<經 id="n286">KINH THẬP TRỤ Hán dịch: Đời Hậu Tần, Tam tạng Cưu-ma-la-thập, người nước Quy Tư. <卷 id="113328952">Quyển 1 <詞 id="113328953">Phẩm 1: ĐỊA HOAN HỶ Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật ở tại bảo điện Ma-ni, trong cung vua trời Tha hóa tự tại, cùng với chúng đại Bồ-tát từ những cõi khác đến đây. Những Bồ-tát này đều là những người đối với quả Vô thượng Bồ-đề, không còn thoái chuyển, đầy đủ trí tuệ, hạnh nghiệp của Bồ-tát, đều đạt tự tại, nhập vào chỗ trí tuệ Như Lai, khéo giáo hóa tất cả thế gian, tùy thời thị hiện những pháp thần thông, ở mỗi niệm đều thành tựu đầy đủ biện tài và sở nguyện của tất cả Bồ-tát. Trải qua nhiều kiếp ở đời ở khắp mọi nơi, luôn tu tập hạnh Bồ-tát, đầy đủ phước đức và trí tuệ không cùng tận của Bồ-tát, làm lợi ích cho tất cả, được đến bờ giải thoát với đủ trí tuệ phương tiện của Bồ-tát; thị hiện việc sinh tử, Niết-bàn cho chúng sinh, không hề cắt đứt các hạnh của Bồ-tát, đạt tất cả môn Thiền định giải thoát Tam-muội thần thông tuệ sáng của Bồ-tát; làm mọi việc; thị hiện thần túc vô tác của Bồ-tát; trong khoảnh khắc đến được đại hội của chư Phật trong mười phương, học hỏi phát tâm, thọ trì xe chánh pháp luôn cúng dường chư Phật bằng tâm rôïng lớn; luôn tu tập các hạnh nghiệp rộng lớn của Bồ-tát, thị hiện thân mình ở vô số thế giới, âm thanh vang xa không chỗ nào mà không có; tâm không đạt, thấy rõ công đức của Bồ-tát trong ba đời, tu tập đầy đủ. Công đức của các Đại Bồ-tát vô lượng vô biên như vậy dù trải qua vô số kiếp cũng không thể nói hết. Đó là Đại Bồ-tát Kim Cang Tạng, Bồ-tát Bảo Tạng, Bồ-tát Liên Hoa Tạng, Bồ-tát Đức Tạng, Bồ-tát Liên Hoa Đức Tạng, Bồ-tát Nguyệt Tạng, Bồ-tát Tịnh Nguyệt Tạng, Bồ-tát Chiếu Nhất Thiết Thế Gian Trang Nghiêm Tạng, Bồ-tát Trí Tuệ Chiếu Minh Tạng, Bồ-tát Diệu Đức Tạng, Bồ-tát Chiên Đàn Đức Tạng, Bồ-tát Hoa Đức Tạng, Bồ-tát Ưu-bát-la Hoa Đức Tạng, Bồ-tát Thiên Đức Tạng, Bồ-tát Phước Đức Tạng, Bồ-tát Vô Ngại Thanh Tịnh Trí Đức Tạng, Bồ-tát Công Đức Tạng, Bồ-tát Na-la-diên Đức Tạng, Bồ-tát Vô Cấu Tạng, Bồ-tát Ly Cấu Tạng, Bồ-tát Chủng Chủng Nhạo Thiết Trang Nghiêm Tạng, Bồ-tát Đại Quang Võng Tạng, Bồ-tát Tịnh Minh Oai Đức Vương Tạng, Bồ-tát Đại Kim Sơn Quang Minh Oai Đức Vương Tạng, Bồ-tát Nhất Thiết Tướng Trang Nghiêm Tịnh Đức Tạng, Bồ-tát Kim Cang Diệm Đức Tướng Trang Nghiêm Tạng, Bồ-tát Diệm Xí Tạng, Bồ-tát Túc Vương Quang Chiếu Tạng, Bồ-tát Hư Không Vô Ngại Diệu Âm Tạng, Bồ-tát Đà-la-ni Công Đức Trì Nhất Thiết Thế Gian Nguyện Tạng Hải Trang Nghiêm Tạng, Bồ-tát Tu-di Đức Tạng, Bồ-tát Tịnh Nhất Thiết Công Đức Tạng, Bồ-tát Như Lai Tạng, Như Lai Phật Đức Tạng, Như Lai Giải Thoát Nguyệt. Các Bồ-tát như thế nhiều đến vô lượng vô biên không thể nghó bàn, không thể xưng kể. Đại Bồ-tát Kim Cang Tạng là người đứng đầu. Bấy giờ, Đại Bồ-tát Kim Cang Tạng nương oai thần của Phật, nhập Tam-muội Đại trí tuệ quang minh của Bồ-tát. Lúc ấy, ở một phương kia, cách vô số thế giới như cát bụi trong mười phương ức cõi Phật, lại có Đức Như Lai tên Kim Cang Tạng. Như thế-lần lượt, chư Phật nhiều như số vi trần trong mười ức cõi Phật đều hiện thân hiệu là Kim Cang Tạng. Các cõi nước trong mười phương cũng đều như vậy. Các Đức Phật cùng cất lời khen ngợi: –Lành thay! Lành thay! Kim Cang Tạng! Ông có thể nhập Tam-muội đại trí tuệ quang minh của Bồ-tát, được vô số chư Phật ở khắp mười phương cõi, đều đồng một hiệu, đều dùng oai lực gia hộ cho ông. Đó là do bản nguyện của Phật Lô-xá-na. Lại vì ông và tất cả Bồ-tát có trí tuệ lớn không thể nghó bàn. Pháp minh của chư Phật đó là pháp làm cho nhập địa trí tuệ, nhiếp thâu tất cả căn lành, khéo phân biệt chọn lựa Phật pháp; biết rộng các pháp, quyết định giảng các pháp, khéo phân biệt trí không phân biệt; tất cả các trí thế gian không thể ô nhiễm; căn lành thanh tịnh xuất thế gian, đạt trí lực không thể nghó bàn, đạt Nhất thiết trí trong cõi nhân trí; lại đạt mười địa của Bồ-tát, giảng thuyết thật nghóa sai khác của mười địa của Bồ-tát; giảng thuyết phân biệt pháp vô lậu mà không chấp trước, khéo chọn lựa sự trang nghiêm bằng ánh sáng đại trí tuệ phân biệt, khiến nhập đầy đủ môn pháp trí; tùy nơi ưng trụ mà tuần tự thuyết giảng, đạt vô ngại nhạo thuyết ánh sáng, đầy đủ trí địa đại vô ngại; không quên mất tâm Bồ-đề, giáo hóa thành tựu các tánh của chúng sinh, đạt trí quyết định đến khắp tất cả. Lại nữa, Kim Cang Tạng! Ông đang thuyết giảng sự sai biệt pháp môn, đó là do thần lực của chư Phật, do ông kham nhận được thần lực của Như Lai, nhờ căn lành của ông thanh tịnh, tánh của tánh pháp thanh tịnh, vì tánh lợi ích chúng sinh, làm cho chúng sinh đạt Pháp thân và trí thân thanh tịnh, được chư Phật thọ ký, được thân cao lớn tối thượng trong chúng sinh, vượt qua các đạo của cõi thế gian, căn lành thanh tịnh của xuất thế gian. Lúc đó, chư Phật ở mười phương thị hiện thân Phật vô lượng chân thật Kim Cang Tạng, với biện tài nhạo thuyết không chướng ngại, với trí tuệ thanh tịnh khéo phân biệt, với sự nhớ kỹ không quên, với ý quyết định chắc chắn, với trí biết khắp nơi, với lực vô hoại của chư Phật, với sự không khiếp nhược vô sở úy của chư Phật, với trí vô ngại phân biệt các pháp khéo chỉ dạy pháp môn của chư Phật, với việc làm của thân, khẩu, ý nghiệp thượng diệu của tất cả chư Phật. Vì sao? Vì đạt được pháp Tam-muội đại trí tuệ quang minh của Bồ-tát. Đó cũng là sức bản nguyện của Bồ-tát, tâm chí thanh tịnh, trí tuệ sáng suốt, khéo tu tập pháp trợ đạo, khéo tu bản nghiệp, có khả năng giữ vô số niệm, tin hiểu pháp thanh tịnh sáng soi, khéo đạt pháp môn Đà-la-ni không phân biệt, dùng trí ấn khéo ấn pháp tánh. Lúc này, chư Phật ở mười phương đều đưa cánh tay xoa đầu của Bồ-tát Kim Cang Tạng. Bồ-tát Kim Cang Tạng ra khỏi định, bảo các Bồ-tát: –Các Phật tử! Mọi việc làm của Bồ-tát, trước phải khéo tự quyết định, không bị cái lỗi là, không phân biệt, thanh tịnh sáng rõ, rộng lớn như pháp tánh, rốt ráo như hư không, bao trùm hết chúng sinh trong mười phương cõi Phật, phải vì cứu độ tất cả thế gian, phải vì sự bảo vệ thần lực của chư Phật. Vì sao? Vì các Đại Bồ-tát nhập trí địa của chư Phật ở quá khứ, cũng là nhập trí địa của chư Phật ở hiện tại, vị lai. Các Phật tử! Thế nào là trí địa của Đại Bồ-tát? Các Phật tử, Trí địa của Đại Bồ-tát có mười. Chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai đã nói, đang nói, sẽ nói, cũng là những địa này. Tôi cũng nói như vậy. Mười địa đó là gì? Đó là: 1.Hỷ địa. 2.Tịnh địa. 3.Minh địa. 4.Diệm địa. 5.Nan thắng địa. 6.Hiện tiền địa. 7.Thâm viễn địa. 8.Bất động địa. 9.Thiện tuệ địa. 10.Pháp vân địa. Các Phật tử! Mười địa này chư Phật ba đời đã nói, đang nói, sẽ nói. Tôi không thấy chư Phật ở cõi nước nào mà không nói mười Địa của Bồ-tát. Vì sao? Vì mười Địa này là đạo tối thượng vi diệu của Bồ-tát; là pháp môn tối thượng minh tịnh, nghóa là phân biệt được việc của mười trụ. Các Phật tử! Việc này không thể nghó bàn, đó là các trí tuệ địa mà Đại Bồ-tát phải tùy thuận. Đại Bồ-tát Kim Cang Tạng, nói tên của mười Địa Bồ-tát xong, im lặng mà trụ, không phân biệt nghóa thú. Nghe nói tên của mười địa Bồ-tát xong, các Bồ-tát lúc này đều khao khát, muốn nghe giải thích tiếp. Trong chúng Đại Bồ-tát đó, có Bồ-tát tên Giải Thoát Nguyệt, biết tâm niệm của các Bồ-tát, dùng kệ hỏi Bồ-tát Kim Cang Tạng: Bậc tuệ niệm tịnh trí Vì sao nói danh hiệu Của địa Bồ-tát rồi Im lặng không giải thích Nay các Đại Bồ-tát Đều hoài nghi do dự Vì sao nói danh hiệu Mà không giảng thật nghóa Các Bồ-tát trí lớn Đều muốn được nghe giảng Thật nghóa của các Địa Xin phân biệt giảng thuyết Các Đại Bồ-tát này Thanh tịnh không vết nhơ An trụ pháp vững chắc Đủ công đức trí tuệ Đều đem tâm cung kính Mà chiêm ngưỡng hiền giả Đều muốn được nghe giảng Như khát, nghó nước ngọt. Bồ-tát Kim Cang Tạng Nghe nói việc này rồi Muốn làm vui đại chúng Nên nói lời kệ rằng: Hạnh nghiệp của Bồ-tát Khó suy xét thứ nhất Phân biệt các Địa này Nguồn gốc của chư Phật Vi diệu rất khó thấy Chẳng phải tâm hiểu được Từ trí tuệ Phật sinh Ai nghe không còn mê Giữ tâm như Kim cang Tin sâu trí tuệ Phật Là vi diệu tối thượng Tâm không có nghi ngờ Xa lìa tâm chấp ngã Và địa tâm sở hành Các Bồ-tát như vậy Mới có thể nghe được Trí tịch diệt vô lậu Phân biệt khó giảng thuyết Như vẽ trong hư không Nắm gió trong hư không Tôi nghó trí tuệ Phật Thật khó thể nghó bàn Chúng sinh ít tin tưởng Vì vậy tôi lặng thinh. Nghe xong, Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt nói với Bồ-tát Kim Cang Tạng: –Phật tử! Các Đại Bồ-tát này, thâm tâm thanh tịnh, khéo hành Bồ-tát, khéo tu tập pháp trợ đạo, khéo cung kính cúng dường chư Phật, thành tựu vô lượng công đức sâu dày, lìa si, nghi, hối, không còn tham chấp trói buộc, thân tâm tin hiểu, an trụ bất động, ở trong chánh pháp, không tùy thuận giáo pháp khác. Vì vậy, Phật tử, hãy nương oai thần của Phật diễn giảng thật nghóa. Các Bồ-tát này đều có thể chứng biết được pháp sâu xa đó. Bấy giờ, Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt muốn nêu lại nghóa trên nên nói kệ rằng: Xin nói pháp an ổn Hạnh vô thượng Bồ-tát Phân biệt các trụ địa Để trí tuệ thanh tịnh Các Bồ-tát trong sạch An trụ tin hiểu sâu Ở chỗ vô lượng Phật Chứng biết nghóa mười Địa. Bồ-tát Kim Cang Tạng nói: –Phật tử! Đại chúng này, tuy đều thanh tịnh, lìa si, nghi, hối; ở trong pháp này, không tùy thuận pháp khác. Nhưng còn có những người thích tiểu pháp, nghe việc sâu xa khó nghó bàn này sẽ sinh nghi hối. Những người này mãi mãi chịu các sự suy não, tôi vì thương xót họ nên im lặng. Bồ-tát Kim Cang Tạng muốn làm sáng tỏ nghóa trên nên nói kệ rằng: Đại chúng tuy thanh tịnh Hiểu sâu lìa nghi hối Tâm chí đã vững chắc Không tùy thuận pháp khác Vững chãi như Tu-di Yên lặng như biển lớn Nhưng còn người thô cạn Trí tuệ chưa sáng soi Theo thức không theo trí Nghe rồi sinh nghi hối Họ sẽ đọa ác thú Thương xót nên không nói. Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt nói: –Phật tử! Xin hãy nương oai lực của Phật, khéo léo phân biệt, pháp bất tư nghì này, chư Phật sẽ hộ niệm, làm cho mọi người dễ tin hiểu. Vì sao? Vì khéo thuyết nghóa mười Địa, thì sẽ được chư Phật nơi mười phương hộ niệm; các Bồ-tát đều ủng hộ việc này, siêng năng tu hành. Vì sao? Vì là hạnh tối thượng của Bồ-tát, đạt đến tất cả Phật pháp. Ví như các kinh đều được thâu tóm ở phần đầu (đề mục). Phần đầu là cội gốc, không có một nghóa nào nằm ngoài. Phật tử! Cũng thế, mười Địa này là nguồn gốc của tất cả Phật pháp, Bồ-tát thực hành đầy đủ mười Địa này, sẽ đạt được Nhất thiết trí tuệ. Vì vậy, Phật tử, xin hãy thuyết nghóa này, sẽ được chư Phật hộ niệm, dùng thần lực làm cho mọi người tin nhận, không thể phá hoại. Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt muốn hiển thị nghóa trên nên nói kệ rằng: Lành thay Đấng trí tuệ Đầy đủ hạnh thanh tịnh Xin nói hạnh mười Địa Pháp thâm nhập mười Địa Để có đủ trí tuệ Thành tựu pháp Bồ-đề Chư Phật ở mười phương Đấng tối tôn cõi người Đều hộ niệm cho ngài Nói thật nghóa mười Địa Mười địa là nguồn gốc Là nơi trí tuệ hành Cũng là đạo rốt ráo Vô lượng pháp tụ Phật Ví như các kinh sách Thâu tóm ở phần đầu Trí công đức của Phật Mười Địa là nguồn gốc. Lúc ấy, các Đại Bồ-tát đồng thanh nói kệ thỉnh Bồ-tát Kim Cang Tạng thuyết giảng: Đấng trí tuệ thượng diệu Giảng thuyết không hạn lượng Đức nặng như núi chúa Thương xót nói mười Địa Giới niệm tuệ thanh tịnh Nói thật nghóa mười Địa Nguồn gốc của mười Lực Bản hạnh trí vô ngại Giới định tuệ công đức Nhóm tại tâm hiền giả Kiêu mạn và tà kiến Đều đã trừ diệt hết Chúng này tâm không nghi Xin muốn được nghe giảng Như người khát nước tìm Như đói nghó đến ăn Như bệnh cần lương y Như ong ưa hút mật Chúng tôi cũng như vậy Nghe pháp vị cam lồ Nhờ đó mở rộng ý Xin nói địa ban đầu Cho đến Địa thứ mười Tuần tự giảng thuyết cho. Lúc ấy, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, từ tướng lông trắng giữa chặng mày, phóng ra ánh sáng Bồ-tát lực, có vô số trăm ngàn ánh sáng khác làm quyến thuộc. Ánh sáng đó chiếu soi các cõi Phật ở mười phương, không nơi nào là không chiếu đến, cái khổ đau trong ba đường ác đều ngừng lại; chiếu đến đại hội của chư Phật ở mười phương, thuyết pháp cho đại chúng, hiện rõ lực bất tư nghì của Như Lai. Ánh sáng đó, chiếu khắp đại hội của chư Phật và các Bồ-tát ở mười phương xong, ở trong hư không làm thành đài mây sáng lớn. Chư Phật ở mười phương cũng đều làm như vậy; cũng từ tướng lông trắng giữa chặng mày, phóng ra ánh sáng Bồ-tát lực, có vô số trăm ngàn ánh sáng khác làm quyến thuộc, hiển hiện lực bất tư nghì của Như Lai, chiếu khắp đại hội của tất cả Đức Phật, chiếu đến cõi Ta-bà và đại chúng của Phật Thích-ca Mâu-ni, chiếu đến Đại Kim Cang Tạng và tòa Sư tử. Chiếu xong, ở trong hư không làm thành đài mây sáng lớn. Nhờ thần lực của Phật từ trong đài mây sáng ấy phát ra tiếng kệ rằng: Chư Phật, không ai bằng Công đức như hư không Mười Lực và Vô úy Đấng Tối Tôn thế gian Ở trước Phật Thích-ca Thị hiện thần lực này Dùng Phật lực khai thị Tạng Pháp vương Sư tử Thuyết hạnh nghiệp các Địa Và các nghóa sai biệt Nương lực Phật thuyết giảng Không ai hủy hoại được Người nào nghe pháp bảo Được chư Phật hộ niệm Dần đầy đủ các địa Thành tựu đạo quả Phật Người nào nghe nhận được Tuy ở trong biển lớn Và trong lửa kiếp tận Sẽ được nghe kinh này Người nào si, nghi, hối Trọn không thể nghe được Vì thế nay Phật tử Thuyết trí đạo các Địa Nhập uy lực quán pháp Tuần tự mà tu tập Đạt đến các Địa khác Đều có được lợi ích Lợi ích các thế gian Hãy nói chớ đoạn dứt. Lúc ấy, Bồ-tát Kim Cang Tạng quán sát mười phương, muốn cho đại chúng càng thêm kính tin nên nói kệ rằng: Thánh đạo của chư Phật Vi diệu, thật khó hiểu Chẳng suy lường mà được Là nơi người trí hành. Tánh ấy từ xưa nay Tịch nhiên không sinh diệt Xưa nay đều là không Diệt trừ các khổ não Và xa lìa các cõi Giống như tướng Niết-bàn Không giữa cũng không sau Chẳng ngôn từ để thuyết Vượt qua khỏi ba đời Tướng ấy như hư không Hành xứ của chư Phật Thanh tịnh và tịch diệt Nói năng không thể được Địa hành chẳng như vậy Nói mà còn khó khăn Huống gì chỉ dạy người Trí tuệ của chư Phật Đạo lìa tâm đếm biết Không thể nghó bàn được Chẳng có ấm, giới, nhập Dùng trí có thể biết Thức không thể đạt đến Như hư không khó nói Huống gì chỉ bày tướng Nghóa mười Địa như vậy Không phải tâm biết được Việc này tuy là khó Phát nguyện hành Từ bi Dần dần đù các địa Không phải tâm đạt được Các địa hành như thế Vi diệu khó thấy biết Không dùng tâm hiểu được Phải nương Phật lực thuyết Các ông phải cung kính Lắng tâm mà nghe kỹ Hành tướng nhập các địa Tu tập sinh pháp môn Trải vô số ức kiếp Cũng không thể nói hết Nay lược nói như thật Nghóa đó không còn thừa Lắng tâm cung kính đợi Nay nương sức Phật thuyết Đại âm xướng nhân dụ Danh nghóa không chống trái Thấn lực Phật vô lượng Đều ở trong thân tôi Những gì tôi giảng thuyết Như giọt nước biển lớn. Nói kệ xong, Bồ-tát Kim Cang Tạng bảo đại chúng: –Các Phật tử! Chúng sinh nào dày công tu tập nhiều căn lành, tu các hạnh lành, khéo tu tập pháp trợ đạo, cúng dường chư Phật, tu pháp thanh bạch, được thiện tri thức bảo hộ, nhập tâm sâu rộng, tâm tin thích pháp lớn, luôn hướng về Từ bi, thích cầu trí tuệ Phật, thì chúng sinh đó có thể phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Vì muốn đạt Nhất thiết chủng trí, vì đạt mười lực, vì đạt đại vô úy; vì đạt đầy đủ Phật pháp, vì cứu tất cả thế gian, vì thanh tịnh tâm đại Từ bi, vì hướng đến trí vô dư vô ngại, đối với mười phương vì làm thanh tịnh hết tất cả cõi Phật, vì ở trong một niệm, biết việc của ba đời, vì tự tại chuyển bánh xe pháp lớn, thị hiện rộng thần lực của Phật, nên các đại Bồ-tát phát tâm như vậy. Chư Phật tử! Tâm đó dùng đại Bi làm đầu, trí tuệ tăng thượng, phương tiện bảo hộ; trực tâm, thâm tâm thuần chí, đồng với Phật lực, khéo lường biết lực Phật, lực chúng sinh, hướng đến trí vô ngại, tùy thuận trí tự nhiên, lãnh thọ tất cả Phật pháp, dùng trí tuệ giáo hóa, rộng lớn như pháp tánh, rốt ráo như hư không, cùng tận đời vị lai. Các Phật tử! Bồ-tát phát tâm như vậy, sẽ vượt địa phàm phu, nhập địa vị Bồ-tát, sinh trong nhà Phật, dòng họ cao quý, không ai chê trách, vượt qua tất cả đạo thế gian, nhập đạo xuất thế, trụ trong pháp Bồ-tát; ở trong hàng Bồ-tát, bình dẳng nhập chủng tánh Như Lai ba đời, nhất định rốt ráo đạt quả Vô thượng Bồ-đề. Bồ-tát trụ pháp này là trụ địa Hoan hỷ, vui nhiều, là pháp Bất cộng. Các Phật tử! Đại Bồ-tát trụ địa Hoan hỷ này, vui nhiều, tin sâu, thanh tịnh nhiều, hoan hỷ nhiều, nhu nhuyến, kham nhẫn nhiều, không thích tranh đấu, không thích não loạn chúng sinh, không ưa sân hận. Các Phật tử! Bồ-tát trụ địa Hoan hỷ, vì luôn nghó đến chư Phật, nên sinh tâm hoan hỷ; vì nghó đến các Phật pháp nên sinh tâm hoan hỷ; vì nghó về các Đại Bồ-tát nên sinh hoan hỷ; vì nghó đến việc làm của các Bồ-tát nên sinh tâm hoan hỷ; vì nghó đến tướng thanh tịnh của các Ba-la-mật nên sinh tâm hoan hỷ; vì nghó đến các Bồ-tát và các sự thù thắng nên sinh tâm hoan hỷ; vì nghó đến oai lực không thể phá hoại của Bồ-tát nên sinh tâm hoan hỷ; vì nghó đến các pháp mà các Như Lai dùng để giáo hóa nên sinh tâm hoan hỷ; vì nghó đến những việc có thể đem lợi ích cho chúng sinh nên sinh tâm hoan hỷ; vì nghó đến pháp môn phương tiện mà hết thảy chư Phật, chư Bồ-tát nhập trí tuệ nên sinh tâm hoan hỷ. Các Phật tử! Bồ-tát lại nghó: Ta vì rời khỏi các cảnh giới của các thế gian nên sinh tâm hoan hỷ; nhập pháp bình đẳng của chư Phật nên sinh tâm hoan hỷ; xa lìa địa phàm phu nên sinh tâm hoan hỷ, gần đạt địa trí tuệ nên sinh tâm hoan hỷ, đoạn trừ tất cả các cõi ác nên sinh tâm hoan hỷ; làm chỗ nương tựa cho chúng sinh nên sinh tâm hoan hỷ; thân cận các Đức Phật nên sinh tâm hoan hỷ, sinh ở cõi Phật nên sinh tâm hoan hỷ, vào hàng ngũ của Bồ-tát nên sinh tâm hoan hỷ, không còn lo sợ nên sinh tâm hoan hỷ. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này, đạt địa Hoan hỷ thì xa lìa được tất cả lo sợ; như sợ không sống, sợ tiếng xấu, sợ chết, sợ đọa đường ác, sợ oai đức đại chúng. Lìa được tất cả những lo sợ như vậy. Vì sao? Vì Bồ-tát này lìa tướng ngã, ngay thân mình còn không tham muốn huống gì những thứ cần dùng? Vì vậy, không còn sợ không sống. Tâm không mong cầu cung kính cúng dường, mà còn cung cấp mọi thứ cần dùng cho chúng sinh, nên không còn sợ tiếng xấu. Lìa ngã kiến, không còn tướng ngã nên không còn sợ chết. Lại nghó: Nếu ta chết, rồi sinh ra, nhất định sẽ không rời chư Phật, Bồ-tát, nên không sợ đọa đường ác. Niềm vui của ta, không ai sánh bằng, huống có người hơn, nên không còn sợ oai đức của đại chúng. Các Phật tử! Bồ-tát đó lìa tất cả lo sợ. Các Phật tử! Bồ-tát đó dùng đại Bi làm đầu, thâm nhập tâm rộng lớn vững chãi, siêng tu tất cả căn lành. Đó là vì tín tâm tăng thượng nên thực hành tịnh tâm, tâm hiểu biết thanh tịnh, phần nhiều đều do tín tâm, phân biệt phát tâm Bi mẫn, thành tựu đại Từ tâm không lười mỏi; trang nghiêm bằng tâm hổ thẹn, thành tựu nhẫn nhục nhu hòa, kính thuận giáo pháp của chư Phật, tin quý tôn trọng, ngày đêm thường tu căn lành không nhàm chán, gần gũi Thiện tri thức, luôn yêu thích pháp, cần cầu học rộng không chán, chánh quán pháp được nghe, tâm không tham chấp, không cầu lợi dưỡng, tiếng khen, cung kính. Đối với vật cần dùng trong đời sống, tâm không tham tiếc, luôn phát tâm chân thật không nhàm chán, ham thích địa Nhất thiết trí; luôn mong đạt oai lực, pháp Vô úy, pháp Bất cộng của chư Phật; cầu Pháp Ba-la-mật trợ lực, lìa dua nịnh, làm đúng lời dạy, luôn nói thật, không làm ố dòng Phật, không bỏ học giới của Bồ-tát, sinh vào dòng Nhất thiết chủng trí, tâm vững chãi như núi chúa lớn, không thích các việc của thế gian, thành tựu căn lành xuất thế gian, tu pháp trợ Bồ-đề phàn không chán, luôn cầu đạo thù thắng trong pháp thắng. Các Phật tử! Đại Bồ-tát thành tựu địa pháp thanh tịnh như vậy gọi là an trụ địa Hoan hỷ của Bồ-tát. Bồ-tát an trụ địa Hoan hỷ, phát thệ nguyện lớn, tâm quyết định vững chắc, đó là: Ta nên cúng dường tất cả các Đức Phật không để thiếu, tùy ý cúng dường tất cả vật càn dùng, tâm thanh tịnh thông đạt. Phát nguyện lớn như vậy, rộng sâu như pháp tánh, rốt ráo như hư không, đến tận đời vị lai. Cúng dường chư Phật trong tất cả kiếp, luôn cúng dường vật cần dùng, không ngừng nghỉ. Lại nữa, đối với kinh pháp mà chư Phật giảng thuyết đều thọ trì, gìn giữ tất cả pháp Vô thượng Bồ-đề của chư Phật, tùy thuận tất cả giáo pháp mà chư Phật dùng giáo để giáo hóa, bảo vệ Phật pháp. Phát nguyện lớn như vậy, rộng sâu như pháp tánh, rốt ráo như hư không, đến tận đời vị lai, đến cùng tận tất cả kiếp giữ gìn tất cả Phật pháp không ngừng nghỉ. Đối với tất cả chư Phật trong tất cả thế giới từ cung trời Đâu-suất giáng trần nhập thai ở trong thai, lúc mới sinh, lúc xuất gia, lúc thành đạo ta đều khuyến thỉnh chuyển đại pháp luân; khi Phật thị hiện đại Niết-bàn, ta đến cúng dường, việc đầu tiên là thâu nhận giáo pháp, giáo hóa ba thời. Phát nguyện lớn như thế, rộng sâu như pháp tánh, rốt ráo như hư không, đến tận đời vị lai, khắp tất cả kiếp, phụng kính cúng dường tất cả chư Phật không ngừng nghỉ. Lại nữa, việc làm của Bồ-tát rộng lớn, cao xa khôn lường, không thể hoại, không ai phân biệt được, thâu tóm trong Ba-la-mật; thanh tịnh các địa, sinh các pháp trợ đạo, đạo hữu tướng, vô tướng; có thành có hoại, các đạo địa đã hành và bản hạnh Ba-la-mật của tất cả Bồ-tát là giáo hóa, làm cho thực hành và tâm được tăng trưởng. Phát nguyện lớn như vậy, rộng sâu như pháp tánh, rốt ráo như hư không, đến tận đời vị lai, đến cùng tận hạnh nghiệp của Bồ-tát, trong tất cả kiếp, dùng pháp mà giáo hóa thuần thục chúng sinh không ngừng nghỉ. Tất cả chúng sinh hoặc có sắc, không sắc, có tưởng, không tưởng, phi hữu tưởng, phi vô tưởng, hoặc sinh bằng thai, trứng, ẩm thấp, biến hóa trong ba cõi đều trói buộc trong sáu đạo. Dù sinh ở đâu, cũng đều thuộc về danh sắc, giáo hóa thuần thục tất cả chúng sinh, đoạn trừ tất cả đạo của thế gian, làm cho chúng sinh an trụ trong Phật pháp, tu tập Nhất thiết trí tuệ, không để sót. Phát nguyện lớn như vậy, rộng sâu như pháp tánh, rốt ráo như hư không, đến tận đời vị lai, đến cùng tận tất cả kiếp để giáo hóa tất cả chúng sinh, không ngừng nghỉ. Lại nữa, tất cả thế gian rộng hẹp, cao thấp, vô số không thể phân biệt, không thể dời đổi; không thể nói to nhỏ, ngay thẳng, nghiêng, đứng, đầu thân đầy đặn, bằng phẳng vuông tròn. Tùy thuận nhập các cõi thế gian như vậy; trí như lưới Đế Thích, trải qua các việc huyễn ảo sai khác. Đều biết trước hết tất cả các cõi nước sai biệt trong mười phương. Phát nguyện lớn như vậy, rộng sâu như pháp tánh, rốt ráo như hư không, đến tận đời vị lai, đến tận tất cả kiếp. Các cõi như vậy đều biết tường tận ngay, không ngừng nghỉ. Lại đem tất cả cõi Phật nhập vào một cõi Phật; một cõi Phật nhập vào tất cả cõi Phật. Mỗi cõi Phật, được trang nghiêm bằng vô số ánh sáng, xa lìa cấu uế dầy đủ đạo thanh tịnh, có vô lượng trí tuệ, chúng sinh đông nhiều trong đó, luôn có được sức thần thông lớn của chư Phật, tùy tâm chúng sinh mà thị hiện. Phát nguyện lớn như vậy, rộng sâu như pháp tánh, rốt ráo như hư không, đến tận đời vị lai, đến tận tất cả kiếp, làm thanh tịnh tất cả các cõi nước như vậy không ngừng nghỉ. Lại nữa, các Bồ-tát đồng tâm tu học, cùng tu tập pháp thiện, không ganh ghét, chỉ chú tâm vào một việc, tâm bình đẳng, hòa hợp, không rời nhau, tùy ý mà hiện thân Phật; ở trong tâm mình, đều hiểu biết thần lực, trí tuệ của Phật, luôn được thần thông như ý, đi lại tất cả các cõi nước, hiện tướng thân trong tất cả hội Phật; ở đâu cũng sinh trong hội Phật, có trí tuệ lớn không thể nghó bàn như vậy, luôn đầy đủ hạnh Bồ-tát. Phát nguyện lớn như vậy, rộng sâu như pháp tánh, rốt ráo như hư không, đến tận đời vị lai, đến tận tất cả kiếp, hành đạo trí tuệ lớn như vậy không ngừng nghỉ. Lại đi xe bất thoái, hành tất cả đạo Bồ-tát, việc làm của thân, khẩu, ý không luống uổng, chúng sinh thấy được đều an định nơi Phật pháp; nghe tiếng thì đạt đạo trí tuệ chân thật; ai thấy được cũng đều vui mừng, lìa phiền não, giống như cây thuốc hay, đạt được tâm như vậy, mà hành đạo Bồ-tát. Phát nguyện lớn như vậy, rộng sâu như pháp tánh, rốt ráo như hư không, đến tận đời vị lai, đến tận tất cả kiếp, hành đạo bất thoái, việc làm không uổng công, không ngừng nghỉ. Lại ở trong các cõi, đạt Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, ở mỗi đầu sợi lông, thị hiện thân vào thai, xuất gia, ngồi nơi đạo tràng, thành Phật đạo, chuyển bánh xe pháp, độ chúng sinh, thị hiện đại Niết-bàn, hiện dại thần trí của chư Như Lai, tùy thuận tất cả chúng sinh mà độ những kẻ đáng độ. Trong mỗi niệm, đạt Phật đạo, độ chúng sinh, diệt khổ não, biết tất cả pháp như tướng Niết-bàn, dùng một âm thanh, làm cho tất cả chúng sinh đều vui vẻ; thị hiện đại Niết-bàn mà không đoạn hạnh Bồ-tát; thị hiện đại trí địa cho chúng sinh, làm cho chúng sinh biết tất cả pháp là giả dối, hư ngụy; với trí tuệ lớn thần thông lớn mà tự tại biến hóa. Phát nguyện lớn như vậy, rộng sâu như pháp tánh, rốt ráo như hư không, đến tận đời vị lai, đến tận tất cả kiếp, thành tựu việc Phật, cầu trí tuệ lớn, thần thông lớn, không ngừng nghỉ. Này các Phật tử! Bồ-tát trụ địa Hoan hỷ lấy mười nguyện làm đầu, phát trăm ngàn vạn a-tăng-kỳ nguyện lớn như vậy. Do mười pháp không cùng tận mà phát sinh những nguyện này. Để viên mãn nguyện này, nên siêng năng tu tập. Mười pháp đó là gì? 1.Chúng sinh không cùng tận. 2.Cõi nước không cùng tận. 3.Hư không không cùng tận. 4.Pháp tánh không cùng tận. 5.Niết-bàn không cùng tận. 6.Phật ra đời không cùng tận. 7.Trí tuệ chư Phật không cùng tận. 8.Tâm duyên không cùng tận. 9 .Trí phát khởi không cùng tận. 10.Hạt giống thế gian, hạt giống pháp, hạt giống trí tuệ không cùng tận. Như chúng sinh cùng tận, nguyện của con mới cùng tận, như thế gian tận, hư không tận, pháp tánh tận, Niết-bàn tận, Phật ra đời tận, trí tuệ chư Phật tận, tâm duyên tận, trí tuệ phát khởi tận, hạt giống của đạo cùng tận; thì nguyện của con mới cùng tận. Nhưng chúng sinh thật không cùng tận; thế gian, hư không, pháp tánh, Niết-bàn, Phật ra đời, trí tuệ chư Phật, tâm duyên, trí phát khởi, hạt giống đạo thật không thể cùng tận, nên phước đức thệ nguyện của con cũng không cùng tận. Này các Phật tử! Bồ-tát quyết định phát nguyện lớn này, sẽ đạt tâm an lạc lợi ích, tâm nhu nhuyến, tâm điều thuận, tâm thiện, tâm tịch diệt, tâm hòa nhã, tâm ngay thật, tâm không loạn, tâm không nhiễm, tâm không ô trược; do đó sẽ thành người tin ưa thích tướng của lòng tin; phân biệt công đức, tin vào sự hành đạo từ xưa của chư Phật, nhờ tin vào hạnh Ba-la-mật mà được tăng trưởng, tin vào sự khéo nhập các địa mà đạt công đức thù thắng, tin vào sự thành tựu mười Lực của Phật; tin đầy đủ bốn Vô sở úy, pháp Bất cộng, không thể hoại; tin pháp chư Phật không thể nghó bàn, tin oai lực của chư Phật không ở giữa, không ở bên, tin vào vô lượng hạnh môn của Như Lai, tin do nhân duyên mới thành quả báo. Nói tóm lại, tin vào các Bồ-tát thực hành hết công đức trí tuệ, sức oai thần của chư Phật. Chư Phật tử! Bồ-tát nghó thế này: Chánh pháp của Chư Phật sâu xa, lìa tướng tịch diệt, trống rỗng, không có tướng, không tạo tác, không nhiễm ô, không thể lường, rộng lớn, khó hoại, như vậy mà các phàm phu thì tâm rơi vào tà kiến, bị vô minh ngu tối che lấp tuệ nhãn, luôn dựng cờ kiêu mạn, bị rơi vào lưới khát ái, tùy thuận dua nịnh, luôn xan tham ganh ghét, tạo nhân duyên cho nơi thọ sinh thân đời sau; tạo nhiều tham dục, sân hận ngu si, khởi sinh các nghiệp nặng; bị gió dữ hiềm hận, thổi lửa tội lỗi làm cho bừng cháy, có làm việc gì cũng đều tương ưng điên đảo; những dòng đục, hữu, vô minh, kiến, liên tục phát khởi; tâm ý thức gieo mầm khổ não trong ba cõi. Đó là danh sắc hòa hợp, tăng trưởng sáu nhập, từ căn trần sinh ra xúc, từ xúc làm duyên sinh thọ, ham thọ lạc nên sinh khát ái, khát ái tăng trưởng sinh thủ, thủ tăng trưởng nên khởi hậu hữu, từ nhân duyên hữu sinh ra già, chết ưu, bi, khổ, não. Đó là nhân duyên đưa đến các khổ não. Chúng sinh tuy chịu khổ não nhưng trong đó không có ngã, ngã sở, không người tạo tác, không người lãnh thọ, không người biết, ví như cỏ, cây, đá, ngói, lại cũng như bóng. Kẻ phàm phu đáng thương, không hay không biết, nên chịu khổ não, nên sinh trí tuệ đại Bi để cứu thoát chúng sinh; làm cho chúng sinh trụ trong niềm vui cứu cánh của Phật đạo rồi phát sinh trí tuệ đại Từ. Đại Bồ-tát tùy thuận pháp đại Từ bi như vậy, dùng tâm thâm diệu, trụ ở Địa thứ nhất. Đối với các vật không hề tham tiếc, tôn trọng trí vi diệu rộng lớn của Phật, học hạnh đại Xả, tức thời có thể bố thí tất cả vật sở hữu, như là kho lúa gạo, vàng bạc, ma-ni, châu ngọc, xa cừ, mã não, lưu ly, san hô, hổ phách, kha bối, anh lạc, các vật trang sức nơi thân, các trân bảo và voi, ngựa, xe cộ, kiệu, lọng, dân chúng, nô tỳ, quyến thuộc, đất nước, thành ấp, xóm làng, vườn rừng, công viên, vợ con, trai gái; bố thí tất cả những vật yêu quý như đầu, mắt, tai, mũi, tay chân, thân thể. Vì tôn trọng Phật trí nên không tham tiếc. Đại Bồ-tát, trụ ở Địa thứ nhất phải luôn thực hành đại Xả. Bồ-tát này, dùng tâm đại Bi, tâm đại Xả để cứu tất cả chúng sinh, siêng năng làm việc thù thắng, đem lợi ích cho thế gian và xuất thế gian, tâm không lười mỏi, do đó Bồ-tát này phát sinh được công đức không mỏi mệt. Đối với kinh sách, tự tìm hiểu rõ nên phát sinh công đức hiểu kinh pháp. Đạt trí tuệ biết kinh pháp như vậy; khéo cân nhắc; biết việc nên làm, không nên làm; tùy thuận chúng sinh thượng, trung, hạ mà hành sự; tùy những người nương tựa gần gũi, tùy sức mà làm lợi ích, nên phát sinh công đức trí thế gian; đạt công đức trí thế gian ấy thì biết thời, biết lượng, biết trang nghiêm, biết hổ thẹn; tu tập đạo tự lợi, lợi tha nên sinh công đức hổ thẹn. Ở trong hạnh công đức như vậy, siêng năng tu tập, tâm không thoái lui, đó là công đức tinh tấn không thoái lui, tức thời đạt được lực có thể chịu đựng. Đạt được lực có thể chịu đựng rồi, siêng tu cúng dường chư Phật, làm theo Phật pháp dạy. Các Phật tử! Bồ-tát này, biết pháp địa thanh tịnh sinh khởi như vậy. Nghóa là tin vào sự Từ, Bi, Hỷ, Xả không lười mỏi, biết kinh pháp, khéo hiểu thế pháp, đủ sức chịu đựng hổ thẹn, cúng dường chư Phật, thực hành theo như pháp. Lại nữa, Bồ-tát trụ địa Hoan hỷ, nhờ phát nguyện nên gặp được số trăm ngàn vạn ức na-do-tha Phật. Lúc gặp Phật, tâm Bồ-tát vui mừng khôn xiết, thâm tâm cung kính, trổi nhạc của Bồ-tát để cúng dường Phật và chư Tăng, lại hồi hướng phước đức ấy về đạo Vô thượng Bồ-đề. Nhờ cúng dường chư Phật, nên Bồ-tát phát sinh được pháp giáo hóa chúng sinh, luôn dùng hai Nhiếp để thâu giữ chúng sinh, đó là Bố thí, Ái ngữ. Sau pháp hai Nhiếp, chỉ dùng sức tin hiểu khéo thực hành thiện pháp chưa thông đạt. Bồ-tát này tùy sự cúng dường chư Phật, giáo hóa chúng sinh, đều có thể thọ lãnh thực hành địa pháp thanh tịnh; các công đức đó tự nhiên được hồi hướng về Nhất thiết chủng trí, nên càng thêm sáng rực, mang tính hữu dụng. Phật tử! Ví như người thợ luyện vàng, tùy vào sức lửa vừa phải để dùng mà làm cho ánh sáng càng rực rỡ. Cũng thế, Bồ-tát tùy sự cúng dường chư Phật, giáo hóa chúng sinh mà thọ hành pháp các địa thanh tịnh, rồi hồi hướng công đức đó về Nhất thiết chủng trí để càng thêm sáng rỡ, mà tùy ý sử dụng. Lại nữa, các Phật tử! Đại Bồ-tát đạt tướng mạo ở Địa thứ nhất, nên đến chỗ của chư Phật, Bồ-tát và Thiện tri thức để học hỏi thành tựu pháp địa, không nên chán bỏ. Bồ-tát trụ Địa thứ nhất, nên đến chỗ của Phật. Bồ-tát và Thiện tri thức để học hỏi tướng mạo của Địa thứ hai mà tâm không hề chán bỏ. Cứ như thế đến chỗ chư Phật, Bồ-tát và Thiện tri thức mà học hỏi tướng mạo của Địa thứ ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám, chín, mười, và thành tựu pháp thập địa mà không hề phế bỏ. Bồ-tát này, biết rõ pháp thuận nghịch của các Địa, khéo biết sự thành hoại, tướng mạo, nhân quả, sự được mất, phần hành thanh tịnh của các địa. Biết rõ hạnh từ một địa này đến một địa khác, biết rõ các địa là xứ, chẳng phải là xứ; biết rõ các địa và nơi sẽ sinh; biết rõ sự sai biệt của việc trước việc sau các địa; biết rõ các địa đạt tướng không thoái chuyển. Cho đến biết rõ tất cả các địa pháp thanh tịnh của Bồ-tát, biết rõ việc nhập trí của địa Như Lai. Phật tử! Bồ-tát này, biết rõ tướng mạo từ lúc chưa phát tâm ở Địa thứ nhất, đến Địa thứ mười, biết rõ là không chướng ngại. Vì đạt ánh sáng trí tuệ của các địa, nên đạt ánh sáng trí tuệ của chư Phật. Các Phật tử! Như chủ buôn lớn, dẫn nhiều người buôn khác muốn đến thành phố lớn, trước phải hỏi đường đi tới, lui để vượt qua những nguy hiểm và điều lợi hại ở trên đường có thể phát sinh, biết lúc dừng nghỉ trên đường. Biết rõ tất cả mọi việc để đến được thành ấy; dùng trí tuệ suy xét, so lường, để đem đầy đủ mọi vật dụng không cho thiếu thốn; dẫn dắt mọi người đến được thành phố kia, vượt qua hoạn nạn nguy hiểm, thì mình và mọi người sẽ không còn gì phải lo lắng. Các Phật tử! Đại Bồ-tát cũng thế, trụ ở Địa thứ nhất nhưng khéo biết rõ pháp thuận nghịch của các địa, cho đến biết rõ pháp thanh tịnh của các Bồ-tát, biết rõ việc nhập trí địa Như Lai. Lúc ấy, Bồ-tát tập họp trí tuệ và phước đức lớn làm tư lương, là thương chủ của chúng sinh; tùy nghi giáo hóa, làm cho chúng sinh thoát khỏi nơi hiểm nạn, xấu ác sinh tử; chỉ dạy đường an ổn và an trụ trong thành lớn trí tuệ của Nhất thiết chủng trí, không còn những ưu não. Vì thế, các Phật tử! Đại Bồ-tát tâm không lười mỏi, siêng năng tu tập bản hạnh các địa, khéo biết nhập trí địa Như Lai. Các Phật tử! Đó là lược nói pháp môn Đại Bồ-tát nhập địa Hoan hỷ. Nếu rộng nói, thì có vô lượng trăm ngàn vạn ức vô số việc. Đại Bồ-tát trụ địa này, thường làm vua cõi Diêm-phù-đề, giàu có tự tại, ủng hộ chánh pháp, thâu giữ chúng sinh bằng pháp bố thí, trừ hết xan tham cấu bẩn của chúng sinh. Luôn hành đại bố thí, không keo kiệt, không ngừng tạo các nghiệp thiện. Hoặc bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự, làm những việc này nhưng không rời niệm Phật và pháp; không rời suy nghó về Bồ-tát chúng bạn, về hạnh nghiệp của Đại Bồ-tát, về Ba-la-mật, về mười Địa, về Lực, về Vô úy, về pháp Bất cộng; cho đến không rời cụ túc niệm Nhất thiết chủng trí. Luôn nghó: Bất cứ lúc nào, trong chúng sinh, ta cũng đều là người đứng đầu, là người thù thắng, là tôn quý, là cao thượng, là vô thượng, là người dẫn đường, là bậc thầy, là chỗ dựa cho chúng sinh. Các Phật tử! Đại Bồ-tát này, nếu muốn xuất gia, siêng năng tu tập thì trong nháy mắt có thể từ bỏ vợ con, nhà cửa, năm dục, được xuất gia trong Phật pháp. Được xuất gia rồi, siêng năng tu tập, chẳng bao lâu sẽ đạt được trăm pháp Tam-muội, được gặp trăm Đức Phật, biết trăm thần lực của Phật, làm chuyển động trăm cõi Phật, bay qua trăm cõi Phật, chiếu soi trăm cõi Phật, giáo hóa chúng sinh trong trăm cõi Phật, sống lâu trăm kiếp, biết được mọi việc trong hàng trăm kiếp ở quá khứ, vị lai, hiện tại, nhập được trăm pháp môn, biến ra trăm thân, mỗi thân lại thị hiện trăm Bồ-tát quyến thuộc. Nếu dùng nguyện lực tự tại thị hiện, thì hơn con số trên, có đến vô số trăm ngàn vạn ức na-do-tha, không thể tính đếm được. Lúc ấy, Đại Kim Cang Tạng, muốn tuyên rõ nghóa trên, nên nói kệ rằng: Nếu có các chúng sinh Tu tập nhiều căn lành Thành tựu pháp bạch tịnh Gần gũi các Đức Phật Thanh tịnh sức tin lớn Tùy thuận tâm Từ bi Người này phát khởi được Vô lượng trí tuệ Phật Nhất thiết trí của Phật Sức Vô lượng thanh tịnh Sức chịu đựng vững chắc Thành tựu các Phật pháp Tâm Bi cứu thế gian Thanh tịnh các cõi Phật Chuyển thuyết bánh xe pháp Phát thệ nguyện vô thượng Một niệm biết ba đời Nhưng không hề thay đổi Mỗi lúc có sai biệt Thị hiện ở thế gian Nói gọn là mong cầu Công đức của chư Phật Phát khởi tâm rộng lớn Giống như là hư không Tâm Bi trí tuệ đầu Phương tiện để tu hành Tâm tịnh tín sâu xa Oai lực không hạn lượng Tâm chí không chướng ngại Chẳng tùy thuận pháp khác Bình đẳng như chư Phật Mà sinh tâm rộng lớn Phật tử nào phát khởi Tâm chân thật như thế Sẽ lìa hạnh phàm phu Nhập hạnh nghiệp chư Phật Sinh trong nhà Như Lai Không ai chê trách được Giống như các Đức Phật Sẽ thành đạo Vô thượng Lúc phát khởi tâm ấy Đạt được Địa thứ nhất Tâm ấy không thể động Vững chãi như núi chúa Bồ-tát này có được Tướng hoan hỷ hiển hiện Tâm luôn luôn thanh tịnh Làm được những việc lớn Tâm không thích tranh đấu Chẳng vui hại chúng sinh Không có tâm sân hận Biết hổ thẹn cung kính Lại tập hành trực tâm Và bảo hộ các căn Luôn nghó cứu thế gian Cầu mong trí của Phật Tâm luôn luôn vui vẻ Ta sẽ được việc này Đạt địa Hoan hỷ rồi Vượt qua năm điều sợ Sợ không sống, sợ chết Và lo sợ tiếng xấu Sợ đọa ba đường ác Sợ oai đức đại chúng Vì không tham chấp ngã Không tham chấp ngã sở Các Phật tử như vậy Xa lìa mọi lo sợ Luôn hành tâm Từ bi Tin tưởng và cung kính Đủ công đức hổ thẹn Ngày đêm thêm pháp lành Thích công đức lợi ích Không ham thích dục lạc Những giáo pháp được nghe Luôn suy xét kỹ lưỡng Không có hạnh tham chấp Đoạn tâm cầu lợi dưỡng Luôn thích pháp Bồ-đề Nhất tâm cầu trí Phật. Hành các Ba-la-mật Xả bỏ tâm dua nịnh Thực hành theo lời dạy An trụ trong lời Phật Không ô nhiễm dòng Phật Chẳng bỏ hạnh Bồ-tát Xa sự nghiệp thế gian Lợi lạc ở thế gian Cầu pháp lành không chán Tinh tấn ngày thêm lớn Những Bồ-tát như thế Ưa thích các công đức Phát thệ nguyện rộng lớn Mong được thấy chư Phật Hộ pháp đến chỗ Phật Hành diệu hạnh Bồ-tát Độ tất cả chúng sinh Thanh tịnh các cõi Phật Trong cõi Phật của mình Đông đúc các Bồ-tát Các Bồ-tát đồng tâm Kiến văn đều chẳng luống Ở trong các bụi trần Thành tựu đạo của Phật Phát khởi vô số ức Vô biên nguyện rộng lớn Nguyện ấy không cùng tận Như chúng sinh, hư không Pháp tánh, cõi Niết-bàn Trí tuệ của chư Phật Từ tâm sinh trí chủng Ta nguyện an trụ vậy Phát thệ nguyện rộng lớn Tâm nhu nhuyến điều thuận Tin công đức của Phật Mà quán sát chúng sinh Biết từ nhân duyên sinh Nên sinh từ tâm mẫn Ta nguyện cứu độ hết Chúng sinh đang đau khổ Vì tất cả chúng sinh Mà thực hành bố thí Bố thí cõi nước đẹp Các trân báu vô giá Voi ngựa cùng xe cộ Quyến thuộc và nhân dân Đầu, mắt, tay, cùng chân Thịt, xương, không hối hận Học tất cả kinh sách Tâm không hề mệt mỏi Hiểu rõ thật nghóa đó Tùy thế gian thực hành Tâm hổ thẹn, chịu đựng Dần dần được tăng trưởng Dùng tâm ý cung kính Cúng dường vô lượng Phật Người trí, suốt ngày đêm Siêng tu tập như vậy Căn lành hiểu sáng suốt Giống như luyện vàng ròng Bồ-tát trụ địa này Hiểu biết rõ mười trụ Lúc tuần tự tu tập Không hề có chướng ngại Ví như người chủ buôn Muốn lợi ích người buôn Trước hỏi rõ đường đi Biết mọi việc nguy hiểm Bồ-tát trụ sơ địa Phải biết hạnh các địa Không có các chướng ngại Đạt đến địa của Phật Trụ trong Địa thứ nhất Thường làm vua Diêm-phù Biết rõ các giáo pháp Luôn hành tâm Từ bi Đúng pháp mà giáo hóa Tất cả đều kính tín Khuyến khích tu bố thí Để cầu trí tuệ Phật Bồ-tát bỏ đất nước Xuất gia trong Phật pháp Siêng năng mà tu tập Đạt được trăm Tam-muội Gặp được trăm Đức Phật Chấn động trăm cõi nước Độ chúng sinh trăm nơi Thâm nhập trăm pháp môn Nhớ biết việc trăm kiếp Thị hiện trăm loại thân Lại thị hiện cả trăm Bồ-tát làm quyến thuộc Nếu dùng sức thệ nguyện Hơn vô lượng số đó Nay giảng nghóa sơ địa Chỉ nói gọn mà thôi Nếu muốn nói rộng ra Ức kiếp không thể hết Địa Bồ-tát thứ nhất Tên là địa Hoan hỷ Vì tạo lợi ích cho chúng sinh Nay đã phân biệt nói.  <詞 id="113328954">Phẩm 2: ĐỊA LY CẤU Tất cả các Bồ-tát Nghe nói nghóa Sơ địa Tâm chí đều thanh tịnh Vui vẻ khó tả hết Từ chỗ mình đang ngồi Bay lên trên hư không Cởi áo đẹp trên thân Để cúng Kim Cang Tạng! Đồng cất lời khen ngợi Khéo nói địa Bồ-tát Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt Biết tâm chúng thanh tịnh Muốn được nghe giảng thuyết Tướng mạo Địa thứ hai Thưa với Kim Cang Tạng Đại trí hãy giảng thuyết Tướng mạo Địa thứ hai Tất cả đều muốn nghe. Bấy giờ, Đại Bồ-tát Kim Cang Tạng, nói với Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt: –Phật tử! Đại Bồ-tát đã đầy đủ Địa thứ nhất, muốn đạt Địa thứ hai, phát khởi mười tâm. Mười tâm đó là gì? Đó là các tâm: 1.Nhu nhuyến. 2.Điều hòa. 3.Chịu đựng. 4.Thiện. 5.Tịch diệt. 6.Chân. 7.Không tạp. 8.Không tham. 9.Vui vẻ. 10.Rộng lớn. Đại Bồ-tát đã đầy đủ Địa thứ nhất, muốn đạt Địa thứ hai trước phải phát khởi mười tâm này. Phật tử! Bồ-tát trụ địa Ly cấu, từ xưa đến nay xa lìa tất cả việc sát sinh, vứt bỏ dao gậy, không có tâm sân hận, biết hổ thẹn; đối với chúng sinh, phát khởi tâm Từ, thường tìm việc vui, không có tâm ác, làm hại chúng sinh, huống gì tâm thô ác! Bỏ mọi việc trộm cắp, biết đủ với vật cần dùng, không phá tài sản của người. Vật của người thì người thọ dụng. Vật của người giữ gìn, thì dù một cọng cỏ, lá cây của người ta mà đã không cho, thì không lấy, huống chi là những vật quý báu hơn. Bỏ tà dâm, bằng tâm với vợ mình, không tham vợ người, không sinh tham dục với vợ người huống gì cùng hành dâm. Bỏ nói dối, luôn nói lời chân thật, lời ngay thẳng, không nói dối để làm các điều ác, ngay cả trong mộng cũng không nói dối huống gì cố ý nói dối! Bỏ nói hai lưỡi, không có tâm hủy hoại, nghe lời người này không nói lại cho người kia nghe, nghe lời người kia không nói lại cho người này, hòa hợp những người tranh tụng ly tán. Bỏ lời nói ác. Những lời nói thô ác khó nghe làm cho người khác sân hận buồn bậc; hoặc vì sân hận kiêu mạn làm cho người khác buồn phiền lo sợ không vui thích, đó là tự hại, mà cũng là hại người, tất cả những lời nói ấy đều xả bỏ hết. Nói năng vui vẻ, êm dịu, làm vui lòng người, chuyển hóa tâm người, nhu hòa, đầy đủ, được nhiều người nhớ tưởng, làm cho người khác vui vẻ, phải luôn nói những lời như vậy. Bỏ lời nói thêu dệt, luôn cẩn thận trong lời nói; biết những gì nên nói, không nên nói; luôn nói đúng lúc, chân thật, lợi ích, đúng pháp, có chừng mực, không nói đùa, nói cợt. Không nói những lời phù phiếm huống gì cố ý nói! Không tham vật của người. Nếu vật thuộc người khác, người khác đã tham trước, đã thâu dụng, thì không nghó là sẽ lấy vật ấy. Bỏ tâm sân hại, hiềm thù, bức não. Đối với chúng sinh luôn khởi tâm tốt, yêu mến, lợi ích, từ bỏ. Bỏ việc xem tướng, làm việc bằng chánh kiến, tin sâu chắc nhân duyên tội phước, bỏ dua nịnh, thành tín Tam bảo, phát tâm vững chắc. Bồ-tát luôn hộ đạo lành, thường suy nghó: Chúng sinh đọa vào đường ác, đều do mười nhân bất thiện. Ta nên trụ trong mười pháp lành, nói mười pháp lành cho chúng sinh, để biết chỗ mà tu hành chánh pháp. Vì sao? Vì người nào không làm lành mà nói pháp cho người khác an trụ trong pháp lành thì không bao giờ có. Bồ-tát lại nghó: Vì làm mười pháp ác mà đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh; còn thực hành mười pháp lành thì được sinh lên cõi người hoặc sinh đến cõi trời Hữu đảnh. Lại nữa, mười pháp lành này là pháp người trí tuệ, hòa hợp tu tập. Những kẻ tâm yếu đuối thích ít công đức, chán sợ ba cõi, ít tâm đại Bi, nghe pháp chỉ đạt đến Thanh văn thừa. Lại, có người thực hành mười pháp lành này, không nghe pháp từ người khác mà tự nhiên hiểu biết, không đầy đủ đại Bi phương tiện nhưng thâm nhập pháp duyên sinh thì đật đến Bích-chi-phật thừa. Người thực hành mười pháp lành, đầy đủ thanh tịnh, tâm rộng lớn vô lượng, vô biên, đối với chúng sinh, phát tâm đại Bi, có sức phương tiện, chí nguyện bền vững, vì không hề bỏ chúng sinh, vì cầu trí tuệ lớn của Phật, vì làm thanh tịnh các địa của Bồ-tát, vì thanh tịnh các Ba-la-mật, thâm nhập hạnh rộng lớn sâu xa. Lại nữa, thanh tịnh thực hành mười pháp lành này, sẽ đạt được mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Trí vô ngại, đại Từ bi của Phật và đạt được đầy đủ Nhất thiết chủng trí, tu tập pháp của Phật. Vì thế chúng ta nên hành mười pháp lành, luôn cầu Nhất thiết trí. Bồ-tát lại suy nghó: Mười pháp bất thiện này, ở bậc thượng thì nó là nhân của địa ngục, bậc trung là nhân của súc sinh, bậc hạ là nhân của ngạ quỷ. Tội sát sinh, làm cho chúng sinh đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. nếu sinh vào cõi người, thì chịu hai quả báo: Một là chết yểu; hai là nhiều bệnh. Tội trộm cướp cũng làm cho chúng sinh đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu sinh trong cõi người thì chịu hai quả báo: Một là nghèo thiếu; hai là có của chung, không có chủ quyền. Tội tà dâm làm cho chúng sinh đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu sinh vào cõi người, thì chịu hai quả báo: Một là vợ không trinh thuận; hai là bà con không vừa ý. Tội nói dối, làm cho chúng sinh đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu sinh vào cõi người, thì chịu hai quả báo: Một là bị nhiều người phỉ báng; hai là bị nhiều người lừa dối. Tội nói hai lưỡi cũng làm cho chúng sinh đọa vào ba đường ác. Nếu sinh vào cõi người, thì chịu hai quả báo: Một là bị con tệ ác; hai là bà con không hòa thuận. Tội nói ác làm cho chúng sinh đọa vào ba đường ác. Nếu sinh vào cõi người, thì chịu hai quả báo: Một là thường nghe tiếng xấu; hai là bị người tranh tụng. Tội thêu dệt, làm cho chúng sinh đọa vào ba đường ác. Nếu sinh vào cõi người, thì chịu hai quả báo: Một là nói năng không được người tin; hai là nói năng không rõ ràng. Tội tham dục, làm cho chúng sinh đọa vào ba đường ác. Nếu sinh vào cõi người, thì chịu hai quả báo: Một là nhiều dục vọng; hai là không biết chán đủ. Tội sân não, làm cho chúng sinh đọa vào ba đường ác. Nếu sinh vào cõi người, thì chịu hai quả báo: Một là luôn bị người moi tìm chỗ hay dở; hai là bị người khác làm hại. Tội tà kiến, làm cho chúng sinh đọa vào ba đường ác. Nếu sinh vào cõi người, thì chịu hai quả báo: Một là sinh trong nhà tà kiến; hai là có tâm dua nịnh. Các Phật tử! Mười pháp bất thiện đều là nhân duyên của các loại khổ đau. Bồ-tát lại nghó: Vì sao chúng ta không bỏ mười pháp bất thiện, thực hiện mười pháp thiện và làm cho người khác hành mười pháp thiện? Nghó như vậy xong, bỏ mười pháp bất thiện, an trụ mười pháp thiện, lại làm cho người khác cũng phát tâm hành mười pháp thiện. Lúc này, Bồ-tát ở trong chúng sinh sinh tâm an ổn, tâm hỷ lạc, tâm Từ bi, tâm lân mẫn, tâm lợi ích, tâm thủ hộ; tâm làm thầy, tâm làm thầy giỏi. Có những tâm ấy, rồi lại nghó: Chúng sinh rơi vào tà kiến, chạy theo tâm tà, đi trong đường tà nguy hiểm, thật đáng xót thương. Ta nên làm cho chúng sinh này trụ trong đạo chánh kiến và pháp như thật. Chúng sinh thường đấu tranh, sân hận, phân biệt ta người; ta nên làm cho chúng sinh trụ trong tâm đại Từ vô thượng. Chúng sinh không biết chán đủ, thường tham tài vật của người khác, nuôi sống bằng nghề tà vạy; ta nên làm cho chúng sinh, trụ trong nghiệp thân, khẩu, ý thanh tịnh. Chúng sinh chạy theo nhân tham lam, sân hận, si mê, thường bị lửa lớn phiền não thiêu đốt, không tìm được cách ra khỏi; ta nên làm cho chúng sinh, dập tắt lửa phiền não an ổn ở nơi mát mẻ. Chúng sinh thường bị vô minh đen tối che lấp, thường vào chỗ tối tăm, cách xa ánh sáng trí tuệ, ở trong đường hiểm sinh tử, rơi vào đủ các tà kiến; ta nên làm cho chúng sinh được tuệ nhãn thanh tịnh vô ngại. Nhờ tuệ nhãn này, biết thật tướng của các pháp, không tùy thuận giáo pháp khác, đạt trí như thật không chướng ngại. Chúng sinh ở trong đường hiểm sinh tử, sắp rơi vào hầm sâu địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, bị nhốt trong lưới tà kiến xấu ác, bị rừng rậm ngu si che mờ, xa cách bậc thầy có trí. Không phải đạo xuất thế lại cho là đạo xuất thế, rơi vào đường ác ma, tùy thuận ý ma, xa cách Phật ý; ta nên độ cho những chúng sinh này, thoát khỏi nạn sinh tử nguy hiểm, đặt chúng trong thành lớn vô úy Nhất thiết trí nhân, không còn những suy não. Chúng sinh chìm trong dòng thác phiền não, trôi lăn trong dòng dục, hữu, kiến, vô minh; chạy theo sinh tử liên tục không dứt, vào trong sông ái lớn, bị uy lực phiền não cuốn hút, không thể cầu đạo xuất thế; luôn bị các loại trùng độc dục, sân não, gây hại; bị La-sát thân kiến trong biển bắt giữ; rơi trong dòng xoáy sâu xa khổ nạn của năm dục bị bùn tham ái làm ô nhiễm; tiều tụy khô gầy, rơi trong vùng ngã mạn, không nơi hướng tới, không ra khỏi làng xóm giặc oán mười hai nhập, không gặp bậc Đạo sư dắt đi con đường chánh; ta nên làm cho những chúng sinh này sinh đại Từ bi, dùng sức của căn lành mà cứu thoát chúng đến nơi an ổn, xa nơi lo sợ đắm chìm, trụ trong đảo tuệ báu Nhất thiết trí. Chúng sinh tâm quá tham đắm; luôn bị lo lắng, khổ não, hoạn nạn, yêu ghét trói buộc; bị cột chặt trong cùm dục vọng, đi vào rừng rậm vô minh của ba cõi; ta nên làm cho chúng sinh này ra khỏi những tham chấp ở ba cõi; làm cho chúng sinh an trụ Niết-bàn vô ngại lìa tướng. Chúng sinh chấp chặt ngã, ngã sở; không ra khỏi hang ổ năm ấm, chạy theo bốn điên đảo, dựa vào làng xóm trống không sáu nhập; bị bốn đại xâm hại; bị các giặc phiền não giết hại; chịu vô lượng khổ não; ta nên làm cho chúng sinh này lìa tất cả sự tham đắm, trụ trong đạo trí không, vô ngã; đó là Niết-bàn, đoạn tất cả chướng ngại. Chúng sinh có tâm nhỏ hẹp, kém cỏi, thích pháp nhỏ, xa cách Nhất thiết trí tuệ vô thượng. Vì tâm tham chấp tiểu thừa, nên không cầu pháp xuất thế Đại thừa rộng lớn; ta nên làm cho những chúng sinh này trụ tâm rộng lớn, ở trong Phật pháp vô lượng, vô biên; đó là Đại thừa vô thượng. Các Phật tử! Bồ-tát này thường tùy thuận năng lực trì giới, thường khéo mở rộng tâm đại Từ bi. Bồ-tát trụ địa Ly cấu, gặp được trăm ngàn Phật thì cung kính cúng dường các vật cần dùng như y phục, thức uống ăn, thuốc men, ngọa cụ; ở chỗ chư Phật thì sinh tâm cung kính, thọ trì mười pháp lành. Từ lúc lãnh thọ cho đến lúc đạt Vô thượng Bồ-đề, không hề quên mất. Bồ-tát này đã trải qua vô số trăm ngàn vạn ức kiếp; xa lánh trần cấu, xan tham, phá giới; tịnh tu bố thí, trì giới. Phật tử! Ví như luyện vàng ròng, nếu lọc hết cặn bã ra khỏi quặng, thì vàng càng sáng rực; cũng thế, Bồ-tát trụ địa Ly cấu này, phải trải qua trăm ngàn vạn ức kiếp xa lìa trần cấu, sân tham, phá giới; tịnh tu bố thí, trì giới. Lúc này trong bốn Nhiếp pháp, Bồ-tát tu nhiều về ái ngữ. Trong mười Ba-la-mật. Giới Ba-la-mật là nhiều thù thắng. Còn các Ba-la-mật khác cũng tu tập nhưng chỉ tùy trụ địa mà tăng trưởng. Các Phật tử! Đó là Địa thứ hai Ly cấu của Đại Bồ-tát. Bồ-tát trụ ở địa này, thường làm Chuyển luân thánh vương, làm đại Pháp vương, đạt nhiều pháp lực, thành tựu bảy báu, có sức tự tại; trừ hết được trần cấu, xan tham, phá giới của chúng sinh, dùng phương tiện khéo léo làm cho chúng sinh được an trụ trong mười pháp lành; tu bố thí rộng nhưng không cùng tận việc tạo những thiện nghiệp; hoặc bố thí, ái ngữ, lợi ích đồng sự đều không rời nghó đến Phật và pháp, không rời nghó đến chúng bạn Bồ-tát, không rời nghó đến sự hành đạo của Bồ-tát; không rời nghó đến các Ba-la-mật, mười Địa, mười Lực, bốn Vô úy, các pháp Bất cộng, cho đến không rời nghó về Nhất thiết chủng trí một cách trọn vẹn. Bồ-tát luôn nghó: Bất cứ lúc nào, trong chúng sinh, ta cùng đều là người đứng đầu, là tối thắng, là cao lớn, là tốt đẹp, là vô thượng, tối thượng; là người dẫn dắt, là bậc tôn quý, là chỗ dựa cho chúng sinh. Các Phật tử! Đại Bồ-tát này nếu bỏ nhà, siêng năng tu tập, thì trong nháy mắt, bỏ vợ con, nhà cửa, năm dục, xuất gia trong Phật pháp. Đã xuất gia rồi sẽ siêng năng tu tập, trong khoảnh khắc, đạt ngàn môn Tam-muội, gặp ngàn Phật, biết thần lực của ngàn Phật, chấn động ngàn cõi Phật, vượt qua ngàn cõi Phật, chiếu sáng ngàn cõi Phật, hóa độ ngàn thế giới chúng sinh, sống lâu ngàn kiếp, biết mọi việc trong ngàn kiếp quá khứ, hiện tại, vị lai; khéo thâm nhập ngàn pháp môn; biến thành ngàn thân, mỗi thân thị hiện ngàn Bồ-tát quyến thuộc. Nếu dùng nguyện lực tự tại mà thị hiện, thì hơn số này đến trăm ngàn vạn ức na-do-tha, không thể tính kể. Lúc ấy, Bồ-tát Kim Cang Tạng muốn nêu lại nghóa trên nên nói kệ rằng: Bồ-tát tâm nhu nhuyến Tâm điều hòa, chịu đựng Thiện tâm, tịch diệt tâm Chân tâm, bất tạp tâm Không có tâm tham tiếc Tâm vui và tâm lớn Đạt đủ mười tâm này Nhập trụ Địa thứ hai Bồ-tát trụ địa này Thành tựu các công đức Thường lìa bỏ sát sinh Không làm hại tất cả Xa bỏ việc trộm cướp Không sinh tâm tà dâm Lời thật, không hai lưỡi Chẳng nói ác, thêu dệt Vật sở hữu của người Không sinh tâm tham chấp Không tổn não chúng sinh Trực tâm hành chánh kiến Không có tâm kiêu mạn Cũng chẳng tâm dua nịnh Nhu nhuyến không phóng dật Hộ trì giáo Phật pháp Những khổ não đớn đau Địa ngục và súc sinh Ngạ quỷ, thiêu đốt thân Đều trừ tâm ác sinh Nay ta đã trừ hết Những việc ác như vậy Hành nghóa lý chân thật Pháp lành và tịch diệt Từ người đến Hữu đảnh Những nơi hưởng dục lạc Vui thiền, vui ba thừa Đều từ mười pháp lành Suy xét như vậy rồi Tâm không hề buông bỏ Tự mình trì tịnh giới Lại dạy người gìn giữ Quán sát khắp chúng sinh Chịu các loại khổ não Vì thương xót chúng sinh Phát khởi tâm đại Bi Phàm phu thật đáng thương Rơi vào các tà kiến Tâm mang nhiều sân hận Luôn thích tranh tụng nhau Tham đắm trong năm dục Mong cầu không biết chán Nhân duyên khởi ba độc Ta nên độ chúng sinh Bị ngu si che mờ Đi đường hiểm sinh tử Rơi trong lưới tà kiến Nhốt trong lồng thế gian Luôn bị các giặc ma Và phiền não gây hại Chúng sinh thật đáng thương Ta nên độ thoát chúng Chìm sâu biển phiền não Trôi dạt trong bốn dòng Chịu đủ trăm ngàn thứ Khổ não của ba cõi Ở trong hang năm ấm Sinh tâm ngã, ngã sở Ta vì độ khổ này Nên siêng năng hành đạo Bỏ tuệ Phật vô thượng Lại sinh tâm thấp kém Làm cho trụ trí Phật Phát vô lượng tinh tấn Bồ-tát trụ địa này Có vô số công đức Được gặp các Đức Phật Phụng sự và cúng dường Chính vì nhân duyên này Căn lành càng sáng tịnh Ví như vàng ròng tốt Được lọc ra khỏi quặng Phật tử trụ địa này Thường làm Chuyển luân vương Làm cho các chúng sinh Trụ trong mười pháp lành Từ phát tâm đến giờ Tu tập các phước đức Nguyện cứu độ thế gian Đạt mười Lực của Phật Nếu muốn bỏ ngôi vua Xuất gia tu học đạo Tâm siêng năng tu tập Thâm nhập ngàn Tam-muội Được thấy ngàn Đức Phật Cúng dường nghe nhận pháp Bồ-tát trụ địa này Thị hiện việc như vậy Nếu dùng nguyện lực mình Thị hiện các thần thông Độ thoát những chúng sinh Hơn số này vô lượng Luôn luôn vì thế gian Tìm cầu những việc tốt Đã giảng nói đầy đủ Hạnh nghiệp Địa thứ hai. q KINH THẬP TRỤ <卷 id="113328955">Quyển 2 <詞 id="113328956">Phẩm 3: ĐỊA MINH Các Bồ-tát nghe được Hạnh không thể nghó bàn Trong tâm vui khôn tả Cung kính khó thể lường Lúc ấy, trong hư không Mưa các loại hoa thơm Hoa nhiều như đám mây Cúng dường Kim Cang Tạng Đều khen ngợi lành thay! Lành thay! Kim Cang tạng Khéo nói các đại nhân Thanh tịnh hộ trì giới Ở trong các chúng sinh Phát tâm Từ bi lớn Trình bày và giảng nói Hành xứ Địa thứ hai Hạnh vi diệu Bồ-tát Chân thật không thay đổi Những vị Bồ-tát này Đầy đủ hạnh thanh tịnh Vì tất cả chúng sinh Luôn cầu việc tốt đẹp Địa Tịnh minh thứ hai Nay đã giảng thuyết xong Đấng trời người cung kính Xin nói Địa thứ ba Khéo thị hiện các hạnh Bồ-tát hành bằng trí Xin nói các đại nhân Làm sao hành bố thí Giữ giới và nhẫn nhục Hành tinh tấn thiền định Trí tuệ cùng phương tiện Và tâm Từ bi lớn Làm sao hành pháp ấy Thanh tịnh nơi hạnh Phật. Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt Lại hỏi Kim Cang Tạng: Bồ-tát dùng tâm gì Đến được Địa thứ ba. Đại Bồ-tát Kim Cang Tạng, nói với Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt: –Phật tử! Các Đại Bồ-tát tâm thanh tịnh sâu xa, hành Địa thứ hai xong; muốn đạt được Địa thứ ba, phải dùng mười tâm để đạt được. Mười tâm đó là gì? Đó là các tâm: 1. Tịnh. 2. Mạnh mẽ lợi ích. 3. Chán xa. 4. Lìa bỏ. 5. Bất thoái. 6. Kiến cố. 7. Minh thịnh. 8. Không tự mãn. 9. Vui vẻ. 10. Rộng lớn. Các Phật tử! Đại Bồ-tát dùng mười tâm này nhập Địa thứ ba, quán sát tướng như thật của các pháp hữu vi. Đó là vô thường, khổ, không, vô ngã, bất tịnh, không tồn tại, không thể tin tưởng, niệm niệm sinh diệt. Lại không sinh, không diệt, không đến từ quá khứ, không đi về vị lai, hiện tại không dừng. Cứ thế, Bồ-tát quán thật tướng của các pháp hữu vi. Biết các pháp này; không tạo tác, không phát khởi, không đến đi. Những chúng sinh thì bị ưu bi, khổ não, yêu ghét trói buộc, không ngừng chứa nhóm, không nơi kiên định, luôn bị lửa tham, sân, si thiêu đốt, thổi hừng ngọn lửa khổ não của đời sau, không có thật tánh, như huyễn hóa. Thấy vậy rồi, Bồ-tát dần chán xa hết thảy các pháp hữu vi, hướng đến trí tuệ Phật. Bồ-tát này, biết được trí tuệ của Như Lai là không thể nghó bàn, không thể xưng kể; có uy lực lớn không ai hơn được; không có tướng tạp loạn; không có các khổ, suy não, ưu bi, đến được thành lớn an ổn không lo sợ; không còn trở lại; cứu độ vô lượng chúng sinh khổ não. Do vậy thấy biết được trí của Phật là vô lượng, pháp hữu vi là vô lượng khổ não; đối với tất cả chúng sinh phải phát mười tâm thù thắng. Mười tâm đó là gì? Đó là: Chúng sinh đáng thương; cô độc không ai cứu; chịu khổ không chỗ nương; lửa ba độc bừng cháy không dứt; bị nhốt trong ngục tam hữu chắc chắn; luôn sống trong rừng ác phiền não; không có sức chánh quán; ở trong pháp lành bị tâm dục lạc trói buộc; mất diệu pháp của chư Phật; luôn trôi theo dòng sinh tử; sợ Niết-bàn. Bồ-tát này, thấy chúng sinh có nhiều khổ não, nên phát tinh tấn lớn, cứu độ chúng sinh, giải thoát chúng sinh, làm cho chúng sinh được thanh tịnh, được cứu thoát, ưa thích pháp lành, an trụ vui vẻ, biết những việc cần làm, cứu độ, diệt trừ khổ não. Bồ-tát này, xa lìa tất cả pháp hữu vi, luôn nghó đến tất cả chúng sinh, thấy Nhất thiết trí của Phật có vô số lợi ích nên muốn được đầy đủ trí tuệ của Phật để cứu độ chúng sinh, siêng hành đạo Bồ-tát, và luôn nghó: Ta phải dùng phương tiện gì, nhân duyên gì để cứu những chúng sinh đang rơi trong khổ lớn phiền não, được ra khỏi và an trụ vónh viễn trong thường lạc cứu cánh, biết trụ trong trí tuệ giải thoát vô ngại mới có thể đạt được trí tuệ giải thoat vô ngại này, không rời trí như thật thông đạt các pháp, hành tuệ vô hành. Ánh sáng trí tuệ đó, do đâu có được? Phải biết trí tuệ đó không ngoài đa văn quyết định. Lại nghó: Các pháp vô ngại giải thoát của chư Phật lấy gì làm gốc? Gốc của nó chính là việc nghe pháp. Nghó như vậy, Bồ-tát lúc nào cũng siêng năng cầu pháp, ngày đêm luôn thích nghe pháp không biết chán, tâm không ngừng nghỉ, vui pháp, mến pháp, nương pháp, theo pháp, trọng pháp, trung thành với pháp, quy y pháp, cứu độ pháp, tùy thuận hành pháp; Bồ-tát với phương tiện như vậy, thì đối với châu báu, của cải vàng bạc, kho tàng không luyến tiếc, cầu pháp không thấy những vật ấy là khó được, chỉ lo khó gặp Pháp sư. Vì cầu pháp mà mọi vật trong ngoài có được ở thế gian đều có thể đem bố thí cả. Những vật đó là đất nước, nhân dân, quyến thuộc, sản nghiệp, ruộng vườn, tài vật, ngọc báu ma-ni, vàng bạc kho tàng, voi, ngựa, xe cộ, trân bảo, anh lạc, đồ trang sức, vợ con, trai gái, tay, chân, tai, mắt, mũi, lưỡi, bố thí cả toàn thân không hề tham tiếc. Cũng vì cầu pháp, mà đối với Pháp sư, phải tận tâm cung kính, cúng dường hầu hạ, phá trừ kiêu mạn, ngã mạn, đại mạn… các khổ não xấu ác, những việc trái lý đều có thể chịu đựng. Vì thành thật cầu pháp, nên được một câu pháp chưa từng được nghe, thì mừng hơn được trân bảo đầy cả tam thiên đại thiên thế giới. Được nghe một bài kệ chánh pháp, còn hơn vô lượng ức kiếp được làm Chuyển luân thánh vương, Thích Đề-hoàn Nhân, Phạm thiên vương. Nếu có người đến nói với Bồ-tát: Ta cho ông nghe một câu kinh mà Phật giảng, có thể thanh tịnh đạo hạnh của Bồ-tát, nếu như ông vào hầm lửa lớn làm người chịu khổ não lớn, thì ta mới ban cho. Bồ-tát liền nghó: Ta vì lãnh thọ một câu pháp mà phải chịu đựng ở trong hầm lửa của tam thiên đại thiên thế giới, Ta từ cõi Phạm thiên rơi xuống còn được, huống gì chỉ bị rơi trong hầm lửa nhỏ! Vì cầu pháp, ta chịu hết tất cả khổ não của địa ngục, huống gì khổ não nhỏ của cõi người. Vì cầu pháp mà phát tâm như vậy. Lại nữa, Bồ-tát phải luôn vui vẻ với pháp đã nghe, phải quán sát đúng đắn; nghe pháp xong phải hàng phục tâm, ở chỗ thanh vắng, tâm luôn nghó: Thực hành đúng pháp sẽ đạt Phật pháp, không phải chỉ là lời nói suông ở miệng. Bồ-tát như vậy có thể an trụ địa Minh, lìa các ái dục và pháp bất thiện, có giác, có quán, ly sinh hỷ lạc, nhập Sơ thiền. Diệt giác quán, bên trong tâm thanh tịnh, an trụ một chỗ, không giác không quán, định sinh hỷ lạc, nhập Nhị thiền. Ly hỷ, hành xả tâm niệm, an ổn bằng tuệ, thân thọ lạc, nhập Tam thiền. Đoạn lạc, đoạn khổ, trước diệt ưu hỷ; không còn khổ không còn lạc, hành, xả, niệm đều thanh tịnh, nhập Tứ thiền. Bồ-tát này vượt qua các sắc tướng, diệt tất cả tướng hữu đối, không nghó đến tướng sai khác, biết hư không vô biên, liền nhập định cõi thức vô sắc. Vượt qua hết thảy vô sở hữu xứ, biết sự an ổn của phi hữu tưởng phi vô tưởng, liền nhập định phi hữu tưởng phi vô tưởng vô sắc. Chỉ tùy thuận pháp mà hành chứ không tham chấp. Bồ-tát này nhờ tâm Từ rộng lớn vô lượng; không sân, không hận, không làm hại, có sức tin hiểu, rộng khắp một phương, hai phương, ba phương, bốn phương, bốn góc, trên dưới cũng vậy; tâm Bi, tâm Hỷ, tâm Xả rộng lớn vô lượng, không sân, không hận, không não hại, có sức tin hiểu rộng khắp một phương, hai, ba, bốn phương; bốn góc trên, dưới cũng lại như vậy. Bồ-tát này có đủ các sức thần thông, có thể làm chấn động đại địa, biến một thân thành nhiều thân, nhiều thân thành một thân, hiện mất, rồi lại xuất hiện, vượt qua cả tường đá, núi cao chướng ngại, đi trong hư không, ở trong hư không, kiết già, tới lui, ví như chim bay; ra vào đất như đi vào nước, đi trên nước như đi trên đất, thân phóng khối ánh lửa lớn; mặt trời, mặt trăng có oai lực thần đức lớn mà Bồ-tát có thể dùng tay chạm được; thần lực tự tại lên đến cõi Phạm thiên. Bồ-tát này, dùng Thiên nhó thanh tịnh, vượt hơn tai người nghe hết âm thanh xa gần của trời, người. Bồ-tát này, dùng Tha tâm trí biết như thật tâm người khác. Tâm ô nhiễm thì biết như thật là tâm nhiễm ô; tâm lìa nhiễm ô thì biết như thật là tâm lìa nhiễm ô. Tâm sân, lìa tâm sân, tâm si, lìa tâm si, tâm cấu uế, lìa tâm cấu uế; tâm lớn, tâm nhỏ; tam tán loạn thì biết như thật là tâm tán loạn; tâm định, tâm bất định; tâm bị trói buộc, tâm cởi mở; tâm cao thượng, tâm không cao thượng thì biết như thật là tâm cao thượng hay không cao thượng. Như vậy là dùng tâm mình để biết tâm người. Bồ-tát này, biết đời sống, nơi thọ sinh kiếp trước; biết một đời, hai, ba, bốn, năm đời cho đến mười, hai mươi, ba mươi, bốn mươi, năm mươi, một trăm, ngàn, vạn, trăm ngàn vạn ức na-do-tha đời; biết một kiếp, hai kiếp cho đến trăm ngàn vạn ức na-do-tha vô lượng vô số kiếp. Trong những kiếp ấy, có vô số sự thành hoại, biết được nhân duyên trải qua trong các kiếp ấy. Biết ta sinh ở nơi đó, dòng họ đó, tên đó, ăn uống như vậy, khổ vui như vậy, sống lâu như vậy; biết ta chết ở đó mà sinh ở cõi này; biết chết ở cõi này mà sinh ở cõi kia; nhớ biết hết tất cả nhân duyên tướng mạo. Bồ-tát này dùng Thiên nhãn thanh tịnh vượt hơn mắt người, thấy chúng sinh sống chết, hình sắc đẹp xấu, thiện ác, nghèo khổ, giàu sang, đến cõi lành, cõi ác, theo nghiệp chịu quả báo, tất cả đều biết như thật. Đó là: Biết chúng sinh này, thành tựu nghiệp ác về thân, khẩu, ý, chống nghịch Hiền thánh, tin thọ tà kiến; do nhân duyên nghiệp tội nên thân chết đọa vào đường ác, sinh vào địa ngục. Các chúng sinh này, thành tựu nghiệp thiện về thân, nghiệp thiện miệng, nghiệp thiện ý, không nghịch Thánh hiền. Do nhân duyên nghiệp thiện này nên sau khi chết, được sinh lên trời. Bồ-tát này thường ra vào thiền định Tam-muội giải thoát nhưng không tùy sinh; chỉ thấy nơi nào có pháp trợ Bồ-đề thì vì nguyện lực nên sinh ở đó. Bồ-tát trụ địa Minh, thấy được trăm ngàn vạn ức na-do-tha các Đức Phật, hết sức cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi; cung phụng y phục, thức ăn uống, ngọa cụ, thuốc men; gần gũi chư Phật để nghe nhận kinh pháp; nghe pháp rồi thì tùy lực mà thực hành. Lúc ấy, Bồ-tát quán các pháp không sinh, không diệt, chúng đều do duyên sinh. Trải qua trăm ngàn vạn ức kiếp bị dục trói buộc, bây giờ dần dần mới thoát khỏi hết những trói buộc của hữu, những trói buộc của vô minh; tất cả đều không còn chứa nhóm nữa. Vì không chứa nhóm, nên đoạn trừ được tà tham, sân, si. Phật tử! Ví như vàng ròng mà được người thợ mài dũa, thì càng đẹp hơn, ánh sáng nó gấp bội. Bồ-tát cũng vậy trụ địa Minh không bị ba sự trói buộc, đoạn trừ tà tham, sân, si, căn lành dần tăng trưởng và sáng tịnh. Bồ-tát này đủ tâm nhẫn nhục; tâm nhu nhuyến, tâm mỹ diệu, tâm không hoại, không động, không ô trược, không cao thấp; tâm làm mọi việc mà không mong cầu báo đáp; ai làm gì cho mình dù nhỏ, cũng luôn có tâm báo đáp; tâm không dua nịnh, không nhiễm loạn, dần dần được sáng sạch. Lúc ấy, Bồ-tát ở trong bốn Nhiếp pháp, thực hành nhiều về ái ngữ và lợi hành. Trong mười Ba-la-mật, tu nhiều về Nhẫn nhục và Tinh tấn ba-la-mật. Các pháp trợ Bồ-đề khác cũng đều thông sáng. Phật tử! Đó là địa Minh, Địa thứ ba của Bồ-tát. Đại Bồ-tát, ở trụ địa này, thường làm Thích Đề-hoàn Nhân, trí tuệ nhanh lẹ, thường dùng nhân duyên phương tiện, chuyển hóa chúng sinh; làm cho chúng sinh lìa dâm dục, mọi việc làm lành như bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự đều không rời nghó về Phật, cho đến không rời nghó về cụ túc Nhất thiết chủng trí. Thường sinh tâm nghó: Bất cứ lúc nào, ở trong chúng sinh ta cũng là người đứng đầu, tôn quý, làm chỗ dựa cho tất cả chúng sinh. Vị ấy nếu siêng năng tu tập, thì chẳng bao lâu sẽ đạt mười vạn Tam-muội, cho đến việc có thể thị hiện được mười vạn Bồ-tát làm quyến thuộc, tùy nguyện lực thần thông tự tại không thể kể được. Dù trải qua trăm ngàn vạn ức na-do-tha kiếp cũng không thể đếm biết được. Lúc ấy, Bồ-tát Kim Cang Tạng muốn làm sáng tỏ lại nghóa trên, bèn nói kệ rằng: Bồ-tát dùng tâm này Đạt trụ Địa thứ ba Tâm tịnh, tâm chán xa Tâm lìa, tâm bất thoái Vững tâm, kham nhận tâm Tâm vui, tâm rộng lớn Dùng những tâm như vậy An nhập Địa thứ ba Bậc trí trụ địa Minh Quán các pháp hữu vi Bất tịnh, vô thường, khổ Vô ngã, tướng hư hoại Không có tánh chắc thật Không tồn tại, luôn diệt Suy xét biết như vậy Như bệnh và ung nhọt Bị tâm ái trói buộc Sinh các khổ ưu bi Chỉ vì ngọn lửa dữ Tham, sân, si thiêu đốt Từ vô thỉ đến nay Hừng hực không dừng nghỉ Bấy giờ, sinh nhàm chán Tất cả pháp ba cõi Tâm không hề tham chấp Pháp hữu vi: Giặc ác Chỉ cầu trí tuệ Phật Vô biên, vô hạn lượng Sâu xa khó nghó bàn Thanh tịnh, không khổ não Thấy trí Phật như vậy Không còn những khổ đau Thương yêu các chúng sinh Nghèo thiếu không phước tuệ Lửa ba độc luôn đốt Không một ai cứu hộ Đọa vào trong địa ngục Trăm thứ khổ bức não Kẻ phàm phu buông thả Chìm trong nhà phiền não Mù tối không thấy biết Mất của báu Phật, pháp Trôi theo dòng sinh tử Mà không hề lo sợ Đối với chúng sinh này Ta nên siêng độ thoát Siêng năng cầu trí tuệ Làm người đem lợi ích Suy nghó tìm cách gì Để cứu độ được chúng Chỉ có các Như Lai Trí vô ngại tốt, sâu Trí này từ đâu sinh Được sinh từ trí tuệ Suy xét trí tuệ này Siêng cầu pháp nghe nhiều Ngày đêm luôn tinh tấn Nghe nhận không lười chán Tụng đọc, ham thích pháp Chỉ có pháp là quý Vì mong cầu chánh pháp Đem những đồ châu báu Vợ con, người thân yêu Các quyến thuộc tùy tùng Đất nước hay xóm làng Những vật để nuôi sống Vui vẻ và ban cho Tâm không có tham tiếc Đầu, mắt, tai và mũi Lưới, răng, cùng tay chân Xương, thịt, thân và máu Tim, gan, cùng tủy, não Đem cho người tất cả Vẫn không xem là khó Muốn được nghe chánh pháp Mới là điều khó nhất! Giả sử có người nào Nói với Bồ-tát rằng: Nay ngươi hãy nhảy vào Đống lửa hừng hực kia Sau đó ta sẽ nói Phép của chư Phật dạy Nghe rồi liền vui mừng Tự nhảy vào đống lửa. Giả sử ngọn lửa dữ Đang đốt ngàn cảnh giới Từ cung trời rơi xuống Vẫn không cho là khó Chỉ cầu mong cầu một câu Pháp chư Phật thuyết giảng Cứu độ người khổ não Được việc đó mới khó Từ lúc mới phát tâm Đến lúc thành Phật đạo Trong khoảng thời gian ấy Hết bao nhiêu kiếp số Vì mong cầu giáo pháp Chịu khổ ngục A-tỳ Huống là ở cõi người Chỉ chịu khổ nhỏ nhặt Nhờ nhân duyên nghe pháp Phát sinh các thiền định Các Tam-muội sâu xa Và năm thứ thần thông Tuần tự phát khởi hết Tự tại không tùy sinh. Bồ-tát trụ địa này Dùng tâm ý quyết định Thường cúng dường chư Phật Nghe nhận những giáo pháp Đoạn tà kiến sân hận Các phiền não giảm bớt Giống như luyện vàng ròng Điều hòa được vừa ý Bồ-tát trụ Địa này Phước đức đầy tràn kho Thường làm vua Đao-lợi Tự tại độ kẻ dục Vì thích công đức Phật Hóa độ vô lượng chúng Làm cho chúng an trụ Trong Phật đạo Vô thượng. Siêng năng mà tu tập Đạt trăm ngàn Tam-muội Được gặp các Đức Phật Thân trang nghiêm tướng tốt Tâm chí dần lanh lợi Nguyện lực được thù thắng Luôn luôn vì chúng sinh Siêng làm những việc tốt Phân biệt giảng thuyết đó Địa thứ ba địa Minh.  <詞 id="113328957">Phẩm 4: ĐỊA DIỆM Các Phật tử nghe giảng Tướng nghóa, Địa thứ ba Sâu xa không hạn lượng Đều vui mừng khôn tả Rải các loại hoa thơm Cúng dường các Như Lai Đất rộng và biển lớn Đều chấn động rền vang Các ngọc nữ cõi trời Đang ở trong hư không Cùng cất tiếng vi diệu Khen pháp tối thượng này Tha hóa tự tại vương Nghe được rất vui mừng Làm mưa báu ma-ni Rải cúng dường Đức Phật Vui mừng khen ngợi rằng Hay thay! Phật ra đời Kho công đức ban cho Lợi ích khắp chúng ta Nay ta đã được nghe Tướng nghóa Bồ-tát địa Việc này trăm ngàn kiếp Khó nghe, lại được nghe Xin giảng thuyết địa sau Lợi ích trời và người Tất cả muốn được nghe Đạt hành tướng các địa Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt Lại thỉnh Kim Cang Tạng Xin vì các Bồ-tát Thuyết hạnh Địa thứ tư. Lúc ấy, Bồ-tát Kim Cang Tạng, nói với Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt: –Phật tử! Các Đại Bồ-tát đã đầy đủ hạnh thanh tịnh của Địa thứ ba rồi, muốn đạt Địa thứ tư, phải dùng mười pháp môn sáng để nhập. Mười pháp đó là gì? 1.Suy xét tánh chúng sinh. 2.Suy xét tánh của pháp. 3.Suy xét tánh của thế giới. 4.Suy xét tánh của hư không. 5.Suy xét tánh của thức. 6.Suy xét tánh của cõi dục. 7.Suy xét tánh của cõi sắc. 8.Suy xét tánh cõi vô sắc. 9.Suy xét tánh của vui vẻ tin hiểu. 10.Suy xét tánh của tâm lớn. Các Phật tử! Bồ-tát nhờ mười pháp môn sáng này mà từ Địa thứ ba được nhập Địa thứ tư. Các Phật tử! Đại Bồ-tát được địa Diệm thứ tư, thì được ở nhà Như Lai, dần dần có nhiều uy lực, đạt nội pháp, có mười loại trí. Mười trí đó là gì? 1.Tâm không thoái chuyển. 2.Đạt trí rốt ráo thanh tịnh, có tâm tin Tam bảo không hư hoại. 3.Tu tập quán pháp sinh diệt. 4.Tu tập quán các pháp từ xưa đến nay vốn không sinh. 5.Tu tập biết hoàn chuyển hạnh thế gian. 6.Tu tập biết do nghiệp mà thọ sinh. 7.Tu tập biết phân biệt sự sai khác của sinh tử. 8.Tu tập biết nghiệp sai khác của chúng sinh. 9.Tu tập biết sự sai khác đời trước, đời sau. 10.Tu tập biết các hành ở hiện tại luôn diệt, không trụ. Nhờ mười tâm trí này mà được sinh vào nhà của Phật, dần dần có uy lực. Lại nữa, các Phật tử! Đại Bồ-tát trụ Địa thứ tư, quán nội thân, toàn thân, siêng năng nhất tâm trừ tham ưu của thế gian. Quán ngoài thân, toàn thân; siêng năng nhất tâm trừ tham ưu của thế gian. Quán thọ bên trong, thọ bên ngoài, thọ bên trong bên ngoài; tâm bên trong, tâm bên ngoài, tâm bên trong, ngoài, pháp bên trong, pháp bên ngoài, pháp bên trong bên ngoài; quán toàn pháp, siêng năng nhất tâm trừ tham ưu thế gian. Bồ-tát này, siêng năng phát tâm chân chánh, không cho những pháp ác bất thiện chưa sinh phát sinh; phát tâm tinh tấn chân chánh, đoạn trừ những pháp ác đã sinh; siêng năng phát tâm chân chánh làm phát sinh những pháp lành chưa sinh; siêng năng phát tâm chân chánh an trụ không mất và làm tăng trưởng rộng lớn những pháp lành đã sinh. Bồ-tát này tu hành bốn Như ý phần: Thành tựu dục định đoạn hành như ý phần; chỗ nương tựa yểm, ly, diệt, hồi hướng bằng xả, thành tựu tinh tấn định đoạn như ý phần; thành tựu tâm định đoạn hành như ý phần; thành tựu tư duy định đoạn hành như ý phần; chỗ nương tựa yểm, ly, diệt, hồi hướng bằng xả. Bồ-tát này tu hành tín căn, chỗ nương tựa yểm, ly, diệt, hồi hướng bằng xả; tu hành tinh tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn, chỗ nương tựa yểm, ly, diệt, hồi hướng bằng xả; Bồ-tát này tu hành niệm giác phần, chỗ nương tựa yểm, ly, diệt, hồi hướng bằng xả; tu hành trạch pháp, tinh tấn, hỷ, trừ, định, xả giác phần, chỗ nương tựa yểm, ly, diệt, hồi hướng bằng xả. Bồ-tát này tu hành chánh kiến, chỗ nương tựa yểm, ly, diệt, hồi hướng bằng xả; tu hành chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định, chỗ nương tựa yểm, ly, diệt, hồi hướng bằng xả. Bồ-tát tu hành không bỏ tâm chúng sinh, nhờ sức bản nguyện, lấy tâm đại Bi làm đầu, thực hành cùng tâm đại Từ mà thâu nhiếp Nhất thiết trí, nghiêm trang cõi Phật, có đủ các Lực, Vô úy, pháp Bất cộng, ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của Phật; đầy đủ âm thanh; tùy thuận pháp giải thoát sâu xa của Phật mà suy xét phương tiện trí tuệ lớn để tu hành. Các Phật tử! Đại Bồ-tát trụ ở địa Diệm, thì những thân kiến, ngã, chúng sinh, nhân, thọ, người biết, người thấy, năm ấm, mười hai nhập, mười tám giới, đối với sự đứng lên, co, duỗi, ra, vào, tìm cầu tâm sở hành, ái trước vật báu, coi trọng sở kiến, là nơi quy thú, là bến bãi đều đoạn trừ hết. Bồ-tát càng thêm tinh tấn, tùy sự tu hành pháp trợ đạo mà trí tuệ phương tiện phát sinh; tâm dần dần được nhu hòa, chịu đựng hữu ích; tâm không lười mỏi, cầu pháp cao thượng, trí tuệ thêm lớn, cứu tất cả thế gian, tùy thuận Pháp sư, cung kính thọ giáo, thực hành theo lời dạy. Lúc ấy, Bồ-tát biết ân, báo ân, tâm dần dần hòa thiện, ở trong sự an lạc; có tâm ngay thật, nhu nhuyến, không tà vạy; hành hạnh chánh định, không kiêu mạn; uyển chuyển lời lẽ, tùy thuận dạy dỗ, người nghe vừa ý; đầy đủ tâm thiện, tâm nhu nhuyến, tâm tịch diệt, tâm nhẫn nhục như vậy; rồi suy xét tu hành các pháp Tịnh địa. Lúc này, Bồ-tát thành tựu tinh tấn không thoái chuyển: Tinh tấn không bỏ, tinh tấn không hoại, tinh tấn không chán, tinh tấn không lười mỏi; tinh tấn rộng lớn, tinh tấn vô biên mãnh lợi, tinh tấn vô đẳng đẳng, tinh tấn cứu tất cả chúng sinh; tinh tấn phân biệt đúng đạo, trái đạo. Bồ-tát này tâm trí thanh tịnh, không mất tâm sâu xa, tin hiểu sáng suốt, các căn lành tăng trưởng, xa lìa cấu trược của thế gian; bất tín, nghi, hối đều chấm đứt, không nghi, không hối, thành tựu đầy đủ các pháp ấy, không chán bỏ những việc lớn, tin hiểu Phật pháp, tự nhiên an lạc, luôn có tâm vô lượng. Bồ-tát trụ Địa thứ tư địa Diệm này, thấy được trăm ngàn vạn ức na-do-tha Phật; cung kính, tôn trọng, ngợi khen, cúng dường y phục, thức ăn uống, ngọa cụ, thuốc men; gần gũi chư Phật, nhất tâm nghe pháp, nghe rồi tin tưởng phụng hành, thường ở chỗ Phật xuất gia tu đạo. Bồ-tát này tâm an lạc, sâu xa, thanh tịnh, tin hiểu, bình đẳng, ngày thêm sáng suốt, sống lâu trăm ngàn vạn ức na-do-tha kiếp, căn lành ngày đêm tăng trưởng. Các Phật tử! Ví như vàng ròng mà làm đồ trang sức thì những đồ khác không bằng. Đại Bồ-tát cũng vậy, trụ ở địa Diệm này thì các căn lành ngày thêm sáng suốt, các Bồ-tát ở địa dưới không bằng. Ví như ngọc ma-ni, ánh sáng trong suốt chiếu khắp bốn phương, các trân bảo khác không bằng, dù bị ngấm nước mưa, ánh sáng vẫn không mất. Bồ-tát cũng vậy, trụ ở địa Diệm thì các Bồ-tát ở địa dưới không sánh bằng. Tất cả các loại ma chướng, phiền não đều không thể hủy hoại trí tuệ của vị này. Các Phật tử! Đó là lược nói Địa thứ tư địa Diệm của Đại Bồ-tát. Đại Bồ-tát trụ ở địa này, thường làm Thiên vương Dạ-ma, giáo hóa nhiều chúng sinh, phá trừ tâm chấp ngã, tu tập thiện nghiệp như bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự; đều không rời niệm Phật, không rời niệm và không rời niệm các đại Bồ-tát là bạn pháp; cho đến không rời niệm cụ túc Nhất thiết chủng trí. Luôn nghó: Bất cứ lúc nào, ở trong chúng sinh cũng luôn là người đứng đầu, người tôn quý, cho đến làm chỗ nương tựa cho tất cả chúng sinh. Đại Bồ-tát này, nếu siêng năng tu tập, thì trong khoảnh khắc, đạt trăm ức Tam-muội, thị hiện được trăm ức Bồ-tát quyến thuộc. Nếu dùng nguyện lực, tự tại thị hiện, thì hơn cả số này, tới trăm ngàn vạn ức na-do-tha, không sao kể hết được. Lúc ấy, Bồ-tát Kim Cang Tạng muốn nêu lại nghóa trên, nên nói kệ rằng: Các Bồ-tát đầy đủ Tu tập địa Minh rồi Quán tánh của chúng sinh Tánh pháp, tánh ba cõi Tánh hư không, tánh thức Tin hiểu, tánh ba cõi Tâm thanh tịnh sâu xa Nhập trụ Địa thứ tư Ở trong nhà Như Lai Dần dần được uy lực Không thoái chuyển Phật đạo Không hoại tin Tam bảo Quán sinh, diệt, vô tác Biết vận chuyển thế gian Từ nghiệp nên mới có Sinh tử khác Niết-bàn Biết nghiệp của chúng sinh Quán pháp lúc trước sau Không trụ tướng thường đoạn Mạnh mẽ ở nhà Phật Các Đại Bồ-tát này Đã đạt những pháp đó Thương yêu các chúng sinh Tu thân, thọ, tâm, pháp Trong ngoài bốn Niệm xứ Nương tựa nơi yểm ly Và nương tựa tịch diệt Hồi hướng về Niết-bàn Vì trừ diệt pháp ác Thiện pháp được tăng trưởng Tu hành bốn Chánh pháp Và bốn phần Như ý Phụng vì năm Căn, Lực Tám Chánh, bảy Giác ý Tu tập các pháp ấy Đều là vì chúng sinh Tâm Từ bi làm gốc Hộ trợ cho bản nguyện Mong cầu Nhất thiết trí Thanh tịnh các cõi Phật Đủ công đức mười Lực Vô úy, pháp Bất cộng Các âm thanh ngôn thuyết Pháp đạo sâu vi diệu Và giải thoát vô ngại Phương tiện đại trí tuệ Theo thân kiến làm gốc Có sáu hai tà kiến Chúng sinh kiến, nhân kiến Mạng kiến và tri kiến Đối với ấm giới nhập Là chỗ sinh tham chấp Đạt Địa thứ tư này Đoạn trừ hết tất cả Tùy đoạn nghiệp phiền não Tâm cũng được tịnh theo Tu tập các nghiệp lành Đều vì cứu thế gian Bồ-tát tâm nhu nhuyến Luôn sống không buông thả Tâm chịu đựng, chánh trực Tâm cầu lợi chúng chánh Làm những việc như vậy Đều vì đạo vô thượng Đấng có trí tuệ lớn Làm lợi ích thế gian Thâm tâm kính dưỡng sư Vui tu theo lời dạy Biết ân và báo ân Chuyển hóa không sân hận Không có tâm tà vạy Cùng vui vẻ, nhu hòa Tu tập các pháp ấy Tinh tấn không thoái chuyển Bồ-tát trụ địa này Thâm tâm và trực tâm Tinh tâm và tin hiểu Ngày càng thêm sáng tịnh Tăng trưởng các căn lành Pháp nghi, hối, cấu, trược Tất cả mọi pháp ấy Đều trừ diệt không còn Các Bồ-tát an trụ Địa thứ tư địa Diệm Gặp được vô lượng Phật Học hỏi lãnh thọ pháp Lại ở chỗ chư Phật Xuất gia không ai hoại Như vàng ròng trang sức Các thứ khác không bằng Bồ-tát trụ địa này Công đức tâm sâu xa Trí tuệ và phương tiện Thực hành đạo thanh tịnh Cho dù ngàn ức ma Đều không thể hủy hoại Như minh châu vi diệu Không bị nước mưa hoại Bồ-tát trụ địa này Được trời người cúng dường Thường làm vua Dạ-ma Chuyển hóa kẻ tà kiến Tu tập các nghiệp lành Đều vì trí tuệ Phật Tâm luôn luôn vững chãi Không ai lay chuyển được Nếu siêng năng tu tập Đạt trăm ức Tam-muội Gặp được trăm ức Phật Nguyện lực thì hơn đây Trụ Địa thứ tư này Thanh tịnh tên là Diệm Đủ vô lượng phước đức Nay đã giảng nói xong.  <詞 id="113328958">Phẩm 5: ĐỊA NAN THẮNG Các Bồ-tát nghe được Hành pháp Địa thứ tư Tâm vui mừng khôn tả Không thể nào đo lường Trời mưa các hoa báu Lả tả như tuyết rơi Đều khen ngợi: Hay thay! Bồ-tát Kim Cang Tạng Tha-hóa-tự-tại vương Và vô số quyến thuộc Đang ở trong hư không Đều phát tâm vui vẻ Phóng các ánh sáng đẹp Trổi kỹ nhạc cõi trời Khen ngợi công đức Phật Và các hàng Bồ-tát Các ngọc nữ cõi trời Đều dùng tiếng vi diệu Đồng thanh khen ngợi Phật Bằng lời lẽ như vầy: Thế Tôn từ lâu xa Cần khổ mà thệ nguyện Đạo Vô thượng Chánh chân Đến nay mới đạt được Đấng lợi ích trời người Từ lâu nay mới gặp Phật Thích-ca Mâu-ni Nay đã đến cõi trời Từ lâu xa đến nay Mới có tướng biến động Từ lâu xa đến nay Mới có được an lạc Mới phóng ánh sáng diệu Chúng sinh từ lâu nay Từ lâu mới được nghe Tiếng phước đức từ bi Công đức vượt bờ kia Lâu xa mới được gặp Thánh vương có thể phá Tâm chấp ngã kiêu mạn Đấng siêu việt đáng cúng Nay mới được cúng dường Khai mở đạo chư Phật Khiến đạt Nhất thiết trí Thế Tôn rất thanh tịnh Vô lượng như hư không Chẳng nhiễm pháp thế gian Như hoa sen trong bùn Đấng tối cao trong đời Như núi chúa Tu-di Như trong biển rộng lớn Cho nên mừng đảnh lễ Các Thiên nữ như vậy Đều dùng lời vi diệu Tâm cung kính khen ngợi Im lặng chiêm ngưỡng Phật Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt Thưa với Kim Cang Tạng Bồ-tát đạt năm Địa Tướng mạo, nhân duyên gì? Đại Bồ-tát Kim Cang Tạng nói với Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt: –Phật tử! Các Đại Bồ-tát đã đầy đủ ở Địa thứ tư, muốn đạt Địa thứ năm, phải dùng mười tâm bình đẳng. Mười tâm đó là gì? 1.Pháp chư Phật ở quá khứ bình đẳng. 2.Pháp chư Phật ở vị lai bình đẳng. 3.Pháp chư Phật ở hiện tại bình đẳng. 4.Tịnh giới bình đẳng. 5.Tâm tịnh bình đẳng. 6.Trừ, kiến, nghi, hối, thanh tịnh bình đẳng. 7.Biết đạo, phi đạo thanh tịnh bình đẳng. 8.Hành tri kiến thanh tịnh bình đẳng. 9.Tăng trưởng thanh tịnh các pháp Bồ-đề phần bình đẳng. 10.Hóa độ chúng sinh thanh tịnh bình đẳng. Phật tử! Đại Bồ-tát, dùng mười tâm thanh tịnh bình đẳng này, nhập Địa thứ năm, khéo tu pháp Bồ-đề, tâm sâu xa thanh tịnh, cầu đạo thù thắng, nên đạt được Phật đạo. Bồ-tát này được nguyện lực lớn, dùng tâm Từ bi không bỏ tất cả chúng sinh, đạt được uy lực của đạo lý tâm tuệ, tu tập phước tuệ, không bỏ phương tiện; muốn được địa thù thắng ở trên, sáng suốt quán sát pháp, nhẫn được thần lực của chư Phật hộ niệm, phát sinh tâm kiên định không thoái chuyển. Biết đúng như thật đây là Khổ thánh đế, Khổ tập đế, Khổ diệt đế, cho đến Khổ diệt đạo đế. Bồ-tát này khéo biết Thế đế; khéo biết Đệ nhất nghóa đế, tướng đế, sai biệt đế, thị thành đế, sự đế, sinh khởi đế, tận vô sinh đế; khéo biết nhập đạo đế, tuần tự thành tựu các địa của Bồ-tát. Khéo biết tu tập trí đế Như Lai. Lúc ấy, Bồ-tát thường an trụ Nhất thừa nên khéo biết Đệ nhất nghóa đế, tùy tâm chúng sinh khiến chúng vui vẻ. Biết thế đế vì phân biệt tự tướng của các pháp. Biết tướng đế vì các pháp đều sai khác. Biết sai biệt đế vì phân biệt ấm, giới, nhập. Biết thị thành đế vì thân tâm khổ não. Biết khổ đế vì các đạo sinh liên tục. Biết Tập đế vì rốt ráo diệt trừ hết các phiền não. Biết diệt đế vì phát khởi pháp không hai. Biết đạo đế vì Nhất thiết chủng trí. Biết thứ tự các pháp, thành tựu các địa của Bồ-tát. Khéo biết sự tu tập trí đế Như Lai vì có sức tin hiểu. Biết phi đắc vô tận đế trí. Bồ-tát dùng những đế trí ấy, để biết đúng như thật tất cả pháp hữu vi là hư giả lừa dối, là tướng hư hoại, giả dối, không tồn tại lâu, mê hoặc kẻ phàm phu. Lúc ấy, đối với chúng sinh, tâm đại Bi của Bồ-tát, dần dần tăng trưởng và ngay trước mắt phóng ánh sáng đại Từ, đạt sức trí tuệ như vậy; không bỏ chúng sinh, luôn cầu trí tuệ của Phật. Quán sát như thật về các pháp hữu vi ở quá khứ, vị lai. Biết chúng sinh từ xưa vì vô minh, hữu, ái nên lưu chuyển trong sinh tử, không thay đổi được năm ấm, lại làm thêm lớn nhóm phiền não. Trong những thứ đó không có ngã, ngã sở, chúng sinh, nhân, người biết, thọ mạng; vị lai cũng như vậy, đều là không sở hữu; nhưng vì ngu si tham chấp không dứt được, không biết vô biên hữu xuất, vô xuất. Lúc ấy, Bồ-tát nghó: Chúng sinh phàm phu thật kì lạ, vì vô minh ngu si nên có vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ thân đã diệt, đang diệt, sẽ diệt, cứ thế luôn chịu sinh tử, không thể đối với thân sinh tưởng viễn ly, dần dần làm tăng trưởng bộ máy khổ ở thân, làm cho thân luôn trôi nổi trong dòng sinh tử, không quay lại được; không bỏ năm ấm, không thể rời xa, không sợ rắn độc bốn đại, không nhổ được mũi tên kiêu mạn tà kiến, không dập tắt ngọn lửa tham, sân, si, không hủy hoại được vô minh ngu tối, không làm khô được biển lớn ân ái, không cầu đấng Đạo sư Thánh giả đủ mười Lực; mà luôn chạy theo tâm ma, ở trong thành sinh tử, bị các giác quán ác chuyển hóa. Những chúng sinh khổ não nghèo thiếu đơn độc đó, không ai cứu hộ, không có nơi nương tựa, không biết con đường đi tới cứu cánh! Chỉ có ta, không ai khác phải tu tập phước đức trí tuệ; dùng hành trang này làm cho chúng sinh trụ trong chỗ rốt ráo thanh tịnh, rồi làm cho chúng sinh đạt được trí lực vô ngại của Phật ở trong tất cả pháp. Suy xét quán sát đúng như vậy, nên trí lực theo đó phát sinh; phát nguyện tu tập tất cả căn lành là đều vì độ sinh, vì chúng sinh mà làm việc tốt, làm việc an lạc, làm việc lợi ích cho chúng sinh; vì giải thoát chúng sinh, vì diệt khổ não thô ác của chúng sinh, vì thanh tịnh tâm chúng sinh, vì điều phục, vì diệt tất cả khổ não và làm mãn nguyện chúng sinh. Lúc này, Bồ-tát trụ trong Địa thứ năm Nan thắng. Vì không quên các pháp nên gọi là niệm. Vì trí tuệ quyết định nên gọi là trí. Vì biết thứ tự của ý kinh nên gọi là hữu đạo. Vì tự hộ, hộ tha nên gọi là có hổ thẹn. Vì không bỏ giữ giới nên gọi là tâm bền vững. Vì khéo suy xét thị xứ, phi xứ nên gọi là giác. Vì không tùy thuận người khác nên gọi là tùy trí. Vì khéo phân biệt thật nghóa chương cú của các pháp nên gọi là tùy tuệ. Vì khéo tu Thiền định nên gọi là đạt thần thông. Vì tùy pháp thế gian mà thực hành nên gọi là phương tiện. Vì khéo tu tập hành trang phước đức, nên gọi là không đủ chán. Vì thường cầu nhân duyên trí tuệ, nên gọi là không bỏ. Vì tu tập nhân duyên đại Từ đại Bi, nên gọi là không lười mỏi. Vì ý luôn chánh niệm, nên gọi là xa lìa phá giới. Vì dùng tâm sâu xa cầu mười Lực, bốn Vô sở úy, mười tám pháp Bất cộng của Phật; nên gọi là luôn niệm Phật pháp. Vì thường khiến chúng sinh bỏ ác tu thiện, nên gọi là trang nghiêm cõi Phật. Vì trồng các phước đức trang nghiêm, ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp; nên gọi là hành đủ tất cả thiện nghiệp. Vì cầu thân, khẩu, ý trang nghiêm của Phật, nên gọi là siêng năng tu tập. Vì cúng dường tất cả Bồ-tát thuyết pháp, nên gọi là vui vẻ cung kính. Đối với tất cả phương tiện ở thế gian. Bồ-tát có tâm không san ngại, nên gọi là vô ngại. Vì luôn thích giáo hóa chúng sinh, nên gọi là ngày đêm xa lìa những tâm khác. Lúc ấy, Bồ-tát hành bố thí là vì giáo hóa chúng sinh; hành ái ngữ, lợi ích, đồng sự cũng vì giáo hóa chúng sinh; thị hiện sắc thân cũng vì giáo hóa chúng sinh; thuyết pháp cũng vì giáo hóa chúng sinh; thị hiện những hạnh nghiệp của Bồ-tát cũng là để giáo hóa chúng sinh; thị hiện việc lớn của Phật cũng là để giáo hóa chúng sinh; thị hiện tội ác sinh tử cũng là để giáo hóa chúng sinh; thị hiện trí tuệ lợi ích của chư Phật cũng là để giáo hóa chúng sinh. Bồ-tát tu tập như vậy dùng đại thần lực, đủ các nhân duyên, phương tiện cũng là để giáo hóa chúng sinh. Bồ-tát này, tuy dùng đủ các thứ nhân duyên phương tiện; nhưng tâm luôn đặt ở trí Phật, không lui không mất căn lành, lại luôn cầu pháp lợi ích thù thắng cho chúng sinh. Vị này, vì tạo lợi ích cho chúng sinh, nên làm mọi việc của thế gian; như kinh thơ, kỹ nghệ, văn chương, toán số, danh tánh kinh sách; sách trị bệnh khô gầy, bệnh trẻ thơ, quỷ nhập, trùng độc, ung nhọt, hoặc các kinh sách về kỹ nhạc, ca múa, vui chơi hoan lạc; đất nước, xóm làng, nhà cửa, vườn quán, ao suối, hoa trái, cỏ cây, vàng bạc, ma-ni, san hô, hổ phách, xa cừ, mã não, các thứ trân bảo, mặt trăng, mặt trời, năm sao, hai mươi tám vì sao, xem tướng tốt xấu, tướng lạ, sách mộng, động đất; các tướng trong thân, bố thí, trì giới, nhiếp phục tâm, thần thông, thiền định, bốn Thiền, bốn Vô lượng tâm, bốn Định vô sắc; tất cả những việc không làm hại chúng sinh, đem an lạc cho chúng sinh. Vì thương xót chúng sinh, nên làm những việc này, khiến cho chúng sinh nhập pháp vô thượng của chư Phật. Bồ-tát trụ địa Nan thắng này, gặp được trăm ngàn vạn ức Phật; tôn trọng, cung kính, ngợi khen, cúng dường y phục, thức ăn uống, ngọa cụ, thuốc men, gần gũi nghe pháp. Nghe pháp rồi xuất gia, xuất gia rồi lãnh thọ kinh pháp của Phật, làm Pháp sư thuyết pháp lợi ích, càng học rộng hiểu nhiều, chứa nhóm Tam-muội, cho dù trải qua trăm ngàn vạn ức kiếp, vẫn không quên việc này. Lúc này tất cả căn lành phước đức của Bồ-tát dần dần tăng trưởng, sáng trong. Phật tử! Ví như luyện vàng ròng, dùng xa cừ mài dũa ánh sáng càng rực rỡ. Bồ-tát trụ ở địa này, vì sức phương tiện trí tuệ nên công đức lành càng thanh tịnh thù thắng, các địa dưới không thể sánh bằng. Lại như mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao, cung điện cõi trời dù bị phong luân đưa đi nhưng không mất pháp đã độ. Phật tử! Bồ-tát cũng thế, trụ ở địa Nan thắng, vì tư duy phương tiện nên phước đức căn lành ngày càng thêm bội phần thù thắng, nhưng không thủ chứng cũng không vội thành Phật. Các Phật tử! Nay đã lược nói địa Nan thắng của Bồ-tát, Đại Bồ-tát trụ ở địa này, thường làm vua cõi trời Đâu-suất-đà, các căn lanh lẹ, hàng phục được tất cả ngoại đạo. Tu tập những nghiệp lành như bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự, đều không rời niệm Phật niệm pháp, niệm chúng Bồ-tát là bạn, cho đến không rời niệm Cụ nhất thiết chủng trí. Lại nghó: Bất cứ lúc nào, ở đâu, trong chúng sinh; ta luôn là người đứng đầu, người tôn quý, luôn làm chỗ nương tựa cho chúng sinh. Các Phật tử! Các Bồ-tát này nếu siêng năng tu tập, thì trong khoảnh khắc sẽ đạt được ngàn ức Tam-muội, và thị hiện được ngàn ức Bồ-tát làm quyến thuộc. Nếu dùng nguyện lực và thần lực tự tại, thì hơn số này đến trăm ngàn vạn ức lần không thể biết được. Lúc ấy, Bồ-tát Kim Cang Tạng muốn làm cho rõ lại nghóa trên, nên nói kệ rằng: Bồ-tát đã đầy đủ Pháp hành Địa thứ tư Suy xét Phật ba đời Giới và tâm bình đẳng Trừ các kiến, nghi, hối Hành đạo cùng phi đạo Quán các pháp bình đẳng Được nhập Địa thứ năm Bốn Niệm xứ là cung Các căn là tên nhọn Bốn Chánh cần là ngựa Bốn Như ý là xe Năm Lực là áo giáp Phá các giặc phiền não Mạnh mẽ không thoái chuyển Nhập thẳng Địa thứ năm Áo hổ thẹn không nhơ Tịnh giới là hương thơm Thất giác là vòng hoa Thiền định là hương xoa Trí tuệ cùng phương tiện Trang nghiêm bằng các niệm Như vậy là được vào Vườn rừng Đà-la-ni Bốn Như ý là chân Chánh niệm là đỉnh đầu Từ bi mắt sáng sạch Trí tuệ lợi là răng Không, tiếng gầm vô ngã Phá các giặc phiền não Đấng Sư tử cõi người Nhập được Địa thứ năm Bồ-tát này đã đến Trụ Địa thứ năm rồi Dần tu pháp thắng tịnh Đều là vì Phật đạo Luôn hành tâm Từ bi Chưa bao giờ lười chán Chỉ vì sự tu tập Hành pháp Địa thứ năm Chuyên tu hai tư lương Phước đức và trí tuệ Dùng các sức phương tiện Muốn được pháp quán sáng Luôn được Phật ủng hộ Thành tựu các niệm tuệ Tuần tự quán sát rõ Biết như thật các đế Đệ nhất đế, thế đế Sai biệt đế, thành đế Quán sát các đế đó Tâm thanh tịnh vi diệu Tuy là chưa đạt được Giải thoát vô chướng ngại Nhưng vì có trí tuệ Và có sức tin tưởng Vượt qua hết tất cả Trí tuệ của thế gian Quán các đế như vậy Biết hết pháp hữu vi Hư dối và lường gạt Chẳng kiên cố, chắc thật Đạt ánh sáng Từ bi Của các Đức Như Lai Chỉ vì các chúng sinh Chuyên tâm cầu tuệ Phật Biết trước sau hữu vi Chúng sinh thật đáng thương Đọa trong tối vô minh Bị ái và duyên buộc Bồ-tát này nhổ được Khổ não của thế gian Biết pháp không người thọ Giống như những cây cỏ Chúng sinh thường vì hai Nhân duyên phiền não đó Từ đời trước đến nay Đời sau cũng như vậy Liên tục không dứt đoạn Không chấm dứt hết khổ Phát tâm thương yêu chúng Và độ thoát chúng sinh Không vượt nhà năm ấm Chẳng sợ bốn hại lớn Không nhổ tên tà kiến Không tắt lửa ba độc Không phá tối vô minh Sẽ rơi biển ái lớn Chẳng có trí tuệ sáng Vì lìa bậc Đạo sư Biết các việc như vậy Ngày thêm siêng năng hơn Nếu khởi nghiệp tạo tác Đều vì độ chúng sinh Thường niệm tuệ chân chánh Tu đạo biết hổ thẹn Tâm trí tuệ bền vững Ngày thêm tăng trưởng hơn Tu phước tuệ không chán Giữ giới chẳng yếu kém Nghe nhiều chẳng mỏi mệt Chánh tu tịnh cõi Phật Gieo tướng tốt, tiếng hay Nhân duyên không chán đủ Làm tất cả thiện nghiệp Đều vì lợi chúng sinh Chỉ vì lợi thế gian Sáng tác những kinh sách Thuốc chữa trị các bệnh Và vui chơi ca múa Lầu gác cùng vườn rừng Y phục và thức ăn Thị hiện các trân bảo Để chúng sinh vui mừng Xem trăng, trời, năm sao Hai mươi tám sao khác Đất động, tướng tốt xấu Sách đoán mộng việc lạ Bố thí và giữ giới Lìa dục, tu thiền định Bốn vô lượng thần thông Vì an lạc thế gian Bồ-tát trí tuệ lớn Đạt địa Nan thắng này Cúng dường ngàn ức Phật Theo Phật nghe thọ pháp Tu tập các căn lành Đều được thanh tịnh sáng Ví như ngọc xà cừ Vàng ròng được mài dũa Lại như cung điện báu Theo phong luân không mất Không nhiễm lợi thế gian Như hoa sen trong bùn Bồ-tát trụ địa này Thường làm Đâu-suất vương Các căn đều nhậm lẹ Phá tà kiến, ngoại đạo Tạo ra các nghiệp lành Đều nhờ trí tuệ Phật Đạt Phật lực, vô úy Độ thoát các chúng sinh Bồ-tát này siêng tu Thêm sức lớn tinh tấn Đạt được ngàn vạn ức Tam-muội thật vi diệu Cúng dường ngàn ức Phật Chấn động ngàn thế giới Tùy nguyện lực của mình Hơn số đó vô lượng Địa thứ năm như vậy Đủ các loại phương tiện Bậc Thượng nhân đại trí Như pháp đã thuyết xong. q KINH THẬP TRỤ <卷 id="113328959">Quyển 3 <詞 id="113328960">Phẩm 6: ĐỊA HIỆN TIỀN Các Bồ-tát nghe nói Hành tướng của địa trên Đang ở trong hư không Mưa các loại hoa quý Phóng ánh sáng thanh tịnh Cúng dường Đấng Thế Tôn Đều khen ngợi: Hay thay! Hay thay! Kim Cang Tạng Lại có vô lượng ức Chư Thiên tâm hoan hỷ Đang ở trong hư không Làm mưa hương vị diệu Ánh sáng đẹp xen lẫn Thơm dịu thật đáng ưa Các hoa thơm ánh lạc Cờ lọng cúng dường Phật Tha-hóa-tự-tại vương Và các hàng quyến thuộc Mưa các loại báu vật Lả tả như tuyết rơi Ngợi khen cúng dường Phật Ca tụng Kim Cang Tạng Đều nói: Hay thay! Hay thay! Vui giảng thuyết. Ngàn vạn ức Thiên nữ Đang ở trong hư không Trỗi các âm nhạc trời Khen ngợi công đức Phật Đều đồng thanh nói: Giáo pháp của Như Lai Vi diệu không hạn lượng Diệt trừ các phiền não Tánh các pháp vốn không Không có một tướng nào Trống rỗng, chẳng phân biệt Giống như là hư không Không có tướng đi đứng Cũng không có hý luận Xưa nay thường thanh tịnh Như hư không phân biệt Người nào không đạt được Tánh của tất cả pháp Ở trong hữu trong vô Tâm không hề dao động Chỉ dùng tâm đại Bi Độ thoát các chúng sinh Đó là các Phật tử Sinh từ khẩu Phật pháp Thường tu tập bố thí Lợi ích các chúng sinh Xưa nay tuy thiện, tịnh Kiên tâm giữ tịnh giới Tuy biết pháp không hại Nhưng tu tập nhẫn nhục Tuy biết pháp tánh lìa Nhưng tu hạnh tinh tấn Tuy đã diệt phiền não Nhưng vẫn nhập thiền định Tuy đã hiểu pháp không Nhưng vẫn phân biệt pháp Tuy đủ trí tịch diệt Nhưng cầu lợi thế gian Diệt trừ mọi pháp ác Gọi là bậc đại nhân Thiên nữ cõi trời ấy Dùng trăm ngàn tiếng hay Khen ngợi ca tụng xong Đều im lặng nhìn Phật. Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt Thưa với Kim Cang Tạng Nên dùng tướng mạo gì Thành tựu Địa thứ sáu? Bồ-tát Kim Cang Tạng nói: –Này các Phật tử! Các Đại Bồ-tát đã đầy đủ hạnh của Địa thứ năm, muốn nhập Địa thứ sáu, phải dùng mười pháp bình đẳng để nhập. Mười pháp đó là gì? 1. Vô tánh. 2. Vô tưởng. 3. Vô sinh. 4.Vô diệt. 5. Xưa nay thanh tịnh. 6. Không hý luận. 7.Không thủ xả. 8. Xa lìa. 9. Như mộng huyễn. 10. Có không chẳng hai. Các Phật tử! Các Đại Bồ-tát đã đầy đủ hạnh của Địa thứ năm, dùng mười pháp bình đẳng này tức nhập Địa thứ sáu. Các Phật tử! Đại Bồ-tát quán tánh của tất cả pháp như vậy thì có khả năng chịu đựng, tùy thuận đạt Địa thứ sáu. Vô sinh pháp nhẫn tuy chưa hiện tiền nhưng tâm đã sáng suốt lanh lợi, thành tựu thuận nhẫn. Bồ-tát này quán tướng của tất cả các pháp như vậy, dùng đại Bi làm đầu, tăng trưởng đầy đủ, lại vượt lên quán sát tướng sinh diệt của thế gian, nên nghó: Chúng sinh thọ thân và chỗ ở trong thế gian đều vì tham trước ngã. Nếu lìa tham chấp ngã, sẽ không có chỗ thọ sinh trong thế gian. Kẻ phàm phu bị ngu si che mù, tham chấp nơi ngã, thích tìm cầu hữu, luôn theo tà niệm thực hành đạo tà vọng, ba hành phát sinh: Hành tội, hành phước, hành bất động; từ những hành đó mà khởi chủng tử của tâm nhiệt não, tâm hữu lậu hữu thủ, tạo thân sinh tử. Đó có nghóa là nghiệp là đất, thức là hạt giống, vô minh che lấp, nước ái thấm nhuận, tâm ngã tưới tắm, các loại tà kiến ngày càng làm cho thêm lớn, tạo mầm danh sắc. Do danh sắc mà có các căn. Vì các căn hợp nên có xúc, từ xúc có sinh thọ. Vì ham thọ nên có khát ái. Vì khát ái tăng trưởng nên có bốn thủ. Vì bốn thủ có nhân duyên nên tạo nghiệp, rồi từ hữu có thân năm ấm gọi là sinh, năm ấm suy yếu gọi là già, năm ấm diệt là chết. Do già chết nên có các khổ, ưu, bi, nhiệt não tụ tập. Mười hai nhân duyên này không có người tạo tác, tự nhiên có, không có người làm tan mất, tự nhiên tan mất. Nhân duyên hợp thì có, nhân duyên tan thì không. Đại Bồ-tát ở trong Địa thứ sáu tùy phải thuận quán mười hai nhân duyên. Lại nghó: Vì không biết như thật Đệ nhất nghóa đế nên có vô minh che tâm, nghiệp quả của vô minh là các hành. Từ các hành có thức ban đầu, cùng sinh với thức có bốn thủ ấm, dựa vào thủ ấm có danh sắc, danh sắc thành tựu có sáu nhập. Các căn chạy theo trần nên có thức. Từ sự hòa hợp đó có xúc hữu lậu. Cùng sinh với xúc là thọ, tham vui nơi thọ là ái, ái tăng trưởng là thủ, từ thủ tạo ra nghiệp hữu lậu. Có nghiệp nên có quả báo năm ấm là sinh. Năm ấm chín muồi là già, năm ấm hoại là chết. Lúc chết thì có xa lìa; kẻ ngu si buồn phiền tham chấp gọi là ưu bi, năm thức khóc kể là khổ. Ý thức là ưu. Ưu khổ càng nhiều là não. Cứ thế sinh ra rừng khổ lớn, khối khổ lớn. Khối khổ mười hai nhân duyên này không có ngã, ngã sở; không có ngưòi tạo tác, không có kẻ sai khiến sự tạo tác. Bồ-tát lại nghó: Nếu có người tạo tác thì có việc được tạo tác. Nếu không có người tạo tác thì không có việc tạo tác. Trong Đệ nhất nghóa, không có người tạo tác và việc tạo tác. Lại nghó: Ba cõi hư dối chỉ do tâm tạo. Đức Như Lai dạy: Mười hai nhân duyên có được đều dựa vào tâm. Vì sao? Vì tùy thuận vào việc mà sinh tâm tham dục. Tâm ấy chính là thức; việc là hành; vì hành lừa dối tâm nên gọi là vô minh. Nơi thức nương tựa gọi là danh sắc. Vì nhập sinh tâm tham nên gọi là sáu nhập. Ba việc hòa hợp có xúc, sinh với xúc là thọ, tham chấp thọ là khát ái, không bỏ khát ái là thủ, thủ hòa hợp là hữu. Hữu lại hữu, hữu liên tục là sinh. sinh suy yếu là già, già hoại là chết. Trong đó vô minh có hai loại: 1. Duyên si. 2. Nhân của hành. Hành có hai: 1. Sinh ra quả báo đời sau. 2. Nhân của thức. Thức có hai: 1. Làm cho hữu liên tục. 2.Nhân của sinh sắc. Danh sắc có hai: 1. Nương tựa tạo thành. 2. Nhân của sáu nhập. Sáu nhập có hai: 1.Duyên sáu trần. 2. Nhân của xúc. Xúc có hai: 1. Xúc cảnh sở duyên. 2. Nhân của thọ. Thọ có hai: 1. Biết việc yêu ghét. 2. Nhân của si. Ái có hai: 1. Sinh tâm tham chấp với cảnh đáng nhiễm. 2. Nhân của thủ. Thủ có hai 1. Tăng trưởng phiền não. 2. Nhân của hữu. Hữu có hai: 1. Sinh ở các cõi khác. 2. Nhân của sinh. Sinh có hai: 1. Sinh năm ấm. 2. Nhân của già. Già có hai: 1. Làm cho các căn yếu kém. 2. Nhân của chết. Chết có hai: 1. Hoại thân năm ấm. 2. Vì không thấy biết nên liên tục không dứt. Trong đó, vô minh duyên các hành, vô minh làm cho hành không đoạn, hỗ trợ cho hành thành tựu. Hành duyên thức, làm cho thức không đoạn, hỗ trợ cho thức thành tựu. Thức duyên danh sắc, làm cho danh sắc không đoạn, hỗ trợ cho danh sắc thành tựu cho đến sinh duyên già, chết, ưu, bi, khổ, não, làm cho sinh không đoạn, liên tục hỗ trợ cho thành. Vì vô minh diệt, nên các hành diệt; cho đến già, chết, ưu, bi, khổ, não cũng thế. Trong đó, nếu vô minh không thì các hành cũng không. Nhân diệt thì quả diệt, các phần khác cũng như vậy. Trong đó ba phần là vô minh, ái, thủ không đoạn phiền não đạo; các hành, hữu không đoạn nghiệp đạo; các phần khác của nhân duyên không đoạn khổ đạo. Vì trước sau nối tiếp không dứt, nên ba đạo không đoạn. Ba đạo này lìa ngã, ngã sở nhưng có sinh diệt. Ví như hai cây tre dựa vào nhau mà đứng thì không vững mà giống như vững. Nhân duyên, vô minh, các hành thuộc về việc quá khứ; thức, danh sắc, Sáu nhập, xúc, thọ là việc hiện tại; ái, thủ, hữu, sinh, già, chết là việc vị lai. Như vậy là có ba đời. Vô minh diệt, nên các hành diệt; gọi đó là đoạn trừ sự liên tục. Mười hai nhân duyên gồm có ba khổ: Vô minh, hành, thức, danh sắc, sáu nhập là hành khổ. Xúc, thọ là khổ khổ. Ái, thủ, hữu, sinh, già, chết ưu, bi, khổ, não là hoại khổ. Vô minh diệt nên hành diệt, cho đến già chết gọi là đoạn trừ ba khổ liên tục. Do vô minh mà các hành sinh, các phần khác cũng thế. Vô minh diệt các hành diệt, vì thể tánh của các hành là không; các phần khác cũng thế. Do vô minh nên các hành sinh khởi trói buộc, các phần khác cũng thế. Vô minh diệt nên các hành diệt, vì diệt sự trói buộc, các phần khác cũng thế. Vô minh làm duyên cho các hành là tùy thuận quán vô sở hữu. Vô minh diệt nên các hành diệt là tùy thuận quán diệt tận; các phần khác cũng thế. Cứ thế có mười hai cách nghịch thuận để quán pháp mười hai nhân duyên. Đó là, nhân duyên chia thành thứ tự thuộc về thân tâm, hỗ trợ thành pháp, không tách rời nhau, tùy ba đạo hành, phân biệt có trước sau, ba khổ sai khác, từ nhân duyên có sinh diệt trói buộc, có quán vô sở hữu tận. Lúc ấy, Bồ-tát tùy thuận mười hai nhân suyên mà quán không ngã, không chúng sinh, không thọ mạng, không nhân, tánh trống rỗng, không có người tạo tác, kẻ khiến tạo tác, không có chủ tớ, nhân duyên là vô sở hữu. Lúc quán như vậy thì pháp môn không giải thoát hiện tiền. Diệt các việc đó thì không có sự liên tục khác, nên gọi là môn vô tướng giải thoát hiện tiền. Biết hai môn này, thì không còn thích thọ sinh, chỉ trừ tâm đại Bi để giáo hóa chúng sinh, nên gọi là môn vô nguyện giải thoát hiện tiền. Bồ-tát tu hành ba môn giải thoát này; lìa những tướng nhân, ngã, người tạo tác, người thọ; lìa tướng có không, tâm bi tăng trưởng. Vì tôn trọng tâm bi nên siêng năng tu tập. Tuy chưa đầy đủ các trợ pháp Bồ-đề, nhưng vì muốn được đầy đủ, Bồ-tát nghó: Pháp hữu vi do hòa hợp nên tăng, ly tán thì diệt. Đủ các duyên thì tăng, không đủ thì diệt. Ta đã biết pháp hữu vi nhiều tội lỗi, không nên tạo duyên hòa hợp, cũng chẳng cần diệt sạch hết pháp hữu vi là vì để giáo hóa chúng sinh. Các Phật tử! Bồ-tát biết pháp hữu vi nhiều tội lỗi, không có tánh chân thật, lìa tướng bền vững, không sinh diệt, như vậy nên hòa hợp với đại Từ bi, không bỏ chúng sinh, tức thời đạt Bát-nhã ba-la-mật không chướng ngại, ánh sáng hiện tiền; đạt trí tuệ như vậy, tu tập đầy đủ, tạo duyên Vô thượng Bồ-đề nhưng không sống trong pháp hữu vi. Quán tánh của pháp hữu vi là tướng tịch diệt, cũng không trụ trong đó, vì muốn đầy đủ phần Vô thượng Bồ-đề. Bồ-tát trụ địa Hiện tiền, đạt Tam-muội quyết định không, Tam-muội tánh không, Tam-muội Đệ nhất nghóa không, Tam-muội Đệ nhất không, Tam-muội đại không, Tam-muội hợp không, Tam-muội sinh không, Tam-muội như thật không phân biệt khômg, Tam-muội nhiếp không, Tam-muội ly bất ly không. Cứ thế, vạn môn Tam-muội không hiện tiền. Tam-muội vô tướng vô nguyện cũng thế. Bồ-tát này trụ ở địa Hiện tiền đạt tâm chí thành, tâm quyết định, tâm thâm, tâm diệu, tâm không thay đổi, tâm không xả, tâm rộng lớn, tâm vô biên, tâm lạc trí, tâm tuệ phương tiện hòa hợp. Các tâm ấy dần tăng trưởng, thù thắng; tùy thuận Vô thượng Bồ-đề. Tất cả luận sư ngoại đạo không thể lay đổ được, nhập vào trí địa, chuyển hóa Thanh văn, Bích-chi-phật, quyết định hướng đến trí Phật. Tất cả ma chướng, phiền não không làm gì được, an trụ trong trí sáng của Bồ-tát; khéo tu pháp môn giải thoát ứng với Không, Vô tướng, Vô nguyện. Chuyên dùng phương tiện trí tuệ, tu hành pháp trợ Bồ-đề. Bồ-tát trụ địa Hiện tiền, ở trong Bát-nhã ba-la-mật, đạt hạnh thù thắng, đạt thượng thuận nhẫn thứ ba, vì lấy thuận làm pháp, nên không trái nghịch, Bồ-tát trụ ở địa Hiện tiền, được gặp vô số trăm ngàn ức Phật, tôn trọng, cung kính, khen ngợi, cúng dường y phục, thức ăn uống, thuốc men, ngọa cụ; được gần gũi chư Phật, ở chỗ chư Phật nghe pháp. Nghe pháp rồi, thật sự theo ánh sáng trí tuệ tu hành theo pháp, khiến chư Phật hoan hỷ. Vị ấy càng thăng tiến, biết được tạng pháp của chư Phật; cho đến trải qua trăm ngàn vạn ức kiếp, các căn lành cũng dần dần được tinh diệu sáng suốt. Các Phật tử! Ví như vàng ròng, dùng lưu ly mài dũa, thì ánh sáng màu sắc càng rực rỡ hơn. Bồ-tát trụ ở địa Hiện tiền nhờ phương tiện trí tuệ nên căn lành dần thù thắng, sáng suốt vắng lặng, các địa khác không thể sánh bằng. Các Phật tử! Ví như trăng sáng có thể làm cho chúng sinh dễ chịu, bốn loại gió thổi không lấn át được. Cũng thế, Đại Bồ-tát trụ địa Hiện tiền, căn lành dần được thù thắng, dập tắt được vô lượng phiền não của chúng sinh, bốn loại ác ma không hại được. Các Phật tử! Đó là địa Hiện tiền của Đại Bồ-tát. Bồ-tát trụ địa này, thường làm Thiên vương Tha hóa tự tại, trí tuệ sắc bén, phá trừ tất cả kẻ tăng thượng mạn, các Thanh văn, không bị cùng tận. Làm những việc như bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự đều không rời niệm Phật, niệm pháp và niệm chúng Bồ-tát bạn, cho đến không rời niệm Nhất thiết chủng trí, thường phát nguyện: Ta ở trong chúng sinh, luôn là người đứng đầu, người tôn quý, cho đến làm chỗ nương tựa cho tất cả chúng sinh. Bồ-tát này, siêng năng tu tập, thì trong khoảnh khắc, sẽ đạt được mười vạn ức Tam-muội, cho đến thị hiện được mười vạn ức Bồ-tát làm quyến thuộc. Nếu dùng nguyện lực thì hơn cả số kia, dù trải qua trăm ngàn vạn ức kiếp cũng không tính kể được. Bấy giờ, Bồ-tát Kim Cang Tạng, muốn nêu lại nghóa trên, bèn nói kệ rằng: Các Bồ-tát đã đạt Hạnh nghiệp Địa thứ năm Biết các pháp không tánh Không tướng, chẳng sinh diệt Xưa nay luôn thanh tịnh Không có sự hý luận Tu tập trí như vậy Được nhập Địa thứ sáu Các pháp luôn lìa tướng Không thủ cũng không xả Tánh không, giống như huyễn Lìa hai, không phân biệt Ai có thể tùy thuận Thật nghóa vi diệu đó Tâm không hề trái nghịch Được nhập Địa thứ sáu Trụ ở lợi thuận nhẫn Đạt trí tuệ thần lực Quán sát hết tất cả Tướng sinh diệt thế gian Nên biết được thế gian Đều từ si ám sinh Khi si ám đoạn diệt Thì không còn thế gian Quán sát pháp nhân duyên Tùy thuận Đệ nhất nghóa Nhưng không hoại nhân quả Tạo tác và giả danh Như thật không người làm Cũng chẳng có người nhận Quán pháp hữu vi vậy Như mây, không có thật Không biết nghóa chân đế Nên gọi là vô minh Từ đó có suy xét Quả báo thân, khẩu hành Do hành nên có thức Liền tạo ra danh sắc Cứ thế sinh ra đời Đến chỗ sinh già chết Hiểu rõ ba cõi này Chỉ do tâm mà có Biết mười hai nhân duyên Đều từ một tâm này Như vậy sự sống chết Đều từ tâm mà có Một khi tâm diệt rồi Thì không còn sống chết Vô minh có hai loại Ngu si và tạo nghiệp Cho đến già và chết Phá tan loại năm ấm Từ những việc như vậy Nên có đủ khổ não Việc này chấm dứt hết Phiền não cũng không còn Nếu đầy đủ vô minh Thì liên tục không đoạn Nếu chẳng đủ nhân duyên Thì không còn liên tục Vô minh và ái thủ Chính là phiền não đạo Hành hữu là nghiệp đạo Các thứ khác khổ đạo Từ si đến sáu nhập Được gọi là hành khổ Xúc thọ là khổ khổ Các thứ khác hoại khổ Diệt ba khổ liên tục Thì không còn ngã chấp Vô minh và các hành Là việc đời quá khứ Từ thức cho đến thọ Là việc của hiện tại Từ ái đến sinh khổ Là việc đời vị lai Một khi vô minh diệt Thì không còn khổ não Si từ nhân duyên sinh Nên có sự trói buộc Chúng duyên nếu đã diệt Các trói buộc cũng diệt Từ nhân nên có quả Nhân diệt thì quả diệt Cứ thế quán các pháp Tự tánh là trống không Tùy thuận ở vô minh Nên mới có thế gian Nếu không thuận vô minh Thì thế gian không có Do đây nên có kia Đây không thì kia không Cứ thế mười cách quán Pháp nhân duyên sâu xa Quán nhân duyên liên tục Khứ, lai và hiện tại Không ngoài một tâm này Phân biệt có ba đạo Từ ba khổ quán sát Các pháp sinh diệt kia Không sỡ hữu, cùng tận Nên quán theo thuận nghịch Bồ-tát dần thâm nhập Pháp mười hai nhân duyên Biết trống không như huyễn Như mộng, lại như bóng Như ánh lửa, huyễn hóa Giả dối không người tạo Cũng chẳng có người nhận Chỉ lừa gạt kẻ ngu Cứ thế quán nhân duyên Người trí tu pháp không Không duyên thì không tướng Biết hai thứ giả hư Trong tất cả hữu ấy Nơi đó không sở nguyện Chỉ dùng tâm đại Bi Thương xót độ chúng sinh Bậc Đại só cứ thế Tu tập môn giải thoát Tâm bi luôn vui thích Vô lượng công đức Phật Biết các pháp hữu vi Đều từ hòa hợp có Nên đạt vạn định không Vô tướng và vô nguyện Trí tuệ dần tăng trưởng Thâm nhập thượng thuận nhẫn Đạt được trí giải thoát Vô vi của Bồ-tát Do vậy các căn lành Dần dần thêm sáng trong Cúng dường vô lượng Phật Được chư Phật ngợi khen Thường ở chỗ chư Phật Xuất gia học Phật đạo Đại tạng pháp chư Phật Căn lành càng thêm lớn Ví như dùng lưu ly Để mài dũa vàng ròng Ánh sáng càng rực rỡ Dụ này cũng như vậy Ví như trăng trong không Tròn đầy và sáng rực Bốn ngọn gió thổi đến Cũng không thể ngăn dứt Ánh sáng trí Bồ-tát Dập tắt lửa phiền não Bốn ma không thể phục Dụ này cũng như vậy Bồ-tát trụ địa này Thường làm Thiện hóa vương Các căn đều nhặm lẹ Phá trừ tăng thượng mạn Làm tất cả nghiệp lành Đều tùy thuận trí tuệ Thanh văn có vấn nạn Vẫn không bị cùng tận Phật tử này nếu muốn Siêng năng mà tu tập Thì đạt được trăm vạn Vạn ức môn Tam-muội Được gặp trăm ngàn vạn Ức số mười phương Phật Như mùa Xuân trong mát Ánh sáng mặt trời đẹp Địa thứ sáu như vậy Sâu xa khó thấy biết Thanh văn không hiểu được Bồ-tát đã lược thuyết.  <詞 id="113328961">Phẩm 7: ĐỊA VIỄN HÀNH Lúc ấy, các Thiên chúng Đang ở trong hư không Mưa hoa thơm trân bảo Như mây cúng dường Phật Vui mừng cất tiếng hay Khen ngợi thật lành thay! Lành thay! Kim Cang Tạng Khéo biết nghóa Đệ nhất Có vô lượng công đức Hoa sen trong cõi người Nói hạnh nghiệp thượng diệu Lợi ích các thế gian Tha hóa tự tại vương Phóng ra ánh sáng, hương, hoa Như mưa tuyết cúng dường Trừ khổ não ưu bi Chư Thiên cùng Thiên vương Đồng cất tiếng vi diệu Người nghe nghóa, địa này Sẽ được lợi ích lớn Đồng thời trổi trăm ngàn Kỹ nhạc hay cõi trời Chư Thiên nữ ca hát Đều nương thần lực Phật Phật là Đấng tịch diệt Biến ác nghiệp thành thiện Tất cả các thế gian Đều cung kính tôn trọng Tuy vượt qua thế gian Mà thị hiện pháp thế gian Biết thân tướng như thật Thị hiện các loại thân Tuy dùng các âm thanh Diễn nói pháp tịch diệt Nhưng vẫn biết ngôn ngữ Không có tướng âm thanh Vượt qua trăm ngàn cõi Cúng Phật vật thượng diệu Biết thân và cõi Phật Bỏ tướng trí tự tại Tuy giáo hóa chúng sinh Nhưng không tưởng nhân ngã Rộng tu công đức lớn Nhưng vẫn không tham chấp Vì tà kiến thủ tướng Lửa ba độc đốt thiêu Không thủ chấp các tướng Từ bi lại siêng năng Chư Thiên và Thiên nữ Đều hoan hỷ cúng dường Khen ngợi như vậy rồi Im lặng chiêm ngưỡng Phật Lúc ấy, Giải Thoát Nguyệt Thưa với Kim Cang Tạng Đại chúng đều thanh tịnh Xin nói tướng thứ bảy. Bồ-tát Kim Cang Tạng nói: –Các Phật tử! Đại Bồ-tát đã đầy đủ hạnh nghiệp Địa thứ sáu, nếu muốn nhập Địa thứ bảy thì từ phương tiện tuệ phát khởi mười diệu hạnh. Mười diệu hạnh đó là gì? 1.Bồ-tát khéo tu Không, Vô tướng, Vô nguyện, nhưng dùng tâm Từ bi ở trong chúng sinh. 2.Tùy thuận pháp bình đẳng của chư Phật nhưng vẫn không rời sự cúng dường chư Phật. 3.Luôn thích suy xét môn không trí, nhưng rộng tu tập tư lương phước đức. 4.Vượt xa ba cõi nhưng vẫn trang nghiêm ba cõi. 5.Diệt hết lửa phiền não, nhưng vẫn vì chúng sinh mà diễn nói pháp diệt trừ lửa tham, sân, si. 6.Tùy thuận các pháp coi đó như huyễn, như mộng, như bóng vang, như huyễn hóa, như trăng trong nước, như ảnh trong gương, không có hai tướng. 7.Biết tất cả cõi Phật trống rỗng như hư không, các cõi đều lìa tướng; nhưng vẫn phát tâm tu hạnh thanh tịnh cõi Phật. 8.Biết Pháp thân của tất cả chư Phật là vô thân, nhưng vẫn hiện sắc thân ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp để trang nghiêm. 9.Biết âm thanh của chư Phật là tướng không thể nói, tin hiểu âm thanh của Như Lai xưa nay là tướng vắng lặng nhưng vẫn tùy thuận tất cả chúng sinh mà phát ra bao nhiêu thứ âm thanh trang nghiêm. 10.Biết chư Phật trong khoảnh khắc thông đạt việc của ba đời nhưng phải hiểu là trải qua bao nhiêu tướng, bao nhiêu thời gian, bao nhiêu kiếp số thì mới đạt quả Vô thượng Bồ-đề. Phải tùy thuận sự tin hiểu của chúng sinh mà nói như vậy. Các Phật tử! Đó là mười diệu hạnh phát ra từ tuệ phương tiện. Đại Bồ-tát đầy đủ hạnh nghiệp của Địa thứ sáu, rồi tu tập diệu hạnh này, thì đạt được Địa thứ bảy. Các Phật tử! Như vậy tuệ phương tiện Hiện tiền, gọi là nhập Địa thứ bảy. Bồ-tát trụ Địa thứ bảy, nhập vô lượng tánh của chúng sinh, nhập vô lượng pháp giáo hóa chúng sinh của chư Phật, nhập vô lượng tánh của thế gian, nhập vô lượng cõi nước thanh tịnh của chư Phật, nhập vô lượng sự sai khác của các pháp, đạt vô lượng trí đắc đạo vô thượng của chư Phật, nhập vô lượng sự tính đếm số kiếp, nhập vô lượng sự thông đạt ba đời của chư Phật, nhập vô lượng sự tin thích sai khác của chúng sinh, nhập vô lượng sắc thân sai khác của chư Phật, nhập vô lượng căn tánh, chí hạnh sai khác của Phật và chúng sinh, nhập vô lượng âm thanh, ngôn ngữ của chư Phật làm cho chúng sinh vui vẻ, nhập vô lượng tâm, tâm sở hành sai khác của chúng sinh và chư Phật, nhập vô lượng hành tùy trí tuệ của chư Phật, nhập vô lượng sự tin hiểu của Thanh văn thừa, nhập vô lượng nhân duyên thuyết pháp để chúng sinh tin hiểu của chư Phật, nhập vô lượng sự tu tập trí tuệ của Bích-chi-phật, nhập vô lượng pháp môn do trí tuệ sâu xa của Phật đã thuyết giảng, nhập vô lượng đạo mà Bồ-tát đã thành, nhập vô lượng việc tu tập Đại thừa làm cho chúng sinh an nhập của chư Phật đã từng thuyết giảng. Bồ-tát lại nghó: Các Đấng Thế Tôn, có vô lượng, vô biên uy lực lớn như vậy, dù trải qua trăm ngàn vạn ức kiếp, cũng không thể biết được. Uy lực của chư Phật, ta nên tu tập, chứ không do sự phân biệt kia đây mà thành tựu; chỉ dùng sự không phân biệt, không thủ chứng mới thành. Bồ-tát dùng trí tuệ như thế khéo tư duy, thường tu tập đại tuệ phương tiện, để an trụ trong trí của Phật, vì pháp bất động. Nếu muốn phát khởi các phương độ chúng sinh không bị chướng ngại, thì thời vị lai cũng phát khởi, thời quá khứ cũng phát khởi; đi, đứng, nằm, ngồi cũng đều phát khởi phương pháp độ thoát chúng sinh; lìa các ấm cái, trụ trong oai nghi, không rời những tưởng niệm như vậy. Bồ-tát này, trong mỗi niệm có đầy đủ mười Ba-la-mật và mười Địa của Bồ-tát. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát trong mỗi niệm, dùng tâm đại Bi làm đầu, tu tập tất cả Phật pháp, đều hồi hướng lên trí tuệ của Như Lai. Mười Ba-la-mật là: Vì cầu Phật mà Bồ-tát tu tập căn lành, ban cho tất cả chúng sinh, đó là Bố thí ba-la-mật; dập tắt tất cả lửa phiền não là Thi-la ba-la-mật; dùng Từ bi làm gốc, không thương tổn chúng sinh là Nhẫn nhục ba-la-mật; cầu căn lành tăng trưởng, không chán ghét là Tinh tấn ba-la-mật; tâm tu tập đạo, không buông lung, luôn hướng về Nhất thiết trí là Thiền ba-la-mật; hiểu các pháp từ xưa nay không sinh là Bát-nhã ba-la-mật; phát khởi vô lượng môn trí tuệ là Phương tiện ba-la-mật mong trí tuệ càng thù thắng là Nguyện ba-la-mật; tất cả ngoại đạo ma chướng không gây hại được là Lực ba-la-mật; thành tựu như thật về tướng của tất cả pháp là Trí ba-la-mật. Cứ thế, trong mỗi niệm, đầy đủ mười Ba-la-mật. Lúc Bồ-tát đầy đủ mười Ba-la-mật thì cũng đầy đủ bốn Nhiếp pháp, ba mươi bảy pháp Bồ-đề phần, ba môn giải thoát. Nói tóm lại, trong mỗi niệm đều đầy đủ tất cả các pháp trợ đạo Vô thượng Bồ-đề. Bấy giờ, Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt hỏi Bồ-tát Kim Cang Tạng: Phật tử! Chỉ Bồ-tát ở Địa thứ bảy, mới đầy đủ pháp trợ Bồ-đề, hay trong các địa khác cũng đầy đủ? Bồ-tát Kim Cang Tạng nói: –Phật tử! Đại Bồ-tát ở trong mười địa, đều đầy đủ pháp trợ Bồ-đề, nhưng vì ở Địa thứ bảy thù thắng nên được gọi tên. Vì sao? Vì các Đại Bồ-tát ở Địa thứ bảy, đầy đủ công hạnh, nhập đạo trí tuệ thần thông. Phật tử! Bồ-tát ở Địa thứ nhất phát nguyện duyên với tất cả Phật pháp, đầy đủ pháp trợ Bồ-đề. Ở Địa thứ hai, trừ được tâm ác cấu nên đầy đủ pháp trợ Bồ-đề. Trong Địa thứ ba, thệ nguyện dần tăng trưởng, vì đạt được pháp sáng và đầy đủ pháp trợ Bồ-đề. Ở Địa thứ tư, vì được nhập đạo nên đầy đủ pháp trợ Bồ-đề. Ở Địa thứ năm, vì tùy thuận pháp hành thế gian nên đầy đủ pháp trợ Bồ-đề. Ở Địa thứ sáu vì nhập pháp môn sâu xa nên đầy đủ pháp trợ Bồ-đề. Ở Địa thứ bảy vì phát khởi tất cả Phật pháp nên đầy đủ pháp trợ Bồ-đề. Vì sao? Phật tử! Vì Đại Bồ-tát ở địa này, đạt trí tuệ do hành đạo, và nhờ sức này nên tự nhiên được thành tựu Địa thứ tám. Phật tử! Ví như hai hay ba tam thiên đại thiên thế giới, một bên thanh tịnh, một bên cấu uế; giữa hai cảnh giới khó vượt qua được, chỉ dùng sức tinh tấn lớn, sức thần thông lớn, sức nguyện lớn mới vượt qua. Các Phật tử! Bồ-tát thực hành các đạo khó vượt qua được, chỉ dùng sức nguyện lớn, sức trí tuệ lớn, sức phương tiện lớn thì mới có thể vượt qua được. Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt hỏi: –Bồ-tát Địa thứ bảy gọi là Tịnh hạnh hay Cấu hạnh? Bồ-tát Kim Cang Tạng nói: –Từ địa Hoan hỷ thứ nhất đến địa này, mọi việc làm của Bồ-tát, đều lìa nghiệp phiền não, tội lỗi. Vì sao? Vì hồi hướng đạo Vô thượng Bồ-đề, tùy địa vị mà thực hành hạnh thanh tịnh, nên không gọi là tội lỗi. Phật tử! Ví như Chuyển luân thánh vương cỡi voi báu lớn, đi khắp bốn cõi, biết có kẻ nghèo, cùng, khổ, não; nhưng lỗi ấy không phải do vua; vì vua chưa khỏi thân người, nếu bỏ thân vua thì sinh lên cõi trời Phạm thế, ở trong cung Phạm thế du hành khắp ngàn thế giới tỏ rõ oai lực của Phạm thiên; Lúc ấy, bỏ thân người. Phật tử! Bồ-tát cũng thế, từ Địa thứ nhất đến đây, ở trong pháp Ba-la-mật, biết tất cả những việc làm, những phiền não cấu uế của chúng sinh, nhưng không bị phiền não nhiễm ô, vì nương đạo lành nên không gọi là tội lỗi. Nếu Bồ-tát, bỏ tất cả công hạnh đã tu từ Địa thứ bảy nhập Địa thứ tám, mới gọi là nương thừa thanh tịnh của Bồ-tát, biết hết tất cả phiền não cấu uế của thế gian nhưng không bị phiền não ô nhiễm, cũng gọi là lỗi. Các Phật tử! Bồ-tát trụ ở Địa thứ bảy, nhiều lỗi tham dục phiền não. Chúng sinh ở Địa thứ bảy này không gọi là người có phiền não, cũng không gọi là người không phiền não. Vì sao? Vì tất cả phiền não không phát khởi, nên không gọi là có phiền não. Vì tham cầu trí tuệ Như Lai chưa mãn nguyện nên không gọi là người không phiền não. Bồ-tát trụ Địa thứ bảy, thành tựu thân nghiệp thanh tịnh, ngữ nghiệp thanh tịnh, ý nghiệp thanh tịnh; còn những nghiệp bất thiện bị chư Phật quở trách. Những kẻ tùy thuận phiền não, tạo nghiệp như vậy, đều phải có lỗi, nhưng thiện nghiệp được chư Phật khen ngợi, đó là thường hạnh. Lại nữa, những kinh sách kỹ nghệ của thế gian như đã nói trong Địa thứ năm, tự nhiên đạt được; ở trong tam thiên đại thiên thế giới, thật là hy hữu được làm bậc đại sư. Nhập Địa thứ tám, ngoài Như Lai ra không có chúng sinh nào mà tâm sâu xa, hạnh vi diệu sánh bằng. Bồ-tát này, đã có thiền định, thần thông, giải thoát Tam-muội, tuy chưa đạt quả báo nhưng tùy ý thọ thân tự tại, Bồ-tát trụ địa Viễn hành này trong mỗi niệm, tu tập đầy đủ sức tuệ phương tiện và tát cả pháp trợ Bồ-tát dần dần đầy đủ. Bồ-tát trụ địa Viễn hành này có thể nhập vào các Tam-muội Thiện trạch, Tam-muội Thiện tư nghóa, Tam-muội Ích ý, Tam-muội phân biệt nghóa tạng, Tam-muội Như thật trạch pháp, Tam-muội Kiến căn an trụ, Tam-muội Tri thần thông môn, Tam-muội Pháp tánh, Tam-muội Như Lai lợi, Tam-muội Chủng chủng nghóa tạng, Tam-muội Bất hướng sinh tử Niết-bàn. Cứ thế thành tựu đầy đủ trăm vạn Tam-muội của Bồ-tát có khả năng làm thanh tịnh địa này. Bồ-tát đạt Tam-muội và trí tuệ phương tiện đó, vì thanh tịnh hoàn toàn, vì đạt sức đại Bi sâu xa nên vượt qua địa Thanh văn, Bích-chi-phật, hướng đến trí địa của Phật. Bồ-tát trụ ở địa này, vô lượng thân, khẩu, ý nghiệp đều hành vô tướng. Bồ-tát này, vì hạnh thanh tịnh mà sáng tỏ pháp Vô sinh nhẫn. Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt nói: –Phật tử! Nếu Bồ-tát trụ ở Địa thứ nhất, thì có vô lượng thân, khẩu, ý nghiệp có thể vượt tất cả địa Thanh văn, Bích-chi-phật? Bồ-tát Kim Cang Tạng nói: –Vì duyên pháp lớn nên vượt qua được, chẳng phải là sức thật hành ở Địa thứ bảy đó, sức tự thật hành, tất cả Thanh văn, Bích-chi Phật không thể hủy hoại. Phật tử! Ví như sinh trong nhà vua thì hơn tất cả quần thần trăm quan. Vì sao? Vì nhờ sức tôn quý, thân gởi nơi cao lớn, thành tựu trí tuệ, chân thật vượt hơn. Phật tử! Các Đại Bồ-tát, lúc mới phát tâm đã hơn tất cả Thanh văn, Bích-chi-phật; vì phát nguyện lớn, tâm thanh tịnh sâu xa. Nay trụ ở địa này, tự dùng trí lực nên vượt hơn. Phật tử! Bồ-tát trụ ở Địa thứ bảy, đạt vô hành xa lìa sâu xa, thân, khẩu, ý nghiệp chuyên cầu pháp thù thắng nhưng không xả bỏ, nên tâm được thù thắng, tuy hành thực tế nhưng không chứng thực tế. Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt hỏi: –Đại Bồ-tát từ địa nào đến, thì nhập tịch diệt? Bồ-tát Kim Cang Tạng nói: –Đại Bồ-tát từ Địa thứ sáu trở đi thì nhập tịch diệt. Nay trụ địa này ở trong từng niệm đều có thể nhập tịch diệt nhưng không chứng tịch diệt. Đó gọi là Bồ-tát thành tựu thân, khẩu, ý nghiệp chẳng thể nghó bàn, hành thực tế nhưng không chứng thực tế. Phật tử! Ví như có người đi thuyền vào biển lớn, biết rõ cách đi, tướng nước thì không bị tai họa của nước; Đại Bồ-tát trụ Địa thứ bảy cũng thế; nương thuyền Ba-la-mật, thực hành thực tế nhưng không chứng thực tế. Đó là do sức nguyện lớn của Bồ-tát, đạt được sức trí tuệ; là do Thiền định trí tuệ mà phát sinh trí tuệ lớn. Tuy rất thích Niết-bàn nhưng hiện thân sinh tử. Tuy bà con thường vây quanh nhưng tâm luôn xa lìa; vì nguyện lực thọ sinh trong ba cõi nhưng không bị pháp thế gian làm nhiễm ô, tâm luôn tịch tónh. Vì sức phương tiện nên tuy qua lại trong lửa nhưng không bị lửa thiêu đốt; tùy thuận trí Phật, chuyển địa Thanh văn, Bích-chi-phật. Đạt đến pháp tạng của chư Phật, nhưng thị hiện ở trong cảnh giới ma. Tuy vượt bốn ma đạo, nhưng thị hiện hành hạnh của ma. Tuy thị hiện hành pháp ngoại đạo, nhưng thâm tâm không bỏ Phật pháp. Tuy hiện thân ở khắp thế gian, nhưng tâm luôn ở trong pháp xuất thế. Mọi việc đều trang nghiêm hơn Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân. Tứ thiên vương, Thích-đề-hoàn-nhân, Phạm thiên vương; nhưng không bỏ pháp lạc, pháp ái. Bồ-tát thành tựu trí tuệ như vậy, trụ trong địa Viễn hành, được gặp trăm ngàn vạn ức na-do-tha chư Phật, cung kính, tôn trọng, khen khợi, cúng dường y phục, thức ăn uống, giường chiếu; cúng dường chư Phật rồi hộ trì Phật pháp. Dù các Thanh văn, Bích-chi-phật tài trí vấn nạn, cũng không thể phá được. Bồ-tát này thường yêu chúng sinh, nên pháp nhẫn dần được thanh tịnh. Bồ-tát này trong trăm ngàn muôn ức na-do-tha kiếp, căn lành sẽ trở nên thù thắng và thanh tịnh. Phật tử! Ví như luyện vàng ròng, mà biết trang sức lẫn lộn những báu vật đẹp thì sáng rực, đẹp đẽ hơn; các báu vật khác không thể sánh bằng. Các Phật tử! Bồ-tát cũng thế, trụ trong địa Viễn hành, các căn lành đều phát sinh từ trí tuệ phương tiện, nên dần dần được sáng suốt, không ai phá được. Phật tử! Ví như ánh sáng mặt trời, ánh sáng của tất cả các ngôi sao và mặt trăng không thể sánh bằng. Nó có thể làm khô cạn nước bùn trong cõi Diêm-phù-đề. Bồ-tát cũng thế, trụ địa Viễn hành, căn lành dần dần thù thắng, tất cả Thanh văn, Bích-chi-phật không thể sánh bằng; lại có thể làm khô cạn bùn phiền não nhiễm ô của chúng sinh. Phật tử! Đó là Bồ-tát trụ Địa thứ bảy, địa Viễn hành. Bồ-tát trụ địa này, thường làm Tha hóa tự tại Thiên vương, các căn lanh lợi, thường phát khởi duyên lành để chúng sinh ngộ đạo, tu tập những nghiệp lành như bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự và đều không rời niệm Phật, niệm pháp và niệm về chúng đại Bồ-tát bạn; cho đến không rời niệm đầy đủ nhất thế chủng trí. Luôn nghó: Bất cứ lúc nào, ở trong chúng sinh ta đều là người đứng đầu, người tôn quý, là chỗ nương tựa cho chúng sinh. Bồ-tát này nếu siêng năng tu tập thì trong khoảnh khắc, đạt trăm ngàn ức na-do-tha Tam-muội, và có thể thị hiện cả trăm ngàn ức na-do-tha Bồ-tát làm quyến thuộc. Nếu dùng nguyện lực tự tại thị hiện của Bồ-tát thì hơn số kia, dù có trải qua trăm ngàn vạn ức na-do-tha kiếp, vẫn không thể tính biết được. Lúc ấy, Bồ-tát Kim Cang Tạng muốn nêu lại nghóa trên, nên nói kệ rằng: Trí tuệ sâu, tâm định Đủ hạnh, Địa thứ sáu Cùng lúc sinh phương tiện Trí tuệ, nhập Thất địa Không, Vô tướng, Vô nguyện Và tu tâm Từ bi Thuận Phật pháp bình đẳng Mà cúng dường chư Phật Tuy dùng trí quán không Nhưng tu phước không chán Sau đó được an nhập Địa Viễn hành thứ bảy Tuy trang nghiêm ba cõi Nhưng tâm thích xa lánh Tâm tuy luôn tịch diệt Nhưng diệt những phiền não Hành không, pháp bất nhị Ví như là huyễn mộng Nhưng hành tâm Từ bi Được nhập Địa thứ bảy Tuy quán khắp các cõi Trống rỗng như hư không Nhưng lại khéo trang nghiêm Thanh tịnh các cõi Phật Tuy biết thân của Phật Đồng pháp tướng, không tướng Nhưng có ba hai tướng Và tám mươi vẻ đẹp Tuy biết được chư Phật Tướng, không thể nói năng Trang Nghiêm âm thanh Phật Khiến thế gian vui vẻ Tuy biết được chư Phật Thành đạo trong một niệm Nhưng thị hiện nhiều kiếp Dẫn dắt các chúng sinh Cứ thế biết các pháp Được ánh sáng pháp soi Bồ-tát cứ như thế Tức nhập Địa thứ bảy Trụ địa này, quán sát Vô lượng hạnh chúng sinh Cũng biết được vô lượng Uy lực của chư Phật Thế gian và kiếp số Pháp tánh đều vô lượng Lại biết những chúng sinh Ham thích các dục lạc Biết giảng pháp ba thừa Đều là vô lượng cả Ta phải nên giáo hóa Thành tựu các chúng sinh Phải tư duy như vậy Tuệ phương tiện hòa hợp Dù đi, đứng, nằm, ngồi Đều hành đạo như vậy Trong mỗi mỗi tâm niệm Đủ pháp trợ Bồ-đề Đó chính là mười pháp Ba-la-mật sâu xa Các Bồ-tát như vậy Tu tập nhiều phước đức Bố thí cho chúng sinh Là Thí ba-la-mật Diệt trừ tâm nhơ, ác Là Giới ba-la-mật Không bị sáu trần hại Nhẫn nhục ba-la-mật Phát khởi pháp thù thắng Tinh tấn ba-la-mật Đạt được đạo bất động Là Thiền ba-la-mật Đạt Vô sinh pháp nhẫn Bát-nhã ba-la-mật Hồi hướng về Phật đạo Phương tiện ba-la-mật Cầu mong pháp thù thắng Là Nguyện ba-la-mật Không có ai hủy hoại Là Lực ba-la-mật Hiểu pháp nói như thật Là Trí ba-la-mật Các pháp trợ Bồ-đề Thâu tóm trong mỗi niệm Phát thệ nguyện rộng sâu Làm những việc lớn lao Công đức ở Sơ địa Được gọi là đầy đủ Địa thứ hai gọi là Trừ các tâm nhơ xấu Địa thứ ba nguyện lớn Thứ tư là trụ đạo Thứ năm tùy thế hành Thứ sáu nhập thâm pháp Đạt tướng phần vô sinh Dần dần được tăng trưởng Thứ bảy gom tất cả Đủ pháp phần Bồ-đề Phát sinh các công đức Và tất cả thệ nguyện Các công đức như vậy Ở trong Địa thứ tám Tất cả mọi hạnh nghiệp Tự nhiên được thanh tịnh Địa Viễn hành khó qua Chỉ sức trí lớn được Như ngằn mé hai nước Khó có thể vượt qua Ở trong Địa thứ bảy Không có nhiễm như vua Người trụ trong đạo này Không gọi là tội lỗi Nếu đạt Địa thứ tám Địa trí tuệ Bồ-tát Lúc này vượt ý giới An trụ trong trí nghiệp Như Phạm vương nhìn đời Không được gọi là người Bồ-tát tội không nhiễm Như hoa sen trong nước Bồ-tát trụ địa này Vượt qua các phiền não Không gọi là phiền não Cũng không hết phiền não Nhập trong chánh đạo này Không có các phiền não Nhờ nguyện cầu Phật đạo Không gọi hết phiền não Đối với pháp thế gian Kinh sách và kỹ nghệ Văn tụng và chú thuật Tự nhiên biết rõ cả Tu tập pháp thiền định Và các pháp thần thông Vô lượng tâm lợi đời Phát khởi mọi việc ấy Lúc ấy, Đại Bồ-tát Vượt qua hạnh Nhị thừa An trụ Địa thứ bảy Trong các hạnh Bồ-tát Từ lúc mới phát tâm Sức của đại nguyện thù thắng Nay ở trong địa này Sức trí tuệ thù thắng Ví như con của vua Tuy nhỏ, thuộc tôn quý Sau nhờ đủ công đức Nên vượt hơn mọi người Địa này được trí sâu Dần phát tâm tinh tấn Niệm niệm nhập tích diệt Nhưng không hề thủ chứng Ví như người đi thuyền Vào trong biển rộng lớn Tuy vào chỗ nước sâu Nhưng không bị chìm chết Hạnh Bồ-tát thù thắng Với trí tuệ phương tiện Đầy đủ các công đức Thế gian khó biết được Cúng dường vô lượng Phật Tâm thì luôn thanh tịnh Như vàng ròng trang sức Xen lẫn các tạp báu Được ánh sáng trí Phật Làm khô dòng nước ái Ví như ánh mặt trời Làm khô các dòng nước Bồ-tát trụ địa này Làm Tha hóa tự tại Các căn đều lanh lợi Thông đạt được đạo quả Nếu siêng năng tu tập Được gặp mười ngàn ức Na-do-tha Đức Phật Dùng sức nguyện hơn đây Địa thứ bảy trí sáng Thế gian, hàng Nhị thừa Đều không thể biết được Nay đã lược nói xong.  <詞 id="113328962">Phẩm 8: ĐỊA BẤT ĐỘNG Tha hóa tự tại vương Chư Thiên và Bồ-tát Nghe giảng thuyết thượng hạnh Ai nấy đều vui mừng Cúng dường Phật, đệ tử Mưa các loại hoa thơm Anh lạc và cờ lọng Hương bột cùng áo báu Ngọc ma-ni chân diệu Các vật trang sức thân Như mây trong hư không Rải cúng Phật, đại chúng Thiên nữ trong hư không Trỗi các thứ kỹ nhạc Cúng dường Đức Như Lai Và các Đại Bồ-tát Đồng cất tiếng vi diệu Khen ngợi những công đức Hết thảy bậc trí tuệ Tối tôn trong chúng sinh Vì thương xót thế gian Đức Phật hiện thần thông Hoa hương và trân bảo Đều phát ra âm thanh Nhiều lông như cát bụi Thị hiện na-do-tha Vô lượng các Đức Phật Ở trong đó thuyết pháp Trên mỗi đầu sợi lông Thấy vô lượng cõi Phật Tu-di, Thiết vi, biển Thế gian không chật hẹp Trên mỗi đầu sợi lông Đủ cả ba đường ác Trời, người, A-tu-la Đều phải chịu nghiệp báo. Thấy trong các cõi Phật Diệu âm của chư Phật Chuyển pháp luân vô thượng Tùy tâm niệm chúng sinh Ở trong các cõi Phật Đủ loại thân chúng sinh Nước có thân chúng sinh Thân chúng sinh có nước Tất cả các trời người Đều không được ở chung Phật, trước đã quán sát Sau mới thuyết giảng nói Các cõi nước vi tế Tâm chúng sinh tinh tế Những cõi nước thô ác Tâm tướng chúng sinh thô Phật thị hiện như vậy Đầy đủ sức thần thông Vì chúng sinh thuyết pháp Việc ấy không cùng tận Dùng diệu âm như vậy Khen ngợi Đức Thế Tôn Ai nấy đều vui mừng Im lặng chiêm ngưỡng Phật Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt Thưa với Kim Cang Tạng Phật tử! Hãy thuyết giảng Nhập tướng Địa thứ tám. Bồ-tát Kim Cang Tạng nói: –Phật tử! Các Đại Bồ-tát, đã tu tập hạnh vi diệu của Địa thứ bảy, đạo phương tiện trí tuệ thanh tịnh, khéo tu tập pháp trợ đạo; với sức của đại nguyện, tâm an trụ bất diệt, được thần lực chư Phật hộ trì, được sức căn lành, luôn nghó và tùy thuận oai lực, vô úy và pháp Bất cộng của Như Lai; tâm hoan hỷ, tâm sâu xa, thành tựu thiện tịnh, phước đức trí lực; tâm đại Từ bi, không bỏ chúng sinh, tu hành vô lượng trí đạo, có thể nhập nguồn gốc của các pháp, không sinh, không diệt, không tướng, không xuất, không mất, không đi, không trở lại, không có tánh sở hữu, trước giữa sau bình đẳng, không khác Như Lai; trí không phân biệt; tất cả tâm, ý, thức, nghó nhớ, phân biệt, không có sự tham chấp; nhập tất cả pháp, như tánh hư khồng. Đó là Bồ-tát đạt Vô sinh pháp nhẫn, nhập Địa thứ tám, tức thời nhập địa Bất động, gọi là Bồ-tát có hạnh sâu xa, khó biết được, không thể phân biệt, lìa tất cả tướng, dứt tất cả tưởng, lìa tất cả tham chấp. Vô lượng, vô biên không thể nghó bàn tất cả Thanh văn, Bích-chi-phật không thể hủy hoại; trước mắt, luôn đạt được sự xa lìa lớn. Phật tử! Ví như Tỳ-kheo đạt thần thông, thì tâm được tự tại, tuần tự nhập diệt tận định. Tất cả tâm xao động, nhớ tưởng, phân biệt, đều chấm dứt. Cũng thế, Bồ-tát trụ địa Viễn hành thì mọi việc đều chấm dứt, đạt được việc không thân, khẩu, ý, trụ trong xa lìa lớn. Phật tử! Ví như người nằm mộng, muốn qua sông sâu; lúc ấy, người này phát tinh tấn lớn, tìm phương cách lớn để qua sông này, nhưng khi chưa qua sông bỗng nhiên thức dậy, thì những phương tiện và ý muốn qua sông đều mất hết cả. Các Phật tử! Cũng vậy, Đại Bồ-tát từ Địa thứ nhất đến đây đã phát đại tinh tấn, rộng tu hành đạo; đến địa Bất độïng, tất cả sự sợ hãi đều vứt bỏ hết, không hành hai tâm, những nhớ nghó không còn hiện khởi. Ví như người sinh lên cõi Phạm thế thì phiền não của cõi dục không hiện khởi. Cũng thế, các Phật tử! Đại Bồ-tát trụ địa Bất động, tất cả tâm, ý, thức không còn hiện khởi; ngay cả tâm Phật, tâm Bồ-đề, tâm Niết-bàn cũng không hiện khởi, huống gì tâm đang sinh trong thế gian! Phật tử! Đại Bồ-tát tùy thuận địa này là do sức bản nguyện. Lại nữa, chư Phật vì vị ấy mà hiện thân hình, trụ trong các địa, ở trong dòng nước pháp, lấy trí tuệ Như Lai làm nhân duyên. Chư Phật đều nói: Hay thay! Hay thay! Thiện nam! Ông đã đạt nhẫn, thứ nhất, tùy thuận pháp của tất cả chư Phật. Thiện nam! Ta có mười Lực, bốn Vô sở úy, mười tám pháp Bất cộng; ông nay chưa đạt được, nhưng để đạt công đức này nên siêng năng tu tập, đừng bỏ pháp nhẫn này. Thiện nam! Tuy ông đạt pháp giải thoát tịch diệt sâu xa bậc nhất này, nhưng phàm phu chúng sinh do bất thiện, không tịch tónh, nên thường phát khởi các phiền não, bị bao nhiêu là giác quán gây hại, ông nên thương xót những chúng sinh này. Lại nữa, thiện nam! Ông hãy nhớ bản nguyện của mình là muốn đem lợi ích lớn cho chúng sinh, muốn đạt môn trí tuệ không thể nghó bàn. Lại nữa, thiện nam! Tất cả tánh của các pháp, tất cả tướng của các pháp, hoặc có Phật, hoặc không Phật vẫn thường trụ, không khác. Các Đức Như Lai không vì đạt pháp này, mà gọi là Phật. Thanh văn, Bích-chi-phật cũng có thể đạt pháp tịch diệt không phân biệt này. Thiện nam! Ông hãy quán sát vô lượng thân tướng thanh tịnh của chúng ta, vô lượng trí tuệ, vô lượng cõi nước thanh tịnh; mà phát khởi vô lượng trí tuệ, vô lượng phương tiện, vô lượng ánh sáng, vô lượng tiếng thanh tịnh; nay ông nên phát khởi những việc như vậy. Lại nữa, thiện nam! Ông nay vừa đạt một pháp sáng, đó là tất cả pháp tịch diệt, không có sự phân biệt; pháp sáng không sinh, chúng ta đạt được, dù trải qua vô lượng, vô biên ức kiếp tính đếm, cũng không thể biết được. Vì đạt pháp này nên ông phải phát khởi hạnh này. Thiện nam! Ông quán vô lượng cõi nước ở mười phương, vô lượng chúng sinh, vô lượng pháp sai khác, ông phải thông đạt thật đúng đắn việc này, tùy thuận trí như vậy. Bồ-tát này, được chư Phật cho vô lượng, vô biên pháp môn làm nhân duyên để phát khởi trí tuệ như thế vì vô lượng pháp môn. Bồ-tát ấy có thể phát khởi vô lượng trí nghiệp sai khác, cũng đều thành tựu. Các Phật tử! Nay tôi giảng thuyết cho các ông; nếu chư Phật không làm Bồ-tát này trụ môn trí tuệ đó, thì lúc ấy, Bồ-tát thủ chứng Niết-bàn rốt ráo, bỏ việc lợi ích chúng sinh. Vì chư Phật ban cho Bồ-tát này, vô lượng, vô biên nhân duyên để phát khởi trí tuệ, nên trong một niệm, trí tuệ được phát sinh. Nếu từ Địa thứ nhất cho đến hết Địa thứ bảy, mà so với địa này thì không bằng một phần trăm, cho đến không bằng một phần ngàn vạn ức, trăm ngàn vạn ức na-do-tha, cho đến không bằng một phần vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ, cho dù tính đếm thí dụ thế nào, cũng không sánh kịp. Vì sao? Vì trước dùng một thân hành đạo tu tập công đức; nay ở địa này, đạt vô lượng thân, tu đạo Bồ-tát; dùng vô lượng âm thanh, dùng vô lượng trí tuệ, vô lượng chỗ thọ sinh, vô lượng cõi thanh tịnh, vô lượng sự giáo hóa chúng sinh, cúng dường hầu cận vô lượng Phật, tùy thuận vô lượng Phật pháp, vô lượng sức thần thông, vô lượng đại hội sai khác, vô lượng nghiệp thân, khẩu, ý tập trung, tất cả đạo hạnh của Bồ-tát, vì pháp bất động vậy. Phật tử! Ví như có người đi thuyền vào biển lớn, lúc chưa vào biển thì dùng nhiều công sức, như dùng tay chèo, đến khi vào biển lớn rồi thì không dùng sức nữa, chỉ cần dùng sức gió. Khi vào trong biển lớn nếu chỉ do công sức của mình, thì dù có đi trăm ngàn năm, cũng không bằng được một ngày nhờ sức gió. Các Phật tử! Đại Bồ-tát cũng thế, tu tập nhiều căn lành tư lương, đi thuyền Đại thừa đến biển trí tuệ lớn của Bồ-tát, trong khoảnh khắc, không dùng công sức vẫn gần được trí tuệ của tất cả Phật; nếu dùng công sức của mình, thì dù trải qua một kiếp, trăm ngàn vạn kiếp cũng không thể đạt được. Các Phật tử! Đại Bồ-tát Địa thứ tám, từ trí tuệ phương tiện của mình, phát sinh tâm vô công dụng, ở trong đạo Bồ-tát, tư duy uy lực trí tuệ của Phật. Đó là biết thế giới sinh diệt hoại thành. Biết do nghiệp nhân duyên gì diệt, nên thế giới hoại; biết do nghiệp nhân duyên gì tập họp, nên thế giới thành. Bồ-tát biết được tướng nhỏ của tánh đất; biết tướng lớn của tánh đất, tướng vô lượng, của tánh đất; biết tướng sai biệt của tánh đất; biết tướng nhỏ tướng lớn, tướng vô lượng, tướng sai biệt của tánh nước, gió, lửa; biết tướng nhỏ nhít của vi trần, biết tướng sai biệt của vi trần, sự sai khác của vi trần có trong một cõi nước đều biết hết. Biết trong một cõi nước có bao nhiêu vi trần, đất, nước, gió, lửa. Biết bao nhiêu là vi trần vật báu, bao nhiêu vi trần thân chúng sinh; vi trần vạn vật sai khác trong thế giới; phân biệt chúng sinh với thân thô thân tế bao nhiêu vi trần; thân sinh vào địa ngục; bao nhiêu là vi trần thân sinh vào súc sinh; bao nhiêu vi trần thân sinh vào ngạ quỷ, bao nhiêu là vi trần thân sinh vào A-tu-la bao nhiêu là vi trần, thân sinh cõi trời, bao nhiêu là vi trần thân sinh vào cõi người đều biết rõ. Bồ-tát này nhập vào trí phân biệt vi trần, biết sự thành hoại của cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc, biết tướng nhỏ, tướng lớn, tướng vô lượng, tướng sai khác của cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc biết ba cõi như thế. Đó là trợ trí sáng suốt giáo hóa chúng sinh của Bồ-tát. Khéo biết phân biệt thân chúng sinh, khéo quán sát nơi nên thọ sinh, tùy thuận nơi sinh của chúng sinh, tùy thân của chúng sinh mà thọ sinh. Bồ-tát này thị hiện thân có khắp trong tam thiên đại thiên thế giới, tùy thuận thân chúng sinh mà có sự sai khác. Ví như mặt trời hiện ảnh trong nước, thân có khắp trong hai, tam thiên đại thiên thế giới, hoặc trong ba, bốn, năm, mười, hai mươi, ba mươi, bốn mươi, năm mươi, trăm, tam thiên đại thiên thế giới, hoặc ngàn, vạn, trăm vạn, ngàn vạn, trăm ngàn vạn ức na-do-tha thế giới. Cho đến hiện thân khắp trong vô lượng, vô biên, không thể nghó bàn, tính kể tam thiên đại thiên thế giới, tùy thân sai khác của chúng sinh mà thọ thân. Bồ-tát này thành tựu trí tuệ như vậy rồi, ở trong một thế giới, thân không dao động, cho đến không thể kể xiết cõi Phật, tùy thân chúng sinh, tùy sự tin ưa, ở trong đại hội của chư Phật mà thị hiện thân hình. Nếu ở trong hội Sa-môn thì thị hiện hình sắc Sa-môn; nếu ở trong chúng Bà-la-môn thì hiện hình sắc thân Bà-la-môn, nếu ở hàng Sát-đế-lợi thì hiện hình Sát-đế-lợi; nếu ở trong hàng cư só thì thị hiện thân cư só, nếu ở trong Tứ thiên vương, Đế Thích, Ma, Phạm thiên thì thị hiện thân Phạm thiên, cho đến thị hiện thân A-ca-nị-sắc của cõi trời A-ca-nị-sắc. Người đáng dùng thân Thanh văn để độ thoát thì hiện thân Thanh văn; người đáng dùng thân Bích-chi-phật, Bồ-tát, Phật thì hiện thân Bích-chi Phật, Bồ-tát, Phật để độ thoát. Phật tử! Có vô số cõi Phật, tùy thân hình chúng sinh và sự tin ưa sai khác mà thị hiện thọ thân; nhưng thật ra là đã xa lìa thân tướng sai biệt, luôn an trụ trong sự bình đẳng của các thân. Bồ-tát này biết thân chúng sinh, thân cõi nước, thân nghiệp báo, thân Thanh văn, thân Bích-chi-phật, thân Bồ-tát, thân Như Lai; biết thân trí, thân pháp, thân hư không. Bồ-tát này, biết sự ham thích sâu xa của chúng sinh; hoặc lấy thân chúng sinh làm thân mình; lấy thân chúng sinh làm thân cõi nước, thân nghiệp báo, thân Thanh văn, thân Bích-chi-phật, thân Bồ-tát, thân Như Lai, thân trí, thân pháp, thân hư không; hoặc lấy thân cõi nước làm thân mình, thân nghiệp báo, cho đến thân hư không; hoặc lấy thân nghiệp báo làm thân mình, cho đến thân hư không; hoặc lấy thân mình làm thân chúng sinh, thân cõi nước, thân nghiệp báo, thân Thanh văn, thân Bích-chi-phật, thân Bồ-tát, thân Như Lai, thân trí, thân pháp, thân hư không. Bồ-tát này biết thân tạo nghiệp, thân quả báo, thân phiền não, thân sắc, thân vô sắc, tướng to tướng nhỏ tướng nhơ tướng tịnh, tướng vô lượng, tướng rộng lớn, tướng điên đảo, tướng bằng phẳng, tướng quanh co, tướng vuông và tướng vuông sai khác của cõi nước Chư Phật; biết thân nghiệp báo là giả danh sai biệt; thân Thanh văn, thân Bích-chi-phật, thân Bồ-tát, thân Như Lai là giả danh sai biệt, khéo phân biệt giảng thuyết như thật các thân tướng: thân Bồ-đề, thân nguyện, thân hóa hiện, thân thọ thần lực, thân tướng tốt trang nghiêm, thân thế lực, thân ý sinh, thân phước đức, thân trí, thân pháp. Khéo phân biệt, giảng thuyết như thật các thân tướng; biết thân pháp là tướng bình đẳng, không hoại, biết thân hư không có tướng vô lượng, tướng cùng khắp, tướng vô hình. Bồ-tát này khéo biết sự sinh khởi các thân như vậy thì được mạng tự tại, tâm tự tại, tài vật tự tại, nghiệp tự tại, sinh tự tại, nguyện tự tại, tín giải tự tại, như ý tự tại, trí tự tại, pháp tự tại. Bồ-tát này đạt được mười tự tại của Bồ-tát. Lúc ấy, là người có trí chẳng thể nghó bàn, là người vô lượng trí, là người có trí rộng lớn, là người có trí không thể hoại. Bồ-tát tùy thuận trí tuệ như vậy, nên rốt ráo thường tịnh; phát khởi nghiệp thân, khẩu, ý, không có tội; nghiệp thân, nghiệp khẩu, nghiệp ý theo tác động của trí tuệ, lấy Bát-nhã ba-la-mật làm tăng thượng, đại Bi làm đầu, khéo tu phương tiện, khéo phát khởi thệ nguyện, được thần thông chư Phật ủng hộ, không bỏ trí làm lợi ích chúng sinh, biết tất cả mọi việc sai khác trong vô biên thế giới. Các Phật tử! Nói tóm lại, Bồ-tát trụ địa Bất động, mọi việc làm của thân, khẩu, ý đều hợp với tất cả Phật pháp. Bồ-tát đạt địa này vì lìa được tất cả phiền não, nên an trụ trong tâm lực thanh tịnh; vì tâm không rời đạo, nên trụ trong tâm lực sâu xa; vì không bỏ chúng sinh, nên khéo an trụ trong bi lực rộng lớn; vì cứu tất cả thế gian, nên khéo trụ trong sức từ rộng lớn; vì không quên pháp đã nghe nên an trụ trong sức Đà-la-ni; vì phân biệt chọn lựa tất cả Phật pháp, nên khéo an trú trong tất cả sức nhạo thuyết; vì đi lại trong vô số thế giới khác, nên khéo an trụ trong sức thần thông; vì không bỏ hạnh nghiệp của Bồ-tát nên an trụ trong nguyện lực; vì tu tập tất cả Phật pháp nên an trụ trong lực Ba-la-mật; vì khéo phát khởi Nhất thiết chủng trí nên an trụ trong sức Như Lai. Bồ-tát này đạt trí lực như vậy, nên thị hiện làm mọi việc sẽ không bị lỗi lầm. Các Phật tử! Đại Bồ-tát ở địa này không thể bị hủy hoại, nên gọi là địa Bất động; trí tuệ không lay chuyển nên gọi là địa Không thoái chuyển; tất cả thế gian khó lường biết được, nên gọi là địa oai đức; không có tội lỗi gia nghiệp nên gọi là địa Vương tử; tùy ý tự tại nên gọi là địa sinh Bồ-tát; hoàn toàn không tạo tác nên gọi là địa Thành; khéo biết phân biệt nên gọi là địa cứu cánh; khéo phát khởi đại nguyện nên gọi là địa Biến hóa; không chấp các pháp nên gọi là địa Thắng xứ; khéo tu tập phát khởi tiên đạo, nên gọi là địa Vô công lực. Các Phật tử! Đại Bồ-tát đạt trí tuệ như vậy, gọi là nhập cảnh giới Phật, được ánh sáng công đức Phật soi rọi, gọi là tùy oai nghi hạnh nghiệp của Phật, hướng đến Phật pháp, luôn được thần thông của Phật ủng hộ, luôn được Tứ Thiên vương, Thích Đề-hoàn Nhân, Phạm Thiên vương cung phụng, được thần Kim Cang mật tích hộ vệ, khéo phát khởi Thiền định sâu xa, luôn thị hiện vô lượng thân sai biệt. Trong mỗi thân, đều có uy lực, đạt quả báo lớn và sức thần thông, tự tại trong vô biên Tam-muội, được vô lượng sự thọ ký, tùy theo sự thành tựu của chúng sinh mà thị hiện thành tựu vô lượng Bồ-đề. Bồ-tát này nhập trí tuệ lớn như vậy, thông đạt hết các pháp, thường phóng ra ánh sáng trí tuệ lớn, vượt qua đạo pháp tánh không chướng ngại, biết đạo pháp sai khác của thế gian, thị hiện được tất cả công đức, tùy ý tự tại, hiểu rõ đời trước đời sau, nhập trong trí hồi chuyển ma đạo, nhập cảnh giới mà Như Lai đã tu hành, thường ở trong vô biên thế giới mà hành đạo Bồ-tát. Vì không tướng lay chuyển nên gọi địa này là Bất động. Các Phật tử! Các Đại Bồ-tát ở địa Bất động, phát sinh sức Thiền định luôn gặp vô số chư Phật, không bỏ sự cúng dường nào, luôn cúng dường chư Phật. Bồ-tát này, trong mỗi kiếp, ở mọi nơi đều gặp vô số trăm ngàn vạn ức na-do-tha vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ Phật để cung kính cúng dường, tôn trọng, ngợi khen tìm đủ mọi vật, mọi việc để cúng dường, gần gũi chư Phật, theo Phật học tất cả pháp môn sai khác của thế gian, dần dần vào sâu tạng pháp của Như Lai, học hỏi mọi sự sai khác của tánh thế gian, vẫn không cùng tận. Cho dù trải qua trăm ngàn vạn ức kiếp, cũng không thể nói hết, các căn lành lại càng sáng tịnh. Ví như vàng ròng đã được luyện thành xen lẫn tạp bảo làm ra chuỗi đeo vào cổ vị vua thống lãnh bốn châu thiên hạ, người cõi Diêm-phù-đề không thể đoạt được. Các Phật tử! Đại Bồ-tát cũng thế, trụ địa Bất động này, các căn lành dần dần sáng tịnh, tất cả Thanh văn, Bích-chi-phật, cho đến Bồ-tát ở Địa thứ bảy cũng không thể hoại được. Bồ-tát trụ ở địa này khéo dùng môn trí phân biệt, nên ánh sáng trí tuệ diệt phiền não của chúng sinh. Phật tử! Ví như người làm chủ ngàn thế giới là Đại phạm Thiên vương, trong khoảnh khắc, lưu bố tâm Từ lan khắp ngàn thế giới, lại phóng ra ánh sáng khắp các cõi ấy. Phật tử! Đại Bồ-tát cũng thế, trụ trong địa Bất động, từ thân phóng ra ánh sáng soi khắp chúng sinh trong mười vạn tam thiên đại thiên thế giới, kế đến diệt trừ phiền não làm cho chúng được thanh tịnh. Phật tử! Đó là lược nói địa Bất động của Đại Bồ-tát. Nếu nói rộng, thì dù trải qua vô lượng kiếp, cũng không thể nói hết. Bồ-tát trụ trong địa này, thường làm Đại phạm Thiên vương, chủ cả ngàn cõi, các căn lanh lợi, trao cho chúng sinh, đối với Thanh văn, Bích-chi-phật, Bồ-tát thì đạo nhân duyên Ba-la-mật không bao giờ cùng tận. Nói trong tánh sai biệt của thế gian thì không ai hoại được. Làm những việc lành như bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự; tất cả đều không rời nhớ nghó về Phật, về pháp, về chúng Bồ-tát bạn; cho đến không rời nhớ nghó về Nhất thiết chủng trí. Luôn nghó: Bất cứ lúc nào, ở trong chúng sinh, ta cũng người đứng đu, người tôn quý, và luôn làm chỗ dựa cho tất cả chúng sinh. Bồ-tát này, nếu siêng năng tu tập thì trong khoảnh khắc sẽ đạt Tam-muội nhiều như số bụi trong trăm ngàn vạn tam thiên đại thiên thế giới; cho đến có thể thị hiện Bồ-tát quyến thuộc cũng nhiều như số vi trần trong trăm ngàn tam thiên đại thiên thế giới. Nếu dùng nguyện lực, thần thông tự tại, thì hơn số đấy; dù trải qua trăm ngàn ức kiếp cũng không thể nói hết. Lúc ấy, Bồ-tát Kim Cang Tạng muốn nêu lại nghóa trên, nên nói kệ rằng: Bồ-tát Địa thứ bảy Đã đạt tuệ phương tiện Khéo tu pháp trợ đạo Luôn luôn niệm đại nguyện Được thần lực Phật hộ Thành tựu các căn lành Ví mong cầu thắng trí An nhập Địa thứ tám Khéo tu tập phước đức Lại thêm Từ bi lớn Bỏ những tâm hữu hạn Tâm ví như hư không Ở trong pháp giảng thuyết Tâm đạt sức quyết định Do vậy đạt tịch diệt Vô sinh nhẫn vi diệu Các pháp từ xưa nay Không sinh cũng chẳng diệt Không tướng, không xuất phát Không mất cũng chẳng hành Các pháp trước, giữa, sau Như như, không phân biệt Không có tâm ý hành Ví như là hư không Thành tựu nhẫn như vậy Không có các hý luận Đạt địa Bất động này Hạnh sâu xa tịch diệt Tất cả các thế gian Không thể đo lường được Tất cả tướng của tâm Đều đã chấm dứt hết Bồ-tát trụ địa này Tâm thức không phân biệt Như nhập diệt tận định Không suy nghó phân biệt Ví như người nằm mộng Vội vàng muốn qua sông Tỉnh dậy tâm trống rỗng Tự biết không tạo tác Đạt nhẫn sâu xa này Diệt tất cả tưởng niệm Cũng như các Phạm vương Không phiền não cõi Dục Trước nhờ nguyện lực hộ Giờ được chư Phật dạy Pháp nhẫn số một này Là chức vị của Phật Trí lực sâu của ta Vô úy, pháp Bất cộng Nay ông chưa có được Hãy siêng năng tu tập Ông nay tuy dập tắt Tất cả lửa phiền não Nhưng hãy xét thế gian Phiền não luôn hừng hực Hãy nhớ nguyện của mình Muốn lợi ích chúng sinh Nên hiểu hết các pháp Rộng độ tất cả loài Tướng thật tánh các pháp Thường trụ không đổi khác. Nhị thừa tuy đạt được Không thể gọi là Phật Chỉ đạt đến vô ngại Trí sâu xa vi diệu Nhờ thông hiểu ba đời Nên được gọi là Phật Là Đấng vô đẳng đẳng Được trời người cúng dường Mở bày các pháp trí Khiến nhập pháp của Phật Thành tựu không cùng tận Vô lượng trí tuệ mầu Các pháp hành từ trước Chẳng bằng một niệm này Các Bồ-tát như vậy Đạt địa diệu trí tuệ Dù chỉ trong một niệm Thân đến khắp mười phương Nhập môn trí tuệ này Hành đạo nhanh không ngại Như đi trong biển lớn Nhờ sức gió đẩy nhanh Bỏ hết tâm dụng công Chỉ trụ trong trí nghiệp Quán thế giới mười phương Thành hoại và an trụ Biết bốn đại là một Lại biết mọi sai khác Vô lượng tướng lớn nhỏ Đủ các thứ sai biệt Biết được số vi trần Tam thiên đại thiên giới Lại biết thân chúng sinh Số vi trần bốn đại Thân chư Thiên quý báu Số vi trần sai khác Soi sáng khắp mọi nơi Các việc khác cũng vậy Nhờ nhân duyên trí tuệ Tâm dần được nhu hòa Vì lợi ích chúng sinh Thân cùng khắp các cõi Lấy thân của chúng sinh Làm thân của chính mình Và các loại thân hình Trong thế giới chư Phật Như nhật nguyệt theo gió Ảnh hiện trong dòng nước Bồ-tát cũng như vậy Tùy thuận gió trí tuệ Thường trụ trong pháp tánh Lặng yên không dời đổi Với chúng sinh tâm tịnh Hiện đủ loại thân hình Tùy ý chúng ưa thích Mà thị hiện thọ sinh Ở trong hội trời người Thị hiện thân hình ấy Với nhân duyên Bồ-tát Trong hòa hợp, tự tại Cho đến tùy thuận ý Mà thị hiện thân Phật Thân chúng sinh, cõi nước Thân nghiệp báo, Hiền thánh Thân Trí và thân pháp Biết đều là bình đẳng Chính vì nhân duyên này Đạt thần thông như ý Vì khiến đời an vui Mà hiện các thân hình Nên đạt được mười thứ Trí tự tại vi diệu Làm việc bằng trí tuệ Tùy thuận tâm Từ bi Khéo léo tu tập hết Tất cả pháp của Phật Trụ trong ba tịnh nghiệp Vững chãi như Tu-di Lại đạt được mười lực Của các Đại Bồ-tát Tất cả chúng ma quân Đều không lay chuyển được Luôn được chư Phật hộ Thích Phạm đều kính lạy Thần Kim Cang mật tích Luôn theo để hộ vệ Bồ-tát đạt địa này Công đức không hạn lượng Trải qua trăm vạn kiếp Không thể nói hết được Gần gũi vô số Phật Căn lành càng tăng trưởng Như vàng ròng tạp bảo Trang sức nơi cổ vua Bồ-tát trụ địa này Thường làm Đại Phạm vương Làm chủ ngàn cõi nước Công đức nhiều vô lượng Thường dùng ba thừa giáo Nhưng không hề cùng tận Tâm từ sáng chiếu khắp Phá trừ các phiền não Nếu muốn trong chốc lát Được vô số Tam-muội Như số bụi trần trong Tam thiên đại thiên cõi Gặp được Phật mười phương Số nhiều cũng như vậy Nếu dùng nguyện lực mình Hơn đây, không hạn lượng Nay đã lược giảng thuyết Diệu tướng Địa thứ tám Nếu nói rộng về nó Ngàn ức kiếp không hết. q KINH THẬP TRỤ <卷 id="113328963">Quyển 4 <詞 id="113328964">Phẩm 9: ĐỊA DIỆU THIỆN Lúc Phật tử diễn thuyết Diệu nghóa Địa thứ tám Do thần lực của Phật Chấn động vô lượng cõi Hiện thân Nhất thiết trí Vô lượng quang vi diệu Soi khắp mười phương cõi Chúng sinh được an lạc Ngàn vạn ức Bồ-tát Đang trụ trong hư không Cúng dường vật vi diệu Vô số chư Thiên nhân Đại tự tại Thiên vương Và Tha hóa Thiên vương Vui mừng và cúng dường Phật, biển lớn công đức Ngàn vạn các Thiên nữ Cung kính và vui mừng Cùng cất tiếng vi diệu Khen ngợi công đức Phật Vì thần lực của Phật Phát sinh pháp vi diệu Người khéo hành tịch diệt Không có những tâm ác Đều ở trong địa này Tu tập hạnh Bồ-tát Vì lợi ích thế gian Đi khắp cả mười phương Dạy chúng sinh Phật pháp Tâm trống rỗng vô ngại Thần lực các Bồ-tát Cúng dường vật thượng diệu Hơn trời người mười phương Do phước đức đưa đến Phật tử thích người trí Nhờ đấy hiện Phật lực Ở một cõi bất động Mà hiện khắp mọi nơi Lợi ích cho thế gian Như trăng sáng tròn đầy Dứt tất cả âm thanh Ngôn ngữ và tưởng nhớ Mà dùng các âm thanh Thuyết pháp như tiếng vang Tùy chúng sinh thấp kém Tâm họ chán và đắm Hiện nói đạo Thanh văn Làm thoát khỏi các khổ Tùy chỗ chúng sinh có Giảng thuyết đạo Thanh văn Những kẻ ít lanh lợi Thích các pháp nhân duyên Thì thuyết Bích-chi-phật Tùy chỗ lợi căn có Làm lợi ích chúng sinh Có tâm Từ bi lớn Thì giảng pháp Bồ-tát Người tâm lớn vô thượng Chắc chắn thích việc lớn Thì hiện thành thân Phật Thuyết vô lượng Phật pháp Ví như nhà ảo thuật Hiện các loại thân hình Các thân tướng như vậy Đều không thật sự có Các Phật tử như vậy Khéo biết giữ trí tuệ Thị hiện tất cả hạnh Tâm xa lìa có không Ngàn vạn các Thiên nữ Dùng tiếng hay ca ngợi Ca ngợi như vậy rồi Im lặng chiêm ngưỡng Phật Giải Thoát Nguyệt lại thưa Phật tử, Đại chúng tịnh Nhất tâm và thích nghe Chánh hạnh Địa thứ chín. Bồ-tát Kim Cang Tạng nói: –Phật tử! Các Đại Bồ-tát này dùng vô lượng trí như thế quán sát Phật đạo; muốn cầu tịch diệt giải thoát càng sâu xa hơn và muốn tư duy trí tuệ của Như Lai tốt hơn; muốn nhập pháp sâu xa bí mật của Như Lai; muốn phân biệt, nắm bắt đại trí tuệ không thể nghó bàn; muốn phân biệt các Tam-muội Đà-la-ni khiến thanh tịnh; muốn khiến các thần thông rộng lớn, muốn tùy thuận hạnh sai khác của thế gian; muốn tu tập các Lực, Vô úy, pháp Bất cộng của Phật, không ai hoại được; muốn tùy thuận hành sức chuyển pháp luân của chư Phật, không bỏ đại Bi, đại nguyện đã thọ trì được nhập Địa thứ chín. Bồ-tát trụ địa này biết như thật phát khởi hành pháp thiện, bất thiện, vô ký; biết hành pháp hữu lậu, vô lậu; hành pháp thế gian, xuất thế gian; hành pháp tư nghì, chẳng thể nghó bàn; hành pháp định, bất định; hành pháp Thanh văn, Bích-chi-phật, Bồ-tát, Như Lai; hành pháp hữu vi, vô vi. Tùy thuận trí tuệ như vậy, như thật biết tâm sở hành Bồ-đề khó, các phiền não khó, nghiệp khó, các căn khó, nguyện nhạo khó, tánh khó, chí tâm khó, thâm tâm khó, sinh khó, tàn khí khó, tam tụ sai biệt khó; biết tướng sai biệt của tâm, tướng tạp của tâm, tướng khinh chuyển của tâm; tướng hoại bất hoại của tâm, tướng của tâm, tướng vô biên tự tại của tâm, tướng vô hình, sai biệt thanh tịnh của tâm, tướng cấu, tướng vô cấu của tâm, tướng trói buộc của tâm, tướng cởi mở của tâm, tướng dua nịnh của tâm, tướng ngay thẳng của tâm, tướng tùy đạo của tâm… Tất cả đều biết như thật. Bồ-tát biết tướng sâu xa của phiền não, biết tướng thô cạn của phiền não, biết tướng bạn, tướng không rời của tâm phiền não, biết tướng trói buộc, sai khác, biết tướng tâm ấy tương ưng hay không tương ưng, biết tướng quả báo khi sinh, biết các tướng sai khác trong ba cõi, biết tướng ái, si, kiến nhập sâu như mũi tên, biết tướng tội nặng của kiêu mạn si; biết tướng nhân duyên ba nghiệp không đoạn, cho đến biết như thật tướng sai biệt của tám vạn bốn ngàn phiền não. Bồ-tát này biết tướng của các nghiệp thiện, bất thiện, vô ký, tướng phân biệt, chưa phân biệt; tướng bạn với tâm; tướng không xa lìa; tướng tự nhiên tận; tướng hành đạo tận; tướng chủng, tướng tập, tướng không mất quả báo, tướng thứ lớp, tướng hữu báo, tướng vô báo; tướng hắc hắc báo, bạch bạch báo; tướng hắc bạch hắc bạch báo; tướng không phải hắc, không phải bạch, chấm dứt nghiệp; biết tướng nơi khởi nghiệp; tướng thọ nghiệp pháp sai khác; biết tướng nghiệp vô lượng nhân duyên khởi; biết tướng sai khác của nghiệp thế gian, nghiệp xuất thế gian; tướng hiện báo, tướng sinh báo, tướng hậu báo; tướng tùy thuận các nghiệp định, bất định; cho đến biết như thật tướng sai biệt của tám vạn bốn ngàn nghiệp. Bồ-tát này biết tướng sai biệt của các căn nhu nhuyến, vừa phải, lanh lợi; biết tướng sai biệt của đời trước, đời sau, tướng không sai khác; biết tướng thượng trung hạ; biết tướng bạn của phiền não; tướng không, rời nhau; tướng tùy thuận các thừa, định, bất định; tướng thuần thục, tướng chưa thuần thục; tướng tùy tâm hành, tướng hư hoại, tướng giữ chặt, tướng tăng thượng, tướng không hoại được, tướng chuyển, tướng bất chuyển; tướng sai biệt của ba đời, tướng sai biệt sâu xa an ổn cùng sinh; cho đến biết như thật tướng sai biệt của tám vạn bốn ngàn căn. Bồ-tát này biết tướng nhu nhuyến, vừa phải, lanh lợi trong dục lạc của chúng sinh; cho đến biết như thật tướng sai khác của tám vạn bốn ngàn dục lạc. Bồ-tát này biết tướng các tánh nhu nhuyến, vừa phải, lanh lợi, cho đến biết như thật tướng sai biệt của tám vạn bốn ngàn tánh. Bồ-tát này biết tướng nhu nhuyến, lanh lợi, vừa phải, của tâm sâu xa, cho đến biết như thật tướng sai biệt của tám vạn bốn ngàn tâm sâu xa. Bồ-tát này phân biệt và biết được các kết sử trói buộc cùng sinh với tâm, không cùng sinh với tâm; tâm tương ưng, tâm không tương ưng; tướng thâm nhập, tướng từ vô thỉ đến nay theo não hại chúng sinh, trái với tất cả thiền định giải thoát, thần thông, nó trói buộc chắc chắn trong ba cõi, trói buộc tâm vô lượng không để hiện tiền, mở cửa các nghiệp, không hay biết tướng có thể đối trị tướng vô sở hữu, tướng vô định sự, tướng không khác Thánh đạo, tướng diệt động. Bồ-tát này biết như thật tướng sai biệt của chúng sinh; đó là sự sai biệt của địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, A-tu-la, trời, người, sự sai biệt của Sắc giới, Vô sắc giới; sự sai biệt hữu tưởng, vô tưởng. Nghiệp là ruộng, ái là nước, vô minh là tối tăm, thức bị che là hạt giống, thân sau là mầm, danh sắc cùng sinh không rời nhau; tướng si ái tương tục; dục sinh, dục tác, dục ái không rời tướng ưa chúng sinh; phân biệt tướng sai biệt ba cõi, tướng tam hữu tương tục; tất cả đều biết như thật. Bồ-tát này biết như thật các tập khí, hoặc hữu dư, hoặc vô dư, tùy nơi thọ sinh có tập khí, tùy chúng sinh cộng trụ có tập khí, tùy nghiệp phiền não có tập khí; thiện, bất thiện, vô ký có tập khí; lìa dục có tập khí; tùy thân sau có tập khí; tuần tự rong ruổi có tập khí; tướng thâm nhập đạo đoạn, tướng trì phiền não, xa lìa thì không còn pháp. Tất cả đều biết như thật. Bồ-tát này biết như thật tướng định, tướng bất định của chúng sinh, tướng chánh định, tướng tà định; tướng bất định, tướng tà định trong tà kiến; tướng chánh định trong chánh kiến; rời xa hai tướng vô định này, mỗi cái ngũ nghịch là tướng tà định, năm căn là tướng chánh định, tà vị là tà định, chánh vị là chánh định. Vì không còn tạo tác nữa, lìa hai vị này, đó là tướng bất định, thâm nhập nhóm tà có tướng khó chuyển được, phải khiến tu tướng nhân duyên đạo vô thượng; nhóm bất định, nhóm tà định, tướng thủ hộ chúng sinh đều biết như thật. Phật tử! Các Đại Bồ-tát tùy thuận trí như vậy, gọi là an trụ địa Diệu thiện. Bồ-tát trụ địa này, biết tướng các hành sai khác của chúng sinh, như thế tùy sự giải thoát mà tạo nhân duyên. Bồ-tát này, biết pháp giáo hóa chúng sinh, biết pháp độ chúng sinh. Biết như thật, rồi thuyết pháp về tướng của Thanh văn thừa, tướng Bích-chi-phật thừa, tướng Bồ-tát thừa, tướng Như Lai địa. Biết như thật tùy thuận nhân duyên của chúng sinh mà thuyết pháp; tùy tâm tánh, tùy căn cơ, tùy dục lạc sai khác mà thuyết pháp; tùy hành xứ, trí tuệ xứ mà thuyết pháp; biết tất cả hành xứ theo đó mà thuyết pháp; tùy tánh chúng sinh, thâm nhập chỗ khó mà thuyết pháp; tùy đạo, tùy cuộc sống, tùy phiền não, tập khí chuyển mà thuyết pháp; tùy ham thích khiến được giải thoát mà thuyết pháp. Bồ-tát trụ địa này, làm đại Pháp sư gìn giữ tạng pháp của chư Phật. Tùy ở nghóa sâu xa, đại Pháp sư sẽ dùng vô lượng tuệ phương tiện, bốn trí vô ngại, phát khởi ngôn từ Bồ-tát mà thuyết pháp. Bồ-tát này thường tùy thuận bốn trí vô ngại, nhưng không phân biệt. Bốn pháp đó là gì? 1. Pháp vô ngại. 2.Nghóa vô ngại. 3. Từ vô ngại. 4. Nhạo thuyết vô ngại. Bồ-tát này dùng trí pháp vô ngại biết tự tướng các pháp; dùng trí nghóa vô ngại biết sự sai biệt của các pháp; dùng trí từ vô ngại biết thuyết các pháp không phân biệt; dùng trí nhạo thuyết vô ngại biết các pháp nối nhau không dứt. Lại dùng trí pháp vô ngại biết các pháp không thể tánh; dùng trí nghóa vô ngại biết tướng sinh diệt của các pháp; dùng trí từ vô ngại biết giả danh của các pháp nhưng nói không đoạn giả danh; dùng trí nhạo thuyết vô ngại, nói tùy giả danh không hoại vô biên. Lại dùng trí pháp vô ngại biết tướng sai biệt của các pháp hiện tại; dùng trí nghóa vô ngại biết tướng sai biệt của các pháp quá khứ, vị lai, dùng trí từ vô ngại biết các pháp quá khứ, vị lai, hiện tại mà dùng không phân biệt thuyết giảng; dùng trí nhạo thuyết vô ngại để trong mỗi đời được giảng vô biên pháp tướng. Lại dùng trí pháp vô ngại để biết các pháp sai biệt; dùng trí nghóa vô ngại để biết nghóa sai biệt của các pháp; dùng trí từ vô ngại để biết tùy thuận ngôn ngữ mà thuyết pháp; dùng trí nhạo thuyết vô ngại để tùy thuận sự ham thích hiểu biết mà thuyết pháp. Lại dùng trí pháp vô ngại và dùng trí pháp để biết sự sai biệt của các pháp; dùng phương tiện để biết sự không sai biệt của các pháp; dùng nghóa vô ngại và tỷ trí biết như thật sự sai biệt của các pháp dùng trí từ vô ngại, trí thế giảng thuyết sự sai biệt của các pháp; dùng trí nhạo thuyết vô ngại để khéo giảng thuyết đệ nhất nghóa. Lại dùng trí pháp vô ngại để biết một tướng không hư hoại của các pháp; dùng trí nghóa vô ngại để khéo nhập ấm, nhập giới, xét kỹ pháp nhân duyên; dùng trí từ vô ngại làm cho tất cả thế gian có chỗ quy thú, vì dùng lời hay, vì dùng trí nhạo thuyết vô ngại nên việc thuyết giảng thù thắng làm cho chúng sinh đạt vô biên pháp sáng. Lại dùng trí pháp vô ngại để biết các pháp không có phân biệt, thâu nhiếp trong một thừa; dùng trí nghóa vô ngại nhập môn phân biệt sự sai biệt của các pháp; dùng trí từ vô ngại thuyết giảng các thừa, nghóa không phân biệt; dùng trí nhạo thuyết vô ngại để dùng một pháp môn thuyết vô biên pháp môn. Lại dùng trí pháp vô ngại có thể nhập tất cả hạnh Bồ-tát: Trí hành, pháp hành, tùy trí hành; dùng trí nghóa vô ngại có thể phân biệt, thuyết giảng nghóa sai khác của mười địa; dùng trí từ vô ngại không phân biệt, thuyết giảng đạo tùy thuận các địa; dùng trí nhạo thuyết vô ngại, thuyết giảng tướng vô biên của các hành. Lại dùng trí pháp vô ngại đẻ biết tất cả Phật, trong một niệm, đạt được Bồ-đề; dùng trí nghóa vô ngại để biết các loại sai biệt của thời, xứ, dùng trí từ vô ngại để tùy thuận thuyết giảng sự sai khác về việc đắc đạo của chư Phật; dùng trí nhạo thuyết vô ngại, dù trải qua vô biên kiếp, giảng thuyết pháp cú không cùng tận. Lại dùng trí pháp vô ngại biết tất cả Phật pháp, lực Phật, Vô sở úy, pháp Bất cộng, đại Từ, đại Bi, Trí vô ngại, Chuyển pháp luân tùy thuận Nhất thiết trí; dùng trí nghóa vô ngại, tùy âm thanh của Như Lai phát ra tám vạn bốn ngàn, tùy tâm, tùy căn cơ và tùy sự ham thích sai biệt của chúng sinh; dùng trí từ vô ngại, dùng âm thanh Như Lai, không phân biệt thuyết giảng tất cả các hành; dùng trí nhạo thuyết vô ngại, dùng sức trí tuệ của chư Phật để tùy chúng sinh thích âm thanh gì mà thuyết giảng. Các Phật tử! Đại Bồ-tát khéo biết trí vô ngại như vậy, an trụ Địa thứ chín, gọi là đạt tạng pháp của chư Phật; có thể làm bậc đại pháp sư; thông đạt chúng nghóa Đà-la-ni; chúng pháp Đà-la-ni; khởi trí, chúng minh Đà-la-ni, thiện ý Đà-la-ni, chúng tài Đà-la-ni, danh văn Đà-la-ni, oai đức Đà-la-ni, vô ngại Đà-la-ni, vô biên toàn Đà-la-ni, nghóa Đà-la-ni. Đạt trăm vạn a-tăng-kỳ Đà-la-ni như vậy, tùy phương tiện mà giảng thuyết vô lượng pháp môn sai biệt như thế. Bồ-tát này đạt vô lượng môn Đà-la-ni như vậy, có thể ở chỗ vô lượng Phật nghe pháp, nghe rồi không quên, còn giảng thuyết lại cho mọi người bằng vô lượng pháp môn sai khác như đã nghe. Bồ-tát này, ở chỗ một Đức Phật, dùng trăm vạn a-tăng-kỳ Đà-la-ni nghe thọ pháp. Nghe pháp ở một Đức Phật như vậy, ở vô lượng, vô biên Đức Phật cũng vậy. Bồ-tát này lúc lạy Phật, nghe pháp sáng chẳng phải nhờ học nhiều ở Thanh văn đạo mà đạt sức mà trải qua mười vạn kiếp thọ trì. Bồ-tát này, đạt sức Đà-la-ni, các trí vô ngại, sức nhạo thuyết nên khi thuyết pháp, ngồi ở pháp tòa mà tùy ý thuyết pháp cho chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới. Bồ-tát này ngồi trên pháp tòa là người thù thắng nhất, trừ chư Phật và các Đại Bồ-tát; Bồ-tát này trong tâm đạt vô lượng pháp minh. Bồ-tát này ngồi tại pháp tòa dùng một âm thanh, làm cho tất cả đại chúng đều hiểu rõ; hoặc dùng mọi thứ âm thanh, làm cho đại chúng đều hiểu rõ; hoặc im lặng chỉ phóng ra ánh sáng mà làm cho hết thảy đại chúng hiểu rõ pháp; hoặc từ tất cả lỗ chân lông phát ra pháp âm; hoặc vật có sắc, không sắc trong tam thiên đại thiên thế giới đều phát ra pháp âm; hoặc dùng một âm biến khắp các cõi, làm cho chúng sinh đều hiểu. Bồ-tát này, dù cả chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới đồng thời vấn nạn, mỗi chúng sinh dùng vô lượng, vô biên âm thanh sai khác để vấn nạn, những gì người này hỏi, người khác không hỏi lại thì Bồ-tát ấy, trong một niệm, nhận tất cả sự vấn nạn nhưng chỉ dùng một âm thanh làm cho tất cả đều hiểu rõ. Cứ thế, dù hai tam thiên đại thiên thế giới; ba, bốn, năm, mười, hai mươi, ba mươi, bốn mươi, năm mươi, hoặc trăm, tam thiên đại thiên thế giới, hoặc ngàn tam thiên đại thiên thế giới, hoặc một vạn, mười vạn, trăm vạn, hoặc một ức tam thiên đại thiên thế giới, hoặc mười ức, trăm ngàn ức na-do-tha cho đến không thể nói, không thể nói tam thiên đại thiên thế giới, đầy cả chúng sinh trong đó cũng đều rộng thuyết pháp cho họ. Khi thuyết pháp, nương thần lực Phật, có thể chúng sinh rộng làm các việc Phật, siêng năng hơn nữa, để thâu giữ trí sáng như vậy. Giả như trong một hào ly, có không thể nói, không thể nói số thế giới vi trần đại hội, Đức Phật ở trong đó thuyết pháp, Phật tùy thuận bao nhiêu tâm chúng sinh mà thuyết pháp, làm cho mỗi chúng sinh đều đạt vô lượng pháp. Như một Đức Phật, tất cả chư Phật ở trong đại hội thuyết pháp, cũng đều như vậy; như đầu một sợi lông, tất cả thế giới ở mười phương cũng đều như vậy, ở trong đó, phát sinh sức nhớ nghó lớn; ở trong một niệm có thể đến chỗ tất cả Phật, thọ tất cả pháp sáng nhưng không mất một câu. Ví như vô số chúng sinh trong đại hội nghe pháp, lúc đó, Bồ-tát dùng pháp môn thanh tịnh quyết định thuyết giảng làm cho chúng đều khai ngộ. Trong một niệm, làm cho tất cả chúng sinh đều hoan hỷ, huống gì chúng sinh trong vài thế giới. Bồ-tát trụ trong địa này, căn lành dần tăng trưởng, ngày đêm không còn niệm khác, thâm nhập hành xứ của chư Phật, thường ở chỗ Phật, thâm nhập giải thoát của Bồ-tát, thâm nhập tùy thuận của Bồ-tát. Nhờ trí như vậy, thường được gặp chư Phật. Trong mỗi kiếp, đem vô lượng, vô biên trăm ngàn ức phẩm vật vi diệu, cúng dường chư Phật, ở chỗ các Đức Phật học hỏi tất cả, thông đạt các pháp Đà-la-ni. Bồ-tát này, căn lành dần được sáng suốt. Phật tử! Ví như vàng ròng đã được luyện thành đồ trang sức, đầy đủ sự đẹp đẽ làm mão báu hay chuỗi ngọc cho Chuyển luân thánh vương sử dụng, thì tất cả những vua nhỏ và người trong bốn cõi không thể đoạt được. Các Phật tử! Đại Bồ-tát cũng thế, trụ ở địa Diệu thiện này, các căn lành dần dần được sáng suốt, không ai hoại được, Thanh văn, Bích-chi-phật và Bồ-tát ở các địa dưới không thể hoại được. Bồ-tát này, căn lành sáng suốt, chiếu khắp những chỗ hiểm nạn phiền não của chúng sinh, chiếu xong thâu lại. Phật tử! Ví như Đại phạm vương, trong tam thiên đại thiên thế giới, soi rọi được tất cả những chỗ hiểm nạn. Bồ-tát cũng thế, trụ ở địa Diệu thiện, căn lành sáng suốt, soi chiếu tất cả chỗ hiểm nạn phiền não của chúng sinh, chiếu xong thâu lại. Phật tử! Đó là lược nói địa Diệu thiện, Địa thứ chín của Đại Bồ-tát. Nếu nói rộng, thì dù trải qua vô lượng vô số kiếp, cũng không thể hết. Đại Bồ-tát trụ trong Địa này thường làm Đại phạm vương, làm chủ cả tam thiên đại thiên thế giới không ai hơn được. Người hiểu nghóa như thật, ở trong tự tại mà đạt tự tại; khéo giảng thuyết cho Thanh văn, Bích-chi-phật, Ba-la-mật của Bồ-tát, chúng sinh có vấn nạn cũng không bị cùng tận. Tạo những nghiệp lành như Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành, Đồng sự đều không rời niệm Phật, niệm pháp và niệm chúng Bồ-tát bạn, cho đến không rời niệm Nhất thiết chủng trí; luôn nghó, bất cứ lúc nào, ở trong chúng sinh ta là người đứng đầu, người tôn quý, cho đến là chỗ nương tựa cho tất cả chúng sinh. Bồ-tát này nếu siêng năng tu tập, thì trong khoảnh khắc, đạt số Tam-muội nhiều như số bụi trần trong trăm vạn a-tăng-kỳ tam thiên đại thiên thế giới; cho đến thị hiện được vô số Bồ-tát và quyến thuộc nhiều như số bụi trần trong trăm vạn a-tăng-kỳ tam thiên đại thiên thế giới. Nếu dùng nguyện lực, thần thông tự tại, thì hơn số này, dù trải qua trăm ngàn ức na-do-tha kiếp, cũng không thể nói hết. Lúc ấy, Bồ-tát Kim Cang Tạng muốn nêu lại nghóa trên nên nói kệ rằng: Các Bồ-tát tùy thuận Vô lượng trí lực sâu Là vi diệu số một Tất cả đời khó biết Người lợi ích chúng sinh Đạt đến Địa thứ chín Được nhập tạng bí mật Của tất cả chư Phật Đạt được Đà-la-ni Tam-muội vi diệu nhất Sức thần thông rộng lớn Khéo nhập tướng thế gian Sức trí tuệ bền chắc Quán sát các Phật pháp Nguyện lớn, tâm bi tịnh Nhập được Địa thứ chín Thuận thành địa cao thượng Giữ tạng pháp chư Phật Liền thông đạt các pháp Thiện, bất thiện, vô ký Hữu lậu và vô lậu Thế gian, xuất thế gian Đây so lường xét được Kia không thể suy lường Biết pháp định, bất định Đầy đủ tướng ba thừa Suy xét và phân biệt Tướng hữu vi, vô vi Biết các pháp như vậy Phá trừ tối vô minh Tùy thuận tâm trí này Là vi diệu số một Biết tất cả chúng sinh Hiểm nạn các tạp tâm Tâm khinh suất chuyển đổi Tâm vô biên tự tại Tướng phiền não cạn sâu Gần tâm, không rời tâm Lại biết tướng trói buộc Tùy thuận có liên tục Biết đủ các tạp nghiệp Với bao tướng sai khác Nhân diệt, quả không mất Thông đạt việc như vậy Lại biết các chúng sinh Các căn độn, vừa, lợi Rộng lớn và sai biệt Tướng đời trước, đời sau Thượng, trung, hạ khác nhau Và các thứ dục lạc Cho đến biết tất cả Tám vạn bốn ngàn loại Tánh thế gian cũng thế Chỗ phiền não khó thấy Từ xưa nay không đoạn Tất cả kết sử, tâm Luôn cộng hành với tâm Buộc tâm khó đoạn trừ Biết tất cả kết sử Chỉ vọng tưởng bất định Không có chỗ dừng ở Cũng là tướng bất định Lại không rời xa thân Và thật là khó biết Sức Thiền định ngăn được Kim Cang đạo đoạn được Lại biết các chúng sinh Vào sáu đạo sai khác Sông ái, si, che lấp Ruộng, nghiệp, biết là giống Là mầm sinh thân sau Danh sắc cùng tăng trưởng Từ xưa nay, sinh tử Liên tục trong ba cõi Biết cả trời và rồng Tâm phiền não nghiệp thân Nếu xa lìa tâm ý Thì không hề có gì Tất cả các chúng sinh Đều ở trong ba tụ Hoặc chìm trong tà kiến Hoặc ở trong trí đạo Bồ-tát trụ địa này Biết tâm của chúng sinh Các căn và dục lạc Đủ các thứ sai biệt Thâm tâm khéo suy xét Tùy nghi mà thuyết pháp Trí vô ngại thông đạt Khéo dùng ngôn từ dạy Bồ-tát là Pháp sư Ví như Sư tử chúa Trâu chúa và núi chúa An trụ không lo sợ Mưa thức ăn cam lồ Khắp tất cả các cõi Ví như rồng chúa lớn Mưa ngập cả biển lớn Bồ-tát này khéo biết Pháp, Nghóa, Từ vô ngại Tùy thuận mà thực hành Đầy đủ sức nhạo thuyết Và đạt được trăm vạn A-tăng-kỳ Tổng trì Lãnh thọ pháp của Phật Như biển nhận nước mưa Bồ-tát đã đạt được Sức thanh tịnh sâu xa Vô lượng Đà-la-ni Và sức các Tam-muội Chỉ trong một khoảnh khắc Thấy được vô lượng Phật Nghe Phạm âm thanh tịnh Diễn nói pháp vi diệu Bồ-tát này giáo hóa Chúng sinh đại thiên giới Tùy tâm căn ưa thích Thuyết pháp khiến vui vẻ Cứ thế có vô lượng Tam thiên đại thiên cõi Sâu xa và siêng năng Suy xét việc như vậy Trên đầu một sợi lông Vô lượng Phật thuyết pháp Phật vì tất cả chúng Diễn nói pháp vi diệu Bồ-tát lãnh thọ pháp Như đất nhận hạt giống Lại phát lời thệ nguyện Tất cả các chúng sinh Trong cõi nước mười phương Đều hợp thành một hội Chỉ trong một khoảnh khắc Biết tâm niệm của chúng Dùng một tiếng thuyết pháp Đoạn trừ hết lưới nghi Bồ-tát trụ địa này Pháp vương của trời người Làm bậc đại Pháp sư Tùy thuận tâm chúng sinh Suốt cả ngày lẫn đêm Cùng ở chỗ chư Phật An trụ thâm diệu Tịch diệt trí giải thoát Cúng dường vô lượng Phật Căn lành dần sáng tịnh Ví như Chuyển luân vương Trang sức vàng trên mão Ánh sáng chiếu chúng sinh Nơi phiền não hiểm nạn Như ánh sáng Phạm vương Chiếu khắp đại thiên cõi Bồ-tát trụ địa này Thường làm Đại phạm vương Chủ tam thiên đại thiên Các căn đều lanh lợi Khéo dùng phép ba thừa Khai thị độ chúng sinh Làm tất cả nghiệp lành Đều tùy thuận chánh niệm Chỉ trong một khoảnh khắc Đạt Tam-muội nhiệm mầu Nhiều như số bụi trần Trong vô lượng cõi nước Thấy mười phương chư Phật Dùng diệu âm thuyết pháp Thấy thần lực của Phật Lại phát vô lượng nguyện Địa thứ chín như thế Nơi đại trí thực hành Sâu xa khó thấy biết Nay đã lược nói xong.  <詞 id="113328965">Phẩm 10: ĐỊA PHÁP VÂN Đã nói việc vô thượng Mà Bồ-tát thực hành Vô số na-do-tha Chư Thiên Thủ đà hội Đang ở trong hư không Đều vui mừng khôn xiết Ai nấy đều cung kính Cúng Phật vật thượng diệu Na-do-tha Bồ-tát Vui mừng không hạn lượng Đốt các hương thơm lạ Diệt trừ mọi phiền não. Tha hóa tự tại vương Và các chúng cõi trời An trụ trong hư không Tâm vui mừng khôn xiết Ai nấy đều cung kính Cúng dường đủ các loại Và rải những y báu Từ hư không bay xuấng. Vô lượng ức Thiên nữ Các căn đều tươi vui Đang ở trong hư không Cung kính cúng dường Phật Lại trổi vô lượng ức Na-do-tha kỹ nhạc Trong tất cả mọi vật Đều phát tiếng như vậy. Phật ngồi ở nơi này Nhưng hóa thân khắp cả Trong cõi nước mười phương Đều có Phật thị hiện Đầy đủ vô lượng ức Tướng tốt trang nghiêm thân Xinh đẹp không ai bằng Ở trong khắp mọi nơi Trong mỗi lỗ chân lông Phóng vô lượng ánh sáng Dập tắt hết tất cả Lửa phiền não thế gian Như số bụi mười phương Không thể nào đếm hết Ánh sáng mỗi chân lông Cũng không thể cùng tận Thấy mỗi thân Đức Phật Đủ ba hai tướng tốt Và tám mươi vẻ đẹp Chuyển xe pháp vô thượng Hoặc thấy vô số Phật Thuyết pháp cho chúng sinh Hoặc thấy ở Đâu-suất Giáo hóa các thiên nhân Hoặc thấy từ Đâu-suất Giáng hạ ở trong thai Hoặc thấy lúc đản sinh Hoặc thấy đêm xuất gia Hoặc thấy ngồi nơi đạo tràng Mà thành đạo Vô thượng Hoặc thấy chuyển xe pháp Hoặc thấy nhập Niết-bàn… Ở vô lượng cõi nước Thị hiện đủ mọi cách Để độ thoát chúng sinh Nên có việc như vậy. Ví như nhà ảo thuật Biết các thuật huyễn ảo Thị hiện những chúng sinh Đủ các loại hình tướng Trí tuệ Phật cũng thế Khéo léo mà thị hiện Biến hóa các loại thân Khắp tất cả thế gian Như các pháp vắng lặng Xưa nay không tánh tướng Trống rỗng như hư không Đại sư cũng như vậy Thâm nhập nghóa đệ nhất Tánh tướng rất vi diệu Tùy tánh tướng của pháp Hiện đại thần lực Phật Tánh hạnh của chư Phật Của tất cả chúng sinh Đều ở trong tánh ấy Tướng, khả tướng, đồng tướng Tất cả các pháp đó Nhập vào nghóa đệ nhất Trong nghóa thú tịch diệt Hoàn toàn không có tướng Nếu muốn được trí Phật Hãy bỏ các vọng niệm Thông đạt cả có không Làm thầy của trời người Các thể nữ cõi trời Đều cất ngàn vạn tiếng Vi diệu lại hay ho Im lặng chiêm ngưỡng Phật Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt Thấy đại chúng im lặng Thưa với Kim Cang Tạng Phật tử đại danh xưng Bồ-tát từ cửu địa An nhập Địa thứ mười Xin đấng đại thần lực Vì đại chúng lược nói. Bấy giờ, Bồ-tát Kim Cang Tạng nói: –Phật tử! Đại Bồ-tát có vô lượng trí tuệ như vậy, khéo tu hành Phật đạo đạt đến Địa thứ chín, khéo tu tập các bạch pháp, tu vô lượng pháp trợ đạo, được đại công đức trí tuệ hộ trì, rộng tu hạnh đại Bi, phân biệt biết rõ tánh sai biệt của thế gian, vào các chỗ nạn xứ của chúng sinh, đến chỗ của Như Lai hành, nhớ nghó tùy thuận vào chỗ hành tịch diệt của Như Lai, hướng đến Thần lực, Vô sở úy, pháp Bất cộng của Phật, kiên trì không bỏ, đạt địa vị Nhất thiết trí tuệ. Các Phật tử! Đại Bồ-tát tùy hành trí như vậy, gần địa vị Phật, thì hiện tiền đạt các Tam-muội ly cấu của Bồ-tát; lại nhập Tam-muội Pháp tánh sai biệt, Tam-muội Trang nghiêm đạo tràng, Tam-muội Vũ nhất thiết thế gian hoa quang, Tam-muội Hải tạng, Tam-muội Hải ấn, Tam-muội Hư không quảng, Tam-muội Quán trạch nhất thiết pháp tánh, Tam-muội Tùy nhất thiết chúng sinh tâm hành, Tam-muội Như thật trạch nhất thiết pháp, Tam-muội Đắc Như Lai trí tín; đạt trăm vạn a-tăng-kỳ Tam-muội như vậy ngay trong hiện tại. Bồ-tát này nhập được những Tam-muội này, biết rõ công dụng sai biệt của chúng. Tam-muội cuối cùng là Ích nhất thiết trí vị. Lúc Tam-muội này hiện tiền, hoa sen báu lớn xuất hiện tròn đầy, như trăm vạn tam thiên đại thiên thế giới. Tất cả các báu khác trang hoàng xen lẫn nhiều hơn tất cả những vật quý có trong thế gian, đó là sự phát sinh do căn lành xuất thế gian. Các pháp hành như huyễn, do tuệ tánh không thành tựu, ánh sáng soi chiếu tất cả thế giới. Cọng sen bằng lưu ly báu hơn tất cả vật báu có ở cõi trời, đài bằng chiên-đàn vương không thể lường, tua bằng mã não, cánh bằng vàng Diêm-phù-đàn. Bên trong có vô lượng ánh sáng, tất cả báu đẹp đều ở trong đó, lưới báu che bên trên. Lại có vô số hoa sen bao quanh, nhiều như số bụi trong mười tam thiên đại thiên thế giới. Lúc ấy, thân Bồ-tát tươi đẹp như đóa hoa. Bồ-tát này, vì đạt sức Tam-muội Ích nhất thiết trí, nên hiện thân ngồi trên tòa sen lớn. Tức thời các quyến thuộc trên hoa sen đều có Bồ-tát vây quanh, mỗi Bồ-tát, ngồi trên hoa sen, đề đạt trăm vạn Tam-muội, đều nhất tâm cung kính, chiêm ngưỡng Đại Bồ-tát. Lúc Bồ-tát này lên tòa sen; tất cả các cõi nước hiện ở mười phương đều chấn động; tất cả cõi ác đều chấm dứt; ánh sáng chiếu khắp các cõi nước mười phương; tất cả cõi nước đều sáng đẹp, thấy nghe được tất cả đại hội của chư Phật. Vì sao? Vì Bồ-tát này khi ngồi trên tòa sen lớn, thì ở dưới chân phóng ra trăm vạn a-tăng-kỳ ánh sáng, chiếu khắp mười phương, đến tận ngục A-tỳ, diệt trừ khổ não cho chúng sinh. Trên hai đầu gối, phóng vô số ánh sáng, chiếu khắp mười phương, đến hết thảy loài súc sinh để diệt trừ khổ não. Từ rốn, phóng vô số ánh sáng, chiếu khắp mười phương, đến hết thảy loài ngạ quỷ để diệt trừ khổ não. Hai bên hông, phóng ra vô số ánh sáng, chiếu khắp cõi người ở mười phương, làm cho an ổn, khoái lạc. Hai tay phóng vô số ánh sáng, chiếu khắp cung điện cõi trời và A-tu-la. Hai vai, phóng vô số ánh sáng, chiếu khắp mười phương, đến chúng Thanh văn. Cổ phóng vô số ánh sáng, chiếu khắp mười phương, đến chúng Bích-chi-phật. Miệng, phóng vô số ánh sáng, chiếu khắp mười phương, đến cả Bồ-tát trụ Địa thứ chín. Từ lông trắng, phóng vô số ánh sáng, chiếu khắp mười phương, đến vị Đại Bồ-tát. Tất cả cung ma đều bị che khuất không hiện. Trên đỉnh đầu, phóng vô số ánh sáng, nhiều như số bụi trong trăm ngàn a-tăng-kỳ tam thiên đại thiên thế giới, chiếu đến đại hội của chư Phật nơi mười phương, nhiễu quanh mười vòng, trụ trong hư không, thành lưới ánh sáng cao lớn rực rỡ, cúng dường chư Phật. Sự cúng dường của hàng Bồ-tát từ lúc phát tâm cho đến Địa thứ chín, so với sự cúng dường này, không bằng một phần trăm, cho đến không bằng một phần trăm ngàn vạn ức, cho dù tính đếm ví dụ thế nào cũng không bằng được. Lưới ánh sáng này hơn tất cả vật cúng dường của mười phương cõi nước như hương hoa, hương bột, hương đốt, hương xoa, y phục, cờ phướn lọng báu, chuỗi ngọc, châu ma-ni. Vì nó từ căn lành xuất thế phát sinh. Trên mỗi chư Phật của đại hội, đều có mưa báu vậy như mây lớn. Chúng sinh nào biết được sự cúng dường này chắc chắn sẽ đạt đạo lớn vô thượng. Phóng ra ánh sáng và mưa lớn cúng dường xong, nhiễu quanh đại hội chư Phật mười vòng, nhập dưới chân của chư Phật. Lúc ấy, chư Phật và các Đại Bồ-tát trong hội, biết từ nước nào, Đại Bồ-tát nào đã hành đạo như vậy, và đã thành tựu chức thọ đó. Các Phật tử! Ngay lúc đó, vô biên Bồ-tát, kể cả những vị đạt Địa thứ chín, đều đến vây quanh thiết lễ đại cúng dường, nhất tâm cung kính, chiêm ngưỡng, lễ lạy. Các Bồ-tát đạt vạn Tam-muội và đạt chức vị đó, từ báu kim cương trang sức trên ngực, phóng luồng ánh sáng lớn gọi là phá ma tặc. Có vô số trăm ngàn ánh sáng vây quanh, chiếu khắp các cõi nước mười phương, thị hiện vô lượng thần lực, rồi lại nhập nơi ngực Đại Bồ-tát. Khi ánh sáng này mất, Bồ-tát ấy sẽ đạt thế lực lớn, thần thông trí tuệ gấp trăm ngàn vạn lần. Các Phật tử! Lúc đó, chư Phật phóng luồng ánh sáng ở lông trắng giữa chặng mày gọi là Ích nhất thiết trí vị, có vô lượng, vô biên ánh sáng bao quanh, chiếu khắp các cõi nước mười phương, không sót nơi nào. Chiếu quanh các cõi nước mười phương mười vòng, thị hiện sức thần thông lớn của chư Phật, khuyên dạy vô lượng, vô biên trăm ngàn vạn ức Bồ-tát. Tất cả các cõi nước ở mười phương, chấn động sáu cách, diệt trừ tất cả khổ não trong đường ác. Tất cả cung ma bị che mất, thị hiện nơi đắc đạo của tất cả chư Phật, thị hiện việc trang nghiêm đại hội của tất cả chư Phật, rộng lớn như tánh pháp, cứu cánh như hư không. Chiếu sáng tất cả cõi nước xong, trụ trong hư không, quay bên phải, thị hiện việc trang nghiêm đại thần thông, nhập trên đỉnh đầu của Bồ-tát này. Các ánh sáng khác, thì nhập trên đỉnh đầu của các Bồ-tát quyến thuộc. Lúc ấy, Đại Bồ-tát đều đạt mười ngàn Tam-muội mà trước chưa đạt. Ánh sáng đó, nhập trên đỉnh đầu Bồ-tát này. Như ánh sáng của một Đức Phật, ánh sáng của tất cả Đức Phật cũng vậy. Lúc ánh sáng của chư Phật ở mười phương, nhập trên đỉnh đầu của Bồ-tát thì gọi là đạt chức, là nhập cảnh giới của chư Phật. Phật tử! Ví như trưởng tử của Chuyển luân thánh vương, do đại phu nhân sinh ra, thành tựu tướng Chuyển luân vương. Chuyển luân thánh vương bảo con ngồi trên tòa vàng Diêm-phù-đàn của voi trắng báu, trang sức đủ loại, tràng phan, kỹ nhạc; cầm chuông vàng, đem nước thơm bốn biển rưới trên đỉnh đầu của con thì gọi là quán đỉnh. Đại vương đầy đủ mười nghiệp thiện gọi là Chuyển luân thánh vương. Các Phật tử! Cũng thế, Đại Bồ-tát lúc nhận chức, chư Phật dùng nước trí rưới trên đỉnh đầu của Bồ-tát gọi là quán đỉnh Pháp vương, là đủ mười lực của Phật, vào hàng số Phật. Phật tử, đó là chức trí tuệ lớn của Đại Bồ-tát. Vì chức này, các Đại Bồ-tát chịu vô lượng trăm ngàn vạn ức khổ, làm các việc khó làm. Bồ-tát đạt chức này, là an trụ Địa Pháp vân của Bồ-tát, có vô lượng công đức, trí tuệ tăng trưởng. Các Phật tử! Bồ-tát trụ địa Pháp vân này biết như thật tập cõi Dục, tập cõi Sắc, tập cõi Vô sắc; biết như thật tập thế gian tánh, tập chúng sinh tánh, tập thức tánh, tập hữu vi tánh, tập vô vi tánh, tập hư không tánh, tập pháp tánh, tập Niết-bàn tánh, tập tà kiến chư phiền não tánh; biết như thật hành pháp, hoàn pháp của thế gian biết như thật tập đạo Thanh văn, tập đạo Bích-chi-phật, tập đạo Bồ-tát, tập oai Lực, Vô úy, pháp Bất cộng của Phật; tập sắc thân, Pháp thân; tập Nhất thiết trí tuệ; như vậy tập đạt Phật đạo, tập chuyển pháp luân, tập thị hiện diệt độ. Nói tóm lại, biết như thật thị hiện tập tất cả pháp sai biệt. Bồ-tát này, dùng trí tuệ ấy tùy thuận hạnh Bồ-đề, dần dần thâm nhập như thật, biết sự huyễn hóa của chúng sinh, của nghiệp, của phiền não, của tà kiến, của tánh thế gian, của pháp tánh, của Thanh văn, của Bích-chi-phật, của Bồ-tát, của Như Lai; tất cả sự huyễn hóa, có huyễn hóa phân biệt, không phân biệt. Lúc ấy, Bồ-tát biết như thật sự hộ trì của Phật lực, về pháp xứ, về nghiệp, về phiền não, về thời gian, về nguyện, về đời trước, về hành, về kiếp sống, về trí. Bồ-tát trụ Địa thứ mười này, thì bao nhiêu hành trí vi tế của Phật như: Trí sinh tử vi tế, trí thế, trí xuất gia, trí đạt đạo, trí thần lực tự tại, trí chuyển pháp luân, trí giữ mạng sống, trí thị hiện Niết-bàn, trí làm pháp tồn tại lâu, đều biết như thật. Lại nữa, những chỗ bí mật của chư Phật như: Bí mật thân, khẩu, ý; bí mật trù lương; bí mật thời, phi thời; bí mật thọ ký cho Bồ-tát; bí mật nhiếp phục chúng sinh; bí mật các thừa sai khác; bí mật tám vạn bốn ngàn các căn sai biệt; bí mật tạo nghiệp như thật; bí mật hành; bí mật đạt đạo Bồ-đề; tất cả bí mật như thế đều biết như thật. Bồ-tát này đối với trí nhập kiếp số của Phật như: Một kiếp thâu nhiếp a-tăng-kỳ kiếp, a-tăng-kỳ kiếp thâu nhiếp một kiếp; có số thâu nhiếp không số; không số thâu nhiếp có số; một niệm thâu nhiếp vô lượng đời; vô lượng đời thâu nhiếp một niệm; kiếp thâu nhiếp phi kiếp; phi kiếp thâu nhiếp kiếp; kiếp có Phật thâu nhiếp kiếp không Phật; kiếp không Phật thâu nhiếp kiếp có Phật; kiếp quá khứ vị lai thâu nhiếp kiếp hiện tại; kiếp hiện tại thâu nhiếp kiếp quá khứ, vị lai; kiếp vị lai, quá khứ thâu nhiếp kiếp hiện tại; kiếp hiện tại thâu nhiếp kiếp vị lai, quá khứ; kiếp dài thâu nhiếp kiếp ngắn; kiếp ngắn thâu nhiếp kiếp dài; tất cả tướng thâu nhiếp của các kiếp đều như thế. Bồ-tát này, đối với trí nhập mao đạo của Phật, hoặc trí nhập vi trần, hoặc trí cõi nước, trí thân tâm, trí đắc đạo, hoặc trí chúng sinh thân tâm đắc đạo, trí chúng sinh hành, đạt đạo, trí biến hành Phật đạo, trí thuận hành thị hiện, trí nghịch hạnh thị hiện, trí bất khả tư nghì, có thể biết thế gian, có thể biết Thanh văn, có thể biết Bích-chi-phật, có thể biết Bồ-tát, có cái không thể biết, chỉ có Như Lai mới có thể biết, đều nhập như thật. Phật tử! Trí của chư Phật rộng lớn vô lượng, vô biên. Bồ-tát trụ địa này, sẽ nhập được trí tuệ như vậy. Phật tử! Đại Bồ-tát này, tùy thuận địa hành, đạt giải thoát không thể nghó bàn của Bồ-tát, đạt vô ngại giải thoát, tịnh hạnh giải thoát, phổ môn minh giải thoát, Như Lai tạng giải thoát, tùy vô ngại luận giải thoát, nhập ba đời giải thoát, pháp tánh tạng giải thoát, giải thoát minh giải thoát, ly sai biệt giải thoát. Các Phật tử! Bồ-tát này trước hết đạt mười giải thoát này. Cứ thế đạt vô lượng, vô biên trăm ngàn vạn ức a-tăng-kỳ giải thoát. Đều ở địa này đạt trăm ngàn vạn vô lượng a-tăng-kỳ Tam-muội, trăm ngàn vạn ức a-tăng-kỳ Đà-la-ni, trăm ngàn vạn ức a-tăng-kỳ thần thông, cũng đều như thế. Bồ-tát này thành tựu trí tuệ như vậy, tùy thuận Bồ-đề, thành tựu sức niệm vô lượng; có thể trong một niệm đến vô lượng cõi Phật ở mười phương, thọ vô lượng pháp minh, vô lượng mưa pháp, tất cả đều có thể thọ trì. Ví như Bà-ca-la Long vương làm mưa lớn, ngoài biển ra, các nơi khác không thể chứa đựng hết. Phật tử! Đại Bồ-tát cũng thế, thọ trì mưa pháp lớn, nhập chỗ bí mật của Như Lai. Mưa pháp lớn này, tất cả chúng sinh Thanh văn, Bích-chi-phật-đều không thể thọ trì. Bồ-tát từ Sơ địa đến Địa thứ chín cũng không thể thọ trì; chỉ có Đại Bồ-tát trụ địa Pháp vân, mới thọ trì được. Phật tử! Ví như biển lớn, nhận lấy hết nước mưa của một con rồng. Cho dù hai, ba, bốn, năm, mười, hai mươi, ba mươi, bốn mươi, năm mươi, trăm, ngàn, vạn, ức, trăm ức, ngàn vạn ức na-do-tha cho đến vô lượng, vô biên con rồng lớn, khởi mây làm mưa cùng một lúc, thì biển cũng nhận lấy hết. Vì sao? Vì biển lớn là vật chứa vô lượng. Các Phật tử, Đại Bồ-tát cũng thế, trụ địa Pháp vân ở chỗ một Đức Phật thọ trì mưa pháp lớn ở hai Đức Phật, ba bốn, năm, mười, trăm, ngàn, vạn, ức cho đến vô lượng, vô biên không thể xưng, không thể nói hết, không thể hạn lượng, vượt trên sự tính đếm, ở trong một khoảnh khắc cũng có thể thọ trì mưa pháp lớn của vô số chư Phật như vậy. Vì thế địa này gọi là địa Pháp vân. Hỏi: –Phật tử! Trong một khoảnh khắc, Đại Bồ-tát có thể thọ trì mưa pháp lớn của bao nhiêu Đức Phật? Đáp: –Không thể nào tính đếm biết được, chỉ có thể dùng ví dụ để biết. Phật tử! Ví như vô số chúng sinh nhiều như số bụi trong trăm ngàn vạn ức na-do-tha cõi nước, đều nghe và thọ trì Đà-la-ni, làm thị giả Phật, làm đại Thanh văn, làm bậc Đa văn bậc nhất, ví như Đức Phật Kim Cương Liên Hoa Thượng có Tỳ-kheo Đại Trạch là bậc đa văn bậc nhất, mỗi chúng sinh đó đều thành tựu sức đa văn như thế, tất cả chúng sinh khác cũng đều như vậy. Giáo pháp của người thứ nhất thọ trì thì người thứ hai không thọ trì. Cứ thế tất cả đều khác nhau. Phật tử! Các ông nghó sao? Tất cả chúng sinh thọ trì sức đa văn nhiều không? Đáp: –Vô lượng! –Phật tử! Tôi sẽ nói cho các ông, Bồ-tát trụ địa Pháp vân này, trong một khoảnh khắc, ở chỗ Đức Phật, có thể thọ trì tạng pháp tánh ba đời, tên là Đại pháp minh vũ. Sức đa văn của tất cả chúng sinh ở trên, so với vị này thì trong trăm phần không bằng một phần, ngàn phần, vạn phần, ngàn vạn ức na-do-tha phần cho đến tính đếm ví dụ thế nào cũng không bằng được. Ở chỗ chư Phật nhiều như số bụi trong vô số thế giới nơi mười phương thọ trì mưa pháp lớn, cho dù hơn số này vô lượng, vô biên đi nữa, thì trong khoảnh khắc cũng thọ trì được đại pháp minh vũ; vì thế gọi là địa Pháp vân. Lại nữa, đại Bồ-tát trụ địa Pháp vân này, từ nguyện lực tự phát sinh đại Từ bi, phát tiếng sấm pháp lớn, những kẻ thông minh không sợ, cho là ánh chớp; phát trí tuệ lớn như là gió mạnh, căn lành đại phước đức như là mây đen, hiện các thân hình như là mây tạp sắc, thuyết pháp hàng phục ma như là tiếng sấm. Trong một niệm, biến khắp thế giới như đã nói ở thiên, hoặc hơn số đó; mưa pháp cam lồ, pháp lành, dập tắt lửa phiền não do tâm vô minh ham thích của chúng sinh phát ra. Vì thế gọi là Địa Pháp vân. Lại nữa, các Phật tử! Đại Bồ-tát trụ địa Pháp vân này, ở trong một thế giới, từ cõi trời Đâu-suất giáng hạ, cho đến thị hiện đại Niết-bàn, làm mọi việc Phật, tùy sự độ thoát chúng sinh mà hiện thần lực, hoặc hai, tam thiên thế giới, cho đến vô số thế giới nhiều như số bụi đã nói ở trên. Lại còn hơn số đó trăm ngàn vạn ức a-tăng-kỳ thế giới, từ cõi Đâu-suất giáng hạ cho đến thị hiện đại Niết-bàn, làm mọi việc Phật, tùy chúng sinh độ thoát mà hiện thần lực. Bồ-tát trụ địa này đạt sức tự tại lớn trong trí tuệ, khéo chọn trí tuệ lớn, hoặc lấy cõi nước nhỏ làm lớn, cõi nước lớn làm nhỏ; hoặc lấy cõi nước nhơ làm sạch; cứ thế, tất cả tánh thế gian đều có thần lực. Bồ-tát này, hoặc trong một vi trần có một tam thiên đại thiên thế giới núi Thiết vi, sông suối nhưng không hề chật hẹp; hoặc có hai, ba, bốn, năm, mười, hai mươi, ba mươi, bốn mươi, năm mươi, trăm, ngàn, vạn, ức vô lượng vô lượng vô lượng thế giới, tất cả mọi việc trang nghiêm đều nhập vào một vi trần, hoặc biến mọi việc trang nghiêm trong một thế giới, thị hiện vô lượng vô lượng thế giới; hoặc đem chúng sinh trong vô lượng vô lượng thế giới đặt trong một thế giới nhưng vẫn không chật hẹp. Hoặc đem chúng sinh trong một thế giới, đặt trong vô lượng vô lượng thế giới, hoặc đem vô lượng vô lượng thế giới, đặt trên đầu một sợi lông nhưng không làm hại chúng sinh, hoặc trong một sợi lông, thị hiện tất cả việc trang nghiêm của thần lực Phật, hoặc trong một niệm thị hiện thân nhiều như số bụi trong vô lượng vô lượng thế giới nơi mười phương,trong mỗi thân thị hiện vô lượng tay, dùng tay ấy siêng năng cúng dường chư Phật ở mười phương, mỗi tay, cầm hằng hà sa số hoa sen, rải cúng Phật, các thứ như hương hoa, tạp hương, hương bột, hương xoa y phục, cờ phướn, báu vật; tất cả đồ trang sức đều dùng tay cầm dâng cúng Phật, mỗi thân đều như thế. Lại nữa, mỗi thân hóa hiện vô số đầu, mỗi đầu có vô số lưỡi, dùng thần lực đó tán thán chư Phật; trong mỗi niệm, đi khắp mười phương, làm những việc ấy. Trong mỗi niệm, dùng thần lực, ở vô lượng thế giới, thị hiện việc đạt Phật đạo, chuyển bánh xe pháp, cho đến nhập đại Niết-bàn. Ở trong ba đời, dùng sức thần thông, thị hiện vô lượng thân, từ trong mỗi thân, thị hiện vô lượng, vô biên việc trang nghiêm cõi Phật. Trong mỗi thân, thị hiện sự thành hoại của tất cả thế giới. Hoặc khiến tất cả gió đều phát ra từ một lỗ chân lông, mà không làm hại chúng sinh. Hoặc muốn đem vô lượng, vô biên thế giới làm thành nước của một biển; trong biển này, hóa hoa sen lớn, màu sắc rực rỡ, chiếu khắp vô lượng, vô biên thế giới. Ở đó, lại thị hiện việc mầu nhiệm là đạt Bồ-đề trang nghiêm, cho đến thị hiện đạt Nhất thiết chủng trí. Trong thân, lại có đủ tất cả ánh sáng của ma-ni, bảo châu, ánh chớp, mặt trời, mặt trăng, sao, cho đến tất cả những vật có ánh sáng trong thế giới nơi mười phương cũng đều hiện trong thân. Thổi một hơi thở, làm cho vô lượng, vô biên thế giới trong mười phương đều chấn động, nhưng không làm cho chúng sinh kinh sợ. Lại thị hiện thế giới mười phương, thủy kiếp hết; phong kiếp, hỏa kiếp hết; nhưng thân chúng sinh tùy ý trang nghiêm; hoặc thị hiện thân mình thành thân Như Lai, thân Như Lai thành thân mình, thân Như Lai thành cõi Phật mình, cõi Phật mình thành thân Như Lai. Các Phật tử! Đại Bồ-tát ở Địa Pháp vân, có thần biến như vậy. Lại còn thị hiện vô lượng thần lực tự tại khác lạ. Lúc ấy, trong hội, các Bồ-tát, Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Thích Đề-hoàn Nhân, Phạm thiên vương, Tứ Thiên vương, Thiên tử Tự tại, trời Tịnh cư đều nghó: Bồ-tát có vô lượng, vô biên sức thần thông trí tuệ như vậy, thì Đức Phật như thế nào? Lúc ấy, Đại Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt, biết những suy nghó trong tâm của đại chúng, bèn hỏi Kim Cang Tạng: –Phật tử! Hiện giờ đại chúng đều nghi ngờ; vì nghe sức đại thần thông trí tuệ của Bồ-tát mà họ rơi vào lưới nghi, ngài hãy đoạn trừ tất cả nghi hoặc, thị hiện việc vi diệu trang nghiêm thần thông của Bồ-tát. Kim Cang Tạng liền nhập Tam-muội thể tánh nhất thiết Phật quốc. Tất cả đại chúng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Thích Đề-hoàn Nhân, Phạm thiên vương, Hộ thế Thiên vương, Thiên tử Tự Tại, trời Tịnh cư đều thấy thân mình nhập vào thân Kim Cang Tạng. Ở trong thân thấy các việc trang nghiêm tam thiên đại thiên thế giới, cho dù qua một kiếp cũng không nói hết được. Ở đó, lại thấy cây đạo tràng của Phật. Chu vi cây rộng mười vạn tam thiên đại thiên thế giới, cao trăm vạn tam thiên đại thiên thế giới, che mát cả ba ngàn ức tam thiên đại thiên thế giới. Tương xứng với sự cao rộng của cây, có tòa Sư tử, trên tòa có Phật hiệu Nhất Thiết Trí Vương Như Lai. Tất cả đại chúng đều thấy Phật ngồi trên tòa; ở đó, có đủ mọi vật cúng dường thật tốt và trang nghiêm, mà dù trải qua một kiếp, cũng không thể nói hết. Bồ-tát Kim Cang Tạng thị hiện thần lực lớn như thế rồi, làm cho đại chúng trở về chỗ cũ. Lúc ấy, tất cả đại chúng đều ngạc nhiên, im lặng nhất tâm, nhìn Bồ-tát Kim Cang Tạng. Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt lại hỏi Bồ-tát Kim Cang Tạng: –Phật tử! Thật là hy hữu, Tam-muội này có thần lực lớn, vậy Tam-muội này tên gì? Đáp: –Tam-muội này tên là Thể tánh nhất thiết Phật quốc. Hỏi: –Thế lực của Tam-muội này ra sao? Đáp: –Phật tử! Đại Bồ-tát tu tập thành tựu lực Tam-muội này; có khả năng hiện vô lượng hằng hà sa tam thiên đại thiên thế giới trong một thân; còn lại hơn số đó nữa. Phật tử! Đại Bồ-tát ở địa Pháp vân, đạt vô lượng, vô biên trăm ngàn ức Tam-muội. Vì thế, Bồ-tát trụ ở địa này, có thân và thân nghiệp khó lường biết, khẩu và khẩu nghiệp, ý và ý nghiệp cũng khó lường biết; sức oai thần tự tại, quán sát pháp ba đời cũng khó lường biết; hành nhập các Tam-muội, trí lực, các giải thoát du hý; tạo ra biến hóa, tạo ra thần lực, tạo ra uy lực cũng khó lường biết được. Nói tóm lại, cho đến cả việc cất chân lên lên đặt chân xuống; cho đến Bồ-tát Tiểu vương tử trụ ở địa Diệu thiện, cũng không thể lường biết được. Phật tử! Bồ-tát trụ địa Pháp vân có đến vô lượng, nay đã lược nói. Nếu nói rộng, thì trải qua vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ kiếp, cũng không thể nói hết. Hỏi: –Phật tử! Sức hành xứ sức thần thông của Bồ-tát như thế, thì sức hành xứ, sức thần thông của Phật ra sao? Đáp: –Phật tử! Ví như có người, lấy hai ba cục đất trong bốn cõi mà nói: Đất của vô biên thế giới nhiều như vầy sao? Việc ông hỏi cũng thế. Vô lượng trí tuệ của Như Lai làm sao dùng trí tuệ của Bồ-tát mà so lường được? Phật tử! Ví như người nắm một ít đất trong bốn cõi, số còn lại là rất nhiều. Các Bồ-tát ở địa Pháp vân, mà phải trải qua vô lượng kiếp để nói huống gì địa Như Lai? Phật tử! Ta sẽ nói cho các ông biết, việc chứng ngộ hiện tại của Phật. Ví như ở mỗi phương, có các thế giới Chư Phật nhiều như số vi trần trong vô lượng, vô biên thế giới, hàng Bồ-tát thập địa có đầy trong đó nhiều như lúa mè rừng cây. Các Bồ-tát này, có vô lượng, vô biên nghiệp, tu tập công đức, trí tuệ, thiền định của Bồ-tát thì đối với công đức trí tuệ của Như Lai, không bằng một phần trăm, một phần trăm ngàn vạn ức, cho đến tính đếm ví dụ thế nào cũng không bằng được. Phật tử! Bồ-tát này, tùy trí tuệ ấy, thuận thân, khẩu, ý của Như Lai, cũng chẳng bỏ Tam-muội của Bồ-tát, lại siêng cúng dường chư Phật. Trong mỗi kiếp, dùng những vật vi diệu để cúng dường vô lượng, vô biên chư Phật, lại được thọ lãnh tất cả thần lực của Phật, dần dần thù thắng. Vấn nạn về pháp tánh thì không ai thắng được Bồ-tát này, cho dù trải qua vô lượng, vô biên trăm ngàn vạn ức kiếp, cũng không cùng tận. Phật tử! Ví như thợ luyện vàng, khéo biến chế vàng thành những vật trang sức, rồi xen lẫn ma-ni bảo châu quý giá, trang sức trên cổ của Tự tại Thiên vương, chư Thiên khác không thể đoạt được, tất cả đồ trang sức của chư Thiên khác cũng không sánh kịp. Phật tử! Bồ-tát trụ Địa thứ mười, có căn lành, trí tuệ, công đức mà tất cả Bồ-tát từ Địa thứ nhất đến Địa thứ chín không thể sánh kịp. Bồ-tát trụ địa này, được trí tuệ chiếu sáng, nên có thể tùy thuận tất cả mọi trí tuệ; mà ánh sáng trí tuệ đó không thể hủy hoại được. Phật tử! Ví như ánh sáng của Đại tự tại Thiên vương, hết thảy ánh sáng của chúng sinh nơi thọ sinh không thể sánh kịp, nó có thể khiến thân tâm chúng sinh được mát mẻ. Các Phật tử! Đại Bồ-tát cũng vậy; trụ ở địa Pháp vân, trí tuệ sáng suốt, hết thảy bậc Thanh văn, Bích-chi-phật không sao sánh kịp. Đại Bồ-tát từ Sơ địa đến Địa thứ chín cũng không thể sánh kịp. Bồ-tát trụï địa này, làm cho vô lượng chúng sinh trụ trong đạo Nhất thiết trí. Phật tử! Đại Bồ-tát trụ địa này, được chư Phật nơi mười phương vì họ mà giảng nói trí tuệ, làm cho thông đạt ba đời, biết đúng tướng của pháp tánh; dùng trí bao trùm tất cả thế gian, soi sáng tánh thế gian, đem tâm Từ bi lớn bao trùm khắp tất cả chúng sinh, biết đúng tất cả pháp. Nói tóm lại, Đức Phật nói tất cả, cho đến đạo Nhất thiết trí. Phật tử! Đó là địa Pháp vân, Địa thứ mười của Đại Bồ-tát. Đại Bồ-tát trụ trong địa này, thường làm Ma-hê-thủ-la Thiên vương, trí tuệ minh đạt khéo giảng pháp Thanh văn, Bích-chi-phật và Ba-la-mật của Bồ-tát. Trong pháp tánh, dù ai vấn nạn cũng không cùng tận. Làm các việt tốt như Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành, Đồng sự đều không rời niệm Phật, niệm pháp, niệm chúng Bồ-tát bạn, niệm hạnh Bồ-tát, niệm Ba-la-mật, niệm hành các địa cũng không rời niệm mười Lực, Vô sở úy, pháp Bất cộng, cho đến không rời niệm cụ túc Nhất thiết chủng trí. Luôn nghó: Lúc nào, đối với chúng sinh, ta cũng là người đứng đầu, người tôn quý, thắng diệu, to lớn, vô thượng, là thầy, người dẫn dắt, cho đến là chỗ dựa cho tất cả chúng sinh. Nếu siêng năng tu tập, thì trong khoảnh khắc, đạt Tam-muội nhiều như số bụi trong vô lượng trăm ngàn vạn ức na-do-tha bất khả thuyết thế giới, cho đến thị hiện số Bồ-tát quyến thuộc cũng nhiều như vậy. Nếu dùng nguyện lực thần thông tự tại thì hơn số đó là hành các vật cúng dường thượng diệu, tin hiểu sự tạo nghiệp hoặc thân, miệng, ánh sáng, các căn, như ý, âm thanh, thành xứ cho dù trải qua trăm ngàn vạn ức kiếp, cũng không thể đếm kể được. Phật tử! Đó gọi là tuần tự thuận hành thú hướng Nhất thiết chủng trí các địa của Đại Bồ-tát. Phật tử! Ví như bốn con sông chảy từ ao A-nậu-đạt lan khắp bốn cõi chảy mãi không cùng tận cho đến khi chảy vào biển lớn. Các Phật tử! Đại Bồ-tát cũng thế, từ Bồ-tát phát ra nước căn lành nguyện lớn, dùng bốn Nhiếp pháp độ hết chúng sinh nhưng không cùng tận, dần dần tăng trưởng đạt đến Nhất thiết chủng trí. Phật tử! Các Bồ-tát mười địa, do trí Phật mà có sai biệt. Ví như từ mặt đất mới có mười núi lớn. Mười núi lớn đó là gì? Đó là núi Tuyết, núi Hương, núi Kha-lê-la, núi Tiên thánh, núi Do-càn-đà-la, núi Mã nhó, núi Ni-dân-đà-la, núi Phá-ca-bà-la, núi Chúng tướng, núi Tu-di. Phật tử! Núi Tuyết lớn thì tất cả cỏ thuốc đều mọc ở đó không cùng tận. Phật tử! Cũng thế, Đại Bồ-tát trụ ở địa Hoan hỷ, biết hết kinh sách, kỹ nghệ, văn tụng, chú thuật của tất cả thế gian không cùng tận. Phật tử! Núi Hương là nơi có tất cả hương thơm không cùng tận. Cũng vậy, Đại Bồ-tát trụ ở địa Ly cấu, tu tập tất cả giới, Đầu-đà, oai nghi, pháp trợ đạo không cùng tận. Phật tử! Núi Kha-lê-la toàn bằng báu vật, đủ các hoa không cùng tận. Cũng thế, Đại Bồ-tát trụ địa Minh, tu tất cả thiền định, thần thông, giải thoát Tam-muội của thế gian không cùng tận. Phật tử! Núi Tiên thánh toàn bằng báu vật, có nhiều thánh nhân đạt năm thần thông không cùng tận. Cũng vậy, Đại Bồ-tát trụ ở địa Diệm, làm cho chúng sinh có nhân duyên nhập đạo, học hỏi, đủ các vấn nạn không cùng tận. Phật tử! Khi núi Do-càn-đà-la toàn bằng báu vật, tập họp nhiều đại thần Dạ-xoa, chúng La-sát không cùng tận. Cũng vậy, Đại Bồ-tát trụ địa Nan thắng, đủ tất cả thần thông, tự tại, như ý, nói không cùng tận. Phật tử! Núi Mã nhó toàn bằng báu vật, đủ các trái ngon không cùng tận. Cũng vậy, dại Bồ-tát trụ địa Viễn hành, đủ các phương tiện trí tuệ, nói đạo Bích-chi-phật không cùng tận. Phật tử! Núi Phá-ca-bà-la toàn bằng báu vật, đủ các vật có tâm tự tại không cùng tận. Cũng thế, Đại Bồ-tát trụ địa Vô động, đủ tất cả đạo tự tại của Bồ-tát, nói tánh thế gian không cùng tận. Phật tử! Núi Chúng Tướng toàn bằng báu vật, đủ sức thần lớn, vô số A-tu-la không cùng tận. Cũng vậy, Đại Bồ-tát trụ địa Diệu thiện đủ hành trí để chuyển hóa chúng sinh, nói tướng thế gian không cùng tận. Phật tử! Núi Tu-di toàn bằng báu vật, đủ vô số Thiên thần không cùng tận. Cũng thế, Đại Bồ-tát trụ địa Pháp vân, đủ mười Lực, bốn Vô sở úy của Như Lai, nói các Phật pháp không cùng tận. Các Phật tử! Mười núi báu này đều ở trong biển lớn, do nước biển lớn mà có tướng sai biệt. Cũng vậy, mười địa của Bồ-tát đều ở trong trí Phật, từ Nhất thiết trí mà có tướng sai biệt. Phật tử! Ví như biển lớn có mười tướng nên gọi là biển lớn, không ai hoại được. Mười tướng đó là gì? 1.Càng ra xa càng sâu. 2.Không chứa xác chết. 3.Các dòng sông ra đến biển thì mất tên cũ. 4.Một vị. 5.Nhiều báu vật. 6.Khó vào đến chỗ sâu xa. 7.Rộng lớn vô lượng. 8.Nhiều chúng sinh có thân lớn nương tựa và ở. 9.Thủy triều không quá hạn mức thường có. 10.Nhận tất cả nước mưa mà không tràn ngập. Phật tử! Hạnh Bồ-tát cũng vậy, do mười duyên mà không ai hoại được. Mười duyên đó là gì? Ở trong địa Hoan hỷ dàn dần phát nguyện kiên cố; trong địa Ly cấu không ở chung với kẻ phá giới; trong địa Minh bỏ những giả danh của thế gian; trong địa Diệm, ở chỗ Phật, đạt nhất tâm tịnh tín không hoại; ở địa Nan thắng, phát sinh vô lượng phương tiện thần thông thế gian, làm việc thế gian; ở địa Hiện tiền, quán pháp nhân duyên sâu xa; ở địa Viễn hành dùng tâm rộng lớn phân biệt các pháp; ở địa Vô động, thị hiện mọi việc trang nghiêm; ở địa Diệu thiện, đạt giải thoát sâu xa, thông đạt hạnh thế gian, như thật không lỗi lầm; ở địa Pháp vân, thọ lãnh tất cả pháp minh vũ của chư Phật. Phật tử! Ví như ngọc ma-ni báu lớn, có mười việc đem đến báu vật cho chúng sinh. Mười việc đó là gì? 1.Lấy ra từ biển lớn. 2.Thợ khéo mài dũa. 3.Dần tinh xảo. 4.Trừ cấu uế. 5.Luyện trong lửa. 6.Các đồ báu trang sức. 7.Xâu thành sợi báu. 8.Đặt trên trụ cao lưu ly. 9.Ánh sáng chiếu khắp bốn cõi. 10.Tùy ý vua, mưa các vật báu. Các Phật tử! Đại Bồ-tát phát tâm báu Bồ-đề, cũng có mười việc. Mười việc đó là gì? 1.Phát tâm bố thí lìa keo kiệt. 2.Giữ giới Đầu-đà khổ hạnh. 3.Thiền định Tam-muội giải thoát làm cho càng tinh diệu. 4.Đạo hạnh thanh tịnh. 5.Luyện phương tiện thần thông. 6.Trang nghiêm bằng pháp nhân duyên sâu xa. 7.Xuyên suốt các môn trí tuệ phương tiện sâu xa. 8.Đạt thần thông tự tại. 9.Quán hạnh chúng sinh, phóng ra ánh sáng đa văn trí tuệ. 10.Chư Phật trao trí chức. Lúc này, đối với tất cả chúng sinh, làm mọi việc Phật, ở trong Nhất thiết chủng trí. Các Phật tử! Tất cả pháp môn, công đức, trí tuệ mà Bồ-tát thực hành, những kẻ không trồng căn lành sâu thì không được nghe. Hỏi: –Người được nghe thì phải có bao nhiêu phước? Đáp: –Phước đức của người theo thế lực trí tuệ của Phật mà phát tâm Nhất thiết chủng trí có được như thế nào thì phước đức của người nghe pháp này cũng như vậy. Vì sao? Vì nếu không có tâm Bồ-tát mà nghe pháp môn này, thì không thể tin hiểu thọ trì, nên chẳng thể đem thân tu tập mà thành tựu được. Các Phật tử! Vì vậy nên biết, người này phải tùy thuận Nhất thiết chủng trí mới được nghe tin hiểu thọ trì tu hành. Lúc giảng nói kinh này, nhờ thần lực Phật, vô số thế giới như vi trần, mười ức cõi Phật ở mười phương, chấn động sáu cách với mười tám tướng. Pháp thường là phải chấn động. Chư Thiên mưa nhiều hương hoa, anh lạc, y báu trời, phướn lọng, báu vật, những thứ trang sức nơi thân, trổi nhạc ca tụng, lại có tiếng lớn ca tụng việc thù thắng của mười địa. Kinh này được nói ở cung Tha hóa tự tại vương, đồng thời ở tất cả thế giới mười bốn cõi cũng đều giảng nói kinh thập địa này. Nhờ thần lực Phật, nên vô số Bồ-tát ở trong vô số cõi Phật, đều tập họp đến đầy khắp hư không mười phương, và đều nói: –Hay thay! Hay thay! Bồ-tát Kim Cang Tạng! Ông đã khéo giảng thuyết tướng của các địa mà Đại Bồ-tát an trụ. Phật tử! Chúng tôi cũng đồng hiệu Kim Cang Tạng, từ thế giới Kim cang đức, nơi Phật Kim Cang Tạng đến đây. Những nơi chúng tôi đi qua, đều giảng thuyết kinh này, đại chúng, ngôn ngữ, nghóa thú cũng vậy, không tăng giảm. Phật tử! Chúng tôi nương thần lực của Phật đến đây để chứng minh việc này. Phật tử! Cùng với chúng tôi đến đây, tất cả thế giới nơi mười phương, mỗi thế giới trong bốn cõi, lên đến bảo điện Ma-ni của cung Tha hóa tự tại cũng đều có vô số Bồ-tát nhiều như số vi trần trong mười ức cõi Phật cũng đến đây để chứng minh. Lúc ấy, Bồ-tát Kim Cang Tạng quán sát mười phương, quán tất cả đại chúng, quán tánh sâu xa khen ngợi và hỗ trợ việc phát tâm Nhất thiết chủng trí, thị hiện đại lực của Bồ-tát cho chúng sinh, tùy thuận Nhất thiết chủng trí, trừ tất cả trần cấu của thế gian, đem lại nhân duyên Nhất thiết chủng trí cho chúng sinh; thị hiện những việc trí tuệ trang nghiêm vi diệu không thể nghó bàn; nói tất cả tướng sai biệt về công đức của Bồ-tát. Lại muốn làm rõ nghóa lý này cho chúng sinh, nên nương thần lực Phật mà nói kệ rằng: Hạnh nghiệp của Bồ-tát Vui, tịch diệt hoàn toàn Tâm không có tham chấp Trống rỗng như hư không Trừ cấu tham, sân, si An trụ trong trí đạo Hạnh vô thượng như vậy Vui vẻ xin được nghe Do vậy các Bồ-tát Ở trong vô lượng kiếp Siêng năng luôn tu tập Vạn ức các căn lành Cúng dường vô lượng Phật Bích-chi, A-la-hán Vì tạo lợi ích cho chúng sinh Phát khởi tâm Bồ-đề Siêng năng giữ giới hạnh Đầu-đà trừ tội lỗi Tu thiện nhẫn tăng trưởng Đủ oai đức hổ thẹn Nhờ nhân duyên phước tuệ Tâm cao thắng sáng suốt Vui thích trí của Phật Phát Bồ-đề như Phật Cúng dường tất cả Phật Trong ba đời mười phương Đất nước như hư không Đều khiến được thanh tịnh Tất cả pháp bình đẳng Khéo thông đạt hết thảy Vì độ thoát chúng sinh Phát khởi tâm Bồ-đề Các Bồ-tát như vậy Phát khởi tâm vô lượng Đạt đến địa Hoan hỷ Dứt ác, thích bố thí Đạt được sức bản nguyện Tu nhiều tâm Từ bi Hành sâu mười thiện nghiệp Đạt đến địa Ly cấu Đủ công đức giới, văn Từ tâm thương thế gian Dứt hẳn mọi cấu uế Tâm sâu xa, thanh tịnh Quán sát khắp thế gian Lửa ba độc hừng hực Các bậc Đại só này Nhập minh Địa thứ ba Quán ba cõi đều không Vô thường như bệnh tất Như ung nhọt, ghẻ lở Trăm thứ khổ đốt thiêu Thấy các lỗi hữu vi Ham thích công đức Phật Đạt ánh sáng trí Phật Nhập địa Diệm thứ tư Thành tựu về niệm tuệ Đạt đến đạo trí tuệ Ở đây thường cúng dường Trăm ngàn Đức Như Lai Luôn tư duy tưởng niệm Vô lượng đức của Phật An nhập địa Nan thắng Vượt tất cả thế gian Dùng trí tuệ phương tiện Thị hiện đủ mọi cách Làm bất cứ việc gì Đều vì lợi thế gian Cúng dường các Đức Phật Làm việc lợi chúng sinh Chứng nhập pháp vô sinh Được nhập địa Hiện tiền. Hạnh nghiệp của Bồ-tát Thế gian khó biết được Không còn tâm chấp ngã Lìa cả có lẫn không Các pháp vốn vắng lặng Mười hai duyên chuyển hành Hiểu rõ pháp vi tế Sẽ nhập địa Viễn hành Hành trí tuệ phương tiện Đạt tướng pháp tịch diệt Các bậc Đại só này Khó lường, khó sánh kịp Vì muốn cho thế gian Đạt tịch diệt thanh tịnh Nên tu tập các hạnh Đủ mọi việc phước đức Thâm nhập tâm hành xứ Của tất cả chúng sinh Do vậy được an nhập Địa Bất động đều không Bồ-tát bậc đại trí Đầy đủ tất cả hạnh Và các nghiệp trí tuệ Cùng mười Lực tự tại Dùng vô lượng, vô biên Vô số các thân tướng Hiện ở khắp mười phương Vì chúng, thuyết diệu pháp Thông đạt tánh thế gian Và tánh của chúng sinh Với tâm Từ bi lớn Sẽ nhập địa Diệu thiện Trí tịnh diệu số một Quán sát các thế gian Nghiệp phiền não trói buộc Quanh co nơi hiểm nạn Vì độ thoát chúng sinh Đạt tạng pháp chư Phật Giảng thuyết nghóa đệ nhất Không sai trái lỗi lầm Tuần tự mà thực hành Đầy đủ các thiện pháp Đạt đến Địa thứ chín Tu tập phước và tuệ Mong đạt oai lực Phật Lợi diệu thêm tối thượng Ở chỗ tất cả Phật Được lãnh thọ trí chức Trước đạt vô số định Trí hạnh rất rộng lớn Sau cùng đạt Tam-muội Trí chức khó hư hoại Những ai đã đạt được Tam-muội nhất thiết chức Trang nghiêm các báu vật Hoa sen lớn xuất hiện Bồ-tát xứng hoa sen Hiện thân ngồi trên đó Các Bồ-tát hoa khác Đều nhất tâm chiêm ngưỡng Lúc ấy, Đại Bồ-tát Từ thân phóng vô lượng Trăm ngàn ức ánh sáng Diệt các khổ thế gian Sau từ đỉnh đầu phóng Trăm ngàn ức ánh sáng Chiếu khắp mười phương cõi Hội chúng của chư Phật Rồi ở lại hư không Hóa thành dưới ánh sáng Cúng dường Đức Phật xong Nhập vào lưới chân Phật Lúc ấy, các Đức Phật Và các Đại Bồ-tát Đều biết Bồ-tát này Đã thọ lãnh trí chức Do vậy các Đức Phật Giữa mày phóng ánh sáng Tên là Nhất thiết chức Nhập đỉnh đầu Bồ-tát Vô lượng các Đức Phật Thọ ký chức Bồ-tát Ví như Chuyển luân vương Truyền ngôi cho thái tử Lúc ấy, mười phương cõi Thảy đều chấn động lớn Dứt trừ tất cả khổ Cho đến ngục A-tỳ Bồ-tát vì tất cả Trí tuệ được chức này Như thế được gọi là Địa Pháp vân vô thượng Người trụ trong địa này Trí tuệ không hạn lượng Khéo biết cả nhân duyên Độ thoát hết thế gian Nhập pháp sắc, vô sắc Cõi Dục, Sắc, Vô sắc Biết được tánh chúng sinh Tánh cõi nước, tánh pháp Lại an nhập các pháp Đếm được, không đếm được Cho đến quán sát biết Vô lượng tánh hư không Nhập địa này có đủ Thần biến của Bồ-tát Sức oai thần của Phật Việc kín, trí vi tế Lại còn thông đạt được Tất cả các kiếp số Từ mỗi đầu sợi lông Thấy rõ tánh thế gian Tất cả Đức Như Lai Ở Địa vô thượng này Sinh ra rồi xuất gia Đạt đạo, chuyển pháp luân Thị hiện nhập Niết-bàn Đều tùy thuận trí tuệ Từ địa này đạt được Tịch diệt và giải thoát Các Đại só địa này Sức ức niệm rộng lớn Thọ trì được tất cả Đại mưa pháp của Phật Cũng ví như biển lớn Chứa hết nước rồng mưa Bồ-tát cũng như vậy Thọ trì mưa Phật pháp Như ở chỗ một Phật Lắng nghe thọ trì pháp Chúng sinh nhiều như bụi Vô lượng cõi mười phương Đều được nghe Tổng trì Thành tựu Thanh văn thừa Chẳng bằng Bồ-tát này Tính đếm cũng chẳng kịp Vì sức trí tuệ lớn Và sức thệ nguyện lớn Chỉ trong một khoảnh khắc Ở khắp vô lượng cõi Mưa nước pháp cam lồ Dập tắt lửa phiền não Vì thế Đức Phật gọi Đây là địa Pháp vân Bồ-tát trụ địa này Dâng vật cúng dường Phật Hơn vật của chư Thiên Thị hiện sức thần lớn Sức thù thắng vi diệu Hơn số này vô lượng Người nào muốn suy lường Chỉ rối thêm không hiểu Đại trí trụ địa này Việc cất chân, đặt chân Tất cả các Bồ-tát Kể cả Địa thứ chín Đều không thể biết được Huống gì chúng sinh khác Ba đời các Thanh văn Cùng với Bích-chi-phật Trụ nơi chư Phật hiện Tất cả việc trí tuệ Lại khiến cho thông đạt Trí vô ngại ba đời Thị hiện tánh pháp lặng Và bao nhiêu thần biến Tất cả loài chúng sinh Ở khắp mọi cõi nước Thực hành tất cả pháp Vi diệu và an ổn Tuần tự hiện biết hết Hết thảy công đức Phật Bồ-tát trụ địa này Dùng vật dụng tối thượng Cúng dường mười phương Phật Lan truyền khắp mọi nơi Tất cả vật cúng dường Của vô số chúng sinh Và những cõi phương khác Cũng không thể sánh kịp Bậc trí, trụ địa này Phá trừ được tất cả Vô minh và tăm tối Khai thị bằng Phật đạo Như Tự tại Thiên vương Phóng quang diệt phiền não Ánh sáng trí, Phật tử Diệt phiền não cũng vậy Trụ địa này thường làm Tự tại vương ba cõi Thông đạt các trí tuệ Dùng ba thừa hóa độ Chỉ trong một khoảnh khắc Đạt vô lượng Tam-muội Thấy được vô số Phật Đang ở khắp mười phương Bồ-tát Kim Cang Tạng Bảo các Đại só rằng Tôi đã lược thuyết giảng Diệu hạnh của mười địa Nếu nói rộng hết cả Ngàn kiếp cũng không cùng Đó chính là thanh tịnh Các địa của Bồ-tát Vì đạt trí của Phật Trụ trong những địa này An trụ không lay động Ví như núi chúa lớn Sơ địa đủ tất cả Kinh sách và kỹ thuật Ví như núi Tuyết lớn Mọc đầy các cỏ thuốc Giữ giới và đa văn Trụ trong Địa thứ hai Cũng giống như núi Hương Đủ tất cả hương thơm Như núi Kha-lê-la Có nhiều hoa báu lạ Địa Minh tập văn trí Cũng giống như núi này Địa Diệm tụ tập nhiều Đạo pháp báu không hoại Như trong núi Tiên thánh Có nhiều đấng Thiện tịch Thần thông Địa thứ năm Không ai sánh kịp được Như núi Do-càn-đà Có nhiều thần Dạ-xoa Địa thứ sáu phân biệt Phước quả không cùng tận Ví như núi Mã nhó Có vô số trái cây Tuệ lớn Địa thứ bảy Không ai sánh kịp được Như núi Ni-dân-đà Có rất nhiều rồng chúa Trụ trong Địa thứ tám Vô lượng trí tự tại Như núi Phá-ca-la Có nhiều bậc Tự tại Địa chín, tâm thanh tịnh Thuyết pháp không chướng ngại Ví như núi Chúng tướng Rất nhiều A-tu-la Địa thứ mười có đủ Vô lượng đức của Phật Ví như núi Tu-di Rất nhiều chúng Thiên thần. Lại nữa ở sơ địa Phát thệ nguyện rộng lớn Địa thứ hai giữ giới Thứ ba tu công đức Địa thứ tư tu thiền Thứ năm làm việc tốt Thứ sáu tướng sâu xa Thứ bảy tâm rộng lớn Địa thứ tám có đủ Các thần thông trang nghiêm Địa chín trí vi diệu Vượt tất cả các cõi Địa thứ mười thọ trì Đại mưa pháp của Phật Hạnh Bồ-tát như biển Không cùng, khó lay động Phát tâm xuất thế gian An nhập Địa thứ nhất Địa hai giữ tịnh giới Địa ba tu thiền định Địa tư đạo tịnh hạnh Địa năm tuệ phương tiện Địa sáu tu nhân duyên Bảy, tuệ phương tiện sâu Tám, đạt tràng lưu ly Địa chín hành chúng sinh Tất cả nơi hiểm nạn Ánh sáng tuệ chiếu khắp Địa mười thọ trí lực Ví như vua trao ngôi Tuần tự được thanh tịnh Tâm Bồ-đề quý báu Tất cả số bụi trần Trong thế giới nơi mười phương Chỉ trong một khoảnh khoắc Tính biết được ít nhiều Trên đầu một sợi lông Tính biết khắp hư không Công đức lớn của Phật Vô lượng không cùng tận Lúc giảng nói kinh Thập Trụ này, Tự tại Thiên vương, các Thiên chúng, Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt, các Bồ-tát, tất cả thế gian đều rất vui mừng, tin thọ và phụng hành. q