<經 id="n271">KINH BỒ-TÁT HÀNH PHƯƠNG TIỆN CẢNH GIỚI THẦN THÔNG BIẾN HÓA Hán dịch: Đời Tống, Tam tạng Pháp sư Cầu-na-bạt-đà-la, người xứ Thiên Trúc. <卷 id="77333582">QUYỂN THƯỢNG Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ Đức Phật ngự trong vườn vua Chiên-đà-bát-thọ-đề, thuộc nước Ưu-thiền-diên. Trong vườn này được trang nghiêm bằng nhiều cây Ta-la, cây Đa-la, cây Ca-ni-ca-la, cây Ni-câu-la, cây Bác-xoa, cây Ưu-đàm-bát-la. Lại có hoa Bà-sư, hoa Đà-nhị-ca, hoa Chiêm-bà, cây A-phúc-ca, cây Ba-sất-la… Lại trang nghiêm bằng suối, giếng, ao hồ, sông nước trong veo chảy quanh. Lại có hoa sen xanh, vàng, đỏ, trắng khắp trên mặt nước. Chim ngỗng, chim nhạn, chim uyên ương, chim Câu-na-la, chim Bát-tra-quân-đà, chim anh vũ, chim khách… đủ các loài chim, hót lên đủ thứ âm thanh. Có nhiều ong đen kêu lên những âm thanh hay lạ. Có nhiều cỏ êm ái mềm mại mọc khắp trong rừng rộng. Đức Phật ngự ở đây với mười hai ức vị đại Tỳ-kheo, như Đại đức Xá-lợi-phất, Đại Mục-kiền-liên, Ma-ha Ca-diếp, A-ni-kiền-đà, Tu-bồ-đề, Đại Ca-chiên-diên, Ma-ha Kiếp-tân-na, Ly-bà-đa, Ba-tân-na, Nan-đề-xí-na-na-đề Ca-diếp, Dà-da Ca-diếp, Phú-lâu-na Di-đa-la-ni Tử, Kiều-phạm-ba-đề, Na-đà-xí-na, Châu lợi bàn đặc, Thát-bà-ma-la-tử, Khư-đà-bà-lâm, Nan-đà, Ma-ha Câu-hy-la, La-hầu-la, Đại đức A-nan… đều là bậc Thượng thủ. Mười hai ức vị Tỳ-kheo tất cả đã nhập “Nhất pháp giới xứ hành”, tiến nhập tất cả các pháp như tính hành, hư không hành. Họ không y chỉ xứ, không y chỉ hành, lìa tất cả kết phược chướng ngại che lấp, đã sinh khởi nhập vào Như Lai độ, không có pháp giới gần một pháp giới, hướng về đạo Nhất thiết trí không bỏ phế. Đối với Nhất thiết trí tâm không thoái chuyển, trí tuệ phân biệt rõ ràng, được đến bờ bên kia, tinh tấn tu hành cảnh giới phương tiện. Tại đây có cả Ma-ha Ba-xà-ba-đề, Da-du-đà-la… cùng tám ức Tỳ-kheo-ni, tất cả đều thành tựu pháp Bạch tịnh, đều có các hạnh lành, tất cả trí đạo gần Nhất thiết trí. Thiện hạnh tiến lên nhập vào pháp tính vô hữu, quán tất cả pháp không có tính tướng, tự giải các pháp thật tế không bờ mé, được trí tuệ vô ngại giải thoát, tùy theo chúng sinh mà có phương cách điều phục, khéo léo thị hiện. Tại nơi đây lại có bảy mươi hai ức chúng Đại Bồ-tát, các vị đó là: Bồ-tát Đại Lực, Bồ-tát Đại Lực Trì, Bồ-tát Đại Biến Hóa, Bồ-tát Đại Biến Hóa Vương, Bồ-tát Đại Tinh Tấn Thú, Bồ-tát Đại Tinh Tấn Kiện, Bồ-tát Đại Hống, Bồ-tát Đại Hống Ý, Bồ-tát Đại Chúng Chủ, Bồ-tát Đại Hương Thượng, Bồ-tát Đại Nguyệt, Bồ-tát Thiện Nguyệt, Bồ-tát Công Đức Nguyệt, Bồ-tát Bảo Nguyệt, Bồ-tát Phổ Chiếu Nguyệt, Bồ-tát Pháp Vô Cấu Nguyệt, Bồ-tát Nguyệt Chiếu, Bồ-tát Diệu Danh Nguyệt, Bồ-tát Phóng Quang Nguyệt, Bồ-tát Mãn Nguyệt, Bồ-tát Phạm Âm, Bồ-tát Phạm Vương Lôi Âm, Bồ-tát Địa Âm, Bồ-tát Pháp Giới Âm Thanh, Bồ-tát Hành Nhất Thiết Ma Trường Âm, Bồ-tát Diệu Âm Thanh, Bồ-tát Phổ Cáo Âm, Bồ-tát Vô Vọng Tưởng Phân Biệt Âm, Bồ-tát Địa Luân Âm, Bồ-tát Nhất Thiết Vô Chướng Âm, Bồ-tát Phổ Tạng, Bồ-tát Vô Cấu Phổ Tạng, Bồ-tát Đức Tạng, Bồ-tát Chiếu Tạng, Bồ-tát Bảo Tạng, Bồ-tát Nguyệt Tạng, Bồ-tát Nhật Tạng, Bồ-tát Xí Tạng, Bồ-tát Liên Hoa Tạng, Bồ-tát Liên Hoa Đức Tạng, Bồ-tát Đại Ý, Bồ-tát Ích Ý, Bồ-tát Diệu Ý, Bồ-tát Hảo Ý, Bồ-tát Thắng Ý, Bồ-tát Tăng Ý, Bồ-tát Vô Biên Ý, Bồ-tát Quảng Ý, Bồ-tát Giác Ý, Bồ-tát Vô Tận Ý, Bồ-tát Tu-di Đăng, Bồ-tát Đại Đăng, Bồ-tát Pháp Cự Đăng, Bồ-tát Chiếu Nhất Thiết Phương Đăng, Bồ-tát Phổ Đăng, Bồ-tát Diệt Nhất Thiết Âm Đăng, Bồ-tát Chiếu Nhất Thiết Đạo Đăng, Bồ-tát Nhất Chiếu Minh Đăng, Bồ-tát Nguyệt Đăng, Bồ-tát Nhật Đăng, Bồ-tát Ly Nhất Thiết Ác Đạo, Bồ-tát Ma Bất Hàng Phục, Bồ-tát Đại Ma Bất Hàng Phục, Bồ-tát Oai Đức, Bồ-tát Vô Hàng Phục, Bồ-tát Vô Năng Trắc, Bồ-tát Oai Đức Giác Càn Ác, Bồ-tát Đắc Đại Thế, Bồ-tát Quán Thế Âm, Bồ-tát Di-lặc, Văn-thù-sư-lợi Đồng tử Bồ-tát ma-ha-tát… gồm bảy mươi hai ức vị. Họ đều trong một đời chứng được Đà-la-ni, được các Tam-muội, được Vô biên nhạo thuyết, được Vô ngại, Vô sở úy, được thần thông đến bờ bên kia, có khả năng đi qua vô biên cõi Phật, dạo chơi với thần thông, thân tâm giải thoát. Thành tựu các tri kiến ngại vô ngại. Thế giới không có Phật thì thị hiện Phật ra đời, khéo quay bánh xe pháp, không có lầm lẫn, tùy theo cái tất cả chúng sinh hiểu mà nói pháp, nói pháp vô tác cho họ nghe. Ở trong pháp tính không có phát động, cũng không phải không phát động, tâm các vị ấy nhập độ đến bờ bên kia, giảng nói pháp không. Rống lên tiếng rống của sư tử, hàng phục phá tan tất cả ngoại đạo, hàng phục kẻ thù được thần thông mà Bồ-tát thực hành, dứt bỏ sân, ái, tâm kia bình đẳng, như đất, nước, lửa, gió. Vào chỗ bí mật của tất cả Như Lai, vì tất cả chúng sinh mà làm các Phật sự, thường được các Đức Phật khen ngợi, thọ trì tất cả kiếp đời vị lai, thọ trì tất cả pháp tính của Như Lai, mưa xuống Pháp bảo. Khen ngợi tất cả công đức, không thể cùng tận, làm chủ thế giới, bản nguyện thành tựu, thực hành hạnh giải thoát của Như Lai. Trước đã khéo tu, thực hành Đại thừa, mắt tin thanh tịnh không có cấu bẩn, thường tinh tấn cúng dường, thờ phụng các Đức Phật Như Lai. Trang nghiêm bằng điều lành, trang nghiêm bằng sự không lui sụt hướng về Đại Bi. tính chất giải thoát trong tâm các vị ấy không thể tỷ dụ, dứt bỏ tâm nghi ngờ Đức Phật, tâm do dự mê lầm, được chư Phật quá khứ che chở, giữ gìn. Ở nơi vườn này lại có vô lượng Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-tư, uy đức không thể ví dụ trong tam thiên đại thiên thế giới này, các Trời và chúa Trời, các Rồng và Rồng đầu đàn, Dạ-xoa và chúa Dạ-xoa, Càn-thát-bà và chúa Càn-thát-bà, A-tu-la và chúa A-tu-la, Ca-lâu-la và chúa Ca-lâu-la, Ma-hầu-la và chúa Ma-hầu-la, Khẩn-na-la và chúa Khẩn-na-la, Nhân phi nhân, và chúa Nhân phi nhân… tất cả cùng trăm ngàn đại quyến thuộc đều đến ngồi trong hội này. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn có vô lượng trăm ngàn đại chúng vây quanh. Thế Tôn ngồi trên tòa Đức tạng sư tử, ánh sáng trên thân Thế Tôn che lấp ánh sáng trên thân các đại chúng. Giống như ánh sáng núi Tu-di hiển hiện giữa biển lớn che lấp ánh sáng các núi. Cũng vậy, Đức Thế Tôn ngồi trên tòa Sư tử ánh sáng che lấp phủ tất cả trời, người như ánh trăng rằm tròn đầy chiếu sáng thanh tịnh che kín các vì sao. Cũng vậy, ánh sáng của Đức Thế Tôn che kín tất cả người, trời, chiếu sáng thanh tịnh. Giống như hư không trong sáng tịnh khiết không có mây che, mặt trời chiếu ánh sáng che lấp ánh sáng của núi, lửa đom đóm mờ đi trong sự soi sáng thanh tịnh. Cũng vậy, Đức Thế Tôn ngồi trên tòa Sư tử, hàng phục che kín các trời, người đời rất là sáng chói còn che kín ánh sáng của Đế Thích, Phạm Thiên vương, Tứ Thiên vương Hộ thế… Giống như trong đêm tối, lửa cháy rực rỡ trên đỉnh núi cao, chiếu sáng thanh tịnh. Cũng vậy, Đức Thế Tôn ngồi trên tòa Sư tử hàng phục che kín các trời, người đời bằng thứ ánh sáng rất sáng thanh tịnh, vô cấu. Như sư tử đứng đầu các loài thú hàng phục tất cả các loài cầm thú nhỏ. Cũng vậy, Đức Thế Tôn ngồi trên tòa Sư tử hàng phục che kín tất cả trời, người. Như ngọc báu như ý tỳ-lưu-ly tám cạnh không cấu bẩn phát ra ánh sáng thanh tịnh. Cũng vậy, Đức Thế Tôn ngồi trên tòa Sư tử trang nghiêm khác thường chiếu sáng mười phương, như vua Chuyển luân hàng phục tất cả chúng sinh trong bốn cõi. Cũng vậy, Đức Thế Tôn ngồi trên tòa Sư tử hàng phục che kín các trời, người đời. Như Thích Đề-hoàn Nhân đeo chuỗi ngọc báu Thích-ca Tỳ-lăng-già, ở trong Thiện pháp đường hàng phục, che kín các trời bằng ánh sáng. Cũng vậy, Đức Thế Tôn ngồi trên tòa Sư tử hàng phục che kín các trời, người đời bằng ánh sáng thanh tịnh. Lúc bấy giờ, Đồng tử Văn-thù-sư-lợi đã biết tâm đại chúng, thấy oai đức rạng rỡ của Đức Như Lai, bèn nghó: “Đây là điềm ánh sáng gì? Nay Đức Thế Tôn ngồi trên tòa Sư tử rất sáng chói thanh tịnh khác thường, đại chúng rất nhiều, nay ta phải hỏi Như Lai ý nghĩa việc này.” Khi ấy, Đồng tử Văn-thù-sư-lợi liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, sửa y bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, chắp tay hướng về Đức Phật, dùng bài kệ khen ngợi: Đấng Thập Lực soi sáng Hàng phục trời, người đời, Ba cõi không ai bằng Chúng sinh không qua được Như trên núi Tu-di Các phương đều chiếu sáng Hàng phục che các núi Mạnh mẽ soi các núi Phật trì đức cũng vậy Núi trí vượt thế gian Hàng phục che các chúng Thường thanh tịnh chiếu sáng Như trăng trên hư không Tháng ngày công đức soi Viên mãn rất tròn đủ Hàng phục che các sao Đấng Thập Lực cũng vậy Sao đệ tử vây quanh Phát ánh sáng bạch tịnh Chiếu sáng cả trời, người Như cung điện mặt trời Soi sáng hàng phục hết Đấng Nhân Tôn cũng vậy Hàng phục trời, người đời Giống như lửa đỉnh núi Đêm tối chiếu các phương Ánh sáng trí cũng vậy Điều ngự phát ánh sáng Như sư tử vua thú Bày uy đức hàng thú Chúng ngoại đạo cũng vậy Bày chiếu sáng hàng phục Vua Chuyển luân, chúa người Uy đức hàng phục đời Đấng Điều Ngự cũng vậy Hàng phục chiếu sáng đời Vua trời Tam thập tam Hàng phục hơn các trời Đấng Vô Đẳng cũng vậy Hàng phục soi các chúng. Lúc bấy giờ, Đồng tử Văn-thù-sư-lợi dùng kệ khen ngợi xong, chắp tay bạch Phật: –Giờ đây cúi xin Thế Tôn, vì đại chúng này giảng nói kinh Bồ-tát Hành Phương Tiện Cảnh Giới Thần Thông Biến Hóa. Nếu chúng sinh nghe rồi hướng thượng tu hành thì sẽ phát tâm A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề, còn họ hướng xuống tu hành thì được dừng lại ở bậc Thắng tấn, rồi phát tâm Vô thượng Bồ-đề, tăng thêm lợi ích cho cảnh giới Vô thượng Bồ-đề. Chúng sinh lười biếng phát sinh dục lạc dữ dội. Chúng sinh thoái chuyển đạo pháp thì an trụ trong đạo Bồ-đề. Các chúng sinh hướng về đạo Bồ-đề… thì đầy đủ trí độ trang nghiêm của Như Lai. Văn-thù-sư-lợi thỉnh như vậy rồi, Đức Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: –Lời của Như Lai Ứng Cúng chính Biến Tri nói rất khó hiểu, phải có duyên gì để nói? Duyên gì để tinh tấn nhập? Đây là vấn đề khó biết, khó hay, khó có thể đo lường, khó dạy, khó độ. Các trời, người đời, những kẻ phá hoại oai nghi, và những người phá giới không thể rõ biết, chúng sinh thấp kém không thể hiểu, các kẻ tâm tính bại hoại không thể kính tin. Kẻ bị bạn xấu lôi cuốn thì không thể vào. Kẻ rời khỏi bạn tốt thì chẳng thể biết. Kẻ chẳng được chư Phật che chở thì chẳng thể nghe nhận, huống là hiểu rõ ý thú, không bao giờ có việc ấy, chỉ trừ người đã được chư Phật che chở. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ rằng: Văn-thù nghe ta nói Sự nghĩa ngươi đã hỏi Người kém không thể làm Không biết pháp tính này. Điều Phật trước chẳng làm Đấng Điều Ngự chẳng hộ Nếu người nghe pháp này Không có tâm cung kính, Bị bạn xấu lôi cuốn Người xa lìa bạn tốt Nếu nghe pháp như thế Mau rớt xuống núi lớn, Hẹp hòi không tiến hành Không có tâm thắng diệu Người kém không tín hiểu Bọn ấy nghe chẳng mừng, Phật thương họ chẳng nói Chớ nhiễu chúng sinh kia Vì chẳng tin pháp này Đêm dài không ích lợi. Lúc bấy giờ, Đồng tử Văn-thù-sư-lợi bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Đại chúng nhóm họp nơi đây đều thanh tịnh, trước có hạnh lành thường, cúng dường, giúp việc cho các Đức Phật đời quá khứ, được bạn lành che chở, khéo giữ căn lành tịnh tín, cung kính giáo pháp giải thoát, xuất thế, khéo biết tâm thanh tịnh, rốt ráo, khéo hiểu những lời dạy tốt lành; các chúng đều nhóm họp ở đây, có khả năng hiểu biết được pháp này. Lành thay, bạch Đức Thế Tôn! Giờ đây xin Thế Tôn giảng nói để che chở làm lợi ích cho các chúng sinh! Rồi Văn-thù nói lại bằng bài kệ rằng: Nhiều chúng sinh đây cầu pháp lợi Khéo hiểu biết rõ pháp tính này Điều chư Phật quá khứ tu hành Cho nên Đấng Điều Ngự nói pháp, Thảy đều cung kính chắp tay đứng Chiêm ngưỡng ngắm nhìn Điều Ngự Sư Điều Ngự vì thế sinh thương xót Nguyện xin Đại Giác nói pháp mầu, Nay con đều thỉnh với vua pháp Nguyện xin giảng nói pháp thắng diệu Vì lợi ích che chở Bồ-tát Nguyện Nhân Tôn mở kho Pháp tạng. Văn-thù-sư-lợi thỉnh như vậy rồi, Đức Phật liền khen ngợi: –Lành thay, lành thay! Văn-thù-sư-lợi! Ông hỏi Như Lai Ứng Cúng chính Biến Tri ý nghĩa như vậy. Này Văn-thù-sư-lợi! Nay ông đều biết tất cả pháp hạnh. Đối với các pháp không có nghi ngờ, ông khéo biết phương tiện trí tuệ. Này Văn-thù-sư-lợi! Ông có nhiều công hạnh làm lợi ích cho các chúng sinh. Này Văn-thù-sư-lợi! Ông làm vầng ánh sáng lớn cho các Bồ-tát ở đời vị lai. Này Văn-thù-sư-lợi! Bây giờ ông hãy lắng nghe và khéo suy nghó, ta sẽ giảng nói kinh Bồ-tát Sở Hành Phương Tiện Cảnh Giới Thần Thông Biến Hóa. Văn-thù-sư-lợi và các vị Bồ-tát bạch: –Xin vâng, bạch Thế Tôn! Chúng con sẽ dốc lòng lắng nghe! Phật nói: –Này thiện nam! Nếu có người đầy đủ mười hai pháp công đức thì thiện nam, thiện nữ này sẽ phát tâm A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề, mười hai pháp gồm: 1. Có tính khéo hiểu lìa hạnh hạ giải. 2. Có tính hành Từ bi phát sinh bạch tịnh. 3. Có tâm chuyên tu hành thọ trì vững vàng, pháp vô vi. 4. Có thiện trang nghiêm tu tập hạnh lành lâu đời. 5. Có tâm lành cung kính cúng dường các Đức Phật, nhóm họp các pháp bạch tịnh. 6. Có thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp không tạo tác, dứt bỏ tất cả điều ác. 7. Xa lìa bạn xấu, gần gũi bạn lành. 8. Lời nói đi đôi với việc làm, không có nịnh hót, lừa dối. 9. Khéo hiểu biết các pháp, chẳng tham đắm mùi vị, ăn uống tiết chế. 10. Được Như Lai che chở không bị ma lôi cuốn. 11. Thường đối với tất cả chúng sinh sinh tâm Từ bi, cũng không buông bỏ tất cả chúng sinh, tâm cũng chẳng tham. 12. Có năng lực nhân duyên công đức trang nghiêm. Này thiện nam! Đó là đầy đủ mười hai pháp công đức. Thiện nam, thiện nữ phát tâm A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề, tâm lợi ích này có công năng đem đến sự an vui cho tất cả chúng sinh, tâm thương xót không làm các việc ác. Tâm Đại Bi có khả năng gánh vác các chúng sinh. Tâm đại Từ tiêu diệt tất cả các đường ác. Tâm bạch tịnh chẳng cầu các thừa khác. Tâm không ái nhiễm lìa tất cả kết sử vẩn đục. Tâm thanh tịnh này tính chất nó thanh tịnh. Tâm như huyễn thì không có vật. Tâm vô sở hữu thì lìa bỏ sở hữu. Tâm vững chắc thì không lay động. Tâm không thoái chuyển thì đạt được các pháp. Tâm độ tất cả chúng sinh thì thực hành như lời nói. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ rằng: Nếu có Phật tử khéo tu hành Pháp mầu thanh tịnh đầy trong tâm Tất cả chúng sinh tâm Từ bi Tâm mềm mỏng vì đạo Bồ-đề Vốn trước tiên xa lìa bạn xấu Gần gũi Bồ-đề và bạn lành Thề nguyện tinh tấn quả Bồ-đề Sinh tâm Bồ-đề luôn hiểu biết Thường chẳng sinh tâm mệt mỏi chán Điều tu hành đúng như bản tế Giống như kim cang không thoái tâm Như vậy cùng sinh tâm Bồ-đề Có Từ bi tâm với chúng sinh Đặt các chúng sinh vào chỗ vui Xa lìa tất cả các điều ác Hãy cùng chóng phát tâm Bồ-đề Người tuệ chẳng cầu các thừa khác Suy nghó Bồ-đề công đức mầu Tịnh tâm không bẩn, cũng không ái Như thế đều muốn tâm Bồ-đề Lìa vật, phi vật không có ái tính nó giống như lằn chớp huyễn Lìa tất cả vật không có tướng Phật nói tâm Bồ-đề cũng vậy Lìa tất cả sử, mọi điều ác Không nhơ sáng rõ như hư không Tất cả văn tự không thấy được Đây nói tâm Bồ-đề thanh tịnh. Là gốc Bồ-đề, hạnh thắng diệu Cũng là các biện Đà-la-ni Cũng là các căn cùng vẻ đẹp Đây là đầy đủ công Đức Phật. Đức Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: –Bồ-tát an trụ thấy mười hai công đức như thế phải tinh tấn tu hành pháp Đàn ba-la-mật. Mười hai công đức gồm: 1. Thấy đạo Bồ-đề an hòa thích hợp thì tinh tấn tu hành pháp. 2. Thấy được sự giàu sang thì tinh tấn tu hành pháp Đàn ba-la-mật. 3. Thấy sinh trong dòng họ đáng yêu thì tinh tấn tu hành pháp Đàn ba-la-mật. 4. Thấy lìa được sự bẩn của bỏn sẻn thì tinh tấn tu hành pháp Đàn ba-la-mật. 5. Thấy tâm bố thí đầy đủ thì tinh tấn tu hành pháp Đàn ba-la-mật. 6. Thấy đóng bít cửa quỷ đói thì tinh tấn tu hành pháp Đàn ba-la-mật. 7. Thấy của cải chung nhiều muốn cầu bền chắc thì phải tinh tấn tu hành pháp Đàn ba-la-mật. 8. Thấy các thứ cần dùng đầy đủ, tự tại thì tinh tấn tu hành pháp Đàn ba-la-mật. 9. Thấy tu tập thực hành xả bỏ tất cả thì tinh tấn tu hành pháp Đàn ba-la-mật. 10. Thấy lìa tham tiếc, xả bỏ tất cả vật thì tinh tấn tu hành pháp Đàn ba-la-mật. 11. Thấy ta sẽ đầy đủ Đàn-ba-la-mật thì phải tinh tấn tu hành pháp Đàn ba-la-mật. 12. Thấy nên cẩn thận thực hành lời dạy bảo của Đức Như Lai thì phải tinh tấn tu hành pháp Đàn ba-la-mật. Tất cả sự bố thí đều hồi hướng về đạo A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề. Này thiện nam! Đó gọi là Bồ-tát thấy mười hai công đức như thế mà tinh tấn tu hành pháp Đàn ba-la-mật. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nói bài kệ tụng: Thí cầu trí Nhất thiết vô đẳng Tay, chân, hai mắt, đầu, xương, tủy Chẳng tiếc trong ngoài, bỏ tất cả Sau không tham, tiếc, thêm công đức Sẽ thành giàu đẹp, sinh nhà tốt Hàng phục tham cấu, Bồ-đề tăng Sau thêm Bồ-đề, bỏ nhơ tham Được tự tại, đầy đủ đàn độ Tất cả các Phật đều khen thí Tuệ kiến là các công đức lợi Ta sẽ tu hành, bỏ tất cả. Lại nữa, này các thiện nam! Nếu Bồ-tát thấy mười hai việc công đức như vầy thì phải siêng năng tinh tấn tu hành pháp Thi ba-la-mật. Mười hai công đức gồm có: 1. Vì thấy mình phải giữ gìn giới pháp đầy đủ nên tinh tấn tu hành Thi ba-la-mật. 2. Vì thấy mình phải hướng về đạo Bồ-tát nên tinh tấn tu hành Thi ba-la-mật. 3. Vì thấy mình phải cởi mở sự ràng buộc của kết sử nên tinh tấn tu hành pháp Thi ba-la-mật. 4. Vì thấy mình phải ra khỏi tất cả đường ác nên tinh tấn tu hành pháp Thi ba-la-mật. 5. Vì thấy mình phải diệt trừ tất cả đường ác nên tinh tấn tu hành pháp Thi ba-la-mật. 6. Vì thấy mình phải thành tựu việc thân, miệng, ý không tạo nghiệp nên tinh tấn tu hành pháp Thi ba-la-mật. 7. Vì thấy mình phải làm cho người có trí tuệ chẳng quở trách nên tinh tấn tu hành pháp Thi ba-la-mật. 8. Vì thấy mình phải tu tập chẳng để buông lung nên tinh tấn tu hành pháp Thi ba-la-mật. 9. Vì thấy mình phải bố thí cho tất cả chúng sinh sự không sợ hãi nên tinh tấn tu hành pháp Thi ba-la-mật. 10.Vì thấy mình phải ngăn ngừa lỗi của thân, miệng, ý thì phải tinh tấn tu hành pháp Thi ba-la-mật. 11. Vì thấy mình phải đối với các pháp được tự tại nên tinh tấn tu hành pháp Thi ba-la-mật. 12. Vì thấy mình phải tu học giới luật của Đức Như Lai Vô thượng nên tinh tấn tu hành pháp Thi ba-la-mật. Này người thiện nam! Đó là Bồ-tát thấy muời hai việc công đức nên tinh tấn tu hành pháp Thi ba-la-mật. Công đức tu hành giới này hồi hướng về Nhất thiết trí. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nói bài kệ rằng: Ta sẽ được cởi mở kết sử Ta phải đóng bít cửa đường ác Ta phải nghó đến việc tốt đẹp Như trâu giữ đuôi, ta giữ giới. Ta phải an trụ như Phật dạy Ta phải được người trí khen ngợi Ta phải giữ gìn, thường không lìa Ta phải an trụ giới công đức. Thân, miệng ta phải được vô tác Ta sẽ hành pháp ý vô tác Ta phải khéo giữ thân, miệng, ý Ta phải không đi trong đường ác, Nếu không buông lung được Phật khen Tất cả các gốc nghiệp lành này Ta phải thường an trụ trong đó Dứt bỏ tất cả các buông lung. Ta phải hành Thi ba-la-mật Ta phải đầy đủ các Phật pháp Ta phải thanh tịnh giới Như Lai Tất cả giới này đều vô thượng, Không hy vọng cầu công đức này Nếu như Bồ-tát cầu thắng đạo Giữ giới như trâu yêu đuôi nó Phải được tất cả công đức lợi. Lại nữa, các thiện nam! Bồ-tát nhớ nghó mười hai hạnh này, tu hành nhẫn. Mười hai hạnh gồm có: 1. Tất cả “hành không” nên tu hành nhẫn. 2. Không được chấp ngã nên tu hành nhẫn. 3. Chẳng được chúng sinh nên tu hành nhẫn. 4. Chẳng thiên vị ta, người nên tu hành nhẫn. 5. Rốt ráo không giận tức nên tu hành nhẫn. 6. Vì bị kết sử che lấp nên tu hành nhẫn, dứt hẳn tham, sân nên tu hành nhẫn. 7. Vì thành tựu tướng tốt nên tu hành nhẫn. 8. Muốn sinh cõi Phạm nên tu hành nhẫn. 9. Lìa sự áp bức của kẻ khác nên tu hành nhẫn. 10. Vì muốn được trí vô tận, trí vô sinh nên tu hành nhẫn. 11. Vì muốn hàng phục các ma nên tu hành nhẫn. 12. Vì muốn thấy biết thân Như Lai vô biên nên tu hành nhẫn. Hồi hướng công đức nhẫn nhục này về trí Nhất thiết. Này thiện nam! Đó là Bồ-tát thấy mười hai hạnh tu nên hành nhẫn nhục. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nói bài kệ tụng: Pháp này không, vô hữu Cầu không được chúng sinh Biết rõ ràng pháp này An trụ công đức nhẫn Xa lìa cả hai bên Ta, người không có giận Người trí tu sức nhẫn Đại Bi dạy như vậy Rốt ráo không có sân Tiến tu nhẫn, không lo Biết rõ đến tận cùng Tu nhẫn kết sử dứt Tướng tốt, sắc trang nghiêm Là sinh nơi cõi Phạm Bền tiến gần sức nhẫn Ưa suy nghó điều nhẫn Không có sức đại nhẫn Khiến sức ma chẳng sức Tất cả đức chưa đủ Vậy nên tu diệu nhẫn. Lại nữa, các thiện nam! Bồ-tát có mười hai thứ trang nghiêm để trang nghiêm tinh tấn. Mười hai thứ trang nghiêm gồm có: 1. Biết rõ tất cả Phật pháp, siêng năng tu hành tinh tấn trang nghiêm. 2. Đi đến tất cả chỗ Phật để siêng năng tu hành tinh tấn trang nghiêm. 3. Cúng dường, giúp việc cho tất cả các Đức Như Lai để siêng năng tu hành tinh tấn trang nghiêm. 4. Giáo hóa tất cả chúng sinh để siêng năng tu hành tinh tấn trang nghiêm. 5. An trụ tất cả chúng sinh trong Phật pháp để siêng năng tu hành tinh tấn trang nghiêm. 6. Dứt bỏ vô minh cho các chúng sinh để siêng năng tu hành tinh tấn trang nghiêm. 7. Ban cho chúng sinh trí Phật để siêng năng tu hành tinh tấn trang nghiêm. 8. Làm thanh tịnh tất cả các cõi Phật để siêng năng tu hành tinh tấn trang nghiêm. 9. Tận kiếp vị lai, tu hạnh Bồ-tát mà chẳng biết mệt mỏi, chán ngán để siêng năng tu hành tinh tấn trang nghiêm. 10. Muốn trong thời gian búng ngón tay đến khắp các cõi Phật để siêng năng tu hành tinh tấn trang nghiêm. 11. Tất cả cảnh giới Phật, thành đạo Vô thượng. 12. Chuyển bánh xe pháp mầu để siêng năng tu hành tinh tấn trang nghiêm. Này các thiện nam! Đó là thứ trang nghiêm để siêng năng tu hành tinh tấn. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nói bài kệ tụng rằng: Mạnh mẽ vô thượng, không biếng nhác Ấy là Phật tử hướng Bồ-đề Đến nhiều cõi Phật cũng vẫn dứt Ấy là hành xứ không chán mỏi, Vì hóa chúng sinh bền tinh tấn Chịu nhóm khổ trăm ngàn ức hiếp Thường luôn tinh tấn không lười biếng Thí cho chúng sinh vui diệt độ. Ta nguyện tịnh tu các cõi Phật Biết rõ tất cả các phật pháp Pháp luân ta hơn trong nhiều cõi Xoay rồi hàng ức chúng sinh thuần, Một niệm tâm giáo được Bồ-đề Khiến cho nhiều cõi được điều phục Phật tử thường vượt qua bờ kia Vì chúng sinh hiện các trang nghiêm. Lại nữa, này các thiện nam! Bồ-tát có mười hai hạnh tu thiền định. Mười hai hạnh ấy gồm có: 1. Hạnh đốt cháy các kết sử vì rốt ráo không phát sinh. 2. Hạnh chính tâm trụ vì chẳng theo cảnh giới. 3. Hạnh không y chỉ vì lìa cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc. 4. Hạnh vượt ra thế gian, vì hàng phục định của phàm phu chẳng phải Thánh. 5. Hạnh tăng thêm sự thù thắng vì không có tâm chấp ngã. 6. Hạnh thiền định theo thứ lớp, vì phân biệt thiền. 7. Hạnh vô sở hữu, vì lìa khỏi hữu tưởng. 8. Hạnh thiền vô biên vì quở trách Tam-muội thiền hữu biên. Dùng hạnh thiền định này khéo vắng lặng. 9. Hạnh điều tâm vì không có gì chẳng biết. 10. Hạnh vắng lặng vì giữ gìn các căn. 11. Hạnh cảnh giới phương tiện. 12. Bồ-tát tu thiền chẳng bỏ, chẳng phế, phi tuệ, phi mạn, phi kiến, phi ái, phi niệm tu. Cho nên, Bồ-tát hàng phục tất cả những người tu thiền. Này các thiện nam! Đó là Bồ-tát thấy mười hai hạnh tu thiền định. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nói bài tụng rằng: Thiền định này cao quý Là hạnh Bồ-tát kia Đốt tất cả kết sử Rốt ráo không còn sinh, Chuyên tu thiền vắng lặng Chẳng tu theo cảnh giới Nếu có tâm chẳng trụ Khuyên phải trụ định thiền. Tu thiền Vô y chỉ Kia không chỗ nương tựa Cõi Dục, cõi Vô sắc Suy nghó không mê đắm, Là thiền siêu thế gian Là điều Bồ-tát biết Nên hàng phục tất cả Các định chẳng phải Thánh. Thực hành thiền thứ lớp Muốn được tự tại vậy Cho nên xả thiền định Trở lại sinh cõi Dục, Tăng thêm hạnh thắng diệu Người trí tuệ tu thiền Là thiền tâm vô ngã Vì Bồ-tát mà nói, Vô lượng, vô biên hạnh Tu hành thiền tối thượng Vậy nên ít phần thiền Soi sáng khiến hàng phục. Trí tuệ cùng phương tiện Tu thiền vang tiếng tăm Đều không chỗ thấy được Một bề hạnh bạch tịnh Không có chỗ y chỉ Cũng chẳng trụ với vật Người trí tuệ tu thiền Lìa bỏ các vật tướng Hành các hạnh như thế Người trí tuệ tu thiền Đối Duyên giác tự tại Cho nên không chỗ hành. Này thiện nam! Bồ-tát có mười hai hạnh để cho trí nhập vào Bát-nhã ba-la-mật. Mười hai hạnh gồm: 1. Hạnh sáng suốt rõ ràng chẳng bị tối tăm che lấp. 2. Hạnh đuốc lớn, soi sáng tất cả kết sử. 3. Hạnh bủa lưới sáng trí tuệ, lìa khỏi vô trí. 4. Hạnh móc câu trí tuệ, nhổ hết gốc rễ vô minh. 5. Hạnh giáo bén thiện lợi, xé rách lưới ái. 6. Hạnh kim cang phá tan núi kết sử. 7. Hạnh cung điện của vua mặt trời, đốt khô bùn kết sử. 8. Hạnh lửa lớn, thiêu cháy cây sống. 9. Hạnh báu ma-ni, chẳng mê hoặc. 10. Hạnh không, không có vật. 11. Hạnh vô tướng, không có tướng. 12. Hạnh vô nguyện, vượt qua ba cõi. Này thiện nam! Đó là Bồ-tát có mười hai hạnh Bồ-tát tu hành để cho trí tuệ nhập vào Bát-nhã ba-la-mật. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nói bài tụng rằng: Tuệ này hơn thế gian Chiếu sáng xua tối tăm Đuốc mặt trời thanh tịnh Soi sáng các kết sử Tuệ lợi diệt vô minh Giác tri phá hoại ái Phá các núi kết sử Chày kim cang Thiên chủ Phá tan A-tu-la Tất cả các quân chúng Được chiếu sáng lìa tối Tuệ thị hiện như đèn Mặt trời nung bùn khô Thắng tuệ như mặt trời Vượt biển kết đến bờ Giống như thuyền vượt sông Chặt đứt cây vô trí Như dao đốn các cây Được ma-ni, không mê Không có vật, tướng tính Thường lìa khỏi giác quán Không nương các “hữu đạo” Phá tan các nghi ngờ Hay luận ra lời nói Thị hiện khổ sinh tử Thị hiện đuốc Niết-bàn Tuệ này chữa mắt tục Hiện sự tướng không mê Nhân tuệ Bồ-tát khỏe Lìa tối, tu Bồ-đề. Này các thiện nam! Bồ-tát thấy biết mười hai cảnh giới thị hiện phương tiện. Mười hai cảnh giới gồm những gì? Này thiện nam! Đó là: 1. Bồ-tát đến cảnh giới Niết-bàn, dùng phương tiện thị hiện cảnh giới sinh tử. 2. Đến cảnh giới vắng lặng, dùng phương tiện thị hiện ở chỗ đông người náo động. 3. Đến cảnh giới thiền, dùng phương tiện thị hiện cảnh cung điện, hoàng hậu, thế nữ. 4. Đến cảnh giới vô tác, dùng phương tiện thị hiện cảnh giới tạo tác. 5. Đến cảnh giới vô sinh, dùng phương tiện thị hiện cảnh giới sinh tử. 6. Lìa cảnh giới bốn ma, dùng phương tiện thị hiện cảnh hàng phục các ma. 7. Đến cảnh giới bậc Thánh, dùng phương tiện thị hiện cảnh giới cận phi Thánh. 8. Lìa cảnh giới thế tục, dùng phương tiện thị hiện cảnh giới thế gian. 9. Đắc được cảnh giới trí, dùng phương tiện thị hiện cảnh giới phàm phu. 10. Hiện đã thấy rõ cảnh giới thật tế, dùng phương tiện thị hiện cảnh giới chẳng rơi vào Thanh văn, Duyên giác. 11. Đạt đến được pháp giới vô tướng, dùng phương tiện thị hiện thân trang nghiêm tướng tốt. 12. Vì hóa độ cảnh giới chúng sinh nên vào cảnh giới Phật dùng phương tiện thị hiện cảnh giới các ma. Này thiện nam! Đó gọi là Bồ-tát thấy biết mười hai cảnh giới phương tiện thị hiện. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nói bài tụng rằng: Cảnh giới này phương tiện Bồ-tát tịnh chúng sinh Các vị trụ cảnh giới Thị hiện mọi cảnh giới Được cảnh giới Niết-bàn Phương tiện hiện hữu vi Lại đến cảnh giới này Không có hai quá hoạn Được đến chỗ vắng lặng Phương tiện hiện ồn náo Cả hai điều không đắm Hạnh không đắm như ong Thị hiện trong thể nữ Vui chơi ở trong cung Họ được sự vắng lặng Người giữ đức phương tiện Chẳng lui mất thiền định Phương tiện hiện tâm loạn Thấy không các việc hoảng Trí phương tiện thị hiện Cũng không có cung kính Không vọng tưởng hý luận Không vọng, cảnh giới vọng Trí phương tiện thị hiện Chẳng sinh cũng không biết Pháp vô sinh quý giá Thị hiện với chết sống Trí phương tiện mạnh mẽ Vượt ra cảnh giới ma Trụ cõi Phật oai đức Mà hiện cảnh giới ma Là phương tiện Phật tử Đến đỉnh công đức Thánh Hạnh phàm phu phương tiện Chúng sinh tịnh trí lực Trí phương tiện biến hóa Tất cả pháp không bờ Biết vốn mé gốc rỗng Không mong cầu diệt độ Được phương tiện giữ gìn Tất cả pháp vô tướng Là đạt “không”, “vô hữu” Vì hóa độ chúng sinh Thị hiện thân tướng hảo Là cảnh giới phương tiện Phật tử uy đức lớn Là Phật tử an trụ Thị hiện trăm biến hóa. Này thiện nam! Nay ông phải biết Như Lai phương tiện sinh ra mười hai công đức thành tựu tinh luyện cõi Phật, thành đạo Vô thượng chính chân rồi, thị hiện kiếp trược, kiến trược, chúng sinh trược, phiền não trược, mạng trược, hiện các thừa khác nhau, thị hiện cõi Phật ô uế, bất định, thị hiện chúng sinh ngu độn, hiện nói pháp khác, hiện chúng sinh khác, thị hiện dị đạo tranh chấp, hiện ma, nghiệp ma, đều không lỗi lầm, phải biết tất cả điều đó là phương tiện của Như Lai. Đức Phật nói như thế rồi, khi ấy Đồng tử Văn-thù-sư-lợi bạch Đức Phật: –Bạch Thế Tôn! Cúi xin Thế Tôn nói về mười hai công đức thành tựu tinh luyện cõi Phật. Các Đức Phật Thế Tôn đối với công đức tinh luyện cõi Phật này đã thành đạo Vô thượng chính chân. Đức Phật nói: –Này Văn-thù-sư-lợi! Tinh luyện cõi Phật là tinh luyện “kiếp” thành tựu đầy đủ, chẳng bỏ tinh luyện các công đức. Các Đức Phật, Thế Tôn tức đã ở chỗ này thành đạo Vô thượng chính chân, tinh luyện cõi Phật có tinh luyện “thời” thành tựu đầy đủ chẳng trái lỗi với lúc hành pháp. Tinh luyện cõi Phật này có tinh luyện “chúng sinh” thành tựu, không ai không biết pháp. Tinh luyện cõi Phật này có tinh luyện rộng phước đầy đủ, khéo nhiệm mầu thanh tịnh. Tinh luyện cõi Phật có tinh luyện dị giải chúng sinh, thành tựu đầy đủ, chẳng đần độn. Tinh luyện cõi Phật có tinh luyện “thừa”, thành tựu đầy đủ, phát xuất nhất thừa. Tinh luyện cõi Phật có tinh luyện diệu địa thành tựu, không có vật. Tinh luyện cõi Phật là tinh luyện diệu địa thành tựu, tất cả không ngoài hạnh đạo. Tinh luyện cõi Phật này có tinh luyện công đức thành tựu, không dối lừa. Tinh luyện cõi Phật có tinh luyện có tinh luyện tâm rốt ráo thành tựu, là chúng sinh an trụ tính bạch tịnh. Tinh luyện cõi Phật là có tinh luyện bậc Thánh nhân thành tựu, ruộng phước bất không. Tinh luyện cõi Phật này có tinh luyện đạo tràng thành tựu, chỗ các Đức Phật quá khứ trước kia an trụ. Này Văn-thù-sư-lợi! Đó là mười hai công đức thành tựu tinh luyện cõi Phật, nơi đây tất cả các Đức Phật Như Lai thành đạo Vô thượng chính chân. Này Văn-thù-sư-lợi! Nay ông phải biết, ở đây ta không có chỗ an trụ cho Thanh văn, Duyên giác. Vì sao? Vì Như Lai lìa bỏ các dị tướng. Này Văn-thù-sư-lợi! Nếu Như Lai kia, hoặc có người muốn chúng sinh Đại thừa, hoặc có người muốn chúng sinh Tiểu thừa thì Như Lai có tâm bất tịnh, có tâm bất bình đẳng, có lỗi chấp trước, có ít phần Đại Bi, có lỗi dị tưởng, thế thì ta có lỗi bỏn sẻn giáo pháp. Này Văn-thù-sư-lợi! Nếu ta vì chúng sinh có nói pháp thì đều hướng họ về đạo Bồ-đề, đều hướng họ về Đại thừa, vào Nhất thiết trí, đạt đến Nhất thiết trí. Do ý nghĩa này nên không có chỗ cho các thừa khác an trụ. Ngài Văn-thù-sư-lợi bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Nếu kia không có chỗ cho các thừa khác an trụ thì tại sao Đức Như Lai nói ra ba thừa, nói pháp cho chúng sinh nghe? Đây là Thanh văn thừa, đây là Duyên giác thừa, đây là Đại thừa. Đức Phật dạy: –Này Văn-thù-sư-lợi! Thừa là chỗ dừng nghỉ. Như Lai làm ra cõi đất để dừng nghỉ an ổn. Không phải thừa là chỗ đích dừng lại, chẳng phải pháp tướng tạo ra chỗ “an chỉ trụ” mà Như Lai vì người tạo ra chỗ dừng nghỉ yên ổn. Nếu chỗ “an chỉ” kia, thiếu trang nghiêm huy vô lượng trang nghiêm thì đó là thừa không sai, pháp giới không khác. Này Văn-thù-sư-lợi! Như Lai giảng nói không có cửa chướng ngại, theo thứ lớp đến với “chỗ dừng nghỉ, an ổn”. Này Văn-thù-sư-lợi! Giống như người thợ mới học việc, theo thầy giỏi khéo. Đạt đến bờ trí tuệ khéo léo, nhiều thứ phương tiện, tùy theo người đệ tử muốn học việc nào, khiến cho tuệ khéo léo kia thị hiện đủ các việc tinh tấn siêng năng. Trí tuệ khéo léo này là bậc nhất. Này Văn-thù-sư-lợi! Như Lai Thế Tôn cũng vậy, là bậc Thầy có pháp lành khéo léo là bậc Nhất thiết trí, tạo ra ba thứ để nói. Này Văn-thù-sư-lợi! Giống như lửa ít, dần dần thêm nhiều, có thể thiêu cháy đến tận kiếp. Này Văn-thù-sư-lợi! Nhất thiết trí, sáng này cũng lại như vậy, dần dần tăng trưởng cho đến đạt được Đại trí Như Lai, ánh sáng trí tuệ thiêu đốt tất cả kết sử của chúng sinh. Này Văn-thù-sư-lợi! Núi chúa Tu-di không có phân biệt, nếu có chúng sinh đến chỗ ấy thì tất cả cùng một màu, đó là một màu vàng. Này Văn-thù-sư-lợi! Là Vô Thượng Như Lai Đại Trí Tu-di cũng vậy, không có phân biệt. Nếu có người quán pháp tính Như Lai thì đều cùng một màu, đó là màu Nhất thiết trí. Này Văn-thù-sư-lợi! Ví như ở tại chỗ của viên ngọc báu Đại ma-ni xanh biếc. Bên trong cảnh giới của viên ma-ni báu này có ánh sáng dị sắc, đó là các thứ màu sắc, các thứ hình tượng lạ lùng. Do năng lực oai đức của viên báu ma-ni này đều là một màu, đó là màu xanh. Này Văn-thù-sư-lợi! Viên ngọc báu ma-ni xanh biếc Vô thượng Như Lai cũng vậy. Nếu có chúng sinh tiếp xúc với ánh sáng Như Lai thì tất cả đều một màu, đó là màu Nhất thiết trí. Này Văn-thù-sư-lợi! Ví như biển cả tuy có các cửa vào của các dòng nước nhưng khi nước đã vào biển rồi thì chỉ có một vị, đó là vị mặn, vị mặn này thường trụ. Này Văn-thù-sư-lợi! Biển cả ấy là Đại Trí Như Lai. Các dòng nước chảy vào là tất cả các pháp Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát vào rồi thì đồng một vị, đó là vị Nhất thừa không sai biệt. Này Văn-thù-sư-lợi! Do là phương tiện này mà nên biết Như Lai an trụ nơi đất hư vọng, Như Lai phân biệt dẫn đường, giảng nói tạo nơi “an chỉ”, vào chỗ “Như Lai pháp an trụ”. Như Lai thị hiện thứ lớp để vào trong Phật pháp. Để khiến cho tiểu trang nghiêm, Đại trang nghiêm được an trụ trong Phật pháp, Như Lai dùng phương tiện trí biện này, các thứ biến hóa để giảng nói việc ra đời, đó là nghĩa bậc nhất, nhất thừa không hai. Này Văn-thù-sư-lợi! Ở cõi Phật này nếu các ngoại đạo có hạnh xuất gia thì Như Lai ở trong đó thị hiện hạnh phương tiện, Như Lai che chở, tự tại dẫn đường. Vì sao? Này Văn-thù-sư-lợi! Như Lai khéo léo hàng phục tất cả các oán thù. Như Lai đối với tất cả thường không oán thù. KINH BỒ-TÁT HÀNH PHƯƠNG TIỆN CẢNH GIỚI THẦN THÔNG BIẾN HÓA <卷 id="77333583">QUYỂN TRUNG Này Văn-thù-sư-lợi! Như vua Chuyển luân thành tựu công đức nhỏ, có đức tụ lại hết, có tham, có sân, có si, có thủ, có kết, có sử. Vua Chuyển luân này tất cả không có gây thù oán. Vì sao? Này Văn-thù-sư-lợi! Vua Chuyển luân này không có tranh chấp, phiền não. Này Văn-thù-sư-lợi! Huống chi Như Lai xoay bánh xe pháp lớn vô lượng Đại trí, công đức trang nghiêm thành tựu đầy đủ, đạt được vô đoạn Đại Bi, dạo chơi trong hư không pháp vô lậu, thành tựu pháp báu “Thất trợ Bồ-đề” vì chẳng quên pháp nên quay bánh xe pháp lớn. Mà bên ngoài có các kẻ thù sợ hãi, thì không có việc ấy. Này Văn-thù-sư-lợi nên biết! Nếu thấy ngoại đạo trong cõi Phật này xuất gia, thì thiện nam phải biết tất cả an trụ trong một đạo, đó là Phật đạo. Này Văn-thù-sư-lợi! Ví như các cầm thú không có khả năng an trụ trước sư tử đầu đàn. Cũng vậy, này Văn-thù-sư-lợi! Các ngoại đạo xuất gia không thể tự tiện xâm nhập vào cảnh giới Như Lai, cũng chẳng thể tranh luận với Như Lai. Bậc Sư Tử Đại Nhân giữ gìn mười lực, được bốn vô úy ở trước Ngài mà rống lên, việc này không có, chỉ trừ khi đã có sự gia trì của Như Lai. Này Văn-thù-sư-lợi! Ví như cung của vua mặt trời phát ra màn ánh sáng thì tất cả lửa đom đóm thảy đều bị lấn át, tất cả trân bảo, ánh lửa, các sao thảy không chiếu sáng. Cũng vậy, này Văn-thù sư-lợi! Khi cung mặt trời lớn Như Lai Vô thượng xuất hiện, phát ra ánh sáng Đại trí thì các ngoại đạo xuất gia thảy đều bị che khuất, không còn chiếu sáng. Này Văn-thù-sư-lợi! Ví như chỗ vua Thắng Thiết xuất hiện thì tại địa phương ấy tất cả các thứ sắt không có ở đó, vì các thứ sắt tụ lại không chung cùng vậy. Cũng vậy, này Văn-thù-sư-lợi! Nếu có cõi Phật đã có Phật ra đời thì phải biết, tất cả các ngoại đạo… không xuất gia hành đạo. Vì sao? Vì chẳng cùng chung với Đức Phật ra đời. Này Văn-thù-sư-lợi! Ví như nơi đã xuất hiện Như ý bảo vương thì không sinh ra tất cả các thứ báu ma-ni giả ngụy. Cũng vậy, này Văn-thù-sư-lợi! Nơi đã xuất hiện “Vật báu Đại trí Như Lai” thì phải biết. Nơi ấy chẳng xuất hiện các ngoại đạo. Này Văn-thù-sư-lợi! Ví như nơi “tính báu” có xuất hiện vàng “Diêm-phù-đàn” thì chỗ ấy chẳng sản sinh những thứ đồng thau giá rẻ. Cũng vậy này Văn-thù-sư-lợi! Nếu có thế giới có Phật ra đời thì nơi ấy chẳng xuất hiện các ngoại đạo. Này Văn-thù-sư-lợi! Nên biết phương tiện tùy theo chỗ Phật xuất hiện, chẳng nên xuất hiện các ngoại đạo xuất gia. Này Văn-thù-sư-lợi! Nay ông phải biết Như Lai thọ trì cảnh giới phương tiện nhiều không thể suy nghó bàn luận. Vì cớ ấy nên ở cõi Phật này xuất hiện tất cả ngoại đạo xuất gia. Vì sao? Vì tất cả bậc thượng thủ ngoại đạo đều an trụ trong giải thoát không thể suy nghó bàn luận, từ Bát nhã ba-la-mật mà ra, dạo chơi trong phương tiện, cũng chẳng lìa bỏ niệm Phật, Pháp, Tăng, giáo hóa chúng sinh đến được bờ kia. Như Lai thọ trì hóa độ chúng sinh. Khi nói pháp này, tám ngàn Thiên tử nương thừa Thanh văn nghe nói Nhất thừa, phát tâm đạo Vô thượng chính chân. Năm trăm Tỳ-kheo chứng được Tam-muội Nhất thừa đăng. Một ngàn hai trăm vị Bồ-tát chứng được Vô sinh pháp nhẫn. Khắp tam thiên đại thiên thế giới này chấn động sáu cách, các vị trời ở trên hư không mưa xuống các thứ hoa sen xanh, vàng, đỏ, trắng, rải bột chiên-đàn cõi trời. Ở trước Đức Phật trăm ngàn Thiên tử đứng trong hư không cất tiếng hô xướng. Áo trời trong hư không, tự xoay chuyển, các vị trời tấu nhạc nói: –Vốn chưa từng nghe kinh này ra đời, bạch Thế Tôn! Xin để cho kinh điền này lưu hành lâu dài ở cõi Diêm-phù-đề. Tám trăm vị Tỳ-kheo-ni cởi Ưu đa-la-tăng dâng lên Đức Phật. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn nói lại ý nghĩa trên mà nói kệ rằng: Cảnh giới phương tiện không nghó bàn Văn-thù-sư-lợi phải biết ta Khi ta tinh luyện giác Bồ-đề Ta lại thị hiện như lúc ấy Lỗi lầm thời tiết ta không có Phải thường khi có pháp nhiệm mầu Chúng sinh nghe pháp ta được độ Chúng sinh có lỗi, ta không lỗi Kiếp tinh luyện hết vật công đức Ruộng phước tinh luyện tịnh vô cấu Khi ta tinh luyện được Bồ-đề Cho nên biết ta không có trược Ta đã từ nhiều ức kiếp qua Thành tựu vô lượng trí tuệ Phật Như ta đắc đạo mạng cũng thế Trong thời gian đó không diệt độ Ta phương tiện thị hiện diệt độ Có thường tưởng, nên hiện vô thường Ta nay thị hiện sự dư tàn Thọ mạng ta bằng kiếp vị lai Ta chỉ một thừa một diệt độ Thừa sai biệt ta không ai được Nói ba thừa ba thuyết như thế Phải biết là cảnh giới phương tiện Kẻ tâm biếng nhác và hẹp hòi Nghe đến liền sinh lòng sợ hãi Thị hiện ba thừa vì hạng ấy Chỉ có một thừa, không có hai Ta giảng nói tùy người ưa pháp Vì nhập vào pháp sự Phật đạo Cho nên một thừa, mà nói ba Nhưng đối thừa này, không thương tổn Như trí khéo độ đến bờ kia Cho nên trí thị hiện có ba Thế Tôn cũng vậy biết thắng pháp Do đó một thừa giảng nói ba Tâm bình đẳng điều phục chúng sinh Ta đều không có các dị tưởng Ý ta vui kính đối hạ thừa Thì ta có lỗi lầm bỏn sẻn Ngọc biếc lưu ly trên các báu Tùy theo chỗ có ngọc báu ấy Tất cả đều cùng một sắc màu Đó là màu biếc không khác nhau Trí báu Thế Tôn cũng như thế Tất cả cõi Phật đều phát sáng Tất cả chúng sinh đều một màu Màu Bồ-đề không khác nhau Như đốm lửa nhỏ đã cháy lên Dần dần thêm mạnh thành cháy lớn Lửa trí Thanh văn cũng như thế Cũng phát ra ánh công đức Phật Núi chúa Tu-di quy hướng đến Do uy đức nên cùng sắc màu Quy y Đức Phật cũng như vậy Người nhu nhẫn được màu Bồ-đề Giống như tất cả các miệng ong Hút lấy tinh anh các loài hoa Tất cả các chất hòa hợp lại Trở thành một chất mật mà thôi Bậc trí dạy đời cũng như thế Thị hiện tạo ra ba thừa rồi Tất cả sạch trong hòa hợp lại Tạo tưởng Bồ-đề, không tưởng khác Vua người chuyển luân không lo buồn Không có kẻ thù các nơi khác Ta dùng pháp giới bảo ban khắp Thì sao lại có hàng ngoại đạo Giống như khi mặt trời mới mọc Át lửa đom đóm và các sao Cung trí tuệ hiện ra cũng thế Át chen ngoại đạo không chiếu sáng. Hễ chỗ nào có quặng sắt tốt Thì tất cả sắt khác không có Nước có Như Lai ra độ đời Là nơi không có các ngoại đạo. Hễ nơi nào có mặt vàng ngọc Thì chỗ ấy chẳng có đồng thau Nếu nước có người chứng Bồ-đề Thì chỗ ấy không các ngoại đạo Ngọc Như ý, ngọc giả không hòa Quá khứ, vị lai chẳng lẫn lộn, Phật bảo, đạo ngoài cũng như vậy Trong một cõi, thường không lẫn lộn Thiền định thần thông, tự tại, nhẫn Tất cả trí môn ngoại đạo này Người tuệ phương tiện hành trí tuệ Thị hiện đủ thứ các biến hóa Sau khi nghe cảnh giới phương tiện Bấy giờ, Phật tử rất vui mừng Phát sinh vui mừng hỷ vô lượng Rải hoa cúng dường Đấng Điều Ngự Mặt đất rung chuyển mạnh sáu phương Trên không kỹ nhạc tấu vang xa Chư Thiên hàng ức chắp tay kính, Khen ngợi: Lành thay, lời Phật nói! Khi Đức Phật nói kệ này rồi thì Tát-già Ni-kiền Tử cùng tám mươi ức Ni-càn từ phương Nam tuần tự du hành qua các cõi nước, thẳng đến Đại thành Ưu-thiền-ni. Hàng trăm ngàn đại chúng vây quanh trang nghiêm tiền hô hậu ủng. Lúc bấy giờ, vua Chiêu-trà-bát-thọ-đề từ xa thấy Tát-già Ni-kiền Tử đến sinh lòng ưa thích, sinh tâm thanh tịnh đối với Tát-già. Nhà vua cùng các Đại thần, nội cung quyến thuộc, nhân dân trong cõi nước, vợ con bốn thứ binh, Đại vương oai đức, Đại vương thần lực… dùng trăm ngàn vật báu để trang nghiêm, trăm ngàn kỹ nhạc, cầm cờ phướn lọng báu để trang nghiêm. Họ liền kéo đến đón nước Tát-già Ni-kiền Tử. Lúc bấy giờ, Tát-già Ni-kiền Tử xa thấy vua Chiên-trà-bát-thọ-đề dùng lời êm ái gọi: –Lành thay, Đại vương! Trong cõi nước của ông không có kẻ thù áp bức nhau. Không có bệnh hoạn, khổ não nóng bức. Ở nước này bề tôi, thân thuộc, các kỹ tốt, người hư đốn xấu xa, bọn thần giữ quan thuế… tất cả bọn này không làm rối loạn bại hoại đất nước chăng? Này Đại vương! Đất nước đại vương các bậc Sa-môn, Bà-la-môn được an lạc tu hành chăng? Này Đại vương! Đại vương thường dùng an pháp để cai trị đất nước chăng? Này Đại vương! Không nên sát hại chúng sinh, như săn bắn, chài lưới bức bách các chúng sinh. Vì sao? Này Đại vương phải biết! Tất cả chúng sinh đều yêu mạng sống của mình. Cho nên này Đại vương! Nên thọ giới không sát sinh, không trộm cắp, đối với đất nước của mình nên biết đủ, chẳng nên tà dâm, tự thấy đủ với sắc đẹp của vợ mình. không bao giờ nói dối mà nói lời chân thật. Chẳng nên nói hai lưỡi, nói lời khác lạ. Chẳng nên ác khẩu, thường nói êm dịu, chẳng nên nói thêu dệt mà nghó sao nói vậy. Đối với của cải của người khác chớ sinh lòng tham. Này Đại vương! Nên phải lìa bỏ tức giận, dùng từ bi trang nghiêm thân, miệng, ý. Này Đại vương! Chẳng nên sinh khởi tà kiến, nên tu hành theo chính kiến của bậc Thánh. Này Đại vương! Nay ông chẳng nên buông lung, khéo quán tưởng vô thường. Này Đại vương nên biết! Thọ mạng ngắn ngủi chóng sang đời khác. Này Đại vương! Nay nên sợ hãi cho đời sau, nên tin nghiệp báo. Rồi Tát-già lập lại bằng bài thắng kệ như sau: Vua người thường nên không buông lung Giữ gìn đất nước chẳng buông lung Nếu buông lung phải đọa đường ác Còn không buông lung sinh cõi lành. Cũng không giết uổng mạng chúng sinh Tất cả chúng sinh yêu mạng sống Người tuệ không nên hại chúng sinh Che chở chúng sinh như thân mình, Thường nên xa lánh việc trộm cắp Thường không nên nóùi lời hư dối Thường nên giữ gìn lời chân thật Đời sau vua sẽ sinh đường lành. Nói ra lời nói người thích nghe Không nên nói những lời thô ác Nên nói lời dịu dàng êm ái Đại vương không nên nói hai lưỡi Vua người không nên nói thêu dệt Có nói lời gì phải lựa lời Xa lìa sân si, lỗi lầm sấu Như voi đầu đàn sinh đường lành. Vua cũng chẳng nên hành tà dâm Không ham muốn vợ con của người Thường biết đủ sắc đẹp vợ mình Đời sau vua sinh vào đường lành. Đại vương không nên giữ tà kiến Thường an trụ trong diệu thiện kiến Phải tu hành chính pháp như thế Thì vua sẽ hưởng thú vui trời. Sa-môn, Bà-la-môn giữ giới Và hiếu thuận nuôi nấng mẹ cha Được lìa xa hẳn đường ác rồi Sẽ hưởng được vui trên cõi đời. Tát-già Ni-kiền Tử đem pháp không buông lung này khuyên vua Bát-thọ-đề xong, lúc bấy giờ, vua Chiên-trà-bát-già-thọ-đề hướng về Tát-già Ni-kiền Tử nói với giọng êm ái an vui: –Ta chẳng làm những việc như vầy. Này Bà-la-môn! Ông nên đến nhà ta. Vì sao? Vì nay ta thỉnh ông và các quyến thuộc là muốn thiết đãi một bữa cơm. Ni-kiền Tử nói: –Lành thay, lành thay! Ông nên làm như vậy! Vì sao? Này Đại vương! Ta đi đường xa đến, đói khát cần phải ăn. Như vậy này Đại vương, ta cần như ông thỉnh. Lúc bấy giờ, nhà vua đi theo sau Tát-già Ni-kiền Tử và quyến thuộc, trước vào cung vua, Tát-già Ni-kiền Tử vào ngồi trên tòa ngự, còn các Ni-càn theo thứ lớp mà ngồi. Lúc bấy giờ, nhà vua tâm lành cung kính tự tay lo liệu, Tát-già Ni-kiền Tử và quyến thuộc của ông ăn uống no nê rồi. Lúc bấy giờ, nhà vua nghó: “Nay ta sẽ hỏi vị Tát-già Ni-kiền Tử này đối với Đức Như Lai có lòng kính tín chăng?” Nghó thế, vua liền lấy cái ghế thấp mà ngồi trước Tát-già-nhi-càn-tử rồi nói: –Này Bà-la-môn! Ta muốn bàn luận ít vấn đề, nếu ông bằng lòng thì ta sẽ hỏi. Xin ông giảng nói cho ta nghe. Tát-già Ni-càn Tử nói với Đại vương: –Đại vương muốn hỏi điều gì cứ tự nhiên, ta sẽ giải đáp để làm vui lòng ông. Vua nghe xong liền hỏi: –Này Bà-la-môn! Trong thế giới chúng sinh có thứ chúng sinh trí tuệ sáng suốt, không rối loạn tâm trí, nhưng họ còn có lỗi lầm chăng? Tát-già đáp: –Thưa Đại vương, thật có! Vua lại hỏi: –Bà-la-môn, này là ai vậy? Tát-già đáp: –Đó là Bà-la-môn Bạt-sa. Nhà vua lại hỏi: –Bà-la-môn Bạt-sa có lỗi lầm gì? Tát-già đáp: –Bà-la-môn Bạt-sa giỏi xem tinh tú niên lịch, giỏi về tiết hội, giỏi học xướng thuyết, giỏi về nguyệt thực, giỏi về động đất, giỏi về năm được mùa, mất mùa, giỏi về thế tục, giỏi học xem tướng, nhưng quả thật ông phạm tà dâm, yêu vợ người khác. Này Đại vương! Người trí tuệ không nên làm điều tà dâm. Vì sao? Thưa Đại vương! Vì kẻ làm điều tà dâm thì đời này, đời sau phải chịu khổ dữ dội. Thậm chí còn bị người, trời quở trách. Rồi nói kệ như sau: Tham dục vợ con người Chẳng bỏ cảnh giới ác Không đủ sắc vợ mình Bị người đời quở trách. Nhà vua nói: –Này Bà-la-môn! Trong các chúng sinh ở thế gian lại có thứ chúng sinh trí tuệ sáng rõ, tâm trí không loạn nhưng họ còn có lỗi lầm chăng? Tát-già đáp: –Thưa Đại vương, thật có! Nhà vua nói: –Ai đó? Tát-già đáp: –Đó là Bà-la-môn Phả-la-đọa, là người trí tuệ sáng rõ biết lúc nào đúng giờ, lúc nào không đúng giờ mà ông ấy vẫn có lỗi lầm. Nhà vua lại hỏi: –Ông ấy có lỗi gì vậy? Đáp: –Thưa Đại vương! Vị Bà-la-môn này ngủ nhiều quá. Thưa Đại vương! Kẻ trí tuệ không nên ngủ nhiều. Vì sao? Thưa Đại vương! Vì ngủ nhiều làm lui mất các pháp thế gian, xuất thế gian như trí tuệ, như chí quyết đoán. Rồi nói kệ rằng: Nếu thích ngủ nghỉ nhiều Bị biếng nhác che lấp Ngủ nghỉ, buông lung che Phàm phu mất các lợi. Nhà vua lại hỏi: –Này Bà-la-môn! Trong các chúng sinh ở thế gian có chúng sinh nào thành tựu các pháp như vậy, nhưng còn có lỗi lầm chăng? Tát-già đáp: –Thưa Đại vương, thật có! Vua nói: –Ai vậy? Đáp: –Thưa Đại vương, chính là Hắc vương tử. Vua lại hỏi: –Hắc vương tử có lỗi gì? Đáp: –Thưa Đại vương! Ông ấy thường ganh tî. Thưa Đại vương! Người trí tuệ chẳng nên thường hay ganh tî. Vì sao? Thưa Đại vương! Vì nếu được thành tựu ở một ấp giàu có mà có hành vi ganh tî thì ấp giàu có của người này chẳng được vững bền, rồi tay không mà chết, chết rồi phải đọa vào thế giới quỷ đói. Rồi nói kệ rằng: Ganh tî phủ che lòng Người kia được ấp giàu Rồi hắn tay không chết Đọa vào cõi quỷ đói. Vua lại hỏi: –Lại có chúng sinh nào thành tựu công đức bậc thượng như trên mà còn có lỗi lầm chăng? Tát-già đáp: –Thưa Đại vương, thật có! Nhà vua nói: –Là ai? Đáp: –Thưa Đại vương! Đó là vương tử Cát Quân. Nhà vua lại hỏi: –Vương tử Cát Quân có lỗi gì? Đáp: –Thưa Đại vương! Vương tử Cát Quân này rất thích sát sinh. Thưa Đại vương! Người trí tuệ chẳng nên ưa thích sát sinh. Vì sao? Vì sát sinh thì yểu mạng. Khi chết sẽ đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Rồi nói kệ rằng: Vua người mà sát sinh Yếu đuối và chết yểu Khi chết đọa địa ngục Vậy nên chẳng sát sinh. Vua lại hỏi: –Này Bà-la-môn! Lại có chúng sinh trí tuệ sáng rõ tâm trí không loạn động, họ có lỗi lầm, chăng? Tát-già đáp: –Thưa Đại vương, thật có! Nhà vua nói: –Là ai? Đáp: –Thưa Đại vương! Đó là vương tử Vô úy. Vua lại hỏi: –Vương tử Vô Úy có lỗi gì? Đáp: –Thưa Đại vương! Hay thương xót người khác. Thưa Đại vương! người trí tuệ chẳng nên thương xót kẻ khác nhiều quá. Vì sao? Thưa Đại vương! Thường thương xót ngưới khác, nếu tự tại quá là nước nhiều giặc khó có thể hàng phục vì có quá nhiều lỗi lầm. Rồi nói kệ rằng: Thường thương xót người khác Nếu người được tự tại Không thể hàng phục được Không thể cầm đuốc to. Vua lại hỏi: –Trong chúng sinh lại có chúng sinh trí tuệ được khen ngợi là trí tuệ thì còn có lỗi lầm chăng? Tát-già đáp: –Thưa Đại vương, thật có! Nhà vua nói: –Là ai? Đáp: –Thưa Đại vương! Đó là vương tử Thiện Lực đó. Người tuệ được khen là tuệ, nhưng thật ra vẫn có lỗi. Nhà vua nói: –Này Bà-la-môn! Vương tử Thiện Lực có lỗi gì? Đáp: –Thưa Đại vương! Vương tử Thiện Lực hay uống rượu buông lung. Thưa Đại vương! Người trí tuệ không nên thường uống rượu. Vì sao? Thưa Đại vương! Vì rượu thường làm mất sự nhớ nghó, chướng ngại thượng nghĩa. Cũng mất nghĩa thế và xuất thế. Rồi nói kệ rằng: Thường hay buông lung Tất cả việc vua Rượu buông lung che Lùi nghĩa xuất thế. Vua lại hỏi: –Này Bà-la-môn! Lại có chúng sinh trí tuệ được khen là trí tuệ còn có lỗi lầm chăng? Tát-già đáp: –Thưa Đại vương, thật có! Nhà vua nói: –Là ai? Đáp: –Thưa Đại vương! Đó là vương tử Thiên Huân. Được người tuệ khen là trí tuệ song còn có lỗi lầm. Nhà vua nói: –Này Bà-la-môn! Vương tử Thiên Huân có lỗi lầm gì? Đáp: –Thưa Đại vương! Vương tử Thiên Huân thường suy nghó. Thưa Đại vương! Người trí tuệ chẳng nên suy nghó mãi. Vì sao? Thưa Đại vương! Vì người suy nghó mãi làm trở ngại lợi ích khiến cho việc quan trọng khởi lên chẳng được vắng lặng. Cho nên, thưa Đại vương! Người rất thông minh chẳng nên suy nghó mãi. Rồi nói kệ rằng: Nếu có suy nghó mãi Việc mất không tốt lành Dùng đây khéo trang nghiêm Trở ngại việc phát tâm. Vua lại hỏi: –Này Tát-già! Lại có chúng sinh được người trí tuệ khen ngợi là trí tuệ còn có lỗi lầm chăng? Tát-già đáp: –Thưa Đại vương, thật có! Vua nói: –Là ai? Đáp: –Thưa Đại vương! Đó là vương tử Đại Quân. Được người trí tuệ khen ngợi là trí tuệ, nhưng vẫn có lỗi lầm. Vua lại hỏi: –Vương tử Đại Quân có lỗi gì? Đáp: –Thưa Đại vương! Ông có cái lỗi là bị tính bỏn sẻn che lấp, cướp đoạt của cải của người khác. Thưa Đại vương! Người trí tuệ không nên có tính bỏn sẻn. Rồi nói bài kệ rằng: Nếu vua người bỏn sẻn Giàu có chẳng biết đủ Tài sản chứa nhóm này Đến đời khác lo buồn. Vua lại hỏi: –Này Tát-già! Nếu có người trí tuệ được khen ngợi là trí tuệ nhưng còn có lỗi lầm chăng? Tát-già đáp: –Thưa Đại vương, thật có! Nhà vua nói: –Là ai? Đáp: –Thưa Đại vương! Là vua Ba-tư-nặc được người trí tuệ khen là có trí tuệ nhưng còn có lỗi lầm. Nhà vua nói: –Này Bà-la-môn! Vua Ba-tư -nặc có lỗi lầm gì? Đáp: –Vua Ba-tư-nặc có cái lỗi ăn nhiều. Thưa Đại vương! Người có trí tuệ chẳng nên ăn nhiều. Vì sao? Thưa Đại vương! Nếu ăn nhiều thì trở nên lười biếng, thân thể nặng nề, đồ đã ăn khó tiêu. Rồi nói kệ rằng: Vua người ăn nhiều Biếng nhác thân nặng Lại tổn hiểu biết Dung nhan chẳng tươi. Vua lại hỏi: –Này Bà-la-môn! Trong các chúng sinh ở thế gian có người trí tuệ được khen là trí tuệ nhưng còn có lỗi lầm chăng? Tát-già đáp: –Thưa Đại vương, thật có! Nhà vua nói: –Là ai? Đáp: –Thưa Đại vương! Là Đại vương đó. Người trí tuệ ở thế gian vẫn khen ngợi Đại vương là trí tuệ nhưng Đại vương cũng có lỗi. Nhà vua nói: –Này Bà-la-môn! Ta có lỗi gì? Đáp: –Thưa Đại vương! Ngài quá bạo ngược, tính ác, hấp tấp, hung tợn, không có tâm Từ bi. Thưa Đại vương! Phàm người có trí tuệ chẳng nên hung tợn. Nếu người trí tuệ mà hung tợn thì người thường chẳng nương cậy, thậm chí cha mẹ cũng chẳng vừa ý, huống gì là chúng sinh khác. Thưa Đại vương! Nếu là người thông minh thì chẳng nên hung bạo. Thưa Đại vương! Người có trí tuệ nên suy nghó sâu xa. Rồi nói kệ rằng: Nếu có thô bạo Chẳng biết nghó sâu Ắt bị quở trách Người không gần gũi. Lúc bấy giờ, vua Chiên-trà-bát-thọ-đề nghe người nói lỗi mình trước mặt mình, liền giận dữ, phẫn nộ, không vừa ý. Rồi không chịu được, nhà vua nói với Tát-già Ni-kiền Tử: –Ông có nên ở trước mặt mọi người mà quở trách ta chăng? Rồi vì tức giận nên vua ra lệnh xử chém. Lúc bấy giờ, Tát-già kinh sợ hướng về vua nói: –Thưa Đại vương! Chẳng nên có thái độ hung ác như vậy. Hãy cho tôi sự không sợ hãi, xin nghe tôi thưa. Nhà vua nói: –Ta cho phép ông không sợ, ông muốn nói điều gì? Đáp: –Thưa Đại vương! Tôi cũng có lỗi là dám trước mặt đức vua mà nói lỗi xấu của vua là quá bạo ngược, tính ác, hấp tấp, hung tợn, không có tâm Từ bi, cứ như sự thật mà nói. Thưa Đại vương! Người có trí tuệ không nên lúc nào cũng nói ra sự thật của người khác. Thưa Đại vương! Người trí tuệ nên phải biết lúc nào nên nói, lúc nào chẳng nên nói. Thưa Đại vương! Nói sự thật kẻ khác thường không làm vừa ý họ, người sẽ chẳng gần gũi. Kẻ không trí tuệ thì trách mắng. Rồi nói kệ rằng: Như thật nói vua người Kẻ phàm phu bị hủy Do đó người trí tuệ Suy nghó rồi mới nói. Lúc bấy giờ, vua khen rằng hay lắm, vua lại bàn bạc hỏi han: –Này Bà-la-môn! Trong các chúng sinh ở thế gian, có chúng sinh nào trí tuệ, sáng rõ, tâm trí không rối loạn mà không có lỗi lầm chăng? Tát-già đáp: –Thưa Đại vương, thật có! Nhà vua nói: –Là ai? Đáp: –Thưa Đại vương! Đó là Sa-môn Cù-đàm. Ngài thuộc dòng họ Thích bỏ ngôi đi xuất gia. Như chúng tôi xét thấy thì Ngài không lỗi lầm. Dòng họ Ngài cao quý nên không có lỗi lầm. Ngài sinh trong dòng họ vua Chuyển luân nên không có lỗi lầm. Ngài chẳng sinh trong dòng họ thấp hèn nên không có lỗi lầm. Ngài sinh trong dòng họ Thích nên không có lỗi lầm. Tướng mạo, uy đức Ngài rất trang nghiêm nên không có lỗi lầm. Ngài có tướng tốt trang nghiêm nên không có lỗi lầm. Vì những ý nghĩa đó nên không có lỗi lầm. Nếu Ngài Cù-đàm họ Thích không xuất gia thì sẽ làm vua đại Chuyển luân, bảy thứ báu đầy đủ. Đó là bánh xe báu, voi báu, ngựa báu, ma-ni báu, nữ báu, tàng báu, thân báu, chủ binh báu. Ngài có đầy đủ một ngàn người con trai mạnh mẽ khôi ngô, có khả năng hàng phục mọi người, cũng có đầy đủ tướng mạo của vua Chuyển luân. Ngài ở trong bốn châu thiên hạ thống lãnh tự tại, làm vua chính pháp vương. Ngài chẳng dùng binh trượng mà cai trị đất nước bằng chính pháp. Nhưng Ngài đã xuất gia, tu khổ hạnh sáu năm, mỗi ngày ăn một hột mè, một hạt gạo, ngồi dưới cội Bồ-đề hàng phục các ma. Sau khi hàng phục, Ngài nhất tâm niệm tuệ, sở tri chân như, sở đắc chân như, sở xúc chân như, sở giác chân như, sở chứng chân như, giác ngộ tất cả. Không có chúng sinh nào ngang bằng Ngài, huống là hơn Ngài. Không có ai ngang bằng được vị Sa-môn Cù-đàm này. Vậy nên Ngài không có lỗi lầm. Vì sao? Thưa Đại vương! Vì vị Sa-môn Cù-đàm này có gia tộc không ai bằng, oai đức trang nghiêm không ai bằng, uy đức trí tuệ không ai bằng, vậy nên Ngài không có lỗi. Rồi ông nói kệ: Giữ gìn ba mươi hai tướng tốt Sinh ra họ Thích sư tử người Là thái tử con vua Tịnh Phạn Thế Tôn, Nhất thiết trí không lỗi. Tát-già Ni-kiền Tử nói xong, vua Bát-thọ-đề hỏi: –Này Đại Bà-la-môn! Bây giờ ông hãy nói những gì là ba mươi hai tướng Đại trượng phu của Đức Như Lai? Vị Bà-la-môn nói: –Giờ đây tôi sẽ nói. Nhà vua hỏi: –Là những gì? Đáp: –Thưa Đại vương! Đó là: Sa-môn Cù-đàm có chân đứng vững vàng trên bàn chân đầy đặn. Bánh xe ngàn căm tròn đủ. Tay chân mềm mại. Ngón tay dài thon thả. Tay chân có màng mỏng nối liền. Đó là Sa-môn Cù-đàm có gót chân đầy đặn. Đó là Sa-môn Cù-đàm có xương chân móc liền nhau. Đó là Sa-môn Cù-đàm có đùi như đùi nai. Đó là Sa-môn Cù-đàm có thân ngay thẳng. Đó là Sa-môn Cù-đàm có âm tàng ẩn kín. Đó là tóc Sa-môn Cù-đàm từng sợi, từng sợi đều xoắn về bên phải. Đó là Sa-môn Cù-đàm có lông đều hướng lên. Đó là Sa-môn Cù-đàm có tóc xanh biếc. Đó là Sa-môn Cù-đàm có da dẻ màu vàng rất mịn màng. Đó là Sa-môn Cù-đàm có bảy chỗ đầy đặn. Đó là Sa-môn Cù-đàm có thân thể vạm vỡ. Đó là Sa-môn Cù-đàm có các chi tiết rất đẹp. Đó là Sa-môn Cù-đàm khi đi thân chẳng xiêu vẹo. Đó là Sa-môn Cù-đàm có thân thể cao lớn. Đó là Sa-môn Cù-đàm có thân tròn lẳng như thân cây Ni-câu-đà. Đó là Sa-môn Cù-đàm có thân như thân vua sư tử. Đó là Sa-môn Cù-đàm có đủ bốn mươi cái răng. Đó là Sa-môn Cù-đàm có răng khít với nhau. Đó là Sa-môn Cù-đàm có hàm răng bằng đều. Đó là Sa-môn Cù-đàm có hàm răng trắng tươi. Đó là Sa-môn Cù-đàm có được vị giác tuyệt vời. Đó là Sa-môn Cù-đàm có luỡi rộng dài. Đó là Sa-môn Cù-đàm có âm thanh Phạm thiên. Đó là Sa-môn Cù-đàm có mắt pháp hiền từ. Đó là Sa-môn Cù-đàm có đôi mắt xanh biếc. Đó là Sa-môn Cù-đàm có sợi lông trắng. Đó là Sa-môn Cù-đàm trên đỉnh đầu có bướu thịt. Thưa Đại vương! Đó là Sa-môn Cù-đàm có đủ ba mươi hai tướng Đại trượng phu. Vì ý nghĩa này nên Ngài không có lỗi lầm. Rồi nói kệ rằng: Sinh từ họ Thích, đỉnh bướu thịt Tóc xoăn về phải màu xanh biếc Mắt như trâu chúa màu sen xanh Vậy nên Thế Tôn không lầm lỗi Tiếng nói như Ca-lăng-tần-già Lưỡi dài rộng, mỏng sạch tươi tắn Thế Tôn loài người răng bằng khít Đủ bốn mươi răng sạch trắng trong Tất cả người đời và các trời Nhìn ngắm thân Ngài đều mừng vui Lưỡi Đức Thế Tôn che khắp mặt Cho nên chúng sinh không ai bằng Tất cả các vị đều gom lại Tiết ra từ tướng lưỡi Như Lai Tất cả các vị hòa một vị Vậy nên Thế Tôn không lầm lỗi Thân như sư tử, môi đỏ thắm Hai vai vạm vỡ, rộng đầy đẹp Thân Phật nào khác cây Ni-câu Giáp vòng tròn trịa, khéo an trụ Thân Thế Tôn trang nghiêm, ngay thẳng Thân Sư tử, người rất to cao Bảy chỗ bằng đầy không ai bằng Màu vàng thượng diệu tươi sạch trong Lông như Sư tử hướng lên trên Da dẻ thân Ngài rất mịn màng Các sợi tóc xoắn thành trôn ốc Cho nên chúng sinh không ai bằng Dáng như sư tử không xiêu vẹo Âm tàng ẩn kín như ngựa chúa Vế đùi tròn trịa giống đùi nai Nhìn Ngài ai ai cũng vui mừng Chân tay Thế Tôn có màng mỏng Ngon tay thon dài màu đồng đỏ Gót chân bằng phẳng, xương móc nhau Lòng bàn chân thẳng không cao thấp Tay chân Đức Phật khỏe mềm mại Ngón tay dài thon có bánh xe Chân Đấng Nhân Tôn thật vững vàng Khi đi trên đất không nghiêng động Tướng như vậy, không có ai bằng Ngọn đèn thế gian khéo trang nghiêm Rất nhiệm mầu ngự giữa đại chúng Giống như mặt trăng, sao vây quanh Đại tướng phu này sắc như vầy Thế Tôn làm đèn sáng cho đời Huống chi pháp vô lậu của Ngài Nhờ pháp này mà tự giác ngộ. Thưa Đại vương! Đó là Sa-môn Cù-đàm có sắc thân nhiệm mầu, tất cả chúng sinh không ai sánh bằng. Vì ý nghĩa này nên Ngài không có lỗi lầm. Này Đại vương! Đó là Sa-môn Cù-đàm đầy đủ năng lực Đại Bi. Đối với các chúng sinh, tâm Ngài không hề ngăn ngại. Ngài thường hành đại Từ không ngăn ngại, không mê đắm. Tự nhiên chan hòa khắp tất cả thế giới, thâm nhập vào các chúng sinh. Thưa Đại vương! Như ngọc báu Ma-ni có công năng làm lắng trong nước bẩn. tính báu thanh tịnh có công năng làm cho tất cả nước dơ bẩn trở thành trong sạch. Thưa Đại vương! Sa-môn Cù-đàm cũng vậy. Bên trong bản thân Ngài thanh tịnh cho nên có khả năng làm thanh tịnh bùn lầy kết sử ô uế của tất cả chúng sinh, cho nên Ngài không có lỗi. Rồi nói kệ rằng: Lòng từ trùm thế gian Các thế giới ba đời Tất cả tâm chúng sinh Đức Phật rải tâm Từ. Không chỗ nào chẳng khắp Tâm từ không ai bằng Trùm khắp hư không giới Nhất thiết trí không lỗi Báu Ma-ni thanh tịnh Làm trong sạch nước bẩn Thế Tôn tịnh ba cõi Sạch kết tử chúng sinh. Thưa Đại vương! Đó là Sa-môn Cù-đàm đầy đủ ba mươi hai hạnh đại Bi, ba mươi hai hạnh Đại Bi gồm: Thấy chúng sinh ở thế gian chìm đắm trong bóng tối ngu si nên Sa-môn Cù-đàm đối với chúng sinh thực hành hạnh Đại Bi. Thấy chúng sinh ở thế gian sống trong vỏ vô minh nên Sa-môn Cù-đàm đối với chúng sinh thực hành hạnh Đại Bi. Thấy chúng sinh ở thế gian rơi vòng sinh tử nên Sa-môn Cù-đàm đối với chúng sinh thực hành hạnh Đại Bi. Thấy chúng sinh ở thế gian thường siêng làm những việc bất thiện, không vắng lặng nên Sa-môn Cù-đàm đối với chúng sinh thực hành hạnh Đại Bi. Thấy chúng sinh ở thế gian rơi vào dòng nước lớn bị cuốn trôi đi, nên Sa-môn Cù-đàm đối với chúng sinh khởi tâm Đại Bi. Thấy chúng sinh ở thế gian rớt xuống núi lớn bị khổ não dữ dội ép bức, nên Sa-môn Cù-đàm đối với chúng sinh khởi tâm Đại Bi. Thấy chúng sinh ở thế gian lìa xa Thánh đạo rơi vào tà đạo, nên Sa-môn Cù-đàm đối với chúng sinh khởi tâm Đại Bi. Thấy chúng sinh ở thế gian bị giam trong ngục lớn, tự nhiên bị ràng buộc cho nên Sa-môn Cù-đàm đối với chúng sinh này khởi tâm Đại Bi. Thấy chúng sinh ở thế gian tham đắm sắc, thanh, hương, vị, xúc nên không biết chán, không biết đủ, cho nên Sa-môn Cù-đàm đối với chúng sinh này khởi tâm Đại Bi. Thấy chúng sinh ở thế gian thích làm tôi đòi, thường lệ thuộc người khác, cho nên Sa-môn Cù-đàm đối với chúng sinh mày mà khởi tâm Đại Bi. Thấy chúng sinh ở thế gian bị sinh, già, chết ép ngặt, khốn khổ nên Sa-môn Cù-đàm đối với chúng sinh này khởi tâm Đại Bi. Thấy chúng sinh ở thế gian thường bị bệnh ép ngặt cho nên Sa-môn Cù-đàm đối với chúng sinh này sinh khởi tâm Đại Bi. Thấy chúng sinh ở thế gian bị ba thứ lửa thiêu đốt, thường phải tiếp xúc với lửa cho nên Sa-môn Cù-đàm đối với chúng sinh này sinh khởi tâm Đại Bi. Thấy chúng sinh ở thế gian bị ba thứ lửa thiêu đốt, thường phải tiếp xúc với lửa cho nên Sa-môn Cù-đàm đối với chúng sinh này sinh khởi tâm Đại Bi. Thấy chúng sinh ở thế gian bị hạ triền trói buộc, sinh tử, thêm dài cho nên Sa-môn Cù-đàm đối với chúng sinh này sinh khởi tâm Đại Bi. Thấy chúng sinh ở thế gian tâm thường kinh hãi sợ sệt, cho nên Sa-môn Cù-đàm đối với chúng sinh này sinh khởi tâm Đại Bi. Thấy chúng sinh ở thế gian tham đắm chút mùi vị chẳng thấy lỗi lầm cho nên Sa-môn Cù-đàm đối với chúng sinh này sinh khởi tâm Đại Bi. Thấy chúng sinh ở thế gian mãi ngủ, buông lung, cho nên Sa-môn Cù-đàm đối với chúng sinh này sinh khởi tâm Đại Bi. Thấy chúng sinh ở thế gian chịu sự đói khát, thường hại lẫn nhau, cho nên Sa-môn Cù-đàm đối với chúng sinh này sinh khởi tâm Đại Bi. Thấy chúng sinh ở thế gian thường bị suy tổn, cướp đoạt lẫn nhau, cho nên Sa-môn Cù-đàm đối với chúng sinh này sinh khởi tâm Đại Bi. Thấy chúng sinh ở thế gian bị vô minh che lấp thường không thấy rõ, cho nên Sa-môn Cù-đàm đối với chúng sinh này sinh khởi tâm Đại Bi. Thấy chúng sinh ở thế gian tranh chấp lẫn nhau, não loạn chẳng ngừng, cho nên Sa-môn Cù-đàm đối với chúng sinh này sinh khởi tâm Đại Bi. Thấy chúng sinh ở thế gian như cỏ lan, đậu bò, cho nên Sa-môn Cù-đàm đối với chúng sinh này sinh khởi tâm Đại Bi. Thấy chúng sinh ở thế gian giao hội bất tịnh, lìa xa thanh tịnh, cho nên Sa-môn Cù-đàm đối với chúng sinh này sinh khởi tâm Đại Bi. Thấy chúng sinh ở thế gian làm những việc khó khăn, xa lìa những việc không khó khăn, cho nên Sa-môn Cù-đàm đối với chúng sinh này sinh khởi tâm Đại Bi. Thấy chúng sinh ở thế gian nhiều nghi ngờ, mê đắm các tà kiến, cho nên Sa-môn Cù-đàm đối với chúng sinh này sinh khởi tâm Đại Bi. Thấy chúng sinh ở thế gian như hoa Đầu-la nương theo các thứ “thấy”, cho nên Sa-môn Cù-đàm đối với chúng sinh này sinh khởi tâm Đại Bi. Thấy chúng sinh ở thế gian tâm tưởng đảo kiến, vô thường tưởng là thường, khổ tưởng là vui, bất tịnh tưởng là tịnh, vô ngã tưởng là ngã, cho nên Sa-môn Cù-đàm đối với chúng sinh này sinh khởi tâm Đại Bi. Thấy chúng sinh ở thế gian mang vác cái gánh nặng nề thường chịu đau khổ thiếu thốn, cho nên Sa-môn Cù-đàm đối với chúng sinh này sinh khởi tâm Đại Bi. Thấy chúng sinh ở thế gian nương cậy sự yếu kém, không có ý tưởng vững chắc, cho nên Sa-môn Cù-đàm đối với chúng sinh này sinh khởi tâm Đại Bi. Thấy chúng sinh ở thế gian thường sống trong sự nhơ bẩn, cho nên Sa-môn Cù-đàm đối với chúng sinh này sinh khởi tâm Đại Bi. Thấy chúng sinh ở thế gian bị ràng buộc trong Dục hữu mà lòng sinh tham đắm, cho nên Sa-môn Cù-đàm đối với chúng sinh này sinh khởi tâm Đại Bi. Thấy chúng sinh ở thế gian bị lợi dưỡng che lấp, thường cầu lợi dưỡng, cho nên Sa-môn Cù-đàm đối với chúng sinh này sinh khởi tâm Đại Bi. Thấy chúng sinh ở thế gian bị các thứ bệnh khổ, lo buồn, khóc lóc, sầu não… các khổ dồn dập nhóm họp, cho nên Sa-môn Cù-đàm đối với chúng sinh này sinh khởi tâm Đại Bi. Thưa Đại vương! Sa-môn Cù-đàm này đã thành tựu ba mươi hai hạnh Đại Bi như vậy. Nên Ngài không có lỗi. Rồi nói kệ rằng: Vô minh, ngu si rất đen tối Thấy vô minh che đậy chúng sinh Thấy chúng sinh hướng ngục sinh tử Nên Đấng Nhân Tôn sinh Đại Bi. Chúng sinh thường siêng tu các hạnh Đức Phật thấy chúng sinh nổi trôi Thường hay thuận theo dòng trôi ấy Đấng Thập Lực sinh tâm Đại Bi. Rớt vào trong núi lớn rất cao Thấy chúng sinh đi theo đường tà Khéo đem an trụ trong Thánh đạo Ở nơi vắng lặng không phiền não Bị các thứ tà kiến buộc ràng Cảnh giới giận, yêu không thỏa mãn Bị sự sinh, già chết nhận chìm Nên Đấng Thập Lực khởi Đại Bi Bị các thứ khổ luôn ép ngặt Thấy ba lửa thế gian cháy rực Kinh sợ người đắp tấm da nai Vì thế Phật sinh tâm Đại Bi. Chúng sinh tham đắm ưa thích vị Buông lung tham đắm các cảnh giới Thấy họ rơi vào đường quỷ đói Đấng Điều Ngự cứu giúp oán hại. Thấy các chúng sinh hại lẫn nhau Bị vô minh tối tăm che phủ Giống như cỏ lan bò tươi tốt Đấng Thập Lực vì duyên cớ ấy, Dâm dục sinh ra các buộc ràng Thấy các chúng sinh làm việc khó Thực hành tà kiến trong rừng rậm Đấng Thập Lực vì duyên cớ đó, Đối với bất tịnh tưởng là tịnh Vô thường, hữu thường, vô ngã, ngã Thấy các chúng sinh mang vác nặng Nên Đấng Thập Lực sinh Từ bi. Thấy gánh vác những vật nặng nề Phàm phu thường nương cậy yếu kém Thường bị kết sử làm ô nhiễm Nên Đấng Thập Lực phát Đại Bi. Thấy bị lợi dưỡng làm che lấp Lại nữa cảnh giới không nhàm đủ Bị rơi vào biển lớn cõi Dục Cho nên Phật phát tâm Đại Bi. Có rất nhiều thứ bệnh lo buồn Thấy các chúng sinh khổ não rồi Vì tất cả các khổ não đó Cho nên Phật phát tâm Đại Bi. Biết là phi hữu cũng phi vô Ngài thường có tâm đại Từ bi Tất cả chúng sinh tâm trùm khắp Cho nên Nhất thiết trí không lỗi. Thưa Đại vương! Nay tôi lại nói lược về Sa-môn Cù-đàm thành tựu được bốn Niệm xứ, bốn chính cần, bốn Như ý túc, bốn Thiền, năm Căn, năm Lực, bảy Pháp trợ đạo, tám phần Thánh đạo, Ngài thành tựu đầy đủ. Vậy nên thưa Đại vương! Sa-môn Cù-đàm này không có lầm lỗi. Rồi nói kệ rằng: Thường siêng tinh tấn tu Niệm xứ Đại Giác khéo biết bốn chính cần Đại Tiên thiền định được tự tại Hơn hẳn chúng sinh, không lỗi lầm, Điều Ngự thành tựu các thần thông Biện tài tự tại, đến bờ kia Như Lai khéo biết chú giải thoát Đạt giác khéo thông đạt các Đế, Đối với phạm hạnh được tự tại Tu tập Từ, Bi và Hỷ, Xả Khéo léo an trụ trong định tuệ Vậy nên thường không có lỗi lầm. Đại Tiên khéo biết giúp Bồ-đề Như Lai khéo biết tám đường Thánh Thấy chúng sinh khổ đối Thánh đạo Rốt ráo an trụ bền an vui, Tất cả cõi đời không chúng sinh Nào bằng được như Đấng Điều Ngự Nhất thiết trí có mọi công đức Thường hay chẳng hủy báng người khác. Thưa Đại vương! Sa-môn Cù-đàm này có đủ mười Lực. Nhà vua nói: –Này đại Bà-la-môn! Mười Lực của Như Lai gồm những gì? Đáp: –Thưa Đại vương! Đó là: 1. Phật Như Lai chỗ này biết như thật, chỗ này chẳng phải chỗ biết như thật. 2. Biết như thật chẳng phải chỗ quá khứ, vị lai, hiện tại tạo nghiệp, thọ nghiệp, chỗ ở, nhân quả, báo ứng. 3. Biết như thật vô lượng các cõi, các thứ thế giới. 4. Biết như thật những người khác, chúng sinh khác… các thứ loại sở giải. 5. Biết như thật chúng sinh khác, người khác… có căn tính thù thắng, không có căn tính thù thắng. 6. Biết như thật tất cả đến với đạo. 7. Biết rõ như thật các Căn, các Lực, trợ Đạo, các Thiền định Giải thoát định, Thứ lớp định, tất cả các kết sử ô nhiễm hay bạch tịnh… tùy từng chỗ của các chúng sinh khác, của những người khác. 8. Biết như thật những điều mà người ta làm, người ta nói ở một đời hay ở vô lượng đời. Khi nghó nhớ đến các thứ túc mạng nhiều vô lượng. 9. Biết như thật các thứ sinh tử, đến cả việc sinh lên đường lành hay đường ác của các chúng sinh bằng mắt trời thanh tịnh vượt hơn mắt thường. 10. Biết như thật các lậu đã hết, tâm vô lậu giải thoát và trí tuệ giải thoát. Thưa Đại vương! Đó là Như Lai đầy đủ mười Lực, vì đầy đủ Lực nên gọi là Trì thập lực, Vô hàng phục. Vậy nên Như Lai không lỗi. Rồi nói kệ rằng: Là xứ, phi xứ Biết đúng như thật Đại nhân nói thật Ngài không có lỗi. Quá khứ không chướng Kia có trí tuệ Hiện tại, vị lai Biết không có lỗi, Khéo biết nghiệp báo Biết có nhân duyên Đúng thật, chẳng lầm Đấng Điều Ngự biết, Biết đến vô lượng Các thứ thế giới Khéo biết các cõi Người đời không bằng. Các thứ kiến giải Vô lượng chư Phật Soi đời biết rõ Đúng thật, không khác Biết kẻ căn chậm, Cũng biết trung căn Lại biết căn thục Đến bờ bên kia Tất cả đến đạo Biết đúng như thật Căn, Lực giúp đạo Thần thông giải thoát Trong sạch, nhiễm ô Mỗi mỗi biết rõ Không có chướng ngại Tri kiến vô ngại Nghó nhớ bình đẳng Xứng thật vô lượng Thân mình, thêm người Như thật không khác Mắt trời sạch trong Hơn mắt người đời Chúng sinh sinh chết Điều Ngự thấy hết Biết các lậu hết Cũng biết giải thoát Vô lậu có khác Cũng đều thấy biết Sức Đấng Nhân Tôn Biết rõ tự tại Một niệm có này Tâm không phân biệt Phát động, chẳng phát Tự nhiên mà có Mới quay pháp luân Không phân biệt hành Nhất tâm mà biết Ý nghó chúng sinh Và tâm chúng sinh Không có hai tướng Cho nên không lỗi Phật được tự tại Tất cả pháp lành Sinh các công đức. –Thưa Đại vương! Sa-môn Cù-đàm này có đủ bốn Vô úy. Nhà vua lại hỏi: –Này Đại Bà-la-môn! Bốn vô úy của Như Lai gồm những gì? Đáp: –Thưa Đại vương! Sa-môn Cù-đàm này tự nói ta chứng được chính biến tri. Nếu có Sa-môn, các Bà-la-môn, Thiên ma, Đại phạm và người đời nói là ông đối với các pháp chẳng chính biến tri, thì ta chẳng thấy tướng đó, vì chẳng thấy tướng nên được hạnh an ổn, được hạnh vô úy. Ngài tự nói ta đạt được hạnh Tối thắng xứ, ở trước đại chúng, chính thức rống lên tiếng rống sư tử, có khả năng quay bánh xe Phạm. Sa-môn, Bà-la-môn và các thế gian khác không thể quay được bánh xe chính pháp này. Đức Phật có thệ nguyện: “Ta đã dứt hết các lậu. Nếu có ai nói là ta chưa dứt hết các lậu thì Phật không thấy tướng đó, vì không thấy tướng nên Như Lai đắc được hạnh an vui, được hạnh vô úy, được hạnh Thắng xứ, ở trước đại chúng chính thức rống lên tiếng rống sư tử, có khả năng quay bánh xe Phạm. Sa-môn, Bà-la-môn và các thế gian khác không thể quay được bánh xe chính pháp này. Đức Phật nói pháp chướng đạo. Nếu có người nói là gần gũi pháp này không bị chướng ngại, Phật chẳng thấy tướng đó, vì không thấy tướng nên được hạnh an vui, được hạnh vô úy, được hạnh Thắng xứ, ở trước đại chúng chính thức rống tên tiếng rống sư tử, quay bánh xe “Phạm”. Sa-môn, Bà-la-môn và các thế gian khác không thể quay được bánh xe chính pháp này. Ta nói “Đạo xuất thế của bậc Thánh”. Nếu có người nói là gần gũi này chẳng thể xuất thế thì Phật chẳng thấy tướng này, vì chẳng thấy tướng này được hạnh an vui, được hạnh vô úy, được hạnh Thắng xứ, ở trước đại chúng chính thức rống lên tiếng rống Sư tử, có khả năng quay bánh xe “Phạm”. Sa-môn, Bà-la-môn và các thế gian khác không thể quay được bánh xe chính pháp này. Thưa Đại vương! Đây là bốn việc không sợ hãi của Như Lai. Đức Như Lai có đủ bốn việc không sợ hãi này, ở trước đại chúng chính thức rống lên tiếng rống sư tử… cho nên Như Lai không có lỗi. Rồi nói kệ rằng: Trước chúng rống sư tử Phật không hề sợ hãi Lại không ai bằng ta Huống chúng sinh lỗi lầm Nếu ta đã ngộ pháp Là chân thật không dối Là chính Biến Tri Kiến Vua nai, sư tử rống Nếu có kẻ trái ngược Chẳng thấy có tướng ấy Vì không thấy tướng nên Phật không hề sợ hãi Ta hết tất cả lậu Thân ta là vô lậu Không có người bằng ta Các trời và người đời Có pháp chướng ngại ấy Đấng Điều Ngự đã nói Là chân thật không dối Không có thể thay đổi Ta nói đạo xuất thế Tự giác rồi giảng nói Người tu hành pháp này Không có chướng ngại gì Phật biết điều đó rồi Như Lai được an vui Đắc an vui không sợ Hạnh hơn Đại trượng phu Quay bánh xe chính pháp Kẻ khác không quay được Thế gian không thể quay Trừ Đấng Lưỡng Túc Tôn. KINH BỒ-TÁT HÀNH PHƯƠNG TIỆN CẢNH GIỚI THẦN THÔNG BIẾN HÓA <卷 id="77333584">QUYỂN HẠ Lại nữa, này Đại vương! Vị Sa-môn Cù-đàm này thành tựu mười tám pháp Phật bất cộng. Thưa Đại vương! Những gì là mười tám pháp Phật bất cộng? Thưa Đại vương! Đó là: Đức Phật Như Lai không có thác loạn. Miệng không lời nói. Không có mất niệm. Không có dị tưởng. Không lúc nào chẳng định tâm. Không lúc nào chẳng biết mình. Bỏ dục không thoái giảm. Tinh tấn không thoái giảm. Niệm không thoái giảm. Tuệ không thoái giảm. Giải thoát không thoái giảm. Giải thoát tri kiến cũng không thoái giảm. Tất cả hành động của thân lấy trí tuệ làm đầu, theo trí tuệ mà hành động. Tất cả hành động của miệng lấy trí tuệ làm đầu, theo trí tuệ mà hành động. Tất cả hoạt động ý của lấy trí tuệ làm đầu, theo trí tuệ mà hành động. Biết quá khứ tri kiến không ngăn ngại. Biết vị lai tri kiến không ngăn ngại. Biết hiện tại tri kiến không ngăn ngại. Đó gọi là Như Lai thành tựu mười tám pháp Phật bất cộng. Vậy nên Như Lai không lầm lỗi. Rồi nói kệ rằng: Thế Tôn không thác loạn Miệng không có nói lời Ngài luôn không thất niệm Vậy nên không lỗi gì. Lòng không có dị tưởng chính trí không loạn tâm Theo thời chẳng sinh, xả Như Lai không lỗi lầm, Xả dục, không thoái giảm Thiện Thệ tiến không suy Niệm Ngài không bị mất Kia không thể hủy đi Trí tuệ không tổn giảm Giải thoát không thoái giảm Giải thoát tri kiến nguyên Trí kia không não phiền Tất cả các thân nghiệp Khẩu nghiệp và ý nghiệp Lấy trí lực làm đầu Trí cũng không lầm đâu Biết đến đời quá khứ Trí kia không ngại ngăn Vị lai cũng không ngại Hiện tại có gì ngăn Có công đức như vậy Chính Sa-môn Cù-đàm Việc hơn thế vô vàn Ta chẳng thể nói hết. Lúc bấy giờ, vua Chiên-trà-bát-thọ-đề nghe các công đức chẳng thể nghó bàn của Như Lai như vậy rồi thì rất là thích ý, vui mừng nhảy nhót, phát sinh lòng ái lạc đối với Tát-già Ni-kiền Tử. Nhà vua sở đắc vô lượng hoan hỷ, sở đắc không thể nghó bàn tưởng, sở đắc Thế Tôn tưởng, sở đắc Thiện tri thức tưởng, sở đắc thị Bồ-đề tưởng, sở đắc độ đáo bỉ ngạn Nhất thiết trí tưởng, sở đắc khải thỉnh tưởng, sở đắc niệm tưởng. Vua lại sở đắc cái tưởng của Bồ-tát bất khả tư nghì giải thoát. Vua sở đắc các tưởng tâm như vậy rồi, đem chuỗi ngọc chân châu trị giá hàng trăm ngàn, lại còn đem áo quý giá vô thượng để cúng dường Tát-già Ni-kiền Tử. Rồi ông tán thán lời như vầy: –Lành thay, lành thay! Tát-già Ni-kiền Tử! Ông đã khéo nói pháp thứ lớp phương tiện. Nhà vua lại nói: –Này Tát-già! Ông đã nói pháp thuận Nhất thiết trí. Ông đã nói pháp đạt đến Nhất thiết trí. Ông đã nói pháp ra khỏi sinh tử. Ông đã nói pháp diệt hết dơ bẩn kết sử. Ông đã nói pháp có thể phá hoại núi ma. Ông đã nói pháp có thể làm khô biển ái. Ông đã nói pháp soi sáng rừng ngu si. Ông đã nói pháp khi giáo hóa chúng sinh chẳng lầm lỗi. Nhà vua nói như vậy rồi, Tát-già Ni-kiền Tử nói với nhà vua lời như vầy: –Này Đại vương! Uy nghi của Bồ-tát không bao giờ lại không điều phục các chúng sinh, không có nói pháp trái ngược với Đại thừa. Nếu chẳng có thể tăng thêm Nhất thiết trí, nếu chẳng có thể hết tất cả kết sử, nếu chẳng có thể thị hiện lỗi hoạn sinh tử, nếu chẳng có thể đến với Niết-bàn, nếu chẳng có thể gần hạnh Bồ-tát, nếu chẳng có thể đạt đến tự lợi, lợi tha và đều có lợi cả… tất không hề có việc đó. Này Đại vương! Nếu có, khi tất cả vừa phát khởi ý bèn đạt đến tự lợi, lợi tha và đều lợi cả. Khi Tát-già Ni-kiền Tử nói việc này thì vua Chiên-trà-bát-thọ-đề đạt được đoạn nghi, rồi được bất hoại tín. Mười tám vương tử được cảnh giới của hoan hỷ tín hạnh. Tám ngàn Thiên tử thu hoạch được Tam-muội tên là Trang nghiêm Phật hạnh. Có một vạn ba ngàn Ni-càn ngồi ở trong cung vua này phát tâm đạo Vô thượng chính chân. Tất cả đều cởi áo cúng dường Tát-già Ni-kiền Tử xong, nói lời như vầy: –Chúng tôi nay được thiện lợi, được thấy Tát-già đại thiện nam tử, lại được nghe diễn thuyết pháp tùy thuận. Họ lại nói: –Thưa ngài Tát-già! Ngài nên cùng chúng tôi đến yết kiến Đức Thế Tôn. Đức Phật Như Lai này nay đang ở tại vườn của ta. Tát-già đáp: –Tất cả đều hòa hợp lại cùng đến. Khi ấy, Đại vương cùng quyến thuộc, đại thần, thần dân thiết lập Đại trang nghiêm. Lúc bấy giờ Đại vương xướng lệnh đi khắp trong thành như vầy: –Nếu ai không đến chỗ Đức Như Lai sẽ bị chết chém. Cả thành, tất cả nam tử, nữ nhân, đồng nam đồng nữ nghe lệnh vua rồi, ai nấy đều mang các thứ hoa thơm, hương xoa, bột hương, các thứ kỷ nhạc… ra đến bên ngoài thành Ưu-thiền rồi đứùng hướng về khu vườn mà đợi Đại vương. Lúc bấy giờ, vua Bát-thọ-đề cùng với Tát-già Ni-kiền Tử, các Đại thần, vương tử, binh chúng, thể nữ nội cung, thần dân trong nước… cỡi xe vây quanh. Đại vương Uy Đức, vua Đại Thần Lực, Vua Đại Biến Hóa, vua Đại Du Hý, tràng phan bảo cái giương lên, trăm ngàn thứ âm nhạc, ca múa, xướng kỹ, sáo địch nhịp nhàng, tạo ra các thứ diệu âm. Voi ngựa mua vui, trăm ngàn bình tốt đẹp xếp hàng ở phía trước. Xe voi, xe ngựa dùng vàng mạ trang trí. Chín mươi tám ức dân chúng vây quanh, tự hướng về khu vườn để đến chỗ Đức Thế Tôn. Đến nơi, họ đảnh lễ dưới chân Đức Phật, đi quanh bên phải ba vòng, rồi đứng qua một bên. Tát-già Ni-kiền Tử cùng quyến thuộc đảnh lễ dưới chân Đức Phật rồi đều đi quanh vô lượng trăm ngàn vòng xong, họ đứng thẳng, chắp tay nhìn Đức Phật không nháy mắt. Lúc bấy giờ, Xá-lợi-phất thấy Tát-già Ni-kiền Tử đứng trước Đức Phật, nhìn Đức Phật không chớp mắt liền suy nghó: “Tát-già Ni-kiền Tử vì nhân duyên gì đến đây?” Nghó như vậy rồi nói với Tát-già Ni-kiền Tử: –Này Tát-già! Ông vì duyên cớ gì mà đến chỗ Đức Như Lai? Vì muốn gặp Đức Như Lai hay vì muốn nghe pháp? Tát-già Ni-kiền Tử đáp: –Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Ta nay chẳng thấy Phật, chẳng vì nghe pháp. Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Ta nay chẳng dụng tất cả pháp nên đến chỗ Đức Như Lai. Vì sao vậy? Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Vì thấy sắc chẳng gọi là thấy Như Lai, thấy thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng gọi là thấy Như Lai. Chẳng thấy địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại thì gọi là thấy Như Lai. Chẳng thấy bằng ngã mới gọi là thấy Như Lai. Chẳng thấy chúng sinh, chẳng thấy thọ mạng, chẳng thấy dưỡng dục mới gọi là thấy Như Lai. Chẳng thấy trượng phu mới gọi là thấy Như Lai. Chẳng thấy “ngã thắng”, “ngã sở thắng” mới gọi là thấy Như Lai. Chẳng thấy tướng mới gọi là thấy Như Lai. Này Đại đức Xá-lợi-phất! Chẳng thấy tất cả tướng ấy mới gọi là thấy Như Lai. Chẳng thấy chấp trước mới gọi là thấy Như Lai. Thấy không có vật mới gọi là thấy Như Lai. Thấy được tính nên gọi là thấy Như Lai. Thấy đến bản tế nên gọi là thấy Như Lai. Mắt thấy sắc lìa dục mới gọi là thấy Như Lai. Tai nghe tiếng không bị sai khiến mới gọi là thấy Như Lai. Mũi ngửi hương chẳng hòa hợp mới gọi là thấy Như Lai. Lưỡi nếm vị không biết mới gọi là thấy Như Lai. Thân chạm xúc không đắm trước mới gọi là thấy Như Lai. Thấy pháp, ý không phân biệt mới gọi là thấy Như Lai. Xá-lợi-phất nói: –Bằng những tướng như thế để thấy Như Lai thì làm sao thấy được Như Lai? Tát-già đáp: –Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Không phải dùng ‘chủng’ nên đến với Như Lai, chẳng dùng tính nên đến với Như Lai. Phi tướng, phi vô tướng; phi pháp, phi vô pháp; phi thật, phi bất thật; phi cảnh giới, phi bất cảnh, phi tư duy, phi bất tư duy; phi phân biệt, phi bất phân biệt; phi hữu vi, phi vô vi; phi vật, phi bất vật; phi tụ, phi tán; phi sắc, phi thọ; phi tưởng, phi hành, phi thức; phi thủ, phi bất thủ, nên gọi là thấy Như Lai. Xá-lợi-phất nói: –Này Tát-già! Ông dùng những tướng như vậy để thấy Đức Như Lai. Này thiện trượng phu, vậy làm sao thấy được Như Lai? Tát-già đáp: –Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Tôi chẳng phải dùng sắc để thấy được Như Lai, chẳng rời khỏi sắc để thấy được Như Lai, cũng chẳng hủy hoại sắc để thấy được Như Lai. Đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy. Không phải nhờ đến thức để thấy được Như Lai, chẳng rời khỏi thức để thấy được Như Lai, cũng chẳng hủy hoại thức để thấy được Như Lai. Không phải phần hiện thế thấy Như Lai; không phải phần quá khứ thấy Như Lai. Không phải dùng phần ấm thấy Như Lai, không phải dùng phần giới để thấy Như Lai. Ta dùng như vậy thấy được Như Lai. Ta thấy tất cả lời nói không phải lời nói gọi là thấy Như Lai. Ta không phải thấy, không phải chẳng thấy; không phải “hữu”, không phải chẳng “hữu”; không phải phân biệt, không phải chẳng phân biệt; không phải nhớ tưởng, không phải tranh, không phải não, không phải khởi, không phải lấy, không phải bỏ, không phải hý luận, không phải tác tưởng, không phải chẳng tác tưởng, không phải tác vật, không phải chẳng tác vật, không phải động phát, không phải chẳng động phát; không phải tác kiến, không phải không tác kiến; không phải cảnh giới kiến, không phải chẳng cảnh giới kiến; không phải ngôn ngữ, không phải chẳng ngôn ngữ để thấy được Như Lai. Rời khỏi tất cả sở hữu lời nói, đàm luận, âm thanh gọi là thấy được Như Lai, cũng không có sở kiến. Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Bồ-tát thấy Như Lai như thế, ta cũng như thế thấy Như Lai. Xá-lợi-phất nói: –Ông dùng như thế để thấy Như Lai. Ông lại nghe thuyết pháp như thế nào vậy? Tát-già đáp: –Này Đại đức Xá-lợi-phất! Nếu ta nghe Đức Như Lai nói pháp mà phát sinh pháp tưởng thì không phải là pháp tưởng. Vì sao vậy? Này Đại đức Xá-lợi-phất! Tất cả lời nói sở hữu của Bồ-tát đều phát xuất từ pháp nhưng không chấp trước, cũng chẳng sinh trưởng. Vì sao? Vì rời pháp tưởng vậy. Xá-lợi-phất hỏi: –Này Tát-già! Nay ông chẳng cầu nghe pháp thì đến với Như Lai làm gì vậy? Tát-già đáp: –Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Tôi không phải cầu pháp, không phải chẳng cầu pháp mà lại đến với Như Lai ư? Vì sao? Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Phàm cầu pháp ấy gọi là chẳng cầu đến tất cả các pháp. Này Đại đức Xá-lợi-phất! Phàm cầu pháp thì chẳng chấp trước nơi Phật mà cầu, chẳng chấp trước nơi Pháp mà cầu, chẳng chấp trước nơi Tăng mà cầu, chẳng biết khổ cầu, không phải đoạn tập cầu, không phải tu đạo cầu, không phải chứng diệt cầu. Không phải qua Dục giới, qua Sắc giới, Vô sắc giới cầu. Không phải sinh tử cầu, không phải Niết-bàn cầu. Này Đại đức Xá-lợi-phất! Đại đức phải biết đối với tất cả các pháp tôi đều chẳng cầu, nên tôi đến chỗ Đức Như Lai. Xá-lợi-phất hỏi: –Vì nhân duyên gì nên ông nói như vậy? Tát-già đáp: –Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Tất cả các pháp không nhân duyên nên ta nói như vậy. Hơn nữa, pháp giới tính không có nhân duyên, không phải không nhân duyên, đều không thể nắm bắt được vậy. Xá-lợi-phất hỏi: –Nay ông lưu chuyển ở các đường vậy ư? Tát-già đáp: –Này Đại đức Xá-lợi-phất! Nếu có đường thì tôi lưu chuyển, nếu có sinh thì tôi có sinh, nếu có chết thì tôi có chết. Này Đại đức Xá-lợi-phất! Tất cả các pháp không mất đi, không sinh tử. Xá-lợi-phất hỏi: –Này Tát-già! Như Đức Phật đã nói: “Này các Tỳ-kheo, sinh lão bệnh tử” thì sao? Tát-già đáp: –Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Tất cả chúng sinh y chỉ nơi “hữu đạo” và kiêu mạn vậy. Vì phá cái y chỉ đó nên Đức Như Lai Thế Tôn nói ra như thế. tính chân như của pháp không có sinh, lão, bệnh, tử như vậy. Xá-lợi-phất nói: –Lành thay, lành thay! Này ông Tát-già! Ông nói nghĩa Đại thừa biết phân biệt. Tát-già đáp: –Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Nay tôi có thể biết thế nào là nghĩa, thế nào là phân biệt chăng? Xá-lợi-phất nói: –Này thiện nam! Ta không nói mà ta nay muốn nghe thôi. Này thiện nam! Ông phải diễn thuyết cho chúng ta nghe thế nào là nghĩa, thế nào là phân biệt. Tát-già đáp: –Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! nghĩa ấy là không lời nói. Nếu có lời nói thì gọi là phân biệt. Lại nữa, nghĩa ấy là chẳng thể nói, nếu có lời nói thì gọi là phân biệt. Lại nữa, nghĩa ấy gọi là mặc nhiên, nếu có lời nói gọi là phân biệt. Lại nữa, nghĩa ấy là không lay động, không các hý luận, không có phân biệt, không có trang nghiêm, không phải hữu, không phải vật, không có ngã tưởng, không phải dũng, chẳng thể lấy, chẳng thể thấy, không có chỗ ở, rời xa tất cả chỗ ở, lời nói. Lại nữa, phân biệt ấy nghĩa là sổ quán không lường đến tận lòng kẻ khác. Lại nữa, nghĩa ấy gọi là biện nghĩa. Phân biệt ấy nghĩa là biện pháp, biện từ, ưa biện thuyết. Này Đại đức Xá-lợi-phất! Đó gọi là lược nói về nghĩa và phân biệt. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn tán thán Tát-già Ni-kiền Tử: –Hay thay, hay thay! Này thiện nam, đúng như lời ông đã nói! Khi ông Tát-già nói pháp này thì ba ngàn Thiên tử đắc được Vô sinh pháp nhẫn. Hai vạn chúng sinh nghe được Đại Biện này đã phát đạo tâm Vô thượng chính chân. Lúc bấy giờ, Đại đức Mục-liên bạch Đức Thế Tôn: –Thiện nam Tát-già này mặc y phục ngoại đạo Ni-kiền Tử đó đã hóa độ được bao nhiêu chúng sinh rồi? Đức Phật bảo Mục-liên: –Nếu nghe việc này thì tất cả trời, người đều sẽ mê hoặc, chỉ trừ những vị Đại Bồ-tát. Này Mục-liên! Ông hãy lắng nghe, ta nay diễn thuyết về việc Tát-già Ni-kiền Tử giáo hóa một phần chúng sinh dưới đủ các hình thức ăn mặc và dáng vẻ oai nghi. Này Mục-liên! Tát-già thiện nam tử này đã ăn mặc y phục ngoại đạo giáo hóa chúng sinh nhiều như số vi trần, khiến họ phát đạo tâm Vô thượng chính chân. Thiện nam tử này mặc y phục dưới dạng Di-lặc hóa độ được số chúng sinh nhiều như vi trần trong bốn thiên hạ, phát đạo tâm Vô thượng chính chân. Bằng hình tướng xuất gia ở các đạo khác, thiện nam tử này đã hóa độ được số chúng sinh nhiều gấp tám mươi tư lần số cát sông Hằng, khiến họ phát đạo tâm Vô thượng chính chân. Thị hiện hình dáng Thanh văn, thiện nam tử này đã hóa độ được số chúng sinh nhiều bằng mười lần số cát sông Hằng. Thị hiện Thanh văn thừa rồi, sau đó mới hóa độ, khiến họ phát đạo tâm Vô thượng chính chân. Làm dáng vẻ Duyên giác, thiện nam tử này đã hóa độ được số chúng sinh lại nhiều hơn thế. Ăn mặc hình thức Bồ-tát, thiện nam tử này giáo hóa số chúng sinh nhiều hơn thế nữa. Thiện nam tử này còn làm dáng vẻ Đế Thích, dáng vẻ Phạm vương, dáng vẻ Chuyển luân vương, dáng vẻ bốn vua hộ thế, dáng vẻ Khẩn-na-la, dáng vẻ A-tu-la, dáng vẻ Ca-lâu-la, dáng vẻ Ma-hầu-la, dáng vẻ người, dáng vẻ không phải người, dáng vẻ người nam, dáng vẻ người nữ, dáng vẻ đồng tử, dáng vẻ đồng nữ, dáng vẻ Địa thiên, dáng vẻ Tức hóa sinh thiên, dáng vẻ người tiên, dáng vẻ Bà-la-môn tuổi trẻ, dáng vẻ Tỳ-kheo, dáng vẻ Tỳ-kheo-ni, dáng vẻ Ưu-bà-tắc, dáng vẻ Ưu-bà-di… Này Mục-liên! Thiện nam Tát-già như thế giáo hóa được chúng sinh rất nhiều. Lúc bấy giờ, ngài Mục-liên bạch Đức Thế Tôn: –Bạch Thế Tôn! Tát-già Ni-kiền Tử phụng sự cúng dường bao nhiêu Đức Như Lai vậy? Đức Phật bảo Mục-liên: –Giả sử hư không kia còn có biên giới, nhưng không thể có được giới hạn các loại hình cúng dường phụng sự các Đức Phật Như Lai của thiện nam Tát-già. Này Mục-liên! Giả sử khiến ta có được biên giới của địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, chúng sinh giới, nhưng không thể có được giới hạn việc thiện nam Tát-già này phụng sự cúng dường các Đức Phật Như Lai. Lúc bấy giờ, Đại đức Ca-diếp nói với thiện nam Tát-già: –Này thiện nam! Ông phụng sự cúng dường nhiều các Đức Phật, công đức của ông thành tựu đầy đủ, vì cớ gì mà ông không thành đạo Vô thượng chính chân? Tát-già đáp: –Thưa Đại đức Ca-diếp! Nếu có Bồ-đề, có người giác ngộ Bồ-đề thì ta sẽ giác đạo Vô thượng chính chân. Đại đức Ca-diếp nói với Tát-già: –Hằng hà sa số các vị Đại Bồ-tát đều phát nguyện Bồ-đề, giác ngộ đạo Vô thượng chính chân. Họ đã giác ngộ, đang giác ngộ và sẽ giác ngộ. Tát-già đáp: –Thưa Đại đức Ca-diếp! Vì chúng sinh kiêu mạn nên kể ra như vậy. Nhưng trong “Đệ nhất nghĩa” thì không có Bồ-đề, không có người giác ngộ Bồ-đề. Vì sao vậy? Thưa Đại đức Ca-diếp! Bồ-đề là vô vi, lìa tất cả số. Bồ-đề không phải sắc, không thể thấy vậy. Bồ-đề chẳng phải xanh, chẳng phải vàng, chẳng phải đỏ, chẳng phải trắng, chẳng phải tía, chẳng phải màu pha lê (trong suốt); không có hình tượng, không tướng không mạo, vượt qua tất cả tướng, không có chỗ đến, dứt tất cả chỗ đến; không phải hữu; lìa tất cả hữu; không phải tướng lìa tất cả tướng. Không có lời nói, khẩu nghiệp bất cập vậy. Chẳng phải thấy, chẳng phải trụ, cũng chẳng phải có vật. Chẳng phải tối, chẳng phải sáng, không hình không thể. Chẳng có thể nói lời, không phải chẳng thể nói. Chẳng phải xúc, chẳng phải tri, chẳng phải nghe, chẳng phải tiếng, chẳng phải câu, chẳng phải trói, chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Chẳng phải nhiễm, chẳng phải sân, chẳng phải si, chẳng phải tất cả các việc. Chẳng phải giả danh, chẳng phải chẳng giả danh. Thưa Đại đức Ca-diếp! Đó là tính Bồ-đề. Lại nữa, Bồ-đề không phải sở giác của thân. Lại nữa, Bồ-đề không phải sở giác của tâm. Vì sao vậy? Thưa Đại đức Ca-diếp! Thân si không trí giống như cỏ cây, tường vách, khối đất. Vậy nên chẳng có thể giác ngộ được tâm Bồ-đề không sắc. Lại chẳng thấy được, cũng chẳng thể giác ngộ được Bồ-đề. Thưa Đại đức Ca-diếp! Tất cả pháp tính thảy đều như vậy. Đại đức làm sao nói được đạo Vô thượng chính chân? Đại đức làm sao thành tựu được đạo Vô thượng chính chân? Lúc bấy giờ, chúng Bồ-tát, chúng Đại Thanh văn, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di và Đế Thích, Phạm vương, bốn vua trời Hộ thế suy nghó như vầy: “Đức Thế Tôn biết lòng chúng sinh như thật, theo đó mà cởi mở sự hiểu biết. Đức Như Lai sẽ đoạn dứt lòng do dự, nghi hoặc của chúng ta. Đức Như Lai sẽ nói lời ký cho thiện nam Tát-già bao nhiêu lâu nữa ông sẽ thành đạo Vô thượng chính chân. Thế giới của ông ấy tên là gì? Đắc đạo Bồ-đề rồi, danh hiệu ông ấy là gì? Ông ấy trụ thọ bao nhiêu năm? Có bao nhiêu đại chúng?” Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn biết ý niệm trong lòng của các Bồ-tát, Thanh văn, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di và Đế Thích, Phạm vương, bốn vua trời Hộ thế nên liền bảo Văn-thù-sư-lợi: –Thiện nam Tát-già đó khi kiếp Hiền này qua rồi, về sau trải qua một số kiếp nhiều không tính toán được sẽ được làm Phật hiệu là Thật Ý Tướng Vương Như Lai Ứng Cúng chính Biến Tri. Thế giới của vị Phật đó tên là Thiện quán xưng, kiếp tên là Diệt thứ. Này Văn-thù-sư-lợi! Thế giới Thiện quán xưng đó đoan nghiêm, rất đáng yêu thích. Hàng trăm ngàn bảy báu trang nghiêm giáp vòng. Tường cao, tường thấp trang nghiêm bằng bảy báu. Có hàng trăm ngàn hào sâu, trong đó đầy nước thơm của bảy loại hương. Lại có hàng trăm ngàn đài quan sát cao lớn làm bằng bảy thứ lưu ly rất quý. Có hàng trăm ngàn vạn lưới bằng vàng Diêm-phù-đàn dùng để trang nghiêm khắp nơi trên cõi ấy. Có hàng trăm ngàn vạn tiên báu ma-ni xen lẫn trong các đài quan sát. Có hàng trăm ngàn vạn ngọc sư tử ma-ni báu hơn dùng trang nghiêm cửa sổ. Có hàng trăm ngàn vạn ngọc báu ma-ni sư tử tràng dùng trang nghiêm bảo tòa. Có hàng trăm ngàn vạn ngọc báu Ma-ni Đại tràng chiếu sáng tất cả. Có hàng trăm ngàn vạn lưới chuông rung phát ra những âm thanh nhiệm mầu, êm dịu, hài hòa, thích hợp khắp trong cõi ấy. Lủng lẳng giữa không trung là hàng trăm ngàn vạn lưới vàng trân báu. Dựng đứng lên hàng trăm ngàn vạn loại tướng tràng. Này Văn-thù-sư-lợi! Thế giới Thiện quán xưng này đất bằng phẳng như bàn tay, cây báu bao phủ khắp, mọc cỏ mềm mại. Cỏ cõi ấy đều xoay về bên phải, màu như màu cổ chim Khổng tước Nan-đê-bạt-đán. Cỏ này mọc khắp cõi Thiện quán xưng. Có hàng trăm ngàn vạn ngôi vườn để trang nghiêm cõi ấy. Mỗi một ngôi vườn ấy lại dùng trăm ngàn vạn ngôi vườn nhỏ vây quanh để trang nghiêm. Cõi đó có trăm ngàn vạn ao trang nghiêm khắp mọi nơi. Mỗi một cái ao này xen lẫn vào bằng ngọc báu Ma-ni tám cạnh, thềm bậc làm bằng vàng Diêm-phù-đàn, đáy hồ trải cát vàng, chứa đầy nước tám vị. Hoa báu lan cùng khắp, có ngỗng, nhạn, uyên ương cùng hòa điệu hót. Này Văn-thù-sư-lợi! Ở thế giới Thiện quán xưng ấy có trăm ngàn vạn quốc độ, thành ấp, thôn xóm đều rất trang nghiêm. Trong mỗi đại thành ấy lại có trăm ngàn vạn thành nhỏ cũng rất trang nghiêm. Các thôn xóm, tụ lạc ở cõi ấy cũng như vậy. Đó là thế giới mà các quốc độ, thành ấp, làng mạc có số lượng người sinh sống cực kỳ sung mãn. Này Văn-thù-sư-lợi! Trong thế giới Thiện quán xưng đó có bốn hạng người đều có tên là “Thích ý kiến” hết sức đặc thù, rất mực đoan trang, rất giàu có và con cháu rất đông đúc. Như Lai Thật Ý Tướng Vương Ứng Cúng chính Biến Tri đang trụ thế ở đó. Này Văn-thù-sư-lợi! Như Lai Thật Ý Tướng Vương ấy xuất thân từ trong dòng họ Bà-la-môn. Thân mẫu tên là Dũng Mãnh, như Ma-gia mẹ ta ngày nay; thân phụ tên là Phạm-ma-bà-tú, như phụ vương ta nay tên là Tịnh Phạn vậy. Con tên là Biến Thanh, như nay con ta tên La-hầu-la vậy. Vợ tên là Đại Ý, như hiền thê của ta nay là người con gái thuộc dòng họ Thích có tên là Cù-bà-già vậy. Nhũ mẫu có tên là Đại Xứng, như nhũ mẫu của ta nay tên là Ma-ha Ba-xà-ba-đề Cù-đàm-di vậy. Đức Phật ấy có người thị vệ tên là Thường Thuận Hành, như thị vệ của ta nay có tên là Xiển-đà vậy. Đức Phật Như Lai ấy có đại Mã vương tên là Đại Lực, và Đức Thật Ý Tướng Vương đã cỡi nó để đi xuất gia, như Mã vương của ta nay có tên là Kiền-trì-ca vậy. Đức Phật Như Lai ấy có đạo tràng tên là Pháp dũng, và Đức Phật ấy đã thành tựu đạo Vô thượng chính chân tại đạo tràng đó. Xung quanh đạo tràng ấy có đến tám mươi ức cây Bồ-đề bao bọc rất trang nghiêm. Này Văn-thù-sư-lợi! Bấy giờ chỗ Đức Phật ấy không còn chúng Ma và Thiên ma quấy nhiễu nữa. Này Văn-thù-sư-lợi! Vào thời vị lai, khi Đức Thật Ý Tướng Vương ấy thành tựu đạo quả Vô thượng chính chân thì tất cả chúng sinh ở cõi Phật đó liền mang vô số hương hoa và nhạc cụ, trỗi lên vô số các thứ âm nhạc và cùng nhau đi đến chỗ đạo tràng Pháp dũng ấy. Trên từ chúng trời A-ca-nị, thảy đều đến tập hội. Tất cả chúng Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già cũng đều đến tập hội. Tất cả chúng Đại Bồ-tát khắp bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc thảy đều về tập hội. Này Văn-thù-sư-lợi! Lúc Đức Thật Ý Tướng Vương vừa chứng quả Bồ-đề, thì liền ở trong hội chúng đó mà thuyết giảng kinh Bồ-tát Hành Phương Tiện Cảnh Giới Thần Thông Biến Hóa này, cùng vô lượng trăm ngàn ức các kinh khác nữa. Này Văn-thù-sư-lợi! Khi Đức Như Lai Thật Ý Tướng Vương giảng nói kinh này thì có hằng hà sa số các chúng sinh đều được không thoái chuyển đối với quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác. Này Văn-thù-sư-lợi! Đức Thật Ý Tướng Vương Như Lai chẳng nói đến pháp Tam thừa vì cõi Phật này không có Thanh văn và Duyên giác chỉ có chúng sinh Nhất thừa diệu giải sinh ở thế giới ấy thôi. Này Văn-thù-sư-lợi! Đức Thật Ý Tướng Vương Như Lai Thế Tôn mở hội thuyết pháp lần đầu sẽ có hằng hà sa số Bồ-tát đạt được địa vị không thoái chuyển. Đức Phật mở hội thuyết pháp lần thứ hai có tám mươi na-do-tha Bồ-tát sẽ chứng được bậc Nhất sinh và mở hội thuyết pháp lần thứ ba sẽ có sáu mươi tần-bà-la số Bồ-tát. Từ đó về sau sẽ có số Bồ-tát nhiều không tính toán được, an trụ không thoái chuyển nơi đạo Vô thượng chính chân. Này Văn-thù-sư-lợi! Đức Thật Ý Tướng Vương Phật thành đạo rồi thọ được sáu mươi trung kiếp. Sau khi Đức Phật Niết-bàn, chính pháp trụ thế tám mươi ức trăm ngàn na-do-tha năm. Xá-lợi của Đức Phật sẽ lưu bố rộng rãi, đã điều hóa số chúng sinh nhiều như trước. Này Văn-thù-sư-lợi! Khi Đức Phật kia sắp diệt độ thì thọ ký cho Đại Tướng Bồ-tát xong rồi mới diệt độ. Vị Đại Tướng Bồ-tát này xếp ở sau ta và sẽ thành đạo Vô thượng chính chân hiệu là Đại Trang Nghiêm Như Lai Ứng Cúng chính Biến Tri. Khi ấy, đại chúng ở đây lòng sinh kinh nghi là ai lúc ấy là Đại Tướng Bồ-tát, kế tiếp sau Đức Thế Tôn kia sẽ thành đạo Vô thượng chính chân hiệu là Đại Trang Nghiêm Như Lai Ứng Cúng chính Biến Tri đây? Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn biết được lòng đại chúng nên liền bảo Văn-thù-sư-lợi Đồng tử: –Đó chính là Tiểu đồng tử ngoại đạo ngồi trước thiện nam Tát-già, tên là Thật Hoan Hỷ, hơn hẳn các đồng tử khác. Đồng tử ấy sẽ thành Phật hiệu là Đại Trang Nghiêm Như Lai Ứng Cúng chính Biến Tri. Việc trang nghiêm thế giới Đức Phật kia giống như thế giới Đức Phật Thật Ý Tướng Vương Như Lai không khác. Mọi người ở đây nghe uy đức của cõi Phật Công đức trang nghiêm kia thì trong pháp hội có sáu mươi ức trăm ngàn na-do-tha các vị Bồ-tát phát tâm nguyện sinh vào cõi Phật ấy, nên bạch Đức Phật rằng: –Bạch Thế Tôn! Khi Đức Thật Ý Tướng Vương được thành đạo, chúng con sẽ nguyện sinh vào cõi Phật kia. Đức Thế Tôn liền thọ ký cho họ sẽ sinh vào cõi đó. Có tám mươi ức các Ni-càn đồng thanh xướng lên: –Thưa Thế Tôn! Chúng con sẽ sinh vào cõi Phật kia. Đức Phật thọ ký cho tất cả sẽ sinh vào cõi Phật kia. Khi ấy ở trên không trung có chín mươi ức trăm ngàn na-do-tha các Thiên tử nói lên như vầy: –Thưa Thế Tôn! Khi Đức Phật Thật Ý Tướng Vương kia đắc đạo Bồ-đề, chúng con sẽ sinh trong thế giới Thiện quán xưng kia để sẽ chứng kiến được công đức trang nghiêm như vậy. Đức Phật liền nói lời ký: –Này các Thiên tử! Các ông cũng sẽ sinh vào cõi Thiện quán xưng kia để phụng sự Đức Phật đó. Này các Thiên tử! Các ông cũng sẽ ở tại cõi Thiện quán xưng kia mà thành đạo Vô thượng chính chân. Mỗi người có tên khác nhau nhưng thọ mạng bằng nhau. Ngay khi ấy, khắp tam thiên đại thiên thế giới liền có sáu thứ chấn động. Tự nhiên trên mặt đất ấy mọc ra vô lượng trăm ngàn ức na-do-tha hoa sen báu lớn, cánh sen bằng vàng Diêm-phù-đàn, đài sen bằng ngọc biếc lưu ly ma-ni, tua sen bằng xa cừ, cành sen bằng lưu ly. Trong các hoa sen có các vị Bồ-tát hiện ra ngồi kiết già, thân tướng hảo trang nghiêm cung kính lễ Phật, đem các thứ chuỗi ngọc như lưới mây để cúng dường Đức Phật Thế Tôn. Tất cả đều nói: –Chúng con mỗi người đều ở tại các cõi Phật khác nhau xa nghe Phật thuyết giảng kinh Công Đức Bồ-Tát chẳng thể nghó bàn này nên đi đến đây yết kiến Đức Thế Tôn, cung kính làm lễ đi quanh bên phải Đức Phật. Chúng con cũng vì muốn gặp gỡ thiện nam Tát-già và các đại chúng nữa. Tất cả lại nói: –Thưa Thế Tôn! Có vô số chúng sinh trong các cõi Phật nhiều không thể nghó bàn, nghe kinh này rồi đều không thoái chuyển đối với đạo Vô thượng chính chân. Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn muốn trùng tuyên ý nghĩa kinh này nên nói kệ rằng: Nghe ta nói nghĩa này Lắng lòng chớ tán loạn Lời Như Lai không dối Điều Ngự chẳng nói sai Phật Tát-già ra đời Hơn ức kiếp về trước Hiệu Thật Ý Tướng Vương Kiếp thanh tịnh chẳng cấu Không có hại dâm dục Không có các tội ác Cùng các nghiệp ngu si Không có trong kiếp đó. Thế giới Thiện quán xưng Nhiều sắc đẹp trang nghiêm Trời người xem hoan hỷ Cõi Phật ấy hiện có Đài cao báu dạo xem Thảy đều rất nghiêm tịnh Lưới vàng bủa hư không Rung lên tiếng vi diệu Có bảo tràng sư tử Mắc trên lưới báu vàng Thành trân bảo cao ngất Trong có cung điện trời Có sông, hồ và giếng Tất cả đều trang nghiêm Sen xanh vàng mọc khắp Nước đầy đủ tám vị Bốn hạng người cõi đó Tên là Thích Ý Kiến. Phật ấy vốn xuất thân Dòng giỏi Bà-la-môn Mẹ tên là Dũng Mãnh Cha: Phạm Ma-bà-tú Con tên là Biến Thanh Như La-hầu con ta, Phật ấy có vợ đẹp Nàng tên là Đại Ý Như Cù-bà vợ ta, Nhũ mẫu tên Đại Xưng Như nhũ mẫu ta nay Là Cù-đàm-di vậy Thị vệ tên Thuận Hành Theo hầu Đức Phật ấy Cung phụng Bậc Thiện Thệ Như Xiển-đà của ta Phật ấy cỡi Mã vương Có tên là Đại Lực Vượt thành đi xuất gia Như Kiền-trắc của ta. Đạo tràng của Phật ấy Có tên là Pháp Dũng Tám mươi ức trăm ngàn Cây Bồ-đề bao bọc Đức Thế Tôn ngồi đó Thật Ý chẳng ai bằng Đạo vô thượng vô ưu Dưới cây chứng đạo lành Không có các chúng ma Trọn không còn ma nghiệp Cõi Phật đó nhu hòa Chỉ gồm bậc Trượng phu Chúng sinh ở cõi đó Đủ công đức trời, người Mang hoa và kỹ nhạc Đến đạo tràng Phật ấy Phật rõ biết chúng hội Tâm tính đều thanh tịnh Nên thuyết kinh vương này Cùng ức kinh khác nữa. Khi nghe Đức Thế Tôn Thuyết giảng Thắng kinh này Hằng sa ức chúng hội Được Phật trí không thoái, Không cầu nghe Hạ thừa Cùng với Duyên giác thừa Kiện toàn Bồ-tát tuệ. Thế giới của Phật ấy Mở pháp hội lần đầu Có hằng sa chúng hội Được công đức không thoái Đều gọi là Bồ-tát. Mở pháp hội lần hai Tám mươi na-do-tha Chúng hội trụ Nhất sanh. Trong pháp hội thứ ba Sáu mươi tần-ba-la Bồ-tát được lợi ích. Đức Phật ấy thọ mạng Trong sáu mươi trung kiếp Khi Phật diệt độ rồi chính pháp vẫn lưu bố Đến tám mươi ức ngàn Na-do-tha năm nữa. Rộng lưu bố xá-lợi Điều phục khắp chúng sinh. Lúc Phật ấy diệt độ, Truyền Đại Tướng Bồ-tát “Ông đời sau thành Phật Hiệu là Đại Trang Nghiêm” Đại Trang Nghiêm cũng vậy Vì lợi ích chúng sinh Thực hành đạo Vô thượng Của Phật Đại chính giác. Ta tri kiến vô thượng Biết rõ vô lượng kiếp Dù loài nào hiện ra Trí nhất thiết đều rõ. Hãy vững tin lời ta Lời Như Lai chẳng dối Ai ở trong đạo ta Nên nhớ điều ta dạy. Nghe Thế Tôn giảng xong Đại chúng rất hoan hỷ Đối với cõi Phật kia Đều nguyện sanh về đó Đức Thế Tôn dạy rằng Muốn sanh cõi vô cấu Các ông nên ngộ đạo Rộng lợi ích chúng sinh. Khi thuyết kinh vương này Sáu lần đất rung chuyển Trong hoa hiện Bồ-tát Chắp tay lễ Điều Ngự: “Lành thay! Bậc Trượng Phu Khéo nói pháp bất đoạn Phật thuyết, chúng con nghe Xa đến đây vì pháp.” Vào lúc bấy giờ, tất cả đại chúng rất vừa ý kinh ấy nên vui mừng nhảy nhót, ái lạc, thọ trì. Họ chỉ lưu lại trên người một manh áo, bao nhiêu áo còn lại đều đem dâng lên cúng dường Đức Phật. Họ nói lời như vầy:­ –Đức Thế Tôn ra đời chuyển pháp luân một lần nữa, ở thành Ba-la-nại lần đầu chuyển pháp luân, nay lại chuyển tối Đại pháp luân nữa. Tất cả đều nói rằng: –Thưa Thế Tôn! Nay chúng con nguyện thường không rời Pháp bảo như thế này, cũng thường không rời thiện trượng phu này. Khi ấy trên không trung tấu lên các thứ Thiên nhạc, mưa các hoa sen lớn xanh, vàng, đỏ, trắng xuống trước Đức Phật. Áo trời của chư Thiên ở giữa hư không bay đi bay lại, họ xướng lên lời như vầy: –Quả là bậc Thiện trượng phu trong đời đương lai thành tựu công đức chẳng thể nghó bàn. Được gọi thế, nếu có thọ trì kinh này như đọc tụng thông lợi, vì người khác thuyết giảng rộng rãi. Nói lời đó rồi, Văn-thù-sư-lợi bạch Đức Phật: –Thưa Thế Tôn! Vậy những thiện nam, thiện nữ… biên chép kinh này, thọ trì đọc tụng cho thông lợi, rồi vì người khác thuyết giảng rộng rãi thì được bao nhiêu công đức? Hỏi như vậy rồi, Đức Phật nói: –Này Văn-thù-sư-lợi! Nếu có một thiện nam hay thiện nữ đối với tất cả chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới, trong các cõi hữu sắc, vô sắc, hữu tưởng, vô tưởng mà có chúng sinh giới, chỉ có Đức Phật mới có thể biết các “hữu” tất cả, chưa được làm thân người, đều được làm thân người, đã thành đạo Vô thượng chính chân, mà một thiện nam hay thiện nữ đó cung kính cúng dường, tôn trọng lễ bái họ như là tất cả Phật, bố thí cho họ các điều kiện sống an lạc, kéo dài thọ mạng trong một kiếp. Này Văn-thù-sư-lợi! Ý ông như thế nào? Người thiện nam hay thiện nữ này do cái nhân duyên đó được phước nhiều chăng? Văn-thù-sư-lợi đáp: –Rất nhiều, thưa Thế Tôn! Rất nhiều, thưa Đấng Thiện Thệ. Nhiều đến nỗi không có thể tính toán, đo lường được. Đức Phật bảo: –Này Văn-thù-sư-lợi! Người thiện nam hay thiện nữ chép tả, thọ trì, đọc tụng thông lợi, vì người khác thuyết giảng rộng rãi kinh này, phước nhiều hơn người thiện nam hay thiện nữ cúng dường các Đức Phật kia. Ngài Văn-thù-sư-lợi thưa: –Thưa Thế Tôn! Thật chưa từng có vậy! Đức Thế Tôn đã vì lợi ích cho tất cả thế gian mà thuyết giảng kinh này. Thưa Đức Thế Tôn! Kinh này sẽ lưu bố ở cõi Diêm-phù-đề trong bao lâu? Đức Phật nói: –Này Văn-thù-sư-lợi! Sau khi ta vào Niết-bàn, xá-lợi của ta sẽ lưu bố rộng rãi. Lúc bấy giờ tám vị vua sẽ dùng hòm báu chứa đựng xá-lợi của ta. Xá-lợi của ta được chia làm tám phần, rồi ở mỗi nước tự kiến tạo đại tháp. Vua A-xà-thế lấy phần xá-lợi thứ tám của ta đựng trong cái hộp hương báu. Ở ngoài thành Vương xá, nhà vua cho đào xuyên qua đất để giấu kín xá-lợi, đặt để đủ thứ các loại diệu hương, dựng lên đủ loại tràng phan bảo cái, tung các hoa báu, thắp đèn giữ trăm năm. Nhà vua cất giữ hòm xá-lợi để đợi vua A-thúc-ca. Kinh vương này viết trên lá bằng vàng, cất giữ theo hòm xá-lợi đó. Này Văn-thù-sư-lợi! Sau khi ta vào Niết-bàn một trăm năm, sẽ có vua A-thúc-ca, vua này xuất thân từ dòng Mộ-sát-lợi, làm vua Diêm-phù-đề, được tự tại ở bốn cõi chuyển luân. Lúc bấy giờ vị vua kia tu niệm theo hạnh của ta, ở trong Phật pháp, ông được tâm thanh tịnh. Lúc bấy giờ, có Tỳ-kheo tên Nhân-đà-xá-ma, đắc đại thần thông, có đại uy đức, nhiếp trì chính pháp, thọ trì kinh Phương đẳng, xuất gia từ dòng vua, thường ra vào trong cung của Đại vương A-thúc-ca. Này Văn-thù-sư-lợi! Vì lưu bố rộng rãi xá-lợi của ta nên đại vương tự trong uy đức, đem theo rất nhiều các quý nhân…, đem theo các hoa mạn, bột thơm, hương xoa, các thứ kỹ nhạc đến thành Vương xá, thiết Đại lễ cúng dường, đào vỡ chỗ đất ấy, lấy hòm xá-lợi. Trong bảy ngày, nhà vua thiết đủ thứ lễ cúng dường, dùng tất cả hoa hương, tất cả vòng hoa, tất cả bột thơm, tất cả hương xoa, tất cả kỹ nhạc làm Đại lễ cúng dường như vậy rồi, sau đó theo từng chỗ dân chúng cư trú đông đúc, trong một ngày, một giờ, cho khởi dựng tám muôn bốn ngàn tháp. Lúc bấy giờ Pháp sư Nhân-đà-xá-ma từ nơi hòm báu đã lấy ra quyển kinh này. Pháp sư đem an trí kinh này ở phương Bắc, một trụ xứ có nhiều người. Kinh này lại không nhiều người hiểu biết, không nhiều người giải được, không nhiều người thọ được, nên ít người thọ trì đọc tụng kinh này. Này Văn-thù-sư-lợi! Kinh này ẩn lâu ở trong cái hòm nhỏ. Tại sao vậy? Vì không người nhận vậy. Chẳng phải pháp khí của họ vậy. Này Văn-thù-sư-lợi! Ông phải biết kinh này khó giải, khó tin, khó được chỗ thâm áo của kinh. Không phải là chỗ người thường có thể tín thọ, không phải kẻ phàm thấp hèn mà có thể đọc tụng, có thể thâm nhập được. Này Văn-thù-sư-lợi! Sau thời gian năm mươi năm, nếu lại có người nghe kinh điển này tín giải, cung kính. Này Văn-thù-sư-lợi! Ông chẳng nên nghi ngờ mà phải biết đây là người đã cúng dường nhiều Đức Phật, giỏi hành trì kinh điển Đại thừa này, là người có chân thật khí. Nếu có ai biên chép, thọ trì kinh này, đọc tụng thông lợi thì những chúng sinh đó nên phải tự biết rằng chúng ta đã thấy hằng hà sa số các Đức Phật Như Lai đã phụng sự cúng dường đi nhiễu bên phải, lễ bái; và cũng thấy ta khi thuyết giảng kinh này tại trong vườn đây. Lúc bấy giờ Đức Phật bảo A-nan: –Ông thọ kinh này, đọc tụng thông lợi. Hãy thận trọng, chớ thuyết giảng kinh này trước kẻ thấp hèn, chẳng biết căn vậy. Vì sao? Vì đây là Như Lai nói thuần túy không tạp pháp. Đây là ấn Như Lai, đây là kiên pháp Như Lai. Đây là thắng tài của Như Lai. Này A-nan! Ông phải kiên trì, chớ đem cho người bừa bãi trừ trưởng tử của ta, người giữ Pháp tạng của ta, người hộ Pháp tạng của ta mà thôi. A-nan bạch Đức Phật: –Con đã giữ kinh này rồi. Thưa Thế Tôn! Kinh này tên là gì? Thọ trì ra sao? Đức Phật bảo A-nan: –Kinh này tên là kinh nói về Bồ-tát Hành Phương Tiện Cảnh Giới Thần Thông Biến Hóa. Cũng có tên là Như Lai Mật Xứ, cũng có tên là Như Lai Thuyết Thuần Vô Tạp Pháp, cũng có tên là Như Lai Thuyết Xuất Nhất Thừa, cũng có tên là Văn-thù-sư-lợi Sở Vấn, cũng có tên là Tát-đà Thọ Ký, cũng có tên là Tát-đà Phẩm. Cứ như vậy mà thọ trì. Khi Đức Như Lai diễn thuyết kinh pháp này, có ba mươi na-do-tha các chúng sinh… vốn chưa từng phát tâm thọ Vô thượng chính chân thì nay đều phát tâm hết. Có sáu vạn Bồ-tát đạt được Vô sinh pháp nhẫn. Có vô lượng chúng sinh đều định được nơi đạo Vô thượng chính chân. Đức Phật thuyết kinh đó xong, Đại đức A-nan hoan hỷ thích ý, Đồng tử Văn-thù-sư-lợi, tất cả Bồ-tát, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Đế Thích, Phạm vương, trời Hộ thế và người đời nghe Đức Phật thuyết giảng xong thảy đều hoan hỷ tín thọ.