<經 id="n261">Kinh Đại thừa Lý Thú Lục Ba-la-mật-đa Hán dịch: Tam tạng Bát-nhã, người nước Kế Tân. <卷 id="82881913">Quyển 1 <詞 id="82881914">Phẩm 1: Quy y Tam bảo Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ Đức Thế Tôn ở tại tinh xá Trúc lâm Ca-lan-đa-ca, thuộc thành Vương xá. Khi ấy, có chúng Đại Bồ-tát trụ trong địa vị Thập địa không thoái chuyển và đã đầy đủ trọn vẹn mười Ba-la-mật. Lại có chúng đại Bí-sô đều chứng A-la-hán, diệt trừ các lậu, không còn phiền não và tự mình đã chứng với tâm hoàn toàn giải thoát, tuệ hoàn toàn giải thoát. Lại có vô số loài hữu tình đều phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Bấy giờ, Đại Bồ-tát Từ Thị ở trong chúng hội nghó như vầy: “Các loài hữu tình trong hội này cùng khổ, cô quạnh, không có chỗ nương tựa, luân hồi trong sinh tử, đắm chìm trong sông ái. Họ muốn vượt qua bờ bên kia giải thoát, nên đến nghe pháp và mong gặp Thế Tôn cầu Nhất thiết trí nhưng không có đủ năng lực.” Nghó thế rồi, Bồ-tát Từ Thị muốn hỏi ý nghóa sâu xa, phát tâm: “Vì sao tất cả hữu tình phát tâm Bồ-đề cầu Phật, thì nhất định phải trải qua ba vô số kiếp không mệt mỏi. Nay ý thú sâu xa, rộng lớn, khó nghó bàn, văn cú tinh xảo viên mãn đủ đầy của Đức Phật Thế Tôn thọ ký cho từng hữu tình có nhân quả khác biệt với hư vọng là mau chóng chứng Vô thượng Bồ-đề.” Lúc ấy Đại Bồ-tát Di-lặc phát tâm như vậy rồi, liền rời khỏi chỗ ngồi đứng dậy sửa soạn pháp phục, thâu nhiếp sáu căn và giữ thân, khẩu, ý nghiệp thanh tịnh. Sáu căn ấy là chỗ sinh ra trăm phước và tám mươi vẻ đẹp diệu tướng trang nghiêm. Trải qua ba vô số kiếp mà được tròn đầy như vậy. Thân ấy được trang nghiêm bằng trăm ngàn vạn tướng mặt trời của Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật-đa… làm cho tất cả hữu tình chiêm ngưỡng không biết chán. Lúc sắp thành Vô đẳng đẳng Phật quả Bồ-đề. Bồ-tát dùng thân như vậy, gieo năm vóc sát đất lạy dưới chân Phật. Lại dùng tay được trang nghiêm bởi vô lượng công đức, chắp tay giống như hoa sen mới nở rồi cung kính bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Chỉ trong một niệm mà Như Lai Thế Tôn có thể biết tâm quá khứ, vị lai, hiện tại của tất cả chúng sinh. Có hữu tình nhân lúc thưa hỏi mà được tâm thanh tịnh hoặc có hữu tình lúc được thọ ký, chứng quả Tu-đà-hoàn cho đến quả A-la-hán, Bích-chi-phật, hoặc được thọ ký Vô thượng Bồ-đề. Do nghóa này nên con thưa hỏi Như Lai. Cúi xin Thế Tôn hãy phân biệt giải bày. Thế Tôn là người dẫn dắt để hữu tình ba đời làm chỗ nương tựa. Hoặc có hữu tình hành hạnh Đại thừa thì Thế Tôn làm tâm họ mềm dịu. Cúi xin Thế Tôn Từ bi thương xót, nếu được pháp cam lồ thì con không thọ dụng một mình mà tất cả hữu tình cùng nhau hưởng một vị ấy. Làm thế nào để hữu tình hướng đến con đường chân chánh an ổn của Niết-bàn? Các hữu tình này phải làm gì để đối với Nhất thiết trí không thoái chuyển? Làm sao viên mãn Bố thí ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa? Bát-nhã ba-la-mật-đa là mẹ của năm pháp Ba-la-mật-đa trước và tu tập thế nào để được viên mãn? Nguyện lớn này làm sao phaát khởi? Các hữu tình này tu tập thế nào để đến bờ Niết-bàn bên kia? Cúi xin Thế Tôn phân biệt giải nói. Con vì muốn làm lợi ích an lạc cho hữu tình, làm cho họ được vui vẻ. Khi ấy, Đức Thế Tôn khen ngợi Đại Bồ-tát Từ Thị: –Lành thay, lành thay! Này thiện nam! Nay ông có thể làm lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình nên hỏi nghóa sâu xa như vậy. Ông hãy khuyên các hữu tình tu hành nghiệp thiện, thường vì các hữu tình mà siêng năng tu tập. Nay ông vì các hữu tình mà một lòng rộng lớn dứt sạch mọi xiềng xích để khẩn cầu pháp đạo, ông đem tâm đại Từ bi đó mà trải qua ba a-tăng-kỳ kiếp để viên mãn biển lớn pháp đạo sáu pháp Ba-la-mật-đa. Ông đã gần đạo tràng Bồ-đề là bờ kia Niết-bàn, giống như là sao mai vừa mọc thì ánh sáng mặt trời liền chiếu. Cũng như vậy, nay ông phải làm ánh sáng mặt trời Phật pháp. Ông phải nghe cho rõ, suy nghó thật kỹ ta sẽ vì ông mà phân biệt đầy đủ nghóa thâm sâu ấy. Người có trí như vậy, khéo suy nghó, quán sát trong con đường hiểm nạn của sinh tử không ai có thể vượt qua nếu không có chỗ nương tựa. Giống như chiếc thuyền trong biển lớn, nếu không có thuyền trưởng thì mọi người trong thuyền chắc hẳn là phải bị chìm đắm vì sóng vỗ mạnh làm cho thuyền xoáy tròn, bị phá vỡ và chìm đắm… Khi bị những tai nạn đó, thường lo sợ nên phải tìm người chèo thuyền giỏi nhất và an lành nhất để làm chỗ nương tựa. Lại có hữu tình luôn sợ hãi trong sinh tử cho nên tìm người có năng lực để nương tựa, không bị oán tặc xâm tổn. Dầu oán tặc kia có sức mạnh đến đâu nhưng người kia nương nhờ vào phép vua, nên bọn oán tặc ấy chắc chắn không thể làm hại được. Oán tặc kia đã thấy thế lực như vậy rồi, vónh viễn bỏ tâm thù hận mà đi theo sự giáo hóa chân chánh. Tất cả hữu tình cũng như vậy, mỗi mỗi đều nghó rằng: “Ai có thể làm chỗ nương tựa cho ta để trừ những nguy hại ấy, làm cho ta được an lạc? Năm đường trong ba cõi này là: Trời, Rồng, Dạ-xoa, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân và Phi nhân… tìm cầu trong số đó nhưng không có ai có thể làm chỗ nương tựa. Vì sao vậy? Vì chư Thiên đó tự mình chưa thoát khỏi xiềng xích sinh tử, còn bị phiền não trói buộc luân hồi trong ba cõi, chịu vô lượng, vô biên khổ não, ăn nuốt sợ hãi, bị lưới tham dục quấn chặt thì làm sao có thể làm chỗ nương tựa cho ta! Lại nữa, chư Thiên… thường mặc những y phục chiến đấu bằng giáp sắt mà tâm luôn ôm mối lo sợ A-tu-la, huống gì loài người và các loài khác! Lấy đó mà quán sát ba cõi sáu đường thì không ai có khả năng cứu bạt ta. Cho nên ta phải quay về nương tựa Phật, Pháp, Tăng. Ngoài Phật, Pháp, Tăng ra, không ai có thể cứu hộ ta cả.” Tất cả hữu tình muốn cầu Vô thượng Bồ-đề, Niết-bàn an lạc thì cần phải quay về nương tựa ba ngôi báu: Phật, Pháp, Tăng. Nhờ đó mà khiến cho hữu tình quay về Phật, Pháp, Tăng. Khi ấy, Đại Bồ-tát Từ Thị thưa Phật: –Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Phật, Pháp, Tăng tam bảo? Thế nào là quy y? Phật dạy Từ thị rằng: –Ngôi Phật bảo có hai: đó là thân của Phật và đức của Phật. Thân Phật nghóa là Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Về quá khứ đã trải qua vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ kiếp không tiếc thân mạng, siêng năng tu tập lục độ vạn hạnh viên mãn, ngồi tòa Kim cang dưới gốc Bồ-đề, chiến thắng quân ma, đoạn trừ các kết sử, chứng được Nhất thiết trí, thành Đẳng chánh giác, đầy đủ các công đức vi diệu như vậy nên gọi là Phật. Còn về đức của Phật, tức là trong thân của Phật đầy đủ mười Lực, bốn Vô sở úy, mười tám pháp Bất cộng, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, ba pháp môn giải thoát, ba thị đạo, sáu thần thông, tùy tâm Tam-ma-địa, bốn trí, hai trí, lìa bỏ tri kiến, đoạn phiền não chướng và sở tri chướng, lìa các tập khí, vô công dụng đạo mà lại biến hóa như như. Hoặc xa hoặc gần, đi đứng tự tại không bị chướng ngại. Một hạt cải có thể dung chứa vô lượng núi Diệu cao. Chư Phật Như Lai đều đầy đủ vô lượng, vô biên công đức như vậy. Thọ mạng tự tại từ một kiếp đến vô lượng kiếp không có tổn giảm, ở trong cảnh thần thông biến hiện, qua lại tùy ý tự tại không hề có chướng ngại. Chư Phật Thế Tôn đi qua thành ấp, xóm làng, trước tiên chiếu ánh sáng màu vàng ròng vi diệu rực rỡ khắp nơi đó. Chúng sinh nơi ấy bắt gặp được ánh sáng này, nếu ai có thân bệnh, tâm bệnh thì đều lành khỏi. Khi lửa tâm dập tắt thì thân được mát mẻ, người lưng gù thì thẳng ra, người què đi được, người mù được thấy, người điếc được nghe, người câm được nói, người tâm loạn được bình tâm, bị quỷ mị, vọng lượng điên cuồng bắt giữ đều được dẹp trừ, trần truồng được áo quần mặc, người tâm kiêu mạn được khiêm nhường, người sầu não được an ổn, người lạc đường được đường chính, người đói khát được ăn uống, bị tù đày được tự do, người sợ hãi được không sợ; gò đống, hầm hố, núi đồi đều bằng phẳng giống như bàn tay. Nhà cửa nhỏ thấp tự nhiên cao lớn, đường sá nhỏ hẹp đều rộng rãi. Chợ búa làng quê tự nhiên khai thông, ô uế bất tịnh tức thời thơm tho. Gai góc, muỗi độc, gạch ngói, cát đá đều biến mất. Ánh sáng mặt trời chiếu tỏa không có nóng độc. Gió thoảng nhè nhẹ không có bụi đất, âm thanh của các loài chim: Bạch hạc, Khổng tước, Anh võ, Xá-lợi, Ca-lăng-tần-già, Ca-chỉ-la, Ca-na-la, Mạng mạng… phát ra hòa nhã. Voi, ngựa, trâu, dê, bò, trâu đuôi dài, trâu rừng, trâu nước, mỗi loài đều kêu tiếng rất hay, đàn không hầu, ống tiêu, ống sáo, đàn sắc, trống… những nhạc khí này không đánh mà tự kêu, và những thứ khác tinh xảo khó tìm, đều do thần thông biến hiện. Những việc hiếm có như vậy càng ngày càng đổi thay thù thắng hơn, đó là đều nhờ sức oai thần của Như Lai. Có chúng sinh nào nghi ngờ Phật Thế Tôn và công đức của Phật có một có khác thì nên nói với họ rằng: Phật và công đức của Phật không một không khác. Giống như lửa, đèn, dầu, tim đèn và sánh sáng không một không khác. Nếu lìa dầu, tim đèn thì không có ánh sáng của đèn. Nếu nói ánh sáng đèn lìa dầu và tim đèn thì chỗ mà ánh sáng chiếu đều phải bị đốt cháy. Công đức và thân Phật lại cũng như vậy. Thân vi diệu này là công đức Phật, là Pháp thân vô lậu, là nơi nương tựa bình đẳng của mình và người. Nhưng thân Phật này chẳng phải là thể tánh. Nếu lìa thể tánh này, ngoài ra không có Pháp thân nào khác. Nếu thể tánh này đồng với vật bên ngoài thì có tướng bốn đại, cho nên phải biết thân Phật chẳng phải có tướng, chẳng phải không có tướng. Nếu chẳng phải có tướng thì đồng với đại hư không, đồng đại hư không là tánh, là thường, không có phương tiện nào có thể đi qua được. Vì tự tánh vốn thanh tịnh, không nhiễm, không vướng mắc, sâu xa vô lượng không hề biến đổi, vi diệu tịch tónh, khó hiểu, khó so sánh. Đầy đủ công đức chân thường không hề hạn hữu, dứt hẳn các hý luận, chỉ có Phật mới chứng biết, chứ không ai có thể biết được, cũng không ví dụ nào so sánh được. Từ Thị nên biết! Thân này là tướng Pháp thân của hằng hà sa chư Phật ở quá khứ, hiện tại, vị lai. Báo thân của Phật nghóa là chư Như Lai đã trải qua ba vô số kiếp tu tập vô lượng tư lương phước tuệ nên được vô biên công đức chân thật, tướng tốt các căn thường trụ bất biến, trí tuệ sáng suốt biến khắp pháp giới, đều do căn lành vô lậu xuất thế mà có. Nó chẳng thể nghó bàn, vượt qua trí tuệ thế gian vì làm thuần thục các hữu tình mà được hiện ra tướng này để diễn pháp vô tận làm lợi ích vô biên. Từ Thị nên biết! Đây là báo thân viên mãn của Như Lai. Hóa thân là tùy theo các hữu tình mà biến hóa, hiện ra vô lượng vô số hóa thân Phật. Thân biến hóa đó hoặc có ở địa ngục thì hiện thân của địa ngục để độ các hữu tình nơi đó thoát khỏi khổ, đem Chánh pháp để hướng dẫn họ phát tâm Bồ-đề, sau đó sinh vào cõi trời, người, hưởng sự vui sướng thù thắng, có lòng tin ưa sâu sắc với Phật pháp, chứng được Phật pháp từng phần và đạt được quả Thánh đạo. Hoặc sinh vào ngạ quỷ để giáo hóa hữu tình ở đó làm cho họ thoát khỏi sự bức bách của đói khát, đem Chánh pháp giáo hóa để họ phát tâm Bồ-đề, liền sinh lên cõi trời, người hưởng sự sung sướng, thâm nhập Phật pháp, chứng được đạo quả của bậc Thánh. Hoặc hóa làm bàng sinh thì sinh vào cõi đó, hoặc làm thân Ca-lầu-la, hoặc làm thân rồng, sư tử, voi, ngựa, gấu, hổ, sói, sài lang, dã can, chồn, thỏ, trăn, rắn, cá, rùa, ba ba, bạch hạc, khổng tước, phượng hoàng, uyên ương, oanh vũ, xá-lợi… và nhiều thân khác làm cho các hữu tình đó lìa bỏ sự tàn hại lẫn nhau mà đem lòng Từ bi đối với nhau để lìa xa tất cả các sợ hãi. Đem Chánh pháp để chỉ dạy cho họ tin ưa và quay về nương tựa Phật, Pháp, Tăng, được sinh lên cõi trời, người được hưởng những sự sung sướng, đắc Phật pháp từng phần, chứng đạo quả bậc Thánh. Hoặc hóa làm hữu tình ở quốc độ khác, hoặc những nơi không có ánh sáng mặt trời, mặt trăng chiếu đến được. Tất cả mọi nơi mọi chỗ không có ánh sáng Phật pháp như vậy thì hóa thân chư Phật thị hiện để kiến lập Chánh pháp để các hữu tình quay về Phật, Pháp, Tăng, cạo bỏ râu tóc, thọ giới cấm của Phật, làm Bí-sô và Bí-sô-ni, hoặc làm Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di xây dựng Tăng phường, hộ trì Chánh pháp, làm yên ổn cho vô lượng vô số chúng sinh, đưa trời, người đến bờ kia Niết-bàn, chứng đắc quả Phật. Hoặc sinh lên cõi trời thì hóa thành hữu tình ở cõi đó, khiến họ xa lìa năm dục, tâm không đắm trước, dùng Chánh pháp dắt dẫn họ phát tâm Bồ-đề, quay về Phật, Pháp, Tăng, nhập sâu vào Chánh pháp, an trí vào Niết-bàn, chứng quả giải thoát. Hoặc sinh cõi người thì hiện ra trong dòng họ Thích ở chốn vương cung, dùng phương tiện khéo léo để giáo hóa các hữu tình, đoạn trừ phiền não, sầu ưu, sinh, già, bệnh, chết trong ba cõi, cho nên hiện ra cảnh vượt thành xuất gia, lấy cỏ Cát tường lót ngồi dưới cây Bồ-đề, ngồi ở đạo tràng tòa bằng Kim cang, chiến thắng quân ma, thành Đẳng chánh giác. Vì giáo hóa hữu tình nên chuyển bánh xe pháp, phóng ánh sáng lớn chiếu khắp tất cả thế gian, tự lợi và lợi tha đều viên mãn. Hoặc hiện tịch tónh nhập đại Niết-bàn. Đó gọi là Hóa thân Phật. Tất cả vô lượng, vô biên phương tiện khéo léo như vậy đều là do thần lực tự tại của Như Lai. Như vậy, tức là thể ba thân không có tướng sai khác. Bấy giờ Đức Thế Tôn dạy Đại Bồ-tát Từ Thị rằng: –Này thiện nam! Ý ông thế nào? Nếu thiện nam, thiện nữ nào quy y Phật, thì phải quy y Pháp thân thanh tịnh của Như lai. Nếu muốn cầu Pháp thân Phật nên phát đại thệ rằng: “Nguyện con và tất cả hữu tình kia phải đắc công đức Pháp thân như vậy.” Vì sao phải phát thệ nguyện ấy? Vì Ứng thân Phật biến thiên chỉ trong sát-na. Hóa thân Phật thì mau chứng nhập Niết-bàn. Còn công đức Pháp thân thì y nhiên thường trụ, do đó mà quy y Pháp thân thanh tịnh. Quy y Pháp thân tức là quy y chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại. Nếu ta lìa bỏ chúng sinh mà thủ Niết-bàn tức là cùng chịu các khổ trong địa ngục. Nếu cùng hữu tình giải thoát thì tuy ở địa ngục không khác gì ở Niết-bàn. Do duyên cớ ấy mà khiến cho chúng sinh quy y Phật, Pháp, Tăng, chứng Niết-bàn an lạc, thể tánh rốt ráo như như, không tăng giảm. Pháp thân như vậy là chân an lạc, cho nên dắt dẫn cho họ quy y Pháp thân Phật. Lại nữa, này Từ Thị! Sao gọi là Pháp bảo thanh tịnh? Pháp bảo cũng có ba hạng: Pháp bảo nghóa là Niết-bàn cam lồ giải thoát, lấy thường, lạc, ngã, tịnh làm thể tánh, tận trừ tất cả sinh, già, bệnh, chết, ưu sầu, khổ não. Sao gọi sinh là khổ? Nghóa là khi cha mẹ giao hợp, hạt giống bất tịnh ở trong thai mẹ, do gió nghiệp lực duy trì trải qua chín tháng ở trong chỗ tối tăm không có ánh sáng, sống trong bào thai ô uế bất tịnh, chỗ tám vạn vi trùng xen lẫn, thở ra hít vào theo mẹ, miệng không thể ăn, mắt không thấy được, đói khát, lạnh nóng, khổ não hành hạ thân tâm… Vô lượng các khổ như vậy làm cho chúng sinh không được tự do, nên gọi là sinh khổ. Mặc dầu bị khổ này nhưng có một đức là tất cả oan gia không thể thấy, cũng không thể nói điều đúng sai xấu ác, không thể nào sánh với Niết-bàn an lạc, vì trong pháp này không có pháp khổ như vậy. Sao gọi là già khổ? Nghóa là chúng sinh từ nhỏ đến già thay đổi theo thời gian, hễ có sự sung mãn ắt có sự suy giảm, gân sức suy tàn, đi đứng run rẩy, tóc bạc, mặt nhăn, tai mắt hôn ám, răng rụng, dung mạo xấu xí, thân tướng ủ rũ, bị người khinh ghét. Có nói ra điều gì thì liền quên mất, mang thân ấy như đang gánh một gánh nặng. Như ngọn đèn sắp hết dầu, không bao lâu nó sẽ tắt, người già cũng vậy, lúc sức lực gần cạn thì không bao lâu sẽ chết. Giống như mặt nạ che phủ cả mặt mày, làm cho các hữu tình, thấy vậy liền sinh tâm trêu đùa mặt nạ; già cũng như vậy, từ xóm này qua xóm nọ, tất cả chúng sinh đội mũ suy già, ai nấy thấy cũng đều trêu chọc. Do nhân duyên này mà bị khổ não. Khi gần chết đến, không có thuốc để chữa trị. Mặc dầu bị khổ đau nhưng không thấy chán, lại cầu đảo thần kỳ mong được sống lâu. Không có gì sánh bằng sự an lạc Niết-bàn, trong pháp Niết-bàn không có pháp lão khổ này. Thế nào gọi là bệnh khổ? Nghóa là địa, thủy, hỏa, phong chống trái nhau, bao nhiêu khổ não dồn kéo vào thân. Tất cả chúng sinh bất cứ già trẻ đều có chung bệnh này. Nào quyến thuộc, họ hàng, vàng bạc, trân châu, năm dục thắng diệu làm an vui thỏa thích thân xác, đều phải xa lìa. Nếu có dạy bảo con cháu thân thích chúng đều không nghe theo, tất cả oán thù, giả trá đều đến bên cạnh. Bệnh khổ như vậy chẳng ai mong muốn, cho nên biết rằng bệnh là khổ lớn. Trong pháp Niết-bàn an vui không có gì sánh bằng, thanh tịnh, vắng lặng, không có pháp bệnh khổ này. Lại nữa, Từ Thị, sao gọi chết là khổ? Nghóa là khi chúng sinh hết thở, thần thức biến mất thì không còn biết gì nữa. Tất cả khổ không gì hơn khổ của cái chết. Cái khổ của sinh, già, bệnh trong năm đường thì có hay không đều chẳng nhất định gì cả, nhưng cái khổ của sự chết thì đều cùng chung. Ví như khổ về nghèo khó có thể tìm vinh hoa, khổ oán thù có thể thương yêu, còn khi khổ của chết đến thì bất cứ già, trẻ, ngu si, trí tuệ, sang hèn… tất cả đều phải bỏ lại đằng sau. Xả bỏ thân này rồi vào chỗ tối tăm thì áo quần, ngọa cụ… tất cả tài sản không có gì dùng được, trần trụi mà đi, lại không có bạn bè, của cải, không tránh khỏi sự chia lìa, có kêu la cũng vô ích. Than ôi! Vô thường có thể làm nguy hại như thế này ư! Giàu sang, quê mùa, không lựa thân; thù. Chúng sinh trong ba cõi không ai có thể tránh khỏi được, tất cả đều bị cái chết trừng phạt, làm sao mà có thể cứu vãn được! Giả sử có vua Chuyển luân, sức Na-la-diên cũng đều bị bắt sống. Nên biết sự khổ của cái chết là vô lượng, vô biên. Lấy đó mà quán sát thì chết là nỗi khổ lớn. Không gì so sánh được trong pháp Niết-bàn giải thoát, tịch tónh an vui, không hề có cái khổ ấy. Giống như có người bị chìm trong sóng biển, được cứu vớt lên núi cao thì không còn sợ hãi gì nữa. Chúng sinh cũng vậy, thường bị chìm đắm trong dòng nước dữ sinh tử, được lên núi Niết-bàn, lìa khỏi sợ hãi sinh tử. Cũng như trời mưa tẩy sạch đi những chướng ngại nóng bức, bụi dơ, mọi người an vui, thân tâm mát mẻ, trăm cây cỏ tốt tươi, hái được nhiều hoa quả. Mưa pháp của Như Lai cũng vậy, diệt trừ tất cả phiền não bức bách, làm cho chúng sinh mát mẻ, an vui, giải thoát, làm phát triển tất cả căn lành bạch tịnh, thành tựu đạo quả, chứng Niết-bàn. Do nhân duyên này, chư Phật Thế Tôn xả bỏ thân vô thường mà chứng Niết-bàn. Bấy giờ Thế Tôn muốn tuyên lại nghóa này mà nói kệ: Bản thể Như Lai là Pháp thân Thanh tịnh giải thoát đồng chân đế Như mặt trời không lìa ánh sáng Công đức Như Lai là Niết-bàn. Chân ngẫ và Phật không sai khác Là chỗ hữu tình đều nương tựa Sinh tử, Niết-bàn chỉ là một Tánh ấy không hoại, không tạo tác Dơ sạch, tánh như như, không khác Chỉ Phật Thế Tôn mới hiểu rõ. Chúng sinh đều có Như Lai tạng, Mà hiện Tam bảo nơi thế gian, Tất cả hữu tình nhập trí Phật, Vì tánh thanh tịnh không sai khác. Phật và chúng sinh tánh như nhau, Phàm phu thấy khác, Thánh thì không Tất cả chúng sinh vốn thanh tịnh, Như Lai ba đời đều diễn nói. Tánh ấy cấu tịnh vốn là một Chúng sinh với Phật nào sai khác Hư không trùm khắp không phân biệt Tâm tánh bình đẳng cũng như vậy. Ví như cảnh giới của chúng sinh Khắp cả hư không, bị sinh diệt Các căn sinh diệt cũng như vậy Ở cảnh giới vô vi cũng thế. Ví như lửa, không cháy hư không Sinh tử chẳng mất tánh vô vi Đất, lửa, gió nương nhau luân chuyển Hư không không có chỗ nương tựa Ba khoa: uẩn, xứ, giới cũng vậy, Luôn ở nghiệp chủng tánh phiền não, Nghiệp, phiền não ấy trụ ở đâu? Thường ở nguồn vọng tưởng vô minh. Tâm vọng tưởng thường ở chỗ nào? Luôn ở vô vi tâm thanh tịnh Uẩn, xứ, giới chỉ là giải bày Tánh của các pháp là vô trụ Nghiệp, hoặc nương nhau như đất, nước Vọng tưởng động chuyển như gió thổi Tâm tánh vốn tịnh như hư không, Vọng tưởng là không, không thật có, Khổ nghiệp phiền não theo vọng sinh Nghiệp, khổ trở lại nhân phiền não Hoặc, nghiệp tuần hoàn không cố định Không nhân, không duyên, không hội họp Không sinh, không diệt, tánh không tịch Bản thể sáng suốt, trí thanh tịnh Tự tánh không sinh, không biến đổi Nhưng mây phiền não vô minh che Như mắt mờ thấy hai mặt trăng Chúng sinh nhị chấp cũng như vậy. Phiền não giống như ong hút mật Mật ấy dụ cho Như Lai tàng Mật ấy bị bu quanh đậu Người trí giữ thân để lấy mật, Sáu độ Vô tướng làm phương tiện Để chứng được thân pháp giới ấy. Giống như ngũ cốc xay chưa sạch Không đưa người khác làm thức ăn Cám phiền não Bồ-tát chưa sạch Không thể cho người cơm cam lồ. Người đi rớt của báu chỗ dơ Trải qua vạn năm không hư hoại Thiên nhãn thấy của báu vẫn còn Nhặt lấy lau chùi dùng tùy ý. Phật thấy chúng sinh tánh chỉ một Vì muốn tẩy trừ dơ phiền não Lấy cam lồ Đại thừa làm nước Rửa sạch bụi trần, hiện tánh Phật. Giống như ngũ cốc mới nẩy mầm Gạo có hay không chưa chắc chắn Phật tánh không lìa cái hữu, vô Chỉ Phật tự chứng rõ phương tiện. Tự tánh Pháp bảo hằng thanh tịnh Chư Phật Thế Tôn nói như vậy. Bị khách trần phiền não che lấp, Như mây che khuất ánh mặt trời Pháp bảo vô cấu, đức đầy đủ Thường, lạc, ngã, tịnh đều viên mãn. Làm sao cầu pháp tánh thanh tịnh Trí vô phân biệt mới chứng biết Giống như ao trong không dơ bẩn Hoa sen trong đó thơm, không nhiễm, Như nhật thực rồi lại chiếu sáng, Như mặt trời thoát khỏi mây che, Công đức thanh tịnh trang nghiêm khắp Tẩy trừ phiền não quang minh hiện. Đức Phật dạy: –Từ Thị nên biết! Pháp bảo thứ nhất là pháp bảo giải thoát của Đại Bát-nhã. Này Từ Thị! Pháp bảo thứ hai tức là các công đức thắng diệu của giới, định, tuệ. Đó là ba mươi bảy pháp Bồ-đề phần: bốn Niệm xứ, bốn Chánh đoạn, bốn Nhiếp pháp, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác chi và tám Thánh đạo. Ba mươi bảy pháp này là phương tiện của Pháp bảo thanh tịnh trước. Phương tiện là gì? Nghóa là nhờ tu pháp này mà chứng Pháp thân thanh tịnh kia… Này Từ Thị! Pháp bảo thứ ba là gì? Nghóa là Chánh pháp mà quá khứ vô lượng chư Phật Thế Tôn đã nói, nay ta cũng nói như vậy. Chánh pháp đó là tám vạn bốn ngàn pháp uẩn vi diệu điều phục và thuần thục cho chúng sinh có duyên, làm cho các đại đệ tử như A-nan-đà… một khi nghe vào tai đều ghi nhớ ngay, thâu giữ làm năm phần: 1.Tố-thư-lãm (Kinh). 2.Tỳ-nại-da (Luật). 3.A-tỳ-đạt-ma (Luận). 4.Bát-nhã ba-la-mật. 5.Môn đà-la-ni. Năm kho tàng này để giáo hóa hữu tình, tùy theo người đáng độ mà nói cho họ. Nếu hữu tình nào ưa thích ở núi rừng, chỗ thanh vắng tu thiền định thì nói tạng Tố-thư-lãm cho họ. Hữu tình nào ưa thích học oai nghi, hộ trì Chánh pháp hòa hợp lại thành một vị để Chánh pháp trụ lâu dài thì vì họ mà nói tạng Tỳ-nại-da. Hữu tình nào thích nói về Chánh pháp, phân biệt tánh tướng của các pháp, lần lượt nghiên cứu giáo nghóa thâm áo, rốt cùng thì nói tạng A-tỳ-đạt-ma cho họ. Hữu tình nào thích học trí tuệ chân thật của Đại thừa, lìa các phân biệt, chấp trước ngã và pháp thì nói tạng Bát-nhã ba-la-mật cho họ. Hữu tình nào không thể thọ trì khế Kinh, Luật, Luận, Bát-nhã, hoặc có hữu tình tạo các nghiệp ác bốn trọng, tám trọng, năm tội vô gián, phỉ báng kinh Phương đẳng, bọn Nhất-xiển-đề… tạo các trọng tội, muốn họ được tiêu trừ những tội đó và mau giải thoát, giác ngộ Niết-bàn thì nên nói tạng Đà-la-ni cho họ. Năm tạng pháp này giống như sữa, bơ, bơ sống, bơ chín và đề hồ. Khế kinh như sữa; Luật như bơ, Luận như bơ sống; Bát-nhã Đại thừa như bơ chín; môn Tổng trì như đề hồ. Trong sữa, bơ, dầu thì mùi vị đề hồ là vi diệu số một; vì có thể tiêu trừ các bệnh, khiến cho thân tâm chúng sinh được an lạc. Trong các Khế kinh, môn Tổng trì là đệ nhất, có thể trừ các tội nặng để chúng sinh giải thoát sinh tử, mau chứng Pháp thân Niết-bàn an lạc. –Này Từ Thị! Sau khi ta diệt độ, hãy bảo A-nan-đà thọ trì, tuyên nói tạng Tố-thư-lãm. Ưu-ba-ly thọ trì, tuyên nói tạng Tỳ-nại-da. Ca-đa-diễn-na thọ trì, tuyên thuyết tạng A-tỳ-đạt-ma. Bồ-tát Mạn-thù-thất-lị thọ trì tuyên thuyết Đại thừa Bát-nhã ba-la-mật. Bồ-tát Kim Cang Thủ thọ trì tuyên thuyết các môn Tổng trì sâu xa vi diệu. Các giáo môn này có thể diệt trừ phiền não đêm ngày tăm tối của chúng hữu tình để mau thoát khỏi, mau chứng quả giải thoát. Giống như đèn sáng có thể phá trừ tối tăm để được kiến đạo. Phật cũng như vậy, đuốc trí tuệ có thể chiếu sáng mười điều bất thiện của hữu tình, khiến cho thấy được thiện đạo. Khi nghe pháp này rồi, hữu tình nào xan tham của báu, liền bố thí cho những người nghèo khổ. Những chúng sinh nghiệp ác, nghe pháp này rồi, liền bỏ ác tu thiện. Người sân giận thì nhẫn nhục, người giải đãi thì tinh tấn, người tâm tán loạn thì yên tịnh. Người ngu si thì phát trí tuệ, rồi thì hồi tâm tu các nghiệp thiện. Lại có hữu tình nghe pháp này rồi đóng bít cửa nẻo ác, khai mở đường Niết-bàn, giống như cam lồ, chứng quả giải thoát. Đây là Pháp bảo thứ ba. Với ba Pháp bảo này, tất cả chúng sinh cần phải quy y Pháp bảo vô vi. Sự tối tôn tối thượng trong tất cả các pháp, không gì hơn là vô vi. Vì sao vậy? Vì nó có thể làm chiếc thuyền cứu vớt chúng sinh trong biển khổ sinh tử, nó có thể làm thuốc mầu cam lồ cho chúng sinh, lại là quả sở chứng mà chư Phật Bồ-tát trải qua ba vô số kiếp đã hành lục độ vạn hạnh. Công đức viên mãn của diệu pháp như vậy nên phải quy y Pháp bảo vô vi. Nếu có chúng sinh nào thọ trì kinh nên phát nguyện như vầy: “Con nguyện quy y pháp bảo như vậy. Quy y Pháp rồi, con nguyện cho tất cả chúng sinh trong năm đường cùng phát nguyện như con ngày nay, để chúng sinh an trụ trong pháp công đức này, đưa đến chỗ quý báu chân thật của Niết-bàn. Từ Thị nên biết! Đó gọi là Pháp bảo thứ ba. Này Từ Thị! Tăng bảo chân thật là gì? Tăng bảo cũng có ba: Đệ nhất nghóa Tăng: nghóa là chư Phật, Thánh tăng sống đúng như pháp, không thể thấy, không thể nắm bắt, không thể phá hoại, không thể thiêu đốt, không thể nghó bàn, là ruộng phước tốt lành của tất cả chúng sinh. Tuy là ruộng phước nhưng không có gì nhận, không có gì lấy, vì các pháp công đức thường hằng không biến đổi. Đó là nghóa Tăng thứ nhất. Thánh Tăng: nghóa là Tu-đà-hoàn hướng Tu-đà-hoàn quả, Tư-đà-hàm hướng Tư-đà-hàm quả, A-na-hàm hướng A-na-hàm quả, A-la-hán hướng A-la-hán quả, Bích-chi-phật hướng Bích-chi-phật quả, Bát Đại nhân giác, ba Hiền, mười Thánh. Đó là Tăng bảo thứ hai. Phước điền Tăng: nghóa là Bí-sô, Bí-sô-ni thọ trì giới cấm, đa văn trí tuệ, giống như cây Thiên ý che mát cho chúng sinh. Như đi trong bãi sa mạc hoang vắng, đang lúc khát tìm nước bỗng gặp trời mưa cam lồ rót xuống kịp thời, làm cho đầy đủ, giống như tất cả châu báu đều phát sinh từ trong biển lớn. Ruộng phước Tăng bảo cũng vậy, có thể đem sự an ổn, vui sướng đến cho hữu tình. Tăng bảo này thanh tịnh không nhiễm, có thể diệt trừ những tham, sân, si cho chúng sinh. Như đêm rằm trăng sáng vằng vặc, tất cả hữu tình đều được chiêm ngưỡng. Giống như ngọc ma-ni làm mãn nguyện những điều lành cho tất cả hữu tình. Đó gọi là Tăng bảo thứ ba. Đó là ba Tăng bảo. Tất cả hữu tình làm sao quy y ba nghóa Tăng bảo như thế, nên nói cho họ như vậy để họ quy y Tăng bảo vô vi đệ nhất nghóa đế. Vì sao vậy? Vì vô vi là thường trụ Tăng, mà Tăng bảo này là vô lậu vô vi, là pháp tự chứng, không biến đổi không sai khác. Quy y Tăng bảo vô lậu như vậy có thể diệt trừ tất cả khổ nạn cho hữu tình. Lại nguyện cho hữu tình sẽ đạt được công đức vô lậu như vậy. Khi được pháp này rồi, hãy diễn nói pháp ba thừa để độ thoát hữu tình. Ta được quy y Phật, Pháp, Tăng bảo, không còn sợ hãi khổ trong ba đường ác, cũng không muốn sinh lên cõi trời, người chỉ thề nguyện cứu hữu tình ra khỏi khổ sinh tử. Đó gọi là quy y Tăng bảo. Lại nữa, này Từ Thị! Nếu có chúng sinh nào quy y Tam bảo hãy phát tâm như vầy: “Ta nay đã làm thân này, sinh vào cõi người là được xa lìa tám nạn, điều khó được có thể được, đem phương tiện tốt lành này học tập tất cả pháp nhiệm mầu thù thắng. Nếu ta trái với lời nguyện trên mà không cầu pháp lành là tự dối gạt mình. Cũng như có người chèo thuyền vào biển, đến chỗ châu báu mà lại về tay không. Như vậy, quy y Phật, Pháp, Tăng bảo là phương tiện để thoát khổ. Nếu không quy y, sau này có hối hận cũng không kịp. Đã biết như vậy rồi, nên siêng năng tinh tấn tu tập để lời nguyện mau thành tựu. Khi pháp lành đã thành tựu thì cần phải sám hối tội lỗi trong quá khứ được tiêu trừ. Lại nói như vầy: “Ta từ vô thỉ sinh tử đến nay, thân, khẩu, ý nghiệp đã tạo ra vô lượng, vô biên tội lỗi đều do tâm hư vọng điên đảo mà ra. Đối với các bậc tôn túc như: cha mẹ, Hòa thượng, Sư trưởng, Phật, Pháp, Tăng bảo, mà đã tạo ra các tội, nay đều xin sám hối.” Lại có hai việc tạo ra các tội rất nặng như núi Diệu cao: Một là thương yêu; hai là oán thù. Ở trong sinh tử nguy cấp mà hai loại hữu tình oán, thân kia không thể làm lợi ích được cho chính mình thì nên quán sát khắp cả như vầy: Người kia và ta phải bị tiêu diệt, thì vì sao ta tạo tội này để làm gì? Tất cả hữu tình trong mười phương thế giới tạo ra các nghiệp thiện cùng với bậc Hữu học, Vô học, Độc giác, Thanh văn, đệ tử Phật, tất cả Hiền thánh ta đều tùy hỷ. Lại nữa, từ vô thỉ đã bị luân hồi sinh tử, làm thân trong năm đường, vô lượng oán, thân, ta chưa từng làm được một việc lợi ích nhỏ dầu như sợi lông thì hiện tại, vị lai cũng không thể có được. Từ vô thỉ, ta là oán, thân của người kia mà tạo ra các tội, ta nguyện tự mình nhận lấy, thề không quấy nhiễu tất cả chúng sinh khác. Nếu khi ta gặp hoạn nạn, tìm người thương yêu để đem lòng từ chăm sóc, giúp đỡ ta, xoa bóp, tắm rửa, cung cấp thức ăn uống; đau ốm thì có thuốc thang và nhiều thứ vật dụng khác. Mặc dầu như vậy nhưng cái khổ trong thân ta không ai có thể thay thế được, huống gì trong đời vị lai mà cứu ta ra khỏi được khổ lớn của sinh tử. Trong hiện tại, thân này của ta không nơi nương tựa, huống gì đời vị lai. Thân ta đã như vậy thì hữu tình cũng thế, ta và họ đều không có chỗ cậy nhờ, cho nên quy y chân thật Tam bảo. Vì sao vậy? Vì Tam bảo là thường trụ, giống như trong đường hiểm nạn thì người trí phải tìm người có sức lực để cứu hộ. Chúng sinh cũng vậy, sinh tử hiểm nạn nên quy y Tam bảo để làm người hướng dẫn mới có thể vượt qua biển lớn sinh tử. Nếu ta được như vậy cũng là chủ của mình rồi, vì cứu giúp tất cả chúng sinh khổ nạn, nên phát tâm đại thệ nguyện như vậy. Khi được lòng tin mạnh mẽ rồi, thì ở trước Phật trịch áo bày vai phải, quỳ gối chắp tay xin quy y Phật, Pháp, Tăng bảo. Giống như người nghèo khổ trong thế gian bị mọi người khinh khi, đánh đập, sai khiến, quở mắng, mạ nhục. Bị khinh khi rồi, người kia tìm đến người tôn quý, có thế lực để làm chủ của mình thì sẽ tránh khỏi những khinh khi, mạ nhục ấy. Hữu tình cũng vậy, ai sinh trong đường ác hoặc cõi người, luôn bị các khổ hành hạ thân, vì muốn tránh khỏi sự đau khổ mà quy y Tam bảo thì các khổ ấy đều được tiêu trừ. Đã quy y Tam bảo rồi, lại phát nguyện rằng: “Con nguyện cứu hộ tất cả chúng sinh vượt qua biển sinh tử, để đến bờ bên kia Niết-bàn.” Giống như chủ buôn hướng dẫn các con buôn vượt qua sa mạc hoang vắng hay đường hiểm nạn để đến chỗ bình an. Đạo sư Tam bảo cũng vậy, hướng dẫn hữu tình vượt qua đồng hoang sinh tử để đến Niết-bàn, không còn lo sợ. Từ Thị nên biết! Người phát tâm tu hạnh Đại thừa nên quy y Tam bảo như vậy. Kinh Đại thừa Lý Thú Lục Ba-la-mật-đa <卷 id="82881915">Quyển 2 <詞 id="82881916">Phẩm 2: Đà-la-ni hộ trì quốc giới Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn nói nghóa lý thâm sâu để rõ nghóa chắc thật sáu pháp Ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát. Ngay khi ấy, ở phương Đông có ánh sáng lớn màu vàng ròng rực rỡ chiếu khắp tinh xá Trúc lâm Ca-lan-đa-ca thuộc thành Vương xá, cho đến cả tam thiên đại thiên thế giới đều có màu vàng ròng. ở thế giới này, tất cả ánh sáng của chư Thiên Hộ thế tứ vương Thích Đề-hoàn Nhân cho đến Tha hóa tự tại Thiên vương, Đại phạm Thiên vương và mặt trời, mặt trăng, sao, đèn… không thể nào sánh bằng, trừ hai loại ánh sáng là của chư Phật Thế Tôn và khi Bồ-tát được thọ quán đảnh, còn những thứ ánh sáng khác đều bị che lấp không thể hiển hiện. Lại nữa, sức ánh sáng mặt trời, mặt trăng đều chiếu khắp trong tam thiên đại thiên thế giới. Dù mặt trời, mặt trăng có oai đức lớn, có ánh sáng lớn như vậy, nhưng không thể nào chiếu đến chỗ chúng sinh ở nơi tối tăm. Còn ánh sáng của Phật làm cho hữu tình đều thấy nhau. Tất cả cung điện, nhà cửa, tường vách, núi rừng, cây cỏ, tất cả mọi vật trong thế giới này không thể nào ngăn cản, che lấp ánh sáng của Phật được. Tất cả các núi: Hương sơn, Bảo sơn, Hắc sơn, Vân sơn, Diệu cao sơn, Thiết vi, Đại thiết vi, Mục-chân-lân-đà, Ma-ha Mục-chân-lân-đà, cùng nhiều núi khác, lúc gặp ánh sáng này rồi, ánh chiếu thấu cả trong lẫn ngoài, không có gì làm chướng ngại được. Dưới đến địa ngục A-tỳ, trên đến trời Phi tưởng, Phi phi tưởng đều nhờ ánh sáng này mà chiếu sáng rực rỡ. Tất cả các ánh sáng trong tam thiên đại thiên thế giới như vậy hòa hợp thành một, không có hai tướng. Chúng sinh trong đó, ai gặp ánh sáng này, phiền não tội cấu đều được tiêu trừ, thân tâm an lạc và họ nghó rằng: “Chúng ta nhờ ánh sáng này mà được an lạc.” Khi ấy, trong hội bỗng nhiên có sáu mươi câu-chi hoa sen bằng bảy báu giống như bánh xe, từ dưới đất vọt lên, mùi thơm ngào ngạt, màu sắc tươi đẹp và đủ thứ màu, ai nấy đều thích nhìn. Mỗi mỗi hoa lại có vô số trăm ngàn cánh. Phía trên hư không của chúng hội tự nhiên có lộng quý bằng lưới châu báu vi diệu, kết lại với nhau che khắp cả đại chúng, ai nấy đều vui thích giống như chạm vào áo Ca-gia-lân-để-ca mềm mại, đẹp đẽ. Từ trong những hoa sen ấy tỏa ra mùi thơm khắp cả tam thiên đại thiên thế giới. Tất cả hương thơm của Trời, Rồng, Thần… và tất cả các hương thơm của cây cỏ trong thế gian cũng không sánh bằng hương thơm này. Tất cả hữu tình trong tam thiên đại thiên thế giới đều được xông ướp mùi hương và vui mừng không kềm chế được. Ai nấy đều phát đạo tâm, làm cho tất cả phiền não tội cấu đều tiêu trừ. Lúc ấy, A-nan-đà thấy tướng ánh sáng hiếm có, kỳ lạ đặc biệt chưa từng thấy này, liền từ chỗ ngồi đứng dậy sửa sang lại pháp phục, bày vai phải, quỳ gối chắp tay, thưa Phật: –Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà hiện tướng ánh sáng kỳ lạ này? Ánh sáng và mùi thơm của hoa báu này từ xưa con chưa được nghe thấy. Từ đâu hiện đến điềm lành này? Cúi xin Thế Tôn phân biệt giải nói để cho tất cả chúng hội đây đều nghe biết. Lúc ấy, Đức Thế Tôn dạy A-nan-đà rằng: –Ông nên biết, cách đây về phương Đông có thế giới tên Bất thuấn, ở đó có Đại Bồ-tát tên Vô Tận Tạng cùng sáu mươi câu-chi chúng Đại Bồ-tát cung kính vây quanh, vì phát tâm muốn cầu Bồ-đề nên hiện điềm này. Khi Thế Tôn nói như vậy, mặt đất chấn động sáu cách. Bồ-tát Vô Tận Tạng phóng ánh sáng lớn, hiện đại thần thông, oai đức tự tại, mưa hoa thơm đẹp. Vô lượng chư Thiên dùng nhiều loại âm nhạc nghinh tiếp, cúng dường Bồ-tát ấy. Bồ-tát Vô Tận Tạng cùng sáu mươi câu-chi chúng Đại Bồ-tát đến tinh xá Trúc lâm Ca-lan-đa-ca này, đứng trong hư không cao bảy cây Đa-la, chắp tay cung kính hướng về Phật, đồng thanh nói vang khắp cả tam thiên đại thiên thế giới ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, dùng âm thanh vi diệu nói kệ: Ôi! Bậc Đại Ngộ không nhiễm trước Vô ngại diệu trí, mắt thanh tịnh Trừ ba độc tập khí vô minh Con lễ Vô Đẳng Đại Từ Tôn Xa lìa sợ hãi các lưới nghi Mười Lực, Biện tài, Vô sở úy Tự tại giống như Sư tử chúa Dị đạo tà kiến đều run sợ. Tuệ nhật Như Lai ánh sáng lớn, Chiếu khắp mười phương không chướng ngại Vô minh ám chướng hoặc đã tận Như mặt trời chiếu sáng thế gian. Người đau khổ không nơi nương tựa Sinh, già, bệnh, chết mãi nổi trôi Cúi xin Đại Từ Tôn thương xót Cứu nạn luân hồi trong biển khổ Vô minh điên đảo gốc sinh tử Tất cả vọng tưởng là sóng dữ. Hai chướng trừ xong, trí tự tại, Dạo chơi không nhiễm giống hoa sen Các pháp vô ngã, vốn không tịch Giống như tiếng vang tánh không thật Không làm không thọ, như huyễn hóa Cứu đời thương xót luôn diễn nói. Phật hiểu các pháp như mây nổi Cũng như thác nước chảy rất nhanh, Pháp đời không thật, người ngu học Trí Phật quán rõ đều đoạn trừ, Mắt Phật giống như hoa sen xanh Vượt hơn nhật nguyệt trăm ngàn lần Trời, người ba đời đều khen ngợi. Con lễ Điều Ngự khó nghó bàn Phật đủ vô lượng đức như vậy Độ hết chúng sinh như hằng sa Công đức vô lậu diệu trang nghiêm Cho nên con nay xin kính lạy. Khi ấy, Bồ-tát Vô Tận Tạng cùng sáu mươi câu-chi Đại Bồ-tát dùng kệ vi diệu ca ngợi Như Lai rồi từ trên hư không xuống lạy dưới chân Như Lai và đi nhiễu bảy vòng. Nương theo Thánh chỉ của Phật, tất cả đều đến ngồi kiết già trên hoa sen. A-nan-đà nhờ thần lực của Phật, từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo bày vai phải, quỳ gối chắp tay, bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Bồ-tát Vô Tận Tạng này từ đâu đến đây? Đức Phật trong thế giới ấy hiệu là gì? Cách đây bao xa? Cúi xin Đức Thế Tôn phân biệt giải nói. Lúc ấy, Phật dạy A-nan-đà: –Ông hãy hỏi Đại Bồ-tát Vô Tận Tạng thì Bồ-tát sẽ vì ông mà nói rõ. Lúc ấy, A-nan-đà hỏi Đại Bồ-tát Vô Tận Tạng: –Ngài từ đâu đến? Phật trong thế giới đó hiệu là gì? Cách đây gần hay xa? Xin ngài hãy nói rõ. Lúc ấy, Bồ-tát Vô Tận Tạng hỏi lại: –Ông vẫn còn có tướng đến, đi, chưa bỏ được ư? A-nan-đà nói: –Tôi đã biết nghóa này lâu rồi. Bồ-tát Vô Tận Tạng hỏi: –Ông đã biết rồi sao còn phải hỏi. Như vậy là có hai tâm phân biệt. Nếu nói đến là có nghóa duyên khởi. Nếu nói đi là có nghóa duyên diệt. Chỗ nào không có tướng sinh diệt này? Chỉ quốc độ của tôi là không có tướng đến, đi, sinh, diệt. Nếu không đến, đi là chỗ sở hành của Thánh trí. Nếu có đến, đi tức là tướng sinh diệt của thế gian. Nếu có âm thanh, văn tự cũng là tướng sinh diệt khởi tận của thế gian. Nhưng quốc độ tôi vốn không có văn tự, cũng không có nói tướng sinh diệt. Nếu không sinh diệt tức là cảnh giới sở hành của thị giác Thánh trí, lìa tướng văn tự thì được giải thoát. A-nan-đà thưa Bồ-tát Vô Tận Tạng: –Thưa Thánh giả, tôi không dám hỏi Đại só biện tài về nghóa sâu xa như vậy. Chỉ hỏi chỗ thế giới Thánh giả ở cách đây gần hay xa, và danh hiệu của Phật mà tôi chưa từng nghe. Giống như người thâu thuế ở cửa ải đối với người qua lại, bất luận của cải nhiều ít, có hay không cũng đều hỏi. Thanh văn tôi nay cũng vậy, nghe người khác nói Chánh pháp, hiểu sâu mà tu hành, tự mình cầu Niết-bàn, đó gọi là Thanh văn. Nay tôi thấy pháp Thánh giả nên hỏi Ngài. Sau khi tôi được nghe sẽ ưa thích tu tập để được an lạc, vì tôi muốn làm tăng trưởng pháp Đại thừa, vì tất cả Thanh văn, Độc giác đều từ Đại thừa mà ra. Cho nên tôi hỏi Thánh giả từ đâu đến, cách đây gần hay xa, hiệu Phật là gì? Bồ-tát Vô Tận Tạng trả lời A-nan-đà: –Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở gần đây sao ông không hỏi. Ngài sẽ vì ông mà thọ ký điều này để cho chúng hội này không còn nghi ngờ. Khi ấy, A-nan-đà từ chỗ ngồi đứng dậy sửa lại pháp phục, trịch áo bày vai phải, quỳ gối chắp tay bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Cúi xin Đại Thánh Thế Tôn hãy nói cho con rõ. Nhờ nghe được pháp này mà vô số hữu tình trong hội đây sẽ mặc áo giáp tinh tấn để tu hạnh Bồ-tát. Đức Thế Tôn dạy A-nan-đà: –Nay ông hãy nghe cho rõ, suy nghó thật kỹ, ta sẽ vì ông mà phân biệt diễn nói về gần xa của thế giới Phật kia và danh hiệu công đức trang nghiêm của Phật đó. Phật đó là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác Vô Ngại Vô Trước, đắc trí Nhất thiết trí. Đại chúng các ông nên tín thọ, đừng có nghi ngờ. A-nan-đà bạch Phật: –Bạch Đại Thánh Thế Tôn! Chúng con xin muốn được nghe. Lúc ấy, Đức Thế Tôn bảo A-nan-đà: –Cách đây về phương Đông, qua mười hằng hà sa vi trần thế giới, có một thế giới tên Bất thuấn. Trong thế giới đó có Thế Tôn hiệu Phổ Hiền Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, hiện đang nói pháp Đại thừa. Bồ-tát Vô Tận Tạng từ thế giới đó mà đến đây. Chúng hội của Đức Phật ấy chỉ là Đại Bồ-tát chứ không có danh từ Thanh văn, Bích-chi-phật, huống gì là có thật. Bồ-tát ấy đã tích chứa tịnh nghiệp đã từ lâu; bố thí, điều phục, khéo chế ngự sáu căn, luôn hành hạnh nhẫn nhục không bị chướng ngại, tâm Bồ-đề kiên cố, siêng năng tinh tấn, thành tựu hoàn toàn tịch tónh giải thoát và thành tựu chánh định Tam-ma-bát-đề, thần thông tự tại, đại trí quang minh, tự tại vô ngại, văn tự tinh hoa, Từ, Bi, Hỷ, Xả giống như hư không, có thể đánh bại tà luận dị đạo, chiến thắng quân ma oán thù, dũng mãnh không thoái lui, thành tựu được Phật trí thậm thâm vi diệu. Mười Lực của Như Lai, bốn Vô sở úy, biện tài không đoạn mất, trí tuệ vô ngại, đi sâu vào duyên khởi, có thể lìa bỏ hữu vô, tu hành Trung đạo, không còn ngã và ngã sở, tướng ngã, tướng người, tướng chúng sinh, tướng thọ mạng, người làm, người nhận, người biết, người thấy, đoạn kiến, thường kiến, xa lìa tất cả các kiến vọng chấp, chứng được Đà-la-ni vua của Tố-thư-lãm. Dùng ấn của Như Lai mà ấn quán khắp chúng sinh, kiên cố không xả bỏ, tất cả xem như con một, không có hai tâm, diễn pháp cam lồ như Sư tử hống. Tất cả hữu tình thượng, trung, hạ nghe được pháp này đều được lợi ích, mau chóng an trụ trên con đường chân chánh Niết-bàn. Ba Minh, sáu Thông, đủ tám Giải thoát, nối dòng Tam bảo, hữu, vô đều đoạn tuyệt. Người nhận chức Quán đảnh làm Pháp chủ, có thể hiểu rõ hữu tình, độ người chưa độ, đến đạo tràng ngồi ở gốc Bồ-đề, ngự tòa Sư tử, tự tại không lo sợ, chiến thắng ma oán, có thể hiện thân Phật, đầy đủ tướng tốt, có thể chuyển bánh xe pháp thanh tịnh vô thượng, chỉ toàn Đại Bồ-tát Tăng làm quyến thuộc vây quanh nói pháp làm lợi ích cho hữu tình. Khi nghe Phật nói công đức của chư Đại Bồ-tát, tất cả chúng sinh trong hội rất vui mừng, không thể kềm chế được, liền dùng vô lượng hoa trời Ôn-bát-la, hoa Bát-đặc-ma, hoa Câu-mâu-đầu, hoa Bôn-trà-lợi-ca, hoa Mạn-trà-la, Ma-ha mạn-trà-la và nhiều loại hoa khác mà rải cúng dường Phật cùng Bồ-tát Vô Tận Tạng, sáu mươi câu-chi Đại Bồ-tát và đại chúng. Mọi người hoan hỷ và nói như vầy: –Chúng ta ngày nay được lợi ích lớn, được thấy chúng Đại Bồ-tát này. Nếu chúng sinh ở quốc độ khác nghe ta cúng dường mà gần gũi ta thì cũng được lợi ích. Người nào nghe pháp công đức của Bồ-tát ấy đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác. Khi ấy, ba mươi sáu ức chúng sinh trong hội này đều phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Đức Thế Tôn dạy A-nan-đà: –Thế giới của Phật Bất Thuấn ấy không có các khổ và ba đường ác, cũng không có tên ấy nữa, không có tên gọi năm chúng phạm giới, không có tiếng phiền não suy nghó, không có người nữ ganh tî, keo kiệt, giải đãi, sân nhuế, loạn ý, ngu si, cũng không có chướng ngại và các tập khí, cũng không có tên loại phức tạp của các loại bậc thượng, trung, hạ…, không có chỗ sai khác của ba thừa Phật, Pháp, Tăng bảo bình đẳng một tướng, không có ma, ma dân, dị đạo tà kiến, không có những việc đói, khát, lạnh, nóng, không có tướng ngã, ngã sở, tướng nam nữ và vô vàn tên gọi khác cùng nhau tồn tại. Thế giới đó rộng lớn, trang nghiêm, lấy sáu mươi vạn ức câu-chi cõi Phật làm một cõi Phật. Không có mặt trời, mặt trăng, chỉ dùng ánh sáng của nguyện lực Bồ-tát mà chiếu sáng, mặt đất bằng phẳng như bàn tay, thuần bằng ngọc biếc và nhiều loại châu bảo như Phệ-lưu-ly, mạt-ni châu và vô vàn thứ châu báu khác trang hoàng lẫn lộn. Lại dùng hoa sen xanh để rải lên, hoa sen ấy tươi sáng mềm mại không gì bằng, giống như áo Ca-già-lân-để-ca của trời. Có tám hàng cây bóng rợp với nhau sum suê bao quanh để làm tường vách và được trang hoàng bằng nhiều loại hoa, ở đó không có sắt đá, hầm hố, gò nổng, đất đá, núi hiểm, gai góc độc hại, mà chỉ toàn là vô số núi cao quý báu. Tuy có trời, người nhưng hình tướng giống nhau, không dựa vào những đồ ăn tạp nhạp để nuôi thân, không có những thứ tiểu tiện dơ nhớp bất tịnh, thường dùng Pháp hỷ, Thiền duyệt để làm vị thực. Cõi đó trang nghiêm thanh tịnh, chỉ có bậc Pháp vương, Phật ấy giáo hóa Đại Bồ-tát, không có văn tự và cũng không ngôn thuyết. Khi các Bồ-tát ấy nhận sự giáo hóa, thì liền đến chỗ Phật cung kính chắp tay, mắt nhìn chăm chú chiêm ngưỡng Như Lai mà tự nhiên thành tựu niệm Phật Tam-muội, cho nên thế giới ấy tên là Bất thuấn (tức là nhìn chăm chú). Niệm Phật Tam-muội là gì? Nghóa là chẳng phải do sắc tướng sinh; chẳng phải do thọ, tưởng, hành, thức sinh; chẳng phải do trí tuệ hai đời trước, sau sinh; chẳng phải hiện tại do thấy nghe sinh. Phật dạy A-nan: –Niệm Phật Tam-muội không thể nghó bàn. Đối với Phật pháp không có gì để hành, mà chỉ quán các pháp như thật tướng, không nói, không dạy, không tướng, không tên. Đây gọi là niệm Phật Tam-muội. Bấy giờ Đại Bồ-tát Mạn-thù-thất-lị đứng dậy, bày áo vai phải, quỳ gối chắp tay, cung kính thưa Phật: –Bạch Đại Thánh Thế Tôn! Nếu có thiện nam, thiện nữ nào thọ trì nghóa lý sâu xa của kinh sáu Ba-la-mật-đa thì được bao nhiêu phước đức? Phật dạy: –Nếu thiện nam, thiện nữ nào ở nơi chín mươi ức hằng hà sana-do-tha trăm ngàn chỗ Phật cúng dường cung kính, tôn trọng, khen ngợi, ý ông thế nào? Công đức thiện nam, thiện nữ đó có nhiều không? Mạn-thù-thất-lị thưa: –Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Phật dạy: –Nay ta sẽ vì ông mà phân biệt giảng nói về nghóa đó. Nếu thiện nam, thiện nữ đối với pháp bảo Đại thừa nghóa lý sâu xa của kinh sáu Ba-la-mật-đa này, cho đến một câu, một bài tụng, thọ trì, đọc tụng, ghi chép, giải nói và thực hành theo đó thì công đức này vượt trội hơn công đức trước kia. Vì pháp môn vi diệu sáu Ba-la-mật-đa Đại thừa lý thú chính là mẹ của chư Phật, sinh ra chư Như Lai. Mạn-thù-thất-lị thưa: –Bạch Đại Thánh Thế Tôn! Con muốn ủng hộ đất nước và người thọ trì kinh này, thường ủng hộ và tẩy trừ tất cả chướng ngại nguy nạn mà nói bài bí mật Đà-la-ni. - Thứ nhất chân ngôn là Căn bản thân: Nam-mô Tát phạt vó nê, án phạ di thấp phạt la. - Thứ hai chân ngôn là Tâm: Án mục. - Thứ ba chân ngôn là Đầu: Án mẫu mục. - Thứ tư chân ngôn là Đỉnh đầu: Án yêm ám mục. - Thứ năm chân ngôn là Áo giáp: Án ái mục sa ha. - Thứ sáu chân ngôn là Binh khí: Án lọc mục. Bạch Đại Thánh Thế Tôn! Văn cú Đà-la-ni này là những chi tiết Pháp thân của chư Phật ba đời mà chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai đã tuyên nói. Nếu thiện nam, thiện nữ ở nơi chỗ thanh vắng, mặc áo mới, phát tâm rộng lớn không phân biệt mà đọc tụng trăm ngàn lần, chắc chắn được nghe nhận, không bao giờ quên mất. Nếu thiện nam, thiện nữ thọ trì kinh ấy thì nên biết đó là Pháp sư. Nếu ai khinh chê, xúc phạm Pháp sư này, tức là khinh chê, xúc phạm chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai. Khi ấy, Đức Thế Tôn khen Đại Bồ-tát Mạn-thù-thất-lị: –Lành thay, lành thay! Nay ông nói chân ngôn của chư Phật để làm lợi ích, ủng hộ, thương xót tất cả chúng sinh và tẩy trừ đi các chướng nạn cho họ. Lúc ấy, Đại Bồ-tát Phổ Hiền từ chỗ ngồi đứng dậy, bày áo vai phải, quỳ gối chắp tay, cung kính thưa: –Bạch Đại Thánh Thế Tôn! Con cũng muốn ủng hộ đất nước và người thọ trì kinh này, thường bảo vệ và tẩy trừ chướng nạn cho những chúng sinh nên con nói văn cú bí mật Đà-la-ni: Nam-mô ra hộc đán, Nam-mô tất đà nam, Nam-mô a lị dã nam, Nam-mô ta nộ nam đát địa tha. Án, chỉ rị chỉ rị ni, tất rị tất rị ni, tứ rị tứ rị ni, tứ sất tứ sất ni, ế ê hề đà la ni tam ma sa ha. Bạch Thế Tôn! Văn cú Đà-la-ni này chính là văn chú mà chư Phật ba đời đã tuyên nói. Nếu thiện nam, thiện nữ thọ trì kinh này, nên biết đó là Pháp sư. Nếu ai khinh chê Pháp sư này tức là đã xúc phạm đến chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai. Bấy giờ Đại Bồ-tát Đại Thánh Quán Tự Tại đứng dậy, trịch áo bày vai phải, quỳ gối chắp tay cung kính thưa: –Bạch Đại Thánh Thế Tôn! Con cũng muốn ủng hộ thiện nam, thiện nữ thọ trì kinh này, con luôn bảo hộ họ và quốc độ họ ở để diệt trừ tất cả chướng nạn cho họ mà nói văn cú Đà-la-ni: Nam-mô ta mãn đa một đà nam, đát địa tha. Án rị nhó lê, rị nhó lê, nga la rị nhó lê, giản sá rị nhó lê, vó chỉ lê sa ha. Bạch Thế Tôn! Đà-la-ni này được chư Phật ba đời đã tuyên nói. Nếu thiện nam, thiện nữ nào thọ trì kinh này thì nên biết đó là Pháp sư. Nếu ai khinh chê Pháp sư này tức là khinh chê chư Phật ba đời. Khi ấy, Mạn-trà-la, chư Thiên và Bồ-tát đều tập hợp đầy đủ. Tên các vị ấy là: Kim Cang Tát-đỏa, Kim cang Vương, Kim cang Nhiễm, Kim cang Thiện Tai, Kim cang Bảo, Kim cang Oai, Kim cang Tràng, Kim cang Ái, Kim cang Pháp, Kim cang Lợi, Kim cang Nhân, Kim cang Ngữ, Kim cang Yết-ma, Kim cang Hộ, Kim cang Dược-xoa, Kim cang Quyền, Kim cang Tát-đỏa, Kim cang Bảo, Kim cang Pháp, Kim cang Yết-ma, Kim cang Hỷ Hý, Kim cang Man, Kim cang Ca, Kim cang Vũ, Kim cang Hương, Kim cang Hoa, Kim cang Đăng, Kim cang Đồ Hương, Kim cang Câu, Kim cang Tố, Kim cang Tỏa, Kim cang Linh, Kim cang A-vó-xa… đồng thanh nói Chủng tử Pháp thân Đà-la-ni rằng: Án, mộ khiếm a hồng đát lan, hột rị ố. Chư Đại Bồ-tát này cung kính chắp tay thưa: –Bạch Đại Thánh Thế Tôn! Chúng con nếu thấy người nào thọ trì kinh này, dù một bài tụng một câu, sẽ cúng dường tôn trọng người đó giống như cung kính tôn trọng Như Lai Tỳ-lô-giá-na không khác. Khi ấy sáu Bồ-tát ba-la-mật-đa đầy đủ oai nghi đứng trước Phật tự nói văn cú bí mật Đà-la-ni: 1.Bồ-tát Bố thí ba-la-mật-đa nói chân ngôn: Nam-mô bạt già phạt đế duệ đát rị cầm noa rị, ma ha bát thố mê hồng tố. 2.Bồ-tát Trì giới ba-la-mật-đa nói chân ngôn: Nam-mô bạt già phạt đế duệ hạ ra hạ ra ưu thí lược, nãi dó đê cát lê bát ra một đà hồng phát sất. 3.Bồ-tát Nhẫn nhục ba-la-mật-đa nói chân ngôn: Nam-mô bạt già phạt đế duệ tô la bát để nãi dó để mặc hồng nhó, nhó phệ sái tố. 4.Bồ-tát Tinh tấn ba-la-mật-đa nói chân ngôn: Nam-mô bạt già phạt đế duệ cáo tư nhó da, mạt lãm vi mao hạ da hồng phát sất. 5.Bồ-tát Thiền định ba-la-mật-đa nói chân ngôn: Nam-mô bạt già phạt đế duệ tứ lý tứ lý, chỉ lý chỉ lý, nhó lý nhó lý, cũ sát sất, củ sát sất. Án, mộ rị mộ rị phạ sa ha. 6.Bồ-tát Trí tuệ ba-la-mật-đa nói chân ngôn: Nam-mô bạt già phạt đế duệ yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, mạo địa sa ha. Khi ấy, sáu Bồ-tát Ba-la-mật, chư Thiên…. đều bạch Phật: –Bạch Đại Thánh Thế Tôn! Chúng con muốn ủng hộ người thọ trì kinh này mà nói văn cú Đà-la-ni này. Nếu thiện nam, thiện nữ nào thọ trì kinh này, cho đến một bài tụng một câu, chúng con sẽ cúng dường cung kính, tôn trọng, khen ngợi giống như Phật không khác. Lúc ấy, Thiên vương Tỳ-sa-môn cũng muốn ủng hộ quốc độ và người trì kinh này, nên nói tự tâm chân ngôn: Đát địa tha câu na lý, a để miệt đế nại đế, a na để, câu na lý sa ha. Thiên vương Tỳ-lâu-lặc-xoa cũng muốn ủng hộ quốc giới và người thọ trì kinh này mà nói chân ngôn: Đát địa tha, a nga ninh nga ninh, ngao rị ngạn na rị chiên noa lý ma đăng thị bốc yết tư tăng củ lê một lô, sái lê sa ha. Thiên vương Đề-đầu-lại-sất cũng vì ủng hộ thế giới và người thọ trì kinh này mà nói chân ngôn: Đát diệt tha, y lê, nộ mễ lê, nộ bế nhó, nội y lê, bế lê, bế nhó, sa ha. Lúc ấy, Thiên vương Tỳ-lâu-bác-xoa cũng vì muốn ủng hộ người thọ trì kinh này và quốc giới nên nói chân ngôn rằng: Đát địa tha, a ni phạ ni, quẩn nhi nộ noa mê, nộ củ lê, tất rị nộ rị nhó rị nộ sa ha. Khi ấy Tứ Thiên vương bạch Phật: –Bạch Đại Thánh Thế Tôn! Chúng con cũng vì muốn ủng hộ thiện nam, thiện nữ thọ trì kinh này và quốc giới nên nói văn cú bí mật Đà-la-ni. Nếu ai khinh chê người thọ trì kinh này tức là khinh chê chư Phật ba đời. Bồ-tát Chấp Kim cang cũng vì ủng hộ người thọ trì kinh này mà nói chân ngôn: Nam-mô ra đát nẵng đát ra dã da. Nam-mô thất noa miệt nhật ra bá noa duệ, ma ha dược tụng xoa tê na ky đới duệ, ninh để da, bát ra nhập phược lý đa, câu lỗ đà da, ngật thúc đa tỷ, câu chi mục khiếp da, lỗ ma cát rị sa noa muội dựng yết rạ da, đích khất thân na, nan cầm xoa lỗ yết sất da, bát ra niệm bột đa miệt nhật ra hạ tát đa da, tát phược vó thổ na, vi na dạ ca vó đặc vấn. Sa na yết ra da, đát địa tha hồng miệt nhật la củ lỗ na đát thích sất. Khi ấy Linh-hoàn Nhó-vi-na-dạ-ca cũng vì ủng hộ người thọ trì kinh nên nói chân ngôn: Đát địa tha, án, tất trí tất trí, ma tất trí, ma tất trí, ma vó xa ma vó xa, ma nhập phược, ra ma nhập ra ra, sa ha. Vua Diêm-ma-la cũng muốn ủng hộ người thọ trì kinh nên nói chân ngôn: Đát địa tha, tất rị, vó tất rị ni, chất rị, vó chất rị ni, nhó xích nhó xích y ê hề mộ đa bát để, sa ha. Ha-lý Để-ái Tử Mẫu cũng vì ủng hộ người thọ trì kinh, nên nói chân ngôn: Đát địa tha, na nhó na nhó, đốn nhó đốn nhó, tát vó sơn vi na dạ ca nam, mục khiếp nhiêm ma nam, thước ngật để tất đởm ma nam, ma phạ đô, sa ha. Ma-lợi-chi Thiên cũng vì ủng hộ người thọ trì kinh mà nói chân ngôn: Đát để lê ma ninh, mãn đát ra, bát na ninh, ma vãn để đát địa tha át ca mạt tư, mạt ca mạt tư, án đát na, nam mạt tư, bát thổ mê lạc xoa, ốt bát thổ mê lạc xoa, tát phạ muội dó biểu, tát vũ bát tát nghê, biểu hạt lạc xoa, sa ha. Khi ấy, Ca-lỗ-noa vương vì muốn ủng hộ quốc vương, đại thần và người thọ trì kinh, nói chân ngôn Ca-lỗ-noa vương lý thú: Khất sử bá án, sa ha. Chân Thật Ca-lỗ-noa vương vì muốn ủng hộ đất nước và người thọ trì kinh mà nói chân ngôn: Nam-mô tát đa đỏa, nga lô noa da, một nghiệt ra ma ha một nghiệt ra, man thứ man thứ tát phạ na ngạn, ma ra da vó sa nhập sách, ốt niết tô rị da, nhó bào, mộ phan nga ma rị bổ, thước ngật đa tát na, tốt đổ man ninh, tát bản lật đa, vó diêm, hạ rị đa la, giản để, lỗ chất ra, tăng ngật ra minh, nại lý dữ nại ra, nhó ca ra, xà da tát ma nẵng, nê dũ để thương khiếp, ngật sử ra, một rị na la, quẩn đa, na phạ la, tam miệu khiếp, vó sái, khất sử bạt ninh. Ca-lỗ-ca vương vừa nói chân ngôn xong, tất cả độc khí của ác long đều tiêu diệt, đất nước được an ổn. Vì muốn ủng hộ người thọ trì kinh, thiên vương Đại tự tại nói chân ngôn: Đát địa tha, án đát sất da, sa ha, tất đát sất da, sa ha, phạ sất da, sa ha, vật sất da, sa ha, xả đốt lỗ nhó ngật. Liễn đát nẵng da, sa ha. Nam-mô ca sất, vó ca sất, yết nê ca la, bá sất la da. Nhục da ra, nhó cầm sất giản nhó cầm sất, giản nhó du thứ nan để, nga la, nhó vó nga la, vó xả bát ra vó xả, a vó xả, lỗ nại ra, lao nại lê na hãn nang hãn nang, nặc hạ nặc hạ, bả giả bả giả, bôn tha bôn tha, vó đặc vấn bà dã, vó đặc vấn bà dã, du nghê thỉ phạ ra, ma ê thỉ phược ra. Nam-mô tất đế tốt đổ, bá ma ê nha từ. Nam-mô thỉ chiến noa da sa ha, bát ra chiến noa da, sa ha, phản ngật ra da, sa ha, bạt ngật ra đế nhạ da, sa ha, tuất la da, sa ha, tuất la nặc ha phạ da, sa ha, thủy nga da, sa ha, thủy nga cát sái da, sa ha. Tát la da, sa ha, tát la lô bá da, sa ha, khiếp ra da, sa ha, khíếp ra lỗ bá da, sa ha, nhó đát đa ra da, sa ha, ốt đặc phược da, sa ha, ốt đặc phạ hệ xá da, sa ha, nặc hạ na da, sa ha, bát giả na da, sa ha, a mục khiếp da, sa ha, a ninh miệt đa ca da, sa ha, ô bồ sám ma da, sa ha, ô bồ sám ma lỗ niết ra da, sa ha, du mãn nhó vó cầm để, dã thất giả ca thất chất, a mị nại ra miệt để, nghiệt để mạt để, bá na, hoại nga, ô lô, minh noa ra, cốc khất sử, hột lật nại lam, ma hồ, tắt kiến na, ngật-rị phạ, hạ nổ, cưu cầm đà, nặc hạ phạ,ï na bà, thất lỗ đát ra, la la sất, thất rị sơn, nặc hạ nhó, sa ha, phát sất. Thiên vương Tỳ-sa-môn và chư Thiên nói Đà-la-ni như vậy xong, rồi cùng nhau thưa Phật: –Bạch Đại Thánh Thế Tôn! Con thấy nếu Pháp sư thọ trì đọc tụng kinh, cho đến một bài tụng một câu như vậy, chúng con sẽ ủng hộ tẩy trừ tất cả tai nạn khổ ách và các khí độc, mắng chửi, đánh đập cho họ, những tật bệnh yêu mị vọng lượng, những việc không tốt lành đều được tiêu trừ. Phật dạy các Đại só và Thiên vương Tỳ-sa-môn: –Các ngươi khéo ủng hộ Pháp sư thọ trì kinh như vậy nhưng tên kinh này còn chưa thể nghe thì sao có thể thọ trì, đọc tụng, cung kính cúng dường, tôn trọng khen ngợi. Hãy dùng tất cả hương thoa, hương bột, hương đốt, hoa man, y phục và tàng lọng, vải lụa, tràng phan, đèn dầu… trăm ngàn loại như vậy dâng cúng dường Pháp sư. Trước tiên nên phát nguyện rằng: “Sau khi nghe kinh này rồi thì phải như pháp tu hành.” Nay ta phó chúc Pháp sư trì kinh này cho các ông, các ông phải nên ủng hộ vị Pháp sư đó và quyến thuộc của vị ấy nữa để không còn nguy hoạn và được an lạc.  <詞 id="82881917">Phẩm 3: PHÁT TÂM BỒ-ĐỀ Bấy giờ Thế Tôn rống tiếng sư tử làm sáng rõ môn Đà-la-ni bí mật rồi thì có Đại Bồ-tát Từ Thị đứng dậy trịch áo bày vai phải, quỳ gối chắp tay, nhất tâm thưa Phật: –Lành thay, lành thay! Đại Thánh Thế Tôn đã đem lòng đại Bi khen ngợi vị Pháp sư giữ gìn bí mật Cam lồ Đà-la-ni thắng pháp như vậy. Cúi xin Thế Tôn thương xót chúng sinh mà nói pháp Vô thượng Bồ-đề. Các hữu tình nào chưa phát tâm, phải phát tâm thế nào? Người phát tâm rồi, phải tu hành thế nào? Và làm thế nào để tâm Đại thừa không thoái lui? Thế Tôn bảo Đại Bồ-tát Từ Thị rằng: –Nếu thiện nam, thiện nữ nào muốn vì hữu tình mà tu hạnh Đại thừa, muốn độ hữu tình đạt đại Niết-bàn thì trước tiên phải phát năm loại thắng tâm: 1.Phát tâm đại Từ bi bình đẳng rộng khắp đối với các loài hữu tình. 2.Với Nhất thiết trí, tâm không thoái chuyển. 3.Đối với các hữu tình phải coi là thân thuộc, nguyện cứu độ họ ra khỏi đường hiểm nạn. 4.Thường phải nghó rằng mình mắc nợ hữu tình. 5.Luôn luôn ôm lòng xấu hổ vì không biết lúc nào trả hết. Ai phát năm loại tâm như vậy thì mau chứng Vô thượng Bồ-đề. Này Bồ-tát Từ Thị! Trong Đại thừa, làm thế nào để nhất tâm tu hành chứng quả vị không thoái chuyển? Ví như thuở xưa có một thương nhân trí tuệ thông minh, hiếu hạnh. Thấy cha mẹ, dòng họ nghèo khổ, ông ta đau buồn, thân tâm ray rứt và nghó làm cách nào để cứu giúp họ. Ông nghó: “Hay là ta vào biển tìm châu như ý để giúp đỡ cha mẹ không còn phải nghèo khổ nữa.” Vì nhân duyên đó, ông ta nuôi chí dũng mãnh, không tiếc thân mạng mà ra đi. Ông tìm đủ mọi cách để kiếm lương thực, bạn bè tốt, thuyền và người chèo. Đi giữa đường ông ta gặp một người từ biển trở về và hỏi ông rằng: “Ông muốn đi đâu mà vội vàng như vậy?” Thương nhân trả lời đầy đủ như trên là vì muốn cứu thoát sự nghèo khổ mà vào biển tìm châu như ý để giúp đỡ nhau. Người kia nói: “Trước đây tôi vì muốn cứu dòng họ hết khổ nghèo đói cũng bỏ nhà ra đi như ông vậy, băng qua đồng hoang, vượt qua sa mạc không có cây cỏ nước non, có nhiều voi, hổ, sói, sài lang, rắn độc, sư tử, hoặc gặp giặc cướp, núi cao, sông rộng, đói khát, lạnh nóng, sợ hãi kinh hoàng. Tôi cùng người lái thuyền vừa đến biển lớn thì gặp gió dữ, cá lớn, rồng ác, sấm chớp, mưa đá, sóng lớn cuốn tròn… gặp nhiều nguy hiểm không thể nói hết. Đã bị các khổ như vậy mà còn không lấy được bảo châu như ý để tự nuôi thân, nói gì đến cứu người thân thoát sự nghèo khổ. Nay tôi khuyên ông đừng cố gian khổ mà uổng công lao nhọc. Tôi muốn cùng ông làm nghề khác. Vì sao? Vì trong biển có nhiều gian khổ, nào gió dữ, núi ác, Dạ-xoa, La-sát, rồng… những gian nguy ấy rất nhiều, chẳng phải một. Chỉ từng nghe tên châu như ý mà trước đây ngàn vạn người đi, được nó không đến một hai người. Do vậy, tôi khuyên ông hãy mau quay về.” Nghe nói vậy, người buôn càng phát tâm mạnh mẽ, quyết chí vào biển không thoái lui, vì có ba nguyên nhân: 1.Vì cha mẹ anh em dòng họ nghèo khổ, nếu về tay không thì không cứu giúp nhau được. 2.Vì khi xưa cha mẹ dòng họ của ta rất giàu có, họ đã cho ta cơm ăn áo mặc và thương mến ta. Nay nghèo khổ không ai giúp đỡ, làm sao có thể buông thả mà quay trở về. 3.Khi ta còn ở nhà cai quản gia đình, sai sử đánh đập, quở trách tôi tớ lớn nhỏ. Họ nghèo khổ như thế nào ta cũng không biết cứu giúp. Nay vì giúp họ được vui vẻ sao ta lại muốn quay về. Do nghó đến ân đức ấy mà người buôn rất dũng mãnh, quyết định tiến tới, chỉ cốt yếu là được vào biển để tìm châu như ý, được rồi đem về nhà cứu giúp thân thuộc, sử dụng tùy ý, vónh viễn không còn gian khổ nữa. Đại Bồ-tát cũng như vậy, phát tâm Bồ-đề quán tất cả bốn loài, sáu thú trong mười phương đều là cha mẹ kiếp trước của ta. Vì thương xót ta mà họ đã tạo ra bao nghiệp ác, phải đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh chịu các khổ não. Do đó mà tự suy nghó: “Làm cách nào để cứu khổ nạn ấy.” Nghó như vậy rồi, thì chỉ có cách vào trong biển đại pháp sáu Ba-la-mật tìm châu như ý Phật chủng trí để cứu vớt khổ sinh tử của hữu tình. Nghó như vậy rồi, phát tâm dũng mãnh không thoái lui, tinh tấn siêng năng tìm cầu không giải đãi, tìm mọi cách để kiếm tư lương, bạn lành Bồ-đề, pháp và Pháp sư. Đi giữa đường gặp ma vương thống lãnh quyến thuộc hoặc hiện thân trời, hoặc hiện thân người, Bà-la-môn hoặc chủ buôn, hoặc Bí-sô, Bí-sô-ni và nhiều loại thân khác. Ma quân hỏi Bồ-tát: –Ông đi đâu mà vội vàng vậy? Bồ-tát trả lời: –Vì tất cả chúng sinh khổ não nên tôi muốn vào biển lớn sáu Độ tìm châu như ý Phật chủng trí để cứu tất cả chúng sinh nghèo khổ. Ma vương lại nói: –Khi tôi mới phát tâm cũng vậy, vì muốn độ tất cả chúng sinh khổ não ra khỏi nhà sinh tử, vượt qua bao biến đổi, đồng hoang, sa mạc, chịu đủ đói khát, giặc cướp, hoảng sợ, nguy nan và rất nhiều khổ nạn như vậy, chẳng phải một. Vừa mới đến biển Đại pháp sáu Độ thì gặp người xin đầu, xin mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, tay chân từng khúc, tim, phổi, ruột, bao tử, tỳ, mật; quốc thành, vợ con, nô tỳ, đầy tớ… Họ xin thứ gì, ta cho thứ đó, không thương tiếc, chỉ cần cầu châu bảo trí tuệ. Trải qua vô lượng kiếp, cứ ở mãi trong biển khổ luân hồi sinh tử. Tuy chịu bao nhiêu khổ nạn ấy mà còn không được Vô thượng Bồ-đề, đành phải quay về cầu quả A-la-hán, vượt ra ba cõi, đạt Niết-bàn tịch tónh. Nay tôi khuyên ông đừng cố công khổ nhọc, nên tự mình tu trì, tôi muốn ông ngang hàng cùng quả với tôi. Vì tôi nghó: ba cõi luôn bị đói khổ, tâm nghó đến việc ăn nuốt, ngửa mặt hướng lên hư không, cái gì vào miệng cho ta no nê? Đủ những loại khổ nạn hành hạ thân tâm như vậy. Mạng người vô thường, nhanh hơn thác chảy, Thiện tri thức rất khó gặp. Nếu ông không tin, sau này hối hận sao kịp, để rồi về sau bị luân hồi trong biển sinh tử. Tâm vô thường giống như trăng trong nước, đâu có thật. Bạn ác dễ thấy, dễ gặp, họ luôn thích khuyên người hành Bồ-tát đạo, xả bỏ tài sản, thân mạng, mong hướng đến Bồ-đề, huống gì chư Phật ra đời chỉ có một. Người cầu thì ngàn vạn, nhưng được thì không có một hoặc hai người. Do đó tôi khuyên ông không cần phải gian khổ nữa, nên cầu giải thoát cho chính mình để chứng Niết-bàn. Lại phải trải qua ba vô số kiếp chịu các khổ sở mới có thể chứng được Phật quả Bồ-đề. Đời này là đời chót, chứng A-la-hán, đạt đến hàng vô học rồi thì phải khổ làm gì! Người ngu vô trí mong cầu quả Phật mà phải trải qua vô lượng kiếp chịu đủ gian khổ còn chưa nghe chứng quả A-la-hán, huống gì có thể chứng Vô thượng Bồ-đề. Ví như có người bắt một con chim nhỏ, lại thấy có một chim chúa Ca-lỗ-ca, ông ta liền thả con chim đang nắm trong tay rồi đến bắt chim chúa Ca-lỗ-ca. Con lớn thì bay đi, con nhỏ thì lại mất. Người ngu cầu quả Phật cũng như vậy, bỏ cái này cầu cái khác thì cả hai đều mất. Biết vậy rồi, ông hãy nên sớm hồi tâm lại, ngay trong đời này chắc chắn chứng A-la-hán. Nghe như vậy rồi, Bồ-tát càng dũng mãnh phát ba loại tâm: 1.Tất cả chúng sinh từ vô thỉ bị sinh tử đến nay đều là cha mẹ của ta, hoặc là bạn bè hiện đang chịu khổ não chưa được thoát khỏi; như vậy sao ta lại thoái lui. 2.Tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay đã cho ta cơm ăn áo mặc, rất thương mến ta. Nay bị luân hồi khổ nạn chẳng phải một, vì sao chưa báo đáp ân họ mà ta lại có tâm thoái lui. 3.Tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay đều là quyến thuộc của ta, bị ta sai sử làm việc, quở trách. Ta chưa báo ân họ một phần nhỏ nào cả, cho nên ta không thể thoái lui. Thế rồi, Bồ-tát càng dũng mãnh cầu chứng Bồ-đề. Nếu chứng báu Bồ-đề Nhất thiết trí thì sẽ cứu giúp chúng sinh ra khỏi sinh tử khổ nạn. Đó gọi là Đại Bồ-tát ở trong Đại thừa nhất tâm tu hành chứng quả vị không thoái chuyển. Từ Thị nên biết! Đại Bồ-tát ấy tu hành Đại thừa, phát năm loại tâm: 1.Khởi tâm đại Bi với các hữu tình. 2.Vì các hữu tình mà cầu Nhất thiết trí, tâm không thoái chuyển. Hai tâm này là pháp Đại thừa, phải tinh tấn tu hành. 3.Tất cả hữu tình là cha mẹ, bạn bè của ta. 4.Ta phải mang ân với tất cả hữu tình đó, nhưng ta chưa có mảy may nào để đền đáp. 5.Tất cả hữu tình đều là quyến thuộc của ta, ta đã từng tạo nghiệp bất thiện với họ, nào quở trách, quở phạt vô lý, nên lòng rất xấu hổ không biết khi nào trả hết. Ba tâm này làm cho các Bồ-tát dũng mãnh không thoái lui, cho đến lúc chứng Vô thượng Bồ-đề. Kinh Đại thừa Lý Thú Lục Ba-la-mật-đa <卷 id="82881918">Quyển 3 <詞 id="82881919">Phẩm 4: không thoái chuyển Bấy giờ Đại Bồ-tát Từ Thị lạy sát chân Phật, thưa: –Bạch Đại Thánh Thế Tôn! Thế Tôn đã nói về năm loại tâm của Bồ-tát tu hành Đại thừa chứng quả vị không thoái chuyển. Nhưng phát tâm đại Bi như thế nào và tu hành như thế nào, cúi xin Như Lai thương xót các hữu tình mà tuyên nói để làm lợi ích an lạc cho chúng sinh. Thế Tôn dạy: –Lành thay, lành thay! Này thiện nam! Điều ông hỏi rất hay. Ông hãy nghe cho kỹ, suy nghó thật kỹ. Ta sẽ phân biệt giải nói để trừ lưới nghi cho ông. Năm loại phát tâm: –Thứ nhất là đại Bi tâm: Phải giữ tâm này kiên cố không xả bỏ, nghó đến những chúng sinh trong đường ác địa ngục, lại nhớ nghó đến những nỗi khổ đó như trong kinh nói. Ông nên biết, nay ta nói lại kinh này cho ông. Đó là quán các hữu tình đều là những bậc cha mẹ, dòng họ, thân thuộc tôn trọng đời trước của ta, nay hiện đang ở trong địa ngục chịu các khổ, bị mười ba đống lửa vây quanh. Có hai ngọn lửa từ chân xuyên lên đảnh đầu rồi ra, lại có hai ngọn lửa từ đảnh đầu xuyên thẳng xuống chân rồi ra, có hai ngọn lửa từ sau lưng xuyên qua ngực, có hai ngọn lửa từ ngực xuyên qua lưng; bị hai ngọn lửa từ hông trái xuyên qua hông phải rồi ra, có hai ngọn lửa từ hông phải xuyên qua hông trái rồi ra, có ngọn lửa quấn đốt từ đầu đến chân. Thân chúng sinh trong địa ngục này mềm yếu giống như bơ chín. Những ngọn lửa đó kết hợp với nhau đốt cháy, lửa địa ngục thiêu đốt lửa nhân gian, giống như đốt pháo hoa không còn chút dư tàn. Có chúng sinh bị lửa đốt, chạy khắp nơi tìm người cứu vớt nhưng đâu có ai biết. Lại có chúng sinh chạy trốn nhưng không có cách gì, phải chạy vào lửa. Có chúng sinh bỗng nhiên bị ném vào hầm phân sâu ô uế, trong hầm có trùng mỏ nhọn hoắc bằng sắt dài mười sáu ngón tay, rúc rỉa da xương, tủy não chúng sinh. Có chúng sinh ở trong tro nóng bị thiêu nấu. Có chúng sinh bị chìm nổi trong nước. Khi ấy, người giữ ngục dùng lưới sắt lớn lọc ra giống như vớt cá, rồi bỏ chúng sinh đó nằm ngồi trên đất sắt nóng để thiêu nướng. Kế đến, dùng kềm sắt kẹp rồi rút lưỡi ra, lấy nước đồng sôi rót vào trong miệng, chúng bất tỉnh chết hồi lâu liền sống lại, muốn chạy trốn để mong được thoát khỏi nhưng không được. Sau đó có móc sắt tìm kéo lại. Có chim thiết điểu mỏ bằng sắt bay theo mổ làm cho xương thịt rách nát rồi mới ăn. Thấy vườn cây, chúng sinh này muốn leo lên để được thoát nhưng trên cây đó mọc gai sắt, mỗi gai sắt dài mười sáu ngón tay và cháy đỏ. Chúng sinh vừa leo lên bị mũi gai nhọn chỉa xuống đâm vào ngực, xuyên qua lưng, bị khổ vô lượng, muốn thoát cũng không được. Chim quạ bay đến mổ vào hai mắt rồi phá não để lấy tủy ăn. Dù muốn xuống nhưng mũi gai chóa lên, làm cho mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, thịt tay chân và mười đốt tay đều bị rơi rớt. Định leo lên cây để trốn nhưng không được, bị cai ngục thâu bắt bỏ trong đãy bằng sắt, dùng chày sắt nóng đập qua đập lại. Lại có chúng sinh bị cai ngục dùng cưa xẻ tay chân đầu tóc, năm chỗ, làm cho rách nát. Lại có chúng sinh ở trong cối xay bằng sắt bị chày sắt giã từ đầu xuống. Lại có chúng sinh ở trong vạc nước sôi, bị chóa ba bằng sắt trộn tới trộn lui, nấu cho nát nhừ, chỉ còn xương nhưng mạng vẫn còn sống. Lại có chúng sinh ở trong địa ngục dùng quặng mỏ để làm nhà cửa, lửa đốt cháy ngôi nhà đó dữ dội, nung chảy ra, nhỏ từng giọt, giống như đầu mũi tên. Lại có địa ngục bốn bên bằng núi sắt, chúng sinh ở giữa bị hai núi ép nhau, có lúc ở giữa Nam, Bắc, có khi ở giữa Đông, Tây. Khi hai núi ép lại thì máu mủ chúng sinh trong đó chảy ra. Có địa ngục chúng sinh bị rắn sắt quấn khắp thân từ chân lên đến đầu rồi mổ đầu họ, nó quấn thật chặt, làm cho tủy não dồn lên đảnh đầu rồi hút ăn, chỉ còn da xương. Lại có chúng sinh ở trong địa ngục bị cai ngục dùng chóa ba bằng sắt xúc thân người kia từ hai chân đến đỉnh đầu và vai. Lửa theo cái chóa ba mà phát cháy đỏ rực, mắt tai mũi miệng cũng phát ra lửa. Lại có địa ngục bắt chúng sinh nằm trên đất sắt nóng hoặc nằm lăn lên, tiếp đến lấy dây sắt đen quấn trên thân rồi đánh. Lại dùng búa rìu bửa ra giống như thợ mộc sửa các cây tươi. Lại có chúng sinh bị các cai ngục lột hết da từ đầu đến chân, lột rồi làm dây cương. Chúng sinh ngậm cái dàm bò lên đỉnh núi cao. Núi ấy nóng cháy, cai ngục xô đuổi họ leo lên rồi lấy roi quất, vạn cách khổ không thể nói. Những chúng sinh này từ vô thỉ đến nay đều là dòng họ nội ngoại cha mẹ của ta. Nay luân hồi trong địa ngục, trải qua vô số kiếp luôn chịu khổ não như đã nói. Khi nghiệp ác hết, tạm sinh lên trời. Nếu ở cõi trời mà tạo ra tội ác thì đọa trở lại trong địa ngục. Đại Bồ-tát quán thấy chúng sinh bị các khổ này rồi khởi lòng đại Bi. Tiếp đến quán cõi ngạ quỷ cũng thấy thương tâm. Bồ-tát thấy chúng sinh ở trong ngạ quỷ một ngày đêm là một tháng ở cõi người, lấy ngày mà tính tháng thì mười hai ngày là một năm. Trong loài ngạ quỷ sống năm trăm năm bằng một vạn năm ngàn năm ở nhân gian, luôn bị đói khát, tai còn không nghe tên nước uống huống gì mắt thấy! Thân ngạ quỷ ấy giống như núi Thái, đầu như nhà lớn, cổ nhỏ như lỗ kim, đầu tóc rũ xuống che cả hai vai giống như dao sắt cắt thân thể, rồi biến thành lửa dữ thiêu rụi thân người đó như lửa đốt củi, đau đớn không thể nào chịu nổi. Lông hai nách dài phủ cả eo bụng. Lông chỗ kín phủ tới đầu gối. Việc bị dao cắt lửa đốt trải qua vô số năm tháng cũng chịu khổ như vậy. Hoặc từ xa thấy nước liền chạy đến, và khi đến gần thì bị té lộn nhào, vì lực của nghiệp ác mà nước biến thành máu mủ, phân dơ, hoặc làm cát nóng. Hai bên bờ có cai ngục cầm cung tên, dao, chày, búa, giáo, mâu đánh đập rất khổ sở. Bị lửa đói thiêu đốt nóng khát nên mất trí, liền chạy trở lại chỗ lửa dữ, bị thiêu đốt mà đâu có biết. Cai ngục đuổi theo đánh đập, chặt đâm, tay chân từng phần đều bị rơi gãy. Lại có ngạ quỷ buổi sáng vừa sinh năm đứa con, trở lại ăn thịt chúng. Tối sinh năm đứa cũng ăn luôn vì đói khát chưa bao giờ được no. Hoặc gặp lúc trời mưa thì ngửa miệng lên hứng, do nghiệp nên khi được một giọt nước vào miệng, chảy xuống bụng thì biến thành lửa dữ, xuyên thẳng rồi ra ngoài. Hoặc gặp mùa hè trời nóng, lúc gió thổi các ngạ quỷ rơi vào sa mạc. Phía dưới bị cát nóng đốt, phía trên là mặt trời nướng, đói khát nóng bức, từ xa thấy bóng cây, muốn chạy đến để núp dưới bóng cây thì bóng cây tránh ngạ quỷ nên di chuyển chỗ khác. Vì sao vậy? Vì xưa lúc còn ở nhân gian, chúng sinh này thiết lập hội cúng tế, thấy người đi xin thì keo kiệt không cho, lại đánh đập chửi mắng một cách không căn cứ rồi đuổi đi. Do tạo nghiệp ấy mà nay bị quả báo như vậy. Lại có ngạ quỷ vào đêm trăng, trời trong vắt không có mây che, ánh sáng tỏa khắp, nếu nó gặp ánh sáng này thì nóng bức giống như tháng mùa hè. Lại có ngạ quỷ vào mùa đông gặp gió lớn, do nghiệp lực nên thổi các ngạ quỷ vào trong núi băng giống như bụi bay, chịu lạnh buốt, bị khổ như vậy trải qua vô lượng kiếp, ở đó lúc qua đời, đọa trở lại địa ngục. Cứ qua qua lại lại như vậy, trải qua vô lượng năm tháng. Khi nghiệp ác hết, được làm người, sinh trong nhà nghèo khổ keo kiệt, không bố thí, phải đi xin để sống mà vẫn tham lam keo kiệt. Vì nghèo khổ nên tạo ra các tội của mười nghiệp bất thiện. Ở đó lúc qua đời, lại đọa vào trong địa ngục, chịu đủ các khổ. Khổ ở đó hết, lại sinh trong ngạ quỷ, qua lại như vậy trải qua vô số kiếp chịu khổ như thế. Những chúng sinh này ở trong quá khứ vô lượng, vô biên kiếp sinh tử đều là cha mẹ, lục thân quyến thuộc của ta, vì ta mà tạo ra những nghiệp ác. Nay ở trong ngạ quỷ mà chịu quả báo khổ đau này. Quán thấy khổ như thế, Đại Bồ-tát khởi tâm đại Bi. Lại nữa, này Từ Thị! Loài ngạ quỷ đã như vậy, tiếp đến quán loài bàng sinh cũng vậy. Có những loài cầm thú, hươu, nai, chồn, cáo, thỏ, hổ, báo, chó sói cùng nhiều loài cầm thú khác; các loài chim bay, gà, vịt, ngỗng, dứu, nhạn, uyên ương… Có loài đi hoặc đậu trên cây, hoặc bay, hoặc bơi… Chúng luôn luôn sợ sức mạnh của người, ăn uống không bao giờ được an ổn, ngày đêm luôn sợ hãi. Lại có những loài bàng sinh ở dưới nước như: ba ba, rùa, cá, ốc, hến, ếch… luôn bị giăng lưới bắt trong nước sinh tử. Lại có loài bàng sinh như: rắn, rồng, thằn lằn, sâu bọ, chuột… sinh trong chỗ tối tăm và chết cũng trong chỗ tối tăm. Lại có loài bàng sinh như: rận, rệp, bọ chét… bám vào thân người để sống và lại chết trong thân người. Lại có loài bàng sinh sống nương vào thây chết, hoặc chỗ ẩm ướt dơ bẩn, hoặc nương vào cây cỏ, sinh ra chỗ nào thì chết nơi đó. Hoặc loài do biến hóa sinh thì trở lại biến hóa chết, đó là những loài giòi, sâu, trùng, bướm. Lại có loài bàng sinh luôn ăn máu mủ và những thứ dơ nhớp cho là vị ngọt, đó là các loài heo, chó, bọ hung, ruồi lằn… nghe mùi hôi thối thì cho đó là thơm ngon, bay chạy đến, sợ không được hưởng. Lại có loài bàng sinh không ăn cỏ tươi, chỉ ăn gai góc, không uống nước sạch chỉ uống nước dơ. Lại có loài bàng sinh không chỉ sống ở trên cỏ mà luôn luôn ăn cỏ, đó là các loài voi, ngựa, trâu, bò, lạc đà… hoặc dùng câu sắt móc trong đầu để điều khiển nó, hoặc xỏ mũi, hoặc lấy dây cương buộc hàm nó lại, hoặc bao hoặc cột trên cổ của nó để chuyên chở. Chúng luôn bị roi quất, mắng la, phải đi nhanh chậm tùy chủ. Có khi bị gầy yếu, đứng lên rồi ngã xuống, đau đớn khổ sở vô hạn, không đủ sức như trước nữa. Tất cả đều do kiếp trước nay phải chịu những khổ báo như vậy. Hoặc ăn của tín thí mà không tinh tấn tu học, phải thường trả cho họ cái nợ tiền kiếp nên bị khổ não này. Chúng bị sai khiến, chịu các roi vọt mà trả vẫn chưa đủ. Hoặc bị giết đau đớn muôn phần, có muốn bày tỏ cũng không được. Sống thì thiếu nước cỏ, bệnh lại không thuốc thang, chết rồi bị lột da để làm thức ăn cho người. Sau khi chết đọa vào địa ngục. Vì sao vậy? Vì tâm ngu si không biết thiện ác, không nghó đến công sinh dưỡng khổ cực của cha mẹ, không biết nhân quả, không nghe Chánh pháp, không bố thí, trì giới, trồng các căn lành, chỉ nghó nhớ đến nước cỏ, ngoài ra không biết gì cả. Những loài bàng sinh này đều được con người nuôi dưỡng, ngoài những loài bàng sinh được nuôi dưỡng này còn có những loài bàng sinh khác như: sư tử, hổ, báo, chó sói và những loài bàng sinh sống dưới nước, trên đất đã nói ở trên, chúng tàn hại ăn nuốt lẫn nhau. Do nghiệp ấy mà phải đọa trong địa ngục chịu nhiều khổ sở trải qua vô lượng kiếp. Tội địa ngục hết, lại vào loài bàng sinh, cứ qua lại như vậy vô lượng kiếp. Những loài bàng sinh này về đời quá khứ đã trải qua vô lượng, vô biên kiếp sinh tử là cha mẹ, lục thân quyến thuộc của ta, vì ta mà tạo ra bao nhiêu nghiệp ác, bây giờ phải làm loài bàng sinh chịu quả báo khổ não này. Đại Bồ-tát quán khổ này rồi, mở lòng đại Bi rộng lớn. Bàng sinh như vậy, tiếp đến quán cõi người. Có các chúng sinh tuy làm người nhưng bị nhiều nghèo khổ, đói khát, không có áo quần mặc, đi trong bùn, ngủ dưới mưa, gặt lúa trong sương, làm cỏ dưới trời nóng đốt, ngày đêm tần tảo, tay chân rả rời, đầu tóc rối bời, ốm gầy, lần đi từng bước, đi xin từng nhà nhưng không bao giờ được một bữa no, tối về ngủ bụng đói, muốn giúp đỡ người khác nhưng không có gì để giúp. Tuy có nói và làm nhưng người khác không tin theo. Tuy có vẻ đẹp đẽ mà trở lại bị khinh khi. Luôn hành nhẫn nhục để làm lợi ích cho mọi người nhưng bị chê trách là người nhu nhược, hoặc có văn tài mà người không ghi chép, đến thăm viếng họ hàng bị nghi ngờ là đến kiếm ăn. Hoặc quy y, tin Tam bảo thì bị chê bai nói là cầu danh; hoặc khen ngợi người liền bị nói là dua nịnh; hoặc sinh dòng thấp hèn không an vui, bị lệ thuộc người khác, sống chỉ có giữ mạng; hoặc chịu lạnh nóng, không biết ấm mát; gánh nước, hái củi, không từ một việc khổ nhọc nào nhưng lòng của chủ thì không thương xót, hơi bị sai trái hoặc chậm trễ gì liền bị đánh đập. Đó là quả báo tự làm tự chịu, chẳng phải trời hay người nào đem đến. Do phước mỏng mà chiêu lấy khổ não, khổ này hơn khổ của sự chết. Giống như cây khô, cành lá đều rụng trơ trọi, tất cả loài chim không về đậu, người phước mỏng cũng như vậy. Bấy giờ Đức Thế Tôn nói lại nghóa trên bằng kệ: Không nói cho là ngu Nói ra cho là khùng Gần gũi nghi dua nịnh, Tránh xa nói sợ hãi, Nhẫn nhục cho yếu hèn, Tín ngưỡng cho cầu danh, Nghèo khổ trong nhân gian Hơn cái khổ sự chết. Này Từ Thị! Đói nghèo rất là khổ. Tuy thường thân gần, khen ngợi người khác nhưng vì không có phước nên tai họa liền theo ngay. Vì nghèo khổ nên luôn bị nhục mạ, do đó càng tạo thêm nghiệp ác, đọa vào địa ngục. Lại có người dòng họ giàu sang, có nhiều đầy tớ, voi ngựa, trâu dê, có dòng họ quyến thuộc luôn ở bên cạnh, hưởng thụ khoái lạc còn hơn cõi trời. Khi bị năm dục làm mê loạn thì tham sân nổi lên, rồi ngã mạn, khinh miệt mọi người. Bấy giờ Đức Thế Tôn nói kệ: Không nhiếp năm Căn, luôn phóng dật Tai hại tham lam tợ oan gia Tham đắm năm dục như người say Giàu, nghèo đều bị khổ sinh tử. Phật dạy Đại Bồ-tát Từ Thị: –Tất cả chúng sinh không biết hiện tại và vị lai. Nghiệp mình đã tạo ra giống bóng theo hình. Các khổ đó do tham dục làm gốc, lại không tu tập cầu pháp lành, thiêu đốt hết những bạch pháp của kiếp trước, sau khi chết, đọa vào ba đường ác. Vì sao như vậy? Vì tham dục nên làm đoạn mất tánh mạng, ỷ mình có thế lực cướp đoạt của cải người khác, dùng mọi cách chiếm đoạt vợ người, buông lung theo tà hạnh, không kể thân sơ. Vì lòng ham muốn mà phải nói dối, lừa gạt, trau chuốt văn từ, la mắng khinh chê hữu tình bằng những lời hung ác, đòn xóc hai đầu, chuyên nói bỉ, thử làm ly gián đôi bên. Dòng họ thân thuộc không làm cho hòa kính, luôn tham lam, ganh ghét, ngã mạn, tự cao, bị lửa sân thiêu sạch các nghiệp lành. Ca ngợi ngoại đạo, chê bai Phật, Pháp, Tăng; cúng tế trời thần để cầu phước, không biết ân sâu nặng của Tam bảo đời trước đã vì mình mà trải qua vô số kiếp đến nay phải chịu nhiều khổ công. Nếu ai tu tập hạnh thù thắng để làm tư lương cho Bồ-đề, đầy đủ Nhất thiết trí thì gọi là Phật. Bồ-tát làm đèn sáng trong chỗ tối tăm sinh tử của chúng sinh, làm chỗ nương tựa, làm người cứu vớt, làm chiếc thuyền, phao nổi để cứu vớt các sinh linh, an trí cõi trời, người qua bờ kia Niết-bàn. Còn chúng sinh thì theo tà kiến ngã mạn, cống cao, giống như người say rượu, bị năm dục quấn trói, không tu các pháp lành. Sau khi qua đời đọa vào địa ngục, bàng sinh, ngạ quỷ, hoặc làm người nghèo khổ chịu các khổ não giống như thân tâm bị trúng mũi tên độc. Tất cả khổ não này đều do không tu tập pháp lành mà ra. Bồ-tát quán như vậy rồi mở lòng thương xót rộng lớn. Bây giờ lại quán cõi trời. Ở cõi trời sống lâu, không có các khổ não, nhưng lúc gần chết hiện ra năm tướng suy: 1.Hoa trên đầu héo tàn 2.Áo trời dính bụi đất 3.Mồ hôi dưới nách chảy ra 4.Hai mắt luôn luôn chớp nháy 5.Không thích ở chỗ đang ở. Khi năm tướng này hiện ra thì Thiên nữ mới sinh đều tránh xa, coi họ như cỏ. Những Thiên nữ cũ rất thương yêu vị trời này nên luôn ở bên cạnh. Đến lúc sắp chết, rên rỉ, buồn khóc, mọi người chạy đến thăm hỏi. Khi ấy, trời nói rằng: –Thiên nữ mới ấy, ta thương yêu không có tâm thiên lệch, sao họ xem thường ta như cỏ vậy, còn các nàng lại đau buồn thương ta. Vì nhân duyên đó mà ta yêu các Thiên nữ cũ, tức giận các Thiên nữ mới. Năm tướng đã hiện ra trước mắt thì chắc chắn biết rằng ta sắp chết, lìa bỏ cung trời với âm thanh du dương, sắc hương mỹ diệu, dục lạc vừa ý vui thích nên bị mê loạn, không còn nhớ nghó nữa, chẳng lẽ bỏ cung điện này thật ư? Nay mạng ta sắp hết, không được ở lâu trong cõi trời, thật là khổ não, giống như mũi tên bắn trúng vào tim. Ta không có chỗ nương dựa, cậy nhờ, không thân thuộc, không có người dẫn đường, không có chỗ quay về. Dù kêu la thảm thiết nhưng không có ai cứu vớt. Chư Thiên lo hưởng khoái lạc mà bỏ ta ư? Lại nghó: “Cung thành Thiện kiến sắp bị tiêu diệt, không bao giờ được yết kiến trời Đế Thích, vónh viễn không nhìn thấy được cung điện rực rỡ đó nữa. Ngày nào cũng cỡi voi báu Đế Thích vào vườn hoa, nay không bao giờ thấy nữa. Vónh viễn từ giã vườn thô ác, áo, giày, mũ trụ… không còn những ngày ngồi ăn uống hội hè trong vườn Tạp lâm. Không còn dịp nào dạo chơi trong vườn Hỷ lâm, dưới cây Ba-lợi-chất-đa và cây Kiếp-ba, không bao giờ còn được đeo bạch ngọc cẩm thạch; xa cách các sự bàn bạc trong nhà Thiện pháp. Không làm sao được tắm rửa trong ao thù thắng Mạn-đà-chỉ-ni. Khó được ăn bốn thứ cam lồ, không còn được nghe năm thứ âm nhạc hòa dịu. Than ôi! Đau khổ quá! Vô thường đến nhanh quá, khiến riêng thân ta chịu khổ như vầy. Cái chết trong từng sát-na sinh diệt ư? Mạng sống của chư Thiên thật như huyễn như mộng. Cởi áo quăng ra nơi đất đau xé thân tâm, giống như bị nọc rắn, rất là khổ não. Trông mong trời khác rủ lòng thương cứu mạng sống ta, để kéo dài thêm ít ngày không vui sao? Hãy trừ năm tướng suy cho ta, đừng để đọa vào các loài đầu trâu trong núi, hoặc loài nhỏ nhít trong biển.” Mặc dù nói như vậy, nhưng chư Thiên không ai cứu được. Vị trời này nói vậy rồi suy nghó: “Các vị trời kia không thể cứu để kéo dài mạng sống của ta. Chắc chắn là không bao lâu ta sẽ chết!” Khi sắp qua đời, vị trời này tự thấy chỗ mình sẽ sinh là địa ngục, bàng sinh hay ngạ quỷ. Thấy tướng ấy liền rên rỉ, kêu gào, bất tỉnh, té xuống đất, trợn tròng mắt, liền chết, theo nghiệp mà đọa vào ba đường ác. Do đó biết rằng, trong cõi trời rất khổ, luân hồi mãi mãi, không biết bao giờ hết. Đại Bồ-tát quán khổ của cõi trời rồi mở lòng Từ bi rộng lớn. Từ Thị nên biết! Giống như có người dùng góc của bao cung chấm vào biển lớn. Nước dính nơi cái bao cung và nước trong biển lớn, nơi nào nhiều hơn? Đại Bồ-tát Từ Thị bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Nước của góc cái bao cung ấy rất ít, làm sao so với nước trong biển được! Biển lớn rất sâu, rất rộng, nước của bao cung sao sánh bằng. Thế Tôn dạy Từ Thị: –Này thiện nam! Từ cõi người, trời, chết đọa vào ba đường ác, giống như nước biển cả, được sinh trở lại cõi người, trời giống như nước ở góc bao cung. Người nào đọa trong ba đường ác phải chịu khổ vô cùng, không thể nói hết, không thể nghó bàn, như các khổ trong ba đường ác đã lược nói ở trước. Điều nói ra như một hạt cát của sông Hằng, còn điều chưa nói đến như cát của sông Hằng. Mạng sống cũng như vậy, ở cõi người sống một trăm năm bằng một ngày đêm ở cõi trời Đế Thích, lấy ba mươi ngày đêm này là làm một tháng, mười hai tháng làm một năm ví như tuổi thọ của cõi này tròn một ngàn năm thì tuổi thọ ở cõi nhân gian tổng cộng hơn ba câu-chi sáu mươi ức; với tuổi thọ này trong đại địa ngục Hắc thằng thì chỉ là một ngày một đêm; lấy ba mươi ngày đêm ở đây làm một tháng, mười hai tháng làm một năm, sống đủ một ngàn. Một ngàn năm ở đây là một ngày đêm ở đại địa ngục Chúng hợp. Ba mươi ngày đêm ở đây là một tháng, mười hai tháng là một năm tuổi, sống đủ hai ngàn năm cho đến một trung kiếp là tuổi thọ trong đại địa ngục A-tỳ. Do đó nên biết chúng sinh trong địa ngục sống rất lâu. Khi chư Thiên lâm chung, dùng Thiên nhãn quán đều hiểu biết tất cả nên rất buồn khổ, tất cả dục lạc chỉ nhất thời đều tan biến. Những khổ vui ấy có mười sáu phần, một phần khổ về sinh ở đây có thể diệt mười sáu phần vui ở cõi trời. Đại Bồ-tát quán sát thấy lúc chư Thiên sắp qua đời, bị các khổ não như vậy mà mở lòng Từ bi rộng lớn. Từ Thị nên biết! Đây là Đại Bồ-tát có lòng Từ bi rộng lớn đệ nhất. Lại nữa, nên phát tâm Đại tinh tấn cứu vớt các hữu tình để đưa đến bờ kia Niết-bàn an lạc. Giống như chủ buôn suy nghó như vầy: “Cha mẹ họ hàng đều nghèo khổ, làm cách nào để cứu họ thoát khỏi cảnh cực khổ này. Nghó như vậy, nhưng không có cách nào khác, chỉ vào biển lớn tìm viên ngọc châu như ý để đem về cứu giúp cho nhau.” Nghó như vậy xong rồi liền vào biển lấy châu như ý để đem về. Sau đó, ông ta vào biển tìm được châu như ý, gắn trên cờ cao. Châu như ý có thể mưa ra nhiều châu báu, quần áo, đồ ăn uống, hương hoa, kỹ nhạc. Cha mẹ dòng họ tùy ý dùng đều được đầy đủ. Đại Bồ-tát phát Bồ-đề tâm cầu Nhất thiết trí cũng như vậy. Các ngài luôn tư duy rằng: “Tất cả chúng sinh đều là cha mẹ, lục thân quyến thuộc của ta, vì ta mà phải luân hồi sinh tử, hiện đang chịu các khổ não, dùng cách nào để cứu thoát họ đây? Nghó như vậy rồi lại không có cách nào khác, chỉ vào biển pháp sáu Ba-la-mật-đa tìm châu như ý Nhất thiết trí để cứu vớt khổ chúng sinh.” Nghó vậy xong, Bồ-tát vào biển pháp tìm châu báu như ý Chủng trí để rồi treo trên cờ pháp, mây đại Từ che khắp, nên mưa xuống tất cả thần thông công đức của môn Đà-la-ni lấy tàm quý làm y phục, bố thí làm nhà cửa, hương thơm là tịnh giới, vòng hoa là nhẫn nhục, thức ăn là tinh tấn, giường là thiền định, lấy cam lồ trí tuệ làm thức ăn uống, các pháp không tịch làm chỗ ngủ, lấy đại Niết-bàn làm thành báu, chư Phật Bồ-tát làm Thiện tri thức. Được châu báu Nhất thiết chủng trí nên mưa xuống vô số diệu bảo, y phục, hương hoa, kỹ nhạc… như thế; ngoài Vô thươÏng Điều Ngự Đại Sư ra, không ai có thể cứu vớt các khổ nạn để được Niết-bàn rốt ráo an vui”. Tư duy như vậy rồi, Đại Bồ-tát tự biết chắc mình chứng quả vị không thoái chuyển. Lại phát nguyện: Nguyện ta sinh ra chỗ khổ nạn nào, ta đều thay thế chịu các khổ não cho chúng sinh, không muốn chứng Niết-bàn giải thoát, không bỏ rơi chúng sinh để riêng mình hưởng an lạc. Vì sao vậy? Vì tất cả Thanh văn và Bích-chi-phật sau khi giải thoát nhập Niết-bàn rồi, sống mãi mãi nơi đó, không làm lợi ích cho chúng sinh, không xiển dương công đức của thân Phật. Còn Đại Bồ-tát ở trong ba đường khuyến hóa hữu tình lìa nghiệp ác, tu tập pháp lành, lìa khỏi các khổ mà được giải thoát ngay trong cõi người. Do đó mà Đại Bồ-tát làm lợi ích cho tất cả hữu tình trong mười phương, nhân đây mà chư Thiên cõi Đao-lợi, Đại Phạm thiên vương, Đại Tự tại thiên, chư Tiên ngoại đạo cúng dường, Bồ-tát đều được thọ nhận. Bồ-tát chứng quả vị không thoái chuyển này được chư Phật ba đời khen ngợi và thọ ký. Đại Bồ-tát tu tập Đại thừa được tự tại, không sợ sệt, giống như Sư tử chúa. Tất cả chúng sinh đi theo sẽ chấm dứt mọi sợ hãi mà thẳng đến Bồ-đề. Thanh văn, Duyên giác và A-la-hán nghe Bồ-tát chỉ dạy, vào sâu trong hang núi đều dùng y che đầu, hướng đến Niết-bàn, vậy sao cùng Đại thừa tu hạnh Bồ-tát, mình và người đều được lợi ích. Do vậy mà càng thêm tinh tấn, thà ở trong ba đường chịu vô lượng khổ chứ không bao giờ hưởng lợi riêng mình mà trụ trong Niết-bàn. Tất cả hữu tình đã tạo ra nghiệp ác trong quá khứ, hiện tại, vị lai sẽ đọa vào đường ác, chịu các khổ; ta nguyện đem thân này chịu thay cho họ. Trong quá khứ và hiện tại, ta tu hành đạt được tất cả việc lành, các pháp công đức, ta nguyện hồi hướng cho tất cả hữu tình mau chứng Niết-bàn. Của cải trân bảo, ta nguyện xả bỏ tất cả. Bị đánh đập, mắng chửi, nguyện chịu nhẫn nhục, không trả thù, nguyện cho chúng sinh đó hết tội. Trải qua vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ kiếp làm những việc khó làm, ta nguyện làm hết và vì chúng sinh mà cầu Vô thượng Chánh giác Bồ-đề, tinh tấn tu hành thiền định, giải thoát, chứng quả vị không thoái chuyển. Lại như quá khứ, vô lượng, vô biên Đại Bồ-tát tinh tấn tu tập Nhất thiết trí, ta cũng tu hành như vậy. Vì sao vậy? Vì muốn độ tất cả hữu tình trong luân hồi để đưa họ lên bờ giải thoát Niết-bàn vô thượng. Lại nguyện tất cả loài chúng sinh: Noãn sinh, thai sinh, thấp sinh, hóa sinh, có sắc không sắc, có tưởng không tưởng, chẳng phải có tưởng, chẳng phải không tưởng ta đều đưa chúng nhập Niết-bàn và làm cho chúng đầy đủ sáu Ba-la-mật-đa, thành tựu hoàn toàn thân Phật vô thượng với trăm phước trang nghiêm, ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp, ánh sáng quanh mình sáng hơn trăm ngàn ánh sáng mặt trời, chúng sinh chiêm ngưỡng vui thích không biết chán. Lại nguyện tất cả chúng sinh trong mười phương thế giới có công đức trang nghiêm như Phật. Lại phát nguyện: Nguyện xả bỏ thân này vì tất cả pháp giới chúng sinh bị đánh đập quở mắng, hoặc luôn bị trói buộc đau đớn, nhục mạ, muốn giết hại, những việc nô dịch không được chống trái… Ta nguyện những chúng sinh đó đều không còn tội. Phát nguyện này rồi, lại tư duy: “Ta mau được mãn nguyện này.” Lại nguyện đem thân này ở trong năm đường làm lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình. Ai không có chỗ nương tựa, ta làm nơi nương tựa cho họ; ai du hành nước khác ta làm người dẫn đường; ta làm chiếc bè cho người vào biển, làm cầu cống cho người vượt qua sông suối; làm suối, giếng cho người ở nơi hoang dã; làm củi đuốc cho người lạnh cóng; làm mát mẻ cho người nóng bức; làm đèn sáng ở chỗ tối tăm, làm dụng cụ nằm mềm mại cho người bệnh; làm thức ăn ngon cho người đói, làm nước ngọt cho người khát, làm áo quần cho người trần truồng; làm mưa tưới năm loại ngũ cốc lúc hạn hán mất mùa; làm thuốc hay cho người bệnh khổ để mau hết bệnh, kéo dài mạng sống; làm người hầu hạ cho người mồ côi cô quả; làm kho báu cho người nghèo khổ, đi theo và chung sống với họ không lìa bỏ nhau; làm bạn lữ và xe ngựa cho người đi xa để đến nơi; nếu người tà kiến thì nói Chánh pháp làm cho họ trụ trong chánh kiến. Ta thề vào địa ngục để cứu vớt chúng sinh ra khỏi các khổ; sinh vào ngạ quỷ để làm thức ăn ngon ngọt mát mẻ, trừ đi nóng đói khát; hóa làm núi thịt để loài bàng sinh như: hổ, báo, sói lang, gấu, sư tử… ăn no nê. Ta lại nguyện: Chúng sinh nào ăn thịt ta thì được no nê, không còn cảnh ăn nuốt lẫn nhau. Ta sẽ làm cỏ mềm mại tươi tốt cho các loài: voi, ngựa, trâu, dê, hươu, nai… ăn. Ta làm cho các loài chúng sinh ăn thịt, ăn cỏ, ăn loại ngũ cốc đều được ăn uống no đủ tùy ý. Ở loài người thì được tùy ý hưởng sự vui thích. Ta nguyện cung cấp khiến họ không còn thiếu thốn. Lại phát nguyện: Nguyện ta thành tựu tất cả thân Đà-la-ni, chúng sinh ở chỗ nào thì ta làm cây như ý để cứu hộ họ và làm bình châu báu phát ra vô số của cải để cung cấp cho tất cả chúng sinh được đầy đủ, thỏa mãn. Hoặc làm thầy thuốc để chữa hết bệnh cho họ. Dùng tay đại Bi cầm chìa khóa cửa pháp mở thành Niết-bàn chỉ dạy tri kiến của Phật, trải qua ba a-tăng-kỳ kiếp làm những việc khổ khó làm để đem chúng sinh trụ trong Niết-bàn chân thật giải thoát. Sinh ra nơi nào luôn tinh tấn không biếng nhác, làm lợi ích và đem an lạc đến cho tất cả hữu tình. Vì cứu chúng sinh trong địa ngục phải chịu vô lượng khổ mà coi như niềm vui Niết-bàn. Lại phát nguyện: Nếu một chúng sinh nào chưa được giải thoát, ta nguyện ở địa ngục mãi mãi, không chứng Bồ-đề. Này Từ Thị! Nên biết rằng: Đó là Đại Bồ-tát tinh tấn thứ nhì cầu trí Nhất thiết trí. Lại nữa, này Từ Thị! Sau khi hành hạnh này rồi, nên phát ba loại tâm thù thắng để cầu quả vị không thoái chuyển, cho đến ba vô số kiếp tinh tấn tu hành không một sát-na nào gián đoạn. Hoặc có các ma làm Sa-môn, Bà-la-môn, hoặc làm người tu khổ hạnh và nhiều thân hình khác lẫn lộn ở trong Đại thừa để tìm các lỗi lầm, làm cho người nào tu hành tinh tấn phải bị thoái lui. Lại nói rằng: Phật Đạo xa vời, trải qua trăm kiếp ngàn kiếp làm việc khó làm, khó bỏ được như: xả bỏ quốc thành, vợ con, voi ngựa, bảy báu, nô tỳ, đầy tớ, thân thể tay chân mà không tham tiếc. Bố thí như vậy trải qua mười vạn kiếp mới chứng Bồ-đề. Vô lượng chúng sinh tu hành như vậy đều chưa thành Phật, đã thoái chuyển để tự chứng Niết-bàn. Giả sử có thành Phật quả cũng nhập vào Niết-bàn. Chỉ có một loại Niết-bàn thì cần gì cố công tu hành khổ hạnh. Ông muốn cầu lợi ích thì phải tu hai việc: 1.Cầu đời hiện tại được hưởng khoái lạc, tùy ý hưởng tất cả năm dục thắng diệu của trời, người. Nếu có chút khổ nào cũng đừng sợ sệt. Vì sao? Ví như người nông dân, há sợ sâu mà không trồng lúa ư? Trời, người hưởng khoái lạc cũng vậy, tuy khổ ít nhưng khoái lạc lại vô cùng, chỉ tự mình tu trì thì đâu có gì lo, đâu có gì sợ! 2.Tự cầu Niết-bàn, đời này là đời chót, chứng A-la-hán, được giải thoát thì cần gì phải khổ nhọc để cầu quả Phật? Nếu ai không thể hướng đến Nhị thừa thì hãy hưởng tất cả khoái lạc của trời, người. Nếu sau có chán bỏ cũng mau nhập Niết-bàn. Ví như có người dụng công tuy ít mà được lợi ích lại nhiều, có người bỏ công rất nhiều mà việc không thành. Nếu ông có bỏ ra tất cả sự khổ nhọc đều không thành gì cả, trở lại dối gạt mình. Nay ông hãy đi và ở cùng ta, Niết-bàn xuất thế, tiến hay dừng, hãy cùng với ta một chỗ. Từ Thị nên biết! Đại Bồ-tát nào tu Đại thừa, nghe những lời nói này không tin theo mà lại nghó rằng: “Đây là ác ma đến quấy nhiễu ta, làm chướng ngại, và muốn dụ ta làm cho ta thoái chuyển Bồ-đề”. Biết vậy rồi, Bồ-tát phát tâm: “Ta thề không trái với lời nguyện xưa mà nghe lời nói này. Ta quyết định cầu quả Phật vô thượng, với Đại thừa thề không thoái chuyển.” Rồi Bồ-tát phát ba loại tâm: 1.Tất cả hữu tình đều là cha mẹ thân thuộc đời trước của ta từ vô thỉ kiếp ở trong luân hồi sinh tử chịu nhiều gian khổ, chịu các khổ não như: mười sáu tầng địa ngục, tám lạnh tám nóng và nhiều sự khổ não khác. Lại ở trong loài ngạ quỷ, bàng sinh và trời người cũng đều chịu các khổ như vậy, huống là cha mẹ, dòng họ, nội ngoại của ta đời trước mà không thương tiếc. Cho nên ta thề chứng Bồ-đề, không nên thoái chuyển. Này Từ Thị! Đây là Đại Bồ-tát phát tâm không thoái chuyển thứ nhất. 2.Tất cả hữu tình từ vô thỉ đến nay đều là cha mẹ của ta. Mỗi lần sinh ở trong bụng mẹ, người mẹ khi ăn nằm, ngủ nghỉ không được an ổn, sự sinh dưỡng lại rất khổ nhọc, lấy tâm huyết đại Bi biến thành sữa, không bao giờ mệt mỏi, nhổ đắng nuốt cay, tu tập công đức, mong cho ta trưởng thành, chẳng may ta bạc phước chết yểu thì cha mẹ kêu gào bi thảm, bứt tóc bù tai, đấm ngực, nước mắt tuôn trào, ăn không biết ngon. Trong mỗi lần sinh đều phải khổ như vậy. Được ra đời, nước mắt nhiều hơn bốn biển, uống sữa mẹ nhiều hơn bốn sông lớn. Lại nữa, tất cả hữu tình từ vô thỉ đến nay vì ân ái nên làm cha mẹ ta, vì ta mà bỏ mạng, cho nên đến nay vẫn chưa dứt luân hồi. Nếu hữu tình này siêng năng tu tập Vô thượng Bồ-đề thì chắc chắn thành Phật, nhưng vì ta mà phải bị sinh tử luân hồi. Lại nữa, tất cả hữu tình từ vô thỉ đến nay vì thương xót ta mà tạo ra các nghiệp ác, tâm không hối hận sửa đổi. Nếu nghiệp ác này có hình tướng thì nhiều hơn núi Diệu cao. Do tạo ra nhiều như vậy nên đọa trong ba đường ác đến nay vẫn chưa hết. Như vậy, sao ta lại vong ân bội nghóa để tự thủ Niết-bàn mà cầu giải thoát? Giống như mọi người đồng phạm vương pháp, bị trói nhốt trong tù, muốn chạy trốn nhưng không có đường ra, trong đó có một người thấy tường có lỗ hở nhỏ, nếu dùng nhiều cách thì có thể thoát ra đi được. Nhờ đó mà người ấy thoát khỏi khổ nạn. Hàng Nhị thừa cũng vậy, xưa kia đồng là si ái với chúng sinh, bị trói buộc trong tù sinh tử của ba cõi, muốn thoát khỏi nhưng vô phương. Trong đó có một người thấy môn Tứ đế, biết được đạo tu Khổ, Tập, Diệt, Đạo, đạt quả A-la-hán, chứng Niết-bàn. Người tu Đại thừa thì không như vậy, họ nguyện cùng chúng sinh được giải thoát, lấy Giới, Định làm hai tay, trí tuệ làm dao, lấy đại Bi làm móc, chìa khoá để phá giặc phiền não, bẻ gãy quân sinh tử, mở thành Niết-bàn, bước lên cung điện trí tuệ. Từ Thị nên biết! Đây là Đại Bồ-tát tu Đại thừa tâm không thoái chuyển thứ hai. 3.Đại Bồ-tát nghó như vầy: Từ vô thỉ kiếp bị luân hồi đến nay, những hữu tình đều lệ thuộc vào nhau tạo ra thân, khẩu, ý nghiệp làm khổ não người khác, quấy nhiễu tâm ý làm cho người khác phát khởi sân hận, cướp đoạt tài sản với mọi tham cầu, giết và ăn máu thịt của chúng sinh, giết hại như vậy vô lượng, vô biên. Giả sử người kia chưa chết thì ngày đêm suy nghó bằng cách nào làm cho người ấy chết để cho ta lấy máu thịt mà ăn uống no đủ. Lại kiêu mạn tự thị mà mắng nhục người khác: “Đó chẳng là lời của chính ta”. Tâm sinh tật đố lúc nghe người khác có việc hơn mình, không chịu nổi, phải làm cho họ trúng độc mà chết. Thấy người khổ nạn không có tâm Từ bi, lại vui thích không tự kìm chế được mà phải chết sớm sao? Thấy người sang giàu thì lại muốn họ bị phạm tội hình để vào lao, nghèo khổ. Muốn người ta khổ não để mình hưởng vinh hoa phú quý. Muốn tài sản của người đêm ngày bị tiêu mất, còn muốn tài sản của mình ngày càng phát triển. Muốn người kia buồn khổ còn mình luôn an lạc. Muốn người bị oán ghét còn mình được yêu mến. Muốn người khác gặp nhiều oan gia, còn mình gặp nhiều thân hữu. Người kia bị đọa lạc còn mình được lên cao. Muốn người bần cùng còn riêng mình giàu có. Muốn mình được trí tuệ còn người khác thì ngu si. Trong sinh tử từ vô thỉ, ngày đêm suy nghó đem lòng như vậy mà muốn cầu an lạc cho riêng mình, lợi ích luôn về mình, còn khổ não thuộc về người, không một chúng sinh nào mà không bị xâm phạm phá hoại. Không muốn người có việc tốt nổi tiếng, miệng đồng ý mà lòng thì ngược lại, dùng mọi cách bức hiếp khiến người khác luôn bất an… Những việc làm như vậy nhiều vô số kể, không thể nào nói hết. Lại dùng lời xấu ác để chỉ dạy hướng dẫn người hiện tại, vị lai đọa trong đường hiểm nạn. Giả nói thấy biết để làm chứng cho người khác, làm cho họ bị mất tài sản, mất chức quan, dùng lời ly gián làm rối loạn thân sơ, xảo trá đa đoan để cho lòng người hận nhau, đọa trong địa ngục không biết khi nào ra khỏi. Dùng lời hung ác mắng chửi người như lấy mũi tên, viên đạn bắn trúng vào thân tâm người, cho đến khi nào họ chết mới quên. Giả lập văn tự chửi mắng đa đoan, dùng những lời sai trái để làm tổn hại chúng sinh và nhiều thứ lời lẽ khác như vậy. Hoặc làm Tiên nhân ngoại đạo tà kiến, bị lửa sân đốt tâm, nói pháp tà ác, sân giận hừng hực, đàn áp hữu tình, lập mưu chú thuật yêu mị bùa chú khiến cho các chúng sinh bỏ sự tu tập để tổn hại nhau, làm tật bệnh lan tràn; khỏe mạnh thành gầy ốm, trẻ biến thành già, mắt sáng thì làm cho mù, tai nghe thông khiến cho điếc, đẹp đẽ làm cho xấu xí, người cao sang lại mắc bệnh hủi, người làm thiện khiến tạo ác, người trí tuệ khiến cuồng si, người sống lâu làm cho chết yểu, người giàu sang khiến nghèo khổ, cho đến ngày nay luân hồi mãi chưa dứt. Lại nhớ ngày xưa, ta là thầy ngoại đạo tà kiến, dạy người phi pháp nói là Chánh pháp, Chánh pháp nói là phi pháp, khiến cho vô số chúng sinh thoái tâm Bồ-đề, rơi vào phi pháp tà kiến. Từ đấy qua đời, đọa vào địa ngục, bàng sinh, ngạ quỷ. Lại có chúng sinh đời trước nhận sự dạy bảo của ta, từ núi cao vòi vọi quăng mình xuống sông Diêm-mâu-na rồi chết, cho là được sinh lên trời, đến nay vẫn còn đọa. Lại có vô lượng chúng sinh đến giữa hai sông: phía Nam sông Hằng, phía Bắc sông Diêm-mâu-na (chi lưu của sông Hằng, hợp với sông Hằng ở chỗ Bát-la-da-na), nơi có thần cây tên Ni-câu-đà sum suê tươi tốt, xanh biếc tỏa bóng mát, đất đai bằng phẳng rộng rãi, lấy nơi này làm trường thi, dưới cây dựng ba cái kích sắt. Chúng sinh kia muốn sinh lên trời thì trước tiên hành bố thí trong trường đó rồi cạo bỏ râu tóc, vào sông tắm rửa mong trừ tội cấu, sau đó leo lên cây rồi đâm đầu xuống mũi kích tự chết; chết rồi nói là được sinh lên trời. Từ vô thỉ đến nay như vậy luân hồi không dứt. Lại có chúng sinh học tà giáo của ta thường xan lận không bố thí, thấy ai bố thí thì lại nổi sân, thấy người nhận sự bố thí thì tức giận. Vì sao vậy? Vì thấy có người bố thí và có người nhận sự bố thí, do nghiệp duyên này mà đều đọa địa ngục. Do thấy như vậy cho nên trong vô lượng kiếp bị khổ ngạ quỷ đến nay chưa thoát khỏi. Lại có chúng sinh nhận tà giáo của ta, giết nhiều trâu dê để lấy máu tế trời. Vì sao vậy? Vì trâu dê ấy là trời ban cho ta, ta ăn máu thịt ấy là để tế trời. Từ vô thỉ đến nay thọ nhận và thực hành theo lời dạy đó, sau khi qua đời đọa vào đường ác, tàn hại ăn nuốt lẫn nhau, do ngu si nên không chứng được Niết-bàn. Lại có chúng sinh nhận tà giáo của ta, luôn phỉ báng Phật, Pháp, Tăng. Lại có chúng sinh nhận tà giáo của ta mà không tin nhân quả thiện ác trong ba đời, nói không bố thí cũng không cúng dường, không có kết quả, không có pháp hộ trừ ma, không làm việc thiện, không làm việc ác, cũng không có quả của nghiệp, không có đời này đời khác, không có địa ngục, ngạ quỷ, bàng sinh, không có trời, người, cha mẹ. Tất cả chúng sinh giống như say rượu, người làm rượu lấy nếp pha chế cho ấm lạnh để thành rượu ngon, người uống vào thì say ngay. Rượu này là do cha mẹ làm ra sao? Chúng sinh cũng vậy, cha mẹ hòa hợp do ái nhiễm xưa mà có thân ta. Sau khi ta qua đời không còn sống nữa, giống như sau khi chặt cây, đốt rồi thì thành than tro. Tro này đâu phải do cây mà có. Thân ta cũng vậy, chết rồi không sống nữa, cho nên biết rằng chắc chắn không có nhân quả. Do đây mà đối với cha mẹ, sư trưởng không cung kính, lại mắng chửi. Trong vô lượng kiếp cứ dạy tà giáo này khiến cho các hữu tình đọa vào địa ngục. Hoặc có ngoại đạo lấy lửa đốt thân, hoặc trầm mình trong nước chết chìm, hoặc lăn lộn trên kích nhọn để chết, hoặc tu hạnh con chó ăn phân để cầu sinh lên cõi trời. Hoặc tu giới của bò, như bò đi đường, uống nước ăn cỏ, không có gì che thân, không phân biệt lục thân nên dâm loạn bậy bạ. Hoặc có ngoại đạo nhịn đói không ăn, đứng suốt cả ngày, qua đêm sau mới ăn. Hoặc có ngoại đạo dùng năm loại nóng đốt thân và xoay chuyển theo mặt trời. Có ngoại đạo giơ một chân lên cao. Có ngoại đạo phụng thờ mặt trăng, tháng có trăng thì một ngày ăn một miếng, hai ngày ăn hai miếng, cho đến đủ tháng thì ăn được mười lăm miếng. Tháng tối thì ngày đầu tiên giảm ăn một miếng, hai ngày giảm hai miếng, cho đến hết tháng tối chỉ ăn một miếng, hoặc có khi không ăn. Có ngoại đạo trì giới gà, rải thức ăn trên đất rồi dùng chân bới ra lượm ăn, lúc tới giờ thì kêu; có ngoại đạo lõa thân đi, không biết xấu hổ. Có ngoại đạo đốt tóc, vào giữa trưa đứng ngoài trời và di chuyển theo mặt trời, trời lạnh buốt ở dưới bóng mát mà đứng quạt. Có ngoại đạo sau khi giết người, lấy đầu lâu đựng thức ăn uống; có ngoại đạo lõa hình không xấu hổ, lấy tro bôi thân. Hoặc có ngoại đạo dùng than đen bôi lên thân, hoặc dùng các đốt xương của đầu lâu để làm xâu chuỗi, vòng hoa, nhẫn xuyến để trang sức thân thể. Hoặc có ngoại đạo lấy đuôi ngựa, lông bờm ngựa dệt làm áo quần, có ngoại đạo lấy vỏ cây làm áo quần, có ngoại đạo lấy lông chim thứu làm áo quần, lấy lông gà làm áo quần. Những ngoại đạo như vậy lấy tà pháp dạy chúng sinh. Vì khẩu nghiệp mà vô số chúng sinh đến nay vẫn ngu mờ không được giải thoát. Lại từ vô thỉ đến nay do thân tạo ra nghiệp ác làm khổ não chúng sinh, làm cai ngục cầm kềm sắt kẹp lưỡi chúng sinh rồi lấy nước đồng sôi rót vào. Lại lấy chày sắt đập nát xương chúng sinh, lại dùng cưa sắt cưa xẻ các chúng sinh, hoặc xua đuổi chúng sinh lên rừng kiếm, kéo ruột, ngũ tạng ra ăn; hoặc lấy dây sắt quấn chặt chúng sinh quăng vào sông tro, rồi lại kéo ra để trên cây nóng như cá bị trộn qua trộn lại trong chảo, hoặc bắt đứng ngồi rồi lấy thìa sắt nóng xúc, hoặc lấy nước đồng sôi rót vào miệng bắt uống. Hoặc dùng kềm sắt rút lưỡi chúng sinh ra, kéo cho dài rộng rồi lấy lưỡi cày bằng sắt cày lên, giống như các khổ đã nói trong địa ngục ở trên. Từ vô thỉ kiếp đến nay, ta bị những việc như vậy… Mỗi nghiệp thân là làm khổ não chúng sinh, lại làm sư tử, hổ báo, sài lang, gấu bi… ăn thịt uống máu, tàn hại chúng sinh. Hoặc trong địa vị tôn quý làm vua quan, thứ dân, trưởng giả, cư só… bẻ cong pháp luật mà thu thuế, đánh đập vô cớ, không làm theo pháp luật của vua, làm tổn hại hữu tình. Do đó mà suy nghó: từ vô thỉ đến nay ta đã luôn não hại chúng sinh trong năm đường, nào chặt đầu, móc mắt, xẻo tai, cắt mũi, cắt lưỡi, ăn thịt, chẻ xương lấy tủy, chặt tay chân cho đến chết. Hoặc khi làm người thì làm đồ tể, săn thú, bắt cá, giăng lưới để đoạt mạng chúng sinh như trâu, dê, hươu, nai, chồn, thỏ, gà, heo, cá, ba ba, rùa… cắt thân chúng ra từng khúc rồi dồn lại để bán. Sát hại, buôn bán vô số chúng sinh như thế trải qua vô lượng câu-chi kiếp. –Này Từ Thị! Đại Bồ-tát tu Đại thừa nên phát tâm như vầy, tư duy như vầy: “Vì tham, sân, si mà thân, khẩu, ý tạo ra bao nghiệp ác, lừa gạt làm tổn hại tất cả chúug sinh hiện đang đọa trong địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh mà chịu các khổ não. Ta nay lấy làm xấu hổ, hối hận, tự trách mình làm thế nào để đền đáp công ân ấy. Suy nghó như vậy, không có cách nào khác để đền trả tội ấy, chỉ có chí tâm cầu Vô thượng Bồ-đề, chứ không thể nào trả hết nợ cũ. Sau khi chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác rồi, ta cứu độ chúng sinh đang ở trong sa mạc đồng hoang luân hồi này đến thành Niết-bàn an lạc. Dùng châu như ý, trí Nhất thiết trí để đền trả tội lỗi thâm sâu từ vô thỉ.” Từ Thị nên biết! Đây là Đại Bồ-tát phát tâm không thoái chuyển thứ ba. Hai tâm trên nỗ lực tu hành tinh tấn không giải đãi. Tâm thứ ba nhất tâm tu hành chứng quả vị không thoái chuyển. Này Từ Thị! Dùng năm loại phát tâm này tu hành Đại thừa mau thành tựu Nhất thiết trí. Kinh Đại thừa Lý Thú Lục Ba-la-mật-đa <卷 id="82881920">Quyển 4 <詞 id="82881921">Phẩm 5: Bố Thí Ba-la-mật-ĐA Bấy giờ, Đức Thế Tôn ở trong đại chúng rống tiếng Sư tử nói xong năm loại phát tâm Bồ-đề. Đại Bồ-tát Từ Thị cùng vô lượng, vô số trăm ngàn câu-chi Đại Bồ-tát, Đại Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi làm thượng thủ và tất cả đã thành tựu sáu pháp Ba-la-mật-đa. Lại có vô lượng đại A-la-hán các lậu đã hết, việc làm đã xong, xả bỏ gánh nặng, phạm hạnh thanh tịnh và vô số câu-chi trăm ngàn vạn ức na-do-tha Trời, Rồng, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Dạ-xoa, La-sát, Càn-thát-bà, Tỳ-xá-già, Nhân phi nhân… Khi ấy, Đại Bồ-tát Từ Thị ở giữa đại chúng liền đứng dậy, chỉnh đốn pháp phục, trịch áo bày vai phải, quỳ gối chắp tay, nhất tâm cung kính thưa: –Bạch Thế Tôn! Thế Tôn đã nói tâm không thoái chuyển Đại thừa Bồ-tát. Bồ-tát tu tập bao nhiêu pháp mới được gọi là Đại Bồ-tát? Cúi xin Đức Thế Tôn phân biệt giải nói. Khi ấy Đức Thế Tôn dạy Đại Bồ-tát Từ Thị: –Nếu có thiện nam, thiện nữ nào với tâm thanh tịnh quy y Phật, Pháp, Tăng bảo, phát tâm Vô thượng Bồ-đề thì chứng được quả vị không thoái chuyển, vị đó gọi là Bồ-tát, sống trong pháp của ta gọi là Ma-ha-tát (Đại), làm Pháp vương tử cho hằng hà sa chư Phật Bồ-tát, vì các hữu tình ấy mà làm cha mẹ, làm ánh sáng đại phước đức soi chiếu hơn cả trăm ngàn mặt trời để trang nghiêm thân Phật. Đại Bồ-tát Từ Thị thưa: –Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát này làm sao viễn ly, làm sao thân cận? Lấy ai làm bạn lữ? Trước tiên phải làm gì và nên trụ như thế nào? Tu hành ra sao? Điều phục tâm như thế nào? Giữ gìn những gì? Nhờ thế lực của ai để mau chứng đắc Vô thượng Bồ-đề? Đức Thế Tôn dạy: –Thiện nam, thiện nữ nào dắt dẫn chúng sinh trong năm đường đạt đến Vô thượng Chánh giác Bồ-đề, tránh xa ngoại đạo, pháp tà, bạn ác; gần gũi người tu hành, đầy đủ Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ, lấy người hành Đại thừa làm bạn lữ, chính mình nên lắng nghe Chánh pháp, siêng năng tụng trì, an trụ sáu pháp Ba-la-mật-đa như vậy, tinh tấn tu hành, điều phục tâm ý, thu thúc sáu căn. Nhờ năng lực này mà mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nên gọi là Đại Bồ-tát. Thế nào là sáu pháp Ba-la-mật-đa? Đó là: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ ba-la-mật-đa. Bồ-tát Từ Thị thưa: –Vì sao nói Bố thí ba-la-mật-đa là pháp đầu tiên? Đức Phật dạy Từ Thị: –Ta sẽ vì ông mà phân giải rộng nói. Trong sáu pháp Ba-la-mật-đa, Bố thí ba-la-mật-đa rất dễ tu tập cho nên nói trước, giống như những việc làm ở thế gian, việc nào dễ thì nên làm trước, cho nên nói Bố thí ba-la-mật-đa đầu tiên. Tất cả hữu tình ai cũng có thể hành Bố thí ba-la-mật-đa. Dạ-xoa, La-sát, sư tử, hổ, sói, cai ngục, đồ tể, đầu bếp… là những chúng sinh bạo ác nhất trong loài hữu tình mà còn có thể bỏ xan tham thi hành bố thí. Bố thí thế nào? Nghóa là chúng nuôi con, vì thương xót mà cho con bú sữa. Chúng sinh này tuy không thể biết phước lợi nhưng nhờ có lòng thương xót mà được khỏe mạnh, sống lâu, an lạc, lìa khổ đói khát. Đó cũng gọi là bố thí. Do đó mà bố thí đối với sáu pháp Ba-la-mật-đa thì nói Bố thí ba-la-mật-đa trước tiên. Lại như, tất cả chúng sinh nghèo khổ đói lạnh, lõa thân, thân tâm không an, làm sao có thể làm mọi việc? Nếu cho họ cơm ăn, áo mặc để được an lạc thì sau đó mới có thể tu các thiện nghiệp. Đại Bồ-tát cũng vậy, thấy các hữu tình bị nghèo khổ bức bách, không thể phát lòng tin vô thượng để tu hành tất cả sự nghiệp Đại thừa, làm các việc lớn nên trước tiên bố thí tất cả áo quần, đồ ăn uống, phòng xá, giường chiếu, thuốc thang… để tâm họ được an lạc rồi sau đó làm cho họ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, tu hành pháp Đại thừa. Do đó mà Bố thí ba-la-mật-đa là cửa đưa đến thành tựu sáu pháp Ba-la-mật-đa, là hạnh đầu tiên của bốn Nhiếp pháp. Giống như tất cả vạn vật đều nhờ đất mà sinh trưởng; do đó mà nói Bố thí ba-la-mật-đa đầu tiên. Như các loài Dạ-xoa… đã nói ở trên, không biết những gì là ruộng phước và chẳng phải ruộng phước, nhưng do lòng yêu thương mà cho con bú, thì sẽ được làm người giàu có của cải, không đói thiếu. Do nhân này mà sinh ra chỗ nào cũng không có tánh xan tham, bố thí cho tất cả hữu tình để dứt trừ sự bần cùng khốn khổ. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát muốn làm lợi ích cho các hữu tình, trước tiên phải thực hành hạnh Bố thí ba-la-mật-đa. Người nào đến xin thì đem cho, không được nhăn nhó, khinh thị cũng không sân giận, tiếc nuối. Mình có gì đem cho nấy, không được chần chừ và sinh lòng keo kiệt. Đối với những gì mình yêu thích như: áo quần, giường chiếu, đồ ăn uống, thuốc thang, đất nước, vợ con, nô tỳ, đầy tớ, voi ngựa, bảy báu… đều lấy đem bố thí, cho đến một niệm cũng không hối tiếc. Nếu ai nghi ngờ thì đó là ma. Vì sao vậy? Vì ma vương Ba-tuần hóa làm của cải để khiến người xan tham. Nó làm cách ấy là để mê hoặc tâm ta, làm cho chướng ngại đại Bồ-đề. Do nghóa này nên không được xan tham mà suy nghó như vầy: “Phải xả bỏ tất cả của cải mà ta yêu mến.” Bấy giờ, Đại Bồ-tát Từ Thị thưa: –Bạch Thế Tôn! Nếu ta bố thí của cải yêu thích mà không tiếc nuối thì Đại Bồ-tát là Chuyển luân vương có bảy báu ngàn người con vây quanh không biết làm gì, giống như cây cỏ rất nhỏ sống ở khe rạch lại gặp mưa dữ dội, nước lớn tràn về trôi sạch không còn lại một thứ gì. Vua Chuyển luân có năm dục thỏa thích, hùng mãnh, quyền lực, ngàn người con đi theo mình, làm tâm Bồ-đề đều phải trôi hết, như vậy làm sao tu tập hạnh bố thí, do vậy mà khó xả ly. Đức Thế Tôn dạy Đại Bồ-tát Từ Thị: –Này thiện nam! Đại Bồ-tát sinh ra chỗ nào luôn giàu có, của cải sung túc và pháp đạo cũng như vậy. Chuyển luân thánh vương nên suy nghó hai điều: 1.Tư duy chư Phật quá khứ hành những hạnh khó làm và tất cả giáo pháp của Phật Bồ-tát. Năm dục khoái lạc của Chuyển luân vương do vọng chấp phân biệt mà có, giống như huyễn mộng. Với cảnh năm dục ấy, Chuyển luân thánh vương không phân biệt, không chấp trước, làm sao có thể làm chướng ngại tâm Bồ-đề. 2.Tư duy: Ta đã đưa tất cả hữu tình vào chỗ an lạc vô thượng Bồ-đề cũng như quá khứ hằng hà sa chư Phật Như Lai xả bỏ những việc khó xả, ta cũng thề phải xả bỏ như vậy. Vì muốn tẩy trừ đi những cấu uế xan tham mà phát tâm nguyện: Từ đây cho đến khi thành Phật, thề đem thân này bố thí cho cả pháp giới, để cho tất cả chúng sinh được tu phước nghiệp. Dù nhiều hay ít, nguyện cùng hưởng với tất cả chúng sinh, hồi hướng lên Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Lấy đó mà quán sát: Xưa kia ta đã xả vô số thân mạng như núi Diệu cao, quán thân ta giống như hạt cải, thân này còn xả, huống gì của cải. Nếu Bồ-tát có nhiều tài sản quý báu mà không bố thí thì giống như voi trắng đã tắm rửa sạch sẽ trong sông Hằng rồi dùng vòi hút lấy phân dơ, đất bụi bôi khắp thân. Ta lấy nước sạch phước đức tắm rửa thân thể cho sạch sẽ, đoan trang, thơm khiết, chứ không nên xan tham mà yêu thích của cải để bôi dơ nhớp lên thân. Từ Thị nên biết! Đại Bồ-tát tư duy như vầy: Có người đến xin da của ta, ta liền lột đưa vui vẻ với lòng hoan hỷ, không một chút sân hận. Nếu xin thân, đầu, máu, thịt, xương, tủy cũng đều đem cho. Do đó mà Đại Bồ-tát làm lợi ích an vui cho các hữu tình, không xả bỏ sinh tử mà không chấp lấy Niết-bàn. Lại nghó như vầy: Nay thân này của ta trước đây không đến, sau này không đi, do cha mẹ hòa hợp hạt giống bất tịnh mà có thân ta, ở trong chỗ bào thai dơ nhớp. Giống như trồng cây, cành lá tốt tươi thì hoa quả thành trái; thân ta cũng vậy, lấy khổ làm cành, lo buồn làm lá, dối gạt làm hoa, si làm gốc. Quỷ La-sát sân giận ở cây này, lại bị những nghiệp ác như hổ báo, chó sói, sư tử… bao quanh cây. Nay tạm thời ta nghỉ dưới gốc cây này, tại sao tham tiếc cây độc dữ này làm gì? Thân cây này không có ngã và ngã sở, giả sử nếu có thì ta cũng xả nó, nguyện đem cho chúng sinh theo yêu cầu của họ, không bao giờ tham tiếc. Vì sao vậy? Vì ngã đã xả rồi nên không cầu quả báo, không mong cầu ân đức, không chấp trước. Vì sao vậy? Vì thân ác độc này bị trói buộc bởi ba pháp ác: 1.Bất tịnh. 2.Rất khổ. 3.Vô ân. Nếu có người bị La-sát độc ác và loài thú dữ bao quanh, trong chúng có ai cứu vớt thì nên biết người đó là ân nhân của ta, đã làm lợi ích cho ta. Ta luôn nhớ ân đức của người này, sao lại tiếc thân này với họ ư? Tất cả cây cỏ thuốc thang, gốc rễ, cành lá, hoa quả, nông sản trên mặt đất này đều có thể mặc, ăn, mang, đội. Nếu dùng búa chém, chặt hết cho người thì có thể làm lợi ích cho vô lượng chúng sinh. Nhưng mặt đất này không nghó rằng chúng sinh đã ăn thân, cành, lá, hoa, quả của mình mà được khỏi bệnh. Loài vô tình kia không phân biệt mà còn có thể làm lợi ích cho tất cả hữu tình, huống gì thân ta mà không thể hành bố thí để làm lợi ích cho người khác sao! Ngược lại có người đến xin thì ta có tâm ngã mạn khinh khi, nhục mạ. Lại nên quán sát trong ngoài thân của chính mình. Trước tiên quán sát bên trong thân: Mắt là của ta ư? Nếu không phải của ta thì vì sao tham tiếc? Tai, mũi, lưỡi, thân… cũng như vậy. Quán khắp hết thì không có gì là ta và của ta. Lại quán ngoài thân: Sắc là ngã ư, là ngã sở ư? Thanh, hương, vị, xúc lại cũng như vậy. Quán sát khắp cả trong ngoài thân đều không có ngã, đã không có ngã thì vì sao xan tham không bố thí? Nên phải tư duy chắc chắn như vầy: “Nguyện đem thân này cống hiến cho tất cả.” Vì sao? Vì thân này vô thường biến đổi, không nhất định, sinh diệt trong từng sát-na, không có gì cả. Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ: Ai bắt ta bỏ thân, của cải Không được tự do, không lợi ích, Biết vậy rồi, tư duy thật kỹ Mở lòng bố thí là tối thắng. Người mê nếu ngộ pháp mộng huyễn Trong ngoài đều xả, không chấp hữu, Bố thí như vậy sánh hư không Không ta, không nhận là tối thắng. Lại nữa, này Từ Thị! Nếu Đại Bồ-tát tu hành Đại thừa, cầu Vô thượng Bồ-đề thì nên tu pháp Không, vì quán Không nên tâm mới được tự tại. Ở chỗ hằng hà sa chư Phật được thọ ký, tâm quả vị không thoái chuyển mà hành bố thí, không có mỏi mệt. Bố thí là con dao chặt đứt giặc xan tham; giặc xan tham là cội gốc của các khổ. Bồ-tát bố thí không tham tiếc. Vì sao vậy? Vì Đại Bồ-tát tuy có phiền não nhưng đó đều là phương tiện để làm lợi muôn vật. Những phiền não đó không có tội lỗi, vì đó là nguyện lực của Đại Bồ-tát. Thân, khẩu, ý trụ vào “Vô công dụng” mà được thanh tịnh, khéo điều phục năm Căn không buông lung, làm nhiều lợi ích cho tất cả chúng sinh, biết Thắng nghóa đế và Thế tục đế, lấy nước Chánh định để rửa sạch bụi xan tham. Đã trừ sạch cấu bẩn này rồi thì bố thí một cách tự tại, nói pháp Đại thừa, ánh sáng oai nghiêm chiếu rực rỡ giống như mặt trời tỏa sáng, phá trừ các tối tăm. Ánh sáng của tiếng nói pháp trừ đi tâm hôn mê. Đại Bồ-tát Từ Thị thưa: –Bạch Thế Tôn! Vì sao thuyết minh pháp thí trước tiên? Phật dạy: Pháp thí có ba vượt hơn tài thí: 1.Bố thí tài của thì có thể hết, còn bố thí pháp thì càng bố thí càng tăng trưởng không hết. Do đó mà nó vượt hơn tài thí. 2.Người nhận tài thí chỉ được ích lợi đời hiện tại. Còn người nhận pháp thí thì được lợi ích đời này và đời sau, nó luôn luôn đi theo ta vô số kiếp, không ai có thể cướp đoạt, cho đến chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề cũng không lìa bỏ. 3.Bố thí tài, thì người bố thí được lợi ích, người nhận thì không được lợi ích. Còn bố thí pháp thì cả hai đều được lợi ích. Vì do nghe pháp mà phát tâm mau hướng đến Vô thượng Bồ-đề. Do ba nghóa trên mà pháp thí vượt hơn Tài thí. Nhờ thực hành Pháp thí nên tiếng đồn vang, tất cả người trời đều tôn trọng, cung kính. Do đây mà trước tiên nói về Pháp thí. Nếu Đại Bồ-tát tu tập Bố thí Ba-la-mật thì lấy ba việc và các công đức để làm gốc: 1.Làm lợi ích cho mình và người. Nếu không làm lợi ích cho người mà riêng mình hưởng cái vui ở đời thì chẳng phải hạnh Bồ-tát. 2.Ở trong Đại thừa không thoái lui. 3.Tu tập một chút phần bố thí là gốc của vô lượng công đức. Vì sao? Vì tâm thanh tịnh không phân biệt. Giống như mặt trời chiếu sáng khắp thế gian, các loài hữu tình và vô tình đều nhờ ân được lợi ích. Mặt trời đó không nói: Ta đã chiếu sáng, cũng không phân biệt hữu tình hay vô tình. Bồ-tát đã làm những công đức như vậy cho đến bố thí một cái hoa, một cái quả đều vì lợi ích cho tất cả chúng sinh. Nhờ công đức này mà thành quả Vô thượng, lòng Từ bi biến khắp mười phương, chỉ dạy dẫn dắt cho tất cả muôn loài. Lại nữa, này Từ Thị! Đại Bồ-tát dùng của báu bố thí để làm dụng cụ trang nghiêm cho đến lúc thành Phật, tướng tốt trang nghiêm. Vì sao bố thí ít mà được công đức nhiều? Dùng chút ít sức phương tiện bố thí, hồi hướng phát nguyện cùng tất cả chúng sinh đồng chứng Bồ-đề Vô thượng Chánh đẳng. Do đó mà được công đức vô lượng, vô biên, giống như chút mây mà dần dần bủa khắp thế giới. Này Từ Thị! Bố thí có ba loại: 1.Bố thí nhỏ. 2.Bố thí lớn. 3.Bố thí đệ nhất nghóa. Bố thí nhỏ nghóa là dùng những thứ ăn uống, áo quần, các dụng cụ trang sức, tài bảo, voi ngựa, xe cộ, kho lẫm, thành ấp, xóm làng, vườn cây, nhà cửa và tất cả nhạc cụ của Chuyển luân vương mà đem bố thí thì gọi là bố thí nhỏ. Bố thí lớn là bố thí những gì mà Chuyển luân vương yêu mến như: hoàng hậu, thứ phi, quyến thuộc và chính bản thân mình đem bố thí cho người gọi là bố thí lớn. Bố thí đệ nhất nghóa, nghóa là có thể lấy thân mạng của mình mà hành bố thí, vì tâm tương ưng với Vô sở đắc nên gọi là Bố thí đệ nhất nghóa. Đại Bồ-tát dùng ba loại này mà hành bố thí thì gọi là Bố thí ba-la-mật-đa. Này Từ Thị! Ai bố thí thức ăn là bố thí năm việc: 1.Bố thí mạng sống: nếu người không ăn thì khó có thể cứu mạng sống. 2.Bố thí sắc: nhờ được ăn mà nhan sắc đẹp đẽ. 3.Bố thí sức: do được ăn mà sức lực phát triển. 4.Bố thí vui: do thức ăn này thân tâm được an vui. 5.Bố thí hiểu biết: nếu bị đói khát thì thân tâm nhu nhược, nói phều phào không rõ ràng. Khi ăn uống được sung túc thì thân tâm khỏe mạnh, được trí tuệ và đại biện tài vô ngại. Khi Đại Bồ-tát bố thí cơm ăn, nên phát nguyện hồi hướng như vầy: Khi con bố thí thức ăn thì bố thí năm việc này: 1.Nếu bố thí thân mạng, con nguyện cho tất cả chúng sinh được sống lâu như Phật, một kiếp, hai kiếp, vô lượng kiếp cùng ở với nhau. 2.Nếu bố thí sắc, con nguyện cho tất cả chúng sinh được sắc thân vàng ròng như Phật, chiếu rực rỡ thế gian, hơn cả trăm ngàn mặt trời. 3.Bố thí sức lực, con nguyện cho tất cả chúng sinh được mười Lực của Phật, trong mỗi lực đều có tám vạn bốn ngàn sáu trăm sáu mươi ba loại sức Na-la-diên. 4.Bố thí vui, con nguyện cho tất cả chúng sinh thành Phật, không có gì sánh bằng Niết-bàn an lạc. 5.Bố thí sự biện tài, con nguyện cho tất cả chúng sinh thành tựu được bốn vô ngại biện của Thế Tôn. Nếu bố thí mùi vị, nguyện cho tất cả chúng sinh được đầy đủ pháp vị cam lồ vô thượng của Phật, an ổn không gì sánh bằng thanh tịnh Niết-bàn. Khi bố thí nước, nguyện cho tất cả chúng sinh trừ hết khát ái. Nếu bố thí những thức ăn ngon, đường cát, đường phèn, mía, bồ đào thì được bốn cái răng giữa trong miệng của Như Lai nên tất cả những thức ăn uống và độc dược khi vào tới răng đều biến thành cam lồ. Nếu bố thí thuốc thang, nguyện cho tất cả chúng sinh được thuốc sáu Độ chữa lành bệnh sinh tử, được an vui Niết-bàn. Khi bố thí áo quần, nguyện cho tất cả chúng sinh được áo xấu hổ để che thân, xa lìa thân hình xấu xí, được thân đẹp đẽ màu vàng ròng, tươi đẹp không ai sánh bằng. Nếu bố thí những loại hương bột, hương xoa, con nguyện cho tất cả chúng sinh được giới hương để xoa thân, tẩy trừ tập khí ô uế phiền não. Nếu bố thí voi ngựa, xe cộ, thuyền bè, con nguyện cho chúng sinh đều được Tam-muội tùy tâm của Như Lai, đi đứng tự do không có chướng ngại. Khi bố thí cầu cống, nguyện cho chúng sinh cầu được sáu Độ, qua sông sinh tử, đến bờ Niết-bàn. Nếu bố thí anh lạc, nguyện cho chúng sinh được trang sức bằng chuỗi châu ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Nếu ở chỗ đồng hoang sa mạc, qua lại đói khát, bị mặt trời thiêu đốt thì bố thí ao giếng để uống, tắm rửa. Nguyện cho tất cả chúng sinh xa lìa đồng hoang luân hồi sinh tử, cái nóng nực của ba độc, cái khổ của khát ái. Lại nguyện thân ta là ao, suối pháp, nước Nhất thiết trí đầy đủ trong đó để chúng sinh tha hồ uống, tắm rửa, chấm dứt nguồn sinh tử, được chân giải thoát. Bố thí nhà cửa, nguyện cho chúng sinh tránh xa mưa gió, giặc cướp, thú ác, sợ hãi mà được an lạc. Nguyện cho chúng sinh đều vào nhà Niết-bàn, xa lìa giặc phiền não và địa ngục lạnh nóng, vónh viễn không còn lo sợ mưa gió sinh tử. Nếu bố thí mền mùng mềm mại, giường chiếu… nguyện cho chúng sinh ngồi tòa Bồ-đề, tự nhiên giác ngộ, được chân bình đẳng. Nếu bố thí những loại áo quần thượng hạng, nguyện cho tất cả chúng sinh có áo pháp tam thừa, che khắp tất cả phiền não chúng sinh. Nếu bố thí đèn dầu cho Tam bảo, Sư tăng, Cha mẹ, nguyện cho tất cả chúng sinh được mắt Nhất thiết trí. Nếu bố thí âm nhạc, nguyện cho tất cả chúng sinh được thiên nhó, nghe biết được tất cả âm thanh trong mười phương thế giới. Nếu đối với chỗ quá xa không có Phật pháp thì xây dựng Tăng phường và Chiêu-đề Tăng để bố thí những dụng cụ ăn uống, thuốc thang, nguyện cho tất cả chúng sinh được thành Niết-bàn an lạc, chấm dứt khổ luân hồi sinh tử. Nếu bố thí thuốc thang, nguyện cho tất cả chúng sinh dùng thuốc pháp để trừ bệnh phiền não. Nếu bố thí đầy tớ, nguyện cho tất cả đều như A-nan hầu Như lai. Nếu cứu người tù đày được tự do, nguyện cho tất cả chúng sinh viễn ly ngục tù phiền não, được giải thoát, hoàn toàn trụ trong ngôi vị Pháp vương. Nếu bố thí vàng bạc và của báu vô giá, nguyện cho tất cả chúng sinh được trăm tướng phước đức trang nghiêm thân. Nếu bố thí mũ báu và những dụng cụ trang trí như anh lạc, xuyến, nhẫn, bông tai, vòng hoa… nguyện cho tất cả chúng sinh được tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm thân. Nếu bố thí nơi thanh tịnh tu học, nguyện cho tất cả chúng sinh được bốn Thánh chủng làm chỗ nương tựa. Nếu bố thí kho tàng, nguyện cho tất cả chúng sinh được tài pháp công đức vô thượng của Phật. Nếu bố thí bảy báu và ngôi vị Chuyển luân vương tự tại an lạc, nguyện cho tất cả chúng sinh được sức mạnh lớn, dùng tay diệu pháp cứu vớt chúng sinh ra khỏi mười nghiệp ác, lấy nước Thập thiện rửa cho sạch sẽ, dùng giới hương thanh tịnh để thoa thân, đoạn trừ tất cả mùi hôi xú uế, lấy áo tàm quý mà làm tàng lọng, lấy công đức Phật làm anh lạc, lấy nhẫn nhục làm vòng hoa để trang sức thân, lấy tónh lự làm giường ngồi, an trú bất động, lấy mũ Bồ-đề đội lên đầu, ở trong ngôi vị Pháp vương mà nhận quán đảnh. Từ Thị nên biết! Bố thí như vậy gọi là Bồ-tát hành tiểu thí. Lại nữa, đại thí nghóa là đối với vợ trinh thuận, con xinh đẹp, trai gái bạn bè yêu kính nhất, Bồ-tát đều đem bố thí. Nếu không xả bỏ vợ con này thì làm sao được làm cha mẹ tất cả chúng sinh và có thể yêu thương họ? Hãy thương xót cứu độ chúng sinh như con yêu quý của mình, làm cho lìa sinh, già, bệnh, chết. Do đây mà Đại Bồ-tát đều bố thí tất cả những gì sủng ái, thương yêu, cho đến thành Phật Vô thượng Bồ-đề. Từ Thị nên biết! Bố thí như vậy gọi là Bồ-tát hành đại thí. Bố thí đệ nhất nghóa: Đại Bồ-tát với tâm thanh tịnh, đem tay chân, da thịt, xương tủy, đầu, mắt, tai, mũi, cho đến thân mạng của mình mà tâm không tiếc nuối. Đem công đức này nguyện cho tất cả chúng sinh đời tương lai được thân Kim cang không hư hoại. Nếu bố thí tay chân mà không thương tiếc, nguyện cho tất cả chúng sinh đang luân chuyển, nổi trôi trong dòng thác sinh tử, mà không người cứu vớt thì đưa tay Chánh pháp cứu vớt họ, đưa họ lên bờ cõi an lạc. Nếu bố thí tai, mũi, lưỡi, nguyện cho tất cả chúng sinh đời tương lai đều được năm Căn thanh tịnh của chư Phật, lấy pháp vi diệu ấy trang nghiêm chúng sinh. Nếu lấy máu thịt bố thí cho chúng sinh thì lúc bố thí nguyện cùng tất cả chúng sinh được thân giống như đại địa, làm chỗ nương tựa cho các hữu tình. Giống như dòng nước lớn có thể tẩy trừ được cấu uế, khe rạch khô ráo được tràn đầy. Lại như ánh lửa lớn phá trừ chỗ tối tăm, được thành tựu tất cả. Như gió lớn thổi làm kinh động tất cả, khai mở sinh trưởng được mọi sự tươi đẹp. Khi bố thí mắt, nguyện cho tất cả chúng sinh được Phật nhãn. Nếu bố thí đầu và mũ báu, nguyện cho tất cả chúng sinh được mũ báu bảy Giác chi vô thượng của Phật. –Này Từ Thị! Đại Bồ-tát đem tất cả những vật tốt đẹp trong thế gian bố thí cho tất cả hữu tình mà không tham tiếc. Vì sao vậy? Vì đem lòng đại Bi xem chúng sinh bình đẳng giống như con một. Nguyện cùng tất cả chúng sinh không còn nghèo khổ, cầu gì cũng được toại nguyện, ở trong đồng hoang sinh tử đầy đủ bảy Thánh tài, được của báu trí Phật. Này Từ Thị! Vì sao Đại Bồ-tát tu hành bố thí mà không có nguy hoạn? Nghóa là tự tay mình hành bố thí, chẳng phải ganh tî, chẳng phải sợ tiếng xấu, chẳng phải cầu ân đức, chỉ vì cứu vớt người bần cùng cô đơn, khốn khổ. Đó gọi là bố thí. Nếu vì tiếng tốt mà làm thầy, luôn hành bố thí thì giống như người đi buôn, chẳng phải là bố thí chân thật. Có lòng đại Bi, bố thí không phân biệt oán, thân, của cải nhiều hay ít, đó là chân thật bố thí. Này Từ Thị! Có hai loại ruộng: 1.Ruộng Bi: nghóa là những người cô quả nghèo cùng, khốn khổ. 2.Ruộng Cung kính: đó là Phật, Pháp, Tăng, Cha mẹ, Sư trưởng. Không nên xem thường ruộng Bi mà nói không phải ruộng Phước. Với ruộng cung kính không mong cầu quả báo, dùng tâm đại Bi không phân biệt, bố thí bình đẳng cho tất cả, gọi là Chân bố thí. Lại nữa, bố thí chớ vì sự vọng cầu mà không xả bỏ tài sản của cải, hoặc bị quan cưỡng đoạt mà bố thí, hoặc sợ tổn hao mất mát mà bố thí. Không được khinh khi Tam bảo, nên cung kính tôn trọng, không tự khen mình mà hành bố thí. Đem của báu bố thí mà không tiếc nuối, không ngã mạn, không cống cao, đó gọi là Chân bố thí. Đối với ruộng tôn kính mà không cung kính, đem vật không ưa thích bố thí thì không gọi là bố thí. Hoặc vì nhà nghèo không có phẩm vật tốt đẹp mà còn có tâm sỉ diện vì sự thô xấu nên không bố thí, do nhân duyên đó mà không hành bố thí. Này thiện nam! Người hành bố thí không nên phân biệt, tùy theo chỗ mình có mà người nào đến cần gì đều đem cho, đó là Bố thí ba-la-mật-đa. Đại Bồ-tát khi bố thí không nên ỷ mình có trì giới, đa văn, thiền định, trí tuệ mà hành bố thí, cũng không khinh khi người khác là tham, sân, si, trí kém, phá giới… mà hành bố thí thì đó chẳng phải tịnh thí. Đại Bồ-tát hành bố thí không sợ nghèo đói, không sợ vào đường ác, tùy chỗ mình có ít hay nhiều gì cũng đều đem bố thí cả. Do tâm rộng lớn này mà được công đức vô tận vô biên. Đó là Bố thí ba-la-mật. Nếu vì bố thí mà ganh tî nhau, làm cho gia đình quyến thuộc cãi vã, đánh lộn, không hòa thuận thì không gọi là bố thí. Nếu bố thí mà khinh chê người đi xin: “Ông nay khỏe mạnh, các căn đầy đủ, sao không tự mình kiếm nghề sinh sống mà lại đi xin?” Bố thí như vậy không gọi là bố thí. Hoặc cho rồi hối hận, nói rằng: “Vì ta ngu si mà đem cho của cải”; cho như vậy không gọi là bố thí. Hoặc bố thí để mong người khen hoặc sợ tiếng xấu, như vậy không gọi là bố thí. Hoặc vì nguyện xấu mà bố thí, đó không phải là bố thí. Hoặc chọn ngày bố thí, nghóa là vào tháng có trăng sáng là ngày mồng một, mồng tám, mười bốn, mười lăm. Tháng không trăng là ngày mồng ba, mồng tám, mười ba, mười bốn, mười lăm còn những ngày khác thì không bố thí. Như vậy không gọi là bố thí. Hoặc bố thí mà chọn giờ, nghóa là sáng bố thí, còn giữa trưa thì không, buổi chiều cũng vậy. Bố thí như vậy không gọi là bố thí. Hoặc lựa người cho, cho người nghèo khổ, không cho người giàu có, hoặc cho người nghèo lẫn người giàu mà không cho người bệnh. Cho người bệnh chứ không cho người khác; hoặc cho người này mà không cho người kia. Bố thí như vậy không gọi là bố thí. Hoặc chọn người tri thức, có tướng mạo đẹp đẽ mới cho đồ tốt, còn người khác thì cho đồ xấu, đó không gọi là bố thí. Hoặc thấy người xin làm những hài kịch, tấu nhạc, trò chơi, đùa giỡn thì cho, ngoài ra không cho ai cả, đó không gọi là bố thí. Người bố thí không cầu quả báo vua Chuyển luân, Đế Thích, Hộ thế, Phạm thiên, Sát-đế-lợi, Bà-la-môn, Trưởng giả, Cư só. Đã sinh vào những nhà ấy rồi, riêng mình cầu giải thoát mà hành bố thí, cũng không có tâm nhàm chán mỏi mệt, nói ta đã bố thí rồi, không cần bố thí nữa. Bố thí như vậy chỉ gọi là bố thí, chứ không được gọi là Bố thí ba-la-mật-đa. Này Từ Thị! Đại Bồ-tát không vì sự bố thí phi pháp như trên mà chỉ lấy sự giải thoát chân chính hồi hướng phát nguyện Vô thượng Bồ-đề, đó là chân Bố thí ba-la-mật-đa thanh tịnh rốt ráo, ở trong Vô thượng Bồ-đề chứng quả vị không thoái chuyển. Nếu có thể xa lìa các lỗi lầm như vậy mà hành bố thí vô tướng thì được công đức vô lượng, vô biên, rộng lớn như pháp giới, cứu cánh như hư không. Đại Bồ-tát đem tâm như vậy bố thí cho một cái hoa, một trái cây, cho đến một giọt nước và đem thọ trì, đọc tụng kinh này, cho đến một kệ một câu, khiến cho người nghe qua trong một sát-na thì được công đức vô lượng, vô biên. Lại có người đã hành bố thí từ vô lượng a-tăng-kỳ kiếp, đem vàng bạc, bảy báu và các đồ quý báu thượng hạng khác… bố thí để cầu ngôi Chuyển luân vương, Phạm thiên, Đế Thích, Hộ thế hoặc cầu quả A-la-hán, Độc giác Bồ-đề và làm các việc khác. Ở trong vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ kiếp, tất cả công đức thọ trì tịnh giới mà đem so với công đức bố thí không trụ tướng của Bồ-tát trước thì trăm ngàn vạn câu-chi na-do-tha phần không bằng một phần mà nguyện lực của Bồ-tát này đã bố thí. Như nhỏ một giọt nước vào biển lớn, giọt nước có giới hạn nhưng còn nước biển thì không có giới hạn. Vì chúng sinh vô tận cho nên nguyện lực của Bồ-tát cũng không tận, pháp giới hư không cũng vậy. Lại nữa, Đại Bồ-tát lần lượt tu hành siêng năng như vậy được đại thần thông, bay lên núi Diệu cao, hoặc vào biển lớn lấy châu bảo vô giá trở về Thiệm-bộ châu mưa xuống vô số vật báu để cứu giúp cho hữu tình, hoặc mưa xuống thức ăn uống, quần áo, ngọa cụ, thuốc thang để đoạn trừ đói khát tật bệnh, nghèo cùng khốn khổ của hữu tình. Đem công đức này nguyện ban bố cho hữu tình đến tận đời vị lai không gián đoạn, rộng lớn như pháp giới, bao la như hư không. Nếu chỉ biết tự lợi mà bố thí thì giống như áng mây trên không bị gió thổi liền tản mác, đâu có thể làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Đại Bồ-tát bố thí như vậy thì sánh bằng với pháp giới, lửa không thể đốt, nước không thể trôi, gió không thể thổi, như vật báu Kim cang rắn chắc không thể hư nát được. Cho nên nguyện lực bố thí của Bồ-tát khiến cho chúng sinh được lợi ích lớn, hoàn toàn an lạc, cũng làm cho tất cả hữu tình đồng một hạnh nguyện này, cho đến lúc chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, luôn thực hành hạnh ấy thề không thoái chuyển, để đến Niết-bàn làm lợi ích hữu tình khiến được giải thoát. Này Từ Thị! Như Lai ở đời, tất cả hữu tình đem những đồ thượng hạng như y phục, phòng xá, ngọa cụ, đồ ăn uống, thuốc thang, dầu ăn, dầu đèn, dầu chiêm-bặc, các thứ hoa hương để dâng lên cúng dường tôn trọng cung kính, mừng ca, khen ngợi Ngài. Sau khi Phật diệt độ, lấy xá-lợi của Phật xây tháp, cũng dâng lên những thứ ấy để cúng dường, tôn trọng ca ngợi. Quả báo công đức hai việc ấy đều bằng nhau không sai khác. Do lợi ích này mà làm cho các hữu tình phát tâm ân cần, một lòng ưa thích. Do cung kính yêu thích mà phát tâm Bồ-đề, nghe Chánh pháp rồi theo đó mà tu hành, liền chứng quả A-la-hán, quả Bích-chi-phật và các Bồ-tát thành tựu Thập địa, viên mãn sáu Độ, cho đến chứng quả Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nghóa là hữu tình này lại khuyến khích cho các hữu tình khác đồng tu thắng hạnh, cho đến chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Do đây mà Đại Bồ-tát tu hành Bố thí ba-la-mật-đa, cho đến bố thí một giọt nước, lợi ích ấy sánh bằng với pháp giới, không có cùng tận. Khi bố thí mà không vì tất cả hữu tình để hồi hướng Vô thượng chánh đẳng Bồ-đề, dù của báu chất như núi Diệu cao mà đem bố thí thì lợi ích chỉ được rất ít. Giống như hạt cải rất dễ có thể tiêu mất, cũng như áng mây bị gió thổi liền diệt mất. Này Từ Thị! Đại Bồ-tát tu tập Đại thừa, khi bố thí giống như kho tàng luôn đi theo bên cạnh mình, như cây như ý tùy theo ý hữu tình mà làm cho họ mãn nguyện. Đại Bồ-tát nên phát hai loại thắng tâm: 1.Tất cả tài sản, vật trong kho lẫm, biết tự tánh nó là không, giống như ráng nắng, mộng tưởng huyễn hóa. 2.Đem tâm Từ bi rộng lớn với tất cả hữu tình, thương xót kẻ bần cùng. Phát tâm như vậy rồi phải hiểu rõ một cách chân chánh, đối với tài bảo không nên tham tiếc, tự tay bố thí, nguyện cho tất cả chúng sinh đồng chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, tất cả của cải ấy mới thật là của ta. Nếu có chất chứa tài vật không phải vì mình mà vì lợi ích cho tất cả chúng sinh đều thành tựu Bố thí ba-la-mật-đa. Nếu ta cất chứa tài sản mà không đem bố thí thì của cải ấy chẳng phải là của ta. Của cải như vậy sử dụng không được tự tại thì cũng như người trần trụi không có tài sản. Do không biết sử dụng tự tại thì đồng với người lõa hình. Giống như người giữ kho mà chính mình không có phần trong đó, giặc vô thường đến phóng đao xẻ thân, tất cả tài sản, vợ con yêu mến phải cách biệt, hoặc phải đem dâng người khác. Đã vậy, người ấy lại càng thêm lòng tham tiếc cho đến lúc mạng chung lại cũng như vậy, sự tham luyến ấy ngày càng tăng trưởng, không thể nào xả bỏ được. Những người như vậy chỉ cất giữ tạm thời, do đó nên biết, tài sản ấy chắc chắn không phải là tài vật của ta, vả lại thường phải lo sợ vương pháp, giặc cướp, nước lửa, ác tử phân tán, cướp đoạt tài sản nên phải nghó cách gởi gắm cho người quen biết, ăn ngủ không an, cứ lo sợ mất mác. Do tham luyến không bố thí mà phải chịu lo buồn như thế. Này Từ Thị! Đã hành bố thí rồi thì lửa, nước, oán giặc không thể cướp đoạt, ăn ngủ yên ổn, không lo sợ. Nếu đích thân bố thí, hồi hướng phát nguyện thì các hữu tình kia mới được hưởng, cho đến lúc thành quả Phật luôn theo bên mình, tâm luôn an ổn, không còn buồn lo. Người nào xan tham thì luôn lo sợ khổ não, nó là nguồn gốc đau khổ trong đời hiện tại thì đời vị lai nên biết cũng như thế. Này Từ Thị! Người nào xan tham không bố thí mà cất chứa tài sản, giống như cầm bó đuốc cỏ đi ngược gió, cỏ hết sẽ bị cháy tay đau đớn. Nếu mau quăng bỏ thì không có khổ. Biết vậy rồi nên quán sát của cải này giống như bó đuốc, cũng như huyễn, như quáng nắng, nên mau xả ly để cầu quả chân thật. Nếu hữu tình xan tham cùng nhau ca ngợi: “Ông có trí tuệ, nên cất giữ của cải chớ đừng như người khác bố thí một cách sai lầm.” Người nói phỉ báng như vậy là nhân quả nên đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, nếu được làm người thì bị nghèo khổ. Người hành bố thí được vua, Đại thần, Bà-la-môn, Cư só khen ngợi, nói ra lời nào mọi người đều tin theo. Ngược lại, kẻ xan tham không bố thí thì luôn buồn lo khổ não, cho rằng bố thí không có phước thì sẽ đọa ba đường ác, người bố thí được mọi người cung kính thương yêu, còn kẻ xan tham bị mọi người oán ghét. Người hay bố thí giống như chùa, làm chỗ quay về nương tựa cho tất cả trời, người, còn kẻ xan tham giống như gò mả, tất cả Thánh hiền đều lánh xa cũng như ao khô cạn thì chim không tụ tập về? Hai người như vậy ở trong đại chúng, nếu khen ngợi bố thí thì nghe vui sướng, còn nếu quở trách xan tham thì xấu hổ. Lại nữa, người hành bố thí thì chư Thiên, Hiền thánh thích ở chung, còn kẻ xan tham không bố thí thì ngạ quỷ, súc sinh tự nhiên đến tập hợp. Hành bố thí vô tướng thì trụ vào Đệ nhất nghóa và chứng được nhân và pháp không, có thể làm lợi ích viên mãn cho mình và cho người. Này Từ Thị! Nếu có thiện nam, thiện nữ tự xưng mình là Bồ-tát tu hành Đại thừa thì nhất định phải chánh niệm tư duy: “Công đức bố thí vô lượng, vô biên thì tội lỗi xan tham cũng vô biên vô lượng.” Biết vậy rồi quyết định đoạn trừ không còn chướng ngại. Thấy người đến xin thì phải vui vẻ, không nên chê bai. Nếu nghe tiếng xin thì vui vẻ thương xót, giống như con có hiếu, xa cách cha mẹ hơn năm mươi năm, bỗng nghe con trở về vui mừng không thể tả. Nghe tiếng người đến xin cũng vậy, đón vào trong nhà coi như Phật. Phát tâm như vầy: “Thiện tri thức ngày nay nhận sự bố thí của ta là trừ xan tham tội lỗi, đường ác của ta, là vô lượng lợi ích để trang sức trong thân ta, là ngọc Vô thượng Bồ-đề trang sức thân thể ta. Người xin ăn như vậy mặc áo rách dơ, lời nói hòa nhã vui vẻ, thương ta mà đến, đó là bạn lành của ta. Vì sao vậy? Vì người ấy trừ tội ác xan tham trong thân ta. Người ăn xin này là chủ ta, ta là đầy tớ, nên phải nghe theo mệnh lệnh.” Phát tâm như vậy rồi, đứng dậy cầm vật đem cho, chân phải quỳ sát đất, đem cho một cách vui vẻ, nguyện cho tất cả chúng sinh được lợi ích an lạc và hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Đối với người xin, lại phải có tâm lợi ích, người như vậy tức là có thể hành bố thí. Nếu không phải là cây như ý của trời thì làm sao vượt qua được đồng hoang sinh tử? Không thiếu lương thực mà được làm trời, người, đến được bờ Niết-bàn bên kia. Do đó trời, người an lạc vô thượng giải thoát đều nhờ người xin mà được thành tựu. Này Từ Thị! Nếu người xin đến chỗ Bồ-tát để nhờ ân đức cứu giúp, lúc đó nhà Bồ-tát nghèo, không có gì cả, nên dùng lời nhẹ nhàng an ủi họ, đừng để họ sân hận và nghi ngờ, cho rằng mình có mà không cho, do đó mà họ vui vẻ ra đi. Lại nữa, Đại Bồ-tát khi hành bố thí, phải nên mở rộng lòng Từ bi, tâm ý khoan dung. Tất cả người xin cứ cho họ lui tới, họ cần gì cứ đem cho, không tiếc rẻ. Này Từ Thị! Tất cả tài vật đều vô thường hư hoại, là gốc của các khổ, giống như mụt nhọt trên thân, như con chim giữ cục thịt thối, người keo kiệt ấy không dùng cho mình ăn. Của người công đức không tu, lại không cho người, mà ôm giữ tài sản lại cũng vậy. Nên biết người này chẳng phải là người hành bố thí, không gọi là Bồ-tát. Trong pháp Đại thừa không phát thắng tâm thì cũng không thành ngôi vị không thoái chuyển. Giống như biển lớn không chứa thây chết, trong biển Đại thừa không chứa người xan tham. Sở dó Bồ-tát tu hạnh Đại thừa vì muốn xa lìa tất cả tội cấu, tu đủ công đức, trong Phật pháp không sinh lòng nghi ngờ. Trong tất cả mọi thời đối với các hữu tình và các tài bảo không có tâm phân biệt, thường hành bố thí để làm lợi ích cho quần sinh. Do hành Bố thí ba-la-mật một cách viên mãn như vậy nên mau chứng Vô thượng Bồ-đề. Đó là thắng nghóa thứ ba của Bố thí ba-la-mật-đa. Kinh Đại thừa Lý Thú Lục Ba-la-mật-đa <卷 id="82881922">Quyển 5 <詞 id="82881923">Phẩm 5: Tịnh giới Ba-la-mật Khi giữa đại chúng, Đức Thế Tôn rống tiếng Sư tử nói đầy đủ Bố thí ba-la-mật-đa rồi, Đại Bồ-tát Từ Thị chắp tay cung kính thưa: –Bạch Đại Thánh Thế Tôn! Ngài đã nói người tu hành Đại thừa phải mở lòng Từ bi rộng lớn để hành Bố thí ba-la-mật-đa. Còn Tịnh giới ba-la-mật-đa phải làm cách nào để được viên mãn? Tịnh giới là gì? Phòng ngừa những lỗi lầm nào? Giữ gìn như thế nào để được thanh tịnh? Nếu giữ giới thanh tịnh thì đời hiện tại, vị lai được quả báo gì? Và giữ gìn thế nào để chứng Vô thượng Bồ-đề? Cúi xin Đức Thế Tôn phân biệt giảng nói để làm lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình. Lúc ấy, Đức Như Lai, Ứng Cúng Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn khen Đại Bồ-tát Từ Thị: –Lành thay, lành thay! Ông đã giữ gìn giới thanh tịnh trong vô lượng trăm ngàn ức kiếp, vì lợi ích an lạc cho hữu tình nên ông đã hỏi nghóa như vậy. Ông hãy nghe cho rõ, suy nghó thật kỹ, ta sẽ vì ông mà phân biệt giảng nói. Thiện nam, thiện nữ nào tu tập Đại thừa, muốn Tịnh giới ba-la-mật-đa được viên mãn nên phát tâm rộng lớn như vầy: “Vì thương xót tất cả chúng sinh nên không sợ địa ngục, không mong cầu sinh lên trời, giữ giới cấm không để cầu riêng mình giải thoát.” Lại chánh niệm tư duy: “Xưa kia ta đã phát thệ nguyện rằng, nếu thấy hữu tình nào phá giới cấm thì sẽ khuyên họ giữ giới thanh tịnh một cách kiên cố, lấy giới thanh tịnh của Phật làm chuỗi anh lạc để trang sức thân. Nếu ta không giữ gìn giới thì lấy giới đâu để làm lợi ích cho hữu tình?” Do nhân duyên đó mà khuyên họ giữ giới. Nếu không như vậy thì làm sao đưa tất cả hữu tình đến Vô thượng Bồ-đề. Vì sao? Vì kẻ phàm phu bản thân họ không thanh tịnh, là người phá giới, miệng tuy nói Chánh pháp, khuyên mọi người giữ giới, nhưng cuối cùng chính mình lại phạm nên không tin, ngược lại bị khinh chê rằng: “Nếu muốn dạy người khác giữ giới thanh tịnh, sao mình không giữ mà lại hủy phạm giới ư? Lấy đó mà suy nghó thì ông nên giữ giới, nếu ông không giữ giới thì dù miệng ông nói ra nhưng không lọt vào tai của ông. Như vậy, ông luôn bị mọi người khinh chê, làm sao có thể khuyên người giữ giới thanh tịnh?” Cho nên phải biết, trước tiên hãy tự kiểm thúc chính thân mình, xa lìa phóng dật, giữ Tịnh giới ba-la-mật-đa một cách kiên cố, sau đó mới nói Chánh pháp then chốt cho người. Nghe xong, hữu tình tin theo, lúc tin rồi, họ sẽ giữ gìn giới Phật đủ đầy, trong sạch, cho đến lúc chứng quả Vô thượng Bồ-đề. Này Từ Thị! Chúng sinh nào phát tâm Bồ-đề rộng lớn, vì tất cả chúng sinh trong năm cõi bốn loài, cho đến giữ gìn một giới cấm cũng được gọi là nhập vào Tịnh giới ba-la-mật-đa của Phật, có thể chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Này Từ Thị! Đại Bồ-tát tu tập Đại thừa thấy các hữu tình đọa trong đường ác, cần phải tu tập Tịnh giới ba-la-mật-đa để cứu vớt chúng ra khỏi cảnh khổ ấy, an trí vào bờ kia Niết-bàn. Nhưng khi tu hành, Bồ-tát gặp ba chướng lớn là: sân hận, xan tham và nhiễm dục. Sân giận có thể làm thoái tâm Từ bi, tâm đại Bi là cội gốc của tất cả hạnh Bồ-đề. Nhờ năng lực của đại Bi mà nằm mộng không có tưởng sát sinh, huống gì khi thức lại giết sinh mạng để ăn thịt ư! Tâm xan tham không thể nào bố thí. Tài sản của mình thì keo kiết, lại tham muốn của cải người khác. Cho nên Đại Bồ-tát thấy của cải như thấy rắn độc, không bao giờ tham đắm. Nhiễm dục chẳng phải hạnh thanh tịnh, nên tránh xa bùn dơ năm dục. Tham dục này là nguồn gốc của các khổ. Nó làm chướng ngại sáu pháp Ba-la-mật-đa và có thể thiêu đốt tâm Bồ-đề. Khi ấy, Đức Thế Tôn nói kệ: Tánh nữ yêu mị mê hoặc người Như thù giả thân, chớ cho gần, Tham dục mê loạn phá thanh tịnh Như dòng thác chảy xô tường đá. Tánh người nữ rất là dua nịnh Như nước theo dòng, tánh không định, Luôn nghó người khác cướp chồng mình Người trí nghó kỹ nên tránh xa. Như voi chúa trắng ở Tuyết sơn Sức vòi mạnh nhổ cây cao lớn Thấy voi cái, tâm liền say mê Dồn vào hầm bẫy bị điều phục. Như nai ăn cỏ uống nước trong Có thể băng xa các hang núi Thợ săn giả làm tiếng của nai Nai tìm tiếng đến bị chết ngay. Như cá lặn sâu vào chỗ kín Trong nước dạo chơi khó thấy được Vì tìm thức ăn, nuốt mồi câu Tham dục mất thân cũng như vậy. Giống như ong mật tham hương hoa Mùi hôi từ voi say lan tỏa Ong tham bu ngửi khắp thân voi Bị tai voi đập, ngã ra chết. Như đèn không gió mà phực cháy Phù du tưởng ánh sáng lao vào Vào lửa để rồi tự thiêu thân Tham ái mất thân cũng như vậy. Năm trần quấn chặt thân chúng sinh Mỗi trần hại người như thuốc độc Người nhận pháp ấy suy nghó kỹ Các khổ tích tụ không an lạc. Lửa cháy hừng hực còn được chạm Gió dữ xoáy tròn có thể ngăn Nộc rắn sân giận điều phục được Lòng người nữ rất khó ngăn cấm. Nước công đức trong ao Vô nhiệt Chảy vào biển không uống được nữa Mất đi tám mùi thành mặn chát Gần gũi người nữ mất pháp lành. Phật dạy Từ Thị: –Do đó nên biết, dù trong mộng cũng không nên tưởng nghó gần gũi người nữ, huống gì khi thức mà hành dục với họ! Lại nữa, đã lìa ba chướng ngại rồi, Đại Bồ-tát nên tu tập mười giới thanh tịnh. Đó là: ba giới thanh tịnh thuộc về thân, bốn giới thanh tịnh thuộc về khẩu và ba giới thanh tịnh thuộc về ý. Ba giới của thân là không được sát sinh, trộm cắp và tà dâm. Thế nào là không sát sinh? Nghóa là nếu thấy hữu tình bị tổn hại nên đem lòng Từ bi đến cứu chúng, hoặc đem của cải chuộc lại cho nó được thoát. Nếu chuộc không được thì đem thân mạng mình thay thế nó, huống gì tự mình giết hại. Không trộm cắp nghóa là dù trong giấc mộng, Đại Bồ-tát cũng không có tư tưởng trộm cắp của cải người khác, huống gì khi thức mà có tâm lấy. Tài sản của mình thì đem bố thí với tâm thanh tịnh không tham tiếc và khuyên người khác đừng lấy những vật chủ không cho, luôn thực hành Bố thí ba-la-mật-đa. Xa lìa nhiễm dục nghóa là Đại Bồ-tát tránh xa cảnh giới năm dục và nói tội lỗi năm dục cho hữu tình nghe để họ xa lìa năm dục, tà hạnh. Khen ngợi công đức vô lượng của người xuất gia để cho chúng sinh từ bỏ gia đình đi xuất gia, cứu vớt hữu tình ra khỏi ngục tham ái. Đó là ba giới thiện thuộc về thân. Bốn giới thuộc về miệng: nghóa là xa lìa lời nói lừa dối, lời ly gián, lời độc ác và lời không có ý nghóa. Lời nói lừa dối là không thấy nói thấy, việc nghe, nhận biết, hiểu biết… cũng như vậy; đối với những sự hư dối này đều phải xả bỏ tất cả. Nói lời chân thật gọi là xa lìa vọng ngữ. Lời nói ly gián là tới người này nói chuyện người kia, tới người kia nói chuyện người này để chống trái nhau rồi gây tranh cãi. Lìa bỏ lời ly gián, luôn nói lời hòa thuận, đó gọi là xa lìa việc nói lời ly gián. Nói lời hung ác là phát ra những lời hung ác để cho người kia khổ não. Họ không muốn nghe mà bắt buộc phải nghe. Nếu lìa bỏ lời nói hung ác để cho người kia vui vẻ thì gọi là xa lìa lời nói hung ác. Lời nói không có ý nghóa, nghóa là nói chuyện bàn luận với tâm nhiễm dục, dẫn đến tà luận không có lợi ích. Vì làm lợi ích cho hữu tình phải bỏ lời nói giả dối vô nghóa mà nói lời chân thật hợp thời. Đó gọi là xa lìa lời nói vô nghóa. Như vậy, Bồ-tát lìa bỏ bốn lỗi thuộc về miệng, tu tập bốn loại lời nói thiện của Như Lai. Thường vì hữu tình nói lời dịu dàng để người nghe pháp hoan hỷ tín thọ. Giống như ngọc thủy thanh làm lắng trong nước đục, người nghe pháp tín thọ cũng như vậy. Này Từ Thị! Ý nghiệp bất thiện cũng có ba: tham lam, sân giận và ngu si. Không tham lam tật đố nghóa là thấy người khác giàu có, sang trọng thì mình không có tâm ganh tî, phải chánh tư duy suy nghó như vầy: “Nguyện cho tất cả hữu tình được giàu có sang trọng, không bị thiếu kém. Các hữu tình ấy phải chịu khổ cực gian nan mới được như vậy. Vì sao ta trở lại ganh tî với họ? Tài sản của ta còn đem cho họ, huống gì chính họ làm ra, ta nên tùy hỷ chứ sao lại ganh tî?” Nhờ suy nghó như vậy mà đối với hữu tình kia ta không ganh tî, mà lại tùy hỷ. Nếu diệt trừ được lòng tham lam ganh tî như vậy gọi là Bồ-tát giữ giới với tâm thanh tịnh. Không sân giận nghóa là bị các hữu tình vu oan, phỉ báng, vô cớ bị đánh đập, chặt xẻo từng phần thân thể nhưng Bồ-tát không sân giận, lại nghó như vầy: “Ta đã phát nguyện không nổi sân giận với các hữu tình, sao nay ta lại nổi sân với họ? Xưa kia ta nguyện thường dùng thuốc Chánh pháp để trừ bệnh sân cho hữu tình. Nếu đối với chúng sinh mà nổi sân thì làm sao có thể cứu chữa được bệnh tất cả chúng sinh trong lúc bệnh mình không tự cứu chữa được?” Lại nữa, khi hữu tình sân giận thì Bồ-tát nhận lỗi về mình và nghó rằng: “Vì phước đức của ta quá mỏng làm cho người khác nổi sân. Nếu ta không có lỗi thì họ chắc chắn không giận”. Lại nữa, Đại Bồ-tát thấy hai hữu tình giận nhau kết thành thù oán, không chịu buông bỏ. Thấy vậy, Bồ-tát thương xót nghó rằng: “Nếu hữu tình không buông bỏ hận thù mà sân giận thì sẽ đọa vào địa ngục, bị lửa thiêu đốt thân, chịu đại khổ não, đó là lỗi của ta. Ta sẽ dùng thuốc Chánh pháp để trị bệnh sân giận cho họ. Xưa kia ta đã nguyện rằng: nguyện cho tất cả chúng sinh trừ bỏ bệnh sân giận, vì sao ngày nay ta không đoạn trừ bệnh ấy cho họ mà mình lại bị ma sân trói giữ, không tự biết để bị lửa dữ thiêu đốt thân? Đã bị ma bắt giữ, cầm dao đến giết hại, dù ta biết là ma quỷ nhưng không bao giờ nổi sân giận mà còn thương xót họ”. Không tà kiến nghóa là tất cả chúng sinh đều có tà kiến rất là sâu dày. Bồ-tát đại Bi lấy đuốc chánh kiến làm ánh sáng lớn chiếu sáng để họ thấy được Tam bảo, tin tưởng và ưa thích công đức của Phật, Pháp, Tăng. Ngoại đạo và chúng sinh dù có làm chướng ngại cũng không thể nào phá hoại tâm chánh kiến của họ được và khiến họ tu Đại thừa hạnh không thể nào thoái chuyển. Này Từ Thị! Đại Bồ-tát hành Đại thừa, nếu muốn chúng sinh lìa bỏ nghiệp ác thì trước tiên bản thân của Đại Bồ-tát phải bỏ mười điều ác, tu mười điều lành. Vì sao? Vì nếu khi các Bồ-tát tự hành mười điều thiện thì có dạy bảo điều gì mọi người mới đều tín thọ. Nếu mình không làm mà đi giảng dạy cho người, không khác gì có người bị nước cuốn trôi nói với người trên bờ rằng: “Ta có thể cứu ngươi”, thì không thể có chuyện như vậy được. Người tạo mười điều ác cũng vậy, chính mình bị dòng thác mười điều ác cuốn trôi, mà lại nói với chúng sinh rằng: “ta sẽ cứu các người”, thì điều này cũng không thể xảy ra. Bồ-tát tu tập đầy đủ mười điều lành và lần lượt dạy người làm như vậy, thì gọi đó là tu tập Tịnh giới ba-la-mật-đa. Đại Bồ-tát Từ Thị thưa Phật: –Bạch Thế Tôn! Hữu tình đoạn trừ mười điều ác, tu mười điều lành như vậy thì được quả báo gì? Đức Thế Tôn khen Đại Bồ-tát Từ Thị: –Lành thay, lành thay! Này thiện nam! Ông hãy lắng nghe cho rõ, suy nghó thật kỹ, ta sẽ vì ông mà lần lượt giải nói. Mười nghiệp thiện này, mỗi nghiệp đều có bốn quả báo. Những gì là bốn? 1.Hiện tại được an lạc. 2.Thế lực của oán thù, phiền não bị suy yếu. 3.Đời vị lai luôn được tôn quý, không thiếu thốn. 4.Tinh tấn tu tập, chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Không sát sinh được bốn quả báo: 1.Đại Bồ-tát không có tâm hại chúng sinh, còn ban bố pháp Vô úy để họ không sợ hãi. Vì không sợ sệt nên được tất cả chúng sinh gần gũi cúng dường, tôn trọng ca ngợi. Bồ-tát có lòng thương xót hữu tình, do có lòng Từ bi nên tất cả oán hận quá khứ tự nhiên dứt bỏ. 2.Tâm sân giận sát hại đều bị suy yếu. Bồ-tát lấy cam lồ từ bi thoa tâm mình thì có thể diệt trừ sân nhuế… và lửa phiền não, ngủ nghỉ an ổn không có ác mộng. Do có lòng từ bi nên các loài ăn máu thịt như các quỷ, Dạ-xoa… xả bỏ tâm sát hại và cùng thú dữ bảo vệ nhau. 3.Đời vị lai được ba quả báo: - Sống lâu, không chết yểu. - Sinh ra chỗ nào đều không bị các bệnh khổ. - Giàu có của cải, thường được thoải mái. 4.Vì không sát sinh nên được phần pháp Phật. Sinh trong năm đường, ở chỗ nào cũng được tự do, cho đến ngồi dưới gốc cây Bồ-đề, các ma, quỷ thần cũng không thể nào làm chướng ngại được. Bồ-tát tinh tấn tu tập thành Chánh đẳng Chánh giác được vô lượng Thánh hiền vây quanh. Này Từ Thị! Trên đây là bốn quả báo của việc lìa bỏ sát sinh. Lại nữa, nếu tránh xa việc không cho mà lấy cũng có bốn quả báo: 1.Đời hiện tại không có tâm ganh tî, thân tâm được an vui. 2.Do không tham lam ganh tî nên tất cả chúng sinh tin tưởng hướng về. Được gửi gắm hoặc lãnh trách nhiệm gì không ai nghi ngờ, làm kho tàng cho hữu tình. 3.Đời vị lai được giàu sang phú quý, được tự tại. Tất cả tài sản không bị vua, giặc, nước, lửa cướp đoạt. 4.Làm chủ kho công đức của hằng hà sa chư Phật. Đó là mười tám pháp Bất cộng… là pháp tài thanh tịnh. Những quả báo này, hàng Nhị thừa còn không nghe đến, huống gì được thấy. Này Từ Thị! Đó là bốn quả báo của nghiệp không trộm cắp. Lại nữa, bỏ dục tà hạnh cũng có bốn quả báo: 1.Đời hiện tại được tất cả trời, người khen ngợi, không bị người nghi ngờ, được tôn trọng, tránh xa tiếng xấu. 2.Sáu căn được điều phục, làm cho thế lực lửa nhiễm dục yếu kém. 3.Đời vị lai, sinh ra nơi nào cha mẹ, dòng họ, vợ con, quyến thuộc, bạn bè đều trinh thuận, thuần nhất, không tạp nhạp, xa lìa tất cả lỗi về đàn bà, khiến cho các chúng sinh không bị ái nhiễm. 4.Nhờ lìa bỏ tà hạnh nên được tướng âm tàng như ngựa chúa, cho đến thành tựu Vô thượng Bồ-đề. Này Từ Thị! Đó là bốn quả báo của không tà hạnh. Lìa bỏ lời hư dối cũng có bốn quả báo: 1.Đời hiện tại luôn nói lời chân thật, không nói lời hư dối, được trời, người thương mến ủng hộ. 2.Vì không hư dối nên được tất cả chúng sinh tin tưởng. Khi nói pháp, mọi người đều lắng lòng nghe nhận, không nhọc công sức tự nhiên họ tin và làm theo. Vả lại, có người mặc dù nói lời hư dối, lừa gạt nhưng lại ghét người nói lời hư dối, thấy người nói thật cũng hoan hỷ. Chỉ vì mình nói dối nên không tin sự chân thật của người khác, nếu biết nói lời chân thật thì phải sinh lòng kính trọng. Nên biết, nói lời chân thật có ích lợi lớn. Người nào đoạn trừ nói lời hư dối tức là không tạo các nghiệp ác. Vì sao? Vì khi có ai hỏi thì trả lời một cách như thật. Nếu ở chỗ thanh vắng cũng không có khởi vọng niệm. Vì sao? Vì nếu có ai hỏi: “Khi ở nơi thanh vắng, ông có sinh vọng niệm không?” Nếu nói không là nói dối, còn nói có thì xấu hổ với người. Do đó làm cho vọng tâm dần dần giảm bớt. 3.Sinh ra nơi nào, trong miệng thường tỏa ra mùi thơm hoa sen xanh, hương Tô-mạn-na, được tất cả hữu tình yêu thích. Mình nói thật thì không nghi ngờ người khác nói dối và làm cho người khác tin lời nói thật của mình, vónh viễn đoạn trừ lưới nghi của chúng. 4.Nói ra lời gì ai cũng tin nhận, có thể làm cho chúng sinh nghe pháp vui mừng, cho đến sẽ đạt Vô thượng Bồ-đề. Từ Thị nên biết! Đó là bốn quả báo của sự xa lìa lời hư dối. Lại nữa, không nói lời ly gián cũng có bốn quả báo: 1.Đời hiện tại, mình và người hòa thuận, không tranh cãi nhau, được an lạc. 2.Nhờ hòa thuận nên mọi người yêu kính, tất cả những tội nói lời ly gián ở quá khứ được tiêu trừ, không lo sợ vào ba đường ác. 3.Đời vị lai được năm quả báo: - Được thân Kim cang không hư hoại, dù bị dao gậy thế gian phá hoại cũng không làm tổn hại được. - Sống nơi nào cũng có quyến thuộc tốt, không tranh cãi, không lìa bỏ nhau. - Sinh ra nơi nào dù không gặp Thiện tri thức để thuyết pháp nhưng tự nhiên giác ngộ pháp môn “bất nhị”, tin sâu Phật, Pháp, Tăng không hề thoái chuyển. - Khiến cho các hữu tình nhất tâm vào một việc, cùng nhau hướng đến, cùng nhau hoan hỷ, mau đạt được từ Tam-ma-địa. - Có thể khuyên tất cả chúng sinh tu tập Đại thừa để chứng quả vị không thoái chuyển. 4.Không nói lời ly gián, luôn nói lời hòa thuận nên được quyến thuộc tốt lành, tùy thuận nhắc nhở nhau. Cho đến khi chứng Niết-bàn cũng không lìa bỏ nhau. Từ Thị nên biết! Đó là bốn quả báo của việc không nói lời ly gián. Không nói lời hung ác cũng có bốn quả báo: 1.Đời hiện tại, tâm luôn thanh tịnh, xa lìa tâm cấu nhiễm thô ác. Nếu ở trong trần cảnh mà nổi gió trần tham dục, sân giận huân tập vào tàng thức thì Bồ-tát nổi mây Từ bi, giáng mưa tâm Từ để dập tắt vọng tưởng tham dục, ngăn chận gió trần sân nhuế để được thanh tịnh. 2.Người nói lời hòa nhã dịu dàng được mọi người ưa thích khen ngợi, tùy thuận, làm cho người nói lời hung ác dần dần được điều phục sáu căn thanh tịnh, ba nghiệp không nhiễm. 3.Nhờ thanh tịnh mà đời tương lai sinh ra nơi nào không bao giờ ở trong ba đường ác, luôn sinh vào cõi lành. 4.Dần dần có thể chứng Vô thượng Bồ-đề, đầy đủ Phạm âm. Khi nói pháp, tùy theo âm thanh từng loài mà giải nói nghóa ấy và mọi chúng sinh nghó rằng: “Nay Đức Thế Tôn nói pháp cho ta chứ chẳng phải vì người khác. Ngài nói pháp vi diệu đều hợp với tâm ta, đoạn trừ phiền não tập khí trong thân tâm của ta.” Từ Thị nên biết! Đó là bốn quả báo của việc không nói lời hung ác. Không nói lời không có ý nghóa cũng có bốn quả báo: 1.Đời hiện tại được người trí khen ngợi, tâm không hung bạo, được an lạc. 2.Răn dạy điều gì mọi người đều tín thọ, làm giảm dần sự thô ác. 3.Đời vị lai sinh ra nơi nào luôn được nghe tất cả âm thanh như ý. 4.Dần dần chứng Vô thượng Bồ-đề, được Vô ngại biện tài. Bấy giờ tất cả Trời, Rồng, Nhân phi nhân ở trong tam thiên đại thiên thế giới đồng thời đến chỗ Đức Phật. Mỗi loài đều theo sự nghi vấn của mình mà thỉnh hỏi. Trong một sát-na, Đức Thế Tôn dùng mỗi loại tiếng để trả lời cho mỗi loài chúng sinh, thích hợp với tâm họ và đoạn trừ lưới nghi cho họ. Từ Thị nên biết! Đó là bốn quả báo của việc không nói lời không có ý nghóa. Không tham lam ganh tî cũng có bốn quả báo: 1.Đời hiện tại được thấy người khác giàu có của cải mà không sinh tham lam ganh tî, rồi lại suy nghó như vầy: “Họ được giàu có là do phước đức đời trước của họ, sao ta lại tham lam ganh tî muốn cướp đoạt!” Nhờ suy nghó như vậy mà vónh viễn không còn tâm xan tham ganh tî. Nếu không đoạn trừ thì luôn chịu sự nghèo cùng và không có uy lực, vì vậy nên Bồ-tát quán trừ sự tham lam tật đố ấy. Ai giàu có thì ta tùy hỷ, không bỏ một mảy trần nào nên được công đức lớn. 2.Được mọi người yêu kính, thân tâm an lạc, không còn buồn lo, có oai đức tự tại, trong sự tịnh tâm, mây tham dục bị che khuất, giống như đêm trăng có muôn vì sao vây quanh nên tâm xan tham ganh tî từ đây mỏng dần. 3.Sinh ra nơi nào cũng đều được đoan chánh, sáu căn đầy đủ, của cải sung túc, được mọi người yêu kính, luôn thực hành bố thí, được biện tài vô ngại, ở đâu cũng không sợ. 4.Cho đến chứng Vô thượng Bồ-đề, có Thánh chúng bao quanh với công đức vô lượng. Tất cả chúng sinh đều nghe theo lời dạy bảo. Từ Thị nên biết! Đó là bốn quả báo của việc không xan tham ganh tî. Lại nữa, không sân giận cũng có bốn quả báo: 1.Trong đời hiện tại sáu căn lanh lợi, dung mạo đẹp đẽ, được mọi người gần gũi. Người sân giận giống như cây khô bị lửa đốt ở bên trong, tất cả cành lá đều khô héo. Chúng sinh cũng vậy, bị lửa sân hận huân tập vào năm Căn, làm cho tướng mạo khô khan, mọi người không muốn nhìn. 2.Tâm không sân giận thì không có những khổ não đánh đập, quở trách. Giống như có người trì chú Ca-lỗ-la, khiến cho tất cả độc ác không thể nào làm hại được. Do không sân giận nên làm tăng trưởng lòng Từ bi. Nhờ chân ngôn Bi mà bẻ gãy ba mươi sáu câu-chi thiên ma quỷ thần. Nhờ chân ngôn Từ nên không bị tổn hại. 3.Đời vị lai nhờ có bậc thang tâm Từ leo lên trời Phạm thiên, sống một kiếp an lạc, khiến cho chúng sinh bỏ ác tu thiện. 4.Dần dần chứng Vô thượng Bồ-đề, được trang nghiêm đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp rực rỡ, được trang sức thân với vô lượng công đức. Từ Thị nên biết! Đó là bốn quả báo của việc không sân giận. Không tà kiến cũng có bốn quả báo: 1.Nếu xa lìa tà kiến, tu hành chánh kiến, thì đời hiện tại xa lìa ác tri thức, gần gũi bạn lành, nghe pháp tín thọ. Điều bất thiện chưa sinh làm cho không bao giờ sinh; đã sinh rồi thì nên đoạn trừ ngay. Pháp lành chưa sinh thì tu tập cho sinh, sinh rồi nên tu tập làm cho tăng trưởng. Chánh kiến này là căn bản của tất cả pháp lành. 2.Đóng bít cửa bất thiện, ở trong đại chúng danh tiếng được đồn xa, tâm không nghi ngờ hối hận. Đời vị lai sinh ra nơi nào cũng gặp bạn Thiện tri thức, được bạn lành thuận với chánh kiến. 3.Chỉ quy y Phật, Pháp, Tăng, không hướng về chỗ khác. Đối với hạnh Bồ-tát, tâm không thoái chuyển, đoạn trừ tội lỗi, làm tăng trưởng phước đức. Phân biệt rõ ràng pháp hữu lậu và vô lậu, sinh tử và Niết-bàn, nguy hoạn và lợi ích. Thông đạt các pháp, không có ngã và ngã sở, không chấp trước, trụ vào pháp tánh không. Nhờ lực chánh kiến mà có thể hoàn toàn thanh tịnh. 4.Tất cả công đức thù thắng vi diệu của ba thừa không thể suy lường được, sức chánh kiến đều được viên mãn, có thể làm chỗ nương tựa cho chúng sinh, độ thoát hữu tình ra khỏi khổ sinh tử, làm cho tất cả đều được an trí vào Đại thừa Vô thượng, cho đến ở địa vị Pháp vương. Từ Thị nên biết! Đó là bốn quả báo của việc không tà kiến. Đại Bồ-tát không những chỉ giữ gìn mười giới thanh tịnh này, được công đức vô tận, mà công đức thọ trì giới cấm rất nhỏ cũng được vô tận như vậy. Vì sao? Vì chúng sinh phàm phu thọ trì giới cấm nhưng chấp lấy tưởng quả báo thì công đức ấy có tận. Giới cấm của chư Tiên ngoại đạo một khi đã bị mất thì thần thông cũng mất theo. Cõi người nếu bỏ mười điều thiện thì giới cũng theo đó mà mất. Chư Thiên ở cõi Dục giới qua đời thì giới cũng mất. Chư Thiên trong Tứ thiền cõi Sắc giới và chánh định của trời Vô sắc giới, khi họ qua đời thì định mất và giới cũng mất luôn. Khi hàng Nhị thừa vô học nhập Niết-bàn thì giới cũng mất theo. Còn Đại Bồ-tát đã thọ sáu mươi lăm giới cấm, mỗi giới đều hoàn toàn thanh tịnh, công đức vô lượng. Sáu mươi lăm loại giới ấy là: Không sát hại chúng sinh. Không trộm cắp. Không xâm đoạt vợ người. Không lừa gạt người. Không nói lời hai lưỡi. Không nói lời hung ác. Không nói lời thêu dệt. Không tham lam, ganh tî; thấy người khác an vui sinh tâm tùy hỷ. Không khởi sân hận mà phải nhẫn chịu mọi lời ác ngôn, nhục mạ. Không tà kiến, phải tôn trọng Như Lai. Không làm thầy ngoại đạo. Quy tín Phật, tâm không nghi trược. Quy tín Pháp vì chân thật lìa dục. Quy tín Tăng vì hòa hợp tối thắng. Tôn trọng cha vì đã sinh ra ta. Tôn trọng mẹ vì đã nuôi nấng ta. Tôn trọng Hòa thượng vì sinh Pháp thân cho ta. Tôn trọng A-xà-lê vì dạy ta phép tắc. Tôn trọng đại đệ tử vì tác thành Pháp thân ta. Nhất tâm, không phân biệt giới khinh hay trọng. Không phá giới vì không phạm giới trọng. Không hủy giới vì không coi thường giới khinh. Không tu tập Tam thừa vì không cầu quả Thanh văn. Không tu tập Nhị thừa vì không cầu quả Độc giác. Xa lìa chỗ ác vì không sinh vào nhà tà kiến ngoại đạo. Tăng trưởng bạch pháp vì nhờ sức tịnh giới mà sinh ra theo sở nguyện. Giàu sang vì không chê bai người. Đoan chánh vì tâm không loạn. Không mắng chửi vì ở chỗ nào cũng không bị dèm chê. Khéo giữ gìn năm Căn vì siêng năng, không buông lung. Được khen ngợi vì khéo giải nghóa các pháp. Thiểu dục vì không mong cầu. Đoan trực vì tâm luôn làm điều thiện. Lời nói đi đôi với việc làm vì không trái lời dạy. Đại Từ vì cứu độ tất cả chúng sinh. Đại Bi vì cứu khổ tất cả chúng sinh. Đại Hỷ vì vui mừng lúc người kia được an vui. Đại Xả vì xa lìa sự thương ghét. Biết lỗi mình vì quán xét tự tâm. Không thấy lỗi người vì bảo hộ tâm ý cho người. Bố thí vì cứu người nghèo khổ. Trì giới vì thâu nhiếp tất cả pháp lành. Nhẫn nhục vì không hại chúng sinh. Tinh tấn vì dũng mãnh không thoái lui. Thiền định vì định tăng trưởng. Trí tuệ vì nghe pháp không biết chán. Đa văn vì cầu pháp không mệt mỏi. Gần Thiện tri thức vì tu tập Giác phần. Xa lìa ác tri thức vì tránh xa đường hiểm ác. Không tiếc thân mạng vì sát-na vô thường. Chết không tiếc vì như cứu lửa trên đầu. Không hối hận vì tánh vốn thanh tịnh. Không hư dối vì không biến động. Không bức não vì trong ngoài mát mẻ. Không nhân ngã vì tâm khiêm nhường. Không trạo cử vì tánh an tịnh. Không dua nịnh vì luôn chất phác thật thà. Biết tâm chúng sinh vì khéo biết quyền cơ của vạn vật. Điều phục tâm không loạn động nên được tịch tónh lìa huyên náo ồn ào. Đi nhiễu bên phải vì đi thuận lý. Cứu vớt chúng sinh vì hành bốn Nhiếp pháp. Giữ Chánh pháp vì giữ gìn pháp tài. Các nguyện viên mãn vì lời thề nguyện thanh tịnh. Như Lai vì tùy thuận tướng Như. Tam-muội của Phật vì viên mãn tất cả pháp Phật. Từ Thị nên biết! Đó là sáu mươi lăm loại giới thân thanh tịnh. Đức Phật dạy Từ Thị: –Các vị Bồ-tát giữ mỗi giới đều được vô lượng công đức như vậy. Dù xả bỏ thân yêu mến cũng không được hủy phạm giới cấm của Phật. Nên biết, giữ giới này giống như giữ tròng con mắt. Giữ giới cấm cẩn thận giống như giữ bình bát. Không vì đao bén năm dục mà chặt phá bị giữ giới nhỏ giống như giữ tội ngũ nghịch. Giới trọng hay giới khinh đều giữ tâm kiên cố như Kim cang, không được cống cao ngã mạn. Tuy giữ giới thanh tịnh như vậy nhưng so với nghiệp ác đã tạo từ vô thỉ giống như hạt vi trần trong đại thiên thế giới. Như vậy giữ giới thiện so với nghiệp ác kia giống như bụi trần. Đã biết như vậy rồi, tại sao giữ giới mà còn sinh ngã mạn! Này Từ Thị! Bồ-tát thấy chúng sinh phá hủy giới cấm không nên khinh mạn họ, mà đối với mình còn phải giữ gìn hơn nữa. Lại suy nghó như vầy: “Xưa kia ta đã thề nguyện khiến chúng sinh trụ vững vào tịnh giới. Mặc dù chúng sinh khó hóa độ, nhưng ta phải cố gắng càng tinh tấn để lấy thuyền tịnh giới chở người phá giới ra khỏi biển sinh tử, đến bờ Niết-bàn.” Này Từ Thị! Nếu chúng sinh có thân này, cần có bốn điều kiện: 1.Ăn uống. 2.Áo quần. 3.Nhà cửa. 4.Thuốc thang. Với bốn điều kiện này, Đại Bồ-tát phải mưu cầu như pháp, không được dùng phi pháp, không tự cao, cầu nhiều không chán, phải nên ít muốn biết đủ để nuôi thân. Giống như có người thân bị khổ vì mụt nhọt nên tìm thầy thuốc hay để lấy thuốc xoa, dùng vải bó lại, nằm trên nệm trong nhà kín. Đó là chỉ vì trị bệnh chứ không phải yêu lấy thân. Bồ-tát vì bị tám khổ về thân, chỉ tìm thuốc pháp để làm thức ăn uống, mượn áo quần, nhà ở mà không thích thú sắc lực, tuổi thọ của thân này. Tu pháp thù thắng chỉ để làm an lạc chúng sinh, đoạn trừ ung nhọt sinh tử phiền não. Bồ-tát ở trong đại chúng luôn quán xét lỗi lầm của mình, không chê bai xúc phạm người khác, tránh xa tiếng khen. Nếu có ai khen ngợi, ta suy nghó như vầy: “Tiếng khen này, ta đều không có phần, nay ta tự xét đã phạm nhiều tội lỗi. Trong pháp công đức, ta không có chút phần nào cả. Chúng sinh do vọng thấy nên nói ta có phần”. Bồ-tát dùng tâm đại Bi làm chỗ nương tựa, lấy Tịnh giới ba-la-mật-đa làm bạn lữ. Này Từ Thị! Có một loại tịnh giới chẳng phải là Ba-la-mật-đa vì trì giới mà chấp tướng nên không phải là giữ giới tối thắng. Đó chỉ là tịnh giới chứ chẳng phải Ba-la-mật-đa. Vì sao vậy? Vì chỉ gặt được quả báo hữu lậu của ba cõi, lúc tuổi thọ đã hết thì quả báo ấy cũng hết luôn. Nếu vì khắp tất cả hữu tình mà giữ gìn giới cấm, quán Đệ nhất nghóa không, không có tướng ngã, tướng nhân, vì hữu tình mà giữ gìn giới cấm. Đó là Tịnh giới ba-la-mật-đa. Tịnh giới Ba-la-mật có thể khiến cho chúng sinh mau chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Tịnh giới ba-la-mật-đa là người dẫn đường cho các hữu tình. Hữu tình nào không có lòng tin thì làm cho họ có lòng tin thanh tịnh, có thể làm kho tàng cho tất cả hữu tình, làm anh lạc châu bảo vô giá để hữu tình trang sức thân. Làm hương xoa thượng hạng cho tất cả hữu tình, làm người mô phạm cho hữu tình. Tịnh giới ba-la-mật-đa này không những cho người xuất gia mà cả tại gia nữa, già trẻ đều bình đẳng như nhau, không sinh ngã mạn, tăng thượng mạn, lìa bỏ tội lỗi, được oai nghi thanh tịnh, không còn các lo sợ và có thể chứng Vô thượng Bồ-đề, Pháp vương tối thắng. Làm sao biết giới là đệ nhất? Nếu chúng sinh giữ tịnh giới, tuy ở dòng họ thấp hèn, chẳng phải dòng họ giàu sang, cũng chẳng phải tự lực mà có thể làm lợi ích cho người khác, vì là Tịnh giới ba-la-mật-đa còn làm cho tất cả Trời, Rồng, Dạ-xoa, Nhân phi nhân, quốc vương, đại thần, Sát-đế-lợi, Bà-la-môn, trưởng giả, cư só đều quy kính, lễ lạy, cúng dường tôn trọng và khen ngợi. Người thấp hèn thọ trì giới cấm của Phật còn được cung kính tôn trọng như vậy, huống gì người tôn quý biết giữ gìn tịnh giới, thành tựu viên mãn Tịnh giới ba-la-mật-đa. Nên biết nơi mà người giữ tịnh giới đi đứng nằm ngồi và kinh hành đều đem lại sự cát tường an ổn cho chúng sinh và trời, người đảnh lễ, đội lên đầu và đem cúng dường. Do đó nên biết rằng, người giữ giới thanh tịnh là đệ nhất tối cao, tối thắng trong các chúng. Đó gọi là Tịnh giới ba-la-mật-đa hoàn toàn viên mãn. Kinh Đại thừa Lý Thú Lục Ba-la-mật-đa <卷 id="82881924">Quyển 6 <詞 id="82881925">Phẩm 7: Nhẫn Nhục Ba-la-mật-đa Sau khi Đức Thế Tôn nói rõ Tịnh giới ba-la-mật-đa, Bồ-tát Từ Thị rời khỏi chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo bày vai phải, quỳ gối đảnh lễ sát chân Đức Phật mà bạch Phật rằng: –Bạch Thế Tôn! Bồ-tát tu hành Nhẫn nhục ba-la-mật-đa, cầu tiến thế nào để được viên mãn? Nhưng nhẫn nhục này có bao nhiêu loại? Người tu hành phải dụng công thế nào? Cúi xin Ngài chỉ dạy cho chúng con. Đức Thế Tôn khen Đại Bồ-tát Từ Thị: –Lành thay, lành thay! Vì muốn làm lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình nên ông hỏi về nghóa lý sâu xa như vậy. Ông hãy lắng nghe cho rõ, suy nghó thật kỹ, ta sẽ vì ông mà phân biệt giải nói. Này thiện nam! Nên biết, sinh tử và Niết-bàn đều bình đẳng, không phân biệt, đó gọi là Nhẫn nhục ba-la-mật-đa. Nếu có chúng sinh ngu si cuồng loạn đến mắng chửi làm nhục, ta đều nhẫn nhục mà nhận lấy. Giống như con voi say khó điều phục, ta phải lấy móc sắt để điều khiển nó. Con voi say tâm sân cũng như vậy, lấy móc sắt nhẫn nhục mà chế ngự để điều phục nó. Đó gọi là Nhẫn nhục ba-la-mật-đa. Nếu có hữu tình bị ba mươi sáu câu-chi Thiên ma, Quỷ thần, Dạ-xoa, La-sát đến làm hại, Bồ-tát chỉ cần đem Nhẫn nhục ba-la-mật-đa để đánh phá quân ấy, cho đến tám vạn bốn ngàn oán giặc phiền não muốn phá hoại thì Bồ-tát cũng dùng nhẫn nhục để diệt trừ chúng. Bồ-tát chẳng những chỉ chịu nhẫn nhục với Thiên ma, đại quân oán giặc phiền não, cho đến oán giặc rất nhỏ thấp cũng dùng nhẫn nhục để điều phục. Đó gọi là Nhẫn nhục ba-la-mật-đa. Giống như con của vua, học thông suốt pháp của vua, khi vua băng hà, thì thái tử ấy kế thừa ngôi vua, thống lãnh nhân dân trong nước thực hành năm loại Chánh pháp: 1.Không sát sinh. 2.Không trộm cắp. 3.Không tà hạnh. 4.Không nói lời hư dối. 5.Không thu thuế ngoài chức phận. Nếu trong nước có người phạm giới sát sinh thì vua mắc tội vào điều thứ sáu. Trộm cắp, tà hạnh và vọng ngữ cũng như vậy. Vì sao? Vì đúng pháp hay không đúng pháp thì vua là căn bản. Dù phước hay tội thì vua thuộc một phần của điều thứ sáu. Đại Bồ-tát cũng như vậy, tâm là đất nước, còn đại Bi là vua. Lấy năm pháp nhẫn để tuyên bố trong nước, đó là đánh đập, mắng chửi, sân, giận, giễu cợt. Năm pháp này đều phải nhẫn nhục, nếu ai vi phạm thì mắc tội nặng. Này Từ Thị! Giống như nông phu khi muốn gieo trồng thì phải dẫn nước vào ruộng. Trước tiên phải sửa sang kênh rạch rồi mới khởi công, trong lúc làm, gặp đá núi, đo đào xới không được nên ông ta dừng lại. Đại Bồ-tát không như vậy, ở trong đồng hoang rộng lớn sinh tử luân hồi, muốn đào kênh trí dẫn nước cam lồ, trong lúc tu tập, lại gặp đá sân giận, không có cách gì trừ được, chỉ dùng nhẫn nhục quán sát thật kỹ để đào phá nó. Lại nữa, tất cả quốc vương, đại thần, trưởng giả, cư só đều dùng anh lạc để trang sức. Chư Phật, Pháp vương, Bồ-tát… luôn dùng chuỗi anh lạc nhẫn nhục để trang nghiêm thân. Nếu gặp chúng sinh vô cớ khinh khi phản bội thì dùng đại Bi nhẫn nhục để cứu hộ họ. Nhẫn nhục này là thầy mô phạm của Bí-sô, Bí-sô-ni. Lấy Tín, Tấn, Niệm, Định, Tuệ để làm rừng cây, lấy Tịnh giới làm cành lá. Lửa sân trong rừng cây này bùng lên, đốt cháy cành lá giới, không cách gì làm dập tắt được. Chỉ dùng mưa nhẫn nhục mới có thể diệt trừ, làm cho tất cả khổ nạn đời hiện tại, vị lai vónh viễn không còn lo sợ. Người không nhẫn nhục, trong đời hiện tại đi, đứng, nằm, ngồi không có an lạc, thì với đời vị lai làm sao có sự an vui? Đại Bồ-tát lấy sức nhẫn nhục làm áo giáp, kẻ tạo tội kia là Chiên-đà-la dùng tay sân giận, cầm cung vọng tưởng, phóng mũi tên lời thô ác bắn vào áo giáp nhẫn nhục, nhưng cung tên kia tự nhiên bị gãy, trong khi đó áo giáp nhẫn nhục không bị tổn hoại một tí nào cả. Cung tên ấy nát vụn, biến thành hoa sen. Từ Thị nên biết! Bồ-tát tu hành như vậy gọi là Nhẫn nhục ba-la-mật. Lại nữa, giống như thuốc a-già-đà ở thế gian có thể trừ tất cả bệnh khổ cho mình và người, Bồ-tát cũng vậy, cầm thuốc già-đà nhẫn nhục có thể trị tất cả bệnh sân giận, phiền não cho mình và người. Đó gọi là Nhẫn nhục ba-la-mật-đa. Giống như bảo châu minh nguyệt ở thế gian, người chủ luôn cầm đi qua đồng hoang rộng lớn, hoặc ở giữa sa mạc, không một chỗ nào có nước. Trong đêm trăng, ông ta cầm bảo châu hướng lên mặt trăng và lấy đồ hứng thì tự nhiên nước chảy xuống, chủ buôn uống vào vượt qua được đồng hoang sa mạc ấy. Bồ-tát cũng vậy, cầm bảo châu minh nguyệt nhẫn nhục vượt qua sa mạc đồng hoang sinh tử, tuyệt đối không có chút nước trí tuệ, toàn là phiền não. Bồ-tát cầm châu báu nhẫn nhục hướng lên mặt trăng Phật trí để hứng nước Phật pháp, sau khi uống nước Phật pháp rồi, Bồ-tát thoát khỏi sinh tử, đến bờ Niết-bàn. Này Từ Thị! Giống như mặt đất, tất cả cây cỏ đều nhờ đó mà được sinh trưởng, tất cả hữu tình nhờ đó mà sống. Nhẫn nhục cũng vậy, tất cả Đại Bồ-tát trong mười Địa tu tập sáu pháp Ba-la-mật-đa đều dựa vào nhẫn nhục mà sinh trưởng, nhờ vào nhẫn nhục mà được an trụ. Lại nữa, giống như cái thang rất cao lớn, chúng sinh leo lên, đi thẳng đến Phạm thiên. Thang nhẫn nhục cao lớn cũng vậy, Bồ-tát leo lên đến địa vị Thiên trung thiên (Phật). Lại như họa só giỏi tay nghề, vẽ những bức tranh với đường nét màu sắc đẹp sắc sảo. Họa só nhẫn nhục cũng vậy, công đức trang nghiêm thành tựu viên mãn. Lại giống như hư không nổi đám mây lớn rồi mưa dữ dội, nước chảy lênh láng làm trôi đi tất cả cây cỏ, hoa quả vào sông Hằng, rồi trôi dạt ra biển lớn. Bồ-tát cũng vậy, tâm như hư không có thể nổi lên tất cả mây từ bi, mưa xuống pháp lớn, dòng nước nhẫn nhục chảy mạnh làm trôi tất cả cây cỏ sân giận và hoa phiền não, chảy vào sông trí, rồi chuyển đến biển lớn thanh tịnh Niết-bàn. Thấy các khổ não trong luân hồi sinh tử, Bồ-tát lấy sức nhẫn nhục để thay thế nhẫn chịu cho họ, trải qua trăm ngàn kiếp không từ mệt mỏi, cũng không từ bỏ họ để thủ lấy Niết-bàn. Đại Bồ-tát dùng sức nhẫn nhục có thể xả bỏ tất cả đầu, mắt, tủy, não, thân, thịt, tay chân và cả thân mạng của mình mà không tiếc nuối. Kẻ phàm phu không có trí, nghe nói vậy rất kinh hãi, rợn cả tóc gáy, nói rằng: “Làm sao có thể xả bỏ được như vậy?” Bồ-tát dùng sức nhẫn nhục như vậy nên sinh ra nơi nào, dung mạo cũng rất đoan chánh, tất cả chúng sinh rất thích nhìn, trong đại hội thường được chư Phật khen ngợi. Lại nữa, Đại Bồ-tát an trụ vào sức nhẫn nhục một cách kiên cố, bất động, giống như núi Diệu cao, dù bị gió dữ xoáy nhưng vẫn không lay động. Núi Diệu cao nhẫn nhục cũng vậy, dù bị gió dữ sân giận nổi lên vẫn không thể nào làm lay động được. Những ngoại đạo sống với bạn ác nên sinh tâm tà kiến, tu các khổ hạnh như: lõa hình, nhịn đói, dùng năm ngọn lửa đốt thân, nhào xuống núi sâu, lao vào lửa… cho rằng như vậy thì được sinh lên trời, không tin chánh pháp. Thấy vậy, Bồ-tát mở lòng từ bi thị hiện cũng tu khổ hạnh như họ nhưng khổ hạnh gấp trăm lần, làm cho những ngoại đạo ấy cung kính, tôn Bồ-tát làm Thầy mô phạm. Sau đó, Bồ-tát đem chánh pháp hướng dẫn họ để bọn tà kiến kia trụ trong chánh kiến. Lại có ngoại đạo nói như vầy: “Nơi thân ta có ngã ở trong tâm, lớn giống như ngón tay cái, nó không bị chướng ngại và cũng không có hình tướng, chỉ có Thiên nhãn mới nhìn thấy được, mà nhãn căn này là thị giả của ngã. Mắt đã thấy được rồi, liền báo cho ngã biết; tai, mắt, mũi, lưỡi cũng như vậy. Do nhân duyên này, nếu có chúng sinh mắng chửi ta thì người mắng nhiếc được sinh lên trời, còn người bị nhục chịu mắng thì chết đọa ba đường ác. Giống như nhiều người cùng phục vụ một ông tướng, nếu ai chê bai cái ngã của ông tướng thì mọi người kia cùng giết, nếu không giết người chê bai thì mọi người kia bị mắc tội. Bồ-tát do sức nhẫn chịu, thương xót bọn tà kiến kia nên nhẫn chịu, dùng mọi cách để trừ sự thấy hiểu sai của họ. Giống như mưa đúng mùa, cây cỏ nhờ đó mà được thấm nhuần, phát triển kết trái. Bồ-tát nhẫn nhục cũng vậy. Khi ấy Đức Thế Tôn nói kệ: Như trời sắp mưa, kiến ra hang Dồn đất thành đống làm hang ở, Cha mẹ bất tịnh có thân ta Trong đó vọng thức chấp làm ngã. Sắc lực tương tục ỷ mạnh mẽ Người trí quán kỹ như ảo mộng Chỉ trong một niệm thành cát bụi Như voi đạp đất kia tan nát. Sát-na hơi thở sinh diệt mau Đi đứng nằm ngồi đều là khổ Phải rõ sắc thân: khổ, vô thường Ở đó, người trí đâu tham trước. Chư Thiên, Phạm sống đời khổ hạnh Rắn độc nhìn thấy không thể hại Nếu trúng thương có chú, thuốc giải Nọc độc vô thường ai cứu được? Pháp lành dễ tu lại quăng bỏ Dục lạc bại hoại cố tham cầu Người trí quán sát không thể thành Giống như áo dơ đem nhuộm nghệ. Bồ-tát nên đem pháp vô ngã nói cho những kẻ ngoại đạo rằng: “Ngã mà ông chấp, ở trong hay ở ngoài? Quá khứ hay vị lai? Nếu ông nói có thì khi qua đời, ngã có thể cứu ông được. Nếu không thể cứu ông được thì phải biết rõ là không có ngã. Giống như trung thần một lòng thờ vua, nếu vua ở trong tình trạng nguy nan thì chắc chắn phải cứu vua. Nay ông không có khả năng cứu được thì biết chắc là không có ngã. Nếu có ngã thì phải được tự tại, sao lại bị vô thường phá hoại? Chúng sinh bị các khổ của quỷ vô thường bức bách làm cho từng bộ phận trên thân thể bỗng nhiên phân lìa mà chết. Nếu có ngã thì tránh được nạn này, đã không tránh khỏi sự phân ly thì nên biết không có ngã. Do đó bọn ngoại đạo các ông từ vô thỉ đến nay phụng thờ cái ngã mà tạo ra bao nghiệp ác, chịu khổ cùng cực. Nên biết cái ngã này không có chút ân đức nào cả. Nếu ông phụng thờ nó, lâu ngày nó sẽ bỏ ông mà đi, rồi dẫn thân ông giao cho thú ác, hổ báo, chó sói để xé ăn, nhưng cái ngã thì đã từ bỏ ông để đi tìm thân khác. Nếu tính ra thì nó đã bỏ ông từ vô thỉ đến nay có vô lượng, vô số kiếp lần như vậy và hiện tại, vị lai cũng thế. Nếu ông nói tâm là thần thức thì thân ta là đầy tớ. Nên biết thân này là ngã sở, từ vô thỉ đến nay đã thọ thân vô số kiếp, chẳng biết bao nhiêu lần mà nói! Như vậy các thân là một ngã hay nhiều ngã? Nếu nhiều ngã tức là vô thường, vì vô thường nên nói có ngã là không đúng. Nếu ngã là một thì phải thường trụ, luôn giữ một thân, không thể dời chuyển. Nhưng vì không trụ cho nên cái một này cũng không thành. Ông nên suy nghó quán sát, dù nhiều ngã hay một ngã đều không đúng. Do đó biết rằng tâm chẳng phải là ngã. Lại quán thân chẳng phải là ngã sở, cũng chẳng phải đầy tớ. Nếu thân thuộc về ngã thì đi, đứng, nằm, ngồi, sinh, già, bệnh, chết phải thuộc về ngã, nhưng ngã chưa sai bảo mà tự nhiên đến thì rõ ràng thân không thuộc về ngã. Nếu thuộc về ngã thì bảo phải sống mãi, không thể già chết. Đi, đứng, nằm, ngồi cũng vậy, thay đổi vô thường thì nhất định chẳng phải ngã sở, vì vậy biết chắc rằng không có ngã và ngã sở. Ông nên biết rằng: nếu ông chấp ngã thì đó là giặc lớn của ông. Vì sao vậy? Vì đời trước ông đã tích lũy căn lành mà được quả báo năm dục, đến đời nay ông đã hưởng hết. Hiện tại ông tạo bao nghiệp ác, do nghiệp lực mà ông bị giao cho cai ngục. Nếu có ngã sao không cứu nhau?” Đại Bồ-tát dùng sức nhẫn nhục cứu vớt hữu tình thoát khỏi ác quỷ ngã và ngã sở để họ được chánh kiến giải thoát, làm cho xa lìa ngã và ngã sở, thấy tất cả pháp tánh vốn không tịch. Đó gọi là Bồ-tát tu tập Nhẫn nhục ba-la-mật-đa. Này Từ Thị! Giống như có người vì bảo vệ con nên làm chú thuật để các ác quỷ không đến phá hoại. Bồ-tát cũng vậy, dùng chú nhẫn nhục để bảo vệ chúng sinh, làm cho oán thù, sân… không thể nào phá hoại được. Này Từ Thị! Ví như có người bị gai đâm vào chân, ông ta muốn tìm da che khắp mặt đất để khi đi khỏi phải lo sợ. Người trí hỏi: “Ông tìm da để làm gì?” Người kia trả lời mọi việc như trên, người trí quở trách rằng: “Ôi, này người ngu! Ngươi không nên làm như vậy, chỉ cần lấy ít da để làm giày đi là không bị thương tổn. Cần gì phải dùng nhiều da để trải khắp mặt đất như thế!” Kẻ phàm phu cũng vậy, tạo oán thù khắp nơi, bị oan gia mọi nơi cầm dao muốn đến giết để trả thù. Thấy vậy, Bồ-tát rất thương xót, dùng nhẫn nhục để làm giày da che chở thân tâm họ. Được che chở thì họ làm gì có oán thù cầm dao đến hại. Đó là Nhẫn nhục ba-la-mật-đa. Ví như có người đem lời độc ác hủy nhục, Bồ-tát nghe vậy không nên nổi sân mà phải quán sát: Người mắng ấy là ai? Người bị mắng lại là ai? Hai thân mình và người có mười hai xứ: nhãn xứ thấy sắc, nhó xứ nghe tiếng, tỷ xứ ngửi hương, thiệt xứ nếm mùi, thân xứ cảm giác xúc, ý xứ biết pháp. Nhưng nhãn xứ ấy thật chẳng phải là ngã. Nếu không phải ngã thì tội lỗi nhãn xứ của mình và người sẽ thuộc về ai? Nếu có tội lỗi thì cần phải trị phạt. Quán sát thật kỹ như vậy thì cả hai đều không có tội lỗi. Đã không có tội lỗi thì ai nhận, ai mắng để mà sân giận? Quán sát như vậy, cho đến pháp xứ cũng thế. Ngoài mười hai xứ ra không có một vật nào nữa. Người mắng, người chịu mắng, cả hai đều không. Lúc ấy mà suy nghó thì tâm sân không còn nữa. Nếu nghe lời thô ác nên quán sát thật kỹ, lời nói ấy có cái gì là thô ác? Hai chữ thô và lời đều không sinh cùng một lúc, lúc thô thì chẳng phải là lời nói, lúc lời nói thì chẳng phải là thô, sinh diệt trong từng sát-na không bao giờ đợi nhau. Hai chữ còn không có huống gì có nhiều sự mắng nhiếc. Lấy đây mà quán sát thì trong trăm ngàn kiếp nói lời thô ác ấy không còn là lời nhục mạ nữa. Lại quán sát về người mắng chửi và pháp mắng chửi, cả hai đều vô thường, không dừng lại dẫu một sát-na thì sân cái gì? Cho nên biết rằng quá khứ đã qua rồi, tương lai thì chưa đến, còn hiện tại không đứng yên. Pháp mắng chửi đã là không thì thân ta cũng vậy, đồng với sự vô thường, sinh diệt không đứng yên ấy. Vì không đứng yên cho nên tất cả đều trống không. Khi quán sát như vậy, vô lượng oán thù đồng thời tiêu diệt. Nếu lìa sự quán này mà chấp tướng phân biệt thì chỉ gọi là nhẫn nhục chứ không được gọi Nhẫn nhục ba-la-mật-đa. Năm uẩn vô ngã cho đến mười tám giới… cũng đều vô ngã, như huyễn như hóa, khen chê đều bình đẳng, bản tánh đều bình đẳng. Này Từ Thị! Thấy người mắng chửi, Đại Bồ-tát nên sinh lòng thương xót và nghó rằng: “Người ấy bị ma sân bắt giữ, bị phiền não che lấp nên mắng chửi như vậy. Ta muốn diệt trừ con ma này nên khéo tu học Nhẫn đà-la-ni để không sinh sân giận, không để sân giận và các phiền não khác làm tổn hại chúng sinh. Nếu ta sân thì ma quỷ làm mê hoặc thân ta; do đó mà thương xót đối với người mắng chửi kia và luôn nhẫn chịu.” Mặc dù tu tập như vậy nhưng chỉ gọi là nhẫn nhục. Nếu không phân biệt thì gọi là Nhẫn nhục ba-la-mật-đa. Này Từ Thị! Đại Bồ-tát khi hành an nhẫn bị người cầm dao bén đến chặt tay chân mình, Bồ-tát vẫn vui vẻ với người ấy và tưởng nghó đó là Thiện tri thức của mình. Giống như có người sau khi bố thí rồi lòng rất vui vẻ và nghó rằng: “Nay ta được phước báo lớn. Đối với người nhận bố thí kia ta phải thường nhớ ân đức của họ. Người bên cạnh thấy vậy đều phải sinh lòng tùy hỷ. Cũng vậy, Bồ-tát thấy người cắt xẻ thân mình, nên vui mừng nghó rằng: “Người kia vì diệt trừ tội nghiệp cho ta và cho ta pháp tài nên đã làm như vậy. Vì ta mà bị tiếng xấu ác, mất đi sự an vui giải thoát của trời và người, còn phải chịu khổ trong ba đường ác. Do đây, người đó là bạn lành chí thân của ta, đã hoàn thành Nhẫn nhục ba-la-mật-đa cho ta. Với người đó, ta nên kính trọng, cho đến khi chứng Bồ-đề cũng không quên ân đức ấy, huống gì trở lại sân hận. Nếu sân giận tức là đã phản bội lại ân đức của họ. Do đây mà càng cung kính, nghó tưởng đây là thầy mình. Mặc dầu nhẫn điều khó nhẫn, nhưng còn sự phân biệt giữa mình và người thì chỉ gọi là nhẫn nhục, chứ không được gọi là Nhẫn nhục ba-la-mật-đa.” Lại nữa, nếu ở nơi thanh vắng có người đến chê bai Bồ-tát rằng: “Ông đã ăn trộm, hành dâm dục, đánh mắng, hành thích”. Bồ-tát nhẫn nhục, tự tư duy như vầy: “Đó chẳng phải lỗi của họ mà là do đời trước ta đã từng đánh mắng, hành thích họ. Do dư nghiệp của ta còn sót lại nên phải nhận lấy sự trách mắng của người ấy. Vì ta mà người kia phải đọa vào đường ác, nên ở trong loài người phải có lòng đại Bi nhẫn.” Lại tư duy: “Tâm này của ta rất gian trá, sợ đọa địa ngục mà nhẫn nhục, lại muốn thành tựu Nhẫn nhục ba-la-mật-đa để người cắt xẻ kia phải đọa ba đường ác.” Tư duy như vậy càng thấy xấu hổ. Biết lỗi của mình, Bồ-tất cảm thấy xấu hổ liền tưởng người kia là Thiện tri thức, sinh lòng tôn trọng. Nhưng đó chỉ là nhẫn nhục chứ không phải Nhẫn nhục ba-la-mật-đa, vì có phân biệt giữa mình và người. Lại nữa, Bồ-tát biết sân giận là pháp gây ra các khổ, biết hạnh nhẫn nhục là nguồn gốc của vạn hạnh. Do đó mà hành nhẫn nhục, nhưng chỉ gọi là nhẫn nhục, không được gọi là Nhẫn nhục ba-la-mật-đa. Vì sao vậy? Vì còn có phân biệt thiện ác. Bồ-tát quán thân năm uẩn có năm loại tội lỗi, là chỗ tập hợp gây ra các khổ và nó thay đổi trong sát-na, gồm năm thứ bất tịnh, gồm ba mươi sáu vật uế trược, không có ngã và ngã sở, tất cả đều là không. Riêng bọn ngoại đạo tà kiến chấp thân này là an lạc, thường trụ bất biến, là pháp thanh tịnh, có ngã và ngã sở. Bồ-tát quán kỹ năm pháp này cùng tất cả hữu tình cũng vậy. Đã biết vậy rồi, khi nghe mắng chửi, không nên sân giận, được khen ngợi không vui mừng. Đó chỉ gọi là nhẫn nhục, không phải là Nhẫn nhục ba-la-mật-đa. Này Từ Thị! Nay ta sẽ lược nói về ba mươi hai loại nhẫn nhục của Bồ-tát. Đó là: không tham lam, không sát hại, không gây phiền não, không sân nhuế, không oán hận, không bực tức, không tranh luận, không nhiễm cảnh dục, hay giữ tâm mình và người, thuận tâm Bồ-đề, không có tâm phân biệt, không vướng vào sinh tử, tùy thuận nghiệp quả, thân thanh tịnh, khẩu ý thanh tịnh, kiên cố không thoái lui, nói năng tự tại, không tính toán, tự giác Thánh trí, giữ gìn ý người, tu bốn phạm hạnh không sinh theo do thiền lực, ở trong trời, người an lạc tự tại, tướng tốt viên mãn, Phạm âm vi diệu, diệt trừ các điều ác, lìa bỏ xan tham, đoạn trừ ganh tî, xả bỏ các oán giặc, gần Bồ-đề phần, lìa điều bất thiện, thích ở nơi thanh vắng, đạt được các phần Phật pháp. Đó là ba mươi hai loại Nhẫn nhục ba-la-mật-đa. Bồ-tát tu hành đầy đủ ba mươi hai loại nhẫn nhục ấy thì chứng được Vô sinh pháp nhẫn và mau đến Vô thượng Bồ-đề. Này Từ Thị! Sao gọi là Nhẫn nhục ba-la-mật-đa? Nghóa là nếu có người đến mắng chửi thì ta nên quán tiếng mắng chửi ấy như tiếng vọng trong hang. Khi bị đánh đập nên quán thân này như bóng (hình tướng) trong gương. Nếu bị sân nên quán tâm này như huyễn như hóa. Nếu bị phẫn nộ nên quán tâm này tánh vốn không náo động. Nếu được lợi dưỡng nên quán tâm này tự tánh điều phục, không vui mừng. Nếu mất lợi dưỡng nên quán tâm này thiện diệu, tịch tónh, không nên sân giận. Nếu bị chê bai nên quán thân này như hư không, không nên trả thù. Nếu được khen ngợi nên quán tự thân này tánh không ngã mạn, không cống cao. Nếu được ca tụng nên quán tâm này tánh xưa nay không tịch, không vui mừng. Nếu bị cơ hiềm nên quán tâm tánh vốn xa lìa sợ hãi, không sinh lo buồn. Khi gặp khổ nên quán pháp tánh vốn không bức bách, không thấy tướng khổ. Khi được vui vẻ, nên quán thật tánh thường trụ bất biến, không có tướng khổ vui. Khi Đại Bồ-tát trụ trong nhẫn nhục thì tám loại gió không thể nào làm động chuyển được. Vì sao? Vì lấy tâm Bồ-đề trụ vào tướng chân thật, xa lìa bỉ thử, thấy được Pháp thân. Nếu có việc gì bất an cũng đều nhẫn nhục. Muốn chiến thắng các ma oán nên làm tất cả những việc khó làm để điều phục ngoại đạo tà kiến. Từ Thị nên biết! Nay ta sẽ lược nói về Nhẫn nhục ba-la-mật-đa. Này Từ Thị! Nếu quán vô thường thì lìa tướng ngã kia mà tâm được an nhẫn, chẳng phải nhẫn chân thật. Nếu quán tướng thiện, bất thiện của các pháp mà tâm được nhẫn nhục, đó chẳng phải là nhẫn chân thật. Nếu quán kỹ nhẫn mười hai xứ đối với căn trần lìa tướng sân giận mà được nhẫn nhục, đó chẳng phải chân thật nhẫn. Nếu quán sân giận cho là điên đảo, nhẫn là chân chánh, biện biệt tà chánh thì chẳng phải là nhẫn chân thật. Lại thấy nhẫn có lý, mắng chửi là phi lý, nhẫn như vậy mà còn chấp tướng thì chẳng phải nhẫn chân thật. Lại nữa, nếu trụ vào nhẫn tám chánh, lìa nhẫn tám tà; nhẫn đạo hay phi đạo thì chẳng phải chân thật nhẫn. Lại nữa, không quán nhẫn các pháp vô thường, vô ngã, bất tịnh, khổ, mà chỉ quán các pháp thường, lạc, ngã, tịnh, Vô sinh pháp nhẫn. Nhẫn mà trái ngược nhau như vậy chẳng phải nhẫn chân thật. Nhẫn pháp không mà không nhẫn các kiến chấp; nhẫn pháp vô tướng mà không nhẫn pháp hữu tướng; nhẫn pháp vô nguyện, không nhẫn pháp hữu nguyện; nhẫn pháp vô hành, không nhẫn pháp hữu hành; nhẫn pháp không phiền não, không nhẫn pháp phiền não; nhẫn các pháp thiện, không nhẫn các pháp ác; nhẫn pháp xuất thế gian, không nhẫn pháp thế gian; nhẫn pháp không lỗi, không nhẫn pháp có lỗi; nhẫn pháp vô lậu, không nhẫn pháp hữu lậu; nhẫn pháp Niết-bàn, không nhẫn pháp sinh tử… Nhẫn như vậy là nhẫn đối trị, chẳng phải là nhẫn cứu cánh. Đại Bồ-tát Từ Thị thưa: –Bạch Thế Tôn! Người nhẫn nhục như vậy là nhẫn không cứu cánh. Vậy thì thế nào là nhẫn cứu cánh? Cúi xin Ngài phân biệt giải nói. Đức Thế Tôn dạy: –Này thiện nam! Nhẫn chân thật là dùng chánh trí tuệ thông hiểu bản tánh của tất cả các pháp đều không. Tánh không này cùng với bản tánh của các pháp không hai. Tánh của các pháp là không tánh, bản tánh chánh trí là thanh tịnh, không hai, không khác, không đoạn. Do đó nên biết rằng pháp của thế gian là không. Không là pháp thế gian, bản tánh của hai pháp không lìa nhau. Nhẫn như vậy gọi là nhẫn cứu cánh. Lại nữa, dùng chánh trí tuệ thông hiểu tánh của các pháp là tánh vô tướng. Tánh vô tướng là bản tánh của các pháp, bản tánh không hai. Tánh của các pháp và tánh vô tướng là bản tánh chánh trí thanh tịnh, không hai, không hai phần, không khác, không đoạn. Cho nên biết rằng tất cả pháp là vô tướng, vô tướng là tất cả pháp. Bản tánh của hai pháp không lìa nhau. Nhẫn như vậy gọi là nhẫn cứu cánh. Dùng chánh trí tuệ thông hiểu tánh của các pháp là tánh vô nguyện, tánh vô nguyện là tánh của các pháp vì bản tánh không hai. Tánh vô nguyện và tánh của các pháp là bản tánh chánh trí thanh tịnh, không hai, không hai phần, không khác, không đoạn. Cho nên biết rằng tất cả pháp là vô nguyện, vô nguyện là tất cả pháp, vì bản tánh hai pháp không lìa nhau. Nhẫn như vậy là nhẫn cứu cánh. Dùng chánh trí tuệ hiểu rõ tánh của tất cả hành là tánh không hành. Tánh không hành và tánh tất cả hành, bản tánh không hai. Tánh tất cả hành và tánh không hành là bản tánh chánh trí thanh tịnh, không hai, không hai phần, không khác, không đoạn. Nhẫn như vậy gọi là nhẫn cứu cánh. Dùng chánh trí tuệ thông hiểu tánh phiền não là tánh không phiền não. Tánh không phiền não và tánh phiền não là bản tánh không hai. Tánh phiền não và tánh không phiền não là bản tánh chánh trí thanh tịnh, không hai, không khác, không hai phần, không đoạn. Nhẫn như vậy gọi là nhẫn cứu cánh. Dùng chánh trí tuệ thông suốt tất cả tánh thiện là tánh bất thiện. Tánh thiện tức là tánh bất thiện, là bản tánh không hai. Tánh thiện và tánh bất thiện là bản tánh chánh trí thanh tịnh, không hai, không hai phần, không khác, không đoạn. Nhẫn như vậy gọi là nhẫn cứu cánh. Dùng chánh trí tuệ thông suốt tánh pháp xuất thế gian tức là tánh pháp thế gian. Tánh pháp thế gian và tánh pháp xuất thế gian là bản tánh không hai. Tánh pháp xuất thế gian và tánh pháp thế gian là bản tánh chánh trí thanh tịnh, không hai, không hai phần, không khác, không đoạn. Nhẫn như vậy gọi là nhẫn cứu cánh. Dùng chánh trí tuệ thông suốt tánh không tội lỗi là tánh tội lỗi. Tánh tội lỗi và tánh không tội lỗi bản tánh không hai. Tánh không tội lỗi và tánh tội lỗi là bản tánh chánh trí thanh tịnh, không hai, không hai phần, không khác, không đoạn. Nhẫn như vậy gọi là nhẫn cứu cánh. Dùng chánh trí tuệ thông hiểu tánh pháp vô lậu là tánh pháp hữu lậu. Tánh pháp hữu lậu và tánh pháp vô lậu bản tánh không hai. Tánh pháp vô lậu và tánh pháp hữu lậu là bản tánh chánh trí thanh tịnh, không hai, không hai phần, không khác, không đoạn. Nhẫn như vậy gọi là nhẫn cứu cánh. Dùng chánh trí tuệ thông suốt tánh Niết-bàn là tánh sinh tử. Tánh sinh tử và tánh Niết-bàn bản tánh không hai. Tánh Niết-bàn và tánh sinh tử là bản tánh chánh trí thanh tịnh, không hai, không hai phần, không khác, không đoạn. Nhẫn như vậy là nhẫn cứu cánh. Đức Phật dạy: –Này Từ Thị! Nhẫn cứu cánh chân thật như vậy, đối với tất cả các pháp thấy không có mình và người, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải sinh, chẳng phải không sinh, chẳng phải diệt, chẳng phải không diệt. Ai đạt được nhẫn như vậy gọi là nhẫn chân thật cứu cánh Vô sinh pháp nhẫn, là Nhẫn nhục ba-la-mật-đa. Khi Đức Phật nói Nhẫn nhục ba-la-mật-đa này, Bồ-tát Từ Thị làm thượng thủ, cùng vô lượng chúng Đại Bồ-tát và cả đại hội đồng khen ngợi Đức Thế Tôn: –Lành thay, lành thay! Thật hy hữu thay Bậc Thiện Thệ! Thật kỳ diệu thay, Bậc Thế Tôn! Khen ngợi xong, tất cả mọi người đem vô lượng trân bảo quý giá dâng lên cúng dường Thế Tôn, đó là những loại: hương chiêm-bặc, hương hoa, hương đốt, hương xoa, hương bột, những loại vòng hoa, y phục, tơ lụa, tràng phan, bảo cái tung lên hư không cúng dường và trổi tất cả các thứ âm nhạc để làm vui cùng những bài ca tụng khen ngợi Như Lai. Các chúng sinh nghe Đức Phật nói Nhẫn nhục ba-la-mật-đa này không kinh nghi, không hoảng sợ, tất cả đều được pháp nhẫn chân thật của Như Lai. Họ rải hoa hương trên hư không khắp cả tam thiên đại thiên thế giới để cúng dường Như Lai. Đức Thế Tôn dạy Từ Thị: –Này thiện nam! Ông nên an trí tất cả hoa hương, y phục cho đến tràng phan, bảo cái ấy. Bồ-tát Từ Thị thưa: –Bạch Thế Tôn! Con đã an trí tất cả hương hoa, y phục ấy rồi, mỗi mỗi đều được an trí trong chúng hội các vị Bồ-tát, Trời, Rồng…, mà ngay nơi thân con là chỗ nương tựa. Nói xong, Bồ-tát Từ Thị liền nhập vào Nhất thiết sắc thân Tam-muội. Nhập Tam-muội rồi, tất cả hương hoa, y phục, tơ lụa, cho đến tràng phan, bảo cái đầy khắp hư không trong tam thiên đại thiên thế giới nhờ thần lực của định mà vào rốn của Bồ-tát Từ Thị không bị chướng ngại, và cả thảy đều đầy đủ không giảm bớt mà thân của Bồ-tát Từ Thị cũng không lớn ra. Khi ấy, Đại Bồ-tát Vô Tận Tạng hỏi Bồ-tát Từ Thị: –Này thiện nam! Tam-muội này tên là gì mà trụ vào định này làm cho tất cả vật cúng dường đều vào trong rốn ông mà thân ông không tăng, vật kia không giảm? Bồ-tát Từ Thị nói: –Này thiện nam! Tam-muội này gọi là Phổ nhập nhất thiết sắc thân Tam-muội. Bồ-tát Vô Tận Tạng lại hỏi: –Này Đại só! Cảnh giới biến hóa thần thông của Tam-muội này như thế nào? Bồ-tát Từ Thị nói: –Tất cả vật trong tam thiên đại thiên thế giới đều vào rốn của tôi mà thân tôi không tăng, vật kia không giảm. Vì sao vậy? Vì pháp tánh vốn như vậy. Khi ấy, ở trong hội, Bồ-tát, Trời, Rồng, Quỷ thần, Nhân phi nhân thầm nghó: “Chúng ta muốn thấy cảnh giới thần biến của Tam-muội này mà không biết làm thế nào?”. Biết tâm niệm của các vị Bồ-tát, Trời, Rồng… Đức Thế Tôn dạy Bồ-tát Từ Thị: –Này thiện nam! Ông nên hiện thần thông biến hóa của Tam-muội này để cho tất cả đại chúng đều biết. Lúc ấy, Bồ-tát Từ Thị tu tập Tam-muội này đã từ lâu và đã hoàn toàn thuần thục, không bị chướng ngại, làm cho các vị Bồ-tát, đại chúng ở phương khác và Bí-sô, Bí-sô-ni cùng Phật Thế Tôn đều nhập vào thân Từ Thị mà các hữu tình cũng không kinh sợ, thân tâm được an lạc chưa từng có. Giống như đi qua vô lượng a-tăng-kỳ thế giới về phương Đông, có thế giới tên Bảo anh lạc trang nghiêm. Tất cả đồ vật mà chúng sinh thế giới đó dùng toàn bằng những loại trân bảo quý báu, thọ hưởng sự sung sướng. Và thân trời, người trong đại chúng này được hưởng an lạc giống như thế giới ấy không khác. Đại chúng nơi hội này ở trong thân Từ Thị biết rõ không bị chướng ngại. Bấy giờ, Bồ-tát Từ Thị thâu thần lực trở lại. Khi ấy đại chúng và Phật Thế Tôn đều trở về chỗ ngồi. Tất cả đại chúng hữu tình ấy đều không biết rõ có tướng qua lại. Bồ-tát Vô Tận Tạng nói với Bồ-tát Từ Thị: –Thật hy hữu thay, Đại só! Việc biến hóa thần thông của Tam-muội này tôi chưa từng có và xưa nay chưa từng nghe thấy. Bồ-tát Từ Thị nói: –Thưa Tôn giả! Không những chỉ có tất cả đại chúng trong hội này đều nhập vào trong rốn tôi, mà giả sử đem các núi Diệu cao và mười núi báu, núi Đại thiết vi, biển lớn, sông sâu, mặt trời, mặt trăng, sao, Thiên cung, Long cung trong tam thiên đại thiên thế giới, năm cõi, bốn loài, Nhân phi nhân nhập vào thân tôi không bị chướng ngại. Thân tôi không tăng, vật kia không giảm. Chúng sinh ấy cũng không biết rõ có tướng qua lại. Tánh của pháp còn như vậy, huống gì trong hội này. Khi Đức Thế Tôn nói Nhẫn nhục ba-la-mật-đa này và hiện đại thần thông, trong hội có bảy mươi sáu na-do-tha người, trời đều phát tâm Vô thượng Bồ-đề, ba vạn hai ngàn Bồ-tát đều được Vô sinh pháp nhẫn. Đức Phật dạy Từ Thị: –Nếu có thiện nam, thiện nữ nào mới nghe tên Nhẫn nhục ba-la-mật-đa này mà sinh lòng tin thì người ấy chắc chắn không đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh mà được ở trong Vô thượng Bồ-đề không bao giờ thoái chuyển. Nay ta nói Nhẫn nhục ba-la-mật-đa này là hoàn toàn viên mãn, làm lợi ích an lạc cho tất cả chúng sinh. Kinh Đại thừa Lý Thú Lục Ba-la-mật-đa <卷 id="82881926">Quyển 7 <詞 id="82881927">Phẩm 8: Tinh Tấn Ba-la-mật-đa Đức Thế Tôn nói Nhẫn nhục ba-la-mật-đa xong, Đại Bồ-tát Từ Thị liền đứng dậy, trịch áo bày vai phải, quỳ gối chắp tay cung kính thưa: –Bạch Đại Thánh Thế Tôn! Thế Tôn đã nói Nhẫn nhục ba-la-mật-đa rồi, bây giờ xin Ngài hãy nói rộng về Tinh tấn ba-la-mật-đa. Đại Bồ-tát trụ vào đó như thế nào, hàng phục thế nào và tu hành như thế nào? Làm sao viên mãn Tinh tấn ba-la-mật-đa? Cúi xin Ngài phân biệt giải nói. Đức Thế Tôn dạy Bồ-tát Từ Thị: –Này thiện nam! Ông hãy lắng nghe cho rõ, suy nghó thật kỹ. Ta sẽ vì ông mà phân biệt giải nói, nghóa là tu tập năm pháp Ba-la-mật-đa kia đều nhờ sức tinh tấn mà được thành tựu. Tinh tấn ba-la-mật nghóa là ba nghiệp thiện thân, khẩu, ý đều nhờ lực tinh tấn mới phát sinh được. Trong ba nghiệp thì ý nghiệp là hơn hết. Đại Bồ-tát tu ý nghiệp có hai loại tâm là tinh tấn và thoái lui. Nghóa là phát tâm Bồ-đề là tinh tấn, dừng tâm Bồ-đề là thoái lui. Phát khởi là thế nào? Là có lòng Từ bi với tất cả hữu tình. Dừng lại là thế nào? Là trụ vào ngã không. Phát khởi là thế nào? Là nắm giữ tất cả chúng sinh. Dừng lại là thế nào? Là xả bỏ tất cả chúng sinh. Phát khởi là thế nào? Là trong sinh tử không mệt mỏi. Dừng lại là thế nào? Là muốn ra khỏi ba cõi. Phát khởi là thế nào? Là xả bỏ tất cả. Dừng lại là thế nào? Là tâm khinh thị không bố thí. Phát khởi là thế nào? Là kiên trì giữ giới thanh tịnh. Dừng lại là thế nào? Là hủy phạm giới cấm. Phát khởi là thế nào? Là khéo trụ vào nhẫn nhục. Dừng lại là thế nào? Là không tu nhẫn nhục. Phát khởi là thế nào? Là tu tập các căn lành. Dừng lại là thế nào? Là giải đãi, biếng nhác. Phát khởi là thế nào? Là trụ trong thiền định. Dừng lại là thế nào? Là tâm tán loạn. Phát khởi là thế nào? Là tương ưng với trí tuệ. Dừng lại là thế nào? Là tương ưng với vô minh. Phát khởi là thế nào? Là nghe nhiều, nói đúng. Dừng lại là thế nào? Là không nghe chánh pháp. Phát khởi là thế nào? Là tích tụ trí tuệ. Dừng lại là thế nào? Là phân biệt chấp tướng. Phát khởi là thế nào? Là quán uẩn như huyễn. Dừng lại là thế nào? Là với uẩn sinh nhàm chán. Phát khởi là thế nào? Là biết xứ như mộng. Dừng lại là thế nào? Là diệt trừ căn cảnh. Phát khởi là thế nào? Là quán giới vô sinh. Dừng lại là thế nào? Là thân diệt, trí diệt. Phát khởi là thế nào? Là phạm hạnh tăng trưởng. Dừng lại là thế nào? Là xả trí tuệ chân thật. Phát khởi là thế nào? Là năm thần thông tự tại. Dừng lại là thế nào? Là nhàm chán hữu lậu. Phát khởi là thế nào? Là chánh quán Niệm xứ. Dừng lại là thế nào? Là không tu niệm trụ. Phát khởi là thế nào? Là tương ưng với chánh đoạn. Dừng lại là thế nào? Là không hành chánh đoạn. Phát khởi là thế nào? Là thần túc tự tại. Dừng lại là thế nào? Là không đủ thần túc. Phát khởi là thế nào? Là siêng năng tu tập năm Căn. Dừng lại là thế nào? Là năm Căn không tăng trưởng. Phát khởi là thế nào? Là thích tu năm Lực. Dừng lại là thế nào? Là không tu năm Lực. Phát khởi là thế nào? Là viên mãn Giác chi. Dừng lại là thế nào? Là không đủ bảy Giác chi. Phát khởi là thế nào? Là siêng năng tu Chánh đạo. Dừng lại là thế nào? Là không tu tám Chánh đạo. Phát khởi là thế nào? Là tu Quán. Dừng lại là thế nào? Là không tu Chỉ. Phát khởi là thế nào? Là quán duyên sinh. Dừng lại là thế nào? Là chán sự nguy hiểm của duyên sinh. Phát khởi là thế nào? Là nghe điều chưa nghe. Dừng lại là thế nào? Là chấp nhận điều đã nghe. Phát khởi là thế nào? Là lấy giới để trang sức thân. Dừng lại là thế nào? Là chán ghét thân uẩn. Phát khởi là thế nào? Là Biện tài vô ngại. Dừng lại là thế nào? Là không học im lặng. Phát khởi là thế nào? Là tu tập ba pháp môn giải thoát. Dừng lại là thế nào? Là không tu tập ba pháp môn giải thoát. Phát khởi là thế nào? Là chiến thắng quân ma. Dừng lại là thế nào? Là thích trụ Niết-bàn. Phát khởi là thế nào? Là khéo tu phương tiện. Dừng lại là thế nào? Là ưa thích tịch tónh. Phát khởi là thế nào? Là cầu tiến không ngừng. Dừng lại là thế nào? Là được rồi không chịu tiến nữa. Phát khởi là thế nào? Là hiểu rõ tục đế. Dừng lại là thế nào? Là tự chứng diệt đế. Phật dạy Từ Thị: –Tất cả pháp hành tinh tấn như vậy đều nhờ sức tinh tấn mà có thể viên mãn, không tăng không giảm, có thể làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Vì sao? Vì có thể viễn ly tất cả tướng. Tất cả đều nhờ trí lực mà viên mãn Tinh tấn ba-la-mật-đa. Sự nghiệp tu tập của Đại Bồ-tát như thế nào? Nghóa là tu tập đại Từ, đại Bi, không xả hữu vi mà chứng chân vô vi, không thoái lui cho đến khi chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Từ Thị nên biết! Đó là Đại Bồ-tát ý nghiệp thanh tịnh nhờ Tinh tấn ba-la-mật-đa. Lại nữa, này Đại Bồ-tát Từ Thị, có bốn loại tinh tấn: 1.Điều bất thiện chưa sinh, đừng cho sinh. 2.Đã sinh điều bất thiện rồi, hãy mau diệt trừ. 3.Điều thiện chưa sinh thì làm cho mau phát sinh. 4.Điều thiện đã sinh rồi thì làm cho tăng trưởng. Từ Thị nên biết! Đó là bốn loại tinh tấn của Đại Bồ-tát, nếu không có bốn loại tinh tấn này thì làm sao viên mãn Tinh tấn ba-la-mật-đa. Đại Bồ-tát phát khởi tinh tấn cho đến bố thí, trì giới, nhẫn nhục, phải tinh tấn xả bỏ điều khó bỏ, làm những việc khó làm. Những việc khó như vậy phải siêng năng tinh tấn dũng mãnh, không biếng nhác, tu hành vượt hơn tất cả chư Thiên. Đó là điều mà Phạm thiên, Hộ thế không làm được. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát rộng độ chúng sinh ra khỏi biển sinh tử, nhưng không thấy có tướng độ. Tất cả đều nhờ lực tinh tấn mà được thành tựu. Đó gọi là Tinh tấn ba-la-mật-đa. Này Từ Thị! Vì chúng sinh biếng nhác nên công đức của sự tu hành rất ít. Giống như giọt nước không thể thành biển cả, người giải đãi cũng vậy, không thể đến được Vô thượng Bồ-đề. Giống như có người không có tay chân thì không thể đi, đứng, nằm, ngồi theo ý được, cho đến một việc làm rất nhỏ cũng không làm xong. Người như vậy làm sao có thể vượt qua sông lớn biển cả được, chúng sinh biếng nhác không tinh tấn cũng vậy. Đối với sự nghiệp gia đình, người lười biếng này còn không thành đạt được thì làm sao có đủ từ bi để tu giới tuệ, cứu chúng sinh ra khỏi nhà lửa! Bồ-tát tu hành Ba-la-mật-đa làm tư lương cho Bồ-đề, Đại Bồ-tát lấy Tinh tấn ba-la-mật-đa làm thuyền bè mà được thành tựu vô số kiếp phước trí, cùng ngồi một thuyền với các hữu tình vượt qua biển lớn sinh tử, đến bờ kia Niết-bàn. Tất cả chúng sinh trên thế gian gồm có ba loại: 1.Lười biếng. 2.Không siêng năng, không biếng nhác. 3.Tinh tấn dũng mãnh. Hạng lười biếng nghóa là bỏ bê công việc trong gia đình thì làm sao có thể kinh doanh, làm việc cho người khác. Hạng không siêng năng, không biếng nhác là đối với sự nghiệp lớn thì không làm được. Giả sử muốn cầu tiến mà gặp trở ngại thì thoái lui. Hạng tinh tấn dũng mãnh là luôn chịu lao khổ cực nhọc cho hữu tình, chỉ làm lợi ích cho mọi người mà không nghó đến bản thân mình. Người biếng nhác bị con quỷ giải đãi luôn móc kéo, làm mê hoặc thân tâm, giống như có người vào biển lớn, đến núi bảy báu, châu báu trong núi ấy nhiều vô lượng, vừa muốn lấy thì ông ta bị quỷ bắt lại nên đành bỏ lỡ cơ hội mà đi bộ trở về với thân trơ trọi, không lấy được một món châu báu nào. Chúng sinh biếng nhác cũng vậy. Ở Thiệm-bộ châu, chúng sinh do phước đức của mười thiện nghiệp mà sinh vào trong cõi này. Bồ-tát quán vô lượng, vô biên châu bảo Thập thiện đầy khắp cả đại địa, chúng sinh bị quỷ giải đãi làm mê hoặc, cuồng loạn mất trí, nếu thấy châu bảo không được móng tâm lấy, như núi Diệu cao không thể lay chuyển. Nếu người tinh tấn lấy bảo vật này không lấy làm khó mà lại thấy dễ dàng như giơ mảy lông. Đại Bồ-tát muốn viên mãn Tinh tấn ba-la-mật-đa thì phải vì khắp tất cả chúng sinh từ vô lượng kiếp chịu sinh tử mãi mà không tiếc thân mạng, luôn siêng năng tinh tấn mới đạt đến Bồ-đề. Bồ-tát quán như vậy mà tâm không giải đãi, mỏi mệt, xem như thời gian chừng một bữa ăn. Lại tư duy: Chư Phật quá khứ đã hành Bồ-tát hạnh, vì muốn viên mãn sáu pháp Ba-la-mật-đa mà trải qua vô lượng kiếp cũng xem như thời gian chừng một bữa ăn. Đại Bồ-tát quán hiện tại, vị lai có vô lượng, vô biên chư Phật đã từng hành Bồ-tát hạnh, trải qua vô lượng kiếp mới thành Chánh giác, kiếp số như vậy khó tính đếm được. Giống như có bức thành rất cao rộng, bốn mặt cao dày đều một trăm do-tuần. Trong thành này có đầy hạt mè, cứ một trăm, một trăm kiếp lấy đi một hạt, như vậy trong từng kiếp số lấy dần dần từng hạt một, cho đến lúc trong thành không còn hạt nào cả là một đại kiếp. Như vậy, trong đại kiếp tính đủ ba a-tăng-kỳ kiếp. Kiếp số của Đại Bồ-tát cũng vậy, luôn vì mỗi hữu tình trong năm đường mà siêng năng tinh tấn, lại chịu các khổ não mới chứng Bồ-đề. Ví như nghiền nát đất thành bụi, như vậy bụi có nhiều không? Từ Thị thưa: –Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Đức Phật dạy Từ Thị: –Giả sử chúng sinh như số bụi kia, thì Bồ-tát vì mỗi hữu tình mà siêng năng tinh tấn như trong kiếp số nói trên không tiếc thân mạng, chịu các khổ não, sau đó mới chứng Vô thượng Bồ-đề. Đại Bồ-tát nên tư duy như vầy: “Về quá khứ như kiếp số trên, ta đã siêng năng tinh tấn đầy đủ viên mãn sáu pháp Ba-la-mật-đa, đắc quả vị không thoái chuyển mới chứng Bồ-đề.” Tư duy như vậy rồi, ngày đêm Bồ-tát siêng năng tinh tấn dũng mãnh. Với kiếp số tính theo năm tháng trong nhân gian mà so với ở đó thì như khoảng một sát-na để thành Chánh giác, sao lại không tinh tấn? Đại Bồ-tát siêng năng tinh tấn một cách kiên cố, xả bỏ đầu, mắt, tủy, não, tay, chân… mà không chút tiếc nuối. Đã tư duy như vậy, Bồ-tát nhất tâm tinh tấn, không giải đãi mỏi mệt. Đây gọi là Tinh tấn ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát. Lúc đó Đức Thế Tôn nói kệ: Các thật quả thế gian Do tinh tấn sinh ra Địa, thủy, hỏa, phong giới Căn trần nhờ đây có Tham, sân, si ba độc Đều do giải đãi sinh Bồ-tát thấy như vậy Sợ hãi như tên độc. Nếu người có tài năng Biếng nhác việc không thành Con cái mà giải đãi Mẹ hiền không được vui. Có trí gắng tinh tấn Thành tựu hạnh Bồ-tát Người ấy nở hoa giác Thành quả vị Phật-đà. Người trí luôn dũng mãnh Thông đạt nghóa thâm sâu Người giải đãi lười biếng Người đời không khen ngợi Người nào không tinh tấn Ở đời không được khen Không hành trang thiện pháp, Như phân dơ ô uế. Như cỏ và ngói đá, Ở đời còn dùng được Người giải đãi biếng nhác Không ai thèm dùng đến. Giống như áo rách dơ Như vòng hoa héo tàn Người nào không tinh tấn Người tốt không cần dùng. Nếu ai được tiếng khen Nhờ tinh tấn nhẫn nhục Không nhẫn không tinh tấn Là phi nữ phi nam. Giải đãi thiếu của cải Hèn hạ lắm kiêu mạn, Thường sợ người ta chê Việc nhà không thành đạt. Không tinh tấn như vậy Tuy có lắm tài năng, Thường bị người đời khinh Như rắn hết khí độc. Dù không nhiều tài năng Nhưng siêng năng tinh tấn Chắc chắn được thành tựu Phật quả đại Bồ-đề. Những ai tu nghiệp phước Đều nhờ sức tinh tấn Nếu muốn làm sứ giả Chuyên đợi lệnh vua sai. Tinh tấn gốc tôn quý Nên siêng năng dũng mãnh Bồ-tát thích tu hành Ắt thành quả Vô thượng. Luôn trụ vào tinh tấn Được người trí khen ngợi Không trí bảo do trời Tà kiến gốc sinh tử Người trí trú chánh kiến Tinh tấn từ bỏ trời. Nên siêng năng tinh tấn Để độ cõi trời kia Ngu đần không tinh tấn Thờ trời, không siêng năng. Người trí thích tinh tấn Tránh xa giáo pháp trời Mạng trời và tinh tấn Ngu, trí rất sai biệt Tin trời do tà kiến Tinh tấn được quả lành. Có đất không hạt giống Cày xới ích lợi gì! Không tinh tấn cũng vậy Làm sao được làm trời. Ví như gió thổi lửa Từ nhỏ cháy thành lớn, Tinh tấn cũng như vậy Pháp lành thêm lớn mạnh. Làm các hạnh khó làm Nên được quả tối thắng Không tham tiếc thân mạng Sẽ kế thừa Pháp vương. Đức Thế Tôn dạy Đại Bồ-tát Từ Thị: –Khi cầu Bồ-đề, Bồ-tát phải mang giáp tinh tấn, lấy đại thệ nguyện làm binh khí, ngày đêm siêng năng làm tăng trưởng công đức, giống như trăng non dần dần tròn trịa. Ví như có người nghe ở phương xa kia có tháp xá-lợi Phật và có người khéo nói Chánh pháp. Nghe vậy, người kia rất vui mừng, không cần lương thực, xe cộ, bạn bè, một mình ông ta đi đến tháp ấy. Trên đường đi, người kia đã trải qua toàn là lửa dữ và dao bén nhưng vẫn mạnh mẽ kiên trì không thoái lui, quyết định tiến tới để chiêm ngưỡng, lễ lạy tháp Phật và nghe Chánh pháp. Giữa đao nhọn, lửa dữ, trong mỗi bước đi, người kia luôn tư duy và phát thệ rằng: “Trong đao lửa hôm nay, con nguyện được nghe Chánh pháp. Con nguyện sẽ ở trong biển khổ lớn sinh tử để cứu vớt chúng sinh qua bờ Niết-bàn an lạc.” Đại Bồ-tát phát nguyện như vậy rồi, dù có đạp lên đao nhọn, lửa dữ cũng giống như đạp lên hoa sen, dưới chân mềm mại như hoa Tu-mạn-na và dường như nước thơm Chiên-đàn được rảy trên mình, mát mẻ thơm ngát, không gì ví dụ được. Người kia lại phát nguyện: “Bắt đầu từ hôm nay cho đến khi chứng Vô thượng Bồ-đề, thân, khẩu, ý nghiệp của con luôn làm, nghó và nói những việc Phật sự. Nếu con làm những việc phi pháp thì nguyện thân này của con sẽ như cây khô, miệng con nói những lời phi pháp thì con sẽ bị câm ngọng, ý nghó đến những điều phi pháp thì con sẽ bị điên cuồng, ngoại trừ Chánh pháp. Còn những giáo pháp dị đạo con không ưa thích. Ba nghiệp đã tu các điều thiện như vậy, con đều hồi hướng lên Vô thượng Bồ-đề.” Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đều thành Chánh giác với công đức vô tận, rộng lớn như pháp giới, cứu cánh như hư không, cho đến tận cùng vị lai không dừng nghỉ. Giống như trên hư không, mây bao phủ dày đặc và mưa trận mưa lớn. Nếu nước mưa chảy đến những chỗ mặt đất, đá sỏi thì không bao lâu sẽ khô cạn. Nếu mưa một giọt vào biển lớn, nước biển chưa cạn thì giọt nước mưa ấy không mất. Công đức mà Bồ-tát đã tạo cũng vậy; nếu vì riêng mình cầu giải thoát thì giống như nước mưa ở mặt đất, không bao lâu sẽ khô. Nếu vì pháp giới hữu tình mà tu tập nghiệp thiện, vào biển sinh tử Niết-bàn, lấy lòng Từ bi rộng lớn, nguyện độ vô tận chúng sinh thì những điều thiện đã tạo cũng vô tận. Này Từ Thị! Giống như Bồ-tát sống lâu vô cùng, đi về phương Đông trải qua vô lượng câu-chi tam thiên đại thiên thế giới, qua quốc độ của từng loài chúng sinh, Bồ-tát đều hướng dẫn họ đến chỗ đại Niết-bàn an lạc. Chúng sinh được độ trong vô lượng a-tăng-kỳ kiếp như vậy, ta thấy như đất dính trong móng tay, còn những người chưa được độ thì như đất ở mặt đất. Chúng sinh chưa độ ở cõi phương Đông đã như vậy thì nên biết phương Nam, Tây, Bắc, bốn góc, trên dưới cũng vậy. Mặc dù còn vô lượng hữu tình như vậy, nhưng Đại Bồ-tát vẫn không chán bỏ thoái lui, lại siêng năng tinh tấn, không bao giờ dừng nghỉ. Đại Bồ-tát luôn phát tâm rộng lớn như vậy thì không có một pháp nhỏ nào khó tu hành. Tất cả phước trí tôn quý tự tại của Đại Bồ-tát trong ba cõi, không nhọc công sức mà tự nhiên có. Đức Phật dạy Đại Bồ-tát Từ Thị: –Tất cả chúng sinh Hữu học, Vô học, Bích-chi-phật trong quá khứ, hiện tại, vị lai của các thế giới, tất cả vô lượng, vô biên công đức của hữu tình này siêng năng tinh tấn tu tập so với một mảy công đức của Như Lai thì trăm ngàn vạn phần không bằng một phần của Ngài. Như vậy, mỗi chân lông công đức đều do vô lượng công đức của Như Lai sinh ra. Tất cả công đức của hết thảy chân lông trên thân Như Lai cộng lại thành một sợi tóc công đức của Như Lai. Tám vạn bốn ngàn sợi tóc của Đức Phật mà trong mỗi sợi tóc đều đủ chân lông công đức ở trên như vậy mà hợp lại cộng thành một vẻ đẹp công đức của Như Lai. Như vậy, vẻ đẹp có đủ tám mươi loại, trong mỗi vẻ đẹp đều có tóc công đức của Phật như trên, hợp lại tất cả cộng thành công đức của một tướng tốt Như Lai. Các tướng ấy đủ ba mươi hai tướng và đều giống như công đức vẻ đẹp. Như vậy, hợp lại gấp trăm ngàn lần thành công đức tướng lông giữa chặng mày của Như Lai. Tướng ấy tròn đầy, xoay về bên phải, như trái châu pha lê thanh tịnh, để trong đêm tối, giống như sao sáng. Tướng lông ấy duỗi ra đến cõi trời Sắc cứu cánh rồi cuốn lại như cũ ở giữa chặng mày. Tất cả trăm ngàn lần công đức của tướng giữa lông mày thành tướng nhục kế trên đỉnh đầu Như Lai. Công đức ấy không có trời, người nào thấy được. Như vậy, ngàn lần công đức của nhục kế không bằng công đức tiếng Phạm âm của Như Lai. Âm thanh ấy, dưới thấu địa ngục A-tỳ, trên đến cõi trời Sắc cứu cánh. Vô lượng công đức được nói đều do đại Bi Như Lai hóa hiện. Như vậy, hóa thân đều do vô lượng, vô biên công đức hợp lại mà thành, không thể nào so sánh hoặc ví dụ được, và cũng không ai sánh bằng. Vậy thì ngàn lần công đức của hóa thân thành một báo thân Phật. Tất cả trăm ngàn vạn lần công đức của báo thân thành Pháp thân Phật. Tất cả công đức ấy không ai biết được số lượng của nó. Nếu có thiện nam, thiện nữ nào nghe nói vô biên công đức của chư Phật Như Lai mà không kinh nghi sợ sệt thì nên biết rằng người đó đã thành tựu Tinh tấn ba-la-mật-đa. Cho nên hãy phát tâm rộng lớn như vầy: “Công đức thân Phật do vô lượng phước đức tụ lại. Nay ta được chiêm ngưỡng thì cần phải chứng đắc, siêng năng tinh tấn không tiếc thân mạng, vì tất cả chúng sinh mà trải qua vô số kiếp, chịu khổ trong ba đường không hối hận. Ta luôn làm cho họ đầy đủ viên mãn sáu pháp Ba-la-mật, chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.” Phật dạy Bồ-tát Từ Thị: –Này thiện nam! Nên quán thật kỹ về trí tuệ của Phật. Ông hãy lắng nghe, ta sẽ vì ông mà nói: giống như trong hàng Thanh văn thì Xá-lợi-phất là người có trí tuệ đệ nhất. Thiệm-bộ châu này phía Bắc rộng, phía Nam hẹp, giống như thùng xe, chu vi bảy ngàn du-thiện-na. Địa hình của Đông Thắng thần châu như nửa mặt trăng, chu vi tám ngàn du-thiện-na. Địa hình của Tây Ngưu hóa châu tròn như trăng rằm, chu vi chín ngàn du-thiện-na. Địa hình của Bắc Cu-lô châu như hình vuông, chu vi mười ngàn du-thiện-na. Bốn phía núi Diệu cao chìm xuống nước tám vạn du-thiện-na. Do bốn báu hợp thành nên núi cao khỏi mặt nước cũng tám vạn du-thiện-na, chu vi của núi cũng tám vạn du-thiện-na. Bên ngoài núi có bảy lớp núi bằng vàng, xung quanh có tám biển lớn. Ngoài cùng là núi Đại thiết vi. Như vậy, lấy bốn châu và các núi dùng làm giấy, lấy nước tám biển làm mực, lấy tất cả cây cỏ làm bút, tất cả trời, người cùng nhau viết trong một đại kiếp, nhưng so với trí tuệ của Xá-lợi-phất, trong mười sáu phần không bằng một phần. Tất cả trí tuệ của chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới này bằng trí tuệ của Xá-lợi-phất. Tất cả trí tuệ của Đại Bồ-tát thông đạt Bố thí ba-la-mật-đa hơn gấp trăm ngàn lần so với trí tuệ của tất cả chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới. Lại nữa, chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới đủ trí tuệ về Bố thí ba-la-mật-đa không bằng một phần trí tuệ của Đại Bồ-tát đắc Trì giới ba-la-mật-đa, cho đến Trí tuệ ba-la-mật-đa. Tất cả chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới đủ trí tuệ sáu pháp Ba-la-mật-đa không bằng trí tuệ của một Đại Bồ-tát chứng Sơ địa, cho đến trí tuệ của Thập địa Đại Bồ-tát chứng đắc. Cứ như vậy mà lần lượt tăng dần. Trí tuệ mà Thập địa Bồ-tát chứng đắc so với trí tuệ của Đại Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ Từ Thị, trong trăm ngàn phần không bằng một phần. Nghe Đức Phật nói xong, Đại Bồ-tát Từ Thị suy nghó: “Hôm nay giữa đại chúng, Như Lai khen ngợi mình như vậy thật là run sợ.” Đức Thế Tôn dạy Đại Bồ-tát Từ Thị: –Này thiện nam! Ông hãy lắng nghe. Trí tuệ của tất cả chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới bằng trí tuệ của Từ Thị không khác. Như vậy, trí tuệ của tất cả Đại Bồ-tát ở đạo tràng ngồi dưới cội Bồ-đề chiến thắng quân ma, sắp thành Chánh giác thì tất cả trí tuệ ấy đối với trí tuệ của Phật Như Lai chứng đắc trăm ngàn vạn phần không bằng một phần. Từ Thị nên biết! Trí tuệ của Như Lai thậm thâm vô lượng không thể nghó bàn, không thể ví dụ, so sánh được. Nếu Đại Bồ-tát nghe trí tuệ thậm thâm của chư Phật không kinh nghi sợ sệt, lại thêm tinh tấn, sẽ thành tựu Ba-la-mật-đa. Một việc thiện nhỏ ở đời mà người biếng nhác còn không làm xong, huống gì với việc của đại trí bỉ ngạn chư Như Lai có thể rộng độ tất cả chúng sinh. Này Từ Thị! Có ba loại tinh tấn: 1.Nghe trí tuệ rộng lớn thậm thâm của Như Lai mà tâm không lay động. 2.Có thể thực hành theo hạnh đại Bi của các Đại Bồ-tát ở quá khứ. 3.Với những việc đã tu hành, giả sử gặp khổ nạn, không bao giờ thoái lui. Dùng lực tinh tấn quán sát tất cả cảnh giới hữu tình, phi tình, thế gian và xuất thế gian đều là không. Vì quán thắng nghóa không như vậy, nên thấy không có một chúng sinh nào có tướng khả đắc. Tuy biết là vô tướng nhưng vì chúng sinh trải qua vô số kiếp tu khổ hạnh không từ lao khổ, dùng bốn Nhiếp pháp: Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành, Đồng sự để làm lợi ích cho hữu tình. Đem giáo lý ba thừa dạy cho họ được giải thoát, lần lượt đưa họ đến Tối thượng thừa, chứng quả vị không thoái chuyển. Tất cả hạnh nguyện đều được thành tựu, đầy đủ viên mãn Tinh tấn ba-la-mật-đa, được chư Như Lai thọ ký riêng, sẽ chứng Vô đẳng đẳng Vô thượng Bồ-đề. Giống như trăng đêm mười bốn dần dần tròn trịa; Bồ-tát cũng vậy, đối với Phật Bồ-đề, dần dần viên mãn chứng đắc Vô công dụng hạnh, tự nhiên đạt được mười loại thù thắng: 1.Không do nghe học tập Chánh pháp chư Phật nhưng tất cả đều được hiện tiền, có thể tuyên nói pháp vi diệu cho hữu tình. 2.Lực không thể nghó bàn tự nhiên phát thệ nguyện kiên cố, khiến cho tất cả chúng sinh phát tâm Bồ-đề. 3.Thân, khẩu, ý nghiệp tự tại, nguyện gì được nấy, không bị chướng ngại. 4.Có thể tự do biến hóa tất cả thần thông tùy tâm tự tại không bị chướng ngại. 5.Có thể làm những việc thù diệu chưa từng có, tất cả đều được tự tại. 6.Được sống tự tại, tùy theo căn cơ chúng sinh trong năm đường mà làm cho họ được lợi ích. 7.Có kho báu, tùy theo cuộc sống của chúng sinh mà chu cấp đầy đủ. 8.Làm thầy của tâm, không để tâm làm thầy. Không hung hăng, như voi được điều phục. 9.Tự nhiên giác ngộ, sinh tử, Niết-bàn, cả hai đều bình đẳng không do thầy răn dạy. 10.Được trí Vô thượng, làm lợi lạc cho hữu tình, cứu vớt hết ra khỏi sinh tử để an ổn nơi đường chân chánh Niết-bàn, cứu cánh Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Lại nữa, người tinh tấn nói các tai họa trong sinh tử là để hiển bày vô lượng công đức đại Niết-bàn, đại Bi và Bát-nhã luôn như đôi cánh không thể thiếu một. Do đây mà không trụ vào sinh tử, Niết-bàn, làm lợi lạc hữu tình cho đến cùng tận đời vị lai. Đó là Tinh tấn ba-la-mật-đa. Người tinh tấn nghe Chánh pháp tổng trì tự tại, nhờ sức tinh tấn mà thân không bệnh đau, với tất cả oán thù đều đem lòng Từ bi để đối xử với nhau. Tỳ-na-dạ-ca có làm chướng ngại cũng không thể được. Bồ-tát nói pháp, tất cả chúng sinh đều chấp nhận. Người tinh tấn được tất cả chư Thiên cung kính, yêu mến, gặp ách nạn được tất cả thiện thần ủng hộ. Người tinh tấn bố thí ít nhưng có thể viên mãn Bố thí ba-la-mật-đa. Người tinh tấn giữ gìn giới thanh tịnh, không biếng nhác, mau thành tựu viên mãn Trì giới ba-la-mật-đa. Người tinh tấn lòng nhẫn nhục, coi oán thân như nhau, không có hai tâm, mau thành tựu viên mãn Nhẫn nhục ba-la-mật-đa. Người tinh tấn dũng mãnh không thoái lui, khoác giáp tinh tấn đại Từ, đại Bi không bao giờ lìa xa, mau thành tựu viên mãn Tinh tấn ba-la-mật-đa. Người tinh tấn siêng năng thiền định, an trụ trong chánh định không lay động, mau thành tựu viên mãn Thiền định ba-la-mật-đa. Người tinh tấn đa văn trí tuệ, đọc tụng không mỏi mệt, không dừng nghỉ, mau thành tựu viên mãn Trí tuệ ba-la-mật-đa. Nhưng biển lớn sâu xa của Bát-nhã ba-la-mật này đối với tất cả Thanh văn, Độc giác và các vị Bồ-tát không cách nào suy lường được, chỉ có Tinh tấn ba-la-mật-đa mới có thể biết rốt ráo mà thôi. Người tinh tấn ngày đêm làm tăng trưởng vô lượng công đức, như hoa sen xanh mọc trong bùn nhơ, ngày đêm phát triển dần dần lên khỏi mặt nước. Khi hoa nở, hương thơm ngào ngạt, ai cũng đều thích, lấy làm vòng hoa đặt trên đỉnh Phật. Tất cả Trời, Ma, Phạm, Quốc vương, Đại thần, Trưởng giả, Cư só, Nhân dân đều ưa thích. Người tinh tấn cũng vậy, trong bùn dơ sinh tử sinh chồi Bồ-tát, ra khỏi kiến chấp của Nhị thừa, mở bày tướng chân thật, làm sáng tỏ hạt giống Bồ-đề, trí tuệ khai mở, mùi hương thơm phức bay khắp cả mười phương, làm lợi ích cho trời, người. Giống như hoa sen xanh, ai thấy cũng ưa thích. Đó gọi là Tinh tấn ba-la-mật-đa. Còn người biếng nhác giống như cái chày và cái cối. Cối: tự mình không sử dụng được nên ngày càng bị hư hoại. Chày: không thể tự đứng một mình nên bị vứt bỏ nằm lăn trên đất, không thể dùng được nữa nên bị đốt. Người biếng nhác cũng vậy: Không tự mình sách tấn thì khiến cho sắc lực ngày càng giảm sút. Không thể lo lắng, sửa sang gia nghiệp, luôn nằm ngủ nghỉ. Đến khi qua đời đọa trong địa ngục lửa, bị khổ não thiêu đốt. Người tinh tấn giống như cây như ý, làm chỗ nương tựa cho chúng sinh giữa đồng hoang sinh tử, làm thức ăn uống cho người đói khát, làm quần áo cho người trần truồng, cho đến đưa họ qua khỏi chỗ hiểm nạn sinh tử. Hết cả đời này cũng không để họ thiếu thốn, khiến cho tất cả chúng sinh đều được an vui hạnh phúc. Nhờ lực tinh tấn nên mau thành tựu Vô thượng Bồ-đề. Khi Đức Thế Tôn nói Tinh tấn ba-la-mật-đa xong, trong hội có bảy mươi tám câu-chi na-do-tha người, trời phát tâm Vô thượng Bồ-đề; ba vạn hai ngàn Đại Bồ-tát đắc Vô sinh pháp nhẫn. Phật dạy Từ Thị: –Đây là Tinh tấn ba-la-mật-đa. Kinh Đại thừa Lý Thú Lục Ba-la-mật-đa <卷 id="82881928">Quyển 8 <詞 id="82881929">Phẩm 9: Thiền Định Ba-la-mật-đa (Phần 1) Lúc ấy, Đức Thế Tôn ngồi tòa Sư tử vương, được trang sức bằng các loại châu báu ma-ni, có vô lượng vô số chúng Đại Bồ-tát vây quanh. Các vị Bồ-tát ấy hiện thân trời thì có chúng trời vây quanh, hiện thân rồng thì có chúng rồng vây quanh, cho đến hiện thân phi nhân thì có chúng phi nhân vây quanh, hiện thân Bồ-tát thì có chúng Bồ-tát vây quanh, ánh sáng rực rỡ chiếu khắp cả đại hội không một chỗ nào mà không có. Đại Bồ-tát Từ Thị đứng dậy, trịch áo bày vai phải, quỳ gối chắp tay cung kính thưa: –Bạch Đại Thánh Thế Tôn! Thế Tôn đã đem đại Từ, đại Bi làm lợi ích an lạc cho chúng Bồ-tát nên đã nói Tinh tấn ba-la-mật-đa. Cúi xin Ngài rủ lòng thương xót tuyên nói Thiền định ba-la-mật-đa để các hữu tình phát sinh hạnh Đại thừa, phải tư duy thế nào và tu tập như thế nào để Thiền định ba-la-mật được viên mãn? Chúng con rất muốn được nghe, cúi xin Ngài hãy tuyên nói. Đức Thế Tôn dạy Đại Bồ-tát Từ Thị: –Lành thay, lành thay! Này thiện nam! Nay ông hỏi về nghóa thâm sâu như vậy là để làm an lạc lợi ích cho tất cả chúng sinh. Ông hãy lắng nghe cho rõ, suy nghó thật kỹ, ta sẽ vì ông mà phân biệt giải nói. Thiện nam, thiện nữ nào phát tâm Vô thượng Bồ-đề thì nên suy nghó thật kỹ như vầy: Phật đạo rất thâm sâu, không ai có thể đạt đến được, chỉ có một pháp làm lợi cho hữu tình, đó là Chánh định. Bồ-tát nào chưa đạt được định này thì tâm chưa được thanh tịnh bất động, chưa thấy sinh tử và Niết-bàn không có hai tướng. Do nghóa này, nên độ chúng sinh dùng phương tiện khéo léo và tinh tấn tu tập tương ứng với thiền định vô tướng chánh trí, giống như hư không thanh tịnh, không dơ cấu, thường trụ bất biến. Lại quán định này giống như trăng rằm, tất cả vọng tưởng như mây nổi, chánh định này như gió mát xua tan tất cả mây che trên hư không, làm xán lạn thanh tịnh, ánh sáng chiếu rực rỡ khắp cả mọi nơi, tất cả hữu tình nhìn thấy đều vui mừng. Ánh sáng của trăng rằm trang nghiêm, đem đến mát mẻ, vui thích cho chúng sinh. Gió mát thiền định xua tan mây vọng tưởng che tánh không, để cho trăng rằm chánh định xuất hiện ở thế gian. Ánh sáng đại Bi có thể diệt trừ các phiền não nóng bức cho hữu tình để được thanh tịnh Niết-bàn an lạc. Đức Thế Tôn nói kệ: Thiền định sinh trí tuệ Trí tuệ lại sinh định Quả Phật đại Bồ-đề Định tuệ là căn bản. Cúng dường, đọc tụng, trì Thí, Giới và Nhẫn nhục Chánh trí thấy không hai Không hai sao thể đắc. Thiền định là bạn thân Không bao giờ rời nhau Các pháp trong thế gian Chết rồi đều rời bỏ. Đời sau không bạn lành Cha mẹ không cứu được Huống gì quyến thuộc khác Chỉ thiền định cứu được. Khi xả bỏ thân này Như quăng bỏ đất, gỗ Thân thuộc đều rời xa Chỉ thiền định đi bên. Thân này là vô thường Tán loạn tạo nghiệp ác Nếu không tu thiền định Chết đọa ba đường ác. Như người làm việc nhà Xong việc liền đi nghỉ Như trâu lúc dẫm lúa Bị đánh vẫn cứ nhai Như mù về nhà cũ Đã quen không lạc đường Ai thích tu chánh định Phải về nhà không tịch. Tâm chúng sinh vọng khởi Mắt nhặm thấy không hoa Chỉ định tuệ chữa hết Chư Phật nói như vầy: Tâm chúng sinh tháo động Như vòng lửa xoay tròn Nếu muốn nó dừng lại Chỉ phải tu thiền định. Nếu ở trong một niệm Tu thiền, tâm bất động Như người gặp giặc cướp Khó bảo toàn thân mạng. Bỏ định, tu nghiệp khác Chỉ được quả báo lớn Như thuốc pha chất độc Người trí không nên uống. Tài sản như bụi dơ Sắc đẹp sẽ trôi nhanh Không siêng năng tu định Khó mở cửa cam lồ. Như củi bị lửa đốt Già trẻ bị bức bách Ngu si không tu thiền Bị ái dục làm hại. Bị vô thường tiêu diệt Đều do tham năm dục Bỏ thiền định không tu Làm sao được thường trú. Như người nấu ít gạo Tiếc củi đốt chiên-đàn Bỏ định không chịu tu Tán loạn cũng như vậy. Người ngu ham ngủ nghỉ Luân hồi biển sinh tử Như trâu thích đuôi mình Tham tiếc mất thân mạng. Khi Luân vương qua đời Bảy báu đều phân tán Đại thần và hậu phi Không người nào đi theo, Chỉ có tu thiền định Theo bên mình không rời Người có trí tu hành Ắt đến bờ Niết-bàn. Này Từ Thị! Đại Bồ-tát muốn tu tập Thiền định ba-la-mật-đa, trước tiên phải gần gũi Đại Thiện tri thức, lánh xa bạn ác. Những điều ác và tiếng xấu ở đời đều do bạn ác gây ra. Các điều lành và tiếng khen phước đức đều nhờ bạn lành mà có. Nương vào bạn lành giữ gìn giới thanh tịnh để trang nghiêm pháp thân. Người phá giới như rang lúa giống, làm cho tất cả pháp lành không sao mọc được, huống gì tăng trưởng định sâu vô lậu. Biết vậy rồi nên nhất tâm giữ gìn giới thanh tịnh, cho đến một tội nhỏ cũng phải lo sợ. Thà tan thân nát thịt cũng không phá hủy giới cấm, như trong phần Giới ba-la-mật-đa đã phân biệt rõ ràng. Đại Bồ-tát muốn tu Thiền định ba-la-mật-đa nên lìa bỏ tất cả mưu sinh buôn bán, trồng trọt. Vì sao? Vì nếu không lìa bỏ thì chính nó làm rối loạn tâm trí ta, lúc đó ta làm sao an trụ trong thiền định thâm sâu được. Do đó, Đại Bồ-tát trong bốn oai nghi luôn khéo nhiếp tâm diệt trừ vọng tưởng, nếu có nghe tiếng ồn cũng không loạn động. Ví như bắt rắn độc bỏ vào trong ống trúc thì thân nó tự thẳng ra, Bồ-tát cũng vậy, vọng tưởng uốn cong nếu bỏ trong thiền định thì sẽ được chánh kiến chân chánh, không trụ vào sinh tử, không nhập vào Niết-bàn, lìa xa các tà vạy. Nếu khéo nhiếp sáu căn như vậy, không để cho nó buông lung thì mắt tuy thấy sắc nhưng không nắm lấy tướng, an trụ trong thiền định giải thoát. Tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng đều như vậy, luôn dùng chánh trí quán sát và tư duy. Những căn lành do ba nghiệp tạo ra đều vì tự lợi và lợi tha, vì lợi ích cho hiện tại và vị lai. Nếu không có những việc lợi ích như vậy thì Bồ-tát quán sát nhất định không làm. Như ở thế gian dựng tượng đá, thân, miệng, ý nghiệp bất động cũng vậy, nếu bị người sân mắng chửi nên sinh lòng từ bi, hoặc bị xâm đoạt lợi dưỡng thì không nên tức giận, bị đánh mắng thì nên bỏ đi, tìm chỗ thanh vắng không có hoạn nạn, ngồi kiết già giữ chánh niệm và quán sát, lấy tâm đại Bi làm nhà cửa, lấy trí tuệ làm trống, lấy giác ngộ làm dùi đánh, nói với các phiền não rằng: “Này các giặc phiền não nên biết rằng, các người do vọng tưởng mà sinh ra, nhà pháp thân của ta để làm việc thiện, đó chẳng phải là việc làm của các người. Các người hãy mau cút khỏi, nếu không ta sẽ lấy mạng đó.” Nói như vậy rồi thì các phiền não liền tự thoái lui và tan biến. Tiếp đến, tự thân phải đề phòng, canh giữ một cách khéo léo, không để buông lung, lấy chân ngôn đại Bi làm cho sở cầu các hữu tình được toại nguyện, lấy tuệ phương tiện làm đại tướng, dùng bốn Niệm xứ để thủ hộ, đem tâm vương bản giác trụ trong cung điện thiền định Đệ nhất nghóa, an ổn bất động như Kim cang, lấy kiếm trí tuệ chặt đứt giặc phiền não, phá quân sinh tử, chiến thắng quân ma, gánh vác tất cả để chúng sinh được giải thoát. Khi ấy, Bồ-tát nói với tâm của mình rằng: “Khi xưa ngươi đã phát thệ nguyện rồi, bây giờ phải cố gắng để nó viên mãn. Như Lai quá khứ đã thọ ký cho ngươi sẽ chứng Bồ-đề, độ khắp tất cả. Lúc đó, đứng trước chư Phật mười phương, Hiền thánh trong ba thừa, ngươi đã thệ nguyện cứu vớt tất cả chúng sinh trong năm đường được giải thoát. Nay hữu tình không có chỗ dựa, không nơi nương cậy, không người cứu giúp, không chỗ quay về, nếu ngươi nhập Niết-bàn, bỏ sinh tử thì trái với lời nguyện xưa. Ở thế gian, nhà Nho hành trung tín không nói hai lời, huống gì xưa kia ngươi đã nguyện rồi mà nay không y theo đó để làm. Ngươi hãy giữ chánh niệm, nhất tâm bất động để cứu vớt hữu tình ra khỏi ngục sinh tử, đặt an ổn nơi Vô thượng đại Bát-niết-bàn.” Suy nghó như vậy rồi, trụ vào thiền định thâm sâu của Đại thừa. Đó là Đại Bồ-tát tu tập Thiền định ba-la-mật-đa. Đức Phật dạy Từ Thị: Có mười sáu loại Thiền định ba-la-mật-đa mà tất cả Thanh văn, Độc giác không thể biết được: 1.Thông suốt sinh tử mà không bị sinh tử là thiền định của Bồ-tát an trụ trong thiền thanh tịnh của Như Lai. 2.Không tham đắm mùi vị của thiền định, là thiền định của Bồ-tát không trụ vào các định loạn tướng. 3.Có lòng đại Bi, là thiền định của Bồ-tát diệt trừ những chướng nạn của hữu tình. 4.Làm tăng trưởng chánh định là thiền định của Bồ-tát vì thấy rõ ba cõi mà không như ba cõi. 5.Thành tựu thần thông là thiền định của Bồ-tát hiểu rõ các tâm hành của hữu tình. 6.Khéo điều phục tâm là thiền định của Bồ-tát không trụ vào pháp điều phục hay không điều phục. 7.Nương vào trí vô tướng mà được giải thoát thanh tịnh, vượt các thiền định khác, đó là thiền định của Bồ-tát đối với Sắc giới và Vô sắc giới đều được tự tại. 8.Tịch tónh, tối tịch tónh là thiền định của Bồ-tát thù thắng hơn các thiền định của Thanh văn, Độc giác. 9.Không ai có thể làm nhiễu loạn được là thiền định của Bồ-tát hiểu rõ tâm thanh tịnh vốn không lay động. 10.Đối trị với sự phá hủy giới cấm là thiền định của Bồ-tát trừ những tập khí phiền não của chúng sinh. 11.Vào cửa trí tuệ là thiền định của Bồ-tát thông đạt hoàn toàn thế gian như huyễn mộng. 12.Biết tâm chúng sinh là thiền định của Bồ-tát hiểu rõ các hữu tình vốn tánh không. 13.Kế thừa Tam bảo là thiền định của Bồ-tát thấy Như Lai xuất hiện ở thế gian. 14.Được pháp tự tại là thiền định của Bồ-tát hiểu rõ tất cả pháp đều là Phật pháp. 15.Thường trụ không hoại là thiền định của Bồ-tát thị hiện khắp nơi, luôn luôn tịch tónh. 16.Chiếu khắp tất cả là thiền định của Bồ-tát thấy pháp giới bình đẳng. Từ Thị nên biết! Đó là mười sáu loại Thiền định ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát mà Thanh văn, Độc giác không thể có. Đối với chánh định thù thắng này, Đại Bồ-tát nên phát khởi như vậy. Như người cần lửa, lấy cây làm mồi, tay cầm hai thanh gỗ luôn làm cho cọ xát mãi mới phát lửa, nếu cứ dừng nghỉ thì khó được lửa. Đại Bồ-tát cũng vậy, tìm lửa Chủng trí thì lấy định làm mồi, tay nhẫn nhục kiên trì siêng năng không dừng nghỉ mới có thể sinh lửa Nhất thiết trí. Lửa ấy sinh rồi sẽ thiêu đốt củi phiền não, khi ấy lấy nước bố thí tắm rửa cho sạch sẽ, lấy hương thơm trì giới xoa thân thể, ngồi tòa đại Bi, nhận ngôi vị Pháp vương, mưa pháp vũ lớn để làm lợi lạc hữu tình, đạt đến Đại Niết-bàn an lạc giải thoát. Này Từ Thị! Tâm các Đại Bồ-tát chưa thuần thục nên trong chánh định bị lay động, giống như ngựa dữ khó điều phục. Nên biết người đó đã thoái lui, làm mất thiền định, cho nên trong bốn oai nghi luôn ở trong chánh định thù thắng ấy, không buông bỏ một thời gian ngắn nào. Bồ-tát có ba loại tâm: 1.Biếng nhác. 2.Tinh tấn. 3.Không biếng nhác, không tinh tấn. Biết vậy rồi, Bồ-tát khéo điều phục tâm và càng tinh tấn để trừ giải đãi biếng nhác, tham ngủ và duyên sự mưu sinh gian nan ở đời. Nếu lìa bỏ siêng năng, biếng nhác đó thì tâm chánh trực, tròn đầy vắng lặng giống như người đi xa, mau quá thì sẽ mệt, còn chậm quá thì không đến. Trung dung giữa sự nhanh và chậm thì tuần tự sẽ tới nơi. Đại Bồ-tát cũng vậy, nên lấy Trung đạo để an định tâm mình, giả như thân bị lửa đốt cũng an trú bất động, trụ trong chánh định mà không đắm trước mùi vị của định. Dùng sức đại trí thường trụ trong tịch tónh, cứu vớt chúng sinh ra khỏi biển sinh tử để được giải thoát. Phải dùng mười sáu món định ấn ký riêng vào tâm, nếu trong một sát-na có chút động niệm nào, nên dùng móc câu chánh trí để quán sát, kềm chế dừng lại, trụ trong tinh tấn không dừng nghỉ mà tu hành Thiền định ba-la-mật-đa. Này Từ Thị! Đại Bồ-tát tu tập thiền định có năm chướng ngại làm ngăn che tất cả hữu tình: 1.Tham dục. 2.Sân nhuế. 3.Trạo hối. 4.Hôn trầm. 5.Nghi hoặc. Phải đoạn trừ năm ngăn che này mới thiền định được, làm cho thân tâm không lay động. Cho nên Bồ-tát phải quán sát nó do đâu mà khởi? Làm sao để xa lìa nó? Trước tiên, Đại Bồ-tát nên quán sát sắc dục giống như trăng dưới nước, hễ nước động thì trăng động, tâm sinh thì pháp cũng sinh. Tâm tham dục cũng vậy, mỗi niệm mỗi niệm không đứng yên, sinh đó diệt đó. Lại quán sắc dục như mãng xà ở trong đồng hoang khi độc sân nổi lên đầu nó phùng ra như cái lộng. Người đi đường nóng bức nên lao vào núp dưới lộng, bị tiếp xúc với khí độc của nó đưa đến mất mạng. Người tham dục cũng vậy, đi trong đồng hoang sinh tử, vọng thấy cảnh dục liền sinh lòng đắm nhiễm. Dục tưởng vừa khởi lên liền làm tan mất thiền định. Đó gọi là bị tham dục che phủ. Lại quán tánh dục giống như lửa địa ngục thiêu đốt hữu tình, như thác nước chảy nhận chìm tất cả, không có chút Từ bi. Giống như La-sát làm não hại hữu tình, cũng như ngục tốt làm thương tổn tay chân người, như đao bén, như đồ tể đoạn mạng chúng sinh, như xúc chạm vào thuốc độc phải mạng chung, như từ núi cao rơi xuống vực sâu, bị khổ não lớn, như trong đêm tối tăm không thấy gì cả, như bệnh cùi hủi không thể trị liệu, như biển lớn khó mà khô cạn. Tham dục sâu rộng quá hơn biển lớn, năm dục to nặng hơn núi Diệu cao, giống như trái Khẩn-ba tươi tốt rất muốn nhìn, nhưng nếu chạm vào nó thì sẽ chết ngay. Như con dê bị treo trên cột, chắc chắn sẽ chết, như đội mão bằng vàng nóng đỏ, bị nó thiêu đốt đến chết. Như ở quá khứ, Chuyển luân vương, Thích Đề-hoàn Nhân, Tứ Đại thiên vương… các trời lực só Na-la-diên, tất cả hữu tình đều do tham dục mà khởi binh đánh nhau, xương cốt chất như núi Tỳ-phú-la. Quá khứ đã như vậy thì hiện tại, vị lai cũng thế. Người thế gian đối với thân thuộc, cha mẹ, anh em rất thương yêu nhau, dù bỏ thân mạng cũng không tiếc, nhưng vì tham dục mà oán ghét lẫn nhau, tạo nên tâm độc ác rồi giết hại nhau. Người tham sắc có hai nguyên nhân đau khổ: 1.Giàu sang vì tham sắc dục mà chịu hèn hạ, đủ mọi sự khinh khi. 2.Bị dao tham dục móc mắt trí tuệ, không thể nào phân biệt được, giống như người mù. Vì nhân duyên này mà chết đọa vào địa ngục, chịu vô lượng khổ. Lại nữa, người tham dục lòng không biết nhàm chán, giống như lửa được thêm củi, như vua chúa tham đất đai, như chủ buôn tham tài lợi, như cầu tuệ giải mà tham nghe pháp, như các vị Bồ-tát thích độ chúng sinh. Với những việc ấy, những người này làm tròn không biết nhàm chán. Người tham dục cũng vậy, không biết nhàm chán, cứ tìm cầu cảnh dục trong buồn khổ gian nan. Khi được rồi thì ôm chặt, làm cho khổ tăng gấp trăm lần, sau khi chết đọa vào địa ngục chịu khổ kịch liệt. Người cầu thiền định không bao giờ tưởng nhớ đến oan gia sắc dục, huống gì gần gũi nó. Đó gọi là bị tham dục che phủ. Người bị sân hận che lấp giống như người say rượu, lúc uống vào thì sắc mặt biến đổi. Sân giận cũng vậy, làm cho nhan sắc biến đổi, thân tâm run rẩy; hoặc đi hủy báng, não hại người khác; hoặc lửa sân thiêu đốt tâm thì làm sao tu tập thiền định. Giặc chém công đức chẳng qua là sân hận nên ai muốn tu tập thiền định phải nên tránh xa nó. Người bị trạo hối che lấp giống như người điên, thân tâm tán loạn, hoặc nhờ vào bà con làng xóm sống qua ngày, vọng khởi tìm cầu những việc khổ vui, nhớ lại những việc thiện ác đã làm, xao động như vậy không thể nào yên tịnh, nó che lấp hành xả, làm chướng ngại chánh định. Như vậy gọi là bị trạo hối che phủ. Người bị hôn trầm che chướng thì dã dượi, mỏi mệt, nhăn mặt nhíu mày, hôn ám, không làm gì được. Nó che lấp sự khinh an, làm chướng ngại quán tuệ. Người tu thiền định nên trừ bỏ nó. Đó gọi là bị hôn trầm che phủ. Người bị nghi ngờ che lấp thì thường hoài nghi, mê mờ, đối với sự, lý không xác định được, làm chướng ngại Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ, nhân quả ba đời, làm cho tánh tướng của Tam bảo không được hiển hiện, như vậy làm sao có thiền định vi diệu. Đó gọi là bị nghi ngờ che phủ. Do năm sự che lấp này mà học hành khó thành tựu, Giới, Định, Tuệ không thể hiển bày. Biết như vậy nên tư duy thật kỹ. Người tu tập thiền định nên tránh xa nó, phải tinh tấn tu tập mới có thể diệt trừ khổ dục, đạt được thiền định thâm sâu mà không chấp trước, nhờ thiền định này mà chứng năm trí chứng thông, đó là: Thiên nhãn trí chứng thông, Thiên nhó trí chứng thông, Tha tâm trí chứng thông, Túc trú trí chứng thông, Thần cảnh trí chứng thông. Thế nào là Thiên nhãn trí chứng thông? Nghóa là nhờ năng lực của Thiên nhãn mà thấu triệt vô lượng, vô biên thế giới chư Phật trong mười phương. Thấy tất cả các loài chúng sinh như: noãn sinh, thai sinh, thấp sinh, hóa sinh, loài có sắc, không sắc, có tưởng, không tưởng, không có tưởng, chẳng phải không tưởng… như xem trái xoài trong lòng bàn tay. Các hữu tình đó đều bị các khổ trói buộc. Quán vậy rồi Bồ-tát khởi tâm đại Bi: Những hữu tình này rơi trong biển sinh tử, nơi hầm lớn phân dơ, nay ta vì sao buông bỏ họ, không chịu cứu? Do đó càng thêm tinh tấn, thân tâm không mỏi mệt liền phát khởi niệm Phật Tam-muội, nhờ dùng năng lực của định nên thấy tất cả chư Phật trong mười phương đầy khắp hư không, ngồi tòa Kim cang thành Đẳng chánh giác. Hoặc thấy chư Phật bắt đầu chuyển pháp luân hoặc thấy chư Phật đến ở Thiên cung, hoặc thấy Như Lai từ bảo tòa bước xuống, hoặc thấy Như Lai vào xóm khất thực, hoặc thấy Như Lai tùy căn cơ mà nói pháp, hoặc Ứng thân nói pháp cho quốc vương, đại thần, trưởng giả, Bà-la-môn; hoặc Ứng thân nói pháp cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Cận sự nam, Cận sự nữ; hoặc Ứng thân nói pháp cho Trời, Rồng, Dạ-xoa, A-tu-la, Càn-thát-bà, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân; hoặc ứng thân nói pháp cho ngạ quỷ, Tỳ-xá-xà, Cưu-bàn-trà, Bổ-đát-na-ca-sất, Bổ-đát-na, vua Diêm-ma-la, ngạ quỷ, bàng sinh… tất cả đều tùy theo âm thanh của mỗi loài, nên mỗi loài, mỗi cõi đều nói: “Như Lai vì mình mà thuyết pháp”, làm cho tất cả đều được hiểu rõ và vui mừng khôn xiết. Hoặc thấy chư Phật nói sáu Độ cho hàng Bồ-tát, hoặc nói mười hai nhân duyên cho hàng Duyên giác, nói pháp bốn Đế cho Thanh văn, hoặc khuyên hữu tình sống trong mười điều thiện. Hoặc thấy chư Phật hiện thân Phạm vương để nói pháp, hoặc hiện thân Đế Thích để nói pháp, hoặc hiện thân Hộ thế Tứ Thiên vương để nói pháp, hoặc hiện thân Đại Tự tại thiên, Na-la-diên thiên, Nhật Thiên tử, Nguyệt Thiên tử, Rồng, Dạ-xoa, chư Tiên, Bà-la-môn… để nói pháp. Hoặc hiện thân Chuyển luân vương, thân quốc vương, tể tướng, nam nữ, Hòa thượng, A-xà-lê và chư Phật cùng đệ tử để nói pháp. Hoặc hiện thân trong loài địa ngục, ngạ quỷ, bàng sinh để nói pháp. Tất cả nghe xong liền xa lìa các khổ nạn và đói khát, không tàn hại lẫn nhau mà đem lòng từ bi đến cho nhau. Hoặc thấy Phật thị hiện nhập Bát-niết-bàn trong rừng Sa-la để nói pháp, hoặc thấy sau khi Phật Niết-bàn phân chia xá-lợi, xây dựng chùa tháp mà hiện ra để nói pháp, khiến chúng sinh đến cúng dường được giải thoát. Chư Phật hiện đủ tướng như vậy đều là cứu chúng sinh vượt ra khỏi sinh, già, bệnh, chết. Các tướng như vậy đầy khắp cõi hư không và vô vàn sự kỳ diệu khác đều là do thần thông tự tại của chư Phật biến hóa, thật là những việc hy hữu. Bồ-tát tuy thấy đủ thần thông biến hóa ấy nhưng chỉ được gọi là Thiên nhãn do Thiền định, chứ không được gọi là Ba-la-mật-đa. Thiên nhãn mà Đại Bồ-tát chứng đắc, vượt hơn Thiên nhãn của tất cả Trời, Rồng, Bát bộ, Hữu học, Vô học, Thanh văn và Độc giác đã chứng đắc. Thiên nhãn của Đại Bồ-tát là tối thượng, tối thắng, tối tôn, tối diệu, rốt ráo minh tịnh, có năng lực lớn. Nhờ Thiên nhãn này mà Đại Bồ-tát thấy vô lượng, vô biên chư Phật, Bồ-tát ở quá khứ đi, đứng, nằm, ngồi, vô vàn oai nghi, vô lượng hạnh môn, thiền định giải thoát, Thập địa diệu trí, môn Đà-la-ni, Vô ngại biện tài, những phương tiện khéo léo đều được viên mãn. Thiên nhãn thanh tịnh của Đại Bồ-tát thấy các màu sắc, hình tượng không bị chướng ngại, không đắm, không nhiễm, không nắm bắt tướng của tất cả màu sắc hình tượng, xa lìa tất cả kiến chấp tùy miên. Nhãn căn đó bản tánh vốn thanh tịnh, không nương tựa vào những cảnh giới. Nhãn căn này không do tất cả tập khí tùy miên phiền não sinh ra, cũng không đắm nhiễm, không mê, không loạn, không bị mê mờ, lại không có sự phân biệt, không bị vướng mắc vào phiền não chướng và sở tri chướng, đối với tất cả các pháp được tự tại. Nhãn căn này có thể thông suốt tất cả pháp bình đẳng, trú vào chân giải thoát. Thiên nhãn này còn biết rõ tất cả căn tánh sai biệt, không thể có tướng hoại diệt, trong một sát-na có thể thấy được tất cả loài hữu tình. Thể tánh của Thiên nhãn này trong sáng thanh tịnh, có thể lìa bỏ tất cả pháp cấu uế hỗn loạn, có thể biết rõ tánh từ bi, không từ bỏ hữu tình, cũng không vướng mắc, không tham lam, không tổn hoại. Thiên nhãn này là cảnh giới thắng nghóa do Chân đế sinh ra mà trí tuệ là người dẫn đường đi đầu, trụ vào đại Bi để thấu hiểu, thông đạt các pháp và những nghóa lý sâu xa, lìa các hý luận. Nói như thật những điều đã thấy, nghe; tránh xa tất cả các pháp bất thiện, tâm hướng đến Vô thượng Bồ-đề không bị chướng ngại, thấy người xan tham khuyên họ bố thí, thấy người hủy phạm giới cấm thì nên thương xót, thấy người sân giận bảo họ nhẫn nhục, thấy người biếng nhác khuyên họ tinh tấn, thấy người tâm tán loạn khuyên họ tu tập thiền định, thấy người ngu si bảo họ học trí tuệ, người đi theo đường phi pháp chỉ họ trở về con đường Chánh pháp, người có tâm Tiểu thừa nên đem Đại thừa dạy họ, để cho tất cả hữu tình nhập Nhất thiết trí, đạt được thần thông, viên mãn Bồ-đề, thành tựu trí Nhất thiết trí. Từ Thị nên biết! Đây gọi là Đại Bồ-tát tu hành Thiền định ba-la-mật-đa, đạt được Thiên nhãn trí thông thanh tịnh. Này Từ Thị! Sao gọi là Đại Bồ-tát tu hành Thiền định ba-la-mật đạt được Thiên nhó trí thông? Nghóa là năng lực Thiên nhó của Đại Bồ-tát chứng đắc thù thắng hơn Thiên nhó của Trời, Rồng, Bát bộ, Thanh văn, Độc giác. Thiên nhó mà Đại Bồ-tát chứng đắc là tối thượng, tối tôn, tối thắng, tối diệu lắng trong cực độ, có năng lực vô cùng lớn mạnh. Vì sao? Vì do công đức này mà hồi hướng lên Vô thượng Bồ-đề. Đại Bồ-tát dùng Thiên nhó này có thể nghe tất cả âm thanh của chư Phật Như Lai, Độc giác, Thanh văn, Trời, Rồng, Bát bộ, Nhân phi nhân, cho đến địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, hữu tình, phi tình… có bao nhiêu loại tâm thì Thiên nhó cũng đều nghe tất cả và nghe âm thanh phát ra của ba nghiệp sai biệt. Bồ-tát như vậy đều biết như thật tất cả. Hễ chúng sinh phát ngôn là đã tạo nhân thiện ác, phát lời tham đắm với tiếng mê hoặc thì Thiên nhó của Bồ-tát cũng biết như thật. Hoặc nói lý lẽ tuy chân chánh mà lời nói thô kệch, hoặc nói lý lẽ tuy bất chánh nhưng lời nói hòa nhã, hoặc cả hai lời nói và lý lẽ đều tốt đẹp, hoặc thô kệch, với Thiên nhó này đều biết như thật. Thiên nhó này có thể nghe tất cả tiếng của phàm, Thánh; ở phàm phu thì không chán, ở Thánh hiền thì không hân hoan. Đối với cảnh giới của Hiền thánh thì tâm yêu thích, còn với cảnh giới phàm phu thì sinh lòng đại Bi. Như vậy tất cả âm thanh chặng trước, giữa và sau, Thiên nhó này đều biết như thật, không sinh chấp trước. Thiên nhó này nghe tiếng khắp tất cả vô lượng, vô biên thế giới trong mười phương. Tất cả âm thanh của chư Phật nói pháp đều biết như thật, tâm không tán loạn, cũng không quên mất, tùy theo căn cơ chúng sinh mà nói pháp, hiểu rõ pháp tánh không, bền chắc, chẳng phải không bền chắc, chẳng hư chẳng thực. Nghe một lời nói Chánh pháp của Như Lai là nghe tất cả pháp môn của vô số chư Phật, tức là trong một lúc đều nghe không lẫn lộn, không loạn động, không chướng ngại nhau, có thể lãnh thọ từng câu văn, từng chương cú, biết như thật về nghóa lý tánh tướng. Lại nghe tiếng của Như Lai, tùy theo âm tiếng của mỗi loài chúng sinh nói pháp để họ thấu rõ tướng chân thật mà được giải thoát, và đem công đức này hồi hướng về Thiên nhó thanh tịnh của Như Lai. Nguyện đời vị lai không nghe tên của Nhị thừa là Thanh văn và Độc giác. Từ Thị nên biết! Đây gọi là Đại Bồ-tát tu hành thiền định mà đạt được Thiên nhó trí thông thanh tịnh. Này Từ Thị! Sao gọi là Đại Bồ-tát có Tha tâm trí thông? Nghóa là Bồ-tát biết tâm của tất cả hữu tình ở quá khứ, hiện tại và vị lai là ác, là thiện hay vô ký. Lại biết những nghiệp nhân quả sai biệt của tất cả hữu tình ở quá khứ, biết tất cả chúng sinh có tâm lớn, tâm nhỏ, tâm không lớn không nhỏ, tâm có tham dục hay không tham dục, tâm dơ cấu hay tâm thanh tịnh, tâm ngu si hay tâm trí tuệ, tâm rộng hay tâm hẹp, tâm định hay tâm loạn, tâm trói buộc hay tâm giải thoát, tâm thắng hay tâm bại, tâm cao thượng hay tâm thấp hèn… Lại biết hữu tình có tâm tương ưng với Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ, Từ, Bi, Hỷ, Xả, có tướng, không tướng và biết tất cả tâm hữu tình tương ưng với Thanh văn, Độc giác, Đại thừa Bồ-tát. Các hữu tình này có đủ căn lành như vậy, hoặc có hữu tình sinh trong quý tộc mà làm việc thấp hèn, hoặc sinh trong dòng thấp hèn mà tánh thanh tịnh, hoặc tâm tánh bất thiện mà làm việc thanh tịnh, hoặc cả hai thanh tịnh, hoặc cả hai bất thiện. Tất cả tâm hành sai khác của hữu tình quá khứ, Bồ-tát đều biết như thật, tùy theo sự thích ứng của họ mà nói pháp. Đây gọi là Tha tâm trí thông, biết rõ tất cả hữu tình ở đời quá khứ. Lại biết rõ hữu tình vị lai, do hiện tại bố thí nên sinh ra nhân tịnh giới cho đời vị lai. Lại biết hữu tình hiện tại trì giới nên sinh ra nhân nhẫn nhục ở đời vị lai. Lại biết hiện tại nhẫn nhục nên sinh nhân tinh tấn đời vị lai. Biết hữu tình hiện tại tinh tấn nên sinh nhân thiền định đời vị lai. Biết hữu tình hiện tại tu tập tướng thiện nên sinh nhân tuệ vô tướng ở đời vị lai. Biết hữu tình hiện tại tu tập điều thiện nhỏ nên sinh nhân Đại thừa đời vị lai. Các tướng trạng nhân duyên của các tâm như vậy, Đại Bồ-tát đều biết như thật, tùy duyên cứu vớt mà tâm không mỏi mệt, đưa các hữu tình vào sâu tuệ Phật không tăng không giảm, nói pháp như vậy không dừng nghỉ. Đối với pháp không bao giờ có tâm keo kiệt. Đây gọi là Tha tâm trí thông của Bồ-tát có biết rõ đời vị lai. Lại biết hữu tình đời hiện tại có tâm tham dục hay không tham dục, tâm có tội lỗi hay không tội lỗi, tâm ngu si hay tâm trí tuệ, tâm rộng hay tâm hẹp, tâm định hay tâm loạn, tâm động hay không động, tâm bị trói buộc hay giải thoát, tâm dơ uế hay không dơ uế, tâm quảng đại hay tâm vô lượng, tâm cao thượng hay hạ liệt… Bồ-tát đều biết như thật. Những hữu tình bị vô lượng phiền não trói buộc, Bồ-tát đều biết như thật. Biết vậy rồi, tùy theo căn cơ thích ứng sai khác mà Bồ-tát nói pháp. Tâm liễu ngộ hay vô tâm, không vướng mắc mình và người, Bồ-tát dùng phương tiện khéo léo, trí tuệ thiền định, biết được rõ ràng căn tánh của chúng sinh lanh lợi hay đần độn để dứt trừ hẳn nguồn gốc phiền não sinh tử, hiểu rõ bản tánh vốn không, tròn đầy không thiếu khuyết, không nhiễm, không vướng, cũng không có lỗi lầm, không cặn đục, không nhơ nhớp, cũng không thô kệch. Biết rõ các pháp như huyễn hóa, biết tâm hành sai biệt của hữu tình. Từ Thị nên biết! Đây gọi là Đại Bồ-tát tu hành Thiền định mà được Tha tâm trí thông thanh tịnh. Này Từ Thị! Sao gọi là Đại Bồ-tát tu hành thiền định mà đạt được Túc trụ tùy niệm trí chứng thông? Nghóa là trụ vào Bất động địa, chứng pháp bình đẳng, hoàn toàn hiểu rõ thật tánh của các pháp, với trí tuệ thanh tịnh an trú vào Xa-ma-tha, Tỳ-bát-xá-na tương ưng Chỉ và Quán, không bao giờ quên mất bất cứ một việc gì. Trí là người dẫn đầu làm cho ba nghiệp được thanh tịnh, được trang nghiêm bằng phước đức và trí tuệ, tự nhiên giác ngộ không nhờ thầy dạy bảo, có thể đạt đến bờ kia Niết-bàn an lạc. Với trí tuệ như vậy, Đại Bồ-tát nhớ tất cả đời trong quá khứ, từ một đời, hai đời, mười, hai mươi đến một kiếp, trăm ngàn vạn na-do-tha kiếp. Trong cả số kiếp ấy, thành hay hoại Bồ-tát đều nhớ biết. Trong những số kiếp đó, Đại Bồ-tát đều nhớ biết rõ ràng hữu tình sinh trong nhà như vậy, cha mẹ như vậy, dòng họ như vậy, tên tuổi như vậy, tướng mạo như vậy, sức lực như vậy, tuổi thọ như vậy và tất cả khổ vui như vậy. Nhớ biết tất cả hữu tình chết đây sinh kia, những loại chủng tộc của thân mình, thân người trong vô lượng đời. Tất cả căn lành cho đến khuyên bảo nhau, Bồ-tát nhớ nghó biết rõ và đem hồi hướng tất cả lên Vô thượng Bồ-đề. Lại quán thân sinh tử trong quá khứ là vô thường, khổ, không, vô ngã, bất tịnh. Biết vậy rồi, đối với các sắc tướng, thọ mạng dài ngắn, phú quý quyền lực, Bồ-tát đều không sinh ngã mạn, không mong cầu quả báo Đế Thích, Phạm thiên, Hộ thế Tứ Thiên vương, trời, người, chỉ đem đại Bi làm lợi lạc cho hữu tình, tùy theo nguyện lực mà thọ sinh. Lại biết những nghiệp ác đã tạo trong vô số kiếp quá khứ nên rất hối hận, trong đời này thà bỏ thân mạng cũng không dám tạo ác nghiệp nữa. Bồ-tát đem tất cả nghiệp lành đã tạo trong vô lượng đời hồi hướng lên Vô thượng Bồ-đề, bố thí khắp cho tất cả hữu tình trong pháp giới mà không cầu quả báo tối thượng trong thế gian, kế thừa Tam bảo cho đến tận cùng vị lai không bao giờ dứt bỏ, không bao giờ dừng nghỉ. Từ Thị nên biết! Đây gọi là Đại Bồ-tát tu hành thiền định mà đạt được Túc trụ trí thông thanh tịnh. Này Từ Thị! Sao gọi là Đại Bồ-tát tu hành Thiền định ba-la-mật-đa đạt được Thần cảnh trí thông làm lợi lạc vô cùng? Nghóa là Bồ-tát trụ trong địa vị Bất động địa chứng được chân tịch tónh, trừ khử đi tất cả lo khổ, tâm tư hỷ lạc, hít vào thở ra… không sinh không diệt, trụ vào chân pháp giới, có thể hiện đủ thần thông biến hóa; hoặc làm thân như đống lửa, phóng ánh sáng lớn khắp cả tam thiên đại thiên thế giới; hoặc trên thân phun nước chảy như mưa lớn, rờ tới mặt trời mặt trăng… oai quang tự tại. Hoặc hiện thân lớn đến trời Phạm thiên, hoặc hiện thân nhỏ như hạt cải, hoặc chấn động đại địa như sóng biển, hoặc một thân mà hiện nhiều thân, hoặc nhiều thân mà hiện thành một thân, hoặc ẩn hoặc hiện nói vô lượng pháp, hoặc vào sâu trong núi đá, hoặc vượt xuyên qua hoặc lên hoặc xuống như điện dẫn ánh sáng, qua lại tự tại, đi ngồi trên không giống như chim bay lượn, hoặc lặn xuống đất như vào nước, đi trên nước như đi trên đất, ẩn hiện tự do không bị chướng ngại. Những thần lực như vậy đều vì làm lợi lạc cho tất cả hữu tình. Lại đem lòng Đại bi Phổ môn mà thị hiện vô số thân: hoặc hiện thân Phật, thân Bồ-tát, thân Thanh văn, thân Độc giác, Đế Thích, Phạm thiên… và nhiều loại thân khác tùy theo căn tánh, tùy theo dục lạc của từng loài, từng cõi mà hiện thân. Hoặc các hữu tình ỷ mình có thế lực mà cống cao, tùy theo chỗ thích ứng của họ mà Bồ-tát hiện thân nói pháp để điều phục họ. Hoặc làm Đế Thích, Phạm thiên, Hộ thế Tứ Thiên vương, Đại lực só Na-la-diên… vì muốn chiến thắng họ nên bưng núi Diệu cao quăng bỏ nơi vô lượng thế giới khác, giống như ném trái xoài về lại chỗ cũ, mà các trời, người không biết mình có tướng qua lại và thần lực của Bồ-tát cũng không bị giảm tổn. Lại trong tam thiên đại thiên thế giới, trên đến cõi trời Sắc cứu cánh, dưới đến Thủy cung, Bồ-tát dùng tay phải nắm thế giới này trải qua một kiếp, dù đi, đứng, nằm, ngồi cũng không bị chướng ngại. Sau đó để lại chỗ cũ, nhưng các hữu tình thuộc loài thủy tộc không bị tổn hại, tất cả đều không biết mình có tướng qua lại. Bồ-tát thị hiện có thần thông tự tại như vậy khiến cho các hữu tình có tâm kiêu mạn đều được điều phục để nghe pháp. Bồ-tát dùng sức thần thông, tùy theo ý muốn của mình mà được tự tại, giống như bảo châu như ý, cầu gì được nấy, hoặc biến biển lớn thành dấu chân trâu, hoặc biến dấu chân trâu thành biển lớn, hoặc hiện hỏa tai lên đến Sơ thiền, hoặc hiện thủy tai lên đến Nhị thiền, hoặc hiện phong tai lên đến Tam thiền, hoặc biến nước thành lửa, biến lửa thành nước. Dùng đủ mọi cách thượng, trung, hạ tùy ý biến hóa đều được tự tại, không ai có thể chuyển động được. Ngoài Phật Thế Tôn, không ai có thể phá hoại. Bồ-tát dùng thần thông biến hóa rộng lớn này, tùy theo căn duyên của chúng sinh mà nói pháp rộng hay hẹp để các chúng sinh được giải thoát. Thần lực tự tại của Bồ-tát như vậy, với tất cả Thiên ma và phiền não ma không thể làm chướng ngại được. Do đó, Bồ-tát vượt qua Thiên ma và phiền não ma, đi vào cảnh giới Phật. Sau đó tùy theo căn duyên của hữu tình mà cứu vớt họ được giải thoát, không bao giờ gián đoạn, không thể nào động chuyển. Từ Thị nên biết! Đây gọi là Đại Bồ-tát tu tập thiền định mà đạt được Thần cảnh trí thông biến hóa tự tại. Năm thần thông trên chỉ gọi là thiền định chứ không được gọi là Ba-la-mật-đa. Từ Thị! Các vị Bồ-tát đã đạt được năm thần thông này rồi nên tinh tấn tu tập Thiền định ba-la-mật-đa với Vô thượng Bồ-đề, chứng đắc quả vị không thoái chuyển. Ví như người nghèo mới bắt đầu đào kho báu, chưa thấy gì lạ nên vẫn biếng nhác; càng đào sâu xuống không dừng nghỉ thì dần dần thấy chút ít tướng lạ, lúc đó mạnh mẽ tinh tấn không thôi, do không dừng nghỉ nên được kho báu. Đại Bồ-tát cũng vậy, chưa chứng Vô thượng Bồ-đề thì ngày đêm hãy tinh tấn siêng năng tu tập thiền định không dừng nghỉ, cho đến khi chứng đắc Vô thượng Bồ-đề. Này Từ Thị! Nếu tất cả hữu tình phát tâm thiền định như vậy thì chẳng khó nhưng theo đó tu tập không bao giờ biếng nhác cho đến khi nào thành tựu, đó mới là khó. Ví như quân nước mạnh xâm lăng chiếm lấy nước khác thì không khó, nhưng chiếm lấy được rồi canh giữ cho cẩn thận, đó mới là khó. Tà sư ngoại đạo tu định cũng vậy, không gần gũi bạn lành, không nghe Chánh pháp, cầu tà giải thoát để đạt được định Vô sắc mà nói là chứng Niết-bàn. Khi qua đời, bọn người này đọa vào địa ngục. Như người ngu si nuôi rắn độc, thường cho uống sữa bò. Vì sao? Vì tất cả thầy thuốc ở đời đều nói sữa bò trừ độc. Rắn uống sữa bò thì khí độc càng phát triển, người ngu si ấy nói là chất độc của rắn đã tiêu hết rồi nên tiếp xúc và dạy bảo, bị nó cắn chết. Tất cả chúng sinh cũng vậy, ngày đêm nuôi dưỡng thân độc này, vì cầu an ổn khoái lạc cho nên luôn cung cấp thức ăn uống vô độ. Khi vô thường ập đến, độc ma chết phát sinh, làm mất hết các pháp lành rồi đi vào ba đường khổ. Này Từ Thị! Thiền định mà Thanh văn, Độc giác đạt được chỉ đoạn trừ phiền não chướng, không có lòng đại Bi, chỉ nhập vào Niết-bàn thì chẳng phải là chân thiền định. Còn phàm phu hữu tình vì thân, khẩu, ý nghiệp luôn bị tám vạn bốn ngàn phiền não trói buộc nên không được tự tại. Ví như có người luôn cúng dường cho kẻ thù La-sát, ác quỷ để từ từ điều phục nó. Nhưng phiền não oan gia La-sát, ác quỷ thì không như vậy, được cung cấp sắc hương làm cho phiền não ngày càng phừng phực, khó điều phục được. Như vậy làm sao tu tập thiền định để giải thoát? Nếu không thiền định thì làm sao có trí tuệ? Không chánh trí thì cũng không có mười điều thiện, sẽ đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Do đó Đại Bồ-tát nên tu phạm hạnh bốn Tâm vô lượng, khởi lòng từ “hóa đạo vô duyên” bao trùm khắp cả pháp giới. Vì sao vậy? Vì lòng từ bi của Bồ-tát không có giới hạn, không thể nghó bàn, không có bờ bến, vì hữu tình khắp cả mười phương thế giới nên lòng Từ bi của Bồ-tát cũng rộng lớn như vậy. Ví như hư không không có giới hạn, lòng Từ bi của Bồ-tát cũng vậy. Do đó nên biết, hữu tình vô tận, lòng Từ bi của Bồ-tát cũng vô tận. Chân không vô tận, lòng Từ bi cũng vô tận. Thế nên lòng Từ bi của Bồ-tát chân thật không cùng tận. Bồ-tát Từ Thị bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Đối với hữu tình, Bồ-tát có lòng Từ bi rộng lớn như vậy, nếu có gì để thí dụ tuyên nói, con xin Ngài hãy dạy bảo cho chúng con. Đức Thế Tôn dạy: –Này thiện nam! Không thể lấy một việc nhỏ nào để thí dụ nói hết được. Từ Thị nên biết! Ví như phương Đông có hằng hà sa thế giới, phương Nam, Tây, Bắc, bốn góc, trên dưới cũng nhiều như vậy. Hằng hà sa thế giới như vậy trong mười phương hợp lại thành một biển nước đầy. Các thế giới nhiều như cát sông Hằng trong mười phương đều có khắp đầy hữu tình. Mỗi hữu tình lần lượt cầm một sợi lông nhúng nước biển ấy rồi nhỏ qua nơi khác, cho đến đủ một kiếp. Như vậy, nước biển dù có khô cạn nhưng các hữu tình kia vẫn không cùng tận. Này thiện nam! Hữu tình khắp cả mười phương thế giới nhiều như cát sông Hằng trong mười phương như vậy, Bồ-tát đều có lòng từ bi rộng lớn với mỗi hữu tình ấy. Này thiện nam! Ý ông thế nào? Lòng Từ bi ấy có giới hạn không? Bồ-tát Từ Thị thưa: –Bạch Thế Tôn! Giả sử hư không, còn có thể lường được, nhưng lòng từ bi này không thể cùng tận. Đức Phật dạy: –Nếu Đại Bồ-tát nghe lòng Từ bi ấy không có giới hạn mà không kinh nghi, sợ sệt, nên biết rằng vị ấy cũng có lòng Từ bi vô tận như vậy. Tâm Từ bi ấy có thể giữ gìn cho mình và người, diệt trừ tất cả điều ác, kiện tụng, tranh cãi, có thể ngăn ngừa tội lỗi cho hữu tình để ba nghiệp điều phục thường được an lạc, lìa xa các oán thù. Người nào nhiều sân hận thì khiến cho họ nhẫn nhục, từ bi, chấm dứt các khổ chinh chiến, binh đao… cứu hộ tất cả hữu tình xa lìa các sự lừa gạt để tiếng tốt đồn xa, được Đế Thích, Phạm thiên, Tứ Thiên vương cung kính cúng dường, lấy chuỗi anh lạc Từ tâm trang nghiêm thân. Vị ấy làm người đi đầu hướng dẫn đường giải thoát cho hữu tình để ai có tâm Nhị thừa quay về với Đại thừa, tích lũy chứa nhóm tất cả tư lương Bồ-đề, không chịu làm nô lệ phước báo thế gian, luôn lấy tướng tốt để trang nghiêm thân, các căn đều đầy đủ, trọn vẹn, xả bỏ tám nạn, được sinh lên trời, thực hành tám Chánh đạo để đến bờ kia Niết-bàn. Bồ-tát tu Từ bi không tham đắm năm dục, đem tâm bình đẳng đối với các hữu tình. Khi hành hạnh bố thí, tâm không phân biệt, giữ giới thanh tịnh, cứu giúp người phạm giới, chỉ rõ năng lực nhẫn nhục để họ không còn sân hận, tu hành tinh tấn, đều thuận theo Chánh pháp, trụ trong chánh định, đem lòng Từ bi cứu vớt chúng sinh, được trí tuệ rộng lớn, ra khỏi thế gian. Lúc đó phiền não và Bồ-đề không còn hai tướng, đem lòng đại Từ lưu xuất từ tự tánh mà chiến thắng quân ma, làm an lạc cho tất cả hữu tình, đời này đời sau không từ bỏ họ. Trong lúc đi. đứng, nằm, ngồi luôn luôn tu tập hành trì, diệt trừ ngã mạn, xa rời phóng dật. Người có lòng Từ bi mặc áo tàm quý, xoa hương thơm giới thanh tịnh, đoạn trừ tập khí phiền não ở thế gian, làm lợi ích và đem an vui cho tất cả hữu tình. Lòng Từ bi của Thanh văn chỉ cầu lợi cho riêng mình, còn lòng Từ bi của Bồ-tát cứu hộ cho tất cả chúng sinh. –Này Từ Thị! Từ có ba loại: 1.Chúng sinh duyên từ. 2.Pháp duyên từ. 3.Vô duyên từ. Thế nào là Chúng sinh duyên từ? Nghóa là mới phát tâm, quán khắp hữu tình sinh lòng đại Bi. Thế nào Pháp duyên từ? Nghóa là khi tu hành quán tất cả pháp, gọi là Pháp duyên từ. Thế nào là Vô duyên từ? Nghóa là chứng đắc Vô sinh pháp nhẫn, không có hai tướng. Từ Thị nên biết! Đây là tâm đại Bi của Đại Bồ-tát trú trong chân pháp giới. Kinh Đại thừa Lý Thú Lục Ba-la-mật-đa <卷 id="82881930">Quyển 9 <詞 id="82881931">Phẩm 9: Thiền Định Ba-la-mật (Phần 2) Đức Phật dạy Từ Thị: –Đại Bồ-tát tu hành Thiền định ba-la-mật cần phải tu tập đại Bi vô lượng, vì đại Bi là pháp dẫn đầu của các nghiệp lành. Ví như đối với mạng căn thì hơi thở ra vào là trên hết. Trong bảy báu của Luân vương thì bánh xe báu là trên hết. Trong vạn hạnh Đại thừa thì đại Bi là trên hết. Như trưởng giả có một đứa con, cha mẹ yêu thương thấu tận xương tủy, đại Bi của Bồ-tát cũng vậy, yêu thương các hữu tình như con một. Sao gọi là đại Bi? Đại gọi là Ma hạ. Ma gọi là ngã. Ngã đem đại Bi làm lợi lạc cho hữu tình nên gọi là đại Bi. Hạ gọi là tánh, tự tánh đại Bi có thể cứu vớt hữu tình, vì không do người khác dạy bảo nên gọi là Đại Bi. Lại gọi là Sa-phạ, Sa-phạ là thuộc về phần của ta. Ta phải cứu hộ tất cả hữu tình nên gọi là đại Bi. Ca là phòng hộ, không để cho người khác làm hại nên gọi là đại Bi. Đại Bi có thể làm phương tiện để hoàn thành tất cả pháp trợ Bồ-đề. Đại Bi có thể tự giác ngộ, không nhờ thầy dạy mà trí tự nhiên phát. Đại Bi có thể diệt tâm lo buồn, tùy thuận mà làm lợi ích cho chúng sinh. Này Từ Thị! Tâm đại Bi này có năm mươi loại: 1.Không dua nịnh. 2.Thân, khẩu, tương ứng. 3.Không hư dối. 4.Luôn luôn chân thật. 5.Không thoái lui. 6.Liễu ngộ bản giác. 7.Không dối trá. 8.Tự tánh thanh tịnh. 9.Hành dụng ngay thẳng. 10.Trú nơi chánh tánh. 11.Cầu thân Phật. 12.Cầu tuổi thọ Phật. 13.Không tạo tất cả lỗi lầm. 14.Bảo vệ hữu tình. 15.Độ hữu tình không có hạn lượng. 16.Đồng với hư không. 17.Không từ bỏ chúng sinh nghèo khổ. 18.Nhổ bỏ các khổ. 19.Tự tánh bất động, gánh vác tất cả. 20.Hành hạnh thanh tịnh, không lừa gạt mình và người. 21.Có thể làm tự lợi bằng các thiện nghiệp. 22.Làm cho tất cả chúng sinh được an vui. 23.Không mệt mỏi. 24.Trừ bỏ gánh nặng, khai mở thắng nghóa. 25.Kiên trì thực hành bố thí, nhẫn nhục, tinh tấn. 26.Nhẫn nhục khi bị người hạ liệt khinh mạn mình. 27.Không ôm thù hận xưa. 28.Làm thầy thuốc vô thượng. 29.Dùng trí Đại thừa giáo hóa những thừa dưới bình đẳng không hai. 30.Khéo giấu đức của mình, khen ngợi điều tốt của người. 31.Có thể sánh bằng với chân pháp lạc vô lậu. 32.Có thể xả bỏ những gì yêu thích mà không tiếc rẻ. 33.Vì hữu tình, không hối hận. 34.Khéo giữ gìn giới thanh tịnh, luôn cứu hộ người hủy phạm cấm giới. 35.Chịu khổ để hữu tình được an vui. 36.Làm hữu tình thành thục, trụ vào pháp thân. 37.Xả bỏ các bộ phận trong thân thể mà không tiếc thân mạng. 38.Thích tu công đức, không cầu quả báo. 39.Có thể điều phục hữu tình để tu tập thiền định. 40.Hiểu rõ ba cõi là không, không đắm trước. 41.Tích lũy căn lành, xa lìa điều bất thiện. 42.Làm toại nguyện tất cả chúng sinh. 43.Không bỏ nguyện xưa, trụ trong vô vi. 44.Bỏ pháp hữu vi. 45.Hữu tình xan tham thì dạy họ hành xả. 46.Có thể làm cho hữu tình sống trong giới luật nhà Phật. 47.Hữu tình đa sân, khiến họ nhẫn nhục. 48.Hữu tình giải đãi, khiến họ tinh tấn. 49.Hữu tình tán loạn, khiến họ thiền định. 50.Hữu tình ngu si, khiến họ có trí tuệ. Phật dạy Từ Thị: –Như vậy đại Bi làm cho tất cả căn lành của mình và người được thành tựu. Đó là đại Bi vô lượng. Này Từ Thị! Đại Bồ-tát tu hành Thiền định ba-la-mật-đa phải tu tập như thế nào để đạt được đại Hỷ vô lượng? Nghóa là nhớ nghó, ưa thích và cung kính tất cả Phật pháp, không chạy theo sinh tử, không phá hoại tâm hỷ, diệt trừ các tà kiến, xa lìa năm dục triền cái, có thể làm cho hữu tình an trụ trong Niết-bàn, luôn cầu ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của Như Lai, nghe Chánh pháp khế hợp với Đệ nhất nghóa đế, luôn luôn thích tu hành để đạt đến bờ kia Niết-bàn, tâm sinh hoan hỷ đủ đầy viên mãn. Giống như ngày Tết thế gian, tất cả dòng họ, bạn bè đều hội họp hưởng khoái lạc năm dục, vui chơi thích thú. Bồ-tát cũng vậy, khi khởi thần thông biến hóa thì an trú vào đó, làm cho tất cả Bát bộ, Rồng, Thần, bốn chúng đều tụ họp vào Giới, Định, Tuệ, Giải thoát tri kiến, trong lòng vui thích. Đó là đại Hỷ. Đại Hỷ này không có tâm làm tổn hại các hữu tình, siêng cầu tất cả diệu pháp chư Phật. Dù đã đạt được hay chưa tâm cũng không rời bỏ, luôn hiểu rõ pháp Đại thừa một cách chân chánh, không chấp lấy pháp Nhị thừa, xả bỏ tánh xan tham, làm tăng trưởng bố thí. Thấy người đến xin thì đem cho với tâm hoan hỷ. Đối với người trì giới thì phải có lòng tin thanh tịnh. Thấy người phá giới thì phải thương xót, với tịnh giới của mình thì giữ gìn thanh tịnh viên mãn, không còn lo sợ ba đường ác mà được hướng đến pháp thân. Nếu bị ai mắng nhiếc thì nhẫn nhục mà nhận. Với thầy gương mẫu nên cung kính, tôn trọng, siêng năng thực hành theo lời dạy của thầy. Với hữu tình thì nói lời hòa nhã, mỉm cười, không nhăn nhó, cau mày. Ý đầu tiên là thăm hỏi, trụ trong định tịch tónh, không dua nịnh, không hư dối, không thô thiển, không tà vạy, luôn khen điều tốt của người, không nói lỗi người, thích hòa đồng chung với mọi người, thực hành sáu hòa kính, tôn trọng Đại Pháp sư, khai mở Niết-bàn và hiển bày tướng chân thật. Đối với bậc Tôn trưởng thì tưởng như cha mẹ, xem tất cả chúng sinh như con một, tôn trọng Thân giáo sư như Phật. Đối với người tu hành xem như người dẫn đường đi vào biển bảo châu vô giá của các Ba-la-mật-đa. Coi người nói pháp như châu như ý, dạo chơi tự tại trong rừng pháp vô lậu. Ai dạy bảo ta phải vui mừng, nghe nói lỗi sai của mình giống như người thầy thuốc chỉ bệnh mình, nghe nói Chánh pháp như bệnh được thuốc. Đó gọi là Hỷ. Hiểu rõ khổ, vô thường, vô ngã, bất tịnh, tùy thuận thường, lạc, ngã, tịnh của Niết-bàn là một tướng một vị, nên gọi là Hỷ. Thể tánh của đại Hỷ là chân thật thù thắng, tánh không sinh diệt, không trầm, không bổng, không đi, không đến, luôn nhất tâm, đó gọi là Hỷ chân thật. Đại Hỷ: như nghe nói điều thiện, thân tâm vui thích, an trú bất động giống như núi Tu-di. Đại Hỷ: sáng suốt hiểu rõ nhân quả không sai lầm. Đại Hỷ: như đất làm chỗ nương tựa, không lay động. Đại Hỷ: như người có oai đức, không ai có thể địch lại. Đại Hỷ: như Thắng nghóa đế không thể hủy hoại. Đại Hỷ: như Phật, Pháp, Tăng công đức viên mãn, cầu không chán. Từ Thị nên biết! Đây gọi là đại Hỷ vô lượng. Này Từ Thị! Đại Bồ-tát tu tập Thiền định ba-la-mật-đa phải tu tập đại Xả vô lượng như thế nào? Đại Bồ-tát tu tập Xả vô lượng nói chung có ba: 1.Xả phiền não. 2.Xả sự giữ gìn giữa mình và người. 3.Xả đúng thời, không đúng thời. Thế nào là xả phiền não? Nghóa là gặp được cung kính không tự cao, gặp khinh mạn không nhu nhược ti tiện, được lợi không vui mừng, mất lợi không buồn, bị mắng chửi không sân giận, được khen cũng không mừng, được đề cao không phấn khởi, nghe chê bai không tức giận. Khi gặp khổ nạn thì quán không, vô ngã, gặp việc vừa lòng đến luôn quán vô thường, tâm không tham đắm cảnh yêu thích. Nếu bị hiềm khích không sân giận, với người oán, thân, người giữ giới, phá giới có tâm bình đẳng. Đối với thiện ác, yêu ghét đều không có hai tướng. Nghe lời nói thiện ác, chánh hay bất chánh cũng như vậy. Đem tâm bình đẳng với tất cả chúng sinh. Đối với thân mạng, tài lợi không tham tiếc. Đó gọi là Đại xả phiền não. Xả sự giữ gìn mình và người là thế nào? Nghóa là nếu có người đến cắt chẻ từng khúc thịt của mình, Đại Bồ-tát không những không sân giận mà cả thân và lời nói cũng không biến đổi. Đó gọi là Xả. Khất-xoa-đa nghóa là đôi và cũng nghóa là vết thương. Nghóa là mắt và sắc giống như có hai người đến chỗ Bồ-tát: một người đánh đập gây vết thương, một người xoa hương thơm trên mình, nhưng Bồ-tát quán hai việc ấy với tâm bình đẳng, không thấy có hai. Bồ-tát quán vết thương trong Đệ nhất nghóa thì người đánh gây vết thương là ai và ai là người xoa bóp, Bồ-tát không hề thấy tổn hại hoặc lợi ích, cũng không thấy có mình và người, không hại mình và người. Đó gọi là Xả. Hai nghóa của nhãn căn và sắc cảnh cũng thế. Nhó căn với âm thanh, tỷ căn với hương, thiệt căn với mùi vị, thân căn với xúc chạm, ý căn với pháp. Tất cả cũng đều tịch tónh bình đẳng như thế. Người hủy báng, người khen ngợi, đối với sáu căn của ta trong Đệ nhất nghóa không có tổn thương, không gây hại nên gọi là Xả. Giả sử bị người làm tổn hại, cũng không làm tổn hại lại họ. Đó gọi là Xả. Hoặc giữ gìn mình và người, không cho thương tổn, đó gọi là Xả. Xem lợi hay bất lợi như nhau, luôn nhất tâm không làm hại mình và người, đó gọi là Xả. Thường tự xem xét, hỗ trợ tâm người khác, xa lìa các sự tranh cãi, kiện tụng, gọi đó là Xả. Quán sát thật kỹ, không còn thị phi, gọi là Xả. Xả như vậy gọi là xả sự giữ gìn mình và người. Thế nào gọi là xả đúng thời và phi thời? Nếu các hữu tình không nhận những sự dạy dỗ, chẳng phải là bậc Pháp khí thì Bồ-tát không nên sân giận, đó gọi là xả phi thời. Đối với hàng Thanh văn, quán bốn Thánh đế đạt được pháp nhẫn về sự khổ, hướng đến quả A-la-hán, nhưng Bồ-tát không chướng ngại. Đó gọi là xả phi thời. Khi hành bố thí thì dừng lại trì giới, khi giữ giới thanh tịnh thì dừng lại để bố thí, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ cũng như vậy. Đó gọi là xả phi thời. Nếu đối với các pháp cần phải thành tựu, việc quyết định phải làm thì tinh tấn dũng mãnh không bao giờ mệt mỏi, không nghỉ ngơi, không thoái lui, không nề hà khổ nhọc, đến khi làm xong công việc mới thôi. Đó là xả đúng thời. Như vậy gọi là xả đúng thời, xả phi thời. Tu tập Từ, Bi, Hỷ, Xả như vậy chỉ gọi là thiền định, chứ không được gọi là Ba-la-mật-đa. Khi ấy Từ Thị bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Lấy việc tu tập thiền định như vậy làm nhân, có thể được đầy đủ trí tuệ thần thông. Thế nào là trí tuệ thần thông? Đức Thế Tôn dạy Từ Thị: –Này thiện nam! Thần thông là dùng năng lực thần thông có thể thấy sắc cực vi. Dùng mắt pháp thanh tịnh biết tánh của sắc là không, nhưng không đắm trước, thì gọi là trí tuệ. Lại nữa, có thể nghe các loại âm thanh rất nhỏ trong thế gian, gọi là thần thông. Biết rõ các thứ âm thanh ấy không có ngôn thuyết, lìa xa các thí dụ, gọi là trí tuệ. Lại có thể biết tâm hành của các hữu tình, đó là thần thông. Hiểu rõ vọng tâm, phi tâm của hữu tình, đó gọi là trí tuệ. Nhớ biết tất cả những gì ở quá khứ, vị lai, gọi là thần thông. Hiểu rõ cõi Phật chân không là trí tuệ. Hiểu biết rõ ràng tướng sai biệt của căn tánh hữu tình, là thần thông. Hiểu rõ thắng nghóa là không, đó gọi là trí tuệ. Thấu biết các pháp là thần thông. Hiểu rõ thế tục như huyễn, đó là trí tuệ. Năng lực vượt qua Đế Thích, Phạm thiên, Tứ Thiên vương là thần thông. Vượt qua Thanh văn, Độc giác là trí tuệ. Từ Thị nên biết! Đó gọi là Đại Bồ-tát tu tập chân thiền định được quả báo thần thông không thể nghó bàn. Này Từ Thị! Tất cả chúng sinh luôn bị vô lượng phiền não quấy nhiễu tâm mình, còn các Đại Bồ-tát thì được chân Tam-muội, rồi tùy theo từng loại phiền não của hữu tình mà hiện các môn Tam-muội để độ cho họ được giải thoát. Đại Bồ-tát càng siêng năng tinh tấn trụ trong Tam-muội ấy để cho các hữu tình an trụ trong pháp bình đẳng như vậy, nghóa là tâm bình đẳng, hành bình đẳng, tương ưng bình đẳng; Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ đều bình đẳng, tức là tất cả các pháp thảy đều bình đẳng. Đó gọi là Pháp tánh Tam-muội. Này Từ Thị! Tam-muội bình đẳng này là Bồ-đề bình đẳng, Bồ-đề bình đẳng là tất cả hữu tình bình đẳng, tất cả hữu tình bình đẳng là tất cả các pháp bình đẳng. Được pháp bình đẳng như vậy rồi, đó gọi là trụ vào chân Tam-muội. Này Từ Thị! Bồ-đề bình đẳng tức là hư không bình đẳng, hư không bình đẳng tức là tất cả hữu tình bình đẳng, tất cả hữu tình bình đẳng tức là tất cả các pháp bình đẳng. Được tất cả các pháp bình đẳng như vậy gọi là trụ trong chân Tam-muội. Này Từ Thị! Tánh của tất cả thế gian bình đẳng, tức là tánh thanh tịnh bình đẳng, tánh thanh tịnh bình đẳng tức là tất cả hữu tình bình đẳng, tánh của hữu tình bình đẳng tức là tất cả các pháp bình đẳng. Đạt được tất cả các pháp bình đẳng thì gọi là trụ trong chân Tam-muội. Này Từ Thị! Nếu tâm chính mình bình đẳng tức là biết tâm của hữu tình bình đẳng, đó gọi là trụ trong chân Tam-muội. Này Từ Thị! Đối với thân ta, các hữu tình dầu có làm lợi ích hay không lợi ích, thì ta đối với tâm của hữu tình như đại địa, đều bình đẳng với tâm bất động. Vì sao? Vì trụ trong tánh bình đẳng của Tam-muội này. Do trụ trong Tam-muội nên không có lời nói tán loạn và không có những lời vô ý thức. Thông đạt các pháp, hiểu rõ Đệ nhất nghóa, biết rõ thời tiết tùy thuận để mà nói, không bị tám loại gió làm lay động. Bồ-tát trụ trong pháp tánh bình đẳng như vậy, không xả bỏ Tam-muội, không lìa thế gian, được tự tại vô ngại. Đó gọi là Đại Bồ-tát dùng phương tiện trí tuệ Thiền định ba-la-mật-đa. Này Từ Thị! Thế nào là Đại Bồ-tát tu hành phương tiện trí tuệ xuất thế? Nghóa là khi tu thiền định, Bồ-tát khởi lòng Từ bi với tất cả chúng sinh, đó gọi là phương tiện, quán các pháp tịch diệt là trí tuệ. Khi tu thiền định, quy y Phật là phương tiện, hiểu rõ không chấp thủ là trí tuệ. Cầu tất cả các pháp là phương tiện, hiểu rõ tánh của các pháp là không, đó là trí tuệ. Quán sắc thân Phật là phương tiện, quán thân Phật là không, gọi là trí tuệ. Quán Phạm âm của Phật là phương tiện, hiểu rõ không có ngôn thuyết là trí tuệ. Khi chánh quán là phương tiện, sự quán chiếu cũng không, là trí tuệ. Cứu vớt hữu tình là phương tiện, biết rõ chúng sinh là không, gọi là trí tuệ. Biết căn tánh của chúng sinh là phương tiện, biết rõ căn tánh cũng không, là trí tuệ. Quán cõi Tịnh độ của Phật là phương tiện, biết rõ cõi Phật là không, gọi là trí tuệ. Chứng đắc Bồ-đề là phương tiện, biết rõ Bồ-đề vốn tịch tónh là trí tuệ. Thỉnh chuyển pháp luân là phương tiện, biết pháp không có tướng chuyển, là trí tuệ. Quán bảy Giác chi là phương tiện, biết rõ đó là chân bản giác, là trí tuệ. Đại Bồ-tát tương ưng tu tập Thiền định ba-la-mật-đa như vậy làm cho tất cả Thiên ma không hại được và sẽ thành tựu Vô thượng Bồ-đề. Khi Đức Thế Tôn nói Thiền định ba-la-mật-đa này có ba vạn hai ngàn Bồ-tát trong hội chứng Nhật đăng Tam-muội. Nhật đăng Tam-muội này cũng gọi là Nhất trang nghiêm Tam-muội. Nhật đăng Tam-muội là gì? Giống như khi mặt trời mọc thì tất cả ánh sáng của đèn đuốc, sao, trăng bị che lấp. Bồ-tát được Tam-muội này cũng như vậy, sẽ che khuất ánh sáng của hàng Hữu học, Vô học Thanh văn, Độc giác và các hữu tình, cho nên gọi là Nhật đăng Tam-muội. Sao gọi là Nhất trang nghiêm Tam-muội? “Nhất” tức là vô sinh, vô sinh là pháp không. “Nhất” nghóa là ở khắp tất cả mọi nơi, giống như dầu mè có khắp trong mè; pháp vô sinh cũng vậy, thể tánh của nó biến khắp tất cả nên gọi là Nhất trang nghiêm Tam-muội. Nhất trang nghiêm Tam-muội này cũng gọi là Nhất tăng trưởng Tam-muội. “Nhất” tức là A, A là pháp giới, nghóa là Khế kinh làm cho pháp giới được hiện tiền. Pháp giới hiện tiền rồi thì tất cả các pháp thần thông trong pháp giới tăng trưởng, sáng rõ hiện tiền, cho nên gọi là Nhất tăng trưởng Tam-muội. Nhất tăng trưởng Tam-muội này cũng gọi là Nhất pháp giới Tam-muội. “Nhất” là pháp giới, pháp giới cũng là không. Do có định lực cho nên cái không ấy hiển bày. Đó gọi là Nhất pháp giới trang nghiêm Tam-muội. Nhất pháp giới này cũng gọi là Nhất không Tam-muội. “Nhất” giống như hư không, tất cả vạn vật sinh trưởng trong hư không, khi Bồ-tát đạt được chân không thì các pháp như tín,… đều tăng trưởng, cho nên gọi là Nhất không Tam-muội. Này Từ Thị! Đại Bồ-tát trụ vào Thiền định ba-la-mật-đa có thể nhập trăm ngàn câu-chi na-do-tha Tam-muội. Nay ta nói cho ông một số tên Tam-muội, đó là: Điện quang Tam-muội, Nguyệt quang Tam-muội, Thiện tăng trưởng Tam-muội, Tỳ-lô-giá-na Tam-muội, Tăng trưởng chẳng nghó bàn Tam-muội, Như như quang chiếu Tam-muội, Vô cấu Tam-muội, Hải đức Tam-muội, Năng tự tại chuyển nhất thiết pháp luân Tam-muội, Thành tựu cấm giới Tam-muội, Vô ưu Tam-muội, Kiên cố Tam-muội, Tô-mê-lô Tam-muội, Pháp cự Tam-muội, Pháp dũng Tam-muội, Chuyển pháp trí tự tại Tam-muội, Tán tích tụ pháp Tam-muội, Trì nhất thiết pháp Tam-muội, Trì bạch pháp Tam-muội, Tri tha tâm Tam-muội, Trang nghiêm bảo tràng Tam-muội, Diệt phiền não Tam-muội, Hoại tứ ma Tam-muội, Phát khởi thập lực Tam-muội, Vô trước Tam-muội, Đoạn phược trước Tam-muội, Đăng thủ Tam-muội, Văn thí danh Tam-muội, Trì địa Tam-muội, An trụ tâm Tam-muội, Tu-di đăng Tam-muội, Tồi phục oán địch Tam-muội, Trí cự Tam-muội, Phát sinh trí Tam-muội, Giáo thọ Tam-muội, Tự tại chuyển vô biên pháp môn Tam-muội, Linh tâm kham nhậm Tam-muội, Tri thắng diệu thiện Tam-muội, Chấn nhật nguyệt âm Tam-muội, Vô sở hành Tam-muội, Hoại ma Tam-muội,Vô chủng chủng tưởng Tam-muội, Thiện điều phục tâm Tam-muội, Thích sư tử Tam-muội, Niệm phật Tam-muội, Niệm pháp Tam-muội, Niệm tăng Tam-muội, Bất thoái chuyển Tam-muội, Bất cụ Tam-muội, Tối thắng vô ngã Tam-muội, Tợ không xứ Tam-muội, Thường giác ngộ Tam-muội, Trừ phiền não duyên Tam-muội, Như hư không Tam-muội, Nhập công năng Tam-muội, Niệm tuệ giác Tam-muội, Vô tận biện Tam-muội, Đại bi thanh Tam-muội, Hiện chân đế Tam-muội, Bất hủy hoại Tam-muội, Thiện hạnh Tam-muội, Hữu tình hoan hỷ Tam-muội, Tri ái lạc Tam-muội, Sinh thọ lạc Tam-muội, Thắng từ Tam-muội, Tánh tịnh Tam-muội, Đại bi Tam-muội, Đại thiện Tam-muội, Vô sở xả trước Tam-muội, Pháp nghóa Tam-muội, Pháp bi Tam-muội, Tuệ cự Tam-muội, Trí hải Tam-muội, Vô động Tam-muội, Thiện điều phục thân Tam-muội, Giải thoát trí tự tại Tam-muội, Kim cang tràng Tam-muội, Thắng liên hoa đạo tràng Tam-muội, Ly thế gian pháp Tam-muội, Thắng trí Tam-muội, Phật quán hành Tam-muội, Oai quang Tam-muội, Oai diễm Tam-muội, Dữ giải thoát trí Tam-muội, Phật thân trang nghiêm Tam-muội, Quang minh phổ biến Tam-muội, Sát độ biến tịnh Tam-muội, Nhập hữu tính tánh Tam-muội, Mãn nhất thiết nguyện Tam-muội, Thuận Bồ-đề lộ Tam-muội, Ba-la-mật trang nghiêm Tam-muội, Bảo kế Tam-muội, Giác hoa Tam-muội, Dữ giải thoát quả Tam-muội, Cam lộ âm Tam-muội, Vô đới Tam-muội, Tật phong hành Tam-muội, Bảo quang Tam-muội, Tài hải lưu Tam-muội, Kim cang phong Tam-muội, Đại thần thông Tam-muội, Xuất sinh nghóa Tam-muội, Kiến vô biên phật Tam-muội, Ức trì nhất thiết sở văn Tam-muội, Dữ sát-na trí Tam-muội, Thanh tịnh vô biên công đức Tam-muội…. Vô lượng câu-chi Tam-muội như vậy, nếu Đại Bồ-tát đạt được các Tam-muội ấy thì gọi là Thiền định ba-la-mật-đa. Khi Đức Phật Thế Tôn nói Thiền định ba-la-mật-đa này, trong hội có bảy mươi tám na-do-tha trời, người phát tâm Vô thượng Bồ-đề, ba vạn hai ngàn Bồ-tát chứng Vô sinh pháp nhẫn.  <卷 id="82881932">Phẩâm 10: bát-nhã ba-la-mật-đa (Phần 1) Lúc ấy Đức Phật Thế Tôn đang ngồi nơi tòa Sư tử được trang nghiêm bằng nhiều loại ma-ni quý báu, hiện đủ loại tướng và chung quanh Ngài toàn là chúng Đại Bồ-tát. Đại Bồ-tát Từ Thị rời chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo vai phải, quỳ gối chắp tay cung kính thưa: –Bạch Đại Thánh Thế Tôn! Thế Tôn đã làm lợi ích an lạc cho các Bồ-tát nên nói Thiền định ba-la-mật-đa. Bây giờ con cúi xin Ngài vì các Bồ-tát mà nói Bát-nhã ba-la-mật-đa. Bát-nhã ba-la-mật-đa này có bao nhiêu loại? Tu như thế nào để đạt được? Cúi xin Ngài hãy phân biệt giải nói. Đức Thế Tôn dạy: –Này thiện nam! Ông hãy nghe cho rõ, suy nghó thật kỹ, ta sẽ vì ông mà phân biệt giải nói. Bồ-tát tu hành Bố thí ba-la-mật-đa cho đến Thiền định ba-la-mật-đa đều từ nơi Trí tuệ ba-la-mật-đa. Vì nó là căn bản, là mẹ sinh ra các Ba-la-mật. Ví như năm Căn: mắt… nắm lấy năm trần, phát sinh ra thức, tất cả đều có chỗ dụng của nó. Như vậy, mỗi mỗi đều do tâm thức làm căn bản. Nếu lìa tâm ấy thì không thể làm được gì cả. Đại Bồ-tát tu năm pháp Ba-la-mật-đa trước luôn lấy Bát-nhã ba-la-mật-đa làm mẹ, nếu xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa thì không đạt được gì cả. Cũng như thân hữu tình có mạng căn mới hoạt động được, nếu mạng căn chết thì không làm gì được nữa. Tu hành các độ cũng vậy, nếu không có trí tuệ thì cũng giống như vậy. Ví như trong đất nước không có vị quan trí tuệ thì thiên hạ đảo lộn, nhân dân không an lạc. Cũng vậy, trong cõi vua của pháp, nếu không có vua trí tuệ thì tu hành Bố thí cho đến Thiền định ba-la-mật-đa đều không thành tựu, không bao giờ đạt được Niết-bàn giải thoát. Cũng như chủ buôn vào biển nhặt châu báu, cốt yếu là tìm được người chèo thuyền mới đến chỗ châu báu mà tùy ý lấy. Bồ-tát cũng vậy, trong biển sinh tử lấy năm pháp Ba-la-mật-đa làm thuyền chở châu báu công đức, chủ yếu là nhờ thuyền trưởng Vô thượng Bát-nhã ba-la-mật-đa mới đến được bờ bên kia. Bấy giờ Đức Thế Tôn nói kệ: Trí tuệ là cội gốc Sinh trưởng mầm pháp lành Quả Phật đại Bồ-đề Do trí tuệ phát sinh. Như người gặp khổ nạn Người trí luôn cứu giúp Người tu tạo điều ác Như đá ném biển sâu. Không có chân trí tuệ Đa văn vọng phân biệt Người này không hiểu nghóa Như chén sao biết mùi! Gọi là bậc Trưởng lão Không phải do tuổi già Tuy nhỏ, có trí tuệ Đó chính là Trưởng lão. Ở đời, người có đức Chân chánh không tà vạy, Không phân biệt tà chánh, Sao biết lý đúng, sai? Chánh trí nghe pháp mầu Trí tương ưng với lý Tùy thuận nơi Đại thừa Đó là người chánh trí. Không vướng mắc được, mất Buồn vui không lay động, An trú như Tu-di Đó là người chánh trí. Được cung kính không mừng Bị khinh chê không giận, Trí tuệ như biển lớn Đó là người chánh trí. Không nói lỗi người khác Không khen đức của mình, Trí chiếu không mình, người Được mọi người khen ngợi, Dũng mãnh luôn tinh tấn Tránh xa tất cả tướng Diệt trừ tâm ngã mạn Đó là người chánh trí. Luôn quán sát chân chánh Không thấy lỗi người khác, Tin sâu quả thiện, ác Đó là người chánh trí. Người trí ở trong chúng Không nói công đức mình Nếu được người khen ngợi Xấu hổ không nhận lấy. Thành tựu các công đức Khiêm tốn không thấy có Như cây trái chín nhiều Cành lá tự rũ xuống. Phước trí sinh giàu sang Tuy giàu không kiêu mạn Người ngu tự kiêu căng Người trí nên quán sát Trí tuệ là bạn lành Tránh xa bạn xấu ác Đoạn diệt các phiền não Tự nhiên được giải thoát. Ai gần gũi người ác Cũng nên phải tránh xa Tôn kính bậc Hiền thiện Đó là người chánh trí. Bồ-tát nhiều trí bi Bị hại, vẫn thương xót Như chiên­đàn bị chặt Mùi hương tỏa thơm ngát. Không nhớ lỗi người khác Luôn nghó những việc lành, Trí tuệ không phân biệt Là đệ nhất loài người. Người trí luôn tịch tónh Bị chê không phiền muộn, Các ác không thể đốt Như hơi ấm biển lớn. Đại Bi không phân biệt Gặp ác luôn thương xót Như mặt trời tỏa sáng Không bỏ Chiên-trà-xá. Người trí tuy lỗi nhỏ Vì lợi ích ở chung Như vào rừng Chiêm­bặc Tự nhiên được xông ướp. Chánh trí không phân biệt Như mặt trời chiếu khắp Cũng như trăng trong sáng Xua tan các mây che. Người trí nhiều Từ bi Thường cứu kẻ khổ nghèo. Thấy người xin không khinh Nên sinh lòng hoan hỷ Như cây mới sinh trưởng Đêm ngày không dừng nghỉ Người trí thích tu hành Tăng trưởng cũng như vậy. Người trí gặp kẻ thù Giữ Từ bi không bỏ Như bẻ gãy cọng sen Tơ sen vẫn không đứt. Sinh tử như cây độc Giác ngộ quả Pháp thân Sinh tử là Niết-bàn Bản tánh đều bình đẳng. Tịnh tuệ hạnh Hiền thánh Đại Bi ích vạn loài Không chọn thù hay thân Không bao giờ phân biệt Tuổi già nhiều trí tuệ Tịnh giới đều tròn đầy Gần gũi người như vậy Hạnh an lạc mau thành. Người trí tuệ không cấu Ba nghiệp luôn thanh tịnh Nên gần gũi người ấy Tôn kính hơn cha me.ï Đừng gần gũi người ngu Vì hoại tâm người lành Như lửa đốt cây khô Phải nên lánh người ấy. Dung dưỡng người xấu ác Muốn lợi nhưng bị hại Như cho thú dữ ăn Không ai không bị hại. Cúng dường người trí tuệ Tuy ít, được phước nhiều Như người uống cam lồ Luôn được vui an ổn. Đức Phật dạy Đại Bồ-tát Từ Thị: –Bát-nhã ba-la-mật-đa này đều nhờ bạn lành khai mở Chánh pháp. Kẻ tà kiến là kẻ thù của trí tuệ. Các ông nên gần gũi bạn lành, lánh xa bạn xấu ác. Bát-nhã ba-la-mật-đa này chẳng phải chỉ phát sinh ra tất cả pháp lành mà chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai cũng đều từ đây sinh ra. Nên biết, kinh này là mẹ của tất cả chư Phật. Này Từ Thị! Đại Bồ-tát khi hành bố thí có hai loại trí, đó là trí nhỏ và trí lớn. Người trí nhỏ bố thí thì cầu sinh làm trời, người và quả giải thoát Nhị thừa. Bố thí như vậy chỉ được gọi là bố thí, không được gọi là Bố thí ba-la-mật-đa. Người trí lớn, bố thí với tâm không sở đắc, vì không sở đắc nên thành Phật Bồ-đề. Bố thí như vậy gọi là Bố thí ba-la-mật-đa. Vì thế nên biết, Bố thí ba-la-mật-đa là từ trí tuệ sinh ra. Trì giới ba-la-mật-đa cũng có hai loại: trí nhỏ và trí lớn. Người trí nhỏ trì giới vì sợ ba đường ác nên cầu sinh vào trời, người và quả giải thoát Nhị thừa. Trì giới như vậy tâm không thanh tịnh, không được gọi là Trì giới ba-la-mật-đa. Người trí lớn trì giới vì làm lợi ích an lạc khắp các hữu tình, không trụ vào tướng mà vô sở đắc, hướng đến Bồ-đề. Trì giới như vậy gọi là Trì giới ba-la-mật-đa. Cho nên phải biết Trì giới ba-la-mật-đa là từ trí tuệ sinh ra. Nhẫn nhục ba-la-mật-đa cũng từ Bát-nhã ba-la-mật-đa sinh ra. Tất cả bản trí của hữu tình như mặt trời bị vô minh che lấp, làm cho ánh sáng nhẫn nhục không hiện ra được. Người tu nhẫn nhục, đoạn trừ vô minh, Thánh trí hiện tiền, mặt trời Phật do đây mà chiếu sáng. Ví như trong một đất nước không có quan trí tuệ nên việc cai trị không công bằng, làm cho nhân dân ly tán, nếu có người trí tuệ, họ cũng sẽ trốn lánh. Người không có trí tuệ mà nhẫn nhục cũng như vậy. Trí tuệ này như người mắt sáng, thấy rắn độc liền tránh xa. Cũng vậy, người có mắt trí tuệ tránh xa rắn độc sân giận. Người không có mắt trí tuệ vì trong vô lượng kiếp quá khứ tu hành các điều thiện nhưng không có sức nhẫn nhục và mắt trí tuệ nên trong một niệm lửa sân thiêu đốt, tiêu diệt tất cả, không còn chút gì. Như quăng lửa vào đống cỏ khô thì cỏ khô bị thiêu đốt trụi. Người trí tuệ có sức nhẫn nhục, giả sử gặp người ác đến đánh đập mắng nhiếc, Bồ-tát nên dùng chánh trí nhẫn nhục thì có thể điều phục được họ. Ví như voi lớn đã được điều phục rồi thì ra trận xông xáo, có thể phá tan quân địch. Đại Bồ-tát cũng vậy, trụ trong nhẫn vô tướng không sân giận, dùng vô duyên đại Bi mà rộng độ tất cả. Cho nên phải biết rằng, Nhẫn nhục ba-la-mật-đa là từ Bát-nhã ba-la-mật-đa sinh ra. Tinh tấn ba-la-mật-đa cũng từ Bát-nhã ba-la-mật-đa sinh ra. Vì sao? Vì nếu không có Bát-nhã ba-la-mật-đa thì làm việc gì cũng đều không thành tựu. Vô biên pháp môn, quả Đại Bồ-đề đều an trụ vào đại trí tuệ phương tiện tối thắng, quán sát khắp cả, chủ yếu là có sức tinh tấn mới có thể viên mãn sáu pháp Ba-la-mật-đa. Cho nên phải biết rằng, Tinh tấn ba-la-mật-đa đều từ Bát-nhã ba-la-mật-đa sinh ra. Thiền định ba-la-mật-đa cũng từ Bát-nhã ba-la-mật-đa sinh ra. Vì sao? Vì ý nghiệp rất tinh vi, khó mà lường được. Thân, khẩu nghiệp dễ diệt trừ nhưng vọng tâm khởi lên khó chế ngự được. Ví như gió thổi lửa dữ, ta vẫn có thể ngăn cản được, sóng biển ta cũng có thể làm dừng lại được, nhưng vọng tâm rất khóù điều phục. Vì sao? Vì bị vô minh từ vô thỉ làm mê mờ tâm tánh. Giống như người nhiều tư tưởng thế gian, khi vọng tưởng khởi lên thì mong cầu lăng xăng, cứ theo ý nghó mà phát sinh mãi. Người vọng tưởng như vậy, nếu có nhập vào định thì tâm vẫn còn chấp thủ. Vì không có trí tuệ nên trải qua trăm ngàn kiếp không bao giờ đạt được Tam-muội. Cũng như người ngu vọng chấp các kiến, chấp ngã là thường còn, hoặc chấp ngã là đoạn. Những kiến chấp ấy không thanh tịnh thì làm sao Tam-muội hiện tiền? Người có trí tuệ quán sát hai điều: Một là tự quán sát thấy thân mình có nhiều tật bệnh, khổ vui là đều do đời trước vọng tưởng điên đảo tạo ra các nghiệp, nay phải chịu quả báo. Nếu không si ái thì làm gì có bệnh. Thân mình vốn nó là không, nhờ nhân duyên huyễn hóa mà có, nếu không tạo tác thì ai chịu khổ? Hai là quán sát lại, tuy không có tướng ngã nhưng nghiệp phước đã tạo đều không mất. Nên nguyện vô lượng phước đức của tất cả hữu tình ở pháp giới đều thanh tịnh, tất cả đều thành tựu sáu pháp Ba-la-mật-đa, trang nghiêm thân bằng Giới, Định, Tuệ, cho nên biết tất cả các hạnh đều lấy Bát-nhã ba-la-mật-đa làm mẹ. Giống như đại địa đều nương vào hư không mà đứng vững, nhưng hư không đó không có chỗ nương dựa. Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vậy, cho nên biết Trí tuệ là mẹ của Thiền định ba-la-mật-đa. Chẳng phải chỉ có năm pháp Ba-la-mật-đa từ trí tuệ sinh ra, mà tất cả phước đức, tiếng khen ở thế gian, quả báo ở cõi trời, người, cho đến căn lành vô lậu của xuất thế đều nhờ trí tuệ sinh ra. Giống như đại địa nương vào hư không mà được đứng vững. Tất cả chúng sinh vì chấp ngã, chấp tướng mà có năm sợ hãi: 1.Sợ không đủ sinh sống, nghóa là thường cất chứa của cải, sợ mình không có để sống. 2.Sợ đường ác nghóa là tạo ra nghiệp ác nên sợ mình đọa trong ba đường ác. 3.Sợ chết nghóa là thương tiếc thân mạng. 4.Sợ tiếng xấu nghóa là luôn làm việc ác để che lấp, sợ người nghe biết. 5.Sợ oai đức đại chúng nghóa là trong đại chúng có nói ra lời gì cũng đều sợ hãi. Đại Bồ-tát dùng trí tuệ quán sát đầy đủ, chứng được Nhị không, có thể làm lợi ích cho mình và người thì không sợ không đủ sinh sống. Đoạn trừ tà hạnh, giữ trọn vẹn giới, chắc chắn đạt đến Niết-bàn thì không sợ đọa vào đường ác. Nhập sâu vào lý duyên khởi, hiểu rõ nó vốn không sinh thì không sợ chết. Trụ trong lý vô tướng, thân tâm tịch tónh, không có tướng mình và người thì không sợ tiếng xấu. Thành tựu bốn Biện tài vô ngại nhiệm mầu thì ở trong chúng không sợ, giống như Sư tử chúa, cho nên gọi là không sợ đại chúng. –Này Từ Thị! Căn tánh của tất cả chúng sinh đều sai biệt. Ai xan tham thì dạy họ bố thí, người sân giận thì dạy họ Từ bi nhẫn nhục. Người ngã mạn dạy họ khiêm nhường, người ngu si được trí tuệ. Khai mở Niết-bàn, làm hiển rõ vô lượng công đức của tướng chân như. Tất cả đều từ Bát-nhã ba-la-mật-đa mà sinh ra. Tất cả chư Phật và các vị Bồ-tát, Trời, Rồng, tám bộ chúng đều khen ngợi tôn trọng, cung kính giống như cha mẹ. Ví như mẹ hiền chỉ có một đứa con, nuôi dưởng dạy dỗ nó dần dần trưởng thành, mong được nên danh; Bồ-tát cũng vậy, yêu thương hữu tình giống như con một, lấy trí tuệ cam lồ làm pháp thức ăn, lấy năm độ làm đại lương dược, lấy mười Lực, bốn Vô sở úy, mười tám pháp Bất cộng, các công đức vi diệu để trang nghiêm pháp thân, thành tựu ngôi vị Pháp vương vô thượng. Này Từ Thị! Có mười việc làm chướng ngại đèn trí, che lấp làm cho ánh sáng không hiển hiện được, làm tăng trưởng sự tối tăm, không hiểu biết gì cả: 1.Biếng nhác: đối với sự nghiệp ở đời đều không thành tựu, thì làm sao có thể tu hành điều thiện vi diệu của đạo xuất thế! 2.Gần bạn ác thì tạo ra nghiệp ác, làm tăng trưởng vô minh. 3.Chìm đắm trong ngủ nghỉ, làm cho thân tâm hôn mê, không thể tu tập Vô thượng Bồ-đề. 4.Nghe Đại thừa liền quên mất. 5.Thích học tập tất cả kỹ nghệ ở thế gian, không biết nó như huyễn mà lại chấp trước. 6.Bị ngã mạn che lấp, dù gặp bạn lành nhưng không học hỏi Chánh pháp vô thượng. 7.Không liễu ngộ giáo lý Đại thừa vi diệu nhiệm mầu, lại ngã mạn tự cao thoái lui. 8.Xấu hổ về sự ngu muội của mình nên không gần gũi người có trí. 9.Bắt chước dị đoan, dối trá nói là thấy biết, nếu bị luận hỏi thì bỏ chạy. 10.Không tin thích Tối thượng thừa, giả sử có nghe thì lại hiểu bằng lăng kính tà kiến. Do mười việc này mà làm chướng ngại Đại thừa. Do không nghe Chánh pháp nên bị đắm chìm trong sinh tử. Mười việc này có mười pháp thù thắng để cho người ngộ nhập vào Vô thượng Bồ-đề: 1.Tinh tấn siêng năng, thích tu tập thiền định. 2.Gần gũi bạn lành nghe Chánh pháp. 3.Giảm bớt ngủ nghỉ, luôn luôn tự tỉnh thức. 4.Nghe pháp Đại thừa không bao giờ quên. 5.Làm theo sự nghiệp ở đời nhưng luôn quán nó như huyễn, không chấp trước. 6.Không giấu điều gì, giải nghi ngờ cho đại chúng. 7.Không nên chê mình, phải siêng năng tu hành. 8.Thích thiết lập đàn bố thí. 9.Luôn khiêm nhường, không lừa gạt chúng sinh. 10.Không nhờ thầy mà nhập sâu vào tuệ Phật. Đại Bồ-tát nhờ mười việc này mà đầy đủ viên mãn sáu pháp Ba-la-mật-đa, thành tựu pháp thân thanh tịnh giải thoát. Này Đại Bồ-tát Từ Thị! Bát-nhã ba-la-mật-đa này không tương ưng với mười sáu pháp: 1.Không tương ưng với mười hai nhân duyên, nghóa là từ vô minh cho đến Lão tử. 2.Không tương ưng với Vô minh diệt cho đến sinh tử diệt. Vì Đại Bồ-tát lìa tâm phân biệt, không có hai tướng. 3.Không tương ưng với thân kiến, biên kiến, cho đến sáu mươi hai kiến. 4.Không tương ưng với tám loại gió thế gian, đó là: lợi dưỡng, khen ngợi, chê bai, khổ, vui, suy, hao, chế giễu. 5.Không tương ưng với tùy phiền não: phẫn, hận… 6.Không tương ưng với ngã mạn, tăng thượng mạn… 7.Không tương ưng với căn bản phiền não: tham, sân, si… 8.Không tương ưng với ma phiền não, ma chết… 9.Không tương ưng với tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sinh, tướng thọ giả, người làm, người nhận, nghiệp chướng, báo chướng, phiền não chướng. 10.Không tương ưng với vọng niệm phân biệt của thấy nghe, hay biết. 11.Không tương ưng với bốn pháp điên đảo: vô thường cho là thường, thường cho là vô thường; không vui cho là vui, vui cho là không vui; vô ngã nói là ngã, ngã cho là vô ngã; bất tịnh cho là tịnh, tịnh cho là bất tịnh. Do vọng tưởng nên gọi là pháp điên đảo. Do tâm hành của hữu tình như thế nên dẫn đến cửa trần lao. 12.Không tương ưng với xan tham, phạm giới, sân giận, biếng nhác, tán loạn, ngu si, và cũng không tương ưng với bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ mà có tướng. 13.Không tương ưng với các pháp bất thiện: tánh tội, già tội, hữu lậu, hữu vi, không tương ưng với sự phân biệt về pháp thiện của thế gian, xuất thế gian, vô lậu và vô vi. 14.Không tương ưng với hai mươi hai căn, đó là: Không tương ưng với mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. Không tương ưng với khổ, lạc, ưu, hỷ, xả. Không ương ưng với nam căn, nữ căn, ý căn, mạng căn. Không ương ưng với tín… năm Căn, và không tương ưng với ba căn vô lậu. 15.Không tương ưng với mỗi loại hữu tình trong năm thú ba cõi. Cũng không tương ưng với sự phân biệt Đại thừa, Tiểu thừa của Phật, Pháp, Tăng bảo. 16.Không tương ưng với sự phân biệt của tâm ý, như: không phân biệt chân đế, tục đế; hữu vi, vô vi, hữu trí, vô trí; có thức, không thức; tác ý, không tác ý; tánh hữu thể, tánh vô thể; hữu tướng, vô tướng. Từ Thị nên biết! Bát-nhã ba-la-mật-đa không nhiễm, không vướng mắc, không có các phân biệt; nó bình đẳng, thanh tịnh, là một tướng, một vị, không tương ưng với tất cả pháp sai biệt như vậy. Này Từ Thị! Với phương tiện thiện xảo, Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu thì phải trụ vào Chỉ và Quán, thân trụ trong tịch tónh, hiểu rõ nhân duyên các pháp như huyễn như hóa, thuận theo thắng nghóa đế, lìa hữu, lìa vô, không thường, không đoạn, đều tùy thuận với nhân quả, không có tướng ngã, tướng nhân, là chân thật bất động, không mất oai nghi. Trụ vào ba cửa giải thoát nhưng không chấp đã chứng, không động không tịnh, đó là thiền của Như Lai. An trú thần thông, thâm nhập sâu vào thực tế, không ở mãi trong sinh tử, không nhập vào Niết-bàn, không chấm dứt hữu vi, không trụ trong vô vi. Mặc dù quán vô tướng nhưng không xả bỏ đại Bi. Mặc dù ở trong ba cõi nhưng luôn xuất ly. Tuy biết đúng về vô nhiễm nhưng không tu chứng. Tuy xa lìa các hý luận nhưng thích bàn luận về Chánh pháp. Này Từ Thị! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa nên gần gũi bạn lành, nghe Chánh pháp, đầy đủ tám mươi bốn loại tâm tối thượng thì mới có thể phát sinh Bát-nhã ba-la-mật-đa thù thắng vi diệu. Nghóa là trụ vào tướng chân thật, tướng rất vi diệu, tướng tương ưng với Bát-nhã, tướng bạn lành, tướng lìa kiêu mạn, tướng cung kính, tướng đi nhiễu bên phải, tướng vô lượng, tướng lời nói hoàn hảo, tướng chí thành, tướng tác ý hoàn hảo, tướng không loạn, tướng vô định, tướng tốt đẹp quý báu, tướng thuốc hay, tướng trừ bệnh, tướng pháp khí, tướng chỉ dẫn, tướng nhập trí tuệ, tướng nghe pháp, tướng không chán, tướng tăng trưởng xả, tướng khéo điều phục voi ngựa, tướng kính thờ bậc đa văn, tướng thích nghe pháp vi diệu, tướng quán thân tịch diệt, tướng thanh tịnh vui thích, tướng nghe pháp không mệt mỏi, tướng nghe nghóa, tướng nghe pháp, tướng lời nói đi đôi với việc làm, tướng nói pháp cho người, tướng nghe những điều chưa nghe, tướng nghe thần thông, tướng không tìm cầu thừa khác, tướng thích nghe Bát-nhã, tướng thích nghe Bồ-tát tạng, tướng thích nghe phương tiện quyền xảo, tướng bốn Nhiếp pháp, tướng nghe phạm hạnh, tướng niệm chánh định, tướng hay sinh thiện xảo vô sinh, tướng tâm đại Từ bi, tướng duyên khởi, tướng vô thường, tướng khổ, tướng không, tướng vô ngã, tướng bất tịnh, tướng tịch tónh, tướng Không, tướng Vô tướng, tướng Vô nguyện, tướng không có hạnh bất thiện, tướng thắng nghóa đế, tướng không hư hoại, tướng tự tại, tướng hộ tâm mình, tướng không bỏ tinh tấn, tướng tư duy pháp vi diệu, tướng đối trị phiền não, tướng tôn trọng Chánh pháp, tướng đối trị tà kiến, tướng đạt được Thánh tài, tướng trừ bỏ nghóa khổ, tướng người trí khen ngợi, tướng người trí rất vui, tướng những điều người trí ưa thích, tướng tôn trọng bậc hiền thiện, tướng thấy bốn Đế, tướng quán lỗi lầm của uẩn, tướng tai hoạn của hữu vi, tướng căn cứ vào pháp, tướng căn cứ vào nghóa, tướng căn cứ vào trí, tướng căn cứ vào kinh liễu nghóa, tướng căn cứ vào kinh bất liễu nghóa, tướng không tạo các điều ác, tướng tự mình làm lợi ích, tướng làm lợi ích cho người, tướng tạo thiện tốt đẹp, tướng không phiền não, tướng thắng hạnh, tướng đạt tất cả pháp môn của chư Phật. Từ Thị nên biết! Người nghe pháp đầy đủ tâm thù thắng như vậy thì có thể nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, biết tất cả pháp không có ngã, không có người, xưa nay thanh tịnh. Sinh tử và Niết-bàn đều bình đẳng không hai. Lại nữa, Đại Bồ-tát quán năm Căn: mắt,… các thọ khổ, vui… ý căn, mạng căn hay khởi lên phiền não làm căn bản cho sinh tử. Tín,… năm Căn và ba căn vô lậu hay xả bỏ phiền não. Đó là nhân Niết-bàn. Biết tánh phiền não từ xưa đến nay không sinh không diệt, tánh tướng thường trụ. Người nào tu tập như vậy gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Này Từ Thị! Đại Bồ-tát đã tu thắng hạnh tương ứng và không tương ứng với trí tuệ, không có phân biệt, hai trí đều bình đẳng, không xả bỏ chúng sinh mà luôn có lòng Từ bi, che chở tất cả được thanh tịnh bất động. Ai tu tập như vậy gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Đức Phật dạy Từ Thị: –Câu nghóa của Bát-nhã ba-la-mật-đa không thể nghó bàn. Đó là câu tương ưng, câu như lý, câu như lượng, câu lời Phật, câu hiểu rõ nhân duyên, câu không chướng ngại, câu không diệt, câu đại xả, câu bất động, câu tất cả bất động, câu không y chỉ, câu bình đẳng, câu không khó, câu không cao thấp, câu thật tế, câu không biến đổi, câu không chấp trước, câu không trụ, câu không chỗ trụ, câu đối trị, câu tịch tónh, câu rất tịch tónh, câu khắp nơi tịch tónh, câu không hý luận, câu vô khởi, câu tức chân, câu không khiếm khuyết, câu không thừa, câu không giới hạn, câu không đối trị, câu tối thắng, câu chân thật, câu như như, câu tuyệt ngôn, câu không phân biệt, câu không bỉ thử, câu ba đời bình đẳng, câu không ba đời, câu không trụ vào năm uẩn, câu không trụ vào sáu giới, câu không trụ vào mười hai xứ, câu không trụ vào mười tám giới, câu căn cứ vào pháp, câu căn cứ vào nghóa, câu căn cứ vào trí, câu căn cứ vào liễu nghóa. Với câu nghóa như vậy tức là Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa không thể nghó bàn. Vì lìa ngôn thuyết, vì chân thắng nghóa, vì không thể nghó bàn, vì không ví dụ, không so sánh, vì vô thượng, vì tự lợi và lợi tha, vì rất hy hữu, chỉ có Phật với Phật mới có thể chứng tri, ngoài ra không ai biết được. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa không có tánh, không có tướng, không so sánh, không ví dụ, chỉ có Phật Như Lai mới có thể biết tận. Này Từ Thị! Bát-nhã ba-la-mật-đa này chẳng phải uẩn xứ giới, không chỗ nương tựa, không sinh không diệt, không trong không ngoài, không ở chặng giữa, cho nên gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa không thể nghó bàn. Nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa này, Bồ-tát Từ Thị rất vui mừng, sung sướng nói kệ khen: Thế Tôn Đại Hùng trí Vô thượng Mười Lực, Vô úy, Chân giải thoát Quảng đại thần thông không giới hạn Nào ai có thể so lường được. Quá khứ gần gũi vô lượng Phật Đạt được trí vi diệu sâu xa Vô số kiếp tu hạnh khó hành Do đó thành Bậc Điều Ngự Sư. Phật chứng tự nhiên Nhất thiết trí Trụ trong tịch tónh khó nghó lường Chỉ Phật Như Lai tự chứng biết Hiện trong vô số cảnh giới Phật. Tánh pháp chân thường lìa hai bên Vô vi tịch tónh thoát ba cõi Khổ nghiệp phiền não đều diệt trừ, Pháp thân thanh tịnh chân giải thoát Đạo tràng Bồ-đề thành Chánh giác Chỉ có chư Phật mới chứng tri. Thanh tịnh y nhiên, không đi, đến Không tướng, không làm, không nói năng Niết-bàn không sánh, không ví dụ Phàm phu Nhị thừa không thể lường, Đẳng giác Bồ-tát không thể biết, Riêng Phật Thế Tôn mới hiểu rõ. Các chúng Thanh văn trong hội Phật Chứng đắc tự lợi, Như Lai khen, Hết sinh hữu lậu, thân sau cùng Họ cũng không biết cảnh giới Phật. Tất cả Bích-chi-phật lợi trí Nhiều khắp mười phương như lúa mè Cùng tư duy trăm ngàn vạn kiếp Không sao biết được trí tuệ Phật. ­ Kinh Đại thừa Lý Thú Lục Ba-la-mật-đa <卷 id="82881933">Quyển 10 <詞 id="82881934">Phẩm 10: Bát-nhã ba-la-mật-đa (Phần 2) Đức Phật dạy Từ Thị: –Đại Bồ-tát có bảy việc để đạt pháp môn vô tận không thể nghó bàn. Đó là: 1.Nhân vô tận. 2.Hữu tình vô tận 3.Giới vô tận. 4.Đại Bi vô tận 5.Diệu dụng vô tận. 6.Pháp môn vô tận 7.Phá hoại ma sinh tử nên có trí vô tận. Như vậy, Bát-nhã ba-la-mật-đa không hành, không tướng, không sinh cũng không diệt. Bồ-tát ở trong tất cả pháp phải biết như vậy. Khi Đức Phật nói Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này, trong hội có ngoại đạo tên Vi-mạt-để rời khỏi chỗ ngồi đứng dậy, bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Ngài nói tất cả pháp xưa nay không sinh, tự tánh thanh tịnh, nghóa này không đúng. Tự tại thiên là thường, là cha mẹ của tất cả vạn vật sinh ra các pháp, có thể tạo tác, xếp đặt thế gian. Lại nói rằng, thần ngã có thể sinh ra tất cả các pháp, nhưng ngã này trụ trong tâm lớn giống như ngón tay cái. Ngài đã nói rằng, tất cả pháp do hòa hợp sinh ra, vì sao nay nói là không sinh? Đức Thế Tôn dạy Vi-mạt-để: –Ta sẽ theo ý ông mà trả lời những câu hỏi trên để đoạn trừ sự nghi ngờ của ông. Ông hãy lắng nghe cho kỹ. Như ông đã nói: Tự tại thiên là thường, có thể sinh ra tất cả. Như vậy, thì tất cả vạn vật được sinh phải đồng một tánh là thường. Nếu nói đã sinh thì trước sau biến đổi không thường trụ, theo lý thì không đúng. Vì sao? Vì dụng không lìa thể nên là thường trụ, thể không lìa dụng thì chẳng phải thường. Tự tại thiên là thường có thể sinh thì phải thường sinh, vì sao có lúc sinh, có lúc không sinh? Đã không thường sinh thì sao gọi là thường? Vì nghóa này cho nên đồng với chỗ sinh kia nhất định là vô thường. Cái sinh ra đã nhiều tức không phải là một. Nếu là một thì không có gì sai khác, nhưng muôn loài có từng loại riêng biệt, như vậy sao gọi là một? Lại nữa, Tự tại thiên hay sinh ra tất cả mà không có lòng Từ bi. Nếu có lòng Từ bi thì nên làm cho hữu tình đều sinh lên cõi trời, người để hưởng sung sướng, tại sao làm cho các hữu tình chịu tám khổ, sinh trong ba đường ác chịu đủ các khổ? Nếu có lòng Từ bi tại sao tự sinh, tự sắp xếp, tự hại hữu tình? Nếu Tự tại thiên là một, là thường thì sinh ra tất cả không bị biến đổi, tại sao các loài khác sinh diệt vô thường, trong năm cảnh giới chịu sự bất tịnh riêng biệt? Ví như thấy quả thì biết ngay nhân của nó. Nên biết Tự tại thiên không thường, không phải một. Nếu tốt đẹp là do Tự tại thiên, còn thô ác bất thiện là do quỷ Tất-xá-giá làm ra, nói như vậy thì không đúng lý. Nếu thiện là do Tự tại thiên, còn ác là do quỷ Xá-giá, thiện ác trái nhau, sao gọi là tự tại? Lại nữa, hữu tình tạo ác thì nhiều, người tu thiện thì ít, tức là quỷ Tất-xá-giá thắng vượt trời Tự tại. Hữu tình tạo các điều lành là phần của Tự tại thiên, tạo các điều ác là do quỷ Xá-giá dạy bảo. Đệ tử của các ông luôn nói như vầy: “Làm lành sinh lên trời, làm ác đọa địa ngục”. Nếu nói sinh lên trời, đọa địa ngục là do tạo thiện ác, thì tại sao nói do Tự tại thiên tạo nên? Giống như vua ra lệnh ban cho quan tước, của cải, nhưng chỉ nói vua ban cho, chứ không nói là người tuyên mệnh lệnh. Lại như vua sai người giết, nhưng chỉ nói vua giết chứ không nói đồ tể. Nếu làm lành thì quy về Tự tại thiên, còn tạo ác thì quy về quỷ Tất-xá-giá, vậy thì vì sao hữu tình chịu khổ vui? Do đó nên biết, Tự tại thiên nhất định không thể tạo ra tất cả. Nếu nói một thì vì sao hữu tình sinh ra vô lượng tâm thiện ác? Cho nên biết rằng không phải một. Nếu nói tất cả do Tự tại thiên tạo ra thì phải thuần thiện, sao lại có ác? Giống như có người, có khi ở chỗ đông người tạo ra nhiều việc ác thì đó là người ác. Nếu chúng sinh làm ác do Tự tại thiên thì cả thế gian này đều nói là tội nhân địa ngục, vì tự tạo nghiệp ác. Vì sao riêng ông đả kích Tự tại thiên? Như có người chê người khác tạo ác thì mắc vô số tội, nay ngươi chê bai Tự tại thiên, bị mắc tội cũng vậy. Này Vi-mạt-để! Tự tại thiên tạo tội như trên, còn tội lỗi của thần ngã nhiều gấp bội. Nếu ngã là thường có thể tạo tác thì thân này đi đứng phải được tự do, không ai hại được, vì sao phải khóc lóc sợ chết? Nếu ngã là thường thì phải nhớ nghó quá khứ đã tạo nghiệp, bây giờ phải chịu khổ báo, cho nên đời này không tạo nghiệp ác nữa. Nếu ngã là thường thì phải tự tại, không già yếu mà phải luôn luôn trẻ khỏe, giống như cởi áo cũ mặc áo mới. Vậy tại sao có già, bệnh, chết? Do đây nên biết, ngã không thể tạo tác. Này Vi-mạt-để! Ta quán các pháp cũng chẳng phải do nhân duyên hòa hợp sinh ra. Vì sao? Vì nhân là vô sinh, nếu nhân có sinh thì không cần đợi duyên. Tánh vô sinh của duyên lại cũng như vậy. Nếu nói do nhân duyên hòa hợp với ngã thì cũng không đúng. Giống như hai người mù đứng riêng ra thì không thể thấy màu sắc mà nếu đứng chung một chỗ cũng không thấy. Nên biết, nhân duyên hòa hợp với thần ngã cũng không thể sinh ra các pháp; nếu có thể sinh thì đó là vô thường, vì có tác dụng. Như vậy, những gì được sinh ra nhất định là vô thường, cho nên biết rằng lìa sở sinh ra thì không có cái năng sinh nào riêng khác. Có người nói năm đại cực vi là thường có thể sinh ra các pháp, như vậy cũng không đúng. Giống như nước hòa hợp với gạo thành rượu, uống vào thì say. Như vậy năng lực làm say không phải do bên ngoài, chẳng phải do bên trong của nước sinh ra, cũng chẳng phải phát sinh từ gạo, mà do nước và gạo hòa hợp mà biến thành rượu. Như vậy, tất cả các pháp không có tác giả, cũng không có ngã để làm nhân duyên. Vì sao? Vì đại địa, hư không, thủy, hỏa, phong giới cũng như vậy, có lẽ nào vật vô tình sinh ra hữu tình hay sao? Tất cả các pháp giả thì có mà pháp thật thì không, chẳng phải Tự tại thiên, chẳng phải thần ngã, chẳng phải nhân duyên hòa hợp, chẳng phải năm đại mà sinh ra. Cho nên biết rằng, bản tánh của tất cả các pháp không sinh, chỉ do duyên huyễn chuyển hóa mà có, không đến, không đi, không đoạn, không thường, thanh tịnh tròn đầy, là chân bình đẳng. Khi ấy Đức Thế Tôn nói kệ: Tất cả pháp hữu vi Như thành Càn­thát­bà Tâm chúng sinh vọng chấp Tuy hiện chẳng thật có. Các pháp không nhân sinh Cũng chẳng phải không nhân Có là do vọng tưởng Cho nên nói duy tâm. Vô minh mà vọng thấy Là nhân của sắc tướng Tàng thức làm chỗ dựa Tùy duyên hiện các hình, Như người mắt bị bệnh Thấy hoa đốm trên không Tập khí quấy đục tâm Theo ba cõi mà hiện. Nhãn thức nương Lại­da Hiện ra đủ thứ sắc Như bóng ở trong gương Phân biệt không ở ngoài. Thấy biết đều do tâm Không thường cũng không đoạn Do thức Lại­da biến Mà hiện ở thế gian. Pháp tánh đều bình đẳng Chỗ dựa của các pháp Tàng thức hằng không đoạn Mạt­na chấp làm ngã. Tập khởi nói là tâm Tánh suy lường là ý Nghóa phân biệt là thức Cho nên nói duy tâm. Các cảnh giới ngoài tâm Vọng thấy như hoa đốm Chấp thật có đều không Đều do tâm thức biến. Sắc và công năng sắc Đều nương thức Lại­da Phàm phu vọng phân biệt Cho là chân thật có. Thùy miên và hôn mê Đi, đứng và ngồi, nằm Tạo nghiệp và quả báo Đều do tàng thức sinh. Hữu tình và vô tình Chẳng phải Tự tại sinh Chẳng phải thần ngã tạo Chẳng phải tánh vi trần. Như tánh lửa trong cây Dù có nhưng không cháy Nhờ dùi mới có lửa Do đó trừ tối tăm. Xoay vần làm nhân duyên Lại­da làm chỗ dựa Các thức theo đó sinh Khởi lên lậu, vô lậu. Như biển gặp duyên gió Nổi lên các sóng dữ Hiện tiền luôn chuyển biến Không bao giờ gián đoạn. Biển tàng thức cũng vậy Gió cảnh giới làm động Luôn khởi các sóng Thức Không bao giờ gián đoạn. Như bơ chưa khuấy động Không ai thấy được lạc, Ra công không gián đoạn Mới có được đề hồ. Lại­gia vọng huân tập Che lấp Như Lai tạng Khi tu tập thuần thục Chánh trí mới sáng tỏ. Các thức chuyển theo duyên Không thấy tâm bản giác Trí tự giác hiện tiền Chân tánh luôn bất động. Giống như vàng trong quặng Dính đá không thể dùng Nấu lọc được vàng ròng Làm các đồ trang sức. Tánh Lại­da thanh tịnh Bị vọng thức huân tập Viên cảnh trí tương ưng Như mặt trời thoát mây. Ai tu tập về không Theo không chấp giữ không Quán không khác với sắc Không gọi người chân quán. Quán sắc tức là không Sắc, không chẳng thể đắc Đây là Thắng nghóa không Là người chân giải thoát. Khách trần không tự tánh Vô minh vọng phân biệt Thật tướng không hữu, vô Do chúng sinh vọng thấy. Như ánh sáng nhật nguyệt Tỏa sáng khắp mọi nơi Như Lai thanh tịnh tạng Đầy đủ các công đức. Chân, vọng hòa lẫn nhau Như hai voi thi đấu Con yếu bỏ chạy luôn Vọng hết, không sinh lại. Tánh hoa sen không nhiễm Khỏi nước lìa bùn dơ Đến khi hoa sen nở Ai thấy đều ưa thích. Như Lai, Vô cấu tạng Xa lìa các tập khí Trí thanh tịnh tròn sáng Chỗ Hiền thánh quay về. Như châu bảo tối thắng Không có chút tỳ vết Luân vương làm mũ báu Thường đội trên đỉnh đầu. Như Lai thanh tịnh tạng Không có các phân biệt Thể đủ hằng sa đức Pháp thân của chư Phật Trụ vào cảnh vô lậu Thanh tịnh giải thoát thân Tịch diệt như hư không Tánh pháp không đi, đến Phật hiện trong ba cõi Không sinh cũng không diệt Cõi này và phương kia Y nhiên, luôn bất động. Bình đẳng chân pháp giới Phật cũng như chúng sinh Không đoạn, cũng không thường Đại Bi không cùng tận. Thân pháp tánh chư Phật Trí bản giác tự nhiên Chính là Thắng nghóa đế Chỉ Phật mới chứng tri. Thể tự tánh vô sinh Mâu­ni vốn tịch tónh Lưu chuyển trong ba cõi Chỗ quy y rốt ráo. Pháp không tướng đến, đi Ba đời luôn tịch tónh Trụ trong chân Tam-muội Thấy thân pháp giới kia Thanh tịnh không thể bàn Đủ hằng sa công đức Đây là cõi vô lậu Chỗ nương tựa chư Phật. Chư Phật đủ ba thân Thể, tướng, dụng bình đẳng Tánh sâu xa rộng lớn Thắng nghóa không sai khác. Vô lậu không biến đổi Xa lìa tất cả tướng Phiền não và sở tri Bản tánh luôn thanh tịnh. Không cấu, không nhiễm trước Là Thầy chân điều ngự Tánh tịnh là Niết-bàn Cũng là Pháp thân Phật. Thể đủ hằng sa đức Vô cấu không nghó bàn Luôn viên mãn sáu Độ Đây là Nhất thiết trí. Rộng lớn không giới hạn Không còn các tư tưởng Đoạn tập, chứng Bồ-đề Đủ hằng sa công đức. Với các pháp tự tại Hiện đủ các sắc tượng Quả đại Bi thanh tịnh Làm lợi ích chúng sinh. Vô lậu không phân biệt Nguyện lực đều viên mãn Giống như châu ma-ni Hiện theo các màu sắc. Giống như người thợ vẽ Vẽ đủ các hình tượng Hiện ra các cảnh giới Đều do tâm thức biến. Chúng sinh nhiều tánh dục Như Lai đều biết rõ Pháp thân luôn bất động Nguyện lực hiện theo duyên Thị hiện trời Đâu-suất Thần thông cỡi voi trắng Sinh ra ở cung vua Xuất gia tu khổ hạnh Đi đến gốc Bồ-đề Chiến thắng các quân ma Thành Phật chuyển pháp luân Hoặc hiện tướng Niết-bàn. Thị hiện có sinh diệt Chân thân không lay động Độn căn thích pháp nhỏ Phương tiện nói Niết-bàn. Trong pháp giới chân như Không có tướng Niết-bàn Đại Bi thích làm lợi Dẫn đường cho chúng sinh. Giống như người chủ buôn Dẫn dụ các người ngu Tâm Bồ-tát rộng lớn Khiến chúng nhập Niết-bàn. Nghe Đức Phật nói xong, Vi-mạt-để thân tâm vui mừng khôn xiết, liền rời chỗ ngồi, sửa y phục, quỳ gối chắp tay cung kính nói kệ khen ngợi Đức Phật: Rơi vào sông sinh tử Bị tà kiến trói buộc Ca-tỳ-vi-dã-bà Tiên Ca-na ngoại đạo. Phàm phu bị hôn mê Do đó sinh tà kiến Mười Lực Đấng Thiện Thệ Tuệ Phật chiếu sáng rỡ. Hoặc nghe Na-la-diên Trời Tự tại… chỉ dạy Càng tăng trưởng tham dục Làm tâm phát điên cuồng. Chánh kiến phá tối tăm Chính lời Như Lai dạy Con nay lắng lòng nghe Quy y Bậc Đại Thánh. Đại Phạm có bốn mặt Bốn tay đầy hoa sen Diễn nói bốn Vệ­đà Làm tăng trưởng tà kiến. Chỉ có Phật Thế Tôn Đại Thánh mặt trời trí Phá nghi ngờ cho con Chỗ quy y chân chánh. Khen ngợi Đức Phật xong, Vi-mạt-để bạch Phật: –Bạch Đại Thánh Thế Tôn! Hôm nay con được hoàn toàn lợi ích là nhờ ánh sáng trí tuệ chân chánh của Ngài làm cho tâm nghi tà kiến của con đều được tiêu trừ. Con nay xin quy y Đại Thánh Thế Tôn. Thưa Thế Tôn, sở dó con tên Vi-mạt-để vì con cầu đạo phi pháp nên tâm luôn nghi ngờ. Nay ở trước Phật con được Chánh pháp nhãn, diệt trừ tâm nghi hoặc nên nay con tên là Tô-mạt-để. Xin Ngài cho con làm đệ tử quy y Phật, Pháp, Tăng để tu hành Đại thừa, nguyện không bao giờ thoái lui, đạt được lợi ích tốt đẹp, con sẽ đem công đức này hồi hướng cho hữu tình đều thành Phật đạo. Khi Đức Thế Tôn nói pháp cho Vi-mạt-để, trong hội có vô lượng chúng sinh phát tâm Vô thượng Bồ-đề, sáu mươi hai na-do-tha Đại Bồ-tát chứng Vô sinh pháp nhẫn. Đức Phật dạy: –Này Từ Thị! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa nên tu tập tám pháp: 1.Thiện xảo về uẩn. 2.Thiện xảo về xứ. 3.Thiện xảo về giới. 4.Thiện xảo về đế. 5.Thiện xảo về duyên khởi. 6.Thiện xảo về ba đời. 7.Thiện xảo về tất cả thừa. 8.Thiện xảo về tất cả pháp. Thế nào là Thiện xảo về uẩn? Nghóa là quán sắc uẩn giống như bọt trên nước, người ngu thấy vậy cho đó là tấm thảm trắng, liền xuống nước để lấy thì bọt trên nước tan mất, không thể nào nắm bắt được. Đại Bồ-tát dùng chánh trí tuệ thấy Đệ nhất nghóa, hiểu rõ tánh sắc là không, giống như bọt trên nước, vì vậy nên gọi là Chánh tri kiến. Quán thọ uẩn như bong bóng trên nước, vừa nổi lên thì mất ngay, sinh diệt trong từng sát-na, không đứng yên. Đại Bồ-tát dùng chánh trí tuệ thấy Đệ nhất nghóa, hiểu rõ tánh của thọ là không, giống như bong bóng trên nước, do đó gọi là Chánh tri kiến. Quán tưởng uẩn như quáng nắng. Ví như trời nóng bức, có người khát nước, từ xa thấy quáng nắng, nói đó là nước và liền chạy đến tìm, nhưng đến gần thì không có. Đại Bồ-tát dùng chánh trí tuệ thấy Đệ nhất nghóa, hiểu rõ tánh của tưởng là không, do đó gọi là Chánh tri kiến. Quán hành uẩn giống như cây chuối, bên trong không có lõi. Nếu lột thân nó ra mãi thì cuối cùng không còn gì cả. Đại Bồ-tát dùng chánh trí tuệ thấy Đệ nhất nghóa, biết rõ tánh của hành là không, do đó gọi là Chánh tri kiến. Quán thức uẩn như huyễn hóa. Như thầy ảo thuật giả làm vàng bạc, trân bảo, trân châu, anh lạc nhưng tìm thật thể của nó thì hoàn toàn không thể có. Đại Bồ-tát dùng chánh trí tuệ thấy Đệ nhất nghóa, biết rõ tánh của thức là không, giống như huyễn hóa, do đó gọi là Chánh tri kiến. Quán như vậy rồi, phát tâm đại Bi cứu vớt tất cả hữu tình. Quán sát như vậy gọi là Thiện xảo về uẩn. Lại quán năm uẩn như huyễn hóa. Tất cả đều do tâm vọng tưởng điên đảo sinh ra, không có ngã, không có người, không có chúng sinh, không có thọ mạng. Chẳng phải tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sinh, tướng thọ mạng, không có người tạo tác, không có người nhận. Với phương tiện thiện xảo hiểu rõ tánh của uẩn là không, giống như mộng tưởng, hoàn toàn không thể đắc. Đó gọi là trí Thiện xảo về uẩn của Đại Bồ-tát. Đại Bồ-tát quán uẩn như âm thanh vọng lại, không có ta, không có người, cho đến không có người tạo tác, không có người nhận. Như vậy, tánh uẩn giống như âm thanh vọng lại trong hang trống. Nó thuộc vào các nhân duyên, nếu như thật liễu tri thì đều không có hai tướng. Đó gọi là trí Thiện xảo về uẩn của Đại Bồ-tát. Đại Bồ-tát quán uẩn như ảnh, nó theo nghiệp duyên hiện, không có ta, không có người, cho đến không có người nhận. Như vậy, hiểu rõ tánh của uẩn như ảnh, không thể đắc, không có hai tướng. Đó gọi là trí Thiện xảo về uẩn của Đại Bồ-tát. Đại Bồ-tát quán uẩn như bóng trong gương, không có ta, không có người, cho đến không có người nhận. Hình bóng trong gương không phải ở trong, không phải ở ngoài. Hiểu rõ nó không thể đắc, không hai tướng. Đó gọi là trí Thiện xảo về uẩn của Đại Bồ-tát. Đại Bồ-tát quán uẩn nhờ duyên mà có nên nó như huyễn hóa, không có ta, không có người, cho đến không có người nhận. Dùng trí thiện xảo như thật liễu tri, thấy không có hai tướng. Đó gọi là trí Thiện xảo về uẩn của Đại Bồ-tát. Đại Bồ-tát quán uẩn là tướng biến hoại, là vô thường, khổ, không, vô ngã, bất tịnh, tánh vốn không tịch, không hư hoại, không phải không hư hoại. Như thật liễu tri nên gọi là trí Thiện xảo về uẩn của Đại Bồ-tát. Thế nào gọi là Thiện xảo về xứ? Nghóa là pháp nội xứ: nhãn, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý đều không. Quán pháp ngoại xứ: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp cũng không. Dùng chánh trí tuệ quán Đệ nhất nghóa thấy không có trong, không có ngoài nên gọi là Chánh tri kiến. Đó goi là trí Thiện xảo về xứ. Lại có trí Thiện xảo về xứ, nghóa là hiểu rõ các xứ: nhãn, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý đều không, cũng không có tướng thấy, nghe, hay biết. Đó gọi là trí Thiện xảo về pháp xứ. Lại có trí pháp xứ, nghóa là biết tự tánh của các xứ: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp là không tịch, không có tướng cảnh giới của nhãn, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Đó gọi là trí Thiện xảo về pháp xứ. Lại có trí thiện xảo về xứ, nghóa là pháp tánh của các xứ: nhãn, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý là không tịch, không có ta, không có cái của ta. Pháp tánh của sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp đều không, không có ta, không có cái của ta, không tương ưng, không phải không tương ưng, chẳng phải pháp lành, chẳng phải pháp ác, không tăng không giảm, không có hai tướng, xưa nay vắng lặng. Đó gọi là trí Thiện xảo về xứ của Đại Bồ-tát. Lại có trí thiện xảo về xứ, nghóa là nhãn xứ, sắc xứ xưa nay thanh tịnh, không nhiễm, không vướng mắc. Nhãn xứ bền chắc, tịch nhiên thường trụ. Cũng vậy, nhó, thanh xứ; tỷ, hương xứ; thiệt, vị xứ; thân, xúc xứ; ý, pháp xứ tánh vốn thanh tịnh, không nhiễm, không vướng mắc, cho đến ý căn kiên cố tịch nhiên, thường trụ không biến đổi. Đó gọi là trí Thiện xảo về xứ của Đại Bồ-tát. Sao gọi là thiện xảo về xứ? Nghóa là Thánh nhân xứ, chẳng phải phàm phu xứ có thể sinh ra Thánh đạo, đó gọi là xứ. Phàm phu tà kiến sinh đường ác gọi là phi xứ. Đại Bồ-tát trụ trong tám Thánh đạo phát tâm đại Bi để đưa hữu tình nhập vào chánh định tụ. Đó gọi là trí Thiện xảo về xứ. Thế nào là trí Thiện xảo về giới của Đại Bồ-tát? Nghóa là quán nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới không có ta, không có của ta; cũng chẳng phải nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới theo duyên mà khởi. Cho đến ý giới, pháp giới không có ta, không có của ta, cho đến ý thức giới không có ta, cũng chẳng phải ý thức giới theo duyên mà khởi. Như vậy, Bồ-tát dùng chánh trí tuệ quán Đệ nhất nghóa, biết rõ tánh của mười tám giới là không, không có ta, không có người, pháp giới bình đẳng, thanh tịnh bất động. Đó gọi là trí Thiện xảo về giới của Đại Bồ-tát. Lại có thiện xảo về giới, nghóa là trí hiểu rõ pháp giới, biết rõ tánh của địa, thủy, hỏa, phong giới là không; cứng, ướt, nóng, động… đều không thể đắc, đồng đẳng với tánh pháp chân tế. Đó gọi là trí Thiện xảo về pháp giới của Đại Bồ-tát. Lại có trí Thiện xảo về pháp giới, nghóa là hiểu rõ tánh của nhãn giới cho đến ý giới là không; tánh của sắc giới cho đến pháp giới là không; tánh của nhãn thức giới cho đến ý thức giới là không, không có tướng phân biệt, thấy nghe, hay biết. Đó gọi là trí Thiện xảo về pháp giới. Thế nào là Thiện xảo về đế? Đế là bốn Đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Nghóa là quán năm uẩn này là khổ, hành khổ, hoại khổ, đây gọi là trí về Khổ Thánh đế. Biết rõ vô minh làm tăng trưởng năm uẩn, gọi là trí tập đế. Không sinh tham dục, diệt sạch các khổ gọi là trí Diệt đế. Vì diệt này mà tu tám Thánh đạo gọi là trí Đạo đế. Đây gọi là trí Thiện xảo về đế của Đại Bồ-tát. Lại có trí Thiện xảo về đế, nghóa là biết khổ vốn không sinh gọi là trí Khổ đế. Biết tập không khởi gọi là trí Tập đế. Biết rõ xưa không sinh, nay không diệt gọi là trí Diệt đế. Không có hai tướng, tu tập Trung đạo gọi là trí Đạo đế. Đó gọi là trí Thiện xảo về đế. Lại nữa, Đại Bồ-tát biết rõ khổ thọ vốn là không, không có tự tánh, chánh trí năng quán cũng không, đó gọi là trí Khổ trong khổ. Quán tập là do duyên khởi theo duyên huyễn hóa mà có, chánh trí năng quán cũng đều không, đó gọi là trí Tập trong tập. Biết tham ái nên diệt trừ, bản tánh vốn không, chánh trí hiện tiền, thanh tịnh bình đẳng, đó gọi là trí Diệt trong diệt. Biết rõ con đường thoát khổ không thể đắc, dùng chánh trí quán sát tự tánh đều không, đó gọi là trí Đạo trong đạo. Dùng chánh trí như vậy thì xa lìa các phân biệt, đó gọi là trí Thiện xảo về đế của Đại Bồ-tát. Lại biết sự sinh ra khổ, thể nó vô sinh, gọi là chân trí trong Khổ. Biết sinh tập, khởi tập không hòa hợp, gọi là chân trí trong Tập. Biết sự sinh vốn không nên không có diệt, gọi là chân trí trong Diệt. Biết con đường thoát khổ, lìa hữu lìa vô, gọi là chân trí trong Đạo. Đại Bồ-tát như thật liễu tri như vậy gọi là Thiện xảo về đế. Lại có thiện xảo về đế, nghóa là ba đế: Thế tục đế, Thắng nghóa đế, Thật tướng đế: Thế tục đế là tất cả ngôn ngữ văn tự và sự thấy nghe hay biết của thế gian. Thắng nghóa đế là diệt hết sự hoạt động của tâm, không còn văn tự, xa lìa tất cả thấy nghe hay biết. Thật tướng đế, tất cả tướng là vô tướng, vô tướng ấy là thật tướng. Với thế tục, Đại Bồ-tát không bị ô nhiễm, quán sát chân bình đẳng không trú vào một tướng nào cả. Đó gọi là trí Thiện xảo về đế của Đại Bồ-tát. Lại có hai đế là Thế đế và Chân đế. Thế đế là đối với tất cả pháp sắc, tâm… thấy như thật, biết như thật. Chân đế là lý Nhị không, thanh tịnh y nhiên, hoàn toàn tịch diệt, giáo hóa không biết chán, biết rõ mà không nắm bắt, không có pháp nào có thể đắc. Đó gọi là trí Thiện xảo về đế của Đại Bồ-tát. Lại có một đế, đó là pháp giới chân như thanh tịnh, không sinh không diệt, không thường, không đoạn, xa lìa hai bên an lạc cứu cánh. Với sinh hay vô sinh, tâm không hai tướng. Đó gọi là trí Thiện xảo về đế của Đại Bồ-tát. Thế nào là Thiện xảo về duyên khởi? Nghóa là Đại Bồ-tát quán duyên khởi lưu chuyển không gián đoạn: vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sinh, sinh duyên già, bệnh, chết, lo buồn khổ não. Bồ-tát dùng chánh trí như thật liễu tri về duyên khởi không có tánh, không sinh không diệt, tánh pháp hiện tiền không có tâm, không tạo tác, không chủ tể, không lệ thuộc. Đó gọi là trí Thiện xảo về duyên khởi của Đại Bồ-tát. Lại có nhân thiện, nhân ác, nhân động, nhân bất động, nhân sinh tử, nhân Niết-bàn. Tất cả nhân như vậy đều biết như thật. Tất cả chúng sinh lợi căn hoặc độn căn, những căn tánh như vậy, nhân như vậy, duyên như vậy, quả báo như vậy, gốc ngọn như vậy, đều biết như thật. Theo nhân duyên sinh đó mà khéo tu tập không để hao mất, đó gọi là trí Thiện xảo về duyên khởi của Đại Bồ-tát. Lại nữa, khi vọng tưởng diệt thì vô minh diệt, vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì lục nhập diệt, lục nhập diệt thì xúc diệt, xúc diệt thì thọ diệt, thọ diệt thì ái diệt, ái diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sinh diệt, sinh diệt thì lão tử, sầu khổ, ưu bi diệt. Đại Bồ-tát dùng chánh trí tuệ biết rõ duyên khởi không sinh không diệt, không chủ, không lệ thuộc, cho nên gọi là trí Thiện xảo về duyên khởi của Đại Bồ-tát. Này Từ Thị! Tất cả nhân duyên đều là giả hợp, không có tự tánh, không phải do ta, người, chúng sinh hay thọ mạng mà được sinh trưởng. Vì các hữu tình mà nói pháp như vậy, vô lượng, vô biên không cùng tận, biết rõ như thật gọi là trí Thiện xảo về duyên khởi của Đại Bồ-tát. Đại Bồ-tát liễu tri tất cả pháp duyên sinh không sinh không diệt là tướng vô tận, tướng vô tận này tức là tướng Bồ-đề. Đó gọi là trí Thiện xảo về duyên khởi của Đại Bồ-tát. Sao gọi là thiện xảo về ba đời? Nghóa là nhớ biết tất cả pháp lành ở quá khứ mà như thật tu hành, luôn xa lìa pháp bất thiện. Biết như thật rồi hồi hướng cho tất cả hữu tình. Đây gọi là trí Thiện xảo về quá khứ của Đại Bồ-tát. Lại nhớ biết tất cả tư lương căn lành Bồ-đề ở vị lai rồi đều hồi hướng về trí Nhất thiết trí. Đây gọi là trí Thiện xảo về vị lai của Đại Bồ-tát. Tất cả chánh niệm tương ưng với pháp lành, không sinh tà niệm tương ưng với pháp bất thiện. Đây gọi là trí Thiện xảo về hiện tại của Đại Bồ-tát. Lại quá khứ tất cả đều không, hiện tại, vị lai cũng đều không. Ba đời bình đẳng trụ vào Đệ nhất nghóa, là chân thật giải thoát. Lại quán phước đức và trí tuệ của tất cả chư Phật trong ba đời: quá khứ, hiện tại và vị lai mà sinh tâm tùy hỷ. Đây gọi là trí Thiện xảo về ba đời của Đại Bồ-tát. Quán quá khứ đã diệt, vị lai chưa sinh, hiện tại không dừng, đem thắng hạnh tu học về thiện pháp trong ba đời hồi hướng lên Vô thượng Bồ-đề. Hiện tại pháp lành trong một sát-na cũng không dừng, mà luôn phát tâm Bồ-đề. Đây gọi là trí Thiện xảo về ba đời của Đại Bồ-tát. Quá khứ đã diệt, vị lai chưa sinh, hiện tại không dừng. Mỗi niệm, mỗi niệm sinh diệt như vậy không ngừng, tâm luôn giác tỉnh. Đây gọi là trí Thiện xảo về ba đời của Đại Bồ-tát. Bồ-tát có thần thông tự tại chẳng nghó bàn, có thể nhớ biết tất cả căn lành đã gieo trồng trong quá khứ, các pháp lành đã tu trong hiện tại và sẽ nguyện tâm giác ngộ ở vị lai được viên mãn, tất cả đều nguyện hồi hướng lên Vô thượng Bồ-đề. Đây gọi là trí Thiện xảo về ba đời của Đại Bồ-tát. Vì muốn các hữu tình được thành thục mà nhớ lại tất cả căn lành đời quá khứ của tất cả hữu tình, tùy theo căn cơ của từng chúng sinh đó mà được thành tựu y theo lời nguyện. Tất cả hữu tình cúng dường chư Phật vị lai cũng tùy theo căn cơ của mỗi người sẽ được thành tựu. Tất cả hữu tình đời hiện tại, Đại Bồ-tát dùng thần thông thuyết pháp giáo hóa đủ cách, tùy thuận theo căn cơ của mỗi người mà thành tựu. Làm lợi ích cho mình và người trong ba đời như vậy tròn đầy diệu hạnh Bồ-đề thù thắng. Đây gọi là trí Thiện xảo về ba đời của Đại Bồ-tát. Thế nào gọi là Thiện xảo ba thừa? Nghóa là nương vào ba thừa mà cầu pháp xuất ly. Thế nào là trí thiện xảo về Thanh văn thừa của Đại Bồ-tát? Nghóa là gặp Phật ra đời, được nghe pháp Tứ đế; nhờ nghe mà ngộ lý, sinh chánh kiến, cho nên gọi là Thanh văn. Do giữ giới thanh tịnh nên viên mãn giới thân, đạt được thiền định nên viên mãn định thân. Vì thấy chân lý chắc thật nên được thân trí tuệ giải thoát, giải thoát tri kiến. Đây gọi là trí Thiện xảo về Thanh văn của Đại Bồ-tát. Thiện xảo về Thanh văn thừa nghóa là sinh tưởng nhàm chán đối với ba cõi, quán thật kỹ về pháp hữu vi là vô thường, thấy tất cả pháp đều vô ngã, vui thích hoan hỷ Niết-bàn tịch tónh. Lại quán năm uẩn như giặc thù, quán các giới như rắn độc, quán mười hai xứ như làng bỏ không. Luôn nguyện cầu pháp xuất ly, ưa thích Niết-bàn và nghó tưởng nương tựa vào Niết-bàn. Đây gọi trí Thiện xảo về Thanh văn thừa của Đại Bồ-tát. Thế nào gọi là trí Thiện xảo về Độc giác thừa của Đại Bồ-tát? Nghóa là nhàm chán hữu vi, thích pháp xuất ly, ít ham muốn, biết đủ, tránh xa các hý ác luận, thích ở nơi yên tịnh, tự nhiên giác ngộ các nhân duyên, thấy các pháp vô thường, nhờ đó mà được giải thoát. Đây gọi là trí Thiện xảo về Độc giác thừa của Đại Bồ-tát. Thế nào là trí Thiện xảo về pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát? Nghóa là công đức của Đại thừa vô lượng, vô biên, làm cho hữu tình đều ngộ nhập vào Tối thượng thừa mà không bị chướng ngại, không sinh không diệt, đạt được đại trí tuệ, tích lũy tất cả phước đức căn lành, là chỗ tất cả hữu tình thọ dụng, thành tựu các Ba-la-mật-đa, điều phục hoàn toàn các tâm hành, tăng trưởng Vô thượng Đại Bồ-đề, có oai lực lớn, đến đạo tràng, ngồi dưới cây Bồ-đề. Đem lòng đại Bi quán các căn cơ chúng sinh không lìa bỏ, không bị chướng ngại, thương xót tất cả đều bình đẳng như con một. Có thể vượt qua các sợ hãi về những cảnh giới ác, làm Phật pháp đều được hiện tiền, chiến thắng ngoại đạo ma oán, dựng cờ thắng pháp Bồ-đề, đoạn trừ các kết sử, đạt trí vô ngại của Phật Như Lai, làm tăng trưởng lợi ích trân bảo Phật pháp, tùy theo căn cơ mà làm lợi sinh không có sai lầm. Nuôi dưỡng hữu tình với lòng đại Bi rộng lớn, đầy đủ mười Lực, bốn Vô sở úy, mười tám pháp Bất cộng, tướng tốt, công đức, anh lạc trang nghiêm, không có lầm lỗi. Tất cả thiện xảo như vậy gọi là trí Thiện xảo về Đại thừa của Đại Bồ-tát. Lại có một thừa của chư Phật đầy đủ bảy pháp Phật làm Đại thừa giống như vua Chuyển luân có đầy đủ bảy báu: 1.Đại quán sát. 2.Đại tùy thuận. 3.Đại trí tuệ. 4.Đại tinh tấn. 5.Đại giác ngộ. 6.Đại phương tiện. 7.Đại sự nghiệp. Đại quán sát nghóa là Đại Bồ-tát gần gũi bạn lành nghe Chánh pháp, trong một sát-na ngộ thật tướng hiện tiền của tất cả pháp. Đại tùy thuận nghóa là Đại Bồ-tát thành tựu đại Trí, đại Định, đại Bi, làm lợi ích cho mình và người. Đại trí tuệ nghóa là Đại Bồ-tát thấy tướng chân thật, ngã, pháp đều không. Đại tinh tấn nghóa là Đại Bồ-tát trải qua vô lượng a-tăng-kỳ kiếp luôn thành tựu đại Bi vạn hạnh. Đại phương tiện nghóa là Đại Bồ-tát được nhẫn bình đẳng, không trụ trong sinh tử, không chứng Niết-bàn. Đại giác ngộ nghóa là Đại Bồ-tát chứng mười Lực, bốn Vô sở úy, mười tám pháp Bất cộng, được vô lượng, vô biên công đức. Đại sự nghiệp là Đại Bồ-tát ở trong sinh tử chứng Đại Bồ-đề, thành tựu viên mãn hằng hà sa ức sự nghiệp của Phật. Đầy đủ bảy pháp thù thắng như vậy là làm Pháp vương. Đây gọi là trí Thiện xảo về Đại thừa của Đại Bồ-tát. Thế nào là Thiện xảo về tất cả pháp của Đại Bồ-tát? Nghóa là với pháp hữu vi, vô vi, Đại Bồ-tát đều thông thạo rốt ráo. Thân, khẩu, ý làm việc thiện, thanh tịnh tăng trưởng, hồi hướng lên Vô thượng Bồ-đề. Đó gọi là trí Thiện xảo về hữu vi. Bồ-tát không tạo thân, khẩu, ý nghiệp, đầy đủ tam vô tác thanh tịnh bình đẳng, hồi hướng lên Vô thượng Bồ-đề. Đó gọi là trí Thiện xảo về vô vi. Lại có thiện xảo là đối với Bố thí, Trì giới… cho đến Thiền định. Đại Bồ-tát tu tập dũng mãnh hồi hướng lên Vô thượng Bồ-đề. Đây gọi là trí Thiện xảo về hữu vi của Đại Bồ-tát. Lại dùng Bát-nhã ba-la-mật-đa lìa tất cả tướng, tu các Ba-la-mật-đa hồi hướng lên Vô thượng Bồ-đề. Đây gọi trí Thiện xảo về vô vi của Đại Bồ-tát. Lại có thiện xảo là dùng trí phương tiện hành bốn Nhiếp pháp để giáo hóa chúng sinh. Đây gọi là trí Thiện xảo về hữu vi của Đại Bồ-tát. Lại có thiện xảo trụ trong Đệ nhất nghóa, tuy làm lợi ích chúng sinh nhưng không chấp thủ, hồi hướng lên Vô thượng Bồ-đề. Đây gọi là trí Thiện xảo về vô vi của Đại Bồ-tát. Lại có thiện xảo: liễu tri phiền não làm tăng trưởng sinh tử, liễu tri pháp Bồ-đề phần, chấm dứt sinh tử. Đây gọi là trí Thiện xảo về hữu vi của Đại Bồ-tát. Lại biết ba pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện, đối với Vô thượng Bồ-đề có lòng tin kiên cố nhất định không bao giờ thoái chuyển, bình đẳng không hai không khác. Đây gọi là trí Thiện xảo về vô vi của Đại Bồ-tát. Lại có thiện xảo hữu vi, nghóa là hoạt động trong ba cõi mà không vướng mắc ba cõi. Đây gọi là trí Thiện xảo về hữu vi của Đại Bồ-tát. Liễu tri tánh ba cõi là không, như huyễn như hóa mà không chấp giữ. Đây gọi là trí Thiện xảo về vô vi của Đại Bồ-tát. Như vậy liễu tri tánh của các pháp thanh tịnh không tướng, không tên, đầy đủ Nhất thiết trí gọi là thật trí. Vì cứu hộ tất cả chúng sinh mà phương tiện giả lập, phân biệt như vậy gọi là Quyền trí. Đối với tám pháp này, Đại Bồ-tát dùng Nhị trí một cách tự tại gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Lại liễu tri tất cả pháp tánh gọi là trí tuệ. Quán tất cả các pháp thiện ác là phương tiện; tùy thuận giải thoát, xa lìa các phân biệt, Thánh trí được hiện tiền gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Lại có thể phân biệt một cách khéo léo về các kiến và kết sử, dùng pháp Quán và Chỉ đoạn trừ tất cả chúng gọi là phương tiện; nhưng làm viên mãn đại nguyện Vô thượng gọi là trí tuệ. Diệt trừ các phiền não để được tươi mát giải thoát gọi là phương tiện; có thể giải tỏa các phiền não vì tánh không thể đắc, là trí tuệ. Đoạn diệt khổ của thân tâm, được nhẹ nhàng an vui là phương tiện, dạo chơi vườn pháp được niệm Tổng trì, lý trí hiện tiền là trí tuệ. Làm chỗ nương tựa cho các hữu tình là phương tiện; không trụ không chấp vào năng y, sở y là trí tuệ. Đạt được ba mươi bảy pháp phần Bồ-đề là phương tiện; thường ly niệm mà tương ưng với thật tướng trí tuệ, được pháp lạc lớn là trí tuệ. Hay làm tăng trưởng năm Độ là phương tiện; tùy theo sở thích của thừa nào mà đồng đưa về Phật tuệ, tự tánh chiếu sáng là trí tuệ. Có thể cứu tất cả chúng sinh ra khỏi dòng thác dữ sinh tử là phương tiện; thật không có chúng sinh nào diệt độ là trí tuệ. Xây dựng chánh hạnh là phương tiện, thấy bản tánh là không, là trí tuệ. Trừ khách phiền não là phương tiện, giác ngộ hoàn toàn về tánh trí không nhiễm là trí tuệ. Làm mà không thấy làm là phương tiện, giác ngộ các pháp không là trí tuệ. Không chấp trước ba cõi là phương tiện, khiến các Bồ-tát hiểu rõ Đệ nhất nghóa là trí tuệ. Giáo hóa chúng sinh tu hành các việc lành là phương tiện; tất cả Hiền thánh cùng một pháp giới là trí tuệ. Tùy theo căn tánh của chúng sinh mà diệt trừ các phân biệt hư vọng là phương tiện; thấy xưa nay vốn thanh tịnh, tịch diệt, không sinh là trí tuệ. Thường dùng mọi cách để đoạn diệt si ám là phương tiện; đi sâu vào thiền định nhưng không trụ vào thiền định là trí tuệ. Giáo hóa dẫn dắt hàng Nhị thừa là phương tiện, đoạn trừ pháp chấp, nhập Phật tri kiến là trí tuệ. Theo căn tánh của chúng sinh mà làm cho họ được sự thắng giải là phương tiện; hiểu rõ căn tánh đều không là trí tuệ. Vượt qua cảnh giới hư vọng là phương tiện; khai mở thắng nghóa đế là trí tuệ. Quyền xảo tuyên thuyết bốn Đế là phương tiện; biết rõ những việc tu hành không thể đắc là trí tuệ. Siêng cầu công đức với bi nguyện vô tận là phương tiện; biết rõ chân ngụy, không đến không đi, pháp giới bình đẳng là trí tuệ. Tùy theo duyên mà giáo hóa chỉ dạy cho chúng sinh là phương tiện, hiểu rõ tánh phiền não xưa nay là giải thoát, đó là trí tuệ. Biết kết sử do phân biệt hư vọng là phương tiện; biết rõ tâm chúng sinh xưa nay tịch tónh là trí tuệ. Siêng năng tu tập đoạn trừ những tập khí tùy miên là phương tiện, tâm hành sai biệt của tất cả chúng sinh, tám vạn bốn ngàn cửa trần lao là cửa Phật tuệ, gọi là trí tuệ. Khéo léo siêng tu Thanh văn, Duyên giác để dần dần đi vào Phật đạo là phương tiện; Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa như vậy, mau chứng Vô thượng Bồ-đề. Đó gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Khi Đức Phật nói Bát-nhã ba-la-mật-đa này, trong hội có ba mươi hai ức Đại Bồ-tát chứng Vô sinh pháp nhẫn, bảy vạn tám ngàn chúng sinh phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Đại chúng trong hội này dùng đủ loại hoa thơm đẹp lạ, tàn lọng, cờ xí, đầy đủ các đồ trang sức hương thơm hoa Chiêm-bặc để cúng dường Bát-nhã ba-la-mật-đa, đại chúng rải cúng Như Lai, Đại Bồ-tát Từ Thị và các Bồ-tát. Trên hư không chư Thiên trổi nhạc trời ca tụng, khen ngợi Như Lai trong vô lượng kiếp thành tựu Bồ-đề, được vô lượng công đức. Bấy giờ Đức Phật dạy Đại Bồ-tát Từ Thị cùng đại chúng: –Các ông hỏi Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này là pháp môn công đức vô tận của Đại thừa không thể nghó bàn. Nghe kinh này, đại chúng trong hội kinh này cũng sẽ tròn đầy công đức như vậy. Nếu ai nghe kinh này có tâm tin hiểu, thọ trì, đọc tụng, ghi chép, giải nói thì những người ấy được lợi ích vô lượng không thể nghó bàn, không thể ví dụ, không tính đếm được. Khi ấy Đức Thế Tôn cởi y trao cho Từ Thị và nói: –Lành thay, lành thay! Này thiện nam, ông hỏi Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu như vậy đã làm cho tất cả mười phương chư Phật Như Lai trong đều tùy hỷ. Nhận y Phật rồi, Bồ-tát Từ Thị đội lên đầu, cung kính thưa: –Bạch Thế Tôn! Y này là chân thân bảo tháp của Như Lai. Tất cả Trời, Rồng, Nhân phi nhân đều phải làm lễ, đi nhiễu bên phải, cung kính cúng dường. Bồ-tát Từ Thị vừa nói xong, bỗng nhiên đại chúng thấy đủ thứ hoa, vòng hoa báu, cờ xí, tàn lọng từ mười phương đến ở hư không ngay trên đỉnh đầu Đức Phật, trong chốc lát che khắp cả đại hội, Từ thị Bồ-tát và cả đại chúng. Từ trong những phẩm vật cúng dường như tàng lọng, cờ xí… phát ra âm thanh khen ngợi: –Lành thay, lành thay! Bồ-tát Từ Thị đã hỏi nghóa như vậy, thâm tâm chúng ta phải tùy hỷ cúng dường. Khi ấy Xá-lợi-phất bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Tất cả tàn lọng, vòng hoa, cờ xí… này từ đâu mà phát ra âm thanh khen ngợi tùy hỷ như vậy? Đức Phật dạy: –Này thiện nam! Trong đời quá khứ, Bồ-tát Từ Thị đã tu hành hạnh Bồ-tát, độ thoát vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng sinh nên nay được trụ vào địa Bồ-tát không thoái chuyển. Hoặc trong Thanh văn, Độc giác, Trời, Người, do nhân duyên kiếp trước mà các chúng sinh ấy ở mười phương thế giới đều dùng đủ loại hoa, vòng hoa, tàn lọng, cờ xí cúng dường kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa và Phật Như Lai, khen ngợi công đức của Từ Thị, cho nên có âm thanh ấy. Đức Phật nói kinh này xong, tất cả chúng hội hướng đến chỗ Bồ-tát Từ Thị trân trọng nói: –Hôm nay chúng ta được lợi ích lớn, được gần gũi cúng dường vị ấy, được ở chỗ Đức Thế Tôn nghe kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa này. Xá-lợi-phất bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Các chúng sinh này được nghe danh hiệu Phật và Bồ-tát Từ Thị còn được vô lượng, vô biên công đức, huống gì gần gũi trước Phật, được nghe kinh này và tin hiểu, thọ trì. Đức Thế Tôn dạy Xá-lợi-phất: –Thiện nam, thiện nữ nào trong một kiếp đem vàng bạc, lưu ly, san hô, hổ phách, trân châu, ma-ni, đầu, mắt, tủy não… để bố thí mà không tiếc nuối và giữ gìn giới cấm, nhẫn nhục, tinh tấn tu tập thiền định. Nếu người nào nghe kinh này, dù chỉ một kệ bốn câu thì công đức thành tựu Đại thừa Bát-nhã ba-la-mật-đa của người này thắng vượt công đức trên. Nếu xa lìa pháp này, không thể thành tựu các Ba-la-mật-đa. Này Xá-lợi-phất! Do đó mà thiện nam, thiện nữ nào nghe kinh điển này mà tin hiểu, thọ trì, suy nghó tu tập, ta nói người ấy mau thành Vô thượng Bồ-đề. Nên biết người ấy đã được pháp ấn Bồ-đề của chư Phật Như Lai. Xá-lợi-phất! Khi nói kinh này, nếu có Bồ-tát phát nguyện như vầy: “Nay con sẽ trì tụng kinh này và vì người khác giảng nói”, người ấy thường có tâm niệm như vậy, thì đó là viên mãn Bố thí ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì trong tất cả các sự bố thí, bố thí pháp là tối thắng. Nếu trì kinh này, giữ gìn phòng hộ pháp thân tức là viên mãn Trì giới ba-la-mật-đa. Thuận với Vô sinh nhẫn gọi là Nhẫn nhục ba-la-mật-đa. Như lý, không giải đãi là Tinh tấn ba-la-mật-đa. An trú trong tịch diệt là Thiền định ba-la-mật-đa. Tự nhiên được trí tuệ, không nhờ vào duyên sinh mà giác ngộ, gọi là Trí tuệ ba-la-mật-đa. Này Xá-lợi-phất! Nếu có người thọ trì kinh này, dù chỉ một kệ bốn câu thì mau viên mãn Vô thượng Bồ-đề. Nếu Bồ-tát thọ trì kinh này, đọc tụng, ghi chép, hoặc giữ gìn kinh này thì sinh ở đâu cũng đều gặp Phật. Nên biết người ấy đã được tất cả pháp tàng của Như Lai. Nếu người thọ trì kinh điển này, tuy hình tướng có sai khác nhưng tâm Bồ-đề không có hai tướng. Vì sao? Này Xá-lợi-phất! Vì kinh này là pháp ấn thật tướng Bồ-đề không thoái. Do đó nên biết, các Bồ-tát tùy thuận theo kinh này thì được Vô thượng Bồ-đề không thoái chuyển. Nếu Bồ-tát tùy thuận kinh này là tùy thuận với tất cả Phật pháp. Khi ấy, Hộ thế Tứ Thiên vương cùng các Đại vương quyến thuộc đều chắp tay cung kính tôn trọng, nhất tâm giữ chánh niệm, thưa: –Bạch Thế Tôn! Tứ Thiên vương chúng con nay sẽ giữ gìn Chánh pháp của Như Lai. Nếu thiện nam, thiện nữ nào trì kinh này thì người đó là Pháp sư, con sẽ tôn thờ, cung kính cúng dường như chư Phật không khác. Vì sao? Vì tất cả chư Phật và pháp Đại thừa đều từ kinh này mà ra. Lúc ấy, trời Đế Thích bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Con tuy theo Phật, được nghe nhiều kinh nhưng chưa từng được nghe kinh thâm sâu này. Con cùng chúng trời sẽ bảo vệ kinh này. Nếu kinh này có mặt ở thành ấp, xóm làng, rừng núi, dưới gốc cây, nơi thanh vắng… mà có người thọ trì, đọc tụng, ghi chép, giải nói, thì chư Thiên chúng con sẽ làm thính chúng. Nhờ kinh này mà sắc lực của quốc vương, hoàng hậu, hoàng phi, quyến thuộc nơi đó ngày càng dồi dào, không còn lo buồn gì cả. Chúng con luôn cung cấp, ủng hộ đại thần, khanh tướng, tất cả nhân dân và người thuyết pháp, khiến cho họ không có lo âu. Chúng con làm cho thời tiết của các quốc giới được thuận lợi, có thứ tự, không trái ngược, tất cả địch thù không thể xâm lăng làm hại, lúa má được mùa nhân dân an lạc, làm tăng thêm sắc lực của Pháp sư biện tài vô ngại; lại khiến cho Pháp sư ở trong chúng được Đại vô úy, giống như Sư tử vương thuyết pháp cho mọi người. Khi ấy, Đức Thế Tôn bảo Thiên đế: –Lành thay, lành thay! Này Kiều-thi-ca, ông ủng hộ kinh này và Pháp sư không còn nguy nạn. Ông nên biết rằng, nếu ai ủng hộ Pháp sư thì người đó là hộ pháp. Người hộ pháp là ủng hộ đất nước và nhân dân. Bấy giờ, các Đại phạm Thiên vương ở thế giới Tố-ha bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Con và chúng trời Phạm thiên bỏ sự khoái lạc thiền định, thích theo đến chỗ có kinh điển này và Pháp sư. Con sẽ đến đó hiện ra bốn tướng để Pháp sư biết có chúng con đến: 1.Thấy ánh sáng lớn. 2.Nghe có mùi thơm lạ. 3.Làm cho Pháp sư đó được biện tài vô ngại. 4.Làm cho thính chúng nhất tâm chánh niệm. Do bốn tướng này mà biết có con ở trong hội, con sẽ làm người hộ pháp để nghe Chánh pháp. Khi ấy, ma vương Ba-tuần thưa: –Bạch Thế Tôn! Thế Tôn nói kinh này làm cho cung điện của con không còn màu sắc ánh sáng, bị chấn động, không an ổn, thế lực bị suy hao. Đức Phật nói: –Các vị Đại Bồ-tát nghe kinh này, kinh này ở chỗ nào mà có thiện nam, thiện nữ thọ trì cho đến một kệ bốn câu, khi lọt vào tai thì tin hiểu thọ trì; nên biết người này đã được thọ ký Vô thượng Bồ-đề, sẽ kế thừa ngôi vị Phật. Ma vương Ba-tuần thưa: –Bạch Thế Tôn! Thiện nam, thiện nữ đó nhờ thọ trì kinh này mà làm cho oai đức, thế lực của quyến thuộc con bị tiêu diệt. Như vậy, nếu có người nào thọ trì, đọc tụng, ghi chép, giải nói kinh này, dù người đó ở đâu, chúng con nguyện luôn ủng hộ, không bao giờ khởi một tâm niệm làm chướng ngại. Đức Thế Tôn dạy Xá-lợi-phất: –Đời vị lai ông nên thọ trì, đọc tụng, lưu bố kinh này để cho Chánh pháp được tồn tại lâu dài. Xá-lợi-phất thưa: –Xin vâng, bạch Thế Tôn! Con sẽ thọ trì. Phật dạy A-nan: –Ông nên thọ trì, đọc tụng, lưu bố kinh này. A-nan thưa: –Xin vâng, bạch Thế Tôn! Con sẽ thọ trì. Tuy nhiên, chúng con luôn phụng hành nhưng không bằng các vị Bồ-tát lưu bố rộng rãi. Phật dạy A-nan: –Đừng lo sợ kinh này không được lưu bố, vì vô số Đại Bồ-tát trong đại hội này đều nguyện lưu truyền. Trong hội có sáu mươi câu-chi Đại Bồ-tát vì muốn bảo hộ, giữ gìn kinh điển này liền đứng dậy thưa: –Bạch Đại Thánh Thế Tôn! Chúng con thề sẽ lưu bố kinh này khắp cả mười phương thế giới. Thế giới Tố-ha đã có Từ Thị tuyên nói kinh này không cho gián đoạn. Sau khi Phật diệt độ năm trăm năm, có chúng sinh nào vừa mới nghe kinh này đã lọt vào tai thì biết người đó được Phật thọ ký. Ai thọ trì kinh này, dù một kệ bốn câu, nên biết những người đó đều do oai thần của Đại Bồ-tát Từ Thị kiến lập. Đức Thế Tôn dạy chúng Bồ-tát: –Lành thay, lành thay! Này các thiện nam tử, ở chỗ ta, các ông đã ủng hộ kinh này nên biết rằng, các ông cũng phải ủng hộ kinh này ở vô lượng hằng sa cõi nước chư Phật. Khi đó Đại Bồ-tát Từ Thị quỳ chắp tay thưa: –Bạch Đại Thánh Thế Tôn! Con hỏi kinh này là xúc phạm đến Như Lai. Nay trước Phật con xin chí thành sám hối, cúi xin Ngài rủ lòng Từ bi thương xót, tha thứ lỗi lầm cho con và các vị Bồ-tát đây cũng xin sám hối nhận tội như con. Phật dạy: –Này Từ Thị! Ông đã được Bát-nhã ba-la-mật-đa với nghóa lý thâm sâu, với pháp Đại thừa không có nghi ngờ, với thân, khẩu, ý không lầm lỗi, tất cả chư Phật đều ấn khả cho ông. Pháp của ông nói ra cũng như pháp của ta đã nói. A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Kinh này tên là gì? Và chúng con phụng trì thế nào? Phật dạy: –Kinh này tên là Quá Khứ Hiện Tại Vị Lai Đại Bồ-tát Ma-ha-tát Đại Thừa Lý Thú, cũng là mắt của tất cả chúng sinh, cũng là mẹ của chư Phật, cho nên kinh này tên là Đại Thừa Bồ-tát Lý Thú Lục Ba-la-mật-đa Vô Lượng Vô Biên Vô Tận Nghóa Kinh. Với danh tự như vậy, ông nên thọ trì. Được nghe Đức Phật nói xong, Cụ thọ A-nan, tất cả đại Thanh văn, Đại Bồ-tát Từ Thị và tất cả Đại Bồ-tát, tất cả thế gian Trời, Rồng, Dạ-xoa, A-tu-la, Càn-thát-bà, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân, cùng Đại Bồ-tát Vô Tận Tạng ở thế giới Bất thuấn đều hoan hỷ tin thọ phụng hành.