<經 id="n264">kinh thiêm phẩm diệu pháp liên hoa Hán dịch: Đời Tùy, Tam tạng Xà-na-quật-đa và Cấp-đa, nước Thiên Trúc. <卷 id="83085267">Quyển 1 <詞 id="83085268">Phẩm 1: Tựa Tôi nghe như vầy: Một thời Đức Phật ở núi Kỳ-xà-quật, thành Vương xá, cùng đại chúng Tỳ-kheo một vạn hai ngàn vị đều là bậc A-la-hán, các lậu đã hết không còn phiền não, đạt được lợi mình, dứt hết ràng buộc, tâm được tự tại. Tên các vị đó là: A-nhã Kiều-trần-như, Ma-ha Ca-diếp, Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp, Già-da-ca-diếp, Ma-đề Ca-diếp, Xá-lợi-phất, Đại Mục-kiền-liên, Ma-ha Ca-chiên-diên, A-nậu-lâu-đà, Kiếp-tân-na, Kiều-phạm-ba-đề, Ly-bà-đa, Tất-lăng-già-bà-sa, Bạc-câu-la, Ma-ha Câu-hy-la, Nan-đà, Tôn-đà-na-lan-đà, Phú-nâu-la Di-đa-la-ni Tử, Tu-bồ-đề, A-nan, La-hầu-la. Đó là những bậc A-la-hán mà mọi người đều biết. Lại có hai ngàn bậc Hữu học và Vô học, Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề cùng với sáu ngàn vị thân cận, Tỳ-kheo-ni Gia-du-đà-la là mẹ của La-hầu-la cùng những người thân cận. Có tám vạn Đại Bồ-tát, đều là bậc không thoái chuyển đối với quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác, được pháp Đà-la-ni nhạo thuyết biện tài, chuyển pháp luân không thoái chuyển, cúng dường vô lượng trăm ngàn chư Phật, ở nơi các Đức Phật trồng các công đức, thường được chư Phật khen ngợi, dùng pháp từ để tu thân và hoàn toàn đi vào trí tuệ Phật, thấu đạt được trí lớn đến bờ bên kia. Danh tiếng vang khắp vô lượng thế giới, có thể độ vô số trăm ngàn chúng sinh. Tên các vị Bồ-tát ấy là Văn-thù-sư-lợi, Quán Thế Âm, Đắc Đại Thế, Thường Tinh Tấn, Bất Hưu Tức, Bảo Chưởng, Dược Vương, Dũng Thí, Bảo Nguyệt, Nguyệt Quang, Mãn Nguyệt, Đại Lực, Vô Lượng Lực, Việt Tam Giới, Bạt-đà-bà-la, Di-lặc, Bảo Tích, Đạo Sư có tám vạn Đại Bồ-tát như vậy. Bấy giờ, Thích Đề-hoàn Nhân cùng hai vạn Thiên tử thân cận. Lại có các Thiên tử: Minh Nguyệt, Phổ Hương, Bảo Quang. Tứ đại Thiên vương, một vạn Thiên tử quyến thuộc. Trời Tự tại và Đại tự tại cùng với ba vạn Thiên tử quyến thuộc. Chủ thế giới Ta-bà, Phạm thiên vương, Thi-khí Đại phạm, Quang Minh Đại phạm… đều cùng hai ngàn Thiên tử quyến thuộc. Có tám vị Long vương: Nan-đà, Bạt-nan-đà, Bà-ca-la, Hòa-tu-kiết, Đức-xoa-ca, A-na-bà-đạt-đa, Ma-na-tư, Ưu-bát-la Long vương…. cùng với trăm ngàn quyến thuộc. Có bốn vị Khẩn-na-la vương là Pháp, Diệu Pháp, Đại Pháp, Trì Pháp Khẩn-na-la vương, đều cùng trăm ngàn quyến thuộc. Có bốn vị Càn-thát-bà vương là Nhạc, Nhạc Âm, Mỹ, Mỹ Âm, Càn-thác-bà vương đều cùng với trăm ngàn quyến thuộc. Có bốn vị A-tu-la vương là Bà Tró, Khư-la-khiên-đà, Tỳ-ma-chất-đa-la, La-hầu A-tu-la vương đều cùng với trăm ngàn quyến thuộc. Có bốn vị Ca-lầu-la vương là Đại Oai Đức, Đại Thân, Đại Mãn, Như Ý, Ca-lầu-la vương đều cùng với trăm ngàn quyến thuộc. Vua A-xà-thế, con bà Vi-đề-hy, cùng trăm ngàn vị thân cận, đều đảnh lễ dưới chân Phật rồi ngồi qua một bên. Khi ấy, bốn chúng vây quanh cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán Đức Thế Tôn. Đức Phật đang giảng kinh Đại thừa tên là Vô Lượng nghĩa Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm cho các Bồ-tát. Nói kinh này xong, Đức Phật ngồi kiết già nhập thiền định Vô lượng nghĩa xứ, thân tâm không động. Lúc ấy, trời mưa các loại hoa: Mạn-đà-la, Ma-ha mạn-đà-la, Mạn-thù-sa, Ma-ha mạn-thù-sa, tung rải khắp trên Đức Phật và đại chúng. Khắp cả cõi Phật, chấn động sáu cách. Lúc ấy trong hội Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Cận sự nam, Cận sự nữ, Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân…. cùng các vị Tiểu vương, Chuyển luân thánh vương đều cho là việc chưa từng có, nên vui mừng chắp tay chăm chú nhìn Phật. Lúc ấy, Đức Phật phóng ánh sáng từ tướng bạch hào giữa đôi chân mày chiếu khắp cả một vạn tám ngàn thế giới ở phương Đông. Chiếu xuống tận địa ngục A-tỳ và lên đến trời Hữu đảnh. Ở trong thế giới này đều thấy sáu đường chúng sinh, lại thấy Phật hiện tại và được nghe kinh pháp của Phật dạy. Và thấy các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Cận sự nam, Cận sự nữ, những người tu hành đắc đạo, lại thấy các Đại Bồ-tát, bằng các nhân duyên tin hiểu và tướng mạo để hành đạo Bồ-tát. Và thấy các Đức Phật vào Niết-bàn, lại thấy sau khi Đức Phật Niết-bàn, thâu xá-lợi và xây dựng tháp bảy báu. Bấy giờ Bồ-tát Di-lặc suy nghó: “Hôm nay Đức Thế Tôn hiện tướng thần biến, vì sao có điềm lành này? Đức Thế Tôn đang nhập thiền định, đây là việc hiếm có không thể nghó bàn, vậy nên hỏi ai? Ai có thể đáp được?” Vị ấy lại suy nghó: “Ngài Văn-thù-sư-lợi là con Đấng Pháp Vương đã từng gần gũi cúng dường chư Phật quá khứ, đã từng trông thấy tướng hy hữu này. Ta nên hỏi vị ấy.” Lúc đó, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Cận sự nam, Cận sự nữ và Trời, Rồng, Quỷ thần… đều suy nghó: “Tướng ánh sáng thần thông của Phật, nên hỏi ai?” Bấy giờ muốn giải quyết sự nghi của mình và xem xét tâm của bốn chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Cận sự nam, Cận sự nữ và Trời, Rồng, Quỷ thần… nên Bồ-tát Di-lặc hỏi Văn-thù-sư-lợi: –Vì sao mà có tướng lành thần thông này? Phật phóng ánh sáng chiếu khắp một vạn tám ngàn cõi ở phương Đông, thấy sự trang nghiêm của các cõi Phật ấy. Muốn tuyên lại sự việc trên, Bồ-tát Di-lặc nói kệ: Văn-thù-sư-lợi Vì sao Đạo Sư Từ tướng bạch hào Hào quang chiếu khắp? Mưa Mạn-đà-la Hoa Mạn-thù-sa Gió thơm Chiên-đàn Vui đẹp lòng người Vì lý do nào Đất đều nghiêm tịnh Cả thế giới này Chấn động sáu cách? Lúc này bốn chúng Đều rất hoan hỷ Thân tâm vui mừng Được chưa từng có. Ánh sáng bạch hào Chiếu đến phương Đông Vạn tám ngàn cõi Đều như sắc vàng, Từ ngục A-tỳ Đến trời Hữu đảnh Trong các thế giới Sáu nẻo chúng sinh, Sinh tử luân hồi Do nghiệp thiện, ác Nhận báo tốt, xấu Ở đây thấy rõ. Thấy các Đức Phật Thánh chúa Sư tử Diễn thuyết kinh điển Vi diệu bậc nhất, Tiếng Ngài trong trẻo Giọng nói êm dịu Dạy hàng Bồ-tát Vô số ức muôn, Phạm âm cực hay Khiến người thích nghe Ở mỗi thế giới Giảng nói chính pháp; Đủ các nhân duyên Làm rõ pháp Phật Khai ngộ chúng sinh. Nếu người bị khổ Chán già, bệnh, chết Thì nói Niết-bàn Dứt hết các khổ. Nếu người có phước Từng cúng dường Phật Cầu pháp tối thắng Thì nói Duyên giác. Nếu có Phật tử Tu đủ các hạnh Cầu Tuệ vô thượng Thì nói Tịnh đạo. Văn-thù-sư-lợi! Tôi ở nơi này Thấy nghe như thế Và ngàn ức việc, Rất nhiều như vậy Nay sẽ lược nêu. Tôi thấy cõi kia Hằng sa Bồ-tát Bằng các nhân duyên Để cầu Phật đạo Hoặc hành bố thí Vàng, bạc, san hô Ngọc báu ma-ni Xa cừ, mã não Kim cương trân bảo Nô tỳ, xe cộ Kiệu báu quý đẹp Vui vẻ bố thí Hồi hướng Phật đạo Nguyện chứng Thừa này Đứng đầu ba cõi Được chư Phật khen. Hoặc có Bồ-tát Xe báu bốn ngựa Lọng hoa bao quanh Bố thí xe đẹp. Lại thấy Bồ-tát Bố thí vợ con Và cả tay chân Cầu đạo Vô thượng. Lại thấy Bồ-tát Vui vẻ bố thí Đầu, mắt, thân thể Cầu trí tuệ Phật. Văn-thù-sư-lợi! Ta thấy các vua Đi đến chỗ Phật Hỏi đạo Vô thượng. Liền bỏ ngôi báu Cung điện vương phi Cạo bỏ râu tóc Mà mặc pháp phục. Hoặc thấy Bồ-tát Làm vị Tỳ-kheo Ở riêng chỗ vắng Ưa tụng kinh điển. Lại thấy Bồ-tát Tinh tấn dũng mãnh Vào nơi núi sâu Tư duy Phật đạo. Thấy bậc Ly dục Ở nơi thanh vắng Vào sâu thiền định Được năm thần thông. Và thấy Bồ-tát An định chắp tay Dùng ngàn bài kệ Khen các Pháp vương. Lại thấy Bồ-tát Trí sâu, chí bền Hay hỏi chư Phật Nghe xong thọ trì. Và thấy Phật tử Định tuệ đầy đủ Dùng nhiều ví dụ Giảng pháp cho chúng, Ưa thích nói pháp Độ các Bồ-tát Dẹp phá ma quân Đánh trống pháp lớn. Hoặc thấy Bồ-tát Ngồi im tónh lặng Được trời, rồng kính Không lấy làm vui. Lại thấy Bồ-tát Trong rừng phóng quang Cứu khổ địa ngục Khiến vào Phật đạo. Và thấy Phật tử Chưa từng ngủ nghỉ Kinh hành trong rừng Siêng cầu Phật đạo. Bậc đủ giới đức Oai nghi không thiếu Sáng như ngọc báu Để cầu Phật đạo. Hoặc thấy Phật tử Đủ sức nhẫn nhục Bị tăng thượng mạn Chửi mắng đánh đập Đều nhẫn nhịn hết Để cầu Phật đạo. Lại thấy Bồ-tát Xa lìa chơi đùa, Cùng quyến thuộc si, Gần gũi bậc Trí Nhất tâm trừ loạn chính niệm trong rừng Ức ngàn vạn năm Để cầu Phật đạo. Hoặc thấy Bồ-tát Thức ăn thượng hạng, Trăm món thuốc thang Cúng Phật và Tăng; Y phục tốt đẹp Giá đến ngàn vạn, Y phục vô giá Cúng Phật và Tăng; Ngàn vạn ức thứ Nhà báu Chiên-đàn Đồ nằm tốt đẹp Cúng Phật và Tăng; Vườn rừng thanh tịnh Hoa trái sum suê Suối chảy ao tắm Cúng Phật và tăng; Cúng dường như thế Đủ thứ tốt đẹp Vui mừng không chán Cầu đạo Vô thượng. Hoặc có Bồ-tát Nói pháp tịch diệt Dạy dỗ nhiều cách Vô số chúng sinh. Lại thấy Bồ-tát Không có hai tướng Cũng như hư không. Lại thấy Phật tử Tâm không lệ thuộc Dùng diệu tuệ này Cầu đạo Vô thượng. Văn-thù-sư-lợi! Lại thấy Bồ-tát Sau Phật diệt độ Cúng dường xá-lợi, Hoặc thấy Phật tử Xây dựng các tháp Vô số hằng sa Trang nghiêm cõi nước, Tháp báu cao đẹp Năm ngàn do-tuần Ngang dọc bằng nhau Hai ngàn do-tuần, Mỗi một tháp Phật Có ngàn tràng phan Chuỗi ngọc giao nhau Linh báu hòa vang Các Trời, Rồng, Thần Nhân, Phi nhân Hương hoa âm nhạc Thường đem cúng dường. Văn-thù-sư-lợi! Các Phật tử kia Cúng dường Xá-lợi Trang hoàng tháp Phật Cõi nước tịnh nhiên Tốt đẹp tuyệt vời Như Thiên thọ vưong Nở hoa tươi đẹp. Phật phóng ánh sáng Tôi cùng chúng hội Thấy cõi nước kia Đủ thứ tốt đẹp, Thần lực của Phật Trí tuệ hiếm có Phóng hào quang sáng Chiếu khắp các cõi, Chúng tôi thấy vậy Hết sức thán phục. Phật tử Văn-thù! Xin giải nghi ngờ Bốn chúng trông chờ Nhìn ngài và tôi. Vì sao Thế Tôn Phóng ánh sáng kia? Văn-thù hãy đáp Giải nghi chúng mừng. Vì lợi ích gì? Phóng ánh sáng đó Phật ngồi đạo tràng Chứng pháp vi diệu Do muốn nói pháp Và sẽ thọ ký Thị hiện cõi Phật Các báu nghiêm sạch Và thấy chư Phật Việc không phải nhỏ Văn-thù phải biết Bốn chúng, Rồng, Thần Chăm chú nhìn ngài Sẽ nói điều gì? Khi ấy Văn-thù-sư-lợi nói với Đại Bồ-tát Di-lặc và các Đại só: –Này các thiện nam! Như tôi suy nghó: “Hôm nay Đức Phật muốn nói pháp lớn, mưa pháp vũ lớn, thổi pháp loa lớn, đánh pháp cổ lớn, diễn pháp nghĩa lớn.” Các thiện nam! Ta từng thấy điềm lành này ở các Đức Phật trong quá khứ, Đức Phật kia phóng ánh sáng rồi mới nói pháp lớn, vì vậy nên biết, nay Đức Phật hiện hào quang cũng như vậy. Muốn cho chúng sinh đều được nghe, thấy, biết diệu pháp mà tất cả trong đời khó tin, nên hiện điềm lành này. Các Phật tử vào quá khứ vô lượng, vô biên không thể nghó bàn vô số kiếp có Đức Phật, hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh, Như Lai, Ứng Cúng chính Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, diễn nói chính pháp, đầu, giữa, cuối đều hoàn hảo, nghĩa lý rất sâu xa, lời lẽ thông suốt, thuần nhất không tạp, đầy đủ sự phạm hạnh thanh bạch. Phật vì người cầu Thanh văn mà nói pháp Tứ đế, vượt qua sinh, già, bệnh, chết, đạt đến Niết-bàn, vì người cầu Bích-chi-phật mà nói pháp mười hai nhân duyên, vì các Bồ-tát mà nói sáu pháp Ba-la-mật để chứng được chính đẳng chính giác, thành tựu Nhất thiết chủng trí. Kế đến, có Đức Phật hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh, lại có Đức Phật cũng hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh, như vậy có hai vạn Đức Phật đồng một hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh và đồng một họ, họ Phả-la-đọa. Di-lặc nên biết, Đức Phật đầu tiên cho đến Đức Phật sau cùng đều đồng một hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh, đầy đủ mười hiệu. Những pháp Đức Phật nói ra đầu, giữa, sau đều hoàn hảo. Lúc Đức Phật cuối cùng chưa xuất gia có tám vị vương tử, tên là: Hữu Ý, Thiện Ý, Vô Lượng Ý, Bảo Ý, Tăng Ý, Trừ Nghi Ý, Hưởng Ý, Pháp Ý. Tám vị vương tử này có oai đức tự tại, thống lãnh bốn châu thiên hạ. Nghe vua cha xuất gia chứng Vô thượng chính đẳng chính giác nên các vương tử đó rời bỏ ngôi vị đế vương, cũng theo cha xuất gia, phát tâm Đại thừa, thường tu phạm hạnh, đều làm Pháp sư, đã trồng các căn lành nơi ngàn vạn Đức Phật. Khi ấy, trời mưa các hoa Mạn-đà-la, Ma-ha mạn-đà-la, Mạn-thù-sa, Ma-ha mạn-thù-sa để tung rải trên Đức Phật và đại chúng; khắp cõi Đức Phật chấn động sáu cách. Lúc đó, trong chúng hội có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Cận sự nam, Cận sự nữ, Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân, cùng các vị tiểu vương, Chuyển luân thánh vương. Đại chúng này thấy được điều chưa từng có, vui mừng chắp tay, chiêm ngưỡng Phật. Bấy giờ, Đức Như Lai phóng ánh sáng từ tướng bạch hào giữa đôi chân mày chiếu khắp cả một vạn tám ngàn cõi Phật ở phương Đông trùm hết tất cả như hiện nay đang thấy ở các cõi Phật này. Di-lặc nên biết, khi ấy trong hội, có hai mươi ức Bồ-tát rất muốn được nghe pháp. Các vị Bồ-tát này trông thấy ánh sáng chiếu khắp cõi Phật, được điều chưa từng có, đều muốn biết vì nhân duyên gì mà phóng ánh sáng này? Khi ấy, có Bồ-tát hiệu Diệu Quang có tám trăm người đệ tử. Bấy giờ Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh từ trong chính định, vì Bồ-tát Diệu Quang mà nói kinh Đại thừa tên là Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm, trải qua sáu mươi tiểu kiếp không rời khỏi chỗ ngồi. Lúc này, trong hội những người nghe pháp cũng đều ngồi một chỗ đến sáu mươi tiểu kiếp, thân tâm không động, nghe Đức Phật nói pháp cho là như trong khoảng bữa ăn. Bấy giờ trong chúng không có người nào thân tâm mỏi mệt. Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh trong sáu mươi tiểu kiếp nói kinh đó rồi, liền ở trong chúng Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn, Trời, Người, A-tu-la tuyên bố thế này: “Vào giữa đêm nay, Như Lai sẽ nhập Niết-bàn.” Khi ấy, có Bồ-tát hiệu Đức Tạng được Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh thọ ký và bảo các Tỳ-kheo: –Bồ-tát Đức Tạng này thứ đến sẽ thành Phật, hiệu Tịnh Thân Như Lai, Ứng Cúng chính Đẳng chính Giác, thọ ký xong vào giữa đêm ấy, Phật nhập Niết-bàn. Sau khi Phật diệt độ, Bồ-tát Diệu Quang trì kinh “Diệu Pháp Liên Hoa” đủ tám mươi tiểu kiếp và giảng giải cho người. Tám người con của Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh đều là đệ tử của ngài Diệu Quang, được Diệu Quang giáo hóa trở thành những bậc kiên cố hướng đến Vô thượng chính đẳng chính giác. Sau khi cúng dường vô lượng trăm ngàn muôn ức Đức Phật, các vị vương tử này đều thành Phật đạo. Vị thành Phật cuối cùng hiệu là Nhiên Đăng. Trong tám trăm vị đệ tử, có một người tên Cầu Danh. Vị này tham ưa danh lợi, tuy có đọc tụng rất nhiều kinh điển nhưng không thông hiểu, phần nhiều quên mất, vì thế nên gọi là Cầu Danh. Vị này do có trồng các căn lành nên gặp được vô lượng trăm ngàn muôn ức Đức Phật, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen. Di-lặc nên biết, lúc đó Bồ-tát Diệu Quang đâu phải là người nào khác mà chính là tôi, còn Bồ-tát Cầu Danh kia là ông. Thấy điềm lành này cùng với xưa không khác, nên tôi suy nghó: “Hôm nay Như Lai sẽ nói kinh Đại thừa tên Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm.” Bấy giờ, giữa đại chúng Văn-thù-sư-lợi muốn tuyên lại nghĩa này nên nói kệ: Ta nhớ thuở quá khứ Vô lượng, vô số kiếp Có Phật Nhân Trung Tôn Hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh. Đức Thế Tôn nói pháp Độ vô lượng chúng sinh Vô số ức Bồ-tát Khiến vào trí tuệ Phật. Khi Phật chưa xuất gia Có sinh tám vương tử Thấy Đại Thánh xuất gia Cùng theo tu phạm hạnh, Phật nói kinh Đại thừa Tên là Vô Lượng nghĩa Ở trong hàng Đại chúng Phân biệt nói rõ ràng. Phật nói kinh này xong Ngay tại pháp tòa ấy Kiết già nhập chính định Tên Vô lượng nghĩa xứ, Trời mưa hoa Mạn-đà Trống trời tự nhiên vang Các Trời, Rồng, Quỷ, Thần Cúng dường Đức Thế Tôn. Tất cả các cõi Phật Đều chấn động sáu cách Tướng bạch hào phóng quang Hiện các việc hiếm có; Ánh sáng chiếu phương Đông Vạn tám ngàn cõi Phật Hiện nghiệp báo sinh tử Của tất cả chúng sinh. Lại thấy các cõi Phật Dùng các báu trang nghiêm Màu lưu ly, pha lê Đều do Phật soi sáng, Và thấy các Trời, Người Chúng Rồng, Thần, Dạ-xoa Càn-thát, Khẩn-na-la Đều cúng dường Đức Phật. Lại thấy các Như Lai Tự nhiên thành Phật đạo Sắc thân như núi vàng Đoan nghiêm rất đẹp đẽ Như lưu ly sáng trong Hiện ra tượng hoàng kim Thế Tôn trong đại chúng Diễn bày nghĩa thâm diệu. Mỗi mỗi các cõi Phật Vô số chúng Thanh văn Nhờ ánh sáng Phật chiếu Thấy hết đại chúng kia. Hoặc có các Tỳ-kheo Ở trong núi rừng sâu Tinh tấn trì tịnh giới Giống như giữ ngọc sáng. Lại thấy các Bồ-tát Hành bố thí, nhẫn nhục Số nhiều như hằng sa Nhờ ánh sáng Phật soi. Lại thấy hàng Bồ-tát Vào sâu các thiền định Thân, tâm đều không động Để cầu đạo Vô thượng. Lại thấy các Bồ-tát Biết tướng pháp tịch diệt Trong mỗi cõi nước ấy Nói pháp cầu Phật đạo. Bấy giờ bốn bộ chúng Thấy Phật Nhật Nguyệt Đăng Hiện sức thần thông lớn Tâm họ đều vui mừng Mỗi người tự hỏi nhau Vì sao có việc này? Đấng trời, người tôn kính Vừa từ chính định ra Khen Bồ-tát Diệu Quang: Ông là mắt của đời Mọi người đều tin theo Khéo phụng trì tạng pháp, Như lời của ta nói Chỉ ông mới biết rõ. Thế Tôn đã ngợi khen Khiến Diệu Quang vui mừng Nói kinh Pháp Hoa này Suốt sáu mươi tiểu kiếp Không rời khỏi chỗ ngồi Giảng Diệu pháp tối thượng. Ngài Pháp sư Diệu Quang Đều thọ trì đầy đủ Phật nói kinh Pháp Hoa Khiến chúng sinh vui mừng Ngay ở trong ngày đó Dạy bảo chúng trời, người nghĩa thật tướng các pháp Đã nói cho các ông, Vào trong giữa đêm nay Ta sẽ nhập Niết-bàn Ông nhất tâm tinh tấn Phải xa lìa buông lung Chư Phật rất khó gặp Ức kiếp mới gặp được. Đệ tử của Thế Tôn Nghe Phật sắp Niết-bàn Đều rất là sầu thảm Sao Phật sớm diệt độ? Thánh chủ vua các pháp An ủi vô lượng chúng Nếu khi ta diệt độ Các ông chớ lo sợ, Bồ-tát Đức Tạng này Tâm đã được thông đạt Nói thật tướng vô lậu Sau đó sẽ thành Phật Danh hiệu là Tịnh Thân Cũng độ vô lượng chúng. Đêm ấy Phật diệt độ Như củi hết, lửa tắt Phân chia xá-lợi Phật Xây dựng vô lượng tháp, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni Nhiều như cát sông Hằng Ngày đêm thêm tinh tấn Để cầu đạo Vô thượng. Pháp sư Diệu Quang ấy Giữ gìn tạng pháp Phật Trong tám mươi tiểu kiếp Rộng giảng kinh Pháp Hoa. Tám vị vương tử đó Được Diệu Quang dạy bảo Vững nơi đạo Vô thượng Thường thấy vô số Phật, Cúng dường các Thế Tôn Tùy thuận tu đại đạo Tuần tự đều thành Phật Thứ lớp thọ ký nhau; Vị thành Phật cuối cùng Hiệu là Phật Nhiên Đăng. Đạo Sư của chư Tiên Độ thoát vô lượng chúng Khi ấy ngài Diệu Quang Có một người đệ tử Tâm thường hay biếng nhác Tham đắm nơi danh lợi Cầu danh lợi không chán Thường đến nhà giàu sang Lơ là việc tu tập Bỏ quên không thông thuộc, Bởi vì lý do ấy Nên gọi là Cầu Danh. Cũng làm các việc lành Được thấy vô số Phật Cúng dường các Thế Tôn Tùy thuận tu đại đạo, Đủ sáu Ba-la-mật Nay gặp Đức Thích-ca Sau đó sẽ thành Phật Hiệu là Phật Di-lặc. Độ khắp các chúng sinh Số đông không thể lường Sau Phật ấy diệt độ Người biếng nhác là ngài; Còn Pháp sư Diệu Quang Nay chính là ta đây. Ta thấy Phật Đăng Minh Điềm lành nay như xưa Cho nên nay biết Phật Sẽ nói kinh Pháp Hoa. Tướng lành như điềm xưa Là phương tiện của Phật Nay Phật phóng ánh sáng Làm rõ nghĩa thật tướng. Các ông nay nên biết Chắp tay chăm chú chờ Phật sắp tuôn mưa pháp Thấm nhuần người cầu đạo Những người cầu ba thừa Nếu có điều nào nghi Phật sẽ giải thích cho Thông suốt hết tất cả.  <詞 id="83085269">Phẩm 2: Phương Tiện Bấy giờ, ra khỏi Tam-muội một cách an lạc, Đức Thế Tôn bảo Xá-lợi-phất: –Trí tuệ của chư Phật rất sâu xa, môn trí tuệ đó khó hiểu khó vào, tất cả Thanh văn, Bích-chi-phật đều không thể biết. Vì sao? Phật đã từng thân cận trăm ngàn muôn ức vô số Đức Phật, hoàn toàn tu vô lượng đạo pháp của Đức Phật, tinh tấn dũng mãnh, tiếng khen vang khắp, thành tựu pháp sâu xa chưa từng có, tùy theo trường hợp để giảng ý thú khó hiểu. Xá-lợi-phất! Từ khi ta thành Phật cho đến nay, bằng nhân duyên, thí dụ rộng nói ngôn giáo, dùng vô số phương tiện để dìu dắt chúng sinh khiến ra khỏi các sự chấp trước. Vì sao? Đức Như Lai đã đầy đủ phương tiện, tri kiến và Ba-la-mật. Xá-lợi-phất! Tri kiến của Như Lai rộng lớn sâu xa, vô lượng vô ngại lực, vô sở úy, thiền định giải thoát Tam-muội đã sâu xa không có giới hạn, thành tựu tất cả pháp chưa từng có. Xá-lợi-phất! Như Lai có thể thuyết pháp bằng nhiều cách khéo léo, dùng lời lẽ êm dịu, làm vui lòng mọi người. Xá-lợi-phất! Tóm lại Đức Phật đã thành tựu vô lượng, vô biên pháp chưa từng có. Thôi đi Xá-lợi-phất, không cần phải nói nữa! Vì sao? Pháp khó hiểu hy hữu đệ nhất của Phật đã thành tựu thì chỉ có Phật với Phật mới có thể thông suốt hoàn toàn, thật tướng các pháp đó là tướng như vậy, tính như vậy, thể như vậy, lực như vậy, tác như vậy, nhân như vậy, duyên như vậy, quả như vậy, báo như vậy, các pháp trước, sau rốt ráo đều như vậy. Bấy giờ, muốn tuyên lại ý nghĩa trên, Thế Tôn nói kệ: Bậc Thế Hùng khó lường Chư Thiên và loài người Và các loại chúng sinh Không thể biết được Phật. Phật lực, Vô sở úy Giải thoát, các Tam-muội Và các pháp của Phật Không ai đo lường được. Đã từ vô số Phật Hành đầy đủ các đạo Pháp nhịêm mầu rất sâu Khó thấy, khó hiểu rõ; Ở trong vô lượng kiếp Đã tu đạo này rồi Đắc quả nơi đạo tràng Ta đều biết tất cả. Phước báo lớn như thế Đủ thứ tính, tướng, nghĩa Ta cùng Phật mười phương Mới biết hết việc này, Pháp ấy không nói được Không thể dùng ngôn ngữ Các loài chúng sinh khác Không loài nào hiểu được. Trừ các chúng Bồ-tát Có sức tin kiên cố Các hàng đệ tử Phật Từng cúng dường Thế Tôn, Đã diệt hết các lậu Thân này là tối hậu Những hạng người như thế Sức họ không hiểu nỗi. Giả sử khắp thế gian Giống như Xá-lợi-phất Cùng suy tính, đo lường Cũng không lường trí Phật. Giả sử khắp mười phương Đều như Xá-lợi-phất Và các đệ tử khác Khắp các cõi mười phương Cũng đầy mười phương cõi Cùng tư duy so lường Vẫn không thể biết được. Bích-chi-phật trí sáng Thân vô lậu sau cùng Khắp mười phương các cõi Số đông như rừng tre, Họ đều cùng nhất tâm Trong vô lượng ức kiếp Suy xét thật trí Phật Chẳng biết được chút nào. Bồ-tát mới phát tâm Cúng dường vô số Phật Thông đạt các nghĩa thú, Lại khéo thuyết giảng pháp Như lúa, mè, tre, lau Đầy các cõi mười phương Nhất tâm dùng diệu trí Trải qua hằng sa kiếp Đều cùng nhau suy lường Chẳng biết được trí Phật. Bồ-tát không thoái chuyển Nhiều như cát sông Hằng Nhất tâm cùng suy lường Vẫn chẳng thể biết được. Lại bảo Xá-lợi-phất Pháp nhiệm mầu sâu sa Vô lậu khó nghó bàn Nay ta được đầy đủ, Chỉ ta biết tướng này Mười phương Phật cũng vậy Xá-lợi-phất nên biết Lời chư Phật không khác. Pháp của Đức Phật nói Phải nên hết lòng tin Pháp Phật về sau này Cần phải nói chân thật. Bảo các chúng Thanh văn Cùng hàng cầu Duyên giác Ta khiến cho thoát khổ Mau chứng được Niết-bàn. Phật dùng sức phương tiện Dạy giáo pháp ba thừa Dẫn chúng sinh ra khỏi Những nơi họ chấp trước. Khi đó, trong đại chúng hàng Thanh văn lậu tận A-la-hán, A-nhã Kiều-trần-như cùng với một ngàn hai trăm người và hàng phát tâm Thanh văn, Bích-chi-phật, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di đều nghó: “Hôm nay, Đức Thế Tôn vì sao lại ân cần khen ngợi phương tiện và nói rằng: Pháp của Phật chứng, thâm sâu khó hiểu, những lời nói ra ý thú khó biết, tất cả Thanh văn, Bích-chi-phật không thể đạt được. Phật nói một nghĩa giải thoát, chúng ta cũng nhờ pháp này đạt đến Niết-bàn mà lại không biết nghĩa đó để đạt đến”. Lúc ấy, Xá-lợi-phất biết lòng nghi của bốn chúng, chính mình cũng chưa rõ liền bạch Phật: –Bạch Đức Thế Tôn! Vì lý do gì mà Ngài ân cần khen ngợi pháp phương tiện đệ nhất sâu xa, vi diệu, khó hiểu của chư Phật. Con từ xưa đến nay theo Phật chưa từng nghe nói như vậy, nay cả bốn chúng đều có lòng nghi, cúi xin Thế Tôn nói rõ việc này. Vì sao Ngài lại ân cần khen ngợi pháp vi diệu sâu xa khó hiểu. Bấy giờ muốn tuyên lại nghĩa trên, Xá-lợi-phất nói kệ: Bậc Tuệ Nhật Đại Thánh Lâu mới nói pháp này Pháp tự mình chứng được Lực, Vô úy, Tam-muội, Các Thiền định, Giải thoát Không thể nghó bàn được Pháp chứng nơi đạo tràng Không ai có thể hỏi. Con cũng khó nghó được Không ai biết để hỏi Không hỏi mà tự nói Khen ngợi đạo đã làm, Trí tuệ rất thâm sâu Chư Phật đã chứng được Hàng La-hán vô lậu Và người cầu Niết-bàn Nay rơi vào lưới nghi Vì sao Phật nói vậy? Hạng người cầu Duyên giác Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni Các Trời, Rồng, Quỷ, Thần Cùng các Càn-thát-bà Nhìn nhau lòng do dự Chiêm ngưỡng Đấng Thế Tôn, Việc này là thế nào? Xin Phật giảng nói cho! Phật bảo con hạng nhất Ở trong chúng Thanh văn Ngay cả chính trí con Nghi ngờ không hiểu được Vì pháp ấy rốt ráo Là đạo của Phật làm Con từ miệng Phật sinh Chắp tay nhìn chờ đợi, Xin ban tiếng nhiệm mầu Đúng thời nói như thật Các Trời, Rồng, Quỷ, Thần Nhiều như cát sông Hằng, Hàng Bồ-tát cầu Phật Số nhiều đến tám vạn Lại có vạn ức nước Vua Chuyển luân vương đến Chắp tay lòng cung kính Mong nghe đạo đầy đủ. Khi ấy, Phật bảo Xá-lợi-phất: –Thôi thôi, chẳng nên nói nữa, nếu ta nói việc này thì tất cả trời, người, thế gian sẽ sợ hãi nghi ngờ. Xá-lợi-Phất thưa: –Bạch Đức Thế Tôn! Xin Thế Tôn giảng nói, xin Thế Tôn giảng nói! Vì sao? Vì trong hội này vô số trăm ngàn vạn ức chúng sinh đã từng gặp các Đức Phật, các căn lanh lợi, trí tuệ sáng suốt, được nghe Phật dạy có thể tin kính. Bấy giờ, Xá-lợi-phất muốn tuyên lại nghĩa trên, nói kệ: Đấng Pháp Vương Vô thượng Nguyện xin nói chớ lo Vô lượng chúng hội này Có người tin kính được. Phật lại ngăn Xá-lợi-phất: –Nếu ta nói việc này khắp cả Trời, Người, A-tu-la trong thế gian sẽ lo sợ nghi ngờ; Tỳ-kheo tăng thượng mạn sẽ rơi vào hố sâu. Rồi Thế Tôn nói kệ: Thôi thôi đừng nói nữa Pháp của ta khó hiểu, Những kẻ tăng thượng mạn Nghe chắc không kính tin. Xá-lợi-phất thưa: –Bạch Đức Thế Tôn! Xin Thế Tôn thuyết giảng cho! Xin Thế Tôn thuyết giảng cho! Trong hội chúng này những người như con có đến trăm ngàn vạn ức, nhiều đời đã từng được Phật giáo hóa, những người này chắc sẽ sinh kính tin an ổn lâu dài được nhiều lợi ích. Xá-lợi-phất dùng kệ nói lại nghĩa trên: Đấng Lưỡng Túc Vô Thượng Xin nói pháp đệ nhất, Con là trưởng tử Phật Xin giảng nói rõ ràng. Vô lượng chúng hội này Rất kính tin pháp ấy Nhiều đời Phật đã từng Giáo hóa chúng như vậy, Cùng nhất tâm chắp tay Lắng nghe lời Phật dạy Chúng con ngàn hai trăm Và những người cầu Phật Xin vì đại chúng này Xót thương giảng nói rõ Chúng con nghe pháp ấy Sinh tâm rất vui mừng. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Ông đã ân cần ba phen thưa hỏi, ta không thể không nói. Nay ông hãy ghi nhớ rõ, khéo suy nghó, ta sẽ nói giảng nói cho ông. Khi Phật nói lời này, trong hội chúng có năm ngàn Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, liền từ chỗ ngồi đứng dậy lễ Phật thoái lui. Vì sao? Vì hạng người ấy gốc tội sâu nặng và tăng thượng mạn, chưa đắc nói đắc, chưa chứng nói chứng, những người có lỗi như thế không còn ở lại đây, Đức Phật im lặng không ngăn cản. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Trong chúng của ta đây, giờ không còn cành lá, chỉ toàn hạt chắc, những kẻ tăng thượng mạn như thế ra đi cũng tốt. Ông nên lắng nghe ta sẽ nói cho. Xá-lợi-phất thưa: –Bạch Đức Thế Tôn, con muốn được nghe! Phật bảo: –Xá-lợi-phất! Pháp thâm diệu này chư Phật Như Lai đúng thời mới nói, như hoa Linh thụy đúng thời mới trổ một lần. Xá-lợi-phất! Các ông nên tin lời Phật nói không hư dối. Xá-lợi-phất, chư Phật tùy nghi thuyết pháp, ý thú khó hiểu. Vì sao? Vì ta dùng vô số phương tiện, các thứ nhân duyên, thí dụ, ngôn từ diễn nói các pháp, pháp ấy không thể do suy lường mà hiểu được. Vì sao? chư Phật vì một việc lớn nên xuất hiện ở đời. Xá-lợi-phất thưa: –Bạch Thế Tôn! Sao gọi là chư Phật vì một việc lớn nên xuất hiện ở đời? Xá-lợi-phất! Chư Phật vì muốn mở bày tri kiến giác ngộ làm cho chúng sinh được thanh tịnh mà hiện ra ở đời, muốn chỉ bày tri kiến giác ngộ cho chúng sinh mà xuất hiện ở đời. Muốn cho chúng sinh tỏ ngộ tri kiến giác ngộ mà xuất hiện ở đời. Muốn cho chúng sinh nhập được tri kiến giác ngộ mà xuất hiện ở đời. Xá-lợi-phất! Đó là chư Phật vì một việc lớn nên xuất hiện ở đời. Phật bảo Xá-lợi-phất: –Chư Phật chỉ giáo hóa hàng Bồ-tát, những điều đã làm chỉ vì một việc khai thị tri kiến giác ngộ cho chúng sinh. Xá-lợi-phất! Như Lai chỉ vì chúng sinh nói pháp Nhất thừa, không có hai hoặc ba thừa. Xá-lợi-phất! Tất cả pháp của chư Phật mười phương cũng vậy. Xá-lợi-phất! Chư Phật quá khứ dùng vô lượng, vô số phương tiện, nhân duyên, thí dụ, lời lẽ để diễn nói pháp cho chúng sinh, pháp đó đều là một Phật thừa, các chúng sinh ấy theo Phật, nghe pháp hoàn toàn chứng được Nhất thiết chủng trí. Xá-lợi-phất! Chư Phật vị lai ra đời cũng dùng vô lượng, vô số phương tiện, nhân duyên, thí dụ, ngôn từ, vì chúng sinh diễn nói các pháp. Các pháp ấy đều là một Phật thừa. Các chúng sinh theo Phật nghe Pháp hoàn toàn chứng được Nhất thiết chủng trí. Xá-lợi-phất! Hiện tại trong vô lượng trăm ngàn vạn ức cõi Phật khắp mười phương, các Đức Phật Như Lai cũng làm nhiều điều lợi ích an vui chúng sinh. Chư Phật cũng dùng vô lượng, vô số phương tiện, dùng các nhân duyên, lời lẽ, thí dụ để nói các pháp cho chúng sinh. Các pháp ấy đều là Phật thừa. Các chúng sinh được nghe pháp từ Phật hoàn toàn chứng được Nhất thiết chủng trí. Xá-lợi-phất! Chư Phật ấy chỉ giáo hóa Bồ-tát, vì muốn đem tri kiến giác ngộ chỉ dạy cho chúng sinh; vì muốn chúng sinh tỏ ngộ tri kiến giác ngộ; vì muốn chúng sinh nhập vào tri kiến giác ngộ. Xá-lợi-phất! Nay ta cũng như vậy, vì biết chúng sinh có các điều ưa muốn, tâm mê chấp nên ta tùy theo căn cơ của họ dùng các nhân duyên, lời lẽ, thí dụ cùng sức phương tiện để nói pháp. Xá-lợi-phất! Khắp thế giới mười phương còn không có Nhị thừa, huống nữa là ba. Xá-lợi-phất! Chư Phật xuất hiện trong đời ác năm trược. Đó là kiếp trược, phiền não trược, chúng sinh trược, kiến trược, mạng trược. Xá-lợi-phất! Vào kiếp loạn trược, tâm chúng sinh xấu xa, bỏn sẻn, tham lam, ganh ghét tạo các căn chẳng lành nên chư Phật dùng sức phương tiện nơi một Phật thừa, phân biệt nói ba. Xá-lợi-phất! Đệ tử của ta nếu tự cho mình là A-la-hán, là Bích-chi-Phật mà không nghe, không biết việc của chư Phật Như Lai, chỉ giáo hóa Bồ-tát thì người ấy chẳng phải đệ tử Phật, chẳng phải A-la-hán, chẳng phải Bích-chi-phật. Xá-lợi-phất! Các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni tự cho mình chứng đắc quả A-la-hán, là thân cuối cùng hoàn toàn giải thoát, lại không quyết chí cầu Vô thượng Bồ-đề; nên biết hạng người ấy đều là tăng thượng mạn. Vì sao? Vì Tỳ-kheo nào thực chứng đắc A-la-hán mà không tin pháp này thì điều ấy không thể có, chỉ trừ sau khi Phật diệt độ, lúc ấy không có Phật. Vì sao? Vì sau khi Phật diệt độ rất khó có được người có thể thọ trì, đọc tụng, hiểu nghĩa những kinh như thế, nếu gặp Đức Phật khác, ở trong pháp này liền được hiểu rõ. Xá-lợi-phất! Các ông nên nhất tâm tin hiểu, thọ trì lời Phật dạy. Lời chư Phật không hư dối, không có thừa nào khác, chỉ có một Phật thừa. Khi ấy, Đức Thế Tôn dùng kệ nói lại nghĩa trên: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni Có tâm tăng thượng mạn Cận sự nam ngã mạn Cận sự nữ chẳng tin, Hàng bốn chúng như vậy Gần có năm ngàn người Không thấy được lỗi mình Giữ giới còn khiếm khuyết Che giấu các lỗi lầm Hạng tiểu trí cặn bã Trong hội này đi ra, Vì oai đức của Phật Hạng ấy kém phước đức Không kham nhận pháp này. Chúng đây không cành lá Chỉ toàn những hạt chắc. Xá-lợi-phất lắng nghe Pháp chư Phật chứng đắc Vô lượng sức phương tiện Thuyết giảng cho chúng sinh, Tâm của họ suy nghó Các việc đã được làm Bao nhiêu tính ham muốn Nghiệp thiện ác đời trước Phật rõ biết tất cả. Dùng nhân duyên thí dụ Lời lẽ sức phương tiện Khiến tất cả vui mừng Hoặc là nói Khế kinh Cô khởi cùng Bản sự Bản sinh, Vị tằng hữu Cũng nói những Nhân duyên Thí dụ và Trùng tụng Cùng Ưu-ba-đề-xá Độn căn ưa pháp nhỏ Tham đắm trong sinh tử Nơi vô lượng Đức Phật Chẳng tu đạo thâm diệu Bị phiền não dày vò Cho nên nói Niết-bàn. Ta bày phương tiện này Khiến được vào tuệ Phật Chưa từng nói các ông Sẽ được thành Phật đạo. Sở dó chưa từng nói Vì chưa được đúng thời Nay thật là đúng lúc Quyết định nói Đại thừa. Chín bộ pháp của ta Tùy thuận chúng sinh nói Vào Đại thừa làm gốc Nên mới nói kinh này. Có Phật tử tâm tịnh Nhu hòa, tính lanh lợi Nơi vô lượng chư Phật Mà tu đạo thâm diệu, Vì các hàng Phật tử Nói kinh Đại thừa này Ta thọ ký người ấy Đời sau thành Phật đạo. Nhờ chí tâm niệm Phật Tu trì giới thanh tịnh Những người nghe thành Phật Rất hớn hở vui mừng, Phật biết tâm ấy rồi Nên nói kinh Đại thừa Thanh văn, hoặc Bồ-tát Được nghe pháp ta nói Dẫu chỉ một bài kệ Chắc chắn sẽ thành Phật. Trong cõi Phật mười phương Chỉ có pháp Nhất thừa Không hai, cũng không ba, Trừ Phật phương tiện nói. Chỉ mượn vào văn tự Để dẫn dắt chúng sinh Nên nói trí tuệ Phật Phật xuất hiện ở đời Chỉ có một Phật thừa, Nhị thừa kia chẳng thật Quyết không dùng Tiểu thừa Để cứu độ chúng sinh. Phật an trụ Đại thừa Như pháp mình chứng đắc Định, tuệ, lực trang nghiêm Dùng hóa độ chúng sinh Tự chứng đạo Vô thượng Pháp Đại thừa bình đẳng. Đem Tiểu thừa hóa độ Cho đến chỉ một người Thì ta đọa xan tham Việc ấy không thể làm, Người tin, quy y Phật Như Lai không dối gạt Không ganh ghét, tham lam Dứt sạch pháp bất thiện, Chỉ Phật trong mười phương Là không còn sợ hãi. Ta dùng tướng trang nghiêm Chiếu sáng khắp thế gian Được chúng sinh tôn kính Vì nói ấn thật tướng. Xá-lợi-phất nên biết, Ta vốn lập thệ nguyện Muốn tất cả chúng sinh Được như ta không khác Như nguyện ta thuở xưa Ngày nay được viên mãn Giáo hóa các chúng sinh Đều nhập vào Phật đạo. Nếu ta gặp chúng sinh Hết lòng dạy Phật đạo, Kẻ vô trí rối loạn Mê lầm không tiếp nhận, Ta biết chúng sinh đó Chưa từng tu pháp lành Lệ thuộc vào năm dục Si ái sinh khổ não, Bởi nhân duyên các dục Rơi vào ba đường ác Luân hồi trong sáu nẻo Chịu đủ các khổ độc. Thân hèn thọ vào thai Đời đời thường tăng trưởng Người bạc phước thiếu đức Bị các khổ dày vò, Vào rừng rậm tà kiến Hoặc chấp có, chấp không Nương theo các chấp này Đầy đủ sáu mươi hai Pháp tà kiến hư vọng Chấp chặt không xả bỏ Ngã mạn và kiêu căng Dua nịnh, tâm không thật. Trong ngàn vạn ức tiếp Không nghe danh hiệu Phật Cũng chẳng nghe chính pháp Người như thế khó độ. Cho nên Xá-lợi-phất Vì họ ta phương tiện Nói các đạo dứt khổ Chỉ dạy pháp Niết-bàn, Tuy ta nói Niết-bàn Không phải diệt chân thật. Pháp từ xưa đến nay Tướng thường tự vắng lặng Phật tử hành đạo rồi Đời sau được thành Phật Ta có sức phương tiện Khai mở pháp ba thừa Tất cả các Thế Tôn Đều nói đạo Nhất thừa. Nay trong đại chúng đây Phải dứt trừ nghi ngờ Lời chư Phật không khác Chỉ một, không Nhị thừa. Vô số kiếp quá khứ Vô lượng Phật diệt độ Trăm ngàn vạn ức Phật Số nhiều không thể lường, Các Thế Tôn như vậy Dùng nhân duyên, thí dụ Vô số sức phương tiện Diễn nói tướng các pháp. Các Đức Thế Tôn ấy Đều nói pháp Nhất thừa Độ vô lượng chúng sinh Khiến nhập vào Phật đạo. Lại các Đại Thánh Chủ Biết rõ tâm ưa muốn Trời, người, các chúng sinh Trong tất cả thế gian, Liền dùng phương tiện khác Hiện bày Đệ nhất nghĩa Nếu có các chúng sinh Gặp chư Phật quá khứ Hoặc nghe pháp, bố thí, Hoặc trì giới, nhẫn nhục Tin tấn, thiền và trí Tu tập các phước tuệ Những người như thế đó Đều đã thành Phật đạo. Sau khi Phật diệt độ Nếu có các chúng sinh Tâm hiền hòa, thuần thục Đều đã thành Phật đạo. Sau khi Phật diệt độ Người cúng dường xá-lợi Xây dựng muôn ức tháp Dùng vàng bạc, pha lê, Xa cừ cùng mã não Ngọc mai khôi, lưu ly Để trang hoàng các tháp Rất quang đãng, tráng lệ Hoặc có tạo tháp đá Chiên-đàn và trầm thủy Gỗ mật cùng gỗ khác Gạch, ngói và bùn đất, Hoặc ở trong đồng trống Dồn đất thành tháp Phật Cho đến đồng tử giỡn Nhóm cát thành tháp Phật Các người làm việc ấy Đều đã thành Phật đạo. Nếu có người vì Phật Tạo lập các hình tượng Chạm trổ thành các tướng Đều đã thành Phật đạo. Hoặc dùng bảy thứ báu Thau, đồng đỏ, đồng trắng Bạch lạp cùng thiết chì Sắt, gỗ cùng với bùn, Hoặc dùng keo, sơn, vải Trang hoàng làm tượng Phật Những người làm việc đó Đều đã thành Phật đạo. Hoặc vẽ thành tượng Phật Tướng trang nghiêm trăm phước Tự làm hoặc bảo người Đều đã thành Phật đạo. Cho đến đồng tử giỡn Dùng cỏ cây và bút Hoặc chỉ dùng móng tay Mà vẽ thành tượng Phật, Những người như thế ấy Dần dần chứa công đức Đầy đủ tâm đại Bi Đều đã thành Phật đạo Chỉ dạy các Bồ-tát Độ thoát vô lượng chúng Người đối với tháp Phật Hoặc tượng báu tượng vẽ, Dùng hương, hoa, cờ, lọng Tâm cung kính cúng dường Hoặc bảo người thổi nhạc Đánh trống, thổi tù và Tiêu, địch, đàn, không hầu Tỳ bà, chiên, chập chõa Âm nhạc hay như vậy Đều đem cúng dường hết, Hoặc vớí tâm hoan hỷ Ca ngâm khen Đức Phật Cho đến một tiếng nhỏ Đều đã thành Phật đạo. Người nào tâm tán loạn Dầu chỉ dùng một bông Để cúng dường tượng vẽ Sẽ gặp vô số Phật, Hoặc có người lễ bái Hoặc chỉ có chắp tay Cho đến giơ một tay Hoặc chỉ hơi cúi đầu, Dùng để cúng dường tượng Sẽ gặp vô lượng Phật Tự thành đạo Vô thượng. Độ khắp vô số chúng Nhập Vô dư Niết-bàn Như củi hết, lửa tắt, Người nào tâm tán loạn Vào trong tháp của Phật Chỉ xưng Nam-mô Phật Đều đã thành Phật đạo. Chư Phật trong quá khứ Hiện tại hoặc diệt độ Có người nghe pháp này Đều đã thành Phật đạo. Các Thế Tôn vị lai Số nhiều không thể lường Các Đức Như Lai ấy Cũng phương tiện nói pháp Tất cả các Như Lai Dùng vô lượng phương tiện Độ thoát các chúng sinh, Nhập Phật trí vô lậu Nếu có người nghe pháp Không ai chẳng thành Phật. Chư Phật vốn thệ nguyện Ta tu hành Phật đạo Muốn tất cả chúng sinh Cũng đồng được đạo này, Chư Phật đời vị lai Dẫu nói trăm ngàn ức Vô số các pháp môn Kỳ thật chỉ nhất thừa. Chư Phật Lưỡng Túc Tôn Biết pháp thường vô tính Giác ngộ theo duyên khởi Cho nên nói Nhất thừa Pháp trụ pháp vị này Tướng thế gian sinh diệt Đã chứng nơi đạo tràng Đức Phật phương tiện nói Được trời, người cúng dường. Mười phương Phật hiện tiền Số nhiều như hằng sa Xuất hiện ở thế gian Vì an ổn chúng sinh Cũng nói pháp như vậy Biết tịch diệt đệ nhất Nên dùng sức phương tiện Dầu bày nhiều con đường Kỳ thật vì Phật thừa, Biết việc làm tâm niệm Của tất cả chúng sinh Nghiệp tích chứa quá khứ Tham muốn hoặc tinh tấn Độn căn hoặc lợi căn, Nên dùng các nhân duyên Thí dụ cùng lời lẽ Tùy có phương tiện nói Nay ta cũng như vậy Vì an ổn chúng sinh Nên dùng các pháp môn Tuyên dương về Phật đạo. Ta dùng sức trí tuệ Biết tính dục chúng sinh Phương tiện nói các pháp Làm cho họ vui mừng. Xá-lợi-phất nên biết Ta dùng mắt Phật xem Thấy sáu đường chúng sinh Nghèo cùng không phước tuệ, Vào đường hiểm sinh tử Khổ nối luôn không dứt Chìm đắm nơi năm dục, Như trâu mao mến đuôi Do tham ái ngăn che Đui mù không thấy biết Không cầu uy lực Phật, Và cùng pháp dứt khổ Vào sâu các tà kiến Bỏ khổ lại lấy khổ Phật vì chúng sinh này Mà khởi tâm đại Bi Xưa ta ngồi đạo tràng Xem cây và kinh hành Trong hai mươi mốt ngày Suy nghó việc như vầy Trí tuệ ta chứng đạt Vi diệu tối thắng nhất Chúng sinh nhiều độn căn Tham vui si làm mù Các hạng người như thế Làm sao có thể độ? Bấy giờ các Phạm vương Và các trời Đế Thích Bốn Thiên vương hộ thế Và trời Đại tự tại Cùng với trăm ngàn vạn Quyến thuộc chúng trời khác Chắp tay cung kính lễ Thỉnh ta chuyển pháp luân. Ta liền tự suy nghó: Nếu chỉ khen Phật thừa Chúng sinh chìm trong khổ Không thể tin pháp đó, Vì phá pháp, không tin Rơi vào ba đường ác Ta thà không nói pháp Mau nhập vào Niết-bàn! Nhớ nghó Phật quá khứ Đã dùng sức phương tiện Đạo mà ta đã chứng Cũng nên nói ba thừa. Lúc suy nghó như thế Mười phương Phật hiện ra Phạm âm an ủi ta Hay thay Đức Thích-ca Bậc Đạo Sư đệ nhất. Chứng đắc pháp Vô thượng. Tất cả các Đức Phật Đều dùng sức phương tiện, Chúng ta cũng chứng đắc Pháp vi diệu bậc nhất, Vì các loại chúng sinh Phân ra nói ba thừa. Trí kém ưa pháp nhỏ Không tin mình thành Phật Cho nên dùng phương tiện Phân biệt nói các quả, Tuy nói pháp ba thừa Chỉ dạy hàng Bồ-tát Xá-lợi-phất nên biết, Ta nghe Thánh Sư Tử Tiếng vi diệu thanh tịnh Xưng “ Nam-mô chư Phật”. Lại suy nghó như vậy Ta ra đời ác trược, Như chư Phật đã nói Ta cũng tùy thuận làm Suy nghó việc đó rồi Liền đến Ba-la-nại Tướng các pháp tịch diệt Không thể dùng ngôn ngữ Mà chỉ dùng phương tiện Dạy cho năm Tỳ-kheo Gọi là Chuyển pháp luân. Liền có tiếng Niết-bàn Và bậc A-la-hán Tên Pháp, Tăng sai khác Từ số kiếp lâu xa Chỉ khen pháp Niết-bàn, Chặt đứt khổ sinh tử Ta thường nói như vậy. Xá-lợi-phất nên biết Ta thấy các Phật tử Chí nguyện cầu Phật đạo Vô lượng ngàn vạn ức, Đều dùng tâm cung kính Và đi đến chỗ Phật Từng nghe từ Đức Phật Dùng phương tiện nói pháp. Ta liền tự suy nghó: “Như Lai mà ra đời Nhằm nói trí tuệ Phật Nay chính đã đúng lúc.” Xá-lợi-phất nên biết Người độn căn trí kém Kẻ chấp tướng kiêu mạn Không thể tin pháp ấy; Ta nay vui không sợ Ở trong hàng Bồ-tát Thẳng tiến bỏ phương tiện Chỉ nói đạo Vô thượng. Bồ-tát nghe pháp đó Đều đã trừ lưới nghi Ngàn hai trăm La-hán Cũng đều sẽ thành Phật. Như nghi thức chư Phật Ba đời đã nói pháp Nay, ta cũng như vậy Nói pháp không phân biệt. Chư Phật hiện thế gian Lâu xa rất khó gặp Giả sử Phật ra đời Nói pháp này đã khó, Vô lượng, vô số kiếp Nghe được pháp cũng khó Người nghe được pháp đó Cũng lại còn khó hơn. Thí như hoa Ưu-đàm Mọi người đều ưa thích Hiếm có trong trời, người Lâu lắm mới xuất hiện, Người nghe pháp mừng khen Cho đến chỉ một lời Tức là đã cúng dường Tất cả Phật ba đời. Người đó rất hiếm có Hơn cả hoa Ưu-đàm, Các ông chớ có nghi Ta là Đấng Pháp Vương Bảo khắp các đại chúng Chỉ dùng đạo Nhất thừa Giáo hóa hàng Bồ-tát Không có hàng Thanh văn. Xá-lợi-phất các ông Thanh văn và Bồ-tát Nên hiểu Diệu pháp này Bí yếu của chư Phật; Bởi đời ác năm trược Tham đắm nơi các dục, Các chúng sinh như vậy Không thể cầu Phật đạo. Người ác ở đời sau Nghe Phật nói Nhất thừa Mê lầm không tin nhận Phá pháp đọa đường dữ; Người hổ thẹn thanh tịnh Quyết chí cầu Phật đạo Nên vì các người ấy Khen ngợi đạo Nhất thừa. Xá-lợi-phất nên biết Pháp chư Phật như vậy Dùng vạn ức phương tiện Tùy căn cơ nói pháp, Người không có tu học Chẳng thể hiểu việc này Các ông biết chư Phật Là bậc Thầy trong đời, Dùng phương tiện thích hợp Nên không còn nghi ngờ Tâm hết sức vui mừng Biết mình sẽ thành Phật. KINH THIÊM PHẨM DIỆU PHÁP LIÊN HOA <卷 id="83085270">QUYỂN 2 <詞 id="83085271">Phẩm 3: Thí Dụ Bấy giờ, Xá-lợi-phất vô cùng hoan hỷ liền đứng dậy chắp tay chiêm ngưỡng tôn nhan Đức Phật thưa: Hôm nay con được nghe pháp âm này của Thế Tôn, rất vui mừng được pháp chưa từng có. Vì sao? Xưa con đã từng theo Phật nghe pháp như vậïy, thấy các Bồ-tát được thọ ký sẽ thành Phật mà chúng con thì chẳng được dự vào việc đó nên buồn bã vì mất vô lượng tri kiến của Như Lai. Bạch Thế Tôn! Con thường ở một mình dưới gốc cây trong rừng núi, khi ngồi, lúc đi đều suy nghó: “Chúng con đồng vào pháp tính, sao Như Lai chỉ dùng pháp Tiểu thừa để tế độ.” Đây là lỗi của chúng con không phải là lỗi của Thế Tôn. Vì sao? Vì chúng con chờ nghe Phật nói pháp nhân duyên để thành tựu quả Vô thượng Bồ-đề là chắc chắn phải dùng Đại thừa để được giải thoát, mà chúng con không hiểu rõ Đức Phật chỉ phương tiện tùy cơ nghi nói pháp. Cho nên, vừa mới nghe Phật nói pháp, chúng con liền tin theo, tư duy và nhận lấy sự chứng đắc đó. Bạch Thế Tôn! Từ xưa đến nay con luôn tự trách mình. Hôm nay, con được nghe Phật nói pháp chưa từng có, chưa từng được nghe, liền dứt sạch các sự nghi ngờ, thân tâm rất thư thái, an ổn. Đến nay con mới biết mình thật sự là Phật tử, từ miệng Phật sinh, từ pháp hóa sinh, được pháp phần của Phật. Lúc ấy để làm rõ lại nghĩa trên, Xá-lợi-phất nói kệ: Con nghe tiếng pháp này Được điều chưa từng có Lòng vô cùng vui mừng Lưới nghi đều dứt trừ, Xưa nay nhờ Phật dạy Không mất pháp Đại thừa Tiếng Phật rất hiếm có Trừ khổ não chúng sinh. Con đã dứt các lậu Nghe pháp hết buồn khổ Con ở nơi hang núi Hoặc dưới cây trong rừng, Khi ngồi, lúc kinh hành Thường suy nghó việc này: “Than ôi, thật đáng trách Sao lại tự khinh mình Chúng ta cũng Phật tử Đồng vào pháp vô lậu, Chẳng được ở vị lai Diễn nói đạo Vô thượng Sắc vàng ba hai tướng Mười Lực, các Giải thoát Cùng chung trong một pháp Mà chẳng được việc này Tám mươi tướng tốt đẹp Mười tám pháp Bất cộng Các công đức như vậy Mà ta đều đã mất.” Lúc kinh hành một mình Thấy Phật giữa đại chúng Tiếng khen khắp mười phương Lợi ích khắp chúng sinh, Tự nghó mất lợi này Con tự khinh dối mình Con thường suốt ngày đêm Luôn suy nghó việc ấy. Muốn thưa hỏi Thế Tôn Là mất hay không mất Con thường thấy Thế Tôn Khen ngợi các Bồ-tát, Vì thế nên ngày đêm Suy lường việc như vậy. Hôm nay nghe Phật dạy Tùy cơ nghi nói pháp Vô lậu khó nghó bàn Khiến chúng đến đạo tràng, Con xưa chấp tà kiến Làm thầy các Phạm chí Thế Tôn biết tâm con Trừ tà nói Niết-bàn Con trừ hết tà kiến Chứng đắc nơi pháp không. Bấy giờ lòng tự bảo Đã đến được diệt độ, Mà nay mới tự biết Chẳng phải thật diệt độ. Khi nào chứng quả Phật Đủ ba mươi hai tướng Chúng Trời, Người, Dạ-xoa Rồng, Thần đều cung kính Lúc ấy mới được nói Hoàn toàn đã đoạn tận. Phật ở trong đại chúng Nói con sẽ thành Phật Nghe tiếng pháp như vậy, Nghi ngờ đều dứt trừ Khi mới nghe Phật nói Trong lòng rất sợ nghi Phải chăng ma giả Phật Làm náo loạn lòng ta? Phật dùng các loại duyên Thí dụ khéo diễn bày Tâm con an như biển Con nghe lưới nghi dứt. Phật nói đời quá khứ Vô lượng Phật diệt độ An trụ trong phương tiện Cũng đều nói pháp này, Phật hiện tại, vị lai Số nhiều đến vô lượng Cũng dùng các phương tiện Để diễn nói pháp này. Như Thế Tôn ngày nay Đản sinh đến xuất gia Thành đạo, chuyển pháp luân Cũng dùng phương tiện nói. Phật nói đạo chân thật Ba-tuần không nói được Vì thế con biết chắc Không phải ma giả Phật. Con bị sa lưới nghi Cho là ma làm ra, Nghe tiếng Phật dịu êm Sâu sa rất nhiệm mầu, Nói thông pháp thanh tịnh Lòng con rất vui mừng, Nghi ngờ dứt trừ hết An trú trong thật trí. Con chắc chắn thành Phật Được trời, người cung kính Chuyển pháp luân Vô thượng Giáo hóa các Bồ-tát. Lúc ấy, Phật bảo Xá-lợi-phất: –Ta ở trong đại chúng Trời, Người, Sa-môn, Bà-la-môn mà nói: Từ xưa, ta đã từng ở chỗ hai vạn ức Đức Phật, vì đạo Vô thượng thường giáo hóa ông. Ông cũng đã theo ta thọ học từ lâu, ta dùng phương tiện dẫn dắt ông vào trong pháp ta. Xá-lợi-phất! Thuở xưa ta dạy ông chí nguyện Phật đạo, ông đã quên hết rồi tự nói đã được diệt độ. Hôm nay, ta muốn làm cho ông nhớ lại bản nguyện và đạo đã thực hành mà nói cho các Thanh văn kinh Đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm này. Này Xá-lợi-phất! Đến vô lượng, vô biên không nghó bàn kiếp vào đời vị lai, sau khi cúng dường ngần ấy ngàn vạn ức Phật, phụng giữ chính pháp và tu hành đầy đủ đạo Bồ-tát, ông sẽ thành Phật hiệu là Hoa Quang Như Lai, Ứng Cúng, chính Biến tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn; nước tên Ly cấu, cõi đó bằng phẳng thanh tịnh, đẹp đẽ, an ổn giàu vui, trời, người đông đảo, lưu ly làm đất, có tám đường giao thông dây bằng vàng ròng để giăng bên đường, hai bên đường có hàng cây bằng bảy báu luôn luôn có hoa quả. Đức Như Lai Hoa Quang cũng dùng ba thừa hóa độ chúng sinh. Xá-lợi-phất! Tuy lúc Đức Phật ấy ra đời không phải đời xấu ác nhưng vì bản nguyện nên nói pháp ba thừa. Kiếp đó tên Đại bảo trang nghiêm. Vì sao gọi là Đại bảo trang nghiêm? Vì nước này dùng Bồ-tát để làm quý báu lớn. Các Bồ-tát nhiều vô lượng, vô biên không thể nghó bàn, tính đếm thí dụ đều không được, ngoài sức trí tuệ của Phật ra, không ai có thể biết được, khi muốn đi thì có hoa đỡ chân. Các Bồ-tát ấy đều không phải hàng mới phát tâm mà đã trồng gốc công đức từ lâu. Ở chỗ vô lượng trăm ngàn vạn ức Đức Phật tu hành phạm hạnh thanh tịnh thường được chư Phật khen ngợi, tu hành trí tuệ Phật đầy đủ sức thần thông lớn, biết rõ hoàn toàn tất cả các pháp môn, ngay thật không dối, chí niệm vững chắc. Bậc Bồ-tát như thế khắp đầy trong nước ấy. Xá-lợi-phất! Đức Phật Hoa Quang thọ mười hai tiểu kiếp, trừ lúc còn làm vương tử chưa thành Phật. Nhân dân nước đó thọ tám tiểu kiếp. Sau mười hai tiểu kiếp Như Lai Hoa Quang thọ ký đạo Vô thượng Bồ-đề cho Bồ-tát Kiên Mãn bảo các Tỳ-kheo: –Bồ-tát Kiên Mãn sau này sẽ thành Phật hiệu là Hoa Túc An Hành, Như Lai Ứng Cúng chính Đẳng Giác. Cõi nước Phật này cũng như vậy; chính pháp tồn tại ở đời ba mươi hai tiểu kiếp; tượng pháp cũng tồn tại ba mươi hai tiểu kiếp. Bấy giờ, để lặp lại nghĩa này, Đức Thế Tôn nói kệ: Đời sau Xá-lợi-phất Thành Đấng Phật trí khắp Hiệu gọi là Hoa Quang Sẽ độ vô lượng chúng. Cúng dường vô số Phật Đầy đủ hạnh Bồ-tát Mười lực, các công đức Chứng đắc đạo Vô thượng. Qua vô lượng kiếp rồi Kiếp Đại bảo trang nghiêm Thế giới tên Ly cấu Trong sạch không vết nhơ, Dùng lưu ly làm đất Dây vàng giăng đường sá Cây bảy báu đủ màu Luôn có hoa quả quý, Các Bồ-tát nước này Chí niệm luôn bền vững Thần thông Ba-la-mật Đều đã được đầy đủ. Ở vô số cõi Phật Khéo học đạo Bồ-tát, Các Bồ-tát như vậy Phật Hoa Quang hóa độ Khi Phật còn vương tử Bỏ nước, xả vinh hoa Vào đời sống sau cùng Xuất gia thành Phật đạo. Phật Hoa Quang ở đời Thọ mười hai tiểu kiếp. Dân chúng trong nước Ngài Tuổi thọ tám tiểu kiếp Sau khi Phật diệt độ chính pháp trụ ở đời Ba mươi hai tiểu kiếp Hóa độ các chúng sinh. chính pháp diệt hết rồi Tượng pháp ba mươi hai Xá-lợi lưu truyền khắp Trời người đều cúng dường. Phật Hoa Quang hoằng hóa Sự việc đều như thế Đấng Thánh Lưỡng Túc Tôn Hơn hết không ai bằng Phật ấy tức thân ông Hãy nên tự vui mừng. Bấy giờ, bốn bộ chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di và đại chúng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già… thấy Xá-lợi-phất ở trước Phật được nhận lời thọ ký sẽ thành đạo Vô thượng Bồ-đềø đều vô cùng vui mừng, mọi người tự cởi y trên của mình để cúng dường Phật. Thích Đề-hoàn Nhân, Phạm thiên vương cùng vô số Thiên tử… cùng đem y đẹp cõi trời, hoa trời Mạn-đà-la, Ma-ha mạn-đà-la cúng dường Đức Phật, y trời tung lên liền trụ giữa hư không mà tự quay tròn, trăm ngàn vạn loại nhạc trời đồng thời trổi lên giữa hư không, rưới các loại hoa trời nói lời rằng: “Đức Phật xưa ở thành Ba-la-nại, ban đầu chuyển pháp luân, hôm nay lại chuyển pháp luân lớn bậc nhất.” Lúc ấy để lặp lại nghĩa này các Thiên tử nói kệ: Xưa ở Ba-la-nại Chuyển pháp luân bốn Đế Phân biệt nói các pháp Sinh diệt của năm chúng Nay lại chuyển pháp luân Vô thượng rất thù thắng Pháp sâu xa nhiệm mầu Ít có người tin được. Chúng con từ xưa nay, Thường nghe Thế Tôn dạy Chưa từng nghe chính pháp Thâm diệu như thế này Thế Tôn nói pháp đó Chúng con đều tùy hỷ Đại trí Xá-lợi-phất Được Đức Phật thọ ký Chúng con cũng như thế Chắc chắn được thành Phật, Trong tất cả thế gian Tôn quý không ai bằng Phật đạo chẳng nghó bàn Phương tiện tùy nghi nói, Việc phước ta đã làm Đời này hoặc đời trước Và công đức gặp Phật Đều hồi hướng Phật đạo. Bấy giờ, Xá-lợi-phất bạch Phật: –Bạch Đức Thế Tôn! Con không còn nghi ngờ, đích thân ở trước Phật được nhận lãnh lời thọ ký thành Vô thượng chính đẳng chính giác. Còn một ngàn hai trăm vị tâm tự tại này, thuở xưa khi ở trong địa vị Hữu học Phật thường dạy: “Giáo pháp của ta có năng lực thoát khỏi sinh, già, bệnh, chết hoàn toàn đạt đến Niết-bàn.” Các vị Hữu học, Vô học này cũng đều tự mình xa lìa chấp ngã, cùng chấp có, chấp không… cho là đã chứng Niết-bàn, hôm nay ở trước Đức Thế Tôn được nghe điều chưa từng nghe, đều sa vào sai lầm. Lành thay, bạch Đức Thế Tôn! Xin Ngài vì bốn chúng nói nhân duyên ấy, khiến chúng con xa lìa nghi ngờ. Bấy giờ Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Chẳng phải trước ta đã nói “Chư Phật Thế Tôn dùng các nhân duyên, thí dụ, lời lẽ, phương tiện để thuyết pháp đều vì quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác.” Các điều đã nói đó đều vì giáo hóa hàng Bồ-tát. Nhưng, này Xá-lợi-phất! Ta sẽ dùng thí dụ để nói rõ nghĩa đó, các người có trí nhờ thí dụ này sẽ được hiểu. Này Xá-lợi-phất! Như trong xóm làng, thành ấp, cõi nước, có đại trưởng giả già nua, của cải vô lượng, có nhiều ruộng vườn nhà cửa và tôi tớ. Nhà ông rộng lớn nhưng chỉ có một cửa trong nhà ấy có nhiều người cùng sống chung, một trăm, hai trăm cho đếùn năm trăm người, lầu gác đã mục, vách tường sụp đổ, cột nhà hư nát, trính xuyên nghiêng ngã cùng lúc, lửa bỗng bùng lên bốn phía, đốt cháy nhà cửa. Các người con của trưởng giả hoặc mười hai, mươi đến ba mươi người ở trong nhà đó. Trưởng giả thấy lửa lớn từ bốn phía bốc cháy lo sợ suy nghó: “Ta có thể bằng cửa ngõ nhà cháy này bình yên đi ra nhưng các con ở trong nhà lửa ham vui chơi đùa, không hay biết, không lo sợ, lửa đến bức thân đau khổ vô cùng, mà tâm chúng chẳng nhàm chán, không muốn đi ra.” Này Xá-lợi-phất! Trưởng giả lại suy nghó: “Thân và tay của ta có sức mạnh có thể dùng vạt áo hoặc dùng ván cứng đưa chúng ra khỏi nhà.” Ông lại nghó: “Nhà này chỉ có một cửa lại nhỏ hẹp, các con thơ ấu chưa có nhận thức chỉ ham chơi đùa hoặc bị ngã, lửa lớn sẽ đốt cháy. Vì chúng nó ta nói việc đáng sợ. Nhà này đã bị cháy nên phải ra khỏi mau, nếu không sẽ bị lửa đốt.” Nghó rồi ông bảo các con: –Hãy ra mau, cha rất thương yêu các con. Dùng lời hay để dụ dỗ mà các con ham vui chơi giỡn không chịu nghe theo, chẳng sợ sệt, không muốn ra, lại không biết thế nào là lửa, thế nào là nhà, thế nào là mất, cứ rảo chạy khắp nơi nhìn cha mà thôi. Bấy giờ trưởng giả suy nghó: “Nhà này đã bị lửa lớn đốt cháy, ta và các con nếu không ra mau chắc sẽ bị cháy, ta sẽ dùng phương tiện khiến các con thoát khỏi sự tổn hại này.” Cha biết rõ trước đây các con đều ưa thích các vật quý báu kỳ lạ, nêú có chắc sẽ vui thích liền bảo: –Những thứ quý báu kỳ lạ này sẽ là của các con, nếu các con không lấy sau này sẽ hối tiếc. Các loại xe dê, xe nai, xe trâu đang để ở ngoài cửa, có thể dùng để dạo chơi. Các con hãy mau ra khỏi nhà lửa này, tùy ý muốn cha sẽ cho các con. Bấy giờ, nghe cha nói đồ chơi quý báu vừa ý, các con đều mạnh mẽ xô đẩy lẫn nhau, cùng nhau tranh giành để chạy ra khỏi nhà lửa. Khi ấy trưởng giả thấy các con đều được an ổn ra khỏi nhà lửa, ngồi ở chỗ đất trống nơi ngã tư đường không còn lo sợ, tâm ông thư thái rất đỗi vui mừng. Bây giờ các con thưa với cha: –Lúc nãy cha đã hứa cho các con đồ chơi quý báu đẹp đẽ như xe dê, xe nai, xe trâu. Xin cha cho chúng con! Này Xá-lợi-phất! Khi ấy trưởng giả cho các con mỗi người một xe lớn, xe ấy cao rộng, trang hoàng các thứ báu, lan can bao quanh bốn phía treo linh, lại dùng màn lọng giăng ở trên, dùng các thứ báu tốt đẹp hiếm có để trang hoàng, dây báu đan nhau rủ các chuỗi hoa, trải nhiều lớp nệm chiếu mềm mại, gối đỏ để ở trên kéo bằng trâu trắng, màu da sáng, hình dáng xinh đẹp, có sức rất mạnh, bước đi vững chắc, nhanh như gió, lại có rất nhiều tôi tớ theo hầu hạ. Vì sao? Vì trưởng giả đó của cải rất nhiều, các kho đều chứa đầy. Ông nghó: “Tài sản của ta không kể hết, ta không nên đem xe nhỏ, xấu mà cho các con. Những trẻ thơ này đều là con ta, ta yêu chúng không thiên vị, ta có rất nhiều xe lớn bằng bảy báu như thế nên bình đẳng mà cho chúng không phân biệt.” Vì sao? Dù ta đem xe này cho cả nước còn không thiếu huống là cho các con, lúc ấy các con đều có xe lớn được điều chưa từng có chẳng phải là điều chúng mong cầu. –Này Xá-lợi-phất! ÝÙ ông nghó thế nào? Trưởng giả đó đồng đem xe báu lớn cho các con có dối gạt không? Xá-lợi-phất thưa: –Bạch Thế Tôn, không! Trưởng giả kia chỉ muốn các con thoát khỏi nạn lửa, vì để bảo vệ thân mạng của chúng nên chẳng có lỗi dối gạt. Vì sao? Thân thể được an toàn lại còn được đồ chơi quý báu, tốt đẹp huống là dùng phương tiện để cứu giúp chúng ra khỏi nhà lửa. Bạch Thế Tôn! Dù trưởng giả không cho một xe nhỏ nào cũng không có dối gạt. Vì sao? Vì trưởng giả đã nghó như vầy: “Ta dùng phương tiện khiến chúng ra khỏi nhà lửa”, do nhân duyên này nên không có dối gạt, huống là trưởng giả tự biết mình của cải rất nhiều, muốn làm lợi ích cho các con nên đồng cho xe lớn. Phật bảo Xá-lợi-phất: –Lành thay, lành thay, như lời ông vừa nói! Xá-lợi-phất! Như Lai cũng như thế. Phật là cha của tất cả thế gian, các sự sợ hãi, lo lắng, buồn rầu, vô minh tăm tối ngăn che đều dứt sạch, thành tựu vô lượng, tri kiến, tri lực, vô sở úy, có sức thần thông lớn cùng sức trí tuệ, đầy đủ các phương tiện Trí tuệ ba-la-mật, sức đại Từ, Đại Bi thường không mỏi mệt, thường làm việc lành để lợi ích tất cả, mà sinh vào nhà lửa ba cõi cũ mục này, để cứu chúng sinh ra khỏi nhà lửa ba độc, sinh, già, bệnh, chết, lo buồn, khổ não, ngu si tối tăm, giáo hóa khiến cho chúng sinh được Vô thượng Bồ-đề. Thấy các chúng sinh bị những sự sinh, già, bệnh, chết, đau buồn, khổ não thiêu đốt cũng vì năm món dục tài lợi mà chịu những điều khổ đau. Lại vì tham đắm tìm cầu, nên hiện tại chịu các khổ, đời sau chịu cảnh khổ ở địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ. Nếu như sinh lên cõi trời, người thì cũng nghèo cùng khốn khổ, bị khổ vì xa lìa người yêu thương, gặp gỡ người oán ghét. Những sự khổ như thế mà chúng sinh vui vẻ dạo chơi, lặn hụp trong đó, không hay không biết, không kinh, không sợ cũng không nhàm chán để cầu giải thoát, ở trong nhà lửa ba cõi này rảo chạy khắp nơi, tuy bị khổ lớn nhưng không chút lo sợ. Xá-lợi-phất! Thấy điều này, Phật nghó: “Ta là cha của chúng sinh nên ta phải cứu chúng ra khỏi những nạn khổ, ban niềm vui vô lượng vô biến trí tuệ của Phật để chúng được dạo chơi.” Xá-lợi-phất! Như Lai lại nghó: “Nếu ta chỉ dùng năng lực thần thông và trí tuệ, bỏ đi phương tiện vì chúng sinh khen ngợi tri kiến trí lực, vô sở úy của Như Lai, chắc chắn chúng sinh không thể nhờ đó mà giải thoát được.” Vì sao? Vì các chúng sinh đó chưa thoát khỏi sinh, già, bệnh, chết lo buồn khổ não bị thiêu đốt trong nhà lửa ba cõi, làm sao có thể hiểu được trí tuệ của Phật. Xá-lợi-phất! Như ông trưởng giả kia dầu thân và tay có sức mạnh nhưng chẳng dùng đến chỉ dùng phương tiện ân cần cứu các con thoát khỏi nạn nhà lửa, rồi sau đều cho xe lớn quý báu. Như Lai cũng thế tuy có năng lực vô sở úy nhưng không dùng đến, chỉ dùng phương tiện trí tuệ cứu vớt chúng sinh ra khỏi nhà lửa ba cõi vì chúng sinh nên nói ba thừa. Thanh văn, Duyên giác và Phật thừa, rồi dạy: “Các ông không nên ưa thích ở trong nhà lửa ba cõi, chớ tham đắm các thứ sắc, thanh, hương, vị, xúc, thô xấu, nếu tham mê liền sinh ái nhiễm thì sẽ bị thiêu đốt. Các ông hãy mau ra khỏi ba cõi sẽ được ba thừa Thanh văn, Duyên giác và Phật thừa.” Nay ta bảo đảm việc này cho các ông hoàn toàn không dối gạt, các ông chỉ siêng năng tinh tấn tu hành. Như Lai đem phương tiện dẫn dụ chúng sinh, lại bảo: “Các ông nên biết pháp ba thừa đó đều là pháp mà bậc Thánh khen ngợi, là pháp tự tại không bị trói buộc, không bị lệ thuộc, đi bằng ba thừa này dùng các Căn, Lực, Giác chi, Thánh đạo, Thiền định, giải thoát Tam-muội vô lậu… để tự an vui thì được vô lượng sự an ổn khoái lạc.” Xá-lợi-phất! Chúng sinh nào trong có tính trí, được nghe pháp của Phật Thế Tôn và tin nhận ân cần tinh tấn, muốn mau ra khỏi ba cõi tự cầu chứng Niết-bàn, gọi là Thanh văn thừa, như các người con kia vì cầu xe dê mà ra khỏi nhà lửa. Chúng sinh nào được nghe pháp của Phật Thế Tôn và tin nhận ân cần tinh tấn, cầu trí tuệ tự nhiên, ưa thích độc cư yên tónh hoàn toàn thấu rõ nhân duyên của các pháp, gọi là Duyên giác thừa như các người con vì cầu xe nai nên đã ra khỏi nhà lửa. Chúng sinh nào được nghe pháp của Phật Thế Tôn và tin nhận, siêng tu tinh tấn cầu Nhất thiết trí, Phật trí, Tự nhiên trí, Vô sư trí, Tri kiến, Lực vô sở úy của Như Lai vì từ mẫn làm cho vô lượng chúng sinh an lạc, lợi ích trời, người, độ thoát tất cả gọi là Bồ-tát Đại thừa vì cầu được thừa này nên gọi là Đại, như các người con cầu xe trâu mà ra khỏi nhà lửa. Xá-lợi-phất! Như ông trưởng giả kia thấy các con được an ổn ra khỏi nhà lửa đến chỗ không còn sợ hãi. Trưởng giả tự nghó: “Ta của cải rất nhiều nên bình đẳng đem xe lớn cho các con”. Đức Như Lai cũng vậy, là cha của tất cả chúng sinh nếu thấy vô lượng, ngàn ức chúng sinh, nhờ cửa Phật mà thoát khỏi khổ, đường hiểm đáng sợ của ba cõi được an vui của Niết-bàn. Bấy giờ Như Lai nghó: “Ta có vô lượng, vô biên trí tuệ, lực vô sở úy… tạng pháp của chư Phật, các chúng sinh này đều là con của Ta, nên Ta phải bình đẳng ban cho pháp Đại thừa, không để có người được diệt độ riêng, đều đem pháp diệt độ của Như Lai mà cho họ được diệt độ.” Những chúng sinh đã thoát khỏi ba cõi, Phật đều cho những thứ vui thiền định, giải thoát… của các Đức Phật, các loại đó đều là một tướng, một loại được các bậc Thánh khen ngợi, được phát sinh thanh tịnh vi diệu an lạc bậc nhất. Xá-lợi-phất! Như ông trưởng giả ban đầu dùng ba loại xe dẫn dụ các con, sau rồi chỉ cho xe lớn vật báu trang nghiêm an ổn bậc nhất nhưng trưởng giả kia không hề có lỗi dối gạt. Như Lai cũng như thế. không có dối gạt, lúc đầu nói ba thừa dẫn dắt chúng sinh, sau đó chỉ dùng Đại thừa để độ thoát họ. Vì sao? Như Lai có vô lượng tạng pháp trí tuệ, lực vô sở úy, có thể ban pháp Đại thừa cho tất cả chúng sinh, nhưng họ không có khả năng nhận hết. Xá-lợi-phất! Vì nhân duyên đó nên biết Như Lai dùng sức phương tiện từ một Phật thừa phân biệt nói thành ba. Muốn thuyết minh lại nghĩa trên, Đức Phật nói kệ: Ví như trưởng giả Có một nhà lớn, Nhà đó đã cũ Mà lại hư nát. Nhà cao nguy hiểm Gốc cột gãy mục Trính xuyên xiêu vẹo Nền móng rã nát, Vách tường sụp đổ Đất bủn rớt xuống, Mái lợp rách nát Cột kèo xiêu vẹo Bốn phía cong vạy Khắp nơi nhơ bẩn. Có năm trăm người Sống ở trong đó Xi, hiêu, điêu, thứu, Quạ, thước, cưu, cáp, Rắn độc, phúc yết, Ngô công, do diên, Thủ cung trăm chân, Dứu, ly, hề thử, Các độc trùng dữ Chen chạy tán loạn. Phân giải hôi thúi Nước dơ chảy tràn Các trùng khương lương Bu đầy trên đó Cáo, sói, dã can Liếm nhai, dày đạp Cắn xé thây chết Xương thịt ngổn ngang, Do đây bầy chó Đưa nhau chụp lấy Ốm đói sợ sệt Tìm ăn khắp nơi Giành giựt, cấu xé Gầm gừ, gào sủa Nhà đó đáng sợ Hiện trạng như thế. Khắp nơi đều có Ly, mị, võng, lượng Dạ-xoa, quỷ dữ Ăn nuốt thịt người, Loài trùng độc dữ Cầm thú hung ác Ấp bú sản sinh Đều tự giữ mình, Dạ-xoa đua đến Giành bắt để ăn Ăn no nê rồi Tâm dữ thêm hăng, Tiếng chúng đánh nhau Thật đáng lo sợ Quỷ Cưu-bàn-trà Ngồi xổm trên đất, Có khi hỏng đất Một thước hai thước Qua lại, dạo đi Cùng nhau chơi giỡn, Nắm hai chân chó Đánh la thất thanh Lấy chân đạp cổ Hiếp chó để vui Lại có các quỷ Thân nó cao lớn Trần truồng đen xấu Thường ở trong đóù La tiếng hung dữ Kêu tìm thức ăn Lại có các quỷ Cổ nhỏ như kim Lại có giống quỷ Đầu như đầu trâu Hoặc ăn thịt người Hoặc ăn thịt chó Đầu tóc rối tung Độc ác hung hiểm Đói khát dày vò Kêu la rong chạy Dạ-xoa quỷ đói Các chim thú dữ Đói rảo bốn bề Rình xem cửa sổ, Các nạn như thế Vô cùng ghê sợ! Nhà cũ mục đó Thuộc về một người Người ấy mới ra Chưa được bao lâu Sau đó nhà ấy Bỗng nhiên phát hỏa Một lúc bốn phía Ngọn lửa hừng hực Rường cột trính xuyên Tiếng tách nổ vang Gãy nát rơi xuống, Vách tường sụp đổ Các loại quỷ thần Cất tiếng kêu to. Loài chim điêu thứu Quỷ Cưu-bàn-trà Kinh sợ hoảng hốt Không tự ra được. Thú dữ trùng độc Chui núp lỗ hang, Quỷ Tỳ-xá-xà Cũng ở trong đó. Vì kém phước đức Bị lửa thiêu đốt Tàn hại lẫn nhau Uống máu ăn thịt. Các loài chồn cáo Đều đã chết trước Các thú dữ lớn Giành giựt ăn nuốt. Khói tanh ngùn ngụt Phủ khắp bốn phía Ngô công, do diên Các loài rắn độc Bị lửa đốt cháy Tranh chạy khỏi hang Quỷ Cưu-bàn-trà Liền bắt mà ăn. Lại các ngạ quỷ Lửa cháy trên đầu Đói khát nóng bức Hoảng hốt chạy quanh Nhà lửa như thế Thật đáng ghê sợ! Lửa cháy độc hại Rất nhiều hoạn nạn Khi ấy chủ nhà Đứng ở ngoài cửa Nghe có người nói Các con của ông Trước vì ham chơi Vào trong nhà này Nhỏ dại không biết Chỉ ham vui chơi. Trưởng giả nghe xong Lo sợ vào nhà Tìm cách cứu con Khỏi bị lửa đốt, Dụ dỗ các con Nói các hoạn nạn Quỷ dữ trùng độc Lửa cháy lan tràn Các khổ thứ lớp Liên tục không dứt Độc xà, ngoan phúc Các quỷ Dạ-xoa Quỷ Cưu-bàn-trà Dã can chồn chó Điêu, thứu, xi, hiêu Các loài trăm chân Đói khát dày vò Thật đáng ghê sợ! Chỗ nạn khổ này Lại còn lửa lớn Các con không biết Tuy nghe cha dạy Nhưng vẫn ham vui Chơi đùa mải miết. Bấy giờ trưởng giả Suy nghó như vầy: “Các con như thế Ta thêm sầu não Trong nhà lửa này Có gì vui đâu Mà sao các con Ham mê vui chơi Không nghe lời ta Sẽ bị lửa đốt.” Ông lại suy nghó Tìm ra cách khác, Bảo với các con Cha có rất nhiều Đồ chơi quý báu Xe báu tốt đẹp Xe dê, xe nai Xe trâu to lớn Đang để ngoài cửa; Các con ra mau Cha sắm xe này Để cho các con Tùy theo sở thích Dùng để dạo chơi. Các con nghe nói Những xe như thế Liền cùng tranh giành Đua nhau chạy ra, Thoát khỏi khổ nạn. Trưởng giả thấy con Ra khỏi nhà lửa Ở ngã tư đường Ngồi tòa Sư tử. Ông vui mừng, nói Cha rất sung sướng Các con của ta Sinh, dưỡng rất khó Nhỏ dại không biết Vào nhà nguy hiểm Rất nhiều trùng độc Ly, mị đáng sợ Lửa cháy hừng hực Bốn phía phực lên, Mà các con ta Ham vui chơi đùa. Ta đã cứu chúng Khiến được thoát nạn Vì thế con ơi Ta rất vui mừng! Khi ấy các con Biết cha an tâm Đều đến chỗ cha Cùng thưa với cha: Xin cho chúng con Ba loại xe báu Như cha đã hứa Các con ra mau Sẽ cho ba xe Tùy các con muốn. Bây giờ đúng lúc Xin cho chúng con! Trưởng giả giàu có Kho báu rất nhiều Vàng bạc, lưu ly Xa cừ, mã não Lấy các vật báu Làm các xe lớn Trang trí đẹp đẽ. Lan can bao quanh Bốn phía treo linh Dây vàng đan xen Châu báu kết lưới Giăng phủ phía trên, Hoa vàng chuỗi ngọc Rủ xuống khắp nơi Màu sắc rực rỡ Bao bọc quanh xe Tơ lụa mềm mại Dùng làm nệm chiếu Vải quý hảo hạng Trị giá ngàn ức Bóng láng trắng sạch Để trải trên nệm, Có trâu trắng lớn Mập, khoẻ, sức mạnh Thân hình đẹp đẽ Kéo xe báu ấy, Rất đông tôi tớ Đi theo hầu hạ Đem xe đẹp này Cho đều các con. Khi ấy các con Vui mừng hớn nở Ngồi trên xe báu Dạo chơi khắp nơi, Nô đùa vui vẻ Tự do thoải mái. Này Xá-lợi-phất! Ta cũng như thế Bậc Thánh tôn quý Cha lành trong đời, Tất cả chúng sinh Đều là con ta Say mê thế lạc Không có trí tuệ, Ba cõi bất an Giống như nhà lửa, Nạn khổ dẫy đầy Thật đáng ghê sợ Thường có sinh, già Bệnh, chết, sầu lo Các lửa như thế Cháy luôn không tắt. Như Lai đã lìa Nhà lửa ba cõi Thong thả vắng lặng Ở yên trong rừng. Trong ba cõi này Đều của ta cả Chúng sinh trong đó Cũng là con ta Ở trong cõi này Rất nhiều hoạn nạn, Chỉ có mình ta Mới cứu được họ Tuy có dạy bảo Vẫn không tin nhận Đối với dục nhiễm Tham đắm sâu dày Dùng phương tiện này, Để nói ba thừa Khiến các chúng sinh Biết khổ ba cõi Giảng dạy chỉ bày Đạo xuất thế gian. Các người con ấy Nếu tâm chắc chắn Đầy đủ ba minh Và sáu thần thông Chứng quả Duyên giác Bồ-tát không thoái. Này Xá-lợi-phất! Ta vì chúng sinh Dùng thí dụ này Nói một Phật thừa; Các ông có thể Tin nhận lời này, Tất cả đều sẽ Thành tựu Phật đạo. Phật thừa vi diệu Thanh tịnh bậc nhất, Trong các thế gian Không pháp nào hơn, Chư Phật vui thích Tất cả chúng sinh Đều nên khen ngợi Cúng dường lễ bái Vô lượng ngàn ức Các lực, giải thoát Thiền định, trí tuệ Và các pháp khác. Được thừa như vậy Làm cho các ông Ngày đêm kiếp số Thường được dạo chơi, Cùng các Bồ-tát Và chúng Thanh văn Theo thừa báu này Thẳng đến đạo tràng Vì nhân duyên này Tìm khắp mười phương Không thừa nào khác Ngoài Phật phương tiện. Này Xá-lợi-phất! Tất cả các ông Đều là con ta Ta chính là cha, Các ông nhiều kiếp Bị khổ thiêu đốt Ta đều cứu giúp Ra khỏi ba cõi, Tuy trước ta nói Các ông diệt độ Chỉ hết sinh tử Thật sự chưa diệt. Hôm nay nên làm Chỉ có trí Phật Có Bồ-tát nào Ở trong chúng này, Chăm chú lắng nghe Pháp thật của Phật Chư Phật Thế Tôn Tuy dùng phương tiện Hóa độ chúng sinh, Đều là Bồ-tát Nếu người trí nhỏ Tham đắm ái dục Vì những người này Phật nói Khổ đế Chúng sinh vui mừng Chưa từng có được Phật nói Khổ đế Chân thật không khác Có chúng sinh nào Không biết gốc khổ Đắm trong nhân khổ Không thể rời bỏ, Vì những người này Phương tiện nói đạo. Nguyên nhân các khổ, Tham dục là gốc Nếu trừ tham dục Khổ không chỗ nương Các khổ dứt hết Là Đế thứ ba. Vì chứng Diệt đế Nên tu Đạo đế Lìa khổ trói buộc Gọi là giải thoát. Phải làm thế nào Để được giải thoát Chỉ lìa hư vọng, Mà gọi giải thoát Thật sự chưa được Giải thoát tất cả. Phật nói người ấy Chưa thật diệt độ Người này chưa được Vô thượng Bồ-đề. Ý ta không muốn Khiến đến diệt độ, Ta là Pháp Vương Tự tại với pháp An ổn chúng sinh Nên hiện ở đời. Này Xá-lợi-phất! Pháp ấn của ta Vì lợi thế gian Cho nên ta nói Nơi ông đi qua Chớ tuyên truyền sai Nếu có người nghe Tùy hỷ kính nhận Phải biết người này Bậc không thoái chuyển Người nào tin tưởng Nhận kinh pháp này Người ấy đã từng Gặp Phật quá khứ Cung kính cúng dường Từng nghe pháp này. Người nào có thể Tin lời ông nói, Tức là thấy ta Cũng là thấy ông Và chúng Tỳ-kheo Cùng các Bồ-tát; Vì người trí sâu Nói kinh Pháp Hoa Người trí cạn nghe Mê mờ không hiểu, Tất cả Thanh văn Và Bích-chi-phật Đối với kinh này Không đủ sức hiểu. Này Xá-lợi-phất! Người có lòng tin Hiểu được kinh này Huống là Thanh văn, Những Thanh văn này Đã tin lời Phật Tùy thuận kinh này Vượt ngoài trí họ. Lại Xá-lợi-phất! Những người kiêu mạn Biếng nhác chấp ngã Chớ nói kinh này Phàm phu biết cạn, Đắm trong năm dục Nghe pháp không hiểu Cũng không nên nói, Người nào không tin Hủy báng kinh này Liền mất tất cả Giống Phật ở đời. Người nào nhăn mặt Ôm mối nghi ngờ Hãy nghe ta nói Tội báo người này, Hoặc Phật ở dời Hoặc sau diệt độ Người ấy chê bai Đối kinh điển này Thấy người đọc tụng Biên chép thọ trì Khinh chê, ganh ghét Oán kết, giận hờn, Tội báo người này Ông hãy lắng nghe. Người này chết rồi Đọa ngục A-tỳ Hết trọn một kiếp Lần lượt như vậy Đến vô số kiếp Được khỏi địa ngục Lại đọa súc sinh Làm chó chồn cáo, Thân thể ốm gầy Đen đủi ghẻ lác Bị người xua đuổi Lại còn bị người Gớm nhờm ghét bỏ Luôn bị đói khát Xương thịt khô gầy Sống chịu khổ sở Chết bị ném đá Mất hẳn giống Phật Chịu tội báo này Hoặc làm lạc đà Hoặc làm loài lừa Luôn phải chở nặng Lại bị đánh đập Chỉ nhớ nước cỏ Không biết gì khác Phỉ báng kinh này Chịu tội như vậy Nếu làm chồn cáo Đi vào xóm làng Thân thể ghẻ lác Bị chột một mắt Bị các trẻ nhỏ Đánh đập liệng ném Chịu nhiều khổ sở Có khi gần chết Đếùn khi chết rồi Bị làm thân rắn Thân hình dài lớn Năm trăm do-tuần Điếc lác không chân Trườn bò bằng bụng Bị các trùng nhỏ Rúc rỉa ăn thịt Ngày đêm chịu khổ Không chút ngừng nghỉ Phỉ báng kinh này Chịu tội như thế Nếu được làm người Các căn ám độn Lùn, xấu, què quặt Đui điếc, lưng gù Nói ra lời gì Chẳng ai tin tưởng Hơi miệng hôi thối Bị quỷ dựa nhập Nghèo cùng hèn hạ Bị người sai khiến Nhiều bệnh gầy gò Không nơi nương tựa. Tuy ở gần người Chẳng ai để ý Biết được điều gì Liền lại quên mất, Nếu làm nghề thuốc Trị bệnh đúng cách Người càng bệnh thêm Có khi đến chết. Nếu mình bị bệnh Không ai chữa được, Dù uống thuốc hay Bệnh càng thêm nặng; Bị người lừa gạt Chiếm đoạt trộm lấy Các tội như vậy Tự mang vạ lấy. Người tội như đây Mãi chẳng gặp Phật Vua trong hàng Thánh Thuyết pháp giáo hóa Người tội như đây Thường sinh cõi nạn Tai điếc, tâm loạn Chẳng được nghe pháp. Trong vô số kiếp Như cát sông Hằng Câm điếc bẩm sinh Các căn không đủ, Thường đọa địa ngục Như ở trong vườn Các cõi ác khác Như nhà của mình Lạc đà, heo, chó Là nơi thường đi Vì chê kinh này Mắc tội như thế! Nếu được làm người Đui, điếc, câm, ngọng Nghèo cùng, ốm yếu Để tự trang sức Bệnh thủng khô gầy Ghẻ lác ung thư Các bệnh như thế Dùng làm áo mặc; Thân thường hôi hám Nhơ nhớp chẳng sạch Chấp trước ngã kiến, Giận dữ tăng thêm Dâm dục mạnh mẽ Chẳng chừa cầm thú Phỉ báng kinh này Chịu tội như thế! Này Xá-lợi-phất! Người chê kinh này Nếu kể tội lỗi Cùng kiếp không hết, Do nhân duyên đó Ta bảo các ông Đừng nói kinh này Cho người vô trí. Người nào lợi căn Trí tuệ sáng suốt Học rộng nhớ dai Mong cầu Phật đạo, Hạng người như thế Mới nói cho họ. Người đã từng gặp Trăm ngàn ức Phật Trồng các căn lành Tâm rất bền vững Hạng người như thế, Mới nói cho họ. Người nào tinh tấn Thường tu tâm Từ Không tiếc thân mạng Mới nói cho họ. Người nào cung kính Không có tà kiến Lìa các phàm ngu, Ở riêng trong rừng Hạng người như vậy Mới nói cho họ. Lại Xá-lợi-phất! Thấy có người nào Rời bỏ bạn ác Gần gũi bạn lành Hạng người như vậy Mới nói cho họ. Thấy Phật tử nào Giữ giới thanh tịnh Như ngọc trong sáng, Cầu kinh Đại thừa Hạng người như thế Mới nói cho họ. Người nào không sân Ngay thẳng nhu hòa Thương yêu tất cả, Cung kính chư Phật Hạng người như vậy Mới nói cho họ. Lại có Phật tử Ở trong đại chúng Dùng tâm thanh tịnh, Các loại nhân duyên Lời lẽ thí dụ Nói pháp thông suốt Hạng người như thế Mới nói cho họ. Có Tỳ-kheo nào Vì Nhất thiết trí Cầu pháp khắp nơi, Chắp tay kính nhận Vui mừng giữ gìn Kinh điển Đại thừa Cho đến không nhận Một kệ kinh khác, Hạng người như thế Mới nói cho họ. Người nào thành tâm Cầu xá-lợi Phật Như cầu kinh này Được rồi kính nhận, Người ấy lại không Cầu kinh nào khác Cũng chưa từng nghó Sách vở ngoại đạo Hạng người như thế Mới nói cho họ. Này Xá-lợi-phất! Ta nói việc này Người cầu Phật đạo Cùng kiếp không hết, Hạng người như thế Mới tin hiểu được Ông nên vì họ Nói kinh Pháp Hoa.  <詞 id="83085272">Phẩm 4: TÍN GIẢI Bấy giờ các vị Tuệ mạng Tu-bồ-đề, Đại Ca-chiên-diên, Đại Ca-diếp, Đại Mục-kiền-liên, được từ nơi Phật nghe pháp chưa từng có. Đức Thế Tôn thọ ký cho Xá-lợi-phất sẽ thành Vô thượng chính đẳng chính giác nên phát tâm hy hữu rất vui mừng, rời chỗ ngồi đứng dậy sửa y phục, bày vai bên phải, quỳ gối bên phải, chắp tay cúi mình, nhất tâm cung kính, chiêm ngưỡng tôn nhan Đức Phật, thưa: –Chúng con đứng đầu trong hàng Tăng, đều đã già nua, tự cho mình đã chứng Niết-bàn, không còn làm gì nữa nên không cần phải cầu Vô thượng chính đẳng chính giác. Bạch Thế Tôn! Từ xưa Thế Tôn nói pháp đã lâu, chúng con ngồi nơi tòa, thân thể mỏi mệt chỉ nhớ nghó Không, Vô tướng, Vô tác, đối với các pháp du hý thần thông, làm thanh tịnh cõi Phật, độ thoát chúng sinh của Bồ-tát, chúng con không ưa thích. Vì sao? Thế Tôn khiến chúng con ra khỏi ba cõi được chứng Niết-bàn nhưng vì tuổi đã già nua, cho nên đối với quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác mà Phật giáo hóa cho Bồ-tát, chúng con không ưa thích chút nào. Hôm nay được nghe Phật thọ ký cho hàng Thanh văn sẽ thành Vô thượng chính đẳng chính giác, chúng con vô cùng vui mừng được điều chưa từng có không ngờ bỗng nhiên được nghe pháp hiếm có, tự cảm thấy hạnh phúc được lợi hoàn hảo lớn, vô só châu báu không cầu tự nhiên có Bạch Thế Tôn! Chúng con xin nói ví dụ để làm rõ ý nghĩa này. Ví như có một người tuổi còn thơ ấu, bỏ cha trốn đi, ở lâu nơi nước khác, hoặc mười, hai mươi đến năm mươi năm, tuổi đã lớn lại thêm nghèo khổ, dong ruổi khắp nơi để tìm ăn mặc, lần lần tình cờ về đến nước mình. Người cha từ trước đến nay tìm con không gặp, mới ở lại trong thành nọ. Nhà ông giàu có, của cải rất nhiều, các kho báu vàng bạc, lưu ly, san hô, hổ phách, pha lê, ngọc… đều đầy dẫy, tôi tớ phục vụ, người hầu hạ rất đông, xe voi, xe ngựa, xe trâu, xe dê nhiều vô số, lợi tức buôn bán đến khắp các nước, khách buôn bán rất đông. Lúc ấy, người con nghèo khổ đi đến các xóm làng, phố phường lần hồi đến thành người cha ở. Người cha luôn nhớ con, xa con đã hơn năm mươi năm mà chưa từng nói với ai điều này, chỉ luôn thương nhớ và rất lo lắng. Ông nghó mình đã già nua, có nhiều của cải, các kho vàng bạc, châu báu đầy dẫy nhưng không có con nối dòng, một mai chết đi của cải tản thất không có người để giao phó. Vì vậy, lúc nào cũng lo nghó đến con. Ông lại nghó: “Phải chi ta tìm được con để giao phó của cải, thanh thản vui vẻ thì không còn lo âu.” Bạch Thế Tôn! Lúc ấy cùng tử đi làm thuê, lần hồi tình cờ đến nhà người cha, đứng ở bên cửa, trông thấy cha mình, ngồi giường Sư tử, có ghế báu đỡ chân, các Bà-la-môn, Sát-đế-lợi, cung kính bao quanh, đeo chuỗi anh lạc, trân châu giá trị ngàn vạn để trang sức, người tôi tớ hầu hạ, tay cầm phất trần trắng, đứng hầu hai bên, màn báu che trên, lọng hoa rủ xuống, nước thơm rưới đất, rải hoa đẹp, trưng bày vật báu, phát ra, thu vào, lấy, cho… có các sự trang sức, oai đức tôn trọng như vậy. Cùng tử thấy cha có thế lực lớn, liền kinh sợ, hối hận sao mình lại đến đây. Thầm nghó: “Ông này chắc là vua, hoặc cũng bằng vua, không phải là chỗ để bỏ sức làm thuê kiếm tiền, chẳng bằng đến xóm nghèo, có chỗ để ra sức làm mướn đổi lấy cơm áo. Nếu đứng đây lâu, bị thấy ta sẽ bị bắt buộc làm việc.” Nghó xong bỏ chạy thật nhanh. Lúc đó ngồi trên tòa Sư tử, nhìn thấy liền biết con mình, ông trưởng giả rất vui mừng, suy nghó: “Kho tàng tài sản của ta đã có người giao phó. Ta luôn nhớ nghó đến con, làm sao để gặp nó, bỗng nhiên nó tự đến, thật vừa ý ta, tuy tuổi đã già nua nhưng ta vẫn còn tham tiếc.” Liền sai người hầu đuổi theo bắt lại. Bấy giờ, người hầu chạy mau bắt lại, cùng tử kinh sợ lớn tiếng kêu oan: –Tôi không xúc phạm ai sao lại bị bắt? Người hầu càng giữ chặt lôi nhanh dẫn về. Khi đó cùng tử tự nghó: “Mình không có tội mà bị bắt phen này chắc chết” lại càng hãi hùng bất tỉnh ngã xuống đất. Người cha trông thấy, bảo người hầu: –Chẳng cần người này nữa, thôi khỏi bắt đem về, hãy đem nước lạnh rưới cho nó tỉnh lại, đừng nói gì với nó. Vì sao? Cha biết con mình ý chí thấp hèn, tự biết mình cao quý làm cho con khiếp sợ, biết chắc là con nên tìm cách không nói cho người khác biết đó là con mình, rồi sai người hầu nói: “Ta thả ngươi đi đâu thì tùy ý”. Cùng tử vui mừng được điều chưa từng có, liền đứng dậy đi đến xóm nghèo để tìm cơm áo. Lúc ấy, muốn dụ dỗ con mình, trưởng giả bày cách bí mật sai hai người thân thể tiều tụy, không có oai đức: –Các ngươi hãy đến đó, từ từ nói với cùng tử “Có chỗ làm này trả giá rất cao”. Nếu nó chịu thì đưa nó về đây làm, hễ nó hỏi làm việc gì, hãy nói là “thuê hốt phân, hai chúng tôi cũng làm chung với anh”. Hai người liền đi tìm cùng tử gặp rồi trình bày sự việc trên. Cùng tử hỏi giá cả xong đến hốt phân. Người cha thấy con rất thương xót nhưng vẫn còn nghi ngờ. Một ngày nọ, đứng nơi cửa sổ nhìn thấy thân con ốm yếu tiều tuî, phân đất bụi bặm dơ dáy, ông liền cởi chuỗi ngọc, áo tốt mịn màng, các thứ trang sức … mặc vào áo thô rách, nhơ nhớp, đính đầy bụi đất, tay cầm đồ hốt phân, bộ dạng đáng ghê sợ, bảo những người làm: “Các ông hãy siêng năng, đừng lười biếng”. Tìm cách để đến gần con, ông bảo: –Này anh! Hãy làm luôn ở đây, đừng đi nơi khác ta sẽ trả thêm tiền cho anh, mọi thứ cần dùng như thau gạo, bột, muối, dấm… anh đừng ngại, có người tớ già sẽ cung cấp đầy đủ, cứ yên tâm. Ta như cha của anh, đừng lo lắng. Vì sao? Vì tuổi ta đã già lớn mà anh thì còn trẻ mạnh, khi làm việc anh luôn không giả dối, lười biếng, giận hờn, nói lời oán trách, ta thấy anh không có những tính xấu như các người làm khác, anh như con của ta. Trưởng giả liền đặt tên cho cùng tử ấy là “con”. Tuy có vui mừng về điều này nhưng cùng tử vẫn tự cho mình là người làm thuê thấp hèn. Vì vậy trong hai mươi năm trưởng giả thường sai anh ta làm việc hốt phân. Sau đó cùng tử mới dần dần tin tưởng ra vào không còn ngại ngùng, nhưng vẫn ở nguyên chỗ cũ. Bạch Thế Tôn! Khi ấy vì bị bệnh, tự biết mình không bao lâu sẽ chết, trưởng giả bảo cùng tử: –Ta có kho báu vàng bạc đầy dẫy, số lượng trong ấy bao nhiêu, thu chi thế nào con phải biết hết. Lòng ta như thế, con hãy thuận theo ý ta. Vì sao? Nay ta cũng giống như con, nên cố để ý đừng cho sót mất. Cùng tử nghe lời, lãnh biết các vật vàng bạc châu báu và các kho tàng nhưng không hề có ý lấy một thứ gì đáng giá bằng bữa ăn. Anh ta vẫn còn ở chỗ cũ, tâm chí thấp hèn vẫn chưa bỏ được. Ít lâu sau, trưởng giả biết ý con dần dần thông suốt, đã có chí lớn và tự chê tâm ngày trước, lúc gần chết, ông gọi con đến và mời đầy đủ bà con thân thuộc, quốc vương, quan đại thần, Sát-đế-lợi, cư só ông nói: –Xin các vị biết cho, đây là con tôi, do tôi sinh ra, ở trong thành nọ, bỏ tôi trốn đi, nổi trôi khổ sở hơn năm mươi năm, nó tên như vậy, ta tên như vậy. Xưa ta ở thành này lo lắng tìm kiếm, bỗng nhiên ở nơi đây gặp nó. Nó thật sự là con của ta, ta thật sự là cha nó. Tất cả của cải của ta đều thuộc con ta, sự phát ra thu vào con ta đều đã biết hết. Bạch Thế Tôn! Bấy giờ nghe cha nói như vậy, cùng tử rất vui mừng được điều chưa từng có, suy nghó: “Ta vốn chẳng mong cầu mà của tự nhiên đến.” Bạch Thế Tôn! Trưởng giả giàu có ấy là Đức Như Lai, chúng con đều giống như con Phật, Như Lai thường nói chúng con là con. Bạch Thế Tôn! Vì ba khổ, chúng con chịu các phiền não thiêu đốt trong sinh tử, mê lầm chẳng biết, ưa thích các pháp nhỏ. Hôm nay Thế Tôn làm cho chúng con dẹp trừ những phân dơ, các pháp hý luận. Chúng con ở trong đó cố gắng tinh tấn đạt đến Niết-bàn, cái giá trị của một ngày đã được đây rồi, rất vui mừng tự cho là đủ, liền nói: “Trong pháp của Phật nhờ chuyên cần tinh tấn nên đạt được rất nhiều”. Nhưng trước kia biết chúng con ưa thích sự thấp kém, ham mê pháp nhỏ nên Thế Tôn liền bỏ hết không vì phân biệt, nói: “Các ông sẽ có phần trong kho báu tri kiến của Như Lai.” Thế Tôn dùng sức phương tiện nói trí tuệ của Như Lai, chúng con theo Phật được Niết-bàn giá trị của một ngày, cho là đã đầy đủ. Đối với pháp Đại thừa không có chí mong cầu. Chúng con lại nương tựa vào trí tuệ Như Lai, đối với pháp mà Phật đã mở bày, diễn nói cho hàng Bồ-tát, chúng con cũng chẳng có chí mong cầu. Vì sao? Vì biết chúng con thích pháp nhỏ. Phật dùng diệu lực của phương tiện thuận theo chúng con mà nói pháp, nhưng chúng con không biết mình thật sự là Phật tử. Hôm nay, chúng con mới biết đối với trí tuệ Phật, Thế Tôn không có lẫn tiếc. Vì sao? Vì chúng con vốn thật sự là Phật tử mà chỉ thích pháp nhỏ nếu chúng con ưa thích pháp lớn, Phật sẽ nói pháp Đại thừa cho chúng con. Trong kinh này chỉ nói pháp Nhất thừa mà lúc xưa trước mặt các Bồ-tát, Phật chê trách Thanh văn ham pháp nhỏ, nhưng thật sự, Phật dùng pháp Đại thừa để giáo hóa. Vì thế chúng con nói: “Vốn không mong cầu nhưng pháp báu lớn của Pháp Vương tự nhiên đến, những điều đáng được của Phật tử, chúng con đã đạt được.” Bấy giờ, để nói lại nghĩa trên ngài Đại Ca-diếp nói kệ: Ngày nay chúng con Nghe lời Phật dạy Vô cùng vui mừng Được chưa từng có, Phật nói Thanh văn Sẽ được thành Phật Kho báu Vô thượng Không cầu tự đến. Giống như trẻ con Thơ ngây không biết, Bỏ cha trốn đi Đến nước xa khác, Trôi nổi khắp nơi Hơn năm mươi năm Cha nó buồn nhớ Tìm kiếm khắp nơi. Kiếm lâu mỏi mệt Dừng lại một thành, Xây dựng nhà cửa Tự vui năm dục Nhà ông giàu có Rất nhiều vàng bạc Xa cừ, mã não Trân châu, lưu ly Voi, ngựa, bò, dê Kiệu cáng, xe cộ Ruộng đất, tôi tớ Nhân dân rất đông, Xuất nhập lời lãi Khắp đến nước khác, Khách hàng buôn bán Nơi nào cũng có Đông trăm ngàn ức Vây quanh cung kính. Thường được vua chúa Yêu mến quan tâm Các vị quan lại, Đều rất tôn trọng Vì các sự duyên Lui tới rất đông. Giàu có như vậy Có thế lực lớn Nhưng đã già nua Càng buồn nhớ con Sớm chiều lo âu, Ta gần chết rồi Con dại bỏ ta Hơn năm mươi năm Kho tàng của cải Phải làm sao đây? Bấy giờ cùng tử Vì tìm cơm áo Ấp này ấp nọ Nước này nước kia, Có khi tìm được Khi tìm chẳng được Đói khát tiều tụy Thân sinh ghẻ lác, Dần dần trải qua Đến thành cha ở Lần hồi tình cờ Tới trước nhà cha. Lúc ấy trưởng giả Đang ở trong nhà Giăng màn báu lớn Ngồi tòa Sư tử Quyến thuộc vây quanh, Nhiều người hầu hạ Hoặc người tính toán Vàng bạc của báu Phát thu tài sản Ghi chép sổ sách. Cùng tử thấy cha Giàu có oai nghiêm, Cho là bậc vua Hoặc bằng như vua, Kinh sợ quái lạ Sao lại đến đây. Lại tự suy nghó Nếu đứng đây lâu Ta sẽ bị bắt Ép buộc làm việc. Suy nghó thế rồi Liền chạy thật nhanh, Hỏi thăm xóm nghèo Muốn đến làm thuê. Bấy giờ trưởng giả Ngồi tòa Sư tử Trông thấy con mình Âm thầm nhận biết Liền sai người hầu, Đuổi theo bắt lại. Cùng tử hoảng sợ Té xỉu xuống đất Người này bắt mình, Chắc mình bị giết Sao vì cơm áo Khiến ta đến đây. Trưởng giả biết con Ngu si thấp hèn Chẳng tin lời mình Chính là cha nó. Ông liền tìm cách Lại sai người khác Mắt chột lùn xấu, Không có oai đức Các ngươi bảo nó “Đến đây làm thuê Hốt dọn phân dơ Trả cho nhiều tiền.” Cùng tử nghe xong Vui mừng đi theo Để hốt phân dơ Dọn dẹp nhà cửa. Trưởng giả trong nhà Thường thấy con mình, Nghó con ngu dại Thích làm việc hèn. Lúc đó trưởng giả Mặc áo thô rách, Cầm đồ hốt phân Đến chỗ con làm Tìm cách gần gũi Bảo con gắng làm Sẽ trả tiền thêm Cho dầu xoa chân Thức ăn đầy đủ Nệm chiếu dày ấm, Dặn dò cặn kẽ Anh hãy ráng làm Lại dịu dàng bảo Anh như con ta. Trưởng giả có trí Khiến dần ra vào Qua hai mươi năm, Làm lụng việc nhà Cho biết vàng bạc, Trân châu, pha lê Phát thu của cải Đều cho biết hết. Vẫn ở ngoài cửa Ngủ nơi am tranh Tự an phận nghèo “Chẳng phải của mình”. Cha biết lòng con Dần dần tiến bộ, Muốn cho của cải Liền mời dòng họ Quốc vương, đại thần Sát-lợi, Cư só, Giữa những người ấy Nói là con tôi Bỏ tôi đi xa Hơn năm mươi năm Tự nhiên nó về Hai mươi năm nay. Xưa ở thành nọ Mất đứa con này, Ta tìm khắp nơi Rồi đến nơi đây Những gì ta có, Nhà cửa, người làm Đều giao cho nó Tùy ý sử dụng. Con biết phận nghèo Ýù chí thấp hèn Đang ở nhà cha, Được nhiều của báu Cùng với nhà cửa Tất cả tài sản, Vô cùng vui mừng Được chưa từng có. Phật cũng biết con Ưa thích pháp nhỏ, Chưa từng nói lời “Các ông thành Phật”, Mà nói chúng con Được pháp vô lậu Thành tựu pháp nhỏ. Phật vì đệ tử Thanh văn chúng con, Nói đạo Vô thượng Tu tập pháp này Sẽ được thành Phật Vâng lời Phật dạy Vì các Bồ-tát, Con dùng nhân duyên Các loại thí dụ Ngần ấy lời lẽ Nói đạo Vô thượng. Các vị Phật tử Nghe con nói pháp Ngày đêm suy gẫm Tinh tấn tu tập Bấy giờ chư Phật Liền thọ ký cho “Các ông đời sau Sẽ được thành Phật.” Tạng pháp bí mật Của tất cả Phật Chỉ thật sự nói Cho các Bồ-tát Không nói pháp này Cho hàng Thanh văn; Như đứa cùng tử Được gần cha nó Tuy biết của cải Nhưng không muốn nhận. Chúng con tuy nói Kho báu pháp Phật, Không có chí nguyện Cũng lại như vậy. Con diệt nội kết Tự cho là đủ, Chỉ được điều này Không biết gì khác. Chúng con dù nghe Pháp tịnh cõi Phật Giáo hóa chúng sinh, Cũng chẳng ưa thích. Vì sao như vậy? Tất cả các pháp Đều là rỗng lặng Không sinh, không diệt Không lớn, không nhỏ Vô lậu, vô vi. Suy nghó vậy rồi Không hề ưa thích Chúng con từ lâu Không có chí nguyện Không tham không thích Trí tuệ của Phật Đối với pháp mình Cho đã hoàn hảo. Chúng con từ lâu Tu tập pháp không Thoát khỏi hoạn nạn Khổ não ba cõi Thân cuối cùng trụ Hữu dư Niết-bàn Lời Phật dạy bảo Chắc chắn đắc đạo, Tức là có thể Báo đáp ân Phật, Chúng con tuy nói Cho các Phật tử Để cầu Phật đạo Mà đối pháp này Không hề mong muốn. Đạo Sư buông bỏ Biết rõ lòng con Trước không khuyên gắng, Chỉ nói lợi ích. Như trưởng giả giàu Biết con thấp hèn Tìm cách khéo léo Dụ dỗ con mình Sau đó giao phó Tất cả tài sản. Đức Phật cũng vậy Làm việc hiếm có Biết thích pháp nhỏ Dùng lực phương tiện, Điều phục tâm con Rồi dạy trí lớn Chúng con ngày nay Được chưa từng có. Trước đây không mong Giờ tự nhiên được Như cùng tử ấy Được nhiều của báu. Bạch Đức Thế Tôn, Con được đạo quả Nơi pháp vô lậu, Được mắt thanh tịnh Chúng con lâu nay Giữ giới Phật chế Cho đến hôm nay Mới được phước báo Trong pháp của Phật Tu hành phạm hạnh Được quả Vô lậu Quả lớn Vô thượng. Hôm nay chúng con Thật là Thanh văn Đem giáo pháp Phật, Giáo hóa chúng sinh Hôm nay chúng con Thật A-la-hán. Đối với thế gian Trời, Người, Ma, Phạm Khắp ở trong đó Xứng đáng nhận cúng, Thế Tôn ân lớn Đem việc hiếm có Từ bi giáo hóa Lợi ích chúng con Vô lượng ức kiếp Ai có báo được, Hầu hạ hết mình Cúi đầu kính lễ Cúng dường tất cả Cũng không đáp được. Dùng đầu đội Phật Hai vai cõng vác Hằng hà sa kiếp Tận tâm cung kính, Dâng thức ăn ngon Vô số y báu Và các đồ nằm, Các loại thuốc thang Ngưu đầu, Chiên-đàn Và các ngọc báu Dùng xây tháp miếu Y báu trải đất… Các việc như trên Đem cúng dường Phật Hằng hà sa kiếp Cũng không đáp được Chư Phật hiếm có Vô lượng, vô biên Không thể nghó bàn Năng lực thần thông Vô lậu, vô vi Vua trong các pháp, Vì hạng thấp hèn Nhẫn việc lớn này Hiện tướng phàm phu Tùy nghi nói pháp. Chư Phật tự tại Đối với các pháp Biết điều ưa muốn Ý chí khả năng Của các chúng sinh, Tùy họ đảm nhận Dùng nhiều ví dụ Để diễn nói pháp. Tùy các chúng sinh Căn lành đời trước Biết đã thành thục, Hay chưa thành thục Suy lường phân biệt Biết rõ các việc Nơi đạo Nhất thừa Tùy nghi nói ba. KINH THIÊM PHẨM DIỆU PHÁP LIÊN HOA <卷 id="83085273">QUYỂN 3 <詞 id="83085274">Phẩm 5: dược thảo DỤ Khi ấy, Đức Thế Tôn bảo Tôn giả Đại Ca-diếp và các đại đệ tử: –Lành thay, lành thay! Ca-diếp, ông đã nói hoàn hảo về công đức chân thật của Như Lai, thật đúng như lời ông nói! Như Lai còn có vô lượng, vô biên, vô số công đức, nếu các vị nói trong vô lượng ức kiếp cũng không hết được. Đại Ca-diếp nên biết! Như Lai là vua của các pháp, nói ra điều gì cũng đều không hư dối. Đối với các pháp Như Lai dùng phương tiện để thuyết giảng và pháp được tuyên thuyết hoàn toàn đạt đến bậc Nhất thiết trí. Như Lai xét thấy chỗ quay về của các pháp, cũng biết ý nghĩa và hành động của tất cả chúng sinh một cách vô ngại lại biết rõ tường tận các pháp, khai thị trí tuệ cho tất cả chúng sinh. Đại Ca-diếp! Ví như trong cõi tam thiên đại thiên, nơi núi sông, hang khe, ruộng đất sinh ra cây cối, lùm rừng và cỏ thuốc với nhiều giống loại tên gọi, màu sắc khác nhau. Mây kín giăng đầy bủa khắp cõi tam thiên đại thiên, đồng thời mưa xuống khắp nơi thấm nhuần cây cối, lùm rừng, cỏ thuốc, rễ nhỏ thân nhỏ, nhánh nhỏ, cành nhỏ, lá nhỏ. Rễ vừa, thân vừa, nhánh vừa, cành vừa, lá vừa. Rễ lớn, thân lớn, nhánh lớn, cành lớn, lá lớn. Các giống cây lớn nhỏ, tùy hạng cao, vừa, thấp mà hấp thụ đầy đủ. Một trận mưa xuống tùy theo loại cây hợp với tính của các giống loại, nên được phát triển đơm hoa kết trái, tuy các giống cây đều từ đất mọc lên, cùng được thấm nhuần một trận mưa mà các cây cỏ mỗi thứ đều khác nhau. Ca-diếp nên biết! Như Lai cũng vậy, xuất hiện ở thế gian như mây lớn nổi lên vang ra âm thanh khắp cả thế giới. Trời, Người, A-tu-la cũng như mây ấy che khắp tam thiên đại thiên thế giới, giữa đại chúng tuyên bố thế này: Ta là Như Lai, Ứng Cúng, chính Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Đối với người chưa được độ thì làm cho được độ, người chưa hiểu biết thì làm cho hiểu biết, người chưa an ổn thì làm cho an ổn, người chưa chứng Niết-bàn làm cho chứng Niết-bàn biết như thật đời nay, đời sau. Ta là người biết tất cả, thấy tất cả, người biết đường, người mở đường, người chỉ đường, tất cả các chúng Trời, Người, A-tu-la nên đến đây để nghe pháp. Bấy giờ vô số ngàn vạn ức các loại chúng sinh đều đến chỗ Như Lai nghe pháp. Lúc này Như Lai quán sát căn tính nhanh chậm, siêng năng, biếng nhác của chúng sinh nên tùy theo khả năng họ mà thuyết pháp đủ cách, làm cho ai cũng hoan hỷ vui thích vì được lợi ích hoàn toàn. Chúng sinh nghe pháp rồi đời này được an vui, đời sau sinh về cõi lành, nhờ biết đạo nên được an lạc và được nghe pháp, nghe rồi thoát được mọi sự trở ngại, ở trong Phật pháp, tùy theo khả năng dần dần đều được vào đạo. Như mây lớn kia mưa xuống rưới khắp tất cả cỏ cây, lùm rừng và cỏ thuốc, theo từng loại cây đều được thấm nhuần đầy đủ, được sinh trưởng, Như Lai thuyết pháp cùng một tướng, một vị, nghĩa là tướng giải thoát, tướng xa lìa, tướng diệt rốt ráo cho đến Nhất thiết chủng trí. Chúng sinh nào nghe pháp của Như Lai mà ghi nhớ, đọc tụng, thực hành thì sẽ được công đức mà họ không tự biết. Vì sao? Vì chỉ có Như Lai biết chúng sinh này thể tướng, chủng tính như thế nào, nhớ việc gì, nghó việc gì, tu việc gì, nhớ như thế nào, nghó như thế nào, tu như thế nào, dùng pháp gì để nhớ, dùng pháp gì để nghó, dùng pháp gì để tu, dùng pháp gì được pháp gì và biết chúng sinh ở các cõi: chỉ có Như Lai thấy biết đúng như thật, rõ ràng vô ngại như cây cỏ, lùm rừng, cỏ thuốc… kia, không tự biết tính cao, vừa, thấp mà Như Lai thì biết pháp một tướng một vị. nghĩa là tướng giải thoát tướng xa lìa, tướng thường vắng lặng, rốt ráo Niết-bàn, tất cả đều trở về không, biết pháp ấy rồi Như Lai quan sát tâm tính chúng sinh muốn nâng đỡ họ nên không thể giảng thuyết ngay Nhất thiết chủng trí. Đại Ca-diếp! Thật hiếm có biết được Như Lai tùy theo căn cơ thuyết pháp, tin được, nhận được. Vì sao? Vì chư Phật tùy nghi nói pháp khó hiểu, khó biết. Bấy giờ muốn lập lại nghĩa trên Thế Tôn mới nói kệ: Pháp Vương phá hữu Xuất hiện ở đời Tùy ý chúng sinh Thuyết pháp nhiều cách. Như Lai tôn trọng Trí tuệ sâu xa Từ lâu yên lặng Không làm vội vã. Người có trí nghe Liền được tìm hiểu Không trí nghi ngờ Thì bị mất hẳn. Vì vậy Ca-diếp! Tùy sức mà nói Tất cả các duyên Khiến họ thấy đúng. Ca-diếp nên biết! Ví như mây lớn Nổi trong không gian Che khắp tất cả, Chứa nước thấm mát Điện chớp sáng lòa Sấm nổ rền vang Vạn vật mừng vui. Mặt trời bị khuất Mặt đất mát mẻ Mây sa xuống gần Như nắm lấy được, Mưa kia đồng đều Rưới xuống bốn phương Trút nước vô lượng Thấm đầy mặt đất. Núi sông hang khe Từ chỗ thâm sâu Mọc ra cây cối Các cây lớn nhỏ Trăm thứ giống lúa Và mía với nho Trận mưa thấm cho Đầy đủ tất cả. Đất khô thấm đều Cây cỏ cùng tốt Mây lớn tuôn mưa Nước cùng một vị, Lùm rừng cây cối Tùy loại hấp thụ Tất cả cỏ cây Cao, thấp, vừa chừng Tùy theo lớn nhỏ Đều được phát triển. Rễ, thân, nhánh, lá Hoa trái tươi sắc Trận mưa tưới hết Nên tươi tất cả, Đúng như tính chất tính phân lớn nhỏ Thấm nhuần là một Đều được tươi tốt. Như Lai cũng vậy Xuất hiện ở đời, Như vầng mây lớn Che khắp tất cả. Xuất hiện ở đời Vì các chúng sinh Phân biệt giảng nói Thật tướng các pháp. Đại Thánh Thế Tôn Ở giữa trời, người Và tất cả chúng Tuyên bố thế này Ta là Như Lai Bậc Lưỡng Túc Tôn Xuất hiện ở đời, Giống như mưa lớn Mưa thấm tất cả Những chúng sinh khô Đều được lìa khổ, Được vui an ổn Vui của thế gian Là vui Niết-bàn. Chư Thiên, nhân loại Chú ý lắng nghe Hãy nên đến đây Gần đức Vô thượng, Ta là Thế Tôn Không ai sánh bằng, An vui chúng sinh Nên hiện ở đời. Vì đại chúng nói Về pháp cam lồ Pháp kia một vị Giải thoát Niết-bàn, Dùng một diệu âm Diễn thuyết nghĩa trên Thường vì đại chúng Tạo các nhân duyên, Ta xem tất cả Đều rất bình đẳng Không có khác nhau Và tâm yêu ghét, Ta không tham đắm Cũng không giới hạn Thường vì tất cả Bình đẳng nói pháp Không vì một người, Cả chúng cũng vậy Thường thuyết giảng pháp, Không việc gì khác Ngồi đứng đến đi Không hề mỏi mệt. Đi khắp thế gian Như mưa thấm nhuần Sang hèn cao thấp, Giữ giới phá giới Oai nghi đầy đủ, Hay không đầy đủ chính kiến, tà kiến Lợi căn, độn căn Rưới xuống mưa pháp Mà không mỏi mệt. Tất cả chúng sinh Được nghe pháp ta Tùy sức lãnh thọ Trụ nơi các bậc, Hoặc ở trời người Chuyển luân thánh vương Phạm, Thích các vua Là cỏ thuốc nhỏ. Rõ pháp vô lậu Chứng được Niết-bàn Khởi sáu thần thông, Và được ba minh Riêng ở núi rừng Thường hành thiền định, Chứng bậc Duyên giác Cỏ thuốc bậc trung. Cầu bậc Thế Tôn Ta sẽ thành Phật Hành tinh tấn định Cỏ thuốc bậc thượng. Có hàng Phật tử Chuyên tâm Phật đạo Thường hành từ bi, Tự biết làm Phật Quyết định không nghi Gọi là cây nhỏ. An trụ thần thông Chuyển pháp không thoái Độ vô lượng ức Trăm ngàn chúng sinh, Bồ-tát như thế Gọi là cây lớn. Phật nói bình đẳng Như mưa một vị, Tùy tính chúng sinh Lãnh thọ không đồng; Như cây cỏ kia Đượm nhuần đều khác. Phật dùng thí dụ Phương tiện chỉ bày Các lời lẽ hay Diễn nói một pháp, Nơi trí tuệ Phật Một giọt trong biển. Ta rưới mưa pháp Đầy khắp thế gian, Pháp chỉ một vị Tùy sức tu hành, Như lùm rừng kia Cây cối thảo môïc, Tùy giống lớn nhỏ Trở nên tươi tốt. Pháp của chư Phật Thường dùng một vị, Làm cho thế gian Đều được đầy đủ. Lần lượt tu hành Đều được đạo quả Thanh văn, Duyên giác Ở chốn núi rừng Trú thân cuối cùng, Nghe pháp được quả Gọi là cỏ thuốc Được phát triển nhanh. Nếu các Bồ-tát Trí tuệ vững bền Thấu đạt ba cõi, Cầu Tối thượng thừa Gọi là cây nhỏ Được phát triển nhanh. Có vị trú thiền Được sức thần thông Nghe các pháp không Lòng sinh vui mừng. Phóng nhiều hào quang Độ các chúng sinh Gọi là cây lớn Được phát triển nhanh. Như vậy Ca-diếp! Đức Phật nói pháp Ví như mây lớn, Nước mưa một vị Thắm nơi hoa người Đều được kết trái. Ca-diếp nên biết! Dùng các nhân duyên Các thứ thí dụ Chỉ bày Phật đạo Là ta phương tiện. Chư Phật cũng thế Nay vì các ông Nói pháp chân thật Các chúng Thanh văn Đều chưa diệt độ, Các ông tu hành Là đạo Bồ-tát Lần lần tu học Sẽ được thành Phật. Lại nữa Ca-diếp! Đối với các chúng sinh, Như Lai giáo hóa một cách bình đẳng. Này Ca-diếp! Ví như ánh sáng mặt trời, mặt trăng soi sáng khắp thế gian, hoặc làm thiện ác, hoặc ở chỗ cao thấp, hoặc thơm hôi ánh sáng tỏa chiếu bình đẳng khắp nơi. Như vậy Ca-diếp! Như Lai đã dùng ánh sáng của Nhất thiết chủng trí, đối với hữu tình sinh trong năm đường, tùy theo tin hiểu của họ đối với ba thừa; Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát, mà thuyết pháp bình đẳng trí tuệ của Như Lai cũng không tăng giảm do tích tụ phước trí mà sinh ra. Này Ca-diếp! Không có ba thừa, do sự tu hành của chúng sinh sai khai mà phân làm ba. Tuệ mạng Ca-diếp bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Nếu không có ba thừa vì sao hiện tại chia ra thành Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát? Phật dạy: –Ví như đồ gốm đều do đất sét tạo thành, trong những thứ ấy, hoặc đựng đường, ván, sữa, sữa cao, phân dơ đất sét cũng không có sự khác nhau, nhưng tùy theo vật được đựng trong đó, cho nên đặt ra nhiều tên gọi sai khác. Như thế Ca-diếp! Ở đây chỉ có một thừa, đó gọi là Đại thừa, chẳng có hai, hoặc ba thừa nào khác. Tuệ mạng Đại Ca-diếp bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Chúng sinh tin hiểu khác nhau cho rằng: Muốn ra khỏi ba cõi chỉ có một Niết-bàn, hay là hai, hoặc ba? Phật dạy: –Nếu giác ngộ thể tính các pháp đồng với Niết-bàn thì chỉ có một, không hai, cũng không ba. Này Ca-diếp! Do nghĩa lý này, ta nêu ra ví dụ, nhờ ví dụ mà người có trí sẽ hiểu nghĩa của lời ta nói. Này Ca-diếp! Ví như người mù bẩm sinh, liền nói không có các sắc xấu đẹp, cũng không thể thấy những loại sắc đẹp xấu, không có mặt trời, mặt trăng và các vì sao, cũng không thể thấy mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Lại có người mắt sáng lại nói là có các loại sắc đẹp xấu, cũng có thể thấy các loại sắc đẹp xấu, có mặt trời, mặt trăng và các vì sao, cũng có thể thấy các tinh tú đó. Người mù tuy nghe người kia nói nhưng không tin nhận. Khi ấy có vị lương y biết rõ các bệnh, thấy người mù liền suy nghó: “Người kia trước làm các việc ác nay bị mắc bệnh, bệnh của người đó có bốn loại.” Vị lương y muốn chữa lành bệnh ông ta, lại suy nghó mọi cách những thứ thuốc đã lưu hành ở đời thì không thể chữa trị bệnh ấy, chỉ có bốn loại thuốc ở núi Tuyết: Một là tùy theo màu sắc mùi vị; hai là chữa lành các bệnh; ba là diệt trừ các độc hại; bốn là tùy chỗ ở để được an vui. Khi đó vị lương y khởi lòng thương người mù, liền suy nghó, dùng mọi phương tiện đến núi Tuyết, đến rồi tìm kiếm khắp nơi được bốn loại thuốc hoặc dùng răng để nhai nghiền, dùng cối đá để xay lại hòa với những thuốc khác để nấu, hoặc dùng những thuốc tươi để làm, hoặc châm cứu để thông huyệt, hoặc sao hoặc trộn với những thứ thuốc khác hoặc hòa vào thức ăn. Khi ấy, người mù dùng mọi cách thích hợp uống thuốc liền được sáng mắt. Mắt sáng người ấy đều thấy các màu sắc trong ngoài, xa gần, mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Ông ta than: –Ôi, ta thật là ngu si trước đây nghe nói mà không tin, hôm nay mới thấy rõ tất cả. Ta hết mù mắt dã sáng lại, ta là hơn hết. Khi đó có vị Tiên nhân chứng được năm thần thông, dùng Thiên nhãn, Thiên nhó biết dược tâm ông ta. Tuy ông mắt sáng còn không biết gì? Cớ sao lại sinh ngã mạn cũng chưa có trí tuệ giỏi. Vị ấy lại nói: –Khi ông ở trong nhà thì không thấy không biết các sắc ở bên ngoài, tâm thiện ác của chúng sinh. Cách năm do-tuần ông cũng không nghe không biết những âm thanh của tiếng trống tù và…, cách một câu-lô-xá nếu không cất chân thì không thể dến. Lúc lớn lên khi nghiệp gá vào thai mẹ, ông cũng không nhớ làm sao ông có trí tuệ được, sao ông lại nói ta thấy tất cả. Này người kia, tối cho là sáng, sáng cho là tối. Người kia nói với Tiên nhân: –Bằng cách nào và hành động gì để được trí này? Và được lòng tin năng lực đối với các vị, tôi sẽ được công đức này. Vị Tiên nhân nói: –Muốn như vậy ông nên sống nơi hang núi vắng vẻ, tư duy về pháp, đoạn trừ phiền não thì sẽ được thần thông đầy đủ công đức. Khi người kia nghe lời dạy liền xuất gia ở chỗ vắng vẻ, nhất tâm chuyên chú, dứt được khát ái ở đời, chứng năm thần thông, chứng thần thông rồi suy nghó: “Trước đây ta tạo biệt nghiệp, do nhân này nên không chứng một công đức gì, bây giờ tùy theo ý niệm thì biết được ngay nghiệp quá khứ. Ngày xưa ta ít trí tuệ, ở trong tăm tối.” Này Ca-diếp! Ta dùng ví dụ này là muốn làm rõ nghĩa, đối với nghĩa này thì nên thấy biết. Này Ca-diếp! Người mù kia tức là chúng sinh đang lưu chuyển trong sáu đường, không hiểu biết chính pháp, phiền não tối tăm thì luôn tăng trưởng và còn bị vô minh làm cho tối tăm, tích chứa các nghiệp, do nghiệp làm duyên, danh sắc cho đến tích tập các khổ lớn nên đang sống trong vô minh như vậy. Chúng sinh lưu chuyển trong ấy, chỉ có Như Lai vượt ra ba cõi, phát sinh Từ bi như cha thương đứa con một, thương yêu chúng sinh trong ba cõi thấy chúng sinh trôi nổi trong các nghiệp, không biết như thật để thoát khỏi sinh tử. Bằng mắt Phật trí, Phật thấy rõ những chúng sinh này, đời trước làm thiện, ít sân nhiều dục, ít dục nhiều sân, hoặc có trí ít, hoặc trí hoàn hảo, hoặc được thanh tịnh hoàn toàn, hoặc có tà kiến, những chúng sinh ấy Phật đều dùng phương tiện khéo léo nói ra ba thừa. Như vị Tiên nhân chứng được năm phép thần thông có mắt thanh tịnh tức là Bồ-tát. Tâm Bồ-đề phát sinh được Vô sinh nhẫn chứng quả Vô thượng. Vị lương y kia chính là Như Lai, nên biết như vậy. Người mù kia chính là chúng sinh ngu si, nên thấy như vậy. Tất cả các bệnh tức là sáu mươi hai tà kiến của tham, sân, si, nên biết như vậy. Bốn loại thuốc là Không, Vô tướng, Vô nguyện, Niết-bàn nên biết như vậy. Tùy bệnh cho thuốc, bệnh kia mới lành; tức là Không, Vô tướng, Vô nguyện, Giải thoát. chính niệm tu tập thì vô minh diệt, vô minh diệt nên hành diệt, cho đến các khổ lớn đều diệt. Suy nghó như vậy, không ở trong thiện không ở trong ác. Người mù sáng mắt tức là Thanh văn, Duyên giác, nên biết như vậy. Cắt đứt phiền não, trói buộc trong sinh tử, để giải thoát phiền não ra khỏi sáu đường và ba cõi. Do nghĩa này nên hàng Thanh văn suy nghó: “Không còn pháp nào khác để tu chứng nữa, ta đã đạt đến Niết-bàn.” Bấy giờ Như Lai thuyết pháp cho họ, đối với pháp mà ông chưa rõ hết thì chỗ nào mà có Niết-bàn rốt ráo chư Phật dùng tâm Bồ-đề giáo hóa làm cho họ phát tâm Bồ-đề, không ở trong sinh tử cũng không trú Niết-bàn. Đã hiểu ba cõi mười phương vắng lặng, giống như biến hóa mộng ảo, sóng nắng, tiếng vang. Xét thấy các pháp không sinh, diệt, không trói, mở, không tối, sáng. Thấy các pháp thậm thâm, cái thấy ấy cũng không có sự thấy, mà thường thấy tâm tin hiểu của chúng sinh khác nhau khắp trong ba cõi. Bấy giờ muốn lập lại nghĩa trên Thế Tôn nói kệ: Như ánh sáng trời, trăng Chiếu khắp ba ngàn Đối với thiện và ác Ánh sáng không tăng giảm; Trí tuệ của Như Lai Bình đẳng như trời, trăng Giáo hóa các chúng sinh Không thêm cũng không bớt. Như thợ làm đồ gốm Nhồi đất bùn làm ra, Các đồ vật chứa đựng Đường cát, nước, sữa ván, Hoặc đựng đồ bất tịnh Hoặc đựng các sữa cao, Chỉ lấy một thứ bùn Mà làm ra vật dụng. Tùy vật chứa trong nó Nhân đó mà gọi tên, Các chúng sinh cũng vậy Tùy sở thích khác nhau. Phật nói thừa sai khác Chắc chắn chỉ Phật thừa, Vô trí nên luân hồi Không biết nẻo giải thoát. Có người biết pháp không Xa lìa ngã và pháp Vì vậy biết chư Phật Sự chứng đắc chân chính, An trú trong bậc trí Gọi là bậc Duyên giác. Đã giáo hóa trí không Gọi đó là Thanh văn. Người giác ngộ các pháp Gọi là chính Biến Tri. Như người mù bẩm sinh Không thấy trời, trăng, sao Nên họ nói thế này Không có các loại sắc Lương y sinh lòng Từ Thương xót người mù kia Liền lên đến núi Tuyết, Lên xuống đi khắp nơi Tìm được các vị thuốc, Tùy theo sự tác dụng Làm ra bốn loại thuốc Hòa hợp mà trị bệnh, Hoặc dùng răng nhai nhỏ Hoặc dùng cối nghiền nát Hoặc dùng kim châm cứu Để trị bệnh người mù. Người ấy được sáng mắt Thấy ánh sáng trời, trăng Liền suy nghó như vầy Thuở xưa vì không trí Làm chúng sinh lưu chuyển Người mù không trí lớn Là duyên sinh đời này, Không trí chịu đường khổ Không trí ngu trong đời. Bậc Thiết Trí như vậy, Như Lai đại lương y Phát sinh lòng Từ mẫu Dùng các phương tiện khéo Giảng thuyết pháp tịch tónh. Trí giác Phật vô lượng Diễn nói thừa Tối thắng Rộng nói pháp bậc trung Hướng dẫn bậc trung trí, Vì họ sợ sinh tử Nên khen Bồ-đề khác Ra khỏi ba cõi rồi, Thanh văn tự biết mình Cho rằng mình chứng được Niết-bàn và an ổn Sẽ giác ngộ các pháp Cõi Niết-bàn bất tử. Đức Thế Tôn vì họ Phát khởi lòng Từ bi Bảo các ông ngu si Chớ cho mình là trí. Như có một ngôi nhà Khi ông ở trong đó Không biết gì bên ngoài Ông là kẻ tiểu trí Nếu ông ở trong đó Biết ngoài làm hay chưa? Ông chưa biết như vậy Huống chi ông trí kém Cách năm Du-xà-na Có phát ra âm thanh Ông cũng không nghe được. Huống gì là xa hơn Người khác đối với ông Dù có thương hay ghét Ông không thể biết được. Sao lại sinh kiêu mạn Xa một câu-lô-xá Không đi không đến được Sự việc lúc nhập thai Ông cũng không còn nhớ Nếu được năm thần thông Mới gọi Nhất thiết trí Ông ngu si không biết Cho mình là người trí Ông muốn được trí Phật Phát sinh từ thần thông. Nếu ở nơi vắng lặng Thần thông liền xuất hiện Tư duy pháp thanh tịnh Thì sẽ được thần thông, Học rồi đến chỗ vắng Tư duy vào thiền định Chứng được năm thần thông Công đức mau đầy đủ. Hàng Thanh văn như vậy Tưởng đã được Niết-bàn, Chư Phật nói với họ Đây Niết-bàn tạm thời, Thế Tôn dùng phương tiện Để nói con đường này Nếu là Nhất thiết trí Không thể chứng Niết-bàn, Ba đời trí vô tận Hành lục độ thanh tịnh Vô tướng, tác, vô nguyên Vắng lặng đều xả bỏ Và dùng tâm Bồ-đề Rõ pháp hướng Niết-bàn Bốn pháp trú bốn nhiếp Thảy đều được diễn nói Để giáo hóa chúng sinh, Đức Phật thuyết pháp này, Nếu biết tính các pháp Như huyễn và như mộng Không lõi như cây chuối Cùng tiếng vang không khác Và biết tự tính nó Thông suốt cả ba cõi Không trói cũng không mở. Biết rằng khi diệt độ Các pháp bình đẳng không Thể tính không có khác, Không thấy được điều này Một pháp cũng không rõ Bậc Đại trí thấy được Pháp thân không có khác, Không có pháp ba thừa Chỉ một Phật thừa thôi Các pháp đều bình đẳng Và luôn luôn bình đẳng, Bằng trí tuệ biết rồi An vui trong Niết-bàn.  <詞 id="83085275">Phẩm 6: THỌ KÝ Bấy giờ, sau khi nói kệ, Đức Phật tuyên bố giữa đại chúng: –Đại Ca-diếp đệ tử của ta, ở đời vị lai sẽ phụng thờ ba trăm muôn ức các Đức Phật Thế Tôn, cúng dường cung kính, tôn trọng, ngợi khen, rộng nói pháp lớn vô lượng của các Đức Phật, đến thân sau cùng thành Phật tên là Quang Minh Như Lai, Ứng Cúng chính Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiên Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Nước tên Quang đức, kiếp tên Đại trang nghiêm, Đức Phật sống mười hai tiểu kiếp, chính pháp trụ ở đời hai mươi tiểu kiếp, tượng pháp cũng trụ hai mươi tiểu kiếp, cõi nước trang nghiêm không có những dơ bẩn, đá sỏi, gai gốc và những đại tiểu tiện dơ uế, đất đai bằng phẳng, không có cao thấp, hầm hố, gò mô, đất bằng lưu ly, cây báu thẳng hàng vàng ròng làm dây để giăng bên đường, rải các kho báu khắp nơi sạch sẽ. Bồ-tát trong nước ấy nhiều vô lượng, vô số ngàn ức, hàng Thanh văn cũng vô số, không có các viêïc ma, tuy có ma và dân ma nhưng đều hộ trì Phật pháp. Khi ấy, muốn tuyên lại nghĩa trên, Đức Phật nói kệ: Này các Tỳ-kheo! Ta dùng mắt Phật Thấy Ca-diếp này, Vào đời vị lai Qua vô số kiếp Sẽ được làm Phật. Vào đời vị lai Cúng dường thờ phụng Ba trăm vạn ức Chư Phật Thế Tôn, Vì cầu trí Phật Tịnh tu phạm hạnh Cúng dường tối thượng Bậc Lưỡng Túc Tôn Tu tập tất cả Trí tuệ vô thượng Ở thân sau cùng Sẽ được làm Phật. Cõi ấy thanh tịnh Lưu ly làm đất Nhiều loại cây báu Thẳng hàng bên đường, Dây vàng ven đường Ai thấy đều vui Đường thoảng hương thơm Rải các hoa đẹp Đủ món kỳ diệu, Dùng để trang hoàng, Cõi ấy bằng phẳng Không có gò hầm, Các chúng Bồ-tát Không thể kể hết, Tâm họ hòa dịu Đạt thần thông lớn Phụng trì chư Phật Kinh điển Đại thừa. Các chúng Thanh văn Thân cuối vô lậu Con của Pháp Vương Không thể kể hết, Và dùng Thiên nhãn Không thể đếm biết Phật ấy sống đến Hai mươi tiểu kiếp, chính pháp trụ đời Hai mươi tiểu kiếp, Tượng pháp cũng trụ Hai mươi tiểu kiếp. Đức Phật Quang Minh Việc là như thế. Khi ấy các vị Bồ-tát Đại Mục-kiền-liên, Tu-bồ-đề, Đại Ca-chiên-diên… thấy đều run sợ, một lòng chắp tay, mắt nhìn chăm chú, chiêm ngưỡng Đức Thế Tôn đồng thanh nói kệ: Thế Tôn đại hùng mãnh Pháp vương của dòng Thích Vì thương cảm chúng con Mà phát ra tiếng Phật, Nếu biết thân tâm con Được làm người thọ ký Như dùng cam lồ rưới Trừ nóng được mát mẻ. Như từ chốn đói khát Bỗng đến gặp tiệc vua, Tâm lo sợ hoài nghi Chưa dám tự ăn liền, Nếu được vua cho phép Sau đó mới dám ăn. Chúng con cũng như vậy Thường nghó lỗi Tiểu thừa, Chẳng biết làm thế nào Được trí tuệ vô thượng. Tuy được nghe Phật nói Chúng con được làm Phật Tâm còn mối lo sợ Như người chưa dám ăn, Nếu được Phật thọ ký Mới chắc được yên vui. Thế Tôn, Bậc Đại Hùng Thường muốn an thế gian Xin thọ ký chúng con Như đói cần bảo ăn. Bấy giờ, biết tâm niệm của các vị đại đệ tử, Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo: –Ông Tu-bồ-đề đây! Đến đời vị lai phụng thờ, cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán ba trăm vạn ức na-do-tha Đức Phật, thường tu tập phạm hạnh, đủ đạo Bồ-đề vào thân cuối cùng thành Phật hiệu Danh Tướng Như Lai, Ứng Cúng, chính Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Kiếp tên Hữu bảo, nước tên Bảo sinh, cõi đó bằng phẳng, đất bằng pha lê cây báu trang nghiêm, không có gò, hầm cát, sỏi, gai chông và những đại tiện dơ uế, hoa báu trải đất, khắp nơi sạch sẽ, nhân dân nước đó đều ở lầu đài tốt đẹp. Hàng đệ tử Thanh văn nhiều vô lượng, vô biên, không thể tính dếm, ví dụ được. Các chúng Bồ-tát đông vô số ngàn muôn ức na-do-tha. Đức Phật sống hai mươi tiểu kiếp, chính pháp trụ ở đời hai mươi tiểu kiếp, tượng pháp cũng trụ ở đời hai mươi tiểu kiếp. Đức Phật ấy thường ở trên hư không, thuyết pháp cho đại chúng, độ thoát vô lượng Bồ-tát và Thanh văn. Khi ấy muốn lập lại nghĩa trên Đức Phật nói kệ: Này các Tỳ-kheo! Ta bảo các ông Đều nên nhất tâm Lắng nghe ta nói. Đại đệ tử ta Là Tu-bồ-đề Sẽ được thành Phật, Hiệu là Danh Tướng Cúng dường vô số Muôn ức Đức Phật Theo hạnh Phật làm, Dần đủ đạo lớn Thân cuối sẽ được Ba hai tướng tốt Trang nghiêm đẹp đẽ. Cũng như núi báu Cõi nước Phật ấy Sạch sẽ thứ nhất Chúng sinh nào thấy Đều cũng ưa muốn. Phật ở cõi ấy Độ vô lượng chúng, Trong hội pháp Phật Bồ-tát rất đông Đều bậc lợi căn Chuyển pháp không thoái. Nước ấy thường do Bồ-tát trang nghiêm Các chúng Thanh văn Nhiều vô số kể Đều chứng ba minh Đủ sáu thần thông Trụ tám giải thoát Có đại oai đức. Phật đó nói pháp Hiện ra vô số Thần thông biến hóa Không thể nghó bàn Các hàng trời, người Số như hằng sa Đều cùng chắp tay Nghe nhận lời Phật. Phật ấy sẽ sống Hai mươi tiểu kiếp, chính pháp trụ đời Hai mươi tiểu kiếp, Tượng pháp cũng trú Hai mươi tiểu kiếp. Khi ấy, Đức Thế Tôn, bảo các Tỳ-kheo: –Ta nói với các ông, ông Đại Ca-chiên-diên này vào đời vị lai, dùng các món cúng dường để dâng cúng, phụng thờ cung kính, tôn trọng tám ngàn ức Phật. Sau khi các Đức Phật diệt độ, đều dựng tháp miếu cao một ngàn do-tuần, dài rộng bằng nhau năm trăm do-tuần. Tháp miếu làm bằng bảy báu như: vàng, bạc, lưu ly, xà cừ, mã não, trân châu và mai khôi. Dùng các thứ hoa, chuỗi ngọc, hương xoa, hương bột, hương đốt, lọng nhiễu và tràng phan để cúng dường tháp miếu. Sau thời kỳ ấy lại cúng dường hai vạn ức Phật cũng như cúng dường các Đức Phật trước. Việc dâng cúng xong, đủ đạo Bồ-tát được thành Phật hiệu Diêm-phù-na-đề Kim Quang Như Lai, Ứng Cúng, chính Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự, Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Cõi nước đó bằng phẳng, đất bằng pha lê, cây báu trang nghiêm vàng ròng làm dây để giăng bên đường, hoa đẹp rải trên đất, khắp nơi sạch sẽ, người thấy vui mừng, không có bốn đường dữ: Địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, A-tu-la, hàng trời, người rất đông, chúng Thanh văn và các bậc Bồ-tát nhiều vô lượng muôn ức trang nghiêm nước đó. Đức Phật sống mười hai tiểu kiếp, chính pháp trụ hai mươi tiểu kiếp, tượng pháp cũng trụ hai mươi tiểu kiếp. Khi ấy muốn tuyên lại nghĩa trên Đức Thế Tôn nói kệ: Này các Tỳ-kheo! Nhất tâm lắng nghe Như lời ta nói Chân thật không khác, Ông Ca-chiên-diên Sẽ dùng các món Vật cúng tốt đẹp Cúng dường chư Phâït, Sau Phật diệt độ Dựng tháp bảy báu Cũng dùng hoa hương Cúng dường xá-lợi. Thân cuối của ông Được trí tuệ Phật Thành Bậc chính Giác Cõi nước thanh tịnh Độ thoát vô lượng Vạn ức chúng sinh Đều được cúng dường Của khắp mười phương. Ánh sáng của Phật Không ai hơn cả Phật này hiệu là Diêm-phù Kim Quang, Bồ-tát, Thanh văn Dứt hết luân hồi, Vô lượng vô số Trang nghiêm cõi đó. Khi ấy Đức Thế Tôn bảo đại chúng: –Ta nói với các ông, ông Mục-kiền-liên sẽ dùng đủ các vật cúng dường, cung kính tôn trọng tám ngàn chư Phật. Sau khi Phật diệt độ, đều dựng tháp miếu cao một ngàn do-tuần, dài rộng bằng nhau năm trăm do-tuần, làm bằng bảy báu: Lưu ly, xà cừ, mã não, trân châu, mai khôi cúng dường tháp Phật bằng các loại hoa, anh lạc, hương xoa, hương bột, hương đốt, dù lọng, tràng phan. Sau đó lại cúng dường hai trăm vạn ức Đức Phật cũng như trước, được thành Phật hiệu là Đa-ma-la-bạt Chiên-đàn Hương, Như Lai, Ứng Cúng, chính Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự, Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Kiếp tên Hỷ mãn, nước tên Ý lạc, cõi nước bằng phẳng, đất bằng pha lê, cây báu trang nghiêm, rải hoa trân châu khắp nơi sạch sẽ, người nào được thấy đều rất hoan hỷ. Trời, người rất đông, Bồ-tát, Thanh văn vô số. Đức Phật ấy sống hai mươi bốn tiểu kiếp, chính pháp trụ hai mươi tiểu kiếp. Khi ấy muốn lặp lại nghĩa trên Thế Tôn nói kệ: Đệ tử của ta Ông Mục-kiền-liên Xả bỏ thân này, Được gặp tám ngàn Hai trăm vạn ức Chư Phật Thế Tôn. Vì cầu Phật đạo Cúng dường cung kính, Các Đức Phật kia Thường tu phạm hạnh, Trong vô lượng kiếp Phụng trì pháp Phật. Chư Phật diệt độ Xây tháp bảy báu Cao rộng bằng vàng Hoa hương kỹ nhạc, Để dâng cúng dường Tháp miếu chư Phật Dần dần đầy đủ Đạo hạnh Bồ-tát. Nơi nước Ý-lạc Mà được thành Phật Hiệu Đa-ma-la Bạt Chiên-đàn Hương. Phật đó sống lâu Hai mươi bốn kiếp, Thường vì trời người Diễn nói đạo Phật. Thanh văn vô số Như cát sông Hằng, Ba minh, sáu thông Có oai đức lớn. Bồ-tát vô lượng Bền lòng tinh tấn Nơi trí tuệ Phật Đều không thoái lui. Sau Phật diệt độ chính pháp sẽ trụ Bốn mươi tiểu kiếp; Tượng pháp cũng vậy. Các đệ tử ta Oai đức đầy đủ Số đó năm trăm, Ta đều thọ ký Ở đời vị lai Đều được thành Phật. Ta cùng các ông Đời trước kết duyên, Hôm nay ta nói Các ông lắng nghe.  <詞 id="83085276">Phẩm 7: Hóa Thành Dụ Phật bảo các Tỳ-kheo: –Cách đây vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ kiếp, không thể nghó bàn, có Đức Phật hiệu là Đại Thông Trí Thắng Như Lai, Ứng Cúng, chính Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Nước ấy tên Hảo thành, kiếp tên Đại tướng. Này các Tỳ-kheo! Đức Phật đó đã diệt độ rất lâu ví như có bao nhiêu đất trong tam thiên đại thiên thế giới, có người lấy tất cả đất đó nghiền nát thành mực, đi qua ngàn cõi nước ở phương Đông, chấm một giọt bằng hạt bụi. Lại đi qua ngàn cõi nước khác chấm một giọt nữa, lần lượt như thế chấm hết số mực đã nghiền. Ý ông nghó sao? Các cõi nước đó nếu thầy toán hoặc đệ tử của thầy toán có thể tính được toàn bộ số đó không? –Bạch Thế Tôn, không thể tính được! Này các Tỳ-kheo! Những cõi nước người đó đã đi qua, hoặc chấm, không chấm đều nghiền nát thành bụi, một hạt bụi là một kiếp. Đức Phật kia đã diệt độ đến nay lâu hơn số bụi trên vô lượng, vô biên, vô số kiếp. Ta dùng năng lực thấy biết của Như Lai xem thử lâu xa đó giống như ngày nay. Khi ấy muốn tuyên lại nghĩa trên, Thế Tôn nói kệ: Ta nhớ đời quá khứ Vô lượng, vô biên kiếp, Có Phật Lưỡng Túc Tôn Hiệu Đại Thông Trí Thắng. Như người dùng sức nghiền Hết tất cả loại đất Trong tam thiên đại thiên Đều dùng làm thành mực, Đi qua ngàn cõi nước Mới chấm một giọt mực. Như thế lần lượt chấm Hết các mực bụi này, Các cõi nước như thế Hoặc chấm, hoặc không chấm Lại nghiền hết thành bụi Một bụi làm một kiếp Kiếp số lâu xa kia Nhiều hơn số bụi này Phật diệt độ đến nay Vô lượng kiếp như thế Trí vô ngại của Phật Biết Phật kia diệt độ Và Thanh văn, Bồ-tát Như nay thấy diệt độ Các Tỳ-kheo nên biết Trí Phật tịnh vi diệu Vô lậu và vô ngại Thấu đạt vô lượng kiếp. Phật bảo các Tỳ-kheo: –Phật Đại Thông Trí Thắng sống lâu năm trăm bốn mươi vạn ức na-do-tha kiếp, chỉ ngồi đạo tràng phá các quân ma, sắp được chính đẳng chính giác mà vẫn chưa chứng đắc được pháp của chư Phật. Cứ như thế ngồi kiết già thân tâm không lay động, trải qua một tiểu kiếp cho đến mười tiểu kiếp, mà chính pháp vẫn chẳng hiện ra. Khi ấy, các vị trời Đao-lợi vì Đức Phật kia, trải tòa Sư tử cao một do-tuần, ở dưới cội Bồ-đề. Đức Phật ngồi tòa này thành Vô thượng chính đẳng chính giác. Khi Phật vừa ngồi tòa, các vị Phạm thiên vương rưới hoa trời khắp trăm do-tuần, gió thơm thổi đến xua tan các hoa héo rồi rưới các hoa mới, mãi hoài không dứt trọn mười tiểu kiếp để cúng dường Phật, cho đến Phật diệt độ thường rưới các hoa này. Các trời Tứ Thiên vương thường hay đánh trống trời để cúng dường chư Phật, còn các vị trời khác cũng trổi kỹ nhạc trời, mãn hết mười tiểu kiếp, đến khi Phật diệt độ đều cũng lại như vậy. Này các Tỳ-kheo! Đức Phật Đại Thông Trí Thắng qua hơn mười tiểu kiếp mới chứng được chính pháp của chư Phật, để thành Vô thượng chính đẳng chính giác. Khi Phật chưa xuất gia có mười sáu người con. Người con cả tên Trí Tích, các người con đó đều có đủ thứ đồ chơi tốt đẹp khác nhau, nghe cha chứng Vô thượng Bồ-đề, đều bỏ các vật quý báu đi đến chỗ Phật. Các người mẹ khóc lóc tiễn đưa. Ông nội là Chuyển luân thánh vương cùng một trăm vị đại thần và một trăm ngàn vạn ức nhân dân đều cùng nhau theo đến đạo tràng, muốn gặp Đức Đại Thông Trí Thắng để cúng dường, cung kính tôn trọng, ngợi khen. Đến nơi, đảnh lễ dưới chân, nhiễu quanh Đức Phật, nhất tâm chắp tay chiêm ngưỡng tôn nhan nói kệ: Thế Tôn oai đức lớn Vì muốn độ chúng sinh, Trong vô lượng ức kiếp Mới chứng được quả Phật. Các nguyện đã đầy đủ Vui thay Đấng Vô thượng! Thế Tôn bậc hiếm có Một lần ngồi mười kiếp, Thân thể và tay chân An tịnh không lay động, Tâm Phật thường lặng lẽ Chưa từng có tán loạn, Được vắng lặng hoàn toàn An trú pháp vô lậu. Đời nay gặp Thế Tôn An ổn thành Phật đạo. Chúng con được lợi ích Vui mừng hoan hỷ lớn, Chúng sinh thường đau khổ Mờ mịt không Đạo sư, Không biết đường dứt khổ Không biết cầu giải thoát, Ngày càng thêm nẻo ác Các chúng trời càng ít, Từ tối vào nơi tối Không nghe được tên Phật, Nay Phật chứng tối thượng Đạo vô lậu an ổn, Chúng con cùng trời, người Vì cầu lợi tối thượng, Cho nên cùng đảnh lễ Quy mạng Đức Thế Tôn. Khi nói kệ tán thán Đức Phật xong, mười sáu vị vương tử cung thỉnh Thế Tôn chuyển pháp luân, đồng thanh cùng thưa: –Bạch Thế Tôn! Thế Tôn nói pháp đem lại sự an ổn, thương yêu và lợi ích cho tất cả trời người, lại nói kệ: Đức Phật không ai bằng Trăm phước tự trang nghiêm, Được trí tuệ vô thượng Vì thế gian nói pháp, Độ thoát cho chúng con Và chúng sinh muôn loài, Hiển bày phân biệt rõ Để được trí tuệ Phật. Nếu chúng con thành Phật Chúng sinh cũng như thế, Phật biết tâm chúng sinh Thường hay nhớ nghó gì, Cũng biết việc chúng làm Lại biết sức trí tuệ, Ưa muốn hay tu phước Nghiệp đã tạo đời trước, Thế Tôn đều biết rõ Nên chuyển pháp Vô thượng. Phật bảo các Tỳ-kheo: –Khi Đức Phật Đại Thông Trí Thắng đắc quả Vô thượng chính đẳng chính giác, năm trăm vạn ức cõi nước chư Phật trong mười phương đều chấn động sáu cách. Những chỗ tối tăm giữa các thế giới, ánh sáng mặt trời mặt trăng không chiếu đến thì cũng đều được sáng rực rỡ, những chúng sinh trong đó đều được thấy nhau, cùng nói: “Ở đây tại sao bỗng sinh ra chúng sinh?” Lại trong các cõi đó cung điện của chư Thiên và Phạm thiên rung động sáu cách, ánh sáng lớn tỏa khắp thế giới, sáng hơn ánh sáng của trời. Bấy giờ, phương Đông ánh sáng cung điện Phạm thiên của năm trăm vạn ức cõi nước, chiếu sáng rực hơn ánh sáng thường ngày. Các vị Phạm thiên suy nghó: “Hiện nay ánh sáng đang phát ra ở cung điện từ xưa chưa từng có, vì nhân duyên nào mà hiện tướng này”. Khi đó các vị Phạm thiên cùng gặp nhau, bàn luận; trong chúng có một vị Đại Phạm thiên tên Cứu Nhất Trí vì chúng Phạm thiên nói kệ: Cung điện của chúng ta Ánh sáng chưa từng có! Đây là nhân duyên gì? Phải nên cùng nhau tìm, Là trời đức lớn sinh, Hay là Phật ra đời, Mà có ánh sáng này Chiếu khắp cả mười phương? Bấy giờ các vị Phạm thiên cùng với cung điện của mình, từ năm trăm vạn ức cõi nước, mỗi vị đều dùng tấm vải đựng các thứ hoa trời cùng đến phương Tây đi theo tướng sáng ấy, gặp Đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai ngồi tòa Sư tử, nơi đạo tràng bên cội Bồ-đề. Hàng Trời, Rồng, Càn-thát-bà, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân… cung kính vây quanh Đức Phật. Thấy mười sáu vị vương tử thỉnh Phật chuyển pháp luân, ngay khi ấy các vị Phạm thiên đầu mặt đảnh lễ Phật, nhiễu quanh trăm ngàn vòng, dùng hoa trời rải cúng dường Phật, hoa rải cao như núi Tu-di để cúng dường cây Bồ-đề của Phật. Cây Bồ-đề cao mười do-tuần, cúng dường hoa xong, mỗi vị đem cung điện dâng lên Đức Phật thưa rằng: –Xin Thế Tôn từ mẫn để chúng con được lợi ích, mà nhận cung điện dâng cúng này. Khi ấy ở trước Đức Phật, các vị Phạm thiên vương nói kệ: Thế Tôn rất hiếm có Khó có thể gặp được, Đủ vô lượng công đức Cứu giúp khắp tất cả. Bậc thầy của trời người Thương yêu hết muôn loài, Trong tất cả mười phương Hoàn toàn được lợi ích. Chúng con đã đến từ Năm trăm vạn ức cõi, Bỏ hỷ lạc thiền định Để cúng dường chư Phật. Nhờ phước của chúng con Được cung điện tốt đẹp, Nay đem dâng Thế Tôn Nguyện xin được nạp thọ. Nói kệ xong, các vị Phạm thiên vương lại nói: –Nguyện xin Thế Tôn chuyển pháp luân độ thoát chúng sinh, mở đường Niết-bàn. Khi ấy, các vị Phạm thiên vương đồng thanh nói kệ: Đức Phật Lưỡng Túc Tôn Nguyện xin diễn nói pháp, Dùng sức Từ bi lớn Giải thoát khổ chúng sinh. Đức Đại Thông Trí Thắng yên lặng chấp nhận. Lại nữa, các Tỳ-kheo! Ở phương Đông nam, các vị Phạm thiên vương từ năm trăm vạn ức cõi nước, đều thấy cung điện của mình ánh sáng rực rỡ từ xưa chưa từng có, rất vui mừng hớn hở, cùng gặp nhau bàn việc này. Trong chúng có vị Phạm thiên vương tên Đại Bi vì các Phạm thiên nói kệ: Đây là nhân duyên gì? Mà hiện ra tướng này, Cung điện của chúng ta Ánh sáng chưa từng có Là trời đức lớn sinh Hay là Phật ra đời? Chưa từng thấy tướng này Nên cùng nhau đi tìm, Qua ngàn vạn ức cõi Lần theo ánh sáng này Phần nhiều Phật ra đời Giải thoát khổ chúng sinh. Bấy giờ năm trăm vạn ức vị Phạm thiên vương cùng với cung điện, đều lấy tấm vải đựng các thứ hoa trời, cùng đến phương Tây bắc theo tướng sáng đó, gặp Đức Phật Đại Thông Trí Thắng ngồi tòa Sư tử, nơi đạo tràng bên cội Bồ-đề, hàng Trời, Rồng, Càn-thát-bà, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân… cung kính vây quanh Đức Phật. Thấy mười sáu vị vương tử thỉnh Phật chuyển pháp luân, ngay khi ấy các vị Phạm thiên vương đảnh lễ Phật nhiễu quanh trăm ngàn vòng, dùng hoa trời rải cúng dường Phật, hoa rải cao như núi Tu-di để cúng dường cây Bồ-đề của Phật. Dâng cúng hoa xong mỗi vị đem cung điện dâng lên Đức Phật thưa: –Xin Thế Tôn từ mẫn để chúng con được lợi ích mà nhận cung điện dâng cúng này. Khi ấy ở trước Đức Phật các vị Phạm thiên vương đồng thanh nói kệ: Thánh chúa vua trong trời Tiếng Ca-lăng-tần-già Thương yêu khắp chúng sinh. Chúng con cung kính lễ Thế Tôn rất hiếm có, Lâu xa hiện một lần, Một trăm tám mươi kiếp Trải qua không có Phật. Ba đường dữ đầy dẫy Chúng chư Thiên giảm dần. Nay Phật hiện ra đời Làm mắt sáng chúng sinh, Chỗ thế gian nương tựa Cứu vớt hết tất cả. Là cha của muôn loài Thương yêu làm lợi ích, Nhờ phước lành đời trước Nay được gặp Thế Tôn. Sau khi nói kệ ca tụng Phật xong, các vị Phạm thiên vương cùng nhau thưa: –Xin Thế Tôn thương chúng con, chuyển pháp luân hóa độ chúng sinh. Khi ấy các vị Phạm thiên vương nhất tâm đồng thanh nói kệ: Như Lai chuyển pháp luân Chỉ bày các pháp tướng Cứu tất cả chúng sinh Hết khổ được vui lớn. Chúng sinh nghe pháp này Chứng đạo hoặc sinh Thiên, Các đường ác giảm dần Cõi thiện được tăng thêm. Bấy giờ, Đức Phật Đại Thông Trí Thắng yên lặng nhận lời. Này các Tỳ-kheo! Ở phương Nam, các Đại Phạm thiên từ năm trăm vạn ức cõi nước đều thấy cung điện của mình, ánh sáng rực rỡ xưa chưa từng có, vui mừng hớn hở, cùng gặp nhau bàn việc này. Do nhân duyên gì cung điện chúng ta có ánh sáng ấy. Bấy giờ, trong chúng có Đại Phạm thiên vương tên Diệu Pháp vì các Phạm chúng nói kệ: Cung điện của chúng ta Ánh sáng rất rực rỡ, Đây phải là nguyên nhân Cần tìm hiểu tướng đó; Trải qua trăm ngàn kiếp Chưa hề thấy tướng này Là trời đức lớn sinh Hay là Phật ra đời? Bấy giờ, năm trăm vạn ức vị Phạm thiên vương cùng với cung điện đều lấy tấm vải đựng các thứ hoa trời cùng đến phương Bắc theo tướng sáng đó, gặp Đức Phật Đại Thông Trí Thắng ngồi tòa Sư tử nơi đạo tràng bên cội Bồ-đề. Hàng Trời, Rồng, Càn-thát-bà, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân… cung kính vây quanh Phật. Thấy mười sáu vị vương tử thỉnh Phật chuyển pháp luân. Ngay khi ấy, các vị Phạm thiên vương đảnh lễ Phật, nhiễu quanh trăm ngàn vòng, dùng hoa trời rải cúng dường Phật. Hoa rải cao như núi Tu-di để cúng dường cây Bồ-đề của Phật, dâng cúng hoa xong, mỗi vị đem cung điện dâng lên Đức Phật thưa: –Xin Thế Tôn từ mẫn để chúng con được lợi ích mà nhận cung điện dâng cúng này. Khi ấy ở trước Đức Phật, các vị Phạm thiên đồng thanh nói kệ: Thế Tôn rất khó gặp Bậc phá tan phiền não Qua trăm ba mươi kiếp Nay mới thấy một lần, Hàng chúng sinh đói khát Được mưa pháp đầy đủ. Từ xưa chưa từng có, Đấng trí tuệ vô lượng Như hoa Ưu-đàm-bát Ngày nay mới gặp được. Các cung điện chúng con Nhờ ánh sáng nên đẹp, Thế Tôn, đại Từ bi Nguyện xin được nạp thọ. Bấy giờ các Phạm Thiên vương khen ngợi Phật xong, cùng nhau thưa: –Xin Thế Tôn chuyển bánh xe pháp, khiến cho tất cả Trời, Ma vương, Phạm thiên, Sa-môn, Bà-la-môn trong thế gian đều được an vui giải thoát. Các vị Phạm thiên vương nhất tâm đồng thanh nói kệ: Cúi xin Bậc Thiên Nhân Chuyển pháp luân Vô thượng Đánh vang trống pháp lớn, Và thổi kèn pháp lớn, Rưới mưa pháp khắp nơi, Cứu vô lượng chúng sinh, Chúng con xin thỉnh cầu Diễn nói pháp sâu xa. Khi ấy, Đức Phật Đại Thông Trí Thắng yên lặng nhận lời, phương Tây nam và phương dưới cũng vậy. Bấy giờ, ở phương trên, các vị Phạm thiên vương từ năm trăm vạn ức cõi nước đều thấy cung điện của mình, ánh sáng rực rỡ xưa chưa từng có, rất vui mừng hớn hở cùng gặp nhau bàn việc này. Do nhân duyên gì, cung điện của ta có ánh sáng này, trong chúng có vị Phạm thiên vương tên Thi-khí vì Phạm chúng nói kệ: Nay nhờ duyên nhân gì Cung điện của chúng ta Ánh sáng chiếu rực rỡ Huy hoàng rất khác thường? Tường tốt đẹp như thế Xưa chưa từng nghe thấy, Là trời đức lớn sinh Hay là Phật ra đời? Bấy giờ, năm trăm vạn ức vị Phạm thiên vương cùng với cung điện đều lấy tấm vải đựng các thứ hoa trời cùng đến phương dưới theo tướng sáng đó, gặp Đức Phật Đại Thông Trí Thắng ngồi tòa Sư tử, nơi đạo tràng bên cội Bồ-đề, hàng Trời, Rồng, Càn-thát-bà, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân… cung kính vây quanh Phật, thấy mười sáu vị vương tử thỉnh Phật chuyển pháp luân, ngay khi ấy các vị Phạm thiên vương đảnh lễ Đức Phật, đi quanh trăm ngàn vòng, dùng hoa trời rải cúng dường Phật, hoa rải cao như núi Tu-di để cúng dường cây Bồ-đề của Phật, dâng cúng hoa xong, mỗi vị đem cung điện dâng lên Đức Phật thưa: –Xin Thế Tôn từ mẫn để chúng con được lợi ích mà nhận cung điện này. Khi ấy ở trước Đức Phật, các vị Phạm thiên vương đồng thanh nói kệ: Lành thay, thấy chư Phật Đấng Thánh Tôn cứu đời, Vớt chúng sinh đau khổ Thoát khỏi ngục tam giới. Trí sáng Thầy trời người Thương yêu hết muôn loài, Thường mở cửa bất tử Cứu độ khắp chúng sinh. Trải qua vô lượng kiếp Thế gian không có Phật, Thế Tôn chưa xuất hiện Mười phương thường tối tăm, Ba đường ác phát triển A-tu-la phồn thịnh Chúng chư Thiên giảm dần, Đường ác nhận thêm nhiều. Không được nghe Phật pháp Nên làm việc bất thiện. Sắc lực và trí tuệ Tất cả đều giảm sút, Do nhân duyên tội nghiệp Mất an lạc hạnh phúc, Sống theo pháp tà kiến Chẳng rõ pháp chính kiến Không nhờ Phật giáo hóa Sẽ đọa vào đường ác. Phật là mắt của đời Lâu xa mới xuất hiện, Thương yêu các chúng sinh Nên hiện ra ở đời, Siêu việt thành chính giác Chúng con rất vui mừng, Và tất cả chúng khác Hân hoan chưa từng có. Cung điện của chúng con Nhờ hào quang nên đẹp, Nay đem dâng Thế Tôn Cúi xin Ngài nạp thọ. Nguyện đem công đức này Hướng về khắp tất cả, Chúng con và chúng sinh Đều trọn thành Phật đạo. Khi nói kệ tán thán Đức Phật xong, năm trăm vạn ức vị Phạm thiên vương cùng bạch Phật: –Cúi xin Thế Tôn chuyển pháp luân cho chúng con được an ổn, giải thoát. Khi ấy Phạm thiên vương, nhất tâm đồng thanh nói kệ: Thế Tôn chuyển pháp luân Đánh trống pháp cam lồ, Độ chúng sinh khổ não Khai mở đường Niết-bàn. Cúi xin nhận lời con Dùng âm thanh vi diệu, Thương yêu mà diễn giảng Pháp tu vô lượng kiếp. Bấy giờ, Đức Phật Đại Thông Trí Thắng nhận lời thỉnh của các vị Phạm thiên vương khắp mười phương và mười sáu vị vương tử. Liền chuyển bánh xe pháp bằng ba cách với mười hai phương thức: Đây là Khổ, đây là Khổ tập, đây là Khổ diệt, đây là Con đường dẫn đến sự khổ diệt… mà hàng Sa-môn, Bà-la-môn hoặc chư Thiên, Ma vương, Phạm vương và những ai còn ở trong thế gian đều không chuyển được. Lại được nói rộng ra thành mười hai nhân duyên: Vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sinh, sinh duyên lão tử, ưu bi khổ não. Vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì lục nhập diệt, lục nhập diệt thì xúc diệt, xúc diệt thì thọ diệt, thọ diệt thì ái diệt, ái diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sinh diệt, sinh diệt thì lão tử, ưu bi khổ não diệt. Khi Phật ở giữa đại chúng trời, người nói pháp này thì sáu trăm vạn ức triệu người, do không chấp vào các pháp nên đối với các lậu tâm, được giải thoát. Bốn thiền, bốn định, ba minh, tám giải thoát, những pháp thâm sâu như vậy họ đều có đủ. Khi nói pháp lần thứ hai, thứ ba, thứ tư, có ngàn vạn ức triệu hằng ha sa chúng sinh, cũng do không chấp vào các pháp, nên đối với các lậu, tâm được giải thoát. Từ đây về sau, chúng Thanh văn nhiều vô lượng, vô biên không thể tính hết được. Bấy giờ mười sáu vương tử đều là đồng tử xuất gia làm Sa-di các căn thông minh, trí tuệ sáng suốt, đã từng cúng dường trăm ngàn vạn ức chư Phật thực hành phạm hạnh, cầu đạo Vô thượng Bồ-đề, cùng nhau bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Vô lượng ngàn vạn ức Đại đức Thanh văn này đã thành thục cả rồi. Thế Tôn cũng nói pháp Vô thượng chính đẳng chính giác cho chúng con, chúng con nghe rồi cùng nhau tu học. Bạch Thế Tôn! Tâm trí của chúng con muốn được tri kiến của Như Lai, tâm chí ấy xin Phật chứng biết cho. Bấy giờ trong số những người đi theo Chuyển luân thánh vương có tám vạn ức người, thấy mười sáu vị vương tử xuất gia cũng cầu xin xuất gia, vua chấp nhận. Đức Phật Đại Thông Trí Thắng nhận lời thỉnh cầu của các vị Sa-di, trải qua hai vạn kiếp ở trong bốn chúng nói kinh Đại thừa tên Diệu Pháp Liên Hoa giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm. Mười sáu vị Sa-di vì Tuệ giác vô thượng đều cùng tiếp nhận, thọ trì, đọc tụng thông suốt. Khi nói kinh này, mười sáu vị Sa-di và Bồ-tát tin tưởng tiếp nhận, trong chúng Thanh văn cũng có vị tin hiểu nhưng có ngàn vạn ức người khác đều sinh tâm nghi ngờ. Đức Phật thuyết kinh suốt tám ngàn kiếp chưa bao giờ dừng nghỉ. Nói kinh này xong, Đức Phật vào tịnh thất, an trú trong thiền định đến tám vạn bốn ngàn kiếp. Khi ấy mười sáu vị Sa-di Bồ-tát biết Đức Phật vào thất thiền định, mỗi vị đều lên pháp tòa cùng trong thời gian tám vạn bốn ngàn kiếp ấy, giảng thuyết rõ ràng kinh Diệu Pháp cho bốn bộ chúng. Mỗi vị đều hóa độ sáu trăm vạn ức triệu hằng sa chúng sinh, trình bày thuyết phục, khuyến khích, tán thưởng, làm cho ai cũng phát tâm Tuệ giác vô thượng. Đã qua tám vạn bốn ngàn kiếp, Đức Đại Thông Trí Thắng xuất định đi đến an tọa nơi pháp tòa tuyên bố với đại chúng: –Mười sáu vị Sa-di Bồ-tát này thật là hiếm có, các căn thông minh trí tuệ thông suốt, đã từng cúng dường vô lượng ngàn vạn ức chư Phật, các vị Sa-di thường thực hành phạm hạnh, lãnh thọ trí tuệ của Phật, chỉ dạy chúng sinh vào tuệ giác Phật. Các ông hãy luôn gần gũi cúng dường mười sáu vị ấy. Vì sao? Vì bất cứ Thanh văn, Duyên giác hay Bồ-tát, người nào tin tưởng kinh pháp do mười sáu vị Sa-di đó tuyên thuyết tiếp nhận giữ gìn không hủy bỏ, thì những người ấy sẽ được trí tuệ của Như Lai Vô thượng chính đẳng chính giác. Phật bảo các Tỳ-kheo: –Mười sáu vị Bồ-tát thường thích nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa này. Mỗi vị đã giáo hóa sáu trăm vạn ức triệu hằng hà sa chúng sinh, đời đời cùng sinh ra với Bồ-tát, được nghe pháp và đều tin hiểu. Do nhân duyên này, số chúng sinh ấy được gặp bốn vạn ức Đức Phật Thế Tôn đến nay vẫn chưa chấm dứt. Này các Tỳ-kheo! Mười sáu vị Sa-di đệ tử của Đức Phật kia đều chứng Vô thượng Bồ-đề hiện đang nói pháp ở khắp mười phương, có vô lượng trăm ngàn vạn ức Bồ-tát Thanh văn để làm quyến thuộc. Hai vị thành Phật ở phương Đông: Vị thứ nhất tên A-súc ở nước Hoan hỷ, vị thứ hai tên Tu-di Đảnh. Hai vị thành Phật ở phương Đông nam: vị thứ nhất tên Hư Không Trụ, vị thứ hai tên Thường Diệt. Hai vị thành Phật ở phương Tây nam: Vị thứ nhất tên Đế Tướng, vị thứ hai tên Phạm Tướng. Hai vị thành Phật ở phương Tây: Vị thứ nhất tên là A-di-đà, vị thứ hai tên là Độ Nhất Thiết Thế Gian Khổ Não. Hai vị thành Phật ở phương Tây bắc: Vị thứ nhất tên Đa-ma-la-bạt Chiên-đàn Hương Thần Thông, vị thứ hai tên Tu-di Tướng. Hai vị thành Phật ở phương Bắc: Vị thứ nhất Vân Tự Tại, vị thứ hai tên Vân Tự Tại Vương. Ở phương Đông bắc, một vị thành Phật tên Hoại Nhất Thiết Thế Gian Bố Úy; vị Phật thứ mười sáu ở cõi Ta-bà chính là ta, Thích-ca Mâu-ni thành đạo Vô thượng Bồ-đề. Này các Tỳ-kheo! Khi chúng ta còn làm Sa-di, mỗi vị giáo hóa vô lượng vạn ức hằng hà sa chúng sinh theo ta nghe pháp để chứng đạo Vô thượng chính đẳng chính giác. Cho đến nay những người vẫn còn địa vị Thanh văn. Ta thường giáo hóa đạo Vô thượng Bồ-đề cho họ, khiến cho những người ấy dùng chính pháp này dần dần đi vào Phật đạo. Vì sao? Vì trí tuệ của Như Lai khó tin khó hiểu, vô lượng hằng hà sa chúng sinh đã được giáo hóa lúc đó chính là Tỳ-kheo các ông và đệ tử Thanh văn. Sau khi ta diệt độ, lại có đêï tử không nghe kinh này, không hay không biết thực hành hạnh của Bồ-tát, từ nơi thành quả của mình mà tưởng đã diệt độ, sẽ nhập Niết-bàn. Ta ở nước khác làm Phật lại có tên khác. Những người kia tuy sinh ý tưởng diệt độ sẽ nhập Niết-bàn mà ở cõi kia lại cầu trí tuệ của Phật, được nghe kinh này, chỉ do Phật thừa mà được diệt độ không có thừa nào khác trừ khi Như Lai phương tiện thuyết pháp. Này các Tỳ-kheo! Đức Phật tự biết thời diệt độ sắp đến, chúng tăng thanh tịnh, tin hiểu chắc chắn thấu triệt pháp không sâu vào thiền định. Như Lai triệu tập Bồ-tát và Thanh văn để nói kinh này, Tỳ-kheo nên biết thế gian không có Nhị thừa mà được diệt độ, chỉ có một Phật thừa diệt độ thôi. Như Lai dùng phương tiện đi sâu vào căn tính của chúng sinh, biết được tâm ý của họ ưa thích pháp nhỏ, đắm sâu năm dục mà nói Niết-bàn cho họ. Những người đó nếu nghe được liền tin nhận. Ví như đường nguy hiểm có nhiều nạn dữ dài năm trăm do-tuần, chốn hoang vắng ghê rợn, nhiều người muốn được qua con đường này đến chỗ châu báu, có một vị hướng dẫn thông minh, sáng suốt, lại biết rõ chỗ thông nghẽn của con đường hiểm, muốn dẫn đoàn người đi qua chỗ hiểm này. Giữa đường mọi người chán nản muốn lui về, họ thưa với người hướng dẫn: –Chúng tôi quá mệt lại thêm ghê sợ, không thể đi tiếp được nữa, đường trước còn xa chúng tôi muốn lui về. Vị hướng dẫn có lắm phương tiện: “Những người này thật đáng thương, sao đành bỏ châu báu mà muốn lui về.” Nghó rồi liền dùng sức phương tiện hóa làm thành quách cao ba trăm do-tuần ở giữa con đường hiểm, bảo mọi người: –Các người đừng sợ, chớ lui về ở trong thành lớn này có thể nghỉ ngơi, tùy ý sử dụng vào trong ấy sẽ được an ổn. Nếu các người muốn đến chỗ châu báu phía trước thì cũng có thể đi được. Khi đó, đoàn người mỏi mệt vô cùng vui mừng, khen ngợi việc chưa từng có. Chúng ta thoát khỏi con đường nguy hiểm, vui mừng được an ổn. Những người này vào trong hóa thành liền khởi tưởng được vượt qua, đã an ổn hoàn toàn. Vị hướng dẫn khi biết mọi người đã nghỉ ngơi hết mỏi mệt, liền hủy bỏ thành do biến hóa, bảo mọi người: –Chỗ châu báu gần đây, các người hãy đi đến, thành quách kia do ta biến hóa ra để nghỉ ngơi mà thôi. Này các Tỳ-kheo! Như Lai cũng như vậy, làm Bậc Đạo Sư cho các ông, biết rõ các đường dữ, sống chết, phiền não, dài xa, nguy hiểm phải rời bỏ, nên vượt qua. Các chúng sinh chỉ nghe một Phật thừa thì không muốn gặp Phật, không muốn gần gũi liền nghó: “Đường giác ngộ xa quá, phải chịu khổ lâu ngày mới có thể đạt được.” Phật biết tâm chúng sinh, khiếp nhược thấp kém, nên dùng sức phương tiện nói Niết-bàn thứ hai ở giữa đường để nghỉ ngơi. Khi chúng sinh trụ được vào địa vị thứ hai này thì Như Lai lại nói: “Việc làm của các ông chưa hoàn tất, quả vị của các ông gần với trí tuệ của Phật. Phải quán sát suy lường Niết-bàn đã chứng chẳng phải chân thật, chỉ là sức phương tiện của Như Lai, ở nơi một Phật thừa nói rõ thành ba.” Như vị hướng dẫn hóa làm thành quách để nghỉ ngơi, đã biết nghỉ ngơi rồi liền bảo: “Chỗ châu báu gần đây, thành quách không thật do ta biến hóa ra.” Lúc đó, muốn tuyên lại nghĩa trên Đức Thế Tôn nói kệ: Đại Thông Trí Thắng Phật Mười kiếp ngồi đạo tràng, Phật pháp chưa chứng đắc Không được thành Phật đạo. Các Trời, Thần, Long vương Cùng chứng A-tu-la Thường mưa xuống hoa trời Để cúng dường Đức Phật. Chư Thiên đánh trống trời Trổi các loại âm nhạc, Gió thơm thổi hoa héo Lại mưa hoa tốt mới, Hơn mười tiểu kiếp rồi Mới được thành Phật đạo. Chư Thiên và người đời Tâm đều được hân hoan, Mười sáu người con Phật Đều cùng với quyến thuộc Ngàn vạn ức vây quanh Cùng nhau đến chỗ Phật. Đầu mặt lễ chân Phật Thỉnh Phật chuyển pháp luân, Thánh Sư tử mưa pháp Lợi con và tất cả. Thế Tôn rất khó gặp Lâu xa hiện một lần, Vì giác ngộ quần sinh Làm chấn động tất cả. Các thế giới phương Đông Năm trăm vạn ức nước, Phạm cung được sáng chói Từ xưa chưa từng có. Phạm thiên thấy tướng này Tìm đến chỗ của Phật, Rải hoa để cúng dường Và dâng lên cung điện Thỉnh Phật chuyển pháp luân. Dùng kệ tán thán Phật Phật biết chưa đến giờ, Ngồi im lặng chấp nhận. Ba phương cùng bốn phía Trên dưới cũng như vậy, Rải hoa dâng cung điện Thỉnh Phật chuyển pháp luân. Thế Tôn thật khó gặp Với Từ bi nguyện lớn, Rộng mở cửa cam lồ Chuyển pháp luân vô thượng. Thế Tôn trí vô lượng Nhận lời của mọi người, Mà nói đủ các pháp: Bốn đế, mười hai duyên Vô minh đến già chết Đều từ duyên mà có, Những hoạn nạn như vậy Các ông phải nên biết. Lúc tuyên nói pháp này Sáu trăm vạn ức số Dứt sạch hết khổ não Đều thành A-la-hán. Thời thuyết pháp thứ hai, Hàng vạn hằng sa chúng Không chấp vào các pháp Đều được A-la-hán. Sau đó chứng đắc đạo Số nhiều không thể lường, Tính toán vạn ức kiếp Cũng không thể kể hết. Lúc mười sáu vương tử Xuất gia làm Sa-di, Đều cùng thỉnh Phật kia Diễn thuyết pháp Đại thừa. Chúng con và quyến thuộc Đều sẽ thành Phật đạo, Nguyện được như Thế Tôn Tuệ nhãn sạch thứ nhất. Phật biết lòng đồng tử Việc làm của đời trước, Dùng vô lượng nhân duyên Đầy đủ các thí dụ, Nói sáu Ba-la-mật Và các việc thần thông, Phân biệt pháp chân thật. Việc làm của Bồ-tát Thuyết giảng kinh Pháp Hoa. Nói kệ hằng hà sa Phật kia nói kinh rồi, Vào tịnh thất nhập định Nhất tâm ngồi một chỗ, Tám vạn bốn ngàn kiếp Các vị Sa-di này Biết Phật chưa xuất định, Vì vô lượng ức chúng Nói trí Phật vô thượng, Mỗi lần ngồi pháp tòa Diễn thuyết kinh Đại thừa, Sau khi Phật nhập định Tuyên dương giảng giáo pháp, Mỗi mỗi vị Sa-di Đã độ các chúng sinh, Có sáu trăm vạn ức Hằng hà sa các chúng. Sau khi Phật diệt độ Các người nghe pháp đó, Ở khắp nơi cõi Phật Thường cùng sinh với Thầy. Mười sáu Sa-di đó Đầy đủ hạnh Phật đạo, Nay hiện ở mười phương Đều đã thành chính giác. Bấy giờ người nghe pháp Ở nơi chỗ Đức Phật, Có người trụ Thanh văn Dần dạy thành Phật đạo. Ta ở số mười sáu Từng vì các ông nói, Cho nên dùng phương tiện Dần vào nơi tuệ Phật. Do nhân duyên xưa kia Nên nay nói Pháp Hoa, Khiến được vào Phật đạo Cẩn thận chớ kinh sợ. Ví như đường hiểm dữ Xa vắng nhiều thú dữ, Lại không có cỏ nước Chốn mọi người lo sợ, Vô số ngàn vạn chúng Muốn qua đường hiểm này, Đường đó rất hoang vắng Dài năm trăm do-tuần. Có một người hướng dẫn Biết nhiều có trí tuệ Sáng suốt lòng quyết định, Nơi hiểm vượt các nạn Mọi người đều mệt mỏi Nói với người hướng dẫn: Chúng tôi nay mệt mỏi Nơi đây muốn trở về. Người hướng dẫn nghó rằng: Những người này đáng thương Tại sao muốn trở về Bỏ mất trân bảo lớn? Liền nghó đến phương tiện Thị hiện sức thần thông Hóa làm thành quách lớn, Nhà cửa rất sang trọng Có vườn cây bao quanh, Suối chảy và hồ tắm Cửa lớn lầu gác cao, Đầy đủ các nam nữ Biến hóa thế đó rồi An ủi chúng chớ sợ: Các người vào thành này Tùy ý được an lạc. Mọi người vào thành rồi Tâm được hoan hỷ lớn, Đều sinh tưởng an ổn Tự cho được thoát rồi. Người dẫn đường bảo rằng: Biết mọi người đã nghỉ Các ông nên đi nữa Đây là hóa thành thôi Thấy các người mệt mỏi Giữa đường muốn lui về Cho nên dùng phương tiện Quyền biến hóa thành này. Các người hãy tinh tấn Sẽ cũng đến bảo sở, Ta cũng lại như vậy Đạo Sư của tất cả Thấy các người cầu đạo, Giữa đường mà lùi bỏ Không thể vượt sinh tử Các đường hiểm, phiền não, Cho nên dùng phương tiện Vì nghó nói Niết-bàn Nói các người diệt khổ Chỗ làm đều đã xong, Đã biết đến Niết-bàn Đều đắc A-la-hán Rồi mới họp đại chúng Phân biệt nói ba thừa, Chỉ có một Phật thừa Chỗ nghỉ nên nói hai, Nay vì ông nói thật Ông đắc chưa phải diệt, Vì Nhất thiết trí Phật Nên dũng mãnh tinh tấn Chứng được trí Nhất thiết, Mười lực các Phật pháp, Ba mươi hai tướng tốt Mới là chân thật diệt. Chư Phật là Đạo Sư Vì nghỉ nói Niết-bàn, Đã biết nghỉ ngơi rồi Dần vào nơi tuệ Phật. KINH THIÊM PHẨM DIỆU PHÁP LIÊN HOA <卷 id="83085277">QUYỂN 4 <詞 id="83085278">Phẩm 8: Thọ Ký năm trăm đệ tử Bấy giờ Tôn giả Phú-lâu-na Di-đa-la-ni Tử được nghe trí tuệ phương tiện tùy nghi nói pháp của Đức Thế Tôn, lại nghe Phật thọ ký cho các đại đệ tử thành Vô thượng chính đẳng chính giác, nghe những việc nhân duyên đời trước, nghe chư Phật có sức thần thông, tự tại lớn nên tâm vui mừng thanh tịnh chưa từng có, liền từ chỗ ngồi đứng dậy đến trước Phật, đầu mặt lạy sát chân rồi đứng qua một bên chăm chú chiêm ngưỡng tôn nhan Đức Phật suy nghó: “Thế Tôn thật kỳ diệu, việc làm hiếm có, thuận theo bao nhiêu chủng tính của thế gian, dùng trí tuệ phương tiện để thuyết pháp cứu vớt chúng sinh ra khỏi tham đắm. Công dức của Phật chúng con không thể dùng lời nói để diễn tả được, chỉ có Đức Thế Tôn mới biết chí nguyện trong thâm tâm của chúng con.” Phật bảo các Tỳ-kheo: –Các ông có thấy Tôn giả Phú-lâu-na không? Ta thường khen Tôn giả là bậc nhất trong hạng người thuyết pháp, đầy đủ các công đức, siêng năng, cần mẫn hộ trì giúp thêm việc tuyên dương chính pháp của ta, có năng lực chỉ dạy, giáo hóa làm an vui cho bốn chúng, giải thích trọn vẹn chính pháp của Phật đem lại nhiều lợi ích cho những người đồng phạm hạnh. Ngoài Đức Như Lai ra không ai có thể biết được tài biện luận của ông ấy. Các ông chớ cho rằng Phú-lâu-na chỉ tuyên dương chính pháp của ta, mà ở nơi chín mươi ức Đức Phật quá khứ, trong những vị thuyết pháp thời ấy, Tôn giả cũng là người thuyết pháp bậc nhất, lại là vị thông suốt rõ ràng về pháp không của chư Phật đã nói, được bốn trí vô ngại thường hay nói pháp thanh tịnh, chính xác không có nghi lầm, đầy đủ sức thần thông của Bồ-tát, tùy theo tuổi thọ mà thực hành phạm hạnh. Người ở thời Đức Phật kia đều cho rằng Tôn giả thật là Thanh văn, nhưng Phú-lâu-na dùng phương tiện này làm lợi ích cho vô lượng trăm ngàn chúng sinh, hóa độ vô số người làm cho họ đứng trong Tuệ giác vô thượng chính đẳng chính giác. Ông vì muốn nghiêm tịnh cõi Phật nên thường làm Phật sự giáo hóa chúng sinh. Này các Tỳ-kheo! Thời kỳ bảy Đức Phật, Phú-lâu-na cũng là bậc nhất trong những người thuyết pháp. Nay Hiền giả cũng đứng đầu trong những người thuyết pháp của ta. Trong hiền kiếp đương lai, Hiền giả cũng là người như vậy, đều hộ trì tuyên dương chính pháp của Phật. Trong đời vị lai đều hộ trì việc tuyên dương chính pháp của vô lượng, vô biên Đức Phật, giáo hóa làm lợi ích cho vô số chúng sinh, làm cho họ đứng trong Tuệ giác vô thượng chính đẳng chính giác, để làm cõi Phật thanh tịnh nên thường siêng năng giáo hóa chúng sinh dần dần đầy đủ đạo hạnh Bồ-tát. Qua vô lượng, vô số kiếp, ở trong cõi này thành đạo Vô thượng chính đẳng chính giác hiệu là Pháp Minh Như Lai, Ứng Cúng chính Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự, Trượng Phu, Thiên Nhân Sư Phật, Thế Tôn. Đức Phật ấy lấy hằng hà sa số tam thiên đại thiên thế giới làm thành cõi Phật, đất bằng bảy báu bằng phẳng như bàn tay, không có núi gò, khe, suối, rãnh, hang, lầu đài bằng bảy báu đầy trong cõi ấy. Cung điện của chư Thiên gần với hư không, người trời giao tiếp hai bên đều thấy được nhau không có đường ác, cũng không có người nữ, tất cả chúng sinh đều do hóa sinh, không có dâm dục, được thần thông lớn, thân phát ra ánh sáng, bay đi tự tại, tâm trí vững chắc, trí tuệ tinh tấn, tất cả thân sắc vàng ba mươi hai tướng để trang nghiêm. Chúng sinh trong nước đó thường dùng hai loại thức ăn: Một là Pháp hỷ thực, hai là Thiền duyệt thực. Có vô lượng, vô số ngàn vạn ức chúng Bồ-tát được thần thông lớn và bốn trí vô ngại, có khả năng hoàn hảo để giáo hóa các loại chúng sinh. Chúng Thanh văn trong cõi ấy không thể tính đếm được, đều đạt đầy đủ sáu thông, ba minh, tám giải thoát, cõi Phật kia thành tựu vô lượng công đức trang nghiêm như vậy, kiếp tên Bảo minh, nước tên Thiện tịnh, Phật kia sống lâu vô lượng, vô số kiếp, chính pháp trụ ở đời rất lâu. Sau khi Phật diệt độ, dựng tháp bảy báu khắp cả nước ấy. Bấy giờ muốn lặp lại nghĩa trên Đức Thế Tôn nói kệ: Các Tỳ-kheo lắng nghe! Đạo của Phật tử làm Học đủ các phương tiện Không thể nghó bàn được. Biết chúng ưa pháp nhỏ Mà sợ nơi trí lớn Cho nên các Bồ-tát Làm Thanh văn, Duyên giác, Dùng vô số phương tiện Giáo hóa cứu muôn loài Tự nói là Thanh văn Cách Phật đạo rất xa. Độ thoát vô lượng chúng Hoàn toàn được thành tựu Tuy biếng nhác thích nhỏ Nhưng dần sẽ thành Phật. Trong ẩn hạnh Bồ-tát Ngoài hiện tướng Thanh văn Ít muốn chán sinh tử Tự làm tịnh cõi Phật. Chỉ bày có ba độc Lại hiện tướng tà kiến Đệ tử ta như vậy Phương tiện độ chúng sinh. Nếu ta nói đầy đủ Các sự việc hiện hóa Chúng sinh nếu có nghe Liền sinh tâm nghi ngờ. Hiền giả Phú-lâu-na Xưa ở ngàn ức Phật Siêng tu tập đạo hạnh Hộ trì diễn chính pháp. Cầu trí Tuệ vô thượng Mà ở chỗ chư Phật Đứng đầu các đệ tử Học rộng có trí tuệ. Nói pháp không sợ sệt Hay làm chúng vui mừng Chưa từng có mệt mỏi Để giúp làm Phật sự. Đạt được thần thông lớn Đủ bốn trí vô ngại Biết căn tính mọi người Thường nói pháp thanh tịnh. Diễn xướng nghĩa như vậy Giáo hóa ngàn ức chúng An trú pháp Đại thừa Tự thanh tịnh cõi Phật. Đời vị lai cúng dường Vô lượng, vô số Phật Hỗ trợ thuyết chính pháp Cũng làm tịnh cõi Phật. Thường dùng các phương tiện Nói pháp không sợ hãi Độ chúng không thể lường Đều thành Nhất thiết trí. Cúng dường các Như Lai Giữ gìn tạng pháp báu Sau đó được thành Phật Hiệu gọi là Pháp Minh. Nước đó tên Thiện tịnh Do bảy báu làm thành Kiếp tên là Bảo minh Chúng Bồ-tát rất nhiều. Số lượng không thể lường Đều được thần thông lớn Sức oai đức đầy đủ Khắp đầy cả nước đó. Thanh văn cũng vô số Ba minh, tám giải thoát Được bốn trí vô ngại Các bậc này làm Tăng. Chúng sinh trong cõi đó Dâm dục đều đã đoạn Chỉ do biến hóa sinh Thân đầy đủ tướng tốt. Pháp hỷ làm thức ăn Không tưởng món ăn khác Không có các người nữ Đường ác dữ cũng không. Tỳ-kheo Phú-lâu-na Khi công đức viên mãn Sẽ được tịnh độ này Chúng Thánh hiền rất đông. Vô lượng việc như thế Ta nay chỉ lược nói. Bấy giờ một ngàn hai trăm vị A-la-hán tâm đã tự tại suy nghó: “Chúng ta được sự vui mừng chưa từng có, nếu Thế Tôn thọ ký cho chúng ta như những đại đệ tử khác thì thật thích thú.” Phật biết tâm niệm của những vị này, bảo Tôn giả Đại Ca-diếp: –Một ngàn hai trăm vị A-la-hán này, hôm nay ta sẽ lần lượt thọ ký đạo Vô thượng chính đẳng chính giác. Trong chúng này, đệ tử lớn của ta là Tỳ-kheo Kiều-trần-như sẽ cúng dường sáu vạn hai ngàn ức Phật, sau đó mới thành Phật hiệu Phổ Minh Như Lai Ứng Cúng, chính Biến tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thế, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Năm trăm vị A-la-hán khác như Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp. Già-da-ca-diếp, Na-đề Ca-diếp, Ca-lưu-đà-di, A-nậu-lâu-đà, Ly-bà-đa, Kiếp-tân-na, Bạc-câu-la, Châu-đà-sa, Già-đà… đều sẽ chứng Vô thượng chính đẳng chính giác cùng một hiệu là Phổ Minh. Khi ấy muốn lặp lại nghĩa trên Thế Tôn nói kệ: Tỳ-kheo Kiều-trần-như Sẽ gặp vô lượng Phật Qua a-tăng-kỳ kiếp Mới thành Đẳng chính giác. Thường phóng ánh sáng lớn Đầy đủ các thần thông Danh tiếng khắp mười phương Chúng sinh đều tôn kính. Thường thuyết pháp Nhất thừa Nên hiệu là Phổ Minh Cõi đó rất thanh tịnh Bồ-tát rất dũng mãnh. Đều ở lầu gác đẹp Du hóa khắp mười phương Dùng vật cúng tối thượng Dâng lên các Đức Phật. Việc cúng dường đã xong Tâm được niềm vui lớn Bằng thần thông như thế Trở về nước mình ngay. Phật sống sáu vạn kiếp chính pháp trụ gấp đôi Tượng pháp cũng như thế Pháp diệt trời người lo. Năm trăm Tỳ-kheo này Lần lượt sẽ thành Phật Đồng hiệu là Phổ Minh Tuần tự mà thọ ký. Sau khi ta diệt độ Người nào được thành Phật Thế gian người ấy độ Cũng như ta ngày nay. Có cõi nước thanh tịnh Và các lực thần thông Chúng Bồ-tát, Thanh văn chính pháp và tượng pháp. Kiếp sống nhiều hay ít Đều như trên đã nói Ca-diếp ông đã biết Năm trăm vị tự tại. Các chúng Thanh văn khác Cũng sẽ được như vậy Ai không có ở đây Ông nên nói cho họ. Bấy giờ, năm trăm vị A-la-hán được Phật thọ ký vui mừng hớn hở, từ chỗ ngồi đứng dậy đến trước Phật, đầu mặt lạy sát chân Phâït, ăn năn hối lỗi, tự trách mình: –Bạch Đức Thế Tôn! Chúng con thường nghó tự cho mình đã hoàn toàn diệt độ, như người vô trí, hôm nay mới biết. Vì sao? Lẽ ra chúng con phải đáng được trí tuệ của Như Lai thế nhưng mới được trí nhỏ mà tự cho là đủ. Bạch Thế Tôn! Ví như có người say rượu đến nhà bạn nằm, người bạn có việc quan phải đi, lấy châu báu vô giá cột vào vạt áo của anh ấy rồi đi. Người say không biết gì, khi tỉnh dậy, đến nước khác vì cơm áo mà phải gắng sức tìm cầu thật là khốn khổ, được chút ít mà cho là đủ. Sau đó tình cờ người bạn gặp lại nói: “Lạ thay này bạn, sao vì cơm áo mà đến nông nỗi này. Ngày trước tôi muốn anh được an vui tha hồ hưởng năm dục lạc nên ngày đó đã cột châu báu vào vạt áo của anh, nay vẫn còn mà anh không biết, lại phải cực khổ để tìm cầu sự sống, thật là dại dột. Anh nên đem ngọc báu này đổi lấy đồ cần dùng sẽ được sung sướng, không còn thiếu thốn.” Đức Phật cũng vậy, lúc còn làm Bồ-tát giáo hóa, làm cho chúng con phát tâm Nhất thiết trí mà chúng con bỏ quên không hay không biết, mới chứng A-la-hán mà cho diệt độ, cũng như khổ nhọc kiếm sống được chút ít mà cho là đủ, trong khi đó tâm nguyện Nhất thiết trí vẫn còn chưa mất. Hôm nay Đức Thế Tôn thức tỉnh cho chúng con nên nói: “Này các Tỳ-kheo! Quả vị chứng đắc của các ông chưa phải là diệt độ hoàn toàn, từ lâu ta đã dạy cho các ông gieo trồng thiện căn của Phật nên dùng phương tiện thị hiện tướng Niết-bàn mà các ông đã cho thật sự được Niết-bàn.” Bạch Đức Thế Tôn! Ngày nay chúng con mới biết mình thật là Bồ-tát được thọ ký sẽ thành Vô thượng chính đẳng chính giác. Do đó chúng con rất vui mừng chưa từng có. Bấy giờ, muốn lặp lại nghĩa trên A-nhã Kiều-trần-như và các vị A-la-hán nói kệ: Âm thanh của Thế Tôn An ủi thọ ký cho Chúng con rất vui mừng Lễ Phật trí vô lượng. Hôm nay trước Thế Tôn Tự sám hối lỗi lầm Trong Phật bảo vô lượng Được chút phần Niết-bàn, Như người ngu không trí Liền tự cho là đủ. Ví như người nghèo cùng Đi đến nhà bạn thân Nhà ấy rất giàu có Bày đủ các tiệc ngon Đem châu báu vô giá Cột vào trong vạt áo Im lặng rồi bỏ đi Người say ngủ không biết. Khi ông ta thức đâïy Lang thang đến nước khác Tự tìm cầu ăn mặc Đời sống thật khó khăn, Được ít cho là đủ Không muốn gì hơn nữa Chẳng biết bên trong áo Có ngọc báu vô giá. Người bạn cho ngọc quý Về sau gặp bạn nghèo Đã quở trách ông ấy Chỉ châu trong vạt áo. Người nghèo thấy của rồi Trong lòng rất vui sướng Giàu có nhiều của cải Hưởng đầy đủ dục lạc. Chúng con cũng như vậy Đức Thế Tôn từ lâu Luôn thương yêu dạy bảo Gieo trồng nguyện Vô thượng. Chúng con vì không trí Nên không hay không biết Được chút phần Niết-bàn Tưởng đủ không cầu nữa. Phật thức tỉnh chúng con Dạy chẳng thật diệt độ Chứng Tuệ giác vô thượng Mới thật là diệt độ. Con được nghe từ Phật Lời thọ ký trang trọng Và tuần tự thọ ký Thâm tâm rất vui mừng. <卷 id="83085279">Phẩm 9: Thọ Ký Bậc Hữu học, Vô học Bấy giờ, Tôn giả A-nan và La-hầu-la suy nghó: “Chúng ta nếu được Phật thọ ký cho thì không gì vui bằng”, liền từ chỗ ngồi đứng dậy đến trước Phật, đầu mặt đều lễ sát chân Phật cùng thưa: –Bạch Đức Thế Tôn! Chúng con ở đây cũng đáng có phần, chỉ có Thế Tôn là chỗ nương tựa cho chúng con. Hơn nữa, tất cả thế gian, Trời, Người, A-tu-la đều biết đến chúng con. Tôn giả A-nan thường không làm thị giả và giữ gìn kho tàng chính pháp của Như Lai. La-hầu-la là con của Phật, nếu được Phật thọ ký đạo Vô thượng chính đẳng chính giác cho thì ước nguyện của chúng con được thỏa mãn mà niềm hy vọng của đại chúng cũng thành tựu. Bấy giờ, hai ngàn vị đệ tử Thanh văn Hữu học, Vô học, từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo vai phải đến trước Phật chắp tay nhất tâm chiêm ngưỡng Đức Thế Tôn như lời nguyện của Tôn giả A-nan và La-hầu-la, rồi đứng qua một bên. Khi ấy, Phật bảo A-nan: –Vào đời vị lai ông sẽ thành Phật hiệu Sơn Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương Như Lai Ứng Cúng chính Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự, Trượng Phu, Thiên Nhân Sư Phật Thế Tôn. Ông sẽ cúng dường và giữ gìn kho tàng chính pháp của sáu mươi hai ức Đức Phật. Sau đó chứng Vô thượng chính đẳng chính giác, giáo hóa hai mươi ngàn vạn ức hằng hà sa các Bồ-tát làm cho họ được Vô thượng chính đẳng chính giác. Nước tên Thường lập thắng phan, cõi đó sạch sẽ, đất bằng lưu ly, kiếp tên Diệu âm biến mãn. Đức Phật sống vô lượng ngàn muôn ức a-tăng-kỳ kiếp. Nếu có người tính kể trong ngàn vạn ức vô lượng a-tăng-kỳ kiếp cũng không biết được. chính pháp trụ ở đời gấp đôi tuổi thọ, tượng pháp trụ đời gấp đôi chính pháp. Này A-nan! Đức Phật Sơn Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương được vô lượng ngàn muôn ức hằng hà sa các Đức Như Lai trong mười phương cùng khen ngợi công đức của Ngài. Khi ấy muốn lặp lại nghĩa này Thế Tôn nói kệ: Ta tuyên bố giữa chúng A-nan người trì pháp Sẽ cúng dường chư Phật Về sau thành chính giác. Hiệu là Sơn Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương Phật Cõi nước đó trong sạch Tên thường Lập thắng phan. Giáo hóa các Bồ-tát Số nhiều như hằng sa Phật có oai đức lớn Danh tiếng khắp mười phương. Sống lâu vô lượng kiếp Vì thương yêu chúng sinh chính pháp gấp tuổi thọ Tượng pháp hơn chính pháp. Có vô số chúng sinh Nhiều như cát sông Hằng Ở trong pháp Phật ấy Gieo nhân duyên Phật đạo. Bấy giờ, trong hội có tám ngàn vị Bồ-tát mới phát tâm đều suy nghó: “Chúng ta còn chưa nghe các Đại Bồ-tát được thọ ký. Vì lý do gì mà các Thanh văn lại được thọ ký như vậy.” Khi ấy Đức Thế Tôn biết tâm niệm của các Bồ-tát Ngài bảo: –Này thiện nam! Ta cùng với A-nan và các Thanh văn đã từng ở nơi Đức Phật Không Vương, đồng phát tâm Vô thượng chính đẳng chính giác. A-nan thường ưa học rộng còn ta luôn siêng năng tinh tấn, cho nên ta đã thành Vô thượng chính đẳng chính giác. A-nan giữ gìn chính pháp giúp ta, cũng sẽ giữ gìn kho tàng chính pháp của các Đức Phật tương lai, giáo hóa hoàn hảo các chúng Bồ-tát. Do bản nguyện như vậy cho nên A-nan được thọ ký, ở trước Đức Phật, được nghe Phật thọ ký cùng cõi nước trang nghiêm, điều nguyện cầu đã mãn. Tôn giả A-nan rất vui sướng được điều chưa từng có. Ngay khi ấy, Tôn giả nghó đến kho tàng chính pháp của vô lượng ngàn muôn ức các Đức Phật thuở quá khứ một cách thông suốt không ngần ngại như hiệïn đang được nghe và biết rõ bản nguyện của mình bèn nói kệ: Thế Tôn rất hiếm có Khiến con nhớ quá khứ Vô lượng pháp chư Phật Như ngày nay được nghe. Con không còn nghi ngờ An trụ trong Phật đạo Phương tiện làm thị giả Giữ gìn pháp chư Phật. Bấy giờ Phật bảo La-hầu-la: –Ở đời vị lai ông sẽ thành Phật hiệu Đạo Thất Bảo Hoa Như Lai Ứng Cúng, chính Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư Phật Thế Tôn, sẽ cúng dường các Đức Như Lai nhiều như số vi trần trong mười phương cõi Phật, thường làm trưởng tử của các Đức Phật cũng như ngày nay. Cõi nước Phật ấy trang nghiêm, số kiếp dài lâu giáo hóa đệ tử, chính pháp, tượng pháp đều giống như Đức Như Lai Sơn Hải Huệ Tự Tại Thông Vương. Ông cũng làm trưởng tử của Phật này. Qua thời gian ấy sẽ chứng Vô thượng chính đẳng chính giác. Khi ấy muốn lặp lại nghĩa trên Thế Tôn nói kệ: Khi ta làm Thái tử La-hầu làm trưởng tử Nay ta thành đạo La-hầu làm Pháp tử. Ở trong đời vị lai Gặp vô lượng Đức Phật Cũng đều làm trưởng tử Nhất tâm cầu Phật đạo. Mật hạnh của La-hầu Chỉ ta có thể biết Hiện làm trưởng tử ta Để giáo hóa chúng sinh. Công đức nhiều vô lượng Không thể tính đếm được An trụ trong Phật pháp Để cầu đạo Vô thượng. Bấy giờ, Thế Tôn thấy hai ngàn vị Hữu học và Vô học, tâm ý hòa dịu vắng lặng thanh tịnh nhất tâm chiêm ngưỡng Phật. Phật bảo A-nan: –Ông thấy hai ngàn vị Hữu học, Vô học này không? –Dạ thưa có! –Này A-nan! Những vị này sẽ cúng dường các Đức Như Lai nhiều như số vi trần trong năm mươi thế giới, cung kính, tôn trọng, giữ gìn kho tàng chính pháp của các Đức Phật ấy. Sau cùng, các vị ấy đều thành Phật ở các cõi nước khắp mười phương, đồng một hiệu là Bảo Tướng Như Lai, Ứng Cúng, chính Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, sống lâu một kiếp, cõi nước trang nghiêm, Thanh văn, Bồ-tát, chính pháp, tượng pháp đều giống nhau. Khi ấy muốn tuyên lại nghĩa này Đức Thế Tôn nói kệ: Hai ngàn vị Thanh văn Hôm nay ở trước ta Được thọ ký tất cả Vị lai sẽ thành Phật. Cúng dường các Đức Phật Như số bụi nói trên Giữ gìn kho tàng pháp Sau sẽ thành chính giác. Cõi nước khắp mười phương Đều cùng một danh hiệu Đồng ngồi một đạo tràng Chứng Tuệ giác vô thượng. Hiệu gọi là Bảo Tướng Cõi nước và đệ tử chính pháp cùng tượng pháp Giống nhau không có khác. Đều dùng sức thần thông Giáo hóa chúng mười phương Danh tiếng vang khắp nơi Dần dần nhập Niết-bàn. Khi nghe Phật thọ ký hai ngàn vị Hữu học, Vô học hoan hỷ phấn chấn nói kệ: Thế Tôn đèn tuệ sáng Con nghe tiếng thọ ký Tâm vui mừng tràn đầy Như được rưới cam lồ.  <詞 id="83085280">Phẩm 10: Pháp sư Khi ấy, Thế Tôn nhân nói với Bồ-tát Dược Vương, bảo tám vạn Đại só: –Này Dược Vương! Ông thấy trong đại chúng này có vô lượng hàng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-na-già, Nhân phi nhân, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, hàng cầu Thanh văn, cầu Bích-chi-phật, cầu Phật đạo đủ hạng như vậy, đều ở trước ta nghe kinh Diệu Pháp Liên Hoa, dù chỉ nghe một bài, một câu cho đến một niệm tùy hỷ, ta đều thọ ký cho chứng Vô thượng chính đẳng chính giác. Lại nữa, này Dược Vương! Sau khi Như Lai diệt độ nếu có người nghe kinh Diệu Pháp Liên Hoa dù chỉ nghe một bài, một câu cho đến một niệm tùy hỷ ta cũng thọ ký cho chứng Vô thượng chính đẳng chính giác. Nếu có người thọ trì, đọc tụng, giảng nói, biên chép kinh này dù chỉ một bài, đối với kinh này cung kính như Phật, cúng dường đủ các hương hoa, chuỗi ngọc, hương bột, hương xoa, hương đốt, dù lọng, tràng phan, y phục, âm nhạc, cho đến chắp tay cung kính. Dược Vương nên biết! Những người này đã từng cúng dường mười vạn ức. Phật và hoàn thành nguyện lớn, vì thương yêu chúng sinh mà sinh trong loài người. Dược Vương! Nếu ai hỏi người nào vị lai sẽ làm Phật thì nên nói cho họ biết những người này vị lai chắc chắn làm Phật. Vì sao? Nếu thiện nam, thiện nữ nào đối với kinh Pháp Hoa dù chỉ một câu, ghi nhận, đọc tụng, giảng nói, biên chép cúng dường kinh này bằng các loại chuỗi ngọc, vòng hoa, hương bột, hương xoa, hương đốt, dù, lọng tràng phan, y phục, âm nhạc, cho đến chắp tay cung kính thì người này tất cả thế gian nên chiêm ngưỡng, tôn thờ, đem các thứ hiến cúng Như Lai mà dâng cúng cho họ. Hãy nên biết, người này là vị Đại Bồ-tát sẽ chứng Vô thượng chính đẳng chính giác, vì thương yêu chúng sinh mà sinh ra trong loài người để diễn nói kinh Pháp Hoa rộng rãi rõ ràng, huống nữa ghi nhận toàn bộ kinh và các thứ cúng dường. Dược Vương nên biết! Người này đã bỏ nghiệp báo thanh tịnh. Sau khi ta diệt độ vì thương chúng sinh mà xuất hiện ở đời ác để rộng nói kinh này. Lại nữa, sau khi ta diệt độ nếu có thiện nam, thiện nữ nào riêng nói cho một người nghe kinh Pháp Hoa dù chỉ một câu phải nên biết người ấy là sứ giả của Như Lai, được Như Lai giao phó sự nghiệp của Ngài, huống nữa giữa đại chúng giảng thuyết kinh này cho mọi người. Này Dược Vương! Nếu có người ác với tâm bất thiện trong một kiếp, hủy báng, mắng giết Phật thì tội ấy còn nhẹ. Nếu có người dùng lời nói ác hủy báng người tại gia hay xuất gia, đọc tụng kinh Pháp Hoa thì tội người đó rất nặng. Này Dược Vương! Nếu có người đọc tụng kinh Pháp Hoa, ông nên biết người ấy dùng trang phục của Như Lai mà trang sức cho mình, người ấy được Như Lai dùng vai mang vác. Người ấy đi đến đâu đều được mọi người hướng theo làm lễ, một lòng chắp tay, cung kính cúng dường, tôn trọng, ngợi khen dùng hoa hương, chuỗi ngọc, hương bột, hương xoa, dù lọng, tràng phan, y phục, thức ăn ngon, trổi âm nhạc, các vật cúng thượng hạng của chư Thiên đều đem dâng cúng cho người đó. Vì sao? Vì người ấy hoan hỷ thuyết pháp nên chỉ nghe trong chốc lát cũng chứng trọn vẹn Vô thượng chính đẳng chính giác. Khi ấy muốn tuyên lại nghĩa trên, Thế Tôn nói kệ: Nếu muốn vào Phật đạo Thành tựu trí tự nhiên Thường phải siêng cúng dường Người trì kinh Pháp Hoa. Nếu ai muốn mau được Trí tuệ Nhất thiết chủng Nếu thọ trì kinh này Cúng dường người trì kinh. Nếu người hay thọ trì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Người ấy sứ giả Phật Thương yêu các chúng sinh. Những người hay thọ trì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Rời bỏ cõi thanh tịnh Thương chúng sinh cõi này. Nên biết người như vậy Tự tại mà thọ sinh Ở nơi cõi ác này Giảng thuyết pháp Vô thượng. Nên dùng hương hoa trời Y phục báu chư Thiên Những vật báu tốt đẹp Dâng cúng người thuyết pháp. Đời ác ta diệt độ Nếu người trì kinh này Phải chắp tay làm lễ Như cúng dường Thế Tôn. Thức ăn ngon hảo hạng Và các thứ y phục Cúng dường Phật tử đó Chỉ nghe trong chốc lát. Nếu người ở đời sau Hay thọ trì kinh này Ta bảo vào trong chúng Làm việc của Như Lai. Nếu ở trong một kiếp Thường với tâm bất thiện Giận dữ mà mắng Phật Mắc vô lượng tội nặng. Thấy có người đọc tụng Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Chỉ dùng một lời mắng Tội này hơn tội kia. Có người cầu Phật đạo Mà ở trong một kiếp Chắp tay ở trước ta Dùng vô số kệ khen. Do duyên tán thán Phật Được công đức vô lượng Nếu khen người trì kinh Phước đức càng hơn trước. Trong tám vạn ức kiếp Dùng năm thứ vi diệu Sắc, thanh, hương, vị, xúc Cúng dường người trì kinh. Dâng cúng như vậy xong Chỉ nghe trong chốc lát Tự cảm nhận niềm vui Ta nay được lợi lớn. Dược Vương! Ta bảo ông Các kinh ta đã nói Trong số những kinh này Pháp Hoa là bậc nhất. Bấy giờ, Phật bảo Đại Bồ-tát Dược Vương: –Vô lượng ngàn vạn ức kinh điển, ta đã nói, đang nói và sẽ nói mà ở trong đó kinh Pháp Hoa này rất là khó tin, khó hiểu. Dược Vương, kinh này là tạng bí yếu của các kinh, không thể tùy tiện giao phó cho người được, chư Phật Thế Tôn bảo hộ từ xưa đến nay chưa từng thuyết giảng. Đối với kinh điển này hiện tại Như Lai còn bị nhiều oán ghét, huống là sau khi diệt độ. Dược Vương nên biết! Sau khi Như Lai diệt độ, người nào đối với kinh điển này, ghi chép, thọ trì, đọc tụng, cúng dường thuyết giảng cho người, Như Lai liền lấy y mặc cho họ, lại được các Đức Phật hiện trú ở phương khác hộ niệm cho. Người đó có khả năng tin tưởng vó đại, chí nguyện và các thiện căn, nên biết người đó cùng Như Lai ở chung, được Đức Như Lai dùng tay xoa đầu. Dược Vương! Bất cứ chỗ nào, nếu diễn nói, đọc tụng, giảng giải, ghi chép hoặc có quyển kinh này đều phải xây tháp bảy báu, cao rộng tráng lệ, chẳng cần tôn trí xá-lợi. Vì sao? Vì trong đó đã có toàn thân Như Lai, tháp này cần phải dùng tất cả các thứ hoa hương, chuỗi ngọc, lọng lụa, cờ phướn, âm nhạc, ca tụng để cúng dường cung kính, tôn trọng, ngợi khen. Nếu có người thấy được tháp này lễ bái cúng dường phải biết rõ người này đều gần Vô thượng chính đẳng chính giác. Dược Vương! Có nhiều người tại gia, xuất gia, hành đạo Bồ-tát mà không thấy, nghe, đọc tụng, biên chép, thọ trì kinh Pháp Hoa này, phải biết người đó chưa khéo tu đạo Bồ-tát. Nếu có người thấy, nghe, đọc kinh này mới là khéo tu đạo của Bồ-tát. Chúng sinh nào cầu Phật đạo nếu thấy, nghe được kinh Pháp Hoa này, nghe rồi tin hiểu thọ trì, phải biết người này được gần Vô thượng chính đẳng chính giác. Dược Vương! Ví như có người bị khát cần nước uống ở nơi vùng cao, khoan đào tìm nước, do thấy đất khô nên biết bước còn xa, gia công đào không ngừng, dần thấy đến lớp đất ướt, rồi lần lượt đến bùn, người ấy chắc chắn biết rằng đã gần có nước. Bồ-tát cũng như vậy, nếu chưa nghe chưa có thể tu tập kinh Pháp Hoa này, nên biết người ấy cách Vô thượng chính đẳng chính giác còn xa. Nếu được nghe hiểu tư duy tu tập kinh này thì biết rằng gần Vô thượng chính đẳng chính giác. Vì sao? Vì tất cả Vô thượng chính đẳng chính giác của Bồ-tát đều thuận kinh này. Kinh này mở môn phương tiện bày hướng chân thật. Tạng kinh Pháp Hoa này rất là sâu kín xa thẳm, không có người nào đến được, nay Phật muốn giáo hóa để thành tựu hàng Bồ-tát mà chỉ bày cho. Dược Vương! Nếu có Bồ-tát nghe kinh Pháp Hoa này mà nghi ngờ, sợ sệt, nên biết đó là Bồ-tát mới phát tâm. Nếu hàng Thanh văn nghe kinh này mà nghi ngờ sợ sệt, nên biết đó là hạng tăng thượng mạn. Dược Vương! Nếu có thiện nam, thiện nữ sau khi Như Lai diệt độ, muốn vì bốn chúng nói kinh Pháp Hoa này nên nói như thế nào? thiện nam, thiện nữ đó nên vào nhà Như Lai, mặc áo Như Lai, ngồi tòa Như Lai khi ấy mới diễn thuyết kinh này cho bốn chúng. Nhà Như Lai chính là tâm Từ bi lớn đối với tất cả chúng sinh; y Như Lai chính là tâm nhu hòa, nhẫn nhục, tòa Như Lai chính là tất cả pháp không, an trụ như vậy rồi, sau đó bằng tâm không biếng nhác vì các Bồ-tát và bốn chúng thuyết giảng kinh Pháp Hoa này. Dược Vương! Ta ở thế giới khác sai hóa nhân vì họ mà làm đến chúng nghe pháp, cũng sai hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di đến nghe người đó nói pháp. Các hàng hóa nhân này nghe pháp tin nhận thuận theo mà không trái nghịch. Nếu người nói pháp ở chỗ vắng vẻ, ta liền sai nhiều Trời, Rồng, Quỷ, Thần, Càn-thát-bà, A-tu-la,… đến nghe người đó thuyết pháp. Ta dù ở thế giới khác nhưng lúc nào cũng luôn khiến người nói pháp thấy được thân ta. Nếu đối với kinh này mà quên mất một câu ngắn, ta sẽ nói lại làm cho được đầy đủ. Khi ấy muốn tuyên lại nghĩa này Đức Thế Tôn nói kệ: Muốn bỏ tính lười biếng Phải nên nghe kinh này Kinh này khó được nghe Người tin nhận cũng khó. Như người khát cần nước Khoan đào ở vùng cao Vẫn thấy đất khô cứng Biết cách nước còn xa Lần thấy đất ướt bùn Chắc chắn biết gần nước. Dược Vương! Ông nên biết Những hạng người như vậy Không nghe kinh Pháp Hoa Cách trí Phật rất xa, Nghe kinh vi diệu này Không còn pháp Thanh văn Là vua trong các kinh Nghe rồi suy nghó kỹ, Phải nên biết người này Gần đến trí tuệ Phật. Nếu không nói kinh này Nếu vào nhà Như Lai Mặc áo của Như Lai Và ngồi tòa Như Lai Giữa chúng không sợ hãi Giảng thuyết rõ kinh này Ở nhà đại Từ bi Có nhu hòa nhẫn nhục Các pháp không lâu dài Ở nơi ấy nói pháp. Nếu lúc nói kinh này Bị người miệng ác mắng Dao gậy ngói đá đánh Nhớ Phật nên phải nhẫn. Ta ngàn vạn ức nước Hiện thân sạch vững chắc Nhiều vô lượng ức kiếp Vì chúng sinh nói pháp. Sau khi ta diệt độ Người giảng thuyết kinh này Ta sai hóa bốn chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni Và nam, nữ tịnh tín Cúng dường nơi Pháp sư. Bậc dẫn đường chúng sinh Nhóm chúng để nghe pháp Nếu người muốn làm hại Dao gậy và gạch ngói, Liền sai người biến hóa Hộ vệ cho Pháp sư. Nếu Pháp sư nói pháp Một mình nơi vắng vẻ Lặng lẽ không người nghe Đọc giảng kinh điển này, Thời ta liền thị hiện Thân thanh tịnh sáng chói. Nếu quên mất câu nào Nhắc lại cho thông suốt. Nếu người đủ phước đức Hoặc nói cho bốn chúng Đọc tụng kinh chỗ vắng Đều được thấy thân ta. Nếu ở nơi không người Ta thời sai Long vương Dạ-xoa, Quỷ thần thảy Làm chúng đến nghe pháp. Người đó thuyết giảng pháp Lưu loát không ngần ngại Chư Phật hộ niệm cho Khiến đại chúng vui vẻ. Nếu gần gũi Pháp sư Mau được đạo Bồ-tát Tùy thuận học Thầy này Được thấy hằng sa Phật.  <詞 id="83085281">Phẩm 11: Hiện Bảo Tháp Bấy giờ, trước Đức Phật có tháp bảy báu, cao năm trăm do-tuần, chu vi hai trăm năm mươi do-tuần từ dưới đất nhô lên đứng giữa hư không, tháp ấy trang hoàng đủ các thứ báu, có năm ngàn phòng nhỏ dọc theo hành lang và ngàn vạn vô số cờ phướn để trang hoàng, chuỗi ngọc báu rủ xuống, treo ngàn vạn ức linh báu, bốn phía đều thoang thoảng mùi hương chiên-đàn, tỏa khắp thế giới. Các cờ phướn dù lọng bằng bảy báu vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não và mai khôi cao đến cung trời Tứ Thiên vương. Trời Đao-lợi rưới hoa Mạn-đà-la để cúng dường tháp báu. Có ngàn vạn ức chúng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, A-tu-la, Ca-lầu-la, Nhân phi nhân đều dùng tất cả hương hoa, chuỗi ngọc, cờ phướn, dù lọng, âm nhạc để cúng dường cung kính; tôn trọng ngợi khen tháp báu. Khi ấy trong tháp báu vang ra âm thanh lớn, khen ngợi: –Lành thay, lành thay! Đức Thích-ca Thế Tôn có thể dùng tuệ lớn bình đẳng giảng nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa cho đại chúng Bồ-tát được chư Phật giữ gìn. Đúng thế, đúng thế! Đức Thích-ca Mâu-ni Thế Tôn như lời Ngài nói đều chân thật! Khi ấy bốn chúng thấy tháp báu lớn đứng trong hư không, lại nghe trong tháp vang ra tiếng nói đều được pháp hỷ kỳ lạ chưa từng có, từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay cung kính đứng qua một bên. Bấy giờ, có Đại Bồ-tát Đại Nhạo Thuyết biết được những nghi ngờ của Trời, Người, A-tu-la trong thế gian nên bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà có tháp báu từ dưới đất nhô lên, lại ở trong tháp vang ra âm thanh như vậy? Phật bảo Bồ-tát Đại Nhạo Thuyết: –Trong tháp báu này có toàn thân Như Lai. Về quá khứ ở phương Đông, cách đây vô lượng ngàn muôn ức vô số cõi nước có quốc độ tên Bảo tịnh trong nước ấy có Phật hiệu Đa Bảo. Phật ấy khi còn hành Bồ-tát đạo đã phát lời nguyện lớn: “Nếu ta được thành Phật, sau khi ta diệt độ cõi nước mười phương khắp nơi nào có nói kinh Pháp Hoa thì bảo tháp của Như Lai sẽ xuất hiện nơi ấy để nghe kinh làm chứng, khen ngợi: Lành thay!” Đức Phật thành đạo rồi, ở giữa đại chúng trời người tuyên bố: “Sau khi ta diệt độ, muốn cúng dường toàn thân của ta nên dựng tháp lớn”. Đức Phật, dùng nguyện lực thần thông, khắp mười phương thế giới, nếu chỗ nào có người nói kinh Pháp Hoa thì tháp báu hiện ra trước, toàn thân Phật ở trong tháp khen ngợi: “Lành thay, lành thay!” Này đại Nhạo Thuyết! Hôm nay tháp của Đức Đa Bảo Như Lai vì nghe kinh Pháp Hoa mà từ dưới đất nhô lên khen ngợi: “Lành thay, lành thay!” Khi ấy Bồ-tát Đại Nhạo Thuyết nhờ thần lực Như Lai mà bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Chúng con nguyện muốn được thấy thân Phật Đa Bảo. Phật bảo Bồ-tát Đại Nhạo Thuyết: –Đức Phật Đa Bảo có thệ nguyện rất vó đại: “Nếu bảo tháp ta vì nghe kinh Pháp Hoa mà hiện ra trước các Đức Phật, có Phật nào muốn đem thân ta chỉ bày cho bốn chúng, thì phân thân của các Đức Phật kia đang nói pháp ở các thế giới khắp mười phương đều phải nhóm lại thành một chỗ thời sau đó thân ta mới hiện ra.” –Này Đại Nhạo Thuyết! Các vị Phật của ta phân thân đang nói pháp ở khắp thế giới mười phương hôm nay sẽ nhóm lại. Bồ-tát Đại Nhạo Thuyết bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Chúng con cũng nguyện muốn được thấy các vị Phật của Đức Thế Tôn phân thân để đảnh lễ cúng dường. Khi ấy Phật phóng luồng ánh sáng của tướng lông trắng giữa chân mày liền thấy ở phương Đông có năm trăm muôn ức hằng hà sa cõi chư Phật. Các cõi nước ấy đều dùng pha lê làm đất, cây báu, y báu dùng để trang nghiêm vô số ngàn vạn ức Bồ-tát đầy trong ấy, khắp nơi giăng màn báu, lưới báu che lên. Đức Phật cõi ấy dùng âm thanh vi diệu để thuyết pháp và thấy vô lượng ngàn vạn ức Bồ-tát đầy khắp trong cõi nước thuyết pháp cho chúng sinh. Ở phương Nam, Tây, Bắc, bốn phía trên dưới tướng lông trắng của Phật cũng chiếu đến như vậy. Khi ấy các Phật ở mười phương bảo chúng Bồ-tát: –Này thiện nam! Hôm nay ta phải đến thế giới Ta-bà chỗ của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni để cúng dường tháp báu của Đức Đa Bảo Như Lai. Bấy giờ thế giới Ta-bà biến thành thanh tịnh, đất bằng lưu ly, cây báu trang nghiêm vàng ròng làm dây để phân ranh giới làm tám đường, không có các thôn xóm, làng mạc, phố phường, biển cả, sông ngòi, núi khe, rừng rậm, đốt các hương báu, hoa Mạn-đà-la rải khắp mặt đất, dùng lưới và trướng báu giăng lên và treo các linh báu, chỉ giữ lại chúng hội này, còn trời, người đều dời đến cõi khác. Khi ấy các Đức Phật, mỗi vị đem theo một vị Bồ-tát làm thị giả cùng qua thế giới Ta-bà đến bên cây báu cao năm trăm do-tuần, nhánh lá hoa trái đều trang nghiêm. Dưới mỗi cây báu đều có tòa Sư tử cao năm do-tuần và được trang hoàng bằng các loại báu. Khi ấy các Đức Phật đều ngồi kiết già trên tòa này, cứ như thế lần lượt ở khắp cả tam thiên đại thiên thế giới mà phân thân của Phật Thích-ca Mâu-ni trong một phương vẫn chưa hết. Đức Phật Thích-ca Mâu-ni muốn dung nạp các vị Phật đã phân thân ở tám phương nên đã biến thành hai trăm ức na-do-tha cõi Phật đều sạch sẽ không có địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh và A-tu-la lại dời các trời người đến ở quốc độ khác. Cõi nước Ngài biến hóa cũng đất bằng lưu ly, cây báu trang nghiêm cao năm trăm do-tuần, nhánh lá, bông trái đều tươi tốt, dưới cây đều có tòa báu Sư tử, cao năm do-tuần và được trang hoàng bằng các loại báu, những cõi nước đó không có biển cả, sông ngòi và các núi lớn. Mục-chân-lân-đà, Đại-mục-chân-lân-đà, Thiết vi, Đại thiết vi, Tu-di thông thành một cõi nước Phật, đất báu bằng phẳng, các vật báu xen lẫn nhau làm thành màn che khắp lên trên, treo các cờ lọng, đốt các hương báu, hoa trời rải khắp trên đất. Đức Phật Thích-ca Mâu-ni vì các Đức Phật sắp đến ngồi nơi tòa, nên ở tám phương lại biến thành hai trăm vạn ức na-do-tha cõi nước đều làm cho thanh tịnh, không có địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh và A-tu-la, lại dời trời người đến ở chỗ khác. Những cõi nước biến hóa ra đó đều đất bằng lưu ly, châu báu trang nghiêm cao năm trăm do-tuần, nhánh lá, hoa, trái tốt tươi, dưới cây đều có tòa Sư tử bằng báu cao năm do-tuần và được trang hoàng bằng các báu, cũng không có biển cả sông ngòi và các núi lớn như: Mục-chân-lân-đà, Đại mục-chân-lân-đà, Thiết vi, Đại thiết vi, Tu-di… thông thành một cõi nước Phật, đất báu bằng phẳng, các vật báu xen lẫn nhau làm thành màn che khắp lên trên, treo các cờ lọng, đốt hương báu, hoa trời rải khắp trên đất. Bấy giờ, ở phương Đông các Đức Phật của Đức Thích-ca phân thân ra nói pháp trong năm ngàn muôn ức na-do-tha cõi nước đều đến nhóm họp ở cõi này, tuần tự như thế các Đức Phật trong mười phương đều đến tụ tập ngồi ở tám phương. Mỗi một phương các Đức Phật ngồi khắp trong bốn trăm vạn ức na-do-tha cõi nước, các Đức Phật Như Lai khắp đầy trong đó. Khi ấy các Đức Phật đều ngồi tòa Sư tử dưới cây báu, rồi sai thị giả mang hoa báu đến thăm hỏi Đức Thích-ca Mâu-ni và dặn: –Này thiện nam! Ông hãy đến núi Kỳ-xà-quật nơi Đức Thích-ca Mâu-ni theo như lời của ta mà thưa: “Như Lai ít bệnh, ít khổ, sức khỏe có tốt không? Chúng Bồ-tát, Thanh văn có an ổn không?” Rồi đem hoa báu này tung lên cúng dường Đức Phật mà thưa: “Đức Phật kia muốn mở tháp báu này”. Tất cả Đức Phật đều sai thị giả đến làm như vậy. Bấy giờ Đức Thích-ca Mâu-ni thấy các Đức Phật phân thân của mình đã đến tụ họp và an tọa nơi tòa Sư tử; đều nghe các vị Phật cùng muốn mở tháp báu. Phật liền từ chỗ ngồi đứng dậy trụ trên hư không, tất cả bốn chúng đứng dậy chắp tay, nhất tâm chiêm ngưỡng Phật. Đức Phật dùng tay phải mở cửa tháp bảy báu, vang ra âm thanh lớn như tháo khoá chốt mở cửa thành lớn. Khi ấy tất cả chúng hội đều thấy đức Đa Bảo Như Lai an tọa trên tòa Sư tử trong tháp báu, toàn thân nguyên vẹn như nhập thiền định, lại nghe Đức Đa Bảo nói: –Lành thay, lành thay! Đức Thích-ca Mâu-ni thích giảng kinh Pháp Hoa; ta vì muốn nghe kinh này mà đến đây. Tất cả bốn chúng đều thấy Đức Phật đã diệt độ từ vô lượng ngàn ức kiếp trong quá khứ nói lời như thế, mọi người đều khen việc chưa từng có, dùng hoa trời tung lên Đức Phật Đa Bảo và Đức Thích-ca Mâu-ni. Bấy giờ, Đức Đa Bảo ở trong tháp báu chia nửa tòa cho Đức Thích-ca Mâu-ni và nói rằng: “Phật Thích-ca Mâu-ni hãy ngồi lên tòa này”. Tức thì Phật Thích-ca Mâu-ni vào trong tháp báu ngồi kiết già trên nửa tòa đó. Đại chúng thấy hai Đức Như Lai ngồi kiết già trên tòa Sư tử trong tháp báu, đều suy nghó: “Chỗ Phật ngồi cao quá, nguyện xin Đức Như Lai dùng thần lực khiến cho chúng con đều được ở trên hư không.” Bấy giờ, bằng năng lực thần thông vó đại, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni tiếp đưa đại chúng lên hư không và bằng âm thanh lớn bảo khắp bốn chúng: –Trong cõi Ta-bà này ai có thể giảng nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa? Nay đã đúng thời, chẳng bao lâu nữa Như Lai sẽ vào Niết-bàn. Phật muốn đem kinh Pháp Hoa này phó chúc cho những người hiện diện. Khi ấy muốn tuyên lại nghĩa trên, Thế Tôn nói kệ: Thánh chúa Thế Tôn Tuy diệt độ lâu Ở trong bảo tháp Vì pháp mà đến. Các ông vì sao Không siêng học pháp? Phật này diệt độ Đã vô số kiếp, Khắp nơi nghe pháp Do pháp khó gặp Bản nguyện Phật kia Sau khi diệt độ Ở khắp mọi nơi Thường vì nghe pháp. Ta lại phân thân Vô lượng chư Phật Nhiều như hằng sa Muốn đến nghe pháp. Và thấy Đức Phật Đa Bảo diệt độ Xả bỏ cõi tịnh Và chúng đệ tử Trời, Người, Long, Thần Các việc cúng dường Muốn pháp trụ lâu Cho nên đến nay Vì chỗ Phật ngồi. Nên dùng thần lực Dời vô số chúng Thanh tịnh cõi nước, Mỗi mỗi chư Phật Đến dưới cây báu Trông như hoa sen Làm đẹp hồ sạch. Dưới mỗi cây báu Có tòa Sư tử Phật ngồi trên tòa Ánh sáng rực rỡ Như giữa đêm tối Đốt ngọn đèn lớn. Thân thoảng hương thơm Khắp mười phương cõi Chúng sinh xông hương Vui mừng không xiết. Ví như gió lớn Thổi nhánh cây nhỏ Dùng các phương tiện Để pháp trụ lâu. Bảo với đại chúng Khi ta diệt độ Người nào hộ trì Đọc giảng kinh này Nay ở trước Phật Tự nói lời nguyện. Phật Đa Bảo kia Tuy diệt độ lâu Vì thệ nguyện lớn Gầm tiếng Sư tử. Đức Phật Đa Bảo Cùng với thân ta Và các Hóa thân Biết được ý này. Các đệ tử Phật Người nào hộ pháp Nên phát đại nguyện Khiến pháp trụ lâu, Người ấy có thể Hộ trì kinh này Thì đã cúng dường Ta và Đa Bảo. Đức Phật Đa Bảo Ở trong tháp báu Du hóa mười phương Vì nghe kinh này, Cũng lại cúng dường Hóa thân chư Phật, Ánh sáng rực rỡ Khắp các thế giới. Người nói kinh này Tức là thấy ta Cùng Phật Đa Bảo Và Phật hóa thân. Này thiện nam nữ! Hãy suy nghó kỹ Việc này là khó Nên phát nguyện lớn. Các kinh điển khác Số như hằng sa Dù đã nói hết Chưa phải là khó. Đem núi Tu-di Ném qua phương khác Cách vô số cõi Cũng chưa là khó. Nếu dùng ngón chân Hất cõi đại thiên Văng xa cõi nước Cũng chưa là khó. Tận trời Hữu đảnh Vì chúng thuyết pháp Vô lượng kinh khác Cũng chưa là khó. Sau Phật diệt độ Ở trong đời ác Nói được kinh này Thì mới là khó. Giả sử có người Tay nắm hư không Dạo đi khắp nơi Chưa phải là khó. Khi ta diệt độ Tự chép ấn hành Hoặc bảo người khác Đây mới là khó. Đem cả địa cầu Đặt trên móng chân Bay đến Phạm thiên Cũng chưa là khó. Sau Phật diệt độ Ở trong đời ác Đọc tụng kinh này Đây mới là khó. Gánh vác cỏ khô Vào trong kiếp thiêu Mà không bị cháy Cũng chưa là khó. Sau ta diệt độ Nếu trì kinh này Nói cho một người Đây mới là khó. Nếu trì tạng pháp Hết tám vạn tư Vì người diễn thuyết Mười hai bộ kinh Làm cho người nghe Được sáu thần thông Tuy được như vậy Cũng là chưa khó. Khi ta diệt độ Lắng nghe tiếp nhận Hỏi thấu nghĩa kinh Đây mới là khó. Có người thuyết pháp Làm cho ngàn vạn Vô lượng, vô số Hằng sa chúng sinh Được A-la-hán Đủ sáu thần thông Tuy được lợi ích Chưa phải là khó. Sau ta diệt độ Nếu ai phụng trì Theo kinh điển này Thì mới là khó. Ta vì Phật đạo Trong vô lượng cõi Từ xưa đến nay Giảng thuyết các kinh, Trong số kinh đó Kinh này số một, Có người thọ trì Giữ được thân ta. Các thiện nam tử! Khi ta diệt độ Người nào thọ trì Đọc tụng kinh này Đang ở trước Phật, Hãy phát lời thề. Kinh này khó giữ Người nào tạm giữ Ta rất vui mừng Chư Phật cũng vậy. Những ai như thế, Được Phật khen ngợi Là người dũng mãnh, Là người tinh tấn, Là người trì giới, Tu hành Đầu-đà, Mau chóng chứng được Đạo quả Vô thượng Người trong đời sau Đọc tụng kinh này Phật tử chân chính Là bậc thuần thiện. Khi Phật diệt độ Người hiểu kinh này Là mắt thế gian Và của trời người, Trong đời khiếp sợ Nói kinh chốc lát Tất cả trời, người Đều nên cúng dường. Khi ấy Phật bảo Bồ-tát và bốn chúng trời người: –Ta ở trong vô lượng kiếp về quá khứ cầu kinh Pháp Hoa không biếng nhác, ở trong nhiều kiếp thường làm Pháp vương phát nguyện cầu Vô thượng Bồ-đề, tâm không thoái chuyển vì muốn đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật, chuyên cần hành trì bố thí, tâm không luyến tiếc; bố thí voi ngựa, bảy báu, quốc thành vợ con, kẻ hầu hạ, đầu, mắt, tuỷ, não, thân thể, tay chân không tiếc thân mạng. Thuở ấy dân chúng sống lâu vô lượng, quốc vương vì cầu chính pháp nên bỏ ngôi vua, giao việc cai trị cho thái tử, đánh trống truyền lệnh cầu chính pháp khắp nơi: “Nếu ai có thể nói được pháp Đại thừa cho ta thì ta sẽ trọn đời cung cấp hầu hạ.” Khi ấy có vị Tiên nhân đến tâu vua: –Tôi có pháp Đại thừa tên Diệu Pháp Liên Hoa, nếu đại vương không trái ý tôi, tôi sẽ giảng thuyết. Vua nghe lời nói này vui mừng, hớn hở theo vị Tiên nhân cung cấp hầu hạ, hái trái, gánh nước, bửa củi, nấu ăn cho đến lấy thân làm giường nằm, mà thân tâm không mệt mỏi. Quốc vương phụng sự như vậy đến cả ngàn năm vì cầu chính pháp mà siêng năng hầu hạ không thiếu sót. Bấy giờ, muốn tuyên lại nghĩa trên nên Đức Thế Tôn nói kệ: Ta nhớ đời quá khứ Vì cầu pháp Đại thừa Tuy làm vua ở đời Không tham đắm năm dục. Đánh chuông trống bốn phương Ai có pháp Đại thừa Nếu giảng nói cho ta Thì ta sẽ hầu hạ. Khi ấy có vị Tiên Đến tâu với vua rằng Tôi có pháp vi diệu Thế gian rất hiếm có, Nếu người nào tu hành Ta sẽ giảng thuyết cho. Khi vua nghe Tiên nói Lòng rất đỗi vui mừng Liền theo vị Tiên ấy Cung cấp việc phải làm. Đốn củi và hái trái Tùy thời mà cung kính, Vì cầu pháp Đại thừa Thân tâm không mỏi mệt. Khắp vì các chúng sinh Chuyên cần cầu pháp lớn Cũng không vì thân mình Mà vui thích dục lạc. Nên dù làm quốc vương Vẫn siêng cầu đạo pháp, Mong đạt được Phật đạo Hôm nay nói cho ông. Phật bảo các Tỳ-kheo: –Quốc vương ấy chính là thân ta, vị Tiên nhân lúc ấy, nay là Đề-bà-đạt-đa. Nhờ Thiện tri thức Đề-bà-đạt-đa làm cho ta đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật Từ, Bi, Hỷ, Xả, ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp, thân sắc vàng tía, mười Trí lực, bốn pháp Vô úy, bốn Nhiếp pháp, mười tám pháp Bất cộng, đạo lực thần thông, thành bậc chính giác, độ khắp chúng sinh, tất cả công đức ấy đều nhờ Thiện tri thức Đề-bà-đạt-đa cả. Đức Phật bảo với bốn chúng: –Qua vô lượng kiếp về sau, Đề-bà-đạt-đa sẽ được thành Phật hiệu Thiên Vương Như Lai Ứng Cúng chính Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư Phật Thế Tôn. Cõi nước tên Thiên đạo, Phật Thiên Vương sống ở đời hai mươi trung kiếp, thuyết giảng Diệu pháp cho khắp chúng sinh, hằng hà sa chúng sinh chứng quả A-la-hán, vô lượng chúng sinh phát tâm Duyên giác, hằng hà sa chúng sinh phát tâm Vô thượng Bồ-đề, được pháp Vô sinh pháp nhẫn không thoái chuyển. Sau khi Phật Thiên Vương nhập Niết-bàn, chính pháp trụ đời hai mươi trung kiếp, dựng tháp bảy báu thờ xá-lợi Phật, tháp cao sáu mươi do-tuần, chu vi bốn mươi do-tuần. Trời người đều dùng các thứ hoa, hương xoa, hương đốt, hương bột, y phục, chuỗi ngọc, cờ phướn, dù lọng, âm nhạc để ca ngợi, đảnh lễ cúng dường tháp bảy báu ấy. Vô lượng chúng sinh được A-la-hán, vô lượng chúng sinh giác ngộ Bích-chi-phật. Vô lượng chúng sinh phát tâm Bồ-đề đến bậc không thoái chuyển. Phật bảo các Tỳ-kheo: –Trong đời vị lai nếu thiện nam, thiện nữ nào nghe kinh Diệu Pháp Liên Hoa này, nghe rồi tâm cung kính không còn nghi ngờ thì sẽ không rơi vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, được sinh ở trước các Đức Phật trong mười phương, nơi người ấy sinh ra thường được nghe kinh Pháp Hoa. Nếu được sinh vào trời người, hưởng được an vui tột bực. Nếu sinh ở trước Phật thì từ hoa sen hóa sinh. Khi ấy ở phương dưới, Bồ-tát theo hầu Phật Đa Bảo tên là Trí Tích bạch với Phật Đa Bảo: –Xin Như Lai nên trở về chỗ ở. Đức Thích-ca Mâu-ni bảo Bồ-tát Trí Tích: –Này thiện nam! Hãy đợi trong chốc lát, ở đây có Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi hãy gặp nhau để bàn luận về nghĩa vi diệu này, rồi mới trở về chỗ ở. Bấy giờ Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi ngồi hoa sen ngàn cánh lớn như bánh xe, các Bồ-tát ấy đến cùng ngồi hoa sen từ nơi cung rồng Ta-kiệt-la trong biển lớn tự nhiên vọt lên, trụ giữa hư không đến núi Linh thứu từ nơi hoa sen bước xuống đến cung kính đảnh lễ sát chân hai vị Thế Tôn, làm lễ xong đến chỗ Bồ-tát Trí Tích ân cần thăm hỏi ngồi qua một bên. Bồ-tát Trí Tích hỏi Bồ-tát Văn-thù: –Nhân giả qua đến cung rồng đã hóa độ được bao nhiêu chúng sinh? Văn-thù-sư-lợi đáp: –Số đó vô lượng không thể tính kể, chẳng phải dùng miệng để nói, chẳng thể dùng tâm để lường được, nhân giả hãy đợi trong chốc lát sẽ chứng biết. Bồ-tát Văn-thù chưa nói dứt lời, vô số Bồ-tát ngồi hoa sen báu từ biển vọt lên đến núi Linh thứu trụ giữa hư không. Các vị Bồ-tát này đều do Bồ-tát Văn-thù hóa độ, đầy đủ đạo hạnh Bồ-tát đều cùng nói sáu pháp Ba-la-mật. Những người trước kia là Thanh văn ở trong hư không nói hạnh Thanh văn thì hôm nay đều tu hành nghĩa không của Đại thừa. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói với Bồ-tát Trí Tích: –Sự giáo hóa của tôi ở trong biển là như vậy. Khi ấy Bồ-tát Trí Tích dùng kệ khen ngợi: Bậc trí đức mạnh mẽ Hóa độ vô lượng chúng, Ở trong hội chúng này Và ta đều đã thấy. Diễn nói nghĩa thật tướng Mở bày pháp nhất thừa, Độ khắp các chúng sinh Mau chóng thành Phật đạo. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: –Ta ở trong biển chỉ thường thuyết giảng kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Bồ-tát Trí Tích hỏi Bồ-tát Văn-thù: –Kinh này sâu xa rất vi diệu, quý báu nhất trong các kinh ở đời rất hiếm có. Nếu có chúng sinh siêng năng tinh tấn tu hành kinh này mau thành Phật không? Văn-thù-sư-lợi đáp: –Có con gái vua rồng Ta-kiệt-la mới tám tuổi có trí tuệ sáng suốt biết được hoàn toàn hạnh nghiệp, căn tính của chúng sinh được pháp Tổng trì, thuyết giảng tạng bí mật thâm sâu của chư Phật, đều có thể thọ trì, thâm nhập vào Thiền định hiểu rõ các pháp, trong một sát-na phát tâm Bồ-đề đều chứng đắc quả vị không thoái chuyển, biện tài vô ngại, thương yêu chúng sinh như con một đầy đủ công đức, tâm nghó, miệng giảng pháp nhiệm mầu rộng khắp, Từ bi nhân ái, tính tình hòa nhã, cô ấy có thể chứng được quả Bồ-đề. Bồ-tát Trí Tích nói: –Tôi thấy Đức Phật Thích-ca ở trong vô lượng kiếp làm những việc khó làm, tích lũy công đức, cầu đạo Bồ-đề chưa từng dừng nghó, quán sát tam thiên đại thiên thế giới dù chỉ bằng một hạt cải cũng là nơi Bồ-tát xả bỏ mạng để cứu độ chúng sinh, sau đó mới thành đạo Bồ-đề. Tôi chẳng tin Long nữ chỉ trong chốc lát mà chứng thành chính giác. Luận bàn chưa xong bỗng nhiên Long nữ này hiện ra trước cúi đầu đảnh lễ Đức Phật đứng qua một bên nói kệ khen ngợi: Thông suốt tướng tội phước Chiếu khắp cả mười phương, Pháp thân tịnh vi diệu Đầy đủ ba hai tướng, Dùng tám mươi vẻ đẹp Để trang nghiêm Pháp thân, Trời, Người và Long, Thần Tất cả đều cung kính. Hết thảy các chúng sinh Ai cũng đều tôn kính, Lại nghe chứng đạo quả Chỉ Phật mới biết được, Tôi nói pháp Đại thừa Giải thoát khổ chúng sinh. Bấy giờ Xá-lợi-phất bảo Long nữ: –Ngươi nói chẳng bao lâu chứng đạo Vô thượng việc ấy khó tin. Vì sao? Vì thân người nữ dơ uế chẳng phải pháp khí, làm sao có thể được Vô thượng Bồ-đề? Phật đạo cao xa, phải trải qua vô lượng kiếp chuyên cần khổ nhọc tích chứa công hạnh tu tập các pháp Ba-la-mật, sau đó mới thành được. Lại nữa thân nữ còn có năm điều chướng ngại không được làm vị Phạm thiên, Đế Thích, Ma vương, Chuyển luân thánh vương và không được làm Phật. Làm sao nói thân nữ mau được thành Phật? Khi ấy, Long nữ có một viên ngọc quý, giá trị bằng tam thiên đại thiên thế giới dâng lên Đức Phật, Ngài liền nhận. Long nữ nói với Bồ-tát Trí Tích và Tôn giả Xá-lợi-phất: –Con dâng cúng ngọc quý, Thế Tôn đã nhận việc này có mau không? Đáp: –Rất mau! Long nữ thưa: –Các vị dùng thần lực xem việc thành Phật của con còn mau hơn việc ấy. Ngay lúc đó cả hội đều thấy Long nữ bỗng nhiên biến thành nam tử, đủ hạnh Bồ-tát bay qua cõi Vô cấu ở phương Nam, ngồi hoa sen báu thành bậc chính giác, đủ ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp, diễn thuyết chính pháp cho tất cả chúng sinh trong mười phương. Khi ấy cõi Ta-bà hàng Bồ-tát, Thanh văn, Trời, Rồng, tám bộ chúng và Phi nhân từ xa thấy Long nữ thành Phật và nói pháp cho hàng trời, người trong chúng hội đó, tâm họ vui mừng từ xa cung kính đảnh lễ. Vô lượng chúng sinh nghe pháp đều ngộ, được quả vị không thoái chuyển, vô lượng chúng sinh được thọ ký thành Phật. Cõi nước Vô cấu chấn động sáu cách. Ở cõi Ta-bà ba ngàn chúng sinh an trú nơi quả vị không thoái chuyển. Ba ngàn chúng sinh phát tâm Bồ-đề và được thọ ký. Bồ-tát Trí Tích, Tôn giả Xá-lợi-phất và tất cả chúng hội im lặng tin nhận.  <詞 id="83085282">Phẩm 12: Khuyến Trì Bấy giờ, Đại Bồ-tát Dược Vương và Đại Bồ-tát Đại Nhạo Thuyết cùng với hai vạn Bồ-tát quyến thuộc đều đến trước phát lời nguyện: –Kính xin Thế Tôn đừng lo lắng. Sau khi Đức Phật diệt độ chúng con sẽ phụng trì đọc tụng, diến nói kinh điển. Vào đời ác sau này chúng sinh căn lành kém cỏi, nhiều kẻ tăng thượng mạn, tham lợi dưỡng cúng dường tăng thêm bất thiện, xa lìa đạo giải thoát, mặc dù khó giáo hóa nhưng chúng con sẽ phát khởi sức nhẫn lớn để đọc tụng, thọ trì, giảng nói, biên chép hiến cúng đầy đủ kinh này chẳng tiếc thân mạng. Bấy giờ trong chúng có năm trăm vị A-la-hán được thọ ký đồng thanh bạch Phật: –Bạch Thế Tôn chúng con đều phát nguyện. Ở các cõi khác cũng giảng thuyết kinh này. Lại có hàng Hữu học, Vô học tám ngàn người đã được thọ ký cũng từ chỗ ngồi đứng dậy chắp tay hướng về Phật liền phát nguyện: –Bạch Thế Tôn chúng con sẽ ở cõi khác giảng thuyết kinh này. Vì sao? Vì người trong cõi Ta-bà có nhiều điều xấu ác, có tăng thượng mạn, công đức mỏng manh, giận hờn, dua nịnh, tâm không chân thật. Lúc ấy dì của Phật là Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề cùng với sáu ngàn người Tỳ-kheo-ni Hữu học, Vô học từ chỗ ngồi đứng dậy nhất tâm chắp tay chăm chú chiêm ngưỡng tôn nhan của Phật. Đức Thế Tôn bảo Kiều-đàm-di: –Cớ sao nhìn Như Lai với vẻ ưu tư như vậy? Và nghó rằng: “Như Lai đã không nhắc đến tên Hiền giả để thọ ký đạo Vô thượng chính đẳng chính giác sao?” Này Kiều-đàm-di! Trước đây Như Lai đã nói tổng quát tất cả hàng Thanh văn đều được thọ ký. Hôm nay, Hiền giả muốn biết việc thọ ký ấy thì trong đời tương lai trong pháp hội của sáu vạn tám ngàn ức Đức Phật, Hiền giả sẽ làm vị đại Pháp sư và sáu ngàn Tỳ-kheo-ni Hữu học và Vô học đều làm Pháp sư như vậy. Dần dần đủ đạo hạnh Bồ-tát, Hiền giả sẽ làm Phật hiệu là Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến Như Lai, Ứng Cúng, chính Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Này Kiều-đàm-di! Đức Phật Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến và sáu ngàn Bồ-tát sẽ tuần tự thọ ký thành đạo Vô thượng chính đẳng chính giác. Khi ấy, thân mẫu La-hầu-la là Tỳ-kheo-ni Gia-thâu-đà-la nghó: “Trong sự thọ ký này sao lại không nói đến tên ta”. Đức Phật bảo Tỳ-kheo-ni Gia-thâu-đà-la: –Vào đời sau trong pháp hội của năm trăm vạn ức chư Phật, Hiền giả sẽ tu hạnh Bồ-tát, làm vị Đại Pháp sư dần dần đầy đủ Phật đạo ở trong cõi Thiện quốc thành Phật hiệu là Cụ Túc Thiên Vạn Quang Tướng Như Lai. Đức Phật đó sống lâu vô lượng a-tăng-kỳ kiếp. Khi ấy, Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề và Tỳ-kheo-ni Gia-thâu-đà-la cùng với quyến thuộc đều rất vui mừng được điều chưa từng có, ở trước Phật nói kệ: Thế Tôn Đạo Sư, An ổn trời người. Chúng con được nghe, Thọ ký an vui. Nói kệ xong các Tỳ-kheo-ni bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Chúng con cũng có thể ở cõi nước khác thuyết giảng kinh này. Bấy giờ, Đức Thế Tôn nhìn thấy tám mươi vạn ức na-do-tha các Đại Bồ-tát, những vị đó đều là bậc không thoái chuyển, có thể chuyển pháp luân không thoái được các pháp Tổng trì. Họ từ chỗ ngồi đứng dậy đến trước Phật nhất tâm chắp tay suy nghó: “Nếu Đức Thế Tôn khuyên bảo chúng ta giảng thuyết, giữ gìn kinh này thì chúng ta sẽ đúng như lời Đức Thế Tôn mà giảng thuyết kinh ấy.” Lại suy nghó: “Hôm nay Đức Thế Tôn im lặng mà chẳng dạy bảo, chúng ta phải làm sao?” Khi ấy các vị Bồ-tát thuận theo ý của Phật và muốn hoàn thành bản nguyện của mình nên ở trước Phật rống lên tiếng rống Sư tử phát nguyện: –Bạch Thế Tôn! Sau khi Như Lai diệt độ chúng con đi khắp thế giới mười phương, khiến cho chúng sinh biên chép kinh này thọ trì, đọc tụng, giảng nói ý nghĩa của kinh đúng như pháp tu hành, nhớ nghó đúng đắn như thế đều nhờ uy lực của Phật. Nguyện xin Thế Tôn dù ở phương xa vẫn chiếu cố che chở cho chúng con. Khi ấy, muốn tuyên lại nghĩa trên các Bồ-tát đồng thanh nói kệ: Cúi xin Phật chớ lo Sau khi Phật diệt độ Trong đời ác ghê sợ Chúng con sẽ giảng thuyết. Có những người vô trí Dùng lời ác mắng chửi Và dao gậy đánh đập Chúng con đều nhẫn nhục. Tỳ-kheo trong đời ác Trí tà tâm dua nịnh Chưa chứng cho là chứng Tâm ngã mạn đầy dẫy. Hoặc ở A-lan-nhã, Chỗ vắng mặc áo lượm, Tự cho hành chân đạo Khinh rẻ người thế gian. Vì tham đắm lợi dưỡng, Nói pháp cho bạch y, Được người đời cung kính, Như sáu thông La-hán. Người này lòng thâït ác, Thường nghó việc thế tục, Giả danh A-lan-nhã Ưa nói lỗi chúng con. Mà nói như thế này: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Vì tham đắm lợi dưỡng, Luận thuyết nghĩa ngoại đạo. Tự tạo kinh điển này, Lừa dối người thế gian, Vì muốn cầu danh tiếng Mà phân biệt kinh này. Thường ở trong đại chúng Mà hủy phá chúng con, Đến quốc vương, đại thần Bà-la-môn, Cư só. Và chúng Tỳ-kheo khác, Chê bai mắng xấu con Cho là người tà kiến, Luận thuyết nghĩa ngoại đạo. Chúng con cung kính Phật Đều nhẫn nhục tất cả Bị người ấy khinh rằng, Các ngươi đều là Phật. Bị khinh khi như vậy Con đều sẽ nhận chịu, Ở trong đời ác trược Có nhiều việc đáng sợ. Ác quỷ nhập vào thân Mắng chửi hủy nhục con, Chúng con kính tôn Phật Nên mặc áo nhẫn nhục. Vì để nói kinh này Nhẫn các việc khó khăn, Con không tiếc thân mạng Chỉ mến đạo Vô thượng. Chúng con ở đời sau Giữ gìn lời Phật dạy, Thế Tôn tự nên biết, Ác Tỳ-kheo đời trược, Không biết Phật phương tiện Tùy nghi để thuyết pháp, Mà nhíu mày nói ác Luôn luôn bị xua đuổi, Xa lìa nơi chùa tháp Các điều ác như vậy. Nhớ lời Phật dạy bảo Đều nhẫn nhục tất cả, Các xóm làng thành ấp Có ai cầu pháp Phật Con đều đến nơi đó Thuyết pháp Phật đã dạy. Con, sứ giả của Phật, Giữa chúng không sợ hãi. Con sẽ khéo nói pháp Xin Phật an lòng cho, Con ở trước Thế Tôn Chư Phật trong mười phương, Phát lời nguyện như vậy Xin Phật hiểu lòng con. Kinh thiêm phẩm diệu pháp liên hoa <卷 id="83085283">quyển 5 <詞 id="83085284">Phẩm 13: Hạnh An Lạc Bấy giờ, Đại Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Những Bồ-tát này thật là hiếm có, vì kính thuận Phật nên phát thệ nguyện lớn vào đời ác sau này sẽ hộ trì, đọc tụng, giảng nói kinh Pháp Hoa này. Bạch Thế Tôn! Vào đời ác sau này, Đại Bồ-tát làm thế nào để nói kinh này? Đức Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: –Vào đời ác sau này, Đại Bồ-tát nào muốn nói kinh này thì phải an trụ bốn pháp. Đó là an trụ Hành xứ, Thân cận xứ của Bồ-tát mới có khả năng diễn nói kinh này cho chúng sinh. Này Văn-thù-sư-lợi! Thế nào gọi là Hành xứ của Đại Bồ-tát? Nếu Đại Bồ-tát an trụ tâm nhẫn nhục, nhu hòa, tùy thuận, không thô bạo, tâm không kinh sợ, đối với pháp không phân biệt điều gì mà quán các pháp đúng như thật tướng, chẳng vin theo, chẳng phân biệt. Đó gọi là Hành xứ của Đại Bồ-tát. Thế nào gọi là Thân cận xứ của Đại Bồ-tát? Đại Bồ-tát không nên gần gũi vua chúa, không nên thân cận các ngoại đạo, Phạm chí, Ni-kiền Tử… và không nên thân cận những người trước tác, ca vịnh sách thế tục, người theo phái Lộ-già-da-đà và nghịch Lộ-già-da-đà, cũng không nên gần gũi những kẻ chơi bời, hung dữ, đâm nhau, chém nhau cùng bọn Na-la, những chỗ ăn chơi, cũng không nên gần gũi hạng Chiên-đà-la, những hạng người ác luật nghi, sống bằng nghề nuôi heo, dê, gà, chó, săn bắn, bắt cá. Nếu những người ấy đến Bồ-tát nên tùy nghi nói pháp chẳng mong cầu điều gì. Bồ-tát cũng không được thân cận, quan hệ với các Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni cầu hạnh Thanh văn. Nếu ở trong phòng, hoặc nơi kinh hành, hoặc trong giảng đường, Bồ-tát cũng không được sống chung với những người như vậy. Nếu khi họ đến, Bồ-tát tùy nghi nói pháp mà không mong cầu điều gì. Trước thân người nữ, Đại Bồ-tát không được sinh tướng dục tưởng và không nên ngắm nhìn mà nói pháp. Nếu vào nhà người, Bồ-tát không được nói chuyện riêng với thiếu nữ, thanh nữ, góa phụ, cũng không được kết thân với năm loại người chẳng phải nam. Không nên một mình đi vào nhà người, nếu có công việc một mình đi vào nhà người thì Bồ-tát cần phải nhất tâm niệm Phật. Nếu nói pháp cho người nữ thì không được cười để lộ răng, không được hở ngực, lưng, cho đến vì pháp còn không được kết thân huống chi là các việc khác. Bồ-tát không được nuôi thiếu niên, đệ tử Sa-di nhỏ tuổi, cũng không ưa sống chung với huynh đệ, phải thường ưa thích tọa thiền nơi thanh vắng thu nhiếp tâm mình. Văn-thù-sư-lợi! Đó là chỗ Thân cận thứ nhất của Đại Bồ-tát. Lại nữa, Đại Bồ-tát quán tất cả pháp là không, đúng như thật tướng, không điên đảo, không động, không thoái, không chuyển như hư không, không thực có biên giới, chấm dứt tất cả đường ngôn ngữ, chẳng sinh, chẳng xuất, chẳng khởi, vô sinh, vô tướng, thật không có sở hữu, vô số, vô biên, vô ngại, vô chướng, chỉ có nhân duyên mà có, từ điên đảo sinh nên nói thường lạc. Quán tướng của pháp như vậy, đó gọi là chỗ Thân cận thứ hai của Đại Bồ-tát. Khi ấy muốn tuyên lại nghĩa trên, Đức Thế Tôn nói kệ: Đời ác sau này Nếu có Bồ-tát Tâm không lo sợ Muốn nói kinh này Nên trụ Hành xứ Cùng Thân cận xứ. Thường tránh xa vua Và các vương tử Đại thần quan quyền, Người tính hung dữ Hạng Chiên-đà-la Ngoại đạo Phạm chí, Cũng không gần gũi Hàng tăng thượng mạn Chấp chặt Tiểu thừa; Người học ba tạng Tỳ-kheo phá giới Danh tự La-hán, Cùng Tỳ-kheo-ni Ưa thích vui chơi Say đắm năm dục, Muốn cầu diệt độ Các Ưu-bà-di Đều chớ gần họ. Nếu những người này Với tâm ý tốt, Đến chỗ Bồ-tát Vì nghe Phật đạo, Bồ-tát nên đem Tâm không sợ hãi Không chút mong cầu Nói pháp cho họ. Thanh nữ, góa phụ, Nam, chẳng phải nam Bồ-tát chớ gần, Làm người thân cận. Cũng chớ gần gũi Đao phủ đồ tể, Săn bắn, bắt cá Vì lợi giết hại, Bán thịt để sống Hạng buôn nữ sắc Những người như vậy Chớ nên gần gũi. Kẻ dữ đâm chém Những chỗ ăn chơi, Con gái bán hương Chớ thân cận họ. Đừng ở chỗ vắng Vì nữ nói pháp, Nếu lúc nói pháp Không được đùa giỡn, Vào làng khất thực Cùng một Tỳ-kheo Nếu đi một mình Phải luôn niệm Phật, Thì đây gọi là Hành xứ, Cận xứ. Dùng hai xứ này An lạc nói pháp, Không còn thực hành Pháp thượng, trung, hạ, Hữu vi, vô vi Pháp thật, không thật Cũng không phân biệt Là nam hay nữ, Chẳng đắc các pháp Chẳng biết, chẳng thấy, Chính đây gọi là Hành xứ Bồ-tát. Tất cả các pháp Không, không thật có, Không có thường trụ Cũng không sinh diệt, Người trí lấy đó Làm chỗ thân cận, Phân biệt điên đảo Vì pháp có, không Thật, hay chẳng thật, Sinh, hay chẳng sinh, Ở nơi thanh vắng Thu nhiếp tâm mình, An trụ bất động Như núi Tu-di. Quán tất cả pháp Thảy đều rỗng không, Giống như hư không Không có bền chắc, Chẳng sinh, chẳng xuất Chẳng động, chẳng chuyển, Thường trụ một tướng Gọi là Cận xứ. Ta diệt độ rồi Nếu có Tỳ-kheo Vào Hành xứ này Cùng Thân cận xứ, Thì khi nói kinh Không còn khiếp sợ. Có lúc Bồ-tát Vào trong tịnh thất, Nhớ lại thật đúng Theo nghĩa quán pháp, Xuất ra khỏi định Vì các quốc vương Vương tử, đại thần Hàng Bà-la-môn Chỉ dạy diễn bày Kinh Pháp Hoa này Tâm vẫn an ổn Không có khiếp sợ. Văn-thù-sư-lợi, Đó là Bồ-tát An trụ pháp đầu Đời sau khéo nói Kinh Pháp Hoa này. Này Văn-thù-sư-lợi! Sau khi Như Lai diệt độ, trong đời mạt pháp Bồ-tát muốn nói kinh này phải nên trụ nơi hạnh an lạc. Nếu khi đọc kinh, hoặc giảng thuyết thì không được nói lỗi của người và kinh, cũng không khinh chê các Pháp sư khác, không nói việc tốt, xấu, hay, dở của người khác, cũng không nêu danh, khen, chê việc làm tốt xấu của hàng Thanh văn, cũng không oán hận, hiềm khích họ. Vì khéo tu tâm an lạc như vậy nên không làm trái ý người nghe pháp. Nếu có vấn nạn thì không được dùng pháp Tiểu thừa đáp, nên lấy pháp Đại thừa giảng nói làm cho họ được Nhất thiết chủng trí. Khi ấy, muốn tuyên lại nghĩa trên, Đức Thế Tôn nói kệ: Bồ-tát thường vui An ổn nói pháp, Ở chỗ thanh tịnh Thiết lập tòa ngồi; Tắm rửa sạch sẽ Dùng dầu thoa thân, Mặc áo sạch đẹp Trong ngoài thanh tịnh, An tọa pháp tòa Đáp theo câu hỏi, Dùng nghĩa vi diệu Vui vẻ giảng nói, Cho các Tỳ-kheo Cùng Tỳ-kheo-ni, Hàng Ưu-bà-tắc Và Ưu-bà-di Quốc vương, vương tử, Quần thần, só, dân Nếu có nạn vấn Tùy nghĩa mà đáp, Bằng dụ, nhân duyên Diễn giảng rõ ràng. Dùng phương tiện này Khiến họ phát tâm, Ngày càng tăng tiến Vào nơi Phật đạo Trừ ý biếng nhác Cùng tâm uể oải Lìa các ưu não; Tâm từ nói pháp Thường luôn giảng thuyết Dạy đạo Vô thượng Dùng các nhân duyên, Vô lượng thí dụ Chỉ bày chúng sinh Khiến đều an vui. Quần áo, giường, ghế Vật thực, thuốc thang Với những vật ấy, Lòng chẳng mong cầu Chỉ nhất tâm nghó Vì việc nói pháp Nguyện thành Phật đạo Khiến chúng cũng vậy, Đây là lợi lớn An lạc cúng dường. Ta diệt độ rồi Nếu có Tỳ-kheo Khéo giảng nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Tâm không sân, ghét Không phiền não, chướng Cũng không ưu, buồn Mắng nhiếc người khác, Lại không sợ sệt Không dùng dao gậy Không đánh đuổi người Vì an trụ nhẫn, Người trí khéo tu Tâm mình như vậy Thường trụ an lạc Như ta đã dạy. Công đức người ấy Qua vạn ức kiếp, Tính kể thí dụ Nói không thể hết. Này Văn-thù-sư-lợi! Sau này vào giai đoạn cuối cùng, khi giáo pháp sắp hoại diệt, Đại Bồ-tát nào thọ trì, đọc tụng kinh này thì không nên có tâm ganh ghét, dối trá, cũng không được khinh chê, gièm pha, vạch tìm chỗ hay dở của người học Phật đạo. Nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, người cầu Thanh văn, cầu Bích-chi-phật, cầu đạo Bồ-đề, thì Đại Bồ-tát không được gây phiền nhiễu làm cho họ hoang mang bằng cách dùng lời nói: “Các ông cách đạo quá xa, không bao giờ đạt được Nhất thiết chủng trí.” Vì sao? Vì các ông là người buông lung, biếng nhác đối với đạo. Bồ-tát không nên hý luận, tranh cãi các pháp, nên khởi tâm Đại Bi đối với tất cả chúng sinh; đối với các Đức Như Lai nên xem như Đấng cha lành, đối với các Bồ-tát xem như Bậc Đạo Sư, thường phải nhất tâm cung kính lễ bái các Đại Bồ-tát ở khắp mười phương, bình đẳng nói pháp cho tất cả chúng sinh, vì tùy thuận pháp nên không nói nhiều cũng không nói ít cho đến đối với người rất ưa thích pháp cũng không được nói nhiều. Này Văn-thù-sư-lợi! Sau này vào giai đoạn cuối cùng, khi giáo pháp sắp hoại diệt, Đại Bồ-tát thành tựu hạnh an lạc thứ ba này nên khi nói pháp không ai có thể làm não loạn, được bạn bè tốt cùng đọc tụng kinh này, cũng được đại chúng đến lắng nghe, nghe rồi ghi nhớ, nhớ rồi có thể đọc tụng, tụng rồi có thể giảng nói, nói rồi có thể biên chép, hoặc sai người biên chép cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán dương kinh này. Đức Thế Tôn muốn thuyết lại nghĩa trên liền nói kệ: Nếu muốn nói kinh này Phải bỏ tâm sân, ghét, Cùng dối trá, kiêu mạn Thường tu hạnh ngay thẳng, Không khinh khi người khác Không hý luận về pháp, Không khiến người nghi ngờ Rằng họ không thành Phật. Phật tử này nói pháp Thường nhu hòa nhẫn nhục, Từ bi thương chúng sinh Không có tâm biếng nhác, Mười phương Đại Bồ-tát Thương chúng sinh hành đạo Phải sinh tâm cung kính Xem như Thầy của mình. Đối với các Đức Phật Tưởng như Đấng cha lành Phá tan tâm kiêu mạn Thuyết pháp không chướng ngại. Pháp thứ ba như vậy Người trí nên giữ gìn Nhất tâm an lạc hạnh Vô lượng chúng sinh kính. Văn-thù-sư-lợi! Đại Bồ-tát sau này vào đời cuối cùng, lúc giáo pháp sắp diệt, người nào thọ trì kinh Pháp Hoa này, có tâm đại Từ đối với hàng tại gia và xuất gia, có tâm Đại Bi đối với hàng không phải Bồ-tát, nên nghó thế này: “Những người như thế thì mất lợi lớn Đức Phật phương tiện tùy nghi nói pháp mà không nghe, không biết, không rõ, không hỏi, không tin, không hiểu người đó tuy không hỏi, không tin, không hiểu kinh này. Khi chứng Vô thượng Bồ-đề, bất luận người đó ở chỗ nào, ta cũng dùng thần lực, trí tuệ và sức thần thông dẫn dắt họ trụ vào pháp này.” Văn-thù-sư-lợi! Sau khi Như Lai diệt độ, Đại Bồ-tát nào thành tựu pháp thứ tư này, lúc nói pháp không nhầm lẫn, thường dạy các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Cận sự nam, Cận sự nữ, vua chúa, thái tử, quan lớn, nhân dân, Bà-la-môn, Cư só đều cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen, chư Thiên ở hư không vì nghe kinh này nên theo hầu. Nếu ở trong tụ lạc, thành ấp, rừng hoang chỗ vắng có người đến gạn hỏi thì chư Thiên vì pháp này thường hộ vệ người đó suốt ngày đêm, khiến người nghe rồi đều vui mừng. Vì sao? Vì kinh này được thần lực chư Phật ba đời giữ gìn. Văn-thù-sư-lợi! Kinh Pháp Hoa này ở trong vô lượng cõi cho đến danh tự cũng khó được nghe, huống chi được thấy, thọ trì, đọc tụng. Văn-thù-sư-lợi! Ví như vua Chuyển luân có uy lực lớn, muốn thâu phục các nước nhỏ bằng thế lực của mình, mà các vua nhỏ không tuân lệnh. Bấy giờ, vua Chuyển luân đem các binh chinh phạt, vua thấy binh chúng có công đánh giặc nên rất vui mừng, theo công ban thưởng, hoặc ban cho ruộng nhà, tụ lạc, thành ấp, cho y phục và vật trang sức nơi thân, hoặc cho các thứ trân bảo vàng bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, voi, ngựa, xe cộ, nô tỳ, nhân dân, chỉ viên ngọc minh châu trong búi tóc không cho. Vì sao? Vì riêng trên đỉnh vua mới có một viên ngọc này, nếu đem cho đi thì các quyến thuộc vua rất kinh hoàng. Văn-thù-sư-lợi! Như Lai cũng như vậy, nhờ năng lực thiền định, trí tuệ nên được quốc độ chính pháp, làm vua trong ba cõi, mà các ma vương không chịu khuất phục nên các tướng Hiền thánh của Như Lai cùng ma đánh nhau, người nào có công, tâm cũng rất vui mừng. Phật ở trong bốn chúng nói các kinh làm cho họ vui mừng, liền ban những tài sản về các pháp thiền định, giải thoát, căn lực vô lậu; lại ban cho thành Niết-bàn, nói đã diệt độ để dẫn dắt tâm họ, làm cho đều hoan hỷ nhưng không nói kinh Pháp Hoa này. Văn-thù-sư-lợi! Như vua Chuyển luân thấy người có công lao lớn trong các binh chủng nên rất vui mừng, đem ngọc minh châu này khó tin từ lâu ở trong búi tóc không tùy tiện cho người, mà đem cho họ. Như Lai cũng vậy, là Bậc Đại Pháp Vương trong ba cõi, đem pháp nhiệm mầu giáo hóa chúng sinh, thấy các Hiền thánh cùng ma năm ấm, ma phiền não, ma chết đánh nhau có công lao lớn, diệt trừ ba độc, phá lưới ma ra khỏi ba cõi. Bấy giờ, Như Lai rất vui mừng, đối với kinh Pháp Hoa này khiến cho chúng sinh đạt Nhất thiết trí, mà tất cả thế gian phần nhiều thù oán khó tin được, trước đây chưa nói mà nay mới nói. Văn-thù-sư-lợi! Kinh Pháp Hoa này là lời dạy bậc nhất của Như Lai, vi diệu nhất trong các lời dạy, sau cùng mới ban cho; như vua Chuyển luân có uy lực lớn, từ lâu đã gìn giữ viên ngọc minh châu nay mới đem ban cho. Văn-thù-sư-lợi! Kinh Pháp Hoa này là kho tàng pháp bí mật của các Đức Như Lai, là trên hết trong các kinh, gìn giữ từ lâu, không tùy tiện nói ra, bắt đầu từ hôm nay mới giảng dạy cho các ông. Bấy giờ, muốn nói lại nghĩa trên Đức Thế Tôn nói kệ: Thường hành nhẫn nhục Thương xót tất cả, Mới diễn nói được Kinh Phật khen ngợi. Vào đời sau cùng Người trì kinh này, Tại gia, xuất gia Chẳng phải Bồ-tát, Nên sinh Từ bi Những người không nghe, Chẳng tin kinh này Thì mất lợi lớn. Ta thành Phật đạo Dùng các phương tiện, Nói về pháp này; Khiến trụ trong pháp Như vua Chuyển luân Sức lực mạnh mẽ Tướng chiến có công Ban thưởng các vật, Voi, ngựa, xe cộ Đủ thứ trang sức Cùng với ruộng nhà Thôn xóm, thành ấp; Hoặc cho y phục Những vật quý báu, Nô tỳ, của cải Vui vẻ ban cho. Người có sức mạnh Làm được việc khó, Vua cho ngọc quý Từ trong búi tóc. Như Lai cũng vậy Là vua các pháp, Có sức nhẫn lớn Kho báu trí tuệ Đem đại Từ bi Như pháp độ đời. Thấy các chúnh sinh Chịu nhiều khổ não, Muốn cầu giải thoát Đánh nhau với ma, Phật vì chúng sinh Nói đủ các pháp Dùng nhiều phương tiện Giảng nói các kinh. Đã biết chúng sinh Có sức mạnh rồi, Đời sau mới nói Kinh Pháp Hoa này. Như vua lấy ngọc Trong búi tóc cho, Kinh này tôn quý Trên hết các kinh, Ta thường giữ gìn Không tùy tiện dạy. Nay chính đúng lúc Nói cho các ông, Ta diệt độ rồi Người cầu Phật đạo, Muốn được an ổn Giảng nói kinh này Phải nên gần gũi Bốn pháp như vậy. Người đọc kinh này Thường không sầu não, Bệnh tật, đau khổ Nhan sắc đẹp đẽ, Không bị bần cùng Thấp hèn, xấu xí Chúng sinh thích nhìn Như mến Hiền thánh Đồng tử cõi trời Làm kẻ sai khiến Không bị dao gậy Độc dữ làm hại Nếu người muốn mắng Miệng không nói được, Tự do đi lại Như Sư tử chúa Trí tuệ sáng suốt Như mặt trời chiếu, Dù ở trong mộng Thấy việc nhiệm mầu Thấy các Như Lai Ngồi tòa Sư tử Cùng chúng Tỳ-kheo Vây quanh nghe pháp. Lại thấy Rồng, Thần Cùng A-tu-la Như cát sông Hằng Cung kính chắp tay, Tự thấy chính mình Được nghe thuyết pháp. Lại thấy chư Phật Thân màu hoàng kim, Phóng vô lượng quang Chiếu khắp tất cả Dùng tiếng Phạm âm Diễn nói các pháp. Phật vì bốn chúng Nói pháp Vô thượng Thấy mình trong đó Chắp tay khen Phật Nghe pháp vui mừng. Nhờ cúng dường Phật Được Đà-la-ni, Chứng trí không thoái Phật biết tâm họ Vào sâu Phật đạo, Liền thọ ký cho Thành Tối chính giác. Thiện nam tử này! Ở đời vị lai Được vô lượng trí, Đạo lớn của Phật Cõi nước nghiêm tịnh Rộng lớn vô biên, Cũng có bốn chúng Chắp tay nghe pháp, Lại thấy thân mình Ở trong núi rừng, Tu tập pháp lành Chứng các thật tướng Vào sâu thiền định Thấy Phật mười phương. Thân Phật màu hoàng kim Tướng trăm phước trang nghiêm, Vì người nên nói pháp Thường có mộng lành đó. Lại mộng làm quốc vương Bỏ cung điện quyến thuộc Cùng năm dục thượng hạng, Đi đến nơi đạo tràng Ở dưới cội Bồ-đề Ngồi trên tòa Sư tử Cầu đạo qua bảy ngày Được trí của chư Phật. Chứng đạo Vô thượng rồi Bắt đầu chuyển pháp luân, Nói pháp cho bốn chúng Qua ngàn vạn ức kiếp, Nói diệu pháp vô lậu Độ vô lượng chúng sinh, Sau mới nhập Niết-bàn Như đèn tắt, khói hết, Nếu trong đời ác sau Nói pháp đệ nhất này Người đó được lợi lớn Các công đức như trên.  <詞 id="83085285">Phẩm 14: Từ đất vọt lên Bấy giờ, các vị Đại Bồ-tát đông hơn số cát sông Hằng từ cõi nước phương khác đến, ở trong đại chúng chắp tay làm lễ bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Cho phép chúng con sau khi Phật diệt độ, ở thế giới Ta-bà nỗ lực siêng năng hộ trì người đọc tụng, biên chép, cúng dường sẽ ở lại đây rộng giảng kinh điển này. Khi đó, Đức Phật bảo các chúng Đại Bồ-tát: –Thôi đi thiện nam! Chẳng cần các ông hộ trì kinh này. Vì sao? Vì ở thế giới Ta-bà đã có sáu vạn hằng hà sa các Đại Bồ-tát. Mỗi Bồ-tát đều có sáu vạn hằng sa quyến thuộc, những người này có thể sau khi Như Lai diệt độ, giữ gìn đọc tụng giảng nói kinh này. Lúc Phật nói lời đó rồi tam thiên đại thiên cõi nước ở thế giới Ta-bà, mặt đất đều chấn động. ở trong đó có vô lượng ngàn vạn ức Đại Bồ-tát cùng lúc vọt lên. Thân các vị ấy đều có sắc vàng, đủ ba mươi hai tướng tốt cùng vô lượng ánh sáng. Trước đây các vị ấy đều ở dưới cõi Ta-bà, cõi ấy trụ giữa hư không. Các vị Bồ-tát nghe tiếng nói của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni từ dưới cõi Ta-bà đến. Mỗi vị Bồ-tát đều là bậc Thượng thủ trong chúng, đều đem theo sáu vạn hằng sa quyến thuộc, có vị đem năm vạn, bốn vạn, ba vạn, hai vạn, một vạn hằng hà sa quyến thuộc, có vị chỉ đem một hằng hà sa, nửa hằng hà sa, một phần tư hằng hà sa cho đến một phần trong ngàn vạn ức na-do-tha quyến thuộc, có vị đem ngàn vạn ức na-do-tha quyến thuộc, có vị đem ức vạn quyến thuộc, có vị đem ngàn vạn trăm vạn cho đến một vạn quyến thuộc, huống chi đem một ngàn, một trăm cho đến mười quyến thuộc. Có vị đem năm, bốn, ba, hai, một đệ tử, huống chi có vị chỉ một mình ưa hạnh viễn ly. Các vị này nhiều vô lượng, vô biên, dùng toán số ví dụ cũng không thể biết được. Các vị Bồ-tát này từ đất vọt lên đều đến chỗ tháp đẹp bảy báu trụ giữa hư không của Đức Phật Đa Bảo Như Lai và Đức Phật Thích-ca Mâu-ni. Đến rồi hướng về hai vị Thế Tôn cúi đầu làm lễ dưới chân và đến chỗ các Đức Phật ngồi trên tòa Sư tử dưới cội cây báu, cũng đều làm lễ, nhiễu quanh bên phải ba vòng chắp tay cung kính, dùng các pháp tán thán của Bồ-tát mà ngợi khen Phật rồi đứng qua một bên, ưa muốn chiêm ngưỡng hai Đấng Thế Tôn. Từ lúc các Đại Bồ-tát này từ dưới đất vọt lên, dùng các pháp khen ngợi của Bồ-tát mà khen ngợi Phật, trong thời gian ấy trải qua năm mươi tiểu kiếp. Lúc này, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ngồi im lặng và bốn chúng cũng dều im lặng suốt năm mươi tiểu kiếp. Do thần lực của Phật khiến các đại chúng xem như nửa ngày. Bấy giờ bốn chúng cũng nhờ thần lực của Phật nên thấy hàng Bồ-tát đầy khắp vô lượng trăm ngàn vạn ức cõi nước hư không. Trong chúng Bồ-tát ấy có bốn vị Đạo sư: 1. Thượng Hạnh. 2. Vô Biên Hạnh. 3. Tịnh Hạnh. 4. An Lập Hạnh. Bốn vị Bồ-tát này đều là bậc Thầy thượng thủ dẫn đường tối thắng nhất ở trong đại chúng. Ở trước đại chúng họ đều chắp tay, nhìn Phật Thích-ca Mâu-ni và thăm hỏi: –Bạch Thế Tôn! Thế Tôn có ít bệnh, ít não, an vui chăng? Những người đáng độ giáo hóa dễ chăng? Chẳng làm Thế Tôn sinh mệt mỏi chăng? Lúc ấy, bốn vị Bồ-tát nói kệ: Thế Tôn an vui Ít bệnh, ít não Giáo hóa chúng sinh Không có mỏi mệt. Các hàng chúng sinh Thọ giáo dễ chăng? Chẳng làm Thế Tôn Sinh mỏi mệt chăng? Bấy giờ, ở giữa hàng đại chúng Bồ-tát, Đức Thế Tôn nói: –Đúng vậy, này thiện nam! Như Lai an vui, ít bệnh, ít não, hóa độ hàng chúng sinh dễ dàng không có mệt mỏi. Vì sao? Vì các chúng sinh từ nhiều đời đến nay thường được ta dạy bảo, cũng từng ở nơi chư Phật quá khứ cúng dường, tôn trọng trồng các căn lành. Các chúng sinh này vừa mới thấy ta, nghe ta nói pháp liền tin thọ trì vào trong trí tuệ của Như Lai, trừ người trước đây đã tu tập học hạnh Tiểu thừa, những người như vậy; nay ta cũng khiến được nghe kinh này vào trong trí tuệ của Phật. Lúc ấy, các vị Bồ-tát nói kệ: Hay thay, hay thay Đại Hùng Thế Tôn! Các hàng chúng sinh Đều dễ hóa độ. Hay hỏi chư Phật Trí tuệ sâu xa Chúng con tùy hỷ Nghe rồi vâng làm. Khi ấy, Đức Thế Tôn khen ngợi các vị Đại Bồ-tát Thượng thủ: –Lành thay, lành thay, này thiện nam! Các ông có thể đối với Như Lai mà phát tâm tùy hỷ. Bồ-tát Di-lặc và tám ngàn hằng ha sa chúng Bồ-tát, đều nghó: “Chúng ta từ xưa đến nay chẳng thấy, chẳng nghe, các chúng Đại Bồ-tát như vậy từ đất vọt lên đứng trước Thế Tôn, chắp tay cúng dường, thăm hỏi Như Lai.” Bấy giờ, biết tâm niệm của tám ngàn hằng sa các Bồ-tát và muốn giải quyết sự nghi ngờ của mình, Đại Bồ-tát Di-lặc chắp tay hướng về Phật, dùng kệ hỏi: Vô lượng ngàn vạn ức Các đại chúng Bồ-tát Từ xưa chưa từng thấy Xin Thế Tôn giảng nói. Họ từ chỗ nào đến Do duyên gì vân tập? Thân lớn đại thần thông Trí tuệ chẳng nghó bàn, Chí niệm rất bền vững Có sức nhẫn nhục lớn Cảnh chúng sinh ưa thấy Là từ chốn nào đến? Mỗi mỗi hàng Bồ-tát Đem theo các quyến thuộc Số ấy không thể lường Nhiều như cát sông Hằng Hoặc có Đại Bồ-tát Đem sáu vạn hằng sa Các đại chúng như thế Nhất tâm cầu Phật đạo. Các Đại sư như vậy Có sáu vạn hằng sa Đều đến cúng dường Phật Cùng hộ trì kinh này. Đem năm vạn hằng sa Số này hơn số kia Bốn vạn hoặc ba vạn Hai vạn đến một vạn, Một ngàn hay một trăm Cho đến một hằng sa Nửa hoặc ba bốn phần Một phần trong ức vạn, Ngàn vạn na-do-tha Vạn ức các đệ tử Cho đến trong nửa ức Lại nhiều hơn số trên. Trăm vạn đến một vạn Một ngàn hoặc một trăm Năm mươi cùng một mươi Cho đến ba, hai, một, Một mình không quyến thuộc Ưa thích ở chỗ vắng Đều đến chỗ Thế Tôn Số này nhiều hơn trên. Các đại chúng như thế Nếu người phát thẻ đếm Trải qua hằng sa kiếp Còn không thể biết được, Các vị oai đức lớn Chúng Bồ-tát tinh tấn Ai thuyết pháp cho chúng Giáo hóa được thành tựu Theo vị nào phát tâm Khen ngợi Phật pháp nào Tu hành thọ kinh gì? Tu tập Phật đạo nào? Các Bồ-tát như thế Thần thông trí lực lớn Đất bốn phương rúng nứt Đều từ đó vọt lên. Thế Tôn, con từ xưa Chưa từng thấy điều này Xin nói từ đâu đến Danh hiệu cõi nước kia; Con thường qua các nước Chưa từng thấy chúng này, Con ở trong chúng đây Không biết được một người. Bỗng nhiên từ đất lên Xin nói rõ lý do Nay trong đại chúng đây Vô lượng trăm ngàn ức, Các chúng Bồ-tát này Đều muốn biết việc đây Gốc ngọn và nhân duyên, Của chúng Bồ-tát kia Thế Tôn đức vô lượng Xin giải rõ tâm nghi. Lúc ấy, các Hóa thân của Phật Thích-ca Mâu-ni từ vô lượng ngàn vạn ức cõi nước phương khác đến, đang ngồi kiết già trên tòa Sư tử dưới các cây báu khắp trong bốn phương. Thị giả của các Đức Phật ấy cũng thấy đại chúng Bồ-tát từ dưới đất vọt lên trụ giữa hư không. Ở khắp bốn phương trong tam thiên đại thiên thế giới, các thị giả liền bạch các Đức Phật: –Bạch Thế Tôn! Vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ đại chúng Bồ-tát này từ chỗ nào đến. Lúc ấy, chư Phật bảo các thị giả: –Này các thiện nam! Hãy đợi chốc lát, có Đại Bồ-tát Di-lặc, được Phật Thích-ca Mâu-ni thọ ký, kế đến sẽ thành Phật, đã thưa hỏi việc này, nay Đức Phật sẽ giải đáp, các ông nhân đó được nghe. Bấy giờ, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni bảo Bồ-tát Di-lặc: –Lành thay, lành thay! Ông có thể hỏi việc lớn như vậy. Các ông phải cùng nhau nhất tâm, mặc áo giáp tinh tấn, phát sinh tâm vững chắc, nay Như Lai muốn hiển bày trí tuệ, diệu lực thần thông tự tại của Phật, sức mạnh hùng tráng sư tử của chư Phật và uy lực dũng mãnh của chư Phật. Muốn tuyên lại nghĩa trên, Thế Tôn nói kệ: Ta sẽ nói việc này Phải tinh tấn nhất tâm, Chớ sinh tâm nghi ngờ Trí Phật khó luận bàn, Ông phải có sức tin Khéo ghi nhận rõ ràng, Xưa chưa từng nghe pháp Nay đều, sẽ được nghe. Ta an ủi các ông Chớ nên hoài nghi sợ Lời Phật nói chân thật Trí tuệ không thể lường. Phật chứng pháp đệ nhất Thâm sâu khó phân biệt Ta sẽ nói như vậy Các ông nhất tâm nghe. Nói kệ rồi, Thế Tôn bảo Bồ-tát Di-lặc: –Nay ta ở trong đại chúng này, giải đáp cho các ông và Bồ-tát Di-lặc, vô lượng, vô biên, vô số a-tăng-kỳ các vị Đại Bồ-tát này, từ dưới đất vọt lên, xưa các ông chưa từng thấy, ta ở trong cõi Ta-bà đã chứng đạo quả Vô thượng Bồ-đề, chỉ dạy Bồ-tát ấy điều phục tâm và phát khởi tâm Bồ-đề, các Bồ-tát đó, ở trong thế giới dưới Ta-bà, trụ giữa hư không, đọc tụng kinh điển thông suốt, suy nghó rõ ràng, ghi nhớ chân chính. Di-lặc! Các thiện nam này, không thích ở chỗ đông người, náo nhiệt, thường thích ở chỗ thanh vắng, siêng tu tinh tấn, chưa từng nghó ngợi, cũng không ở chung với các chư Thiên và loài người, thường thích trí tuệ sâu xa không chướng ngại, thích pháp của chư Phật, nhất tâm tinh tấn cầu trí tuệ vô thượng. Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên nói kệ: Di-lặc ông nên biết Các Đại Bồ-tát này Đã từng vô số kiếp Tu tập trí tuệ Phật, Đều nhờ ta giáo hóa Khiến phát đạo tâm lớn. Các ông là con ta Ở trong thế gian này Thường tu hạnh Đầu-đà Rất thích chỗ thanh vắng, Xa lánh nơi ồn náo Không ưa nói nhiều chuyện Những người con như vậy Học tập đạo pháp ta. Ngày đêm thường tinh tấn Vì muốn cầu Phật đạo, Đứng ở giữa hư không Dưới thế giới Ta-bà, Sức chí niệm vững chắc Thường siêng cầu trí tuệ Nói đủ các diệu pháp Tâm không còn lo sợ. Ta ở thành Già-da Ngồi dưới cội Bồ-đề, Thành tựu chính đẳng giác Chuyển pháp luân vô thượng, Mới giáo hóa cho họ Khiến phát được đạo tâm, Nay đều trụ không thoái. Tất cả sẽ thành Phật. Nay ta nói lời thật Các ông một lòng tin, Đã từ vô số kiếp Ta giáo hóa chúng này. Bấy giờ, Đại Bồ-tát Di-lặc và vô số các Bồ-tát sinh tâm nghi ngờ, việc lạ chưa từng có, rồi suy nghó: “Thế Tôn làm sao chỉ trong một thời gian ngắn mà có thể giáo hóa vô số, vô biên a-tăng-kỳ các Đại Bồ-tát như vậy, làm cho trụ trong đạo quả Vô thượng Bồ-đề.” Họ liền thưa Phật: –Bạch Thế Tôn! Như Lai từ khi còn là Thái tử, ra khỏi cung điện dòng họ Thích, cách thành Già-da không xa, ngồi ở đạo tràng, thành tựu đạo quả Vô thượng Bồ-đề, từ đó đến nay mới hơn bốn mươi năm. Bạch Thế Tôn! Làm sao trong thời gian ngắn đó Phật có thể dùng thần lực công đức giáo hóa vô lượng chúng Đại Bồ-tát thành tựu đạo quả Vô thượng Bồ-đề và làm được Phật sự lớn như vậy? Bạch Thế Tôn! Đối với chúng Đại Bồ-tát này, giả sử có người đếm một ngàn vạn ức kiếp, đếm mãi cũng không thể hết, cũng không cùng tận, các vị Bồ-tát đó đã từ lâu ở nơi vô lượng, vô biên cõi nước của chư Phật, trồng các căn lành, thành tựu đạo Bồ-tát thường tu tập phạm hạnh. Bạch Thế Tôn! Việc này như vậy, người đời khó tin. Ví như có người hai mươi lăm tuổi, tóc đen xinh đẹp, chỉ người trăm tuổi bảo đây là con ta, người trăm tuổi đó cũng chỉ người trẻ tuổi nói đây là cha ta đã sinh ra và nuôi dưỡng ta. Việc này khó tin! Phật cũng như vậy, từ khi thành đạo đến nay thật chưa bao lâu, cũng như các Bồ-tát trong đại chúng này, đã ở trong vô lượng ngàn vạn ức kiếp, vì muốn thành Phật đạo, nên nỗ lực tinh tấn, thường xuất nhập, trụ trăm ngàn vạn ức Tam-muội được thần thông vi diệu, tu tập phạm hạnh từ lâu, lần lượt khéo tu tập các pháp lành, rất giỏi hỏi đáp, là báu vật quý trong loài người, ở thế gian rất là hiếm có. Mà Thế Tôn lại bảo: “Khi ta được Phật đạo, bắt đầu khiến cho phát tâm rồi giáo hóa, chỉ đường cho họ hướng đến đạo quả Vô thượng Bồ-đề.” Bạch Thế Tôn! Thế Tôn thành Phật chưa bao lâu, mà đã làm các việc công đức vó đại như vậy. Tuy chúng con vẫn tin vào sự tùy cơ nghi của Ngài và lời Phật nói ra chưa từng hư dối, những điều Phật biết đều đã thông đạt, nhưng các Bồ-tát mới phát tâm, sau khi Phật diệt độ, nếu được nghe lời này có thể không tin nhận, nên sinh ra nhân duyên nghiệp tội phá pháp. Nguyện xin Thế Tôn giải thích trừ mối nghi ngờ cho chúng con và các thiện nam trong đời vị lai, nghe việc này rồi cũng không còn sinh nghi ngờ. Bấy giờ, Bồ-tát Di-lặc muốn tuyên lại nghĩa trên nói kệ: Xưa Phật dòng họ Thích Xuất gia gần Già-da Ngồi dưới cội Bồ-đề Cách nay còn chưa xa. Các Phật tử ở đây Số đông không thể lường, Từ lâu tu Phật đạo Trụ trí lực thần thông, Siêng học đạo Bồ-tát Không nhiễm pháp thế gian, Như hoa sen trong nước Từ dưới đất vọt lên, Đều sinh tâm cung kính Đứng ở trước Thế Tôn. Việc này khó nghó bàn Làm sao có thể tin? Phật chứng đạo chưa lâu Giáo hóa được nhiều người! Xin trừ nghi cho chúng Như thật nói rõ ràng, Ví như người còn trẻ Tuổi mới vừa hai lăm Chỉ người đã trăm tuổi Tóc bạc và mặt nhăn Là con của tôi sinh; Con cũng nói là cha Cha trẻ mà con già Thế gian không tin được! Thế Tôn cũng như vậy, Chứng đạo không bao lâu Các chúng Bồ-tát đây Chí vững không khiếp nhược, Đã từ vô số kiếp Tu hành đạo Bồ-tát. Khéo hỏi đáp điều khó Tâm họ không lo sợ tính nhẫn nhục quyết định, Xinh đẹp có đủ đức Mười phương Phật khen ngợi, Khéo giảng nói rõ ràng Không thích chỗ đông người Thường vui trong thiền định, Chỉ vì cầu Phật đạo Trụ ở hư không dưới. Chúng con nghe từ Phật Việc này không nghi ngại, Xin Phật vì đời sau Giảng nói cho hiểu rõ. Nếu có người không tin Sinh nghi ngờ kinh này, Sẽ bị đọa đường ác Nay xin Phật nói rõ. Vô lượng Bồ-tát này Sao trong thời gian ngắn Được giáo hóa phát tâm Chứng quả vị không thoái?  <詞 id="83085286">Phẩm 15: thọ lượng của Đức Phật Bấy giờ, Đức Phật bảo các Đại Bồ-tát và tất cả đại chúng: –Này thiện nam! Các ông phải tin hiểu lời nói chân thật của Như Lai! Lại bảo các đại chúng các ông nên tin hiểu lời nói chân thật của Như Lai! Khi ấy, Bồ-tát Di-lặc Thượng thủ trong đại chúng này chắp tay thưa Phật: –Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn chỉ dạy, chúng con sẽ tin nhận lời Phật dạy! Bạch như vậy ba lần, rồi lại nói: –Xin Thế Tôn chỉ dạy chúng con sẽ tin nhận lời Phật dạy! Lúc ấy Thế Tôn biết các Bồ-tát đã thưa thỉnh ba lần không ngừng nên bảo: –Các ông hãy lắng nghe diệu lực thần thông bí mật của Như Lai, tất cả Trời, Người và A-tu-la trong thế gian đều cho rằng: “Đức Phật Thích-ca Mâu-ni rời bỏ cung điện dòng họ Thích cách thành Già-da không xa, ngồi nơi đạo tràng, chứng được quả Vô thượng Bồ-đề.” Nhưng này thiện nam! Ta thật sự thành Phật đến nay đã vô lượng, vô biên, trăm ngàn vạn ức vô số a-tăng-kỳ tam thiên đại thiên thế giới. Giả sử có người đem cả thế giới ấy nghiền thành hạt bụi, đi về hướng Đông qua năm trăm ngàn vạn ức na-do-tha, vô số cõi nước mới thả xuống một hạt bụi. Lần lượt như vậy, đi về hướng Đông bỏ hết số bụi ấy. Này thiện nam! Ý các ông nghó sao? Các thế giới ấy có thể nào suy nghó, tính đếm mà biết được số lượng chăng? Bồ-tát Di-lặc và đại chúng cùng thưa Phật: –Bạch Thế Tôn! Các thế giới ấy vô lượng, vô biên chẳng phải tính đến mà biết được, cũng chẳng phải nhờ năng lực của tâm ý, tất cả hàng Thanh văn, Bích-chi-phật dùng trí tuệ vô lâu cũng không thể suy nghó được giới hạn số lượng của nó. Chúng con tuy là trụ trong quả vị không thoái chuyển, nhưng đối với việc này cũng không thể hiểu rõ. Bạch Thế Tôn! Các thế giới ấy nhiều vô lượng, vô biên như vậy. Bấy giờ, Đức Phật bảo chúng Đại Bồ-tát: –Này thiện nam! Nay ta sẽ nói rõ cho các ông biết. Những thế giới này, hoặc dù có đặt hạt bụi hay không đặt hạt bụi, số đó đều đem nghiền hết số thế giới ấy thành bụi, mỗi hạt bụi là một kiếp. Từ khi ta thành Phật đến nay còn nhiều hơn số này nữa đến trăm ngàn vạn ức na-do-tha, vô số kiếp. Ta thường ở thế giới Ta-bà này thuyết pháp, giáo hóa, cùng ở trong trăm ngàn vạn ức na-do-tha vô số cõi nước khác, dẫn dắt và làm lợi ích cho chúng sinh. Này thiện nam, ở trong khoảng thời gian ấy, ta nói về Phật Nhiên Đăng… lại nói vị ấy sẽ nhập Niết-bàn, những việc như vậy ta đều dùng phương tiện phân biệt mà nói. Này thiện nam! Nếu có chúng sinh đến chỗ ta, ta liền dùng Phật nhãn quán sát các căn lợi độn và niềm tin của người đó tùy theo căn cơ thích hợp mà hóa độ. Tại mỗi quốc độ, Như Lai tự nói danh hiệu khác nhau, tuổi tác lớn nhỏ khác nhau, lại nói sẽ nhập Niết-bàn, dùng các phương tiện nói pháp vi diệu, có thể khiến cho chúng sinh phát tâm vui mừng. Các thiện nam! Như Lai thấy các chúng sinh ưa thích pháp Tiểu thừa, đức mỏng tội dày, vì những người ấy mà nói rằng: “Ta lúc nhỏ xuất gia chứng được đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Nhưng thật sự ta thành Phật đến nay rất lâu xa, chỉ dùng phương tiện giáo hóa chúng sinh, làm cho họ được vào Phật đạo.” Các thiện nam! Kinh điển của Như Lai thuyết giảng đều vì độ thoát chúng sinh. Hoặc nói thân mình, hoặc nói thân người khác, hoặc chỉ thân mình, hoặc chỉ thân người khác, hoặc chỉ việc mình hoặc chỉ việc người khác, các lời nói ấy đều thật chẳng dối. Vì sao? Vì Như Lai như thật thấy biết tướng của ba cõi, không có sinh tử, hoặc ẩn hoặc hiện, cũng không ở đời và diệt độ. Chẳng thật chẳng hư, chẳng giống chẳng khác, không phải như ba cõi thấy về ba cõi đâu. Những việc như vậy, Như Lai đã thấy rõ không sai lầm, vì các chúng sinh có các tính, các dục, các hạnh, các nhớ tưởng phân biệt khác nhau, muốn họ sinh các căn lành nên đem nhiều nhân duyên, thí dụ, lời lẽ giảng nói các pháp, chưa từng ngừng bỏ làm các Phật sự. Như ta thành Phật đến nay rất lâu xa, sống lâu vô lượng, vô số kiếp, thường trụ chẳng diệt. Các thiện nam! Do ta xưa tu hành đạo Bồ-tát được tuổi thọ sống lâu đến nay vẫn chưa hết, số còn lại hơn cả số trên. Nhưng nay chẳng phải thật diệt độ mà nói sẽ diệt độ. Như Lai dùng phương tiện giáo hóa chúng sinh. Vì sao? Vì nếu Phật sống lâu ở đời, thì người đức mỏng, không trồng căn lành, kẻ bần cùng hạ tiện, tham đắm năm món dục, sa vào lưới vọng tà kiến, nếu thấy Như Lai ở đời mãi không nhập diệt thì kiêu mạn, buông lung, biếng nhác, không thể có tâm cung kính nhớ tưởng, khó gặp Phật. Cho nên Như Lai phương tiện nói các Tỳ-kheo phải biết, chư Phật xuất hiện ở đời rất khó gặp. Vì sao? Vì những người phước đức mỏng, trải qua vô lượng trăm ngàn vạn ức kiếp, hoặc được gặp Phật, hoặc không gặp Phật, do việc này nên ta nói như vầy: “Này các Tỳ-kheo! Rất khó gặp được Như Lai”. Các chúng sinh ấy nghe như vậy rồi, chắc sẽ sinh tư tưởng khó gặp được Phật, tâm thường luyến mộ khát ngưỡng đối với Phật, nên gieo trồng căn lành. Vì thế, Như Lai tuy không diệt độ thật mà nói diệt độ. Lại nữa, này thiện nam! Pháp của chư Phật Như Lai đều như vậy, vì độ chúng sinh đều nói thật không dối. Ví như vị thầy thuốc trí tuệ sáng suốt, luyện phương thuốc hay trị được nhiều bệnh, người đó nhiều con cháu, hoặc mười người, hai mươi người, cho đến số trăm, do có việc đi xa đến nước khác, sau đó các con uống nhằm thuốc độc, thuốc thấm vào phát sinh mê loạn, lăn lộn trên đất. Khi ấy, người cha từ nước xa trở về, thấy các con mình uống thuốc độc, hoặc người bị mất trí, hoặc người còn trí. Thấy cha từ xa về, họ đều vui mừng, quỳ lạy thăm hỏi cha an ổn trở về, chúng con ngu si uống lầm thuốc độc, xin cha cứu vớt ban cho mạng sống. Cha thấy các con khổ não như vậy, dựa theo bài thuốc tìm thảo dược tốt, đầy đủ mùi thơm vị ngon, đâm nghiền hòa chung đưa cho con uống, lại nói như vầy, loại thuốc hay này đầy đủ sắc hương vị thơm, các con nên uống, mau trừ khổ não, không còn bệnh hoạn. Trong những người con, có người không mất trí, thấy thuốc hay này sắc hương vị tốt liền lấy uống, nên hết bệnh ngay và người mất trí thấy cha mình về, tuy có vui mừng thăm hỏi, cầu xin trị bệnh, nhưng cha cho thuốc không chịu uống. Vì sao? Vì hơi độc ngấm nhiều, mất hẳn trí nhớ, thuốc hay vị ngon này mà cho đắng không chịu uống. Người cha suy nghó: “Những người con này thật đáng thương, bị trúng độc làm tâm điên đảo, tuy thấy ta, vui mừng cầu xin cứu chữa, nhưng không chịu uống thuốc hay này, nay ta nên bày cách khiến uống thuốc này.” Liền nói: “Các con nên biết, nay cha già yếu giờ chết sắp đến, thuốc hay này để ở đây, các con nên lấy uống chớ lo không hết bệnh.” Nói như vậy rồi, đi đến nước khác, ông ta sai người về nói lại, cha của các người đã chết, khi đó những người con nghe tin cha mất, tâm rất buồn rầu liền suy nghó: “Nếu cha còn sống thương xót chúng ta che chở cứu giúp, nay bỏ ta chết ở nước khác, chỉ còn một mình ta côi cút không còn chỗ cậy nhờ.” Thường nhớ nghó buồn rầu, tâm liền tỉnh ngộ, mới biết thuốc hay này mùi vị thơm ngon, bèn lấy uống, bệnh độc tiêu trừ. Người cha nghe các con đã được lành mạnh, liền trở về nhà để gặp chúng. Này các thiện nam! Ý ông nghó sao? Có người nào nói vị lương y này mắc tội nói dối chăng? –Không phải, bạch Thế Tôn! Phật bảo: –Ta cũng như vậy, thành Phật đến nay đã vô lượng, vô biên trăm ngàn vạn ức vô số a-tăng-kỳ kiếp, vì chúng sinh dùng sức phương tiện nói sẽ diệt độ, cũng không thể như pháp ấy mà nói ta đã có lỗi hư dối. Bấy giờ, muốn tuyên rõ sự việc trên, Thế Tôn nói kệ: Ta thành Phật đến nay Trải qua vô số kiếp Vô lượng trăm ngàn vạn A-tăng-kỳ ức năm, Thường nói pháp giáo hóa Vô số ức chúng sinh Khiến đi vào Phật đạo Đến nay vô lượng kiếp. Vì độ thoát chúng sinh Phương tiện hiện Niết-bàn Kỳ thật không diệt độ Thường ở đây nói pháp. Ta thường trụ ở đây Dùng diệu lực thần thông, Khiến chúng sinh điên đảo Dù gần nhưng không thấy. Họ thấy ta diệt độ Cúng dường xá-lợi Phật, Đều tỏ lòng luyến mộ Và sinh tâm khát ngưỡng. Chúng sinh đã tin phục Ý nhu hòa ngay thẳng, Nhất tâm muốn thấy Phật Chẳng tiếc thân mạng mình. Lúc ta cùng chúng Tăng Ra khỏi núi Linh thứu Ta nói với chúng sinh Thường ở đây không diệt. Nhờ dùng sức phương tiện Hiện diệt nhưng không diệt, Nước khác có chúng sinh Tâm cung kính tin nghe. Ta ở trong nước đó Giảng nói pháp Vô thượng Các ông không chịu nghe Cho rằng ta diệt độ. Ta thấy các chúng sinh Chìm đắm trong khổ não Cho nên không hiện thân Khiến chúng sinh khát ngưỡng, Do tâm họ luyến mộ Mới xuất hiện nói pháp Sức thần thông như vậy Trong a-tăng-kỳ kiếp. Thường ở núi Linh thứu Và các trụ xứ khác Chúng sinh ở kiếp tận Lúc lửa dữ thiêu đốt. Cõi ta đây an ổn Trời người luôn đông đủ Vườn rừng các giảng đường Trang nghiêm đủ các báu Cây báu nhiều hoa trái Chỗ chúng sinh vui chơi Chư Thiên đánh trống trời Thường thổi các âm nhạc; Rưới hoa Mạn-đà-la Cúng ta và đại chúng Tịnh độ ta không hoại Chúng sinh thấy thiêu đốt, Lo sợ các khổ não Những việc nhiều như vậy Là tội các chúng sinh Do nhân duyên nghiệp ác Qua a-tăng-kỳ kiếp Không nghe tên Tam bảo. Người nhu hòa ngay thẳng Nhờ tu các công đức Thì thấy được thân ta Giảng pháp ở nơi đây. Có khi vì chúng này Nói Phật sống vô lượng Lâu lắm mới gặp được Nói Phật rất khó gặp, Trí lực ta như vậy Tuệ sáng chiếu vô lượng Sống lâu vô số kiếp Tu hành lâu mới chứng Các ông người có trí Chớ sinh tâm nghi ngờ Nên đoạn hết không còn. Lời Phật không hư dối Như lương y phương tiện Trị bệnh cuồng cho con Đang sống mà nói chết Không nói ông hư dối Ta là cha trong đời Cứu chúng sinh khổ não Vì phàm phu điên đảo Đang sống mà nói diệt Nếu thường được thấy ta Thì sinh tâm kiêu mạn Buông lung tham năm dục Đọa vào trong đường ác Ta thường biết chúng sinh Hành đạo, chẳng hành đạo Tùy nói đáng được độ Mà nói các pháp môn. Tự mình nghó thế này “Lấy gì khiến chúng sinh Chứng đắc đạo Vô thượng Mau thành tựu thân Phật.”  <詞 id="83085287">Phẩm 16: phân biệt công đức Bấy giờ, sau khi tất cả chúng trong đại hội đã được nghe nói về kiếp số tuổi thọ dài lâu của Phật, vô lượng, vô biên, vô số chúng sinh được lợi ích lớn, như vậy, Đức Thế Tôn bảo Đại Bồ-tát Di-lặc: –Này A-dật-đa! Lúc ta nói tuổi thọ của Như Lai dài lâu, có sáu trăm tám mươi vạn ức na-do-tha hằng hà sa số chúng sinh, chứng pháp Nhẫn vô sinh, lại có gấp bội ngàn Đại Bồ-tát được môn Văn trì Đà-la-ni. Lại có vô số Đại Bồ-tát nhiều như số trong một thế giới được Nhạo thuyết biện tài vô ngại. Lại có vô số Đại Bồ-tát nhiều như số bụi trong một thế giới được trăm ngàn vạn ức vô lượng Triền Đà-la-ni. Lại có vô số Đại Bồ-tát nhiều như số bụi trong tam thiên đại thiên thế giới chuyển được pháp luân không thoái. Lại có vô số Đại Bồ-tát nhiều như số bụi trong hai ngàn quốc độ chuyển được pháp luân thanh tịnh. Lại có vô số Đại Bồ-tát nhiều như số bụi trong tiểu thiên quốc độ, còn tám đời nữa sẽ được Vô thượng Bồ-đề. Lại có vô số Đại Bồ-tát nhiều như số bụi gấp bốn lần của bốn châu thiên hạ, bốn đời sẽ được Vô thượng Bồ-đề. Lại có vô số Đại Bồ-tát nhiều như số hạt bụi gấp ba lần của bốn châu thiên hạ, ba đời sẽ được Vô thượng Bồ-đề. Lại có vô số Đại Bồ-tát nhiều như số hạt bụi gấp hai lần của bốn châu thiên hạ, hai đời sẽ được Vô thượng Bồ-đề. Lại có vô số Đại Bồ-tát nhiều như số bụi gấp bốn châu thiên hạ, một đời sẽ được Vô thượng Bồ-đề. Lại có vô số chúng sinh nhiều như số bụi tám thế giới đều phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Lúc Đức Phật nói các Đại Bồ-tát ấy được pháp lợi lớn, thì giữa hư không mưa hoa Mạn-đà-la, hoa Ma-ha mạn-đà-la rải trên vô lượng trăm ngàn vạn ức Đức Phật ngồi tòa Sư tử dưới cội cây báu và rãi trên Đức Phật Thích-ca Mâu-ni cùng Đức Phật Đa Bảo đã diệt độ từ lâu, đang ngồi tòa Sư tử trong tháp bảy báu, cũng rải trên tất cả các vị Bồ-tát và bốn bộ chúng. Lại nữa, hương bột Chiên-đàn trầm thủy… tung ở giữa hư không, trống trời tự kêu tiếng hay vang xa. Lại mưa ngàn thứ y trời, rủ xuống các chuỗi ngọc, chuỗi ngọc trân châu, chuỗi ngọc ma-ni, chuỗi châu như ý, ở khắp chín phương, các lò hương báu đốt hương vô giá, tự nhiên vây quanh cúng dường đại chúng. Trên mỗi Đức Phật có các Bồ-tát cầm phướn lọng, theo thứ lớp mà lên đến trời Phạm thiên. Các vị Bồ-tát ấy dùng âm thanh vi diệu, có vô lượng bài tụng khen ngợi các Đức Phật. Bấy giờ, từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa y bày vai phải, Bồ-tát Di-lặc chắp tay hướng về phía Phật nói kệ: Phật nói pháp hiếm có Từ xưa chưa từng nghe, Thế Tôn thần lực lớn Sống lâu không thể lường. Vô số các Phật tử Nghe Thế Tôn phân biệt, Nói được pháp lợi ấy Hoan hỷ tràn khắp thân. Có người trụ bất thoái Hoặc được Đà-la-ni, Hoặc Vô ngại nhạo thuyết Vạn ức Triền tổng trì. Hoặc vô số Bồ-tát Như số bụi đại thiên, Mỗi vị đều chuyển được Pháp luân không thoái chuyển. Lại có số Bồ-tát Như vi trần trung thiên, Mỗi vị đều chuyển được Các pháp luân thanh tịnh. Có Bồ-tát nhiều như Vi trần tiểu thiên giới, Còn dư tám đời nữa Sẽ được thành Phật đạo. Lại có số Bồ-tát Nhiều gấp bốn, ba, hai, Vi trần của bốn châu Theo số đời thành Phật. Lại có số Bồ-tát Như vi trần bốn châu, Còn dư có một đời Sẽ thành Nhất thiết trí. Hàng chúng sinh như thế Nghe Phật sống dài lâu, Được vô lượng vô lậu Phước báo rất thanh tịnh. Có chúng sinh nhiều như Vi trần tám thế giới, Nghe Phật nói thọ mạng Đều phát tâm Vô thượng. Thế Tôn nói vô lượng Pháp chẳng thể nghó bàn, Có được nhiều lợi ích Như hư không vô biên. Mưa hoa Mạn-đà-la Ma-ha mạn-đà-la, Thích, Phạm như hằng sa Vô số cõi Phật đến. Mưa Chiên-đàn, trầm thủy Xen nhau mà rơi xuống, Như chim bay không trung Rải cúng dường chư Phật. Trống trời giữa hư không Phát âm thanh vi diệu Ngàn vạn thứ áo trời Xoay chuyển mà rơi xuống. Các lò hương báu đẹp Đốt hương quý vô giá, Tự nhiên xông khắp nơi Cúng dường các Thế Tôn. Chúng Đại Bồ-tát ấy Cầm phướn lọng bảy báu, Vạn ức thứ cao đẹp Thứ lớp đến Phạm thiên; Trước mỗi mỗi Đức Phật Treo cờ báu phướn đẹp, Cũng dùng ngàn vạn kệ Ca vịnh khen Như Lai. Các sự việc như thế Từ xưa chưa từng có, Nghe Phật sống vô tận Tất cả đều vui mừng; Mười phương nghe tiếng Phật Lợi ích khắp chúng sinh, Tất cả đủ căn lành Trợ giúp tâm vô thượng. Bấy giờ, Phật bảo Đại Bồ-tát Di-lặc: –Này A-dật-đa! Chúng sinh nào nghe Phật sống lâu như vậy cho đến có thể sinh một niệm tin đúng thì được công đức không có hạn lượng. Trong tám mươi ức kiếp, thiện nam, thiện nữ nào vì đạo Vô thượng Bồ-đề mà tu năm pháp Ba-la-mật: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Thiền định ba-la-mật trừ Trí tuệ ba-la-mật, đem công đức này sánh với công đức trước thì không bằng một phần trong trăm phần, phần ngàn, trăm ngàn vạn ức phần, cho đến tính đếm thí dụ cũng chẳng biết được. Thiện nam nào có công đức như thế mà thoái thất nơi đạo Vô thượng Bồ-đề thì việc ấy không xảy ra. Bấy giờ, muốn lập lại nghĩa trên, Thế Tôn nói kệ: Người nào cầu tuệ Phật Trong tám mươi vạn ức, Na-do-tha số kiếp Tu năm Ba-la-mật. Ở trong các kiếp ấy Bố thí cúng dường Phật, Và Duyên giác đệ tử Cùng các chúng Bồ-tát Thức ăn quý sang trọng Y phục và ngọa cụ Tinh xá bằng chiên-đàn Và vườn rừng xinh đẹp, Bố thí các vật ấy Tất cả đều tốt đẹp, Tận cùng các số kiếp Để hồi hướng Phật đạo. Nếu giữ gìn cấm giới Thanh tịnh không thiếu sót, Mong cầu đạo Vô thượng Được chư Phật khen ngợi. Ai thực hành nhẫn nhục Đứng trên đất nhu hòa, Dầu bị người ác hại Tâm họ không lay động, Những người đắc pháp ấy Bị bọn tăng thượng mạn Khinh chê và quấy nhiễu Như thế đều nhẫn được. Hoặc siêng năng tinh tấn Chí niệm thường bền vững, Trong vô lượng ức kiếp Nhất tâm không biếng nhác; Ở trong vô số kiếp An trú nơi vắng vẻ Ngồi thiền hoặc kinh hành Trừ ngủ thường nhiếp tâm; Do các nhân duyên ấy Phát sinh các thiền định, Tám mươi ức vạn kiếp Tâm an trú không loạn; Đem phước thiền định này Mong cầu đạo Vô thượng Ta được Nhất thiết trí Tận cùng các thiền định. Người này trong trăm ngàn Vạn ức các số kiếp, Tu hành các công đức Như trên đã giảng giải. Có thiện nam, tín nữ Nghe ta nói tuổi thọ, Cho đến một niệm tin Phước đây hơn người trước, Nếu người nào không còn Tất cả các nghi ngờ Thân tâm tin chốc lát Phước ấy nhiều như thế. Nếu có các Bồ-tát Vô lượng kiếp hành đạo, Nghe ta nói tuổi thọ Thì có thể tin nhận, Các hạng người như thế Đảnh lễ thọ kinh ấy. Nguyện đời sau tu tập Sống lâu độ chúng sinh, Như Thế Tôn ngày nay Vua trong dòng họ Thích, Đạo tràng Sư tử hống Nói pháp không sợ hãi, Chúng ta đời vị lai Được mọi người tôn kính. Lúc ngồi ở đạo tràng Nói tuổi thọ cũng vậy, Nếu có người trong tâm Trong sạch và ngay thẳng, Học rộng và nhớ hết Theo nghĩa giải lời Phật, Những người như thế ấy Trong đây không có nghi. Lại nữa, này A-dật-đa! Người nào nghe Phật sống lâu mà chấp nhận lời nói đó thì người này được công đức không có hạn lượng, có thể phát sinh Tuệ vô thượng của Như Lai huống chi là người nghe nhiều kinh này hoặc dạy bảo cho người nghe, hoặc tự mình thọ trì, hoặc dạy người thọ trì, hoặc tự chép, hoặc dạy người chép, hoặc mang hương hoa, chuỗi ngọc, cờ phướn, lọng lụa, dầu thơm, đèn, nến cúng dường quyển kinh thì công đức của người ấy vô lượng, vô biên, có thể sánh với Nhất thiết chủng trí. Này A-dật-đa! Thiện nam, thiện nữ nào nghe ta nói tuổi thọ dài lâu, hết lòng tin chắc thì được thấy Đức Phật luôn luôn thuyết pháp ở trong núi Linh thứu, có chúng Đại Bồ-tát và hàng Thanh văn vây quanh. Lại thấy thế giới Ta-bà này, đất bằng lưu ly tự nhiên bằng phẳng vàng Diêm-phù-đề làm ranh giới tám con đường, cây báu giăng thành hàng, các lâu đài đều làm bằng châu báu, chúng Bồ-tát đều ở trong đó. Người nào quán được như vậy, phải biết đó là tướng tin hiểu rất sâu xa. Lại nữa, sau khi Như Lai diệt độ người nào nghe kinh này không chê bai mà có tâm tùy hỷ thì biết người này có tướng tin hiểu sâu xa huống chi là đọc tụng, thọ trì kinh này. Người ấy trước là đầu đội Đức Như Lai. Này A-dật-đa! Thiện nam, thiện nữ này không cần vì ta mà tạo dựng chùa tháp và làm nhà cho chúng Tăng, hoặc dùng bốn sự cúng dường để cúng dường chúng Tăng. Vì sao? Vì thiện nam, thiện nữ ấy thọ trì, đọc tụng kinh điển này là để tạo dựng tháp Phật và xây nhà cúng dường chúng Tăng thờ xá-lợi của Phật xây tháp bảy báu, cao rộng nhỏ dần lên đến cõi trời Phạm thiên, treo các phướn, lọng và các linh báu, hoa hương, chuỗi ngọc, hương bột, hương xoa, hương đốt, các trống, âm nhạc, ống tiêu, ống địch, đàn không hầu, các thứ ca múa dùng âm thanh vi diệu để ca ngâm khen ngợi Đức Phật thì ở trong vô lượng ngàn vạn ức kiếp đã làm việc cúng dường ấy rồi. Này A-dật-đa! Sau khi ta diệt độ, người nào nghe kinh này có khả năng thọ trì, hoặc tự mình chép, hoặc bảo người chép thì đã xây dựng nhà cho chúng Tăng, dùng gỗ Chiên-đàn để làm giảng đường, có ba mươi hai cơ sở, cao tám cây Đa-la, cao rộng trang nghiêm, đẹp đẽ, có trăm ngàn Tỳ-kheo ở trong đó, vườn rừng ao tắm, chỗ kinh hành, hang ngồi thiền, y phục thức ăn uống, giường, nệm, thuốc thang, tất cả đồ dùng đều đầy đủ ở trong đó, giảng đường của chúng Tăng có đến vô số, vô lượng trăm ngàn vạn ức dùng để cúng dường Phật và Tăng hiện tiền. Cho nên ta nói: “Sau khi Như Lai diệt độ, người nào thọ trì, đọc tụng vì người khác nói, hoặc tự mình chép hoặc bảo người khác chép, cúng dường quyển kinh thì không cần xây dựng chùa tháp và tạo lập nhà Tăng, cúng dường chúng Tăng. Huống chi có người thọ trì kinh này, mà còn tu hành Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ thì công đức ấy thù thắng vô lượng, vô biên. Ví như Đông, Tây, Nam, Bắc bốn phía, trên dưới vô lượng, vô biên, công đức của người đó cũng vô lượng, vô biên, mau đến bậc Nhất thiết chủng trí. Nếu có người thọ trì, đọc tụng kinh này, nói cho người khác, hoặc tự chép, hoặc bảo người chép, lại có thể xây dựng chùa tháp cùng tạo lập nhà Tăng cúng dường khen ngợi chúng Thanh văn, cũng dùng trăm ngàn vạn ức pháp khen ngợi mà khen ngợi công đức của Bồ-tát. Lại nói cho người khác bằng các thứ nhân duyên theo nghĩa giải nói kinh Pháp Hoa này, cho người khác, lại có thể thanh tịnh trì giới, ở chung cùng nhu hòa, nhẫn nhục không sân, chí niệm bền vững, thường quý ngồi thiền được các định thâm sâu, tinh tấn mạnh mẽ, nắm vững các pháp lành, lợi căn trí tuệ, trả lời đúng câu hỏi thông minh. A-dật-đa! Sau khi ta diệt độ nếu các thiện nam, thiện nữ nào thọ trì, đọc tụng kinh điển này và có các công đức lành như thế, phải biết người ấy đã đến đạo tràng gần quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác ngồi dưới gốc cây đạo. A-dật-đa! Chỗ nào thiện nam cùng thiện nữ đó hoặc ngồi, hoặc đứng hoặc kinh hành, nơi đó nên xây tháp, tất cả trời, người đều cúng dường như tháp của Phật. Bấy giờ, muốn tuyên lại nghĩa trên, Đức Thế Tôn nói kệ: Sau khi ta diệt độ Hay phụng trì kinh này Người đó phước vô lượng Như trên đã nói rõ. Đó thời là đầy đủ Tất cả các cúng dường, Vì xá-lợi xây tháp Bảy báu để trang nghiêm; Nơi thờ rất cao rộng Nhỏ dần đến Phạm thiên, Linh báu ngàn muôn ức Gió thổi vang tiếng hay. Lại trong vô lượng kiếp Mà cúng dường tháp đó Hương hoa; các chuỗi ngọc Y trời và âm nhạc; Thắp đèn dầu bơ thơm Thường chiếu sáng chung quanh Lúc đời ác mạt pháp Người hay trì kinh này Thời là đã đầy đủ Các cúng dường như trên. Nếu hay trì kinh này Thời như Phật hiện tại, Dùng Ngưu đầu chiên-đàn Dựng nhà Tăng cúng dường Nhà ba mươi hai tòa Cao tám cây Đa-la, Thức ăn, y phục tốt Giường nằm đều đầy đủ, Trăm ngàn chúng nương ở Vườn rừng các ao tắm, Chỗ kinh hành, ngồi thiền Các món đều nghiêm tốt, Nếu có lòng tin chắc Thọ trì, đọc tụng, biên Nếu lại bảo người chép Và cúng dường quyển kinh Rải hoa hương, hương bột Dùng Tu-mạn, Chiêm-bặc A-đề, Mục-da-đà Dùng dầu thơm để đốt, Người cúng dường như thế Được công đức vô lượng Như hư không vô biên Phước đó cũng như trên. Huống chi trì kinh này Gồm Bố thí, Trì giới Nhẫn nhục ưa thiền định Chẳng sân, chẳng ác khẩu, Cung kính nơi tháp miếu Khiêm hạ các Tỳ-kheo, Xa lìa tâm tự cao Thường nghó suy trí tuệ, Có gạn hỏi chẳng sân Tùy thuận mà giải nói Nếu làm được hạnh đó Công đức không thể lường. Nếu thấy Pháp sư này Thành tựu công đức ấy Phải dùng hoa trời rải Áo trời trùm thân kia, Đầu mặt lạy dưới chân Sinh lòng tưởng chư Phật. Lại nên nghó thế này Chẳng lâu đến đạo tràng Được vô lậu vô vi Lợi ích khắp trời người Chỗ ở của vị kia Kinh hành hoặc ngồi nằm, Cho đến nói một kệ Trong đây nên xây tháp Trang hoàng cho tốt đẹp, Bằng các loại cúng dường Phật tử dâng nơi này Là được Phật thọ dụng, Thường thường ở trong đó Kinh hành và ngồi nằm. KINH THIÊM PHẨM DIỆU PHÁP LIÊN HOA <卷 id="83085288">Quyển 6 <詞 id="83085289">Phẩm 17: Tùy Hỷ Công Đức Bấy giờ Đại Bồ-tát Di-lặc bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Nếu thiện nam, thiện nữ nào nghe kinh Pháp Hoa này mà tùy hỷ thì được bao nhiêu công đức? Rồi nói kệ rằng: Sau khi Phật diệt độ Người nào nghe kinh này Nếu sinh tâm tùy hỷ Được bao nhiêu công đức? Khi ấy, Phật bảo Đại Bồ-tát Di-lặc: –Này A-dật-đa! Sau khi Như Lai diệt độ, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di nào và những người có trí khác, hoặc lớn tuổi, trẻ tuổi khi nghe kinh này mà tùy hỷ, từ đạo tràng đi đến nơi khác, hoặc nơi nhà Tăng, hoặc chỗ vắng vẻ, hoặc thành ấp, đường sá, xóm làng, ruộng vườn như điều đã nghe tùy theo khả năng mà nói cho cha mẹ, bà con thân thuộc và bạn bè. Những người này nghe xong mà tùy hỷ nói lại cho người khác, người khác nghe xong tùy hỷ nói lại cho người khác nữa, tuần tự như thế đến người thứ năm mươi. –Này A-dật-đa! Công đức tùy hỷ của người thứ năm mươi, ta nói ông hãy lắng nghe! Nếu bốn trăm vạn ức a-tăng-kỳ thế giới, có sáu đường chúng sinh trong bốn loài: noãn sinh, thai sinh, thấp sinh, hóa sinh, hoặc có thân hình, không có thân hình, có tưởng, không có tưởng, chẳng phải có tưởng, chẳng phải không có tưởng, có loài không chân, hai chân, bốn chân, nhiều chân, có vô số chúng sinh như vậy, nếu có người nào cầu phước tùy theo sự mong muốn đem những vật ưa thích mà cung cấp đến mỗi chúng sinh như vàng bạc, lưu ly, xà cừ, mã não, san hô, hổ phách, các thứ ngọc quý và voi, ngựa, xe cộ, lầu đài, cung điện bằng bảy báu đầy cả cõi Diêm-phù-đề. Vị đại thí chủ bố thí như vậy suốt tám mươi năm và suy nghó: “Ta đã cho chúng sinh những thứ họ ưa thích, tùy theo ý muốn, nhưng chúng sinh này đều đã già yếu, tuổi quá tám mươi, tóc bạc da nhăn, mạng sống còn không lâu. Ta nên đem chính pháp của Phật mà dạy bảo họ.” Vị ấy liền tập hợp chúng sinh này lại để diễn thuyết chính pháp, chỉ dạy làm cho lợi ích, vui mừng, đồng thời mọi người đều được đạo quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, dứt trừ tất cả các lậu hoặc đối với các thiền định sâu xa đều được tự tại, đủ tám giải thoát. Ý ông nghó sao? Công đức của đại thí chủ đó có nhiều không? Bồ-tát Di-lặc bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Công đức của đại thí chủ ấy có nhiều vô lượng, vô biên, nếu vị thí chủ kia chỉ bố thí cho tất cả chúng sinh những vật ưa thích thì công đức vô lượng huống chi làm cho họ chứng quả A-la-hán. Phật bảo Bồ-tát Di-lặc: –Ta nói rõ cho ông. Như có người đem tất cả những vật ưa thích bố thí cho chúng sinh ở trong sáu nẻo nhiều đến bốn trăm vạn ức a-tăng-kỳ thế giới khiến cho họ được quả A-la-hán thì công đức của người đó không bằng công đức tùy hỷ của người thứ năm mươi chỉ nghe một bài kệ trong kinh Pháp Hoa, không bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn, một phần trăm ngàn vạn ức cho đến dùng tính toán ví dụ không thể biết được. Này A-dật-đa! Công đức do tùy hỷ tuần tự đến người thứ năm mươi nghe kinh Pháp Hoa đã vô lượng, vô biên, vô số như vậy, huống chi là người đầu tiên trong hội chúng mà tùy hỷ thì phước ấy còn hơn vô lượng, vô biên, vô số, không thể so sánh được. Này A-dật-đa! Người nào vì kinh này mà đến Tăng phường hoặc ngồi, đứng, nghe và lãnh hội chỉ trong chốc lát, nhờ công đức này sinh vào nơi khác, được voi, ngựa, xe cộ, kiệu, cáng, châu báu rất hảo hạng và ở cung trời. Người nào ngồi ở trong chỗ giảng pháp sau có người đến lại khuyến khích họ ngồi nghe hoặc chia chỗ ngồi cho họ thì công đức của người đó thân sau được ngồi chỗ trời Đế Thích hoặc ở chỗ Phạm vương hoặc chỗ Chuyển luân thánh vương. Này A-dật-đa! Người nào nói với người khác: “Có kinh Pháp Hoa nên cùng nhau đến nghe.” Nghe lời nói họ đến nghe trong chốc lát. Công đức của người đó qua thân sau cùng được sinh một chỗ với Bồ-tát Đà-la-ni, có trí tuệ thông minh, trăm ngàn vạn kiếp đều không bị câm ngọng, hơi miệng không hôi, lưỡi không bệnh hoạn, miệng không bị bệnh, răng không đen, không vàng, không thưa, không thiếu rụng, không lệch, không cong, môi không thừa ra, không ngắn vào, không thô rít, không mụt ghẻ, không khiếm khuyết, không cong vẹo, không dày, không lớn, không thâm đen, không có những tướng xấu. Mũi chẳng bị xẹp, chẳng bị cong gãy, sắc mặt chẳng đen, chẳng ốm dài, chẳng gãy, không có tất cả các tướng xấu, môi, lưỡi, răng, nướu tất cả đều đẹp đẽ, mũi thon cao thẳng, khuôn mặt tròn trịa, lông mày dài, cong, trán rộng bằng phẳng, tướng người đầy đủ, đời đời sinh ở đâu đều được gặp Phật, nghe pháp tin nhận lời dạy. Này A-dật-đa! Ông hãy xem khuyên một người đến nghe kinh mà công đức lớn như vậy huống chi là nhất tâm lắng nghe, nói, đọc tụng ở trong đại chúng vì người phân biệt đúng như lời dạy mà tu hành. Khi đó, để nói lại nghĩa trên Đức Thế Tôn nói kệ: Có người trong chúng hội Nghe được kinh điển này, Dầu chỉ một bài kệ Tùy hỷ dạy người khác, Tuần tự dạy cho nhau Đến người thứ năm mươi, Người cuối cùng được phước Ta sẽ nói rõ ra. Như có đại thí chủ Cung cấp vô lượng chúng, Trải qua tám mươi năm Tùy ý muốn người xin, Thấy tướng họ già nua Tóc bạc và da nhăn, Răng rụng, thân khô gầy Nghó họ sống không lâu Ta nên dạy bảo họ Khiến được chứng quả đạo. Liền dùng phương tiện nói Pháp Niết-bàn chân thật, Đời sống không bền chắc Như bọt, bóng, sóng, nắng. Các ông đều nên biết Mau sinh lòng nhàm chán Những người nghe pháp này Đều chứng quả La-hán Đầy đủ sáu thần thông Ba minh, tám giải thoát, Người năm mươi cuối cùng Nghe một kệ tùy hỷ Phước người này hơn kia Không thể ví dụ được. Tuần tự nghe như thế Phước ấy đã vô lượng Huống nữa trong pháp hội Người ban đầu nghe pháp, Nếu khuyên được một người Nghe được kinh Pháp Hoa, Nói kinh này nhiệm mầu Ngàn vạn kiếp khó gặp Liền vâng lời đến nghe Dầu chỉ trong chốc lát Phước báo của người ấy Ta sẽ nói rõ ra. Đời đời miệng không bệnh Răng không thưa vàng, đen, Môi không dày bị khuyết Không có các tướng xấu, Lưỡi không khô, đen, ngắn Mũi cao, thon và thẳng Trán rộng và bằng phẳng, Mắt, mặt đều xinh đẹp Người thấy đều ưa thích Miệng nói ra không hôi, Miệng thường tỏa mùi thơm Hương của hoa Ưu-bát Nếu đến nơi nhà Tăng Muốn nghe kinh Pháp Hoa Chốc lát nghe tùy hỷ, Phước đức của người ấy Sau sinh trong trời, người Được voi, ngựa, xe tốt Kiệu, cáng bằng châu báu Cùng ở cung điện trời. Nếu ở nơi giảng pháp Khuyên người ngồi nghe kinh, Nhân vì phước này được Tòa Thích, Phạm, Chuyển luân Huống chi nhất tâm nghe Giải thích ý nghĩa kinh, Đúng như pháp tu hành Phước đức không lường được.  <詞 id="83085290">Phẩm 18: Công đức của Pháp sư Bấy giờ, Phật bảo Đại Bồ-tát Thường Tinh Tấn: –Thiện nam, thiện nữ nào thọ trì kinh Pháp Hoa hoặc đọc tụng, giảng nói, biên chép thì người ấy sẽ được tám trăm công đức nơi mắt, một ngàn hai trăm công đức nơi tai, tám trăm công đức nơi mũi, một ngàn hai trăm công đức nơi lưỡi, tám trăm công đức nơi thân, một ngàn hai trăm công đức nơi ý, dùng các công đức này để trang nghiêm, sáu căn đều được thanh tịnh. Thiện nam, thiện nữ ấy, con mắt do cha mẹ sinh ra được thanh tịnh, thấy khắp tam thiên đại thiên thế giới, trong, ngoài, núi rừng, sông, biển, dưới đến địa ngục A-tỳ, trên đến cõi trời Hữu đảnh, thấy tất cả chúng sinh ở trong đó, nghiệp, nhân duyên, quả báo, chỗ sinh ra đều thấy biết hết. Khi ấy, để nói lại nghĩa trên, Đức Thế Tôn nói kệ: Người nào trong đại chúng Bằng tâm không sợ hãi Nói kinh Pháp Hoa này Ông nghe công đức đó Người ấy được tám trăm Đức thù thắng nơi mắt Dùng để làm trang nghiêm Mắt ấy rất thanh tịnh Mắt cha mẹ sinh ra Thấy được ba ngàn cõi Trong, ngoài, núi Di-lâu Núi Tu-di, Thiết vi Và các núi rừng khác Biển lớn nước sông ngòi Dưới đến ngục A-tỳ Trên đến trời Hữu đảnh Đều thấy được tất cả Chúng sinh ở trong đó Tuy chưa được Thiên nhãn Nhãn lực thường như thế. Lại nữa, này Thường Tinh Tấn! Thiện nam, thiện nữ nào thọ trì kinh này hoặc đọc tụng, biên chép, giải nói thì được một ngàn hai trăm công đức nơi tai, bằng tai thanh tịnh đó nghe khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, dưới đến địa ngục A-tỳ, trên đến cõi trời Hữu đảnh, trong ngoài, các thứ lời lẽ, âm thanh như: tiếng voi, ngựa, xe, bò, tiếng khóc lóc, buồn than, tiếng loa, trống, chuông, linh, tiếng cười nói, tiếng nam, nữ, đồng tử, đồng nữ, tiếng pháp, phi pháp, tiếng khổ, vui, tiếng phàm phu, Thánh nhân, tiếng vui thích, không vui thích, tiếng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-dà, tiếng lửa, nước, gió, tiếng địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, tiếng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Thanh văn, Bích-chi-Phật, Bồ-tát, Phật. Nói tóm lại, trong tam thiên đại thiên thế giới, trong, ngoài tất cả các tiếng, dầu chưa được Thiên nhó chỉ bằng tai thường của cha mẹ sinh ra được thanh tịnh đều nghe biết hết, phân biệt các tiếng như thế mà tai không bị hư. Khi ấy để nói lại nghĩa trên, Đức Thế Tôn nói kệ: Tai cha mẹ sinh ra Sạch sẽ không cấu bẩn, Bằng tai thường nghe được Tiếng của ba ngàn cõi, Như voi, ngựa, bò, xe Chuông, linh, loa và trống, Đàn cầm, đàn không hầu Ống tiêu và ống địch, Tiếng hát hay, trong trẻo Nghe mà không ham mê, Tiếng của nhiều loại người Đều nghe hiểu tất cả. Nghe tiếng các cõi trời Xướng ca rất mầu nhiệm, Và nghe tiếng nam, nữ Tiếng bé trai, bé gái, Trong núi sông, hang sâu Tiếng Ca-lăng-tần-dà Các loại chim Mạng mạng, Đều nghe tiếng của nó Đau khổ nơi địa ngục Đều nghe rõ tất cả. Ngạ quỷ bị đói khát Tiếng tìm cầu ăn uống, Các loài A-tu-la Ở ngoài bờ biển lớn, Lúc cùng nhau nói chuyện Vang ra âm thanh lớn, Như vậy người thuyết pháp Ở trong thế gian này, Nghe các tiếng rất xa Mà tai không bị hư. Khắp thế giới mười phương Cầm thú kêu gọi nhau Người nói kinh Pháp Hoa Ở đây đều nghe hết, Trên các trời, Phạm thiên Quang âm và Biến tịnh, Cho đến trời Hữu đảnh Âm thanh của lời nói Pháp sư ở nơi đây Đều được nghe tất cả. Trong chúng hội Tỳ-kheo Và các Tỳ-kheo-ni, Nếu đọc tụng kinh này Hay nói cho người khác Pháp sư ở nơi đây Đều nghe được tất cả. Lại có các Bồ-tát Đọc tụng kinh điển này, Hoặc vì người khác nói Soạn tập giải nghĩa kinh, Các thứ tiếng như thế Đều nghe được tất cả. Chư Phật, Đấng Đại Thánh Giáo hóa các chúng sinh Ở trong các hội lớn Diễn nói pháp nhiệm mầu, Người trì Pháp Hoa này Đều nghe được tất cả. Cõi tam thiên đại thiên Các thứ tiếng trong, ngoài, Dưới đến ngục A-tỳ Trên đến trời Hữu đảnh, Đều nghe các tiếng đó Mà tai không bị hư. Vì tai ấy rất tốt Biết phân biệt tất cả, Người trì kinh Pháp Hoa Dầu chưa được Thiên nhó, Dùng tai cha mẹ sinh Công đức đã như thế. Lại nữa, này Thường Tinh Tấn! Thiện nam, thiện nữ nào thọ trì kinh này hoặc đọc tụng, giải nói, biên chép thì được tám trăm công đức nơi mũi, đều nhờ bằng mũi thanh tịnh này, nghe được các mùi hương trên, dưới, trong, ngoài, khắp cả ba ngàn cõi đại thiên thế giới, như hương của hoa Tu-mạn-na, Xà-đề, Mạt-lợi, Chiêm-bặc, Ba-la-la, Sen đỏ, xanh, trắng, mùi hương cây có hoa, có trái, mùi hương thơm Chiên-đàn, Trầm thủy, Đa-ma-la-bạt, Đa-dà-la và trăm ngàn mùi hương hòa lẫn nhau hoặc là bột viên, hương xoa, người trì kinh ở tại đây, vẫn phân biệt tất cả. Lại còn biết rõ các mùi của chúng sinh như voi, ngựa, dê, bò …, mùi trai, gái, đồng tử, đồng nữ và mùi cỏ cây rừng rậm hoặc gần, xa, có bao nhiêu thứ mùi đều nghe được cả, phân biệt không nhầm. Người trì kinh này tuy ở tại chỗ nhưng nghe được mùi trên các cõi trời, mùi cây Ba-lợi-chất-đa-la, Câu-bệ-đà-la, mùi bông Mạn-đà-la, Đại Mạn-đà-la, Mạn-thù-sa, Đại Mạn-thù-sa, Chiên-đàn, trầm thủy, các thứ hương bột, hương các loài hoa, mùi hương tổng hợp các loại hương ở trên trời đều nghe rõ cả. Lại nghe mùi thơm nơi thân của các vị trời, Thích Đề-hoàn Nhân ở trên thắng điện, vui chơi trong năm dục hoặc mùi ở trên Diệu pháp đường vì các vị trời Đao-lợi nói pháp, lúc dạo chơi trong vườn và nơi thân của các vị trời nam, nữ khác, tất cả đều nghe đến tuần tự như thế cho đến trời Phạm thiên, cho đến mùi nơi thân của trời Hữu đảnh cũng đều nghe biết. Và nghe mùi hương do các vị trời đốt lên và mùi hương của Thanh văn, Bích-chi-phật, Bồ-tát và chư Phật đều được nghe đến và biết họ ở đâu. Tuy nghe biết những mùi hương ấy, nhưng nơi mũi không bị hư, không nhầm lẫn, nếu muốn phân biệt nói cho người khác thì nhớ lại không lầm. Khi ấy, để nói lại nghĩa trên, Đức Thế Tôn nói kệ: Người này mũi thanh tịnh Ở trong thế giới này, Dù vật thơm hay hôi Đều nghe biết rõ cả. Tu-mạn-na, Xà-đề Đa-ma-la, Chiên-đàn Trầm thủy và mùi quế Mùi các thứ hoa trái, Và biết mùi chúng sinh Nam tử và nữ nhân, Người nói pháp ở xa Nghe mùi biết ở đâu. Đại lực Chuyển luân vương, Tiểu Chuyển luân và con Quần thần, các cung nhân Nghe mùi biết ở đâu. Châu báu mang nơi thân Và kho báu trong đất, Báu nữ của Luân vương Nghe mùi biết ở đâu. Đồ trang sức trên người Y phục và chuỗi ngọc Các loại hương xoa thân Nghe mùi biết thân ấy. Các trời đi hay ngồi Dạo chơi hay biến hóa Người trì kinh Pháp Hoa Nghe mùi đều biết hết. Các cây hoa, trái, hột Và mùi thơm dầu bơ Người trì kinh Pháp Hoa Đều biết ở chỗ nào. Trong núi sâu nơi vắng Cây Chiên-đàn nở hoa, Chúng sinh ở trong đó Nghe mùi đều biết hết. Núi Thiết vi, biển lớn Các chúng sinh trong đất, Người trì kinh nghe mùi Đều biết họ ở đâu. Trai, gái A-tu-la Và quyến thuộc của chúng, Khi đấu tranh, dạo chơi Nghe mùi biết ở đâu. Đồng hoang, chỗ nguy hiểm Sư tử, voi, hùm, sói, Bò rừng các loại trâu Nghe mùi đều biết hết. Nếu có người mang thai Chưa rõ trai hay gái, Không căn chẳng phải người Nghe mùi đều biết rõ. Nhờ được sức nghe mùi Biết người mới mang thai, Được thành hay chẳng thành An vui sinh con phước. Do vì sức nghe mùi Biết tâm niệm gái, trai Tâm nhiễm dục sân si, Cũng biết người tu thiện Và các loại trong đất Vàng, bạc, các châu báu Chứa đầy trong bình đồng Nghe mùi đều biết được. Các loại chuỗi ngọc báu Không thể biết giá cả Nghe mùi biết mắc rẻ Biết rõ nơi sản xuất. Các thứ hoa trên trời Mạn-đà, Mạn-thù-sa Cây Ba-lợi-chất-đa Nghe mùi đều biết được. Các cung điện trên trời Thượng, trung, hạ khác nhau, Các hoa báu trang nghiêm Nghe mùi đèu biết được. Thắng diện, vườn, rừng, trời Lầu đại Diệu pháp đường, Vui chơi ở trong đó Nghe mùi đều biết được. Chư Thiên hoặc nghe pháp Hay lúc hưởng năm dục, Qua lại, đi, ngồi, nằm Nghe mùi đều biết được. Y phục Thiên nữ mặc Trang sức hương hoa đẹp, Lúc dạo chơi đùa giỡn Nghe mùi đều biết được. Tuần tự lên như thế Cho đến trời Phạm thiên, Người nhập thiền, xuất thiền Nghe mùi đều biết được. Trời Quang âm, Biến tịnh, Cho đến trời Hữu đảnh Mới sinh hay bỏ thân Nghe mùi đều biết được. Tất cả các Tỳ-kheo Đối pháp thường tinh tấn, Hoặc ngồi hoặc kinh thành Và đọc tụng kinh điển, Hoặc ở dưới rừng cây Ngồi thiền suốt không nghỉ, Người trì kinh nghe mùi Đều biết họ ở đâu. Bồ-tát chí bền chắc Ngồi thiền hoặc đọc tụng, Hoặc vì người nói pháp Nghe mùi đều biết rõ. Thế Tôn ở các phương Được mọi người cung kính, Thương chúng mà nói pháp Nghe mùi đều biết rõ. Chúng sinh ở trước Phật Nghe kinh đều vui mừng, Tu hành đúng như pháp Nghe mùi đều biết rõ. Chưa được mũi pháp sinh Vô lậu của Bồ-tát, Nhưng nhờ trì kinh này Trước được tướng mũi ấy. Lại nữa, này Thường Tinh Tấn! Thiện nam, thiện nữ nào thọ trì kinh này hoặc đọc tụng, giải nói, biên chép thì được một ngàn hai trăm công đức nơi lưỡi. Những thứ tốt, xấu, ngon, dở và các vật đắng chát ở trên lưỡi của người đó đều biến thành vị ngon như vị cam lồ trên trời, đối với họ món gì cũng ngon. Nếu dùng lưỡi ở trong đại chúng nói pháp, diễn ra tiếng nhiệm mầu có thể vào tâm họ, đều làm cho họ được hoan hỷ, an lạc. Lại nữa các vị Thiên tử, Thiên nữ cõi trời Thích, Phạm nghe âm thanh vi diệu này những lời diễn thuyết theo trình tự của ngôn ngữ nên đều đến nghe. Và các loại Rồng, Rồng nữ, Dạ-xoa, Dạ-xoa nữ, Càn-thát-bà, Càn-thát-bà nữ, A-tu-la, A-tu-la nữ, Ca-lâu-la, Ca-lâu-la nữ, Khẩn-na-la, Khẩn-na-la nữ, Ma-hầu-la-dà, Ma-hầu-la-dà nữ, vì để nghe pháp đều đến gần gũi cung kính cúng dường. Và Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, quốc vương, vương tử, quần thần, quyến thuộc, Tiểu Chuyển luân vương, bảy báu, ngàn người con và quyến thuộc trong, ngoài, cõi cung điện cũng đến nghe pháp. Vì Bồ-tát này thuyết pháp rất hay nên các Bà-la-môn, cư só, nhân dân trong nước theo hầu cúng dường suốt đời. Lại nữa, hàng Thanh văn, Bích-chi-phật, Bồ-tát, chư Phật thường thích gặp người ấy, họ ở hướng nào chư Phật đều hướng về nơi ấy để thuyết pháp và người ấy thọ trì tất cả Phật pháp, lại còn có thể nói ra tiếng pháp nhiệm mầu vi diệu. Khi đó để nói lại nghĩa trên, Đức Thế Tôn nói kệ: Người đó lưỡi thanh tịnh Không bị nếm vị dở, Ăn bất cứ món gì Cũng đều thành cam lồ. Bằng tiếng hay thanh tịnh Nói pháp giữa đại chúng, Dùng thí dụ nhân duyên Dẫn dắt tâm chúng sinh, Người nghe đều hoan hỷ Sắm đồ cúng thượng hạng, Các Trời, Rồng, Dạ-xoa Và loài A-tu-la Đều một lòng cung kính Cùng nhau đến nghe pháp. Người nói kinh pháp đó Muốn dùng tiếng nhiệm mầu Đến khắp ba ngàn cõi Tùy ý liền đưa đến. Vua, Đại, Tiểu Chuyển luân Và ngàn con, quyến thuộc, Chắp tay lòng cung kính Thường đến nghe nhận pháp Hàng Trời, Rồng, Dạ-xoa La-sát, Tỳ-xá-xà Cũng đều rất vui mừng Thường ưa đến cúng dường. Phạm thiên vương, Ma vương Tự tại, Đại tự tại Các chúng Trời như thế Thường đến chỗ người ấy. Chư Phật và đệ tử Nghe người ấy nói pháp, Thường ghi nhớ giữ gìn Hoặc hiện thân trước họ. Lại nữa, này Thường Tinh Tấn! Thiện nam, thiện nữ nào thọ trì hoặc đọc tụng, giảng nói, biên chép kinh này thì được tám trăm công đức nơi thân. Được thân thanh tịnh như lưu ly trong suốt, mọi người đều thích nhìn. Vì thân người ấy thanh tịnh nên chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới, khi sinh, lúc chết, trên dưới, tốt xấu, sinh vào cõi lành, cõi ác…, đều hiện trong đó, núi Thiết vi, núi Đại thiết vi, núi Di-lâu, núi Đại di-lâu và các chúng sinh ở các núi ấy cũng đều hiện trong đó, dưới đến địa ngục A-tỳ, trên đến trời Hữu đảnh có những cảnh vật và chúng sinh gì đều hiện trong thân người ấy, nếu có hàng Thanh văn, Bích-chi-phật, Bồ-tát và chư Phật nói pháp cũng đều hiện hình tượng trong thân người ấy. Bấy giờ, để lặp lại nghĩa trên, Đức Thế Tôn nói kệ: Người nào trì Pháp Hoa Thân họ rất thanh tịnh, Như lưu ly trong suốt Chúng sinh đều thích nhìn. Lại như gương sáng sạch Đều thấy các hình ảnh, Thân Bồ-tát thanh tịnh Thấy hết vật trong đời. Chỉ riêng mình biết rõ Người khác không thấy được, Tất cả các chúng sinh Trong thế giới ba ngàn. Trời, người, A-tu-la Địa ngục, quỷ, súc sinh, Các hình ảnh như thế Đều hiện rõ trong thân. Các cung điện cõi trời Cho đến trời Hữu đảnh Núi Thiết vi, Di-lâu Và núi Đại di-lâu Tất cả các biển lớn Đều hiện ở trong thân. Chư Phật và Thanh văn Đệ tử Phật Bồ-tát, Hoặc một mình giữa chúng Nói pháp đều hiện rõ. Tuy chưa được diệu thân Pháp tính sạch lậu hoặc, Dùng thân thường thanh tịnh Hiện tất cả trong đó. Lại nữa, này Thường Tinh Tấn! Sau khi Như Lai diệt độ, thiện nam, thiện nữ nào thọ trì, đọc tụng, giảng nói, biên chép kinh này thì được một ngàn hai trăm công đức nơi ý. Bằng ý căn thanh tịnh này, chỉ nghe một bài kệ, một câu kinh mà thấu rõ được vô lượng, vô biên nghĩa lý. Hiểu nghĩa ấy rồi, có thể diễn nói một câu, một bài kệ đến một tháng, bốn tháng hoặc một năm. Các pháp nói ra tùy theo ý nghĩa trên đều không trái với thật tướng. Nếu nói sách vở thế gian, lời lẽ giúp đời, nghề nghiệp sinh sống đều thuận theo chính pháp. Sự suy nghó, sự tạo tác và lý luận của tâm chúng sinh trong sáu đường, khắp tam thiên đại thiên thế giới đều biết rõ hết. Tuy chưa đạt được trí tuệ vô lậu nhưng nhờ ý căn thanh tịnh như vậy nên sự tư duy, tính toán và nói năng của người ấy đều là Phật pháp, đều là chân thật, cũng là lời trong kinh chư Phật thuở trước đã nói. Lúc ấy, để lặp lại nghĩa trên, Đức Thế Tôn nói kệ: Ýù người đó thanh tịnh Sáng suốt không nhơ đục, Bằng ý vi diệu này Biết pháp thượng, trung, hạ. Chỉ nghe một bài kệ Thông đạt vô số nghĩa, Tuần tự nói như pháp Tháng, bốn tháng, cả năm. Tất cả các chúng sinh Trong ngoài thế giới này Hoặc Trời, Rồng và Người Các Dạ-xoa, Quỷ thần, Sống ở trong sáu cõi Suy nghó của các loài, Phước báo trì Pháp Hoa Một lúc đều biết hết. Vô số Phật mười phương Tướng trăm phước trang nghiêm, Nói pháp cho chúng sinh Đều nghe được thọ trì. Tư duy vô số nghĩa Nói pháp cũng vô lượng, Trước sau không quên nhầm Nhờ trì kinh Pháp Hoa Nên biết tướng các pháp Theo nghĩa biết thứ tự, Rõ danh tự, ngôn ngữ Diễn nói theo hiểu biết. Người này nói điều gì Đều là pháp chư Phật. Nhờ nói kinh pháp này Ở trong chúng không sợ. Người trì kinh Pháp Hoa Ý thanh tịnh như thế, Chưa đạt ý vô lậu Nhưng có tướng như thế. Người ấy trì kinh này Trú quả vị hiếm có, Được tất cả chúng sinh Vui mừng và kính mến. Hay dùng ngàn vạn loại Lời lẽ rất tuyệt diệu, Phân biệt mà nói pháp Nhờ trì kinh Pháp Hoa.  <詞 id="83085291">Phẩm 19: Bồ-tát Thường Bất Khinh Bấy giờ Đức Phật bảo Đại Bồ-tát Đắc Đại Thế: –Ông nên biết Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di nào trì kinh Pháp Hoa được công đức nơi mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý thanh tịnh như trước đã nói, nếu có người nào dùng lời ác mắng nhiếc, chê bai thì bị tội báo lớn cũng như trước đã nói. Này Đắc Đại Thế! Cách đây vô lượng, vô biên không thể nghó bàn vô số kiếp về trước, có Đức Phật hiệu là Oai Âm Vương Như Lai, Ứng Cúng, chính Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, kiếp tên Ly suy, nước tên Đại thành. Đức Phật Oai Âm Vương trong đời ấy nói pháp cho hàng Trời, Người, A-tu-la, vì người cầu đạo quả Thanh văn mà nói pháp bốn Đế thoát khỏi sinh, già, bệnh, chết, hoàn toàn đạt tới Niết-bàn; vì người cầu quả Bích-chi-phật mà nói pháp mười hai nhân duyên; vì hàng Bồ-tát nương nơi quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác mà nói sáu pháp Ba-la-mật làm cho hoàn toàn đạt trí tuệ Phật. Này Đắc Đại Thế! Phật Oai Âm Vương thọ bốn trăm ngàn ức na-do-tha hằng hà sa kiếp, chính pháp tồn tại ở đời số kiếp nhiều như vi trần trong cõi Diêm-phù-đề, tượng pháp tồn tại ở đời số kiếp nhiều như vi trần trong bốn châu thiên hạ. Sau khi làm lợi ích cho chúng sinh, Đức Phật ấy vào Niết-bàn. Sau khi chính pháp, tượng pháp diệt rồi, trong nước ấy lại có Phật ra đời cũng hiệu là Oai Âm Vương Như Lai, Ứng Cúng, chính Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Lần lượt có đến hai vạn ức Phật đều cùng một hiệu. Sau khi Đức Như Lai Oai Âm Vương đầu tiên vào Niết bàn, khi chính pháp diệt hết, trong đời tượng pháp các Tỳ-kheo tăng thượng mạn có nhiều thế lực. Bấy giờ, có một vị Tỳ-kheo Bồ-tát tên Thường Bất Khinh. Này Đắc Đại Thế! Vì sao gọi là Thường Bất Khinh? Vì vị Tỳ-kheo này hễ gặp bất cứ người nào dù là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc hay Ưu-bà-di, vị ấy đều lễ bái khen ngợi và nói: “Tôi rất cung kính chẳng dám khinh thường các vị. Vì sao? Vì các vị ai cũng thực hành đạo Bồ-tát sẽ được thành Phật.” Nhưng Tỳ-kheo ấy chẳng siêng năng đọc tụng kinh điển mà chỉ toàn đi lễ lạy thậm chí khi nhìn thấy bốn chúng từ xa, vị ấy cũng cố đến để lễ lạy khen ngợi cho bằng được, nói: “Tôi không dám khinh thường các vị, các vị đều sẽ thành Phật.” Trong bốn chúng có người rất bực bội, nói lời ác mắng nhiếc vị ấy: “Ông Tỳ-kheo mất trí này từ đâu đến mà nói tôi không dám khinh các vị, rồi thọ ký cho chúng ta sẽ thành Phật, chúng ta đừng nghe lời thọ ký tùy tiện như thế!” Trải qua nhiều năm như vậy, tuy thường bị mắng nhiếc nhưng Tỳ-kheo ấy chẳng hề bực tức vẫn cứ nói: “Các vị sẽ thành Phật”. Lúc nói lời dó bị mọi người đánh đập, ném đá, vị ấy chạy ra xa để tránh nhưng vẫn nói to lên: “Tôi không dám khinh thường các vị, các vị sẽ thành Phật.” Vị ấy luôn nói những lời như thế, cho nên các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Tăng thượng mạn đều đặt cho vị ấy tên là Thường Bất Kinh. Lúc sắp chết, từ nơi hư không, vị Tỳ-kheo ấy nghe đầy đủ hai mươi ngàn vạn ức bài kệ kinh Pháp Hoa của Đức Phật Oai Âm Vương đã nói thuở trước, nghe xong thọ trì liền thanh tịnh được các căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý như trên. Được thanh tịnh các căn rồi, vị ấy được tăng thêm hai triệu ức na-do-tha tuổi và nói kinh Pháp Hoa này cho tất cả mọi người. Bấy giờ bốn chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di tăng thượng mạn trước đây khinh khi, gọi Tỳ-kheo ấy là Thường Bất Khinh, nay thấy vị này đạt năng lực thần thông lớn, năng lực biện tài nhạo thuyết, sức tịch tónh lớn và nghe vị ấy thuyết pháp, họ đều kính phục và tin theo. Bồ-tát Thường Bất Khinh lại giáo hóa mười triệu ức chúng sinh đều khiến cho họ trụ vào Vô thượng chính đẳng chính giác. Sau khi qua đời, Bồ-tát Thường Bất Khinh được gặp hai ngàn ức Đức Phật đều có danh hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh, ở trong chính pháp của các Đức Phật ấy nói kinh Pháp Hoa này. Vì nhân duyên đó, Bồ-tát lại được gặp hai ngàn ức Đức Phật đều có tôn hiệu là Vân Tự Tại Đăng Vương, ở trong pháp của chư Phật ấy, thọ trì, đọc tụng, nói kinh điển này cho bốn chúng, đạt được các căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý đều thanh tịnh, ở giữa đại chúng nói pháp không hề sợ hãi. Này Đắc Đại Thế! Đại Bồ-tát Thường Bất Khinh cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen ngần ấy Đức Phật như thế, vun trồng các căn lành, sau đó lại gặp mười triệu ức Đức Phật, cũng ở trong pháp chư Phật ấy mà nói kinh điển này, đến khi công đức thành tựu sẽ được thành Phật. Này Đắc Đại Thế! Ý ông nghó sao? Bồ-tát Thường Bất Khinh lúc ấy chẳng phải ai khác chính là thân ta. Nếu ở đời trước ta không đọc tụng, thọ trì và diễn nói cho người khác kinh điển này thì ta chẳng thể nhanh chóng đạt được quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác. Thuở trước, ta ở chỗ chư Phật thọ trì, đọc tụng và diễn nói cho người khác kinh này nên ta mau được thành tựu quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác. Này Đắc Đại Thế! Bốn chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di lúc ấy vì giận dữ khinh thường ta nên hai trăm ức kiếp thường chẳng được gặp Phật, nghe pháp, không gặp chúng Tăng, một ngàn kiếp bị đọa địa ngục A-tỳ, chịu nhiều đau khổ. Hết tội này rồi họ mới gặp Bồ-tát Thường Bất Khinh giáo hóa đạo Vô thượng chính đẳng chính giác. Này Đắc Đại Thế! Ý ông nghó sao? Bốn chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di lúc ấy thường khinh khi vị Bồ-tát đó chẳng phải ai khác, chính là các ông Bạt-đà-bà-la… năm trăm Bồ-tát, các ông Sư tử Nguyệt… năm trăm Tỳ-kheo, các ông Ni-tư-phật năm trăm Ưu-bà-tắc đang ở trong hội này đều đạt bậc không thoái chuyển đối với đạo Vô thượng chính đẳng chính giác. Này Đắc Đại Thế! Nên biết kinh pháp này vô cùng lợi ích cho các vị Đại Bồ-tát, có thể làm cho các vị đạt được Vô thượng chính đẳng chính giác. Vì thế sau khi Như Lai diệt độ, các Đại Bồ-tát thường xuyên đọc tụng, giảng nói, biên chép kinh này. Bấy giờ, để tuyên lại nghĩa trên Đức Thế Tôn nói kệ: Quá khứ có Phật Hiệu Oai Âm Vương, Thần, trí không lường Dìu dắt tất cả Trời, Người, Rồng, Thần Đều cúng dường Phật. Sau Phậït diệt độ Khi pháp sắp dứt Có vị Bồ-tát Tên Thường Bất Khinh. Bấy giờ bốn chúng Chấp giữ các pháp, Bồ-tát Bất Khinh Đến chỗ của họ, Nói với họ rằng: “Tôi chẳng khinh ngài Các ngài tu hành Đều sẽ thành Phật.” Mọi người nghe rồi Khinh khi, mắng nhiếc, Bồ-tát Bất Khinh Đều chịu đựng cả. Nghiệp tội hết rồi Đến lúc sắp chết Ngài nghe kinh này Sáu căn thanh tịnh, Nhờ sức thần thông Tuổi thọ tăng thêm, Diễn nói kinh này Cho khắp mọi người. Những người chấp pháp Đều nhờ Bồ-tát Giáo hóa thành tựu Khiến trụ Phật đạo. Bất Khinh qua đời Gặp vô số Phật, Vì nói kinh này Được phước không lường. Dần đủ công đức Mau thành Phật đạo. Bất Khinh thuở ấy Chính là thân ta, Còn bốn bộ chúng Những người chấp pháp, Nghe Bất Khinh nói Ngài sẽ thành Phật Vì nhân duyên đó Gặp vô số Phật. Chính các Bồ-tát Chúng năm trăm người Cùng các Tỳ-kheo Cận sự nam, nữ, Đang ở trước ta Nghe pháp trong hội. Ta ở đời trước Khuyên những người ấy Nghe nhận kinh này Là pháp bậc nhất. Mở bày, dạy người Khiến trụ Niết-bàn, Đời đời thọ trì Kinh điển như vậy. Ức ức vạn kiếp Đến không thể bàn Lâu mới được nghe Kinh Pháp Hoa này. Ức ức vạn kiếp Đến không thể bàn, Chư Phật Thế Tôn Mới nói kinh này. Vì vậy hành giả Sau Phật diệt độ, Nghe kinh điển này, Chớ có nghi ngờ! Cần phải nhất tâm Diễn nói kinh này Đời đời gặp Phật Mau thành Phật đạo.  <詞 id="83085292">Phẩm 20: THẦN LỰC CỦA NHƯ LAI Bấy giờ, các vị Đại Bồ-tát như số vi trần trong ngàn thế giới từ dưới đất vọt lên, đều chắp tay ở trước Phật nhất tâm chiêm ngưỡng Đức Thế Tôn, và bạch: –Bạch Thế Tôn! Sau khi Phật diệt độ ở các cõi nước nơi mà phân thân của Thế Tôn diệt độ chúng con sẽ diễn nói kinh này. Vì sao? Vì chúng con cũng tự muốn được pháp lớn này để thọ trì, đọc tụng, giảng nói, biên chép và cúng dường. Lúc ấy ở trước ngài Văn-thù-sư-lợi và vô lượng trăm ngàn vạn ức Đại Bồ-tát trụ lâu ở thế giới Ta-bà, cùng tất cả chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân…, Đức Thế Tôn hiện năng lực thần thông lớn, bày tướng lưỡi rộng, dài lên đến trời Phạm thiên, từ tất cả lỗ chân lông đều phóng ra vô số tia sáng đủ màu sắc chiếu soi đến thế giới ở khắp mười phương. Các Đức Phật ngồi trên tòa Sư tử nơi gốc cây báu cũng đều hiện tướng lưỡi rộng, dài, phóng vô số hào quang như vậy. Đức Phật Thích-ca Mâu-ni và chư Phật dưới cây báu hiện năng lực thần thông, trải qua hàng trăm ngàn năm, sau đó mới thu tướng lưỡi lại đồng thời tằng hắng và khảy móng tay, hai tiếng ấy vang đến thế giới chư Phật ở khắp mười phương, làm cho đất chấn động sáu cách. Nhờ năng lực thần thông của Đức Phật, các chúng sinh Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân đều nhìn thấy được vô lượng, vô biên trăm ngàn ức Đức Phật ngồi trên tòa Sư tử dưới cây báu ở thế giới Ta-bà, thấy Đức Phật Thích-ca Mâu-ni và Đức Đa Bảo Như Lai ngồi nơi tòa Sư tử ở trong tháp báu và thấy cả vô lượng, vô biên trăm ngàn vạn ức vị Đại Bồ-tát cùng với bốn chúng cung kính vây quanh Đức Phật Thích-ca Mâu-ni. Thấy như vậy rồi các chúng sinh ấy vô cùng vui mừng, được điều chưa từng có. Tức thời, các vị trời ở giữa hư không nói lớn: –Cách đây vô lượng, vô biên trăm ngàn vạn ức vô số thế giới, có thế giới tên Ta-bà, trong thế giới ấy có Đức Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni đang nói kinh Đại thừa tên Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ-tát Pháp, Phật Sở Hộ Niệm cho hàng Bồ-tát, các ông phải hết lòng tùy hỷ và lễ lạy cúng dường Đức Phật Thích-ca Mâu-ni. Nghe tiếng nói giữa hư không rồi, các chúng sinh chắp tay hướng về thế giới Ta-bà nói: –Nam-mô Thích-ca Mâu-ni Phật! Nam-mô Thích-ca Mâu-ni Phật! Họ dùng vô số hoa hương, chuỗi ngọc, phướn lọng, đồ trang sức và các vật quý báu… đều cũng từ xa rải vào thế giới Ta-bà. Những vật được rải vào ấy, từ mười phương giống như mây tụ lại, biến thành màn báu che khắp trên các Đức Phật ở đây. Lúc này, các cõi nước ở khắp mười phương đều thông suốt không trở ngại giống như một cõi Phật. Bấy giờ Đức Phật bảo hàng Bồ-tát thượng hạnh: –Thần lực của chư Phật vô lượng, vô biên không thể nghó bàn. Nếu ta dùng thần lực như vậy vì để phú chúc mà nói công đức của kinh này thì nói đến vô lượng, vô biên trăm ngàn vạn ức vô số kiếp cũng không thể nói hết. Nói tóm lại, tất cả các pháp, các năng lực thần thông tự tại, các tạng pháp bí mật, các việc sâu xa của Như Lai đều được tuyên bày, nói rõ trong kinh này. Thế nên, sau khi Như Lai diệt độ, các ông phải nhất tâm thọ trì, đọc tụng, giảng nói, biên chép theo đúng như lời dạy mà tu hành. Ở trong cõi nước nơi có quyển kinh hoặc ở trong vườn, trong rừng, dưới cây báu, trong nhà Tăng, nơi nhà cư só hoặc trong cung điện hoặc ở hang núi, đồng hoang… mà có người thọ trì, đọc tụng, giảng nói, biên chép kinh này theo đúng như lời dạy mà tu hành thì ở trong đó nên dựng pháp để cúng dường. Vì sao? Phải biết chỗ đó chính là đạo tràng. Ở nơi ấy, chư Phật chứng quả Vô thượng chính đẳng chính giác, chuyển pháp luân và vào Niết-bàn. Bấy giờ để tuyên lại nghĩa này, Đức Thế Tôn nói kệ: Chư Phật, Đấng cứu đời Trụ trong thần thông lớn, Để vui lòng chúng sinh Hiện vô số thần thông. Tướng lưỡi đến Phạm thiên Phóng vô số hào quang, Vì người cầu Phật đạo Hiện việc hiếm có này. Tiếng tằng hắng của Phật Và tiếng khảy móng tay, Vang các nước mười phương Đất chấn động sáu cách. Sau khi Phật diệt độ Người thọ trì kinh này, Chư Phật đều hoan hỷ Hiện vô lượng thần thông, Vì phú chúc kinh này, Nên khen người thọ trì, Ở trong vô số kiếp Nói cũng không thể hết. Công đức của người này Vô biên không cùng tận, Như hư không mười phương Không biết được biên giới. Người thọ trì kinh này Tức đã thấy Như Lai, Cũng thấy Phật Đa Bảo Các phân thân của Phật. Lại thấy ta hôm nay Giáo hóa các Bồ-tát, Người thọ trì kinh này Khiến ta, các phân thân Phật Đa Bảo diệt độ Tất cả đều hoan hỷ Được gặp và cúng dường Mười phương Phật hiện tại, Quá khứ và vị lai Khiến các Ngài hoan hỷ. Chư Phật ngồi đạo tràng Đã được pháp bí mật, Người thọ trì kinh này Chẳng lâu cũng sẽ được. Vui nói không cùng tận Danh tự và ngôn từ, Ý nghĩa của các pháp Như gió trong hư không Không có gì trở ngại. Sau khi Phật diệt độ Theo nghĩa nói như thật, Nhân duyên và thứ tự Kinh chư Phật đã nói. Như ánh sáng nhật nguyệt Dứt trừ mọi tối tăm, Người này ở trong đời Diệt tối của chúng sinh, Dạy vô số Bồ-tát Hoàn toàn trụ Phật thừa. Vì vậy người có trí Nghe lợi ích công đức, Sau khi Phật Niết-bàn Nên thọ trì kinh này, Người ấy thành Phật đạo Chắc chắn không nghi ngờ.  <詞 id="83085293">Phẩm 21: Đà-la-ni Bấy giờ, Bồ-tát Dược Vương liền từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa y phục bày vai bên phải chắp tay bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Thiện nam, thiện nữ nào thọ trì, đọc tụng thông suốt và biên chép kinh Pháp Hoa thì được bao nhiêu phước đức? Đức Phật dạy: –Này Dược Vương, ý ông nghó sao? Thiện nam, thiện nữ nào cúng dường tám triệu ức na-do-tha hằng hà sa các Đức Phật thì người ấy được phước đức nhiều không? –Bạch Đức Thế Tôn, rất nhiều! Đức Phật dạy: –Thiện nam, thiện nữ nào thọ trì, đọc tụng, giảng nói dù chỉ một bài kệ, bốn câu kinh Pháp Hoa theo như lời dạy mà tu hành thì người ấy được công đức rất nhiều. Lúc ấy Bồ-tát Dược Vương bạch Phật –Bạch Thế Tôn! Con sẽ cho người nói kinh Pháp Hoa chú Đà-la-ni để hộ vệ đó. Liền nói chú: “Đát điệt tha (1)an nhó (2) mạn nhó (3) mạt nê (4) ma ma nê (5) chất đê (6) chiết rị đê (7) nhiếp mê (8) nhiếp mị đa tỷ (9) xa an đê (10) mục ngật đê (11) mục ngật đê diêm mê tảm mê (12) ưu tỷ phiên mê (13) tảm ma tảm mê (14) xã di (15) khế di (16) át khế di (17) át kỳ nãi (18) xa a đê nhiếp mị (19) đa la nị (20) a lô ca bà di (21) bát la để tỳ lợi nị (22) tỷ tỷ lô (23) ưu tiện đa la nễ tỷ sắt xỉ (24) át điên đới ba rị đế (25) úc cứu lê (26) mục cứu lê (27) át ra đệ (28) bát ra đệ (29) thưa ca y (30) át tảm ma tảm mê (31) bột địa kỷ hô kiết đê (32) đạt ma bát ly khí đê (33) tăng già niết cụ sát nễ (34) bạt da bạt da thâu đạt nê (35) mạn trất rị (36) mạn đát ra khế dạ đê (37) hộ lộ đới kiêu xá rị di (38) ác xoa dạ (39) á xoa bạt nại đa dạ (40) bạt lô ưu mạn nhó nại đa dạ (41).” –Bạch Thế Tôn! Thần chú Đà-la-ni này là của sáu mươi hai ức hằng hà sa các Đức Phật nói. Cho nên, người nào làm hại đến vị Pháp sư này tức là đã xâm phạm đến các Đức Phật ấy. Lúc này, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni khen ngợi Bồ-tát Dược Vương: –Lành thay, lành thay! Này Dược Vương! Vì thương nghó và để ủng hộ Pháp sư mà ông nói Đà-la-ni này, làm nhiều điều lợi ích cho chúng sinh. Bấy giờ, Bồ-tát Dũng Thí bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Con cũng xin nói Đà-la-ni để ủng hộ người đọc tụng, thọ trì kinh Pháp Hoa. Nếu vị Pháp sư được chú Đà-la-ni này rồi thì Dạ-xoa, La-sát, Phú-đơn-na, Kiết-giá, Cưu-bàn-trà hoặc ngạ quỷ… muốn rình tìm chỗ dở của Pháp sư đều không thấy được. Bồ-tát liền ở trước Đức Phật, nói thần chú: “Đát điệt tha (1) thiệp bà lê (2) mạt ha thiệp bà lê (3) Úc hùng (4) mục hùng (5) át đệ (6) át đồ bà để (7) niết rị trí di (8) niết trị trí da bạt để (9) nhất chí nhó (10) tỷ chí nhó (11) chất chí nhó (12) niết rị triết nhó (13) niết rị tra bạt nhó (14).” –Bạch Thế Tôn! Thần chú Đà-la-ni này là cả hằng hà sa Đức Phật đã nói và tùy hỷ, vì vậy người nào làm hại Pháp sư này tức là đã xâm phạm đến các Đức Phật ấy. Bấy giờ, vua trời Hộ Thế Tỳ-sa-môn thưa: –Bạch Thế Tôn! Vì thương nghó chúng sinh, con cũng xin nói Đà-la-ni để ủng hộ vị Pháp sư này. Liền nói thần chú: “Đát điệt tha (1) át trai (2) nại trai (3) nột nại trai (4) án na trù (5) na tró quấn nại tró (6).” –Bạch Thế Tôn! Con dùng thần chú này để ủng hộ Pháp sư và cũng để ủng hộ người thọ trì kinh này, làm cho họ trong khoảng một trăm do-tuần không bị các tai nạn. Lúc ấy, trong hội chúng có Thiên vương Trì Quốc cùng với ngàn vạn ức na-do-tha Càn-thát-bà cung kính đến trước Đức Phật chắp tay thưa: –Bạch Thế Tôn! Con cũng xin nói thần chú Đà-la-ni để ủng hộ người trì kinh Pháp Hoa. Liền nói thần chú: “Đát điệt tha (1) ác dương (2)nễ yết nễ cu rị (3) kiến đà rị (4) bàn đồ rị (5) ma đăng để (6) tỷ yết tứ (7) tăng cú lê (8) bộ lưu tát rị (9).” –Bạch Thế Tôn! Thần chú Đà-la-ni này là của bốn mươi hai ức các Đức Phật nói. Vì thế, nếu ai làm hại Pháp sư này tức đã xâm phạm đến các Đức Phật ấy. Bấy giờ, có các La-sát nữ, tên là Lam Bà, Tỳ Lam Bà, Khúc Xỉ, Hoa Xỉ, Hắc Xỉ, Đa Phát, Vô Yểm Túc, Từ Anh Lạc, Cao Đế và Đoạt Nhất Thiết Chúng Sinh Tinh Khí, mười La-sát này cùng với con cái, quyến thuộc của họ và mẹ con loài quỷ đều đến chỗ Đức Phật, đồng thanh thưa: –Bạch Thế Tôn! Chúng con cũng muốn ủng hộ người đọc tụng, thọ trì kinh Pháp Hoa, trừ các hoạn nạn cho họ, giả sử có người muốn rình tìm chỗ dở của Pháp sư, đều không thấy được. Họ liền nói thần chú: “Đát điệt tha, nhất để mê, nhó mê hộ lô ê, tát đới ê.” Thà trèo lên đầu chúng con, chứ đừng làm tổn hại Pháp sư. Hoặc Dạ-xoa, La-sát, Ngạ quỷ, hoặc Phú-đơn-na, Kiết-giá, Tỳ-đà-la, hoặc Kiến-đà, Ô-ma-lặc-đà, A-bạt-ma-la, hoặc Dạ-xoa kiết-giá, Nhân kiết-giá… gây bệnh nóng một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày cho đến bảy ngày, hoặc bệnh nóng luôn, hoặc hiện ra hình nam, nữ, đồng nam, đồng nữ…. Ngay cả trong mộng cũng không làm tổn hại đến Pháp sư. Họ liền nói kệ: Ai không thuận thần chú Làm hại người thuyết pháp, Đầu vỡ làm bảy phần Như nhánh cây A-lê, Như tội giết cha mẹ Sẽ bị họa ép dầu Đong lường dối gạt người Tội Điều-đạt phá Tăng Người làm hại Pháp sư Sẽ bị tội như thế. Nói kệ xong các La-sát thưa: –Bạch Thế Tôn! Chúng con sẽ đích thân ủng hộ người thọ trì, đọc tụng, tu hành kinh này, khiến cho họ được an ổn tránh khỏi các hoạn nạn và tiêu trừ các thuốc độc. Đức Phật dạy các La-sát: –Lành thay, lành thay! Các người chỉ ủng hộ người thọ trì tên kinh Pháp Hoa, phước đức đã không thể đo lường, huống là ủng hộ người thọ trì đầy đủ và cúng dường quyển kinh Pháp Hoa bằng hương hoa, chuỗi ngọc, hương bột, hương xoa, hương đốt, phướn lọng, âm nhạc, thắp các loại đèn như: đèn nến, đèn dầu, đèn các loại dầu thơm, đèn dầu hoa Tô-ma-na, hoa Chiêm-bặc, hoa Ba-sư-ca, hoa Ưu-bát-la… cúng dường trăm ngàn loại phẩm vật như thế. Này Cao Đế! Các người và quyến thuộc nên ủng hộ vị Pháp sư như vậy. Khi Đức Phật nói phẩm thần chú Đà-la-ni này, sáu vạn tám ngàn người đạt pháp Nhẫn vô sinh.  <詞 id="83085294">Phẩm 22: BẢN SỰ CỦA BỒ-TÁT DƯỢC VƯƠNG Bấy giờ, Bồ-tát Tú Vương Hoa bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Bồ-tát Dược Vương du hóa ở thế giới Ta-bà như thế nào? Bồ-tát này thực hành bao nhiêu trăm ngàn vạn ức na-do-tha khổ hạnh khó làm? Lành thay, bạch Đức Thế Tôn! Kính xin giảng giải sơ lược để hàng Trời, Rồng, Thần, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân, hàng Bồ-tát từ nước khác đến và chúng Thanh văn này nghe được đều vui mừng. Đức Phật dạy: –Thưở quá khứ cách đây vô lượng hằng hà sa kiếp có Đức Phật hiệu là Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Như Lai, Ứng Cúng, chính biến Tri, Minh hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Đức Phật ấy có tám mươi ức Đại Bồ-tát, bảy mươi hai hằng hà sa đại Thanh văn. Phật thọ bốn mươi hai ngàn kiếp, Bồ-tát cũng vậy. Nước đó không có người nữ, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. A-tu-la và các nạn khổ. Đất bằng lưu ly phẳng như bàn tay, cây báu đẹp đẽ, màn báu che ở trên, phướn, hoa quý rũ xuống, đốt hương trong bình báu xông thơm khắp cả nước, dưới mỗi cây có một đài bảy báu, cây ấy cách đài khoảng một lằn tên. Dưới mỗi cây báu đều có Bồ-tát và Thanh văn an tọa. Trên mỗi đài báu đều có trăm ức chư Thiên trổi nhạc trời khen ngợi cúng dường Đức Phật. Bấy giờ, Đức Phật ấy đang nói kinh Pháp Hoa cho Bồ-tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến, hàng Bồ-tát và chúng Thanh văn. Bồ-tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến ưa thích tu tập khổ hạnh trong giáo pháp của Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức, tinh tấn kinh hành, dốc lòng cầu quả vị Phật. Trải qua mười hai ngàn năm được Tam-muội Hiện nhất thiết sắc thân. Được tam-muôïi này rồi, Bồ-tát vô cùng vui mừng, suy nghó: “Ta đã được Tam-muội Hiện nhất thiết sắc thân đều nhờ năng lực nghe kinh Pháp Hoa.” Ta sẽ cúng dường Đức Phật Nhật Nguyệt Tinh Minh Đức và kinh này. Lập tức Bồ-tát vào Tam-muội, ở giữa hư không, rưới hoa Mạn-đà-la, Đại mạn-đà-la, bột Kiên hắc Chiên-đàn như mây đầy trong hư không và hương Hải thử ngạn Chiên-đàn, sáu thù hương này có giá trị bằng thế giới Ta-bà để cúng dường Đức Phật. Cúng dường xong, ra khỏi Tam-muội, Bồ-tát lại suy nghó: “Tuy ta dùng năng lực thần thông để cúng dường Đức Phật, cũng không bằng đem thân cúng dường.” Bồ-tát liền uống các loại nước thơm như: Chiên-đàn, Huân lục, Đâu-lâu-bà, Tất-lực-ca, Trầm thủy giao, Chiêm-bặc, các loại nước hoa thơm… Trải qua một ngàn hai trăm năm, rồi dùng dầu thơm thân, quấn y báu cõi trời, rưới các loại dầu thơm, dùng nguyện lực thần thông đến trước Đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức để tự thiêu thân, áùnh sáng chiếu khắp tám mươi ức hằng hà sa thế giới chư Phật trong các thế giới ấy đồng thời khen ngợi: “Lành thay, lành thay! Này thiện nam! Đây là chân thật tinh tấn, đây gọi là pháp chân thật để cúng dường Như Lai. Nếu có dùng vô số phẩm vật như: hoa, hương, chuỗi ngọc, hương đốt, hương bột, hương xoa, phướn lọng bằng lụa cõi trời và hương Hải thử ngạn chiên-đàn… để cúng dường đều không thể bằng được. Giả sử có đem nước, thành, vợ con để bố thí cũng không thể sánh được.” Này thiện nam! Đó là pháp bố thí bậc nhất, là tối tôn tối thượng trong các pháp bố thí, vì dùng pháp để cúng dường các Đức Như Lai. Nói xong, chư Phật đều im lặng. Lửa nơi thân của Bồ-tát cháy, trải qua hai ngàn một trăm năm mới tắt. Cúng dường pháp như thế xong, sau khi qua đời, Bồ-tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến lại sinh trong nước của Đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức. Ở trong cung của vua Tịnh Đức, bỗng nhiên Bồ-tát hóa sinh ra trong tư thế ngồi kiết già, liền nói kệ với vua cha: Xin vua cha biết cho Con kinh hành nơi ấy, Liền chứng đắc tất cả Tam-muội “Hiện các thân”, Tu tập rất siêng năng Xả bỏ thân đáng yêu. Nói kệ xong, thưa: –Đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức vẫn còn ở đời, lúc trước con đã cúng dường Đức Phật xong mới được chứng đắc Đà-la-ni “Hiểu tất cả ngôn ngữ của chúng sinh”, lại được nghe tám trăm ngàn vạn ức na-do-tha, chân-ca-la, tần-bà-la, a-súc-bà… bài kệ kinh Pháp Hoa. Hôm nay con trở lại cúng dường Đức Phật ấy. Thưa xong, liền ngồi nơi tòa bảy báu, bay lên hư không cao bằng bảy cây Đa-la, đến chỗ Đức Phật, Bồ-tát đảnh lễ dưới chân, chắp tay nói kệ khen Phật: Dung nhan Phật thù thắng Ánh sáng chiếu mười phương, Con đã từng cúng dường Nay lại được gần gũi. Bấy giờ, nói kệ xong, Bồ-tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến thưa: –Bạch Thế Tôn! Thế Tôn vẫn còn ở đời ư? Đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức, bảo Bồ-tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến: –Này thiện nam! Đã đến lúc ta nhập Niết-bàn, đã đến lúc diệt độ, ông nên sửa soạn chỗ nằm, đêm nay ta sẽ vào Niết-bàn. Đức Phật bảo: –Này thiện nam! Ta đem Phật pháp dặn dò lại cho ông cùng các hàng Bồ-tát, chúng đại đệ tử và pháp Vô thượng Bồ-đề. Lại đem chư Thiên cung cấp hầu hạ, bảy báu, các cây báu, đài báu trong tam thiên đại thiên thế giới giao phó hết cho ông. Sau khi ta diệt độ, có xá-lợi cũng phó chúc cho ông. Ông nên tạo dựng ngần ấy ngàn tháp để lưu truyền, thiết lập cúng dường. Nói như thế xong vào khoảng cuối đêm Đức Phật nhập Niết-bàn. Bấy giờ, thấy Đức Như Lai nhập diệt, Bồ-tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến rất buồn rầu thương tiếc, liền dùng Hải thử ngạn chiên-đàn để cúng dường trà-tỳ thân Phật. Sau khi lửa tắt, Bồ-tát thu nhặt xá-lợi đựng trong tám mươi bốn ngàn bình báu, tôn trí nơi tám mươi bốn ngàn tháp, cao bằng ba thế giới, trang trí các phướn lọng rũ xuống, treo các linh báu để cúng dường. Bấy giờ Bồ-tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến tự nghó: “Dù ta đã cúng dường Đức Phật như thế nhưng thấy chưa đủ, hôm nay ta lại cúng dường xá-lợi”, liền bảo hàng Bồ-tát, chúng đại đệ tử cùng Trời, Rồng, Dạ-xoa,… tất cả đại chúng. –Các ông phải nhất tâm ghi nhớ, hôm nay ta cúng dường xá-lợi Đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức. Nói xong liền ở trước tám mươi bốn ngàn tháp, Bồ-tát đốt cánh tay trăm phước trang nghiêm suốt bảy vạn hai ngàn năm để cúng dường, làm cho vô số chúng cầu quả Thanh văn và vô số người phát tâm Vô thượng chính đẳng chính giác đều được an trú trong Tam-muội Hiện nhất thiết sắc thân. Bấy giờ, các hàng Bồ-tát, Trời, Người, A-tu-la… thấy Bồ-tát không còn tay, nên buồn rầu khóc lóc nói: “Bồ-tát này là Thầy giáo hóa chúng ta, nay đã đốt tay làm cho thân không được đầy đủ.” Lúc ấy, ở trong đại chúng, Bồ-tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến phát nguyện: “Con đã bỏ hai tay chắc chắn sẽ được thân vàng ròng của Phật, nếu sự thật này không sai thì hai tay con trở lại như cũ.” Phát nguyện xong nhờ phước đức, trí tuệ sâu dày nên hai tay của Bồ-tát tự nhiên trở lại như cũ. Ngay lúc ấy, tam thiên đại thiên thế giới chấn động sáu cách, chư Thiên rưới hoa báu, tất cả hàng trời, người được điều chưa từng có. Phật bảo Bồ-tát Tú Vương Hoa: –Ý ông nghó sao? Bồ-tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến chẳng phải ai khác, nay chính là Bồ-tát Dược Vương. Bồ-tát ấy đã bỏ thân bố thí trong vô lượng trăm ngàn vạn ức na-do-tha kiếp như thế. Này Tú Vương Hoa! Có người nào muốn chứng đắc Vô thượng Bồ-đề, dù chỉ đốt một ngón tay cho đến một ngón chân để cúng dường tháp Phật hơn đem nước, thành, vợ con, tất cả núi rừng, sông hồ, vật quý báu trong tam thiên đại thiên thế giới để cúng dường. Có người nào dùng bảy báu đầy trong tam thiên đại thiên thế giới để cúng dường Phật và bậc Đại Bồ-tát, Bích-chi-phật, A-la-hán công đức của người đó không bằng người thọ trì một bài kệ của kinh Pháp Hoa vì phước của họ rất nhiều. Này Tú Vương Hoa! Ví như trong các dòng nước sông ngòi, kênh rạch thì biển là lớn nhất. Cũng vậy trong các kinh chư Như Lai đã nói thì kinh Pháp Hoa này là sâu xa bậc nhất. Như các núi Hắc sơn Tiểu Thiết vi, Đại thiết vi và mười núi báu thì núi Tu-di là lớn nhất. Cũng vậy trong các kinh thì kinh Pháp Hoa là tối tôn, tối thượng. Như trong các vì sao, mặt trăng là hơn hết. Cũng vậy trong ngàn vạn ức các kinh pháp thì kinh Pháp Hoa là chiếu sáng bậc nhất. Như mặt trời xua tan bóng tối, cũng vậy kinh này phá trừ tất cả sự tối tăm bất thiện. Như trong các vua nhỏ thì vua Chuyển luân là trên hết, cũng vậy trong các kinh đứng đầu, kinh này là tối thượng. Như Đế Thích là vua trong ba mươi ba cõi trời, cũng vậy, kinh này là vua trong các kinh. Như vua trời Đại phạm là cha của tất cả chúng sinh, cũng vậy, kinh này là cha của tất cả Hiền thánh, Hữu học, Vô học và hàng phát tâm Bồ-tát. Như trong tất cả phàm phu thì bậc Tu-đà-hoàn, Tu-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi-phật là bậc nhất; cũng vậy, trong các kinh, pháp mà tất cả chư Như Lai, hàng Bồ-tát, Thanh văn đã nói thì kinh này là tối thắng; cũng vậy, có người nào thọ trì kinh này thì người ấy cũng là bậc nhất trong tất cả chúng sinh. Trong tất cả hàng Thanh văn, Bích-chi-phật, Bồ-tát là bậc nhất; cũng vậy trong tất cả các kinh pháp, kinh này là tối thượng. Như Đức Phật là vua trong các pháp, cũng vậy, kinh này là vua trong các kinh. Này Tú Vương Hoa! Kinh này cứu giúp tất cả chúng sinh, làm cho họ xa lìa các khổ, được nhiều lợi ích và những mong cầu đều được đầy đủ, như ao nước mát mẻ làm thỏa mãn tất cả những người khát nước; như người lạnh được lửa, như người trần truồng được y phục, người buôn gặp chủ, con gặp mẹ, qua sông gặp thuyền, bệnh được thuốc, tối được đèn, nghèo được của báu, dân gặp vua, như khách buôn gặp biển, như đuốc trừ tối tăm. Cũng vậy, kinh này làm cho chúng sinh xa lìa tất cả bệnh, khổ, hiểu rõ tất cả sự trói buộc của sinh tử. Có người nào được nghe kinh Pháp Hoa này tự mình hoặc khuyên người khác biên chép thì công đức của người ấy nhiều hay ít cũng không thể biết được giới hạn dù dùng trí tuệ của Phật để tính toán. Nếu chép kinh này rồi dùng hoa, hương, chuỗi ngọc, hương đốt, hương bột, hương xoa, phướn, lọng, y phục. các thứ đèn như nến, dầu, dầu thơm, Chiêm-bặc, Tu-mạn-na, Ba-la-la, Bà-lợi-sư-ca và Na-bà-na-lợi… để cúng dường cũng được vô lượng công đức như thế. Này Tú Vương Hoa! Có người nào nghe phẩm Bản sự của Bồ-tát Dược Vương cũng được công đức vô lượng, vô biên. Có người nữ nào nghe, thọ trì phẩm này thì được vónh viễn chấm dứt thân nữ. Sau khi Đức Như Lai diệt độ, sau năm trăm năm, có người nữ nào nghe kinh này như lời dạy mà tu hành thì người này khi chết được sinh vào thế giới an lạc trụ xứ của Đức Phật A-di-đà, có hàng Đại Bồ-tát vây quanh, từ trong tòa hoa sen báu mà hóa sinh ra, không bị tham dục, sân hận, ngu si, kiêu mạn, ganh ghét và các phiền não, làm hại, chứng đắc thần thông Vô sinh pháp nhẫn của Bồ-tát. Được nhẫn này rồi mắt người ấy thanh tịnh nên thấy được bảy trăm vạn hai ngàn ức na-do-tha, hằng hà sa chư Phật. Lúc này, từ xa chư Phật đồng thanh khen ngợi: –Lành thay, lành thay! Này thiện nam! Trong pháp của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ông nên thọ trì, đọc tụng, suy nghó kinh này vì người khác diễn nói thì được phước đức vô lượng, vô biên, lửa không thể đốt cháy, nước không thể cuốn trôi một ngàn Đức Phật cùng nói công đức của ông cũng không thể hết. Hôm nay, ông đã phá trừ các giặc ma, diệt hết quân sinh tử, xua tan các oán thù khác. Này thiện nam! Trăm ngàn chư Phật đều dùng thần lực để hộ vệ ông, tất cả trời, người trong thế gian và trí tuệ thiền định của hàng Thanh văn, Bích-chi-phật, cho đến Bồ-tát cũng không ai bằng ông, chỉ trừ Đức Như Lai. Này Tú Vương Hoa! Bồ-tát này thành tựu các năng lực công đức, trí tuệ như vậy. Người nào nghe phẩm Bản sự của Bồ-tát Dược Vương có thể tùy hỷ khen ngợi thì đời này trong miệng người ấy thường tỏa ra hương thơm hoa sen thơm, trong lỗ chân lông thường tỏa ra hương thơm Ngưu đầu chiên-đàn, được công đức như đã nói ở trên. Này Tú Vương Hoa! Ta đem phẩm Bản sự của Bồ-tát Dược Vương này phú chúc cho ông. Sau khi ta diệt độ, sau năm trăm năm ông nên truyền bá khắp cõi Diêm-phù-đề, đừng để chấm dứt và không cho hàng ác ma, dân ma, hàng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà… quấy phá. Này Tú Vương Hoa! Ông nên dùng năng lực thần thông để giữ gìn kinh này. Vì sao? Vì kinh này là vị thuốc hay cho người bệnh ở cõi Diêm-phù-đề. Có người bệnh nào được nghe kinh này thì được lành bệnh, không già, không chết. Này Tú Vương Hoa! Nếu thấy có người nào thọ trì kinh này, ông nên dùng hoa sen xanh đựng đầy hương bột rải trên người ấy, rải xong liền nghó: “Không bao lâu nữa, chắc chắn người này sẽ trải cỏ ngồi nơi đạo tràng, phá các quân ma, thổi loa pháp, đánh trống pháp lớn, cứu độ tất cả các chúng sinh ra khỏi biển sinh, già, bệnh, chết.” Thế nên người cầu quả Phật, thấy người nào thọ trì kinh điển này thì phải cung kính như thế. Lúc Đức Phật nói phẩm Bản Sự Của Bồ-tát Dược Vương, có tám vạn bốn ngàn Bồ-tát chứng đắc Đà-la-ni Hiểu tất cả ngôn ngữ của chúng sinh. Trong tháp báu Đức Đa Bảo Như Lai khen Bồ-tát Tú Vương Hoa: –Lành thay, lành thay! Này Tú Vương Hoa! Ông đã thành tựu công đức không thể nghó bàn mới có thể thưa hỏi Đức Phật Thích-ca Mâu-ni việc như vậy làm để lợi ích vô lượng cho tất cả chúng sinh. KINH THIÊM PHẨM DIỆU PHÁP LIÊN HOA <卷 id="83085295">QUYỂN 7 <詞 id="83085296">Phẩm 23: Bồ-tát Diệu Âm Bấy giờ, từ trên nhục kế tướng Đại nhân, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni phóng ra ánh sáng chiếu khắp trăm ngàn vạn ức triệu hằng hà sa các thế giới ở phương Đông. Trải qua vô số cõi ấy có thế giới Tịnh quang trang nghiêm, có Phật hiệu là Tịnh Hoa Tú Vương Trí Như Lai, Ứng Cúng, chính Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn đang thuyết pháp cho vô lượng, vô số chúng Bồ-tát vây quanh. Ánh sáng bạch hào của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni chiếu khắp cõi ấy. Khi đó, trong nước Tịnh quang trang nghiêm, có Bồ-tát Diệu Âm đã từ lâu trồng các công đức, cúng dường, gần gũi vô lượng trăm ngàn vạn ức chư Phật, đã thành tựu trí tuệ sâu xa, chứng các Tam-muội như: Tràng tướng, Pháp hoa, Tịnh đức, Trí vương hý, Vô duyên, Trí ấn, Hiểu tất cả ngôn ngữ của chúng sinh, Tích tập tất cả các công đức, Thanh tịnh thần thông tự tại, Tuệ cự trang nghiêm vương, Tịnh quang minh, Tịnh tạng, Bất cộng nhựt toàn; đắc trăm ngàn vạn ức hằng hà sa các Tam-muội lớn như vậy. Được ánh sáng của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni chiếu đến thân mình, Bồ-tát Diệu Âm liền bạch Đức Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí: –Bạch Thế Tôn! Con sẽ đến thế giới Ta-bà lễ bái, cúng dường, gần gũi Đức Phật Thích-ca Mâu-ni và gặp các Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử, Dược Vương, Dũng Thí, Thường Hành Ý, Trang Nghiêm Vương, Tú Vương Hoa, Dược Thượng. Bấy giờ, Đức Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí bảo Bồ-tát Diệu Âm: –Ông đến thế giới Ta-bà chớ có khinh thường coi là thấp kém. Này thiện nam! Thế giới Ta-bà này rất nhiều sự ô uế, các núi, đá, đất, cao, thấp chẳng bằng phẳng, thân Phật thấp nhỏ, thân các Bồ-tát cũng thấp nhỏ mà thân ông thì cao lớn bốn vạn hai ngàn do-tuần, thân ta sáu trăm tám mươi vạn do-tuần. Thân ông đầy đủ phước đức có ánh sáng vi diệu đặc biệt. Do vậy, ông đến cõi Ta-bà chớ có khinh chê, xem thường Phật, Bồ-tát và quốc độ. Bồ-tát Diệu Âm bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Con đến thế giới Ta-bà là nhờ diệu lực thần thông tự tại, công đức, trí tuệ trang nghiêm của Như Lai. Bồ-tát Diệu Âm chẳng rời chỗ ngồi, thân không dao động, nhập vào Tam-muội. Cách pháp tòa không xa, tại núi Kỳ-xà -quật, nhờ lực Tam-muội, Bồ-tát Diệu Âm hóa ra tám vạn bốn ngàn hoa sen báu, cọng bằng vàng ròng, cánh bằng bạc, tua bằng kim cương, đài bằng ngọc chân-thúc-ca. Bấy giờ, Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử thấy hoa sen này liền bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà xuất hiện điềm lành có ngàn vạn hoa sen, cọng bằng vàng ròng, cánh bằng bạc, tua bằng kim cương, đài bằng ngọc chân-thúc-ca? Đức Phật Thích-ca Mâu-ni bảo Văn-thù-sư-lợi: –Đại Bồ-tát Diệu Âm từ cõi Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí cùng tám vạn bốn ngàn đồ chúng muốn đến thế giới Ta-bà thân cận, lễ bái ta và cũng muốn cúng dường nghe kinh Pháp Hoa. Văn-thù-sư-lợi bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ấy đã trồng thiện căn gì, tu công đức gì, hành Tam-muội gì mà được năng lực thần thông vó đại như vậy? Xin Thế Tôn nói danh hiệu những Tam-muội ấy cho chúng con, chúng con cũng muốn nghe và hành trì, thực hành Tam-muội đó mới có thể thấy được sắc tướng lớn nhỏ, oai nghi đi lại của Bồ-tát ấy. Cầu xin Thế Tôn dùng sức thần thông để con được thấy khi Bồ-tát ấy đến. Đức Phật Thích-ca Mâu-ni bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi: –Đức Như Lai Đa Bảo đã diệt độ từ lâu, nay sẽ vì các ông mà làm cho thấy thân tướng của Bồ-tát đó. Đức Phật Đa Bảo bảo Bồ-tát ấy: –Này thiện nam, hãy đến đây! Văn-thù-sư-lợi muốn thấy thân ông. Bồ-tát Diệu Âm cùng tám vạn bốn ngàn Bồ-tát ẩn mất ở cõi mình, hướng đến thế giới Ta-bà, đi qua các cõi đều chấn động sáu cách, trời mưa hoa sen bảy báu, trăm ngàn nhạc trời không đánh tự kêu, Bồ-tát này mắt như cánh hoa sen xanh rộng lớn, giả sử hòa hợp trăm ngàn vạn mặt trăng cũng không đẹp bằng diện mạo đoan chính của Bồ-tát; thân bằng vàng ròng, trang nghiêm bằng vô lượng trăm ngàn công đức, oai đức rạng rỡ, hào quang chiếu sáng, đầy đủ các tướng như thân Na-la-diên bền chắc. Bồ-tát ấy lên đài bảy báu, bay lên hư không cách đất bảy cây đa-la cùng các chúng Bồ-tát cung kính theo sau đến núi Kỳ-xà-quật ở thế giới Ta-bà. Đến nơi, Bồ-tát xuống đài bảy báu, lấy chuỗi ngọc vô giá đem đến chỗ Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, đầu mặt đảnh lễ dưới chân, dâng xâu chuỗi ngọc, thưa rằng: –Bạch Thế Tôn! Đức Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí thăm hỏi Thế Tôn ít bệnh, ít não, an lạc không? Tứ đại điều hòa không? Việc đời có thể kham nhẫn không? Chúng sinh dễ độ, ít tham dục, sân hận, ngu si, ganh ghét, kiêu mạn, không bất hiếu cha mẹ, chẳng kính Sa-môn, không tà kiến, không có tâm bất thiện, giữ gìn năm giác quan không? Bạch Thế Tôn! Chúng sinh có thể thu phục các ma oán không? Từ lâu Đức Như Lai Đa Bảo đã diệt độ ở trong tháp bảy báu, Thế Tôn có đến nghe pháp không? Lại thăm hỏi Đức Như Lai Đa Bảo an ổn, ít bệnh, có ở lại lâu không? Nay con muốn thấy thân Phật Đa Bảo, cúi xin Thế Tôn chỉ bày cho con được thấy. Bấy giờ, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni nói với Phật Đa bảo: –Bồ-tát Diệu Âm muốn được diện kiến. Phật Đa Bảo nói với Diệu Âm: –Lành thay, lành thay! Vì cúng dường Phật Thích-ca Mâu-ni, nghe kinh Pháp Hoa và gặp Văn-thù-sư-lợi nên ông đến nơi này. Khi ấy, Bồ-tát Hoa Đức bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Bồ-tát Diệu Âm trồng căn lành gì, tu công đức gì mà có sức thần thông như vậy? Phật bảo Bồ-tát Hoa Đức: –Quá khứ có Phật tên là Lôi Âm Vương, Như Lai, Ứng Cúng, chính Biến Tri, nước tên là Hiện nhất thiết thế gian, kiếp tên là Hỷ kiến. Bồ-tát Diệu Âm ở trong một vạn hai ngàn năm, dùng mười vạn thứ kỹ nhạc cúng dường Đức Phật Vân Lôi Âm Vương và dâng tám vạn bốn ngàn cái bát bảy báu. Do nhân duyên đó nay được quả báo sinh tại nước Đức Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí, có sức thần thông lớn như thế. Này Hoa Đức! Ý ông nghó sao? Bồ-tát Diệu Âm cúng dường âm nhạc và dâng bát báu đến Đức Phật Vân Lôi Âm Vương thuở đó, đâu phải người nào xa lạ, nay chính là Đại Bồ-tát Diệu Âm. Này Hoa Đức! Bồ-tát Diệu Âm nay đã từng thân cận cúng dường rất nhiều chư Phật, từ lâu đã trồng cội công đức, lại gặp hằng hà sa trăm ngàn vạn ức na-do-tha Đức Phật. Này Hoa Đức! Ông chỉ thấy thân Bồ-tát Diệu Âm ở đây, thực ra Bồ-tát hiện ra các thân hình khắp nơi để nói kinh điển này cho chúng sinh. Như hiện ra thân Phạm vương, Đế Thích, Tự tại thiên, Đại tự tại thiên, Thiên đại Tướng quân, Tỳ-sa-môn, Thiên vương, Chuyển luân vương, các Tiểu vương, Trưởng giả, Cư só, Tể quan, Bà-la-môn, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, thân phụ nữ của trưởng giả, Cư só, Tể quan, Bà-la-môn, Đồng nam, Đồng nữ, Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân… mà nói kinh này; có thể cứu giúp các loài ở địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh và những chỗ hiểm nạn, cho đến biến làm thân nữ ở trong hậu cung của vua để nói kinh này. Này Hoa Đức! Bồ-tát Diệu Âm này hay cứu độ các chúng sinh trong cõi Ta-bà nên hiện hóa nhiều loại thân hình như thế để nói kinh này cho các chúng sinh nhưng trí tuệ, thần thông biến hóa không bị tổn giảm. Bồ-tát này dùng ngần ấy số lượng trí tuệ soi sáng cõi Ta-bà, khiến cho tất cả chúng sinh đều được hiểu biết thì đối với hằng hà sa thế giới khắp cả mười phương, cũng dùng trí tuệ như vậy. Đối với chúng sinh đáng dùng thân Thanh văn để độ thoát, thì hiện thân Thanh văn để nói pháp, hoặc cần dùng thân Bích-chi-phật để cứu độ thì hiện thân Bích-chi-phật để nói pháp, hoặc cần dùng thân Bồ-tát để độ thoát thì hiện thân Bồ-tát để nói pháp, hoặc cần dùng thân Phật để độ thoát thì hiện thân hình Phật để nói pháp. Như vậy, đối với các hạng người đáng độ mà hiện thân hình như thế, cho đến cần phải dùng sự diệt độ để được độ thoát thì hiện sự diệt độ. Này Hoa Đức! Đại Bồ-tát Diệu Âm thành tựu sức trí tuệ đại thần thông như thế. Bấy giờ, Bồ-tát Hoa Đức bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Bồ-tát Diệu Âm sâu trồng căn lành, trụ Tam-muội gì mà có thể biến hiện thân mình để độ thoát chúng sinh khắp nơi? Phật bảo Bồ-tát Hoa Đức: –Này thiện nam! Tam-muội đó tên là Hiện nhất thiết sắc thân. Bồ-tát Diệu Âm trụ trong Tam-muội này có thể làm lợi ích vô lượng chúng sinh như thế. Lúc Đức Phật nói phẩm Bồ-tát Diệu Âm này thì tám vạn bốn ngàn người cùng với Bồ-tát Diệu Âm đến đây đều được Tam-muội Hiện nhất thiết sắc thân, vô lượng Bồ-tát trong cõi Ta-bà đều được Tam-muội này và Đà-la-ni. Sau khi cúng dường Phật Thích-ca và tháp Phật Đa Bảo xong, Đại Bồ-tát Diệu Âm trở về cõi mình. Các nước mà Bồ-tát đi qua đều chấn động sáu cách, trời mưa hoa sen báu, trổi trăm ngàn vạn ức loại âm nhạc. Đến cõi mình rồi, Bồ-tát cùng tám vạn bốn ngàn Bồ-tát đi theo đồng đến chỗ Đức Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí, thưa: –Bạch Thế Tôn! Con đến cõi Ta-bà làm lợi ích chúng sinh, lễ bái cúng dường Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, tháp Phật Đa Bảo, gặp Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, Dược Vương, Đức Cần Tinh Tấn Lực và Dũng Thí, cũng làm cho tám vạn bốn ngàn vị Bồ-tát này được Tam-muội Hiện nhất thiết sắc thân. Sau khi Đức Phật nói phẩm Bồ-tát Diệu Âm Lai Vãng này xong, bốn vạn hai ngàn Thiên tử được Vô sinh pháp nhẫn, Bồ-tát Hoa Đức cũng được Pháp hoa Tam-muội.  <詞 id="83085297">Phẩm 24: PHỔ MÔN, BỒ-TÁT QUáN THẾ ÂM Bấy giờ, Bồ-tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai bên phải, chắp tay hướng về Đức Phật thưa: –Bạch Thế Tôn! Bồ-tát Quán Thế Âm vì nhân duyên gì mà tên là Quán Thế Âm? Phật bảo Bồ-tát Vô Tận Ý: –Này thiện nam! Nếu có vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng sinh chịu các khổ não, nghe danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm này nhất tâm gọi tên Bồ-tát Quán Thế Âm, tức thì Bồ-tát Quán Thế Âm quán xét âm thanh ấy làm cho được giải thoát. Nếu có người trì danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm, dù vào lửa lớn cũng không bị cháy, là nhờ thần lực của Bồ-tát. Nếu bị nước lớn cuốn trôi, gọi danh hiệu Bồ-tát này liền được đến nơi cạn. Nếu có trăm ngàn vạn ức chúng sinh vì tìm vàng bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, trân châu và các thứ ngọc quý mà vào biển lớn. Giả sử có gió lớn thổi ghe thuyền ấy trôi dạt đến nước quỷ La-sát, trong đó dù chỉ một người gọi danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm, thì các người kia đều được thoát nạn quỷ La-sát, vì nhân duyên đó mà gọi tên là Quán Thế Âm. Nếu có người sắp bị giết hại, gọi tên Bồ-tát Quán Thế Âm tức thì dao gậy ấy gãy ra từng đoạn, mà được thoát khỏi. Nếu quỷ Dạ-xoa và quỷ La-sát đầy trong cõi tam thiên đại thiên muốn đến hại người, nghe gọi tên Bồ-tát Quán Thế Âm, thì các quỷ dữ không thể dùng mắt dữ để nhìn, huống gì làm hại. Giả sử có người bị tội hay không bị tội, gông cùm xiềng xích trói buộc nơi thân, gọi tên Bồ-tát Quán Thế Âm, tất cả đều gãy nát, liền được giải thoát. Giả sử có vị thương chủ dẫn các người buôn đem nhiều của quý, qua đoạn đường hiểm trong đó có người nói lớn rằng: –Này các thiện nam! Đừng nên lo sợ, các vị hãy nhất tâm xưng niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm, vị Bồ-tát ấy hay đem lại sự không sợ hãi cứu giúp chúng sinh. Nếu các ông niệm danh hiệu: “Nam-mô Quán Thế Âm Bồ-tát” thì được thoát khỏi nạn tặc này. Nhờ nghe như vậy, những người buôn đồng thanh niệm danh hiệu Bồ-tát, liền được giải thoát. Này Vô Tận Ý! Đại Bồ-tát Quán Thế Âm có sức oai thần rộng lớn như thế. Nếu có chúng sinh nào nhiều lòng dâm dục, thường niệm, cung kính Bồ-tát Quán Thế Âm liền được lìa dục. Nếu có người nào nhiều lòng giận hờn, thường cung kính niệm Bồ-tát Quán Thế Âm liền khỏi giận hờn. Nếu có người ngu si nào thường cung kính niệm Bồ-tát Quán Thế Âm, liền khỏi ngu si. Này Vô Tận Ý! Bồ-tát Quán Thế Âm có sức oai thần lớn như thế, làm nhiều lợi ích cho nên chúng sinh tâm thường nhớ nghó. Nếu có người nữ, muốn cầu con trai, lễ bái cúng dường Bồ-tát Quán Thế Âm, liền sinh con trai, phước đức trí tuệ. Giả sử muốn cầu con gái, liền sinh con gái có tướng xinh đẹp, được mọi người kính mến, vì trước đã trồng cội phước đức. Vô Tận Ý! Bồ-tát Quán Thế Âm có sức thần thông như thế. Chúng sinh nào cung kính lễ lạy Bồ-tát Quán Thế Âm thì phước đức chẳng tổn giảm, cho nên chúng sinh đều phải thọ trì danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm. Vô Tận Ý! Nếu có người thọ trì danh hiệu của sáu mươi hai ức hằng hà sa Bồ-tát, lại trọn đời cúng dường các thức ăn uống, áo quần, giường nằm, thuốc thang… ý ông nghó sao? Công đức của người thiện nam, thiện nữ đó có nhiều không? Vô Tận Ý thưa: –Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Phật dạy: –Nếu có người thọ trì danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm cho đến lễ lạy, cúng dường chỉ trong chốc lát thì phước đức của hai người đó bằng nhau không khác, trải qua trăm ngàn muôn ức kiếp không thể cùng tận. Bồ-tát Vô Tận Ý! Thọ trì danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm được vô lượng, vô biên phước đức lợi ích như vậy. Vô Tận Ý Bồ-tát bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Bồ-tát Quán Thế Âm giáo hóa ở thế giới Ta-bà như thế nào? Thuyết pháp cho chúng sinh như thế nào? Và dùng sức phương tiện như thế nào? Phật bảo Bồ-tát Vô Tận Ý: –Thiện nam! Nếu chúng sinh trong quốc độ nào cần thân Phật để độ thoát thì Bồ-tát Quán Thế Âm liền hiện thân Phật để nói pháp. Người cần dùng thân Duyên giác để độ thoát thì Bồ-tát hiện thân Duyên giác để nói pháp. Người cần dùng thân Bích-chi-phật để độ thoát thì Bồ-tát hiện thân Bích-chi-phật để nói pháp. Người cần dùng thân Thanh văn để độ thoát thì Bồ-tát hiện thân Thanh văn để nói pháp. Người cần dùng thân Phạm vương để độ thoát thì Bồ-tát hiện thân Phạm vương để nói pháp. Người cần dùng thân Đế Thích để độ thoát thì Bồ-tát hiện thân Đế thích để nói pháp. Người cần dùng thân Tự tại thiên để độ thoát thì Bồ-tát hiện thân Tự tại thiên để nói pháp. Người cần dùng thân Đại Tự tại thiên để độ thoát thì Bồ-tát hiện thân Đại Tự tại thiên để nói pháp. Người cần dùng thân Thiên đại Tướng quân để độ thoát thì Bồ-tát hiện thân Thiên đại Tướng quân để nói pháp. Người cần dùng thân Tỳ-sa-môn để độ thoát thì Bồ-tát hiện thân Tỳ-sa-môn để nói pháp. Người cần dùng thân Tiểu vương để độ thoát thì Bồ-tát hiện thân Tiểu vương để nói pháp. Người cần dùng thân Trưởng giả để độ thoát thì Bồ-tát hiện thân Trưởng giả để nói pháp. Người cần dùng thân Cư só để độ thoát thì Bồ-tát hiện thân Cư só để nói pháp. Người cần dùng thân Tể quan để độ thoát thì Bồ-tát hiện thân Tể quan để nói pháp. Người cần dùng thân Bà-la-môn để độ thoát thì Bồ-tát hiện thân Bà-la-môn để nói pháp. Người cần dùng thân Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di để độ thoát thì Bồ-tát hiện thân Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di để nói pháp. Người cần dùng thân phụ nữ của Trưởng giả, Cư só, Tể quan, Bà-la-môn để độ thoát thì Bồ-tát hiện thân phụ nữ của Trưởng giả, Cư só, Tể quan, Bà-la-môn để nói pháp. Người cần dùng thân Đồng nam, Đồng nữ để độ thoát thì Bồ-tát hiện thân Đồng nam, Đồng nữ để nói pháp. Người cần dùng thân Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân để độ thoát thì Bồ-tát hiện thân tất cả để nói pháp. Người cần dùng thân Chấp kim cang để độ thoát thì Bồ-tát hiện thân Chấp kim cang để nói pháp. Vô Tận Ý! Bồ-tát Quán Thế Âm thành tựu các công đức như thế, bằng nhiều thân hình đến các cõi nước để độ thoát chúng sinh cho nên các ông phải một lòng cúng dường Bồ-tát Quán Thế Âm. Đại Bồ-tát Quán Thế Âm này bố thí sự không lo sợ, sợ hãi. Ở nơi tai nạn sợ sệt, Bồ-tát hay ban cho sự không sợ, cho nên cõi Ta-bà này đều gọi ngài là Bậc cho sự không sợ. Bồ-tát Vô Tận Ý bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Lúc này con muốn cúng dường Bồ-tát Quán Thế Âm. Vô Tận Ý liền cởi chuỗi ngọc quý báu giá trị trăm ngàn lượng vàng ở nơi cổ đem trao cho Bồ-tát Quán Thế Âm và nói: –Thưa Bồ-tát, xin nhận lấy chuỗi ngọc quý báu này. Khi ấy, Bồ-tát Quán Thế Âm chẳng chịu nhận chuỗi. Vô Tận Ý lại thưa: –Xin Bồ-tát thương chúng con mà nhận chuỗi ngọc này. Bấy giờ, Phật bảo Bồ-tát Quán Thế Âm: –Ông hãy lân mẫn Bồ-tát Vô Tận Ý và bốn chúng cùng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân… mà nhận chuỗi ngọc. Tức thời Bồ-tát Quán Thế Âm lân mẫn bốn chúng Trời, Rồng, Nhân phi nhân… nhận chuỗi ngọc đó chia làm hai phần. Một phần dâng lên Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, một phần dâng cúng tháp Phật Đa Bảo. Này Vô Tận Ý! Bồ-tát Quán Thế Âm có sức thần thông tự tại như thế, hành hóa khắp cõi Ta-bà. Lúc đó, Bồ-tát Trang Nghiêm Tràng hỏi Bồ-tát Vô Tận Ý: –Này Phật tử! Vì nhân duyên gì mà gọi là Quán Thế Âm? Bồ-tát Vô Tận Ý liền quán xét hết hạnh nguyện như biển trong quá khứ của Bồ-tát Quán Thế Âm, rồi nói với Bồ-tát Trang Nghiêm Tràng: –Này Phật tử! Hãy lắng nghe việc làm của Bồ-tát Quán Thế Âm. Rồi nói kệ: Thế Tôn đủ tướng tốt Con hỏi sự việc kia Phật tử, do duyên gì Tên là Quán Thế Âm? Đấng đầy đủ tướng tốt Kệ đáp Vô Tận Ý Ông nghe hạnh Quán Âm, Ứng hiện khắp các nơi; Thệ rộng sâu như biển Nhiều kiếp chẳng nghó bàn Hầu nhiều ngàn Đức Phật Phát nguyện thanh tịnh lớn. Ta lược nói cho ông Nghe tên cùng thấy thân, Tâm niệm không uổng phí Diệt trừ khổ các cõi. Nếu bị ai gây hại Xô xuống hầm lửa lớn, Do sức niệm Quan Âm Hầm lửa thành ao mát. Hoặc trôi ngoài biển lớn Bị nạn quỷ, cá, rồng Do sức niệm Quan Âm Sóng lớn chẳng nhận chìm. Hoặc trên đỉnh Tu-di Bị người đẩy rớt xuống Do sức niệm Quan Âm Như mặt trời trên không. Hoặc bị người ác rượt Rớt xuống núi Kim cang Do sức niệm Quan Âm Chẳng tổn đến mảy lông. Hoặc gặp oán tặc vây Đều cầm dao làm hại Do sức niệm Quan Âm Chúng liền sinh lòng lành. Hoặc bị khổ nạn vua Sắp bị hành hình chết Do sức niệm Quan Âm Đao liền gãy từng đoạn. Hoặc tù cấm xiềng xích Tay chân bị gông cùm Do sức niệm Quan Âm Tháo rã được giải thoát. Dùng thuốc độc bùa chú Muốn làm hại thân người Do sức niệm Quan Âm Trở lại người gây ra. Hoặc gặp La-sát dữ Các loài quỷ rồng độc Do sức niệm Quan Âm Tất cả không dám hại. Hoặc thú dữ vây quanh Nanh vuốt nhọn đáng sợ Do sức niệm Quan Âm Vội vàng chạy mất cả. Rắn độc cùng bò cạp Hơi độc khói lửa đốt Do sức niệm Quan Âm Nghe tiếng tự bỏ đi. Mây sấm nổ, sét đánh Tuôn đá, xối mưa lớn Do sức niệm Quan Âm Tức khắc liền tiêu tan. Chúng sinh bị khổ ách Trăm ngàn khổ bức thân Quan Âm sức trí diệu Hay cứu khổ thế gian. Đầy đủ sức thần thông Rộng tu trí phương tiện Các cõi nước mười phương Không cõi nào không hiện. Các loài trong đường dữ Địa ngục, quỷ, súc sinh Khổ sinh, già, bệnh, chết Dần dần đều tiêu hết Quán chân, quán thanh tịnh Quán trí tuệ rộng lớn Quán Từ và quán Bi Luôn nguyện cầu chiêm ngưỡng Hào quang tịnh trong sạch Ánh sáng phá tối tăm Hay tiêu nạn khói lửa Chiếu sáng khắp thế gian. Lòng Bi vang như sấm Ý Từ như mây lành Tuôn mưa pháp cam lồ Tiêu trừ lửa phiền não. Thưa kiện đến chỗ quan Sợ hãi trong quân trận Do sức niệm Quan Âm Oán thù đều lui tan. Diệu Âm, Quán Thế Âm Phạm âm, Hải triều Âm. Tiếng siêu việt hơn đời Cho nên thường phải niệm. Niệm niệm chớ sinh nghi Bậc Tịnh thánh Quán Âm Chỗ khổ não bệnh chết Hay làm việc cứu giúp. Đầy đủ các công đức Mắt từ nhìn chúng sinh, Biển phước lớn không cùng Cho nên phải đảnh lễ. Lúc đó, Bồ-tát Trì Địa từ chỗ ngồi đứng dậy đến trước Phật thưa: –Bạch Thế Tôn! Chúng sinh nào nghe được năng lực thần thông thị hiện toàn diện, đạo nghiệp tự tại của Bồ-tát Quán Thế Âm này, nên biết công đức người đó chẳng ít. Lúc Phật nói phẩm Phổ Môn này, trong chúng có tám vạn bốn ngàn chúng sinh đều phát tâm Vô thượng chính đẳng chính giác.  <詞 id="83085298">Phẩm 25: Bản Sự Của Vua Diệu Trang Nghiêm Bấy giờ, Đức Phật dạy đại chúng: –Vào thời quá khứ, cách đây vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ kiếp có Đức Phật ra đời hiệu Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Như Lai, Ứng Cúng, chính Biến Tri; nước tên là Quang minh trang nghiêm, kiếp tên Hỷ kiến. Trong pháp hội của Đức Phật ấy có một vị vua tên Diệu Trang Nghiêm, vợ của vua tên Tịnh Đức, có hai người con, một Tịnh Tạng, hai Tịnh Nhãn. Hai người con này có thần lực, phước đức, trí tuệ rất lớn, từ lâu đã hành đạo Bồ-tát như là Bố thí ba-la-mật, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ, Phương tiện, Từ, Bi, Hỷ, Xả, cho đến ba mươi bảy phẩm Trợ đạo đều hiểu rõ thông suốt, lại chứng đắc thông đạt những Tam-muội thanh tịnh của Bồ-tát như: Nhật minh tú, Tịnh quang, Tịnh sắc, Tịnh chiếu minh, Trường trang nghiêm, Đại oai đức. Đức Phật muốn giáo hóa cho vua Diệu Trang Nghiêm cùng thương tưởng chúng sinh nên nói kinh Pháp Hoa này. Hai người con Tịnh Nhãn và Tịnh Tạng đến gặp mẹ, chắp tay thưa: –Xin mẹ đến nơi của Đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí và chúng con cũng sẽ đi theo để thân cận cúng dường, lễ bái. Vì sao? Vì Đức Phật này đang thuyết kinh Pháp Hoa giữa đại chúng trời và người, chúng ta nên nghe và lãnh thọ. Mẹ nói với các con: –Cha các con tin theo ngoại đạo, lệ thuộc hẳn vào pháp Bà-la-môn, các con nên đến thưa với cha cùng đi. Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn chắp tay thưa với mẹ: –Chúng con là đêï tử Phật lại sinh vào nhà tà kiến. Người mẹ bảo: –Các con nên thương cha mà hiện thần thông, nếu cha các con thấy được thì tâm liền thanh tịnh và cho phép chúng ta đi đến gặp Phật. Lúc ấy, hai người con thương cha liền bay lên giữa hư không, cách đất bảy cây Đa-la hiện ra các phép thần thông, ở trong không trung đi đứng nằm ngồi, trên thân tuôn nước, dưới thân phun lửa, hoặc trên thân phun lửa, dưới thân phun nước, hoặc hiện thân lớn chật cả hư không, hoặc hiện ra thân nhỏ, nhỏ rồi lại lớn, mất trên hư hư không thình lình bỗng nhiên hiện ra trên đất vào đất như vào nước, hoặc đi trên nước như đi trên đất. Hiện ra các loại thần thông như vậy khiến cho vua cha tin hiểu chân chính. Thấy thần thông của con như vậy, vua cha rất vui mừng, được điều chưa từng có, chắp tay hướng về các con nói: –Thầy của các con là ai? Con là đệ tử của ai? Hai người con thưa: –Tâu phụ vương, vị ấy là Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí đang an tọa trên pháp tòa dưới gốc cây Bồ-đề bảy báu, giảng thuyết kinh Pháp Hoa cho tất cả chúng trời, người trong thế gian; đó là Thầy của chúng con, chúng con là đệ tử. Cha nói với các con: –Nay ta cũng muốn gặp Thầy của các con, chúng ta nên cùng đi. Bấy giờ, hai người con từ trên không trung hạ xuống đi đến chỗ mẹ, chắp tay thưa: –Cha các con nay đã tin hiểu, đã phát tâm cầu Vô thượng chính đẳng chính giác. Chúng con đã vì cha mà làm Phật sự. Xin mẹ cho chúng con đến chỗ Đức Phật để xuất gia tu học. Muốn trình lại ý trên, hai người con nói kệ: Mong mẹ cho chúng con Xuất gia làm Sa-môn, Các Phật gặp rất khó Chúng con theo học Phật. Hoa Ưu-đàm khó thấy Gặp Phật lại khó hơn, Thoát các nạn cũng khó Xin cho con xuất gia. Mẹ liền nói: –Ta cho con xuất gia. Vì sao? Vì rất khó gặp Phật. Lúc đó hai người con thưa với mẹ: –Lành thay thưa cha mẹ! Bây giờ, chúng con xin đến gặp Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí để gần gũi cúng dường. Vì sao? Vì rất khó gặp Phật, như hoa Ưu-đàm-bát-la, như con rùa một mắt gặp bọng cây nổi. Chúng con nhờ phước đức sâu dày đời trước, nên đời này gặp Phật pháp. Vì vậy, cha mẹ nên cho con xuất gia. Tại sao? Chư Phật khó gặp, thời kỳ gặp Phật lại khó hơn. Lúc ấy, nơi hậu cung của vua Diệu Trang Nghiêm có tám vạn bốn ngàn người đều phát tâm thọ trì kinh Pháp Hoa. Bồ-tát Tịnh Nhãn đối với Pháp Hoa Tam-muội đã thông đạt từ lâu. Bồ-tát Tịnh Tạng trong vô lượng trăm ngàn muôn ức kiếp, thông đạt Tam-muội, lìa các cõi ác, muốn cho hết thảy chúng sinh xa rời các cõi ác. Phu nhân của vua được Tam-muội tu tập của chư Phật, có thể biết được tạng bí mật của chư Phật. Hai người con dùng sức phương tiện khéo giáo hóa cha mình, khiến cho tin hiểu rõ, an vui nơi Phật pháp. Lúc ấy, vua Diệu Trang Nghiêm cùng đầy đủ quần thần, quyến thuộc, thể nữ nơi hậu cung và hai con của vua cùng với bốn vạn hai ngàn người cùng lúc đến chỗ của Phật. Đến nơi, họ lạy dưới chân Phật, đi quanh Phật ba vòng, đứng sang một bên. Bấy giờ, Đức Phật thuyết pháp làm cho vua được lợi ích vui mừng. Vua Diệu Trang Nghiêm cùng phu nhân mở chuỗi ngọc trân châu nơi cổ giá trị đến trăm ngàn lượng vàng, rải trên đất Phật, hóa thành đài báu bốn trụ lơ lững giữa hư không. Trong đài có tòa báu lớn, được trải bằng trăm ngàn vạn áo trời, trên đó có Đức Phật ngồi kiết già, phóng hào quang rực rỡ. Bấy giờ, vua Diệu Trang Nghiêm lại nghó thân Phật trang nghiêm, thanh tịnh hiếm có, thành tựu sắc thân vi diệu thứ nhất. Khi ấy, Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí nói với đại chúng: –Các ông có thấy vua Diệu Trang Nghiêm chắp tay đứng trước ta không? Ở trong pháp ta, vị vua này làm Tỳ-kheo siêng năng tu tập pháp trợ Phật đạo, rồi sẽ thành Phật hiệu Ta-la Thọ Vương, nước tên Đại quang, kiếp tên Đại cao vương. Đức Phật Ta-la Thọ Vương có vô lượng chúng Bồ-tát và Thanh văn, nước ấy bằng phẳng, công đức như vậy. Khi ấy, nhà vua đem đất nước giao lại cho em. Vua cùng phu nhân, hai con và các quyến thuộc xuất gia học đạo ở trong Phật pháp. Sau khi xuất gia, trong tám vạn bốn ngàn năm, vua luôn tinh tấn tu hành kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Qua thời gian đó, vua được Tam-muội Nhứt thiết tịnh trang nghiêm công đức liền bay lên hư không cao bằng bảy cây Đa-la, bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Nay hai con của con đã làm Phật sự, dùng sức thần thông biến hóa, chuyển đổi tâm tà của con, làm cho con được đứng vững ở trong Phật pháp, được gặp Thế Tôn. Hai người con này là Thiện tri thức của con, vì muốn phát khởi căn lành đời trước và giúp ích cho con nên sinh trong nhà con. Bấy giờ, Đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí nói với vua Diệu Trang Nghiêm: –Đúng vậy, đúng vậy, như lời ông nói! Nếu có người thiện nam, tín nữ nào trồng căn lành thì đời đời gặp được Thiện tri thức, những vị Thiện tri thức đó hay làm Phật sự, chỉ dạy làm cho lợi ích, hoan hỷ, khiến đi đến Vô thượng chính đẳng chính giác. Đại vương nên biết, Thiện tri thức là nhân duyên lớn dìu dắt làm cho thấy Phật, phát tâm Vô thượng chính đẳng chính giác. Đại vương! Ông có thấy hai người con không? Hai người này đã từng gần gũi cúng dường sáu mươi lăm trăm ngàn muôn ức na-do-tha hằng hà sa các Đức Phật; gần gũi, cung kính, thọ trì kinh Pháp Hoa ở chỗ chư Phật; thương tưởng chúng sinh tà kiến khiến vào trong chính kiến. Vua Diệu Trang Nghiêm từ trên hư không hạ xuống tán thán Đức Phật: –Bạch Thế Tôn! Như Lai là bậc hiếm có đầy đủ công đức trí tuệ, nhục kế trên đầu phóng ra ánh sáng rực rỡ, mắt dài rộng màu sắc xanh biếc, tướng lông trắng giữa chặn mày như ngọc kha nguyệt, răng trắng đều khít thường có áng sáng, môi sắc đỏ đẹp như trái tần-bà. Sau khi khen ngợi Đức Phật có vô lượng trăm ngàn vạn ức công đức như thế, vua Diệu Trang Nghiêm ở trước Đức Phật một lòng chắp tay bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Thế Tôn là bậc hiếm có, thành tựu đầy đủ các pháp của Như Lai, công đức vi diệu không thể nghó bàn, dạy bảo, hành động an ổn hoàn hảo; con từ nay không còn hành động theo ý mình, không sinh tà kiến, kiêu mạn, giận dữ, các ác. Nói lời ấy rồi vua lễ Phật lui ra. Phật bảo đại chúng: –Các ông nghó sao? Vua Diệu Trang Nghiêm đâu phải người nào lạ, nay chính là Bồ-tát Hoa Đức; còn phu nhân Tịnh Đức nay chính là Bồ-tát Quang Chiếu Trang Nghiêm Tướng đang ở trước Đức Phật, vì thương xót vua Diêïu Trang Nghiêm cùng các quyến thuộc nên sinh vào nhà này. Hai vị thái tử kia, nay là Bồ-tát Dược Vương, Dược Thượng. Dược Vương, Dược Thượng thành tựu các công đức lớn như vậy là nhờ đã ở chỗ vô lượng trăm ngàn muôn ức chư Phật, trồng các cội công đức, thành tựu các công đức hoàn hảo chẳng thể nghó bàn. Nếu có người nào biết tên của hai vị Bồ-tát này thì hết thảy chư Thiên và loài người cũng nên lễ bái người ấy. Lúc Phật nói phẩm Diệu Trang Nghiêm Vương Bản Sự có tám vạn bốn ngàn người xa lìa trần cấu, ở trong Phật pháp được pháp nhãn tịnh.  <詞 id="83085299">Phẩm 26: Bồ-tát Phổ Hiền Khuyến Phát Bấy giờ, Bồ-tát Phổ Hiền dùng thần thông tự tại, uy đức vang xa, cùng với vô lượng, vô biên, vô số các vị Bồ-tát từ phương Đông đi đến; đi qua các nước đều có chấn động, trời mưa hoa sen báu, trổi vô lượng trăm ngàn vạn ức các thứ âm nhạc; tháp tùng với đoàn còn có vô số đại chúng Trời rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Khẩn-na-la, Ca-lầu-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân… mỗi người hiện ra oai đức thần thông, đến thế giới Ta-bà, tại núi Kỳ-xà-quật, đầu mặt lạy Đức Thích-ca Mâu-ni, đi quanh bên phải bảy vòng rồi bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Con ở trong nước Phật Bảo Oai Đức Thượng Vương, nghe ở thế giới Ta-bà thuyết kinh Pháp Hoa nên cùng vô lượng, vô biên trăm ngàn vạn ức chúng Bồ-tát đều đến nghe nhận. Cúi xin Thế Tôn vì chúng con mà dạy bảo: “Sau khi Như Lai diệt độ, thiện nam và thiện nữ làm thế nào để được kinh Pháp Hoa?” Phật dạy Bồ-tát Phổ Hiền: –Nếu có thiện nam, thiện nữ nào sau khi Như Lai diệt độ, hoàn thành bốn pháp thì sẽ được kinh Pháp Hoa này. Một là được chư Phật hộ niệm; hai là trồng các cội công đức; ba là nhập vào chính định tụ; bốn là phát tâm cứu hết thảy chúng sinh. Người thiêïn nam, tín nữ nào thành tựu bốn pháp như vậy, sau khi Như Lai diệt độ thì được kinh Pháp Hoa. Lúc ấy, Bồ-tát Phổ Hiền bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Năm trăm năm sau trong đời ác trược, nếu có người nào thọ trì kinh Pháp Hoa này, con sẽ hộ trì, trừ các hoạn nạn cho họ khiến được an ổn, không để một ai tìm cách gây hại họ được; như là ma, hoặc là con của ma, hoặc ma nữ, hoặc ma dân, hoặc người bị ma dựa, hoặc Dạ-xoa, hoặc La-sát, hoặc Cưu-bàn-trà, hoặc Tỳ-xá-xà, hoặc Kết-giá, hoặc Phú-đơn-na, hoặc Vi-đà-la… làm hại đến người ấy đều không thể được. Người ấy khi đi hay đứng tụng kinh này thì lúc ấy con cõi voi chúa trắng sáu ngà cùng đại chúng Bồ-tát đến nơi người ấy mà hiện thân cúng dường, che chở, làm cho tâm họ được an ổn, cũng để cúng dường kinh Pháp Hoa này. Nếu người nào ngồi tư duy kinh này, khi ấy con lại cỡi voi chúa trắng hiện ra trước mặt họ; nếu người ấy đối với kinh Pháp Hoa này có quên mất một câu, một bài kệ con sẽ dạy họ và cùng nhau tụng khiến người này được thông suốt. Bấy giờ, người thọ trì, đọc tụng kinh Pháp Hoa này được thấy thân con sẽ rất vui mừng, càng thêm tinh tấn. Nhờ thấy thân con, họ liền được Tam-muội và Đà-la-ni như Triền Đà-la-ni, trăm ngàn vạn ức Triền Đà-la-ni, Pháp âm phương tiện Đà-la-ni, được các Đà-la-ni như vậy. Bạch Thế Tôn! Sau khi Như Lai diệt độ năm trăm năm sau, trong đời ác trược, nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di tìm cầu thọ trì, đọc tụng, biên chép, tu tập kinh Pháp Hoa này thì trong hai mươi mốt ngày nên nhất tâm tinh tấn, mãn hai mươi mốt ngày đó rồi con sẽ cỡi voi chúa trắng sáu ngà cùng với vô lượng Bồ-tát vây quanh, dùng thân mà tất cả chúng sinh ưa nhìn hiện trước người đó để nói pháp, chỉ dạy lợi ích, an vui; cũng cho thần chú Đà-la-ni, được Đà-la-ni rồi không có phi nhân nào phá hoại được, cũng không bị người nữ làm mê loạn, chính con cũng hộ người ấy. Cúi xin Thế Tôn cho con nói chú Đà-la-ni. Rồi liền nói ở trước Phật: “Đa điệt tha, a đàn đồ, đàn đồ bạt để, đàn đồ bạt la đa nhó đàn đồ củ xá lê đàn đồ tô đà lê tô đà-la-ni a bạt la đát nhó a la đát nhó tăng già bá lê ỷ yết tăng già nhó già đa nê đạt la ma bả lê ỷ yết la bà sa đa bà hộ lô đa kiếu xá na gia a nỗ giả đê tư già tỉ chỉ lê trì đê.” Bạch Thế Tôn! Nếu có Bồ-tát nghe được thần chú này thì nên biết đó là thần lực của Phổ Hiền. Nếu có người nào trong cõi Diêm-phù-đề thọ trì kinh Pháp Hoa, đó cũng là oai thần lực của Phổ Hiền. Nếu có người nào thọ trì đọc tụng, nghi nhớ đúng, hiểu được ý nghĩa và tu hành đúng lời dạy, nên biết người này đang thực hành hạnh Phổ Hiền, ở chỗ vô lượng, vô biên chư Phật trồng sâu căn lành, được Như Lai lấy tay xoa đầu. Nếu chỉ biên chép, người này sau khi qua đời sẽ sinh lên cõi trời Đao-lợi, được tám vạn bốn ngàn Thiên nữ trổi các âm nhạc đón tiếp, được đội mũ bảy báu, vui chơi hưởng lạc cùng các thể nữ; huống chi là người thọ trì đọc tụng, ghi nhớ nghĩa lý như vậy, tu hành đúng lời dạy. Nếu người nào thọ trì, đọc tụng, hiểu rõ nghĩa lý, sau khi qua đời sẽ được ngàn Đức Phật nắm tay khiến cho không sợ hãi, không rơi vào đường ác, sinh lên chỗ Bồ-tát Di-lặc ở cõi trời Đâu-suất. Bồ-tát Di-lặc có ba mươi hai tướng tốt, chúng Đại Bồ-tát vây quanh có trăm ngàn vạn ức quyến thuộc Thiên nữ sống ở trong đó, Ngài có những công đức, lợi ích như vậy. Do đó người trí phải nên một lòng tự chép hoặc bảo người chép, thọ trì đọc tụng, ghi nhớ đúng lời dạy mà tu hành. Bạch Thế Tôn! Sau khi Như Lai diệt độ, con dùng thần thông bảo hộ kinh này khiến cho lưu truyền rộng rãi không để tuyệt mất trong cõi Diêm-phù-đề. Lúc ấy, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni khen ngợi: –Lành thay, lành thay! Này Phổ Hiền! Ông có thể hỗ trợ kinh này, làm cho chúng sinh được nhiều an lạc lợi ích, ông đã thành tựu công đức không thể nghó bàn, Từ bi rộng lớn. Từ xưa đến nay ông phát tâm Vô thượng Bồ-đề nên mới có nguyện bảo vệ kinh này bằng thần thông. Ta sẽ đem sức thần thông che chở người thọ trì danh hiệu Bồ-tát Phổ Hiền. Này Phổ Hiền! Nếu có người nào thọ trì, đọc tụng, nhớ nghó, tu tập, biên chép kinh này thì nên biết người này người ấy gặp được Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, được nghe kinh này từ miệng Đức Phật nói, nên biết người này đã cúng dường Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, Phật khen ngợi người này, người này được Phật lấy tay xoa đầu, được y của Phật che cho. Người như thế thì không còn tham đắm dục lạc thế gian, không ưa thích kinh sách ngoại đạo, lại không gần gũi người trước tác sách ngoại đạo cùng kẻ hành nghề xấu ác như đồ tể, nuôi heo, dê, gà, chó hoặc kẻ săn bắn, hoặc kẻ buôn bán nữ sắc. Người này tâm ý ngay thẳng, ghi nhớ đúng, có năng lực phước đức. Người này không bị ba độc làm hại, cũng không bị ganh ghét, ngã mạn, tà mạn, tăng thượng mạn gây hại, ít muốn biết đủ, có khả năng tu hạnh Phổ Hiền. Này Phổ Hiền! Sau khi Như Lai diệt độ năm trăm năm, nếu có người nào thấy ai đọc tụng, thọ trì kinh Pháp Hoa thì nên nghó người ấy không bao lâu sẽ đến đạo tràng phá các ma quân, được Vô thượng Bồ-đề, chuyển pháp luân, đánh trống pháp, thổi kèn pháp, rưới mưa pháp và ngồi trên pháp tòa Sư tử giữa chúng trời, người. Này Phổ Hiền! Đời sau nếu ai thọ trì, đọc tụng kinh này thì không còn tham đắm. Y phục, ngọa cụ, vật thực, tài sản, mong cầu đều được toại nguyện, đời hiện tại người ấy cũng được phước báo. Nếu có người khinh chê, hủy báng người ấy: “Ông là kẻ điên cuồng, làm việc vô ích, không có kết quả.” Người hủy báng như vậy sẽ bị quả báo mù lòa đời đời. Nếu có người nào cúng dường, tán thán khen ngợi thì đời này sẽ hưởng phước báo. Nếu thấy người thọ trì kinh này mà nêu bày tội lỗi thật, hoặc không thật của họ thì hiện tại người ấy sẽ mắc bệnh hủi. Nếu ai khinh chê cười nhạo thì đời đời răng bị thưa thiếu, môi xấu, mũi tẹt, tay chân cong quẹo, mắt lé, thân thể dơ bẩn ghẻ lở máu mủ, bụng bệnh thủng, hơi ngắn và các bệnh nặng. Do vậy, Phổ Hiền! Nếu thấy người nào thọ trì kinh này thì phải đứng dậy cung kính như đối với Phật. Khi Phật nói phẩm Phổ Hiền Khuyến Phát này, có hằng hà sa vô lượng, vô biên Bồ-tát được trăm ngàn ức Triền Đà-la-ni và vô số Bồ-tát nhiều như số vi trần trong tam thiên đại thiên thế giới được đầy đủ đạo hạnh Phổ Hiền.  <詞 id="83085300">Phẩm 27: Chúc Lụy Bấy giờ, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni từ chỗ ngồi đứng dậy hiện sức thần thông lớn, dùng tay phải xoa đầu của vô lượng Đại Bồ-tát, rồi dạy lời này: –Trong vô lượng trăm ngàn vạn ức a-tăng-kỳ kiếp, ta đã tu tập pháp Vô thượng chính đẳng chính giác khó được này. Nay ta đem giao phó cho các ông, các ông phải một lòng truyền bá pháp này rộng khắp, làm cho phát triển. Phật ba lần xoa đầu các Bồ-tát như thế rồi nói: –Trong trăm ngàn vạn ức a-tăng-kỳ kiếp, ta đã tu tập pháp Vô thượng chính đẳng chính giác khó được này. Nay ta đem giao phó cho các ông, các ông phải thọ trì đọc tụng, thuyết giảng pháp này cho tất cả chúng sinh đều được nghe biết. Vì sao? Vì Như Lai có lòng Từ bi lớn không có bỏn sẻn, không có sợ sệt, có thể làm cho chúng sinh được trí tuệ của Phật, trí tuệ Như Lai, trí tuệ tự nhiên. Như Lai là vị đại thí chủ của chúng sinh. Các ông nên học theo pháp của Như Lai, chớ bỏn sẻn. Vào đời vị lai, nếu có thiện nam, thiện nữ nào tin tưởng trí tuệ của Như Lai, thì các ông nên giảng nói kinh Pháp Hoa này khiến họ đều nghe biết, đều được trí tuệ của Phật. Nếu có chúng sinh nào không tin và thọ trì thì nên đem giáo pháp thâm diệu khác của Như Lai dạy bảo cho họ, khiến được lợi ích, hoan hỷ. Các ông nếu làm được như thế là đã báo đáp hồng ân của chư Phật. Nghe Phật dạy như vậy, các Đại Bồ-tát đều rất vui mừng, bày tỏ lòng tin kính, nghiêng mình cúi đầu, chắp tay hướng về Đức Phật đồng thanh thưa: –Như lời Thế Tôn dạy, chúng con sẽ vâng làm đầy đủ, cúi mong Thế Tôn chớ có lo! Các chúng Đại Bồ-tát đều lên tiếng thưa ba lần như vầy: –Như lời Thế Tôn dạy, chúng con sẽ vâng làm đầy đủ, cúi mong Thế Tôn chớ lo! Bấy giờ, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni muốn phân thân của các Đức Phật trong mười phương đều trở về chỗ cũ nên nói thế này: –Các Phật đều ở chỗ mình, tháp của Phật Đa Bảo trở về chỗ cũ. Phật nói dứt lời, vô lượng phân thân của các Đức Phật ngồi trên tòa Sư tử dưới cây báu cùng Phật Đa Bảo và vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ kiếp đại chúng Bồ-tát, bậc thượng hạnh, Xá-lợi-phất, bốn chúng Thanh văn và hàng Trời, Người, A-tu-la, nghe Phật nói kinh này đều rất vui mừng. <釋 n="1">1. Tam sự三事còn gọi là tam lực, tam niệm lực gồm: 1. Đại thệ nguyện lực: sức nhiếp hóa đưa chúng sinh đến quả vị Phật. 2. Tam-muội định lực: Năng lực thiền định của Phật. 3. Bản công đức lực: Sức công đức do tu tập trong vô số kiếp (Phật Quang Đại từ điển, Phật Quang Sơn xuất bản, q.1, tr.563, 1989).