<經 id="n231">KINH THẮNG THIÊN VƯƠNG BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT Hán dịch: Đời Trần, Vương tử Nguyệt-bà-thủ-na, người nước Ưu-thiền-ni. <卷 id="82881770">Quyển 1 <詞 id="82881771">Phẩm 1: THÔNG ĐẠT Tôi nghe như vầy: Một thời Đức Phật ở tại núi Kỳ-xà-quật thuộc thành lớn Vương xá, cùng với đại chúng Tỳ-kheo bốn vạn hai ngàn người, đều là A-la-hán, các lậu hết hẳn, công hạnh đã mãn, đã bỏ gánh nặng, được tự lợi và đoạn hết kết sử, tâm hoàn toàn giải thoát, tự tại giống như bậc đại long; chỉ có A-nan còn trong địa vị hữu học với quả Tu-đà-hoàn. Tên của các vị là Tịnh mạng A-nhã Kiều-trần-như, Ma-ha Ca-diếp, Kiều-phạm-ba-đề, Bạc-câu-la, Ly-bà-đa, Tất-lăng-già-bà-tha, Đại trí Xá-lợi-phất, Ma-ha Mục-kiền-liên, Tu-bồ-đề, Phú-lâu-na Di-đa-la-ni Tử, A-ni-lâu-đà, Ma-ha Ca-chiên-diên, Ưu-ba-ly, La-hầu-la…, bốn vạn hai ngàn người như vậy. Bậc Đại Bồ-tát cũng có bảy vạn hai ngàn người đều đã thông suốt pháp tánh thâm sâu, khéo tùy thuận, hóa độ các loài một cách bình đẳng và là bạn lành tri thức của tất cả chúng sinh, được vô ngại Đà-la-ni, có thể truyền bá pháp luân không thoái chuyển, từng cúng dường vô lượng chư Phật, là bậc Nhất sinh bổ xứ của cõi Phật kia vì pháp mà đến đây tu tập; hộ trì pháp tạng không cho đoạn dứt hạt giống Tam bảo; là con Pháp vương sẽ truyền bá pháp luân của Phật, thấu rõ cảnh giới thâm sâu của Như Lai, tuy sống ở đời mà không bị pháp thế gian làm ô nhiễm. Tên của các vị là Bồ-tát Bảo Tướng, Bồ-tát Bảo Ấn, Bồ-tát Bảo Chưởng, Bồ-tát Bảo Quan, Bồ-tát Bảo Kế, Bồ-tát Bảo Tích, Bồ-tát Bảo Hải, Bồ-tát Bảo Diễm, Bồ-tát Bảo Tràng, Bồ-tát Kim Cang Tạng, Bồ-tát Kim Tạng, Bồ-tát Bảo Tạng, Bồ-tát Đức Tạng, Bồ-tát Tịnh Tạng, Bồ-tát Như Lai Tạng, Bồ-tát Trí Tạng, Bồ-tát Nhật Tạng, Bồ-tát Định Tạng, Bồ-tát Liên Hoa Tạng, Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt, Bồ-tát Phổ Hiền, Bồ-tát Quán Thế Âm, Bồ-tát Quán Nguyện, Bồ-tát Phổ Âm, Bồ-tát Phổ Nhãn, Bồ-tát Liên Hoa Nhãn, Bồ-tát Quảng Nhãn, Bồ-tát Phổ Hành, Bồ-tát Phổ Giới, Bồ-tát Trí Ý, Bồ-tát Liên Hoa Ý, Bồ-tát Thắng Ý, Bồ-tát Thượng Ý, Bồ-tát Kim Cang Ý, Bồ-tát Sư Tử Du Hý, Bồ-tát Sư Tử Hống, Bồ-tát Đại Âm Vương, Bồ-tát Diệu Âm, Bồ-tát Vô Nhiễm, Bồ-tát Nguyệt Quang, Bồ-tát Nhật Quang, Bồ-tát Trí Quang, Bồ-tát Trí Đức, Bồ-tát Hiền Đức, Bồ-tát Hoa Đức, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi. Bồ-tát Bạt-đà-bà-la làm Thượng thủ cho mười sáu Hiền só; Bồ-tát Di-lặc làm thượng thủ cho hiền kiếp Bồ-tát; Tứ Thiên vương làm thượng thủ cho cõi trời Tứ thiên vương; Đế Thích làm thượng thủ cho cõi trời Tam thập tam, Tu-dạ-ma vương làm thượng thủ cho chư Thiên Dạ-ma; Đâu-suất-đà vương làm thượng thủ cho cõi trời Đâu-suất-đà; Thiện Hóa vương làm thượng thủ cho cõi trời Hóa lạc; Tự Tại vương làm thượng thủ cho cõi trời Tha hóa tự tại; Đại Phạm vương làm thượng thủ cho các Phạm thiên, Ma-hê-thủ-la làm thượng thủ cho cõi trời Thủ-đà-bà-sa; lại có các A-tu-la vương, A-tu-la vương Sa-lợi, A-tu-la vương La-hầu…, vô lượng trăm ngàn các đại A-tu-la vương như vậy. Lại có các Long vương, Long vương A-nậu Đại Trì, Long vương Ma-na-tư, Long vương Sa-già-bà, Long vương Bà-tu-cát, Long vương Đức-xoa-ca mỗi vị đều đem theo vô lượng trăm ngàn quyến thuộc, đến kín hết núi Kỳ-xà-quật, bao quanh khắp bốn mươi do-tuần và trên hư không, không còn chỗ hở; Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân… một lòng chắp tay cung kính Đức Như Lai. Khi ấy, từ giữa hai chân mày, Đức Như Lai phóng ra một luồng hào quang lớn, chiếu khắp mười phương vô lượng thế giới; lại trở về đến chỗ Phật, nhiễu quanh bên hữu ba vòng, rồi thâu vào giữa hai chân mày. Cả trăm ngàn đại chúng, trước sau nhiễu quanh Đức Thế Tôn, cung kính cúng dường, tôn trọng khen ngợi. Phật bảo: –Cách đây mười hằng hà sa thế giới về phương Đông, có cõi Phật tên là Trang nghiêm, Đức Phật hiệu là Phổ Quang Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Hiện đang ở đó nói chánh pháp Nhất thừa cho các Đại Bồ-tát; cõi Phật đó còn không có tên Thanh văn, Bích-chi-phật, huống nữa lại có người tu pháp ấy; các chúng Bồ-tát đều không thoái chuyển đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; chúng sinh ở cõi ấy không dựa vào sự ăn uống mà chỉ nhờ vào thiền định; ánh sáng của mặt trời, mặt trăng và sao đều không thể hiện, chỉ có hào quang của Đức Phật chiếu sáng cõi nước đó; không có các gò núi; đất đai bằng phẳng như lòng bàn tay. Có một vị Bồ-tát tên là Ly Chướng cùng với trăm ngàn Bồ-tát đến chỗ Phật đó, trịch bày vai hữu, quỳ gối hữu, chắp tay đảnh lễ Phật: –Bạch Đức Thế Tôn! Do nhân duyên gì có hào quang như vậy chiếu sáng cõi nước này. Khi đó Đức Phật Phổ Quang Như Lai bảo Đại Bồ-tát Ly Chướng: –Này thiện nam! Cách đây mười hằng hà sa thế giới, về phương Tây, có cõi Phật tên là Ta-bà, Đức Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn đang muốn nói Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật cho bậc Đại Bồ-tát; do nhân duyên đó, nên Đức Phật phóng ra hào quang này. Khi ấy Bồ-tát Ly Chướng bạch Phật: –Con đang muốn đến cõi Ta-bà đảnh lễ, cung kính cúng dường Đức Thích-ca Như Lai để được nghe giảng chánh pháp. Đức Phật bảo: –Này thiện nam! Nay chính là lúc! Bấy giờ Bồ-tát Ly Chướng được sự cho phép của Đức Phật, liền cùng với vô lượng Bồ-tát và quyến thuộc đến núi Kỳ-xà-quật, ở cõi Ta-bà đảnh lễ sát chân Phật, nhiễu quanh bên hữu ba vòng, rồi ngồi qua một bên. Phật dạy: –Cách đây mười hằng hà sa thế giới về phương Nam, có cõi Phật tên là Thanh tịnh hoa, Đức Phật hiệu là Nhựt Quang đầy đủ mười danh hiệu, Bồ-tát tên Nhựt Tạng. Cách đây mười hằng hà sa thế giới về phương Tây, có cõi Phật tên là Bảo Hoa, Đức Phật hiệu là Công Đức Quang Minh, đầy đủ mười danh hiệu, Bồ-tát tên Công Đức Tạng. Cách đây mười hằng hà sa thế giới về phương Bắc, có cõi Phật tên là Thanh tịnh, Đức Phật hiệu là Tự Tại Vương, Bồ-tát tên là Quảng Văn. Cách đây mười hằng hà sa thế giới về phương Đông nam, có cõi Phật tên là Hỏa diệm, Đức Phật hiệu là Cam Lộ Vương, Bồ-tát tên Bất Thoái Chuyển. Cách đây mười hằng hà sa thế giới về phương Tây nam, có cõi Phật tên là Công đức thanh tịnh, Đức Phật hiệu là Trí Cự, Bồ-tát tên là Đại Tuệ. Cách đây mười hằng sa thế giới về phương Tây bắc, có cõi Phật tên là Duyệt ý, Đức Phật hiệu là Diệu Âm Vương, Bồ-tát tên là Công Đức Tụ. Cách đây mười hằng hà sa thế giới về phương Đông bắc, có cõi Phật tên là Tuệ trang nghiêm, Đức Phật hiệu là Trí Thượngï, Bồ-tát tên là Thường Hỷ. Cách đây mười hằng hà sa thế giới về phương Trên, có cõi Phật tên là Bất động, Đức Phật hiệu là Kim Cang Tướngï, Bồ-tát tên là Bảo Tràng. Cách đây mười hằng sa thế giới về phương Dưới, có cõi Phật tên là Nguyệt quang minh, Đức Phật hiệu là Kim Cang Bảo Trang Nghiêm Vương. Bồ-tát tên là Bảo Tín. Bấy giờ trong đại chúng có một vị Thiên vương tên là Bát-bà-la, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch bày vai hữu, quỳ gối hữu, chắp tay cúi đầu đảnh lễ, bạch Phật: –Bạch Đức Thế Tôn! Con nay muốn hỏi, nếu được Đức Thế Tôn cho phép con mới dám tỏ bày lòng nghi hoặc. Khi ấy Phật bảo Thắng Thiên vương: –Này đại vương! Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri sẽ tùy theo chỗ nghi của ông hỏi mà giảng giải: Thắng Thiên vương hớn hở vui mừng được điều chưa từng có, liền bạch Phật: –Bạch Đức Thế Tôn! Vì sao bậc Đại Bồ-tát tu học chỉ một pháp mà thông suốt được tất cả pháp? Phật bảo Thắng Thiên vương: –Này đại vương! Lành thay, lành thay! Câu hỏi rất hay, ông hãy lắng nghe suy nghó kỹ; với câu hỏi của đại vương, ta sẽ phân biệt, giải thích rõ. –Lành thay, thưa Thế Tôn, con xin muốn nghe! Đức Phật bảo Thắng Thiên vương: –Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát tu học một pháp mà thông suốt tất cả pháp, đó có nghóa là Bát-nhã ba-la-mật. Bậc Đại Bồ-tát tu học Bát-nhã ba-la-mật thì có khả năng thông suốt được Bố thí ba-la-mật, Trì giới ba-la-mật, Nhẫn nhục ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Tónh lự ba-la-mật, Bát-nhã ba-la-mật, Phương tiện thiện xảo ba-la-mật, Nguyện ba-la-mật, Lực ba-la-mật, Trí ba-la-mật. Này đại vương! Vì sao Đại Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật và thực hành Bố thí ba-la-mật? Vì Đại Bồ-tát, với tâm thanh tịnh, không có điều mong cầu; nói pháp cho người khác mà không cầu danh lợi, chỉ mong làm cho họ hết khổ; không thấy mình nói mà cũng chẳng thấy có người nghe, tự tánh xa lìa nên không hai không khác; đó gọi là Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật và thực hành Bố thí ba-la-mật. Đại Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật thực hành Bố thí ba-la-mật không sợ sệt, nên xem các chúng sinh như cha mẹ, anh em thân thiết, làm cho tất cả chúng đều thân cận, gần gũi nhau. Vì sao? Vì từ vô thỉ đến nay, bị trôi lăn trong sáu đường nhưng đều là những người thân thích của ta. Hoặc có chúng sinh ở nơi nguy hiểm sợ sệt, Đại Bồ-tát vẫn đem thân mạng này để cứu vớt cho họ thoát khỏi, chứ không phải gây thêm sợ hãi, không thấy ta bố thí vô úy; không thấy người nhận vì tự tánh xa lìa nên không hai, không khác. Đại Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật, hành Bố thí ba-la-mật giúp đỡ chúng sinh; tùy theo chúng sinh cần vật lợi dưỡng gì, thì Đại Bồ-tát đều bố thí, làm cho họ thọ được mười điều thiện; cũng không thấy mình bố thí điều thiện và người khác nhận thí vì tự tánh xa lìa nên không hai, không khác. Đại Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật. Hành Bố thí ba-la-mật không mong cầu quả báo; hễ khi thực hành bố thí thì không mong cầu quả báo, bởi pháp của Bồ-tát là như vậy; tự mình thực hành bố thí mà không hề thấy mình bố thí và không nghó đến quả báo bố thí vì tự tánh xa lìa nên cũng không hai, không khác. Đại Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật với tâm đại Bi thực hành Bố thí ba-la-mật là thấy các chúng sinh nghèo cùng, già, bệnh, không người cứu giúp, nên sinh tâm đại Bi mà phát thệ nguyện: “Ta chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác sẽ làm nơi cho các chúng sinh trở về nương tựa, dùng ít căn lành để hồi hướng Bồ-đề, luôn vì chúng sinh nên không có phân biệt. Ta là người cứu độ và là người nhận cứu độ; tự tánh xa lìa, nên không hai không khác.” Đại Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật với lòng cung kính thực hành Bố thí ba-la-mật là nên tùy theo nhu cầu của người khác. Đại Bồ-tát tự mình lấy vật trao cho họ, nhưng không làm cho tâm cung kính của họ mệt mỏi, không thấy mình được cung kính và không thấy sự cung kính của người khác, nên tự tánh xa lìa không hai không khác. Đại Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật với lòng tôn trọng thực hành Bố thí ba-la-mật, nghóa là đối với chúng sinh đều phát khởi tưởng đó như là Sư tăng hay Cha mẹ, mà đem lòng tôn trọng, chắp tay cung kính, nếu không có của cải để bố thí thì bằng lời nói tốt đẹp; không thấy mình là người tôn trọng và không thấy người khác được trọng, nên tự tánh xa lìa không hai không khác. Đại Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật với lòng cúng dường thực hành Bố thí ba-la-mật, nghóa là nếu thấy chùa tháp thì nên cúng dường hương hoa, đèn, dầu và lau chùi, hoặc thấy tôn tượng sứt bể, kinh điển rách nát thì nên sửa chữa tu bổ lại, nên cúng dường bốn việc cho chư Tăng; không thấy ta là người cúng dường và người nhận cúng dường, nên tự tánh xa lìa không hai không khác. Đại Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật, hành Bố thí ba-la-mật không nương tựa, không suy nghó thế này: “Do việc bố thí này, nguyện được sinh lên cõi trời hoặc mong làm vua cõi trời, nguyện sinh làm người hoặc làm vua cõi người. Cho đến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cũng không mong giữ lấy vì vô sở đắc, cho nên gọi là Đại Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật thông suốt Bố thí ba-la-mật.” Này đại vương! Đại Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật nên thực hành Trì giới ba-la-mật và phải suy nghó như thế này: “Đức Phật dạy Ba-la-đề-mộc-xoa trong A-hàm và trong Luật tạng, Đại Bồ-tát nên học, không thấy tướng của giới và mình được trì giới, lại cũng không chấp vào giới, chẳng chấp thấy có giới và người trì giới.” Đại Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật phải suy nghó như thế này: “Đạt được Chánh đẳng Chánh giác không chỉ trì giới mà được, mà phải nên học tất cả giới hạnh của Bồ-tát, vì tự tánh của giới thanh tịnh, vắng lặng, chẳng sanh, tự tánh xa lìa.” Đại Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật phải suy nghó thế này: “Vì sao trì giới diệt được phiền não? Vì ba thứ phiền não tham, sân, si lại chia làm ba bậc thượng, trung, hạ, cần phải biết cách đối trị. Người tham dục nhiều thì phải tu quán Bất tịnh, quán đầy đủ ba mươi sáu vật trong thân. Người nhiều sân hận thì phải tu quán Từ bi. Người nhiều ngu si thì phải tu quán Nhân duyên, không thấy pháp chủ thể quán và pháp đối tượng để quán vì tự tánh xa lìa, không hai không khác.” Đại Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật phải suy nghó như vầy: “Vì sao Đại Bồ-tát xa lìa sự suy nghó không chân chánh? Vì Đại Bồ-tát không phát sinh tâm đó. Ta thực hành tịch tónh, thực hành xa lìa, thực hành không; các Sa-môn, Bà-la-môn khác ở trong ồn náo, không thích thực hành hạnh không, không thấy có hai, không có khác; biết tự tánh xa lìa, liền tiêu diệt tà niệm.” Đại Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật, tuy biết xa lìa các pháp mà cũng phải sợ nghiệp tội thâm sâu. Như lời Phật dạy: Nên giữ gìn Tịnh giới và tu tập các công đức cho đến Bát-nhã ba-la-mật. Người ít thiện pháp hoặc không có thiện pháp thì không nên ở chung. Đức Thế Tôn dạy: –Giống như thuốc độc nhiều hay ít đều tai hại. Đại Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật thường sinh lòng lo sợ tin tưởng và thực hành hợp nhau. Đại Bồ-tát ở những nơi trống vắng, đi bộ một mình, không có bạn; nếu có Sa-môn, Bà-la-môn…, đem vàng bạc, lưu ly, trân châu, mã não, hổ phách, san hô, xa cừ, bạch ngọc gởi thì Bồ-tát không phát sinh tâm tham trước, không có tâm giữ lấy mà phải suy nghó thế này: “Đức Thế Tôn dạy, thà rằng tự cắt thịt mình mà ăn nhưng đối với của cải của người khác không cho, thì không được lấy.” Đại Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật, trì giới phải vững chắc; nếu ma và quyến thuộc của ma đem hình sắc xinh đẹp đến thử thách Bồ-tát thì tâm của vị ấy không lay động mà phải suy nghó như thế này: “Đức Thế Tôn dạy, tất cả các pháp như mộng huyễn, vì tự tánh xa lìa không hai không khác.” Đại Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật phải lo giữ gìn giới mà không mong cầu sinh làm người, làm trời hoặc làm vua cõi người cõi trời, thân lìa ba lỗi, miệng không còn bốn lỗi, ý khỏi ba tội; trì giới như vậy mà không thấy mình trì và không thấy giới tướng, tự tánh xa lìa, không hai, không khác. Đó gọi là Đại Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật thông suốt Trì giới ba-la-mật. Này đại vương! Đại Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật thực hành Nhẫn nhục ba-la-mật, nghóa là Đại Bồ-tát với thâm tâm phải thường phát sinh nhẫn nhục, vì thế lo buồn phiền não đều không còn, cũng học pháp nhẫn nhục ở ngoại duyên là khi người khác đánh đập chửi mắng Bồ-tát cũng không sinh giận hờn. Đó là pháp nhẫn phải học. Như lời dạy của Thế Tôn, tánh chân thật rất là sâu xa, không có người, không có pháp và không sinh tịch tónh, đó gọi là Niết-bàn. Nghe nói như vậy tâm không lo sợ mà phải suy nghó như thế này: “Không học pháp đó thì làm sao có thể chứng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; quán sâu xa ba độc như thế thì tham, sân do nơi nào phát sinh; nhân duyên nào sinh và nhân duyên nào diệt; quán sát như thế thì không thấy pháp sinh và pháp được sinh; không thấy pháp diệt và pháp bị diệt; tâm nhẫn nhục liên tục như vậy không dứt; ở trong sáu thời không có xen hở, không kịp chọn cảnh giới. Từ cha mẹ cho đến quốc vương, ta đều phải tu nhẫn nhục; ngoài ra nếu người khác dùng oai lực gây hại thì Bồ-tát thực hành nhẫn nhục, thì nên đền đáp lại bằng ân đức, mà không vì việc danh lợi, nhân nghóa, xấu hổ, sợ sệt… Đại Bồ-tát hành nhẫn nhục, nghóa là nếu có người đánh đập, chửi mắng, hãm hại rất thậm tệ nhưng tâm của Bồ-tát vẫn không lay động. Đại Bồ-tát nếu làm quốc vương, làm vua…, mà có người nghèo cùng chửi mắng, nhục mạ thì không cho rằng mình có uy quyền của pháp vương ra lệnh trừng trị mà phải suy nghó như thế này: “Ta từ xưa ở trước các Đức Thế Tôn thường phát đại thệ nguyện: Đối với tất cả chúng sinh, con đều cứu độ ra khỏi bể khổ, làm cho chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nay nếu sinh giận hờn thì trái với thệ nguyện. Giống như thầy thuốc phát thệ nguyện như thế này: Ở thế gian nếu có bệnh mù thì ta đều chữa hết, nhưng nếu mình cũng mù thì đâu chữa được bệnh cho người khác. Như vậy Bồ-tát muốn diệt trừ vô minh mê mờ cho chúng sinh mà từ khởi tâm sân hận thì đâu thể cứu giúp được họ.” Cho nên không thấy mình nhẫn và người kia được mình nhẫn nên tự tánh xa lìa không hai, cũng không khác. Đó gọi là Đại Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật thấu đạt được Nhẫn nhục độ. Này đại vương! Đại Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật khi thực hành Tinh tấn ba-la-mật phải nên hiểu chưa diệt làm cho diệt, chưa độ làm cho độ, chưa giải thoát làm cho giải thoát, chưa an ổn làm cho được an ổn, chưa hiểu biết làm cho được hiểu biết; Bồ-tát khi thực hành tinh tấn như vậy, sẽ có ác ma làm trở ngại, nói với Bồ-tát rằng: –Này thiện nam! Chớ tu pháp này, chịu khó uổng công. Vì sao? Vì ta khi xưa từng tu pháp này, do chưa diệt làm cho diệt, chưa độ làm cho độ, chưa giải thoát làm cho giải thoát, chưa an ổn làm cho được an ổn, chưa giác ngộ làm cho giác ngộ; chịu khổ uổng công như vậy không được lợi ích gì. Ta từ xưa đến nay đã thấy nhiều Bồ-tát tu học hạnh này đều thoái chuyển; ông hãy hồi tâm lại, giữ lấy thừa Thanh văn hay Bích-chi-phật mà tự diệt độ.” Đại Bồ-tát liền hiểu biết ngay nên bảo ác ma, các ngươi hãy đi đi, tâm ta như kim cang, ngươi chẳng thể phá hoại, nếu ngươi làm trở ngại thì tự chuốc lấy tội khổ lâu dài; nghe vậy mà liền biến mất. Nếu Bồ-tát nào, tu năm pháp Ba-la-mật mà chưa đắc được Bát-nhã ba-la-mật thì Đại Bồ-tát hành tinh tấn như vậy giả sử trải qua cả trăm ngàn kiếp cũng có thể vượt qua, huống nữa là thừa Thanh văn, Bích-chi-phật. Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật thành tựu được pháp của Phật nên các ác đều xa lìa, do vậy khi thực hành tinh tấn không vội vàng, cũng không chậm chạp phải phát thệ nguyện: –Làm sao cho thân ta được như thân của Đức Thế Tôn; với lông trắng giữa hai chân mày, trên đầu có nhục kế; Phật chuyển pháp luân ta cũng như vậy. Cũng như vàng ròng và các thứ báu tốt như ngọc dùng làm đồ trang hoàng thời có thể làm cho vật được nghiêm tịnh hơn. Bồ-tát hành tinh tấn cũng như vậy phải xa lìa cấu uế. Đó là sự lười biếng, buông lung và mỏi mệt suy nghó bất chiùnh tự chẳng hay biết. Lìa được các cấu uế này, liền được công đức, trí tuệ thanh tịnh và cùng với sự trang nghiêm sẽ làm cho thân không mỏi mệt, tâm không nhàm chán, buông lung; tất cả các pháp ác và bất thiện làm trở ngại Thánh đạo đều tiêu diệt, các pháp trợ đạo hướng đến Niết-bàn lại được tăng trưởng, vì thế chút ít việc ác còn không thể có, huống gì phát sinh nhiều điều ác. Giả sử mười phương hằng hà sa cõi mà trong đó đầy khắp lửa dữ như A-tỳ ngục. Nếu như ngoài thế giới này có một chúng sinh cần phải cứu độ, Đại Bồ-tát cũng không thể bỏ huống nữa là nhiều chúng sinh đang ở trong A-tỳ ngục. Phải suy nghó thế này: “Vô thượng Chánh giác không dễ chứng, Bồ-tát tu hành như cứu lửa cháy đầu, nên phải gánh vác; dù gánh nặng khó gánh đến trăm ngàn kiếp” và phải suy nghó như thế này: “Quá khứ, hiện tại chư Phật đều tu hạnh này mà thành tựu được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, ta cũng nên tu tập chân chánh như vậy, thà trăm ngàn kiếp ở trong địa ngục để cứu độ chúng sinh, chớ hoàn toàn không lãng quên mà vội chứng Niết-bàn. Tinh tấn như thế thì tâm không tự cao đối với người không tinh tấn như mình; không thấy mình thực hành và pháp để thực hành, nên tự tánh xa lìa không hai không khác”; đó gọi là Đại Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật thông suốt được Tinh tấn độ. Này đại vương! Đại Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật, thực hành Thiền định ba-la-mật là gieo trồng những căn lành sâu xa đối với giáo pháp Đại thừa, đời đời tu tập diệu hạnh, gần gũi Thiện tri thức, không sinh nhà nghèo khổ, thường sinh vào các dòng họ lớn như Bà-la-môn, Sát-đế-lợi; lòng tin chân chánh đối với Tam bảo nên pháp lành được tăng trưởng và nhân nơi túc mạng, căn lành mà phải suy nghó như vầy: “Chúng sinh bởi do tham ái nên luân hồi mãi trong sáu đường, chịu đau khổ tiếp nhau không dứt; còn Đại Bồ-tát thì sinh tâm nhàm chán xa lìa vì biết nó từ giả dối, phân biệt mà có.” Trong kinh điển thường dùng mọi phương tiện để nói tai họa nguy hiểm của dục như giáo, như đao, như rắn, như bọt nước, xấu dơ không thanh tịnh, vô thường; người trí vì sao lại tham đắm pháp này? Nên cạo bỏ râu tóc xuất gia tu đạo. Chưa thấy làm cho thấy, chưa được làm cho được, chưa chứng làm cho chứng, nghe nói liền thọ trì hoặc là Thế tục đế hay Đệ nhất nghóa đế, tu hành chân thật đúng như pháp đã quán sát, đó mới là chánh kiến; phân biệt chân chánh, tinh tấn chân chánh, nói năng chân chánh, việc làm chân chánh, đời sống chân chánh, nhớ nghó chân chánh, thiền định chân chánh, xa lìa chỗ ồn ào, không cầu danh tiếng. Cung kính cúng dường, thâm tâm tinh tấn luôn luôn không dừng nghó và nên suy nghó tâm này nên thực hành cảnh giới nào, hoặc thiện, hoặc ác, hoặc cảnh giới vô ký. Nếu thực hành cảnh giới thiện, siêng năng tinh tấn thì thiện căn được tăng trưởng, đem ba mươi bảy phẩm Trợ đạo đối trị các pháp ác bất thiện. Pháp ác bất thiện đó là tham, sân, si. Tham dục có ba phẩm thượng, trung, hạ; người ở thượng phẩm khi nghe đến dục thì toàn thân rung động, tâm vui mừng rộn ràng, không thấy được lỗi của dục, không sinh lòng nhàm chán, không biết hổ thẹn. Vì sao gọi là không hổ thẹn? Thường nghó đến cảnh dục đã từng trải qua, nhớ mãi không quên, chỉ thấy sự xinh đẹp mà không biết cái lỗi của nó. Nếu Cha mẹ hay bậc Tôn trưởng có quở trách về dục của họ thì trước mặt các Tôn trưởng ấy họ luôn luôn cãi lại, đó gọi là không hổ thẹn; người này sau khi chết sẽ sinh vào đường ác. Người có tâm dục ở phẩm trung, nếu xa lìa cảnh dục thì không sinh tâm dục. Người có tâm dục ở phẩm hạ, chỉ cùng nhau cười nói thì tình dục liền tiêu tan. Sân cũng có ba phẩm. Sân phẩm thượng là nếu tức giận nổi lên thì tâm mê mờ, mắt trợn lên, hoặc tạo năm tội nghịch, hoặc hủy báng chánh pháp; những tội nặng ấy không bằng một phần trăm của tội ngũ nghịch. Sân phẩm trung là do sân hận mà tạo ra các việc ác, nhưng liền sinh tâm hối cải. Sân ở phẩm hạ là tâm không ngờ vực, không thù hận, chỉ có miệng quở trách hoặc hủy hoại rồi tùy theo đó sinh lòng hối cải lỗi lầm. Si cũng như vậy. Tuy quán như thế nhưng vẫn biết được tất cả pháp đều như huyễn, như mộng, như tiếng vang, như thành Càn-thát-bà. Tất cả cái thấy được đều là giả dối, không thật và điên đảo. Cảnh giới bên ngoài nếu diệt thì trong tâm sẽ vắng lặng. Không thấy mình thực hành và pháp để thực hành nên tự tánh xa lìa, không hai, không khác. Đó gọi là Đại Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật thực hành thông suốt Thiền định ba-la-mật. Này đại vương! Đại Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật, thực hành Bát-nhã ba-la-mật là dùng trí tuệ chân chánh quán sắc, thọ, tưởng, hành, thức mà không thấy sắc sinh ra, không thấy sắc hình hành, không thấy sắc mất. Thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như vậy. Vì sao? Vì tự tánh đều không, không có chân thật, chỉ là danh tự giả dối mà thực hành Bát-nhã ba-la-mật là để giáo hóa chúng sinh. Đối với họ hoàn toàn không thể nói không nghiệp, không quả báo. Bởi tất cả các pháp đều như mộng, như huyễn, không có mình không có người, không có chúng sinh, không có tuổi thọ, không có dưỡng dục nên nói có nghiệp, có quả báo. Đại Bồ-tát tu và thực hành Bát-nhã ba-la-mật như thế, thì các ác ma không thể phá hoại được. Vì sao? Vì được gần gũi các bậc Thiện tri thức giúp đỡ thành tựu Bồ-đề, xa lìa pháp thế gian. Đối với chánh pháp thâm sâu của Như Lai dù là Thiên, Ma, Sa-môn, Bà-la-môn, trừ chánh trí của Phật, không kể hàng Bồ-tát đều phải vui mừng khen ngợi. Không thấy mình thực hành và pháp để thực hành, nên tự tánh xa lìa không hai, không khác, đó gọi là Đại Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật thấu rõ Trí tuệ ba-la-mật. Này đại vương! Đại Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật, thực hành phương tiện thiện xảo sẽ hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, hoặc ngày đêm sáu thời đem hoa quả cúng dường chư Phật và chúng Bồ-tát. Dùng căn lành này mà hồi hướng Bồ-đề; cây hoa, cây quả cũng như vậy; hoặc nghe trong kinh, Đức Như Lai nói nghóa lý sâu xa rồi tin tưởng, ưa thích, thọ trì. Rồi vì chúng sinh mà giảng nói, dùng căn lành này hồi hướng Bồ-đề. Hoặc thấy tháp miếu ảnh tưởng của Như Lai đem hương hoa cúng dường; hoặc làm cho chúng sinh xa lìa việc phá giới, để được giới hương thanh tịnh của Như Lai; hoặc lau chùi vọng nghiệp làm cho chúng sinh oai nghi đoan chánh; dùng lọng hoa che chở, làm cho chúng sinh đều xa lìa sự nóng bức của phiền não và khi vào trong Tăng-già-lam thì nguyện cho các chúng sinh đều vào Niết-bàn; hoặc ra khỏi già-lam thì nguyện cho các chúng sinh ra khỏi cảnh giới ngạ quỷ; mở cửa già-lam phát nguyện như vầy: “Dùng trí tuệ xuất thế mở cánh cửa chưa mở cho chúng sinh; hoặc thấy cửa đóng, nguyện vì các chúng sinh mà đóng cửa ác thú và ba cõi.” Khi ngồi nghó rằng: “Nguyện cho chúng sinh ngồi tòa Bồ-đề”; khi nằm nghiêng bên phải: “Nguyện cho chúng sinh đều đắc quả Niết-bàn”; ngồi dậy thì nghó rằng: “Nguyện cho chúng sinh phát khởi sự xa lìa các mê hoặc”; hoặc lúc rửa chân: “Nguyện cho chúng sinh xa lìa các phiền não”; lễ Phật hoặc nhiễu tháp: “Nguyện cho chúng sinh thành bậc thầy của trời người”; hoặc có ngoại đạo tà kiến khó giáo hóa, liền nghó rằng: “Ta mà làm thầy người kia ắt không tin được hay là làm vị đồng học hoặc làm đệ tử, tuy ở chung với họ nhưng giới hạnh và tài đa văn hơn hẳn ngoại đạo, nhờ đó mà điều phục được họ và được họ tôn trọng làm thầy; lời nói ra được tin tưởng thọ trì, nên sẽ phá hủy được pháp tà mà nói pháp Niết-bàn cho họ, làm cho người học được chánh pháp, tấn tu phạm hạnh và nhờ thiền định Tam-muội nên được các thần thông.” Hoặc thấy người đa dục thì hóa làm người nữ rất là xinh đẹp, khiến cho người kia yêu mến không thôi, trong chốc lát hiển bày vô thường làm cho nhan sắc biến đổi sình lên, rã nát, thối tha, khiến cho người đa dục kia gớm ghét, sinh tâm nhàm chán xa lìa; bấy giờ liền trở lại thân Bồ-tát mà vì họ nói pháp, làm cho họ phát tâm Chánh đẳng Chánh giác, thành tựu được quả vị Vô thượng. Hoặc thấy người Đại thừa, xa lìa Thiện tri thức, học pháp Nhị thừa không chứng quả Vô thượng, lại vứt bỏ Đại thừa, thì nên quán căn tánh của người đó, mà vì họ nói pháp làm cho thâm nhập vào đạo Vô thượng; người chưa phát tâm làm cho họ phát tâm, người đã phát tâm dạy cho họ làm tâm được vững chắc. Hoặc thấy người trì giới, phạm chút ít tội nhỏ mà không biết sám hối, lười biếng thoái lui, lại ưu sầu không tiếp tục tu tập liền nói cho họ pháp sám hối đối trị sẽ làm họ tinh tấn trên đường đạo. Đại Bồ-tát ít muốn, biết đủ, chỉ mong được lợi ích của giáo pháp và nên nói pháp cúng dường Như Lai cho chúng sinh. Thành tựu được sáu pháp Ba-la-mật rồi thuyết pháp cúng dường. Đó gọi là Bố thí ba-la-mật. Thực hành không trái với lời nói đó gọi là Trì giới ba-la-mật. Hoặc trời, hoặc ma không thể phá hoại não loạn thì gọi là Nhẫn nhục ba-la-mật. Tâm tâm liên tục không biết mỏi mệt đó gọi là Tinh tấn ba-la-mật. Chuyên tâm nhất niệm, không duyên vào cảnh giới khác, đó gọi là Thiền định ba-la-mật. Nói pháp cúng dường không thấy ta và pháp của ta đó gọi là Bát-nhã ba-la-mật. Không thấy ta thực hành và pháp được thực hành, nên tự tánh xa lìa, không hai, không khác. Đó gọi là Đại Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật thấu rõ được Phương tiện thiện xảo ba-la-mật. Này đại vương! Đại Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật, thực hành Nguyện ba-la-mật, nghóa là Bồ-tát phát nguyện không vì sự vui thích xa lìa ba cõi mà cầu đạo Nhị thừa mà phải phát lời thệ nguyện rộng lớn: “Mong tất cả chúng sinh và làm cho chúng sinh đều vào Niết-bàn. Sau đó thân ta mới thành tựu Chánh đẳng Chánh giác. Người chưa phát tâm làm cho họ phát tâm, người đã phát tâm chỉ dạy cho họ tu hành, người đã tu hành trợ giúp cho họ đắc quả Bồ-đề và người đắc quả Bồ-đề liền thỉnh họ chuyển pháp luân, cho đến việc phân chia xá-lợi xây tháp cúng dường.” Lại phát nguyện: “Nếu thế giới nào có chư Phật thành đạo thì không có Thiên ma, nguyện đem trí tuệ của mình phát tâm vô thượng, không nhờ duyên bên ngoài.” Lại nguyện thân ta thường ở thế gian để làm cho tất cả chúng sinh thành tựu. Nguyện các Bồ-tát mới phát tâm… Nếu nghe Như Lai nói pháp sâu xa thì tâm không khiếp sợ. Phật đạo vô biên, cảnh giới Phật cũng vô biên, đại Bi cũng vô biên, nguyện cho các chúng sinh đều được thấu rõ. Lại nguyện thân ta thường sinh trong cõi uế trược, không sinh ở cõi thanh tịnh. Vì sao? Vì ví như người bệnh thì mới cần thầy thuốc, người không bệnh thì không cần. Không thấy ta là người thực hành và pháp được thực hành, nên tự tánh xa lìa, không hai, không khác. Đó gọi là Đại Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật thấu rõ Nguyện ba-la-mật. Này đại vương! Đại Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật, thực hành Lực ba-la-mật. Nghóa là Bồ-tát hàng phục Thiên ma, đánh tan ngoại đạo vì đầy đủ sức trí tuệ công đức, tu hành, chứng đắc tất cả Phật pháp, vận sức thần thông lấy một sợi tóc nhấc cả cõi Diêm-phù-đề lên và cả bốn thiên hạ, tam thiên đại thiên thế giới cho đến vô lượng trăm ngàn thế giới, ở trong không trung lấy các thứ của báu bố thí cho chúng sinh. Chư Phật thuyết pháp ở vô lượng, vô biên thế giới mười phương Bồ-tát đều lắng nghe và thọ trì không thấy ta là người thực hành và pháp được thực hành, vì tự xa lìa, không hai không khác. Đó gọi là Đại Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật thấu rõ Lực ba-la-mật. Này đại vương! Đại Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật, thực hành Trí ba-la-mật, nghóa là Đại Bồ-tát đó quán năm ấm: sinh không thấy thật sinh, diệt cũng chẳng thật diệt mà phải suy nghó như vầy: “Năm ấm này là không, không có ta, không có người…, không có chúng sinh, không có thọ mạng, không có nuôi dưỡng. Phàm phu chúng sinh do ảo vọng chấp trước vào ngã. Năm ấm chẳng phải ngã, trong năm ấm cũng không có ngã, ngã chẳng phải năm ấm, trong ngã không có năm ấm. Phàm phu ngu mê, không biết chân thật nên cứ luân hồi mãi trong sinh tử, như vòng lửa quay. Tất cả các pháp tự tánh vốn không, nên không có sinh, cũng không có diệt. Chỉ có duyên hợp gọi là sinh, duyên phân tán gọi là diệt. Vì tự tánh chẳng phải không, cho nên không sinh; tự tánh chẳng phải có, cho nên không diệt.” Đại Bồ-tát đối với tất cả cảnh giới, không có một pháp nào mà không thấu rõ. Bởi thế, tu hành Bát-nhã ba-la-mật nên hàng Nhị thừa, ngoại đạo không thể lấn áp; do dùng trí quán sát, nên từ lúc phát tâm, cho đến khi vào Niết-bàn, thấy đều rõ ràng. Có thể dùng một pháp mà biết tất cả cảnh giới; tất cả cảnh giới cũng tức là một pháp. Vì sao? Vì nhất nhất đều như nhau đều là một; cho nên không thấy ta là người tu và pháp được tu, nên tự tánh xa lìa, không hai, không khác. Đó gọi là Đại Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật thấu rõ Trí ba-la-mật.  <詞 id="82881772">Phẩm 2: HIỂN TƯỚNG Lúc bấy giờ, Thắng Thiên vương liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch bày vai hữu, gối hữu quỳ sát đất, chắp tay đảnh lễ, bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật ấy rất thâm sâu thì tướng của Bát-nhã ba-la-mật đó như thế nào? Phật bảo Thắng Thiên vương: –Như tướng đất, nước, gió, lửa; tướng của Bát-nhã ba-la-mật cũng như vậy. –Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng của đất? Phật bảo: –Nó rộng lớn cùng khắp khó có thể đo lường, gọi là tướng đất. Tướng Bát-nhã ba-la-mật cũng lại như thế. Vì sao? Vì như vậy nó rộng lớn khắp nơi khó có thể nghó lường. Này đại vương! Tất cả dược thảo đều nương vào đất mà phát sinh thì tất cả pháp lành cũng đều nương vào Bát-nhã ba-la-mật mà phát sinh. Như đất không vui khi tăng, không buồn khi giảm, vì xa lìa ngã và ngã sở nên không có hai tướng Bát-nhã ba-la-mật cũng như thế, khen ngợi không tăng, hủy báng cũng không giảm, vì xa lìa ngã và ngã sở, nên không có hai tướng. Cho nên ở thế gian, việc đi lại nhấc chân lên, thả chân xuống đều nương vào đất; giống như cầu thiện đạo để đi đến Niết-bàn cũng phải nương vào Bát-nhã ba-la-mật. Lại như tất cả của báu đều có từ lòng đất Bát-nhã ba-la-mật cũng vậy nó sinh ra tất cả các loại công đức ở thế gian. Lại như đất rộng có tất cả côn trùng và các khổ, nhưng không làm lay động mặt đất; Bát-nhã ba-la-mật cũng như vậy, lìa ngã và ngã sở cũng không thể lay động. Lại như mặt đất nếu như nghe tiếng của sư tử, rồng, voi thì hoàn toàn không khiếp sợ. Bát-nhã ba-la-mật cũng như vậy, không sợ sệt Thiên ma ngoại đạo. Vì sao? Vì tự tánh vốn không nên không thấy có người, không thấy có pháp. Lại như nước từ trên cao chảy xuống, tất cả thiện pháp cũng đều hướng đến Bát-nhã ba-la-mật. Lại như nước, thấm nhuần cỏ cây để sinh ra hoa quả. Bát-nhã ba-la-mật cũng như vậy thấm nhuần Tam-muội và sinh các pháp trợ đạo, thành tựu cây Nhất thiết trí và được quả Phật pháp, làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Lại như nước làm xói mòn gốc rễ có thể làm cây cỏ nghiêng ngã và cuống theo dòng nước. Bát-nhã ba-la-mật cũng như vậy, tất cả gốc ngọn của các kiến chấp, phiền não, tập khí đều tiêu diệt vónh viễn, không cho phát sinh lại. Lại như nước, tánh căn bản của nó là trong sạch, không dơ, nhớp. Bát-nhã ba-la-mật cũng lại như vậy, thể của nó không có phiền não, nên gọi là thanh tịnh; xa lìa các mê hoặc nên gọi là không dơ, một tướng chẳng khác nên gọi là không nhớp. Như mùa hạ nóng nực, người được nước mát nên cái nóng đó sẽ giảm đi. Như chúng sinh bị nhiệt não, khi nghe Bát-nhã ba-la-mật liền được mát mẻ. Như người bị khát uống nước thì hết khát. Người cầu pháp xuất thế tìm được Bát-nhã ba-la-mật thì mong muốn thỏa mãn. Lại như suối sâu khó lội Bát-nhã ba-la-mật và cảnh giới chư Phật cũng rất thâm sâu, khó vào như vậy. Lại như nước trong hồ, trong ao đều bình đẳng, Bát-nhã ba-la-mật cũng như vậy, tất cả phàm phu, Thanh văn, Bích-chi-phật tất cả đều bình đẳng. Lại như nước, có thể làm cho mặt đất được sạch sẽ Đại Bồ-tát thấu rõ Bát-nhã ba-la-mật nên xa lìa các phiền não mà được thanh tịnh. Vì sao? Vì tự tánh vốn thanh tịnh, xa lìa các mê hoặc. Lại như lửa có thể đốt cháy tất cả các loài cỏ cây nhưng không hề suy nghó thế này: “Ta có thể đốt cháy vật.” Bát-nhã ba-la-mật cũng như vậy, có thể diệt tất cả phiền não, tập khí nhưng cũng không nghó: “Ta có thể diệt trừ.” Lại ví như lửa có thể làm chín tất cả vật thì Bát-nhã ba-la-mật cũng có thể thành tựu được tất cả Phật pháp. Ví như lửa đều có thể làm khô cạn tất cả vật ẩm ướt. Bát-nhã ba-la-mật cũng như vậy, làm khô dòng hữu lậu, không sinh lại nữa. Giả sử đống lửa ở trên đỉnh núi tuyết, cách một do-tuần hay mười do-tuần đều chiếu sáng đến mọi nơi được mà cũng không nghó là ta có thể chiếu xa. Bát-nhã ba-la-mật cũng như vậy, đều chiếu được cho Thanh văn, Duyên giác và cả Bồ-tát mà cũng không suy nghó như vầy: “Ta chiếu được những nơi đó.” Như loài cầm thú, ban đêm thấy lửa sáng khiếp sợ tránh xa. Hàng phàm phu bạc phước và cả hàng Nhị thừa nếu nghe Bát-nhã ba-la-mật cũng khiếp sợ lìa bỏ. Nghe đến tên Bát-nhã ba-la-mật còn khó, huống nữa lại tu học. Ví như đêm tối, đi xa bị lạc đường, nếu thấy lửa sáng liền vui mừng, biết có làng xóm nên mau tìm đến, đến nơi thì được an ổn và không còn sợ hãi. Biển sanh tử mênh mông, người có phước đức nếu nghe được Bát-nhã ba-la-mật thì lòng rất vui mừng liền quay về thọ trì, nên tâm được an vui, vónh viễn xa lìa phiền não. Như lửa của người sang hay hèn trong thế gian này đều như nhau. Bát-nhã ba-la-mật cũng như vậy, là phàm hay Thánh đều có. Như Bà-la-môn, Sát-đế-lợi đều cúng dường lửa. Chư Phật, Bồ-tát đều cúng dường Bát-nhã ba-la-mật. Như ngọn lửa nhỏ có thể đốt cháy tam thiên đại thiên thế giới. Bát-nhã ba-la-mật cũng như vậy, nếu nghe và hiểu biết một câu có thể đốt cháy vô lượng phiền não. Này đại vương! Bát-nhã ba-la-mật xa lìa cấu, không chấp trước, vắng lặng, không biên giới. Vô biên trí sẽ nhanh chóng đạt đến Pháp tánh, giống như hư không, tánh của nó vốn không có chỗ trụ xa lìa tướng của cảnh giới sẽ vượt qua các giác, quán. Tâm và tâm sở pháp không có sự phân biệt, không sinh, không diệt, nên tự tánh là xa lìa. Này đại vương! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật là làm lợi ích cho chúng sinh ở thế gian, giống như mặt trời, mặt trăng, tất cả đều thọ dụng. Ví như mặt trăng, có thể trừ được sức nóng. Bát-nhã ba-la-mật cũng như vậy, có thể trừ sức nóng độc hại của phiền não. Ví như ở thế gian, vui mừng khi thấy được mặt trăng. Bát-nhã ba-la-mật cũng như vậy, tất cả Thánh nhân đều thấy vui mừng khi đạt được. Lại như đầu tháng, mỗi ngày mặt trăng lớn dần. Đại Bồ-tát gần gũi Bát-nhã ba-la-mật cũng lần lần tăng trưởng, từ lúc phát tâm cho đến Vô thượng Bồ-đề. Trăng khuyết ngày càng tròn sáng. Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật thì phiền não kết sử dần dần bị tiêu diệt. Như mặt trăng ở thế gian đều được Bà-la-môn, Sát-đế-lợi khen ngợi. Nếu thiện nam, thiện nữ nào gần gũi Bát-nhã ba-la-mật thì tất cả Trời, Người, A-tu-la trong thế gian đều tỏ bày sự khen ngợi. Như mặt trăng đi khắp bốn phương thiên hạ, Bát-nhã ba-la-mật cũng như vậy; hoặc là sắc, hoặc là tâm không nơi nào mà không tới cùng. Như mặt trăng ở thế gian thường được coi là trang nhã, xinh đẹp, Bát-nhã ba-la-mật cũng như vậy, tự tánh của nó cũng là trang nghiêm. Vì sao? Vì không sinh, không diệt, tánh vốn thanh tịnh, cùng khắp tất cả pháp tự tánh là xa lìa. Lại như mặt trời ở thế gian, phá tan tất cả bóng tối mà không nghó là ta có thể phá tan bóng tối. Bát-nhã ba-la-mật cũng như vậy, có thể phá tan tất cả phiền não từ vô thỉ, mà cũng không nghó là ta phá được phiền não. Như mặt trời làm cho hoa sen nở, mà cũng không nghó rằng ta làm cho hoa sen nở. Bát-nhã ba-la-mật cũng như vậy, có thể chỉ bày đạo Bồ-tát mà cũng không nghó như thế. Ví như mặt trời chiếu sáng khắp mười phương mà cũng không nghó rằng ta có thể chiếu khắp, Bát-nhã ba-la-mật cũng như vậy, có thể chiếu vô biên mà không có tướng chiếu. Như thấy phương Đông hừng đỏ, thời biết không bao lâu mặt trời sẽ mọc; hoặc được nghe Bát-nhã ba-la-mật thì biết được còn cách Phật không xa. Như người cõi Diêm-phù-đề, nếu thấy mặt trời mọc thì rất vui mừng; nếu trong thế gian, có danh tự của Bát-nhã ba-la-mật thì tất cả Thánh nhân đều rất vui mừng. Lại như mặt trời xuất hiện thì ánh sáng của mặt trăng và sao đều không hiện; Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật thì đức của hàng Nhị thừa và ngoại đạo cũng không hiện. Như mặt trời mọc lên, thì thấy được chỗ cao, thấp, chỗ hầm hố; Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật thì ở thế gian mới biết được con đường chánh hay tà. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật, tự tướng bình đẳng không sinh, không diệt, tánh ấy là xa lìa vậy. Này đại vương! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật là tu tập nhiều hạnh không, không có chỗ trụ không chấp trước, tu đạo xa lìa chướng ngại; xa bạn ác tri thức, gần gũi chư Phật; tâm niệm Phật liên tục không dứt; tùy thuận theo pháp giới thấu rõ sự bình đẳng; dùng thần thông dạo chơi các cảnh giới ở mười phương nhưng ở cảnh giới của mình thì hoàn toàn không chút lay động, thấy các Phật pháp, như hiện rõ trước mặt. Tuy sống ở đời mà không bị pháp thế gian làm ô nhiễm, giống như hoa sen ở trong bùn, Đại Bồ-tát tuy ở trong sinh tử, nhưng nhờ sức phương tiện của Bát-nhã ba-la-mật nên không ô nhiễm. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật không sinh, không diệt, tướng của nó bình đẳng và tánh ấy xa lìa nên không thấy, không chấp. Như hoa sen không bị dính nước, Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, không bị vướng mắc vào một ác pháp nào cả. Ví như chỗ ở của hoa sen đều có mùi hương; Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật dầu ở thành ấp, xóm làng, cõi trời, cõi người cùng đều đầy đủ giới hương. Như hoa sen thể tánh vốn thanh tịnh, nên Bà-la-môn, Sát-đế-lợi, Trưởng giả, Cư só rất quý trọng, Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật được Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân…, cùng Bồ-tát và chư Phật yêu mến, cung kính. Như hoa sen lúc mới chớm nở, có thể làm cho tâm mọi người đều vui, Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật nét mặt luôn luôn vui vẻ, không nhăn nhó buồn rầu, để làm cho chúng sinh vui vẻ. Lại như người ở đời trong mộng thấy hoa sen cũng cho đó là điềm lành; tất cả trời, người, cho đến trong mộng nếu nghe hoặc thấy Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật cũng cho là điềm lành huống chi là được thấy. Như hoa sen lúc mới nở thì được người, cùng loài chẳng phải người giữ gìn quý mến, Đại Bồ-tát mới học Bát-nhã ba-la-mật được chư Phật, Bồ-tát, Đế Thích, Phạm vương, chư Thiên hộ vệ. Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật khởi tâm nghó như vầy: “Phải như lý mà thông suốt các pháp Ba-la-mật, ngồi dưới cội Bồ-đề, thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đầy đủ pháp Phật truyền bá chánh pháp, chuyển pháp luân giáo hóa chúng sinh. Vì ở thế gian, Sa-môn, Bà-la-môn, Thiên ma, Đế Thích, Phạm vương đều không thể truyền bá chánh pháp.” Đại Bồ-tát hóa độ tất cả chúng sinh ở vô biên thế giới khắp mười phương; bình đẳng cứu độ tất cả thoát khỏi biển sinh tử và đều an trú trong Bát-nhã ba-la-mật. Người không chỗ quay về nương tựa, không được cứu hộ thì làm chỗ quay về nương tựa cho họ. Người muốn thấy Phật vì họ thuyết pháp như tiếng rống sư tử để chỉ bày; dùng thần thông dạo chơi, khen ngợi công đức của Phật và làm cho chúng sinh thỏa lòng ngưỡng mộ. Tâm họ thanh tịnh không đổi dời, ý không dua nịnh do vậy mà xa lìa được tà niệm. Nghóa là không nghó pháp Thanh văn, Bích-chi-phật dứt được các cấu uế và phiền não, không cho phát sinh lại. Thân không làm việc sai trái nên xa lìa oai nghi tà. Miệng nói chân thật, không nói xảo trá; nhận ân thường biết ân, dẫu ân nhỏ cũng đáp đền lớn; tâm không ôm ấp giận hờn; miệng thường nói dịu dàng. Tâm tu tập như vậy là tâm thanh tịnh thì không thể bị làm ô nhiễm, nên tự tánh xa lìa không hai không khác. Này đại vương! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, tin được ba loại thanh tịnh của Như Lai và nghó thế này: “Khế kinh nói Pháp thân của Như Lai là thân tịch tónh, thân không gì sánh bằng, thân vô lượng, thân bất cộng, thân kim cang; tâm đã quyết định tin tưởng chắc chắn không nghi ngờ.” Đây gọi là tin vào thân thanh tịnh của Như Lai. Lại suy nghó nữa: “Kinh nói miệng của Như Lai vốn thanh tịnh luôn vì phàm phu mà thọ ký cho; làm Phật cũng vì Bồ-tát mà thọ ký để được thành Phật.” Tin lời nói như vậy thì không sai trái nhau. Vì Như Lai vónh viễn xa lìa tất cả lỗi lầm, không có các cấu uế, thanh tịnh vắng lặng, không có phiền não; hoặc Thiên ma, Sa-môn, Bà-la-môn, Phạm vương không có thể tìm được lỗi lầm từ miệng Như Lai. Đó là tin vào miệng thanh tịnh của Như Lai. Lại nữa, kinh nói ý của Như Lai thanh tịnh là chư Phật Thế Tôn hay nghó đến việc gì thì hàng Thanh văn, Bích-chi-phật, Bồ-tát và tất cả trời, người đều không thể biết được. Vì sao? Vì tâm Như Lai sâu xa khó hiểu, chẳng phải cảnh giới nghó lường, xa lìa các giác quán, không có hạn lượng, đồng như cảnh giới của hư không; tin như vậy thì biết được tâm không nghi hoặc, ngăn ngại. Đó gọi là tin vào ý thanh tịnh của Như Lai. Lại nữa, Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật nghó như vầy: “Như lời Phật dạy, Đại Bồ-tát vì các chúng sinh không sợ hãi, không mỏi mệt, gánh vác việc lớn mà tâm đó vẫn kiên cố, không thoái chuyển và lần lần tu tập các pháp Ba-la-mật, thành tựu Phật pháp không còn chướng ngại.” Pháp đó là vô biên, là vô đẳng, là bất cộng. Lời nói quyết định, tính dũng mãnh, nên thành tựu được sự việc rộng lớn của Như Lai. Đại Bồ-tát ở trong việc đó không nghi, không mê; lòng tin nhận việc đó rất thâm sâu. Này đại vương! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, nên suy nghó như vầy: “Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, khi ngồi trong đạo tràng, có thể chứng được vô ngại thanh tịnh, Thiên nhó, Thiên nhãn, Tha tâm trí, Túc mạng trí, Lậu tận trí. Trong một niệm, thấu rõ trí bình đẳng của ba đời; quan sát chân thật tất cả thế gian, các chúng sinh này đều có thân làm ác, miệng nói ác, ý nghó ác; hủy báng Thánh nhân, có tà kiến tạo nghiệp; khi thân hoại, mạng chung sẽ đọa vào đường ác. Nếu chúng sinh này, đều có thân làm thiện, miệng nói thiện, ý nghó thiện, không hủy báng Thánh nhân, có chánh kiến chánh nghiệp; sau khi chết sẽ sinh vào cảnh giới thiện.” Quán sát chân thật cảnh giới của chúng sinh, rồi nghó như vầy: “Xưa kia ta phát nguyện thực hành Bồ-tát đạo, tự giác, giác tha nguyện này đầy đủ.” Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật đối với việc này không nghi không ngờ nên tin thọ chân thật. Này đại vương! Nơi Bồ-tát thành Phật gọi là giáo xứ, tự giác ngộ gọi là Chánh giác, thành tựu cho chúng sinh gọi là Chánh biến giác. Này đại vương! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật như vậy nên tin biết là Như Lai sẽ xuất hiện ở đời. Này đại vương! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, khi nói pháp Nhất thừa thì liền tin nhận. Vì lời nói chư Phật chân thật, không giả dối. Tất cả các thừa đều từ Phật thừa mà sinh ra. Như cõi Diêm-phù-đề, tất cả các thành ấp, xóm làng, tên thì khác nhưng đều thuộc một châu này. Như vậy các thừa tuy có nhiều tên nhưng đều thuộc về Phật thừa. Lại nghó như vầy: “Như Lai, Thế Tôn dùng phương tiện thiện xảo, nói tất cả pháp đều chân thật, không giả dối. Vì Đức Thế Tôn nói pháp tùy theo căn tánh của chúng sinh, cho nên phân biệt có ba thừa nhưng thật sự chỉ có một đạo.” Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật phải nghó thế này: “Đức Như Lai thuyết pháp, âm thanh rất sâu xa chân thật không hư dối, vì Phạm thiên, Đế Thích… nhờ có chút ít công đức cũng có được âm thanh sâu xa, huống chi là Đức Như Lai đã chứa nhóm công đức từ vô lượng ức kiếp.” Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, lại phải nghó như thế này: Như Lai nói pháp không trái với các căn, các hạng thượng, trung, hạ đều làm cho thành tựu. Các chúng sinh đều cho rằng được Phật nói riêng cho mình; nhưng chư Phật từ xưa đến nay không nói, không chỉ bày, nên Đại Bồ-tát đối với các sự việc như thế không còn nghi, mà lại tin hiểu ngay. Này đại vương! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, tâm được vi tế nên suy nghó như thế này: “Thế gian như đống lửa lớn cháy mạnh. Đó là lửa tham dục, khói tức giận, bóng đen ngu si. Làm sao khiến cho tất cả chúng sinh phải đều xa lìa; hoặc có thể làm cho thông suốt các pháp bình đẳng, gọi là xuất ly để như thật biết các pháp, giống như huyễn tướng; phải khéo quán sát nhân duyên để khỏi phân biệt.” Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, nên nghó như thế này: “Pháp vốn không mà lại có nghiệp báo; phàm lời của chư Phật Bồ-tát nói ra, ta biết ý đó; đã biết ý rồi, thì suy tư về nghóa; đã suy tư về nghóa rồi, tức thấy chân thật; thấy chân thật rồi, liền cứu độ chúng sinh. Này đại vương! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật là dùng phương tiện thiện xảo, nói pháp cho chúng sinh; nghóa là các pháp thảy đều không ngã, không chúng sinh, không dưỡng dục, không người, không tạo tác, không người hiểu, không người sinh, không người thấy, vô sở hữu không, chẳng phải tánh tự tại, mà chỉ do hư vọng và phân biệt, hòa hợp sinh ra. Này đại vương! Nếu nói các pháp đều không ngã, cho đến không người thấy là đúng lý; nói không, vì không sở hữu cho đến duyên sinh cũng lại như vậy. Này đại vương! Người muốn nói pháp ấy phải tùy thuận theo pháp tướng đó, gọi là xứng lý, không trái pháp tướng. Lý cùng với pháp tương ưng, nên được vào bình đẳng nghóa lý sẽ hiển hiện, nên gọi là khéo thuyết pháp. Này đại vương! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật sẽ đạt được biện tài vô ngại. Nghóa là tài biện luận không có chấp trước, tài biện luận không cùng tận, tài biện luận không đoạn dứt, tài biện luận liên tục, tài biện luận không khiếp nhược, tài biện luận không kinh sợ, tài biện luận bất cộng, tài biện luận trời, người đều tôn trọng, tài biện luận vô biên. Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật sẽ được tài biện luận thanh tịnh. Nghóa là tài biện luận không kêu la quát mắng, tài biện luận không mê hoặc não loạn, tài biện luận không sợ sệt, tài biện luận không cao mạng, tài biện luận nghóa lý đầy đủ, tài biện luận ý vị đầy đủ, tài biện luận thông suốt, tài biện luận đúng thời tiết. Này đại vương! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, vì xa sự sợ hãi oai đức của đại chúng, nên không kêu la quát mắng. Nhờ trí tuệ vững trụ, không khiếp sợ, nên không mê loạn. Bồ-tát ở giữa mọi người như vua sư tử, nên không sợ sệt, xa lìa các phiền não, nên không cống cao ngã mạng không nói vô nghóa; thấu rõ pháp tướng nên nghóa lý đầy đủ. Khéo hiểu rõ ràng về văn tự thơ luận của thế gian trí nên ý vị đầy đủ. Từ vô lượng kiếp đến nay khéo học tập tiếng địa phương nên mới thông suốt như vậy. Khi nói pháp này phải tùy theo bốn mùa; như mùa xuân thì nói mùa xuân; hạ, thu, đông cũng như vậy. Việc gì nói trước thì không nên nói giữa và sau; việc gì nói sau thì không nên nói trước và giữa; việc gì nói giữa thì không nên nói trước và sau, phải khéo biết thời. Này đại vương! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, sẽ được tài biện luận, làm cho chúng sinh vui mừng. Nghóa là nói phải dịu dàng, nét mặt luôn vui vẻ không có buồn rầu, nhăn nhó; nói ra lời nào đều có ý nghóa; nên được gọi là lời nói chân thật, nhất định không lừa dối, lấn áp người. Những lời nói vui vẻ và nhu hòa sẽ làm cho mọi người vui mừng. Sắc mặt khoan thai hòa nhã khiến người khác càng muốn thân cận. Tùy người nghe mà nói nghóa để cho họ tự hiểu lấy; thuyết giảng đúng pháp vì làm lợi ích, bình đẳng thuyết giảng bằng cái tâm không biết thiên lệch, bè đảng. Phải nói những lời chắc chắn không hư vọng. Những điều gì được nói ra cũng tùy theo căn tánh của chúng sinh làm cho họ được hoan hỷ. Này đại vương! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật sẽ thành tựu oai đức rất lớn. Vì sao? Vì chẳng phải là người có khả năng thì không thể nghe được. Lúc bấy giờ, Thắng Thiên vương bạch: –Bạch Đức Thế Tôn! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, thì tự tánh bình đẳng; vì sao lại không nói cho người chẳng có khả năng? Phật bảo Thắng Thiên vương: –Này đại vương! Bát-nhã ba-la-mật tự tánh vốn bình đẳng; không thấy người có tài năng, không thấy người chẳng có tài năng; không thấy người thuyết và pháp được thuyết chúng sinh là hư vọng, thấy và nói đều chẳng nói được. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật không sinh, không diệt; không có tướng phân biệt; giống như hư không biến khắp tất cả; chúng sinh cũng như vậy không sinh, không diệt; hàng Thanh văn, Bích-chi-phật, Bồ-tát và Phật cũng như vậy. Không có pháp danh tự, mà giả lập có danh tự; gọi là chúng sinh, gọi là trí tuệ, gọi có người nói, gọi có pháp bị nói, gọi có người nghe. Trong đệ nhất đồng là một tướng; đó gọi là vô tướng. Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật sâu xa, oai đức rất lớn nên không phải là người có khả năng thì không thể nghe được. Này đại vương! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật; không nói cho chúng sinh không có khả năng; không nói cho ngoại đạo; không nói cho người không tôn trọng; không nói cho người không tin chân chánh; không nói cho người cầu pháp mua bán; không nói cho người tham lam lợi dưỡng; không nói cho người ganh ghét; không nói cho người mù, điếc, câm, ngọng. Vì sao? Vì khi Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, tâm không keo kiệt, không giấu giếm pháp sâu xa; chẳng phải đối với chúng sinh, không có lòng Từ bi mà cũng không bỏ chúng sinh. Do chúng sinh trồng nhiều căn lành ở đời quá khứ nên thấy được Như Lai và nghe chánh pháp. Chư Phật Như Lai vốn đã không nói là tâm này hay tâm kia; chỉ vì người có nghiệp chướng nặng nên tuy ở gần mà không thấy không nghe. Khi ấy Thắng Thiên vương bạch Phật: –Thưa Thế Tôn! Những chúng sinh nào chịu nghe chư Phật và Bồ-tát nói pháp? Phật bảo Thắng Thiên vương: –Này đại vương! Người đủ niềm tin chân chánh, chư Phật và Bồ-tát sẽ nói pháp cho họ; người căn tánh thuần thục thì cho là pháp khí, ở chỗ chư Phật thời quá khứ, đã trồng các căn lành nên tâm không dua nịnh; oai nghi tề chỉnh; không mong danh lợi, gần gũi bạn lành; người căn tánh lanh lợi, nói văn hiểu nghóa, vì pháp tinh tấn không trái lời Phật dạy. Này đại vương! Chư Phật, Bồ-tát nói pháp cho những chúng sinh như vậy. Này đại vương! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, có thể làm vị Pháp sư nói pháp khéo léo. Vì sao nói pháp phải thuyết khéo léo? Vì lợi ích Phật pháp mà nói Phật pháp hoàn toàn không thể thấy; tuy nói Ba-la-mật mà Ba-la-mật hoàn toàn không thể được; tuy nói Bồ-đề mà nói Bồ-đề hoàn toàn không thể được; tuy đoạn phiền não mà nói phiền não hoàn toàn không thể được; tuy là Niết-bàn mà nói Niết-bàn hoàn toàn không thể được; tuy là Tu-đà-hoàn hướng, Tu-đà-hoàn quả, cho đến A-la-hán hướng, A-la-hán quả, mà bốn quả bốn hướng hoàn toàn không thể được; tuy là quả Bích-chi-phật, mà quả Bích-chi-phật hoàn toàn không thể được; diệt trừ ngã kiến, mà nói ngã kiến hoàn toàn không thể được; nói có nghiệp báo, mà nói nghiệp báo hoàn toàn không thể được. Vì sao? Vì điều mà danh từ diễn tả thì chẳng phải là pháp chân thật; pháp chẳng phải là danh tự; chẳng phải là cảnh giới của nói năng. Pháp chẳng có thể nghó bàn, chẳng phải là nơi tâm suy lường; danh tự chẳng phải là pháp, pháp chẳng phải là danh tự; chỉ dùng nền tảng thế gian hư vọng, giả danh mà nói có. Không có pháp danh tự, mà nói là danh tự, danh tự là không, mà không cũng không có. Không sở hữu là chẳng phải Đệ nhất nghóa đế; chẳng phải Đệ nhất nghóa đế tức là pháp hư vọng của phàm phu. Này đại vương! Đó gọi là Đại Bồ-tát nói pháp phải thuyết khéo léo. Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật dùng sức phương tiện để được biện tài vô ngại và tùy theo căn tánh của từng chúng sinh mà nói Bát-nhã ba-la-mật sâu xa đó. KINH THẮNG THIÊN VƯƠNG BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT <卷 id="82881773">Quyển 2 <詞 id="82881774">Phẩm 3: PHÁP GIỚI Lúc bấy giờ, Thắng Thiên vương liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch bày vai hữu, quỳ gối hữu chắp tay đảnh lễ bạch Phật: –Bạch Đức Thế Tôn! Đại Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật, làm sao thấu rõ pháp giới thâm sâu? Khi ấy, Đức Thế Tôn khen Thắng Thiên vương: –Lành thay, Đại vương! Hãy lắng nghe, lắng nghe và suy nghó! Thắng Thiên vương bạch Phật: –Bạch Đức Thế Tôn! Con xin lắng nghe. Phật bảo Thắng Thiên vương: –Này đại vương! Đại Bồ-tát có trí tuệ, nên gần gũi Thiện tri thức, siêng năng tinh tấn tu học, lìa các phiền não chướng ngại, tâm phải được thanh tịnh, cung kính tôn trọng, ưa thích tu tập pháp không; xa lìa các kiến chấp, tu đạo chân thật, thì thấu rõ được pháp giới. Này đại vương! Đại Bồ-tát có trí tuệ nên gần gũi Thiện tri thức, vui mừng cung kính, tưởng giống như Phật; do thân cận nên không biếng lười, diệt được tất cả ác và các pháp bất thiện, căn lành được tăng trưởng; đã diệt được phiền não; xa lìa được pháp chướng ngại nên được ba nghiệp thân khẩu ý thanh tịnh. Do thanh tịnh, nên sinh lòng kính trọng; do kính trọng nên tu tập hạnh không; tu tập hạnh không nên xa lìa được các kiến chấp; xa lìa các kiến chấp nên tu hành chánh đạo; tu hành chánh đạo nên thấy được pháp giới. Thắng Thiên vương bạch Phật: –Bạch Đức Thế Tôn! Pháp giới là gì? Phật bảo Thắng Thiên vương: –Này đại vương! Tức là chân thật. –Bạch Đức Thế Tôn! Vì sao chân thật? –Này đại vương! Là không biến đổi sai khác. –Bạch Đức Thế Tôn! Vì không sai không khác? –Này đại vương! Vì nó là như như. –Bạch Đức Thế Tôn! Vì sao như như? –Này đại vương! Ở đây chỉ có trí tuệ mới có thể biết, chứ chẳng phải dùng lời nói mà giảng được. Vì sao? Vì vượt qua các văn tự xa lìa phạm vi ngôn ngữ và lời nói; cho nên không có các hý luận, không kia không đây; lìa tướng thì không còn tướng; xa lìa suy lường tức đã vượt cảnh giới giác quán; không tưởng, không tướng tức đã vượt qua hai cảnh giới, vượt cảnh giới phàm phu và lìa cảnh giới phàm phu; vượt các ma sự, lìa được mê hoặc chướng ngại. Đó chẳng phải là cái biết của thức. Nhưng nó cũng không có vị trí để trụ, Thánh trí vắng lặng thì về sau, là cảnh giới của trí tuệ không phân biệt không có cái ta và của ta, tìm cầu không thể được, không giữ, không bỏ, không nhiễm, không uế, thanh tịnh lìa cấu là tánh tối thắng đệ nhất, nó luôn luôn không biến đổi. Nếu Phật ra đời hay không ra đời, tánh tướng vẫn thường trụ. Này đại vương! Đó là pháp giới mà Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật; tu pháp giới này khổ hạnh trăm điều nhưng làm cho các chúng sinh đều được thông suốt. Này đại vương! Đó là chân như thật tế Bát-nhã ba-la-mật, không có tướng phân biệt, là cảnh giới chân không, không thể nghó bàn, Nhất thiết trí và Nhất thiết chủng trí là cảnh giới không hai. Thắng Thiên vương bạch Phật: –Bạch Đức Thế Tôn! Làm sao có thể chứng đến pháp giới này? Phật bảo Thắng Thiên vương: –Này đại vương! Nhờ chứng được Bát-nhã ba-la-mật xuất thế, nên về sau đạt được Hậu trí vô phân biệt. Thắng Thiên vương bạch Phật: –Bạch Đức Thế Tôn! Chứng cùng với đạt có gì sai khác? Phật bảo Thắng Thiên vương: –Này đại vương! Với Bát-nhã ba-la-mật, thấy đúng đắn chân thật gọi là chứng, nhờ trí mà thông suốt gọi là đạt. Thắng Thiên vương bạch Phật: –Bạch Đức Thế Tôn! Như lời Phật dạy: “Văn tuệ, tư tuệ, tu tuệ là thông suốt; Bát-nhã ba-la-mật chẳng phải là pháp xuất thế, sau đó mới đạt được trí vô phân biệt.” Phật bảo Thắng Thiên vương: –Không phải vậy, Đại vương! Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật sâu xa vi diệu, văn tuệ thô cạn, không thể thấy được Đệ nhất nghóa, cho nên không thể suy lường được. Vì là pháp xuất thế, cho nên tu mà không thể thực hành được. Này đại vương! Bát-nhã ba-la-mật sâu xa như vậy, hàng phàm phu, Nhị thừa không thể thấy được. Vì ví như sinh ra đã bị mù thì không thể thấy các màu sắc, trẻ con mới sinh bảy ngày không thấy vầng mặt trời còn lại càng không thể thấy huống gì tu hành. Này đại vương! Ví như mùa hè nóng, có người đi về hướng Tây, ở giữa đồng trống, lại có người đi từ Tây đến Đông hỏi người trước mặt rằng: “Tôi đang nóng khát, chỗ nào có nước trong, bóng cây mát?” Người kia đáp: “Này thiện nam! Từ đây đi về Đông có hai đường, một đường bên trái và một đường bên phải; nên đi theo đường bên phải có suối nước trong và bóng mát của cây.” Này đại vương! Ý ông như thế nào? Tuy nghe người nói như vậy mà chỉ đến đó bằng suy nghó thì có thể trừ sự nóng khát, được vị nước trong không? Thưa Thế Tôn, không thể! Người này phải đến nơi ấy, vào ao tắm rửa, uống nước, nghỉ ngơi dưới cây thì mới hết nóng khát, mới biết mùi vị của nước trong. Phật bảo: –Đúng thế, đúng thế! Này đại vương! Không thể dùng ba tuệ văn, tư, tu mà thấu rõ chân thật được Bát-nhã ba-la-mật. Này đại vương! Nói đồng trống là sinh tử, người hỏi là chúng sinh, nóng gọi là phiền não, khát gọi là tham ái, người từ phương Đông đến là Bồ-tát, đường bên phải là Nhất thiết chủng trí đạo. Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, khéo biết sinh tử và đường xuất thế; nước trong mát đó là Bát-nhã ba-la-mật, cây có bóng mát tức là đại Bi. Đại Bồ-tát thực hành hai pháp nên xa lìa đạo của phàm phu và Nhị thừa. Này đại vương! Như vậy Bát-nhã ba-la-mật sâu xa là không hình, không tướng, mà Bồ-tát phải khéo nói bằng nhiều cách để làm cho chúng sinh được vào pháp không đó. Này đại vương! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật biết như thật các Lực là không; pháp Vô úy là không; pháp Bất cộng là không; Giới tụ là không; Định tụ, Tuệ tụ, Giải thoát tụ, Giải thoát tri kiến tụ là không; Không là không; Đệ nhất nghóa là không, mà tướng không cũng chẳng thể nắm bắt được; không chấp thủ tướng không; không khởi thấy tướng không; không chấp tướng không; không nương tựa vào không; như vậy không chấp thủ trước nên đối với không, không bị đọa lạc. Này đại vương! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật đều xa lìa các tướng, không thấy tướng trong ngoài, lìa tướng hý luận, lìa tướng phân biệt, lìa tướng tìm tòi, lìa tướng tham trước, lìa tướng của cảnh giới, lìa tướng phan duyên, lìa tướng năng tri và sở tri. Thắng Thiên vương bạch Phật: –Bạch Đức Thế Tôn! Đại Bồ-tát dùng Bát-nhã ba-la-mật quán vô tướng như vậy thì chư Phật Thế Tôn đã từng quán thế nào? Phật bảo Thắng Thiên vương: –Này đại vương! Cảnh giới của chư Phật là không thể nghó bàn. Vì sao? Vì xa lìa cảnh giới, nên tất cả chúng sinh nghó lường cảnh giới của chư Phật thì tâm sẽ cuồng loạn không biết gì cả. Vì sao? Vì đồng với tánh hư không, không thể nghó lường, cầu không thể được, xa lìa cảnh giới giác quán. Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật còn không thấy có cảnh giới của phàm phu để mà nghó lường, huống nữa là cảnh giới của chư Phật; cũng không được nương tựa vào các nguyện. Tuy thực hành Bố thí mà không chấp vào quả báo của Bố thí; Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ cũng như vậy. Tất cả công đức cho đến Niết-bàn cũng không chấp trước, không nương tựa. Vì sao? Vì lìa ngã và ngã sở nên tự tánh xa lìa, không hai, không khác. Khi nói pháp môn Bát-nhã ba-la-mật đó, thì tam thiên đại thiên thế giới chấn động sáu cách. Tu-di sơn vương, Mục-chân-lân-đà sơn, Thiết vi sơn, Đại thiết vi sơn, Bảo sơn, Hắc sơn, Đại hắc sơn tất cả đều chấn động; vô lượng trăm ngàn ức các Đại Bồ-tát cởi thượng y của mình trải làm tòa cao như núi Tu-di để dâng Phật; vô lượng trăm ngàn Đế Thích, Phạm vương, chư Thiên hộ thế…, chắp tay cung kính rải các thứ hoa vi diệu, như hoa Mạn-đà-la, hoa Ma-ha mạn-đà-la, hoa Mạn-thù-sa, hoa Ma-ha mạn-thù-sa, hoa sen trắng, sen đỏ, sen hồng, sen xanh; từ núi Kỳ-xà-quật trải rộng khắp bốn mươi do-tuần, hoa chất đầy khắp đến đầu gối của Phật; vô lượng Thiên tử trổi nhạc trời, nhạc không đánh mà kêu vang, ở trong hư không khen ngợi. Lại thấy chư Phật ra đời, lại thấy chuyển pháp luân, lành thay cho tất cả chúng sinh cõi Diêm-phù-đề, siêng năng tu các công đức, gieo nhiều căn lành, còn được nghe Bát-nhã ba-la-mật sâu xa như vậy; huống là đời sau ai có thể tin tưởng pháp đó, chúng sinh nào được như vậy chắc chắn ở trong cảnh giới của Như Lai. Lại có vô lượng trăm ngàn đại Long vương, dùng thần lực làm mây lớn che khắp, trời mưa thơm khắp núi Kỳ-xà-quật và tam thiên đại thiên thế giới, các người nghe pháp cảm thấy thấm nhuần mùi hương mà không thấy ướt át; vô lượng Long nữ đều ở trước Phật chắp tay khen ngợi; vô lượng Càn-thát-bà dùng âm nhạc vi diệu để cúng dường Phật, các Dạ-xoa cũng tung nhiều thứ hoa đẹp cúng dường, chư Phật Thế Tôn ở vô lượng, vô biên cõi nước khắp mười phương, đều từ giữa hai chân mày phóng ra một luồng hào quang, chiếu núi Kỳ-xà-quật trong thế giới Ta-bà này và những nơi tối tăm trong tam thiên đại thiên thế giới, nơi mặt trời, mặt trăng không thể chiếu ánh sáng tới được. Hào quang ấy chiếu khắp thế giới rồi trở về chỗ Phật, nhiễu quanh bên hữu ba vòng, rồi từ từ nhập vào đảnh đầu của Phật. Vô lượng trăm ngàn Bà-la-môn, Sát-đế-lợi, Trưởng giả, Cư só dùng hương xoa, hương bột, tràng hoa, cờ phướn, lọng báu cúng dường Phật. Bấy giờ trong chúng có bảy mươi hai ức Đại Bồ-tát đã được Vô sinh pháp nhẫn; có vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng sinh đã lìa trần cấu, đạt được Pháp nhãn thanh tịnh; có vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng sinh phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Thắng Thiên vương bạch Phật: –Bạch Đức Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật, lìa văn tự, không nói năng, vậy tại sao Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-lại nói pháp cho chúng sinh? Phật bảo Thắng Thiên vương: –Này đại vương! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật nói pháp như vậy là vì sao? Vì tu tập Phật pháp mà nói Phật pháp rốt ráo là không thể được; vì thành thục các pháp Ba-la-mật mà Ba-la-mật rốt ráo là không thể được; vì Bồ-đề thanh tịnh mà Bồ-đề rốt ráo là không thể được; vì Niết-bàn xa lìa dục diệt mà Niết-bàn lìa dục diệt rốt ráo là không thể được; vì quả Tu-đà-hoàn, Tư đà hoàn, A-na-hàm, A-la-hán mà Tu-đà-hoàn cho đến A-la-hán rốt ráo là không thể được; vì Bích-chi-phật mà Bích-chi-phật rốt ráo là không thể được; vì đoạn trừ ngã thủ mà ngã và thủ rốt ráo là không thể được. Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật sâu xa như vậy, thì tâm không phân biệt tất cả các tướng; ta là người phân biệt và pháp phân biệt của ta cũng đều không thể được; phải tùy thuận theo Bát-nhã ba-la-mật mà không trái với sinh tử; tuy trong sinh tử mà không chống lại Bát-nhã ba-la-mật, lại còn tùy thuận theo pháp tướng. Thắng Thiên vương bạch Phật: –Bạch đức Thế Tôn! Đại Bồ-tát vì sao phải thuận theo pháp tướng mà không trái với thế gian? Phật bảo Thắng Thiên vương: –Này đại vương! Đại Bồ-tát thuận theo Bát-nhã ba-la-mật sâu xa mà không xa lìa sắc, thọ, tưởng, hành, thức; không xa lìa Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới; không xa lìa pháp mà cũng không chấp trước Bát-nhã ba-la-mật, không xa lìa đạo. Vì sao? Vì có đầy đủ phương tiện thiện xảo. Thắng Thiên vương bạch Phật: –Bạch Đức Thế Tôn! Thế nào là phương tiện thiện xảo của Đại Bồ-tát? Phật bảo Thắng Thiên vương: –Này đại vương! Nghóa là vô lượng Đại Bồ-tát, đều Từ, Bi, Hỷ, Xả, không bỏ chúng sinh; thường làm lợi ích cho chúng sinh. Này đại vương! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật đầy đủ lòng Từ vô biên, lòng Từ không phân biệt, pháp Từ, lòng Từ không dừng nghỉ, lòng Từ không phiền não, lòng Từ làm lợi ích, lòng Từ bình đẳng, lòng Từ lợi ích khắp, lòng Từ xuất thế; phải thành tựu tất cả lòng đại Từ như vậy. –Bạch Đức Thế Tôn! Vì sao gọi là đại Bi? Phật bảo: –Này đại vương! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật; vì chúng sinh khổ não không nơi nương tựa, cứu hộ họ thoát khỏi khổ mà phát tâm Bồ-đề, siêng năng mong cầu chánh pháp; chánh pháp mình được rồi thì nói pháp cho chúng sinh. Với người keo kiệt tham lam thì dạy họ thực hành bố thí; với người không có giới, người phá giới thì dạy cho họ trì giới; với người căn tánh ác thì dạy cho họ thực hành nhẫn nhục; với người lười biếng hay trễ nãi thì dạy cho họ tinh tấn; với người tán loạn thì dạy cho họ thực hành thiền định; với người ngu si thì dạy cho họ thực hành trí tuệ; vì nguyện độ chúng sinh, tuy bị gặp khổ sở nhưng hoàn toàn không bỏ tâm Bồ-đề; đó gọi là đại Bi. –Bạch Đức Thế Tôn! Vì sao gọi là đại Hỷ? Phật dạy: –Này đại vương! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật nên suy nghó như vầy: “Ta đã lìa khỏi ba cõi lửa cháy nên vui mừng; từ lâu bị trói buộc trong dây sinh tử, nay ta đã cắt đứt, nên vui mừng; tất cả các giác quán và các tướng chấp thủ ở trong biển sinh tử; ta đã được ra khỏi nên vui mừng; ta đã bẻ gãy cây cờ ngã mạn được dựng lên từ vô thỉ nên vui mừng; dùng trí Kim cang phá hoại núi phiền não để mãi mãi không còn trở lại nữa nên vui mừng; ta đã an ổn lại làm cho người khác an ổn. Vì ngu si đen tối tham ái trói buộc ngủ mãi trong thế gian, nay mới được thức dậy nên vui mừng; ta đã lìa tất cả các cõi ác, lại cứu độ chúng sinh làm cho họ ra khỏi ác đạo. Chúng sinh đã từ lâu ở trong sinh tử, mê mờ không biết đường ra, ta đã cứu độ, chỉ bày đường chánh, làm cho họ đều đến được thành Nhất thiết trí, nên sinh vui mừng; đó gọi là đại Hỷ. Này đại vương! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật; mắt thấy sắc không chấp, không lìa, mà có tâm xả bỏ; tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi thơm, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý pháp cũng đều như vậy. Này đại vương! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật sẽ thành tựu được trí vô lượng tâm như vậy. Thắng Thiên vương bạch Phật: –Bạch Đức Thế Tôn! Làm sao Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật chỉ bày được các tướng để cứu độ chúng sinh? Phật bảo Thắng Thiên vương: –Này đại vương! Tướng Bát-nhã ba-la-mật không thể có được; tướng của Đại Bồ-tát cũng không thể có được; mà chỉ dùng sức phương tiện để giáo hóa chúng sinh, thị hiện vào thai cho đến Niết-bàn. Vì sao? Vì chư Thiên thường cho như vậy là không đọa lạc. Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật dùng sức phương tiện phá chấp này, cho nên phải thị hiện vào thai, nhân đó làm cho chư Thiên kia phát sinh tâm nghó đến vô thường. Người rất cao thượng ở thế gian không ai bằng, là người không chấp trước năm dục, không bị năm dục làm dơ bẩn mà có khi còn bị đọa lạc; huống gì các chư Thiên khác. Vì vậy mọi người chớ nên buông thả phải cố gắng siêng năng tinh tấn, nhất tâm tu đạo. Ví như thấy mặt trời còn bị lặn, thì biết lửa đom đóm không thể giữ cho lâu dài được. Này đại vương! Lại có các chư Thiên buông lung cẩu thả, ưa thích tham đắm cố chấp, nên không tu tập chánh pháp; tuy cùng với Bồ-tát đồng ở Thiên cung mà không đến lễ bái, không hỏi han thọ trì pháp; chỉ nghó như vầy: “Nay hãy cứ rong chơi, khi đến chỗ Bồ-tát nếu họ có hỏi thì ta sẽ nói: Bồ-tát cùng ta thường ở đây tu hành, có gì là lầm lỗi?” Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật phải siêng năng, tinh tấn tu tập như cứu lửa cháy đầu. Phá bỏ sự buông thả kia từng ngày chỉ bày sự hư hỏng. Thị hiện như vậy có hai nhân duyên: Một là làm cho chư Thiên xa lìa sự buông lung; hai là làm cho chúng sinh đều được thấy. Này đại vương! Ở thế gian, lại có chúng sinh căn cơ hạ liệt, chẳng thấy được Phật thành đạo Vô thượng và chuyển pháp luân. Đại Bồ-tát vì chúng sinh này, cho nên thị hiện thành đứa bé đồng tử, dạo chơi ở hậu cung; Bồ-tát nếu thị hiện hình tướng khác để nói pháp thì nữ nhân ở hậu cung sẽ không tin tưởng ưa thích, nên thị hiện đứa bé đồng tử. Này đại vương! Người có đức hạnh cao cả thường xa lìa được thế tục, muốn giáo hóa người ấy Đại Bồ-tát thị hiện xuất gia. Này đại vương! Lại có vị suy nghó như vầy: “Nếu ngồi yên hưởng thú vui của trời, người thì cũng được Thánh đạo vậy.” Đại Bồ-tát vì giáo hóa những người này nên thị hiện khổ hạnh; muốn dẹp trừ các ngoại đạo các Đại Bồ-tát cũng thị hiện khổ hạnh. Này đại vương! Lại có vị Thiên từ lâu phát nguyện: “Nếu Đại Bồ-tát đi đến đạo tràng, thì chư Thiên chúng ta luôn luôn cúng dường.” Đại Bồ-tát vì giáo hóa chúng sinh này, nên thị hiện đến đạo tràng; tất cả mọi người đều được nhân duyên nên đắc quả Bồ-đề. Này đại vương! Lại có vị Thiên suy nghó thế này: “Vì các ác ma, ngoại đạo ngăn ngại chánh pháp ta nguyện chứng quả Bồ-tát ngồi ở đạo tràng, dẹp trừ các ma và các ngoại đạo; người có lòng tin chân chánh khiến cho họ được thấy pháp.” Đại Bồ-tát đã đắc đạo rồi, thì trong hư không khắp tam thiên đại thiên thế giới sẽ phát ra vô số âm thanh khen ngợi: “Mặt trời Phật đã mọc thì lửa đom đóm ẩn mất”; các vị Thiên này đều phát lời thề: “Ta nguyện đời sau sẽ đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác như ngày nay Đại Bồ-tát vì các chúng sinh, ngồi ở đạo tràng chứng quả. Này đại vương! Lại có vị Thiên nói lời thế này: Nguyện gặp được vị Thầy thành tựu Nhất thiết trí, Vô sư trí, Tự nhiên trí, sẽ chẳng xa rời căn tánh thuần thục là bậc Pháp khí cao thâm vì các chúng sinh ba phen chuyển pháp luân, mười hai hành pháp. Này đại vương! Lại có vị Thiên ưa thích nghe Niết-bàn; Bồ-tát vì giáo hóa chúng sinh đó mà thị hiện Niết-bàn. Này đại vương! Lúc thực hành Bát-nhã ba-la-mật Đại Bồ-tát có thể thị hiện được tất cả tướng như thế. Này đại vương! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật không sinh nơi hiểm nạn. Vì sao? Vì người không có phước đức mới không nghe danh tự của Bát-nhã ba-la-mật. Lại nữa, Bồ-tát lại thường xa lìa tất cả ác nghiệp, giới của Phật nói ra không hủy phạm và tâm không ganh ghét, trồng nhiều căn lành với vô số chư Phật ở quá khứ, nên đầy đủ công đức trí tuệ để làm sức phương tiện mà thành tựu được đại nguyện, tâm thích vắng lặng và siêng năng tinh tấn hành trì. Này đại vương! Đại Bồ-tát có tánh hạnh mười điều thiện, thì không có nghiệp ác không đọa vào địa ngục. Đại Bồ-tát hành trì giới, không phạm giới, không đọa vào hàng súc sinh. Đại Bồ-tát không tị hiềm ganh ghét nên không bị đọa vào ngạ quỷ; không sinh vào nhà tà kiến, thường gặp Thiện tri thức. Vì sao? Vì đã trồng nhiều căn lành thâm sâu, với vô số chư Phật ở quá khứ, cho nên sinh đến đâu cũng được chánh kiến. Bồ-tát khi sinh ra, các căn luôn đầy đủ sẽ thành Pháp khí của Phật pháp. Vì sao? Vì đời quá khứ đã từng cúng dường chư Phật, lắng nghe chánh pháp, lễ bái cung kính đại chúng, nên các căn đầy đủ, tướng mạo đoan trang xinh đẹp nên trở thành pháp khí của Phật pháp. Này đại vương! Đại Bồ-tát không sinh nơi biên địa, không bị độn căn ngu si, không biết thiện ác, nói những lời mà ý nghóa không phù hợp Phật pháp, không biết Sa-môn, Bà-la-môn. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát khi sinh, nhất định ở trung tâm của nước, được lợi căn trí tuệ, ngôn ngữ lưu loát, biết rõ ngôn ngữ ý nghóa đó là Pháp khí của Phật, biết rõ Sa-môn, Bà-la-môn. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát do sức của trí tuệ ở đời quá khứ. Bồ-tát không sinh cõi trời Trường thọ, vì không gặp chư Phật, không làm lợi ích cho chúng sinh; sở dó Bồ-tát sinh ở Dục giới, thị hiện ra đời là để làm lợi ích cho chúng sinh. Vì sao? vì nhờ vào phương tiện thiện xảo khéo léo. Này đại vương! Bồ-tát không sinh trong thế giới không; vì nơi này không có Phật, không được nghe Chánh pháp và không cúng dường chúng Tăng. Vì sao? Vì nơi sinh của Bồ-tát nhất định có đủ Tam bảo, thọ giữ nguyện xưa vững mạnh. Bồ-tát nếu nghe tên thế giới ác, liền sinh nhàm chán xa lìa, tu hành thanh tịnh vắng lặng, tâm không biếng lười dùng tất cả pháp thiện để diệt các pháp ác; do nhân duyên đó Bồ-tát không sinh ở nơi có nhiều nguy nan. Này đại vương! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, cho đến trong giấc mộng vẫn không quên mất tâm Bồ-đề, huống gì lúc thức. Vì sao? Vì tất cả thiện pháp đều sinh ở tâm này, tức là tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Nếu không có tâm này thì không có Phật; không có Phật thì không có Pháp; không có Pháp thì không có Tăng; do tâm này nên có Tam bảo và cũng do tâm này nên có trời, người. Đại Bồ-tát thường thẳng thắn nhu hòa, xa lìa dua nịnh, quanh co; tâm thanh tịnh, không nghi ngờ Phật pháp; người nào muốn nghe và học thì Bồ-tát không hề giấu ý nghóa thâm sâu; lìa pháp ganh ghét và lìa được ba đường ác; đối với ban đầu, ở giữa hay sau cùng tướng không khác nhau; hộ trì Đại thừa, việc làm, không trái với lời nói; thấy người đồng học thì sinh lòng cung kính, khuyến khích người khác tu tập, khen ngợi Đại thừa; đối với Thầy thuyết pháp luôn luôn tưởng Phật và nên gần gũi Thiện tri thức và xa lìa bạn ác. Này đại vương! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật, như vậy sẽ thành tựu được tâm Bồ-tát; nhờ tâm này mà biết được thọ mạng đời trước. Vì sao? Vì đã từng cúng dường vô số chư Phật, hộ trì chánh pháp, tu thanh tịnh giới, xa lìa nghiệp ác, không còn bị chướng ngại; tâm thường vui mừng, siêng năng tu học, không tán loạn, trí của tâm không mất, vì sao? Này đại vương! Nếu Bồ-tát đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, thì sẽ tôn trọng chánh pháp. Do tôn trọng chánh pháp nên giảng thuyết khắp cho mọi người và vì hộ trì chánh pháp nên không tiếc thân mạng. Ba nghiệp thân, khẩu, ý thanh tịnh; do nghiệp đã thanh tịnh nên lìa được chướng ngại; lìa được chướng ngại nên tâm thường vui mừng; tâm vui mừng nên siêng năng tinh tấn; tâm tánh đoan trực chân chánh nên niệm trí đầy đủ; do niệm trí đầy đủ nên biết được đời quá khứ; một kiếp, mười kiếp, trăm kiếp, ngàn kiếp cho đến vô số kiếp. Này đại vương! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật như vậy, nên biết rõ túc mạng, biết rõ ở quá khứ đã gần gũi Thiện tri thức; do Thiện tri thức đối với chư Phật không quên ba việc lớn là thấy, nghe, nhớ nghó, nên thường được nghe chánh pháp, cúng dường Tăng bảo, không bỏ thời giờ trôi qua vô ích, luôn luôn cung kính, lễ bái tôn trọng chư Phật Bồ-tất cả khi đi đứng, nằm, ngồi cũng không xa lìa đa văn. Này đại vương! Người trì tịnh giới, nhó căn thường được nghe danh tự Bát-nhã ba-la-mật; thường siêng năng tu tập pháp trợ đạo; không bao giờ xa lìa ba pháp môn Giải thoát, tu bốn Vô lượng tâm, thường nghe tên Nhất thiết trí. Này đại vương! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật, do nhân duyên đó mà gần gũi Thiện tri thức. Này đại vương! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật, cho đến trong giấc mộng còn không gần bạn ác, huống gì khi thức. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát không cùng ở chung với người phá giới, người tà kiến, người không oai nghi, người tà mạn, người nói lời vô nghóa, người làm biếng, người ưa thích ở trong sinh tử, người bỏ Bồ-đề, người ưa việc thế tục. Này đại vương! Đại Bồ-tát thực hành như vậy là hành pháp xa lìa bạn ác tri thức. Này đại vương! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật, có thể được thân thanh tịnh của Như Lai; đó là thân bình đẳng, thân thanh tịnh, thân vô tận, thân nhờ tu tập mà được Pháp thân, thân không thể hiểu biết, thân chẳng nghó bàn, thân tịch tónh, thân bình đẳng như hư không, thân trí. Thắng Thiên vương bạch Phật: –Bạch Đức Thế Tôn! Đại Bồ-tát ở tại địa vị nào, có thể được mười thân Như Lai? Phật bảo Thắng Thiên vương: –Bồ-tát ở Địa thứ nhất được thân bình đẳng. Vì sao? Vì lìa các tà đạo quanh co, thấu rõ pháp tánh, thấy được bình đẳng; đối với Địa thứ hai được thân thanh tịnh. Vì sao? Vì giới thanh tịnh. Đến Địa thứ ba, được thân vô tận. Vì sao? Vì xa lìa sân hận. Đến Địa thứ tư được thân do tu tập mà có. Vì sao? Vì thường siêng năng tu tấn tu tập Phật pháp. Đến Địa thứ năm thì được Pháp thân. Vì sao? Vì thấy được các nghóa lý sâu xa, căn bản. Đến Địa thứ sáu được thân lìa giác quán. Vì sao? Vì quán lý nhân duyên chẳng phải chỗ biết của giác quán. Đến Địa thứ bảy, được thân chẳng nghó bàn. Vì sao? Vì phương tiện đầy đủ. Đến Địa thứ tám được thân vắng lặng. Vì sao? Vì lìa tất cả hý luận, không còn phiền não. Đến Địa thứ chín được thân bình đẳng như hư không. Vì sao? Vì thân tướng không thể lường, nó biến khắp tất cả. Đến Địa thứ mười thì được thân trí. Vì sao? Vì được thành tựu Nhất thiết chủng trí. Thắng Thiên vương bạch Phật: –Thân của Như Lai và thân của Bồ-tát có gì sai khác không? Phật bảo Thắng Thiên vương: –Thân thì không sai khác chỉ có công đức mới khác nhau. Thắng Thiên vương thưa: –Nghóa ấy như thế nào? –Này đại vương! Thân Phật và Bồ-tát không có sai khác. Vì sao? Vì tất cả các pháp đồng một tánh tướng sinh ra, nhưng công đức thì sai khác. –Bạch Thế Tôn! Vì sao công đức có sự sai khác? Phật bảo Thắng Thiên vương: –Nay sẽ nêu thí dụ để Đại vương hiểu rõ. Ví như ngọc báu, có trang sức hay không trang sức, thì giá trị của nó cũng không khác; công đức của Phật, Bồ-tát có sai khác, nhưng Pháp thân không sai khác. Vì sao? Vì tất cả công đức của Như Lai đều đầy đủ, khắp cả pháp giới chúng sinh ở mười phương đều thanh tịnh; vónh viễn không còn cấu nhiễm làm ngăn ngại. Còn công đức của thân Bồ-tát chưa đầy đủ, nên còn có chướng ngại. Ví như bắt đầu từ ngày mười lăm trở đi, trăng khuyết dần nên khác đi, nhưng tinh chất mặt trăng không khác; các thân này đều vững chắc như kim cang, không thể phá hoại. Vì sao? Vì ba độc không phá được; pháp thế gian không ô nhiễm; cái khổ ở cõi ác thú và cõi người không thể áp bức; đều đã xa lìa sinh, lão, bệnh, tử, có thể pháp trừ ngoại đạo, vượt quả cảnh giới của ma, không còn hướng đến thừa Thanh văn, Bích-chi-phật, do nhân duyên đó nên không thể phá hoại. Này đại vương! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật, có khả năng dẫn đường khéo cho tất cả Trời, Người, A-tu-la trong thế gian. Ví như có người giỏi hướng dẫn đường thì các quốc vương, trưởng giả, cư só tất cả đều sử dụng; Bồ-tát cũng vậy, hàng Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát, chư Phật tất cả đều cần dùng để dẫn đường. Lại có người giỏi dẫn đường ở thế gian, thì quốc vương, Bà-la-môn, trưởng giả, cư só, đều cung kính tôn trọng; Bồ-tát cũng vậy, Trời, Rồng, Dạ-xoa, hàng Hữu học, Vô học đều cúng dường. Lại như có người đi giữa đồng trống hiểm nạn, mỏi mệt sợ sệt; gặp người giỏi dẫn đường có thể làm cho an ổn; Bồ-tát cũng vậy, dùng sức phương tiện dẫn dắt chúng sinh ra khỏi sinh tử, phiền não, giặc nạn đến nơi an ổn. Lại như có người nghèo, phải nhờ vào trưởng giả giàu có, mới qua khỏi khó khăn; Phạm chí, Ni-kiền và các ngoại đạo, đang ở trong sinh tử thì phải nương hạnh Bồ-tát, hành Bát-nhã ba-la-mật, để lìa khỏi sinh tử. Lại như trưởng giả rất giàu, của cải vô lượng, có thể cung cấp cho tất cả mọi người sử dụng, Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật cũng vậy, đó là chỗ cho tất cả chúng sinh trong sinh tử sáu đường thọ dụng. Lại như trưởng giả rất giàu có, muốn vượt quả hiểm nạn, ắt cần nhiều bạn, đầy đủ thức ăn uống và hành lý thì mới vượt qua được; Đại Bồ-tát cũng như vậy, muốn ra khỏi thế gian, phải dùng công sức trí tuệ, cứu độ tất cả chúng sinh vượt hoạn nạn sinh tử đến Nhất thiết trí. Như người đi xa, đem nhiều vật báu thì sẽ được lợi ích: Bồ-tát cũng vậy, từ biển sinh tử đến Nhất thiết trí đã rộng tu công đức trí tuệ, để chứng được Nhất thiết trí. Như người đời, cầu của cải không nhàm chán; thì tâm Bồ-tát thích pháp cũng không chán như vậy. Lại như người dẫn đường, được bốn việc hơn người đó là: Tài sản, sự sang giàu, địa vị và người nghe lời; Bồ-tát cũng vậy, rất giàu công đức, địa vị thù thắng, tự tại đối với pháp, không làm khác lời nói. Như người khéo dẫn đường thì sẽ đến được thành lớn; Bồ-tát cũng vậy, rất giỏi hướng dẫn đường để đến thành Nhất thiết trí. Này đại vương! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, biết rõ đường nào nên đi, đường nào không nên đi, đường nào tà, đường nào chánh, đường nào an ổn, đường nào có nước, đường nào không nước, địa hình của nó cong hay thẳng, đường nào vượt qua được… tất cả đều thông suốt. Này đại vương! Do Đại Bồ-tát biết nên không bị lộn đường. Phàm làm việc chỉ đường, không trái với căn tánh mọi người, với người Đại thừa thì chỉ đạo Vô thượng, không chỉ đường Thanh văn, Bích-chi-phật; với hàng Tiểu thừa thì chỉ đạo Thanh văn, không nói Đại thừa; tùy theo căn cơ của hàng Bích-chi-phật; mà chỉ bày đạo Duyên giác, không nói đạo Nhất thiết trí; với người chấp trước ngã thì nói đạo Vô ngã, chúng sinh chấp pháp thì nói đạo không; với người chấp nhị biên thì nên nói trung đạo; với người tán loạn thì nên nói phương pháp tu chỉ quán, không nói pháp tán loạn; với chúng sinh lý luận thì nên chỉ bày đạo như như, không dùng lời nói năng; với người chấp trước sinh tử thì nên chỉ bày đạo Niết-bàn, không nói pháp thế gian; với người lầm lạc thì chỉ dẫn con đường chánh chân. Này đại vương! Đó gọi là Đại Bồ-tát biết đường tà chánh.  <詞 id="82881775">Phẩm 4: NIỆM XỨ Lúc bấy giờ, Thắng Thiên vương liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch bày vai hữu, quỳ gối, chắp tay, đảnh lễ bạch Phật: –Bạch Đức Thế Tôn! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật như vậy, nên có thể biết được đường chánh và đường tà, thì tâm duyên vào đâu? Phật bảo Thắng Thiên vương: –Này đại vương! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, tâm chánh trực, không tán loạn. Vì sao? Vì khéo niệm thân, niệm thọ, niệm tâm, niệm pháp. Đại Bồ-tát, phàm khi cần du hành đến xóm làng mà nghe được lợi dưỡng, như giới của Phật dạy, đó là sự trói buộc của phiền não hãy tự ghi nhớ. Này đại vương! Vì sao Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật thường niệm thân và được tương ưng với thân, chán ghét pháp bất thiện? Bởi vì dùng trí như thật thì sẽ xa lìa được pháp ác đó và quán được lỗi lầm của thân: Từ chân cho đến đỉnh đầu, thân này là vô ngã, hư hoại, không thường; chỉ do gân mạch ràng rịt hợp thành, mủ thịt tanh hôi, màu sắc xấu xí, trông thật đáng chán. Quán trong mình như vậy, thì tham dục không thể phát triển nơi thân ta; do nhân duyên đó mà tương ưng và tùy thuận với pháp thiện. Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, thì niệm thọ như thế nào? Bồ-tát phải suy nghó như thế này: “Các thọ đều là khổ, nhưng vì điên đảo, chúng sinh tưởng là vui; phàm phu ngu si lấy khổ làm vui; bậc Thánh nhân chỉ nói tất cả đều là khổ, nên phải tinh tấn tu tập để đoạn trừ hết phiền não và dạy mọi người cũng tu học pháp này.” Quán như vậy rồi, luôn tự niệm thọ, không thực hành theo thọ mà lại tu hành đoạn diệt thọ, rồi cũng khiến cho người khác học. Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, thường niệm tâm như thế nào? Nên suy nghó như thế này: “Tâm này vô thường mà gọi là thường trụ, khổ cho là vui, vô ngã cho là ngã, bất tịnh cho là tịnh, luôn luôn chuyển động không dừng, dời đổi mau chóng. Vì kết sử là cội gốc của các đường ác; phiền não là nhân duyên hoại diệt thiện đạo, nên không thể tin. Vì tham, sân, si làm chủ những điều không đáng tin; tâm đứng đầu trong tất cả các pháp, nếu khéo biết tâm thì đều hiểu các pháp. Tất cả các thứ ở thế gian đều do tâm này tạo, tâm không tự thấy hoặc thiện hoặc ác, tất cả đều do tâm khởi. Tánh tâm dời đổi như vòng lửa quay, chuyển dịch như vó ngựa, có thể thiêu đốt như lửa, ồ ạt như nước chảy.” Quán sát như vậy, đối với niệm không động, không hành động theo tâm, mà làm cho tâm theo mình. Nếu điều phục được tâm thì điều phục được các pháp. Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, nên niệm pháp như thế nào? Là phải biết một cách chân thật về pháp bất thiện, như: tham dục, sân hận, ngu si và các phiền não; để tu tập đối trị, như đối trị tham dục, đối trị sân hận, đối trị ngu si biết như vậy rồi, liền thay đổi khởi niệm, không làm theo pháp kia và cũng làm cho người khác xa lìa. Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, khởi niệm đối với cảnh giới như thế nào? Nếu thấy sắc, thanh, hương, vị, xúc thì Bồ-tát suy nghó như thế này: “Vì sao sinh tham ái với pháp không chân thật? Đây là việc chấp trước của phàm phu ngu si, cho là bất thiện.” Đức Thế Tôn nói: “Vì tham ái mà chấp trước, do chấp trước nên mê hoặc, vì mê hoặc cho nên không biết pháp thiện, ác; do nhân duyên đó mà sinh vào ác thú.” Đại Bồ-tát không mất cảnh giác vào cảnh giới, không chấp trước vào cảnh giới và làm cho người khác cũng vậy. Này đại vương! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật niệm A-lan-nhã, phải suy nghó như vầy: “A-lan-nhã là chỗ ở của người không có tranh cãi, là chỗ ở vắng lặng; ở nơi này Trời, Rồng, Dạ-xoa và người có Tha tâm trí đều có thể biết tâm và tâm sở pháp của ta; vì thế không nên ở đây suy nghó tà ý, phải liền bỏ lìa. Đối với chánh pháp luôn ghi nhớ, cố gắng siêng năng tu tập.” Này đại vương! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, phải suy nghó như vậy những thành ấp, xóm làng mà người xuất gia chẳng nên lui tới, đó là nơi quán rượu, nhà điếm, lánh xa những nơi ca hát, bài bạc, vương thành. Này đại vương! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật nghe đến việc lợi dưỡng thì phải nhớ nghó chân chánh như vầy: “Vì để sinh phước cho người bố thí, nên nhận vật này, không phải vì tham ái mà nhận, cũng không đem vào nhà để nuôi con cháu, không nói tài vật là của ta mà phải cung cấp khắp tất cả cho những người nghèo cùng. Người thực hành như vậy, được mọi người khen ngợi, hoàn toàn không toan tính cho ta cho việc của ta làm.” Lại nghó như vầy: “Mọi người đều sẽ khen về tiếng tăm bố thí của ta; thế gian thì vô thường, mau chóng hoại diệt; tại sao người trí cũng chạy theo sự vô thường không thật, không bền, không quyền hành mà phát sinh cái ta và cái của ta.” Này đại vương! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, đối với lời Phật dạy thì nên niệm giới và suy nghó như vầy: Chư Phật quá khứ đều học giới này mà thành đạo Vô thượng, được đến quả Niết-bàn; chư Phật đương lai và hiện tại cũng như vậy, đã biết như vậy thì phải nên tinh tấn tu học. Này đại vương! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, vì giáo hóa chúng sinh cho nên đối với thân mình ít muốn biết đủ, đắp y phấn tảo, tâm luôn trong sạch, lòng tin vững chắc, thà mất thân mạng này chớ không phạm giới cấm, tâm xa lìa cống cao ngã mạn đi trong thành ấp không mắc cỡ vì mặc y cũ, xa lìa sự lười biếng, thường tinh tấn tu tập; việc làm chưa xong thì không bỏ giữa chừng, đối với y phấn tảo không thấy đó là nỗi lo, đối với y cũ, xấu không khinh chê, chỉ giữ lấy đức hạnh. Người ly dục mới mặc y phục này, được Như Lai khen ngợi đó là cách ngăn lòng tham lam; cũng không tự hào mình mặc y phục này, cũng không chê người không mặc y phục ấy. Người tu hạnh như vậy, được chư Phật khen ngợi, Bồ-tát hộ trì, chư Thiên, Bà-la-môn, Sát-đế-lợi đều lễ kính. Này đại vương! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, như thế là tu hạnh thanh tịnh. Thắng Thiên vương bạch Phật: –Bạch Đức Thế Tôn! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật với cao hạnh như thế mà còn dùng y phấn tảo hay sao? Phật bảo Thắng Thiên vương: –Vì các Đại Bồ-tát luôn dẫn dắt và ủng hộ người ở đời. Vì sao? Vì thấy chúng sinh ưa thích không giống nhau. –Này đại vương! Ý ông thế nào? Bồ-tát đức hạnh cao thượng như Thế Tôn sao? Thắng Thiên vương thưa: –Đức hạnh cao thượng của Bồ-tát chẳng bằng một phần trăm ngàn vạn ức hằng hà sa không thể đếm thí dụ so với đức hạnh của Phật. Vì sao? Vì Như Lai Thế Tôn là Bậc Đại Pháp Vương Nhất thiết chủng trí, không một pháp nào mà không rõ ràng. –Này đại vương! Ý ông thế nào? Chư Phật Như Lai ở trong khắp thiên hạ; ở trong Thiên, Long, Dạ-xoa, Nhân phi nhân mà thị hiện khổ hạnh và tán thán công đức hạnh Đầu-đà để làm gì? Vua thưa Thế Tôn: –Vì muốn giáo hóa, cứu độ cho chúng sinh và các vị Bồ-tát mới phát tâm, mà nói pháp đối trị cho người chưa hết phiền não. Phật bảo: –Đúng thế, đúng thế! Này đại vương! Đại Bồ-tát có đức hạnh cao quý mà mặc y phấn tảo cũng như vậy; cho nên Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, có rất nhiều phương tiện để làm lợi ích cho chúng sinh. Này đại vương! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật thị hiện ở thế gian, chỉ giữ ba y, vì sao? Vì tâm biết đủ không cầu nhiều nên ít ham muốn; vì không mong cầu nên không cất chứa; vì không cất chứa nên không bị mất; không bị mất nên không sinh khổ; không sinh khổ cho nên xa lìa các phiền não; lìa các phiền não nên không có đắm trước; không đắm trước cho nên gọi đó là lậu đã dứt sạch. Này đại vương! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật vào thành ấp. Xóm làng bưng bát khất thực là để làm lợi ích cho chúng sinh, vì sao? Vì Đại Bồ-tát đã huân tập tâm Từ bi, quán sát chân thật khổ nghèo của chúng sinh, muốn cho họ được giàu có, nên thọ nhận cúng dường của họ. Hoặc vào xóm làng, oai nghi tề chỉnh, tâm đoan chánh, không tán loạn; khéo nhiếp phục các căn, nhìn tới trước sáu thước (một thước tám Tây); pháp khất thực này như hai cái ách giữ trâu cày đất, lần lượt đi không bỏ qua nhà nghèo, thọ thực có hạn lượng, không được lấy nhiều; đối với vật được ở trong bát, lại để ra một phần cúng dường lại. Vì sao? Vì tín thí khó tiêu, vì muốn sinh phước đức. Này đại vương! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, chỉ ngồi ăn một lần, không thay đổi. Vì sao? Vì một khi đã ngồi trong đạo tràng, ma có đến nhiễu loạn cũng không lay động, trí tuệ xa nơi thiền định xuất thế, Thánh đạo như thật, tất cả pháp đều không đạo; đạt đến Nhất thiết chủng trí chân như, thật tế đối với các pháp này đều không lay động. Vì sao? Vì pháp Nhất thiết trí này chỉ ngồi một lần là được, cho nên Đại Bồ-tát thực hành pháp này khi ăn ngồi một chỗ. Này đại vương! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, dùng sức phương tiện mà thị hiện sự khất thực như vậy. Này đại vương! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, học hạnh A-lan-nhã; nghóa là thường tu phạm hạnh; không phát sinh lỗi lầm nơi các căn; rất thâm hiểu, ưa thích đa văn; tu hành xa lìa sợ sệt về ngã; không đắm trước, thân, thường hành tịch tónh. Đại Bồ-tát xuất gia trong chánh pháp, giữ gìn ba loại giới thanh tịnh, biết rõ pháp tướng và thông đạt tất cả những gì mà Như Lai giảng dạy về giới của ba hạng người; trẻ, trung niên và già. Không theo ngoại duyên, tâm tự nghó, hủy báng chê bai pháp thế tục, khen ngợi pháp xuất thế, điều phục các căn không duyên vào cảnh ác. A-lan-nhã là nơi sinh sống không có hoạn nạn, muốn đến làng xóm để khất thực cũng không xa không gần; có suối nước trong mát để tám rửa, sinh hoạt thuận tiện, có cả rừng cây hoa quả yên tónh, không có cầm thú ác; núi non vắng lặng, thanh vắng ít người lui tới ngày đêm ba thời siêng năng đọc tụng, những pháp đã được nghe, âm thanh không quá cao, cũng không quá thấp; tâm không duyên cảnh bên ngoài nhất niệm trì tụng nhớ mãi trong lòng. Nếu Bà-la-môn, Sát-đế-lợi đến nơi A-lan-nhã này, thì mời họ ngồi, nếu người kia không chịu nghe lời; nêu ân cần khuyên thỉnh và xét theo căn tánh của họ để mà thuyết pháp, làm cho họ vui mừng, tin nhận, tu hành; có đầy đủ phương tiện quyền xảo như thế mới nên lìa tâm ngã. Bởi vô ngã nên ở A-lan-nhã không sợ sệt, dò lìa sợ sệt nên ưa thích tu hành nơi vắng vẻ; Đại Bồ-tát dùng sức phương tiện như vậy mà chỉ bày hạnh A-lan-nhã. Này đại vương! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, khéo quán sát hạnh này và suy nghó rằng: Tất cả đồ ăn uống thơm ngon, trong sạch ở thế gian, khi tiếp xúc với thân nhiệt nên thành ra bất tịnh, thối tha hôi hám; tất cả phàm phu ngu si không trí tuệ, yêu đắm thân này và đồ ăn uống; nếu nương tựa vào Thánh trí mà quán sát chân thật thì sẽ sinh ghê tởm, không còn ưa thích, tham đắm. Này đại vương! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, suy nghó như thế này. Do tạo nhiều sân hận nên phát sinh ác nghiệp, ta nay phải xa lìa, đem tâm chánh trực hướng đến đạo, suy nghó chân thật chẳng theo lời nói suông. Này đại vương! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, suy nghó thế này: “Nếu có pháp sinh tức là do nhân duyên, nhân duyên của các pháp lại do duyên mà sinh ra. Vì sao người trí ở nơi pháp nhân duyên, hư vọng này mà tạo tội lỗi?” Trong thân của Bồ-tát, có chướng ngại ngăn pháp lành thì đoạn trừ ngay. Nếu không có thể đoạn trừ chướng ngại ngăn pháp lành của người khác thì tâm liền bỏ không phát sinh vô minh. Thế nào là pháp chướng ngại điều thiện? Vì không cung kính tịnh giới Phật, Pháp, Tăng và bạn đồng học, người già, người trẻ nhỏ tuổi thì cao ngạo với họ; hướng đến năm dục; quay lưng với Niết-bàn, mà phát sinh ngã kiến, chúng sinh kiến, mạng kiến, nhân kiến; chấp không, khởi đoạn kiến; chấp có, khởi thường kiến, xa lìa Hiền thánh, thân cận phàm phu; bỏ người trì giới, nương tựa người phá giới; gần bạn ác, xa lánh bạn lành; nghe pháp sâu xa liền hủy báng; oai nghi không chân chánh; lời nói không đàng hoàng; phiền não che tâm, có nhiều xiểm nịnh; tham đắm lợi dưỡng, sinh năm ngã thứ mạng: một là họ sang giàu, hai là dòng dõi, ba là kiến thức hơn người, bốn là cõi nước, năm là đồ chúng; thấy ác thì giúp gặp thiện thì bỏ; khen ngợi người nữ trẻ em ngoại đạo; không thích sống nơi A-lan-nhã, ăn uống không biết đủ; không gần gũi thầy; tuy đọc tụng mà không biết giờ giấc; hoặc thấy thiện pháp cũng không có tâm tôn trọng; thấy ác không sợ, như voi không móc câu, như ngựa không dây cương buông lung không chế ngự; thường sân hận, không sinh tâm từ; thấy khổ không có lòng thương; gặp bệnh không chăm sóc, không sợ chết chóc; ở trong đống lửa, không mong thoát ra; việc nên làm mà không làm, không biết tính toán; suy nghó những điều không thể suy nghó; mong cầu những điều không thể mong cầu; chưa ra mà cho là ra; chẳng phải đường mà gọi là đường; chưa đắc mà gọi là đắc; xa lìa thiện pháp cho đến hủy báng Đại thừa; khen ngợi người Tiểu thừa, hủy báng người Đại thừa; khen ngợi người ít học, ưa thích đấu tranh; miệng nói thô tục; tâm không Từ bi, lại làm cho người khác sợ sệt, nói ra lời thô tục bỉ ổi, không một lời chân thật; thích đắm trong húy luận không chịu lìa bỏ. Này đại vương! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, thì những việc như vậy gọi là làm chướng ngại các thiện pháp. Này đại vương! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, là diệt các hý luận, tu tập hạnh không, suy nghó như thế này: “Các cảnh giới được quán sát đều là không, tâm quán cũng như vậy; không thể có, không có sự sai khác giữa năng quán và sở quán, các pháp chỉ một tướng gọi là vô tướng; suy nghó như vầy, thì xa lìa tướng trong ngoài, nên không thấy thân, không thấy tâm, không thấy pháp. Cứ thế, liên tục tu chỉ và quán; quán là thấy pháp chân thật, chỉ thì nhất tâm không loạn. Bồ-tát tu quán thực hành như vậy rồi, liền được giới thanh tịnh, được giới thanh tịnh rồi thì hạnh cũng như vậy. Đó gọi là Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật quán hạnh thanh tịnh. Này đại vương! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật là hộ trì kho tàng chánh pháp của Như Lai; nghe giảng và thọ trì chánh pháp là để giữ gìn chứ không vì lợi dưỡng. Vì giữ hạt giống Tam bảo không cho đoạn dứt, chứ không vì cung kính. Vì hộ trì người thực hành Đại thừa chứ không vì tiếng tăm. Vì những chúng sinh không có nơi quay về nương tựa để được cứu độ và được an lạc. Vì người không có Tuệ nhãn, nên làm cho được Tuệ nhãn. Vì người tu Tiểu thừa, nên chỉ bày đạo Thanh văn. Vì người muốn tu Đại thừa, thì thị hiện Đại đạo. Nghe pháp như vậy gọi là Vô thượng trí, không nhận lấy thừa hạ liệt. Này đại vương! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, biết rất rõ các giới luật; nghóa là giới luật và hành giới luật. Giới luật rất thâm sâu, rất vi diệu; giới luật về tịnh cùng bất tịnh, có mất hay không mất, giới luật biệt giải thoát; giới luật hàng Thanh văn, giới luật hàng Bồ-tát. Này đại vương! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, đều biết rõ các giới luật như vậy. Này đại vương! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, khéo biết tất cả oai nghi giới hạnh; khéo học giới Thanh văn, giới Bích-chi-phật, giới Bồ-tát. Đã thực hành giới hạnh rồi, nếu thấy oai nghi không chân chánh thì nên xa lìa và không hành không đúng chỗ. Hoặc thấy Sa-môn có oai nghi giới hạnh, thì sẽ thân cận, hoặc gặp Bà-la-môn tu học dị hạnh, khuyên tu giới luật, chân thật tu hành giới hạnh như vậy, tâm không dối trá nên tật đố được diệt trừ; tự mình thực hành bố thí, khuyên người thực hành bố thí và khen ngợi bố thí, thấy người bố thí sinh tâm vui mừng; không nghó như vầy: Hãy đem cho ta đừng cho người khác. Chỉ nên suy nghó: “Tất cả chúng sinh có nhiều đói lạnh, khốn khổ; nguyện cho họ được của cải, đời này cho họ được an lạc. Do nghe pháp cho nên đời sau được an lạc. Ta nay phải tinh tấn tu đạo để cùng với chúng sinh đồng được xuất thế. Đó gọi là Đại Bồ-tát không có tâm ghen ghét; đối với chúng sinh đều được bình đẳng. Nếu thực hành Bố thí cho khắp tất cả chúng sinh và Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ cho đến khi đạt Nhất thiết chủng trí, cũng không có tu hai tâm. Vì sao? Vì pháp được tu và chúng sinh cùng với niệm là cảnh giới sẽ làm cho mau thành đạo quả. Đối với lửa sinh tử ta đã lìa khỏi, cũng làm cho người khác ra khỏi. Ví như trưởng giả có sáu người con, đều là trẻ con, nên thương nhớ không chênh lệch; trưởng giả ở ngoài nhà mà trong nhà đó lửa cháy. Này đại vương! Ý ông như thế nào? Trưởng giả nghó như thế nào đối với sáu người con này, có nên cứu người trước người sau hay không? Không, thưa Thế Tôn! Vì sao? Vì người cha kia đối với các con tâm đều bình đẳng. Này đại vương! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật cũng như vậy. Vì phàm phu tham lam đắm chấp ở nơi sáu đường nên ở trong hầm lửa sinh tử không biết thoát ra. Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật tâm bình đẳng, dùng tất cả phương tiện, khuyến dụ, giáo hóa người khác, làm cho họ ra khỏi và đều an trí trong cảnh yên tónh. Này đại vương! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, đối với các pháp đều bình đẳng. Nghóa là dùng pháp cúng dường Như Lai, tu hành chân thật để cúng dường Như Lai và làm lợi an lạc cho tất cả chúng sinh, hộ trì thiện pháp cho tất cả chúng sinh, tùy thuận chúng sinh mà khéo léo giáo hóa hành Bồ-tát đạo, thực hành không trái với lời nói, tâm không mỏi mệt để cầu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Nếu được như vậy, mới gọi là cúng dường chư Phật, không phải vì mưu sinh mà làm việc cúng dường. Này đại vương! Pháp là thân Phật, nếu cúng dường Pháp là cúng dường Phật. Này đại vương! Chư Phật Thế Tôn, đều từ sự tu hành chân thật mà ra, đều làm lợi ích, an lạc cho chúng sinh và giữ gìn thiện pháp, tùy thuận chúng sinh. Nếu người không làm được như vậy thì trái với lời thệ nguyện, sẽ buông lung lười biếng, không thể thành tựu được tâm Bồ-đề. Vì các Đại Bồ-tát và chúng sinh cùng tồn tại Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Nếu không có chúng sinh, làm sao Bồ-tát đắc được Bồ-đề. Này đại vương! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, đem pháp cúng dường Như Lai gọi là chân chánh cúng dường; cúng dường như vậy thì diệt trừ được ngã mạn; nghóa là phải xa lìa thế tục; cạo bỏ râu tóc, đối với cha mẹ anh em thân thích, không còn quan hệ nhau, giống như mình đã chết; hình dáng, y phục, tướng mạo, khác thường; bưng bát đi vào thành quách, đến nhà quen hay nhà Chiên-đà-la, đều khiêm tốn khất thực, với suy nghó như thế này: Thân mạng ta lệ thuộc vào người khác, nhờ vào thức ăn của họ mà sinh sống. Do nhân duyên ấy mà ngã mạn được trừ bỏ, lại suy nghó rằng: “Ta nay nên tùy thuận theo Sư tăng, bậc Tôn trưởng và bạn đồng học, làm cho họ hoan hỷ. Người chưa từng nghe pháp làm cho họ nghe pháp. Nếu thấy người khác sân hận hơn thua với ta thì nên nhẫn nhục khiêm tốn tránh xa họ. Này đại vương! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật như vậy, là diệt trừ được ngã mạn. Này đại vương! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, sẽ sinh niềm tin chân chánh kiên cố. Vì sao? Vì đã gieo trồng nhiều công đức ở quá khứ, nên căn lành mạnh mẽ, đầy đủ nhân lành, được thành tựu chánh kiến, không tin ngoại đạo, trong tâm thanh tịnh, không nương tựa các thầy khác, tâm hạnh ngay thẳng, chất phác, xa lìa giả dối, các căn lanh lẹ, trí tuệ đầy đủ, lìa các triền cái chướng ngại, tâm được thanh tịnh, xa lìa bạn ác gần gũi bạn lành, tìm cầu lời hay, không sinh lười biếng, nhờ nghe giáo pháp, biết được công đức của Phật. Thắng Thiên vương bạch Phật: –Thưa Thế Tôn! Cầu xin Đức Đại Từ thương xót mà giảng giải cho con về công đức đại oai thần lực của Như Lai. Phật bảo Thắng Thiên vương: –Này đại vương! Hãy lắng nghe, lắng nghe và khéo suy nghó cho kỹ! –Ta sẽ vì đại vương tuyên nói chút ít thần lực công đức của Như Lai. –Lành thay, Thế Tôn! Con nguyện muốn nghe. Phật bảo Thắng Thiên vương: –Như Lai đầy đủ vô biên đại Từ chiếu khắp chúng sinh. Chúng sinh sẽ được bảo hộ cho đến mười phương cùng tận cõi hư không cũng đều chiếu hết, không thể đo lường. Lòng đại Từ của Như Lai, Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát đều không bằng. Vì sao? Vì đó là pháp bất cộng; không một chúng sinh nào, ở mười phương thế giới, mà không được đại Bi chiếu đến. Lại nữa, Như Lai nói pháp vô tận cho chúng sinh khắp mười phương, một kiếp, trăm kiếp, ngàn kiếp hoặc vô lượng kiếp, vì nhân duyên của mọi loài mà thuyết pháp vô tận. Tất cả các ngôn ngữ ý nghóa câu nói của chúng sinh hỏi Như Lai; thì trong chốc lát làm cho tất cả chúng sinh phân biệt được rõ ràng, không ai có thể phá hoại được. Lại nữa, Như Lai tức là cảnh giới thiền định vô ngại, giả sử tất cả thế giới của chúng sinh, đều trụ ở địa thứ mười nhập vào các Tam-muội trăm ngàn ức kiếp, quán chiếu thiền định của Như Lai thì cũng không thể suy lường được. Lại nữa, thân Như Lai vô lượng, vô biên, vì tùy theo người nào ưa thấy, thì ngay trong một niệm sẽ hiện ra vô số Như Lai. Như Lai lại có Thiên nhãn thanh tịnh, thấy hết tất cả thế giới với vô lượng chúng sinh, mỗi mỗi chúng sinh với mỗi mỗi thế giới. Như vậy tất cả sự việc trong thế giới, Như Lai đều thấy như xem quả A-ma-lặc trong lòng bàn tay. Mắt của loài người, trời đều không thể thấy được. Như Lai lại có Thiên nhó thanh tịnh; tất cả chúng sinh tùy theo chủng loài, có những âm thanh không đồng, Như Lai đều nghe và hiểu được nghóa rõ ràng. Như Lai lại có Tha tâm trí thanh tịnh; tất cả các thế giới đều có chúng sinh, nghó, tưởng, tạo nghiệp hoặc bị mắc quả báo; Như Lai, Thế Tôn đi, đứng, nằm, ngồi chỉ với một niệm trong chốc lát, thảy đều rõ biết, vì Như Lai thường thiền định, không tán loạn. Này đại vương! Chư Phật Như Lai không mất chánh niệm, tâm không tán loạn, căn không duyên cảnh khác, vì sao? Vì lìa phiền não tật khí nên rất thanh tịnh, vắng lặng, không có cấu uế; còn người có phiền não thì tâm tán loạn, tâm tìm cách duyên vào cảnh khác. Như Lai Thế Tôn lìa cấu nhiễm, được vô lậu, được tất cả pháp tự tại bình đẳng, thường ở trong Tam-muội chánh định. Này đại vương! Như Lai dùng một oai nghi Tam-muội, cũng du hành được khắp nơi cho đến Niết-bàn; trời, người không thể nào biết được. Huống nữa, Như Lai ở trong vô lượng kiếp đã tu tập; vô lượng, vô biên, vạn ức Tam-muội. Vì đối với Như Lai thì không thể lường, không thể nghó bàn, không thể quán sát được. Lúc bấy giờ Thắng Thiên vương bạch Phật: –Bạch Đức Thế Tôn! Con nghe Như Lai đã ba a-tăng-kỳ kiếp tu hành, mới được thành Phật; vì sao mà nói vô lượng kiếp tu tập? Phật bảo: –Này đại vương! Không phải như vậy, vì sao? Vì Đại Bồ-tát tu chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, phải dùng vô lượng công đức và sức lực không phải chỉ bấy nhiêu kiếp ấy mà cho đến khi chứng được lý pháp bình đẳng mới gọi là thành Phật. Thắng thiên vương bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Lành thay, lành thay! Tất cả chúng sinh, luôn thực hành các thiện pháp, xa lìa các nghiệp chướng, ưa thích quả Phật, tu hạnh Bồ-tát. –Bạch Đức Thế Tôn! Hoặc có chúng sinh được nghe về sức thần thông của Như Lai, tâm sinh vui mừng, tin nhận khen ngợi phải biết người đó không lâu sẽ đạt được thần thông này. Huống nữa, nếu có người đọc tụng, biên chép, giảng nói, những người như vậy đều không thể nghó lường. Phật dạy: –Này đại vương! Đúng như vậy! Các chúng sinh này Như Lai ủng hộ vì đã trồng các căn lành, cúng dường vô số chư Phật ở quá khứ, mới có thể nghe được sức đại thần thông của Như Lai. Những thiện nam, thiện nữ nghe, tâm không nghi ngờ, trong bảy ngày, tắm rửa sạch sẽ, mặc y phục, dùng hương hoa cúng dường nhất tâm chánh niệm. Bấy giờ, Như Lai liền hiện thần thông, làm cho họ được thấy Phật mà cúng dường, nếu có thiếu chút ít nhưng nhất tâm chánh niệm, khi lâm chung thì chư Phật cũng sẽ hiện tiền. Thắng Thiên vương bạch Phật: –Thưa Đức Thế Tôn! Có chúng sinh nào, nghe nói công đức và thần lực của Như Lai mà không khởi tâm tin tưởng lại hủy báng không? Phật bảo: –Có chúng sinh đó, hoặc nghe pháp môn thần lực của Như Lai liền khởi sân hận không có tâm thiện. Đối với vị thầy nói pháp, tưởng là ác tri thức. Người này lúc chết sinh vào địa ngục. Nếu nghe thần lực công đức của Như Lai, có thể sinh lòng tin thọ, hoặc đối với vị thầy nói pháp, tưởng là Thiện tri thức, liền được làm người, trời cho đến thành Phật. Lúc bấy giờ, Thế Tôn hiện ra tướng lưỡi dài rộng, che cả mặt cho đến đỉnh đầu, che khắp thân, che cả tòa Sư tử, che cả chúng Bồ-tát, chúng Thanh văn, sau đó che trời Thích, Phạm, Hộ thế và tất cả đại chúng rồi thâu tướng lưỡi về. Phật bảo đại chúng: –Như Lai có tướng lưỡi này lẽ nào nói dối đại chúng, các ông đều tin thọ sẽ được an lạc lâu dài. Khi nói pháp môn đó, trong hội chúng có tám vạn bốn ngàn Bồ-tát đắc được Vô sinh pháp nhẫn; vô lượng trăm ngàn chúng sinh xa lìa trần cấu, đạt được Pháp nhãn thanh tịnh; vô lượng, vô biên chúng sinh phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. KINH THẮNG THIÊN VƯƠNG BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT <卷 id="82881776">QUYỂN 3 <詞 id="82881777">Phẩm 5: PHÁP TÁNH Lúc bấy giờ, Thắng Thiên vương từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, chắp tay hướng về Đức Phật, cúi đầu đảnh lễ, bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Thật là hy hữu! Ngài là Bậc Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri. Ngài thường hoan hỷ nói về sức thần thông vi diệu. Vì sao các Đức Phật Như Lai được thần thông này? Cúi xin Thế Tôn giải rõ cho. Phật bảo Thắng Thiên vương: –Này đại vương! Việc làm của chư Phật Như Lai sâu xa không thể nghó bàn, nên được quả như vậy. Thắng Thiên vương bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Chư Phật Như Lai thực hành những pháp gì mà gọi là sâu xa không thể nghó bàn? Phật bảo Thắng Thiên vương: –Này đại vương! Pháp tánh của chư Phật Như Lai nhân và quả không thể nghó bàn; pháp và công đức làm lợi ích cho chúng sinh cũng như vậy. Thắng Thiên vương bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Tại sao nói pháp tánh không thể nghó bàn? Phật dạy: –Này đại vương! Từ vô thỉ các ấm, giới, nhập luôn nối tiếp với nhau trong chúng sinh; nhưng thể của pháp tánh thanh tịnh không bị ô nhiễm. Tất cả tâm thức không thể nương vào đó phát khởi, các quan sát và hiểu biết khác thì không thể phân biệt được. Những suy nghó bằng tà kiến cũng không thể duyên được; pháp đó xa lìa tà niệm nên vô minh không khởi; cho nên không từ mười hai nhân duyên mà sinh. Đó gọi là vô tướng, chẳng phải tác pháp, tự tướng của nó thường trụ, không sinh, không diệt, không cùng tận, không biên giới. Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, biết được pháp tánh thanh tịnh như vậy, nên xa lìa được cấu uế, không bị nhiễm trước, cho nên vượt qua phiền não đạt đến giải thoát. Tánh này tức là pháp căn bản của chư Phật; công đức, trí tuệ nhân nơi đây mà phát sinh, thể tánh của nó sáng suốt thanh tịnh, không thể suy lường được. Này đại vương! Ta nay dùng ví dụ để nói, ông hãy lắng nghe. Vua thưa: –Bạch Thế Tôn, con xin muốn nghe! Phật bảo Thắng Thiên vương: –Ví như viên ngọc như ý vô giá, nếu được mài dũa trang sức thì nó trong sáng rất đẹp. Khi rơi vào trong bùn lầy, trải qua thời gian rất lâu, nhưng thể của nó vẫn tròn sáng, không bị nhơ bẩn. Nếu có người nhặt được, giữ gìn thì không bị mất. Pháp tánh cũng vậy, tuy ở trong phiền não nhưng không bị ô nhiễm vẫn luôn hiện rõ. Này đại vương! Chư Phật Như Lai đều biết tự tánh của chúng sinh là thanh tịnh, nhưng bị khách trần phiền não che lấp, nên không thể nhập được tự tánh. Vậy bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật phải nghó như thế này: “Ta sẽ dũng mãnh chuyên cần, tinh tấn tu tập, chỉ bày Bát-nhã ba-la-mật sâu xa này cho chúng sinh để diệt trừ các phiền não. Tất cả chúng sinh đều có tự tánh thanh tịnh. Nên đối với họ đừng cho là thấp kém, phải tôn trọng, coi họ là Thầy của ta, cung kính đúng pháp.” Bậc Đại Bồ-tát với tâm như vậy, liền sinh Bi, Trí, Lực lớn. Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, như vậy thì đạt được địa vị không thoái chuyển. Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, lại nghó thế này: “Các phiền não không có năng lực, tự thể của nó là hư vọng, trái nhau với thanh tịnh. Vì sao? Vì nó trái với Nhất thiết trí. Pháp tánh thanh tịnh là căn bản của các pháp, tự tánh của nó vốn không phiền não, hư vọng, đều từ tà niệm điên đảo sinh ra.” Này đại vương! Ví như bốn đại, nương tựa nơi hư không để đứng, nhưng hư không lại không có chỗ nương tựa. Phiền não cũng vậy, nương vào pháp tánh, nhưng pháp tánh không có chỗ để nương. Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật quán biết như thật nên không sinh trái nghịch, do tùy thuận nên không sinh phiền não. Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát, quán sát phiền não, không sinh nhiễm trước; nếu bị nhiễm trước thì làm sao nói pháp xa lìa cho người khác. Cho nên, Đại Bồ-tát phải đoạn diệt tâm nhiễm trước, giảng dạy pháp như thật để mở trói buộc cho chúng sinh. Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-lại nghó thế này: “Nếu trong sinh tử có một phiền não, vì lợi ích cho chúng sinh, ta sẽ nhận lãnh.” Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-lại nghó như thế này: “Như xưa, chư Phật thực hành Bát-nhã ba-la-mật, nên được hạnh như vậy. Vì sao? Vì chư Phật Như Lai thuở xưa còn ở nhân địa, cũng học như vậy; do hai nhân duyên này mà thành Chánh giác. Nên Bồ-tát dùng mọi phương tiện để biết được pháp tánh đó. Này đại vương! Pháp tánh vô lượng, vô biên như vậy, nhưng bị các phiền não che lấp, nên chúng sinh bị chìm đắm, trôi lăn mãi trong sáu đường sinh tử, đó gọi là chúng sinh tánh. Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, sinh tâm nhàm chán và diệt trừ tham dục năm trần; tu đạo Vô thượng thì tánh này, gọi là xuất ly. Vì vượt qua tất cả khổ, nên gọi là pháp vắng lặng, là pháp rốt ráo mà tất cả thế gian đều mong cầu. Nhất thiết chủng trí, thường trụ vi diệu, cũng nhân nơi pháp tánh này mà được tự tại và thọ nhận địa vị Pháp vương. Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật; ở địa vị sơ, trung và thượng, quán sát tất cả pháp tánh, xưa nay đều bình đẳng và vắng lặng, đều không chướng ngại, giống như các sắc đều không thể đầy hư không. Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, biết như thật tất cả các hạnh, vì bình đẳng một tướng. Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật như vậy, có thể trừ hai tướng: Nhân tướng và Pháp tướng. Tất cả phàm phu bị chấp chặt trói buộc nên không biết, không thấy, không đạt được pháp tánh. Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật thì thông đạt pháp tánh này, nhưng chúng sinh thì không hai, không khác, vì sao? Vì như như không khác. Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, nương vào pháp tánh này để tu tập các căn lành, vào trong ba cõi làm lợi ích cho chúng sinh. Tuy hiện vô thường mà chẳng phải chân thật. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật thấy pháp tánh như thật, đầy đủ phương tiện đại Bi, nguyện lực không từ bỏ chúng sinh. Hàng phàm phu, Nhị thừa không có bản nguyện đại Bi như vậy, nên không thấy pháp tánh tròn đầy thanh tịnh. Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật nên quán như thế này: “Pháp tánh của tất cả Thánh nhân không có người tu và pháp để tu; không có người thực hành và pháp để thực hành; không có tâm và tâm pháp; không có nghiệp và quả báo; không khổ, không vui.” Người quán như vậy gọi là bình đẳng, không khác sự xa lìa và tùy thuận rộng lớn, không có ngã và ngã sở, không cao, không thấp. Nó chân thật, thanh tịnh, sáng suốt, thường trụ vô tận. Vì sao? Vì tất cả pháp của Thánh nhân do nơi đây mà thành tựu, cũng nhân nơi tánh này mà hiện bày Thánh nhân. Này đại vương! Pháp bất cộng, với công đức vô biên của chư Phật Như Lai đều từ tánh này mà sinh, do tánh này mà ra. Này đại vương! Tất cả giới, định, tuệ của Thánh nhân, do từ tánh này mà sinh; Bát-nhã ba-la-mật của chư Phật và Bồ-tát cũng từ tánh này mà ra. Tánh này vắng lặng, vượt qua các danh tướng, nó chân thật, xa lìa điên đảo, tánh chẳng biến đổi nên gọi là như; cảnh giới của Thánh trí, gọi là Đệ nhất nghóa trí. Tánh này chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải thường, chẳng phải đoạn, chẳng phải sinh tử, chẳng phải Niết-bàn, chẳng phải nhiễm, chẳng phải tịnh, lìa một, lìa khác, không danh, không tướng. Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, lại phải nghó thế này: “Pháp tánh lìa tướng và tất cả pháp đều lìa tướng, không hai, không khác.” Vì sao? Vì tất cả pháp lìa tướng thì pháp tánh lìa tướng; pháp tánh lìa tướng thì tất cả chúng sinh lìa tướng, đồng pháp giới lìa tướng; pháp giới lìa tướng thì tất cả pháp lìa tướng; lìa tướng như vậy, cầu không thể được. Vì pháp tánh như như, chúng sinh như như, đồng một không hai; chúng sinh như như, pháp tánh như như đồng một không hai; pháp tánh như như, tất cả pháp như như không hai không khác, tất cả pháp như như, chư Phật như như, không hai không khác; pháp tánh như như, quá khứ, hiện tại, vị lai như như, không trái nghịch; quá khứ như như, vị lai như như cũng không trái nhau; quá khứ, hiện tại, vị lai như như tức là ấm giới, nhập như như; ấm, giới, nhập như như tức là nhiễm tịnh như như; nhiễm tịnh như như tức là sinh tử; Niết-bàn như như, sinh tử Niết-bàn như như, tức là tất cả pháp như như. Này đại vương! Những điều nói về như như nghóa là không khác, không biến đổi, không sinh, chân thật, vô tránh. Do vô tránh, nên gọi là như như. Thấy biết như thật các pháp không sinh, các pháp tuy sinh nhưng như như bất động. Như như tuy sinh tất cả các pháp nhưng như như không sinh. Đó gọi là Pháp thân thanh tịnh, không biến đổi, giống như hư không, không gì bằng. Tất cả ba cõi không có một pháp nào sánh bằng hay một thân chúng sinh nào sánh bằng. Thanh tịnh, lìa cấu uế xưa nay không nhiễm, tự tánh sáng suốt thanh tịnh, không sinh không khởi; ở tại tâm ý thức nhưng chẳng phải tánh của tâm ý thức; tức là Không, Vô tướng, Vô nguyện. Khắp hư không thế giới và các chúng sinh vô lượng, vô biên; tất cả bình đẳng, không sai khác. Chẳng phải sắc nhưng không lìa sắc; chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức nhưng không lìa thọ, tưởng, hành, thức; chẳng phải địa, thủy, hỏa, phong đại nhưng không lìa địa, thủy, hỏa, phong đại; không sinh nhưng lìa sinh; tuy trái với sinh tử nhưng không thuận với Niết-bàn. Mắt không thấy, tai không nghe, mũi không ngửi, lưỡi không nếm, thân không xúc, ý không biết không ở tại tâm ý thức, nhưng không lìa tâm ý thức. Này đại vương! Đó gọi là pháp tánh. Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát nhã ba-la-mật thông đạt pháp này, tu hành thanh tịnh thì ở trong tam thiên đại thiên thế giới, hoặc cõi Diêm-phù-đề, thành ấp, xóm làng Bồ-tát có thể thị hiện sắc thân khắp nơi; nhưng sắc thân ấy chẳng phải sắc, chẳng phải tướng mà hiện sắc, tướng; chẳng phải sáu căn, sáu cảnh mà giáo hóa chúng sinh luôn luôn không dừng nghó. Vì nói thân này là pháp vô thường, vô ngã, khổ, bất tịnh. Nhưng biết rõ chúng sinh có tánh vắng lặng. Bồ-tát có thể thị hiện vô lượng các loại thân, khéo dùng phương tiện thiện xảo để giáo hóa chúng sinh, làm cho nhận biết được tất cả thân, không có người tạo tác cũng không có người thọ nhận, giống như cây, như đá, Bồ-tát vì chúng sinh mà nói hạnh thanh tịnh. Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật như vậy, thông đạt pháp tánh nên được tự tại, không bị xao động liền sinh trí nghiệp nên đạt được du hý thần thông, thị hiện sự an trú tự tại và có thể hiển bày tất cả oai nghi, tự tại đạt đến Nhất thiết chủng trí và đều thấu triệt tất cả các pháp. Này đại vương! Bát-nhã ba-la-mật tự tại như vậy, là vô tận tướng nhưng ở khắp mọi nơi; tuy không sắc nhưng hiện bày sắc. Tự tại quán sát khắp tâm ở chúng sinh, thấy tâm tánh như thật và tự tại nhớ nghó vô số kiếp nối nhau không dứt. Tự tại biến hóa trụ nơi tướng giải thoát, tự tại nơi lậu tận, nhưng vì chúng sinh nên không chứng lậu tận. Tự tại xuất thế: đó là cảnh giới tự tại sâu xa của bậc Thánh trí mà hàng Thanh văn và Duyên giác không thể so lường được. Tự tại mà kiên cố, ma không thể phá hoại được, mà còn có thể đến nơi đạo tràng để thành tựu Phật pháp tối thượng đệ nhất. Tự tại tùy thuận chuyển bánh xe pháp; tự tại điều phục, giáo hóa tất cả chúng sinh. Tự tại nhận lãnh địa vị là được pháp tự tại. Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, thông đạt pháp tánh sâu xa như thật, nên được tự tại. Đại Bồ-tát tu các thiền định, giải thoát, đẳng trì của Bạt đề nên được tự tại này và không bị lệ thuộc vào cảnh Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới. Vì sao? Vì xa lìa được tất cả phiền não trói buộc, giả dối, phân biệt, điên đảo, chấp tướng. Bồ-tát nếu có tự tại thọ sinh thì tự tại sinh ở nơi không có trói buộc, hoặc muốn hiện và diệt cũng được tự tại. Bồ-tát sinh ở chốn nào cũng luôn luôn hằng giữ Đại thừa thành tựu Phật pháp, nhưng ở nơi mười phương tìm cầu cho hết Phật pháp, đều không thể được. Vì tất cả các pháp đồng một Phật pháp, chẳng phải thường, chẳng phải đoạn, vì sao? Vì tìm cầu pháp này là không thể được. Dùng lý chân như mà cầu là không thể được. Pháp đó không thể nói có, nói không, cũng không có danh tướng; nó vượt qua cảnh giới này, nên xa lìa danh tướng tức là bình đẳng. Nếu là pháp bình đẳng thì không chấp trước; mà pháp không thể chấp trước, tức là pháp chân thật; nếu chấp trước chân thật tức là giả dối. Ở đây, do không chấp trước nên không phải giả dối, không đắm trước thì tâm không ngại; không ngại tức là không chướng, không chướng tức là không tranh luận, không tranh luận là đồng với hư không. Pháp đó không lệ thuộc vào Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới. Do không lệ thuộc vào nơi nào, nên pháp ấy không sắc, không hình, tướng. Nếu pháp không sắc, không hình, không tướng, thì nên biết pháp đó như thật, tùy theo cảnh giới kia mà xa lìa chủ thể hiểu biết và đối tượng được biết. Vì sao? Vì trong đó không có một chút pháp giác ngộ nào và một chút pháp nào để giác ngộ; đó gọi là bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật thông đạt pháp bình đẳng. Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, quán đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, nhưng không thấy ta và chúng sinh, không thấy người, không thấy thọ mạng. Tuy thực hành bố thí mà điều phục tâm, để lìa tâm giới tường, nhưng luôn luôn trì giới thanh tịnh. Dùng tâm vô tận để tu hành nhẫn nhục; dùng tâm viễn ly để tu hành tinh tấn; dùng tâm vắng lặng để tu tập thiền định; dùng tâm không vướng mắc để tu hành trí tuệ; nhờ tâm để tu bốn Niệm xứ; dùng tâm bình đẳng tu tập Chánh cần; lìa tâm hý luận tu tập các Thần túc; phân biệt chúng sinh mà quán sát các Căn; lìa tâm lầm lỗi tu tập các Lực, dùng tâm phân biệt quán sát Giác phần; dùng tâm không có công dụng tu tập chánh đạo; tâm không chấp trước mà có lòng tin thanh tịnh, trí tuệ tự nhiên nhớ nghó các pháp; dùng tâm bình đẳng trí tu các Tam-muội; dùng tâm không phân biệt để quán sát Bát-nhã ba-la-mật; dùng tâm ngừng nghó để tu định; dùng tâm không chỗ thấy để tu quán; dùng tâm không chỗ niệm mà để tu niệm Phật; dùng tâm bình đẳng, thông đạt pháp giới để tu niệm Pháp; dùng tâm không chỗ trụ để tu niệm Tăng; dùng bản tâm thanh tịnh để giáo hóa chúng sinh; dùng không khởi lên sự phân biệt phân biệt pháp giới để thâu nhiếp tất cả pháp; dùng tâm như hư không để trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật; dùng tâm không sở đắc để được Vô sinh pháp nhẫn; dùng tâm không thoái lui để được quả vị không thoái chuyển; nhờ tâm xa lìa tướng nên không thấy có tướng, dùng tâm bình đẳng khắp ba cõi để trang nghiêm đạo tràng. Tâm có thể hiểu biết tất cả các pháp, nên đối với việc Chuyển pháp luân mà không thấy có nghe nói. Thị hiện Niết-bàn thì biết rõ bản tánh của sinh tử vốn bình đẳng. Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, quán sát các pháp không thấy người quán và pháp quán, như vậy liền được rong chơi tự tại. Vì sao? Vì tự tâm thanh tịnh nên thấy tất cả chúng sinh cũng thanh tịnh. Này đại vương! Ví như hư không đầy khắp tất cả, thì Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật tâm cũng như vậy. Khi nói pháp này xong, trong đại chúng có bốn vạn tám ngàn người và trời, phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác; có ba vạn hai ngàn Bồ-tát được Vô sinh pháp nhẫn; có tám vạn bốn ngàn chúng sinh được Pháp nhãn thanh tịnh, xa lìa trần cấu; một vạn hai ngàn Tỳ-kheo đều được lậu tận. Phật bảo Thắng Thiên vương: –Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, tâm được thanh tịnh, sâu rộng như biển, công đức trí tuệ không thể so lường được. Đại Bồ-tát có thể hiện ra ở đời, đem các công đức quý báu để cứu độ chúng sinh, cho đến khi rốt ráo thành Phật, nhưng công đức Bồ-tát không thể hết. Ví như biển lớn sinh ra nhiều thứ báu. Trí tuệ của Bồ-tát sâu xa khó thấu hiểu được, nên hàng Thanh văn, Duyên giác không thể sánh kịp. Cũng như biển lớn, thú nhỏ không thể vào được. Trí tuệ của Bồ-tát rộng lớn vô biên. Vì sao? Vì không chấp trước, không trụ, không sắc, không tướng. Trí tuệ của Bồ-tát từ ban đầu cho đến sau cùng, theo thứ lớp càng sâu xa, từ khi mới phát tâm Bồ-đề, cho đến được Nhất thiết trí thì pháp của Bồ-tát cũng vẫn như vậy; không cùng ở chung với phiền não và ác tri thức. Trí tuệ của thế gian nếu đi vào trong trí tuệ của Bồ-tát thì trở thành một tướng một vị. Bởi vì Nhất thiết trí vô tướng nên không có vị phân biệt. Bậc Đại Bồ-tát quán sát tất cả pháp, nhưng không thấy có pháp tăng, giảm. Vì sao? Vì thông đạt pháp tánh bình đẳng sâu xa. Đại Bi, đại Lực của Bồ-tát không trái với bản nguyện, đây là chỗ nương tựa của tất cả Thánh nhân. Vì các chúng sinh mà Bồ-tát trọn đời nói pháp không bao giờ thôi. Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật thông đạt pháp tánh sâu xa như thế. Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát có thể thông đạt các pháp nói về đạo lý của người thế tục (Thế đế). Tuy nói các sắc mà chẳng phải có thật sắc, tìm cầu sắc này thì hoàn toàn không nắm giữ được. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy. Tuy nói địa mà chẳng phải chân thật là địa, tìm cầu địa thì hoàn toàn không thể nắm giữ được… Thủy, hỏa, phong, không, thức cũng lại như vậy. Tuy nói nhãn nhập thật chẳng phải chân thật là nhãn nhập, tìm cầu nhãn nhập thì hoàn toàn không thủ trước được…, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý lại cũng như vậy. Tuy nói ngã nhưng chẳng phải chân thật là ngã, tìm cầu ngã thì hoàn toàn không thể thủ trước được. Mạng chúng sinh được người nuôi dưỡng, thì người làm, người thọ, người thấy người biết đều cũng như vậy. Tuy nói thế gian nhưng chẳng phải chân thật là pháp thế gian, tìm cầu pháp thế gian thì hoàn toàn không thể thủ trước được. Tuy nói Phật pháp nhưng chẳng phải chân thật là Phật pháp, tìm cầu Phật pháp thì hoàn toàn không thể thủ trước. tuy nói Bồ-đề nhưng chẳng phải chân thật là Bồ-đề, tìm cầu Bồ-đề thì hoàn toàn không thể thủ trước được. Này đại vương! Nếu các lời nói đều là đạo lý của người thế tục, nó chẳng phải chân thật nhưng không có nó thì không thể nói được Đệ nhất nghóa đế. Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật thông đạt pháp của người thế gian nhưng không trái với Đệ nhất nghóa đế; nhờ thông đạt được pháp đó, nên biết các pháp không sinh, không diệt, không hoại, không đây không kia đều lìa ngôn ngữ văn tự hý luận. Này đại vương! Đệ nhất nghóa đế vắng lặng, lìa lời nói; nó là pháp không thể biến hoại, là cảnh giới của Thánh trí. Nếu Phật ra đời hay không ra đời thì tánh tướng của nó vẫn thường trụ; đó gọi là Bồ-tát thông đạt Đệ nhất nghóa đế. Lúc bấy giờ, Thắng Thiên vương bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp không sinh, không diệt, tự tánh là không, là xa lìa. Vậy tại sao có Phật ra đời Chuyển pháp luân? Tại sao Bồ-tát đối với pháp không sinh mà thấy có sinh? Phật bảo Thắng Thiên vương: –Này đại vương! Pháp không diệt cho nên không sinh. Vì sao? Vì tánh không biến đổi, nhưng do nhân duyên của người thế tục thấy có sinh, diệt; tất cả đều là giả dối, chẳng chân thật có. Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, dùng phương tiện thiện xảo thấy được pháp nhân duyên, liền biết pháp của người thế gian đều là không, không có, không thấy chắc thật, giống như ảnh tượng huyễn hóa của bóng nắng, như tiếng vang, dựa vào nhân duyên mà sinh nên nó lay động không dừng. Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, quán sát các pháp là không, cho đến các pháp từ nhân duyên sinh ra, phải suy nghó thế này: “Các pháp bình đẳng này, nay thấy có sinh, có trụ, có diệt.” Vậy nhân duyên nào sinh và nhân duyên nào diệt; liền biết là do nhân duyên vô minh sinh các hành, nương nơi hành mà sinh thức, thức sinh danh sắc, danh sắc sinh nhập lục, nhập lục sinh xúc, xúc sinh thọ, phàm phu khởi sinh ái, do khát ái nên sinh thủ, nhân nơi thủ nên hữu nối nhau, do hữu nên có sinh, do sinh nên có lão, do lão nên có tử và ưu, bi, khổ, não. Cho nên tu hành phải đoạn vô minh, nếu đoạn vô minh thì mười một phần còn lại cũng đều diệt. Ví như thân người nếu đoạn mạng căn, thì các căn còn lại không hoạt động được. Này đại vương! Bọn ngoại đạo tà kiến muốn cầu giải thoát, nhưng chỉ muốn diệt sự chết mà không biết diệt sự sinh; nếu pháp không có sinh thì không có diệt. Ví như có người cầm cục đất ném vào sư tử, sư tử đuổi theo bắt người đó, còn cục đất dừng lại. Bồ-tát cũng vậy, chỉ đoạn sinh thì tử tự diệt. Ví như con chó chỉ biết rượt theo cục đất mà không biết rượt theo người, nên đất cứ ném mãi không dứt. Ngoại đạo cũng vậy, không biết đoạn sinh nên cũng không lìa được tử. Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, như vậy là đã khéo biết do nhân duyên nên các pháp có sinh có diệt. Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, biết các pháp do nhân duyên sinh là không, không thật có, nên không sinh ngã mạn. Nếu sanh vào nhà Bà-la-môn, Sát-đế-lợi, Cư só, Trưởng giả, thì cũng không khởi lên ngã mạn về sự tôn quý và giàu có. Còn nếu sinh vào nhà nghèo hèn thì nên biết nghiệp của mình đời trước không thanh tịnh, bị quả báo thấp kém, tâm sinh nhàm chán liền cầu xuất gia, nên suy nghó thế này: “Như thân này của ta, đã được xa lìa nghiệp chướng, lại tu nghiệp thanh tịnh, làm cho tự mình thanh tịnh và khiến người khác cũng vậy. Tự mình cứu độ rồi lại cứu độ người khác; tự mình cầu thoát ly rồi lại mở sự trói buộc cho người khác.” Do nhân duyên này, liền được tinh tấn, không còn biếng lười; ác pháp, chướng đạo đều được đoạn trừ; thiện pháp trợ đạo đều được tăng trưởng, tu hành chuyên cần tinh tấn. Bồ-tát suy nghó thế này: Ta vì gánh vác việc này, nên phải tự diệt tất cả phiền não, độ thoát chúng sinh, không được lười biếng. Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, phải gần gũi Sư tăng, nghe ít, nghe nhiều, có biết, không biết, trì giới, phá giới. Nên sinh lòng tưởng nhớ cung kính các vị đồng học như Phật. Suy nghó: “Ta nay nương nơi Thầy học tập, việc tu thiện chưa hoàn thành thì làm cho đầy đủ, phiền não chưa đoạn diệt thì làm cho đoạn diệt, ủng hộ pháp thiện xa lìa pháp ác, dùng Nhất thiết chủng trí và ruộng phước đại Bi vắng lặng mà thương xót chúng sinh như bậc Thầy của trời, người. Ta là bậc Thầy khéo làm được việc tốt, tất cả trời người phụng sự Pháp vương, coi đó là bậc Đại sư. Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, suy nghó thế này: “Phật dạy tịnh giới, dù bỏ thân mạng cũng không hủy phạm. Như Thế Tôn nói, làm theo lời Ngài dạy tức là cúng dường chư Phật. Nếu Bà-la-môn, Sát-đế-lợi, Cư-só, Trưởng giả, đem tất cả các loại thức ăn uống, tín tâm cúng dường thì Bồ-tát phải như pháp mà thọ dụng, không làm mất lòng tin vào quả báo của họ. Kẻ cúng dường, người thọ nhận đều được lợi ích. Bà-la-môn, Sát-đế-lợi, Cư-só, Trưởng giả lấy danh của Sa-môn mà tưởng là danh của Bồ-tát để làm ruộng phước thì Bồ-tát nên phải như lý, như lượng mà tu hành chánh pháp, khiến cho công đức của Sa-môn được hiển bày như ruộng phước công đức. Bồ-tát thực hành và giáo hóa người khác như vậy chưa từng thôi nghỉ.” Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, tu hành như vậy thì có thể tùy thuận tất cả thế gian. Thấy người sân hận sinh tâm khiêm nhường, thấy người ngã mạn sanh tưởng không ngã, thấy người tà vạy quanh co sanh tưởng ngay thẳng, thấy người nói dối thì nói như thật, đối với người ác khẩu thường nói lời hòa ái, thấy người cang cường thì hiện nhu hòa, thấy người độc ác thì thực hành từ nhẫn, thấy người có pháp tà thì sinh lòng đại Từ, thấy chúng sinh khổ thì sinh lòng đại Bi, thấy người keo kiệt thì thực hành bố thí. Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, tùy thuận thế trí như vậy thì sinh vào cõi Phật thanh tịnh. Vì sao? Vì trì giới không khiếm khuyết, xa lìa các tạp uế, tu tâm bình đẳng ở nơi chúng sinh, đầy đủ các căn lành, không đắm trước danh lợi, lòng tin thanh tịnh, không mong cầu phước báo, siêng năng tu hành, không sinh lười biếng, tu các thiền định, lìa pháp tán loạn, dùng trí tuệ vi diệu mà học tập nghe nhiều, các căn không khuyết tật, đầy đủ trí thông minh, thường tu đại Từ, xa lìa sân hận phiền não, do nhân duyên này nên sinh và cõi Phật thanh tịnh. Lúc bấy giờ, Thắng Thiên vương bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Như lời Thế Tôn nói! Tu pháp bình đẳng và giữ giới thanh tịnh thì sinh vào cõi Phật. Vậy tu hành đủ một hạnh thì cũng sinh vào nơi cõi Phật? Phật bảo Thắng Thiên vương: –Này đại vương! Nếu có bậc Đại Bồ-tát như đã nói ở trước, trong tất cả các pháp nếu tịnh tu một hạnh liền đủ các pháp; một hạnh như thế thì được sanh tịnh độ. Vì sao? Vì trong mỗi một hạnh có đầy đủ các hạnh. Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật như vậy, được sanh tịnh độ, không sinh ở thai uế trược. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát tạo đắp tượng Phật, tu sửa chốn già-lam, tô láng nền tháp Phật bằng chất thơm và cúng dường trước tháp Như Lai, hoặc dùng nước thơm lau rửa tượng Phật, hoặc quét dọn, rưới nước láng nền trong đất chùa. Bậc Đại Bồ-tát cúng dường săn sóc cha mẹ, thầy, bạn đồng học và các vị Sa-môn, với tâm bình đẳng cúng dường tất cả. Vì tất cả chúng sinh mà hồi hướng những căn lành này, tất cả cùng hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng giác; khiến được thanh tịnh. Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật như vậy, liền được xa lìa thế tục. Vì sao? Vì tâm không chấp trước, không đắm nhiễm bè đảng xấu ác, không chạy theo các cảnh giới, xa lìa và không đắm nhiễm cảnh giới duyên ái; như thật tu hành giới do Đức Thế Tôn dạy, thiểu dục, tri túc, tùy nghi bốn việc. Hướng đến sự biết đủ, khi có lỗi lầm thường sợ sệt, ưa ở nơi vắng lặng, muốn xa lìa tất cả. Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật như vậy, không đắm trước pháp thế tục thì liền được đời sống thanh tịnh; miệng, ý và oai nghi không ngụy tạo, không dối trá. Đối trước thí chủ, thân không giả dạng oai nghi dối trá, đi lại từ tốn, an nhiên nhìn về trước sáu tấc; nhưng sau đó nếu không có đàn-việt lại ăn nói buông lung; ở trước thí chủ không vì lợi dưỡng mà hạ giọng nói lời nhỏ nhẹ, êm ái, hoa mỹ, vuốt đuôi theo ý lời của họ; nhưng sau lưng đàn-việt liền tự buông thả phóng túng. Thấy người bố thí thì miệng nói không dùng, nhưng trong tâm lại rất mong muốn. Như vậy gọi là trong tâm bị phiền não thiêu đốt. Miệng nói thiểu dục nhưng trong tâm lại tham lợi dưỡng. Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, đều không có tướng lừa dối và xa lìa việc cầu lợi dưỡng. Nếu thấy đàn-việt không được nói là ba y hư rách, bình bát thiếu thốn, hoặc cần thuốc thang. Đối trước thí chủ, không được nói đàn-việt tên gì đó cúng cho tôi vật này. Nếu người ấy cho rằng ta có tâm đại Bi học rộng nghe nhiều, trì giới thanh tịnh; tuy khen ngợi như vậy, nhưng ta không có đức này thì ta chỉ biết tu hành để báo ân thí chủ. Bậc Đại Bồ-tát không nên khen mình, chê người như vậy; để thuận theo bạch y mà cầu lợi dưỡng. Nếu họ bố thí cho người khác, mình không nên bực bội và không được gièm pha để lấy tài vật ấy; không được dối trá làm thân thiện để hại người khác mà lấy của cải; khôg đùa giỡn với người khác để lấy đồ vật. Đàn-việt có ý định bố thí, khen ngợi người nói pháp, hoặc cho đại chúng mà chưa nghó, hoặc chưa quyết định cho thì Bồ-tát không được gợi ý xen vào để lấy phần. Nếu nhận của bố thí không nên chấp trước; cái này ta có, cái này là vật của ta thì phải liền bố thí trở lại cho Sa-môn, Sư tăng hoặc Cha mẹ và cho những người túng thiếu, thọ dụng bình đẳng. Nếu tài vật hết, không nên sinh lòng phiền muộn, hoặc vài ngày không được bố thì thì tâm không nên khổ não. Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát nếu nhận của bố thí và cho trở lại, cả hai đều thanh tịnh. Tâm thực hành thanh tịnh nên không mệt mỏi, vì sao? Vì bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật là vì lợi ích chúng sinh nên ở mãi trong sinh tử mà không nhàm chán. Nếu có việc của ma làm khổ sở, bức bách thì tâm sẽ không thoái chuyển. Nếu người muốn thực hành đạo Nhị thừa, liền vì đó mà nói pháp không sợ mệt nhọc. Bồ-tát tự tu để trợ giúp cho pháp Bồ-đề không có nhàm chán. Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật tinh tấn như vậy, thì có thể thuận theo chánh hạnh của Phật đã dạy. Vì sao? Vì bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, là xa lìa mọi sự buông lung, tâm luôn cẩn thận, khéo hộ trì tự thân, không làm các điều ác, các pháp bất thiện. Miệng và ý cũng vậy. Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, tuy ở hiện tại nhưng luôn sợ tất cả các điều ác, các pháp bất thiện; ở vị lai, nên quyết đoạn trừ chúng để không cho phát sinh. Lời nói đúng lý, thường thuyết pháp để giảng dạy, không nói lời phi pháp và bỏ hết nghiệp uế trược, liền tu tịnh hạnh không hủy báng lời Phật dạy, xa lìa pháp bất tịnh và phiền não. Đó gọi là ủng hộ pháp của Như Lai. Tất cả các điều ác, các pháp bất thiện đều đoạn dứt sạch. Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, thuận theo lời dạy thanh tịnh của Phật như vậy. Thấy chúng sinh thì nét mặt tươi cười, không nhăn nhó; sở dó như vậy là tâm do đã lìa uế trược, các căn thanh tịnh, lìa cấu lìa nhiễm, tâm không sân hận và trong lòng không thù hằng. Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật như vậy, liền được đa văn; quán sát sinh tử biết như thật các lửa dục hừng hực, lửa sân thiêu đốt, lửa ngu si thường làm cho mê loạn; cũng biết như thật pháp hữu vi là vô thường, tất cả các pháp hành khổ là vô ngã. Chúng sinh trong thế gian thì đắm trước vào hý luận. Trong tất cả các pháp, chỉ có Niết-bàn mới là vắng lặng. Nếu nghe người khác nói phải liền nghó cách, để truyền trao cho mọi người cùng phát khởi tâm đại Từ bi kiên cố. Nếu không được nghe pháp thì không có suy nghó và tu tập. Cho nên nghe pháp là cái gốc để có trí tuệ, cũng giống như văn tự vậy. Tất cả trí tuệ nhân nơi đây mà phát sinh, nếu đã được đa văn tức hộ trì được chánh pháp. Này đại vương! Vào thời mạt pháp trong tương lai, khi chánh pháp bị diệt, trong đó cũng có chúng sinh siêng năng, tu hành nhưng không gặp ánh sáng của pháp, vì không có người nói pháp sâu xa. Lúc bấy giờ, Bồ-tát liền diễn nói pháp mầu sâu xa. Đó là Bát-nhã ba-la-mật để làm cho chúng sinh được giới, định, tuệ. Bồ-tát lại khen rằng: –Này thiện nam! Ở đời mạt pháp, khi chánh pháp bị hủy diệt như vậy, mà ông có thể phát tâm Bồ-tát cầu Vô thượng Chánh đẳng giác, để làm lợi ích cho chúng sinh. Ba đời chư Phật đã thực hành pháp Bát-nhã ba-la-mật này, nếu ông siêng năng tu tập pháp này thì không xa Vô thượng Chánh đẳng giác. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật này không lìa Bồ-đề. Ví như có người trồng lúa đã trổ bông, thì biết chắc chắn không lâu sẽ thu hoạch. Bồ-tát cũng vậy, cầu Vô thượng Chánh đẳng giác, mà được nghe Bát-nhã ba-la-mật thì sẽ biết chắc chắn Phật không còn xa. Này đại vương! Nếu thiện nam, tín nữ nào mà lìa bỏ Bát-nhã ba-la-mật, thì ngoài ra không có pháp nào nương tựa để cầu Chánh đẳng giác. Cũng như con vua mà bỏ vua cha để cầu người khác làm thái tử, thì quyết không thể được. Bồ-tát cũng vậy, cầu Nhất thiết trí thì quyết phải nhân nơi Bát-nhã ba-la-mật mà được. Ví như nghé con muốn bú sữa, phải nhờ vào mẹ nó; nếu đến trâu khác thì không thể được. Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát thường làm con của vị Pháp vương, gần gũi pháp Bát-nhã ba-la-mật để trang nghiêm thân tướng, giống như lấy hoa đẹp trang sức thân tướng; các căn đầy đủ thường đi đến chỗ của Như Lai, thực hành theo con đường mà Như Lai đã giác ngộ, để được giác ngộ và cứu hộ chúng sinh bị khổ não ở thế gian. Khéo thông đạt lời Phật dạy, thường tu phạm hạnh để giữ gìn thành quách Nhất thiết trí của Như Lai. Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, là con của Pháp vương; nên Phạm vương, Đế Thích thường giúp đời cũng phải tôn trọng. Vì sao? Vì thực hành Bồ-tát đạo, được quả vị không thoái chuyển nên tất cả các ma không thể quấy nhiễu. An trụ nơi pháp Phật, thông đạt tất cả lý không, bình đẳng; nên không tin ngoại duyên. An trụ nơi trí tuệ của Phật như thế thì không ở chung với Thanh văn và Bích-chi-phật, vượt khỏi thế gian trụ nơi Vô sinh pháp nhẫn. Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, có thể biết như thật tâm tham dục, sân, si của tất cả chúng sinh, cũng biết như thật tâm thiện và tâm kiên cố. Biết như thật rồi thì nhất nhất phải dùng các pháp đối trị để có thể khéo léo giáo hóa chúng sinh. Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, nếu có chúng sinh muốn thấy thân Phật để hóa độ họ thì Đại Bồ-tát liền hiện thân Phật vì họ mà nói pháp; chúng sinh muốn lấy thân Bồ-tát hóa độ, thì hiện thân Bồ-tát; chúng sinh muốn lấy thân Bích-chi-phật nhận sự giáo hóa, liền hiện thân Bích-chi-phật; chúng sinh muốn lấy thân Thanh văn nhận sự giáo hóa, liền hiện thân Thanh văn; chúng sinh muốn lấy thân Phạm vương, Đế Thích, Bà-la-môn, Sát-đế-lợi, Trưởng giả, Cư só để nhận sự giáo hóa, thì đều vì họ mà thị hiện độ thoát. Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, để giáo hóa chúng sinh; nếu Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật thì tâm tánh từ hòa, chánh trực, vui mừng, không có các tâm dua nịnh, tật đố, cấu uế. Tâm phải luôn luôn thanh tịnh, lời nói diệu hòa, xa lìa ác khẩu và luôn thực hành nhẫn nhục để gần gũi chúng sinh. Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật như vậy, thì được an lạc tại chỗ. Sở dó như vậy là bởi vì Bồ-tát có đầy đủ chánh kiến và thanh tịnh kiến, hạnh thanh tịnh nếu được thực hành thì cảnh giới cùng với tâm tương ưng. Nếu tâm trái với pháp bất thiện thì cảnh giới là chỗ nhiễm uế, đều không thể thực hành hạnh thanh tịnh. Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, thấy người đồng học thì sinh tâm hoan hỷ. Nếu có tài vật, hoặc pháp thì cùng mọi người dùng chung và chỉ hành một đạo, đó là Phật đạo. Chỉ lấy Phật làm Thầy chứ không tôn thờ người khác. Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật như vậy, thì an lạc tại chỗ, đầy đủ nhiếp pháp để nhiếp thọ chúng sinh; lấy bố thí an lạc, bố thí lợi ích và bố thí vô tận để giáo hóa chúng sinh; dùng lời nói lợi ích có ý nghóa như pháp và lời nói chân thật để giáo hóa chúng sinh. Dùng tài vật, lợi ích bình đẳng, thân lợi ích bình đẳng, mạng lợi ích bình đẳng, đồ dùng riêng tư lợi ích bình đẳng để giáo hóa chúng sinh. Này đại vương! Bố thí lợi ích tức là bố thí pháp. Bố thí an lạc tức là bố thí tài vật. Bố thí vô tận tức là chỉ bày con đường giác ngộ. Lời nói lợi ích là để cho người kia làm việc thiện. Lời nói có ý nghóa thì làm cho người kia thấy chân lý. Lời nói đúng như pháp là thuận theo lời Phật đã dạy. Lời nói không sai tức là nói pháp như thật. Tài vật lợi ích bình đẳng là những thứ ăn được, nhai được, uống được, hút được, nếm được và y phục…. Thân lợi ích bình đẳng là bảo vệ để lợi ích thân mình và làm cho người khác cũng như vậy. Mạng lợi ích bình đẳng là trân châu, lưu ly, san hô, mã não, những cái gì bên ngoài, mạng. Đồ dùng riêng tư lợi ích bình đẳng là voi, ngựa, xe để cỡi và tất cả tịnh tài. Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, thấy mình thực hành và đem cho người khác đều như nhau. Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật nên có thân hình tốt đẹp, thường tu tập oai nghi vắng lặng, oai nghi không giả dối, oai nghi thanh tịnh; mọi người ưa nhìn trong ngoài ôn hòa, ai nhìn xem cũng đẹp lòng vui thích, không nhàm chán. Tất cả chúng sinh đều yêu mến và kính trọng, hoặc có ai thấy liền phát thiện tâm. Nếu người sân hận mà thấy, sân hận liền được giải thoát. Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, xinh đẹp như vậy, thì nên nhận làm nơi nương tựa để chúng sinh gần gũi, làm cho phiền não tiêu diệt, có thể dẫn dắt chúng sinh ra khỏi sinh tử mênh mông vô biên, có thể độ chúng sinh thoát hiểm nạn ở thế gian. Làm bạn thân cho những người không có quyến thuộc, làm vị lương y trị bệnh phiền não, làm người cứu hộ cho những người không được cứu giúp, làm chỗ quay về nương tựa cho những người không có nơi quay về nương tựa, làm ngọn đuốc pháp cho chúng sinh vô minh. Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, vì các chúng mà làm chỗ nương tựa, như cây thuốc lớn trị các tật bệnh. Ví như cây đại thọ Thiện kiến, gốc, rễ, nhánh, lá, hoa, quả, sắc, hương, vị, xúc đều trị lành bệnh cho chúng sinh. Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, cũng như vậy. Từ khi mới phát tâm, vì các chúng sinh mà chữa trị các thứ bệnh phiền não, nên công đức trí tuệ của Đại Bồ-tát, nếu có người tật bệnh thấy nghe đều được lành bệnh. Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, thường cùng với công đức tương ưng, tùy theo khả năng mà cúng dường Tam bảo. Ai có tật bệnh liền bố thí thuốc thang, hoặc thấy đói khát liền Bố thí đồ ăn uống, hoặc thấy lạnh rét liền bố thí áo mặc, tận tâm phụng sự Sư tăng, Hòa thượng; người đồng học Phật pháp thì nên chắp tay cung kính, tạo lập già-lam, bố thí ruộng vườn. Tùy theo khả năng của mình mà bố thí cho chúng Tăng, cho đến việc phục dịch sai bảo cũng liệu tình nghóa lý đúng như pháp. Khi nghe tên Sa-môn, Bà-la-môn tu hành đạo hạnh, đức độ thì luôn luôn tìm đến tận nơi. Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, có thể phát sinh các việc lành; có thể dùng các phương tiện thiện xảo để giáo hóa chúng sinh. Ở trong cõi Phật này, tuy thân không di động, mà có thể dạo khắp vô lượng thế giới chư Phật để học hỏi chánh pháp. Ở cõi Phật này thân tuy không di động, nhưng dạo khắp vô lượng thế giới chư Phật, để nghe nhận chánh pháp. Ở cõi Phật này, thân tuy không di động, nhưng thị hiện ở vô lượng cõi nước chư Phật, để cúng dường các Đức Như Lai. Ở cõi Phật này, thân tuy không di động, nhưng dạo khắp vô lượng thế giới chư Phật, để thành tựu tư lương Vô thượng Bồ-đề. Ở cõi Phật này, thân tuy không di động, nhưng dạo khắp vô lượng thế giới chư Phật; nếu thấy có Bồ-tát thành Phật thì cung kính cúng dường. Ở cõi Phật này, thân tuy không di động, nhưng thị hiện thành đạo ở vô lượng thế giới. Ở cõi Phật này, thân tuy không di động, nhưng thị hiện chuyển pháp luân ở vô lượng cõi Phật. Ở cõi Phật này, thân tuy không di động, nhưng thị hiện Niết-bàn ở vô lượng cõi Phật. Ở cõi Phật này, thân tuy không di động, nhưng vì muốn được độ cho người mà hiện thân ở vô lượng cõi Phật để cho họ đều thấy mà không có tát ý phân biệt. Lúc bấy giờ, Thắng Thiên vương bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Tại sao Đại Bồ-tát thị hiện tất cả hóa thân mà tâm không phân biệt? Phật bảo Thắng Thiên vương: –Này đại vương! Ví như mặt trời, mặt trăng chiếu khắp bốn châu thiên hạ mà có phân biệt đâu, ta chiếu xuống thiên hạ, làm ánh sáng để cho chúng sinh bị nghiệp báo, tự cảm nhận là ánh sáng mặt trời, mặt trăng chiếu xuống thiên hạ. Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật cũng lại như vậy. Tuy hiện hóa thân mà không phân biệt. Vì sao? Vì chúng sinh đời trước đều có thiện nghiệp. Đại Bồ-tát từ xưa khi mới tu hành, đã phát nguyện độ chúng sinh, do nguyện lực này mà tùy theo ý nghó mà ứng hiện, nhưng không có tâm phân biệt. Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, dùng phương tiện thiện xảo giáo hóa chúng sinh như vậy, thì mau đạt đến Vô thượng Chánh đẳng giác. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát đã thực hành đầy đủ bố thí, trì giới thanh tịnh không thiếu sót tạp loạn nên được giới tụ thanh tịnh. Vượt qua cảnh giới của Thanh văn và Bích-chi-phật, đầy đủ nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ, phương tiện, nguyện lực trí, công đức bất cộng của Như Lai Thế Tôn. Tất cả đã đầy đủ nên vượt qua được cảnh giới Thanh văn và Bích-chi-phật. Này đại vương! Bồ-tát Sơ địa cho đến Thập địa, thực hành Bát-nhã ba-la-mật tu hành như vậy thì được Vô thượng Chánh đẳng giác. Khi nói pháp môn này, trong chúng hội có hai vạn Thiên tử đạt được Pháp nhãn thanh tịnh, xa lìa trần cấu; ba vạn Đại Bồ-tát chứng đắc Vô sinh pháp nhẫn; tám vạn bốn ngàn người và trời phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác; vô lượng trăm ngàn ức Càn-thát-bà, Khẩn-na-la, thảy đều chắp tay, vây quanh núi Kỳ-xà-quật, để tán thán Như Lai; vô lượng trăm ngàn chúng Dạ-xoa, vây quanh núi Kỳ-xà-quật, rải các hoa sen như mưa; mười phương vô lượng hằng hà sa thế giới Bồ-tát đều đến tập hợp khen ngợi Như Lai Thế Tôn. Thế Tôn vui vẻ vì các Bồ-tát mà nói pháp Bát-nhã ba-la-mật sâu xa này. Nhân nơi pháp Bát-nhã ba-la-mật này mà có được Trời, Người, Tu-đà-hoàn hướng; Tu-đà-hoàn quả, cho đến A-la-hán hướng, A-la-hán quả; đạo Bích-chi-phật; Thập địa của Bồ-tát, mười Ba-la-mật, mười Lực của Như Lai; bốn Vô sở úy; mười tám pháp Bất cộng, Nhất thiết chủng trí. Tất cả đều từ Bát-nhã ba-la-mật sinh ra. –Bạch Thế Tôn! Ví như tất cả chúng sinh trong thế gian đều nương vào hư không, nhưng hư không, không có chỗ nương. Bát-nhã ba-la-mật cũng vậy, là căn bản của các pháp mà tự nó không dựa vào đâu cả. Chúng con nguyện, ở đời vị lai, vì các Đại Bồ-tát mà nói pháp Bát-nhã ba-la-mật, như Phật đang nói; nói xong, lại dùng nhiều thứ hương hoa rải khắp chỗ của Như Lai. Lúc bấy giờ, tại núi Kỳ-xà-quật, Thiên thần và những người tập hợp đến giữa hư không, tán thán rằng: “Chúng con ghi nhớ ở đời quá khứ đã có vô lượng chư Phật, ở trong núi Kỳ-xà-quật này, nói pháp Bát-nhã ba-la-mật, cũng như ngày hôm nay.” Lúc bấy giờ, Thắng Thiên vương bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Chư Thiên ở giữa hư không làm sao biết được ở đời quá khứ, Phật nói pháp Bát-nhã ba-la-mật? Phật dạy: –Này đại vương! Các chư Thiên này, đều trụ giải thoát, nên không thể nghó bàn, vì vậy mà họ có thể biết việc làm lâu xa ở quá khứ. Này đại vương! Khi xưa ta còn làm Bồ-tát, cũng đã từng sinh vào cảnh giới của Thiên thần kia, thấy vô lượng Đức Phật thành đạo nói pháp cho đến Niết-bàn. Ta thường tán thán, chắp tay lễ bái. Vì sao? Vì cảnh giới của Thiên thần này mạng sống rất lâu dài. Bấy giờ, trong chúng có một vị Thiên tử tên là Quang Đức, từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, chắp tay hướng về Đức Phật, cúi đầu đảnh lễ bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Chư Phật, Bồ-tát thì phải ở cõi thanh tịnh; thế giới Ta-bà này lại không thanh tịnh, tại sao Thế Tôn xuất hiện ở cõi này? Phật bảo Thiên tử Quang-Đức: –Chỗ ở của chư Phật Như Lai, không có cảnh giới uế trược. Lúc đó Thế Tôn liền dùng thần lực, hiện tam thiên đại thiên thế giới này, mặt đất bằng phẳng như bàn tay, hoàn toàn bằng lưu ly, không có các thứ núi, đồi, gò, đống, gai gốc,… khắp nơi tụ họp các thứ báu như hương hoa, cỏ mềm; có suối chảy, có ao để tắm với nước tám công đức, nhiều tầng, nhiều bậc với cây cối, hoa quả bằng bảy thứ báu, có nói pháp không thoái chuyển cho Bồ-tát. Nơi đó không có phàm phu, chỉ thấy mười phương các Đại Bồ-tát. Không còn nghe âm thanh khác, chỉ nghe tiếng Bát-nhã ba-la-mật. Mọi nơi đều có hoa sen xanh, hồng, đỏ, trắng lớn như bánh xe. Trong mỗi một hoa đều có Bồ-tát ngồi kiết già. Ngay lúc đó thấy Như Lai ở trong đại chúng đang vì các Bồ-tát mà nói pháp sâu xa và có vô lượng trăm ngàn Phạm thiên, Đế Thích hộ đời, đi nhiễu quanh trước sau cung kính cúng dường, tôn trọng, ngợi khen Như Lai: –Hy hữu Thế Tôn, hy hữu Thế Tôn! Ngài nói pháp không có giả dối, chân thật không hai. Đúng như Thế Tôn đã nói! Là chư Phật ở nơi không có uế trược, chỉ vì chúng sinh phước mỏng nên thấy không thanh tịnh. Bạch Thế Tôn! Nếu có thiện nam, tín nữ mà được nghe danh tự Bát-nhã ba-la-mật đã là hy hữu, huống chi lại thọ trì, biên chép, đọc tụng và vì người khác diễn nói. Phật dạy: –Nếu có thiện nam, tín nữ nào ở vô lượng trăm ngàn kiếp; dùng tâm không chướng ngại bố thí tài vật cho người khác; hoặc có người đem lòng tin thanh tịnh biên chép kinh này, truyền trao cho mọi người, thì công đức nhiều hơn sự bố thí tài vật kia. Vì sao? Vì bố thí tài vật thì có thể hết, nhưng bố thí pháp thì vô tận. Vì tài thí chỉ có được ở thế gian, hoặc người hoặc trời mà từ xưa đã được rồi lại được nữa, như vậy sẽ trở đi trở lại trong vòng đọa lạc. Nếu lấy pháp mà bố thì, thì xưa nay chưa được, nay mới có được thì đó là Niết-bàn. Nên tất cả chúng sinh, trong tam thiên đại thiên thế giới, nếu có người giáo hóa thì đều được an trụ trong mười điều thiện. Nếu thiện nam, tín nữ nào dùng lòng tin thanh tịnh thọ trì, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật và vì người khác giảng nói, thì công đức hơn ở trước. Vì tất cả pháp lành đều từ Bát-nhã ba-la-mật sinh ra vậy. Nếu tất cả chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới, có người giáo hóa thì đều có thể đắc quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi-phật; hoặc lại có người với lòng tin vững chắc, thọ trì, đọc tụng, biên chép kinh Bát-nhã ba-la-mật thì công đức hơn trước. Vì sao? Vì pháp của Thanh văn, Bích-chi-phật đều trong Bát-nhã ba-la-mật sinh ra. Tất cả pháp của Đại Bồ-tát từ trong Bát-nhã ba-la-mật mà ra. Nhân nơi Bát-nhã ba-la-mật này nên mới có Phật ra đời. Nơi nào có Bát-nhã ba-la-mật thì nên biết đó là Bồ-đề đạo tràng, là nơi chuyển pháp luân, phải nên nhớ nghó chỗ này là Đại sư của ta; Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri cũng đang ở chỗ này. Vì sao? Vì tất cả chư Phật đều từ Bát-nhã ba-la-mật mà sinh ra. Nếu có người cúng dường hình tượng Như Lai, không bằng cúng dường Bát-nhã ba-la-mật. Vì sao? Vì ba đời chư Phật đều từ nơi Bát-nhã ba-la-mật này mà sinh. KINH THẮNG THIÊN VƯƠNG BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT <卷 id="82881778">QUYỂN 4 <詞 id="82881779">Phẩm 6: BÌNH ĐẲNG Lúc bấy giờ Thắng Thiên vương từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, chắp tay hướng về Đức Phật, cúi đầu làm lễ bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Như lời Thế Tôn nói pháp tánh bình đẳng, thế nào là bình đẳng và những pháp nào gọi là bình đẳng? Phật bảo Thắng Thiên vương: –Này đại vương! Bình đẳng là quán các pháp không sinh, không diệt, tự tánh vắng lặng. Tất cả phiền não, giả dối, phân biệt, không sinh không diệt tự tánh vắng lặng, gọi là bình đẳng. Danh tướng, vọng tưởng không sinh, không diệt, tự tánh vắng lặng gọi là bình đẳng. Diệt trừ các điên đảo, không sinh tâm phan duyên gọi là bình đẳng. Khi tâm năng duyên đã diệt, thì vô minh hữu ái đều vắng lặng. Si ái đã diệt, nên không sinh ngã và ngã sở, gọi là bình đẳng. Ngã và ngã sở diệt, thì danh sắc vắng lặng, gọi là bình đẳng vì danh sắc diệt nên biên kiến chẳng sanh gọi là bình đẳng. Chấp đoạn, chấp thường đã diệt thì thân kiến vắng lặng, gọi là bình đẳng. Này đại vương! Tất cả phiền não năng thủ sở thủ chướng ngại pháp lành đều nương vào thân kiến mà sinh ra. Bậc Đại Bồ-tát diệt được thân kiến thì tất cả nghiệp tạo tác và kết sử đều đoạn dứt và vắng lặng. Ví như cây lớn, nếu nhổ gốc rễ thì cành lá đều bị chết khô. Cũng như người không đầu thì chết. Tất cả phiền não cũng như vậy, nếu đoạn thân kiến thì kết sử tự diệt. Này đại vương! Nếu có người quán các pháp không có ngã, thì năng thủ và sở thủ đều vắng lặng. Thắng Thiên vương bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Tại sao phát sinh ngã kiến thì che mất lý chân thật? Phật bảo Thắng Thiên vương: –Này đại vương! Đối với thân năm ấm, vọng chấp có ngã thì liền sinh ngã kiến. Nhưng pháp chân thật tự tánh vốn bình đẳng, không có năng chấp, sở chấp, ngã kiến trái ngược nên gọi là chướng. Này đại vương! Như vậy ngã kiến không ở trong, không ở ngoài, không ở trong và ngoài; nên không có chỗ trụ, gọi là vắng lặng, tức là bình đẳng. Xa lìa ngã kiến, thấu rõ bình đẳng, gọi là quán chân thật không; tức là Không, Vô tướng, Vô nguyện. Tự tánh vắng lặng không sinh, không diệt, không thủ, không trước, xa lìa ngã kiến gọi là bình đẳng. Này đại vương! Nói về ngã tức là không đi; không đến; không có phân biệt chân thật hay giả dối pháp từ nơi vọng mà có cũng gọi là hư vọng. Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật quán sát các pháp như vậy, xa lìa hư vọng nên gọi là vắng lặng, bình đẳng. Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, dùng phương tiện thiện xảo, có thể biết như thật các phiền não bị đoạn diệt; vì thiện pháp tăng trưởng nên phiền não bị đoạn trừ, nhưng không thấy có sinh, không thấy có diệt, gọi là bình đẳng. Tu pháp Ba-la-mật xa lìa ma chướng, nhưng không thấy pháp để tu và không thấy pháp để xa lìa, gọi là bình đẳng. Bồ-tát thường ra sức trợ giúp pháp Bồ-đề, không có sinh tâm Thanh văn và Bích-chi-phật. Đối với việc trợ giúp pháp Bồ-đề, không thấy có tướng khác của Thanh văn và Duyên giác, gọi là bình đẳng. Tâm duyên vào Nhất thiết trí, thì không dừng nghó, thường tu hạnh không và dùng đại Bi lực để không từ bỏ chúng sinh, nên gọi là bình đẳng. Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, với đầy đủ phương tiện, liền được tâm duyên tự tại. Dùng tâm duyên vô tướng, để tu pháp giác ngộ nhưng không thấy có pháp vô tướng và giác ngộ khác nhau, nên gọi là bình đẳng. Tâm duyên vô nguyện không bỏ ba cõi; nhưng không thấy vô nguyện và ba cõi khác nhau, nên gọi là bình đẳng. Quán thân bất tịnh, tâm phải trụ thanh tịnh; quán hạnh vô thường, tâm trụ ở sinh tử mà không nhàm chán xa lìa; quán chúng sinh khổ, tâm trụ ở Niết-bàn; quán pháp vô ngã thì phát tâm đại Bi đối với các chúng sinh; thường vì chúng sinh nói thuốc bất tịnh không thấy bệnh tham; thường nói đại Bi không thấy sân hận; thường nói nhân duyên không thấy ngu si và nhiều bệnh tật; nói thuốc vô thường nên không thấy các bệnh và vô thường khác. Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, dùng sức phương tiện như vậy; đối tất cả các pháp, tâm duyên tự tại; duyên pháp ly dục để giáo hóa Thanh văn; duyên pháp lìa sân hận là giáo hóa Bích-chi-phật; duyên pháp lìa ngu si là giáo hóa Bồ-tát; duyên tất cả sắc là nguyện được sắc thân vô sở đắc của Phật. Tâm duyên các âm thanh là nguyện được âm thanh vi diệu của Như Lai; tâm duyên các mùi hương là nguyện được giới hương thanh tịnh của Như Lai; tâm duyên các mùi vị bậc nhất là nguyện được vị ở trong tướng đại trượng phu bậc nhất của Như Lai; tâm duyên các xúc là nguyện được bàn tay mềm mại của Như Lai; tâm duyên các pháp là nguyện được tâm vắng lặng của Như Lai; tâm duyên pháp bố thí là nguyện được thành tựu thân tướng tốt đẹp; tâm duyên tịnh giới là nguyện được cõi Phật thanh tịnh; tâm duyên nhẫn nhục là nguyện được âm thanh đại Phạm của Như Lai, thân tỏa hào quang thanh tịnh; tâm duyên tinh tấn là nguyện độ chúng sinh; tâm duyên thiền định là nguyện được thành tựu các đại thần thông, tâm duyên trí tuệ là nguyện đoạn tất cả kiến hoặc phiền não; tâm duyên đại Từ, bình đẳng, không ngại là để làm cho chúng sinh đều được an lạc; tâm duyên đại Bi là nguyện hộ trì chánh pháp; tâm duyên đại Hỷ là nguyện được nói pháp ưa thích cho chúng sinh; tâm duyên đại Xả là nguyện không thấy phiền não kết sử của chúng sinh. Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, dùng sức phương tiện không thấy hai việc, gọi là hạnh bình đẳng. Tâm duyên bốn Nhiếp pháp là để giáo hóa chúng sinh; nương theo lỗi tật đố mà xả bỏ tư tài; nương theo lỗi phá giới, để trụ giới thanh tịnh; nương theo lỗi sân hận để trụ nhẫn nhục; nương theo lỗi lười biếng nên được Phật lực; nương theo lỗi tán loạn, nên được thiền định vắng lặng của Như Lai; nương theo lỗi trí tối tăm nên được trí tuệ vô ngại của Như Lai. Tâm duyên với Thanh văn và Bích-chi-phật là vì muốn thành tựu vô thượng Đại thừa; tâm duyên với đường ác vì muốn cứu giúp tất cả chúng sinh; tâm duyên với chư Thiên là vì biết tất cả đều bị hư hoại; tâm duyên các chúng sinh là vì biết không chắc thật; tâm duyên nơi niệm Phật nên được thành tựu thiền định và trợ đạo; tâm duyên nơi niệm Pháp nên được thông đạt các pháp tạng bí mật; tâm duyên nơi niệm Tăng nên được quả vị không thoái chuyển; tâm duyên nơi niệm xả nên không ái trước; tâm duyên nơi niệm giới nên được giới thanh tịnh; tâm duyên nơi niệm Thiên nên thành Phật được chư Thiên khen ngợi; tâm duyên nơi tự thân nên được thân Phật; tâm duyên nơi miệng nên được kim khẩu của Phật; tâm duyên nơi ý nên được tâm bình đẳng của Như Lai; tâm duyên nơi hữu vi nên được trí Phật; tâm duyên nơi vô vi nên được vắng lặng. Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật không có một tâm, một hạnh nào mà không hướng đến Nhất thiết trí. Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật duyên khắp các pháp mà không bị đắm trước, xem thấy các pháp đều đưa đến giác ngộ nên gọi là phương tiện thiện xảo. Này đại vương! Ví như đại địa trong tam thiên đại thiên thế giới sinh ra các vật để mọi người đều dùng vậy. Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, các cảnh giới đã duyên đều con đường lợi ích để đưa đến giác ngộ. Ví như các sắc đều nhân nơi bốn đại mà thành. Như vậy, Bồ-tát duyên các cảnh giới, không có một pháp nào mà không đưa đến giác ngộ. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát tu tập các hạnh, đều nhân nơi duyên bên ngoài mà được thành tựu. Như nhân nơi người keo kiệt mà Bồ-tát thành tựu được Bố thí ba-la-mật; nhân nơi người quên ân mà Bồ-tát thành tựu được Trì giới ba-la-mật; nhân nơi tánh ác, sân hận của chúng sinh mà Bồ-tát thành tựu Nhẫn nhục ba-la-mật; nhân nơi người lười biếng mà Bồ-tát thành tựu Tinh tấn ba-la-mật; nhân nơi người tán loạn mà Bồ-tát Thiền định ba-la-mật, nhân người ngu dốt mà Bồ-tát thành tựu Trí tuệ ba-la-mật. Nếu có chúng sinh làm não hại Bồ-tát, thì nhân đấy Bồ-tát không sanh tâm sân hận. Nếu thấy người tu hành pháp lành hướng đến giác ngộ, thì Bồ-tát cứ xem như là thân của con mình. Nếu thấy người khen ngợi, thì Đại Bồ-tát không sanh vui mừng và chê cũng không sân hận. Thấy chúng sinh khổ thì Bồ-tát sinh tâm đại Bi, thấy chúng sinh vui thì sinh tâm đại Hỷ. Nếu chúng sinh khó giáo hóa thì Bồ-tát thương tưởng, phát tâm vắng lặng, chúng sinh nhân đó mà tin và thực hành; nên Bồ-tát liền được trí tuệ và sự biết ân. Nếu thấy ác duyên bên ngoài của chúng sinh mạnh và nhân thiện ở bên trong yếu, thì Bồ-tát phát tâm ủng hộ. Nếu Bồ-tát thấy chúng sinh cậy nơi sức mạnh, thời dùng mọi phương tiện làm cho họ nhận sự giáo hóa. Nếu Bồ-tát thấy trí tuệ của chúng sinh được khai ngộ, hiểu rõ nghóa lý, thì nói pháp sâu xa cho họ. Nếu người có trí tuệ thì Bồ-tát theo thứ lớp mà nói pháp. Nếu có người chấp trước văn tự thì Bồ-tát nói nghóa lý cho họ. Bồ-tát nói pháp quán cho những người đã tu pháp chỉ và nói các Tam-muội cho những người đã tu pháp quán. Nếu có người chấp trước trì giới thì Bồ-tát nói địa ngục, còn không chấp trước thì không nói. Bồ-tát nói pháp tư duy và tu tập cho người chấp trước việc nghe; nói trí tuệ cho người chấp trước thiền định; nói pháp viễn ly cho người ưa nhàn vắng; nói Thánh trí cho người muốn nghe công đức của Phật; nói pháp bất tịnh cho người tham dục; nói pháp từ bi cho người sân hận; nói pháp duyên sinh cho người ngu si, nói tất cả pháp bình đẳng cho mọi người, như: nói bất tịnh, hoặc nói từ bi, hoặc nói nhân duyên, hoặc nói tịnh giới, thiền định, trí tuệ… để giáo hóa chúng sinh. Nếu có chúng sinh nào thích hợp nhận sự giáo hóa của Phật thừa thì Bồ-tát theo thứ lớp nói pháp Ba-la-mật; chúng sinh thích hợp nhận sự giáo hóa bằng khống chế, thì Bồ-tát trước bác bỏ lời nói của họ, nhưng sau đó nói pháp cho họ. Nếu chúng sinh thích hợp nhận sự giáo hóa bằng lời nói, thì Bồ-tát liền nên vì đó mà nói pháp nhân duyên và thí dụ làm cho họ được hiểu rõ; ai muốn được giáo hóa bằng pháp sâu xa, thì Bồ-tát liền vì đó mà nói Bát-nhã ba-la-mật và sức phương tiện; không nhân, không ngã và không nói pháp tướng người chấp thấy chúng sinh thì nói pháp không. Người có nhiều giác quán nên nói vô tướng; người ưa đắm pháp hữu vi thì nói vô nguyện. Chấp trước nơi năm ấm chúng sinh thì nói huyễn hóa. Chấp trước nơi giới chúng sinh thì nói không chỗ có. Chúng sinh chấp trước nơi nhập của chúng sinh thì nói như mộng. Chúng sinh chấp trước nơi Dục giới thì nói thiêu đốt; hoặc chấp trước nơi sắc giới thì nên nói hành khổ; hoặc chấp trước nơi Vô sắc giới thì nói hạnh vô thường. Chúng sinh khó giáo hóa thì khen ngợi thánh chủng. Chúng sinh dễ giáo hóa thì nói các thiền định và tâm vô lượng; ai thích được giáo hóa muốn sanh lên trời thì nên nói pháp an lạc. Người muốn được giáo hóa bằng pháp Thanh văn, thì nên nói Tứ đế; người muốn được giáo hóa bằng pháp Bích-chi-phật, thì nên nói pháp nhân duyên; người thọ nhận giáo hóa bằng pháp Bồ-tát thì nên nói tâm thanh tịnh và pháp đại Bi. Người tu hạnh Bồ-tát thì nên nói công đức trí tuệ; các Bồ-tát không thoái chuyển thì nên nói cõi Phật thanh tịnh; bậc Nhất sinh bổ xứ thì nên nói đạo tràng trang nghiêm; người lấy lời Phật nói mà nhận sự giáo hóa thì nên liên tục nói theo thứ lớp. Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát thực hành thanh tịnh Bát-nhã ba-la-mật, dùng sức phương tiện nên được tự tại, nói pháp lợi ích không có sai lầm. Khi Bồ-tát nói pháp môn tự tại này, trong chúng có ba ngàn người và trời phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác, năm ngàn Bồ-tát được Vô sinh pháp nhẫn. Lúc bấy giờ Thế Tôn vui vẻ mỉm cười. Theo thường lệ, khi Phật mỉm cười thì ở giữa mặt phóng ra các luồng hào quang lớn, màu xanh, vàng, đỏ, trắng, màu tía và pha lê chiếu khắp vô lượng, vô biên thế giới, lên đến cõi trời Sắc cứu cánh, rồi trở lại cõi Phật nhiễu bên phải ba vòng rồi thâu vào đảnh đầu của Phật. Lúc bấy giờ, ngài Đại trí Xá-lợi-phất liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, chắp tay hướng về Đức Phật cúi đầu đảnh lễ mà bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Chư Phật Như Lai không vì đại nhân duyên thì không hiệm tướng tốt hiếm có này. Nay Đức Thế Tôn phóng hào quang, chiếu khắp mười phương vô lượng thế giới, vì nhân duyên gì! Nguyện xin Ngài nói cho? Lúc bấy giờ, Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Này thiện nam! Thắng Thiên vương này, vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ kiếp về quá khứ, đã ở nơi chư Phật, tu hành các Ba-la-mật, vì các Bồ-tát mà giữ gìn pháp Ba-la-mật, như vậy đến đời vị lai trải qua vô lượng trăm ngàn a-tăng-kỳ kiếp để thành tựu Vô thượng Bồ-đề tư lương, sau đó mới được Vô thượng Chánh đẳng giác. Danh hiệu Phật là Công Đức Trang Nghiêm, Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Nước đó tên là Nghiêm tịnh; kiếp số tên là Thanh tịnh; cõi đó giàu có nhân dân an lạc, trong nước hoàn toàn là chúng Bồ-tát. Nước đó đều trang hoàng oai nghiêm bằng bảy thứ báu. Đó là vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, mã não, trân châu. Bảy thứ báu trộn lại thành đất, bằng phẳng như bàn tay, dùng thứ cỏ mềm và hương hoa để trang sức. Cõi đó không có các thứ đồi núi, gò nỗng, gai gốc, dùng rất nhiều cờ phướn quý báu để trang hoàng, Thành đó tên là Nan phục, dùng lưới bảy báu che ở trên thành và treo đầy những chuông vàng. Ngày đêm sáu thời, chư Thiên giữa hư không tự trổi lên các thứ nhạc trời, rải các thứ hương và hoa trời. Nhân dân cõi đó hoan hỷ thọ nhận các dục lạc hơn ở cõi trời Tha hóa. Người, trời tự do qua lại, không có ba đường ác, chúng sinh cõi đó chỉ cầu trí Phật, không có tên Nhị thừa. Phật Thế Tôn vì các Đại Bồ-tát có đức hạnh cao cả mà nói pháp thanh tịnh, vô lương, vô biên quyến thuộc của Bồ-tát không có người phá giới, tà mạn, ác kiến, không có câm ngọng, đui điếc, mù lòa, lõa hình và các căn không đầy đủ. Đều đầy hai mươi tám tướng tốt đẹp để trang nghiêm thân. Đức Phật sống lâu tám tiểu kiếp, chúng trời người không có chết yểu. Này thiện nam! Đức Phật ở cõi nước đó, có vô lượng các công đức như vậy. Khi muốn nói pháp, phóng hào quang chiếu khắp cõi nước, các Bồ-tát gặp được ánh sáng đó, liền biết Thế Tôn nói pháp, chúng ta đến nghe cho đúng lúc. Lúc bấy giờ, chư Thiên trải tòa Sư tử, cao một trăm do-tuần, cho Đức Thế Tôn, cúng dường vô lượng thứ báu để trang nghiêm tòa đó. Đức Thế Tôn liền ngồi trên tòa nói pháp cho chúng sinh. Các Bồ-tát thông minh, lanh lợi, một khi nghe pháp liền ngộ vô ngã và ngã sở. Ở đây thức ăn, uống và đồ cần dùng, chỉ cần nhớ nghó thì liền được. Khi nói pháp môn thọ ký cho Thắng Thiên vương, trong chúng có năm vạn trời, người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác và nguyện đời vị lai sẽ sinh nơi cõi nước đó. Lúc bấy giờ, Thắng Thiên vương nghe mình được Thế Tôn thọ ký, tâm vui mừng chưa từng có, liền vọt lên hư không cao đến bảy cây Đa-la. Lúc bấy giờ, tam thiên đại thiên thế giới, đều chấn động sáu cách, các thứ nhạc trời không đánh mà tự nhiên trổi lên, rải các thứ hoa trời để cúng dường Phật và Thắng Thiên vương. Lúc đó, Thắng Thiên vương từ giữa hư không hạ xuống, cúi đầu lễ Phật rồi ngồi qua một bên.  <詞 id="82881780">Phẩm 7: HIỆN TƯỚNG Lúc bấy giờ, Đại trí Xá-lợi-phất nói với Thắng Thiên vương: –Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, thông đạt pháp tánh, thì phải ngồi đạo tràng để chuyển pháp luân ngay, vì nhân duyên gì mà phải tu khổ hạnh và hàng phục ác ma trước? Thắng Thiên vương trả lời Xá-lợi-phất: –Này thiện nam! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, thật ra không có tu khổ hạnh, vì hàng phục ngoại đạo nên thị hiện khổ hạnh mà sự thật thì Thiên ma không thể phá hoại. Vì là chủ của cõi Dục, nên thị hiện để hàng phục, giáo hóa chúng sinh. Này Xá-lợi-phất! Ngoại đạo tự cho khổ hạnh là đệ nhất, cho nên Bồ-tát thị hiện khổ hạnh để vượt hẳn ngoại đạo. Này Xá-lợi-phất! Nếu có chúng sinh thấy Bồ-tát chỉ đứng co một chân, hoặc thấy Bồ-tát đứng bằng hai tay, hoặc thấy Bồ-tát đứng nhìn mặt trời, hoặc thấy Bồ-tát dùng năm lửa để đốt thân, hoặc thấy Bồ-tát đứng chổng đầu xuống đất, hoặc thấy Bồ-tát nằm trên gai nhọn, hoặc nằm trên phân trâu, hoặc ngồi trên đá dăm, hoặc nằm trên đất, hoặc nằm trên ván, hoặc nằm trên chông, hoặc nằm trên bụi đất, hoặc mặc áo mỏng, mặc áo vải gai, mặc áo vỏ cây, hoặc lõa hình, hoặc mặc áo cỏ tranh, hoặc mắt nhìn mặt trời và xoay theo mặt trời, hoặc ăn gạo đắng, hoặc ăn lúa tẻ, ăn gốc cỏ và thứ lá cây khác, ăn quả, ăn hoa, ăn củ mài, ăn khoai lang, ăn cây gai, ăn gạo hoặc uống nước để qua ngày, hoặc ăn một cọng rau để qua ngày, một giọt sữa, một giọt mật, hoặc không ăn hoặc hiện ngủ say. Này Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát thị hiện tất cả khổ hạnh như vậy, trong suốt sáu năm không thiếu một việc. Bồ-tát thật không có khổ hạnh như vậy, nhưng vì chúng sinh thấy có; bởi Bồ-tát thị hiện khổ hạnh là để độ thoát cho chúng sinh, do có sáu mươi na-do-tha người an trú nơi ba thừa nên Bồ-tát thị hiện khổ hạnh. Này Xá-lợi-phất! Lại có trời người, đời trước trồng căn lành sâu, ưa pháp Đại thừa thì thấy Bồ-tát ngồi đài bảy báu, thân tâm không động, nét mặt vui cười, nhập định Tam-muội, như vậy trải qua sáu năm mới xuất định. Này Xá-lợi-phất! Lại có chúng sinh ưa pháp Đại thừa sâu xa, muốn lắng nghe thì thấy Bồ-tát ngồi yên mà nói pháp. Này Xá-lợi-phất! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, dùng sức phương tiện đại Bi hóa độ tất cả chúng sinh, có thể hàng phục Thiên ma và các ngoại đạo. Bậc Đại Bồ-tát sau sáu năm liền xuất định. Ngài thuận theo pháp thế gian đi đến sông Ni-liên-thiền, tắm rửa xong đứng bên bờ sông thấy có một cô mục đồng, chọn lấy một con trong một trăm con bò sữa; sau đó lấy sữa con này nấu cháo dâng cúng Bồ-tát. Lại có sáu ức Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, đều đem thức ăn uống đến dâng cúng và nói: –Đại só, xin nhận sự cúng dường của chúng con! Chánh só, xin hãy nhận sự cúng dường của chúng con! Bồ-tát đều nhận tất cả, nhưng cô gái chăn cừu và Thiên, Long, Dạ-xoa… đều không thấy nhau, mỗi một vị trời đều thấy Bồ-tát riêng nhận sự cúng dường đó. Này Xá-lợi-phất! Bồ-tát thị hiện hận sự cúng dường để cho chúng sinh nhân nơi đó thấy mà ngộ đạo. Nhưng Bồ-tát này thật sự không có tắm rửa và nhận sự cúng dường. Này Xá-lợi-phất! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, dùng sức phương tiện thị hiện đi đến đạo tràng. Khi ấy, có trời Địa-cư tên là Diệu Địa cùng các Thiên thần quét dọn vùng đất này và rải các thứ hoa báu, rồi dùng nhiều thứ nước hương để rưới chỗ ấy, cho đến khắp tam thiên đại thiên thế giới và dưới núi Tu-di, trời Tứ Thiên vương và chúng trời làm mưa các hoa trời, trời Tam thập tam và trời Dạ-ma ở giữa hư không khen ngợi và trổi các thứ nhạc trời, vua San-đâu-suất-đà ở cõi trời Đâu-suất-đà dùng lưới bằng bảy báu che khắp thế giới, bốn góc đều treo những chuông bằng vàng đều mưa hoa cúng dường Bồ-tát và vua Thiện hóa ở cõi trời Lạc hóa, dùng lưới bằng vàng ròng che thế giới, trổi các thứ nhạc và mưa hoa cúng dường Bồ-tát các Thiên tử cõi trời Tha hóa tự tại, cùng các Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân… mỗi mỗi sắp đặt cúng dường mọi thứ. Trời Tự tại cùng với vua trời Đại phạm, chủ thế giới Ta-bà, thấy Bồ-tát đi đến đạo tràng, liền bảo tất cả Phạm thiên: –Này thiện nam! Các ông phải biết, bậc Đại Bồ-tát này dùng thân lớn vững chắc để tự trang nghiêm, không trái với lời nguyện, tâm không biếng nhác, tất cả hạnh Bồ-tát đều đầy đủ và thông đạt. Ngài giáo hóa vô lượng chúng sinh, các địa vị của Bồ-tát đều được tự tại; đối với các chúng sinh, tâm luôn thanh tịnh, khéo biết căn tánh, thông đạt Mật tạng sâu xa của Như Lai, vượt qua các việc làm của ma, tất cảc căn lành không theo ngoại duyên, ủng hộ vô lượng chư Phật, có thể vì chúng sinh mở cửa giải thoát. Ngài là Bậc Đại Sư dẫn đường, xô dẹp các thứ ma; Ngài là người mạnh mẽ số một của đại thiên thế giới. Ngài là đại y vương khéo cho thuốc pháp để giải thoát cho tất cả và nhận ngôi vị Pháp vương, phóng ánh sáng của trí tuệ, không nhiễm tám pháp của thế gian, như hoa sen lớn. Ngài thông đạt tất cả Đà-la-ni sâu xa như biển, an trụ bất động như núi Tu-di, trí tuệ thanh tịnh không có cấu uế như ngọc ma-ni, đối với tất cả pháp được tự tại, phạm hạnh thanh tịnh. Này thiện nam! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, dùng sức phương tiện, đến đạo tràng; ngồi cội Bồ-đề để hàng phục ác ma, thành tựu mười Lực, bốn Vô úy, mười tám pháp Bất cộng, chuyển đại pháp luân, phát ra tiếng rống sư tử lấy pháp bố thí làm cho chúng sinh đều được đầy đủ. Vì muốn chúng sinh được Pháp nhãn thanh tịnh, nên dùng chánh pháp vô thượng hàng phục ngoại đạo. Muốn thành tựu bản nguyện nên thị hiện chư Phật, đối với tất cả pháp do vậy đều được tự tại. Này thiện nam! Các ông có thể đi đến cúng dường Bồ-tát. Này Xá-lợi-phất! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, dùng sức phương tiện thị hiện, để đến đạo tràng; dưới chân liền hiện tướng Thiên bức luân, ánh sáng vi diệu chiếu khắp tất cả địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu gặp được ánh sáng này thì xa lìa được khổ não và được an vui. Khi ánh sáng này chiếu vào Long cung, có vua rồng Ca-lê-ca gặp ánh sáng này liền bảo với chúng rồng: –Ánh sàng màu vàng này, chiếu đến Long cung làm cho thân tâm các ông được an lạc. Ta ở đời quá khứ, từng thấy tướng này là liền biết có Phật xuất hiện. Nay ánh sáng này giống như xưa không khác, ta nên biết chắc chắn là có Phật xuất hiện ở đời. Các ông có thể dùng các thứ hương xoa, hương bột, hương mùi vị; vàng bạc, trân châu, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, bạch ngọc, cờ phướn lọng báu và trổi các thứ nhạc đi đến trong cung Bồ-tát để cúng dường các vật tốt đẹp ấy. Khi ấy Long vương Ca-lê-ca cùng với quyến thuộc, nổi lên vừng mây lớn, làm mưa thơm rưới xuống chỗ Bồ-tát và trổi các thứ nhạc để biểu lộ cúng dường, rồi đi nhiễu bên phải Bồ-tát mà khen rằng: –Ánh sáng màu vàng làm cho mọi người vui sướng hơn hết, nhất định không còn nghi ngờ là Phật xuất hiện. Sau đó nhiều thứ báu trang hoàng oai nghiêm cho cả mặt đất: những cây sống trên mặt đất đều biến thành vật báu; sông ngòi đều yên lặng không có sóng gió; suy luận theo điềm lành này thì chắc chắn Phật xuất hiện, làm cho ánh sáng mặt trời, mặt trăng và cả trời Đế Thích, trời Phạm thiên bị che khuất, các đường ác đều thanh tịnh nên chắc chắn Phật xuất hiện. Ví như có người lúc nhỏ lạc mất cha mẹ, đến khi trưởng thành bỗng nhiên gặp lại được cha mẹ thì lòng rất vui mừng. Tất cả thế gian gặp Phật ra đời cũng như vậy. Các ông đã từng cúng dường chư Phật ở đời quá khứ, nay gặp bậc Pháp vương là sư tử trong loài người, thì ta được sinh làm người trong lúc này không uổng vậy. Này Xá-lợi-phất! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, dùng sức phương tiện, lấy cỏ trải tòa nơi cội Bồ-đề, rồi nhiễu bên phải bảy vòng và ngồi đoan nghiêm chánh niệm. Các chúng sinh thấp kém nên thấy tướng đó như vậy. Này Xá-lợi-phất! Lại có các Đại Bồ-tát đức hạnh cao cả; thấy tám vạn bốn ngàn Thiên tử, trải tám vạn bốn ngàn tòa Sư tử lớn làm bằng nhiều thứ báu và dùng lưới bằng bảy thứ báu che khắp trên tòa, bốn góc và ở mọi nơi đều treo chuông vàng, cờ phướn, lọng báu, vải lụa năm màu treo la liệt. Lúc bấy giờ, Bồ-tát ngồi khắp cả tám vạn bốn ngàn tòa này, nhưng các Thiên tử không thấy nhau, cho là Bồ-tát chỉ ngồi riêng tòa của mình mà thành Vô thượng Chánh đẳng giác. Do nhân duyên này, nên các Thiên tử sinh tâm hoan hỷ, thấy được việc chưa từng có nên đều chứng quả vị không thoái chuyển. Này Xá-lợi-phất! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, dùng sức phương tiện, từ nơi tướng lông trắng ở giữa chân mày, phóng ra hào quang chiếu khắp các cung ma. Tất cả các cung ma trong tam thiên đại thiên thế giới đều bị mất ánh sáng. Khi ấy, các chúng ma đều suy nghó thế này: “Do nhân duyên gì mà các cung của chúng ta ánh sáng bị mất. Há chẳng phải Bồ-tát đã ngồi ở đạo tràng chứng đạo Vô thượng Chánh đẳng giác ư?” Chúng ma cùng lúc đó liền quán sát, xem thấy Bồ-tát đang ngồi đoan nghiêm nơi đạo tràng dưới cội Bồ-đề. Lúc đó, các ác ma ở cung điện của mình tập hợp quân ma lại, hiện ra vọ lượng ngàn ức thứ màu sắc, các loại hình, các tướng mạo, các đầu mặt cầm các thứ đao trượng, các loại cờ phướng và nhiều thứ âm thanh. Nếu có ai nghe âm thanh đó thì lỗ tai, mũi, miệng đều chảy máu. Lúc bấy giờ, Bồ-tát dùng sức đại Bi, làm chúng ma phát ra âm thanh không được. Này Xá-lợi-phất! Đó là Bồ-tát dùng sức phương tiện đại Bi, thực hành Bát-nhã ba-la-mật. Này Xá-lợi-phất! Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, dùng sức phương tiện, trong vô lượng ức kiếp thực hành Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Thiền định, Tinh tấn, Trí tuệ, Từ, Bi, Hỷ, Xả, bốn Niệm xứ, bốn Chánh cần, bốn Như ý túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác chi, tám Chánh đạo, Chỉ quán, tám Minh, bốn Giải thoát. Bồ-tát lại dùng cánh tay màu vàng tự xoa từ đảnh đầu cho đến khắp thân và nói như thế này: –Chúng sinh bị khổ não nên ta muốn cứu độ họ mà phát tâm đại Bi này. Lúc bấy giờ, ma vương và các quyến thuộc nghe Bồ-tát nói vậy liền ngã nhào xuống. Đại Bồ-tát dùng sức từ bi làm cho các chúng ma ở trong hư không nghe có tiếng nói: “Các ông có thể dùng thần sức Thiên ma mà quy y, trì giới, bố thí vô úy để cứu độ tất cả chúng sinh.” Thiên ma và quyến thuộc nghe tiếng nói này xong, đều nằm rạp xuống đất, cùng nói: –Cúi mong Đại só, Chánh só cứu giúp mạng con! Này Xá-lợi-phất! Lúc bấy giờ, Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, dùng sức phương tiện, phóng hào quang sáng lớn. Nếu có ai gặp được ánh sáng này đều xa lìa sợ sệt. Ma và các quyến thuộc, thấy thần lực đó, vừa vui vẻ vừa sợ sệt, hai việc hòa lẫn với nhau. Này Xá-lợi-phất! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, hoặc có chúng sinh thấy có hàng ma; cũng lại có người không thấy việc này. Hoặc có chúng sinh chỉ thấy có Bồ-tát trải cỏ làm tòa ngồi; hoặc thấy Bồ-tát ngồi ở nơi đài báu Sư tử; hoặc thấy Bồ-tát ngồi ngay trên đất; hoặc thấy giữa hư không tự nhiên có tòa Sư tử, Bồ-tát ngồi trên tòa đó; hoặc có chúng sinh thấy cây A-thuyết-tha là cây Bồ-đề; hoặc thấy cây hương biến, hoặc thấy các thứ báu hợp thành làm cây Bồ-đề; hoặc có chúng sinh thấy cây Bồ-đề cao gấp bảy lần cây Đa-la; hoặc có chúng sinh thấy cây Bồ-đề cao tám vạn bốn ngàn do-tuần; hoặc thấy tòa Sư tử cao bốn vạn ngàn do-tuần; hoặc có chúng sinh ở xa trông thấy Bồ-tát dạo chơi trong hư không, hoặc thấy Bồ-tát ngồi cội Bồ-đề. Này Xá-lợi-phất! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, dùng sức phương tiện, thị hiện tất cả sự thần biến như thế để hóa độ chúng sinh. Này Xá-lợi-phất! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, dùng sức phương tiện, thị hiện ngồi nơi đạo tràng, vô lượng, vô biên Đại Bồ-tát ở mười phương hằng hà sa thế giới đều đi đến nhóm họp ở giữa hư không, phát ra lời nói mừng vui để an ủi Bồ-tát: –Lành thay, nhanh chóng, dũng mãnh, tinh tấn, đại kiết tường, chớ nên sinh sợ sệt, tâm như kim cang, dùng thần thông để làm lợi ích chúng sinh, chỉ một niệm trong giây lát liền được Nhất thiết trí. Này Xá-lợi-phất! Bồ-tát khi ngồi đạo tràng, chúng ma đến quấy nhiễu nhưng không sinh tâm hận; chỉ một sát-na, tâm cùng với Bát-nhã ba-la-mật tương ưng thì chỗ thấy hiểu biết thảy đều thông đạt. Này Xá-lợi-phất! Lúc bấy giờ, chư Phật Như Lai trong mười phương hằng hà sa thế giới cùng đồng thanh khen rằng: –Lành thay Đại só! Ông đã thông đạt trí tự nhiên, trí vô ngại, trí bình đẳng, trí vô sư, đại Bi trang nghiêm. Này Xá-lợi-phất! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, dùng sức phương tiện, có thể thị hiện nhiều cách như vậy; hoặc có chúng thấy Bồ-tát mới vừa thành đạo; hoặc thấy Bồ-tát thành đạo từ lâu; hoặc thấy Tứ Thiên vương của một thế giới đến hiến dâng bình bát; hoặc thấy Tứ Thiên vương ở hằng hà sa mười phương thế giới đến hiến dâng bình bát. Này Xá-lợi-phất! Lúc bấy giờ, Bồ-tát muốn độ chúng sinh, nên liền nhận tất cả bình bát đó, đem chồng lại trong tay làm thành một cái. Nhưng các Thiên vương đều không thấy nhau, cho là Thế Tôn đã dùng riêng bát của mình. Này Xá-lợi-phất! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, dùng sức phương tiện, thị hiện những việc như vậy. Khi nói pháp môn này, trong chúng có ba vạn Đại Bồ-tát được Vô sinh pháp nhẫn; có ba vạn sáu ngàn Bồ-tát đều là bậc không thoái chyển được Vô thượng Chánh đẳng giác; có tám vạn trời, người xa lìa trần cấu, được Pháp nhãn thanh tịnh; có vô lượng, vô biên chúng sinh phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác. Này Xá-lợi-phất! Lại có sáu vạn Thiên tử đi đến trước, yên lặng cúng dường là do sức nguyện lực đời quá khứ, nếu Bồ-tát thành đạo xin thọ nhận chúng con cúng dường trước. Lúc bấy giờ, Đại Bồ-tát dùng sức phương tiện của Bát-nhã ba-la-mật sẽ thị hiện ước muốn chuyển pháp luân. Khi đó Phạm vương Thi-khí là chủ của thế giới Ta-bà, cùng với sáu mươi tám vạn Phạm thiên đi đến chỗ Thế Tôn cúi đầu làm lễ, rồi nhiễu bên phải bảy vòng mà nói rằng: –Cúi xin Đức Đại Bi chuyển pháp luân vô thượng! Cúi xin Đức Đại Bi chuyển pháp luân vô thượng! Lúc bấy giờ, liền hiện tòa Sư tử cao bốn vạn hai ngàn do-tuần, trang trí oai nghiêm nhiều thứ báu kiên cố và an ổn. Mười phương vô lượng Thích Đề-hoàn Nhân cùng đều vì Như Lai mà trải tòa Sư tử giống như vậy. Bấy giờ, Bồ-tát dùng sức thần thông ngồi trên tòa Sư tử. Các chư Thiên đều thấy Bồ-tát ngồi trên tòa Sư tử của mình mà chuyển pháp luân. Đại Bồ-tát đã ngồi trên tòa này, thì vô lượng, vô biên mười phương thế giới đều chấn động và phóng ánh sáng lớn nhập vào vô biên cảnh giới Tam-muội. Tất cả chúng sinh ở hằng hà sa mười phương thế giới bị khổ nạn trong ba đường ác đều xa lìa ba độc, liền được an lạc, tất cả đều ở chung với nhau như mẹ con không có tâm ác. Lúc bấy giờ, tam thiên đại thiên thế giới này, trong đó có Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma hầu-la già, Nhân phi nhân… đầy kín mít không còn có kẻ hở như lỗ chân lông; nếu có chúng sinh thích pháp khổ mà nhận sự giáo hóa thì nghe Phật nói khổ. Chúng sinh thích vô ngã, không, vắng lặng, xa lìa, vô thường cũng đều như vậy. Chúng sinh thích pháp như huyễn mà nhận sự giáo hóa thì nghe nói như huyễn; chúng sinh thích lấy pháp như mộng, như ánh trăng trong nước như ảnh, như tiếng vang đều cũng như vậy. Có chúng sinh thích giáo hóa bằng pháp Không, Vô tướng, Vô nguyện thì liền nghe Phật nói pháp Không, Vô tướng, Vô nguyện; hoặc nghe Như Lai nói tất cả pháp từ nhân duyên sinh; hoặc nghe nói các ấm, giới, nhập; hoặc nghe thuyết về Khổ, Tập, Diệt, Đạo; hoặc nghe nói bốn Niệm xứ; hoặc nghe nói bốn Chánh cần; hoặc nghe nói bốn Thần túc; hoặc nghe nói năm Căn; năm Lực; bảy Giác chi; hoặc nghe nói tám Chánh đạo; hoặc nghe nói tu Chỉ; hoặc nghe nói tu Quán; hoặc nghe nói pháp của Bích-chi-phật; hoặc nghe nói pháp Đại thừa. Này Xá-lợi-phất! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, dùng sức phương tiện để thị hiện đủ mọi cách mà chuyển pháp luân, làm cho vô lượng chúng sinh tùy theo căn tánh được hoan hỷ lợi ích. Lúc bấy giờ, Xá-lợi-phất thưa với Thắng Thiên vương: –Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, dùng sức phương tiện gì mà vào cảnh giới sâu xa khó biết, khó nghó, khó lường? Thắng Thiên vương trả lời Xá-lợi-phất: –Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, với nhiều việc có công đức thù thắng. Ta nay nói một phần của trăm ngàn vạn ức, cho đến toán số thí dụ cũng không thể hết. Chỉ có Đức Như Lai mới có thể nói hết. Ta nay chỉ nói một phần ít, là đều nhờ vào sức oai thần của Như Lai, vì sao? Vì Đại Bồ-tát ở địa vị Nhất sanh bổ xứ, còn chưa biết hết được cảnh giới chư Phật huống chi là Bồ-tát. Này Xá-lợi-phất! Cảnh giới của chư Phật vắng lặng, không thể nói, chỉ có trí vô phân biệt mới có thể hiểu rõ. Này Xá-lợi-phất! Bậc Đại Bồ-tát muốn vào cảnh giới của chư Phật nên học Bát-nhã ba-la-mật và các Tam-muội như: Thủ-lăng-nghiêm Tam-muội, Như huyễn Tam-muội, Kim cang dụ Tam-muội, Kim cang Tam-muội, Bất động ý Tam-muội, Biến thông đạt Tam-muội, Bất duyên cảnh giới Tam-muội, Sư tử tự tại Tam-muội, Tam-muội vương Tam-muội, Công đức trang nghiêm Tam-muội, Tịch tịnh yÙ Tam-muội, Siêu xuất Tam-muội, Vô trước Tam-muội, Ý trang nghiêm vương Tam-muội, Vô đẳng đẳng Tam-muội, Đẳng giác Tam-muội, Chánh giác Tam-muội, Duyệt ý Tam-muội, Hoan hỷ Tam-muội, Thanh tịnh Tam-muội, Hỏa diệm Tam-muội, Quang minh Tam-muội, Nan thắng Tam-muội, Thường hiện tiền Tam-muội, Bất tương cận Tam-muội, Vô sinh Tam-muội, Thông đạt Tam-muội, Tối thắng Tam-muội, Quá ma giới Tam-muội, Nhất thiết trí ý Tam-muội, Tràng tướng Tam-muội, Đại bi Tam-muội, Hoan hỷ Tam-muội, Ái niệm Tam-muội, Bất kiến pháp Tam-muội. Này Xá-lợi-phất! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, dùng sức phương tiện, thông đạt vô lượng, vô biên trăm ngàn ức, hằng hà sa các Tam-muội nhiều như vậy mới có thể vào được cảnh giới của chư Phật, tâm được an ổn mà không sợ sệt. Như Sư tử vương không sợ cầm thú. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát đã tu các Tam-muội nhiều như vậy rồi, có đi khắp các chỗ cũng đều không sợ sệt, không thấy một oán thù có ở trước. Vì sao? Này Xá-lợi-phất! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, dùng sức phương tiện, tâm không có chỗ duyên và không có chỗ trụ. Ví như có người sinh vào cõi Vô sắc, trong bốn vạn tám ngàn kiếp chỉ là một thức, không có chỗ trụ, cũng không có chỗ duyên. Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật cũng như vậy; tâm không chỗ trụ cũng không chỗ duyên. Vì sao? Vì tâm không hành và không có chỗ hành; tâm không tưởng và không có chỗ tưởng; tâm không duyên và không có chỗ duyên; tâm không chấp trước và không có chỗ chấp trước; tâm không loạn và không có chỗ loạn; tâm không cao, thấp và không tùy thuận, không trái nghịch, không vui, không lo, không phân biệt và lìa phân biệt; lìa chỉ quán, tâm không theo trí; tâm không tự trụ cũng không trụ nơi khác; không nương vào nhãn mà trụ và cũng không nương vào nhó, tỷ, thiệt, thân, ý mà trụ; không nương vào sắc mà trụ, và cũng không nương vào thanh, hương, vị, xúc, pháp mà trụ; tâm không trụ trong và cũng không trụ ngoài; tâm không duyên pháp, không duyên trí; không trụ quá khứ, vị lai, hiện tại. Này Xá-lợi-phất! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, không giữ lấy một pháp nào; đối với tất cả pháp thấy, biết không ngại; tâm hạnh thanh tịnh, thì thấy biết được tất cả pháp đều không cấu nhiễm, không ôm giữ tướng thấy, thấy mà không phân biệt thì lìa được các hý luận. Này Xá-lợi-phất! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật thì không cùng với Nhục nhãn tương ưng; không cùng với Thiên nhãn tương ưng; cũng không cùng với Tuệ nhãn, Pháp nhãn, Phật nhãn tương ưng; không cùng với Thiên nhó tương ưng; không cùng với Tha tâm trí tương ưng; không cùng với Túc mạng trí tương ưng; không cùng với Thần thông trí tương ưng; không cùng với Lậu tận trí tương ưng. Này Xá-lợi-phất! Bát-nhã ba-la-mật này cũng không cùng với tất cả pháp tương ưng; nhưng không phải là có tương ưng. Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, dùng sức phương tiện, đối với tất cả phát đạt được trí bình đẳng; có thể quán sát tất cả tâm hạnh của chúng sinh và tất cả nhiễm tịnh đều biết như thật. Đối với mười Lực, bốn Vô úy, mười tám pháp Bất cộng và Nhất thiết trí của Phật đều không mất niệm. Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, dùng tâm không có công dụng để thông đạt tất cả pháp, không có tâm ý thức. Thường ở trong Tam-muội vắng lặng mà không bỏ Tam-muội là để giáo hóa chúng sinh, làm các Phật sự không cho dừng nghỉ; đối với pháp của chư Phật đạt được trí vô ngại, tâm không nhiễm trước. Này Xá-lợi-phất! Ví như Đức Hóa Phật lại hóa ra Phật, Đức Phật được hóa đó không có tâm ý thức, không có thân và nghiệp của thân, không có khẩu và khẩu nghiệp. Không có tâm và nghiệp của tâm, mà có thể làm tất cả các Phật sự để đem ích cho chúng sinh. Vì sao? Vì đó là sức thần của Phật. Này Xá-lợi-phất! Bậc Đại Bồ-tát dựa vào Bát-nhã ba-la-mật cũng có thể hóa được như vậy; không có thân và nghiệp của thân; không có khẩu và khẩu nghiệp. Không có ý và ý nghiệp, dùng tâm không có công dụng thường làm Phật sự lợi ích chúng sinh. Vì Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật thông đạt tất cả pháp và cũng như tướng huyễn, tâm không phân biệt và có chúng sinh thường nghe nói pháp. Này Xá-lợi-phất! Trí tuệ của Đại Bồ-tát như vậy, không trụ nơi hữu vi, không trụ nơi vô vi, không trụ nơi các ấm, giới, nhập, không trụ trong và ngoài, không trụ nơi pháp thiện và ác, không trụ nơi thế gian và xuất thế gian, không trụ nơi nhiễm và tịnh, không trụ hữu lậu, vô lậu, không trụ quá khứ, hiện tại, vị lai, không trụ số duyên diệt, không trụ nơi chẳng phải số duyên diệt. Này Xá-lợi-phất! Đó là bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, tâm không có chỗ trụ mà có thể thông đạt tất cả các pháp. Dùng trí vô ngại và sức không công dụng để nói pháp cho chúng sinh, thường ở trong vắng lặng mà việc giáo hóa chúng sinh không có dừng nghỉ. Này Xá-lợi-phất! Những nguyện lực đời trước của Đại Bồ-tát rất mạnh, lấy tâm không công dụng vì người mà nói pháp. Này Xá-lợi-phất! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, dùng sức phương tiện, nên không sợ sệt. Vì sao? Vì có thần cầm chày Kim cang thường hộ vệ, những lúc đi, đứng, nằm, ngồi đều không rời bỏ. Này Xá-lợi-phất! Bậc Đại Bồ-tát nghe nói Bát-nhã ba-la-mật sâu xa, tâm không kinh, sợ; không nghi ngờ, hối hận, biết đó là người sẽ được thọ ký. Vì sao? Vì tin nhận Bát-nhã ba-la-mật là được gần cảnh giới chư Phật. Dùng nhất tâm này có thể thông đạt tất cả pháp của Phật; đã thông đạt pháp Phật rồi, thì làm lợi ích cho chúng sinh, nhưng không thấy chúng sinh và pháp của Phật khác nhau. Vì sao? Vì lý không có hai vậy. KINH THẮNG THIÊN VƯƠNG BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT <卷 id="82881781">QUYỂN 5 <詞 id="82881782">Phẩm 8: VÔ SỞ ĐẮC Lúc bấy giờ, trong chúng có một vị Đại Bồ-tát tên là Tu Chân Chi, thưa với Thắng Thiên vương: –Như Lai có thọ ký cho Đại vương không? Thắng Thiên vương đáp: –Này Bồ-tát khéo suy nghó. –Này thiện nam! Tôi được thọ ký như mộng tướng. Bồ-tát lại hỏi: –Này đại vương! Thọ ký như thế sẽ được pháp gì? Vua đáp: –Này thiện nam! Phật thọ ký cho tôi hoàn toàn không có sở đắc. Bồ-tát lại hỏi: –Vô sở đắc nghóa là pháp gì? Vua đáp: –Không được chúng sinh, tuổi thọ, người, ấm, giới, nhập, nuôi dưỡng đều không có sở đắc; hoặc thiện, bất thiện; hoặc tịnh, bất tịnh; hoặc hữu lậu, vô lậu; hoặc thế gian, xuất thế gian; hoặc hữu vi, vô vi; hoặc sinh tử Niết-bàn đều không sở đắc. Bồ-tát lại hỏi: –Nếu không được gì thì thọ ký làm chi? Vua đáp rằng: –Này thiện nam! Không sở đắc cho nên được thọ ký. Bồ-tát lại hỏi: –Nếu như lời đại vương nói có nghóa là có hai trí: Một là không sở đắc, hai là được thọ ký? Vua đáp rằng: –Nếu có hai trí thì không được thọ ký. Vì sao? Vì trí Phật không hai. Chư Phật Thế Tôn do không có hai trí nên thọ ký cho Bồ-tát. Bồ-tát lại hỏi: –Nếu trí không có hai, tại sao có thọ ký và được thọ ký? Vua đáp rằng: –Được thọ ký và thọ ký, thật ra không có hai bên. Bồ-tát lại hỏi: –Không có hai bên, tại sao có thọ ký? Vua đáp: –Thông đạt, không có hai bên tức là thọ ký. Bồ-tát lại hỏi: –Đại vương trụ ở nơi nào mà được thọ ký? Vua đáp: –Trụ ở nơi ngã được thọ ký, trụ nơi chúng sinh, nơi thọ mạng, nơi người mà được thọ ký. Bồ-tát lại hỏi: –Phải tìm cầu nơi ngã ở đâu? Vua đáp: –Cầu ở Như Lai giải thoát. Bồ-tát lại hỏi: –Bên Như Lai giải thoát được cầu ở đâu? Vua đáp: –Cầu ở nơi vô minh, hữu ái. Bồ-tát hỏi: –Vô minh, hữu ái được cầu ở đâu? Vua đáp: –Nơi ở nơi rốt ráo không sinh. Bồ-tát hỏi: –Nơi rốt ráo không sinh được cầu ở đâu? Vua đáp: –Cầu ở nơi vô tri. Bồ-tát hỏi: –Vô tri là không biết, tại sao cầu ở nơi vô tri? Vua đáp: –Nếu có chỗ biết thì cầu không thể được, do vì vô tri nên cầu ở nơi đó. Bồ-tát hỏi: –Nơi đó không nói làm sao có thể cầu? Vua đáp: –Do dứt bặt ngôn ngữ cho nên có thể cầu. Bồ-tát hỏi: –Tại sao dứt bặt ngôn ngữ? Vua đáp: –Các pháp nương nơi nghóa chớ không nương nơi ngôn ngữ. Bồ-tát hỏi: –Tại sao nương nơi nghóa? Vua đáp: –Không thấy tướng của nghóa. Bồ-tát hỏi: –Tại sao không thấy? Vua đáp: –Nghóa không sinh phân biệt là có thể nương nơi ngã làm năng y. Việc này không hai nên gọi là thông đạt. Bồ-tát hỏi: –Nếu không thấy nghóa thì có gì mà cầu? Vua đáp: –Không thấy, không lấy nên gọi là cầu. Bồ-tát hỏi: –Nếu pháp có thể cầu tức là có cầu? Vua đáp: –Không đúng, nếu ai cầu pháp là không chỗ cầu. Vì sao? Vì nếu cầu thì đó là phi pháp. Bồ-tát hỏi: –Sao gọi là pháp? Vua đáp: –Pháp là không văn tự, là xa lìa ngôn ngữ. Bồ-tát hỏi: –Lìa văn tự ngôn ngữ sao gọi là pháp? Vua đáp: –Tánh của văn tự ngôn ngữ là lìa, dứt bặt tâm hành? Đó gọi là pháp. Tất cả các pháp đều không thể nói, cái không thể nói cũng không nói được. Này thiện nam! Nếu có nói tức là giả dối, đúng là pháp không thật. Bồ-tát hỏi: –Những lời chư Phật, Bồ-tát nói đều là hư vọng chăng? Vua đáp: –Chư Phật, Bồ-tát từ xưa đến nay không nói một chữ, sao lại hư vọng. Bồ-tát hỏi: –Nếu có nói tại sao có lỗi? Vua đáp: –Nói là lỗi của ngôn ngữ. Bồ-tát hỏi: –Ngôn ngữ có lỗi gì? Vua đáp: –Nghóa là lỗi của suy lường. Bồ-tát hỏi: –Pháp nào không có lỗi? Vua đáp: –Không nói và không có chỗ nói; không thấy hai tướng; đó là không lỗi. Bồ-tát hỏi: –Gốc của lỗi là gì? Vua đáp: –Gốc của lỗi là hay chấp. Bồ-tát hỏi: –Gốc của hay chấp là gì? Vua đáp: –Gốc của chấp là tâm chấp trước. Bồ-tát hỏi: –Gốc của chấp trước là gì? Vua đáp: –Là phân biệt giả dối. Bồ-tát hỏi: –Gốc của phân biệt giả dối là gì? Vua đáp: –Là phan duyên. Bồ-tát hỏi: –Phan duyên ở chỗ nào? Vua đáp: –Phan duyên với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Bồ-tát hỏi: –Sao là không duyên? Vua đáp: –Nếu lìa ái thủ thì không có chỗ phan duyên. Do nghóa này nên Như Lai thường nói các pháp bình đẳng. Khi nói pháp môn này, trong chúng có năm ngàn Tỳ-kheo xa lìa trần cấu, đạt được Pháp nhãn thanh tịnh. Một vạn hai ngàn Bồ-tát đạt được Vô sinh pháp nhẫn; có vô lượng, vô biên chúng sinh phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác. Lúc bấy giờ, Thắng Thiên vương từ chỗ ngồi, đứng dậy, trịch áo bày vai phải, gối quỳ sát đất, chắp tay hướng về Đức Phật, cúi đầu làm lễ mà bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Có thiện nam, tín nữ nghe Bát-nhã ba-la-mật này, nhưng tại sao có người chưa phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác thì liền có thể phát tâm và đều thành tựu quả vị không thoái chuyển, tu hành luôn tiến tới mà không bị đọa lạc? Phật bảo Thắng Thiên vương: –Này đại vương! Hãy lắng nghe và khéo suy nghó. Ta sẽ vì ông mà nói. Có thiện nam, tín nữ nghe Bát-nhã ba-la-mật, tu hành được tiến tới, không bị rơi rớt. Thắng Thiên vương thưa: –Lành thay Thế Tôn, con xin muốn nghe! Phật bảo Thắng Thiên vương: –Này đại vương! Thiện nam, tín nữ nào nghe Bát-nhã ba-la-mật, thì ý sẽ thanh tịnh, nên phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác, đầy đủ lòng tin chân chánh, gần gũi Thánh hiền, ưa nghe chánh pháp, xa lìa sự ganh tî ghen ghét, không có tham lam, thường tu vắng lặng, khéo thực hành bố thí, tâm không chướng ngại, thường lìa uế trược, tin chân chánh ở nghiệp quả, tâm không nghi hoặc, biết quả báo trắng đen, không làm những điều không nên làm, dầu phải bỏ thân mạng. Này đại vương! Thiện nam, tín nữ mà thực hành Bát-nhã ba-la-mật như vậy thì xa lìa sát sinh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu, ỷ ngữ, tham, sân, tà kiến. Tâm thường suy nghó ở mười thiện pháp này. Này đại vương! Thiện nam, tín nữ thực hành Bát-nhã ba-la-mật, dùng sức phương tiện, nếu thấy, Sa-môn, Bà-la-môn chánh hạnh tinh tấn, giới phẩm trong sạch, nghe nhiều học rộng, hiểu biết nghóa lý, thường chánh niệm, tâm tánh điều phục, vắng lặng không tán loạn, miệng thường nói lời êm dịu, xa lìa các pháp ác, tu tập các pháp lành, không tự kiêu ngạo cống cao mình và hạ thấp người khác, không nói ác và lời vô nghóa, không bỏ niệm xứ, tâm được ngay thẳng, có khả năng đoạn dứt sinh tử, khéo nhổ tên độc, xả bỏ gánh nặng, có thể vượt qua các nạn rồi sau mới độ chúng sinh. Này đại vương! Thiện nam, tín nữ nào thực hành Bát-nhã ba-la-mật, nếu thấy Đại Bồ-tát như vậy thì nên gần gũi mà y chỉ. Người đó là Thiện tri thức, Đại Bồ-tát dùng sức phương tiện mà nói pháp cho. Này thiện nam! Nếu bố thí thì được giàu có, trì giới thì được sinh Thiên, nghe pháp thì được đại trí. Bồ-tát lại bảo rằng: –Đây là bố thí và quả báo của bố thí; đây là ganh ghét nghi kî và quả báo của ganh ghét nghi kî; đây là nhẫn nhục và quả báo của nhẫn nhục; đây là tinh tấn và quả báo của tinh tấn; đây là thiền định và quả báo của thiền định; đây là trí tuệ và quả báo của trí tuệ; đây là ngu si và quả báo của ngu si; đây là nghiệp thiện của thân và quả báo nghiệp thiện của thân; đây là nghiệp ác của thân và quả báo nghiệp ác của thân; đây là nghiệp thiện của miệng và quả báo nghiệp thiện của miệng; đây là nghiệp ác của miệng và quả báo nghiệp ác của miệng; đây là nghiệp thiện của ý và quả báo nghiệp thiện của ý; đây là nghiệp ác của ý và quả báo nghiệp ác của ý. Này thiện nam, tín nữ! Pháp này nên làm, pháp kia không nên làm. Nếu như vậy mà tu hành thì được an lạc lâu dài, còn không làm như vậy thì bị khổ đau lâu dài. Này đại vương! Thiện nam, tín nữ dùng sức phương tiện, gần gũi Thiện tri thức thì được nghe thuyết pháp thứ lớp như thế. Đại Bồ-tát nếu biết người kia là pháp khí thì nên nói pháp Bát-nhã ba-la-mật sâu xa cho họ, nghóa là Không, Vô tướng, Vô nguyện, vô tác, không sinh, không diệt, không ngã, không chúng sinh, không thọ mạng, không nhân giả mà nói pháp nhân duyên sâu xa. Nhân nơi pháp này mà pháp kia sinh, pháp này diệt thì pháp kia diệt. Nghóa là vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sinh, sinh duyên lão tử, ưu, bi, khổ, não. Nếu vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì lục nhập diệt, lục nhập diệt thì xúc diệt, xúc diệt thì thọ diệt, thọ diệt thì ái, diệt, ái diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sinh diệt, sinh diệt thì lão tử, ưu, bi, khổ, não diệt. Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, dùng sức phương tiện nói pháp như vầy: Ở trong pháp chân thật, không có một pháp nào có thể sinh và có thể diệt. Vì sao? Vì các pháp ở thế gian đều do nhân duyên sinh, không có người tạo tác, bởi do nhân duyên hòa hợp; không có một pháp chân thật nào bị sinh diệt; ở trong ba cõi chỉ có hư vọng, phân biệt và giả danh, theo nghiệp phiền não mà chịu quả báo. Nếu dùng Bát-nhã ba-la-mật, quán sát tất cả pháp như thật không sinh, không diệt, không tạo tác, không thọ lãnh. Nếu pháp không tạo tác thì cũng không thực hành; đối với các pháp thì tâm không chấp trước nghóa là không chấp trước sắc, thọ, tưởng, hành, thức, không chấp trước vào nhãn, sắc thức; không chấp trước vào ý thức, pháp thức. Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát nói như vầy: “Tự tánh của tất cả các pháp là không, xa lìa, không giữ, không đắm.” Thiện nam, tín nữ nhân nơi lời nói như thế thì không bị thoái lui. Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, ưa thấy chư Phật, ưa nghe chánh pháp thì không bị đọa nơi thấp hèn, sinh ở chốn nào cũng đều nghe thấy Phật và nghe nhận Chánh pháp, cúng dường chúng Tăng, gặp được chư Phật và dũng mãnh tinh tấn, quyết chí cầu chánh pháp, không chấp trước pháp hữu vi, vợ con, tôi tớ, tiền của đều không tham đắm, không nhiễm dục, thường nương chánh pháp, nhớ nghó chư Phật, bỏ thế tục, xuất gia tu hành đúng pháp, thường giảng pháp cho người khác với tâm không mong cầu, thấy chúng nghe pháp thường sinh tâm đại Từ, với tất cả chúng sinh thì sinh khởi tâm đại Bi, học rộng nghe nhiều, không tiếc thân mạng, biết đủ, ít ham muốn, thường ưa vắng lặng, chỉ cầu nghóa lý, không vướng mắc vào ngôn từ, nói pháp tu hành không vì tự thân, chỉ mong giáo hóa chúng sinh được vui vô thướng; đó là Phật trí. Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, tu hành như vậy sẽ xa lìa được sự buông thả, giữ gìn các căn. Nếu mắt thấy sắc không đắm trước sắc tướng, quán sát như thật, sắc này là tai họa sinh ra tội lỗi. Tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân chạm xúc, ý khởi đều cũng như vậy. Nếu các căn phóng túng gọi là buông lung, hoặc hay giữ gìn các căn gọi là không buông lung. Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, điều phục tự tâm và giúp người khác giữ gìn ý, gọi là không buông lung, xa lìa tham dục, tâm thuận theo thiện pháp. Phải thấy và hiểu, sân si có nguồn gốc bất thiện; thân làm ác, miệng nói ác và tà niệm, tất cả đều là bất thiện nên xa lìa, gọi là không buông lung. Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, tâm thường chánh niệm gọi là không buông lung. Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, tất cả các pháp tín là đứng đầu. Người chánh tín không sinh vào đường ác, tâm không làm việc ác được Thánh nhân khen ngợi. Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, theo như pháp mà tu hành, thì sinh ở mọi nơi thường gặp chư Phật, xa lìa Nhị thừa, an trụ chánh đạo, được đại tự tại, thành tựu việc lớn được chánh trí của Như Lai. Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, muốn cầu an lạc cần phải thuận theo con đường Nhất thiết trí. Này đại vương! Nay đại chúng này nghe được Bát-nhã ba-la-mật sâu xa là do ở nơi quá khứ trăm ngàn vạn kiếp đã từng cúng dường chư Phật và tu tập căn lành, cho nên cần phải tinh tấn chớ để cho lui mất. Này đại vương! Nếu trời hoặc người chế ngự được các căn, không đắm trước năm dục, xa lìa thế gian, thường tu pháp xuất thế, ba nghiệp thanh tịnh, tu tập pháp trợ đạo gọi là không buông lung. Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, chánh tín đầy đủ, tâm không buông lung, chuyên cần tu tinh tấn nên được pháp thắng, gọi là không buông lung. Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát muốn đầy đủ chánh tín, tâm không buông lung, tinh tấn chánh niệm thì phải học Bát-nhã ba-la-mật, nhân nơi niệm trí này mà có thể mau thành tựu pháp Vô thượng Chánh đẳng giác. Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, đầy đủ chánh trí, tâm không buông lung, cần tu tinh tấn, liền được chánh niệm, dùng niệm trí đó nên biết có, biết không. Tại sao gọi là có và không? Nếu tu chánh hạnh được chánh giải thoát, gọi đó là có. Nếu tu tà hạnh được chánh giải thoát, gọi đó là không. Nhãn, nhó, tỷ, nhiệt, thân, ý và pháp của thế gian gọi là có, trong chân thật gọi là không. Đại Bồ-tát cần tu tinh tấn, có thể được giải thoát, gọi đó là có. Bồ-tát biếng lười mà được giác ngộ, gọi đó là không. Nếu nói năm ấm đều từ hư vọng điên đảo sinh ra, gọi đó là có. Nếu nói pháp thế gian không từ nhân duyên mà tự nhiên sinh ra, gọi đó là không. Sắc là pháp vô thường, khổ, hư hoại, gọi đó là có. Nếu nói thường lạc chẳng phải pháp hư hoại, gọi đó là không. Thọ, tưởng, hành, thức, cũng là như vậy. Vô minh duyên hành gọi đó là có. Nếu lìa vô minh mà hành sinh, gọi đó là không. Hành duyên thức cho đến sinh duyên lão tử, ưu, bi, khổ, não cũng đều như vậy. Bố thí thì được giàu có, gọi đó là có. Bố thí mà bị nghèo hèn, gọi đó là không. Tinh tấn, trì giới được sinh vào đường thiện, gọi đó là có. Nếu sinh vào đường ác, gọi đó là không; cho đến Bát-nhã ba-la-mật có thể được thành Phật gọi đó là có, tu hành Bát-nhã ba-la-mật mà làm phàm phu, gọi đó là không. Nếu tu đa văn thì được đại trí, gọi đó là có; nếu bị ngu si, gọi đó là không. Nếu tu chánh niệm thì được xuất ly, gọi đó là có; nếu không được thì gọi đó là không nếu hành tà niệm không được xuất ly gọi đó là có, nếu được gọi đó là không. Không ngã và ngã sở có thể được giải thoát, gọi đó là có; có ngã và ngã sở mà được giải thoát gọi đó là không. Nếu nói hư không có khắp tất cả chỗ, gọi đó là có; trong ngũ ấm có ngã, gọi đó là không. Như thật tu trí có thể giải thoát, gọi đó là có. Nếu chấp trước tà trí mà được giải thoát, gọi đó là không. Nếu lìa ngã kiến, chúng sinh kiến, thọ giả kiến, nhân kiến có thể được trí không, gọi đó là có; chấp ngã, chúng sinh, thọ giả, nhân kiến có thể được trí không thì gọi đó là không. Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, biết các pháp thế gian có và không, như vậy thì có thể tu bình đẳng; rõ biết nhân duyên sinh ra các pháp của thế gian, cho nên có mà không khởi thường kiến; biết nhân duyên của các pháp căn bản tự tánh vốn không, nên không sinh đoạn kiến. Đối với các lời dạy chư Phật đã thông đạt như thật. Này đại vương! Chư Phật Như Lai nói tóm lược cho Bồ-tát nghe, bốn pháp đó là: Thế gian, Sa-môn, Bà-la-môn và trời Trường thọ; tâm đều chấp vào thường, vì phá chấp này nên nói hạnh vô thường. Có các trời, người nhiều tham đắm, lạc thú; vì phá chấp này nên nói tất cả khổ. Ngoại đạo tà kiến chấp trong thân có ngã, vì phá chấp này nên nói vô ngã. Lại vì muốn phá tăng thượng mạn của người, cho nên nói Niết-bàn vắng lặng. Nói vô thường, nghóa là làm cho họ quyết chí cầu pháp cứu cánh. Nói khổ nghóa là làm cho họ lìa mong cầu. Nói vô ngã nghóa là làm cho họ hiển bày nữa không. Nói vắng lặng nghóa là làm cho họ thông đạt vô tướng. Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật tu học như vậy, đối với các pháp thiện không bao giờ thoái lui, mau thành Vô thượng Chánh đẳng giác. Lúc bấy giờ, Thắng Thiên vương bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật tu hành những hạnh gì để hộ trì chánh pháp? Phật bảo Thắng Thiên vương: –Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, việc làm không trái với lời nói, kính trọng bậc Tôn trưởng và thuận theo chánh pháp, tâm hạnh ngay thẳng, các căn vắng lặng, xa lìa các điều ác và pháp ác, tu tập căn lành nên gọi là hộ trì chánh pháp. Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, tu thân nghiệp từ bi, khẩu nghiệp từ bi, ý nghiệp từ bi, không cầu danh lợi, trì giới trong sạch, xa lìa các kiến hoặc, gọi đó là hộ trì chánh pháp. Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, không làm theo ái, không làm theo sân, không làm theo si, không làm theo sự sợ sệt, gọi là hộ trì chánh pháp. Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, biết tu tập hạnh hổ thẹn, gọi là hộ trì chánh pháp. Này đại vương! Bậc Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, thuyết pháp tu hành đúng như lời Phật dạy, gọi là hộ trì chánh pháp. Này đại vương! Ba đời chư Phật vì hộ trì chánh pháp, cho nên ủng hộ vua trời, vua người để cho chánh pháp được tồn tại lâu dài, nên nói đại thần chú: Đa điệt tha a hống la hống la bà để hậu la nõa sa cửu trà chá chá chá chá chá nó phú nõa sứu đa xoa đa xoa diên đa xoa dã sa ma xà ma nó kha la âu lâu âu lâu bà để kỷ la bà để kim a-tỳ xá để nó sa la nó xã xà xã xã ma đễ a bà tha nó bà tha bạt đa bạt đa nâu sa lý bầu đa nâu tất mật lý đễ đề bà đa nâu tất mật lý đễ. Hoặc Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già và tất cả chúng sinh đều được an ổn. Này đại vương! Ba đời chư Phật, nói đại thần chú này là để hộ trì chánh pháp, ủng hộ vua trời, vua người nên tụng trì; các oán tặc, ác nạn ma chướng chánh pháp đều bị tiêu diệt. Chư Phật Như-Lai vì làm cho chánh pháp tồn tại lâu dài ở đời, cho nên ủng hộ vua trời, người, khiến họ hộ trì chánh pháp. Khi nói pháp môn thần chú Bát-nhã ba-la-mật này; tất cả cung trời, đại địa, các núi, biển lớn đều chấn động và trong chúng có tám vạn chúng sinh phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác. Lúc bấy giờ, Thắng Thiên vương dùng lưới kết bằng bảy thứ báu che ở trên Đức Phật, mà bạch Phật rằng: –Bạch Thế Tôn! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, tu những pháp gì mà đối với tâm Vô thượng Chánh đẳng giác không bị dao động? Phật bảo Thắng Thiên vương: –Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, tu đại Bi vô ngại và khhông nhàm chán đại Bi, nên thành tựu việc lớn này; chuyên cần tinh tấn học Tam-muội không, tu trí bình đẳng, dùng sức phương tiện, thì có thể thông đạt trí thanh tịnh, hiểu rõ như thật ba đời bình đẳng, không có chướng ngại ngăn che con đường mà ba đời chư Phật đã đi. Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, tu pháp như vậy thì đối với tâm Vô thượng Chánh đẳng giác sẽ không bị dao động. Thắng Thiên vương bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, làm sao nghe được việc chẳng nghó bàn của Phật mà không sợ sệt, không kinh hãi? Phật bảo Thắng Thiên vương: –Này đại vương! Bồ-tát phải đầy đủ trí tuệ và đầy đủ đức hạnh, gần gũi Thiện tri thức, ưa nghe những pháp sâu xa; hiểu rõ các pháp đều như huyễn, ngộ lý vô thường ở thế gian, tâm không trụ vào chấp trước cũng như hư không, biết tất cả pháp có sinh thì có diệt. Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, tu pháp và nghe được việc chẳng nghó bàn của Phật như vậy thì không sợ sệt, không kinh hãi. Thắng Thiên vương bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, làm sao được tự tại ở mọi nơi? Phật bảo Thắng Thiên vương: –Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, tu năm Thần thông. Đầy đủ vô ngại và các môn Giải thoát, bốn Thiền, bốn Vô lượng tâm, phương tiện; nên thực hành Bát-nhã ba-la-mật được tự tại ở mọi nơi. Thắng Thiên vương bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, được những pháp môn gì? Phật bảo Thắng Thiên vương: –Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, được pháp môn đức hạnh, có thể độ chúng sinh có căn cơ lanh lợi và chậm lụt; được pháp môn trí tuệ, phân biệt cú nghóa; được pháp môn Đà-la-ni, biết hết tất cả ngôn ngữ và âm thanh; được pháp môn vô ngại, nói pháp bất tận. Này đại vương! Đó là Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật được các pháp môn như vậy. Thắng Thiên vương bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, được những sức gì? Phật bảo Thắng Thiên vương: –Này đại vương! Bồ-tát được sức vắng lặng: thành tựu đại Bi; được sức tinh tấn: thành tựu quả vị không thoái chuyển; được sức đa văn: thành tựu đại trí; được sức tin ưa: thành tựu giải thoát; được sức tu hành: thành tựu xa lìa; được sức nhẫn nhục: thường giúp chúng sinh; được sức tâm Bồ-tát: đoạn trừ ngã kiến; được sức đại Bi: giáo hóa chúng sinh; được sức Vô sinh nhẫn: thành tựu mười Lực. Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, được thành tựu các lực như vậy. Khi nói pháp môn này, trong chúng có năm trăm Bồ-tát đạt được Vô sinh pháp nhẫn; tám ngàn Thiên tử đạt được quả vị không thoái chuyển; một vạn hai ngàn Thiên tử xa lìa trần cấu, được Pháp nhãn thanh tịnh; bốn vạn trời, người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác.  <詞 id="82881783">Phẩm 9: CHỨNG CỚ VỀ CHUYÊN CẦN Bấy giờ, Phật bảo Thắng Thiên vương: –Đời quá khứ cách đây vô số kiếp không thể tính đếm suy lường; có Đức Phật tên là Công Đức Bảo Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Nước tên là Bảo trang nghiêm và kiếp tên Thiện quán. Đời sống sung sướng an vui, không có bệnh tật ưu phiền; trời người qua lại không chướng ngại. Mặt đất bằng phẳng như bàn tay không có núi non gò đống; chỉ mọc loại cỏ nhỏ, cao khoảng bốn tất, mềm mại xanh biếc như lông công; chân bước thời lún xuống, dỡ chân thì phồng lên; có các loại hoa đẹp như: Hoa Tu-ma-na, hoa, Đãn-lặc-già, ngoài ra khắp nơi đều là cỏ mềm, không lạnh, không nóng, bốn mùa điều hòa, mát mẻ; đất toàn bằng lưu ly; chúng sinh ở thế giới này, tâm tánh hiền lành, khéo điều phục ba độc, không để nó chi phối. Công Đức Bảo Vương Phật, có một vạn ba ngàn na-do-tha hàng Thanh văn và sáu mươi hai ức Đại Bồ-tát. Tuổi thọ của con người đến ba mươi sáu ức na-do-tha tuổi; không có chết yểu. Có một nước tên là Vô cấu trang nghiêm; thành của nước này từ Nam đến Bắc rộng một trăm hai tám do-tuần; từ Đông sang Tây tám mươi do-tuần, có mười ngàn vườn cây trang hoàng oai nghiêm đẹp đẽ, xung quanh có mười ngàn nước nhỏ. Chuyển luân thánh vương tên là Trị Thế, đầy đủ bảy báu làm chủ bốn châu thiên hạ, đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, trồng nhiều căn lành, nên tâm không thoái lui với đạo Vô thượng Chánh đẳng giác. Vua có bốn vườn cây, hoa đẹp; công đức trang trí rất oai nghiêm và vừa ý; bốn mùa chim khổng tước đùa giỡn vui chơi. Tường thành dày mười sáu do-tuần, các cửa của tầng lầu đều bằng bảy báu, có bốn ao lớn, mỗi ao rộng nửa do-tuần; bờ ao bằng bảy báu. Vàng Diêm-phù-đàn dùng làm đường đi và đáy ao lót bằng vàng. Nước trong ao đủ tám công đức, sinh ra hoa sen báu; các loại chim thú vui chơi nhảy nhót trong ao như: chim le, chim nhạn, ngỗng, chim hạt, chim uyên ương, đười ươi. Trên bờ các hàng cây hương đàn màu trắng, màu đỏ và thi-lợi-sa… trên cây có chim oanh vũ, chim xá-lợi từng đàn cất tiếng ca bay lượn vui đùa. Trong cung vua, có bảy mươi ngàn người nữ, tướng mạo xinh đẹp đoan trang phục vụ những việc quan trọng. Họ đều phát tâm hướng đến Vô thượng Chánh đẳng giác. Vua có một ngàn người con trai cao lớn, tráng kiện, đủ khả năng đánh bại kẻ thù; mỗi người đều đầy đủ hai mươi tám tướng tốt đẹp của bậc Đại trượng phu, thân thể trang nghiêm và đã phát tâm hướng đến Vô thượng Chánh đẳng giác. Bấy giờ, Công Đức Bảo Vương Như Lai cùng vô lượng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-cầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu la-già, Nhân phi nhân… lần lượt vào thành lớn Vô cấu trang nghiêm. Thánh vương Trị Thế cùng một ngàn người con và cung nhân cung kính đón rước Thế Tôn, bày các lễ vật bằng bảy báu xinh đẹp cúng dường. Bấy giờ Thế Tôn và các đại chúng nhận cúng dường xong liền trở về bản xứ. vua cùng một ngàn người con và cung nhân ra khỏi thành tiễn đưa rồi mới trở về cung. Vua Trị Thế than rằng: “Thân người vô thường, quyền quý cao sang như giấc chiêm bao, được các căn đầy đủ, niềm tin chân chánh cực khó; gặp được Phật nghe pháp như thấy được hoa Ưu-đàm.” Một ngàn người con, biết phụ vương ngưỡng mộ Thế Tôn và ưa nghe chánh pháp, nên dùng gỗ Chiên-đàn làm đài giống như núi Ngưu đầu trang sức bằng bảy báu, mùi hương khắp Diêm-phù-đề. Đài rộng từ Đông sang Tây mười do-tuần, từ Nam sang Bắc mười ba do-tuần. Bốn trụ lớn trang trí bằng châu báu và có một ngàn bánh xe báu. Các người con đem đến dâng lên Thánh vương. Vua nhận rồi khen rằng: “Hay thay các con, phụ vương muốn đến chỗ Phật nghe giảng chánh pháp.” Bấy giờ, một ngàn người con cùng tạo ra một tòa Sư tử ở trong đài. Thánh vương và các cung nhân ngồi vào tòa Sư tử ấy. Bốn bên đài treo cờ, phướn, lọng, giăng lưới bằng bảy báu, mỗi góc đều treo chuông vàng, đem các loại hoa rải lên đài: Như hoa Chiêm-bặc-già, hoa Tu-ma-na, hoa Ưu-bát-la, hoa Câu-vật-đầu, hoa Phân-đà-lợi, hoa Ca-ma-la. Rồi đốt hương quý giá, hương thoa và rải hương bột. Một ngàn người con, mỗi người nắm một bánh xe bay lên hư không đến chỗ Phật, giống như vua loài ngỗng, rồi từ từ hạ xuống một cách an lành vừa chạm đất, ngàn người này liền đến trước Phật cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, nhiễu quanh bên phải Thế Tôn và đại chúng bảy vòng rồi lui ra đứng một bên. Lúc này Thánh vương cùng các cung nhân từ đài báu xuống, vua cất mũ báu, cởi giày đến trước Thế Tôn đảnh lễ sát chân, nhiễu quanh bên phải Thế Tôn và đại chúng bảy vòng rồi lui ra ngồi một bên. Bấy giờ, Phật Bảo Trang Nghiêm Vương mới hỏi: –Nay Thánh vương đến nghe chánh pháp ư? Thánh vương Trị Thế từ chỗ ngồi đứng dậy sửa lại y phục, cúi đầu đảnh lễ sát chân, bạch Phật rằng: –Bạch Thế Tôn! Chánh pháp mà Ngài nói đó là gì? Thế Tôn khen vua Trị Thế rằng: –Hay thay, hay thay! Vì lợi ích vô lượng cõi trời, người mà đại vương hỏi pháp sâu xa này. Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri sẽ vì đại vương mà phân biệt giảng nói. Thánh vương Trị Thế bạch Phật: –Bạch Thế Tôn, con xin muốn nghe! Phật bảo Thánh vương Trị Thế: –Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật thông đạt tất cả pháp gọi là chánh pháp; chánh pháp ấy là: Bốn Niệm xứ, bốn Chánh cần, bốn Như ý túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác phần, tám Chánh đạo, Không, Vô tướng, Vô nguyện… đều thông đạt bình đẳng. Thánh vương Trị Thế bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Trong pháp Đại thừa, Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật như thế nào mà được thắng tấn không thoái đọa? Phật dạy: –Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật nhờ vào chánh tín nên được thắng tấn. Thế nào là chánh tín? Nghóa là: Bồ-tát biết tự tánh của tất cả pháp là không sinh, không diệt, vắng lặng, thường hay gần gũi với người có hạnh ngay thẳng, không ưa tạo ra các pháp hoàn toàn không tạo tác, tâm thường thanh tịnh; nghe thọ chánh pháp nhưng không thấy người nói pháp và mình nghe pháp; siêng năng, tinh tấn, tu tập, nên được thần thông, thân tâm nhẹ nhàng, giáo hóa chúng sinh, song cũng không thấy mình có thần thông giáo hóa và không thấy có chúng sinh để giáo hóa. Vì sao? Này đại vương! Vì bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật là không thấy mình và chúng sinh, cả hai đều bình đẳng nên được thắng tấn, không thoái đọa. Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, thường giữ gìn các căn không cho đắm nhiễm. Tưởng nghó tất cả của cải và thân mạng đều là vô thường, giả tạm, vì biết các pháp thường vắng lặng. Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, ở trong pháp Đại thừa tâm không buông lung. Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, dù trong chiêm bao cũng không quên mất tâm Bồ-đề, mà còn giáo hóa chúng sinh, phát tâm tu Phật đạo. Đại Bồ-tát đem tất cả căn lành mà hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng giác, thấy thần lực của Phật mà vui mừng khen ngợi. Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật như vậy nên mau thành Vô thượng Chánh đẳng giác. Vì thế, Đại vương cần phải siêng năng, tinh tấn chớ buông lung. Đại Bồ-tát muốn thỉnh cầu giáo pháp thì chớ nên đắm nhiễm năm dục. Này đại vương! Tất cả phàm phu đối với năm dục, ham muốn không biết nhàm chán. Còn người được Thánh trí thì hay xa lìa, vì họ biết thân người là vô thường, mạng sống ngắn ngủi. Vì thế, Đại vương nên xa lìa thế gian mà cầu đạo xuất thế. Nay đại vương cúng dường Như Lai là đã được căn lành nên đem hồi hướng, sẽ được bốn món vô tận: 1.Được tự tại vô tận. 2.Pháp vô tận. 3.Trí tuệ vô tận. 4.Biện tài vô tận. Bốn thứ hồi hướng này cùng với Bát-nhã ba-la-mật đều là vô tận. Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật cần phải ngăn ngừa thân, khẩu, ý cho thanh tịnh. Vì sao? Vì sẽ được ba món văn, tư, tu. Dùng sức phương tiện giáo hóa chúng sinh, dùng năng lực trí tuệ để đánh bại các ma. Khi nguyện lực thành tựu thì việc làm và lời nói hợp nhau. Khi nghe Phật nói nghóa lý sâu xa của Bát-nhã ba-la-mật; Chuyển luân thánh vương Trị Thế sinh tâm vui mừng chưa từng có, liền đem mũ báu và sâu anh lạc cúng dường Như Lai, nguyện bỏ ngôi vị vâng theo lời Phật, và lập lời nguyện: “Thường tu phạm hạnh, học Bát-nhã ba-la-mật sâu xa này và tâm quyết định hướng đến Vô thượng Chánh đẳng giác.” Trong lúc nghe Phật nói pháp, vương cung thể nữ đều vui mừng, phát tâm Bồ-đề, đem y phục quý giá và bảo châu, anh lạc cúng dường Như Lai. Thánh vương Trị Thế đem đài báu dâng cúng Phật, xin cầu xuất gia. Công Đức Trang Nghiêm Vương Phật khen: –Lành thay, lành thay! Này đại vương! Việc làm ngày nay của đại vương không trái với nguyện xưa. Đại vương khéo tu Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định và Trí tuệ. Vì quá khứ chư Phật đã tu pháp này mà thành Phật đạo. Vị lai chư Phật cũng tu pháp này để được thành Phật. Thánh vương Trị Thế bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Việc tu bố thí của Đại Bồ-tát có khác với Bát-nhã ba-la-mật không? Phật dạy: –Này đại vương! Luận về bố thí; nếu không có Bát-nhã ba-la-mật thì chỉ là bố thí chứ không phải là Ba-la-mật. Phải có Bát-nhã ba-la-mật thì mới gọi là Bố thí ba-la-mật. Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ cũng lại như vậy. Vì sao? Vì tánh của Bát-nhã ba-la-mật bình đẳng, cho nên công đức trang nghiêm. Khi Phật nói pháp này, Thánh vương Trị Thế đắc Vô sinh pháp nhẫn. Phật bảo Thắng Thiên vương: –Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật nên như Chuyển luân thánh vương Trị Thế. Chuyển luân thánh vương Trị Thế nay chính là Phật Nhiên Đăng, còn một ngàn vương tử, nay chính là một ngàn vị Phật đời Hiền kiếp. Thắng Thiên vương bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật tu học như thế nào để mau thành tựu Vô thượng Chánh đẳng giác? Phật dạy: –Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, phải tu tập đại Từ, không khởi tâm buồn bực chúng sinh, siêng năng thực hành đầy đủ các Ba-la-mật và dùng bốn Nhiếp pháp, bốn Vô lượng tâm để hỗ trợ Bồ-tát tu học pháp thần thông và thông đạt phương tiện thiện xảo, tu tập đầy đủ các thiện pháp. Tu hành như vậy mới mau thành Vô thượng Chánh đẳng giác. Này đại vương! Đạo giác ngộ là: Tâm tin chân chánh, tâm thanh tịnh, tâm lìa sự dối trá, hạnh tâm bình đẳng, tâm bố thí không sợ hãi làm cho tất cả chúng sinh gần gũi, siêng năng tu hạnh bố thí, thì quả báo không cùng tận. Cố gắng giữ giới thanh tịnh thì không chướng ngại. Tu hạnh nhẫn nhục để xa lìa các điều bực tức. Nếu siêng năng tinh tấn thì việc tu hành trở nên dễ dàng. Do có thiền định nên không khởi tâm tán loạn. Nhờ đầy đủ trí tuệ nên khéo thông đạt các pháp. Hoàn toàn không thoái chuyển là nhờ có đại Bi. Có đại Hỷ nên thường làm tâm người khác vui. Tu hạnh đại Xả nên không khởi phân biệt. Không tham, sân, si nên xa lìa thù oán. Không nhiễm sắc, thanh, hương, vị, xúc nên diệt được các hý luận. Không phiền não nên xa lìa được thù oán. Xả ý niệm của Nhị thừa để tâm được rộng lớn; đủ Nhất thiết trí nên sinh các báu. Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, phải học như vậy, mới mau thành tựu Vô thượng Chánh đẳng giác. Thắng Thiên vương bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, hiện ra những hình tướng gì để giáo hóa chúng sinh? Phật dạy: –Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật thị hiện sắc hình nhưng không có tướng nhất định; tùy tâm ưa thích của chúng sinh mà thấy sắc tướng Bồ-tát như vậy. Hoặc hiện màu vàng, hoặc hiện màu bạc, hoặc màu pha lê, hoặc màu lưu ly, hoặc màu mã não, hoặc màu xa cừ, hoặc màu trân châu, hoặc màu xanh, vàng, đỏ, trắng, hoặc màu mặt trời, mặt trăng, màu lửa, màu sóng nắng, màu Đế Thích, màu Phạm vương, màu hạt sương, màu vàng nhạt, màu son, màu chiêm-bặc-già, màu tu-ma-na, màu bà-lợi-sư-ca, màu ba-đầu-ma, màu câu-vật-đầu, màu phân-đà-lợi, màu công đức thiên, màu con ngỗng, màu khổng tước, màu san hô, màu ngọc như ý, màu hư không, hoặc trời thấy là trời, người thấy là người. Này đại vương! Tất cả các sắc tướng, hình tượng ở hằng hà sa thế giới trong mười phương đều thâu nhiếp tất cả, không bỏ một chúng sinh nào. Vì tâm của chúng sinh không đồng, cho nên Bồ-tát phải thị hiện ra tất cả. Vì sao? Vì trong quá khứ, Đại Bồ-tát đã có nguyện lực lớn là tùy tâm chúng sinh nếu thấy ưa thích chịu giáo hóa thì Bồ-tát vì họ mà thị hiện. Này đại vương! Như gương sáng, vốn không hình tướng; ngoại sắc dù đẹp dù xấu thảy đều hiện vào trong gương, nó chẳng phân biệt. Thể thanh tịnh sáng suốt của ta hay hiện ra sắc tướng của chúng sinh. Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật cũng vậy. Tâm không dụng công, tùy chúng sinh ưa thích mà thị hiện ra tất cả, để cho họ vui, nhưng cũng không phân biệt là mình có hiện thân. Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, ở trong một tòa, tùy theo đối tượng nghe hoặc thấy Bồ-tát nói pháp, hoặc thấy Phật nói pháp, hoặc thấy Bích-chi-phật nói pháp, hoặc thấy Thanh văn nói pháp, hoặc thấy Đế Thích, hoặc thấy Phạm vương, hoặc thấy Ma-hê-thủ-la, hoặc thấy Vi-nữu Thiên, hoặc thấy Tứ Thiên vương, hoặc thấy Chuyển luân thánh vương, hoặc thấy Sa-môn, Bà-la-môn, Sát-lợi, hoặc thấy Tỳ-xá-thủ-đà, hoặc thấy Cư só, Trưởng giả, hoặc thấy ngồi trong đài báu, hoặc thấy ngồi trên hoa sen, hoặc thấy đi trên đất, hoặc thấy bay trong hư không, hoặc thấy nói pháp, hoặc nhận chánh định. Này đại vương! Bậc Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật là vì độ thoát chúng sinh, nên không một hình tướng oai nghi nào mà chẳng hiện. Này đại vương! Bát-nhã ba-la-mật không có hình tướng cũng như hư không trùm khắp tất cả. Ví như hư không, không có hý luận, Bát-nhã ba-la-mật cũng vậy, vượt qua các ngôn ngữ lời nói; như hư không là chỗ thọ dụng của thế gian, Bát-nhã ba-la-mật cũng vậy, đó là chỗ thọ dụng của tất cả phàm Thánh; như hư không, không có phân biệt thì Bát-nhã ba-la-mật cũng vậy, cũng không có tâm phân biệt; như hư không dung thọ các sắc thì Bát-nhã ba-la-mật cũng dung thọ tất cả Phật pháp; ví như hư không hiện ra các sắc, Bát-nhã ba-la-mật cũng hiện ra tất cả Phật pháp; ví như tất cả cỏ cây, thảo dược, hoa quả nương vào hư không để tăng trưởng, Bát-nhã ba-la-mật cũng vậy, tất cả thiện căn nương vào đấy mà tăng trưởng; ví như hư không là pháp phi thường, chẳng phải vô thường đều lìa ngôn ngữ, Bát-nhã ba-la-mật cũng vậy, chẳng phải thường, vô thường, đều lìa ngôn ngữ, lời nói. Này đại vương! Thế gian, Sa-môn, Bà-la-môn, hoặc Đế Thích, hoặc Phạm vương thì không ai có thể nghó lường được hết về Bát-nhã ba-la-mật. Này đại vương! Bát-nhã ba-la-mật không có một pháp nào có thể lấy làm ví dụ được. Nếu thiện nam hay thiện nữ nào tin thọ Bát-nhã ba-la-mật, thì công đức rộng lớn không thể nghó lường. Nếu công đức này có hình sắc thì cõi hư không, không thể dung chứa hết. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật sinh ra tất cả thiện pháp thế gian và xuất thế gian, hoặc là người, trời, hoặc vua cõi trời, cõi người, hoặc Tu-đà-hoàn hướng, Tu-đà-hoàn quả cho đến A-la-hán hướng, A-la-hán quả, Bích-chi-phật, mười Địa của Bồ-tát, mười Ba-la-mật, chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Giác, Nhất thiết chủng trí, mười Lực, bốn Vô úy, mười tám pháp Bất cộng đều từ Bát-nhã ba-la-mật sinh ra. Khi Phật nói pháp môn này, trong chúng hội có năm vạn Đại Bồ-tát đạt được quả vị không thoái chuyển; một vạn năm ngàn Thiên tử đạt được Vô sinh pháp nhẫn; một vạn hai ngàn trời, người được Pháp nhãn thanh tịnh, xa lìa trần cấu; hằng hà sa chúng sinh phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác. Những âm nhạc cõi trời tự nhiên kêu vang, chư Thiên rải hoa cúng dường Như Lai và Bát-nhã ba-la-mật. Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu la-già, Nhân phi nhân… đều rải hoa và các báu vật cúng dường Thế Tôn cùng Bát-nhã ba-la-mật, cùng lúc đồng thanh khen rằng: –Lành thay, lành thay! Thế Tôn, Ngài đã hoan hỷ nói Bát-nhã ba-la-mật! KINH THẮNG THIÊN VƯƠNG BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT <卷 id="82881784">QUYỂN 6 <詞 id="82881785">Phẩm 10: TỎ BÀY CÔNG ĐỨC Bấy giờ, Đại Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, từ nơi tòa đứng dậy, sửa áo bày vai phải, gối quỳ sát đất, chắp tay hướng về Đức Phật, cúi đầu đảnh lễ bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật bao nhiêu kiếp, cúng dường bao nhiêu Đức Phật mà được đối trước Như Lai, để nghe nói về Bát-nhã ba-la-mật sâu xa như Thắng Thiên vương vậy? Phật bảo Đại Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi: –Này thiện nam! Việc này không thể nghó lường; nếu Bồ-tát chẳng tải qua vô số trăm ngàn ức kiếp, tu tập các hạnh, gieo trồng căn lành thì không thể nghe được tên Bát-nhã ba-la-mật này. Này thiện nam! Hằng hà sa thế giới trong mười phương, còn có thể đếm biết; chứ không thể đếm được số kiếp mà Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật và số vị Phật mà Bồ-tát cúng dường. Này Văn-thù-sư-lợi! Về quá khứ vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ kiếp không thể nghó bàn; có Đức Phật hiệu là Đa Văn Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Nước tên Nhựt quang và kiếp tên Tăng thượng. Bấy giờ, Phật Đa Văn vì các Đại Bồ-tát mà nói pháp môn thanh tịnh. Các thiện nam, cần phải siêng năng tinh tấn tu hành, chẳng nên xem trọng thân mạng. Lúc đó, trong pháp hội có một Đại Bồ-tát tên là Tấn Lực, từ nơi tòa đứng dậy, sửa áo bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, chắp tay hướng về Đức Phật, cúi đầu đảnh lễ bạch: –Bạch Thế Tôn! Vấn đề Thế Tôn khuyên chúng con phải siêng năng tinh tấn, tu hành, chớ xem trọng thân mạng; như con hiểu lời Phật dạy là: Đại Bồ-tát cần nên biếng lười mới mau thành Vô thượng Chánh đẳng giác. Vì sao? Vì nếu Đại Bồ-tát siêng năng, tinh tấn, tu hành thì không thể ở lâu trong sinh tử, thì không hoàn thành được phần tự độ; còn mau chứng Niết-bàn thì không giáo hóa được chúng sinh. Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ở trong sinh tử lấy đó làm vui, chứ không lấy Niết-bàn làm vui. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì Đại Bồ-tát làm lợi ích chúng sinh, nên lấy việc đó làm vui; tùy sự ưa thích của chúng sinh mà dùng tất cả phương tiện nói các loại pháp, làm cho họ được an vui; nếu Bồ-tát đoạn trừ hết lậu hoặc thì không thể làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Bạch Thế Tôn! Cho nên Bồ-tát xem xét sinh tử mà khởi tâm đại Bi, không bỏ chúng sinh mới thành tựu được bản nguyện. Bạch Thế Tôn! Vì thế Đại Bồ-tát mới đủ sức phương tiện, ở lâu trong sinh tử, gặp được vô lượng, vô biên chư Phật và nghe vô lượng, vô biên chánh pháp; giáo hóa vô lượng, vô biên chúng sinh. Do đó, Đại Bồ-tát không nhàm chán sinh tử và không ưa Niết-bàn. Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát xem xét sinh tử mà tâm hoảng sợ thì rơi vào phi đạo, không thể làm lợi ích cho tất cả chúng sinh và không biết rõ cảnh giới sâu xa của Như Lai. Thế nào là phi đạo? Nghóa là: “Còn tham ưa địa vị Thanh văn, Bích-chi-phật; đối với chúng sinh không có tâm đại Bi. Vì sao? Vì đạo Thanh văn và Bích-chi-phật chẳng phải là đạo của Đại Bồ-tát. Vì Thanh văn và Bích-chi-phật lo sợ sinh tử, nên mong cầu ra khỏi. Do đó, công đức trí tuệ chưa được đầy đủ.” Bởi nghóa này, nên chẳng phải đạo của Bồ-tát. Đa Văn Thế Tôn khen ngợi Đại Bồ-tát Tấn Lực: –Hay thay, hay thay! Thiện nam, như điều ông nói, Đại Bồ-tát nên tự hành chớ học phi đạo. Bồ-tát Tấn Lực bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Thế nào là đạo mà Đại Bồ-tát tự tu hành? Đa Văn Thế Tôn bảo rằng: –Thiện nam! Đại Bồ-tát thành tựu tất cả các công đức, trí tuệ dùng sức đại Bi; không bỏ chúng sinh, xa lìa địa vị Thanh văn và Bích-chi-phật nên được Vô sinh trí; không rời ba cõi, tâm không mong cầu điều giả dối mà thiện căn tăng trưởng, phương tiện tu hành đủ các Ba-la-mật; nhờ năng lực trí tuệ và tâm không phân biệt, nên sinh các căn lành thành tựu tận trí, vô lượng công đức. Bồ-tát không còn một pháp nào để sinh nhưng dùng phương tiện thị hiện có sinh; không có một chúng sinh nhưng vẫn dùng phương tiện giáo hóa. Bồ-tát biết tất cả pháp đều lìa tự tánh, xem các cõi Phật cũng như hư không, nên dùng phương tiện để trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật. Bồ-tát biết tất cả pháp thân Phật không có hình tướng, chỉ dùng phương tiện thị hiện tướng tốt đẹp trang nghiêm, tùy tâm chúng sinh ưa muốn, liền ứng hiện cho. Thân tâm Bồ-tát thường tịch tónh, viễn ly; nhưng vì chúng sinh nên phải luôn giảng thuyết các pháp, nhưng cũng dùng các phương tiện để xa lìa sự ồn ào, cũng tu các thiền định và biết tự tánh vốn không, thông đạt tất cả trí tuệ sâu xa. Đem phương tiện nói pháp cho người khác, nhưng không chứng quả Thanh văn và Bích-chi-phật; chỉ cầu quả vị Phật, nhưng không bỏ tất cả đạo hạnh của Bồ-tát. Này thiện nam! Đó gọi là đạo của Đại Bồ-tát. Này Văn-thù-sư-lợi! Bồ-tát Tấn Lực đã từng nghe Đa Văn Thế Tôn nói về cảnh giới chưa từng có mà Bồ-tát thực hành, nên Bồ-tát Tấn Lực bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Thật là hy hữu! Theo con hiểu lời Phật dạy: Đạo mà Đại Bồ-tát thực hành có đầy đủ phương tiện, thâu nhiếp tất cả các pháp. Bạch Thế Tôn! Ví như hư không, đều có thể dung chứa tất cả các sắc; đạo mà Bồ-tát thực hành cũng vậy. Nó gồm đầy đủ phương tiện, thâu nhiếp tất cả các pháp; lại như cây cỏ, thảo dược, hoa quả, hương thơm đều nhờ hư không mà tăng trưởng, nó không làm dơ hư không mà cũng không làm sạch hư không, không giận cũng không vui. Đại Bồ-tát cũng vậy, có phương tiện Bát-nhã ba-la-mật nên duyên vào tất cả pháp làm cho tất cả đều là đạo; chẳng hạn như pháp của phàm phu, pháp hữu học, pháp Bích-chi-phật, pháp của Bồ-tát, hoặc pháp của Như Lai. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát đều thông đạt; ví như lửa, nếu gặp cây, gỗ, cỏ, trúc tất sẽ cháy mạnh thêm; các loại cỏ cây đó đều lợi ích cho lửa, làm tăng thêm ánh sáng. Các pháp cũng vậy, đều là đạo của Đại Bồ-tát; ví như tự thể của Kim cang cứng chắc, đao không thể chặt đứt, lửa không thể đốt cháy, nước không thể xói mòn, chất độc không thể làm hư rã; Đại Bồ-tát cũng vậy, dùng trí tuệ làm phương tiện, đối với hàng Thanh văn, Duyên giác và các ngoại đạo, tất cả phiền não đều không thể phá hoại. Bạch Thế Tôn! Như viên ngọc thanh thủy, nếu bỏ vào nước đục thì nước liền trong; Đại Bồ-tát có viên ngọc Bát-nhã ba-la-mật làm cho tất cả phiền não của chúng sinh đều được thanh tịnh. Bạch Thế Tôn! Ví như viên ngọc báu dịu dược và chất độc không thể ở chung với nhau mà nó hay tiêu trừ các độc. Đại Bồ-tát hành phương tiện Bát-nhã ba-la-mật cũng không ở chung với tất cả phiền não mà hay tiêu diệt phiền não. Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên này, mà tất cả các pháp đều là đạo của Đại Bồ-tát. Văn-thù-sư-lợi! Khi nghe Bồ-tát Tấn Lực nói pháp môn này, trong chúng có tám ngàn Bồ-tát phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác, hai trăm Bồ-tát đạt được Vô sinh pháp nhẫn. Này Văn-thù-sư-lợi! Bồ-tát Tấn Lực thời Đức Phật Đa Văn trong quá khứ, nay chính là Thắng Thiên vương. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật như thế nào để có được sức bền vững mà ủng hộ chánh pháp? Phật dạy: –Này thiện nam! Đại Bồ-tát thà bỏ thân mạng chứ không bỏ chánh pháp; thường khiêm nhường cung kính, không kiêu mạn đối với người thấp hèn; chịu đựng những điều sỉ nhục của người không thế lực; đối với chúng sinh đói khát thường vui vẻ ban thức ăn uống ngon nhất, giúp đỡ những người trong cơn nguy khốn khởi sự sợ hãi; đối với các bệnh tật đều trị đúng pháp; làm cho chúng sinh nghèo khổ được tiền của giàu có; tô sơn lại các tháp miếu thờ Phật; xóa tan các việc ác và biểu dương các việc thiện, làm cho chúng sinh đau khổ được an vui. Văn-thù-sư-lợi! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, tu hành như vậy sẽ được sức bền vững để ủng hộ chánh pháp. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, phải làm thế nào để điều phục được tâm? Phật dạy: –Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật là không xâm phạm việc của người; trước nghó, sau mới làm; tâm tánh ngay thẳng, xa lìa sự dối trá; không tự cao ý tứ thường hay nhún nhường. Văn-thù-sư-lợi! Đại Bồ-tát thực hành như vậy mới có thể điều phục được tâm. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, và tu các hạnh như vậy sẽ sinh vào cõi nào? Phật dạy: –Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, như vậy sẽ sinh trong cõi trời, hoặc sinh trong cõi người; nếu sinh trong cõi trời thì làm Đế Thích hoặc Đại Phạm vương làm chủ cõi Ta-bà đều được gặp Phật ra đời; nếu sinh trong cõi người thì làm Chuyển luân thánh vương, trưởng giả, cư só và cũng gặp Phật ra đời. Văn-thù-sư-lợi! Đại Bồ-tát điều phục tâm hạnh, sẽ được sinh vào các cõi như vậy. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Người tin chân chánh được pháp gì? Phật đáp: –Gặp được bạn lành. –Bạch Thế Tôn! Bố thí được pháp gì? Phật đáp: –Được giàu sang. –Bạch Thế Tôn! Đa văn được pháp gì? Phật đáp: –Được Trí tuệ ba-la-mật. –Bạch Thế Tôn! Giữ giới được pháp gì? Phật đáp: –Được tất cả đạo lành. –Bạch Thế Tôn! Nhẫn nhục được pháp gì? Phật đáp: –Được chúng sinh chứa, nhận. –Bạch Thế Tôn! Tinh tấn được pháp gì? Phật đáp: –Thành tựu tất cả Phật pháp. –Bạch Thế Tôn! Tư duy được pháp gì? Phật đáp: –Được vắng lặng. –Bạch Thế Tôn! Có trí tuệ được pháp gì? Phật đáp: –Được pháp đoạn trừ tất cả phiền não. –Bạch Thế Tôn! Nghe pháp được pháp gì? Phật đáp: –Được xa lìa lưới nghi ngờ. –Bạch Thế Tôn! Hỏi đúng như pháp được pháp gì? Phật đáp: –Được trí quyết định. –Bạch Thế Tôn! Ở nơi tịch tónh được pháp gì? Phật đáp: –Được thiền định và các thần thông. –Bạch Thế Tôn! Tu hành chân chánh được pháp gì? Phật đáp: –Được đạo nhàm chán xa lìa. –Bạch Thế Tôn! Biết vô thường được pháp gì? Phật đáp: –Không nắm giữ hộ trì gì cả. –Bạch Thế Tôn! Biết khổ đau được pháp gì? Phật đáp: –Được vô sinh. –Bạch Thế Tôn! Biết vô ngã được pháp gì? Phật đáp: –Diệt được ngã và ngã sở. –Bạch Thế Tôn! Biết không, được pháp gì? Phật đáp: –Được vắng lặng. –Bạch Thế Tôn! Chánh niệm được pháp gì? Phật đáp: –Được chánh kiến của bậc Thánh. –Bạch Thế Tôn! Thân tâm xa lìa được pháp gì? Phật đáp: –Được Tam-muội và thần thông. –Bạch Thế Tôn! Tu Thánh đạo được pháp gì? Phật đáp: –Được quả Thánh. –Bạch Thế Tôn! Tin tưởng và ưa thích được pháp gì? Phật đáp: –Được thành tựu các giải thoát. –Bạch Thế Tôn! Phật ra đời được pháp gì? Phật đáp: –Được tất cả pháp trợ Bồ-đề. Bấy giờ Thắng Thiên vương bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Thế nào là Phật ra đời? Phật đáp: –Như phát tâm Bồ-đề. –Bạch Thế Tôn! Thế nào là phát tâm Bồ-đề? Phật đáp: –Này đại vương! Như sinh đại Bi. –Bạch Thế Tôn! Thế nào là sinh đại Bi? Phật đáp: –Không bỏ tất cả chúng sinh. –Bạch Thế Tôn! Thế nào là không bỏ tất cả chúng sinh? Phật đáp: –Như không bỏ Tam bảo. –Bạch Thế Tôn! Ai không bỏ Tam bảo? Phật đáp: –Là người không phiền não. Thắng Thiên vương bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Thật là ít có! Bạch Thiện Thệ! Thật là ít có! Chư Phật Thế Tôn với sự bí mật vi diệu sâu xa như vậy, thường nói tất cả pháp đều là không; không sinh, không diệt, vắng lặng, không phá hoại sự tu hành đưa đến quả báo thiện ác và xa lìa hai pháp đoạn thường. Bạch Thế Tôn! Ở trong thế giới, có chúng sinh nào nghe pháp như vậy mà chẳng khởi lên tâm chánh tín kính trọng lại còn hủy báng không? Bạch Thế Tôn! Các chúng sinh này, do nhờ thiện nghiệp trong quá khứ mà được thân người, nay lại gần gũi bạn ác nên không tin pháp sâu xa như vậy, tức là phụ bạc nghiệp thiện trong quá khứ và ân đức sâu nặng của chư Phật, Thế Tôn. Giả sử tự cắt thân mình, lấy máu thịt cúng dường Như Lai, cũng không thể báu đáp ân Phật. Vì thế chúng con căn lành đang tăng trưởng, được an lạc trong đại pháp và tự tại. Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, phải biết ân Phật và gần gũi bạn lành, nên học hạnh Phật để được quả vị Phật. Khi pháp này được nói, trong chúng có hai vạn năm ngàn Bồ-tát đạt được Vô sinh pháp nhẫn; bốn vạn năm ngàn trời, người phát tâm vô thượng Chánh đẳng giác. Một vạn hai ngàn Thiên tử được Pháp nhãn thanh tịnh, xa lìa trần cấu.  <詞 id="82881786">Phẩm 11: HIỆN HÓA Bấy giờ, Đại Bồ-tát Thiện Tư Duy thưa Thắng Thiên vương rằng: –Hóa Phật mà Như Lai tạo ra có thể biến hóa được không? Thắng Thiên vương đáp: –Lấy sự việc của Đức Thế Tôn làm chứng, hóa Phật mà Phật tạo ra, có thể biến hóa thành vô lượng, hằng hà sa số hóa Phật với nhiều màu sắc hình tướng, thị hiện thần thông để nói pháp lợi ích cho chúng sinh. Thiện nam tử! Nhờ nguyện lực thanh tịnh đời trước của chư Phật nên mới có như vậy. Bồ-tát Thiện Tư Duy thưa: –Đại vương! Ngài khéo nói pháp sâu xa về nguyện lực thanh tịnh đời trước của chư Phật, vậy cúi mong đại vương, thỉnh sức oai thần của Phật làm cho Bát-nhã ba-la-mật trụ lâu ở đời mà không bị chìm mất. Thắng Thiên vương đáp: –Thiện nam tử! Bát-nhã ba-la-mật đều được tất cả chư Phật hộ trì. Vì sao? Vì dùng văn tự để nói Bát-nhã ba-la-mậtl như vậy văn tự không sinh, không diệt, không chìm mất; văn tự làm rõ nghóa lý nên cũng không sinh, không diệt, không mất. Thiện nam tử! Bát-nhã ba-la-mật của chư Phật Như Lai rất sâu xa nên cũng không chìm mất. Vì sao? Vì pháp không sinh, nếu pháp không sinh thì tất nhiên không diệt. Như vậy lời dạy của Như Lai là bí mật. Nếu Phật ra đời hoặc không ra đời thì tánh tướng vẫn thường trụ, gọi là pháp giới hay như như. Tên không khác, nhưng tùy thuận nhân duyên bên ngoài mà không trái nghịch. Đó là chánh pháp, tánh ấy thường trụ không mất. Bồ-tát Thiện Tư Duy thưa: –Đại vương! Những người nào có thể hộ trì chánh pháp? Thắng Thiên vương đáp: –Thiện nam tử! Nếu không trái nghịch với tất cả pháp, thì gọi là hộ trì chánh pháp. Vì sao? Vì không có tranh luận và không trái đạo lý, nên gọi là hộ trì chánh pháp. Lại hỏi: –Thế nào không trái đạo lý? Đáp: –Nếu thuận theo văn tự là không trái đạo lý và không có chỗ để tranh luận thì gọi đó là hộ trì chánh pháp. Vì sao? Vì phàm phu thế gian đều chấp trước các kiến, còn người thuận đạo lý thường nói không. Cho nên thế gian sinh ra tranh luận; như vậy phàm phu tham đắm vào pháp có, còn người thuận theo đạo lý thì coi thường việc này. Thế gian nói có thường, lạc, ngã, tịnh; người thuận đạo lý nói: Vô thường, khổ, bất tịnh, vô ngã, cho nên thế gian sinh ra tranh luận. Thiện nam tử! Tất cả phàm phu đều thuận theo thế gian, còn người thuận theo đạo lý thì ngược lại với thế gian, cho nên thế gian thường sanh tranh luận. Tất cả phàm phu đều chấp ấm, xứ, nhập, còn người thuận đạo lý thì nói tất cả pháp đều không có chấp trước, cho nên thế gian pháp khởi tranh luận. Thiện nam tử! Tất cả phàm phu thuận theo đời thì không thực hành đạo lý, còn người thuận theo đạo lý thì trái với đời. Bồ-tát Thiện Tư Duy thưa: –Đại vương! Nay ngài chọn lấy những pháp nào? Thắng Thiên vương đáp: –Tôi không chọn lấy người mà cũng không chọn lấy pháp. Lại hỏi: –Vì sao không chọn lấy? Đáp: –Lìa ngã, lìa chúng sinh, lìa pháp; những cái lìa ấy đều không thể nắm bắt. Lìa quá khứ, vị lai, hiện tại, những cái lìa ấy cũng không thể nắm bắt. Lìa chư Phật và không lìa chư Phật; lìa cõi nước Phật và không lìa cõi nước Phật; lìa pháp và chẳng lìa pháp… Này thiện nam! Thực hành như vậy gọi là thuận đạo lý, là không nắm giữ những điều không đáng nắm giữ. Bồ-tát Thiện Tư Duy khen: –Hay thay Đại só, hay thay Chánh só! Ngài có khả năng nói Bát-nhã ba-la-mật sâu xa như vậy; không lấy, không chấp trước, không danh, không tự; diệt các hý luận, lìa chẳng thể phân biệt và đối tượng tư duy. Khi ấy, trong chúng có một Thiên tử tên là Hiền Đức, đứng dậy sửa áo bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, chắp tay hướng về Đức Phật, cúi đầu đảnh lễ bạch Phật rằng: –Bạch Thế Tôn! Pháp không phân biệt như Thắng Thiên vương đã nói. Vậy pháp đó là pháp gì? Phật bảo Thiên tử Hiền Đức: –Pháp không phân biệt tức là vắng lặng. Vì sao? Vì lấy mà chẳng lấy; chẳng lìa ngã và ngã sở; không khởi động, không dừng nghó. Đó gọi là pháp không phân biệt. Thiện nam tử! Đại Bồ-tát quán sát như vậy, mới có thể hộ trì chánh pháp, nhưng cũng không thấy mình hộ trì và pháp được hộ trì. Khi Phật nói pháp này, trong chúng có mười ngàn Tỳ-kheo tâm được giải thoát. Một ngàn Thiên tử đạt được Pháp nhãn thanh tịnh, xa lìa trần cấu. Bấy giờ, Bồ-tát Thiện Tư Duy thưa Thắng Thiên vương: –Những biện tài gì mới có thể nói pháp sâu xa như vậy? Thắng Thiên vương đáp: –Thiện nam tử! Phải hoàn toàn không còn tập tánh phiền não, đạt được biện tài mới có thể nói như vậy; nó vượt qua ngôn ngữ, không thể bày tỏ Đệ nhất nghóa trí; biện tài như vậy mới có thể nói được pháp sâu xa. Bấy giờ, Bồ-tát Thiện Tư Duy hỏi Thiên tử Hiền Đức: –Thiện nam tử! Thế nào là trong pháp vô sinh mới nói được biện tài? Thiên tử Hiền Đức đáp: –Nếu Đại Bồ-tát không trụ trong pháp không sinh, không diệt thì không có biện tài nói pháp sâu xa được. Vì sao? Vì phải xa lìa hý luận; không thấy đối tượng duyên và chủ thể duyên; tâm không có chỗ trụ trước thì mới có thể nói. Không trụ người, không trụ pháp, không trụ bên đây, bên kia mà chỉ trụ nơi thanh tịnh Đệ nhất nghóa đế, cho nên mới có thể nói. Bồ-tát Thiện Tư Duy bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Thiên tử Hiền Đức thật là hiếm có, có khả năng thông đạt pháp sâu xa biện tài vô tận như vậy. Phật dạy: –Này thiện nam! Thiên tử Hiền Đức này từ thế giới Diệu hỷ là cõi nước của Đức Phật Bất Động, đến thế giới Ta-bà, để nghe giảng Bát-nhã ba-la-mật sâu xa đó. Phật lại bảo Bồ-tát Thiện Tư Duy: –Ở quá khứ vô lượng trăm ngàn ức kiếp, Thiên tử Hiền Đức đã tu tập môn Đà-la-ni, do đó trọn kiếp nói pháp cũng không hết được. Bồ-tát Thiện Tư Duy bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Đà-la-ni là những pháp gì? Phật dạy: –Này thiện nam! Tên các pháp, không có pháp nào có thể nhập Đà-la-ni. Thiện nam tử! Đà-la-ni này vượt qua các văn tự; lời nói không thể diễn tả hết được mà tâm cũng không thể suy lường; các pháp trong ngoài đều không nắm bắt được. Thiện nam tử! Không có một pháp nhỏ nào có khả năng nhập được Đà-la-ni. Cho nên nói các pháp không thể nhập Đà-la-ni. Vì sao? Vì pháp này bình đẳng, không cao thấp, không ra vào, không có một văn tự nào đến từ bên ngoài mà vào được, cũng không có một văn tự nào từ pháp này ra, lại không có một văn tự nào trụ trong pháp này, cũng không có một văn tự nào làm cho ta thấy được Đà-la-ni, cũng không phân biệt được pháp và phi pháp. Các văn tự đó, có nói nó cũng không giảm, không nói nó cũng không tăng, từ xưa đến nay không tạo ra mà cũng không hoại diệt. Thiện nam tử! Như văn tự, thì tâm cũng vậy; giống như tâm, tất cả pháp cũng như vậy. Vì sao? Vì pháp lìa ngôn ngữ nói năng nên cũng lìa sự suy lường; vốn không sinh, diệt nên không ra vào. Đó gọi là các pháp không thể nhập Đà-la-ni. Nếu thông đạt được pháp môn này thì biện tài vô tận, vì sao? Vì khi thông đạt được pháp môn này rồi thì pháp nói không hết, không cùng tận. Thiện nam tử! Người nào có thể nhập được hư không, thì mới có thể nhập được pháp môn Đà-la-ni này. Thiện nam tử! Đại Bồ-tát có khả năng thông đạt được pháp môn Đà-la-ni này, nên thân, tâm, khẩu được thanh tịnh; hành động theo đạo lý, nên trí tuệ được kiên cố; tất cả chúng ma không thể não loạn; tất cả ngoại đạo không dám ngước nhìn; tất cả phiền não không thể phá hoại; sức khoẻ tráng kiện, tâm không khiếp nhược; nói pháp vô tận tuyên giảng tất cả Thánh đế sâu xa. Trí tuệ đa văn cũng như biển lớn, an trụ chánh định như núi Tu-di khiến chúng sinh không sợ, như sư tử vương, ví như hoa sen không nhiễm pháp đời, lợi ích chúng sinh như đại địa, rửa sạch nhơ bẩn như dòng nước lớn, dùng lửa lớn để thành tựu thế gian, làm đẹp lòng mọi người bằng sự bình đẳng mát mẻ như mặt trăng. Hay phá vỡ được tối tăm như ánh sáng mặt trời. Diệt hết phiền não oán hận mới gọi là sức mạnh. Chế ngự tâm tánh cũng như rồng lớn, có thể tạo ra sấm pháp vang động cả bầu trời và tuôn ra mưa pháp giống như trận mưa lớn; cũng như thầy thuốc trừ bệnh phiền não cho chúng sinh; như quốc vương dùng pháp trị đời; như Tứ Thiên vương hay bảo hộ chúng sinh và chánh pháp; như Đế Thích giàu sang nhất cõi trời, người; tâm được tự tại như Đại phạm vương làm chủ thế giới Ta-bà; thân được vô ngại như chim Ca-lầu-la; chỉ dạy chúng sinh như người cha ở đời; giống như vua Tỳ-sa-môn hay ban pháp báu và cho các báu. Đó là chỗ công đức trí tuệ trang nghiêm mà mỗi khi chúng sinh nhìn thấy, thảy đều lợi ích; là chỗ khen ngợi của chư Phật, Thế Tôn và tất cả chư Thiên hết lòng ủng hộ. Thiện nam tử! Đại Bồ-tát đạt được các pháp không thể nhập Đà-la-ni này. Với nhiều tự tại sẽ làm lợi ích chúng sinh; phương tiện nói pháp không cùng tận; tâm không mỏi mệt, không cầu danh lợi; bố thí pháp bình đẳng không ghen ghét; giữ giới thanh tịnh thì thân, khẩu, ý không lỗi lầm; nhẫn nhục thanh tịnh xa rời các buồn giận; tinh tấn thanh tịnh sẽ làm xong được các việc; thiền định thanh tịnh thì khéo chế ngự được tâm; trí tuệ thanh tịnh thì không còn nghi ngờ vướng mắc, đủ bốn Vô lượng tâm cũng như Phạm vương; thực hành các chánh định, đẳng trì; tu đạo vô thượng thế gian không gì hơn; đủ các công đức trí tuệ, nhận địa vị Quán đảnh. Khi Phật nói pháp môn Đà-la-ni này, trong chúng có sáu vạn bốn ngàn Bồ-tát đạt được quả vị không thoái chuyển. Ba vạn Bồ-tát đạt được Vô sinh pháp nhẫn. Hai vạn trời người được Pháp nhãn thanh tịnh, xa lìa trần cấu; vô lượng, vô biên trời, người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác.  <詞 id="82881787">Phẩm 12: ĐÀ-LA-NI Bấy giờ, Đại Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đứng dậy, sửa áo, bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, chắp tay hướng về Đức Phật, cúi đầu đảnh lễ bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Thật là hiếm có! Điều mà Như Lai nói, Đại Bồ-tát đạt được các pháp không nhập Đà-la-ni này để thành tựu công đức vô lượng, vô biên. Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi: –Này thiện nam! Công đức như thế, giả sử trăm ngàn năm, Như Lai có nói cũng không hết. Khi ấy trong chúng có một Đại Bồ-tát tên Tịch Tịnh Ý thưa Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi: –Đại Bồ-tát được Đà-la-ni này, đó là chỗ mà chư Phật Thế Tôn khen ngợi, người này đã khéo được nhiều lợi ích đã hoàn tất cả việc độ mình và độ người. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp: –Thiện nam tử! Trong Đệ nhất nghóa không có pháp để khen không sắc, không tướng; đã không sắc tướng thì có gì để khen; không thể khen thì có gì mà vui. Bồ-tát Tịch Tịnh Ý thưa Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi: –Như tôi nghe Phật dạy, trong Khế kinh, tất cả pháp không có ngã và ngã sở, không thể làm cho vui hay giận, vì thế Bồ-tát nên học pháp bình đẳng này. Ví như đại địa ở trên nước, nếu đào ao giếng thì được nước dùng, còn không đào giếng thì không có nước. Như vậy cảnh giới của Thánh trí trùm khắp tất cả pháp, nếu siêng tu trí tuệ phương tiện thì liền được pháp bình đẳng, còn ngược lại không tu thì làm sao có được. Do đó Bồ-tát muốn cầu giác ngộ, thì không được lười biếng. Nếu siêng năng tinh tấn tu hành như vậy, thì pháp ấy sẽ hiển hiện. Thiện nam tử! Nếu người mới sinh ra đã mù, thì không thể thấy sắc; cũng vậy, phiền não làm mù mắt chúng sinh nên không thể thấy pháp. Như người có mắt, nếu không có ánh sáng bên ngoài, thì không thể thấy sắc; cũng vậy, người tu hành tuy có trí tuệ nhưng không có bạn lành thì không thể thấy pháp; như có Thiên nhãn, thì không cần nhờ ánh sáng bên ngoài cũng có thể thấy sắc. Như vậy Đại Bồ-tát thể nhập pháp lưu thì tự nhiên thắng tấn. Như hài nhi ở trong thai, không tự thấy mình lớn thêm mỗi ngày; cũng vậy, Đại Bồ-tát siêng năng tinh tấn tu hành không tự thấy các hạnh của mình tăng trưởng mà có thể thành tựu tất cả Phật pháp. Ví như núi tuyết, có cây thuốc chúa, luôn luôn không bị khô gãy, Đại Bồ-tát luôn siêng năng, tinh tấn, tu hành thì tất cả các hạnh không tổn thất, không thoái lui. Ví như Chuyển luân thánh vương xuất hiện ở đời thì đủ bảy báu; Đại Bồ-tát phát tâm Bồ-đề cũng đủ bảy báu: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ và sức phương tiện. Như Chuyển luân thánh vương dạo chơi bốn thiên hạ, tâm của Ngài luôn bình đẳng đối với mọi chúng sinh; cũng vậy, Đại Bồ-tát dùng bốn Nhiếp pháp làm lợi ích tất cả chúng sinh cũng như vậy. Như Chuyển luân thánh vương đến đâu thì không có tranh tụng; cũng vậy, Đại Bồ-tát thuyết pháp như thật không còn có tranh luận. Ví như tam thiên đại thiên thế giới mới hình thành, liền có núi chúa Tu-di và biển lớn; Bồ-tát cũng vậy, nếu phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác thì liền có trí tuệ và đại Bi. Ví như mặt trời xuất hiện thì những ngọn núi cao có ánh sáng trước; Đại Bồ-tát được ngọn đuốc trí tuệ thì Bồ-tát nào có đạo hạnh cao quý, thiện căn thần thục sẽ được chiếu ánh sáng trước. Ví như mặt đất rộng lớn, gánh vác tất cả hoa quả cây cỏ thảo dược một cách bình đẳng. Đại Bồ-tát được Đà-la-ni thì luôn có tâm bình đẳng đối với chúng sinh. Thế Tôn khen Đại Bồ-tát Tịch Tịnh Ý: –Thiện nam tử! Như lời ông nói, Đại Bồ-tát được môn Đà-la-ni này dù có nói một lời, một câu nào, cũng không trái với lời Phật. Thiện nam tử! Lời thuyết pháp này đều lìa sắc, thanh, hương, vị, xúc. Vì sao? Vì chẳng phải là pháp thế gian, nên nói đến vô tận, vô biên cũng làm cho tất cả thân tâm con người được nhẹ nhàng lợi ích. Giả sử có đối trước trăm ngàn Đức Phật mà nói, cũng không khiếp sợ. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này được sức hộ trì của Phật, nên tâm không chấp trước, không chấp ngã, không chấp chúng sinh, không chấp pháp nên được pháp giới thanh tịnh, Như Lai thanh tịnh, thật tế thanh tịnh, được pháp vô tận, tự vô tận, thuyết vô tận liền sinh vui mừng. Do được trí tuệ nên hiểu biết đúng đắn và không còn bị nghi ngờ bao vây. Khi Phật nói pháp môn Đà-la-ni này, trong chúng có tám ngàn Bồ-tát đạt được các pháp không thể nhập Đà-la-ni này. Một vạn hai ngàn Bồ-tát đạt được quả vị không thoái chuyển. Năm ngàn Bồ-tát được Vô sinh pháp nhẫn. Một vạn sáu ngàn Thiên tử được Pháp nhãn thanh tịnh, xa lìa trần cấu. Có vô lượng, vô biên chúng sinh phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác. Thế Tôn bảo Bồ-tát Tịch Tịnh Ý: –Đà-la-ni này có thể điều phục các ma; phá trừ các ngoại đạo và những người không ưa thích chánh pháp; diệt lửa phiền não, thắp sáng ngọn đèn trí tuệ, ủng hộ Pháp sư, làm cho đạt đến Niết-bàn; điều phục tự tâm, khéo giáo hóa mọi người, thân tướng oai nghi đẹp đẽ, ai thấy cũng hoan hỷ; làm người chánh hạnh, nói pháp bình đẳng, quán sát căn tánh chúng sinh như thật, chẳng trước, chẳng sau. Khi Phật nói pháp này, tam thiên đại thiên thế giới, các núi Tu-di và biển lớn đều chấn động, từ các cõi trời hoa rải như mưa, nào Hoa Mạn-đà-la, hoa Ma-ha mạn-đà-la, hao Mạn-thù-sa, hoa Ma-ha mạn-thù-sa, hoa Ưu-bát-la, hao Câu-vật-đầu, hoa Phân-đà-lợi, hoa Ca-ma-la. Các tiếng âm nhạc cõi trời không đánh không gảy tự nhiên kêu vang. Thế Tôn bảo Bồ-tát Tịch Tịnh Ý: –Này thiện nam! Vào đời quá khứ, cách đây vô lượng, vô biên vô số kiếp, không đếm được, có Đức Phật ra đời hiệu là Bảo Nguyệt Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Nước tên Vô hủy, kiếp tên Hoan hỷ. Đệ tử Thanh văn hơn ba mươi ức, còn Đại Bồ-tát thì không đếm được số lượng. Phật Bảo Nguyệt thành đạo không có khổ hạnh và hàng phục Thiên ma. Trong chúng đệ tử có một Bồ-tát tên là Bảo Công Đức, biện tài khéo léo nói được tất cả pháp. Khi ấy, đại chúng thỉnh Phật ở đời chớ nên vào Niết-bàn. Bồ-tát Bảo Công Đức nói với đại chúng: –Như Lai Thế Tôn không sinh, không diệt, cần gì khuyến thỉnh Ngài chớ nên vào Niết-bàn. Nếu như hư không vào Niết-bàn thì Như Lai mới vào Niết-bàn; nếu pháp giới, thật tế, chân như; pháp giới chẳng nghó bàn vào Niết-bàn thì Như Lai mới vào Niết-bàn. Vì sao? Vì pháp Như Lai không có thành tựu, không hoại diệt, không nhiễm, không tịnh; chẳng phải thế gian hoặc xuất thế gian, hữu vi hoặc vô vi; chẳng đoạn, chẳng thường. Giả sử một cái miệng có mười lưỡi, mỗi một lưỡi lại sinh ra trăm cái lưỡi, mỗi một cái lưỡi này lại sinh ra ngàn cái lưỡi nữa thì cũng không thể nói hết sự thành hoại của Như Lai. Khi Bồ-tát Bảo Công Đức nói pháp này; có tám vạn sáu ngàn Bồ-tát đạt được quả vị không thoái chuyển. Bảy ngàn Bồ-tát được vô biên Công đức đà-la-ni, Duyệt ý đà-la-ni, Vô ngại đà-la-ni, Hoan hỷ đà-la-ni, Đại bi đà-la-ni, Nguyệt ái đà-la-ni, Nguyệt quang đà-la-ni, Nhật ái đà-la-ni, Nhật quang đà-la-ni, Núi tu-di đà-la-ni, Biển lớn đà-la-ni, Đức vương đà-la-ni. Ba vạn sáu ngàn trời, người được Pháp nhãn thanh tịnh, xa lìa trần cấu. Phật bảo Bồ-tát Tịch Tịnh Ý: –Bồ-tát Bảo Công Đức đâu phải người nào khác chính là ông đó. Do nhân duyên này ông mới có thể nói pháp môn Đà-la-ni này. Khi ấy, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói kệ: Tổng trì như thuốc hay Khéo chữa bệnh ngu si Cũng như vị cam lồ Uống vào sẽ sống mãi. Bồ-tát Công Đức Hoa Vương nói kệ: Tổng trì không văn tự Văn tự rõ tổng trì Sức đại Bi trí tuệ Lìa ngôn ngữ văn tự. Bấy giờ, San-đâu-suất-đà Thiên vương đứng dậy, sửa áo bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, chắp tay hướng về Đức Phật, cúi đầu đảnh lễ bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Chư Phật Như Lai không thể nghó bàn; pháp chư Phật nói ra cũng không thể nghó bàn; chỗ thực hành và giảng nói của các Đại Bồ-tát cũng không thể nghó bàn. Đời trước, chúng con cùng chư Thiên, nhờ có thiện căn sâu dày nên gặp Như Lai, nghe nói pháp này. Nói xong liền đem tất cả hương hoa quý báu ở cõi trời, cúng dường Phật Như Lai. Thế Tôn bảo San-đâu-suất-đà vương: –Này đại vương! Ai muốn cúng dường Phật Như Lai thì phải tu ba pháp. Đó là: 1.Phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác. 2.Hộ trì chánh pháp. 3.Tu hành đúng pháp. Này đại vương! Người nào tu hành ba pháp này chính là cúng dường Như Lai. Này đại vương! Giả sử Như Lai sống ở đời một kiếp, mà nói phước báu cúng dường này cũng không hết được, vì thế Đại vương muốn cúng dường Như Lai thì phải đủ ba pháp này mới gọi là cúng dường. Đại vương! Nếu có người nào hộ trì một bài kệ bốn câu của Như Lai thì người ấy ủng hộ Vô thượng Bồ-đề của chư Phật quá khứ, hiện tại và vị lai. Vì sao? Vì chư Phật Như Lai đều từ pháp sinh, người cúng dường pháp mới gọi là chân cúng dường, cúng dường pháp là cao tột đệ nhất, trong các pháp cúng dường, tất cả của báu không thể sánh kịp. Thế Tôn bảo San-đâu-suất-đà vương: –Ta nhớ lại thời quá khứ, cách đây vô lượng, vô biên, vô số a-tăng-kỳ kiếp, khi còn thực hành đạo Bồ-tát, ta nghe chư Thiên trong hư không nói kệ: Trời, người xa lìa Đại bảo tạng Sẽ bị vua giặc nước, lửa cướp Trăm ngàn vạn kiếp pháp khó nghe Nghe rồi không giữ, không giảng nói Tâm đạo làm gốc dạy chúng sinh Như thật tu hành, tâm vắng lặng Lợi mình, lợi người, tâm bình đẳng Tu hành như vậy; cúng dường Phật. Đại vương! Khi xưa ta vừa nghe kệ này rồi, liền nói cho người khác, có tám ngàn người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác. Vì thế Đại vương nên xem pháp cúng dường là cao tột đệ nhất. Vì sao? Vì tất cả chư Phật đều từ pháp sinh. KINH THẮNG THIÊN VƯƠNG BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT <卷 id="82881788">QUYỂN 7 <詞 id="82881789">Phẩm 13: KHUYẾN GIỚI Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi từ nơi tòa đứng dậy, sửa áo, bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, chắp tay hướng về Đức Phật, cúi đầu đảnh lễ, bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật của Như Lai nói rất sâu xa, nhưng trong đời mạt thế ở tương lai, chúng sinh có thể tin nhận chăng? Nếu thiện nam hay thiện nữ nghe kinh này sinh lòng tin, không hủy báng thì họ được thành tựu công đức gì? Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi: –Đời mạt thế ở tương lai, có thiện nam hay thiện nữ nào, ở nơi vô lượng Đức Phật, tu hành giữ giới thanh tịnh, thiền định, trí tuệ thì đó là đệ tử chân chánh của Phật, có thể tin vào kinh này, công đức đạt được không thể tính kể. Pháp thiện tối thắng điều từ trí tuệ sinh, nên để tâm thanh tịnh mà tin nhận; nay ta vì ông dùng ví dụ lược nói. Này Văn-thù-sư-lợi! Cõi Diêm-phù-đề, chu vi bảy ngàn do-tuần; phía Bắc rộng; phía Nam hẹp; trong cõi ấy, mặt người giống như hình thế đất, trong cõi Diêm-phù-đề khắp nơi đầy đủ các bậc như: Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán và Bích-chi-phật; dày kín như rừng trúc, mía, lau; trong đó không để có một khoảng trống nhỏ nào; nếu có thiện nam hay thiện nữ đem bốn sự cúng dường trọn đời mình cho các vị Thánh nhân ấy, hoặc đem bảy báu chứa đầy cõi Diêm-phù-đề, cao đến trời Phạm thiên, để cúng dường đầy đủ cho tất cả Thánh nhân ấy; thiện nam hay thiện nữ đó trọn đời cúng dường như vậy suốt hơn ba mươi năm ngày đêm không gián đoạn. Văn-thù-sư-lợi! Ý ông nghó sao? Người đó do sự việc ấy, công đức nhiều chăng? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật: –Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều! Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi: –Nếu thiện nam hay thiện nữ, không hủy báng kinh này thì công đức hơn công đức cúng dường bảy báu trăm phần, ngàn phần, trăm ngàn vạn phần cho đến tính đếm ví dụ cũng không sao sánh bằng. Văn-thù-sư-lợi! Cõi Cù-da-ni chu vi tám ngàn do-tuần, hình bán nguyệt, mặt người cũng vậy; trong cõi ấy, khắp nơi đầy đủ các bậc như: Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán và Bích-chi-phật dày kín như rừng trúc, mía, lau; trong đó không còn có một chỗ trống nhỏ nào. Nếu thiện nam hay thiện nữ đem tứ sự cúng dường trọn đời mình cho các vị Thánh ấy; cho đến khi Niết-bàn rồi xây tháp thờ xá-lợi; hoặc đem bảy báu chứa đầy cõi này, cao đến tận Phạm thiên để cúng dường đầy đủ cho tất cả Thánh nhân ấy; thiện nam hay thiện nữ này cúng dường như vậy trọn đời, suốt hơn ba mươi năm ngày đêm không gián đoạn, không dừng nghỉ. Văn-thù-sư-lợi! Ý ông nghó sao? Người đó, do sự việc ấy, được phước nhiều chăng? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật: –Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bach Thiện Thệ, rất nhiều! Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi: –Nếu thiện nam hay thiện nữ tin kinh này; thì công đức hơn phước cúng dường bảy báu trăm phần, ngàn phần, trăm ngàn vạn phần, cho đến tính đếm ví dụ cũng không sao sánh bằng. Này Văn-thù-sư-lợi! Cõi Phất-vu-đãi, chu vi chín ngàn do-tuần, hình trăng tròn, mặt người cũng vậy; trong cõi này khắp nơi đầy đủ các bậc Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán và Bích-chi-phật dày kín như rừng trúc, mía, lau; trong đó không còn có một chỗ trống nhỏ nào. Nếu thiện nam hay thiện nữ đem bốn sự cúng dường trọn đời mình cho các vị Thánh ấy; hoặc đem bảy báu chứa đầy cõi đó, cao đến tận Phạm thiên để cúng dường đầy đủ cho tất cả Thánh nhân ấy; thiện nam hay thiện nữ này, cúng dường như vậy trọn đời, suốt hơn ba mươi năm ngày đêm không gián đoạn. Văn-thù-sư-lợi! Ý ông nghó sao? Người đó, do sự việc ấy, được phước nhiều chăng? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật: –Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều! Này Văn-thù-sư-lợi! Cõi Uất-đơn-việt chu vi mười ngàn do-tuần, hình vuông, mặt người cũng vậy; trong cõi ấy khắp nơi đầy đủ các bậc Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán và Bích-chi-phật dày kín như rừng trúc, mía, lau; trong đó không còn có một chỗ trống nhỏ nào. Nếu thiện nam hay thiện nữ đem bốn sự cúng dường trọn đời mình cho các vị Thánh ấy; hoặc đem bảy báu chứa đầy cõi đó, cao đến tận Phạm thiên để được cúng dường đầy đủ cho tất cả Thánh nhân ấy; thiện nam hay thiện nữ này, cúng dường như vậy trọn đời, suốt hơn ba mươi năm ngày đêm không gián đoạn. Văn-thù-sư-lợi! Ý ông nghó sao? Người đó, do sự việc ấy, được phước nhiều chăng? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật: –Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều! Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi: –Nếu thiện nam hay thiện nữ, thọ trì, gìn giữ, đọc tụng kinh này thì công đức hơn phước cúng dường bảy báu trăm phần, ngàn phần, trăm ngàn vạn phần, cho đến tính đếm ví dụ cũng không sao sánh bằng. Này Văn-thù-sư-lợi! Thế giới Ta-bà nhiều như vi trần, thì Thánh nhân cũng nhiều như vậy. Nếu có thiện nam hay thiện nữ, đem bốn sự cúng dường trọn đời mình cho các vị Thánh ấy; hoặc đem bảy báu chứa đầy cõi tam thiên đại thiên thế giới đó, cao đến tận cõi trời Sắc cứu cánh, để được cúng dường đầy đủ cho tất cả Thánh nhân ấy. Thiện nam hay thiện nữ này trọn đời cúng dường như vậy. Văn-thù-sư-lợi! Ý ông nghó sao? Công đức có nhiều chăng? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Phước đức trước đã nói không thể nghó bàn, huống là công đức này. Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: –Nếu có thiện nam hay thiện nữ nào, đem kinh này nói cho người khác, thì công đức này hơn công đức cúng dường bảy báu trăm phần, ngàn phần, trăm ngàn vạn phần cho đến tính đếm ví dụ cũng không sao sánh bằng. Văn-thù-sư-lợi! Nếu không đem công đức này, hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng giác, thì sẽ làm vua cõi trời Tha hóa tự tại vi trần số kiếp; kế đến làm vua cõi trời Hóa lạc vô số kiếp; làm vua cõi trời Đâu-suất vô số kiếp; làm vua cõi trời Dạ-ma vô số kiếp; làm vua cõi trời Đế Thích vô số kiếp, hướng là Chuyển luân thánh vương. Nếu đem hồi hướng Nhất thiết trí thì có thể thành tựu được Bát-nhã ba-la-mật Vô thượng Chánh đẳng giác. Văn-thù-sư-lợi! Trong cõi Diêm-phù-đề, khắp nơi đầy cả các bậc Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán và Bích-chi-phật; dày kín như rừng trúc, mía, lau. Nếu có người ác nào giết hết số Hiền thánh ấy, Văn-thù-sư-lợi, ý ông nghó sao? Người gây ra sự việc này, bị tội nhiều không? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Giết một Thánh nhân còn đọa trong A-tỳ địa ngục trọn kiếp huống gì đến như vậy. Tội có nhiều không thể tính kể! Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi: –Có người nào hủy báng kinh này, thì tội ấy còn nhiều hơn tội giết hại Thánh nhân trăm phần, ngàn phần, trăm ngàn vạn phần cho đến tính đếm ví dụ cũng không sao sánh bằng. Văn-thù-sư-lợi! Trong Cù-đa-ni khắp nơi đầy cả các bậc: Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán và Bích-chi-phật, dày kín như rừng trúc, mía, lau. Nếu có người ác giết hại tất cả. Văn-thù-sư-lợi! Ý ông nghó sao? Người ác đó, do sự việc này bị tội nhiều không? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Tội này không thể nghe, không thể nghe! Người này không có kỳ hạn ra khỏi A-tỳ địa ngục. Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi: –Có người nào không tin kinh này, tội đó còn nhiều hơn tội giết hại Thánh nhân trăm phần, ngàn phần, trăm ngàn vạn phần, cho đến tính đếm ví dụ cũng không sao sánh bằng. Văn-thù-sư-lợi! Nếu thiên hạ khắp bốn châu đều như bụi trần và chư Phật Như Lai nhiều như số bụi ấy; có người ác nào giết hại và cướp đoạt hai loại tài sản là: Diệt pháp tài và Phá thế tài. Văn-thù-sư-lợi! Ý ông nghó sao? Người này bị tội nhiều không? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Tội này không thể nghe, không thể tính kể, không thể nghó lường. Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi: –Nếu lại có người không tin kinh này; hủy báng và làm chướng ngại, thì tội đó còn nhiều hơn tội đoạt hai loại tài sản trăm phần, ngàn phần, trăm ngàn vạn phần, cho đến tính đếm ví dụ cũng không sao sánh bằng. Giả sử tất cả chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới, đều thành Vô thượng Chánh đẳng giác rồi mà người ác này cũng chưa ra khỏi được địa ngục A-tỳ. Văn-thù-sư-lợi! Người ác như vậy, thì không một cảnh giới địa ngục A-tỳ nào mà không đọa vào, huống là cảnh giới khác như: Địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Vì sao? Vì hủy hoại mẹ sinh ra ba đời chư Phật. Giả sử trải qua kiếp số như vị trần ở trước được ra khỏi ba đường ác; nếu sinh trong loài người thì mắc phải bệnh, thân tâm bị tật nguyền, cũng phải trải qua nhiều kiếp như bụi; kế đến mắc phải quả báo không lưỡi hoặc không tay cũng nhiều kiếp như vậy. Văn-thù-sư-lợi! Nếu ta sống ở đời một kiếp hoặc ít hơn một kiếp, dùng thần lực của Phật để nói tội báo của người tạo ác này thì không sao hết được. Văn-thù-sư-lợi! Nếu mong cầu sự an vui cho đời hiện tại và vị lai, thì không nên hủy báng; không tin và làm những điều chướng ngại lớn đối với kinh này.  <詞 id="82881790">Phẩm 14: NÓI VỀ HAI HẠNH Bấy giờ, Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi: –Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, cần phải thành tựu phần trước và sau của Bát-nhã ba-la-mật. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát có hai hạnh: Thành tựu Bát-nhã ba-la-mật và giáo hóa chúng sinh. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát giáo hóa chúng sinh như thế nào? Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi: –Từ khi mới được Bát-nhã cho đến sau cùng, phải lìa công dụng của tâm mà nói pháp không cùng tận, trong khoảng giữa ấy không bị gián đoạn; làm cho các chúng sinh thoát khỏi quả báo đường ác trong ba cõi, tạo an vui cho các chúng sinh, khiến họ trụ đường lành và được ba quả Thánh. Văn-thù-sư-lợi! Đó gọi là Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, giáo hóa chúng sinh. Văn-thù-sư-lợi! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật thành tựu vô vi, vô biên. Đó gọi là tự hành của Đại Bồ-tát. Vì sao? Vì đã thành tựu được tất cả công đức. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Những pháp nào cùng với Bát-nhã ba-la-mật và Đại Bồ-tát tương ưng? Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi: –Chỉ có Nhất thiết chủng trí là pháp chân thật, xa lìa sự suy nghó so lường; nó vi diệu, không tướng, đạo lý sâu xa, không thể thấy được và khó thông đạt. Nó thường trụ, vắng lặng, trong mát và cùng khắp; không phân biệt, không chấp trước, không chướng ngại; chỉ thuận theo đạo lý mà không chấp thủ. Rất vắng, rất lặng, trong tất cả pháp, nó là vô thượng không gì sánh bằng. Văn-thù-sư-lợi! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật và tu những pháp này sẽ cùng Nhất thiết trí tương ưng. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật trong cảnh giới như thế nào? Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi: –Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật trong cảnh giới sâu xa, cảnh giới rộng lớn và cảnh giới công đức. Văn-thù-sư-lợi! Cảnh giới sâu xa ấy thể của nó là vô vi, không thể cùng rời xa, không chấp hai bên, nó vượt qua các chướng ngại, tự tánh thanh tịnh, không thể đếm biết, không thể nghó lường, không cùng chung với hàng Thanh văn và Bích-chi-phật. Văn-thù-sư-lợi! Cảnh giới rộng lớn của Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật là tất cả công đức của chư Phật Như Lai đều lấy hai pháp Bát-nhã ba-la-mật và Ma-ha ca-lâu-na làm thể. Nó lìa tướng phân biệt và dùng tâm vô công dụng để làm lợi ích chúng sinh đều tương xứng với ý kia không lúc nào rời nhau. Văn-thù-sư-lợi! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật tương ứng với tất cả công đức; ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp, với sức oai thần của Phật và có thể hiện ra tất cả hình tướng, tùy theo sự ưa muốn của mỗi căn tánh chúng sinh; hoặc hiện lên cõi trời Đâu-suất; hoặc từ cõi trời Đâu-suất xuống; hoặc hiện vào thai; hoặc hiện lúc mới sinh; hoặc hiện đồng tử; hoặc hiện dạo chơi nơi vườn; hoặc hiện xuất gia; hoặc hiện khổ hạnh; hoặc đến cây Bồ-đề; hoặc hiện thành Phật; hoặc hiện Chuyển pháp luân; hoặc hiện Niết-bàn. Thị hiện tất cả như vậy là để đoạn trừ sinh tử cho chúng sinh. Văn-thù-sư-lợi! Đó gọi là cảnh giới của Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật: –Bạch Thế Tôn, thật hiếm có! Bát-nhã ba-la-mật sâu xa như vậy thì cảnh giới chư Phật là không thể nghó bàn. Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi: –Đúng như vậy, đúng như vậy, như lời ông nói! Bát-nhã ba-la-mật là pháp bất cộng, không thể nghó bàn. Vì sao? Vì chẳng phải là cảnh giới của tất cả phàm phu, Thanh văn, Duyên giác nên không thể thông đạt được; trừ Phật Như Lai ra, không ai có thể đạt được. Vì sao? Vì nghóa lý như như, sâu xa, tự tại, không động; thuộc về cảnh giới vô lậu mà giáo hóa chúng sinh lợi ích viên mãn. Do đó gọi là cảnh giới của chư Phật, nó vượt qua các ngôn ngữ thuộc về Đệ nhất nghóa, không có giác quán phân biệt, suy lường và không còn các thí dụ, nó đứng đầu trong tất cả các pháp, không trụ sinh tử, cũng không trụ Niết-bàn. Văn-thù-sư-lợi! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật có năm việc không thể nghó bàn: 1.Tự tánh. 2.Phương xứ. 3.Trụ. 4.Nhất dị. 5.Lợi ích. Văn-thù-sư-lợi! Thế nào là tự tánh không thể nghó bàn? Sắc tức là như, tìm cầu, không thể được; lìa sắc tìm cầu như cũng không thể được; thọ, tưởng, hành, thức, cũng lại như vậy. Địa đại tức là như, tìm cầu, không thể được; lìa địa đại tìm cầu như, cũng không thể được, tất cả thủy đại, hỏa đại, phong đại cũng đều như vậy. Nhãn nhập tức như, cầu là không thể được; lìa nhãn tìm cầu như cũng không thể được. Tất cả nhó, tỷ, thiệt, thân, ý cũng đều như vậy. Pháp có là như mà cầu, không thể được. Pháp không là như cũng không thể được; hoặc ở cõi Dục không thể nghó bàn, hoặc lìa cõi Dục cũng không thể nghó bàn; cõi Sắc và Vô sắc cũng như vậy. Hoặc ở phương Đông không thể nghó bàn, hoặc rời phương Đông cũng không thể nghó bàn; các phương Tây, Nam, Bắc, bốn góc trên dưới cũng vậy. Trụ nơi an lạc không thể nghó bàn; trụ nơi vắng lặng không thể nghó bàn; tâm trụ ở có không thể nghó bàn; tâm trụ ở không không thể nghó bàn. Ba đời Như Lai đều đồng ở một chỗ tự tánh thanh tịnh, pháp giới vô lậu; hoặc một hoặc khác không thể nghó bàn. Thần lực trí tuệ đồng một pháp giới; phương tiện và trí tuệ cả hai đều bình đẳng, có thể vì lợi ích vô lượng chúng sinh, phải vượt qua cảnh giới ngôn ngữ, không thể nói năng, mà tùy thuận cho căn tánh chúng sinh, nên nói tất cả và thị hiện tất cả; ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp cũng tùy ý chúng sinh mà hiện ra như vậy. Văn-thù-sư-lợi bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Những gì là ba mươi hai tướng tốt tám mươi vẻ đẹp? Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi: –Tướng tốt của Như Lai rất nhiều, nói không thể hết; nhưng tùy thuận pháp thế gian mà lược nói là ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp: 1.Lòng bàn chân bằng phẳng. 2.Tướng đi ngay thẳng. 3.Chỉ dưới bàn chân có xoáy tròn như hình bánh xe có ngàn nan hoa. 4.Ngón tay khít thon dài, mềm mại, thẳng, không lộ xương. 5.Thân hình to lớn cân đối. 6.Kẻ ngón tay, ngón chân có màn da mỏng như ngỗng chúa. 7.Lòng bàn tay như màu hoa sen hồng. 8.Xương mắc cá không lộ. 9.Bắp chân như đùi nai chúa. 10.Thân mềm mại ngay thẳng. 11.Mã âm tàng. 12.Thân hình đầy đặn như cây Ni-câu-lô-đà. 13.Lông trên mình xoắn về bên phải. 14.Một sợi lông của mỗi chân lông trơn mướt bụi không thể dính. 15.Thân màu sắc vàng. 16.Quanh mình thường có hào quang chiếu ra một trượng. 17.Bảy chỗ đầy đặn. 18.Ngực như ngực sư tử. 19.Dưới nách của hai cánh tay đầy đặn. 20.Hai tay tròn thẳng như vòi con voi chúa và dài quá đầu gối. 21.Bốn mươi cái răng đều khít nhau và trắng như ngọc tuyết. 22.Bốn răng cửa giống như trăng non. 23.Trán như trán sư tử. 24.Đầu tròn trịa. 25.Cổ họng đầy đủ ngàn mạch. 26.Lòng ngực rắn chắc như Na-la-diên. 27.Có nhục kế nổi lên tự nhiên trên đỉnh đầu. 28.Lưỡi dài và rộng như cánh sen. 29.Giọng nói vang rền như tiếng trống trời Phạm thiên. 30.Mắt xanh biếc như hoa Ưu-bát-la. 31.Lông mi xanh xám như ngưu vương. 32.Có sợi lông trắng giữa hai chặng mày. Văn-thù-sư-lợi! Đây là ba mươi hai tướng, Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật đều có thể thành tựu công đức như vậy. Văn-thù-sư-lợi! Thế nào là tám mươi vẻ đẹp? 1.Đỉnh đầu không thấy được. 2.Xương đầu vững chắc. 3.Trán rộng bằng phẳng. 4.Lông mi dài cong như trăng non, xanh biếc như ngọc lưu ly. 5.Mắt rộng dài. 6.Mũi cao tròn thẳng và kín đáo. 7.Tai dài rộng, trái tay như bánh xe. 8.Thân rắn chắc như Na-la-diên. 9.Thân không thể hoại. 10.Các chi tiết trên thân khít nhau. 11.Khi xoay mình nhìn lại cũng như voi chúa. 12.Thân có hào quang. 13.Thân điều hòa, ngay thẳng. 14.Trẻ mãi không già. 15.Thân thường tươi nhuận. 16.Tự bảo vệ thân không nhờ người khác. 17.Thân thể đầy đủ. 18.Các giác quan đầy đủ. 19.Dung nghi đầy đủ. 20.Oai đức vang xa. 21.Mọi người đều thích hướng đến. 22.Trụ xứ yên ổn không động. 23.Khuôn mặt đầy đặn. 24.Mặt rộng và bằng phẳng. 25.Mặt đầy đặn và sáng như vầng trăng tròn. 26.Không tiều tụy. 27.Đi đứng oai vệ như voi chúa. 28.Phong thái như sư tử chúa. 29.Tướng đi như ngỗng chúa. 30.Đầu như quả Ma-đà-na. 31.Sắc thân tươi sáng. 32.Mu bàn chân đầy đặn. 33.Móng tay, móng chân như màu hồng đỏ. 34.Lúc đi ấn văn hiện lên đất. 35.Đường chỉ trong lòng bàn tay xinh đẹp. 36.Đường chỉ văn rõ ràng không mất. 37.Chỉ tay rõ thẳng. 38.Chỉ tay dài. 39.Chỉ tay không bị đứt đoạn. 40.Tay chân vừa ý. 41.Tay chân màu trắng, hồng như màu hoa sen hồng. 42.Tướng khổng môn đầy đủ. 43.Dáng đi nhanh nhẹn. 44.Đi đứng không vội. 45.Đi đứng thong thả. 46.Rốn sâu và tròn đẹp xoay về phía bên phải như rắn cuộn tròn. 47.Lông màu xanh hồng như cổ khổng tước. 48.Lông mềm mại sạch sẽ. 49.Lông trên thân xoay về phía phải. 50.Miệng tỏa mùi thơm, lỗ chân lông cũng vậy. 51.Môi đỏ như quả Tần-bà. 52.Hai môi bóng láng đều nhau. 53.Lưỡi mỏng. 54.Tất cả chúng sinh thấy đều ưa chiêm ngưỡng. 55.Nói năng hòa nhã, vui vẻ tùy theo ý thích chúng sinh. 56.Bất cứ nơi nào cũng đều nói điều thiện. 57.Gặp họ chào trước. 58.Âm thanh hòa nhã, tùy sự ưa thích của chúng sinh. 59.Tùy theo ngôn ngữ của mỗi chúng sinh mà nói pháp. 60.Thuyết pháp chẳng chấp trước. 61.Coi chúng sinh bình đẳng, 62.Xem trước làm sau. 63.Pháp âm khế hợp với mỗi chúng sinh. 64.Trình tự thuyết pháp theo nhân duyên. 65.Không có chúng sinh nào nhìn thấy hết được tướng Phật. 66.Chiêm ngưỡng mãi không chán. 67.Đầy đủ tất cả âm thanh. 68.Hiện rõ sắc lành. 69.Người cương cường trông thấy đều cảm phục và người có tâm hoảng sợ trông thấy liền được an ổn. 70.Tiếng nói rõ ràng trong trẻo. 71.Thân chẳng nghiêng ngã. 72.Thân to lớn. 73.Thân cao ráo. 74.Thân không dơ bẩn. 75.Xung quanh có hào quang rộng một trượng. 76.Khi đi có hào quang chiếu trên thân. 77.Thân thanh tịnh. 78.Thân thể sáng và tươi nhuận như ngọc xanh. 79.Tay chân tròn trịa. 80.Tay chân có chữ đức.  <詞 id="82881791">Phẩm 15: TÁN THÁN Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đứng dậy, sửa áo, bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, chắp tay hướng về Đức Phật, cúi đầu đảnh lễ bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Công đức của Như Lai ít có ai sánh bằng và không thể nghó bàn, ba đời chư Phật cũng như vậy không khác. Nếu có chúng sinh nào, thấy hoặc nghe công đức của Như Lai thì những chúng sinh đó cũng không thể nghó bàn. Ngày nay, chúng con thấy Thế Tôn chuyển pháp luân lớn, nên vui mừng hớn hở chưa từng có. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi liền bay lên hư không cao bằng bảy cây Đa-la, chắp tay khen rằng: Trong các chúng sinh Phật là tối thượng Không ai bằng Ngài Sao có người hơn. Người pháp đều không Lý không sánh bằng Chỉ Phật Như Lai Hơn là hơn hết. Tập khí phiền não Diệt hết không còn Đối với các pháp Đều biết rõ ràng. Hoặc hiểu hay nói Đều không bằng Phật Đại thiên thế giới Chỉ Phật độc tôn Mười Lực, Vô úy Quyết định không sai. Đế Thích, Phạm thiên Cũng theo không kịp Ân đức, Thế Tôn Đối với chúng sinh Không thể tính được. Không ai bì kịp Vô thượng thiện xảo Với các phương tiện Làm cho chúng sinh Đạt được lợi ích. Bấy giờ, trong đại chúng có một Thiên tử, tên Tô-lầu-ba (dịch là Diệu Sắc) từ nơi tòa đứng dậy, sửa áo, bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, chắp tay hướng về Đức Phật, cúi đầu đảnh lễ, nói kệ khen ngợi: Trong đời ai nói được như Phật Lời nói như vậy thật lỗi lầm, Nếu nói Bậc Pháp Vương vô thượng Là lời nói thật không hư vọng; Nếu chúng trời, người vấn nạn Phật Không ai bắt bẻ được Thầy ta Phật chế phục ma và ngoại đạo Dẫn dắt thế gian đến giải thoát, Thanh tịnh biện tài nói không cùng Thuốc cam lồ cứu giúp chúng sinh, Quán khắp các pháp, trí không ngại Trong tất cả niệm, không thoái mất. Đại Bi bình đẳng quán chúng sinh Tâm luôn thanh tịnh không nhiễm đời Khéo hay biết rõ căn tánh dục Theo chỗ thích nghe mà giảng nói, Nhiều loại phiền não chẳng phải một Chỉ bày, nhiều pháp môn đối trị Khéo nói nhân duyên không ai bằng Chuyên làm lợi ích cho chúng sinh. Gặp Phật, nghe pháp, không đắc đạo Những chúng sinh đó rất khó độ Đại danh Như Lai, nên ngưỡng mong Gặp được Như Lai lợi vô cùng. Trí Phật hay khiến tâm thanh tịnh Đã nghe chánh pháp, vượt sinh tử Nghe danh hiệu Phật rất an lành Nhớ nghó Thế Tôn thường vui vẻ. Phát tâm gặp Phật sinh tuệ giải Siêng tu đúng pháp thành Chủng trí Giới phẩm thanh tịnh không cấu uế Thiền định đệ nhất tâm sáng suốt, Trí tuệ tối thắng không lay động Biển pháp thanh tịnh như cam lồ. Tất cả chúng sinh ưa phóng dật Chư Phật Như Lai vượt thế gian Thương các chúng sinh như con một Ân đức sâu dày khó báo đền. Trước nói pháp, phá giặc kết sử Lại đẩy lùi huyễn hóa ma quân Thế Tôn đã nói lỗi ba cõi Chỉ rõ Niết-bàn, đức vô lượng. Khi ấy, trong chúng có một Thiên tử tên Tô-na-ma (dịch là Thiện Danh) từ nơi tòa đứng dậy, sửa áo, bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, chắp tay hướng về Đức Phật, cúi đầu đảnh lễ, nói kệ khen ngợi: Như Lai Thế Tôn hành đại Bi Trình bày Trí độ cùng người khác Điều-đạt mà còn được độ trước Huống gì những loài chúng sinh khác. Nay ta không sợ vì không lỗi Hạnh chánh tu hành, báo Phật ân. Có người chứng được diệt vô lậu Nhưng đó chưa thể báo Phật ân Nếu ai tu hành chánh pháp Phật Mới gọi là Phật tử chân chánh Nhiều kiếp cần khổ, vì chúng sinh Ân lớn vô lượng khó báo đền. Đại Từ mở bày pháp chân thật Dạy tu tự hạnh và lợi tha Nếu Phật Như Lai không ra đời Tất cả chúng sinh chịu khổ lớn, Không có đường lành, toàn nẻo ác Chỉ nghe tiếng khổ trong ba đường Chịu khổ sáu đường không thể thoát Chúng sinh bị trói vì phiền não. Thế Tôn mở kết độc cho họ Che chở họ bằng pháp Từ bi Phật là ruộng phước của thế gian Tu theo chánh pháp lìa đường ác. Nếu trái lời Phật, không tu hành Người ấy không sinh vào cõi lành Có người sinh ác tâm với Phật Hoặc không ưa nghe pháp sâu xa. Những chúng sinh này rất đáng thương Chắc chắn sinh vào cõi tối tăm Như Phật Thế Tôn trí tự biết Việc ấy Như Lai đều rõ tường. Trí Phật chúng ta chẳng lường được Cúi đầu đảnh lễ mười phương tôn Vô úy, Trí lực, pháp Bất cộng Chỉ Phật Thế Tôn mới đầy đủ, Âm thanh vi diệu, tướng trang nghiêm Vượt hơn các sắc nhìn không chán Ba loài nở rộ không dừng dứt Hoa Phật thanh tịnh con kính lễ. Chỉ Phật khéo biết đạo Vô thượng Xa lìa tất cả các hiểm nạn Phật là đệ nhất không ai bằng Cúi đầu kính lễ Lưỡng Túc Tôn. Phật dùng nước chánh pháp công đức Rửa sạch không còn chút bợn nhơ Thế Tôn xưa nay trong ngoài tịnh Nay con đảnh lễ thân chân tịnh. Bấy giờ, chủ thế giới Ta-bà là Đại Phạm thiên, từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa áo, bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, chắp tay hướng về Đức Phật, cúi đầu đảnh lễ dùng kệ khen ngợi: Phật đầy đủ công đức trí tuệ Lợi ích chúng sinh không dừng nghó Thường rưới cam lồ, khiến no đủ Nay con đảnh lễ Đấng Lợi Tha. Thế gian cao tột đáng kính nhất Người này do vì cung kính Phật Các ác không còn thiện đầy đủ Nay con đảnh lễ Đấng Vô Đẳng. Tu học không bỏ một hạnh nào Vì muốn cứu khổ cho chúng sinh Vượt qua sinh tử được an vui Nay con đảnh lễ Đấng Cứu Thế. Kính lễ sắc thân vàng vi diệu Kính lễ pháp cam lồ Ngài nói Kính lễ trí thanh tịnh không dơ Kính lễ tất cả rừng công đức. Bấy giờ, Thế Tôn bảo Đại Phạm thiên: –Hay thay, hay thay! Như sự khen ngợi của Đại Phạm thiên. –Bạch Thế Tôn! Việc này là chân thật. Vì sao? Vì trong vô lượng kiếp, chư Phật Như Lai tu tập tất cả công đức trí tuệ, nên đắc quả đầy đủ. Vì sao? Vì đầy đủ Bố thí ba-la-mật, Trì giới ba-la-mật, Nhẫn nhục ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Thiền định ba-la-mật, Trí tuệ ba-la-mật; thân thanh tịnh, miệng thanh tịnh, ý thanh tịnh; do thân, khẩu, ý, thanh tịnh nên có thể thông đạt chân thật như như. Chư Phật Thế Tôn trụ chân thật này nên nói không hư vọng. Đại Phạm thiên đứng dậy, sửa áo, bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, chắp tay hướng về Đức Phật, cúi đầu đảnh lễ bạch Phật: –Cúi xin Thế Tôn, dùng sức hộ trì làm cho Bát-nhã ba-la-mật này trường tồn ở thế gian. Phật bảo Đại Phạm thiên: –Tất cả mười phương, ba đời chư Phật đều ủng hộ và dùng sức hộ trì Bát-nhã ba-la-mật này; Trời, hoặc Ma, hoặc Sa-môn, Bà-la-môn trong thế gian không thể phá hoại và gây chướng ngại được. Vì sao? Vì ta nhớ lại đời quá khứ, có Phật hiệu là Bảo Nguyệt Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, cõi nước tên Bất hủy và kiếp tên Tán thán; trong chúng của Phật Bảo Nguyệt có hai Tỳ-kheo làm Pháp sư vì giỏi về thuyết pháp: 1.Trí Thạnh. 2.Thật Dữ. Trải qua một kiếp, hai Tỳ-kheo này theo Phật chuyển pháp luân trong tam thiên đại thiên thế giới có trăm ức các ma được sự giáo hóa và đã phát tâm Bồ-đề. Khi ấy, Đại Bồ-tát Phiến-đa-ý từ chỗ ngồi, đứng dậy, sửa áo, bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, chắp tay hướng về Đức Phật, cúi đầu đảnh lễ bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Bảo Nguyệt Như Lai còn ở đời hay vào Niết-bàn rồi? Phật bảo: –Này thiện nam! Phương Đông cách đây hơn mười trăm ngàn ức thế giới, có một thế giới tên là Bất hủy, Phật sống lâu mười ngàn kiếp; ở cõi nước đó, Phật Bảo Nguyệt đang nói Bát nhã ba-la-mật, không có Thiên ma và các ngoại đạo nào gây chướng ngại; tất cả đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác. Tỳ-kheo Trí Thạnh chính là Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, còn Tỳ-kheo Thật Dữ chính là Thắng Thiên vương. Hai vị này khéo dùng tất cả phương tiện thiện xảo ủng hộ, làm cho Bát-nhã ba-la-mật trụ lâu ở đời. Mười phương cõi Phật nói Bát-nhã ba-la-mật, nên hai vị ấy đến đây nghe giảng, cũng do ta đang phóng ánh sáng lớn, nên mọi người theo ánh sáng mà đến.  <詞 id="82881792">Phẩm 16: PHú CHÚC Bấy giờ, Thế Tôn bảo A-nan: –Ông hãy thọ trì kinh Bát-nhã ba-la-mật này. A-nan từ chỗ ngồi, đứng dậy, sửa áo, bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, chắp tay hướng về Đức Phật, cúi đầu đảnh lễ bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Con phải thọ trì như thế nào? Phật dạy: –Thọ trì kinh này có mười pháp, mười pháp đó là: 1.Ghi chép. 2.Cúng dường. 3.Lưu truyền. 4.Lắng nghe. 5.Tự đọc. 6.Ghi nhớ, giữ gìn. 7.Rộng truyền bá. 8.Đọc tụng. 9.Suy nghó. 10.Tu hành. A-nan! Thọ trì mười pháp này là thọ trì được kinh này vậy. Cũng như tất cả cây rừng, hoa, thuốc đều nương vào mặt đất rộng lớn mà sinh; cũng như tất cả thiện pháp đều nương Bát-nhã ba-la-mật mà sinh. A-nan! Ví như Chuyển luân thánh vương, nếu ở thế gian thì bảy báu thường hiện; Bát-nhã ba-la-mật cũng như vậy. Nếu kinh này còn ở thế gian thì Tam bảo không đoạn tuyệt. Khi ấy, cùng lúc đại chúng đều chiêm ngưỡng Như Lai và đồng thanh nói rằng: –Các thiện nam tử nào mà sau khi Như Lai diệt độ có thể gánh vác việc này? –Bạch Thế Tôn! Như vậy gánh vác trách nhiệm lớn này phải là người đã trải qua vô lượng, vô biên, vô số kiếp tu tập, và sự tu tập ấy đã đạt đến Vô thượng Chánh đẳng giác. Lúc ấy, trong chúng có một vạn hai ngàn Đại Bồ-tát vì hộ trì pháp, nên từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa áo, bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, chắp tay hướng về Đức Phật, cúi đầu đảnh lễ, nói kệ khen ngợi: Chúng con bỏ thân mạng Không cầu báo đời sau Hộ trì pháp sâu xa Mà Thế Tôn đã nói. Bấy giờ, trong chúng có năm trăm Thiên tử, mà đứng đầu là Hiền Vương, từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa áo, bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, chắp tay hướng về Đức Phật, cúi đầu đảnh lễ, nói kệ khen ngợi: Vì độ các chúng sinh Thành tựu nguyện đại Bi Hộ trì pháp sâu xa Mà Thế Tôn đã nói. Bấy giờ, Thích Đề-hoàn Nhân, Thi-khí Đại phạm, Tỳ-sa-môn Thiên vương, từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa áo, bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, chắp tay hướng về Đức Phật, cúi đầu đảnh lễ, nói kệ khen ngợi: Trí tuệ – thuốc vi diệu Trị được tất cả bệnh Chúng con nguyện xin giữ Pháp Thế Tôn đã nói. Lúc đó, Chấp Kim Cang thần, cũng từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa áo, bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, chắp tay hướng về Đức Phật, cúi đầu đảnh lễ, nói kệ khen ngợi: Pháp vốn không tên gọi Phật dùng danh tự nói Lời đại Bi của Phật Chúng con nguyện giữ gìn. Thế Tôn bảo Thi-khí Phạm thiên: –Này Phạm thiên! Phật có ba việc tối thượng, ba việc đó là: 1.Hay phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác. 2.Hộ trì chánh pháp. 3.Tu hành đúng pháp đã nghe. Phạm thiên! Nếu có người tu hành ba pháp vô thượng này, thì người đó mới được gọi là cúng dường Như Lai. Nếu Phật ở đời một kiếp hoặc ít hơn một kiếp để nói công đức kia thì cũng không thể nói hết được. Phạm thiên! Nếu có người hộ trì một bài kệ bốn câu của Như Lai thì công đức của người ấy cũng không thể lường được; huống chi đối với Bát-nhã ba-la-mật-lại là mẹ ba đời chư Phật. Phạm thiên! Vì sao vậy? Vì chư Phật Như Lai đều từ Bát-nhã ba-la-mật mà sinh ra; cúng dường pháp này tức là cúng dường chư Phật Như Lai, chứ chẳng phải đem tiền của mới là cúng dường. Trong các sự cúng dường, cúng dường pháp là thứ nhất. Phạm thiên! Nếu có người hộ trì chánh pháp của Như Lai, thì phải biết là người này hai đời sẽ được an lạc. Cho nên Phạm thiên, cần phải ủng hộ và thọ kinh sâu xa này. Này Phạm thiên! Do ông ủng hộ chánh pháp, nên ông là người được thỉnh pháp với một ngàn Đức Phật, trong đời hiền kiếp. Phạm thiên! Ở cõi ô uế này mà ông hộ trì chánh pháp dù trong khoảng giây lát, cũng còn hơn ở cõi tịnh độ một kiếp. Do đó cần phải siêng năng tinh tấn hơn để ủng hộ chánh pháp. Bấy giờ Thế Tôn lại bảo Thích Đề-hoàn Nhân: –Kiều-thi-ca! Ở nơi nào có kinh Bát-nhã ba-la-mật này, thì phải biết là nơi đó Như Lai giác ngộ, là nơi Như Lai chuyển pháp luân, là nơi thị hiện Niết-bàn. Kiều-thi-ca! Vì sao? Vì tất cả Bồ-tát, tất cả thiện pháp, tất cả chư Phật đều từ kinh này sinh ra. Kiều-thi-ca! Nếu có Pháp sư diễn giảng kinh này, thì nơi ấy là chỗ giáo hóa của Như Lai. Vì thế cần phải sinh tâm thân cận hiểu biết và tôn trọng Pháp sư ấy giống như kính trọng Phật. Khi thấy Pháp sư này phải cung kính, vui mừng, tôn trọng, khen ngợi. Kiều-thi-ca! Nếu ta ở đời một kiếp hoặc ít hơn một kiếp, để nói về công đức diễn giảng kinh này của Pháp sư, thì không sao nói hết. Kiều-thi-ca! Hoặc tại nơi hoằng hóa của vị Pháp sư này, có thiện nam hay thiện nữ nào, chích lấy máu rưới lên đất để bụi khỏi bay lên; cúng dường như vậy chưa phải là nhiều. Vì sao? Vì pháp luân của Như Lai khó thọ trì. Thích Đề-hoàn Nhân bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Nếu trong đời vị lai, nơi nào có nói kinh này, thì con cùng quyến thuộc sẽ ủng hộ nơi ấy và người nói pháp ấy, hoặc gặp nơi nào có để kinh này, thì trước hết phải sinh tâm nhớ nghó về bốn nơi. Thế Tôn khen Đế Thích: –Hay thay, hay thay! Kiều-thi-ca! Ta đem kinh này phú chúc cho ông, ủng hộ và diễn giảng trong đời mạt thế ở tương lai. Thích Đề-hoàn Nhân bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Do kinh này mà chư Thiên chúng con được sinh trong đường thiện và cầu Vô thượng Chánh đẳng giác cũng do kinh này. Con nguyện sẽ ủng hộ chánh pháp quên cả thân mạng. Phật nói: –Kiều-thi-ca! Phải đúng như pháp đã nghe mà tu hành. Lành thay, lành thay. Khi Phật nói kinh này rồi, Thắng Thiên vương và mười phương chúng Đại Bồ-tát, tất cả chúng Thanh văn, Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân… đều tin nhận và phụng hành những gì Phật đã nói. <卷 id="82881793">