<經 id="n268">KINH PHẬT THUYẾT QUẢNG BÁC NGHIÊM TỊNH BẤT THOÁI CHUYỂN LUÂN Hán dịch: Đời Lưu Tống, Sa-môn Trí Nghiêm và BảoVân, người Lương châu. <卷 id="77333568">Quyển 1 Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật ngự tại tinh xá trong khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ cùng với một ngàn hai trăm mươi vị chúng Đại Tỳ-kheo. Lúc bấy giờ, vào lúc gần sáng, Đức Thế Tôn nhập chính định Vô cấu quang, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử nhập chính định Biến chiếu, còn Đại Bồ-tát Di-lặc thì nhập chính định Biến cự. Lúc này Tôn giả Xá-lợi-phất vào lúc gần sáng khi tướng sáng đã xuất hiện, nương vào thần lực Phật, Tôn giả ra khỏi phòng mình và đi đến phòng của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi. Vừa định bước vào phòng thì chợt thấy đằng xa nơi tinh xá của Phật có đến mười ngàn đóa hoa sen liên tiếp nhau bay vòng quanh tinh xá, lại nghe tiếng âm nhạc ca ngợi. Các đóa hoa sen đó đều phát ra ánh sáng rực rỡ chiếu khắp khu Kỳ hoàn và nước Xá-vệ cho đến khắp tam thiên đại thiên thế giới. Khi ấy, Tôn giả Xá-lợi-phất lại chẳng thấy phòng của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, mà thấy mình đang đứng trước mặt Bồ-tát, còn Bồ-tát thì ngồi kiết già nhập định, nên Tôn giả liền búng ngón tay báo cho biết nhưng Bồ-tát vẫn an nhiên, lại cất tiếng gọi lớn mà Bồ-tát cũng chẳng hề lay động. Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất thấy thần lực như thế của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, tự thấy thân mình đang ở trên biển lớn, từ chỗ này Tôn giả muốn dùng năng lực thần túc nương hư không trở về phòng mình nhưng không được, nên Tôn giả liền ngồi kiết già trước mặt Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, nhất tâm chiêm ngưỡng Bồ-tát, mắt không hề chớp. Lúc này, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi cùng Tôn giả Xá-lợi-phất đi về phương Đông, trải qua hằng hà sa thế giới đến một cõi Phật tên là Thuyết bất thoái chuyển âm thanh, Đức Phật ở cõi ấy hiệu là Hoa Quang Khai Phu Biến Thân Như Lai, cả hai vị đều thấy từ tất cả lỗ chân lông trên thân Đức Phật ấy đều mọc ra hoa sen, rồi số hoa sen đó đầy khắp cả một vùng rộng đến một muôn do-tuần, đều phát ra ánh sáng chiếu khắp cả tam thiên đại thiên thế giới. Mỗi hoa ấy nở ra hàng trăm ngàn cánh, gốc bằng kim cương, cọng bằng lưới ánh sáng, tua bằng mã não A-mâu-trà, đài bằng chất báu Diêm-phù-na-đề trên đài hoa có vị Bồ-tát ngồi, không còn thoái chuyển trên đường tiến đến quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác, được pháp Tổng trì, đủ năm thần thông, các pháp nhẫn, thân trang nghiêm bằng ba mươi hai tướng, thân màu vàng ròng. Bấy giờ, từ nơi rốn của Đức Như Lai Hoa Quang Khai Phu Biến Thân mọc ra một hoa sen với màu sắc và ánh sáng thanh tịnh trang nghiêm, có trăm ngàn cánh, gốc bằng kim cương, cọng bằng lưu ly xanh, tua bằng lưới báu Nhân-đà-la, đài bằng Chiên-đàn bảo vương Ưu-lặc-ca-sa-la. Hoa ấy tươi sáng thanh tịnh không chút bụi bặm, chưa có người ngồi. Bấy giờ Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bèn bước lên đài hoa ngồi kiết già, tức thì Bồ-tát và đài hoa ấy vụt biến cao vút tận hư không, cho đến tầng trời Hữu đảnh rồi trở lại chỗ Phật đi nhiễu bên phải ba vòng, cung kính đảnh lễ, trở lại ngồi trên tòa sen, nhất tâm chắp tay chiêm ngưỡng Đức Thế Tôn. Bấy giờ, Đức Như Lai Hoa Quang Khai Phu Biến Thân hỏi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi: –Nhân giả từ cõi nào đến đây? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật: –Con từ thế giới Ta-bà đến đây. Khi ấy, hai vị Đại Bồ-tát theo hầu Đức Như Lai, là Mỹ Âm và Diệu Âm, đều là bậc không còn thoái chuyển trên đường tiến đến quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác, từ hoa sen bước xuống, sửa sang lại y phục, gối phải quỳ sát đất, nhất tâm chắp tay bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Thế giới Ta-bà ấy cách cõi này bao xa? Đức Như Lai đáp: –Này hai vị thiện nam! Thế giới Ta-bà ấy ở phía Tây cõi này, cách đây với hằng hà sa số cõi Phật, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi từ thế giới đó đến đây. Hai vị Bồ-tát lại hỏi: –Ở thế giới Ta-bà đó, Đức Phật hiện đang nói pháp danh hiệu là gì? Đức Phật nói: –Đức Phật ở đấy hiệu là Thích-ca Mâu-ni, hiện giờ đang nói pháp. Lại hỏi: –Đức Phật, Thế Tôn ấy hiện đang nói pháp gì? Đức Phật dạy: –Phật Thích-ca Mâu-ni đang nói pháp ba thừa. Hai vị Bồ-tát lại bạch Phật: –Thế nào gọi là ba thừa? Đức Phật nói: –Ba thừa là Thanh văn thừa, Bích-chi-phật thừa và Phật thừa. Hai vị Bồ-tát hỏi tiếp: –Các Đức Phật nói pháp đều không bình đẳng chăng? Đức Thế Tôn dạy: –Các Đức Phật nói pháp đều bình đẳng. Lại hỏi: –Thế nào gọi là bình đẳng? Đức Phật nói: –Tất cả các Đức Phật đều nói về pháp Quảng bác nghiêm tịnh bất thoái chuyển luân, vì thế nên gọi là bình đẳng. Hai vị Bồ-tát lại hỏi: –Vì sao Đức Phật Thích-ca lại nói pháp ba thừa? Đức Phật dạy: –Vì chúng sinh ở thế giới ấy tâm ưa thích pháp nhỏ, không kham nổi các pháp Đại thừa nên các Đức Phật Như Lai phải dùng năng lực phương tiện mà nói pháp ba thừa. Đức Phật Thích-Ca thị hiện ở cõi đời năm trược, vì chúng sinh ở cõi ấy không có khả năng tiếp nhận thẳng pháp Đại thừa cho nên Phật phải dùng phương tiện lần lượt nói ba thừa. Hai vị Bồ-tát hỏi Phật: –Đức Thích-ca Mâu-ni ở thế giới Ta-bà ấy nói pháp độ sinh hẳn là rất khó khăn? Đức Phật nói: –Đúng như vậy! Đức Phật đó nói pháp thật rất là khó khăn. Lúc này hai vị Bồ-tát lại hỏi: –Hiện nay chúng con được lợi ích lớn lao vì đã không sinh vào cõi Ta-bà ấy. Đức Phật nói: –Này hai vị thiện nam! Chớ nên nói như vậy, phải mau sám hối lỗi lầm của mình. Hai vị Bồ-tát bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Chúng con nghe ở thế giới ấy công việc nói pháp độ sinh rất khó khăn, cho nên đã không hề có một ý niệm ưa thích sinh về cõi đó. Vì sao Đức Thế Tôn dạy là phải mau sám hối lỗi lầm? Đức Phật giảng: –Các vị phải mau xả bỏ lời nói vừa rồi và phải nên sám hối lỗi lầm của mình. Vì sao? Vì nếu ở thế giới này, vun trồng các căn lành trong hai mươi ức trăm ngàn na-do-tha kiếp không bằng ở thế giới Ta-bà chỉ trong khoảng một bữa ăn. Vậy mà Đức Phật ở đấy đã giảng nói các pháp Ba-la-mật, giáo hóa từng chúng sinh khiến họ thọ ba quy y, giữ gìn năm giới, xa lìa tâm Thanh văn, sự hành hóa của Bồ-tát ở cõi đó rất khó khăn. Huống chi là xuất gia trong chính pháp, phát tâm Bồ-tát, đem lại lợi lạc lớn cho chúng sinh. Cho nên công việc hành hóa của Bồ-tát như thế rõ ràng là bội phần khó khăn, công đức đó thật là vô lượng. Vì sao? Vì ở thế giới Ta-bà ấy vốn đầy dẫy những thứ nhơ xấu. Hai vị Bồ-tát bạch Phật: –Thế giới Ta-bà đó có những thứ nhơ xấu gì? Phật bảo hai vị Bồ-tát Mỹ Âm và Diệu Âm: –Về những việc nhơ xấu ở thế giới Ta-bà, dù ta dùng thần khẩu mà nói ra thì cho dẫu đến hết tuổi thọ của hai vị cũng không thể hết. Vì sao? Vì chúng sinh ở thế giới ấy phiền não rất sâu dày, thường tham dục, giận dữ, ngu si lại có vô lượng, vô biên các pháp bất thiện, ta dùng trí tuệ Phật thì mới có thể biết được. Lúc này, hai vị Bồ-tát Mỹ Âm, Diệu Âm liền khen ngợi ba lần: –Lành thay, lành thay, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni! Lành thay, lành thay, Đức Thích-ca Sư tử! Lành thay, lành thay, Đức Thích-ca Tiên Vương! Khen ngợi xong, hai vị Bồ-tát đều nhất tâm chắp tay, sám hối những ý nghó sai lầm vừa rồi của mình: –Chúng con hoặc gây ra tham dục, tức giận, ngu si, vô lượng, vô biên các pháp bất thiện, hoặc từng phát tâm cầu quả Thanh văn, Bích-chi-phật… nay đều xin sám hối. Chúng con muốn đem tâm thanh tịnh trong sáng cầu tâm trí tuệ Phật, thuận theo tâm giải thoát, nhằm đạt đến trí tuệ giác ngộ như Phật, nhằm giáo hóa tất cả chúng sinh. Dùng tâm thích ứng không đắm căn lành, cầm hoa bảy báu, các hoa ấy đều phát ra trăm ngàn màu sắc và ánh sáng, lại có trăm ngàn cánh, gốc bằng kim cương, tua bằng lưới báu Nhân-đà-la, đài bằng Chiên-đàn bảo vương ưu-lặc-ca-sa, cọng bằng tất cả các thứ vật báu quý giá nhất, hoa này màu sắc tươi sáng, không chút bụi bặm, chẳng thể dùng nhãn thức để biết, không thể dùng tay để tiếp xúc, giống như quả báo huyễn hóa, từ chính định chính quán sinh ra, ở trong hư không, từ xa tung rải trên Phật Thích-ca Mâu-ni, số lượng hoa tung rải trong hư không đó đều biến thành vô số các tràng hoa, mây hoa, lọng hoa, vô số những châu báu lụa là kết thành xâu chuỗi, thành đám mây, thành những dù lọng, để cúng dường Đức Phật Thích-ca Mâu-ni. Lại còn dùng tràng hoa trăm ngàn màu, hương bột, hương xoa, hương chiên-đàn bột, cũng từ xa tung rải cúng dường Đức Phật Thích-ca Mâu-ni. Hai vị Bồ-tát ngay tại chỗ ấy năm vóc gieo sát đất, đảnh lễ dưới chân Đức Phật Thích-ca Mâu-ni và cùng bạch: –Nam-mô Thích-ca Mâu-ni Phật, cùng các vị Đại Bồ-tát ở thế giới Ta-bà, những bậc đã phát tâm đại trang nghiêm, thành tựu năng lực đại tinh tấn lớn lao theo đúng con đường của các bậc tiền bối, có khả năng giữ gìn chính pháp, có oai lực lớn, có khả năng làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, giúp họ được thông tỏ, mong cầu Nhất thừa, có thể bảo vệ thành trì Phật pháp ba đời, khiến cho hạt giống Phật được gieo trồng khắp thế giới Ta-bà. Hai vị Bồ-tát lại nói tiếp: –Bây giờ, chúng con phải đến thế giới ấy để ra mắt Đức Thích-ca Mâu-ni, các vị Đại Bồ-tát và các chúng sinh. Bấy giờ, Đức Như Lai Hoa Quang Khai Phu Biến Thân nghe hai vị Bồ-tát nói như thế, nhận biết rõ tâm thành của họ, cũng là nhằm để mở mang Phật pháp nên bảo hai vị: –Này hai vị thiện nam! Các vị muốn đến thế giới Ta-bà ra mắt Phật Thích-ca Mâu-ni, các vị Bồ-tát và các chúng sinh ở đấy thì phải sinh tâm tôn trọng, tâm thương xót, tâm làm lợi ích. Vì sao? Vì các vị Bồ-tát ở thế giới đó đối với các pháp sâu xa không hề sợ sệt, cũng không bài bác, lại có thể kính thờ, tu tập đúng theo giới luật và giáo pháp của các Đức Phật trong ba đời, luôn đem tâm không vướng mắc mà vun trồng các căn lành, thực hiện trọn vẹn các pháp Ba-la-mật mà chẳng cầu quả báo. Các vị Đại Bồ-tát ấy, do bản nguyện của mình nên đã được sinh về cõi Phật đó, là nhằm để giữ gìn thành trì Phật pháp, cũng là nhằm để được học hỏi đầy đủ tất cả các pháp Phật. Giờ đây hai vị có muốn đến thế giới ấy không? Hai vị Bồ-tát bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Chúng con nương theo thần lực của Phật và uy thế của các Đức Phật trong ba đời giúp sức cho chúng con được đến thế giới ấy. Bấy giờ, Đức Như Lai Hoa Quang Khai Phu Biến Thân bảo hai vị Bồ-tát Mỹ Âm và Diệu Âm: –Hôm nay hai vị muốn đến cõi Phật ấy thì sẽ cùng đi với Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử. Thiện nam ấy sẽ cùng đi với hai vị. Hai vị Bồ-tát Mỹ Âm và Diệu Âm cùng thưa với Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi: –Hôm nay chúng tôi nhờ uy lực của Nhân giả để đến thế giới Ta-bà ra mắt Đức Thích-ca Như Lai, các vị Bồ-tát và chúng sinh ở đấy. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: –Thưa hai vị thiện nam! Hôm nay tôi muốn đến khắp các thế giới trong mười phương, là nhằm để cúng dường, cung kính, tôn trọng, khen ngợi, lễ bái các Đức Phật, cũng là nhằm giúp cho tất cả chúng sinh đạt đến giác ngộ, được trí tuệ Phật. Hai vị Bồ-tát thưa: –Hôm nay chúng tôi cùng với Nhân giả đến khắp các thế giới trong mười phương để được cúng dường, cung kính, tôn trọng, khen ngợi, lễ bái các Đức Phật, xin Nhân giả giúp tất cả chúng sinh lãnh hội được trí tuệ Phật, chúng tôi cũng học hỏi theo. Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đảnh lễ Đức Như Lai Hoa Quang Khai Phu Biến Thân, đi nhiễu theo bên phải Phật ba vòng, tôn trọng cung kính, cùng hai vị Bồ-tát Mỹ Âm, Diệu Âm và Tôn giả Xá-lợi-phất, nhận lãnh những lời chỉ giáo của Phật, nhất tâm chiêm ngưỡng tôn nhan của Phật rồi dần lui bước, lại rải các thứ hoa như huyễn lên chỗ Phật, dùng các tràng hoa, cờ phướn dù lọng, cùng nhiều loại hương xoa, hương bột, đều là từ năng lực oai thần của các Đức Phật trước, sinh tâm vui mừng hớn hở, đem các thứ ấy cúng dường Phật, cúng dường pháp, giúp cho chúng sinh đạt đến giải thoát. Cúng dường Phật xong chỉ trong khoảnh khắc, các vị đã biến khỏi cõi Phật ấy và tiếp tục đi về phương Đông, lần lượt đi qua hằng hà sa các cõi sa Phật, nhận thấy các Đức Phật thảy đều nói về pháp Quảng bác nghiêm tịnh bất thoái chuyển luân. Thế giới các Đức Phật ấy không có người nữ, cũng không có người tu theo các thừa Thanh văn, Duyên giác, thế giới trang nghiêm đều như ở cõi Phật Hoa Quang Khai Phu Biến Thân Như Lai. Các Bồ-tát trang nghiêm đầy khắp cõi nước ấy cũng giống như vậy. Chư Phật ở các cõi ấy từ nơi rốn cũng đều hiện ra một hoa sen lớn và Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi ngồi trên đài hoa đó, cung kính cúng dường, hiện các thần biến cũng đều như trên. Các phương Nam, phương Tây, phương Bắc, tứ duy và hai phương trên dưới, cũng giống như thế, mỗi phương có hằng hà sa các Đức Phật Như Lai, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đều hiện ra trước các Đức Phật ấy. Các Đức Phật ấy đều nói về pháp Quảng bác nghiêm tịnh bất thoái chuyển luân, cũng sai các vị Đại Bồ-tát thị giả, các Bồ-tát này bước xuống đài hoa sen, nhất tâm niệm Phật, chắp tay cung kính, thưa hỏi Đức Phật ấy thế nào gọi là ba thừa, cũng muốn nhờ vào năng lực oai thần của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi để đến thế giới Ta-bà ra mắt Đức Phật Thích-ca Mâu-ni cùng nghe nhận giáo pháp. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi thảy đều an ủi, khuyến khích các vị Đại Bồ-tát trong các thế giới ở mười phương là sẽ cùng đi với mình đến thế giới Ta-bà để ra mắt Phật Thích-ca Mâu-ni. Trong khoảng thời gian đó thì ở cõi Diêm-phù-đề của thế giới Ta-bà này trời vẫn còn nửa đêm chưa sáng. Khi ấy, Tôn giả A-nan nhìn thấy ánh sáng từ bên ngoài theo khe hở của cửa lớn chiếu vào phòng mình, liền rời khỏi giường nằm đứng dậy bước ra khỏi phòng, thấy có ánh sáng chiếu khắp cả khu Kỳ hoàn, mà mặt trời vẫn chưa mọc, lại thấy khu Kỳ hoàn này đầp ắp những nước, nước trong veo yên lặng như tờ không chút xao động, mà phòng ốc cây cối chẳng thấy đâu cả. Tôn giả A-nan liền nghó: “Chắc chắn hôm nay Đức Thế Tôn sẽ nói các pháp chưa từng có nên mới hiện ra điềm lành này.” Thế rồi Tôn giả A-nan giở chân bước vào trong nước, nhưng chân không bị chìm cũng chẳng bị ướt, tâm sinh vui mừng liền đi đến tinh xá của Phật, thấy có cả vạn đóa hoa sen đang bay vòng quanh tinh xá Phật, lại nghe có tiếng âm nhạc khen ngợi. Các hoa sen đó phát ra ánh sáng, chiếu khắp cả khu Kỳ hoàn và khắp nước Xá-vệ, cho đến tam thiên đại thiên thế giới. Nhờ oai thần Phật khiến cho Tôn giả A-nan sinh tâm vui mừng hớn hở, gối phải quỳ sát đất, nhất tâm chắp tay đảnh lễ Thế Tôn, trong khoảng thời gian đó trời đã sáng hẳn. Bấy giờ, trong những đóa hoa sen bay quanh tinh xá Phật bỗng có một hoa sen bay đến trụ giữa rừng Kỳ-đà. Tôn giả A-nan thấy sự việc ấy liền nghó: “Bấy giờ, ta phải đến lo sửa soạn pháp tòa cho Đức Thế Tôn. Vì sao? Vì nay có điềm lành như thế thì chắc chắn là Đức Thế Tôn sẽ nói pháp Đại thừa?” Công việc sửa soạn pháp tòa của Tôn giả vừa xong, tức thì mặt đất rung chuyển sáu cách, cho đến hằng hà sa thế giới trong mười phương cũng đều rung chuyển đủ sáu cách: rung động, phát khởi, vang động, lay chuyển, vọt lên và gào thét. Rồi thì trời tuôn xuống như mưa các loại hoa Mạn-đà-la, Ba-đầu-ma, Câu-vật-đầu, Phân-đà-lợi, các thứ hoa ấy tung rải đầy khắp tam thiên đại thiên thế giới. Các cây có hoa trái tự nhiên xuất hiện. Lúc đó, các vị Tỳ-kheo muốn ra khỏi khu vực mình ở như không thể được vì trông thấy cả khu Kỳ hoàn đầy những nước là nước, nước rất trong xanh không chút xao động, vẩn đục. Các phòng ốc, cây cối không thấy đâu cả chỉ thấy ánh sáng chiếu khắp khu Kỳ hoàn. Vì thế họ tụ lại nơi cửa phòng cùng bàn tán với nhau: “Hôm nay hiện ra điềm lành này, chắc là Đức Thế Tôn sẽ nói pháp Đại thừa.” Bấy giờ, Đức Thế Tôn xuất định, ra khỏi tinh xá, lên ngồi trên pháp tòa. Cùng lúc đó, Đức Thích-ca Mâu-ni và các Đức Phật trong mười phương cùng phát ra những lưới ánh sáng rực rỡ với trăm ngàn màu sắc soi sáng chính pháp, nhằm khiến cho các chúng sinh khởi tâm ưa thích. Lúc này, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi cùng hai vị Bồ-tát Mỹ Âm và Diệu Âm đi khắp các cõi Phật, đến nơi nào Bồ-tát cũng đều lễ bái cúng dường các Đức Phật, tôn kính khen ngợi. Vì tất cả chúng sinh, vì đạt được trí tuệ Phật, vì giúp chúng sinh để họ nhận lấy sự giáo hóa, nên Bồ-tát đã hiện những việc thần biến không thể suy nghó bàn luận tùy theo sự ưa thích của họ mà nói pháp. Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử biết Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã an tọa trên pháp tòa, liền cùng các vị Đại Bồ-tát từ dưới đất hiện lên, đứng trước Đức Phật, cùng với vô lượng a-tăng-kỳ số trăm ngàn muôn ức na-do-tha các vị Đại Bồ-tát đi nhiễu quanh Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đến trăm ngàn vòng rồi cầm các hoa có trăm ngàn muôn ức màu sắc, các hoa ấy có trăm ngàn muôn cánh nhiều chẳng thể suy nghó bàn luận, đều sinh tâm vui mừng hớn hở, tung rải lên chỗ Phật để cúng dường. Các hoa tung rải ấy đầy khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, các vị Bồ-tát lại dùng hương Chiên-đàn bột Ưu-lặc-ca-sa-la rải lên chỗ Phật, lại rải các thứ hoa hương. Các thứ hoa hương ấy cũng có trăm ngàn màu sắc, thường thoảng ra hương thơm Trì giới, hương thơm Nhẫn nhục, hương thơm Tinh tấn, hương thơm Thiền định, hương thơm Trí tuệ; hương thơm trí phương tiện, hương thơm thần thông, hương thơm sáu pháp Ba-la-mật, hương thơm không chấp trước, hương thơm của các đạo phẩm phương tiện. Các thứ hương chiên-đàn ấy có công năng làm cho vui mừng hớn hở, ánh sáng của các thứ hương ấy đều được sự giữ gìn do thần lực của các Đức Phật trong mười phương, vì cúng dường Đức Phật Thích-ca Mâu-ni. Vì thế các vị Đại Bồ-tát đều phát khởi sự Tinh tấn lớn lao, tinh tấn mạnh mẽ, sự tinh tấn vượt hơn mọi thứ, sự Tinh tấn vững chắc, sự tinh tấn không gì có thể sánh được, tất cả để cúng dường Đức Phật Thích-ca Mâu-ni. Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi cùng các vị Đại Bồ-tát muốn tăng thêm vẻ trang nghiêm cho cõi này, nên đã tạo ra những cây báu Ma-ni hình tám cạnh, lại có các thứ cây báu trang nghiêm, cùng với những lọng báu, cờ phướn và các lưới linh để trang sức, biến khắp mặt đất thành báu ma-ni, trên mặt đất ấy có tạo ra những tòa gác nguy nga với những cửa lớn, cửa sổ, lan can, tường vách đều làm bằng những loại châu báu. Rồi nào sông suối, ao hồ lớn nhỏ với các loại hoa: Ưu-bát-la, Ba-đầu-ma, Phân-đà-lợi, báu Ma-ni. Nước cam lộ đầy ngập trong đó, nước ấy có tám mùi vị tuôn chảy. Lại có vô số loài chim bay đến tụ tập trên cây. Các vị Đại Bồ-tát tạo ra các sự biến hóa ấy nhằm giúp cho chúng sinh khởi tâm vui mừng, vì chứng được trí Phật, phát tâm nhẫn nhục chịu đựng, phát tâm Bồ-đề, hóa hiện vô lượng thần biến như thế là nhờ vào năng lực của các Đức Phật, cũng là thần lực của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử, cũng là năng lực bản nguyện của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni. Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi cùng các vị Đại Bồ-tát làm việc thần biến ấy xong, liền đứng trước Đức Như Lai. Khi ấy, Đức Thế Tôn phát ra ánh sáng từ pháp sinh, chiếu khắp thân Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi và các vị Đại Bồ-tát khiến hai vị này ngồi, Đức Phật liền mỉm cười, từ thân hiện ra hoa sen, hoa ấy có trăm ngàn màu sắc, phát ra vô lượng trăm ngàn không thể nghó bàn ánh sáng, gốc là kim cương, nhụy là báu Nhân-đà-la, đài bằng Chiên-đàn bảo vương Ưu-lặc-ca-sa-la và ở trên hư không các vị Đại Bồ-tát đều ngồi kiết già trên hoa sen ấy. Đức Phật Thích-ca Mâu-ni từ nơi rốn phát ra một luồng ánh sáng rực rỡ gọi là Chiếu chư chúng sinh tối thắng kim cang vương. Trong luồng ánh sáng đó có một ức na-do-tha hoa sen, các hoa sen này cũng phát ra ngần ấy màu sắc vắng lặng vô lượng, vô biên, còn hơn ánh sáng mặt trời, mùi thơm thanh tịnh, tinh khiết chiếu khắp mười phương. Trong mỗi đóa hoa tự nhiên biến thành một màn hoa nhiệm mầu, được các Đức Phật giữ gìn, từ pháp tính sinh ra, an ổn vắng lặng, thuận theo cửa giải thoát là không, vô tướng, vô tác, tương ưng với không sinh, không diệt, vượt qua ba cõi, mắt thấy bình đẳng, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi an tọa trên màn hoa, thân tướng hiện rõ, nhất tâm chắp tay chính niệm quán tưởng Phật, cái gọi là Phật có khả năng thông đạt tất cả các pháp, có khả năng sinh ra pháp chính định Kim cang, chính định thấy tất cả pháp không thật có. Bấy giờ, Đức Thế Tôn biết các vị Đại Bồ-tát theo hầu Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi và các Đức Phật trong mười phương ưa thích, mong cầu chính pháp, chuyên hướng Nhất thừa, đối với các Đức Phật đời quá khứ đã vun trồng các căn lành, được Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi che chở nên tâm không yếu đuối, siêng tu tinh tấn, cầu được giác ngộ như Phật, tất cả các vị Bồ-tát đều ngồi xong. Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo A-nan: –Ông hãy đi khắp rừng Kỳ-đà, báo cho các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di để họ nhóm họp nghe pháp. Tôn giả A-nan nghe lời Phật dạy bèn đến phòng các Tỳ-kheo thông báo: –Thưa các Đại đức! Hôm nay Đức Thế Tôn bảo các Đại đức nhóm họp nghe pháp. Các vị Tỳ-kheo thưa: –Thưa Đại đức A-nan! Chúng tôi trước đã thấy điềm lành ấy nhưng không thể đi đến đạo tràng được. Ngài A-nan hỏi: –Vì việc gì mà các Đại đức không đến được. Các Tỳ-kheo đáp: –Chúng tôi thấy khắp rừng Kỳ-đà đầy ắp những nước, nước thật trong trẻo, không chút xao động vẩn đục, ánh sáng rực rỡ chiếu khắp, phòng ốc cây cối thì hoàn toàn chẳng thấy. Do vậy mà chẳng thể đi đến đạo tràng được. Tôn giả A-nan nghe nói thế liền trở lại chỗ Phật, thưa rõ mọi việc với Đức Thế Tôn. Phật bảo A-nan: –Các Tỳ-kheo ấy, ở nơi không có nước mà tưởng là có nước, chẳng những ở nơi không có nước tưởng là có nước mà còn đối với chẳng phải sắc mà tưởng là có sắc, chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức mà tưởng là có thọ, tưởng, hành, thức, chẳng phải là tin tưởng vững chắc mà tưởng là tin tưởng vững chắc, chẳng phải là pháp vững chắc mà tưởng là pháp vững chắc, chưa vào hàng tám bậc tưởng là đã vào hàng tám bậc, chưa chứng được bốn quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán mà tưởng mình đã chứng được, chưa đạt được các thừa Thanh văn, Bích-chi-phật mà đã tưởng là đạt được… Này A-nan! Ông hãy đến báo lại cho các vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di biết để đến nhóm họp nghe pháp, vì đây là pháp mà các vị chưa từng được nghe. Tôn giả A-nan vâng lời Phật, lại đến chỗ các vị Tỳ-kheo thông báo: –Thưa các Đại đức! Đức Thế Tôn dạy các vị hãy nhóm họp nghe pháp. Âm thanh ấy vang khắp cả nước Xá-vệ khiến các vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di đều nghe âm thanh ấy. Lúc này, Tôn giả A-nan biết bốn bộ chúng nghe lời mình thông báo rồi, bèn trở về chỗ Phật bạch Phật là mình đã hoàn tất công việc được giao. Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Tôn giả Đại Mục-kiền-liên: –Tôn giả hãy đi khắp tam thiên đại thiên thế giới, thông báo cho các vị Đại Bồ-tát là những vị phát tâm đại trang nghiêm và các vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, tám bộ chúng Trời, Rồng, Da-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân là những vị kính tin Phật, Pháp, Tăng từ lâu đã gieo trồng các căn lành, tất cả hãy nhóm họp tại rừng Kỳ-đà để nghe nhận chính pháp. Pháp này là pháp từ trước tới nay các vị chưa từng được nghe, Trời, Người, A-tu-la và các thế gian khác không thể chuyển được. Chỉ có các vị Đại Bồ-tát, đối với các Đức Phật quá khứ từ lâu đã vun trồng các căn lành: ưa thích mong cầu Đại thừa, Tối thắng thừa, Đệ nhất thừa, Vô thượng thừa, Vô đẳng đẳng thừa, phát tâm cầu cảnh giới trang nghiêm lớn lao, siêng năng thực hành pháp này thì mới có thể chuyển được. Tôn giả Đại Mục-kiền-liên vâng lời Phật dạy, liền biến mất trước Phật, chỉ trong khoảnh khắc đã đi khắp tam thiên đại thiên thế giới thông báo cho các vị Đại Bồ-tát, bốn chúng đệ tử cùng tám bộ chúng Trời, Rồng, Dạ-xoa… những vị đã từng kính tin Tam bảo, từ lâu đã vun trồng các căn lành: –Đức Thế Tôn dạy các vị hãy đến nhóm họp nghe pháp. Bấy giờ, Tôn giả Mục-kiền-liên nương uy lực Phật và thần túc của mình trở về chỗ Phật, bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Các vị đến nghe pháp đã nhóm họp đầy đủ. Bấy giờ, bốn chúng đã nhóm họp đông đủ, chiếm một khoảng rộng lớn đến một ngàn do-tuần, trên hư không, các vị trời và các chúng sinh khác trụ trong hư không cũng chiếm một khoảng rộng đến năm ngàn do-tuần. Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Hiện giờ bốn chúng đã nhóm họp đông đủ, nhất tâm chắp tay đảnh lễ Đức Như Lai, cung kính cúng dường, nhưng vì oai đức của Thế Tôn nên chưa dám ngồi, vậy cúi mong Thế Tôn từ bi thương xót cho bốn chúng được ngồi. Bấy giờ, Đức Thế Tôn vui vẻ mỉm cười. Lúc ấy, có vô số hoa sen màu vàng Diêm-phù-na-đề từ dưới đất vụt hiện lên, mỗi đóa hoa có tới trăm ngàn cánh, gốc bằng chất báu Thị-lợi-ca, nhụy là báu Nhân-đà-la-ni, đài bằng trân châu đỏ, cọng bằng bảy thứ báu, lớn như bánh xe, các vị đến nhóm họp ở trước Phật đều ngồi hoa sen ấy. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi và các vị Đại Bồ-tát từ các phương khác nhóm họp đến cũng đều ngồi trên hoa sen đó. Tất cả các vị Bồ-tát tự trang nghiêm thân sắc vàng ròng của mình, bằng ba mươi hai tướng, đều nhập các Tam-muội, thân phát ánh sáng. Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi và các vị Đại Bồ-tát, bốn chúng đến nhóm họp và ngồi trên các đài hoa sen, đều cúi mình cung kính, nhất tâm chắp tay chiêm ngưỡng Đức Thế Tôn. Lúc này, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Hiện giờ bốn chúng này và các vị trời trên hư không đều đã ngồi xong. Kính mong Đức Như Lai Đẳng chính Giác nói rộng về pháp Quảng bác nghiêm tịnh bất thoái chuyển luân. Hiện giờ trong chúng hội Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di cùng trăm ngàn các vị trời đều nghó rằng mình đã chứng quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, tưởng mình đã được thừa Thanh văn, thừa Bích-chi-phật. Cúi mong Thế Tôn hãy giúp cho bốn chúng ở đây dứt bỏ các ý tưởng ấy, đồng thời do nhân duyên nào mà Thế Tôn đã nói về các quả, các thừa ấy. Đức Phật im lặng không trả lời. Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Vào lúc cuối đêm, khi tướng sáng xuất hiện, con từ phòng mình đi đến phòng Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, lúc sắp sửa bước vào phòng thì chợt thấy từ xa bên cạnh tinh xá Phật có mười ngàn đóa hoa sen bay vòng quanh tinh xá, lại nghe có tiếng âm nhạc ca tụng. Các hoa sen ấy đều phát ra ánh sáng rực rỡ chiếu khắp rừng Kỳ-đà và nước Xá-vệ, cho đến cả tam thiên đại thiên thế giới. Những hình ảnh như vậy là điềm lành báo trước việc gì? Phật bảo Xá-lợi-phất: –Đó là điềm lành báo trước việc Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi khuyến thỉnh ta nói pháp. Tôn giả A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn vào lúc cuối đêm, con thấy ánh sáng từ bên ngoài theo khe hở của cửa lớn chiếu vào phòng nên rời khỏi giường đi ra ngoài thì thấy ánh sáng rực rỡ chiếu khắp rừng Kỳ-đà giống như mặt trời đã mọc, lại thấy cả rừng Kỳ-đà đầy ắp nước, nước rất trong trẻo không chút vẩn đục, phòng ốc cây cối đều biến mất, những hình ảnh như vậy là điềm lành báo trước việc gì? Đức Phật đáp: –Đó là điềm lành báo trước việc Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi sẽ khuyến thỉnh ta giảng nói về pháp Quảng bác nghiêm tịnh bất thoái chuyển luân. Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền vì Tôn giả A-nan mà nói kệ: Phật thừa không gì hơn Thanh tịnh không nhơ uế Văn-thù bậc không sợ Nay hỏi việc như vậy. Thừa ấy không phân biệt Vô lậu, không đùa bỡn Văn-thù bậc không sợ Nay hỏi việc như vậy. Thừa đó không thật có Rốt ráo chẳng chỗ sinh Chỗ ấy không đáng đắm Nay Văn-thù đã hỏi Việc ấy không hề nói Xuất sinh ra các quả Chư Phật dắt dẫn đời Nói lời mềm mỏng này. Bồ-đề không âm thanh Cũng không tướng đến đi Văn-thù bậc không sợ Nay hỏi việc như vậy Tuy nói các âm thanh tính nó chẳng thật có Pháp do Văn-thù hỏi Không âm thanh, tên gọi Âm thanh như gió thoảng Không tính, chẳng chỗ trụ Pháp do Văn-thù hỏi Xa lìa các âm thanh A-nan hãy lắng nghe Pháp do Văn-thù hỏi Các Phật nêu mật ngữ Giảng nói Bồ-đề không Pháp Bồ-đề các Phật Tướng thảy đều vắng lặng Không có các nơi chốn Cũng chẳng có chỗ trụ Bồ-đề như hư không Chẳng sinh cũng không diệt Cũng không tướng đến đi Chỉ Phật hiển bày được Giống như trong hư không Không có các tướng mạo Nay Văn-thù hỏi đó Pháp Bồ-đề nhiệm mầu Các Phật trong ba đời Đều nói Bồ-đề này Chẳng phải pháp thấy được Cũng chẳng có người thấy tính tướng pháp như vậy Nhờ âm thanh hiện rõ Pháp giới và Bồ-đề Cả hai không thấy nhau. Đàn ba-la-mật trọn Trì giới cũng như thế. Bậc đạt được Nhẫn nhục Phật Bồ-đề hiện rõ. Đạt được hạnh Tinh tấn Thiền định cũng như vậy. Trí tuệ được thanh tịnh Hiểu bày được Bồ-đề. Đạt được các phương tiện Đến bờ kia thần thông. Không tựa, không chỗ nương Dùng thanh nói Bồ-đề. Ta nói pháp ba thừa Các quả tên gọi khác Tùy họ thích nghe gì Mà giảng nói cho hiểu. Chúng sinh đời năm trược Tâm ý thường yếu hèn Sợ sệt trí tuệ Phật Chẳng hướng tới Bồ-đề Thành tựu quả thứ tư Gọi là A-la-hán, Theo âm thanh giác ngộ Đó gọi là Thanh văn. Ta nêu tướng buộc, mở Nhân duyên không giống nhau Hiểu rõ các duyên ấy Sẽ hiện thấy các pháp Gọi là A-la-hán Cũng gọi Bích-chi-phật Thông đạt pháp Vô sinh Đó gọi là Bồ-tát Không Tam-muội, Vô tác Vô tướng, không thật có Từ cửa giải thoát này Mà vào được Niết-bàn Ở mé trước, giữa, sau Không bao giờ mê đắm Đã lìa khỏi nơi chốn Đó gọi là vô vi. A-nan ông nên biết Văn-thù hỏi sâu xa Hiểu được lời nhiệm mầu Chẳng phân biệt các quả Văn-thù trụ Nhất thừa Chẳng phân biệt các pháp Vì thế nên hỏi Phật Cho nên tướng các cõi Ba đời đều bình đẳng Vắng lặng, chẳng tính tướng Xa lìa mọi âm thanh Chẳng phân biệt Bồ-đề Được Văn-thù giáo hóa Các Bồ-tát đến nhóm Hai mươi hằng hà sa Số ấy không giảm bớt. Hôm nay đến chỗ ta Muốn nghe hạnh Bồ-tát Cũng muốn nghe ba thừa. Các thứ tướng khác nhau Văn-thù bậc không sợ Vì trừ tâm nghi kia Cho nên nay hỏi ta Tướng thừa và tướng quả Đó là uy thần Phật Cũng là sức bản nguyện Nhằm giúp chúng sinh khổ Phân biệt nói ba thừa. Văn-thù bậc không sợ Tha thiết khuyến thỉnh ta Cúi xin Đại Pháp Vương Nói việc của Bồ-tát Trăm ngàn ức vị trời Cúng dường Phật, Thế Tôn Đều đắm tướng các quả Xin trừ tâm nghi này Giờ bốn bộ chúng này Tỳ-kheo thảy đến nhóm Đắm âm thanh các quả Không hiểu lời nhiệm mầu. Nhằm dứt bỏ nghi ấy Nay Văn-thù hỏi ta Do những nhân duyên nào Các Bồ-tát đến nhóm. KINH PHẬT THUYẾT QUẢNG BÁC NGHIÊM TỊNH BẤT THOÁI CHUYỂN LUÂN <卷 id="77333569">Quyển 2 Lúc bấy giờ Tôn giả A-nan bạch Phật: –Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử đã khuyến thỉnh Đức Thế Tôn nói về pháp Quảng bác nghiêm tịnh bất thoái chuyển luân phải chăng? Đức Phật nói: –Đúng thế, này A-nan! Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử hỏi ta về pháp ấy. Vì sao? Vì các Đức Phật, Thế Tôn đều nói pháp Quảng bác nghiêm tịnh bất thoái chuyển luân. A-nan bạch Phật: –Do nhân duyên nào Thế Tôn nói về Kiên tín, Kiên pháp, tám bậc, bốn quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Thanh văn, Bích-chi-phật? Bạch Thế Tôn! Điều các vị ấy thực hành có phải là pháp của Bồ-tát không? Đức Phật đáp: –Đúng vậy, đúng vậy! Điều các vị ấy thực hành chính là pháp của Bồ-tát. Vì sao? Vì chúng sinh ở cõi đời năm trược tâm thường ưa thích pháp nhỏ, chẳng cầu các pháp Đại thừa. Do đó, các Đức Phật dùng năng lực phương tiện tùy theo căn tính của chúng sinh mà nói pháp, vì phần lớn chỉ ưa thích pháp nhỏ, không kham nỗi các pháp Đại thừa nên Như Lai cũng dùng năng lực phương tiện quán sát tâm sâu xa, khiến họ phát khởi tâm cầu đạo Bồ-đề, vào được trí tuệ Phật. Này A-nan! Như Lai dùng phương tiện như vậy để hóa độ chúng sinh đến nơi an ổn, vô vi vô tác, lìa pháp tâm sở, tất cả đều bình đẳng, dứt hẳn khổ vui, không có nơi chốn, cũng không có chỗ trụ, an ổn vắng lặng, Niết-bàn Vô dư. Khi ấy, Đức Thế Tôn nói lời ấy rồi im lặng không nói nữa. Tôn giả A-nan liền hỏi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi: –Vì sao Như Lai im lặng? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp: –Này Tôn giả A-nan! Vì chúng sinh khi nghe nói pháp này thì ít người có khả năng kính tin, vì vậy mà Đức Thế Tôn im lặng. Đức Thế Tôn nói những lời mật ngữ nhiệm mầu như thế chỉ có mình ta thấu hiểu, nay bốn bộ chúng đều sinh nghi ngờ: “Do duyên cớ nào mà Đức Thế Tôn nói về pháp Kiên tín, Kiên pháp, cho đến Thanh văn, Bích-chi-phật?” Hiện giờ trong trăm ngàn muôn ức na-do-tha các vị trời này cũng có trăm ngàn muôn ức na-do-tha các vị Đại Bồ-tát đều sinh tâm nghi ngờ: “Vì sao Đức Thế Tôn nói về Kiên tín, Kiên pháp, cho đến Thanh văn thừa, Bích-chi-phật thừa? Cho nên Đức Thế Tôn im lặng không nói pháp khó tin này.” Khi Đức Thế Tôn giảng nói về pháp đó thì nơi các sông ngòi, suối ao, nguồn lạch lớn nhỏ đều dừng không chảy. Các loài chim trong hư không cũng đều dừng cánh, không bay. Mặt trời, mặt trăng không chuyển vận, tất cả đèn đuốc đều không còn tỏa sáng. Tất cả các chúng sinh đều không còn oai quang. Vì sao? Vì Đức Thế Tôn im lặng không giảng nói pháp khó tin. Lúc này, một vạn hoa sen đang nối tiếp nhau bay vòng quanh tinh xá của Đức Thế Tôn đều phát ra âm thanh khuyến thỉnh: –Cúi mong Đức Thế Tôn nói về pháp Quảng bác nghiêm tịnh bất thoái chuyển luân. Vì sao? Vì chúng con từng ở nơi này được nghe chín mươi hai ức trăm ngàn na-do-tha các Đức Phật đều nói về pháp này. Khi ấy, Tôn giả Xá-lợi-phất bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn hãy nói về pháp Quảng bác nghiêm tịnh bất thoái chuyển luân. Vì sao? Vì lúc cuối đêm vừa rồi, con cùng Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử đi về phía Đông, trải qua hằng hà sa cõi Phật, các Đức Như Lai ở các cõi đó đều nói pháp ấy. Phương Nam, Bắc, Tây, tứ duy và hai phía trên dưới, vô lượng, vô biên không thể tính kể các Đức Phật, Thế Tôn ở các cõi đó đều giảng nói pháp ấy. Lúc này, trong hư không có tám mươi vạn năm ngàn na-do-tha các vị trời cùng bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn nói về pháp Quảng bác nghiêm tịnh bất thoái chuyển luân. Vì sao? Vì chúng con đã ở chỗ này nghe chín mươi hai ức trăm ngàn na-do-tha Đức Phật đều nói pháp ấy. Bấy giờ, Tôn giả A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên nào mà Thế Tôn giảng nói về Kiên tín, Kiên pháp cho đến Nhị thừa Thanh văn, Bích-chi-phật? Hiện giờ bốn chúng này đều yên lặng, ngay đến tiếng ho hen cũng không. Hiện giờ trong hội này có trăm ngàn muôn ức chúng sinh đều sinh tâm nghi ngờ, chưa rõ do đâu mà Thế Tôn nói về Kiên tín, Kiên pháp, cho đến Nhị thừa Thanh văn, Bích-chi-phật. Kính mong Đức Thế Tôn nhổ mũi tên nghi ngờ trong tâm đại chúng này, nói rõ về thời chứng của Phật cho đại chúng nghe. Phật bảo A-nan: –Đúng thế, pháp do các Đức Phật, Thế Tôn giảng nói đều có thời chứng. A-nan bạch Phật: –Ai là người chứng đạt? Phật bảo A-nan: –Pháp ấy do ta chứng đạt. Các Đức Phật, Như Lai đều đem các pháp mình đã chứng đắc ra để giảng nói. Phật bảo A-nan: –Ông hãy nghe kỹ và khéo suy nghó, ta sẽ giải thích rành rõ cho ông nghe. Bậc Đại Bồ-tát được gọi là Kiên tín, cho đến được gọi là Bích-chi-phật thừa. Lúc này, Tôn giả A-nan và các vị Đại Thanh văn thảy đều nhất tâm lắng nghe lời Phật dạy. Phật bảo A-nan: –Bậc Đại Bồ-tát giúp cho vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ chúng sinh kính tin tri kiến Phật. Kính tin tri kiến Phật rồi thì không còn chấp sắc, không còn chấp thọ, tưởng, hành, thức. Vì không còn chấp trước sắc, thọ, tưởng, hành, thức nên các vị Đại Bồ-tát được gọi là Kiên pháp. Lại nữa, này A-nan! Các vị Đại Bồ-tát kính tin pháp do các Đức Phật giảng nói đều vắng lặng. Người tin pháp này là bậc Đại Bồ-tát gọi là Kiên tín. Lại nữa, này A-nan! Bậc Đại Bồ-tát kính tin trí tuệ Phật thường suy nghó rằng chúng ta cũng sẽ đạt đến trí tuệ giác ngộ như vậy, nhưng cũng không thấy là mình đã thành tựu được trí tuệ đó. Do đó A-nan! Các vị Đại Bồ-tát ấy được gọi là Kiên tín. Lại nữa, này A-nan! Các vị Đại Bồ-tát đối với năm dục lạc không sinh tâm ưa thích, thành tựu Tín lực, cho nên các vị Đại Bồ-tát được gọi là Kiên tín. Lại nữa, này A-nan! Các vị Đại Bồ-tát thường suy nghó: “Các Đức Phật, Thế Tôn dùng pháp chẳng thể suy nghó bàn luận mà ban cho chúng sinh. Chúng ta cũng nên học pháp không thể suy nghó bàn luận để ban cho chúng sinh.” Vì vậy nên các vị Đại Bồ-tát này được gọi là Kiên tín. Lại nữa, này A-nan! Bậc Đại Bồ-tát sinh tâm hoan hỷ xả bỏ tất cả các vật, cho đến bản thân mình còn đem bố thí, huống gì là vật khác. Kính tin thực hành pháp bố thí này nhưng không hề vướng mắc, đối với tất cả vật chất không hề có sự keo kiệt tiếc lẫn, luôn đem các nhân duyên ấy hồi hướng về đạo Bồ-đề nhưng cũng không dấy khởi kiến chấp về đạo Bồ-đề. Các vị Đại Bồ-tát ấy được gọi là Kiên tín. Lại nữa, này A-nan! Bậc Đại Bồ-tát tín tâm thanh tịnh, không hề yếu hèn, đối với Tam bảo Phật, Pháp, Tăng tâm luôn thuần tịnh, giữ gìn sáu căn, không hề mong cầu, khiến cho chúng sinh không kính tin thì đối với Tam bảo sinh tâm tin ưa, đã sinh tâm tin ưa thì chẳng hề buông lung. Phát tâm Bồ-đề, không chấp ở hình tướng của tâm, tin hiểu sáu cõi bình đẳng với pháp giới. Thế nào là tin hiểu? Tức là cho rằng các cõi đó đều dùng các âm thanh, tên gọi để nói nhưng thật ra chúng không thật có. Tin hiểu các hành đều là pháp vô thường, khổ, không, vô ngã. Cũng kính tin Thánh giới vô lậu không phải là các pháp đùa bỡn mà là có đủ các pháp chính định. Đại Bồ-tát tin rằng tất cả chúng sinh tức là cảnh giới vắng lặng, dùng tâm không nương tựa thấy các chúng sinh chính là pháp giới, nhưng đối với pháp này không thấy có pháp giới. Vì sao? Vì pháp giới chính là cảnh giới vô tâm của chúng sinh. Bậc Đại Bồ-tát kính tin như vậy được gọi là Kiên tín. Bậc Đại Bồ-tát tin tưởng tất cả chúng sinh không có trụ xứ. Vì sao? Vì tự tính là không. Cũng lại không thấy có hình tướng chúng sinh, thấy các chúng sinh đồng với tướng Niết-bàn. Vì sao? Vì cảnh giới chúng sinh là không, do vậy mà thấy các chúng sinh là tướng Niết-bàn. Nếu kính tin được pháp như thế, thì giúp cho nhiều chúng sinh được sự kính tin như vậy. Cho nên, này A-nan! Các vị Đại Bồ-tát được gọi là Kiên tín. Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghó vừa nêu nên nói kệ rằng: Giúp cho các chúng sinh Kính tin tri kiến Phật. Tâm chẳng sinh đắm, nhiễm Đó gọi là Kiên tín. Tin pháp các Phật nói Các tính tướng đều không Tin, hiểu được pháp này Đó gọi là Kiên tín. Tin tri kiến các Phật Là chẳng thể nghó bàn Phát tâm siêng mong cầu Ta gắng đạt trí ấy. Chẳng sinh tâm tin ưa Tham cầu năm dục lạc Đầy đủ tín lực ấy Đó gọi là Kiên tín. Tin các Đấng Mâu-ni Dùng pháp độ chúng sinh Ta cũng nên học theo Đó gọi là Kiên tín. Tin hành được bố thí Cho đến bỏ thân mình Cũng chẳng khởi tưởng thí Đó gọi là Kiên tín. Tin bỏ được tất cả Chẳng sinh tâm tiếc lẩn Đều hồi hướng Bồ-đề Đó gọi là Kiên tín. Kính tin đối với Phật Tâm luôn được trong lành Cũng tin pháp vô tâm Đó gọi là Kiên tín. Giữ gìn được sáu căn Cũng không còn cầu mong Đã tin, hiểu pháp ấy Đó gọi là Kiên tín. Các chúng sinh chẳng tin Dùng tin xây dựng họ Khiến thuận theo Phật pháp Đó gọi là Kiên tín. Dùng tín này hướng tâm Đều hồi hướng Bồ-đề Nhưng không thấy tướng tâm Đó gọi là Kiên tín. Biết sáu cõi bình đẳng Tức đồng với pháp giới Dùng âm thanh phân biệt Không được tính sáu giới. Tin các hành vô thường Khổ, không và vô ngã Đầy đủ tín lực này Đó gọi là Kiên tín. Tin Thánh giới vô lậu Chẳng phải pháp đùa bỡn Đủ giới và chính định Đó gọi là Kiên tín. Tin các cõi chúng sinh Là tính cõi vắng lặng Tin được tướng như vậy Đó gọi là Kiên tín. tính không nương chúng sinh Chính là cõi các pháp Cõi các pháp như vậy tính ấy khó nghó bàn. Nếu tin được như thế Thuận theo tướng pháp ấy Bồ-tát không sợ này Đó gọi là Kiên tín. Tin thân các chúng sinh Rốt ráo chẳng chỗ trụ tính chất vốn không vô Cho nên chẳng nơi chốn. Chúng sinh là Niết-bàn tính ấy tức là không Dùng nghĩa đó nêu bày Tướng Niết-bàn vắng lặng Nếu tin được như vậy Là Bồ-tát không sợ Các chúng sinh như thế Đều gọi là Kiên tín. A-nan khéo thọ trì Cũng giảng nói như thế Nếu ai tin như vậy Đó gọi là Kiên tín. Các thứ pháp như thế Cùng vô lượng pháp khác Phật vì các Bồ-tát Nói tướng khác nhau này. Như thế, này A-nan! Đức Như Lai Ứng Cúng chính Đẳng Giác dùng năng lực phương tiện vì hàng Thanh văn mà nói bậc Đại Bồ-tát là Kiên tín. Lại nữa, này A-nan! Nay ta sẽ vì các chúng sinh ưa thích pháp này nên lại dùng kệ tụng để nói về ý nghĩa tại sao gọi bậc Đại Bồ-tát là Kiên tín. Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền nói kệ: Đều cùng hòa hợp nhất tâm nghe Ta nói công đức đệ tử Phật Bố thí, Trì giới và Tinh tấn Thân Nhẫn nhục, Thiền định, Trí tuệ Tin ưa mong cầu pháp như vậy Kẻ chẳng tin, tin trí tịnh Phật Tin được như vậy gọi Bồ-tát Hóa đạo thế gian không chán mỏi Tin hiểu các pháp không phân biệt tính ấy vắng lặng do Phật nói Nếu khéo hiểu được pháp như thế Đó gọi là Bồ-tát Kiên tín. Tin tri kiến Phật không thể lường Phát tâm mong cầu trí như thế Trí của Bậc Đại Nhân vô thượng Vào lúc nào ta được trí này Không tin ưa pháp thanh tịnh này Không vì nhân dục gây nghiệp ác Dùng Tín lực mong cầu pháp ấy Có đức tin ấy gọi Bồ-tát Tin các Như Lai dùng pháp thí Ta cũng phải nên học như thế Thực hành theo pháp Phật đã nói. Có đức tin ấy gọi Bồ-tát Tin thì bỏ được các thức ngon Voi ngựa vàng bạc và tôi tớ Vợ con, trai gái, các quyến thuộc Thành ấp lớn nhỏ và cõi nước. Cũng bố thí tay chân, thân phần Chẻ xương lấy tủy không sợ hãi Tai mũi, hai mắt và cả đầu Có đức tin ấy là Bồ-tát. Tin biết thân này không có chủ Cho nên thực hành được tuệ thí Cũng thực hành được cả pháp thí Do nhân duyên đó cầu trí Phật Tin bỏ được thân vô ngã này Thấy kẻ đến xin lòng hoan hỷ Chúng sinh đó bạn tốt của ta Vì cầu giác ngộ, bỏ thân giả. Tin pháp như thế nhân Bồ-đề Dùng tâm thanh tịnh độ thế gian Nghe pháp, chẳng nghi tri kiến Phật Có niềm tin ấy gọi Bồ-tát Biết mắt và tai, mũi vô thường Lưỡi, thân và ý cũng như thế Rõ là luống dối không bền chắc Vì nhân Bồ-đề thảy nên bỏ. Thấy chúng sinh khổ không niềm tin. Giúp họ kính tin hành bố thí Khởi tâm Từ bi thương muôn loài Đều khiến tin Phật trí Tối thượng Kẻ đắm sáu trần làm điều ác Giúp họ, hồi tâm hướng trí Phật Không có tâm ấy: nhân Bồ-đề Tin được Bồ-đề, không tướng tâm Thấy các cõi chúng sinh không trí Chẳng rõ sáu cõi là bình đẳng Pháp ấy đều đồng tướng pháp giới Dùng âm thanh nói chẳng thật có Thấy các chúng sinh còn sinh tử Ngu tối vô thường cho là thường Dạy tin các hành là vô thường Khiến tin hiểu không và vô ngã Thấy các chúng sinh hành giới ác Dạy khiến tin giới Phật Vô thượng Các công đức từ tịnh giới định Có đức tin ấy là Bồ-tát Thấy các chúng sinh thường biếng nhác Dạy khiến tin Phật đại tinh tấn Biết sức tinh tấn tự điều phục Giữ niềm tin ấy gọi Bồ-tát. Thấy chúng sinh ngu chấp thọ mạng Dạy tin ấm thân không thọ mạng Biết rõ cõi diệt đồng pháp giới Nếu biết pháp này là Thắng tín. Phân tích thân này không đến, đi Tuy qua đời khác nghiệp chẳng mất Các nghiệp nhân thiện ác đã gây Không bao giờ xa lìa pháp tính. Thấy tính chúng sinh không pháp nương Cõi ấy cũng đồng các chúng sinh Pháp giới bình đẳng chẳng nghó bàn Bồ-tát không sợ tin như vậy Phật nói tin ấy không có hai Siêng tu hạnh lành biết các pháp Cũng nói cho người tin như thế Không hề tham đắm đối ba cõi. Tin tính các chúng sinh như vậy Không có quyết định chỗ thường trụ Không, không thể chấp pháp vô tướng. Tin được pháp này gọi Bồ-tát Các chúng sinh ấy đều không không. Cũng không cõi Niết-bàn vắng lặng Không thể nói có các tính tướng Người biết pháp này gọi Trì tín. Thấy các chúng sinh tin thường, đoạn Dùng pháp vắng lặng mà dẫn dắt Nên trong ba cõi được tôn xưng Cũng gọi là Bồ-tát Trì tín Nếu có niềm tin thù thắng ấy Pháp tâm không sợ ưa cầu pháp Pháp ta nếu có người trí tuệ Hướng về đại chúng giảng nói rộng. Đã nói các công đức Kiên tín Cùng với các tướng sai biệt khác Không đắm ba cõi tâm thanh tịnh Thương xót chúng sinh ruộng phước tốt. Luôn hành Bố thí tự điều phục Trụ giới thanh tịnh tu Nhẫn nhục Tinh tấn tu Định và Trí tuệ Hành hạnh Bồ-tát tâm điều phục Dùng các trí phương tiện thích hợp Đưa chúng sinh đến chỗ an ổn Giúp cho không rơi các đường ác Có trí như vậy gọi Bồ-tát Dùng tâm thanh tịnh động thế giới Mặt đất rung chuyển bằng sáu cách Ánh chiếu trên hoa, Bồ-tát ngồi Đều nói pháp vắng lặng, không, vô. Cõi nước phương Đông và phương Nam. Phương Tây, phương Bắc cũng như vậy Phương trên, phương dưới và bốn góc. Đều cùng nói pháp vắng lặng này Thà bỏ thân mạng, chẳng nghi Phật Cũng dạy người khác tin trí Phật Nếu các chúng sinh tin như thế Phật và hành giả chứng biết được. Lại nữa, này A-nan! Vì sao Như Lai nói các Đại Bồ-tát là Kiên pháp? A-nan nên biết! Đại Bồ-tát đối với chính pháp không bao giờ thoái chuyển, thọ trì Phật pháp, giảng nói cho người khác nghe, không bao giờ hủy phạm. Đối với pháp giới chân như chẳng thể nghó bàn thì phải nên được các pháp như vậy, vững tâm thọ trì, không hề yếu đuối. Đại Bồ-tát quán sát tướng chân thật của các pháp, không hề đắm nhiễm, mà đối với pháp này không hề thọ trì, đối với pháp hay phi pháp cũng không dấy tâm đắm nhiễm, ứng theo sự giữ gìn của Như Lai ưa cầu các pháp. Mong cầu rồi thì nhận lãnh, nhận lãnh rồi thì thọ trì, thọ trì rồi thì giảng nói, tâm ý hoan hỷ, nhu hòa, dễ dàng ở chung. Thường thích giảng nói pháp vắng lặng, pháp giới bất động, đạt được tướng chân thật của các pháp. Đại Bồ-tát khéo léo điều phục đối với các pháp, nhưng không làm tổn hại đến diệu thân thường trụ. Thân ấy thường trụ nên rất nhiệm mầu. Nên biết rằng thân ấy là không mở đầu, không kết thúc, chẳng nhóm họp chẳng ly tan. nên biết như thế. Các Đức Phật, Thế Tôn vì các Bồ-tát mà giải thích rõ ràng về các pháp đó, Đại Bồ-tát cũng đều đạt được pháp này. Đại Bồ-tát thấy các pháp thanh tịnh không cấu nhiễm, khéo hiểu các pháp là chỗ không nên vướng mắc, tính các pháp là không, không thể thấy được. Do không thấy được nên không thể thọ trì. Giảng nói pháp giới không tướng, không tính, không có lời nói, cũng không thật có, không có suy nghó, xa lìa suy nghó, tâm không thật có, thể tính các pháp là vắng lặng, lìa các âm thanh, không có lời nói, chẳng có cảnh giới. Đại Bồ-tát thường thích thọ trì giảng nói pháp ấy, nhưng tâm không nương tựa vào pháp này, vì các pháp không thật có như thế nên Phật nói các thứ khác nhau cho Đại Bồ-tát nghe, đối với pháp ấy không dấy tưởng về hợp tan, không có các tướng sai biệt. Các pháp như đã nói Đại Bồ-tát đều đạt được, đã đạt được pháp này thì gọi là tính địa, tính địa Đại Bồ-tát. Đại Bồ-tát dù đối với một pháp nhỏ cũng không sinh các tư tưởng đến đi, đã thọ trì pháp chẳng đến đi, mà đối với pháp ấy không sinh ý tưởng thêm, bớt, cũng không tụ tán, nếu thọ trì được các pháp không thêm không bớt, không tụ không tán. Thì các pháp như thế được gọi là Kiên pháp. Đại Bồ-tát thấy thể tính các pháp không thật có, vì thể tính các pháp này không thật có nên các vị Đại Bồ-tát ấy được gọi là Kiên pháp. Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa vừa nêu nói kệ rằng: Đối chính pháp của Phật Không bao giờ thoái chuyển Giữ gìn pháp như vậy Đó gọi là Kiên pháp. Không hề có hủy phạm Pháp giới chẳng nghó bàn Đạt được pháp như vậy Đó gọi là Kiên pháp. Lâu phát tâm thọ trì Pháp do các Phật nói Tâm không có yếu hèn Đó gọi là Kiên pháp. Đối tất cả pháp tính Hướng về luôn siêng cầu Chẳng sinh tâm đắm nhiễm Đó gọi là Kiên pháp. Chẳng vướng cũng chẳng mắc Cũng luôn dạy bảo người Giữ gìn pháp như thế Đó gọi là Trì pháp. Nhu hòa dễ ở chungï Giảng nói pháp vắng lặng Không động pháp tính kia Đó gọi là Trì pháp. Biết rõ thể các pháp Đều không có tính, tướng Đối pháp này quyết định Đó gọi là Trì pháp. Cũng không hề hủy tổn Thân nhiệm mầu thường trụ Nên biết thân mầu này Là lấy pháp làm thể, Thân này không đầu, cuối Do các pháp hợp thành Thân này không thêm bớt Đó gọi là Trì pháp. Phật vì các Bồ-tát Giảng nói tướng các pháp Đạt được pháp như vậy Đó gọi là Trì pháp. tính pháp giới tự không Không đắm nhiễm các pháp Giữ gìn pháp như thế Đó gọi là Trì pháp. Quán sát tất cả pháp tính không, chẳng thấy được Vì chẳng thấy pháp nên Cũng chẳng có thọ trì, Do không có thọ trì Nên hiển bày pháp giới Không tính, tướng, âm thanh Thể tính không thật có Xa lìa các tư tưởng Tâm cũng không thật có Do tâm chẳng thật có Gọi chẳng thể nghó bàn. Đã lìa xa tướng tâm Nên nói pháp vắng lặng Không âm thanh, cảnh giới Gọi chẳng thể nghó bàn. Giữ gìn pháp như vậy Cũng lại không chỗ nương Không nương chẳng thật có Đó gọi là Trì pháp. Phật vì các Bồ-tát Giảng nói pháp như thế Chẳng hợp cũng chẳng tan Cũng không có các tướng. Nếu nói ra hạnh này An trụ được tính địa Đã an trụ tính địa Thì gọi bậc tính địa. Bồ-tát trụ tính địa Rốt ráo không chỗ nương Giữ gìn pháp như vậy Đó gọi là Trì pháp. Vì thế nên A-nan Bậc Đại Bồ-tát kia Đối pháp không thật có Đó chính là Trì pháp. Nếu có các chúng sinh Khởi tưởng lìa Phật đạo Dùng năng lực phương tiện Giúp đến chỗ rốt ráo Pháp ấy và pháp khác Nói cho Bồ-tát nghe Dùng phương tiện khéo léo Hiển bày tri kiến Phật. Bậc Đại trí trì pháp Chỉ Phật chứng biết được Và tu hành pháp này Các Bồ-tát không sợ. Trí tuệ chẳng nghó bàn Nói Trì pháp sai khác Pháp, phi pháp, thanh tịnh An trụ trong pháp ấy. Như thế, này A-nan! Như Lai chính Đẳng Giác dùng năng lực phương tiện vì hàng Thanh văn mà nói các Đại Bồ-tát là bậc Kiên pháp. Lại nữa, này A-nan! Vì sao Như Lai nói Đại Bồ-tát là những vị đã đạt được tám bậc? A-nan nên biết! Các Đại Bồ-tát đã vượt khỏi tám con đường tà, tu tập tám giải thoát, không đắm mê tám chính. Vượt khỏi pháp phàm phu, được không chỗ trụ, được đạo bình đẳng, vượt khỏi pháp phàm phu, siêng cầu Bồ-đề nhưng không thấy mình được Bồ-đề. Lìa các tà kiến, tu tập chính kiến, đạt được đạo bình đẳng, lìa tướng tự thân, tuy chưa được thân Phật nhưng luôn cầu Bồ-đề, bỏ những tư tưởng của chúng sinh, tu tập quán tưởng Phật, được tư tưởng bình đẳng. Đại Bồ-tát lìa bỏ pháp ô nhiễm của chúng sinh, mong cầu pháp vô vi thanh tịnh, đối với các pháp không có chấp đắm. Vì sao? Vì không thấy pháp nào đáng chấp. Đại Bồ-tát vượt khỏi mọi pháp thế gian, khai mở Thánh pháp của Phật để đạt tới cảnh giới vắng lặng, cũng không chấp mình được pháp thế gian và xuất thế gian, xa lìa hữu, vô, đúng pháp hay không đúng pháp, khéo xem xét hai bên đoạn, thường. Quán sát tướng của tâm quá khứ, vị lai, hiện tại, cho đến tướng của tâm Bồ-đề cũng không thật có. Vì sao? Vì tướng của tâm chúng sinh là pháp bình đẳng, cho nên chất độc không hại được, lửa không đốt cháy được, dao không cắt xẻ thân được. Vì sao? Vì đã xa lìa được các cảnh giới. Tuy chưa được hạnh Phật nhưng đối với các nẻo luân hồi chưa thể quyết định. Vì sao? Vì giác ngộ là lìa các nẻo sinh tử ấy. Cõi giác ngộ là an tónh, vô vi. Bồ-đề tính không, không có nơi chốn. Do vậy mà dao không cắt xẻ thân được, tức là không thể hại. Thừa ấy mau chóng gọi là không thể hại. Vì sao? Vì mau đạt đến thừa này, không bị trở ngại, do vậy mà dao không cắt xẻ thân được. Đại Bồ-tát luôn thể hiện lòng Từ bi duyên khắp chúng sinh, lòng Từ bi thực hành giác ngộ, tất cả cõi chúng sinh không thật có đối với tất cả các cõi chúng sinh nên thực hiện lòng Từ bi không có nơi chốn, cũng là lòng Từ bi của tất cả pháp không, lòng Từ bi hướng tới cảnh giới vắng lặng, lòng Từ bi lìa tức giận, lòng Từ bi theo thực hành trí tuệ sáng suốt, soi chiếu Bồ-đề, lòng Từ bi cảnh giới chúng sinh không thật có, vì duyên khắp mọi loài chúng sinh, nên đao kiếm không thể cắt xẻ thân được. Nhận thức ba cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc đều bình đẳng, cũng biết pháp giới bình đẳng, như cõi giác ngộ không có tướng khác nhau. Cảnh giới Bồ-đề ấy không thể nhận thức, không thể bám víu, không đùa bỡn, không nhơ bẩn, an ổn vắng lặng lìa các âm thanh. Đại Bồ-tát biết rõ cảnh giới ấy, ở trong các đường không có lời nói, âm thanh đều có thể biết rõ. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát đối với pháp giới không có vị lai, quá khứ mà đạt được pháp Nhẫn vô trụ. Khéo biết âm thanh lời nói của tất cả chúng sinh và giảng nói pháp vắng lặng. Không nghó: “Ta vào lúc vì chúng sinh này mà nói pháp”. Tức là đã xa lìa các âm thanh về ngã tưởng, biết các pháp vắng lặng đối với các pháp không chấp tướng, vì chúng không thật có nên không đắm vào lời nói. Đại Bồ-tát gọi là tám bậc. Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa vừa nêu trên nên nói kệ rằng: Đã vượt qua tám nạn An trụ tám giải thoát Không đắm tám nẻo chính Đó gọi là tám bậc. Đã vượt pháp phàm phu Mà không trụ chính đạo Ở giữa, lìa hai bên Đó gọi là tám bậc. Đã vượt pháp phàm phu Siêng năng cầu Bồ-đề Chẳng được tướng Bồ-đề Đó gọi là tám bậc. Xa lìa các tà kiến Mà tu hành chính kiến Đã được đạo bình đẳng Đó gọi là tám bậc. Xa lìa tướng tự thân Cũng không trụ Bồ-đề Tuy chưa được thân Phật Đó gọi là tám bậc. Trừ bỏ tưởng chúng sinh Gắng tu hành tưởng Phật Đã được tướng bình đẳng Đó gọi là tám bậc. Lìa hang ổ chúng sinh Cầu pháp không hang ổ Chẳng chấp đắm các pháp Đó gọi là tám bậc. Đã vượt pháp thế gian Khai mở nẻo Thánh pháp Thành tựu cõi vắng lặng Đó gọi là tám bậc. Pháp do các Phật nói Và pháp thế gian khác Không được tướng pháp này Đó gọi là tám bậc. Thấy có một bên này Không thấy bên thứ hai Bỏ được kiến chấp ấy Đó gọi là tám bậc. Quán sát pháp Trung đạo Cùng hai nẻo đoạn, thường Biết tướng bình đẳng này Đó gọi là tám bậc. Không được tâm quá khứ Cùng với tâm vị lai Tâm hiện tại chẳng trụ Đó gọi là tám bậc. Tâm đầu tiên đã nói Có thể sinh Bồ-đề Tâm này không thật có Làm sao được Bồ-đề? Nếu đạt được Bồ-đề Không được tâm Bồ-đề Nên độc lửa không thể Xâm hại đến thân mình. Đường ấy tuy bất định Tu hành khắp như vậy Đạt pháp không đến, đi Nên gọi không thể hại Nẻo Bồ-đề không tướng Nhờ âm thanh mà nói Khéo rõ tướng âm thanh Nên gọi chẳng thể hại. Tướng đi không thật có Tướng đến cũng như vậy Âm thanh nói đến đi Nên gọi thừa mau chóng Cho nên gọi an ổn Cũng gọi là không, vô Cũng là thừa mau chóng Cũng gọi chẳng thể hại Thừa mau chóng như thế Bồ-tát nên không đạt Không thể làm trở ngại Nên gọi không thể hại Ví dùng dao bén nhọn Chẳng thể phạm đến thân Chẳng thấy được tướng thân Nên dao chẳng hại được Từ duyên khắp chúng sinh Và dùng từ Bồ-đề Thực hành từ Bồ-đề Chẳng bị đao kiếm hại Không hành, không chúng sinh Không được cõi chúng sinh Từ vô sinh, vắng lặng Từ duyên khắp chúng sinh Từ xa lìa giận tức Và hành từ trí sáng Từ Bồ-đề chiếu sáng Duyên khắp các chúng sinh Rõ đao là pháp không Thân tướng khéo tu tập Chưa được đạo Bồ-đề Chẳng bị đao kiếm hại Đã được cõi vắng lặng Xa lìa các đường ác Nghiệp ác không chướng ngại Nên chẳng bị đao hại Xa lìa cả vô minh Đã chứng đạt pháp giác Cõi giác ngộ tỏa sáng Đó gọi là tám bậc. Biết được cõi Dục, Sắc Cõi Vô sắc là không Tất cả đều bình đẳng Đó gọi là bình đẳng Cõi và Bồ-đề đồng Không có các thứ tướng Không trí, không phân biệt, Thanh tịnh không đùa bỡn Đạt đến bình đẳng này Bồ-tát không nương tựa Các âm thanh đã nói Biến khắp đến các đường. Các âm thanh đến đi Đều trở về pháp giới Ở trong pháp chẳng trụ Được Nhẫn tối thượng này. Khéo hiểu tiếng chúng sinh Vì nói pháp vắng lặng Chẳng sinh tâm như vậy: Ta vì chúng nói pháp Đã vượt pháp âm thanh Không chấp đắm các tướng Rõ các pháp vắng lặng Đó gọi là tám bậc. Đã được các âm thanh Thông đạt cõi âm thanh Không đắm mê âm thanh Nên gọi là tám bậc A-nan chính vì thế Nên gọi là tám bậc Tuy giảng nói như vậy Kỳ thật chẳng thật có. Như vậy, này A-nan! Như Lai Đẳng chính Giác dùng năng lực phương tiện vì hàng Thanh văn mà nói các vị Đại Bồ-tát được gọi là tám bậc. Lại nữa, này A-nan! Vì sao Như Lai nói Đại Bồ-tát được gọi là Tu-đà-hoàn? A-nan nên biết! Phật đạo không thể suy nghó bàn luận được. Các Đại Bồ-tát an trụ nơi Vô sở trụ, gần với Phật đạo. Không thọ nhận các pháp, không có chốn nương tựa, cũng không chốn duyên hợp, không chấp các pháp, rốt ráo không sinh, Đại Bồ-tát vì được đạo này nên tinh tấn vững chắc, suy nghó vững chắc, không có biếng nhác, không bao giờ trái nghịch, tâm không nương tựa, đối với đạo xuất ly vô thượng tối thắng mà các Đức Phật nương theo không hề tham đắm, cũng không chấp trước. Dùng đạo như thế để suy tìm các pháp, tuy là suy tìm mà không thật có. Đối với đạo ấy không động không trụ, mọi tư tưởng về đạo, về sinh tử, về Phật có công năng sinh ra bình đẳng, đối với các pháp chướng ngại được bình đẳng, các pháp bình đẳng, các Đức Phật bình đẳng. Xa lìa thân kiến, sinh ra Phật kiến, khai ngộ các kiến. Đại Bồ-tát tu tưởng đối trị, đã vượt qua ngã tưởng. Này Tôn giả A-nan! Chính vì vậy mà Đại Bồ-tát được gọi là Tu-đà-hoàn. Bậc Đại Bồ-tát không tham đắm Phật đạo, nên đạt được đạo Vô nhiễm, không nghi ngờ Bồ-đề của Phật, không lựa chọn giới, cho đến không thấy có giới của Phật. Vì không thấy có giới luật nên không còn lựa chọn giới, không phân biệt giới, đoạn hẳn ba kết, không trụ trong ba cõi. Bậc Đại Bồ-tát đã đạt được Phật đạo, lìa các vọng tưởng của chúng sinh, không có chốn nương tựa, lìa pháp nương tựa. Chuyên cầu Phật đạo, được đạo an ổn vắng lặng, không tiếc thân mạng. Với tâm hoan hỷ có thể xả bỏ tất cả các vật, dung mạo luôn vui vẻ hòa nhã, không chút buồn phiền. Vì sự giác ngộ giải thoát mà thực hành bố thí, không có một vật nhỏ nào mà không thể xả bỏ. Nhằm cứu giúp chúng sinh khổ, đưa họ đến Niết-bàn, tu pháp hữu tướng, được pháp vô tướng. Các Đại Bồ-tát xa lìa tất cả tưởng chấp của chúng sinh, nhập vào các nẻo không sợ, nói pháp vắng lặng, đạo Bồ-đề thanh tịnh, dứt những lo sợ, kể cả nỗi sợ về cái chết. Vì sao? Vì đã được pháp vắng lặng, lìa bỏ tất cả phiền não, an trụ nơi Phật đạo, khéo tu tập chuyển các nẻo ác đạt tới sự bình đẳng, dứt các đùa bỡn. Này A-nan! Do những lẽ ấy mà các vị Đại Bồ-tát được gọi là Tu-đà-hoàn. Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa vừa nêu nên nói kệ rằng: Phật đạo chẳng nghó bàn Gọi là Tu-đà-hoàn Nếu ai trụ đạo ấy Sẽ vào dòng Bồ-đề Đạo ấy như hư không Chẳng nương tất cả pháp Chẳng duyên, chẳng chỗ trụ Tất cả không thật có. Bồ-tát luôn tinh tấn Nên đạt được pháp ấy Các Phật dẫn dắt đời Đạo xuất ly Vô thượng Không đắm nhiễm đạo này Cũng chẳng trụ trong đó Dùng đạo ấy tìm cầu Không thấy tất cả pháp. Đạo ấy không dao động Cũng không trụ trong đó Luôn tinh tấn như Phật Chẳng trái, không nương tựa. Tưởng sinh tử đã nói Phật tưởng cũng như vậy Đạt đến bình đẳng này Biết là Tu-đà-hoàn. Mọi kết sử ngăn che Che lấp mất Phật đạo Tất cả nên xa lìa Đó là Tu-đà-hoàn. Dứt bỏ được thân kiến Mà sinh ra Phật kiến Khai ngộ các tà kiến Khéo tu đối trị tưởng Khéo tu tưởng tự thân Biết lỗi lầm ngã tưởng. Đó gọi Tu-đà-hoàn. Chẳng mê đắm Phật đạo Nếu sinh do dự ấy Ta chẳng đạt Bồ-đề Liền được không nhiễm đắm Mà mong cầu Phật đạo Cũng chẳng lựa chọn giới Chẳng phân biệt giới luật Đã dứt trừ tưởng giới Không phân biệt giới luật Dứt hẳn ba thứ kết Chẳng trụ trong ba cõi Đã đạt được Phật đạo Khéo tu tưởng chúng sinh Dùng đạo không chỗ duyên Mà mong cầu Bồ-đề Đã được đạo vắng lặng Bồ-đề vô cấu Phật Thích tu hành bố thí Vui vẻ không buồn phiền Chẳng hề tiếc thân mạng Vì đạo không đùa bỡn Vì chúng sinh khổ não Tất cả đều xả bỏ Khiến vượt Tu-đà-hoàn Trên quả vị Thắng diệu Xa lìa tưởng ba cõi Khéo thông đạt vô tưởng Do đó nên không có Tiếng xấu, các sợ hãi Pháp, phi pháp đã nói Cả hai đều xa lìa Trong đó chẳng nhiễm đắm Không hề sợ tiếng xấu Khi vào chốn đông người Tâm không hề sợ hãi Giảng nói pháp vắng lặng Đã tịnh đạo Bồ-đề Dứt khởi tưởng chúng sinh Sinh ra sự chân thật Do vậy nên vô cấu Xa lìa nỗi lo sợ Đã lìa những nỗi sợ Cho đến không còn sợ Đạt được đạo vắng lặng An ổn không gì hơn Biết đường ác bình đẳng Nhưng chẳng sinh sợ hãi Đạo ấy hiển hiện ngay Dứt những tưởng ta, tôi. Bồ-tát rõ pháp đó Gọi là Tu-đà-hoàn. Vì kẻ ưa pháp nhỏ Mà giảng nói như vậy Dùng phương tiện khéo léo Giảng nói về Phật pháp Kẻ buông lung với đạo Khiến lãnh hội pháp ấy Chư Phật, Bậc Đạo Sư Bỏ phương tiện mà nói Vì những người tu lâu Mong cầu đạo Tối thắng. Vì thế nên A-nan Ta nói Tu-đà-hoàn Các chúng sinh thông minh Thì hiểu được việc ấy. Vì thế nên A-nan Ta nói Tu-đà-hoàn Chúng sinh không thông minh Lầm phân biệt việc này. Những hạng tâm trí kém Khó lãnh hội mật ngữ Tâm ngu sinh tranh chấp Không hiểu nghĩa nhiệm mầu, Đầy đủ cả trăm pháp Nên gọi Tu-đà-hoàn Dùng tên Tu-đà-hoàn Hiểu bày các Phật pháp. Như thế, này A-nan! Đức Như Lai Đẳng chính Giác dùng năng lực phương tiện vì hàng Thanh văn mà nói các Đại Bồ-tát được gọi là Tu-đà-hoàn. KINH PHẬT THUYẾT QUẢNG BÁC NGHIÊM TỊNH BẤT THOÁI CHUYỂN LUÂN <卷 id="77333570">Quyển 3 Lại nữa, này A-nan! Vì sao Như Lai nói các Đại Bồ-tát được gọi là Tư-đà-hàm? A-nan nên biết! Các Đại Bồ-tát tu học theo trí tuệ Phật, hiểu rõ là giác ngộ chẳng từ các duyên sinh, vì trí không duyên mà mong cầu trí Phật, dùng các nhân duyên để mong đạt đến thiền định không có nơi chốn. Mong đạt đến trí tuệ Phật để thiêu đốt các phiền não, nhờ thiêu đốt các phiền não mà đạt được các pháp bình đẳng của Phật, mong cầu pháp chưa được như các Đức Phật Vô Thượng chính Đẳng chính Giác. Đại Bồ-tát tuy hóa độ chúng sinh nhưng bất động đối với chúng sinh, mong cầu bất động đối với cõi chúng sinh, có các chúng sinh tâm trí tuệ yếu kém, thường lo buồn khổ não không hiểu được pháp giới, Đại Bồ-tát muốn cho họ trụ trong trí tuệ nên cầu trí Phật. Đại Bồ-tát luôn tu tập các phẩm Căn, Lực, Giác, Giải thoát, chính định, vì để mình được giác ngộ trước, rồi giác ngộ cho chúng sinh. Mà mong cầu trí tuệ Phật, trí vận dụng này có công năng đưa đến đạo tràng, vì đạt được trí này mà cầu được mắt Phật, Phật trí, là mắt vô chướng ngại, không thể suy nghó bàn luận thường dùng mắt này làm lợi ích cho thế gian. Vì cầu mắt trí này cho nên mong đạt được trí tuệ hơn hết trong các trí tuệ cũng như đối với các lực dụng của nó, từ đó biết tất cả pháp là Như như, cũng gọi là không thật có. Trí tuệ ấy cũng như diệu dụng của nó nhằm khiến cho tất cả chúng sinh an trụ ở trong trí ấy, tức là trí tuệ không chấp tất cả pháp. Do sự việc như vậy nên đến cõi này, đến rồi thấy cõi chúng sinh là cõi chẳng thể nghó bàn. Cầu cõi này mà chẳng thấy mình được cõi này, thắc mắc chúng sinh từ đâu mà sinh, không biết chỗ sinh của chúng sinh, từ cõi chúng sinh có những tên gọi khác nhau. Khi quán sát pháp giới và cõi chúng sinh không thấy tướng khác nhau này, thấy cõi chúng sinh đều nhập vào pháp giới, thấy chúng sinh là đạo bình đẳng, đạo Phật pháp, là đạo chúng sinh không thật có, là đạo chúng sinh có trí bình đẳng. Đại Bồ-tát vì mong đạt đến trí tuệ không gì so sánh này, là thứ trí tuệ thanh tịnh, dứt sạch phiền não. Trí ấy là vô đắc nên không thể mong cầu đạt tới. Phải biết trí ấy là trí vô sở tri. Các Đại Bồ-tát nhờ trí này mà có khác nhau. Vì chưa đạt được trí tuệ ấy, vì mong đạt được trí tuệ ấy mà đến cõi này. Này A-nan! Do những việc ấy mà các Đại Bồ-tát được gọi là Tư-đà-hàm. Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa vừa nêu nên nói kệ rằng: Học theo trí các Phật Trí ấy không gì hơn Vì mong cầu trí Phật Đó gọi Tư-đà-hàm. Các nhân duyên đã nói Năng sinh ra Bồ-đề Vì nhân duyên như thế Cho nên đến cõi này. Thiền không chỗ đã nói Đốt cháy các phiền não Do đó đến cõi này Vì sinh Thiền này nên Pháp trước chưa chứng được Điều Nhất thiết trí hành Ta cũng muốn mong cầu Mà đến nơi cõi này. Bất động các chúng sinh Pháp giới cũng như vậy Vì không dời không động Cho nên đến cõi này. Khổ não, không trí tuệ Các chúng sinh lo buồn Muốn giúp chúng sinh ấy Trụ vô lượng trí Phật. Các Căn, Lực, Giác, Đạo Giải thoát và thiền định Tự giác và Giác tha Mà mong đạt trí Phật. Đến được chốn đạo tràng Pháp Phật trước đã hành Vì mong cầu pháp này Cho nên đến cõi này. Vì cầu trí như thế Mắt Phật không nghó bàn Vì cầu mắt như thế Cho nên đến cõi này. Các Phật Bậc Đạo Sư Thực hành phương tiện khéo Vì nhằm đạt trí ấy Hơn hết trong các trí. Cùng dụng lực trí đó Biết được các pháp như Trí này không thật có Làm sao cầu các pháp? Xin giúp nhiều chúng sinh An trụ trí vô thượng Cũng khiến người khác biết Cho nên đến cõi này. Đến rồi thấy chúng sinh Cõi ấy chẳng nghó bàn Là bậc Tư-đà-hàm Đến đây cầu chúng sinh Vì cầu cõi chúng sinh Chúng sinh không thật có Cho nên tuy đến cầu Cũng lại không thể biết. Không biết các chúng sinh Và cõi của chúng sinh Nếu biết được cõi này Biết chúng sinh khác nhau. Quán sát tất cả pháp Quán rồi không thật thấy An trụ trong tâm định Mà cầu các Phật pháp. Nếu đạt trí tịnh này tính không nhơ, thanh tịnh Cũng không đạt trí này Mà biết rõ sở tri. Vì các chúng sinh này Chứng đạt được trí này Gọi Bồ-tát không nương Cho nên đến cõi này. A-nan! Do lẽ đó Gọi là Tư-đà-hàm. Chúng sinh không trí tuệ Phân biệt lầm việc này. A-nan! Do lẽ đó Gọi là Tư-đà-hàm. Chúng sinh siêng tinh tấn Thì biết được việc ấy. Người trí hiểu sâu xa Quyết định đối pháp sâu Hiểu được nghĩa như thế Mau sinh ra Bồ-đề. Như thế, này A-nan! Như Lai Đẳng chính Giác dùng năng lực phương tiện vì hàng Thanh văn mà nói các Đại Bồ-tát là Tư-đà-hàm. Lại nữa, này A-nan! Vì sao Như Lai nói các Đại Bồ-tát là A-na-hàm? A-nan nên biết! Các Đại Bồ-tát đã vượt khỏi tạo tác phân biệt để đạt được các công hạnh của Phật, xa lìa tất cả các pháp đã thực hành, biết pháp không đến đi, của các pháp, đối với các pháp không có nương tựa, không có chấp đắm, do đó không đến cõi này. Vì sao? Vì cũng không thấy tướng đến đi của các pháp. Đại Bồ-tát đã vượt qua phàm phu, lìa khỏi ý tưởng phàm phu. Cũng lìa Phật tưởng, vượt cả pháp Vô sở trụ, không có nhân duyên có khả năng khiến mình phải trở lại con đường sinh tử. Vì sao? Vì đã đạt đến cõi vắng lặng. Đại Bồ-tát luôn xem các Đức Phật là Bậc Thầy dẫn dắt thế gian, nói pháp Thiền phàm phu không vãng sinh, lìa tất cả nơi chốn sinh tử, dứt hẳn ái dục, không tham đắm ăn uống, lìa các ý tưởng về vị trần, đạt tới giác ngộ, thấy rõ các nẻo tà kiến, không còn tham đắm, rõ sáu mươi hai kiến chấp tính đồng với Niết-bàn nên lìa các phiền não che lấp. Đại Bồ-tát xa lìa tất cả lỗi lầm đối với các pháp, thanh tịnh không còn cấu nhiễm. Chế phục kiêu mạn, nhổ mũi tên vô minh, dứt bỏ ái dục, không còn ham thích ái dục, đốt cháy các phiền não, lìa bỏ tất cả vọng tưởng, nhổ mũi tên lo buồn, lìa mạn, đại mạn, khéo nhận rõ các ấm nên được sự thông tỏ sáng suốt, nương theo Phật thừa không thể suy nghó bàn luận, đạt được thể tính của Đại Bồ-tát. Lìa khỏi bùn lầy ái dục, đạt đến nơi kho tàng sâu xa của các Đức Phật quá khứ, đó là kho tàng trí tuệ trên hết, không thêm không bớt, đạt được Phật thừa trên hết trong các thừa của tất cả chúng sinh, lìa tất cả hình tướng hữu vô, dứt bỏ tất cả nghi ngờ. Đại Bồ-tát thành tựu các pháp như vậy, không còn đến cõi này nên được gọi là A-na-hàm. Lại nữa, này A-nan! Đại Bồ-tát có nhân duyên đối với chúng sinh, khiến họ an trụ trong Bồ-đề. Làm thế nào để trụ? Đó là coi chúng sinh chính là Bồ-đề, Bồ-đề chính là chúng sinh, có khả năng giác ngộ tư tưởng của chúng sinh. Vì sao? Vì đã thông tỏ được tính các pháp là không, đã rõ cảnh giới chúng sinh tức là cảnh giới không thể suy nghó bàn luận cho nên có khả năng giác ngộ tư tưởng này, biết rõ cõi chúng sinh chính là cõi hư không, vì cõi hư không là không nên xa lìa cảnh giới chúng sinh. Cõi hư không lìa tính hư không, không có dừng trụ, cõi hư không cùng thể tính của hư không là không. Đại Bồ-tát đem các pháp như vậy khiến cho các chúng sinh hồi hướng về Bồ-đề. Vì sao? Vì đã rõ chúng sinh là cõi hư không, cõi chúng sinh đều nhập vào cõi hư không. Vì sao? Vì thể tính của chúng sinh, thể tính của các pháp đều nhập vào nhau. Vì sao? Vì tất cả đều là không thật có. Do không thật có cho nên không đến cõi này, vì thế gọi là A-na-hàm. Đối với tất cả các pháp không có hình tướng, số lượng, các Đức Phật đã vượt khỏi tất cả hình tướng, số lượng. Do những sự việc như vậy mà Đại Bồ-tát được gọi là A-na-hàm. Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa vừa nêu nên nói kệ rằng: Đã lìa, chẳng trở lại Cũng chẳng tu phần hạnh Đã lìa những phần hạnh Nên gọi A-na-hàm. Khéo biết tướng đến đi Chẳng nương tất cả pháp Không được thiếu nơi chốn Có thể đến cõi này Các Phật, Thầy dẫn đường Giảng nói thiền phàm phu Không còn đến cõi này Đó là A-na-hàm. Các pháp không tướng đến Tướng đi chẳng thật có Được tướng không đến, đi Đó là A-na-hàm. Bậc ấy không bao giờ Trở lại ba đường ác Đã được các pháp Phật Đó là A-na-hàm. Dứt hẳn tất cả dục Chẳng tham đắm ăn uống Đạt được đạo Bồ-đề Đó là A-na-hàm. Các kiến chấp đã nói Gồm sáu mươi hai thứ Lại chẳng trụ kiến chấp Nên gọi A-na-hàm. Các pháp không tính tướng Đã xa lìa tính tướng Vì biết rõ như thật Chẳng trở lại cõi này Nêu Niết-bàn vắng lặng Đốt cháy các phiền não Xa lìa được các tưởng Chẳng trở lại cõi này Đã bỏ các chỗ nạn Lìa bỏ các phiền não Đạt Niết-bàn an ổn Đó gọi A-na-hàm. Đã hàng phục ma ác Và quyến thuộc của chúng Không bị chúng làm động Đó gọi A-na-hàm. Đã nhổ tên vô minh Loại trừ các mối buộc Cùng dứt các ái kiết Đã tỏ rõ hỷ ái Đó gọi A-na-hàm. Đốt cháy các phiền não Cũng lìa tưởng ba cõi Quyết đạt quả Thắng diệu Đó gọi A-na-hàm. Đã nhổ tên lo buồn Dứt bỏ các kiêu mạn Khéo biết tướng năm ấm Đó gọi A-na-hàm. Đạt được sự sáng tỏ Phật thừa chẳng nghó bàn Xa lìa bùn ái dục Đó gọi A-na-hàm. Đạt được kho trí lớn Kho tàng của Phật trước Trên hết trong các kho Đó gọi A-na-hàm. Đã an trụ Vô thượng Đại thừa của các Phật Dứt hẳn các tâm nghi Đó gọi A-na-hàm. Duyên khắp các chúng sinh Đều giúp trụ Bồ-đề Vì kia trụ Bồ-đề Nên chẳng lại cõi này. Biết được các cõi không Cõi chúng sinh khó nghó Lìa các tưởng như vậy Đó gọi A-na-hàm. Biết được cõi chúng sinh Và vì pháp giới không Mọi chúng sinh không thật Đó gọi A-na-hàm. Tâm ấy lại chẳng cầu Chấp đắm tưởng ba cõi Đã đến chỗ vô tướng Đó gọi A-na-hàm. A-nan! Do lẽ ấy Gọi là A-na-hàm. Đem pháp không chỗ trụ Nên trụ trong Phật pháp. Cho nên, này A-nan! Như Lai Đẳng chính Giác dùng năng lực phương tiện vì hàng Thanh văn nói các Đại Bồ-tát là A-na-hàm. Lại nữa, này A-nan! Vì sao Như Lai nói các Đại Bồ-tát là A-la-hán? A-nan nên biết! Đại Bồ-tát lìa những tạo tác phân biệt mà tu tập theo hạnh Phật, cứu giúp tất cả chúng sinh, dứt bỏ các phiền não, nên vì các chúng sinh bị phiền não làm khổ mà cởi mở sự trói buộc của phiền não cho họ, nhưng chúng sinh không thật có nên cũng không bị phiền não trói buộc. Đạt đến như vậy gọi là A-la-hán. Lìa bỏ sở đắc trụ trong vô sở đắc, rõ tất cả là không, mà cái không ấy cũng là không nên thông đạt vô tướng, lìa bỏ các tướng, lìa bỏ các tưởng. Biết tưởng chúng sinh là pháp lỗi lầm, nên bỏ vô trí để đạt được pháp vô tâm, hiểu rõ pháp không nên được Bồ-đề, nên sinh Bồ-đề Phật không thể suy nghó bàn luận do đạt được như thế nên gọi là A-la-hán. Đại Bồ-tát nên giảng nói pháp như các Phật ba đời đã nói, đang nói sẽ nói. Pháp được giảng nói thảy đều vắng lặng, không có đùa bỡn, thanh tịnh không nhơ. Người thông đạt việc ấy gọi là A-la-hán. Nên giúp cho chúng sinh an trụ trong Bồ-đề, rõ tất cả pháp và Bồ-đề là không thật có mà cũng không đáng chấp, nên tu theo tâm Từ bi của Phật, không mê đắm lòng Từ bi đối với chúng sinh, đem tinh thần từ bi ấy duyên khắp các chúng sinh, nhưng chúng sinh không thật có, đã được lòng Từ đối với chúng sinh không thật có, nên gọi là A-la-hán. Đại Bồ-tát nên nói các pháp lợi ích cho chúng sinh, mà cũng không dấy tưởng về pháp và phi pháp, đối với các pháp ấy nên thực hành trước, đó gọi là A-la-hán. Nên vì chúng sinh mà nói về các phẩm Căn, Lực, Giác, Đạo, nhưng đối với pháp ấy không nhiễm, không đắm, nên gọi là A-la-hán. Nên giúp cho chúng sinh nhận biết nẻo giác ngộ thanh tịnh, khiến chúng sinh ấy sinh khởi sự giác ngộ, như thế nên gọi là A-la-hán. Không nên tham đắm lợi dưỡng của chúng sinh ở thế gian, nên vì chúng sinh nói không tham đắm pháp lợi dưỡng, vì nói pháp này nên gọi là A-la-hán. Đại Bồ-tát nên đến thế giới của các Đức Phật, nên thấy các Đức Phật như Phật thấy Phật, thấy thế giới Phật như thế rồi thì nên phát tâm dốc cầu đạt được thế giới như thế. Đó chính là thế giới không thể suy nghó bàn luận, thế giới không thể tính lường, thế giới không gì so sánh được, thế giới vô biên, thế giới không đùa bỡn, thế giới không thể dùng lời để diễn tả, thế giới không, thế giới vô tướng, thế giới vô tác, thế giới không thoái chuyển, thế giới lìa người nữ, thế giới không có dâm dục, thế giới không có phiền não, thế giới biện tài vô ngại của Phật, thế giới Bồ-tát, thế giới không chướng ngại, thế giới vô nhiễm, thế giới hàng ma, thế giới không có kẻ thù, thế giới Niết-bàn rốt ráo. Những thế giới này là trên hết trong tất cả các thế giới. Cầu được thế giới như thế, gọi là A-la-hán. Các pháp chưa sinh thì nên sinh khởi, nên gọi là A-la-hán. Đối với cảnh dục không nhiễm, đối với trường hợp đáng sinh giận tức mà không sinh giận tức, nên gọi là A-la-hán. Đối với trí Tập và trí Diệt vô thượng mau chóng thông đạt nên gọi là A-la-hán. Vì là A-la-hán nên gọi là giác ngộ và do đã giác ngộ nên gọi là A-la-hán. Bồ-đề là bất động, vì cõi chúng sinh bất động khiến cho trăm ngàn muôn ức chúng sinh an trụ trong đạo Bồ-đề, vì trụ trong đạo Bồ-đề nên gọi là A-la-hán. Tất cả chúng sinh và Bồ-đề đều sinh ra từ chỗ không phân biệt, nên dùng pháp bình đẳng này giáo hóa các chúng sinh, pháp bình đẳng này trong tất cả pháp không gì sánh được. Bồ-đề bình đẳng này từ không phân biệt sinh ra. Nên thông tỏ pháp ấy, đã được thông tỏ thì giảng nói cho chúng sinh nghe không thêm, không bớt, thành tựu pháp không thêm không bớt nên gọi là A-la-hán. Nên nói như thế, lìa pháp âm thanh nên gọi là A-la-hán. Đại Bồ-tát nên cởi mở sự chấp đắm của nhiều chúng sinh như thế. Đó là chấp đắm về chúng sinh không thật có. Chấp đắm chúng sinh đoạn, thường. Chấp đắm về thân kiến của chúng sinh. Chấp đắm về pháp không ai hơn. Chấp đắm về nhận thức các pháp là bất sinh bất diệt, vô vi vô tác. Chấp đắm về sắc không bị hủy hoại. Chấp đắm về thọ, tưởng, hành, thức không bị hủy hoại. Chấp đắm về pháp lìa bỏ pháp phàm phu. Chấp đắm về việc xây dựng pháp Phật. Chấp đắm về tưởng đối với bốn quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán. Chấp đắm ý tưởng đối với quả Bích-chi-phật. Chấp đắm về tưởng đối với Như Lai Đẳng chính Giác. Chấp đắm về tưởng đối với tâm Bồ-đề. Chấp đắm về thực hành bố thí vì Bồ-đề. Chấp đắm về tưởng giữ giới vì Bồ-đề. Chấp đắm tưởng thực hành Nhẫn nhục. Vì Bồ-đề chấp đắm về tưởng dứt bỏ biếng nhác thực hành Tinh tấn. Chấp đắm về tưởng đối với việc dứt tâm loạn tu tập Thiền định. Chấp đắm về tưởng đối với việc dứt trừ tuệ xấu ác, tu tập Trí tuệ. Chấp đắm đối với những người thân thương yêu mến như cha mẹ, vợ con, gái trai, anh chị em. Chấp đắm về việc muốn thấy những người thân yêu mến. Chấp đắm về việc thích bàn luận. Chấp đắm về việc phân biệt giữa pháp phiền não và pháp giải thoát. Chấp đắm về tham đắm lợi dưỡng. Chấp đắm về nhận thức tại gia, xuất gia. Chấp đắm các pháp hơn thua. Chấp đắm về xa lìa pháp phàm phu. Chấp đắm về việc duyên theo Phật pháp. Chấp đắm về việc thấy các pháp có trên dưới. Chấp đắm về đầy đủ các tướng phương tiện; chấp đắm về tưởng đối với thế giới của Phật và chúng sinh. Dứt trừ tất cả mọi thứ chấp đắm của chúng sinh như vậy nên gọi là A-la-hán, cũng không phân biệt chúng sinh này là pháp Niết-bàn, hay chúng sinh này chẳng phải pháp Niết-bàn, chúng sinh này có khả năng tạo ra các pháp, chúng sinh này không có khả năng tạo ra các pháp. Chúng sinh này thực hành Bồ-đề, chúng sinh này chẳng có khả năng thực hành Bồ-đề. Chúng sinh này giữ giới, chúng sinh này phá giới. Chúng sinh này phước nhiều, chúng sinh này phước ít. Không sinh hai kiến chấp như vậy nên gọi là A-la-hán. Cũng không phân biệt: chúng sinh này là ruộng phước, chúng sinh này chẳng phải là ruộng phước; chúng sinh này tinh tấn, chúng sinh này chẳng tinh tấn; chúng sinh này thấp kém, chúng sinh này thông minh, đây là người nữ, đây là người nam, đây là chẳng phải nam chẳng phải nữ, đây là pháp, đây là phi pháp. Không sinh hai kiến chấp như vậy gọi là A-la-hán. Cũng không phân biệt: chúng sinh này lui sụt Bồ-đề chúng sinh này không lui sụt Bồ-đề, chúng sinh này tự tại đối với Bồ-đề, chúng sinh này không được tự tại đối với Bồ-đề, chúng sinh này gần gũi Bồ-đề, chúng sinh này xa lìa Bồ-đề. Phát tâm như vầy: “Ta sẽ đạt đến Bồ-đề, nhập vào Niết-bàn vô dư. Tóm lại, vì bỏ tất cả các chấp đắm của chúng sinh nên gọi là A-la-hán.” Này A-nan! Bậc A-la-hán dứt bỏ các chấp đắm của chúng sinh như thế, lại vì chúng sinh mà nói thật tính của chúng sinh. Vì nói pháp như thế nên các vị Đại Bồ-tát được gọi là A-la-hán. Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa vừa nêu nên nói kệ rằng: Đã bỏ được tất cả Tất cả các phân biệt Vì bỏ được phân biệt Nên gọi A-la-hán. Dứt được các phiền não Trói buộc chúng sinh khổ Đều giúp được giải thoát Đó gọi A-la-hán. Xa lìa có sở tắc Trụ pháp Vô sở đắc Biết tất cả pháp không Đó là A-la-hán. Đã nhận rõ pháp không Cũng thông đạt vô tướng Xa lìa tất cả tướng Đó gọi A-la-hán. Nên hành hạnh tối thắng Là việc làm các Phật Độ thoát các chúng sinh Sinh tử hiểm nạn lớn Đã lìa tất cả tướng Biết lỗi tưởng chúng sinh Vì bỏ được các tưởng Đó gọi A-la-hán. Bỏ các tưởng vô tri Thông đạt pháp vô tâm Nhờ đã biết pháp không Đó gọi A-la-hán. Nên đạt được Bồ-đề Chẳng nghó bàn của Phật Nên siêng hành tinh tấn Đó gọi A-la-hán. Nên giảng nói các pháp Thanh tịnh không đùa bỡn Giúp chúng sinh trụ đạo Đó gọi A-la-hán. Nên dùng từ duyên khắp Giúp chúng sinh an vui Nhưng chúng sinh không thật Đó gọi A-la-hán. Nên giảng nói các pháp Là bậc nhất trong chúng Không tưởng pháp, phi pháp Đó là A-la-hán. Nên vì các chúng sinh Nói Căn, Lực, Giác, Đạo Chẳng nhiễm đắm pháp này Đó là A-la-hán. Nên giúp chúng sinh khác Tỏ ngộ pháp thanh tịnh Cũng sinh được Bồ-đề Đó là A-la-hán. Chẳng nên sinh tham đắm Mọi lợi dưỡng ở đời Vì không tham lợi dưỡng Đó là A-la-hán. Nên đến các thế giới Nghiêm tịnh của các Phật Nơi các Phật an trụ Nói pháp cho chúng sinh. Phải nên phát tâm này Cầu cõi trang nghiêm này Phải nên cầu cõi này Đó là A-la-hán. Đối dục chẳng đắm nhiễm Đáng giận cũng chẳng giận Rõ Bồ-đề bình đẳng Đó là A-la-hán. Đối trí diệt, trí tập Thông đạt tướng vắng lặng Vì được đạo Bồ-đề Đó gọi A-la-hán. Đối cõi các chúng sinh Không dời động chúng sinh Khiến nhiều ức chúng sinh Đều trụ đạo Bồ-đề Chúng sinh và Bồ-đề Từ không phân biệt sinh Biết được bình đẳng này Đó gọi A-la-hán. Trong mọi pháp bình đẳng Pháp này là trên hết Bình đẳng và Bồ-đề Từ không phân biệt sinh. Biết rồi, giảng người nghe Mà chẳng hề thêm, bớt Cũng từ pháp này sinh Đó là A-la-hán. Nên vì chúng sinh này Nói pháp không âm thanh Giải thoát nhiều chúng sinh Mà vẫn luôn bất động. Chúng sinh không thật có Và hai bên thường đoạn Vì trừ các tà kiến Khiến thoát mọi nỗi khổ. Chấp các pháp sinh, diệt Tướng vô vi, vô tác Các chúng sinh khổ não Do tưởng mà phân biệt. Không hủy hoại sắc ấm Đối thọ ấm cũng vậy Tưởng, hành cùng với thức Khiến lìa các chấp này Đối pháp phàm phu này Mà thấy có dời đổi Trụ Phật pháp, bất trụ Đều khiến được giải thoát. Chấp tưởng về các quả Tưởng Duyên giác cũng thế Nói pháp cho chúng sinh Khiến lìa tưởng chấp Phật. Chấp đắm tâm Bồ-đề Chấp về thí cũng thế Người chấp về giới, nhẫn Giảng nói pháp không đắm Chấp thủ tưởng biếng nhác Phân biệt hành tinh tấn Tâm định với tâm loạn Tuệ sai và tuệ đúng Không phân biệt pháp này Biết không có các tướng Phải nên nói như thế Đó gọi A-la-hán. Đắm chặt đối ngã tưởng Thanh văn nhiều phân biệt Vì dứt bỏ phân biệt Nên nói pháp cho nghe. Cha mẹ và vợ con Vô trí nên tham đắm Chẳng phải đạo Bồ-đề Là đi trong sinh tử Đó là anh em ta Chị em, tâm thương nhớ Dứt bỏ tham ái đó Nên gọi A-la-hán. Do vì khéo bàn nói Tâm kẻ khác dấy vui Phát tâm vui mạnh mẽ Ý khởi mong được thấy Trước sau các người thân Nếu lúc được gặp gỡ Xoay vần sinh ái chấp Vì vô trí điên đảo Thuộc ma, chẳng tự tại Xa lìa các lợi dưỡng Biết lỗi lầm lợi dưỡng Nên vì các chúng sinh Nói tội lỗi lợi dưỡng. Đây là pháp phiền não Đây là pháp giải thoát Chẳng chấp hai chấp này Đó là A-la-hán. Tham đắm các lợi dưỡng Không thể tự hiểu biết Dứt bỏ chấp đắm kia Đó gọi A-la-hán. Đây là pháp tại gia Đây là pháp xuất gia Phàm phu sinh phân biệt Nên cởi bỏ chấp kia Đối với tất cả pháp Mà thấy có thấp, cao Chấp là khí, chẳng khí Nên cởi bỏ chấp ấy. Xa lìa pháp phàm phu Mà duyên theo Phật pháp Nên nói pháp họ nghe Lìa chấp được, chẳng được Pháp lớn nhỏ chẳng bền Người như thế rất nhiều Nên cởi mở cho họ Chúng sinh tướng như thế Sinh ra các tướng tốt Việc ấy cũng rất nhiều Chỉ có người nhu hòa Dứt bỏ được tưởng kia Thế giới mầu các Phật Sinh khởi tâm tu tịnh Chấp tưởng thế giới ấy Phải nên dứt bỏ hết. Niết-bàn, chẳng Niết-bàn Sinh ra, chẳng thể sinh Đây hành đạo Bồ-đề Đấy chẳng cầu Bồ-đề. Giới tốt và giới xấu Có phước và không phước Mọi chúng sinh ngu, trí Sinh ra các thứ tưởng Các chúng sinh như thế Thường có rất nhiều tưởng Vì dứt bỏ tưởng này Nên nói pháp họ nghe Đó là ruộng phước tốt Đây chẳng phải ruộng phước Phân biệt pháp ngu, trí Việc ấy cũng rất nhiều. Chấp thủ tưởng về nữ Nên cũng phân biệt nam Là Thánh, là chẳng Thánh Phân biệt sinh nhị kiến Chúng sinh không tâm tuệ Sinh khởi hai kiến này Lại chấp trước vào đó Người chấp hai kiến này Nên phải mau dứt bỏ. Thoái chuyển, không thoái chuyển Hữu ký và vô ký Đó gần với Bồ-đề Đó chẳng gần Bồ-đề Đạt đến nẻo Bồ-đề Rốt ráo nhập Niết-bàn Hành các tướng như thế Phân biệt đối Niết-bàn. Chỉ có người nhu hòa Dứt bỏ tưởng chúng sinh Đó gọi A-la-hán. Cũng gọi bậc trừ tưởng Đó là pháp Bồ-tát Thuyết gọi A-la-hán Nếu thấy bản duyên này Biết là A-la-hán. Như thế, này A-nan! Như Lai Đẳng chính Giác dùng năng lực phương tiện vì hàng Thanh văn mà nói các Đại Bồ-tát là A-la-hán. Lại nữa, này A-nan! Vì sao Như Lai nói các Đại Bồ-tát đều là Thanh văn? A-nan nên biết! Các Đại Bồ-tát dùng âm thanh pháp Phật, dùng âm thanh pháp chẳng thể nghó bàn, dùng âm thanh pháp vắng lặng Bồ-đề, dùng âm thanh pháp không đùa bỡn, dùng âm thanh pháp thanh tịnh vô cấu, khiến cho vô lượng, vô biên không thể tính kể chúng sinh đều được nghe, nên gọi là Thanh văn, lại dùng âm thanh pháp Niết-bàn an vui không gì sánh bằng, âm thanh pháp Niệm xứ, chính cần, Thần túc, Căn lực, Giác, Đạo… khiến cho nhiều chúng sinh mau siêng năng cần cầu, nên gọi là Thanh văn. Nói thân này là không, chẳng phải pháp bền chắc, bền chắc không thật có, kẻ phàm phu si mê căn trí thấp kém nên tham đắm thân này, vì họ mà nói âm thanh giải thoát. Lại nói về cái mà nhãn nhập thấy đều là luống dối, ứng theo mắt của sinh Phật, mắt pháp chẳng thể suy nghó bàn luận, dùng mắt Phật khiến cho nhiều chúng sinh không có âm thanh mê lầm. Lại nói âm thanh các pháp không có tướng sinh, nên gọi là Thanh văn. Lại nói âm thanh được dụ như tiếng vang, chẳng nên đối với âm thanh mà sinh đắm nhiễm, không có người nghe, cũng không có người nói. Đối với mùi không có ý tưởng về ngửi, không có người ngửi mùi. Như người trong mộng thấy mình ngửi nhiều mùi hương, nhưng thật ra không có mùi hương, cũng chẳng có người ngửi mùi hương, vì điên đảo nên nghó là có ngửi mùi, mùi hương này cũng như việc trong mộng, không đáng tin, cũng không bền chắc. Âm thanh để nói pháp này gọi là Thanh văn. Lại nói thiệt nhập cũng như cục thịt, không biết được về vị. Cục thịt này giống như chùm bọt nước không có thực. Tưởng về vị như thế không thể suy nghó bàn luận cảnh giới của vị là vô tâm, lìa các tâm pháp không nên sinh tâm, biết tâm là tướng không trụ. Âm thanh nói pháp như vậy khiến chúng sinh nghe, gọi là Thanh văn. Lại đối với pháp này biểu hiện rõ ràng, âm thanh thấy như thế nào thì có khả năng giảng nói. Lại nói thân này là không, vô tướng, vô tính, do vô tướng cho nên không sinh, cũng không có pháp sinh ra. Vì nhiều chúng sinh mà nói tiếng pháp Bồ-đề này gọi là Thanh văn. Lại nói ý nhập là không, không thật có, cũng không tự tính, giống như cảnh huyễn, chẳng sinh chẳng diệt. Nói ra pháp thanh ấy gọi là Thanh văn. Lại nói pháp thí chẳng thể suy nghó bàn luận, pháp này có công năng chứng được Bồ-đề, Bồ-đề không thể suy nghó bàn luận, Pháp thí cũng không thể suy nghó luận bàn. Vì sao? Vì như hạt giống, quả trái cũng như thế, trong đó không có quả, chỉ dùng âm thanh mà nói có quả. Lại nói về thí tài thấp hèn, thí pháp cao thượng dứt bỏ tâm keo lận, không hề phân biệt, không sinh ý tưởng về bố thí. Giống như nhà ảo thuật đối với vật huyễn hóa ra không có phân biệt. Như vậy, vì không có tâm phân biệt mà thực hành bố thí có công năng sinh ra Bồ-đề. Thuyết giảng về pháp thanh như vậy gọi là Thanh văn. Pháp thanh ấy lìa tất cả lời nói, dứt hẳn các phiền não, vượt qua mọi lời nói, lìa các đắm nhiễm, dùng âm thanh ấy vì các chúng sinh giảng nói Phật pháp. Vì sao? Vì đó là âm thanh trên hết trong tất cả các thứ âm thanh nên dùng âm thanh này để giảng nói Phật pháp. Âm thanh ấy không thể phá hoại, cũng không hề nương tựa, vì được sinh ra từ không hai, không khác. Như chỗ sinh ra mà nói Phật pháp không hai không khác. Cho nên A-nan! Các vị Đại Bồ-tát dùng pháp thanh như thế khiến cho các chúng sinh nghe gọi là Thanh văn. Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa vừa nêu nên nói kệ rằng: Dùng âm thanh của Phật Trên hết, chẳng nghó bàn Khiến nhiều chúng sinh nghe Bồ-tát là Thanh văn Nên vì nhiều chúng sinh Nói Bồ-đề vắng lặng Thanh tịnh không đùa bỡn Đó gọi là Thanh văn. Giảng nói Niết-bàn vui Vui ấy không gì sánh Cũng nói tướng vắng lặng Đó gọi là Thanh văn. Giảng Niệm xứ, chính cần Căn, Lực và Giác, Đạo Mau sinh ra pháp này Đó gọi là Thanh văn Nói thân này là không Chẳng thể nào bền chắc Vì những kẻ phàm ngu Nói rõ tướng thân này, Lại nói về nhãn nhập Thấy gì đều luống dối Các chúng sinh vô trí Thấy gì cũng đắm nhiễm. Nên sinh khởi mắt Phật Mắt bình đẳng khó lường Đối với pháp vô sinh Cũng chẳng sinh mê đắm Như âm thanh tiếng vang Biết tai cũng như vậy Trong đó, không người nghe Cũng lại không người nói. Do dứt mọi tướng ấy Không người nghe, người nói Chẳng nên sinh đắm nhiễm Chỉ bày các chúng sinh Đó gọi là Thanh văn. Như người đang nằm mộng Mũi ngửi các mùi hương Chỉ do điên đảo sinh Kỳ thực chẳng thật có Nên biết mũi như thế Không thể ngửi huơng kia Vì chúng sinh điên đảo Bồ-tát nói như thế Nói thiệt là không, vô Cục thịt chẳng biết vị Nếu thịt mà biết vị Thì tay đụng nên biết. Giảng nói về tưởng ấy Tưởng vị nhiều lỗi lầm Nên biết cảnh giới vị Là chẳng thể nghó bàn Bồ-tát chẳng nương tựa Mà hiện thấy rõ ràng Giảng nói pháp hiện thấy Đó gọi là Thanh văn. Giảng về thân như vậy Là không, không tính tướng Vì không, không tính tướng Không sinh, không pháp sinh Bồ-đề cũng như thế Không sinh, không pháp sinh Vì nhiều chúng sinh nói Nên gọi là Thanh văn. Nói tính tướng ý nhập Kỳ thật không thật có Nói pháp không thật có Nên gọi là Thanh văn. Giảng nói pháp bố thí Pháp thí khó nghó bàn Thí này sẽ sinh ra Bồ-đề Phật vô thượng. Thí tài là thấp kém Pháp thí là cao thượng Dứt bỏ tâm keo lận Đạt đến quả Bồ-đề. Lìa âm thanh nói năng Dứt các thanh phiền não Lìa các thanh đắm nhiễm Thanh không nhơ, thanh tịnh. Thanh nhiệm mầu trên hết tính thanh ấy vắng lặng Dùng thanh vắng lặng này Nói pháp Phật khó nghó Thanh này chẳng thể hoại Cũng không chỗ nương tựa Nói không hai không khác Nên gọi là Thanh văn. Dùng âm thanh như thế Giảng pháp các Phật nói Tùy âm thanh mà nói Mà cầu đạo Bồ-đề. Thường giảng nói người nghe Nghiêm tịnh thế giới Phật Bậc Đạo Sư vô thượng Nơi các Phật an trụ. Nói cõi tam thiên này Như hư không mà trụ Các chúng sinh như không Đều đồng tướng Niết-bàn. Nói ra bốn mươi bốn Khiến chúng sinh khác nhau Thảy đều như hư không Không nghó, không phân biệt. Cõi này cũng như vậy Chớ nghó là bền chắc Trong đó, không sinh tử Không phiền não để dứt. Trong sinh, không pháp sinh Cũng không có chúng sinh Vì đều là vắng lặng Nên không người sinh ra Thường nói chúng sinh nghe Đêm ngày không đoạn dứt Mà không dấy niệm này: “Ta vì chúng sinh nói.” Thanh văn biết như vậy Cũng vì chúng sinh nói Không nghe, không người nghe Đó gọi là Thanh văn. Tâm ý luôn mạnh mẽ Giảng nói pháp trên hết Nếu biết rõ pháp này Cũng biết các pháp như. Thanh văn nói như vậy Không nhiễm, không hữu lậu Cũng vì nhiều chúng sinh Nói pháp không đắm nhiễm Nếu biết pháp dứt nhiễm Thanh tịnh, không đùa bỡn Ở trong pháp các Phật Muốn thấy không thấy được Pháp do các Phật nói Xa thì không thấy được Gần cũng lại không có Mà người lại thấy được. Thanh văn nói pháp này Khiến nhiều chúng sinh tin An trụ trong pháp này Nên gọi là Thanh văn. A-nan do lẽ ấy Ta nói là Thanh văn Nên biết Thanh văn đó Là Bồ-tát không nương. Cho nên, này A-nan! Như Lai Đẳng chính Giác dùng năng lực phương tiện vì hàng Thanh văn nói các Đại Bồ-tát được gọi là Thanh văn. Lại nữa, này A-nan! Vì sao Như Lai nói các Đại Bồ-tát là Bích-chi-phật? A-nan nên biết! Đại Bồ-tát đối với tất cả pháp đều hiện thấy rõ ràng, vì hiện thấy rõ ràng nên biết được pháp Phật. Đối với các pháp không thêm không bớt, tỏ ngộ tất cả pháp không có thêm bớt. Hiện thấy rõ ràng các pháp được gọi là Bích-chi-phật. Tức là tỏ ngộ tất cả các pháp không thể nghó bàn, tỏ ngộ tất cả chúng sinh đều đồng với Niết-bàn, đều không thật có, chẳng sinh chẳng diệt, vì chẳng sinh chẳng diệt nên đó chính là cảnh giới thật, cảnh giới Niết-bàn, cảnh giới chúng sinh, tất cả các pháp không thật có cảnh giới, tuy gọi là cảnh giới nhưng không thể nói về cảnh giới, không dựa vào lời nói, không thể dùng lời nói để diễn đạt. Vì sao? Vì lời nói là không, không được tự tại. Lời nói không thể biết cảnh giới chúng sinh và cảnh giới của các pháp, hiện thấy rõ ràng, tỏ ngộ cảnh giới này gọi là Bích-chi-phật. Hiện thấy sắc ấm, vì dùng lời nói nên gọi là sắc ấm. Mà sắc ấm này vốn không có nói năng, vì lìa nói năng nên chỉ dùng lời nói để gọi là sắc ấm, trong đó không có ngã và cái của ngã. Vì sao? Vì lời nói và người nói, cả hai đều không, không được tự tại, chẳng sinh chẳng diệt. Lời nói là vô tri thì làm sao có thể nói đây là sắc ấm, thọ, tưởng, hành, thức ấm? Cũng nên hiện thấy rõ ràng như vậy. Hiện thấy về thức ấm, vì dùng lời nói nên gọi là thức ấm, nhưng thức ấm này không có nói năng, vì lìa nói năng nên, chỉ dùng lời nói mà gọi là thức ấm, trong đó ngã và cái của ngã đều không có. Vì sao? Vì lời nói và người nói cả hai đều không, không được tự tại, chẳng sinh chẳng diệt, lời nói là vô tri thì làm sao có thể nói đây là thức ấm? Đối với năm ấm này, lời nói các duyên đều hiện thấy rõ ràng gọi là Bích-chi-phật. Vì sao? Vì ấm, lời nói, các duyên này thì duyên này vô duyên, chẳng phải duyên ấy có thể biết được. Này A-nan! Các Đại Bồ-tát này gọi là Bích-chi-phật. Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa vừa nêu nên nói kệ rằng: Hiện thấy tất cả pháp Biết pháp Phật cũng thế Dứt tranh, chẳng thể hoại Rốt ráo không có tướng. Hiện thấy tất cả pháp tính, tướng thảy đều không Nếu biết tính, tướng ấy Rốt ráo không thật có Đã được nhận thức ấy Không khác với pháp ấy Đó gọi là chính giác Bích-chi-phật khó lường. Chúng sinh như Niết-bàn Khởi đầu không thật có Chỗ vô thủy vô chung Đó gọi cảnh giới thật Chúng sinh như Niết-bàn Rốt ráo là không sinh Nếu pháp không có sinh Gọi đó là Niết-bàn. Chúng sinh như Niết-bàn Cũng có các chiếu dụng Chiếu dụng không có ngã Nên gọi là Niết-bàn Chúng sinh như Niết-bàn Đặt ra nhiều tên gọi Không sinh cũng không diệt Dùng lời nói diễn đạt. tính lời nói là không Lời nói không biết gì Vì không biết gì nên Chúng sinh là Niết-bàn. Lời nói không tự tại Vô ngã, không có tâm Do ngôn thuyết vô tính Rốt ráo không thật có. Lời nói không mé nương Cũng lại không chỗ trụ Điều lời nói trình bày Khó nghó cõi chúng sinh Cõi chúng sinh, Niết-bàn Chẳng nghó bàn cõi thật An ổn, không đùa bỡn Chỗ nương tựa trên hết. Giống như cảnh điện chớp Chính là cõi chúng sinh Không duyên, không nơi chốn Cõi thật chẳng nghó bàn. Ranh giới tất cả pháp Không có các tên gọi Dùng tên gọi để gọi Chốn ấy không thật có. Cõi thật không thể gọi Cũng không thể biết được Cõi chúng sinh vô ngã Nên biết cõi ấy không. Lời nói không chốn nương Lời nói không chỗ nêu Nếu biết được điều ấy Không có cõi chúng sinh Lời chẳng tự tại, không Lời chẳng biết các cõi Lời được người nói ra Khó nghó cõi chúng sinh. Các cõi như vậy thảy Thông tỏ thảy như như Tự nhiên biết rõ được Đó gọi là chính giác Bích-chi-phật khó lường. Hiện thấy về năm ấm Dùng tên gọi để gọi Ấm này không nói năng Vì thường lìa lời nói Xa lìa sự hiểu biết Hiểu biết là tính lường Bỏ được hiểu biết này Là không có chỗ trụ. Cái gọi là sắc ấm Sắc ấm không có ngã Lời chẳng tự tại, không Rốt ráo chẳng sinh diệt. tính lời nói đã nói Rốt ráo không thật có Vì không thật có nên Gọi tên là sắc ấm. Thọ, tưởng cũng như vậy Hành, thức cũng như thế Vì không có, lời nói Gọi tên là năm ấm. Ấm này chẳng thể nói Cũng lại chẳng thể đoạn Chẳng sinh cũng chẳng diệt Không chỗ, chẳng vô thường. Chẳng phiền não, giải thoát Chẳng báo, cũng chẳng nghiệp Chẳng giữ cũng chẳng bỏ Chẳng đùa bỡn, vắng lặng. Cũng chẳng Xa-ma-tha Chẳng Tỳ-bà-xa-na Chẳng ham nhiều, biết đủ Chẳng tinh tấn, biếng nhác. Chẳng động cũng chẳng hối Cũng không có thêm, bớt Không được pháp sinh ra Có thể dùng làm giới Không tu, không phân biệt Giảng nói không phân biệt Không sợ, không tranh chấp Không buộc, cũng không mở. Do đó vào lời nói Lời nói không chỗ nhập Lời nói và nói pháp Không lời nói mà nói. Tự mình hiện thấy được Nói pháp vô cùng tận Nương pháp chính định ấy Chẳng đắm mọi lời nói. Có trí hiện thấy này Biết lời nói bình đẳng Như nói năng các pháp Dùng không lời để nói Đã được hiện thấy này Nên đạt được tự tại Không còn theo người khác Đó gọi là chính giác Bích-chi-phật khó nghó. Lại nữa, này A-nan! Các Đại Bồ-tát hiện thấy vô minh và vô minh hành, không dấy tưởng chấp, biết tự tính của thức, biết tự tính của danh sắc, biết tự tính của lục nhập, biết tự tính của xúc, biết tự tính của thọ, biết tự tính của ái, biết tự tính của thủ, biết tự tính của hữu, biết tự tính của sinh, biết tự tính của già chết. Đối với các pháp này hiện thấy rõ ràng gọi là Bích-chi-phật. Lúc này, Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa vừa nêu nên nói bài kệ sau đây: Nhận thức về vô minh Rốt ráo chẳng hề sinh Như bóng dưới đáy nước Đầu, cuối không thật có Thấy rõ tất cả pháp Không có tướng dao động Nếu thấy pháp như vậy Nên gọi là thông sáng. tính sáng như hư không Tất cả pháp đều thế Nếu nhận thức được vậy Đó gọi Bích-chi-phật. Như nói hành thân này Là không ở bên trong Cũng không ở bên ngoài Hành thân này không sinh. Hành thân như cây chuối. Rốt ráo không bền chắc Chẳng sinh cũng chẳng diệt tính ấy như hư không. Các Bồ-tát không sợ Nếu được nhận thức ấy Đó gọi là chính giác Bích-chi-phật khó lường. Biết rõ tất cả pháp tính chất là như huyễn Cũng tin hiểu sâu xa Biết tính không thật có. Quán sát thức như vậy Mọi tạo tác đều vọng Do rõ được như thế Biết tính thức là không. Đã biết trí, chẳng trí Tất cả chỗ không nhiễm Nếu biết pháp như vậy Nên thức đồng với huyễn. Như nói các danh sắc Vô thọ, không thể nói Biết rõ tính, tướng ấy Rốt ráo không thật có Nói được tính các nhập Mà không có tướng chấp Biết nhập được như vậy Vì đó là tính không. tính xúc đâu cũng có Có mặt trong các nhập Khi quán sát lúc này Như huyễn, không thật có. tính xúc vốn tự không Vì phân biệt nên biết Nhưng tính các xúc này Chỗ trụ không nơi chốn. Nếu hiện thấy được xúc Người trí xa lìa được Có tuệ xa lìa xúc Đó gọi Bích-chi-phật. Biết tướng thọ là không Thọ cũng không tự tính Như bọt không bền chắc Rốt ráo không thật có Đã đoạn tất cả ái Thông đạt pháp vô ái Đã đến chỗ ái hết Đó gọi Bích-chi-phật. Biết thủ không chỗ thủ Cũng biết thủ là không Chẳng sinh, không thật có Như trời nóng lửa nóng Xưa nay các tưởng hữu Và vốn có tưởng sinh Nếu rõ tính tưởng này Rốt ráo không thật cóù. Đã lìa tất cả già Thì không còn phải chết Ở mọi nơi mọi chốn Không còn thọ thân nữa. Đã được nhận thức ấy Nên không có chỗ nương Gọi là Bích-chi-phật Giảng nói các Bồ-tát. Như thế, này A-nan! Như Lai Đẳng chính Giác dùng năng lực phương tiện vì hàng Thanh văn nói các Đại Bồ-tát được gọi là Bích-chi-phật. Như thế, này A-nan! Các Đức Phật Như Lai nói các Đại Bồ-tát được gọi là Kiên tín, Kiên pháp, tám bậc, Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Thanh văn, Bích-chi-phật. Bấy giờ, Tôn giả A-nan nói kệ rằng: Bậc Đạo Sư tự tại Chẳng thể nói mà nói Trong không trung tạo buộc Cũng trong không mà mở. Phật có phương tiện lớn Giảng nói pháp không đắm Đối pháp không thể nói Mà phân biệt giảng nói. KINH PHẬT THUYẾT QUẢNG BÁC NGHIÊM TỊNH BẤT THOÁI CHUYỂN LUÂN <卷 id="77333571">Quyển 4 Lúc bấy giờ, Tôn giả A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Tất cả chúng sinh ở thế gian đều sinh nghi ngờ không thể hiểu rõ, vì sao Như Lai Đẳng chính Giác nói về, Kiên tín, Kiên pháp, cho đến Bích-chi-phật? Phật bảo A-nan: –A-nan nên biết! Nếu có chúng sinh đối với các hạnh lành mà các Đức Phật quá khứ đã thực hành mà hiểu được mật ngữ của Như Lai thì sẽ không sinh tâm nghi ngờ. Vì sao? Vì biết mật ngữ của Như Lai như huyễn, như ánh lửa khi trời nóng, như cảnh trong mộng, như bóng, như tiếng vang. Này A-nan! Người biết mật ngữ như thế sẽ không sinh tâm, nghi ngờ. Cho nên, này A-nan! Các Đại Bồ-tát đối với mật ngữ của Như Lai Đẳng chính Giác nên biết như thế. Nếu có người siêng năng thực hành mà không thấy mình tinh tấn, siêng năng tu tập trí tuệ mà không thấy mình được trí tuệ thì không sinh tâm nghi ngờ. Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa vừa nêu nên nói kệ rằng: Các Phật dẫn dắt đời Nói mật ngữ khó biết Phát khởi trang nghiêm lớn, Không khác Bồ-tát nói. Kẻ trí kém, biếng lười Chẳng hiểu được mật ngữ Phải nên siêng tinh tấn Mới mong thấu đạt được. Như huyễn, cảnh trong mộng Như ánh chớp, tiếng vang Dùng lời nói hiển bày Các pháp như vậy thảy. Biết các Phật như thế Lời mật ngữ nói ra Dùng trí tuệ như thế Soi sáng trí vi mật. Chẳng nên biết như thế Bồ-đề có thể nói Nên giác biết như vầy: Vô ngôn ngữ nên không Không chẳng thể biết không Không, chẳng phân biệt không Dứt tất cả phân biệt Hiển bày không như thế Hư không chẳng chỗ chấp Cũng không có lấy, bỏ Cho nên, biết pháp không. Phật bảo A-nan: –Nếu biết pháp hữu vi như thế đều như mộng mà không buông lung thì không sinh tâm nghi ngờ. Khi Đức Phật nói pháp này, có năm ức Tỳ-kheo phát tâm Kiên tín, liền đứng dậy, sửa sang y phục để trần vai bên phải, gối bên phải quỳ sát đất, nhất tâm chắp tay đều cùng hòa hợp, đứng trước Phật nói kệ: Hôm nay Đức Mâu-ni Dứt tâm nghi chúng con Được hiểu nghĩa vi mật Để tin cầu Bồ-đề. Lại có năm ức vị Tỳ-kheo phát tâm Kiên pháp, nghe các Tỳ-kheo nói bài kệ ấy liền đứng dậy chắp tay, đứng trước Phật, nói kệ: Nay nhờ ánh Bồ-đề Chiếu trừ mọi nghi tối Được hiểu nghĩa vi mật Kiên pháp cầu Bồ-đề. Lại có mười ức vị Tỳ-kheo phát tâm tám bậc, nghe các Tỳ-kheo nói kệ ấy liền đứng dậy, hòa hợp đứng trước Phật, nói kệ: Trước trụ tâm tám địa Hôm nay đều dứt bỏ Hiểu được nghĩa vi mật Tám bậc cầu giác ngộ. Lại có mười một ức vị Tỳ-kheo phát tâm Tu-đà-hoàn, nghe các Tỳ-kheo nói kệ ấy liền đứng dậy, hòa hợp đứng trước Phật, nói kệ: Nay đối với pháp Phật Xé rách được lưới nghi Rõ mật ngữ của Phật Giảng nói Tu-đà-hoàn. Lại có hai muôn năm ngàn vị Tỳ-kheo phát tâm Tư-đà-hàm, nghe các Tỳ-kheo nói kệ ấy liền đứng dậy, hòa hợp đứng trước Phật, nói kệ: Chúng con vốn đắm nhiễm Chí cầu Tư-đà-hàm Nay lìa được đắm nhiễm Vắng lặng, không đùa bỡn. Lại có năm trăm ức vị Tỳ-kheo phát tâm A-na-hàm, nghe các Tỳ-kheo nói kệ ấy liền đứng dậy, hòa hợp đứng trước Phật, nói kệ: Nay gặp Đấng Cứu Thế Xa lìa các đùa bỡn Được ánh Bồ-đề chiếu Dứt sạch mọi tưởng quả. Lại có ba vạn năm ngàn ức vị Tỳ-kheo được bốn Thiền phát tâm A-la-hán, nghe các Tỳ-kheo nói kệ ấy liền đứng dậy, hòa hợp ở trước Phật, nói kệ: Con đã lìa phiền não Thông đạt pháp không khác Biết các thừa bình đẳng Thảy đều như huyễn hóa. Lại có hai vạn vị Tỳ-kheo sinh tâm Thanh văn nghe các Tỳ-kheo nói kệ ấy liền đứng dậy hòa hợp ở trước Phật nói kệ: Đấng Mâu-ni lìa buộc Dứt nói luống cho con Thầm nói nghĩa Thanh văn Nay con đều thông đạt. Lại có năm ngàn vị Tỳ-kheo phát tâm Bích-chi-phật, nghe các Tỳ-kheo nói kệ ấy liền đứng dậy hòa hợp ở trước Phật, nói kệ: Nay chúng con nhận rõ Việc làm Bích-chi-phật Hiểu mật nghĩa của Phật Bích-chi-phật khó lường. Lại có một muôn vị Tỳ-kheo-ni sinh tâm đối với bốn quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, nghe các Tỳ-kheo nói kệ ấy liền đứng dậy hòa hợp ở trước Phật, nói kệ: Nay biết pháp bình đẳng Lìa hẳn thân người nữ Phật không nói lời khác Bậc nhất trong loài người. Lại có tám muôn tám ngàn vị Ưu-bà-tắc phát tâm đối với các quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm nghe các Tỳ-kheo nói kệ ấy liền đứng dậy hòa hợp ở trước Phật, nói kệ: Tâm chúng con không nhiễm Trong như ngọc lưu ly Vì tu hành Phật pháp Hôm nay xin xuất gia. Bấy giờ, trong hư không có sáu mươi ức na-do-tha các vị trời rải hoa Mạn-đà-la cõi trời xuống chỗ Phật để cúng dường, cùng đứng nói kệ: Vốn có các tưởng thừa Và những tưởng các quả Hôm nay đều dứt bỏ Chắc chắn thành Bồ-đề. Lúc này, có hàng trăm ngàn A-la-hán như Tôn giả Xá-lợi-phất, Tôn giả Đại Mục-kiền-liên, Tôn giả Tu-bồ-đề, Tôn giả A-nê-lư-đầu, Tôn giả Ly-bà-đa, Tôn giả Kiếp-tân-na. Liền đứng dậy, sửa lại y phục bày vai áo bên phải, gối phải sát đất, nhất tâm chắp tay cùng hòa hợp đứng trước Phật, bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Hôm nay chúng con chí nguyện đã đầy đủ, hàng phục được ma quân, oán địch, thành tựu đầy đủ năm nghiệp vô gián. Hôm nay chúng con đã thành tựu đầy đủ công đức của năm thứ dục lạc, hôm nay chúng con đầy đủ tà kiến, xa lìa chính kiến. Hôm nay chúng con đã hại trăm ngàn thân mạng chúng sinh. Hôm nay chúng con đã được Bồ-đề, ngay trong Vô dư Niết-bàn hôm nay được nhập Niết-bàn. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn im lặng không nói gì. Khi ấy, trong hội có trăm ngàn chúng sinh đều sinh tâm nghi ngờ, cho rằng chúng ta đang ở trong sự mờ tối, vì sao các vị đại A-la-hán lại nói như vậy, huống chi là hàng phàm phu! Do tâm nghi ngờ nên đại chúng người ở chỗ này không thể đi đến chỗ kia, người ở chỗ kia không thể đi đến chỗ này, người ngồi không thể đứng dậy, người đứng thì không thể ngồi xuống. Lúc này, Tôn giả A-nan biết rõ điều nghi ngờ trong tâm trăm ngàn chúng sinh nên nương theo thần lực Phật hỏi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử: –Hiện tại trong đại chúng này có trăm ngàn chúng sinh nghe các Đại đức Tỳ-kheo nói những lời vừa rồi nên sinh tâm nghi ngờ, Đức Thế Tôn im lặng không nói gì. Vậy kính mong Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói rõ về việc ấy, do đâu mà các Đại đức Tỳ-kheo đã thốt lên những lời khó hiểu như vậy? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp: –A-nan nên biết! Đây là việc không thoái chuyển nơi quả vị Bồ-đề, chỉ có các vị Bồ-tát không còn thoái chuyển mới chứng biết được những lời nói khó hiểu của các vị Đại đức Tỳ-kheo. A-nan hỏi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi: –Có phải các Đại đức Tỳ-kheo này đều là những vị Bồ-tát không còn thoái chuyển chăng? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp: –Đúng như vậy! Các vị Đại đức Tỳ-kheo này đều là Bồ-tát đều không còn thoái chuyển đối với đạo Bồ-đề. Tôn giả A-nan thỉnh Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi: –Mong Bồ-tát giải thích ý nghĩa những lời nói khó hiểu của các Đại đức Tỳ-kheo. Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: –Vô minh có công năng sinh ra sinh tử, cho nên gọi là mẹ. Vì dứt bỏ vô minh nên gọi là hại mẹ. Cha là chỉ cho sự tư duy không chính đáng và sự hỷ ái, cho nên dứt bỏ sạch những thứ ấy gọi là hại cha. Dùng các pháp không thể phá hoại làm phương tiện phá hoại các tưởng chấp của chúng sinh, cũng phá hoại các hành gọi là hoại Tăng. Nên phá hoại pháp phàm phu gọi là A-la-hán. Dùng phương tiện bất diệt để diệt tưởng chấp về A-la-hán gọi là giết A-la-hán. Dùng phương tiện bất diệt để diệt trừ tưởng chấp về Như Lai gọi là làm cho thân Phật chảy máu. Các tướng như vậy đã đoạn trừ, đã hủy bỏ hết không còn sót một chút nào. Này A-nan! Vì lý do ấy mà các Đại đức Tỳ-kheo nói: “Hôm nay chúng con thành tựu đầy đủ năm nghiệp vô gián.” Vì sao? Vì đối với pháp này chẳng tụ chẳng tan, không giảm không đầy, do đó mà gọi là đã thành tựu đầy đủ năm nghiệp vô gián. A-nan nên biết! Các vị ấy nói là: “Hôm nay chúng con đã thành tựu đầy đủ công đức của năm thứ dục lạc, vì các Tỳ-kheo ấy đối với năm thứ dục lạc đã biết rõ chúng như mộng như huyễn, như ngọn lửa lúc trời nóng, như hình bóng, như tiếng vang. Các vị ấy đã thành tựu đầy đủ trí này nên đối với năm thứ dục lạc không thêm không bớt. Vì sao? Vì biết pháp này rốt ráo không thật có. Vì không thật có, nên biết đúng như thật đối với pháp ấy được pháp nhẫn như thế. Do đó mà gọi là thành tựu đầy đủ công đức của năm thứ dục lạc.” Này A-nan! Vì lý do đó mà các Đại đức Tỳ-kheo đã nói: “Hôm nay chúng con thành tựu đầy đủ công đức của năm thứ dục lạc.” A-nan nên biết! Các vị ấy nói: “Hôm nay chúng con thành tựu đầy đủ tà kiến, xa lìa chính kiến.” Các vị Tỳ-kheo ấy biết các pháp tà kiến là các pháp tà. Này A-nan! Tà gọi là hữu vi. Các pháp đều là luống dối, pháp luống dối ấy cũng giống như hư không, không thêm không bớt, cũng chẳng có nơi chốn, cũng không bị lệ thuộc. Vì sao? Vì các pháp ấy xa lìa tự tính. Các vị ấy biết các pháp đều bình đẳng, vì bình đẳng nên chính kiến cũng bình đẳng, các vị ấy đã lìa bỏ cái tưởng chấp về bình đẳng ấy. Vì sao? Vì nếu có ý tưởng về bình đẳng thì sẽ có tưởng về chẳng bình đẳng. Các Tỳ-kheo ấy không có ý tưởng bình đẳng và không bình đẳng. Vì sao? Vì các pháp của các Đức Phật lìa tất cả tưởng. Các vị đó, đối với pháp Phật đã thông đạt vô sinh, tức là pháp vô đắc, vô sinh. Cho nên, này A-nan! Các Đại đức Tỳ-kheo ấy nói rằng hôm nay chúng con đã thành tựu đầy đủ tà kiến, xa lìa chính kiến. A-nan nên biết! Các vị ấy nói: “Hôm nay chúng con đã giết hại nhiều trăm ngàn thân mạng chúng sinh.” Này A-nan! Tức là các vị ấy muốn cho trăm ngàn chúng sinh, các vị trời, người, hiện có trong chúng hội này thấy rõ các pháp hữu vi đều như huyễn, như hình bóng, như tiếng vang. Biết được các pháp như thế thì lìa được tưởng chúng sinh, về thọ mạng, về người, tưởng lìa tất cả các pháp. Vì tất cả pháp không thể gieo trồng cho nên phương tiện gieo trồng căn lành Bồ-đề. Các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di nghe các Tỳ-kheo nói lời khó hiểu ấy cũng lìa được tưởng chúng sinh, tưởng thọ mạng, về người, chẳng còn bị trôi lăn trong sinh tử. Vì sao? Vì nếu chấp trước về các tưởng: chúng sinh, thọ mạng, người, thì phải chịu trôi lăn trong sinh tử. Các vị đó đã xa lìa pháp như thế nên rốt ráo không sinh. Cho nên, này A-nan! Các Tỳ-kheo ấy nói rằng hôm nay chúng con đã hại nhiều trăm ngàn mạng căn chúng sinh. A-nan nên biết! Các vị ấy nói: “Hôm nay chúng con đã đạt được Bồ-đề, ở trong Niết-bàn Vô dư mà nhập Niết-bàn.” Này A-nan! Các Tỳ-kheo ấy muốn giúp cho trăm ngàn muôn ức na-do-tha các vị trời người trong đại chúng này, ngay trong ngày hôm nay sẽ lìa khỏi các phiền não, đạt đến nẻo giác ngộ. Vì sao? Vì các đại chúng này đều phát tâm Vô thượng chính đẳng chính giác, mà hôm nay nghe nói Pháp cú kim cang, đều được pháp Nhẫn vô sinh, được thấy Bồ-đề. Vì lẽ ấy mà các Đại đức Tỳ-kheo nói: “Hôm nay chúng con đã được Bồ-đề, hôm nay chúng con ở trong Vô dư Niết-bàn mà nhập Niết-bàn.” Các vị ấy không dứt bỏ phiền não, không tu Phật pháp, không dứt bỏ các phiền não khác. Cho nên, này A-nan! Các Tỳ-kheo ấy nói là hôm nay chúng con đã đạt đến giác ngộ, ở trong cảnh giới Vô dư Niết-bàn mà nhập Niết-bàn. A-nan nên biết! Nói là “hôm nay” tức là ở ngay ngày này không sinh cũng không có cái sinh ra, nên gọi là hôm nay. Cho nên A-nan! Các vị thiện nam, thiện nữ cầu Bồ-tát thừa phát tâm Vô thượng chính đẳng chính giác, đối với tất cả pháp nên loại bỏ dần các pháp không thật có để phát tâm Bồ-đề”, đối với tất cả pháp gọi là “lìa bỏ tưởng Bồ-đề” đối với tất cả pháp gọi là: “Nhập Vô dư Niết-bàn mà nhập Niết-bàn.” Này A-nan! Các vị trong dòng họ của Như Lai cầu Bồ-tát thừa chẳng nên đắm sâu ý tưởng về ngày, không nên vì có mặt trời mà sinh tưởng là ngày. Này A-nan! Kẻ ngu tối thấy mặt trời thì tưởng ban ngày, đó không phải là hạng có trí tuệ. Vì sao? Vì nếu ban ngày là chân thực, là chắc chắn, là luôn luôn tồn tại thì phải có một sự chứa nhóm, không qua đi, chỉ có ngày mà không có đêm. A-nan nên biết! Có tưởng chấp về ngày đêm thì đó là hạng phàm phu. Cho nên, này A-nan! Các vị trong dòng họ của Như Lai cầu Bồ-tát thừa phải có tâm sâu xa, được các Thiện tri thức giúp đỡ, chẳng nên dấy tưởng về ngày đêm. Vì sao? Vì mong đạt đến nẻo giác ngộ thì phải lìa bỏ tất cả tưởng chấp. Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi muốn lặp lại ý nghĩa vừa nêu nên nói kệ rằng: Vô minh gọi là mẹ Sinh ra sự sinh tử Nhổ sạch cội rễ chúng Đó chính là làm hại. Không quán đúng, suy nghó Hỷ, ái, gọi là cha Thảy đều biết như thật Rốt ráo không thật có. Vì biết không thật có Mà dứt mọi gốc rễ Không duyên, không thật có Đó chính là làm hại. Pháp La-hán đã nói Cùng với pháp phàm phu Đã dùng trí tuệ hủy Đó chính là làm hại. Tất cả các thứ tưởng Đã biết rõ tính, tướng Dùng pháp chẳng thể hại Hoại tướng gọi hoại Tăng. Điều xưa nay phân biệt Các pháp tưởng Như Lai Đã đoạn và xa lìa Biết rõ không sinh diệt. Tưởng ấy lần lượt khởi Suy nghó biết là không Như bình đẳng đã nói Đã chứng biết được rồi Công đức dục đã nói Có năm thứ tên gọi Xa lìa các tưởng này Biết tưởng đều như huyễn. Các vị Tỳ-kheo này Đối dục không thêm, bớt Ở trước Bậc Đạo Sư Mà nêu bày như vậy. Biết tính dục đều không Như cảnh thấy trong mộng Rốt ráo chẳng thật sinh Trí này được đầy đủ Hiểu pháp bằng trí tà Luống dối không bền chắc Tà gọi là luống dối Trí này được đầy đủ Pháp hữu vi luống dối Mà chẳng có xa gần Vô tri, không gần xa Như tay rờ hư không. Kia nói các chính kiến Đều thấy là bình đẳng Như các pháp bình đẳng Tri kiến thảy cũng thế. Phàm phu nhiều phân biệt Tưởng chúng sinh nên chết. Nếu không có chúng sinh Cũng không có tưởng chết Các chúng sinh có duyên Dứt tưởng chấp thọ mạng Biết lỗi chấp thọ mạng Dứt bỏ tưởng như thế. Xa lìa tưởng chúng sinh Và tưởng chấp thọ mạng Các vị nói như vầy: Hại nhiều mạng chúng sinh Đã xa lìa tưởng chết Được pháp không phân biệt Biết Bồ-đề chẳng hoại Không thêm, không quả báo. Tử sinh không đáng chấp Tỏ ngộ pháp thanh tịnh Mọi pháp không tranh chấp Không sinh, thường vắng lặng Không nên phân biệt ngày Cũng không phân biệt đêm Đối pháp chẳng đến, đi Mà mong đạt giác ngộ Phàm phu thường phân biệt Cho mặt trời là ngày Người mong được giác ngộ Chớ sinh tâm phân biệt Nêu bày những mật ngữ Các vị dùng mật ngữ Giảng nói các pháp ấy Vì đã rõ pháp ấy Nên nói lời như thế. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử nói xong bài kệ, lúc ấy trong hội có trăm ngàn chúng sinh nhổ sạch được mũi tên nghi ngờ, không còn nghi ngờ mà đều được sáng tỏ, nên đối với các pháp được pháp Nhẫn vô sinh. Do đó các vị đều cởi những tấm áo quý giá đang mặc trên người dâng lên Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử và cùng thưa: –Chúng tôi xin nguyện ở đời vị lai cũng được nói về pháp mầu này để giác ngộ chúng sinh, giống như Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử đã giác ngộ chúng sinh vậy. Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi: –Lành thay, lành thay! Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đã dứt bỏ được tâm nghi ngờ của chúng sinh, làm sáng tỏ pháp Phật. Pháp nên như thế! Lúc bấy giờ, A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Nay tất cả các mũi tên nghi ngờ của trăm ngàn chúng sinh này chúng hội có phải đã được Thế Tôn nhổ sạch chăng? Phật bảo A-nan: –Giờ đây, trăm ngàn chúng sinh này đều do Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi giáo hóa thành tựu Bồ-đề, nên khi nghe Bồ-tát nói pháp thì họ đều kính tin và hiểu rõ. A-nan lại hỏi Phật: –Các chúng sinh ấy đều không thoái chuyển đối với đạo Bồ-đề phải không? Phật bảo A-nan: –Đúng vậy, các chúng sinh này không thoái chuyển đối với đạo Bồ-đề. Vì sao? Vì họ đều được Thiện tri thức Văn-thù-sư-lợi giúp đỡ khuyến khích. Lúc bấy giờ, Tôn giả A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Các Tỳ-kheo này đã phát tâm Kiên tín, phát tâm Kiên pháp, phát tâm tám bậc, phát tâm Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, phát tâm Thanh văn, phát tâm Bích-chi-phật, không còn lui sụt đối với đạo Bồ-đề chăng? Phật bảo A-nan: –Việc ấy khó tin, vì có những chúng sinh ưa thích các pháp nhỏ, biếng nhác lười trễ, kiêu mạn, không siêng năng tinh tấn, tham đắm ăn uống, mê say dục lạc, gần gũi những người thích làm những pháp dục nhiễm, ưa bàn nói những lời vô ích. Tâm thì thường tán loạn, mất chính niệm, không có uy nghi. Tâm ý luôn lăng xăng, các căn không nhiếp phục, lao chao đùa bỡn, ngu bướng lắm lời. Những chúng sinh như vậy rất khó kính tin pháp này. Này A-nan! Lại còn có những kẻ chấp đắm tăng thượng mạn, không thể giữ thân, tham đắm thân mạng, xa lìa nơi vắng lặng, không chịu học rộng, kiêu mạn phá giới, hủy pháp, trộm pháp, không tôn trọng pháp, huỷ diệt chính pháp, nghèo nàn, pháp tài, ưa thích phi pháp, phỉ báng chính pháp, thích làm những việc phi pháp, chẳng biết ân nghĩa, không báo đáp ân nghĩa, không kính Phật, Pháp, Tăng. Này A-nan! Những chúng sinh như thế kính tin pháp này rất khó tâm keo lận, tâm chấp đắm sâu chặt vào tà giới, tâm tức giận, không hiểu pháp Phật, đầy đủ pháp ác, nghèo nàn trí tuệ, xa lìa bạn lành, cấu kết với bạn xấu, không chịu tu tập theo pháp Bát-nhã ba-la-mật nên không được sự che chở của các pháp Tổng trì cũng như các kinh điển chủ yếu, sinh khởi kiến chấp thấy mình có chứng đắc, coi trọng lợi dưỡng, tham đắm y bát, đối với các vật y bát rất sinh tâm xem trọng, chẳng biết tôn kính các bậc Hòa-thượng, A-xà-lê vào lúc đầu hôm, gần sáng không siêng năng thực hành phương tiện. Này A-nan! Những chúng sinh như thế tin pháp này rất khó, lại còn những kẻ sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, hai lưỡi, ác khẩu, nói năng không đúng lúc, tham lam, tức giận, tà kiến, gần gũi tà kiến, tu hành nhiều pháp phương tiện sai lạc, không biết hổ thẹn, giao du kết bè kết lũ, tách riêng một mình, không theo các pháp của hàng Sa-môn, làm những pháp không đúng với Sa-môn, chẳng tin vào các pháp không, vô tướng, vô tác, vô vi, bất sinh, bất diệt, tất cả các pháp, chẳng phải tướng phá hoại. A-nan nên biết! Những chúng sinh như vậy thì khó có thể tin pháp này. Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói lời ấy rồi liền im lặng. Tôn giả A-nan nương uy thần Phật, hỏi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, vì sao Đức Thế Tôn im lặng không nói? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp: –Chúng sinh ở vào đời ác năm trược thời tương lai có đầy đủ các pháp ác, bất thiện như vậy, chẳng thể tin hiểu pháp sâu xa, vì lý do ấy nên Đức Thế Tôn im lặng. Tôn giả A-nan lại hỏi: –Chúng sinh đời sau ít có người tin hiểu pháp ấy chăng? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp: –Đúng là chúng sinh đời vị lai ít có người tin được pháp này, Giống như chúng sinh, người không biết châu báu thì nhiều, còn người biết thì rất ít. Vì sao? Vì năng lực hiểu biết của họ không đủ để lãnh hội giá trị của các món châu báu đó. Này A-nan! Chúng sinh cũng như thế, nghe nói pháp này thì người tin hiểu rất ít, nếu có những người tin hiểu pháp đó thì không được dân chúng trong các thôn xóm, thành ấp của đất nước tôn kính. Dân chúng trong nước đều cùng xem thường mà xa lìa. Vì sao? Vì những người ấy đời trước đã gây ra những nghiệp xấu ác, do nhân duyên đó mà đời bây giờ phải chịu quả báo như thế. Tôn giả A -nan hỏi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi: –Kính mong Bồ-tát hãy vì số ít chúng sinh tin hiểu ấy mà nói rộng thêm về ý nghĩa. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: –Việc này nên hỏi Phật, Phật sẽ giảng nói. Tôn giả A-nan liền hỏi Phật. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nhìn khắp bốn phương, rồi hiện ra tướng lưỡi che phủ khắp tam thiên đại thiên thế giới. Từ tướng lưỡi rộng lớn ấy phát ra ánh sáng chiếu sáng khắp hằng hà sa thế giới trong mười phương. Lúc này, bốn bộ chúng nhờ thần lực Phật đều trông thấy các Đức Phật, Thế Tôn ở hằng hà sa thế giới trong mười phương, các Đức Thế Tôn này đều nói về pháp ấy và bốn bộ chúng đều được nghe, nghe xong đều hòa hợp khuyến thỉnh Đức Thế Tôn: –Cúi mong Thế Tôn hãy giảng nói pháp ấy, khiến cho không bị dứt mất. Bạch Thế Tôn! Trong các thế giới ở mười phương hiện giờ, vô lượng, vô biên không thể tính kể các Đức Phật, Thế Tôn trong các thế giới đó đều giảng nói pháp ấy, chúng con đều được thấy nghe, pháp do các Ngài giảng nói không thêm, không bớt chẳng khác gì Thế Tôn hiện giờ đang giảng nói. Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền thu hồi tướng lưỡi lại và bảo A-nan: –Ông có thấy những người nào chuyên nói lời dối trá mà được tướng lưỡi dài rộng chăng? A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Không hề có việc ấy, đó là nhờ Đức Thế Tôn thành thực nói về các pháp giới, định, nhẫn nhục, luôn thể hiện lòng Từ, Bi, Hỷ, Xả đối với muôn loài, thương xót đem lại lợi ích cho chúng sinh, được đến Nhất thiết trí nên mới hiện ra tướng lưỡi rộng lớn như vậy. Cho nên, bạch Đức Thế Tôn! Cúi mong Đức Thế Tôn hãy vì số ít chúng sinh nam nữ trong dòng họ của Như Lai mà giảng rõ về ý nghĩa ấy. Nhờ đó mà những người chưa tin sẽ nhờ đó, mà chứng biết và sẽ phát khởi lòng tin. Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo A-nan: –Hiện giờ bốn chúng đều đến nhóm họp, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, cùng với tám chúng là Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân… nghe được pháp ấy đều không còn lui sụt trên đường tiến đến quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác, lần lượt tu hành sẽ chứng được quả Vô thượng chính đẳng chính giác, sẽ ở nơi cõi này mà giảng nói pháp này, không có thêm bớt, chẳng khác gì như nay ta đang giảng nói vậy. Lúc này, bốn chúng đệ tử cùng tám bộ chúng là Trời, Rồng, Dạ-xoa… thảy đều vui mừng hớn hở vô lượng, nên có người thì tung những tấm y quý giá lên để cúng dường Phật, người khác thì tung rải hoa, hoặc dùng các xâu chuỗi đủ loại: hoa Tu-ma-na vàng, bạc, tỳ-lưu-ly, pha-lê, xa-cừ, mã não, san hô, báu nhật quang, bảy thứ báu lẫn lộn… nói chung là đủ các thứ xâu chuỗi quý giá như vậy để tung rải lên chỗ Phật cúng dường. Các vị trời thì tung rải các loại hoa như: Mạn-đà-la, Ma-ha mạn-đà-la, Ba-lưu-sa, Ma-ha ba-lưu-sa, Mạn-thù-sa, Ma-ha mạn-thù-sa, Ca-ca-lặc-ki, Ma-ha ca-ca-lặc-ki, Lư-già-ma-na-nó… lên chỗ Phật cúng dường. Lại tung rải các thứ hoa như Ưu-bát-la, hoa Câu-vật-đầu, hoa Ba-đầu-ma, hoa Phân-đà-lợi… cõi trời để cúng dường. Trên hư không vang lên tiếng kỹ nhạc, cùng các thứ tán tụng, khen ngợi công đức của Phật. Các vị vua rồng thì tung rưới các loại ngọc trai quý giá lên chỗ Phật, tất cả những người nữ thì cởi những xâu chuỗi ngọc anh lạc đeo trên mình tung lên cúng dường, hoặc dâng lên Phật những y phục quý giá, rồi thì tất cả mọi người đều sửa lại y phục, gối bên phải quỳ sát đất, nhất tâm chắp tay đứng trước Phật, đều hòa hợp bạch Phật: –Chư Phật, Như Lai lời nói không hai, trí tuệ không chướng ngại, thọ ký cho chúng con chắc chắn sẽ thành Phật. Bấy giờ, Đức Phật bảo A-nan: –Đúng thế, này A-nan! Những vị nữ nhân này đều không còn lui sụt trên đường tiến đến quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác. Vì sao? Vì các Đức Phật, Thế Tôn là những bậc đã dứt hẳn si mê tham dục, tức giận và các thứ kiêu mạn cấu uế tối tăm, cũng như tất cả nhiễm đắm. Các Đức Phật, Thế Tôn đã đốt sạch các thứ phiền não, đầy đủ tinh tấn, đầy đủ năng lực, uy đức tôn nghiêm, thần túc tự tại, ánh sáng chiếu soi, đầy đủ quyến thuộc, oai thế tôn quý, dòng họ nơi chốn đều đầy đủ, tướng tốt đầy đủ, ánh sáng đầy đủ, được đến chỗ yên ổn, như Đế Thích, như Phạm thiên, như các vị được tôn quý trong cõi Dục. Uy nghi đầy đủ, giới hạnh đầy đủ quán sát đầy đủ, được các vị Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân đều tôn trọng cung kính, khen ngợi không nhiễm pháp thế gian, bỏ hẳn tất cả các pháp hữu vi, đầy đủ giải thoát, pháp của các Phật, thấy nghe không luống dối. A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Vì sao sự thấy nghe của họ đối với các Đức Phật, Thế Tôn không luống dối? Đức Phật hỏi: –Ông không hiểu rõ điều ấy sao? A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Con thật không biết. Kính xin Thế Tôn nói rõ vì sao mà sự thấy nghe của họ đối với Như Lai không hề luống dối? Phật bảo A-nan: –Ông hãy nhất tâm khéo lắng nghe, bây giờ ta sẽ giải thích. A-nan nên biết nếu có chúng sinh đã nghe, đang nghe, hay sẽ nghe danh hiệu Phật Thích-ca Mâu-ni, thì các chúng sinh không còn thoái chuyển trên đường tiến đến quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác. Vì sao? Vì sự giác ngộ của các Đức Phật không hề luống dối, cũng không có tham dục, tức giận. Này A-nan! Chỉ được nghe tên thôi mà còn được như vậy, huống chi hiện tại đang ở trước Phật rải một bông hoa lên cúng dường Phật. Cho nên sau khi ta nhập Niết-bàn, nếu có chúng sinh nào đối với hình tượng hay xá-lợi Phật mà cầm một cành hoa cúng dường thì chúng sinh ấy cũng không còn thoái chuyển trên đường tiến đến quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác. A-nan bạch Phật: –Nếu như loài súc sinh được nghe danh hiệu Phật Thích-ca Mâu-ni thì loài súc sinh ấy đã gieo trồng hạt giống nhân duyên đối với đạo Vô thượng chính đẳng chính giác phải chăng? Phật bảo A-nan: –Nếu có súc sinh nghe danh hiệu Phật Thích-ca Mâu-ni thì đó là súc sinh ấy đã gieo trồng hạt giống nhân duyên đối với đạo Vô thượng chính đẳng chính giác. Vì sao? Vì chúng sinh ấy đã được nghe danh hiệu các Đức Phật Như Lai, thì việc nghe ấy không hề luống dối, cho nên các Đức Phật, Như Lai không nói hai lời. Này A-nan! Ví như cây Ni-câu-đà cành lá um tùm, có thể che bóng mát cho trăm người đến năm trăm người. Vậy theo ý ông thì cây con ấy lúc mới đem trồng lớn hay nhỏ? A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Cây con đó rất nhỏ. Phật bảo A-nan: –Cây Ni-câu-đà này lúc mới đem trồng tuy nhỏ, nhưng nhờ các duyên như đất, nước, gió, sức nóng, hư không nên được lớn lên và dần dần trở nên cao lớn. Này A-nan! Như vậy thì các chúng sinh kia gieo trồng hạt giống Bồ-đề cũng dần dần lớn lên, cho đến sẽ đạt đến quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác và sự vun trồng hạt giống Bồ-đề ấy không thể bị mục nát, không thể bị hư hoại. Vì sao? Vì không trụ trong tất cả pháp mà gieo trồng hạt giống, cho nên không thể bị mục nát, không thể bị hư hoại. Bấy giờ, A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Đó là nhờ năng lực bản nguyện của các Đức Phật hay nhờ pháp của các Đức Phật mà được như vậy? Phật bảo A-nan: –Đó là do bản nguyện của ta: Nếu có chúng sinh nào nghe danh hiệu ta thì chắc chắn không còn lui sụt trên đường tiến đến quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác. Mà cũng nhờ pháp của các Đức Phật mà được như vậy. Vì sao? Vì tất cả pháp của các Đức Phật đều bình đẳng. A-nan bạch Phật: –Nếu pháp của các Đức Phật là bình đẳng thì vì sao còn phải lập thệ nguyện? Phật bảo A-nan: –Khi các Đức Phật, Thế Tôn giảng nói các pháp, thì các Đại Bồ-tát trong chúng hội nghe Phật nói pháp liền lập thệ nguyện: Rằng mình về sau cũng thành Phật, nói pháp, thấy nghe không luống dối cũng như thế. Bấy giờ, A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Thật kỳ diệu thay, đã thành tựu được pháp ít có như vậy, lại dùng pháp ấy để làm lợi ích cho chúng sinh. Phật bảo A-nan: –Đúng thế, đúng thế, đúng như lời ông vừa nói! Ta vì làm lợi ích cho các chúng sinh, nên đã ở khắp các cõi Phật cúng dường các Đức Phật không hề tiếc rẻ thân mạng mình, xả bỏ tất cả mọi vật không chút tiếc bỏn sẻn, siêng tu tinh tấn, chứa nhóm các pháp khó được và đạo Bồ-đề không chỗ nương tựa, đối với tất cả pháp không hề chấp đắm, để nhiếp phục chúng sinh. KINH PHẬT THUYẾT QUẢNG BÁC NGHIÊM TỊNH BẤT THOÁI CHUYỂN LUÂN <卷 id="77333572">Quyển 5 Lúc bấy giờ, Tôn giả A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Thật là điều ít có, Ma vương Ba-tuần nghe Thế Tôn nói pháp này mà không đến quấy phá. Phật bảo A-nan: –Vì bọn chúng không nghe nên không đến quấy nhiễu. Vì sao? Vì Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử đã dùng thần lực ẩn che khiến chúng không nghe được, cho nên không đến quấy nhiễu. Lúc này, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử liền thu hồi thần lực. Ác ma Ba-tuần đang ngủ, chợt nghe pháp âm mới lạ nói về pháp không thoái chuyển, cũng nghe danh hiệu Phật Thích-ca Mâu-ni nên hoảng hốt thức giấc, buồn bã lo sợ, khắp mình nổi ốc, liền từ trên giường xuống đất, nói: –Các chúng sinh trước kia bị ta hàng phục thì bây giờ họ không còn chịu sự hàng phục của ta, lãnh thổ trước kia của ta nay không còn là của ta nữa! Ác ma ba-tuần lo buồn khổ não, cất tiếng kêu khóc, do đó mà thân hình biến thành già ma ốm yếu một ông lão trăm tuổi. Bấy giờ, Ác ma Ba-tuần tập hợp bốn thứ binh cùng các thiên ma trong khắp tam thiên đại thiên thế giới, tất cả cùng kéo đến chỗ Đức Phật nói pháp, giống như hồi Đức Phật mới thành đạo, ngồi nơi gốc cây Bồ-đề chúng cũng đã rầm rộ kéo tới quấy phá như vậy. Khi ấy, ác ma Ba-tuần nặng nhọc lê tấm thân già nua ốm yếu, chống gậy lần bước đến chỗ Phật. Cùng lúc ấy, đám ma binh và quyến thuộc dàn ra nơi hư không, nghe Pháp âm không thoái chuyển và nghe danh hiệu Phật Thích-ca Mâu-ni khiến cả bọn đều dừng lại không thể tiến lên phía trước, bèn nghó: “Chúng ta không còn lệ thuộc Ma vương Ba-tuần nữa.” Thế là Ma Ba-tuần chỉ còn đơn độc một thân gầy đến trước Phật bạch: –Bạch Thế Tôn! Tôi hiện chỉ còn một mình, chẳng còn được một kẻ tay chân nào để hầu hạ giúp sức, các chúng sinh trước kia bị tôi hàng phục bây giờ họ không còn chịu sự hàng phục của tôi, lãnh thổ trước kia của tôi nay không còn là của tôi nữa, Thế Tôn thương xót tất cả chúng sinh, mà hiện tại tôi cũng nằm trong số chúng sinh đó, sao Thế Tôn không rủ lòng thương xót mà giúp cho tôi một người phục dịch nước nôi chẳng hạn. Đức Phật bảo Ma vương Ba-tuần: –Thế giới chúng sinh rất nhiều, là pháp vô tận, Ba-tuần nên biết, giả sử mỗi ngày có hằng hà sa số Đức Phật ra đời, mỗi Đức Phật trong mỗi ngày hóa độ cho hằng hà sa số chúng sinh, giúp họ đạt đến Niết-bàn cả thì cõi chúng sinh cũng không bao giờ hết. Ma vương Ba-tuần lại thưa: –Thế giới chúng sinh tuy nhiều như vậy nhưng hiện nay tôi đơn độc chỉ một thân một mình, lại già nua ốm yếu, giá như trên đường đi mà bị vấp té thì cũng không có một ai giúp đỡ. Cúi mong Đức Thế Tôn hãy an ủi, giúp đỡ để tôi được vui mừng mà trở về cõi trời. Phật bảo ma Ba-tuần: –Ngươi cứ an tâm, nếu có chúng sinh nào không tin, không hiểu pháp không thoái chuyển này, thì những chúng sinh ấy đều thuộc về ngươi, đều là quyến thuộc của ngươi, ngươi được tự do sai khiến họ, họ đều là kẻ giúp đỡ ngươi. Ma vương Ba-tuần nghe Đức Phật nói như vậy vui mừng hớn hở nghó: “Nay ta sẽ gây sự trở ngại cho chúng sinh, khiến đối với pháp này không tin, không hiểu, sinh tâm nghi ngờ, vì sinh ngờ nên họ sẽ thuộc về ta, ta tự do sai khiến họ.” Nghó đoạn, Ma vương Ba-tuần bạch Phật: –Cúi mong Thế Tôn an ủi bảo ban cho tôi một lần nữa, để tôi được vui mừng mà trở về cõi trời. Phật đã dạy: “Nếu có chúng sinh nào nghe danh hiệu ta thì đối với đạo Vô thượng chính đẳng chính giác không còn thoái chuyển.” Vậy xin Thế Tôn từ nay trở đi đừng nên nói pháp ấy nữa. Vì sao? Vì nếu có chúng sinh nào nghe được lời này thì họ sẽ siêng năng thực hành tinh tấn cầu đạo giác ngộ của Phật. Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Ma vương Ba-tuần: –Ngươi hãy an tâm, ta sẽ khiến cho các chúng sinh không còn an trụ trong đạo Bồ-đề, cũng không có người nào ra khỏi thế giới chúng sinh, không có chúng sinh nào lìa sắc ấm, lìa thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm, thức ấm. Này Ma vương Ba-tuần! Ngươi cứ an tâm, ta thường khiến cho các chúng sinh không có người nào lìa bỏ kiến chấp về thân, lìa giới thủ, kiến thủ, lìa bỏ sở đắc, lìa sáu mươi hai kiến chấp, lìa tưởng quá khứ, hiện tại, vị lai, lìa sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, thêu dệt, nói lời độc ác, hai lưỡi, tham lam, sân giận, tà kiến. Này Ba-tuần! Ngươi cứ an tâm, ta sẽ không dạy chúng sinh thực hành Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ. Cũng không dạy chúng sinh thực hành bốn Nhiếp pháp, cũng không khiến chúng sinh lìa bỏ các tưởng chấp: về chúng sinh, về bỏn sẻn tham đắm, về cha mẹ, về anh em, chị em, nam nữ, về ngày đêm, về nửa tháng, một tháng, một năm, lìa Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ, về phát tâm Bồ-đề, về Lực, Vô úy, về các phẩm Căn, Lực, Giác, Đạo, về Phật, Pháp, Tăng, về chướng ngại Bồ-đề, về Nhất thiết chủng trí. Này Ba-tuần! Ngươi hãy yên tâm ta sẽ khiến cho chúng sinh đối với tất cả các pháp đều không có ý tưởng xa lìa. Lúc này, Ma vương Ba-tuần vui mừng hớn hở, đã nhổ được mũi tên phiền não, liền hiện lại nguyên hình như trước, dùng các thứ hoa trời tung rải lên chỗ Phật để cúng dường, lại đi nhiễu quanh Phật ba vòng rồi đứng trước Phật nói kệ rằng: Hôm nay Bậc Lưỡng Túc Nói âm thanh nhiệm mầu Phật không nói hai lời Khiến tôi rất vui mừng. Ma vương Ba-tuần nói kệ xong, vui mừng an tâm, lui dần khỏi chỗ Phật rồi trở về cõi trời, cùng với đám thân thuộc vui thích với năm thứ dục lạc, không còn dấy tâm quấy nhiễu nữa. Lúc Phật vừa nói xong pháp hàng phục đuổi trừ các ma thì mặt đất rung chuyển sáu cách. A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà mặt đất rung chuyển như vậy? Đức Phật dạy: –Do ta nói xong pháp hàng phục đuổi trừ các ma, có đến sáu muôn bốn ngàn vị Bồ-tát đối với pháp ấy được pháp Nhẫn vô sinh. A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Hiện giờ trong chúng hội này có vị nào nghi ngờ pháp này hay không? Phật bảo A-nan: –Hiện giờ trong chúng hội này có mười ức chúng sinh đều sinh tâm nghi ngờ, tâm ý các vị ấy mê mờ cho rằng: Những lời như thế e rằng chúng ta đã nghe lầm chăng? Vì lý do ấy mà họ ngơ ngác không hiểu gì, cũng không tự biết mình từ nơi nào đến và định đi về đâu, vì nghi ngờ cho nên rốt cuộc họ không hiểu biết gì cả. A-nan bạch Phật: –Cúi mong Thế Tôn khởi tâm Từ bi vì các chúng sinh ấy mà mau làm cho họ được sáng tỏ, đừng để cho họ vì nghi ngờ ấy mà bị đọa vào đường ác. Kính mong Thế Tôn chỉ dạy, do nhân duyên nào mà Thế Tôn nói với Ma vương Ba-tuần rằng: “Ác ma Ba-tuần, ngươi cứ an tâm, ta sẽ không khiến cho chúng sinh trụ trong Bồ-đề…” cho đến “Ba-tuần hãy yên tâm ta chẳng khiến cho chúng sinh đối với tất cả pháp lìa bỏ tưởng chấp.” Cúi mong Thế Tôn hãy vì các chúng sinh này mau làm cho họ sáng tỏ, cũng khiến cho chúng sinh đời sau này được sự sáng tỏ ấy mà thọ Trì pháp đó, không để quên mất, xin Thế Tôn giải thích rõ. Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền nói kệ rằng: Bồ-đề không tướng trụ Cũng không người trụ được Cho nên nói chúng sinh Không người trụ Bồ-đề Bồ-đề và chúng sinh Không hai, không có khác Do đó nói chúng sinh Không người trụ Bồ-đề Cũng không có chúng sinh Lìa được cõi chúng sinh Không thật có, bất sinh Rốt ráo không thật có Cõi chúng sinh khó lường tính ấy vốn là không Dù cho Nhất Thiết Trí Không thấy lìa tưởng ấy Các ấm mà ta nói Không chúng sinh lìa được Ấm ấy và chúng sinh Không khác, thường vắng lặng Đã biết ấm là không Mà chẳng lìa tính ấy Nói thể ấy là một Không đáng chấp nên lìa Đã biết được các ấm Không chấp không đáng lìa Vô ngã, chẳng tự tính Rốt ráo, không chỗ nương Các ấm như hư không Chỗ ấm hành cũng vậy Hành mà không chỗ hành Nói ấm như hư không Như nói cõi hư không Không sở sinh, năng sinh tính ấm cũng như thế Không có người lìa được tính tướng của thân kiến Không pháp nào để được Do không pháp để được Ta nói chẳng thể lìa. Nghi không có tự tính Rốt ráo không thật có Vì nghi không thật có Chúng sinh không thể lìa. Không có các chúng sinh Giữ được giới lựa chọn Các chúng sinh chấp thủ Cũng lại không thật có Người chấp có được pháp Chúng sinh không thật có Có được pháp vô tâm Chẳng xa lìa tự tính Như các chấp đã nói Gồm có sáu mươi hai Các kiến chấp như thế Đều như bóng đáy nước. Đã biết các chấp này Đều như bóng đáy nước Vô ngã, không thật có Tự tính chẳng thật có. Tưởng quá khứ, vị lai Cùng tưởng về hiện tại Tưởng ấy không thật có Cũng như bóng đáy nước Tưởng ấy không có ngã Chúng sinh không thật có Vì chúng sinh không thật Cho nên không đáng lìa. Giết hại các chúng sinh Sẽ đọa vào đường ác An trụ trong Niết-bàn Không có người động được. Nếu chúng sinh thật có Thì có tướng lìa động Chúng sinh không có thật Nên nói không đáng lìa. Tên Bồ-đề không cho Chưa từng có người cho Tuy siêng làm phương tiện Nhưng không người lìa động Chúng sinh chẳng hành thí Giáo hành hơn pháp thí Tuy siêng làm phương tiện Nhưng không người lìa động Cũng không có chúng sinh Kẻ tham đắm dâm dục Trong dục không có tà Có thể hợp phi tà. Các chúng sinh nói dối Người có duyên nên độ Tuy siêng làm phương tiện Nhưng không người lìa động Hai lưỡi và nói ác Và nói không đúng lúc Những lời nói như vậy Như vang làm người nghi Pháp này không nơi chốn Cũng chẳng đáng tham đắm Các tiếng này như vang Rõ chẳng chỗ nương tựa. Vô minh vốn sẵn có Chấp chặt sâu bản ngã Vì biết ngã chân thực Không người lìa động được Cũng biết được giận tức Rốt ráo chẳng có tướng Bồ-đề là vô tướng Không người lìa động được Nếu biết được tà kiến Đó gọi là chính kiến Vì lỗi đắm kiến chấp Không người lìa động được Không dạy các chúng sinh Mà dùng nữ sắc thí Bậc Thánh, Hiền ngăn cấm Thí này có lỗi lầm Giữ giới theo tà kiến Thánh đạo dạy dứt trừ Người trí không nên dạy Dùng đó cầu pháp Phật. Điều ngoại đạo khen ngợi Vô số các tướng nhẫn Nhẫn ấy chẳng phải chính Giúp người đến Niết-bàn Điều ngoại đạo khen ngợi Tinh tấn bằng năm nhiệt Không thể đạt giác ngộ Người trí nên lìa bỏ. Các thiền định ngoại đạo Đều hành tưởng ba cõi Chẳng phải điều Phật khen Chẳng thể dạy kẻ khác Chẳng dùng trí thế tục Giáo hóa các chúng sinh Tuệ ấy chẳng thể được Tuệ Phật khó nghó bàn Đối chúng sinh thanh tịnh Đầy đủ sự không sợ Ta nói chúng sinh ấy Chẳng hành bốn Nhiếp pháp. Người kính sâu niệm Phật Không dạy lìa chấp ấy Phật có trí vô nhiễm Cũng không các chướng ngại Người kính sâu niệm Phật Không dạy lìa chấp ấy Pháp trên hết lìa dục Làm sao mà lìa được? Không đắm tưởng chúng sinh Mà phát tâm Bồ-đề Bồ-đề không nên đắm Làm sao mà lìa tưởng Cha mẹ và anh em Chị em cùng nam nữ Tưởng này đều như huyễn Làm sao mà lìa được. Tưởng ấy, tất cả chỗ Không pháp, không thật có Do không pháp, chẳng có Làm sao mà lìa được. Tưởng ngày và tưởng đêm Tưởng nửa tháng, một tháng Tưởng này không chân thật Như trời nóng nước sôi Tưởng thí và tưởng giới Tưởng nhẫn nhục tinh tấn Tưởng ấy không chân thật Làm sao để lìa tưởng. Tưởng định và tưởng tuệ Tưởng về tâm Bồ-đề Tưởng về lực, vô úy Tưởng này đều luống dối Các giác và tưởng đạo Tưởng Phật và tưởng pháp Đều từ vô tri sinh Làm sao lìa tưởng ấy. Nhận rõ các tưởng tăng Tưởng ấy cũng rất nhiều Vì từ phân biệt sinh Ta nói không thể lìa. Chẳng chấp tưởng Bồ-đề Cùng tưởng Nhất Thiết Trí Tưởng ấy xa các Phật Bồ-đề không nghó bàn Vì thế nên ta nói Ba-tuần kẻ không trí Chẳng lìa các tưởng ấy Mà xa cầu Bồ-đề Các pháp và Bồ-đề Thảy đều biết như như Nên nói nghĩa chẳng lìa Đuổi tâm ma lo buồn. Lúc Đức Thế Tôn quyết định nói pháp hàng phục đuổi trừ các ma thì trong chúng hội có mười ức chúng sinh nhổ được mũi tên do dự, không còn nghi ngờ, đạt được sự sáng tỏ, đối với các pháp được pháp Nhẫn vô sinh, tất cả đều hòa hợp đứng trước Phật nói kệ rằng: Phật đạo chẳng nghó bàn Khiến chúng con được tỏ Phật là Thầy dẫn đường Dứt bỏ tâm nghi con, Nên đạt được sáng tỏ An trụ trong pháp Phật Các phương thêm sáng tỏ Được thấy một ức Phật. Cũng được thấy pháp ấy Rõ sắc thảy không sinh Gặp được Đấng cứu thế Được trí tịnh như vậy. Cũng được thấy một ức Cõi nghiêm tịnh các Phật Bậc dẫn đường vô thượng Đều an trụ trong đó. Bấy giờ, mười ức chúng sinh nói kệ xong liền cởi y phục quý giá tốt đẹp hiện đang mặc trên thân để cúng dường pháp, vui vẻ dâng lên Đức Phật, cùng bạch Phật: –Chúng con nguyện cho pháp này được truyền bá rộng khắp để cho tất cả chúng sinh đều được nghe. Bấy giờ, A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Nếu có chúng sinh nào được nghe pháp hàng phục đuổi trừ các ma này, mà tin được hiểu được, không sinh nghi ngờ, thì các thiện nam, thiện nữ ấy được phước như thế nào? Phật bảo A-nan: –Nếu có thiện nam, thiện nữ nào được nghe qua tai một lần về pháp hàng phục đuổi trừ các ma này, mà tin được hiểu được không sinh tâm nghi ngờ thì công đức ấy rất nhiều không thể tính lường hết được. A-nan bạch Phật: –Phước được ấy có thể thí dụ được chăng? Phật bảo A-nan: –Nếu có thiện nam, thiện nữ nào phát tâm mỗi ngày ba thời mỗi thời cúng dường trăm ngàn Đức Phật, tôn kính khen ngợi, dùng các phòng xá tốt đẹp làm chỗ nghỉ ngơi, tất cả vật cần dùng đều cung cấp đầy đủ, công việc cúng dường như thế trải qua trăm ngàn kiếp, vậy thì thiện nam, thiện nữ ấy được công đức có nhiều chăng? A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Hết sức nhiều, không thể nào tính lường hoặc dùng thí dụ để biết được. Phật bảo A-nan: –Nếu có thiện nam, thiện nữ được nghe pháp hàng phục đuổi trừ các ma này một lần qua tai mà tin được hiểu được không nghi ngờ thì phước đức ấy còn lớn hơn trường hợp cúng dường kia. Khi ấy, trong hư không có ba vị thiện nam cầu Bồ-tát thừa bỗng nhiên hiện ra dần dần đi đến chỗ Phật, mỗi vị đều cầm mười đóa hoa sen lớn, hoa sen ấy to lớn hơn cả núi Tu-di, mỗi đóa hoa có đến trăm ngàn muôn ức cánh, phát ra trăm ngàn muôn ức ánh sáng màu sắc. Lúc này, Tôn giả A-nan cùng các vị trong chúng hội đều trông thấy ba vị cầu Bồ-tát thừa ấy từ xa dần dần đến gần nên đều vui mừng cho là điều ít có. Tôn giả A-nan liền bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Ba vị thiện nam ấy từ nơi nào đến đây? Đức Phật đáp: –Về phương Đông trải qua số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có thế giới tên là Hoa cao tu-di sơn, ba vị thiện nam ấy từ thế giới đó, nghe ta nói pháp này cùng với nhân duyên trên cho nên đến đây. A-nan bạch Phật: –Đức Phật ở thế giới ấy danh hiệu là gì? Đức Phật đáp: –Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Hoa Cao Tu-di Sơn Vương Như Lai Đẳng chính Giác hiện giờ đang nói pháp. Bấy giờ, ba vị thiện nam cầu Bồ-tát thừa đến trước Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đầu mặt lễ dưới chân Phật, đi nhiễu Phật ba vòng theo chiều bên phải, gối phải quỳ sát đất, nhất tâm chắp tay, rải hoa sen đang cầm trong tay lên chỗ Phật cúng dường rồi cùng bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Chúng con hiện giờ đối với pháp này đã tin được hiểu được không còn nghi ngờ. Vì sao? Vì chúng con đối với pháp này không còn nghi ngờ cũng như Đức Như Lai vậy. Lúc này, vị thiện nam cầu Bồ-tát thừa thứ nhất bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Nếu nói rằng con là Như Lai, thì đó là lời nói chính đáng. Vì sao? Vì con đối với pháp này không còn sinh nghi ngờ. Vị thứ hai bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Nếu nói rằng con là Thế Tôn, thì đó là lời chính đáng. Vì sao? Vì con đối với pháp này không sinh nghi ngờ. Vị thứ ba cũng bạch Phật: –Bạch Đức Thế Tôn! Nếu nói rằng con là Phật, thì đó là lời nói chính đáng. Vì sao? Vì con đối với pháp này không còn sinh nghi ngờ. Lúc bấy giờ, trong chúng hội có đến trăm ngàn chúng sinh nghe ba vị Bồ-tát nói như vậy nên tâm họ thảy đều xao động không thể ngồi yên và đều nghó: “Không thể có hai vị Phật cùng ra đời ở thế gian, sao hôm nay các vị thiện nam này do đâu lại nói như vậy?” Nghó như vậy, các vị bèn nói với nhau, rồi lại im lặng, cho rằng hiện Đức Thế Tôn ở đây sẽ nêu rõ ý nghĩa về những câu nói của các vị Bồ-tát vừa nói. Bấy giờ, Tôn giả A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Các vị Bồ-tát ấy tên gọi là gì mà đã có khả năng rống lên tiếng rống của sư tử như thế? Phật bảo A-nan: –Trong ba vị ấy, vị thứ nhất tên là Lạc Cầu Như Lai Âm Thanh, vị thứ hai tên là Lạc Cầu Thế Tôn Âm Thanh, còn vị thứ ba tên là Lạc Cầu Phật Âm Thanh. A-nan nên biết, vì lý do ấy mà ba vị Đại Bồ-tát ấy nói như thế. A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Hiện giờ trong hội này có hàng trăm ngàn chúng sinh tâm đều xao động và cho rằng không có hai vị Phật cùng ra đời một lúc trên thế gian. Vậy vì sao ba vị Bồ-tát lại nói như thế? Kính mong Như Lai giải thích rõ về ý nghĩa ấy giúp cho đại chúng ở đây tâm ý không còn xao động, căn lành đã gieo trồng, càng thêm lợi ích thanh tịnh sáng tỏ. Bạch Thế Tôn! Ví như có người tắm gội sạch sẽ, râu tóc hớt gọn, dung mạo tươi tắn, lại dùng hương chiên-đàn quý giá xong gội lên người mình nữa thì màu da lúc này càng tươi thắm bội phần hơn trước. Bạch Thế Tôn! Các chúng sinh ấy cũng giống như vậy. Nếu được nghe nói về ý nghĩa ấy thì căn lành đã gieo trồng càng thêm lợi ích, thanh tịnh sáng suốt và trong lành bội phần hơn trước. Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền nói kệ rằng: Đều cùng nhất tâm nghe Ta giảng về nghĩa ấy Vì sao gọi Như Lai Thế Tôn cùng với Phật. Đã biết quá khứ như Cũng biết vị lai như Thấy tất cả pháp như Cho nên gọi Như Lai. Như các Phật thuở xưa Hành thí chẳng thể bàn Ta cũng hành thí này Cho nên nói lời ấy, Như các Phật thuở xưa Cầu đạo không nương tựa Ta cũng cầu như thế Cho nên gọi Như Lai. Không trụ tất cả pháp Cầu giác ngộ vắng lặng Cũng không được Bồ-đề Cho nên gọi Như Lai. Như các Bồ-tát xưa Siêng khổ hành nhẫn nhục Ta cũng hành nhẫn ấy Đến được bờ kia nhẫn Như xưa ta tinh tấn Siêng cầu đạo Bồ-đề Kia cũng siêng tinh tấn Cho nên gọi Như Lai. Kia đã được thông đạt Tướng bình đẳng các pháp Cũng không sinh ý niệm Nên gọi là Như Lai. Chẳng nghó tất cả pháp tính ấy thường bình đẳng Biết bình đẳng ấy rồi Mà không tâm sai biệt, Đã thông đạt lẽ ấy Định bình đẳng như như Vì thông đạt định đó Nên gọi là Như Lai. Tất cả pháp đã nói Đều tự có tính, tướng Đã biết tính tướng này Rốt ráo thường vắng lặng, Biết tướng gọi là tuệ Biết không gọi là trí Nếu biết được chúng sinh Gọi đến bờ kia tuệ. Như những bậc trí xưa Trí tuệ đến bờ giác Cũng không có tuệ này Đến bờ kia vắng lặng. Họ cũng có tuệ này Mà đến nơi bờ kia Do không có tuệ này Cho nên gọi Như Lai. Không được Bồ-đề như tính tướng ấy khó bàn Không được tất cả pháp Cho nên gọi Như Lai. Đã đạt được không đắm Không đắm như Như Lai Không đắm tất cả pháp Thông đạt đạo vô chấp, Như Bậc Đạo Sư xưa Thấy biết được chính đạo Tướng chân thật đạo này Không hề có đầu cuối. Kia cũng tu như vậy Đạo tối thắng vô thượng Đạo này không đầu cuối tính không, không thật có. Biết đạo không đầu, cuối Các pháp đều bình đẳng Đã biết như bình đẳng Cho nên gọi Như Lai. Đạo như, Bồ-đề như Cùng với chẳng trụ như Biết Như như hư không Cho nên gọi Như Lai. Các pháp ta đã nói Như ấy thường bình đẳng Nếu thấy được như thế Phải nên cầu Bồ-đề. A-nan! Do lẽ ấy Bồ-tát đã nói thế Tu hành đúng lời dạy Kia cũng hành như vậy. Nếu hành được hạnh ấy Và nói được như thế Rõ pháp không lui sụt Các Bồ-tát không sợ. A-nan! Nên biết rằng Các Bồ-tát không sợ Nên giảng nói như vậy Tự nói là Như Lai. A-nan bạch Phật: –Do nhân duyên gì và đạt được những pháp gì mà được tôn xưng là Thế Tôn? Bây giờ, Đức Thế Tôn liền nói kệ rằng: Đều cùng nhất tâm nghe Trong trăm ngàn ức kiếp Cầu Bồ-đề như thế Vô lượng, khó nghó bàn. Cũng vì các chúng sinh Cầu Bồ-đề như thế Không hề có sợ hãi Đó gọi là Thế Tôn. Chẳng sợ hãi sinh tử chính trụ sinh tử ấy Hóa độ các chúng sinh Nên gọi là Thế Tôn. Nhờ đâu không kinh sợ Làm sao trụ sinh tử Làm sao độ chúng sinh Do đâu gọi Thế Tôn? Sinh tử không có pháp Mà có thể hủy diệt Chẳng bền, chẳng hủy hoại Dùng đó độ chúng sinh Đó gọi là chẳng sợ Đó gọi trụ sinh tử Đó gọi độ chúng sinh Đó gọi là Thế Tôn. Biết các pháp hư vọng Mà không tâm yếu hèn Giảng nói tướng các pháp Mà không hề sợ hãi Đã dứt trừ sợ hãi Xa lìa các chỗ nạn Chẳng sợ các chỗ nạn Độ chúng sinh chỗ nạn Độ nhiều ức chúng sinh Qua đường hiểm sinh tử Cũng không có sinh tử Và chúng sinh được độ. Đặt các chúng sinh lên Bờ Niết-bàn vắng lặng Cũng không có chúng sinh Đó gọi là Thế Tôn. Thường vì các chúng sinh Nói pháp như hư không Không hề sinh sợ hãi Nên gọi là Thế Tôn. Pháp tính không khác nhau Nói có nhiều thứ tên Bình đẳng như Bồ-đề Bồ-đề không thật có, Dạy, bảo cho muôn loài Quy hướng về giác ngộ Tuy dạy pháp như thế Nhưng không hề có nói, Không thể nói mà nói Hóa độ nhiều chúng sinh Không sợ, không chấp đắm Nên gọi là Thế Tôn. Xa lìa tất cả tưởng Tu hành tưởng Bồ-đề Đã dứt tất cả tưởng Đó gọi là Thế Tôn. Đã diệt hết các tưởng Phiền não không còn thừa Do đó nên được xưng Gọi là Bậc Thế Tôn. Dùng tuệ quán các pháp Biết các pháp bình đẳng Nên chẳng cầu pháp nhỏ Đó gọi là Thế Tôn. Chẳng coi trọng tiếng khen Cũng chẳng mong được khen Thường vì các chúng sinh Nói pháp lìa khen ngợi. Bồ-đề lìa khen ngợi Kia cũng cầu như vậy Nếu coi trọng tiếng khen Đó là xa Bồ-đề. Thanh ấy như tiếng vang Phân biệt nên nhiều loại Sinh ra các phân biệt Ta có tên như thế. Không đắm tất cả tiếng Cũng chẳng nương dựa tên Bồ-đề dứt đùa bỡn Đó gọi là Thế Tôn. Biết các pháp như vậy Gọi đó là Thế Tôn Cũng không có Bồ-tát Nên gọi là Thế Tôn. Biết các pháp như vậy Mà không hề tham đắm Cầu giác ngộ như thế Giải thoát dứt hữu lậu. A-nan do như vậy Cùng các nhân duyên khác Các vị Đại Bồ-tát Xưng mình là Thế Tôn. A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên gì và đạt được các pháp gì mà được tôn xưng là Phật? Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ rằng: Biết rõ tất cả pháp Pháp này không thật có Đã biết không có pháp Cho nên gọi là Phật. Biết rõ các phiền não Khiến người chẳng tự tại Dùng trí dứt phiền não Cho nên gọi là Phật. Giác biết thân này không Thân ấy không lệ thuộc Cũng chẳng hề bền chắc Không thể được bền chắc Kẻ đối thân không chắc Mà cho là bền chắc Kia hiểu biết như thật Cho nên gọi là Phật. Biết vô minh, không trí Tự tính không thật có Đã chứng được trí sáng Cho nên gọi là Phật. Tất cả tưởng quá khứ Biết rõ là vô tưởng Biết tưởng là vô tướng Lại không theo tướng ấy Tu các tưởng vị lai Hiện tại cũng như thế Đã tu tất cả tưởng Thế nên gọi là Phật Biết rõ sắc đời trước Không hề có sinh khởi Phàm phu tuy phân biệt Không thể khiến sắc sinh. Biết thọ không gốc rễ Gốc rễ không thật có Đối với tất cả pháp Cũng không có người thọ Biết tưởng giống như huyễn tính ấy không thật có Đối với tất cả pháp Không bị tưởng làm lụy. Biết hành không thể làm Ra các thứ thân tướng Thân không, hành cũng không Cho nên không làm ra. Biết hành cùng với thân Cũng giống như cây chuối Biết rõ được như thật Cho nên gọi là Phật. Quán thật tính của thức Cũng không ở trong thân Mà cũng không ngoài thân Nên biết có thức ấy. Đối tất cả các pháp tính thức không thật có Mà ở trong thân này Không thân, không nơi chốn Biết được thức như vậy tính thức không thật có. Không tưởng, như hư không Không hề thấy thức sinh. Đối tất cả các pháp Không có người thấy thức tính tất cả chúng sinh Chưa từng có tạo tác. Chúng sinh không tạo tác Các pháp rốt cũng vậy Như pháp, như chúng sinh Không có tướng đến, đi. Biết tất cả các pháp Rốt ráo đều không tướng Không phân biệt, đùa bỡn Cho nên gọi là Phật. Như các Phật không trụ chính pháp, Đại thừa Phật Không trụ tất cả pháp Cho nên gọi là Phật. Như như các pháp như Các Phật không trụ như Phật như, Bồ-đề như Rốt ráo không thật có. Vì mong cầu Bồ-đề Nên phát tâm như vậy Biết được tướng tâm này Pháp nhỏ không thật có. Vì mong cầu Bồ-đề Nên phát tâm như vậy Tâm Bồ-đề này thảy Cũng biết rõ như huyễn. A-nan! Do như vậy Bồ-tát nói lời ấy Tự nói mình là Phật Như Phật, Bậc Đạo Sư Dùng tiếng tăm của Phật Nói các pháp như thế Nếu an trụ pháp đó Đều nên cầu Bồ-đề. Nếu biết được pháp này Đó là gần Bồ-đề Đối với tất cả pháp Không sinh các nghi ngờ. Đối các pháp không nghi Là vô thượng trên đời Đã biết pháp này nên Hiểu được nghĩa mật ngữ. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nói về ý nghĩa danh hiệu Như Lai, Thế Tôn, Phật xong, trong chúng hội có đến trăm ngàn chúng sinh bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Chúng con đã xé rách được lưới nghi ngờ, đạt được sáng tỏ, đã hiểu ý nghĩa vì sao các Đại Bồ-tát được gọi là Như Lai, Thế Tôn, Phật, vì tất cả pháp, không thật có, đối với tất cả pháp đã đạt được pháp nhẫn. Như Lai hiện giờ giống như cha mẹ thương xót dắt dẫn chúng con, không để cho tâm ý chúng con bị xao động nữa, đồng thời chúng con cũng biết rõ được pháp không xáo động, giống như hư không không thể quấy động được. Vì sao? Vì hiện tại chúng con đã biết rõ tất cả pháp, cũng như hư không, không bị quấy động. Bấy giờ, trong chúng có trăm ngàn chúng sinh đảnh lễ sát chân Phật, đi nhiễu theo chiều bên phải quanh Phật ba vòng, rồi đứng im lặng cách Phật không xa. Khi ấy, trong chúng hội có vị Đại Bồ-tát tên là Thường Tiếu Chư Căn Thanh Tịnh liền đứng dậy, rải các thứ hoa lên chỗ Phật để cúng dường rồi nói kệ rằng: Chúng sinh thường tưởng quả Hiểu được tưởng quả kia Lìa quả được đầy đủ Lễ Bậc Trí ở đời. Chúng sinh tham đắm quả Đặt ra tên các quả Chỉ Phật dứt trừ được Nên lễ Bậc Đại Trí. Giảng nói quả bình đẳng Để giác ngộ chúng sinh Biết quả là giả danh Nên lễ Bậc Đại Trí. Giảng nói pháp bình đẳng Trụ trong pháp bình đẳng Biết tất cả các pháp Nên lễ Bậc Đại Trí. Chúng sinh tưởng được quả Trừ tâm có được này Chỉ Phật mới trừ được Nên lễ Bậc Đại Trí. Rõ quả là vắng lặng Không trụ các thứ quả Các Phật khéo mật ngữ Nên lễ Bậc Đại Trí. Bấy giờ, Đại Bồ-tát Thường Tiếu Chư Căn Thanh Tịnh nói kệ khen ngợi Đức Phật rồi, trán lễ dưới chân Phật, đi nhiễu theo chiều bên phải ba vòng, rồi đứng cách Phật không xa nhất tâm chiêm ngưỡng Phật, mắt không hề chớp, trong tâm vui mừng. Bấy giờ, trong chúng hội có vị Đại Bồ-tát tên là Liên Hoa Đức Tạng liền đứng dậy, tung rải hoa lên chỗ Phật để cúng dường và nói kệ rằng: Chúng sinh thường có tưởng Hiểu được hữu tâm này Lìa sợ, không hề chấp Đảnh lễ Đức Mâu-ni. Vắng lặng đối ba cõi Nói pháp không thật có Xa lìa cả ba cõi Đảnh lễ Đức Mâu-ni. Biết hữu là không, vô tính ấy không có ngã Do xa lìa sợ hãi Đảnh lễ Đức Mâu-ni. Lìa xa mọi lo buồn Người dứt hết lo buồn Dứt hẳn các trói buộc Đảnh lễ Đức Mâu-ni. Đại Bồ-tát Liên Hoa Đức Tạng nói bài kệ khen ngợi Đức Phật xong, lại nói kệ bạch Phật: Trong đời ác sau này Nếu ai nghe kinh ấy Chẳng sinh tâm sợ hãi Đều nên chắp tay lễ. Bấy giờ, Đại Bồ-tát Vô Cấu Ý liền ở trước Phật nói kệ rằng: Nếu người nghe kinh này Chẳng hề khởi nghi hoặc Mà không sinh nghi ngờ Thì bất cứ lúc nào Cũng nên rải hoa cúng. Đại Bồ-tát Quảng Tư Duy liền ở trước Phật nói kệ rằng: Trong kinh này nói rõ Pháp vô lượng Đức Phật Chúng sinh nghe pháp này Nhiều người không nghi ngờ. Tham đắm đối thân mình Sinh các tưởng về thân Được nghe kinh như thế Cho là lời điên đảo. Nên biết đó thuộc ma Đã bị ma sai khiến Vô trí nghe kinh này Lại sinh tâm nghi ngờ. Đại Bồ-tát Thanh Liên Hoa Mục liền ở trước Phật nói kệ rằng: Nếu ai nghe kinh này Không sinh tâm nghi ngờ Giống như mắt thế gian Cũng gọi bậc Thí nhãn. Đại Bồ-tát Lạc Cúng Dường Tháp liền ở trước Phật nói kệ: Nếu ai nghe kinh này Mà sinh tin ưa sâu Người này ở thế gian Như ngôi tháp tôn quý. Đại Bồ-tát Khát Ngưỡng Ý liền ở trước Phật nói kệ rằng: Tuy ở trong sinh tử Nên thường sinh khát ngưỡng Chẳng đắm tất cả pháp Nên chẳng nghi kinh này. Đại Bồ-tát Lạc Dó Y Thí ở trước Phật nói kệ rằng: Nên dùng nhiều y phục Mịn màng và thẳng nếp Để phủ khắp thân hình Người không nghi pháp này. Bấy giờ, Đại Bồ-tát Lạc Dó Thực Thí liền ở trước Phật nói kệ rằng: Nói về các mỹ vị Các thức ngon đã nói Trên hết trong các vị Nên dùng để cúng dường Người không nghi kinh này. Đại Bồ-tát Bi Niệm Lạc Kiến Chúng Sinh liền ở trước Phật nói kệ rằng: Thương xót các chúng sinh Nên thường hay than khóc Vì đối với kinh này Không có người tin ưa Nếu người ít được nghe Nghi ngờ đối kinh này Nên biết địa ngục đến Sẽ trở lại địa ngục. Gần gũi với bạn xấu Không hiểu pháp sâu này Bị lưới vô minh che Không hướng đường lành này Phá giới, tự trói buộc Ý ác, thích tìm lỗi Tham đắm các lợi dưỡng Nên bài báng kinh này. Không siêng cầu Bồ-đề Biếng nhác, không tinh tấn Tuệ kém, chuộng pháp nhỏ Chẳng tin hiểu kinh này. Chúng sinh tham lợi dưỡng Chấp ngã, theo ái dục Đắm sâu trong ba cõi Không thể tin kinh này. Kẻ ngu, tâm tính xấu Tham ái, mù không trí Ưa thích luận bàn nhiều Mà không tin kinh này. Thích chọn lựa y phục Ham vị thích uống ăn Ít ham chuộng pháp lành Nên bài báng kinh này. Các chúng sinh đắm quả Thích nói đắm các quả Hiểu mật ngữ của Phật Được như thế rất khó Các Phật thời xa xưa Bậc Đạo Sư vô thượng Đều hết lòng cúng dường Nên tin, hiểu kinh này. Đại Bồ-tát Viễn Ly Ác Pháp liền ở trước Phật nói kệ rằng: Tâm ngu tham chấp quả Nên bài báng kinh này Phải xa lìa kẻ ấy Như lìa đống phân thối Cũng như thây chết rữa Người tu đều lánh xa Chúng sinh bác kinh này Đều phải thường xa lánh Giống như kẻ cướp thôn Sống ở chốn hoang vắng Người nghe đều chạy tránh Sợ vướng phải tai họa. Nên chạy tránh như vậy Như xa lìa giặc ác Kẻ giận dữ, ý xấu Phỉ báng kinh mầu này. KINH PHẬT THUYẾT QUẢNG BÁC NGHIÊM TỊNH BẤT THOÁI CHUYỂN LUÂN <卷 id="77333573">Quyển 6 Bấy giờ, A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Thật là ít có! Các vị Đại Bồ-tát khéo léo nói về pháp Bồ-đề một cách quyết định. Bạch Thế Tôn! Đó là do năng lực chính định của các vị ấy, do năng lực oai thần của Phật, hay là do năng lực Tam-muội của kinh này mà các vị nói như thế? Phật bảo A-nan: –Nên biết là các thiện nam ấy đã từng ở nơi sáu mươi ức na-do-tha cõi của các Đức Phật được nghe nói kinh này không có thêm bớt, như ta hiện nay nói về các mật ngữ vi diệu, đều không có gì sai khác, chứ không phải chỉ do năng lực Tam-muội mà nói như thế. Vì sao? Vì các vị ấy đối với kinh này đã nhận thức một cách thông đạt. A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Nếu có người được nghe kinh này mà tin được hiểu được không sinh nghi ngờ thì những thiện nam, thiện nữ ấy được phước đức thế nào? Phật bảo A-nan: –Nếu người thiện nam, thiện nữ phát tâm cầu Vô thượng chính đẳng chính giác, đem tất cả bảy thứ báu trong khắp cõi Diêm-phù-đề, mà cúng dường các Đức Như Lai, lại có các vị thiện nam, thiện nữ được nghe kinh này, mà tin hiểu không nghi ngờ thì A-nan nên biết rằng người ấy sẽ đạt được phước đức hết sức lớn lao. Này A-nan! Trong cõi Diêm-phù-đề ví như có người đem bảy thứ báu trong các thế giới nhiều như số cát sông Hằng mà cúng dường các Đức Như Lai, lại có người được nghe kinh này, mà tin hiểu không nghi ngờ, thì phước đức của người này còn nhiều hơn người cúng dường kia. Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa vừa nêu nên Ngài nói kệ rằng: Nếu đem bảy thứ báu Trong cõi Diêm-phù-đề Cúng dường Phật, Như Lai Bậc Đạo Sư từ bi. Cũng như đem châu báu Trong khắp các thế giới Nhiều như cát sông Hằng Cúng dường lên các Phật. Nếu người nghe kinh này Mà tin được hiểu được Cũng không sinh nghi ngờ Thì phước đức nhiều hơn. Bấy giờ A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Nếu có các vị thiện nam, thiện nữ được nghe kinh này, mà tin được, hiểu được rồi còn thọ trì đọc tụng thông suốt thì những thiện nam, thiện nữ ấy đạt được bao nhiêu phước đức? Phật bảo A-nan: –Nếu các thiện nam, thiện nữ nào mong cầu đạo Vô thượng chính đẳng chính giác, trải qua trăm kiếp tu hạnh Bố thí ba-la-mật cúng dường các Đức Phật mà nếu xa lìa kinh này; hoặc trong trăm kiếp tu các pháp Ba-la-mật như Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ, đạt được năm thứ thần thông mà nếu xa lìa kinh này, thì không bằng các vị thiện nam, thiện nữ được nghe kinh này mà tin hiểu, không nghi ngờ, lại thọ trì đọc tụng khiến cho thông thuộc thì phước đức hơn trường hợp kia. Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa vừa nêu nên Ngài nói kệ rằng: Nếu trong một trăm kiếp Dùng các thức ăn ngon Cúng dường Bậc Đạo Sư Chưa gọi cúng dường Phật. Nếu thọ trì kinh này Đó gọi cúng dường Phật Tôn kính pháp các Phật Là cúng dường trên hết. Nếu trong một trăm kiếp Dùng các thứ y phục Đại tinh tấn cứu đời Chưa gọi cúng dường Phật. Nếu thọ trì kinh này Là cúng dường trên hết Đó gọi cúng dường Phật Hơn hẳn cúng y phục Nếu trong một trăm kiếp Tung rải các thứ hoa Đại tinh tấn cứu đời Chưa gọi cúng dường Phật. Muốn cúng dường trên hết Gọi cúng dường các Phật. Nên thọ trì kinh này Chẳng đắm nhiễm các quả. Đó là cúng dường lớn Hơn mọi thứ cúng dường Nếu thọ trì kinh này Mà không chấp lấy ngã. Nếu trong một trăm kiếp Giữ tịnh giới bền chắc Mà không trì kinh này Thì chưa gọi giữ giới Nếu thọ trì kinh này Đó mới gọi giữ giới Trên hết trong các giới Hơn bố thí ở trước. Tuy có giới thuần tịnh Vô lượng, khó thể bàn Phải nên thường siêng cầu. Thọ trì kinh như vậy. Như trong kinh này nêu Người khéo tu giới hạnh Chẳng gọi là giới ác Hay là kẻ phá giới. Nếu giữ giới kinh này Gọi giữ giới Bồ-đề Giữ định, giới Bồ-đề Đầy đủ, giới vô tác. Các giới như vậy thảy Đều nói trong kinh này Nếu thọ trì kinh này Đầy đủ tất cả giới. Nếu người trong trăm kiếp Tu hành nhẫn nhục lớn Chúng sinh lời ác mắng Tâm ấy đều an nhẫn. Nếu chân tay bị chặt Thân cũng không xao động Không hề sinh tâm ác Oán giận kẻ hại mình. Tu nhẫn nhục như thế Như vị Tiên nhẫn nhục Tuy trải qua trăm kiếp Nhẫn ấy chưa trên hết. Nếu người nghe kinh này Tin hiểu chấp nhận được Nhẫn ấy là trên hết Nhẫn của bậc Hiền thiện. Nhẫn ấy là trên hết Nhẫn ấy không gì trên Nếu thọ trì kinh này Mà tâm không nhiễm đắm Nhằm đạt dứt vướng chấp Muốn cầu không nhiễm đắm Trí vô thượng các Phật Không nên sinh chấp đắm Mau thọ trì kinh này. Nếu trong một trăm kiếp Thường đứng không ngồi nằm Cũng không hề ngủ nghỉ Siêng hành tinh tấn lớn. Người trí siêng tinh tấn Truyền bá khắp kinh này Người ấy được không sợ Hơn tinh tấn lớn kia. Nếu trong một trăm kiếp Đạt đủ năm thần thông Chẳng được nghe kinh này Trí ấy chưa trên hết. Nếu thọ trì kinh này Thông đạt nghĩa không nương Nơi các thứ thần thông Thần thông ấy trên hết Nếu trong một trăm kiếp Tu hành các trí tuệ Tuệ ấy là thế gian Nhận rõ pháp thế gian Nếu không học kinh này Chưa gọi là tuệ sáng Nếu tu học kinh này Đó gọi tuệ bền chắc. Nếu được nghe kinh này Vui, tin không gì hơn Người ấy gọi là trí Cũng gọi người thông đạt Muốn dùng tuệ như thế Biết được các pháp như Nên giảng nói kinh này Sẽ được tuệ như thế. Pháp người trí thực hành Kinh này đều nói rõ Phải nên siêng tinh tấn Để thọ trì kinh này. Lúc này, Tôn giả A-nan liền ở trước Phật nói kệ rằng: Nên đi một do-tuần Cho tới trăm do-tuần Nghe nhận được kinh này Lìa bỏ được các quả Ví có hầm lửa lớn Mỗi bề một do-tuần Người trí ở trong đó Nghe nhận kinh sâu này. Muốn được giới các Thánh Trên hết trong các giới Nên truyền bá kinh này Giữ giới thân thanh tịnh. Muốn được thiền các Thánh Trên hết trong các thiền Nên truyền bá kinh này Đốt sạch các phiền não. Muốn được tuệ các Thánh Trên hết trong các tuệ Nên truyền bá kinh này Thanh tịnh các pháp giới Muốn đến khắp mọi chốn Nghiêm tịnh các thế giới Cõi ấy gọi an vui Nên truyền bá kinh này. Muốn thấy Phật A-súc Trên trong các Mâu-ni Nên thọ trì kinh này Nói rộng cho chúng sinh. Nếu muốn tịnh Bồ-tát Khắp mọi nẻo hành hóa Thực hành khắp mọi điều Nên truyền bá kinh này Được đến cõi an lạc. Được thấy Phật Di-đà Ánh sáng không thể bàn Nên truyền bá kinh này Là lời các Phật nói. Đức Thế Tôn nói bảo A-nan: –Lành thay, lành thay! Đúng như lời ông vừa nói. Vì sao? Vì nếu có các vị thiện nam, thiện nữ tâm không tán loạn, đọc tụng kinh này, lại giải thích cho người khác nghe mà muốn thấy các Đức Phật thì đều được thấy. Nếu tâm tán loạn, đọc tụng kinh này, giải thích cho người khác nghe thì người ấy khi sắp mạng chung sẽ được thấy trăm ngàn Đức Phật. Vì sao? Vì tất cả các Phật đều che chở giữ gìn các thiện nam, thiện nữ ấy. Lúc bấy giờ, trong chúng hội có một vị đồng nữ tên là Sư Tử cùng năm trăm vị đồng nữ khác, liền đứng dậy, sửa y bày vai phải, gối phải chấm đất, nhất tâm chắp tay bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Nếu có người nữ nào thọ trì kinh này, đọc tụng thông suốt thì có công đức gì? Đức Phật bảo đồng nữ Sư Tử: –Nếu có người nữ mong cầu đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác, thọ trì kinh này đọc tụng thông suốt thì nên biết người ấy mang thân nữ đó là thân nữ sau cùng. Vì sao? Vì nếu có người nữ, tâm không tán loạn thọ trì kinh này đọc tụng thông suốt, thì tất cả phiền não thọ thân người nữ đều được dứt sạch. Đồng nữ Sư Tử bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Các phiền não nào làm cho phải thọ thân nữ? Phật bảo đồng nữ Sư Tử: –Phàm những người nữ khi trông thấy những người nữ khác hình dung xinh đẹp, lại dùng vàng bạc châu báu cùng nhiều thứ ngọc ngà trang sức thân thể thì thường sinh tâm thích thú sung sướng từ đó sinh tâm yêu đắm, không thể quán sát một cách như thật thân này rằng chỉ là sự chứa nhóm bao thứ nhơ nhớp bất tịnh, chỉ nhờ lụa là màu sắc, hương thơm xông ướp làm mê lầm mắt người, khiến sinh tâm đắm nhiễm, khởi lên bao thứ phiền não, vì vậy phải thọ thân nữ. Lại nữa, đồng nữ Sư Tử! tính người nữ thường bỏn sẻn ganh ghét, lời nói tùy theo lúc mà khác nhau, tâm nghó tùy theo lúc mà khác nhau, trước mặt thì nói thế này, nơi kín đáo thì nói khác, thêm bớt tô điểm, nếu có đến chỗ các Tỳ-kheo thì cũng ít vì chính pháp, chất chứa nhiều giận hờn, ham đắm ngủ nghỉ, ưa thích chuyện trò. Vì lý do ấy mà không thể thọ trì kinh này, ngày đêm tâm thường bị ô nhiễm, ít có tâm giải thoát, đầy đủ các tâm phiền não như vậy nên thường chịu thân nữ không thể dứt được. Cho nên, này đồng nữ Sư Tử! Nếu có người nữ muốn không khởi phiền não, không còn chịu thân nữ thì phải thọ trì đọc tụng kinh này, giảng nói cho người khác nghe. Vì sao? Vì kinh này có công năng dứt trừ các phiền não cho người nữ. Đồng nữ Sư Tử lại bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Nếu có người nữ, không vì việc lìa bỏ thân nữ mà thọ trì kinh này, đọc tụng thông suốt thì họ còn chịu thân nữ nữa chăng? Phật bảo đồng nữ Sư Tử: –Nếu có người nữ, tuy chẳng vì việc lìa bỏ thân nữ mà thọ trì kinh này, đọc tụng thông suốt thì nên biết rằng thân nữ ấy là thân nữ cuối cùng của người đó, ngoại trừ trường hợp do thần thông thị hiện làm thân nữ. Này đồng nữ Sư Tử! Ví như có người tự nhảy vào đống lửa lớn mà lại bảo: “Đừng đốt cháy thân tôi, đừng hủy hoại sắc diện của tôi.” Vậy theo ý của đồng nữ, người ấy có được như lời mình nói chăng? Đồng nữ Sư Tử thưa: –Bạch Thế Tôn! Không thể được vì sao? Vì tính của lửa là có công năng đốt cháy thân sắc con người. Phật bảo đồng nữ Sư Tử: –Kinh này cũng như thế, có công năng đốt cháy các phiền não không để dư sót. Cho nên, này đồng nữ Sư Tử, nếu có người nữ chẳng muốn thọ thân nữ nữa, muốn mau được tất cả Phật pháp, muốn được thấy vô lượng, vô biên các Đức Phật, muốn được biện tài vô ngại, muốn dùng tâm Từ bi duyên khắp tất cả chúng sinh thì phải thọ trì kinh này, đọc tụng thông suốt, giải thích cho người khác nghe. Bấy giờ, đồng nữ Sư Tử và năm trăm vị đồng nữ khác đều bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Chúng con vào thời Phật Nhiên Đăng đã thọ trì kinh này, như thế lần lượt cho đến ngày hôm nay. Bấy giờ, A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Đồng nữ Sư Tử này vì sao chưa dứt được thân người nữ? Phật bảo A-nan: –Ý ông nghó sao? Ông cho rằng đồng nữ Sư Tử là người nữ chăng? A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn, đúng vậy! Phật bảo A-nan: –Ông chớ nên nói lời ấy. Vì sao? Vì đồng nữ Sư Tử và năm trăm vị đồng nữ đều do năng lực thần thông thị hiện làm thân nữ, vì lòng Từ bi thương xót làm lợi ích cho các người nữ đời vị lai. Vì sao? Vì tất cả người nam, công việc đi sát đến mọi gia đình để giáo hóa sẽ gặp khó khăn, vì thế mà các vị nữ ấy đã dùng năng lực thần thông thị hiện làm thân nữ. Nhưng thân nữ này không có pháp người nữ, không có pháp người nam, cũng không có pháp chẳng phải nam, chẳng phải nữ. Vì sao? Vì pháp người nữ, pháp người nam, pháp chẳng phải nam, chẳng phải nữ không thật có. Này A-nan! Đối với pháp này không có tất cả pháp, thành tựu pháp nhẫn, được sáng tỏ hoàn toàn. Cho nên, này A-nan! Tất cả người nữ phải học theo đồng nữ thọ trì kinh này, đọc tụng thông suốt, giải thích cho người khác nghe. Lúc bấy giờ, trong hội có năm ngàn vị Tỳ-kheo-ni, liền đứng dậy, sửa y bày vai phải, gối phải chấm đất, nhất tâm chắp tay bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Chúng con xin phát nguyện kể từ hôm nay, xin thọ trì kinh này, đọc tụng thông suốt, giải thích cho người khác nghe. Vì sao? Vì chúng con không còn ưa thích làm thân người nữ nữa, sẽ thọ trì kinh này, nếu không độc tụng thông suốt rốt ráo thì không bao giờ nằm ngồi, cũng không ngủ nghỉ. Phật bảo các Tỳ-kheo-ni: –Lành thay, lành thay! Các vị đã nói lời như thế, đó là phát tâm đại trang nghiêm để tự trang nghiêm, dùng đại tinh tinh tấn để tự tinh tấn. Vì sao? Vì các vị không còn ưa thích làm thân người nữ mà ưa thích mong cầu Phật pháp. Do đó các vị nên tinh tấn hơn nữa, vững tâm thọ trì đọc tụng kinh này, cho được thông suốt và giải thích cho người khác nghe. Nên biết thân nữ mà các vị đang mang chính là sau cùng. Bấy giờ, các Tỳ-kheo-ni nghe Phật nói đều vui mừng hớn hở nên đều cởi thượng y quý giá dâng lên cúng dường Phật và nói kệ rằng: Phật không nói hai lời Con sẽ được thân nam Cũng sẽ được thành Phật Chí nguyện đã đầy đủ. Khi ấy, trong chúng hội có năm ngàn người vợ của các cư só nghe các vị Tỳ-kheo-ni nói kệ xong, liền đứng dậy, sửa y bày vai phải, gối phải chấm đất, nhất tâm chắp tay bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Hôm nay chúng con xin thọ trì kinh này, đọc tụng, thông thuộc, giải thích cho người khác nghe. Vì sao? Vì hôm nay chúng con muốn được xa lìa cái thân không tự tại, coi nhan sắc người như kẻ tỳ thiếp. Thân người nữ tuy sinh trong nhà vua và được nuôi lớn nhưng phải hầu hạ vua chẳng được tự tại, cả đời cực nhọc vì chồng con, lại những mười tháng mang thai sinh đẻ chịu bao nỗi khổ cực. Do đó mà từ nay chúng con xin siêng năng tinh tấn thọ trì kinh này, giải thích cho người khác nghe, nguyện kính giữ trai giới, ăn mỗi ngày một bữa cho đến trọn đời không gần gũi với chồng, để chuyên tâm thọ trì, đọc tụng kinh này. Bấy giờ, Đức Phật bảo vợ các cư só: –Lành thay, lành thay! Các vị thiện nữ đã nói ra những lời như vậy! Các vị này từ nay không còn bị lệ thuộc vào kẻ khác, sẽ được tự tại, chẳng còn bận tâm đến nhan sắc của kẻ khác, không còn bị khổ vì việc mang thai, cũng không còn ở trong thai, được sinh về thế giới của các Đức Phật, không có người nữ, không có dâm dục. A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Các vị thiện nữ này sẽ được sinh về thế giới tên gọi là gì, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là gì? Phật bảo A-nan: –Thế giới ấy tên là Chúng bảo hoa quang, Đức Phật ở thế giới đó danh hiệu là Phóng Chúng Bảo Ma-ni Vương Quang Như Lai Đẳng chính Giác, hiện tại đang nói pháp. Các vị thiện nữ này sẽ được sinh về thế giới ấy, nhờ thọ trì, đọc tụng kinh này cho nên được thấy Đức Phật Phóng Chúng bảo Ma-ni Vương Quang. Bấy giờ, vợ của các cư só nghe lời Phật dạy đều sinh tâm vui mừng hớn hở vô lượng, liền cởi mười ngàn xâu chuỗi ngọc trai quý giá đang đeo trên cổ rải lên chỗ Phật và ở trước Phật nói bài kệ rằng: Chúng con được lợi lành Được lìa bỏ thân nữ Phật không có hai lời Lời nói đều chân thật. Bỏ hẳn thân như thế Tướng người nữ xấu kém Chỉ lừa người vô trí Không thể biết như thật. Lại chẳng bằng tỳ thiếp Lệ thuộc, không tự tại Cũng không còn mang thai Mười tháng chịu các khổ Không bao giờ còn chịu Việc xấu ở trong thai Đã lìa được bào thai Trí ấy không gì hơn. Vợ của các cư só nói kệ xong, đảnh lễ dưới chân Phật, đi nhiễu Phật theo chiều bên phải ba vòng, đều cùng nhau ngồi cách Phật không xa, nhất tâm chiêm ngưỡng dung nhan Phật, mắt không hề chớp. Lúc này, Thích Đề-hoàn Nhân rải hoa Câu-tẩu-ma cõi trời lên chỗ Phật cúng dường và bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Con sẽ thọ trì kinh này, đọc tụng thông suốt, giải thích cho người khác hiểu. Phật bảo Thích Đề-hoàn Nhân: –Này Kiều-thi-ca! Nếu ngươi làm được như vậy thì sẽ không bao giờ còn chiến đấu với A-tu-la nữa! Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử, muốn khiến cho tất cả căn lành của trăm ngàn chúng sinh được thanh tịnh trong sáng, thêm nên bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Thuở xưa Như Lai đã nghe con giảng nói kinh này mà phát tâm Bồ-đề. Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi: –Vì việc ấy cho nên ông đối với trăm ngàn muôn ức na-do-tha các chúng Bồ-tát, là bậc thông minh hơn hẳn, ở trong các thế giới ở mười phương khai ngộ chúng sinh, như ánh sáng của mặt trời chiếu sáng. Đức Phật vừa nói xong thì mặt đất liền rung chuyển, từ trên không trung hoa rơi như mưa, nhiễu quanh Phật Thế Tôn, rồi gom lại trên đầu gối. A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà mặt đất rung chuyển và các hoa trời tung rải lại gom trên đầu gối Phật như vậy? Phật bảo A-nan: –Hiện giờ, có trăm ngàn muôn ức na-do-tha các vị trời nghe Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói những lời ấy nên vui mừng hớn hở tung rải các hoa trời rồi cùng nói: –Chúng con sẽ thọ trì, đọc tụng kinh này, giảng nói cho người khác nghe, như Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử đã nói lời ấy. Chúng tôi cũng sẽ học theo như Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, soi sáng thế gian, chúng con cũng sẽ soi sáng như thế. Khi nói lời đó, các vị đều nhớ nghó kinh ấy như đang ở trước mặt mình, cho nên tâm sinh vui mừng hớn hở vô lượng, lại nghe nói rằng ta được nghe Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi giảng nói kinh này. Này A-nan! vì thế mà mặt đất rung chuyển, trời tung rải hoa xuống như mưa. Khi ấy, A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Kinh này thành tựu các công đức lớn lao, kinh này thành tựu các công đức chưa từng có, chúng sinh chỉ có các căn lành nhỏ thì không được nghe kinh này. Phật bảo A-nan: –Đúng thế, đúng thế, đúng như lời ông nói! Phải là những thiện nam, thiện nữ từng cúng dường vô lượng trăm ngàn các Đức Phật thì mới được nghe kinh này. Nghe rồi thì tin hiểu, thọ trì đọc tụng, giảng nói cho người khác nghe. Này A-nan! Các thiện nam, thiện nữ ấy dù sống ở cõi trời hay cõi người cũng đều được xem như những ngôi tháp, nếu có người thọ trì đọc tụng kinh này thì mọi phương diện ở nơi họ ở luôn được gặp người hiểu biết chính pháp. Lại nữa này A-nan! Nếu có người thọ trì kinh này, đọc tụng thông suốt, giải thích cho người khác nghe, cho đến sao chép kinh điển để cúng dường thì nên biết rằng người ấy sẽ lìa khỏi các đường ác có khả năng hàng phục ác ma Ba-tuần, dựng lên ngọn cờ chính pháp, thực hành pháp thí, thắp sáng ngọn đuốt chính pháp, xua tan bóng tối vô minh, thổi loa ốc pháp lớn, âm hưởng vang đến đạo tràng, đánh trống pháp lớn để mở cửa cam lộ, tuôn mưa pháp Đại thừa, làm no đủ tất cả những người ưa thích cầu pháp mở các kho báu chính pháp do các Phật chứa nhóm để xuất ra pháp tài lớn, biết tất cả pháp xa lìa các tưởng chấp. Đó là tưởng chấp về năm ấm sắc, thọ, tưởng, hành, thức, tưởng chấp về sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, tưởng chấp về sáu trần sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Xa lìa tất cả các tưởng chấp về các pháp, cho đến tưởng chấp về Phật, Pháp, Tăng. Này A-nan! Nếu có người nghe ta giảng nói kinh này, thọ trì đọc tụng thì nên biết rằng người ấy chính là đệ tử Phật, từ miệng Phật sinh ra, từ pháp thân sinh ra. Cho nên A-nan! Nếu có chúng sinh nào muốn ăn cơm của Như Lai, ngồi nơi đạo tràng muốn giảng nói chính pháp như ta hiện nay, thì phải thọ trì kinh này, đọc tụng thông suốt, giải thích cho người khác nghe, cho đến sao chép kinh điển để cúng dường. Bấy giờ, Tôn giả A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Trong đời vị lai nếu có người thọ trì kinh này, đọc tụng thông suốt, giải thích cho người khác nghe, cho đến sao chép kinh điển để cúng dường, thì phải chăng họ là những người hiện nay đang thọ trì đọc tụng kinh này? Phật bảo A-nan: –Đúng như vậy! Vì sao? Vì ta không hề thấy các Trời, Người, Ma, Phạm thiên, Sa-môn, Bà-la-môn, Nhân phi nhân ở các thế gian khác ở đời vị lai lại có khả năng giảng nói kinh này khiến cho những kẻ khác nghe, không hề có việc ấy. Này A-nan! Chỉ có những người hiện tại chứa nhóm được nhiều tài sản chính pháp, thì ở đời vị lai mới có thể thọ dụng tùy ý. Ví như có cha con vị cư só nọ, gia sản rất giàu có gồm nhiều thứ của báu như vàng, bạc, lưu ly, ngọc trai, ngọc ma-ni cùng các thứ ngọc quý khác… chứa đầy các kho lẫm, tôi tớ hầu hạ, voi ngựa trâu dê thảy đều dồi dào. Cha con cư só đó đi đến nơi xa để dạo chơi ngắm cảnh, sau đó trở về chốn cũ. Vậy cha con vị ấy có được thọ dụng những của cải đã có sẵn của mình không? A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Họ được thọ dụng một cách tự tại, vì đó là tài sản vốn có của họ. Đức Phật dạy: –Đúng thế! Này A-nan! Nếu như trong hiện tại các chúng sinh được nghe giảng nói kinh này thì ở đời vị lai cũng sẽ được nghe, thọ trì đọc tụng, cúng dường… giống như hiện ngày nay. Này A-nan! Ta dùng mắt Phật thấy có người tin hiểu thọ trì kinh này, đọc tụng thông suốt, giải thích cho người khác nghe, cho đến biên chép kinh điển như hiện nay. Này A-nan! Cũng có người cúng dường cũng như những kẻ bài báng không tin tưởng thọ nhận. Bấy giờ, Tôn giả A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Nếu có chúng sinh chẳng tin hiểu kinh này, mà còn bài báng thì kẻ đó phải chịu tội báo sinh vào cõi nào? Đức Phật nói: –Hãy thôi, ông chớ nên hỏi về điều ấy. A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Cúi mong Đức Thế Tôn nói về điều đó. Vì như thế sẽ khiến cho những chúng sinh chưa tin hiểu pháp này sẽ phát tâm kính tin ưa thích. Phật bảo A-nan: –Tội báo và nơi sinh về của những kẻ ấy cũng giống như kẻ gây ra năm nghiệp vô gián. Này A-nan! Ý của ông nghó thế nào? Giả sử có người trong một ngày giết hết chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới, thì tội báo của người ấy ra sao? A-nan bạch Phật: –Bạch Tôn, hết sức độc ác! Đức Phật dạy: –Tội báo của kẻ ấy cũng giống như trường hợp trước. Này A-nan! Ý ông nghó sao? Ví như có người hủy hoại, hoặc thiêu đốt tháp miếu của các Đức Phật nhiều như số cát sông Hằng được xây dựng sau khi Phật nhập Niết-bàn thì tội ác của kẻ ấy có nhiều chăng? Tôn giả A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Tội ác ấy rất nhiều, mắt chẳng nên thấy, tai chẳng nên nghe. Phật bảo A-nan: –Tội báo và nơi sinh về của người ấy như thế nào? A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Tội ác ấy rất sâu nặng. Phật bảo A-nan: –Tội báo của người ấy phải chịu cũng giống như trường hợp trước. Này A-nan! Ý ông nghó sao nếu như có kẻ tiêu diệt chính pháp của các Đức Phật ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai, thì tội ác ấy thế nào? A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Tội ác ấy rất nặng. Phật bảo A-nan: –Tội báo mà kẻ ấy phải chịu cũng giống như trường hợp trước. A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Nếu như có kẻ chê bai hủy báng, khiến cho chúng sinh xa lìa kinh này thì tội ấy như thế nào? Phật bảo A-nan: –Theo ý ông nghó sao? Nếu như chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới đều tu tập theo mười điều thiện, mong cầu đạo Vô thượng chính đẳng chính giác, giả sử có kẻ hủy hoại đôi mắt của tất cả chúng sinh ấy thì tội ác ấy có nặng chăng? A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn, rất nặng! Người ấy phải chịu các khổ não ở địa ngục trong trăm ngàn muôn ức na-do-tha kiếp. Phật bảo A-nan: –Giờ ta nói với ông, nếu có chúng sinh nào hủy báng kinh này, dù chỉ làm cho một người xa lìa kinh này thì nên biết tội báo của người ấy phải chịu cũng giống như tường hợp trên. A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Nếu có vị Bồ-tát mong cầu đạo Vô thượng chính đẳng chính giác, đối với kinh này tuy có tâm nghi ngờ nhưng không phỉ báng, như vậy thì tội ấy thế nào? Phật bảo A-nan: –Nếu sinh tâm nghi ngờ thì trái nghịch với các Đức Phật, tội ấy phải chịu một ức kiếp xa lìa nẻo giác ngộ. A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Nếu có chúng sinh phỉ báng kinh này, lại xúi giục khiến cho nhiều chúng sinh cùng xa lánh thì kẻ ấy phải chịu tội báo về thân hình lớn nhỏ ra sao? Phật bảo A-nan: –Hãy thôi, ông chớ nên hỏi về thân hình lớn nhỏ của tội báo này? A-nan bạch Phật: –Cúi mong Thế Tôn nói rõ về tội đó khiến cho bốn chúng đệ tử trong chúng hội và các chúng sinh ở đời sau được biết mà sinh tâm hổ thẹn sợ hãi. Phật bảo A-nan: –Tội báo của người ấy là thân cao đến một muôn do-tuần, chịu vô lượng khổ. A-nan bạch Phật: –Người ấy chẳng biết giữ gìn khẩu nghiệp của mình, vậy quả báo về hình tướng lưỡi lớn nhỏ thế nào? Phật bảo A-nan: –Lưỡi của người tội đó rộng mỗi bề một ngàn do-tuần, luôn có năm chiếc cày sắt nung lửa đỏ rực cày xới trên lưỡi ấy, lại có năm trăm thỏi sắt nung đỏ rực ánh lửa liên tục rơi lên lưỡi kẻ đó. Đó là do đời trước người ấy không giữ gìn khẩu nghiệp. Bấy giờ, bốn chúng đều sinh sợ hãi. Nổi ốc khắp mình, sợ hãi khóc lóc ngã lăn ra đất, đều cùng bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Hôm nay chúng con xin vì tất cả các vị nam nữ trong dòng họ của Như Lai mà phát lộ sám hối, mong được xa lìa quả báo về thân hình như vậy để khỏi phải chịu bao nỗi khổ. Trong chúng hội còn có những người ràn rụa nước mắt, bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Chúng con hoặc ở trong đời này, hoặc ở trăm ngàn muôn ức na-do-tha đời trước, từng sinh tâm nghi ngờ tạo các nhân duyên có thể sinh ra bao nỗi đau khổ như thế, hôm nay chúng con đối trước Đức Như Lai Đẳng chính Giác, cùng với trăm ngàn muôn ức không thể hạn lượng các Đức Phật Thế Tôn, xin thành tâm phát lộ sám hối, kính mong các Đức Phật Như Lai dùng mắt Phật soi thấu lòng thành của chúng con. Hôm nay chúng con tất cả tội nghiệp thảy đều phát lộ sám hối không dám che giấu. Chúng con ngu si thấp kém không biết không hay, không có phương tiện cúi mong các Đức Phật vì lòng Từ bi thương xót mà nhận lấy sự sám hối của chúng con! Phật bảo các vị thiện nam: –Lành thay, lành thay! Hôm nay ở trước mặt ta các vị đã phát lộ sám hối không hề che giấu tội lỗi của mình, như vậy đối chính pháp của ta các vị sẽ được nhiều lợi ích. A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Hiện nay trong chúng hội này, có một số vị sinh tâm nghi ngờ đối với kinh, nên phải chịu khổ nơi cõi địa ngục như thế phải chăng? Phật bảo A-nan: –Hiện những vị trong chúng hội này sinh tâm nghi ngờ nhưng nhờ biết ăn năn sám hối nên tội ấy đã được giảm nhẹ. A-nan bạch Phật: –Những người ấy phải chịu tội báo như thế nào? Phật bảo A-nan: –Khi người ấy sắp chết trong mỗi lỗ chân lông trên thân đều chịu vô lượng khổ, nhưng sự đau đớn ấy không kéo dài. Vì sao? Vì những người đó đã ở trước ta cũng như trước vô lượng, vô biên các Đức Phật Thế Tôn thành tâm sám hối những lỗi lầm của mình. Này A-nan! Vì vậy mà các vị nam nữ trong dòng họ của Như Lai nếu muốn tránh tội báo về thân và lưỡi cũng như bao nỗi đau khổ cùng cực như thế thì phải nên kính tin, hiểu rõ kinh này, chớ nên sinh tâm nghi ngờ. Này A-nan! Nếu có các vị thiện nam, thiện nữ muốn luôn được gần gũi Tam bảo Phật, Pháp, Tăng, muốn luôn được gắn bó với chính pháp của các Đức Phật ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai, thì nên thọ trì kinh này, đọc tụng thông suốt, giải thích cho người khác nghe và sao chép kinh điển để cúng dường. A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Nay Như Lai nói kinh Bất Thoái Chuyển Luân, vậy do nhân duyên gì mà Thế Tôn dạy rằng: Nếu muốn gần gũi Tăng, vậy chẳng hay gần gũi hạng Tăng nào? Phật bảo A-nan: –Tăng ấy chỉ cho những vị Tăng không còn thoái chuyển, gọi là Tăng, những vị không thoái chuyển đến nhóm họp trong chúng hội cũng được gọi là Tăng. A-nan bạch Phật: –Các vị Bồ-tát chưa được pháp không thoái chuyển thì chưa được xếp vào hàng tăng chăng? Phật bảo A-nan: –Nếu những vị đã phát tâm Bồ-đề sâu xa mà không chấp vào sự phát tâm ấy thì đều được xếp vào hàng Tăng không thoái chuyển. A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Thật là điều ít có, các Đức Phật đã đầy đủ năng lực phương tiện lớn lao, nhờ phương tiện mà nói pháp như vậy. Bấy giờ, Thích Đề-hoàn Nhân liền dùng tung rải hoa Mạn-đà-la cõi trời lên chỗ Phật và bạch: –Bạch Thế Tôn! Cúi mong Đức Thế Tôn khiến cho tất cả chúng sinh cũng đều đầy đủ phương tiện như vậy. Phật bảo Thích Đề-hoàn Nhân: –Này Kiều-thi-ca! Nếu có người tin hiểu kinh này thì đều sẽ thành tựu phương tiện như vậy để giảng nói các pháp chẳng khác gì như ta hiện nay. Lúc này, có trăm ngàn các vị trời tung rải hoa Mạn-đà-la cõi trời lên chỗ Phật để cúng dường và nguyện: –Nguyện cho tất cả chúng sinh đều thông đạt kinh này. Khi ấy Tôn giả A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Cúi mong Thế Tôn thương xót chúng sinh đời vị lai mà giữ gìn kinh này. Phật bảo A-nan: –Nếu các thiện nam, thiện nữ đang lênh đênh trên biển cả mà muốn nghe kinh này thì các thiện nam, thiện nữ ấy đều được nghe. Vì sao? Vì các Đức Phật Như Lai đời trước đã giữ gìn kinh này. A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Chư Phật, Như Lai đời trước tuy giữ gìn kinh này, nhưng con cúi mong ngày nay Như Lai vì thương xót chúng sinh cũng giữ gìn kinh này. Lúc bấy giờ, mặt đất rung chuyển sáu cách, tức thì ở trước chỗ Phật tự nhiên hiện ra một đóa hoa trời Diêm-phù-đề màu vàng với trăm ngàn muôn ức cánh, phát ra ánh sáng soi sáng hằng hà sa thế giới chư Phật trong mười phương. Bấy giờ, bốn chúng đều thấy các Đức Phật Thế Tôn nơi hằng hà sa thế giới trong mười phương, trước các Đức Phật này cũng đều có hoa trời Diêm-phù-đề màu vàng tự nhiên xuất hiện với trăm ngàn muôn ức cánh, phát ra ánh sáng chiếu khắp mười phương. Bấy giờ, Thích Đề-hoàn Nhân liền biến thành một vị cư só, cầm các thứ hoa nói với bốn chúng: –Bây giờ các vị hãy tung rải hoa này lên chỗ Phật để cúng dường Như Lai, cũng là để cúng dường pháp mầu kinh này. Tức thì bốn chúng liền tung rải các hoa ấy lên chỗ Phật. Đức Như Lai dùng thần thông khiến cho tất cả các hoa được tung rải lên để cúng dường ấy kết lại thành một lọng hoa lớn. Bốn chúng cùng bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà mặt đất rung động sáu cách như vậy? Lại có đóa hoa sen lớn hiện ra trước chỗ Phật và hằng hà sa thế giới trong mười phương, Đông, Tây, Nam, Bắc, Trên, Dưới và bốn hướng cũng đều hiện ra giống như thế? Phật bảo bốn chúng: –Những hiện tượng tốt đẹp hiện ra trước như vậy đủ biết các Đức Phật luôn giữ gìn kinh này. A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Như Lai hiện này đã dạy về việc giữ gìn kinh này chăng? Phật bảo A-nan: –Đúng vậy! Ta đã chỉ dạy. A-nan bạch Phật: –Chỉ có mỗi Đức Thế Tôn giữ gìn kinh này hay là các Đức Phật trong thế giới khác cũng đều giữ gìn kinh này? Đức Phật dạy: –Các Đức Phật trong các thế giới nhiều như số cát sông Hằng trong mười phương đều giữ gìn kinh này. A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Kinh này được gọi tên là gì và thọ trì bằng cách nào? Đức Phật nói: –Kinh này gọi là Chẳng Chấp Các Quả, hoặc Xa Lìa Các Quả; cũng có tên là Nói Về Mật nghĩa Của Các Pháp Kiên Tín, Kiên Pháp, Tám Bậc, Bốn Quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán Và Nhị thừa Thanh Văn, Bích-chi-phật; cũng có tên là Hàng Phục Đuổi Trừ Các Ma, cũng được gọi là Tương Ứng Với Sáu Pháp Ba-la-mật. Vì sao được gọi như thế? Vì nếu có các thiện nam, thiện nữ kính tin hiểu rõ kinh này, thọ trì đọc tụng, cho đến sao chép kinh điển để cúng dường thì xem như những người ấy đã tu tập đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật. A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Vì sao những người kính tin, hiểu rõ kinh này, thọ trì đọc tụng thì được xem là đã tu tập đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật? Phật dạy: –Nếu các thiện nam, thiện nữ kính tin, hiểu rõ kinh này thì được gọi là Bố thí ba-la-mật. Chẳng sinh tâm nghi ngờ thì được gọi là Trì giới ba-la-mật. Gắng sức để nhận lãnh và thấu đạt pháp ấy thì được gọi là Nhẫn nhục ba-la-mật. Tâm mạnh mẽ, không yếu hèn thì được gọi là Tinh tấn ba-la-mật. Tâm được an định, không xao động nên gọi là Thiền định ba-la-mật. Chẳng phân biệt đối với tất cả các pháp gọi là Trí tuệ ba-la-mật. Này A-nan! Do vậy mà kinh này được gọi là Tương Ứng Với Sáu Pháp Ba-la-mật; kinh này cũng còn gọi là Tất Cả Các Đức Phật Giảng Nói chính Pháp; cũng được gọi là Pháp Không Thoái Chuyển Rộng Lớn; cũng gọi là Pháp Không Thoái Chuyển Rộng Lớn Thanh Tịnh Trang Nghiêm. Này A-nan! Đó là các tên gọi của kinh này, ông nên theo những ý nghĩa ấy mà thọ trì. A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Chỉ được nghe tên kinh này thôi cũng đã phát tâm lãnh hội thọ trì, huống chi là đã được nghe giảng nói trước sau đầy đủ. Đức Phật dạy: –Đúng vậy, đúng như lời ông nói! A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Nếu có chúng sinh được nghe kinh này, thì thoát được vòng sinh tử của bao nhiêu kiếp? Đức Phật dạy: –Nếu có người được nghe tên kinh Quảng Bác Nghiêm Tịnh Bất Thoái Chuyển Luân, được nghe rồi lại sinh tâm kính tin hiểu rõ thì ông nên biết rằng những chúng sinh ấy sẽ thoát khỏi trăm ngàn kiếp sinh tử. A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Nếu có chúng sinh được nghe kinh này, kính tin, hiểu rõ và phát tâm Bồ-đề thì sẽ đạt được pháp gì? Đức Phật dạy: –Những chúng sinh như vậy đều được các Đức Phật thọ ký là sẽ đạt đến Tuệ giác vô thượng Bồ-đề. Lúc này, bốn chúng trong hội, mỗi vị đều thấy trước chỗ ngồi của mình tự nhiên hiện ra một đóa hoa sen rất to lớn, hoa ấy nở ra có đến trăm ngàn cánh với hàng trăm ngàn muôn ức ánh sáng màu sắc tỏa chiếu, khiến cho bốn chúng đều vui mừng hớn hở, liền dâng hoa ấy lên cúng dường Phật và cùng bạch Phật: –Nguyện cho chúng con vào đời vị lai cũng được giảng nói rộng khắp về kinh này chẳng khác gì Đức Thế Tôn hiện nay đang giảng nói. Bấy giờ, Đức Thế Tôn vui vẻ mỉm cười: –Cùng lúc, tất cả các thứ âm nhạc tự nhiên hòa tấu vang lừng, tất cả các thứ hương thơm tự nhiên xông tỏa ngào ngạt. Hàng trăm ngàn muôn ức vị trời trên hư không hòa tấu các thứ nhạc trời. Lại có trăm ngàn muôn ức vị trời trên không trung tung rải như mưa các thứ hương bột Chiên-đàn, cùng với vô số các loại hương trời như Thiên A-ca-lâu hương, hương bột mịn màng Đa-ma-la hương. Lại tung rải như mưa các thứ châu báu như: Mạn-đà-la, Ma-ha mạn-đà-la, Ba-lâu-sa, Ma-ha ba-lâu-sa, Mạn-thù-sa, Ma-ha mạn-thù-sa, Ca-ca-la, Ma-ha ca-ca-la, Lâu-già-ma-na, Ma-ha lâu-già-ma-na, Thiên ưu-bát-lan, Câu-vật-đầu, Phân-đà-lợi… Các loại hoa nhiều như vậy được tung rải xuống chỗ Phật để cúng dường. Lại có vô số các thứ hương trời, vô số các tràng hoa, chuỗi hoa, cho đến tất cả các thứ châu báu quý giá mà các vị trời có được đều tung rải xuống để cúng dường. Mọi người cũng rộn ràng không kém. Có các vị cởi những y phục quý giá dâng lên cúng dường Phật. Có các vị thì cởi những xâu chuỗi ngọc quý đeo trên cổ hoặc các thứ mũ não kết bằng các xâu chuỗi hoa… tung lên để cúng dường. Có các vị thì dùng những chiếc mũ quý làm bằng vàng ngọc, làm bằng các thứ vật báu khác, hoặc được kết bằng các thứ hoa đẹp, các thứ hương Chiên-đàn cùng dâng lên cúng dường. Có các vị thì vui mừng hớn hở chúc thọ vang khắp. Đồng thời các loài vật như trâu, ngựa thảy đều vui thích, phát ra tiếng kêu dịu dàng. Trên không trung các loài chim chóc thì nhóm họp từng đàn chung giọng hót vang những âm thanh hòa nhã. Chúng sinh ở các cõi như địa ngục, súc sinh đều lìa các nỗi đau khổ, tâm hưởng an lành. Chúng sinh ở cõi quỷ đói thì được no đủ, lìa các nỗi khổ não về cảnh đói khát. Tám bộ chúng là Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân… thảy đều bộc lộ sự vui mừng tột độ, cũng như tất cả các chúng sinh đều dấy khởi tâm Từ bi, đối xử với nhau theo tâm Từ bi ấy không còn chút giận dữ, oán hờn. Bấy giờ, A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Do đâu mà Đức Thế Tôn mỉm cười? Các Đức Phật, Như Lai khi mỉm cười là nhằm để nêu dạy điều gì. Phật bảo A-nan: –Hiện nay bốn chúng đệ tử Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, cùng tám bộ chúng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân hiện đang có mặt nơi đây đều được nghe và lãnh hội kinh này, thì đời sau cũng sẽ được gặp lại, nghe và lãnh hội, đều được pháp không thoái chuyển trên đường tiến đến quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác, sau khi thành Bậc Giác Ngộ cũng sẽ giảng nói kinh này, không thêm không bớt, chẳng khác gì ta hiện nay. Lúc Phật nói kinh này, có vô lượng, vô biên chẳng thể tính lường, chẳng thể nghó bàn, trăm ngàn muôn ức na-do-tha các vị trời, rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân đều được pháp không lui sụt trên đường tiến đến quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác. Đức Phật nói xong kinh này, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử, vô lượng, vô biên các Đại Bồ-tát, Tôn giả A-nan, các vị Đại Thanh văn cùng với bốn chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, tám bộ chúng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân cùng mọi chúng nhân thế gian, tất cả đều rất vui mừng. <卷 id="77333574">