<經 id="n262">KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA Hán dịch: Đời Hậu Tần, Tam tạng Pháp sư Cưu-ma-la-thập, người nước Quy Tư. <卷 id="83085190">QUYỂN 1 <詞 id="83085191">Phẩm 1: TỰA Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ Đức Phật ở núi Kỳ-xà-quật thành Vương xá cùng các đại Tỳ-kheo đủ một vạn hai ngàn người. Các vị đều là bậc A-la-hán, các lậu đã hết, không còn phiền não, việc lợi mình đã xong, dứt hết các ràng buộc trong các cõi, tâm được tự tại. Tên của các vị là A-nhã Kiều-trần-như, Ma-ha Ca-diếp, Dà-gia Ca-diếp, Na-đề Ca-diếp, Xá-lợi-phất, Đại Mục-kiền-liên, Ma-ha Ca-chiên-diên, A-nậu-lâu-đà, Kiếp-tân-na, Kiều-phạm-ba-đề, Ly-bà-đa, Tất-lăng-già-bà-ta, Bạc-câu-la, Ma-ha Câu-si-la, Nan-đà, Tôn-đà-la-nan-đà, Phú-lâu-na Di-đa-la-ni Tử, Tu-bồ-đề, A-nan, La-hầu-la… là những đại A-la-hán được nhiều người biết đến. Lại có hai ngàn bậc Hữu học và Vô học, Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề cùng sáu ngàn quyến thuộc, thân mẫu của La-hầu-la là Tỳ-kheo-ni Gia-thâu-đà-la cùng các quyến thuộc. Tám vạn Đại Bồ-tát đều là bậc không thoái chuyển nơi quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác, chứng pháp Đà-la-ni, giỏi tài biện thuyết, chuyển pháp luân không thoái chuyển, từng cúng dường vô lượng trăm ngàn chư Phật, vun trồng cội gốc công đức nơi các Đức Phật, thường được chư Phật ngợi khen, dùng đức từ tu thân, chứng nhập trí tuệ của Phật, thông đạt đại trí đến được bờ kia, tiếng khen khắp vô lượng thế giới, độ được vô số trăm ngàn chúng sinh. Tên các vị đó là Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, Bồ-tát Quán Thế Âm, Bồ-tát Đắc Đại Thế, Bồ-tát Thường Tinh Tấn, Bồ-tát Bất Hưu Tức, Bồ-tát Bảo Chưởng, Bồ-tát Dược Vương, Bồ-tát Dũng Thí, Bồ-tát Bảo Nguyệt, Bồ-tát Nguyệt Quang, Bồ-tát Mãn Nguyệt, Bồ-tát Đại Lực, Bồ-tát Vô Lượng, Bồ-tát Việt Tam Giới, Bồ-tát Bạt-đà-bà-la, Bồ-tát Di-lặc, Bồ-tát Bảo Tích, Bồ-tát Đạo Sư… đủ tám vạn Đại Bồ-tát như vậy. Lúc bấy giờ có Thích Đề-hoàn Nhân cùng hai vạn Thiên tử quyến thuộc. Lại có Thiên tử Nguyệt Minh, Thiên tử Phổ Hương, Thiên tử Bảo Quang, bốn Đại thiên vương cùng một vạn Thiên tử quyến thuộc, chủ cõi Ta-bà là các Phạm thiên vương, Thi-khí Đại phạm, Quang Minh Đại phạm… cùng một vạn hai ngàn vị Thiên tử quyến thuộc. Có tám Long vương là Nan-đà Long vương, Bạt-nan-đà Long vương, Ta-già-la Long vương, Hòa-tu-kiết Long vương, Đức-xoa-ca Long vương, A-na-bà-đạt-đa Long vương, Ma-na-tư Long vương, Ưu-bát-la Long vương cả thảy đều cùng một số trăm ngàn quyến thuộc. Có bốn vị Khẩn-na-la vương là Pháp Khẩn-na-la vương, Diệu Pháp Khẩn-na-la vương, Đại Pháp Khẩn-na-la vương, Trì Pháp Khẩn-na-la vương đều cùng bao nhiêu trăm ngàn quyến thuộc. Có bốn vị Càn-thát-bà vương là Nhạc Càn-thát-bà vương, Nhạc Âm Càn-thát-bà vương, Mỹ Càn-thát-bà vương, Mỹ Âm Càn-thát-bà vương đều cùng bao nhiêu trăm ngàn quyến thuộc. Có bốn vị A-tu-la vương là Bà Tró A-tu-la vương, Khư-la-khiên-đà A-tu-la vương, Tỳ-ma-chất-đa-la A-tu-la vương, La-hầu A-tu-la vương đều cùng bao nhiêu trăm ngàn quyến thuộc. Có bốn vị Ca-lầu-la vương là Đại Uy Đức Ca-lầu-la vương, Đại Thân Ca-lầu-la vương, Đại Mãn Ca-lầu-la vương đều cùng bao nhiêu quyến thuộc. Vua A-xà-thế, con bà Vi-đề-hy cùng bao nhiêu trăm ngàn quyến thuộc, tất cả đều đảnh lễ dưới chân Phật rồi lui ngồi một bên. Lúc bấy giờ Thế Tôn, được bốn chúng vây quanh cung kính cúng dường, tôn trọng khen ngợi, liền vì các Bồ-tát nói kinh Đại thừa tên là Vô Lượng nghĩa Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm. Nói kinh xong, Phật ngồi kiết già nhập chính định “Vô lượng nghĩa xứ”, thân tâm không lay động. Khi đó trời mưa hoa Mạn-đà-la, hoa Ma-ha mạn-đà-la, hoa Mạn-thù-sa, hoa Ma-ha mạn-thù-sa, rải khắp Phật cùng đại chúng. Khắp các cõi Phật vang lên sáu thứ chấn động. Lúc bấy giờ Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân và các Tiểu vương cùng Chuyển luân thánh vương, tất cả đại chúng trong chúng hội được trông thấy việc chưa từng có, chắp tay nhất tâm hoan hỷ chiêm ngưỡng Phật. Bấy giờ, từ lông trắng giữa chân mày Phật phóng hào quang chiếu khắp một vạn tám ngàn cõi ở phương Đông, dưới chiếu đến địa ngục A-tỳ, trên thấu đến trời Sắc cứu cánh. Từ nơi cõi này thấy được hết cả sáu loài chúng sinh ở các cõi kia. Lại thấy các Đức Phật hiện ở các cõi kia và nghe được các Đức Phật ấy giảng nói kinh pháp. Cũng thấy được các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di ở các cõi kia tu hành đắc đạo. Lại thấy các Đại Bồ-tát dùng các nhân duyên, các tín giải, các tướng mạo mà tu hạnh Bồ-tát. Lại thấy các Đức Phật nhập Niết-bàn. Lại thấy sau khi chư Phật nhập Niết-bàn, xá-lợi của Phật được dựng tháp bằng bảy báu để phụng thờ. Khi ấy Bồ-tát Di-lặc nghó rằng: “Hôm nay vì nhân duyên gì Đức Thế Tôn hiện thần biến tướng có điềm lành này? Việc Phật nhập chính định thị hiện điều hy hữu không thể nghó bàn này nên đem hỏi ai, ai có thể đáp được?” Lại nghó: “Pháp vương tử Văn-thù-sư-lợi là bậc đã từng gần gũi cúng dường vô lượng chư Phật thời quá khứ chắc đã trông thấy tướng hy hữu này, vậy ta nên hỏi.” Lúc đó các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Trời, Rồng, Quỷ, Thần đều nghó rằng: “Tướng thần thông sáng chói của Phật thị hiện đây nên đem hỏi ai?” Bấy giờ muốn tự giải quyết chỗ nghi của mình, Bồ-tát Di-lặc lại quán sát tâm niệm của bốn chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di và cả Trời, Rồng, Quỷ, Thần trong chúng hội bèn hỏi Văn-thù-sư-lợi rằng: –Vì nhân duyên gì mà Phật thị hiện tướng thần thông lành tốt, phóng ánh sáng lớn soi khắp một vạn tám ngàn cõi ở phương Đông, thấy được tất cả các cõi Phật trang nghiêm như vậy? Rồi Bồ-tát Di-lặc muốn làm rõ lại ý nghĩa này, dùng kệ hỏi: Văn-thù-sư-lợi! Đạo sư cớ chi Lông trắng giữa mày Chiếu sáng khắp soi? Mưa hoa Mạn-đà Cùng Mạn-thù-sa Gió thơm Chiên-đàn Đẹp lòng đại chúng. Vì nhân duyên ấy Đại địa nghiêm tịnh, Và thế giới này Sáu thứ vang lên. Bấy giờ bốn chúng Đều rất vui mừng, Thân tâm thư thái Thật chưa từng có. Ánh sáng giữa mày Soi thấu phương Đông, Vạn tám ngàn cõi Đều như sắc vàng. Từ ngục A-tỳ Đến trời Hữu đảnh, Trong các thế giới Lục đạo chúng sinh, Sống chết về đâu Nghiệp duyên lành dữ, Quả báo tốt xấu Đều thấy rõ ràng. Lại thấy chư Phật Thánh chúa sư tử, Diễn thuyết kinh điển Nhiệm mầu bậc nhất. Tiếng giảng thanh tịnh, Giọng nói dịu êm, Dạy bảo Bồ-tát Vô số ức vạn. Phạm âm thâm diệu, Khiến người ưa nghe Ở mỗi thế giới Giảng nói chính pháp Dùng các nhân duyên Cùng nhiều thí dụ, Làm rõ Phật pháp Giác ngộ chúng sinh. Nếu người bệnh khổ Chán già, bệnh, chết, Phật nói Niết-bàn Dứt sạch các khổ. Nếu người có phúc Từng cúng dường Phật Chí cầu thắng pháp, Thì nói Duyên giác. Nếu có Phật tử Tu tập các hạnh Cầu Tuệ vô thượng Thì nói Tịnh đạo. Văn-thù-sư-lợi! Nay tôi tại đây Thấy nghe như vậy Và ngàn ức việc Cũng nhiều như thế, Xin nói sơ lược: Tôi thấy cõi kia Hằng sa Bồ-tát Dùng các nhân duyên Mà cầu Phật đạo. Hoặc tu bố thí Vàng, bạc, san hô Ngọc trai, như ý Xa cừ, mã não, Kim cương báu vật Tôi tớ, xe cộ, Kiệu, cán lộng lẫy, Hoan hỷ bố thí Hồi hướng Phật đạo Nguyện chứng bậc ấy, Bậc nhất ba cõi Được chư Phật khen. Hoặc có Bồ-tát Xe báu bốn ngựa Trang trí tàng lọng Đem ra bố thí. Lại thấy Bồ-tát Bố thí thân mình Kể cả vợ con Cầu đạo Vô thượng Lại thấy Bồ-tát Đầu mắt thân thể, Vui vẻ bố thí Cầu trí tuệ Phật. Văn-thù-sư-lợi! Tôi thấy các vua Qua đến chỗ Phật Hỏi đạo Vô thượng, Rời xa lạc thú Cung điện vương phi Cạo bỏ tóc râu Mà mặc pháp phục. Lại thấy Bồ-tát Hiện thân Tỳ-kheo Ở nơi thanh vắng Thường tụng kinh điển. Lại thấy Bồ-tát Dũng mãnh tinh tấn Vào sâu trong núi Tư duy Phật đạo. Thấy người ly dục Ở nơi vắng vẻ Chuyên tu thiền định Chứng năm thần thông. Lại thấy Bồ-tát Chắp tay thiền định, Dùng ngàn vạn kệ Khen các Pháp vương. Lại thấy Bồ-tát Trí sâu chí bền, Hay hỏi chư Phật Nghe pháp thọ trì. Lại thấy Phật tử Định tuệ đầy đủ, Dùng nhiều thí dụ Vì chúng giảng pháp, Vui thích nói pháp Giáo hóa Bồ-tát Phá dẹp ma binh Đánh rền trống pháp. Lại thấy Bồ-tát Lặng yên trầm mặc, Trời, Rồng cung kính Cũng chẳng vui mừng. Lại thấy Bồ-tát Nơi rừng phóng quang, Cứu khổ địa ngục Khiến vào Phật đạo. Lại thấy Phật tử Ít khi ngủ nghỉ, Kinh hành trong rừng Siêng cầu Phật đạo. Có người giới đức Uy nghi đầy đủ, Sạch như ngọc báu Để cầu Phật đạo. Lại thấy Phật tử Chịu sức nhẫn nhục, Kẻ tăng thượng mạn Mắng nhiếc đánh đập Cũng chịu nhẫn nhịn Để cầu Phật đạo. Lại thấy Bồ-tát Tránh chuyện vui chơi Và hạng ngu si Gần gũi người trí, Tâm trừ loạn động Nhiếp niệm ở rừng Ức ngàn vạn năm Để cầu Phật đạo. Lại thấy Bồ-tát Ẩm thực thịnh soạn Trăm thứ thuốc thang Đem cúng Phật, Tăng, Y phục cao sang Đáng giá ngàn vạn, Hoặc thứ vô giá Đem cúng Phật, Tăng. Ngàn vạn ức thứ Nhà báu Chiên-đàn Giường nằm hảo hạng Đem cúng Phật, Tăng. Cúng thí như vậy Quý giá bao nhiêu Cũng vui không tiếc Cầu đạo Vô thượng. Lại có Bồ-tát Giảng pháp tịch diệt, Dùng bao lời dạy Vô số chúng sinh. Lại thấy Bồ-tát Quán tính các pháp Thấy tướng không hai Giống như hư không. Lại thấy Phật tử Tâm không mê đắm, Dùng diệu tuệ này Cầu đạo Vô thượng. Văn-thù-sư-lợi! Lại có Bồ-tát Phật diệt độ rồi Cúng dường xá-lợi. Lại thấy Phật tử Xây dựng tháp miếu Như cát sông Hằng Tôn trí khắp nước. Bảo tháp cao đẹp Năm ngàn do-tuần, Ngang rộng cân đối Hai ngàn do-tuần, Ở mỗi tháp miếu Có ngàn tràng phan, Màn ngọc treo rủ Chuông khánh hòa reo. Các Trời, Rồng, Thần Người cùng Phi nhân, Hương hoa kỹ nhạc Hay đến cúng dường. Văn-thù-sư-lợi! Các Phật tử kia, Vì cúng xá-lợi Trang sức tháp miếu Cõi nước tự nhiên Đặc biệt đẹp đẽ, Như cây Thiên thọ Nở ra hoa lạ. Khi Phật phóng quang, Tôi cùng chúng hội Thấy cõi nước này Phi thường tốt đẹp. Thần lực chư Phật Trí tuệ hy hữu. Phóng quang thanh tịnh Chiếu vô lượng cõi. Chúng tôi thấy được Điều chưa từng có. Phật tử Văn-thù Xin giải chúng nghi. Bốn chúng đều trông Mong người và tôi Vì sao Thế Tôn Phóng quang như vậy? Phật tử nên đáp Giải nghi chúng mừng. Được lợi ích gì Phóng quang như vậy? Phật tại đạo tràng, Diệu pháp đã chứng, Vì nói pháp đó, Vì sẽ thọ ký, Mà hiện cõi Phật Thanh tịnh trang nghiêm Và thấy chư Phật. Duyên này không nhỏ. Văn-thù nên biết Bốn chúng Long, Thần Đang chờ Tôn giả Cho biết thế nào. Lúc bấy giờ Văn-thù-sư-lợi nói với Đại Bồ-tát Di-lặc cùng các Đại só rằng: –Các thiện nam! Theo tôi suy xét thì nay Đức Phật Thế Tôn muốn nói thời pháp lớn, mưa cơn mưa pháp lớn, thổi pháp loa lớn, đánh trống pháp lớn và diễn pháp nghĩa lớn. Các thiện nam! Tôi đã từng ở nơi các Đức Phật thời quá khứ đã thấy điềm lành này. Đức Phật phóng hào quang như vậy xong là nói pháp lớn. Cho nên biết chắc rằng hôm nay Phật hiện hào quang xong cũng sẽ như vậy. Phật vì muốn chúng sinh đều được nghe biết giáo pháp mà tất cả thế gian khó tin nên mới hiện điềm lành này. Các thiện nam! Như vô lượng vô biên kiếp a-tăng-kỳ về trước, lúc ấy có Phật hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh Như Lai, Ứng Cúng, chính Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn giảng nói chính pháp, đầu, giữa, rốt sau ba chặng đều rất hoàn thiện, nghĩa lý sâu xa, ngôn ngữ xảo diệu, thuần nhất không hỗn tạp, đầy đủ tướng phạm hạnh trong sạch. Phật, vì người cầu đạo Thanh văn, nói pháp Tứ đế độ thoát sinh, già, bệnh, chết cứu cánh Niết-bàn; vì người cầu quả Duyên giác, nói pháp Mười hai nhân duyên; vì các Bồ-tát nói sáu pháp Ba-la-mật khiến chứng quả Vô thượng chính đẳng chính giác thành tựu Nhất thiết chủng trí. Tiếp đến có vị Phật cũng hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh, tiếp nữa lại có vị Phật cũng hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh. Cứ như vậy đến hai vạn vị Phật cùng một hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh và cùng một họ là Phả-la-đọa. Di-lặc nên biết, vị Phật trước vị Phật sau đều cùng một tên là Nhật Nguyệt Đăng Minh, đầy đủ mười hiệu và những pháp được nói ra, đầu, giữa, rốt sau đều hoàn thiện. Vị Phật sau cùng khi chưa xuất gia có tám vương tử. Người thứ nhất tên Hữu Ý, thứ hai tên Thiện Ý, thứ ba tên Vô Lượng Ý, thứ tư tên Bảo Ý, thứ năm tên Tăng Ý, thứ sáu tên Trừ Nghi Ý, thứ bảy tên Hướng Ý, thứ tám tên Pháp Ý. Tám vương tử đó có oai đức tự tại đều thống lãnh bốn châu thiên hạ, nghe vua cha xuất gia chứng đạo Vô thượng chính đẳng chính giác đều bỏ ngôi vua xuất gia theo, phát tâm Đại thừa thường tu hạnh thanh tịnh trở thành Pháp sư, vì thuở trước đã từng vun trồng cội gốc lành nơi ngàn vạn Đức Phật. Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh lúc đó nói kinh Đại thừa tên Vô Lượng nghĩa Xứ Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm. Nói kinh xong rồi, Phật liền ở ngay giữa đại chúng ngồi kiết già nhập chính định vào cảnh Vô lượng nghĩa xứ, thân tâm không lay động. Khi ấy trời mưa hoa Mạn-đà-la, hoa Ma-ha mạn-đà-la, hoa Mạn-thù-sa, hoa Ma-ha mạn-thù-sa rải lên Phật và đại chúng. Khắp các cõi Phật nổi lên sáu thứ chấn động. Lúc đó trong hội, các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân cùng các tiểu vương, Chuyển luân thánh vương… tất cả đại chúng được điều chưa từng có, nhất tâm hoan hỷ chắp tay chiêm ngưỡng Phật. Bấy giờ Đức Như Lai từ tướng lông trắng giữa chân mày phóng hào quang chiếu khắp một vạn tám ngàn cõi ở phương Đông như nay đang thấy các cõi Phật này vậy. Di-lặc nên biết, khi đó trong hội có hai mươi ức Bồ-tát muốn nghe pháp. Các Bồ-tát ấy thấy ánh sáng chiếu khắp các cõi Phật, được điều chưa từng có, đều muốn biết vì nhân duyên gì phóng quang như vậy. Khi ấy có Bồ-tát hiệu Diệu Quang có tám trăm đệ tử. Bấy giờ Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh từ trong chính định, vì Diệu Quang Bồ-tát nói kinh Đại thừa tên Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm, suốt sáu mươi tiểu kiếp không rời pháp tọa. Lúc ấy thính giả trong pháp hội cũng đều ngồi yên tại chỗ đến sáu mươi tiểu kiếp thân tâm không lay động, nghe Phật nói pháp, cho là như trong khoảng một bữa ăn. Bấy giờ trong chúng không có một ai hoặc thân hoặc tâm cảm thấy mỏi mệt. Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh trong sáu mươi tiểu kiếp nói kinh xong rồi liền ở trong chúng Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn và Trời, Người, A-tu-la mà tuyên bố rằng: –Hôm nay vào lúc nửa đêm, Như Lai sẽ nhập Vô dư Niết-bàn. Khi đó có Bồ-tát tên Đức Tạng được Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh thọ ký. Phật bảo các Tỳ-kheo rằng: –Đức Tạng Bồ-tát này tiếp đến sẽ thành Phật hiệu Tịnh Thân Như Lai, Ứng Cúng, chính Đẳng Giác. Thọ ký xong, vào nửa đêm Phật nhập Vô dư Niết-bàn. Sau khi Phật diệt độ, Bồ-tát Diệu Quang thọ trì kinh Diệu Pháp Liên Hoa trải tám mươi tiểu kiếp vì người giảng nói. Tám người con của Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh đều theo học với ngài Diệu Quang, được ngài Diệu Quang dạy bảo khiến đều kiên cố nơi đạo Vô thượng chính đẳng chính giác. Các vương tử ấy cúng dường vô lượng trăm ngàn vạn ức Phật xong đều thành Phật đạo. Vị thành Phật sau cùng hiệu là Nhiên Đăng. Trong số tám trăm đệ tử có một người tên là Cầu Danh. Người này do tham lam danh lợi, tuy có đọc tụng kinh điển nhưng chẳng thông thuộc, phần nhiều quên mất, nên gọi là Cầu Danh. Người này cũng có trồng các nhân duyên căn lành nên được gặp vô lượng trăm ngàn vạn ức chư Phật mà cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen. Di-lặc nên biết, lúc đó Bồ-tát Diệu Quang không phải ai khác mà là tôi đây, còn Bồ-tát Cầu Danh chính là ngài vậy. Nay thấy điềm lành này không khác xưa kia nên tôi xét nghó hôm nay Như Lai sẽ nói kinh Đại thừa tên là Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm. Bấy giờ Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát ở trong đại chúng muốn làm rõ nghĩa trên nói bài kệ rằng: Tôi nhớ thuở quá khứ Vô lượng vô số kiếp, Có Phật được tôn kính Hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh Thế Tôn diễn nói pháp Độ vô lượng chúng sinh, Vô số ức Bồ-tát, Khiến vào trí tuệ Phật. Khi Phật chưa xuất gia Có sinh tám vương tử, Thấy Đại thánh xuất gia Cũng theo tu phạm hạnh. Phật nói kinh Đại thừa Tên là Vô Lượng nghĩa. Ở trong các đại chúng Chỉ dạy rộng phân biệt. Phật nói kinh ấy rồi, Liền ngay tại pháp tọa, Kiết già nhập chính định Tên Vô Lượng nghĩa Xứ. Trời mưa hoa Mạn-đà Trống trời tự nhiên vang. Các Trời, Rồng, Quỷ, Thần Cúng dường Nhân Trung Tôn Tất cả các cõi Phật Tức thời chấn động lớn. Phật phóng quang giữa mày Hiện các việc hy hữu. Ánh sáng chiếu phương Đông Vạn tám ngàn cõi Phật, Cho tất cả chúng sinh Thấy nghiệp báo sinh tử Lại thấy các cõi Phật Dùng bảo vật trang nghiêm, Màu lưu ly, pha lê Ánh sáng Phật chiếu soi. Lại thấy những Trời, Người Rồng, Thần, chúng Dạ-xoa, Càn-thát, Khẩn-na-la Đều cúng dường Phật ấy. Lại thấy các Như Lai Tự nhiên thành Phật đạo, Sắc thân như núi vàng Đoan nghiêm rất đẹp đẽ, Như ngọc lưu ly sạch Trong hiện ra tượng vàng. Thế Tôn trong đại chúng Giảng dạy nghĩa thâm diệu. Mỗi mỗi các cõi Phật Chúng Thanh văn vô số, Nhờ Phật quang soi sáng Thấy hết đại chúng kia. Hoặc có các Tỳ-kheo Ở tại trong núi rừng, Tinh tấn giữ tịnh giới Như giữ ngọc minh châu. Lại thấy các Bồ-tát Tu bố thí, nhẫn nhục, Đông như cát sông Hằng Nhờ ánh sáng Phật soi. Lại thấy các Bồ-tát Thâm nhập các thiền định, Thân tâm lặng chẳng động Để cầu đạo Vô thượng. Lại thấy các Bồ-tát Rõ tướng pháp tịch diệt, Đều ở tại nước mình Nói pháp cầu Phật đạo. Bấy giờ bốn bộ chúng Thấy Phật Nhật Nguyệt Đăng Hiện sức thần thông lớn Lòng ai nấy vui mừng, Người người đều tự hỏi Việc này nhân duyên gì? Đấng trời người thờ phụng Vừa từ chính định xuất, Khen Bồ-tát Diệu Quang Là mắt của thế gian, Mọi người đều tin tưởng Vâng giữ được Pháp tạng. Như pháp của ta nói Chỉ ông chứng biết được. Thế Tôn đã ngợi khen Cho Diệu Quang vui mừng, Liền nói kinh Pháp Hoa Suốt sáu mươi tiểu kiếp, Không rời khỏi pháp tọa. Pháp nhiệm mầu giảng nói Ngài Diệu Quang Pháp sư Đều có thể thọ trì. Phật nói kinh Pháp Hoa Khiến đại chúng hoan hỷ. Rồi chính trong ngày ấy Bảo các trời người hay: Các pháp nghĩa thật tướng Đã vì các ngươi nói. Ta ngay giữa đêm này Sẽ vào cõi Niết-bàn. Hãy một lòng tinh tấn Xa lánh tính buông lung. Chư Phật rất khó gặp Ức kiếp được một lần. Các con của chư Phật Nghe Phật sắp diệt độ, Ai nấy đều sầu não Sao nhập diệt sớm vậy? Đấng Thánh chúa Pháp vương An ủi vô lượng chúng: Cho dù ta diệt độ Các ngươi chớ lo sợ! Bồ-tát Đức Tạng đây Tâm đã được thông thấu Nơi vô lậu thật tướng; Kế tiếp sẽ thành Phật Tên hiệu là Tịnh Thân Cũng độ vô lượng chúng. Đêm đó Phật diệt độ Như củi tàn lửa tắt. Xá-lợi được phân chia Xây dựng vô lượng tháp. Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni Số như cát sông Hằng. Lại càng thêm tinh tấn Để cầu đạo Vô thượng. Pháp sư Diệu Quang ấy Vâng giữ Phật pháp tạng Trong tám mươi tiểu kiếp Rộng giảng kinh Pháp Hoa. Tám vị vương tử đó Được Diệu Quang dạy bảo, Kiên cố đạo Vô thượng Sẽ thấy vô số Phật, Cúng dường chư Phật xong Tùy thuận tu đại đạo. Nối tiếp nhau thành Phật Lần lượt thọ ký nhau. Vị sau cùng thành Phật Hiệu là Phật Nhiên Đăng. Đạo Sư của Thiên, Tiên Độ thoát vô lượng chúng. Pháp sư Diệu Quang ấy Có một người đệ tử Tâm thường ôm biếng trễ Tham đắm vòng danh lợi Cầu danh lợi không chán, Thường đến chỗ giàu sang, Phế bỏ việc học tập, Quên mất không thông thuộc. Do vì nhân duyên ấy Nên gọi là Cầu Danh. Cũng tu các nghiệp lành Được thấy vô số Phật, Cúng dường các Đức Phật Tùy thuận tu đại đạo, Đủ sáu Ba-la-mật. Nay gặp Phật Thích-ca, Sau này sẽ thành Phật Tên hiệu là Di-lặc, Rộng độ các chúng sinh Số đông không kể xiết. Sau Phật kia diệt độ Lười biếng đó là ngài. Còn Pháp sư Diệu Quang Nay chính là tôi đấy. Tôi thấy Phật Đăng Minh Điềm sáng trước như thế. Cho nên biết rằng nay Phật muốn nói Pháp Hoa. Tướng này giống điềm xưa Là phương tiện của Phật. Nay Phật phóng hào quang Giúp bày nghĩa thật tướng. Các người nay nên biết Chắp tay một lòng chờ. Phật sẽ rưới mưa pháp Đủ khắp người cầu đạo. Những ai cầu ba thừa Có chỗ nghi không rõ, Phật sẽ dứt trừ cho Khiến hết không còn thừa.  <詞 id="83085192">Phẩm 2: PHƯƠNG TIỆN Lúc bấy giờ Thế Tôn từ chính định an lành xả định, bảo Xá-lợi-phất rằng: –Trí tuệ của chư Phật sâu xa vô lượng. Môn trí tuệ đó khó hiểu khó vào, tất cả Thanh văn, Bích-chi-phật đều không biết được. Vì sao vậy? Phật đã từng gần gũi trăm ngàn vạn ức vô số chư Phật, tu tập hết vô lượng đạo pháp của chư Phật, dũng mãnh tinh tấn, tiếng tăm đồn khắp, thành tựu pháp sâu xa chưa từng có, tùy thời nghi mà nói pháp ý thú khó hiểu. Xá-lợi-phất! Từ khi ta thành Phật đến nay, các nhân duyên, các thí dụ, phô diễn ngôn giáo, dùng vô số phương tiện dẫn dắt chúng sinh khiến lìa xa các chấp trước. Vì sao vậy? Vì Như Lai đã đầy đủ phương tiện tri kiến Ba-la-mật. Xá-lợi-phất! Tri kiến của Như Lai rộng lớn sâu xa, có sức vô lượng không trở ngại, không sợ hãi, thiền định, giải thoát Tam-muội sâu không bờ bến, thành tựu tất cả pháp chưa từng có. Xá-lợi-phất! Như Lai có thể phân biệt khéo léo giảng nói các pháp bằng lời lẽ dịu dàng làm đẹp lòng người nghe. Xá-lợi-phất! Nói tóm lại Phật thành tựu tất cả vô lượng vô biên pháp chưa từng có. Xá-lợi-phất hãy thôi, không cần nói lại nữa! Vì sao? Vì pháp khó hiểu ít có mà Phật đã thành tựu thì chỉ có Phật với Phật mới có thể thấu triệt tướng chân thật của các pháp. nghĩa là đã nói cái chân thật của các pháp thì tướng là như vậy, tính là như vậy, thể là như vậy, sức lực là như vậy, hành động là như vậy, nhân là như vậy, duyên là như vậy, quả là như vậy, báo là như vậy, trước, sau rốt ráo đều như vậy. Bấy giờ Thế Tôn muốn làm rõ lại nghĩa này nói bài kệ rằng: Đấng Thế Hùng khó lường Chư Thiên cùng người đời, Tất cả loài chúng sinh Không ai hiểu được Phật. Phật lực không khiếp sợ Giải thoát các Tam-muội. Các pháp khác của Phật Không ai đo lường được. Vốn từ vô số Phật Tu đầy đủ các đạo. Pháp nhiệm mầu rất sâu, Khó thấy khó rõ được. Trong vô lượng ức kiếp Tu các đạo ấy rồi, Đạo tràng được chứng quả Ta đều đã thấy biết. Quả báo lớn như vậy, Các thứ tính tướng nghĩa, Ta cùng mười phương Phật Mới biết được việc đó. Pháp không thể chỉ bày Vắng bặt tướng nói năng. Các loài chúng sinh khác Không thể nào hiểu được. Trừ các chúng Bồ-tát Có sức tin kiên cố, Các hàng đệ tử Phật Từng cúng dường chư Phật, Tất cả lậu đã hết Ở thân sau cùng này, Các hạng người như vậy, Sức họ không kham nổi. Giả sử đầy thế gian Đều như Xá-lợi-phất Cùng chung nhau suy xét Không lường được trí Phật. Dẫu cho khắp mười phương Đều như Xá-lợi-phất, Và các đệ tử khác Cũng đầy cõi mười phương Cùng chung nhau suy xét Cũng không thể biết được. Duyên giác trí nhạy bén, Thân vô lậu sau cùng, Cũng đầy cõi mười phương Số đông như rừng tre, Tất cả cùng một lòng Trong vô lượng ức kiếp Muốn xét Phật thật trí Chẳng biết được chút nào. Bồ-tát mới phát tâm Cúng dường vô số Phật, Thấu rõ các nghĩa thú Lại có tài nói pháp, Đông đầy cõi mười phương Như lúa mè tre lau, Nhất tâm dùng diệu trí Trải số kiếp hằng sa Cùng chung nhau suy xét Không biết được trí Phật. Hàng bất thoái Bồ-tát Nhiều như cát sông Hằng, Nhất tâm cùng suy xét Cũng không thể hiểu được. Lại bảo Xá-lợi-phất Pháp nhiệm mầu rất sâu Vô lậu khó nghó bàn Nay ta đã đầy đủ. Chỉ ta biết tướng đó Mười phương Phật cũng vậy. Xá-lợi-phất phải biết Chư Phật nói không khác. Với pháp Phật nói ra Nên sinh sức tin lớn. Pháp Phật lâu về sau Cần phải nói chân thật. Bảo các chúng Thanh văn Cùng người cầu Duyên giác, Ta khiến cho thoát khổ Đến chứng được Niết-bàn. Phật dùng sức phương tiện Dạy cho ba thừa giáo. Chúng sinh nếu mê đắm Dắt dẫn khiến ra khỏi. Lúc bấy giờ trong đại chúng có các Thanh văn lậu tận A-la-hán như A-nhã Kiều-trần-như… đến một ngàn hai trăm người và các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di là những bậc phát tâm Thanh văn, Duyên giác, đều nghó: “Vì sao hôm nay Phật ân cần ngợi khen phương tiện mà nói thế này: ‘Pháp của Phật chứng rất sâu xa khó hiểu, tất cả Thanh văn, Duyên giác không thể đạt tới được.’ Phật nói một nghĩa giải thoát, chúng ta cũng chứng được pháp đó đạt được Niết-bàn, mà nay chẳng rõ nghĩa đó về đâu?” Lúc đó Xá-lợi-phất biết bốn chúng sinh nghi mà chính tự mình cũng chưa rõ, liền bạch Phật rằng: –Bạch Thế Tôn! Nhân gì duyên gì mà Phật ân cần khen ngợi pháp phương tiện thứ nhất nhiệm mầu sâu xa khó hiểu của chư Phật? Con từ trước đến nay chưa từng nghe Phật nói điều đó. Hôm nay cả bốn chúng đều có chỗ nghi. Cúi xin Thế Tôn giải rõ việc đó. Vì sao Thế Tôn ân cần khen ngợi pháp nhiệm mầu sâu xa khó hiểu? Bấy giờ Xá-lợi-phất muốn làm rõ nghĩa trên nói bài kệ: Đấng Tuệ Nhật Đại Thánh Lâu mới nói pháp này. Tự nói pháp đã chứng Lực, Vô úy, Tam-muội Và Thiền định, Giải thoát Là không thể nghó bàn. Pháp chứng nơi đạo tràng Không ai có thể hỏi. Ý con khó suy xét Cũng không ai hỏi được. Không hỏi mà tự nói Khen ngợi đạo tu hành. Chư Phật đã chứng đắc Trí tuệ rất nhiệm mầu. Hàng vô lậu La-hán Cùng người cầu Niết-bàn Nay đều sa lưới nghi: Vì sao Phật nói thế? Hạng người cầu Duyên giác, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Các Trời, Rồng, Quỷ, Thần Và chúng Càn-thát-bà Nhìn nhau lòng hoài nghi Chiêm ngưỡng Lưỡng Túc Tôn, Việc đó là thế nào? Xin Phật vì chỉ dạy! Trong các chúng Thanh văn Phật bảo con hạng nhất, Nay chính trong trí con Nghi hoặc không rõ được. Vì là pháp cứu cánh Vì là chỗ hành đạo, Con từ miệng Phật sinh Chắp tay chiêm ngưỡng đợi Xin ban tiếng nhiệm mầu Dạy cho pháp như thật. Tất cả các Trời, Rồng Số như cát sông Hằng, Bồ-tát cầu thành Phật Số nhiều đến tám vạn, Có vạn ức quốc gia Chuyển luân vương cũng đến Đều cung kính chắp tay Muốn nghe đạo đầy đủ. Bấy giờ Phật bảo Xá-lợi-phất: –Thôi thôi không nên nói nữa, nếu nói ra, tất cả trời và người trong thế gian đều sẽ kinh sợ nghi ngờ. Xá-lợi-phất lại bạch Phật rằng: –Bạch Thế Tôn! Cúi xin dạy bảo, cúi xin dạy bảo! Bởi vì sao? Vì trong hội nay có vô số trăm ngàn vạn ức a-tăng-kỳ chúng sinh đã từng gặp các Đức Phật, các căn dũng mãnh lanh lợi, trí tuệ sáng suốt, nếu được nghe Phật dạy chắc có thể kính tin. Bấy giờ Xá-lợi-phất muốn làm rõ lại nghĩa này, nói bài kệ: Đấng Pháp Vương vô thượng Xin dạy cho, đừng ngại. Vô lượng chúng hội đây Có người kính tin được. Phật lại ngăn Xá-lợi-phất rằng: –Nếu nói điều đó ra thì tất cả Trời, Người, A-tu-la trong thế gian đều sẽ kinh sợ nghi ngờ và Tỳ-kheo tăng thượng mạn sẽ phải sa đọa vào vực thẳm. Khi ấy Thế Tôn lại nói bài kệ rằng: Thôi thôi không nên nói Pháp vi diệu khó nghó, Những kẻ tăng thượng mạn Nghe ắt không kính tin. Bấy giờ Xá-lợi-phất bạch Phật rằng: –Bạch Thế Tôn, cúi xin chỉ dạy, cúi xin chỉ dạy! Hiện nay trong hội chúng này hạng người như con có đến trăm ngàn vạn ức, đã từng đời đời theo Phật thọ giáo. Những người như vậy chắc có thể kính tin, yên ổn lâu dài, được nhiều lợi ích. Bấy giờ Xá-lợi-phất muốn làm rõ nghĩa trên, nói bài kệ: Vô thượng Lưỡng Túc Tôn Xin nói pháp đệ nhất. Con là Trưởng tử Phật Xin phân biệt chỉ dạy. Vô lượng chúng hội đây Kính tin được pháp này. Đời đời Phật đã từng Giáo hóa chúng như vậy. Nay một lòng chắp tay Muốn thọ lãnh lời Phật. Chúng con ngàn hai trăm Cùng bao nhiêu người khác, Xin Phật vì chúng hội Rủ lòng phân biệt nói. Chúng hội nghe pháp này Sẽ sinh lòng hoan hỷ. Lúc bấy giờ Thế Tôn bảo Xá-lợi-phất: –Ông đã ân cần ba phen thưa thỉnh thì lẽ đâu không nói. Vậy hãy lắng nghe suy nghó kỹ, ta sẽ vì ông phân biệt giảng nói. Khi Phật nói như vậy thì trong hội có các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di cả thảy là năm ngàn người liền từ chỗ ngồi đứng dậy lễ Phật lui ra. Vì sao vậy? Vì những người này nguồn gốc tội lỗi sâu nặng, lại có lòng tăng thượng mạn, cái chưa đạt được nói đã đạt được, chỗ chưa chứng nói đã chứng, sai quấy như thế đó nên không ở lại. Thế Tôn lặng thinh không ngăn cản. Bấy giờ Phật bảo Xá-lợi-phất: –Trong chúng ta đây không còn cành lá nữa, chỉ toàn có hạt chắc. Xá-lợi-phất! Những kẻ tăng thượng mạn thế kia lui về là tốt. Ông nay nghe cho rõ, ta sẽ vì ông mà giảng nói.” Xá-lợi-phất bạch: –Vâng thưa Thế Tôn con muốn được nghe! Phật bảo Xá-lợi-phất: –Pháp vi diệu như thế, chư Phật Như Lai đúng thời mới nói. Như hoa Ưu-đàm đúng thời tiết mới có một lần. Xá-lợi-phất, các ông hãy tin lời Phật nói không hư vọng. Xá-lợi-phất! Chư Phật theo thời nghi mà nói pháp, ý thú khó hiểu. Bởi vì sao? Ta dùng vô số phương tiện, các thứ nhân duyên, ngôn từ, thí dụ để diễn nói các pháp. Pháp đó không phải lấy suy tư phân biệt mà hiểu được. Chỉ có chư Phật mới biết. Bởi vì sao? Chư Phật Thế Tôn chỉ vì một nhân duyên trọng đại mà xuất hiện ra đời. Xá-lợi-phất! Vì sao nói là chư Phật Thế Tôn chỉ vì một nhân duyên trọng đại mà xuất hiện ra đời? Là vì chư Phật Thế Tôn muốn khai mở tri kiến Phật cho chúng sinh được thanh tịnh mà xuất hiện ra đời, muốn chỉ bày tri kiến Phật cho chúng sinh mà xuất hiện ra đời, muốn chúng sinh giác ngộ tri kiến Phật mà xuất hiện ra đời, muốn chúng sinh chứng nhập vào tri kiến Phật mà xuất hiện ra đời. Xá-lợi-phất! Chư Phật vì một nhân duyên trọng đại mà xuất hiện ra đời là như vậy đó! Phật bảo Xá-lợi-phất: –Chư Phật Như Lai chỉ giáo hóa Bồ-tát, những điều làm ra chỉ vì một việc, đó là đem tri kiến Phật chỉ bày cho chúng sinh được giác ngộ mà thôi. Xá-lợi-phất! Như Lai chỉ dùng một Phật thừa mà vì chúng sinh thuyết pháp, không có thừa nào khác, nói chi đến hai hay ba. Xá-lợi-phất! Pháp của tất cả mười phương chư Phật cũng như vậy. Xá-lợi-phất! Chư Phật quá khứ đã dùng vô lượng vô số phương tiện, các thứ nhân duyên, ngôn từ, thí dụ để vì chúng sinh diễn nói các pháp. Các pháp đó đều là một Phật thừa, nên các chúng sinh đó theo chư Phật nghe pháp, cứu cánh đều chứng được Nhất thiết chủng trí. Xá-lợi-phất! Chư Phật ra đời vào thời vị lai cũng sẽ dùng vô lượng vô số phương tiện, các thứ nhân duyên, ngôn từ, thí dụ để vì chúng sinh diễn nói các pháp. Các pháp đó đều là một Phật thừa, nên các chúng sinh đó theo Phật nghe pháp, cứu cánh đều sẽ chứng được Nhất thiết chủng trí. Xá-lợi-phất! Chư Phật Thế Tôn hiện tại, trong vô lượng trăm ngàn vạn ức cõi Phật ở mười phương, đang làm nhiều điều lợi ích an vui cho chúng sinh. Chư Phật đó cũng dùng vô lượng, vô số phương tiện các thứ nhân duyên, ngôn từ, thí dụ để vì chúng sinh diễn nói các pháp. Các pháp đó đều là một Phật thừa, nên các chúng sinh đó theo Phật nghe pháp, cứu cánh đều chứng được Nhất thiết chủng trí. Xá-lợi-phất! Các Đức Phật đó chỉ giáo hóa Bồ-tát là vì muốn chỉ bày tri kiến Phật cho chúng sinh, muốn làm cho chúng sinh giác ngộ tri kiến Phật, muốn làm cho chúng sinh chứng được tri kiến Phật. Xá-lợi-phất! Ta nay cũng vậy. Biết rõ chúng sinh có nhiều dục vọng, mê chấp thân tâm, ta tùy theo bản tính đó mà dùng các thứ nhân duyên, ngôn từ, thí dụ cùng sức phương tiện mà vì họ nói pháp. Xá-lợi-phất! Làm như thế là vì để chứng được một Phật thừa Nhất thiết chủng trí. Xá-lợi-phất! Trong mười phương thế giới, Nhị thừa còn không có huống chi là có ba. Xá-lợi-phất! Chư Phật xuất hiện ra trong đời ác có năm thứ ô uế. Đó là kiếp sống ô uế, phiền não ô uế, chúng sinh ô uế, kiến chấp ô uế, thân mạng ô uế. Vì vậy, Xá-lợi-phất! Gặp kiếp loạn ô uế thì chúng sinh có nhiều ô uế như bỏn sẻn, tham lam, ganh ghét, chỉ tạo những điều không lành, cho nên các Đức Phật dùng sức phương tiện từ một Phật thừa mà phân biệt nói thành ba. Xá-lợi-phất! Nếu đệ tử ta tự cho mình là A-la-hán, là Duyên giác mà không nghe không biết việc của chư Phật Như Lai là chỉ giáo hóa Bồ-tát, thì những người này không phải đệ tử Phật, không phải A-la-hán, không phải Duyên giác. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni đó tự cho mình đã được quả A-la-hán, là thân sau cùng, là cứu cánh Niết-bàn, thế rồi không còn quyết chí cầu đạo Vô thượng chính đẳng chính giác. Nên biết rằng họ là những kẻ tăng thượng mạn. Bởi vì sao? Nếu có Tỳ-kheo thật sự chứng quả A-la-hán mà không tin pháp này thì quyết chắc điều đó là không thể có, trừ khi Phật đã diệt độ rồi hoặc hiện tại không có Phật. Bởi vì sao? Sau khi Phật diệt độ đối với những kinh như thế rất khó có người có khả năng thọ trì đọc tụng hiểu rõ nghĩa lý. Còn nếu gặp chư Phật khác thì có thể hiểu rõ được ý nghĩa trong pháp này. Xá-lợi Phật! Các ông nên một lòng tin hiểu thọ trì lời Phật nói. Lời của chư Phật Như Lai không là hư vọng, nói không có thừa nào khác, chỉ duy nhất có một Phật thừa mà thôi. Lúc bấy giờ Thế Tôn muốn là rõ lại nghĩa này nói bài kệ rằng: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni Ôm lòng tăng thượng mạn, Ưu-bà-tắc ngã mạn Ưu-bà-di không tin. Bốn chúng như thế đó Số ấy đến năm ngàn. Họ không thấy lỗi mình Giới đức thì thiếu sót. Tiếc giữ điều sai quấy Dùng thủ đoạn trí xảo. Hạng thấp hèn trong chúng Sợ oai Phật phải lui. Hạng này kém phước đức Không kham nổi pháp này. Chúng nay không cành lá Chỉ toàn những hạt chắc. Xá-lợi-phất nghe rõ, Pháp nghĩa chư Phật chứng Vô lượng sức phương tiện Vì chúng sinh mà nói. Tâm chúng sinh suy nghó Cũng như các hành vi Bao nhiêu là dục vọng Nghiệp lành dữ đời trước, Phật đã biết rõ hết. Dùng các duyên thí dụ, Bằng ngôn từ phương tiện Khiến tất cả hoan hỷ. Hoặc giảng nói Khế kinh Trùng tụng cùng Bản sự, Bản sinh, Vị tằng hữu Cũng nói trong Nhân duyên. Thí dụ và Cô khởi Luận nghị cộng chín kinh. Độn căn ưa pháp nhỏ Tham đắm nơi sinh tử, Nơi vô lượng chư Phật Không tu hành đạo mầu, Bị các khổ quấy rối Vì thế nói Niết-bàn. Ta lập phương tiện đó Khiến vào trí tuệ Phật, Chưa từng nói mọi người Sẽ được thành Phật đạo. Sở dó chưa từng nói Là vì chưa đúng lúc. Nay là thời đã đến Quyết định nói Đại thừa. Chín bộ pháp của ta Thuận theo chúng sinh nói. Vào Đại thừa là gốc Nên mới nói kinh này. Có Phật tử tâm tịnh Dịu dàng mà lanh lợi, Nơi vô lượng chư Phật Tu tập đạo nhiệm mầu. Vì hàng Phật tử đó Nói kinh Đại thừa đây. Ta thọ ký người đó Đời sau thành Phật đạo. Bởi thâm tâm niệm Phật Tu trì tịnh giới nên Hạng này nghe thành Phật Lòng tràn đầy hoan hỷ. Phật biết tâm như thế Nên vì nói Đại thừa. Nếu Thanh văn Bồ-tát Nghe pháp ta nói ra Dù chỉ một bài kệ Đều thành Phật không nghi. Trong mười phương cõi Phật Chỉ có pháp Nhất thừa. Không hai cũng không ba. Trừ Phật phương tiện nói Chỉ dùng danh tự giả Dắt dẫn cho chúng sinh, Để nói trí tuệ Phật. Chư Phật hiện ở đời, Chỉ một sự thật này, Các thứ khác không thật. Quyết không dùng Tiểu thừa Mà tế độ chúng sinh. Phật an trú Đại thừa Như pháp đã chứng đắc. Định, tuệ, lực trang nghiêm Lấy đó độ chúng sinh. Tự chứng đạo Vô thượng Pháp Đại thừa bình đẳng. Nếu đem Tiểu thừa dạy Cho dù với một người, Ta sẽ đọa xan tham, Điều này không thể được. Nếu người tin theo Phật Như Lai không dối gạt Không tham lam ganh ghét Dứt ác trong các pháp, Nên Phật ở mười phương Mà hoàn toàn chẳng sợ. Ta dùng tướng trang nghiêm Ánh sáng chiếu thế gian. Vô lượng chúng tôn trọng Vì nói thật tướng ấn. Xá-lợi-phất nên biết, Ta vốn lập thệ nguyện Muốn cho tất cả chúng Được như ta không khác. Như xưa ta đã nguyện Nay được đầy đủ rồi, Độ tất cả chúng sinh Đều khiến vào Phật đạo. Nếu ta gặp chúng sinh, Dạy hết bằng Phật đạo, Kẻ vô trí rối loạn Mê lầm không thọ giáo. Ta biết chúng sinh này Chưa từng tu nghiệp thiện, Chấp chặt nơi năm dục Vì si ái sinh khổ, Bởi nhân duyên tham dục Sa đọa ba đường dữ, Luân hồi trong sáu nẻo Chịu đủ các khổ độc, Thụ thai mà thành thân Cứ đời đời tăng trưởng. Người đức mỏng ít phúc Bị các khổ bức bách, Lạc vào rừng tà kiến Hoặc chấp có chấp phông, Dựa vào chấp kiến này Đủ cả sáu mươi hai. Mê chấp pháp hư vọng Ôm chặt không thể bỏ, Quá ngã mạn kiêu căng Dua nịnh không chân thật, Trong ngàn vạn ức kiếp Không nghe danh hiệu Phật, Và không nghe chính pháp Người như vậy khó độ. Cho nên Xá-lợi-phất! Ta vì lập phương tiện Nói các đạo diệt khổ Cho đó là Niết-bàn. Tuy ta nói Niết-bàn Cũng không phải thật diệt. Các pháp từ xưa nay Tướng thường tự vắng lặng. Phật tử hành đạo rồi Đời sau được thành Phật. Ta có sức phương tiện Mở bày pháp ba thừa. Tất cả chư Thế Tôn Đều nói đạo Nhất thừa. Nay trong đại chúng này Đều phải diệt nghi ngờ. Lời Phật nói không khác Chỉ một, không Nhị thừa. Vô số kiếp đã qua Vô lượng Phật diệt độ Trăm ngàn vạn ức Phật Số nhiều không lường hết. Như vậy chư Thế Tôn Dùng các duyên thí dụ Vô số sức phương tiện Diễn nói các pháp tướng. Các Đức Thế Tôn đó Đều nói pháp Nhất thừa Độ vô lượng chúng sinh Khiến vào nơi Phật đạo. Lại các Đại Thánh chúa Biết tất cả thế gian Trời người loài quần sinh Thâm tâm chỗ ưa muốn Bèn dùng phương tiện khác Giúp rõ nghĩa đệ nhất. Nếu có loài chúng sinh Gặp chư Phật quá khứ Hoặc nghe pháp bố thí Hoặc trì giới, nhẫn nhục, Tinh tấn, thiền, trí tuệ, Tu các thứ phước tuệ, Những người như thế đó Đều đã thành Phật đạo. Chư Phật diệt độ rồi Nếu người lòng hiền dịu Các chúng sinh như thế Đều đã thành Phật đạo. Chư Phật diệt độ rồi Người cúng dường xá-lợi, Xây vạn ức tháp miếu Vàng bạc và pha lê, Xa cừ cùng mã não Ngọc mai khôi, lưu ly, Thanh tịnh và trang nghiêm Trang hoàng nơi các tháp. Hoặc là dựng miếu đá Chiên-đàn và trầm hương Gỗ mật cùng thứ khác Gạch ngói hoặc đất sét, Hoặc ở nơi đồng trống Đắp đất làm miếu Phật, Dù trẻ con chơi đùa Vun cát làm tháp Phật, Những hạng người như vậy Đều đã thành Phật đạo. Nếu như người vì Phật Xây dựng các hình tượng Chạm khắc thành các tướng Đều đã thành Phật đạo. Hoặc dùng bảy thứ báu Thau, đồng bạch, đồng đỏ, Bạch lạp cùng chì thiếc, Sắt, gỗ cùng đất sét, Hoặc dùng keo, sơn, vải Tô điểm làm tượng Phật, Những hạng người như vậy Đều đã thành Phật đạo. Hội họa vẽ tượng Phật Trăm tướng phước trang nghiêm Tự làm khuyên người làm Đều đã thành Phật đạo. Dù trẻ con chơi đùa Dùng cỏ cây hoặc bút Hoặc dùng đầu móng tay Mà vẽ làm tượng Phật. Những hạng người như vậy Lần lần chứa công đức Đầy đủ tâm Đại bi Đều đã thành Phật đạo. Cần dạy các Bồ-tát Độ thoát vô lượng chúng. Nếu người nơi tháp miếu Tượng báu và tượng vẽ, Dùng hoa hương phướn lọng Tâm cung kính cúng dường, Hoặc khiến người tấu nhạc Đánh trống thổi sừng ốc, Tiêu địch cầm không hầu Tỳ bà cùng phèn la Âm nhạc hay như vậy Đem dâng trọn cúng dường. Hoặc dùng tâm hoan hỷ Ca ngâm khen Đức Phật, Cho dù một tiếng nhỏ Đều đã thành Phật đạo. Hoặc người tâm tán loạn Dù dùng một bông hoa Cúng dường nơi tượng vẽ Sẽ thấy vô số Phật. Hoặc có người lễ lạy Hoặc chỉ có chắp tay, Hay chỉ đưa một tay Hoặc chỉ hơi cúi đầu Như để cúng dường tượng Sẽ thấy vô lượng Phật. Từ thành đạo Vô thượng Rộng độ vô số chúng Vào Vô dư Niết-bàn Như củi tàn lửa tắt. Nếu người tâm tán loạn Vào ở nơi tháp miếu, Một tiếng Nam-mô Phật Cũng đã thành Phật đạo. Nơi chư Phật quá khứ Tại thế hay diệt rồi Có người nghe pháp này Đều đã thành Phật đạo. Chư Thế Tôn vị lai Số nhiều không lường hết. Các Đức Như Lai đó Cùng phương tiện nói pháp. Tất cả chư Như Lai Dùng vô lượng phương tiện Độ thoát các chúng sinh Vào trí vô lậu Phật. Những người được nghe pháp Không ai không thành Phật. Chư Phật vốn thệ nguyện Phật đạo ta tu hành Muốn cho khắp chúng sinh Cũng đều được đạo này. Chư Phật đời vị lai Dầu nói trăm ngàn ức Vô số các pháp môn Kỳ thật vì Nhất thừa. Chư Phật Lưỡng Túc Tôn Biết pháp thường không tính Giống Phật tùy duyên khởi Cho nên nói Nhất thừa. Pháp ở vị trí pháp Tướng thế gian thường trú. Nơi đạo tràng đã biết Đạo Sư phương tiện mói. Hiện tại mười phương Phật Được trời người cúng dường. Số nhiều như hằng sa Xuất hiện ra thế gian Vì an ổn chúng sinh Cũng nói pháp như vậy. Tịch diệt là đệ nhất Nhưng dùng sức phương tiện, Giáo hóa bằng nhiều lối Kỳ thật vì Phật thừa. Biết các hạnh chúng sinh Điều nghó nhớ trong tâm Tạo nghiệp từ quá khứ Lòng dục, sức tinh tấn Và các căn nhanh chậm Dùng các thứ nhân duyên Thí dụ với ngôn từ Tùy cơ phương tiện nói. Ta nay cũng như vậy, Vì yên ổn chúng sinh, Dùng các thứ pháp môn Để là rõ Phật đạo. Ta dùng sức trí tuệ Biết dục vọng chúng sinh. Phương tiện nói các pháp Khiến đều sinh hoan hỷ. Xá-lợi-phất nên biết, Ta dùng mắt Phật xem Thấy sáu đường chúng sinh Nghèo cùng không phước tuệ, Vào đường hiểm sinh tử, Khổ nối nhau không dứt. Đắm sâu năm dục vọng Như trâu thích cái đuôi. Do tham ái tự che Mù quáng không thấy được. Không cầu Phật thế lớn Và pháp dứt khổ đau Lún sâu vào tà kiến Lại lấy khổ diệt khổ. Phật vì chúng sinh này Mà sinh tâm Đại Bi. Ta mới vào đạo tràng Cũng quán sát, kinh hành Trong hai mươi mốt ngày Tư duy việc như sau: Trí tuệ ta đạt được Là vi diệu đệ nhất. Chúng sinh các căn chậm Vui, si làm mù quáng. Những hạng người như thế Làm sao để độ được? Bấy giờ các Phạm vương Cùng các trời Đế Thích Bốn Thiên vương hộ đời Và trời Đại tự tại, Cùng các Thiên chúng khác Trăm ngàn ức quyến thuộc Chắp tay cung kính lễ, Thỉnh ta chuyển pháp luân. Ta liền tự suy nghó Nếu chỉ khen Phật thừa, Chúng sinh chìm nơi khổ Không tin được pháp đó. Do phá pháp không tin Đọa vào ba đường dữ. Ta thà không nói pháp Mau chóng nhập Niết-bàn. Liền nhớ quá khứ Phật Thực hành sức phương tiện. Ta nay chứng được đạo Cũng nên nói ba thừa. Lúc ta nghó như vậy Mười phương Phật đều hiện, Tiếng Phạm an ủi ta: Hay thay, Phật Thích-ca! Bậc Đạo Sư đệ nhất, Được pháp Vô thượng này, Làm theo như chư Phật Mà dùng sức phương tiện. Chúng tôi cũng đều được Pháp vi diệu đệ nhất. Vì các loài chúng sinh Phân biệt nói ba thừa. Trí kém chuộng pháp nhỏ Không tự tin thành Phật, Cho nên dùng phương tiện Phân biệt nói các quả. Dầu cho nói ba thừa Chỉ nhằm dạy Bồ-tát. Xá-lợi-phất nên biết, Ta nghe các Đức Phật Tiếng nhiệm mầu thanh tịnh Xưng Nam-mô chư Phật. Ta lại nghó thế này Ta ra đời trược ác, Như chư Phật đã nói, Ta cũng làm y theo. Suy nghó như vậy rồi Liền đến Ba-la-nại. Các pháp tướng tịch diệt Không dùng lời giảng được. Bèn dùng sức phương tiện Vì năm Tỳ-kheo nói. Gọi là chuyển pháp luân Mới có tiếng Niết-bàn. Cùng với A-la-hán Và Pháp, Tăng sai khác. Từ kiếp xưa đến nay Khen pháp Niết-bàn này, Dứt hẳn khổ sống chết, Ta thường nói như vậy. Xá-lợi-phất phải biết, Ta thấy các Phật tử Chí quyết cầu Phật đạo Vô lượng ngàn vạn ức Đều đem lòng cung kính Đồng đi đến chỗ Phật, Đã từng theo chư Phật Nghe thuyết pháp phương tiện. Ta liền nghó thế này: Sở dó Phật ra đời Vì để nói Phật tuệ. Nay chính là đúng lúc. Xá-lợi-phất phải biết. Người căn chậm trí nhỏ, Kẻ chấp tướng kiêu mạn Không thể tin pháp này. Nay ta vui vô úy Ở trong hàng Bồ-tát Trút bỏ ngay phương tiện Chỉ nói đạo Vô thượng. Bồ-tát nghe pháp đó Đều đã trừ lưới nghi. Ngàn hai trăm La-hán Cũng đều sẽ thành Phật, Như cách thức nói pháp Của chư Phật ba đời. Ta nay cũng như vậy Nói pháp không phân biệt. Các Đức Phật ra đời Lâu xa khó gặp gỡ. Cho dẫu hiện ra đời Nói pháp này khó hơn, Vô lượng, vô số kiếp Nghe pháp này cũng khó, Hay nghe được pháp này Hạng người đó cũng khó. Ví như hoa Ưu-đàm Ai cũng đều ưa thích, Trong trời, người ít có Lâu mới nở một lần. Nghe pháp vui mừng khen Dù chỉ nói một lời Tức là đã cúng dường Ba đời tất cả Phật. Người như vậy hiếm có Hơn cả hoa Ưu-đàm. Mọi người xin chớ nghi Ta là vua các pháp Dạy bảo khắp đại chúng Chỉ dùng đạo Nhất thừa. Giáo hóa các Bồ-tát, Không đệ tử Thanh văn. Xá-lợi-phất các ngươi Thanh văn và Bồ-tát Phải biết pháp mầu này: Bí quyết của chư Phật. Bởi đời ác năm trược Chỉ tham đắm dục lạc Những chúng sinh như vậy Đều không cầu Phật đạo. Người ác ở đời sau Nghe Phật nói Nhất thừa Mê lầm không tin nhận Phá pháp đọa đường dữ. Người trong sạch hổ thẹn, Quyết chí cầu Phật đạo. Nên vì những người ấy Rộng khen đạo Nhất thừa. Xá-lợi-phất nên biết Pháp chư Phật là vậy. Dùng vạn ức phương tiện Tùy nghi mà nói pháp. Ai không chịu tu học Không hiểu được pháp này. Các ông nay đã rõ Phật là Thầy ở đời. Tùy theo việc phương tiện Không còn nghi lầm nữa, Sinh lòng rất vui mừng Tự biết sẽ thành Phật. KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA <卷 id="83085193">QUYỂN 2 <詞 id="83085194">Phẩm 3: THÍ DỤ Lúc bấy giờ Xá-lợi-phất hớn hở vui mừng, liền đứng dậy chắp tay chiêm ngưỡng dung nhan Phật mà bạch Phật rằng: –Nay con theo Thế Tôn nghe tiếng pháp này, lòng hớn hở được điều chưa từng có. Bởi vì sao? Con xưa theo Phật nghe pháp như thế này, thấy các Bồ-tát được thọ ký thành Phật mà chúng con không được dự vào việc ấy, tự cảm thương cho rằng mất vô lượng tri kiến của Như Lai. Bạch Đức Thế Tôn! Con thường một mình ở dưới cây trong núi rừng, khi ngồi khi đi kinh hành thường suy nghó như vầy: “Chúng ta đồng vào trong pháp tính, tại sao Như Lai lại dùng pháp Tiểu thừa mà tế độ?” Đó là lỗi của chúng con, không phải do Thế Tôn. Bởi vì sao? Nếu chúng con chờ Phật nói pháp, nhân đó mà thành đạo Vô thượng chính đẳng chính giác thì chắc là do pháp Đại thừa mà được độ thoát. Song chúng con không hiểu rằng Phật vì phương tiện tùy theo cơ nghi mà nói pháp, nên vừa mới nghe Phật nói pháp đã vội tin nhận suy gẫm cho là chứng đắc. Bạch Đức Thế Tôn! Con từ xưa đến nay trọn ngày trọn đêm thường tự trách mình, mà nay theo Phật nghe pháp chưa từng nghe, được pháp chưa từng có, dứt các nghi hoặc tối tăm, thân ý thư thái được rất yên ổn. Ngày nay mới biết mình là Phật tử thật sự, từ miệng Phật sinh, từ pháp hóa sinh, được phần pháp của Phật. Khi ấy Xá-lợi-phất muốn làm rõ lại nghĩa trên, nói bài kệ rằng: Con nghe tiếng pháp này Được điều chưa từng có Lòng rất đỗi vui mừng Lưới nghi đều đã dứt. Xưa nay nhờ Phật dạy Không mất nơi Đại thừa. Tiếng Phật rất ít có Trừ được khổ chúng sinh. Con đã được lậu tận Nghe cũng hết khổ não. Con ở nơi hang núi Hoặc dưới cụm cây rừng Khi ngồi, khi kinh hành Thường suy nghó việc ấy. Than ôi rất tự trách Sao lại tự khinh mình. Chúng ta cũng Phật tử Đồng vào pháp vô lậu Không được ở vị lai Nói pháp Vô thượng đạo, Sắc vàng ba hai tướng Mười Lực, các Giải thoát. Đồng chung trong một pháp Mà không được như vậy. Tám mươi tướng tốt đẹp Mười tám pháp Bất cộng Các công đức như thế Mà ta đã mất hết. Lúc kinh hành một mình Thấy Phật ở trong chúng Danh đồn khắp mười phương Rộng lợi ích chúng sinh, Tự nghó mất lợi này Chính con tự khinh dối. Con thường trong ngày đêm Hằng suy nghó việc đó. Muốn đem hỏi Thế Tôn Xem mất hay không mất. Con thường thấy Thế Tôn Khen ngợi các Bồ-tát, Vì thế nên ngày đêm Suy lường việc như vậy. Nay nghe tiếng Phật nói Tùy cơ nghi thuyết pháp Vô lậu khó nghó bàn Khiến chúng đến đạo tràng. Con xưa chấp tà kiến Làm thầy các Phạm chí Thế Tôn rõ tâm con Trừ tà nói Niết-bàn. Con trừ hết tà kiến Được chứng quả pháp không. Bấy giờ lòng tự bảo Là đạt được diệt độ, Nhưng nay mới tự biết Không phải thật diệt độ. Nếu khi được thành Phật Đủ ba mươi hai tướng, Trời, Người, chúng Dạ-xoa Rồng, Thần đều cung kính, Bấy giờ mới được nói Là dứt hết Vô dư. Phật ở trong đại chúng Nói con sẽ thành Phật Nghe tiếng pháp như vậy Lòng nghi hối đã trừ. Khi mới nghe Phật nói Trong lòng rất kinh nghi Phải chăng ma giả Phật Quấy động lòng ta ư? Phật dùng các thứ duyên Thí dụ khéo giảng giải, Lòng con yên như biển Nghe được dứt lưới nghi. Phật nói thuở quá khứ Vô lượng Phật diệt độ An trú trong phương tiện Cũng đều nói pháp đó. Phật hiện tại, vị lai, Số nhiều cũng vô lượng, Cũng dùng các phương tiện Diễn nói pháp như thế. Như Thế Tôn ngày nay Từ sinh đến xuất gia Đắc đạo chuyển pháp luân Cũng dùng phương tiện nói. Thế Tôn nói thật đạo Ba-tuần không chuyện đó. Vì thế con định chắc Không phải ma giả Phật. Do con sa lưới nghi Cho là ma làm ra. Nghe tiếng Phật êm dịu Sâu xa rất mầu nhiệm Diễn giảng pháp thanh tịnh, Tâm con rất vui mừng. Nghi ngờ tối tăm hết An trụ trong thật trí. Con quyết sẽ thành Phật Được trời, người cung kính Chuyển pháp luân Vô thượng Giáo hóa các Bồ-tát. Lúc bấy giờ Phật bảo Xá-lợi-phất: –Ta nay ở trong hàng Trời, Người, Sa-môn, Bà-la-môn mà nói. Ta xưa từng ở nơi hai vạn ức Phật vì đạo Vô thượng nên giáo hóa ông, và ông cũng đã lâu theo ta thọ học, ta dùng phương tiện đẫn dắt ông sinh vào trong pháp ta. Xá-lợi-phất! Ta xưa kia dạy ông chí nguyện Phật đạo mà nay quên hết lại tự cho là đã được diệt độ. Ta nay muốn khiến ông nhớ lại bản nguyện hành đạo mà vì các Thanh văn nói kinh Đại thừa tên là Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm. Xá-lợi-phất! Ông đến đời vị lai, quá vô lượng, vô biên kiếp số chẳng thể nghó bàn, cúng dường bao nhiêu ngàn vạn ức Phật, phụng trì chính pháp đầy đủ đạo tu hành của Bồ-tát, sẽ thành Phật hiệu Hoa Quang Như Lai, Ứng Cúng, chính Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Tên nước là Ly cấu. Cõi đó bằng thẳng, thanh tịnh đẹp đẽ an vui sung túc, trời, người đông đảo. Đất làm bằng lưu ly, có tám đường giao thông có dây vàng giăng hai bên đường. Mé đường có hàng cây bảy báu thường có hoa quả. Phật Hoa Quang Như Lai cũng dùng ba thừa giáo hóa chúng sinh. Xá-lợi-phất! Khi Phật ra đời tuy không phải đời ác nhưng vì bản nguyện nên nói pháp ba thừa. Kiếp đó tên là Đại bảo trang nghiêm. Vì sao gọi là Đại bảo trang nghiêm? Vì cõi đó xem Bồ-tát là rất quý báu. Các Bồ-tát đó số đông vô lượng, vô biên không thể nghó bàn, tính toán thí dụ cũng không xiết. Trừ trí tuệ của Phật không ai có thể biết được. Mỗi khi đi là có hoa nâng bước. Các Bồ-tát này không phải là hàng mới phát tâm mà đều đã vun trồng cội đức từ lâu, tu phạm hạnh thanh tịnh nơi vô lượng trăm ngàn vạn ức Phật, hằng được chư Phật khen ngợi. Những bậc Bồ-tát thường tu trí tuệ của Phật, đủ sức thần thông lớn, biết rõ tất cả các pháp môn, ngay thật không dối, chí niệm vững bền như vậy đầy khắp cả nước. Xá-lợi-phất! Phật Hoa Quang thọ mười hai tiểu kiếp, trừ lúc còn làm vương tử chưa thành Phật. Nhân dân nước đó thọ tám tiểu kiếp. Qua mười hai tiểu kiếp, Hoa Quang Như Lai thọ ký đạo Vô thượng chính đẳng chính giác cho Bồ-tát Kiên Mãn mà bảo các Tỳ-kheo rằng: “Bồ-tát Kiên Mãn này tiếp theo đây sẽ thành Phật hiệu là Hoa Túc An Hành Như Lai, Ứng Cúng, chính Biến Tri, cõi nước của Phật ấy cũng giống như vậy.” Xá-lợi-phất! Sau khi Phật Hoa Quang đó diệt độ, chính pháp tồn tại ba mươi hai tiểu kiếp, tượng pháp cũng tồn tại ba mươi hai tiểu kiếp. Lúc bấy giờ Thế Tôn muốn làm rõ lại nghĩa trên, nói bài kệ rằng: Xá-lợi-phất đời sau Thành Phật trí cao rộng Tên hiệu là Hoa Quang Sẽ độ vô lượng chúng. Cúng dường vô số Phật Đầy đủ hạnh Bồ-tát, Quá vô lượng kiếp rồi Kiếp tên Đại bảo nghiêm. Cõi nước tên Ly cấu, Trong sạch không vết nhơ, Dùng lưu ly làm đất Dây vàng giăng bên đường. Cây bảy báu sắc đẹp Thường xuyên có hoa quả. Bồ-tát ở cõi đó Chí niệm thường vững bền Thần thông Ba-la-mật Tất cả đều đầy đủ. Nơi vô số chư Phật Học tốt đạo Bồ-tát. Những Đại só như thế Phật Hoa Quang hóa độ. Lúc Phật làm vương tử Rời nước bỏ vinh hoa Ở thân đời sau cùng Xuất gia thành Phật đạo. Phật Hoa Quang trụ thế Thọ mười hai tiểu kiếp, Chúng nhân dân nước đó Sống lâu tám tiểu kiếp. Sau khi Phật diệt độ, Chính pháp trụ ở đời Ba mươi hai tiểu kiếp Rộng độ các chúng sinh. chính pháp diệt hết rồi Tượng pháp cũng ba hai. Xá-lợi phân bố khắp Trời người đều cúng dường. Phật Hoa Quang hóa độ Việc đó là như thế. Đấng Lưỡng Túc Tôn kia Hơn cả không ai bằng Phật ấy tức là ông Nên phải tự vui mừng. Bấy giờ bốn bộ chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, cả đại chúng thấy Xá-lợi-phất ở trước Phật nhận được lời thọ ký sẽ thành Vô thượng chính đẳng chính giác, lòng rất vui mừng vô cùng hớn hở. Mỗi người đều cởi y ngoài đang đắp trên mình mà cúng dường Phật. Thích Đề-hoàn Nhân, các Phạm thiên vương và vô số Thiên tử cũng đem áo trời, hoa trời Mạn-đà-la, Ma-ha mạn-đà-la cúng dường Phật, những chiếc áo trời tung ra trụ lại giữa hư không và xoay tròn, trăm ngàn vạn khúc nhạc trời đồng trổi lên giữa hư không, mưa các thứ hoa trời mà nói rằng: “Phật xưa ở thành Ba-la-nại lần đầu tiên chuyển pháp luân, đến nay mới lại chuyển pháp luân rất lớn Vô thượng.” Lúc đó các Thiên tử muốn làm rõ lại nghĩa trên, nói bài kệ rằng: Xưa ở Ba-la-nại Chuyển pháp luân bốn Đế Phân biệt nói các pháp Sinh diệt của năm nhóm. Nay lại chuyển pháp luân Rất vi diệu Vô thượng. Pháp đó rất sâu mầu Ít có người tin được. Chúng ta từ xưa nay Thường nghe Thế Tôn nói, Chưa từng nghe thượng pháp Thâm diệu như thế này. Thế Tôn nói pháp đó Chúng ta đều tùy hỷ. Đại trí Xá-lợi-phất Nay được Phật thọ ký. Chúng ta cũng như vậy Quyết sẽ được thành Phật, Trong tất cả thế gian Bậc tôn kính cao tột. Phật đạo không nghó bàn Phương tiện tùy nghi nói. Ta bao nhiêu nghiệp phước Đời nay hoặc quá khứ Và công đức thấy Phật Đều hồi hướng Phật đạo. Bấy giờ Xá-lợi-phất bạch Phật rằng: –Bạch Thế Tôn! Con nay không còn tối tăm nghi ngờ nữa, đích thân ở trước Phật được thọ ký thành Vô thượng chính đẳng chính giác. Một ngàn hai trăm vị tâm tự tại đây, lúc xưa ở bậc Hữu học Phật thường dạy rằng: “Pháp của ta có thể lìa sinh, già, bệnh, chết, cứu cánh Niết-bàn.” Các vị Hữu học, Vô học đây cũng đều đã tự lìa bỏ chấp ngã cùng chấp có chấp không, nói là được Niết-bàn nhưng nay ở trước Thế Tôn nghe điều chưa từng nghe đều sa vào nghi lầm. Hay thay Thế Tôn! Xin Phật vì bốn chúng nói nhân duyên đó khiến lìa nghi hối. Bấy giờ Phật bảo Xá-lợi-phất: –Ta trước đâu không nói rằng chư Phật Thế Tôn dùng các nhân duyên, ngôn từ, thí dụ phương tiện mà nói pháp đều là đạo Vô thượng chính đẳng chính giác ư? Những điều nói đó đều để dạy Bồ-tát. Nhưng Xá-lợi-phất! Nay ta sẽ dùng một thí dụ để chỉ rõ lại nghĩa đó. Những người có trí sẽ do thí dụ mà hiểu được. Xá-lợi-phất! Như trong một làng nọ ở một nước kia có vị Đại trưởng giả tuổi đã già, có của cải ruộng vườn nhà cửa tôi tớ nhiều không kể xiết. Nhà người này rộng lớn nhưng chỉ có một cửa ra vào. Trong nhà người rất đông, có đến một trăm, hai trăm hay năm trăm người. Lầu gác đã mục, tường xiêu vách đổ, chân cột mục nát, trính xiêng xiêu vẹo, đột nhiên bốn phía cùng một lúc lửa bốc lên đốt cháy ngôi nhà. Các con của trưởng giả đông đến mười người, hoặc hai mươi người, hoặc ba mươi người đang ở trong nhà đó. Trưởng giả thấy lửa từ bốn phía nhà cháy lên, kinh sợ nghó rằng: “Ta tuy có thể từ nơi cửa nhà cháy này thoát ra ngoài rất yên ổn, nhưng các con đang ở trong nhà lửa ham vui chơi không hay, không biết sợ sệt, nếu lửa cháy đến thân thì đau khổ lắm, thế mà con ham chơi không chán, không biết tìm cách thoát ra.” Xá-lợi-phất! Vị trưởng giả đó lại nghó: Thân và tay ta có sức mạnh, ta nên dùng vạt áo hoặc dùng bàn ghế để từ nhà mà thoát ra ngoài. Lại nghó: “Nhà này chỉ có một cửa, lại hẹp nhỏ, các con thì còn nhỏ chưa hiểu, mê đắm ham chơi, nếu vấp ngã sẽ bị lửa đốt cháy. Ta nên vì chúng nói cho biết những việc đáng sợ.” Nhà này đang cháy phải mau ra liền chớ để lửa cháy hại thân. Nghó thế rồi theo suy nghó đó mà bảo các con: –Các con ra mau! Dù cha thương xót khéo nói dụ dỗ mà các con cứ mãi vui chơi không chịu tin, chẳng biết sợ, không có ý muốn ra, cũng chẳng hiểu lửa là gì, nhà là gì, hại là thế nào, cứ chạy Đông, chạy Tây chơi đùa nhìn cha mà thôi. Bấy giờ trưởng giả liền nghó: “Nhà này bị lửa cháy to, ta cùng các con nếu không thoát ra kịp thời chắc sẽ chết cháy. Nay ta nên bày chước phương tiện cho các con thoát khỏi nạn này.” Người cha biết các con từ trước vốn thích các đồ chơi quý báu hiếm lạ liền bảo các con rằng: –Đây là những đồ chơi ít có khó kiếm được, nếu các con không ra lấy sau sẽ ăn năn đấy. Nay các thứ xe dê, xe nai, xe trâu đều đang ở trước cửa có thể dùng dạo chơi. Các con trong nhà lửa hãy mau ra đây. Tùy ý các con, cha sẽ cho hết! Lúc bấy giờ những người con nghe cha nói có đồ chơi báu đẹp thích ý nên ai nấy mau lẹ xô đẩy tranh nhau ra khỏi nhà lửa. Khi đó trưởng giả thấy các con yên ổn thoát ra khỏi nhà lửa đang ở trên đường ngả tư ngồi nơi đất trống không còn trở ngại, lòng khoan khoái vui mừng. Bấy giờ những người con đều thưa cha rằng: –Trước đây cha hứa cho những đồ chơi tốt đẹp như xe dê, xe nai, xe trâu, vậy xin hãy cho chúng con. Xá-lợi-phất! Khi đó trưởng giả cho các con đồng đều một thứ xe lớn. Xe đó cao rộng trang hoàng các vật quý báu, lan can bao quanh, chuông treo bốn phía, trên có giăng màn che lọng cũng trang trí các thứ quý hiếm, kết bằng dây báu thả tua rủ xuống, lót nệm êm kê gối đỏ, kéo xe bằng trâu trắng, sắc da khoẻ mạnh, hình dáng đẹp đẽ có sức mạnh, bước đi ngay thẳng và nhanh như gió, lại có nhiều tôi tớ đi theo hầu hạ. Bởi vì sao? Vì trưởng giả đó giàu có của cải vô lượng, chứa đầy kho tàng nghó rằng: “Của cải của ta nhiều vô cùng cực, không nên dùng xe nhỏ xấu kém mà cho các con. Nay những trẻ thơ này đều là con của ta, ta yêu đồng đều không thiên lệch. Ta có xe bảy báu như thế số nhiều vô lượng, nên đem lòng bình đẳng mà cho chúng đồng đều không nên sai khác.” Bởi vì sao? Dù đem những thứ này cho khắp cả người trong một nước cũng không thiếu huống gì các con. Lúc ấy các người con đều đi xe lớn, được điều chưa từng có, không phải như mong muốn trước kia. Xá-lợi-phất! Ý ông nghó sao? Trưởng giả đó đem xe châu báu lớn cho các con đồng đều là dối gạt chăng? Xá-lợi-phất thưa: –Bạch Thế Tôn, không! Trưởng giả đó chỉ muốn làm cho các người con được toàn mạng khỏi bị lửa cháy, không phải là dối gạt. Bởi vì sao? Nếu được toàn mạng tức đã được đồ chơi tốt đẹp. Huống nữa đó lại là phương tiện dùng để cứu thoát ra khỏi nhà lửa. Bạch Thế Tôn! Dẫu trưởng giả đó không cho một thứ xe nhỏ nào đi nữa cũng chẳng phải dối gạt. Bởi vì sao? Vì trước đó, trưởng giả có nghó như thế này: “Ta dùng chước phương tiện cho các con được ra khỏi. Vì nhân duyên đó nên không phải là dối gạt.” Huống nữa trưởng giả tự biết mình giàu có của cải vô lượng, muốn lợi ích các con mà đều cho xe lớn. Phật bảo Xá-lợi-phất: –Hay thay, hay thay, như lời ông nói! Xá-lợi-phất! Như Lai cũng vậy. Phật là cha của tất cả thế gian, vónh viễn dứt sạch không còn các sự sợ hãi, sầu não, lo buồn, vô minh che tối, mà thành tựu trọn vẹn vô lượng tri kiến, trí lực, không sợ hãi, có sức thần thông lớn cùng sức trí tuệ, đầy đủ các phương tiện, Trí tuệ ba-la-mật, đại Từ, Đại Bi thường không biếng trễ mệt mỏi. Chỉ vì cầu việc thiện lợi ích cho tất cả muôn loài mà sinh vào nhà lửa tam giới cũ mục này để độ chúng sinh khỏi nạn lửa sinh, già, bệnh, chết, lo buồn khổ não, ngu si tối tăm, ba độc, giáo hóa chúng sinh được Vô thượng chính đẳng chính giác. Ta thấy chúng sinh bị những sinh, già, bệnh, chết, lo buồn khổ não đốt cháy, lại vì năm thứ dục vọng tài lợi mà bị các khổ. Lại vì tham mê đeo đuổi tìm cầu nên hiện đời này chịu các điều khổ, đời sau chịu khổ nơi địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ. Nếu sinh lên trời và trong loài người thì nghèo cùng khốn khổ, bị khổ vì nỗi xa lìa người yêu thương, gặp gỡ kẻ oán ghét. Chúng sinh chìm trong các khổ như thế, mà cứ vui vẻ rong chơi không hay không biết, không kinh sợ, cũng không sinh lòng nhàm chán, không cầu giải thoát, ở trong nhà lửa tam giới này chạy Đông, chạy Tây dầu khổ mấy cũng chẳng biết lo. Xá-lợi-phất! Phật thấy vậy bèn nghó rằng: “Ta là cha của chúng sinh, nên cứu chúng ra khỏi nạn khổ đó, ban cho vô lượng, vô biên trí tuệ an lạc của Phật cho chúng được vui.” Xá-lợi-phất! Như Lai lại nghó: “Nếu ta chỉ dùng sức thần thông cùng sức trí tuệ, bỏ không dùng phương tiện, mà vì chúng sinh khen ngợi các tri kiến, trí lực, vô sở úy của Như Lai, ắt chúng sinh sẽ không thể do đó mà được độ.” Bởi vì sao? Vì các chúng sinh đó chưa thoát khỏi sự sinh, già, bệnh, chết, lo buồn đau khổ, đang chịu sự thiêu đốt trong nhà lửa tam giới, làm sao có thể hiểu được trí tuệ của Phật. Xá-lợi-phất! Như vị trưởng giả kia dầu thân và tay có sức mạnh nhưng không sử dụng, chỉ ân cần dùng phương tiện gắng cứu các con thoát nạn nhà lửa, rồi sau đó đều cho xe châu báu lớn. Như Lai cũng vậy, dầu có trí lực và sức vô úy nhưng không dùng đến, chỉ dùng trí tuệ phương tiện cứu thoát chúng sinh ra khỏi nhà lửa tam giới, vì chúng sinh nói ba thừa Thanh văn, Duyên giác cùng Phật thừa, mà bảo rằng: –Các ngươi không nên thích ở trong nhà lửa tam giới, chớ có ham mê các thứ sắc, thanh, hương, vị, xúc thô hèn. Nếu ham mê ắt sinh ái nhiễm rồi sẽ bị đốt cháy. Các ngươi mau ra khỏi ba cõi sẽ được chứng ba thừa là Thanh văn, Duyên giác và Phật thừa. Nay ta vì các người mà bảo nhiệm việc đó quyết không dối gạt, các người chỉ nên siêng năng tinh tấn tu hành. Như Lai dùng phương tiện ấy để dụ dẫn chúng sinh, lại bảo: –Các người nên biết rằng pháp ba thừa đó đều là pháp các bậc Thánh khen ngợi, là pháp tự tại không bị ràng buộc, không còn phải nương cậy tìm cầu, ở trong ba thừa này dùng các Căn, Lực, Giác chi, Thánh đạo, Thiền định vô lậu cùng giải thoát Tam-muội để tự vui, được vô lượng yên ổn khoái lạc. Xá-lợi-phất! Nếu có chúng sinh tự có trí tính, theo Phật Thế Tôn nghe pháp tin nhận, ân cần tinh tấn muốn mau ra khỏi ba cõi tự cầu chứng Niết-bàn thì đó là hạng Thanh văn thừa, như các người con kia vì muốn có xe dê mà ra khỏi nhà lửa. Nếu có chúng sinh theo Phật Thế Tôn nghe pháp tin nhận rồi ân cần tinh tấn, cầu trí tuệ tự nhiên, ưa thích sự đơn độc vắng lặng, hiểu sâu nhân duyên các pháp, thì đó là hạng Duyên giác thừa, như các người con kia vì muốn được xe nai mà ra khỏi nhà lửa. Nếu có chúng sinh theo Phật Thế Tôn nghe pháp tin nhận siêng tu tinh tấn cầu Nhất thiết trí, Phật trí, Tự nhiên trí, Vô sư trí, các sức tri kiến, vô úy của Như Lai, có lòng thương xót làm an vui cho vô lượng chúng sinh, lợi ích Trời, Người, độ thoát tất cả, hạng đó gọi là Đại thừa, Bồ-tát vì cầu thừa này nên gọi là Ma-ha-tát, như các người con kia vì cầu xe trâu mà ra khỏi nhà lửa. Xá-lợi-phất! Như vị trưởng giả kia thấy các con được yên ổn ra khỏi nhà lửa đến nơi không còn sự sợ hãi, tự nghó rằng ta của cải giàu vô lượng, nên bình đẳng đem xe lớn đồng đều cho các con. Như Lai cũng vậy, là cha mẹ của tất cả chúng sinh, nếu thấy có vô lượng ngàn ức chúng sinh do cửa Phật dạy mà thoát khỏi khổ đường hiểm đáng sợ của ba cõi được an vui Niết-bàn. Bấy giờ Như Lai bèn nghó: “Ta có vô lượng, vô biên trí tuệ, lực, vô úy… tạng pháp của chư Phật, các chúng sinh đều là con của ta, đồng ban cho pháp Đại thừa, không chỉ riêng một người nào được diệt độ, đều đem pháp diệt độ của Như Lai mà diệt độ cho tất cả.” Những chúng sinh đã thoát khỏi ba cõi đó, Phật đều cho những cái vui thiền định, giải thoát… của chư Phật, các thứ đó đều là một tướng, một loại mà các bậc Thánh khen ngợi, có khả năng phát sinh cái vui thanh tịnh nhiệm mầu bậc nhất. Xá-lợi-phất! Như vị trưởng giả dùng ba thứ xe dẫn dụ các con, sau rồi chỉ ban cho xe lớn vật báu trang nghiêm, an ổn bậc nhất, song vị trưởng giả kia không có lỗi lừa dối. Như Lai cũng vậy, không lừa dối, nói ba thừa để dẫn dắt chúng sinh rồi sau chỉ dùng Đại thừa mà độ thoát. Bởi vì sao? Như Lai có vô lượng tạng pháp trí tuệ, lực, vô sở úy, có thể ban pháp Đại thừa cho tất cả chúng sinh, chỉ vì chúng sinh không thọ nhận được hết. Xá-lợi-phất! Vì nhân duyên đó nên phải biết rằng chư Như Lai dùng sức phương tiện ở nơi một Phật thừa phân biệt nói thành ba. Phật muốn làm rõ lại nghĩa trên nói bài kệ rằng: Thí như trưởng giả Có một nhà lớn Nhà đó cũ lâu Mà lại hư nát Phòng nhà cao lớn Chân cột gãy mục Trính xiêng xiêu vẹo Nền móng nát rã Vách tường sụp đổ Vữa hồ rơi rớt Tranh lợp vung vãi Kèo đòn sai khớp Bốn bề cong vạy Đầy những uế tạp. Có năm trăm người Đang ở trong đó. Xi, hiêu, điêu, thứu, Ô, thước, cưu, cáp, Rắn độc, bò cạp Rết cùng trùng bọ, Thủ cung, bá túc, Chồn cáo cùng chuột, Các giống độc trùng Chạy ngang chạy dọc Phóng uế hôi thối Bất tịnh tràn trề, Bọ hung ruồi nhặng Bu đầy trên đó. Cáo sói, dã can Liếm ăn dày đạp Cắn xé thây chết Thịt xương bừa bãi. Bầy chó kéo đến Giành xé ngoạm táp. Ốm đói sợ sệt Chốn chốn kiếm ăn, Giành giật cấu cắn Gầm gừ gào sủa, Nhà đó đáng sợ Biến trạng dường ấy. Khắp nơi đều có Quỷ quái yêu tinh, Dạ-xoa quỷ dữ Ăn cả thịt người. Các loài độc trùng Cầm thú hung ác Ấp trứng sinh con Đều lo giấu giữ. Dạ-xoa đua đến Giành bắt mà ăn. Ăn no nê rồi Lòng dữ thêm hăng, Tiếng gấu ó nhau Thật là dễ sợ. Quỷ Cưu-bàn-trà Ngồi xổm trên đất, Có lúc cách đất Một hay hai thước, Dạo qua đi lại Vui đùa trửng giỡn, Nắm hai chân chó Đánh la thất thanh, Lấy chân đạp cổ Dọa chó làm vui. Lại có giống quỷ Thân rất cao lớn Trần truồng đen điu Thường luôn trong đó Tiếng gầm hung ác Kêu la kiếm ăn. Lại có giống quỷ Cổ nhỏ bằng kim. Lại có giống quỷ Đầu như đầu trâu. Hoặc ăn thịt người Hoặc ăn thịt chó. Đầu tóc rối tung Tàn ác hung hiểm, Đói khát bức bách Vừa la vừa chạy. Dạ-xoa quỷ đói Chim muông ác độc Đói gấp rảo chạy Rình nơi cửa sổ, Tai nạn dường ấy Ghê sợ vô cùng. Nhà cũ mục đó Là của một người. Người ấy thoát khỏi Chưa được bao lâu Ngôi nhà sau đó Bỗng nhiên phát hỏa Bốn bề cùng lúc Lửa đều cháy rực. Rường cột trính xiêng Tiếng nổ vang động, Nát gãy rơi xuống Vách tường sụp đổ. Các loại quỷ thần Cất tiếng kêu to. Các chim điêu, thứu Quỷ Cưu-bàn-trà Kinh sợ tán loạn Cũng không ra được. Thú dữ trùng độc Núp trong hang ổ Quỷ Tỳ-xá-xà Cũng ở trong đó. Vì kém phước đức Bị lửa đốt gấp, Tàn hại lẫn nhau Uống máu ăn thịt. Những loại dã can Đều đã chết trước. Các thú dữ lớn Giành nhau đến ăn Mùi hôi ngùn ngụt Tỏa khắp bốn bề. Ngô công, do diên Cùng loài rắn độc Bị lửa đốt cháy Tranh nhau chui ra. Bàn-trà rình chờ Bắt lấy ăn thịt. Lại có ngạ quỷ Trên đầu lửa cháy Đói khát nóng khổ Sảng sốt cắn chạy. Nhà lửa dường ấy Rất đáng ghê sợ. Độc hại hỏa tai Không chỉ một nạn. Bấy giờ chủ nhà Đứng ở ngoài cửa Nghe có người mách: Các con của ông Trước nhân dạo chơi Mà vào nhà này. Trẻ con không biết Chỉ ưa ham vui. Trưởng giả nghe xong Sợ vào nhà lửa, Tìm phương cứu giúp Con khỏi chết cháy. Dụ bảo các con Nói rõ hoạn nạn: Ác quỷ độc trùng Hỏa tai lan cháy. Các khổ lần lượt Nối tiếp không dứt. Rắn độc, bò cạp Và quỷ Dạ-xoa Cùng Cưu-bàn-trà Dã can, chồn, chó, Điêu, thứu, xi, hiêu Cùng loài bá túc Đói khát khổ ngặt Thật đáng ghê sợ Những khổ nạn này Huống là lửa lớn. Các con không hiểu, Dầu nghe cha dạy Cứ vẫn ham mê Vui chơi không nghỉ. Bấy giờ trưởng giả Bèn nghó thế này: “Các con như thế Ta thêm sầu não. Nay trong nhà này Không có chi vui Vậy mà các con Ham mê du hý, Chẳng nghe lời ta Sẽ bị lửa hại.” Bèn lại suy nghó: “Lập chước phương tiện” Bảo các con rằng: Cha có nhiều thứ Đồ chơi hiếm lạ Xe báu tốt đẹp Xe dê, xe nai Và xe trâu lớn Hiện ở ngoài cửa. Các con mau ra. Cha vì các con Sắm những xe ấy. Tùy theo ý thích Có thể dạo chơi. Các con nghe nói Các thứ xe này, Tức thời đua nhau Chạy ra khỏi nhà Đến nơi đất trống Thoát khỏi khổ nạn. Trưởng giả thấy con Ra khỏi nhà lửa Ở nơi ngã tư Ngồi tòa Sư tử. Bèn tự mừng rằng, Ta nay rất vui. Các con ta đây Đẻ nuôi khó lắm. Nhỏ dại không hiểu Vào nhà hiểm nguy Có nhiều trùng độc Quỷ mị đáng sợ. Lửa lớn cháy dữ Bốn phía bốc lên Mà các con này Ham vui du hý. Nay ta đã cứu Khiến được thoát nạn. Vì thế các người, Ta nay rất vui. Khi ấy các con Biết cha an tọa, Liền đến bên cha Thưa cùng cha rằng: Xin cho chúng con Ba thứ xe báu Như cha đã hứa Các con ra mau Sẽ cho ba xe Tùy các con muốn. Bây giờ là lúc Xin cha hãy cho! Trưởng giả đại phú Kho lẫm rất nhiều Vàng, bạc, lưu ly, Xa cừ, mã não, Dùng những vật báu Đóng thành xe lớn, Chưng dọn trang nghiêm. Lan can chung quanh, Treo chuông bốn mặt, Dây vàng đan thắt, Mành lưới ngọc trai Giăng phủ phía trên. Hoa vàng chuỗi ngọc Thả rủ đều khắp. Các thứ trang sức Khắp bốn chung quanh. Hàng nhiễu mềm mại Dùng làm nệm lót. Vải quý mịn tốt Giá đến ngàn vạn, Trắng sạch bóng láng Dùng để trải nệm. Có trâu trắng lớn Mập mạp sức mạnh, Thân hình đẹp đẽ Kéo xe báu đó. Đông đảo tôi tớ Hầu hạ giữ gìn. Đem xe đẹp này Cho đều các con. Các con lúc ấy Vui mừng hớn hở Đi xe báu đó Dạo khắp bốn phương Vui chơi sung sướng Tự tại không ngại. Xá-lợi-phất này! Ta cũng như vậy. Chúng Thánh đều tôn, Cha lành thế gian. Tất cả chúng sinh Đều là con ta. Say mê thế lạc Không chút tuệ tâm. Ba cõi không an Như là nhà lửa. Khổ nạn dẫy đầy Thật là đáng sợ. Thường có sinh, già, Bệnh, chết, âu lo. Các thứ lửa ấy Hừng hực không tắt. Như Lai đã lìa Nhà lửa ba cõi. Vắng lặng thong thả An ổn trong rừng. Nay ba cõi này Đều là của ta. Chúng sinh trong đó Cũng là con ta. Mà nay nơi đây Có nhiều hoạn nạn. Chỉ một mình ta Có thể cứu được. Cho dầu dạy bảo Mà vẫn không tin. Nơi các dục nhiễm Tham mê sâu đậm. Nên lập phương tiện Vì nói ba thừa, Khiến các chúng sinh Biết khổ ba cõi Mở bày diễn nói Pháp xuất thế gian. Các người con đó Nếu tâm quyết định, Đầy đủ tam minh Và sáu thần thông, Người được Duyên giác Bất thoái Bồ-tát. Xá-lợi-phất này! Ta vì chúng sinh, Dùng thí dụ này Nói một Phật thừa. Các ông có thể Tin nhận lời này. Tất cả đều sẽ Thành được Phật đạo. Phật thừa vi diệu Thanh tịnh đệ nhất. Trong các thế gian Không pháp nào hơn, Được Phật vui lòng, Tất cả chúng sinh, Đều nên khen ngợi, Cúng dường lễ bái, Vô lượng ngàn ức Các sức, giải thoát, Thiền định, trí tuệ Cùng Phật pháp khác. Được thừa như thế Khiến cho các con, Ngày đêm kiếp số Thường được vui chơi Cùng các Bồ-tát Với chúng Thanh văn Đi xe báu này Thẳng đến đạo tràng. Vì nhân duyên đó Tìm khắp mười phương, Không thừa nào khác, Trừ Phật phương tiện, Bảo Xá-lợi-phất Tất cả các ông Đều là con ta, Ta là cha lành. Các ông nhiều kiếp Bị khổ thiêu đốt, Ta đều cứu vớt Ra khỏi ba cõi. Trước tuy có nói Các ngươi diệt độ. Chỉ hết sinh tử Nhưng thật chẳng diệt, Nay việc phải làm Chỉ trí tuệ Phật. Nếu có Bồ-tát Ở trong chúng này Nhất tâm lắng nghe Pháp thật chư Phật, Chư Phật Thế Tôn Tuy dùng phương tiện, Chúng sinh được độ Đều là Bồ-tát. Nếu người trí nhỏ Quá mê ái dục, Vì những hạng này Nói lý Khổ đế. Chúng sinh lòng mừng Được chưa từng có. Phật nói Khổ đế Chân thật không khác. Nếu có chúng sinh Không biết gốc khổ Đắm sâu Khổ nhân Không thể tạm bỏ, Vì hạng người này Dùng phương tiện nói Nguyên nhân các khổ Tham dục là gốc. Nếu dứt tham dục Khổ không chỗ bám. Dứt hết các khổ Là Đế thứ ba. Để chứng Diệt đế Tu hành Đạo đế, Lìa khổ trói buộc Đó là giải thoát. Người đó pháp gì Mà nói giải thoát? Chỉ lìa hư vọng Gọi là giải thoát, Kỳ thật chưa phải Giải thoát tất cả. Phật nói người đó Chưa thật diệt độ. Là vì chưa được Đạo quả Vô thượng. Yù ta không muốn Khiến đến diệt độ. Ta là Pháp vương Các pháp tự tại. An ổn chúng sinh Nên hiện ra đời. Này Xá-lợi-phất! Pháp ấn ta đây, Vì muốn lợi ích Thế gian nên nói. Đi qua nơi đâu Chớ vọng tuyên truyền. Nếu có người nghe Tùy hỷ kính nhận, Phải biết người ấy Là không thoái chuyển. Nếu có người tin Nhận kinh pháp này, Người đó đã từng Thấy Phật quá khứ, Cung kính cúng dường Cũng nghe pháp ấy. Người nào có thể Tin lời ông nói Tức là thấy ta Cũng là thấy ngươi Cùng chúng Tỳ-kheo Và các Bồ-tát. Nay kinh Pháp Hoa Vì người trí nói. Trí cạn nghe kinh Mê lầm không hiểu. Tất cả Thanh văn Cùng Bích-chi-phật Với kinh pháp này Sức không hiểu được. Xá-lợi-phất, ngươi Đối với kinh này, Nhờ tin mà được Huống chi Thanh văn. Các Thanh văn khác Do tin lời Phật Tùy thuận kinh này Chẳng phải trí mình. Này Xá-lợi-phất! Kẻ kiêu, biếng lười, Vọng chấp ngã kiến Chớ nói kinh này. Phàm phu hiểu cạn Quá mê năm dục, Nghe sẽ không hiểu, Cũng chẳng nên nói. Nếu người không tin, Chê bai kinh này Là dứt tất cả Giống Phật ở đời. Có kẻ cau mày Lòng ôm nghi hoặc, Ông nên lắng nghe Tội báo người đó: Hoặc Phật tại thế, Hoặc sau diệt độ, Nếu có chê bai Kinh điển như vậy, Thấy người đọc tụng Thọ trì kinh ấy, Khinh bỉ ghét ganh Ôm lòng kết hận, Tội báo người đó Ông hãy lắng nghe: Người đó mạng chung Vào ngục A-tỳ. Đủ một kiếp rồi, Hết kiếp lại sinh. Xoay vần như thế Đến vô số kiếp. Từ địa ngục ra, Đọa vào súc sinh. Làm chó, dã can. Thân thể ốm gầy, Đen điu ghẻ lác, Bị người chọc phá, Lại còn bị người Nhờm gớm ghét bỏ. Thường ngày đói khát Xương thịt héo khô. Sống chịu khổ sở Chết bị gạch đá. Vì dứt giống Phật Chịu tội báo đó. Hoặc sinh lạc đà, Hoặc sinh giống lừa, Thân thường chở nặng Còn bị đánh đập. Chỉ biết nước cỏ Không biết gì khác. Vì khinh kinh này Mắc tội như vậy. Khi làm dã can Vào trong làng xóm, Thân đầy ghẻ lác Lại chột một mắt. Bị trẻ bao vây Đánh đập liệng ném. Chịu nhiều khổ đau Có lúc đến chết. Vừa chết đây rồi Lại làm thân rắn. Thân hình dài lớn Năm trăm do-tuần. Ngây điếc không chân Trườn đi bằng bụng. Bị loài trùng nhỏ Cắn rút thịt máu, Khổ sở ngày đêm Không chút ngừng nghỉ. Khinh chê kinh này Mắc tội như vậy. Nếu sinh làm người Các căn ám độn Lùn xấu què quặt, Đui điếc lưng gù. Nói ra lời gì, Người chẳng tin nghe. Hơi miệng thường hôi, Qủy mị dựa nhập. Nghèo cùng hèn hạ Bị người sai khiến, Nhiều bệnh gầy ốm Không chỗ cậy nhờ. Dẫu nương tựa người Chẳng ai để ý. Có được điều chi, Tức thì quên mất. Nếu học nghề thuốc Trị bệnh đúng phương, Bệnh lại nặng thêm Có khi chí tử. Nếu tự mình bệnh Không kẻ chữa lành. Dẫu uống thuốc hay Bệnh càng thêm nặng. Có người phản nghịch, Trộm đạo, cướp giật, Những tội như vậy Lại bị vạ lây. Các tội nhân này Hằng không thấy Phật Là vua các Thánh Thuyết pháp dạy bày. Các tội nhân đây Thường sinh xứ nạn. Tai điếc, cuồng loạn, Không được nghe kinh. Trải vô số kiếp Như cát sông Hằng. Sinh liền điếc câm Các căn chẳng đủ. Thường ở địa ngục, Như dạo vườn nhà. Còn ác đạo khác Như nhà cửa mình. Đà, lừa, heo, chó Là chốn vãng lai. Khinh chê kinh này Mắc tội thế đó. Nếu sinh làm người Điếc, đui, câm, ngọng. Nghèo cùng suy kém Lấy đó làm oai. Phù thũng, khô gầy Ung thư, ghẻ lác. Các bệnh trên đây Như là y phục. Người thường hôi hám, Nhơ nhớp bầy hầy. Chấp ngã sâu dày Lại thêm hờn giận. Dâm dục hừng hẫy Cầm thú chẳng chừa. Vì khinh kinh này Mắc tội dường ấy. Này Xá-lợi-phất! Khinh chê kinh này Nếu kể tội ra Mãn kiếp không hết. Vì nhân duyên đó Ta đã bảo ngươi Với người vô trí Chớ nói kinh này. Nếu kẻ lợi căn Trí tuệ sáng suốt Học rộng nhớ lâu Mong cầu Phật đạo. Với hạng người này Thì mới nên nói. Nếu người đã thấy Trăm ngàn ức Phật. Trồng các cội lành, Thâm tâm bền vững. Với hạng người này Thì mới nên nói. Nếu người tinh tấn Thường tu lòng Từ Không tiếc thân mạng Thì mới nên nói. Nếu người cung kính Không sinh lòng khác, Xa lìa phàm phu Riêng ở núi đầm. Với hạng người này Thì mới nên nói. Xá-lợi-phất này! Nếu thấy có người, Bỏ ác tri thức Gần gũi bạn lành. Với hạng người này Thì mới nên nói. Nếu thấy Phật tử Giữ giới trong sạch Như ngọc minh châu Cầu kinh Đại thừa. Với hạng người này Thì mới nên nói. Nếu người không giận Chân chất dịu hòa. Thương yêu mọi loài Cung kính chư Phật. Với hạng người này Thì mới nên nói. Lại có Phật tử Ở trong đại chúng, Đem tâm thanh tịnh Các thứ nhân duyên, Thí dụ, ngôn từ Thuyết pháp không ngại. Với hạng người này Thì mới nên nói. Nếu có Tỳ-kheo Vì Nhất thiết trí, Bốn phương cầu pháp Chắp tay kính thọ, Chỉ muốn thọ trì Đại thừa kinh điển. Cho đến không thọ Kệ kinh nào khác. Với hạng người này Thì mới nên nói. Có người chí tâm Cầu Xá-lợi Phật, Cầu kinh cũng vậy. Được rồi lễ thọ. Người đó chẳng còn Cầu kinh nào khác. Cũng chưa hề nghó Đến sách ngoại đạo. Với hạng người này Thì mới nên nói. Xá-lợi-phất này! Ta nói các tướng Của người cầu đạo Mãn kiếp không hết. Những hạng người này Mới tin hiểu được. Ông nên vì họ Nói kinh Pháp Hoa.  <詞 id="83085195">Phẩm 4: TÍN GIẢI Lúc bấy giờ Tuệ mạng Tu-bồ-đề, Đại Ca-chiên-diên, Đại Ca-diếp, Đại Mục-kiền-liên được nghe Phật nói pháp chưa từng có. Xá-lợi-phất, được Thế Tôn thọ ký sẽ thành Vô thượng chính đẳng chính giác, lòng sinh hy hữu hớn hở vui mừng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy chỉnh đốn y phục, trịch vai áo bên phải, quỳ gối bên phải chấm đất chắp tay nhất tâm cúi mình cung kính chiêm ngưỡng dung nhan Phật mà bạch rằng: –Chúng con đứng đầu trong Tăng chúng, tuổi tác già nua, tự cho đã được Niết-bàn không còn gì kham nhiệm được nữa, cũng chẳng còn cầu tiến Vô thượng chính đẳng chính giác. Thế Tôn thuở trước nói pháp đã lâu. Lúc đó chúng con ở nơi chỗ ngồi thân thể mỏi mệt, chỉ nhớ nghó đến không, vô tướng, vô tác. Còn đối với các pháp du hý thần thông, thanh tịnh cõi Phật, độ thoát chúng sinh của Bồ-tát thì lòng chúng con không ưa thích. Bởi vì sao? Thế Tôn khiến chúng con ra khỏi ba cõi được chứng Niết-bàn. Nay tuổi đã già nua, đối với đạo Vô thượng chính đẳng chính giác Phật dạy cho Bồ-tát, chúng con không hề sinh một ý nghó nào ham thích. Hôm nay ở trước Phật nghe thọ ký cho Thanh văn sẽ được Vô thượng chính đẳng chính giác, chúng con lòng rất vui mừng, được pháp chưa từng có. Không ngờ hôm nay bỗng nhiên được pháp hy hữu, tự thấy may mắn được lợi ích lớn quý báu vô lượng không cầu mà được. Bạch Thế Tôn! Hôm nay chúng con muốn nói thí dụ để làm rõ nghĩa đó. Ví như có người tuổi còn thơ bé bỏ cha trốn đi qua ở lâu nơi nước khác hoặc mười, hai mươi đến năm mươi năm. Người đó lớn lên nghèo cùng khốn khổ, rong ruổi bốn phương để cầu cơm áo, lần hồi không ngờ trở về bản quốc. Người cha từ trước đến nay tìm con không được, dừng lại ở một thành nọ. Nhà người này giàu lớn, của báu vô lượng, kho lẫm đầy những vàng, bạc, lưu ly, san hô, hổ phách, pha lê, châu ngọc, tôi tớ người hầu rất đông, voi, ngựa, xe cộ, bò, dê nhiều vô số, lợi tức xuất nhập đến các nước khác, khách thương buôn bán cũng rất đông đảo. Bấy giờ gã nghèo cùng kia lang thang qua các xóm làng trong nước, lần hồi đến thành nơi người cha ở. Người cha hằng nhớ con, cùng con ly biệt hơn năm mươi năm mà không hề nói cho ai biết chuyện đó, chỉ tự suy nghó ôm lòng hối hận. Ông tự nghó mình đã già cả, nhà có nhiều của cải vàng bạc trân báu tràn đầy kho lẫm, không con cái một mai chết đi, của cải thất thoát chẳng biết giao cho ai, cho nên lúc nào cũng nghó đến con. Ông lại nghó nếu gặp được con giao phó của cải sẽ thản nhiên khoái lạc không còn âu lo. Thưa Thế Tôn! Bấy giờ gã cùng tử làm thuê làm mướn lần hồi không ngờ đến nhà người cha đứng bên cửa, xa trông thấy cha ngồi giường sư tử, ghế báu đỡ chân, Bà-la-môn, Sát-đế-lợi, Cư só bao quanh cung kính. Trên người trang sức chuỗi ngọc trai giá trị ngàn vạn, người hầu hạ, kẻ tôi tớ cầm phất trần đứng hầu hai bên. Trên che màn báu, cờ phướn thả rủ, nước thơm rưới đất rải các danh hoa, vật báu chưng bày la liệt. Phát ra, thâu vào, lấy, cho đủ thứ, oai đức rất tôn nghiêm. Gã cùng tử thấy cha có thế lực lớn liền sinh lòng lo sợ, hối hận sao đã đến đây. Gã thầm nghó: “Ông này chắc là vua, không thì cũng bằng vua. Đây chẳng phải là nơi ta làm thuê để kiếm được gì. Chi bằng ta qua xóm nghèo, có chỗ để ta ra sức làm kiếm cái ăn cái mặc. Nếu ở đây lâu ắt người ta sẽ cưỡng bức bắt ta làm việc.” Nghó vậy rồi, gã rảo bước bỏ đi. Bấy giờ trưởng giả ngồi nơi tòa sư tử trông thấy con liền nhớ ra, lòng rất vui mừng tự nghó: “Của cải kho tàng của ta nay đã có người giao phó rồi. Ta thường nghó nhớ đứa con này nhưng không tìm ra. Nay bỗng dưng nó tự đến, ta thật toại nguyện. Ta dẫu tuổi già vẫn còn tham tiếc.” Rồi sai người đuổi theo bắt lại. Lúc ấy sứ giả vội chạy đi bắt. Gã cùng tử kinh ngạc kêu oan: –Tôi không xúc phạm gì, sao lại bắt tôi? Sứ giả cứ cưỡng bách bắt đem về. Khi đó gã cùng tử tự nghó không có tội chi mà bị bắt, chắc là phải chết, lại càng sợ hơn, ngất xỉu ngã xuống đất. Người cha từ xa trông thấy bèn bảo sứ giả: –Ta không cần người đó nữa, chớ cưỡng ép đem lại đây, lấy nước lạnh rưới lên mặt cho nó tỉnh lại và đừng nói gì hết. Vì sao vậy? Cha biết con mình ý chí thấp kém, sự giàu sang của mình làm con khiếp sợ. Biết chắc là con mình rồi bèn dùng phương tiện, không cho ai biết là con của mình. Sứ giả bảo gã cùng tử: –Nay ta cho ngươi đi đâu tùy ý. Gã cùng tử vui mừng được điều chưa từng có, từ dưới đất đứng dậy, đi qua xóm nghèo để kiếm cơm áo. Bấy giờ trưởng giả muốn dụ dẫn người con, bày chước phương tiện thầm sai hai người hình sắc tiều tụy không có oai đức rằng: –Hai ngươi qua đó từ từ nói với gã cùng tử rằng ở đây có chỗ làm trả công gấp bội. Gã cùng tử chịu thì dắt về đây cho làm. Nếu hỏi làm gì thì nói thuê ngươi hốt phân. Hai ta với ngươi cùng làm. Khi đó hai sứ giả liền tìm gã cùng tử rồi thuật lại đầu đuôi như trên. Bấy giờ gã cùng tử trước hỏi giá tiền, rồi đến hốt phân. Người cha thấy con, thương xót mà lấy làm quái lạ. Rồi một ngày khác người cha ở trong cửa sổ xa trông thấy con ốm o tiều tụy, phân đất bụi bặm dơ dáy bầy hầy, liền cởi bỏ chuỗi ngọc, áo tốt mịn màng cùng đồ trang sức, mặc áo vải thô, rách rưới bẩn thỉu, bụi đất lấm thân, tay mặt cầm đồ hốt phân, bộ dạng dễ sợ bảo các người làm rằng: “Các ngươi phải siêng năng làm việc, không được biếng nhác nghỉ ngơi.” Dùng phương tiện đó để đến gần người con. Lúc sau lại bảo người con: –Chàng trai này, ngươi thường làm ở đây đừng nên đi nơi khác, ta sẽ trả giá thêm cho ngươi. Những thức cần dùng như bồn, chậu, gạo, bột, muối, dấm ngươi chớ ngại. Ở đây cũng có người đầy tớ già, nếu cần ta cấp cho. Cứ yên tâm, ta như cha của ngươi vậy, đừng lo gì hết. Vì sao vậy? Vì ta tuổi tác đã già mà ngươi thì trai trẻ khỏe mạnh. Trong lúc làm việc, ngươi thường không dối trá trễ nãi hay giận hờn oán than. Ta thấy ngươi không có các điều xấu đó như những người làm công khác. Từ nay về sau ta coi như con đẻ của ta vậy. Trưởng giả liền đặt tên cho và gọi là con. Khi đó gã cùng tử dầu mừng cho việc đó song vẫn còn tự coi mình là khách, là người làm công hèn hạ. Vì vậy mà trong hai mươi năm thường sai hốt phân, sau đó mới dần dần được tin cậy ra vào không ngại, nhưng chỗ ở của gã cũng vẫn chỗ cũ. Bạch Thế Tôn! Bấy giờ trưởng giả có bệnh, tự biết mình sắp chết không lâu, mới bảo gã cùng tử rằng: –Ta nay có nhiều vàng bạc trân báu đầy kho lẫm. Trong đó nhiều ít, nên giữ, nên cho, con đều phải biết. Lòng ta như vậy con hãy thể theo ý ta. Vì sao vậy, nay ta cùng con đã là không xa lạ. Hãy gắng dụng tâm, chớ để thất thoát. Khi ấy gã cùng tử liền ghi lãnh lời dạy bảo, biết các của cải vàng bạc trân báu và các kho tàng mà hoàn toàn không có ý muốn lấy riêng cái gì dù đáng giá một bữa ăn. Còn chỗ ở của gã cũng vẫn ở chỗ cũ, do tâm chí hèn kém chưa bỏ được. Qua ít lâu sau người cha biết ý chí con lần đã thông thái, thành tựu chí lớn, tự chê tâm địa ngày trước là thấp hèn. Đến khi gần lâm chung ông gọi người con đến và họp cả thân tộc, Quốc vương, Đại thần, Sát-đế-lợi, Cư só. Khi tập họp đông đủ, ông liền tự tuyên bố rằng: –Các vị nên biết, người này là con tôi, do tôi sinh ra, ngày trước ở thành nọ bỏ tôi trốn đi, trôi nổi khổ sở hơn năm mươi năm, vốn là tên ấy còn tôi tên ấy. Xưa ở thành ấy lo lắng tìm kiếm, bỗng nhiên gặp được nơi đây. Người này vốn thật con tôi, tôi là cha. Nay tất cả bao nhiêu của cải của tôi đều là của con tôi. Trước đây của cải xuất ra thâu vào con tôi đây đều biết. Bạch Thế Tôn! Khi đó gã cùng tử nghe cha nói lời này liền rất vui mừng được điều chưa từng có mà nghó rằng: “Ta vốn không có lòng mong cầu, nay kho báu này tự nhiên mà đến.” Bạch Thế Tôn! Vị đại phú trưởng giả đó là Như Lai, còn chúng con đều giống như con của Phật. Như Lai thường nói chúng con là con. Bạch Thưa Thế Tôn! Chúng con vì ba thứ khổ nên ở trong sinh tử chịu các đau đớn mê lầm không hiểu biết, ưa thích các pháp Tiểu thừa. Ngày nay Thế Tôn khiến chúng con suy nghó dẹp trừ các pháp hý luận phân dơ. Chúng con ở trong đó siêng năng tinh tấn được đến Niết-bàn, cái giá của một ngày. Được như vậy rồi lòng rất vui mừng tự cho là đủ mà nói rằng: “Ở trong Phật pháp, do siêng năng tinh tấn nên đạt được rộng nhiều.” Nhưng Thế Tôn biết trước chúng con lòng ưa muốn thấp hèn, ham pháp Tiểu thừa, chúng con bèn bị buông bỏ chẳng vì phân biệt: “Các ngươi sẽ có phần Bảo tàng tri kiến của Như Lai.” Thế Tôn dùng sức phương tiện nói trí tuệ của Như Lai. Chúng con theo Phật được cái giá Niết-bàn một ngày cho là được nhiều rồi, đối với pháp Đại thừa này không có chí mong cầu. Chúng con lại nhân trí tuệ của Phật, vì các Bồ-tát mà khai thị diễn nói, nhưng chính tự mình lại không có chí muốn đối với pháp đó. Vì sao vậy? Phật biết chúng con ưa muốn pháp Tiểu thừa, nên dùng sức phương tiện thuận theo chúng con mà nói pháp. Chúng con không biết mình thật sự là con Phật. Ngày nay chúng con mới biết Thế Tôn không lẫn tiếc trí tuệ của Phật. Vì sao vậy? Chúng con từ xưa đến nay thật sự là con Phật mà chỉ ưa muốn pháp Tiểu thừa. Nếu chúng con có tâm yêu thích Đại thừa thì Phật đã vì chúng con mà nói pháp Đại thừa. Ở trong kinh này chỉ nói pháp Nhất thừa. Lúc xưa Phật ở trước Bồ-tát chê trách Thanh văn là ưa pháp Tiểu thừa. Nhưng Phật thật sự dùng Đại thừa để giáo hóa. Vì vậy mà chúng con nói vốn không có lòng mong cầu mà nay kho báu của Pháp vương tự nhiên đến. Cái mà người con Phật đáng có, ngày nay đều đã có được. Bấy giờ Ma-ha Ca-diếp muốn làm rõ lại nghĩa trên nói bài kệ: Chúng con hôm nay Nghe tiếng Phật dạy, Hớn hở vui mừng Được chưa từng có. Phật nói Thanh văn Sẽ thành Phật quả. Châu báu Vô thượng Không cầu mà được. Như đứa trẻ con Thơ dại không biết Bỏ cha trốn nhà Đi đến phương khác. Nổi trôi các nước Hơn năm mươi năm. Người cha buồn nhớ Tìm kiếm bốn phương. Kiếm tìm đã mỏi Dừng lại thành kia. Xây dựng cửa nhà Hưởng vui năm dục. Nhà này cự phú Có nhiều bạc vàng Xa cừ, mã não Ngọc trai, lưu ly Voi, ngựa, bò, dê Kiệu cán, xe cộ Ruộng đất, tôi tớ Nhân dân đông nhiều Xuất nhập lợi tức Đến tận nước khác. Khách thương buôn bán Xứ nào cũng có. Ngàn vạn ức chúng Cung kính vây quanh, Thường được vua chúa Đem lòng mến yêu. Hào tộc các quan Thảy đều tôn trọng. Vì các lẽ đó Đông đúc tới lui. Giàu mạnh như vậy, Có thế lực lớn, Mà tuổi đã cao Mong con buồn nhớ. Ngày đêm suy nghó Chết sắp đến nơi. Con dại bỏ ta Hơn năm mươi năm, Kho tàng các thứ Biết làm sao đây? Trong khi cùng tử Đi tìm ăn mặc, Xóm nọ làng kia Nước này nước khác. Có khi kiếm được Có lúc thì không. Đói ăn gầy gò Đầy người ghẻ lác. Lần lữa đi qua Đến thành cha ở. Làm thuê làm mướn Đến trước nhà cha. Bấy giờ trưởng giả Đang ở trong nhà Màn giăng châu báu Sư tử tòa cao Quyến thuộc vây quanh Đông người hầu hạ. Có người tính toán Báu vật bạc vàng, Của cải ra vào Giấy tờ ghi chép. Cùng tử thấy cha Giàu mạnh tôn nghiêm Nghó là quốc vương Hoặc đồng vua chúa. Kinh sợ tự hỏi Sao lại đến đây? Rồi thầm nghó rằng: “Nếu ở đây lâu, Ắt bị bức ép Sai khiến không công.” Suy nghó vậy rồi Rảo bước đi thẳng. Tìm hỏi xóm nghèo Muốn qua làm mướn. Trưởng giả lúc này Trên tòa Sư tử Xa trông thấy con, Trong lòng nhận biết. Liền sai sứ giả Đuổi theo bắt về. Cùng tử kêu oan Ngất xỉu xuống đất. Người này bắt ta Chắc giết chết mất. Cần chi ăn mặc Khiến phải thế này! Trưởng giả biết con Ngu hèn dại dột. Chẳng tin ta nói. Chẳng tin là cha. Liền dùng phương tiện Lại sai người khác Mắt chột lùn xấu Oai đức cũng không: Các ngươi bảo nó Rằng ta sẽ thuê Hốt dọn phân nhơ Trả tiền gấp bội. Cùng tử nghe vậy Mừng vui theo về. Dọn dẹp phân nhơ Làm sạch nhà cửa. Trưởng giả trong cửa Thường thấy con mình. Nghó con ngu dại Thích việc thấp hèn. Bấy giờ trưởng giả Mặc đồ rách bẩn Cầm đồ hốt phân Qua chỗ đứa con Phương tiện gần gũi Bảo ráng siêng năng Lại tăng tiền mướn, Cho dầu xoa chân, Ăn uống phủ phê Chiếu nằm êm ấm. Cặn kẽ dặn dò: Ngươi siêng làm việc! Rồi dịu dàng bảo: Ta coi như con. Trưởng giả có trí Dần cho vào ra. Hai mươi năm qua Cửa nhà coi sóc. Cho biết vàng bạc Ngọc trai, pha lê Vật hàng xuất nhập Đều cho biết hết. Nhưng ở ngoài cửa Nương náu lều tranh, Tự nghó phận nghèo Không có vật đó. Cha biết lòng con Dần đã rộng mở. Của cải muốn giao Liền họp thân tộc, Quốc vương, đại thần, Sát-lợi, Cư só. Rồi trong cuộc họp Nói là con mình Bỏ đi nước khác Hơn năm mươi năm. Gặp được đến nay Hai mươi năm chẵn. Trước ở thành nọ Mất đứa con này. Đi tìm khắp xứ Mới đến nơi đây. Của cải của ta Nhân dân nhà cửa, Thảy đều giao phó Sử dụng mặc tình. Con nhớ xưa nghèo Ýù chí hèn kém. Nay ở với cha Được nhiều châu báu, Cùng với cửa nhà, Bao nhiêu của cải. Lòng rất vui mừng Được chưa từng có. Phật cũng như thế Con ưa Tiểu thừa Nên chưa từng nói Các con thành Phật. Chỉ nói chúng con Được các vô lậu, Thành tựu Tiểu thừa Thanh văn đệ tử. Phật bảo chúng con Nói pháp tối thượng. Tu tập pháp này Sẽ thành Phật quả. Con vâng lời Phật Vì Bồ-tát lớn, Dùng các nhân duyên Cùng các thí dụ Bao nhiêu ngôn từ Nói đạo Vô thượng. Các hàng Phật tử Theo con nghe pháp, Ngày đêm suy xét Tu tập siêng năng. Bấy giờ chư Phật Liền thọ ký cho: Các ông đời sau Sẽ được thành Phật. Các pháp bí tàng Tất cả chư Phật Chỉ vì Bồ-tát Mà dạy sự thật, Chẳng vì chúng con Nói pháp chân yếu. Như cùng tử kia Được gần bên cha Dẫu biết các vật Lòng chẳng mong cầu. Chúng con dầu nói Phật pháp bảo tàng, Mà chí nguyện không, Thì cũng như vậy. Chúng con nội diệt, Tự cho đã đủ. Xong việc này rồi Không còn gì khác. Chúng con dầu nghe Thanh tịnh cõi Phật, Giáo hóa chúng sinh Đều không ham thích. Thế là vì sao? Vì tất cả pháp Là không, vắng lặng. Không diệt, không sinh, Không lớn, không nhỏ, Vô lậu, vô vi. Suy nghó vậy rồi Không sinh ham thích. Chúng con từ lâu Với trí tuệ Phật, Không thích, không tham Lại không chí nguyện. Mà với pháp mình Cho là rốt ráo! Chúng con từ lâu Tu tập pháp không, Để thoát khỏi nạn Khổ não ba cõi, Trụ thân sau cùng Niết-bàn hữu dư. Điều Phật dạy bảo Chứng đạo không ngoa. Tức là có thể Báo ân Đức Phật. Chúng con lại vì Các hàng Phật tử Nói pháp Bồ-tát Để cầu Phật đạo. Nhưng với pháp đó Tự không mong muốn. Đạo sư thấy bỏ Xét biết lòng con, Ban đầu không khuyên Chỉ nói thật lợi. Như phú trưởng giả Biết con kém hèn, Bèn dùng phương tiện Thuyết phục lòng con. Rồi sau mới giao Tất cả của cải. Phật cũng như thế Hiện việc ít có. Biết ưa Tiểu thừa Dùng sức phương tiện, Điều phục tâm con Rồi dạy trí lớn. Chúng con ngày nay Được chưa từng có, Trước chẳng phải mong Mà nay tự được. Như cùng tử kia Được báu vô lượng. Thế Tôn, con nay Đắc đạo chứng quả, Tuệ nhãn thanh tịnh Nơi vô lậu pháp. Chúng con từ lâu Giữ Phật tịnh giới, Mới có ngày nay Được quả báo đó. Trong pháp Pháp vương Lâu tu phạm hạnh. Nay được vô lậu Vô thượng quả lớn. Chúng con ngày nay Mới thật Thanh văn, Đem tiếng Phật đạo Cho tất cả nghe. Chúng con ngày nay Thật là La-hán, Ở các thế gian Trời, Người, Ma, Phạm Khắp nơi trong đó Đáng thọ cúng dường. Ân lớn Thế Tôn Đem việc ít có Thương xót dạy bảo Lợi ích chúng con. Vô lượng ức kiếp Không báo đền được. Tay chân mình mẩy Đầu lễ cung kính, Tất cả cúng dường Không báo đền được. Hoặc dùng đầu đội Hai vai cõng vác Kiếp số hằng sa Tận tâm cung kính. Lại sắm thức ngon Áo báu vô lượng Các thứ ngọa cụ Cùng với thuốc men. Ngưu đầu, Chiên-đàn Và các châu báu Xây dựng tháp miếu, Áo báu trải đất Các thứ trên đây Dùng để cúng dường Trải kiếp hằng sa Cũng không đáp được. Chư Phật ít có, Vô lượng, vô biên Không thể nghó bàn Sức thần thông lớn, Vô lậu vô vi Là vua các pháp. Vì kẻ hạ liệt Đến việc như thế, Hiện tướng phàm phu Tùy cơ giáo hóa. Chư Phật nơi pháp Hết sức tự tại. Biết các chúng sinh Có nhiều dục lạc, Cùng các chí lực Tùy mỗi khả năng, Dùng vô lượng dụ Để mà nói pháp. Tùy các chúng sinh, Căn lành đời trước, Biết đã thành thục Hay chưa thành thục, Mỗi mỗi suy lường Phân biệt đã rõ, Nơi đạo Nhất thừa Tùy cơ nói ba. KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA <卷 id="83085196">QUYỂN 3 <詞 id="83085197">Phẩm 5: DƯỢC THẢO DỤ Bấy giờ Thế Tôn bảo Ma-ha Ca-diếp cùng các đại đệ tử: –Hay thay, hay thay! Ca-diếp khéo nói công đức chân thật của Như Lai. Đúng như lời đã nói, Như Lai còn có vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ công đức, các ông dầu trải qua vô lượng ức kiếp cũng không nói hết được. Ca-diếp nên biết! Như Lai là vua của các pháp nếu có nói ra lời gì đều không hư dối. Phật ở nơi tất cả pháp, dùng sức trí tuệ phương tiện mà diễn nói. Pháp của Phật nói ra đều đạt đến bậc Nhất thiết trí. Như Lai quan sát biết rõ chỗ quay về của tất cả pháp và rõ biết chỗ sinh tâm của tất cả chúng sinh, thông thấu không ngăn ngại. Phật lại rõ biết rốt ráo tất cả các pháp, chỉ bày tất cả trí tuệ cho chúng sinh. Ca-diếp! Ví như trong cõi tam thiên đại thiên thế giới núi, sông, khe, hang, ruộng, đất sinh ra bao nhiêu cây cối rừng rú và các thứ cỏ thuốc, chủng loại màu sắc tên gọi đều khác nhau. Mây dày phủ kín khắp cõi tam thiên đại thiên đồng thời mưa xuống nhuần thấm khắp nơi. Cây cối rừng rú và các thứ cỏ thuốc có thứ gốc nhỏ, thân nhỏ, nhánh nhỏ, lá nhỏ; có thứ gốc vừa, thân vừa, nhánh vừa, lá vừa; có thứ gốc lớn, thân lớn, nhánh lớn, lá lớn. Các loài cây cối tùy hạng lớn, vừa, hay nhỏ mà hấp thụ khác nhau. Một đám mây mưa xuống tương xứng với mỗi loại cây cối mà được sinh trưởng đơm hoa kết quả. Tuy cùng một chỗ đất sinh ra, cùng được một cơn mưa tưới mà các cỏ cây đều có sai khác. Ca-diếp nên biết! Cũng vậy, Như Lai xuất hiện ở đời như vầng mây lớn, dùng âm thanh lớn vang khắp thế giới, Trời, Người, A-tu-la, như đám mây lớn kia bao phủ khắp cõi tam thiên đại thiên. Ở trong đại chúng, Phật xướng lời này: “Ta là Như Lai, Ứng cúng, chính Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Với người chưa được độ khiến được độ, người chưa hiểu làm cho hiểu, người chưa an làm cho an, người chưa chứng Niết-bàn khiến chứng đắc, đời nay và đời sau Phật đều biết đúng như thật. Ta là bậc Nhất thiết trí, bậc Nhất thiết kiến, bậc Tri đạo, bậc Khai đạo, bậc Thuyết đạo. Các ngươi Trời, Người, A-tu-la đều nên đến đây nghe pháp.” Bấy giờ có vô số ngàn vạn ức chúng sinh đi đến chỗ Phật nghe pháp. Lúc đó Như Lai quán sát các căn lợi độn, tinh tấn hay giải đãi của chúng sinh đó, lượng vừa sức có thể tiếp thu mà nói pháp, chủng loại nhiều vô lượng đều khiến vui mừng được nhiều thiện lợi. Các chúng sinh này nghe pháp rồi, đời này được an ổn, đời sau sinh về xứ lành, do đạo được an vui và được nghe pháp, nghe pháp rồi lìa khỏi các chướng ngại, ở trong các pháp tùy sức tiếp nhận lần lần đều được vào đạo. Như đám mây lớn kia mưa xuống khắp tất cả cỏ cây rừng rú và các thứ cỏ thuốc, tùy giống mỗi thứ đều được thấm nhuần đầy đủ, đều được sinh trưởng. Như Lai nói pháp một tướng một vị. Đó là tướng giải thoát, tướng xa lìa, tướng tịch diệt, rốt ráo đạt đến Nhất thiết chủng trí. Có chúng sinh nào nghe pháp của Như Lai hoặc thọ trì đọc tụng, tu hành đúng như lời dạy sẽ được công đức mà tự mình không hay biết. Vì sao vậy? Vì chỉ có Như Lai biết được thể tính của các tướng của chúng sinh như là nhớ gì, nghó gì, tu gì, nhớ thế nào, nghó thế nào, tu thế nào, dùng pháp gì để nhớ, dùng pháp gì để nghó, dùng pháp gì để tu, dùng pháp gì để đạt được pháp gì. Chỉ có Như Lai mới thấy chúng sinh trụ ở địa vị nào một cách như thật, rõ ràng không bị ngăn ngại. Như cây cối rừng rú các thứ cỏ thuốc tự nó không biết tính lớn, vừa, hay nhỏ của chính nó. Như Lai biết pháp một tướng một vị ấy. Đó là tướng giải thoát, tướng xa lìa, tướng tịch diệt, tướng rốt ráo Niết-bàn thường tịch diệt, chung quy về nơi không. Phật biết như thế rồi quán sát tâm ưa muốn của chúng sinh mà dìu dắt, cho nên không vội nói ngay Nhất thiết chủng trí. Ca-diếp! Các ông rất là hy hữu, biết được Như Lai tùy cơ nghi nói pháp, có thể tin, có thể nhận. Bởi vì sao? Vì chư Phật Thế Tôn tùy nghi nói pháp khó hiểu khó biết. Bấy giờ Thế Tôn muốn làm rõ lại nghĩa này mà nói bài kệ rằng: Pháp vương phá hữu Hiện ra thế gian, Theo ý chúng sinh Nhiều cách nói pháp. Như Lai tôn trọng Trí tuệ sâu xa, Giữ lâu pháp yếu Không cần nói vội. Người trí nếu nghe Có thể tin hiểu, Không trí nghi ngờ Tức là mất hẳn. Vì vậy Ca-diếp! Tùy sức nói pháp Dùng các nhân duyên Khiến được chính kiến. Ca-diếp nên biết! Như đám mây lớn Nổi trên thế gian Che trùm tất cả. Mây tuệ khắp nhuần Chớp giật chói lòa, Sấm động vang xa Mọi loài vui vẻ. Nắng trời che khuất Mặt đất mát im. Mây mù bủa sa Như là vói tới. Mưa xuống khắp nơi Bốn phương đều tưới. Nước tuông vô lượng Khắp chốn dầm dề. Núi sông hang hóc Sâu, rậm sinh ra Cây cối cỏ thuốc Các thứ lớn nhỏ, Lúa thóc mộng mạ Cả mía cùng nho, Nhờ có nước mưa Thảy đều tươi tốt. Đất khô được tưới Cây thuốc xanh tươi. Mây kia mưa xuống Một loại nước mưa Cỏ cây rừng rú Tùy loại thấm nhuần. Tất cả các cây Thượng, trung, hoặc hạ, Tùy theo lớn nhỏ Đều được nẩy sinh, Gốc, thân, nhánh, lá Hoa quả sởn sơ, Chỉ một trận mưa Thảy đều tươi tốt. Tùy theo thể tướng tính có thấp cao, Nước tưới một nguồn Mà đều tươi thắm. Phật cũng như vậy Xuất hiện ở đời Như đám mây lớn Che trùm tất cả. Đã hiện ra đời Vì các chúng sinh Phân biệt diễn nói Sự thật các pháp. Đại Thánh Thế Tôn Ở trong trời người Tất cả chúng hội Mà nói thế này: Ta là Như Lai Bậc Lưỡng Túc Tôn Hiện ra thế gian Như vầng mây lớn, Nhuần thấm tất cả Chúng sinh khát khao, Khiến cho lìa khổ An vui sung sướng. Hưởng vui thế gian Cùng vui Niết-bàn. Các chúng Trời, Người Một lòng lắng nghe Đều nên đến đây Kính Bậc Vô Thượng. Ta là Thế Tôn Không ai bằng được An ổn chúng sinh Nên hiện ra đời, Vì đại chúng nói Pháp cam lồ sạch. Pháp đó một vị: Giải thoát Niết-bàn. Một tiếng nhiệm mầu Diễn giải nghĩa ấy. Thường vì Đại thừa Mà làm nhân duyên. Ta xem tất cả Đều là bình đẳng Không có phân biệt Đem tâm yêu ghét. Ta không tham đắm Cũng không hạn ngại, Hằng vì tất cả Bình đẳng nói pháp, Như vì một người Hay đông cũng vậy. Thường diễn thuyết pháp Không làm việc khác. Ngồi, đứng, đến, đi Không hề mệt mỏi. Sung túc thế gian Như mưa thấm khắp. Sang hèn trên dưới Giữ giới phá giới Đầy đủ oai nghi Và không đầy đủ chính kiến, tà kiến Độn căn, lợi căn, Đều cho mưa pháp Mà không mệt mỏi. Tất cả chúng sinh Được nghe pháp ta Tùy sức lãnh thụ Ở nơi các bậc, Hoặc ở trời, người Chuyển luân thánh vương Thích, Phạm các vua Là cỏ thuốc nhỏ. Rõ pháp Vô lậu Chứng được Niết-bàn Khởi sáu Thần thông Và được Tam minh, Riêng ở núi rừng Thường tu thiền định Chứng được Duyên giác: Cỏ thuốc bậc vừa. Cầu Đấng Thế Tôn Ta sẽ thành Phật, Tu tinh tấn định: Cỏ thuốc bậc cao. Lại các Phật tử Chuyên tâm Phật đạo Thường hành Từ bi Tự biết làm Phật, Quyết định không nghi Gọi là cây nhỏ. Hoặc trụ thần thông Chuyển pháp không thoái Độ vô lượng ức Trăm ngàn chúng sinh, Bồ-tát như thế Gọi là cây lớn. Phật bình đẳng nói Như mưa một vị, Tùy căn chúng sinh Tiếp thụ không đồng. Như cây cỏ kia Thấm nhuần đều khác. Phật dùng dụ này Phương tiện chỉ dạy. Mọi thứ ngôn từ Đều diễn một pháp. Nơi trí tuệ Phật Như giọt nước biển, Ta rưới mưa pháp Đầy đủ thế gian. Pháp thuần một vị Tùy sức tu hành, Như cây rừng kia, Cỏ thuốc, cây cối, Tùy giống lớn nhỏ Dần được tốt tươi. Pháp của chư Phật Thường dùng một vị. Khiến các thế gian Đều khắp đầy đủ. Thứ lớp tu hành Đều được đạo quả. Thanh văn, Duyên giác Ở trong núi rừng Nơi thân sau cùng Nghe pháp chứng quả, Đó là cỏ thuốc Đều được tốt tươi. Nếu các Bồ-tát Trí tuệ vững bền Rõ thấu ba cõi Cầu Tối thượng thừa, Đó là cây nhỏ Mà được tăng trưởng. Có kẻ tham thiền Được thần thông lớn, Nghe các pháp không Lòng sinh hoan hỷ, Phóng quang vô số Độ các chúng sinh, Đó là cây lớn Mà được tăng trưởng. Như thế, Ca-diếp! Phật nói pháp ra Như vầng mây lớn Một vị nước mưa Nhuần thấm hoa người Đều được kết quả. Ca-diếp phải biết Ta dùng nhân duyên Các thứ thí dụ Chỉ bày đạo Phật. Đó là phương tiện Chư Phật cũng thế. Nay vì các ông Nói điều chân thật: Các chúng Thanh văn Chẳng phải diệt độ. Các ông tu hành Là đạo Bồ-tát Dần dần tu học Đều sẽ thành Phật.  <詞 id="83085198">Phẩm 6: THỌ KÝ Bấy giờ Thế Tôn nói bài kệ rồi bảo các đại chúng như thế này: –Ma-ha Ca-diếp! Đệ tử của ta, ở đời vị lai sẽ phụng thờ ba trăm vạn ức chư Phật Thế Tôn, cúng dường cung kính, tôn trọng khen ngợi, rộng truyền vô lượng đại pháp của chư Phật, ở thân sau cùng được thành Phật hiệu là Quang Minh Như Lai, Ứng Cúng, chính Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Nước tên là Quang đức, kiếp tên là Đại trang nghiêm. Phật thọ mười hai tiểu kiếp. chính pháp tồn tại ở đời hai mươi tiểu kiếp. Tượng pháp cũng tồn tại hai mươi tiểu kiếp. Cõi nước tốt đẹp không có các thứ xấu dơ, gạch đá gai góc cùng những thứ chẳng sạch. Cõi đó bẳng phẳng không cao thấp hầm hố gò nổng, đất bằng lưu ly, cây báu thẳng hàng, dây vàng giăng đường rải các hoa báu, khắp nơi sạch sẽ. Bồ-tát trong nước đó đông vô lượng ngàn ức, chúng Thanh văn cũng nhiều vô số. Không có việc ma, dầu là có ma và dân ma, nhưng đều hộ trì Phật pháp. Bấy giờ Thế Tôn muốn làm rõ lại nghĩa trên nói bài kệ: Các Tỳ-kheo này, Ta dùng mắt Phật Thấy Ca-diếp này Nơi đời vị lai Quá vô số kiếp Sẽ được thành Phạât, Mà ở đời sau Cúng dường thờ kính Ba trăm vạn ức Chư Phật Thế Tôn. Vì trí tuệ Phật Tịnh tu phạm hạnh. Cúng dường Tối thượng Lưỡng Túc Tôn xong Tu tập tất cả Trí Tuệ vô thượng, Ở thân sau cùng Được chứng thành Phật. Cõi đó thanh tịnh Lưu ly làm đất, Có nhiều cây báu Thẳng hàng bên đường, Dây vàng lộ giới Người thấy đều vui, Thường thoảng hương thơm Rải rác hoa đẹp. Các thứ kỳ diệu Dùng để trang nghiêm. Cõi đó bằng phẳng Không có gò hầm. Các chúng Bồ-tát Đông không kể xiết, Tâm đều nhu hòa Được thần thông lớn, Phụng trì kinh điển Đại thừa chư Phật. Các chúng Thanh văn Thân sau vô lậu, Con của Pháp vương Cũng không kể hết Dẫu dùng Thiên nhãn Cũng không biết được. Phật đó sống lâu Mười hai tiểu kiếp. Chính pháp tồn tại Hai mươi tiểu kiếp. Tượng pháp cũng trụ Hai mươi tiểu kiếp. Quang Minh Thế Tôn Sự việc như thế. Bấy giờ Thế Tôn lại bảo chúng Tỳ-kheo: –Ta nay bảo các ông, Đại Ca-chiên-diên này ở đời sau sẽ dùng các thức cúng dường mà phụng thờ tám ngàn ức Phật cung kính tôn trọng. Sau khi các Đức Phật diệt độ, đều dựng tháp miếu cao một ngàn do-tuần, ngang rộng đều bằng năm trăm do-tuần, đều trang hoàng bảy thứ báu như vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, ngọc trai và mai khôi làm thành và cúng dường bằng các thứ hoa, chuỗi ngọc, hương xoa, hương bột, hương xông, tàn lọng, cờ phướn… Sau đó sẽ lại cúng dường hai mươi vạn ức Phật cũng như trước. Cúng dường các Đức Phật đó rồi, đủ đạo Bồ-tát sẽ được làm Phật hiệu Diêm-phù-na-đề Kim Quang Như Lai, Ứng Cúng, chính Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Cõi đó bằng phẳng, đất bằng pha lê, cây báu trang nghiêm, dây vàng giăng lộ giới, đất rải hoa khắp nơi sạch sẽ. Người trông thấy đều vui mừng. Không có bốn đường ác như địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh và A-tu-la. Rất đông trời và người, vô lượng vạn ức chúng Thanh văn, Bồ-tát trang nghiêm nước đó. Phật thọ mười hai tiểu kiếp, chính pháp tồn tại ở đời hai mươi tiểu kiếp, tượng pháp cũng tồn tại hai mươi tiểu kiếp. Khi đó Thế Tôn muốn làm rõ lại nghĩa này nói bài kệ rằng: Các chúng Tỳ-kheo Đều nhất tâm nghe Như lời ta nói Chân thật không khác. Ca-chiên-diên này Sẽ dùng các thứ Cúng dường tốt đẹp Cúng dường chư Phật. Chư Phật diệt rồi Dựng tháp bảy báu. Lại dùng hoa hương Cúng dường xá-lợi. Đến thân sau cùng Được trí tuệ Phật, Thành Đẳng chính giác Cõi nước thanh tịnh, Độ thoát vô lượng Vạn ức chúng sinh, Đều được mười phương Thường đến cúng dường. Ánh sáng Phật đó Không ai hơn được. Phật đó hiệu là Diêm-phù Kim Quang, Bồ-tát, Thanh văn Dứt hết hữu lậu, Vô lượng, vô số Trang nghiêm cõi ấy. Bấy giờ Thế Tôn lại bảo đại chúng: –Ta nay bảo các ông, Đại Mục-kiền-liên đây sẽ dùng các thức cúng dường cúng dường tám ngàn các Đức Phật, cung kính tôn trọng. Sau khi các Đức Phật diệt độ rồi đều dựng tháp miếu cao một ngàn do-tuần, ngang rộng bằng năm trăm do-tuần, dùng bảy thứ báu như vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, ngọc trai và mai khôi hợp thành, dùng các thứ hoa, chuỗi ngọc, hương xoa, hương bột, hương xông, tàn lọng, cờ phướn để cúng dường. Sau đó lại cúng dường hai trăm vạn ức chư Phật như trước rồi được thành Phật hiệu Đa-ma-la-bạt Chiên-đàn Hương Như Lai, Ứng Cúng, chính Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Kiếp tên Hỷ mãn, nước tên Ý lạc. Cõi đó bằng phẳng, pha lê làm đất, cây báu trang nghiêm, rải hoa ngọc trai khắp nơi sạch sẽ, người trông thấy hoan hỷ. Trời người rất đông. Bồ-tát, Thanh văn số nhiều vô lượng. Phật đó thọ hai mươi bốn tiểu kiếp. chính pháp tồn tại ở đời bốn mươi tiểu kiếp. Tượng pháp cũng tồn tại bốn mươi tiểu kiếp. Bấy giờ Thế Tôn muốn làm rõ lại nghĩa này nói bài kệ rằng: Đệ tử của ta Đại Mục-kiền-liên Bỏ thân này rồi Được gặp tám ngàn Hai trăm vạn ức Chư Phật Thế Tôn. Vì cầu Phật đạo Cúng dường cung kính, Ở nơi chư Phật Thường tu phạm hạnh, Trong vô lượng kiếp Phụng trì Phật pháp. Chư Phật diệt rồi Xây tháp bảy báu Tháp vàng cao rộng Kỹ nhạc, hương hoa Dùng để cúng dường Tháp miếu chư Phật. Dần được đầy đủ Đạo Bồ-tát rồi Nơi nước Ý lạc Được thành Phật quả Hiệu Đa-ma-la Bạt Chiên-đàn Hương. Phật đó thọ mạng Hai bốn tiểu kiếp. Thường vì trời người Diễn nói Phật đạo. Thanh văn vô lượng Như cát sông Hằng, Ba minh, sáu thông Đủ oai đức lớn. Vô số Bồ-tát Chí bền tinh tấn Nơi trí tuệ Phật Đều không thoái chuyển. Phật diệt độ rồi chính pháp tồn tại Bốn mươi tiểu kiếp Tượng pháp cũng vậy. Các đệ tử ta Oai đức đầy đủ. Số đó năm trăm Ta sẽ thọ ký Vào đời vị lai Đều được thành Phật. Ta cùng các ngươi Nhân duyên đời trước Ta nay sẽ thuật Các ông lắng nghe.  <詞 id="83085199">Phẩm 7: VÍ DỤ HÓA THÀNH Phật bảo các Tỳ-kheo: –Thuở quá khứ vô lượng, vô biên chẳng thể nghó bàn số a-tăng-kỳ kiếp có Phật hiệu Đại Thông Trí Thắng Như Lai, Ứng Cúng, chính Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Nước tên Hảo thành, kiếp tên Đại tướng. Này các Tỳ-kheo! Từ khi Đức Phật đó diệt độ đến nay rất lâu xa, ví như tất cả đất đai trong cõi tam thiên đại thiên này có người đem mài làm mực rồi đi qua một ngàn cõi nước ở phương Đông mới chấm một chấm lớn bằng hạt bụi, rồi qua một ngàn cõi nước nữa lại chấm một chấm, cứ như thế làm cho đến hết số mực mài bằng đất kia. Các ông nghó sao? Số các cõi nước đó thầy toán hoặc đệ tử của thầy toán có thể tính biết được là nhiều đến mức nào không?” –Bạch Thế Tôn, không thể biết được! –Các Tỳ-kheo! Những cõi nước mà người đó đi qua, hoặc có chấm mực, hoặc không chấm mực đều đem nghiền nát thành bụi, mỗi hạt bụi kể là một kiếp thì từ khi Đức Phật đó diệt độ đến nay thời gian lâu tính còn nhiều hơn số bụi đó vô lượng, vô biên trăm ngàn vạn ức a-tăng-kỳ kiếp. Ta dùng sức tri kiến của Như Lai quán sát thuở lâu xa đó như ngày hôm nay vậy. Bấy giờ Thế Tôn muốn làm rõ lại nghĩa này nói bài kệ: Ta nhớ đời quá khứ Vô lượng, vô biên kiếp, Có Phật Lưỡng Túc Tôn Hiệu Đại Thông Trí Thắng. Như có người ra sức Đem tam thiên đại thiên Hết tất cả đất đai Đều mài ra làm mực, Đi qua ngàn cõi nước Mới chấm xuống một chấm. Lần lượt chấm như vậy Cho đến hết mực đất. Bao nhiêu cõi nước đó Có chấm và không chấm Lại đem nghiền thành bụi Hạt bụi kể một kiếp, Kiếp số lâu xa kia Còn nhiều hơn số bụi. Phật ấy diệt đến nay Vô lượng kiếp như thế. Trí vô ngại của Phật Biết Phật ấy diệt độ Và Thanh văn, Bồ-tát Như hiện nay thấy diệt. Các Tỳ-kheo nên biết Trí Phật vi diệu tịnh Vô lậu và vô ngại Thấu suốt vô lượng kiếp. Phật bảo các Tỳ-kheo: –Đức Phật Đại Thông Trí Thắng thọ năm trăm bốn mươi vạn ức na-do-tha kiếp, Đức Phật đó khi ngồi đạo tràng phá quân ma rồi, sắp được đạo Vô thượng chính đẳng chính giác mà các pháp Phật chẳng hiện ra trước. Cứ như thế ngồi kiết già thân tâm không động từ một tiểu kiếp cho đến mười tiểu kiếp mà các pháp Phật cũng vẫn không hiện ra. Bấy giờ các trời Đao-lợi trước tiên vì Đức Phật đó mà trải tòa Sư tử cao một do-tuần ở dưới cội Bồ-đề. Phật ở trên tòa này sẽ chứng đắc đạo Vô thượng chính đẳng chính giác. Khi Phật vừa ngồi trên tòa này thì các trời Phạm thiên vương rưới các hoa trời rộng trăm do-tuần, mỗi lần gió thơm thổi đến thì thổi sạch hết hoa héo lại rưới hoa mới, mãi như thế đến mười tiểu kiếp không ngớt để cúng dường Phật. Cho đến khi Phật diệt độ cũng thường rưới hoa này. Các trời Tứ Thiên vương thường đánh trống trời cúng dường Phật. Ngoài ra các trời khác trổi kỹ nhạc trời mãn mười tiểu kiếp cho đến khi Phật diệt độ cũng vậy. Các Tỳ-kheo, Phật Đại Thông Trí Thắng qua mười tiểu kiếp thì các pháp Phật hiện ra trước và thành đạo Vô thượng chính đẳng chính giác. Khi Phật này chưa xuất gia có mười sáu người con. Người con cả tên là Trí Tích. Các người con đó đều có các thứ đồ chơi tốt đẹp quý lạ, nghe cha chứng quả Vô thượng chính đẳng chính giác liền bỏ các thứ quý báu hiếm lạ của mình mà đi đến chỗ Phật. Các người mẹ khóc lóc theo tiễn đưa. Ông nội là vua Chuyển luân thánh vương cùng một trăm đại thần và trăm ngàn vạn ức nhân dân khác đều vây quanh nhau đi theo đến đạo tràng. Mọi người đều muốn đến gần đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai để cúng dường cung kính tôn trọng ngợi khen. Khi đã đến nơi tất cả đem đầu mặt lạy dưới chân Phật, đi vòng quanh Đức Phật xong đều chắp tay nhất tâm chiêm ngưỡng dung nhan của Phật rồi nói bài kệ: Thế Tôn oai đức lớn Vì muốn độ chúng sinh, Trong vô lượng ức năm Rồi mới được thành Phật. Các nguyện đã đầy đủ Hay thay lành Vô thượng. Thế Tôn rất ít có Một phen ngồi mười kiếp, Thân thể và tay chân Yên tịnh không hề động. Tâm Phật thường đạm bạc An trụ pháp vô lậu. Ngày nay thấy Thế Tôn An ổn thành Phật đạo. Chúng ta được lợi lành Vui mừng rất hoan hỷ. Chúng sinh thường khổ não Mù lòa không người dắt Chẳng biết đường dứt khổ Chẳng biết cầu giải thoát. Lâu ngày thêm nẻo ác Tổn giảm hàng chư Thiên. Từ tối vào nơi tối Hằng chẳng nghe danh Phật. Nay Phật được Vô thượng Đạo an ổn vô lậu. Chúng ta và người trời Vì được lợi lớn nhất Cho nên đều cúi đầu Quy mạng Đấng Vô Thượng. Bấy giờ mười sáu người con vua nói bài kệ khen Phật rồi liền thỉnh cầu Đức Thế Tôn chuyển pháp luân, thưa rằng: –Thế Tôn nói pháp khiến nhiều người được an ổn, xin thương xót làm lợi ích cho các trời và nhân dân. Rồi lại nói bài kệ rằng: Thế Hùng không ai sánh Trăm phước tự trang nghiêm Được trí Tuệ vô thượng Xin vì đời nói pháp. Độ thoát cho chúng con Và các loài chúng sinh Xin phân biệt chỉ bày Cho được trí tuệ ấy. Nếu chúng con thành Phật Chúng sinh cũng được vậy. Thế Tôn biết chúng sinh Thâm tâm nghó tưởng gì Cũng biết việc chúng làm Lại biết sức trí tuệ Muốn ưa và tu phước Nghiệp gây tạo đời trước Thế Tôn đã biết hết Xin chuyển pháp Vô thượng. Phật bảo các Tỳ-kheo: –Lúc Phật Đại Thông Trí Thắng được quả Vô thượng chính đẳng chính giác, trong mười phương, mỗi phương có năm trăm vạn ức cõi Phật đều khởi lên sáu thứ chấn động. Trong các cõi đó những nơi tối tăm không có ánh sáng mặt trời mặt trăng soi tới đều được sáng rỡ, trong đó chúng sinh đều được thấy nhau đồng nói rằng: “Trong đây tại sao bỗng sinh ra chúng sinh?” Lại trong các cõi đó cung điện của chư Thiên cho đến Phạm cung đều có sáu thứ chấn động, hào quang lớn chiếu khắp thế giới, sáng hơn ánh sáng của trời. Bấy giờ ở phương Đông, trong năm trăm vạn ức các cõi nước, cung điện của trời Phạm thiên, ánh sáng chiếu sáng gấp bội hơn ánh sáng thường ngày. Các Phạm thiên vương đều tự nghó rằng: “Hôm nay cung điện sáng chói từ xưa chưa từng có. Vì nhân duyên gì mà xuất hiện điềm tốt này?” Lúc đó các Phạm thiên vương liền đến với nhau cùng bàn bạc việc này. Khi ấy trong số đó có một Đại Phạm thiên vương tên Cứu Nhất Thiết, vì các Phạm chúng mà nói bài kệ: Các cung điện chúng ta Sáng chói chưa từng có. Đây là nhân duyên gì? Phải cùng nhau tìm hiểu. Là trời Đại đức sinh Hay là Phật xuất thế Mà ánh sáng lớn này Chiếu khắp cả mười phương? Bấy giờ ở năm trăm vạn ức cõi nước, các Phạm thiên vương đem cung điện và dùng đãy đựng các thứ hoa trời cùng đi đến phương Tây tìm hiện tượng đó thì thấy Đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai ngồi tòa Sư tử nơi đạo tràng dưới cội Bồ-đề, có chư Thiên, Long vương, Càn-thát-bà, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân… cung kính vây quanh. Các Phạm thiên vương liền đầu mặt lạy dưới chân Phật, đi quanh trăm ngàn vòng rồi lấy hoa trời rải trên Đức Phật. Hoa rải xuống chất cao như núi Tu-di cùng để cúng dường cây Bồ-đề của Phật. Cây Bồ-đề này cao mười do-tuần. Cúng dường hoa xong, tất cả đều đem cung điện dâng lên Đức Phật mà thưa: –Xin Phật đoái thương làm lợi ích cho chúng con mà tiếp nhận cung điện dâng cúng này. Rồi các Phạm thiên vương liền ở trước Đức Phật nhất tâm đồng thanh dùng bài kệ khen: Thế Tôn rất hy hữu Khó có thể gặp được. Đủ vô lượng công đức Hay cứu hộ tất cả. Đại Sư của trời người Thương xót khắp thế gian Mười phương các chúng sinh Đều được nhờ lợi ích. Từ chúng con đến đây Năm trăm vạn ức nước. Bỏ vui say thiền định Vì để cúng dường Phật. Chúng con phước đời trước Được cung điện nguy nga Nay đem dâng Thế Tôn Xin xót thương tiếp nhận. Bấy giờ các Phạm thiên vương nói kệ khen Phật xong đều thưa: –Cúi xin Thế Tôn chuyển pháp luân, độ thoát chúng sinh mở đường Niết-bàn. Khi ấy các Phạm thiên vương nhất tâm đồng thanh nói bài kệ rằng: Thế Hùng Lưỡng Túc Tôn Cúi xin diễn nói pháp, Dùng sức đại Từ bi Độ chúng sinh khổ não. Khi ấy Đại Thông Trí Thắng Như Lai yên lặng nhận lời. Lại nữa các Tỳ-kheo, ở phương Đông nam năm trăm vạn ức cõi nước, các Phạm thiên vương tự thấy nơi cung điện mình ánh sáng chói lọi từ xưa chưa từng có, vui mừng hớn hở sinh tâm hy hữu, liền cùng đến nhau bàn bạc việc đó. Lúc ấy trong số đó có một Đại Phạm thiên vương tên là Đại Bi, vì các Phạm chúng nói nói bài kệ: Việc đó nhân duyên gì Mà hiện tướng như vậy? Các cung điện chúng ta Sáng chói xưa chưa có. Là trời Đại đức sinh Hay là Phật ra đời? Chưa từng thấy tướng này Nên chung một lòng cầu Qua ngàn vạn ức cõi Theo ánh sáng mà suy: Phần nhiều Phật ra đời Độ thoát chúng sinh khổ. Bấy giờ năm trăm vạn ức các Phạm thiên vương đem theo cung điện, dùng đãy đựng các hoa trời cùng đến phương Tây bắc tìm hiện tượng đó thì thấy đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai ngồi tòa Sư tử nơi đạo tràng dưới cội Bồ-đề có các chư Thiên, Long vương, Càn-thát-bà, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân… cung kính vây quanh và thấy mười sáu người con vua thỉnh cầu Đức Phật chuyển pháp luân. Khi ấy các Phạm thiên vương đầu mặt lạy dưới chân Phật đi quanh trăm ngàn vòng rồi dùng hoa trời mà rải trên Phật. Hoa rải xuống chất cao như núi Tu-di cùng để cúng dường cây Bồ-đề của Phật. Cúng dường hoa xong đều đem cung điện dâng lên Đức Phật mà thưa rằng: –Xin Phật thương xót làm lợi ích cho chúng con, xin tiếp nhận cung điện dâng cúng này. Rồi các Phạm thiên vương liền ở trước Phật nhất tâm đồng thanh nói kệ khen: Thánh chúa vua trong trời Tiếng Ca-lăng-tần-già Thương xót hàng chúng sinh Chúng con nay kính lễ. Thế Tôn rất hy hữu Lâu mới hiện một lần. Một trăm tám mươi kiếp Trôi qua không có Phật. Ba đường dữ dẫy đầy Chư Thiên chúng giảm ít. Nay Phật hiện ra đời Làm mắt cho chúng sinh, Chỗ quay về của đời Cứu hộ hết tất cả. Là cha của chúng sinh Xót thương làm lợi ích. Chúng con nhờ phước trước Nay được gặp Thế Tôn. Khi ấy các Phạm thiên vương nói kệ khen Phật xong đều thưa rằng: –Cúi xin Thế Tôn thương xót tất cả, chuyển pháp luân độ thoát chúng sinh. Rồi các Phạm thiên vương nhất tâm đồng thanh nói bài kệ khen rằng: Đại Thánh chuyển pháp luân Chỉ bày tướng các pháp, Độ chúng sinh khổ não Khiến được rất hoan hỷ. Chúng sinh nghe pháp này Đắc đạo hoặc sinh Thiên, Các đường dữ giảm ít Bậc nhẫn thiện tăng nhiều. Khi ấy Đại Thông Trí Thắng Như Lai yên lặng nhận lời. Lại nữa các Tỳ-kheo, ở năm trăm vạn ức cõi nước phương Nam, các Đại phạm vương tự thấy nơi cung điện mình ánh sáng chói lọi xưa chưa từng có, vui mừng hớn hở sinh lòng hy hữu liền cùng đến nhau bàn bạc việc đó. Vì nhân duyên gì mà cung điện của chúng ta có ánh sáng chói lọi như vậy? Trong số đó có một Đại Phạm thiên vương tên là Diệu Pháp vì các Phạm chúng mà nói kệ: Các cung điện chúng ta Quang minh rất oai diệu. Đây không phải không nhân Tướng này phải tìm hiểu. Quá hơn trăm ngàn kiếp Chưa thấy hiện tượng này. Là trời Đại đức sinh Hay là Phật ra đời? Bấy giờ năm trăm vạn ức Phạm thiên vương đem theo cung điện, dùng đãy đựng các hoa trời cùng đến phương Bắc suy tìm hiện tượng đó thấy Đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai ngồi tòa sư tử nơi đạo tràng dưới cội Bồ-đề, có chư Thiên, Long vương, Càn-thát-bà, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân… cung kính vây quanh và thấy mười sáu người con vua thỉnh Đức Phật chuyển pháp luân. Khi ấy các Phạm thiên vương đầu mặt lễ Phật, đi quanh trăm ngàn vòng rồi dùng hoa trời mà rải trên Đức Phật. Hoa rải xuống chất cao như núi Tu-di cùng để cúng dường cây Bồ-đề của Phật. Cúng dường hoa xong tất cả đều đem cung điện dâng lên Đức Phật mà thưa rằng: –Xin Phật xót thương làm lợi ích chúng con, xin tiếp nhận cung điện cúng dường này. Rồi các Đại Phạm thiên vương liền ở trước Đức Phật nhất tâm đồng thanh nói kệ khen rằng: Thế Tôn rất khó thấy Bậc phá các phiền não. Hơn trăm ba mươi kiếp Nay mới thấy một lần. Hàng chúng sinh đói khát Nhờ mưa pháp no đủ. Xưa chưa từng được thấy Đấng vô lượng trí tuệ. Như hoa Ưu-đàm-bát Ngày nay mới gặp gỡ. Cung điện của chúng con Nhờ hào quang được đẹp. Thế Tôn rất từ mẫn Xin xót thương thu nhận. Khi ấy các Phạm thiên vương nói kệ khen Đức Phật xong đều bạch: –Cúi mong Thế Tôn chuyển pháp luân làm cho tất cả thế gian, các Trời, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn đều được an ổn và được độ thoát.” Rồi các Phạm thiên vương nhất tâm đồng thanh nói bài kệ: Mong Đấng Thiên Nhân Tôn Chuyển pháp luân Vô thượng, Đánh vang trống pháp lớn Và thổi pháp loa lớn Khắp rưới mưa pháp lớn Độ vô lượng chúng sinh. Chúng con đều về thỉnh Xin nói tiếng sâu xa. Khi ấy Đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai yên lặng nhận lời. Từ phương Tây nam cho đến phương dưới cũng đều như vậy. Bấy giờ, ở năm trăm vạn ức cõi nước phương trên, các Đại Phạm thiên vương đều tự thấy cung điện của mình sáng chói rực rỡ xưa chưa từng có, vui mừng hớn hở sinh lòng hy hữu, liền đi đến nhau cùng bàn bạc việc đó. Vì nhân duyên gì mà cung điện của chúng ta có ánh sáng như vậy? Lúc ấy trong số đó có một Đại Phạm thiên vương tên là Thi-khí vì hàng Phạm chúng nói bài kệ: Nay vì nhân duyên gì Cung điện của chúng ta Ánh sáng oai đức chiếu Đẹp đẽ chưa từng có? Tướng tốt như thế đó Xưa chưa từng nghe thấy. Là trời Đại đức sinh Hay là Phật ra đời? Bấy giờ năm trăm vạn ức các Phạm thiên vương đem theo cung điện và dùng đãy đựng các thứ hoa trời cùng đến phương dưới suy tìm hiện tượng đó thì thấy Đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai ngồi tòa Sư tử nơi đạo tràng dưới cội Bồ-đề có chư Thiên, Long vương, Càn-thát-bà, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân… cung kính vây quanh và thấy mười sáu người con vua thỉnh Phật chuyển pháp luân. Khi ấy các Phạm thiên vương đầu mặt lạy Phật đi quanh trăm ngàn vòng, rồi dùng hoa trời rải trên Đức Phật. Hoa rải xuống chất cao như núi Tu-di cũng cùng để cúng dường cây Bồ-đề của Phật. Cúng dường hoa xong, tất cả đem cung điện dâng lên Đức Phật mà bạch rằng: –Xin đoái thương làm lợi ích chúng con mà tiếp nhận cung điện cúng dường này. Rồi các Phạm thiên vương liền ở trước Phật nhất tâm đồng thanh dùng kệ khen: Hay thay thấy chư Phật Đấng Thánh Tôn cứu thế Hay ở ngục tam giới Cứu chúng sinh ra khỏi. Thiên Nhân Tôn trí khắp Thương xót loài quần manh. Hay mở cửa cam lồ Rộng độ khắp tất cả. Thuở xưa vô lượng kiếp Trôi qua không có Phật. Thế Tôn chưa ra đời Mười phương thường mờ tối. Ba đường dữ thêm nhiều A-tu-la cũng thịnh. Chư Thiên lại giảm dần Chết đọa ác đạo nhiều. Chẳng theo Phật nghe pháp Thường làm việc chẳng lành. Sắc, lực cùng trí tuệ Việc ấy đều giảm ít. Vì tội nghiệp nhân duyên Mất vui cùng tưởng vui, Bám theo pháp tà kiến Chẳng biết phép tắc lành. Chẳng nhờ Phật hóa độ Thường đọa trong đường ác. Phật là mắt của đời Lâu xa mới hiện ra, Vì thương các chúng sinh Nên xuất hiện ở đời. Siêu thoát thành chính giác Chúng con rất mừng vui. Và tất cả chúng khác Mừng khen chưa từng có. Cung điện của chúng con Nhờ hào quang nên đẹp. Nay đem dâng Thế Tôn Xin xót thương tiếp nhận. Nguyện đem công đức này Hướng về khắp tất cả, Chúng con cùng chúng sinh Đều trọn thành Phật đạo. Khi ấy năm trăm vạn ức các Phạm thiên vương nói kệ khen Phật xong bạch Phật: –Cúi mong Thế Tôn chuyển pháp luân cho nhiều nơi an ổn, cho nhiều nơi được độ thoát. Rồi các Phạm thiên vương nói bài kệ rằng: Thế Tôn chuyển pháp luân Đánh trống pháp cam lồ Độ chúng sinh khổ não Mở bày đạo Niết-bàn. Cúi mong nhận lời con Dùng tiếng vi diệu lớn, Xót thương mà phô diễn Pháp tu vô lượng kiếp. Bấy giờ Đại Thông Trí Thắng Như Lai nhận lời thỉnh của các Phạm thiên vương và mười sáu người con vua tức thì ba lần chuyển pháp luân mười hai hành mà Sa-môn, Bà-la-môn, hoặc Trời, Ma, Phạm và các thế gian khác đều không thể chuyển được, nói rằng: “Đây là Khổ, đây là Khổ tập, đây là Khổ diệt, đây là đạo Khổ diệt.” Và giải thuyết pháp mười hai nhân duyên: Vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sinh, sinh duyên lão, tử, ưu bi, khổ não. Vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì lục nhập diệt, lục nhập diệt thì xúc diệt, xúc diệt thì thọ diệt, thọ diệt thì ái diệt, ái diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sinh diệt, sinh diệt thì lão, tử, ưu bi, khổ não diệt. Khi Đức Phật nói pháp đó thì ở trong đại chúng trời và người có sáu trăm vạn ức na-do-tha người vì không thọ tất cả pháp mà các lậu tâm được giải thoát, đều được thiền định sâu xa huyền diệu, được ba minh, sáu thông và đủ tám giải thoát. Khi nói pháp lần thứ hai, lần thứ ba, lần thứ tư, có ngàn vạn ức hằng hà sa na-do-tha chúng sinh cũng bởi không thọ tất cả pháp mà các lậu tâm được giải thoát. Từ đấy về sau các chúng Thanh văn nhiều vô lượng, vô biên không thể kể xiết. Bấy giờ mười sáu người con Phật tuổi còn nhỏ đều xuất gia làm Sa-di, các căn lanh lợi, trí tuệ sáng suốt, từng cúng dường trăm ngàn vạn ức chư Phật và tu hạnh thanh tịnh cầu đạo Vô thượng chính đẳng chính giác, đều bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Các Đại đức Thanh văn vô lượng ngàn vạn ức đây đã thành tựu xong, Thế Tôn cũng nên vì chúng con nói pháp Vô thượng chính đẳng chính giác, chúng con nghe xong đều đồng tu học. Bạch Thế Tôn, chúng con có chí mong cầu được tri kiến của Như Lai, ý niệm trong thâm tâm chúng con, Phật đã tự chứng biết. Lúc đó tám vạn ức người trong chúng của Chuyển luân Thánh vương dắt đến thấy mười sáu người con vua xuất gia cũng cầu xin xuất gia. Chuyển luân Thánh vương liền cho phép. Bấy giờ Đức Phật nhận lời thỉnh cầu của Sa-di, qua hai vạn kiếp sau mới ở trong hàng bốn chúng nói kinh Đại thừa tên là Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm. Đức Phật nói kinh ấy xong, mười sáu vị Sa-di vì đạo Vô thượng chính đẳng chính giác đều đồng thọ trì đọc tụng thông thuộc. Khi nói kinh ấy, mười sáu vị Sa-di Bồ-tát đều tin thọ, trong chúng Thanh văn cũng có người tin hiểu. Ngoài ra ngàn vạn ức loại chúng sinh đều sinh lòng nghi hoặc. Phật nói kinh xong liền vào tịnh thất an trụ thiền định tám vạn bốn ngàn kiếp. Bấy giờ mười sáu Sa-di Bồ-tát biết Phật nhập thất an trụ thiền định vắng lặng thì đều lên pháp tòa cũng vì bốn bộ chúng rộng nói phân biệt kinh Diệu Pháp Liên Hoa trong tám vạn bốn ngàn kiếp. Mỗi vị đều độ sáu trăm vạn ức na-do-tha hằng hà sa chúng sinh, chỉ dạy khiến được lợi ích hoan hỷ phát tâm Vô thượng chính đẳng chính giác. Đức Phật Đại Thông Trí Thắng qua tám vạn bốn ngàn kiếp sau từ Tam-muội dậy, qua ngồi an nhiên trên pháp tòa mà bảo đại chúng rằng: –Mười sáu Sa-di Bồ-tát này rất là ít có, các căn lanh lợi, trí tuệ sáng suốt, từng cúng dường vô lượng ngàn vạn ức chư Phật, ở chỗ chư Phật thường tu hạnh thanh tịnh, thọ trì trí của Phật để chỉ dạy chúng sinh vào trong Phật trí đó. Các ông phải luôn luôn gần gũi cúng dường. Vì sao vậy? Nếu Thanh văn, Duyên giác cùng các Bồ-tát có thể tin kinh pháp của mười sáu Sa-di Bồ-tát đó nói mà thọ trì không hủy bỏ thì sẽ được đạo Vô thượng chính đẳng chính giác trí tuệ của Như Lai. Phật bảo các Tỳ-kheo: –Mười sáu Bồ-tát đó thường hay nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa này. Sáu trăm vạn ức na-do-tha hằng hà sa chúng sinh của mỗi Bồ-tát hóa độ đó đời đời sinh ra đều cùng Bồ-tát ở chung, theo nghe pháp với Bồ-tát, tất cả đều tin hiểu. Nhờ duyên đó mà được gặp bốn vạn ức chư Phật Thế Tôn đến nay vẫn không hết. Các Tỳ-kheo! Ta nói cho các ông biết, mười sáu Sa-di đệ tử của Đức Phật kia nay đều chứng được đạo Vô thượng chính đẳng chính giác, hiện đang nói pháp trong các cõi nước mười phương, có vô lượng trăm ngàn vạn ức Bồ-tát Thanh văn làm quyến thuộc. Hai vị Sa-di làm Phật ở phương Đông, vị thứ nhất tên là A-súc ở nước Hoan hỷ, vị thứ hai tên là Tu-di Đảnh. Hai vị làm Phật ở phương Đông nam, vị thứ nhất tên là Sư Tử Âm, vị thứ hai tên là Sư Tử Tướng. Hai vị làm Phật ở phương Nam, vị thứ nhất tên là Hư Không Trụ, vị thứ hai tên là Thường Diệt. Hai vị làm Phật ở phương Tây, vị thứ nhất tên là Đế Tướng, vị thứ hai tên là Phạm Tướng. Hai vị làm Phật ở phương Tây, vị thứ nhất tên là A-di-đà, vị thứ hai tên là Độ Nhất Thiết Thế Gian Khổ Não. Hai vị làm Phật ở phương Tây bắc, vị thứ nhất tên là Đa-ma-la-bạt Chiên-đàn Hương Thần Thông, vị thứ hai tên là Tu-di Tướng. Hai vị làm Phật ở phương Bắc, vị thứ nhất tên là Vân Tự Tại, vị thứ hai tên là Vân Tự Tại Vương. Một vị làm Phật ở phương Đông bắc tên là Hoại Nhất Thiết Thế Gian Bố Úy. Vị thứ mười sáu là ta, Thích-ca Mâu-ni Phật thành Vô thượng chính đẳng chính giác ở cõi Ta-bà. Này các Tỳ-kheo! Lúc chúng ta làm Sa-di, mỗi người giáo hóa vô lượng trăm ngàn vạn ức hằng hà sa chúng sinh, vì đạo Vô thượng chính đẳng chính giác mà theo nghe pháp. Những chúng sinh đó đến nay có người trụ ở bậc Thanh văn, ta thường giáo hóa pháp Vô thượng chính đẳng chính giác. Những người này đáng dùng pháp đó mà lần vào Phật đạo. Vì sao vậy? Vì trí tuệ của Như Lai khó tin khó hiểu, vô lượng hằng hà sa chúng sinh được hóa độ trong thuở đó chính là Tỳ-kheo các ông, và sau khi ta diệt độ là các đệ tử Thanh văn trong đời vị lai. Sau khi ta diệt độ cũng có đệ tử không nghe kinh này, không biết không hay hạnh tu hành của Bồ-tát, tự cho các công đức của mình sở đắc là diệt độ sẽ nhập Niết-bàn. Ta thành Phật ở nơi nước khác lại có tên khác. Những người này dầu tưởng là diệt độ nhập Niết-bàn nhưng ở cõi kia cầu trí tuệ của Phật, được nghe kinh này, duy chỉ có Phật thừa mà được diệt độ chứ không có thừa nào khác, trừ khi các Như Lai phương tiện nói pháp. Này các Tỳ-kheo! Nếu Như Lai tự biết Niết-bàn sắp đến, chúng lại thanh tịnh, lòng tin hiểu bền chắc, rõ thấu pháp không, vào sâu thiền định, thì họp các Bồ-tát và chúng Thanh văn mà nói kinh này. Trên thế gian không có hai thừa mà được diệt độ, chỉ có một Phật thừa được diệt độ thôi. Các Tỳ-kheo phải biết, Như Lai phương tiện đi sâu vào căn tính của chúng sinh, biết ý chí của chúng sinh chỉ thích pháp nhỏ, đắm sâu năm thứ dục lạc nên vì hạng này mà nói Niết-bàn, hạng người đó nghe thì liền tin nhận. Ví như con đường dài năm trăm do-tuần có nhiều nạn dữ là nơi ghê sợ hoang vắng không người. Nếu có đông người muốn đi qua con đường ấy để đến nơi châu báu, có người dẫn đường thông minh sáng suốt, biết rõ nơi nào thông suốt nơi nào nghẽn lối của con đường hiểm mà đưa đoàn người muốn vượt qua khỏi nạn ấy. Trong số những người được dắt đi, có người giữa đường lười biếng mệt mỏi muốn trở lui thưa với người dẫn đường rằng: –Chúng tôi mệt nhọc mà lại sợ nữa không thể đi tới được, đường trước còn xa nên nay muốn trở lui. Người dẫn đường có nhiều phương tiện, tự nghó rằng: “Bọn người này thật đáng tội nghiệp, sao lại bỏ châu báu lớn mà muốn lui về?” Nghó thế rồi dùng sức phương tiện, quá ba trăm do-tuần giữa đoạn đường hiểm, hóa làm một thành trì và bảo mọi người rằng: –Các người đừng sợ, đừng thoái lui, nay nơi thành lớn này có thể dừng lại ở đó muốn làm gì tùy thích. Vào thành này rồi sẽ được yên ổn, còn tiếp tục sẽ có thể đi đến chỗ châu báu. Bấy giờ những người mệt mỏi hết sức vui mừng khen chưa từng có: “Chúng ta hôm nay thoát được đường dữ sung sướng được yên ổn.” Thế rồi mọi người vào hóa thành xong sinh ra ý tưởng rằng đã được độ thoát đến nơi yên ổn. Khi ấy người dẫn đường biết mọi người đã được nghỉ ngơi, không còn mệt mỏi liền hủy diệt hóa thành mà bảo mọi người rằng: –Các ngươi hãy đi tới, chỗ châu báu ở gần đây. Thành lớn vừa rồi là do ta hóa ra để dừng chân nghỉ ngơi thôi. Các Tỳ-kheo, Như Lai cũng vậy, nay vì các ông mà làm Đại Đạo Sư, biết các đường dữ sinh tử phiền não hiểm nạn dài xa nên bỏ nên vượt qua. Nếu như chúng sinh chỉ nghe một Phật thừa thì sẽ chẳng muốn thấy Phật, chẳng muốn gần gũi mà nghó rằng: “Đạo Phật xa vời phải lâu ngày chịu cần khổ mới thành được.” Phật biết cái tâm địa khiếp nhược thấp kém đó nên dùng sức phương tiện mà nói hai thứ Niết-bàn ở giữa chặn đường để nghỉ ngơi. Khi chúng sinh đã trụ vào hai bậc đó, bấy giờ Như Lai mới nói: –Việc tu hành của các ông chưa xong, trụ địa của các ông gần nơi Phật tuệ. Phải quan sát suy lường biết rằng Niết-bàn đã được đó chẳng phải là chân thật. Đó chỉ là do sức phương tiện của Như Lai, từ nơi một Phật thừa phân biệt nói thành ba. Như vị Đạo sư kia vì để cho mọi người nghỉ ngơi mà hóa ra thành quách lớn, khi biết đã nghỉ ngơi rồi mới bảo: “Chỗ châu báu ở gần đây. Còn thành này do ta biến hóa làm ra đấy thôi không phải thật.” Rồi Thế Tôn muốn làm rõ nghĩa này, nói bài kệ rằng: Phật Đại Thông Trí Thắng Mười kiếp tọa đạo tràng Phật pháp không hiện tiền Chẳng được thành Phật đạo Các Trời, Thần, Long vương Và chúng A-tu-la Thường rưới các hoa trời Để cúng dường Đức Phật Chư Thiên đánh trống trời Và trổi các kỹ nhạc. Gió thơm thổi hoa héo Rồi mưa hoa mới tươi. Qua mười tiểu kiếp rồi Mới được thành Phật đạo Các trời cùng người đời Lòng đều sinh hớn hở. Mười sáu người con Phật Đều với quyến thuộc mình Ngàn vạn ức vây quanh Cùng đi đến chỗ Phật Đầu mặt lạy chân Phật Thỉnh cầu chuyển pháp luân: Thánh Sư Tử mưa pháp Cho con và tất cả. Thế Tôn rất khó gặp Lâu xa một lần hiện. Vì giác ngộ quần sinh Mà chấn động tất cả. Các thế giới phương Đông Năm trăm vạn ức cõi. Cung điện Phạm sáng chói Từ xưa chưa từng có Phạm vương thấy tướng này Liền tìm đến chỗ Phật, Rải hoa để cúng dường Và dâng lên cung điện. Thỉnh Phật chuyển pháp luân Nói bài kệ khen ngợi. Phật biết thời chưa đến Nhận thỉnh yên lặng ngồi. Ba phương cùng bốn phía Trên dưới cũng như thế, Rưới hoa dâng cung điện Thỉnh Phật chuyển pháp luân: Thế Tôn rất khó gặp Xin vì lòng Từ bi Rộng mở cửa cam lồ Chuyển pháp luân Vô thượng. Thế Tôn Tuệ vô thượng Nhận lời chúng cầu thỉnh, Vì nói các pháp môn Bốn đế, mười hai duyên Vô minh đến lão tử Đều từ sinh duyên hữu Những lỗi lầm như thế Các ông cần phải biết. Nói rõ pháp ấy rồi Sáu trăm vạn ức cai Được hết sạch các khổ Đều thành A-la-hán. Thời thuyết pháp thứ hai Ngàn vạn hằng sa chúng Với các pháp chẳng thọ Cũng được A-la-hán. Về sau sẽ đắc đạo Số đông đến vô lượng. Vạn ức kiếp tính kể Không thể tính hết được. Rồi mười sáu con vua Xuất gia làm Sa-di Đều cùng thỉnh Phật ấy Diễn thuyết pháp Đại thừa: Chúng con cùng quyến thuộc Đều sẽ thành Phật đạo. Nguyện được như Thế Tôn Tuệ nhãn sạch bậc nhất. Phật biết tâm các con Việc đời trước đã làm, Dùng vô lượng nhân duyên Cùng với nhiều thí dụ, Nói sáu Ba-la-mật Và các việc thần thông, Phân biệt pháp chân thật Đạo của Bồ-tát làm. Nói kinh Pháp Hoa này Kệ nhiều như hằng sa. Phật ấy nói kinh xong Vào tịnh thất nhập định, Tám vạn bốn ngàn kiếp Nhất tâm ngồi một chỗ. Các vị Sa-di này Biết Phật thiền chưa xuất, Vì vô lượng ức chúng Nói Phật Tuệ vô thượng. Các vị ngồi pháp tòa Nói kinh Đại thừa ấy. Sau khi Phật yên lặng Tuyên dương giúp giáo hóa. Mỗi mỗi vị Sa-di Số chúng sinh đã độ Có sáu trăm vạn ức Chúng như cát sông Hằng. Sau khi Phật diệt độ, Những người nghe pháp đó Ở tại các cõi Phật Thường sinh cùng chỗ thầy. Mười sáu Sa-di đó Tu đầy đủ Phật đạo. Hiện nay ở mười phương Đều được thành chính giác. Người nghe pháp thuở ấy Đều ở chỗ chư Phật. Có người trụ Thanh văn Lần dạy cho Phật đạo. Ta trong số mười sáu Từng vì các ông nói. Cho nên dùng phương tiện Dẫn dắt đến Phật tuệ. Do vốn nhân duyên đó Nay nói kinh Pháp Hoa, Khiến ông vào Phật đạo Cẩn thận chớ kinh sợ. Ví như đường hiểm dữ Xa xôi nhiều thú độc Và lại không cỏ nước Chốn mọi người ghê sợ. Vô số ngàn vạn chúng Muốn qua đường hiểm này. Đường ấy rất xa xôi Qua năm trăm do-tuần. Bấy giờ có Đạo sư Hiểu biết có trí tuệ Sáng suốt lòng quyết định Đường hiểm cứu các nạn. Mọi người đều mệt mỏi Mà bạch Đạo sư rằng: Chúng con nay mỏi mệt Đến đây muốn trở về. Đạo sư nghó thế này Bọn này rất đáng thương Sao lại muốn quay về Chịu mất trân bảo lớn? Liền nghó chước phương tiện Nên dùng sức thần thông Hóa một thành quách lớn Có nhà cửa trang nghiêm Bốn bề là vườn rừng Có sông ngòi ao tắm. Cửa lớn lầu gác cao Trai gái đều đông đúc. Hóa xong thành đó rồi An ủi chúng chớ sợ. Các ngươi vào thành này Đều được tùy ý thích. Mọi người vào thành rồi Tâm đều rất hoan hỷ. Đều nghó tưởng yên ổn Tự cho đã được độ. Đạo sư biết vậy rồi Họp chúng lại mà bảo: Các ngươi nên đi tiếp Đây là hóa thành thôi. Ta thấy ngươi mệt mỏi Nửa đường muốn quay về, Nên dùng sức phương tiện Tạm hóa ra thành này. Các ngươi hãy nỗ lực Cùng nhau đến chỗ báu. Ta cũng như vậy đó. Đạo Sư của tất cả. Thấy những người cầu đạo Nửa đường mà lười bỏ Không thể vượt đường hiểm Sinh tử đầy phiền não, Nên dùng sức phương tiện Mà tạm nói Niết-bàn, Rằng các ngươi hết khổ Việc làm đều đã xong. Đã biết đến Niết-bàn Đều chứng A-la-hán, Giờ mới họp đại chúng Vì nói pháp chân thật. Sức phương tiện chư Phật Phân biệt nói ba thừa. Duy chỉ một Phật thừa Vì tạm nên nói hai. Nay vì ngươi nói thật Ngươi chứng không phải diệt, Phật là Nhất thiết trí Nên phát tinh tấn mạnh. Ngươi chứng Nhất thiết trí Mười lực các Phật pháp, Đủ ba hai tướng tốt Mới là chân thật diệt. Chư Phật là Đạo Sư Vì tạm nói Niết-bàn. Biết đã nghỉ tạm rồi Dẫn nhập vào Phật tuệ. KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA <卷 id="83085200">QUYỂN 4 <詞 id="83085201">Phẩm 8: thọ ký NĂM TRĂM vị ĐỆ TỬ Bấy giờ Phú-lâu-na Di-đa-la-ni Tử nghe Phật dùng trí tuệ phương tiện tùy cơ nói pháp như thế, lại nghe thọ ký cho các vị đệ tử lớn sẽ thành Vô thượng chính đẳng chính giác, lại nghe việc nhân duyên đời trước, lại nghe chư Phật có sức thần thông lớn tự tại, được điều chưa từng có, lòng hớn hở liền từ chỗ ngồi đứng dậy đến trước Phật, đầu mặt lễ chân Phật rồi đứng sang một bên chiêm ngưỡng dung nhan của Phật mắt không tạm rời mà nghó rằng: “Thế Tôn rất kỳ diệu, việc làm ít có, tùy thuận bao nhiêu chủng tính của thế gian, dùng sức phương tiện tri kiến mà nói pháp cứu chúng sinh ra khỏi chỗ tham đắm. Chúng con với công đức của Phật như thế không thể dùng lời nói mà nói rõ hết được. Chỉ có Phật Thế Tôn hay biết được bản nguyện trong thâm tâm chúng con.” Bấy giờ Phật bảo các Tỳ-kheo: –Các ông thấy Phú-lâu-na Di-đà-la-ni Tử này không? Ta thường khen ông là bậc nhất trong những người nói pháp, cũng thường khen các công đức của ông là siêng năng hộ trì giúp làm rõ pháp của ta, lại có thể chỉ dạy làm lợi ích hoan hỷ cho bốn chúng, giải thích đầy đủ chính pháp của Phật mà làm được nhiều lợi ích cho những người cùng tu hạnh thanh tịnh. Ngoài Như Lai không ai có thể có ngôn luận biện bác được cùng tận như ông ấy. Các ông chớ nói rằng Phú-lâu-na chỉ có thể hộ trì giúp làm rõ pháp của ta mà thôi. Người này đã ở nơi chín vạn ức chư Phật thời quá khứ mà hộ trì giúp là rõ chính pháp của Phật và cũng là bậc nhất trong số những người nói pháp thuở ấy. Ông lại thông suốt rành rẽ đối với pháp không của Phật nói, được bốn trí vô ngại, thường suy xét đúng đắn, nói pháp thanh tịnh không nghi hoặc, đầy đủ sức thần thông của Bồ-tát, tùy theo thọ mạng thường tu hạnh thanh tịnh. Vào thời Đức Phật ấy, người đời thường gọi ông đúng thật là Thanh văn. Nhưng Phú-lâu-na đã dùng phương tiện đó làm lợi ích cho vô lượng trăm ngàn chúng sinh, lại giáo hóa vô lượng, vô số người khiến an lập nơi Vô thượng chính đẳng chính giác. Người này vì muốn làm thanh tịnh cõi Phật mà thường làm các Phật sự giáo hóa chúng sinh. Các Tỳ-kheo, Phú-lâu-na cũng là bậc nhất trong số người nói pháp ở thời có bảy Đức Phật. Nay ở chỗ ta cũng là bậc nhất trong số những người nói pháp. Và cũng là bậc nhất trong số những người nói pháp ở thời các Đức Phật trong Hiền kiếp về đương lai, hộ trì giúp làm rõ pháp của Phật. Ông ấy cũng sẽ hộ trì giúp làm rõ chính pháp của vô lượng, vô biên chư Phật trong thời vị lai, giáo hóa làm lợi ích cho vô lượng chúng sinh khiến an lập nơi đạo Vô thượng chính đẳng chính giác, vì làm thanh tịnh cõi Phật mà thường siêng năng tinh tấn giáo hóa chúng sinh, dần dần đầy đủ đạo Bồ-tát. Qua vô lượng a-tăng-kỳ kiếp, nơi cõi này ông ấy sẽ thành bậc Vô thượng chính đẳng chính giác, hiệu là Pháp Minh Như Lai, Ứng Cúng, chính Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Đức Phật ấy lấy số tam thiên đại thiên thế giới nhiều như cát sông Hằng mà làm thành một cõi Phật. Đất bằng bảy thứ báu, bằng phẳng như bàn tay không núi gò, khe suối, ngòi rạch. Nhà cửa, lâu đài bằng bảy báu đầy dẫy trong nước. Cung điện của các trời ở gần trên hư không. Người và trời giao tiếp nhau, hai bên đều thấy được nhau. Không có đường dữ cũng không có người nữ. Tất cả chúng sinh đều do hóa sinh, không có dâm dục, có thần thông lớn, thân phát ra ánh sáng, bay đi tự tại, chí niệm bền chắc tinh tấn có trí tuệ. Tất cả đều thân sắc vàng đủ ba mươi hai tướng tốt tự trang nghiêm. Nhân dân nước ấy thường dùng hai cách ăn, một là Pháp hỷ thực và hai là Thiền duyệt thực. Có vô lượng, vô số ngàn vạn ức na-do-tha các Bồ-tát được sức thần thông lớn, bốn trí vô ngại hay giáo hóa các loài chúng sinh. Chúng Thanh văn trong nước đó không thể dùng tính toán mà biết được số lượng, tất cả đều đầy đủ ba Minh, sáu Thần thông và tám Giải thoát. Cõi nước Đức Phật đó có vô lượng công đức trang nghiêm thành tựu như vậy. Kiếp tên là Bảo minh, nước tên là Thiện tịnh. Phật đó thọ mạng vô lượng, vô số kiếp. Giáo pháp tồn tại ở đời rất lâu. Sau khi Phật diệt độ, tháp bằng bảy thứ báu được dựng khắp cả nước. Bấy giờ, Thế Tôn muốn làm rõ lại nghĩa này mà nói bài kệ: Các Tỳ-kheo lắng nghe Đạo của Phật tử làm, Vì khéo học phương tiện Không thể nghó bàn được. Biết chúng ưa pháp nhỏ Mà e sợ trí lớn, Cho nên các Bồ-tát Làm Thanh văn, Duyên giác, Dùng vô số phương tiện Độ các loài chúng sinh. Tự nói là Thanh văn Cách rất xa Phật đạo, Độ thoát vô lượng chúng Tất cả đều thành tựu. Dầu ưa nhỏ biếng lười, Dần sẽ khiến thành Phật. Trong giấu hạnh Bồ-tát Ngoài hiện tướng Thanh văn, Ít dục, chán sinh tử Thật tự tịnh cõi Phật. Bày cho thấy ba độc Lại hiện tướng tà kiến. Đệ tử ta thế đó Phương tiện độ chúng sinh. Nếu ta nói đầy đủ Các việc hóa hiện ra, Chúng sinh nghe đó rồi Lòng sinh ra nghi hoặc. Nay Phú-lâu-na đây, Xưa nơi ngàn ức Phật Siêng tu, năng hành đạo Giúp hộ giảng Phật pháp. Vì cầu Tuệ vô thượng Mà ở chỗ chư Phật, Hiện hơn các đệ tử Học rộng có trí tuệ, Nói pháp không sợ sệt Hay khiến chúng vui mừng, Chưa bao giờ mệt mỏi Để giúp đỡ việc Phật. Đã được thần thông lớn Đủ bốn trí vô ngại Biết các căn lợi độn Thường nói pháp thanh tịnh. Diễn rõ nghĩa như thế Dạy dỗ ngàn ức chúng Khiến trụ pháp Đại thừa Mà tự tịnh cõi Phật. Đời sau cũng cúng dường Vô lượng, vô số Phật Hỗ trợ tuyên chính pháp Cũng tự tịnh cõi Phật. Thường dùng các phương tiện Nói pháp không e sợ, Độ chúng vô số kể Đều thành Nhất thiết trí. Cúng dường chư Như Lai Hộ trì tạng Pháp bảo, Sau đó được thành Phật Tên hiệu là Pháp Minh. Nước đó tên Thiện tịnh Bảy thứ báu hợp thành. Kiếp tên là Bảo minh Chúng Bồ-tát rất đông, Số nhiều vô lượng ức Đều được thần thông lớn, Sức oai đức đầy đủ Khắp đầy cả nước đó. Thanh văn cũng vô số, Ba Minh, tám Giải thoát, Được bốn trí vô ngại, Dùng hạng này làm Tăng. Chúng sinh trong cõi đó Đã dứt hết dâm dục, Thuần một biến hóa sinh Thân tướng đủ trang nghiêm, Pháp hỷ, Thiền duyệt thực, Không tưởng ăn gì khác. Không có hàng nữ nhân Cũng không các đường dữ. Phú-lâu-na Tỳ-kheo Trọn thành tựu công đức Sẽ được cõi tịnh này, Chúng Hiền thánh rất đông, Vô lượng việc như thế, Ta chỉ nói vắn tắt. Bấy giờ một ngàn hai trăm A-la-hán tâm tự tại, nghó rằng: “Chúng ta vui mừng được điều chưa từng có, nếu được Thế Tôn thọ ký cho như các đệ tử lớn khác thì sung sướng biết bao.” Phật biết tâm niệm các vị đó nên bảo Đại Ca-diếp: –Một ngàn hai trăm A-la-hán đó, nay ta hiện tiền thứ tự mà thọ ký cho được Vô thượng chính đẳng chính giác. Trong chúng đó, đệ tử lớn của ta là Kiều-trần-như Tỳ-kheo sẽ cúng dường sáu vạn hai ngàn ức chư Phật rồi sau thành Phật hiệu là Phổ Minh Như Lai, Ứng Cúng, chính Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Còn năm trăm A-la-hán như Ưu-lầu-tần-loa Ca-diếp, Già-gia Ca-diếp, Na-đề Ca-diếp, Ca-lưu-đà-di, Ưu-đà-di, A-nâu-lâu-đà, Ly-bà-đa, Kiếp-tân-na, Bạc-câu-la, Châu-đà-tá, Già-đà… đều sẽ được Vô thượng chính đẳng chính giác, tất cả đều đồng một hiệu là Phổ Minh. Bấy giờ Thế Tôn muốn làm rõ lại nghĩa này mà nói bài kệ: Kiều-trần-như Tỳ-kheo Sẽ gặp vô lượng Phật, Qua vô số kiếp sau Mới được thành chính giác. Thường phóng quang minh lớn Đầy đủ các thần thông. Tiếng tăm khắp mười phương Tất cả đều tôn kính. Thường nói pháp Vô thượng Nên hiệu là Phổ Minh Cõi nước đó thanh tịnh Bồ-tát đều dũng mãnh Đều ở lầu gác đẹp Đi khắp nước mười phương. Đem các thứ vô thượng Hiến cúng lên chư Phật. Làm việc cúng dường xong Sinh lòng rất hoan hỷ. Về nước trong giây lát Có sức thần như vậy. Phật thọ sáu vạn kiếp chính pháp trụ gấp bội, Tượng pháp bội hơn chính. Pháp diệt trời, người lo. Năm trăm Tỳ-kheo kia, Lần lượt sẽ làm Phật, Đồng hiệu là Phổ Minh Thứ tự thọ ký nhau: Sau khi ta diệt độ Thì người sẽ thành Phật, Hóa độ cõi đời ấy Cũng như ta ngày nay. Cõi nước đó nghiêm sạch Và các sức thần thông, Chúng Thanh văn, Bồ-tát chính pháp cùng tượng pháp, Thọ mạng kiếp nhiều ít Đều như trên đã nói. Ca-diếp, ông nên biết Năm trăm vị tự tại, Và các Thanh văn khác Cũng sẽ làm như vậy. Vị nào vắng hôm nay Ông hãy vì nói rõ. Bấy giờ năm trăm A-la-hán ở trước Phật được thọ ký xong, vui mừng hớn hở, liền từ chỗ ngồi đứng dậy đến trước Phật đầu mặt lạy dưới chân, hối lỗi tự trách: –Bạch Thế Tôn! Chúng con thường có ý nghó tự cho mình đã được rốt ráo diệt độ, nay mới biết đó là vô trí. Bởi vì sao? Chúng con đáng được trí tuệ của Như Lai mà lại tự lấy trí nhỏ cho là đủ. Bạch Thế Tôn! Ví như có người đến nhà một người bạn thân say rượu mà nằm. Lúc bấy giờ người bạn thân có việc quan phải đi, bèn lấy châu báu vô giá cột trong áo cho người bạn rồi ra đi. Gã đó say nằm không hay biết. Khi tỉnh dậy bèn đi đến nước khác, vì cơm áo phải gắng sức tìm việc làm ăn rất là khổ cực. Được chút ít gì đã tự cho là đủ. Sau đó, người bạn thân gặp lại mới bảo: –Lạ thay, sao anh lại vì cơm áo mà ra nông nỗi này? Lúc trước ta muốn cho anh được an vui, tha hồ hưởng thụ năm thứ dục lạc nên vào ngày tháng năm đó đã đem châu báu vô giá buộc vào trong áo anh, nay vẫn còn đó mà anh không biết sao lại phải nhọc nhằn khổ cực kiếm sống thật là khờ lắm. Nay anh nên đem ngọc báu đó đổi lấy những gì cần dùng thì sẽ thường được vừa ý không thiếu. Phật cũng như vậy, lúc làm Bồ-tát giáo hóa chúng con khiến phát tâm cầu Nhất thiết trí, mà chúng con liền bỏ quên không hay biết. Được đạo A-la-hán đã tự cho là diệt độ, khổ nhọc mưu sinh, được chút ít đã cho là đủ, sở nguyện Nhất thiết trí vẫn còn chẳng mất. Ngày nay Thế Tôn giác ngộ chúng con bảo rằng: –Các Tỳ-kheo! Chỗ sở đắc của các ông không phải rốt ráo diệt. Từ lâu ta đã khiến các ngươi gieo trồng căn lành của Phật, dùng sức phương tiện chỉ bày tướng Niết-bàn, mà các ông cho là thật sự đã được diệt độ. Bạch Thế Tôn! Chúng con nay mới biết mình thật là Bồ-tát được thọ ký sẽ thành đạo Vô thượng chính đẳng chính giác. Vì nhân duyên đó lòng rất vui mừng được điều chưa từng có. Bấy giờ A-nhã Kiều-trần-như muốn làm rõ lại nghĩa này mà nói kệ rằng: Chúng con yên ổn nghe Tiếng thọ ký Vô thượng, Vui mừng chưa từng có Lạy Phật trí Vô thượng. Nay ở trước Thế Tôn Tự hối các lỗi lầm. Nơi Phật báu vô lượng Được chút phần Niết-bàn, Như người ngu vô trí Tự cho là đã đủ. Ví như người nghèo cùng Qua nhà người bạn thân. Nhà đó rất giàu có Thết đãi đủ tiệc ngon, Đem châu báu vô giá Cho buộc vào trong áo. Rồi lẳng lặng ra đi. Gã say nằm chẳng biết. Sau khi thức dậy rồi Đi đến các nước khác, Kiếm cơm áo nuôi thân Mưu sinh rất khổ sở. Được chút cho là đủ Lại chẳng muốn tốt hơn. Không hay trong áo mình Có châu báu vô giá. Người bạn thân cho ngọc Sau gặp gã nghèo này, Thiết tha trách gã rồi Chỉ cho châu trong áo. Gã nghèo thấy ngọc rồi Lòng hết sức vui sướng. Giàu có nhiều của cải Tha hồ hưởng năm dục. Chúng con cũng như vậy, Thế Tôn từ lâu xa Thường thương yêu giáo hóa Khiến phát nguyện Vô thượng. Chúng con vì vô trí Chẳng biết cũng chẳng hay. Được chút phần Niết-bàn Tưởng đủ không cầu nữa. Nay Phật giác ngộ con Nói chẳng phải thật diệt. Được Phật Tuệ vô thượng Đó mới là thật diệt. Con nay được nghe Phật Thọ ký việc trang nghiêm, Cùng tuần tự thọ ký Thân tâm đều vui mừng.  <詞 id="83085202">Phẩm 9: thọ ký CHO BẬC HỌC VÀ VÔ HỌC Bấy giờ A-nan và La-hầu-la nghó rằng: “Chúng ta đều nghó: Nếu được thọ ký thì sung sướng biết bao.” Rồi từ nơi chỗ ngồi đứng dậy đến trước Phật, đầu mặt lạy dưới chân cùng bạch Phật rằng: –Bạch Thế Tôn! Trong số này, chúng con cũng đáng có phần. Chỉ có Như Lai là chỗ nương về của chúng con. Lại nữa chúng con là người mà tất cả Trời, Người, A-tu-la trong đời đều biết. A-nan thường làm thị giả hộ trì Tạng pháp. La-hầu-la là con của Phật. Nếu được Phật thọ ký đạo Vô thượng chính đẳng chính giác thì sở nguyện của con được thỏa mãn mà chỗ trông mong của chúng cũng được đầy đủ. Lúc đó hàng đệ tử Thanh văn, bậc Hữu học cũng như bậc Vô học hai ngàn người đều từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai áo bên phải đến trước Phật nhất tâm chắp tay chiêm ngưỡng Thế Tôn cũng sở nguyện như A-nan và La-hầu-la rồi đứng qua một bên. Bấy giờ Phật bảo A-nan: –Ông ở đời sau sẽ được làm Phật hiệu Sơn Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương Như Lai, Ứng Cúng, chính Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Ông sẽ cúng dường sáu mươi hai ức chư Phật, hộ trì tạng pháp rồi, sau chứng được đạo Vô thượng chính đẳng chính giác, giáo hóa hai mươi ngàn vạn ức hằng hà sa các chúng Bồ-tát khiến được đạo Vô thượng chính đẳng chính giác. Nước tên là Thường lập thắng phan, cõi đó thanh tịnh, đất bằng lưu ly. Kiếp tên là Diệu âm biến mãn. Phật ấy thọ mạng vô lượng ngàn vạn ức a-tăng-kỳ kiếp, nếu có người tính toán đếm kể đến ngàn vạn ức vô lượng a-tăng-kỳ kiếp cũng không thể biết được. chính pháp tồn tại ở đời lâu gấp bội thọ mạng, tượng pháp lại gấp bội chính pháp. A-nan, Phật Sơn Hải Tự Tại Thông Vương đó được vô lượng ngàn vạn ức hằng hà sa chư Phật Như Lai ở mười phương đồng ngợi khen công đức. Bấy giờ Thế Tôn muốn làm rõ lại nghĩa này mà nói kệ: Nay ta trong Tăng chúng Nói A-nan trì pháp Sẽ cúng dường chư Phật Rồi sau thành chính giác, Hiệu là Sơn Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương Phật. Cõi nước kia thanh tịnh, Tên Thường lập thắng phan. Giáo hóa các Bồ-tát Số đông như hằng sa. Phật có oai đức lớn Tiếng đồn khắp mười phương. Vì bởi thương chúng sinh Nên sống lâu vô lượng. chính pháp bội thọ mạng, Tượng pháp bội hơn chính. Vô số các chúng sinh Nhiều như cát sông Hằng Ở trong pháp Phật đó Gieo nhân duyên Phật đạo. Bấy giờ tám ngàn người thuộc hạng Bồ-tát mới phát tâm trong chúng hội đều nghó: “Chúng ta còn chưa nghe các Bồ-tát lớn được thọ ký như thế, các Thanh văn có nhân duyên gì mà được thọ ký như vậy?” Lúc ấy Thế Tôn biết tâm niệm của các Bồ-tát nên bảo rằng: –Các thiện nam! Ta cùng A-nan nơi Đức Phật Không Vương đồng thời phát tâm Vô thượng chính đẳng chính giác. A-nan thường ưa học rộng, còn ta thường siêng năng tinh tấn cho nên nay ta đã thành Vô thượng chính đẳng chính giác. A-nan thì hộ trì pháp của ta và cũng sẽ hộ trì Pháp tạng của chư Phật trong tương lai, giáo hóa thành tựu các chúng Bồ-tát. Bản nguyện của ông ấy như thế nên được thọ ký là như vậy. A-nan trước mặt Phật nghe Phật thọ ký cùng với cõi nước trang nghiêm, sở nguyện đã đủ, lòng rất vui mừng được điều chưa từng có. Liền nhớ lại Tạng pháp của vô lượng ngàn vạn ức chư Phật thuở quá khứ thấu suốt không ngại như đang nghe hiện nay và cũng biết được bản nguyện của mình. Khi đó A-nan nói bài kệ: Thế Tôn rất ít có Khiến con nhớ quá khứ, Vô lượng các Phật pháp Như được nghe ngày nay. Con nay không còn nghi, An trụ trong Phật đạo, Phương tiện làm thị giả Hộ trì các Phật pháp. Bấy giờ Phật bảo La-hầu-la: –Đời sau ông sẽ được làm Phật hiệu Đạo Thất Bảo Hoa Như Lai, Ứng Cúng, chính Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Ông sẽ cúng dường chư Phật Như Lai, số như vi trần trong mười phương thế giới, thường vì chư Phật mà làm người con lớn cũng như hiện nay vậy. Cõi nước của Phật Đạo Thất Bảo Hoa đó trang nghiêm, kiếp số, thọ mạng, đệ tử giáo hóa, chính pháp và tượng pháp cũng đồng như Sơn Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương Như Lai không khác. Ông cũng sẽ làm người con trưởng của vị Phật này, rồi sau đó sẽ được Vô thượng chính đẳng chính giác. Lúc đó Thế Tôn muốn làm rõ lại nghĩa này nói bài kệ rằng: Lúc ta làm thái tử La-hầu làm con cả. Ta nay thành Phật đạo Thọ pháp làm đệ tử. Ở trong đời vị lai Gặp vô lượng ức Phật, Cũng lại làm con trưởng, Một lòng cầu Phật đạo. Hạnh kín đáo: La-hầu Chỉ có ta biết thôi. Hiện làm con cả ta Để chỉ bày chúng sinh, Vô lượng ức ngàn vạn Công đức không kể hết, An trụ trong Phật pháp Để cầu đạo Vô thượng. Bấy giờ Thế Tôn thấy bậc Hữu học cùng Vô học hai ngàn người ý chí hòa dịu vắng lặng trong sạch, nhất tâm ngắm nhìn Phật. Phật bảo A-nan: –Ông có trông thấy hai ngàn bậc Hữu học, Vô học đây không? –Vâng, con có thấy! –A-nan! Các người này sẽ cúng dường chư Như Lai số như vi trần trong năm mươi thế giới, cung kính tôn trọng hộ trì Pháp tạng. Sau cùng ở các cõi nước trong mười phương tất cả đồng thời thành Phật, đều đồng một hiệu là Bảo Tướng Như Lai, Ứng Cúng, chính Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, sống lâu một kiếp, cõi nước trang nghiêm, Thanh văn, Bồ-tát, chính pháp, tượng pháp đều giống như nhau. Lúc đó Thế Tôn muốn làm rõ lại nghĩa này mà nói bài kệ: Hai ngàn Thanh văn đây Nay đứng trước mặt ta Đều đã được thọ ký Đời sau sẽ thành Phật. Cúng dường các Đức Phật Số nhiều như nói trên. Hộ trì Tạng pháp Phật Sau sẽ thành chính giác. Đều ở trong mười phương Cùng đồng một danh hiệu. Đồng thời ngồi đạo tràng. Để chứng Tuệ vô thượng. Đều hiệu là Bảo Tướng, Cõi nước cùng đệ tử, chính pháp và tượng pháp Đều như nhau không khác. Đều dùng các thần thông Độ mười phương chúng sinh. Tiếng tăm vang cùng khắp Dần chứng nhập Niết-bàn. Lúc đó bậc Hữu học cùng Vô học hai ngàn người nghe Phật thọ ký vui mừng hớn hở mà nói kệ: Thế Tôn đèn tuệ sáng Con nghe tiếng thọ ký, Lòng vui mừng thỏa mãn Như được tưới cam lồ.  <詞 id="83085203">Phẩm 10: PHÁP SƯ Bấy giờ Thế Tôn nhân bảo Bồ-tát Dược Vương mà nói với tám vạn Đại só rằng: –Dược Vương! Ông thấy trong đại chúng đây có vô lượng chư Thiên, Long vương, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân, cùng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, hạng cầu Thanh văn, hạng cầu Bích-chi-phật, hạng cầu Phật đạo. Những loại như thế đều ở trước Phật nghe kinh Diệu Pháp Liên Hoa, dù một bài kệ, một câu cho đến một niệm tùy hỷ, ta đều thọ ký cho sẽ được Vô thượng chính đẳng chính giác. Phật bảo Dược Vương: –Lại nữa sau khi Như Lai diệt dộ, nếu có người nghe kinh Diệu Pháp Liên Hoa, cho đến một bài kệ, một câu, một niệm tùy hỷ ta cũng thọ ký cho được Vô thượng chính đẳng chính giác. Nếu lại có người thọ trì đọc tụng, giảng giải, biên chép kinh Diệu Pháp Liên Hoa, cho đến một bài kệ, cung kính quyển kinh này như cung kính Phật dùng các thứ hoa, hương, chuỗi ngọc, hương bột, hương xoa, hương xông, tàn lọng, cờ phướn, y phục, kỹ nhạc cúng dường, cho đến chắp tay cung kính. Dược Vương nên biết! Những người như trên đã từng cúng dường mười vạn ức Phật, đã thành tựu chí nguyện lớn nơi chư Phật, nhưng vì thương xót chúng sinh mà sinh vào cõi nhân gian. Dược Vương! Nếu có người hỏi những chúng sinh nào sẽ thành Phật ở đời vị lai thì nên chỉ những người như trên đời vị lai sẽ thành Phật. Vì sao vậy? Nếu có thiện nam, thiện nữ nào thọ trì đọc tụng giải thích biên chép kinh Pháp Hoa, cho dù một câu, dùng hoa, hương, chuỗi ngọc, hương bột, hương xoa, hương xông, tàn lọng, cờ phướn, y phục, kỹ nhạc cúng dường, chắp tay cung kính, người đó đáng được tất cả thế gian chiêm ngưỡng sùng phụng, đáng được đem các thứ cúng dường Như Lai mà cúng dường. Phải biết rằng người đó là bậc Đại Bồ-tát đã thành tựu Vô thượng chính đẳng chính giác, nhưng vì thương chúng sinh mà nguyện sinh ra nơi đây để phân biệt quảng diễn kinh Diệu Pháp Liên Hoa huống nữa là tận lực thọ trì cúng dường các thứ. Dược Vương nên biết! Người đó, sau khi ta diệt độ, tự bỏ nghiệp báo thanh tịnh mà sinh ra nơi đời ác để quảng diễn kinh này. Nếu những thiện nam, thiện nữ này sau khi ta diệt độ có thể vì một người mà nói kinh Pháp Hoa, cho dù một câu, phải biết người đó là sứ giả của Như Lai, được Như Lai sai làm việc của Như Lai, huống nữa là vì nhiều người mà rộng nói trong đại chúng. Dược Vương! Nếu có người ác đem tâm không lành, trong một kiếp xuất hiện ra trước Phật mà thường chê mắng Phật, tội người đó còn nhẹ. Nếu có người dùng lời ác chê mắng người tại gia hay xuất gia đọc tụng kinh Pháp Hoa, tội đó rất nặng. Dược Vương! Như có người đọc tụng kinh Pháp Hoa, phải biết rằng người đó dùng đức trang nghiêm của Phật mà tự trang nghiêm mình, tức sẽ được Như Lai nâng đỡ phò trì. Người đó đến đâu, mọi người nên hướng về người đó mà làm lễ, nhất tâm chắp tay cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, dùng hoa, hương, chuỗi ngọc, hương bột, hương xoa, hương xông, tàn lọng, cờ phướn, y phục, các thứ mỹ vị, kỹ nhạc, các thức thượng hạng trong loài người mà cúng dường, nên đem những thức quý báu của trời mà tung rải cúng dường, đem những thức quý báu trên trời mà dâng cúng. Vì sao vậy? Vì người đó hoan hỷ nói pháp, nghe pháp trong giây lát sẽ được rốt ráo Vô thượng chính đẳng chính giác. Bấy giờ Thế Tôn muốn làm rõ lại nghĩa này mà nói bài kệ: Nếu muốn trụ Phật đạo Thành tựu trí tự nhiên, Thường phải siêng cúng dường Người thọ trì Pháp Hoa. Nếu ai muốn mau được Nhất thiết chủng trí tuệ, Nên thọ trì kinh này, Cúng dường người trì tụng. Nếu có người thọ trì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Nên biết là sứ giả Của Phật thương chúng sinh. Những người hay thọ trì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Là người rời cõi tịnh Thương chúng sinh đến đây. Phải biết người như thế Muốn sinh đâu cũng được. Có thể nơi đời ác Rộng nói pháp Vô thượng. Nên đem hoa, hương trời Cúng dường người nói pháp. Đời ác, sau ta diệt Ai thọ trì kinh này Phải chắp tay kính lễ Như cúng dường Thế Tôn. Sắm trân cam mỹ vị Và các thứ y phục, Cúng dường Phật tử đó Mong được giây lát nghe. Nếu người ở đời sau Thọ trì được kinh này, Chính là ta sai khiến Làm việc của Như Lai. Nếu ai trong một kiếp Thường ôm lòng chẳng lành Làm sắc mặt mắng Phật Mắc vô lượng tội nặng. Như có người thọ trì Đọc tụng kinh Pháp Hoa, Ai đem lời ác mắng, Tội này còn hơn kia. Có người cầu Phật đạo Mà ở trong một kiếp, Chắp tay ở trước ta Dùng vô số kệ khen. Do vì khen Phật nên Được vô lượng công đức. Khen ngợi người trì kinh Phước này còn hơn kia. Trong tám mươi ức kiếp Dùng sắc, thanh hay đẹp, Cùng với hương, vị, xúc Cúng dường người trì kinh. Cúng dường như vậy xong Rồi được nghe chốc lát, Thì nên tự vui mừng: Ta nay được lợi lớn. Dược Vương! Ta bảo ông: Các kinh ta đã nói Trong đó có Pháp Hoa Là kinh thuộc bậc nhất. Bấy giờ Phật lại bảo Dược Vương Bồ-tát Ma-ha-tát rằng: –Những kinh điển ta nói nhiều vô lượng ngàn vạn ức, có kinh đã nói, hiện đang nói và sẽ nói, nhưng trong đó kinh Pháp Hoa là khó tin khó hiểu nhất. Dược Vương, kinh này là tạng bí yếu của chư Phật không thể dễ dãi phân chia trao cho người. Đây là kinh mà chư Phật giữ gìn từ xưa đến nay chưa từng tỏ bày nói ra. Chính kinh này khi Như Lai đương hiện tại mà còn có nhiều kẻ oán ghét huống chi là sau khi Phật diệt độ. Dược Vương nên biết! Sau khi Như Lai diệt độ, người nào có thể biên chép, thọ trì, đọc tụng, cúng dường, vì người khác mà nói thì sẽ được Như Lai lấy y đắp cho, lại được chư Phật hiện tại ở các phương khác hộ niệm cho. Người đó có sức tin lớn và sức chí nguyện, các sức thiện căn. Phải biết người đó cùng Như Lai ở chung, được Như Lai lấy tay xoa đầu. Dược Vương! Bất cứ nơi đâu có người hoặc nói, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc chép, hoặc nơi nào có quyển kinh này đều nên dựng tháp bảy báu cực kỳ cao rộng đẹp đẽ mà không cần phải an trí xá-lợi. Vì sao vậy? Vì trong đó đã có toàn thân của Như Lai rồi. Hãy nên dùng tất cả hoa, hương, chuỗi ngọc, tàn lọng, cờ phướn, kỹ nhạc, ca tụng cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen tháp đó. Nếu có người trông thấy tháp này mà lễ lạy cúng dường, phải biết những người đó đều gần đạo Vô thượng chính đẳng chính giác. Dược Vương! Có nhiều người tại gia, xuất gia làm đạo Bồ-tát nhưng nếu không thể thấy nghe, đọc tụng, biên chép, thọ trì cúng dường kinh Pháp Hoa này thì phải biết rằng người đó chưa thực hành tốt đạo Bồ-tát. Nếu có người nào được nghe kinh điển này thì mới gọi là thực hành tốt đạo Bồ-tát. Còn như có chúng sinh nào cầu Phật đạo, nếu như được thấy hoặc nghe kinh Pháp Hoa này, nghe xong tin hiểu thọ trì thì nên biết rằng người đó được gần đạo Vô thượng chính đẳng chính giác. Dược Vương! Ví như có người khát tìm nước, đào xuống nơi gò cao kia thấy đất khô thì biết nước hãy còn xa, ra công đào mãi không thôi dần dần thấy đất ướt rồi đến bùn, tâm người ấy quyết định biết chắc rằng gần đến nước. Bồ-tát cũng vậy, phải biết rằng nếu chưa nghe, chưa hiểu, chưa có thể tu tập kinh Pháp Hoa này thì người đó còn cách xa đạo Vô thượng chính đẳng chính giác. Nếu được nghe hiểu tư duy tu tập kinh này thì biết chắc được gần đạo Vô thượng chính đẳng chính giác. Vì sao vậy? Vì đạo Vô thượng chính đẳng chính giác của Bồ-tát đều thuộc về kinh này. Kinh này mở ra pháp môn phương tiện chỉ thị tướng chân thật. Tạng kinh Pháp Hoa này sâu xa bí nhiệm không ai có thể thấu đáo được. Nay Phật khai thị cho là vì giáo hóa để thành tựu Bồ-tát. Dược Vương! Nếu có Bồ-tát nào nghe kinh Pháp Hoa này mà sinh kinh nghi sợ sệt thì biết rằng đó là hạng Bồ-tát mới phát tâm. Nếu Thanh văn nào nghe kinh này mà kinh nghi sợ sệt thì biết đó là hạng tăng thượng mạn. Dược Vương! Nếu có thiện nam, thiện nữ, sau khi Như Lai diệt độ, muốn vì bốn chúng mà nói kinh Pháp Hoa này thì phải nói như thế nào? Thiện nam, thiện nữ đó phải vào nhà Như Lai, mặc y phục Như Lai, ngồi tòa Như Lai, rồi mới nên vì bốn chúng mà rộng nói kinh này. Nhà Như Lai chính là tâm Từ bi lớn đối với tất cả chúng sinh. Y phục Như Lai chính là lòng nhu hòa, nhẫn nhục. Tòa Như Lai chính là tất cả pháp đều không. An trụ trong đây xong rồi dùng tâm không biếng trễ, vì các Bồ-tát và bốn chúng mà rộng nói kinh Pháp Hoa này. Dược Vương! Bấy giờ ta sẽ sai các hóa nhân ở các nước khác tập họp làm chúng nghe pháp của người đó. Ta cũng sai hóa Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di nghe người đó nói pháp. Các hóa nhân này nghe pháp tin thọ tùy thuận không trái. Nếu người nói pháp nơi vắng vẻ, ta sẽ sai nhiều Trời, Rồng, Quỷ, Thần, Càn-thát-bà, A-tu-la nghe người đó nói pháp. Ta dầu ở nước khác nhưng luôn luôn khiến người nói pháp đó được thấy thân ta. Nếu trong kinh này có quên mất câu nào chỗ nào ta sẽ nói lại cho để được đầy đủ.” Bấy giờ, Thế Tôn muốn làm rõ lại nghĩa này mà nói bài kệ: Muốn bỏ tính biếng lười Thì phải nghe kinh này. Kinh này khó được nghe Tin thọ được cũng khó. Như người khát cần nước, Đào đất nơi gò cao. Thấy đất vẫn khô ráo Biết cách nước còn xa. Dần thấy đất bùn ướt Quyết chắc biết gần nước. Dược Vương! Ông nên biết Những người như thế đó, Chẳng nghe kinh Pháp Hoa Cách rất xa trí Phật. Nghe kinh mầu nhiệm này Pháp Thanh văn ắt rõ. Đây là vua các kinh Nghe rồi tư duy kỹ. Phải biết rằng người đó Đã gần trí tuệ Phật. Nếu ai nói kinh này Nên vào nhà Như Lai, Mặc y phục Như Lai, Mà ngồi tòa Như Lai. Ở trong chúng không sợ, Rộng vì phân biệt nói. Đại Từ bi làm nhà, Y nhu hòa nhẫn nhục, Các pháp không làm tòa Ở đó vì nói pháp. Nếu khi nói kinh này Bị người ác mắng nhiếc Dao gậy gạch đá đánh, Nghó Phật nên nhẫn nhịn. Ta trong vạn ức cõi Hiện tịnh thân kiên cố Trải vô lượng ức kiếp Vì chúng sinh nói pháp. Sau khi ta diệt độ Nếu ai nói kinh này, Ta sai hóa bốn chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni Và nam nữ thanh tịnh Cúng dường lên Pháp sư, Hướng dẫn các chúng sinh Họp lại khiến nghe pháp. Nếu ai muốn làm hại, Bằng dao gậy gạch đá, Thì khiến các hóa nhân Bảo vệ cho người đó. Nếu người nói Pháp Hoa Riêng ở nơi vắng vẻ, Tónh mịch không tiếng người Đọc tụng kinh điển này, Bấy giờ ta sẽ hiện Thân sáng suốt thanh tịnh Nếu quên chỗ, mất câu Ta sẽ giúp thông thuộc. Nếu người đủ đức này Hoặc vì bốn chúng nói, Chỗ vắng đọc tụng kinh Đều được thấy thân ta. Nếu người ở chỗ vắng, Ta sai Trời, Long vương Cùng Dạ-xoa, Quỷ, Thần Vì làm chúng nghe pháp. Người đó ưa nói pháp Phân biệt không trở ngại. Nhờ chư Phật hộ niệm Khiến đại chúng hoan hỷ. Nếu ai gần Pháp sư Mau được đạo Bồ-tát. Thuận theo Thầy đó học Được thấy hằng sa Phật.  <詞 id="83085204">Phẩm 11: HIỆN Bảo THÁP Lúc bấy giờ, ở trước Phật có tháp bảy báu, cao năm trăm do-tuần, ngang rộng hai trăm năm mươi do-tuần từ dưới đất nổi lên rồi trụ giữa hư không được trang sức nhiều thứ quý báu, có năm ngàn bao lơn, ngàn vạn phòng ốc trang trí vô số cờ phướn, thả chuỗi ngọc, và treo vạn ức chuông nhỏ. Bốn mặt đều có mùi hương Đa-ma-la-bạt Chiên-đàn toát ra khắp thế giới. Các phướn lọng đều do bảy báu như vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, ngọc trai và mai khôi hợp thành, cao tận trời Tứ Thiên vương. Trời Tam thập tam mưa hoa Mạn-đà-la cúng dường bảo tháp. Các cõi trời khác và Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân… ngàn vạn ức chúng đều đem tất cả các thứ hoa, hương, chuỗi ngọc, phướn, lọng, kỹ nhạc mà cúng dường tháp báu, cung kính tôn trọng ngợi khen. Bấy giờ trong tháp báu có tiếng lớn vang ra khen rằng: –Hay thay, hay thay! Thích-ca Mâu-ni Thế Tôn có thể dùng tuệ lớn bình đẳng, vì đại chúng nói kinh Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm Diệu Pháp Liên Hoa. Đúng như vậy, đúng như vậy, Thích-ca Mâu-ni Thế Tôn! Những điều Thế Tôn nói đều là chân thật. Bấy giờ bốn chúng thấy tháp báu lớn trụ giữa hư không, lại nghe từ trong tháp vang tiếng nói ra, tất cả đều được pháp hỷ, lấy làm lạ điều chưa từng có, liền từ chỗ ngồi đứng dậy cung kính chắp tay rồi lui ra đứng một bên. Lúc đó có một Đại Bồ-tát tên là Đại Nhạo Thuyết, biết tất cả Trời, Người, A-tu-la… trong thế gian có chỗ nghi không rõ nên bạch Phật rằng: –Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà có tháp này từ đất nổi lên và ở trong tháp lại có tiếng vang ra như thế? Bấy giờ Phật bảo Bồ-tát Đại Nhạo Thuyết rằng: –Trong tháp báu này có toàn thân Như Lai. Đó là vào thời quá khứ, cách đây ngàn vạn ức vô số cõi nước ở phương Đông có một nước tên là Bảo tịnh, nơi đó có Phật Đa Bảo. Đức Phật đó tu hành đạo Bồ-tát, phát lời thệ nguyện lớn rằng: “Nếu ta được thành Phật, sau khi diệt độ trong các cõi nước mười phương nơi nào có nói kinh Pháp Hoa thì tháp miếu của ta sẽ vì nghe kinh đó mà xuất hiện ra ở trước để chứng minh và khen rằng: Hay thay!” Đức Phật đó thành Phật rồi, lúc sắp diệt độ, ở trong đại chúng Trời, Người, bảo các Tỳ-kheo rằng: “Sau khi ta diệt độ, muốn cúng dường toàn thân ta thì nên dựng một tháp lớn.” Đức Phật đó dùng nguyện lực thần thông khiến nơi nơi chốn chốn trong khắp mười phương cõi nước nơi nào có nói kinh Pháp Hoa thì tháp báu xuất hiện ra trước có toàn thân Phật ở trong tháp báu khen rằng: “Hay thay, hay thay!” Đại Nhạo Thuyết, nay tháp của Đa Bảo Như Lai vì nghe giảng kinh Pháp Hoa nên từ dưới đất nổi lên khen: Hay thay, hay thay! Bấy giờ Đại Nhạo Thuyết Bồ-tát do thần lực của Như Lai mà bạch Phật rằng: –Bạch Thế Tôn! Chúng con xin được trông thấy thân của Đức Phật đó. Bấy giờ Phật bảo Đại Nhạo Thuyết Bồ-tát Ma-ha-tát: –Phật Đa Bảo đó có lời nguyện sâu nặng rằng: “Lúc tháp báu của ta vì nghe kinh Pháp Hoa mà hiện ra nơi trước chư Phật, nếu có vị Phật nào muốn chỉ bày thân ta cho bốn chúng thì các vị Phật do Phật đó phân thân thuyết pháp trong thế giới mười phương phải họp về một chỗ, sau đó thân ta mới hiện ra.” Đại Nhạo Thuyết, các vị Phật do ta phân thân thuyết pháp trong thế giới mười phương nay sẽ phải họp lại. Đại Nhạo Thuyết bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Chúng con cũng muốn được thấy các vị Phật do Thế Tôn phân thân để lễ bái cúng dường. Bấy giờ Phật phóng một luồng sáng nơi lông trắng giữa chân mày liền thấy năm trăm vạn ức na-do-tha hằng hà sa cõi nước chư Phật ở phương Đông. Các cõi nước đó đều dùng pha lê làm đất, cây báu, y báu để trang nghiêm, vô số ngàn vạn ức Bồ-tát đầy dẫy trong nước đó. Khắp nơi giăng màn báu, lưới báu phủ trùm bên trên, các Đức Phật trong nước đó đều dùng âm thanh vi diệu mà nói các pháp và thấy vô lượng ngàn vạn ức Bồ-tát khắp đầy trong nước vì bốn chúng mà nói pháp. Các phương Nam, Tây, Bắc, bốn phía trên dưới, chỗ nào tướng lông trắng chiếu đến cũng đều như vậy. Lúc đó chư Phật ở mười phương đều bảo các chúng Bồ-tát: –Các thiện nam! Nay ta phải qua thế giới Ta-bà, chỗ của Phật Thích-ca Mâu-ni để cùng cúng dường tháp báu của Đa Bảo Như Lai. Lúc bấy giờ cõi Ta-bà liền biến thành thanh tịnh, đất bằng lưu ly, cây báu trang nghiêm, dây vàng giăng tám nẻo, không có xóm làng thành ấp, biển cả, sông ngòi, núi non, rừng rú. Đốt nhiều hương báu, khắp đất trải hoa Mạn-đà-la, màn lưới báu giăng trùm bên trên, treo nhiều chuông báu nhỏ. Chỉ chúng trong hội này được lưu lại còn các trời và người đều được dời đi cõi khác. Lúc đó các Đức Phật đều đem theo một vị Đại Bồ-tát làm thị giả qua cõi Ta-bà đến dưới cây báu, mỗi cây báu cao năm trăm do-tuần, nhánh, lá, hoa, quả thứ nào thứ nấy trang nghiêm. Dưới các cây báu đều có tòa Sư tử cao năm do-tuần cũng được trang trí bằng các thứ rất quý báu. Khi ấy các Đức Phật đều ngồi kiết già trên tòa Sư tử như thế lần lượt đến khắp đầy cả cõi tam thiên đại thiên mà số Phật do Phật Thích-ca Mâu-ni phân thân trong một phương cũng chưa hết. Bấy giờ Phật Thích-ca Mâu-ni vì muốn dung nạp hết số Phật do mình phân thân, nên ở tám phương mỗi phương lại biến thành hai trăm vạn ức na-do-tha cõi nước đều làm cho thanh tịnh không có địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh và A-tu-la và cũng dời các hàng trời, người sang cõi khác. Các nước do Phật biến hóa ra đó cũng dùng lưu ly làm đất, cây báu trang nghiêm cao năm trăm do-tuần, nhánh, lá, hoa, quả thứ nào thứ nấy tốt đẹp. Dưới cây đều có tòa Sư tử báu cao năm do-tuần được trang sức bằng các thứ quý báu. Các nước đó cũng không có biển cả, sông ngòi và các núi chúa như Mục-chân-lân-đà, núi Thiết vi, núi Đại Thiết vi, núi Tu-di… tất cả thông nhau làm thành một cõi Phật, đất báu bằng thẳng, các ngả đường quý báu đan xen, có màn phủ trùm khắp bên trên, có treo phướn lọng, đốt nhiều hương quý và hoa trời rải khắp trên mặt đất. Phật Thích-ca Mâu-ni vì các Đức Phật sẽ đến ngồi nên ở tám phương mỗi phương đều biến thành hai trăm vạn ức na-do-tha cõi nước, đều làm cho thanh tịnh, không có địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh và A-tu-la, lại dời các hàng Trời, Người sang cõi khác. Các nước được biến hóa ra đó cũng dùng lưu ly làm đất, cây báu trang nghiêm cao năm trăm do-tuần, nhánh, lá, hoa, quả thứ nào thứ nấy tốt đẹp, dưới cây đều có tòa Sư tử báu cao năm do-tuần cũng được trang sức bằng các thứ quý báu. Ở các nước này cũng không có biển cả sông ngòi và các núi chúa như núi Mục-chân-lân-đà, núi Đại-mục-chân-lân-đà, núi Thiết vi, núi Đại Thiết vi, núi Tu-di… tất cả thông nhau làm thành một cõi Phật, đất báu bằng thẳng, các ngả đường báu đan xen trên có màn phủ che, có treo phướn lọng, đốt nhiều hương quý và hoa trời rải khắp trên mặt đất. Bấy giờ ở phương Đông, các Đức Phật trong trăm ngàn vạn ức na-do-tha hằng hà sa cõi nước do Phật Thích-ca phân thân thuyết pháp đều đến họp ở cõi này. Cứ như vậy lần lượt các Đức Phật trong các cõi nước mười phương đều họp về ngồi ở tám phương. Bấy giờ ở mỗi phương các Đức Như Lai ngồi khắp đầy trong bốn trăm vạn ức na-do-tha cõi nước. Lúc đó các Đức Phật đều ngồi tòa Sư tử dưới cây báu sai thị giả qua thăm viếng Phật Thích-ca Mâu-ni đều mang theo nhiều hoa quý mà bảo thị giả rằng: –Thiện nam! Ngươi qua núi Kỳ-xà-quật nơi Phật Thích-ca Mâu-ni thưa cùng Phật như thế này: “Như Lai có được ít bệnh ít khổ, sức khỏe an vui và chúng Bồ-tát Thanh văn đều an ổn chăng?” Rồi đem hoa báu này rải lên Phật để cúng dường mà thưa: “Đức Phật ấy cũng muốn mở tháp báu này.” Chư Phật khác sai sứ giả đến cũng đều làm như vậy. Bấy giờ Phật Thích-ca Mâu-ni thấy các vị Phật do mình phân thân đều ngồi trên tòa Sư tử, đều nghe chư Phật muốn mở tháp báu, liền từ tòa ngồi đứng dậy trụ trên hư không, tất cả bốn chúng đồng đứng dậy chắp tay nhất tâm quan sát Phật. Khi ấy Phật Thích-ca Mâu-ni dùng ngón tay phải mở cửa tháp bảy báu. Có âm thanh lớn vang ra như tiếng tháo chốt mở cửa thành lớn. Tức thời tất cả chúng hội đều thấy Đa Bảo Như Lai ở trong tháp báu ngồi tòa Sư tử, toàn thân không tan rã như đang nhập thiền định. Lại nghe Phật ấy nói: –Hay thay, hay thay! Phật Thích-ca Mâu-ni thích nói kinh Pháp Hoa này. Ta vì nghe kinh này mà đến đây. Bấy giờ bốn chúng thấy Đức Phật đã diệt độ vô lượng ngàn vạn ức kiếp về trước nói như vậy, đều khen là việc chưa từng có, đem hoa trời báu rải trên Phật Đa Bảo và Phật Thích-ca Mâu-ni. Lúc đó, ở trong tháp báu Phật Đa Bảo chia nửa tòa cho Phật Thích-ca Mâu-ni, nói rằng: –Phật Thích-ca Mâu-ni hãy ngồi trên tòa này. Tức thì Phật Thích-ca Mâu-ni vào trong tháp báu ngồi kiết già trên nửa tòa đó. Bấy giờ đại chúng thấy hai Đức Như Lai ngồi kiết già trên tòa Sư tử trong tháp bảy báu đều nghó rằng: “Phật ngồi trên chỗ cao xa. Cúi mong Như Lai dùng sức thần thông cho chúng con đều được ở trên hư không.” Liền khi ấy Phật Thích-ca Mâu-ni dùng sức thần thông tiếp đại chúng lên hư không rồi dùng âm thanh lớn mà bảo khắp bốn chúng: –Ở trong cõi Ta-bà này ai có thể diễn thuyết rộng rãi kinh Diệu Pháp Liên Hoa này thì nay chính là đúng lúc. Như Lai không bao lâu sẽ nhập Niết-bàn. Phật muốn đem kinh Pháp Hoa này phó chúc cho có người. Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn làm rõ lại nghĩa này mà nói kệ: Thánh chúa Thế Tôn Diệt độ đã lâu Trong tháp báu này Còn vì pháp đến. Các ông làm sao Không vì cầu pháp? Phật này diệt độ Đã vô số kiếp, Nơi nơi nghe pháp Vì pháp khó gặp. Bản nguyện Phật ấy Sau khi diệt độ, Thường vì nghe pháp Tháp hiện đến nơi. Chư Phật do ta Phân thân vô lượng Số như hằng sa Muốn đến nghe pháp Và thấy cõi nước Đa Bảo Như Lai, Đều rời cõi đẹp Cùng chúng đệ tử Trời, Người, Rồng, Thần Cúng dường phụng sự, Muốn pháp trụ lâu Nên đến cõi này. Để chư Phật ngồi, Dùng sức thần thông Dời vô lượng chúng, Khiến nước thanh tịnh. Mỗi mỗi chư Phật Đến dưới cây báu, Như ao trong sạch Rực rỡ hoa sen. Dưới mỗi cây báu Có tòa Sư tử. Phật kiết già trên Sáng rực đẹp đẽ. Như đêm tối tăm Đốt lửa đuốc lớn. Thân Phật thoảng hương Mười phương tỏa khắp. Chúng sinh nghe hương Vui mừng khôn xiết. Ví như gió lớn Thổi nhánh cây nhỏ, Dùng phương tiện đó Khiến pháp trụ lâu. Bảo đại chúng rằng Ta diệt độ rồi Ai hộ trì được Đọc giảng kinh này, Thì nay trước Phật Hãy phát thệ nguyện. Phật Đa Bảo kia Diệt độ đã lâu, Do thệ nguyện lớn Rền tiếng sư tử. Đa Bảo Như Lai Cùng với thân ta Họp các hóa Phật Phải biết ý này. Này các Phật tử Ai hộ pháp được Hãy phát nguyện lớn Khiến pháp trụ lâu. Có ai hộ được Kinh Pháp Hoa này, Tức là cúng dường Ta cùng Đa Bảo. Phật Đa Bảo đây Ở trong tháp báu, Thường qua mười phương Vì nghe kinh này. Cũng để cúng dường Các hóa Phật đến, Trang nghiêm sáng đẹp Các thế giới kia. Ai nói kinh này Tức là thấy ta, Đa Bảo Như Lai Và các hóa Phật. Các thiện nam tử Nên suy nghó kỹ, Đây là việc khó, Phải phát nguyện lớn. Các kinh điển khác Nhiều như hằng sa. Dầu nói hết kinh Cũng chưa là khó. Đem núi Tu-di Dời đi phương khác, Vô số cõi Phật Cũng chưa là khó. Hoặc dùng ngón chân Động cõi đại thiên, Ném qua cõi khác Cũng chưa là khó. Đứng trên Hữu đảnh Vì chúng diễn thuyết Vô lượng các kinh Cũng chưa là khó. Nếu Phật diệt rồi Ở trong đời ác, Giảng được kinh này Thế mới là khó. Giả sử có người Tay nắm hư không Mà đi du hành Cũng chưa là khó. Ta diệt độ rồi Sao chép thọ trì Hoặc bảo người làm Thế mới là khó. Đem cả cõi đất Để trên móng chân, Lên trời Phạm thiên Cũng chưa là khó. Phật diệt độ rồi Ở trong đời ác, Đọc qua kinh này Thế mới là khó. Ví gặp kiếp thiêu Mang gánh cỏ khô Vào lửa không cháy Cũng chưa là khó. Ta diệt độ rồi Nếu trì kinh này, Vì một người nói Thì mới là khó. Nào trì tám vạn Bốn ngàn tạng pháp, Mười hai bộ kinh, Vì người diễn nói, Khiến các người nghe Được sáu thần thông, Dầu được như thế Cũng chưa là khó. Ta diệt độ rồi Nghe thọ kinh này, Học hỏi nghĩa lý Thì mới là khó. Có người nói pháp Khiến ngàn vạn ức Vô lượng, vô số Hằng sa chúng sinh Được quả La-hán Đủ sáu thần thông, Dầu có lợi ích Cũng chưa là khó. Ta diệt độ rồi Nếu phụng trì được Kinh điển như đây Thì mới là khó. Ta vì Phật đạo Trong vô lượng cõi Từ trước đến nay Rộng nói các kinh Mà trong số đó Kinh này bậc nhất. Nếu người trì được Là trì Phật thân. Các thiện nam tử Ta diệt độ rồi, Ai thọ trì được Đọc tụng kinh này, Thì nay trước Phật Nên phát thệ nguyện. Kinh đây khó trì Nếu ai trì được Thì ta hoan hỷ. Chư Phật cũng vậy. Những người như thế Được chư Phật khen Đó là dũng mãnh Đó là tinh tấn, Gọi là trì giới Tu hạnh Đầu-đà Thì sẽ mau được Vô thượng Phật đạo. Đời sau có thể Đọc trì kinh này Là chân Phật tử Trụ bậc thuần thiện. Phật diệt độ rồi Hiểu được nghĩa này Mới thật là mắt Trong cõi Trời, Người Trong đời đáng sợ Giảng được chốc lát Tất cả trời người Đều nên cúng dường.  <詞 id="83085205">Phẩm 12: ĐỀ-BÀ-ĐẠT-ĐA Bấy giờ Phật bảo các Bồ-tát và bốn chúng trời người: –Ta trong vô lượng kiếp thời quá khứ cầu kinh Pháp Hoa không hề lười mỏi. Trong nhiều kiếp ta thường làm quốc vương, phát nguyện cầu đạo Vô thượng Bồ-đề lòng không thoái chuyển. Vì muốn đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật nên siêng làm việc bố thí lòng không lẫn tiếc, nào voi, ngựa, bảy báu, đất đai, thành trì, vợ con, tôi tớ, kẻ hầu hạ, cho đến đầu, mắt, tủy, óc, thân thể, tay, chân, thân mạng chẳng tiếc. Thuở đó nhân dân sống lâu vô lượng. Vua vì đạo pháp mà bỏ ngôi vua, giao việc trị nước cho thái tử, đánh trống rao lệnh cầu pháp bốn phương rằng: –Ai có thể vì ta nói pháp Đại thừa thì ta sẽ suốt đời cung cấp hầu hạ. Khi ấy có một vị Tiên đến thưa nhà vua rằng: –Tôi có pháp Đại thừa tên là kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Nếu không trái ý tôi, tôi sẽ giảng nói. Nghe vị Tiên nói, nhà vua vui mừng hớn hở, liền theo vị Tiên cung cấp các việc cần thiết nào hái quả, gánh nước, nhặt củi, sắm sửa cơm nước, cho đến dùng thân mình làm giường ghế, thân tâm không biết mệt mỏi. Thuở đó ta theo phụng thờ vị tiên trải qua một ngàn năm, vì trọng pháp nên siêng năng cung cấp hầu hạ vị Tiên không hề thiếu sót. Bấy giờ Thế Tôn muốn làm rõ lại nghĩa này mà nói kệ: Ta nhớ kiếp quá khứ Vì cầu pháp Đại thừa, Tuy làm vua trên đời Chẳng ham vui năm dục. Đánh chuông rao bốn phương Ai có pháp Đại thừa, Nếu vì ta giảng nói, Ta sẽ làm tôi tớ. Có vị tiên A-tư Đến thưa cùng đại vương: Tôi có pháp nhiệm mầu Thế gian ít có được. Nếu có thể tu hành Tôi sẽ vì người nói. Vua nghe vị Tiên nói Lòng rất đỗi vui mừng. Liền đi theo Tiên nhân, Cung phụng mọi cần thiết. Hái củi và rau quả Tùy lúc cung kính dâng. Tinh chuyên vì Diệu pháp Thân tâm không lười mỏi. Khắp vì các chúng sinh Siêng cầu đạo pháp lớn. Cũng không vì bản thân Cùng thú vui dục lạc, Nên dầu là đại vương Cần cầu được pháp này. Do đó được thành Phật Nay vì các ông nói. Phật bảo các Tỳ-kheo: –Thuở ấy nhà vua chính là thân ta, còn vị tiên nay là Đề-bà-đạt-đa đó. Do nhờ Thiện tri thức Đề-bà-đạt-đa mà ta đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật, Từ, Bi, Hỷ, Xả, ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, sắc thân vàng tía, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Nhiếp pháp, mười tám pháp Bất cộng, thần thông đạo lực, thành bậc chính giác rộng độ chúng sinh. Tất cả công đức đó đều nhờ Thiện tri thức Đề-bà-đạt-đa mà ra cả. Phật bảo bốn chúng: –Qua vô lượng kiếp về sau, Đề-bà-đạt-đa sẽ được thành Phật hiệu là Thiên Vương Như Lai, Ứng Cúng, chính Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Cõi nước tên là Thiên đạo. Lúc đó Phật Thiên Vương ở đời hai mươi trung kiếp, khắp vì chúng sinh mà giảng dạy pháp mầu. Hằng sa chúng sinh được quả A-la-hán. Vô lượng chúng sinh phát tâm Duyên giác. Hằng sa chúng sinh phát tâm Vô thượng đạo, được Vô sinh pháp nhẫn cho đến bậc không thoái chuyển. Sau khi Phật Thiên Vương nhập Niết-bàn, chính pháp tồn tại ở đời hai mươi trung kiếp, toàn thân xá-lợi dựng thành tháp bảy báu cao sáu mươi do-tuần, ngang dọc bốn mươi do-tuần. Nhân dân các cõi trời đều đem các thứ hoa, hương bột, hương xoa, hương đốt, y phục, chuỗi ngọc, cờ phướn, tàn lọng, kỹ nhạc ca tụng lễ bái cúng dường tháp báu đẹp đẽ đó. Vô lượng chúng sinh được quả A-la-hán. Vô lượng chúng sinh ngộ Bích-chi-phật. Số chúng sinh phát tâm Bồ-đề đến bậc không thoái chuyển chẳng thể nghó bàn. Phật bảo các Tỳ-kheo: –Trong đời vị lai, nếu có thiện nam, thiện nữ nghe kinh Diệu Pháp Liên Hoa phẩm Đề-bà-đạt-đa mà sinh lòng thanh tịnh tin kính không nghi hoặc thì sẽ không đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, được sinh ở trước các Đức Phật trong mười phương. Nơi người đó sinh ra thường được nghe kinh này. Nếu sinh vào cõi người, cõi trời thì được hưởng an vui đặc biệt. Nếu sinh ở trước Phật thì từ hoa sen hóa sinh. Bấy giờ vị Bồ-tát theo hầu Đức Đa Bảo Như Lai ở phương dưới tên là Trí Tích bạch Phật Đa Bảo hãy trở về bản quốc thì Phật Thích-ca Mâu-ni bảo Trí Tích rằng: –Thiện nam, hãy chờ giây lát! Cõi đây có Bồ-tát tên Văn-thù-sư-lợi có thể cùng nhau ra mắt mà luận nói pháp mầu rồi sau sẽ trở về bản quốc. Lúc đó Văn-thù-sư-lợi ngồi trên hoa sen ngàn cánh, lớn như bánh xe, các Bồ-tát cùng đến cũng ngồi trên hoa sen báu, từ nơi cung rồng Ta-kiệt-la trong biển lớn tự nhiên vọt lên trụ giữa hư không, đến núi Linh thứu, từ trên hoa sen bước xuống đến chỗ Phật, đầu mặt kính lạy dưới chân hai Đức Phật, làm lễ xong qua chỗ Trí Tích cùng hỏi thăm nhau rồi ngồi sang một bên. Bồ-tát Trí Tích hỏi Văn-thù-sư-lợi rằng: –Ngài qua cung rồng hóa độ chúng sinh số được bao nhiêu? Văn-thù-sư-lợi nói: –Số đó vô lượng không thể tính kể, miệng không nói hết được, tâm không thể lường được, xin chờ giây lát sẽ tự chứng biết. Văn-thù nói chưa dứt lời thì liền có vô số Bồ-tát ngồi hoa sen báu từ biển vọt lên đến núi Linh thứu trụ giữa hư không. Các vị Bồ-tát này đều do Văn-thù-sư-lợi hóa độ, đủ hạnh Bồ-tát, đều cùng nhau luận nói sáu pháp Ba-la-mật. Những vị trước kia là Thanh văn ở giữa hư không nói hạnh Thanh văn, nay đều tu hành nghĩa không của Đại thừa. Văn-thù-sư-lợi nói với Trí Tích rằng: –Việc giáo hóa của tôi ở biển là như vậy đó. Lúc ấy, Bồ-tát Trí Tích dùng bài kệ khen: Đại Trí đức mạnh mẽ Hóa độ vô lượng chúng. Nay trong đại hội này Và tôi đã chứng kiến. Diễn giảng nghĩa thật tướng Mở bày pháp Nhất thừa. Rộng độ các chúng sinh, Khiến mau thành Bồ-đề. Văn-thù-sư-lợi nói: –Tôi ở biển chỉ thường diễn giảng kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Trí Tích hỏi Văn-thù-sư-lợi rằng: –Kinh này rất sâu xa vi diệu, là báu trong các kinh, trên đời rất ít có. Vậy nếu chúng sinh nào siêng năng tinh tấn tu hành kinh này có mau được thành Phật chăng? Văn-thù-sư-lợi nói: –Có con gái của Long vương Ta-kiệt-la mới tám tuổi mà căn tính lanh lợi có trí tuệ, biết rõ các căn tính hành nghiệp của chúng sinh, được pháp Đà-la-ni, có thể thọ trì các tạng pháp sâu kín của chư Phật nói, đi sâu vào thiền định rõ thấu các pháp. Chỉ trong khoảnh khắc sát-na phát tâm Bồ-đề, được quả không thoái chuyển, có tài biện thuyết không trở ngại, thương yêu chúng sinh như con đỏ, đầy đủ công đức, tâm nghó miệng nói pháp nhiệm mầu rộng lớn, từ bi, nhân đức, khiêm nhượng, ý chí hòa nhã. Người ấy có thể đến Bồ-đề. Trí Tích Bồ-tát nói: –Tôi thấy Thích-ca Như Lai trong vô lượng kiếp tu những khổ hạnh khó làm, chứa nhiều công đức để cầu đạo Bồ-đề chưa từng lúc nào thôi nghỉ. Tôi quan sát khắp trong cõi tam thiên đại thiên, cho đến không chỗ nào nhỏ như hạt cải mà không là nơi Bồ-tát xả thân mạng vì lợi ích chúng sinh, rồi sau mới được thành đạo Bồ-đề. Tôi không tin người con gái đó chỉ trong khoảnh khắc mà chứng được chính giác. Lời biện luận chưa dứt tức thì người con gái của Long vương bỗng hiện ra trước, đầu mặt cung kính lễ Phật xong lui ra đứng một bên nói bài kệ khen rằng: Thấu rõ tướng tội phước Soi khắp cả mười phương. Pháp thân tịnh vi diệu Đủ ba mươi hai tướng, Dùng tám mươi vẻ đẹp Để trang nghiêm Pháp thân. Trời người đều ngưỡng mộ Và Long thần cung kính. Tất cả loài chúng sinh Không ai chẳng thờ phụng, Lại nghe thành Bồ-đề, Chỉ có Phật chứng biết. Tôi nói pháp Đại thừa Độ thoát chúng sinh khổ. Bấy giờ Xá-lợi-phất bảo Long nữ rằng: –Người nói không bao lâu sẽ chứng được đạo Vô thượng, việc đó khó tin. Bởi vì sao? Vì nữ thân ô uế không phải là pháp khí, làm sao có thể thành Vô thượng chính giác được? Đạo Phật xa rộng, phải trải qua vô lượng kiếp cần khổ, chứa nhóm công hạnh, tu đủ các độ, rồi sau mới thành được. Lại nữa nữ thân còn có năm điều trở ngại: Một là không được làm Phạm thiên; hai là không được làm Đế Thích; ba là không được làm Ma vương; bốn là không được làm Chuyển luân Thánh vương; năm là không được làm thân Phật. Làm sao mà thân gái được thành Phật mau như vậy? Lúc đó, Long nữ có một hạt châu báu, giá trị bằng cõi tam thiên đại thiên đem dâng lên Phật. Phật liền thu nhận. Long nữ nói với Bồ-tát Trí Tích và Tôn giả Xá-lợi-phất: –Tôi hiến châu báu. Thế Tôn thu nhận. Việc đó có mau không? Đáp rằng: –Rất mau! Long nữ nói: –Dùng sức thần của các vị mà xem tôi thành Phật có mau hơn việc đó không? Bấy giờ cả chúng hội đều trông thấy Long nữ vụt biến thành thân nam, đủ hạnh Bồ-tát liền đó qua thế giới Vô cấu ở phương Nam, ngồi tòa sen báu thành Đẳng chính giác, đủ ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp, khắp vì tất cả chúng sinh trong mười phương mà diễn thuyết pháp mầu. Khi ấy trong cõi Ta-bà các Bồ-tát, Thanh văn, Trời, Rồng, Bát bộ, Nhân phi nhân đều xa thấy Long nữ kia thành Phật, khắp vì trời, người trong hội đó mà nói pháp, sinh lòng hoan hỷ đều từ xa kính lạy. Vô lượng chúng sinh nghe pháp hiểu ngộ được không thoái chuyển. Vô lượng chúng sinh được vâng lãnh thọ ký thành Phật. Nơi cõi Vô cấu sáu điệu vang động. Nơi cõi Ta-bà ba ngàn chúng sinh trụ bậc không thoái chuyển, ba ngàn chúng sinh phát tâm Bồ-đề mà được thọ ký. Bồ-tát Trí Tích và Xá-lợi-phất tất cả chúng hội yên lặng tin nhận.  <詞 id="83085206">Phẩm 13: TRÌ Lúc bấy giờ, Dược Vương Bồ-tát Ma-ha-tát và Đại Nhạo Thuyết Bồ-tát Ma-ha-tát cùng với quyến thuộc hai vạn Bồ-tát đều ở trước Phật phát lời thệ nguyện: –Cúi mong Thế Tôn xin chớ lo ngại. Sau khi Phật diệt độ chúng con sẽ phụng trì đọc tụng giảng thuyết kinh này. Chúng sinh ở đời ác sau này căn lành dần ít, nhiều tăng thượng mạn, cúng dường vì tham lợi, căn chẳng lành tăng thêm, xa lìa đạo giải thoát, dầu khó giáo hóa được chúng con cũng sẽ phát khởi sức nhẫn nhục lớn, đọc tụng kinh này, thọ trì, giải thuyết, sao chép, dùng các hình thức cúng dường cho đến không tiếc thân mạng. Lúc đó trong chúng có năm trăm vị A-la-hán đã được thọ ký bạch Phật rằng: –Bạch Thế Tôn! Chúng con cũng tự thệ nguyện ở nơi cõi khác rộng nói bá kinh này. Lại nữa có tám ngàn bậc Hữu học và Vô học đã được thọ ký từ chỗ ngồi đứng dậy chắp tay hướng về phía Phật nói lời thệ nguyện: –Bạch Thế Tôn! Chúng con cũng sẽ ở cõi khác rộng truyền kinh này. Vì sao vậy? Vì trong cõi Ta-bà có nhiều người tệ ác, ôm lòng tăng thượng mạn, công đức cạn mỏng, giận hờn, dua nịnh, tâm tà vạy không chân thật. Khi đó dì của Phật là Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề cùng sáu ngàn Tỳ-kheo-ni, bậc Hữu học và Vô học đều từ chỗ ngồi đứng dậy chắp tay chiêm ngưỡng dung nhan không rời chớp mắt. Bấy giờ Thế Tôn bảo Kiều-đàm-di: –Vì sao mà nhìn Như Lai với sắc buồn như vậy? Trong tâm của người cho rằng ta chẳng nói đến tên người để thọ ký thành Vô thượng chính đẳng chính giác ư? Kiều-đàm-di! Ta trước nói chung tất cả Thanh văn đều đã được thọ ký. Nay người muốn biết việc thọ ký đó? Trong đời tương lai, người sẽ ở trong pháp hội của sáu vạn tám ngàn ức Phật làm vị đại Pháp sư cùng sáu ngàn Tỳ-kheo-ni bậc Hữu học, Vô học đều là Pháp sư. Như vậy dần dần người đầy đủ hạnh Bồ-tát sẽ được thành Phật hiệu Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến Như Lai, Ứng Cúng, chính Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Kiều-đàm-di! Phật Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến đó và sáu ngàn Bồ-tát tuần tự thọ ký thành Vô thượng chính đẳng chính giác. Bấy giờ mẹ của La-hầu-la là Tỳ-kheo-ni Gia-du-đà-la nghó rằng: “Thế Tôn trong hội thọ ký chỉ riêng không nói đến tên ta.” Phật bảo Gia-du-đà-la: –Người ở đời sau trong pháp hội của trăm ngàn vạn ức chư Phật tu hạnh Bồ-tát, làm đại Pháp sư, dần dần đầy đủ Phật đạo sẽ thành Phật trong cõi Thiện quốc hiệu Cụ Túc Thiên Vạn Quang Tướng Như Lai, Ứng Cúng, chính Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Phật sống lâu vô lượng, vô số kiếp. Lúc đó, Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề và Tỳ-kheo-ni Gia-du-đà-la cùng cả quyến thuộc vui mừng được điều chưa từng có, liền ở trước Phật nói bài kệ: Thế Tôn Đạo Sư An ổn trời người. Được nghe thọ ký Thỏa mãn an tâm. Các Tỳ-kheo-ni nói bài kệ rồi bạch Phật rằng: –Chúng con cũng có thể ở các cõi nước phương khác rộng truyền kinh này. Bấy giờ Thế Tôn nhìn tám mươi vạn ức na-do-tha các Bồ-tát Ma-ha-tát. Các Bồ-tát đó đều là bậc không thoái chuyển, chuyển pháp luân bất thoái, được các pháp Đà-la-ni, liền từ chỗ ngồi đứng dậy đến trước Phật nhất tâm chắp tay mà nghó rằng: “Nếu Thế Tôn dạy bảo chúng ta nói kinh này thì chúng ta sẽ rộng rãi tuyên dương giáo pháp này như lời Phật dạy.” Các vị lại nghó: “Nay Phật lặng thinh chẳng thấy dạy bảo. Chúng ta phải làm sao?” Lúc đó các Bồ-tát kính thuận ý Phật và muốn tự thỏa mãn bản nguyện, bèn ở trước Phật lớn tiếng phát thệ nguyện: –Bạch Thế Tôn! Sau khi Như Lai diệt độ, chúng con sẽ đi qua lại khắp giáp mười phương thế giới có thể khiến chúng sinh sao chép kinh này, thọ trì, đọc tụng, giảng giải nghĩa lý, như pháp tu hành, nghó nhớ chân chính được, được như vậy là nhờ sức oai thần của Phật. Cúi xin Đức Thế Tôn ở phương xa khác hãy hộ trì cho chúng con. Tức thì các Bồ-tát đều đồng thanh nói bài kệ: Cúi xin chớ lo ngại Sau khi Phật diệt độ, Trong đời ác đáng sợ Chúng con sẽ rộng tuyên. Như có người vô trí Dùng lời ác mắng nhiếc, Hay dao gậy đánh đập, Chúng con đều nhẫn nhịn. Tỳ-kheo trong đời ác Tà tâm và dối trá, Chưa chứng nói đã chứng Lòng ngã mạn dẫy đầy. Hoặc thân mặc áo nạp Ở những nơi vắng vẻ, Tự nói tu chân chính Khinh rẻ người ở đời, Vì tham đắm danh lợi Nói pháp cho bạch y, Được người đời cung kính Như La-hán lục thông. Người đó ôm lòng ác Thường nghó việc thế tục, Giả danh A-luyện-nhã Hay nói lỗi chúng con Mà bảo như thế này: Những bọn Tỳ-kheo này Vì lòng tham lợi dưỡng Luận nói nghĩa ngoại đạo, Tự làm kinh điển này Để mê hoặc người đời. Vì muốn cầu danh tiếng Mà giảng giải kinh này. Thường ở trong đại chúng Muốn phá hoại chúng con, Đến quốc vương, đại thần Bà-la-môn, Cư só Và chúng Tỳ-kheo khác Chê bai nói xấu con Cho là bọn tà kiến Luận nói nghĩa ngoại đạo. Chúng con vì kính Phật Nhịn hết các ác đó. Bị người đó khinh rằng Các ngươi đều là Phật. Lời khinh mạn nhường ấy Cũng sẽ nhẫn nhịn hết. Trong đời ác kiếp trược Có nhiều sự khủng bố, Quỷ dữ nhập vào thân Mắng nhiếc làm nhục con. Chúng con kính tin Phật Mặc áo giáp nhẫn nhục. Vì để nói kinh này Nên nhẫn các việc khó. Con chẳng tiếc thân mạng Chỉ tiếc đạo Vô thượng. Chúng con ở đời sau Hộ trì lời Phật dặn. Thế Tôn sẽ tự biết Tỳ-kheo đời ác trược, Chẳng biết Phật phương tiện Tùy cơ nghi nói pháp. Châu mày nói lời ác Luôn luôn bị xua đuổi Xa rời nơi chùa tháp. Các điều ác như thế, Nhớ lời Phật dạy bảo Đều nhẫn nhịn việc đó. Các thành ấp, xóm làng Như có người cầu pháp, Con đều đến nơi đó Thuyết pháp như Phật dặn. Là sứ giả của Phật Ở trong chúng không sợ, Con sẽ khéo nói pháp Xin Phật hãy an lòng. Con ở trước Thế Tôn Mười phương Phật đến họp Phát thệ nguyện như thế Phật tự rõ lòng con. KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA <卷 id="83085207">QUYỂN 5 <詞 id="83085208">Phẩm 14: AN LẠC HẠNH Bấy giờ Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử Bồ-tát Ma-ha-tát bạch Phật rằng: –Bạch Thế Tôn! Các vị Bồ-tát này thật là ít có, vì kính thuận Phật nên phát thệ nguyện lớn ở trong đời ác về sau sẽ hộ trì đọc giảng kinh Pháp Hoa này. Bạch Thế Tôn! Các vị Bồ-tát ở đời ác về sau, làm thế nào có thể giảng thuyết được kinh này? Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: –Nếu Bồ-tát Ma-ha-tát ở đời ác về sau muốn giảng kinh này phải an trụ trong bốn pháp: Đó là an trụ trong Hành xứ và trong Thân cận xứ của Bồ-tát thì mới có thể vì chúng sinh mà diễn thuyết kinh này. Văn-thù-sư-lợi! Thế nào gọi là Hành xứ của Bồ-tát Ma-ha-tát? nghĩa là Bồ-tát Ma-ha-tát an trụ trong nhẫn nhục hòa dịu, khéo tùy thuận mà không nóng nảy cũng không kinh sợ. Lại nữa, đối với các pháp, không khởi ý niệm tạo tác mà quán sát tướng chân thật của các pháp, cũng không khởi ý niệm là không phân biệt. Như thế gọi là Hành xứ của Bồ-tát. Thế nào gọi là Chỗ thân cận của Bồ-tát Ma-ha-tát? nghĩa là Bồ-tát Ma-ha-tát không gần gũi quốc vương, vương tử, đại thần, quan trưởng, không gần gũi các ngoại đạo, Phạm chí, Ni-kiền tử… và cũng không gần gũi những kẻ sáng tác văn thơ viết sách ngoại đạo cho đến các phái Lộ-già-gia-đà, phái Nghịch lộ-già-gia-đà, cũng chẳng gần gũi những kẻ chơi bời hung hiểm đâm chém đánh đấm và bọn Na-la bày trò biến hóa. Cũng không gần gũi người làm hàng thịt, kẻ chăn nuôi heo, dê, gà, chó, săn bắn, chài lưới, những người sinh sống bằng các nghề ác. Nếu khi những hạng người ấy đến thì Bồ-tát nên vì họ nói pháp mà không mong cầu gì khác. Cũng không gần gũi những Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di hạng người cầu quả Thanh văn cũng không chuyện trò hỏi han, không ở cùng phòng, không đi kinh hành cùng một nơi, không ngồi chung chỗ trong một giảng đường. Nếu khi những hạng người ấy đến thì Bồ-tát tùy cơ nghi nói pháp mà không mong cầu gì khác. Văn-thù-sư-lợi! Lại nữa Bồ-tát Ma-ha-tát không nên nói pháp cũng không muốn trông thấy những người mà thân thể khêu gợi dục nhiễm. Khi vào nhà người, không cùng nhau chuyện trò với với các bé gái, thiếu nữ, góa phụ cũng không gần gũi năm hạng người ái nam để làm thân. Không vào nhà người một mình. Nếu có sự duyên phải vào một mình thì chuyên tâm niệm Phật. Nếu vì nói pháp cho người nữ thì không cười hở răng, không để lộ hông hở ngực. Cả đến vì pháp mà còn chẳng làm thân quen huống chi là việc khác. Không nên ham nuôi đệ tử Sa-di ít tuổi và các trẻ nhỏ, cũng không muốn cùng một thầy với chúng. Thường hay ngồi thiền nơi vắng vẻ yên tónh tu nhiếp tâm mình. Văn-thù-sư-lợi! Như trên là chỗ thân cận ban đầu. Lại nữa, Bồ-tát Ma-ha-tát quán sát tất cả các pháp là không, là tướng chân thật, không điên đảo, không lay động, không thoái lui, không thay đổi, như hư không, không thật tính, tuyệt dứt đường ngôn ngữ, không sinh, không xuất, không khởi, không tên gọi, không tướng mạo, không sở hữu, không lường được, không biên giới, không trở ngại, không ngăn che, chỉ do nhân duyên mà có, từ điên đảo mà sinh ra. Cho nên nói rằng thường hay quán sát tướng của các pháp là như thế đó, tức là chỗ thân cận thứ hai của Bồ-tát Ma-ha-tát. Bấy giờ, Thế Tôn muốn làm rõ nghĩa này mà nói bài kệ: Nếu có Bồ-tát Trong đời ác sau Lòng không sợ sệt Muốn nói kinh này, Nên trụ Hành xứ Và Thân cận xứ Thường xa quốc vương Và con quốc vương, Đại thần, quan trưởng, Dân chơi hung hãn, Cùng Chiên-đà-la, Ngoại đạo, Phạm chí. Cũng không gần gũi Người tăng thượng mạn, Học giả tham đắm Giáo lý Tiểu thừa, Tỳ-kheo phá giới, Danh tự La-hán, Và Tỳ-kheo-ni Ưa thích vui đùa, Các Ưu-bà-di Tham mê năm dục Cầu hiện diệt độ Đều chớ gần gũi. Nếu những người đó Hảo tâm mà đến, Ở nơi Bồ-tát Để nghe Phật đạo, Bồ-tát nên đem Lòng không sợ sệt, Vì chúng nói pháp, Không mong gì khác. Đồng nữ, thiếu nữ, Những kẻ ái nam, Chớ nên gần gũi Để mà làm thân. Cũng không gần kẻ Đồ tể, hàng thịt, Săn bắn, chài lưới, Vì lợi sát sinh, Bán thịt nuôi sống Buôn phấn bán hương Những người như thế Chớ nên gần gũi. Các trò nguy hiểm Đánh đấm làm vui, Hạng gái lẳng lơ, Chớ nên gần gũi. Đừng ở chỗ vắng Giảng dạy đàn bà, Nếu vì nói pháp Không nên cười cợt. Vào xóm khất thực Tỳ-kheo đi cùng, Nếu không Tỳ-kheo, Nhất tâm niệm Phật. Như thế gọi là Hành xứ, Cận xứ Dùng hai xứ đây Mới nên thuyết pháp. Lại cũng chẳng theo Pháp thượng, trung, hạ, Hữu vi, vô vi Thật cùng chẳng thật, Cũng không phân biệt Là nam hay nữ, Các pháp: không được, Không biết, không thấy. Như thế gọi là Bồ-tát Hành xứ Tất cả các pháp Là không, không có, Là không thường trú, Cũng không khởi, diệt. Đó là Thân cận Người trí hằng nương. Điên đảo phân biệt Các pháp có, không, Là thật, chẳng thật, Là sinh, chẳng sinh, Ở nơi vắng vẻ Tu nhiếp tâm mình, An trụ không động Như núi Tu-di, Quán sát các pháp Đều không thật có, Cũng như hư không Không chút bền chắc. Không sinh, không xuất, Không động, không thoái, Thường trụ một tướng Gọi là Cận xứ Nếu có Tỳ-kheo Ta diệt độ rồi, Vào Hành xứ này Và Thân cận xứ Thì nói kinh này Không chút e sợ. Bồ-tát có lúc Vào nơi tịnh thất, Chân chính nhớ nghó Theo nghĩa quán pháp. Từ thiền định ra Vì các quốc vương, Vương tử, quan, dân Hàng Bà-la-môn Khai hóa diễn giải Nói kinh điển này Tâm được an ổn Không chút khiếp nhược. Văn-thù-sư-lợi! Đó là Bồ-tát An trụ sơ pháp Đời sau có thể Nói kinh Pháp Hoa. Lại nữa, Văn-thù-sư-lợi! Sau khi Như Lai diệt độ, trong đời mạt pháp muốn nói kinh này phải trụ nơi hạnh an lạc, hoặc miệng giảng nói, hoặc lúc đọc kinh đều không nên nói lỗi người và lỗi kinh điển. Không khinh mạn các Pháp sư khác, không nói việc hay dở tốt xấu của người khác. Với hàng Thanh văn cũng không kêu tên nói lỗi người nào, cũng không kêu tên khen ngợi điều tốt của ai. Lại nữa cũng chẳng sinh lòng oán hận hiềm khích, vì khéo tu tâm an lạc như thế nên những người nghe pháp không làm trái ý. Nếu bị vặn hỏi, chớ nên đem pháp Tiểu thừa mà đáp. Chỉ dùng pháp Đại thừa ra giảng giải mà thôi để khiến cho được Nhất thiết chủng trí. Bấy giờ Thế Tôn muốn làm rõ lại nghĩa trên nói bài kệ rằng: Bồ-tát thường ưa Thuyết pháp an ổn. Ở nơi thanh tịnh Tổ chức sàng tòa. Hương dầu xoa thân Tắm gội bụi nhơ, Y mới sạch sẽ Trong ngoài thơm tho, Ngồi yên pháp tòa Tùy hỏi mà nói. Nếu có Tỳ-kheo Và Tỳ-kheo-ni, Các Ưu-bà-tắc Và Ưu-bà-di, Quốc vương, vương tử, Quan cùng só dân, Dùng nghĩa nhiệm mầu Dịu dàng giảng nói. Có ai gạn hỏi Tùy nghĩa mà đáp. Nhân duyên, thí dụ, Giải bày phân biệt. Dùng phương tiện này, Khiến đều phát tâm, Dần dần thêm đông Vào trong Phật đạo. Bỏ tính lười biếng Cùng với trễ nãi. Lìa các ưu sầu Từ tâm thuyết pháp. Ngày đêm thường giảng Giáo pháp Vô thượng. Dùng các nhân duyên, Vô lượng thí dụ, Khai thị chúng sinh Đều sinh hoan hỷ. Y phục chăn nệm Ăn uống thuốc thang, Trong việc làm đó Không cầu gì hết. Chỉ một lòng nghó Nhân duyên nói pháp Nguyện ta thành Phật Mọi người cũng vậy. Đó là lợi lớn, An vui cúng dường. Ta diệt độ rồi, Nếu có Tỳ-kheo Diễn thuyết được vậy Kinh Pháp Hoa này, Lòng không ganh tị Cho đến mắng nhiếc. Cũng không sợ sệt Dao gậy đánh đập. Cũng không bị đuổi Vì an trụ nhẫn. Người trí tu tập Tâm mình như thế Thì trụ an lạc. Như ta đã nói, Công đức người đó Ngàn vạn ức kiếp Tính toán thí dụ Không thể nói hết. Lại nữa, Văn-thù-sư-lợi! Bồ-tát Ma-ha-tát ở đời sau cùng, khi pháp gần diệt mà có người thọ trì đọc tụng kinh điển này chớ nên ôm lòng ganh ghét dối trá, cũng chớ khinh mắng người học đạo Phật, vạch tìm chỗ hay dở của họ. Nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, hoặc cầu Thanh văn, hoặc cầu Duyên giác hoặc cầu Bồ-tát đạo thì không được quấy rối mà nói với họ rằng: “Các người còn cách đạo rất xa, rốt cuộc không thể đạt được Nhất thiết chủng trí đâu”, để khiến cho họ sinh lòng nghi hoặc. Vì sao vậy? Vì nói như vậy tức các người là kẻ phóng dật, biếng trễ đối với đạo pháp. Lại nữa đối với các pháp có chỗ cạnh tranh thì không nên tranh luận cho vui. Đối với tất cả chúng sinh phải sinh lòng đại Bi. Đối với chư Như Lai phải có ý nghó như bậc cha lành. Đối với các Bồ-tát phải xem như bậc Đại sư. Đối với các Đại Bồ-tát trong mười phương phải thâm tâm cung kính lễ bái. Đối với tất cả chúng sinh thì bình đẳng thuyết pháp. Vì đúng thuận theo pháp mà nói nên không nói nhiều, cũng chẳng nói ít, cho đến đối với người quá ái mộ Phật pháp đi nữa cũng chẳng vì vậy mà nói nhiều. Văn-thù-sư-lợi! Bồ-tát Ma-ha-tát ở đời sau cùng khi pháp gần diệt, nếu thành tựu được hạnh an lạc thứ ba đây thì lúc nói pháp này không ai có thể quấy rối, được các bạn tốt đồng học cùng chung đọc tụng kinh này, lại được đại chúng thường đến nghe và thọ pháp. Nghe rồi nhớ, nhớ rồi tụng, tụng rồi diễn thuyết, diễn thuyết rồi biên chép, hoặc khiến người chép, cúng dường kinh quyển, cung kính, tôn trọng ngợi khen. Bấy giờ, Thế Tôn muốn làm rõ lại nghĩa này mà nói bài kệ: Nếu muốn giảng kinh này Phải bỏ ganh và kiêu, Lừa dối và tà vạy Thường tu hạnh ngay thẳng. Không khinh miệt người khác Cũng không ưa hý luận Không khiến người nghi hoặc Bảo rằng không thành Phật. Là Phật tử thuyết pháp Thường nhu hòa nhẫn nhục, Từ bi với tất cả Không sinh lòng biếng trễ. Đại Bồ-tát mười phương Thương chúng nên hành đạo. Phải sinh lòng cung kính Như Đại sư của mình. Với chư Phật Thế Tôn Xem như cha cao tột. Phá dẹp lòng kiêu mạn Nói pháp không chướng ngại. Pháp thứ ba như thế Người trí phải giữ gìn, Một lòng hạnh an lạc Vô lượng chúng cung kính. Lại nữa, Văn-thù-sư-lợi! Các Bồ-tát Ma-ha-tát ở đời sau cùng khi pháp gần diệt, vị nào trì kinh Pháp Hoa thì đối với hàng tại gia, xuất gia phải sinh lòng đại Từ, đối với hàng không phải Bồ-tát phải sinh lòng Đại Bi mà nghó rằng: “Những người này như vậy là mất lợi ích lớn. Như Lai phương tiện tùy nghi nói pháp mà không nghe, không biết, không hay, không hiểu, không tin, không hỏi. Những người đó dầu không hỏi, không tin, không hiểu kinh này, nhưng lúc ta được Vô thượng chính đẳng chính giác thì người đó dù ở đâu ta cũng sẽ dùng sức thần thông, sức trí tuệ dắt dẫn người đó khiến được vào trong pháp này.” Văn-thù-sư-lợi! Bồ-tát Ma-ha-tát đó, sau khi Như Lai diệt độ nếu thành tựu được pháp thứ tư này thì lúc nói pháp này sẽ không lầm lỗi, thường được các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, quốc vương, vương tử, đại thần, nhân dân, Bà-la-môn, cư só đều cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen và hàng chư Thiên trên không vì nghe pháp cũng thường theo hầu. Nếu ở trong làng xóm, thành thị hay rừng cây vắng vẻ có người đến vấn nạn điều chi thì chư Thiên ngày đêm thường vì pháp mà hộ vệ người đó khiến người nghe đều được hoan hỷ. Vì sao vậy? Vì kinh này được thần lực của tất cả chư Phật quá khứ, vị lai và hiện tại hộ trì. Văn-thù-sư-lợi, kinh Pháp Hoa này ở trong vô lượng cõi nước, ngay cả tên gọi còn chưa được nghe huống chi là được trông thấy và đọc tụng thọ trì. Văn-thù-sư-lợi! Ví như vua Chuyển luân Thánh vương uy thế mạnh mẽ, muốn dùng uy lực của mình hàng phục các nước khác, nhưng các tiểu vương không thuận mệnh. Bấy giờ, Chuyển luân thánh vương đem các binh chủng qua đánh dẹp. Vua thấy binh só chiến đấu có công liền rất vui mừng tùy công ban thưởng. Nào ban cho ruộng dất, nhà cửa, xóm làng, thành ấp, nào ban cho trang phục, nào các thứ châu báu, vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, voi, ngựa, xe cộ, nô tỳ, nhân dân. Chỉ có viên ngọc minh châu trong búi tóc là không cho mà thôi. Vì sao vậy? Vì chỉ riêng trên đỉnh đầu nhà vua có một viên minh châu này. Nếu đem ban cho ắt các quyến thuộc của nhà vua sẽ rất lấy làm quái lạ. Văn-thù-sư-lợi! Như Lai cũng vậy. Như Lai dùng sức thiền định trí tuệ được cõi đạo pháp đem giáo hóa khắp ba cõi mà Ma vương chẳng chịu thuận phục. Các Hiền thánh của Như Lai là các tướng, cùng nhau đánh dẹp ma quân. Thấy những người có công, Như Lai tâm cũng hoan hỷ vì bốn chúng giảng nói các kinh khiến tâm sinh ham thích, lại ban cho các pháp thiền định, giải thoát, vô lậu, căn lực. Lại còn ban cho thành Niết-bàn bảo rằng được diệt độ để dắt dẫn bốn chúng làm cho tâm sinh vui mừng, nhưng chưa vì vậy mà nói kinh Pháp Hoa này. Văn-thù-sư-lợi! Cũng như vua Chuyển luân vương thấy các binh chúng có công lớn, lòng rất hoan hỷ mới đem viên ngọc minh châu khó tin, từ lâu ở trong búi tóc không cho ai cả mà nay ban cho. Như Lai cũng vậy. Như Lai là vị Đại Pháp Vương trong ba cõi, đem pháp nhiệm mầu giáo hóa tất cả chúng sinh. Thấy quân tướng Hiền thánh đánh nhau với ma ngũ ấm, ma phiền não, ma chết chóc, có công lao lớn tiêu diệt ba độc, vượt ra khỏi ba cõi, phá dứt lưới ma. Lúc ấy Như Lai cũng rất hoan hỷ đem kinh Pháp Hoa này, có thể khiến chúng sinh đến Nhất thiết trí, là giáo pháp mà tất cả thế gian oán ghét nhiều, khó tin, từ trước chưa từng nói nay mới giảng nói. Văn-thù-sư-lợi! Kinh Pháp Hoa này là giáo thuyết bậc nhất của Như Lai, là rất sâu xa trong các giáo thuyết, sau cùng mới ban cho. Như nhà vua có sức mạnh kia, từ lâu gìn giữ viên ngọc minh châu nay mới đem ra ban cho vậy. Văn-thù-sư-lợi! Kinh Pháp Hoa này là tạng giáo bí yếu của chư Phật, là trên hết trong các kinh được gìn giữ từ lâu không dễ dãi nói ra, ngày nay mới phô diễn cho các ngươi đó. Bấy giờ Thế Tôn muốn làm rõ nghĩa này mà nói bài kệ: Thường tu nhẫn nhục Thương xót tất cả Mới có thể nói Kinh được Phật khen. Đời mạt thế sau Người trì kinh này Tại gia, xuất gia, Chẳng phải Bồ-tát, Nên sinh Từ bi Với người không nghe, Không tin kinh này Là mất lợi lớn. Ta chứng Phật đạo Dùng các phương tiện, Để nói pháp này Khiến vào pháp đó. Như vua Chuyển luân Thánh vương sức mạnh. Binh tướng có công, Thưởng ban các thứ, Voi, ngựa, cộ xe Các thứ trang sức, Ruộng đất, nhà cửa Thành ấp, xóm làng, Hoặc cho y phục, Các thứ châu báu, Của cải, nô tỳ, Hoan hỷ ban cho. Có người khỏe mạnh Làm được việc khó, Vua mở búi tóc Lấy ngọc ban cho. Như Lai cũng vậy Là vua các pháp, Sức nhẫn nhục lớn Tạng báu trí tuệ, Dùng đại Từ bi Như pháp độ đời. Tất cả mọi người Chịu các khổ não, Muốn cầu giải thoát, Đánh phá ma quân. Phật vì chúng sinh Nói các kinh pháp. Dùng phương tiện lớn Nói các kinh này. Khi biết chúng sinh Được sức kia rồi, Cuối cùng thì mới Nói kinh Pháp Hoa. Như vua mở tóc Lấy ngọc ban cho. Kinh này cao tột Trên hết các kinh, Ta thường gìn giữ Chưa dễ dạy bày. Nay chính là lúc Vì các ngươi nói. Ta diệt độ rồi, Người cầu Phật đạo, Muốn được an ổn Diễn thuyết kinh này, Phải thường gần gũi Bốn pháp nói trên. Người đọc kinh này Thường không ưu não. Lại không bệnh tật, Sắc mặt sáng tươi. Không sinh nhà nghèo, Xấu xa ti tiện. Chúng sinh ưa thấy Như yêu Thánh hiền. Đồng tử cõi trời Làm kể hầu hạ. Gậy đao chẳng động, Độc hại chẳng nhằm, Ai muốn mắng nhiếc, Miệng mở không ra. Du hành không sợ, Như vua Sư tử. Trí tuệ sáng suốt Như ánh mặt trời. Nếu gặp chiêm bao Chỉ thấy điều tốt. Thấy chư Như Lai Ngồi tòa Sư tử, Các chúng Tỳ-kheo Vây quanh nghe pháp. Lại thấy Long thần Cùng A-tu-la, Số như hằng sa Chắp tay cung kính. Tự thấy bản thân Vì chúng thuyết pháp. Lại thấy chư Phật Thân tướng sắc vàng, Phóng vô lượng quang Khắp soi tất cả. Dùng tiếng Phạm âm Diễn thuyết các pháp. Phật vì bốn chúng Nói pháp Vô thượng. Thấy mình trong đó Chắp tay khen Phật. Nghe pháp vui mừng Mà vì cúng dường, Được Đà-la-ni Chứng trí không thoái. Phật biết người đó Thâm nhập Phật đạo, Liền thọ ký cho Vô thượng chính giác. Thiện nam tử này! Vào đời vị lai, Chứng vô lượng trí Đạo lớn của Phật, Cõi nước nghiêm tịnh Rộng lớn khôn sánh. Cũng có bốn chúng Chắp tay nghe pháp. Lại thấy thân mình Ở trong rừng vắng Tu tập pháp lành Chứng pháp thật tướng. Thâm nhập thiền định Thấy Phật mười phương. Chư Phật thân sắc vàng Trăm phước tướng trang nghiêm. Nghe pháp vì người nói Thường được gặp mộng lành. Lại mộng làm quốc vương Bỏ cung điện quyến thuộc, Và thú vui năm dục Đi đến nơi đạo tràng, Ở dưới cội Bồ-đề Ngồi trên tòa Sư tử. Cầu đạo qua bảy ngày Được trí của chư Phật. Thành đạo Vô thượng rồi, Dậy mà chuyển pháp luân. Vì bốn chúng nói pháp Trải ngàn vạn ức kiếp, Nói pháp mầu vô lậu Độ vô lượng chúng sinh, Rồi sau nhập Niết-bàn, Như khói tàn đèn tắt. Nếu sau trong đời ác, Nói pháp bậc nhất này, Người đó được lợi lớn Các công đức như trên.  <詞 id="83085209">Phẩm 15: TÙNG ĐỊA DŨNG XUẤT Bấy giờ các Bồ-tát Ma-ha-tát ở cõi nước phương khác đông hơn số cát của tám sông Hằng từ trong đại chúng đứng dậy chắp tay làm lễ mà bạch Phật rằng: –Bạch Thế Tôn! Nếu cho phép chúng con sau khi Phật diệt độ ở tại cõi Ta-bà này siêng tu tinh tấn, hộ trì đọc tụng, sao chép, cúng dường kinh điển này thì chúng con sẽ ở trong cõi này mà diễn thuyết rộng rãi. Khi đó Phật bảo các Bồ-tát Ma-ha-tát: –Thiện nam, hãy thôi, các ông không phải hộ trì kinh này! Vì sao vậy? Vì cõi Ta-bà của ta đã có chúng Bồ-tát Ma-ha-tát số đông bằng số cát của sáu vạn sông Hằng. Mỗi Bồ-tát có sáu vạn hằng hà sa quyến thuộc. Những người đó sau khi ta diệt độ có thể hộ trì đọc tụng diễn thuyết rộng rãi kinh này. Khi Phật nói lời đó thì tam thiên đại thiên cõi nước trong thế giới Ta-bà đất đều rạn nứt, trong đó có vô lượng ngàn vạn ức Bồ-tát Ma-ha-tát đồng thời vụt xuất hiện ra. Các Bồ-tát đó thân đều sắc vàng, có ba mươi hai tướng cùng vô lượng ánh sáng, trước đây đều ở dưới thế giới Ta-bà. Cõi đó trụ giữa hư không. Các Bồ-tát đó nghe tiếng diễn thuyết của Phật Thích-ca Mâu-ni nên từ dưới đến đây. Các Bồ-tát này đều là bậc dẫn đầu trong đại chúng mỗi vị đem theo sáu vạn hằng hà sa quyến thuộc. Huống chi là những vị đem theo năm vạn, bốn vạn, ba vạn, hai vạn, một vạn hằng hà sa quyến thuộc. Huống chi là cho đến những vị đem theo một hằng hà sa, nửa hằng hà sa, một phần hằng hà sa, cho đến một phần trong ngàn vạn ức na-do-tha phần hằng hà sa quyến thuộc. Huống chi là những vị đem theo ngàn vạn ức na-do-tha quyến thuộc, huống chi là đem ức vạn quyến thuộc, huống chi là đem theo ngàn vạn trăm vạn cho đến một vạn, huống chi là đem theo một ngàn một trăm cho đến mười quyến thuộc, huống chi là đem năm, bốn, ba, hai, một người đệ tử. Huống chi là những vị thích hạnh viễn ly. Số đông vô lượng, vô biên như thế không thể tính toán thí dụ mà biết được. Các vị Bồ-tát đó từ dưới đất vụt hiện lên, tất cả đều đến tháp bảy báu ở giữa hư không, nơi có Đa Bảo Như Lai và Thích-ca Mâu-ni Phật. Đến nơi rồi tất cả hướng về hai Đức Thế Tôn đầu mặt làm lễ dưới chân xong đến chỗ các Đức Phật ở trên tòa Sư tử dưới cội cây báu làm lễ, đi nhiễu quanh ba vòng bên phải, chắp tay cung kính dùng các phép ngợi khen của Bồ-tát mà ca ngợi Phật rồi đứng qua một bên chiêm ngưỡng hai Đấng Thế Tôn. Từ lúc các Bồ-tát Ma-ha-tát từ dưới đất vụt xuất hiện lên cho đến khi dùng các phép ngợi khen của Bồ-tát mà ca ngợi Phật, thời gian đo trải qua năm mươi tiểu kiếp. Bấy giờ Phật Thích-ca Mâu-ni im lặng tónh tọa và bốn chúng cũng đều im lặng năm mươi tiểu kiếp. Nhưng vì thần lực của Phật đã khiến đại chúng cảm thấy như bằng nửa ngày. Bấy giờ bốn chúng cũng nhờ thần lực của Phật được thấy các Bồ-tát đầy khắp vô lượng ngàn vạn ức cõi nước hư không. Trong chúng Bồ-tát có bốn vị Đạo sư, một tên là Thượng Hạnh, hai tên là Vô Biên Hạnh, ba tên là Tịnh Hạnh, bốn tên là An Lập Hạnh. Bốn Bồ-tát này là bốn vị hướng dẫn đứng đầu trong chúng đó. Ở trước đại chúng, bốn vị đồng chắp tay nhìn Phật Thích-ca Mâu-ni mà vấn an rằng: –Thế Tôn có được ít bệnh, ít khổ, luôn an vui chăng? Những người đáng được độ, dạy dỗ có dễ chăng, không làm cho Thế Tôn vất vả chăng? Khi đó bốn vị Đại Bồ-tát nói bài kệ rằng: Thế Tôn an vui Ít bệnh ít khổ Giáo hóa chúng sinh Không mệt mỏi chăng? Với các chúng sinh Dạy dỗ dễ chăng? Không khiến Thế Tôn Phải vất vả chăng? Bấy giờ Thế Tôn bảo đại chúng Bồ-tát rằng: –Đúng vậy, đúng vậy, thiện nam! Như Lai an vui, ít bệnh, ít khổ, dạy dỗ chúng sinh dễ dàng không chút vất vả. Vì sao vậy? Vì các chúng sinh đó từ nhiều đời nay thường được ta dạy bảo và cũng từng ở nơi chư Phật quá khứ cung kính tôn trọng, trồng các căn lành. Các chúng sinh đó vừa trông thấy ta, nghe ta thuyết pháp liền tin thọ vào được trong trí tuệ của Như Lai, chỉ trừ những người trước đã tu tập học hạnh Tiểu thừa. Nhưng những người ấy ta cũng khiến được nghe kinh này để vào trong trí tuệ của Phật. Lúc ấy, các Đại Bồ-tát nói bài kệ rằng: Hay thay, hay thay! Đại hùng Thế Tôn! Các chúng sinh ấy Hóa độ dễ dàng. Hay hỏi chư Phật Trí tuệ rất sâu, Tin thọ phụng hành Chúng con tùy hỷ. Khi đó Đức Thế Tôn khen ngợi các Đại Bồ-tát thượng thủ rằng: –Hay thay, hay thay, thiện nam! Các ông có thể đối trước Như Lai phát tâm tùy hỷ. Bấy giờ, Bồ-tát Di-lặc cùng tám ngàn hằng sa các chúng Bồ-tát đều nghó: “Chúng ta từ xưa nay không thấy, không nghe các chúng Đại Bồ-tát từ dưới đất vụt xuất hiện lên, đối trước Thế Tôn chắp tay cúng dường vấn an Như Lai như vậy.” Lúc đó Bồ-tát Di-lặc Ma-ha-tát biết tâm niệm của tám ngàn hằng sa chúng Bồ-tát và cũng muốn giải quyết chỗ nghi của mình, bèn chắp tay hướng về phía Phật dùng kệ hỏi: Vô lượng ngàn vạn ức Các đại chúng Bồ-tát Từ xưa chưa từng thấy. Xin thưa Lưỡng Túc Tôn Là ở từ phương nào, Nhân duyên gì đến hội? Thân lớn, thần thông lớn Trí tuệ chẳng nghó bàn, Chí niệm lại vững bền Có sức nhẫn nhục lớn. Chúng sinh đều muốn thấy Là từ phương nào đến? Mỗi mỗi các Bồ-tát Đều đem theo quyến thuộc Số đông không thể lường Như cát sông Hằng vậy. Hoặc có Đại Bồ-tát Đem sáu vạn hằng sa, Các đại chúng như thế Một lòng cầu Phật đạo. Các vị Đại sư đó Đem sáu vạn hằng sa Đều đến cúng dường Phật Và hộ trì kinh này. Đem năm vạn hằng sa, Số ấy còn hơn trên. Bốn vạn và ba vạn, Hai vạn đến một vạn, Một ngàn đến một trăm, Cho đến một hằng sa, Một nửa, ba, bốn phần, Một phần trong ức vạn, Ngàn vạn na-do-tha, Vạn ức các đệ tử, Cho đến một nửa ức, Còn đông hơn số trên. Trăm vạn đến một vạn, Một ngàn và một trăm, Năm mươi, hoặc mười vị Cho đến ba, hai, một, Đơn độc không quyến thuộc, Ưa thích ở một mình, Đều đi đến chỗ Phật, Số này còn hơn trên. Các đại chúng như thế, Nếu dùng thẻ mà đếm, Quá hơn kiếp hằng sa Còn không thể đếm hết. Các vị oai đức lớn, Chúng Bồ-tát tinh tấn, Ai vì họ thuyết pháp, Giáo hóa cho thành tựu? Do ai mà phát tâm, Dạy cho Phật pháp nào? Thọ trì tu kinh gì? Tu tập Phật đạo nào? Các Bồ-tát như thế Thần thông trí tuệ lớn, Đất bốn phương rạn nứt Đều từ đó vụt lên. Thế Tôn, con xưa nay Chưa từng thấy việc đó. Xin Phật nói danh hiệu, Cõi nước, từ đâu đến. Con thường qua các nước, Chưa từng thấy chúng ấy. Con ở trong chúng này Mà chẳng biết một người Đột nhiên từ đất lên Xin nói nhân duyên đó. Nay trong đại hội này, Vô lượng trăm ngàn ức, Các chúng Bồ-tát đây Đều muốn biết việc ấy. Hàng Bồ-tát chúng kia Gốc ngọn các nhân duyên. Thế Tôn đức vô lượng Cúi xin giải các nghi. Khi ấy các vị Phật do Phật Thích-ca Mâu-ni phân thân, từ vô lượng ngàn vạn ức cõi nước ở phương khác đến ngồi kiết già trên tòa sư tử dưới các cội cây báu trong tám phương. Thị giả của các vị Phật đó đều thấy đại chúng Bồ-tát ở bốn phương cõi tam thiên đại thiên thế giới từ đất vụt lên trụ trên hư không, đều bạch với vị Phật của mình rằng: –Bạch Thế Tôn! Các đại chúng vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ Bồ-tát đó từ đâu đến vậy? Lúc ấy, các Đức Phật đều bảo thị giả: –Các thiện nam, hãy chờ trong giây lát! Có vị Bồ-tát Ma-ha-tát tên là Di-lặc, là vị mà Phật Thích-ca Mâu-ni thọ ký kế tiếp sau sẽ thành Phật, đã hỏi việc đó và Phật sẽ trả lời. Nhờ đó các người sẽ được nghe. Bấy giờ Phật Thích-ca Mâu-ni bảo Bồ tát Di-lặc: –Hay thay, hay thay! A-dật-đa có thể hỏi Phật việc quan trọng như vậy. Các ông phải đồng một lòng mặc áo giáp tinh tấn, phát tâm kiên cố. Nay Như Lai muốn bày tỏ rõ ràng trí tuệ của chư Phật, sức thần thông tự tại của chư Phật, sức sư tử hùng dũng của chư Phật, uy thế lớn mạnh của chư Phật. Bấy giờ Thế Tôn muốn làm rõ lại nghĩa này mà nói kệ: Phải một lòng tinh tấn Ta muốn nói việc này, Chớ đem lòng nghi hoặc, Trí Phật khó nghó bàn. Ông nay gắng sức tin, Trụ ở trong nhẫn thiện. Giáo pháp xưa chưa nghe, Nay đều sẽ được nghe. Nay ta an ủi ông Chớ ôm lòng nghi sợ. Phật không lời không thật Trí tuệ không thể lường. Phật chứng pháp bậc nhất Rất sâu khó phân biệt. Nay ta nói pháp ấy, Các ông nhất tâm nghe. Thế Tôn nói kệ xong bảo Bồ-tát Di-lặc: –Nay ta nói rõ cho các ông trong đại chúng này. A-dật-đa, các Bồ-tát Ma-ha-tát vô lượng, vô số a-tăng-kỳ, từ dưới đất vụt hiện lên mà các ông từ xưa chưa từng thấy đó chính là khi ta ở cõi Ta-bà chứng đắc Vô thượng chính đẳng chính giác đã giáo hóa chỉ dẫn các Bồ-tát đó điều phục tâm mình khiến phát đạo tâm. Cõi đó ở phía dưới thế giới Ta-bà, trụ giữa hư không. Các vị Bồ-tát này đọc tụng thông rõ các kinh điển, tư duy phân biệt nghó nhớ chân chính. A-dật-đa, các thiện nam đó không thích ở trong chúng đông, bàn luận nhiều, thường thích ở nơi yên tịnh, siêng tu tinh tấn, chưa từng thôi nghỉ, cũng không nương tựa người trời mà ở, thường thích trí tuệ sâu xa không chướng ngại, cũng thường ham thích giáo pháp của chư Phật, một lòng tinh tấn cầu trí Tuệ vô thượng. Bấy giờ Thế Tôn muốn làm rõ nghĩa này mà nói kệ: A-dật-đa nên biết Các Bồ-tát lớn này, Từ vô số kiếp nay Tu tập trí tuệ Phật, Đều do ta hóa độ, Khiến phát đại đạo tâm. Họ đều là con ta, Y chỉ thế giới này Thường tu hạnh Đầu-đà Chỉ thích nơi yên tịnh. Xa đám đông huyên náo Không ưa bàn luận nhiều. Các vị đó như thế Học tập đạo pháp ta, Ngày đêm thường tinh tấn, Vì để cầu Phật đạo. Ở phương dưới Ta-bà, Trụ giữa khoảng hư không. Sức chí niệm vững bền, Thường siêng cầu trí tuệ. Nói các pháp nhiệm mầu Mà tâm không sợ sệt. Ta ở thành Già-gia Ngồi dưới cội Bồ-đề, Thành Bậc Tối chính Giác Chuyển Vô thượng pháp luân Rồi mới giáo hóa họ Khiến sơ phát đạo tâm. Nay đều trụ bất thoái, Đều sẽ được thành Phật. Ta nói lời chân thật, Các ông một lòng tin. Ta từ xưa đến nay Giáo hóa các chúng đó. Bấy giờ Bồ-tát Di-lặc Ma-ha-tát cùng vô số chúng Bồ-tát sinh lòng nghi hoặc, lấy làm lạ việc chưa từng có mà nghó rằng: “Làm sao trong một thời gian ngắn mà Thế Tôn có thể giáo hóa vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ các Đại Bồ-tát và khiến cho trụ vào Vô thượng chính đẳng chính giác như vậy?” Rồi liền bạch Phật rằng: –Bạch Thế Tôn! Như Lai lúc làm Thái tử rời khỏi cung điện dòng họ Thích, ngồi ở đạo tràng cách thành Già-gia chẳng bao xa, chứng đắc Vô thượng chính đẳng chính giác. Từ đó đến nay mới hơn bốn mươi năm. Làm sao trong một thời gian ngắn như vậy mà Thế Tôn có thể làm nên Phật sự vó đại và dùng thế lực của Phật, công đức của Phật giáo hóa vô lượng chúng Đại Bồ-tát sẽ được Vô thượng chính đẳng chính giác như vậy? Bạch Thế Tôn! Chúng Đại Bồ-tát này cho dẫu có người trong ngàn vạn ức kiếp cũng không đếm hết, không giới hạn. Chúng Đại Bồ-tát đó từ lâu nay ở nơi vô lượng, vô biên chư Phật trồng các căn lành, thành tựu đạo Bồ-tát, thường tu phạm hạnh. Bạch Thế Tôn! Việc đó người đời khó tin. Ví như có người trẻ đẹp tóc đen hai mươi lăm tuổi chỉ một người trăm tuổi mà nói rằng người đó là con mình. Người trăm tuổi nọ cũng chỉ gã thiếu niên kia mà nói là cha của mình đã sinh đẻ nuôi nấng. Đó là điều khó tin. Phật cũng vậy. Từ lúc thành đạo đến nay kỳ thật chưa bao lâu, mà các đại chúng Bồ-tát đó đã ở nơi vô lượng ngàn vạn ức kiếp, vì Phật đạo siêng năng tu tinh tấn, khéo vào, ra, an trụ trong vô lượng ngàn vạn ức cảnh giới chính định, được thần thông lớn, tu hạnh thanh tịnh đã lâu, thường hay tuần tự tu tập các pháp lành, có tài vấn đáp, là quý báu trong loài người, rất ít có trong tất cả thế gian. Ngày nay Thế Tôn vừa mới nói lúc được Phật đạo khiến họ bắt đầu phát tâm, giáo hóa chỉ dạy dẫn dắt khiến họ hướng về Vô thượng chính đẳng chính giác. Thế Tôn thành Phật chưa bao lâu, sao có thể làm được việc công đức lớn như vậy? Chúng con tuy tin Phật tùy nghi thuyết pháp, những lời Phật nói ra chưa bao giờ hư vọng, tri kiến của Phật là thông thấu, nhưng sau khi Phật diệt độ rồi, các Bồ-tát mới phát tâm nếu nghe những lời này có thể sẽ không tin, không tiếp nhận mà sinh ra nhân duyên tội nghiệp là phá chính pháp. Bạch Thế Tôn! Xin vì chúng giải thích trừ mối nghi cho chúng con và để các thiện nam đời vị lai nghe việc này cũng khỏi sinh nghi. Bấy giờ Bồ-tát Di-lặc muốn làm rõ lại nghĩa này mà nói kệ: Phật xưa từ dòng Thích Xuất gia gần Già-gia, Ngồi dưới cây Bồ-đề Đến nay còn chưa xa. Các hàng Phật tử này Số đông không thể lượng, Đã lâu tu Phật đạo, Trụ ở sức thần thông. Khéo học đạo Bồ-tát Không nhiễm pháp thế gian. Như hoa sen trong nước Từ đất mà vụt lên. Đều sinh lòng cung kính Đứng ở trước Thế Tôn, Việc đó khó nghó bàn Làm sao mà tin được? Phật đắc đạo rất gần, Mà thành tựu nhiều quá. Xin vì chúng trừ nghi, Như thật phân biệt nói. Ví như người trẻ mạnh Tuổi mới hai mươi lăm. Chỉ người trăm tuổi già Mặt nhăn và tóc bạc Nói là mình sinh ra. Rồi con cũng gọi cha. Cha trẻ mà con già. Trên đời ai tin được? Thế Tôn cũng như vậy. Đắc đạo nay quá gần. Mà chúng Bồ-tát đây, Chí vững không khiếp nhược. Từ vô lượng kiếp nay Đã tu đạo Bồ-tát, Có tài giỏi vấn đáp Tâm không chút sợ sệt, Nhẫn nhục tâm quyết định Đoan chính có oai đức. Mười phương Phật ngợi khen Giỏi phân biệt thuyết pháp. Không thích nơi đám đông Thường ưa cảnh thiền định. Vì cầu Phật đạo nên Trụ hư không phương dưới. Chúng con theo Phật nghe, Đối việc này không nghi. Xin Phật vì người sau, Giảng nói khiến hiểu rõ. Vì nếu với kinh này, Sinh lòng nghi không tin, Sẽ phải đọa đường dữ. Vậy nay xin giải thích Vô lượng Bồ-tát kia Làm sao thời gian ngắn Giáo hóa khiến phát tâm Trụ được bậc Bất thoái?  <詞 id="83085210">Phẩm 16: NHƯ LAI THỌ LƯỢNG Bấy giờ Phật bảo các Bồ-tát và tất cả đại chúng: –Các thiện nam! Các ông phải tin hiểu lời nói chân thật của Như Lai. Lại bảo đại chúng: –Các ông phải tin hiểu lời nói chân thật của Như Lai. Rồi lại bảo đại chúng: –Các ông phải tin hiểu lời nói chân thật của Như Lai. Khi ấy đại chúng Bồ-tát do Di-lặc đứng đầu chắp tay bạch Phật: –Bạch Đức Thế Tôn, cúi xin dạy cho! Chúng con sẽ tin nhận lời Phật. Rồi tác bạch nói như vậy ba lần: –Cúi xin dạy cho! Chúng con sẽ tin nhận lời Phật. Bấy giờ Thế Tôn biết các Bồ-tát không ngớt ba lần thỉnh cầu, liền bảo: –Các ông hãy lắng nghe sức thần thông bí mật của Như Lai. Tất cả trong đời như Trời, Người và A-tu-la đều cho rằng nay Phật Thích-ca Mâu-ni ra khỏi cung điện dòng họ Thích, ngồi nơi đạo tràng cách thành Già-gia không bao xa mà đặng thành Vô thượng chính đẳng chính giác. Nhưng thiện nam, thật sự ta thành Phật đến nay đã vô lượng, vô biên trăm ngàn vạn ức na-do-tha kiếp. Ví như năm trăm ngàn vạn ức na-do-tha a-tăng-kỳ cõi tam thiên đại thiên, giả sử có người đem nghiền nát ra bụi nhỏ rồi qua phương Đông, cách năm trăm ngàn vạn ức na-do-tha a-tăng-kỳ cõi nước thì bỏ xuống một hạt bụi, rồi cứ như vậy đi qua phía Đông cho đến khi bỏ xuống hết số hạt bụi đó. Các thiện nam, các ông nghó sao? Số thế giới đó có thể suy nghó tính toán mà biết được chăng? Bồ-tát Di-lặc và tất cả đều bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Các thế giới đó vô lượng, vô biên không thể tính toán biết được và sức tâm trí cũng không nghó tới được. Tất cả Thanh văn, Bích-chi-phật dùng trí vô lậu cũng không thể suy nghó được số hạng đó. Chúng con trụ bậc Bất thoái nhưng trong việc này cũng không đạt tới. Bạch Thế Tôn! Các thế giới như thế nhiều vô lượng, vô biên. Bấy giờ Phật bảo các chúng Bồ-tát: –Các thiện nam! Nay ta sẽ nói rõ cho các ông. Các thế giới đó kể cả số có bỏ hạt bụi và số không bỏ hạt bụi, tất cả đều đem nghiền nát ra thành bụi nhỏ và cứ một hạt bụi là một kiếp thì từ khi ta thành Phật đến nay còn lâu nhiều hơn số đó trăm ngàn vạn ức na-do-tha a-tăng-kỳ kiếp. Từ đó đến nay ta thường ở cõi Ta-bà này thuyết pháp giáo hóa, và cũng ở trong trăm ngàn vạn ức na-do-tha a-tăng-kỳ cõi nước khác dắt dẫn làm lợi ích chúng sinh. Các thiện nam! Trong khoảng giữa thời gian đó ta có nói đến Phật Nhiên Đăng… và có nói các Đức Phật ấy nhập Niết-bàn. Nói như thế đều là dùng phương tiện để phân biệt. Các thiện nam! Nếu có chúng sinh nào đến ta, ta dùng mắt Phật quan sát các căn như tín… của chúng là lanh lợi hay chậm lụt, tùy theo chỗ đáng độ, mà mỗi nơi mỗi nơi tên gọi không giống nhau, tuổi thọ có lớn nhỏ, cũng thị hiện nói sẽ nhập Niết-bàn và dùng các trí tuệ phương tiện nói pháp nhiệm mầu để làm cho chúng sinh có thể phát tâm hoan hỷ. Các thiện nam! Như Lai thấy các chúng sinh ưa thích pháp Tiểu thừa, đức mỏng tội nặng, Phật vì người đó nói: “Ta lúc trẻ xuất gia được Vô thượng chính đẳng chính giác”. Nhưng thực sự ta đã thành Phật đến nay lâu xa dường ấy, chỉ vì dùng phương tiện giáo hóa chúng sinh, khiến vào Phật đạo nên nói như vậy. Các thiện nam! Kinh điển của Như Lai nói ra đều vì độ thoát chúng sinh. Khi nói là thân mình, khi nói là thân người, hoặc chỉ thân mình hoặc chỉ thân người, hoặc chỉ việc mình hoặc chỉ việc người, nhưng các lời nói ra đều thật chứ không hư dối. Vì sao vậy? Vì Như Lai thấy biết đúng như thật là tướng của ba cõi không có sống chết, không thoái lui, không tiến tới, không ở đời không diệt độ, không thực không hư, không giống không khác, không thấy ba cõi như là ba cõi. Những việc như thế Như Lai thấy rõ không sai lầm. Vì chúng sinh có nhiều căn tính khác nhau, nhiều dục vọng khác nhau, nhiều hành nghiệp khác nhau, nhiều nghó tưởng phân biệt khác nhau nên để làm cho phát sinh các căn lành phải dùng bao nhiêu nhân duyên, thí dụ, ngôn từ, các cách nói pháp, cách ra làm Phật sự, chưa từng tạm bỏ một pháp nào. Như vậy từ khi ta thành Phật đến nay thật là lâu xa, thọ mạng vô lượng a-tăng-kỳ kiếp thường còn không mất. Các thiện nam! Ta xưa tu hành đạo Bồ-tát thành tựu được thọ mạng số còn hơn trên, đến nay vẫn chưa hết. Nay không phải thật sự diệt độ mà chỉ là phương tiện nói sẽ diệt độ. Như Lai dùng phương tiện đó giáo hóa chúng sinh. Vì sao vậy? Vì nếu Phật ở đời lâu thì người đức mỏng, không trồng căn lành, nghèo cùng hèn hạ, tham muốn năm thứ dục lạc, sa vào trong lưới tưởng nhớ vọng kiến, thấy Như Lai thường còn không diệt độ mà sinh lòng phóng túng trễ nãi, không có ý tưởng khó gặp cũng như lòng cung kính. Cho nên Như Lai dùng phương tiện nói: “Tỳ-kheo phải biết rằng việc chư Phật ra đời là điều khó gặp.” Vì sao vậy? Những người đức mỏng, trải qua trăm ngàn vạn ức kiếp có người thấy Phật, có người không thấy Phật. Vì sự việc này mà ta nói rằng: “Tỳ-kheo, khó có thể thấy được Như Lai.” Các chúng sinh đó nghe nói vậy sẽ sinh ý tưởng khó gặp, ôm lòng luyến mộ, khát khao ngưỡng vọng Phật, mới trồng căn lành. Vì vậy cho nên Như Lai nói diệt độ, dầu chẳng thật sự có diệt độ. Lại nữa thiện nam! Phương pháp của chư Phật Như Lai đều như vậy. Vì độ chúng sinh đều thật như vậy chứ không hư dối. Ví như một lương y có trí tuệ sáng suốt, biết rõ cách luyện phương trị bệnh. Lương y này có nhiều con cái, hoặc mười, hai mươi, cho đến số trăm nhưng vì có việc phải đi nước khác. Sau đó các người con uống nhằm thuốc độc khác, thuốc làm cho mê loạn lăn lộn trên đất. Khi đó người cha từ nước ngoài về nhà. Những người con uống nhằm thuốc độc, có người mất bản tính, có người chưa mất xa trông thấy cha về rất vui mừng vái chào hỏi han: –Mừng cha về bình an. Chúng con dại dột uống lầm thuốc độc, xin cha cứu chữa cho chúng con được sống. Người cha trông thấy các con khổ não như vậy liền y theo các sách thuốc tìm đủ các loại cỏ thuốc màu sắc dẹp mùi vị thơm giã nhỏ hòa vào nhau đưa cho các con uống mà bảo: –Đây là thứ thuốc hay có đầy đủ mùi vị thơm ngon, các con hãy uống cho mau hết khổ não không còn bệnh tật. Trong các con, những người chưa mất bản tính thấy thuốc hay có mùi vị thơm ngon liền nhận uống, hết bệnh được lành mạnh. Còn những người đã mất bản tính, tuy thấy cha về vui mừng hỏi han và xin trị bệnh nhưng đến khi cho thuốc thì không chịu uống. Vì sao vậy? Vì chất độc đã thấm sâu làm mất bản tính nên thuốc tốt thơm ngon mà bảo là khó uống. Người cha bèn nghó: “Đáng thương cho những đứa con này, vì trúng độc mà tâm hồn rối loạn. Tuy thấy ta về mừng xin cứu chữa, nhưng thuốc tốt như thế này mà không chịu uống. Nay ta phải bày phương tiện này khiến chúng uống thuốc.” Rồi bảo: –Các con phải biết, ta nay già yếu sắp chết đến nơi rồi. Có món thuốc hay này ta để ở đây, các con nên lấy mà uống. Không lo gì không lành bệnh. Bảo các con xong đi qua nước khác, rồi sai người về báo tin cho các con: “Cha của các người đã chết.” Bấy giờ các người con nghe tin cha chết, lòng rất sầu khổ mà nghó rằng: “Nếu cha ta còn sống, người ắt thương xót chúng ta, chúng ta sẽ được cứu hộ. Nay cha đã bỏ chúng ta xa chết ở nước khác.” Tự nghó từ nay côi cút không nơi nương tựa, lòng thường bi cảm bèn tỉnh ngộ mới biết thuốc ấy thơm ngon lấy uống và được lành bệnh. Người cha nghe tin các con đã lành mạnh liền trở về cho các con được trông thấy. –Các thiện nam, các ông nghó sao? Ai có thể nói vị lương y kia mắc tội dối láo không? –Bạch Thế Tôn, không! Phật bảo: –Ta cũng vậy. Từ khi thành Phật đến nay đã vô lượng, vô biên trăm ngàn vạn ức na-do-tha a-tăng-kỳ kiếp, vì chúng sinh dùng sức phương tiện nói sẽ diệt độ. Việc đó đúng như pháp thì không ai có thể nói rằng ta có lỗi dối láo. Bấy giờ Thế Tôn muốn làm rõ lại nghĩa này mà nói kệ: Ta thành Phật đến nay Trải qua nhiều số kiếp Vô lượng trăm ngàn vạn A-tăng-kỳ ức năm, Thường nói pháp giáo hóa Vô số ức chúng sinh Khiến vào nơi Phật đạo. Đến nay vô lượng kiếp Vì độ chúng sinh nên Phương tiện hiện Niết-bàn, Kỳ thật không diệt độ, Thường ở đây nói pháp. Ta thường ở nơi đây, Dùng các sức thần thông, Khiến chúng sinh điên đảo Tuy gần mà không thấy. Chúng thấy ta diệt độ, Khắp cúng dường xá-lợi. Tất cả đều luyến tiếc Mà sinh lòng khát ngưỡng. Chúng sinh đã tin phục Ngay thật ý hòa dịu, Một lòng muốn thấy Phật Tự chẳng tiếc thân mạng. Giờ ta cùng chúng Tăng Đều ra khỏi Linh thứu, Bảo với chúng sinh rằng: Thường ở đây chẳng diệt. Vì dùng sức phương tiện Hiện có diệt, không diệt. Nước khác có chúng sinh Lòng cung kính tin mong Ta ở lại trong đó Vì nói pháp Vô thượng. Các người không nghe biết Cứ nói ta diệt độ. Ta thấy các chúng sinh Chìm trong các khổ não, Nên chẳng vì hiện thân Để cho sinh khát vọng. Nhân lòng người luyến mộ Mới hiện ra nói pháp. Sức thần thông như thế Ở trong vô số kiếp, Thường tại núi Linh thứu Và các trụ xứ khác. Chúng sinh thấy kiếp tận Khi đại hỏa thiêu đốt Cõi ta đây an ổn Trời người thường đông đúc. Vườn rừng và lầu gác Đủ thứ báu trang nghiêm. Cây báu đơm hoa quả Chỗ chúng sinh hưởng lạc. Các trời đánh trống trời Thường diễn tấu nhạc hay, Mưa hoa Mạn-đà-la Cúng Phật và đại chúng. Tịnh độ ta chẳng hoại Mà chúng thấy cháy tan. Lo sợ các khổ não Đều dẫy đầy như vậy. Các chúng sinh tội đó, Vì nhân duyên nghiệp dữ, Quá a-tăng-kỳ kiếp Chẳng nghe tên Tam bảo. Người nhu hòa ngay thật Có tu các công đức, Đều được thấy thân ta Ở nơi đây nói pháp. Hoặc lúc vì chúng này Nói Phật thọ vô lượng. Người lâu mới thấy Phật Thì nói Phật khó gặp. Trí lực ta như thế, Tuệ quang chiếu vô lượng, Thọ mạng vô số kiếp Tu hành lâu mà được. Các ông người có trí Chớ sinh lòng hoài nghi. Phải dứt, khiến hết hẳn, Lời Phật thật không dối. Như lương y chước khéo Vì để trị cuồng tử, Còn sống mà nói chết, Không thể bảo là dối. Ta là cha trong đời, Cứu các người đau khổ. Vì phàm phu điên đảo, Thật còn mà nói diệt. Vì cớ thường thấy ta Mà sinh lòng kiêu xa, Phóng túng theo năm dục Đọa vào các đường dữ. Ta thường biết chúng sinh Hành đạo, chẳng hành đạo, Tùy cơ duyên được độ Mà nói ra nhiều pháp. Thường tự nghó thế này: “Lấy gì khiến chúng sinh Được trí Tuệ vô thượng Mau thành tựu thân Phật?”  <詞 id="83085211">Phẩm 17: PHÂN BIỆT CÔNG ĐỨC Sau khi tất cả chúng trong đại hội đã được nghe nói về thọ mạng kiếp số dài lâu của Phật và vô lượng, vô biên, vô số chúng sinh được lợi ích lớn như vậy, Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Di-lặc Ma-ha-tát rằng: –A-dật-đa! Ta nói Như Lai thọ mạng dài lâu như vậy và có sáu trăm tám vạn ức na-do-tha hằng hà sa chúng sinh được Vô sinh pháp nhẫn. Lại có gấp ngàn lần Bồ-tát Ma-ha-tát được pháp môn Văn trì Đà-la-ni. Lại có một thế giới có số Bồ-tát Ma-ha-tát nhiều như vi trần được pháp Nhạo thuyết biện tài. Lại có một thế giới có số Bồ-tát Ma-ha-tát nhiều như vi trần được trăm ngàn vạn ức vô lượng pháp môn Triền Đà-la-ni. Lại có tam thiên đại thiên thế giới có số Bồ-tát Ma-ha-tát nhiều như vi trần có thể chuyển được Pháp luân không thoái. Lại có hai ngàn trung thiên quốc độ có số Bồ-tát Ma-ha-tát nhiều như vi trần chuyển được Pháp luân thanh tịnh. Lại có tiểu thiên quốc độ có số Bồ-tát Ma-ha-tát nhiều như vi trần, tám đời sẽ được Vô thượng chính đẳng chính giác. Lại có bốn tứ thiên hạ có số Bồ-tát Ma-ha-tát nhiều như vi trần, bốn đời sẽ được Vô thượng chính đẳng chính giác. Lại có ba tứ thiên hạ có số Bồ-tát Ma-ha-tát nhiều như vi trần, ba đời sẽ được Vô thượng chính đẳng chính giác. Lại có hai tứ thiên hạ có số Bồ-tát Ma-ha-tát nhiều như vi trần, hai đời sẽ được Vô thượng chính đẳng chính giác. Lại có một tứ thiên hạ có số Bồ-tát Ma-ha-tát, một đời sẽ được Vô thượng chính đẳng chính giác. Lại có tám thế giới có số chúng sinh nhiều như vi trần đều phát tâm Vô thượng chính đẳng chính giác. Khi Phật nói các Bồ-tát Ma-ha-tát đó được lợi ích vì nghe pháp thì trên không trung mưa hoa Mạn-đà-la, hoa Ma-ha mạn-đà-la rải xuống vô lượng trăm ngàn vạn ức các Đức Phật đang ngồi trên tòa Sư tử dưới cội cây báu và rải lên Phật Thích-ca Mâu-ni và Phật Đa Bảo đang ngồi trên tòa Sư tử trong tháp bảy báu và cũng rải lên tất cả các Đại Bồ-tát cùng bốn bộ chúng. Lại còn rưới xuống bột hương gỗ Chiên-đàn, hương trầm thủy, trong không trung vang xa âm thanh tiếng trống trời kỳ diệu. Lại còn thả xuống ngàn thứ Thiên y, chuỗi ngọc như chuỗi ngọc trai, chuỗi ngọc ma-ni, chuỗi ngọc như ý đầy khắp chín phương và những lò hương báu xông đốt các thứ hương vô giá tự nhiên từ bốn phía đến cúng dường đại chúng. Trên mỗi Đức Phật có các vị Bồ-tát cầm phướn lọng, lần lượt lên đến trời Phạm thiên. Các vị Bồ-tát đó dùng âm thanh vi diệu hát lên vô lượng bài tụng tán, ca ngợi chư Phật. Bấy giờ Bồ-tát Di-lặc từ tòa ngồi đứng dậy, trịch vai áo bên phải, chắp tay hướng Phật mà nói bài kệ: Thế Tôn có sức lớn Thọ mạng không thể lường. Vô số các Phật tử Nghe Thế Tôn phân biệt, Nói được pháp lợi ích Lòng hân hoan vui mừng. Nào trụ bậc Bất thoái Nào được Đà-la-ni, Nào Vô ngại nhạo thuyết Vạn ức Triền tổng trì. Hoặc có cõi đại thiên Bồ-tát như vi trần, Mỗi vị đều có thể Chuyển Pháp luân không thoái. Lại có cõi trung thiên Bồ-tát như vi trần, Mỗi vị đều có thể Chuyển Pháp luân thanh tịnh. Lại có cõi tiểu thiên Bồ-tát như vi trần, Còn dư lại tám đời Sẽ được thành Phật đạo. Lại có bốn, ba, hai Tứ thiên hạ như thế, Bồ-tát như vi trần, Theo số đời thành Phật. Hoặc một tứ thiên hạ Bồ-tát như vi trần, Còn dư lại một đời, Sẽ thành Nhất thiết trí. Hàng chúng sinh cũng vậy Nghe Phật thọ dài lâu, Được vô lượng quả báo Vô lậu rất thanh tịnh. Lại có tám thế giới Chúng sinh như vi trần, Nghe Phật nói thọ mạng Đều phát tâm Vô thượng. Thế Tôn nói vô lượng Pháp không thể nghó bàn. Được nhiều sự lợi ích Như hư không vô biên Mưa hoa trời Mạn-đà, Ma-ha mạn-đà-la Thích, Phạm như hằng sa Vô số cõi Phật đến Rưới Chiên-đàn, trầm thủy Tán mạn xuống khắp nơi Như chim trời bay lượn Cúng dường các Đức Phật. Trống trời từ không trung Tự nhiên vang tiếng lạ. Thiên y ngàn muôn thứ Uyển chuyển nhẹ rơi rơi. Các lò hương đẹp quý Vô giá khói hương xông. Tự nhiên đều cùng khắp Cúng dường chư Thế Tôn. Có các Đại Bồ-tát Tay cầm phướn lọng báu Muôn vàn thứ quý lạ Lần lượt đến Phạm thiên, Trước mỗi mỗi Đức Phật Treo tràng phan bảo cái. Cũng dùng ngàn vạn kệ Ca vịnh chư Như Lai. Tất cả những việc ấy Từ xưa chưa từng có. Nghe Phật thọ vô lượng, Tất cả đều vui mừng. Phật tiếng đồn mười phương Rộng lợi ích chúng sinh. Đủ tất cả căn lành, Để giúp tâm Vô thượng. Bấy giờ Phật bảo Bồ-tát Di-lặc Ma-ha-tát: –A-dật-đa! Có chúng sinh nào nghe Phật thọ mạng dài lâu như thế, cho dù có thể sinh một niệm tin hiểu, sẽ được công đức không thể hạn lượng. Nếu có thiện nam, thiện nữ, vì đạo Vô thượng chính đẳng chính giác, trong tám mươi vạn ức na-do-tha kiếp tu năm pháp Ba-la-mật: Bố thí ba-la-mật, Trì giới ba-la-mật, Nhẫn nhục ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Thiền định ba-la-mật, trừ Trí tuệ ba-la-mật, đem công đức này sánh với công đức tin hiểu trước không được một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn vạn ức, cho đến tính toán thí dụ cũng không thể biết được. Nếu thiện nam, thiện nữ đã có được công đức như thế mà còn bị thoái chuyển nơi quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác là không thể có lẽ đó. Bấy giờ Thế Tôn muốn làm rõ lại nghĩa này mà nói kệ rằng: Nếu cầu trí tuệ Phật Trong tám mươi vạn ức Na-do-tha kiếp số Tu năm Ba-la-mật. Ở trong các kiếp đó Bố thí cúng dường Phật Và đệ tử Duyên giác Cùng các chúng Bồ-tát, Thức trân cam mỹ vị, Trang phục, giường nệm quý, Chiên-đàn dựng tinh xá, Tạo vườn rừng trang nghiêm. Lại nữa, này A-dật-đa! Nếu có người nghe nói thọ mạng của Phật dài lâu, hiểu ý nghĩa của lời nói đó, người ấy sẽ được công đức không có hạn lượng, có thể phát khởi trí Tuệ vô thượng của Như Lai. Huống chi là người rộng nghe kinh này, hoặc khuyên người nghe, hoặc tự thọ trì, hoặc khuyên người thọ trì, hoặc tự chép, hoặc khuyên người chép, hoặc đem hương hoa, chuỗi ngọc, phướn lọng, dầu thơm, đèn nến cúng dường quyển kinh, công đức của người này vô lượng, vô biên, có thể phát sinh Nhất thiết chủng trí. A-dật-đa! Nếu thiện nam, thiện nữ nghe ta nói thọ mạng dài lâu sinh lòng tin hiểu, tức là thấy Phật thường tại núi Kỳ-xà-quật thuyết pháp có chúng Đại Bồ-tát và hàng Thanh văn vây quanh. Lại thấy cõi Ta-bà này đất bằng lưu ly ngay ngắn bằng phẳng, vàng Diêm-phù-đàn ngăn tám nẻo, cây báu thẳng hàng, nhà cửa lầu đài đều bằng bảy báu có chúng Bồ-tát ở. Nếu có người quán tưởng được như vậy thì phải biết rằng đó là quán tướng tin hiểu sâu sắc. Và lại sau khi Như Lai diệt độ, nếu có người nghe kinh này mà không chê bai, sinh lòng tùy hỷ thì phải biết rằng người đó đã có tướng tin hiểu sâu sắc, huống chi là người đọc tụng thọ trì kinh này. Người này sẽ là người đầu đội Như Lai. A-dật-đa! Thiện nam, thiện nữ đó không cần phải vì ta mà xây dựng chùa tháp, cất nhà Tăng, dùng bốn việc cúng dường để cúng chúng Tăng. Vì sao vậy? Vì thiện nam, thiện nữ đó thọ trì đọc tụng kinh điển này tức đã là xây tháp, dựng nhà Tăng, cúng dường Tăng chúng rồi, tức là đã đem xá-lợi của Phật dựng tháp bảy báu cao rộng nhỏ dần lên đến tận trời Phạm thiên, treo phướn lọng khuông báu, hương hoa, chuỗi ngọc, hương bột, hương xoa, hương đốt, các thứ trống, các thứ âm nhạc, ống tiêu, ống sáo, không hầu, các thứ vũ kỹ, dùng âm thanh vi diệu ca ngâm khen ngợi, như là đã làm việc cúng dường như vậy trong vô lượng ngàn vạn ức kiếp rồi. A-dật-đa! Nếu sau khi ta diệt độ, nghe kinh điển này có người thọ trì, hoặc tự chép, hoặc bảo người chép, tức là đã xây dựng nhà Tăng, dùng gỗ Chiên-đàn đỏ cất cung điện nhà cửa ba mươi hai tòa sở, cao bằng tám cây đa-la cao rộng đẹp đẽ cho trăm ngàn Tỳ-kheo ở. Nơi đó có lập vườn rừng, ao tắm, chỗ đi kinh hành, hang động ngồi thiền, y phục, lương thực thực phẩm, giường nệm, thuốc thang, tất cả thú vui đều đủ. Những nhà Tăng có trăm ngàn vạn ức lầu gác như thế, số đó nhiều vô lượng để hiện tiền cúng dường ta và các vị Tỳ-kheo Tăng. Cho nên ta nói sau khi diệt độ nếu có người thọ trì đọc tụng, vì người khác nói, hoặc bảo người chép, cúng dường quyển kinh thì không cần phải dựng chùa tháp, tạo lập nhà Tăng, cúng dường Tăng chúng. Huống chi lại có người hay thọ trì kinh này mà cả đến tu hành bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, nhất tâm, trí tuệ, công đức người này rất đặc biệt vượt trội vô lượng, vô biên. Ví như hư không, Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn phía, trên, dưới, vô lượng, vô biên. Công đức của người đó cũng vô lượng, vô biên như vậy mau đến bậc Nhất thiết chủng trí. Nếu có người đọc tụng thọ trì kinh này, giảng giải cho người khác, hoặc tự chép, hoăïc bảo người chép, lại có thể dựng tháp, tạo lập nhà Tăng, cúng dường khen ngợi chúng Thanh văn tăng, cùng dùng trăm ngàn vạn cách tán dương mà khen ngợi công đức của Bồ-tát. Lại vì người khác mà dùng nhiều nhân duyên tùy nghĩa giải thích kinh Pháp Hoa này và còn có thể giữ giới thanh tịnh, ở chung cùng người nhu hòa, nhẫn nhục không nóng giận, chí niệm kiên cố, thường coi trọng việc ngồi thiền, đạt các cảnh thiền định sâu xa, tinh tấn mạnh mẽ, nhiếp các căn lành, căn lanh lợi, trí tuệ sáng suốt khéo léo giải đáp các vấn nạn. A-dật-đa! Nếu sau khi ta diệt độ, các thiện nam, thiện nữ thọ trì đọc tụng kinh điển này, lại có các công đức lành như thế, phải biết rằng người đó đã đến đạo tràng ngồi dưới cây đạo thọ tiếp cận đạo Vô thượng chính đẳng chính giác. A-dật-đa! Những nơi nào các thiện nam, thiện nữ đó hoặc ngồi, hoặc đứng, hoặc đi hãy nên xây tháp, tất cả trời người đều phải cúng dường như tháp của Phật vậy. Bấy giờ Thế Tôn muốn làm rõ lại nghĩa này mà nói bài kệ: Sau khi ta diệt độ Ai phụng trì kinh này, Người đó phước vô lượng Như trên đã nói rõ. Như vậy là đầy đủ Tất cả các cúng dường. Dùng xá-lợi xây tháp, Dùng bảy báu trang nghiêm, Chùa tháp rất cao rộng Nhỏ dần đến Phạm thiên. Chuông báu ngàn vạn ức Gió động vang tiếng mầu. Lại trong vô lượng kiếp Mà cúng dường tháp đó. Hoa, hương các chuỗi ngọc Thiên y cùng kỹ nhạc, Đèn thắp bằng dầu thơm Chung quanh thường chiếu sáng. Vào đời ác mạt pháp Người nào trì kinh này, Tức là đã đầy đủ Các cúng dường như trên. Nếu hay trì kinh này Thì như Phật hiện tại, Dùng Chiên-đàn ngưu đầu Cất nhà Tăng cúng dường. Nhà ba mươi hai sở Cao tám cây Đa-la, Thịnh soạn, y phục tốt, Giường nằm đều đầy đủ, Cho trăm ngàn chúng Tăng. Vườn rừng các ao tắm, Chỗ kinh hành, ngồi thiền Đều trang nghiêm đẹp đẽ. Nếu có lòng tin hiểu, Trì tụng và sao chép, Nếu lại bảo người làm Và cúng dường kinh quyển. Rải hương hoa, hương bột, Dùng Tu-mạn, Chiêm-bặc, A-đề, Mục-đà-la, Thường thắp bằng dầu thơm. Người cúng dường như thế Được công đức vô lượng. Như hư không vô biên, Phước đó cũng như vậy. Huống chi trì kinh này, Lại bố thí, trì giới, Nhẫn nhục, vui thiền định, Không giận, không ác khẩu, Cung kính nơi tháp miếu, Khiêm tốn với Tỳ-kheo, Xa lìa lòng tự cao Thường tư duy trí tuệ. Bị vấn nạn không giận, Tùy thuận mà giải thích. Nếu làm được hạnh đó, Công đức lường không hết. Nếu thấy Pháp sư này Thành tựu công đức ấy, Thì dùng hoa trời rải, Lấy áo trời che thân, Đầu mặt tiếp chân lạy, Sinh lòng tưởng như Phật. Và nên nghó thế này: Không lâu đến đạo thọ, Được vô lậu vô vi, Làm lợi ích trời người. Nơi trú xứ người ấy, Kinh hành hoặc ngồi nằm, Cho đến nói một kệ, Ở đó nên xây tháp, Trang nghiêm cho đẹp đẽ, Dâng các thức cúng dường. Phật tử ở chỗ này, Tức là Phật thụ dụng, Thường ở tại nơi đó, Kinh hành và ngồi nằm. KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA <卷 id="83085212">QUYỂN 6 <詞 id="83085213">Phẩm 18: TÙY HỶ CÔNG ĐỨC Bấy giờ Bồ-tát Di-lặc Ma-ha-tát bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Nếu có thiện nam, thiện nữ nào nghe kinh Pháp Hoa này mà phát tâm tùy hỷ thì được bao nhiêu phước đức? Rồi nói bài kệ: Sau khi Phật diệt độ Có người nghe kinh này, Nếu phát tâm tùy hỷ, Sẽ được phước nhiều ít? Phật bảo Bồ-tát Di-lặc Ma-ha-tát: –A-dật-đa! Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di và các người trí thức hoặc lớn hoặc nhỏ nghe kinh này mà phát tâm tùy hỷ, rồi từ trong pháp hội ra đến nơi nào khác hoặc ở nhà Tăng, hoặc nơi yên tónh, hoặc thành ấp, phố xá xóm làng, đồng ruộng mà đem giáo pháp đúng như đã nghe vì cha mẹ bà con, bạn bè quen biết tùy sức mình giảng nói, các người đó nghe rồi tùy hỷ lại đi dạy người khác, người khác nghe rồi cũng tùy hỷ lại đem dạy người khác nữa, lần lần như thế cho đến người thứ năm mươi. A-dật-đa! Nay ta sẽ nói công đức tùy hỷ của thiện nam, thiện nữ thứ năm mươi đó. Vậy các ông hãy lắng nghe! Nếu bốn trăm vạn ức a-tăng-kỳ thế giới có sáu đường chúng sinh trong bốn loài: sinh trứng, sinh thai, sinh nơi ẩm ướt, biến hóa sinh, hoặc hữu hình, hoặc vô hình, có ý thức, không ý thức, không phải có ý thức, không phải không có ý thức, không chân, hai chân, bốn chân, nhiều chân… tất cả trong số chúng sinh như thế, có người cầu phước tùy theo chỗ ưa thích của chúng mà cung cấp đầy đủ. Mỗi mỗi chúng sinh đều đem cho các thứ châu báu như vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách đầy cả cõi Diêm-phù-đề và cả đến voi ngựa xe cộ cùng cung điện lầu gác đều làm bằng bảy báu. Vị đại thí chủ đó bố thí như vậy đủ tám mươi năm rồi mà suy nghó: “Ta đã ban cho chúng sinh những thứ sở thích theo ý muốn, nhưng những chúng sinh này đều đã già suy, tuổi quá tám mươi, mặt nhăn tóc bạc gần chết đến nơi, ta phải đem Phật pháp mà dạy bảo dìu dắt chúng.” Rồi họp các chúng sinh đó tuyên bố dùng giáo pháp giáo hóa khiến vui mừng được lợi ích. Tất cả đồng thời được đạo quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, quả A-la-hán, dứt hết hữu lậu, trong cảnh giới thiền định sâu, đều được tự tại, đủ tám giải thoát. Ý người nghó sao, công đức mà vị thí chủ đó đạt được có nhiều không? Di-lặc bạch Phật rằng: –Bạch Thế Tôn! Công đức người đó nhiều vô lượng, vô biên. Nếu vị thí chủ đó chỉ thí cho chúng sinh những thứ ưa thích thôi thì công đức cũng đã vô lượng rồi, huống chi còn khiến cho đều được quả A-la-hán. Phật bảo Di-lặc: –Ta nay nói rõ ràng cho ông hiểu rằng người đó đem tất cả những thứ ưa thích bố thí cho sáu đường chúng sinh trong bốn trăm ức vô số thế giới và khiến được quả A-la-hán, công đức người đó đạt được không bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn vạn ức công đức của người thứ năm mươi kia khi nghe một bài kệ kinh Pháp Hoa mà phát tâm tùy hỷ. A-dật-đa! Người thứ năm mươi này lần hồi nghe kinh Pháp Hoa rồi dần dần phát tâm tùy hỷ mà công đức đó còn vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ, huống chi là người mới lần đầu nghe kinh trong hội mà phát tâm tùy hỷ thì phước đức đó còn hơn vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ không thể sánh ví được. A-dật-đa! Nếu có người vì kinh này mà qua nhà Tăng, hoặc ngồi hoặc đứng, trong giây lát nghe nhận, nhờ công đức đó sau khi chuyển thân sinh ra sẽ được nào voi, ngựa, xe cộ, kiệu, cáng bằng châu báu hảo hạng và được ở Thiên cung. Nếu có người đang ngồi trong hội giảng pháp, sau đó có người đến thì khuyên mời ngồi nghe, hoặc chia chỗ cho ngồi, công đức của người này khi chuyển thân, sinh ra sẽ được chỗ ngồi của Đế Thích hoặc chỗ ngồi của Phạm vương, hoặc chỗ ngồi của Chuyển luân thánh vương. A-dật-đa! Nếu lại có người nói cho người khác biết rằng: “Có kinh tên là Pháp Hoa, nên cùng nhau đi qua nghe.” Người kia liền nhận lời, cho dù chỉ đến nghe trong chốc lát, công đức của người đó, khi chuyển thân, được sinh cùng nơi với Bồ-tát Đà-la-ni, căn tính lanh lợi, có trí tuệ, trăm ngàn vạn đời không bao giờ bị ngọng câm, không bị hôi miệng, không bị đau lưỡi, không bị đau miệng, răng không đen bẩn, không răng vàng, răng thưa, răng thiếu, răng so le khúc khuỷu, không trề môi, sứt môi, môi dày, lở môi, méo môi, môi thâm cùng các tướng xấu xí. Mũi không tẹt, không quắp, không gãy, mặt không đen nám, không dài, không móm lẹm cũng không có các tướng khó ưa. Môi, lưỡi răng tất cả đều đoan chính, mũi cao thẳng, đầy đủ diện mạo, chân mày cao mà dài, trán rộng bằng phẳng, người đủ tướng tốt, đời đời sinh ra thấy Phật, nghe pháp tin nhận sự dạy bảo. A-dật-đa, ông hãy xem đó! Khuyên một người đi nghe pháp mà được công đức như vậy, huống chi là nhất tâm nghe, nói, đọc, tụng, lại còn ở trong đại chúng vì người phân biệt, đúng như dạy bảo mà tu hành. Bấy giờ Thế Tôn muốn làm rõ lại nghĩa này mà nói bài kệ rằng: Nếu người trong pháp hội Được nghe kinh điển này, Cho dù một bài kệ Tùy hỷ vì người nói. Lần lượt dạy như thế Đến người thứ năm mươi. Nay ta phân biệt nói Người được phước sau cùng. Như có đại thí chủ Cung cấp vô lượng chúng, Đầy đủ tám mươi năm Tùy ý chúng ưa muốn. Thấy tướng chúng già suy, Mặt nhăn và tóc bạc, Răng rụng thân khô héo. Nghó người đó sắp chết, Nên ta nay phải dạy Cho chúng được đạo quả. Liền vì phương tiện nói Pháp Niết-bàn chân thật. Đời có chi bền chắc, Như bọt nước, bóng nắng. Các ngươi đều nên phải Mau sinh lòng nhàm chán. Các người nghe pháp đó Đều được A-la-hán, Đầy đủ sáu Thần thông, Ba Minh, tám Giải thoát. Người năm mươi sau rốt Nghe một kệ tùy hỷ, Người này phúc hơn kia, Không thể thí dụ được. Nghe nhiều lần được thế, Phúc ấy còn vô lượng, Huống chi trong pháp hội, Mới nghe liền tùy hỷ. Nếu khuyên được một người, Đưa đến nghe Pháp Hoa. Rằng: Kinh này mầu nhiệm, Ngàn vạn kiếp khó gặp. Liền nhận lời đi nghe, Dù chỉ nghe giây lát, Phúc báo của người đó, Nay ta phân biệt nói: Đời đời không đau miệng Răng không thưa, vàng, đen. Không môi dày, môi sứt Không có tướng khó coi. Lưỡi không ngắn, khô, đen. Mũi cao mà lại thẳng. Trán rộng và bằng phẳng Mặt mắt đều đoan trang, Người trông thấy yêu mến. Không bị chứng hôi miệng, Mùi thơm hoa Ưu-bát, Thường từ miệng phát ra. Nếu như đến nhà Tăng, Muốn nghe kinh Pháp Hoa. Nghe giây lát hoan hỷ. Nay ta nói phước đó, Sau sinh trong trời, người, Được voi, ngựa, xe tốt. Kiệu, cáng bằng châu báu, Cùng ở cung điện trời. Nếu ở trong pháp hội, Khuyên người ngồi nghe kinh, Nhân vì phước đó được Tòa Thích, Phạm, Chuyển luân. Huống chi nhất tâm nghe, Giải thích nói nghĩa lý. Rồi như pháp tu hành, Phước đó không lường hết.  <詞 id="83085214">Phẩm 19: PHÁP SƯ CÔNG ĐỨC Bấy giờ, Phật bảo Thường Tinh Tấn Bồ-tát Ma-ha-tát rằng: –Nếu có thiện nam, thiện nữ thọ trì kinh Pháp Hoa này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giảng giải, hoặc sao chép thì nhãn căn người đó sẽ được tám trăm công đức, nhó căn được một ngàn hai trăm công đức, tỷ căn được tám trăm công đức, thiệt căn được một ngàn hai trăm công đức, thân căn được tám trăm công đức, ý căn được một ngàn hai trăm công đức. Nhờ những công đức này trang nghiêm làm cho sáu căn đều được thanh tịnh. Các thiện nam, thiện nữ đó, con mắt của cha mẹ sinh ra nhưng do thanh tịnh thấy được khắp tam thiên đại thiên thế giới trong ngoài nào núi, rừng, sông, biển, dưới đến địa ngục A-tỳ, trên đến trời Hữu đảnh, lại thấy được tất cả chúng sinh trong đó nghiệp nhân duyên và quả báo sinh ra nơi đâu đều thấy biết tất cả. Bấy giờ Thế Tôn muốn làm rõ lại nghĩa này mà nói kệ: Nếu người ở trong chúng, Bằng tâm không sợ sệt, Nói kinh Pháp Hoa này, Hãy nghe công đức đó, Mắt người đó sẽ được Tám trăm công đức tốt. Do công đức trang nghiêm, Mắt trở nên thanh tịnh. Mắt thịt cha mẹ sinh, Thấy ba ngàn thế giới. Trong ngoài núi Di-lâu, Núi Tu-di, Thiết vi, Và các núi rừng khác, Nước sông ngòi, biển lớn, Dưới đến ngục A-tỳ, Trên đến trời Hữu đảnh, Chúng sinh ở trong đó, Tất cả đều thấy rõ. Lại nữa, Thường Tinh Tấn! Nếu thiện nam, thiện nữ thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc sao chép, hoặc giảng giải thì nhó căn người đó được một ngàn hai trăm công đức. Bằng tai thanh tịnh đó nghe được khắp tam thiên đại thiên thế giới, dưới đến ngục Vô gián, trên đến trời Hữu đảnh. Trong ngoài nghe được tất cả ngôn ngữ âm thanh như tiếng voi, tiếng ngựa, tiếng xe, tiếng trâu bò, tiếng khóc la, tiếng buồn than, tiếng ốc tù và, tiếng trống, tiếng chuông, tiếng chuông linh, tiếng cười, tiếng nói, tiếng nam, tiếng nữ, tiếng bé trai, tiếng bé gái, tiếng đúng luật, tiếng sai luật, tiếng khổ, tiếng vui, tiếng phàm phu, tiếng Hiền thánh, tiếng vui, tiếng không vui, tiếng Trời, tiếng Rồng, tiếng Dạ-xoa, tiếng Càn-thát-bà, tiếng A-tu-la, tiếng Ca-lầu-la, tiếng Khẩn-na-la, tiếng Ma-hầu-la-già, tiếng lửa, tiếng nước, tiếng gió, tiếng địa ngục, tiếng súc sinh, tiếng ngạ quỷ, tiếng Tỳ-kheo, tiếng Tỳ-kheo-ni, tiếng Thanh văn, tiếng Bích-chi-phật, tiếng Bồ-tát, tiếng Phật. Nói tóm lại dầu chưa được Thiên nhó, chỉ bằng tai bình thường của cha mẹ sinh ra nhưng được thanh tịnh nên có thể nghe biết được và phân biệt tất cả âm thanh trong ngoài khắp tam thiên đại thiên thế giới mà không hư hỏng nhó căn. Bấy giờ Thế Tôn muốn làm rõ lại nghĩa này mà nói kệ: Tai cha mẹ sinh ra, Thanh tịnh không ô uế, Nên tai thường mà nghe, Khắp ba ngàn thế giới: Tiếng voi, ngựa, bò, xe, Tiếng chuông, trống, tù và, Tiếng cầm, sắt, không hầu, Tiếng ống tiêu, ống sáo, Tiếng ca hay thanh tịnh, Nghe mà không đắm say. Tiếng vô số giống người, Nghe được đều hiểu rõ. Lại nghe tiếng chư Thiên Tiếng ca rất mầu nhiệm. Lại nghe tiếng nam, nữ, Tiếng bé trai, bé gái, Trong núi sông hang hiểm, Tiếng Ca-lăng-tần-già, Các giống chim Cộng mạng, Đều nghe hiểu tiếng chúng. Các khổ đau địa ngục, Tiếng độc ác, tiếng khổ, Ngạ quỷ bị đói khát, Tiếng sục sạo kiếm ăn, Rồi đến A-tu-la, Ở bên bờ biển lớn, Lúc cùng nhau nói năn, Vang những lời to tiếng, Như vậy người nói pháp, An trụ ở nơi đây, Xa nghe các tiếng đó, Mà tai không hư hỏng. Trong mười phương thế giới, Cầm thú kêu gọi bầy, Người nói kinh Pháp Hoa, Ở đây đều nghe hết. Trên các trời Phạm thiên, Quang âm cùng Biến tịnh, Cho đến trời Hữu đảnh, Mọi ngôn ngữ âm thanh, Pháp sư ở nơi đây, Đều nghe hiểu tất cả. Hết thảy chúng Tỳ-kheo, Và các Tỳ-kheo-ni, Hoặc đọc tụng kinh điển, Hoặc giảng cho người nghe, Pháp sư ở nơi đây, Đều nghe biết tất cả. Lại có các Bồ-tát, Đọc tụng kinh điển này, Hoặc giảng cho người khác, Soạn tập giải nghĩa kinh, Tất cả âm thanh ấy, Đều nghe được biết hết. Chư Phật bậc Đại thánh, Giáo hóa hàng chúng sinh, Ở trong các đại hội, Diễn thuyết pháp nhiệm mầu. Người thọ trì Pháp Hoa, Đều nghe biết tất cả. Cõi tam thiên đại thiên, Các âm thanh trong ngoài, Dưới đến ngục A-tỳ, Trên đến trời Hữu đảnh, Đều nghe được âm thanh, Mà nhó căn không hỏng. Vì tai được thông nhạy, Đều phân biệt biết hết. Người trì kinh Pháp Hoa, Dầu chưa được Thiên nhó, Chỉ bằng tai bình thường Công đức đã như vậy. Lại nữa, Thường Tinh Tấn, nếu có thiện nam, thiện nữ thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giảng giải, hoặc sao chép thì tỷ căn người này được tám trăm công đức. Bằng tỷ căn thanh tịnh đó có thể ngửi khắp tam thiên đại thiên thế giới trong ngoài đủ các thứ mùi như mùi hoa tu-mạn-na, mùi hoa xà-đề, mùi hoa lài, mùi hoa chiêm-bặc, mùi hoa ba-la-la, mùi hoa sen đỏ, mùi hoa sen xanh, mùi hoa sen trắng, mùi cây có hoa, mùi cây có quả, mùi hương chiên-đàn, mùi hương trầm thủy, mùi hương đa-ma-la-bạt, mùi hương đa-già-la cho đến trăm ngàn thứ hòa lẫn hoặc hương bột, hương viên, hương xoa, người trì kinh này đều có thể phân biệt được. Lại còn nghe biết rõ mùi chúng sinh như mùi voi, mùi ngựa, mùi bò, mùi dê… mùi nam, mùi nữ, mùi đồng nam, mùi đồng nữ, mùi cỏ cây lùm rừng hoặc gần hoặc xa, có bao nhiêu mùi đều nghe biết rõ không lầm lẫn. Người trì kinh này dầu ở nơi đây cũng nghe được mùi trên các cõi trời như mùi cây Ba-lợi-chất-đa, mùi cây Câu-bệ-đà-la, cùng mùi hoa Mạn-đà-la, mùi hoa Ma-ha mạn-đà-la, mùi hoa Mạn-thù-sa, mùi hoa Ma-ha mạn-thù-sa, mùi các thứ hương bột Chiên-đàn, trầm thủy cùng các loại tạp hoa. Các thứ hương trời như thế hòa hợp lại phát ra không thứ nào không nghe biết. Lại nghe biết mùi nơi thân các vị trời như mùi của Thích Đề-hoàn Nhân lúc vui thú năm dục nơi Thắng điện, hoặc mùi lúc ở Diệu pháp đường nói pháp cho các trời Đao-lợi, hoặc mùi lúc dạo chơi trong vườn cùng mùi nơi thân của các vị trời nam, nữ khác, tất cả đều từ xa nghe biết. Cứ lần hồi như thế lên đến trời Phạm thế, trên đến mùi nơi thân các trời Hữu đảnh cũng đều nghe biết. Còn nghe mùi chư Thiên đốt hương và mùi Thanh văn, mùi Bích-chi-phật, mùi Bồ-tát, mùi nơi thân chư Phật cũng đều xa nghe biết. Dầu nghe biết các thứ hương ấy nhưng tỷ căn không vì thế mà hư hỏng sai lầm. Nếu muốn phân biệt nói cho người khác thì ký ức cũng không sai. Bấy giờ Thế Tôn muốn làm rõ lại nghĩa này nói bài kệ: Người đó mũi thanh tịnh, Ở trong thế giới này, Nào vật thơm hoặc hôi, Các thứ đều nghe biết. Tu-mạn-na, Xà-đề, Đa-ma-la, Chiên-đàn, Trầm thủy, quế các hương, Mùi các thứ hoa quả, Và mùi các chúng sinh, Như mùi nam, mùi nữ, Người nói pháp ở xa, Nghe mùi cũng biết chỗ. Đại Thế, Chuyển luân vương, Tiểu chuyển luân và con, Bầy tôi cùng cung nhân, Nghe mùi là biết chỗ. Châu báu đeo nơi thân, Cùng của báu dưới đất, Gái quý của luân vương, Nghe hương biết chỗ đó. Mọi người đồ trang sức, Y phục và chuỗi ngọc, Các thứ hương xoa mình, Nghe mùi biết là ai. Chư Thiên đi hoặc ngồi, Dạo chơi và thần biến, Người trì Pháp Hoa này, Nghe mùi tức biết ngay. Cây cối và hoa quả, Và mùi thơm tô du, Người trì kinh ở đây, Biết ngay ở chỗ nào. Núi non, nơi sâu hiểm, Cây Chiên-đàn nở hoa, Chúng sinh ở trong đó, Nghe mùi đều biết rõ. Núi Thiết vi, biển lớn, Các chúng sinh trên đất, Người trì kinh nghe mùi, Đều biết ở tại đâu. A-tu-la nam, nữ, Và quyến thuộc của chúng, Lúc tranh giành, đùa giỡn Nghe mùi đều biết rõ. Đồng vắng, chỗ hiểm trở, Sư tử, voi, cọp, sói, Bò rừng hay trâu nước, Nghe mùi đều biết chỗ. Nếu có người thai nghén, Chưa rõ gái hay trai, Không căn hoặc phi nhân, Nghe mùi đều biết được. Do vì sức nghe mùi, Biết người mới có thai, Đậu thai hay không đậu? Đẻ yên? Sinh con phước? Do vì sức nghe mùi, Biết tâm niệm nam, nữ: Dục nhiễm hay sân, si? Cũng biết người tu hành. Vật tàng chứa dưới đất, Vàng, bạc, các ngọc báu, Đồ đồng dùng chứa đựng, Nghe mùi đều biết được. Các loại chuỗi ngọc quý, Không ai biết giá trị, Nghe mùi biết tính chất, Và xuất xứ ở đâu. Các thứ hoa trên trời: Mạn đà, Mạn-thù-sa, Cây Ba-lợi-chất-đa, Nghe mùi đều biết được. Vườn trời, cung điện báu, Các tòa sở nguy nga, Những thú vui trong đó, Nghe mùi đều biết được. Chư Thiên khi nghe pháp, Hoặc khi hưởng năm dục, Lúc qua, lại, nằm, ngồi, Nghe mùi đều biết được. Thiên nữ mặc Thiên y, Hoa hương trời trang điểm, Lúc thong thả dạo chơi, Nghe mùi đều biết được. Lần lượt cứ như thế, Lên đến trời Phạm thiên, Nhập thiền cùng xuất thiền, Nghe mùi đều biết được. Trời Quang âm, Biến tịnh, Cho đến trời Hữu đảnh, Việc sinh tử ra sao, Nghe mùi đều biết được. Các hàng Tỳ-kheo chúng, Thường tinh tấn tu pháp, Hoặc ngồi, hoặc kinh hành, Hay đọc tụng kinh điển. Hoặc ở dưới rừng cây, Chuyên cần tu thiền định, Người trì kinh nghe mùi, Biết đang ở tại đâu. Bồ-tát chí kiên cố, Ngồi thiền hay đọc tụng, Hoặc là đang thuyết pháp, Nghe mùi đều biết được. Khắp mọi nơi Thế Tôn, Được mọi người tôn kính, Thương chúng sinh, nói pháp, Nghe mùi đều biết được. Chúng sinh ở trước Phật, Nghe kinh đều hoan hỷ, Y theo pháp tu hành, Nghe mùi đều biết được. Tuy chưa được Bồ-tát Pháp sinh tỷ vô lậu, Nhưng người trì kinh này, Trước được tỷ căn đó. Lại nữa, Thường Tinh Tấn! Nếu có thiện nam, thiện nữ thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giảng giải, hoặc sao chép thì thiệt căn người đó được một ngàn hai trăm công đức, như những món hoặc tốt, hoặc xấu, hoặc ngon, hoặc không ngon, cùng các vật đắng chát, ở trên lưỡi người đó đều biến thành vị cam lồ trên trời không thứ gì chẳng ngon. Nếu dùng thiệt căn đó mà thuyết pháp trong đại chúng thì sẽ phát ra tiếng sâu xa mầu nhiệm, khiến lòng người nghe đều vui mừng hoan hỷ. Lại nữa các Thiên tử, Thiên nữ, các trời Thích, Phạm nghe âm thanh diễn thuyết sâu xa mầu nhiệm này đều lần lượt đến nghe. Và các loài Rồng, Rồng nữ, Dạ-xoa, Dạ-xoa nữ, Càn-thát-bà, Càn-thát-bà nữ, A-tu-la, A-tu-la nữ, Ca-lầu-la, Ca-lầu-la nữ, Khẩn-na-la, Khẩn-na-la nữ, Ma-hầu-la-già, Ma-hầu-la-già nữ, cũng vì để nghe pháp mà đến gần gũi cung kính cúng dường. Cho đến các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, quốc vương, vương tử, quần thần, quyến thuộc, Tiểu chuyển luân vương, Đại chuyển luân vương, bảy ngàn Thiên tử cùng quyến thuộc nội ngoại đều mang theo cung điện báu mà đến nghe pháp. Vì Bồ-tát này thuyết pháp hay, nên được Bà-la-môn, cư só, nhân dân trong nước trọn đời theo hầu hạ cúng dường. Lại các Thanh văn, Bích-chi-phật, Bồ-tát và chư Phật ưa thấy người đó, nên người đó ở đâu thì chư Phật đều hướng về phía người đó mà nói pháp, người đó đều thọ trì được tất cả Phật pháp lại có thể nói ra tiếng pháp sâu xa mầu nhiệm. Bấy giờ Thế Tôn muốn làm rõ lại nghĩa này nói bài kệ: Người đó lưỡi thanh tịnh, Không thu nhận vị xấu, Khi uống ăn, thức ăn Đều biến thành cam lộ. Dùng ngôn ngữ thanh tịnh, Thuyết pháp cho đại chúng, Đem nhân duyên, thí dụ Dắt dẫn tâm chúng sinh, Người nghe đều hoan hỷ Cúng dâng phẩm vật tốt. Chư Thiên, Rồng, Dạ-xoa, Cho đến A-tu-la, Đều đem lòng cung kính, Cùng nhau đến nghe pháp. Người nói kinh pháp đó, Muốn dùng tiếng mầu nhiệm, Biến khắp cõi tam thiên, Tùy ý muốn liền được. Đại tiểu Chuyển luân vương, Bảy ngàn con quyến thuộc, Chắp tay lòng cung kính, Thường đến nghe thụ pháp. Chư Thiên, Rồng, Dạ-xoa, La-sát, Tỳ-xá-xà, Cũng đều tâm hoan hỷ, Thường ưa đến cúng dường. Phạm thiên vương, Ma vương, Tự tại, Đại tự tại, Các chư Thiên như thế, Thường đến chỗ người đó. Chư Phật cùng đệ tử, Nghe người đó thuyết pháp Thường nghó nhớ bảo hộ, Có lúc còn hiện thân. Lại nữa, Thường Tinh Tấn! Nếu có thiện nam, thiện nữ thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giảng giải, hoặc sao chép thì thân căn người đó được tám trăm công đức. Thân thanh tịnh như lưu ly, trong sạch chúng sinh ưa thấy. Vì thân đó trong sạch nên chúng sinh trong cõi tam thiên đại thiên khi sinh, khi chết, trên dưới, tốt xấu, sinh chỗ lành, chỗ dữ… đều hiện rõ trong đó. Và núi Thiết vi, núi Đại thiết vi, núi Di-lâu, núi Ma-ha di-lâu… các núi cùng chúng sinh ở trong đó đều hiện rõ trong thân, dưới đến địa ngục A-tỳ, trên đến trời Hữu đảnh, cảnh vật cùng chúng sinh đều hiện rõ trong thân. Nào Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát cùng chư Phật nói pháp cũng đều hiện sắc tượng ở trong thân. Bấy giờ Thế Tôn muốn làm rõ lại nghĩa này, nói bài kệ: Người trì kinh Pháp Hoa, Thân thể được thanh tịnh, Như lưu ly sạch kia, Chúng sinh đều ưa thấy. Lại như gương sáng sạch, Đều thấy các sắc tượng. Bồ-tát nơi tịnh thân, Thấy hết vật trong đời. Chỉ một mình thấy rõ, Người khác không thấy được. Trong thế giới tam thiên, Tất cả các chúng sinh: Trời, Người, A-tu-la, Địa ngục, quỷ, súc sinh, Các sắc tượng như thế, Đều hiện rõ trong thân. Cung điện của chư Thiên, Cho đến trời Hữu đảnh, Núi Thiết vi, Di-lâu, Núi Ma-ha di-lâu, Nào nước các biển lớn, Đều hiện ở trong thân. Chư Phật cùng Thanh văn, Phật tử và Bồ-tát, Một mình hoặc tại chúng, Nói pháp đều hiện rõ. Tuy chưa được vô lậu, Chứng pháp tính diệu thân, Do thân thường thanh tịnh, Nên tất cả hiện rõ. Lại nữa, Thường Tinh Tấn! Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giảng giải, hoặc sao chép thì ý căn sẽ được một ngàn hai trăm công đức ý căn thanh tịnh đó. Cho dầu nghe một bài kệ cũng hiểu thấu vô lượng, vô biên nghĩa. Hiểu nghĩa đó rồi có thể diễn giải một câu một bài kệ đến một tháng, bốn tháng cho đến một năm. Các pháp nói ra tùy theo nghĩa lý, nhưng đều không trái với thật tướng. Nếu giảng giải kinh sách thế tục như việc trị thế, nghề nghiệp tư sinh, cũng đều thuận chính pháp. Có thể hiểu hết hành vi, động tác và hý luận của tâm chúng sinh trong sáu đường, khắp tam thiên đại thiên thế giới. Tuy chưa được trí tuệ vô lậu nhưng ý căn thanh tịnh như vậy nên người đó có tư duy, tính toán, nói năng thì đều phù hợp Phật pháp, không có gì không chân thật và cũng hợp với những điều chư Phật đời trước đã nói trong kinh. Bấy giờ Thế Tôn muốn làm rõ lại nghĩa này nói bài kệ: Ý người đó thanh tịnh, Sáng suốt không vẩn đục. Do ý căn tốt này, Biết pháp thượng, trung, hạ. Cho đến nghe một kệ, Hiểu được vô lượng nghĩa. Thứ tự nói đúng pháp, Tháng, bốn tháng, một năm, Trong ngoài thế giới này, Tất cả các chúng sinh, Hoặc Trời, Rồng và Người, Đến Dạ-xoa, Quỷ, Thần, Ở khắp trong sáu đường, Bao nhiêu điều nghó tưởng, Phước báo trì Pháp Hoa, Đồng thời đều biết hết. Vô số Phật mười phương, Tướng trang nghiêm trăm phước, Vì chúng sinh nói pháp, Đều nghe và thọ trì, Tư duy vô lượng nghĩa, Nói pháp cũng vô lượng. Trước sau không quên lẫn, Do thọ trì Pháp Hoa, Biết hết các pháp tướng, Theo nghĩa rõ thứ lớp. Thông ngôn ngữ, danh tự, Diễn giảng những hiểu biết. Điều người đó nói ra, Là pháp Phật đời trước. Vì diễn nói pháp này, Ở trong chúng không sợ. Người trì kinh Pháp Hoa, Ý căn tịnh như thế. Tuy chưa được vô lậu, Có trước tướng như vậy. Người đó trì kinh này, An trụ bậc hy hữu, Được tất cả chúng sinh, Hoan hỷ và kính mến. Dùng được ngàn vạn ức, Lời lẽ hay khéo léo Phân biệt mà nói pháp, Nhờ trì kinh Pháp Hoa  <詞 id="83085215">Phẩm 20: THƯỜNG BẤT KHINH BỒ-TÁT Bấy giờ Phật bảo Đắc Đại Thế Bồ-tát Ma-ha-tát: –Nay ông nên biết, nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di nào thọ trì kinh Pháp Hoa này thì mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý đều được các công đức thanh tịnh, còn như có người nói lời thô ác mắng nhiếc chê bai thì mắc tội báo lớn như trước đã nói. Đắc Đại Thế! Về thuở xa xưa quá vô lượng, vô biên, vô số kiếp chẳng thể nghó bàn có Phật hiệu Oai Âm Vương Như Lai, Ứng Cúng, chính Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Kiếp tên là Ly suy, nước tên là Đại thành. Phật Oai Âm Vương thời ấy vì các Trời, Người, A-tu-la mà nói pháp. Vì người cầu Thanh văn thì nói pháp Tứ đế độ thoát sinh, già, bệnh, chết, được cứu cánh Niết-bàn. Vì người cầu Bích-chi-phật thì nói pháp mười hai nhân duyên. Vì các Bồ-tát nhân Vô thượng chính đẳng chính giác thì nói sáu pháp Ba-la-mật đạt trí tuệ rốt ráo của Phật. Đắc Đại Thế! Phật Oai Âm Vương đó sống lâu bốn mươi ức na-do-tha hằng hà sa kiếp. chính pháp tồn tại ở đời kiếp số như vi trần trong một cõi Diêm-phù-đề. Tượng pháp tồn tại ở đời kiếp số như vi trần trong bốn châu thiên hạ. Phật đó làm lợi ích chúng sinh, sau mới diệt độ. Sau khi chính pháp và tượng pháp đã diệt, ở cõi nước đó lại có Phật ra đời, cũng hiệu là Oai Âm Vương, Như Lai, Ứng Cúng, chính Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Cứ tuần tự như vậy có hai vạn ức Đức Phật ra đời đều đồng một danh hiệu. Khi Đức Oai Âm Vương Như Lai đầu tiên diệt độ, rồi sau khi chính pháp diệt, đến đời tượng pháp những Tỳ-kheo tăng thượng mạn có thế lực lớn. Bấy giờ có Bồ-tát Tỳ-kheo tên là Thường Bất Khinh. Đắc Đại Thế, vì sao có tên là Thường Bất Khinh? Vì vị Tỳ-kheo này khi gặp bất cứ ai hoặc Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di đều lễ bái khen ngợi mà nói: “Tôi kính trọng quý ngài lắm không dám khinh mạn. Vì sao vậy? Vì quý ngài đều tu hành đạo Bồ-tát và sẽ thành Phật.” Vị Tỳ-kheo này không chịu chuyên đọc tụng kinh điển chỉ đi lễ bái mà thôi. Cứ xa trông thấy có bốn chúng thì cố đến nơi lễ bái khen ngợi mà nói: “Tôi không dám khinh quý ngài. Quý ngài đều sẽ thành Phật.” Trong bốn chúng có người tâm không thanh tịnh nổi giận buông lời ác mắng rằng: –Tỳ-kheo không trí tuệ này từ đâu đến lại nói ta không khinh ngài rồi thọ ký cho chúng ta thành Phật? Chúng ta không cần lời thọ ký lếu láo như vậy! Qua nhiều năm như vậy, thường bị mắng nhiếc cũng không giận, cứ nói: “Ngài sẽ thành Phật”. Khi nói những lời đó, người nghe kẻ thì dùng cây gậy, kẻ dùng gạch đá đánh ném xua đuổi. Vị Bồ-tát chạy tránh ra xa, nhưng vẫn lớn tiếng xướng: “Tôi không dám khinh quý ngài. Quý ngài đều sẽ thành Phật.” Bởi hay nói câu đó nên các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di thuộc loại tăng thượng mạn gọi vị đó là Thường Bất Khinh. Khi vị Tỳ-kheo đó khi sắp chết thì được nghe từ giữa hư không đủ hai mươi ngàn vạn ức bài kệ kinh Pháp Hoa của Phật Oai Âm Vương đã nói thuở trước, nghe xong thọ trì liền được nhãn căn thanh tịnh, nhó, tỷ, thiệt thân và ý căn cũng được thanh tịnh như trên. Được sáu căn thanh tịnh rồi lại sống thêm hai trăm vạn ức na-do-tha tuổi, rộng khắp vì người nói kinh Pháp Hoa đó. Lúc đó các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di thuộc loại tăng thượng mạn đã khinh tiện vị đó và gọi tên là Bất Khinh nay thấy vị đó được sức thần thông lớn, sức thiền định vô lậu lớn, nghe vị đó nói pháp đều tin theo. Vị Bồ-tát đó lại giáo hóa ngàn vạn ức chúng khiến trụ vào Vô thượng chính đẳng chính giác. Sau khi mạng chung được gặp hai ngàn ức Phật đều cùng hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh nói kinh Pháp Hoa này trong pháp hội đó. Do nhân duyên đó lại gặp hai ngàn Đức Phật đều cùng một hiệu là Vân Tự Tại Đăng Vương và ở trong pháp hội của các Đức Phật đó mà thọ trì, đọc tụng, vì hàng bốn chúng nói kinh điển này cho nên được mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý các căn thường thanh tịnh, trong bốn chúng thuyết pháp không sợ hãi. Đắc Đại Thế! Vị Thường Bất Khinh Bồ-tát Ma-ha-tát đó cúng dường bao nhiêu Đức Phật như vậy, cung kính, tôn trọng, ngợi khen và trồng các căn lành. Về sau lại gặp ngàn vạn ức Phật, cũng ở trong pháp hội các Đức Phật đó nói kinh điển này, công đức thành tựu sẽ được thành Phật. Đắc Đại Thế! Ý ông nghó sao? Bồ-tát Thường Bất Khinh thuở đó đâu phải người nào lạ, chính là thân ta. Nếu đời trước ta không thọ trì đọc tụng kinh này, không vì người khác giảng nói kinh đó thì đâu có thể mau thành Vô thượng chính đẳng chính giác. Vì ta đã ở nơi chư Phật thuở trước thọ trì đọc tụng kinh này, vì người khác nói, nên mau được Vô thượng chính đẳng chính giác. Đắc Đại Thế! Bốn chúng thuở đó gồm Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di do giận khinh ta nên trong hai trăm ức kiếp thường không gặp Phật, không nghe Pháp, không thấy Tăng, ngàn kiếp ở địa ngục A-tỳ chịu khổ não lớn. Hết tội đó rồi lại gặp Bồ-tát Thường Bất Khinh giáo hóa cho đạo Vô thượng chính đẳng chính giác. Đắc Đại Thế! Ý ông nghó sao? Bốn chúng thường khinh tiện vị Bồ-tát thuở đó đâu phải người nào lạ, chính là các ông Bạt-đà-bà-la năm trăm Bồ-tát, các ông Sư Tử Nguyệt năm trăm Tỳ-kheo, các ông Ni-tư-phật năm trăm Ưu-bà-tắc đều đã được không thoái chuyển nơi đạo Vô thượng chính đẳng chính giác trong pháp hội này. Đắc Đại Thế! Phải biết kinh Pháp Hoa này rất lợi ích cho các Bồ-tát Ma-ha-tát vì có thể làm cho đạt đến đạo quả Vô thượng chính đẳng chính giác. Cho nên các Bồ-tát Ma-ha-tát, sau khi Phật diệt độ phải thường thọ trì, đọc tụng, diễn giải, sao chép kinh này. Bấy giờ Thế Tôn muốn làm rõ lại nghĩa này nói bài kệ: Quá khứ có Phật Hiệu Oai Âm Vương. Thần trí vô lượng, Dìu dắt tất cả. Trời, Người, Rồng, Thần Đều cùng cúng dường. Phật diệt độ rồi, Lúc pháp gần dứt, Có một Bồ-tát Tên Thường Bất Khinh. Bấy giờ bốn chúng Chấp mê các pháp, Bồ-tát Bất Khinh Qua chỗ của họ Nói với chúng rằng: Chẳng dám khinh ngài, Quý ngài tu đạo, Đều sẽ thành Phật. Mọi người nghe xong, Khinh chê mắng nhiếc. Bồ-tát Bất Khinh Đều nhẫn nhục chịu. Bồ-tát hết tội, Lúc gần lâm chung Được nghe kinh này, Sáu căn thanh tịnh. Nhờ sức thần thông, Tăng thêm thọ mạng. Lại vì mọi người, Rộng nói kinh này. Các chúng chấp pháp, Đều nhờ Bồ-tát, Giáo hóa thành tựu, Khiến trụ Phật đạo. Bất Khinh mạng chung, Gặp vô số Phật. Vì nói kinh này, Được vô lượng phước. Dần đủ công đức, Mau chứng Phật đạo. Thuở đó Bất Khinh, Là chính thân ta. Bốn bộ chúng ấy, Những người chấp pháp, Nghe Bất Khinh nói: Ngài sẽ thành Phật. Nhờ nhân duyên đó, Gặp vô số Phật. Chính pháp hội này, Năm trăm Bồ-tát, Và bốn bộ chúng, Thanh tín, só nữ, Nay ở trước ta, Nghe Pháp Hoa đó. Ta ở đời trước, Khuyên những người này: Nghe kinh Pháp Hoa, Là pháp bậc nhất. Mở bày dạy người, Khiến trụ Niết-bàn. Đời đời thọ trì, Kinh điển như vậy. Ức ức vạn kiếp, Đến chẳng nghó bàn, Chư Phật Thế Tôn, Mới nói kinh này, Nên kẻ tu hành, Sau Phật diệt độ, Nghe kinh pháp này, Chớ sinh nghi hoặc. Nên phải một lòng, Rộng nói kinh này, Đời đời gặp Phật, Ắt thành Phật đạo.  <詞 id="83085216">Phẩm 21: NHƯ LAI THẦN LỰC Bấy giờ các Bồ-tát Ma-ha-tát số như vi trần trong ngàn thế giới từ dưới đất vọt lên, đều ở trước Phật nhất tâm chắp tay chiêm ngưỡng dung nhan mà bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Sau khi Phật diệt độ, chúng con ở nơi cõi nước Thế Tôn phân thân diệt độ sẽ rộng rãi nói kinh này. Vì sao vậy? Chúng con cũng tự muốn được pháp lớn thanh tịnh này để thọ trì, đọc tụng, giảng giải, sao chép mà cúng dường. Lúc đó Thế Tôn ở trước Văn-thù-sư-lợi… vô lượng trăm ngàn vạn ức Bồ-tát Ma-ha-tát xưa ở nơi cõi Ta-bà và các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân…, trước tất cả chúng, hiện sức thần thông lớn, hiện tướng lưỡi rộng dài đến trời Phạm thế, tất cả lỗ chân lông phóng ra vô lượng, vô số tia sáng đủ màu sắc soi khắp cả cõi nước trong mười phương. Các Đức Phật ngồi trên tòa Sư tử cũng hiện tướng lưỡi rộng dài và phóng vô lượng tia sáng như vậy. Lúc Phật Thích-ca Mâu-ni và các Đức Phật dưới cây báu hiện sức thần thông mãn trăm ngàn năm rồi sau mới thâu nhiếp tướng lưỡi lại, đồng thời đều hắng giọng cùng gẫy móng tay hai tiếng vang khắp đến cõi nước của chư Phật trong mười phương làm sáu điệu đều chấn động. Các chúng sinh trong đó như Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân… nhờ thần lực của Phật đều thấy trong cõi Ta-bà này có vô lượng, vô biên trăm ngàn vạn ức chư Phật ngồi trên tòa sư tử dưới những cây báu và thấy Phật Thích-ca Mâu-ni cùng Phật Đa Bảo ngồi trên tòa sư tử trong tháp báu. Lại thấy vô lượng, vô biên trăm ngàn vạn ức Bồ-tát và bốn chúng cung kính vây quanh Phật Thích-ca Mâu-ni. Thấy như vậy rồi tất cả đều rất hoan hỷ được điều chưa từng có. Tức thì ở giữa hư không có tiếng chư Thiên xướng rằng: –Qua khỏi đây vô lượng, vô biên trăm ngàn vạn ức a-tăng-kỳ thế giới có nước tên Ta-bà, trong đó có Phật hiệu Thích-ca Mâu-ni hiện nay vì các Bồ-tát Ma-ha-tát nói kinh Đại thừa tên Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm, các ông phải thâm tâm tùy hỷ và cũng phải lễ bái cúng dường Phật Thích-ca Mâu-ni. Các chúng sinh đó nghe tiếng nói giữa hư không rồi chắp tay hướng về thế giới Ta-bà mà nói như thế này: –Nam-mô Thích-ca Mâu-ni Phật. Nam-mô Thích-ca Mâu-ni Phật. Rồi dùng các thứ hoa hương, chuỗi ngọc, phướn lọng, các đồ trang sức trên thân, những vật báu châu ngọc đều từ xa rải xuống cõi Ta-bà. Các thứ đó từ mười phương rải xuống như mây kéo, biến thành màn báu trùm khắp trên các Đức Phật. Bấy giờ mười phương cõi nước thông nhau không ngăn ngại như một cõi Phật vậy. Bấy giờ Phật bảo các bậc thượng hạnh Bồ-tát trong đại chúng rằng: –Thần lực của chư Phật vô lượng, vô biên không thể nghó bàn như vậy, nếu ta dùng thần lực đó trong vô lượng, vô biên trăm ngàn vạn ức a-tăng-kỳ kiếp vì để chúc lụy mà nói công đức của kinh này cũng không hết được. Nói tóm lại, tất cả pháp của Như Lai, tất cả thần lực tự tại của Như Lai, tất cả tạng bí yếu của Như Lai, tất cả việc sâu xa của Như Lai đều được hiển thị nói rõ trong kinh này. Cho nên sau khi Như Lai diệt độ, các ông phải một lòng thọ trì, đọc tụng, giảng giải, sao chép, đúng như kinh nói mà tu hành. Nếu nơi nào có quyển kinh, hoặc ở trong vườn, trong rừng, dưới cây, hoặc nơi phòng Tăng, hoặc ở nhà thế tục, hoặc ở nơi điện đường hay hang núi đồng vắng đều nên dựng tháp cúng dường. Vì sao vậy? Phải biết rằng nơi đó chính là đạo tràng, chư Phật ở nơi đó mà được Vô thượng chính đẳng chính giác, chư Phật nơi đó mà chuyển pháp luân, chư Phật nơi đó mà nhập Niết-bàn. Bấy giờ Thế Tôn muốn làm rõ lại nghĩa này mà nói bài kệ: Chư Phật bậc cứu thế, Trụ trong thần thông lớn, Vì đẹp lòng chúng sinh, Hiện vô lượng thần lực, Tướng lưỡi đến Phạm thiên, Thân phóng nhiều ánh sáng, Vì người cầu Phật đạo, Hiện việc ít có này. Tiếng hắng giọng của Phật, Cùng tiếng gẩy móng tay, Nghe khắp mười phương cõi, Sáu thứ đều chấn động. Sau khi Phật diệt độ, Người trì được kinh này, Chư Phật đều hoan hỷ, Hiện vô lượng thần lực. Vì chúc lụy kinh này, Khen ngợi người thọ trì, Ở trong vô lượng kiếp, Vẫn không thể hết được. Công đức của người đó, Vô biên vô cùng tận, Như mười phương hư không, Không thể có biên giới. Người thọ trì kinh này, Tức là đã thấy ta, Và thấy Phật Đa Bảo, Cùng chư Phật phân thân. Lại thấy ta ngày nay, Giáo hóa các Bồ-tát. Người thọ trì kinh này, Khiến ta và phân thân, Phật Đa Bảo diệt độ, Tất cả đều hoan hỷ. Mười phương Phật hiện tại, Cùng quá khứ vị lai, Cũng thấy, cũng cúng dường, Cũng khiến được hoan hỷ. Chư Phật ngồi đạo tràng, Đã được pháp bí yếu. Người thọ trì kinh này, Không lâu cũng sẽ được. Người thọ trì kinh này, Nơi nghĩa của các pháp, Danh tự và ngôn từ, Nói mấy cũng không hết. Như gió giữa hư không, Tất cả không chướng ngại. Sau khi Như Lai diệt, Biết kinh của Phật nói, Nhân duyên và thứ lớp, Tùy nghĩa như thật nói. Như nhật nguyệt chiếu soi, Trừ được các tăm tối. Người đó đi trong đời, Diệt tối tăm chúng sinh, Dạy vô lượng Bồ-tát, Rốt ráo trụ Nhất thừa. Cho nên người có trí, Nghe công đức lợi này, Sau khi ta diệt độ, Nên thọ trì kinh này. Người đó trong Phật đạo, Quyết định không nghi ngờ.  <詞 id="83085217">Phẩm 22: CHÚC LỤY Bấy giờ Phật Thích-ca Mâu-ni từ tòa thuyết pháp đứng dậy hiện sức thần thông lớn, dùng tay xoa đầu vô lượng Bồ-tát Ma-ha-tát mà nói rằng: –Ta trong vô lượng trăm ngàn vạn ức kiếp a-tăng-kỳ đã tu tập pháp Vô thượng chính đẳng chính giác khó được này, nay đem phó chúc cho các ông. Các ông phải một lòng phổ biến giáo pháp này cho thêm nhiều thêm rộng. Phật ba lần xoa đầu các Bồ-tát Ma-ha-tát như vậy rồi nói rằng: –Ta trong vô lượng trăm ngàn vạn ức kiếp a-tăng-kỳ đã tu tập pháp Vô thượng chính đẳng chính giác khó được này, nay đem phú chúc cho các ông. Các ông phải thọ trì, đọc tụng, phổ biến rộng rãi giáo pháp này cho tất cả chúng sinh đều được nghe biết. Vì sao vậy? Như Lai có lòng Từ bi lớn, không lẫn tiếc, cũng không sợ hãi, có thể cho chúng sinh trí tuệ của Phật, trí tuệ của Như Lai, trí tuệ tự nhiên. Như Lai là vị đại thí chủ của tất cả chúng sinh. Các người cũng nên thọ học pháp của Như Lai, chớ nên sinh lòng lẫn tiếc. Ở đời vị lai nếu có thiện nam, thiện nữ nào tin trí tuệ của Như Lai thì các ông phải vì người đó mà diễn nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa này khiến được nghe biết là vì muốn cho người đó được trí tuệ của Phật vậy. Nếu có chúng sinh nào không tin thọ thì phải chỉ dạy cho họ những pháp sâu sắc khác của Như Lai để được lợi ích vui mừng. Được như vậy tức là các ông đã báo ân chư Phật. Lúc đó các Bồ-tát Ma-ha-tát nghe Phật nói thế rồi, tất cả đều hoan hỷ, càng thêm cung kính, nghiêng mình cúi đầu chắp tay hướng Phật, đồng thanh bạch: –Kính xin Thế Tôn chớ lo, chúng con sẽ vâng làm đầy đủ như lời Thế Tôn đã dạy. Các chúng Bồ-tát Ma-ha-tát đều lên tiếng ba phen như thế mà bạch: –Kính xin Thế Tôn chớ lo, chúng con sẽ vâng làm đầy đủ như lời Thế Tôn đã dạy. Bấy giờ Phật Thích-ca Mâu-ni khiến các Đức Phật phân thân từ mười phương đến đều trở về bản độ mà nói: –Chư Phật hãy tùy theo chỗ an. Tháp của Phật Đa Bảo có thể trở về như cũ. Phật nói như vậy rồi, vô lượng chư Phật phân thân ở mười phương, ngồi trên tòa Sư tử dưới cây báu và Phật Đa Bảo cùng vô biên, vô số đại chúng Bồ-tát bậc thượng hạnh, Xá-lợi-phất… bốn chúng hành Thanh văn và tất cả Trời, Người, A-tu-la trên thế gian… nghe Phật nói đều rất hoan hỷ.  <詞 id="83085218">Phẩm 23: DƯỢC VƯƠNG BỒ-TÁT BẢN SỰ Bấy giờ Bồ-tát Tú Vương Hoa bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Bồ-tát Dược Vương du hành cõi Ta-bà như thế nào? Bạch Thế Tôn, Bồ-tát Dược Vương đó có bao nhiêu ngàn vạn ức na-do-tha hạnh khổ khó làm? Hay thay Thế Tôn, xin giảng nói cho một ít! Các Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân… và các Bồ-tát cùng chúng Thanh văn từ các nước khác đến nghe đều sẽ vui mừng. Bấy giờ Phật bảo Bồ-tát Tú Vương Hoa: –Thuở quá khứ vô lượng hằng hà sa kiếp về trước, có Phật hiệu Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Như Lai, Ứng Cúng, chính Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Phật đó có tám mươi ức Bồ-tát Ma-ha-tát, bảy mươi hai hằng hà sa chúng đại Thanh văn. Phật sống lâu bốn vạn hai ngàn kiếp. Bồ-tát cũng sống lâu bằng Phật. Nước đó không có người nữ, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, A-tu-la… cũng như các khổ nạn. Đất bằng như bàn tay, lưu ly làm thành, cây báu trang nghiêm, màn báu phủ che thả rủ các phướn báu đẹp, bình báu, lò hương khắp cùng cả nước, bảy thứ báu làm đài. Cứ mỗi cây có một đài, từ cây đến đài khoảng cách bằng một đường tên bay. Nơi các cây báu đó đều có Bồ-tát, Thanh văn ngồi ở dưới. Trên các đài báu đều có trăm ức chư Thiên trổi kỹ nhạc trời ca tụng cúng dường Phật. Bấy giờ Đức Phật đó nói kinh Pháp Hoa cho Bồ-tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến cùng chúng Bồ-tát và chúng Thanh văn. Bồ-tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến đó thường tu tập khổ hạnh, trong pháp hội của Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức tinh tấn kinh hành, một lòng cầu thành Phật, mãn một vạn hai ngàn năm được pháp Hiện nhất thiết sắc thân Tam-muội. Được pháp Tam-muội đó rồi lòng rất vui mừng, liền nghó: “Ta được pháp Hiện nhất thiết sắc thân Tam-muội này là do được nghe kinh Pháp Hoa. Nay ta nên cúng dường Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức và kinh Pháp Hoa.” Tức thì Bồ-tát nhập vào Tam-muội đó, ở giữa hư không rải hoa Mạn-đà-la, hoa Ma-ha mạn-đà-la cùng bột Kiên hắc chiên-đàn đầy trong hư không như mây tỏa xuống. Lại rải hương Hải thử ngạn chiên-đàn để cúng dường Phật. Sáu thù hương này có giá trị bằng cõi Ta-bà. Cúng dường như vậy xong, từ Tam-muội xuất định mà nghó: “Ta dù dùng thần lực cúng dường Phật cũng không bằng đem thân cúng dường.” Liền uống các chất thơm như chiên-đàn, huân lục, đâu-lâu-bà, tất-lực-ca, trầm thủy, giao hương. Lại uống dầu thơm các thứ hoa chiêm-bặc… mãn một ngàn hai trăm năm, rồi lấy dầu thơm xoa thân mình, ở trước Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức dùng y báu cõi trời tự quấn vào mình, rưới các thứ dầu thơm dùng nguyện lực thần thông mà tự thiêu thân. Ánh sáng chiếu khắp tám mươi ức hằng hà sa thế giới, trong đó chư Phật đồng thời khen rằng: –Hay thay, hay thay! Thiện nam, đó là chân thật tinh tấn, là pháp chân thật cúng dường Như Lai. Nếu dùng hoa, hương, chuỗi ngọc, hương xông, hương bột, hương xoa, phướn, lọng bằng lụa tơ trời và hương Hải thử ngạn chiên-đàn, dùng các thức cúng dường như vậy cũng không bằng được. Giả sử có đem đất nước, thành trì, vợ con ra bố thí cũng không bằng được. Thiện nam, đó là thứ bố thí đứng đầu trong tất cả các thứ bố thí cao nhất là vì dùng pháp cúng dường chư Như Lai. Chư Phật nói lời đó xong tất cả đều im lặng. Thân của Bồ-tát lửa cháy một ngàn hai trăm năm rồi sau mới tắt. Bồ-tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến làm pháp cúng dường xong, sau khi mạng chung lại sinh vào nước của Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức nơi nhà vua Tịnh Đức. Bỗng nhiên ngồi kiết già hóa sinh nói với vua cha bài kệ: Đại vương nay nên biết: Tôi kinh hành chốn kia, Tức thì được Nhất thiết Hiện chư thân Tam-muội. Siêng tu rất tinh tấn, Bỏ thân thể yêu quý, Cúng dường Đức Thế Tôn Để cầu Tuệ vô thượng. Nói kệ xong, rồi thưa vua cha: –Đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức hiện nay vẫn còn. Trước tôi cúng dường Phật xong được Giải nhất thiết chúng sinh ngữ ngôn Đà-la-ni, lại nghe kinh Pháp Hoa này tám trăm ngàn vạn ức na-do-tha các bài kệ Chân-ca-la, Tần-bà-la, A-sơ-bà… Thưa đại vương! Tôi nay phải trở về cúng dường Đức Phật đó. Thưa xong liền ngồi đài bảy báu bay lên hư không cao bằng bảy cây đa la qua đến chỗ Phật đầu mặt lạy dưới chân, chắp tay nói bài kệ khen Phật: Dung nhan rất kỳ diệu, Ánh sáng chiếu mười phương. Con vừa mới cúng dường, Nay trở về gặp lại. Lúc đó Bồ-tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến nói kệ xong bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Thế Tôn vẫn còn tại thế ư? Bấy giờ Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức bảo Bồ-tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến rằng: –Thiện nam! Giờ nhập Niết-bàn của ta đã đến, giờ diệt tận đã đến. Ông nên sắp đặt giường tòa, trong đêm nay ta sẽ nhập Niết-bàn. Phật lại bảo Bồ-tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến rằng: –Thiện nam! Ta đem Phật pháp phó chúc cho ông và cũng đem các Bồ-tát, đại đệ tử cùng pháp Vô thượng chính đẳng chính giác, cũng đem cõi tam thiên đại thiên bảy báu, các cây báu, đài báu và hàng chư Thiên cung cấp hầu hạ đều giao phó cho ông. Sau khi ta diệt độ, có bao nhiêu xá-lợi cũng phó chúc cho ông. Hãy lưu bố rộng rãi và xây dựng nhiều ngàn tháp. Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức bảo Bồ-tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến như vậy rồi nhập Niết-bàn vào khoảng cuối đêm. Lúc đó Bồ-tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến thấy Phật diệt độ, buồn cảm sầu khổ luyến mộ Phật bèn dùng Hải thử ngạn chiên-đàn làm dàn hỏa cúng dường thân Phật rồi làm lễ trà-tỳ. Sau khi lửa tắt, xá-lợi được thu đựng trong tám vạn bốn ngàn bình báu để xây tám vạn bốn ngàn tháp, cao ba thế giới, bài trí trang nghiêm, rủ các phướn lọng và treo các chuông linh báu. Bấy giờ Bồ-tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến lại tự nghó: “Ta dù cúng dường như vậy nhưng lòng chưa thỏa mãn. Nay ta nên cúng dường xá-lợi.” Rồi nói với các Bồ-tát đại đệ tử và Trời, Rồng, Dạ-xoa… tất cả đại chúng: –Các vị phải một lòng ghi nhớ, tôi nay cúng dường xá-lợi Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức. Nói xong liền ở trước tám vạn bốn ngàn tháp đốt cánh tay trăm phước trang nghiêm, mãn bảy vạn hai ngàn năm để cúng dường, khiến vô số chúng cầu Thanh văn, vô lượng vô số người phát tâm Vô thượng chính đẳng chính giác đều vào trong pháp Hiện nhất thiết sắc thân Tam-muội. Lúc đó các Bồ-tát, Trời, Người, A-tu-la… thấy vị Bồ-tát đó không có tay sầu khổ buồn thương mà nói: –Bồ-tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến là Thầy của chúng ta giáo hóa chúng ta mà nay đốt tay, thân không còn đầy đủ. Lúc ấy Bồ-tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến ở trong đại chúng phát lời thề rằng: –Tôi bỏ hai tay ắt sẽ được thân sắc vàng của Phật. Nếu thật không ngoa thì xin hai tay tôi hoàn phục như cũ. Nói lời thề xong, hai tay tự nhiên hoàn phục lại như cũ. Đó là do phước đức trí tuệ thuần hậu của Bồ-tát mà được như vậy. Đương khi đó thì trong cõi tam thiên đại thiên thế giới sáu thứ chấn động, trời mưa hoa báu, tất cả người, trời đều được việc chưa từng có. Phật bảo Bồ-tát Tú Vương Hoa: –Ý ông nghó sao? Bồ-tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến đâu phải là người nào lạ, chính nay là Bồ-tát Dược Vương đó. Người ấy xả thân bố thí số nhiều vô lượng trăm ngàn vạn ức na-do-tha như vậy. Tú Vương Hoa! Nếu có người phát tâm muốn được Vô thượng chính đẳng chính giác thì có thể đốt một ngón tay cho đến một ngón chân để cúng dường tháp Phật còn hơn đem đất đai thành trì vợ con và núi rừng sông hồ các vật châu báu của cõi tam thiên đại thiên mà cúng dường. Nếu lại có người đem bảy báu đầy cõi tam thiên đại thiên mà cúng dường Phật cùng Đại Bồ-tát, Duyên giác và A-la-hán, công đức của người đó không bằng công đức người thọ trì kinh Pháp Hoa này. Cho đến chỉ thọ trì một bài kệ bốn câu, phước đức cũng rất nhiều. Tú Vương Hoa! Ví như trong các dòng nước như sông, ngòi, kinh, rạch thì biển là lớn nhất. Kinh Pháp Hoa này trong các kinh rất sâu xa trọng đại của Như Lai nói cũng như vậy. Lại trong các núi non như Thổ sơn, Hắc sơn, núi Tiểu thiết vi, núi Đại thiết vi cùng mười núi báu thì núi Tu-di là bậc nhất. Cũng vậy, trong các kinh kinh Pháp Hoa này là trên hết. Lại như trong các vì tinh tú, mặt trăng là đứng đầu. Cũng vậy, trong ngàn vạn ức các kinh pháp, kinh Pháp Hoa là sáng chói rực rỡ nhất. Lại như mặt trời có thể diệt trừ sự tối tăm, kinh này cũng vậy, có thể phá tất cả những gì u ám bất thiện nhất. Lại như trong các tiểu vương, Chuyển luân vương là trên hết, kinh này cũng vậy, là tôn quý nhất trong các kinh. Lại như Đế Thích là vua trong ba mươi ba cõi trời, kinh này cũng vậy, là vua trong các kinh. Lại như trời Đại Phạm thiên vương là cha của tất cả chúng sinh, kinh này cũng vậy là cha của tất cả Hiền thánh như bậc Hữu học, Vô học cùng hàng phát tâm Bồ-tát. Lại như trong tất cả phàm phu thì bậc Dự lưu, Nhất lai, Bất lai, Vô sinh, Duyên giác là bậc nhất. Cũng vậy, trong các kinh pháp do Như Lai nói, hoặc Bồ-tát nói, hoặc Thanh văn nói, kinh này là hơn cả. Người thọ trì kinh này cũng vậy là hơn tất cả chúng sinh. Trong tất cả Thanh văn và Duyên giác thì Bồ-tát là bậc nhất. Cũng vậy, trong tất cả các kinh pháp, kinh này là bậc nhất. Như Phật là vua của các pháp, kinh này cũng vậy: là vua của các kinh. Tú Vương Hoa! Kinh này có thể cứu tất cả chúng sinh; kinh này có thể làm cho tất cả chúng sinh xa lìa khổ não; kinh này có thể làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, làm thỏa mãn chỗ mong cầu, như ao nước trong mát có thể làm thỏa mãn người khát nước, như kẻ lạnh gặp lửa, như kẻ trần truồng được quần áo, như thương gia gặp mối, như con gặp mẹ, như qua sông gặp đò, như bệnh gặp thuốc, như tối được đèn, như kẻ nghèo gặp của báu, như dân gặp vua, như khách buôn được biển, như đuốc trừ tối. Cũng vậy kinh Pháp Hoa này có thể làm cho chúng sinh xa lìa tất cả khổ não bệnh tật đau đớn, có thể cởi mở tất cả những trói buộc của sinh tử. Nếu người được nghe kinh Pháp Hoa này rồi, hoặc chép, hoặc bảo người chép, công đức đó dùng trí tuệ của Phật mà do lường cũng không tới giới hạn được. Nếu chép quyển kinh này, dùng hoa, hương, chuỗi ngọc, hương đốt, hương bột, hương xoa, phướn, lọng, y phục, các thứ đèn như đèn nến, đèn dầu, các thứ đèn dầu thơm như đèn dầu chiêm-bặc, đèn dầu tu-mạn-na, đèn dầu ba-la-la, đèn dầu bà-lợi-sư-ca, đèn dầu na-bà-ma lợi đem cúng dường, được công đức cũng vô lượng. Tú Vương Hoa! Nếu có người nghe phẩm Dược Vương Bồ-tát Bản Sự này cũng được vô lượng, vô biên công đức. Nếu có người nữ nghe phẩm Dược Vương Bồ-tát Bản Sự này mà có thể thọ trì thì sau khi mãn báo thân nữ sẽ không còn thọ lại nữa. Sau khi Như Lai diệt độ, năm trăm năm sau, nếu có người nữ nghe kinh điển này, đúng như kinh nói mà tu hành thì sau khi chết ở đây sẽ sinh qua cõi An lạc nơi trụ xứ của Phật A-di-đà, có chúng Đại Bồ-tát vây quanh mà sinh trên tòa sen báu. Nơi đây sẽ không còn bị tham dục quấy nhiễu, không bị sự nóng giận, ngu si quấy nhiễu, không bị tính kiêu mạn ganh ghét xấu nhơ quấy nhiễu, được thần thông Vô sinh pháp nhẫn của Bồ-tát, được pháp nhẫn đó thì nhãn căn thanh tịnh. Do nhãn căn thanh tịnh mà thấy được bảy trăm vạn hai ngàn ức na-do-tha hằng hà sa chư Phật Như Lai. Bấy giờ chư Phật đồng thanh khen rằng: –Hay thay, hay thay, thiện nam! Ông có thể ở trong pháp hội của Phật Thích-ca Mâu-ni mà thọ trì đọc tụng tư duy kinh này, giảng nói cho người khác thì sẽ được công đức vô lượng, vô biên, lửa không đốt cháy, nước không thể cuốn trôi. Công đức của ông ngàn Phật cùng nói cũng không hết. Ông nay đã có thể phá tan giặc ma, tiêu diệt đội quân sinh tử loại trừ mọi quân địch. Thiện nam! Trăm ngàn chư Phật dùng sức thần thông cùng bảo vệ ông. Tất cả trời, người trên thế gian không ai bằng được như ông. Chỉ trừ Như Lai, bao nhiêu thiền định, trí tuệ của Thanh văn, Duyên giác, cho đến Bồ-tát không ai bằng ông được. Tú Vương Hoa! Vị Bồ-tát đó thành tựu các công đức trí tuệ như vậy đó. Nếu có người nghe phẩm Dược Vương Bồ-tát Bản Sự này mà có thể tùy hỷ khen ngợi thì người đó, trong đời hiện tại miệng thường thoảng mùi thơm hoa sen xanh, chân lông trong châu thân thường thoảng mùi thơm Ngưu đầu chiên-đàn, được các công đức như trên đã nói. Tú Vương Hoa! Vì vậy ta đem phẩm Dược Vương Bồ-tát Bản Sự này chúc lụy cho ngươi. Năm trăm năm sau khi ta diệt độ phải lưu bố rộng rãi trong cõi Diêm-phù-đề chớ để tuyệt mất. Chớ để cho hàng ác ma, dân ma, các Trời, Rồng, Dạ-xoa, Cưu-bàn-trà… được tự tiện quấy nhiễu. Tú Vương Hoa! Ông phải dùng sức thần thông bảo vệ kinh này. Vì sao vậy? Vì kinh này là vị thuốc hay cho người bệnh trong cõi Diêm-phù-đề. Nếu người có bệnh được nghe kinh này bệnh liền tiêu diệt không già không chết. Tú Vương Hoa! Nếu ông thấy có người thọ trì kinh này phải dùng hoa sen xanh đựng đầy hương bột rải lên mà cúng dường người đó. Rải xong nghó rằng: “Người này chẳng bao lâu quyết sẽ lấy cỏ trải ngồi nơi đạo tràng, phá các quân ma, thổi pháp loa, đánh trống pháp, độ thoát tất cả chúng sinh ra khỏi biển sinh, già, bệnh, chết.” Cho nên người cầu Phật đạo thấy có người thọ trì kinh điển này phải sinh lòng cung kính như vậy. Khi Phật nói phẩm Dược Vương Bồ-tát Bản Sự, có tám vạn bốn ngàn Bồ-tát được pháp Giải nhất thiết chúng sinh ngữ ngôn Đà-la-ni. Đa Bảo Như Lai trong tháp báu khen Bồ-tát Tú Vương Hoa: –Hay thay, hay thay! Tú Vương Hoa, ông thành tựu công đức không thể nghó bàn, nên mới có thể hỏi Phật Thích-ca Mâu-ni việc như vậy, nhờ đó mà làm cho tất cả chúng sinh được lợi ích vô lượng. KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA <卷 id="83085219">QUYỂN 7 <詞 id="83085220">Phẩm 24: DIỆU ÂM BỒ-TÁT Bấy giờ Phật Thích-ca Mâu-ni từ nhục kế tướng Đại nhân phóng ra ánh sáng và phóng ánh sáng nơi tướng lông trắng giữa chân mày chiếu khắp tám trăm vạn ức na-do-tha hằng hà sa các cõi Phật ở phương Đông. Qua khỏi số đó có thế giới tên là Tịnh quang trang nghiêm. Nước đó có Phật hiệu Tịnh Hoa Tú Vương Trí Như Lai, Ứng Cúng, chính Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, được vô lượng, vô biên đại chúng Bồ-tát cung kính vây quanh, đang vì chúng nói pháp. Ánh sáng lông trắng của Phật Thích-ca Mâu-ni chiếu khắp cõi nước đó. Lúc đó, trong nước Nhất thiết tịnh quang trang nghiêm có một vị Bồ-tát tên là Diệu Âm, từ lâu đã trồng các công đức, cúng dường gần gũi vô lượng trăm ngàn vạn ức chư Phật, thành tựu trí tuệ rất sâu, được pháp Diệu tràng tướng Tam-muội, Pháp hoa Tam-muội, Tịnh đức Tam-muội, Tú vương hý Tam-muội, Vô duyên Tam-muội, Trí ấn Tam-muội, Giải nhất thiết chúng sinh ngữ ngôn Tam-muội, Tập nhất thiết công đức Tam-muội, Thanh tịnh Tam-muội, Thần thông du hý Tam-muội, Tuệ cự Tam-muội, Trang nghiêm vương Tam-muội, Tịnh quang minh Tam-muội, Tịnh tạng Tam-muội, Bất cộng Tam-muội, Nhật triền Tam-muội… được trăm ngàn vạn ức hằng hà sa các Đại Tam-muội như vậy. Ánh hào quang của Phật Thích-ca Mâu-ni chiếu đến thân, vị Bồ-tát đó liền bạch Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí rằng: –Bạch Thế Tôn! Con phải qua cõi Ta-bà để lễ bái gần gũi Phật Thích-ca Mâu-ni, và để yết kiến Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử, Bồ-tát Dược Vương, Bồ-tát Dũng Thí, Bồ-tát Tú Vương Hoa, Bồ-tát Thượng Hành Ý, Bồ-tát Trang Nghiêm Vương, Bồ-tát Dược Thượng. Khi đó Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí bảo Bồ-tát Diệu Âm: –Ông chớ nên khinh nước Ta-bà mà nghó là thấp kém. Thiện nam, cõi Ta-bà kia cao thấp không bằng phẳng, nào núi đất đá đầy dẫy nhơ nhớp xấu ác. Thân Phật thấp nhỏ, các chúng Bồ-tát thân hình cũng nhỏ, trong khi thân của ngươi cao đến bốn vạn hai ngàn do-tuần, thân của ta sáu trăm tám mươi vạn do-tuần. Thân của ngươi đoan chính đệ nhất, trăm ngàn vạn phước sáng rỡ tốt đẹp. Cho nên ông qua đó chớ khinh nước kia, hoặc đối với Phật, Bồ-tát cùng cõi nước ấy mà nghó cho là thấp kém. Bồ-tát Diệu Âm bạch Phật ấy: –Bạch Thế Tôn! Con nay qua cõi Ta-bà đều do thần lực của Như Lai, do công đức trí tuệ trang nghiêm của Như Lai. Khi đó Bồ-tát Diệu Âm chẳng rời khỏi tòa, thân bất động mà nhập vào Tam-muội, dùng sức Tam-muội ở nơi núi Kỳ-xà-quật cách pháp tòa chẳng bao xa hóa làm tám vạn bốn ngàn các hoa sen báu như vàng Diêm-phù-đàn làm cộng, bạc làm lá, kim cang làm nhụy, chân-thúc-ca bảo làm đài. Bấy giờ Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử thấy hoa sen bèn bạch Phật rằng: –Bạch Thế Tôn! Đây là do nhân duyên gì mà hiện điềm tốt này, có ngần ấy trăm ngàn hoa sen cộng bằng vàng Diêm-phù-đàn, lá bằng bạc, nhụy bằng kim cang, đài bằng chân-thúc-ca bảo vậy? Bấy giờ Phật Thích-ca Mâu-ni bảo Văn-thù-sư-lợi: –Đó là Diệu Âm Bồ-tát Ma-ha-tát từ cõi nước của Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí muốn cùng tám vạn bốn ngàn Bồ-tát vây quanh mà đến cõi Ta-bà này để cúng dường gần gũi lễ bái ta và cũng muốn cúng dường nghe kinh Pháp Hoa. Văn-thù-sư-lợi bạch Phật rằng: –Bạch Thế Tôn! Bồ-tát đó trồng căn lành gì, tu công đức gì mà được sức thần thông lớn như vậy? Tu Tam-muội gì? Xin Phật vì chúng con nói danh tự của Tam-muội đó. Chúng con cũng muốn siêng năng tu hành pháp đó. Tu hành pháp môn Tam-muội này mới thấy được sắc tướng lớn nhỏ oai nghi tấn chỉ của Bồ-tát đó. Cúi xin Thế Tôn dùng sức thần thông khi vị Bồ-tát đó đến cho chúng con được thấy. Bấy giờ Phật Thích-ca Mâu-ni bảo Văn-thù-sư-lợi: –Đức Phật Đa Bảo đã diệt độ từ lâu, nay sẽ vì các ông mà hiện bày thân tướng của Bồ-tát đó. Tức thì Phật Đa Bảo bảo Bồ-tát đó: –Thiện nam hãy đến đây! Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử muốn thấy thân của ông. Bấy giờ Bồ-tát Diệu Âm ẩn thân nơi cõi nước kia, cùng tám vạn bốn ngàn Bồ-tát cùng qua cõi Ta-bà. Trong các nước đi qua, sáu thứ đều chấn động, mưa hoa sen bảy báu, trăm ngàn thứ nhạc trời reo vang, mắt của vị Bồ-tát đó như cánh hoa sen xanh to rộng. Giả sử hợp trăm ngàn vạn mặt trăng thì diện mạo của vị Bồ-tát còn đẹp đẽ hơn thế nữa. Thân vàng ròng, trang nghiêm vô lượng công đức, oai đức hùng mạnh, ánh sáng chiếu rực rỡ, các tướng đầy đủ như thân Na-la-diên bền chắc. Vị Bồ-tát này vào trong đài bay báu bay lên hư không cách đất bằng bảy cây đa-la. Các chúng Bồ-tát cung kính vây quanh mà cùng đến núi Kỳ-xà-quật ở cõi Ta-bà này. Đến nơi rồi liền xuống đài bảy báu, dùng chuỗi ngọc giá trị trăm ngàn đem đến chỗ Phật Thích-ca Mâu-ni, đầu mặt làm lễ dưới chân rồi dâng chuỗi ngọc lên mà bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí vấn an Thế Tôn ít bệnh, ít khổ, đi đứng nhẹ nhàng an lạc chăng? Bốn đại điều hòa chăng? Chúng sinh dễ độ chăng? Không có người nhiều tham dục, nóng giận, ngu si, ganh ghét, bỏn sẻn, kiêu mạn chăng? Không có kẻ bất hiếu với cha mẹ, bất kính đối với kẻ tu hành, tà kiến tâm chẳng lành không nhiếp hộ năm căn chăng? Bạch Thế Tôn! Chúng sinh có hàng phục được các ma oán chăng? Đức Đa Bảo Như Lai diệt độ từ lâu ở trong tháp bảy báu có đến nghe pháp chăng? Lại hỏi thăm Đức Đa Bảo Như Lai an ổn, ít khổ não, có thể ở lâu được chăng? Thế Tôn, nay con muốn thấy thân Đức Phật Đa Bảo, cúi xin Thế Tôn chỉ bày cho con được thấy. Bấy giờ Phật Thích-ca Mâu-ni nói với Phật Đa Bảo: –Bồ-tát Diệu Âm này muốn được yết kiến Phật. Phật Đa Bảo liền nói với Bồ-tát Diệu Âm: –Hay thay, hay thay! Ông có thể vì cúng dường Phật Thích-ca Mâu-ni và nghe kinh Pháp Hoa đồng thời ra mắt Văn-thù-sư-lợi mà qua đến cõi này. Bấy giờ Bồ-tát Hoa Đức bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Bồ-tát Diệu Âm trồng căn lành gì, tu công đức gì mà có sức thần thông như vậy? Phật bảo Bồ-tát Hoa Đức: –Thuở quá khứ có Phật hiệu Vân Lôi Vương Như Lai, Ứng Cúng, chính Biến Tri, cõi nước tên là Hiện Nhất thiết thế gian, kiếp tên Hỷ kiến. Bồ-tát Diệu Âm ở trong một vạn hai ngàn năm dùng mười vạn thứ kỹ nhạc cúng dường Phật Vân Lôi Âm Vương cùng dâng lên tám vạn bốn ngàn cái bát bảy báu. Do nhân duyên quả báo đó nay sinh tại nước của Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí và có thần lực như vậy. Hoa Đức! Ý ông nghó sao? Thuở đó nơi Đức Phật Vân Lôi Âm Vương, Bồ-tát Diệu Âm cúng dường kỹ nhạc cùng dâng bát báu lên đó, đâu phải người nào khác, chính là Diệu Âm Bồ-tát Ma-ha-tát ngày nay vậy. Hoa Đức! Bồ-tát Diệu Âm này đã từng cúng dường an gũi vô lượng chư Phật, từ lâu trồng cội công đức, lại gặp hằng sa trăm ngàn vạn ức na-do-tha chư Phật. Hoa Đức! Ông chỉ thấy thân hình Bồ-tát Diệu Âm tại nơi đây nhưng Bồ-tát đó hiện đủ các thứ thân hình, khắp nơi nơi vì chúng sinh giảng nói kinh điển này. Hoặc hiện thân Phạm vương, hoặc hiện thân Đế Thích, hoặc hiện thân Tự tại thiên, hoặc hiện thân Đại tự tại thiên, hoặc hiện thân Thiên đại tướng quân, hoặc hiện thân Tỳ-sa-môn Thiên vương, hoặc hiện thân Chuyển luân thánh vương, hoặc hiện thân các tiểu vương, hoặc hiện thân trưởng giả, hoặc hiện thân cư só, hoặc hiện thân tể quan, hoặc hiện thân Bà-la-môn, hoặc hiện thân Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, hoặc hiện thân tể quan nữ, hoặc hiện thân Bà-la-môn nữ, hoặc hiện thân đồng nam đồng nữ, hoặc hiện thân Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân… mà nói kinh này. Bao nhiêu địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh và những chỗ nguy nan đều có thể cứu giúp, cho đếân trong hậu cung của nhà vua cũng có thể biến thành thân người nữ để nói kinh này. Hoa Đức! Bồ-tát Diệu Âm này hay cứu hộ các chúng sinh trong cõi Ta-bà. Bồ-tát Diệu Âm này biến hóa hiện thân như vậy trong cõi Ta-bà vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa mà thần thông biến hóa không hề bị tổn giảm. Bồ-tát này dùng ngần ấy trí tuệ chiếu sáng cõi Ta-bà, khiến tất cả chúng sinh đều được hay biết và ở trong hằng hà sa cõi nước trong mười phương cũng làm như vậy. Nếu với chúng sinh nên dùng thân Thanh văn để độ thì hiện thân Thanh văn mà nói pháp. Nên dùng thân Duyên giác để độ thì hiện thân Duyên giác mà nói pháp. Nên dùng thân Bồ-tát để độ thì hiện thân Bồ-tát mà nói pháp. Nên dùng thân Phật để độ thì hiện thân Phật mà nói pháp. Tùy theo chỗ nên độ khác nhau mà hiện thân khác nhau như vậy, cho đến nên dùng tướng diệt độ để độ thì thị hiện tướng diệt độ. Hoa Đức! Việc Diệu Âm Bồ-tát Ma-ha-tát thành tựu sức đại thần thông trí tuệ là như vậy. Bấy giờ Bồ-tát Hoa Đức bạch Phật rằng: –Bạch Thế Tôn! Bồ-tát Diệu Âm trồng sâu căn lành. Thế Tôn, Bồ-tát đó trụ Tam-muội gì mà có thể ở các nơi hiện thân độ được chúng sinh như vậy? Phật bảo Bồ-tát Hoa Đức: –Thiện nam! Tam-muội đó tên là Hiện nhất thiết sắc thân. Bồ-tát Diệu Âm trụ trong Tam-muội đó có thể làm lợi ích vô lượng chúng sinh như vậy. Lúc nói phẩm Diệu Âm Bồ-tát này, các Bồ-tát cùng đi với Bồ-tát Diệu Âm tám vạn bốn ngàn người đều được Hiện nhất thiết sắc thân Tam-muội. Vô lượng Bồ-tát trong cõi Ta-bà này cũng được Tam-muội và Đà-la-ni đó. Khi Diệu Âm Bồ-tát Ma-ha-tát cúng dường Phật Thích-ca Mâu-ni và tháp Phật Đa Bảo xong trở về bản độ, trong các nước đi qua sáu thứ đều chấn động, mưa hoa sen báu, trăm ngàn vạn ức kỹ nhạc nghe vang, về đến bản quốc cùng tám vạn bốn ngàn Bồ-tát vây quanh đến chỗ Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí mà bạch rằng: –Bạch Thế Tôn! Con đến cõi Ta-bà làm lợi ích chúng sinh, yết kiến Phật Thích-ca Mâu-ni và ra mắt tháp Phật Đa Bảo lễ bái cúng dường, rồi ra mắt Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử, Bồ-tát Dược Vương, Bồ-tát Đắc Cần Tinh Tấn Lực, Bồ-tát Dũng Thí và cũng làm cho tám vạn bốn ngàn Bồ-tát này được Hiện nhất thiết sắc thân Tam-muội. Lúc nói phẩm Diệu Âm Bồ-tát lai vãng này, bốn vạn hai ngàn Thiên tử được Vô sinh pháp nhẫn. Bồ-tát Hoa Đức được Pháp hoa Tam-muội.  <詞 id="83085221">Phẩm 25: QUÁN THẾ ÂM BỒ-TÁT PHỔ MÔN Bấy giờ Bồ-tát Vô Tận Ý liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch vai áo bên hữu chắp tay hướng Phật mà bạch rằng: –Bạch Thế Tôn! Bồ-tát Quán Thế Âm do nhân duyên gì mà có tên là Quán Thế Âm? Phật bảo Bồ-tát Vô Tận Ý: –Thiện nam! Nếu có vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng sinh bị các khổ não, nghe Bồ-tát Quán Thế Âm này nhất tâm xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ-tát, tức thì được Bồ-tát quán sát âm thanh mà tất cả đều được giải thoát. Nếu có người trì niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm này thì dù vào trong lửa lớn cũng không bị đốt là do sức oai thần của Bồ-tát vậy. Nếu bị nước lớn cuốn trôi, xưng danh hiệu Bồ-tát này liền gặp chỗ cạn. Nếu có trăm ngàn vạn ức chúng sinh đi vào biển cả để tìm của báu như vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, ngọc trai… giả sử bị gió lớn thổi ghe thuyền trôi dạt vào nước quỷ La-sát, trong số đó dù chỉ một người xưng danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm thì các người đó đều thoát khỏi nạn quỷ La-sát. Do nhân duyên đó mà có tên là Quán Thế Âm. Nếu lại có người sắp sửa bị hại, xưng danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm thì đao gậy người kia liền gãy khúc mà được thoát nạn. Nếu có quỷ Dạ-xoa cùng La-sát đầy cõi tam thiên đại thiên muốn đến hại người, nghe người đó xưng danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm thì các quỷ dữ kia còn không dám giương mắt dữ mà nhìn huống là làm hại. Dù cho có người hoặc có tội, hoặc không tội, thân bị gông cùm xiềng xích, xưng danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm thì liền gãy đứt mà được giải thoát. Nếu có oán tặc đầy cõi tam thiên, có một lái buôn dắt các thương gia đem nhiều của báu đi qua đường nguy hiểm, trong đó có một người xướng lên rằng: –Các thiện nam! Chớ nên sợ hãi, các người phải nhất tâm xưng danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm. Vị Bồ-tát này hay đem pháp vô úy thí cho chúng sinh. Nếu các người xưng danh hiệu sẽ được thoát khỏi giặc cướp này.” Các thương gia nghe rồi đều đồng thanh niệm Nam-mô Quán Thế Âm Bồ-tát. Nhờ xưng niệm danh hiệu mà được thoát khỏi. Vô Tận Ý! Bồ-tát Quán Thế Âm có sức oai thần vòi vọi như vậy. Nếu có chúng sinh nhiều lòng dâm dục, thường cung kính niệm Bồ-tát Quán Thế Âm sẽ được ly dục. Nếu nhiều nóng giận, thường cung kính niệm Bồ-tát Quán Thế Âm, sẽ hết nóng giận. Nếu nhiều ngu si, thường cung kính niệm Bồ-tát Quán Thế Âm sẽ hết ngu si. Vô Tận Ý, Bồ-tát Quán Thế Âm có các sức oai thần lớn, được nhiều lợi ích nên chúng sinh thường phải tâm niệm. Nếu có người nữ, giả sử muốn cầu con trai, lễ bái cúng dường Bồ-tát Quán Thế Âm, liền sinh được con trai phước đức trí tuệ, giả sử muốn cầu con gái sẽ sinh được con gái đoan trang xinh đẹp, do trước đã trồng cội phước đức nên được mọi người kính yêu. Vô Tận Ý! Bồ-tát Quán Thế Âm có năng lực như vậy. Nếu có chúng sinh cung kính lễ bái Bồ-tát Quán Thế Âm, sẽ không mất phước đức. Cho nên chúng sinh đều nên thọ trì danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm. Vô Tận Ý! Nếu có người thọ trì danh tự của sáu mươi hai ức hằng hà sa Bồ-tát, lại trọn đời cúng dường nào thức ăn uống, y phục, giường nằm, thuốc thang, ý ông nghó sao? Công đức của thiện nam, thiện nữ đó có nhiều chăng? Vô Tận Ý thưa: –Nhiều lắm thưa Thế Tôn! Phật nói: –Nếu lại có người thọ trì danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm cho dù một lần lễ bái cúng dường thì phước của hai người đó bằng nhau không khác. Trong trăm ngàn vạn ức kiếp phúc không hết được. Vô Tận Ý! Thọ trì danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm được vô lượng, vô biên phước đức và lợi ích như vậy. Bồ-tát Vô Tận Ý bạch Phật rằng: –Bạch Thế Tôn! Bồ-tát Quán Thế Âm bằng cách nào du hành trong cõi Ta-bà này? Sức phương tiện như thế nào? Phật bảo Bồ-tát Vô Tận Ý: –Thiện nam! Nếu có chúng sinh trong cõi nước nào nên dùng thân Phật để độ thì Bồ-tát Quán Thế Âm liền hiện thân Phật mà nói pháp. Nên dùng thân Duyên giác để độ thì hiện thân Duyên giác mà nói pháp. Nên dùng thân Thanh văn để độ thì hiện thân Thanh văn mà nói pháp. Nên dùng thân Phạm vương để độ thì hiện thân Phạm vương để nói pháp. Nên dùng thân Đế Thích để độ thì hiện thân Đế Thích mà nói pháp. Nên dùng thân Tự tại thiên để độ thì hiện thân Tự tại thiên mà nói pháp. Nên dùng thân Đại tự tại thiên để độ thì hiện thân Đại tự tại thiên mà nói pháp. Nên dùng thân Thiên đại tướng quân để độ thì hiện thân Thiên đại tướng quân mà nói pháp. Nên dùng thân Tỳ-sa-môn để độ thì hiện thân Tỳ-sa-môn mà nói pháp. Nên dùng thân tiểu vương để độ thì hiện thân tiểu vương mà nói pháp. Nên dùng thân trưởng giả để độ thì hiện thân trưởng giả mà nói pháp. Nên dùng thân cư só để độ thì hiện thân cư só mà nói pháp. Nên dùng thân tể quan để độ thì hiện thân tể quan mà nói pháp. Nên dùng thân Bà-la-môn để độ thì hiện thân Bà-la-môn mà nói pháp. Nên dùng thân Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di để độ thì hiện thân Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di mà nói pháp. Nên dùng thân nữ trưởng giả, nữ cư só, nữ tể quan, nữ Bà-la-môn để độ thì hiện thân phụ nữ mà nói pháp. Nên dùng thân đồng nam, đồng nữ để độ thì hiện thân đồng nam, đồng nữ mà nói pháp. Nên dùng thân Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân… để độ thì liền hiện thân như vậy mà nói pháp. Nên dùng thân thần Chấp Kim Cang để độ thì hiện thân thần Chấp Kim Cang mà nói pháp. Vô Tận Ý! Bồ-tát Quán Thế Âm đó thành tựu công đức như vậy, dùng các loại thân hình du hành trong các cõi nước để độ thoát chúng sinh. Cho nên các người phải nhất tâm cúng dường Bồ-tát Quán Thế Âm. Bồ-tát Quán Thế Âm đó trong những lúc hoạn nạn ngặt nghèo sợ hãi thường ban cho pháp vô úy, cho nên cõi Ta-bà này đều gọi tên Bồ-tát là Thí Vô Úy. Bồ-tát Vô Tận Ý bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Nay con phải cúng dường Bồ-tát Quán Thế Âm. Nói rồi liền cởi chuỗi ngọc đeo cổ giá trị bằng trăm ngàn trao cho Bồ-tát Quán Thế Âm mà nói rằng: –Xin nhân giả nhận chuỗi châu báu pháp thí này. Khi ấy Bồ-tát Quán Thế Âm không chịu nhận. Vô Tận Ý lại bạch Bồ-tát Quan Âm rằng: –Xin nhân giả vì thương chúng tôi mà nhận chuỗi ngọc này. Bấy giờ Phật bảo Bồ-tát Quán Thế Âm: –Hãy thương Bồ-tát Vô Tận Ý này và bốn chúng cùng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân… mà nhận chuỗi ngọc ấy. Khi ấy Bồ-tát Quán Thế Âm vì thương bốn chúng và Trời, Rồng, Nhân phi nhân… nhận chuỗi ngọc đó chia làm hai phần, một phần dâng lên Phật Thích-ca Mâu-ni, một phần dâng cúng tháp Phật Đa Bảo. Vô Tận Ý! Bồ-tát Quán Thế Âm có thần lực tự tại du hành nơi cõi Ta-bà như vậy. Bấy giờ Bồ-tát Vô Tận Ý dùng bài kệ hỏi Phật: Thế Tôn đủ tướng tốt, Con nay xin hỏi lại: Phật tử nhân duyên gì, Tên là Quán Thế Âm? Đấng đầy đủ tướng tốt, Kệ đáp Vô Tận Ý: Ngươi nghe hạnh Quán Âm, Ứng hiện khắp nơi chốn. Thệ rộng sâu như biển, Nhiều kiếp khó nghó bàn. Hầu hạ nhiều ngàn Phật, Phát nguyện thanh tịnh lớn. Ta vì người lược nói, Nghe tên và được gặp. Tâm niệm không luống qua Hay diệt khổ các cõi. Giả sử ý muốn hại, Xô xuống hầm lửa lớn. Do sức niệm Quán Âm, Hầm lửa hóa thành ao. Hoặc nổi trôi biển cả, Bị nạn quỷ, cá, rồng. Do sức niệm Quán Âm, Sóng bổ chẳng đánh chìm. Hoặc ở ngọn Tu-di, Bị người xô đẩy xuống. Do sức niệm Quán Âm, Như mặt nhật giữa trời. Hoặc bị kẻ ác đuổi, Rơi xuống núi Kim cang. Do sức niệm Quán Âm, Một mảy lông chẳng tổn. Hoặc gặp oán tặc vây, Cầm đao cố làm hại. Do sức niệm Quán Âm, Đều liền sinh lòng lành. Hoặc bị khổ nạn vua, Sắp đem đi hành hình. Do sức niệm Quán Âm, Gươm đao gãy từng đoạn. Hoặc tù giam xiềng xích, Tay chân bị cùm gông. Do sức niệm Quán Âm, Tháo cởi được giải thoát. Rủa nộp và thuốc độc, Có kẻ muốn hại thân. Do sức niệm Quán Âm, Trở ngược kẻ muốn hại. Hoặc gặp La-sát dữ, Rồng độc các loài quỷ. Do sức niệm Quán Âm, Đều không dám làm hại. Hoặc thú dữ vây quanh, Nanh vút nhọn đáng sợ. Do sức niệm Quán Âm, Vội vã bỏ chạy mất. Rắn độc cùng bò cạp, Hơi độc như khói hun. Do sức niệm Quán Âm, Nghe tiếng tự bỏ đi. Mây sấm nổ sét đánh, Mưa tuôn nước như xối. Do sức niệm Quán Âm, Tức thì tiêu tán hết. Chúng sinh bị ngặt nghèo, Vô lượng khổ bức bách. Quán Âm sức trí diệu, Hay cứu khổ thế gian. Đầy đủ sức thần thông, Rộng tu trí phương tiện. Các cõi nước mười phương, Không cõi nào chẳng hiện. Các loài trong đường dữ: Địa ngục, quỷ, súc sinh, Sinh, già, bệnh, chết khổ, Dần dần khiến tuyệt dứt. Chân quán, thanh tịnh quán Trí tuệ quán rộng lớn, Bi quán và Từ quán, Thường nguyện thường chiêm ngưỡng. Sáng thanh tịnh không nhơ, Tuệ nhật diệt tăm tối. Hay trừ tai, khói lửa, Khắp soi sáng thế gian. Lòng bi răn như sấm, Ý từ như mây lành. Tuôn mưa pháp cam lồ, Dứt trừ lửa phiền não. Kiện cáo ra chỗ quan, Trong quân trận hãi hùng. Do sức niệm Quán Âm, Oán cừu đều lui mất. Diệu Âm, Quán Thế Âm, Phạm âm, Hải triều âm, Hơn cả tiếng thế gian, Cho nên thường phải niệm. Niệm niệm chớ sinh nghi, Quán Thế Âm tịnh Thánh, Nơi khổ não chết chóc, Hay làm chỗ nương cậy. Đủ tất cả công đức, Mắt hiền nhìn chúng sinh, Phước như biển vô lượng, Cho nên phải đảnh lễ. Bấy giờ Bồ-tát Trì Địa liền từ chỗ ngồi đứng dậy đến trước Phật bạch rằng: –Bạch Thế Tôn! Nếu có chúng sinh nào nghe phẩm Bồ-tát Quán Thế Âm hạnh nghiệp tự tại, sức thị hiện thần thông Phổ môn này, phải biết công đức người đó không ít. Lúc Phật nói phẩm Phổ môn này, trong chúng có tám vạn bốn ngàn chúng sinh đều phát tâm cầu quả vị Vô thượng chính đẳng chính giác không gì sánh bằng.  <詞 id="83085222">Phẩm 26: ĐÀ-LA-NI Bấy giờ Bồ-tát Dược Vương liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch vai áo bên phải chắp tay hướng Phật mà bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Nếu có thiện nam, thiện nữ thọ trì được kinh Pháp Hoa này, hoặc đọc tụng thông hiểu, hoặc sao chép quyển kinh sẽ được bao nhiêu phước? Phật bảo Dược Vương: –Nếu có thiện nam, thiện nữ cúng dường tám trăm vạn ức na-do-tha hằng hà sa chư Phật, ý ông nghó sao? Người đó được phước có nhiều không? –Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Phật nói: –Nếu có thiện nam, thiện nữ có thể thọ trì kinh này cho dù một bài kệ bốn câu, đọc tụng giải nghĩa, như thuyết tu hành thì công đức rất nhiều. Khi ấy, Bồ-tát Dược Vương bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Con nay sẽ cho người nói kinh Pháp Hoa chú Đà-la-ni để mà bảo vệ. Rồi đọc chú rằng: “An nhó, mạn nhó, ma nễ, ma ma nễ, chỉ lệ, già lê đệ, xa mế, xa lý đa vó chuyên đế, mục đế, mục đa lý, ta lý, a vó ta lý, tang lý, ta lý xoa duệ, a xoa duệ, a kỳ nhị chuyên đế, xa lý, đà-la-ni, a lư già bà ta ky dá tỳ xoa nhị, nễ tỳ thế, a tiện đa la nễ lý thế, a đàn đá ba lệ thâu địa, âu cứu lệ, mâu cứu lệ, a la lệ, ba la lệ, thủ ca sai, a tam ma tam lý, Phật-đà tỳ cát lợi diệt đế, đạt ma ba lợi sai đế, tăng già niết cù sa nễ, bà xá bà xá thâu địa, mạn đá lã, mạn đá lã xoa dạ đa, bưu lâu đá, bưu lâu đá kiêu xá lược, ác xoa lã, ác xoa dã đa dã, a bà lư, a ma nhã na đa dạ.” Thế Tôn! Thần chú Đà-la-ni này là của sáu mươi hai ức hằng hà sa chư Phật đã nói. Nếu có người xâm phạm vị Pháp sư này tức là đã xâm phạm chư Phật. Khi ấy Phật Thích-ca Mâu-ni khen Bồ-tát Dược Vương: –Hay thay, hay thay! Dược Vương, ông thương xót muốn ủng hộ vị Pháp sư đó nên nói chú Đà-la-ni này, được nhiều lợi ích cho chúng sinh. Bấy giờ Bồ-tát Dũng Thí bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Con cũng vì ủng hộ người đọc tụng thọ trì kinh Pháp Hoa mà nói chú Đà-la-ni. Nếu vị Pháp sư đó được chú Đà-la-ni này, hoặc Dạ-xoa, La-sát, hoặc Phú-đơn-na, hoặc Kiết giá, hoặc Cưu-bàn-trà, hoặc ngạ quỷ… rình tìm chỗ kém dở của Pháp sư là không thể được.” Rồi ở trước Phật nói chú rằng: “Toa lệ, ma-ha toa lệ, úc chỉ, mục chỉ, a lê, a la bà đệ niết lệ đệ, niết lệ đa bà đệ, y trí nỉ, vi trí nỉ, chỉ tri nỉ, niết lệ trì nỉ, niết lệ tri bà để.” Thế Tôn! Thần chú Đà-la-ni này của hằng hà sa chư Phật nói, cũng đều tùy hỷ. Nếu có người xâm phạm vị Pháp sư này tức là đã xâm phạm chư Phật. Bấy giờ, Tỳ-sa-môn Thiên vương, vị trời hộ đời, bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Con cũng vì nghó thương chúng sinh, ủng hộ vị Pháp sư đó mà nói Đà-la-ni này. Rồi nói chú rằng: “A lê, na lê, nâu na lê, a na lư, na lý, câu na lý.” Bạch Thế Tôn! Dùng thần chú này ủng hộ Pháp sư, con cũng tự phải ủng hộ người trì kinh này, làm cho trong khoảng một trăm do-tuần không có các tai hoạn. Bấy giờ Trì Quốc Thiên vương ở trong hội này cùng ngàn vạn ức na-do-tha chúng Càn-thát-bà cung kính vây quanh, đến trước Phật chắp tay bạch Phật rằng: –Bạch Thế Tôn! Con cũng dùng thần chú Đà-la-ni ủng hộ người trì kinh Pháp Hoa. Rồi nói chú rằng: “A già nễ, già nễ, cù lợi, càn đà lợi, chiên đà lợi, ma đẳng kỳ thường cầu lợi, phù lầu tá nó, ác đế.” Thế Tôn! Thần chú Đà-la-ni này là của bốn mươi hai ức chư Phật nói. Nếu có người xâm phạm vị Pháp sư này tức là đã xâm phạm chư Phật. Bấy giờ có những La-sát nữ, một tên là Lam Bà, hai tên là Tỳ Lam Bà, ba tên là Khúc Xỉ, bốn tên là Hoa Xỉ, năm tên là Hắc Xỉ, sáu tên là Đa Phát, bảy tên là Vô Yểm Túc, tám tên là Trì Anh Lạc, chín tên là Cao Đế, mười tên là Đoạt Nhất Thiết Chúng Sinh Tinh Khí. Mười La-sát nữ đó cùng quỷ tử mẫu, con và quyến thuộc đều đến chỗ Phật, đồng thanh bạch Phật rằng: –Bạch Thế Tôn! Chúng con cũng muốn ủng hộ người đọc tụng thọ trì kinh Pháp Hoa, trừ các khổ nạn cho người đó. Nếu có kẻ rình tìm chỗ khiếm khuyết của Pháp sư là không thể được. Rồi ở trước Phật mà nói chú rằng: “Y đề, y đề vẫn, y đề lý, a đề lý, y đề lý, nê lý, nê lý, nê lý, nê lý, lâu hê, lâu hê, lâu hê, lâu hê, đa hê, đa hê, đa hê, đâu hê, nâu hê.” Thà trèo lên đầu chúng con chứ đừng não hại Pháp sư, hoặc Dạ-xoa, hoặc La-sát, hoặc ngạ quỷ, hoặc Phú-đơn-na, hoặc Kiết-giá, hoặc Tỳ-đà-la, hoặc Kiền-đà, hoặc Ô-ma-lặc-đà, hoặc A-bạt-ma-la, hoặc Dạ-xoa, Kiết-giá, hoặc Nhân Kiết-giá, hoặc quỷ làm bệnh nóng, hoặc một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc đến bảy ngày, hoặc làm bệnh thường nóng luôn, hoặc hình nam, hoặc hình nữ, hoặc hình đồng nam, hoặc hình đồng nữ, cho đến trong chiêm bao cũng không não hại. Rồi ở trước Phật nói bài kệ: Nếu không thuận chú ta, Quấy rối người nói pháp, Đầu vỡ làm bảy phần, Như nhánh cây a-lê. Như tội giết cha mẹ Cũng như họa ép dầu. Cân lường dối gạt người, Tội Điều-đạt phá Tăng. Kẻ xâm phạm Pháp sư, Sẽ mắc họa như thế. Các La-sát nữ nói kệ xong, bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Chúng con cũng sẽ tự mình ủng hộ người thọ trì đọc tụng kinh này khiến được an ổn, lìa các khổ hoạn, tiêu các thuốc độc. Phật bảo các La-sát nữ: –Hay thay, hay thay! Các người chỉ ủng hộ người thọ trì tên kinh Pháp Hoa thôi, phước đức cũng không lường được rồi huống chi còn ủng hộ người thọ trì cúng dường đầy đủ quyển kinh, hoa hương, chuỗi ngọc, hương bột, hương xoa, hương dốt, phướn lọng, kỹ nhạc, thắp các thứ đèn như đèn nến, đèn dầu, các thứ đèn dầu thơm, đèn dầu hoa Tô mô na, đèn dầu hoa Chiêm-bặc, đèn dầu hoa Bà-sư-ca, đèn dầu hoa Ưu-bát-la, trăm ngàn thứ cúng dường như vậy. Cao Đế, các ngươi cùng quyến thuộc phải ủng hộ các Pháp sư như vậy. Lúc nói phẩm Đà-la-ni này có sáu vạn tám ngàn người được Vô sinh pháp nhẫn.  <詞 id="83085223">Phẩm 27: DIỆU TRANG NGHIÊM VƯƠNG BẢN SỰ Bấy giờ Phật bảo đại chúng rằng: –Thuở xưa cách đây vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ kiếp số không thể nghó bàn, có Phật hiệu Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Như Lai, Ứng Cúng, chính Biến Tri. Nước tên là Quang Minh Trang Nghiêm, kiếp tên Hỷ kiến. Trong pháp hội của Phật đó có một nhà vua tên Diệu Trang Nghiêm, phu nhân của vua đó tên là Tịnh Đức có hai người con, một tên Tịnh Tạng, hai tên Tịnh Nhãn. Hai người có sức thần thông lớn, phước đức trí tuệ, từ lâu tu tập đạo Bồ-tát như Thí ba-la-mật, Giới ba-la-mật, Nhẫn nhục ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Thiền ba-la-mật, Trí tuệ ba-la-mật, Phương tiện ba-la-mật, Từ, Bi, Hỷ, Xả cho đến ba mươi bảy phẩm Trợ đạo pháp tất cả đều hiểu rõ thông suốt. Lại được các pháp môn Tam-muội của Bồ-tát như Nhật tinh tú Tam-muội, Tịnh quang Tam-muội, Tịnh sắc Tam-muội, Tịnh chiếu minh Tam-muội, Trường trang nghiêm Tam-muội, Đại oai đức tạng Tam-muội và cũng thông suốt các pháp môn Tam-muội này. Lúc đó, Đức Phật kia vì muốn dẫn dắt vua Diệu Trang Nghiêm và nghó thương chúng sinh nên nói kinh Pháp Hoa này. Bấy giờ Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn hai người con đến chỗ của mẹ, chắp tay thưa mẹ rằng: –Xin mẹ đến hãy đến nơi Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí, chúng con sẽ cùng đi theo gần gũi lễ bái cúng dường. Vì sao vậy? Vì Đức Phật đó nói kinh Pháp Hoa cho tất cả trời và người, nên phải nghe và tin thọ. Mẹ bảo con rằng: –Cha con tin theo ngoại đạo, rất mê đắm pháp Bà-la-môn, các con nên qua thưa cha cùng đi. Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn chắp tay thưa mẹ: –Chúng con là Pháp vương tử mà lại sinh vào nhà tà kiến này! Mẹ bảo con: –Các con nên nghó thương cha các con, hãy vì cha con mà hiện thần thông biến hóa. Nếu cha con trông thấy được ắt lòng sẽ thanh tịnh có thể chịu nghe lời chúng ta mà qua chỗ Phật. Lúc ấy hai người con vì thương cha, bay lên hư không cao bằng bảy cây đa-la hiện các thần thông biến hóa. Ở trên hư không, đi, đứng, ngồi, nằm, trên thân ra nước, dưới thân ra lửa, dưới thân ra nước, trên thân ra lửa, hoặc hiện thân lớn đầy trong hư không rồi lại hiện nhỏ, nhỏ lại hiện lớn, ẩn mất trong hư không, bỗng nhiên hiện trên đất, vào đất như vào nước, đi trên nước như đi trên đất, hiện các thần thông biến hóa như vậy khiến tâm vua thanh tịnh tin hiểu. Bấy giờ, người cha thấy các con có sức thần thông như vậy, lòng vui mừng được việc chưa từng có, chắp tay hướng về các con mà nói rằng: –Thầy của các con là ai? Các con là đệ tử của ai? Hai người con thưa rằng: –Đại vương! Đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí kia hiện nay đang ngồi trên pháp tọa dưới cây Bồ-đề bảy báu nói kinh Pháp Hoa rộng rãi cho tất cả trời, người trong thế gian. Đó là Thầy chúng con. Các con là đệ tử. Người cha bảo các con: –Ta nay cũng muốn ra mắt Thầy của các con. Ta nên cùng đi. Khi đó hai người con từ trên không trung xuống, đến chỗ mẹ chắp tay thưa mẹ rằng: –Phụ vương nay đã tin hiểu, có thể phát tâm Vô thượng chính đẳng chính giác. Chúng con đã vì cha làm việc Phật sự rồi, xin mẹ bằng lòng cho chúng con xuất gia tu hành Phật đạo nơi Đức Phật kia. Lúc đó hai người con muốn làm rõ lại ý mình, nói bài kệ thưa mẹ: Xin mẹ cho các con Xuất gia làm Sa-môn. Chư Phật rất khó gặp, Chúng con theo Phật học, Như hoa Ưu-đàm-bát, Gặp Phật còn khó hơn, Khỏi các nạn cũng khó, Xin cho con xuất gia. Người mẹ liền bảo: –Mẹ cho các con xuất gia. Vì sao? Vì Phật khó gặp. Bấy giờ hai người con thưa cha mẹ rằng: –Hay thay cha mẹ, xin hãy qua chỗ Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí để gần gũi cúng dường! Vì sao vậy? Vì Phật khó gặp, như hoa Ưu-đàm-bát-la, như rùa một mắt gặp được bọng cây nổi. Thế mà chúng ta nhờ phước đời trước sâu dày nên sinh ra đời gặp Phật. Xin cha mẹ cho chúng con được xuất gia. Vì sao vậy? Vì chư Phật khó gặp, thời cơ gặp được cũng khó. Lúc đó nơi hậu cung của vua Diệu Trang Nghiêm có tám vạn bốn ngàn người đều có thể thọ trì kinh Pháp Hoa này. Bồ-tát Tịnh Nhãn từ lâu thông đạt Pháp hoa Tam-muội. Bồ-tát Tịnh Tạng từ vô lượng trăm ngàn vạn ức kiếp đã thông đạt pháp môn Ly chư ác thú Tam-muội, nên muốn làm cho tất cả chúng sinh thoát ly các đường ác. Phu nhân nhà vua được pháp môn Chư Phật tập Tam-muội, có thể biết được tạng pháp bí mật của chư Phật. Hai người con dùng sức phương tiện khéo léo hóa độ vua cha như thế, khiến người cha sinh lòng tin hiểu yêu mến Phật pháp. Bấy giờ, vua Diệu Trang Nghiêm cùng quần thần quyến thuộc, phu nhân Tịnh Đức cùng các thể nữ quyến thuộc nơi hậu cung, hai người con của vua, cùng bốn vạn hai ngàn người cùng nhau qua chỗ Đức Phật, đến nơi đầu mặt làm lễ dưới chân, đi quanh Phật ba vòng rồi đứng qua một bên. Lúc đó Đức Phật vì nhà vua nói pháp, chỉ dạy làm việc lợi ích vua rất vui lòng. Bấy giờ, vua Diệu Trang Nghiêm cùng phu nhân cởi chuỗi ngọc nơi cổ, giá trị trăm ngàn, rải trên Đức Phật. Chuỗi đó hóa ra một cái đài có bốn trụ ở giữa hư không, trên đài có giường báu trải trăm ngàn vạn Thiên y, trên có Phật ngồi kiết già phóng hào quang lớn. Lúc đó, vua Diệu Trang Nghiêm nghó rằng: “Thân Phật tốt đẹp đặc thù ít có, thành tựu sắc thân vi diệu bậc nhất.” Bấy giờ, Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí bảo bốn chúng: –Các người trông thấy vua Diệu Trang Nghiêm chắp tay đứng trước ta đó không? Vị vua này ở trong pháp ta làm Tỳ-kheo siêng năng tu tập các pháp trợ đạo, sẽ được thành Phật hiệu Ta-la Thọ Vương, nước tên Đại quang, kiếp tên Đại cao vương. Phật Ta-la Thọ Vương kia có vô lượng chúng Bồ-tát và vô lượng Thanh văn, nước đó bằng phẳng. Công đức là như vậy. Vua Diệu Trang Nghiêm liền giao nước cho em, rồi cùng phu nhân, hai con và các quyến thuộc xuất gia tu hành trong Phật pháp. Vua xuất gia rồi trong tám vạn bốn ngàn năm thường siêng tinh tấn tu hành kinh Diệu Pháp Liên Hoa, sau khi trải qua thời gian này được pháp môn Nhất thiết tịnh công đức trang nghiêm Tam-muội. Rồi bay lên hư không cao bảy cây Đa-la mà bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Hai người con của con đây đã làm Phật sự, dùng thần thông biến hóa thay đổi tâm tà của con làm cho con được an trụ trong Phật pháp, được thấy Thế Tôn. Hai người con này là Thiện tri thức của con, vì muốn phát khởi căn lành đời trước lợi ích cho con nên mới sinh vào nhà con. Lúc đó Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí bảo vua Diệu Trang Nghiêm: –Đúng vậy, đúng vậy, như lời ông nói! Nếu có thiện nam, thiện nữ nào trồng căn lành thì đời đời được gặp Thiện tri thức. Vị Thiện tri thức này hay làm Phật sự chỉ dạy lợi ích khiến được vào đạo Vô thượng chính đẳng chính giác. Đại vương nên biết, vị Thiện tri thức đó là nhân duyên lớn, giáo hóa dìu dắt làm cho được thấy Phật, phát tâm Vô thượng chính đẳng chính giác. Đại vương! Có thấy hai người con này không? Hai người con này đã từng cúng dường sáu mươi lăm trăm ngàn vạn ức na-do-tha hằng hà sa chư Phật, gần gũi cung kính, thọ trì kinh Pháp Hoa nơi chư Phật, nghó thương chúng sinh tà tâm mà làm cho trụ trong chính kiến. Vua Diệu Trang Nghiêm liền từ không trung xuống bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Như Lai rất ít có. Do công đức trí tuệ mà nhục kế trên đỉnh chiếu sáng rực rỡ. Mắt Phật rộng dài mà sắc xanh biếc, tướng lông trắng giữa chân mày như ngọc kha nguyệt, răng trắng, bằng thẳng và khít thường bóng sáng, môi đỏ đẹp như quả tần-bà. Lúc đó vua Diệu Trang Nghiêm khen ngợi Phật có vô lượng trăm ngàn vạn ức công đức như thế rồi, nhất tâm chắp tay trước Như Lai mà bạch Phật: –Bạch Thế Tôn, bậc chưa từng có! Pháp của Như Lai thành tựu đầy đủ công đức vi diệu không thể nghó bàn, dạy dỗ tu hành rất hoàn thiện an ổn. Con từ hôm nay không còn làm theo tâm ý mình, không sinh lòng ác, kiêu mạn, nóng giận, tà kiến. Nhà vua thưa Phật lời đó rồi lễ Phật mà lui ra. Phật bảo đại chúng: –Ý các ông nghó sao? Vua Diệu Trang Nghiêm đâu phải người nào lạ, chính là Bồ-tát Hoa Đức hiện đang ở trước Phật. Hai người con vì thương vua Diệu Trang Nghiêm và các quyến thuộc nên sinh vào trong cung vua, nay chính là Bồ-tát Dược Vương và Bồ-tát Dược Thượng đó. Bồ-tát Dược Vương và Dược Thượng này thành tựu các công đức lớn như vậy, đã ở nơi vô lượng trăm ngàn vạn ức chư Phật trồng các cội công đức và thành tựu các công đức lành tốt không thể nghó bàn. Nếu có người biết danh tự của hai vị Bồ-tát này thì tất cả Trời, Người, nhân dân trên thế gian đều nên lễ bái. Khi Phật nói phẩm Diệu Trang Nghiêm Vương Bản Sự này, có tám vạn bốn ngàn người xa lìa bụi trần ô nhiễm, đối với các pháp được Pháp nhãn thanh tịnh.  <詞 id="83085224">Phẩm 28: PHỔ HIỀN BỒ-TÁT KHUYẾN PHÁT Bấy giờ Bồ-tát Phổ Hiền dùng sức thần thông tự tại, oai đức danh văn, cùng vô lượng, vô biên số chúng Đại Bồ-tát không kể xiết từ phương Đông đến. Trong các nước đi ngang qua, tất cả đều rúng động, mưa hoa sen báu, trổi vô lượng trăm ngàn vạn ức các thứ kỹ nhạc. Lại cùng vô số các đại chúng như Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân… vây quanh, đều hiện sức thần thông oai đức đến cõi Ta-bà trong núi Kỳ-xà-quật, đầu mặt lễ Phật Thích-ca Mâu-ni, đi quanh bên phải bảy vòng bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Con ở cõi nước của Phật Bảo Oai Đức Thượng Vương, xa nghe cõi Ta-bà này đang nói kinh Pháp Hoa nên cùng vô lượng, vô biên trăm ngàn vạn ức chúng Bồ-tát đồng đến để nghe thọ, cúi xin Thế Tôn giảng nói cho chúng con. Nếu thiện nam, thiện nữ, sau khi Như Lai diệt độ, làm thế nào có thể có được kinh Pháp Hoa này? Phật bảo Bồ-tát Phổ Hiền: –Nếu thiện nam, thiện nữ thành tựu bốn pháp thì sau khi Như Lai diệt độ sẽ được kinh Pháp Hoa này. 1. Được chư Phật hộ niệm. 2. Trồng các cội công đức. 3. Vào trong chính định. 4. Phát tâm cứu tất cả chúng sinh. Thiện nam, thiện nữ thành tựu bốn pháp như thế, sau khi Như Lai diệt độ, quyết được kinh này. Lúc đó Bồ-tát Phổ Hiền bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Năm trăm năm sau trong đời ác trược, nếu có người thọ trì kinh điển này, con sẽ bảo vệ cho khỏi các đau khổ hoạn nạn, khiến được an ổn, khiến không ai dễ rình tìm làm hại. Dù là ma, ma nam, ma nữ, ma dân, hoặc kẻ bị ma ám, dù là Dạ-xoa, La-sát, Phú-đơn-na, hay Vi-đà-la…, những thứ hại người như thế cũng không dễ gì quấy rối được. Người đó hoặc khi đi, đứng, đọc tụng kinh này, con sẽ cỡi voi chúa trắng sáu ngà cùng đại chúng Bồ-tát đến chỗ người đó mà tự hiện thân cúng dường bảo hộ an ủi tâm người đó và cũng để cúng dường kinh Pháp Hoa. Người đó nếu ngồi tư duy kinh này thì con sẽ cỡi voi chúa trắng hiện ra trước người đó, nếu người đó có quên mất một câu hay một bài kệ, con sẽ dạy lại người đó, cùng đọc tụng làm cho thông thuộc. Lúc bấy giờ, người thọ trì đọc tụng kinh Pháp Hoa được thấy thân con, lòng rất hoan hỷ càng thêm tinh tấn. Do thấy thân con nên liền được Tam-muội và Đà-la-ni tên là Triền Đà-la-ni, trăm ngàn vạn ức Triền Đà-la-ni, Pháp âm phương tiện Đà-la-ni, được các Đà-la-ni như vậy. Bạch Thế Tôn! Nếu đời sau, sau năm trăm năm trong đời ác trược, có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, người tìm cầu, người thọ trì, người đọc tụng, người sao chép muốn tu tập kinh Pháp Hoa này thì trong hai mươi mốt ngày phải một lòng tinh tấn. Mãn hai mươi mốt ngày rồi con sẽ cỡi voi trắng sáu ngà cùng vô lượng Bồ-tát vây quanh, hiện thân hình mà tất cả chúng sinh ưa thấy ra trước người đó để vì người đó nói pháp chỉ dạy lợi ích hoan hỷ, và cũng ban cho chú Đà-la-ni. Được chú Đà-la-ni này thì không có phi nhân nào có thể phá hoại được, cũng không bị nữ nhân quấy rối. Con cũng đích thân thường bảo hộ người đó. Cúi xin Đức Thế Tôn nghe con nói bài chú Đà-la-ni này. Rồi liền ở trước Phật nói bài chú rằng: “A đàn địa, đàn đà bà địa, đàn đà bà đế, đàn đà cưu xá lệ, đàn đà tu đà lệ, tu đà lệ, tu đà la bà để, Phật-đà ba chuyên nễ, tát bà đà la ni a bà đa ni, tát bà bà sa a bà đa ni, tu a bà đa ni, tăng già bà lý xoa ni, tăng già niết già đà ni, a tăng kỳ, tăng già bà già địa, đế lệ a đọa tăng già đâu lược a la đế ba la đế, tát bà tăng già địa, tam ma địa, già lan địa, tát bà đạt ma tu ba lợi sát đế, tát bà tát đỏa lâu đà kiêu xá lược, a nâu già địa, tân a tỳ kiết lợi địa đế.” Bạch Thế Tôn! Nếu có Bồ-tát nào được nghe chú Đà-la-ni này, phải biết đó là sức thần thông của Phổ Hiền. Nếu kinh Pháp Hoa lưu hành trong cõi Diêm-phù-đề mà có người thọ trì thì nên nghó rằng đó đều là sức oai thần của Phổ Hiền. Nếu có người thọ trì, đọc tụng, ghi nhớ hiểu đúng nghĩa kinh, và tu hành như kinh nói thì phải biết là người đó tu hạnh Phổ Hiền, trồng sâu cội lành nơi vô lượng, vô biên chư Phật, được chư Như Lai lấy tay xoa đầu. Nếu chỉ biên chép, người này mạng chung cũng được sinh lên trời Đao-lợi. Bấy giờ, tám vạn bốn ngàn Thiên nữ trổi các kỹ nhạc đến rước, người đó liền được đội mão bảy báu vui hưởng hạnh phúc trong hàng thể nữ, huống chi là thọ trì đọc tụng ghi nhớ hiểu đúng nghĩa kinh và như thuyết tu hành. Nếu có người nào thọ trì, đọc tụng, giảng giải nghĩa kinh, người đó khi mạng chung được ngàn vị Phật đưa tay, khiến không sợ hãi, không đọa vào đường dữ, liền lên trời Đâu-suất sinh vào nơi có Bồ-tát Di-lặc. Bồ-tát Di-lặc có ba mươi hai tướng tốt, có chúng Đại Bồ-tát vây quanh và có trăm ngàn vạn ức Thiên nữ quyến thuộc. Có công đức lợi ích như thế cho nên người có trí phải nhất tâm tự mình chép hoặc bảo người chép, thọ trì, đọc tụng, ghi nhớ đúng, như thuyết tu hành. Bạch Thế Tôn! Con nay dùng sức thần thông bảo hộ kinh này, sau khi Như Lai diệt độ lưu bố rộng rãi trong cõi Diêm-phù-đề không để tuyệt mất. Bấy giờ Phật Thích-ca Mâu-ni khen rằng: –Hay thay, hay thay! Phổ Hiền, ông có thể hỗ trợ kinh này, làm cho nhiều chúng sinh an vui lợi ích. Ông đã thành tựu công đức không thể nghó bàn, lòng Từ bi sâu rộng, từ lâu xa đến nay phát tâm Vô thượng chính đẳng chính giác lại còn có thể thị hiện thần thông thực hành chí nguyện bảo hộ kinh này. Ta sẽ dùng sức thần thông bảo hộ người nào thọ trì danh hiệu Phổ Hiền Bồ-tát. Phổ Hiền! Nếu có người thọ trì, đọc tụng, ghi nhớ đúng, tu tập, sao chép kinh Pháp Hoa này, phải biết người đó như là đã thấy Phật Thích-ca Mâu-ni, như từ miệng Phật mà nghe kinh điển này. Phải biết là người đó cúng dường Phật Thích-ca Mâu-ni, phải biết là người đó được Phật khen ngợi, phải biết là người đó được Phật Thích-ca Mâu-ni lấy tay xoa đầu, phải biết là người đó được Phật Thích-ca Mâu-ni lấy y đắp cho. Người như thế sẽ không còn tham đắm thú vui thế gian, không ưa thích kinh sách ngoại đạo, không thích gần gũi kẻ ngoại đạo và những kẻ ác, những kẻ đồ tể hàng thịt, kẻ chăn nuôi lợn, dê, gà, chó, kẻ săn bắn cùng hạng buôn bán phụ nữ. Người đó tâm ý ngay thật, nghó nhớ chân chính và có sức mạnh của phước đức. Người đó không bị ba thứ độc làm nhiễu hại, cũng không bị tính ganh ghét, ngã mạn, tà mạn, tăng thượng mạn làm nhiễu hại. Người đó thiểu dục tri túc, có thể tu hạnh Phổ Hiền. Phổ Hiền! Sau khi Như Lai diệt độ, năm trăm năm sau nếu có người nào thấy người thọ trì, đọc tụng kinh Pháp Hoa thì phải nghó rằng người này chẳng bao lâu sẽ đến đạo tràng, phá diệt chúng ma, thành Vô thượng chính đẳng chính giác, chuyển pháp luân, đánh trống pháp, thổi pháp loa, mưa pháp vũ, sẽ ngồi trên pháp tòa Sư tử giữa đại chúng trời và người. Phổ Hiền! Nếu ở đời sau có người thọ trì, đọc tụng kinh điển này, người đó không còn đam mê y phục, giường nằm, thức ăn uống nuôi sống, sở nguyện điều gì đều không hư ảo, được phước báo đó ngay trong đời hiện tại. Nếu có người khinh chê bảo rằng: “Ngươi là đồ điên, làm những chuyện vô ích, chẳng được lợi gì.” Tội báo đó sẽ bị đời đời không có mắt. Nếu có người khen ngợi cúng dường thì sẽ được quả báo ngay trong đời hiện tại. Còn nếu như thấy người thọ trì kinh này mà nói xấu người ấy, cho dù thật hay không thật, người này sẽ mắc bệnh hủi lác ngay trong đời hiện tại. Nếu khinh cười người thọ trì kinh này sẽ đời đời thưa răng thiếu răng, môi xấu, mũi xẹp, tay chân cong quẹo, mắt lé, thân thể hôi hám bẩn thỉu, ghẻ lở máu mủ, bụng ỏng, hơi thở ngắn cùng các bệnh tật ngặt nghèo. Cho nên Phổ Hiền, nếu thấy người thọ trì kinh điển này phải từ xa đứng dậy nghênh đón, phải như kính Phật. Lúc Phật nói phẩm Phổ Hiền Bồ-tát khuyến phát này có hằng hà sa vô lượng, vô biên Bồ-tát được trăm ngàn vạn ức pháp Triền Đà-la-ni, các Đại Bồ-tát như vi trần trong tam thiên đại thiên thế giới đầy đủ đạo hạnh Phổ Hiền. Lúc Phật nói kinh này, Phổ Hiền cùng các Bồ-tát như Xá-lợi-phất… các hàng Thanh văn và Trời, Rồng, Nhân phi nhân… tất cả đại chúng đều rất vui mừng lãnh thọ lời Phật dạy rồi làm lễ lui ra. <卷 id="83085225">