<經 id="n263">KINH chính PHÁP HOA (Kinh Hoa chính Pháp) Hán dịch: Đời Tây Tấn, Tam tạng Pháp sư Trúc Pháp Hộ, người nước Nguyệt Thị. <卷 id="83085228">Quyển 1 <詞 id="83085229">Phẩm 1: ÁNH SÁNG ĐIỀM LÀNH Nghe như vầy: Một thời Đức Phật du hóa tại thành Vương xá, núi Linh thứu, cùng chúng đại Tỳ-kheo một ngàn hai trăm vị. Các ngài đều là những bậc không còn vướng mắc, phiền não đã dứt sạch, không còn dục trần, hoàn toàn tự tại, việc lợi mình đã xong, đã chấm dứt sinh tử, đoạn hẳn sự ràng buộc ở đời, vượt qua tất cả, đạt đến giải thoát, chứng đắc hoàn toàn tâm giải thoát và tuệ giải thoát. Tên các vị ấy là Tôn giả Tri Bản Tế, Tôn giả Đại Ca-diếp, Tôn giả Thượng Thời Ca-diếp, Tôn giả Tượng Ca-diếp, Tôn giả Hồng Ca-diếp, Tôn giả Xá-lợi-phất, Tôn giả Đại Mục-kiền-liên, Tôn giả Ca-chiên-diên, Tôn giả A-na-luật, Tôn giả Kiếp-tân-na, Tôn giả Ngưu Từ, Tôn giả Ly Việt, Tôn giả Thí Lợi Tư, Tôn giả Bạc-câu-lô, Tôn giả Câu-hy, Tôn giả Nan-đà, Tôn giả Thiện Ý, Tôn giả Mãn Nguyện Tử, Tôn giả Tu-bồ-đề, Tôn giả A-nan, Tôn giả La-vân… Tám mươi ngàn vị Bồ-tát toàn là những bậc không thoái chuyển, vững tin nơi đạo Vô thượng chính chân, được các pháp Tổng trì, được các tài hùng biện, thường khen ngợi việc chuyển vận bánh xe pháp không lui sụt, cúng dường vô lượng trăm ngàn chư Phật. Các vị Bồ-tát này đã gieo trồng công đức với vô lượng Đức Phật, thường được chư Phật tán dương. Các vị thường hành Từ bi, thể nhập trí tuệ Như Lai, khéo quyền biến, trí tuệ thông suốt đạt đến vô cực, từ vô số kiếp học rộng nghe nhiều, danh tiếng vang khắp mười phương, cứu giúp vô lượng trăm ngàn chúng sinh, du hóa trong ba cõi giống như ánh sáng mặt trời chiếu rọi, biết rõ tất cả pháp như huyễn, như hóa, như ngựa hoang, như bóng nắng, như tiếng vang nên không trụ tâm cũng không có tâm sở hữu với chúng. Tuy hiện có thân thể bắt đầu và kết thúc nhưng không đến không đi; hiện có sắc tướng nhưng vốn không có hình tướng; hiện có sinh nhưng vónh viễn không khởi diệt. Các vị dẫn dắt và làm lợi ích cho mọi người mà không đắm say ba cõi, phân biệt tuệ Không, Vô tướng, Vô nguyện, vượt khỏi ba pháp môn giải thoát, đạt đến tam đạt trí, niệm tưởng trong hiện tại không đến cũng không đi, chỉ bày cho tất cả mọi người hiểu rõ pháp vốn không. Tên của các vị ấy là Bồ-tát Bạc Thủ, Bồ-tát Quan Thế Âm, Bồ-tát Đại Thế Chí, Bồ-tát Thường Tinh Tấn, Bồ-tát Bất Trí Viễn, Bồ-tát Bảo Chưởng, Bồ-tát Ấn Thủ, Bồ-tát Dược Vương, Bồ-tát Diệu Dũng, Bồ-tát Bảo Nguyệt, Bồ-tát Nguyệt Quang, Bồ-tát Nguyệt Mãn, Bồ-tát Đại Độ, Bồ-tát Siêu Vô Lượng, Bồ-tát Việt Thế, Bồ-tát Giải Phược, Bồ-tát Bảo Sự, Bồ-tát Ân Thí, Bồ-tát Hùng Thí, Bồ-tát Thủy Thiên, Bồ-tát Đế Thiên, Bồ-tát Đại Đạo Sư, Bồ-tát Diệu Ý, Bồ-tát Từ Thị… có tám mươi ngàn vị Đại só Bồ-tát Thượng thủ như thế. Lúc ấy có trời Đế Thích cùng hai mươi ngàn Thiên tử; Nhật Thiên tử cùng vô số quyến thuộc; Nguyệt Thiên tử dùng ánh sáng quý chiếu sáng khắp nơi; Bảo Quang Thiên tử, Quang Diệu Thiên tử, Tứ đại Thiên vương cùng mười ngàn Thiên tử; Diễm Minh Đại phạm Tự tại Thiên tử cùng ba mươi ngàn Thiên tử; Phạm Nhẫn Tích Thiên tử cùng ba mươi hai ngàn Thiên tử; Sức Càn Đại Phạm cùng vô số Thiên tử; lại có Phạm thiên Diễm Quang cùng vô số đại chúng cùng đến chỗ Phật, đảnh lễ xong rồi ngồi sang một bên. Có tám vị Long vương cùng trăm ngàn vô số quyến thuộc, bốn vị Chân-đà-la vương gồm Thuận Pháp Chân-đà-la vương, Đại Pháp Chân-đà-la vương, Nhân Hòa Chân-đà-la vương, Trì Pháp Chân-đà-la vương và thần Hương Âm, mỗi vị đều có chúng đi theo cũng cùng đến chỗ Phật, đảnh lễ xong rồi ngồi sang một bên. Bốn vị Tịnh thân Thiên tử gồm Nhu Nhuyễn Thiên tử, Hòa Âm Thiên tử, Mỹ Nhuyễn Thiên tử, Duyệt Hưởng Thiên tử cũng cùng đến chỗ Phật, đảnh lễ xong rồi ngồi sang một bên. Bốn vị A-tu-la vương gồm Tối Thắng A-tu-la, Dục Cẩm A-tu-la, Yến Cư A-tu-la, Hấp Khí A-tu-la cùng vô số trăm ngàn A-tu-la cũng đều đến chỗ Phật, đảnh lễ xong rồi ngồi sang một bên. Bốn vị Kim sí điểu vương gồm Đại Thân vương, Đại Cụ Túc vương, Đắc Thần Túc vương, Bất Khả Động vương cũng đến chỗ Phật, đảnh lễ xong rồi ngồi sang một bên. Quốc vương nước Ma-kiệt là A-xà-thế cùng mười người con và vô số tùy tùng cũøng đến chỗ Phật, đảnh lễ xong rồi ngồi sang một bên. Các chúng Trời, Rồng, Thần, nhân dân… đều cung kính quy mạng ngồi hầu bên Thế Tôn. Lúc ấy, Đức Thế Tôn thuyết kinh cho bốn bộ chúng và hàng quyến thuộc của họ đang vây quanh. Ngài giảng giải cho các vị Bồ-tát kinh Đại thừa Phương đẳng, được truyền thừa bởi các nghiệp thanh tịnh của chư Phật. Nói kinh ấy xong, Đức Thế Tôn lên tòa Sư tử ngồi kiết già an nhiên nhập thiền định chính thọ, tên là Lập vô lượng tụng, thân và tâm đều không lay động. Nơi Đức Phật an tọa liền hiện ra điềm lành, trời mưa các loại hoa Ý, hoa Đại ý, hoa Nhu nhuyến âm, hoa Đại nhu nhuyến âm… rải trên Đức Thế Tôn và bốn bộ chúng trong đại hội, khắp cõi Phật chấn động sáu cách. Lúc ấy đại chúng hội Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Trời, Rồng, Quỷ, Thần, Kiền-đạp-hòa, A-tu-luân, Ca-lâu-la, Chân-đà-la, Ma-hưu-lặc, Nhân phi nhân, các vị Quốc vương và Chuyển luân thánh vương… tất cả đều nhất tâm chiêm ngưỡng Thế Tôn, thân tâm hoan hỷ và ngạc nhiên trước sự kiện chưa từng có này. Khi đó, Đức Thế Tôn phóng ánh sáng giữa hai hàng lông mày, chiếu soi mười tám ngàn cõi Phật ở phương Đông, ánh sáng ấy chiếu khắp các cõi Phật, không có nơi nào mà không chiếu đến, dưới đến địa ngục Vô gián, trên đến cõi trời Ba mươi ba, làm cho tất cả chúng hội ở thế giới kia thấy hết chúng sinh trong sáu loài và chư Phật hiện tại của thế giới này. Hội chúng ở thế giới này, đều thấy suốt mọi chúng sinh nơi thế giới kia cũng như vậy. Họ nghe chư Phật trong mười phương đang nói kinh pháp và thấy các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di… một mình ở nơi thanh vắng tu hành, thành tựu đạo quả, lại thấy các vị Bồ-tát tâm tịch tónh giải thoát xuất gia mong cầu giác ngộ. Lại thấy chư Phật ở các thế giới diệt độ, các Thánh đệ tử xây dựng bảo tháp để tôn thờ. Lúc bấy giờ, Bồ-tát Di-lặc suy nghó: “Hôm nay Đức Như Lai Chí Chân Đẳng chính Giác, nhập Tam-muội chính thọ, hiện ra cảnh thần biến, khiến cho nhiều người trong hội chúng được thấy việc chưa từng có. Trên trời, nhân gian, các nơi tôn thờ chư Phật đều hiện ra rất rõ ràng. Thế Tôn sắp làm việc gì mà hiện điềm lành này, từ xưa đến nay chưa từng thấy. Ta nên hỏi ai? Ai có thể giải đáp được nghi vấn này?” Đức Di-lặc lại suy nghó: “Bồ-tát Bạc Thủ các việc đã làm xong, thông đạt tất cả các pháp, cúng dường vô số chư Phật thời quá khứ, đã từng thân cận Đức Như Lai Chí Chân Đẳng chính Giác. Hôm nay những hiện tượng tốt đẹp hy hữu này ta nên hỏi ngài.” Khi ấy cả bốn bộ chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, các Trời, Rồng, Thần, Kiền-đạp-hòa, A-tu-luân, Ca-lâu-la, Ma-hưu-lặc…, tất cả đều mang tâm trạng phân vân chưa từng có khi thất cảnh biến hóa do ánh sáng thần túc muôn màu rực rỡ của Bậc Đại Thánh, người nào cũng có ý muốn thỉnh hỏi Đức Thế Tôn để giải tỏa lưới nghi ngờ. Đức Di-lặc xét tâm tư của hội chúng nên hỏi Bồ-tát Bạc Thủ: –Thưa Nhân giả! Hôm nay vì lý do gì mà có điềm lành ấy; Đức Thế Tôn phóng ánh sáng lớn chiếu soi mười tám ngàn cõi Phật ở phương Đông, làm cho cả hội chúng đều thấy, nghe được chư Phật thế giới đang thuyết kinh pháp? Đức Di-lặc dùng kệ hỏi Bồ-tát Văn-thù: Bồ-tát Văn-thù, Nay vì duyên gì Vị Thầy dẫn đạo Phóng ánh sáng lớn Muôn màu rực rỡ Hiện giữa đôi mày Tướng thần biến chiếu Soi khắp mười phương Trời mưa các hoa Rơi đầy khắp chốn Hoa Ý, Đại ý Hoa Nhu nhuyến âm Vô số chủng loại Màu sắc diệu kỳ Chiên-đàn thơm ngát Đẹp ý muôn loài Khắp cả các nơi Nghiêm tịnh vời vợi Hôm nay bốn chúng Vui mừng hân hoan Cõi Phật nơi đây Mười phương thế giới Đều chấn động lên Đủ cả sáu cách Ánh quang minh ấy Chiếu khắp phương Đông Mười tám ngàn cõi Xuyên suốt rạng ngời Thế giới chư Phật Màu sắc óng vàng Huy hoàng chói lọi Tỏa chiếu khắp nơi Muôn loài khắp chốn Tất cả nhờ ân Trên đến Sắc giới Vào ngục A-tỳ Các loài chúng sinh Vì duyên vô minh Đắm chìm sa đọa Luân chuyển sáu đường Người chúng hội này Thấy được nhân duyên Luân hồi các nẻo Nay hiện nghiêm tịnh Hiền minh, hung dữ Ở giữa các loài Tôi ở nơi đây Đều thấy rõ cả. Lại thấy chư Phật Cất tiếng oai hùng Diễn thuyết kinh pháp Mở bày pháp môn Trừ vô lượng ác Cho các chúng sinh Ca tụng Thánh giáo Bằng lời dịu êm Thanh âm thâm diệu Khiến người vui mừng Tất cả tự rời Cảnh giới đã có. Giảng thuyết thí dụ Vận dụng vô số Phân biệt rõ ràng Đối với pháp Phật, Tất cả chúng sinh Tạo bao khổ họa Phương tiện quyền xảo Trị già, bệnh, chết Vì chúng muôn loài Thuyết pháp tịch diệt. Tỳ-kheo nên biết, Mọi người nơi đây Khốn đốn bần cùng An hòa khoái lạc Tích lũy công đức Mới gặp Thánh tôn Chí cầu đạt được Duyên giác, Nhất thừa. Khiến cho tất cả Với đạo nghiệp này Thấy Phật thù thắng Và các sách kinh Hoặc có chí cầu Trí tuệ vô thượng Tất cả thế gian Thấy bao nhiêu hình Muôn loài chúng sinh Ca ngợi Phật đức. Nhân giả Văn-thù, Những điều đã nói Tôi nêu ra đây Nay đều nghe, thấy Ngoài ra vô số Ngàn muôn ức chúng Qua lại nơi kia Tôi đều thấy rõ. Lại thấy cõi Phật Không thể tính đếm Và các Bồ-tát Như cát sông Hằng, Số ngàn trăm ức Không hề suy giảm Lập chí tinh tấn Phát triển đạo tâm. Có người phóng xả Của cải tài sản, Hành hạnh bố thí Vàng bạc châu báu, Ngọc quý ma-ni Xa cừ, mã não Tôi tớ ngựa xe Giường tòa, ghế đẩu Các vật vô giá Chuỗi ngọc san hô Đầy đủ các thứ Đều đem ban cho Và để khuyến khích Phật đạo tối thượng. Tôi và các loài Nghe âm thanh ấy An trụ tán dương Xe lớn chính giác Dạo khắp ba cõi Mà không ngăn ngại. Người người mau chóng Đạt được nguyện tâm, Hoặc đem các xe Mang ra bố thí Các hoa, kỹ nhạc Lan can trang nghiêm Ống tiêu, đàn sáo Âm tiết vui hay Bốn việc như thế Hoan hỷ ban cho. Làm bố thí này Tâm không bỏn sẻn Thê thiếp, cháu con Xe chở, xe kéo Hoặc chí phi thường Cho tay, chân, mạng Lòng không luyến tiếc Đều đem bố thí Quyết chí mong cầu Phật đạo Vô thượng. Bố thí xả thân Đem cho tất cả Đầu, mắt, phần thân Không chút thương tiếc, Mục đích bố thí Mong thành Phật đạo Chí nguyện thành tựu Tuệ giác Như Lai Bồ-tát Văn-thù, Tôi thấy vua chúa Cùng các quyến thuộc Ra đi xuất gia Hậu phi trong cung Quỳ nhận thể nữ Dòng dõi an hòa Cùng đến lễ Phật, Họ hàng thân hữu Đều đến Đạo Sư Thỉnh vấn kinh điển Với Đấng Pháp Vương, Bỏ y phục đời Cạo sạch râu tóc Khoác áo ca-sa Dùng làm pháp phục. Tôi thấy số đông Các chúng Bồ-tát Hiện làm Tỳ-kheo Dừng chân đỉnh núi Thanh vắng độc cư, Thông suốt nghĩa Không Có vị trì kinh Đọc tụng tán thán. Tôi lại trông thấy Các chúng Bồ-tát Tinh tấn dũng mãnh Vào chốn núi sâu, Tư duy chuyên nhất Quán sát các tướng Giảng thuyết phân biệt Giải minh Phật thừa Trừ bỏ ái dục Vónh viễn không còn Thường tự tu tập Mong cầu chính hạnh, An trụ nơi đây Không rời nhàn xứ Khiến cho thành tựu Được năm thần thông. Lại thấy Bồ-tát Chí khí vững vàng Hướng về chư Phật Chắp tay cung kính. Tâm luôn hoan hỷ Ca ngợi Phật đức Dùng muôn ngàn kệ Tán thán Pháp vương. Lòng không sợ sệt Dũng chí điều hòa Rõ ràng phân biệt Sự nghiệp xuất gia Thưa hỏi giáo pháp Đấng Lưỡng Túc Tôn Nghe rồi tiếp nhận Ghi nhớ giữ gìn, Trước tự tu tập Sau dạy mọi người. Nay tôi lại thấy Đệ tử chư Phật Vì khắp mọi loài Giảng pháp vi diệu, Hiện kết quả lành Đông vô số lẻ Tâm tư hoan hỷ Quy y chính pháp Khuyến tấn khai hóa Vô số Bồ-tát Chiến thắng các ma Và quyến thuộc chúng Trổi rền vang lên Tiếng trống chính pháp Lời Bậc Thiện Thệ. Tôi nay lại thấy Chư Thiên, Thần, Nhân Hết lòng tôn phụng An trụ nơi kia, Tâm không ỷ lại Càng thêm lặng không Thiền định kinh hành Không có chấp trước Giống như Sư tử Hóa độ chúng sinh Khiến phát đạo tâm Chúng sinh ở đấy Chắp tay cúng dường Tâm thường vui vẻ Vân tập tự tại, Lại thấy Phật tử Sống đời tinh tấn Xả bỏ dục trần Thường được an nhàn, Bền chí kinh hành Giữa rừng vắng vẻ Tâm nguyện tiến tu Siêng cầu Phật đạo. Phòng hộ thân, khẩu Thường hành thanh tịnh, An trụ giới pháp Không sợ sinh tử, Chủ động tự tâm Các hạnh đủ đầy Vì giới cấm này Thức tỉnh bất giác Con Đấng Tối Thắng Trụ vào sức nhẫn Vì kẻ cống cao Hạ thân khiêm nhường Hoặc người đánh đập Mắng chửi khinh khi Vì cầu tuệ giác Lặng im không tranh Tôi nay lại thấy Các chúng Bồ-tát Từ bỏ tất cả Trò chơi ca nhạc Cùng các thế lực Bà con bạn bè Giữ tâm kiên cố Lặng như hư không Trừ bỏ cấu uế Rối loạn thân tâm Chuyên nhất tâm ý Dứt hẳn ấm cái Thiền định tư duy Trăm ngàn ức năm Lập chí bố thí Để cầu Phật đạo Hoặc tự lìa xa Chỗ nhiều lợi dưỡng Trừ bỏ tham ganh Không còn nhớ nghó Cúng dường ẩm thực Cung cấp đầy đủ Cho vô số người Y dược trị bệnh Hiến dâng tất cả Y phục tốt đẹp Đều đem cúng dường Không có chứa để Nhiều đến vô số Cúng Phật, Pháp, Tăng. Trên đó hóa làm Trăm ngàn muôn ức Vật báu trân kỳ Gỗ thơm Chiên-đàn Có nhiều sàng tọa Ngọc sáng kho tàng Hiện ra trước mắt Giá trị ngọc đó Thật là vô lượng Đều đem hiến cúng. Lại thấy vườn rừng Cây lá quả hoa Sum suê tươi tốt Đẹp lòng mọi người Sớm tối tu hành Đều đem hiến cúng. Dâng lên chư Phật Và các Thanh văn Để tăng trưởng tuệ Phẩm vật như thế Đủ đầy bao thứ Hân hoan cúng dường Tự tâm yêu thích Mà lập đạo hạnh, Bố thí như vậy Nguyện cầu tuệ giác. Hoặc thấy có người Tuyệt đối vắng lặng Xét các báo ứng Nhiều muôn ức triệu Huấn dụ vô số Khiến họ ăn năn Để xả các báu Chí cầu Phật đạo Quán xét rõ ràng Không bỏn sẻn pháp Thành tựu tam sự (<註 n="1"/>1) Lặng như hư không Lại thấy con Phật Tâm vô sở trước Trí tuệ bình đẳng Âm thanh từ ái Cầu đạo Vô thượng. Tôi nay lại thấy Chư Phật nhập diệt An trụ khai hóa Nơi chỗ hiện tại Chúng Đại Bồ-tát Cung kính phụng thờ Xá-lợi tối thắng Không thể tính đếm. Lại thấy chùa Phật Vô số ức ngàn Như cát sông Hằng Trong vô số cõi Nguy nga tráng lệ Các vật hóa hiện Tối thắng vô cùng. Bảy báu tự nhiên Hiện ra thanh tịnh Đầy đủ hết thảy Hai mươi lăm vạn Cờ phướn, lọng che Mỗi thứ cả ngàn Chu vi rộng khắp Đều hai ngàn dặm Lọng kia tốt đẹp Tuyệt hảo trang nghiêm Tỏa các mùi hương Châu báu tự hiện Muôn hoa thơm ngát Kỹ nhạc hòa vang La-sát Quỷ thần Cung kính Thế Tôn Phật tử chính tín Tha thiết biết bao Dùng để cúng dường Xá-lợi của Phật Những ngôi chùa tháp Tráng lệ nguy nga Rải khắp hương hoa Như cây Chú-đạt MoÏi người tại đây Vô số ức ngàn Đều trông thấy cả Muôn màu muôn vẻ Vô cùng kinh ngạc Lan khắp mọi người Muốn thấy tối thượng Phóng ánh quang minh Hiếm có cõi người Ánh sáng bao trùm Diệu kỳ sáng thế Ly cấu vô lậu Năng lực hiển bày Huy hoàng như đây Thị hiện cõi Phật Vô số muôn ngàn Điềm lành hôm nay Chưa bao giờ có Đủ loại như vậy Biến hóa vô cùng, Xin ngài Văn-thù Giải thích đầy đủ Tôi nay muốn nghe Và các Phật tử Trong bốn bộ chúng Thâm tâm vui mừng Mong chờ Nhân giả Và nhìn vào tôi Hôm nay nơi đây Vì nguyên do gì Phật phóng ánh sáng Từ đôi chân mày? Giải tỏa nghi ngờ Cho họ hoan hỷ. Vì sao Phật hiện Ánh quang vô lượng Biến hóa như thế? Hẳn có cảm ứng Chúng hội nơi đây Mong vì giải nói chính pháp vi diệu Đại Thánh chứng ngộ Nơi chốn đạo tràng Diễn bày chính pháp Đạo Sư tối thượng Do vì duyên gì? Nguyện vì phân biệt Các Bồ-tát đây Vô số trăm ngàn Và các chúng khác Muốn thấy cõi Phật Châu báu tịnh nghiêm Chư Phật tự hiện Mắt sáng vô lượng Các chúng mới học Đều không do dự Con Đấng Tối Thắng Cùng nhau thưa hỏi Vui lòng mọi người Thiên thần, La-sát Bốn bộ chúng đây Tất cả ngưỡng trông Bồ-tát Văn-thù Cúi xin nói rõ. Lúc ấy Bồ-tát Văn-thù nói với ngài Di-lặc và các vị Đại só trong hội chúng cùng các thiện nam, tín nữ: –Theo tôi suy xét thì nay Đức Như Lai sắp giảng nói chính pháp vó đại, rưới cơn mưa pháp vó đại, đánh trống chính pháp vó đại, thổi loa chính pháp vó đại giảng pháp vô lượng. Trong vô lượng kiếp ở quá khứ khi tôi theo hầu chư Phật cũng đã thấy điềm lành này. Các Đức Như Lai cũng phóng ra ánh sáng như thế để báo trước sẽ giảng nói chính pháp vó đại. Do đó, các vị nên biết, chư Như Lai Chí Chân Đẳng chính Giác, vì muốn cho chúng sinh được nghe chính pháp vó đại, nên hiện ra điềm lành này. Vì sao? Vì Đức Thế Tôn muốn làm cho khắp cả mọi loài tẩy sạch nhơ nhớp trần tục, tin hiểu Phật pháp nên mới hiển bày sức thần thông lớn, hiện tướng ánh sáng rộng lớn này. Tôi nhớ trong vô lượng kiếp lâu xa không thể nghó bàn, không thể tính đếm được. Lúc ấy có Đức Như Lai hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh Chí Chân Đẳng chính Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Đức Phật giảng thuyết kinh pháp, ban đầu, giữa và sau đều thiện, đều phân biệt rõ ràng nghĩa lý sâu xa vi diệu, tu hành phạm hạnh cứu cánh thanh tịnh. Đức Phật vì hàng Thanh văn mà giảng rõ về bốn thánh đế, để họ vượt qua các tai họa sinh, già, bệnh, chết, lo buồn, được vào vô vi Niết-bàn. Đức Phật vì chúng Đại só Bồ-tát nêu rõ, phân biệt sáu pháp Ba-la-mật, làm cho họ được Tuệ giác vô thượng. Này các thiện nam! Sau khi Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh diệt độ, lại có Đức Phật cũng hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh. Sau khi Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh này diệt độ, lại có Đức Phật cũng mang hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh. Như vậy, có tám mươi Đức Phật đều cùng một hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh, đều cùng một họ. Tính ra như vậy có đến hai vạn Đức Như Lai, lời chư Phật dạy đều là tối thượng. Hai vạn Đức Như Lai ấy, vị ra đời đầu tiên hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh, Đức Phật cuối cùng cũng có hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh, Như Lai Chí Chân Đẳng chính Giác. Các Ngài thuyết kinh phần đầu, giữa và sau đều thiện, phân biệt rõ ràng nghĩa lý sâu xa vi diệu, tu hành phạm hạnh. Chư Phật vì hàng Thanh văn giảng pháp Tứ đế, Thập nhị nhân duyên và các tai họa của sinh, già, bệnh, chết, lo sầu, khiến cho họ được diệt độ cứu cánh Niết-bàn. Chư Phật vì các Bồ-tát giảng pháp sáu pháp Ba-la-mật, khiến cho họ được tuệ giác và đạt đạo Vô thượng chính chân. Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh cuối cùng, khi chưa xuất gia có tám người con. Người thứ nhất tên Hữu Chí, thứ hai tên Thiện Ý, thứ ba tên Gia Khuyến, thứ tư tên Bảo Chí, thứ năm tên Trì Ý, thứ sáu tên Trừ Mạn, thứ bảy tên Hưởng Ý, thứ tám tên Pháp Ý. Tám vị Thái tử ấy là con của Như Lai, có đầy đủ năng lực để hướng đạo chúng sinh. Lúc ấy mỗi người thống lãnh bốn cõi thiên hạ, đất đai trồng trọt phì nhiêu, dùng chính pháp cai trị nên đất nước không có chiến tranh. Khi thấy vua cha bỏ nước đi xuất gia, tu tập và thành tựu quả vị Tối chính giác, các người con cũng bỏ ngôi vua xuất gia theo. Họ đến chỗ Đức Thế Tôn và đều làm Sa-môn, quyết chí mong cầu đạo Vô thượng chính chân. Tất cả cùng làm Pháp sư, thường tu phạm hạnh và đã từng gieo trồng các gốc phước đức nơi ngàn vạn ức Đức Phật. A-dật-đa! Lúc bấy giờ Đức Nhật Nguyệt Đăng Minh vì khuyến phát các Bồ-tát hộ trì giáo pháp của Phật nên giảng kinh Đại thừa Phương đẳng cho hội chúng nghe. Nói kinh xong, Đức Phật ở giữa hội chúng lặng yên ngồi nhập định Vô lượng chính thọ, thân và tâm đều không lay động. Khi Thế Tôn nhập định, trời mưa xuống các loại hoa Ý, hoa Đại ý, hoa Nhu nhuyến, hoa Đại nhu nhuyến rải trên Đức Phật và tất cả chúng hội, khắp cõi đất đều chấn động đủ sáu cách, nhân dân trong nước đem hoa trời rải trên Đức Phật. Đệ tử bốn chúng, chư Thiên và các chúng khác vô cùng kinh ngạc, nghi ngờ việc chưa từng có. Đức Phật thiền định chưa bao lâu thì từ nơi khuôn mặt oai thần phước đức của Ngài phóng ra một luồng ánh sáng. Ánh sáng ấy chiếu soi mười tám ngàn cõi Phật ở phương Đông, không cõi nào mà không được chiếu sáng. Cảnh giới trong cõi nước của chư Phật đều tự nhiên hiện ra như những cõi của chư Phật hiện nay. Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh khi ấy ở trong hội chúng giảng thuyết kinh pháp cho hai mươi ức Bồ-tát. Các vị Đại só Bồ-tát này đều thấy ánh sáng chiếu khắp thế gian, trong số đó có vị Bồ-tát tên Siêu Quang có mười tám người đệ tử. Trong số ấy có một vị Bồ-tát ưa thích giải đãi, tên là Danh Văn. Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh chuyên tâm nhập định, sau khi xuất định, Ngài vì Bồ-tát Siêu Quang mà giảng kinh Đại thừa chính Pháp Hoa. Tất cả các Bồ-tát đều theo hộ trì Phật nói pháp. Ngài an tọa một nơi thuyết kinh ấy trong sáu mươi kiếp. Chúng hội thân không lay động, tâm cũng không vọng tưởng. Đức Thế Tôn thuyết pháp cho hội chúng suốt sáu mươi kiếp, tất cả hội chúng nghe pháp thân không mệt mỏi, tâm không lo buồn. Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh trong sáu mươi kiếp vì các Bồ-tát giảng giải kinh Phương đẳng Pháp Hoa, rồi ở trong đại chúng, các Phạm vương, Ma vương, Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên, Phạm chí, A-tu-la, Quỷ, Thần, chư Tỳ-kheo… bảo rằng: “Giữa đêm hôm nay, Như Lai sẽ nhập Vô dư Niết-bàn.” Đức Nhật Nguyệt Đăng Minh thọ ký cho Bồ-tát Thủ Tạng, Ngài bảo các Tỳ-kheo: “Sau khi ta diệt độ, Bồ-tát Thủ Tạng sẽ đạt đạo Vô thượng chính chân, thành Phật hiệu là Vô Cấu Thể Như Lai Chí Chân Đẳng chính Giác.” Sau khi thọ ký xong, ngay giữa đêm hôm ấy Đức Phật nhập Niết-bàn. Tám người con của Đức Thế Tôn Nhật Nguyệt Đăng Minh đều tôn Bồ-tát Siêu Quang làm Thầy, vâng theo lời Thầy chỉ dạy nên đều vững tin nơi đạo Tuệ giác vô thượng, được gặp vô lượng, vô số Đức Phật để tôn thờ, hầu hạ, cúng dường nên đều được thành tựu chính giác, vị thành Phật cuối cùng hiệu là Pháp Sự. Trong số mười tám đệ tử của Bồ-tát Siêu Quang, có một vị Bồ-tát đam mê danh lợi, mong cầu sự cúng dường không biết chán, tham đắm nhiều nơi ba bệnh, đối với kinh pháp không thông suốt mà hay quên mất, lại thích nơi nhàn hạ, không lo tu tập, vì thế người đệ tử này có tên là Danh Văn. Nhưng vị Bồ-tát này vốn nhờ công đức gieo trồng nơi vô lượng trăm ngàn vạn ức Đức Phật, do cầu nguyện nên được gặp chư Phật để cúng dường. Đại só Di-lặc! Pháp sư Tỳ-kheo Siêu Quang lúc ấy nay chính là tôi, còn Bồ-tát Danh Văn có tính biếng lười nay chính là Đại só. Do vậy các vị nên biết, thấy Thế Tôn hiện điềm lành phóng ánh sáng này, tôi nghó rằng: “Hôm nay Đức Thế Tôn sẽ tuyên thuyết kinh Phương Đẳng chính Pháp Hoa cho chúng ta.” Lúc ấy Bồ-tát Văn-thù muốn lập lại nghĩa trên mà nói kệ: Ta nay nhớ lại Quá khứ lâu xa Trong vô số kiếp Không thể nghó bàn Có Đức Tối thắng Trí tuệ vô thượng Danh hiệu Ngài là Nhật Nguyệt Đăng Minh Phật ấy giảng pháp Đạt thành vô lượng Hóa độ chúng sinh Không thể tính hết Dạy bảo phát tâm Vô số Bồ-tát Chẳng thể nghó bàn Trăm ngàn ức vị Lúc ấy Như Lai Có tám người con Tuổi đều thơ ấu Thấy Phật thành đạo Theo Ngài xuất gia Cùng làm Sa-môn Trừ bỏ ái dục Và mọi sở hữu Bậc Đại Đạo Sư Vì họ nói pháp Bản kinh được giảng Tên Vô Lượng Tụng Nhưng hiệu Tối Thượng Đúng nghĩa như thế Khai hóa mọi người Số ngàn muôn ức Phật tuyên thuyết xong Bản kinh ấy rồi Năng Nhân Chí Tôn Ngay trên pháp tòa Liền ngồi kiết già Nhập thiền Tam-muội Tên Vô lượng tụng Liền hiện điềm lành Khi ấy trời mưa Hoa thơm Đại ý Lại hiện chớp sáng Sấm lớn vang rền Chư Thiên, Quỷ, Thần Ở nơi hư không Một lòng cung kính Đấng Nhân Trung Tôn Các quốc độ Phật Tức thời chấn động Từ nơi giữa mày Phóng ra hào quang Sáng chói rực rỡ Thật vô hạn lượng Mọi người ngạc nhiên Cho chưa từng có Ánh sáng chiếu khắp Cõi Phật phương Đông Một vạn tám ngàn Muôn ức thế giới. Chính ngay khi ấy Phật phân biệt rõ Chỉ cho chúng sinh Cội nguồn chung thủy Hoặc có cõi Phật Dựng các lọng báu Ánh sáng lưu ly Hoặc như pha lê Của Phật chiếu soi Rực rỡ oai thần Hiện bao nhiêu vẻ Tốt đẹp trang nghiêm Chư Thiên, Nhân dân Và Rồng, Quỷ, Thần Chúng Càn-thát-bà Vui chưa từng có Một lòng thành kính Cùng nhau tôn phụng Các thế giới kia Đều tự nhiên hiện, Lại thấy chư Phật Đều rất tự tại Thù thắng trang nghiêm Sắc thân vàng tía Như ngọc lưu ly Ở giữa các báu Phật trong chúng hội Tuôn mưa giáo pháp Chúng Thanh văn kia Đông không kể xiết Tán thán vô cùng Đệ tử chính tín Tất cả Đạo sư Mỗi một thế giới Của Phật sáng soi Thảy đều rực rỡ Thường hành tinh tấn Giữ giới không phạm Công đức nhẫn nhục Cũng như ngọc sáng, Lại thấy Bồ-tát Hiện nhiều vô số Dạo chốn tịch nhàn Núi rừng đồng vắng Nhập định tham thiền Thân tâm an tịnh Nếu có gia hại Không nỗi hận sân Các chúng Bồ-tát Như cát sông Hằng Trụ trong ánh sáng Một cách sâu xa Nghó nhớ vô thường Không sống buông lung Vui thiền, nhẫn nhục Không xả nhất tâm Có thiện nam tử Trong tất cả thời Điều phục thân tâm Tuân hành Phật đạo Nội quán chân lý Tâm tư vắng lặng Phương tiện tùy duyên Khai hóa muôn loài Vô số cõi Phật Rộng thuyết pháp kinh Đức Phật Thế Tôn Cảm ứng như thế, Lại thấy Đại Thánh Như Bậc Thuyền sư Phát ra ánh sáng Che lấp trời trăng Tất cả chúng sinh Vô cùng hoan hỷ Trời người phụng hiến Và cùng hỏi nhau: Đó là điềm gì? Từ thiền định xuất Trong chẳng bao lâu Đạo Sư tán thán Vị Bồ-tát kia Tên là Siêu Quang Là bậc Pháp sư Theo Phật giải thoát Mắt của thế gian Ai cũng quay về Phật vui tin tôi Chỉ bày các tướng Vì tôi phân biệt Nói kinh pháp này Phật thương chúng sinh Vì thế giáo hóa Kiến lập khuyến tấn Cho chúng Bồ-tát. Nghe Phật chỉ bày Ca ngợi hân hoan Khi ấy Thế Tôn Nói kinh pháp lớn Thuyết giảng đầy đủ Trong sáu mươi kiếp Rồi trên pháp tòa Kiết già nhập định Đức Phật tuyên thuyết Giáo pháp thù thắng. Các Đức Phật kia Đều đã diệt độ Vị Pháp sư đó Bồ-tát Siêu Quang Diễn pháp tối thắng Thuyết giảng kinh điển Làm cho các chúng Đều sinh vui mừng Cúi xin Đại Thánh Phân biệt giải nói Từ trên cõi trời Đến chốn nhân gian Giảng thuyết kinh điển Luận bàn tự tại Dạy cho chúng hội Về kinh Pháp Hoa. Phật bảo Tỳ-kheo: Ta đã đến lúc Vào giữa đêm nay Vào nơi diệt độ Hãy siêng tu hành Giữ tâm kiên cố Ta đã giải nói Dạy bảo kinh pháp, Đại Thánh thần thông Khó được gặp gỡ Nơi vô số ức Na-do-tha kiếp Hãy luôn cúng dường. Vô lượng Phật tử Bị họa ưu sầu Khổ đau cùng cực Khi nghe Thế Tôn Chỉ bày chương cú Quán sát vô vi Thực hành lời dạy Thấy Đấng Nhân Tôn Vô số chúng sinh Nhiều không nhớ hết: Được Phật an ủi Tỳ-kheo chớ sợ Vì ta Nê-hoàn Sau khi ta diệt Sẽ không thấy lại. Đệ nhị Bồ-tát Tên là Thủ Tạng Không còn lậu hoặc Không còn tử sinh Đạt đến cứu cánh Tuệ giác vô thượng Thành Đức Phật-đà Hiệu là Ly Cấu Cũng tại nơi đó Vào lúc nửa đêm Đức Phật nhập diệt Ánh sáng không còn Xá-lợi của Phật Phân bố khắp nơi Tháp miếu được xây Số nhiều muôn ức Các vị Tỳ-kheo Và Tỳ-kheo-ni Hết lòng mong cầu Tuệ giác vô thượng Số lượng vô số Như cát sông Hằng Thường hành tinh tấn Theo pháp tu tập Khi ấy Tỳ-kheo Bồ-tát Siêu Quang Làm bậc Pháp sư Giữ gìn kinh pháp Một thời gian ngắn Diễn thuyết chính pháp Trọn vẹn thời gian Trong tám mươi kiếp. Mười tám vương tử Theo ngài xuất gia Đều được giáo hóa Vững tin chính pháp, Các vương tử này Gặp vô số Phật Chí tâm cúng dường Chư Phật Thánh Tôn Kính phụng tôn thờ Diệu pháp vi diệu Đều được thành Phật Ở nơi các cõi Làm Đấng Tự Tại Thọ trì vô lượng Thứ tự thọ ký Khiến được chính giác. Ở nơi chư Phật Đều được giải thoát. Định Quang Thế Tôn Thành Phật cuối cùng Đại Thánh Nhật Nguyệt Bậc Thầy dẫn đạo Khai hóa Thánh chúng Trăm ngàn vô số An trụ giải thoát Có đủ uy đức Pháp sư Siêu Quang Tức chính là ta. Lúc ấy có vị tính thường giải đãi Tham cầu lợi dưỡng Thân cận bạn bè Tâm hay mong cầu Chỉ thích tiếng khen Hay thường giao du Các nhà dòng dõi Bỏ bê không học Chẳng đọc tụng kinh Lúc đó chẳng chịu Học tập tư duy Vì lý do ấy Mới có tên này, Nơi giáo pháp Phật Muốn được ngợi khen Tuy nhiên người này Đã tạo công đức Thời Phật quá khứ Dẫu có tỳ vết Được gặp vô số Chư Phật Thế Tôn Tích lũy công đức Với chư Đại Thánh Chuyên tu chính hạnh Được tối thuận nhẫn Lại gặp Thích Tôn Tu hành như vậy Nên ở tương lai Vào đời cuối cùng Sẽ được thành đạo Vô thượng chính chân Thành Đấng Phật-đà Hiệu là Từ Thị Giáo hóa chúng sinh Vô số ức ngàn Tâm thường dũng mãnh Tự tại giải thoát An ổn diệt độ Việc Ngài giáo hóa Ở trong tương lai Sẽ là như vậy. Thuở ấy thân tôi Chính là Pháp sư Do thế cho nên Điềm lành như trên Đời trước đã thấy Cảnh như hiện nay Thế Tôn an trụ Biến hiện như thế Nay tôi thẩm quán Điềm lành hiện nay Đức Phật Thế Tôn Vua dòng họ Thích Mắt tuệ vô lượng Hiện điềm tối thắng Hôm nay muốn nói Kinh chính Pháp Hoa Tôi ở quá khứ Đã từng thấy nghe Biến hiện như vậy Đầy đủ tất cả Phương tiện quyền xảo Của chư Thế Tôn Nay Đấng Thích Tôn Kiến lập hưng khởi Giảng thuyết kinh pháp Giáo hóa tự nhiên Người có tâm đạo Chắp tay kính ngưỡng Đạo Sư giúp đời Nay sẽ phân biệt Tuôn mưa chính pháp Giáo pháp vi diệu Thấm nhuần tất cả Che phủ mọi loài Nếu có chư Thiên Muốn được giải thoát Lòng còn hồ nghi Và còn do dự Nếu có Bồ-tát Ý tầm cầu đạo Phật sẽ giải trừ Được trí tuệ Phật.  <詞 id="83085230">Phẩm 2: THIỆN QUYỀN Khi ấy Đức Thế Tôn xuất thiền, bảo Tôn giả Xá-lợi-phất: –Phật đạo sâu xa vô tận, Tuệ giác vô thượng của Như Lai khó hiểu, khó biết, khó có thể vào. Tuy hàng Thanh văn, Duyên giác từ muôn ức kiếp lâu xa đã quy kính cúng dường, vô số kiếp đã tạo lập cội lành công đức, tôn trọng phụng trì pháp Phật, ân cần lao khổ, tinh tấn tu hành, còn không thể thấu hiểu diệu lý của đạo. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Như Lai quán sát nhân duyên sinh khởi hạnh nghiệp của chúng sinh nên dùng phương tiện quyền xảo một cách khéo léo, tùy nghi hướng dẫn điều phục họ, Như Lai dùng trí tuệ phân biệt tất cả pháp, vận dụng vô số phương tiện để cứu độ quần sinh, dùng sức trí tuệ lớn không sợ hãi, nhất tâm, giải thoát, Tam-muội không có hạn lượng. Giáo pháp mà Như Lai đã giảng nhiều không thể tính hết, nhưng Như Lai chỉ lược thuyết mà thôi. Pháp mà Như Lai đã chứng ngộ là pháp hy hữu, cao tột, khó thể suy lường. Như Lai đã thấu tỏ nguyên nhân của các pháp, tự ngộ các pháp từ đâu mà đến, phân biệt hiện tượng của các pháp, tự biết rõ nguồn gốc của chúng. Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên nên nói kệ: Bậc Thế Hùng khó lường Trời, người ở cõi thế Tất cả loài chúng sinh Không ai hiểu Đạo Sư Thanh tịnh nói giải thoát Vắng lặng không sợ hãi Hành tướng của các pháp Không một ai biết được. Vốn từ vô số Phật Do nương tựa tu hành Thể nhập nghĩa vi diệu Hiện thế không phân biệt, Trải qua vô số kiếp Tu học theo hạnh Phật Thành quả đến đạo tràng Cũng như hành từ mẫn, Khiến ta được tuệ này Như chư Phật mười phương Đầy đủ các tướng tốt Vẻ đẹp cũng như vậy. Pháp thân không phô bày Cũng không còn ngôn ngữ Quán sát toàn chúng sinh Thế gian không ai sánh. Nếu thuyết giảng kinh pháp Có thể hiểu rõ được Chỉ có chư Bồ-tát Thường tin hiểu vui làm. Giả sử các Phật Chúng đệ tử Ngài Việc làm đã xong An trụ giáo pháp, Khéo hàng phục tâm Dứt trừ phiền não Vẫn chưa đạt được Trí tuệ vô lượng. Giả sử nơi đây Cảnh giới chư Phật Đều đem bảy báu Tràn đầy khắp nơi, Dùng để hiến cúng Chư Phật chí tôn Muốn rõ tuệ ấy Trọn không hiểu nỗi, Giả sử mười phương Thế giới chư Phật Các bậc Minh triết Đầy khắp cõi nước, Và trong hiện tại Các chúng Thanh văn Đầy đủ tất cả Cũng như hiện nay. Hội chúng khi ấy Cùng nhau suy lường Trí tuệ Như Lai Cũng không thể biết Trí tuệ của Phật Vô lượng, vô biên Muốn biết giới hạn Chẳng thể biết được. Các bậc Duyên giác Lậu hoặc không còn, Thông đạt các căn Nhiếp trì tâm niệm. Giả sử mười phương Đầy chật cả người Nhiều như mía lau Cỏ sậy tre trúc, Hợp lại với nhau Cùng chung tư duy Muốn biết trí Phật Luận bàn các pháp, Trải vô số kiếp Suy niệm đo lường Cũng không thể biết Pháp nghĩa chân thật. Các vị Bồ-tát Mới phát tâm ý Nếu được cúng dường Vô số ức Phật, Giảng thuyết pháp kinh Phân biệt nghĩa lý Tràn đầy khắp cả Mười phương cõi nước. Số đó ví như Lúa mè rừng cây Khắp cùng thế giới Nhiều vô số kể, Kết hợp với nhau Mà cùng tư duy Tuệ giác Như Lai Thấy các pháp tính Không thể nghó bàn Vô số ức kiếp Như cát sông Hằng Không thể hạn lượng. Tâm không thay đổi Trí tuệ siêu việt Muốn biết pháp ấy, Vô số Bồ-tát Đều không thoái chuyển Chẳng phải cõi này Trong vô lượng kiếp Như cát sông Hằng Nhất tâm chuyên ròng Cùng nhau tư duy Tất cả bọn họ Cũng không kham nổi. Trí tuệ chư Phật Không thể nghó bàn Đoạn hết các lậu Không thể suy lường, Chỉ có chư Phật Mới hiểu hoàn toàn Phân biệt mười phương Thế giới chư Phật. Này Xá-lợi-phất! Lời Như Lai dạy Không có thiếu xót Thấu rõ pháp kia, Pháp lợi tối thắng Thông tỏ hoàn toàn Thuyết nghĩa Vô thượng Sau thời gian dài. Hôm nay Như Lai Bảo chúng Thanh văn Và Duyên giác thừa Như chỗ đã lập, Thoát nguyện buộc ràng Hưởng được Niết-bàn Sẽ được khai hóa Tất cả được độ, Pháp Phật tối thắng Khéo dùng phương tiện Tuyên thuyết diển bày Giáo hóa thế gian Ta thường độc hành Độ thoát tất cả Dùng thị hiện ấy Nói pháp chân thật. Khi ấy trong đại chúng có tất cả một ngàn hai trăm vị A-la-hán thuộc hàng Thanh văn đã chấm dứt các phiền não, biết rõ con đường tụ tập đưa đến giác ngộ, cùng với chúng đệ tử Hữu học Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di thuộc chúng Thanh văn, mỗi vị đều suy nghó: “Tại sao hôm nay Đức Thế Tôn ân cần tán thán về phương tiện khéo léo, ca ngợi công hạnh và giáo pháp sâu xa vi diệu, của Phật mà ngay cả bậc có trí tuệ cao tột cũng không thể hiểu biết, huống gì những vị Thanh văn, Duyên giác. Nếu nay theo lời Đức Thế Tôn vừa dạy thì pháp ấy không đưa đến Niết-bàn. Tuy Thế Tôn thuyết kinh này nhưng chúng ta không rõ tận cùng ý nghĩa đó như thế nào?” Tôn giả Xá-lợi-phất biết sự hoài nghi trong lòng bốn chúng và muốn phá lưới nghi của mình nên thỉnh hỏi Đức Thế Tôn. Tôn giả sửa y phục, cung kính bạch Phật: –Kính bạch Thế Tôn! Hôm nay vì sao Thế Tôn ân cần tán dương phương tiện khéo léo của Ngài là pháp sâu xa vi diệu bậc nhất, đạo đức cao vời vợi không có giới hạn? Tôn giả Xá-lợi-phất dùng kệ thỉnh hỏi: Thánh Tuệ cao tột Lâu xa mới dạy Giải thoát, thiền định Phụng trì vô số Khen công Đức Phật Không ai dám thưa Ca ngợi thật pháp Ai hiểu ý diệu Hiển bày Thánh pháp Tán thán hạnh Phật Tuệ không thể lường Xin Phật giảng pháp Nay chúng hoài nghi Nghe pháp dứt phiền Mong cầu giải thoát Nghe Phật ca ngợi Hạng cầu Duyên giác Tỳ-kheo nam nữ Trời, Rồng, Quỷ, Thần Kiền-đạp, Hưu-lặc Tất cả các loài Cũng đều phân vân Muốn thỉnh hỏi Phật Xin Phật giải thích Cho hàng Thanh văn Dạy tâm an trụ Được Phật ngợi khen Chỉ con bậc nhất Tâm nay mê mờ Không tự hiểu được Con đến Niết-bàn Lại nghe điều này Xin giảng phân biệt Diễn âm oai hùng Lời Phật tuyên bày Như Sư tử rống Chúng đệ tử Phật Chắp tay kính lễ Muốn nghe chính pháp Cúi mong phân biệt Tám bộ Trời, Rồng Quỷ, Thần, Chân-đà Trăm ngàn vô số Như cát sông Hằng Ai cũng chắp tay Cúng dường Thế Tôn Đều cùng muốn hỏi Với Đấng Tuệ Giác Vua trời Đế Thích Chuyển luân thánh vương Ai cũng một lòng Trăm ngàn muôn ức Tất cả cung kính Chắp tay đứng chờ Mong muốn được nghe Con đường hoàn hảo. Khi ấy Đức Thế Tôn bảo Tôn giả Xá-lợi-phất: –Thôi đi, thôi đi, không nên hỏi điều ấy! Vì sao? Vì nếu ta nói pháp ấy thì cả thế gian, chư Thiên và nhân loại đều sẽ kinh sợ. Tôn giả Xá-lợi-phất lại thưa: –Cúi xin Đức Thế Tôn hãy chỉ dạy cho chúng con ý nghĩa của thật pháp. Vì sao? Bởi vì ở trong chúng hội này có trăm ngàn vô số ức đầy dẫy những loại chúng sinh, kể cả những sâu bọ, muỗi mòng, côn trùng nhỏ nhít… từ kiếp quá khứ đã từng gặp Phật biết gieo trồng các công đức, nghe lời Đức Thế Tôn dạy, tất cả sẽ hoan hỷ kính tin, thọ trì, phụng hành. Tôn giả Xá-lợi-phất dùng bài kệ nói: Nguyện Đấng Nhân Vương Thương ban lời dạy Chúng xuất gia đây Trăm ngàn muôn ức Cung kính an trụ Tin vào Tuệ giác Tất cả các loài Thảy đều hân hoan. Lúc đó Đức Thế Tôn ngăn Tôn giả Xá-lợi-phất ba lần như vậy, bảo Tôn giả chớ nên lập lại lời ấy, bởi nếu Như Lai nói pháp ấy thì cả thế gian, chư Thiên và nhân loại đều ôm lòng kiêu mạn hoài nghi, những vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni sẽ rơi vào khốn khổ lớn. Đức Thế Tôn dùng kệ bảo Tôn giả Xá-lợi-phất: Thôi thôi đừng hỏi Pháp của Như Lai Sâu xa vi diệu Những kẻ không hiểu Giả sử ta nói Dễ sinh nghi ngờ Ám độn ngu si Ôm lòng kiêu mạn. Tôn giả Xá-lợi-phất lại thưa: –Bạch Đức Thế Tôn! Cúi xin Đức Thế Tôn hãy thương xót chỉ dạy. Vô số chúng đây vào thời quá khứ lâu xa đã từng nghe chư Phật giảng dạy, vì thế hôm nay nếu được nghe và tư duy pháp âm bậc thánh chắc chắn họ có thể kính tin, được an ổn lâu dài, không còn nghi ngờ, kiêu mạn. Tôn giả Xá-lợi-phất nói bài kệ: Con, trưởng tử Phật Nay muốn thỉnh cầu Xin Lưỡng Túc Tôn Xót thương chỉ dạy Trong chúng hội này Vô số chúng sinh Đều sẽ kính tin Lời dạy của Phật Xưa trồng cội đức Dứt các lưới nghi Suốt vô lượng kiếp Từng được dạy bảo Nay họ chắp tay Đứng bên cung kính Chắc chắn hân hoan Với pháp nghĩa ấy Những người như con Một ngàn hai trăm Và các chúng khác Cầu Tuệ giác Phật Nếu được thấy, nghe Tin nơi giáo pháp Tâm sẽ vui mừng Phát khởi chí lớn. Bấy giờ Đức Thế Tôn thấy Xá-lợi-phất ân cần thưa thỉnh ba lần, mới bảo với Tôn giả: –Nay ông đã tha thiết thưa thỉnh đến lần thứ ba, nên Như Lai không thể không nói. Vậy ông hãy lắng nghe, khéo tư duy và ghi nhớ. Ta sẽ giải nói. Khi Đức Thế Tôn vừa nói xong lời ấy, năm ngàn vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di vì ôm lòng kiêu mạn lập tức đứng dậy, rời chỗ ngồi, đảnh lễ Đức Thế Tôn và bỏ hội chúng mà lui ra. Vì sao? Vì những người đó không tin vào pháp phương tiện khéo léo, lại có tâm tăng thượng mạn, chưa được tự cho đã được, chưa chứng tự cho đã chứng. Họ góp nhặt những vật dụng như dù che, y phục, ngọa cụ… rồi tự đi ra. Đức Thế Tôn vẫn yên lặng không ngăn cản. Đức Thế Tôn bảo Tôn giả Xá-lợi-phất: –Những kẻ què quặt, lén bỏ hội chúng ra đi, bị âm thanh, mùi vị buộc ràng nên rời khỏi nơi đạo tràng rộng lớn. Này Xá-lợi-phất, những kẻ tăng thượng mạn ấy lui ra cũng tốt. Vì sao Như Lai tuyên thuyết pháp này? Ví như hoa Linh thụy thỉnh thoảng mới xuất hiện một lần, chư Phật tán thán pháp hy hữu này rất lâu mới có. Hội chúng phải tin vào lời pháp chân thật sâu xa của Như Lai, Như Lai tùy nghi thuyết pháp sâu xa vi diệu, không hư dối, bao nhiêu âm thanh lời lẽ diễn đạt về pháp, mỗi lời đều đặc thù, là điều mà con người không thể suy niệm được. Pháp ấy chưa ai nghó ra được, chỉ có Như Lai mới chứng biết. Vì sao? Bởi vì điều mà Như Lai ca ngợi, khai sáng cho đời chính là lý do trọng đại duy nhất. Mà tất cả chư Phật thị hiện ra đời. Chư Phật vì muốn khuyến cho chúng sinh đang vọng tưởng nên xuất hiện ở đời; muốn làm cho chúng sinh chấm dứt vọng tưởng vô minh, mong cầu Phật tuệ mà xuất hiện ở đời; muốn làm cho chúng sinh dứt bỏ vọng tưởng, đạt đến trí tuệ trân quý của Như Lai mà xuất hiện ở đời; muốn đem tuệ giác của Như Lai để giác ngộ chúng sinh vọng tưởng mà xuất hiện ở đời; muốn chỉ bày, làm cho chúng sinh tỉnh thức theo con đường bát chính, dứt trừ vọng tưởng mà xuất hiện ở đời. Vì thế nên biết, sự xuất hiện của các Bậc chính giác đều vì một mục đích là đem trí tuệ siêu việt mà tạo nên sự nghiệp lớn. Trí tuệ ấy cũng như hư không, vì tâm Đại Bi mà xuất hiện ở đời, như chư Phật đã thực hành để hóa độ, làm lợi ích cho chúng sinh cũng lại như vậy. Như Lai thể hiện trí tuệ chân thật thuyết pháp giáo hóa các Bồ-tát, dùng Tuệ giác Phật phân tích, giảng thuyết làm cho họ tiến đến cỗ xe duy nhất là Phật thừa, không hề có cỗ xe thứ hai, huống chi là cỗ xe thứ ba. Chư Phật Thế Tôn trong mười phương thế giới, quá khứ, hiện tại và vị lai cũng đều vận dụng bao nhiêu lời lẽ giáo hóa phương tiện quyền xảo, âm thanh, ngôn từ khác nhau để khai hóa cho tất cả chúng sinh, thuyết pháp khiến họ đều phát tâm Đại thừa, cỗ xe đưa đến chính giác và tất cả trí tuệ sáng suốt của Phật. Xá-lợi-phất! Những chúng sinh đây đều đã cúng dường chư Phật đời quá khứ, cũng từng nghe pháp, tùy theo bản hạnh của họ mà được Như Lai chỉ dạy. Như Lai thấy bản hạnh của chúng sinh không giống nhau, xem xét tâm họ ưa thích những gì, khéo dùng phương tiện theo quả báo mà họ đã thọ để giảng pháp nghĩa, đều là pháp Đại thừa chính giác bình đẳng, đưa đến trí tuệ giác ngộ, đức hạnh toàn thiện, không có thừa thứ hai. Chư Phật trong mười phương thế giới đều như vậy, không có tam thừa. Xá-lợi-phất! Nếu Như Lai nói về sự cấu uế của chúng sinh thì suốt trong một kiếp cũng không hết được. Nay ta xuất hiện nơi đời ngũ trược xấu ác, đó là: 1. Trần lao. 2. Hung bạo. 3. Tà kiến. 4. Thọ mạng ngắn ngủi. 5. Đang thời kiếp trược. Vì những điều ấy nên chúng sinh có ít phước đức, tham lam, bỏn sẻn, nhiều cấu uế…, Như Lai phải vận dụng phương tiện nói có ba thừa để khuyến hóa hàng Thanh văn và Duyên giác. Nếu ta dạy về Phật thừa thì tất cả họ đều sẽ không nghe, không hiểu, không thâm nhập được; sẽ có niệm sai lầm cho rằng chỉ có đạo Thanh văn và Duyên giác là cao tột, sâu xa. Nếu những vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, đã chứng La-hán, tự cho là đã hoàn tất mà không có chí mong cầu Tuệ giác vô thượng, nhất định họ sẽ phỉ báng Phật thừa. Dù có suy niệm ấy, ta vẫn giáo hóa bình đẳng. Tuy nhiên sau khi Như Lai nhập diệt, những kẻ nhiều tăng thượng mạn mới biết được. Vì sao? Vì những vị Tỳ-kheo La-hán, nhưng đã chấm dứt các lậu hoặc không có chí mong cầu, nghe kinh điển này mà không tin nhận, khi Như Lai diệt độ, không còn hiện diện trước mặt họ nữa; nếu Đấng Đại Thánh diệt độ không thuyết pháp kinh này, khiến cho họ thọ trì và tụng đọc kinh phương đẳng, thì Đức Phật khác, (ban đầu) chắc chắn họ sẽ hồ nghi, nhưng sau đó họ sẽ trọn lòng tin lời của Như Lai nói là thành thật, chỉ có pháp Nhất thừa không có thừa thứ hai. Đức Thế Tôn tụng lại nghĩa trên: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni Tâm nhiều tăng thượng mạn Cận sự nam và nữ Năm ngàn người không tin Không tự thấy tỳ vết Sơ hở thiếu giới hạnh Bị nhiều điều điên đảo Nên khởi ý ngu si Ngược cầu hạnh tạp nhiễm Đều không phương tiện khéo Chư Phật định tối thắng Được nghe pháp có duyên Cúng dường Bậc Tịnh Trí Trụ uy giữa chúng nghiêm Tất cả đều nhờ ân Chí nghịch đều thấy ác Xá-lợi-phất hãy nghe! Phật, Bậc Nhân Trung Tôn Biết đúng rõ các pháp Giảng nói bao nhiêu điều Khéo dùng phương tiện Trăm ngàn muôn ức Tùy tâm hạnh người Để mà thuyết pháp Các việc tội phước Chúng sinh không đồng Từ nơi kiếp trước Theo sự báo ứng Những chúng sinh đây Tâm niệm mỗi khác Tạo biết bao nhiêu Kết sở ràng buộc Thấy các nhân duyên Trăm ngàn muôn ức Tất cả phẩm loại Tỳ vết như thế Đại Thánh Như Lai Thuyết kinh pháp này Lời dạy chí thành Không hề hư dối Từ xưa dẫn dụ Vô số bao nhiêu Những điều ta nói Đều vì phân biệt Có người không ưa Lời Bậc chính Giác Nơi vô số Phật Không tạo lập hạnh Ngu si sinh tử Bị nhiều khổ họa Cho nên vì họ Hiện nói Niết-bàn Đại Thánh chuyển pháp Vận dụng phương tiện Để khuyến hóa người Khiến vào Phật tuệ Theo lời Phật dạy Hưng thạnh thế gian. Ta trước chưa từng Vì họ thị hiện Vì sao ngu mê Gặp Bậc Đạo Sư Tự thấy nhàm chán Chính vì phân biệt Nay mới được nghe Diễn bày bình đẳng Vì thế mới nói Trí giác của Phật Trong pháp của ta Những người mới học Phật dùng Thánh tuệ Phương tiện quyền biến Như Lai phân biệt Vì muốn khai hóa Cho các chúng sinh Nên dạy nghĩa ấy Muốn biết Phật đạo Thường luôn thanh tịnh Vui tin Thánh điển Thật là vi diệu Ở chỗ chư Phật Việc làm đã xong Vì những vị ấy Nói pháp Phương đẳng Chí tính thuận hòa Đầy đủ các hạnh Gần gũi Thánh giác Rồi vì họ nói Đạt đức sâu rộng Họ ở vị lai Xót thương từ mẫn Tất cả nghe pháp Ca ngợi vui mừng Chúng ta thành Phật Cũng sẽ như vậy Nhờ nhân duyên ấy Đời đời đoan nghiêm Và luôn học tập Kinh Phương đẳng này Ai vui thích nghe Thánh giáo tuyệt diệu Những người như thế Là đệ tử Phật Giả sử được nghe Một câu kệ Phật Đều thành chính giác Không có nghi ngờ Phật đạo có một Chưa từng có hai Huống gì trong đời Lại có ba thừa Trừ khi Như Lai Phương tiện tuyên thuyết Ta dùng Phật thừa Khai hóa thuyết pháp Muốn được giảng nói Tuệ Phật sâu xa Khéo dùng phương tiện Trí sáng của Phật Chỉ có Nhất thừa Đâu thể có hai Những người trí thấp Cần cầu thắng pháp Tuệ giác Như Lai Thường luôn như thế Đến được quả Phật Chẳng ai dám nghó Phật lực nhất tâm Mở cửa giải thoát An trụ chúng sinh Vào pháp Vô thượng Chư Phật tối thượng Không có tỳ vết Không ai sánh cùng Hiện trí bình đẳng Chỉ dạy như vậy Pháp lành chúng sinh Vì vậy Thế Tôn Khuyến lập thừa ấy Nơi chốn an ổn Khuyên siêng kính ngưỡng Cảnh giới khắp nơi Tại đó tu hành Đoạn trừ tất cả Các pháp tham tàn Nên hiệu là Phật. Đấng đại dũng mãnh Nay đã tạo lập Vô số tướng hình Quyến thuộc bao quanh Diễn ánh sáng pháp Vô số chúng sinh Trăm ngàn muôn ức Vì họ giảng pháp Pháp ấn tự nhiên. Này Xá-lợi-phất! Ta thấy như vậy Hôm nay nơi đây Vì khắp quần sinh Hiện ba hai tướng Dung mạo diệu kỳ Thân tâm tự tại Không gì ngăn ngại. Ta đã quán niệm Theo chỗ nhớ nghó Nay cũng như xưa Ai có chí nguyện Đều được viên thành Sâu xa vi diệu Phân biệt giảng nói Đồng đến Phật vị. Này Xá-lợi-phất! Lời Phật chí thành Mọi việc làm vì Giác ngộ chúng sinh. Giả sử ta nói Không thể hiểu rõ Không thể tiếp nhận Lời thiện chí thành, Như Lai suy nghó Những kẻ như đây Ở trong quá khứ Chưa từng tu tập, Hôm nay đến lúc Nguyện xưa đã thành Đoạn trừ ái dục Trừ mưa ám chướng Chúng sinh đắm dục Đọa vào đường ác Ở nơi uế nhiễm Các niệm xấu xa Và pháp vô minh Thường luôn tăng trưởng Những người phước mỏng Bị họa khổ não Và các tà kiến Bức bách buộc ràng Chấp có thế này Chấp không thế khác Nương theo đầy đủ Sáu mươi hai kiến Thường ở nơi đây Cố chấp không bỏ Thế lực mong manh Lòng luôn lo sợ, Chưa từng được nghe Phạm âm của Phật Thường phải đọa lạc Không lìa ba nẻo Trăm ức ngàn đời Chẳng hiểu giáo pháp Vì những người ấy Như Lai phương tiện Tuyệt diệu vô cùng Dạy họ diệt khổ Đoạn tận cội nguồn Phiền não tà kiến Của các chúng sinh Phật chỉ bày họ Khiến đến Niết-bàn, Vì vậy Như Lai Khai thị diệt độ Khiến tất cả pháp Đều được tịch tónh. Lại nữa quá khứ Đệ tử chư Phật Nên trong tương lai Thành Bậc Tối Thắng Ta nay vận dụng Phương tiện như thế Khiến họ đừng nghó Nên dạy Tam thừa Nhưng chỉ có một Không có hai, ba Vì vậy Thế Tôn Lại nói Nhất thừa Có vô số người Khởi niệm hoang mang Suy nghó rối rắm Do dự nghi ngờ Lời Như Lai dạy Trọn không đổi khác Phật thừa duy nhất Chưa từng có hai Từ xưa đến nay Đạo sư cõi đời Vô lượng chư Phật Đã nhập Niết-bàn Thuộc thời quá khứ Vô số kiếp qua Tính toán suy lường Không thể hết được Tất cả Thế Tôn Tối thượng cõi người Giảng nói kinh pháp Vô lượng thanh tịnh Đã dùng vô số Báo ứng ví dụ Vận dụng phương tiện Muôn ức trăm ngàn Rộng vì chúng sinh Thị hiện Nhất thừa Cho nên thuyết đạo Độ người chưa độ Thường giảng cho người Trí tuệ bình đẳng Khai hóa muôn loài Trăm ngàn muôn ức Phương tiện khác nhau Vô số Đức Phật Vì giảng phân biệt Chân lý cao tột Bản tính thanh tịnh Mới tin hiểu được Hoặc tại trên trời Thế gian cũng vậy Có ai nghe kinh Nghe xong suy ngẫm Những chúng sinh đó Đạt được an ổn Thường hành bố thí Giới hạnh đầy đủ Nhẫn nhục không thiếu Thường hành bình đẳng Tinh tấn nhất tâm Tu thiện dũng mãnh Nơi kinh điển này Tuân giữ trí tuệ Hoặc là tạo lập Bao nhiêu phước đức Thì những người ấy Sẽ thành Phật đạo. Ta có diệt độ Nơi chỗ Như Lai Vào thời gian đó Tất cả chúng sinh Nhẫn nhục thiền định An lạc vô cùng Thì những người ấy Sẽ thành Phật đạo. Nếu ai cúng dường Xá-lợi chư Phật Bậc Thánh Tối Thắng Khi Phật diệt độ Xây nơi thờ Phật Vạn ức trăm ngàn Vàng ròng bạc trắng Lưu ly thủy tinh Hoặc dùng mã não Tạo dựng chùa tháp Xà cừ, hổ phách Và ngọc ma-ni Hoặc dùng bùn đất Tạo lập hình tượng Những người như thế Đều thành Phật đạo. Giả sử dùng đá Xây dựng chùa Phật Hoặc dùng Chiên-đàn Hay gỗ mật hương Tạo thành chùa tháp Lập tôn tượng Phật Chạm gỗ điêu khắc Vẽ hoa trang hoàng Hoặc người giữ giới Tha thiết chí thành Hoặc lại tạo dựng Chùa tháp cao đẹp Hoặc ở trong nhà Tụng đọc kinh điển Hay nơi hoang dã Hoặc chốn hang sâu Vì muôn ức người Rống tiếng sư tử Hiện ở mười phương Các chùa tháp Phật Đồng tử ca múa Nơi có Xá-lợi Những người như thế Sẽ thành Phật đạo. Hoặc vì Như Lai Dùng báu tạo tượng Ba mươi hai tướng Thù thắng tốt đẹp Giả sử có người Tụng kinh nói nghĩa Những người như thế Sẽ thành Phật đạo. Hoặc vì Như Lai Tạo lập hình tượng Dùng đến bảy báu Đường đi tốt đẹp Ánh sáng rạng ngời Chiếu khắp chúng sinh Những người như thế Sẽ thành Phật đạo. Hoặc lại dùng đồng Ngọc bích vẽ khắc Vì Đại Thánh Tôn Tạo hình tuyệt diệu, Hoặc đem văn kinh Chép trên lụa trắng Những người như thế Sẽ thành Phật đạo. Hoặc sửa chùa hư Tô lại hình tượng Công đức tín tâm Có trăm phước tướng Xuất gia học pháp Sao chép Phật kinh Những người như thế Sẽ thành Phật đạo. Giả sử mỗi người Làm việc kỳ lạ Bỏ hết tất cả Ca múa vui mừng Đồng tử Bồ-tát Thông đạt giải nghĩa Không nói lời đùa Cũng không dối trá Tất cả vì muốn Thể hiện lòng Từ Những người như thế Sẽ thành Phật đạo. Tức khiến độ được Muôn ức quần manh Vô số Bồ-tát Thần thông Tam-muội Giả sử tất cả Thờ cúng Xá-lợi Tạo lập chùa tháp Vẽ họa hình tượng Đắp, sửa, trang hoàng Viết kinh lên vách Dâng cúng hoa hương Rải trên tháp tượng Lại đem kỹ nhạc Ca tụng Phật đức Đàn, trống, múa ca Tiết tấu dịu hòa Ca ngợi vui mừng Tỏ lòng tôn kính Hoặc làm các việc Tu bổ cúng dường Đàn cầm, não bạt Đàn bầu, tỳ bà Ống tiêu, ống sáo Vui xướng diệu âm Đều vì nhất tâm Không có phiền não Do duyên ấy nên Đều vui an tịnh Hoặc đem nước rưới Quét sạch chùa tháp Dùng nước sạch trong Nước mật, nước quả Tạp hương đất sét Trổi các nhạc khí Lắng lòng quy mạng Cúng Bậc Tối Thắng Đem bao nhiêu vật Dâng cúng xá-lợi Như Lai diệt độ Cung kính ít nhiều Giả sử một lần Đánh trống trổi nhạc Những người như thế Đều thành Phật đạo. Giả sử tịnh tâm Chiêm ngưỡng tượng vẽ Cầm một bông hoa Dâng lên tượng đắp Tỏ lòng cung kính Tin tưởng không nghi Dần dần sẽ gặp Vô số ức Phật. Lại có những người Chắp tay trước tháp Dù chỉ một lần Nhiễu quanh hướng về Lễ bái Đại Thánh Cúi đầu ca ngợi Làm những việc ấy Thân không cấu nhiễm Sẽ dần dần gặp Vô số ức Phật Với chư Như Lai Tạo nhiều nghĩa lợi. Giả sử có người Cúng dường Xá-lợi Chỉ đọc lời rằng: Nam-mô Phật-đà Ai tâm loạn động Nếu nói lời ấy Những người như thế Sẽ thành Phật đạo. Nhân duyên diệt độ Dứt trừ lửa độc Những người như thế Sẽ thành Phật đạo. Ở trong hội chúng Xây dựng niềm tin Lúc ấy an trụ Cứu giúp muôn loài Giả sử có người Nghe danh pháp này Những người như thế Sẽ thành Phật đạo. Vào thời tương lai Vô số ức Phật Không thể nghó bàn Không thể suy lường Chư Phật Tối Thượng Thầy của cõi đời Sẽ vì họ giảng Trí tuệ quyền biến Các bậc Đại nhân Dùng phương tiện khéo Sẽ được thành Phật. Đạo sư cõi đời Sở dó khai hóa Muôn ức chúng sinh Thiền định trí tuệ Vì trừ lậu nhiễm Được nghe pháp ấy Không có một ai Tất cả mọi loài Đâu không giác ngộ Pháp chư Đại Thánh Đều theo nguyện xưa Khi hành Phật đạo Giải thoát hoàn toàn Vô lượng pháp môn Ức ngàn vô số Đến lúc cuối cùng Mới vì thuyết giảng Các Đấng Chí Tôn Thường tuyên diệu pháp Đó là gặp được chính giáo chư Phật Các pháp vốn tịnh Thường hành tự nhiên Các nghĩa lý này Là Phật khai hóa Chỉ Bậc Túc Tôn Mới phân biệt giảng Xướng dạy giáo pháp nghĩa lý Nhất thừa Pháp làm định tâm Chí giữ Giới luật Thường ở thế gian Tán tụng diễn giảng Cùng nhau ngợi ca Phương tiện khéo léo Chư Phật Tối Thắng Ý chí quảng đại Là chỗ cúng dường Trời người hướng đến Chư Phật hiện tại Như cát sông Hằng Muốn lợi an ổn Cho khắp quần sinh Bậc Đẳng chính giác Cũng như chư Phật Điều Phật diễn nói Phương tiện quyền biến Dạy bao nhiêu điều Mở bày vào đạo Đều cùng tán thán Đạo Nhất thừa kia Nơi chốn vắng lặng Không có Nhị thừa Phật biết chúng sinh Công đức tu tập Từ đời quá khứ Nương theo chí tính Tinh tấn chọn lựa Và xét cội nguồn Người chưa giải thoát Vì họ phân biệt Các Đấng Đạo Sư Dùng nhiều nhân duyên Lời lẽ dẫn dụ Chỉ vì thị hiện Soi xét chúng sinh Giúp họ an vui Dùng bao ngôn từ Để khai hóa họ Nay ta cũng thế Là vua cõi người Mở cho chúng sinh Pháp lợi, an ổn Dùng các âm thanh Trăm ngàn muôn ức Chỉ vì hiển bày Đạo lớn của Phật Như Lai thuyết pháp Dùng bao phương tiện Biết các chúng sinh Tâm họ ưa thích Bao nhiêu sắc tượng Khiến họ vui vẻ Duyên trí tuệ ấy Thuận theo đạo lực Ta là Pháp Vương Quản khắp thấy rõ Những kẻ ngu mê Lìa đức trí tuệ Đọa vào sinh tử Rơi hang hiểm sâu Không được giải thoát; Đời sau gian nan Bị ái dục ràng Rong ruổi tử sinh Bụi trần lao nhọc. Hôm nay tự tại Đại Thánh oai thần Biết chỗ mong cầu Các pháp chưa từng Đưa đến khổ họa Các loại quần manh Chìm trong sáu nẻo Chấp vào tà kiến Không thể thoát ra Khổ não dẫy đầy Lạc vào đường hiểm. Ta phát đại Từ Thương kẻ ngu si Đến chỗ đạo tràng Ngồi nơi an ổn Trải cỏ làm tòa Trong suốt bảy ngày Tư duy suy nghó: “Phải tìm pháp gì Chấm dứt khổ đau Kiêu mạn cõi đời?” Quán sát đại thọ Mắt không hề chớp. Ta lại kinh hành Quanh đại thọ ấy Do tuệ thù thắng Được đạo hy hữu Chúng sinh luân chuyển Trong đại vô minh. Khi ấy Phạm thiên Biết được ý Phật Đế Thích, Tứ thiên Các trời Hộ thế Đại Tự Tại thiên Và Thiên chúng lành Vô số ức ngàn Cùng nhau biết vậy Tất cả chắp tay Cung kính đảnh lễ. Như Lai suy nghó: “Nên làm thế nào Nếu ta tán dương Đạo đức của Phật Những kẻ mê mờ Không chịu tin theo Những kẻ ngu si Sẽ sinh hủy báng Đã hủy báng rồi Rơi vào phi pháp Ta trước chưa từng Nói pháp kỳ diệu Thường vui việc khác Nên dạy ra sao? Ta xem việc làm Các Phật quá khứ Lúc ấy các Ngài Khéo dùng phương tiện Nay ta cũng nên Đem Phật đạo ấy Phân làm ba thừa Mà khai hóa họ.” Khi mới thành đạo Ta nghó như vậy Chư Phật Thế Tôn Ở khắp mười phương Đều tự hiện thân Các Bậc Thánh ấy Ca ngợi: Lành thay! Chúng ta ca ngơi Tán thán Năng Nhân Thầy của cõi đời Đó là chính pháp Phải nên vâng giữ Phải nên tư duy Khéo dùng phương tiện Chư đại Thánh điển Cũng học cứu đời, Chúng ta là Phật Noi theo Như Lai Phân làm ba thừa Mà khai hóa chúng Vì kẻ trí nhỏ Hạ liệt yếu mềm Nghe chư Phật dạy Không thể tự tin, Do vậy chúng ta Mới tìm cách giúp Dùng quyền phương tiện Vì họ thị hiện Tán thán ngợi khen Quả vị họ chứng Và lại khuyến khích Vô số Bồ-tát. Lúc ấy Như Lai Nghe tiếng ngợi ca Liền hiểu rõ ràng Lời của chư Phật Các Đấng Chí Tôn Tâm sinh hoan hỷ Đấng Đại Thần Thông Phân biệt danh sắc Lúc đó mọi người Sẽ tuân hành đạo Theo lời giảng dạy Của chư Đạo Sư. Tỳ-kheo, lúc ta Sinh ở cõi người Giữa chốn phàm phu Cũng tu pháp ấy Này Xá-lợi-phất! Khi hiểu điều ấy Ta liền đi đến Nước Ba-la-nại Tức thời tập hợp Các vị Tỳ-kheo Chúng hội muốn biết Pháp Phật khéo dùng Đúng thời Như Lai Chuyển bánh xe pháp Phát khởi tuyên dương Diệt độ Niết-bàn Và quả La-hán Pháp âm tán thán Như Lai ca tụng Đức của Thánh chúng Ta ở giữa họ Thuyết kinh điển này Tất cả đều đến Nương tựa Thế Tôn Cùng nhau chắp tay Đứng thật cung kính Như Lai phương tiện Vì khắp muôn loài. Khi ấy Thế Tôn Suy nghó như vầy: “Nay đã đúng thời Ta thuyết tôn pháp” Sở dó Như Lai Xuất hiện thế gian Là để giảng nói Phật thừa tối thượng Vì kẻ ngu si Khởi bao vọng tưởng Nếu nói pháp ấy Ít kẻ tin theo Kiêu mạn cống cao Không chịu vâng nhận Nhưng mà pháp này Bồ-tát sẽ nghe Vui theo lời Phật Dũng mãnh tu trì Tất cả ràng buộc Đúng thời đoạn dứt. Hôm nay ta nói Pháp lớn tối thượng Chính vì khuyên nhắc Vào tuệ giác Phật, Con của chư Phật Được gặp pháp này Nhân đây tin hiểu Thuận hành pháp luật Một ngàn hai trăm Chư vị La-hán Các lậu đã dứt Đều sẽ ở đây Thành tựu Phật đạo. Cũng như xưa kia Chư Phật Đại Thánh Cũng ở tương lai Là pháp tối thắng Ta cũng như vậy Trước bỏ vọng tưởng Sau đó mới đến Giảng pháp Phật thừa Thời gian rất lâu Thế gian mới có Bậc Trí cao vời Khai hiển Thánh đạo Mắt tuệ giải thoát Đã hiện trong đời Tuyển chọn hy hữu, Phật giảng pháp ấy Trong ức trăm ngàn Vô lượng số kiếp Nay mới được gặp Như thời tượng pháp. Giả sử Bồ-tát Được gặp kinh này Hoặc lại được nghe Phật đạo Tôn quý Như hoa Linh thụy Lâu lâu mới thấy, Khi thấy được hoa Ai cũng yêu thích Sắc hoa tuyệt diệu Vui đẹp khó có Trên trời dưới thế Bậc Thánh Vô thượng Pháp đại Tôn quý Thật là trân kỳ. Giả sử có người Thuyết giảng kinh này Một lần cất tiếng Hoan hỷ khuyên răn Là đã cúng dường Tất cả chư Phật Tâm của người ấy Không loạn, hoài nghi. Ta là Pháp vương Giáo hóa cùng khắp Trong pháp của ta Tất cả Thanh văn Ta đều khuyến khích Tuân theo Phật đạo. Này Xá-lợi-phất! Và các Thanh văn Hiện đang ở đây Đều đang im lặng, Các Bồ-tát kia Tâm trí dũng mãnh Mật trì pháp này Chớ nên vọng nói. Vì sao ở đời Có năm vẩn đục Hoặc có chúng sinh Tâm ác, chí thấp Tham dục ngu si Và thích phỉ báng Những hạng như thế Không thể đạt đạo; Nếu trong tương lai Được nghe pháp này Phật thừa duy nhất Của Như Lai dạy, Nếu lại có người Nghe pháp tối thắng Phỉ báng kinh này Liền đọa địa ngục. Chỉ có những ai Hổ thẹn, thanh tịnh Chí nguyện phát tâm Tuân theo Phật dạy Ngộ pháp Đại thừa Phước đức vô lượng, Chư Phật Thánh trí Liền hiện trước mắt Bậc Thầy thế gian Giảng pháp như vậy Phương tiện tùy nghi Muôn ức trăm ngàn Phân biệt vô số Lại không nhớ nghó Nếu ai không học Không thể hiểu thấu Vì thế biết rằng Rõ lời chân chính Bậc Thánh ra đời Thuận tu tuệ sáng Đoạn các hoài nghi Dứt trừ do dự Hoan hỷ bền chí Đều sẽ thành Phật. kinh chính pháp hoa <卷 id="83085231">Quyển 2 <詞 id="83085232">Phẩm 3: ỨNG THỜI Lúc ấy Tôn giả Xá-lợi-phất nghe Đức Phật dạy pháp thoại ấy xong hoan hỷ phấn chấn, liền đứng dậy chắp tay bạch Đức Thế Tôn: –Hôm nay con nghe Thế Tôn giảng nói pháp yếu này, trong lòng hoan hỷ, được việc chưa từng có. Vì sao? Vì ngày trước con thường theo Phật nghe thuyết pháp dạy về Bồ-tát thừa, thấy các vị Bồ-tát nghe theo lời Phật dạy đạt đến chính giác mà chúng con không thể dự vào nên cảm thấy tiếc nuối vô cùng, tâm bị thương tổn, tự cho rằng không thể lãnh hội nỗi. Con đã đánh mất trí tuệ Như Lai; con một mình kinh hành dù ở chốn núi cao rừng rậm, hoặc ở dưới gốc cây nơi vắng vẻ, hay trong thất nhỏ an tịnh, tự thúc liễm thân tâm theo lời Phật dạy mà lòng càng thêm sầu khổ. Con tự cho rằng đã đạt được thành quả. Đức Thế Tôn đã vì con dạy bao nhiêu lời để chỉ dẫn mà con vẫn giữ ý chí Tiểu thừa, đó là lỗi của con chứ chẳng phải của Như Lai. Đức Thế Tôn đã diễn giảng cho con pháp của Bậc Đại Thánh với tâm bình đẳng, làm cho chúng con tán thán, tôn kính phụng trì, cho rằng đã lãnh thọ được lời dạy tối thượng của Đức Như Lai, cho đến đã thành tựu Tuệ giác vô thượng. Chúng con đã thuận theo mà mặc pháp phục, kiến lập hạnh nguyện không biết bao nhiêu lần. Bạch Thế Tôn! Tuy vậy từ trước tới nay con thường tự trách mình, suốt ngày đêm suy nghó rằng con tuy từ pháp sinh ra mà không được tự tại, tất cả đều nhờ ân Phật mới được xa lìa các nẻo ác. Đến nay con mới được nghe pháp này. Tôn giả Xá-lợi-phất nói kệ ca ngợi: Được nghe Phật thừa nghĩa của một câu Vượt khỏi mê lầm Thật chưa từng có Pháp con nhận lãnh Chẳng thể nghó bàn Thấy Đấng Chí Tôn Lòng thêm hoan hỷ. Giả sử có người Xưa nay đã từng Nghe pháp an ổn Lấy đó làm vui Các bụi trần lao Ác nghiệp phiền não Tin vào pháp ấy Cũng đều dứt sạch. Con thường ngày đêm Lúc đi kinh hành Hoặc dưới gốc cây Ngồi tịnh nhất tâm Hoặc nơi rừng sâu Trong chốn núi cao Con ngồi trầm tư Suy nghó thế này: Than ôi, tự trách Lòng ác ngăn che Do pháp bình đẳng Mà được vô lậu Không từ ba cõi Kính thuận giáo pháp Xét lỗi quá khứ Dè răn tương lai, Thân Phật sắc vàng Ba mươi hai tướng Con đã trái xa Không tự trang nghiêm, Tám mươi vẻ đẹp Viên mãn thù thắng Gồm đủ các tướng Không cần trang sức, Căn lực giải thoát Tám loại thanh âm Nơi pháp bình đẳng Mà tự đánh mất, Pháp của chư Phật Có mười tám việc Pháp nghĩa như vậy Con đã đánh mất , Âm thanh con nghe Vang khắp mười phương Con được nghe thấy Phật thương cuộc đời Thường sống một mình Ngày đêm kinh hành Lại tự trách mình Lòng luôn tư duy Ngày đêm hồi tưởng Tự rất đắn đo Suy đi nghó lại Mong độ tự thân Phải hỏi Thế Tôn Ý nghĩa thế này: Con sai chỗ nào Lại mất pháp lợi Với trí tuệ Phật Hiện tại trước mắt? Bất cứ lúc nào Ngày đêm ngẫm mãi Con thấy Bồ-tát Đông nhiều vô số Thầy của cõi đời Tùy nghi hóa độ Các vị được nghe Lời dạy Thế Tôn Vì khắp muôn loài Diễn giảng pháp lực Về pháp khó lường Các lậu dứt trừ Đều được giác ngộ Trí tuệ nhiệm mầu Con thấy biết bao Các nơi tế tự Phạm chí ngoại đạo Các pháp tà ngụy Do những điều ấy Hiểu lời Phật dạy Thấy cửa giải thoát Nói pháp Niết-bàn Con hiểu tất cả Chỗ thấy và làm Đồng thời thấu triệt Pháp không, vô thường Do đó tự cho Đã được diệt độ Nay con mới biết Chưa thật Niết-bàn Được thấy chư Phật Thầy của trời, người Khi Bậc Tối Thắng Được chúng vây quanh Ba hai tướng tốt Hào quang sáng ngời Do đó hiểu rõ Niết-bàn Vô dư Con nghe Phật nói Trừ các khổ não Không cần âm thanh Mà được giải thoát Như điều con biết chính giác sư tử Chư Thiên loài người Đều theo phụng sự Phật dùng oai lực Luôn trụ như thế Lần đầu được nghe Đức Thế Tôn dạy Tưởng ma Ba-tuần Biến làm hình Phật Phật chẳng phải ma Đến gây nhiễu hại Phật dùng nhân duyên Thuyết pháp dẫn dụ Vô số ức ngàn Hiển hiện vô vàn Khéo lập bờ kia Đến biển ý đạo Con nghe pháp đó Trừ các hồ nghi Vô số muôn ngàn Có trăm ức Phật Con đều trông thấy Đã nhập Niết-bàn Như chư Phật kia Đã thuyết kinh pháp Khéo dùng phương tiện Tùy thuận giáo hóa Giả sử có người Hiện hạnh cứu cánh Chư Phật đương lai Muôn ức trăm ngàn Vận dụng phương tiện Khéo dạy mọi người Giảng nói kinh pháp Khuyên đến Niết-bàn Tùy căn cơ họ Dùng tuệ giáo hóa Phân biệt hoàn toàn Theo đúng trình tự Pháp của chư Phật Sẽ đem giảng giải Lập tức theo Phật Nghe chuyển pháp luân Đạo Sư Đại Hùng Dạy pháp chân nhã Con cũng như vậy Nương nhờ pháp ấy Các chúng ma kia Đều không dám khởi Lòng con không có Chướng ngại nghi tà Khởi tâm dịu êm Với đạo thậm thâm Nhờ âm thanh Phật Tâm con hoan hỷ Hôm nay được nghe Bao nỗi nghi ngờ Con đều dứt hẳn Trụ nơi tuệ Thánh Con sẽ thành Phật Thoát lưới hoài nghi Chư Thiên, loài người Cùng các quyến thuộc Hôm nay được thấy Đạo nhãn Như Lai Giúp con giáo hóa Cho khắp chúng sinh. Đức Thế Tôn bảo Tôn giả Xá-lợi-phất: –Hôm nay ta ở giữa hội chúng Trời, Người, Sa-môn, Phạm chí, A-tu-la. Ở cõi trời và cõi người tuyên bố ta biết Xá-lợi-phất xưa kia đã từng cúng dường ba mươi hai ngàn ức Đức Phật và được chư Phật giáo hóa sẽ thành đạo Vô thượng chính chân. Chính ta thường đem giáo nghĩa Bồ-tát phương tiện dắt dẫn cho ông. Nhờ duyên này nên ông đã tu tập thành tựu trong giáo pháp của ta, được Như Lai kiến lập oai thần, cũng dạy cho ông chí nguyện Bồ-tát. Ông chưa được Niết-bàn mà tự cho là đã được Niết-bàn. Xá-lợi-phất! Nếu ông muốn nhớ lại việc làm xưa kia của mình ở nơi vô số Đức Phật thì nên thọ trì kinh chính Pháp Hoa, được tất cả chư Phật hộ niệm này và vì tất cả chúng Thanh văn phân tích giải nói. Xá-lợi-phất! Trong thời vị lai, vô lượng, vô biên không thể tính đếm kiếp, ông sẽ cúng dường trăm ngàn vạn ức Đức Phật, thọ trì giáo pháp chân chính, kính giữ tu hành kinh Phương đẳng này, thành tựu đầy đủ các hạnh sẽ được thành Phật, hiệu là Liên Hoa Quang Như Lai, Chí Chân Đẳng chính Giác, Minh Hạnh Thành, Vị Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư. Cõi nước ấy tên Ly cấu, bằng phẳng, an vui, ánh sáng chiếu rực rỡ, đời sống thanh tịnh, chổ ở an ổn, thực phẩm dồi dào, dân chúng đông đảo, mọi người nam nữ trong nước đều được vui vẻ sung túc. Nước ấy dùng lưu ly, vàng ròng làm màn che, có những dải lụa giăng hai bên đường đi, có tám lớp cây bảy báu ở ngã tư đường, cành lá, hoa trái trên những cây ấy luôn xanh tươi, đẹp đẽ. Đức Phật Liên Hoa Quang cũng đem pháp Tam thừa tiếp tục giáo hóa chúng sinh. Ngài thuyết pháp trọn một kiếp, những pháp Ngài dạy đều hướng dẫn chúng sinh đến với nguyện Đại thừa. Thời kỳ của Đức Phật Liên Hoa Quang tên là Đại bảo nghiêm. Vì sao gọi là Đại bảo nghiêm? Vì trong nước của Đức Phật ấy, chư vị Bồ-Tát số đông vô lượng, vô biên không thể nghó bàn, không có hạn lượng, chỉ có Như Lai mới có thể biết hết. Chư Đại só Bồ-Tát ở cõi Phật ấy đều là bậc có trí tuệ sáng suốt, đức hạnh quý báu như hoa sen, không phải mới phát tâm mà đã lâu đời gieo trồng cội rễ công đức, tu hành phạm hạnh thanh tịnh lâu dài, gần gũi Như Lai, thường tu tập trí tuệ Phật, có đủ thần thông lớn, an trụ trong chính pháp, dõng mãnh, tinh tấn. Chư vị Bồ-Tát luôn đầy đủ không suy giảm. Vì thế mà thời kỳ ấy có tên là Đại bảo nghiêm. Đức Phật Liên Hoa Quang sẽ thọ mười hai trung kiếp, không kể thời gian làm vương tử. Nhân dân trong nước của Ngài tám kiếp. Đức Phật Liên Hoa Quang sau khi mãn mười hai trung kiếp, sẽ thọ ký cho Bồ-tát Kiên Mãn. Ngài bảo các vị Tỳ-kheo: –Sau khi ta diệt độ Bồ-tát Kiên Mãn đây sẽ thành đạo Vô thượng chính chân hiệu là Độ Liên Hoa Giới Như Lai chính Giác. Xá-lợi-phất! Sau khi Đức Phật Liên Hoa Quang diệt độ, thời kỳ chính pháp và tượng pháp trụ ở đời hai mươi trung kiếp. Cõi nước của Đức Phật sau cũng giống như cõi nước Đức Phật trước không sai khác. Đức Độ Liên Hoa Giới Như Lai cũng thọ hai mươi hai trung kiếp mới diệt độ. Sau khi Đức Phật ấy diệt độ, chính pháp và tượng pháp của Ngài cũng trụ ở đời hai mươi hai trung kiếp. Khi ấy Đức Thế Tôn dùng kệ rằng: Này Xá-lợi-phất! Trong thời vị lai Ông sẽ thành Phật Như Lai Tối Thắng Hiệu Liên Hoa Quang Mắt tuệ bình đẳng Truyền dạy hóa độ Vô số chúng sinh. Ông sẽ phụng sự Vô lượng Phật-đà Tinh tấn tu tập Bao hạnh viên mãn Khuyến hóa khắp cả Đầy đủ mười Lực Nên được thành tựu Quả Phật tối diệu, Không thể nghó bàn Kiếp thật vô lượng Kiếp ấy có hiệu Đại bảo trang nghiêm, Thế giới mang tên Là nước Ly cấu Cõi nước Phật ấy Vô cùng thanh tịnh, Dùng lưu ly biếc Rải khắp đất bằng Dây vàng lấp lánh Giăng bên đường đi Vô số loại cây Đều bằng bảy báu Hoa quả trên cây Đều bằng vàng ròng Bồ-tát cõi ấy Ý chí vững bền Thành tựu ngôn hạnh Thánh trí thông minh Khéo học Phật đạo Muôn ức trăm ngàn Hiện đều đã đạt Giáo pháp tối thắng Phật ấy diệt độ Không gì trở ngăn Khi làm đồng tử Không có đắm say Lìa xa ái dục Bỏ đi xuất gia Thành tựu Tuệ giác Phật đạo Vô thượng. Bậc Tối Thắng ấy Luôn được tự tại Thọ mạng của Ngài Mười hai trung kiếp Giáo pháp sẽ trụ Ở đời tám kiếp Thọ mạng kiếp số Của Phật như vậy Đức Liên Hoa Quang Sau khi diệt độ Viên mãn tràn đầy Hai mươi trung kiếp Khi ấy pháp trụ Vô lượng vô số Thương xót trời, người Và khắp mọi loài chính pháp của Phật Sau khi kết thúc Tượng pháp sẽ trụ Hai mươi trung kiếp. Xá-lợi của Ngài Truyền rộng khắp nơi Trời, người, quỷ, thần Cúng dường tối thắng Đức độ Thế Tôn Cũng sẽ như vậy. Này Xá-lợi-phất! Hãy tự vui mừng Cõi nước của ông Trang nghiêm như vậy Phước trí tôn quý Không ai sánh bằng. Lúc ấy bốn bộ chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di và Trời, Rồng, Quỷ, Thần, Kiền-đạp-hòa, A-tu-luân, Ca-lưu-la, Chân-đà-la, Ma-hưu-lặc… nghe Đức Thế Tôn thọ ký cho Tôn giả Xá-lợi-phất sẽ thành đạo Vô thượng chính chân, tâm họ vô cùng hoan hỷ, phấn chấn không thể diễn tả được. Mỗi người tự lấy y của mình dâng lên Đức Thế Tôn. Trời Đế Thích, Phạm thiên vương cùng vô số Thiên tử cũng đem y trời cúng dường Đức Thế Tôn rồi dùng các loại hoa hương cõi trời như hoa Ý, hoa Đại ý tung rải hiến cúng Đức Phật. Y và hoa của chư Thiên tung lên đầy khắp hư không và đứng yên ở đó. Nhạc trời tự nhiên hòa tấu, trên trời tự nhiên sấm sét vang rền và mưa hoa khắp nơi. Chư Thiên cùng cất tiếng ca ngợi: –Bạch Thế Tôn! Hôm nay chúng con được nghe pháp từ xưa chưa từng có. Trước đây trong vườn Nai, tại nước Ba-la-nại, Thế Tôn đã lần đầu tiên chuyển bánh xe pháp bất khả thuyết. Hôm nay Thế Tôn lại giảng nói bánh xe chính pháp Vô thượng. Lúc ấy các vị Thiên tử dùng kệ tán thán: Bậc thế gian khó sánh Nay chuyển bánh xe pháp Vì mọi người giảng nói Năm ấm sinh và diệt Tuyên thuyết đệ nhất nghĩa Trình tự mười hai duyên Đấng Đạo Sư diễn nói Ít người muốn tin hiểu. Đấng Đại Thánh trên đời Con nghe nhiều chính pháp Nhưng từ xưa đến nay Chưa từng nghe pháp này, Lời Bậc Đạo Sư dạy Chúng con kính tùy hỷ Đại trí Xá-lợi-phất Vừa được Phật thọ ký. Chúng con xưa phát tâm Cúng dường vô số Phật Chúng con mong nhờ ân Được làm Phật tối thượng, Bao nhiêu điều phước lợi Hạnh thanh tịnh đã làm Phụng thờ Phật quá khứ Nguyện đạt thành Phật đạo. Bấy giờ Tôn giả Xá-lợi-phất bạch Đức Thế Tôn: –Hôm nay con không còn thắc mắc, hoài nghi nữa. Nay con đối trước Thế Tôn, được Phật thọ ký cho con thành tựu đạo Vô thượng chính chân. Bạch Thế Tôn! Một ngàn hai trăm vị tự tại giải thoát này, xưa nay chẳng phải không ở trong học địa sao? Thế Tôn có dạy các vị ấy sẽ đạt được Phật quả như con không? Các vị Tỳ-kheo này tâm hạnh an định tuân giữ pháp luật, thoát ly sinh, già, bệnh, chết, cứu cánh Niết-bàn. Những vị Tỳ-kheo này đã cúng dường muôn ngàn vô số Đức Phật, học các pháp môn, lo sợ chấp ngã trong ba đời, hủy các tà kiến, lập hạnh diệt độ, tưởng rằng đã được Niết-bàn. Từ trước đến nay họ chưa từng được nghe giáo pháp này nên tâm rất phân vân, nghi ngờ. Lành thay, Đức Thế Tôn! Xin Ngài nói yếu nghĩa khiến cho chúng Tỳ-kheo đây được dứt bỏ lưới nghi. Nay cả bốn chúng đều ôm lòng buồn bã, xin Ngài giải thích khiến cho họ thoát khỏi tâm niệm hoài nghi, hối tiếc. Đức Phật bảo Tôn giả Xá-lợi-phất: –Như Lai vừa rồi đã chẳng nói giáo pháp ấy hay sao? Ta đã đem bao nhiêu phương tiện quyền biến, tùy theo nhân duyên của mỗi người mà thị hiện. Tất cả pháp mà Như Lai Chí Chân Đẳng chính Giác giảng nói phân biệt đều vì đạo Vô thượng chính chân. Những gì ta tán thán, các ông cần biết chính là vì đạo Bồ-tát. Xá-lợi-phất, nay Như Lai nói ví dụ để giải thích rõ thêm về ý nghĩa ấy. Những người có trí tuệ nhờ ví dụ này mà được hiểu rõ hơn. Ví như tại một thôn xóm của nước kia có vị đại trưởng giả tuổi đã già suy, đứng ngồi khó khăn. Ông trưởng giả này vô cùng giàu có, có một ngôi nhà lớn kín cổng cao tường. Ngôi nhà đã quá cũ kỹ mà lại có trăm ngàn người ở trong đó. Nhà chỉ có một cửa duy nhất và người trông nom. Phòng ốc xiêu vẹo, cột kèo mục nát, mái hiên, cửa sổ… bị rong rêu bám dầy đặc. Bỗng nhiên một ngọn lửa lớn từ một phía nổi lên thiêu đốt ngôi nhà ấy. Trưởng giả có mười người hay hai mươi người con. Ông muốn các con ra khỏi ngôi nhà ấy, nhưng các người con vẫn mê mãi vui chơi ăn uống. Cuối cùng thấy lửa bốc cháy họ đều chạy quanh, hỏi nhau mà không biết lối ra. Người cha suy nghó: “Nay ngôi nhà bị lửa dữ đốt cháy khắp nơi, ta phải tìm cách nào để cứu các con ta ra khỏi ngôi nhà ấy.” Người cha biết ý thích của mỗi đứa con nên liền bày ra đủ các cỗ xe để dạo chơi như xe voi, xe ngựa, đặt ngay trước cửa để cho các con mau ra ngoài. Ông lại đánh trống và trổi lên các khúc âm nhạc tuyệt diệu, các trò vui chơi thú vị để giúp các con khỏi tai nạn lửa cháy và hứa sẽ ban cho chúng các thứ xe voi, xe ngựa, xe dê và xe kéo. Vị trưởng giả nói: –Ta đã chuẩn bị đầy đủ và để ngoài cửa, các con hãy mau chạy ra khỏi nhà lửa. Các con sẽ được tha hồ vui chơi theo ý thích của mình. Các người con nghe lời dạy của cha, hứa ban cho các loại xe voi, xe ngựa và âm nhạc nên ai cũng hăng hái tìm phương cách sử dụng cát, nước để dập lửa và xô đẩy nhau vội vã chạy ra khỏi nhà lửa. Trưởng giả thấy các con đã an ổn ra khỏi nhà lửa, ngồi nơi chỗ đất trống ở giữa ngã tư thì lòng ông khoan khoái, không còn lo sợ gì nữa. Mỗi người con đều thưa cha: –Xin cha ban cho con xe voi, xe ngựa và các loại nhạc cụ vui thích mà cha đã hứa. Này Xá-lợi-phất! Vị đại trưởng giả kia đã ban cho mỗi người con một cỗ xe lớn bằng bảy báu như nhau. Cỗ xe ấy rất cao rộng, được trang hoàng bằng các thứ ngọc làm màn bao quanh và các vật báu quý hiếm vô cùng, những đường dây anh lạc kết hoa có hương thanh khiết. Xe lại được trải lụa và những đệm gối mềm mại, màu sắc đẹp đẽ. Những con vật kéo xe đều khỏe đẹp, trắng sạch như vầng tia chớp. Mui trần được bao phủ bằng loại gấm thật hiếm có. Mỗi người con đều được nhận một cỗ xe. Trưởng giả nghó: “Ta sẽ ban cho các con đồng đều những loại đồ chơi tốt đẹp. Vì sao? Vì những đứa bé này đều là con của ta, ta yêu thương chúng đồng đều không thiên lệch. Vì thế nên ta ban cho các con những cỗ xe lớn như nhau.” Này Xá-lợi-phất! Như Lai cũng vậy. Như Lai là cha của muôn loài, vật báu đầy ắp trong kho không thiếu. Như Lai đã đem pháp phương tiện để giáo hóa, khuyến dẫn chúng sinh phát triển trí tuệ hướng đến Đại thừa. Các người con của trưởng giả khi đã đạt được cỗ xe lớn đẹp, cho đó là được điều trân quý chưa từng có nên cưỡi xe dạo chơi khắp nơi. Ý của ông nghó sao? Trưởng giả ban cho các con những cỗ xe lớn quý báu như vậy, có dối trá không? Tôn giả Xá-lợi-phất thưa Phật: –Bạch Thế Tôn! Không có dối trá. Vị trưởng giả đó rất thành thật. Vì sao? Vì ông trưởng giả ấy muốn cứu giúp các con, không muốn cho chúng gặp tai nạn lửa thiêu đốt, tùy theo ý các con muốn mà hứa ban cho các con. Sau khi chúng đã thoát ra khỏi nhà lửa, ông đã ban cho mỗi đứa con một cỗ xe lớn đẹp. Vì thế ông trưởng giả không hề hư vọng. Cuối cùng các người con đều được như ý, vì trưởng giả đã dùng phương tiện khiến cho các người con của ông thoát khỏi tai họa. Huống chi ông còn biết mình giàu có vô lượng kho tàng châu báu, nên đồng đều ban cho các con những cỗ xe lớn, thật là không hư vọng vậy. Đức Thế Tôn bảo: –Lành thay, Xá-lợi-phất! Thật đúng như lời ông nói! Đức Như Lai là Bậc Chí Chân Đẳng chính Giác, ánh sáng tỏa chiếu đến các chốn u tối ở khắp mười phương. Như Lai đã giải thoát và đoạn hẳn những gốc rễ của phiền não, sợ sệt, lo buồn. Như Lai với trí tuệ đã thấy rõ cành lá, hoa quả của chúng. Như Lai là Bậc Pháp Vương có thần lực, là từ phụ của muôn loài, khéo vận dụng phương tiện, luôn nghó đến việc cứu độ chúng sinh, thực hành tâm Đại Bi bình đẳng, đạo vô tận, thương xót ba cõi bị lửa dữ đốt cháy, mọi loài không thể ra khỏi nên Như Lai xuất hiện ở thế gian để cứu vớt chúng sinh vượt qua sinh, già, bệnh, chết và phiền não ràng buộc, không được như ý. Như Lai lại làm cho chúng sinh được thoát khỏi tham dục, sân giận và si mê, dụ dẫn nói pháp Tam thừa, khuyên họ tu tập dần dần, hướng dẫn họ tiến đến đạo Vô thượng chính chân. Như Lai xuất hiện ở thế gian thấy các chúng sinh bị vọng tưởng, tiền tài, danh vọng, đam mê không biết nhàm chán, từ ái dục đưa đến vô số khổ đau. Hiện tại họ tham cầu theo đuổi, nếu không được cứu giúp trong tương lai sẽ đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, bị gánh nặng thiêu đốt, nấu rang, đói khát, đau đớn không thể kể hết. Giả sử được sinh lên cõi trời hay ở tại nhân gian thì bị khổ vì ân ái mà chia lìa, không thể gặp được nhau mà ưu não khó lường nên đều muốn thoát khổ. Chúng sinh cứ ca múa, vui chơi mà không biết, kinh sợ nạn ấy nên không thể tự giác ngộ, không chịu tư duy về cội nguồn đau khổ, cũng chẳng mong cầu được cứu giúp mà vẫn ở mãi trong cảnh thiêu đốt ấy. Vì chúng trong ba cõi đang có nỗi họa đau khổ ấy nên ta phải nói pháp, an lập cho họ vào nơi vô cùng an ổn. Đó là chính trí của vô lượng, không thể nghó bàn các Đức Phật. Chúng sinh đang tràn đầy dục lạc và mê hoặc. Như Lai vì khuyên họ thể đạt đầy đủ thần thông và trí tuệ giải thoát nên khéo dùng phương tiện quyền biến để dạy họ trí tuệ của Phật, để họ được nghe thần lực vô sở úy của Phật, nhưng chúng sinh vẫn mù mờ không chịu tin nhận, vì bị các nhân duyên trói buộc nên không giải thoát khỏi tai họa lo sầu sinh, già, bệnh, chết, xưa nay chưa bao giờ thoát khỏi được sự thiêu đốt của ba cõi, không hiểu rõ pháp để quay về thì làm sao lãnh hội được tuệ giác Phật-đà? Ví như vị trưởng giả có trí lực như sức mạnh dũng mãnh, vững vàng của nhiều lực só mới cứu giúp các con ông khỏi tai họa nhà lửa, dùng phương tiện khuyên bảo khiến chúng thoát khỏi ra ngoài, sau đó mới ban cho mỗi đứa một cỗ xe lớn quý báu, tốt đẹp. Cũng vậy, này Xá-lợi-phất! Đức Như Lai chính Giác dùng lực vô úy kiến lập các đức, khéo dùng phương tiện, tu tập trí tuệ dũng mãnh nên thấy ba cõi như ngôi nhà lửa. Vì muốn cứu giúp nạn khổ cho chúng sinh nên Như Lai thị hiện dạy đạo Thanh văn, Duyên giác và Bồ-tát, dùng ba thừa ấy khuyến hóa họ rời khỏi ái dục. Như Lai dạy cho chúng sinh dập tắt lửa ở nơi ba cõi, thoát khỏi sự trói buộc của dâm, nộ, si và các pháp sắc, thanh, hương, vị, xúc thấp hèn. Nếu ai tham đắm ngũ dục trong ba cõi sẽ bị lửa ngũ dục nung đốt, không dựa vào ba cõi sẽ được ba thừa, tinh tấn tu tập ba thừa ấy sẽ vượt khỏi ba cõi. Tất cả chư Phật đều dạy cần tinh tấn tu tập ba thừa nên vô số chúng sinh đều tập hợp đến với đạo. Thế Tôn đã phương tiện dạy các hạnh ấy làm cho các ông vui thích tu tập Căn, Lực, Giác ý, Thiền định, Giải thoát, Tam-muội chính thọ, đời sau sẽ đạt đến vô lượng pháp lạc, an vui tự tại, không còn bị bất cứ chướng ngại nào. Xá-lợi-phất! Nếu chúng sinh nào chưa sinh lòng tin, Như Lai ra đời mang lại cho họ đức tin. Họ theo Phật, nghe giáo pháp và tin tấn phụng hành, cứu cánh của họ là muốn đạt đến Niết-bàn, gọi đó là Thanh văn thừa, mong cầu quả vị La-hán vượt khỏi ba cõi. Ví như vị trưởng giả theo lời hứa ban xe để cho các người con mới thoát nạn. Nếu có người nào không gặp thầy dạy giáo pháp, tự mình xuất gia mong cầu đến nơi vắng lặng, thích sống đơn độc, giác ngộ lý duyên khởi, tinh tấn tu tập theo giáo pháp của Như Lai vị ấy được gọi là Duyên giác thừa. Cũng như khi những người con của vị trưởng giả đã rời khỏi nhà lửa, ông liền theo lời hứa ban cho cỗ xe ngựa. Nếu có người nào mong cầu trí tuệ hoàn toàn, Tuệ giác của Phật, Thánh tuệ tự tại phát xuất từ tự tâm, trí tuệ vô sư, có tâm đại Từ bi muốn đem lại sự an ổn cho chư Thiên và loài người, muốn làm lợi ích cho chư Thiên và loài người, muốn chúng sinh an trí trong pháp của Phật và được giải thoát nên người ấy tinh tấn phụng hành, mong cầu quả vị Phật, có sức trí tuệ vô sở úy thấy khắp tất cả, gọi là con đường của Như Lai. Các vị Đại só Bồ-tát đi trên con đường này. Ví như ông trưởng giả khuyến dụ các con ra khỏi tai nạn lửa đốt, nên hứa cho xe voi để các con chạy ra khỏi nhà lửa. Người cha trông thấy con thoát khỏi nhà lửa an toàn, đến chỗ không sợ hãi, tự biết mình tài sản vô lượng nên ban cho các con những cỗ xe lớn đẹp bằng bảy báu bằng nhau không khác. Đức Như Lai chính Giác cũng lại như vậy, thấy vô số trăm ngàn muôn ức chúng sinh muốn cứu họ thoát khỏi ba nạn khổ đau kinh sợ, nên do bản nguyện của Phật mà mở cửa sinh tử, khiến cho chúng sinh thoát khỏi hiểm nạn khủng khiếp, được Niết-bàn an vui. Này Xá-lợi-phất! Như Lai lúc ấy từ ngôi nhà tam giới, dùng vô số tuệ lực vô sở úy, thấy các con của Như Lai bị khổ ách nên khuyến hóa khiến tất cả họ quay về với Phật thừa mà không để cho mỗi người tự ý Niết-bàn riêng lẻ. Như Lai đều khuyên dạy họ, đem Niết-bàn của Như Lai mà làm cho họ được Niết-bàn. Nếu có chúng sinh được thoát khỏi ba cõi, Như Lai đều dùng trí tuệ, giải thoát, thiền định của Như Lai để an ủi, ngợi khen, ban cho họ pháp nghĩa an lạc cùng một sắc thái và cùng một phẩm chất Phật đạo. Như vị trưởng giả kia lúc đầu hứa cho các con ba thứ xe, nhưng khi thấy các con đã thoát nạn mới ban cho mỗi người một loại xe lớn như nhau. Vị trưởng giả ấy thật không có lỗi dối trá. Mỗi người con được xe nhảy nhót vui mừng không xiết. Như Lai cũng như vậy, ban đầu thị hiện tam thừa nhưng sau đó đều khuyến hóa, đưa tất cả vào Đại thừa, chẳng phải là dối trá vậy. Vì sao? Nên biết rằng Đức Như Lai Đẳng Giác có vô số kho tàng quý giá, sử dụng một cách tự tại, vì tất cả chúng sinh thị hiện pháp lớn, dạy chúng sinh các thần thông, bi mẫn, trí tuệ. Các ông nên biết, nên hiểu rõ ý nghĩa ấy, Đức Như Lai Đẳng chính Giác khéo dùng phương tiện lực, dùng trí tuệ, lời nói chỉ để tuyên thuyết Nhất thừa, là Phật thừa mà thôi. Đức Thế Tôn lặp lại ý nghĩa trên, nói kệ: Ví như trưởng giả Có ngôi nhà lớn Đã quá cũ kỹ Nghiêng ngả, mục nát Nơi ngôi nhà chính Sắp sửa hư rã Cột kèo, rui mè? Đều đã mục gãy Bao nhiêu hiên cửa Cửa sổ, cửa lớn Lại các kho lẫm Bằng cây, đất nện Tường cao nghiêng đổ Vách phên suy sụp Liếp che mái lợp Quá cũ rã rời Hiện đang trong đó Có năm trăm người Cùng nhau tụ tập Ở trong nhà ấy Cỏ cây mọc đầy Dùng để mà nuôi Vô số gia súc Tất cả các cửa Đều luôn đóng kín Có lầu gác đẹp Và các hoa sen Vô số mùi hương Tỏa hương ngào ngạt Biết bao loài chim Cùng loại vây quanh Các loài trùng, rắn Dơi độc bay rúc Khắp chốn, khắp nơi Có các trùng ác Nhiều loài thú dữ Chuột, rít, bò cạp Tên gọi khác nhau Kêu la rên siết Khắp nơi trên đất Hoặc trong chỗ kín Phân với nước tiểu Ô uế chảy tràn Sâu, giòi, gai gốc Trong đó dẫy đầy Sư tử, sói lang Cắn xé lẫn nhau Cùng nhau nhai gặm Thi thể người chết Người nào nghe thấy Không khỏi kinh sợ Vô số bầy chó Đua nhau vồ chụp Chúng chạy cuống cuồng Tranh giành bươi móc Nơi nơi chỗ chỗ Ngạ quỷ lúc đó Đều đến tranh ăn Đói khát rã rời Cùng nhau gặm nhấm Tiếng chúng cất lên Ngôi nhà rùng rợn Biến trạng như thế Có các quỷ thần Ôm lòng độc hại Ruồi nhặng, bọ chét Cũng rất đông nhiều Có cả trăm loại Và các yêu tinh Rảo chạy bốn phía Sản sinh cho bú Đến giật lấy ăn Các loại dê, cừu Không thể chạy thoát Trở về chỗ ở Tuy các quỷ thần Đến giúp đỡ chúng Để khỏi bị hại Nhưng không cứu được Các quỷ thần ấy Cũng ăn chúng sinh Tuy đã no nê Tâm vẫn hung ác Phẩm loại không đồng Giòng giống khác nhau Có kẻ đã chết Chôn cất đã xong Hồn họ ra ngoài Dạo quanh ở đó Cưu hoàn, hương âm tính tình tàn bạo Hai tay vươn ra Rảo chạy khắp nơi Không chú thuật nào Có thể trừ được Bầy chó bị chúng Túm lấy hai chân Đè bắt nằm xuống Để mà đánh đập Trói hai chân chúng Lấy dây quấn cổ Ngồi trên mà chơi Tâm ý khoái trá Các con voi đen Thân hình cao lớn Thể lực hùng mạnh Tự do ngang nhiên Thường ngày đói khát Tìm cầu uống ăn Vừa thấy cỏ rơm Vội vàng chạy đến Có trùng cổ nhỏ Và chim mỏ sắt Ở giữa gò rộng Thấy tử thi người Quỷ ác hung hiểm Bứt tóc kêu la Các quỷ dẫy đầy Đói khát thúc bách Rình rập kiếm tìm Trông chừng bốn phía Qua các cửa sổ Không thể được an Các tà yêu mị Và các quỷ đói Chim dữ, cắt, thú Đều tìm ăn uống Ngôi nhà khủng kiếp Các thứ như vậy Có vườn cây lớn Vách phên sụp đổ Phòng ốc cửa nhà Gãy ngã la liệt, Chỉ có một người Canh giữ ngôi nhà Người ấy trong đó Ở lại trông chừng. Một hôm ngôi nhà Bỗng nhiên nổi lửa Bốn phía xung quanh Lửa đều bốc cháy Vô số ngàn người Kêu la thất kinh Lửa càng cháy mạnh Ông trưởng giả kia Sợ thiêu con mình Cất tiếng kêu than Cột nhà đổ nhào Tường, vách rã sụp Các loại quỷ thần La hét gọi nhau Những loài chim dữ Muốn bay tránh lửa Vô số chim cú Lo sợ bàng hoàng Trăm ngàn yêu mị Kinh hãi ruổi chạy Chính mình trông thấy Lửa cháy phùn phụt Vô lượng quần manh Thành tro tan tành Chỉ vì phước mỏng Bị lửa đốt cháy Ai nấy hãi hùng Thấy lửa đốt cháy Trông chẳng còn gì Máu thịt chảy đầy Khi đó nhà này Những loài hung mạnh Tất cả quỷ mị Giành nhau ăn nuốt Khói hôi ngùn ngụt Reo mừng khen ngon Kinh hoàng sảng chạy Vòng vo ngơ ngác Rắn rít bò cạp Giòi bọ dẫy đầy Quỷ mị tha hồ Chụp lấy ăn nuốt Lửa cháy trên đầu Vui vẻ dạo đi Đói khát tìm ăn Độc hại hỏa hoạn Trong ngôi nhà ấy Kinh sợ như vậy Bao nhiêu là người Chết nằm ngổn ngang Khi ấy chủ nhà Trưởng giả thế lực Thấy việc như thế Vội xếp các việc Nghe nạn lửa ấy Thương nghó các con Cử nhạc đờn ca Phủ dụ xe báu Những đứa ngu si Không hiểu không biết Tha hồ vui chơi Nô đùa trong đó Trưởng giả nghe thấy Vội vã trở vào Trẻ thơ không biết Chẳng nghó cách ra Nay các con ta Mê mờ bế tắc Tất cả ngu muội Không thấy, không nghe Vì ham chơi đùa Mà tự trói buộc Bản tính các con Rất khó sửa đổi Phàm các chúng sinh Rất nhiều giống loài Gặp nạn lửa lớn Khổ não đớn đau Quỷ thần rắn dữ Trong lòng độc ác Vô số yêu mị Nhảy nhót vui mừng Hổ mang, chó sói Nhiều không kể xiết Đói khát tìm ăn Ăn uống no nê Các con của ta Sẽ chết trong đó Nếu không nạn lửa Cũng chẳng vui gì Oán kết hồ nghi Khổ đau như thế Huống gì xung quanh Lửa bốc hừng hực Các con ngu dại Tự ý ở trong Say sưa chơi giỡn Vui đùa không thôi Không chịu suy nghó Theo lời cha dạy Tự tâm không nhớ Tìm cách thoát mau Khi ấy trưởng giả Suy nghó thế này: “Các con ta sinh Dưỡng nuôi khổ nhọc Bỗng nhiên lửa nổi Thiêu hủy đốt cháy Làm sao cứu con Thoát khỏi nạn lửa”. Khi ấy ông nghó Tạo lập phương kế: “Nay các con ta Đắm say ca hát Họa hại đến nơi Vẫn cứ chơi đùa Khổ thay, ngu muội! Không thấy khổ đau Các thứ xấu xa Không hay nạn ấy Tâm ta lo lắng Các con mê chơi Nếu chúng nỗ lực Sẽ thoát lửa cháy”. Liền tìm phương kế Ở ngoài ngôi nhà Sắp xếp kỹ nhạc Bày đủ đồ chơi Của con ưa thích Ông đều ban cho Điều khiển âm tiết Cùng lúc trổi lên Các con nghe xong Tham ưa âm nhạc Ai cũng vội vàng Hết sức cố gắng Tất cả chạy ra Khỏi ngôi nhà lửa Thoát khỏi khổ não Các con nhóm lại Một chỗ an vui Không còn sợ hãi Lúc đó trưởng giả Thấy các con ra Trong tâm nhẹ nhõm Ý được thư thái Bày hết đồ chơi Ngồi tòa Sư tử Bây giờ thân ông Đã được an nhiên Các nạn khổ kia Vónh viễn không còn, Nay các con ta Cần sức tinh tấn Mê nơi nhà lửa Phóng túng chơi đùa Như trước đã từng Ngủ nghỉ triền miên Nơi lửa cháy mạnh Người gặp nạn này Bị mê che phủ Tâm tư tăm tối Hôm nay tất cả Đều được giải thoát Đến chốn an nhiên Theo nguyện mong ước, Cha nhìn các con Lòng thật an ổn. Lúc đó các con Đến thưa trưởng giả: Xin cha tôn quý Ban cho chúng con Như trước đã hứa Các loại xe quý Lúc trước gặp lửa Mê muội không biết Cha có dạy rằng: “Các con vâng lời Cha sẽ ban cho Ba loại xe quý Nay đã đến lúc Xin thương cấp cho.” Khi đó trưởng giả Bảo mở kho tàng Vàng ròng quý báu Châu báu ngọc ngà Đồ quý thượng diệu Đặc biệt quý giá Hiếm có ở đời Làm những xe lớn Không ai sánh bằng Trang trí huy hoàng Chung quanh lan can Kết chuỗi anh lạc Mạng lưới lụa gấm Trông rất rực rỡ Vàng bạc đan nhau Bao phủ trên xe Treo các dãi hoa Đều là hoa báu Bốn phía chung quanh Treo màn rủ xuống Lớp lớp trên xe Trải các tọa cụ Đủ thứ gấm lụa Nhiều không kể hết Lại thêm các loại Lụa mềm làm đệm Vô số vải quý Thảm chiếu trải xe Các vật trang trí Giá đáng ức ngàn Vô cùng hiếm có Vô lượng của tiền Voi sức rất mạnh Tươi trắng như hoa Thân voi cao lớn Uy nghi hùng dũng Cùng với bảo xa Để làm xe lớn Khi ấy trưởng giả Chuẩn bị xe xong Cho con rồi nghó: “Các người con này Đều là con ta Phải ban đồng đều” Khi ấy các con Nhảy nhót vui mừng Khắp nơi khắp chốn Thích thú vui chơi Này Xá-lợi-phất! Như Lai cũng vậy Là Đấng cha lành Cứu độ quần sinh Tất cả muôn loài Đều là con Phật Tham dục ba cõi Tà kiến buộc ràng Ta thấy ba cõi Như nhà lửa kia Khổ não tràn đầy Lo buồn bất tận Đó là nói đến Tất cả đều bị Sinh, già, bệnh, chết Đau khổ khóc than Phật vì ba cõi Cứu giúp muôn loài Dạo chốn thanh nhàn Hoặc ngồi trong rừng Luôn luôn đúng lúc Cứu độ ba cõi Chúng bị đốt cháy Đều là con ta Thức tỉnh tất cả Khiến tự quay về Do ý thế này Thị hiện cách kia Tất cả chúng sinh Ngu không tin nhận Đắm trước ái dục Mà tự buộc ràng Ta dùng phương tiện Làm đại lương y Phân biệt tam thừa Để dạy chúng sinh Ba cõi đều nghe Bao nhiêu xấu xa Tùy thời dạy họ Khuyên vượt thoát khỏi Các Bồ-tát đó Đến nương Phật được Tam đạt, lục thông Thành đại Thánh tuệ Có người thành tựu Theo Duyên giác thừa Được không thoái chuyển Chứng thành Phật đạo. Hiện tại những người Theo Phật giải thoát Nhờ thí dụ này Không còn hối hận Nhờ vậy thân cận Gần với Phật thừa Tin nhận tất cả Thành Bậc Tối Thắng Do đó xiển dương Đức tin bình đẳng Hàng phục dứt trừ Cho cả thế gian Trí tuệ chư Phật Đạo đức đặc thù Cúi đầu quy ngưỡng Đấng Thánh Trung Tôn Căn, Lực, Giải thoát Nhất tâm như vậy Tam-muội chính định Muôn vạn ức ngàn Con của chư Phật Thường rất tôn trọng Nên gọi pháp này Đại thừa tôn diệu. Ngày đêm thệ nguyện Hàng phục ma quân Luôn luôn tinh tấn Kính mộ không dời Trong suốt nhiều năm Trải vô tận kiếp Độ thoát chúng sinh Vô số muôn ngàn. Ví dụ xe báu Là nơi nghĩa này Dùng đó dạo chơi Đến đạo tràng Phật, Vô số Phật tử Lúc đó vui mừng Có người lắng nghe An trụ tu tập. Này Xá-lợi-phất! Hiền giả nên biết Chỉ có một thừa Chớ không có hai Đến khắp mười phương Tìm cầu tất cả Biết Đức Như Lai Khéo dùng phương tiện, Khuyên tu dần dần Từ nhỏ đến lớn Trước hiện Thanh văn Chứng quả Duyên giác Đức khắp ba cõi Chỉ mới bỏ dục Sau đó chỉ dạy Đạo lớn Bồ-tát. Ân Phật thấm nhuần Ví như ruộng tốt Tùy theo giống trồng Kết quả khác nhau Người trồng khác loại Đất chẳng tăng giảm; Phật cũng như thế Vì cả mọi loài Thường dạy đạo lớn Người học gia giảm. Phật đối chúng kia Là cha muôn loài Phật thường quán thấy Chúng sinh khổ não Vô số ức kiếp Tự thiêu đốt thân, Ở trong ba cõi Nạn khổ kinh khủng Phật làm hướng đạo Khiến được Niết-bàn. Này các Hiền giả! Hôm nay nên biết Từ bỏ sinh tử Thoát nạn khổ đau Những vị Bồ-tát Trụ nơi pháp này Quyết tâm chí thành Vâng theo dụ ấy Tất cả đều nghe Tuệ sáng của Phật Chư Đại Đạo Sư Thực hành phương tiện Như chư Bồ-tát Cần phải truyền bá Ái dục xấu xa. Ác độc đáng nhàm Người tâm tăm tối Mà thấy ô nhiễm Cho nên Đạo Sư Vì nói sự khổ Dạy bốn Thánh đế Phân biệt rõ ràng Giả sử mọi người Không rõ các khổ Đắm trước trần lao Chẳng muốn xa lìa Vì những người này Như Lai chỉ dạy Nhân vì Tập đế Đưa đến khổ đau Ái dục đoạn trừ Thường không đắm trước Đã được Niết-bàn Đối ba pháp này Hiểu rõ không lầm Thì được giải thoát Hoặc tu tám đường Liền được thoát khổ. Này Xá-lợi-phất! Vượt thoát bao điều Thọ không sở hữu Cho là giải thoát Kỳ thật chẳng phải Giải thoát hoàn toàn Chưa phải diệt độ Liền gặp Đạo Sư Phật vì duyên gì Nói rằng các ông Chưa đạt giải thoát Chính sẽ thành Phật Sẽ được như ta Là vua các pháp? Truyền pháp an ổn Phật hiện nơi đời. Này Xá-lợi-phất! Pháp ấn của ta Là pháp tối hậu Khéo nói vi diệu Vì thương chư Thiên Và chúng thế gian Dầu ở nơi nào Một mình truyền bá Giả sử có người Giảng thuyết kinh này Hoặc ai khuyến trợ Khiến người hoan hỷ Nghe diệu pháp này Phải kính người ấy Cúng dường đầy đủ. Các Phật quá khứ Vâng giữ pháp này Đến không thoái chuyển. Nếu lại có người Vui tin kinh này Từ xưa đã gặp Chư Phật quá khứ Cũng đã vâng thuận Các Bậc Thánh Tôn Và từng được nghe Kính mộ kinh này Đều đã từng thấy Dung nghi của ta, Lại cũng được thấy Tỳ-kheo chúng Tăng, Thường lại trông thấy Chúng Bồ-Tát này Người tin kinh này Đức cũng như vậy. Tất cả đều thấy Chư vị Bồ-Tát Tin tưởng kinh này Thì cũng như vậy Kẻ nào ngu mê Chẳng dốc lòng tin Nếu nói kinh này Là được thần thông Những bậc Thanh văn Không sao đạt được Đến bậc Duyên giác Cũng chưa hiểu rõ. Hiện nay ta có Các chúng Thanh văn Như Xá-lợi-phất Vững tin pháp này Hàng Thanh văn ấy Tin pháp lớn này Hiện tại chấm dứt Không vướng các duyên. Nếu như có người Với kinh pháp này Sinh lòng hủy báng Đức Phật tối thượng Bọn người ngu tối Thường ôm ái dục Chưa từng hiểu rõ Pháp Bậc Vô Sinh. Vì kẻ huỷ báng Phật khéo phương tiện Hiện hữu thế gian Phật thường thấy rõ Người nghe Phật dạy Giảng tội phước đây Tâm không hoan hỷ Mặt mày nhăn nhó, Ta còn tại thế Hay diệt độ rồi Không giúp Tỳ-kheo Biên chép kinh này, Phật dạy tội ấy Mọi người hãy nghe: Nếu người phỉ báng Kinh pháp như đây Mất thân người rồi Đọa ngục Vô gián. Ở trong ngục này Đủ trong một kiếp Hay vô số kiếp Qua thời gian này Nếu tội đã hết Thường bị ngu si. Nếu được ra khỏi Nơi chốn địa ngục Sẽ lại đọa vào Súc sinh cầm thú, Làm chó, dã can Thân hình tiều tụy Vào ở nhà người Thường bị làm hại. Nếu người oán ghét Kinh pháp Phật đây Sắc thường biến đổi Thân thể đen đúa, Vì tội đã làm Sắc mặt xanh xao Thân hình gầy yếu Không được tươi tắn, Vì các nhân ấy Sống nơi khốn khổ Bị ném ngói đá Khóc lóc kêu la, Người này thường bị Đánh đập nhốt trói Đói khát thiếu thốn Thân thể khô xấu Đọa vào súc sinh Lạc đà, la, lừa Thường mang chở nặng Lại bị đánh đập Trong lòng áo não Chỉ nhớ cỏ nước Phỉ báng kinh này Bị tội như vậy. Tuy được làm người Toàn thân ghẻ lác Dung mạo xấu xí Thân hình hôi thối Nếu có đi vào Xóm, làng, huyện, ấp Bị trẻ khinh khi Giỡn chơi dẫm đạp. Kẻ ngu si ấy Sau khi chết đi Liền lại sinh vào Bần cùng hèn hạ Hay làm đỉa, giun Sống bằng máu mủ, Hoặc bị điếc ngọng Không được tự do. Nếu người phỉ báng Kinh này bị tội Thường nhiều tật bệnh Thân thể sinh giòi Bị nhiều trùng bọ Rúc rỉa ăn thịt Tâm thường uất ức Chẳng rời bệnh đau. Này Xá-lợi-phất! Kẻ nam tử kia Không tin kinh này Ngu si đần độn Thường sống bỏn sẻn tính thường tham lam Sinh ra mù lòa Người đời quên lãng. Cố chấp chẳng tin Phật đạo Đại thừa Miệng thường hôi thối Thân thể tanh hôi Yêu quái, quỷ thần Thường sống với chúng Đối với mọi người Nói chẳng ai tin. Nếu người không ưa Nơi giáo pháp này Thường bị bần cùng Và luôn thiếu thốn, Thân chưa từng được Mặc y phục đẹp Nếu nhà có của Chẳng dám uống ăn; Hoặc làm điều chi Đều không toại ý, Giả sử muốn cầu Vật dụng an ổn Nếu mà có được Cũng bị mất ngay, Làm các hạnh ác Quả báo như vậy. Nếu mời thầy thuốc Ra toa bốc thuốc Khéo biết điều hòa Trị liệu đúng pháp Vẫn không hết bệnh, Bệnh càng nguy kịch Tật bệnh triền miên Không được cứu chữa. Giả sử có ý Gầy dựng việc gì Thì gặp khuấy phá Hành động đấu tranh, Lại bị hủy nhục Và bị tù tội Người phạm kinh này Sẽ bị họa ấy. Nếu người phỉ báng Về kinh pháp này Sẽ không thấy được Bậc Thầy cõi đời Là vua cõi người Giáo pháp của Phật Cuối cùng đọa vào Quỷ, Thần, Tu-la Thường gặp tai ương Điếc lác không nghe Ngu si mê muội Chẳng nghe chính pháp. Nếu có người nào Phỉ báng kinh này Ở vào đời sau Trọn kiếp mù tối, Kết quả tội này Gặp nhiều tai ương Vô số thời kỳ Bao nhiêu là kiếp Như cát sông Hằng Thường sẽ câm ngọng Miệng không thể nói Giáo pháp của Phật Như sư tử hống Chỗ đọa địa ngục Như chốn dạo chơi Đọa đầy nẻo ác Như ở nhà mình. Nếu hủy báng kinh Tội nhiều như thế Làm người nhiều bệnh Thường hay câm ngọng Hoặc sống trong đời Sẽ bị tội đây, Hoặc giữa mọi người Nói dối hai lời Khi sắp qua đời Mạng sống chấm dứt Thân họ thường gặp Biết bao khổ đau Trăm ngàn muôn ức Vô số tai họa Dung mạo hắc ám Chẳng ai muốn nhìn Bị lở, phong hủi Tích chứa hôi thối Tự chấp bản ngã Nhan sắc đen đúa Ôm lòng ân hận Độc hại tăng thêm Dục tình hừng hẫy Không có tiết chế Lại ưa ngang ngược Khác gì súc sinh. Này Xá-lợi-phất! Hôm nay Thế Tôn Dù nói hết kiếp Tội báo những người Phỉ báng không tin Kinh Pháp Hoa này, Muốn tính thời gian Kể sao cho xiết. Thấy được nghĩa này Phải nên xét kỹ Vì vậy Như Lai Bảo Xá-lợi-phất: Không đem pháp này Giảng bày phân tích Cho kẻ ngu si Vào thời tượng pháp. Có kẻ thông minh Nghe nhiều học rộng Chí khí kiên cường Thường tu các pháp, Hoặc người phát tâm Quyết cầu Phật đạo Những người như vậy Mới được truyền trao. Pháp chưa từng có Vì họ đã gặp Trăm ngàn ức Phật Trồng nhiều vô số Công đức như ý Tâm tính người này Sáng tỏ như trăng Xứng được truyền dạy. Kinh điển như thế Nếu người tinh tấn Thường sống Từ tâm Suốt cả ngày đêm Bi tâm chói rạng Chẳng nghó tự thân Không tiếc thọ mạng Mới được nói cho. Quyển kinh pháp ấy Ai thường cung kính Không nghó xấu người Nội tâm chuyên nhất Xa kẻ phàm phu Thường ở chỗ vắng Hoặc ẩn núi cao Những người như vậy Mới được nghe pháp. Kết thân bè bạn Thương giúp lẫn nhau Và lánh biết xa Loại bạn xấu ác Nếu thấy như vậy Mới là con Phật Mới nên gặp gỡ Dạy kinh pháp này. Không phạm giới cấm Như ngọc báu sáng Chí luôn vâng theo Kinh điển Đại thừa Phải biết người ấy Là con của Phật. Siêng tu pháp này Tụng một phẩm kinh Nếu bị mắng chửi Và bị hủy nhục Vẫn đem lòng Từ Thương xót chúng sinh Chí thành cung kính Phụng hành lời Phật Những người như thế Mới nói pháp này. Nếu giữa hội chúng Người tụng kinh này Tâm thường ứng hợp Lãnh hội không ít Cho đến vô số Thí dụ lời lẽ Vì khắp mọi người Thuyết kinh giáo này. Hôm nay Như Lai Giảng giải đạo phẩm Đến nơi cứu cánh Mọi người hoan hỷ. Nếu có Tỳ-kheo Muốn cầu giáo pháp Nếu thấy kinh này Phải vui kính nhận, Vị ấy phụng trì Kinh Đại thừa đây Tâm thường tinh cần Không thích việc khác Trì một bài tụng Chí không dời đổi Mới được thọ trì Kinh điển như vậy. Nếu như có người Ái mộ kinh này Nên sùng kính họ Như thân Như Lai. Hoặc người suy nghó Muốn học pháp này Nếu đã được nghe Cúi đầu lễ nhận, Người ấy chẳng còn Nghó tìm kinh khác Cũng chưa từng nghó Sách vở thế gian Thực hành Phật đạo Chí tại căn lực Đều xả bỏ hết Chuyên giảng kinh này, Này Xá-lợi-phất! Dẫu trong một kiếp Nêu vô số dụ Phân biệt giảng nói Nếu người phát nguyện Cầu tuệ giác Phật Hãy đem kinh này Tuyên dương rộng khắp. KINH chính PHÁP HOA <卷 id="83085233">Quyển 3 <詞 id="83085234">Phẩm 4: TIN ƯA Lúc bấy giờ Tôn-giả Tu-bồ-đề, Ca-chiên-diên, Đại Ca-diếp, Đại Mục-kiền-liên… được nghe pháp lớn chưa từng có, vốn chưa từng nghe và thấy Đức Thế Tôn thọ ký cho Tôn-giả Xá-lợi-phất sẽ thành đạo Vô thượng chính chân, vừa mừng vừa sợ, phấn chấn, đều từ chỗ ngồi đứng dậy, đến trước chỗ Đức Thế Tôn, sửa y, để trần vai phải, quỳ gối, chắp tay chiêm ngưỡng Đức Thế Tôn mà trong lòng hân hoan, sáng suốt, thân tâm cảm thấy khoan khoái, nhẹ nhàng, tâm trí chuyên nhất bạch Đức Thế Tôn: –Kính bạch Đấng Đại Thánh! Chúng con đứng đầu chư Tăng, tuổi già suy yếu. Kính mong Thế Tôn cho chúng con được Niết-bàn. Tâm chí của chúng con vẫn mong cầu đạo Vô thượng chính chân, nhưng sức tinh tấn của chúng con đã suy giảm, không thể kham nhận việc gì nữa. Như Lai trước đây giảng pháp, chúng con theo thứ tự ngồi an định trong chúng lắng nghe, không dám mỏi mệt hay nhàm chán. Lúc ấy Như Lai vì chúng con thuyết pháp. Chúng con đã được ở nơi Không, Vô tướng, Vô nguyện, cho đến các pháp của Phật, không tạo tác đối với tất cả pháp, ưa thích các việc làm của chư Bồ-tát, Như Lai đã nhiều lần khuyến khích giáo hóa chúng con nhưng chúng con đối với ba cõi chỉ muốn vượt qua, thường tự suy nghó cho rằng mình đã đạt được Niết-bàn. Nay tâm chúng con đã mỏi mệt. Lúc vừa nghe Thế Tôn chỉ dạy giáo nghĩa kỳ diệu chúng con đều chẳng có một ý niệm ham thích đối với Tuệ giác vô thượng. Thế mà nay Thế Tôn lại thọ ký cho hàng Thanh văn sẽ thành chính giác nên tâm chúng con rất bàng hoàng, kinh ngạc chưa từng có. Chúng con được lợi lành lớn, đã phải nỗ lực tu tập nên mới được nghe phẩm kinh như thế này. Chúng con theo chư Phật quá khứ thường được nghe pháp ấy nên khi vừa được nghe, chúng con như người được vô lượng ngọc báu, thỏa mãn chí nguyện mong mỏi. Chúng con hiện nay ở tại thế gian mà tâm vô sở úy, tiếng trống, nhạc vi diệu tự nhiên trổi lên, ngọn đèn vó đại chiếu rọi khắp nơi, rừng cây Chiên-đàn tỏa hương ngào ngạt. Bạch Thế Tôn! Chúng con há có thể kham nhận được pháp lớn mà Thế Tôn đã nói hay sao? Đó là điều chúng con xin thưa thỉnh. Lúc ấy các vị Thanh văn cùng nhau thưa với Đức Phật: –Thuở xưa có người con bỏ cha trốn đi lưu lạc đến địa phương khác sáu mươi năm, rong ruổi bốn phương tìm cầu cơm áo, luôn bị nghèo cùng khốn khổ, chẳng có chút tài sản nào. Người cha có việc đến địa phương ấy. Ông có vô số vàng bạc châu báu, thủy tinh, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách chứa đầy trong kho, kẻ hầu hạ, xe cộ, voi ngựa nhiều vô số kể, quyến thuộc đông đảo, bảy báu đầy ắp, thu chi tiền bạc, trồng trọt cày bừa, khách thương buôn bán cũng rất đông đảo. Người con nghèo đói phải đi khắp nơi làng mạc, thôn xóm, phố phường trong nước để xin ăn. Lúc ấy đang là mùa thu, ông trưởng giả giàu có đi vào thành xem xét các kho báu. Người cha, cùng con biệt ly đã lâu bỗng nhiên nhớ đến con, không biết con mình ở đâu. Ông tự nghó: “Ta có nhiều của cải đầy khắp gần xa mà lại chỉ có một mình. Nếu mai này ta chết đi thì của cải ấy sẽ tiêu tan. Ta chỉ mong được gặp lại con ta, tha hồ cho nó sự ăn mặc và giao tài sản cho nó, ta sẽ an vui không còn lo nghó.” Khi ấy người con nghèo khổ lần hồi đến nhà ông trưởng giả, đứng trước cửa nhà nhìn vào, từ xa trông thấy người cha ngồi trên ngai sư tử được làm bằng vàng bạc và các vật quý báu, có các Bà-la-môn và mọi người kính cẩn vây quanh, có rèm báu kết ngọc và người cha ngồi trong đó để sai bảo, cắt đặt công việc cho mọi người trong các bộ phận. Dưới đất được rải đầy các thứ hoa quý, trăm ngàn muôn ức vàng dùng làm đồ dùng ăn uống. Người con nghèo thấy ông trưởng giả tư thế oai nghiêm như vậy nên rất sợ hãi, không biết vị ấy là ai, cho rằng người này là vua hoặc ngang hàng với vua, do dự không dám tiến bước, nghó vậy nên bỏ chạy thật mau. Người cha trông thấy con lòng rất vui mừng, sai người hầu cận chạy theo gọi người con ấy quay về. Người con kinh hãi lăn xuống đất, nói với người theo bắt: –Tôi không có xúc phạm gì đến các người, tại sao lại bắt tôi? Người hầu dẫn người con đem về cho trưởng giả. Trưởng giả bảo: –Chớ nên sợ hãi như thế. Ta vì con mà gầy dựng sự nghiệp với những kho tàng đầy ắp. Cha con biệt ly đã lâu không gặp, ta nay tuổi già suy yếu, cha con tình sâu nghĩa nặng mới đem con vào nhà này. Người cha không nói điều này với ai. Vì sao? Vì người cha biết ý chí con mình nghèo hèn hạ tiện, không biết phước lực của cha. Một thời gian lâu sau, người con tâm ý thông hiểu, sắc mặt an hòa, biết được tên mình và quen dần với các vật quý giá, vị trưởng giả liền nói: –Đây chính là con của ta. Rồi ông dùng phương tiện bảo người con: –Nay con muốn làm gì tùy ý. Người con nghèo khổ rất kinh ngạc như được sự chưa từng có, liền đứng dậy đi đến xóm nghèo tìm kiếm cơm áo. Người cha hiểu con nên dùng phương tiện bảo anh ta: –Con cứ tự nhiên đến với họ. Sau khi người con đến, vị trưởng giả lại sai người đến bảo với anh ta: –Ngươi hãy đến ngôi nhà kia, ở đấy đang cần người đánh xe. Vị trưởng giả cho anh ta voi, ngựa, sai tập làm quen dần với những việc tầm thường. Nếu có ai hỏi anh ta cũng đáp là làm người đánh xe. Người cha bảo con: –Ngươi phải điều khiển xe, ngựa và quản lý các vật báu trong nhà, tùy ý thích của ngươi, ta sẽ ban phát cho. Người con muốn gì, người cha cũng chu cấp cho đầy đủ như lời đã nói. Khi ấy người con tập điều khiển ngựa, xe và quản lý rất kỹ lưỡng các châu báu và còn dạy dỗ cho những kẻ lớn nhỏ trong nhà. Người cha ở bên cửa sổ từ xa trông thấy con mình làm việc giỏi dang, ông liền cởi chiếc áo cũ đã mặc, tắm gộïi sạch sẽ, tay phải kỳ cọ, mặc y phục đẹp đẽ, đeo chuỗi ngọc quý, toàn thân sạch sẽ, sáng sủa. Ông bảo với đứa con: –Từ trước đến nay con đã xây dựng được cơ nghiệp gì không? Vì việc gì mà bỏ ta đi nơi khác đến nổi bị khổ sở đói lạnh? Ta đã già yếu rồi, nay thật tình khuyên con rằng đã đến lúc con nên cưới vợ, vui chơi, ăn uống để nối dõi phước nhà. Sản nghiệp ta đã tạo nhiều không kể xiết, đầy đủ đồ quý báu, con có biết không? Ta mong ngóng con đã nhiều năm qua, mà con lại đi thân cận với bạn ác nay mới quay về. Con phải trừ bỏ những thói quen tật xấu ấy. Ta có viên ngọc dạ quang minh vô cùng quý giá sẽ đem cho con, kẻ hầu hạ, tôi tớ nam nữ lớn nhỏ tùy ý con muốn, tất cả đều giao cho con. Ta luôn thương nhớ con cũng như quốc vương may mắn gặp thái tử của họ. Các vị Thanh văn cùng thưa Phật: –Bạch Thế Tôn! Khi ấy người con nghèo khổ đã lìa xa gia đình hơn sáu mươi năm, trôi giạt khắp nơi, đến nhà trưởng giả mới gặp người thân, suy nghó trước và sau khi gặp cha, tâm đều nhớ hết những việc đã làm. Khi ấy vị trưởng giả nằm trên giường bệnh, biết mình sắp chết mới bảo người con: –Ta nay đã sức cùng lực kiệt. Con nên kế thừa sản nghiệp đồ sộ của ta. Tất cả tài sản kho tàng quý báu trong nhà, nếu con nhận lãnh, đem giúp đỡ những người nghèo thiếu, sử dụng tùy ý. Người con nghe cha dạy xong vui mừng khôn xiết, nguyện sẽ thực hành không trái lời hứa. Người cha biết chí con nên thân hành dạy bảo, trước nghèo sau giàu càng thêm vui mừng, tôn kính thân thuộc, lễ bái các bậc Trưởng lão. Người cha ở trước vua, đại thần và mọi người tuyên bố: –Xin các ngài biết cho, người này là con trai của tôi, do tôi sinh ra, tên đó họ đó. Con tôi đã bỏ tôi lưu lạc khắp nơi sáu mươi năm nay mới gặp nhau. Nó là con của tôi, tôi chính là cha nó. Bao nhiêu của cả, tài sản của tôi đều là của con tôi. Người con nghe cha tuyên bố với mọi người lòng càng thêm vui mừng, tự nghó: “Ta đời trước có phước báo gì mà được lãnh kho tàng quý báu này?” Các vị Thanh văn lại thưa: –Bạch Thế Tôn! Ông trưởng giả giàu có ấy ví như Thế Tôn. Chúng Thanh văn Hữu học chúng con được gọi là con của Phật. Ngài cứu giúp chúng con thoát khỏi nỗi khổ trong ba cõi, như ông trưởng giả giàu có trở lại đưa đứa con thoát khỏi sự sống chết. Khi ấy, bạch Thế Tôn, Thế Tôn có vô số pháp bảo của bậc Thánh, dùng năm thần thông đoạn trừ màn ngăn che của năm ấm. Chúng con luôn tinh tấn tu tập theo giáo pháp ấy, đạt đến Niết-bàn cho là ấn chứng vi diệu, tinh tấn mong cầu không giải đãi, muốn được giải thoát tâm ý vắng lặng, nhờ tự thân tư duy thành thục nên đạt được rất nhiều. Nhưng Thế Tôn biết tâm lý chúng con vốn nương vào pháp thực hành, siêng tu thiền định và thường tin ưa, vì thấy chúng con lười biếng, tâm chí hạ liệt, không phân biệt, không có chí nguyện đối với kho pháp bảo quý giá của Như Lai, nên Thế Tôn đã dùng phương tiện chỉ cho chúng con thấy rõ kho tàng tuệ giác ấy, nhờ nó mà trừ được đói khổ và được trao ấn chứng vi diệu. Kính bạch Thế Tôn! Ngày nay chúng con tuổi đã già, như Tôn-giả Đại Ca-diếp đây được Như Lai ấn chứng rất sớm là sẽ đạt đến giải thoát. Thế Tôn lại vì chúng con mà thị hiện giáo nghĩa trí tuệ lớn của Bồ-tát. Chúng con phụng hành và đem chỉ dạy cho mọi người. Như Lai đã hiển bày đức lớn đều làm cho chúng con được thể nhập giáo nghĩa Như Lai. Vì sao? Vì Thế Tôn đã khéo dùng tất cả phương tiện biết chúng con ý chí thấp hèn, không hiểu nổi giáo pháp sâu xa nên dạy hạnh Thanh văn. Chúng con sợ hãi các pháp trong sinh, già, chết ba cõi và các pháp sắc, thanh, hương, vị, xúc thô hèn, chỉ muốn tự độ mà không cứu độ tất cả chúng sinh, xa lìa phương tiện quyền biến, trí tuệ, đại Từ bi, thiền định Tam-muội, chỉ biết nhân tâm mà không thấy được căn nguyên của tất cả chúng sinh. Ví như kẻ nghèo cùng mong cầu cơm áo, người cha ân cần muốn đem đến an lạc cho con, nhưng người con không hề hay biết. Thế Tôn dùng phương tiện tùy lúc thị hiện nên chúng con không nhận thấy, nay mới tự biết mình chính là con Phật. Chúng con đã được Phật xót thương ban cho đại trí tuệ. Vì sao? Vì chúng con tuy là con Phật mà lại hạ tiện, khiếp nhược. Đến khi thấy tâm chúng con hoan hỷ kính tin Bồ-tát thừa nên Như Lai sau đó mới nói cho pháp lớn Đại thừa. Thế Tôn đã vì hai việc mà nói pháp ấy: 1. Vì chư Bồ-tát nên Như Lai hiện pháp cam lộ. 2. Vì hạng người thấp hèn, chí nguyện nhỏ nên Như Lai, khuyến khích, chuyển hóa họ đi vào giáo nghĩa vi diệu. Ví như người con kia cùng cha biệt ly nhau đã lâu, trên đường từ xa trông thấy cha không biết là ai nên rất sợ hãi, dần dần về sau nhìn cách thể hiện uy nghi mới biết đó là cha mình. Phật cũng như vậy, chúng con không hiểu rõ pháp lớn của Bồ-tát, tuy là con của Như Lai, từ pháp sinh ra nhưng chỉ mong Niết-bàn, không có ý chí ngồi dưới gốc cây nơi đạo tràng hàng phục ma quân và độ thoát tất cả chúng sinh. Bọn chúng con tự cho rằng đã được giải thoát. Vì lý do đó nên ngày nay chúng con thấy, nghe mà chưa được thành tựu, không phải là bậc xuất gia, chưa trở thành bậc Sa-môn. Hôm nay Thế Tôn hiện các trí tuệ siêu tuyệt nên chúng con đã đạt được pháp trân bảo của Phật. Đức Phật là cha, chúng con là con, cha con đồng một thể tính, không có sai khác. Giống như vị trưởng giả khi sắp mạng chung, ở trước đại chúng tuyên bố cùng vua, quan, Bà-la-môn, trưởng giả và tất cả mọi người: “Hôm nay ta đem tất cả kho tàng châu báu để ban cho con ta.” Người con nghe xong vui mừng như được điều chưa từng có. Thế Tôn cũng như vậy, ban đầu dạy pháp Tiểu thừa tạm thời làm cho chúng con được an lạc, nhưng sau cùng Ngài vì bốn chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, tất cả chư Thiên và loài người mà hiển bày giáo nghĩa căn bản. Thế Tôn khéo dùng phương tiện thuyết pháp tam thừa, không hề có Nhị thừa, huống gì có ba? Các vị Thanh văn này đều sẽ thành Phật. Chúng con vô cùng hân hoan không kể xiết. Khi ấy Tôn-giả Đại Ca-diếp nói lại kệ rằng: Chúng con hôm nay Được nghe pháp âm Ngạc nhiên vui mừng Được chưa từng có Vì thế cho nên Tâm rất hoan hỷ Lại biết Đạo Sư Thanh âm êm dịu Trân bảo tôn quý Chứa nhóm thật nhiều Tập hợp các báu Ban cho chúng con Chưa hề nghó đến Cũng chẳng mong cầu Được nghe pháp sâu Tâm rất phấn chấn. Ví như trưởng giả Có một người con Bé thơ không biết Ngu si mê muội Tự bỏ cha mình Đi đến nước khác Trôi nổi xứ lạ Gặp nhiều hiền nhân. Khi ấy trưởng giả Lo sầu nhớ con Về sau nghe biết Vội vã kiếm tìm Dạo khắp mười phương Lòng thường lo nghó Cha con cách biệt Đã sáu mươi năm Thăm hỏi mọi người Muốn được gặp con Liền đến xứ khác Vào thành lớn kia Dừng chân ở đó Xây dựng lâu đài Đầy đủ trang nghiêm Thọ lạc năm dục Vô số vàng ròng Và các châu báu Của cải quý giá Minh châu, ngọc bích Voi, ngựa, cộ xe Rất nhiều vô số Gia súc trâu, heo Gà, vịt, dê, lừa Thu chi lời lãi Buôn bán, cấy cầy Tôi tớ hầu hạ Nhiều không kể xiết Các sự tôn quý Có vạn ức người Lại được vua mến Oai như quốc vương Tất cả dân chúng Kính trọng hướng về Quan quyền thân thích Ai cũng tôn trọng Ví nhiều duyên cớ Người đến tấp nập Tìm kiếm rất đông Không thể kể hết Giàu mạnh như vậy Mà luôn than khóc Ta đã già nua Chí lực suy yếu Lòng thường suy nghó Muốn được gặp con Ngày đêm nghó nhớ Không lúc nào nguôi Hỏi nghe tin con Lòng thêm phiền muộn Con dại bỏ ta Hơn sáu mươi năm Kho tàng ta có Tài sản lớn nhiều Nếu ta chết đi Ai người giao phó Kế thừa cho ta Người con ngu si Nghèo cùng khốn khổ Thường tìm cơm áo Dạo khắp các nơi Ưu lo suy nghó Miệt mài khắp chốn Tìm cầu dè sẻn Phiêu bạt xa xôi Tự lo sinh sống Có khi được của Lúc chẳng có gì Khốn đốn tha hương Ưu tư lo lắng Bức xúc trong lòng Gian lao khổ sở Lần lượt trải qua Đi không dừng nghỉ Dần dần đi đến Chỗ ở của cha Quanh co lui tới Tìm kiếm áo cơm Từ từ tiến gần Đến ngôi nhà ấy Liền đến trước cửa Từ xa trông thấy Vị đại trưởng giả Ngồi ngai sư tử Đông người hầu hạ Quyến thuộc vây quanh Tiền của thu chi Và đem bố thí Có rất đông người Đi theo phục dịch Hoặc người tính toán Vàng bạc châu báu Ghi chép giấy tờ Phân phối từng ban Thu chi riêng biệt Tính toán ít nhiều. Khi ấy gã nghèo Thấy cảnh như vậy Đứng qua bên đường Quán sát họ làm Tự thân suy nghó Sao ta đến đây Đây chắc là vua Hoặc là thái tử Nếu không sao vậy Sẽ bắt trói ta Nếu như không đi Bị ép sai khiến Suy nghó như thế Người nghèo bỏ chạy Đời không trọng nghèo Chẳng ưa kẻ thiếu. Khi ấy trưởng giả Ngồi ngai sư tử Xa thấy con mình Thầm lặng vui mừng Sai ngay người hầu Đuổi theo giữ lại Gọi kẻ nghèo kia Đến đây ta gặp. Người hầu vâng lời Đuổi theo bảo rằng Buộc ngươi phải về. Gã té xuống đất Kinh hãi nghó thầm Vô cớ bị hại Sao lại bị bắt Họ muốn gì đây. Trưởng giả giàu có Thấy con ngã lăn Thương xót con mình Vô cùng hạ liệt Cũng không tin rằng Ta là cha nó Lại vẫn nghi ngờ Không xét của cải. Người cha phủ dụ Nói với kẻ nghèo Ta có vàng ròng Cất chứa tại đây Sẽ cấp cho ngươi Đủ thức ăn uống Giữ gìn trông coi Phục dịch các việc Châu báu ta có Bị hư cũ nhiều Bỏ nơi nhơ nhớp Không ai sửa dùng Ngươi hãy tùy tiện Lấy làm của riêng Của cải ta nhiều Không ai dùng hết. Người nghèo nghe bảo Những lời như thế Bèn vội tới nơi Vâng lệnh thi hành Theo lời trưởng giả Không dám trái lệnh Liền vào trong nhà Sửa sang các việc. Khi ấy trưởng giả Bên trong cửa sổ Quán sát người con Biết làm thế nào Tuy là con ta Mà quá hạ liệt Chỉ biết tính toán Điều khiển xe thôi. Ông từ trên lầu Đi xuống dưới đất Cởi áo nhơ bẩn Thay đồ sang trọng Đi thẳng đến chỗ Làm việc của con Bảo con đứng dậy Cần làm việc gì Ta sẽ cho ngươi Rất khó gặp ngươi Nhân đức bố thí Xoa bóp chân ta Rượu nồng ngon ngọt Cấp cho thực phẩm Giường ghế đồ dùng Ngựa xe không thiếu Lúc đó ta sẽ Cưới vợ cho ngươi. Trưởng giả thông tuệ Dần dà dạy bảo: Con nên nhận lãnh Các việc của ta Ví yêu mến ngươi Tâm đừng nghi ngại Người con lần hồi Vào trong nhà cha Buôn bán cai quản Tính toán thu chi Không để thiếu hụt Ngày càng phát đạt Đi tới đi lui Răn dạy tôi tớ Các món bảo vật Ngọc sáng lưu ly Đều đem cất giữ Kho tàng trong nhà Tất cả các chỗ Đều biết tính toán Suy nghó biết rõ Lợi của tài sản Nhưng vì ngu si Riêng giữ kho nhỏ Không bằng như cha Ở tại bên ngoài. Khi ấy gã nghèo Một mình suy nghó Người khác không có Kho báu như ta Người cha biết được Ý chí con mình Nó tự cho rằng Được giàu vô tận. Liền gọi con đến Tự thân dạy bảo Ta muốn giao phó Tài sản của ta Nên bảo ngươi rằng Ta có tất cả Vô số tài sản Sinh hoạt buôn bán Tụ tập mọi người Trước mặt quốc vương Trưởng giả, Phạm chí Các bậc Hiền nhân Sai người công bố Lớn nhỏ gần xa Đây là con tôi Bỏ tôi trốn đi Đến nơi nước khác Tìm cầu ăn mặc Vô cùng nghèo khổ Nay mới trở về Cùng tôi xa cách Hơn sáu mươi năm Nay đến nước này Mới được gặp lại Ở nơi thành ấy Mà quên mất tôi Nơi đây kiếm sống Tự nhiên đến đây Tài sản của tôi Không thiếu thứ gì Sản nghiệp hiện tại Rất là đầy đủ Tất cả đều đem Giao phó cho con Con sẽ giữ gìn Cơ nghiệp của cha. Người con vui mừng Việc chưa từng có Ta vốn nghèo nàn Của cải tự đến Người cha biết con Ý chí thấp hèn Được các kho báu Ngày nay an ổn Đấng Đại Đạo Sư Giáo hóa chúng con Chúng con thấp hèn Vui ưa pháp nhỏ Phật độ chúng con Khiến được an ổn Rồi Ngài thọ ký Sẽ thành Phật đạo An trụ nơi đây Lập hạnh rất nhiều Vô số Bồ-tát Tuệ lực vô lượng Chỉ bày phân biệt Đạo lớn tối thượng Ca ngợi các duyên Muôn ngàn thí dụ Chúng con được nghe Là con Đức Phật Nên gắng phụng hành Đạo lớn tối thượng Nơi đáng kiến lập Cho người mắt tuệ Sẽ ở thế gian Được thành Phật đạo Vì Đấng Thế Tôn Thực hành như thế Nuôi dưỡng ủng hộ Nơi giáo pháp này Phân tích giảng nói Tuệ nghĩa tối thắng Rồi sẽ cảm hóa Tất cả chúng sinh Chí nguyện chúng con Tâm nghèo suy nghó Nếu như được nghe Những lời Phật dạy Không chịu phát khởi Trí tuệ Như Lai Thấy Bậc Tối Thắng Tuyên nói nghĩa đạo Trong lòng tự nghó Đã được Niết-bàn Không có mong cầu Trí tuệ tối thượng Nhờ nghe Thế Tôn Chư Phật các cõi Được ý hy hữu Sinh tâm vui mừng Nơi pháp vắng lặng Tất cả vô lậu Đã được dứt trừ Sau được diệt độ. Do tư duy này Không thành Phật đạo Nỗ lực tu hành Siêng trừ kiêu mạn Giáo nghĩa chư Phật Vi diệu tối thượng Chưa từng khuyên giúp Chỉ trụ Niết-bàn Cho là cứu cánh Tối thắng trọn vẹn Được pháp vô vi Xả bỏ ấm, cái Ngày đêm tinh cần Tu pháp nghĩa không Thoát khỏi khổ đau Não phiền ba cõi Thế Tôn dạy bảo Dùng các nhân duyên Và các thí dụ Đầy đủ các pháp Diễn nói tối thắng Thân sinh trí tuệ Nếu như có người Mong thành Phật đạo Chúng con vì họ Ban cho Pháp sự Họ đạt nhưng con Không thích bao giờ Đấng Đại Đạo Sư Khắp cõi thế gian Quán sát tất cả Những người như con Lo sợ các việc Làm cho lợi ích Ân cần khuyên bảo Khiến con tin ưa Phương tiện quyền biến Giống như người cha. Ví như trưởng giả Vô cùng giàu có Biết chí con mình Bần cùng hạ liệt Mới đem châu báu Ban phát cho con; Đấng Đại Đạo Sư Nói pháp hy hữu Phân biệt, chỉ bày Khéo dùng phương tiện Biết rằng chúng con Chí thích thấp hèn Điều phục tâm con Mới ban pháp lớn. Chúng con ngày nay Đạt được vô lượng Pháp chưa từng có Như nghèo được của Đức Phật giáo hóa Được đạo quý báu Các lậu đoạn trừ Ngày đêm tu tập Giới cấm, thiền định Thọ trì giáo nghĩa Tuân lời Đạo Sư Nay con đã đạt Đạo lớn Thế Tôn. Quyến thuộc vây quanh Tu hành tinh tấn Nỗ lực ngày đêm Phạm hạnh thanh tịnh Nương Đấng Pháp Vương Tuệ giác sâu xa Mà được đầy đủ Quả đức Vô thượng Thành tựu vi diệu Các lậu không còn. Chúng con hôm nay Mới là Thanh văn Mới được nghe rõ Phật đạo tối thượng Được Phật hiển bày Pháp âm toàn giác Do đã được nghe Vượt khỏi sợ hãi. Hôm nay mới thành Bậc Vô Sở Trước Đem pháp ly thủ Giảng cho chư Thiên Thế nhân, ma vương Và cho Phạm thiên Tất cả quyến thuộc Các loại chúng sinh Khắp chúng hữu tình Tạo lập tịch nhiên Dứt bỏ sinh tử Vô số ức kiếp, Giáo pháp Phật giảng Rất khó được gặp Xét khắp thế gian Không thể sánh kịp. Ngày nay giác ngộ Hết tội, giải thoát Tu hành tinh tấn Phấn chấn vui mừng Chúng con quay về Đảnh lễ bậc Thánh Sở nguyện viên thành Như cát sông Hằng Thực phẩm, y phục Nhiều đến vô lượng Gường nằm, ngọa cụ Thuần khiết sạch sẽ Gỗ hương Chiên-đàn Lấy làm nhà cửa Đệm ngồi mềm mịn Để trải lên trên Nếu người tật bệnh Vô số thuốc thang Đem đến cúng dường An trụ độ tận Bố thí nhiều kiếp Những gì đã chứng Không bị mất đi Pháp Phật cao xa Vô lượng vô hạn Đủ thần túc lớn Kiến lập pháp lực Phật là Đại vương Kham nhận kiên cường Thường tu kiên cố An ủi khuyên dạy Luôn theo đúng thời Chưa từng buông bỏ Vọng tưởng phước hạnh Nơi tất cả đời Pháp Đấng Trung Tôn Đều có lực lớn, Như Lai tối thắng Thắp đèn sáng lớn Dạy rất nhiều người Biết hàng chúng sinh Tùy sức của họ Bao nhiêu chủng loại Điều họ ưa thích Trăm ngàn nhân duyên Tùy thuận mở bày, Như Lai đều biết tính hạnh chúng sinh Tâm niệm người khác Tất cả quần sinh Vì nhiều lỗi lầm Đưa đến đọa lạc Đem pháp thị hiện Đưa về tuệ giác.  <詞 id="83085235">Phẩm 5: CÂY THUỐC Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Tôn giả Đại Ca-diếp và các vị trưởng lão Thanh văn: –Hay thay, hay thay, Đại Ca-diếp! Ông đã ca ngợi như thật về Như Lai. Đúng như lời ông nói, công Đức của Như Lai theo như thí dụ vừa rồi còn gấp bội hơn thế, vô lượng không thể nghó bàn, không thể đo lường bằng số kiếp giới hạn, tất cả mọi số tính toán đều không phù hợp với Như Lai. Trí tuệ của Như Lai vô cùng vô hạn, không ai có thể nghó hết những chỗ Như Lai đã trải qua và không thể tìm hết cội nguồn của nó. Như Lai thâm nhập hết tất cả các pháp nghĩa, quán sát biết tất cả tâm niệm của chúng sinh trong thế gian, thông suốt đến chỗ tận cùng, phân biệt tất cả. Như Lai làm cho mọi người hiểu rõ trí tuệ phương tiện, khuyến khích và an lập cho tất cả chúng sinh đến giải thoát và hiển bày trí tuệ rộng lớn khiến cho chúng sinh thâm nhập tuệ giác của Phật. Ca-diếp! Ví như trong cõi tam thiên đại thiên, nơi ấy có các cây cỏ thuốc, tre lau, rừng cây lớn nhỏ, gốc rễ, cành, nhánh, hoa, trái, bao nhiêu giống loại màu sắc khác nhau đều sinh ra trên đất hoặc trên núi cao, hoặc giữa ghềnh đá, gò nỗng, suối, khe, hang… Khi ấy một trận mưa lớn nhuần thấm khắp các cỏ cây, vườn rừng, tùy theo giống loại của mỗi cây mà tất cả đều phát triển tươi tốt. Những ai không tin tưởng, kính ngưỡng Như Lai cũng đều được như thế. Nước mưa cùng một loại rơi khắp cõi Phật, tất cả đều được sinh trưởng trên đất ấy như nhau không khác. Đức Như Lai chính Giác giảng nói pháp sâu xa cũng như trận mưa lớn. Đấng Đại Thánh xuất hiện ở thế gian là vì tất cả chư Thiên, Nhân dân, A-tu-luân, Quỷ, Thần, Rồng. Như Lai hiện ra oai thần rực rỡ tràn khắp cõi nước, ngay trong hiện tại trước chúng, xướng lên âm thanh lớn, dùng trí tuệ phân biệt giáo nghĩa, bằng tiếng oai hùng như sư tử mà tuyên bố lời này: –Ta là Đấng Như Lai sẽ làm cho chư Thiên, nhân dân trên trời hay khắp nhân gian, người chưa được độ sẽ được độ, người chưa giải thoát sẽ được giải thoát, người chưa an sẽ được an, người chưa chứng Niết-bàn sẽ làm cho chứng Niết-bàn. Đời hiện tại và các đời sau Như Lai đều biết đúng như thật. Như Lai dùng trí tuệ toàn giác có thể thấy khắp tất cả, độ người đáng độ, giải thoát người đáng giải thoát, làm cho an những người chưa an. Ai chưa được Niết-bàn, Như Lai làm cho được Niết-bàn, khiến cho tất cả đến đây nghe Như Lai thuyết pháp. Khi ấy hàng Trời, Người, A-tu-luân, Kiền-đạp-hòa, Ca-lưu-la, Chân-đà-la, Ma-hưu-lặc… tất cả vân tập đến chỗ Đức Thế Tôn đang giảng pháp nghĩa. Phật là Đấng chính dẫn đạo, phân biệt rõ ràng con đường tuệ giác. Đức Thế Tôn bảo Ca-diếp: –Bấy giờ có vô số ngàn muôn ức loại chúng sinh đều đến chỗ Như Lai nghe pháp. Như Lai thấy rõ tất cả căn cơ của họ nên dùng sức đại tinh tấn mà thuyết pháp, dùng vô lượng lời lẽ phân biệt rõ ràng, dạy bảo khắp các chúng sinh, khiến cho họ không mất bản tâm, được an lành vui vẻ không có tai họa, hoặc được giải thoát ngay trong đời này, đời sau được sinh chỗ an lành tùy theo ý thích của họ, mỗi người đều được sinh một cách tự nhiên. Nếu có người quen tuân theo ái dục thì Như Lai vì họ thuyết kinh, hoặc khiến họ nghe nhận giáo pháp, xa lìa các nghiệp tham, chuyển dần theo con đường trí tuệ Như Lai. Nhờ theo bản lực vô lượng như trên với tâm kiên cố nên họ thành tựu pháp thân bình đẳng. Giống như cơn mưa lớn, khắp cõi nước Phật đều được thấm nhuần nuôi dưỡng, sinh trưởng bình đẳng không sai khác. Đức Như Lai giảng nói pháp một vị cũng như vậy, đưa đến vị giải thoát, xa lìa ái dục, đạt đến Niết-bàn, đi vào trí tuệ toàn giác. Hoặc có người nghe và thọ trì, đọc tụng, vâng giữ giáo pháp Như Lai mà họ lại không tự tỉnh thức, không quán niệm. Vì sao? Đó là do chủng loại và căn tính khi xưa của những chúng sinh ấy. Theo chỗ nhớ nghó của họ, đã nghó, đang nghó có thể làm những việc gì; những việc đã làm, đang làm và sẽ làm. Theo các nhân duyên ấy mà sẽ đạt đến đâu và cần phải nói thế nào, chỉ có Như Lai mới thấy biết hết sự việc trên ở nơi nào và cõi nào. Như nước mưa bình đẳng nhuần thấm cỏ thuốc trong rừng; các loại cỏ thuốc màu trắng, đen, xanh, đỏ, cao, vừa, thấp. Đức Thế Tôn đối với các hạng chúng sinh đều hiện chỉ một vị, đưa họ vào vị giải thoát, cho đến Niết-bàn, độ những người chưa độ, đến Niết-bàn cứu cánh, làm cho họ đạt đến cùng một cõi, cùng một pháp vị, tâm không còn sợ hãi và được giải thoát. Như Lai giáo hóa làm cho chúng sinh được tin ưa. Ngài bảo bọc, nuôi dưỡng, che chở, khiến chúng sinh đạt đến trí tuệ thông suốt. Như Lai ca ngợi, phân tích rõ ràng, kiến lập giáo pháp của đấng Hiền thánh cũng như những điều vừa rồi Ca-diếp đã nói. Đức Thế Tôn muốn lập lại nghĩa trên nên nói kệ: Ta xuất hiện thế gian Làm vua pháp nhân hòa Vì chúng sinh thuyết pháp Theo chỗ họ tin ưa Ý mạnh mẽ oai hùng Kiên trì phân biệt nói Nhiều chúng sinh thọ trì Chẳng vội giảng cho họ Trí tuệ Phật khó hiểu Nếu người thiếu trí nghe Sẽ sinh lòng hoài nghi Liền bỏ mất lòng tin Tùy theo cảnh giới nói Theo sức chúng kham nhận Lại dạy các pháp lợi Vì chúng hiện chính pháp Ví như vầng mây đen Nổi lên trên hư không Mưa khắp thế giới Phật Che phủ khắp đất đai Phóng chớp sáng chói lòa Hơi nước tỏa xung quanh Tiếng sấm lớn vang rền Muôn loài đều hoan hỷ Nhật nguyệt bị che khuất Trừ nóng được mát mẻ Vì trời sắp đổ mưa Mây giăng khắp bầu trời Trận mưa đó khắp cùng Tuôn xuống nhiều vô lượng Mưa chan hòa cõi Phật Khắp nơi đều ướt đẫm Đúng thời mưa tuôn tràn Đại địa đều nhuận thấm Suối khe đang khô cạn Tất cả được tràn đầy Nhờ trận mưa thấm nhuần Các nguồn đều tràn dâng Nơi đồng trống hang sâu Cây cối trong rừng vắng Nẩy mầm non xanh tốt Vô số cỏ thuốc sinh Tất cả các giống cây Lớn nhỏ đều tăng trưởng Cỏ thuốc mọc xanh tươi Cây cành nhiều hoa quả Tùy tính loại của chúng Tất cả được thấm nhuần. Các cây đại thọ Rễ bám đất sâu Mọc nơi hiểm trở Và sống trong đó Như các tà đạo Tất cả ngu si Lớn thêm trói buộc Như voi bị xích Gai gốc, cỏ cây Lúa mạ, lau sậy Gốc thân, cành lá Và các hoa quả Cây trái sum suê Được nhiều lợi ích Đội ân mưa xuống Cỏ thuốc lớn dần Theo từng giống loại Do trận mưa đó Đều được thấm nhuần Đói khát no đủ Tùy theo giống trồng Mỗi loại mỗi khác Nhưng lúc mưa xuống Đều thuần một vị. Này Đại Ca-diếp! Phật cũng như vậy Hiện ra nơi đời Ví như trời mưa Rưới đều khắp cả Vì chúng thuyết pháp Đem hạnh chân thật Giáo hóa chúng sinh. Phật nói pháp ấy Khiến mọi người nghe Ở trước chư Thiên Nhân dân khắp chốn, Phật là Như Lai Đấng Lưỡng Túc Tôn Khéo dùng phương tiện Giống như trận mưa Ta làm no đủ Tất cả quần manh Những kẻ ngu si Thân hình khô gầy Trừ các khổ nạn Được an ổn lớn Thiêu hết ái dục Đạt đến Niết-bàn Chư Thiên, nhân loại Đều nghe ta nói Tất cả nên đến Chỗ Phật Đại Thánh Ta là Như Lai Bậc không ai sánh Điều ngự giáo hóa Nên hiện trong đời Vì tất cả người Phân biệt thuyết kinh Hóa độ muôn ngàn Chúng sinh vô số Phật lại diễn bày Bao nhiêu giáo nghĩa Thường hành bình đẳng Không có bỉ thử Đạt đến giải thoát Diệt độ Niết-bàn Hoặc trước cửa nhà Thuyết pháp kinh điển Đó là tạo lập Kho tàng đạo đức Dầu cao dầu thấp Đều dạy như nhau Không có ghét yêu Dứt trừ ái dục Ta chưa từng nói Những lời vô ích Chưa từng ghét ganh Các duyên phóng dật Dùng tất cả pháp Thuyết cho mọi loài Nếu như chúng sinh Nhiều không tính kể Vì giảng kinh lớn Không trái nhân duyên Đi chậm hay nhanh Hoặc đứng tại chỗ Hay là ngồi yên Vẫn luôn thiền định Ví như rồng chúa Mưa thấm nhuần nhiều Thấm ướt cùng khắp Tất cả thế gian Hiện khởi mây tuệ Tuôn xuống mưa pháp Xướng lên vi diệu Tùy bệnh cho thuốc Luôn vì chúng sinh Thuyết pháp Thánh hiền Khiến đều giữ giới Như trời che mát Những kẻ nói sai Các hạnh sai trái Muốn khiến gần pháp Điều phục dần dần Những kẻ hồ nghi Bỏ các tà kiến Khuyên dạy lợi ích Thấy chốn an lạc Bỏ chỗ hạ liệt Xa lìa biếng nhác Tùy ý nguyện họ Mà khiến vào đạo Đúng thời chỉ dạy Khiến đều xả bỏ Tâm niệm sai quấy Thuận theo hạnh Phật Chư Thế Tôn dạy Rưới mưa pháp kinh Làm cho đạt đến Phật đạo tôn quý Tùy sức chúng sinh Khiến được nghe nhận Bao nhiêu đạo tuệ Hóa lập pháp mầu Trời người theo đó Chí tính an lạc Phạm vương, Đế Thích Chuyển luân thánh vương Cũng giống như đây Các thế giới nhỏ Các loại cỏ thuốc Mỗi loại khác nhau Nhỏ nhoi thấp ngắn Dược thảo như vậy Ca-diếp hãy nghe Ta sẽ nói hết, Dùng tuệ nhận biết Rõ pháp vô lậu Chứng được Niết-bàn Dạo chơi đến chốn Ba minh, sáu thông Cũng lại như vậy. Trận mưa định ý Cỏ thuốc Tam-muội Hoặc có đi đến Ở chốn núi rừng Người này thành tựu Bậc Duyên giác thừa Người đó tu thiền Sống hạnh thanh tịnh Đó mới gọi là Cỏ thuốc bậc trung. Nếu như chí nguyện Cầu đức Thượng só Ta sẽ ở đời Thành Đấng Đạo Sư Thường hành tinh tấn Thiền định nhất tâm Đó mới gọi là Cỏ thuốc bậc thượng. Giả sử có người Muốn tâm an trụ Cứu giúp Từ bi Sống nơi vắng lặng Chóng được thành đạo Làm Đấng Trung Tôn Gọi đó cây lớn. Là ví dụ này Có thể tuyên thuyết Pháp không thoái chuyển Kiến lập thần túc Thực hành căn lực Trưởng dưỡng duyên này Thuốc thang trừ bệnh Hùng sự độ thoát Vô số ức người Tùy thời thị hiện Trong Phật đạo ấy Đó chính gọi là Rừng cây lớn nhất. Ta vốn tùy thuận Khéo dùng phương tiện Tất cả chư Phật Cũng đều như thế Giảng pháp tối thắng Là pháp bình đẳng, Giống như mây lành Tuôn mưa khắp chốn Vô ngại thần thông Phật dùng dụ này Ví như cỏ thuốc Cùng mọc trên đất Để họ được thấy nghĩa pháp vi diệu Như Lai đã lập Dùng phương tiện khéo Ví dụ phân tích Pháp sự toàn diện Cũng như trận mưa Tưới mọi cỏ thuốc. Phật dùng mưa pháp Rưới khắp thế gian Được nhiều an ổn Thành tựu khắp cả, Quán sát mỗi người Khả năng kham nhận Giáo pháp Phật dạy Đều cùng một vị. Ví như mưa rơi Núi, ghềnh, cây cỏ Và nơi khoảng giữa Không có khác nhau, Rưới ướt cây cối Khắp cả rừng già Mây dày bốn phía Đầy tất cả cõi. Giả sử thế gian Hành pháp từ mẫn Nên dùng kinh này Đầy khắp thiên hạ, Chỉ dạy cho đời Khiến đều an ổn Trời mưa cỏ thuốc Hoa trái sum suê, Các cỏ thuốc ấy Dần dần lớn lên Đó là La-hán Các lậu đã hết. Các hàng Duyên giác Ở nơi rừng rậm Pháp ta nói ra Không có trần cấu, Vô số Bồ-tát Trí tuệ thấu đạt Khắp cả ba cõi Tất cả thực hành, Ở trong chúng hội Diễn đạo lớn này Giống các cây kia Ngày thêm lớn tốt, Tiến tu Thần túc Chuyên đạt Tứ thiền Hoặc nghe Không tuệ Tâm liền giải thoát, Phóng hào quang sáng Vô số ức ngàn Đó là cây lớn Mà lại thắm tươi. Hoặc các Thanh văn Chưa đạt Niết-bàn Thế Tôn vì họ Thuyết pháp cao tột, Hoặc đem phân biệt Thuyết giảng pháp này Giống như mây nổi Mưa xuống các cây, Dần dần thêm lớn Các cây cỏ thuốc Hoa của mọi người Nhiều không kể hết Giữa ngay lúc ấy Thuyết pháp nhân duyên Mà vì mọi người Hiện nơi Phật đạo Tạm dùng phương tiện Thuyết giảng giáo pháp Tất cả Đạo sư Cũng lại như vậy. Thuyết giáo pháp này Là pháp bậc nhất Các chúng Thanh văn Đều phải phụng trì Thực hành duyên đây Sẽ được hạnh Phật Các La-hán này Như thế không khác Thế Tôn diễn nghĩa Cứu cánh nơi đây Giáo hóa Tiểu thừa Đều được Phật đạo. Đức Phật lại bảo Tôn giả Đại Ca-diếp: –Như Lai giáo hóa, chỉ dạy bình đẳng không thiên lệch. Ví như ánh sáng mặt trời chiếu khắp thiên hạ, ánh sáng ấy không chọn lựa chỗ nào nên chiếu và chỗ nào không nên chiếu, dù là cao, thấp, sâu, cạn, xấu, đẹp, thơm, hôi… đều chiếu soi như nhau không khác. Đức Phật cũng như thế, dùng ánh sáng trí tuệ chiếu soi tất cả chúng sinh trong năm đường sinh tử, Bồ-tát, Duyên giác, Thanh văn, trí tuệ ấy không tăng giảm, mỗi chúng sinh tùy theo sự giác ngộ của tâm mình mà tự đạt đạo. Vốn không có ba thừa, do hạnh nguyện mà đưa đến như vậy. Tôn-giả Ca-diếp bạch Phật: –Nếu không có ba thừa, làm sao có được bậc Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát? Đức Phật dạy: –Ví như người thợ gốm dùng đất dẻo làm đồ vật đựng, hoặc đựng mật cam lồ, hoặc đựng bơ sữa, dầu mè, hoặc đựng rượu ăn uống… Đất bùn tính chất nó như nhau nhưng khi làm đồ vật khác nhau thì chỗ dùng cũng không giống nhau. Pháp giải thoát cũng như vậy, bình đẳng không sai khác. Tùy theo chỗ thực hành của mỗi người mà thượng, trung, hạ có khác nhau. Tôn-giả Ca-diếp lại thưa: –Bạch Thế Tôn! Giả sử khác nhau nhưng cứu cánh có giống nhau chăng? Đức Phật dạy: –Sẽ giống nhau nhưng chỉ có người giác ngộ mới hiểu rõ việc này. Ví như có người sinh ra đã bị mù, không thấy được năm sắc, mặt trời, mặt trăng và mười phương. Người ấy cho rằng thiên hạ không có mặt trời, mặt trăng, năm sắc, tám phương và phương trên, phương dưới. Có người giải thích, người ấy vẫn không tin. Giả sử có vị lương y xem thấy nguyên nhân căn bệnh của người ấy: “Vì sao người ấy không thấy? Là do khi xưa vị ấy đã tạo tội nên nay mắt mù tối không thấy được ánh sáng, thân thể bị bệnh nặng. Thế nào gọi là bệnh nặng? Đó là bốn chứng bệnh phong, hàn, nhiệt, tích.” Vị lương y thầm nghó: “Bệnh trạng của người này cho dù dùng các dược liệu cũng không thể chửa khỏi. Trên Tuyết sơn có loại thuốc có thể trị được bốn bệnh ấy. Một là Hiển, hai là Lương, ba là Minh, bốn là An; đó là tên của bốn vị thuốc. Lúc ấy vị lương y vì thương xót người bệnh, bày ra phương cách liền vào núi Tuyết hái bốn loại thuốc đem hợp lại rồi ngâm, giã, dùng để trị cho người mù mắt kia được sáng trở lại. Vị lương y lại châm cứu, tiêu tức, bổ tả, làm cho người mù sáng mắt, trong ngoài đều thấy rõ. Người ấy thấy ánh sáng mặt trời, mặt trăng, năm sắc, mười phương, khi ấy ông ta mới thật tin liền tự trách mình: “Ta thật là mù lòa, đã không thấy nghe mà tự cho rằng mình đã thông đạt. Nay mắt thấy được mới tự biết rằng trước đây đã bị sự ngu si che phủ, nay đã thấy được xa gần, cao thấp, ta không còn lầm lẫn.” Khi ấy có vị Tiên nhân sống nơi vắng vẻ, có năm phép thần thông, thấy nghe xuyên suốt khắp cả và thân có thể bay đi, tâm có thể biết ý nghó người khác, tự biết nguồn gốc sinh tử từ trước đến nay. Vị Tiên nhân bèn nói rõ cho người kia: –Ngươi chớ kiêu căng, tự cao cho rằng mình đã thấu đạt. Vì người ở trong nhà đóng cửa, không ra ngoài nên không biết mọi sự bên ngoài được. Ngươi không biết người khác nghó tốt xấu về mình, cũng không thể thấy xa được năm dặm mười dặm. Các tiếng nói hay tiếng trống đánh cách xa hai mươi dặm còn không thể nghe, trong gần mười hai dặm tự thân ngươi không thể đi bộ nỗi, cũng không thể đạt được đến chỗ tự nhớ lại, thấy được lúc chưa sinh, còn ở trong thai, cũng không thể biết được. Ngươi thông đạt điều gì mà tự cho là thấy biết tất cả? Nay ta thấy ngươi thật là kẻ ở trong tối cho là sáng, ở trong sáng cho là tối. Người kia hỏi: –Phải làm cách nào để được Thánh trí ấy? Xin ngài rủ lòng ban cho lời dạy bảo. Vị Tiên nhân đáp: –Ngươi phải vào núi sâu sống một mình nơi thanh vắng, trừ hết các dục tình, lúc ấy mới đạt được. Người ấy tuân lời vị Tiên nhân dạy, bỏ nhà vào chốn núi non, nhất tâm chuyên ròng không đắm say dục lạc, chứng được thần thông tự giác ngộ, quán sát những điều đã thấy không thể dùng ngôn từ để gọi được. Khi đã được năm phép thần thông, không có chỗ ngăn ngại mới tự biết sở kiến xưa kia của mình bị tối tăm che phủ. Đức Phật dạy: –Ta sẽ giải rõ ví dụ này. Con người sống trong năm đường ấm, cái sinh tử, chẳng rõ bản vô thì gọi là si, từ si đưa đến hành, từ hành đưa đến thức, từ thức đưa đến danh sắc, từ danh sắc đưa đến lục nhập, từ lục nhập đưa đến xúc, từ xúc đưa đến thọ, từ thọ đưa đến ái, từ ái đưa đến thủ, từ thủ đưa đến hữu, từ hữu đưa đến sinh, từ sinh đưa đến lão, bệnh, tử, ưu não khổ hoạn. Các tội tích tụ cho nên gọi là mù tối. Chính vì thương xót những người này bị trôi lăn trong ba cõi không dừng nghỉ không thể tự cứu vớt, nên Thế Tôn quán sát nguồn tâm của chúng sinh thấy có người bệnh nặng có kẻ bệnh nhẹ; có người nhiều trần cấu, có kẻ ít trần cấu; có người dễ giải thoát, có kẻ khó giải thoát; có người thấy xa, có kẻ thấy gần phát tâm Bồ-tát đến không thoái chuyển, không còn sinh tử, đạt đến Phật quả, giống như người có mắt được làm Thần tiên. Vị lương y đó chính là Như Lai vậy. Người không phát đại Bồ-đề tâm gọi là sống mù. Tham, dâm, sân hận, ngu si, sáu mươi hai tà kiến gọi là bốn bệnh. Không, Vô tướng, Vô nguyện, hướng đến cửa Niết-bàn gọi là bốn thứ thuốc. Thuốc làm cho khỏi bệnh thì không có si, hành, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão, bệnh, tử, ưu não khổ hoạn, tất cả đều được đoạn trừ. Chí không trụ thiện, cũng không trụ ác, như người mù hai mắt được sáng trở lại gọi là Thanh văn, Duyên giác đã đoạn sinh tử, vượt khỏi ba cõi, thoát khỏi năm đường, tự biết rõ đã thông đạt, không bị nhầm lẫn. Lúc muốn diệt độ, có Phật thị hiện ra trước, đem chính pháp giảng dạy khiến họ phát tâm Bồ-tát, không ở nơi sinh tử, chẳng trụ Niết-bàn, hiểu rõ nghĩa không trong ba cõi; tất cả các pháp hiện hữu trong mười phương như huyễn như hóa, như giấc mộng, như ngựa hoang, như tiếng vang trong núi thẳm; tất cả đều không sỡ hữu, không có gì hy vọng, không thủ không xả, không tối, không sáng. Khi ấy họ mới thấy sâu xa, không có gì là không thông đạt, thấy được các pháp chưa từng thấy, hiểu biết rõ nguồn gốc sinh khởi của tất cả của chúng sinh. Khi ấy Đức Thế Tôn nói lại nghĩa trên: Ví như ánh mặt trời Tỏa chiếu khắp muôn nơi Ánh sáng không tăng giảm Cũng không chọn tốt xấu. Như Lai cũng như vậy Trí tuệ như trời, trăng Hóa cùng mười phương cõi Cũng không có giảm tăng. Như người thợ gốm kia Nhào nặn đất làm đồ Hoặc đựng mật cam lộ Hoặc đựng dầu ăn, sữa Vốn từ một chất đất Thành vật dụng khác nhau Nhưng chỗ dùng không khác Vì chỗ đựng đặt tên. Người vốn cũng như vậy Không ba cõi năm đường Theo hành nghiệp đọa sinh Luân hồi không tự biết. Rõ “Không” gọi Bồ-tát, Bậc trung là Duyên giác Chấp không, tuệ chưa giải Thì gọi là Thanh văn. Ví như người mù mắt Không thấy ánh trời trăng Năm sắc và mười phương Cho rằng đời không có Lương y xét nguyên nhân Thấy bốn bệnh che lấp Tự mẫn thương xót họ Vào núi tìm thuốc thang Hái thuốc hay diệu kỳ Tên hiển, lương, minh, an Ngâm, giã, hòa hợp lại Để trị cho người mù Gia giảm thêm châm cứu Bệnh khỏi, mắt thấy sáng Thấy trời, trăng, năm sắc Mới biết mình tối ngu Người không rõ tính không Đọa mãi đường sinh tử Mười hai duyên buộc ràng Không rõ nguyên nhân bệnh Thế Tôn hiện ra đời Quán sát gốc ba cõi Tùy nhân sinh ra bệnh Mà khai hóa tất cả Rõ “Không” là Bồ-tát Ý thấp là Duyên giác Chán sợ khổ sinh tử Nên rơi vào Thanh văn Tự cho đạo đức cao Không thể tự hiểu rõ Người thấy được cứu cánh Không có lo chướng ngại Giống như vị Tiên nhân Có đủ năm thần thông Thương xót bảo người kia Ngươi chấp chặt ngăn che Không hiểu rộng sâu xa Nơi tối cho là sáng Ở trong không thấy ngoài Tuy sáng cũng là tối Vài mươi dặm có tiếng Tai không thể nghe được Hoặc người muốn ách hại Không biết ý họ nghó Muốn đến ngoài vài dặm Phải đi bộ mới đến Hoặc khi sinh lớn lên Không biết việc trong thai Rõ năm việc trong ngoài Lúc ấy mới thông đạt Sao lại sanh kiêu ngạo Tự cho mình hơn hết Người muốn được ngũ thông Phải ở nơi thanh vắng Chuyên tinh nghó nhớ đạo Khi liễu ngộ pháp này Phụng trì lời Phật dạy Bỏ nhà vào núi sâu Nhất tâm không nghó xấu Liền đạt đến Thần tiên Nếu đạt đến Thanh văn Và được Duyên giác thừa Tự cho tuệ đầy đủ Bằng Niết-bàn chư Phật Khi sắp muốn diệt độ Phật liền đứng phía trước Vì hiện pháp Bồ-tát Tam đạt vô quái ngại Tuệ giác đến vô cùng Khéo tạm dùng phương tiện Đạt Không, Vô tướng nguyện Bồ-tát do đó sinh Bốn Đẳng tâm, bốn ân Đem khai hóa chúng sinh Rõ tất cả như hóa Như mộng, huyễn, sóng nắng Như tiếng vang, thân chuối Ba cõi không sở hữu Không giữ cũng không bỏ Không tối cũng không sáng Không sinh tử Niết-bàn Bình đẳng như hư không Thấy cũng chẳng phải thấy Mới thấy được tất cả Cái nhìn ngay lúc ấy Không phân biệt Tam thừa Tất cả đều bình đẳng Cứu giúp không hạn lượng.  <詞 id="83085236">Phẩm 6: THỌ KÝ CHO HÀNG THANH VĂN Lúc bấy giờ, khi nói kệ xong, Đức Thế Tôn bảo tất cả các vị Tỳ-kheo: –Ta nay nói rõ, các vị Thanh văn kia cũng như Đại Ca-diếp đã từng cúng dường ba ngàn ức Đức Phật, nay sẽ phải cúng dường số lượng chư Phật như trước đây, tôn kính phụng thờ chư Phật Thế Tôn, nhận lãnh chính pháp, vâng giữ tu tập. Sau khi cúng dường chư Phật ấy xong sẽ được thành Phật, cõi ấy tên là Hoàn minh, kiếp ấy tên là Hoằng đại. Đức Phật khi đó hiệu là Đại Quang Minh Như Chí Chân Đẳng chính Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật Chúng Hựu, trụ thế mười hai trung kiếp. Sau khi Phật diệt độ, chính pháp trụ ở đời hai mươi kiếp, tượng pháp cũng trụ đời hai mươi kiếp. Cõi nước của Phật ấy rất thanh tịnh, không có gạch ngói, gai góc, các thứ ô uế, núi non, hầm hố, vô cùng tịnh lạc, đất bằng lưu ly, cây bằng các thứ báu, dây bằng vàng ròng giăng mắc trên các hàng cây, có tám con đường giao nhau. Các cội cây báu thường trổ hoa báu, luôn sum suê tươi đẹp. Có vô số trăm ngàn muôn ức các vị Bồ-tát trong cõi ấy, số Thanh văn cũng thật vô lượng. Cõi ấy không có các việc ác và quan thuộc, các loài quỷ đều luôn tinh tấn theo hộ trì Phật pháp không hề trái phạm. Lúc ấy Thế Tôn muốn lập lại nghĩa trên liền nói kệ: Ta thấy Tỳ-kheo Bằng Tuệ nhãn Phật Ca-diếp hiện nay Sẽ được thành Phật. Ở đời vị lai Vô số ức kiếp Cúng dường chư Phật Bậc Thánh Trung Tôn Viên mãn đầy đủ Ba ngàn ức Phật Ma-ha Ca-diếp Các lậu đã tận, Tu tập trọn vẹn Công hạnh ba phẩm Sẽ được thành Phật. Ông thân cận pháp Cúng dường chư Phật Tôn sư trời, người Tích lũy hạnh lành Sẽ thành Phật quả Tối tôn, tối thượng Bậc không sánh kịp Là Đại Đạo Sư Là bậc Đại Thánh. Cõi nước Phật kia Bậc nhất tối thắng Thanh tịnh ly cấu Bao nhiêu điềm lành Tùy theo mong cầu Đều được toại nguyện Đất màu vàng tía Vật báu trang nghiêm Lại có các cây Đều bằng trân bảo Đường xá trang nghiêm Thẳng phân tám nẻo Trời, người tán hương Khắp nơi thơm ngát Cõi nước khi ấy Sẽ được như vậy Bao nhiêu loại hoa Giăng mắc trang hoàng Tất cả loài hoa Sắc màu vàng tía Tỏa sáng ngân thanh Dùng làm pháp tắc Thường luôn vi diệu Chưa ai từng thấy. Các chúng Bồ-tát Vô số ngàn muôn Tâm chí an định Có sức đại thần, Các chúng Thánh trí Theo kinh Đại thừa Số không thể tính Muôn ức trăm ngàn, Tuyệt không các lậu Bền chí vâng giữ Có chúng Thanh văn Pháp Phật tối thắng Nếu dùng Thiên nhãn Muốn tính suy lường Số chúng đệ tử Quyết không thể được. Phật ấy trụ đời Mười hai trung kiếp chính pháp sẽ trụ Hai mươi trung kiếp; Tượng pháp cũng trụ Số kiếp như trên Phật Đại Quang Minh Công đức như thế. Lúc ấy các vị Hiền giả Đại Mục-kiền-liên, Tu-bồ-đề, Ma-ha Ca-chiên-diên,… đồng lòng đứng lên cúi đầu chiêm ngưỡng dung nhan rực rỡ của Đức Phật, mắt không lay động, thành kính lễ sát chân Đức Phật. Tất cả đều đọc kệ tán thán: Bậc Đại Hùng vô nhiễm Đấng Thích Vương đại Từ Đã xót thương chúng con Tuyên nói khen hạnh Phật. Phật nay biết chúng con Xin thương truyền thọ ký Được gặp pháp cam lộ Tắm gội trong pháp âm; Ví như kẻ đói khát Được thức ăn thượng vị Nghèo túng đang van cầu Bỗng có người cho ăn. Chúng con đều hoan hỷ. Chúng con chí thấp hèn Trái thời bỏ mọi người Nên không được thọ ký, Không tin trí Đẳng giác Nên Phật không truyền trao Nay chúng con ở đây Đều không còn đói khát, Thấy Thế Tôn khuyến phát Được nghe pháp chí tôn Chỉ mong được thọ ký Thì mới được đại an. Nguyện Thế Tôn giải nghi Lân mẫn đại Từ bi Thương hạnh tâm kém hèn Pháp cam lộ dạy chúng. Khi ấy Đức Thế Tôn biết tâm niệm của các vị Thanh văn Trưởng lão, liền bảo chúng Tỳ-kheo: –Các Tỳ-kheo nên biết! Vị đại Thanh văn Trưởng lão Tu-bồ-đề này sẽ theo hầu cận, cúng dường tám ngàn ba mươi ức trăm ngàn muôn Đức Phật, ở chỗ chư Phật tu tập phạm hạnh, tích lũy đầy đủ trọn vẹn công đức, sau đó trong tương lai sẽ được thành Phật, được xưng tụng hiệu là Như Lai Chí Chân Đẳng chính Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu. Kiếp ấy tên là Bảo âm. Khắp nơi trong cõi nước của Đức Phật ấy đều có các loại cây báu tự trang nghiêm, không có cát sỏi, gạch đá, núi hầm, hang hố. Các hàng cây đều phát ra âm thanh từ bi, hòa nhã. Nhân dân trong nước ấy giàu có vô lượng, nhà cửa, phòng xá, lầu gác nhiều vô số. Số chúng Thanh văn cũng nhiều vô lượng không thể tính đếm cho hết được và đều là bậc đã chứng được Túc mạng thông. Bồ-tát trong nước ấy cũng đông trăm ngàn muôn ức, vô lượng không thể tính đếm. Đức Phật ấy sẽ trụ đời mười hai trung kiếp. Sau khi Đức Phật diệt độ, chính pháp sẽ trụ đời hai mươi trung kiếp, tượng pháp cũng trụ hai mươi trung kiếp. Đức Phật sẽ an tọa trên hư không vì tất cả chúng sinh giảng nói kinh pháp, khai hóa cho vô số trăm ngàn Bồ-tát. Khi đó Đức Thế Tôn nói kệ: Nay ta nói rõ Các vị Tỳ-kheo Đều nên lắng nghe Lời Phật tuyên dạy. Ông Tu-bồ-đề Là đệ tử ta Ở trong tương lai Sẽ được thành Phật, Gặp chư Thế Tôn Tâm ý chí thành Đầy đủ ba mươi Muôn ngàn Đức Phật, Sẽ ở thế gian Huân tu đạo hạnh Chí luôn mong cầu Tuệ giác Như Lai. Ở thời vị lai Công hạnh viên mãn Nhan sắc diệu kỳ Ba mươi hai tướng Rực rỡ tươi đẹp Sắc thân vàng tía Kiếp ấy trong lành Tâm luôn Từ mẫn, Cõi nước an vui Hiện lên điềm lành Muôn dân trông thấy Khả ý vui mừng Đều cùng nhau đi Đến chỗ Đức Phật Chúng sinh được độ Vô lượng vô số, Các chúng Bồ-tát Không thể tính kể Tâm đều giải thoát Không còn thoái chuyển. Nghe pháp tối diệu Các căn thông lợi Đều sẽ thuận kính. Cõi nước Phật ấy Số chúng Thanh văn Thật đông vô lượng Muốn biết hạn số Tuyệt không thể được Lục thông, tam đạt Có đại thần túc Giải thoát vô ngại Đã được an ổn Sức thần thông đó Không thể nghó bàn Nếu Phật giảng bày Pháp bảo chư Phật Trời, người đông đảo Như cát rạch sông Sẽ luôn chắp tay Tự quy y Phật. Phật ấy trụ đời Mười hai trung kiếp chính pháp sẽ trụ Hai mươi trung kiếp, Tượng pháp trụ thế Số cũng như trên Đấng Đại Hùng Sư Việc đó như vậy. Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn lại bảo các vị Tỳ-kheo: –Các Tỳ-kheo muốn biết chắc thật việc trong tương lai thì cần phải tin tưởng vào trí phân biệt bình đẳng của Như Lai. Đại Ca-chiên-diên, vị đệ tử Thanh văn này của ta, trong tương lai sẽ theo hầu hạ, cúng dường tám ngàn ức Đức Phật. Sau khi mỗi Đức Phật diệt độ sẽ xây dựng tháp cao bốn vạn thước, mỗi tháp dài rộng hai vạn thước, đều dùng các thứ báu vật như vàng bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, mã não, san hô, ngọc bích để tạo nên, dùng các thứ hương hoa, tạp hương, bột hương, gấm lụa, cờ lọng để cúng dường. Sau khi ông đã cúng dường xong lại phải cúng dường hai mươi ức Đức Phật rồi sẽ thành Phật, có hiệu là Tử Ma Kim Sắc, Như Lai Đẳng chính giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật Chúng Hựu. Cõi nước trang nghiêm, thanh tịnh, bằng phẳng, không có các điều xấu ác, danh tiếng đồn khắp, dùng lưu ly làm đất. Vô số các loại cây có các thứ báu vật như dây báu, gấm lụa màu vàng óng giăng mắc để trang hoàng. Hoa của các cây ấy luôn nở sum suê, tươi tốt đầy khắp nơi. Cõi Phật ấy không có địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh mà chỉ có chư Thiên và loài người số đông vô lượng, lại có vô số trăm ngàn muôn ức Thanh văn và Bồ-tát để trang nghiêm cõi Phật. Đức Phật ấy sẽ trụ ở đời mười tiểu kiếp. Sau khi Phật diệt độ, chính pháp sẽ trụ hai mươi trung kiếp, tượng pháp cũng trụ hai mươi trung kiếp. Khi đó Đức Thế Tôn liền nói kệ: Các vị Tỳ-kheo Đều nên lắng nghe Thanh âm Phật ấy Nhu nhuyến tốt lành. Ông Ca-chiên-diên Đệ tử của ta Sẽ cúng dường Phật Vô số Đạo Sư Tôn kính phụng thờ Kính thành vô lượng Trong vô số kiếp Không thể tính đếm. Chư Phật diệt độ Xây dựng tháp thờ Dùng hương và hoa Cúng dường tháp Phật Sau đó tương lai Sẽ được thành Phật Cõi nước trong lành Không có dơ uế Giáo hóa giảng dạy Vô số chúng sinh Mở bày hướng đạo Cho khắp mọi người Cõi ấy trang nghiêm Mười phương tỏa sáng Ông sẽ thành Phật Dùng dụ giảng bày Hiệu Tử Kim Sắc Uy đức sáng ngời Độ thoát chúng sinh Trăm ngàn muôn ức Vô số Bồ-tát Và chúng Thanh văn Đầy khắp cõi Phật Số đông vô kể Thường tu tinh tấn Trong pháp của Phật Đoạn trừ các ác Diệt tận họa tai. Bấy giờ Đức Thế Tôn lại bảo với bốn bộ chúng trong hội: –Nay Thế Tôn tuyên nói ông Đại Mục-kiền-liên, vị đệ tử Thanh văn của ta, sẽ phụng thờ, cúng dường tám ngàn Đức Phật, theo hầu vô số các Đức Thế Tôn. Sau khi chư Phật diệt độ, ông sẽ xây dựng tháp thờ xá-lợi, dùng bảy món báu như vàng bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, mã não, san hô, ngọc quý tạo thành. Các tháp ấy cao bốn vạn thước, dài rộng hai vạn thước. Ông lại dùng vô số các vật báu tốt đẹp, các loại hương hoa, tạp hương, bột hương, gấm lụa, cờ phướng lọng và tấu nhạc để cúng dường tháp Phật. Sau khi cúng dường các tháp ấy xong. Ông lại phải kính thờ, theo hầu cận, cúng dường hai trăm vạn ức Đức Phật. Vào đời sau cùng, ông sẽ được thành Phật, có hiệu là Kim Hoa Chiên-đàn Hương Như Lai Chí Chân Đẳng chính Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật Chúng Hựu. Nước ấy tên là Ý lạc, kiếp ấy tên là Lạc mãn. Thế giới của Đức Phật ấy tươi đẹp, an ổn, thanh tịnh, trong sạch. Mặt đất toàn bằng ngọc lưu ly rực sáng, cây cối hoa quả đều bằng bảy báu hợp thành. Khắp nơi đều có các loại hoa bằng ngọc quý kết thành rất trang nghiêm. Cõi nước ấy bằng phẳng, tốt đẹp, đầy đủ các thứ quý báu. Đức Phật sẽ lặng im an tọa, trú trong định Vô lượng nghĩa và vì tất cả Bồ-tát rộng giảng kinh pháp. Đức Phật ấy sẽ trụ đời hai mươi trung kiếp. Sau khi Phật diệt độ, chính pháp sẽ trụ thế bốn mươi trung kiếp, thời kỳ tượng pháp cũng như vậy. Khi ấy Đức Thế Tôn nói kệ: Đại Mục-kiền-liên Đệ tử của ta Xả bỏ thân người Cũng được tự tại, Hai mươi vạn ức Số kiếp như vậy Đều sẽ cúng dường Chư Phật, giáo pháp Ở chỗ các Phật Tu tập hạnh lành Chí luôn mong cầu Đạo của chư Phật Theo hầu tôn kính Chư Phật Thế Tôn Phụng sự đầy đủ Các Bậc Đạo Sư Và sẽ vâng giữ Truyền bá Thánh giáo Trong bao nhiêu kiếp Số ức trăm ngàn Kính cẩn tuân hành Không hề trái phạm. Chư Phật Thế Tôn Sau khi diệt độ Ông dùng bảy báu Xây tháp thờ Phật Vì chư Như Lai Kiến tạo, tu sửa Dùng gỗ Chiên-đàn Để làm kèo cột Tán hương, tấu nhạc Mà cúng dường tháp. Ở đời cuối cùng Việc làm đã xong Ngôn thuyết an lành Được người kính ngưỡng Thương yêu chúng sinh Việc làm như thế Sẽ được thành Phật Hiệu Kim Chiên-đàn Phật ấy sẽ thọ Hai mươi trung kiếp Số kiếp an trụ Đức hạnh như thế Sẽ giảng pháp kinh Cho chư Bồ-tát Ở số kiếp ấy Phân biệt thật nghĩa Hàng Thanh văn lớn Muôn ức trăm ngàn Số đông vô lượng Như cát rạch sông Tam đạt, lục thông Có đại thần túc An trụ ở đời Mà được sức diệu Vô số Bồ-tát Đều không thoái chuyển Dũng mãnh tin cần Có chí, trí tuệ Tu hành như trên Theo lời Phật dạy Số ấy vô lượng Không thể nghó bàn. Phật diệt độ rồi Đệ tử vô số chính pháp sẽ trụ Truyền khắp mười phương Hai thời chính, tượng Bốn mươi trung kiếp chính pháp chưa hết Tượng pháp đã khai Hàng chúng Thanh văn Có thần thông lớn Phật đều khuyến lập Nương theo Đại thừa Không trái pháp chân Ở trong vị lai Thành Phật tự tại. KINH chính PHÁP HOA <卷 id="83085237">Quyển 4 <詞 id="83085238">Phẩm 7: VÃNG CỔ Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: –Thời quá khứ xa xưa vô lượng vô biên kiếp đã qua, có Đức Phật hiệu là Đại Thông Chúng Tuệ Như Lai Chí Chân Đẳng chính Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Đạo Pháp Ngự. Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu. Thế giới đó tên Đại thực giá, kiếp tên Sở tại hình sắc. Đức Phật ấy thuyết pháp trải qua thời gian nhiều vô lượng. Ví như đất trong cõi tam thiên đại thiên thế giới, giả sử có người đem nghiền nát hết đất nơi cõi Phật ấy thành ra hạt bụi nhỏ, rồi lấy một hạt bụi đi qua một ngàn thế giới Phật ở phương Đông đặt một hạt bụi, lại qua một ngàn cõi nước cũng đặt một hạt bụi. Cứ như thế đặt hết những hạt bụi trong tam thiên đại thiên thế giới khắp cõi phương Đông vô lượng cõi Phật. Ý các ông nghó sao? Có thể nào tính đến hết giới hạn số lượng của các cõi Phật ấy không? Các Tỳ-kheo thưa: –Bạch Thế Tôn, không thể tính hết được! Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: –Này các Tỳ-kheo! Số kiếp của Đức Phật ấy đã trải qua cũng như vậy, giống như có người đem tất cả bụi đặt ở các cõi Phật, không thể tính kể hạn lượng số bụi ở các cõi Phật kia, trăm ngàn muôn ức triệu số kiếp, phải biết từ khi Đức Phật đó diệt độ đến nay số kiếp càng lâu dài hơn, không thể nghó bàn, thật vô lượng, khó thể tính lường. Đức Đại Thông Chúng Tuệ thị hiện đạo lực, sau khi diệt độ số kiếp chính pháp trụ thế cũng lại như vậy. Đức Thế Tôn nói kệ: Ta nhớ quá khứ Vô số ức kiếp Có đấng Như Lai Phước trí tôn quý Tên Đại Thông Tuệ Hết sức nhân từ. Khi ấy Thế Tôn Đấng trên loài người Ví như lấy cõi Thế giới Phật kia Nghiền nát tan tành Tất cả thành bụi Giả sử có người Đem từng hạt bụi Qua ngàn cõi Phật Mới đặt một hạt Lần lượt như thế Khắp cõi nước Phật Người ấy đặt bụi Đầy khắp Phật quốc Bao nhiêu cõi đó Tất cả khắp nơi Thế giới vô hạn Không thể tính đếm Tất cả sở hữu Cõi nước đại Thánh Các bụi đã có Không thể hạn lượng Đều đem nghiền nát Khiến không còn thừa Đại Thánh chí tôn Diệt độ như đây Phật ấy an trụ Diệt độ hoàn toàn Số kiếp như thế Vô lượng ức ngàn Nếu muốn tính đếm Không thể nghó bàn Diệt độ đến nay Bao nhiêu kiếp số. Đấng Đạo Sư ấy Lâu xa đến nay Các chúng đệ tử Và hạnh Bồ-tát Trí tuệ Như Lai Cao xa vời vợi Nay Phật đều biết Phật đó diệt độ. Tỳ-kheo phải biết Trí tuệ của Phật Tỏa sáng vô cùng Như nhau không khác Phật biết rốt ráo Vô lượng kiếp qua Vi diệu vô cùng Pháp nghĩa vô lậu. Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: –Đức Đại Thông Chúng Tuệ Như Lai chính giác thọ bốn mươi bốn ức trăm ngàn kiếp. Đức Như Lai vì đạo Vô thượng chính chân, đầu tiên ngồi dưới cội cây trong đạo tràng, lặng im trong một kiếp, cho đến hai kiếp nhưng chẳng được chính giác. Đức Như Lai ngồi yên đến mười kiếp thân và tâm không dao động, thân thể không mỏi mệt cũng không nhớ nghó, tư tưởng vắng lặng và hướng đến các pháp, nơi đạo tràng hàng phục ma quân và sắp thành chính giác. Các vị Thiên tử ở cung trời Đao-lợi hóa làm tòa Sư tử lớn, cao bốn mươi dặm. Khi Phật ngồi trên tòa này an trụ trong thiền định, các vị Thiên tử ở cõi Phạm thiên tuôn hoa trời xuống như mưa trong vòng bốn ngàn dặm, gió tự nhiên thổi lên đem các hoa thơm rải trên chỗ Phật. Đức Phật ngồi dưới gốc cây mãn mười trung kiếp, hoa trời rơi mãi khắp nơi mãn kiếp không dứt. Tứ Thiên vương và các vị Thiên tử trổi các kỹ nhạc âm thanh như sấm vang rền, thường đem hoa hương, kỹ nhạc cúng dường Đấng Đại Thánh chưa từng ngưng trễ. Này các Tỳ-kheo! Đức Thế Tôn Đại Thông Chúng Tuệ cho đến mười kiếp thành tựu đạo Vô thượng chính chân, thành Bậc Tối chính Giác cho đến lúc diệt độ, chư Thiên cúng dường không ngớt. Lúc Phật còn là Thái tử chưa xuất gia, Ngài có mười sáu người con, tướng tốt đoan chính, trí tuệ không ai sánh kịp, tướng mạo nhân hòa, nho nhã tuyệt đỉnh. Khi ấy mười sáu vị vương tử, mỗi vị đều có các đồ chơi tốt đẹp và ở nơi đó thưởng ngoạn vui vẻ không thể nói hết. Các loại vật dụng đều đầy đủ đàn cầm, kỹ nhạc cũng nhiều vô lượng. Các vị vương tử nghe vua cha thành Phật Thế Tôn Vô Thượng chính Giác, lúc ấy tự nhiên có tiếng Pháp âm lớn, liền bỏ nước, bỏ ngôi Chuyển luân vương và muôn ức nhân dân, các trò vui chơi ca nhạc, có quyến thuộc vây quanh cùng vô số các bậc Thánh hiền, vua chúa đông trăm ngàn muôn ức không thể tính hết; tất cả các loài chúng sinh tụ hội rất đông đều đi theo và đến đạo tràng của Đức Phật để đầu, mong được đảnh lễ, vâng thọ lời Phật dạy. Đến nơi, mọi người đều nghiêm trang cung kính, cúi đầu đảnh lễ dưới chân Phật, đi quanh Đức Phật ba vòng rồi đứng qua một bên, dùng kệ tụng: Đại Thông Chúng Tuệ Bậc Tối tôn quý Tích lũy bình đẳng Vô lượng số ức, Dùng nghĩa thượng diệu Thương xót chúng sinh Hạnh nguyện đầy đủ Ở nơi Hiền thánh Chuyên tu khổ hạnh Trọn mười trung kiếp Nhất tâm chuyên tinh Ở nơi thiền tọa Thân tâm thanh tịnh Mà không dao động Thiêu hủy khổ hoạn Như chặt rễ cây Nơi tâm phân biệt Và chí sâu cạn Chưa từng tiến thoái Cũng không tán loạn Không có tăng giảm Lặng lẽ ứng hợp Tịch định cứu cánh Không có các lậu Hiện tại cát tường Luôn được an ổn Do không chấp tưởng Nên thành Phật đạo Các con thấy vậy Thêm trí vô úy Các việc như thế Tăng lớn đức nghĩa Không kể thân mạng Đều đoạn họa khổ Tích lũy nhẫn nhục Không tham an lạc Đạo tuệ sáng suốt Không còn khổ đau Ở nơi vắng lặng Phát khởi tinh tấn Kẻ không kính tin Pháp âm chư Phật Đêm dài tối tăm Tội đọa đường ác Khi mất thân người Rơi vào nẻo xấu Bị tất cả đời Thấy đều hủy báng. Hôm nay được gặp Thánh phụ thế gian Đạo ấy tối thượng Không có các lậu, Ở thế gian này Mà được cứu độ Và các quá khứ Đại Thánh Đạo Sư. Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: –Này các Tỳ-kheo! Các vị đế vương và các vị thái tử ấy, các anh em thái tử đều là đồng tử, đã ca ngợi, tán thán Đức Đại Thông Chúng Tuệ Như Lai Chí Tôn Đẳng chính Giác. Sau khi dùng những lời êm dịu tuyên dương, ca tụng xong, các vị vương tử liền thỉnh cầu Đức Thế Tôn, xin Ngài thuyết kinh pháp, phân biệt làm cho an trụ, vì sự an ổn và thương xót lớn làm lợi ích cho các chúng sinh, chư Thiên và nhân loại. Lại nói kệ ca ngợi: Cúi xin Thế Tôn Thuyết giảng kinh điển Khai hóa chúng sinh Phát khởi mọi người, Chúng sinh ba cõi Đều đang khát ngưỡng Ngộ được ý đạo Nhờ ân hóa độ. Chư Phật đại Thánh Tôn Trăm phước pháp trang nghiêm Đấng thành tựu cao tột Trí tuệ thật tối thắng, Vì chư Thiên giảng pháp Và nhân loại thế gian Độ thoát cho chúng con Và các loài chúng sinh Đúng thời hiện pháp sáng Tuệ nghĩa của Đức Phật Cũng vậy nay ở đây Hiển bày đạo tối thượng Khiến các loài quần sinh Đều được hưởng pháp ấy Thế Tôn biết tất cả Các hạnh tuệ hoàn toàn Nên vì phân biệt nói Đức hạnh đời trước làm Ngài đều biết chúng sinh Tâm chúng ưa thích gì Nên vì chuyển pháp luân Tối thắng không ai sánh Thoát khỏi ách chúng sinh Đều đến nơi đại đạo. Phật bảo các vị Tỳ-kheo: –Lúc ấy Đức Thế Tôn Đại Thông Chúng Tuệ Như Lai biến hóa trong thế giới mười phương năm trăm muôn ức các cõi Phật ở mỗi phương đều chấn động sáu cách, ánh sáng chiếu khắp tận cùng thế giới, soi chiếu tất cả cảnh giới của chư Phật, bao nhiêu thứ ánh sáng của trời, thần trong hư không, ánh sáng rực rỡ của mặt trời, mặt trăng cũng không sánh kịp, ánh sáng ấy vượt xa hơn ánh sáng cung điện, đền đài của chư Thiên, ánh sáng ấy chiếu ngược rực rỡ lên cõi Phạm thiên. Đức Phật biến hiện ánh sáng điềm lành bao phủ tất cả khiến cho các ánh sáng khác không trông thấy được. Ánh sáng ấy chiếu soi rực rỡ khắp chốn thiên thượng, nhân gian. Các loại chúng sinh hoặc sống ở các cõi khác đều trông thấy nhau, mỗi người đều nói: –Hôm nay trong đây tại sao bỗng sinh ra chúng sinh khác? Khi ấy các cõi trời khắp nơi đều chấn động. Lúc bấy giờ phương Đông vô lượng vô biên cõi Phật, trăm ngàn muôn ức cung điện Phạm thiên, tự nhiên ánh sáng chiếu rực rỡ. Các Phạm thiên vương tự nghó: “Vô số cung điện, đền đài cõi trời đều sáng sủa, ánh sáng xuyên suốt nhau, vì nhân duyên gì mà hiện điềm tốt này?” Muôn ức trăm ngàn chúng Đại Phạm thiên trong năm trăm thế giới mỗi vị từ nơi cung điện của mình cùng đến hội họp với nhau để suy luận về sự thể đó. Trong chúng đó có vị Đại Phạm thiên tên Hộ Quần Sinh, vì các Phạm thiên mà nói kệ ca ngợi: Cung điện phòng xá Chúng ta hôm nay Chư hiền nên biết Ánh sáng lớn này Vượt thắng chư Thiên Ai cũng ưa thích Do nhân duyên gì Hiện điềm lành này? Hay thay đến đây Tìm ý nghĩa ấy Khi các Thiên tử Hôm nay tự đến Theo Thánh ý nào Hiện thần như thế Những điều thấy được Vốn chưa từng có. Thân cận chư Thiên Là vua cõi người Tướng các bậc Thánh Xuất hiện ở đời, Ánh sáng tối diệu Chiếu cả mười phương Rung động tất cả Mới như thế này. Này các Tỳ-kheo! Khi ấy vô số ức Phạm thiên ở năm trăm thế giới từ phương Đông đều cùng nhau đến xa, thấy ở phương Tây Đức Đại Thông Chúng Tuệ Như Lai chính Giác ngồi trên tòa Sư tử dưới cội Bồ-đề nơi đạo tràng, có hàng chư Thiên, Long, Thần, A-tu-luân, Ca-lưu-la, Chân-đà-la, Ma-hưu-lặc, Nhân phi nhân và mười sáu vị vương tử cùng quyến thuộc vây quanh. Khi thấy như vậy, tất cả cùng khuyến thỉnh mong Đức Thế Tôn thuyết kinh. Các vị Phạm thiên đến chỗ Đức Như Lai cúi đầu đảnh lễ sát đất, đi quanh Đức Phật vô số vòng. Họ cầm hoa sen lớn như núi Đại Tu-di rải lên cây Đức Phật ngồi, cây đó cao bốn mươi dặm. Cúng dường hoa xong, mỗi vị Phạm thiên đem cung điện dâng lên Đức Thế Tôn và thưa: –Cúi xin Đức Phật xót thương nạp thọ hoa và cung điện chúng con cúng dường. Các vị Phạm thiên dùng kệ ngợi khen: Đức Phật vô lượng Chưa từng được gặp Vì lòng thương tưởng Hiện ra nơi đời, Thế Tôn diễn pháp Như Sư tử rống Thường hay cứu hộ Mười phương chúng sinh. Chúng con trải qua Theo đến chỗ này Đã đi năm trăm Ngàn muôn ức cõi, Tính các cõi nước Bao nhiêu chủng loại Đều rời cung điện Đi đến Thánh Tôn. Tất cả chúng con Nhờ đức đời trước Bao nhiêu tốt đẹp Các cung điện báu, Đều đem đến đây Tôn kính dâng lên Xin Đức Thế Tôn Xót thương nạp thọ. Khi ấy các vị Đại Phạm thiên ca ngợi Đức Thế Tôn rồi, cả năm trăm vị đều bạch Đức Phật: –Cúi xin Thế Tôn chuyển pháp luân diễn nói pháp Đại thánh, độ thoát chúng sinh, khiến cho họ được Niết-bàn. Năm trăm vị Phạm thiên và trăm ngàn muôn ức hội chúng hợp lại cùng cất tiếng ca ngợi: Xin Thế Tôn thuyết kinh Đấng phước trí phân biệt Nên hiện sức Từ tâm Độ chúng sinh khổ não. Lúc ấy thấy các vị Phạm thiên dâng lên cung điện Đức Phật lặng yên nhận lời. Bấy giờ các vị Phạm thiên ở năm trăm ngàn muôn ức cõi nước phương Đông nam mỗi vị đều tự thấy cung điện mình ánh sáng chói lòa, rực rỡ từ xưa chưa từng có, nên tất cả đều cùng nhau hội họp lại. Trong chúng có một vị Đại Phạm thiên tên là Tối Từ Ai, vì các Phạm thiên mà nói kệ khen ngợi: Các Đại thiên nên biết Đây là điềm lành xưa Cung điện đều biến động Có rất nhiều tướng tốt, Nên có các Thiên tử Người người họp tại đây Là oai thần vị nào Khiến cung điện chói sáng Nay Phật hiện ra đời Đấng Trung Tôn phước trí Cho nên các cung điện Hiện ánh sáng như thế Chúng ta nên đến hỏi Việc này đúng vậy chăng? Từ xưa cho đến nay Chưa từng thấy như vậy Bốn phương có ánh sáng Chiếu soi muôn ức cõi Nay chắc là như vậy Phật sẽ hiện đời này. Này các Tỳ-kheo! Khi ấy năm trăm ngàn muôn ức Phạm thiên, mỗi vị cùng nhau rời khỏi cung điện của mình, đem các loại hoa trời to như núi Tu-di đi đến hướng Tây bắc. Từ xa họ trông thấy Đức Như Lai Đại Thông Thánh Tuệ ngồi trên tòa Sư tử, dưới cội Bồ-đề nơi đạo tràng, đang thuyết pháp cho chư Thiên, Long, Thần, A-tu-luân, Ca-lưu-la, Chân-đà-la, Ma-hưu-lặc và các quyến thuộc vây quanh. Khi trông thấy như vậy, các vị Phạm thiên liền đến đảnh lễ sát đất, đi quanh Đức Thế Tôn vô số vòng, tay cầm hoa lớn tung rải lên Đức Phật. Các vị Đại Phạm thiên và hàng quyến thuộc dùng kệ ngợi khen: Lạy Đấng cao tột Ngài là Đại Thánh Bậc Thầy chư Thiên Tiếng như chim loan, Xướng đạo độ khắp Chư Thiên, loài người Xin cúi đầu lễ Vì thương thế gian Được chưa từng có Ở đời khó gặp Dung nghi chói sáng Nay mới được gặp, Vốn trong trăm đời Tích đức giải không Tám mươi ức Phật Thọ kiếp như bụi. Đấng Nhân trung tôn Phân biệt không tuệ Và thường giảng thuyết Khéo dùng phương tiện Chư Thiên quần thần Chúng sinh thấy được Đầy đủ ức ngàn Số đến tám mươi Mắt tuệ thấy suốt Đến nơi cứu độ Che chở tất cả Trong pháp của Phật Nên hiện ở đời Thương xót chúng sinh Chúng con nhờ phước Rất khó được gặp. Muôn ngàn vô số các vị Phạm thiên khuyến thỉnh Đức Thế Tôn xin Ngài chuyển Pháp luân diễn nói kinh nghĩa để hóa độ khắp quần sinh, cứu thoát ba cõi, khiến cho họ được an ổn. Các vị Phạm thiên một lòng đồng tiếng ca ngợi: Đại nhân tối thượng Xin chuyển pháp luân Mong giảng kinh pháp Vì khắp mọi loài Độ thoát quần sinh Tai họa khổ não Khiến cho tất cả Giải thoát vui mừng, Ai mà nghe được Đều thành Phật đạo Chư Thiên, nhân dân Nhờ ân an ổn, Chúng A-tu-luân Sẽ được giảm bớt Ban cho nhẫn nhục An lạc thêm nhiều Khi ấy Đức Đại Thông Chúng Tuệ Như Lai lặng yên nhận lời. Này các Tỳ-kheo! Lúc bấy giờ ở trăm ngàn muôn ức cõi nước Phật ở phương Nam, phương Tây, cung điện, cung điện của các vị Đại Phạm thiên đều có ánh sáng rực rỡ huy hoàng xuyên suốt khắp nơi. Khi ấy các vị Phạm thiên tự thấy cung điện mình uy nghiêm chói sáng, lấy làm lạ trước việc chưa từng có, liền cùng nhau tụ hội. Mỗi vị đều suy nghó: “Vì sao cung điện của chúng ta chói sáng như thế này?” Trong chúng đó có vị Đại Phạm thiên tên là Thiện Pháp nói kệ ca ngợi: Đại Thánh ra đời Chân thật không dối Tất cả cung điện Rực rỡ chói lòa, Có điềm lành này Hiện nơi thế gian Lành thay mong được Áo nghĩa như đây. Quá khứ vô số Ngàn muôn ức kiếp Chưa từng thấy được Hiện tượng thế này, Sẽ có Như Lai Xuất hiện ở đời Khiến các Thiên tử Tự nhiên cùng đến. Này các Tỳ-kheo! Khi ấy năm trăm ngàn muôn ức các vị Phạm thiên từ cung điện của mình trông thấy các đóa hoa lớn như núi Tu-di, mỗi vị đều cầm theo hoa ấy để cúng dường, cùng đi đến phương Bắc. Họ thấy Đức Như Lai Đại Thông Chúng Tuệ ngồi trên tòa Sư tử dưới cội Bồ-đề, ở nơi đạo tràng giảng thuyết kinh pháp cho vô số chư Thiên, Long, Thần, A-tu-luân, Ca-lưu-la, Chân-đà-la, Ma-hưu-lặc và quyến thuộc vây quanh. Tất cả cùng đến chỗ Phật cúi đầu đảnh lễ sát đất và nhiễu quanh vô số vòng, rồi đem hoa lớn như núi Tu-di tung lên cúng dường và đem cung điện dâng lên Đức Thế Tôn, cúi xin Ngài thương xót nhận sự hiến cúng mà ở đó. Các vị Phạm thiên một lòng đồng thanh nói kệ ngợi khen: Chư Phật ra đời Rất khó được gặp Số kiếp lâu xa Nay mới được gặp May mắn đến đây Đoạn trừ ái dục Sung mãn tròn đầy Cho cõi Tam thiên Chư Đại Đạo Sư No đủ kẻ đói Từ xưa đến nay Chưa từng thấy nghe Như hoa Linh thụy Khó được trông thấy Đạo tuệ khó gặp Lâu lâu mới có. Cung điện chúng con Vô lượng tốt đẹp Nhờ oai thần Phật Mà được thế này Cúi xin thương xót Kính dâng nạp thọ Nguyện ở trong đây Hiển bày Đạo nhãn. Các vị Phạm thiên khuyến thỉnh Đức Thế Tôn: –Cúi mong Đức Thế Tôn thương tưởng chuyển pháp luân, giảng nói kinh điển làm cho tất cả chư Thiên, Thần, Sa-môn, Phạm chí được nhiều an lạc, lợi ích. Thiên thượng, thế gian đều được nhờ ân. Lúc ấy các vị Phạm thiên cùng đồng thanh nói kệ ngợi khen: Cúi mong Thế Tôn Diễn rộng kinh điển Xót thương nên chuyển Đại Thánh pháp luân, Giảng pháp vô lượng Như sấm vang rền Cúi xin thương tưởng Thổi loa pháp lớn; Đem đại kinh điển Mưa pháp thế gian Khéo dùng phân biệt Dạy pháp diệu kỳ, Chúng con khuyến thỉnh Nguyện giảng đạo tuệ Khai hóa chúng sinh Trăm ngàn muôn ức. Phương Tây nam, phương Tây bắc và phương Đông bắc mỗi phương cũng đều như vậy. Vô số Phạm thiên không thể tính hết. Phương trên, phương dưới, mỗi phương cũng thấy các vị Phạm thiên đều tự thấy cung điện ánh sáng chói rực khắp nơi, lấy làm lạ trước việc chưa từng có. Ở mỗi phương năm trăm ngàn muôn ức các chúng Phạm thiên mỗi vị đều rời cung điện đi đến chỗ Phật, có vị Đại Phạm thiên tên Diệu Thức liền nói kệ ca ngợi: Lành thay, xin chư Phật Đấng Thánh Minh cứu thế Vì chúng sinh ba cõi Khai thị chính giác thừa! Làm mắt khắp thế gian Thấy suốt mười phương cõi Khai thông môn cam lộ Độ thoát cho tất cả. Thuở xưa vô lượng kiếp Nhân Trung Tôn chưa hiện Chúng sinh sống mờ tối Khiến hiện ở mười phương Thích địa ngục thêm nhiều Ưa vui chốn súc sinh Đời sau đọa ngạ quỷ Ức số khó nghó bàn Được thân trời mãi vui Thọ chung đọa nẻo ác Nếu được nghe Phật pháp Đạt đến đạo bình đẳng Chí hạnh theo Phật tuệ Sẽ giúp khắp quần sinh Đều về nơi an ổn, Không mất tưởng thú vui Thường không hành Phật đạo Không ở trong chính pháp Trái thánh giáo vô lượng Liền đọa nơi ác thú. Nay gặp ánh sáng thế Vì thiện nên vâng hội Vượt tất cả chúng sinh Mà thực hành từ ái Liền thấy Đức Thế Tôn Rõ không, tuệ vô lậu Chư Thiên và thế gian Ở đây đều khuyến thỉnh Cung điện đẹp vô lượng Giống như đức oai thần Ban khắp ngọc minh nguyệt Mong Đấng Đại Đạo Sư Nạp thọ con cúng dường Xót thương nhận cung điện Khiến con cùng chúng sinh Đạt thành Vô thượng đạo. Này các Tỳ-kheo! Lúc đó năm trăm ngàn muôn ức chúng Đại Phạm thiên tán thán, ca ngợi Đức Phật xong liền thỉnh cầu Đức Phật chuyển đại pháp luân, khai hóa làm an ổn cho chúng sinh khắp mười phương, lại ca ngợi rằng: Cúi mong giảng nói Vô thượng pháp luân Xin đánh trống pháp Dùng tiếng vi diệu Độ thoát chúng sinh Bao tai nạn khổ Xót thương thị hiện Đạo lớn Niết-bàn. Chúng con khuyến thỉnh Cúi xin thuyết pháp Cứu giúp muôn loài Và khắp thế gian, Âm thanh êm dịu Phát ra tiếng mầu Trăm ngàn ức kiếp Tích lũy đức hạnh. Lúc bấy giờ Đức Đại Thông Chúng Tuệ Như Lai thấy vô lượng, vô số trăm ngàn muôn ức chúng sinh ở mười phương và mười sáu vị vương tử khuyến thỉnh thuyết pháp, tức thời ba lần chuyển đại pháp luân mười hai hành, khai hóa chỉ dạy Sa-môn, Phạm chí, chư Thiên, Long, Thần, các ma, Phạm thiên và tất cả nhân dân, vì họ mà nói về sự thật của khổ: Đây là Khổ đế, cho đến Tập đế và Đạo đế, do theo Đạo đế ấy mà chấm dứt khổ đau. Sau đó Đức Phật giảng rõ, phân biệt đầy đủ pháp mười hai nhân duyên, từ si dẫn đến hành, từ hành dẫn đến thức, từ thức dẫn đến danh sắc, từ danh sắc dẫn đến lục nhập, từ lục nhập dẫn đến tập, từ tập dẫn đến thống, từ thống dẫn đến ái, từ ái dẫn đến thọ, từ thọ dẫn đến hữu, từ hữu dẫn đến sinh, từ sinh dẫn đến họa lớn già, bệnh, chết, ưu khổ… Này các Tỳ-kheo! Đức Đại Thông Chúng Tuệ Như Lai nói kinh pháp đến lần thứ ba, trong khoảnh khắc phân biệt nghĩa ấy, khiến cho mười sáu ức trăm ngàn vị trong chúng được lậu tận, tâm ý giải thoát, đạt được trí Tam minh và Lục thông, vô số người đều được độ thoát. Phật thuyết pháp như vậy cho đến lần thứ ba, lần thứ tư, hằng hà sa chúng sinh nghe kinh, tất cả đều được lậu tận, tâm ý giải thoát. Từ đó các chúng Thanh văn nhiều không tính kể được. Bấy giờ mười sáu vị Vương tử vì lòng tin nên đều xuất gia học đạo và làm Sa-di, thông minh trí tuệ, có nhiều phương tiện vì đã từng cúng dường trăm ngàn muôn ức Đức Phật, tạo lập các hạnh mong cầu Tuệ giác vô thượng, đều cùng nhau bạch Phật: –Nay chúng Thanh văn trong đại hội, có vô số trăm ngàn muôn ức người đã thành tựu viên mãn và có đại thần túc. Cúi xin Thế Tôn vì chúng con diễn giảng đạo nghĩa Vô thượng chính chân. Mong Thế Tôn dùng đại trí tuệ quán kiến chỉ bày cho chúng con việc ấy. Chúng con sẽ theo học đại Thánh giáo của Như Lai và cùng nhau khuyến tấn, quán sát cội nguồn của nó. Đức Thế Tôn rõ biết tâm niệm của các vương tử, liền giảng thuyết kinh pháp cho quốc vương và hàng quyến thuộc, có tám mươi ức trăm ngàn người đều làm Sa-môn. Lúc ấy Đức Phật quán thấy nguồn tâm của các Sa-môn đó, trong hai vạn kiếp thuyết kinh Phương Đẳng chính Pháp Hoa Bồ-tát Sở Hạnh Nhất Thiết Phật Hộ. Đức Phật giảng kinh đó xong, bốn bộ chúng đều tin nhận như nhau, mười sáu anh em vương tử là Sa-di nghe lời Phật dạy cùng nhau thọ trì, đọc tụng, giảng giải, được Phật thọ ký sẽ đạt đạo quả Vô thượng chính giác. Phật thuyết kinh ấy xong, các bậc Thanh văn hoan hỷ, mười sáu vị Sa-di và trăm ngàn vô số các chúng Bồ-tát đều đạt được chí nguyện của mình. Đức Phật thuyết pháp như vậy trong tám vạn kiếp chưa từng ngừng nghỉ. Đức Phật thuyết kinh ấy xong, liền vào tịnh thất nơi thanh vắng chuyên tinh thiền định bốn mươi vạn kiếp. Bấy giờ mười sáu vương tử làm Sa-di hành đạo Bồ-tát vốn là con Phật, thấy Đức Thế Tôn độc cư nơi thanh vắng, mỗi vị đều lên pháp tòa giảng rộng pháp nghĩa kia, ở trong tám vạn bốn ngàn kiếp phân biệt thuyết kinh. Mỗi vị Bồ-tát hóa độ sáu mươi vạn hằng hà sa trăm ngàn muôn ức chúng sinh an trú trong đạo Vô thượng chính chân, đều lập hạnh Đại thừa. Đức Đại Thông Chúng Tuệ Như Lai qua tám mươi bốn vạn kiếp mới xuất thiền, đến pháp tòa, bảo tất cả chúng Tỳ-kheo: –Mười sáu vương tử này đã thành tựu công đức vô lượng, rất là ít có, trí tuệ siêu việt hy hữu, đã từng cúng dường muôn ức chư Phật, các hạnh đầy đủ, thừa hưởng trí tuệ của Phật, vào đạo giác ngộ để chỉ dạy chúng sinh cũng thâm nhập Phật trí. Các chúng Tỳ-kheo đều phải cung kính cúi đầu, luôn luôn thân cận mười sáu vị Hiền nhân ấy mà không nên giải đãi. Vì chí nguyện mong cầu Thanh văn, Duyên giác thừa, họ đã được con đường Thanh văn, Duyên giác. Nếu ai tu tập hạnh Bồ-tát đã được thành tựu như vậy. Những ai mới phát tâm sẽ được thọ ký cho. Này các Tỳ-kheo! Những ai nghe kinh pháp này có thể kính tin đều sẽ đạt được đạo Vô thượng chính chân, thành tựu tuệ giác của Phật. Này các Tỳ-kheo! Những ai vâng theo lời giáo huấn của Thế Tôn, luôn luôn tin hiểu chính pháp mà thuyết giáo cho tất cả chúng sinh. Mười sáu vương tử kia đầy đủ Bồ-tát thừa, mỗi một vị khai hóa sáu mươi hằng hà sa người. Họ sống nơi nào cũng thường được những người kia thân cận, cũng lại theo nghe giáo nghĩa chính pháp. Nhờ vậy mà mỗi mỗi chúng sinh ấy được gặp bốn mươi ức trăm ngàn chư Phật như ta nay đang tuyên thuyết cho bốn chúng. Các Tỳ-kheo có biết mười sáu vương tử khi ấy là ai chăng? Các Tỳ-kheo thưa: –Thưa không, bạch Thế Tôn! Đức Phật dạy: –Mười sáu vương tử đó nay đều đã thành đạo Vô thượng chính chân, hiện đang nói pháp trong cõi nước mười phương, cứu giúp vô số trăm ngàn muôn ức triệu chúng Thanh văn, các vị Bồ-tát không thể kể hết. Hiện tại ở phương Đông, thế giới Thậm lạc có hai vị Phật hiệu Vô Nộ Sơn Cương Như Lai Chí Chân Đẳng chính Giác. Hai vị Phật hiện ở phương Đông nam hiệu Sư Tử Hưởng và Sư Tử Tràng Như Lai. Hai vị Phật hiện ở phương Nam hiệu Nhất Trụ và Thường Diệt Độ Như Lai. Hai vị Phật hiện ở phương Tây nam hiệu Đế Tràng và Phạm Tràng Như Lai. Hai vị Phật hiện ở phương Tây hiệu Vô Lượng Thọ và Siêu Độ Nhân Duyên Như Lai. Hai vị Phật hiện ở phương Tây bắc hiệu Chiên-đàn Thần Thông và Sơn Tàng Niệm Như Lai. Hai vị Phật hiện ở phương Bắc hiệu Nhạo Vũ và Vũ Âm Vương Như Lai. Một vị Phật hiện ở phương Đông bắc hiệu Trừ Thế Cụ. Ta nay hiệu là Năng Nhân ở thế giới Kham nhẫn này thành Như Lai Chí Chân Đẳng chính Giác, hợp lại là mười sáu Đức Thế Tôn. Này các Tỳ-kheo! Lúc chúng ta còn làm mười sáu vị Sa-di ở trong đời Đức Phật kia, đã giảng thuyết kinh pháp cho chúng sinh nghe nhận. Mỗi Bồ-tát khai hóa cho vô lượng hằng hà sa trăm ngàn muôn ức chúng sinh phát tâm hướng về đạo Vô thượng chính chân. Những chúng sinh đó nay được thành tựu đạo Bồ-tát hoặc có người trụ bậc Thanh văn, dần dần được khuyên dạy sẽ tiến đến đạo lớn Vô thượng và dần dần sẽ thành tối chính giác. Vì sao? Trí tuệ của Như Lai không thể tính đếm và không có hạn lượng, chúng sinh không thể tin hiểu như thế này được. Này các Tỳ-kheo! Vì sao như thế? Lúc còn làm Bồ-tát, ta đã khai hóa cho vô lượng trăm ngàn muôn ức hằng hà sa số chúng sinh, những người có trí nghe hiểu, tin nhận. Trong đời vị lai hoặc có người phát tâm làm đệ tử, theo học thành tựu quả Thanh văn, về sau lại không chịu nghe hiểu giáo nghĩa Bồ-tát, không biết trí tuệ Phật, không hành hạnh Bồ-tát. Tất cả đều tưởng rằng tâm chí đã an trụ trong giải thoát, cho là đã được diệt độ. Họ cần phải đến nơi thế giới Phật khác, sinh vào cõi nước Phật khác, tu tập thuận theo các hạnh đặc thù, phải cầu đạo tuệ, nghe nhận tin hiểu, khi ấy mới hiểu rõ được pháp của Như Lai chỉ có một Phật thừa mà không có Nhị thừa. Tất cả đếu là Như Lai khéo dùng phương tiện thuyết Tam thừa mà thôi. Khi Đức Như Lai chính giác diệt độ, nếu có người cúng dường dùng hạnh thanh tịnh, ưa thích, kính tin pháp vi diệu, đến với kinh điển này, nhất tâm thanh tịnh nơi đại thiền định. Nên biết rằng lúc bấy giờ người đó ở nơi Đức Như Lai nhóm họp tất cả chúng Bồ-tát và tất cả chúng Thanh văn tín thọ pháp này, khi ấy mới biết Phật đạo ở thế gian không có Nhị thừa đưa đến giải thoát hoàn toàn. Đó chỉ là do Đức Như Lai chính Giác khéo léo dùng phương tiện để nói mà thôi. Những chúng sinh ưa hạnh Tiểu thừa hạ liệt thì đã tự đánh mất hạt giống Phật từ lâu, không hiểu rõ con người vốn bị dục vọng trói buộc. Khi Đức Như Lai diệt độ, nếu có chúng sinh nghe nói kinh, hoan hỷ kính tin, chúng sinh đó đã được ân đức chư Phật hộ niệm. Ví như con đường vắng vẻ dài năm trăm dặm, xa thăm thẳm tuyệt nhiên không một bóng người, cũng không có làng xóm. Có một vị thầy dẫn đường thông minh sáng suốt liền tìm ngõ ngách và sự gần xa của con đường để chỉ cho đoàn người muốn vượt qua con đường xa xăm ấy, nhưng tất cả đều mỏi mệt không thể tiến bước nữa. Họ luyến tiếc nghó rằng: “Chúng ta ở yên nơi đất thánh, đất nước thanh bình, có vua quan, thầy bạn, mẹ cha, nay phải lặn lội đến con đường xa xôi chẳng thể đi được nữa, thà rằng cùng nhau trở về để thoát khỏi nạn khổ này.” Vị thầy dẫn đường thương xót họ đã quyết tâm đi tìm châu báu, giữa đường lại hối tiếc muốn lui về nên phương tiện quyền biến ở nơi khoảng đất trống rộng lớn độ bốn ngàn hay tám ngàn dặm, dùng sức thần túc hóa làm một cái thành lớn mà bảo những người khách buôn: –Các ngươi chớ ôm lòng lo sợ muốn lui về, đã đến đại quốc rồi, chúng ta có thể nghỉ ngơi ở đây, tùy ý các ngươi muốn tha hồ ăn uống, hoặc muốn tìm nhiều châu báu ở đây cũng được. Này các Tỳ-kheo! Lúc đó những người khách buôn thấy trong thành nhân dân đông đúc, vô cùng vui vẻ, lấy làm lạ việc chưa từng có. Họ hết đau khổ, được vui vẻ, an ổn, không còn lo sợ họa thiếu thốn, đói khát, tự cho rằng đã được tột đỉnh an lạc. Lúc ấy vị hướng dẫn biết mọi người được nghỉ ngơi một ngày không còn mỏi mệt, liền diệt hóa thành không còn dấu vết và bảo với mọi người: –Các ngươi nên mau tiến bước đến vùng đất có nhiều châu báu. Vì thấy các ngươi đi đường mỏi mệt, tâm sợ sệt cho nên ta mới hóa ra thành ấy. Này các Tỳ-kheo! Như Lai cũng như thế, vì các ông mà làm đạo sư nói kinh pháp. Vì thấy chúng sinh trôi lăn triền miên trong con đường sinh tử, tai họa gian nan, thiếu thốn nên hiện ba thừa, thiền định nhất tâm khiến được Niết-bàn. Như Lai vốn chỉ dạy có một thừa, chúng sinh nghe Như Lai giảng pháp không nhận đạo tuệ, hoặc họ nhàm chán cho rằng phải lâu ngày chịu gian lao khổ nhọc mới được thành tựu. Như Lai biết tâm niệm của họ mỏi mệt, giải đãi nên vì họ mà hiện quả Thanh văn, Duyên giác đễ đạt đến, giống như một vị thầy hướng đạo kia hóa thành lớn, nhân dân đông đảo. Khi đoàn người được nghỉ ngơi an ổn rồi thì thành lớn ấy tự biến mất. Vị thầy hướng đạo ấy vì các thương nhân mà nói thành huyễn hóa, vị Đạo sư đó chính là Đức Như Lai. Đồng trống mênh mông ví cho năm đường sinh tử. Những người khách buôn đó là chỉ cho các ông. Đi tìm châu báu là ý nói pháp hạnh, đạo tuệ của Bồ-tát. Giữa đường mỏi mệt muốn lui về nghĩa là Phật đạo khó được, phải trải qua nhiều kiếp tích lũy công Đức còn chưa có thể thành tựu được. Đức Như Lai dụ dẫn để chúng Thanh văn, Duyên giác dễ tu tập nên hóa làm thành lớn gọi là Niết-bàn của bậc La-hán. Thành lớn biến mất, đó là dụ cho lúc sắp diệt độ. Đức Phật ngay lúc đó khuyến khích cho họ phát tâm hướng về đạo Vô thượng chính chân, quả vị A-la-hán đó vẫn còn bị ngăn ngại, chẳng phải đã thật đạt đến đạo lớn. Nếu đến phương khác được thấy chư Phật, được quả vị không thoái chuyển, hoàn toàn giải thoát, đó mới gọi là chỗ cứu cánh nơi kho tàng châu báu lớn. Này các Tỳ-kheo! Như Lai thuyết pháp cho các ông nghe vậy, cho đó là hoàn toàn đầy đủ, các ông không biết rằng chỗ tu tập của các ông vẫn chưa xong. Lại nữa, trí tuệ Như Lai thấy khắp tất cả tâm của người trong thế gian mà thị hiện Niết-bàn. Như Lai Chí Chân Đẳng chính Giác đã khéo dùng phương tiện mà nói có ba thừa. Khi ấy Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên nên nói kệ: Xưa có Đạo Sư Đại Thông Chúng Tuệ Ngồi nơi đạo tràng Dưới cội cây Phật, Thiền định nhất tâm Đến mười trung kiếp Vốn chưa thành tựu Đạo nghĩa cứu cánh. Chư Thiên, Long thần Chúng A-tu-luân Phát lòng tinh tấn Cúng Bậc Tối Thắng, Hoa trời lớp lớp Tuôn xuống như mưa Rải trên Đức Phật Bậc Thầy cõi người, Ở trong hư không Trống trời vang dội Để dâng hiến cúng Đại Thánh thượng tôn. Tối thắng nơi ấy Tinh cần khổ hạnh Công hạnh dài lâu Thành đạo Vô thượng Thiền định tư duy Trong suốt mười kiếp Mới thành Phật quả Đại Thông Chúng Tuệ Chư Thiên, nhân dân Trăm ngàn muôn ức Tất cả chúng sinh Hoan hỷ phấn chấn. Đức Phật vốn có Mười sáu người con Đều theo vâng thọ Như Lai khai hóa, Các loại chúng sinh Trăm ngàn muôn ức Quyến thuộc vây quanh Đi đến chỗ Phật. Cúi đầu đảnh lễ Sư trưởng thánh tôn Ân cần khải thỉnh Xin giảng pháp kinh Sư tử dũng mãnh Pháp chưa từng nói Chúng con đông nhiều Và cả nhân dân Khắp mười phương cõi Cả thế giới này Lâu vô lượng kiếp Đại Thánh mới hiện. Cung điện Phạm thiên Bỗng nhiên rực sáng Hiện các điềm lành Đều phân biệt nói, Thế giới phương Đông Trăm ngàn muôn ức Năm trăm cõi nước Tự nhiên chấn động. Các Phạm thiên ấy Ở cung điện mình Oai thần công đức Tối thượng cao vời Khi đó thấy được Tướng điềm lành kia Liền tìm đến Phật Đấng xót thương đời. Rồi đem hoa trời Rải cúng Đại nhân Đều dùng cung điện Dâng lên Thế Tôn, Ca nhạc đàn sáo Khen công Đức Phật Thỉnh Đấng Đạo Sư Chuyển vận pháp luân. Đấng Nhân Trung Tôn Lặng yên nhận lời Vì khắp chúng sinh Giải nói kinh pháp Phương Tây, phương Nam Thế giới phương Bắc Phương trên, phương dưới Cùng khắp các nơi Ức ngàn muôn chúng Phạm thiên đều đến Dâng vật bảo trân Cúng dường Đức Phật, Lại có phương dưới Các cõi Phạm thiên Khắp nơi cũng vậy Giống nhau không khác Đều đem cung điện Dâng Bậc Đại Thánh Ca ngợi Như Lai Cùng nhau khuyến thỉnh Xin chuyển pháp luân. Đấng Đại Trí tuệ Vô số ức kiếp Rất khó được gặp Nguyện thương thị hiện, Căn lực từ xưa Xót thương rộng mở Cửa pháp cam lộ Mắt pháp khắp nơi Phân biệt nghĩa tuệ Tuyên dương kinh pháp Cho khắp mọi loài. Khi ấy Thế Tôn Chỉ bày Tứ đế Giải đủ tất cả Mười hai nhân duyên, Thông tuệ hiển bày Khiến được mắt sáng. Phật thuyết sinh tử Là hoa khổ sầu Tất cả thế gian Đều từ sinh hữu Nên biết nhân này Đưa đến chìm đắm. Như Lai tuyên thuyết Pháp cứu cánh này Bao nhiêu chủng loại Vô số ức người Tám mươi muôn ức Tất cả chúng sinh Nghe lời Phật dạy Trụ Thanh văn thừa Huống gì phương khác Lập đệ nhất địa Khi ấy Thế Tôn Thuyết giảng nghĩa kinh Chúng sinh thanh tịnh Như hằng hà sa Tâm chí đều trụ Hạnh của Thanh văn Thánh chúng của Phật Số người như trên Tất cả cùng tính Không thể biết được, Các loài chúng sinh Mỗi mỗi như vậy Đều cùng như đây Lập Tuệ vô thượng. Bấy giờ mười sáu Vương tử của Phật Cùng đến thọ học Một lòng như nhau Tất cả xuất gia Đều làm Sa-di Và đều hiểu rõ Kinh Phương Đẳng Phật. Họ sẽ thành quả Từ phụ ở đời Các ông như vậy Đều được Thắng trí Những chúng sinh đây Đều được như thế. Lại như Thế Tôn Là mắt của pháp Tối thắng chí thành Biết rõ nguồn tâm, Các con thơ bé Thường hành bình đẳng Mà vì chúng sinh Thuyết đạo Vô thượng. Trăm ngàn muôn ức Vô số thí dụ Thị hiện nhân duyên Và các quả báo Phân biệt các pháp Các tuệ suốt thông Công hạnh phải làm Như chư Bồ-tát. Lúc đó Đại Thánh Vì hiện chân đế Tuyên bố hiển dương chính Pháp Hoa này Thuyết giảng khắp nơi Kinh Đại Phương Đẳng Muôn ngàn câu kệ Không thể nghó bàn Như cát sông Hằng Không thể hạn lượng. Khi ấy Phật thuyết Kinh pháp xong rồi Liền vào tịnh thất Tư duy thiền định Tám muôn bốn vạn Trong kiếp an nhiên Thế hùng Đạo Sư Thiền định như vậy Thời các Sa-di Trông thấy Đại Thánh Ở nơi tịnh thất Và không ra ngoài Khai hóa nhân dân Vô số ức ngàn Giác liễu thiền định Thanh tịnh vô lậu Trí tuệ đệ nhất. Nơi đại pháp tòa Mỗi vị tuyên dương Pháp kinh đại Thánh An trụ thuyết giảng Lưu bố giáo hóa Như Phật không khác Chúng sinh được độ Như cát sông Hằng Không thể hạn lượng Ức ngàn vô số Đều nghe, tin nhận Họ được an trú Mỗi mỗi chúng sinh Được Phật giáo hóa Số nhiều vô lượng. Bậc Tối thắng ấy Sau khi diệt độ Chúng Hữu học kia Thân cận, gần gũi Bốn mươi ức Phật Được nghe danh hiệu Liền đến cúng dường Đấng Lưỡng Túc Tôn. Có bốn hành sự Ly cấu là quý Đều được Phật đạo Hiện ở mười phương Mười sáu đồng tử Đều là con Phật Ở khắp tám phương Trải rộng nghĩa đạo Với lời Phật nói Người nghe tin nhận Là các Thanh văn Đệ tử của Phật Dần dần dạy bảo Bao nhiêu sắc tượng Nay sẽ gần gũi Phát ý đại đạo. Bấy giờ chính ta Đã được giác ngộ Khiến cho tất cả Đều được nghe nhận, Nay các Hiền giả Là bậc Thanh văn Ta dùng phương tiện Chỉ dạy mọi người. Đời trước của ta Báo ứng như vậy Đúng thời thuyết pháp Nhân duyên như vậy. Nếu không kham nhẫn Tu tập Phật đạo Tỳ-kheo nên biết Do ma khuấy nhiễu Tùy theo bản tính Hung hăng phóng túng Chí chẳng phụng hành Không thích không tuệ, Vô số trăm đời Khát không gặp nước Lại phải ngu si Thường luôn lo sợ Vô số trượng phu Trăm ngàn muôn ức Cất bước cao xa Vượt qua đồng trống Lại thấy mênh mông Xa xăm gian khó Dặm đường xa xôi Năm trăm do-tuần Có một Đại nhân Bậc Hiền minh triết Đạo sư khai hóa Tâm không sợ hãi Vì đoàn khách buôn Chỉ dẫn con đường Hoang vắng xa xăm Nhiều người ngại khó Vô số ức kẻ Mỏi mệt, nhọc nhằn. Họ đến Đạo sư Mà thưa thế này: Chúng tôi mỏi mệt Không thể tiến bước Hôm nay bọn tôi Chỉ muốn quay về. Đạo sư thông minh Bậc thầy phương tiện Ân cần dẫn dụ Dạy bảo vỗ về, Xót thương đường tối Muốn bỏ châu báu Mệt mỏi vô cùng Giữa đường thoái lui, Ta nay cần phải Hiện sức thần thông Tạo lập hóa làm Thành quách rộng lớn Tốt đẹp trang nghiêm Nhân dân vô số Và lập phòng ốc Vi diệu đẹp đẽ Lại biến hóa ra Sông ngòi rộng lớn Ao tắm vườn cây Sum suê hoa trái Dinh thự cung điện Cửa lớn tường cao Nam nữ đông đủ Nhiều trăm ngàn ức Dụ dỗ khuyến khích Khiến họ không sợ Ai cũng hân hoan Vui mừng không xiết Hôm nay được đến Nơi thành lớn này Vào chợ vui chơi Muốn gì cũng được Tâm rất vui mừng Như được diệt độ. Chúng ấy và ta Gian nan đã hết Vì được an ổn Cho nên vui mừng Hôm nay mọi người Tha hồ vui chơi Đã được an lạc Quán sát khắp nơi Tâm ý mọi người Rồi trịnh trọng bảo Tất cả đến đây Nghe lời ta nói: Ta dùng Thần túc Hóa làm thành lớn Ta nay quán sát Gai gốc khô cằn Mọi người sợ sệt Muốn lui trở về Ta dùng phương tiện Hóa hiện các thứ Hãy nên siêng năng Theo đường tiến bước. Này các Tỳ-kheo! Ta cũng như vậy Thấy vô số ức Trăm ngàn chúng sinh Chán họa khốn khổ Mê hoặc luân hồi, Ta dùng phương tiện Khai đạo dạy bày Vì Phật nghó thế nghĩa lợi như vậy Nhàm chán Phật đạo Không được Niết-bàn Tất cả lời Phật Học rõ suốt thông, Các ông thành tựu Nay đắc La-hán Cho nên khuyến lập Nhận báo đức này Được gặp chư Hiền Đạt quả La-hán, Tất cả các ông Được lìa các khổ Tất cả chúng hội Mới diễn pháp này. Chư Phật Đại Thánh Khéo dùng phương tiện Giảng thuyết giáo pháp Đại tiên cứu hộ Có một Phật thừa Chưa từng có hai Vì các người nghỉ Nên phân biệt nói. Do đó giáo hóa Các Tỳ-kheo đây Nên phát tinh tấn Đệ nhất nhiệm mầu, Mọi người sẽ đạt Tất cả mẫn tuệ Giáo pháp Bồ-tát Không có diệt độ, Ta thường mong cầu Thành các thông tuệ Đạt đến mười phương Pháp kinh Tối thắng, Dung mạo xinh đẹp Ba mươi hai tướng Sẽ thành Phật đạo Mới nên diệt độ Chư Đại Đạo Sư Thuyết pháp như thế Chớ khiến ngừng nghỉ Tự cho diệt độ. Vì được ngừng nghỉ Nói đạt vô vi Vì do duyên này Dẫn vào tuệ giác. KINH chính PHÁP HOA <卷 id="83085239">Quyển 5 <詞 id="83085240">Phẩm 8: THỌ KÝ NĂM TRĂM ĐỆ TỬ Khi ấy Hiền giả Bân-nậu-văn-đà-ni Tử nghe Phật Thế Tôn diễn bày quyền biến, chỉ rõ phương tiện, thọ ký cho Thanh văn sẽ được thành Phật, nhớ lại hạnh nguyện đã lập từ xưa, lại chiêm ngưỡng cảnh giới chư Phật Như Lai, được điều chưa từng có, vui mừng phấn chấn, không nghó đến việc ăn mặc, thân thể thoải mái an vui, chẳng thể tự kiềm chế, đối với chính pháp buồn vui lẫn lộn, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, cúi đầu lễ dưới chân Phật, chí thành cất tiếng: –Thế Tôn thật khó sánh kịp, an trú chưa từng có, Đức Như Lai Chí Chân Đẳng chính Giác đã dùng phương tiện thật là sâu xa, chẳng nói hết được. Các thế giới này, có biết bao chủng tính. Thế Tôn đã dùng vô số phương tiện quyền biến, tùy theo trình độ mà hiển bày tuệ nghĩa, thuận theo chúng sinh để giáo hóa, phân biệt chính pháp rõ ràng. Thế Tôn đã vì họ nói rõ cội nguồn giải thoát và dùng phương tiện độ thoát. Thánh tuệ của Thế Tôn biết hết căn tính, chí nguyện việc làm từ xưa đến nay của chúng con nên mới nêu lên thí dụ, nói việc đời trước và sự phát tâm từ thuở ban đầu. Khi ấy Mãn Nguyện Tử cúi đầu lễ ngang chân Phật, đứng sang một bên, hướng về Thế Tôn, chiêm ngưỡng dung nhan sáng ngời, mắt không hề chớp. Phật dạy: –Lành thay, đúng như ông đã nói! Như Lai thấy suốt tất cả con đường tu tập đưa đến giác ngộ, theo căn tính sâu, cạn mà thọ ký cho họ, như chỉ bày cho hàng Thanh văn Tiểu thừa hạ liệt dứt trừ dâm, nộ, si để được nghỉ ngơi; dẫn dắt cho Bồ-tát có trí tuệ cao tột. Giống như thuở xưa có một vị Đạo sư làm nhiều việc từ thiện, thương xót người nghèo khổ, áo cơm chẳng đủ, xin ăn không có, nghèo túng không có của cải, bèn vì họ mà đánh trống rao khắp nước là ai muốn vào biển tìm châu báu. Mọi người đều tập trung, (đạo sư) lại nói rằng ai không tiếc thân mạng, không thương cha mẹ, chẳng đoái hoài vợ con thì nên cùng nhau vào biển tìm châu báu. Dân chúng nghe vậy, phần nhiều bỏ về, chỉ những người nghèo, ăn xin, không áo che thân, không có của cải tự nuôi sống, muốn tìm châu báu thì còn do dự, chẳng thể tự quyết. Vị Đạo sư biết thế nên tập hợp tất cả lại bảo rằng, nếu muốn vào biển thì sẽ được cung cấp y phục, lương thực, chẳng để thiếu thốn. Những người nghèo vui mừng, liền nghe theo lời, cùng lúc lên thuyền, xem gió giương buồm, đi vào biển cả; chẳng gặp cá lớn, chẳng đụng đá ngầm; quỷ dữ La-sát cũng chẳng quấy nhiễu, đến được Long cung; liền theo Long vương xin ngọc báu Như ý: “Kẻ phàm tục nghèo khổ, chẳng tự kiếm sống thoải mái, xin được nhờ ân bố thí, để cứu tế khắp nơi.” Long vương liền ban cho theo nhu cầu; nếu ai muốn thì cứ đến lấy. Vị Đạo sư ra lệnh, nhưng người đi lấy thì ít, kẻ không đi lấy thì nhiều. Vì sao? Vì lòng họ còn sợ sệt là đến chỗ Long vương e không trở về được. Khi ấy vị Đạo sư bảo các người đó rằng, các ngươi tự do theo ý muốn. Bọn họ đều lấy được vàng bạc, lưu ly, thủy tinh, hổ phách, xa cừ, mã não; ai nấy đều lấy đầy thuyền. Đạo sư ra lệnh trở về Diêm-phù-lợi. Mọi người nghe theo lệnh, về đến chốn cũ. Gia đình làng xóm đem đồ ăn uống, kỹ nhạc, ngựa xe ra đón rước, cùng nhau vui chơi bảy ngày bảy đêm rồi mới trở về nhà. Mọi người hỏi được châu báu gì. Người nghèo ăn xin kém trí chỉ được bảy báu; những người bạn trí tuệ của Đạo sư được ngọc Như ý. Đạo sư lên lầu cao, tay cầm ngọc báu, hướng khắp bốn phương, bốn hướng và trên dưới (rồi nói): “Do phước đức của ngọc này sẽ khiến tuôn mưa bảy báu!” Đúng như lời nói lập tức mưa bảy báu tuôn xuống cùng khắp cả nước chỗ nào cũng tràn ngập. Ngoài ra những người bạn trí tuệ kia cũng phân bố đến các nước khác, khắp cùng bốn phương cũng tuôn mưa bảy báu. Kẻ nghèo kém trí lại than thở: “Ta cùng vào biển nhưng tiếc là không gặp thứ này”. Vị Đạo sư bảo họ: “Ta đã ra lệnh cho các ngươi, nhưng các ngươi không đến lấy, nay còn mong cầu gì nữa.” Mọi người vứt bỏ bảy báu, cùng tụ tập lại, trở lại biển để lấy ngọc báu, đi đến hỏi Long vương cầu xin ngọc Như ý. Tất cả họ đều được ngọc, trở về Diêm-phù-lợi, cũng làm mưa bảy báu. Phật dạy: –Phát đạo ý Vô thượng chính chân muốn độ thoát tất cả, thí như vị Đạo sư đi vào biển cả. Thương xót những người nghèo túng nên đưa họ đi vào biển là nói vì tất cả chúng sinh mà giảng thuyết kinh pháp. Xem gió giương buồm đi vào biển cả là ý nói học quyền trí. Ba nạn trên biển nghĩa là Không, Vô tướng, Vô nguyện. Biển chỉ có sinh tử mà lại được ngọc Như ý. nghĩa là đạt được Pháp thân vô cực của Như Lai. Những người đi theo lấy ngọc Như ý, đó là Thanh văn, Bồ-tát phát tâm rộng lớn, đã đạt quả Vô sinh. Người thấp kém nghèo hèn lượm bảy báu đầy thuyền, nghĩa là đắc bảy Giác ý. Trở về làng xóm, bà con ra nghênh đón, nghĩa là người ở mười phương đi đến thọ giáo. Lên lầu cao cầm ngọc hướng về tám phương và trên dưới, nghĩa là đắc Phật đạo độ thoát mười phương. Những người trí tuệ phân đến các nước làm mưa bảy báu, nghĩa là đi đến phương khác thành Bậc Tối chính Giác. Những người nghèo hối tiếc, cùng trở lại biển, nghĩa là chư Thanh văn nghe Phật dạy chỉ có một thừa không có Nhị thừa nên mới phát tâm cầu đạo Vô thượng chính chân, sau sẽ thành Phật, đều có một hiệu. Khi ấy, Đức Phật nói kệ tụng: Tỳ-kheo lắng nghe Dùng dụ giảng thuyết Như có Đạo sư Thương người trong nước Phần nhiều nghèo túng Luôn luôn chịu khổ Đánh trống lan truyền Ai muốn vào biển Mọi người tụ tập Lại bảo họ rằng Nếu chẳng tiếc mạng Chẳng thương mẹ cha Chẳng nhớ vợ con Nên cùng vào biển Trong biển có nạn Không được hối hận. Khi ấy người nghèo Cũng có ý muốn Sợ chẳng đến được Phân vân chẳng quyết Đạo sư rộng lượng Cấp cho cơm áo Khi vào biển cả Đều tìm bảy báu. Khi ấy Đạo sư Đến cung Long vương Bảo hết mọi người Tìm ngọc Như ý Bạn bè nghe lời Lượm ngọc Như ý Trở về chốn cũ Già trẻ nghênh đón. Khi ấy Đạo sư Lên trên lầu cao Hướng về tám phương Mưa trân báu khắp Bè bạn phân ra Đến các nước khác Cũng mưa bảy báu Khắp nơi nhờ ân. Kẻ lượm bảy báu Mới tự hối tiếc Là cùng vào biển Chẳng gặp loại này. Đạo sư bảo rằng Trước ta đã bảo Chẳng chịu tự lấy Là lỗi các ngươi Sao lại oán trách. Họ trở vào biển Tìm ngọc Như ý Tìm thì phải được. Bồ-tát phát tâm Đắc đạo chính chân Nhàm chán sinh tử Rơi vào Thanh văn Phụng hành theo Không, Vô tướng, Vô nguyện Được thoát ba cõi Đến cửa Niết-bàn Thấy Phật Thế Tôn Hàng phục chúng ma Đạt đến Vô thượng Đạo quả chính chân Khai hóa tất cả Xuất vạn ức âm Mười phương chúng sinh Đều được thọ giáo Trời, Rồng, Quỷ thần Đều đến kính lễ Phát tâm Bồ-tát Đắc “Vô tùng sinh”, Hoặc vì Thanh văn Đoạn ba cấu độc Thấy khắp mười phương Không gì chướng ngại. Các vị La-hán Bèn tự hối lỗi Tu hành thế nào Để được như vậy Đứng dạy bước đi Đau buồn tự trách Sau đó, Như Lai Thị hiện ba thừa Thiện quyền phương tiện Tùy thuận dẫn dắt Đạo không có hai Huống chi ba thừa Các vị Thanh văn Bấây giờ vui sướng Tâm họ sáng tỏ Mây tan trời hiện Phật đều thọ ký Sẽ đạt Phật quả Cõi nước xứ sở Đều có danh hiệu. Phật bảo các Tỳ-kheo: –Các ông có thấy vị Thanh văn Mãn Nguyện Tử này chăng? Ở trong chúng Tỳ-kheo, vị ấy là người giảng pháp giỏi nhất, làm sáng tỏ, ngợi khen công đức của chư Phật, diễn bày chính pháp, tinh tấn khuyến trợ, nghe Phật thuyết pháp thì phúng tụng, thọ trì, tuyên thuyết, chỉ bày cặn kẻ cho người chưa nghe, không biếng lười bỏ bê; diễn rộng ý nghĩa, giải thông khúc mắc, ứng đáp cho bốn bộ chúng, chẳng hề mệt mỏi, làm sáng tỏ phạm hạnh, khiến tất cả đều hoan hỷ. Ngoài Như Lai và các Bồ-tát Đại só ra, không ai có tài biện giải nghi vấn bằng Mãn Nguyện Tử. Này các Tỳ-kheo! Ý các ông nghó sao? Vị Mãn Nguyện Tử này đâu phải chỉ vì ta mà làm Thanh văn để thọ giáo pháp. Chớ nghó như vậy, vị ấy đã từng hầu cận chín mươi ức Đức Phật, theo chư Thế Tôn nhận lãnh tinh hoa của chính pháp, ở trong chúng hội thường tuyên thuyết nghĩa kinh, phân biệt không tuệ, tâm không chấp trước. Khi thuyết kinh vị ấy không hề do dự; thấu suốt tất cả, chưa từng bị trở ngại, luôn luôn tận tâm, có sức thần thông như chư Phật Thế Tôn và chư Bồ-tát, suốt đời chỉ tu phạm hạnh. Chúng Thanh văn đều tin tưởng vị ấy, vị ấy bèn dùng phương tiện khéo léo mà cứu giúp làm lợi ích cho họ. Đối với vô số ức trăm ngàn loại chúng sinh, vị ấy đã khai hóa cho vô lượng, vô số người khiến họ đều phát tâm đạo Vô thượng chính chân. Những nơi vị ấy đến đều là thường dân, chỉ bày đạo lớn, khiến họ tin Phật vững chắc. Vị ấy tu tập tất cả các các hạnh luôn dùng thân mình làm thanh tịnh cõi nước của chư Phật, việc làm thích hợp để khai hóa chúng sinh. Đối với các Bậc chính Giác đều thị hiện làm thị giả. Nay ở đời ta, vị ấy làm người giảng pháp giỏi nhất; mỗi khi thọ nhận chính pháp, luận giảng khó người bì kịp. Trong hiền kiếp ở tương lai, khi ngàn Đức Phật ra đời vị ấy lại sẽ cúng dường các Đức Thế Tôn và cũng là người giảng pháp giỏi nhất, thường vì vô lượng vô biên các loài chúng sinh giảng giải soi sáng, khuyến hóa tất cả không hạn cuộc số người, khiến họ phát tâm đạo Vô thượng chính chân. Khi đã tinh tấn tu tập đầy đủ đạo hạnh Bồ-tát, trong vô số kiếp về sau, vị ấy sẽ thành Phật, hiệu là Pháp Chiếu Diệu Như Lai Chí Chân Đẳng chính Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, sẽ ở ngay tại quốc độ này thành Bậc Đại Thánh. Bấy giờ hằng hà sa tam thiên đại thiên thế giới tạo thành một cõi Phật, đất bằng bảy báu, bằng phẳng như lòng bàn tay, không có núi, gò, khe hang, gai gốc, sỏi đá; lầu gác, tinh xá bao quanh dày đặc, toàn bằng bảy báu, xa trông đẹp đẽ giống như cung điện của chư Thiên; cõi trời nhìn thấy thế gian, thế gian trông thấy cõi trời; chư Thiên và người thế gian qua lại, giao tiếp. Cõi ấy không có chín mươi sáu loại và sáu mươi hai kiến kiêu mạn bủa vây; tất cả đều hóa sinh, chẳng phải do người nữ sinh; đều tịnh tu phạm hạnh, ai cũng có oai đức, dùng đại thần túc bay đi trên không; chí luôn tinh tấn, việc làm hoàn bị, trí tuệ thông đạt, dung nhan màu vàng tía hiện rõ ba mươi hai tướng của bậc Đại nhân. Cõi ấy nhân dân thường có hai thức ăn: Một là Pháp thực, hai là Thiền duyệt thực. Có vô số trăm ngàn vạn vạn các chúng Bồ-tát đều đắc thần thông, phân biệt thấu đáo nghĩa lý khúc mắc. Thanh văn trong cõi ấy đều đạt Thánh hạnh, hành tám môn giải thoát, phương tiện uyển chuyển kỳ đặc, danh đức sáng ngời, đã đến được bờ kia. Kiếp ấy tên Bảo minh, cõi nước tên Thiện tịnh. Phật thọ vô lượng kiếp, chính pháp còn trụ lâu hơn. Sau khi Phật diệt độ, mọi người sẽ dựng tháp bằng bảy báu khắp cả nước. Chư Phật mười phương đều cùng nhau ca ngợi công đức của cõi nước ấy. Đức Phật nói như thế xong, muốn giải nghĩa lại, liền nói bài tụng: Tỳ-kheo lắng nghe! Với ý chỉ này Như lời ta nói Các trời, người đời Hành quyền phương tiện Khéo học rốt ráo Cần phải tôn sùng Tu tập hạnh Phật. Những chúng sinh kia Yếu kém lười bỏ Nên phải diễn nói Tịch tịnh vi diệu Thị hiện Nhị thừa Thanh văn, Duyên giác Mà thường trụ trong Đại đạo Bồ-tát Phương tiện khéo léo Biết bao ức ngàn Dùng để khai hóa Vô số Bồ-tát Và chúng Thanh văn, Lại vì tuyên nói Phật đạo cao tột Thật là khó được Vô số quần sinh Mong được thuần hóa Đã được tu học Tu hành như thế Hạ liệt lười bỏ Rơi vào kiêu mạng Nhưng sẽ thấm dần Đều thành Phật đạo Thân, miệng và tâm Thường theo việc làm Thanh văn như vậy Thế lực yếu kém Sợ, chán tất cả Đều là tai họa Nên lại sửa sang Tịnh cõi Phật mình, Hoặc lại thị hiện Thân có dục ái Giận dữ sân hận Tăm tối si mê Thấy các chúng sinh Mê hoặc tà kiến Bại hoại bỏ bê Lưới nghi trói buộc Thanh văn của ta Cũng làm như vậy Tùy nghi theo thời Hóa độ bọn họ Dùng phương tiện khéo Phát khởi tất cả Đều vì mọi người Tùy thuận rộng nói. Này các Tỳ-kheo, Thanh văn của ta Việc làm đầy đủ Ở ngàn ức Phật Vì mong độ thoát Với chính pháp Phật Thấu suốt thiền tư Để mà độ thế. Ở tại chỗ ta Là đệ tử lớn Nghe rộng hiểu nhiều Giảng pháp dũng mãnh Làm vui chúng sinh Tâm chẳng mệt mỏi Hưng phát Phật sự Xây dựng đạo pháp Đạt đại thần thông An trụ cùng khắp Bậc thầy hoàn hảo Là ngọn đèn sáng Quán biết chúng sinh Thường thấy cội nguồn Để thuyết kinh điển Khiến đạt thanh tịnh Dẫn dụ chúng mê Ức trăm ngàn vạn Phân biệt chỉ bày chính pháp tối thượng Luôn trụ Đại thừa Vô thượng chính chân Tự thấy quốc độ Thanh tịnh đẹp đẽ Ở đời tương lai Ức trăm ngàn Phật Khi ấy hầu cận Phụng kính như thế Sẽ luôn hộ trì chính pháp tối tôn, Cũng lại nghiêm tịnh Cõi Phật của mình Giảng thuyết kinh điển Ức trăm ngàn vạn Khéo léo phương tiện Luôn luôn dũng mãnh, Lại sẽ khai hóa Vô số chúng sinh Đều trụ đạo tuệ Không còn các lậu. Vị ấy phụng thờ Các Bậc Đại Thánh Sẽ thường giữ gìn Pháp các Phật ấy Sẽ thành Như Lai Đạo Sư tự tại Tên Pháp Quang Diệu Sáng tỏ mười phương. Cõi nước Phật ấy An lạc vô cùng Đất bằng bảy báu Khắp nơi thanh tịnh Tên kiếp bấy giờ Gọi là Bảo minh Thế giới tên là Thiện tịnh nghiêm sức Vô số ức ngàn Các chúng Bồ-tát Những bậc như vậy Đắc đại thần thông. Khi ấy cõi Phật Khắp chốn ngợi ca Thần thông quảng đại Thanh tịnh nhiệm mầu. Lại các Thanh văn Số đến ức ngàn Đều là đại Thánh Hiền thiện, dũng mãnh Thần túc cao vời Hành tám giải thoát Phân biệt giảng bày Đều được khai hóa. Cõi nước Phật ấy Tất cả chúng sinh Việc làm thanh tịnh Luôn tu phạm hạnh Đủ tuệ biện tài Vẹn toàn các đức Chúng sinh hiền lương Đầy đủ sung mãn Các bậc Hiền nhân Nhân dân đông đúc Chỉ ưa kinh điển Chẳng thích gì khác Cõi Phật cũng không Có các người nữ Không có đường ác Tai họa khổ đau. Sắc vàng rực rỡ Tự có nơi thân Ba mươi hai tướng Để tự trang nghiêm Ở cõi Phật ấy Không màng ăn mặc Muốn là có ngay Nên nói như vậy. Lúc bấy giờ một ngàn hai trăm vị Thanh văn, mỗi vị đều ngạc nhiên trước việc lạ chưa từng có, ai cũng vui mừng, tự nghó: “Thế Tôn thương xót những vị ấy nên họ đều được thọ ký, chắc hẳn sẽ thương chúng ta, khiến được như thế.” Khi ấy Đức Thế Tôn biết tâm niệm của các vị Thanh văn, bảo với Hiền giả Đại Ca-diếp: –Nay, chúng La-hán một ngàn hai trăm vị có mặt nơi đây, trừ A-nan và La-vân, còn nhóm Thanh văn Tri Bản Tế sẽ cúng dường sáu mươi hai ức Đức Phật; qua số lượng ấy rồi, năm trăm đệ tử đều sẽ thành Phật, hiệu là Phổ Quang Như Lai Chí Chân Đẳng chính Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu. Năm trăm vị La-hán của nhóm các ông Ưu-vi Ca-diếp, Tượng Ca-diếp, Giang Ca-diếp, Hải Ca-diếp, Hắc Diệu, Ưu-đà, A-nan-luật, Ly Việt, Kiếp-tân nậu, Bạc-câu-lô, Thuần nậu… đều sẽ lần lượt thành đạo Vô thượng chính chân, là Bậc Tối chính Giác, đều cùng một hiệu. Khi ấy, Thế Tôn nói bài tụng tán thán: Đệ tử của ta Tên là Bản Tế Sẽ thành Như Lai Đạo Sư của đời Vào đời tương lai Vô lượng số kiếp Hóa độ chúng sinh Vô số ức ngàn Thành Bậc Tối Thắng Hiệu là Phổ Quang. Cõi nước Phật ấy Tên là Thanh tịnh Vào đời tương lai Vô lượng số kiếp Thường gặp chư Phật Nhiều không thể tính Thần túc quang âm Mạnh mẽ chói sáng Âm thanh vang khắp Thế giới mười phương Ức ngàn chúng sinh Vây quanh lớp lớp Chỉ tuyên giảng pháp Phật đạo tối tôn, Chư vị Bồ-tát Luôn tu chính hạnh Xe chở đẹp đẽ Cung điện nguy nga Nơi chốn dạo qua Không tưởng nhớ hết Được nghe thọ pháp Với Lưỡng Túc Tôn Thường đến vây quanh Cõi Phật phương khác Chư Phật đại Thánh Cũng giống như trên Khi đã cúng dường Khắp các Thế Tôn Trong lòng hoan hỷ Nhiều nỗi vui mừng Các cõi nước ấy Đều cùng một loại Các Đại Thánh Hùng Có cùng một tên Cao tột trong đời Đều hiệu Phổ Quang Đồng lòng như vậy Nỗ lực tinh tấn Thọ mạng an trú Vô hạn dài lâu Số kiếp đầy đủ Sáu vạn hai ngàn Sau khi diệt độ chính pháp vẫn còn Thánh điển để lại Số kiếp gấp ba Rồi đến tượng pháp Lại sẽ trụ đời Hơn cả chính pháp Cũng gấp ba lần. Giả sử chính pháp Sau khi diệt tận Đa số nam nữ Gặp họa khổ lớn Các Bậc Tối Thắng Đại Thánh luân ấy Hiệu là Phổ Quang, Các Đại Bồ-tát Họ đều sẽ làm Năm trăm Đạo sư Ai cũng như nhau Đều thành Phật đạo, Danh tiếng vang khắp Mười phương cõi Phật Có đủ oai thần Cùng với cảnh giới Công đức chính pháp Cùng loại như trên Sẽ đều tu theo Tuyên nói kinh này Tất cả sở đắc Đều sẽ như thế, Hiện ở cõi trời Và tại nhân gian Như ta thuở xưa Lòng từ rải khắp Chiếu sáng mọi nơi. Thượng sư cõi người Với hạnh đã lập Đều thuận tin theo Đều được thọ ký Thương xót chúng sinh Số nhiều vô lượng Nhất loạt bình đẳng Như Phật hiện nay chính chân ở đời Thế Tôn phát khởi Vì Ca-diếp nói Ông nên trì niệm Năm trăm hiệu Phật Các chúng Thanh văn Và các chúng khác Đã là đệ tử Đều được tự tại. Lúc bấy giờ, năm trăm vị Vô trước (La-hán) mắt thấy tai nghe Như Lai thọ ký, vô cùng vui mừng, đi đến chỗ Phật đầu sát đất, ăn năn tự trách: –Bọn đệ tử thô lậu chúng con nhớ lại lúc trước, tự cho mình đã được chứng nhập Nê-hoàn, không có phương tiện khéo léo, chẳng biết rèn luyện để trở về chính chân, vứt bỏ tuệ sáng, ý chí mệt mỏi; nay mới được trí tuệ Như Lai, sẽ thành chính giác. Kính bạch Thế Tôn! Ví như có kẻ vào nhà một người có đức nhân từ, được người này lấy viên minh châu đặt trong búi tóc. Kẻ ấy say rượu, nằm ngủ, chẳng tự hay biết. Khi thức dậy quên viên minh châu, chẳng biết để đâu, y bèn đi đến nước khác, vì nghèo túng, đói khát nên phải xin ăn, cùng khổ mà không được gì. Y bèn nghó cách lần hồi quay về, được một bữa cơm ngon, trong lòng vui mừng; khi ấy mới nhớ lại khi trước ngủ trong nhà nọ, có người cột cho viên minh châu, không biết nó rơi chỗ nào, liền chạy trở lại xin, tìm đến thấy vị trưởng giả hiền đức ấy. Vị trưởng giả liền gọi y đến bảo: “Ngươi vì sao tự làm khổ nhọc mình, sao không chấm dứt việc đi xin ăn! Ngươi muốn biết vì sao không? Vì khi xưa, ta vận y phục nghiêm chỉnh, đi khắp nơi chọn người cương nghị làm việc lợi ích, đi đến nơi này, lấy viên minh châu bỏ vào búi tóc của ngươi, nay minh châu vẫn còn trong thân, sao chẳng hay biết? Tại sao lại đến ta xin nữa? Ta phải dùng phương tiện gì nữa để người nỗ lực thực hiện. Ngươi nay xin của báu sở dó khó được là vì không tự xem xét việc có thể được hay không. Hãy mau mang viên minh châu đến chỗ cung rồng mà đổi, để có các của báu, tùy ý tiêu dùng.” Xưa kia, Đức Thế Tôn lập hạnh tu tập, khi còn làm Bồ-tát, đã khai mở trí tuệ rộng lớn, nhưng chúng con chẳng hay chẳng biết. Nay chúng con đều đã trụ ở địa vị La-hán, tự cho là đã được giải thoát, ở chốn hiểm nạn cho là yên lành. Như vậy, hôm nay chúng con mới có thể có chí nguyện cầu trí tuệ Phật. Chúng con sẽ dùng pháp này để khai hóa người khác, dùng trí tuệ Như Lai để phân biệt đạo ý. Chư Tỳ-kheo cũng vậy, chớ cho đây là Nê-hoàn. Thưa các vị Hiền giả! Chúng ta lại phải chính mình gieo trồng gốc phước đức. Xưa kia, Đức Như Lai đã dùng phương tiện khéo léo khai mở dẫn dắt; nay Ngài cũng nói lại kinh pháp như vậy. Với những ai tự chấp thủ là đã được giải thoát, nay đều được Đức Thế Tôn thọ ký cho đạo quả Vô thượng chính chân. Khi ấy năm trăm vị Thanh văn thuộc nhóm của Tôn giả Tri Bản Tế nói tụng khen ngợi: Chúng con nghe vậy Mới biết lỗi trước Đã được thọ ký Quả Phật Vô thượng. Đảnh lễ Thế Tôn Mặt trời chói sáng Xót thương giảng nói Rọi ánh sáng cho Giống như kẻ mê Chẳng thể phân biệt Cho nên chúng con Đều được giải thoát Hôm nay vui mừng Nghe pháp an trú Chí nguyện rộng khắp Thấu rõ mọi việc. Ví như một người Lang thang kiếm sống Bỗng được đi vào Nhà bậc nhân đức Nơi ấy trông ra Giàu có nhiều của. Khi ấy người giàu Dọn nhiều thức ăn Kẻ ấy ngủ say Chẳng ăn uống gì Chỉ lấy minh châu Cột vào búi tóc Người kia nằm ngủ Đến khi thức dậy Ngồi tại nhà ấy Sung sướng mừng vui. Gã ngu khờ đó Rong ruổi kiếm ăn. Khi vừa thức dậy Đi đến thành xa Cầu xin ăn mặc Nhưng chẳng được gì Xin được bữa ngon Tự buộc kiếm sống Được người cho ăn Cho là sung sướng Minh châu trên tóc Mà tự băn khoăn: Viên minh châu ấy Nằm ở chỗ nào? Đeo mãi trên thân Mà chẳng hay biết. Nên khi gặp lại Trưởng giả nhân từ Điều ban bố được Là việc trượng phu Tức là chỉ bày Nói toàn lời thiện Chỉ rõ diệu bảo Giáo hóa độ thoát Người ấy vừa thấy Liền được an ổn Nhờ ân vật báu Đạt được như vậy Có của vô cùng Kho tàng đầy ắp Lại dùng năm dục Để tự vui chơi. Thế Tôn cũng vậy Nói thí dụ này Chúng con đời trước Đều phát chí nguyện, Chẳng phải công hạnh Của Đức Như Lai Từ thuở xa xưa Đêm dài tinh tấn. Nhưng bạch Thế Tôn! Chúng con hạ liệt Chẳng thể hiểu biết Giáo hóa của Ngài Tâm không chí nguyện Chẳng chịu tiến lên Lại lấy Nê-hoàn Tự vui hoan hỷ, Theo lời Phật dạy Nên được tỏ thông. Nếu có kẻ chấp Không được diệt độ Được Phật Như Lai Khai mở tuệ sáng Mới thật diệt độ Giải thoát bậc nhất Ngọc minh châu này Thượng phẩm Ly cấu Hôm nay chúng con Nghe nghĩa vô cùng Do Phật khai dẫn Đều rất vui mừng Tất cả đồng được Biệt ký quả diệu.  <詞 id="83085241">Phẩm 9: THỌ KÝ cho A-NAN VÀ LA-VÂN Khi ấy Hiền giả A-nan tự nghó: “Ta có thể nhận được sự thọ ký như thế chăng?” Tâm nghó như thế, Hiền giả âm thầm mong ước, liền rời khỏi chỗ ngồi, đến cúi đầu lễ ngang chân Đức Phật, Hiền giả La-vân cũng đến trước Phật, cúi đầu lạy xuống ngang chân Thế Tôn. Hai vị cùng thưa với Đức Phật: –Xin Thế Tôn vì chúng con mà giảng pháp cam lộ, Thế Tôn là cha lành, lẽ nào chẳng thấu suốt? Người chưa quay về đã được quay về, người chưa được cứu đã được cứu, người chưa được hộ trì đã được hộ trì; đối với chúng chư Thiên và A-tu-luân, Thế Tôn đã tạo dựng biết bao loại thần biến trang nghiêm. Chúng con A-nan, La-vân, người là con của Phật, người là thị giả giữ gìn kho báu chính pháp. Cúi xin Thế Tôn cho chúng con hoàn thành sở nguyện, được thọ ký đắc đạo Vô thượng chính chân. Lại có các Thanh văn khác gồm hai ngàn người chưa đoạn hết phiền não, đều rời khỏi chỗ ngồi, vén y để trần vai phải, chắp tay, nhất tâm chiêm ngưỡng dung nhan Đức Phật mong được (thọ ký). Đức Phật bảo A-nan: –Về đời tương lai, ông sẽ thành Phật, hiệu là Hải Trì Giác Ngộ Lạc Thần Thông Như Lai Chí Chân Đẳng chính Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu. Ông trước phải cúng dường sáu mươi hai ức Đức Phật, cung phụng, hầu cận, giữ gìn chính pháp, hộ trì kinh điển; sau đó, cuối cùng sẽ thành tựu quả vị Tối chính giác. Lúc đó ông sẽ khai hóa cho hai mươi trăm ngàn vô số trời, người, khiến họ đều phát tâm đạo Vô thượng chính chân. Quốc độ của Đức Phật đó thanh tịnh, không cấu uế, đất bằng lưu ly xanh biếc, tràng phan dựng khắp nơi để tự trang nghiêm, thế giới bằng phẳng, không có sỏi đá, núi gò, khe hang, đất đai mềm mại như tơ lụa cõi trời. Kiếp ấy tên là Nhu hòa, không có sấm chớp. Thọ mạng của Đức Phật ấy thật là vô lượng chẳng thể tính đếm, chẳng thể ví dụ, khó đạt được chỗ tận cùng. Các chúng đệ tử, người lãnh hội giáo pháp tới ức trăm ngàn vạn, không thể kể xiết, không thể suy lường. Khi A-nan thành Phật, làm Bậc Đại Thánh, có hiệu là Hải Trì Giác Ngộ Lạc Thần Thông, thì nhân dân cõi Phật ấy có nhiều thần biến, vây quanh. Sau khi Như Lai diệt độ, chính pháp sẽ trụ ở đời gấp bội (thọ mạng Phật), thời gian tượng pháp trụ ở đời lại gấp bội chính pháp; vô lượng, vô ức trăm ngàn Đức Phật trong mười phương đều sẽ ca ngợi công đức của Đức Phật ấy. Khi ấy, Thế Tôn nói kệ khen ngợi: Nay ta tuyên nói Cho chúng Tỳ-kheo Nhân giả A-nan Thân giữ pháp Phật, Vào đời tương lai Thành Bậc Tối Thắng Cúng dường chư Phật Sáu mươi hai ức Hiệu là Hải Trì Giác Lạc Thần Thông Do vì nghe rộng Nên thành đạo lớn. Cõi ấy thanh tịnh Hiện bày vi diệu Tự nhiên dựng lên Vô số tràng phan, Các chúng Bồ-tát Như cát sông ngòi Đều do Như Lai Giáo hóa thành tựu, Thảy đều tối thắng Thần túc vô biên. Danh Đức Phật ấy Vang khắp mười phương Muốn tính thọ mạng Không thể tính hết, Giáo hóa thế gian Bi mẫn vô lượng. Giả sử Phật ấy, Sau khi diệt độ chính pháp sẽ trụ Gấp bội số ấy Tượng pháp trụ đời Lại bội hơn trên Phật ấy tuyên thuyết Giáo hóa như vậy, Chúng sinh cõi ấy Như cát sông Hằng Khởi tin nhân quả Trụ vững Phật đạo. Lúc bấy giờ, tám vạn Bồ-tát mới phát tâm, mỗi vị đều tự nghó: “Thật là lạ lùng, việc này chúng ta chưa từng nghe, xưa nay chưa từng có, Đâu có đề cập đến Bồ-tát chúng ta. A-nan là hàng Thanh văn kém trí mà lại được thọ ký sẽ đạt được đại đạo. Vì sao như thế?” Đức Thế Tôn biết tâm niệm của họ, bèn bảo: –Các thiện nam và chúng Tỳ-kheo hãy lắng nghe, Phật pháp bình đẳng. Này các thiện nam! A-nan vốn đã phát tâm Vô thượng chính chân từ trước nơi Đức Siêu Không Như Lai Chí Chân Đẳng chính Giác và hiện tại nghe nhiều kinh điển, thường tu tinh tấn, hầu cận ta cũng ân cần chu đáo. Do nhân duyên ấy nên mau đắc đạo Vô thượng chính chân thành Bậc Tối chính Giác. Hiền giả A-nan vì Phật Thế Tôn vâng giữ tạng pháp, tu hạnh Bồ-tát, xuất gia với ý nguyện cao nhã, vì các thiện nam, mà nhận sự phó thác. Bấy giờ, A-nan theo hầu bên Đức Phật, được nghe pháp nghĩa rộng lớn vô lượng, được Phật thọ ký sẽ được thành Phật, cùng với quốc độ và hạnh nguyện xưa của mình, hoan hỷ vui mừng, ngay tức khắc nhớ lại vô số ức trăm ngàn vạn kinh điển của các Bậc chính Giác; lại thấy được các việc làm của mình trước đây trong quá khứ vô số kiếp, liền nói bài tụng ca ngợi: Tôi vốn được nghe Vô lượng chư Phật Đều nghó vì con Khi nói kinh pháp, Các đấng Tối Thắng Nếu có diệt độ Con đều nhớ đúng Như điều đã nghe Con sẽ thành Phật Tâm chẳng nghi ngờ Gần gũi như thế Là khéo phương tiện Để được an trụ Địa vị thị giả Chỉ vì đại đạo Phụng trì chính pháp. Khi ấy Đức Thế Tôn bảo Hiền giả La-vân: –La-vân hãy nghe! Vào đời tương lai, ông sẽ thành Phật, hiệu là Độ Thất Bảo Liên Hoa Như Lai Chí Chân Đẳng chính Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu. Ông sẽ cúng dường phụng sự các Đức Như Lai như số vi trần trong mười thế giới, sẽ vì chư Phật mà hiện làm trưởng tử; cũng như hiện nay làm con ta. Đức Độ Thất Bảo Liên Hoa Như Lai đó, cõi nước, thọ mạng, giáo hóa chúng sinh, có các thứ trang nghiêm cũng thanh tịnh như thế giới của Đức Hải Trì Giác Ngộ Lạc Thần Thông. La-vân sẽ làm trưởng tử của các Đức Phật ấy; rồi sau đó sẽ đắc đạo Vô thượng chính chân, thành Bậc Tối chính Giác. Khi ấy Phật nói bài tụng: La-vân đây là Trưởng tử của ta Bé thơ trong trắng Nhu hòa vô cùng, Người con Phật này Sẽ đạt đạo lớn Thường dùng pháp thí Ban vui nhiều người Vô số ức Phật Thấy đều thương mến Dù muốn tính đếm Không thể hạn lượng Đều sẽ làm con Chư Phật tối thắng Rồi sẽ thành Phật Giống chúng Tỳ-kheo. Lại La-vân này Việc làm ôn nhã Lập nguyện thù thắng Phụng trì chính giới Khen ngợi tuyên dương Đạo sư của đời Nay ta nói là Con của Như Lai Đức nhiều vô lượng Số cả vạn ức Dù có suy tính Chẳng thể lường được, La-vân này là Trưởng tử của Phật Nay đã thông đạt Trụ Phật đạo vậy. Lúc bấy giờ A-nan, La-vân cùng bạch Phật: –Nay chúng con thấy hai ngàn vị Thanh văn học giới đệ tử, trong lòng hân hoan, chiêm ngưỡng tôn nhan, nghe Thế Tôn giảng dạy chính pháp chẳng thể nghó bàn và đang mong đợi. Thế Tôn bảo A-nan và La-vân: –Hai ông có thấy hai Thanh văn học giới đệ tử kia chăng? A-nan bạch Phật: –Dạ, có thấy. Phật bảo A-nan: –Bọn họ sẽ cùng tu học pháp Đại thừa, sẽ cúng dường chư Như Lai như số vi trần trong năm trăm thế giới và giữ gìn chính pháp. Rồi vào đời sau, cùng lúc tụ tập, rồi phân bố ra mười phương cõi khác nhau, đều đạt đạo Vô thượng chính chân, thành Bậc Tối chính Giác, hiệu là Bảo Anh Như Lai Chí Chân Đẳng chính Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu, thọ mạng một kiếp, tuệ giác bình đẳng, chư Thanh văn nhiều, ít đồng nhau không khác, các chúng Bồ-tát cũng như thế. Sau khi diệt độ, thời gian chính pháp trụ đời cũng không khác. Khi ấy, Phật nói bài tụng: Các Thanh văn này Tất cả hai ngàn Nay đều đứng đấy Ở trước Thế Tôn Những Thánh trí này Phật đều thọ ký Vào đời tương lai Sẽ được thành Phật Thị hiện hiển bày Vô lượng thí dụ Gặp các Đức Phật Đều sẽ cúng dường Rồi sẽ đạt được Đạo cả Vô thượng Trong khi tu đạo Vẫn được tự tại Danh hạnh khác nhau Đi khắp mười phương Đều tu nhẫn nhục Trong khoảng sát-na Trở về một chỗ Ngồi dưới tàng cây Sẽ đạt Phật đạo Thành tựu trí tuệ Đều thành chính giác Tất cả cùng hiệu Gọi là Bảo Anh Danh vang thế giới Cõi nước chư Phật Bằng phẳng đẹp đẽ Các chúng Thanh văn Thảy đều như nhau Thần túc quang minh Khắp cả cõi đời Vòng quanh tất cả Mười phương quốc độ Phân biệt kinh pháp Làm nơi nương tựa chính pháp tồn tại Như nhau không khác. Khi ấy, các Thanh văn Hữu học nghe Phật thọ ký, vui mừng phấn chấn liền khen ngợi tán thán Đức Phật: Con nghe Phật thọ ký Như ánh sáng chiếu soi Như được rưới cam lộ Được bình an vô lượng. KINH chính PHÁP HOA <卷 id="83085242">Quyển 6 <詞 id="83085243">Phẩm 10: DƯỢC VƯƠNG NHƯ LAI Phật bảo các Tỳ-kheo: –Đạo pháp chỉ có một chứ không có Nhị thừa, nghĩa là đạo Vô thượng chính chân từ xưa tới nay không có hai chính. Thí như các sông ngòi ở bốn phương chảy về biển hiệp thành một vị; như mặt trời tỏa chiếu soi sáng khắp nơi, chưa từng tăng giảm. Nếu thiện nam muốn đạt đến chính giác, liễu ngộ không có ba đường ác, không có quá khứ, vị lai, hiện tại, thì phải học và thọ trì kinh chính Pháp Hoa, phân biệt không tuệ, không có tưởng về sáu pháp Ba-la-mật, chẳng dùng hương, hoa, kỹ nhạc cúng dường mà là cúng dường vậy. Các ông phải liễu ngộ ba giải thoát, đến được trí tuệ vô cực của tam đạt trí mới là cúng dường. Vì sao? Bởi vì từ xưa, trong vô lượng kiếp lâu xa khó tính đếm, về trước bấy giờ có Đức Phật hiệu là Dược Vương Như Lai Chí Chân, Đẳng chính giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu; thế giới tên là Đại tịnh, kiếp tên là Tịnh trừ. Dược Vương Như Lai thọ hai mươi trung kiếp; các chúng Thanh văn có ba mươi sáu ức; Bồ-tát Đại só có mười hai ức. Khi ấy có vị Chuyển luân thánh vương tên là Bảo Cái cai quản bốn khu vực. Vua có một ngàn người con tuấn tú, dũng mạnh, có bảy vị bề tôi Thánh đức hàng phục địch quân. Vua ấy cúng dường Đức Dược Vương Như Lai đủ suốt trong năm trung kiếp; vua cùng với quyến thuộc, tất cả đều hết lòng phụng kính Đức Phật Dược Vương. Sau năm trung kiếp vua bảo với một ngàn người con: –Ta đã cúng dường hầu hạ Như Lai, các con cũng phải tuân theo nề nếp đó. Khi ấy, các người con nghe lời vua cha dạy, lại cúng dường Đức Dược Vương Như Lai trong năm kiếp, dâng cúng đồ thượng diệu, thích hợp an lành. Trong đó, có một thái tử tên là Thiện Cái ở nơi vắng vẻ một mình suy nghó: “Nay chúng ta cúng dường Đức Như Lai, nhưng có cách nào đặc thù hơn cách này chăng?” Trên hư không có một vị trời nương oai thần của Phật nói với Thái tử: –Thiện nam, nay muốn biết chăng? Có một pháp cúng dường tôn quý vô cùng. Thái tử hỏi: –Pháp cúng dường ấy gọi là gì? Vị Trời đáp: –Thái tử nên đến hỏi Đức Dược Vương Như Lai. Ngài sẽ giảng rõ cho Thái tử. Thiện Cái liền đi đến chỗ Dược Vương, cúi đầu sát đất bạch với Đức Phật: –Bạch Thế Tôn! Pháp cúng dường thuận hợp với kinh điển phải như thế nào? Thế Tôn dạy: –Pháp cúng dường thuận hợp với kinh điển thâm diệu uyên áo mà Như Lai đã nói là Khai hóa cho tất cả chúng sinh khó lãnh hội, khó hiểu biết ở thế gian, xuất gia xả lợi, có chí cầu kho báu của Bồ-tát, ở trong chốn vắng vẻ xa xôi, dùng ấn Tổng trì mà quán chiếu, nổ lực tinh tấn không thoái chuyển, thể đạt Trí tuệ vô cực của sáu pháp Ba-la-mật, thiết tha nắm trọn đạo phẩm của Phật, chẳng khởi pháp nhẫn, mở cánh cửa, đi sâu vào chính điển; có tâm đại Từ bi đối với chúng sinh, hàng phục quân ma, lìa các kiến chấp, thấu hiểu, diễn đạt thông suốt mười hai nhân duyên, không chấp ngã, không chấp nhân, không chấp thọ, chẳng chấp mạng, có chí mong cầu các pháp Không, Vô nguyện, Vô tướng, chẳng duyên với các hành; ở nơi đạo tràng mà chuyển pháp luân, khuyên dạy các chúng Trời, Rồng, Kiền-đạp-hòa,… khiến không ai là không quy ngưỡng, khai mở kho chính pháp, bảo hộ Hiền thánh, tuyên dương, hiển bày các hạnh Bồ-tát, giải thoát hoàn toàn các khổ, không chấp ngã, chẳng chấp thân; vì chúng sinh vi phạm cấm giới nên lập ra các phương tiện. Các ma và dị đạo rơi vào kiến chấp điên đảo, tham đắm hữu vi, thường ôm lòng sợ sệt nên phải kêu than. Công đức của chư Phật khiến họ diệt sinh tử, được dứt trừ tai họa và được yên ổn giải thoát. Cần phải tán thán chư Phật trong quá khứ, vị lai và hiện tại như thế, và phải phân tích thấu đáo sắc tượng vi diệu, tổng trì tất cả cội nguồn các pháp và pháp nhẫn; mở bày, tuyên thuyết, xiển dương các cảnh giới, tùy phương tiện mà cúng dường chính pháp. Đó là cúng dường pháp. Đối với các kinh, tâm chí luôn trụ trong pháp nhẫn, diễn bày kinh điển, theo đó lặp đi lặp lại nhiều lần, giảng giải pháp yếu, không có các tà kiến, không khởi niệm tin chấp vào quan điểm: “Không từ đâu sinh”, thể nhập lý nhân duyên, thấy rõ vô ngã, vô nhân nên không sân hận, không tranh cãi, không kiện tụng; thấy rõ lý vô ngã, vô thọ, y cứ vào nghĩa lý ngôn từ mà trí không vướng mắc vào sự hiểu biết, không buông thả, chế ngự tâm thức, trụ tâm vào pháp “vô sở trụ”; biết nghĩa lý mục đích, nhờ đó chỉ rõ nghĩa lý sai lầm, gạn lọc, làm lưu thông các pháp chướng ngại, chẳng gây cho người nghe thấy sự ỷ lại vào chân đế mà quay về đúng như pháp vô trước, vô nhập; đoạn trừ tâm niệm vướng mắc, ỷ lại diệt các ngu si; sinh, lão, bệnh, tử đều trừ sạch, luôn quán mười hai nhân duyên, gặp những kiến chấp sai lầm không rơi vào vòng điên đảo. Đó là sự cúng dường pháp của các thiện nam. Vương tử Thiện Cái vừa nghe Đức Phật Dược Vương giảng về sự cúng dường pháp xong, ngay khi ấy đạt được pháp nhẫn nhu thuận, liền cởi áo trên thân mình choàng lên thân Phật, rồi thưa với Đức Thế Tôn: –Bạch Thế Tôn! Cúi xin Thánh ân chứng minh cho sự lập nguyện của con: Sau khi Như Lai diệt độ, con nguyện hộ trì chính pháp, cúng dường làm hưng thanh chính pháp, hàng phục quân ma và sẽ tiếp nối giáo pháp trong tương lai. Khi ấy Đức Phật biết tâm niệm của vương tử, vào đời tương lai sẽ là thành trì giữ gìn chính pháp, nên bảo với chúng Tỳ-kheo: –Vương tử Thiện Cái do trong đời Phật hiện tại, có lòng tin vững chắc, xuất gia hành đạo, luôn tinh tấn tu học, làm phát khởi cội nguồn của các công đức, chẳng bao lâu sẽ thành tựu năm phép thần thông, có sức tổng trì và biện tài vô ngại. Sau khi Phật diệt độ, vị ấy sẽ đạt được đầy đủ sức thần thông tổng trì vô sở úy và ở trong mười trung kiếp, sẽ chuyển pháp luân, truyền bá kinh pháp mà Đức Như Lai Dược Vương đã dạy. Do Tỳ-kheo Thiện Cái hộ trì chính pháp, giáo hóa suốt trong một đời, nên ngàn ức người đều phát tâm Vô thượng chính chân, không thoái chuyển; vô lượng người trụ bậc Thanh văn, Duyên giác, vô số người được sinh Thiên. Các Tỳ-kheo muốn biết vua Bảo Cái lúc ấy là ai chăng? Đâu phải ai xa lạ, mà chính là Phật Bảo Diệm, Bậc Như Lai Chí Chân Đẳng chính Giác hiện nay. Ngàn người con của vua chính là ngàn Đức Phật xuất thế ở trong hiền kiếp này. Vị đầu tiên là Đức Như Lai Câu-lâu-tần, vị thành Phật sau cùng tên là Hân Lạc; còn Thái tử Thiện Cái chính là thân ta hiện nay. Do vậy các Tỳ-kheo nên biết rằng tất cả sự cúng dường không vượt qua sự cúng dường Pháp, vì chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại đều do đó mà thành. Nếu thiện nam, thiện nữ muốn được cúng dường mười phương chư Phật, thì nên thọ trì kinh chính Pháp Hoa, đọc tụng, tuyên thuyết, chỉ bày cho tất cả chúng sinh phân biệt rõ là chỉ có một thừa, không có ba thừa. Khi ấy Phật nói bài tụng: Giả sử có người Muốn hiểu đại pháp Khai hóa tất cả Đều đạt chính pháp, Thì nên thọ trì Kinh Pháp Hoa này Chỉ bày xa gần Cho người chưa nghe. Như các dòng sông Đều xuôi về biển Hợp thành một vị Chẳng có gì khác, Thanh văn, Duyên giác Và Bồ-tát đạo Tất cả quy về Vô thượng chính chân. Ví như nhật nguyệt Chiếu khắp trần gian Trăm loại lúa, thuốc Gai gốc, cỏù cây, Pháp Phật cũng thế Dùng tuệ vô cực Chiếu soi tam giới Đều vào một nghĩa. Xưa có Đức Phật Hiệu là Dược Vương Và vị Thánh vương Tên là Bảo Cái Năm kiếp cúng dường Đức Phật Dược Vương Tất cả đồ dùng Không hề thiếu thốn. Rồi bảo ngàn con Khiến cúng dường Phật Ngàn con vâng lời Lòng đều mừng vui Cúng dường Đức Phật Cũng đủ năm kiếp Ăn uống giường nằm Phướn lọng, kỹ nhạc. Thái tử Thiện Cái Nơi vắng, tự nghó: Có pháp cúng nào Hơn pháp cúng này? Trên không, trời bảo Cúng pháp hơn hết. Chàng liền thưa hỏi: Cúng pháp là gì? Vị trời trả lời Nên đến hỏi Phật. Thái tử hỏi Phật Phật giảng đầy đủ Tạng pháp thâm diệu Cú nghĩa khó hiểu: Không, Vô tướng, Nguyện Thể nhập chính tuệ Đại từ, Đại Bi Hàng phục chúng ma Sáu mươi hai kiến Tự nhiên trừ được. Các việc vô thường Khổ, không, phi thân Vô ngã, vô nhân Vô thọ, vô mạng Thuận theo sẽ được Chẳng khởi pháp nhẫn Chuyển bất thoái luân Chiếu soi các pháp Mười hai nhân duyên Triển chuyển tương sinh Rõ pháp vốn không Không có thỉ, chung. Khi ấy Thiện Cái Đạt tâm nhẫn thuận Sau khi Phật diệt Giữ thành chính pháp Tinh tấn không lười Chứng đắc ngũ thông Tổng trì biện tài Khai hóa tất cả Cả ngàn ức người Đều trụ đại đạo Mười bốn vạn tỷ Thanh văn, Duyên giác Số người vô lượng Được sinh cõi trời Vì vậy ngợi khen Cúng pháp là nhất Giả sử có người Muốn cúng dường pháp Thì nên thọ trì Kinh chính Pháp Hoa Hiểu rõ Như Lai Khéo dùng phương tiện Không có Nhị thừa Đều quy về một. Lúc bấy giờ, nhân có Đại só Dược Vương và các vị Bồ-tát, Đức Phật bảo với tám vạn Bồ-tát: –Hãy quán sát bốn bộ chúng này, có vô số ức Trời, Rồng, Quỷ, Thần, A-tu-luân, Ca-lưu-la, Chân-đà-la, Kiền-đạp-hòa, Ma-hưu-lặc, Nhân phi nhân, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát, hiện tại mắt thấy tai nghe Như Lai nói kinh này. Tất cả người trong hội chúng dù nghe một câu kệ, một bài tụng, chỉ phát khởi một ý niệm hoan hỷ tán trợ, ta đều thọ ký cho bốn bộ chúng sẽ đắc đạo Vô thượng chính chân. Đức Phật bảo Bồ-tát Dược Vương: –Nếu sau khi Như Lai diệt độ, người nào nghe một bài tụng bốn câu của kinh này, mà trong khoảnh khắc khởi tâm tán thán thì ta cũng thọ ký sẽ đắc đạo Vô thượng chính chân. Phải biết người đó trong quá khứ đã từng hầu hạ trăm ngàn Đức Phật, đã theo trăm ngàn ức Đức Phật phát tâm lập nguyện. Những bậc như thế vì thương xót chúng sinh nên đời sau cũng theo kinh này mà thọ trì, đọc tụng, dù một bài tụng, biên chép trên tre, lụa vẫn khắc ghi nhớ mãi không quên; hoặc nghe âm thanh đọc tụng cung kính quán sát liền biết là văn cú cao tột của Như Lai Thánh Tôn, hoặc dùng hương hoa, gấm lụa, tràng phan, phát tâm cúng dường quyển kinh ấy, chắp tay hướng về kinh, cúi đầu làm lễ thì người ấy được gọi là chỗ quy ngưỡng của thế gian. Lại bảo Bồ-tát Dược Vương: –Nếu thiện nam, thiện nữ nào có thể thọ trì một bài tụng, khuyến khích, hỗ trợ, hoan hỷ khi nghe tên kinh, hoặc được nghe tên kinh rồi học tập tìm hiểu, thì Đức Thế Tôn sẽ lần lượt thọ ký cho thiện nam, thiện nữ ấy tương lai sẽ thành Bậc Như Lai Chí Chân Đẳng chính Giác. Vì sao? Những ai vâng theo kinh này đọc tụng, sao chép, xem, nghe cúng dường tràng phan, hương hoa, lụa là và các thứ hương xông, thì phải biết các thiện nam, tín nữ ấy sẽ thành đạo Vô thượng chính chân. Sau khi diệt độ, nếu gặp Như Lai, thì sẽ trải tình thương đến khắp chư Thiên và loài người, theo sở nguyện của mình mà tâm được tự tại, thường sinh vào cõi người mong muốn diễn nói kinh này. Người ấy vốn đã lập hạnh vi diệu. Do việc đã làm, sẽ sinh vào cõi Phật nghiêm tịnh, thường quán sát nhân duyên để giảng kinh pháp. Phải biết hạng người này thương xót chúng sinh, nên sau khi Phật diệt độ sẽ sinh vào chốn này. Nếu có người làm trái với lời dạy của Như Lai, thì thiện nam ấy sẽ khuyên bảo người ấy làm Phật sự theo và lời dạy của Thế Tôn. Có người giảng thuyết lời dạy của Như Lai nhưng những điều giảng giải ấy, nếu chẳng thông suốt thì người ấy tiếp tục tìm hiểu. Giả sử có người tính tình hung hiểm, thường ôm lòng độc hại, chỉ khởi niệm bôi nhọ vị ấy thì tội lỗi khó lường. Nếu trong một kiếp phỉ báng Như Lai, hủy báng vị ấy, thì tội lỗi bằng nhau không khác. Khi vị thiện nam giảng kinh này, nếu có trẻ con thọ trì kinh ấy nhưng có bạch y, Sa-môn dùng lời lẽ thô ác nói với chúng, đem điều bất như ý gán cho chúng, khiến chúng nghe lời nói ác cho là thật, rồi sai lầm loan truyền tiếng oán than, thì sẽ mang tội ác, giống như có ý hại Đức Như Lai. Nếu thiện nam, thiện nữ nào thọ trì, đọc tụng kinh này mà không du hóa, giảng thuyết cho người khác thì sẽ có lỗi. Nếu có thọ trì kinh này thì phải dùng y phục, thức ăn ngon, hương hoa, đèn lửa, trân châu tốt đẹp mà cúng dường và tôn phụng các thiện nam, thiện nữ ấy là bậc đại bảo, xứng đáng được đảnh lễ. Vì sao? Chính vì có thể một lần được nghe kinh điển này. Nếu ai nghe kinh điển này mà cúng dường thì do đó sẽ có chí nguyện Vô thượng chính chân. Khi ấy Phật nói bài tụng: Nếu muốn trụ Phật đạo Chí ngưỡng mộ công đức Nên cúng dường những ai Đã thọ trì kinh này Nếu ưa pháp thông tuệ Tùy hỷ theo nghe pháp Nên thọ trì kinh này Và cúng dường người trì. Người nói kinh pháp này Thương xót các chúng sinh Lớn tiếng giữa cõi đời Đến giáo hóa muôn loài, Nếu ai trì kinh này Trọn đời luôn tinh tấn Tâm dũng mãnh tự đến Thương xót các chúng sinh Muốn sinh đâu tùy ý Rốt sau vào cõi đời Theo duyên ấy được gặp Kinh điển tối thượng này Và sẽ được cúng dường Hương hoa của trời, người Y phục và tàng lọng Thường cúng cho Pháp sư Luôn kính người ấy Như cung kính Phật Chắp tay làm lễ Thánh đạo tự nhiên Vào đời sau chót Gặp được kinh này. Phật diệt độ rồi Thọ trì đọc tụng Phải luôn cúng dường Như tôn phụng Phật Các loại đồ ăn Đầy đủ vị ngon Phòng ốc giường nằm Vô số y phục Một lần được nghe Cung phụng như thế Người ấy sẽ được Như Lai thọ ký Ta khiến vị ấy Sinh vào nhân gian Đến đời sau cùng Gặp được kinh này Giả sử người nghe Biên chép thọ trì Thì ngay khi ấy Phật hiện trước mặt Phỉ báng Như Lai Trọn cả một kiếp Trong lòng ôm hận Sắc mặt biến đổi Kẻ ấy liền gặp Vô số họa vương. Giả sử có người Thọ trì kinh này Rồi phân biệt nói Vì người giảng giải Mà ai phỉ báng Thì bọn người này Tội còn nặng hơn Không thể kể xiết. Giả sử có người Hiện tiền khen Phật Hai tay chắp lại Trọn trong một kiếp Thanh tịnh chí thành Tôn vinh Phật đạo Ức trăm ngàn vạn Người nào tán tụng Ca ngợi Pháp sư Khởi tâm hoan hỷ Người ấy được phước Chẳng thể cùng tận, Do đã tán dương Đức bậc trí sáng Người ấy được phước Hơn hẳn người trên. Rồi có người đến Cúng dường người học Ở trong mười tám Ngàn muôn ức kiếp Người ấy cúng dường Món ăn trân quý Hương hoa cõi trời Nhẹ mềm đẹp đẽ Trong vô số kiếp Mười tám ngàn muôn Vui vẻ hòa nhã Chịu khổ hiến cúng Nếu có một lần Nghe được kinh này Được vui lợi ích Không gì sánh kịp. Phật bảo Bồ-tát Dược Vương: –Ta đã có lần tuyên bố là kinh điển mà ta đã nói trước, sau nhiều vô lượng, kinh điển vừa nói và đang nói cũng rất nhiều, so với tất cả các pháp thế gian thì danh vị rõ ràng bao quát, cao cả đệ nhất; những người không tin, không ưa trong khắp thiên hạ, đối với Như Lai chính giác không hủy hoại được, chúng ở trong chỗ vắng, theo rình hại Pháp sư thọ trì kinh này, nhưng được oai lực của Như Lai hộ trì, nên chúng không thể phá hoại được, chính là nhờ đời trước đã từng được nghe kinh này. Đức Như Lai hiện còn, có người nghe kinh này, nhưng phần nhiều phỉ báng, huống là sau khi Như Lai diệt độ, khó mà gặp được. Nếu ai có chí nguyện mong cầu thì sẽ được che chở. Quán thấy thiện nam, tín nữ như thế. Các Đức Như Lai hiện tại ở thế giới khác đều chiếu cố. Do tự thân ghi nhớ những pháp đã được nghe nhờ sức tin tưởng, sức thiện căn, sức chí nguyện, nên họ được ở một chỗ trong nhà Như Lai, đó là do cùng loại phước đức nên được như thế. Cầu nước cam lộ của Như Lai, đặt trọn niềm tin vào tay Phật, đó chính là do hạnh nguyện đời trước mà đạt được. Sau khi Phật diệt độ, nếu có người tin tưởng kinh chính Pháp Hoa này mà thọ trì, sao chép, cúng dường, làm theo, vì người khác giảng thuyết thì phước đức cũng bằng như thế. Phật bảo Bồ-tát Dược Vương: –Nếu có người thường giảng dạy, sao chép, đọc kinh này thì ở chỗ người ấy, nên lập chùa thờ Phật, dùng nhiều châu báu xây dựng cho cao rộng, to lớn, không cần phải thờ xá-lợi Phật. Vì sao? Vì trong ấy đã chứa tất cả xá-lợi của Như Lai. Nơi nào có nói kinh pháp này thì nên phúng tụng, ca vịnh, sao chép; sao chép trên tre, lụa thành quyển kinh rồi, nên cung phụng như là chùa tháp Phật, hướng về làm lễ, cúng dường tất cả hương hoa, các loại hương thơm, hương xông, đờn cầm, đờn sắc, không hầu, tràng phan, lọng gấm. Nếu có chúng sinh nào muốn có chùa Phật để cung kính lễ bái thì nên gần gũi kinh pháp Vô thượng này. Lại bảo Dược Vương: –Có nhiều Bồ-tát xuất gia hành đạo và phàm phu bạch y hành pháp Bồ-tát không thể gặp được kinh điển ấy để đọc tụng, sao chép, cúng dường; có vị hành hạnh Bồ-tát, hiểu rõ quyền nghi, giả sử được nghe cảnh giới Phật, pháp hạnh và việc làm của Bồ-tát mà tin tưởng ưa thích, thâm nhập pháp ấy, diễn đạt rõ ràng, liền nhận được sự cúng dường; ở trên tòa ngồi, sắp đạt đến đạo Vô thượng chính chân. Nếu có người gặp bậc Bồ-tát ấy, thâm nhập ý nghĩa này thì phước đức không thể kể xiết. Ví như một người quá khát tìm nước, bỏ nơi đất bằng mà đào tìm nước nơi gò cao, ngày ngày ra công đào xới nhưng chỉ thấy đất khô; trải qua nhiều ngày tháng nhưng mạch nước ngầm vẫn xa xăm, nên không có nước. Lại vào thời gian khác, người ấy đào đất rất sâu mới thấy nước bùn, dơ bẩn không thế uống được. Người ấy phải làm sao? Người ấy không chán nản, đào xuống thêm nữa thì có nước. Khi ấy, người kia thấy hiện tượng tốt thì không còn hồ nghi, không còn do dự nữa, tự nhủ: “Ta bỏ công sức, trải qua ngày tháng, bây giờ mới gặp được nước.” Cũng như vậy, này Dược Vương, nếu có Bồ-tát nghe kinh điển này mà không thọ trì, tụng đọc, học hỏi thì cách đạo Vô thượng chính chân còn rất xa vậy. Những vị tu tập Bồ-tát hạnh ấy, nếu nghe kinh chính Pháp Hoa này mà đọc tụng, chuyên cần tu tập, tâm luôn ghi nhớ và theo đó thực hành, thì mới mau thành tựu quả vị Tối chính giác. Tất cả Bồ-tát, nếu có vị nào không chịu thọ trì, đọc tụng, tu hành (kinh này) thì không thể đạt được đạo Vô thượng chính chân, thành Bậc Tối chính Giác. Vì sao? Trước đây ta đã từng tuyên bố thế này: “Nếu có người không ưa thích kinh này thì còn cách các Đức Như Lai rất xa.” Kinh này là đầu mối của đạo pháp, là cội nguồn trí tuệ, thành tựu cho chư Bồ-tát. Nếu có Bồ-tát nghe kinh này kinh hãi sợ sệt và không ưa thích thì nên biết vị ấy là Bồ-tát sơ học. Nếu không kinh sợ thì đó là vị tu hạnh Bồ-tát đã lâu. Nếu Thanh văn gặp được kinh pháp này mà kinh hãi sợ sệt thì kẻ ấy có tâm kiêu mạn, phóng túng. Phật nói với Dược Vương: –Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có Bồ-tát Đại Só muốn đem kinh này nói cho bốn bộ chúng, thì phải mặc áo Như Lai, ngồi tòa Sư tử của Thế Tôn, sau đó mới tuyên thuyết kinh này cho bốn bộ chúng. Thế nào là mặc áo Như Lai? Đó là tâm nhẫn nhục, nhu hòa, an ổn; như vậy gọi là mặc áo Như Lai. Các thiện nam phải tu tập tâm ấy. Thế nào là ngồi tòa Sư tử của Thế Tôn? Hiểu rõ tất cả pháp đều là Không tịch, an trú Vô tướng, Vô nguyện, đó gọi là ngồi tòa Sư tử của Thế Tôn. Các thiện nam phải an trụ vào chỗ ngồi như thế rồi mới đem kinh pháp này rộng nói phân biệt cho hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Trời, Rồng, Quỷ, Thần; tâm vị ấy dũng mãnh không khiếp nhược, chí theo đạo lớn giảng bày cho bốn chúng. Vị thiện nam ấy, nếu ở thế giới tại phương khác, hóa làm người và quyến thuộc hay Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di truyền bá pháp này, nhưng nếu có người nghe mà không ưa thích thì ta liền làm cho họ vui vẻ, khiến họ ưa thích. Nếu ở chỗ vắng vẻ, đồng trống có Trời, Rồng, Kiền-đạp-hòa, A-tu-luân, Ca-lưu-la, Chân-đà-la, Ma-hưu-lặc, ta sẽ sai hóa nhân nói kinh pháp cho họ. Tuy ta ở quốc độ khác, cũng tự hiện thân khiến mọi người trông thấy. Nếu người thọ trì kinh điển này mà chẳng nhớ hiểu nghĩa kinh, quên mất thứ tự thì ta sẽ khiến cho người tụng đọc, học hỏi, nương vào oai thần của ta mà thấu đạt được thứ tự, ý nghó. Khi ấy Đức Thế Tôn liền nói kệ: Dứt bỏ hết khiếp nhược Nên lắng nghe kinh này Pháp này khó gặp được Người tin cũng khó gặp Như người muốn tìm nước Đào tìm ở gò cao Dù luôn luôn gắng sức Chỉ thấy đất khô thôi. Vị ấy thấy tự nghó Nước ấy còn rất xa. Tiếp tục đào sâu xuống Lại gặp đất khô cằn Sau đó đào càng sâu Dần thấy đất ướt hiện Khi đó lòng hết nghi Nay đã gần tới nước. Ai không nghe kinh này Chẳng thường luôn tu hành Người ấy cách xa đạo Cách tuệ Phật cũng thế, Kinh này rất cao vời Rõ các việc Thanh văn Nghe kinh tối cao này Nghe rồi suy nghó nghĩa Thì được gần đạo lớn. Người trí thành Thánh tuệ Giống như thấy đất ướt Mới biết là có nước Nên vào nhà của Phật Mặc áo của Như Lai Ngồi Thánh tòa Như Lai Người trí nói điều này Lòng từ là vào nhà Nhẫn, nhu hòa là áo Hiểu “Không”, tòa Sư tử Rồi nói không sợ sệt Bị dao, ngói, đá đánh Bị người khác nhục mạ Vì để nói pháp này Ta đều nhẫn lời ấy Dạo trong ngàn ức cõi Thân ta vẫn kiên trì Số kiếp chẳng nghó bàn Vì chúng sinh phân biệt Sau khi Phật diệt độ Vì chúng trừ oán kết Khiến nhiều các hóa nhân Để nói kinh điển này Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni Thiện tín nam và nữ Nên cúng những vị ấy Và những vị đến nghe Đá, gậy đánh, mắng nhiếc Ôm hận, nói lời ác Nếu có điềm dữ này Hóa nhân sẽ răn dạy. Giả sử ở một mình Phúng tụng và tu tập Chẳng bị tiếng hung dữ Đến thẳng chốn an tịnh Tại đó người ấy tu Ngày đêm chỉ một mình Ta sai người đến cùng Làm bạn, thuyết kinh này. Người ấy biện tài Không gì vướng mắc Nhiều tài, thấu rõ Thuận theo các pháp Khiến người hân hoan Ức trăm ngàn vạn Giống sự kiến lập Của chư Phật thánh Giả sử có người Chẳng nương pháp ấy Thì gọi họ là Các nghịch Bồ-tát Người học, du hành Hoặc ngồi tại chỗ Được thấy chư Phật Như cát sông Hằng.  <詞 id="83085244">Phẩm 11: THÁP BẢY BÁU Lúc bấy giờ, trước Phật, có tháp bảy báu từ đất hiện lên, cao hai vạn dặm. Vừa hiện lên, nhiễu Phật, rồi vọt lên trụ trên hư không. Tháp ấy màu sắc đẹp đẽ lạ thường, biến đổi ngàn màu; có năm loại hoa rải trên tháp ấy, rơi lả tả như tuyết. Giảng đường của tháp đẹp đẽ trang nghiêm, do vô số vật báu hợp lại tạo thành; trăm ngàn lan can, cửa sổ, cửa lớn, chẳng thể kể xiết; các loại tràng phan, tàng lọng treo rủ xuống; ngọc báu anh lạc, các thứ minh châu đầy khắp hư không giống các vì tinh tú; trong lư hương, bình báu đầy ắp các loại danh hương; mùi gỗ Chiên-đàn, tỏa ngát hương thơm cùng khắp. Dùng vàng bạc, lưu ly, thủy tinh, san hô, hổ phách, xa cừ, mã não của các cõi Phật trong tam thiên đại thiên thế giới làm lọng báu; lọng ấy cao tận tầng trời thứ nhất. Chư Thiên cõi trời Đao-lợi và Tứ Thiên vương đều rải hương hoa cúng dường tháp bảy báu. Trong tháp ấy, tự nhiên phát ra tiếng khen ngợi: “Lành thay, lành thay! Thế Tôn an trú, đúng như đã nói, đạo đức huyền diệu, cao vời không ai sánh bằng, trí tuệ bình đẳng giống như hư không, chân thật, không gì sai khác.” Khi ấy bốn bộ chúng thấy tháp bảy báu ở trên hư không cao lớn vi diệu, ánh sáng chiếu rực, soi chiếu khắp nơi, đều khen: “Lành thay!” và mừng vui phấn chấn, đứng chắp tay, chiêm ngưỡng không chán. Lúc đó có vị Bồ-tát tên là Đại Biện thấy chư Thiên, loài người, trong lòng do dự, vừa lo, vừa mừng, muốn biết hiện tượng này là gì, nên liền đến trước Phật thưa hỏi: –Kính bạch Thế Tôn! Nay vì duyên cớ gì mà tháp bảy báu cao rộng vô cùng, hiện ra trước Thế Tôn ai ai cũng thấy? Bảo tháp ấy còn tự nhiên phát ra lời khen ngợi. “Lành thay!” Do cảm ứng điều gì mà có hiện tượng này? Thế Tôn bảo với Bồ-tát Đại Biện: –Trong tháp báu này, có thân Như Lai nguyên vẹn hoàn toàn, không có khuyết hoại. Tại thế giới chư Phật ở phương Đông, cách đây không thể tính biết, có Đức Phật hiệu là Đa Bảo, tên nước là Bảo tịnh, khi còn hành đạo đã tự phát nguyện: “Ta sẽ quyết dùng kinh chính Pháp Hoa này để tu hành đạo, khiến các Bồ-tát đều được nghe. Sau đó mới ngồi dưới gốc cây Bồ-đề, chứng thành đạo Vô thượng chính chân.” Do chí nguyện ấy của Phật cho nên kết quả đúng như lời nguyện, Ngài đã giảng thuyết kinh pháp khắp mười phương khai hóa tất cả chúng sinh đều được thành tựu đạo quả. Khi sắp diệt độ, Đức Phật đã dạy chư Thiên, người thế gian và chư Tỳ-kheo: “Sau khi ta diệt độ, phải phụng thờ thân Như Lai, bảo toàn thân ấy một cách hoàn hảo và an trí trong một ngôi đại tháp. Nếu ai thấy tháp ấy, thì biết là có Như Lai trong đó, công đức người ấy khó lường.” Bấy giờ, Đức Phật đã lập lời nguyện rộng lớn thế này: “Ở mười phương thế giới, nơi nào có giảng kinh Pháp Hoa này, thì tháp bảy báu của ta sẽ hiện ra trước chỗ Phật nói kinh ấy, thân xá-lợi ở trong tháp bảy báu sẽ khen rằng: “Hay thay!” Phật bảo Đại Biện: –Tháp bảy báu ấy ở cõi phía dưới về phương Đông, cách đây vô lượng hằng hà sa cõi Phật, trụ giữa hư không, chưa từng xuất hiện. Đức Phật ấy nay thấy ta, Đức Năng Nhân Như Lai, Bậc chính Giác, khi tu hành đạo Bồ-tát, vì chúng sinh không tiếc thân mạng, tinh tấn không giải đãi, thực hành phương tiện khéo léo, bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, nhất tâm, trí tuệ, xin đầu cho đầu, xin mắt cho mắt, xin mũi cho mũi, xin tai cho tai, cho đến tay, chân, các bộ phận trong thân, vợ con, người hầu, bảy báu, xe cộ, voi ngựa, y phục, quốc thành, tụ lạc, tùy ý người xin, không có tâm luyến tiếc, cho đến khi đắc Phật quả, nên hiện đến đây để thăm ta và muốn ta ngồi trên tòa vàng sư tử của Ngài để giảng kinh chính Pháp Hoa, khai hóa cho tất cả chúng sinh, khiến họ đều được thấm nhuần ân đức của Đức Phật Thích-ca liền theo đúng như nguyện của Đức Phật ấy, lên ngồi trên sư tử ở giảng đường, phân biệt, giảng thuyết kinh chính Pháp Hoa, rồi nói bài tụng: Ai nghe Phật Đa Bảo Biết danh hiệu của Ngài Trước sau chưa từng sợ Lại không gặp nạn khổ, Nếu nghe tên Dược Vương Và nhớ danh hiệu Ngài Các bệnh tự lành dứt Liền biết được túc mạng. Tất cả sự cúng dường Kính pháp là hơn hết Phân biệt không, vô tuệ Tự đắc thành Phật quả, Nói thông kinh Pháp Hoa Để chỉ hàng thấp kém Hiểu vốn không ba thừa Chỉ một thừa Vô thượng. Phật bảo Đại Biện: –Nay Đức Đa Bảo Như Lai Chí Chân, ở trong tháp ấy, xa nghe ta thuyết kinh Pháp Hoa này, cho nên xuất hiện, khen ngợi: “Lành thay!” Bồ-tát Đại Biện lại thưa Phật: –Bạch Thế Tôn! Chúng con cùng các vị trong pháp hội này nay muốn được chiêm ngưỡng thân tướng của Đức Phật Đa Bảo. Cúi xin Thế Tôn thương xót gia ân, dùng oai thần khiến cho người trong chúng hội đều được phát tâm đạo lớn. Phật bảo Bồ-tát Đại Biện: –Đức Phật Đa Bảo vốn cũng đã phát nguyện: “Tháp của ta đến phương nào để nghe kinh điển này, nếu chư Như Lai và bốn bộ chúng muốn thấy thân ta thì tùy theo ước muốn đó, tất cả mười phương Phật đều phải được thấy, đều cùng cúng dường hóa tượng này.” Này Đại Biện muốn biết thân ta cũng phải cảm được mười phương chư Phật khiến cho hóa thân của Như Lai ở tất cả thế giới đang thuyết pháp đều về nơi đây. Bấy giờ Bồ-tát Đại Biện lại thưa Phật: –Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn thương xót gia ân làm hiện rõ thánh đức của chư Phật trong tất cả mười phương quốc độ! Đức Phật im lặng nhận lời, tức thời từ nơi lông trắng giữa đôi mày phóng ra hào quang vi diệu, chiếu khắp năm trăm hằng hà sa số, ức trăm ngàn quốc độ của chư Phật. Tất cả Thế Tôn đều hiện rõ ngay nơi quốc độ của các Ngài, ngồi dưới cội cây, trên tòa Sư tử trang nghiêm kỳ diệu và với vô số trăm ngàn Bồ-tát ngồi trên tọa cụ tốt đẹp, trang nghiêm bằng châu báu, đẹp đẽ lạ thường; dây lụa, tràng phan, bảo cái treo rủ xuống bốn phía tòa ngồi của chư Phật. Các Ngài đang vì chúng sinh giảng thuyết kinh pháp, âm thanh nhu hòa ai cũng thông hiểu. Trăm ngàn Bồ-tát mở lòng thọ nhận những điều đã nghe. Vô số trăm ngàn vạn ức hằng hà sa thế giới chư Phật ở bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc, phương trên và phương dưới cũng đều như thế, không đâu là không thấy. Khi ấy chư Phật ở mười phương đều bảo với chư Bồ-tát: –Các thiện nam! Các ông nên đi đến thế giới Kham nhẫn thăm viếng Đức Phật Như Lai Năng Nhân Chí Chân và chiêm ngưỡng hình tượng cùng tháp của Đa Bảo Thế Tôn. Lúc bấy giờ, ở thế giới Kham nhẫn tất cả công đức lành huân tập và oai thần vi diệu, đặc thù đều tự nhiên hiện ra; các cây bảy báu xuất hiện chung quanh; mặt đất biến thành lưu ly xanh biếc, dây bằng vàng ròng giăng dài, nối tiếc trang hoàng tám giao lộ mặt đất bằng phẳng; các quận, huyện, ấp, xóm làng, biển rộng, sông ngòi, khe suối đều không hiện ra mà tự nhiên chỉ thấy lò hương của chư Thiên đốt các loại danh hương và hoa trời rải khắp. Ở cõi Phật này, khi ấy chư Thiên và nhân dân được dời đến cõi Phật khác. Các chúng hội hiện tại ở trong màn trang hoàng bằng bảy báu đan xen nhau. Các bức màn (bảy báu) đan xen này trang nghiêm đẹp đẽ lạ thường, chẳng thể tả xiết, khắp cùng cõi Phật này. Khi ấy, tất cả chư Phật mười phương, mỗi vị đều có thị giả cùng nhau đi đến thế giới Kham nhẫn này. Các Ngài đều đến dưới những cây báu; các cây báu này cao hai vạn hai ngàn dặm, cành lá sum suê, hoa quả tươi tốt; dưới các cây ấy có giường sư tử cao hai vạn dặm, tòa ngồi đều làm bằng các loại châu báu. Như Lai ngồi trên tòa cũng giống như thế. Trong thế giới tam thiên đại thiên này, chỉ thấy chư Phật, hiện ra khắp nơi, nhưng chẳng phải là do Đức Như Lai Thích-ca Văn Chí Chân Đẳng chính Giác biến hiện ra mà tất cả đều từ các cõi Phật ở mười phương đến đây, hiển thị oai đức của đạo lớn tối thượng. Lúc bấy giờ ở tám phương, mỗi phương có hai vạn ức quốc độ của các hóa thân Như Lai do Đức Thế Tôn Thích-ca Văn Phật biến hóa ra, đều không có địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh; chư Thiên và A-tu-luân được dời đến thế giới chư Phật ở phương khác, mặt đất bằng lưu ly xanh biếc của hai vạn ức cõi Phật đều hóa sinh ra cây bằng bảy báu; các cây báu ấy cao hai vạn, hai ngàn dặm, cành lá hoa quả sum suê tươi tốt; các tòa Sư tử cao hai vạn dặm. Các cõi Phật ấy đều bằng phẳng, không có sông biển, khe suối, cũng không có các núi như: núi Mục-lân, Đại Mục-lân, núi chúa Tu-di, núi Thiết vi, núi Đại Thiết vi; tất cả các nơi trong cõi Phật, mặt đất đều bằng phẳng, do bảy báu tạo thành, trang nghiêm đẹp đẽ. Tại các giao lộ báu, vui vẻ vô cùng, rải đầy các loại hoa, đốt các danh hương. Dưới các cây báu đều có chư Như Lai ngồi trên tòa Sư tử. Cũng giống như thế, lại riêng có hai vạn thế giới của Đức Phật Năng Nhân, mỗi thế giới trang nghiêm cho các phương, hiển bày thanh tịnh, đều vì chư Phật tạo thành các cõi Phật. Những cõi Phật ấy, cũng không có địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, các hàng Rồng, Quỷ, Thần và A-tu-luân; chư Thiên và nhân dân cũng được đến cõi Phật khác. Mặt đất của các cõi Phật này bằng lưu ly xanh biếc, dùng vàng ròng màu tía làm dây báu nối tiếp giữa các hàng cây ở tám giao lộ; các cây ấy cao lớn đẹp đẽ, tòa Sư tử cũng trang nghiêm đẹp đẽ như trước đã nói; mặt đất bằng phẳng, không có núi, sông, biển.., hương hoa, các báu, ngọc ngà đan xen, ngọc minh nguyệt rủ xuống, cũng giống như trước; đường xá giao thông đi lại cũng như trên, không khác. Lúc bấy giờ các Đức Như Lai, hóa thân của Đức Phật Thích-ca Văn, tại hằng hà sa cõi Phật ở phương Đông đang thuyết giảng pháp cũng đều đến; ba ngàn ức Đức Phật chính giác ở mỗi phương trong mười phương thế giới cũng đều đến thế giới này. Các Đức Như Lai đều ngồi trên tòa Sư tử báu, mỗi vị đều lấy hoa sen báu trao cho các thị giả và bảo: “Các thiện nam! Các ông hãy đi đến núi Kỳ-xà-quật, chỗ của Đức Phật Năng Nhân, nói danh hiệu của ta, rồi ân cần thăm hỏi Thánh thể, sức lực, sự đi lại của Đức Phật có được khỏe mạnh, an lành chăng? Rồi đem những hoa này, rải cúng dường trên Đức Phật cùng các đệ tử Bồ-tát và chuyển lời của ta là đã khai hóa được nhiều. Khi ấy Đức Như Lai Thích-ca Văn Chí Chân thấy các hóa thân Phật đều ngồi trên tòa Sư tử và các thị giả đã đến rải hoa cúng dường, liền rời khỏi chỗ ngồi, trụ trên hư không; bốn bộ chúng cũng đều đứng dậy chắp tay. Đức Phật dùng ngón tay mở cửa giảng đường của tháp bảy báu, ánh sáng tự nhiên xuyên suốt như ánh mặt trời. Giống như cửa thành lớn mà lấy chốt cửa đi thì trong ngoài thông suốt, Đức Phật Thích-ca Văn dùng hai ngón tay mở cửa giảng đường tháp bảy báu, hiển bày oai đức chẳng thể nói hết, cũng lại như thế. Như Lai mở cửa tháp bảy báu này, thân của Phật Đa Bảo Như Lai Chí Chân Đẳng chính Giác liền hiện ra, ngồi trên tòa Sư tử, màu da tươi nhuận như thường, không bị khô nám, sắc tướng đoan nghiêm, đẹp như tranh vẽ, miệng lại phát ra lời: “Lành thay, lành thay! Phật Thích-ca Văn thuyết kinh điển này, còn gì vui hơn. Ta vì muốn nghe kinh Pháp Hoa này nên tự xuất hiện.” Khi ấy bốn bộ chúng thấy Như Lai Đa Bảo Chí Chân Đẳng chính Giác, biết là Ngài diệt độ, cách đây trăm ngàn ức kiếp không thể kể xiết, và nghe lời khen: “Lành thay!” thì vô cùng kinh ngạc, cho là từ trước chưa từng có, liền dùng hoa trời rải cúng Đức Phật Thích-ca Văn Phật và Đức Như Lai Đa Bảo. Đức Phật Đa Bảo liền nhường nửa bảo tòa cho Đức Phật Thích-ca. Trong tháp bảy báu có tiếng vang ra: “Xin mời Phật Thích-ca ngồi vào tòa này!” Đức Phật Thích ca liền làm theo lời. Hai Đức Như Lai cùng ngồi một chỗ, trên tòa Sư tử trang trí bằng bảy báu, ở trên hư không. Khi ấy trong bốn bộ chúng, mỗi người đều suy nghó: “Chư Phật chí chân, đạo đức cao viễn không ai có thể sánh bằng, vòi vọi khó lường, không thể kể xiết. Cúi xin Như Lai đoái thương cứu xét gia ân, dùng oai thần khiến chúng con đều được lên hư không.” Đức Phật biết tâm niệm đó, liền hiện thần lực, khiến bốn chúng tự nhiên vọt lên ở trên hư không. Bấy giờ Đức Phật Thích-ca bảo với bốn chúng Tỳ-kheo…: –Ở trong cõi Kham nhẫn này, ai có khả năng đảm nhận thuyết kinh điển này nay chính là lúc, cũng là cơ hội lớn. Nếu sau khi Như Lai hiện tại diệt độ, thì nên thọ trì, phúng tụng pháp này. Nay Như Lai cũng sắp diệt độ, Tỳ-kheo nên thôi cúng dường, phụng sự Như Lai mà phụng thờ, cung kính kinh này. Khi ấy Phật nói kệ: Đại Thánh vô thượng Đã đến nơi đây Do Phật đã hiện Bảo tháp diệu kỳ Tỳ-kheo muốn biết Người xưa nghe pháp Ai biết việc này Mà chẳng tinh tấn Diệt độ đến nay Đã vô số kiếp Hôm nay lại muốn Nghe kinh điển này Cho nên đến đây Vì tuyên giáo pháp Được độ vô cùng Giáo pháp thiện lợi Ở đời quá khứ Tự phát thệ này Nguyện của Đạo sư Chính là điều ấy Diệt độ đến nay Lâu xa cũng vậy Nay lại hiện ra Mười phương thế giới Tự tại đến đây Từ xa xôi đến Số ức trăm ngàn Như cát rạch sông Cũng vì kinh này Mà đến nơi này Đã diệt độ rồi Mà tự hiện ra Dạo chơi tất cả Ở các quốc độ Thấy tất cả ưa Hạnh của Thanh văn Nên muốn hộ trì Đối với chính pháp Vì lý do gì Kinh trụ dài lâu? Bởi vì nhờ vào Đạo của chư Phật Ở trong vô số Thế giới chư Phật Chúng sinh tụ hội Đi đến cõi này Sửa sang nghiêm tịnh Nhờ sức thần túc Ai cũng tự nói nghĩa rộng như thế Do đâu được nói Ở Pháp nhãn này Chư Phật ở đây Chẳng thể kể xiết Ngồi ở dưới cây Nơi chốn đạo tràng Thân tướng đoan nghiêm Muôn vàn cao cả Các Bậc Đạo Sư Ngồi tòa Sư tử Thanh tịnh trang nghiêm Sáng như mặt trời Như ánh đại quang Phá tan bóng tối Hương thơm dìu dịu Xông khắp mười phương Dâng lên cúng dường Thương xót cuộc đời Các Ngài độ thoát Tất cả chúng sinh Ân đức thấm nhuần Khắp cả nơi đây. Sau khi ta diệt độ Người trì kinh điển này Sẽ mau được thọ ký Sẽ gặp được Đạo Sư Sau khi Phật diệt độ Đức Từ phụ Đa Bảo Thấy được tòa Sư tử Trong tháp báu hiện lên Kế là thân của ta Ngàn ức đến nơi đây Chỉ vì Bậc Tối Thắng Giảng nói kinh điển này. Nếu nghe pháp này Thọ trì rốt ráo Tức là phụng sự Quy mạng thân ta Và Đức Đa Bảo Như Lai tôn quý Phụng sự chư Phật Hiện tại mười phương Và trong tương lai Kính thờ chư Phật Trang nghiêm Thánh thể Đẹp đẽ vô cùng Đều vì cúng dường Đầy đủ vô hạn Vì người tuân theo Thọ trì kinh này Vì từng gặp ta Nghe ta thuyết giảng Cũng lại được thấy Thế Tôn trong tháp Và thấy vô số Các Bậc Đạo Sư Từ trăm ngàn ức Quốc độ đến đây. Thiện nam tử, khéo nghĩa Thương xót các chúng sinh Nơi đây thật khó gặp Chốn Đạo sư ưa thích, Vô số các kinh điển Giống như cát trong sông Phật tuy nói kinh ấy Chưa phải là kỳ đặc. Người dùng tay đỡ nhấc Núi Tu-di kia lên Nhảy qua ngàn ức cõi Không đủ cho là khó, Dù có người phân biệt Nói trăm ngàn chứng cứ Nghe khắp các cõi Phật Không đủ cho là khó, Hoặc trụ cõi cao nhất Vì trời người giảng pháp Tuyên nói vô số kinh Cũng không là kỳ diệu Sau khi Phật diệt độ Mạt pháp năng thọ trì Tuyên nói kinh điển ấy Như vậy mới kỳ đặc, Hoặc chỉ dùng một tay Nắm trọn cả hư không Cho đến chỗ vô cùng Không đủ cho là khó Sau khi ta diệt độ Nếu quay về Thánh tượng Sao chép kinh điển này Mới gọi là kỳ đặc, Hoặc lấy mười phương cõi Để trên đầu móng chân Đem đi đâu tùy ý Lên để cõi Phạm thiên Việc này không phải khó Tinh tấn không gì lạ Không bằng ở đời sau Khoảnh khắc đọc kinh này Giả sử gặp kiếp thiêu Mang cỏ đi trong lửa Nhưng vẫn không bị cháy Không đủ cho là lạ Sau khi ta diệt độ Nếu thọ trì kinh này Và vì người giảng nói Như vậy mới thù đặc Nếu có người thọ trì Tám vạn các Pháp tạng Nói đúng như đã nói Khai thị ngàn vạn người Tỳ-kheo ở thời ấy Khai hóa chư Thanh văn An trụ trong thần thông Cũng chưa lấy làm lạ Nếu trì kinh điển này Vui tin và ưa thích Luôn học hỏi, ngợi khen Như vậy mới thù thắng Dù kiến lập vô số Ức ngàn ngôi bảo tháp Nhờ Đại thánh lục thông Nhiều như cát sông Hằng. Sau khi Phật diệt độ Nếu ai trì kinh này Thì công đức người ấy Khó ai vượt qua được Trăm ngàn các thế giới Thuyết pháp không kể xiết, Nay ta cũng tuyên nói Phân biệt trí tuệ Phật Trong tất cả các kinh Kinh này là hơn hết. Người phụng trì kinh này Là thị giả chư Phật Thiện nam tử giảng thuyết Trước Như Lai hiện tại Đời sau trì kinh này Hiền thánh mới kham nhận Trì kinh này phút chốc Tức là phụng kính Phật Và tất cả Đạo Sư. Kinh này khó gặp được Tất cả mười phương Phật Hiện ra để ngợi khen Người dũng mãnh oai thần Đã đạt được thần thông Danh đức nhuần thấm khắp Chư Phật đều mến thương Chỉ vì trì kinh này Nên đạt được tịch định. Đạo Sư diệt độ rồi Vì các trời, loài người Hiện làm người dẫn đường Tuyên bố kinh điển này Ở vào đời vị lai Khoảng khắc nói kinh này Thì tất cả chúng sinh Đều cúi đầu đảnh lễ. Lúc bấy giờ Đức Phật Năng Nhân nói với các chúng hội: –Ta từ vô số kiếp khó thể tính đếm, cầu kinh Pháp Hoa chưa từng mệt mỏi. Khi làm quốc vương, ta tu sáu pháp Ba-la-mật, bố thí vàng bạc, pha lê, lưu ly, hổ phách, san hô, châu ngọc, xa cừ, mã não, đầu, mắt, da thịt, tay chân, các bộ phận cơ thể, vợ con, nam nữ, voi ngựa, xe cộ, chẳng tiếc thân mạng. Lúc bấy giờ nhân dân sống lâu không thể tính đếm. Ta vì chính pháp mà vứt bỏ ngôi vua, giao cho thái tử để đi cầu kinh điển lớn; đánh trống, khua mỏ, tuyên bố cho khắp cả trong và ngoài nước được biết là ai có khả năng vì ta mà diễn nói đại kinh điển thì ta sẽ làm nô bộc để cung phụng và sai xử. Khi ấy có một vị Phạm chí đến bảo: “Ta có kinh điển lớn tên là chính Pháp Hoa. Nếu chịu làm nô bộc của ta, ta sẽ ban cho.” Phật bảo các Tỳ-kheo: –Ta nghe lời ấy rất vui mừng bèn theo phụng sự, hầu hạ vị Phạm chí ấy, cung cấp các thứ cần dùng như đồ ăn, thức uống; phục dịch quét dọn, lau chùi, đi hái rau quả, cất giữ lương thực, chưa từng mệt mỏi bỏ bê, hầu hạ cả ngàn năm mà không chán ngán. Khi ấy Phật nói bài tụng: Đánh trống gõ chuông Tuyên bố xa gần Muốn cầu đại điển Kinh chính Pháp Hoa Nếu ai ban cho Ta làm người hầu Đi theo phục dịch Cấp thứ cần dùng Cam lòng nghe theo Không dám lười trễ Đảm nhận cúng dường Không màng sức khỏe Chỉ muốn nghe được Kinh chính Pháp Hoa Nguyện khắp mười phương Không phải vì mình Vua ấy tinh tấn Chưa từng nghỉ ngơi Cung phụng áo cơm Chẳng cầu ngon ngọt Thương xót chúng sinh Những kẻ chưa độ Rồi vào khi ấy Được kinh Pháp Hoa. Phật bảo các Tỳ-kheo: –Quốc vương khi ấy chính là ta, còn vị Phạm chí chính là Điều-đạt. Nay ta đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật, đại Từ, Đại Bi, thành tựu bốn tâm bình đẳng, đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, thân sắc màu vàng ròng, mười Lực, bốn pháp Vô sở úy, bốn sự không bảo hộ, mười tám pháp Bất cọng, oai thần tôn quý, độ thoát mười phương đều là nhờ sức ân đức của Điều-đạt. Vô số kiếp về sau, Điều-đạt sẽ thành Phật hiệu là Thiên Vương Như Lai Chí Chân, Đẳng chính giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Độ Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu. Thế giới tên là Thiên cù. Khi ấy Phật Thiên Vương rộng nói kinh pháp, hằng hà sa chúng sinh chứng quả A-la-hán, vô số không thể kể xiết người cầu Duyên giác thừa, hằng hà sa vô lượng nhân dân đều phát tâm đạo Vô thượng chính chân, không thoái chuyển. Đức Phật ấy thọ hai mươi trung kiếp. Sau khi diệt độ, chính pháp trụ hai mươi trung kiếp; xá-lợi không phân chia, để nguyên một chỗ, dựng tháp bảy báu, cao sáu mươi dặm, rộng tám mươi dặm để thờ. Người trong khắp thiên hạ đều đem hương hoa kỹ nhạc đến cúng dường và ca tụng công đức, nhiễu quanh bảo tháp làm lễ, số người chứng đắc quả A-la-hán không thể kể xiết; vô số người có chí cầu Duyên giác thừa; vô số chư Thiên, loài người không thể nghó bàn phát tâm đạo Vô thượng chính chân, chí không thoái chuyển. Nếu thiện nam, thiện nữ được nghe kinh chính Pháp Hoa này mà trong tâm thông suốt, không còn hồ nghi, thì bít lắp ba đường, không đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, sẽ được sinh đến ở trước chư Phật mười phương, học hỏi, thọ trì chính pháp; hoặc sinh về cõi trời nhân gian giàu có; hoặc tại trước Phật, tự nhiên hóa sinh trong hoa sen bảy báu. Khi ấy, vị Bồ-tát tên là Trí Tích, ở phương dưới, theo hầu Đức Thế Tôn Đa Bảo, thỉnh Phật Đa Bảo nên quay về bản quốc. Đức Phật Năng Nhân liền bảo với Bồ-tát Trí Tích: –Ta có vị Bồ-tát tên là Đoàn Thủ Đồng Chân, ông hãy đợi giây lát, cùng nhau gặp gở thăm hỏi vì xa vắng đã lâu và cùng giảng giải kinh điển, rồi sẽ về bản quốc. Lúc đó Đoàn Thủ ngồi trên hoa sen bảy báu có ngàn cánh lớn như bánh xe và cùng với chư Bồ-tát khác cũng ngồi trên hoa sen báu, từ cung Long vương vọt lên khỏi biển lớn. Đoàn Thủ Đồng Chân rời khỏi hoa sen báu, đảnh lễ hai Đức Thế Tôn, xong rồi cùng Bồ-tát Trí Tích thăm hỏi nhau. Bồ-tát Trí Tích hỏi Đoàn Thủ: –Ngài đã vào biển sâu hóa độ được bao nhiêu? Đáp: –Số ấy vô lượng, không thể kể xiết, miệng chẳng nói hết, tâm không lường hết. Chẳng bao lâu nữa, sẽ tự ứng hiện. Ngay lập tức một hoa sen từ biển vọt lên trụ trên hư không, có vô số Bồ-tát đều ngồi trên đó. Những Bồ-tát này đều do Đoàn Thủ đã hóa độ ở biển, đều phát tâm, chí cầu đạo Vô thượng chính chân, cùng ở trên hư không giảng pháp Đại thừa. Những vị vốn phát tâm Thanh văn ở trên hư không nói hạnh Thanh văn nay đã hiểu biết Đại thừa. Đoàn Thủ liền bảo với Trí Tích: –Tại biển, tôi đã giáo hóa được như thế đó. Bồ-tát Trí Tích dùng tụng để hỏi: Ngài trí tuệ vô cùng Ở biển, độ chúng sinh Chỉ vì bày chính giáo Phân biệt nói pháp gì? Đoàn Thủ đáp: –Tại biển, tôi chỉ diễn nói kinh chính Pháp Hoa. Trí Tích lại hỏi: –Pháp ấy sâu xa, cao cả nhiệm mầu khó đạt, có ai có khả năng giác ngộ tức thời không? Đoàn Thủ đáp: –Có con gái của Long vương mới tám tuổi, thông minh, trí tuệ siêu việt khác thường phát tâm cầu đại đạo, chí nguyện rộng lớn, tính hạnh hòa nhã, cử chỉ khoan thai, có thể thành Phật. Trí Tích nói: –Tôi thấy Đức Năng Nhân là Bậc Đại Sư khi còn làm Bồ-tát cầu Phật đạo đã tích chứa công đức, tinh tấn không biếng lười, trải qua số kiếp không thể tính đếm được, mới đạt quả vị Phật. Tôi không tin vị nữ nhân ấy có thể thành Phật được. Nói chưa dứt lời, bỗng nhiên vị nữ nhân ấy xuất hiện, cúi đầu làm lễ, nhiễu Phật ba vòng, đứng sang một bên, khen ngợi: Đạt công đức thù diệu Hiện ba mươi hai tướng Được chư Thiên cung kính Rồng, thần đều quy ngưỡng, Tất cả loài chúng sinh Không ai không tôn phụng Nay tôi muốn thành Phật Thuyết pháp cứu quần sinh. Khi ấy Xá-lợi-phất bảo với vị nữ nhân: –Tuy Nhân giả đã phát tâm và có trí tuệ siêu việt nhưng không thể đắc quả Phật. Lại như thân nữ nhiều kiếp tinh tấn, chứa nhóm công đức cao vời còn không thành Phật được. Vì sao? Vì thân nữ không đạt được năm bậc: Một là Thiên đế, hai là Phạm thiên, ba là Thiên ma, bốn là Chuyển luân thánh vương, năm là Đại só. Khi ấy Long nữ liền lấy một viên ngọc như ý quý giá lập tức, dâng lên Đức Phật. Phật liền thọ nhận. Long nữ hỏi Xá-lợi-phất và Trí Tích: –Tôi dùng viên ngọc ấy dâng cúng Thế Tôn, Thế Tôn nhận lấy có nhanh không? Đáp: –Rất nhanh! Long nữ nói: –Nay tôi đạt đạo Vô thượng chính chân, thành Bậc Tối chính Giác còn nhanh hơn việc ấy. Ngay khi ấy Long nữ ấy liền biến thành vị Bồ-tát nam tử và lập tức thành Phật, đầy đủ ba mươi hai tướng tốt và các vẻ đẹp. Chúng hội đều thấy rõ quốc độ, biết rõ danh hiệu, cho là việc lạ lùng chưa từng có; vô số Trời, Người, Rồng, Quỷ thần đều phát tâm đạo Vô thượng chính chân; ba ngàn thế giới đều hiện ra sáu loại chấn động; ba vạn vị Đạo tích (Thanh văn) cũng đạt tâm không thoái chuyển, đều sẽ thành đạo Vô thượng chính chân. Xá-lợi-phất và Bồ-tát Trí Tích im lặng tin nhận.  <詞 id="83085245">Phẩm 12: KHUYẾN THUYẾT Lúc bấy giờ có Bồ-tát tên là Dược Vương, lại có Bồ-tát tên là Đại Biện cùng hai vạn Bồ-tát khác ở trước Đức Thế Tôn thưa: –Cúi xin Đấng Đại Thánh hãy an nhiên tuyên giáo, chớ âu lo. Sau khi Thế Tôn diệt độ, chúng con sẽ cùng nhau phân bố, giảng thuyết kinh này để chỉ bày cho chúng sinh. Giả sử có người tính tình ngang ngược tự chuyên không sửa đổi, đức mỏng vô phúc, tâm tính tự đại, tham của cúng dường, không đủ căn lành xa lìa giải thoát, khó thể thành tựu thì bạch Thế Tôn, chúng con sẽ phát khởi sức nhẫn nhục, tại thế giới ấy, thọ trì kinh điển này, biên chép, đọc tụng, cúng dường phụng sự, mang theo bên mình. Ngoài ra, chúng con còn tuyên nói kinh này để báo ân an trụ. Bấy giờ có năm trăm vị Tỳ-kheo Hữu học và Vô học trong chúng hội, bước tới bạch Phật: –Kính bạch Thế Tôn! Chúng con xin đảm nhận tuyên bố kinh này. Lại nữa, bạch Thế Tôn chư vị Thanh văn Hữu học, Vô học của chư Như Lai ở thế giới khác, Ngài đã thọ ký thành đạo Vô thượng chính chân. Tất cả đều chắp tay đảnh lễ Thế Tôn. Lại có tám ngàn Tỳ-kheo bạch Phật: –Xin Thế Tôn an tâm, chớ lo ngại. Sau khi Ngài diệt độ, chúng con sẽ giảng nói rộng rãi, truyền bá kinh này, cũng sẽ truyền bá ở thế giới khác. Vì sao? Vì ở thế giới Kham nhẫn này, con người nhiều kiêu mạn, cội đức nông cạn, tâm thường bị loạn động như bị lửa thiêu, mê hoặc trong ba cõi, chẳng thể tự an. Lúc bấy giờ Tỳ-kheo-ni Đại Kính cùng sáu ngàn Tỳ-kheo-ni quỳ ngước nhìn Thế Tôn, không hề mệt mỏi và thưa với Đức Phật: –Đấng Đạo Đức chí tôn, cao vời vô lượng, siêu tuyệt hư không, không ai sánh kịp! Phật liền bảo: –Kiều-đàm-di và các vị chớ ôm lòng lo âu, buồn rầu mà nhìn Thế Tôn như vậy. Các vị tưởng rằng Thế Tôn không đề cập đến, và không thấy thọ ký cho thành đạo chính giác chí chân Vô thượng ư? Tất cả chúng hội đều hòa đồng như nhau. Khi ấy Đức Phật tuyên bố thọ ký cho mọi người sẽ đạt quả vị Vô thượng chính chân, đều giống nhau không sai khác. Ngài bảo Kiều-đàm-di: –Về sau, người sẽ gặp và cúng dường phụng sự ba vạn tám ngàn ức Đức Phật, sẽ là Bồ-tát thường làm Pháp sư. Và sáu ngàn Tỳ-kheo-ni Hữu học và Vô học này vì các loài chúng sinh cũng làm Bồ-tát Pháp sư. Tất cả lần lượt đầy đủ hạnh Bồ-tát rồi sẽ thành Phật hiệu là Nhất Thiết Chúng Sinh Hàm Kính Như Lai Chí Chân Đẳng chính Giác. Sau khi thành Phật, khai hóa nhân dân, tất cả đều lần lượt thọ ký cho nhau sẽ thành Phật, độ thoát vô số người không thể kể xiết. Khi ấy vị Tỳ-kheo-ni, mẹ của La-vân và Tỳ-kheo-ni Trì Danh Văn tự nghó: “Nay Phật Thế Tôn không thương xót ta, chỉ riêng ta bị bỏ quên.” Bấy giờ Đức Phật bảo với Tỳ-kheo-ni Danh Văn: –Nay ta tuyên bố với chúng hội xa gần rằng, ngươi sẽ tu tập ở chỗ mười vạn ức Đức Phật, thường làm Pháp sư, phụng trì hạnh Bồ-tát, tuân theo đầy đủ, sẽ đắc quả Phật, hiệu là Cụ Túc Bách Thiên Quang Tràng Phan Như Lai, Chí Chân Đẳng chính Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu, thế giới của Phật ấy tên là Nhân hiền. Bấy giờ hào quang oai thần của Phật ấy vô số trăm ngàn, thọ mạng vô hạn. Tỳ-kheo-ni Đại Kính Quỳ và Tỳ-kheo-ni mẹ La-vân được điều chưa từng có, lo mừng lẫn lộn, liền nói kệ khen ngợi Phật: Thế Tôn đã khai thị Đấng Đạo Sư muôn loài Khai hóa ở thế gian Gồm cả trời và người Được trời, người cung phụng Nay đây được an ủi Bởi vì Đại Đạo Sư Làm chúng con thỏa chí. Tỳ-kheo-ni nói kệ xong, bạch với Đức Phật: –Kính bạch Thế Tôn! Chúng con vui tin theo pháp huấn của Phật, nhận lãnh đọc tụng và truyền cho người khác và đến thế giới khác. Khi ấy Đức Thế Tôn xoay nhìn tám mươi ức vạn trăm ngàn vị Tổng trì Khai só (Bồ-tát), những bậc chuyển pháp luân bất thoái. Chư Bồ-tát thấy Phật nhìn đến, liền chắp tay bạch Phật: –Cúi xin Thế Tôn giao phó kinh điển ấy cho chúng con để chúng con được giảng thuyết, lưu bố và để hiểu biết rõ ân đức của Phật. Các thiện nam ấy hân hoan ngước nhìn Thế Tôn và cũng xét lại mình, đời trước đã thực hành hạnh nguyện bình đẳng, nên ở trước Đức Phật, lớn tiếng thưa: –Sau khi Như Lai diệt độ, nếu kinh pháp này ở khắp mười phương, chúng con sẽ biên chép, thọ trì, phúng tụng, tư duy nghĩa lý, phân biệt truyền bá, và chỉ bày khai hóa người khác cũng làm như vậy và bằng hữu chúng con ở các cõi khác cũng làm theo lời Phật dạy. Xin Đại Thánh gia ân, dẫn dắt chúng con khiến được thành tựu. Lúc bấy giờ các vị Đại só Bồ-tát đồng lòng hiệp ý, ở trước Phật, nói bài tụng: Cúi xin Thế Tôn An nhiên lặng lẽ Sau Phật diệt độ Xiển dương lời Phật, Mạt thế về sau Sợ có hoạn nạn Nên ban tuyên khắp Phân biệt kinh này. Nếu bị người đánh, mắng Dùng đá để ném, quăng Đại Thánh trong đời sau Gặp họa ác sẽ nhẫn Giảng giải khó lãnh hội Dua nịnh, si kiêu mạn Về sau ở núi rừng Không được nói có được. Kẻ vô trí ở núi Phải lấy gì giải đáp Một mình buông thả tâm Ôm lòng ác, không nhẫn Ưa ở chỗ tiếng ác Sẽ vì nói kinh pháp Lời giảng ra quyết trừ Giống như sáu thần thông Hung bạo ôm tâm độc Chỗ vắng hành ý này Một mình vào chỗ vắng Chẳng ưa sự mắng chửi Cho chúng con không nhẫn Đắm trước việc lợi dưỡng Gọi là người ngoại đạo Nói bố thí vì mình Đối với kinh tinh tấn Bởi do của cúng dường Ở trong chúng giảng thuyết Là vì danh dự thôi Hoặc đến cung của vua Đại thần và quan thuộc Phạm chí cùng trưởng giả Hoặc chỗ Tỳ-kheo khác Hủy báng chúng con ác Việc làm như tà đạo Chúng con đều nhẫn được Luôn phụng hầu đại Thánh Khi ấy lìa lo âu Nếu đã nhẫn nhục được Thì đem lời Phật dạy Khuyên răn giáo huấn họ Kiếp loạn, Tỳ-kheo tranh Hung bạo rất kinh sợ Mắng chửi hết chúng con Các Tỳ-kheo như quỷ Ở đời hành cung kính Đều nhẫn được khổ nạn Lấy thuận hòa mềm mỏng Vì để nói kinh này. Chúng con không ham thân Cũng chẳng tiếc thọ mạng Sẽ phụng trì kinh này Chí nguyện thành Phật đạo. Thế Tôn biết đầy đủ Tỳ-kheo hung ác ấy Về sau đời mạt thế Sẽ phân biệt hiểu rõ, Nhan sắc thường không vui Luôn luôn phạm lầm lỗi Du hành không đúng thời Y phục không tề chỉnh. Giả sử Phật diệt độ Sau, vào thời mạt thế Chúng con giữa chúng hội Dũng mãnh nói kinh này Nếu người cầu tịch diệt Hoặc có điều mong cầu Sẽ ban cho tại chỗ Không xa rời Phật trí Vì yêu thương cuộc đời Nên tu tâm Từ bi Thiểu dục, hành tri túc Đạt diệt độ vắng lặng Tất cả ánh sáng trần Mười phương đều tụ hội Lời chí thành chúng con Biểu hiện tâm chân thật. KINH chính PHÁP HOA <卷 id="83085246">Quyển 7 <詞 id="83085247">Phẩm 13: AN LẠC HẠNH Khi ấy, Đại só Đoàn Thủ bạch Phật: –Kính bạch Thế Tôn! Các vị Bồ-tát này đang kính ngưỡng Thế Tôn, là những vị mà sự khuyến hóa của các ngài khó ai bì kịp. Vậy lúc nào thì nên vì tất cả chúng sinh mà giảng thuyết kinh này? Phật bảo Đoàn Thủ: –Bồ-tát trước hết an trú trong hai pháp mới nên giảng nói kinh này: một là oai nghi, hai là lễ tiết. Thế nào gọi là Bồ-tát hiểu biết oai nghi? Nếu đem tâm nhẫn nhục nhu hòa mà hộ trì tâm ý sợ sệt không tự chủ, làm cho ý chí vững vàng như đất, không thấy có người. Tuy không thấy có người mà vẫn hành pháp, quán tướng tịch nhiên, các pháp vốn không, cũng không tưởng niệm các pháp này là khuôn phép của các hạnh, thì gọi đó là oai nghi. Thế nào gọi là lễ tiết? Nếu Bồ-tát không theo phụng sự cho quốc vương, thái tử, đại thần, quan lại, không giao tiếp với ngoại đạo, dị học, không ham chuộng học tập sách vở thế tục, ca ngợi âm nhạc, tập tục hôn phối, không gần gũi kẻ đồ tể, ngư phủ, chài lưới, thợ săn bắn chim muông, giặc cướp, không cùng ở nơi đông đảo ca nhạc, du hý, không làm việc cùng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Cận sự nam, Cận sự nữ cầu quả Thanh văn, cũng không gần gũi lễ bái, thăm hỏi, không cùng ở chung, không cùng bè bạn kinh hành, đốt hương, rải hoa, thắp đèn, trừ khi cùng đi đến hộïi giảng kinh, chỉ được cùng ở trong hội giảng kinh, dù có nói điều gì cũng không tham đắm, thì như vậy gọi là lễ tiết. Lại nữa, Đoàn Thủ! Bồ-tát Đại só không luyến tiếc nhà cửa, tông tộc, thân thuộc, không mãi mê nghó tưởng đến nữ nhân khi nói kinh pháp cho họ, cũng không thường đến chỗ đông đảo trẻ con, nam nữ và các người khác mà nói lời êm ái về điều không nên thuyết giảng, không vì định ý riêng tư mà nói kinh, không cùng đứng, cũng không cùng hẹn ước, cũng không một mình cùng một Tỳ-kheo-ni nào đi vào nhà, trừ khi nhớ nghó đến sự tinh tấn của Như Lai mà đi. Nếu vì nhân duyên nói kinh cho nữ nhân thì trong trường hợp này không làm ô nhiễm pháp vị, không làm cho họ không lãnh hội, mà chỉ rộng bàn về nghĩa lý, không cùng ở một chỗ với Sa-di, Tỳ-kheo-ni, trẻ em nam, nữ thường ưa ngồi chỗ yên tónh u nhã, thích nơi thanh vắng tịch liêu. Như vậy gọi là lễ tiết. Lại nữa, Đoàn Thủ! Bồ-tát Đại só quán tất cả pháp đều là rỗng không, nhưng nếu chấp chặt như thế là rơi vào điên đảo. Chỗ đứng của Thánh đế là thường trụ như pháp, chuyên giữ cho thân tâm không lay, không động, không thoái, không chuyển, xả bỏ, diệt tận, chẳng sinh chẳng có, không có tự nhiên, vô vi, vô số, không có cái gì có thể có, đạt đến vô sở hữu, loại bỏ ngôn từ, không trụ vô vi, không tưởng, chẳng tưởng, chế phục các tưởng. Giả sử Bồ-tát quán sát sâu xa tất cả pháp này, khẩn thiết tu hành những điều nên hành này thì thường trụ hai việc oai nghi, lễ tiết vậy. Đức Thế Tôn muốn giải rõ lại ý nghĩa này nên nói bài tụng: Nếu Bồ-tát ưa thích Giảng nói kinh điển này Thì ở vào đời sau Dũng mãnh không khiếp sợ. Theo oai nghi lễ tiết Làm sáng hạnh thanh bạch Với quốc vương, thái tử Đại thần cùng quan thuộc Ngoại đạo và dị học Hạng săn bắn, ác hại Hạn chế việc giao du Và không cùng qua lại. Tỳ-kheo cầu La-hán Ngoại trừ mặt Giới luật Không gần người tự đại Lại xa kẻ phạm cấm, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni Bàn luận và chuyện vãn Xa lìa thanh tín nữ Không nói lời vô ích, Hiện tại muốn đạt pháp Phải nên dứt điều quấy Ưa ở nơi vắùùng lặng Gọi đó là oai nghi. Nếu kẻ không chịu đến Học hỏi về đạo pháp Vì kẻ ấy thuyết giảng Không sợ, không chấp trước, Chúng sinh bị bệnh hủi Hoặc bà con họ hàng Người mẹ, các sắc đẹp Đều phải nên xa lìa. Không cùng họ gần gũi Chỉ vun trồng cội đức Nên bỏ việc bán buôn Kiêu mạn, không cung kính, Từ bỏ các trú xứ Không để hại đến thân Biết bao loài chúng sinh Chớ nên ăn thịt chúng. Dứt trừ các tội lỗi Người vui giận oán hờn tính tình thường như vậy Cũng chẳng cùng luận đàm, Không gần kẻ giả dối Kẻ tính tình tự chuyên Những người tính như vậy Đều phải nên xa lánh. Người trí có cơ duyên Vì người nữ thuyết kinh Không được đi một mình Không dừng chốn vui chơi Nếu ra vào thôn xóm Thường thường đi khất thực Dẫn một bạn Tỳ-kheo Luôn luôn nhớ tưởng Phật. Nên Phật trước thị hiện Oai nghi lễ tiết ấy Ai phụng trì kinh này Phải siêng năng thực hiện Kẻ thượng, trung, hạ liệt Nếu không hành chính pháp Tất cả đều chí thành Phải thường cúng dường luôn. Trượng phu vô tưởng niệm Kiên cố hành dũng mãnh Không biết tất cả pháp Cũng không thấy Niết-bàn Của tất cả Bồ-tát Đó gọi là oai nghi Cũng như hành lễ tiết Phải nên nghe xét kỹ. Nay sẽ giảng thuyết Giáo pháp vô vi Tất cả không khởi Cũng không chỗ sinh Kiến lập ý chí Quán chiếu nghĩa không Đấy là trí nhân Đã hành lễ tiết, Người có sở niệm Là tưởng điên đảo Lấy không làm có Dùng hư làm thật Tuy có chỗ khởi Các pháp không sinh Do tưởng sai lầm Mà sinh các hữu, Tâm thường chuyên nhất Khéo tu Tam-muội Kiến lập hạnh tu Như đảnh Tu-di An trú như thế Quán khắp các pháp Là tất cả pháp Giống như hư không. Ví như hư vô Đều không bền vững Không niệm nắm giữ Không gì xả bỏ Pháp không xứ sở Không có thường danh Ấy là kẻ trí Đã hành lễ tiết. Sau ta diệt độ Nếu có Tỳ-kheo Luôn thủ hộ được Pháp tắc như thế Không có khiếp nhược Tâm không khởi tưởng Vì vô số người Thuyết kinh điển này, Bậc minh triết ấy Theo thời quán niệm Nếu vào phòng ốc Việc làm cũng vậy. Quán sát các pháp Tất cả đều tịnh An nhiên nói nghĩa Mà không dao dộng, Quốc chủ đế vương Cùng các thái tử Các trưởng giả khác Và các Phạm chí Cùng chư quyến thuộc Muốn nghe chính pháp Đều cúng dường cho Tâm đều vô dục. Đức Phật lại bảo Đoàn Thủ: –Sau khi Như Lai diệt độ, người muốn nói kinh này phải trụ trong sự an ổn. Đã trụ an ổn rồi thì lòng không dua nịnh, tâm không huyễn hoặc mới nói kinh pháp đã thuộc lòng, hoặc chép trên tre lụa, vì người giảng thuyết, không nói nhiều lời, cũng không nói thêm, không khinh mạn Tỳ-kheo khác. Làm vị Pháp sư không ca ngợi, cũng không chê bai, chưa từng nêu tên và nói lầm lỗi của Tỳ-kheo có tâm khác cầu quả Thanh văn. Chưa từng tự cao, nói lỗi người, cũng không phỉ báng, cũng không có tâm oán ghét người trái ý mình. Chưa từng chê bai hành giả tại gia là không có chí nguyện, không trái hạnh nguyện, cũng không khởi tưởng, đến đi an trú vững vàng oai nghi, tới lui cùng khắp. Nếu đến pháp hội, tự giữ thân mình, không mất oai nghi, rồi nói kinh pháp. Nếu có người hỏi thì không dựa vào mà phải xa lìa pháp Thanh văn. Có điều chỉ dạy thì làm sáng tỏ Phật tuệ. Khi ấy Phật nói bài tụng: Người trí luôn luôn An trú Phật đạo Trước ngồi an ổn Mới nói kinh pháp. Nếu phải trải tòa Trải loại mềm mại Biết bao nhiêu thứ Trang trí đẹp đẽ Thân thể thường mặc Y phục sạch sẽ Trong bốn chín ngày Tập đi kinh hành, Giống như mây đen Ở trên hư không Tập hợp dồn chứa Công đức rộng lớn. Ở nơi chỗ ngồi Kho tàng đầy đủ Tòa ngồi kiên cố Bằng phẳng đẹp đẽ Vô số tọa cụ Nệm lông mềm mại Đường bệ chững chạc Trông thật tôn nghiêm, An nhiên bước lên Pháp tòa cao rộng Trải tâm bình đẳûng Vì tất cả người Quốc chủ đế vương Thái tử, đại thần Các chúng Tỳ-kheo Và Tỳ-kheo-ni Các thiện nam tử Cùng thiện nữ nhân Theo điều ưa nghe Vì họ rộng giảng Trí tuệ vô cùng Lần lượt phân tích Giảng giải các loại Ý nghĩa vi diệu Theo sau hầu hạ Thưa hỏi nghĩa lý Bậc Thánh triết ấy. Lại vì giải thoát Nên nhập thần túc Nhu hòa, nhẫn nhục Nếu người nào nghe Đều đắc Phật đạo Bậc Trí tuệ này Đều vì tất cả Tới lui dứt trừ Biếng lười mệt mỏi Vì chúng nói pháp Thường dùng tâm Từ Chưa từng khởi lên Ý tưởng mệt mỏi Ngày đêm ca tụng Pháp huấn tôn quý Phân biêït diễn thuyết Ức ngàn thí dụ Ai cũng phấn khởi Tâm của hội chúng Không có ai dám Khởi ý làm hại Nếu được cúng dường Các thức ăn uống Giường nằm chỗ nghỉ Y phục mền gối Thuốc thang chữa bệnh Thì không cầu nhiều Không theo số đông Cầu xin của cải Bỏ hết phiền toái Trụ ở tinh xá Muốn khiến mọi người Đều hiểu Phật đạo Nếu tất cả người Đến nghe kinh pháp Ta sẽ hoan hỷ Hộ cho đại an. Sau Phật diệt độ Nếu có Tỳ-kheo Tuyên dương kinh pháp Không có mong cầu Không bị chướng ngại Không gặp khổ hoạn Luôn luôn tinh tấn Xa lìa các bệnh Không thể bị chúng Gây sự sợ hãi Không bị đánh đập Không ý phỉ báng Thân không mệt mỏi Không có hoạn nạn Vị ấy trụ nhẫn Được sức như thế. Bậc Minh trí ấy Chỗ ở an ổn Có chỗ bảo trì Đúng lời Phật dạy Nếu đã ngợi khen Trăm ức công đức Khen ngợi tất cả Không thể hết được. Đức Phật lại nói với Đoàn Thủ: –Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có Bồ-tát đối với kinh điển ấy hoài nghi không hiểu, nếu được thuyết giảng, giáo hóa mà không kiên nhẫn nghe, tính không điều hòa và thấy Bồ-tát khác cầu Đại thừa, cho là làm việc hư vọng mà phỉ báng. Thấy Thanh văn, Duyên giác, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, thiện nam, tín nữ, hoặc gặp Bồ-tát mà tâm do dự, không đến gặp gỡ ngay thì thiện nam ấy cách xa đạo Vô thượng chính chân, không tiếp cận được với việc làm của Đấng Thiên Trung Thiên. Giả sử cuối cùng không nhờ phước lực thì không thành Bậc Tối chính Giác. Bồ-tát hành ba thừa giống như Sư tử ở trong rừng, nếu có sự do dự thì tự nhiên xa lìa, không ưa thích điều ưa thích, cũng không phải không ưa thích. Nếu đối với chúng sinh tu hành từ bi thì đối với Đấng Như Lai thấy như người cha vó đại, thấy các Bồ-tát nghó nhớ như Thế Tôn và với các tục gia chưa lìa trần cấu đều khoan hòa cung kính, giữ đúng lễ tiết, làm trong sáng ý nghĩa các pháp, không nghi ngờ, không ràng buộc, nghiêm trì tất cả pháp cẩn thận, chắc thật, vững vàng, thuận theo bình đẳng, không chấp trước kinh pháp. Có điều cực vui cũng không chạy theo, ở tại trú xứ ngày đêm cung kính hộ trì kinh này. Này Đoàn Thủ! Đó là thực hành ba pháp. Khi nói, Bồ-tát quán rồi mới nói, tạo sự an ổn, không bị phiền não, cũng không nhiễu hại. Người nói kinh này cùng với người học đều là bạn đạo có tâm bình đẳng của nhau. Hoặc giảng, hoặc nghe, tin tưởng, ưa thích kinh này, trì tụng, biên chép trên tre lụa, cúng dường, phụng sự thì phước đức không thể lường được. Vì để cho chúng hội an trú Thế Tôn bèn nói bài tụng: Nếu người tật đố Lòng nhiều khúc mắc Pháp sư thương yêu Không hề ghét bỏ Có bậc Minh trí Không tạo tham trước Muốn đọc kinh này Bắt chước làm theo Chưa từng phỉ báng Và nói lỗi người Cũng không rơi vào Lỗi nghi, tà kiến Tâm thường trong sáng Không bị đắm chìm Vì thương chúng sinh Nên đắc định này Vị an trụ ấy Cũng luôn nhẫn nhục Người ấy thường ngăn Tự cao tự đại Luôn luôn giảng tụng Kinh điển của Phật Chưa từng vì đó Sinh ra mệt mỏi Có Bồ-tát nào Ở mười phương cõi Thương yêu chúng sinh Ở đời khởi hạnh Tùy thuận cung kính Học tập Thánh tuệ Đều nên nhớ nghó Là Thế Tôn ta Nghó nhớ chư Phật Bi trí cao tột Nhớ các Bồ-tát Như nhớ mẹ cha Nếu có cầu đạo Thì không dục tình Vứt bỏ ngã chấp Và tâm tự đại Giả sử nghe rõ Tượng pháp như vậy Các bậc Minh trí Sẽ tự hộ trì Việc làm an ổn Thường được an định Sẽ chứng quả Phật Cứu vô số chúng. Đức Phật lại bảo Đoàn Thủ: –Sau khi Như Lai diệt độ, nếu Bồ-tát Đại só phụng hành kinh này, luận đúng thời tiết thì Tỳ-kheo (Bồ-tát) ấy phải thực hành từ bi, hướng đến các hàng bạch y, người xuất gia, Phạm chí, tất cả quần sinh, người hành đạo Bồ-tát, thường nghó đến các vị hành Đại thừa đời quá khứ mà khéo léo phương tiện diễn nói ý nghĩa chân đế. Nếu người nghe không biết, không hiểu, không vui, không tin, không thức tỉnh, không lónh hội được, thì tự thán rằng: “Ta phải đạt được đạo Vô thượng chính chân, thành Bậc Tối chính Giác, đầy đủ sức oai thần, mới được tự tại!” Đoàn Thủ nên biết! Ta thấy những việc này: Sau khi Phật diệt độ, Bồ-tát có bốn sự việc khi thuyết pháp không phiền bực. Bốn việc ấy là gì? 1. Được các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, thiện nam, tín nữ cung kính. 2. Vua chúa, thái tử, đại thần, quan lại, nhân dân trong nước thấy đều cúng dường. 3. Trưởng giả, Phạm chí đều làm theo. 4. Vô số Thần minh, Thiên tử trên không nghe thuyết kinh và trời, rồng, quỷ thần thị vệ sau họ đều ủng hộ. Đó là bốn việc. Hoặc khi vào huyện, ấp hay lúc trở về nhà, cả ngày lẫn đêm mọi người đều đến hỏi kinh pháp. Nếu vì sự giải thoát mà phân biệt chỗ quy hướng thì ai cũng hoan hỷ. Vì sao? Đoàn Thủ nên biết, vì đều do Phật đã gia ân kiến lập kinh này. Phật quá khứ, vị lai và hiện tại đều do kinh này xuất sinh và cũng đều hộ trì kinh này. Nếu ở thế giới Kham nhẫn được nghe phẩm chính Pháp Hoa cùng nghe tên kinh này thì thật là khó. Này Đoàn Thủ! Thí như Chuyển luân thánh vương có năng lực lớn, oai đức trùm khắp, cai trị thuần hòa. Các nước thù địch khác chưa chịu thần phục, không dám dòm ngó. Chuyển luân vương hưng binh đi chinh phạt nhưng chư hầu không phục, muốn chống trả lại nước lớn. Khi ấy, các tướng só dũng mãnh ra sức đánh thắng, đối phương khuất phục. Nhà vua vui mừng, xét công ban thưởng, phong cho thành ấp, ban cho ruộng vườn, bảy báu, ngọc ngà, voi ngựa, xe cộ, nam nữ, nô tỳ. Người có công đức thù nhất, vua lấy viên minh châu trong búi tóc ban cho. Vì sao? Vì bề tôi làm cho đất nước cường thịnh, văn minh lâu dài. Như Lai chính Giác cũng lại như thế, là Đại Pháp Vương của chân lý tối cao, tự hàng phục tâm mình, dùng pháp giáo hóa, dùng đức trừ hại, dùng tuệ chiến đấu, hàng phục vô số chúng pháp vương khác; vô lượng trăm ngàn kinh điển ý nghĩa trọng yếu đều ban bố cho quần sinh, không hề che giấu; ra lệnh đắp thành bằng phẳng để nhìn thấy ma quân, có thể cùng quân ma chiến đấu, dùng pháp Hiền thánh phá dâm, nộ, si, hàng phục ma quân và đồng bọn, hết họa ba cõi, đạt đến diệt độ, việc làm nhanh chóng và rất dũng mãnh, rốt cùng không hoại diệt cũng không chắc thật, vì do các yếu tố hư ngụy tạo thành thế gian này, như tất cả hiện tượng, nơi chốn đều là nhân duyên. Khắp các thế giới từ xưa đến nay không có ai tin kinh Pháp Hoa này, mà chưa từng diễn nói thông suốt. Sở dó nói được là do sự thông tuệ và lòng Đại Bi, như viên minh châu trong búi tóc của bậc Đại thánh đế, vì là pháp quan trọng đệ nhất của Đức Thế Tôn, nương vào đó mà tiến bước tu hành nên Đức Như Lai cho nghe kinh điển thâm diệu này. Từ xưa đến nay, các pháp tu hành đã được nói ra thì kinh này là pháp tối thắng để tiêu trừ tất cả hoa duyên khởi. Giống như bậc Thánh đế trân trọng giữ gìn viên minh châu trong búi tóc, lâu lắm mới lấy ra ban cho người có công đặc biệt. Như Lai cũng thế, sớm tối trân trọng giữ gìn pháp vô cùng mầu nhiệm không tỳ vết, đến nay rất lâu, là pháp đứng đầu các pháp. Hôm nay vì thương xót nên mới diễn bày rộng rãi. Đức Thế Tôn muốn diễn bày lại ý nghĩa trọng yếu nên nói tụng: Nay đây Như Lai Hiện sức Từ bi Vì thương chúng sinh Mắc vòng đau khổ Trong cảnh dại khờ Nên phân biệt nói Kinh điển tối tôn Cầu pháp Bồ-tát Hoặc người xuất gia Hay hàng tại gia Nếu nghe kinh này Hiện khắp tất cả Lòng sinh khiếp sợ Chẳng được hủy báng Ta lúc ban đầu Khi đắc quả Phật Cũng như Như Lai Ở đây hôm nay Nếu vừa được nghe Kinh tôn quý ấy Thì liền kiến lập Vô số phương tiện Như Chuyển luân vương Thế lực mạnh mẽ Chiến đấu hàng phục Các quốc vương khác Đắc thắng ban thưởng Voi, ngựa, xe, kho Lại thêm phong ấp Thành quách đất đai Hoặc được ban cho Xuyến báu tay chân Màu sắc vi diệu Vàng ròng quý báu Trân châu dạ quang Xa cừ, ngọc bích Đủ loại đặc thù Của lạ kỳ diệu Bao nhiêu tài vật Đều đem ban cho Khiến cho mọi người Mừng vui kinh ngạc Thấy việc lập công Lạ chưa từng có Sau cùng mở tóc Lấy minh châu cho Phật cũng như thế Nay là Pháp vương Với sức nhẫn nhục Tuệ âm vô cực Thường hành từ mẫn Khởi hạnh cứu giúp Dùng pháp giáo hóa Tất cả thế gian Thấy các chúng sinh Bị họa ưu não Giảng nói kinh pháp Số tới ức ngàn Hiểu rõ chúng sinh Hợp phương tiện nào Mà chúng ngày nay Cho là rốt ráo Khi ấy Pháp vương Bậc Thánh Tối Thượng Phân biệt kinh điển Trăm ngàn vạn ức Vì biết chúng sinh Trí chí mạnh mẽ Nên nói kinh này Như ngọc trong tóc Vào thời mạt thế Kinh này ở đâu Tất cả kinh khác Đều không sánh kịp Người trí nghe được Kính ngưỡng kinh này Chưa từng xem nhẹ Tri hành thâm sâu Bậc trí sáng nghe Pháp ta diễn nói Tượng pháp như vậy. Sau Phật diệt độ Sẽ nương vào đó Ai có chí cầu Đạo tôn quý này Đều được thọ ký Như Phật đã dạy Người ấy chưa từng Có tỳ vết dục Không có tật bệnh Và các họa tai Vào thời sau này Ở đời tương lai Sẽ thành đạt được Chân Tuệ vô thượng Thù thắng diệu kỳ Đầy đủ hết thảy Cả bốn bộ chúng Cũng được gặp gỡ Nếu có người nghe Trừ được các lậu Khen pháp vô vi Chắp tay hướng về Thân mình chói sáng Chiếu ánh hào quang Do phụng kinh này Đạt được như thế Đạt thành chính giác Rồi chuyển pháp luân Thì thấy rộng sâu Và thấy tối thắng Trong mộng nghe thấy Trăm tướng phước đức Màu sắc vàng ròng Kinh Phật đã nói Nếu được nghe rồi Nói cho chúng hội Cùng các thân tộc Thảy đều đầy đủ Lại được hộ trì Trừ bỏ tất cả Như tỉnh cơn mộng Thấy được như vậy Bỏ hết xa lìa Xuất gia hành đạo Đều được đi đến Đạo tràng của Phật Nơi ấy chính là Pháp tòa Sư tử Vậy là cầu đạo Đạt được lợi ích Các thứ bảy báu Tập hợp tại đây Tu thì phụng sự Như Lai tối thắng Đã đắc Phật đạo Giữ lệ truyền bá Liền chuyển pháp luân Không có các lậu Vì hàng đệ tử Giảng nói kinh pháp Chẳêng thể nghó bàn Trong ngàn ức kiếp Phân biệt giảng thuyết Giáo pháp vô lậu Giáo hóa vô số Vạn ức chúng sinh Trong mộng thấy được Hiện tượng như thế Đúng thời diệt độ Không còn sinh tử Đoàn Thủ nên biết Người có tâm đạo Đã được giáo hóa Nhiều không kể xiết Vào thời mạt thế Cầu tôn pháp này Phân biệt rộng nói Diễn giải tự tại.  <詞 id="83085248">Phẩm 14: BỒ-TÁT TỪ ĐẤT VỌT LÊN Khi ấy, ở thế giới khác, có tám hằng hà sa Bồ-tát Đại só phục sức kỳ lạ, đi đến chỗ Phật, cúi đầu sát đất, quỳ thẳng, chắp tay bạch với Thế Tôn: –Bọn thô lậu chúng con vội vàng đến thế giới Kham nhẫn này muốn nghe kinh này, thọ trì, phúng tụng, biên chép, tinh tấn cúng dường, phụng trì như pháp. Cúi xin Đại thánh rủ lòng thương xót chúng con, Sau khi Như Lai diệt độ, chúng con sẽ đem kinh chính Pháp Hoa này truyền bá khắp nơi. Đức Thế Tôn bảo: –Thôi đi, thiện nam! Các ngươi không nên phát khởi ý nghó đó. Nay đây, ở thế giới Kham nhẫn này tự có tám hằng hà sa Đại só và mỗi Đại só đều có Bồ-tát Đại só quyến thuộc nhiều đến sáu mươi ức hằng hà sa. Sau này vào thời mạt thế, họ đều sẽ thọ trì, tuyên nói rộng rãi (kinh này). Khi ấy, tại thế giới của Phật này, ở khắp nơi, vô số trăm ngàn ức chúng Bồ-tát tự nhiên vân tập, dung mạo đẹp đẽ khác thường, sắc thân vàng rực ba mươi hai tướng trang nghiêm thân thể, ở cõi dưới nhiếp hộ địa giới và nhân dân; đạo hạnh đều nương nhờ vào thế giới Kham nhẫn này, nên nghe tiếng Phật xiển dương kinh Pháp Hoa, từ cõi dưới vụt hiện lên. Mỗi vị Bồ-tát đều có sáu mươi ức hằng hà sa Bồ-tát tùy tùng, cùng một tâm niệm, một việc làm không sai khác; hoặc có vị có nửa phần hằng hà sa gồm trăm ngàn Bồ-tát đến, hoặc bốn mươi phần hằng hà sa, hoặc năm mươi phần hằng hà sa, hoặc trăm phần hằng hà sa, hoặc năm trăm phần hằng hà sa, hoặc ngàn phần hằng hà sa, hoặc trăm ngàn phần hằng hà sa, hoặc ức trăm ngàn phần hằng hà sa Bồ-tát đều là bạn bè cùng đến. Hoặc lại có vô số ức trăm ngàn Bồ-tát quyến thuộc đến, hoặc có hai trăm ngàn người tu hành đạo Bồ-tát, hoặc có trăm ngàn vị đều có quyến thuộc, hoặc có ngàn quyến thuộc, hoặc năm trăm quyến thuộc, hoặc bốn trăm quyến thuộc, hoặc ba trăm quyến thuộc, hoặc hai trăm quyến thuộc, hoặc một trăm quyến thuộc, hoặc năm mươi quyến thuộc, hoặc bốn mươi quyến thuộc, hoặc ba mươi quyến thuộc, hoặc hai mươi quyến thuộc, hoặc mười quyến thuộc, hoặc năm quyến thuộc, hoặc bốn quyến thuộc, hoặc ba quyến thuộc, hoặc hai quyến thuộc, hoặc một quyến thuộc, hoặc đi đến một mình, số lượng nhiều không kể xiết, khó thí dụ được, từ đất hiện lên, hoặc từ trên xuống, hoặc bốn phương lại, tất cả đến thế giới Kham nhẫn này, trụ giữa hư không. Chúng Bồ-tát thấy Thế Tôn đã diệt độ là Đa Bảo và Đức Đại Thánh Năng Nhân cùng ngồi trên tòa Sư tử, dưới cây bảy báu, liền cúi đầu đảnh lễ hai Đấng Như Lai Chí Chân Đẳng chính Giác, đi quanh bên phải ba vòng, lui đứng một bên; có các Bồ-tát dùng biết bao phẩm vật tốt đẹp kỳ lạ cúng dường, khen ngợi hai Đức Thế Tôn, xưng dương chư Phật từ vô thủy đến nay; giả sử đầy đủ cả năm mươi trung kiếp cũng không thể nói hết sự tu hành cần khổ của Đức Phật Thích-ca, các Đức Phật khác cũng như vậy. Bốn bộ chúng trong pháp hội không nói gì khác nên cũng im lặng. Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn liền hiện thần túc như sắc tượng, khiến bốn bộ chúng đều được nhìn thấy; lại khiến nhớ biết thế giới Kham nhẫn này. Các vị Bồ-tát ở trên hư không, mỗi vị đều nhiếp hộ trăm ngàn cõi Phật. Các chúng Bồ-tát đều đầy khắp trăm ngàn cõi Phật. Lại nữa trong đại chúng ấy có bốn vị Bồ-tát được coi là Thượng thủ. Tên của họ là: Bồ-Tát Chủng Chủng Hạnh, Bồ-Tát Vô Lượng Hạnh, Bồ-Tát Thanh Tịnh Hạnh, Bồ-Tát Kiến Lập Hạnh. Đối với vô lượng Bồ-tát số nhiều như vi trần vân tập tại đại hội này, các ngài là trên hết. Khi ấy, bốn vịï Đại só Bồ-tát cùng với đại chúng nhiều không thể nghó bàn, cùng loạt đứng yên trướùc Đức Thế Tôn, chắp tay thưa: –Đại Thánh Thế Tôn! Thánh thể khỏe mạnh chăng? Dứt hết các bệnh chăng? Sở hành an lạc chăng? Chúng sinh đều tuân hành tốt Giới luật chăng? Ở trong sự thoải mái, không phiền bực chăng? Muôn loài không bị rơi vào hầm hố nguy hiểm chăng? Khi ấy bốn vị Đại só Bồ-tát dùng kệ khen ngợi: Thế hùng chiếu ánh sáng Sở hành an ổn chăng? Cứu thoát người hiện tại Các hành không hoạn chăng? Chúng sinh gây nhân lành Quyết hưởng quả thanh tịnh Không còn sinh mệt mỏi Vâng thọ mệnh Thế Tôn. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo đại chúng Bồ-tát trong hội: –Các thiện nam! Sở hành của Phật an ổn, không tật bệnh, không hoạn nạn, mọi người đều tuân theo Giới luật, khéo học đạo giáo, không dám chán nản, muốn được nghiêm tịnh. Vì sao? Vì chúng sinh này vào thuở xa xưa giác ngộ như nhau, việc làm của họ là việc Thanh văn, tin ưa pháp của ta, nhập vào Phật tuệ. Lại nữa, họ đều là người học đạo ba thừa, trụ Thanh văn thừa, ta đều giáo hóa đưa vào trí tuệ lớn của Phật. Khi ấy các Bồ-tát hoan hỷ nói bài tụng: Hay thay, Đức Thế Tôn Chúng con đều khuyến trợ Mới khiến một chúng sinh Hành tốt luật vi diệu Muốn được nghe Đại Thánh Dạy con điều thâm yếu Nghe rồi hoan hỷ tin Để vào pháp cúng dường. Bấy giờ Đức Thế Tôn khen ngợi các Bồ-tát trong hội: –Hay thay, hay thay! Các thiện nam, đúng như các ông nói. Điều Như Lai dạy đều tùy theo quyền nghi, không trái tôn chỉ. Khi ấy Bồ-tát Di-lặc và tám ức hằng sa Bồ-tát cùng cất tiếng khen, tụng: Từ xưa đến nay Chưa từng nghe thấy Điều mới có này Chúng Đại Bồ-tát Từ đất vọt lên Trụ trước Thế Tôn Cung phụng, nương tựa Số Bồ-tát kia Từ đâu mà đến? Di-lặc biết tâm niệm của tám ức hằng sa Bồ-tát, liền chắp tay dùng bài tụng hỏi Phật rằng: Chưa từng thấy Bồ-tát Vô số ức trăm ngàn Dù tính đến ức năm Không thể hết số lượng Đến chỗ Lưỡng Túc Tôn Vì sao nhiều như thế? Từ đâu đến nơi đây? Thần thông, thân cao lớn Tất cả chí kiên cường Là Đại Thánh dũng mãnh Đoan chính đáng kính mộ Nay từ đâu đến đây? Thế Tôn thấy tất cả Chư Bồ-tát trí tuệ Cùng quyến thuộc vô số Ví như cát sông Hằng Số ấy hơn cát sông Đủ Phật pháp giáo hóa Bồ-tát và quyến thuộc Đều đạt đạo chính giác Hạng tinh anh như vậy Vân tập lễ Đại Thánh Đầy đủ cả sáu mươi Trăm ngàn hằng hà sa Số này còn hơn nữa Quyến thuộc vô số kể Năm trăm hằng hà sa Hoặc bốn, hoặc ba trăm Hoặc hai trăm hằng sa Số đông cũng như thế Số kia so số này Hơn năm hoặc mười lần Tất cả các quyến thuộc Đệ tử bậc Đại Thánh Chúng đó từ đâu tới? Đi đến chỗ Đạo Sư Hoặc bốn, hoặc ba, hai Hoặc một hằng hà sa Tất cả đều đi đến Bạn lữ đều khéo học Số nhiều không kể xiết Trừ số ở trên không Trong trăm ngàn ức kiếp Không thể nhóm tụ hết Nửa phần hằng hà sa Ba, hai mươi hoặc mười Đầy đủ chúng lập hạnh Chúng Bồ-tát minh triết Đều trụ ở trên không Số hạn không thể lường Hiện rõ không ngăn cách Ức kiếp hành thanh tịnh Và vô lượng bộ khác Cùng vô số quyến thuộc Ức ức lại hơn ức Hoặc có bộ nửa ức Hoặc hai mươi, hoặc mười Hoặc năm, bốn, ba, hai Các vị cùng quyến thuộc Không thể tính toán hết Ai nấy tự tu hành Tịch tónh ưa mến đạo Lặng lẽ như hư không Một mình đến cũng nhiều Dù trải hằng sa kiếp Không ai tính đếm được Ở tinh xá, tịnh thất Từ khắp phương đi đến Tất cả Thiên, Thần thánh Đều vì Thế Tôn đến Chư Bồ-tát dũng mãnh Từ đâu bỗng đến đây? Ai vì họ thuyết kinh? Ai kiến lập Phật đạo? Hiển bày giáo nghĩa gì? Kiến lập hạnh Phật gì? Tế hạnh đều đáng kính Từ khắp bốn phương lại Nhờ vào Thiên nhãn thông Đại tuệ bỗng nhiên hiện Ở thế giới trống không Năng nhân khiến đầy đủ Các Bồ-tát nhân hiền Chư vị tự nhiên đến Từ khi sinh đến nay Chưa thấy việc như thế Xin nói quốc độ họ Đại Thánh nêu hết tên Từ mười phương đến đây Đều sẵn mười tám pháp Con chưa từng được thấy Các Bồ-tát như thế Con là đệ tử đầu Chưa nghe thấy điều này Nay đây bao nhiêu chúng Xin Năng Nhân nói rõ Các Bồ-tát vô số Trăm ngàn ức khó lường Các ngàn ức vô lượng Nguồn gốc ở nơi đâu? Các Bồ-tát dũng mãnh Ý chí chẳng thể lường Các hạnh như thế đó Xin Đại Hùng nói cho. Bấy giờ ở các thế giới phương khác, vô số trăm ngàn ức các Đức Như Lai Chí Chân Đẳng chính Giác từ khắp mười phương đến chỗ Đức Phật Năng Nhân khuyến khích thuyết pháp. Các Ngài đều ngồi trên tòa Sư tử, dưới cây bảy báu. Các vị thị giả của chư Như Lai ấy thấy vô lượng Bồ-tát hàng hàng lớp lớp biến hóa ở trong đại hội, từ đất vọt lên, đều đứng lên hỏi Đức Phật của mình: –Chư Bồ-tát Đại só này từ đâu đến đây mà nhiều vô lượng vô biên như vậy? Khi ấy các Đức Phật kia đều bảo thị giả: –Thiện nam! Hãy đợi trong chốc lát có Bồ-tát tên là Di-lặc đã được Đức Như Lai Năng Nhân thọ ký sẽ đạt đạo Vô thượng chính chân thành Bậc Tối chính Giác, tự hỏi Năng Nhân điều kỳ lạ ấy rồi, Đức Phật sẽ phân biệt rành rẽ ý nghĩa quy hướng. Tất cả hãy yên lặng, nhất tâm lắng nghe. Bấy giờ Đức Phật bảo Đại só Di-lặc: –Hay thay, A-dật! Điều mà ông hỏi vi diệu vô cùng, sâu xa khó lường. Hãy lắng nghe, hãy lắng nghe, ta sắp nói đây! Tất cả Bồ-tát và chư vị trong pháp hội này đều có năng lực mạnh mẽ vững chắc đối với tâm Bồ-đề, sẽ thấu đạt tuệ kiến vô cùng sâu xa của Như Lai. Chư Đại Thánh ấy kiến lập cảnh giới vô lượng, thiền định, trí tuệ tự tại theo sở thích, không thể nào nêu ra hết để mà phân tích diễn nói, phương tiện giáo hóa cũng không hạn lượng. Khi ấy Phật nói bài tụng: Các thiện nam tử Lắng nghe Phật đạo Nay ta sắp nói Trí tuệ an lạc Nếu người thấu rõ Lấy làm thích thú Trí tuệ Như Lai Không thể nghó bàn Đều phải vững ý Giữ tâm kiên cố Kiến lập ý chí Nhất tâm bình đẳng Đại Thánh khó gặp Thương xót thế gian Nay hãy nghe thọ Pháp chưa từng có Phật sẽ kiến lập Tất cả các ông Thảy đều không được Sinh tâm hồ nghi Lời Đạo Sư dạy Không có gì khác Trí tuệ bình đẳng An ổn không riêng An trú trị liệu Pháp rất sâu xa Tâm chẳng suy được Không thể hạn lượng Nay sẽ giảng nói Nhân duyên vô cùng Tất cả đều nghe Biết chỗ hướng đến. Thế Tôn nói tụng rồi, bảo ngài Di-lặc: –Này A-dật! Ta nói cho tất cả biết vô lượng chúng Đại só Bồ-tát không thể nghó bàn, từ dưới đất vọt lên mà trước chưa thấy có mặt ở thế giới Kham nhẫn này là do ta, khi mới đạt đạo quả Vô thượng chính chân, thành Bậc Tối chính Giác, đã khuyến khích họ an trụ địa vị không thoái chuyển, khiến họ thành đạo lớn, truyền trao, giáo hóa an lập. Này thiện nam! Chúng Bồ-tát Đại só ấy ở phương dưới và ở trong cõi đó, có sự cứu hộ, phúng tụng, tán dương kinh điển, tư duy thiền định, tinh chuyên quán sát chỗ hướng về, hân hoan vui vẻ, ưa hạnh vô vi. Các thiện nam! tính khí họ điềm đạm, không phân xa gần; ở cõi trời và người đời thường chuyên tu tập, chuyển pháp luân vô vi khó nghó bàn, ưa thần thông thâm sâu, lấy pháp lạc làm niềm vui, chí nguyện tinh tấn, cầu trí tuệ Phật. Khi ấy Đức Thế Tôn nói tụng: Nay đây vô số Các chúng Bồ-tát Chẳng thể nghó bàn Không thể hạn lượng Tạo hạnh vô số Không thể tính đếm Phát triển thần túc Rộng mở trí tuệ Ta đều khuyến dụ Ở đạo Đại Thánh Nay tất cả Phật Đều thọ ký cho Các Bồ-tát này Là đệ tử Phật Đều trụ nơi đây Quốc độ của ta Xả bỏ xa lìa Các chỗ ở trước Ở khắp mọi nơi Vắng lặng giải thoát Các Phật tử này Thực hành vô vi Tinh tấn tu học Theo đạo cao cả Chư Thánh triết này Ở tại phương dưới Nay đến nơi đây Giữ gìn cõi nước Ngày đêm tinh tấn Không phóng túng, mạn Tích lũy đức hạnh Phân biệt Phật đạo Luôn siêng tu hành Kiến lập tuệ lực Thảy đều vững chắc Không đo lường được Ý chí dũng mãnh Tư duy kinh pháp Đều là con ta Đã đạt thanh tịnh Khi ta mới thành Đạo quả giác ngộ Hoặc ở trong thành Cũng như tại rừng Cũng đều diễn giảng Pháp luân Vô thượng Khuyên họ lập chí Phật đạo tôn quý Điều Phật nói đây Chí thành vô lậu Nghe Phật khen ngợi Đều nên tín thọ Khai hóa phát khởi Các tinh hoa này Từ lâu đến nay Kiến lập chính đạo. Bấy giờ Đại só Di-lặc nghe Phật nói về số trăm ngàn ức chúng Đại Bồ-tát không thể tính biết ấy, tâm sinh ngạc nhiên, quái lạ chưa từng có. Liền bạch Thế Tôn: –Bạch Thế Tôn! Khi Thế Tôn còn là Thái tử tại cung vua dòng họ Thích ở Ca-duy-la-vệ, vứt bỏ ngôi báu và thú vui thể nữ để xuất gia. Ngồi dưới cội cây tại đạo tràng, chứng đắc đạo Vô thượng chính chân, thành Bậc Tối chính Giác, từ đó đến nay không lâu, mới bốn mươi năm, nhưng tại sao số vị được giáo hóa và độ thoát lại vô lượng? Lại mở mang cảnh giới chư Phật, khuyến hóa quá nhiều, thiết lập quyền tuệ không thể nghó bàn. Chúng Đại Bồ-tát trong pháp hội hôm nay đều do Như Lai khai dẫn, tầng tầng lớp lớp chúng nhiều vô lượng tu phạm hạnh đã lâu, trồng gốc phước đức, cúng dường vô số trăm ngàn chư Phật. Giả sử muốn tính đếm sự thành tựu đó phải trải qua vô số kiếp. Di-lặc lại bạch tiếp: –Con muốn nêu một thí dụ nhỏ: Ví như có một thanh niên tuổi hai mươi lăm, đầu tóc đen mướt, dung mạo tươi trẻ, trang phục đẹp đẽ, đàng hoàng sạch sẽ, lòng luôn lo lắng, thấy người trăm tuổi tự cho mình là cha, bảo rằng: “Thiện nam, hãy đến đây! Ngươi là con của ta.” Người trăm tuổi kia cũng cho người hai mươi lăm tuổi là cha của mình. Người cha xem biết tự miệng nói là con của ta. Đức Thế Tôn cũng vậy, người thế tục không tin điều ấy mà làm cho họ tin. Phật cũng như thế, thành Phật chưa lâu mà nay có bao nhiêu trăm ngàn ức số (Bồ-tát) từng tu phạm hạnh, từ lâu xa đã nương theo đạo tuệ, giáo hóa vô lượng chúng, hiện tại thấu suốt thiền định, kiến lập phương tiện, thành đại thần thông, thông minh trí tuệ, an trụ Phật địa, tu tập Phật tuệ, kiến lập Phật lực, ở đời ít có. Xưa kia Thế Tôn cũng lại giáo hóa các hàng như thế, dẫn dắt kiến lập Bồ-tát địa, sẽ thành đạo Vô thượng chính chân, đạt quả chính giác, hành mọi phương tiện, việc làm đã xong. Nay con ghi nhận, tin tưởng là đúng sự thật, tìm hiểu thấu suốt đã qua sự phán đoán, phân tích về ý nghĩa này. Nhưng kính bạch Như Lai, Bồ-tát mới học lòng còn do dự, không biết rõ điều đó nên sau khi Như Lai diệt độ, nghe kinh điển này nhất định không tin. Và vì có sự do dự nên không tuân theo pháp này, cũng không ưa thích, sẽ gặt hái tội báo. Lành thay, Thế Tôn! Cúi xin nói rõ điều này cho những người có sự hồ nghi về kinh điển này, để ở tương lai vào thời mạt pháp, những vị học Đại thừa giả sử nghe kinh này khiến họ không ngờ vực. Khi ấy Đại só Di-lặc ở trước Thế Tôn nói tụng khen ngợi: Ví như có người Hiện sinh con già Năng Nhân chí thánh Sinh vào vương cung Vứt bỏ ngôi vua Mà được Phật đạo Vừa làm Đạo Sư Đồ chúng ít ỏi Chư vị nơi đây Là bậc không thoái Đã vô số kiếp Cứu độ chúng sinh Sức lực thần túc An trú bất động Tu học trí tuệ Thảy đều thâm nhập Nay đến nơi đây Khai thông tại chỗ Như sen trong nước Toàn không nhiễm trước Oai thần tột bực Chí vượt thế gian Tất cả chắp tay Nghiêm chỉnh đứng yên Các chúng Bồ-tát Hình dáng như vậy Là như thế nào Ai tin việc ấy? Cúi xin Đại Thánh Xót thương chỉ bày Phân biệt rành rẽ Ý nghĩa chân thật. Ví như có người Đang lúc tráng niên Tuổi hãy còn nhỏ Tóc đẹp và đen Tuổi của người ấy Mới hai mươi lăm Mà có thể sinh Người già trăm tuổi Dưỡng nuôi, tắm rửa Tùy thời ăn mặc Cho là con ta Cưng quý hết mực Tất cả thế gian Không có ai tin Tuổi còn đang trẻ Sinh con lớn tuổi. Thế Tôn cũng vậy Nếu con không lầm Vô số Bồ-tát Tụ hội nơi đây Dũng mãnh, trí tuệ Không gì sợ sệt Vô số ức kiếp Sở học vững chắc Ý chí minh triết Thông đạt mục đích Oai thần cao vợi Hiện tướng đẹp đẽ Tâm ý dũng mãnh Hiểu rõ pháp luật Là Thế Hùng Sư Người thấy thăm hỏi Nên ẩn núi cao Tịnh tu giải thoát Như cõi hư không Không gì vướng mắc Thiền định tinh tấn Là bậc an trú Tâm chí mong cầu Đạt thành Phật đạo Nhưng mà người nào Sẽ tin lời này Nếu Đấng Đạo Sư Sau khi diệt độ Con đối điều này Không còn hồ nghi Hiện diện trước Phật Bồ-tát được nghe Ngay ở nơi này Sơ học hoang mang Để không Bồ-tát Đọa vào ác đạo Khuyên bảo thế nào Hóa độ bọn họ Cúi xin Thế Tôn Giảng giải rành mạch.  <詞 id="83085249">Phẩm 15: NHƯ LAI HIỆN THỌ Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn cất lời bảo khắp đại chúng Bồ-tát ba lần: –Các thiện nam! Tất cả hãy tin lời dạy bảo chắc thật của Như Lai, chớ có do dự. Khi ấy Đại só Di-lặc và các vị khác trong hội chúng đều chắp tay bạch với Thế Tôn: –Cúi xin Đại Thánh phân biệt giảng giải, Chúng con đều tin tưởng lời Như Lai dạy. Chư Bồ-tát cũng thưa với Thế Tôn ba lần như vậy. Khi ấy, Thế Tôn thấy các Bồ-tát nói lên ba lần để khuyến trợ, muốn Phật tuyên thuyết như vậy. Phật bảo các Bồ-tát: –Hãy lắng nghe, hãy lắng nghe và suy nghó cho kỹ! Tất cả cùng đáp: –Xin vâng! Phật bảo: –Thiện nam! Như Lai kiến lập cảnh giới năng lực vô biên như thế. Các Trời, Rồng, Thần, A-tu-luân, người thế gian đều tự biết và suy nghó: “Thế Tôn Năng Nhân sinh vào dòng họ Thích, từ bỏ ngôi vua, đi đến bên dòng sông, ngồi dưới cây nơi đạo tràng, chứng đạt đạo Vô thượng chính chân, thành Bậc Tối chính Giác. Nhưng từ lâu xa, trăm ngàn ức triệu vô số kiếp đến nay, ta đã đạt quả vị Chí Chân Đẳng chính Giác rồi. Ví như có năm trăm ngàn ức cõi Phật, có số vi trần đầy trong các cõi ấy, nếu có người lấy số bụi đó qua trăm ngàn ức triệu các cõi Phật không thể tính đếm ở phương Đông, mỗi nơi đều bỏ một hạt. Cứ lần lượt mỗi cõi đi qua lại bỏ một hạt như thế và cứ như thế lấy tất cả số vi trần trong năm trăm ngàn ức vô số cõi Phật ấy rải hết các cõi Phật, cho đến hết số bụi đó. Này các thiện nam! Các ông nghó sao? Có ai có khả năng tính đếm số lượng các cõi Phậït này hay tư duy, trù tính mà có thể biết được chăng? Đại só Di-lặc và các chúng Bồ-tát trong pháp hội đều bạch Phật: –Bạch Đấng Thiên Trung Thiên! Không ai có thể tính đếm được. Vì sao? Vì thế giới chư Phật nhiều vô lượng, không thể nghó bàn, chẳng phải là điều mà tâm biết đươc. Giả sử tất cả Thanh văn, Duyên giác có trí tuệ Hiền thánh cũùng không thể tư duy biết được số ấy. Chỉ có trí tuệ của Đại Thánh Thế Tôn mới có thể biết được mà thôi, ngoài ra không ai có thể biết được. Chính chúng con là các Bồ-tát ở địa vị không thoái chuyển còn không thể biết. Thế giới của chư Phật ở đây không suy lường, không có giới hạn. Khi ấy Thế Tôn bảo với đại chúng: –Các thiện nam! Nay ta sẽ nói. Như người kia lấy số vi trần trong năm trăm ngàn ức triệu không thể tính đếm các cõi Phật ở phương Đông, mỗi nơi đều bỏ một hạt. Cứ lần lượt mỗi cõi đi qua đều bỏ một hạt như thế. Và cứ như thế, lấy tất cả số vi trần trong các cõi của năm trăm ngàn ức vô số cõi Phật ấy, rải hết các cõi Phật, cho đến hết số vi trần ấy. Ta đã đạt đạo Vô thượng chính chân, thành Bậc Tối chính Giác đến nay trải qua số kiếp hơn hẳn số kiếp như số vi trần ấy. Các thiện nam! Các ông thấy ta giảng pháp ở thế giới Kham nhẫn này, lại thị hiện tại trăm ngàn ức triệu các cõi Phật phương khác, tất cả đều gọi ta là Như Lai Chí Chân Đẳng chính Giác. Đức Đónh Quang Như Lai vì biết bao bạn bè mà thị hiện diệt độ. Các thiện nam! Ta dùng phương tiện quyền biến khéo léo diễn nói kinh điển, hiện vô số điềm tốt đẹp. Như Lai lại biết nguồn gốc qua lại, đi ở của tất cả chúng sinh, quán hết tâm chúng mà tùy duyên thị hiện, tất cả đều là danh xưng, không diệt độ mà nói là Nê-hoàn, tùy thuận tập tính thiện ác của chúng sinh mà vì họ diễn giải biết bao nhiêu phương pháp. Chư thiện nam! Ta quán thấy vô số loại tâm tính khác nhau, việc làm bất đồng, cội đức cạn mỏng của chúng sinh phần nhiều bị phá hoại, không chịu tin nghe nên vì họ giảng nói. Này các Tỳ-kheo! Nếu suy lường sau trước thì ta mới xuất gia, thành Đấng Bình Đẳng Giác đến nay chưa lâu, vừa mới đạt được đạo Vô thượng chính chân, thành Bậc Tối chính Giác. Nhưng Như Lai đã thành Phật đến nay rất lâu mà phương tiện nói là thành Phật chưa lâu. Vì sao? Vì muốn hóa độ chúng sinh vậy. Đối với chúng sinh có thể thuyết kinh, đều đã độ thoát, nơi chốn có thể giảng nói thì tự hiện thân vì tất cả mà mở đường chỉ lối và cũng vì hàng trời, người ưa tạo tội phước. Vì vậy cho nên những điều Như Lai diễn giảng đều chắc thật, chí thành, chẳng phải hư dối. Như Lai thấy hết tất cả ba cõi, tùy duyên hóa hiện, không sở hành, không xuất sinh, không xoay vần, không diệt độ, không thật có, không hiện hữu, cũng không có bản vô, không biết, không như thế, không thật hư, cũng không có ba cõi. Sở hành của Như Lai là không thấy có ba cõi. Như Lai quán khắp tất cả các pháp, tại bất cứ chỗ nào cũng không bỏ mất các pháp. Tất cả điều giảng dạy chí thành bất hư. Chúng sinh khổ não không thể kể xiết, tạo nên bao nhiêu chủng tính sai khác, tư duy niệm tưởng khác nhau, ta muốn khiến cho chúng sinh gieo trồng cội phước đức cho nên nói phân biệt biết bao nhiêu pháp. Lại nữa, những điều Như Lai phải làm đều đã làm xong. Quả Phật hiện tại và sự đắc thành quả Đẳng giác đến nay đã quá lâu xa, thọ mạng vô cùng, thường trụ bất diệt. Như Lai không cần phải nói những điều đã nói lúc ban đầu về thời quá khứ trước đây khi hành pháp Bồ-tát để được thành tựu hạn lượng của thọ mạng. Lại nữa, Như Lai đắc quả Phật đến nay thời gian lại nhiều gấp bội số trăm ngàn ức triệu như thí dụ trước. Rồi sau đó mới nhập Nê-hoàn. Vì sao? Vì giáo hóa chúng sinh mà thị hiện tu hành đến nay đã lâu xa, vì loài vô đức xa lìa phước đức, vì hạng bần cùng đắm trước ái dục, bị ràng buộc vào lưới kiến chấp mà tự che lấp mình, rong ruổi bất định. Như Lai vì họ mà thị hiện, làm phát khởi tư tưởng mong chóng thành đạt, không sinh lười biếng, lo âu khó đắc. Như Lai khéo léo phương tiện bảo các Tỳ-kheo: “Cần khổ tu hành mới đắc Phật quả, chân thật chẳng hư.” Vì các chúng sinh trải vô số trăm ngàn ức triệu kiếp mới thấy Như Lai, vì việc làm của họ vội vàng không đúng, luôn luôn sợ hãi không chịu chấm dứt, cho nên nói Phật pháp khó được nghe, Như Lai khó được gặp. Sự nghe thấy quá khó như vậy nên phát khởi tư tưởng khó gặp, buồn vui lẫn lộn, biết Phật là hy hữu, phát tâm dũng mãnh, ưa chỗ vắng lặng, tu hành tinh tấn. Do không thấy Phật nên sinh lòng khát ngưỡng, thấy Như Lai rồi, hoan hỷ kính lễ, tạo các công đức, ai không diệt độ thì giáo hóa khiến diệt độ, khai hóa mọi người. Do vậy, Như Lai xuất hiện thuyết kinh, nói ra lời chắc thật không hư. Ví như có vị thầy thuốc thông minh trí tuệ, tài giỏi khó sánh, rành chế phương dược, biết bệnh nặng nhẹ, trị liệu đúng thuốc. Ông có nhiều con, hoặc mười đứa cho đến trăm đứa. Ông ta đi xa, các con ở nhà không hiểu y lý, không rành phương dược, không biết thuốâc độc, bị bệnh rất nặng, uống nhằm độc dược. Độc dược phát tác, choáng váng lăn lộn. Cha từ xa về, con ở trong thành đầu óc rối loạn. Thấy các con bị bệnh, người cha xót thương. Con thấy cha về vui mừng tự nói: “Cha đã về, thật là tốt lành, an ổn. Chúng con vì nhầm tin lời người mà uống phải độc dược. Cúi xin cha cứu mạng chúng con.” Khi ấy, người cha thấy các con gặp tai nạn khổ não, lăn lộn dưới đất, liền bảo người mang thuốc đến, màu thuốc rất đẹp, mùi vị thơm ngon. Người cha pha chế các thuốc, đưa cho các con và dặn: “Hãy mau uống thứ thuốc thượng hạng, mùi vị thơm ngon này. Nếu các con uống thuốc này vào thì độc kia tiêu diệt, bệnh được khỏi ngay, thân thể an ổn, khí lực khang kiện.” Các người con không bị sự điên đảo làm rối loạn đầu óc thì thấy thuốc thơm, nếm biết mùi vị, liền uống vào, lập tức lành bệnh, độc dược tiêu trừ. Những người con tâm tính bị bấn loạn thì chẳng chịu uống thuốc. Những người con uống thuốc lành bệnh đều nói là do cha cho thuốc nên chúng ta được lành bệnh và được an ổn. Còn những người con bị tà tưởng, không chịu uống vì khi thấy màu thuốc không ưa hương vị. Người cha nghó: “Nay những người con của ta ngu si không biết tâm tính điên đảo, không chịu uống thuốc, bệnh không thuyên giảm, e rằng sẽ chết. Nay ta nên dùng quyền biến để các con uống thuốc.” Nghó rồi, bèn bày phương tiện, muốn khiến con mau uống thuốc, liền bảo các con: “Ta nay tuổi già sức yếu sẽ chết nay mai, các con hãy gắng dậy. Nếu ta chết đi thì nên dùng thuốc này chữa lành nhiều bệnh. Các con nên ghi nhớ, uống thuốc đúng liều lượng. Giả sử chán bệnh, muốn được an ổn thì nên uống thuốc này.” Dặn dò các con xong, người cha bỏ đi đến nước khác, giả báo là chết. Các con nghe cha chết rồi, buồn đau khóc lóc, lo sầu không thể kể xiết: “Cha chúng ta trí tuệ thông minh, nhưng xem thường không uống thuốc nên nay đã chết, để anh em cô độc.” Họ nhớ nghó, âu lo, tự trách mình không làm theo lời cha dạy. Rồi họ bèn làm theo những việc cha dặn lại, xem kỹ màu sắc, hương vị của thuốâc, tự mình trị liệu không dám khinh suất, liền uống thuốc vào để tiêu diệt mầm bệnh, bệnh liền thuyên giảm. Khi ấy, người cha thấy con uống thuốc, bệnh lành, liền trở về nhà. Phật dạy: –Này các thiện nam! Như vị thầy thuốc ấy khéo quyền phương tiện khiến các con hết bệnh thì có nên chê trách việc làm của vị ấy là không chính đáng chăng? Các vị Bồ-tát bạch Phật: –Bạch Thế Tôn, không! Bạch Bậc An Trú, không! Phật dạy: –Ta từ vô số trăm ngàn ức kiếp không thể tính đếm, phát tâm cầu đạo Vô thượng chính chân, cần khổ vô cùng, luôn luôn hành phương tiện, thị hiện giáo hóa khai ngộ quần sinh. Người cha thầy thuốc ấy chính là Như Lai vậy, còn các người con ấy chính là chúng sinh sinh tử trong năm đường. Người cha đi nơi khác không có mặt dụ cho Như Lai chưa xuất hiện ở đời. Các con vào thành uống độc dược lăn lóc dụ cho chúng sinh bị ba độc buộc ràng, trôi lăn trong ba cõi, năm đường không thể tự cứu. Người cha trở về dụ cho Như Lai hành hạnh đại Từ bi, thấy chúng sinh trong ba cõi lưu chuyển trong năm đường không thể tự ra khỏi, cho nên xuất hiện ở đời rộng nói kinh pháp, khai hóa chúng sinh. Uống thuốc lành bệnh dụ cho phát tâm cầu đạo Vô thượng chính chân, trụ quả bất thoái, vô sinh, hoặc đắc Thanh văn, Duyên giác không đạt cứu cánh. Xem màu sắc, hương vị của thuốc mà không uống dụ cho sáu mươi hai quan điểm rơi vào tà kiến. Người cha già để thuốc lại, dặn con rồi bỏ đi dụ cho Phật thấy chúng sinh nghi đạo giáo nên thị hiện diệt độ, lưu lại kinh pháp để giáo hóa đời sau. Bốn chúng đệ tử phúng tụng học hỏi, nghó công đức của Phật, phát tâm cầu đại đạo, hoặc đắc La-hán, hoặc đắc Duyên giác. Phật thấy như vậy lại xuất hiện ở thế gian. Tất cả thế gian đều là con của ta. Các thiện nam! Như Lai hành quyền phương tiện chẳêng phải là dối trá. Khi ấy Đức Thế Tôn muốn giảng lại nghĩa trên liền nói bài tụng: Trăm ngàn ức kiếp Không thể nghó bàn Muốn biết số lượng Cũng không biết được Chí tôn Đại Thánh Đắc đạo đến nay Thường giảng thuyết kinh Chưa từng dừng nghỉ Khuyến khích giúp đỡ Vô số Bồ-tát Đều được an trú Đạo tuệ của Phật Vô số ức kiếp Khai đạo chúng sinh Trải ngàn ức kiếp Không thể nghó bàn Vì họ thị hiện Có cảnh diệt độ Để giáo hóa họ Chỉ đường lợi ích Dùng quyền phương tiện Thị hiện diệt độ Nên vì chúng sinh Diễn nói kinh này Ta đã an lập Tất cả chúng sinh Phân biệt cho họ Rõ biết nghĩa ấy Tâm họ điên đảo Nên không hiểu biết Muốn an lập họ Phật bèn tuyên thuyết Nếu gặp được Phật Sau Ngài diệt độ Dùng biết bao vật Mà để cúng dường Thấy ta diệt độ Âu sầu lo lắng Nếu thấy lại Phật Mừng vui phấn chấn Giả sử thẳng thắn Nói lời chí thành Này các chúng sinh Tạm bỏ thân này Rồi sau Như Lai Luôn tự thị hiện Dùng mọi âm thanh Diễn bày Phật đạo Người ở đời sau Phân biệt lời này Ta còn trong ấy Chẳêng phải diệt độ Tỳ-kheo nên biết Phật quyền phương tiện Luôn luôn kham nhẫn Hiện ra trên đời Cùng với đồ chúng Quyến thuộc vây quanh Nhân đó tuyên dương Phật đạo tôn quý Chư hiền được nghe Phật hiện ở đời Làm Bậc Đạo Sư Vào cõi tịch diệt Quán thấy chúng sinh Sầu lo áo não Hoảng hốt không thấy Tướng hảo của Ngài Khát khao trông ngóng Muốn được thấy Phật Và sau đó thì Phân biệt kinh điển Không thể nghó bàn Trăm ngàn ức kiếp Ta thường kiến lập Phương thức như vậy. Phật thường đi đến Ở núi Linh Thứu Sàng tòa tự nhiên Số nhiều vô lượng Giả sử chúng sinh Thấy thế giới ấy Có nạn nước lửa Thiêu hủy đất trời Thì ngay khi ấy Cõi Phật của ta Đủ thứ vi diệu Êm ả an lành Ca múa vui chơi Vô cùng an ổn Giảng đường tinh xá Phòng ốc gác lầu Đẹp đẽ trang nghiêm Đều bằng bảy báu Dược thảo cây cối Hoa quả tốt tươi Mưa hoa tự nhiên Hoa ấy nhiều màu Dùng rải cúng Phật Và chúng đệ tử Mọi người ở nhà Đều thấy chấn động Có kẻ ưa thích Phát khởi đạo tâm Cõi nước của ta Kiến lập thường nhiên Người khác có thấy Tai kiếp thiêu rụi Thì cõi nước ấy Lửa rất lạ thường Do quyền phương tiện Thị hiện như thế Như Lai khen ngợi Tôn pháp của Phật Vô lượng vô biên Hiện bày như thế Các loài chúng sinh Không chịu lắng nghe Chỉ thích tạo nên Tội khổ tai ương Giả sử nhân dân Nhu hòa trung thực Khi ấy Đức Phật Xuất hiệïn thế gian Gặp được Thế Tôn Giảng dạy kinh pháp Mới được sáng tỏ nghĩa lý thanh tịnh Phật đến vì người Phân biệt răn dạy Nói những sự việc Tạo trong luân hồi Giả sử Như Lai Lâu mới xuất hiện Sau đó mới vì Thuyết giảng kinh này Trí lực của ta Quang minh tối thượng Tri kiến như thế Đâu phải mỏng bạc Việc làm đời trước Số kiếp vô lượng Là do lòng Từ Bình thản vô cầu Người có trí tuệ Không được hồ nghi Vứt bỏ do dự Chớ ôm nội kết Những điều sẽ nêu Chưa từng công bố Nay Phật bảo khắp Không nghĩa nào khác Như vị thầy thuốc Dùng phương tiện khéo Mở bày phân biệt Cho con phương thuốc Hiện suy già chết Nhưng thân thường tại Dùng tiếng vi diệu Vô thủy vô chung Dung nạp bạn hữu Tùy nghi sử dụng Ở đời thuyết pháp Trị bệnh chúng sinh Khai dẫn kẻ ngu Khiến lìa tăm tối Thị hiện Niết-bàn Thật không diệt độ Cớ gì ân cần Muốn được hiện rõ Người thường mờ tối Khiến tâm tin ưa Do vì phóng dật Đọa lạc ba đường Tâm họ náo nức Muốn được hiểu rõ Lời của Như Lai Thường thường biết thời Vì các chúng sinh Thực hành trí tuệ Dùng phương tiện gì Mà nói đạo pháp Do đâu mà được Kinh giáo của Phật. Khi Đức Thế Tôn nói về thọ lượng ấy của Như Lai, vô số chúng sinh không thể nghó bàn đều đạt được ý nghĩa lợi ích của đạo giải thoát. KINH chính PHÁP HOA <卷 id="83085250">QUYỂN 8 <詞 id="83085251">Phẩm 16: NGỰ PHƯỚC SỰ Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Đại só Di-lặc: –Này A-dật nên biết! Nay khi Phật nói kinh Như Lai thọ hạn này, có sáu mươi tám ức triệu trăm ngàn hằng hà sa các Bồ-tát đạt được pháp nhẫn bất khởi, hai ngàn hằng hà sa Bồ-tát Đại só đều đắc tổng trì, số Bồ-tát Đại só như số vi trần trong một cõi Phật đắc pháp tổng trì vô ngại biện tài; lại có ức trăm ngàn vô số Bồ-tát nhiều như vi trần của ngàn cõi Phật đắc tổng trì không thoái chuyển; lại có Bồ-tát Đại só nhiều như số vi trần trong ngàn cõi Phật nghe kinh điển này, chuyển pháp luân không thoái chuyển; lại có Bồ-tát nhiều như số vi trần trong trung thiên cõi Phật chứng đắc bậc Đại Thánh vô cấu, phân biệt chuyển pháp luân; lại có số Bồ-tát nhiều như vi trần trong tiểu thiên cõi Phật nghe kinh điển này còn tám đời nữa sẽ thành đạo Vô thượng chính chân; lại có số Bồ-tát Đại só nhiều như số vi trần trong bốn châu thiên hạ nghe pháp này rồi đắc Nhất sinh bổ xứ, sẽ thành chính giác; lại có số chúng sinh nhiều như số vi trần tám cõi Phật nghe kinh điển này đều phát tâm cầu đạo Vô thượng chính chân. Phật vừa nói như thế, các Bồ-tát Đại só liền được kiến lập. Ngay khi ấy, từ trên hư không các loại hoa trời như Ýù hoa và Đại ý hoa rơi xuống lất phất như tuyết để rải cúng trên ức trăm ngàn Đức Phật ở vô số trăm ngàn thế giới vì thương tưởng mà đến đây ngồi trên tòa Sư tử dưới cây bảy báu và rải cúng Đức Đại Thánh Năng Nhân, cùng vô số chẳng thể tính đếm Đức Phật đã diệt độ và rải cúng thân Phật Đa Bảo; lại rải trên tất cả các Bồ-tát; đại địa chấn động. Lại có bốn loại chiên-đàn, tạp hương, mật hương, tất cả các thứ hương từ hư không rải xuống. Trong hư không phát tiếng sấm lớn, tiếng vang sâu lắng êm ái tự nhiên vi diệu. Có biết bao ngàn vạn anh lạc, châu báu như ngọc minh nguyệt, ngọc như ý… đều từ trên không thòng xuống như tràng phan. Vô số hương trong hư không, tự nhiên mùi hương tỏa ra. Lại có vô số trăm ngàn bảo cái tự nhiên đưa đến; tất cả bảo cái đều che trên tất cả Đức Phật, lên đến cõi Phạm thiên. Các chúng Bồ-tát ở trong hư không cầm bảo cái đứng hầu hai bên ức trăm ngàn Đức Như Lai. Khi ấy ngài Di-lặc khen ngợi bằng bài tụng: An trụ được nghe Pháp chưa từng có Trước nay chưa từng Thấy ánh sáng này Rộng lớn rất xa Chẳng có giới hạn Như điều vừa thấy Không thể nghó bàn. Ngày nay con đã Được nghe kinh điển Mà quán an trú Đại Thánh Đạo Sư Hiện phân biện thuyết Kiến lập chúng sinh Số trăm ngàn ức Đặc biệt trong đời Chuyển bất thoái luân Trụ ở Phật đạo Có người được lập Nắm được bí mật Có người được điều nghĩa lý vô hạn Số trăm ngàn ức Bí yếu tổng trì Muốn có hạn lượng Và tư duy được Có chỗ kiến lập Siêu vượt độ sinh Có người hai đời Hoặc còn tám đời Sẽ đạt Phật đạo Độ được vô lượng Hoặc có Hữu học Còn vượt bốn đời Hoặc có người ba Hay chỉ còn hai Theo Đấng Đạo Sư Nghe kinh điển này Sẽ đạt Phật đạo Rõ đệ nhất nghĩa Có người kiến lập Nhất sinh bổ xứ Thành bậc thông tuệ Dạo chơi các cõi Nghe ngộ kinh này Đại Thánh đã thuyết Có người chứng quả Không còn các lậu Giống như vi trần Trong tám cõi Phật Muốn biết số lượng Cũng giống như đây Hoặc có số ức Chúng sinh nghe kinh Nghe rồi đều phát Tâm đạo thù thắng Thế Tôn Vô Thượng Tạo được như thế Phân biệt diễn thuyết Kiến lập Chân đế Vô lượng các thân Chẳng tính kể được Ví như hư không Không có giới hạn Chư Thiên đã rải Vô số ức hoa Chẳng thể tính đếm Ngàn ức Thiên tử Đế Thích, Phạm thiên Như cát sông Hằng Đều đến nơi đây Vô số ngàn ức Tạp hương, diệu hương Mật hương, thượng hương Dồn lại cúng dường Để rải cúng Phật Rơi thành từng hàng Giống như chim bay Đến cúng dường khắp Chỗ Như Lai ngồi Ở trên hư không Tự nhiên sấm động Âm vang êm diệu Sâu lắng nhiệm mầu Trăm ngàn ức trời Đều cùng ca tụng Châu báu minh nguyệt Tự nhiên rủ xuống Các mùi hương thơm Tự nhiên xông tỏa Trăm ngàn ức vạn Bình báu bảy báu Đầy dẫy hư không Như chim nhạn bay Cúng dường Đại Thánh Là Đấng oai thần Ức vạn bảo cái Bảy báu trang hoàng Chẳng thể tính đếm Rộng lớn bao quanh Các bậc Bồ-tát Thân hình cao lớn Lên đến Phạm thiên Đẹp đẽ vi diệu Trí tuệ thông minh Oai quang rực rỡ Tràng phan thêu đẹp Cúng dường lên Phật Ca ngợi Thánh chúng Ngàn ức bài tụng Trong lòng phấn chấn Quy kính an trú Nơi ấy nhìn xuống Khen chưa từng có Thấy biết bao nhiêu Đấng Đạo Sư khác Đều cùng thị hiện Giới hạn thọ mạng Chúng sinh này đây Thảy đều hoan hỷ Pháp âm Đạo sư Vang dội rộng khắp Cho đến mười phương Chỗ nào cũng rõ Thỏa lòng chúng sinh Số trăm ngàn ức Hiểu rõ ý đạo Đầy đủ trang nghiêm. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo ngài Di-lặc: –Người nào nghe kinh pháp Như Lai đã nói về hiện thọ mạng mà trong khoảnh khắc sinh tâm thích thú, tin tưởng thì công đức chẳng thể suy lường. Ví như thiện nam, thiện nữ muốn đắc đạo Vô thượng chính chân thì phụng hành năm pháp Ba-la-mật là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, nhất tâm trong tám trăm ngàn ức kiếp chẳng bằng thiện nam, thiện nữ nghe hạn lượng thọ mạng của Như Lai ở đây trong khoảnh khắc phát tâm hoan hỷ tin tưởng ưa thích, chẳng hồ nghi về bao nhiêu phép tu hành đều quy về nhất đạo thì phải biết so với công đức tám trăm ngàn ức kiếp tu hành năm pháp Ba-la-mật gấp trăm, gấp ngàn, gấp vạn, gấp ức, gấp hơn vạn ức, phước ấy không thể lấy gì ví dụ được. Phật dạy: –Này A-dật! Thiện nam, thiện nữ nghe kinh pháp này, chỉ một khoảnh khắc phát tâm hoan hỷ tin theo thì an trụ vững chắc đạo Vô thượng chính chân, thành Bậc Tối chính Giác. Khi ấy Đức Phật nói tụng: Nếu tất cả tuân theo Hành năm Ba-la-mật Chí mong cầu tuệ này Lòng bảo tồn đạo cả Dầu trăm ngàn ức kiếp Tám kiếp đều đầy đủ Luôn cúng dường chư Phật Và các bậc Thanh văn Cúng dường ngàn ức cai Duyên giác và Bồ-tát Dâng hiến đồ ăn uống Y phục, giường, nệm Mền chiếu và phòng xá Đều dùng hương chiên-đàn Vườn cảnh luôn bằng phẳng Để làm nơi kinh hành Cúng dường biết bao thứ Vô số như thế rồi Ở trong trăm ức kiếp Để cầu đạo Vô thượng Lại hộ trì cấm giới Trong sáng không vi phạm Vì được trí tuệ Phật Vui tin đảnh lễ Phật Lại nữa tu nhẫn nhục An trú chỗ điều nhu Chí cao không oán hận Nhẫn vô số mắng nhiếc Dù gặp kẻ hung bạo Ngã mạn và tự đại Đều có thể nhẫn được Vì để cầu Phật đạo Thường ân cần tinh tấn Khoan hòa tâm kiên cố Ý nghó tưởng việc khác Dạo đến ức cõi Phật Hoặc ở chỗ thanh vắng Muốn bỏ việc ngủ nghỉ Người ấy tu ức kiếp Thường tập đi kinh hành Muốn sánh không sánh bằng Ngàn ức kiếp thiền định Lại thêm tám ngàn ức Tu hành tâm chuyên nhất Chí nguyện đạt Phật đạo Muốn được các thông tuệ Đủ định Ba-la-mật Nhất tâm thiền tịch nhiên Các phước đức đã tạo Tụ tập dồn cả lại Trong trăm ngàn ức kiếp Như trước đã khen ngợi Nếu nam tử nữ nhân Nghe tuổi thọ của Phật Nhất thời hoan hỷ tin Đức ấy là hơn hết Nên trừ bỏ do dự Các tư tưởng chấp trước Tin ưa nghĩa đại pháp Phước ấy cũng như thế Nếu Bồ-tát cầu đạo Tuân phụng qua ức kiếp Có nghe hay chẳng nghe Thọ mạng Phật vô lượng Nên cúi đầu đảnh lễ Hạng người được như thế Đời sau, trong tương lai Độ thoát số ức người Như Thế Tôn Năng Nhân Đại nhân Thích sư tử Ngồi dưới cõi Bồ-đề Mà rống tiếng sư tử Ta nay sở dó đến Được chúng sinh cung kính Ở tại đạo tràng Phật Nói thọ mạng cũng thế Người đầy đủ chí tính Rộng nghe và thọ trì Pháp độ người đã nói Thì không có hoài nghi Phật lại bảo ngài A-dật: –Người nào nghe nói kinh thọ mạng của Như Lai mà ở trong cõi người thọ trì, phân biệt, hiểu rõ thì người ấy được phước chẳng thể kể xiết, tức là hơn người trải bao nhiêu ức kiếp phụng hành năm pháp Ba-la-mật, hơn nữa sẽ thị hiện và phụng trì trí tuệ Phật. Lại nữa, người nghe kinh này liền thọ trì biên chép trên tre, lụa, cúng dường, thờ phụng, rải hoa, đốt các loại hương như hương bột, hương tạp, dùng lọng lụa, tràng phan, đèn dầu mè, đèn dầu thơm, đèn đề hồ cúng dường thì phước của người này hơn phước người kia vô số, sẽ đạt đến tuệ kiến của Như Lai. Này A-dật! Còn như thiện nam kia nếu được nghe kinh Như Lai thọ hạn này mà sinh tâm chân thật hoan hỷ tin theo thì vì tâm tính ấy quán tướng này nên biết vị ấy đã thấy Như Lai tại núi Linh thứu khi nói kinh này cùng các chúng Bồ-tát quyến thuộc, Thanh văn vây quanh; cũng thấy cõi Phật ở trong thế giới tam thiên đại thiên này, đất đai bằng phẳng mềm mại, màu lưu ly vàng tía, có tám lớp đường giao thông, bảy hàng cây báu, biết bao nhiêu ức nhà cửa phòng xá; các chúng Bồ-tát ở trong đó. Này A-dật! Muốn biết tâm ý của vị kia có thường chất trực, an vui, tin tưởng thì căn cứ vào hiện tượng trên mà biết được hành tướng của tâm kia đã từng thấy pháp hội của Phật. Lại Đấng Như Lai thấy hết tâm tin tưởng ưa thích của người ấy. Sau khi Như Lai diệt độ, thiện nam, thiện nữ nào nghe kinh này chẳng phỉ báng mà hoan hỷ thọ trì thì được Như Lai ủng hộ. Thiện nam, thiện nữ ấy hơn người xây dựng tháp miếu thờ Phật, kiến lập tinh xá, giảng đường, hơn người chăm sóc, cấp dưỡng thuốc men, đồ cúng dường cho Tỳ-kheo tật bệnh. Vì sao? Vì người ấy cho việc kiến lập tháp miếu xây dựng chùa chiền bảy báu cao đến Phạm thiên để cúng dường hết tất cả xá-lợi là đầy đủ rồi. Chùa tháp thờ Phật mênh mông vô hạn, khắp cùng mặt đất, treo các linh báu; miếu tàng trữ xá-lợi vô thượng, cúng dường hương hoa, hương tạp, hương bột tràng phan bảo cái, kỹ nhạc ca tụng và biết bao loại hương thơm khác. Các loại châu ngọc của cõi trời, cõi người, hoa trời, hương trời, kỹ nhạc trời, tiếng sấm sét trên không, âm hưởng rền vang, chung khánh, trống lớn, không hầu, nhạc khí, tiêu, cầm sắc, náo bạt rất nhiều, âm thanh êm dịu, ca múa nhịp nhàng, điều hòa vui vẻ trải qua vô số trăm ngàn ức kiếp cúng dường hầu hạ, các pháp Ba-la-mật đều viên mãn. Sau khi Phật diệt độ, người nào được nghe kinh này mà thọ trì, đọc tụng, hoặc phân biệt diễn nói thì phước đức vô lượng hơn hẳn người tu tập thọ trì lòng từ rộng khắp, tạo lập giảng đường, tinh xá, sắm giường nằm, đồ trải đẹp đẽ mời chúng Tỳ-kheo vào ở trong đó; có vườn cảnh hoa quả, có bảo châu minh nguyệt, chỗ kinh hành, chỗ ngồi, cúng dường ăn uống, bệnh hoạn cấp thuốc thang, tất cả chuẩn bị sẵn sàng, đầy đủ; dưới chân giường nằm có biết bao loại báu vi diệu chói sáng đến trời Phạm thiên; phan lọng giao xen trang hoàng. Vì khuyến trợ phước nên dần dần được đầy đủ mà tội tiêu trừ, trong sáng; năm vóc tinh tấn, ở chỗ thanh vắng, tích lũy công đức, trong vô số trăm ngàn ức kiếp khen ngợi tên kinh, tất cả trang nghiêm, oai thần rạng rỡ, rộng khắp. Khi ấy Thế Tôn nói tụng khen: Nếu dựng tháp bảy báu Lên đến cõi Phạm thiên Hoa hương và kỹ nhạc Phướn lọng để cúng dường Các giường nằm nệm trải, Dâng thức ăn uống ngon Bệnh tật cấp thuốc men Giường báu có nhiều loại Đều vi diệu trang nghiêm Lên đến cõi Phạm thiên Trang nghiêm khắp cõi Phật Khuyến trợ đều đầy đủ Chỗ vắng siêng lễ bái Chứa nhóm nhiều ức kiếp Mọi người đều ưa thích Bày tối thắng vi diệu Cúng dường đầy đủ hết Hoa tươi sạch, tràng phan Dùng để làm y phục Số nhiều như sấm vang Kỷ nhạc tiếng êm dịu Để cúng dường xá-lợi Thắp đèn bằng dầu hương Phân bố để chung quanh Chỗ người trì kinh này Ở đời loạn, giảng pháp Mà đầy đủ biện tài Cúng dường nhiều như thế Vô số ức phòng xá Đều làm bằng chiên-đàn Ba mươi hai giảng đường Cao tột không gì hơn Đều trải các tòa ngồi Ăn uống theo ý muốn Cúng dường thức ăn ngon Trăm ngàn ức như thế Vườn cảnh chỗ kinh hành Hoa rải khắp mặt đất Lọng che nhiều vô lượng Tranh vẽ biết bao nhiêu Dùng cúng dường Tăng chúng Người trì kinh điển này Hiện tại làm vậy rồi, Sau khi Như Lai diệt Nếu đọc tụng chép kinh Hoan hỷ và tin ưa Được phước nhiều vô lượng Vượt hơn phước nói trên Nếu có người sao chép Tôn trí chỗ tinh khiết Và cúng dường quyển kinh Bằng hương hoa xông khắp Luôn luôn thắp đèn sáng Đốt đỉnh bằng dầu thơm Tỏa mùi, liền hoan hỷ Bày biện hoa như trên Người phụng trì kinh này Phải cúng dường như thế Được phước rất là nhiều Số lượng chẳng thể tính Giống như cõi hư không Giới hạn không thể biết Mười phương rộng vô lượng Phước ấy cũng như thế Huống gì còn lại thêm Thường hành sự an ổn Bằng trì giới, thiền tư Ngồi yên nơi thanh vắng Không sân, chẳng ác khẩu Cung kính, quyết tư duy Tỳ-kheo-ni thường hành Khiêm cung chẳng tự đại Trí tuệ như trăng sáng Người trí hỏi chẳng sợ Theo thứ tự phân biệt Lòng mong mỏi thành Phật Nếu có người như thế Là trì kinh thù thắng Công đức của người ấy Chẳng thể suy lường được Nếu thấy người như vậy Chính đó là Pháp sư Người trì kinh điển này Nên phụng kính cúng dường Giả sử có người Dùng hoa hương trời Dùng lọng báu trời Để mà che phủ Phải nên dùng đầu Lễ lạy người ấy Luôn tưởng nghó là Như Lai tối thắng Khi thấy người ấy Nghó như thế này Người này đang cầu Ngồi cội Bồ-đề Sẽ thành chính giác Nên cúng dường ngay Vì làm lợi ích Chư Thiên nhân gian Hoặc là đứng lại Hoặc là ngồi yên Hoặc đi kinh hành Hoặc nằm trên giường Hoặc mặc y phục Cũng giữ đức tính Thường hay diễn giảng Kinh Như Lai này. Khi ấy có người Đối kinh điển này Dùng đủ mọi cách Chỉ chỗ nhiệm mầu Thế Tôn Đạo Sư Đã chí thành nói Dùng vô số báu Cúng dường người ấy. Như ta đã khen Có bao nơi chốn Vị ấy đi qua Chính là thân Phật, Có ở nơi ấy Như ngồi trên tòa Rõ biết tại chỗ Chốn đã đi qua.  <詞 id="83085252">Phẩm 17: KHUYẾN TRỢ Bấy giờ Đại só Di-lặc bạch Phật: –Có người nghe kinh điển đã tuyên thuyết này được phước gì? Rồi diễn lại bằng bài kệ: Nếu Đại Hùng diệt độ Có người nghe kinh này Hiểu biết liền khuyến trợ Sẽ được những phước gì? Khi ấy Thế Tôn bảo Di-lặc: –Sau khi Như Lai diệt độ, có người nghe kinh này, hoặc Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, thiện nam, tín nữ, quyến thuộc trai gái lớn nhỏ, nghe rồi khuyến trợ, ở trong chúng hội vì người chuyển nói hoặc tại trong nhà, hoặc ở chỗ trống, hoặc nơi thanh vắng trong ấp, huyện, quận, làm những điều như đã được nghe trong kinh theo những điều đã tiếp thu được, dựa vào năng lực ấy giải nói cho người, hoặc ca ngợi, ngâm vịnh cho cha mẹ, tôn tộc nghe lời của Đại só cũng tùy hỷ khen ngợi những điều có thể nghe biết, lần lượt truyền nhau. Nếu không gặp sắc mạo oai dung của Pháp sư thì người hay học thay thế khuyến trợ, vì nhân duyên ấy, nên phát khỏi phương tiện khiến cho những sinh trong năm đường có năm sự ngăn che được nhìn thấy nhau. Họ đem điều nghe được khuyến hóa cho nhau nghe phước đức khuyến trợ mà ta đã nói, nghe công đức kinh pháp của Pháp sư thuyết kinh. Này thiện nam, thiện nữ! Trải qua vô số ngàn năm, bốn châu thiên hạ, chúng sinh trong sáu đường chưa hết buộc ràng; đó là loài có sắc không sắc, có tưởng, không tưởng, chẳng có tưởng cũng chẳng phải không tưởng, có chân, không chân, hai chân, bốn chân, nhiều chân, chư Thiên, loài người; trong đó có người muốn cầu công đức, tùy theo sự ưa thích của chúng sinh này, đem những thứ tốt nhất, quý nhất của mình, đầy cả cõi Diêm-phù-đề bố thí rộng rãi cho tất cả mọi người theo ý thích của họ như nhà cửa, vàng bạc, thủy tinh, lưu ly, san hô, hổ phách, xa cừ, mã não, xe voi, xe ngựa, xe trâu do các báu tạo thành; trải qua vô số năm theo nhu cầu, đáp ứng đầy đủ; lại cung cấp thức ăn uống không thiếu vật gì. Giữa chừng, tự nghó: “(Bọn họ) tuổi già sức yếu, tâm ý mệt mỏi đâu có thể giáo hóa đưa vào Pháp luật của Như Lai được; ta phải dùng lời Phật dạy để dạy bảo chúng.” Nghó rồi, liền dùng giới luật để ngăn điều sai trái, hướng dẫn bằng giáo điển. Mọi người đồng thời tìm thấy dấu đạo, chẳng còn sinh tử, không đắm sở chứng, các lậu đã hết, đầy đủ thiền định, oai thần rạng rỡ, đắc tám giải thoát, nhất tâm bất loạn. Này A-dật, ý ông thì sao? Khi ấy phước thí mà người kia đã kiến lập có thể tư duy suy lường được chăng? Di-lặc đáp: –Rất nhiều, chẳng thể tính đếm! Có vậy mới có thể an ủi vô lượng chúng sinh, cung cấp đầy đủ cho sự thiếu thốn của họ, huống là còn an lập họ không đắm vào quả chứng. Phật bảo A-dật: –Nay ta nói rõ cho ông biết rằng, có người siêu vượt luật nghi, như người kia thiết bày việc bố thí lớn, cung cấp cho chúng sinh trong bốn châu, an lập họ không đắm quả chứng, thì đối với người nghe một câu kinh, một câu kệ ở trong kinh này, rồi khuyến trợ, vui mừng, phước nhiều hơn người bố thí nói trên; công đức khuyến trợ một câu kinh, một bài tụng không thể kể xiết, hơn trăm, hơn ngàn, hơn vạn, hơn ức, hơn ức vạn, hơn trăm ngàn ức vạn kiếp cũng không thể kể xiết, không thể thí dụ, huống là tự mắt thấy tai nghe và tùy hỷ kinh điển này thì phước đức khó bì kịp. Giả sử có người muốn nghe kinh này hoặc vào chốn tinh xá, hoặc vào huyện ấp, hoặc đứng hay ngồi, thoáng chốc được nghe kinh pháp này, hoặc được nghe lại, mà tức thời chuyên cần tinh tấn thì ngay đời hiện tại được phước đức, thường được vô số trân bảo tự nhiên, cung điện, tinh xá, giường chõng, tọa cụ, voi, ngựa, xe cộ, an nhàn vô cùng; động tác lúc thuyết kinh hoặc đứng hoặc ngồi, hoặc dừng nghỉ, Thiên vương đều đến ủng hộ, chẳng gặp hoạn nạn. Đế Thích, Phạm thiên, bốn Thiên vương, hộ vệ hai bên; Chuyển luân thánh vương hầu gần tòa Sư tử. Nếu có thiện nam xướng lên rằng: “Có kinh tên là chính Pháp Hoa, xứng đáng tôn kính phụng thờ, hãy cùng nhau nghe và thọ trì!”, rồi cùng hỏi ý nhau, hoặc có người thỉnh về để bụi bám, lười biếng chẳng hành, nhưng nếu có người lắng nghe được trong chốc lát hiểu rõ tội phước, thiện ác báo ứng, liền được gốc đức, sẽ đạt tổng trì, đời đời cùng theo các Bồ-tát, thọ sinh bất cứ nơi nào cũng thông minh trí tuệ, trăm ngàn ức kiếp thân thường thơm sạch, không đọa đường ác, chẳng gặp giặc cướp, đao binh, không có tà tâm, sinh vào nhà hiền thiện, sắc diện sáng nhuận, ai thấy cũng hoan hỷ, cũng đều mến ưa, chẳng mù, chẳng điếc, mũi chẳng cong vẹo, cũng chẳng tẹt gãy, chẳng câm, chẳng ngọng, chẳng hói, chẳng què, chẳng bị lậu, chẳng nghiện, chẳng ngu, chẳng si, chẳng lùn, chẳng cao, chẳng yếu, chẳng mạnh, chẳng trắng, chẳng đen, mặt chẳng vàng chẳng nhăn; thân thể hoàn toàn đẹp đẽ, đoan chính như hoa đào, ai cũng kính mến; tâm tính hiền từ, miệng nói trôi chảy, mau đạt thiền định, giáo pháp Như Lai; muốn thấy chư Phật, liền như sở nguyện được thấy Thế Tôn chính Giác, nên học kinh này. Phật dạy: –Này A-dật! Nếu quán xét phước đức của người ấy thì với người chỉ một lần nghe danh mà khuyến trợ tùy hỷ còn được phước đức như thế, huống là người chuyên cần tinh tấn lắng nghe thọ trì, tư duy, cúng dường rồi lại vì người tuyên thuyết đầy đủ. Bây giờ Thế Tôn nói tụng khen: Sau này có người Nếu gặp kinh này Giả sử nói được Chỉ một bài tụng Lắng nghe hiểu nghĩa Tâm ưa khuyến trợ Công đức người ấy Chẳng thể hạn lượng Nếu có người nào Một mình bố thí Thường cho chúng sinh Của nhiều vô số Như Phật vừa rồi Đã dẫn thí dụ Khiến vô số kiếp Đều được no đủ Khi người ấy thấy Mặt họ biến đổi Đầu bạc răng rụng Già nua lụm khụm Nghó chúng sinh này Chết sắp đến gần Ta muốn giáo hóa Khiến vào đạo pháp Cuối cùng người ấy Dùng pháp giáo hóa Phân biệt diễn nói Cảnh giới vô vi Tất cả năm đường Giống như cây chuối Khiến mau thành tựu Cảnh giới diệt độ Tất cả mọi người Nghe kinh đều thọ Đã theo người này Gần gũi thưa hỏi Chế phục tâm mình Khiến đều vô lậu Chỉ trong khoảnh khắc Được chứng vô trước. Nếu nghe một kệ Thay nhau khuyến trợ Công đức đạt được Hơn bố thí kia Số nhiều vô lượng Công đức phân biệt Chỉ một bài tụng Khó kể khó lường Bỗng dưng được nghe Giảng một bài tụng Công đức vô cùng Chẳng thể hạn lượng Người ấy được phước Vô số như thế. Huống là hiện tại Tự mình thưa hỏi Giả sử có người Đi đến chúng hội Một lần nghe kinh Vui mừng phấn chấn Từ các trăm ngàn Ức ngàn số kiếp Pháp ấy khó gặp Cũng khó hiểu rõ Nếu nay có người Được như người kia Khoảnh khắc được nghe Quyển kinh điển này Đã được nghe rồi Quả báo đạt được Sinh ở nơi nào Không có bệnh nặng Đời đời sinh ra Lưỡi không có tật Răng thì cứng chắc Chưa từng rụng gãy. Khi sinh an ổn Không các nguy hại Tà ma ngăn ngại Cha mẹ hiền lành Việc làm thuận lợi Mạng sống dài lâu Không bị đui mù Mắt cũng chẳng mờ Mũi tai đẹp đẽ Không có khuyết tật Môi lưỡi đỏ tươi Luôn luôn sạch sẽ Thường được mọi người Yêu mến kính trọng Hơi miệng thơm tho Không mùi xú uế Thân thể luôn thơm Như hoa sen xanh Mùi thơm lan tỏa Không đâu chẳng nghe Nếu ở trong nhà Đi đến tinh xá Hoặc đến nơi nào Được nghe kinh này Trong khoảng chốc lát Hay được nghe lại Mừng vui tột độ Liền lãnh thọ được Thân thể người ấy Sẽ được an ổn Xe ngựa đẹp đẽ Dùng để cung nghinh Hoặc lại cưỡi lên Xe voi hiền thiện Du hành trong xứ Bao nhiêu vật báu Thường được hiến dâng Anh lạc thượng diệu Số trăm ngàn người Đều cùng phát tâm Đi đến chỗ ấy Nơi có thuyết pháp Liền vì họ thuyết Giảng dạy thanh tịnh Vì pháp thanh tịnh Tạo dựng trong sáng Có được giường tòa Thiên đế, Phạm thiên Nhanh chóng ngự tọa Chuyển pháp luân vương Ở lâu trong chúng Phô diễn nghĩa kinh  <詞 id="83085253">Phẩm 18: KHEN PHÁP SƯ Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Đại só Thường Ứng Thời: –Thiện nam, thiện nữ nào thọ trì, đọc tụng, sao chép kinh điển này thì sẽ được mười công đức về nhãn căn, tám trăm danh xưng, một ngàn hai trăm về nhó căn, một ngàn hai trăm về tỷ căn, một ngàn hai trăm về thiệt căn, một ngàn hai trăm về thân hành, một ngàn hai trăm về ý tịnh; đó là vô số trăm ngàn công đức, có thể nghiêm tịnh công đức sáu căn. Người ấy nếu được nhãn căn thanh tịnh thì dùng nhục nhãn thấy vật hiện có khắp cả tam thiên đại thiên thế giới; các vị ngọt trong trong cây rừng, dưới đến đại địa ngục Vô khả, trên đến cõi trời Ba mươi ba; thấy khắp tất cả và có thể nhiếp thủ hết nên gọi là nhục nhãn. Tất cả chúng sinh hiện có trong đó, đều thấy hết và biết rõ tội phước, chỗ hướng đến của họ. Khi ấy Thế Tôn dùng kệ khen: Người thọ trì kinh này Dũng mãnh ở trong chúng Tuyên thuyết chẳng khiếp sợ Chỉ nghe danh đức này Tám trăm các danh xưng Mắt thanh tịnh trong sáng Nếu đã lìa các cấu Mắt ấy thấy biết khắp Người kia dùng nhục nhãn Do từ cha mẹ sinh Thấy thế giới chư Phật Thấy khắp vượt Thần tiên Các núi, núi Tu-di Lại thấy cả Thiết vi Và các gò đống khác Lại xem thấy biển lớn Yên lặng ngồi một chỗ Chỗ nào cũng thấy hết Dưới đến ngục Vô khả Nhục nhãn được như thế. Nếu chưa được Thiên nhãn Cũng chẳng thấy biết rõ Cảnh giới của nhục nhãn Căn và thức nhẹ nhàng Phật lại bảo Bồ-tát Thường Ứng Thời: –Thiện nam, thiện nữ nào nói kinh điển này, hoặc nói cho hàng Thanh văn thừa và chủng loại khác thì đạt được một ngàn hai trăm danh xưng về tai, nghe khắp tam thiên đại thiên thế giới, dưới đến đại địa ngục Vô khả, trên đến trời ba mươi ba, vượt hơn Thần tiên, đó là nghe tiếng voi, tiếng ngựa, tiếng trâu, tiếng kỹ nhạc, tiếng xe, tiếng kêu khóc, tiếng sầu than, tiếng trống, tiếng chuông, tiếng ca, tiếng múa, tiếng cười giỡn, tiếng nam, tiếng nữ, tiếng đồng nam, tiếng đồng nữ, tiếng gió, tiếng kỳ diệu, tiếng chính pháp, tiếng phi pháp, tiếng vui, tiếng khổ, tiếng sức lực, tiếng tính tình, tiếng nhu, tiếng thô, tiếng Trời, tiếng Rồng, và các thứ tiếng Quỷ thần, Kiền-thát-bà, A-tu-la, Ca-lưu-la, Chân-đà-la, Ma-hưu-lặc, tiếng lửa, tiếng nước, tiếng trong đất, tiếng Tỳ-kheo, tiếng Thanh văn, tiếng Bồ-tát, tiếng Như Lai; các loại âm thanh có trong tam thiên đại thiên thế giới, trong ngoài thông suốt, tất cả thanh tịnh; dùng nhục nhó căn nghe hết tiếng nói của chúng sinh; chưa đắc Thiên nhó mà nghe hết, hiểu rõ ngọn ngành các tiếng, cũng chẳng tư duy quán sát gốc gác của chúng sinh mà lại nghe hết, cũng chẳng tìm cầu tất cả âm thanh mà lại nghe rõ ràng êm xuôi như thế. Bồ-tát Đại só Thường Ứng Thời chưa đắc Thiên nhó mà tai thường nghe được như vậy. Phật nói như vậy xong, muốn giải thích lại ý nghĩa trên nên nói tụng: Nhó căn thanh tịnh Trong sạch gồm thâu Biết bao nhiêu loại Có ngàn hai trăm Ở trong thế giới Thảy đều nghe biết Nghe âm thanh ấy Không sót tiếng nào Tiếng của sáu loài Cũng đều nghe được Tiếng của các thừa Xe, trâu, voi, ngựa Vỗ tay đánh trống, Âm nhạc buồn vui Gõ nhịp chiêng bạt Cũng lại như thế Kỹ nhạc êm dịu Âm thanh tuyệt vời Tuy ở bên chúng Nhưng không nhiễm trước Nghe vô số điều Những người giảng thuyết Người ấy so sánh. Ưa thich phân biệt Nghe tiếng chư Thiên Thường nghe được tiếng Thiên nhó nghe được Tiếng nam tiếng nữ Êm ái ngọt ngào Các tiếng kêu khóc Việc làm của các. Đồng nam đồng nữ Tiếng chim loan buồn Tiếng quạ, chim thư Giao tinh, uyên ương Cùng chim anh vũ Nếu cất tiếng kêu. Người ở sơn lâm Đều được nghe hết Loại âm thanh này Đớn đau khổ sở Kêu gào thảm thiết Tàn khốc đắng cay Ở trong địa ngục Mong muốn uống ăn Van xin cầu khẩn Bộc khởi mạnh mẽ Phát ra thành tiếng Các A-tu-la Sống ở tại biển Âm thanh thông suốt Mỗi tiếng khác nhau Khi ấy Pháp sư Trụ tại một chỗ Bất cứ tiếng nào Thảy đều nghe biết Tiếng kêu đói khát Của loài ngạ qủy Mỗi tiếng phát ra Hoặc kêu hoặc rống Khi ấy Pháp sư Đứng im tại chỗ Cũng nghe biết được Bao nhiêu thứ tiếng Tiếng của chư Thiên Trên cõi trời Phạm Trên trời Quang âm Trời Thiện cứu cánh Và các âm thanh Kỳ đặc lạ khác Pháp sư đều nghe Biết hết tất cả Có người ở đời Bỏ tục xuất gia Làm chúng Tỳ-kheo Hành trì phúng tụng Phân biệt giảng thuyết Tâm trí người ấy Pháp sư nghe biết Kinh đã thuyết này Các chúng Bồ-tát Ở cảnh giới mình Có thể phúng tụng Vì người tuyên thuyết Kết tập ý nghĩa Để thành kinh điển Thảy đều nghe hết Bao nhiêu âm thanh Của Phật Thế Tôn Vì người thuyết pháp Vì các chúng sinh Thuyết kinh vô số Một mình dưới cây Đều nghe được hết Do Bồ-tát ấy Thường trì kinh này Vô số chúng sinh Trong quốc độ Phật Ở tam thiên giới Âm thanh vang vọng Hoặc ở trong nhà. Hoặc ở bên ngoài Lời nói thô tế Thảy đều thâu nhận Nghe hết tất cả Các loại âm thanh Của loài chúng sinh Cũng không chấp trước Mọi nơi mọi người Biểu lộ, sâu kín Với tai thanh tịnh Đều thấu rõ hết Người này còn chưa Đắc Thiên nhó thông Vừa gặp nhân duyên Liền nghe được ngay Công đức Pháp sư Khi ấy như thế Do học kinh này Nên được như vậy. Phật lại bảo Bồ-tát Thường Ứng Thời: –Nếu thiện nam, thiện nữ thọ trì phân biệt, diễn nói, đọc tụng, hoặc sao chép kinh này trên tre lụa thì được tám trăm công đức, các căn kiên cố, tỷ căn thanh tịnh. Vì vậy, các mùi hương trong tam thiên đại thiên thế giới, tỷ căn đều nghe được hết, như mùi hương êm dịu, hương tu mạn, hương sinh, hương truyền sức tu, hương hoa tư di, các loại hương hoa sen xanh, hoa sen hồng, hoa sen vàng, hoa sen trắng và bao nhiêu loại hương của cây cỏ hoa trái tỏa xông, như là hương tô hiệp, hương hoa, hương chiên-đàn, hương cây mật, hương cây mộc xanh, đủ các loại hương, trăm ngàn thứ hương đặc biệt có ở mọi nơi, hương các cây chất phác hương nam, nữ đồng nam, đồng nữ đều tự nghe; hương xoa nơi thân, hương của voi, ngựa, lục súc, chim bay, thú chạy, hương các thứ cây cỏ, hương của các loại hàm huyết ở trong rừng cây, hương của các yêu mị, hương chí thành, hương thiên thượng, hương tỷ đà mỹ, hương cây trú đạt, hương ý, hương đại ý, hương nhu nhuyến, hương chư Thiên, hương Thiên cung, biết mùi hương thân Đế Thích phát ra từ đâu, ở nơi giảng đường khi đánh trống đờn ca, hay ở chỗ tu chỉnh thiết lập các pháp tắc quan trọng, hoặc khi thuyết pháp cho chư Thiên Đao-lợi, các mùi hương tự nhiên từ đất phát ra, mùi hương của ngọc nữ trời Lợi-nghị ca hát nô đùa, mùi hương của đồng nam, đồng nữ. Do nhân duyên ấy, giả sử mùi hương sinh ra từ thân của các Thiên tử cõi Phạm thiên, chư đại Thiên tử cõi Đại phạm, mùi hương ấy có tên khác nhau, mùi hương của Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát Đại só, Như Lai ở nơi du cư khai hóa, vị Pháp sư ấy ở tại một nơi cách đó rất xa, chẳng đến ngay đó, cũng chẳng gần bên, chẳng đi đến ngửi mà vẫn nghe được hết các mùi hương ấy, nhưng chẳng thích, chẳng cầu, cũng chẳng nhớ nghó, cũng chẳng xông hương, nhưng ngửi biết mùi, trụ tâm chuyên nhất, ở tại chúng hội mà phân biệt nói các mùi hương như vậy, tâm cũng chẳng đắm trước, không ưa thích mong cầu. Khi ấy Thế Tôn nói tụng khen ngợi: Tỷ căn người ấy Thanh tịnh như vậy Biết bao loại hương Nghe được rất nhiều Khi ấy thế giới Tất cả nơi chốn Chỗ có thể sinh Loại hương rất tốt Lại có các hình Như hương hoa trồng Chiên-đàn các hương Đủ loại khác nhau Các hương báu ấy Phẩm loại đều khác Xông hương ngào ngạt Các hương nhựa cây Nam tử, nữ nhân Đồng tử, đồng nữ Người ấy tại chỗ Biết loại khác nhau Các hương hơn kém Sinh ở nhân gian Trồng tại nơi nào Xanh nhạt lẫn lộn Lại biết trong nước Chuyển luân thánh vương Mềm mỏng nhân từ Dũng lực ra sao Và tên lụa là Ở trong nước ấy Các hương khác nhau Đều phân biệt được Của cải châu báu Nhiều đến bao nhiêu Tàng trữ cất giấu Ở nơi chốn nào Có ngọc nữ báu Và trân bảo khác. Khi ấy Bồ-tát Biết rõ mùi hương Anh lạc hiện có Đeo ở nơi thân Vòng ngọc trang sức Y phục đẹp đẽ Hoặc ngồi tại tòa. Hoặc nằm trên giường Dùng hương xoa thân Bồ-tát đều biết Ca giỡn vui chơi Tất cả thần túc Kẻ trí sáng suốt Mũi đều nghe được Hoặc có phụng trì Lời kinh này dạy Dùng loại hương thơm Và hương dầu mè Bao nhiêu chủng loại Hương hoa báu khác An trú tại chỗ Đều nghe biết được Xuất xứ nơi nào Có loại hương này Có thể phân biệt Cùng các loại hương Hiện có ở tại Trong chốn núi rừng Vô số chủng loại Hương hoa chiên-đàn Và các loại hương Ở trong dân chúng Ở tại một nơi Biết được tất cả Hoặc loại ưa thích Của Chuyển luân vương Hoặc giấu chỗ kín Ở trong biển cả Hoặc giấu trong đất Chỗ sinh kiến trùng Người trí đều rành Các loại hương ấy Biết A-tu-la Trái gái, vợ con Và các thần dân Đều phân biệt biết Vua A-tu-la Ca múa vui chơi Mũi đều nghe được Quả báo như thế Hoặc ở đồng trống Hoặc ngã tư đường Có nhiều sư tử Cọp, sói, rồng, voi Trâu và quyến thuộc Đủ các chủng loại Trâu đực trâu cái Đều có thể biết Hoặc có nữ nhân Tùy sự ưa thích Hoặc ưa con trai Hoặc thích con gái Khi đã mang thai Thân thể mệt mỏi Do hương biết được Nam, nữ trong bụng Lại tự biết rõ Thân từ đâu đến Và cũng hiểu rõ Ý nghĩa nhân duyên Gặp gỡ người này An ổn, khổ, vui Sức khỏe đồng nam Phước sẽ có được Ước muốn nam, nữ Thảy đều biết hết Lại nghe riêng biệt Từng loại hương nguyện Tùy theo ý thích Như vậy vô tận Lại nghe riêng biệt Hương thân vắng lặng Ở tại nơi nào Kho tàng trong đất Của cải châu báu. Đủ loại kim ngân San hô nhu nhuyến Hình như vàng tía Ở yên một chỗ Nghe đều biết hết Các chuỗi anh lạc Châu báu minh nguyệt Thế gian hiện có Người thường chẳng biết Dùng mũi nghe mùi Biết được tốt xấu Tới lui tiến dừng Biết rõ thiện ác Chư Thiên trên trời Hoa ý các hoa Hoa âm nhu nhuyến Có các loại hoa Nhóm tụ nhiều thứ Ở trong hư không Dùng sức của mũi Ở đây nghe hết Các Thiên nhân ấy Có các cung điện Các cung bậc thượng. Bậc hạ, bậc trung Đủ các phẩm loại. Đúng như hình dáng Đứng ở nơi đây Dùng mũi nghe biết Cũng phân biệt được Cảnh vườn dạo chơi Pháp của chư Thiên Trong sáng vắng lặng Cũng lại thấu hiểu Cung điện tôn nghiêm Của các Thiên tử Kiến lập ở nơi Vui chơi du hý Đều nghe mùi hương Do hương phân biệt Các nhóm Thiên tử Trụ ở pháp nào Làm những việc gì Ngay tại chỗ ở Nghe hương đều biết. Ngọc nữ chư Thiên Chứa các hoa quả Các anh lạc báu Chung quanh để chơi. Khi ấy Bồ-tát Biết hết mùi hương Trời Ba mươi ba Đến trời đệ nhất Các trời Đại phạm Cung điện của họ Dùng mũi nghe mùi Đều có thể biết. Trụ rồi hoại diệt Có thể biết rõ Các chỗ xa gần Cũng đều thông suốt, Chết rồi sinh lại Cuộc sống đời trước Dùng mũi nghe mùi Biết rõ gốc ngọn. Nếu có Bồ-tát Trì kinh điển này Hoặc có Tỳ-kheo Thuận theo thỉnh giáo Thường tu tinh tấn Chỗ vắng kinh hành Hoặc đã chí thành Phúng tụng giảng thuyết Thì Bồ-tát ấy Thảy đều biết hết. Cũng biết Thanh văn Những người tối thắng Thường ở dưới cây Đơn độc một mình Bậc sáng suốt ấy Nương mùi biết được, Có Tỳ-kheo nào Ở bất cứ đâu Có thể phân biệt Biết ngay chỗ ấy. Có Bồ-tát nào Vững tâm thiền định Thường tự ưa thích Phúng tụng giảng thuyết Lại vì người khác. Diễn giải giáo pháp. Khi ấy Bồ-tát Nghe hương biết được Đại nhân an trú Ở nơi chốn nào, Thương xót hành từ Phân biệt thuyết pháp Ngay tại chỗ ngồi Đệ tử vây quanh. Nghe hương biết rõ Chỗ của Pháp vương Giả sử chúng sinh Được nghe kinh pháp, Đã được thọ trì Tâm ý phấn khởi. Khi ấy Bồ-tát Ở đây cũng thấy Thế lực Bồ-tát An trú chúng hội, Ở tất cả nơi Hiện tượng như thế Còn chưa đạt được Mũi của trời người, Tự nhiên được vậy Điều này ứng với Mũi của chư Thiên Không có các lậu. Phật dạy: –Này thiện nam! Nếu có người thọ trì, đọc tụng, sao chép kinh điển này thì sẽ đạt được một ngàn hai trăm công đức kỳ lạ về thiệt căn, thiệt căn phân biệt đầy đủ các mùi vị. Nếu có món ăn ngon, thì biến thành món ăn tự nhiên ở cõi trời. Nếu ăn món thô nhám mặn đắng thì sẽ hóa thành cỗ tiệc cõi trời, mùi vị tuyệt diệu. Nếu vào chúng hội giảng truyền pháp yếu thì mọi người hân hoan, kính ngưỡng kinh pháp. Nếu vào chỗ tranh chấp giận dữ, dùng ngôn ngữ đạo đức mềm mỏng, biện luận phân giải rõ ràng mọi khúc mắc; với lòng thương yêu thông cảm, thì mọi người sẽ hoan hỷ hòa thuận, cảm hóa những âm thanh khác. Người ấy do nghe kinh mà ngôn luận mỹ diệu, trời, người đi đến; Thích, Phạm, Tứ vương và trời Thanh tịnh, ngọc nữ chư Thiên mong được diện kiến; Thiên tử, Rồng, Thần và phu nhân của Rồng, Thần, A-tu-la và phu nhân của A-tu-la, Ca-lưu-la và phu nhân của Ca-lưu-la, Chân-đa-la và phu nhân của Chân-đa-la, Ma-hưu-lặc và phu nhân của Ma-hưu-lặc, Kiền-đạp-hòa và phu nhân của Kiền-đạp-hòa, nữ quỷ thần Duyệt-xoa, nữ quỷ thần Tỷ-da Phản Túc đều muốn đến chiêm ngưỡng, đảnh lễ, thăm hỏi, thọ trì kinh giới và quy y; Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, thiện nam, thiện nữ, quốc vương, thái tử, đại thần, quan chức, người quyền quý giàu sang, Chuyển luân thánh đế uy phong lẫm liệt, bảy báu sung mãn; thái tử, quyến thuộc, vương phi, thể nữ và các Phạm chí, hiền nhân, cư só ở châu thành, quận huyện, xóm làng, dinh thự đều muốn đi đến chiêm ngưỡng, mong trọn đời lễ bái quy y, cúng dường hầu cận, nghe thọ kinh pháp; lời dạy trong sáng hiền hòa như Thế Tôn Như Lai đã khen ngợi, đã tiếp xúc tư duy quan sát và đạt được cốt lõi sâu xa của trí tuệ Phật, tự nhiên nghe và được thấu đạt như thế; lại biết Đức Thế Tôn khi thuyết pháp xoay mặt về đâu. Khi ấy Thế Tôn nói tụng khen ngợi: Thiệt căn người ấy Thật là mềm mại Phân biệt các vị Chọn lựa ngon dỡ Ngon lành tự nhiên Như món ăn trời Bao nhiêu mùi vị, Lần lượt phát sinh Âm thanh thù diệu Ngôn ngữ hòa nhã Nghe thật kỳ lạ Hoan hỷ vui mừng Ở trong chúng hội Ai cũng khâm kính Lại sẽ diễn nói Âm thanh thâm áo Có người nghe được Kinh điển đã nói Nhận thấy báo ứng Vô cùng thanh tịnh Liền sinh hoan hỷ Hiểu rõ tôn kính Cúng dường kinh điển Chẳng thể kể xiết Các trời, rồng, thần Thần A-tu-la Luôn luôn kính phục Muốn được nhìn thấy Lễ bái cung kính Thưa hỏi kinh điển Danh đức người ấy Đạt đến như thế Ở thế giới này Trong khoảnh phát ý Đều dùng âm thanh Loan báo khắp cả Tiếng ấy nhu nhuyến Vi diệu thù đặc Thâm thúy nho nhã Lại có âm tiết Các bậc hào quý Chuyển luân thánh vương Hoàng hậu vương nữ Muốn được đến nơi Để mà cúng dường Thảy đều chắp tay Từ đầu đến cuối Lắng nghe kinh điển Thiên thần các nơi Hoàn toàn tôn trọng. Các Kiền-đạp-hòa Và các tùy tùng Nữ quỷ Phản Túc Cùng các nam nữ Thảy đều cung kính Đều đến hầu hạ. Vua trời Phạm thiên Tự tại tôn quý Trời đại thần diệu Và các Thiên tử Đế Thích, Phạm thiên Tập thể Thiên tử Vô số ngọc nữ Đến chỗ vị ấy. Thế gian có Phật Đạo sư sáng suốt Đệ tử Thanh văn Nghe tiếng êm dịu Hiện đến tại chỗ Mặc nhiên hộ trì Xét pháp đã giảng Thảy đều vui mừng. Phật dạy: –Này thiện nam! Bồ-tát Đại só nếu nghe kinh này rồi thọ trì, đọc tụng, sao chép thì đạt được tám trăm công đức về thân: Màu da tươi sáng, âm giọng hùng dũng, giống như lưu ly trong sáng không bẩn, phàm làm việc gì, mọi người đều khâm phục bắt chước, dung mạo và cử chỉ đáng kính, hành xử tinh tế, không phân biệt ta người, chúng sinh trong thế giới tam thiên đại thiên đều cúi đầu đảnh lễ. Quần sinh tốt xấu, sắc tươi sắc héo, cõi tốt cõi xấu, Thiết vi, Đại thiết vi, núi nhỏ, núi lớn, chỗ có người ở, dưới đến trong đại địa ngục Vô khả, cho đến trời Ba mươi ba ở khắp cõi nước của Phật, tự dùng oai đức thấy khắp tất cả. Tại thế giới này, Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát Như Lai giảng thuyết kinh pháp ở bất cứ đâu dùng oai quang của mình, thảy đều thấy rõ. Vì sao? Vì thân thanh tịnh nên đạt đến như vậy. Khi ấy Thế Tôn nói kệ khen: Thân của người ấy Đã thanh tịnh rồi Ví như lưu ly Không có tỳ vết, Được tất cả người Nhìn thấy kính mến Người ấy đã trì Kinh vi diệu ấy. Giống như gương sáng Soi thấy mặt mình Thấy cả vạn vật Cũng giống như thế, Tự thấy gốc ngọn Và thấy người khác Thân ấy thanh tịnh Như núi Tu-di. Ở thế giới này Có bao chúng sinh Chư Thiên, nhân dân Thần A-tu-la Địa ngục, ngạ quỷ Và các súc sinh Đều thấy thân hình Cùng với dung nhan Cung điện phòng quán Của hàng chư Thiên Núi đất, núi đá Và các Thiết vi Tuyết sơn, Tu-di Cùng các núi lớn Thảy đều thấy hết. Chúng ở nơi nào Dùng đại oai thần Xem thấy chư Phật Tất cả Thanh văn Và các đệ tử Hoặc có Bồ-tát Ở chỗ vắng lặng Tuyên thuyết kinh pháp Có thể biết hết. Thân thanh tịnh ấy Cũng lại như vậy Thảy đều thấy hết Tất cả thế gian, Dùng thân thế tục Biết rõ như thế Người này còn chưa Đạt thành Thánh đạo. Phật dạy: –Này thiện nam! Sau khi Như Lai diệt độ, nếu Bồ-tát Đại só thọ trì, đọc tụng, giải nói kinh này thì sẽ được một ngàn hai trăm công đức thanh tịnh về ý căn. Người ấy dùng ý căn thanh tịnh thấu suốt tất cả, chỉ nghe một bài tụng mà thấu suốt ý nghĩa rốt ráo sâu rộng, rồi dùng sự hiểu biết sâu rộng đó, có thể giảng kinh pháp một tháng, bốn tháng, cho đến trải qua một năm, sự tích lũy, ghi nhớ chẳng quên. Các âm thanh trao đổi giá cả trong việc mua bán của phàm tục, nhờ pháp đều thấy, phân biệt thứ lớp, chẳng mất đầu mối; biết tâm niệm thiện ác là đúng hay chẳng đúng của sáu loài chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới, trong đó Sa-môn là Thánh hay chẳng phải là Thánh đều thấy hết, tâm ý thanh tịnh, chẳng cần tư duy, tự nhiên phân biệt giảng thuyết ý nghĩa của pháp, lời lẽ chí thành; có giảng nói cũng đều nương vào lời nói trong kinh điển tối thắng mà xưa kia Đức Như Lai đã dạy, đã phân tích rõ cả. Khi ấy Đức Thế Tôn nói tụng khen: Ý căn người ấy Thanh tịnh trong sạch Chiếu suốt tươi sáng Thấy rõ tâm niệm. Vì lý đo đó Hiểu biết bao thứ Tỳ vết, ti tiện Tốt xấu trung bình, Nếu nghe một tụng Thường hay phụng trì Hiểu được vô số nghĩa lý sâu xa, Nói một, bốn tháng Hoặc đến một năm Việc thiện và ác Hết sức chí thành. Ở thế giới này Khắp cả trong đó Nếu có chúng sinh Đủ các hạng loại Chư Thiên nhân dân Và A-tu-la Các loại thần khác Cùng các súc sinh Ở trong sáu đường Có các chúng sinh Bọn họ tư tưởng Biết bao tâm niệm Người trì kinh này Trong khoảng giây lát Đều thấy biết hết. Tâm ý khác nhau Chư Phật Đại Thánh Tướng trăm công đức Tất cả đều vì Thế gian thuyết pháp Khi đến chỗ giảng Tất cả đều nghe Lời giảng thanh tịnh, Tức thời thọ tụng Đời trước đã từng Học kinh điển này Từ lâu giảng giải, Tháo tung gút mắc Luôn luôn diễn giải Cốt lõi kinh điển Ở trong hội chúng Không hề sợ hãi. Người trì kinh này Các căn tươi sáng Hoàn toàn chẳng gặp Các họa tâm thần, Bạn bè giao du Đều là hiền lành Ý căn thông đạt Cũng giống như thế. Bồ-tát chưa từng Trụ ở chỗ nào Vì khắp chúng sinh Phân biệt thuyết kinh. Người thường thọ trì An trú chính pháp Tùy nghi phương tiện Biết chỗ thích ứng. KINH chính PHÁP HOA <卷 id="83085254">QUYỂN 9 <詞 id="83085255">Phẩm 19: THƯỜNG BỊ KHINH MẠN Khi ấy Phật bảo Bồ-tát Đắc Đại Thế: –Vì vậy nên biết, có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, thiện nam, tín nữ nào trì kinh điển này, giả sử bị bốn bộ chúng mạ lî mắng nhiếc, phát ra lời thô tục quở trách, cấm chỉ thì tội ấy chẳng thể lường, lại nếu có người nghe kinh này, rồi thọ trì đọc tụng, giảng giải rộng rãi ý nghĩa cho người khác thì đạt được phước thượng diệu. So sánh như thế, Phật đã khen ngợi nhãn, nhó, tỷ, khẩu, thân, ý thanh tịnh, không chướng ngại. Lại bảo với Đắc Đại Thế: –Từ thời xa xưa, cách đây rất lâu, rất lâu không thể tính đếm, chẳng thể nghó bàn số kiếp, có Phật hiệu là Tịch Thú Âm Vương Như Lai Chí Chân, Đẳng chính giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu. Kiếp tên là Ly đại tài, thế giới tên Đại trụ. Phật dạy: –Này Đắc Đại Thế! Như Lai Tịch Thú Âm Vương giảng kinh hóa đạo cho khắp cõi trời, người, giảng bốn Thánh đế cho hàng Thanh văn thừa, làm cho họ vượt già bệnh chết, đến gần Nê-hoàn, giảng giải cội nguồn sinh khởi của mười hai nhân duyên, giảng sáu pháp Ba-la-mật cho các Bồ-tát, làm cho họ đạt đạo Vô thượng chính chân, biểu hiện sở hành liên tục của trí tuệ Như Lai. Phật thọ bốn hằng ha sa trăm ngàn ức cai kiếp. Sau khi Phật diệt độ, chính pháp tồn tại trăm ngàn ức kiếp như số vi trần của một cõi Diêm-phù-đề; tượng pháp tồn tại trăm ngàn ức kiếp như số vi trần của bốn châu thiên hạ. Lại nữa, này Đắc Đại Thế! Sau thời kỳ tượng pháp của Phật ấy diệt hết lại có Phật kế tiếp hiệu là Tịch Thú Âm Vương, rồi lần lượt có hai mươi ức ngàn Đức Như Lai Chí Chân, Đẳng chính giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư tiếp nối nhau. Khi ấy các Đức Phật này lần lượt diệt độ. chính pháp diệt rồi; tượng pháp tiếp theo cũng diệt hết; Tỳ-kheo ở thời ấy kiêu mạn tự đại, làm trái giáo pháp, có một Tỳ-kheo tên là Thường Bị Khinh Mạn học hạnh Bồ-tát. Vì sao gọi là Thường Bị Khinh Mạn? Vì vị Khai só (Bồ-tát) ấy mỗi khi thấy Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, thiện nam, tín nữ đều gọi họ và bảo rằng: “Chư Hiền, không được kiêu mạn tự cao. Vì sao? Vì ý chí của chư Hiền đương còn là Bồ-tát. Đứùc Như Lai Chí Chân Đẳng chính Giác đã vì phương tiện, thuận theo đối tượng, giảng hạnh Bồ-tát cho các Tỳ-kheo.” Vị Khai só ấy chẳng vâng theo lời khuyên bảo, chẳng chịu phúng tụng, hễ vừa thấy bốn chúng thì gọi họ, bảo rằng: “Tôi trọn đời chẳng dám khinh mạn quý ngài; quý ngài đang học hạnh Bồ-tát cao vời, sẽ đạt đến quả vị Như Lai Chí Chân Đẳng chính Giác.” Phật dạy: –Này Đắc Đại Thế! Khi ấy bốn chúng nghe lời này đều nổi giận mạ nhục mắng chửi: “Tỳ-kheo này chẳng thưa hỏi chúng ta, chẳng biết nhân tâm nhưng lại tự cao cho là biết nhân tâm và thọ ký cho chúng ta sẽ thành Vô thượng Chí chân Đẳng chính giác. Những việc lạ thường, điều mà người ta không muốn mà vẫn cứ nói.” Lại nữa, này Đắc Đại Thế! Như một người đi đường gặp cơn mưa lớn, nhờ oai thần của Phật che chở, thân không bị ướt vị, Tỳ-kheo ấy tuy bị nhục mạ nhưng tâm chẳng sân hận, sắc mặt chẳng đổi. Hoặc có người nghe lời nói ấy căm ghét chẳng ưa, dùng ngói đá ném. Nhưng vị ấy từ xa vẫn tiếp tục cất tiếng bảo rằng: “Chớ làm điều khinh mạn, hãy tu tâm nhẫn nhục, phát tâm Bồ-đề.” Vì sao? Vì lúc bấy giờ, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, thiện nam, tín nữ tự cao tự đại nghe thấy Đại só nói là tâm tôi thường khiêm hạ chẳng dám khinh các ngài và tuy bị mạ nhục nhưng tâm vẫn bình thản, nên nhân đó bọn người của bốn chúng ấy đặt tên ngài là Thường Bị Khinh Mạn. Vị Đại só này khi lâm chung được nghe Đức Tịch Thú Âm Vương Như Lai giảng trăm ngàn ức sự việc về ý nghĩa thâm diệu của hai mươi bài tụng trong kinh chính Pháp Hoa này. Đại só khi mạng chung vọt lên hư không lớn tiếng khen ngợi kinh điển này rằng: “Người nào thọ trì kinh này, trước hết sẽ được nhãn căn thanh tịnh; nhó, tỷ, khẩu, thân, ý cũng thanh tịnh; đã được thanh tịnh rồi thọ mạng liền tăng thêm hai mươi ức muôn, đạt được định ý, lại giảng thuyết kinh điển này cho mọi người. Bốn chúng khi trước nghe vị ấy nói mà hủy báng gọi Đại só này là Thường Bị Khinh Mạn, cho là tự đại thì nay thấy thần lực vi diệu, tuệ lực biện tài, đạo lực khéo léo của Đại só này đều đến quy phục, kính trọng thân cận để nghe kinh pháp. Những hạng người ấy vô số ức người nhiều không thể đếm, ngài đều làm cho an lập tâm đạo Vô thượng chính chân. Vị Đại só ấy, sau khi mạng chung, gặp hai mươi trăm ngàn ức Đức Như Lai chính chân. Chư Thế Tôn ấy đã giảng thuyết kinh chính Pháp Hoa cho ngài; do phước đức ấy, dần dần tăng tiến lại gặp hai mươi trăm ngàn ức Đức Như Lai đều cùng một hiệu là Lôi Minh Âm Vương và được theo nghe kinh điển này. Lại gặp hai mươi trăm ngàn ức Như Lai đều cùng một hiệu là Lôi Âm Vương, cũng được nghe kinh chính Pháp Hoa, thọ trì, đọc tụng, tuyên thuyết cho bốn chúng. Sinh ra ở bất cứ đâu cũng thường tự nhiên được mắt thanh tịnh, tai thanh tịnh, mũi thanh tịnh, miệng thanh tịnh, thân thanh tịnh, ý thanh tịnh; nhìn nghe xuyên suốt, mũi thông, miệng lẹ, thân thể nhẹ nhàng, ý thấy rõ tâm chúng sinh, diễn nói, phân biệt ý nghĩa của kinh điển này cho bốn chúng. Phật dạy: –Này Đắc Đại Thế! Đại só Thường Bị Khinh Mạn cúng dường phụng sự biết bao số trăm ngàn ức Đức Như Lai rồi, lại gặp vô số trăm ngàn ức Đức Như Lai, cũng vẫn theo thọ trì kinh chính Pháp Hoa. Do căn bản phước đức này tự đạt đến đạo Vô thượng chính chân, thành Tối chính giác. Này Đắc Đại Thế! Bồ-tát muốn biết vị Đại só Thường Bị Khinh Mạn ở thời của Tịch Thú Âm Vương Như Lai, nói kinh pháp cho bốn bộ chúng là ai chăng? Vị ấy chính là ta vậy. Giả sử lúc ấy ta chẳng thọ kinh chính Pháp Hoa này, chẳng thọ trì, đọc tụng, giảng thuyết cho mọi người thì chẳng có thể nhanh chóng đạt được đạo Vô thượng chính chân, thành Tối chính giác. Vì ta theo chư Phật Thế Tôn ở quá khứ nghe kinh điển này, thọ trì, đọc tụng, giảng thuyết cho mọi người nên thành tựu Phật quả. Các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, thiện nam, tín nữ mà thuở ấy vị Đại só kia đã nói là: “Tôi cung kính chẳng dám khinh các ngài; các ngài sẽ đạt được trí tuệ đạo đức của Đức Như Lai Đẳng Giác” và bốn chúng ấy đã khinh khi, mắng nhiếc, cười chê vị Đại só kia, không tự hối cãi nên trải qua hai mươi ngàn ức kiếp sinh ra đời thường chẳng gặp Phật, chẳng nghe kinh pháp; lại trải qua vạn kiếp đọa vào đại địa ngục Vô khả, bị khảo tra thiêu đốt đau đớn không thể diễn tả; hết tội rồi, ra khỏi địa ngục, do được vị Đại só kia giáo hóa làm cho phát tâm cầu đạo Vô thượng chính chân, đều đắc thần thông, trí tuệ vô ngại; nay đều có mặt nơi đây. Phật dạy: –Này Đắc Đại Thế! Ông muốn biết bốn chúng thuở ấy đã hủy nhục chê cười, sân nhuế, mạ lî vị Đại só ấy là ai chăng? Đó chính là năm trăm vị Bồ-tát nhóm của ông Bạt-đà-hòa, năm trăm vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni ở là nhóm của ông Sư Tử Nguyệt đang ở trong pháp hội này và năm trăm thiện nam, năm trăm thiện nữ ở trước ta đây, đều không thoái chuyển sẽ thành đạo Vô thượng chính chân. Phật dạy: –Này Đắc Đại Thế! nghĩa lý của kinh chính Pháp Hoa này rộng lớn, oai thần vô lượng, vô biên; tất cả các Bồ-tát Đại só đều kính phụng. Sau khi Như Lai diệt độ, người thọ trì, đọc tụng kinh này được phước như thế và sẽ thành đạo Vô thượng chính chân. Khi ấy Thế Tôn nói tụng khen: Nay ta nhớ nghó Việc xưa đã qua Phật tên Tịch Thú Âm Vương Như Lai Oai thần vô lượng Trời, người cung kính Giảng pháp cho các Nhân dân, chúng sinh Phật tối thắng ấy Sau khi diệt độ chính pháp của Ngài Vào thời cuối cùng Có một Tỳ-kheo Tu hạnh Bồ-tát Thời ấy đặt tên Thường Bị Khinh Mạn Thường thường đi đến Trong chúng Tỳ-kheo Và Tỳ-kheo-ni Thấy họ điên đảo Nên khuyến hóa cho Chí hạnh Phật đạo Tự nói tâm ta Chẳng dám kiêu mạn Bị người chê cười Mắng nhiếc nhục mạ Khi ấy vì họ Khiến nghe lời này Giả sử khi được Nghe kinh pháp này Thì được an trụ Dù làm việc gì Trí tuệ sáng soi Khi sắp lâm chung Được phân biệt nói Kinh Pháp Hoa này Báo ứng tức thời Tăng thêm tuổi thọ Thân ấy biến hiện Đều được tự tại Ở trên hư không Giảng thuyết kinh điển Giáo hóa tất cả Đều phát đạo tâm. Bấy giờ Đại só Sau khi mạng chung Được gặp chư Phật Trăm ngàn ức muôn Dần dần khai hóa Thâm nhập kinh pháp Vì được phân biệt Giảng nói kinh này Là người tối thắng Đắc thành quả Phật Chính là thân ta Như Lai Năng Nhân Còn các Tỳ-kheo Và Tỳ-kheo-ni Các thiện nam tử Cùng thiện nữ nhân Miệng ưa phỉ báng Có mặt thuở ấy Họ được khai hóa Hiểu rõ kinh điển Thường sẽ được gặp Vô số ức Phật Là năm trăm vị Nhóm Bạt-đà-hòa Các chúng Tỳ-kheo Và Tỳ-kheo-ni Thiện nam, tín nữ Nay ở trước Phật Thuở trước ta đã Cho nghe kinh pháp Đều được khai hóa Khiến cho hiểu rõ Nay đây thân ta Sau khi diệt độ Nên luôn thọ trì Phụng thờ kinh này Phải nên tư duy Vô số ức ức Chưa từng được nghe Kinh pháp như thế Giả sử có Phật Số trăm ngàn ức Mong nghe giảng thuyết Kinh điển như thế Vì vậy khi nghe Kinh giống như vậy Thánh Tôn tự tại Xưng dương tán thán Sau ta diệt độ Có người diễn nói Kinh Pháp Hoa này Cần luôn phải nhẫn  <詞 id="83085256">Phẩm 20: NHƯ LAI THẦN TÚC HẠNH Lúc bấy giờù trăm ngàn ức muôn các vị Bồ-tát nhiều như số vi trần của ba ngàn thế giới từ dưới đất vọt lên, tất cả đều đứng trước Đức Thế Tôn, chắp tay bạch Phật: –Sau khi Như Lai diệt độ, chúng con sẽ truyền bá kinh này khắp quốc độ chư Phật và tại quốc độ của Thế Tôn, nơi Thế Tôn diệt độ, ở ngay những nơi ấy giảng thuyết kinh này, nhiều người được lợi ích. Nếu có người thọ trì, đọc tụng, sao chép, diễn nói cho người khác kinh điển cốt yếu nhiệm mầu này thì phước đức chẳng thể lường. Khi ấy, ở trước Bạc Thủ và vô số ức trăm ngàn muôn các Bồ-tát và Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, thiện nam, tín nữ, các Trời, Rồng, Thần, Kiền-đạp-hòa, A-tu-luân, Ca-lưu-la, Chân-đà-la, Ma-hưu-lặc cùng Nhân phi nhân trong thế giới Kham nhẫn này, Như Lai dùng thần túc biến hóa các Như Lai Chí Chân đẳng chính giác. Do hiện điềm lành này mà tất cả đều đắc pháp nhẫn nhu thuận, đều khiến cho trăm ngàn ức số các Đại Bồ-tát sao chép kinh chính Pháp Hoa ở thế giới khác hóa hiện đều ngồi trên tòa Sư tử dưới các cây báu. Bấy giờ Đức Thế Tôn Năng Nhân và tất cả Đức Như Lai chính giác này cùng hiện thần túc đầy đủ sung mãn, trong trăm ngàn năm mới xảy ra như thế. Ngay khi ấy, công đức trong trăm ngàn năm tự nhiên chiếu sáng phá tan mây đen, trong khoảng khảy móng tay, tự nhiên có âm thanh vang khắp, tất cả thế giới ở trong cõi Phật khắp mười phương đều chấn động sáu cách. Các Trời, Rồng, Thần, A-tu-luân, Ca-lưu-la, Chân-đà-la, Ma-hưu-lặc, nhờ oai thần của Phật, ngay nơi chỗ ở của mình, ở vô số ngàn thế giới chư Phật, đều thấy cõi Phật Kham nhẫn này và vô số trăm ngàn ức muôn Như Lai trong mười phương đều ngồi trên tòa Sư tử dưới các cây báu. Đức Như Lai Năng Nhân và Thế Tôn Đa Bảo ở nơi giảng đường của tháp bảy báu tự nhiên nghiêm tịnh tòa Sư tử, oai quang rực rỡ vô cùng chẳng thể diễn tả; trăm ngàn ức muôn Bồ-tát Đại só và bốn bộ chúng thấy sự biến hóa này, trong lòng ngạc nhiên, mừng vui vô lượng, được điều chưa từng có; bỗng nghe âm thanh trong không trung khen ngợi: “Này nhân giả! Muốn biết vô lượng, trăm ngàn ức cai thế giới chư Phật chẳng thể nghó bàn ấy, thì có một cõi Phật tên là Kham nhẫn, ở đó có Phật hiệu là Năng Nhân Như Lai vì các Bồ-tát Đại só giảng kinh điển Phương đẳng tên là chính Pháp Hoa, tất cả chư Phật đều hộ niệm kinh ấy để cứu độ Bồ-tát Đại só. Vì vậy nên chư Hiền, tâm phải chất trực thanh tịnh, cúi đầu quy mạng khen ngợi phụng sự, hầu cận, cúng dường Đấng Năng Nhân chính giác kia. Khi ấy, chúng sinh tự nhiên nghe âm thanh trên không bảo rằng có Đức Phật Thế Tôn hiệu là Năng Nhân; vừa nghe danh xưng này, họ liền chắp tay, dùng bao nhiêu các loại hoa hương, y phục, tràng phan, tạp hương, đưa tay rải vào thế giới Kham nhẫn và dùng anh lạc, ngọc quý, các chân châu quý, bảo châu Như ý để cúng dường. Hoa hương, phướn lọng, anh lạc, ngọc quý, minh nguyệt bảo châu ấy tự nhiên rơi vào thế giới Kham nhẫn, lập tức kết tụ thành lọng hoa báu ở trên hư không che khắp trên chư Phật và Bồ-tát. Khi ấy Đức Thế Tôn bảo các Bồ-tát từ nơi khác đến và chúng Bồ-tát đứng trước Phật: –Này các Tộc tính tử! Công đức oai thần của Như Lai chính giác chẳng thể nghó bàn dù trong vô số ức triệu trăm ngàn cai kiếp nói ý nghĩa kinh này cũng không thể rốt ráo, tuy vô số biết bao kinh điển khác cũng không sánh kịp và chẳng thể hạn lượng được, muốn qua bờ bên kia cũng khó đạt được mục đích. Này các Tộc tính tử! Nói tóm lại, giả sử có người muốn hiểu rõ cốt lõi của kinh này, đó là oai thần của chư Phật, Pháp của chư Phật, cảnh giới của chư Phật, sự tinh tấn của chư Phật, sự độc cư của chư Phật, diệu lực của chư Phật mà kinh này đã thị hiện, thì này Tộc tính tử, sau khi Phật diệt độ, nên ân cần cầu kinh điển này, thọ trì, sao chép, tinh tấn phụng hành, cúng dường phụng sự, vì người khác nói. Giả sử có người mang kinh này giảng giải, khen ngợi, sao chép, tư duy, phụng trì, chép vào tre lụa hoặc để nơi tinh xá, trai đường nhà cửa, dưới cây trong rừng, hoặc bên dòng nước, thì phải tạo dựng tháp miếu. Vì sao? Vì đó chính là nơi chốn của Như Lai, xem như là đạo tràng, chỗ cây Phật ngồi, nên xem đó là nơi du hành của tất cả Đức Như Lai chính Giác, là chốn chuyển pháp luân của các Bậc Thánh giả Thế hùng; mười phương chư Phật diệt độ nơi ấy, như nhau không sai khác. Khi ấy Thế Tôn nói tụng ngợi khen: Pháp thương yêu đời Chẳng thể nghó bàn Luôn luôn kiến lập Trí tuệ thần thông Cũng lại thị hiện Mắt sáng soi khắp Tất cả chúng sinh Đều được hoan hỷ Thiệt căn thần diệu Diễn tiếng Phạm thiên Trong sáng thánh thót Ức trăm ngàn muôn chúng sinh muôn loài Khi thấy thần túc Lạ chưa từng có Đều vào Phật đạo Bậc Thánh Đạo Sư Phát ánh sáng lớn Chỉ trong khoảnh khắc Diễn âm thanh lớn Tức thời bảo khắp Tất cả cõi Phật Cùng khắp mười phương Thế giới chư Phật Biến hóa như thế Và biến đôïng khác Đại Thánh đã hiện Điềm lành như thế Bấy giờ Như Lai Khiến đều hoan hỷ Sau Phật diệt độ Phụng trì kinh này An trú tuyên bày Các pháp công đức Trải vô số kiếp Chẳng thể nghó bàn Trì quyển kinh này Hạn lượng phước đức. Đạo Sư khen ngợi Vô lượng biết bao Muốn tận giới hạn Chẳng thể đến cùng Giống như hư không Chẳng thể cùng tận Danh xưng chí đức Không thể tư duy Người trì kinh này Tịnh đức thường nhiên Thì được thấy Phật Đại Thánh Đạo Sư Và ta ở đời Đại thông diệt độ Thì tất cả chúng Bồ-tát nơi kia Và bốn bộ chúng Thấy trong hội này Có người từng gặp Kinh điển này rồi Trong pháp hội này Thì nay gặp lại. Sau Phật diệt độ Cũng tại nơi đây Và mười phương kia Thế giới chư Phật Nếu ai có thể Thọ trì kinh này Thì được gặp gỡ Chư Phật quá khứ Ở khắp mười phương Nay Phật hiện tại Mắt tự trông thấy Cúng dường phụng sự Thảy đều vui vẻ Hướng về Thế Tôn Ở nơi đạo tràng Có thể tư duy Nên mau thọ trì Kinh điển này đây Tự nhiên biện tài Không gì trở ngại Giả sử mạng sống Chẳng thể lâu dài Nên phân biệt hiểu Ý nghĩa kinh này Và nên thọ trì Kinh điển này đây Hiểu rõ các kinh Lần lượt quy kính. Đại Thánh Thế Tôn Sau khi diệt độ Giả sử có người Chí thành tuyên thuyết Phân biệt kinh này nghĩa lý mục đích Thì giảng kỹ lưỡng Ý nghĩa các kinh Ánh sáng người ấy Phân biệt sở giác Như vầng nhật nguyệt Chiếu khắp gần xa Khắp cả thiên hạ Chỗ nào cũng đến Khuyến hóa phát khởi Vô số Bồ-tát Cho nên các chúng Bồ-tát trí tuệ Được nghe kinh điển Vô thượng như thế Sau ta diệt độ Phụng trì kinh này Người ấy chẳng nghi Đại đạo của Phật.  <詞 id="83085257">Phẩm 21: BỒ-TÁT DƯỢC VƯƠNG Khi ấy Bồ-tát Tú Vương Hoa tới trước Phật, bạch: –Bồ-tát Dược Vương vì duyên cớ gì du hóa ở thế giới Kham nhẫn chịu đựng vô số nạn khổ? Hay thay Thiên Tôn, xin vì Bồ-tát. Thanh văn ở khắp thế giới chư Phật trong mười phương đều vân tập nơi đây, nếu được nghe Phật tuyên nói công huân tu hành đời trước, từ khi mới phát đạo tâm của Dược Vương, thì sẽ khiến cho chúng hội hôm nay và đời sau được nghe và thọ trì, học theo đến rốt ráo, trời, người, rồng, quỷ, các tôn thần vương thảy đều vui mừng phát tâm đạo rộng lớn, tự đạt đến chính giác độ thoát tất cả. Khi ấy Thế Tôn thấy Tú Vương Hoa phát tâm chí thành, vì tất cả mà thỉnh Phật nên khen ngợi: –Hay thay! Ta sẽ vì chư Bồ-tát tương lai, khuyên răn đàn hậu học khiến họ được vào đạo trí mà trình bày. Hãy lắng nghe, hãy lắng nghe, hãy suy nghó cho kỹ! –Thưa vâng, bạch Thế Tôn! Chúng con mong muốn được nghe. Phật dạy: –Vào thời quá khứ hằng ha sa số kiếp, lúc ấy có Phật hiệu là Ly Cấu Nhật Nguyệt Quang Thủ Như Lai Chí Chân Đẳng chính Giác xuất hiện ở đời. Phật ấy sống lâu bốn vạn hai ngàn tuổi. Giáo hóa chúng sinh, cứu độ nguy ách. Khi ấy Bồ-tát trong mười phương nhóm họp có tám mươi ức, các chúng Thanh văn tới bảy mươi hai hằng hà sa. Lại nữa cõi Phật ấy không có người nữ và ba đường ác, không có A-tu-luân và tai họa của tám nạn; mặt đất bằng phẳng, màu lưu ly xanh biếc, các báu tạo thành, trang nghiêm thanh tịnh; các loại cây báu bao bọc chung quanh, trân kỳ giao lạc che phủ chung quanh, cắm các tràng phan; bình báu lò hương đốt các danh hương; dưới tất cả cây, đặt các giường báu, tọa cụ trang hoàng đẹp đẽ, không thể tả xiết; trên các tọa cụ có năm ngàn ức tòa ngồi của chư Thiên; trổi các âm nhạc, khen công Đức Phật để cúng dường. Bấy giờ Đức Phật kia vì các chúng Bồ-tát và Thanh văn phân biệt giảng thuyết kinh chính Pháp Hoa. Khi ấy có Bồ-tát tên là Chúng Sinh Hỷ Kiến nghe Phật phô diễn giảng giải nghĩa yếu, liền phụng trì Phật pháp, tu tập khổ hạnh, ngày đêm tinh tấn, trải qua một vạn hai ngàn năm kinh hành không ngồi; xong một vạn hai ngàn năm liền đạt được Tam-muội Phổ hiện; đạt được định này rồi, liền tư duy rằng: “Ta sở dó đạt được Tam-muội Phổ hiện là do kinh chính Pháp Hoa này”, bèn vui mừng phấn chấn tự nghó: “Ta nên cúng dường Đức Ly Cấu Nhật Nguyệt Quang Thủ Như Lai Chí Chân và phụng thờ kinh chính Pháp Hoa, liền nhập vào Tam-muội chính thọ như thế, ở trên hư không, rải hoa trời, nhiều loại chiên-đàn để cúng dường. Ngay khi ấy, mùi thơm của các hoa hương này xông tỏa khắp thế giới chư Phật mười phương; người nào nghe được hương ấy đều đắc pháp nhẫn; loài chúng sinh đồng tâm ngưỡng vọng. Bồ-tát Chúng Sinh Hỷ kiến từ thiền định ý xuất, lại tư duy: “Tuy dùng nhiều thứ cúng dường Phật nhưng ta chẳng có thể báo đáp hết ân đức của bậc Chí Chân; dùng thân cúng dường mới là Vô thượng”, liền làm như ý nghó, dứt hẳn ngũ cốc, chỉ ăn các loại hương thơm và uống nước các loại hương hoa, làm cho trong ngoài thân đều thơm. Uống các hương hoa như thế qua mười hai năm. Lại hòa các hương dùng thoa trên thân, dùng dầu thơm thấm y, rồi lập thệ nguyện dùng thân làm đèn cho tất cả, liền đốt thân mình cúng dường chư Phật. Vì tin thành nên ánh sáng ấy chiếu khắp tám mươi hằng hà sa thế giới chư Phật. Ngay khi ấy, chư Phật đồng thanh khen ngợi: –Hay thay, hay thay, Tộc tính tử! Tinh tấn như vậy mới thất là ít có trên đời. Đó là cúng dường Như Lai và kinh điển một cách chân chính; đó là vì chúng sinh chịu khổ chẳng từ lao nhọc, siêu vượt sở hành của tất cả trời người; bố thí quốc thành, tài sản, vợ con cũng không sánh kịp. Trong các sự cúng dường, đây là hơn hết, là lâu dài, là không gì so sánh được. Dùng thân thí chính là Pháp thí. Chư Phật Thế Tôn khen ngợi công đức như thế rồi, liền im lặng. Khi ấy, tự nhiên thân Bồ-tát, lửa cháy suốt một ngàn hai trăm năm chẳng tắt, vì nhất tâm nên không đau đớn. Sau đó, ngọn lửa mới tắt. Vì siêng năng tu hành tinh tấn, cúng dường Pháp nên sau khi mạng chung, Bồ-tát sinh lại thế giới ấy, nhằm quốc độ của Đấng Ly Cấu Nhật Nguyệt Quang Thủ Như Lai Chí Chân. Trong vương cung nước Ly Cấu Thi, Bồ-tát bỗng nhiên hóa sinh, ngồi xếp bằng, vì vua cha nói kệ: Tôn vương, xin biết bản nguyện con Kiên cường siêng tu đại tinh tấn Thân ái trọng dùng làm vật thí Kiến lập nên Tam-muội lớn này. Nói kệ xong, ngài thưa với cha mẹ: –Đức Ly Cấu Nhật Nguyệt Quang Thủ Như Lai Chí Chân nay vẫn còn tại thế. Thuở xưa, con chí tâm cúng dường, nhờ đó mới đạt được pháp yếu của tất cả âm tổng trì, là điều cốt lõi trong sự học kinh điển Vô thượng chính Pháp Hoa; kinh gồm có tám mươi muôn trăm ngàn ức triệu cai bài kệ; nên nhất tâm tư duy tìm chỗ nào để tạo lập mô hình tượng Phật để trong tâm không sân giận, phẫn nộ là Bồ-tát thực hành chính Pháp Hoa này. Đời trước con đã tập bao nhiêu ngàn ức trăm ngàn muôn bài kệ, nghe và thọ trì từ Đức Như Lai. Vua Ly Cấu Thi khen con: –Hay thay, hay thay! Hãy cùng đi đến cúi mình kính cẩn cúng dường Đức Thánh Tôn. Sau khi trình bày như vậy rồi; ngài cùng với phụ vương vọt lên không trung cách đất bảy nhẫn kinh hành trên hư không; chân không chạm đất, thân ngồi ngay thẳng trong trướng làm bằng bảy báu, giao lạc, trân kỳ, đi đến chỗ Phật, chắp tay lễ Phật dùng tụng tán thán: Đấng Nhân Trung Tôn, Dung nhan vô nhiễm Hào quang rạng ngời Chiếu khắp mười phương Xưa con cúng dường Thế Tôn tối thắng Nay thọ lại thân Nên đến bái kiến. Bấy giờ Bồ-tát Đại só Chúng Sinh Hỷ Kiến nói kệ này rồi, tới trước, bạch với Đức Như Lai Chí Chân Ly Cấu Nhật Nguyệt Quang Thủ: –Bạch Thế Tôn! Thế Tôn rủ lòng thương xót mười phương nên hiện vẫn còn giáo huấn, độ thoát chúng sinh khiến tất cả đều được nhờ ân. Khi ấy Đức Như Lai Ly Cấu Nhật Nguyệt Quang Thủ bảo Bồ-tát Chúng Sinh Hỷ Kiến: –Nay đã đến lúc ta sắp diệt độ. Ta đem giáo pháp này giao phó cho ông. Đến đây, sự giáo hóa của ta hoàn tất; đời loạn sắp đến, ta xả bỏ nó. Hãy vì ta trải tòa, nay ta diệt độ. Lại bảo: –Ta đem kinh điển này một lần nữa giao phó cho ông, khiến cho lưu bố cùng khắp, nhuận thấm mười phương, làm cho tất cả đều hưởng phước an lạc. Bồ-tát Chúng Sinh Hỷ Kiến bạch: –Con xin tuân nhận lời Ngài dạy. Vào nửa đêm, Đức Phật diệt độ. Khi ấy Bồ-tát Chúng Sinh Hỷ kiến thấy Phật diệt độ, dùng hương chiên-đàn và các loại hương quý khác trà tỳ thân Phật, nhặt xá-lợi, dùng nước hương rửa, Bồ-tát thương cảm khóc lóc, lệ đổ như mưa; rồi làm tám vạn bốn ngàn bình báu đựng xá-lợi, dựng bảy ngôi tháp báu cao đến Phạm thiên, trang nghiêm bằng tràng phan bảo cái, treo các thứ linh báu, tâm tự nghó: “Ta đã cúng dường xá-lợi Thế Tôn; lại nên thờ phụng hơn trước”, bèn bảo với các vị Bồ-tát đại Thanh văn, các trời, rồng, thần và tất cả nhân dân: –Này các Tộc tính tử! Cùng nhau suy niệm, xá-lợi của Thế Tôn đều cúng dường khắp. Khi ấy Phật bảo với Bồ-tát Tú Vương Hoa: –Vào thời ấy, Bồ-tát Chúng Sinh Hỷ Kiến khuyến khích mọi người cung thờ xá-lợi, tám vạn bốn ngàn tháp; trước tháp, kiến lập hình tượng đức tướng trăm phước, đốt vô số đèn, thiêu hương, rải hoa, làm rạng rỡ đạo pháp, cúng dường phụng sự bảy vạn hai ngàn năm. Cúng dường xong, ở giữa hội chúng, giáo hóa vô số ngàn các chúng Thanh văn, khai thị các Bồ-tát đều khiến đạt được Tam-muội Phổ hiện. Thấy chúng Bồ-tát đã an lập định rồi, Bồ-tát tự hiện thân mình với các căn khuyết tật. Các chúng Bồ-tát và các đệ tử, Trời, Rồng, Quỷ, Thần cất tiếng kêu khóc, lệ đổ như mưa: –Các Tộc tính tử! Bồ-tát Đại só Chúng Sinh Hỷ kiến là Thầy của chúng ta, khai hóa chúng ta, hiện nay các căn khuyết giảm, không đủ. Vì vậy chúng ta xót thương không kềm chế được. Lúc đó Bồ-tát Chúng Sinh Hỷ Kiến bảo với các Bồ-tát và đại đệ tử, các Trời, Rồng, Thần: “Ta đã lập thệ nguyện chí thành. Nếu như lời nói của ta là tùy thuận không hư dối thì cánh tay này của ta sẽ trở thành vàng tía và khiến tay của ta bình phục như cũ. Đại địa sẽ chấn động mạnh, trên không mưa xuống các loại hương hoa.” Nói vừa dứt lời, đại địa liền chấn động mạnh, trời mưa các loại hoa, cùng lúc cánh tay ngài bình phục như cũ. Bồ-tát Chúng Sinh Hỷ Kiến muốn độ tất cả nên thị hiện sở hành của tuệ lực này, và thế lực phước đức công huân đã đạt được. Phật bảo Bồ-tát Tú Vương Hoa: –Ông muốn biết Bồ-tát Đại só Chúng Sinh Hỷ Kiến khi ấy chăng? Nay là Bồ-tát Dược Vương vậy. Này Tộc tính tử! Nếu Bồ-tát cần khổ chẳng thể kể xiết, tổn thân bỏ mạng không có hạn lượng, thường kiến lập chí nguyện Đại thừa, đại đạo Vô thượng, làm phát khởi đại công đức vô cực ở trước Như Lai chỉ đốt một ngón chân, thì công đức khó gì sánh bằng, huống là đốt thân dùng để cúng dường thì càng hơn cả bố thí quốc thành, thê tử, máu thịt. Dù dùng châu báu đầy cả cõi Phật để bố thí cúng dường chư Phật, Thánh chúng, phước đức tuy nhiều nhưng cũng không bằng người kia. Vì sao? Vì phước báo có lúc hết, không lợi ích cho chúng sinh. Nếu Tộc tính tử! Tộc tính nữ thọ trì một bài tụng bốn câu của kinh chính Pháp Hoa, phân biệt phụng hành, vì người giải nói thì phước thí trên so với phước này không bằng một phần vạn, giống như vạn sông đều chảy về biển cả, kinh này cũng như thế, đứng đầu tất cả các pháp, giống như núi Tu-di, cao hơn các núi, như mặt trăng tròn đầây chiếu sáng giữa các sao. Ánh sáng đại tuệ chiếu sáng ba cõi là vua đạo Vô thượng, đứng đầu các pháp. Giống như mặt trời xuất hiện chiếu khắp thiên hạ làm tiêu tan tăm tối, kinh này cũng vậy, trừ hết tất cả ngu si tăm tối, đưa vào đạo sáng. Giống như trời Đế Thích ở cõi trời Đao-lợi làm vua của chư Thiên, kinh này cũng vậy, là kinh điển đứng đầu trong tất cả các pháp, bao quát mười phương, độ thoát tất cả. Giống như Phạm thiên vương ở cung điện thứ bảy chế ngự chư Thiên, ai cũng phụng mạng, kinh này cũng vậy cứu khắp chúng sinh Hữu học, Vô học, giáo huấn dẫn dắt ba thừa, làm công việc của vua, cha. Giống như bốn đạo quả cho đến Duyên giác đều siêu vượt cái học của tất cả phàm phu, kinh chính Pháp Hoa cũng lại như thế, đều siêu việt vượt tất cả thượng, trung, hạ thừa, đối với sự khai hóa chúng sinh không gì bằng. Giống như sở hành cao viễn của Bồ-tát vượt trên việc làm của Thanh văn, Duyên giác, che chở ba đời, kinh này cũng vậy, điều ngự các pháp đều khiến thành tựu đạo Vô thượng chính chân. Giống như Thế Tôn là Pháp vương ba cõi mặc đạo phục trang nghiêm bằng ba mươi hai tướng, dẫn dắt chúng ngu si, kinh này cũng vậy, từ người đang học đạo Bồ-tát cho đến Như Lai, khai dẫn các Thanh văn, Duyên giác… đều khiến thành tựu đạo Vô thượng chính chân. Này Tộc tính tử! Kinh điển này khiến sự hộ trì của ba cõi, độ thoát ách nạn nguy khốn cho tất cả chúng sinh, làm no đủ nạn đói nghèo của hữu tình: người lạnh được ấm, người nóng được mát; người trần trụi có y phục; dẫn dắt chúng sinh đều khiến vào đạo. Giống như người dẫn đường bảo hộ châu báu, Bồ-tát cũng thế, nuôi dưỡng chúng sinh giống như mẹ hiền. Thí như người lái đò đưa người qua sông, Bồ-tát cũng thế, xoay vần ba cõi độ thoát tất cả trừ diệt tối tăm. Giống như ngọn đuốc diệt trừ bóng tối, kinh này chuyển hóa sinh, già, chết. Giống như vua Chuyển luân chế ngự bốn cõi, kinh này cũng thế, dùng Thánh đạo soi sáng ba cõi. Giống như ánh sáng lớn làm tiêu sự tối tăm của cuộc đời, kinh này cũng vậy, đưa đến không thoái chuyển, vô sinh cho đến thành Phật đạo. Phật bảo Bồ-tát Tú Vương Hoa: –Kinh điển này độ thoát tất cả họa khổ, trừ sạch các cấu nhiễm của bệnh ba độc, cứu thoát các buộc ràng trong lao ngục sinh tử. Nếu người nghe kinh này mà hiểu ngay, có thể sao chép thì công đức của người ấy không thể kể xiết, huống là nghe, thọ trì, giữ gìn tụng đọc, dùng hoa hương, hương tạp, hương mịn, đèn đuốc, tràng phan để cúng dường? Nếu có người nghe và thọ trì phẩm Bồ-tát Dược Vương Vãng Cổ Học mà thọ trì suy nghó thì phước của người ấy hơn người cúng dường những vật kia, không thể kể xiết. Nếu có người nữ, nghe kinh pháp này mà thọ trì ngay thì ở trong đời này khi hết thọ mạng thân nữ, sau được thân nam. Nếu có người nữ ở trong đời mạt thế ngũ trược, nghe kinh pháp này mà có thể phụng hành thì khi mạng chung liền được vào nước An dưỡng, thấy Phật Vô Lượng Thọ cùng với các Bồ-tát quyến thuộc vây quanh, sinh trong hoa sen báu, ngồi tòa Sư tử, không còn dâm, nộ, si, trừ bỏ các ràng buộc, cũng không tham lam tật đố, chưa từng ôm hận; vừa sinh đến nước ấy, được năm thần thông, đạt không thoái chuyển, chẳng khởi pháp nhẫn; đã đạt pháp nhẫn rồi, liền được thấy bảy mươi hai ức triệu hằng hà sa các Đức Như Lai. Vừa thấy chư Phật, nhãn căn thanh tịnh; nhãn căn đã thanh tịnh được thấy tất cả mười phương chư Phật từ xa khen ngợi: “Hay thay, hay thay, Tộc tính tử! Ông đã gặp đời Đức Phật Năng Nhân được nghe Phật nói kinh chính Pháp Hoa, thọ trì, phúng tụng, vì người khác nói, nhờ phước công đức này, lửa chẳng thiêu được, nước chẳng trôi được, đạo tặc, oan gia, quan huyện chẳng xâm phạm; ngàn Phật ngợi khen chẳng thể hết được; công đức đạt được chẳng thể hạn lượng, vời vợi như thế, duyên vào công đức này hàng phục các ma, trừ các oán dịch, vượt thoát nạn sinh tử, xoay chuyển các họa. Lại nữa, Tộc tính tử! Dùng kinh pháp này hàng phục các ác nghịch, là sở kiến của hàng ngàn Phật kiến lập nên, ủng hộ cho người, trên trời và nhân gian không gì sánh bằng. Trừ Như Lai ra, về công đức, phước hựu, trí tuệ, định ý không có Thanh văn và Bồ-tát nào bằng được. Phật bảo Bồ-tát Tú Vương Hoa: –Nếu có người tu học nào thọ trì kinh này thì sự đạt đến sự thánh minh, thế lực, oai đức siêu việt như thế. Vì vậy, Nhân Giả, nếu có người giảng thuyết phẩm Dược Vương này, có người khen ngợi thì sau sinh làm người, trong miệng tự nhiên thơm mùi hoa sen, thân thơm mùi chiên-đàn. Nếu người nghe kinh này mà khen hay thì hiện tại công đức người ấy được đồn xa. Phật đã khen ngợi trước công huân của người ấy. Phật bảo: –Này Tú Vương Hoa! Ta đem kinh này phú chúc cho các ông chúng sinh, vui mừng thấy phẩm Vãng Cổ Pháp, cuối cùng của thời mạt thế ngũ trược lưu bố trong thiên hạ ở cõi Diêm-phù-lợi, không thể hoại diệt nửa chừng, ma Ba-tuần chẳng có thể được tiện lợi, và quyến thuộc ma, tà thần, quỷ mî không thể hại được; Trời, Rồng, La-sát, cưu hoàn, yểm quỷ không dám đối đầu. Lại nữa, Tú Vương Hoa! Phẩm Dược Vương này, oai đức đã an lập, đã lưu bố đến chỗ nào nếu có người bệnh tật mà nghe kinh pháp ấy thì tật bệnh tiêu trừ, không có các hoạn nạn; nhờ công đức ấy, sau đạt đến chính chân, không già bệnh chết. Nếu có Tỳ-kheo cuối thời mạt thế, tay cầm hoa sen xanh tràn đầy mùi thơm rải cúng Pháp sư, tâm tự nghó: “Giả sử có người cầu Bồ-tát thừa đến đạo tràng này, ta sẽ dâng bông này để làm tòa ngồi trải dưới cây Bồ-đề, hàng phục chúng ma, đầy đủ trống pháp, thổi loa pháp lớn, nương vào đây qua biển sinh tử”. Nếu ai học Đại thừa thấy các Tỳ-kheo cầm quyển kinh này thì phải xem công đức người ấy cũng như thế. Khi Phật nói phẩm Dược Vương Bồ-tát vãng cổ này, tám vạn bốn ngàn Bồ-tát đều liền hiểu được tất cả âm phương tiện tổng trì. Khi ấy, Đức Như Lai Chúng Bảo khen ngợi: –Hay thay, hay thay, Bồ-tát Tú Vương Hoa! Ông có thể thưa hỏi hành nghiệp của kinh điển chẳng thể nghó bàn. Như Lai đã giảng thuyết, ông có vui thích không?  <詞 id="83085258">Phẩm 22: BỒ-TÁT DIỆU HỐNG Khi ấy Thế Tôn Như Lai Năng Nhân, từ tướng Đại nhân trên đầu lông mi phát ra trăm ngàn hào quang chiếu đến một ngàn tám trăm vạn ức hằng hà sa các cõi Phật ở phương Đông, chỗ nào cũng rọi đến. Qua khỏi quốc độ của chư Phật ấy, có thế giới tên là Trang nghiêm chiếu minh; cõi ấy có Phật hiệu Như Lai Chí Chân Đẳng chính Giác hiệu là Ly Cấu Tử Kim Tú Hoa Vương, cùng vô số các chúng Bồ-tát quyến thuộc vây quanh, đang tuyên dương giáo hóa. Hào quang mà Như Lai Năng Nhân đã phóng ra chiếu khắp cõi ấy. Lại cõi Phật ấy có một vị Bồ-tát tên là Diệu Âm, từ Phật quá khứ đã gieo trồng các gốc đức, cúng dường vô số trăm ngàn triệu cai chư Phật chính Giác; đã từng gặp chư Phật thưa hỏi, thọ nhận kinh điển, được thành tựu Thánh tuệ, đã đắc các Tam-muội sâu xa như Tam-muội Định pháp hoa, Tam-muội Thi ly cấu, Tam-muội Lạc tú vương, Tam-muội Vô trước quang, Tam-muội Tuệ ấn, Tam-muội Phổ hiểu chư âm, Tam-muội Đẳng tập chúng đức, Tam-muội Hỷ tín tịnh, Tam-muội Thần túc hý lạc, Tam-muội Tuệ quang, Tam-muội Nghiêm tịnh vương, Tam-muội Ly cấu quang, Tam-muội Ly cấu tạng, Tam-muội Vô duyên, Tam-muội Nhật chuyển, nói tóm lại đã chứng đắc tất cả ức trăm ngàn vạn hằng hà sa số các định Tam-muội. Hào quang của Phật ấy soi khắp, chiếu đến Bồ-tát Diệu Âm. Bồ-tát Diệu Âm nương luồng sáng ấy đi đến chỗ Phật, bạch: –Con muốn đi đến thế giới Kham nhẫn yết kiến Đức Phật Năng Nhân và đảnh lễ, để tham vấn kinh điển và muốn kính thăm Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, Bồ-tát Dược Vương, Bồ-tát Diệu Dũng, Bồ-tát Tú Vương Hoa, Bồ-tát Tôn Ýù Hành, Bồ-tát Tịnh Vương, Bồ-tát Siêu Dược… để luận giảng nghĩa kinh, lãnh thọ những điều còn kém, khiến cho tất cả nghe được đều phát đạo tâm. Phật ấy bảo: –Hãy đi đi, Tộc tính tử! Tuy ông đến cõi ấy, chớ khởi tưởng phân biệt mà nghó là cõi ấy hạ liệt biếng trễ. Vì sao? Này Tộc tính tử! Thế giới Kham nhẫn ấy đất màu đen, núi non lởm chởm, đá cát dơ bẩn uế trược dẫy đầy; khe suối núi hang không như ông tưởng. Thân Phật cõi ấy thấp nhỏ một trượng sáu, thân các Bồ-tát cao bảy tám xích, còn thân ông vốn cao bốn vạn hai ngàn do-tuần, còn thân ta cao tám vạn bốn ngàn do-tuần, đoan chính tốt đẹp bậc nhất, oai quang thù diệu, dung nhan đẹp đẽ khó thể thí dụ, chứa trăm ngàn đức, ai nhìn cũng vui. Lại nữa, ông đến đấy thấy người cõi kia, cẩn thận chớ suy nghó khởi tưởng chẳng hay cho rằng Như Lai, Bồ-tát ở cõi Phật ấy chẳng bằng cõi này. Vì sao? Vì cõi Phật vốn không, tội phước của chúng sinh hiện hữu bất đồng. Bồ-tát Diệu Âm lại bạch Phật: –Con nương vào oai thần của Phật, Thánh lực và đạo đức cao vời của Như Lai để tự an lạc mà đi đến thế giới Kham nhẫn. Đạo nghiệp trí tuệ thanh tịnh của Như Lai sẽ luôn luôn làm cho con như pháp, không có điều gì sơ suất, chẳng dám khởi tưởng. Khi ấy Bồ-tát Diệu Âm tâm tự nghó: “Ta chẳng rời khỏi chỗ ngồi, giống như nhập Tam-muội chính thọ mà đến núi Linh thứu ở thế giới Kham nhẫn, sẽ ở khoảng giữa pháp tòa của Như Lai, hóa làm tám vạn bốn ngàn ức loại hoa sen báu cộng vàng tía, lá trắng bạc, nghiêm sức đẹp đẽ, hào quang rực rỡ, chiếu sáng pháp hội” và ngay khi ấy liền làm đúng theo ý nghó. Văn-thù-sư-lợi hỏi Đức Phật Năng Nhân: –Kính bạch Thế Tôn! Tám vạn bốn ngàn hoa sen báu cộng vàng tía, lá trắng bạc hóa hiện ở đây thanh tịnh đẹp đẽ là do ai biến hóa ra như thế? Phật bảo Văn-thù: –Có vị Bồ-tát tên là Diệu Âm từ cõi nước của Đức Phật Ly Cấu Tử Kim Tú Hoa Vương cùng với tám vạn bốn ngàn Bồ-tát đang đi đến thế giới Kham nhẫn này, muốn thấy thân ta để lễ bái tham vấn và muốn được nghe kinh chính Pháp Hoa, nên trước hết hiện điềm ấy. Văn-thù-sư-lợi lại hỏi Phật: –Vị ấy từ xưa đã chứa công đức gì, tạo hạnh thù diệu gì mà nay đạt được công năng to lớn kỳ đặc như thế? Đã trụ Tam-muội gì, tạo lập hạnh gì? Con mong ước muốn nghe về sở hành Tam-muội và thần túc biến hóa của vị ấy. Chúng con nghe rồi sẽ ghi nhận phụng hành để thấy nhan mạo sắc tướng của các Bồ-tát ấy như thế nào, cử động lui tới lợi ích ra sao? Rất mong Thế Tôn, xin Ngài hiện thần biến khiến các Bồ-tát ấy đến đây. Chúng hội muốn thấy họ. Phật bảo Văn-thù: –Ông nên thưa với Như Lai Chúng Bảo xin hiện thần biến, khiến các Bồ-tát ấy đều hiện thân tướng đến nơi đây, vì tất cả chúng hội đều muốn thấy. Văn-thù-sư-lợi liền làm theo lời dạy, thưa với Như Lai Chúng Bảo đã diệt độ hiện thần biến. Khi ấy Bồ-tát Diệu Âm bỗng nhiên biến mất khỏi quốc độ của mình, cùng với tám vạn bốn ngàn Bồ-tát làm chấn động các cõi Phật, rải hoa sen báu, đồng thời trổi phát trăm ngàn ức kỹ nhạc. Các Bồ-tát đều tự hiện hình đến, mắt các ngài sáng đẹp màu xanh biếc, dung mạo tròn đầy như mặt trăng tròn sáng, thân chói màu vàng tía, vô số ức trăm ngàn công đức trang nghiêm thân Ngài, oai thần rạng rỡ, trí tuệ sáng ngời, tướng tốt lạ thường, gương mặt trong sáng, thân lực vô biên; thân ở trên màn lưới bằng bảy báu trong hư không, cách đất bốn trượng chín thước. Bồ-tát Diệu Âm cùng các Bồ-tát quyến thuộc vây quanh, đi đến thế giới Kham nhẫn, tới núi Linh thứu, màn lưới báu hạ xuống, tay cầm bình báu giá trị trăm ngàn, đến chỗ Phật Năng Nhân, cúi đầu lễ dưới chân Phật, dâng lên Như Lai Năng Nhân và bạch: –Đức Phật Tử Kim Ly Cấu Tú Vương Hoa tha thiết thăm hỏi Như Lai đi đứng nhẹ nhàng, lui tới khỏe mạnh chăng? Thế Tôn thuyết pháp có như thường chăng? Tất cả chúng sinh lãnh thọ tăng tấn chăng? Chúng diệt trừ hồ nghi và thuận pháp luật chăng? Không còn nhiều người dâm, nộ, si làm việc tật đố xan tham chăng? Có người luôn cung kính hiếu thuận cha mẹ, thọ nhận đạo pháp như pháp phụng hành chăng? Có người theo tài kiến, luyến tiếc của cải các căn bất ổn, bị chúng ma hàng phục, lệ thuộc chăng? Lại nữa, các chúng sinh có nghe và lãnh thọ pháp mà Như Lai Chúng Bảo diệt độ đã thuyết chăng? Nay các Bồ-tát đến nơi đây là do Như Lai ở cõi nước chúng con sai đến, muốn được bái kiến Đức Phật Đa Bảo đã diệt độ ở trong tháp bảy báu, thưa hỏi Thánh thể an khang chăng, thuyết pháp như thế nào, chúng sinh có thọ nhận và thực hành đúng pháp chăng? Như Lai Đa Bảo hiện cửu trụ ra sao? Chúng con đến đây vì muốn được chiêm ngưỡng hình tượng của Như Lai Đa Bảo. Xin Phật hiện cho. Khi ấy, Đức Phật Năng Nhân nói với Đức Như Lai Đa Bảo: –Nay Bồ-tát Diệu Âm và các quyến thuộc muốn bái kiến hình tượng Thánh thể Thế Tôn. Đức Như Lai Đa Bảo liền khen ngợi: –Hay thay, hay thay, Tộc tính tử! Ông có thể đến bái kiến Đức Phật Năng Nhân, thưa hỏi thọ lãnh kinh chính Pháp Hoa và lại sẽ gặp Văn-thù-sư-lợi để giải bày những điều chưa đạt. Khi ấy, Bồ-tát Liên Hoa Thủ hỏi Bồ-tát Phật Diệu Âm vào đời trước đã chứa cội đức gì mới đạt được thần biến vô cực ấy? Phật Năng Nhân bảo Bồ-tát Liên Hoa Thủ: –Vào đời quá khứ xa xưa có Phật, Như Lai Chí Chân Đẳng chính Giác hiệu là Vân Lôi Âm Vương giảng thuyết đạo kinh Lục Độ Vô Cực Bồ-tát Pháp Tạng. Cõi trời nhân gian đâu đâu cũng được an lạc. Khi ấy Bồ-tát Diệu Âm nghe điều giảng thuyết, mừng vui thông hiểu, trổi trăm ngàn âm nhạc làm vui Phật ấy, dâng cúng Thế Tôn tám vạn bốn ngàn bát báu đẹp. Tinh tấn cúng dường Như Lai một vạn hai ngàn năm như vậy. Lại nữa, Tộc tính tử! Bồ-tát Diệu Âm vào đời trước, từ thời Đức Như Lai Vân Lôi Âm Vương đã tu vô lượng pháp, trồng công đức này chưa từng có mỏi mệt bê trễ, truyền thừa giáo chỉ của Như Lai, hóa độ người ngu mê chẳng biết chí chân, khiến họ đều tin ưa. Nên biết Bồ-tát Diệu Âm lúc bấy giờ là Bồ-tát Diệu Âm bây giờ vậy. Vì đời ấy bố thí bát báu và các âm thanh kỹ nhạc, lại cúng dường vô số chư Phật nên ở chỗ ngàn ức Đức Phật trồng các cội đức, tu hành các hạnh; đời trước đã gặp ức trăm ngàn cai hằng hà sa chư Phật Thế Tôn. Này Liên Hoa Thủ! Sở hành của Bồ-tát Diệu Âm chẳng thể hạn lượng biến vô số hình tướng, vì các chúng sinh tuyên bố giảng nói kinh chính Pháp Hoa, hoặc hiện hình dạng sắc mạo Phạm thiên mà giáo hóa, hoặc hiện hình Thiên đế, hoặc hình tôn quý, giàu sang, hoặc hình tướng quân, dẫn dắt giáo hóa quân lính; hoặc các hình tướng có thế lực lớn như Thiên vương Tức ý, Chuyển luân thánh vương, các tiểu vương; hoặc hình mạo của Sa-môn, Phạm chí nói kinh chính Pháp Hoa; hoặc hiện hình Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Thanh tín só, Thanh tín nữ, hình cung nhân, thể nữ, phu nhân của trưởng giả, các gái bần tiện và nam nữ lớn nhỏ khác để thuyết kinh chính Pháp Hoa giáo hóa họ; hoặc hiện hình dáng sắc mạo của A-tu-luân, Ca-lưu-la, Chân-đà-la, Ma-hưu-lặc, Nhân phi nhân để thuyết kinh chính Pháp Hoa giáo hóa họ; hoặc vào chốn địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh và tám nạn để ủng hộ và cứu độ họ; hoặc hiện kẻ só bậc thượng, trung, hạ tiến thối trước sau, tùy theo hình thể nam, nữ nói kinh chính Pháp Hoa để khai hóa họ; hoặc hóa hình hoàng hậu vào trong cung độ các quý nhân. Liên Hoa Thủ nên biết, Bồ-tát Diệu Âm sẽ hộ trì tất cả chúng sinh ở thế giới Kham nhẫn. Lại nữa, này Tộc tính tử! Bồ-tát Diệu Âm sẽ dùng biết bao phương tiện biến hóa để giáo hóa cõi Phật Kham nhẫn, diễn nói kinh chính Pháp Hoa mà thần túc oai đức chưa từng suy hao mà lại càng tăng trưởng; Thánh tuệ, đạo trí cũng lại như thế. Lại nữa, này Tộc tính tử! Hào quang, công huân, trí tuệ của Bồ-tát Diệu Âm chói sáng cùng khắp mười phương, tùy thời khai hóa, luân chuyển vô cùng, đều khiến đi vào pháp luật; các nguyện thượng, trung, hạ đều khiến thành tựu, vừa du hóa thế giới Kham nhẫn lại đến hằng hà sa cõi Phật ở phương khác, hiện thân Bồ-tát để thuyết pháp. Lại hiện hình tượng Thanh văn, Duyên giác để khai hóa, chỉ bày sự tu học bản hạnh, người nghe tự nhiên thành tựu chí nguyện, chẳng trái bản thệ. Nếu có chúng sinh tuân giữ luật của Như Lai thì dùng hình tượng Phật tùy theo đạo luật đó mà hiện hình tướng trao truyền rõ ràng đại đạo Vô thượng chính chân; nếu ai mong được Nê-hoàn thì hiện thân đã diệt độ, nhân đó tùy nghi khai hóa đạo tuệ. Thế lực và thánh trí của Bồ-tát Diệu Âm chẳng thể so lường, siêu tuyệt sáng chói; công đức cũng như thế, không lấy gì dụ được. Khi ấy, Bồ-tát Liên Hoa Thủ đến trước bạch Phật: –Bồ-tát Diệu Âm tích chứa công đức to lớn như thế. Kính bạch Thế Tôn, vị ấy đã trụ trong tạm muội gì để khai hóa chúng sinh không có hạn lượng? Đức Phật Năng Nhân bảo Bồ-tát Liên Hoa Thủ: –Tộc tính tử hãy lắng nghe! Có pháp Tam-muội tên là Hiện nhập chúng tượng. Bồ-tát Diệu Âm đã trụ trong Tam-muộiù này để khai hóa, làm lợi ích cho vô lượng chúng sinh khiến họ đi vào nghĩa đạo. Khi Phật nói phẩm Chương Cú Bồ-tát Diệu Âm này, các Bồ-tát cùng đi với Bồ-tát Diệu Âm ngay lúc đó liền chứng đắc Hiện nhập chúng tượng Tam-muội chính định, sự hành trì thù thắng. Khi ấy, tại thế giới Kham nhẫn một số vị Đại Bồ-tát cũng tu tập Tam-muội ấy. Những vị đắc được Tam-muội Hiện nhập chúng tượng liền đắc pháp Tổng trì, cả ba đời đều được giải thoát. Khi ấy Bồ-tát Diệu Âm cúng dường Đức Phật Năng Nhân Chí Chân, phụng sự xá-lợi trong tháp Đức Như Lai Đa Bảo xong, muốn trở về cõi nước của mình, liền tới trước đảnh lễ Đức Như Lai Năng Nhân, rồi từ biệt chúng hội lui về, làm chấn động các cõi nước, mưa các hoa sen, đồng thời hòa trổi trăm ngàn ức cai bài tụng thanh nhã, kỹ nhạc, cùng với tám vạn bốn ngàn các vị Bồ-tát quay về bản quốc. Ngài đến trước đảnh lễ Đức Như Lai Tử Kim Ly Cấu Tú Hoa Vương, trình bày việc đến thế giới Kham nhẫn hướng dẫn, làm lợi ích cho chúng sinh, bái kiến xá-lợi trong bảo tháp của Đức Như Lai Đa Bảo và thăm Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, Dược Vương là những vị đã đạt được đạo lực tinh tấn vô cực, thăm Bồ-tát Diệu Dũng, làm cho tám vạn bốn ngàn Bồ-tát đều đắc chính hạnh và đạt Hiện nhập chúng tượng Tam-muội. Bốn vạn hai ngàn vị Thiên tử cùng đi theo đến cõi ấy nghe kinh chính Pháp Hoa đều đạt được Vô sinh pháp nhẫn. Bồ-tát Liên Hoa Thủ đạt được định chính Pháp Hoa. KINH chính PHÁP HOA <卷 id="83085259">QUYỂN 10 <詞 id="83085260">Phẩm 23: QUANG THẾ ÂM PHỔ MÔN Khi ấy Bồ-tát Vô Tận Ý liền từ chỗ ngồi đứng dậy, để trần vai hữu, quỳ thẳng chắp tay, thưa với Đức Phật: –Kính bạch Thế Tôn! Vì sao gọi là Quang Thế Âm? Ý nghĩa như thế nào? Phật bảo Vô Tận Ý: –Vị Tộc tính tử ấy, nếu có chúng sinh gặp trăm ngàn muôn ức khổn ách, hoạn nạn, khổ não vô cùng, vừa nghe danh hiệu Bồ-tát Quang Thế Âm thì liền được giải thoát, không còn các khổ, nên gọi là Quang Thế Âm. Nếu có người tâm luôn trì danh hiệu ngài, giả sử gặp lửa lớn thiêu đốt núi rừng, thiêu cháy cỏ cây, rừng rậm, nhà cửa, thân ở trong lửa mà được nghe tên Quang Thế Âm, lửa liền tắt. Nếu vào sông nước lớn, dòng nước chảy xiết, trong lòng sợ hãi, mà xưng tên Bồ-tát Quang Thế Âm, nhất tâm hướng về thì do oai thần gia hộ khiến không bị chìm, làm cho an ổn. Nếu có trăm ngàn muôn ức chúng sinh sang hèn vào trong biển cả, ở trong biển thăm thẳm mênh mông không bờ bến, dò tìm vàng, bạc, các loại ngọc minh nguyệt, như ý, bảo châu, thủy tinh, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách; thuyền chở đầy châu báu, giả sử gió thổi thuyền ấy trôi dạt vào dòng xoáy hắc sơn, hoặc tấp vào cõi quỷ, gặp cá kình, có một người trong chúng nhất tâm thầm nghó công đức oai thần của Bồ-tát Quang Thế Âm rồi xưng danh hiệu ngài thì đều được giải thoát tất cả các hoạn nạn và chúng bạn cũng được cứu độ, không gặp các ách nạn tà ma quỷ quái. Vì thế nên gọi là Quang Thế Âm. Phật dạy: –Này Tộc tính tử! Nếu thấy oán tặc muốn đến làm nguy hại, liền xưng danh hiệu Bồ-tát Quang Thế Âm và hướng về ngài thì dao gậy của giặc liền gãy từng đoạn, tay không đưa lên được, tâm họ tự nhiên hiền lành. Này Tộc tính tử! Giả sử các quỷ thần tà nghịch, yêu mị đầy cả thế giới tam thiên đại thiên này muốn đến quấy nhiễu người mà nhất tâm xưng danh Quang Thế Âm thì tự nhiên bị hàng phục, chẳng thể xâm phạm, tâm ác chẳng sinh, chẳng nhìn bằng con mắt tà vạy. Nếu người phạm tội, hoặc không có tội mà bị người ác, quan huyện bắt, trói thân, cùm chân, hoặc bỏ trong lao ngục nhốt lại tra khảo tàn khốc mà nhất tâm hướng về xưng danh hiệu Quang Thế Âm thì nhanh chóng được giải thoát, mở cửa ngục đi ra, không ai có thể giữ lại, cho nên gọi là Quang Thế Âm. Phật dạy: –Này Tộc tính tử! Cảnh giới Quang Thế Âm oai thần công đức sáng ngời khó có thể hạn lượng như vậy, nên gọi là Quang Thế Âm. Phật bảo Vô Tận Ý: –Này Tộc tính tử! Giả sử bọn giặc cướp oán tặc đầy cả tam thiên đại thiên thế giới này cầm binh khí dao, gậy mác, mâu, kích muốn giết hại vạn dân, có một đoàn khách buôn đi ngang qua con đường có đạo tặc ấy mang theo bảo vật quý giá; vị dẫn đường sợ hãi thầm nghó: “Nơi này nhiều giặc, để không bị nguy hại và bị cướp đoạt tài bảo thì ta nên bày quyền kế thoát khỏi nạn này, chẳng gặp nguy hại”, bèn bảo các khách buôn –Không nên sợ sệt, hãy cùng nhau nhất tâm đồng cất tiếng xưng niệm oai thần Bồ-tát Quang Thế Âm. Bồ-tát sẽ liền tới ủng hộ khiến chúng ta không còn sợ hãi. Hãy đồng tâm hướng về để thoát các nạn, không gặp oán. Đoàn tặc khách buôn nghe lời làm theo, đồng thanh xưng hiệu Quang Thế Âm, thân mạng hướng về nguyện xin thoát nạn sợ hãi này. Vừa xưng danh hiệu, giặc liền thoái lui không dám xúc phạm. Đoàn khách buôn thoát nạn, không còn sợ hãi. Cảnh giới oai đức của Bồ-tát Quang Thế Âm sáng ngời như thế, cho nên gọi là Quang Thế Âm. Phật lại bảo Bồ-tát Vô Tận Ý: –Nếu người tu học mà dâm, nộ, si còn mạnh, hãy hướng về lễ bái Bồ-tát Quang Thế Âm, thì dâm, nộ, si sẽ dừng; và quán vô thường, khổ, không, phi thân (vô ngã) thì nhất tâm đắc định. Nếu có người nữ không có con, muốn cầu con trai, con gái, hãy hướng về Bồ-tát Quang Thế Âm, nhất tâm tinh tấn hướng về ngài thì liền được con trai hay con gái. Là con gái thì mãi mãi đoan chính, tướng mạo vô song, ai thấy cũng vui; nếu là con trai thì có tướng oai phong, mọi người yêu mến, mong mỏi muốn thấy, trồng các cội đức, không gây nghiệp tội. Oai thần, công đức, trí tuệ, cảnh giới của Quang Thế Âm cao vời như thế, người nào nghe danh hiệu thì mục đích đạt được không bao giờ hư vọng, không bị tà hại, đạt đến quả đạo đức vô thượng, thường gặp chư Phật, Chân nhân, Bồ-tát, chính só có đức cao, không gặp lại người nghịch. Nếu nghe danh hiệu mà chấp trì nhớ tưởng thì công đức vô lượng chẳng thể tính kể. Nếu có người cúng dường sáu mươi hai ức hằng hà sa các Bồ-tát thì các Bồ-tát ấy đều khiến hiện tại hành tâm Từ. Nếu Tộc tính tử, Tộc tính nữ trọn đời cúng dường áo mền, ẩm thực, giường, ngoa cụ, thuốc thang chữa bệnh, tất cả đều đầy đủ thì phước ấy nhiều chăng? Vô Tận Ý thưa: –Bạch Thế Tôn, nhiều chẳng thể hạn lượng! Vì sao? Vì các Bồ-tát ấy nhiều vô số ức chẳng thể thí dụ. Phật dạy: –Tuy cúng dường số Bồ-tát vô hạn ấy nhưng không bằng một lần hướng về Quang Thế Âm cúi đầu làm lễ, chấp trì danh hiệu, vì phước này hơn hẳn phước người kia, huống lại cúng dường, tuy cúng dường sáu mươi hai ức hằng hà sa số chư Bồ-tát so với sự chấp trì danh hiệu, kể hai phước này cả ức trăm ngàn kiếp cũng không thể hết được, nhưng rốt cuộc chẳng so sánh nhau được, cho nên gọi là Quang Thế Âm. Khi ấy Bồ-tát Vô Tận Ý bạch Đức Phật: –Quang Thế Âm vì nhân duyên gì dạo đi trong thế giới Kham nhẫn? Thuyết pháp như thế nào? Chí nguyện ra sao? Việc hành trì chính pháp, phương tiện khéo léo cảnh giới thế nào? Phật dạy: –Này Tộc tính tử! Bồ-tát Quang Thế Âm đã đi dạo trong thế giới, hoặc hiện thân Phật để ban bố tuyên dương giáo pháp, hoặc hiện dung mạo, hình tượng Bồ-tát để giảng kinh khai hóa, hoặc hiện thân Duyên giác, hoặc hiện thân Thanh văn, hoặc hiện thân vua trời Phạm thiên để giảng đạo kinh, hoặc hiện thân Kiền-đạp-hòa, muốn độ quỷ thần nên hiện thân hình quỷ thần; muốn độ bậc tôn quý hiện thân tướng tôn quý; hoặc lại thị hiện thân trời ở cõi Đại thần diệu, hoặc thân hình Chuyển luân thánh vương hóa độ bốn cõi, hoặc thân hình kỳ lạ, hoặc thân hình La-sát Phản túc, hoặc thân Tướng quân, hoặc hiện thân Sa-môn, Phạm chí, hoặc thân thần Kim cang, ẩn só ở một mình, Tiên nhân, trẻ nít… Bồ-tát Quang Thế Âm dạo đi các cõi Phật đều hiện khắp biết bao nhiêu thân hình, tại chỗ biến hóa khai độ tất cả. Vì vậy, này Tộc tính tử! Tất cả chúng sinh đều nên cúng dường Bồ-tát Quang Thế Âm. Vị Tộc tính tử ấy, nơi nào mà chung quanh có sự sợ hãi liền khiến không sợ hãi; đã được không sợ hãi rồi, khiến đều an ổn, ai nấy vui mừng. Vì vậy nên Bồ-tát đạo đi trong thế giới Kham nhẫn. Khi ấy, Bồ-tát vô tận ý liền cởi trăm ngàn anh lạc báu nơi thân dâng lên Bồ-tát Quang Thế Âm, thưa: –Cúi xin chính só nhận pháp cúng dường này, là anh lạc báu đặc biệt đeo ở thân tôi. Bồ-tát Quang Thế Âm không chịu nhận. Vô Tận Ý lại thưa: –Đã đến lúc, xin ngài thương xót nhận cho, đừng từ chối. Khi ấy Bồ-tát Quang Thế Âm tự nghó: “Ta không dùng vật báu ấy”. Vô Tận Ý thưa: –Xin hãy thương xót các Trời, Rồng, Thần, Kiền-đạp-hòa, A-tu-luân, Ca-lưu-la, Chân-đà-la, Ma-hầu-lặc, Nhân phi nhân mà thọ nhận. Bồ-tát Quang Thế Âm thọ nhận anh lạc báu, liền chia làm hai phần: một phần dâng cúng Đức Như Lai Năng Nhân, một phần đặt lên tháp báu để cúng dường Đức Như Lai Chí Chân Đẳng chính Giác Đa Bảo. Vị Tộc tính tử ấy vì tất cả chúng sinh nên dùng thần túc biến hóa dạo đi trong thế giới Kham nhẫn, cứu tế khắp nơi. Bấy giờ Bồ-tát Trì Địa liền từ chỗ ngồi đứng dậy, tới trước bạch Đức Phật: –Giả sử có người nghe công đức tu hành của Bồ-tát Quang Thế Âm trọn không hư dối, thì đời đời an ổn đạt đến tuệ vô cực. Bồ-tát Quang Thế Âm ấy thần túc biến hóa đến khắp cửa đạo, oai thần hiển hiện không cùng tột. Phật nói phẩm Phổ Môn Đạo xong có tám vạn bốn ngàn người trong hội khi ấy đạt đến Vô đẳng luân, liền phát tâm đạo Vô thượng chính chân.  <詞 id="83085261">Phẩm 24: TỔNG TRÌ Khi ấy Bồ-tát Dược Vương liền từ chỗ ngồi đứng dậy, quỳ thẳng, chắp tay, bạch Đức Phật: –Nếu Tộc tính tử! Tộc tính nữ nghe kinh chính Pháp Hoa này, thọ trì, tư duy, sao chép kinh quyển thì được phước như thế nào? Phật dạy: –Nếu Tộc tính tử! Tộc tính nữ thọ trì kinh này, tụng đọc, suy tư, sao chép kinh quyển, phước đức chẳng thể lường được, không lấy gì dụ được. Nếu Tộc tính tử cúng dường tám mươi ức trăm ngàn vạn hằng hà sa các Đức Như Lai và nếu lại thọ trì tư duy sao chép kinh chính Pháp Hoa này và giảng thuyết cúng dường thì phước nào nhiều hơn? Theo ý ông thì sao? Nên nhất tâm phụng trì kinh điển hay là dùng y thực cúng dường chư Phật? Bồ-tát Dược Vương bạch Phật: –Nếu Tộc tính tử! Tộc tính nữ thọ trì những điều cốt yếu của kinh chính Pháp Hoa, giữ gìn sao chép một bài tụng bốn câu, giảng thuyết, tụng đọc, hoặc phụng hành thành tựu đầy đủ thì phước ấy rất nhiều, hơn sự cúng dường vô số hằng hà sa chư Phật Thế Tôn. Phật dạy: –Rất đúng, cúng dường pháp là hơn hết! Bồ-tát Dược Vương bạch Phật: –Con sẽ ủng hộ những người như thế. Các Tộc tính tử, Tộc tính nữ thọ trì kinh này thì đó là những Pháp sư, dùng nghĩa để hộ vệ khiến mãi mãi không bị họa hoạn. Lại liền tụng chú rằng: “Suy tư kỳ dị, ý niệm vô ý, thực hành vónh cửu, tịnh tu đạm bạc. Ý chí thầm lặng giải thoát. Tế độ bình đẳng không tà vạy. Yên ổn hòa hợp khắp cả đồng đều. Diệt hết vô tận không gì hơn Huyền mặc đạm nhiên Tổng trì. Ánh sáng chiếu soi có chỗ nương tựa bên trong. Rốt ráo thanh tịnh, không sa đọa, không cao thấp, không quay vòng không giáp vòng. Mắt thanh tịnh không gì bằng. Giác ngộ rồi độ thoát. Quan sát các pháp hợp với âm thanh nói ra. Hiểu rõ thì dừng lại, dẹp bỏ mọi giới hạn, giảng nói bằng các âm thanh mà hiểu được ý nghĩa không cùng tận của văn tự, không thế lực nào hơn được.” Bồ-tát Dược Vương bạch Phật: –Kính bạch Thế Tôn! Đó là câu chú mà sáu mươi hai hằng hà sa Đức Phật đã thuyết. Giả sử có ai phạm vào người trì chú này, hoặc lại chống đối hủy báng các vị Pháp sư chính là làm mất đạo giáo của chư Phật Thế Tôn. Phật khen ngợi Bồ-tát Đại só Dược Vương: –Hay thay, hay thay! Nếu Tộc tính tử nói câu chú ấy là vì chúng sinh thì nên thương tưởng ủng hộ chúng được nhiều an ổn. Bấy giờ Bồ-tát Diệu Dũng bạch Phật: –Kính bạch Thế Tôn! Con đây cũng vì chúng sinh nên muốn khiến được vónh viễn an ổn. Nếu có người phụng trì kinh điển này, con trao câu chú này sẽ giúp những Pháp sư ấy khiến không ai rình tìm được chỗ sơ hở. Các loại quỷ mị như quỷ thần ở hầm xí, quỷ ống khói, quỷ chán nản, quỷ đói, phản túc, tuy muốn quấy nhiễu, không được dễ dàng. Bồ-tát Diệu Dũng chuyên tâm tư duy, rồi nói chú: “Ánh sáng lớn soi đến tràn trề hân hoan, mãi mãi kết tụ nơi đây, không hội không hợp.” Đó là câu chú mà hằng hà sa chư Phật đã nói và đều cùng khuyến trợ. Như thế, nếu chống lại các Pháp sư thì giống như làm trái lời dạy của Như Lai, trở lại làm nguy hại mình. Khi ấy Tỳ-sa-môn Thiên vương bạch Phật: –Con cũng sẽ nói câu chú này để tăng thêm lòng Từ, vì chúng sinh nên ủng hộ Pháp sư: “Giàu có sinh hý lộng. Không hý lộng thì có vô lượng. Không giàu thì làm sao giàu.” Dùng nó ủng hộ các Pháp sư, trong vòng trăm do-tuần, không có gì dám xúc phạm, sự bảo vệ được thuận lợi. Này các Tộc tính tử! Được như thế thì những người đến học với Pháp sư mới có thể thọ trì. Vì vậy, sự ủng hộ thường được tốt đẹp. Khi ấy Thiên vương Thuận Oán và ức trăm ngàn vạn hương âm và quỷ, quyến thuộc vây quanh ngồi trong pháp hội cùng đi đến trước, bạch Phật: –Kính bạch Thế Tôn! Con cũng sẽ nói câu chú này: “Không số lượng có số lượng sáng tối mang hương. Chúc dữ đại thể bằng lời thô bạo.” Kính bạch Thế Tôn! Câu chú này do bốn ngàn hai trăm ức Đức Phật đã nói, vì vậy chú này ủng hộ cúng dường những người học kinh, khiến không ai rình tìm chỗ sơ hở. Lúc bấy giờ có một quỷ mî tên Hữu Kết Phược, lại có quỷ tên Ly Kết, lại có quỷ tên Thi Tích, lại có quỷ tên Thi Hoa, lại có quỷ tên Thi Hắc, lại có quỷ tên Bị Phát, lại có quỷ tên Vô Trước, lại có quỷ tên Trì Hoa, lại có quỷ tên Hà Sở, lại có quỷ tên Thủ Nhất Thiết Tinh cùng mẹ con các quỷ, đi đến chỗ Phật, đồng thanh bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Chúng con sẽ thường ủng hộ các bậc Pháp sư ấy, làm gia tăng sự an ổn, khiến không ai tìm được chỗ dở của Pháp sư. Khi ấy, các quỷ mî đồng cất tiếng đọc chú này ủng hộ Pháp sư: “Nay ngươi rất mực không ngã, không chấp ngã, không thân không chỗ chung cùng. Đã khởi, đã sinh, đã thành mà trụ mà kiến lập thì cũng trụ ở nơi ta thán, cũng chẳng tiêu hết đại tật không được xâm hại.” Đồng loại quyến thuộc của chúng con ủng hộ Pháp sư khiến không bị xâm phạm, tiêu trừ quỷ thần vọng mị, ngạ quỷ, quỷ ở chuồng xí, quỷ ống khói, cô đạo, phù chú, quỷ si cuồng điên giả dạng đi đến, hoặc hình quỷ thần và hình phi nhân, hoặc hai ngày, ba ngày, hoặc đến bốn ngày, hoặc bị bệnh nhiệt luôn, lại nằm ngủ thấy ác mộng, hoặc hiện hình các nam nữ lớn nhỏ. Chúng con sẽ ủng hộ khiến không có loài nào rình tìm được chỗ sơ hở. Khi ấy các quỷ mî ở trước Phật cùng nói bài tụng: Xúc phạm đầu vỡ bảy Giống như chẻ hoa rau Sẽ như tội giết mẹ Cùng giống họa hại cha Có ai phạm Pháp sư Đều sẽ bị tội này Đời đời chẳng được an Không gặp được chư Phật Tội phá hoại chùa Phật Tội quấy rối Thánh chúng Như trộn các dầu mè Dầu mè tụ một chỗ Phóng lửa thiêu đốt hết Tiêu rụi chẳng còn gì Có người phạm Pháp sư Sẽ bị tội như vậy Giống như dãy núi lớn Nhóm tội cấu dồn lại Nếu ai phạm Pháp sư Sẽ bị trọng tội này. Các quỷ thần Quân Đầu… nói bài tụng ấy xong, liền bạch Phật: –Chúng con đều ủng hộ các Pháp sư giống như thế, làm cho các vị thường an ổn, trừ bỏ oán địch, bảo vệ chung quanh để các vị không bị tổn hại. Nếu có người bỏ thuốc độc, thuốc độc không tác dụng. Khi ấy Phật khen ngợi các quỷ mị đã nói chú: –Hay thay, hay thay! Các ngươi muốn hộ vệ các Pháp sư, nếu nghe kinh này tuyên trì danh hiệu, đức chẳng thể lường, huống là tùy thời thọ trì giảng nói, sao chép đầy đủ quyển kinh. Nếu dùng đồ cúng dường như hoa hương, tràng phan, lọng, hương tạp, hương đảo, thắp đèn, treo tranh, thì chọn loại vừa ý, hoa sen xanh, hoa sen hồng, hoa sen vàng, hoa sen trắng, đựng dầu tô dùng thắp đèn, cúng dường kinh này siêng tu không biếng trễ, thì phước gấp trăm ngàn ức không có giới hạn. Các ngươi nên hộ trì người học kinh tinh tấn như thế. Khi Phật thuyết phẩm Tổng Trì này, sáu vạn tám ngàn người đạt được pháp Nhẫn vô sở tùng sinh.  <詞 id="83085262">Phẩm 25: TỊNH PHỤC TỊNH VƯƠNG Phật dạy: –Này Tộc tính tử! Vào thuở quá khứ cách vô số kiếp, lâu xa khó lường, chẳng thể nghó bàn, bấy giờ có Phật hiệu là Tổng Thủy Lôi Âm Tú Hoa Tuệ Vương Như Lai, Chí Chân Đẳng chính Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, thế giới tên là Chiếu minh nghiêm sức, kiếp tên là Ái kiến. Lại nữa, Tộc tính tử! Vào đời Phật ấy, có vị vua tên là Tịnh Phục Tịnh. Bấy giờ, nhà vua có một chính hậu tên là Ly Cấu Thi; hoàng hậu có hai người con, một tên là Ly Cấu Tạng, hai tên là Ly Cấu Mục; hai người con này đều đã đắc thần túc, cử động nhẹ nhàng có thể bay được; đầy đủ trí tuệ, công đức hoàn bị, quả Thánh cao vời, hành hạnh Bồ-tát, ngày đêm tinh tấn chưa từng biếng lười bỏ phế, hết lòng chuyên tinh tu sáu pháp Ba-la-mật, khéo dùng bốn Đẳng tâm: Từ, Bi, Hỷ, Xả, cứu tế vô cùng, đều tuân hành và thông đạt ba mươi bảy pháp đạo phẩm, thông suốt đạo nghĩa, việc làm đã xong; định Tam-muội Tấn đãi ly cấu, Tam-muội Độ túc nhật quang, Tam-muội Ly cấu hiển diệu, Tam-muội Tịnh trang nghiêm, Tam-muội Đại oai tạng đều được thông đạt; nhờ những định Tam-muội này mà vượt qua bờ kia. Bấy giờ Đức Phật tập hợp bốn chúng, Thích Phạm, Tứ Thiên vương, chư Thiên, nhân dân ban tuyên nói phân biệt kinh chính Pháp Hoa. Khi ấy Phật thương tưởng tất cả chúng sinh xót thương quốc độ, muốn cho hóa độ tất cả chúng sinh đi vào đại đạo. Lại nữa, Tộc tính tử, hai vị thái tử ấy đi đến chỗ mẹ chắp tay thưa: –Cúi xin mẹ rủ lòng nghó tưởng xót thương, chúng con một lòng muốn đến chỗ Phật, tham kiến thân Như Lai, cũng muốn lễ bái quy y. Vì sao? Nay Đức Như Lai vì tất cả chúng sinh cõi trời, cõi người rộng tuyên yếu điển là kinh chính Pháp Hoa, chúng con phải kính cẩn nghe chính Pháp Hoa. Hoàng hậu Ly Cấu Thi bảo hai thái tử: –Phụ vương các con, chí sùng ngoại đạo, tin ưa Phạm chí, thường ôm sân hận, vì vậy các con chẳng thể đi được. Khi ấy hai thái tử lại đồng tâm chắp tay, thưa mẹ: –Chúng con bạc số sinh nhằm nhà tà kiến vô nghĩa. Hơn nữa, chúng con vốn là con Đấng Pháp Vương sẽ dùng kinh đạo giáo hóa phàm tục uế trược bỏ ngụy hướng chân; như vậy mới là Phật tử. Khi ấy hoàng hậu Ly Cấu Thi bảo hai thái tử: –Hay thay, hãy thực hiện đi, các con là con chí hiếu! Vì cha mẹ mà tu đại từ mẫn, hiển hiện thần túc. Cha các con thấy xong, trong lòng vui vẻ cởi mở, mới nghe các con, cùng đến chỗ Phật, đảnh lễ thọ giáo. Khi ấy hai thái tử liền nghe lời mẹ dạy, thân vọt lên đứng trên hư không, cách đất bảy nhẫn, nghó thương cha mẹ, hiện oai thần biến, ở trên hư không, hai người cùng lúc ngồi, nằm kinh hành, trên thân phóng lửa, dưới thân phun nước; trên thân phun nước, dưới thân phóng lửa, tỏa ánh sáng lớn chiếu khắp xa gần, hiện thân to lớn rồi lại thu nhỏ; từ hư không hạ xuống đi vào trong đất; hoặc vào trong nước, từ đất vọt lên, ở trên hư không giống như đạp đất. Hai thái tử ấy hiện bao nhiêu biến hóa, hiển hiện thần túc dùng để khai hóa cha mẹ. Khi ấy vua cha thấy hai con thần túc biến hóa oai đức như thế, mừng vui tột độ, tâm thiện phát sinh, cúi thân chắp tay hướng về hai con, nói: –Thầy của các con là ai mà các con thọ nhận được việc ấy? Khi ấy hai Thái tử tâu với vua cha: –Đại vương muốn biết Thầy của chúng con chăng? Đức Như Lai Chí Chân Tổng Thủy Lôi Âm Tú Hoa Tuệ Vương là Thầy của chúng con, hiện nay đang ở dưới cây báu, ngồi trên pháp tòa vì bốn bộ chúng, chư Thiên, nhân dân quảng diễn tuyên bố kinh chính Pháp Hoa. Đức Phật Thế Tôn ấy chính là Thầy của chúng con. Vua bảo hai con: –Ta muốn đi đến chỗ Thầy của các con để đích thân kính cẩn nhận lãnh lời giáo huấn của Bậc Đại Thánh Vô Thượng chính Chân. Khi ấy hai người con từ hư không hạ xuống đến chỗ mẹ, chắp tay thưa: –Nhờ oai đức của mẹ nên cảm hóa được phụ vương; để vua cha tạo lập tâm Vô thượng chính chân, nhờ đó mà thành tựu đạo nghiệp Thánh Tôn đã dạy. Xin mẹ thương tưởng cho chúng con đến chỗ Phật xuất gia tu đạo, được làm Sa-môn. Khi ấy hai thái tử vì mẹ nói kệ: Xin mẹ cho chúng con Xuất gia làm Sa-môn Như Lai rất khó gặp Thời gian dài chuyên học Đều gọi là khó gặp Giống như hoa Linh thụy Càng khó gặp hơn kia Nhàn tịnh chẳng thể được. Khi ấy hoàng hậu Ly Cấu Thi dùng tụng bảo: Mẹ đồng ý các con Lành thay, con chóng đi Bậc Thánh rất khó gặp Mẹ cũng cùng xuất gia. Bấy giờ, hai thái tử tán thán bằng bài pháp tụng ấy để báo đáp cha mẹ xong, lại thưa với phụ vương và mẫu hậu: –Cúi xin cha mẹ đồng nhất tâm cùng đi đến chỗ Phật Tổng Thủy Lôi Âm Tú Hoa Tuệ Vương và cũng để kính yết lễ bái quy y Đức Thế Tôn. Vì sao? Cha mẹ nên biết, gặp Phật ra đời rất khó; giống như hoa linh thụy, cũng như minh châu như ý tối thượng, Phật cũng như vậy, chẳng thể gặp lại. Vì vậy chúng con sinh lại chốn này, tâm niệm xuất gia công đức đệ nhất. Vì thế cho nên, cha mẹ chẳng nên ngăn cản mà nên chấp thuận, và bảo rằng: Tốt lắm! Cho phép các con được xuất gia tu học, vứt bỏ ái dục, xả nghiệp thế tục. Vì sao? Vì được gặp Như Lai, là phước may vô lượng. Mạng người khó được, đời có Phật khó gặp; xa lìa tám nạn, được nhàn tịnh là khó, như chết sống lại. Phụ vương và hoàng hậu đáp lời Thái tử: –Được, nên biết đã đúng lúc! Phật dạy: –Này Tộc tính tử! Bấy giờ trong cung của vua Tịnh Phục Tịnh có tám vạn bốn ngàn cung nhân thể nữ, do cội đức đời trước được lãnh thọ kinh chính Pháp Hoa này, nên vốn là bậc đạo khí. Thái tử Ly Cấu Mục đời trước vốn tu hành tích chứa công đức từ lâu xa vô hạn. Thái tử Ly Cấu Tạng vào thuở đời trước xa xưa trong vô số trăm ngàn ức kiếp đã từng tu hành chính định Tam-muội Khí ư chúng sinh nhứt thiết ác thú. Sao gọi là chính định Tam-muội Khí ư chúng sinh nhất thiết ác thú? chính hậu của vua, bà Ly Cấu Thi, mẹ của hai thái tử, hiểu rõ tất cả các pháp của chư Phật trong mười phương, các pháp yếu của chư Phật, tạng bí mật và Thánh tuệ vô cực của chư Phật, dùng quyền phương tiện hiện làm thân nữ vậy. Phật dạy: –Này Tộc tính tử! Khi ấy vua Tịnh Phục Tịnh thấy hai thái tử hiện thần túc giáo hóa dẫn vào pháp chí chân của Như Lai, đã đạt đến siêu việt, lần lượt nhiều người đều được độ thoát; tất cả hạng mù tối đều vào đạo sáng, liền tự phát tâm cùng với bốn vạn hai ngàn quyến thuộc, hoàng hậu Ly Cấu Thi cùng với bè bạn, thể nữ ở trong cung quần thần, bách quan theo hai thái tử đồng thời đi đến chỗ Phật, cúi đầu lễ sát chân, lui về chỗ ngồi, theo vị trí đã có sẵn. Khi ấy Đức Phật thấy vua Tịnh Phục Tịnh cùng với đông đảo quyến thuộc tự đến quy y, Ngài dựa vào bản hạnh, quán nhân duyên xưa, mà nói pháp cho họ, theo bệnh cho thuốc, ai cũng hiểu rõ, tâm thiện phát sinh, mừng vui phấn chấn. Ngay khi đó, quốc vương cùng chính hậu Ly Cấu Thi và hai thái tử, cung nhân, thể nữ, tất cả người trong cung bỏ nước, bỏ cung vua làm Sa-môn. Sau khi làm Sa-môn rồi, trải qua tám vạn bốn ngàn năm tất cả để vâng giữ tu tập đạo nghiệp, tư duy quán sát yếu nghĩa của kinh chính Pháp Hoa, tụng đọc, làm theo như lời Phật dạy, không hề sai trái. Vua Tịnh Phục Tịnh cùng quyến thuộc cung kính tuân hành siêng tu kinh chính Pháp Hoa trong tám vạn bốn ngàn năm xong liền đạt các cội đức và Tam-muội chính định nghiêm tịnh. Vừa đạt định này, Vua tức thời vọt lên hư không, cách đất bốn trượng chín thước, đứng trên hư không, từ xa bạch với Đức Như Lai Chí Chân Tổng Thủy Lôi Âm Tú Hoa Tuệ Vương: –Hai người con ấy chính là Thánh sư đã hóa đạo chúng con. Nhờ ân đức ấy, biểu hiện thần túc, hiển dương biến hóa, con nhờ chứng kiến sự hóa hiện thần biến ấy mà tâm được khai mở, bỏ tục vào đạo, làm theo lời Phật dạy, vượt qua ách uế trược, thuận theo pháp luật trụ vững vô cực, được phụng sự Như Lai, nhận lãnh kinh pháp, là bậc Chí thánh không còn thiện sư nào trên nữa. Hai người con ấy thị hiện làm con sinh vào nhà con, đều là do công đức sáng suốt đời trước, nương vào tâm nhân từ của Phật, chẳng phải là chỗ nghó bàn của kẻ phàm phu. Phật bảo vua: –Đúng vậy, đúng vậy, đại vương! Như lời đại vương đã nói, hai vị thái tử ấy, vì trước đã gieo trồng phước đức nên mới thị hiện, vì muốn khai hóa vua, quyến thuộc và tất cả chúng sinh. Phật dạy: –Nếu Tộc tính tử và Tộc tính nữ học kinh điển ấy thì sinh ra chỗ nào, xoay vần sau trước dễ gặp thầy giỏi tuyên nói lời dạy của Thế Tôn, được vững vàng nơi đạo Vô thượng chính chân, khai hóa chỉ dẫn, độ thoát tất cả; đó là việc làm vô cực vi diệu, lần lượt dạy nhau, lần lượt thành tựu cho nhau, đạt đến chỗ Thánh đế vô cực, gặp Phật là bậc Pháp Vương; do gặp Thầy giỏi nên được gặp Như Lai thọ nhận kinh pháp; nhờ ân khuyến trợ nên nay vua gặp được hai vị thái tử ấy. Các Tộc tính tử ấy đời trước đã từng cúng dường phụng sự sáu mươi lăm ức trăm ngàn triệu vạn hằng hà sa Đức Như Lai Chí Chân và lại thọ trì kinh chính Pháp Hoa ấy, thương xót chúng sinh, chìm trong chín mươi sáu loại tà kiến chẳng có thể tự cứu, nên khai hóa họ khiến trụ chính kiến, tu hành tinh tấn cầu đạo lớn của Phật. Khi ấy Phật dạy: –Này Tộc tính tử! Vua Tịnh Phục Tịnh vào đời ấy khen ngợi các công đức, từ trên hư không hạ xuống liền đến trước Phật chắp tay bạch với Đức Phật: “Xin Phật nói rõ Đức Như Lai Chí Chân vào đời trước hành công đức gì mà Thánh tuệ cao vời, tướng giữa đôi mày phát ra ánh sáng chiếu vô số nước và con mắt sáng đẹp thấy khắp mười phương; tướng giữa đôi mày trắng như kha tuyết, mềm mại mịn đẹp rực rỡ nhuận sáng, bằng phẳng không vẹo, chỗ nào cũng chiếu sáng. Khuôn mặt Thế Tôn đầy đặn như mặt trời, đạo mục an trú như trăng mới mọc, tất cả chiêm ngưỡng không biết chán?” Khi ấy quốc vương nói tụng: Công huân Ngài thù dị Nhiều ức trăm ngàn muôn Hư không còn thể dụ Tuệ Ngài chẳng thể lường. Phật dùng tụng đáp: Đời trước hành trung chính Bình đẳng thí cho người Cho nên tướng giữa mày Chiếu khắp không hạn lượng Khai thị cho đèn tuệ Mắt sáng hơn trời trăng Mắt như trăng vừa mọc Thấy khắp mười phương cõi. Khi ấy vua khen ngợi rồi chắp tay bạch Phật: –Thật chưa từng có, lời giáo huấn của Như Lai Chí Chân từ bi rộng lớn vô hạn, công đức đầy đủ chẳng thể nghó bàn, diễn bày đạo nghĩa, ban dạy pháp cấm, khiến không tội lỗi, hoạn nạn đường dài đều không còn nữa. Kính bạch Thế Tôn! Như con hôm nay, tâm chẳng phóng dật, do được tự tại chẳng rơi đường tà, từ bỏ tự đại, không theo hư ngụy, cũng không ân hận, chẳng khởi tâm ác và các nghiệp tà hại. Việc nước rất nhiều nhùng con muốn xuất gia tu học, chẳng trở về cung; con muốn quy y và dâng phẩm vật cúng dường. Phật dạy: –Rất tốt! Khi ấy, vua liền đứng dậy đảnh lễ chân Phật. chính hậu của vua, bà Ly Cấu Thi cởi trăm ngàn anh lạc báu đeo trên thân để rải trên Phật. Do oai thần của Phật hóa thành tấm màn bảy báu đan xen, trong tấm màn đẹp đẽ lạ thường ấy tự nhiên có giường, trải bằng vô số tọa cụ khác lạ, Như Lai ngồi trên đó. Khi ấy quốc vương tâm tự nghó: “Thật chưa từng có. Thế Tôn Chí đức ở trong tấm màn đan xen, trông thấy Như Lai thật đoan chính, oai thần rực rỡ, màu sáng đệ nhất, dung mạo đầy đặn sạch đẹp không gì sánh bằng. Nguyện khiến cho tất cả đều nhờ phước này. Bấy giờ Thế Tôn bảo bốn bộ chúng: –Các ông có thấy vua Tịnh Phục Tịnh nhất tâm chắp tay đứng trước Phật chăng? Đều đáp: –Đã thấy. Phật bảo: –Này Tỳ-kheo! Vua ấy trong đời hiện tại này là học trò của ta hiện thân làm Tỳ-kheo. Vào đời tương lai sẽ được làm Phật hiệu là Chủng Đế Vương Như Lai Chí Chân Đẳng chính Giác, Minh Hạnh Thành, Thiên Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Cõi nước của Phật ấy tên là Quang phổ, kiếp tên là Siêu vương. Vào thời Phật ấy, các chúng Bồ-tát chẳng thể tính đếm, các chúng Thanh văn cũng vô số. Thế giới của Phật ấy bằng phẳng như bàn tay, không có lồi lỏm, không có cát sỏi đá. Khi được làm Phật, oai thần của vị ấy vời vợi, to lớn vô cùng, sáng chói như thế. Như Lai Năng Nhân bảo: –Này Tộc tính tử! Các vị muốn biết vua Tịnh Phục Tịnh phát đạo tâm lúc ấy chăng? Đâu phải người nào lạ. Chớ tưởng như thế. Vì sao? Vì đó chính là Bồ-tát Liên Hoa Thủ hiện nay. Muốn biết hoàng hậu Ly Cấu lúc đó chăng? Nay chính là Bồ-tát Quang Chiếu Nghiêm Sức; ngài thường nghó đến các Bồ-tát, thương xót chúng sinh nên sinh vào nước ấy khai hóa độ thoát họ. Muốn biết hai thái tử lúc ấy chăng? Nay chính là Bồ-tát Dược Vương, Bồ-tát Siêu Dược. Lại nữa, này Tộc tính tử, Bồ-tát Dược Vương Bồ-tát Siêu Dược, công đức cao vời vô hạn như thế đã ở chỗ vô số ức trăm ngàn vạn Đức Chư Như Lai vị trồng các cội đức. Hai vị chính só Bồ-tát ấy, đạo đức hoàn bị, chẵng thể nghó bàn. Nếu có ai nghe danh hai vị chính só này thì nên luôn chấp trì, tất cả mọi người đều nên lễ kính. Học só như thế, cõi trời, nhân gian đều quy ngưỡng. Khi Phật nói về sở hành ở đời quá khứ, tám vạn bốn ngàn người xa lìa trần cấu, chứng Pháp nhãn tịnh.  <詞 id="83085263">Phẩm 26: PHỔ HIỀN Khi ấy Bồ-tát Phổ Hiền và chư Bồ-tát vượt qua hằng hà sa các cõi Phật ở phương Đông đi đến, làm chấn động các cõi Phật, rải các hoa sen, trổi trăm ngàn muôn ức kỹ nhạc, ca ngợi công Đức Như Lai. Nương vào đại thần túc biến hóa vô cùng của vị Khai só Bồ-tát ấy, thân của vị Đại Bồ-tát oai thần chói lọi, Thánh chỉ huyền diệu, chiếu khắp mười phương, cùng các Trời, Rồng, Thần, Kiền-đạp-hòa, A-tu-luân, Ca-lưu-la, Chân-đà-la, Ma-hưu-lặc, Nhân phi nhân, tất cả đều dẫn theo quyến thuộc, đều hiển bày thần túc chẳng thể nghó bàn, đến núi Linh thứu, đi tới chỗ Phật, đảnh lễ sát chân, nhiễu Phật bảy vòng và bạch với Đức Phật: –Chúng con từ cõi Phật Bảo Siêu Oai Vương Như Lai đến. Nhân nay Thế Tôn đang diễn kinh chính Pháp Hoa, cho nên chúng con đến thế giới nhẫn này muốn được nghe và thọ trì, cùng vô số trăm ngàn các Bồ-tát cũng ưa nghe diễn bày đạo nghĩa. Hay thay, Thế Tôn! Cúi xin thương xót, đúng thời ban nói tuyên giảng kinh chính Pháp Hoa. Nếu là thân người nữ, tu hành pháp gì mà được phụng trì kinh này. Phật liền bảo Bồ-tát Phổ Hiền: –Này Tộc tính tử! Người nữ có bốn Pháp sự nên được kinh này. Những gì là bốn? 1. Thường kiến lập, hộ trì sở kiến của chư Phật. 2. Tích lũy công đức, chẳng hề biếng trễ. 3. Có thể phân biệt giảng hóa chỗ quy tụ những điều cốt yếu một cách rốt ráo. 4. Ủng hộ khắp chúng sinh phát khởi điều chưa phát khởi. Đó là bốn điều để được kinh này. Khi ấy Bồ-tát Phổ Hiền bạch Phật: –Sau này vào thời kỳ cuối của đời mạt pháp năm trược, nếu có Tỳ-kheo thọ trì kinh này, con sẽ luôn ủng hộ khiến vị ấy được an ổn, trừ các cuồng loạn, các độc không hoành hành, khiến không ai rình tìm chỗ sơ hở. Có người thọ kinh này đều được hộ vệ, khiến ma Ba-tuần không thể nhiễu loạn và khiến các thuộc hạ, các quỷ, thần, rồng, quỷ bên sông quỷ chuồng xí, trùng độc, phù chú không hoành hành được, cúi mình lánh đi; thường nhất tâm ủng hộ Pháp sư, khiến luôn an ổn. Nếu có Tỳ-kheo học kinh điển này, ngồi, đứng, kinh hành, tinh tấn tu tập, con sẽ cùng với các Bồ-tát quyến thuộc vây quanh, cỡi voi ngựa, xe cộ cùng đi đến chỗ vị Tỳ-kheo Pháp sư ấy để hộ trì kinh này. Người nào thọ trì tư duy kinh chính Pháp Hoa này, khiến không quên mất ý nghĩa một câu thì con sẽ cỡi xe đến chỗ vị học só ấy, để vị ấy tự mắt trông thấy.Vì người học kinh thấy con sẽ vui mừng lại càng siêng học. Con sẽ giúp Pháp sư đạt được Tam-muội, lại đạt được pháp Tổng trì hồi chuyển, lại sẽ thành tựu bao nhiêu trăm ngàn ức Tổng trì châu toàn, hiểu rõ tất cả âm Tổng trì. Kính bạch Thế Tôn! Vào thời kỳ sau cùng của thời mạt pháp trong đời năm trược trên năm mươi năm, nếu Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, thanh tín só, thanh tín nữ thọ kinh điển này, chỉ nói cho đồng học thọ trì, sao chép, mến mộ,vì người khác nói và vào thời sau cùng của đời mạt pháp hơn năm mươi năm nếu ai có thể thọ trì kinh chính Pháp Hoa này mà tâm vẫn hiểu nghĩa, tinh tấn không bỏ phế, đến hai mươi mốt ngày sự tu hành gần đầy đủ, đạt đến đến các hạnh; trong hai mươi mốt ngày chuyên cần, tâm gắn liền với pháp, tự hiện đức sáng rỡ khả kính thì con cùng với các quyến thuộc lớn, nhỏ tùy tùng nương sáu thần thông hiện đến chỗ Pháp sư khuyến trợ Pháp sư trong hai mươi mốt ngày chuyên tu pháp này, khiến tâm vị ấy khai mở, đạt được pháp tổng trì. Nhưng nếu Pháp sư không giáo hóa chúng sinh, hoặc không khuyến trợ, chẳng khai hóa, phi nhân được thuận tiện thì dù là Pháp sư cũng không được ủng hộ, không đạt an ổn. Vì vậy người học thường hành tinh tấn, con nương oai thần Phật hộ vệ Pháp sư. Nếu có Pháp sư giữ gìn chính pháp của Phật siêng năng tinh tấn thì nên nghe Tổng trì này: “Vô ngã trừ ngã. Nhân ngã phương tiện. Tân nhân hòa trừ. Rất nhu nhuyến. Câu nhu nhược thấy chư Phật. Nhân các Tổng trì thực hành các thuyết. Khéo hồi chuyển, tập họp tất cả trừ các thú. Vô số các câu các số trong ba đời, vượt hữu vi, nêu các pháp hiểu rõ tiếng chúng sinh. Sư tử vui thú.” Kính bạch Thế Tôn! Đó là câu Tổng trì. Nếu có Bồ-tát tai nghe câu Tổng trì này, lọt vào tai thì phải biết ấy là chỗ kiến lập công đức của Bồ-tát Phổ Hiền là kinh chính Pháp Hoa nầy. Nếu lưu bố khắp thiên hạ trong cõi Diêm-phù-lợi gặp kinh này mà tâm thường nhớ nghó, thì phải biết đó là do oai thần của Bồ-tát Phổ Hiền, khiến cho mọi người đến với kinh này. Những chúng sinh ấy ở chỗ vô số Đức Phật chứa các cội đức, Như Lai Chí Chân dùng tay xoa đầu. Nếu có người sao chép, bưng trên tay thì đó là tôn thờ thân Phật, kính mến đạo pháp, kính chép kinh này. Sao chép kinh rồi muốn hiểu nghĩa lý thì khi mạng chúng được sinh lên cõi trời Đao-lợi; vừa sinh lên cõi trời, liền có tám vạn bốn ngàn vương nữ cõi trời đánh đàn, ca tụng cúng dường và được làm Thiên tử, ngồi giữa vương nữ cùng chung vui. Nếu Tộc tính tử chỉ sao chép kinh ấy mà công đức như thế, huống là tụng đọc tư duy ý nghĩa trong đó. Vì vậy, bạch Thế Tôn! Người nào nhất tâm siêng tu kinh chính Pháp Hoa, sao chép, thọ trì kinh quyển, thường tư duy tất cả chẳng quên, thì nên lễ bái người ấy, vì sao chép kinh này nên được phước đức ấy, sẽ được thấy ngàn Đức Phật đưa tay, khi lâm chung cũng được diện kiến ngàn Đức Phật, dạo chơi chốn an lành, không đọa cõi ác. Sau khi mạng chung, được sinh lên cõi trời Đâu-suất. Vừa sinh lên trời, có tám vạn bốn ngàn chúng ngọc nữ đến nơi, trổi các kỹ nhạc ca tụng phước đức, ở bên ngọc nữ cùng vui bằng chính pháp vị Tộc tính tử ấy sao chép kinh này công đức còn như thế, huống là tụng đọc, tuyên thuyết, tư duy ý nghĩa. Vì vậy, siêng năng tu tập đầy đủ, sao chép, tuyên truyền, tư duy phụng hành kinh chính Pháp Hoa chuyên cần nhất tâm, chí chưa từng loạn, vào lúc lâm chung, ngàn Phật đưa tay, diện kiến ngàn Phật, chẳng đọa cõi ác. Vào lúc mạng chung sẽ sinh đến cõi trời Đâu-suất ở chỗ Phật Di-lặc, thành Bồ-tát, có ba mươi hai tướng trang nghiêm thân, ức ngàn ngọc nữ quyến thuộc vây quanh. Vì vậy kẻ trí thường nên siêng tu, sao chép, diễn nói, tư duy kinh điển này. Kính bạch Thế Tôn! Nếu có người sao chép, tư duy, tụng đọc kinh này thì phước đức vô lượng, chẳng thể đo lường, cao vời như thế. Vì vậy người trí sao chép, thọ trì kinh này sẽ đạt được biết bao công đức. Vì thế, con kiến lập kinh này với dụng ý rộng lớn của con là siêng niệm đạo pháp lưu bố khắp nơi trong cõi Diêm-phù-lợi. Bấy giờ Đức Như Lai Năng Nhân Chí Chân bảo Phổ Hiền: –Hay thay, hay thay! Ông đã phát tâm thương tưởng đến nhiều chúng sinh, tinh tấn siêng năng hộ trì Bồ-tát ở tương lai, khuyến dẫn họ pháp chẳng nghó chẳng bàn này, tâm sẵn lòng thương bao la, trong khoảng phát tâm thâu nhiếp vô lượng hạnh; tay cầm quyển kinh, kiến lập ủng hộ. Nếu có người thọ trì, niệm danh hiệu Bồ-tát Phổ Hiền thì nên biết, người ấy thấy Đức Phật Năng Nhân, trước đó đã từng nghe pháp giống như vậy, cúng dường phụng sự, thấy Phật Năng Nhân tuyên giảng kinh đạo, khen rằng “Hay thay!” và được Như Lai xoa đầu thì nên biết là công đức của Phổ Hiền. Người ấy được oai lực của Phật hộ trì; Phật dùng y phục che chở cho; người đó thọ nhận lời dạy của Như Lai, chẳng ưa sự nghiệp thế tục, chẳng ưa chơi đùa, cùng bọn ton hót, chẳng thích ca vũ, chẳng đi ra ngoài, chẳng vào chỗ sát sinh, nuôi heo gà vịt, chẳng theo nữ nhân làm việc tà quấy. Nếu nghe kinh này mà sao chép, thọ trì, phúng tụng, tuyên thuyết, tư duy, phụng hành pháp tự nhiên như thế, bên trong tinh chuyên, tự khởi phước lực thì tất cả chúng sinh nếu thấy cũng đều ái kính. Nếu có Tỳ-kheo thọ trì kinh này thì chẳng bị dâm, nộ, si trói buộc, chẳng bị tham lam, tật đố, tự đại buộc ràng, chẳng ôm lòng kiêu mạn, ương bướng tự chuyên, ương ngạnh, tà kiến, tư lợi, mà tự biết đủ. Nếu có Pháp sư tu hành đạt đến bậc hiền và hơn năm mươi năm, vào khoảng cuối cùng của thời mạt pháp trong đời năm trược, nếu có Tỳ-kheo thọ trì kinh này, tư duy, hiểu nhớ thì nên biết các Tộc tính tử ấy chắc chắn đến đạo tràng hàng phục ma quân, chuyển pháp luân, đánh trống pháp, thổi loa pháp, tuôn mưa pháp, ngồi trên pháp tòa Sư tử. Vào thời kỳ cuối cùng của thời mạt thế, thọ trì kinh này, công đức như thế. Lại nữa, Tỳ-kheo chẳng dựa vào lợi dưỡng, chẳng tham y bát, thì những Pháp sư ấy tâm tính chất trực, không dua nịnh, chẳng rơi vào si ám; hiện tại những vị ấy tự nhiên như thế. Nếu có Tỳ-kheo thọ trì kinh này, đời đời chẳng quên, sinh ra thông minh trí tuệ, chưa từng bị đui điếc, hiện tại an ổn, không có hoạn nạn. Nếu hủy báng kinh này, chê bai người học, thọ trì, lại còn phỉ báng thì người ấy hiện tại bị bệnh hủi, thấy người sao chép kinh này, chẳng phải là việc mình có thể làm, mà đùa cợt thì khi sinh ra ở chỗ nào, thân thể cũng khuyết tật, bị lửa thiêu đốt, thường bị tranh tụng, mặt mũi sinh ghẻ lở, chân tay cong queo, miệng mắt chẳng ngay thẳng, thân thể hôi hám, sinh ghẻ lở, thuốc men chẳng lành, khốn khổ khó nói. Nếu nói kinh này mà có người nghe thấy lại nói lỗi người nói thì tăng thêm ác bất thiện, điều nói ra không phải là lời thành thật, tin theo thì phạm tội ác, bị tai ương vô lượng, chỗ ở bất an. Phật dạy: –Vì vậy, này Phổ Hiền! Nếu thấy Tỳ-kheo thọ trì kinh này thì từ xa đứng lên cung kính nghênh đón, phụng sự như phụng sự Như Lai. Quy mạng Phật hiện tại thế nào thì quy mạng Pháp sư ấy cũng như vậy không khác, mới đúng với lời Phật dạy. Khi Phật nói phẩm Phổ Hiền này, có hằng hà sa số ức trăm ngàn vạn các chúng Bồ-tát đều chứng đắc Tổng trì.  <詞 id="83085264">Phẩm 27: CHÚC LỤY Bấy giờ Thế Tôn Năng Nhân từ pháp tòa đứng dậy, biến chư Bồ-tát cùng một sắc tướng và thị hiện thần túc nhấc toàn đại hội đặt trên bàn tay phải, tán thán: –Này các Tộc tính tử! Phật từ vô số ức trăm ngàn kiếp chẳng thể tính kể, tích lũy tu hành mới thành đạo Vô thượng chính chân, đã đạt đến vô cực nên đặt chư Hiền yên trên bàn tay phải, giở lên và hạ xuống chỉ do nghó biết. Chư vị phải nhận lãnh kinh này, thọ trì, phúng tụng, tuyên đọc, nên vì chúng hội phân biệt diễn thuyết, khiến cho khắp quần sinh được nghe thấy. Lại nữa, Tộc tính tử! Tâm không chấp trước, không được giấu giếm kinh chính Pháp Hoa này, ý chí không sợ hãi, bố thí trí tuệ Phật, trí tuệ Như Lai, trí tuệ tự tại, đó là pháp thí giải thoát tốiâ thượng. Nên học hạnh Phật, nên khiến cho mọi người được nghe dù tới hay chẳng tới đều đến được chỗ chẳng đến, nên siêng năng nghe thọ kinh điển quan trọng này; đối với người chẳng tin, nên khiến cho tin; nên khuyên quần sinh thâm nhập tôn pháp. Này các Tộc tính tử! Người có thể làm như vậy thì nên biết, đó là sự kiến lập của Như Lai. Khi ấy các Bồ-tát được Thế Tôn Năng Nhân khen ngợi đều vui mừng hớn hở, càng thêm kính trọng, cúi mình đứng một bên; chắp tay cúi đầu đảnh lễ, hướng về Đức Phật Năng Nhân đồng thanh thưa: –Xin làm theo lời dạy của Thế Tôn, không dám trái nghịch, thuận theo điều Phật đã nói một cách đầy đủ. Xin Thế Tôn chớ lo nghó. Các Bồ-tát thưa bạch ba lần như vậy, rồi đi đến khắp nơi trong mười phương ban tuyên Thánh chỉ. Bấy giờ Đức Năng Nhân chính giác khiến tất cả chư Thế Tôn từ mười phương thế giới đến, đều tùy nghi trở về chỗ cũ. Khi ấy mười phương Phật đều đáp: –Như Lai cũng nên tùy nghi trở về chốn cũ. Đức Thế Tôn Như Lai chính Giác Đa Bảo ở trong giảng đường của tháp bảy báu liền trở về chỗ cũ. Các Đức Như Lai cũng đều về chỗ cũ. Khi Phật thuyết kinh này, chư Phật ở vô lượng cõi Phật khác trong mười phương đến đây, ngồi trên tòa Sư tử, dưới cây Bồ-đề, Như Lai Đa Bảo và các Bồ-tát, các vị học hạnh khác đang ở trước Phật vô số vô lượng chẳng thể tính kể, cùng với các Bồ-tát từ dưới đất vọt lên, và chúng đại Thanh văn, bốn bộ chúng, các Trời, Rồng, Thần, A-tu-luân, Kiền-đạp-hòa, Nhân dân ở thế gian nghe lời Phật dạy, ai cũng hoan hỷ. <卷 id="83085265">