển của chúng sinh thì vượt khỏi nạn của hữu. Trở về biển của pháp thì tích tập các trí tuệ. Trở về biển của phước điền thì kiển lập căn bản cho cái không gốc rễ. Trở về biển của năm ấm thì thị hiện ra pháp nhơ uế. Trở về biển trí tuệ để phân biệt tôn chỉ của giới luật. Trở về biển nghóa căn bản để tăng trưởng căn lành. Trở về biển trú tâm để hiểu rõ tất cả suy nghó tâm ý của chúng sinh, vô số sự hiểu rõ, không chướng ngại. Trở về biển đức hạnh để không trái với sở nguyện. Trở về biển thệ nguyện để xét rõ nguồn gốc sinh tử. Này Tối Thắng! Đại Bồ-tát trở về biển ý của mười môn, phải nhớ nghó tu tập tất cả để quay về Pháp thân vô lậu của Như Lai. Lại quán sát thân vô lậu của Như Lai, không trú vào không, không rơi vào ba cõi, biết rõ không là Pháp thân, quán thân vô lậu như an trú vào Pháp thân, trú mà chẳng thấy trú, cũng không chỗ trú. Dùng thân vô lậu để nhập vào biển sinh tử thị hiện sắc thân như không sắc thân, không bờ cõi, không hình tướng, không thể thấy hết. Sắc thân diệt rồi cũng chẳng thấy diệt, cũng không thấy chân như của sinh thân như an trú vào chân như. Sự thanh tịnh của thân Như Lai cũng không có tỳ vết, nhập vào cõi chúng sinh, tùy theo tâm tánh và hình tướng mà thị hiện, hiểu rõ thanh tịnh cũa thân chúng sinh, thân mình và thân chúng sinh thanh tịnh một mà không hai, cũng không nhiều, chân như bình đẳng. Chân như không đạo, chẳng thấy có đạo; pháp thế tục cũng không thấy có hữu lậu vô lậu, cũng lại không có giáo lý ba thừa đó là La-hán, Bích-chi-phật và Phật đạo của Bồ-tát, cũng lại không thấy mười lực, bốn sự không sợ, mười tám bất cộng, đối với các pháp của Thánh hiền đều không chấp trước. Đó là hạnh của Bồ-tát thích ứng với thanh tịnh, thích ứng mà không nơi thích ứng. Lại nữa, Tối Thắng! Đại Bồ-tát nên suy nghó lời nói thanh tịnh. Lời nói nên thanh tịnh là thế nào? Nghóa là Bồ-tát nhập vào Tam-muội hư không thanh tịnh, quán khắp tam thiên thế giới, những loài ở trong ấy, tất cả người hiền kẻ ngu, trong sạch, tốt xấu đều trở về chỗ không thanh tịnh. Bồ-tát lại nên suy nghó, quán xét bình đẳng, cũang không thấy không bình đẳng. Đối với bậc nhất nghóa đế cũng không thấy bình đẳng, cũng không thấy không bình đẳng. Vì sao? Vì quán tướng bình đẳng nên cũng không thấy bình đẳng, cũng không bình đẳng với vô tướng. Lại dùng tướng bình đẳng quán sát các pháp, không thấy đạo pháp không giới hạn, không thấy pháp thế gian có giới hạn, không thấy bậc Thánh hiền vượt khỏi ba cõi, không thấy sức của kẻ phàm phu có mạnh, yếu. Tối Thắng nên biết, Bồ-tát phân biệt âm thanh thanh tịnh, không có tưởng của chúng sinh chấp vào ý. Xét rõ tiếng vọng quán biết không có tiếng vọng. Không thấy buồn vui là thường, chẳng phải thường, thích ở trong điên đảo mà chẳng phải là điên đảo. Biết rõ chúng sinh đều thanh tịnh, không ham muốn, không nhiễm chấp, không sinh diệt, thường đoạn có ba độc căn bản: tham, sân, si. Lại nên quán sát mười hai nhân duyên, mười tám giới, từ vô minh cho đến tử đều thanh tịnh, vô minh cũng không biết sự tạo tác của ngã. Hành cũng không biết từ vô minh mà có, các pháp tự sinh, các pháp tự diệt.Pháp không thấy pháp sao vô minh, hành? Này Tối Thắng! Pháp không biết nhau, pháp sinh thì sinh, pháp diệt thì diệt. Pháp không tự biết sinh cùng với không sinh, diệt cùng với không diệt. Cho nên nói không sinh, diệt, thường đoạn. Bấy giờ, Bồ-tát Tối Thắng bạch Phật; –Bạch Thế Tôn! Vô minh, hành trong ba đời đều theo thân lưu chuyển, có thân thì hành sinh, không thân thì hành diệt, cho đến lão tử cũng lại như vậy. Nguyện xin Thế Tôn diễn rộng những nghi ngờ khiến chúng sinh đời vị lai không còn nghi ngờ trói buộc. Bấy giờ, Thế Tôn bảo Tối Thắng: –Vô minh không nhiễm vào thân thì thân không bị vô minh. Vô minh cũng không thấy ta có thân, thân cũng không thấy ta có vô minh. Tất cả thanh tịnh cũng không ngã và ngã sở. Nói ngã và ngã sở đều tự vắng lặng. Đó là tất cả thanh tịnh của Bồ-tát. Nói lời thanh tịnh thì thế nào là lời nói? Thế nào không phải là lời nói? Lời nói không ở bên trong cũng không ở bên ngoài, không thấy lời nói có ra có vào liền được mười nghóa kiên cố, phân biệt cảnh giới, các ấm của chúng sinh. Thế nào là mười? Đó là Bồ-tát trước cầu giải thoát để giáo hóa tất cả chúng sinh, hiện vô số sách giáo hóa, tinh tấn không bị lệ thuộc, hiện lực vô ngại vì tất cả các pháp đều không, họên năng lực ngưng ý, đối với tất cả các pháp được tự tại, hiện tâm, ý, thức qyuay trở lại, có chuyển mà không chuyển, phân biệt nghóa lý, hiện năng lực pháp tự tại, trí tuệ hiển bày, hiện năng lực tự tại, thuyết pháp cho chúng sinh, hiện lực vô úy, an trú vào chánh pháp, hiện lực biện tài, hiện vô lượng trí cùng khắp tất cả, hiện năng lực không hai, không gì sánh bằng. Như vậy Tối Thắng! Đại Bồ-tát phân biệt sự hướng đến chủng tánh của chúng sinh cũng không trong cũng không ngoài, không giữa. Cho rằng lời nói ấy là Bồ-tát phải không? Đáp: –Bạch Thế Tôn! Không phải. –Tham, sân, si là Bồ-tát phải không? Bồ-tát đáp: –Bạch Thế Tôn! Không phải. –Nếu không cho tham, sân là Bồ-tát thì cấu uế trói buộc là Bồ-tát chăng? Bồ-tát đáp: –Bạch Thế Tôn! Không phải. Phật bảo Tối Thắng: –Đại Bồ-tát không chấp lời nói, cũng không chấp trước, cũng chẳng phải không chấp trước. Mắt, tai, mũi, miệng, thân, tâm cũng không thấy chấp cũng chẳng phải không chấp trước. Âm thanh được nói ra và tiếng vang do gió thổi đều nhờ cái duyên hòa hợp mới có âm thanh. Người tài giỏi, kẻ ngu si, người đẹp, kẻ xấu, âm thanh chẳng khác nhau, cũng không ở trong, lại không ở ngoài, tìm ở giữa cũng không thể được. Phật bảo Tối Thắng: –Đại Bồ-tát trú vào không, thiền định không tán loạn, khởi niệm, suy nghó, hành động đều như hư không, không trú, chẳng trú, cũng không có các tưởng. Này Tối Thắng! Tiếng nói của chúng sinh, tất cả âm thanh đó đều rỗng không, không chân thật, các pháp giả dối không thể nương tựa. Bấy giờ, Tối Thắng bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Thánh đế của Như Lai đưa đến đạo quả hiền thánh, đều là phương tiện quyền xảo giả lập, không chân thật. Sao thành tựu Tối chánh giác được? Phật bảo Tối Thắng: –Như Lai Chánh Đẳng Giác bằng đạo pháp chân thật, biết rõ các pháp chẳng phải chân, chẳng phải có. Lại nữa, Tối Thắng! Đại Bồ-tát ra vào trong năm đường giáo hóa chúng sinh, tùy căn cơ thích hợp mà độ thoát cho họ, quán sát âm thanh, tên gọi chúng sinh, chuyển vào vô thượng pháp luân, tùy theo nghóa lý tùy theo, câu pháp khiến đạt được kết quả. Thấy chúng sinh ưa thích Khổ liền nói nguồn gốc khổ, hiểu rõ các pháp lời nói đều chẳng có lời nói. Lời nói là gì? Từ đâu phát ra? Biết rõ lời nói không có chỗ sinh ra. Khi ấy Bồ-tát lại vì chúng sinh ưa thích Tập mà nói căn bản của Tập. Tập này là sinh nhân duyên, thấy rõ nhân duyên không có đầu mối, không thấy có Tập cũng không thấy có tên gọi. Này Tối Thắng! Tất cả âm thanh của chúng sinh ưa thích Tập đều rỗng không, chẳng chân thật. Lại nữa Bồ-tát tùy căn cơ của chúng sinh dùng giáo pháp dạy dỗ làm cho họ nghe pháp, thuận theo đó mà thực hành, cũng không chấp vào hành động và kết quả của nó. Đó là Bồ-tát làm mà không sự làm, chứng mà không thấy chứng. Như vậy chỉ cần một tướng diệt hết các khổ. Lại nữa, Bồ-tát nên tư duy chúng sinh ưa thích diệt, thấu rõ các pháp không chỗ sinh ra, ngôn ngữ, âm thanh không chỗ chấm dứt, hoặc ngồi, hoặc đi thường luôn nhất tâm. Tuy ở nơi ồn ào, náo nhiệt mà vẫn nhàn tịnh. Giả sử ở giữa đại chúng Hiền thánh vắng lặng ý muốn phát ra lời nói, liền ngưng được lời nói. Xét tìm lời nói ấy chấp trước hay không chấp trước, không thấy diệt và không diệt. Tất cả các pháp cũng không thấy tận, sinh, diệt, thường đoạn, lời nói từ âm thanh hoàn toàn không dấu vết. Lại nữa, Bồ-tát ưa thích Đạo, chúng sinh tư duy về tám đường, chúng sinh tu tập hướng đến Niết-bàn. Từ chánh ngữ, chánh nghiệp cho đến chánh định như pháp không như pháp đều bình đẳng như hư không. Quán không hai mà chẳng trái ngược nhau.Đó là lời nói của Đại Bồ-tát thanh tịnh không lầm lỗi. Lại nữa, Đại Bồ-tát nên nhớ nghó, tư duy về sự thanh tịnh của ý thức. Bồ-tát tâm ý được thanh tịnh là thế nào? Nghóa là tâm Bồ-tát thanh tịnh, cũng không nhơ bẩn vốn không thanh tịnh, không thấy nguồn gốc, nguồn gốc của tâm ý không bị nhiễm ô, không gì có thể làm cho tâm trở ngại. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát biết nguồn gốc của tâm thanh tịnh, không thấy có thanh tịnh. Thế gian nhiều mê lầm nên chấp trước. Bồ-tát đạt đến không, tư duy không có sự chấp trước, phân biệt rõ ràng, thực hành phương tiện quyền xảo đối với nguồn gốc thanh tịnh. Bồ-tát nên biết, nguồn gốc của tâm kia vốn không đến, đi, không chọn lựa cao, thấp, thứ bậc sang, hèn, không thấy xưa có nay không, không nghó đến nguồn gốc công đức. Nhớ nghó nguồn gốc công đức chính là không, là vô danh, là Niết-bàn. Bồ-tát hỏi: –Nguồn gốc công đức ấy có được hiểu là nguồn gốc của tâm thức không? Phật trả lời: –Không. Bồ-tát hỏi: –Bên trong rỗng không có biết được bên ngoài chăng? Phật đáp: –Không. Tối Thắng bạch Đức Phật: –Nếu như vậy thì không là thế nào? Phật bảo: –Nguồn gốc tâm là không, chẳng phải là nguồn gốc, cũng chẳng phải không nguồn gốc, cũng chẳng phải tâm, cũng chẳng phải không tâm. Nếu tâm không thì nhất định Bồ-tát không tự thấy tâm. Tâm mình vốn không thì bên ngoài cũng không, một mà không hai mà cũng không có nhiều tên khác nhau. Tâm chẳng phải là tâm của ngã, không tâm đối với tâm. Tâm của ngã chẳng phải tâm, không ngã đối với ngã. Sắc chẳng phải sắc của ngã, không phải sắc đói với sắc. Ngã chẳng phải ngã của sắc, không ngã đối với ngã. Tâm của ngã, sắc của ngã chẳng phải tâm của ngã, sắc của ngã. Ngã của sắcn ngã của tâm chẳng phải ngã của sắc, ngã của tâm. Cho đến thanh, hương, vị, xúc, pháp chẳng phải ý của ngã, pháp của ngã, cũng chẳng phải ngã của ý, ngã của pháp. Vì sao? Vì tâm trong rỗng không, ngoài cũng rỗng không. Do biết ngoài là không nên biết rõ các pháp cũng là không như vậy. Một nên chẳng là hai, không có tướng gì cả. Tất cả các pháp cũng như vậy, không thấy xưa có nay không, cũng không thấy nay có xưa không, không cũng chẳng phải không, có cũng không phải có, có không biết từ đâu có, không không biết từ đâu không, không không như vậy tự là không, có có thường tự là có, có không sinh từ có, không không sinh từ không, không không chẳng không tự không, có có không tự có, có không biết không, không không biết có. Tất cả âm thanh rỗng không, chẳng phải thật. Đó là tâm Bồ-tát được thanh tịnh. Tâm Bồ-tát thanh tịnh là không bị ba mươi sáu thứ phiền não làm nhiễm ô. Những cấu bẩn của tâm vónh viễn không còn chỗ bám víu. Lại dùng phương tiện thiến xảo thấu đạt tự tâm thanh tịnh, cũng không ở trong sự thanh tịnh khởi vọng tưởng chấp trước. Đại Bồ-tát do thấu rõ gốc ngọn thanh tịnh, rỗng không, cho nên vào được định ý Tam-muội tự tại, liền có thể trở lại trong sinh tử, qua lại trong năm đường, gieo trồng các công đức. Các công đức ấy là biết tâm, ý, thức. Lại dùng tâm mình thương yêu chúng sinh, hiểu rõ chúng sinh là không, không thật có, gốc ngọn của ngã, nhân, thọ, mạng đều thanh tịnh. Lại dùng công đức ấy ban khắp chúng sinh, khiến cho muôn loài siêng năng tu học đạo pháp. Chúng sinh và đạo pháp bình đẳng không hai, quán được như vậy là gốc ngọn thanh tịnh. Lại do sự thanh tịnh này mà bình đẳng với tham, sân, si. Tham, sân, si bình đẳng thì đạo cũng bình đẳng. Đạo tức là tham, sân, si. Tham, sân, si tức là đạo. Dậo thanh tịnh thì tham, sân, si cccũng thanh tịnh, một tức không hai cũng không nhiều thứ. Bồ-tát quán xét gốc ngọn vốn thanh tịnh nên không chấp vào các cấu uế. Khi ấy Đức Thế Tôn bảo Tối Thắng: –Hành động của thân thanh tịnh nên không làm các điều ác. Lời nói thanh tịnh nên thường quay về với sự chân thật. Tâm ý thanh tịnh là Từ bi với chúng sinh. Các hạnh đầy đủ mới gọi là Bồ-tát. Khi Đức Thế Tôn giảng thuyết phẩm “Bản vô thanh tịnh” này có trăm ngàn Bồ-tát đều chứng Nhất sinh bổ xứ, vô số ngàn người phát tâm Bồ-đề vô thượng.  <詞 id="113335704">Phẩm 21: Thừa Vô Tướng Bồ-tát Tối Thắng bạch Đức Phật: –Đại Bồ-tát từ lúc mới phát tâm cho đến khi thành Phật, làm thế nào để hiểu một tướng, không tướng? Lại dùng không tướng để hiểu rõ một tướng? Bồ-tát làm thế nào để dùng tâm thanh tịnh đi vào chỗ ái dục, rồi từ trong ái dục trở lại tâm thanh tịnh? Đức Phật bảo Tối Thắng: –Bồ-tát nương vào tâm không tướng thanh tịnh, thực hành phương tiện, đi khắp năm cõi mười phương thế giới, hoặc sinh vào Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới. Tuy ở trong Dục giới mà không bị lệ thuộc vào các cõi, cùng với mọi người dùng pháp lạc để sống an vui. Lại vào cõi Sắc giới cùng với trời người chung ở cung điện, hoặc ở Phạm thiên cùng vua Phạm thiên nói pháp “Thừa vô tướng” vi diệu, ở trong các cõi trời hoặc kinh hành, hoặc im lặng như bậc Thánh, ở trong đó cao quý nhất không ai sánh bằng. Lại nữa Tối Thắng! Bồ-tát ở trong cõi ấy thị hiện thuyết pháp vi diệu, dần dần giáo hóa được chư Thiên thực hành chân đế, trừ bỏ tâm chấp trước sự thanh tịnh của Phạm thiên, trú ở trong ấy hoặc trải qua trăm kiếp, cho đến trăm ngàn kiếp, lại từ cõi Sắc sinh xuống Dục giới, ở trong ấy thường thích vắng lặng, một mìn ở nơi rừng núi. Tuy ở trong loài người nhưng tâm ý luôn thiền định, hoặc có khi Bồ-tát hiện có gia đình, vợ con quyến thuộc, lại cùng với chúng sinh lập nghiệp ở đời; ở nơi chỗ cao sang thị hiện nghèo hèn, ở nơi nghèo hèn thị hiện sự tôn quý; quán tâm chúng sinh nên cùng nhau chuyện trò, mọi cử chỉ không kiêu mạn cũng không tự ty. Sở dó như vậy vì hiểu rõ nguồn gốc thanh tịnh. Lại nữa, Bồ-tát ở trong trăm ngàn Thiền định Tam-muội, nhờ oai thần Tam-muội quán xét tam thiên đại thiên thế giới, hiện thân tướng tốt đẹp, thần thông rực rỡ, dùng phương tiện quyền tuệ du hóa tự tại, tâm hợp với sự thanh tịnh mới gọi là vô tướng. Đại Bồ-tát ứng hợp với định này mới mong cầu đạo “Thừa vô tướng”, không tướng thấy sinh, không tướng thấy vô sinh, do không tu tập đạo cũng không có tướng đối với bậc Thánh nên không có tướng của đạo, cũng không cầu tướng, cũng không cầu vô tướng, thấu rõ tướng của đạo là vô tướng, khi sinh liền sinh, khi dịet liền diệt, có hướng đến tướng của đạo, không tướng thì hành diệt, có tướng hành cũng diệt. Đó là tướng đạo của Bồ-tát. Đại Bồ-tát cũng không cầu tướng để làm tướng của đạo. Vì sao? Vì đạo tự không có tướng, không cầu vô tướng làm tướng của đạo, không thấy hòa hợp, phân tán dùng làm tướng của đạo, không thấy mười hai nhân duyên ngã, nhân, thọ, mạng. Từ vô minh có hành mà có tướng của đạo, lại cũng không thấy ngã, nhân, thọ, mạng. Từ vô minh có hành mà có tướng của đạo. Vì sao? Vì đạo tự vô tướng cũng không thấy tướng, không mong cầu sự sinh, để tìm cầu tướng của đạo. Biết rõ bốn đại là thân chẳng phải thân, là thường chẳng phải thường, là không chẳng phải không, là ngã chẳng phải ngã, lấy, bỏ, hợp, tan đều chẳng phải chân thật. Đó là Đại Bồ-tát nên thích ứng như vậy, cũng không khác, chẳng phải không khác, không thấy khác cũng không thấy không khác, liền ứng với tướng đạo là vô tướng. Thân thiện, thân ác, thân ký, thân vô ký, thân hữu lậu, thân vô lậu, thân hữu vi, thân vô vi. Thân thành, thân bại, hợp, tan, lấy, bỏ dùng tướng và tướng của đạo phân biệt đều là không, không thật có, như mộng, như ảnh, như tiếng vọng, như dợn nắng, chẳng phải thân rỗng không, cũng chẳng phải thân không rỗng không, chảng phải thân tướng, chẳng phải thân vô tướng; chẳng phải thân nguyện; chẳng phải thân vô nguyện; chẳng phải thân, cũng chẳng phải cùng vô dục tương ưng, chẳng phải không tương ưng, chẳng phải thân cũng không cùng với mười hai nhân duyên cũng không tương ưng, chẳng phải không tương ưng, mười hai nhân duyên cũng không tương ưng, chẳng phải không tương ưng, cho đến mười tám giới cũng như thế. Pháp tánh như vậy không cùng với tướng đạo tương ưng, chẳng phải không tương ưng. Từ vô minh sinh ra ái cũng như vậy, không cùng tướng đạo tương ưng, chẳng phải không tương ưng. Tất cả các pháp: Danh sắc, sáu nhập không cùng với tướng đạo tương ưng, cũng chẳng phải không tương ưng. Đại Bồ-tát nhập vào Tam-muội bất động diệt tận định ý, quán tưởng đạo cũng không cùng mười tám giới tương ưng, chẳng phải không tương ưng. Pháp tánh không cùng với mười hai nhân duyên tương ưng, chẳng phải không tương ưng, các cấu uế phiền não vô cùng vô tận không thể nghó bàn, không cùng với tướng đạo tương ưng, chẳng phải không tương ưng, cho đến các tình của pháp giới không cùng mười hai nhân duyên tương ưng, chẳng phải không tương ưng, cho đến lão, tử và các pháp vô tham, sân, si không cùng với tướng đạo tương ưng, chẳng phải không tương ưng, hữu số, vô số, si không cùng với tướng đạo tương ưng, chẳng phải không tương ưng. Tướng đạo không hai, không cùng với hữu số, vô số tương ưng, cũng chẳng phải không tương ưng.Đối với bậc nhất nghóa đế, có thế tục, không thế tục, hữu lậu, vô lậu, hữu vi, vô vi, hữu ký, vô ký, pháp thiện, pháp ác, hoặc tốt, hoặc xấu, vì không hai hành chẳng phải không hai hành, không hủy hoại ý để mong cầu tướng đạo. Cầu tướng đạo không cùng với bậc nhất nghóa thế tục, không thế tục, hữu lậu, vô lậu, hữu vi, vô vi, hữu ký, vô ký, pháp thiện, pháp ác, hoặc tốt, hoặc xấu mà cùng tương ưng, chẳng phải không tương ưng. Lại nữa, Đại Bồ-tát đối với tướng, vô tướng của các pháp cũng không thấy tướng, chẳng phải không vô tướng. Đó là đạo vô tướng cũng không thấy tướng. Thế nên, tướng của đạo là vô tướng. Pháp tướng của vô tướng vắng lặng như hư không không tướng chẳng phải không có tướng, nên tương ưng với tướng này không có sự tương ưng. Như vậy, Đại Bồ-tát chứng được định ý tướng đạo này thì đối với các pháp giới đều được tự tại. Khi nhập vào định này rồi liền thấy rõ trên mỗi lỗ chân lông của thân mình đều hiện ra vô lượng, vô biên không thể nghó bàn cõi nước của chư Phật, đã hiện ra cõi nước rồi, lại hiện ra chúng đệ tử. Bồ-tát khát ngưỡng nghe pháp, lắng nghe không nhàm chán, làm cho đại chúng kia thấy Đức Như Lai thân vàng ròng phóng ra vô lượng hào quang khắp cả tam thiên đại thiên cõi nước. Mỗi hào quang có vô lượng, vô số cõi Phật. Trong mỗi cõi Phật hiện ra tướng sắc thân của Phật, ở trước đại chúng diễn nói pháp lớn. Người nghe ổn định, không xả bỏ Tam-muội định ý kim cang. Lại ở trong cõi ấy trải qua trăm ngàn ức kiếp qua lại giáo hóa, thị hiện quyền trí như không có quyền trívà không thấy đối tượng được giáo hóa bởi quyền trí. Tuy ở trong cõi ấy, tâm giống như hình bóng, sóng nắng, ảnh trong gương nhưng tâm vị ấy không có ý niệm này: “Kiếp số dài lâu vô cùng vô tận tìm mà không có sự khởi đầu, trong thời gian ấy sinh ra tâm lười biếng, cũng không nghó chúng sinh dễ giáo hóa. Ta trong một ngày một đêm giáo hóa hết thảy, hiện khắp hằng sa cõi nước chư Phật trong ức ngàn vạn kiếp. Trong sự giáo hóa của chư Phật, ta là hơn hết”. Đại Bồ-tát nhập vào định vô tướng đạo tánh như vậy, phân biệt từng lỗ chân lông trên thân thể, giáo hóa cùng khắp không mỏi mệt, mà không có người được giáo hóa. Đối với tham, sân, si cũng không tinh tấn siêng năng làm thanh tịnh thế giới ấy và đến nơi chúng hội của Như Lai không thấy dài, ngắn, không sinh ý niệm bất tịnh. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ở trong vô lượng pháp giới hàng phục tâm ý, nhẫn chịu các phiền não chưa từng tạo nghiệp, không cách ý nói được hành động của vị ấy, tinh tấn vô cùng, phân biệt hết thảy. Định bất tư nghì, định vô đạo tướng, định chân tế tướng, một mà không hai, cũng không sai khác, làm cho chúng sinh ấy phân biệt tướng đạo, có thế tục, không thế tục, hữu lậu, vô lậu, hữu vi, vô vi, hữu ký, vô ký, hữu dục, vô dục không thấy cùng với tướng đạo tương ưng, cũng chẳng phải không tương ưng, tướng đạo không cùng với mười hai nhân duyên tương ưng, cũng chẳng phải không tương ưng. Duyên vô minh có ái, sinh, lão, bệnh, tử cũng không tương ưng, mười hai nhân duyên không cùng với đạo tương ưng, cũng chẳng không tương ưng. Duyên vô minh có ái, sinh, lão, bệnh, tử không cùng với đạo tương ưng, cũng chẳng phải không tương ưng. Như vậy Tối Thắng! Đại Bồ-tát đạt được định ý tướng đạo này thì không thấy tương ưng, cũng không thấy không tương ưng. Đó là Đại Bồ-tát với định ý tướng đạo tương ưng mà không có sự tương ưng, đối với định vô tướng cũng không thấy tương ưng. Đó là tương ưng mà không có sự tương ưng, chẳng phải chỗ có thể hiểu biết của La-hán, Bích-chi. Vì sao? Vì chẳng phải là cảng giới của các vị ấy. Chư Phật Thế Tôn không thể nghó bàn, hội nhập vào tất cả thế giới nơi mười phương, hiện các tướng tốt, oai nghi cử chỉ, mười tám biến hóa, Tam-muội Sư tử phấn tấn vô úy. Này Tối Thắng! Đại Bồ-tát đầy đủ định ý tướng đạo của Như Lai, không xả bỏ định ý thệ nguyện vững chắc như kim cương vượt qua sự giáo hóa của chư Phật mà không có sự giáo hóa, không thấy giáo hóa, cũng không thấy không giáo hóa. Đại Bồ-tát nhất tâm trong một sát-na ra khỏi Tam-muội, không bỏ những chúng sinh bị khổ não trong mười phương, đích thân đi đến bố thí bốn việc, y phục, thực phẩm, voi ngựa, bảy báu, giường chiếu, vật dụng, thuốc men trị bệnh, dùng trí tuệ quyền xảo điều phục tất cả, hoàn toàn vì chúng sinh không vì mình. Từ cõi Phật này đến cõi Phật khác giáo hóa, xiển dương chánh pháp cùng khắp, hăng hái đi vào cõi Phật, khiến cho chúng sinh ở các cõi ấy đều được giáo hóa. Đối với người không hiểu biết thì làm phát triển Phật sự, hiện bày Nhất thiết trí. Muốn cứu độ nơi nào liền hiện đến ngay nơi ấy theo ý nghóa Đại Bồ-tát vào định ý tướng đạo này lại nhập vào tâm ý thức của chúng sinh trong hằng sa vô số các cõi nước của chư Phật khắp mười phương, quán sát, nhớ nghó, phân biệt hạnh nghiệp đời trước của chúng sinh trong các đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, cõi trời, người. Như vậy, Đại Bồ-tát trong một sát-na có thể rõ hết các cõi của chúng sinh. Hoặc có chúng sinh tu hành thiện đạo, tương ưng với định tướng đạo, cũng biết chúng sinh kia có tâm Tiểu thừa, tâm Bích-chi-phật, tâm Bồ-tát. Như vậy Đại Bồ-tát đi khắp thế giới chư Phật lễ bái, thân cận chư Phật Thế Tôn, làm thanh tịnh cõi Phật, làm mãn nguyện cho chúng sinh. Hoặc ở cõi chư Phật, thấy các loài chúng sinh tham lam, keo kiệt liền thị hiện thực hành bố thí, ở các cõi đó dựng ngọn cờ bố thí lớn, bằng Phạm âm thanh tịnh bảo mọi người: “Các vị nên biết! Ta là người bố thí tất cả mà không cầu báo đáp. Nếu có người thiếu y phục, thực phẩm, thuốc thang chữa bệnh, giường chiếu, đồ nằm, cõi nước, tài sản, vợ con, voi ngựa, bảy báu thì Bồ-tát liền bố thí, từ lúc mới phát tâm cho đến khi thành Phật trừ ba việc không bố thí, ngoài ra đều bố thí tất cả. Ba thứ không bố thí là gì? Một là cha, hai là mẹ, ba là sư trưởng. Đó là sự tạo lập căn bản mà Bồ-tát ở trong cõi Phật thực hành bố thí. Lại nữa, Đại Bồ-tát dùng phương tiện quyền xảo, đi đến hằng sa cõi nước mười phương, thấy chúng sinh lười biếng liền thị hiện thân trì giới, thực hành mười tám pháp, hoặc ở bên gốc cây, đồng trống, đất hoang, núi cao, hang sâu, rừng rậm, siêng năng hành trì giới luật không phạm giới pháp. Hoặc ở trong nhân gian luông giữ gìn mọi oai nghi cử chỉ, ra vào, tới lui, đi đứng, nằm ngồi tâm thường cẩn thận, chưa bao giờ lìa xa giới luật, hiểu rõ giới cấm, hoàn toàn không sở hữu, sinh thì diệt, tất cả dều vô thường. Thân ta cùng thân người như nhau không khác, đạt đến thanh tịnh. Từ địa này đến địa khác, cho đến Địa thứ mười không thấy mười Địa ngăn ngại, vượt qua mười Địa không ngăn ngại, cũng như chim bay giữa hư không, không có dấu vết, hiểu rõ vạn pháp đều như hư không. Vật chẳng phải vật, chẳng phải vật cũng chẳng phải vật. Đại Bồ-tát cũng như vậy, du hóa trong vô lượng thế giới chư Phật, không bỏ tâm thệ nguyện kiên cố, rộng lớn, giúp đỡ tất cả chúng sinh lười biếng kia an trú vào trong định tướng đạo. Lại nữa, Đại Bồ-tát dùng trí tuệ phương tiện đi đến hằng sa cõi Phật khắp mười phương thấy chúng sinh lười biếng, thường sân hận, chưa bao giờ vui vẻ, Bồ-tát đối với chúng sinh ấy thị hiện thân nhẫn nhục. Nếu bị người khác chửi mắng thì Bồ-tát im lặng, không nói lại. Giả sử Bồ-tát có người chặt đứt tay chân Bồ-tát, hủy hoại thân hình nhưng tâm Bồ-tát không thay đổi, không nổi giận, giữ tâm bình thản như đất. Quán thân này do tứ đại hợp thành, thần thức xa lìa, thân liền tan rã, có gì đáng quý đâu! Người trí phân biệt rõ nên chẳng tham tiếc chút nào. Như người mổ bò, phân làm bốn phần, biết rõ tất cả đều không thật có. Cái gì là thân? Thân là ai? Hành tướng tên gọi đều không chân thật. Hoặc có Bồ-tát nhân vào Thiền định thực hành nhẫn nhục, ở chỗ vắng vẽ không người, bên gốc cây ngồi ngay thẳng, nhất tâm suy nghó, người đi đường và kẻ chăn bò, gánh củi, vác cỏ, đi qua chỗ vị ấy, hoặc dùng cọng cỏ ngoái vào lỗ mũi, chích vào lỗ tai, Bồ-tát biết ngay, quán sát kỷ rồi, liền nhắm mắt lại, tâm vắng lặng, ý không loạn cũng không có tưởng khác. Hoặc gặp người đi đường dùng ngói, đá đánh ném vào mắt, đầu bị thương, hủy hoại thân thể tâm thức của Bồ-tát cũng không lay chuyển, không khởi loạn động. Đó là Đại Bồ-tát nhân Thiền định thực hành nhẫn nhục độ thoát chúng sinh không thể nói hết. Lại nữa, Bồ-tát dùng thần lực không thể nghó bàn đi đến hằng sa cõi Phật khắp mười phương, thấy chúng sinh thường biếng nhác Bồ-tát đối với chúng sinh ấy hiện thân tinh tấn, dẫn dắt vào trong vô vi. Khi ấy, Bồ-tát vì giáo hóa một chúng sinh mà trải qua trăm ngàn kiếp, tâm không mệt mỏi, cũng không nhàm chán. Vì sao? Vì đã thấu rõ pháp giới là rỗng không, không thật có, dùng đạo của Như Lai mà độ thoát cho họ. Tuy độ chúng sinh cũng không thấy độ, cũng không thấy không độ. Đó là Bồ-tát chuyên cần tinh tấn, tâm không lay chuyển cũng không tưởng niệm khác. Trong thời gian ấy, chịu các khổ não, hoặc ở cõi nước vào thời kỳ kiếp thiêu, lửa cháy đến cõi Phạm thiên, hoặc gặp nạn nước dâng đến cõi Phạm thiên, hoặc gặp gió lớn thổi vào các cõi tan nát như bụi sương, Bồ-tát ở trong đó đem hết chúng sinh vào trong vô vi làm cho họ không còn lo sợ. Đó là Đại Bồ-tát ở trong hằng sa cõi nước tinh tấn tu tập không thiếu sót. Lại nữa, Đại Bồ-tát dùng phương tiện quyền xảo vào trong hằng sa cõi nước khắp mười phương, thấy chúng sinh kia tâm loạn động không định, vì chúng sinh ấy BBồ-tát thị hiện thiền định, hoặc ngồi ở thôn xóm, bên gốc cây, trong rừng núi, hang sâu, hoặc trải qua trăm ngàn kiếp, tâm không nghó tưởng khác, hướng dẫn chúng sinh khiến tâm không loạn động. Bấy giờ, Bồ-tát nhập định lên đường, Tam-muội ấy gọi là vô hình tướng. Người nhập vào định này trải qua một kiếp cho đến trăm ngàn kiếp, trời đất tan rã, núi, sông, cây cối đều tan hoại, biển sông, suối, nguồn ngừng chảy, tất cả đều khô cạn, khi Bồ-tát đang ở trong định này thì tâm không biến động, thân cũng không tan rã, hoặc người chăn bò, gánh củi, vác cỏ, đi qua đó, hoặc dùng cọng cây châm vào mũi, chích vào lỗ tai, hoặc lấy tay vạch mắt mà nhìn, hoặc vạch miệng mà xem răng, hoặc nhổ tóc trên đầu nhưng không thể được, hoặc dùng dao bén cắt móng tay của Bồ-tát cũng không thể được. Vì sao? Vì định lực thần thông của Bồ-tát không ai có thể hủy hoại, được mười phương chư Phật giúp thêm oai thần, khiến Bồ-tát này không bị khổ não. Đó là Đại Bồ-tát vào trong hằng sa cõi nước khắp mười phương, thấy tâm ý chúng sinh loạn động liền tự nhập định từ kiếp này đến kiếp khác không mỏi mệt. Lại nữa, Đại Bồ-tát dùng phương tiện quyền xảo đến hằng sa cõi Phật, thấy chúng sinh ngu si mê lầm, Bồ-tát vì họ thị hiện trí tuệ, phân biệt nghóa lý, suy nghó việc đó hiện trong ba đời, vượt lên các địa, từ địa đến không địa, từ không địa đến địa, giống như chim bay không bị chướng ngại. Bồ-tát cũng như vậy, chẳng phải hình tướng là tướng, tướng chẳng phải là tướng, chẳng phải vật là vật, vật chẳng phải vật. Thế nào chẳng phải hình tượng là hình tượng, hình tượng chẳng phải hình tượng? Bấy giờ, Bồ-tát nhập vào định ý chánh thọ rộng lớn như hư không, quán sát thế giới phương khác, hoa quả, cây cối, đất đá, đều trống rỗng như hư không, không cũng hoàn toàn là không. Đại Bồ-tát cũng như vậy, tất cả thế giới đều như hư không. Đó là chẳng phải hình tượng là hình tượng, hình tượng chẳng phải hình tượng của Đại Bồ-tát. Chẳng phải vật là vật cũng lại như vậy. Lại nhập vào các trí tự tại định ý chỉ bày chúng sinh trừ bỏ vọng tưởng me muội, tất cả đều được an ổn đến bờ giải thoát. Đó là Đại Bồ-tát đi đến vô lượng thế giới khắp mười phương xem xét tướng ngu si me hoặc của chúng sinh làm hiện ra ánh sáng trí tuệ, vónh viễn không còn tăm tối. q Kinh TỐI THẮNG VẤN BỒ-TÁT THẬP TRỤ TRỪ CẤU ĐOẠN KẾT <卷 id="113335705">Quyển 8 <詞 id="113335706">Phẩm 22: Đẳng từ Khi ấy, Tối Thắng bạch Phật: –Bồ-tát làm thế nào để nhập vào Tam-muội Đẳng từ quán sát tam thiên đại thiên thế giới, cõi người, thần tiên, loài rồng, quỷ thần, có một thân hai thân cho đến trăm ngàn thân? Bồ-tát làm thế nào dùng sức thần thông từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, như người đi vào hư không, không bị chướng ngại? Đức Thế Tôn bảo Tối Thắng: –Hay thay! Câu hỏi này thật hay, hôm nay ta sẽ diễn thuyết nghóa này cho ông hãy lắng nghe và ghi nhớ: Tất cả các pháp vắng lặng, không nguồn gốc, đến khi thành đạo các trí ấy tìm cũng không còn dấu vết. Bồ-tát vào định Tam-muội chánh thọ, quán khắp tam thiên đại thiên thế giới có loại chúng sinh hữu hình, trong ấy, có sinh có diệt thân ngũ ấm của chúng là từ đâu sinh và từ đâu diệt. Bồ-tát lại nhập vào không giới, đất, nước, gió, lửa tất cả đều phân biệt rõ không thật có, pháp sinh thì sinh, pháp diệt thì diệt. Tối Thắng nên biết, ngày xưa, ta đã tu tập lâu dài đạo Bồ-tát, vào thiền định, giữ tâm không loạn, vào Tam-muội Bất động, quán xét chúng sinh trong hư không, nhiều vô lượng, vô số không tính kể, Bồ-tát tùy theo từng loài mà giáo hóa cho chúng. Chúng sinh ấy, có tham, sân, si, không có tham, sân, si; có ái dục, không ái dục; có tâm sân giận, không tâm sân giận, Bồ-tát dùng quyền trí tùy theo từng loại hình mà hiện hình dáng giống với chúng để làm lợi ích cho tất cả. Tâm của Bồ-tát nhập vào Thiền định hoàn toàn không rối loạn, trong một sát-na đã đi đến trăm ngàn cõi nước chư Phật, hoặc dùng trí tuệ quán xét thực tánh của các pháp để giáo hóa; hoặc dùng pháp không: Khổ, Không, Vô thường, để dẫn đến chánh pháp. Sự giáo hóa của Bồ-tát cũng không giới hạn, bằng cách thực hành mười điều thiện để truyền dạy cho chúng sinh. Mười điều đó là: Trước hết làm cho thanh tịnh cõi nước mà không tính kể công đức, ngồi bên gốc cây giác ngộ tâm không khiếp sợ; thâu phục được các ma; biết các đường hướng sai lầm; vào trong các cõi độ thoát vô lượng chúng sinh; tâm như mặt đất chịu hết tất cả mà không thay đổi; phân biệt các căn khó, dể để hóa độ; các hạnh thuần thục đều biết rõ cả; phân biệt rõ các hành ấm, nhập, giới, sắc, thọ, tưởng, hành, thức; quán sát sáu căn bên trong đến sáu trần bên ngoài. Nếu mắt thấy sắc mà không sinh nhãn thức thì sắc bên ngoài, thức bên trong rõ ràng là rỗng không. Sắc là gì? Nhãn thức ở đâu? Nếu tai nghe tiếng mà không sinh nhó thức, thì âm thanh bên ngoài, thức bên trong đều rõ ràng là rỗng không. Âm thanh là gì? Nhó thức ở đâu? Nếu mũi ngữi hương mà không sinh tỷ thức, thì mùi hương ở bên ngoài, thức bên trong đều rõ ràng là rỗng không. Hương là gì? Tỷ thức ở đâu? Nếu lưỡi nếm vị mà không sinh thiệt thức, thì mùi vị ở bên ngoài, thức bên trong đều rõ ràng là rỗng không. Mùi vị là gì? Thiệt thức ở đâu? Nếu thân biết xúc chạm mà không sinh thức tưởng, thì cảnh bên ngoài, thức bên trong đều rõ ràng là rỗng không. Xúc là gì? Thân thức ở đâu? Tối Thắng nên biết! Bồ-tát nhập vào Thiền định phân biệt rõ ràng, tùy theo từng loài mà giáo hóa. Hoặc dùng lời nói để giáo hóa; hoặc dùng thần túc; hoặc dùng quyền trí, tùy theo từng loài mà hội nhập không bị chướng ngại. Khi ấy, Bồ-tát lại dùng mười pháp giáo hóa chúng sinh. Mười pháp là: Một là trí tuệ đầy đủ, Thiền định không tán loạn. Hai là các Giác chi vững chắc, diễn thuyết trí tuệ không ngăn ngại. Ba là diễn bày đạo phẩm đầy đủ nghóa lý. Bốn là hiểu rõ các tướng vắng lặng, tốt đẹp hoàn hảo. Năm là biết rõ đạo chẳng phải đạo đều là rỗng không. Sáu là ý tôn trọng pháp, dạy bảo người không mỏi mệt. Bảy là hành đạo Bồ-tát mà không thấy thân mình. Tám là cứu độ chúng sinh mà không thấy có cứu độ. Chín là hiểu rõ trong và ngoài một chẳng hai. Mười là phân biệt thân không thấy biến hóa. Đó là Đại Bồ-tát đầy đủ mười pháp, liền cóù thể đi khắp trong các cõi Phật, từ cõi Phật này đến cõi Phật kia cũng chưa từng xa lìa chư Phật. Bồ-tát nên suy nghó, tu tập pháp môn Tổng trì. Thế nào là Tổng trì? Các pháp ấn gọi là Tổng trì. Bồ-tát chứng được pháp Tổng trì này là đối với các pháp không còn vọng tưởng. Lại có Tổng trì Phổ quang, Bồ-tát chứng được Tổng trì này bình đẳng có tâm Từ với chúng sinh, không có tâm điên đảo. Lại có Tổng trì Tuệ minh, Bồ-tát chứng được Tổng trì này làm cho thanh tịnh đối với cõi nước không thanh tịnh. Lại có Tổng trì Chiếu diệu, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, đối với các ý niệm loạn động, đều không có phiền não che lấp. Lại có Tổng trì Nghóa biện, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, tu tập pháp quán các hành, nhập vào Thiền định không lay động. Lại có Tổng trì Pháp biện, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, phân biệt các câu nghóa không mất thứ tự. Lại có Tổng trì Hữu biện, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, quán sát âm thanh tùy theo từng loài mà hóa độ. Lại có Tổng trì Ứng biện, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, đầy đủ các hạnh làm cho thích ứng với muôn loài. Lại có Tổng trì Ý chỉ, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, vónh viễn đoạn dứt không còn phát sinh những phiền não trói buộc. Lại có Tổng trì Ý đoạn, Bồ-tát chứng được Tổng trì này. Xét rõ các pháp không còn nghi ngờ. Lại Có Tổng trì thần túc, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, được sống lâu trong thế gian trải qua trăm ngàn kiếp. Lại có Tổng trì Căn bản, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, hiểu rõ sự thịnh suy, không biến đổi của pháp môn căn bản. Lại có Tổng trì Lực thế, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, thân như kim cang không tan hoại. Lại có Tổng trì Giác ý, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, diễn bày các pháp khai ngộ cho chúng sinh. Lại có Tổng trì Đạo phẩm, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, quán sát nhân duyên nguồn gốc các pháp trong ba đời. Lại có Tổng trì Định ý, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, thường nhớ đến đạo tuy ở trong các tưởng loạn động. Lại có Tổng trì Quyền tuệ, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, thích hợp mọi nơi, nơi nào cũng giác ngộ. Lại có Tổng trì Bố thí, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, hiểu rõ ba việc đều không thật có. Lại có Tổng trì Trì giới, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, không thấy người giữ giới và phá giới. Lại có Tổng trì Nhẫn nhục, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, không thấy nhẫn nhịn đối với những tưởng làm rối loạn. Lại có Tổng trì Tinh tấn, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, không thấy siêng năng cùng với biếng nhác. Lại có Tổng trì Chánh thọ, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, dù có ngàn vạn tiếng sấm sét lông tóc vẫn không kinh động. Lại có Tổng trì Tuệ khôngï, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, thì đạt được tất cả trí tuệ nên diễn thuyết không trở ngại. Lại có Tổng trì Vô ngạiï, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, trí tuệ thông suốt không bị ngăn ngại. Lại có Tổng trì Khoáng viễn, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, tuy có trăm ngàn thân nhưng hợp thành một thân. Lại có Tổng trì Giáo thọï, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, không dùng lời nặng nề giảng dạy chánh pháp. Lại có Tổng trì Bất tư nghìïï, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, La-hán và Bích-chi không bằng. Lại có Tổng trì Đạo thọïï, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, sẽ không xa lìa chư Phật được cõi nước trang nghiêm. Lại có Tổng trì Hàng phục ma, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, tâm không bị điên đảo, giữ gìn được ý chí kiên cố. Lại có Tổng trì Dung tướngïïï, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, đạt trăm ngàn phước trong các tướng. Lại có Tổng trì Chúng hảo, Bồ-tát chứng được Tổng trì này không cần các anh lạc tốt đẹp để đeo thân. Lại có Tổng trì Quang diệu, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, thấy được biến hóa vô lượng trong trăm ngàn ánh sáng. Lại có Tổng trì Độ nhânï, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, tuy cứu độ được chúng sinh nhưng không có người cứu độ. Lại có Tổng trì Quảng tuệï, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, tâm ý như hư không, không có hạn hẹp. Lại có Tổng trì Đạo ý, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, không nghó tưởng Niết-bàn cũng không chấp có. Lại có Tổng trì Diệt độï, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, không thấy có người bị diệt và sinh. Lại có Tổng trì Thanh tịnh, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, làm sạch hết các phiền não. Lại có Tổng trì Vô khổ, Bồ-tát chứng được Tổng trì nàỵ, hiểu được cái khổ chẳng phải khổ nên gọi là khổ đế. Lại có Tổng trì Sinh tập, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, tâm ý hiểu rõ nguồn gốc của tập là hư vô. Lại có Tổng trì Diệt tận, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, diệt hết nguyên nhân phiền não, không còn tạo nữa. Lại có Tổng trì Thánh đạo, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, an trí vào Niết-bàn vắng lặng vô vi. Lại có Tổng trì Chỉ quán, Bồ-tát chứng được Tổng trì. Này quán xét hiểu rõ diệu pháp hướng đến thịnh vượng. Lại có Tổng trì Không tạng, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, đối với các pháp sâu xa không bị ngăn ngại. Lại có Tổng trì Pháp quán, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, quán sát hiểu rõ các pháp đều không chủ thể. Lại có Tổng trì Tịnh thanh, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, lời nói hòa nhã như âm thanh Phạm thiên. Lại có Tổng trì Xứng khả, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, thuyết pháp cho người làm vừa tâm ý họ. Lại có Tổng trì Đẳng ý, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, lời nói êm ái lưu loát không bị ngăn ngại. Lại có Tổng trì Du xứ, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, được khả năng giảng dạy giới luật người khác không làm thương tổn. Lại có Tổng trì oai Diệu, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, ở trong đại chúng cũng không khiếp sợ. Lại có Tổng trì Phấn tấn, Bồ-tát chứng được Tổng trì. Này, như tiếng rống sư tử mọi cầm thú đều sợ hãi. Lại có Tổng trì Giới luật, Bồ-tát chứng được Tổng trì. Này, thâu phục được tất cả chúng sinh khó giác ngộ. Lại có Tổng trì Thú đạo, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, hiểu rõ Niết-bàn không tưởng sinh diệt. Lại có Tổng trì pháp tánh, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, làm cho kẻ dua nịnh thấy được đạo chân chánh. Lại có Tổng trì Tức ý, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, không sinh kiêu ngạo, tự đại với người khác. Lại có Tổng trì Thông đạt, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, được nghe về trí tuệ bậc thánh không quên lời dạy của giáo pháp. Lại có Tổng trì Hưng kính, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, từ bỏ sự cống cao, thân cận chư Phật. Lại có Tổng trì Không giới, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, dần dần hội nhập pháp giới vắng lặng thanh tịnh. Lại có Tổng trì Vô ngại, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, nhờ đạt được nghi thức, phép tắc mà hiểu được nguồn gốc các pháp. Lại có Tổng trì Vô lượng, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, những điều đã thuyết giảng từ trước cũng không cùng tận. Lại có Tổng trì Cường ký, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, phân biệt văn tự, biết rõ sự tu tập theo giáo pháp. Lại có Tổng trì Cứu cánh, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, hiểu rõ tính của con người, pháp giới đều thanh tịnh. Lại có Tổng trì Nan diệt, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, hiểu dược sự thanh tịnh của chúng sinh, trong ngoài đều vắng lặng. Lại có Tổng trì Vô tế, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, hiểu rõ là không, không cũng là không. Lại có Tổng trì Anh lạc, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, thuyết kinh pháp không bị ngăn ngại. Lại có Tổng trì Diệu yếu, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, đối với tận, vô tận đều không thấy tận. Lại có Tổng trì Phân biệt, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, chẳng phải là chỗ suy lường của Nhị thừa. Lại có Tổng trì Như Lai, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, giác ngộ chúng sinh hướng đến đạo vắng lặng. Lại có Tổng trì Thập địa, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, thường giảng thuyết vô trú cũng không thấy trú. Lại có Tổng trì Ấm chủng, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, hiểu rõ nguồn gốc của thân không sinh ra nhiễm chấp. Lại có Tổng trì Tịch mịch, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, ví như cất tiếng gọi mà không có âm thanh vọng lại. Lại có Tổng trì Thức tánh, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, đều có thể tư duy không chấp trứơc văn tự. Lại có Tổng trì Liễu bản, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, thì không có lời nói, thuyết giảng giáo giới. Lại có Tổng trì Văn tự, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, tự biết đời trước từ đâu sinh ra. Lại có Tổng trì Pháp luân, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, không ý, không tưởng, cũng không thần thức. Lại có Tổng trì Cam lồ, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, giảng thuyết, đọc tụng kinh pháp đều không bị ngăn ngại. Lại có Tổng trì Thâm nhập, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, phân biệt rõ ý nghóa hòa hợp của bốn câu. Lại có Tổng trì Pháp tràng, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, thấu đạt nghóa lý, nhận thức sáng suốt nguồn gốc các pháp. Lại có Tổng trì Vô tận, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, biết rõ nguồn gốc không xa lìa quyến thuộc. Lại có Tổng trì Đẳng giác, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, thường giảng vô lượng chánh pháp không chấp trước. Lại có Tổng trì Chư pháp, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, thường tu tập các pháp không mất thứ tự. Lại có Tổng trì Hoàng thệ, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, thông đạt trí tuệ đều không trái nghịch. Lại có Tổng trì Thiện quyền, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, tùy loại chúng sinh mà thích ứng giáo hóa, không khiếp sợ. Lại có Tổng trì Đạo tuệ, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, phân biệt pháp Đỉnh, tu pháp Độ vô cực. Lại có Tổng trì Huyễn hóa, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, phân biệt pháp giới, không có tánh trong ngoài. Lại có Tổng trì Trung ấm, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, thì được ở nơi sâu xa của chư Phật Thế Tôn. Lại có Tổng trì Đạo tràng, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, ánh sáng sắc vàng chiếu khắp cõi nước mười phương. Lại có Tổng trì Hàng phục ma, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, thâu phục được tất cả ngoại đạo. Lại có Tổng trì Tự thủ, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, giữ gìn thân miệng ý mà không thấy có giữ gìn. Lại có Tổng trì Thuyết pháp, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, đầy đủ pháp căn bản không có thiếu sót. Lại có Tổng trì Tự dụng, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, quán xét vô lượng tâm ý của chúng sinh. Lại có Tổng trì Cần mẫn, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, dùng phương tiện đã nói làm cho mọi người vào đường đạo. Lại có Tổng trì Lưu hóa, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, phân biệt các tuệ, không chấp xưa nay. Lại có Tổng trì Nhu thuận, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, lãnh thọ giáo pháp không nhàm chán, cũng không mê hoặc. Lại có Tổng trì Tấn đức, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, hiểu được nguồn gốc các pháp đều không thật có. Lại có Tổng trì Sắc tượng, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, được thấy hình tướng chưa từng quên mất. Lại có Tổng trì Thanh văn, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, tính được các pháp vô lượng. Lại có Tổng trì Thiện hành, Bồ-tát chứng được Tổng trì này, nghe nhận pháp vị bình đẳng không hai. Khi Thế Tôn thuyết pháp môn Tổng trì này, hai mươi ức triệu người chứng được Vô sinh pháp nhẫn. Lại có vô số chúng sinh đều phát tâm Bồ-đề vô thượng. Bấy giờ, Thế Tôn bảo Tối Thắng: –Việc làm của Bồ-tát không thể nghó bàn, chẳng phải là La-hán và Bích-chi-phật biết được. Bồ-tát vào Tam-muội “Đẳng từ” định ý chánh thọ đạt được năng lực thần thông như vậy. Do đó giảng luật Đại thừa, hướng dẫn giáo hóa chân chánh để mặc pháp phục. Tối Thắng bạch Phật: –Lành thay! Lành thay! Lời dạy này rất hay, sự tập khởi của tất cả các pháp, không có nguồn gốc, hiểu rõ các pháp rỗng không, phân biệt tất cả đều hư không tịch. Sự giảng thuyết của Đại thừa rộng khắp tất cả. Nghe hạnh nghiệp của Bồ-tát sau khi qua đời đều sinh về cõi “khoáng nhẫn”. Bấy giờ, tất cả chúng hội đều nghi ngờ, nên muốn được thấy cõi nước của Phật kia. Như Lai bằng thần lực biết ngay niệm của chúng sinh, liền vận thần thông, từ đỉnh đầu phóng hào quang soi khắp tam thiên đại thiên thế giới đến cõi “khoáng nhẫn” kia. Đức Phật cõi này hiệu là Vô Tận, luôn hành trì pháp Tổng trì, vững chắc không quên, thường dùng pháp tối thắng để tu tập, đã trải qua hằng hà sa kiếp cúng dường chư Phật, tích luỹ đạo pháp tự mình đạt được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Đức Phật bảo Tối Thắng: –Hãy ghi nhớ và thực hành mười pháp. Một là phân biệt pháp giới, hiểu rõ như hư không. Hai là biết thân trống rỗng trong, ngoài không có chủ. Ba là rõ ngoài bốn đại ra không còn gì khác. Bốn là đối với tất cả pháp không thấy diệt độ dừng nghỉ. Năm là những hành động của thân, miệng, ý vắng lặng không chấp. Sáu là giữ giới, không giữ giới cũng không hủy phạm giới. Bảy là không phóng túng, giữ tâm làm căn bản. Tám là không xả bỏ chí hướng thành đạo. Chín là ngộ pháp không nghó bàn, độ người khó độ được. Mười là các việc đã làm hoàn toàn, không làm trở lại. Đó là sự tu hành mười pháp căn bản của Đại Bồ-tát. Lại nữa, Bồ-tát nên tu tập mười pháp: Một là thực hành giới đầy đủ thanh tịnh không phóng túng. Hai là nghe hiểu, dùng trí tuệ bố thí mà không hủy hoại pháp giới. Ba là phân biệt ấm, giới, nhập hiểu rõ đều vắng lặng. Bốn là biết sự vô thường của Bốn đại đều trở về diệt vong. Năm là hiểu rõ sự nguy hiểm của mười tám giới. Sáu là đầy đủ thệ nguyện được chư Phật khen ngợi. Bảy là đưa chúng sinh chưa đắc đạo về nơi vô vi. Tám là Bồ-tát vào định không bị tán loạn. Chín là quán sát tất cả các hành trong lẫn ngoài. Mười là tự quán tướng sinh diệt của thân mình. Đó là Bồ-tát ghi nhớ tu tập mười pháp căn bản, liền đạt được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Lại nữa, Bồ-tát tu tập định Tam-muội Chánh thọ. Đó là Tam-muội “Đẳng quán”. Bồ-tát chứng Tam-muội này, tạo lập tuệ quán không còn phóng túng. Lại có Tam-muội Nhiếp ý, Bồ-tát chứng Tam-muội này có thể khắc phục kết sử không bị ràng buộc. Lại có Tam-muội hộ giới, Bồ-tát chứng Tam-muội này, giữ gìn thân, miệng, ý không phát sinh phiền não. Lại có Tam-muội Bình đẳng, Bồ-tát chứng Tam-muội này, tâm ý như hư không, chẳng sinh khởi hai tưởng. Lại có Tam-muội Đại bảo, Bồ-tát chứng Tam-muội này, diễn thuyết nghóa quý báu vô tận của bảy Giác chi. Lại có Tam-muội Đạo thọ, Bồ-tát chứng Tam-muội này, hoa đạo nở rộ ai cũng vui mừng. Lại có Tam-muội Hải lượng, Bồ-tát chứng Tam-muội này, chẳng phải là chỗ suy lường của Nhị thừa. Lại có Tam-muội Nhập thất, Bồ-tát chứng Tam-muội này, sử dụng kho tàng pháp chính yếu sâu xa. Lại có Tam-muội Nguyệt quang, Bồ-tát chứng Tam-muội này, qua lại tự tại khắp cõi nước chư Phật. Lại có Tam-muội Nguyệt minh, Bồ-tát chứng Tam-muội này, ánh sáng chiếu khắp mọi nơi. Lại có Tam-muội Huyền giám, Bồ-tát chứng Tam-muội này, hiểu rõ các pháp không sinh diệt trong ba đời. Lại có Tam-muội Vô tắng ái, Bồ-tát chứng Tam-muội này, coi kẻ oán thù bình đẳng như con đẻ. Lại có Tam-muội Đại bi, Bồ-tát chứng Tam-muội này, xem tất cả chúng sinh như cha mẹ. Lại có Tam-muội Từ bi, Bồ-tát chứng Tam-muội này, vì thương tất cả chúng sinh mà rơi lệ như mưa. Lại có Tam-muội Mẫn ai, Bồ-tát chứng Tam-muội này, cũng không ngã, ngã sở, không ngã nhân, chúng sinh, thọ mạng. Lại có Tam-muội Vô tưởng, Bồ-tát chứng Tam-muội này, liền có thể chuyển bánh xe pháp vô thượng. Lại có Tam-muội Khổ hạnh, Bồ-tát chứng Tam-muội này, trong A tăng tỳ kiếp công đức của mình không bị mất. Lại có Tam-muội Kiến lập tuệ giới, Bồ-tát chứng Tam-muội này, không thấy hành động thanh tịnh ngã và ngã sở đều. Lại có Tam-muội Ly thân, Bồ-tát chứng Tam-muội này, thì lìa bỏ các trói buộc cũng không phá hủy giới. Lại có Tam-muội Ngã và Ngã sở, Bồ-tát chứng Tam-muội này, tuy ở trong sinh tử vẫn không bị nhiễm chấp. Lại có Tam-muội Huyền thông, Bồ-tát chứng Tam-muội này, được pháp nhẫn nhục, tịch tónh hoàn toàn. Lại có Tam-muội Tịnh bạch, Bồ-tát chứng Tam-muội này, đối với các hạnh nghiệp tư duy thanh tịnh rõ ràng. Lại có Tam-muội Tương ưng, Bồ-tát chứng Tam-muội này, với pháp không tương ưng không sinh không diệt. Đó là Tam-muội Chánh thọ của Đại Bồ-tát. Được Tam-muội này, Bồ-tát đi đến cõi nước chư Phật ở phương nào cũng thân cận cúng dường chư Phật Thế Tôn, không còn lo sợ và không có những đối tượng sợ hại. Giả sử, khi thân bị cắt ra từng đoạn đến gần chết, nên tự quán thân này như cỏ, cây, tường, vách, mà không sinh tham luyến, thực hành nhẫn nhục. Nghe lời thô ác của người nhưng không buồn bã mà an vui, cũng không thích thú, xét kỹ lời nói ấy cũng không nơi chốn, hiểu rõ điều nói ra cũng không gốc ngọn, tâm vốn không, tất cả đều không thật. Đó là định ý thanh tịnh của Đại Bồ-tát. Bồ-tát tuy có động tâm, nhưng tâm không bị trói buộc, không ở chỗ này cũng không ở chỗ kia, đối với các pháp trong ngoài đều thanh tịnh. Do quán sát như vậy, nên gọi là Nhẫn nhục. Đó là thân, miệng, ý thanh tịnh để dựng lập trí tuệ Nhẫn nhục của Đại Bồ-tát. Lại nữa, này Tối Thắng! Đại Bồ-tát nên tu tập định ý tinh tấn để tăng trưởng thiện pháp, không bị thiếu mất. Quán xét pháp giới không tăng giảm, dùng tuệ quán vô lậu để làm pháp chế ngự. Lại phải tư duy quán sát pháp thế gian, không thấy các pháp thành tựu hay không thành tựu, không thấy việc đúng đắn cùng với điên đảo, không tùy thuận cũng không xã bỏ, không tránh xa cũng không chạy đến. Đó là kho tàng tích chứa châu báu vô tận của Đại Bồ-tát. Không thấy có pháp quá khứ, hiện tại và vị lai từ đâu đến và đi về đâu, đến cũng không nơi chốn mà đi cũng không dấu vết. Tám đường của Thánh hiền là dẫn đến các pháp, phân biệt rõ ràng bốn Thánh đế, xa lìa các hành điên đảo vọng tưởng, thuyết pháp cho người khác không bị ngăn ngại, hiểu rõ chúng sinh hư dối không thật có, truy tìm các pháp cũng không thể được. Sở dó như vậy là do pháp pháp tương sinh, pháp pháp tương diệt, người không lìa pháp, pháp không lìa người, người tự vắng lặng, pháp cũng vắng lặng, người tự nhiên, pháp cũng tự nhiên. Người hiểu rõ tự nhiên mới hợp với hạnh Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, liền đạt đến hạnh vô tận của pháp Phật. Có người cầu pháp, hoặc đã mong cầu, hoặc sẽ mong cầu trong ba đời không đắm trước, không bị nhiễm ô. Người đã cầu được như vậy rồi cũng không chỗ được không chỗ mất. Đó là hạnh Tinh tấn kiến lập trí tuệ vi diệu của Đại Bồ-tát. Tối Thắng nên biết, Đại Bồ-tát nên tư duy thực hành Thiền định Tam-muội chánh thọ, không hủy giới pháp, bình đẳng không hai cũng không thấy có hai, chẳng thành tựu cũng chẳng phải chẳng thành tựu. Bồ-tát vào Thiền định chánh thọ nên tất cả các định không pháp sinh loạn tưởng, đối với các pháp không tưởng cũng không xả bỏ hiểu rõ trong, ngoài đều không chủ thể. Đó là Thiền định không hủy bỏ nhất tâm chánh thọ của Đại Bồ-tát, cũng không thấy có hòa hợp xả bỏ các cảnh giới, không xa lìa thực hành mà không chấp vào thiền thì ý niệm không còn đi vào các cảnh giới. Đó là Đại Bồ-tát không đứng trong pháp, cũng không rời pháp, thường dùng Thiền định nên các pháp tự nhiên, hiểu rõ các pháp không có tưởng sinh diệt, chẳng phải thân, chẳng phải tâm mà có thể suy lường, tư duy Thiền định bình đẳng không hai, tâm tánh hướng đến không nơi nào không ứng hợp nhưng không thấy có ứng hợp. Hiểu rõ nguồn gốc mười hai nhân duyên, duyên vô minh có hành, duyên hành có thức, duyên thức có danh sắc, duyên danh sắc có Sáu nhập, duyên Sáu nhập có xúc, duyên xúc có hữu, duyên hữu có ái, duyên ái có thọ, duyên thọ có sinh, duyên sinh có tử ưu bi khổ não không thể tính kể. Nói tóm lại, thân năm ấm xí thạnh, hình thể mong manh, không tồn tại lâu dài. Khi ấy, Bồ-tát thực hành các pháp không phân biệt sắc, thọ, tưởng, hành, thức đều là rỗng không vắng lặng, lại nhờ Thiền định nên biết các pháp vốn thanh tịnh không nhiễm chấp, cũng không thấy sắc, hiểu sắc là không sắc, nên vượt qua các hành điên đảo. Đó là nhất tâm Thiền định của Đại Bồ-tát mà La-hán và Bích-chi-phật không bằng. Đối với năm thông của ngoại đạo, tuy sống lâu vô cùng nhưng khi mất thần túc thì không đạt đến rốt ráo. Người vào Tam-muội chánh thọ sống lâu một kiếp hay hơn một kiếp chẳng gì là khó, nhờ Thiền định mà được trí tuệ, trừ bỏ phiền não không sinh vọng kiến. Đó là chí nguyện vào đạo giáo hóa chúng sinh tùy theo căn cơ ứng hiệp thích hợp, tùy theo bệnh cho thuốc của Đại Bồ-tát. Lại dùng pháp tuệ quán tánh không, hội nhập Tam-muội Đẳng từ, quán khắp tam thiên đại thiên thế giới đến tận hằng sa cõi nước chư Phật. Đó là Thiền định chánh thọ của Như Lai làm cho chúng sinh đạt đến Niết-bàn. Đây là Đại Bồ-tát đứng trong Tam-muội Đẳng từ để cứu độ vô lượng chúng sinh không thể kể hết. Này Tối Thắng! oai đức thần thông của Như Lai vó đại như vậy. Muốn quán xét các pháp nên dùng tuệ nhãn cũng không dùng nhục nhãn và Thiên nhãn cũng không phải La-hán và Bích-chi-phật thấy được. Do quán xét các pháp nên hiểu các pháp vắng lặng, thanh tịnh, rỗng không, tịch tónh. Đó là thệ nguyện rộng lớn vô tận của Bồ-tát, không đi, không nơi đi, không nơi đi vào, các pháp, vắng lặng của người tu tập thiền định, chẳng phải là hành động của kẻ loạn. Quán như vậy gọi là quán pháp. Bồ-tát pháp quán không thấy sự hướng về của nó. Nếu quán pháp mà không phân biệt rõ từng pháp thì không đến đạo tràng, không đạt được cứu cánh, do không dùng chánh pháp để thành tựu định ý. Bồ-tát chánh niệm trừ bỏ vọng kiến, không mong cầu, không chấp thủ, không tìm kiếm cũng không nhận nhiều phước, biết pháp trong ngoài đều là vắng lặng. Đó là Đại Bồ-tát nhập vào Tam-muội Đẳng từ, thấy rõ các pháp đều không thật có, vì không thật có nên gọi là thấy pháp. Người thấy pháp tức là thấy không ngã, nhân, thọ mạng, tất cả đều giả danh, chẳng phải là pháp chân thật. Pháp hữu vi chẳng phải là cảnh giới vô vi. Cảnh giới vô vi chẳng phải là pháp hữu vi. Bồ-tát biết rõ hữu vi, vô vi, hữu lậu, vô lậu, thường, vô thường, ngã, nhân, thọ mạng, đều không thật có. Đó là Đại Bồ-tát vào Tam-muội phân biệt pháp không sinh diệt. Giả sử Bồ-tát quán sát tướng của các pháp. Hiểu rõ các tướng vắng lặng không hai cũng không thấy hai, hiểu hai mà không phải hai mới ứng hợp với định ý; đối với các pháp điên đảo hiểu rõ không thật có; đối với đạo không thấy có đường chánh; đối với các kiến chấp cũng không thấy đường tà, bằng trí tuệ vô lượng đối với chúng sinh mà Bồ-tát phát tâm đại Bi, làm thanh tịnh cảnh giới Phật, thanh tịnh cõi nước Phật. Từ cõi Phật này đến cõi Phật kia thân cận cúng dường chư Phật, lại dùng thần thông trí tuệ sáng suốt quán khắp tam thiên đại thiên thế giới. Lại có chúng sinh các căn thuần thục, nếu không gặp bậc Hiền thánh nên rơi vào ba đường ác, khi ấy, Bồ-tát sẽ cứu vớt, khiến cho họ không bị đọa lạc. Hoặc có khi Bồ-tát vì độ chúng sinh tạo thêm các duyên đi khắp mọi nơi tạo các công đức trong một sát-na, ra vào định ý trăm ngàn lần, thực hành tuệ quán, tu các công đức. Khi thực hành bố thí biết rõ nguồn gốc trời, người không có người nhận thí, hiểu rõ ba việc bố thí đều không thật có. Đó là Bồ-tát thích hợp bố thí. Nếu có Bồ-tát dùng giới luật để giảng dạy nên hiểu rõ người phạm giới và giới diều không thật có. Không giới, chẳng phải không giới mới thích hợp với gới. Hoặc Bồ-tát thường thực hành nhẫn nhục nếu thấy người thực hành nhẫn nhục nên hoan hỷ với họ. Nếu gặp người giân dữ thì không lo buồn vì biếng nhác và nhẫn nhục đều không thật có, chẳng một, chẳng hai cũng chẳng trăm ngàn. Hiểu nhẫn nhục mà không nhẫn nhục mới đúng với nhẫn nhục. Lại có Bồ-tát thường thực hành Tinh tấn, thấy người thực hành Tinh tấn nên hoan hỷ với họ. Nếu gặp người biếng nhác cũng không sân hận vì biết rõ biếng nhác và tinh tấn là một mà không hai cũng chẳng phải hai, không có tinh tấn cũng không có biếng nhác, biết tinh tấn, biếng nhác là vắng lặng mới đúng với tinh tấn. Lại có Bồ-tát đi đứng, nằm, ngồi luôn luôn nhất tâm Thiền định chánh thọ chưa từng tổn giảm, trời đất sấm sét vang ngàn vạn âm thanh tam của Bồ-tát vẫn chuyên chú nhất tâm không chuyển động. Hiểu rõ định hay loạn đều không thật có. Hiểu rõ Thiền định mà không Thiền định mới đúng với thiền. Lại nữa, trí tuệ của Bồ-tát thấm nhuần khắp chúng sinh, tùy căn cơ của hữu tình mà ứng hóa khắp nơi để trình bày một cách thông suốt làm sáng tỏ Phật pháp. Dùng tuệ quán bình đẳng không thấy có người trí kẻ ngu, vì biết được có trí hay không có trí cùng với ngu si mê hoặc đều không thật có, không thấy có cũng không thấy không có, không đều rỗng không, vắng lặng không hai. Đó là Bồ-tát thích ứng với trí tuệ. Tướng của các pháp thanh tịnh như vậy, không thấy tướng, chẳng không có tướng vì hiểu tướng không phải tướng mới thành tướng tốt, cứu giúp chúng sinh đạt đến giải thoát. Lại có Bồ-tát nhập vào định không, du hóa ở cảnh giới hư không, phân biệt rõ tất cả chúng sinh ở cảnh giới hư không. Hoặc dùng lời nói để giảng dạy. Hoặc dùng thần thông, hoặc dùng tướng sáng, hoặc dùng khổ hạnh để giáo hóa khắp, khiến chúng sinh đi vào đường đạo. Lại có Bồ-tát hành pháp vô tướng, trừ bỏ các chấp về tướng và các hành điên đảo. Lại du hóa đến cõi Phật ở phương khác, thường dùng pháp vô tướng không biến đổi để giáo hóa chúng sinh đều được giải thoát. Lại có Bồ-tát hành vô nguyện, không mong cầu thọ hưởng quả báo trong ba cõi, không chấp người, không chấp tướng, phân biệt trong, ngoài, sinh, diệt của năm ấm. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức, các trần bên ngoài, các nhập bên trong hiểu rõ tất cả giả dối không chân thật. Này Tối Thắng! Bồ-tát phát thệ nguyện rộng lớn, cứu độ chúng sinh mà không thấy có độ, không thấy chúng sinh để độ huống nữa có người độ. Đó là Đại Bồ-tát thực hành Tam-muội Đẳng từ, làm cho tất cả chúng sinh đạt được tuệ căn. Khi Đức Thế Tôn Thuyết giảng phẩm Đẳng Từ này có bốn mươi triệu người đều phát tâm Bồ-đề, tám ngàn Bồ-tát ngay tại chỗ ngồi chứng được Tam-muội Đẳng từ.  <詞 id="113335707">Phẩm 23: PHÁP GIỚI Bấy giờ, Đức Thế Tôn phóng hào quang từ tướng lưỡi chiếu sáng khắp tam thiên đại thiên thế giới, đến các cõi nước chư Phật trong mười phương, bốn hướng trên dưới đều được chiếu sáng. Lại chiếu đến tám vạn bốn ngàn ức, hằng hà sa số thế giới Tịch mịch ở phương Đông. Chư Phật khắp nơi tập họp thường giảng thuyết hạnh thù thắng của Bồ-tát, không có hàng Nhị thừa, phân biệt thế giới đều có thứ tự, từ các cõi kia đến thế giới Ta-bà, sở dó như vậy, là vì phát nguyện giữ việc đếm thẻ không cho nhầm lẫn. Phật bảo Tối Thắng: Hôm nay, ta nhớ lại lúc ở trong chúng hội của Đức Phật kia, có một ức chư Phật cùng lấy thẻ. Ta là người đứng đầu ở thế giới này, các Đức Như Lai: Từ Thị, Vô Cát, Sư Tử, Dũng Tuệ, Đức Phổ, Quảng Văn, Kim Nhan, Huyền Tịch, Bảo Hùng, Thường Bi, Thường Khiết, Hoằng Thệ, các Đức Phật như vậy đến một ức Như Lai, đồng thời nhận thẻ muốn đến thế giới Ta-bà này. Đức Phật bảo Tối Thắng và chúng hội: –Thế giới chư Phật không thể nghó bàn, thay hình biến hóa, thị hiện khắp nơi. Các ông cho là Bồ-tát Từ Thị mới tu tập hạnh Bồ-tát sao? Chớ nên nghó vậy, vì Bồ-tát Từ Thị tích tập hạnh nguyện Bồ-tát nhiều vô số kiếp; Trước tiên vì thệ nguyện thành tựu chánh giác nên mới tu tập hạnh mà ở thân sâu hoặc thị hiện khổ hạnh, hoặc thị hiện quang tướng, hoặc hiện Bồ-tát đệ tử của Đức Phật Thích-ca, tùy theo hạnh nguyện của Người mà thuyết pháp cho họ. Bấy giờ, Bồ-tát Từ Thị đang ở ngay tại chỗ ngồi, Phật bảo Di-lặc thị hiện hào quang của Phật và những người tùy tùng theo. Lúc ấy, Di-lặc ẩn thân Bồ-tát, trở lại hiện ra hình Phật, cõi nước và chúng đệ tử không thể nghó bàn. Cả chúng hội đều thấy vậy khen ngợi việc chưa từng có. Vô hình tự nhiên, sắc tướng tự nhiên, các pháp tự nhiên, tất cả chư Phật cũng tự nhiên. Khi ấy đại chúng thấy ở phương Đông có tám mươi bốn ức hằng hà sa số thế giới Tịch mịch, chư Phật Thế Tôn ở đó thuyết giảng hạnh thù thắng của Bồ-tát, cùng một ngàn tám trăm pháp môn vi diệu. Một ngàn tám trăm pháp môn vi diệu là gì? Bồ-tát tu tập pháp môn Bản tịnh, nếu Bồ-tát vào được pháp môn này, không ở nơi giải thoát mà nhận sự chứng đắc của mình. Lại có pháp môn Vô ngôn thuyết, Bồ-tát vào được pháp môn này, vào cảnh giới hư không mà không ai có thể hay biết. Lại có pháp môn Vô sở đắc, Bồ-tát chứng được pháp môn này, tuy có hóa độ chúng sinh mà không thấy có hóa độ. Lại có pháp môn Vô sở trì, Bồ-tát vào được pháp môn này, biết rõ “bản tịch” trong ngoài không chủ. Lại có pháp môn Danh hiệu, Bồ-tát vào được pháp môn này, hiểu rõ tất cả các pháp rỗng không, không thật. Lại có pháp môn Thành tựu, Bồ-tát vào được pháp môn này, tuy ở trong hữu vi mà không chấp trước có tướng. Lại có pháp môn Hóa thức, Bồ-tát vào được pháp môn này, hội nhập vào cảnh giới vô hình để giáo hóa vô hình. Lại có pháp môn Hiện hình, Bồ-tát vào được pháp môn này, thị hiện vô số hình để giáo hóa chúng sinh. Lại có pháp môn Nhân duyên, Bồ-tát vào được pháp môn này, vì chúng sinh mà tạo ra các nhân duyên. Lại có pháp môn Pháp thanh, Bồ-tát vào được pháp môn này, chỉ nghe âm vang mà không thấy hình tướng. Lại có pháp môn Ly hữu, Bồ-tát vào được pháp môn này, không thấy pháp có sinh diệt, thường đoạn. Lại có pháp môn giải thoát, Bồ-tát vào được pháp môn này, không thấy có Niết-bàn và đường đến Niết-bàn. Lại có pháp môn Thâm áo, Bồ-tát vào được pháp môn này, hiểu rõ kinh điển bí yếu của Như Lai. Lại có pháp môn Vô sắc tượng, Bồ-tát vào được pháp môn này, sẽ nhập định vô sắc để giáo hóa chúng sinh. Lại có pháp môn Vô quán hạnh, Bồ-tát vào được pháp môn này, biết được pháp Phật không giáo hóa cũng không nơi chốn để giáo hóa. Lại có pháp môn Sổ tức, Bồ-tát vào được pháp môn này, các pháp không có số, hiểu rõ hơi thở hay không hơi thở. Này Tối Thắng! Đại Bồ-tát đạt được một ngàn tám trăm pháp môn vi diệu như vậy. Khi chúng hội được nghe các Đức Phật kia thuyết giảng pháp môn vi diệu này, thì tất cả các vị Bồ-tát ngay tại chỗ ngồi được tận tín pháp nhẫn, vô số chúng sinh hướng đến tiểu thừa đều pháp tâm Bồ-đề vô thượng. Bấy giờ, Đức Thế Tôn cùng với Di-lặc quả tướng hào quang vào miệng. Tâm đại Bi của Như Lai mênh mông như vậy, giáo hóa chúng sinh không thể tính kể, đều làm cho chúng sinh đạt đến cảnh giới kiên cố. Khi ấy, tất cả chúng hội đều suy nghó: Trước đây, chúng ta đều thấy thế giới Tịch mịch, nhưng lúc này bỗng nhiên không thấy nữa. Chẳng phải cảnh giới ấy là huyễn hóa, sóng nắng, ảnh trong nước, cảnh trong mộng đều không chân thật sao? Bấy giờ, Đức Thế Tôn biết tâm niệm của chúng hội, liền bảo Xá-lợi-phất: –Thế nào? Này Xá-lợi-phất! Ông đã từng nghe Như Lai nói về hạnh Thanh văn là pháp hữu vi hay pháp vô vi, là pháp hữu lậu hay vô lậu; là pháp chân thật hay pháp không chân thật; là pháp hiện hay pháp chẳng hiện; là pháp phiền não hay pháp không phiền não; là pháp hữu số hay pháp vô số; là pháp có chấp hay pháp không chấp; là pháp có tập hay pháp không tập; là pháp sân giận hay pháp không sân hận; là pháp Xả hay pháp không Xả; là pháp phàm phu hay không phải pháp phàm phu; là pháp Thánh hiền hay không phải pháp Thánh hiền; là pháp Ý chỉ, Thần túc hay không phải pháp Ý chỉ, Thần túc; là pháp Căn, Lực; Giác đạo hay không phải là pháp Căn, Lực, Giác đạo; là pháp học hay không phải pháp học; là Thanh văn hay không phải pháp Thanh văn; là pháp Duyên giác hay không phải pháp Duyên giác; là pháp Bồ-tát hay không phải pháp Bồ-tát; là pháp Phật hay không phải pháp Phật. Thế nào? Này Xá-lợi-phất, ông đã từng nghe Như Lai thuyết giảng lời này không? Xá-lợi-phất thưa: –Bạch Thế Tôn! Không. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Đối với chúng Thanh văn, ta còn chưa nói là chấm dứt lậu và duyên chấp trước vào tưởng; huống chi giảng thuyết là giáo pháp có nơi chốn, việc này không thể có; thuyết giảng giáo pháp đều không nơi chốn, không ngôn từ, không giảng dạy, không có tướng của pháp, pháp mà nói ra được thì đâu phải là pháp thật? Thế nào? Xá-lợi-phất! Hôm nay, ta nêu ví dụ người trí, nhờ ví dụ để hiểu. Ví dụ như người đàn ông mạnh khỏe nhìn lên hư không chẳng thấy hình tướng gì cả. Nhưng ý người ấy, muốn chọn một khoảng không gian rồi dùng màu sắc để vẻ lên khoảng không gian đó những hình tướng: Trời, người, quỷ thần, chiên-đà-la, các loại súc sinh, sâu bọ côn trùng. Thế nào Xá-lợi-phất! Ý định của người kia có thể thực hiện không? Xá-lợi-phất thưa: –Bạch Thế Tôn! Không thể được, thật khó, không bao giờ làm được. Phật bảo Xá-lợi-phất: –Sự giáo hóa quyền xảo của Như Lai không thể nghó bàn, thiết lập ngôn từ giáo nghóa còn khó nơn việc kia. Vì sao? Vì tất cả các hành, pháp hữu vi hay vô vi pháp hữu lậu hay vô lậu, pháp đạo hay pháp tục, mười hai nhân duyên và sáu thân thức, bốn Ý chỉ, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Chánh hành. Chư Phật trong quá khứ, hiện tại, vị lai, không hình tướng, không thể biết được. Cảnh giới hư không vắng lặng không hai. Các Đức Phật Thế Tôn du hóa khắp cõi, vì tất cả chúng sinh mà giảng thuyết. Giáo pháp thật không có tên gọi, chỉ là giả gọi, thật không văn tự giả là văn tự, thật không pháp tánh mà nói pháp tánh. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát dùng phương tiện quyền xảo để thích ứng với chúng sinh, tùy theo căn cơ của chúng để giáo hóa điều này mới rất khó. Giả sử có Tỳ-kheo-tăng, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, hết tâm tin vào pháp như hư không vắng lặng nên tu hành đầy đủ nhờ có thể thành tựu tướng tốt của Như Lai. Từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, thân cận cúng dường chư Phật Thế Tôn. Lại được các Đức Phật kia thọ ký pháp Tổng trì, và lãnh thọ nghóa thâm sâu vi diệu của pháp này rồi thuyết giảng truyền bá rộng rãi làm cho mọi người đều nghe hiểu. Đại Bồ-tát nên nhớ nghó đầy đủ bảy pháp không chấp trước. Bảy pháp đó là: Hiểu tất cả “hữu” đều không thật có, không chấp vào “hữu” cũng không thấy “hữu”; tuy hiện các hình tượng mà không có sắc tướng, không có Phật huống chi là sắc tướng. Tất cả thế giới không đầu mối, huống nữa có nguồn gốc để có thể có thể suy tìm chăng? Căn bản của chúng sinh không cùng tận. Ai có thể phát tâm truy tìm việc ấy, Pháp tự nhiên sinh, pháp tự nhiên diệt, cũng lại không thấy có sinh có diệt. Các pháp như huyễn hóa, cũng lại không thấy như huyễn hóa sóng nắng, các pháp tự nhiên, các pháp không sinh, cũng lại không thấy có sinh, diệt, đoạn, thường. Này Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát thành tựu bảy pháp vô trước này thì có thể đầy đủ các hạnh, dần dần đạt đến quả vị Bồ-tát; ngồi dưới cây Bồ-đề thâu phục được ma oán. Bồ-tát tích chứa công đức, đầy đủ tướng sáng từ Địa thứ nhất đến Địa thứ mười trong giai đoạn ấy chưa từng thoái chuyển, thường được chư Phật ủng hộ, được các hàng Trời, rồng, quỷ thần, Càn-đạp-hòa, A-tu-luân, Ca-lưu-la, Chiên-đà-la, Ma-lưu-lặc cúng dường hương hoa, các loại ca nhạc, y phục, tràng phan nên được tăng thêm công đức, trợ giúp oai thần đạt đến đạo Vô thượng Chánh giác. Phật bảo Xá-lợi-phất: –Ta nhớ thuở xưa, khi tu Bồ-tát đạo, hoặc làm thanh niên; hoặc làm Phạm thiên, hoặc xuất gia tu pháp Sa-môn đã cúng dường hằng hà sa số chư Phật, hoặc dùng đầu, mắt, đất nước, tài vật, vợ con, thuốc men, bốn việc để cúng dường; chỉ mong được nghe chư Phật giảng dạy nghóa của khổ, không, vô thường, sáu pháp vượt bờ, Không, Vô tướng, Vô nguyện, hoặc được nghe về các pháp học giới, pháp hiền hòa nhẫn nhục, hoặc ở ẩn trải qua một kiếp mà không xuất hiện, hoặc vào Thiền định thân tâm không bị lay động, đều do pháp bên trong chưa thành tựu. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Lúc đầu, ta đã từng được nghe pháp sâu xa vi diệu này của các Đức Thế Tôn nơi thế giới Tịch mịch. Các Bồ-tát đến trong hội này, ngay khi ấy đạt được pháp nhẫn Nhu thuận. Khi ấy, tại chúng hội có hai vạn bốn ngàn chúng sinh đạt được pháp nhẫn bất khởi. Các Đức Phật trong quá khứ, hiện tại và vị lai cùng thuyết giảng rộng rãi giáo pháp thâm sâu, không nơi chốn, cũng không thấy có ngã, nhân, thọ mạng. Ta quán sát kỷ căn tánh của chúng sinh. Nếu chúng sinh có tướng thì dùng pháp vô tướng để giáo hóa. Chúng sinh hữu niệm thì dùng pháp vô niệm để giảng dạy. Chúng sinh có ngại thì dùng pháp vô ngại để chỉ bày. Nếu có thiện nam, thiện nữ nào khéo thọ trì đọc tụng pháp thâm sâu này, lại vì người khác mà giảng thuyết, thì công đức người ấy không thể tính kể. Nếu có người tu đạo Bồ-tát, bằng tâm Từ, Bi, Hỷ, Xã thương yêu chúng sinh, nhằm chứng đắc quả vị Bồ-tát, thì thường phải tu tập thọ trì tụng pháp thâm sâu này. Có thiện nam, thiện nữ nào ở khắp tam thiên đại thiên thế giới mà thọ trì năm giới, thực hành mười diều thiện, bốn Thiền, bốn Tâm vô lượng, bốn Không định cũng không bằng chỉ một lần nghe pháp sâu xa này; nếu không thể tư duy nhiều thì cũng có thể được bảy ngày; nếu không thể tư duy được bảy ngày thì cũng tư duy được sáu, năm, bốn, ba cho đến một ngày, nếu không tư duy được một ngày mà chỉ trong một sát-na cũng được. Thế nào? Này Xá-lợi-phất! Ai đối với hàng Thanh văn như ông với số lượng đầy khắp trong thế giới nơi mười phương mà đem cúng dường bốn việc, y phục, thức ăn, dụng cụ, thuốc men từ ức ức kiếp, lại quá hơn ức ức kiếp thì phước đức đó cũng không bằng chỉ một lần nghe pháp sâu xa này. Vì sao? Vì tạng pháp của Bồ-tát là kho chứa pháp báu. Nếu giảng thuyết nghóa của một câu, hay nghóa của vô thường, khổ, không, vô ngã, ba pháp môn giải thoát và bốn trí, các hành vắng lặng của Không, Vô tướng, Vô nguyện, các hành không sánh, không khởi, không diệt tận, Đại Bồ-tát như vậy tức là an ổn trong đức hạnh vô lượng, phước đức không thể hạn lượng không gì sánh bằng. Nếu có Bồ-tát dùng sắc thân tu pháp hữu vi, giáo hóa chúng sinh khiến cho họ thành tựu số nguyện. Nhưng hạng kia chưa từng nghe đạo vô vi mà muốn thực hành pháp sâu xa của Bồ-tát thì việc này không thế được. Nếu có Bồ-tát tu tập định ý chánh thọ từ vô lượng pháp, giảng thuyết rộng pháp thâm diệu, thì được nghe pháp vô vi. Các pháp rỗng không đều không thật có. Đây là nghóa sâu xa không gì sánh bằng. Cho nên, Bồ-tát muốn làm đầy đủ hạnh nguyện của chúng sinh thì phải thuyết nghóa này cho họ. Lại muốn tuyên dương tạng chánh pháp bí mật của Bồ-tát Như Lai, muốn khiến cho chúng sinh tu chứng được bốn quả vị thì phải thường tu học pháp thâm sâu này. Phật bảo Xá-lợi-phất: –Thuở xưa, ta cầu học hạnh Bồ-tát nên thường tu tập sáu pháp vượt bờ, bốn Tâm vô lượng, Từ bi cứu giúp chúng sinh, giảng thuyết nghóa Niết-bàn, hoặc bằng lời nói để diễn thuyết, hoặc bằng sự im lặng của bậc Thánh, hoặc thị hiện thần thông, hoặc dùng phương tiện quyền xảo, hoặc dùng thần thông “năm đạo, hoặc dùng một đạo đi khắp trong một đạo, hoặc hiện làm thân Bích-chi bay lên hư không, hoặc làm Thanh văn nhận lãnh lời dạy bảo, hoặc hiện hình dáng trẻ nhỏ như chưa biết gì. Xá-lợi-phất nên biết Bồ-tát giáo hóa hiện ra khắp nơi không thể cùng tận. Tùy theo phong tục, tập quán của thế tục, tùy theo từng loài mà hội nhập, đi vào trong đất, trong nước, trong gió, trong lửa. Bồ-tát biết rõ nguồn gốc của bốn đại đều không có chủ thể, biết rõ trong ngoài địa giới là vắng lặng. Thủy, hỏa, phong, giới cũng như vậy. Bồ-tát lại quán sát chúng sinh, người có tham, sân, si; không tham, sân, si, có tâm ái dục; không có tâm ái dục; có ý kiêu mạn; không có ý kiêu mạn; có định ý; không có định ý; có loạn tâm; không có loạn tâm; Bồ-tát đều phân biệt rõ, hoặc dùng pháp quán sổ tức, hoặc quán bất tịnh, hoặc dùng pháp Niết-bàn diệt tận, hoặc dùng pháp hữu vi, vô vi, hoặc dùng pháp hữu lậu, vô lậu, hoặc dùng pháp thế tục, hoặc dùng đạo pháp, hoặc dùng thần thông lậu tận mà giáo hóa họ. Ta từng ở trong thế giới thông tuệ, vì một chúng sinh mà ngồi Thiền định suốt mười hai kiếp, thân tâm không lay động, không từ mệt nhọc để giáo hóa. Chúng sinh ấy chẳng phải người nào khác, không nên suy nghó nữa, nếu ông muốn biết người ấy thì nay chính là Bồ-tát Tối Thắng được sinh vào gia đình hào tộc ở thế giới thông tuệ. Đó là nhờ phước đức đời trước mà không sinh vào nhà bần cùng; Một đời, hai đời cho đến trăm ngàn đời, mười hai trung kiếp. Thọ thân thường sinh vào nhà giàu sang, không ở chỗ hạ tiện. Ta nhập vào Thiền định không xa vị ấy quán sát tâm họ; ở trong trăm ngàn kiếp mà không hiểu một câu của pháp thâm sâu. Sau đó vị ấy hoát nhiên đại ngộ, tâm ý khai mở tự hướng về ta, muốn nghe giáo pháp thâm sâu vô lượng, nên được diễn nói pháp tạng vô tận. Tạng vô tận nghóa là phân biệt âm thanh, hoặc dùng một âm vang khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, hoặc dùng một câu thích ứng với tâm ý của tất cả chúng sinh, phát ra lời dạy hơn tiếng Phạm thiên. Lại có sáu thông tạng vô tận, đến thế giới chư Phật nơi mười phương thân cận cúng dường Như Lai Thế Tôn, lãnh thọ pháp hiếm có thâm sâu vi diệu. Đối với pháp khó thực hành, dùng trí tuệ quyền xảo vượt qua cả tinh tấn, trì giới, nhẫn nhục, thiền định. Lại có tạng vô tận, có bốn Ý chỉ. Bốn ý chỉ là pháp hành vô lậu. Ý chỉ của pháp là con đường Niết-bàn. Ngoài ra, sự tu tập của phàm phu, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác chi, tám Chánh đạo, quả báo, quả vị, tu chứng đều không có thật, cũng không thấy có. Đó là tạng vô tận của Bồ-tát. Sao là có thể vô tận? Ánh sáng rực rỡ bình đẳng khéo giảng bản tánh là có thể cùng tận. Pháp tánh, tướng tu có thể tận. Sự ngay nghó của tâm có thể tận. Tư duy về năm ấm là có thể tận. Hiểu rõ mười hai nhân duyên là có thể tận. Biết bốn đại bên trong, bên ngoài là có thể tận. Xá-lợi-phất thưa Đức Thế Tôn: –Bạch Thế Tôn! Chẳng phải như thế, chẳng phải là Đức Như Lai đã rốt ráo cùng tận. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Lại có bốn pháp vô tận là pháp môn biện tài. Những gì là bốn? Một là phân biệt tuệ vô tận. Hai là phân biệt tuệ minh vô tận. Ba là tư duy về Tổng trì ghi nhớ. Bốn là phân biệt biện tài trọn vẹn. Xá-lợi-phất, đó là bốn tạng vô tận, là sự tu tập của Bồ-tát. Lại có bốn tạng vô tận. Một là không thể nắm giữ, buông lung không an trụ. Hai là tâm đạo khó nắm giữ bản tánh rất thâm sâu. Ba là nhập vào bản tế, sự tu tập không có gốc ngọn. Bốn là nhập vào tâm ý của chúng sinh, biết rõ chẳng phải pháp. Đó là tạng vô tận của Bồ-tát. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Bồ-tát có bốn tạng vô tận vững chắc là pháp môn biện tài. Những gì là bốn? Một là chí nguyện kiên cố không theo tà giáo. Hai là bản tánh thanh tịnh không sinh phiền não. Ba là lời Phật dạy giữ nhẫn nhục, không sân hận. Bốn là tùy theo nhân duyên tạo lập các hạnh, không mất thệ nguyện. Đó là pháp môn biện tài tạng vô tận của Đại Bồ-tát. Bồ-tát ở dưới gốc cây Bồ-đề, thâu phục các ma oán, tâm ý không khiếp nhược. Lại có bốn tạng vô tận pháp môn chuyển luân. Những gì là bốn? Một là lời nói chân thật không hủy báng người khác. Hai là xét tận cùng duyên khởi, biết chỗ sinh ra. Ba là dạy bảo chúng sinh không bao giờ lười biếng. Bốn là hiểu biết trí tuệ đạt đến quả vị của Bồ-tát. Đó là tạng vô tận không hủy hoại pháp giới của Đại Bồ-tát. Ấy là sự tu hành của Đại Bồ-tát. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Đại Bồ-tát có bốn tạng vô tận thành tựu pháp giới. Những gì là bốn? Một là chiếu soi rực rỡ cả pháp giới, thông suốt khắp nơi. Hai là chiếu soi rực rỡ các pháp tánh, biết được không thật có. Ba là phân biệt nhục nhãn, Thiên nhãn, tuệ nhãn, pháp nhãn, Phật nhãn. Nhục nhãn là gì? Nhìn thấy các sắc trần mà phát sinh nhãn thức. Thiên nhãn là gì? Thiên nhãn là nhìn thấy hình tượng Ánh sáng của chư Thiên mà không thấy quả báo. Tuệ nhãn là phân biệt mà không thấy phiền não. Pháp nhãn là thanh tịnh, đầy đủ sáu pháp vượt bờ. Phật nhãn là thấy rõ các tướng là vô tướng. Bốn là chiếu soi rực rỡ các quả báo nhưng không dắm trước vào ba cõi. Đó là thành tựu pháp giới tạng vô tận của Bồ-tát. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Đại Bồ-tát có bốn tạng vô tận. Những gì là bốn? Một là ý tinh tấn không định; ý có cầu tuệ; ý không cầu tuệ; ý có tận; ý không tận; ý có đắc; ý không đắc; phân biệt trong ngoài đều không thật có. Này Xá-lợi-phất! Bồ-tát thực hành quyền xảo khắp mọi nơi, giáo hóa cùng khắp lấy tinh tấn làm đầu, tu tập cấm giới lấy nỗ lực làm gốc. Theo chư Phật Thế Tôn mong cầu chứa nhóm công đức, nghe pháp được vui mừng, tích tập trí tuệ, giảng rộng giáo pháp mà chẳng có lời giảng. Dùng tuệ quán kiên cố để quán sát các pháp trong quá khứ, hiện tại và vị lai mới gọi là giáo hóa chân thật. Những lời dạy của Như Lai không dùng văn tự. Người nghe thanh tịnh và pháp được nói ra cũng thanh tịnh. Đó là chứa công đức trí tuệ đứng vững trong pháp nhẫn không bị thoái chuyển. Này Xá-lợi-phất! Không tham sắc cũng không nương tựa vào sắc; chẳng phải không có sắc, hiểu rõ sắc và không sắc, nên gọi là pháp tánh. Giả sử được tất cả hương thơm xông ướp the lụa năm màu, cờ, lọng trong tam thiên đại thiên thế giới đem đến cúng dường, cũng không lấy làm vui mừng; xa lìa biếng nhác, không còn sợ hãi, tránh ý tham loạn, trừ tâm sân hận, thành Chánh đẳng Chánh giác; giảng rộng chánh pháp mới được thành Phật, xả bỏ sự an hưởng của tâm để lập thệ nguyện rộng lớn, thay thế chúng sinh nhận chịu các khổ não, siêng năng ưa thích pháp khiến cho chúng sinh đi vào ngôi nhà chánh pháp, tu tập đạo pháp thì được chư Thiên ủng hộ, Trời, Rồng, Càn-đạp-hòa, A-tu-luân, Ca-lưu-la, Chiên-đà-la, Ma-hưu-lặc, Người và phi nhân đều đến cúng dường. Và được thiện nam, thiện nữ giúp đỡ khiến được thành Phật đạo, phát nguyện kiên cố để được trí tuệ không còn thoái lui, không còn các duyên đọa vào ba đường, không nhận thức, không hiểu biết cũng không cứu cánh. Này Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát tu tập pháp không tưởng niệm, pháp không lời dạy mới có thể thành tựu thánh giáo của Như Lai. Khi ấy cả chúng hội nghe được pháp thâm sâu này đều phát tâm vô thượng, chứng quả vị không thoái chuyển. Bấy giờ, Xá-lợi-phất bạch Phật: –Những người vừa nghe pháp này bao lâu nữa sẽ thành Phật? Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Những người này trong hai trăm vô ương số kiếp sẽ thành Phật, đều cùng một hiệu Vô Cấu Đức Siêu Như Lai Chánh Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Vi Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Cõi nước tên Thanh Tịnh, kiếp tên Nan độ. Cõi nước của Đức Phật ấy chỉ nương tựa có một thừa, không có tên Thanh văn và Bích-chi-phật, thường bàn luận đức hạnh vô lượng của Bồ-tát, mặt đất bằng phẳng không có núi, sông, đồi gò, sông suối, hang khe và các loại hình sắc khác. Như tấm nêm của cõi trời, không có Ánh sáng của mặt trăng, mặt trời chiếu đến, chỉ có các tướng ánh sáng tự chiếu với nhau, các đức rộng khắp, chúng sinh có thể nghó rất nhiều ý tưởng. Vì sao? Vì pháp giới ấy không sai khác với ý tưởng của họ. Chúng sinh trong thế giới của Đức Phật ấy ăn thức ăn cam lồ tự nhiên, mặc y kiếp-ba-dục giống như cõi trời thứ sáu Tha hóa lạc thiên, đất đai phì nhiêu, các loại hoa màu sung túc, đầy đủ bảy báu: Vàng, bạc, trân báu, xà cừ, mã não, trân châu, hổ phách, có Chuyển luân thánh vương tên Vũ Hoa, bảy báu cùng đi theo. Bảy báu gồm có: Một là luân báu. Luân báu đó đường kính bốn mươi khủy tay, toàn bằng bảy báu. Bánh xe ấy có ngàn cái căm, mỗi cái căm có hình tướng rõ ràng. Vua muốn đi về phía Đông thì bánh xe dẫn đầu. Hai là voi báu. Voi báu ấy màu trắng như tuyết, miệng có sáu cái ngà, mỗi cái ngà đều có tướng rõ tàng. Vua muốn cỡi voi báu đi du hành đến thế giới nào thì trong một sát-na đã đến thế giới ấy, chẳng khó khăn gì. Ba là ngựa báu. Ngựa báu ấy thân màu xanh biếc, bờm và đuôi đỏ thắm, bay trên không chân không chạm đất. Ngựa hý một tiếng chấn động cả thế giới, ở đâu cũng nghe. Vua cỡi ngựa báu đi các phương Đông, Tây, Nam, Bắc chỉ trong một sát-na đã đến khắp nơi. Bốn là ngọc báu nữ. Thân có hương thơm mùi hoa sen xanh. Miệng tỏa mùi hương ngưu đầu chiên-đàn. Người đoan chánh thân thể tròn đầy, không quá mập hay ốm, không quá cao hay thấp, không quá trắng hay đen, đầy đủ sáu mươi bốn vẻ đẹp của người nữ. Ý vua muốn gặp liền có ngay. Năm là ngọc báu. Ngọc báu ấy cạnh vuông ba nhận, cao bảy nhận. Muốn thử ngọc báu ấy, vào đêm vắng người, vua liền triệu tập quân ngựa và và bốn binh chủng, đem ngọc báu ấy đặt trên đầu của đài cao vạn trượng, ánh sáng của ngọc báu chiếu khắp thế giới, ngọc báu đến đi tùy ý muốn của nhà vua. Sáu là quan giữ kho tạng báu. Vị điển tạng báu ấy, khi Chuyển luân thánh vương muốn đi đến biên cương của thế giới; con đường dẫn đến gặp phải biển lớn, sâu đến không đáy. Vua muốn thử sự chứng nghiệm khả năng của Điển Tạng báu liền ra lệnh cho người hầu cận: Hãy dừng lại ở biển này, Ta muốn nghỉ ngơi. Vua liền báo Điển Tạng báu: Ta cần vàng, bạc, trân báu, xà cừ, mã não, san hô, hổ phách, thủy tinh, lưu ly, Khanh có thể lấy được không? Khi ấy, Điển Tạng báu liền quỳ trong nước, dùng đồ múc nước, tùy theo ý nghó mong cầu mà bảy báu tự đến. Bảy là Điển Binh báu. Điển Binh báu ấy, vua muốn tập họp bốn binh chủng, liền bảo Điển Binh báu: –Ta muốn kiểm tra bốn binh chủng ngay tức khắc, ông có làm được không? Điển Binh báu thưa vua: –Không biết Thánh vương cần bao nhiêu binh? Vua bảo: –Ta cần trước, sau, phải, trái mỗi chỗ vạn hàng. Điển Binh báu làm đúng theo lời bảo của vua. Tập họp bốn binh chủng: Bốn binh chủng là: Tượng binh, mã binh, xa binh, bộ binh. Mỗi binh đều có thêm mười loại, bốn loại binh đều như vậy. Bấy giờ, Đức Phật bảo Tối Thắng và cả chúng hội: –Chuyển luân thánh vương chẳng phải là người nào khác, chớ suy nghó gì nữa, vì sao? Nay chính là Bồ-tát Tối Thắng: Do có sự biến hóa, lời nói dịu dàng nên chúng sinh nương theo pháp âm ấy mà được vắng lặng. Bồ-tát giảng dạy sáu Pháp độ vô cực, bốn Ân, bốn Tâm vô lượng, sáu Trọng pháp. Bồ-tát dùng quyền phương tiện nhập vào diệt tận định xa lìa các dục không còn cấu uế. Các pháp vô vi, Không, Vô tướng, Vô nguyện, pháp không sinh, không diệt, không có đầu mối. Các pháp ấy chúng sinh, chư Thiên, con người trong cảnh đó; Bồ-tát phân biệt căn cơ vô lậu và trí tuệ của bậc Thánh; hoặc phát ra âm thanh hướng dẫn về chánh pháp; hoặc dùng các khổ dạy bảo để nhập vào pháp luật; hoặc dùng ánh sáng biến hóa của thần túc hướng dẫn chúng sinh dần dần vào nơi cứu cánh. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Tất cả chúng sinh có tướng ngã, nhân; nguồn gốc các pháp thanh tịnh, không hình tướng, chẳng phải pháp thường, đoạn, các pháp không bị hủy hoại, quán rõ cõi Phật không thật có. Lại nữa Xá-lợi-phất! Mười hai nhân duyên, năm ấm, sáu suy đều không có hình tướng. Tám thứ âm thanh của Như Lai không phải là tướng nam, không phải tướng nữ, không tiếng mạnh, không tiếng yếu, không phải tiếng trong, không phải tiếng đục, không phải tiếng trống, không phải tiếng mái. Do bố thí độ mà chứng được quả này. Sự thanh tịnh biết rõ chiếu soi cả pháp giới. Hoặc phát ra một tiếng vang khắp cả ba ngàn cõi nước mười phương. Ta từng ở trong thế giới Dã Mã, cách cõi này bảy mươi hai ức hằng hà sa cõi nước chư Phật. Ở cõi đó, phát ra âm thanh lớn vang khắp cõi Phật kia. Người nghe âm thanh này có một trăm ức chúng sinh ở địa vị không thoái chuyển đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Khi ấy, đệ tử ta tên Mục-kiền-liên thần thông số một, đi lên một ngọn núi Tu-di, lại lên một ngọn núi Tu-di nữa, như thế trải qua kiếp này đến kiếp khác mà chân không chạm đất. Khi đó, Mục-kiền-liên ở trong cõi Dã Mã, phát ra âm thanh lớn vang cả tam thiên thế giới khắp cả mười phương, dùng âm thanh này mà diễn dạy giáo pháp. Như Lai thuyết pháp chưa từng có hành nghiệp, cũng không thấy hành nghiệp, chẳng phải không có hành nghiệp, biết hành nghiệp mà không phải hành nghiệp nên gọi là thanh tịnh. Các pháp không tướng, cũng không âm thanh. Lại thuyết Tứ đế đúng như pháp tánh. Biết khổ không khổ nên không ở trong khổ. Vì nhập vào trí tuệ này nên gọi là khổ trí. Nhân tập, thấu suốt nguồn gốc hiểu rõ tập, không tập, không thấy có tập nên gọi là tập trí. Biết chỗ diệt tận, do diệt tận mà sinh, do diệt tận mà diệt, cũng không thấy diệt tận gọi là tận trí. Đạo vô vi là không thấy nơi chốn, đều được chư Phật ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai khen ngợi. Hiện tại Đức Phật thuyết không có đạo. Những điều nói ở quá khứ, vị lai cũng thế. Đạo không có hình tướng nên không thể thấy được. Hiễu rõ đạo không phải đạo nên gọi là đạo trí. Đó là phân biệt nghóa đạo của Đại Bồ-tát. Bấy giờ, tất cả chúng sinh ở trong thế giới Dã Mã, chỉ nghe âm thanh này mà không thấy được hình tướng. Đại chúng ở trong đó ngạc nhiên cho là điều kỳ lạ. Đây là người nào mà phát ra âm thanh lớn chấn động cả thế giới, đồng thời diễn thuyết nghóa lý sâu xa. Đức Như Lai biết được tâm niệm của chúng sinh liền bảo Mục-kiền-liên: –Ông hãy bỏ thần thôngvà hiện hình ra ở trong đại chúng này. Khi ấy, Mục-kiền-liên theo như hình dáng của mình bổng nhiên hiện ra giữa đại chúng. Thân của Bồ-tát cõi ấy cao tám vạn bốn ngàn do-tuần. Thân Phật cao mười sáu vạn tám ngàn do-tuần. Trong đại chúng thấy Mục-kiền-liên, đắp y mang bát giống như Sa-môn nên rất ngạc nhiên cho là việc chưa từng thấy. Đây là loài gì? Là cầm thú hay là người vậy? Lúc đó, Đức Phật kia biết tâm niệm của đại chúng liền bảo: –Các ông chớ nghó như vậy, sở dó như thế-là vì cách đây bảy mươi hai ức hằng hà sa số thế giới chư Phật, có một thế giới tên là nhẫn độ. Đức Phật cõi ấy tên là Thích-ca Văn Như Lai Đẳng Chánh Giác; đầy đủ mười tôn hiệu, xuất hiện ở thế gian trong đời ngũ trược, thường dùng văn tự giáo hóa chúng sinh. Nhân dân trong nước ấy sống đến trăm tuổi hoặc sống hơn không bao nhiêu cả. Phật dùng bốn chân đế để phân biệt nghóa lý, giảng thuyết trí tuệ không xứ sở, không chấp trước. Tỳ-kheo Mục-kiền-liên này là đệ tử thần thông số một. Đức Phật ấy liền bảo Mục-liên, đại chúng đây muốn được nhìn thấy thần thông hiện tại của ông. Khi ấy Mục-kiền-liên nghe theo lời Đức Phật dạy, liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật, bỗng nhiên biến mất mà nhập vào Tam-muội định ý vô ngại, tiếp nhận hết cõi nước chư Phật khắp mười phương đặt vào trong bàn tay phải, tay trái đỡ lấy cõi nước Đức Phật kia đưa lên hư không. Mọi người đều thấy thần thông của Mục-kiền-liên nhưng muốn thấy thân hình của Mục-kiền-liên thì không thể thấy được. Bấy giờ, Bồ-tát liền hướng về Đức Phật Thế Tôn kia, cầu xin Đạo sư cứu giúp, Phật bảo: –Đừng sợ, hoàn toàn không có gì đâu. Khi ấy, Đức Phật bảo Mục-kiền-liên: –Mục-liên, hãy dừng lại và xả thần thông để cho Bồ-tát này thấy được dấu tích. Lúc đó, Mục-liên nghe lời Phật dạy, bỏ thần thông trở về chỗ cũ. Bồ-tát kia bạch Phật: –Cõi Kham nhẫn của Đức Phật Thích-ca ấy, dùng gì để giáo hóa, thuyết pháp như thế nào? Dùng đạo gì để giáo hóa chúng sinh? Dùng quyền trí gì để qua lại trong sinh tử? Phật bảo hàng Bồ-tát: –Chúng sinh ở cõi ấy cang cường khó giáo hóa, tranh nhau phải trái đều cho mình là hơn. Vì thế, Như Lai dùng những lời dạy nghiêm khắc để chỉ dạy dẫn dắt họ vào đạo. Ví như: rồng, voi và các thú dữ hung bạo, không thuần thục, nên phải đánh đập để chúng biết đau đớn. Sau đó, chúng mới được thuần thục cho vua cỡi đi. Đối với chúng sinh trong cõi đó cũng như thế, phải dùng rất nhiều lời nói để độ thoát họ, hoặc dùng âm thanh khổ nói về khổ, tiếng tập, diệt, đạo cũng như vậy. Bấy giờ, Bồ-tát kia khen ngợi việc chưa từng có: –Lành thay! Lành thay! Bạch Thế Tôn! Đức Phật Như Lai kia siêng năng chịu khổ làm những việc khó làm ở trong đời năm trược sôi sục để giáo hóa chúng sinh, rộng nói đạo lớn, Niết-bàn tịch nhiên, trở về vô vi. q Kinh TỐI THẮNG VẤN BỒ-TÁT THẬP TRỤ TRỪ CẤU ĐOẠN KẾT <卷 id="113335708">Quyển 9 <詞 id="113335709">Phẩm 24: Đạo trí Bấy giờ, ngay chỗ ngồi, trăm ức chúng sinh, chúng hội Bồ-tát và Thiên Đế Thích, Phạm thiên vương, Đâu-thuật thiên, Diễm thiên, Hóa tự tại thiên, Tha hóa tự tại thiên, cho đến cả Cứu cánh thiên, tất cả đều nghi ngờ, muốn được nghe điều căn bản của đạo. Đạo vô tướng nên không thể thấy, vì sao Như Lai nói có đạo? Khi ấy, Đức Thế Tôn biết được tâm niệm của chúng hội, bảo Bồ-tát Tối Thắng: –Các ông muốn được tuyên thuyết điều căn bản vi diệu của đạo chăng? Tối Thắng bạch Phật: –Đúng vậy, bạch Thế Tôn! Chúng con xin muốn được nghe. Phật bảo Tối Thắng và đại chúng Bồ-tát, Thiên, Long, Quỷ thần, A-tu-la, Chiên-đà-la, Ma-hưu-lặc, Nhân và phi nhân: –Nên hiểu đạo là không dấu vết, vắng lặng không tên. Giả sử đạo tối thắng có xứ sở thì Đại Bồ-tát không ở trong pháp bình đẳng để thành tựu Tối chánh giác. Vì đạo quả ấy không có xứ sở nên Đại Bồ-tát thành Đẳng Chánh Giác. Phật lại bảo Tối Thắng: –Định ý đạo trí của Bồ-tát có mười. Thế nào là mười? Không tạo nghiệp của thân, cũng không chấp trước. Không tạo nghiệp của miệng, cũng không chấp trước. Không tạo nghiệp của ý, cũng không chấp trước vào cảnh giới Phật mà không sinh tưởng về Phật. Giáo hóa chúng sinh đạt đến trí vô ngại, đều khiến chúng sinh hiểu đạo mà chẳng phải đạo, khiến chúng sinh thành Tối chánh giác, phóng đại hào quang chiếu khắp mọi nơi, mỗi hào quang có vô lượng hóa thân Phật, mỗi hóa thân Phật giảng thuyết sáu pháp vượt bờ thâm sâu, thường chuyển pháp luân, phát tâm Bồ-đề, hiểu về ngã, vô ngã; không thọ mạng, thân tâm tự nhiên nên gọi là đạo. Tự nhiên ấy, tức là hiểu đạo vô trí cũng không có trí. Giác ngộ không có đối tượng giác ngộ, đều không thấy giác ngộ. Nói ta là đạo cũng không thấy ta. Nói ngã là đạo cũng không thấy ngã. Ngã, nhân, thọ mạng cũng như vậy. Tất cả các trí cũng không có hình tướng. Bấy giờ, Bồ-tát Tối Thắng bạch Phật: –Giả sử đạo không có hình thì không thể thấy. Như hôm nay, chuyển pháp luân diễn thuyết bốn quả vị tu chứng là nói Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi-phật, Bồ-tát và Phật. Vì sao nói về năm ấm, Nhất thiết trí, Bốn ý đoạn, Bốn thần túc, Năm căn, Năm lực, Bảy giác ý, Tám hiền thánh đạo? Vì sao nói về làm thanh tịnh cõi Phật, giáo hóa chúng sinh từ cõi Phật này đến cõi Phật khác? Sự hoạt động của sáu thức bằng trí tuệ phân biệt rõ ràng, sao lại nói về Bốn vô lượng tâm, Sáu độ và Chân như pháp tánh là tên gọi của đạo? Khi ấy, Đức Thế Tôn bảo Tối Thắng: –Theo lời ông hỏi, Đại Bồ-tát hiểu rõ phương tiện quyền xảo năm phần Pháp thân của trí tuệ Phật thì không thấy biến đổi, thấy biến đổi thì chẳng phải nghóa của đạo, xa lìa tất cả những lệ thuộc, suy tìm pháp giới cũng không có pháp giới. Sở dó như vậy vì tất cả đều là không, cho nên không chấp vào trí đạo, cũng như đạo vốn là thanh tịnh nên giả nói chuyển pháp luân, hiểu rõ tất cả các pháp không chấp trước. Này Tối Thắng! Đại Bồ-tát đối với tất cả pháp không chấp trước, không thấy sinh cũng không thấy diệt. Cõi Phật thanh tịnh, chúng sinh cũng thanh tịnh, thị hiện ánh sáng trí tuệ vô lượng. Đó là Đại Bồ-tát thích ứng để lập hạnh Tổng trì không thoái chuyển, chứng quả vị Bồ-đề. Hoặc nhập vào Tam-muội Định ý chánh thọ, giáo hóa chúng sinh, thanh tịnh cõi Phật. Không nói nhiều đạo, chỉ nhận một hạnh. Không có pháp trí mà giả nói trí. Bồ-tát nên nhớ nghó tu tập, giáo hóa người chưa ngộ không có tưởng của thức. Này Tối Thắng! Đó là nhập vào định ý. Trí đạo thanh tịnh hoàn toàn không trần cấu, điều phục được hay không điều phục cũng không cho là khổ vui; thường hay chẳng thường, tốt hay xấu đều không có tướng chấp trước, trí không rối loạn, mong cầu đầy đủ mười lực của Phật, Bốn vô sở úy, Bốn tuệ phân biệt, Đại Từ đại Bi, chân như pháp tánh đều không thật có, vắng lặng như hư không, phân biệt nhân quả, đạt đến trí đạo. Không sinh không diệt nghóa là Không, Vô tướng, Vô nguyện cũng không chỗ sinh. Này Tối Thắng! Bồ-tát đạt đến chỗ cốt yếu của đạo, sự luận bàn về đạo đức tức là cảnh giới hư không. Sở dó như vậy, vì đạo đức là không, không tức là đạo, một mà không hai, cũng không khác. Bồ-tát Tối Thắng bạch Phật: –Lành thay! Lành thay! Pháp này rất hay. Bấy giờ, trong chúng hội, tất cả Thiên, Long, Quỷ thần, Càn-đạp-hòa, A-tu-luân, Ca-lưu-la, Chiên-đà-la, Ma-hưu-lặc, Nhân và phi nhân tự nghó: “Hôm nay Như Lai giảng thuyết cho đại chúng về pháp trí đạo, không gì sánh bằng, làm mãn nguyện tùy theo mục đích hướng đến của chúng sinh. Bồ-tát Tối Thắng này khi nào sẽ thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác?”. Phật biết được tâm niệm của Thiên, Long liền bảo bốn bộ chúng: –Bồ-tát Tối Thắng này về sau trải qua ba trăm ba mươi a-tăng-kỳ kiếp sẽ thành Phật hiệu là Minh Tuệ Chí Chân, Như Lai, Đẳng Chánh Giác. Thế giới tên là Vô lượng, kiếp tên Thanh tịnh. Đức Phật kia cùng với đệ tử trải qua chín ngàn chín trăm chín mươi hai ức sống một trăm hai mươi tiểu kiếp. Khi ấy, chúng hội nghe Phật thọ ký đều tự phát nguyện muốn sinh vào cõi Đức Phật kia. Phật liền bảo: –Đúng như lời nguyện, các ông chắc chắn sẽ được sinh vào cõi đó không còn nghi ngờ gì nữa. Phật bảo Tối Thắng: –Trong đại chúng này, có Đao-lợi thiên thường cùng A-tu-luân tranh đấu, hoặc có khi Đao-lợi thiên thắng thì A-tu-luân thua, hoặc A-tu-luân thắng thì Đao-lợi thiên thua, đều cùng nhau tranh đấu, gây sự oán kết. Mỗi bên đều sân giận không thể nào xóa bỏ. Tối Thắng thưa: –Xin Thế Tôn dùng phương tiện quyền xảo thuyết pháp trí đạo hư vô, làm cho chư Thiên và A-tu-luân hòa hợp, khởi tâm Từ bi. Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo chúng hội: –Đạo ấy không hình, cũng không thể thấy, ba độc căn bản hoàn toàn không gốc ngọn. Thế gian tu tập tin đạo là thật. Người thực hành Từ bi luôn được Thiên thần hộ vệ, mười phương chư Phật ca ngợi, đời này đời sau dồn chứa vô lượng công đức. Những chúng sinh hữu hình đến cả như sâu bọ, con trùng trong cõi Diêm-phù-đề đều sẽ quy về pháp diệt tận, mạng sống như điện chớp, như sóng nắng, như ảnh trong gương, bọt nổi trên nước, có hòa hợp thì có tan rã, có sinh thì có chết. Các ông thọ thân thì không thể thoát khỏi khổ nạn này. Tuy sinh làm Trời nhưng vẫn rơi vào ba đường ác, nên cẩn thận cầu xa lìa con đường này. Các ông lắng nghe, ghi nhận lời ta dạy. Bấy giờ, bốn bộ chúng đều cùng nhau vui mừng, cung kính muốn nghe giáo pháp của Như Lai. Đức Thế Tôn bảo bốn bộ chúng: –Các ông lắng nghe, suy nghó kỹ: Đại Bồ-tát nên nhớ nghó, tu hành tám pháp môn giải thoát. Tam pháp đó là: Nếu thiện nam, thiện nữ hành trì giới luật không thiếu sót, giữ gìn thân, khẩu, ý, thực hành Tứ đẳng tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả, thường thân cận theo Thiện tri thức, làm hưng thịnh Tam bảo, thường nhớ nghó mong cầu đạo Vô thượng, đem chánh pháp nghe được giảng thuyết cho người khác. Giáo lý đã thuyết không nói về Tiểu thừa, khuyến khích chúng sinh tu hành Đại thừa. Hoăëc khi Bồ-tát giảng thuyết Đại thừa bình đẳng không hai, không thấy có giảng dạy; cũng như hư không, không có hình tượng. Những điều giảng dạy của Đức Phật không thể nghó bàn, bao gồm vạn hạnh và tất cả các pháp. Hoặc nói về hành của không, hư không vắng lặng, hoặc nói về năm phần Pháp thân. Ví như người có ngọc ma-ni như ý, ở giữa đại chúng muốn cho năng lực của ngọc phát ra màu xanh, vàng, trắng, đen thì cũng làm cho mọi người đồng với màu sắc ấy. Đại Bồ-tát cũng như vậy, tùy theo tâm niệm của mọi người liền diễn nói pháp trí đạo không cùng tận, làm cho mọi người đều hoan hỷ, hết tâm tôn sùng Phật đạo, hướng dẫn, chỉ bày pháp môn trí tuệ, làm lợi ích cho chúng sinh, hướng về đạo Đại thừa. Như vậy, Bồ-tát phát thệ nguyện lớn cứu độ chúng sinh cũng không thấy có độ, giống như hư không đến đi không ngăn ngại. Bồ-tát phát tâm độ người như vậy cũng không thấy có chúng sinh được độ. Phật bảo Tối Thắng: –Sau khi ông nhập Niết-bàn, Xá-lợi được cúng dường trải qua hai mươi trung kiếp, tất cả chúng sinh đều phụng sự. Với người không có nhân duyên thì tạo nhân duyên cho họ, người không được cứu giúp thì cứu giúp cho họ, người không được che chở thì làm sự che chở cho họ. Khi ấy, nhân loại đều cúng dường hương hoa, âm nhạc, đảnh lễ, quy y. Tất cả xá-lợi đều phóng hào quang, thần thông biến hóa, ai thấy đều vui mừng, đều do phát nguyện rộng lớn mà đạt được như vậy. Sự biến hóa thù thắng, oai thần chủa chư Phật, uy nghiêm rực rỡ chiếu soi cùng khắp, phát sinh vô lượng ánh sáng trí tuệ, nhờ đó mà sinh ý đạo Vô thượng. Chúng sinh trong đó phát tâm sai khác nhau, hoặc thành tựu pháp Thanh văn, Duyên giác, hoặc sinh cõi trời, cõi người. Xá-lợi được phân tám phương và trên dưới, Thiên, Long, Quỷ thần, Càn-đạp-hòa, A-tu-luân, Ca-lưu-la, Chiên-đà-la, Ma-hưu-lặc, Nhân và phi nhân, những loài sâu bọ, côn trùng có hình sắc đều đến cúng dường, tự tấu lên năm thứ nhạc. Phật bảo Tối Thắng: –Khi ông thành Phật, thì đất màu hoàng kim, đầy đủ bảy báu: kim ngân, trân bảo, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, thủy tinh, lưu ly. Chúng sinh nào muốn được cúng dường toàn thân xá-lợi, liền được mãn nguyện như ý, ngàn vạn ức toàn thân xá-lợi hiện khắp thế gian, kinh điển được lưu truyền mười bảy trung kiếp. Bấy giờ, ngay chỗ ngồi, Bồ-tát Vô Lượng Giác Tuệ suy nghó: “Bồ-tát Tối Thắng để xá-lợi của thân lại, phân bố khắp thế gian, khiến họ phát tâm đạo, độ thoát số người được bao nhiêu?”. Phật biết tâm niệm của Bồ-tát này, liền bảo: –Hiền giả hãy thôi đi, chớ nói như vậy, không nên dùng trí tuệ bằng thân hữu hạn của mình để sánh với trí tuệ Tam-muội Định ý vô ngại của Như Lai. Ánh sáng của xá-lợi tiếp độ chúng sinh, chẳng phải tâm đo lường, chẳng phải dùng ý để quán xét. Thần thông, oai đức, trí đạo của Như Lai tự tại, những phương tiện biến hóa khác nhau của chư Phật mà Bích-chi và Thanh văn không thể đạt được. Đại Bồ-tát được Tam-muội tịch định đều không có niệm chấp về tưởng gần xa, đi khắp mười phương đất nước, thành thị, cung Trời, cung Rồng, cung các vị thần, chỗ đông người, nơi hoang vắng, trên trời, năm đường ác, khắp nơi đều thị hiện toàn thân xá-lợi. Tất cả xá-lợi đều phóng hào quang, giảng thuyết pháp sáu độ: Không, Vô tướng, Vô nguyện, Đại từ, Đại bi, Bốn ân, trí tuệ phân biệt vắng lặng, thông đạt định ý, cúng dường xá-lợi, bình đẳng không hai. Tâm bố thí vững chắc không tăng không giảm, đó là Đại Bồ-tát nhập Tam-muội tịch định, có thể phân biệt trong ngoài sáu căn. Sáu căn là gì? Gọi sáu căn là: mắt thấy sắc không sinh tưởng về sắc, hiểu vật bên ngoài của sắc mà sinh nhãn thức, liền phát khởi bảy mươi bốn phiền não. Những gì là bảy mươi bốn? Mười lăm thức ở Dục giới, mười lăm thức ở Sắc giới, mười lăm thức ở Hữu tưởng Vô tưởng, mười lăm sinh ấm, mười bốn trung ấm. Phật bảo Đại Bồ-tát: –Đối với nhãn thức sinh phiền não, liền phát khởi nhãn thức. Lại nữa, Đại Bồ-tát, nếu thiện nam, thiện nữ nào tai nghe tiếng mà không khởi phiền não về tai thì hiểu vật bên ngoài của âm thanh mà sinh nhó thức, liền phát khởi bảy mươi bốn phiền não, gồm: mười lăm nhó thức ở Dục giới, mười nhó thức ở Sắc giới, mười nhó thức ở Hữu tưởng Vô tưởng, ba mươi chín trung ấm và thọ hình ấm. Phật bảo Đại Bồ-tát: –Đối với tỷ thức sinh phiền não, liền phát khởi tỷ thức. Lại nữa, Đại Bồ-tát nếu mũi ngửi hương mà không khởi tỷ thức thì biết được vật ngoài hương mà phát sinh tỷ thức, liền phát sinh bảy mươi bốn phiền não, gồm: mười lăm tỷ thức ở Dục giới, mười lăm tỷ thức ở Sắc giới, bốn mươi bốn ở Hữu tưởng Vô tưởng, bốn không định. Phật lại bảo Đại Bồ-tát: –Nếu có thiện nam, thiện nữ nào thiệt thức nếm vị thì phát sinh phiền não của lưỡi, Lúc ấy, phân biệt biết rõ không chủ thể, trong sự ham muốn, thiệt thức liền sinh khởi bảy mươi bốn phiền não, gồm: mười lăm thiệt thức ở Dục giới, mười lăm thiệt thức ở Sắc giới, bốn mươi bốn thiệt thức ở Hữu tưởng Vô tưởng, Trung ấm. Đại Bồ-tát nên tư duy pháp sinh diệt, sự xúc chạm trong ngoài, tức sinh phiền não thô hay tế, phân biệt tất cả đều không thật có, liền ngay nơi xúc phát sinh thân thức, cho đến phát khởi bảy mươi bốn phiền não, gồm: mười lăm thân thức ở Dục giới, mười lăm thân thức ở Sắc giới, bốn mươi bốn thân thức ở Hữu tưởng Vô tưởng đến Trung ấm. Đại Bồ-tát tư duy về hành của ý pháp. Pháp sinh thì sinh, pháp diệt thì diệt, không thấy sinh cũng không thấy diệt. Người ngu đối với hành pháp, phát sinh tưởng ý thức, liền khởi bảy mươi bốn phiền não, gồm: mười lăm ý thức về Dục giới, mười lăm ý thức ở Sắc giới, bốn mươi bốn ý thức ở Hữu tưởng Vô tưởng và Trung ấm. Phật lại bảo Đại Bồ-tát: –Thế nào là trí đạo? Bồ-tát đối với mười lăm trí đạo của Dục giới là gì? Đó là: ở thế gian có bảy, gồm: Một là phỉ báng đạo. Hai là tâm tin nơi đạo. Ba là thọ nhận lời dạy. Bốn là đứng vững hoặc thoái lui. Năm là quả báo do dự. Sáu là tâm tinh tấn, thân chướng ngại. Bảy là mắt thấy mà không nhận biết. Nương vào kho tạng thâm sâu của Phật thì có tám việc, đó là: Một là Phật pháp không hình tướng, cho có hiện tướng. Hai là hiện tại không dừng mà chấp là thường tồn. Ba là vì quá khứ vónh viễn đã qua rồi, nên cố nói là không thấy. Bốn là vì vị lai chưa đến nên nói là không sinh diệt. Năm là do khổ mà có hoạn nạn nên nhận chịu những nghịch duyên. Sáu là chưa diệt tận mà nói diệt tận, rồi làm theo phương tiện ấy. Bảy là thấy đạo rồi xả bỏ đạo, nên chẳng vượt lên. Tám là Phật pháp không hai, cho là sai khác. Đó gọi là Đại Bồ-tát đối với mười lăm phiền não của trí đạo Dục giới. Thế nào là mười lăm phiền não của trí đạo Sắc giới? Đó là: Một là ân đức thấm nhuần. Hai là tâm không thay đổi. Ba là đắm trước thú vui cõi trời. Bốn là quên tội phước. Năm là sống lâu. Sáu là không cảm thọ. Bảy là tâm bình thường. Tám là hành bình đẳng. Chín là do nhẫn thì không sinh khởi. Mười là đạo không biến đổi. Mười một là các tưởng đầy đủ. Mười hai là tham chấp về sắc. Mười ba là tự tại. Mười bốn là chiếu xa. Mười lăm là nghiệp. Đó là Bồ-tát thích ứng đến cõi Sắc giới nên nhớ nghó xa lìa mười lăm phiền não. Thế nào là Đại Bồ-tát đối với Hửu tưởng Vô tưởng và Trung ấm để xa lìa bốn mươi bốn phiền não? Bồ-tát ấy nhập vào Tam-muội thần thông định ý vô hình đi đến cõi khác để thuyết về bốn mươi bốn hành động do nhận thức chấp trước. Bốn mươi bốn đó là: Một là nhận thức về ngã không nguồn gốc. Hai là xả bỏ sắc vô hình. Ba là có thọ báo. Bốn là tưởng không kiên cố. Năm là đoạn trừ gốc ngọn các hành. Sáu là dựa vào tuệ không. Bảy là nhập định yên tỉnh. Tám là không tưởng như diệt tận. Chín là thức không loạn động. Mười là quên ý mà chẳng phải ý. Mười một là cũng không ở tại ý. Mười hai là thức không ở nơi đạo. Mười ba là cũng không ở đời. Mười bốn là tánh không như vậy. Mười lăm là nghe tiếng mà không hình. Mười sáu là nghó đạo không tận. Mười bảy là hoàn toàn không. Mười tám là Niết-bàn thanh tịnh. Mười chín là hiểu rõ cõi tịch tónh. Hai mươi là ái nhiễm vô minh. Hai mươi mốt là thay đổi thân Trung ấm. Hai mươi hai là thân Trung ấm thọ hình. Hai mươi ba là thân Trung ấm lưu chuyển. Hai mươi bốn là biết từ đâu đến. Hai mươi lăm là thấy thân Trung ấm chúng sinh luân hồi. Hai mươi sáu là thấy chúng sinh thân Trung ấm có sinh diệt. Hai mươi bảy là tự thấy thọ thân hình ở địa ngục. Hai mươi tám là chịu thọ hình tội hay không chịu thọ hình tội. Hai mươi chín là thấy thọ thân trời phước hay không phước. Ba mươi là thấy thọ thân người có phước hay không có phước. Ba mươi mốt là thấy thọ thân trong ngạ quỷ có bậc thượng hay bậc hạ. Ba mươi hai là thấy thọ thân súc sinh bậc cao hay thấp. Ba mươi ba là từ thân trời sinh lại thân trời, do khi chết thức không loạn. Ba mươi bốn là từ thân trời sinh vào thân người, do thức tuy mạnh nhưng không có trí tuệ. Ba mươi lăm là từ thân trời thọ thân súc sinh, do thức yếu, ý khởi loạn tưởng. Ba mươi sáu là từ thân trời thọ thân ngạ quỷ, do khi chết tâm tham vô cùng tận. Ba mươi bảy là từ thân trời thọ thân địa ngục, do đã từng phỉ báng Thánh hiền. Ba mươi tám là từ thân người thọ lại thân trời, do giữ gìn giới cấm thanh tịnh. Ba mươi chín là từ thân người thọ thân súc sinh, do hành động mà tâm ý không chuyên nhất. Bốn mươi là từ thân người thọ thân ngạ quỷ, do hưởng thụ tốt lành cho riêng mình, không ban bố rộng khắp. Bốn mươi mốt là từ thân người thọ thân địa ngục, do trước đã nhận hết phước nên sau nhận họa. Bốn mươi hai là từ thân súc sinh thọ thân trời, người, do đã tạo đủ phước tốt, không còn tạo nghiệp xấu nữa. Bốn mươi ba là từ thân súc sinh thọ thân ngạ quỷ, địa ngục, do không được ai cứu giúp nên bị rơi vào tám nạn. Bốn mươi bốn là có thân thì thọ thân, thần thức không mất. Đó là Đại Bồ-tát đối với Hữu tưởng Vô tưởng thân trung ấm xa lìa bốn mươi bốn phiền não. Phật lại bảo Tối Thắng: –Đại Bồ-tát nên tư duy thần thức thân trung ấm trong hư không, hoặc từ không thức sinh thức ấm, hoặc từ thức ấm thọ Bất dụng xứ ấm, hoặc từ Bất dụng xứ ấm thọ Vô sắc thiên ấm, hoặc từ Vô sắc thiên ấm thọ Lục thiên ấm cho đến Cứu cánh thiên, từ Cứu cánh thiên lại thọ Sắc Vô sắc thiên ấm. Người thọ thân trời, hình thể cao lớn bằng một nhận rưỡi liền mất đi không còn lưu lại. Người thọ thân người, hình thể cao lớn bằng ba khủy rưỡi tay, chậm nhất trải qua bảy ngày, hoặc sáu, năm, bốn, ba, hai, một ngày. Người thọ thân súc sinh chậm nhất trải qua ba ngày rưỡi, hoặc hai ngày, một ngày, hoặc nửa ngày. Người thọ thân ngạ quỷ chỉ trải qua nửa bữa ăn, hoặc trong một sát-na. Người thọ thân ở địa ngục, hình thể bằng ba nhận rưỡi. Hoặc có thần thức xuất ra ngay, không trải qua một tuần, liền thọ thân khác. Đại Bồ-tát tùy người giáo hóa mà thuyết diệu pháp cho họ. Nếu người mau chứng ngộ thì không tái sinh nữa, mà nửa chừng đã chứng đạo. Súc sinh thọ thân người, hình thể bằng hai khủy rưỡi tay, chậm nhất trải qua bốn ngày, ba, hai, một ngày. Súc sinh thọ thân trời, hình thể bằng ba nhận rưỡi, chậm nhất một ngày rưỡi, một ngày, nửa ngày, một sát-na. Súc sinh thọ thân ngạ quỷ, hình thể bằng bảy nhận, hoặc có thoát ra chậm nhất năm ngày, bốn, ba, hai, một ngày. Súc sinh thọ thân địa ngục, hình thể bằng một nhận rưỡi, chậm nhất nửa bữa ăn hay một sát-na. Ngạ quỷ thọ thân trời, hình thể bằng nửa nhận, chậm nhất trải qua một ngày, nửa ngày, bữa ăn hoặc một sát-na. Ngạ quỷ thọ thân người, hình thể hai khủy rưỡi tay, chậm nhất bốn ngày rưỡi hoặc ba, hai, một ngày. Ngạ quỷ thọ thân súc sinh, hình thể bằng bốn nhận rưỡi, chậm nhất là mười lăm ngày, mười bốn ngày, trở xuống một ngày. Ngạ quỷ thọ thân ở địa ngục, hình thể bằng năm nhận rưỡi, chậm nhất chín mươi ngày, hoặc có thoát ra từ tám mươi ngày đến nột ngày cũng như vậy. Lại nữa, Đại Bồ-tát nên quán sát như vậy, chúng sinh ở địa ngục thọ thân trời, hình thể bằng bốn nhận rưỡi, chậm nhất trải qua năm tháng đến một tháng. Thân trung ấm ở địa ngục mà thọ thân người, hình thể bằng hai khủy rưỡi tay, chậm nhất trải qua ba tháng đến một tháng. Hoặc thân địa ngục mà thọ thân súc sinh, hình thể bằng tám khủy rưỡi tay, chậm nhất ba tháng rưỡi, hai, một tháng cũng như vậy. Thân ở địa ngục thọ thân ngạ quỷ, hình thể bằng chín nhận, chậm nhất trải qua ba ngày. Hoặc khi ở thân trời, đáng lẽ thọ thân người giữa chừng chưa đến lại thọ thân trời. Những loại này lợi căn nên không trải qua những khổ não. Hoặc khi thân trời đáng lẽ thọ thân người, bỗng nhiên bị thọ vào thân súc sinh, những loại này do phước đã hết nên nghiệp đến. Hoặc khi thân trời đáng lẽ thọ thân súc sinh, bỗng nhiên được sinh vào thân người, những loại này do không phá hủy cấm giới. Hoặc khi ở thân trời, lẽ ra thọ thân ngạ quỷ, bỗng nhiên thọ thân súc sinh, những loại này do tu tập pháp Đỉnh, Nhẫn. Hoặc khi thọ thân trời, lẽ ra thọ thân ở địa ngục, bỗng nhiên thọ thân ngạ quỷ, những loại này do quả báo đã chín muồi trong loài người. Hoặc có thân người thọ thân ngạ quỷ, bỗng nhiên thọ thân trời, những loại này nhờ định ý không loạn. Hoặc có loài lẽ ra phải thọ thân trong ba đường ác, bỗng nhiên được thọ thân trời, người, những loại này nhờ có trí tuệ thông suốt rộng khắp. Hoặc có loại lẽ ra thọ thân trời Nhất cứu cánh, bỗng nhiên lại thọ thân trời Quang Âm, loại này do nhất tâm. Hoặc có loại lẽ ra thọ thân trời Biến tịnh, bỗng nhiên lại thọ thân trời Hữu tưởng Vô tưởng, những loại này có trí nhưng ý không thông đạt. Phật bảo Tối Thắng: –Đại Bồ-tát ngồi bên gốc cây, dùng Nhất thiết trí, Vô ngại đẳng trí, Chấp huyền thông trí, Biện tài trí, Liễu âm hưởng trí, Vô thoái chuyển trí để quán sát khắp tam thiên đại thiên thế giới, ai thọ hình hay không thọ hình, ai thọ thân trung ấm hay không thọ thân trung ấm, có bao nhiêu chúng sinh ở trong loài người? Có bao nhiêu thân chúng sinh thọ thân trung ấm của loài người? Bồ-tát lại quán chúng sinh thọ thân trung ấm loài người, thọ thân vào bốn đường đều biết rõ. Phật bảo Tối Thắng: –Đại Bồ-tát quán chúng sinh thọ thân trung ấm của cõi trời. Lại quán chúng sinh ở cõi trời hướng đến bốn đường đều biết rõ. Hoặc khi Đại Bồ-tát dùng sáu thần thông Không thoái chuyển trí để quán chúng sinh thọ thân súc sinh. Có bao nhiêu chúng sinh thọ thân trung ấm súc sinh đổi chuyển thọ thân trung ấm trong bốn đường, Bồ-tát đều biết rõ. Bồ-tát lại quán chúng sinh thọ thân ngạ quỷ. Có bao nhiêu chúng sinh thọ thân trung ấm ngạ quỷ phải thọ thân trung ấm trong bốn đường, Bồ-tát đều biết rõ. Hoặc khi Đại Bồ-tát quán chúng sinh thọ thân ở địa ngục, có bao nhiêu chúng sinh thọ thân trung ấm ở địa ngục hướng đến thọ thân trong bốn đường đều biết rõ. Phật bảo Tối Thắng: –Đại Bồ-tát dùng Vô thoái chuyển trí thấy khắp trong năm đường thân trung ấm có thọ hình hay không thọ hình. Hoặc có trường hợp thân trung ấm loài người, bỗng nhiên lại được thân trời liền diệt độ, không thọ thân trời và thân người nữa. Hoặc có trường hợp ở thân trung ấm trời, bỗng nhiên thân trung ấm người liền diệt độ, không thọ thân trời và thân người nữa. Hoặc có trường hợp ở thân trung ấm súc sinh, bỗng nhiên thọ thân trung ấm người, liền diệt độ, không thọ thân súc sinh và người nữa. Hoặc có trường hợp ở thân trung ấm súc sinh, bỗng nhiên thọ thân trung ấm trời liền diệt độ, không thọ thân súc sinh và thân trời nữa. Hoặc có trường hợp ở thân trung ấm ngạ quỷ, bỗng nhiên thọ thân trung ấm người liền diệt độ, không thọ thân ngạ quỷ và thân người nữa. Hoặc có trường hợp thân trung ấm ngạ quỷ, bỗng nhiên thọ thân trung ấm trời, liền diệt độ, không thọ thân ngạ quỷ và thân trời. Hoặc có trường hợp thân trung ấm địa ngục, bỗng nhiên thọ thân trung ấm cõi người, liền diệt độ, không còn thọ thân địa ngục và thân người. Hoặc có trường hợp thân trung ấm ở địa ngục, bỗng nhiên thọ thân trung ấm cõi trời, liền diệt độ, không còn thọ thân địa ngục và thân trời. Đó là Đại Bồ-tát dùng trí Không thoái chuyển quán khắp tam thiên đại thiên thế giới chúng sinh, có thọ hình hay không thọ hình, có tội hay phước, Bồ-tát đều biết rõ. Khi ấy, Bồ-tát Tối Thắng cùng với một vạn tám ngàn người, mười vạn Thiên, Long, Quỷ thần, Càn-đạp-hòa, A-tu-luân, Chiên-đà-la, Ma-hưu-lặc, từ chỗ ngồi đứng dậy, quỳ gối chắp tay đồng thanh tán thán việc chưa từng có, rồi bạch Phật: –Lành thay! Lành thay! Bạch Thế Tôn! Thế Tôn nói rất hay về thân trung ấm là pháp vô hình, pháp không hạn lượng, không thể nghó bàn, mà chẳng phải làc bậc A-la-hán, Bích-chi-phật có thể biết được. Chúng con nguyện muốn được thấy hình chất của thân trung ấm. Cúi xin Thế Tôn thương xót đến những chúng sinh thấp kém, nhờ đó để chúng sinh vónh viễn dứt trừ tâm cấu uế. Khi ấy, Đức Thế Tôn bảo với chúng hội: –Lành thay! Lành thay! Nghóa của câu hỏi đó rất hay, hôm nay, Ta sẽ hiện thần thông cho các ông được thấy, làm cho tám bộ chúng đều được thấy hình dáng của thân trung ấm. Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền nhập vào Tam-muội quán vô hình, thấy thân trung ấm của chúng sinh trong năm đường, có thọ hình hay không thọ hình, có tội hay phước đều biết rõ. Khi ấy, chúng sinh tại chỗ ngồi cũng thấy hình chất của thân trung ấm trong năm đường, lại được nghe Như Lai giảng thuyết đạo giáo, ngay nơi ấy các trần cấu diệt hết, chứng được pháp nhãn tịnh; hoặc có người phát tâm Đại thừa, hoặc có người giảng về hạnh bí mật, tùy loại chúng sinh mà giáo hóa không bị nhiễm chấp. Cũng lại thấy hình dáng các thân trung ấm kia từ quả vị thứ nhất đến quả vị thứ mười, thấy họ (thân trung ấm) chứng được Nhất sinh bổ xứ, ngồi dưới gốc cây thâu phục vô số ức trăm ngàn quân ma, thân vàng ròng đầy đủ các tướng, cũng có chư Thiên, Đế Thích, Phạm vương, Tứ Thiên vương đến thỉnh Bồ-tát giảng thuyết pháp âm, vang khắp tam thiên đại thiên thế giới. Lại thấy ở phương khác, chư Phật Thế Tôn khuyến hóa Bồ-tát giảng nói danh hiệu cõi nước xa gần, các hạnh thanh tịnh, hoặc trong hiện tại tán thán pháp mười hiệu của Như Lai, hoặc hưng khởi giáo pháp đến việc cúng dường, hoặc dùng thơ kệ tán thán công đức của Như Lai. Thân trung ấm của chúng sinh ở cõi nước này quán thấy đủ loại thần thông biến hóa không thể nghó bàn. Lại thấy Như Lai phóng hào quang từ tướng lưỡi, mỗi hào quang đều có hóa thân Phật và có tám chúng thân cận chung quanh. Đức Như Lai giảng thuyết vô úy, trí không bị thoái chuyển, các pháp thâm sâu đều được đầy đủ; hoặc thọ ký các đệ tử Duyên giác vào đời vị lai sẽ thành Phật với danh hiệu như vậy. Bấy giờ, một vạn tám ngàn người và một trăm ngàn Thiên tử ngay chỗ ngồi phát tâm Bồ-đề vô thượng. Khi ấy, Đức Thế Tôn xả bỏ thần túc, trở lại như cũ, rồi bảo với bốn chúng: –Thần thông của Như Lai không thể cùng tận. Lại có bốn pháp không thể nghó bàn. Bốn pháp đó: Một là chí nguyện sâu kín của Như Lai không thể nghó bàn. Hai là căn bản của chúng sinh không thể nghó bàn. Ba là đạo tuệ của Như Lai không thể nghó bàn. Bốn là âm thanh của Như Lai không thể nghó bàn. Này Tối Thắng! Lại có bốn việc không thể nghó bàn. Bốn việc đó: Một là cung cách của Như Lai không thể nghó bàn. Hai là pháp tòa của Như Lai không thể nghó bàn. Ba là giáo giới của Như Lai không thể nghó bàn. Bốn là định ý kim cang không thể nghó bàn. Lại có bốn việc không thể nghó bàn. Bốn việc đó: Một là ngồi bên gốc cây tâm ý như hư không, không thể nghó bàn. Hai là không thấy đúng, cũng không thấy sai không thể nghó bàn. Ba là lấy nhỏ làm lớn, lấy lớn làm nhỏ không thể nghó bàn. Bốn là lời nói có cứu giúp, cũng không thấy có cứu giúp không thể nghó bàn. Lại có bốn việc: Sự thích ứng với pháp hành không bị nhiễm chấp, nói thì có tôi ta, nhưng không thấy có sinh, cũng không thấy có diệt, không tạo tác, cũng không thường đoạn. Tất cả chúng sinh căn bản thanh tịnh. Này Tối Thắng! Đại Bồ-tát thích ứng pháp hành không chấp trước. Thế nào, này Tối Thắng! Thế Tôn có giới hạn không? –Thưa không, bạch Thế Tôn. Đức Thế Tôn lại bảo Tối Thắng: –Pháp trong các cõi từ pháp giới sinh ra, vốn không giới hạn. Như vậy, vì có nên có sinh, hay là vì không nên không sinh? Tối Thắng đáp: –Bạch Thế Tôn! Không từ có mà có, cũng không từ không mà không. –Thế nào, này Tối Thắng! Các pháp không giới hạn, không từ có mà có, không từ không mà không, sao lại thành Đẳng chánh giác? Tối Thắng thưa: –Không có thành Đẳng chánh giác. Phật bảo Tối Thắng: –Như Lai ngồi bên gốc cây bằng pháp vô biên, pháp không sinh diệt đều vắng lặng, tự nhiên, không trí cũng chẳng có trí, vì nói không có trí thì làm sao hiểu biết được. Tối Thắng nên biết, pháp ta tôi là giải bày chứ không thật có, cũng không thấy đạo, đạo không thấy đạo, không thấy không nghe, không tuệ, không chấp trước, hiểu rõ pháp giới cũng lại như vậy. Không thấy sinh diệt để làm nơi chốn, có người thọ giáo mà cũng không thấy câu cú văn tự. Như vậy, này Tối Thắng! Hiểu rõ các pháp như hư không, không hình tướng, giả sử có người ngu si nào mà đứng ở giữa hư không được không? –Bạch Thế Tôn! Không thể được. –Tất cả các pháp tánh như vậy, chân tế vốn không, không ấy là không thật có, nay nói có đạo, Đại Từ, đại Bi, bốn Ý chỉ, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám hạnh Thánh hiền, Không, Vô tướng, Vô nguyện, sáu pháp tăng thượng, mười tám pháp Bất cộng, không do các pháp này mà được thành đạo. Đạo ấy không hình, cũng không thể thấy. Vì pháp không hình mới gọi là đạo. Đạo không thấy đến, cũng không thấy đi. Này Tối Thắng! Như vậy mới gọi là đạo. Giả sử Như Lai từ pháp giới sinh, từ pháp giới diệt thì chính là hành nghiệp cấu uế của sinh tử, nhưng không sinh diệt nên gọi là đạo. Phật bảo Tối Thắng: –Đại Bồ-tát nhập vào Tam-muội quán hư không ở trong các cảnh giới thực hành pháp thiền vô nhiễm, dùng pháp thiền này đến đi không ngăn ngại, không bị loạn động. Chẳng phải thân, chẳng phải tâm, không bằng chẳng phải không bằng. Tư duy về định không mà không thấy cương nhu. Tâm tánh bình thản, điều gì cũng thích ứng, ứng cũng không ứng, cũng không thấy thích ứng. Này Tối Thắng! Định không của Bồ-tát không có hạn lượng, không thể nghó bàn, chẳng phải bậc La-hán, Bích-chi sánh kịp. Này Tối Thắng! ví như thiêu đốt hết núi rừng, cây cỏ, lửa chẳng phải rừng cây, rừng cây chẳng phải lửa, cũng không phải chỉ là lửa, cũng chẳng lìa lửa. Nên biết, các kết sử của Bồ-tát cũng như thế. Kiết sử chẳng phải là đạo, đạo chẳng là kết sử, cũng không phải lìa đạo mà hiểu rõ về định không, Tam-muội vô hình cũng như vậy. Các pháp thanh tịnh bình đẳng vốn không. Hoặc dùng chánh thọ quán sát kỹ các pháp đạt được, chúng bình đẳng không nhiễm ô, tâm không ở trong cũng không ở ngoài. Sắc không chỗ trụ, cũng không thấy trụ, cứu vớt tất cả chúng sinh ở trong điên đảo. Giả nói pháp không hình tướng đó là đạo, hoặc dùng năm thông, ba đạt diệu trí để giáo hóa chúng sinh khắp bốn cõi, tự mình hóa độ, cũng không thấy có hóa độc. Đó là đạo vượt khỏi năm thông của ngoại đạo, xa lìa định ý của Thanh văn, Duyên giác. Không thấy định ý của năm thông Duyên giác là đạo. Lại dùng Định ý chánh thọ Tam-muội quán xét nguồn gốc của pháp, pháp từ đâu sinh ra, từ đâu diệt mất, không thấy sinh, cũng không thấy diệt mới gọi là đạo. Hữu vi là pháp thế gian, vô vi là pháp xuất thế gian. Không thấy tục cũng không thấy đạo, nên gọi là đạo. Hữu lậu là trần cấu, vô lậu là thanh tịnh. Không thấy lậu cũng không có lậu, thực hành mười điều thiện hoặc mười điều ác, không thấy thiện cũng không có ác. Đối với tám pháp: được, mất, hủy báng, ngợi khen, chê bai, khổ, vui, không thấy khổ, cũng không thấy vui, không thấy thành đạo, cũng không ở tục, không thấy nói pháp vắng lặng của Hiền thánh. Này Tối Thắng! Đại Bồ-tát nhập vào Định không mới gọi là đạo. Lại nữa, này Tối Thắng! Đại Bồ-tát nên tư duy về Tam-muội hư không tạng, không thấy trải qua kiếp số thọ mạng của Hưu dư vô vi, không thấy không có sự biến đổi của Vô dư vô vi mới gọi là đạo. Đó là Đại Bồ-tát kiến lập phương tiện quyền xảo bằng tuệ không. Từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, cúng dường và phụng sự chư Phật Thế Tôn, giáo hóa chúng sinh, làm tịnh cõi Phật. Nếu người không thấy sắc tướng thì hiện ra sắc tướng, đối với thanh, hương, vị, xúc cũng như vậy. Không thấy có chứng đắc Niết-bàn, không thấy lưu chuyển trong sinh tử. Nếu thiện nam, thiện nữ nào đọc tụng, thọ trì, ghi nhớ không quên thì hiện tại sẽ được tám phước công đức. Tám phước đó là: Quán các pháp không, tin hiểu không nghi ngờ, được tạng thâm sâu của Phật, ý không khiếp nhược, tâm ý thanh tịnh không cấu uế, không bị ô nhiễm, tâm như kim cang không thể phá hủy; các hành động chân chánh không vướng mắc vào cảnh giới ma, làm tịnh cõi Phật, độ người chưa được độ; tâm thích Đại thừa, không ưa trí nhỏ; thân cận Thiện tri thức, không chấp ngoại đạo, cầu đạt chân thật quán, không có tưởng về nhân ngã. Đó là Đại Bồ-tát được tám công đức. Hiểu biết pháp thế gian, không ngã, không nhân, không thọ, không mạng. Đối với pháp vốn không mới ứng hợp với chánh thọ, thường dùng Thiền định chứng đắc Niết-bàn, giáo hóa chúng sinh không thấy mệt nhọc, đó là thấy pháp ứng hợp với Đạo. Do thấy các pháp vắng lặng, không hình tướng, không tạo tác, không xứ sở. Này Tối Thắng! Đại Bồ-tát đối với không chẳng phải không, cũng chẳng có không. Không chẳng pải không tức là vắng lặng không tên gọi. Tên gọi ấy cũng chẳng có, chẳng không, đó gọi là đạo. Nếu khi Bồ-tát vào quán sát các pháp thì không lệ thuộc vào ba cõi, cũng không chấp vào ba hữu. Bồ-tát như vậy ở trong cõi trời người phát thệ nguyện lớn cứu độ chúng sinh mà không thấy có chúng sinh được độ, gọi là Đại Bồ-tát thực hành Tuệ không, hoàn toàn không chấp trước. Tối Thắng nên biết, Như Lai hoàn toàn nhập vào Định ý vô hình, hàng Nhị thừa không thể hiểu rõ, chỉ có Phật mới hiểu được. Trí tuệ của Phật không bị ngăn ngại, không chấp trước, không nhiễm ô, không có vết nhơ. Đối với cảnh giới không có sự chấp trước. Giả sử được pháp sâu xa không lấy làm vui mừng, không vướng mắc vào tám nạn của thế gian, được bốn biện tài vô ngại, không diệt không đốt, chẳng phải không đốt, không khởi, không sinh, chẳng phải không sinh. Quá khứ hoàn toàn diệt, chẳng có quá khứ. Hiện tại không an trụ, cũng không có an trụ. Đương lai chưa phát khởi chẳng thấy sinh. Đó là Đại Bồ-tát không chấp trước, không bị ngăn ngại, không vướng mắc vào ba xứ, không tham đắm trong ba cõi. Bấy giờ, có chín vạn chúng sinh, mười một ức trời người và hàng Thiên, Long, Quỷ thần từ chỗ ngồi đứng dậy, mặc áo bày vai hữu, quỳ gối chắp tay bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Chúng con vốn là thấp kém, được pháp tịnh mới có thể thông suốt pháp không hình tướng và pháp không biểu lộ ra bên ngoài. Xin nguyện Thế Tôn khiến thân trung ấm của trời người đời sau được cảnh giới của Phật, ở đó chứng đắc vô vi, cùng ngày, cùng giờ, cùng một cõi nước. Khi ấy, Đức Thế Tôn mỉm cười, trong miệng xuất ra hào quang năm màu, chiếu khắp tam thiên đại thiên thế giới, nhiễu quanh thân ba vòng, trở lại vào miệng. Tôn giả A-nan quỳ gối chắp tay, bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Con làm thị giả Thế Tôn hơn ba mươi năm mà chưa từng thấy hào quang như vậy. Xin nguyện Thế Tôn giảng rõ cho chúng con, để người đời sau hoàn toàn không còn cấu uế. Khi ấy, Đức Thế Tôn bảo A-nan: –Hôm nay ông thấy chín vạn chúng sinh và mười một ức trời người này, khi qua đời ở đây, thân trung ấm của họ lại sinh vào không giới như vi trần, thân trung ấm đã sinh, theo tuần tự thành Phật, có cùng một hiệu là Vô Sắc Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, thuần dùng Bồ-tát làm quyến thuộc, thân trung ấm sống lâu một kiếp. Sau khi diệt độ, chánh pháp tồn tại một kiếp, tuần tự thành Phật không gián đoạn. Khi Đức Thế Tôn nói pháp này, Bồ-tát Biến Tịnh và vô số chúng sinh hối hận vì đã thọ thân người và trời, tại chỗ ngồi khóc lóc không tự kềm chế được. Phật biết mà vẫn hỏi: –Này thiện nam! Vì sao lại khóc đến như vậy? Biến Tịnh bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Chúng con cũng muốn sinh vào cõi ấy, nhưng không biết làm thế nào nên khóc. Phật bảo Bồ-tát Biến Tịnh: –Thôi, thôi, chớ nói như vậy. Xưa kia ông đã phát tâm thệ nguyện với tâm niệm khác, vì sao nửa chừng muốn sinh vào cõi nước khác? Thời Hiền kiếp diệt, ông sẽ được hiệu là Biến Tịnh Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, đầy đủ mười danh hiệu.  <詞 id="113335710">Phẩm 25: Thân khẩu ý Khi ấy, Bồ-tát Tối Thắng thưa với Đức Phật: –Bạch Thế Tôn! Tất cả các pháp đều như huyễn hóa. Trong pháp huyễn hóa, làm thế nào giáo hóa chúng sinh làm tịnh cõi Phật? Làm thế nào để trừ sạch ba tưởng Ngã, Nhân, Thọ mạng? Làm thế nào từ cõi Phật này đến cõi Phật khác phụng sự cúng dường chư Phật Thế Tôn? Phật bảo Tối Thắng: –Lành thay! Lành thay! Ông có thể ở trước Như Lai mà rống tiếng Sư tử. Hãy lắng nghe và ghi nhớ kỹ. Ta sẽ thuyết giảng cho ông về nghóa ấy. Tối Thắng nên biết, Đại Bồ-tát thường tu tập pháp hành thân, khẩu, ý, quán sát rõ các pháp như huyễn hóa, không chấp trước vào ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai. Khi ấy, tại chỗ ngồi có Bồ-tát tên là Hoan Lạc, bạch với Đức Phật: –Bạch Thế Tôn! Chúng sinh trong các cõi ưa thích pháp căn bản sâu xa và ưa cúng dường, làm thanh tịnh thân, khẩu, ý, các căn thuần thục. Đó là trí tuệ của Bồ-tát. Bồ-tát Tăng Thượng thưa: –Hiểu biết các pháp không tạp, không nhiễm. Đối với pháp không nhiễm thì thanh tịnh thân, khẩu, ý. Đó là trí tuệ của Bồ-tát. Bồ-tát Đẳng Từ thưa: –Thực hành Từ bi thương xót chúng sinh trong các cõi, hiểu biết văn tự, hoàn toàn không chấp trước, không thấy pháp hành của thân, miệng, ở trong ây được pháp thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát. Đồng Chân Nhu Thủ thưa: –Tất cả các pháp căn bản tuy thuyết mà không thấy thuyết, không thấy tưởng về pháp, ở trong đó thân, khẩu, ý thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát. Bồ-tát Viên Quang thưa: –Phật pháp không hai, cũng không thấy hai, dứt sạch các kết sử, hoàn toàn không sinh diệt, ở trong đó thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát. Bồ-tát Liên Hoa Kết thưa: –Có thể đi đến thế giới khắp mười phương, thấy thế giới thanh tịnh mà không khởi tưởng thanh tịnh, ở trong đó thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát. Bồ-tát Ánh sáng thưa: –Tất cả các pháp quy hướng về nơi không có quy hướng; đối với thân, khẩu, ý cũng không sinh diệt, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát. Bồ-tát Pháp Tịnh thưa: –Tất cả các pháp đều trở về khống, vào định chánh thọ, giữ tâm không loạn, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát. Bồ-tát Liên Hoa Hạnh thưa: –Đối với pháp vốn là không, các hành vô tận, đối với pháp vô tận thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát. Bồ-tát Chánh Đẳng thưa: –Biết rõ khổ vui và không khổ vui, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát. Bồ-tát Trừ Nộ Tạng thưa: –Tất cả các pháp hiểu rõ không sinh sân giận, trong pháp không sân giận đó, thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát. Bồ-tát Sư tử Đồng Chân thưa: –Đối với ba pháp căn bản không tham, sân, si, cũng không thấy sắc có sinh có diệt, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát. Bồ-tát Thí Bảo thưa: –Ngã, nhân, thọ mạng có sinh có diệt, hiểu rõ các pháp không sinh không diệt, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát. Bồ-tát Dũng Tuệ thưa: –Pháp môn Tổng trì không thấy có chỗ quay về, ở trong pháp không có chỗ quay về ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát. Bồ-tát Hiền Hộ thưa: –Tên gọi hư giả, không thể nắm bắt, phàm phu ngu muội cho là chân thật, ở trong ấy làm thanh tịnh thân, khẩu, ý. Đó là trí tuệ của Bồ-tát. Bồ-tát Nguyệt Quang thưa: –Đối với Như như, bản tế của tánh ấy như vậy, khi tu tập phạm hạnh không thấy được Như như, bản tánh của nó như vậy, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát. Bồ-tát Thiện Lai thưa: –Do giới mà hương công đức xông khắp tam thiên đại thiên thế giới, hương cũng như gió, không phân biệt được hương, cũng không phân biệt được gió, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát. Bồ-tát Bất Tư Nghì thưa: –Vô vi không xa lìa hữu vi, hữu vi không xa lìa vô vi. Biết rõ hữu vi vô vi đều không thật có, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát. Bồ-tát Khiết Tịnh thưa: –Các chúng sinh ở cõi trời Tịnh Cư không thấy phước cõi trời, hành động thanh tịnh, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát. Bồ-tát Chí Thành thưa: –Không thấy sự chí thành sẽ phạm bốn pháp, không thấy sự dối trá mà thọ quả báo, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát. Bồ-tát Thiện Quán thưa: –Tất cả tưởng về sắc, biết rõ tưởng vô sắc, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát. Bồ-tát Bảo Anh thưa: –Nơi chốn sinh tử, quán thấy chúng sinh có khổ vui, lại thấy thân của mình khổ vui như vậy, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát. Bồ-tát Vô Hủy Căn thưa: –Đối với các kết sử biết chúng vốn thanh tịnh, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát. Bồ-tát Thường Tiếu thưa: –Đối với pháp thuộc về căn, không thấy ngã và ngã sở, cũng lại không thấy tạo tác ngã và ngã sở, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát. Bồ-tát Thường Bi thưa: –Thực hành bốn vô lượng tâm: Từ, bi, hỷ, xả khắp cả cõi nước Phật, nhưng không thấy bốn vô lượng tâm để cứu chúng sinh, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát. Bồ-tát Phạm Ý thưa: –Làm cho chúng sinh tà kiến được an ổn trong chánh kiến, ở trong chánh kiến không thấy tà chánh, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát. Bồ-tát Bố Diễn thưa: –Tâm thệ nguyện rộng lớn, kiên cố, không bị che khuất bởi pháp tiểu thừa, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát. Bồ-tát Dũng Só thưa: –Cứu độ chúng sinh không còn đắm nhiễm trong ba cõi, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát. Bồ-tát Tâm Thắng thưa: –Đứng vững trong pháp Nhẫn tuệ, siêng năng tu tập, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát. Bồ-tát Lôi Âm thưa: –Đối với các thiện căn, quán pháp giới không tăng, không giảm, không thấy các pháp có nới chốn, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát. Bồ-tát Vô Yểm Hoạn thưa: –Lấy hằng hà sa kiếp dùng làm một ngày, mười lăm ngày làm nửa tháng, ba mươi ngày làm một tháng, mười hai tháng làm một năm, ở trong đó trải qua ức trăm ngàn vạn kiếp mới có một vị Phật xuất hiện ở thế gian, dùng nhiều phương tiện cúng dường vô số Đức Như Lai, tịnh tu phạm hạnh, sau đó mới được thọ ký, tu tập đạo Bồ-tát, chưa từng nhàm chán khổ của sinh tử, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát. Bồ-tát Trụ Thọ thưa: –Thường dùng thần túc giáo hóa sáu mươi hai tà kiến của ngoại đạo, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát. Bồ-tát Tịnh Ý thưa: –Quán nguồn gốc các pháp là không, không thật có, sự sinh tự sinh, sự diệt tự diệt, pháp pháp tương sinh, pháp pháp tương diệt, sinh không biết sinh, diệt không biết diệt, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát. Bồ-tát Tâm Quảng thưa: –Sự suy nghó của tâm và hơi thở ra vào đều phân biệt tất cả, không nhầm lẫn thứ tự, cũng không thấy ra, cũng không thấy vào, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát. Bồ-tát Thiện Thắng thưa: –Biết rõ ba đời từ đâu sinh ra, từ đâu diệt mất, cũng không thấy sinh, cũng không thấy diệt, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát. Bồ-tát Trì Cấm thưa: –Không thấy trì giới và phạm giới, cũng không thấy phá giới sẽ đọa vào địa ngục, không thấy trì giới sẽ nhận được phước báo cõi trời, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát. Bồ-tát Vô Úy thưa: –Tu bốn Thần túc đối với bốn Ý chỉ luôn luôn siêng năng, tâm vốn không nguồn gốc, không thấy gốc của tâm, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát. Bồ-tát Vô Lượng Bi thưa: –Người nào phát tâm thương yêu tất cả chúng sinh, đi đến vô lượng thế giới Phật khắp mười phương, vì cứu độ chúng sinh không cho là mệt mỏi, không thấy người được độ và người không được độ, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát. Bồ-tát Bảo Thí thưa: –Làm hưng thịnh bốn ân, thân cận Tam bảo, bố thí trải tâm nhân từ, làm lợi ích cho mọi người đều như nhau, không thấy nhận lãnh quả báo do công đức của bốn ân, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát. Bồ-tát Hủy Căn thưa: –Xem tất cả chúng sinh như con đỏ, muốn giữ gìn thân mình phải bảo vệ người khác, làm an ổn chúng sinh, đạt đến bờ giải thoát, không thấy người diệt độ đến bờ bên kia, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát. Bồ-tát Tịch Chí thưa: –Phật không thể nghó bàn, thọ phước báo khó lường, các căn tịch định, tin nhau không ganh ghét, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát. Bồ-tát Hộ Thân thưa: –Thành tựu Phật đạo thì thân được tướng tốt, sau khi nhập Niết-bàn phân chia xá-lợi khắp cả mười phương, Thiên, Long, Quỷ thần đều tôn kính; cũng không thấy xá-lợi có người giáo hóa, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát. Bồ-tát Hương Thủ thưa: –Mỗi mỗi lỗ chân lông tỏa ra vô lượng hương thơm, mỗim ỗi hương thơm phát ra vô lượng lời dạy bảo để cứu độ chúng sinh không cùng tận. Oai lực của thần túc rộng lớn vô lượng đều làm cho chúng sinh phát vô lượng đạo tâm, ở trong ấy xen lẫn chúng sinh không thích ứng với đạo chánh giác, hoặc thành tựu đạo Thanh văn, Duyên giác, hoặc sinh vào cõi trời, trở lại cõi người, tâm của Bồ-tát vẫn không hối tiếc. Đạo lớn rất quý, cũng không hạn chế để hóa độ hàng thấp kém, ở trong đó thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát. Bồ-tát Hoằng Thệ thưa: –Đối với nhiễm mà không nhiễm, trong tám pháp thế gian không khởi tưởng chấp trước, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát. Bồ-tát Mẫn Cứu thưa: –Đạo là hai, không đạo là một, không thấy một cũng không thấy hai, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát. Bồ-tát Vô Thượng thưa: –Có Phật, có Pháp không giác ngộ được đạo; không Phật, không Pháp mới giác ngộ được đạo; cũng không thấy thành, cũng không thấy chẳng thành, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát. Bồ-tát Phụng Đức thưa: –Chúng sinh trong các cõi tự đặt tên gọi là nam, là nữ, ngã, nhân, thọ mạng, nhưng hiểu rõ bản tánh không có nam hay nữ, cũng không thấy từ nơi khác sinh đến đây, từ đây sinh đến nơi khác, phải biết các pháp giả hợp mà thành, chẳng phải là chân thật, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát. Bồ-tát Mục Kiến thưa: –Những sắc tướng biết rõ không có sắc tướng. Sắc, thức của ta trong ngoài không hình tướng, hiểu tánh sắc vốn không, đều không sinh diệt, ở trong đó thân, khẩu, ý thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát. Bồ-tát Diệu Cẩm thưa: –Ngã ngã sở, thọ mạng vốn tự nó không chủ thể. Như người nghe được âm thanh bên ngoài là nhó thức nghe được, xét rõ âm thanh đó vốn không cóh ình chất thật, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát. Bồ-tát Thường Trụ thưa: –Nếu đối với bảy pháp phân biệt rõ ràng, đầy đủ ba nơi, không cầu năm quả, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát. Bồ-tát Huyền Thông thưa: –Vắng lặng mà không vắng lặng là cấu, giới mà không có giới là cấu, nhẫn mà không nhẫn là cấu, cũng không thấy nhẫn, cũng không thấy không nhẫn, hiểu biết lẫn nhau không vắng lặng nào mà không vắng lặng, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát. Bồ-tát Hương Huân thưa: –Không thấy các ấm, cái, bệnh thùy miên, trạo cử, xan tham, dua nịnh, rối loạn, phạm giới, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát. Khi ấy, Bồ-tát Tối Thắng từ chỗ ngồi đứng dậy, quỳ gối chắp tay bạch Phật: –Lành thay! Lành thay! Bạch Thế Tôn! Con cũng nguyện muốn nói về trí tuệ của Bồ-tát làm thanh tịnh thân, khẩu, ý, mà hiện khắp tất cả không có quá khứ, hiện tại, vị lai. Sự thanh tịnh như vậy, trụ mà không chỗ trụ, các pháp huyễn hóa không thể nắm bắt. Ví như ánh sáng mặt trời, mặt trăng hiện ở trong nước. Chư Phật Thế Tôn cũng như vậy, cũng không sinh diệt, không nhập Niết-bàn, ở trong ấy thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là trí tuệ của Bồ-tát. Phật bảo Tối Thắng: –Thế nào, này thiện nam! Ông quán sát thế nào mà ở trước Đức Như Lai nói nghóa này trụ mà không chỗ trụ? Tối Thắng thưa: –Chỗ trụ của Như Lai là Như như, chỗ trụ ấy cũng như chỗ trụ của chúng sinh. Phật hỏi: –Chỗ trụ của Như Lai là Như như, như chỗ trụ của chúng sinh là thế nào? Tối Thắng thưa: –Như chỗ trụ của chúng sinh là trụ của hữu vi, như không chỗ trụ. Phật hỏi: –Chỗ trụ của chúng sinh là trụ của hữu vi, như không chỗ trụ, là thế nào? Tối Thắng thưa: –Chỗ trụ của Như Lai là trụ vào mà không chỗ trụ. Phật hỏi: –Có phải từ Bậc nhất nghóa không mà trụ không? Tối Thắng thưa: –Bạch Thế Tôn! Không phải. Phật hỏi: –Thế nào, này thiện nam! Chỗ trụ của Như Lai giống chỗ trụ của phàm phu không? Tối Thắng đáp: –Bạch Thế Tôn! Không phải. Phật hỏi: –Chẳng phải chỗ trụ của Như Lai là chẳng phải chỗ trụ của phàm phu, làm sao từ nơi ấy mà thành tựu Chánh giác được? Tối Thắng thưa: –Không từ pháp Như Lai và pháp phàm phu mà thành tựu chánh giác. Phật hỏi: –Thế nào, này thiện nam! Quả vị Như như Chí chân với địa vị phàm phu có gì sai khác? Tối Thắng thưa: –Bạch Thế Tôn! Muốn làm cho hư không có sự sai khác sao? Phật bảo Tối Thắng: –Tất cả các pháp đều không, vắng lặng không sai khác. Tối Thắng bạch Phật: –Do các pháp ấy không thể nắm bắt, tướng không có tướng, chỗ trụ như như, như không chỗ trụ. Khi ấy, Bồ-tát Tối Thắng hỏi đồng chân Nhu Thủ: –Nói trụ thì thế nào là trụ? Nói không trụ thì thế nào là không trụ? Đồng chân Nhu Thủ đáp: –Gọi là trụ, ấy là chỗ trụ Như như, trụ mà không chỗ trụ. Lại nói. Hiểu bốn phạm đường trụ mà không chỗ trụ, cho nên gọi là trụ. Ấy là trụ vào mà không chỗ trụ. Tối Thắng hỏi: –Vấn đề hỏi về trụ của ta là chẳng phải bốn phạm đường, cũng chẳng phải một loại, hoặc nơi vắng lặng, hoặc trong thôn xóm, hoặc chỗ gò vắng, dưới gốc cây, có thể gọi đây là trụ không? Nhu Thủ đáp: –Chỗ trụ của bốn phạm đường mà tôi nói là nơi ngăn chặn của tâm, khống chế không cho sinh khởi, gọi đó là trụ. Tối Thắng hỏi: –Thế nào là tâm làm chỗ dừng? Nhu Thủ đáp: –Nghóa của trí tuệ là gốc nên gọi là dừng. Tối Thắng lại hỏi: –Trí tuệ không căn bản, không cứu cánh, có thể từ sự thấy biết mà thành chỗ dừng không? Nhu Thủ đáp: –Đúng vậy! Đúng vậy! Như lời ông nói. Trước tự quán sát mình, sau đó trí tuệ mới thanh tịnh. Tối Thắng hỏi: –Này Nhu Thủ, trước tự quán sát mình là thế nào? Nhu Thủ đáp: –Các pháp vô ngã, đạt đến Như như, ngã tự vô ngã, không sinh cũng không phải không sinh. Đó là ta tự quán về ngã. Tối Thắng hỏi: –Giả sử Nhu Thủ vì từ nghóa này, hay không từ nghóa này mà chứng đắc. Tự quán về ngã là quán hình tướng Phật, nếu có ngã thì có Phật không? Ngã vốn là vô ngã, sao lại có Phật, cũng không thấy có nói năng, nói năng cũng vô ngã, làm sao quán hình tướng Phật được? Nhu Thủ đáp: –Nói quán ngã, ngã tức là vô ngã, đó là quán về ngã. Vì sao? Vì quán ngã tức là quán về các pháp. Quán các pháp tức là quán Phật. Phật là không hình tướng, không thể thấy. Tối Thắng hỏi: –Lại có phương tiện không thành tựu mà có thể thành chánh kiến không? Nhu Thủ đáp: –Có. Đây là phương tiện không thành tựu chánh kiến trong cảnh giới hữu vi. Tối Thắng hỏi: –Này Nhu Thủ, nếu như vậy là chánh kiến phải không? Nhu Thủ đáp: –Chẳng phải do chứng hoàn toàn, không phải quả báo, cũng chẳng chấp thủ quả nên gọi là chánh kiến. Tối Thắng hỏi: –Kiến là thế nào? –Nhu Thủ đáp: –Không dùng tuệ nhãn để thấy các pháp, chẳng phải không dùng tuệ nhãn để thấy pháp, không có thấy, chẳng phải không thấy các pháp. Vì sao? Vì tuệ nhãn ấy thấy cảnh giới hữu vi, cũng thấy cảnh giới vô vi. Không có mắt hữu vi để thấy cảnh giới hữu vi và vô vi. Tối Thắng hỏi: –Này Nhu Thủ, có phương tiện nào từ những sự nhận thức ấy mà thành tựu quả vị của Tỳ-kheo không? Nhu Thủ đáp: –Cũng không từ sự thấy biết mà thành tựu quả vị, cũng không lìa những sự thấy biết để thành tựu quả vị ấy. Tối Thắng nên biết, tất cả đều do vọng chấp của năm cấu trược mà thành. Người hiểu được nghóa này mới chứng đắc. Tối Thắng hỏi: –Do những dục gì mà thành năm cấu? Nhu Thủ đáp: –Cấu là gốc tâm, tâm là căn của đạo. Đạo thì vô hình, không thể thấy, nên gọi là quả chứng. Tối Thắng hỏi: –Đạo vô hình không thể thấy, thì sao có quả chứng? Nhu Thủ đáp: –Sự chứng đạo của tôi là do quả ấy, người thành tựu quả chứng tức chẳng phải đạo hay sao? Phàm phu ngu muội cho quả chứng là đạo chăng? Chớ nghó như vậy. Vì sao? Vì đạo chẳng phải quả chứng, quả chứng chẳng phải đạo, không xa lìa đạo, cũng không xa lìa quả chứng. Tối Thắng hỏi: –Đạo do quả chứng không sai khác sao? Nhu Thủ đáp: –Đạo là vô vi, không thể thấy, quả chứng hữu vi cũng không thể thấy, nên nói có sai khác. Tối Thắng hỏi Nhu Thủ: –Như lời ông nói từ hữu hạn đi đến vô hạn phải không? Nhu Thủ đáp: –Các pháp chưa sinh thì không thấy sinh, chẳng phải chẳng có sinh, sinh cũng không có sinh, không thấy đã sinh, chẳng phải không thấy có đã sinh. nếu đã sinh rồi thì cũng không sinh nữa, các pháp không đang sinh, chẳng phải không đang sinh, hiểu rõ đang sinh đều không thật có. Đó là từ hữu hạn đi đến vô hạn. Tối Thắng hỏi: –Chẳng phải từ sinh đi đến vô hạn chăng? Nhu Thủ đáp: –Từ có sinh đạt đến vô hạn. Tối Thắng hỏi: –Từ vô sinh đạt đến vô hạn chăng? Nhu Thủ đáp: –Đúng vậy, từ vô sinh đạt đến vô hạn. Tối Thắng hỏi: –Này Nhu Thủ, từ có sinh đạt đến vô hạn, từ vô sinh cũng đạt đến vô hạn, vậy có gì sai khác? Nhu Thủ đáp: –Sinh cũng không sinh, không sinh cũng không sinh, đó là sai khác. Tối Thắng hỏi: –Sinh đã có hình, không sinh không tên gọi. Tại sao có sai khác? Nhu Thủ đáp: –Ta nêu ví dụ cho ông, người có mắt nhờ ví dụ mà hiểu rõ. Này Tối Thắng! Hư không có hình chăng? Tối Thắng đáp: –Không. Nhu Thủ hỏi: –Hư không có chánh kiến không? Tối Thắng đáp: –Không. Nhu Thủ hỏi: –Sao gọi là hư không? Tối Thắng đáp: –Vì hư không là không. Nhu Thủ hỏi: –Sao gọi hư không là không? Tối Thắng đáp: –Các pháp hư không là không. Nhu Thủ hỏi: –Thế nào là các pháp hư không là không? Tối Thắng đáp: –Các pháp không ngôn từ, không lời nói, không như hư không. Nhu Thủ hỏi: –Các pháp không ngôn từ, không lời nói, sao gọi không như hư không? Khi ấy Tối Thắng im lặng không đáp. Bấy giờ, Thế Tôn bảo Tối Thắng: –Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Hiểu đúng không, không phải đạo Niết-bàn. Đạo là không hình, cũng không thấy, không ngôn từ, không giảng thuyết, cũng không người nhận lãnh. Khi nói pháp vô hình này, tất cả chúng sinh khen ngợi chưa từng có, chín ngàn Tỳ-kheo tâm hữu lậu giải thoát. Hai vạn bảy ngàn Thiên tử dứt sạch trần cấu, được pháp nhãn tịnh. Lại có một ngàn hai trăm trời người phát Bồ-đề vô thượng, năm trăm vị Bồ-tát tại chỗ ngồi đắc Vô sinh pháp nhẫn. Bấy giờ, tại chỗ ngồi có ma vương Vô Úy cùng chúng của mình đến trước Phật thưa: –Chúng con mê muội, mãi mãi bị tối tăm. Ngày nay mới được nghe giáo pháp vô tướng. Nếu thiện nam, thiện nữ nào thọ trì đọc tụng kinh này thì chúng con luôn ủng hộ đến khi thành Phật mà không bị các nạn. Liền nói chú Na-la-già-la-a-tỳ-ha-ha. Đem chú này ủng hộ người nam, người nữ thọ trì đọc tụng kinh điển luôn ghi nhớ trong tâm. Bấy giờ, Phạm vương từ chỗ ngồi đứng dậy, cùng với quyến thuộc đến trước Phật thưa: –Chúng con luôn ủng hộ thiện nam, thiện nữ nào thọ trì đọc tụng kinh điển này trong khoảng một trăm, một ngàn do-tuần; các thiện nam, thiện nữ không bị ngoại đạo nhiễu hại, liền ở trước Phật nói chú: “Y ma tỉ châu na tỳ gia xa lê la”. Chú này sẽ ủng hộ thiện nam, thiện nữ đến khi thành Phật không bị các nạn. Bấy giờ, Thích Đề-hoàn Nhân cùng với quyến thuộc đến trước Phật thưa: –Nếu có thiện nam, thiện nữ nào thọ trì đọc tụng kinh điển này, chúng con sẽ ủng hộ cho đến khi thành Phật, không còn bị các nạn. Liền nói chú: “Lưu giá da ma na na tăng cầu thời na tả”. Đem chú này để ủng hộ thiện nam, thiện nữ đến khi thành Phật không bị các nạn. Khi ấy, ở phương Đông, Thiên vương Đề-đầu-lại-trá cùng với quyến thuộc từ chỗ ngồi đứng dậy, đến trước Phật thưa: –Chúng con sẽ ủng hộ người nam, người nữ thọ trì đọc tụng kinh điển này cho đến khi thành Phật. Liền nói chú: “Đế na tứ na đế na tứ”. Đem chú này ủng hộ thiện nam, thiện nữ đến khi thành Phật, không còn bị các nạn. Khi ấy, ở phương Nam, Thiên vương Tỳ-lâu-lặc-già cùng với quyến thuộc đến trước Phật, thưa: –Nếu có thiện nam, thiện nữ thọ trì đọc tụng kinh này, đến khi thành Phật không còn bị các nạn. Liền nói chú: “Ma-ha tứ đà na tứ”. Đem chú này để ủng hộ thiện nam, thiện nữ cho đến khi thành Phật, không còn bị các nạn. Ở phương Tây, Thiên vương Tỳ-lâu-bác-xoa cùng với quyến thuộc đến trước Phật, thưa: –Nếu có thiện nam, thiện nữ nào thọ trì đọc tụng kinh này thì chúng con sẽ ủng hộ đến khi thành Phật không còn bị các nạn. Liền nói chú: “Y nê di nê xa di”. Đem chú này để ủng hộ thiện nam, thiện nữ đến khi thành Phật không còn bị các nạn. Ở phương Bắc, Thiên vương Câu-tỳ-la cùng với quyến thuộc đến trước Phật, thưa: –Nếu có thiện nam, thiện nữ nào họ trì đọc tụng kinh này thì chúng con sẽ ủng hộ đến khi thành Phật, không còn bị các nạn. Liền nói chú: “Đà thí đà la thí”. Đem chú này để ủng hộ thiện nam, thiện nữ đến khi thành Phật không còn bị các nạn. Khi ấy, Vô Úy ma vương, Phạm thiên vương, Thích Đề-hoàn Nhân và Tứ Thiên vương, nói thần chú xong, nhiễu quanh Phật ba vòng, cúi đầu đảnh lễ nơi chân Phật rồi trở về chỗ ngồi. q Kinh TỐI THẮNG VẤN BỒ-TÁT THẬP TRỤ TRỪ CẤU ĐOẠN KẾT <卷 id="113335711">Quyển 10 <詞 id="113335712">Phẩm 26: Trong mộng thành đạo Bấy giờ, Bồ-tát Trị Địa từ chỗ ngồi đứng dậy, mặc áo bày vai phải, quỳ gối xuống đất, chắp tay thưa Phật: –Bạch Thế Tôn! Kỳ lạ thay, nay con được nghe Bồ-tát Nhu Thủ cùng Bồ-tát Tối Thắng luận bàn về pháp không có hình tướng, đạo không có lời lẽ, để nối tiếp dòng giống Phật không gián đoạn, lại làm Phật sự không thể nghó bàn, thật con chưa từng nghe, chưa từng thấy. Phật bảo Trị Địa: –Đúng vậy! Đúng vậy! Như lời ông nói, cách đây ức trăm ngàn kiếp, ta chứa nhóm công đức, làm hưng khởi Phật sự chưa từng hao tổn, có Phật ra đời thì chánh pháp mới được lưu truyền. Khi ấy, Bồ-tát Nhu Thủ ở trước Phật thưa: –Chư Phật xuất hiện ở đời thì chánh pháp mới được lưu truyền, các pháp có tướng mạo chăng? Giảng pháp có lưu truyền chăng? Đáp: –Không. Lại bạch Phật: –Như Lai xuất hiện ở đời làm cho vô số chúng sinh đều được diệt độ. Nay nghe Như Lai muốn cứu giúp chúng sinh, cứu giúp chúng sinh thì không diệt độ. Phật bảo Nhu Thủ: –Nếu nghe ta nói không có chúng sinh, mà cho là có chúng sinh chăng? Đáp: –Dạ không. –Muốn khiến cho có chúng sinh hay không có chúng sinh? Đáp: –Dạ không. –Khi Như Lai sinh và diệt có nơi chốn không? Đáp: –Dạ không. –Nếu để có cảnh giới Như Lai thì vì sao Như Lai hóa độ chúng sinh đều được diệt độ? Nhu Thủ bạch Phật: –Nay con trình bày rõ ràng về bốn câu, hiểu rõ các pháp và ghi nhận tất cả, truy tìm bản tánh ấy vốn không sinh không diệt, không thấy sinh tử, lại không Niết-bàn. Vì vậy cho nên không có chúng sinh để diệt độ. Phật bảo Như Thủ: –Đối với tận và vô tận thì pháp giới vốn thanh tịnh, hiểu rõ nghóa lý nên không còn chấp trước. Vì biết văn tự không có ý, không có tưởng, không sự chấp trước về thức, lẽ nào do thức tưởng phân biệt các tuệ được sao? Biết rõ tánh chúng sinh vốn thanh tịnh không thể xét cùng tận. Nay ta nói rõ ý nghóa cho ông. Hãy lắng nghe và ghi nhớ kỹ. Đại thừa của Bồ-tát không thể nghó bàn, A-la-hán và Bích-chi-phật không thể sánh kịp. Bồ-tát Nhu Thủ thọ nhận lời chỉ dạy, nguyện ưa muốn nghe. Phật bảo Nhu Nhủ: –Thức không có hình tướng, thức không có hiểu biết, thức không có tưởng niệm, thức như ảnh mộng, như huyễn hóa. Nhờ công dụng đó mà cứu giúp vô lượng chúng sinh, hoặc có cõi Phật phải dùng văn tự để giáo hóa mới hiểu biết tự tánh của văn tự vốn không, vắng lặng. Ở phương trên, cách đây bảy vạn sáu ức a-tăng-kỳ cõi nước, có cõi Phật tên là An Tịch, Đức Phật hiệu là Diệu Thức, đầy đủ mười hiệu: Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Vi Thiện Thệ… Chúng sinh cõi ấy các căn đầy đủ, tu tập bản nguyện không thiếu sót, chúng sinh được giáo hóa bằng cách ngủ mới được giác ngộ. Chỉ có Đức Như Lai nhập Thiền định vắng lặng, tùy theo căn cơ chúng sinh, giả hiện giống như ngủ. Giả sử muốn nói pháp liền nằm xuống đất, nghiêng về bên phải, hai chân gác lên nhau. Chúng sinh thấy vậy đều bắt chước Như Lai nằm xuống đất, nghiêng về bên phải, hai chân gác lên nhau và đều ngủ. Lúc ấy, Đức Phật đó ở trong tư thế ngủ, thuyết pháp cho các chúng sinh bằng thần thức, hoặc nói bố thí để dứt trừ ba tưởng, hoặc nói trì giới thì hương đức hạnh bay xa, hoặc nói nhẫn nhục để chế ngự tâm không cho sinh khởi, hoặc nói tinh tấn để trừ bỏ biếng nhác, diễn nói Thiền định để thức không còn tán loạn, diễn thuyết trí tuệ ngăn chận ngu si tối tăm. Tu hành phương tiện thiện xảo, tùy theo các loại căn cơ chúng sinh không còn chấp. Trước đối với bốn pháp môn rốt ráo không bị ngăn ngại, tùy theo trình độ cao hay thấp mà giảng dạy cho họ, tùy theo đó mà giảng nói pháp lớn hay pháp nhỏ để trao truyền chánh pháp. Bấy giờ, Đức Như Lai diễn nói bốn pháp: Về tuệ chẳng phải thường, khổ, không, vô ngã. Dần dần diễn nói ba mươi bảy phẩm trợ đạo, đó là bốn Niệm xứ, bốn Chánh cần, bốn Như ý túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác chi và tám Thánh đạo, xét rõ định ý Không, Vô tướng, Vô nguyện. Khi ấy, ở trong mộng dùng thức giáo hóa nên chứng đắc quả Tu-đà-hoàn. Ở trong mộng thọ nhận bằng thức thì được thành đạo, chứng quả Tư-đà-hàm, cho đến quả A-la-hán. Cũng vậy, các Đức Phật chứng đắc cũng ở trong mộng biết được trong sinh tử, không thầy mà tự ngộ. Ở trong sự ngủ nghỉ mà thân màu hoàng kim, các tướng tự trang nghiêm, đưa bát lên hư không biến hóa mười tám cách. Lại ở trong mộng, trên thân ra lửa, dưới thân ra nước, nằm ngồi nơi hư không không chướng ngại. Muốn đi vào cảnh giới Niết-bàn vô vi, cũng ở trong mộng ngồi kiết già, ở nơi Vô dư Niết-bàn mà nhập Niết-bàn, cho nên thân như đá, không còn cảm giác. Các loại chúng sinh sau khi thức dậy đều không nói năng mà chỉ nhớ nghó trong mộng, thâu lấy xá-lợi mà trà-tì. Bồ-tát thọ ký cho đến khi thành Phật đều ở trong mộng, ngồi dưới cây Bồ-đề đất màu hoàng kim, hàng phục ma oán, đầy đủ ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp, ánh sáng màu hoàng kim chiếu khắp nơi. Ở trong mộng cũng như vậy. Khi thức, thân màu hoàng kim, đầy đủ các sắc tướng, thần thông biến hóa không ngăn ngại, không có lời lẽ qua lại để giáo hóa. Muốn hóa độ thì phải ở trong mộng, không mượn vào hình thức bên ngoài mà được cứu giúp. Nhu Thủ nên biết! Căn cơ chúng sinh được giác ngộ không đồng nhau nên chư Phật dùng quyền tuệ giáo hóa khắp nơi. Hoặc có cõi Phật do địa đại tạo thành, chúng sinh trong cõi ấy không thể kể xiết. Đức Như Lai đi vào cõi ấy giáo hóa cho họ, đều làm cho chúng sinh được nhập Niết-bàn vào cảnh giới Vô dư Niết-bàn. Hoặc có cõi Phật do thủy đại tạo thành, chúng sinh trong cõi ấy không thể kể xiết. Đức Như Lai đi vào cõi đó giáo hóa cho họ, đều làm cho chúng sinh được nhập Niết-bàn vào cảnh giới Vô dư Niết-bàn. Hoặc có cõi Phật do hỏa đại tạo thành, chúng sinh trong cõi ấy không thể kể xiết, Đức Như Lai đi vào trong cõi đó giáo hóa cho họ, đều làm cho chúng sinh được nhập Niết-bàn vào cảnh giới Vô dư Niết-bàn. Hoặc có cõi Phật do phong đại tạo thành, chúng sinh trong cõi ấy không thể kể xiết. Đức Như Lai đi vào trong cõi đó giáo hóa cho họ, đều làm cho chúng sinh được nhập Niết-bàn vào cảnh giới Vô dư Niết-bàn. Hoặc có cõi Phật do không đại tạo thành, chúng sinh trong cõi ấy không thể kể xiết. Đức Như Lai đi vào trong cõi đó giáo hóa cho họ, đều làm cho chúng sinh được nhập Niết-bàn vào cảnh giới Vô dư Niết-bàn. Hoặc có cõi Phật do thức đại tạo thành, đó là cõi Phật An Tịch của Đức Như Lai Diệu Thức, bằng năng lực thần thông giáo hóa trong mộng mà được diệt độ. Phật bảo Nhu Thủ: –Ở phương Bắc, cách đây bảy mươi ức hằng hà sa cõi Phật, có cõi Phật tên là Thâm yếu, Đức Phật hiệu là Phạm Tuệ, đầy đủ mười hiệu: Như Lai Chí Chân, Đẳng Chánh Giác. Chúng sinh cõi nước đó đều phát thệ nguyện mới được sinh vào cõi nước ấy, đều đồng một hiệu gọi là Tiếp Thức. Nhu Thủ nên biết! Chúng sinh cõi ấy đều có thần thông, tâm nhớ nghó thế nào thì hiện thân như vậy, không bị trở ngại. Tiếp Thức nghóa là phát tâm nguyện rộng lớn, những bậc có thần thức đáng lẽ phải đi vào sinh môn, thọ hình trong bào thai, nhưng vì nhờ thần túc nên bay đi trên hư không. Tiếp Thức giữ lại được giáo hóa mà diệt độ, chứ không thọ thân bốn đại. Như là Phát-đà-hòa… tám vị Bồ-tát đang ngồi trong hội này. Ở phương Đông nam, cách đây một trăm bốn mươi hằng hà sa cõi nước, có cõi Phật tên là Phạm âm, Đức Phật hiệu là Thai Chân, đầy đủ mười hiệu: Như Lai Chí Chân, Đẳng Chánh Giác… Chúng sinh cõi nước đó đạt được sáu thần thông thanh tịnh, đồng một sắc tướng. Họ đều do thệ nguyện mới được sinh vào trong cõi ấy. Thai Chân nghóa là phát tâm nguyện rộng lớn, những bậc có thần thức bằng cách ở trong thai mẹ đều nguyện dùng thần túc nhập vào thai để giáo hóa, khiến cho người mẹ đó không biết ta đang ở đó, liền ở trong thai đạt đến vô vi, chứng đắc Niết-bàn. Như là Bồ-tát Bảo Tích Đồng Chân Trị Địa đang ngồi trong hội này. Như Lai phương tiện dùng thần thông giáo hóa khắp nơi, đem ức trăm ngàn cõi Phật đặt trong tâm bàn tay, lại đặt trở về chỗ cũ mà không ai biết cả. Hư không, pháp giới không thể nghó bàn, đó là việc làm thích ứng của Đại Bồ-tát Nhu Thủ, chẳng phải bậc A-la-hán và Bích-chi-phật có thể sánh kịp. Phân biệt thức vi tế, giáo hóa các chúng sinh đều được giải thoát, hoặc nói pháp rỗng lặng là không, không ngã, không người, không chúng sinh, không tuổi thọ, không mạng sống, pháp không sinh diệt. Vì sao? Này Nhu Thủ! Nếu có thiện nam, thiện nữ nào phát tâm nguyện rộng lớn, khiến cho A-la-hán và Bích-chi-phật đầy khắp thế giới trong mười phương đều được thành đạo, tâm không thoái chuyển thì phước ấy nhiều chăng? Nhu Thủ thưa: –Bạch Thế Tôn! rất nhiều, rất nhiều. Phật dạy: –Cõi ấy có Bồ-tát dùng pháp vô hình và thức để nói pháp, hoặc nói vô thường, khổ, không, vô ngã, Không, Vô tướng, Vô nguyện, phân biệt tất cả không hình, không tướng, không thể nắm giữ. Đó là giáo hóa bằng thức nên phước ấy vô lượng. Vì sao? Vì bốn đại hữu vi là giai đoạn thai nhi phải trải qua. Bốn đại vô vi hoàn toàn vắng lặng, không sinh, đó là chỗ thuyết pháp của chư Phật. Do dùng phương tiện này nên thức vi diệu vắng lặng. Pháp tánh không lời dạy nên không thể lường được. Pháp hữu vi có tướng, còn pháp vô vi thì không có tướng. Vì sao? Vì không lìa hữu vi, cũng không lìa vô vi, cũng không nói đây là tập khởi, đây là xả bỏ, đây là lời dạy vô hình không có lời dạy, đây là pháp phàm phu, đây là pháp Hiền thánh, đây là pháp Hữu học, đây là pháp Vô học, đây là pháp Thanh văn, đây là pháp Duyên giác, đây là pháp Bồ-tát, đây là pháp của Phật. Phật lại bảo Nhu Thủ: –Những lời dạy của Như Lai cùng thức thuyết pháp không thấy các pháp, cũng không có tưởng về pháp, hư không vô hình cũng không thể thấy được. Phàm phu ngu si dùng các màu sắc vẽ trên hư không, việc làm của người đó có thể được chăng? Nhu Thủ thưa: –Bạch Thiên Trung Thiên, rất khó, rất khó, chưa từng có. Phật bảo: –Đúng vậy! Đúng vậy! Như lời ông nói, các pháp vô số, sự giáo hóa của Như Lai cũng vô số. Các pháp không có hình tướng nên không có hai. Này Nhu Thủ! Ý ông thế nào? Pháp không có hình tướng có nơi chốn chăng? Đáp: –Bạch Thế Tôn! Dạ không. Phật bảo Nhu Thủ: –Vì thế nên biết Phật pháp vô số, vô ngôn, vô giáo, đều không thật có. Bấy giờ, Nhu Thủ ở trước Phật thưa: –Bạch Thế Tôn! Con vừa nghe Thế Tôn nói các pháp không có tướng trạng, không có hình chất, tâm đại Bi của Như Lai thấy hết vạn vật, vì sao Như Lai lại nói khai mở giáo hóa chúng sinh, làm thanh tịnh cõi Phật, là pháp hữu lậu, là pháp vô lậu, là pháp hiện tại, là pháp quá khứ, là pháp vị lai? Phật lại bảo đây là pháp độ đời, chẳng phải độ đời, có chấp trước hay không chấp trước, có tên gọi hay không có tên gọi, hữu số vô số, đây là pháp sinh tử, đây là pháp Niết-bàn, vì sao Thế Tôn nói các pháp không có tướng trạng, cũng không có hình chất ư? Phật bảo Nhu Thủ: –Đúng vậy! Đúng vậy! Như ông hỏi, các pháp ba thừa và lục độ trong ba đời, độ đời, sinh tử, hữu vi, vô vi, không có hữu vi cũng không có vô vi, có chấp trước hay không chấp trước, có tên gọi hay không có tên gọi, hữu số vô số, hữu lậu vô lậu, ba mươi bảy phẩm trợ đạo, Không, Vô tướng, Vô nguyện, từ pháp hữu vi cho đến pháp vô vi đều là pháp số của thế tục, chẳng phải là Đệ nhất nghóa. Pháp ấy không có hình tướng. Vì không có hình tướng, không có âm thanh nên không thấy được. Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ thiện xảo đều là pháp của thế tục, chẳng phải là Đệ nhất nghóa, diệt tận Niết-bàn, hoàn toàn vắng lặng, an lạc. Phật bảo Nhu Thủ: –Bồ-tát đều biết rõ bản tánh của pháp ấy nên diễn nói có báo ứng chăng? Diễn nói để trừ tám nạn âm thanh không có tiếng vang, có báo ứng chăng? Nghiên cứu cùng tận nguồn gốc của chúng sinh có báo ứng chăng? Thuận theo kinh điển dứt trừ kết sử có báo ứng chăng? Giả sử Như Lai trong ba đời không đắm nhiễm, khai mở chánh pháp, giáo hóa chúng sinh chưa từng uổng phí có báo ứng chăng? Giả sử các pháp có kết quả báo ứng có thể tận chăng? Tâm thức xoay vần ra vào không bị ngăn ngại có thể tận chăng? Hoặc dùng quyền tuệ thuận theo ái dục có thể tận chăng? Thuận theo oai nghi phép tắc không sai phạm có thể tận chăng? Ba thừa giáo hóa làm cho viên mãn có thể tận chăng? Suy nghó nguồn gốc pháp, nắm giữ không xả bỏ có thể tận chăng? Hiểu rõ các pháp câu cú đều thanh tịnh, hiểu rõ pháp vi diệu, câu cú rõ ràng, quán bốn Niệm xứ và định ý của chư Phật có thể tận chăng? Phân biệt bốn pháp Chánh cần chưa từng xả bỏ, diễn nói các pháp không cùng mà không lấy làm khó, có thể tận chăng? Thần thông không bị ngăn ngại bởi núi, sông, đá, tường, thần thông như vậy có thể tận chăng? Phân biệt tất cả năm căn Thánh điển, chẳng phải ngoại đạo tà giáo hủy hoại có thể tận chăng? Thần lực của Như Lai nói rõ chánh pháp, không phát sinh nghi ngờ tưởng đúng hay sai; đem hoa bảy Giác chi dùng làm anh lạc, ở trong đại chúng không khiếp sợ, diễn thuyết ba mươi bảy phẩm trợ đạo, hoàn toàn xa lìa tà đạo có thể tận chăng? Giảng thuyết về sự thuận nghịch của Tam-muội chánh định, hoặc phân biệt chữ, câu, văn, nghóa có thể tận chăng? Khổ, Tập, Diệt, Đạo cho đến thành tựu đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, xen nhau thọ báo có thể tận chăng? Nhu Thủ bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Giáo pháp vô hình không thể tận, các pháp hữu vi đều bị hao tổn, Niết-bàn vô vi không thể tận. Bấy giờ, Tối Thắng lại bạch Phật: –Nói về Niết-bàn, như vậy thế nào là Niết-bàn? Phật bảo Tối Thắng: –Niết-bàn là dừng nghỉ. Lại hỏi: –Thế nào là dừng nghỉ? Đáp: –Là vô vi vắng lặng. Lại hỏi: –Thế nào là vô vi? Thế nào là vắng lặng? Đáp: –Diệt tưởng là vắng lặng, thức dừng là vô vi. Lại hỏi: –Chẳng phải không chăng? Đáp: –Chẳng phải không không. Lại hỏi: –Chẳng phải không không thì tại sao thức dừng? Đáp: –Chẳng phải không không. Bấy giờ, Bồ-tát Tối Thắng càng thêm nghi ngờ, liền bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Vừa rồi con hỏi hai việc mà được đáp như nhau, phải không? Phật bảo Tối Thắng: –Thôi đi, này thiện nam! Chớ cho Như Lai trả lời giống nhau về tánh Không, nhưng ý của thiện nam vẫn chưa hiểu rõ. Nay ta hỏi ông về nghóa chẳng phải không không và thức tónh lặng. Tùy theo khả năng của ông mà trả lời. Này thiện nam! Nghóa chẳng phải không là thế nào? Đáp: –Các pháp không có số, chẳng phải không có số. Phật dạy: –Chẳng phải thế. Phật lại hỏi: –Thế nào là thức dừng lại tónh lặng? Tối Thắng bạch Phật: –Các pháp đều trở về không sinh khởi, chẳng phải không sinh khởi. Phật dạy: –Chẳng phải thế. Bấy giờ, Tối Thắng từ chỗ ngồi đứng dậy, năm vóc gieo sát đất đảnh lễ nơi chân Phật, trong khoảnh khắc liền lùi lại. Lại bạch Phật: –Con tự xét mình có lỗi đối với lời dạy của Như Lai. Nguyện Thế Tôn thương xót giảng nói để dứt trừ sự nghi ngờ cho con. Phật bảo Tối Thắng: –Pháp có vô số nhưng ông chỉ hiểu phần căn bản. Núi Hương có cây, có một nhánh cao đến vạn tầm, đến khi cong xuống đất thì quả mới chín. Quả lẽ ra ở trên cây, nhưng trở lại xuống đất. Sự hiểu biết của ông cũng như vậy. Ta hỏi ông nghóa “Không” chính là dùng “Có” để trả lời, giống như quả của cây kia có gì khác nhau? Ta sẽ nói tất cả cho ông, ông nên ghi nhớ kỹ. Đáp: –Đúng vậy, bạch Thế Tôn. Phật bảo Tối Thắng: –“Phi” là chẳng phải không. Tất cả các pháp đều gọi là “phi”. “Phi” là là tên gọi của các pháp. Có tên gọi thì chẳng phải Không. Hiểu rõ nghóa “Phi” thì trở về với Không, cho nên gọi là chẳng phải Không. Nghóa là, thức chẳng phải có, chẳng phải không. Thế nào là thức chẳng phải có, chẳng phải không? Không nhiễm thế tục gọi là chẳng phải có. Ở nơi Không, tónh lặng thì gọi là chẳng phải không. Thức là bỏ chỗ này lấy chỗ kia, thì gọi là chẳng phải có. Ở nơi bờ sinh tử từ mẫn chúng sinh gọi là chẳng phải không. Có thể hóa thân khắp thế giới trong mười phương, các sự biến hóa đó đều không tịch, nên gọi là chẳng phải có. Một thức đưa đến hóa thân, hóa thân đều nói pháp, gọi là chẳng phải không. Như Lai đi vào thiền định, thân tâm vắng lặng trải qua ức ngàn na-do-tha hằng hà sa số kiếp không sinh tưởng diệt thì gọi là chẳng phải có. Lại xuất định để cứu giúp chúng sinh, khiến đạt đến vô vi thì gọi là chẳng phải không. Thế nào? Này Tối Thắng! Nay ta phân biệt rõ ràng cho ông về sự chẳng phải có chẳng phải không, đó là nghóa chân không Niết-bàn, phải không? Tối Thắng bạch Phật: –Không thật là không, Niết-bàn thật là Niết-bàn. Phật bảo Tối Thắng: –Thôi đi thiện nam, đây chẳng phải không, cũng chẳng phải Niết-bàn. Vì sao? Vì do thế tục giả danh tạm dùng văn tự để truyền nhau, cho nên gọi là chẳng phải có, chẳng phải không. Cảnh giới pháp tánh hoàn toàn không trói buộc, không có pháp danh tự, làm sao lại có chẳng phải có, chẳng phải không? Trừ bỏ cao thấp, không còn tâm đúng sai, nhận biết tham sân và không tham sân, hiểu rõ tâm vô minh và tâm không vô minh, biết rõ sự trói buộc của năm triền cái là một, cũng không thấy một, đó là Không, là Niết-bàn. Bấy giờ, Tối Thắng ở trước Phật, thưa: –Lành thay! Lành thay! Bạch Thế Tôn! Giảng nói về pháp tánh Không và cảnh giới Niết-bàn, chẳng phải có, chẳng phải không, thật không ai bằng. Khi nói pháp này, có sáu vạn Tỳ-kheo theo bản nguyện Thanh văn nhưng bây giờ tâm hướng về Đại thừa đều không còn thoái chuyển. Có mười một ức trời người đạt đến bậc Tận tín. Lại có tám mươi ngàn Bồ-tát ở phương khác chứng được pháp Vô sinh nhẫn. Phật bảo: –Này thiện nam! Đại Bồ-tát hiểu pháp tánh “Không” phải thực hành mười việc để đạt đến diệt độ. Những gì là mười pháp? 1.Chư Phật Thế Tôn thường ở nơi pháp giới mà không bỏ Đạo trí. 2.Chư Phật Thế Tôn từ mẫn tất cả chúng sinh, không bỏ tâm đại Bi. 3.Việc làm được như nguyện, không sai trái. 4.Độ thoát tất cả chúng sinh các căn được thuần thục. 5.Chư Phật Thế Tôn hiểu rõ các pháp “Không” không thật có. 6.Chư Phật Thế Tôn phân biệt về trí tuệ, ba độc cũng không thật có. 7.Chư Phật Thế Tôn đối với các pháp giới không sinh khởi thêm bớt. 8.Đối với hàng sơ học mới phát tâm bình đẳng không hai. 9.Hiểu rõ như pháp tánh, không bỏ bản nguyện tu hành. 10.Chư Phật Thế Tôn thực hành pháp “Nhất tướng vô tướng”. Này thiện nam! Đó là Đại Bồ-tát hiểu rõ pháp tánh “Không” phải tu mười pháp này để đạt đến Niết-bàn. Lại nữa, Đại Bồ-tát thực hành sáu thần thông, đạt đến pháp tánh “Không” phải thực hiện mười việc. Những gì là mười việc? 1.Quán sát tận cùng đời quá khứ bằng trí tuệ không sai. 2.Quán sát bằng tận cùng đời vị lai bằng trí tuệ không sai. 3.Quán sát tận cùng đời hiện tại bằng trí tuệ không sai. 4.Quán sát năm cõi chúng sinh biết hết nguồn gốc bằng trí tuệ không sai. 5.Quán sát tất cả sự sinh diệt của thế gian bằng trí tuệ không sai. 6.Quán sát tất cả chúng sinh từ nơi có mà sinh, từ nơi có mà diệt bằng trí tuệ không sai. 7.Quán sát tất cả chúng sinh từ nơi không mà sinh, từ nơi không mà diệt bằng trí tuệ không sai. 8.Đạo tâm kiên cố không bỏ chúng sinh bằng trí tuệ không sai. 9.Tâm không lựa chọn: có nên độ hay không nên độ bằng trí tuệ không sai. 10.Biết rõ pháp giới các căn không khiếm khuyết bằng trí tuệ không sai. Này thiện nam! Đó là Đại Bồ-tát tu sáu thần thông để đạt đến pháp giới “Không”. Phật bảo: –Này thiện nam! Đại Bồ-tát đạt đến pháp giới “Không” phải tu mười tuệ. Những gì là mười tuệ? 1.Quán các chúng sinh có bao nhiêu tâm, có bao nhiêu hạnh thảy đều biết, đó là tuệ của Bồ-tát. 2.Quán tất cả chúng sinh có bao nhiêu tâm, bao nhiêu quả báo đều biết rõ. 3.Im lặng không nói như thái tử Vụ Phách, biết hết tâm ý và sự nhớ nghó của chúng sinh. 4.Biết các chúng sinh tâm khác, hạnh khác, dùng Thánh tuệ của Phật mà giáo hóa cho họ. 5.Từ xưa đến nay, tu tập pháp tánh mà không xả bỏ tâm Đại thừa. 6.Làm an ổn chỗ ở chúng sinh, trụ vào chỗ Phật đã trụ. 7.Nhờ Thánh tuệ của Phật nên biết hết tâm, ý, thức và sự nhớ nghó của chúng sinh trong năm cõi. 8.Đã thuyết pháp nhưng không bỏ Đại thừa. 9.Được tâm thức Phật, định ý không tán loạn. 10.Tâm độ vô lượng chúng sinh nhưng không trụ ở chỗ giải thoát, cũng không thấy chúng sinh được độ. Này thiện nam! Đó là Đại Bồ-tát tu tập đầy đủ mười tuệ để đạt đến pháp giới “Không”.  <詞 id="113335713">Phẩm 27: Bồ-tát chứng đắc Phật bảo: –Này thiện nam! Đại Bồ-tát nương sáu thần thông đi đến vô số cõi Phật trong mười phương để phụng sự cúng dường chư Phật Thế Tôn. Từ một cõi Phật đến một cõi Phật giáo hóa chúng sinh không sợ hãi, tán thán công đức và việc làm của Phật khiến khắp mười phương nghe được âm thanh của Phật. Việc làm của Bồ-tát Tối Thắng cứu giúp tất cả chúng sinh, hoặc dùng thần thông, hoặc dùng giới luật để dạy bảo, ruộng phước thanh tịnh, không còn rơi vào ba đường ác, hoàn toàn xa lìa nẻo tà, nhớ nghó đến những người chưa được độ. Trải qua vô lượng kiếp trụ nơi vô lượng cõi Phật, làm người đầy đủ phước đức, an trụ vô vi. Ở trong trăm ngàn kiếp tu tập phạm hạnh thanh tịnh, không bằng trong đời ngũ trược thực hành một tâm Từ. Nói về tâm Từ thì có phước đức khó lường. Ở đời có nhiều người thực hành ba việc ác căn bản: thân có ba, miệng có bốn và ý có ba pháp nên lãnh chịu quả báo trong ba đường ác. Giả sử chuyên tâm đọc tụng kinh điển thì đối với pháp hiện tại dứt hết nguồn gốc khổ. Hoặc có Bồ-tát nhàm chán sinh tử, bỗng gặp được kinh này thì hoàn toàn không thoái lui, không còn thọ sinh vào trong thai mẹ, thần thức sáng suốt không mê muội. Muốn giải thoát sự trói buộc, dứt sạch các kết sử thì nên hộ trì Phật pháp, hiển bày trí tuệ sáng suốt. Nếu ở trong trăm ngàn kiếp ở cõi khác, giữ gìn chánh pháp, giảng nói rộng về nghóa này thì không bằng ở cõi đây trong một khoảnh khắc đọc tụng, nhớ nghó và phân biệt ý nghóa một bài kệ, đây là hơn hết. Ta thấy cõi Phật đẹp đẽ, sáng suốt, an ổn; cũng thấy vô lượng cõi Phật hoàn toàn vắng lặng. Họ không còn các nạn buồn khổ, phiền não, cũng không còn thực hành các việc phước, nghiệp và sự. Nếu có thể ở trong cõi này dứt hết các kết sử trói buộc thì được sinh vào cõi thù thắng ấy. Vì sao? Vì ở trong đời ác năm trược, các sự khổ não vạn cách. Trải qua ức ngàn vạn kiếp mới có Đức Phật, chúng sinh làm việc ác mong gặp được Hiền thánh, hoặc sinh nơi biên địa, hoặc tám nạn không an ổn, hoặc sinh sau thời có Phật, không được nghe chánh pháp. Giả sử có Phật cũng không nghe, không thấy. Có thể ở trong đó làm hưng khởi Phật pháp, đó là việc làm đặc biệt không ai sánh bằng. Ta tuy làm bậc Đạo sư trong ba cõi đều do nguyện làm phước đức không chán nản. Từ, bi, hỷ, xả dứt trừ nguồn gốc khổ. Chúng sinh lâu nay đắm nhiễm con đường tà khó bỏ được, bỗng nghe chánh pháp tăng thêm nghi ngờ, ngày nay mới gặp giáo pháp của Như Lai. Bồ-tát Đại só nhiều không thể tính kể được, nghe pháp không nhàm chán, như biển cả thâu nạp các dòng, nên cùng nhau diễn thuyết Phật đạo chân chánh. Phạm vương, Đế Thích, Tứ Thiên vương, Thiên, Long, Quỷ thần, A-tu-luân, Chiên-đà-la, Ma-hưu-lặc, Nhân và phi nhân, ma, ma trời khắp mười phương đều vân tập, nay được nghe pháp, thoát nhiên đại ngộ đều nhờ phước đức đời trước mà đạt được. Giả sử ta ở trong trăm ngàn vạn kiếp giảng nói nghóa vi diệu của một câu cũng không thể cùng tận tuệ pháp căn bản này. Thế nên Tối Thắng! Bồ-tát Đại só tu vô số hạnh khổ không cho là khó. Giả dụ khắp tam thiên đại thiên thế giới cùng lúc bị lửa thiêu đốt đến trời Phạm Thiên, có chúng sinh phàm phu nào tuy chưa chứng quả Tu-đà-hoàn, nghe có kinh này ở một nước khác, liền hướng thân về chỗ ấy nên đi vào lửa cháy vẫn an ổn vượt qua được, không bị thương tổn. Hoặc có lúc cả tam thiên đại thiên thế giới lửa tắt, nước dâng đến cõi trời Phạm Thiên, tự mình đi vào trong nạn nước, vượt qua được an ổn, hoàn toàn không bị đắm chìm. Tối Thắng nên biết! Cả tam thiên đại thiên thế giới nước cạn, gió thổi mạnh đến cõi Phạm Thiên, vị ấy đi vào trong nạn gió vẫn được an ổn, không bị gió thổi. Vì sao? Vì nhờ oai thần của Đức Phật hộ trì. Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di nào thọ trì đọc tụng kinh này, hiện tại được bảo hộ, không gặp khổ não. Nếu tiến hơn nữa, tịnh tu phạm hạnh, ngay trong đời hiện tại chứng được vô vi. Thần thông của Đại só ngay trên tòa này, khiến cho ức trăm ngàn na-do-tha chúng sinh tu tập kinh này được chứng đắc quả. Nay ta ân cần giảng giảng nói kinh điển, người nghe được độ thoát, không bị rơi vào đường ác, theo đó giữ vững chí nguyện, thích ứng tuệ giải thoát, tâm hướng đến Phật thừa rộng lớn không cùng tận, không vì mình, thường từ mẫn đối với chúng sinh, cho đến lúc thành Phật hoàn toàn không bị suy giảm, làm nhân duyên cho người có sở nguyện hướng đến hàng Duyên giác, được thành đạo, đưa bát lên hư không biến hóa tự tại. Người nguyện làm Thanh văn, cầu thầy hỏi đạo không bị chướng ngại, đoạn các kết sử trói buộc, dứt hết lậu hoặc, được thành đạo. Lại quán tâm ý mong muốn của chúng sinh, hoặc có người phát tâm mới chứng được quả Tu-đà-hoàn, bằng quyền tuệ dẫn dắt hàng ngoại đạo dần dần hướng đến bậc A-la-hán. Hoặc có chúng sinh đạt đến quả Tư-đà-hàm, dùng quyền tuệ thứ tự dẫn dắt đến quả A-la-hán. Lại có chúng sinh đạt đến quả A-na-hàm, bằng quyền tuệ giáo hóa khai mở, đạt đến quả A-la-hán. Hoặc có chúng sinh không theo thứ lớp đạt được đạo thứ ba, bằng quyền tuệ, Bồ-tát muốn khiến cho họ học những điều nhỏ không đúng, rồi hướng dẫn họ đắc được quả Tu-đà-hoàn, hoặc có chúng sinh được đạo thứ hai, bằng quyền tuệ dẫn dắt người thành quả Tư-đà-hàm. Lại có chúng sinh dần dần chứng thành quả A-la-hán, Bồ-tát dùng quyền tuệ quán sát người đang giáo hóa, nếu họ đã được quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán thì dẫn dắt họ tiến thành đạo quả Duyên giác. Bấy giờ, Đức Như Lai bảo bốn bộ chúng trong hội: –Chúng sinh có vô số, mà cõi Phật không đồng nhau; nghóa là Như Lai không có cõi nước chăng? Chớ nên quán sát như thế. Vì sao? Vì Chuyển luân thánh vương đầy đủ mười điều thiện, dần dần nối tiếp nhau, vương vị không mất; hàng Duyên giác tự ngộ cũng như vậy. Sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn thì Phật pháp không còn, hoặc trải qua một kiếp đến trăm ngàn kiếp, bậc Duyên giác, A-la-hán làm các Phật sự, Phật Phật nối tiếp nhau làm các Phật sự hoàn toàn không gián đoạn. Cho nên, Đại Bồ-tát thường dùng quyền tuệ dẫn dắt chúng sinh, tùy theo phước đức dẫn dắt các chúng sinh xa lìa hoạn nạn trong ba đời, ở yên trong thanh tịnh. Bấy giờ, Bồ-tát Tối Thắng từ chỗ ngồi đứng dậy, đến trước Phật, thưa: –Kỳ lạ thay, đặc biệt thay, chẳng phải hàng Nhị thừa sánh kịp, con mong được nghe việc chứng thành đạo quả. Phật bảo Tối Thắng: –Nếu muốn nghe, ta sẽ nói cho ông. Lắng nghe, lắng nghe, Ghi nhớ kỹ. Xưa Ta cầu đạo không thể kể xiết, từ lúc mới phát tâm làm các việc công đức cho đến khi thành Phật, trong khoảng thời gian ấy thay hình đổi dạng khắp nơi, có thể kể hết chăng? Xưa ta thành đạo, phát tâm nguyện rộng lớn có các chúng sinh hướng về gốc đạo, hướng về quy y Tam bảo, cần dùng thần thông ứng hiện dạy họ, không những thân ta xưa có nguyện này, mà chư Phật Thế Tôn đều thệ nguyện như vậy. Hoặc có chúng sinh chứng bốn đạo bốn quả, Ta cũng xét thấy việc ấy thật rõ ràng. Giả sử có người thành đạo Duyên giác, ta cũng thấy được nhân duyên tự ngộ. Nếu có chúng sinh ngồi dưới cây Bồ-đề trong chu vi năm mươi dặm, ở trong khoảng vùng đó, có ma hoặc Thiên ma không hại được, đối với chỗ ấy Ta đều thấy biết. Phật bảo Bồ-tát: –Này Đại Bồ-tát! Như ta ngày nay hiện thân chứng đạo cứu giúp khắp chúng sinh, ta không thấy ngã, biết rõ tâm thức, phân biệt rõ các nơi đến làm Phật sự, trải qua ức trăm ngàn vô số cõi Phật, xoay vần qua lại, cứu xét tận cùng đạo, thường ở trong cảnh giới chân thật, thấy biết rõ ràng. Xưa ta tự tại ở trong cõi Phật không sợ hãi, Bồ-tát trong cõi ấy không thể kể hết, hoặc người có chí hướng đến Tiểu thừa, A-la-hán, hoặc nửa chừng dừng lại ở trong quả vị Duyên giác, hoặc có chí vượt hơn đạt đến Phật đạo. Lúc ấy, ta chuyên tâm vào định Tam-muội, vì cảm hóa khắp chúng sinh khiến cho họ được chứng ngộ. Lại nữa, Đại Bồ-tát nếu hướng đến quả Tu-đà-hoàn thì được quả Tu-đà-hoàn, nếu hướng đến quả Tư-đà-hàm thì được quả Tư-đà-hàm, nếu hướng đến quả A-na-hàm thì được quả A-na-hàm, nếu hướng đến quả A-la-hán thì được quả A-la-hán. Ta thường ở trong đó chứng thành đạo quả, chưa bao giờ mất nguồn gốc của pháp tánh. Đức Phật bảo: –Thiện nam! Đại Bồ-tát đi đến tam thiên đại thiên thế giới, có tin hay không tin, có thọ nhận hay không thọ nhận; hoặc có chúng sinh đạt đến quả vị Tập tín, lại có chúng sinh tùy pháp hành, hoặc có chúng sinh tu tám pháp giải thoát của Bồ-tát, ta thường thị hiện đến đó khiến họ chứng được đạo. Phật lại bảo: –Thiện nam! Đại Bồ-tát thân thức thanh tịnh không cấu nhiễm, có các chúng sinh làm việc sai trái, ta cũng hiện đến đó làm cho tà thuật này không còn tồn tại nữa. Hoặc cúng tế đất, nước, gió, lửa, ta cũng đến đó nói cho họ biết đó là không chân thật. Hoặc thấy ngoại đạo chủ trương sinh lên Phạm thiên, ta cũng đến đó chỉ rõ cho họ khi phước hết sẽ trở lại chỗ cũ. Hoặc có chúng sinh muốn sinh lên cõi trời Vô sắc, sống trên đó một kiếp, tâm luôn chuyên nhất không gián đoạn, Lúc ấy, ta nhập chánh định nói cho họ biết sắc không có sắc, sắc không tự có, sắc của ta và sắc của người khác, người và ta đều không có hình sắc, là vô sắc thì đâu có ngã. Thức chẳng phải ngã, thức đâu có ngã, các pháp thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy. Bấy giờ, Bồ-tát Tối Thắng đến trước bạch Phật: –Lành thay! Lành thay! Thế Tôn nói: Lời dạy của Như Lai bằng pháp Như Lai tự chứng, không thể nghó bàn, chẳng phải A-la-hán, Bích-chi-phật đạt được. Khi ấy, Tối Thắng liền bạch Phật: –Vừa rồi Phật nói vô sắc, vậy vô sắc là thế nào? Xin Thế Tôn từ mẫn diễn nói để dứt hết những sự nghi ngờ cho mọi người. Phật bảo Tối Thắng: –Lành thay, này thiện nam! Lắng nghe, ghi nhớ kỹ, ta sẽ nói về định vô sắc cho ông. Đó là vô sắc, chẳng phải có sắc. Sắc do bốn đại tạo, gọi là sắc, ở đó không có sắc này nên gọi là vô sắc. Nói về sắc có năm do tứ đại tạo thành, vì không có hình sắc cho nên gọi là vô sắc, sắc thọ, sắc tưởng, sắc hành, sắc thức chẳng phải ngũ thông của phàm phu thấy được, chỉ có Đức Như Lai và Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ mới thấy được sắc ấy. Phật bảo: –Thiện nam! Bồ-tát Không thoái chuyển nương vào phương tiện thiện xảo, nhập vào định ý Tam-muội chánh định tịch tónh, đi khắp trên cõi trời Hữu tưởng, Vô tưởng giảng nói pháp vi diệu cho thức vi tế về Không, Vô tướng, Vô nguyện, hiện sáu thân thọ pháp không sinh diệt, dần dần giảng đến cho họ pháp sinh, già, bệnh, chết, đó gọi là sinh. Bào thai trong bụng mẹ, nằm dưới sinh tạng, ở trên thục tạng, bốn đại đầy đủ thì rời thai mẹ; đời trước có nghiệp thiện như bơi trong ao, tắm mát và xem hoa; nếu đời trước tích chứa điều ác như leo lên núi kiếm, nằm trên gai nhọn. Ta sẽ diễn nói cho họ chỗ thần thức đi đến, ta, người, tuổi thọ, mạng sống cũng không thể bảo tồn lâu dài, ngay trong đó cứu vớt thần thức được thức tỉnh, đối với lúc bào thai mới thành hình, những loại như đây số không thể tính hết, ức ngàn na-do-tha ở trước chư Phật hiện tại xuất hiện pháp đặc biệt sâu xa, thần thức mê mờ như cái lu bị nứt, không giữ được những lời dạy về chánh pháp, một kiếp hoặc ít hơn một kiếp thiêu, như vậy trải qua số ức trăm ngàn na-do-tha kiếp số thiêu, hoặc có một kiếp thì một Đức Phật ra đời, hoặc có một kiếp hai Đức Phật ra đời, hoặc có một kiếp trăm Phật, ngàn Phật, ức trăm ngàn Phật ra đời, cứ tính như vậy, sau đó họ mới lãnh thọ được chánh pháp, lại giảng nói về pháp già suy. Đó gọi là lão. Các căn rời rã, da chùn, mặt nhăn, ưu sầu, rên rỉ, nhàm chán bệnh hoạn của tứ đại, tâm không còn sáng suốt, thân không còn trẻ khỏe, pháp này suy yếu không thể tồn tại lâu dài. Lại nữa, nói về bốn đại: Đất, nước, gió, lửa chống nhau, tánh của đất hơn nước, tánh của nước hơn lửa, tánh của lửa hơn gió, chống nhau, tăng giảm liền sinh bệnh tật, hoặc sinh ghẻ lở vạn thứ bệnh dày vò, máu mủ chảy ra không thể nhìn lâu. Thứ đến nói cho sự biến đổi vô thường, như bong bóng nước, cái sinh cái diệt, sinh tự sinh, diệt tự diệt, sinh không tự sinh, diệt không tự diệt, thần thức vô tướng, thì ngay nơi chỗ ấy, tùy nơi cảnh giới đi đến đều được chứng quả, được nhập Niết-bàn, vào cảnh giới Vô dư Niết-bàn. Bồ-tát Tối Thắng bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Con vừa nghe Như Lai nói về bốn đại chống nhau, là nơi ở của thần thức, đất tăng nước giảm thì sinh ra bệnh, nước tăng lửa giảm thì sinh ra bệnh, lửa tăng gió giảm thì sinh ra bệnh. Lại nghe Phật nói gió tăng lửa giảm, lửa tăng nước giảm, nước tăng đất giảm, thức chẳng phải là bốn đại, bốn đại chẳng phải thức. Nay nghe Phật nói: Một đại tăng thì ba đại bệnh, ba đại tăng thì một đại bệnh, bốn đại đều hòa thần thức mới an. Suy do bốn đại, chẳng phải do thức sinh. Bạch Thế Tôn! Vì sao? Bệnh do bốn đại hay do thức sinh ra? Phật bảo Tối Thắng: –Thức chẳng phải bốn đại, bốn đại chẳng phải thức, thức không lìa bốn đại, bốn đại không lìa thức, cho nên một đại tăng thì các đại khác bệnh, các đại tăng thì một đại bệnh, thức cũng theo đó mà suy giảm. Lại hỏi: –Vì bốn đại bệnh nên thần thức bệnh chăng? Đáp: –Thức do đại bệnh, đại do thức bệnh. Hỏi: –Thức do bốn đại mới hoạt động được, bỏ thân này qua đời khác thì bốn đại tự rã, thần thức nơi thân kia vì sao không giảm? Phật bảo: –Thiện nam, lành thay, lành thay, ông ở trước Như Lai mới dám hỏi lời như thế. Ta sẽ nói rõ ràng tất cả cho ông. Thức không có hình tướng, nên không thể thấy được. Thức chẳng có, thức do bốn đại mà có; bốn đại tăng hết thì thức có bệnh, bệnh chẳng phải do bốn đại, do thức sinh ra, vạn bệnh tăng giảm đều do thức sinh. Từ khi phát tâm cho đến khi thành Phật, thần thức không bị cấu nhiễm, không do tứ đại tạo thành.  <詞 id="113335714">Phẩm 28: Giải tuệ Bấy giờ, Bồ-tát Tối Thắng bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát giữ tâm vững chắc không thể hư hoại, Bồ-tát giữ tâm chân thật không bao giờ hư dối, Bồ-tát nhất tâm hướng về Phật đạo không theo Nhị thừa, Bồ-tát giữ gìn oai nghi không mất phép tắc, Bồ-tát giữ tâm Thiền định không bỏ chánh định, Bồ-tát trụ nơi pháp của chư Phật mà không thoái lui, Bồ-tát truyền bá giáo pháp không đoạn giống Phật như thế nào? Phật bảo Tối Thắng: –Lành thay! Lành thay! Ông ở trước Như Lai mới hỏi nghóa này. Ta sẽ giảng rõ ràng cho ông, ghi nhớ kỹ. –Bạch Thế Tôn! Con muốn được nghe. Phật bảo Tối Thắng: –Đại Bồ-tát tu hành bốn pháp, ý chí vững chắc không thể hư hoại. Bốn pháp là: 1.Từ mẫn đối với chúng sinh như mẹ thương con. 2.Tăng thêm tinh tấn không biếng nhác. 3.Độ các chúng sinh như huyễn như hóa. 4.Đối với pháp của chư Phật đều học tập tường tận. Đó là Bồ-tát thực hành bốn pháp này thành tựu Phật đạo chưa bao giờ thoái lui. Bồ-tát nên tu hành bốn pháp, được vào định Hiền thánh vắng lặng. Bốn pháp là gì? 1.Hiểu rõ chúng sinh, nhưng không tưởng về chúng sinh. 2.Quán các thế gian nhưng tưởng về không đáng ưa. 3.Khen ngợi Đại thừa, hoàn toàn xa lìa Nhị thừa. 4.Đối với các khổ vui không có lệ thuộc. Lại có bốn pháp là: Một là giới. Hai là văn. Ba là thí. Bốn là xuất ly. Lại có bốn pháp thành tựu Phật đạo, không còn nghi ngờ, không mất oai nghi. Bốn pháp là: 1.Không lợi ích. 2.Không suy giảm. 3.Không chê. 4.Không khen. Lại có bốn pháp tăng trưởng căn lành. Bốn pháp là: 1.Dạy dỗ chúng sinh an trụ vào tín địa. 2.Ban cho mọi người mà không mong cầu báo đáp. 3.Thuyết pháp mà không tưởng về pháp. 4.Danh hiệu của Bồ-tát không thể xưng kể. Lại có bốn pháp Bồ-tát phải thực hành từ Sơ địa cho đến Thập địa. Bốn pháp là: 1.Phát khởi căn lành. 2.Trừ bỏ ngu si tăm tối, không ở chỗ tà. 3.Dùng quyền tuệ giáo hóa khắp nơi. 4.Giữ tâm tinh tấn dũng mãnh ngày càng tăng trưởng. Lại có bốn pháp dùng phương tiện thiện xảo để đạt đến Phật đạo. Bốn pháp là: 1.Khuyến khích tà đạo trở về chánh đạo. 2.Giáo hóa người chưa giác ngộ hướng đến nẻo thiện. 3.Thuyết pháp không hai, nhưng sự tiếp thâu thì có cao thấp. 4.Dùng Thánh tuệ của Phật độ những người chưa độ. Lại có bốn pháp để thành tựu oai nghi. Bốn pháp là: 1.Không đắm nhiễm ba cõi, biết đó là khổ. 2.Ta và người khổ vui đều như nhau. 3.Thường thực hành nhẫn nhục, không khởi tâm ác. 4.Ở bậc trên không kiêu mạn, ở bậc dưới không hổ thẹn. Lại có bốn pháp không bỏ tâm Bồ-đề. Bốn pháp là: 1.Niệm công đức căn bản của Phật. 2.Ở giữa chúng sinh mà đạo tâm vẫn kiên cố. 3.Gần gũi bậc Thiện tri thức không theo tà kiến. 4.Hướng lên Đại thừa không tu theo tà kiến. Lại có bốn pháp thích ở chỗ vắng lặng, không ở chỗ ồn náo. Bốn pháp là: 1.Người theo Tiểu thừa thì khiến đến Đại thừa. 2.Lẽ ra thành Duyên giác thì thành Phật đạo. 3.Nghe pháp không nhàm chán, tâm Bồ-đề không đoạn. 4.Nghe pháp không có tiếc rẻ. Lại có bốn pháp Bồ-tát thực hành. Bốn pháp là: 1.Không khởi pháp nhẫn, biết rõ vô sinh. 2.Pháp nhẫn vô tận không có hạn lượng. 3.Pháp nhẫn nhân duyên trừ tâm Duyên giác. 4.Pháp nhẫn vô trụ, biết rõ chúng sinh tâm không lệ thuộc. Lại có bốn pháp trừ bỏ kết sử. Bốn pháp là: 1.Tinh tấn nhất tâm quán bất tịnh. 2.Dứt bỏ nghiệp cũ, không tạo nghiệp mới. 3.Hiểu rõ các pháp không còn mê mờ. 4.Tâm luôn tự tại trong trăm ngàn Tam-muội. Lại có bốn pháp đi vào trong bốn bộ chúng. Bốn pháp là: 1.Thường làm theo pháp, không chấp ngã và ngã sở. 2.Tăng trưởng chí tôn trọng, tâm không buông lung. 3.Đối với các pháp lành tăng trưởng phước đức. 4.Xa lìa Tiểu thừa, hướng đến Đại thừa. Lại có bốn pháp, pháp thí tài thí đạt đến vô vi. Bốn pháp là: 1.Thọ pháp không sai lầm. 2.Không lệ thuộc theo tâm nguyện người khác. 3.Không tiếc thân mạng. 4.Tâm không thoái lui. Lại có bốn pháp bố thí mà không nghó báo đáp. Bốn pháp là: 1.Ta và người không có hình tướng, thảy đều là không. 2.Phải tu hành đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Giác. 3.Hiểu rõ vô ngã do si ái sinh ra. 4.Đạo tánh không bờ bến, thích hợp với chân đạo. Lại có bốn pháp độ người vô số. Bốn pháp là: 1.Hiểu rõ dâm, nộ, si không có sinh diệt. 2.Thực hành Từ bi cứu giúp khắp nơi không còn giận dữ. 3.Làm hưng thịnh các pháp. 4.Tuy ở trong năm trược mà không bỏ tâm Bồ-đề. Lại có bốn pháp thành tựu gốc đạo. Bốn pháp là: 1.Thường lấy việc bố thí làm đầu. 2.Khuyến khích người khác trừ bỏ tham lam keo kiết. 3.Thực hành hợp với pháp không, vô ngã và ngã sở. 4.Đối với giáo pháp sâu xa không còn nghi ngờ. Lại có bốn pháp Thiền định không loạn động. Bốn pháp là: 1.Không chấp chúng sinh có hữu hạn hay không có hữu hạn. 2.Không thấy cõi Phật có thanh tịnh hay không thanh tịnh. 3.Từ, bi, hỷ, xả phổ biến khắp thế giới. 4.Đầy đủ trí tuệ của Phật, không bỏ thệ nguyện. Lại có bốn pháp ở nơi đạo tràng của Phật. Bốn pháp là: 1.Nói lời hoan hỷ không làm tổn thương tâm người. 2.Theo lời thuyết pháp mà thực hành đúng đắn. 3.Hiểu rõ đạo hoặc phi đạo đều không có nơi chốn. 4.Có mong cầu hay không có mong cầu, nhận biết đều trở về không. Đó là Bồ-tát thực hành hợp với pháp không, ở nơi pháp của chư Phật mà tu đạo Vô thượng. Lúc giảng nói pháp này, có hai vạn hai ngàn trời, người đều phát tâm Bồ-đề vô thượng chân chánh, có một vạn hai ngàn người ngay tại chỗ ngồi đắc được pháp Vô sinh nhẫn, có vô số Thiên tử khắp mười phương rải hoa cúng dường ngập đến đầu gối.  <詞 id="113335715">Phẩm 29: Tam độc Bấy giờ, Bồ-tát Nhu Thủ bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Con nghe Như Lai nói bốn pháp môn về tuệ rất sâu, vi diệu, đạt được căn lực. Sự thực hành của Bồ-tát chẳng phải A-la-hán, Bích-chi sánh kịp. Xin hỏi Như Lai trong đời vị lai, bậc Sơ thiền suy nghó quán về pháp bất tịnh, là quán tự thân mình bất tịnh hay quán thân người khác bất tịnh? Phật bảo Nhu Thủ: –Có Bồ-tát chưa đạt đến địa vị Bồ-tát bậc trên mà quán thân bất tịnh thì đạt được căn lực, hoặc quán thân mình và thân người; lại dùng quyền tuệ quán thân cấu uế, máu mủ chảy ra, ngay nơi đó khai ngộ cho vô số chúng sinh, nhưng không lệ thuộc vào tâm tịnh vì biết rõ hết là không chân thật. Lại nữa, này Nhu Thủ! Có Bồ-tát ở trong địa vị vị lai hướng đến trung gian nhưng chưa rõ về Sơ thiền. Có Bồ-tát vượt qua vị lai, ở trong giai đoạn trung gian đó dùng quyền tuệ thiện xảo hướng đến tu tập Sơ thiền. Có Bồ-tát đã vượt qua địa vị trung gian của vị lai, tiếp tục tu tập Sơ thiền, nhớ nghó thọ trì năm hạnh căn bản, đạt đến pháp Nhị thiền. Hoặc có Bồ-tát xả bỏ giai đoạn trung gian của bốn thiền vị lai, từ Sơ thiền, Nhị thiền theo thứ tự tu hành an trú vào thiền căn bản thứ ba. Lại có Bồ-tát vượt qua Tam thiền, lại bỏ bốn hạnh, tu tập thiền thứ tư; ở thiền thứ tư tư duy quán về pháp tánh bất tịnh. Có Bồ-tát không qua bảy định, đi thẳng vào diệt tận định. Có Bồ-tát nhập vào Tam-muội tịch tónh, quán khắp thế giới không có chúng sinh, ngã, nhân, thọ mạng, sinh diệt đều không thực có. Có Bồ-tát an trụ một địa, thọ được quả vị Bồ-tát, phân biệt pháp ba độc dâm, nộ, si; dùng quyền tuệ giáo hóa chúng sinh, có tâm vô minh hay có tâm sáng suốt, có tâm ái dục hay không có tâm ái dục, có tâm sân giận hay không có tâm sân giận, Bồ-tát đều biết rõ. Tối Thắng nên biết! Đại Bồ-tát quán khắp các pháp không thấy sinh, không thấy diệt; đối với các pháp không thấy cứu cánh, chẳng thấy không cứu cánh. Các câu hỏi như vậy là thanh tịnh. Lại nữa, Tối Thắng! Đại Bồ-tát quán các triền phược, ngay trong đó cầu thanh tịnh, điều đáng hỏi thì nên hỏi, pháp này vắng lặng, an ổn, không biến đổi, sinh tử thanh tịnh, không thấy có cấu uế, đó là Đại Bồ-tát luận về pháp vô sinh. Vượt qua sinh tử, không thấy có vượt qua, đó là Bồ-tát luận về pháp vô sinh. Niết-bàn không hình, vắng lặng vô vi, đó là phù hợp với luận về pháp vô sinh. Giả sử, Tối Thắng! Đối với các pháp trói buộc đều biết nó trở về không, chẳng thấy sinh tử, không thấy có người chứng đắc, không thấy giải thoát, chỗ sinh ra và diệt đi, không thấy thoát khỏi sinh tử, cũng không thấy Niết-bàn, đó là Bồ-tát luận về pháp vô sinh. Lại nữa, Tối Thắng! Pháp bất tịnh làm nhân duyên tụ tán, đó là Bồ-tát luận về pháp vô sinh. Gần gũi bậc chứng đắc quả Không thoái chuyển, dùng trí vô ngại biết rõ pháp không sinh, đó là Bồ-tát luận về pháp vô sinh. Lại nữa, này Tối Thắng! Đại Bồ-tát biết nhân duyên hội họp, ly tán, chứng đắc không thoái chuyển, dùng trí vô ngại đoạn dứt ba cõi, đó là Bồ-tát luận về pháp vô sinh, mới gọi là không đoạn căn lành nới các pháp, biết thiện và bất tịnh, đây là pháp thế gian, đây là pháp xuất thế gian, đây là pháp ngại, đây là pháp vô ngại, đây là pháp hữu vi, đây là pháp vô vi, đây là pháp hữu lậu, đây là pháp vô lậu, đó là Bồ-tát luận về pháp vô sinh. Thế nên, Tối Thắng! Tư duy phân biệt về hình tướng của Phật thì không có hình tướng, lại phân biệt vô số pháp tánh, tư duy về công đức của Thánh chúng không lường được. Thứ đến tư duy về số lượng chúng sinh chẳng phải là một, lại phân biệt các cõi nước không giống nhau, dùng tâm nghó đến việc đó thì không thể xét được, đó là Bồ-tát luận về pháp vô sinh. Lại nữa, Tối Thắng! Tất cả các pháp thảy đều thanh tịnh, tất cả các pháp đều không thanh tịnh, đó là Bồ-tát luận bàn về pháp vô sinh. Tối Thắng bạch Phật: –Luận bàn tất cả các pháp thanh tịnh là vô sinh, luận bàn tất cả các pháp không thanh tịnh như thế nào? Phật bảo Tối Thắng: –Các pháp là không có thức tưởng, không có kết quả của nghiệp; do các thức tưởng cùng tương ưng với pháp, đó gọi là pháp thanh tịnh và pháp không thanh tịnh. Tất cả các pháp có vô số hình tướng, hoặc có các pháp khi chưa lìa niệm, liền cầu phương tiện làm tăng trưởng công đức, công đức ấy đã tăng trưởng thì đầy đủ các điều thiện, các điều thiện đã đầy đủ liền quán sổ tức nhập vào thiền định. Đó gọi là pháp tịnh và pháp không thanh tịnh. Tối Thắng lại hỏi: –Bồ-tát quán xét các pháp làm tịnh và không tịnh như thế nào? Đáp: –Đối với cảnh giới, Bồ-tát hoàn toàn không còn dục, đối với ức vạn pháp đều biết nghóa về định và không định. Hỏi: –Định là thanh tịnh hay là không thanh tịnh, không định chẳng phải thanh tịnh, có thể gọi là định và không định chăng? Đáp: –Có rất ít người hiểu về nghóa định và không định. –Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ-tát hoàn toàn xa lìa vô dục, đối với ức vạn pháp biết định và không định, định là đạo, không định chẳng phải đạo? Phật bảo: –Đúng vậy! Đúng vậy! Như lời ông nói. Có thiện nam, thiện nữ nào đối với các pháp giới không biết đã định, đang định và chưa định thì đối các pháp cũng chưa hiểu, đã hiểu và đang hiểu. Vì sao? Vì trong kinh Hương Lạc nói: “Đối với các pháp đã định mà nghe không còn nghi ngờ thì có thể tiến tới không còn thoái lui, như pháp được nghe tu tập không quên. Đó là nghóa của định và bất định. Nếu có chúng sinh đối với nghóa định và không định sinh nghi ngờ thì không thể từ địa vị này đến địa vị khác. Do không thể lần lượt đạt đến các quả vị nên không thể xa lìa sinh tử để mà trụ nơi pháp Niết-bàn. Vì sao? Vì chư Phật Thế Tôn không xa lìa sinh tử, cũng không đạt đến Niết-bàn. Phật bảo Tối Thắng: –Chư Phật Thế Tôn thường không dạy vượt qua sinh tử, trụ trong Niết-bàn chăng? Đáp: –Đúng vậy. Lại hỏi: –Ông có nghe Thế Tôn diễn nói về các pháp, đây là sinh tử, đây là Niết-bàn không? Đáp: –Không. Phật dạy: –Thế nên, này thiện nam! Chư Phật Thế Tôn không nói sinh tử là thấp kém, không nói Niết-bàn là tối thượng, chỉ vì thiện nam nên nói có sinh tử, Niết-bàn, nếu phân biệt có hai thì không thể xa lìa sinh tử để đạt đến bờ Niết-bàn. Phật lại bảo Tối Thắng: –Đại Bồ-tát từ không mà đến, không thấy chúng sinh và không tưởng về có chúng sinh, không thấy Niết-bàn và không tưởng có Niết-bàn. Vì sao? Vì không thấy xoay vần trong sinh tử, không thấy Niết-bàn, được sự diệt độ. Bấy giờ, Bồ-tát Tối Thắng từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa áo bày vai phải quỳ gối chắp tay bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Lành thay! Lành thay! Như lời Phật dạy không có tướng chúng sinh và tướng Niết-bàn, nghóa, Phật pháp nói ra đều ứng hợp với sự thanh tịnh, không thấy sinh tử và Niết-bàn. Lúc ấy, ngay tại chỗ ngồi có hai ngàn bảy trăm Tỳ-kheo tâm đã dứt hết các lậu hoặc, chứng được pháp Vô sinh nhẫn. Vì sao? Vì đã hiểu rõ sinh tử và không sinh tử, hiểu rõ Niết-bàn là không Niết-bàn. Lại không nói có chúng sinh được độ, cũng không nói Niết-bàn hoàn toàn vắng lặng, hiểu rõ pháp tánh vốn không, chẳng có sinh tử, chẳng có Niết-bàn. Khi đó, ngay tại chỗ ngồi có bảy trăm Tỳ-kheo lặng lẽ rời chỗ ngồi, đem theo y bát mà không biết vì sao họ nói riêng với nhau: “Chúng ta cần gì phải thực hành những khó khăn này này, nỗi khổ này mà ngày đêm phải thường siêng năng tu tập phạm hạnh”. Có người nói: “Niết-bàn không có diệt độ, cũng không có đạo thì làm sao có người thành đạo?”.  <詞 id="113335716">Phẩm 30: Hỏi về Niết-bàn Bấy giờ, Bồ-tát Tối Thắng bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Chúng sinh nào muốn vượt qua ngoài các pháp thì không có đạo để thành bậc Chánh đẳng Chánh giác, huống chi đối với Niết-bàn làm sao thành đạo? Phật bảo –Đây không phải như vậy. Niết-bàn không có tánh, cũng không có tên gọi. Vì sao ở trong không mà cầu không? Niết-bàn không có một, huống chi cầu vô số các pháp. Bạch Thế Tôn! Bảy trăm Tỳ-kheo này ở chỗ Như Lai cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, tay bưng bình bát, tu phạm hạnh thanh tịnh, nay lại thoái lui về địa vị phàm phu, mà cầu đến cảnh giới của Niết-bàn thì giống như dầu mè, đề hồ, sữa đặc, váng sữa. Dầu thì lan khắp, ván sữa thì đọng lại; sinh tử, Niết-bàn cũng như vậy. Đạt đến cảnh giới Niết-bàn thì không có các pháp tướng, con đường lớn Niết-bàn cũng không có bờ đáy, hàng phàm phu mê chấp lâu nay cho Niết-bàn có sinh diệt, thường đoạn, người tu tập chánh kiến không thấy các pháp có sinh có diệt, có lãnh thọ, có xả bỏ. Bấy giờ, Bồ-tát Tối Thắng đến trước Phật thưa: –Bạch Thế Tôn! Bảy trăm Tỳ-kheo này vừa nghe Phật thuyết chánh pháp liền bỏ đi. Vậy phải trải qua bao lâu nữa mới được giải thoát, mãi lìa khỏi sinh tử, không còn tà kiến? Phật bảo Tối Thắng: –Ông muốn biết việc ấy, lắng nghe và ghi nhớ kỹ. Ta sẽ dứt trừ sự nghi ngờ cho ông. Tối Thắng liền thưa: –Vâng, bạch Thế Tôn. Phật bảo: –Hơn hằng hà sa kiếp nữa mới có một Đức Phật ra đời. Như vậy, trải qua bảy mươi hai ức hằng hà sa kiếp số các người ấy vẫn chưa giải thoát được. Vì sao? Vì trải qua ức ngàn vạn kiếp Phật mới ra đời, gặp được Phật rất khó, nghe được kinh lại càng khó hơn. Ngày nay, Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác ở trong đại chúng giảng nói đạo pháp, nói pháp Niết-bàn không có sinh diệt. Đối với chánh pháp sinh tâm tà kiến thì sinh đến chỗ nào thường ở trong tà kiến, không ở trong chánh đạo. Ví như người đàn ông có sức lực mạnh mẽ, mọi thứ kỹ thuật đều thông suốt, đầy đủ sáu kỹ năng về thiên văn, địa lý, sao hạn, tai họa, quái lạ nghe đều thông suốt, nhưng người lực só này thường sợ hư không, tự suy nghó, chạy khắp bốn phương để trốn khỏi hư không, nhưng ở khắp nơi đều thấy hư không. Các Tỳ-kheo này cũng đều như vậy. Giả sử trải qua trăm ngàn vạn kiếp, muốn ở trong chỗ không mà lập tên Niết-bàn, việc này không đúng. Chỗ đạt đến không hiểu tánh Không, mong cầu nơi đạo, không bao giờ được kết quả. Như có người muốn cầu nơi không, ở khắp mọi nơi không thường có mặt, cũng không giảng nói pháp Không này, pháp Không kia, có bao nhiêu tướng, không thấy từ nơi qua lại của Không mà có sự thành tựu. Đó mới là hiểu rõ về pháp Niết-bàn. Các Tỳ-kheo ấy đời trước tu tập theo tà kiến, cho đến ngày nay cũng chưa được giác ngộ, mà muốn cầu đạo lớn vô vi Niết-bàn, tên gọi dòng họ vẫn còn không biết được thì đâu có thể phân biệt được đạo Niết-bàn chăng? Suốt ngày họ cố gắng để cầu diệt độ, mệt nhọc uổng công mà chẳng được gì cả. Vì sao? Vì Niết-bàn là giả danh, như huyễn, như hóa, không, không thực có, giả gọi là không, tên gọi là không thực. Những điều người ngu nói với nhau không phải được pháp luật của Hiền thánh khen ngợi. Lúc ấy, lại có hơn bảy trăm Tỳ-kheo lập hạnh nguyện, ngay tại chỗ ngồi dứt các cấu uế, được pháp nhãn thanh tịnh, tam minh lục thông không hề chướng ngại, hiểu rõ Phật không sinh cũng không diệt, không dùng các pháp quá khứ mà cầu Niết-bàn. Vô số hằng sa chư Phật quá khứ đã dạy: Trí tuệ biện tài không có hạn lượng, từ hàng phàm phu cho đến bậc Vô học, thuyết giảng giáo pháp không có sai trái, không thấy chúng sinh trôi dạt trong sinh tử, không thấy Niết-bàn có sinh diệt. Vì sao? Vì tất cả các pháp đều không, giống như hư không, không thấy cảnh giới chư Phật hiện bày. Bấy giờ, ngay tại chỗ ngồi có sáu trăm Ưu-bà-tắc, ba trăm Ưu-bà-di đều đạt đến bậc tận tín, vô số trời người đều phát tâm Bồ-đề chân chánh vô thượng. Bấy giờ, trưởng lão Xá-lợi-phất bảo năm trăm Tỳ-kheo: –Các vị đều được thần thông trí tuệ theo bản nguyện của mình chưa? Các Tỳ-kheo thưa: –Bạch Tôn giả Xá-lợi-phất! Sở nguyện từ xưa, nay đã đạt được, việc làm đã hoàn tất, không còn thọ thân sau nữa. Xá-lợi-phất bảo: –Những câu hỏi đó rất hay, đã hiểu ý nghóa và đạt đến chưa? Các Tỳ-kheo đáp: –Không còn đắm nhiễm vào hết thảy các kết sử ràng buộc, không thích sinh tử, không chấp Niết-bàn, Niết-bàn vô vi ứng hợp với tánh Không, dứt hết các kết sử trói buộc, cũng không thấy dứt hết. Đó gọi là Niết-bàn. Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất khen các Tỳ-kheo: –Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Hiểu rõ được tánh không nghóa sâu xa vi diệu, nay có bao nhiêu bậc Hiền trụ trong bậc phước đức? Các Tỳ-kheo thưa: –Tôn giả Xá-lợi-phất là phước điền được Như Lai khen ngợi, làm các Phật sự chưa từng vô ích, chúng con chưa đạt một phần mười sáu công đức ấy. Xá-lợi-phất bảo: –Năm trăm Tỳ-kheo các ông đều là những người đã được giải thoát, là phước điền. Các Tỳ-kheo thưa: –Thánh tuệ của Như Lai tự thanh tịnh, đối với các pháp giới không còn nhiễm chấp. Bấy giờ, Bồ-tát Tối Thắng ở trước Phật thưa: –Bạch Thế Tôn! Ở đời có bao nhiêu bậc Hiền báo ân được cho tín thí? Phật bảo Tối Thắng: –Không chấp trước pháp thế gian, có thể báo ân của tín thí. Lại hỏi: –Có bao nhiêu bậc Hiền đối với pháp thanh tịnh? Đáp: Không giữ lấy các pháp gọi là thanh tịnh. Hỏi: –Làm ruộng phước để bố ví như thế nào? Đáp: –Không quên đạo pháp của Phật, gọi là ruộng phước. Hỏi: –Có bao nhiêu bậc Hiền làm Thiện tri thức chỉ dạy trao truyền pháp thiện ác cho chúng sinh? Đáp: –Không bỏ tất cả chúng sinh, đó gọi là Thiện tri thức. Hỏi: –Ở đời có bao nhiêu bậc Hiền có thể báo ân Phật? Đáp: –Chứng được bốn vô sở úy, không gián đoạn hạt giống Phật. Hỏi: –Ở đời có bao nhiêu bậc Hiền có thể cúng dường Đức Như Lai? Đáp: –Ở trong ức vạn kiếp tu hành không mê hoặc, đó là cúng dường Đức Như Lai. Hỏi: –Ở đời có bao nhiêu bậc Hiền có thể giữ gìn tạng pháp của Phật? Đáp: –Suốt đời không hủy bỏ giới của Phật. Hỏi: –Có bao nhiêu bậc Hiền có thể làm phát sinh cung kính? Đáp: –Giữ gìn sáu căn, đóng chặt sáu tình. Hỏi: –Những gì gọi là đại trân bảo của thế gian? Đáp: –Người được thành tựu bảy báu. Hỏi: –Hiểu rõ hạnh tri túc như thế nào? Đáp: –Tu tập ý nghóa tuệ Vô thượng bậc nhất. Hỏi: –Thế nào là ít ham muốn đối với thế gian? Đáp: –Đối với thế gian không còn mong cầu. Hỏi: –Không đắm trước thế gian như thế nào? Đáp: –Đoạn trừ các kết sử trói buộc, không còn năm triền cái. Hỏi: –Ở đời ai được an lạc, không còn bị các khổ? Đáp: –Không còn lệ thuộc gọi là vui. Hỏi: –Không còn lệ thuộc như thế nào? Đáp: –Hiểu rõ nguồn gốc của năm ấm, mười tám giới là vắng lặng, vô vi. Hỏi: –Cái gì khó nhất trên đời này? Đáp: –Bên ngoài bỏ sáu trần, bên trong bỏ sáu căn. Hỏi: –Ai vượt qua bờ bên này, đến bờ bên kia? Đáp: –Người lập được căn và lực mới được giải thoát. Hỏi: –Thế nào là tâm Bồ-tát bố thí mà không gián đoạn? Đáp: –Dứt trừ ba tưởng, không khởi phiền não. Hỏi: –Bồ-tát trì giới được hoàn hảo như thế nào? Đáp: –Tâm Bồ-đề kiên cố, không bỏ thệ nguyện rộng lớn. Hỏi: –Bồ-tát thực hành nhẫn nhục, gặp chuyện bất lợi không sợ hãi như thế nào? Đáp: –Hiểu rõ tâm vắng lặng, không khởi sân giận. Hỏi: –Bồ-tát tu hạnh tinh tấn như thế nào? Đáp: –Sự nhớ nghó của tâm không có đầu mối. Hỏi: –Bồ-tát Thiền định tâm không thoái lui như thế nào? Đáp: –Tâm ý vắng lặng, không tiếp thâu các trần bên ngoài. Hỏi: –Bồ-tát bằng tuệ nghiệp diễn nói thông suốt các pháp như thế nào? Đáp: –Phân biệt ý nghóa, không bỏ tâm Bồ-đề. Hỏi: –Bồ-tát tu tâm Từ, không bỏ nguồn gốc của đạo như thế nào? Đáp: –Không bỏ chúng sinh vì còn thấy có người để độ. Hỏi: –Bồ-tát tu tập tâm Bi như thế nào? Đáp: –Tư duy các pháp mà không thoái chuyển. Hỏi: –Bồ-tát tu tâm hỷ không gián đoạn, đạt đến diệt độ như thế nào? Đáp: –Không sinh khởi tưởng về ngã, chấp có ngã và ngã sở. Hỏi: –Bồ-tát có tâm xả không gián đoạn như thế nào? Đáp: –Giữ gìn nguồn gốc của đạo cho đến lúc thành Phật, trong thời gian đó không sinh các tưởng khác. Hỏi: –Bồ-tát đứng vững trong tín căn như thế nào? Đáp: –Vượt trên ngoại đạo, không theo tà pháp. Hỏi: –Bồ-tát biết rõ pháp không, chẳng còn do dự như thế nào? Đáp: –Hiểu đạo và phi đạo, đạo không có nguồn gốc. Đó là việc làm thích ứng của Đại Bồ-tát.  <詞 id="113335717">Phẩm 31: Bốn Phạm Đường Bấy giờ, Bồ-tát Nhu Thủ tự nghó: “Làm thế nào Đại Bồ-tát đối với thân, khẩu, ý tu phạm hạnh thanh tịnh, qua lại khắp bốn dòng cứu độ chúng sinh, từ một cõi Phật này đến một cõi Phật khác, chưa bao giờ bỏ rơi các chúng sinh? Bồ-tát tiến đến thành Phật như thế nào mà không mất Thiền định tu hành của Bồ-tát?” Biết tâm niệm của Bồ-tát, Phật nói: –Đúng vậy! Đúng vậy! Như lời ông nói. Hạnh nguyện của Bồ-tát không đồng nhau. Ta sẽ giảng nói nghóa đó cho ông, hãy lắng nghe, lắng nghe và ghi nhớ kỹ. –Vâng, bạch Thế Tôn! Phật bảo Nhu Thủ: –Thân hành thanh tịnh, không làm việc ác; miệng nói lời thành thật, không mất pháp tánh; tâm nhớ nghó định ý, không sợ hãi, lay động; đó là Bồ-tát thông hiểu nguồn gốc của tuệ. Từ mẫn đối với chúng sinh, không đắm trước ái dục, thường tu quán về pháp bất tịnh, giữ vững tâm mình không rơi vào mê mờ ngu si; đó là Bồ-tát thông hiểu nguồn gốc của tuệ. Ở trong chúng như ở một mình, cũng không mất oai nghi; đi đứng qua lại, oai nghi tề chỉnh, chưa từng vi phạm cấm giới của Như Lai; đó là Bồ-tát thông hiểu về nguồn gốc của tuệ. Đối với các pháp của Phật đều giải thoát, vô dục vô vi, không thể nghó bàn, Thánh chúng tu tập hoàn toàn không có ba thừa; đó là Bồ-tát thông hiểu về nguồn gốc của tuệ. Đối với tham dục hiểu rõ không có hình tướng; đối với sân giận giải thoát, si mê giải thoát cũng như vậy. Tu chín định thứ đệ; đó là Bồ-tát thông hiểu về nguồn gốc của tuệ. Không đắm trước cõi Dục, cầu địa vị Chuyển luân, không ở nơi cõi Sắc mà mong cầu phước đức, lại không suy nghó đến cõi Vô sắc; đó là Bồ-tát thông hiểu về nguồn gốc của tuệ. Đối với Không, Vô tướng, Vô nguyện đều thực hành dứt hết các lậu, hiểu rõ các pháp như huyễn như hóa; đó là Bồ-tát thông hiểu về nguồn gốc của tuệ. Hoặc có chúng sinh tâm hoàn toàn không tán loạn, từ chỗ này đến chỗ kia đối với sự thương ghét tâm bình đẳng; đó là Bồ-tát thông hiểu về nguồn gốc của tuệ. Không trái với nguồn gốc của các pháp quá khứ, vị lai, hiện tại cũng như vậy. Đối với nhiễm và không nhiễm đều không bị nhiễm; đó là Bồ-tát thông hiểu về nguồn gốc của tuệ.  <詞 id="113335718">Phẩm 32: Phạm Thiên thỉnh cầu Bấy giờ, Đại Bồ-tát Tối Thắng thưa Phật: –Bạch Thế Tôn! Thân hành thanh tịnh, không làm các việc ác, miệng nói các pháp hoàn toàn không dối trá, tâm nghó thanh tịnh vượt hơn nguồn gốc của đạo. Nay Thế Tôn nói về bốn Tâm vô lượng, Từ, Bi, Hỷ, Xả cứu giúp chúng sinh, hoàn toàn không bỏ quên một người chưa độ. Bằng từ bỏ tâm dục, bằng bất tịnh đi đến tịnh, quán tướng không có hình; đó là Bồ-tát thông hiểu về nguồn gốc của tuệ. Đối với nguồn gốc của các pháp đều được giải thoát, hữu vi, vô vi, hữu lậu, vô lậu; đó là Bồ-tát thông hiểu về nguồn gốc của tuệ. Đã biết không tham dục thì biết nó không sinh, sân giận không có nguồn gốc đều biết là không; đó là Bồ-tát thông hiểu về nguồn gốc của tuệ. Hành tâm Từ không gián đoạn, không tham đắm cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc, đối với bốn thiền hoàn toàn không khởi tưởng; đó là Bồ-tát thông hiểu về nguồn gốc của tuệ. Đại Bồ-tát thường nhập vào Không, Vô tướng, Vô nguyện, cũng không tìm cầu tướng các pháp. Có Bồ-tát phát thệ nguyện rộng lớn: “Nếu ta thành Phật thì cõi nước chúng sinh không có tên của đạo ba thừa. Ngày nay, ta đã thành Phật Chánh Đẳng Giác, độ khắp chúng sinh mà không nhàm chán”. Lúc ấy, có tám vạn trời người đạt được bậc Tận tín. Ma vương và đồ chúng đều trở về chỗ ở của họ.  <詞 id="113335719">Phẩm 33: Phó chúc cho Phạm Thiên Phật bảo Phạm thiên Vô Úy và các đại chúng, các Bồ-tát: –Ta từ vô số a-tăng-kỳ kiếp chứa nhóm công đức, cho đến khi thành Phật không nhiễm tám pháp khổ lụy của thế gian. Tất cả các loài chúng sinh cho đến côn trùng nhỏ nhiệm có hình dạng, nhiễm chấp năm ấm, ham thích không xả bỏ. Hiền thánh không nhiễm tám pháp, hiểu rõ nguồn gốc của năm ấm, mười giới đều là không, chẳng thật có, xa lìa tám việc ở đời, đó là: lợi, suy, chê, khen, ca ngợi, chế diễu, khổ, vui. Phật bảo Phạm Thiên: –Có thiện nam, thiện nữ nào, đọc tụng, thọ trì kinh điển này thì ma và Thiên ma không thể cản trở hủy hoại. Vì sao? Vì nhờ oai thần của chư Phật Thế Tôn hộ trì. Nếu có thiện nam, thiện nữ mong cầu đạt được đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác đều nhờ kinh này mà chứng đạo quả. Phật bảo: –Thiện nam, Ta từ một kiếp, đến trăm ngàn kiếp vì tất cả chúng sinh mà khen ngợi kinh điển này cũng không cùng tận. Vì sao? Vì kinh này gọi là “Tạng Vô Tận”, chẳng phải A-la-hán, Bích-chi-phật sánh kịp. Còn gọi là “Câu hỏi của Bồ-tát Tối Thắng”. Nay ta phó chúc kinh này, đừng để thiếu một chữ, một câu. Như ta ngày nay đã thành Phật, đủ ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp, thân màu hoàng kim, hào quang chiếu sáng bảy tầm, khắp tam thiên đại thiên thế giới. Một thiện nam, thiện nữ nào chí thành mong cầu Phật đạo, cúng dường Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, không bằng trong một thời gian khảy móng tay mà đọc tụng kinh này. Vì sao? Vì Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác đều do kinh này mà thành Phật đạo. Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi Phật đều do kinh này mà thành tựu. Bấy giờ, Phạm thiên Vô Úy ở trước Phật thưa: –Bạch Thế Tôn! Có thiện nam, thiện nữ nào chí thành cầu giác ngộ, đọc tụng kinh này, ghi nhớ kỹ không quên thì chúng con sẽ ủng hộ thiện nam, thiện nữ đó, ở trong phạm vi trăm do-tuần, ma hoặc Thiên ma không thể hại được họ. Phật bảo: –Này Phạm Thiên, đúng vậy, đúng vậy, như lời ông nói, chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại đều tụng kinh này, chắc chắn đạt đến kiên cố, không bị thoái lui. Nếu có thiện nam, thiện nữ tu tập bốn Niệm xứ, bốn Chánh cần, bốn Như ý túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác chi, tám Thánh đạo, Không, Vô tướng, Vô nguyện đều do kinh này mà thành tựu. Và thế gian mới có bốn dòng họ và các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di. Bấy giờ, Bồ-tát Nhu Thủ, Bồ-tát Tối Thắng, Tôn giả Xá-lợi-phất, Thiên, Long, Quỷ, Thần, Càn-đạp-hòa, A-tu-luân, Ca-lưu-la, Ma-hưu-lặc, Chiên-đà-la nghe Phật nói làm lễ lui ra.