<經 id="n222">KINH QUANG TÁN Hán dịch: Đời Tây Tấn, Tam tạng Pháp sư Trúc Pháp Hộ. <卷 id="81581544">Quyển 1 <詞 id="81581545">Phẩm 1: Quang Tán Nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật du hành ở nước La-duyệt-kỳ, ngụ trong núi Kỳ-xà-quật cùng với năm ngàn vị đại Tỳ-kheo Tăng. Các vị đều là A-la-hán, các lậu đã hết, không còn trần cấu, đã được tự tại, tâm an lạc giải thoát, tuệ hoàn toàn giải thoát, nhân từ hòa thuận, là những bậc đại khai đạo, việc làm đã xong, sự tu tập đã rốt ráo, vứt bỏ gánh nặng, đạt được lợi mình, trừ hoạn luân hồi, bình đẳng giải thoát, chỉ trừ một vị là bậc Hữu học Tu-đà-hoàn, đó là Hiền giả A-nan. Lại còn có năm trăm vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di đều hiện diện tại đây và các Đại Bồ-tát đắc các tổng trì, thành tựu Tam-muội, tu hành hạnh không, tuân theo vô tướng, chẳng nghó các nguyện, đạt được đẳng nhẫn, vô số tổng trì, chứng đắc năm thông, nói lời thông minh, mẫn tiệp, không có biếng lười, từ bỏ tâm luyến mộ lợi lộc thế tục, giảng nói kinh pháp chẳng cầu cúng dường, đạt pháp mầu sâu xa, đã được giải thoát, không còn sợ hãi, siêu vượt việc ma, thoát tất cả chướng ngại của ấm, cái, giảng thuyết nhân duyên, chỗ hướng đến của tâm chí, từ vô số kiếp tinh tấn hành hạnh nguyện. Ý hướng của các vị ấy là đối với người khác, thường vui vẻ thăm hỏi trước, xa lìa sự kết oán, vào trong hội chúng đông đảo, oai thế trang nghiêm không hề sợ hãi, nhớ nghó sự việc vô lượng ức kiếp, nếu nói kinh pháp thì làm sáng tỏ các nghóa như huyễn hóa, cảnh ảo, trăng dưới nước, mộng, bóng, tiếng vang, hoặc như hình tượng trong gương, đơn độc, dũng mãnh, dùng tuệ vi diệu biết sự mống khởi của tâm chúng sinh, vượt qua sự phân biệt, lòng không ôm hại, ân cần, nhẫn nhục, đầy đủ hạnh nguyện, quán xét kỹ người sẽ được độ, nguyện lực vô hạn nhận lãnh cõi Phật, thường nhập định Tam-muội, trông thấy vô số thế giới chư Phật, thấu suốt những điều cần thưa hỏi vô lượng chư Phật Thế Tôn, có khả năng quyết định lui tới những nơi đủ loại kiến chấp, dùng định ý tự vui, giảng giải trăm ngàn hạnh. Các Đại Bồ-tát mà đức độ đều như thế, có danh hiệu là Bồ-tát Bạt-đa-hòa, Bồ-tát La-lâu-na-kiệt, Bồ-tát Ma-ha Tu-bồ-hòa, Bồ-tát Na-la-đạt, Bồ-tát Kiều-nhật-đâu, Bồ-tát Hòa Luân Điều, Bồ-tát Nhân Để, Bồ-tát Hiền Thủ, Bồ-tát Diệu Ý, Bồ-tát Tăng Ý, Bồ-tát Bất Hư Kiến, Bồ-tát Lập Nguyện, Bồ-tát Châu Triền, Bồ-tát Thường Tinh Tấn Ứng, Bồ-tát Bất Trí Viễn, Bồ-tát Nhật Thạnh, Bồ-tát Vô Ngô Ngã, Bồ-tát Quan Thế Âm, Bồ-tát Tiệm Thủ, Bồ-tát Bảo Ấn Thủ, Bồ-tát Thường Cử Thủ, Bồ-tát Thường Hạ Thủ, Bồ-tát Từ Thị. Các chúng Bồ-tát như thế vô lượng, ức trăm ngàn cai chẳng thể kể xiết, tất cả đều là bậc diệu đức đồng chân thanh tịnh. Bấy giờ Đức Thế Tôn ngồi kiết già ngay thẳng trên tòa Sư tử tự nhiên, đã có chủ định là chế chỉ tâm ý. Có Tam-muội tên là Định ý vương, khi nhập định này thì tự nhiên được chánh định và nhập vào khắp các định ý khác, sự cứu độ bình đẳng, chế ngự để hướng dẫn. Đức Phật vừa nhập Tam-muội này thì tâm Ngài an tịnh. Dùng đạo nhãn quan sát thế giới này, thần thái thung dung. Ngài mỉm cười, từ lòng bàn chân phóng ra sáu vạn trăm ngàn ánh sáng, từ mười ngón chân phóng ra mười ức trăm ngàn ánh sáng, từ hai bên sườn phóng ra hai ức trăm ngàn ánh sáng, từ hai đầu gối phóng ra hai ức trăm ngàn ánh sáng, từ hai chân phóng ra hai ức trăm ngàn ánh sáng, từ hai vai phóng ra hai ức trăm ngàn ánh sáng, từ hai khủy tay phóng ra hai ức trăm ngàn ánh sáng, từ rốn phóng ra hai ức trăm ngàn ánh sáng, từ đầu phóng ra ức trăm ngàn ánh sáng, từ mười ngón tay phóng ra mười ức trăm ngàn ánh sáng, từ hai cánh tay phóng ra hai ức trăm ngàn ánh sáng, từ hai mi phóng ra hai ức trăm ngàn ánh sáng, từ sau cổ phóng ra ức trăm ngàn ánh sáng, từ hai mắt phóng ra hai ức trăm ngàn ánh sáng, từ hai tai phóng ra hai ức trăm ngàn ánh sáng, từ mũi phóng ra ức trăm ngàn ánh sáng, từ bốn mặt phóng ra bốn trăm ức trăm ngàn ánh sáng, từ bốn mươi cái răng phóng ra bốn mươi ức trăm ngàn ánh sáng, từ tướng giữa chặn mày phóng ra ức trăm ngàn ánh sáng, từ nhục kế trên đảnh phóng ra sáu vạn ức trăm ngàn ánh sáng. Những luồng ánh sáng này chiếu sáng cả tam thiên đại thiên thế giới, không đâu là không sáng, chiếu khắp hằng hà sa cõi Phật ở phương Đông. Phương Nam, phương Tây, phương Bắc, bốn phía, trên dưới cũng đều như vậy. Chúng sinh nào nhờ gặp được ánh sáng này thì tâm tónh lặng đều phát đạo Vô thượng chánh chân. Khi ấy, Đức Thế Tôn liền vui vẻ mỉm cười, từ dưới các lỗ chân lông phóng ra các luồng ánh sáng chiếu khắp tam thiên đại thiên thế giới này và chiếu khắp mười phương, không đâu không tiếp giáp. Trong hằng hà sa thế giới chư Phật, chúng sinh nào được ánh sáng này chiếu đến đều được tónh lặng, chỉ chú tâm đến đạo Vô thượng chánh chân. Bấy giờ, Thế Tôn liền hiển hiện ánh sáng chí tánh chân diệu thanh tịnh, chiếu tam thiên đại thiên thế giới, soi sáng khắp hằng hà sa các cõi Phật mười phương. Nếu chúng sinh nào gặp được ánh sáng này thì rốt ráo đạt đến đạo Vô thượng chánh chân. Khi ấy, Đức Thế Tôn từ cái lưỡi vốn che trùm cõi Phật của Ngài, phát ra vô số ức trăm ngàn ánh sáng, chiếu sáng tam thiên đại thiên thế giới này và chiếu khắp hằng hà sa các cõi Phật trong mười phương. Trong ánh sáng ấy, tự nhiên phát sinh những hoa sen báu bằng vàng, trên mỗi hoa sen ấy đều có các Đức Phật ngồi kiết già giảng thuyết kinh pháp, diễn bày sáu pháp Ba-la-mật, tất cả mười phương cũng lại như thế. Nếu có chúng sinh nào nghe pháp được giảng này thì rốt ráo, tất cả đều được an trụ vững chắc ở quả vị giác ngộ cao tột. Khi ấy, Đức Thế Tôn ngồi trên tòa Sư tử. Có Tam-muội tên là Sư tử ngu lạc, Ngài nhập Tam-muội này tự nhiên chánh định, đúng như trạng thái của nó, biểu hiện oai quang, thị hiện thần túc, cả tam thiên đại thiên thế giới chấn động sáu cách, cả những nơi biên tế cũng lay động, làm cho từ trong đến ngoài đều thuận hòa yên ả, vì thương xót tất cả các loài chúng sinh nên làm cho họ được an ổn, khoái lạc, không còn lo lắng. Bấy giờ chốn địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh trong tam thiên đại thiên thế giới, các việc không an ổn, các việc sợ hãi, nguy khốn tự nhiên chấm dứt. Ba đường ác đã trừ, họ đều được sinh vào cõi người, cõi bốn Thiên vương, cõi trời Đao-lợi, trời Diệm, trời Đâu-thuật, trời Ni-ma-la, trời Ba-la-ni-mật. Khi ấy chư Thiên vừa sinh trong nhân gian, trên cõi trời, liền biết đời trước của mình, hoan hỷ mừng vui, đi đến chỗ Đức Phật, cúi đầu sát chân, chắp tay kính lễ. Tất cả mười phương cũng giống như vậy, không gì sai trái. Bấy giờ các loài chúng sinh trong ba ngàn thế giới này, người mù được thấy các cảnh vật, người điếc nghe hết các âm thanh, người chí loạn tâm mê thì tỉnh lại, người mê muội sân hận thì tức thời định tỉnh, người không có y phục tự nhiên có y phục, người đói khát thiếu thốn tự nhiên no đủ, người khát khao mong cầu, không mong cầu gì nữa, người tật bệnh được lành, người tàn tật các căn đầy đủ, người cực nhọc tự nhiên được thư thả, người từ lâu cô độc không còn cô độc nữa. Tất cả chúng sinh đạt được tâm bình đẳng, tuần tự coi nhau như cha như mẹ, như anh như em, như chị như em, mọi người đều đồng tâm, không thiên vị, cùng hành tâm từ. Tất cả chúng sinh đều tu mười điều thiện, phạm hạnh thanh tịnh, không có phiền não. Tất cả mọi người đều được an ổn, sự an ổn đạt được giống như Tỳ-kheo đắc tầng thiền thứ ba. Khi ấy chúng sinh đạt được trí tuệ và thiền định, an vui trọn vẹn, xa lìa sự thấp hèn, đạt được sự hòa nhã. Bấy giờ, Đức Thế Tôn ở tại tòa Sư tử trong tam thiên đại thiên thế giới, oai thần lồng lộng vô cùng siêu việt khác thường, hào quang chói sáng, không có sợ sệt, tôn nhan toàn bích ánh sáng tinh khiết rực rỡ, chiếu khắp hằng hà sa các cõi Phật ở phương Đông và khắp hằng hà sa các cõi Phật tám phương trên dưới, như núi Tu-di vượt lên trên tất cả các núi, ánh sáng đó chiếu thấu mọi nơi. Khi ấy Thế Tôn thừa Thánh chỉ tự nhiên của chư Như Lai làm cho chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới đều cùng nhìn thấy Như Lai. Lúc đó, ở thế giới này, chư Thiên Thủ đà vệ Tịnh cư, trời Phạm, trời Ba-la-ni-mật, trời Ni-ma-la, trời Đâu-thuật, trời Diệm, trời Đao-lợi, trời Tứ Thiên vương và nhân dân ở tại tam thiên đại thiên thế giới, tự nhiên thấy mình gần gũi Đức Như Lai, đều được hoa trời tự nhiên truyền đến mùi hương cõi trời như hương, hương tạp, hương bột, các hoa tươi như hoa sen xanh, hoa phù dung. Các loại hoa trời đẹp đẽ đầy đủ cành lá. Mọi người đều mang đến chỗ Như Lai, cúi đầu sát chân Phật, rải cúng trên Ngài. Và tại nhân gian, mọi người đều cầm các loại hoa trên đất, dưới nước đi đến chỗ Thế Tôn để cúng dường. Các loại hoa mà chư Thiên và loài người đã rải cúng dường bay lên hư không, hóa thành cung điện, lầu gác tự nhiên. Từ cung điện ấy thả xuống các loại hoa trời, lọng lụa, cờ phướn tung bay phất phới, hiện rõ khắp nơi. Các loại hoa hương kia trang nghiêm cõi Phật trong tam thiên đại thiên thế giới tự nhiên rạng rỡ, hình dạng màu sắc như vàng mài tía. Tám hướng, trên dưới thơm phức, rực rỡ cũng giống như thế. Bấy giờ dân chúng ở cõi Diêm-phù-đề nhìn thấy Đức Như Lai hiện thân uy nghiêm biến hóa không thể kể xiết, ai nấy đều nghó là hôm nay Đức Như Lai ngồi trước ta. Khắp các cõi Phật khác cũng giống như vậy, ai nấy đều nghó là hôm nay Đức Như Lai ngồi ở trước ta mà thuyết kinh pháp. Khi ấy Đức Thế Tôn ở trên tòa Sư tử lại vui vẻ mỉm cười. Lại một lần nữa, ánh sáng rực rỡ rộng lớn chiếu cả tam thiên đại thiên thế giới. Ở cõi này, dân chúng đều nhìn thấy Như Lai Chí Chân, Đẳng Chánh Giác và chúng Bồ-tát, Thanh văn hiện ở trong hằng hà sa cõi Phật ở phương Đông. Lại nữa, các chúng sinh trong hằng hà sa các cõi Phật ở phương Đông cũng đều trông thấy Đức Phật Thích-ca Văn cùng Tỳ-kheo Tăng và các Bồ-tát đang ngồi thuyết kinh. Tám hướng, trên dưới, cũng lại như thế, đều trông thấy cảnh tượng này không sai khác. Bấy giờ vượt qua hằng hà sa thế giới chư Phật ở phương Đông, có thế giới cuối cùng tên là Bảo tích, Đức Phật hiệu là Bảo Sự Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác hiện đang vì các chúng sinh giảng thuyết kinh Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật-đa. Lúc đó, ở thế giới Phật kia, có Bồ-tát hiệu là Phổ Minh thấy ánh sáng lớn và đại địa chấn động liền đi đến chỗ Đức Như Lai Bảo Sự cúi đầu thưa hỏi: –Kính bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì ánh sáng lớn ấy chiếu sáng cõi Phật này và đại địa chấn động? Tự nhiên được thấy thân các Đức Như Lai, hẳn có ý gì? Đức Phật kia bảo Bồ-tát Phổ Minh: –Này tộc tánh tử, nên biết, ở rất xa về phương Tây, có thế giới Nhẫn, Đức Phật ở cõi ấy hiệu là Thích-ca Văn Như Lai, hiện nay đang vì các Bồ-tát thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa. Đó là ánh sáng oai thần của Đức Phật đó vậy. Bồ-tát Phổ Minh thưa với Đức Như Lai Bảo Sự: –Bạch Thế Tôn! Con muốn đến cõi ấy yết kiến Đức Như Lai Thích-ca Mâu-ni và đảnh lễ Ngài. Các chúng Đại Bồ-tát đồng chân… là những vị đắc tổng trì, Tam-muội rốt ráo, định ý tự tại, đã được giải thoát cũng muốn đến chỗ Đức Thích-ca Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Đức Bảo Sự Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác bảo Bồ-tát Phổ Minh: –Thiện nam hãy đi đi! Ông nên biết đã đúng lúc. Khi ấy Đức Như Lai Bảo Sự ban cho Bồ-tát Phổ Minh hoa sen màu vàng có ngàn cánh và bảo: Thiện nam tử hãy cầm lấy hoa sen báu này dùng để rải cúng Đức Như Lai Thích-ca. Này thiện nam! Muốn đến đó phải tu hạnh tịch nhiên. Bồ-tát nào sinh vào thế giới nhẫn ấy thì có rất nhiều hoạn nạn, cũng khó gặp gỡ. Bồ-tát Phổ Minh liền nhận hoa sen màu vàng ấy, cùng với vô số ức trăm ngàn cai các chúng Bồ-tát, nam nữ lớn nhỏ, tại gia xuất gia đem đồ cúng dường chư Phật Thiên Trung Thiên ở phương Đông, cung kính đảnh lễ, dâng lên các thứ hương hoa, hương tạp, hương bột. Rồi họ lần lượt đi đến chỗ Đức Như Lai Thích-ca, cúi đầu sát chân lui đứng một bên. Bồ-tát Phổ Minh thưa với Thế Tôn: –Kính bạch Đại Thánh! Đức Như Lai Bảo Sự ân cần kính lời vấn an Ngài, sự khất thực có dễ dàng và sự giáo hóa có an ổn chăng? Lại xin dâng lên Ngài hoa sen màu vàng này. Đức Phật nhận hoa sen, liền tung rải xa đến hằng hà sa cõi Phật ở phương Đông, tự nhiên có Đức Phật ngồi trên hoa sen màu vàng giảng nói kinh pháp, lại cũng diễn nói sáu pháp Ba-la-mật. Có chúng sinh nào nghe lời thuyết giảng này thông suốt tất cả thì tức thời an trú vững vàng nơi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Nam nữ, lớn nhỏ đều lễ sát chân Phật, đều dùng công đức cúng dường Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Ở phương Nam, cách cõi này hằng hà sa cõi, tận cùng biên tế, có cõi Phật tên là Ly nhất thiết ưu. Đức Phật ở đó hiệu là Vô Ưu Thủ Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Ở đó có Bồ-tát tên là Ly Thích, thưa trình sự việc với Phật. Đức Phật ban cho hoa sen. Bồ-tát ấy cùng vô số Bồ-tát đi qua các quốc độ, cúng dường chư Phật, rồi đến chỗ Đức Như Lai Thích-ca Mâu-ni, đảnh lễ cúng dường, lui ngồi nghe kinh. Ở phương Tây, cách cõi này hằng hà sa cõi, có thế giới tên là Tịch nhiên. Đức Phật hiệu là Bảo Long Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Ở đó có vị Bồ-tát tên là Ý Hành thưa trình sự việc với Phật. Ngài ban cho hoa sen. Bồ-tát ấy cùng vô số Bồ-tát đi qua các quốc độ, cúng dường chư Phật, rồi đến chỗ Đức Như Lai Thích-ca Mâu-ni, đảnh lễ cúng dường, lui ngồi nghe kinh. Ở phương Bắc, cách cõi này hằng hà sa cõi, có thế giới tên là Trí thắng. Đức Phật hiệu là Thắng Chư Căn Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Ở đó có vị Bồ-tát tên là Thí Thắng, thưa trình sự việc với Phật. Ngài ban cho hoa sen. Bồ-tát ấy cùng với vô số Bồ-tát đi qua các cõi nước, cúng dường chư Phật, rồi đến chỗ Đức Như Lai Thích-ca Mâu-ni, đảnh lễ cúng dường, lui ngồi nghe kinh. Ở phương dưới, cách cõi này hằng hà sa cõi, có thế giới tên là Nhân hiền. Đức Phật hiệu là Hiền Thủ Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Ở đó có vị Bồ-tát tên là Liên Hoa Thượng, thưa trình sự việc với Phật. Ngài ban cho hoa sen. Bồ-tát ấy cùng vô số Bồ-tát đi qua các cõi nước, cúng dường chư Phật, rồi đến chỗ Đức Như Lai Thích-ca Mâu-ni, đảnh lễ cúng dường, lui ngồi nghe kinh. Ở phương trên, cách cõi này hằng hà sa cõi, có thế giới tên là Hân lạc. Đức Phật ở đó hiệu là Lạc Thủ Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Ở đó có vị Bồ-tát tên là Thí Lạc, thưa trình sự việc với Phật. Ngài ban cho hoa sen. Bồ-tát ấy cùng vô số Bồ-tát đi qua các cõi nước, cúng dường chư Phật, rồi đến chỗ Như Lai Thích-ca Mâu-ni, đảnh lễ cúng dường, lui ngồi nghe kinh. Bốn hướng còn lại, cũng giống như thế, không có gì sai khác. Bấy giờ, ở cõi tam thiên đại thiên thế giới này, tức thời từ trên không các loại hoa, hương báu, cờ phướn, lọng báu rơi xuống, tự nhiên trang hoàng cây hương, cây hoa, giống như cõi Phật của Đức Phổ Hoa Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở thế giới Liên hoa tích, chỗ cư trú của Bồ-tát Phổ Thủ. Chư Thiên tử Thiện Trụ Ý và các đại thần, chúng Bồ-tát oai thế vô cùng tôn nghiêm, là tùy tùng của Thế Tôn, chư Thiên, dân chúng ở nhân gian đều đến tụ hội. Các ma, Phạm thiên và chúng Thanh văn, Kiền-đạp-hòa, thần A-tu-luân … đều đến tụ hội. Các Đại Bồ-tát này là đồng tử nên y phục và đồ ăn uống của họ là phước đức tự nhiên. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Hiền giả Xá-lợi-phất: –Ở đây, nếu có các Đại Bồ-tát thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Xá-lợi-tử bạch: –Kính bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát hiểu biết tất cả các pháp một cách đầy đủ thì tại sao phải học Bát-nhã ba-la-mật? Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Đại Bồ-tát trụ Bát-nhã ba-la-mật rồi thì tu không chỗ trụ, liền viên mãn Thí ba-la-mật, khiến chẳng khuyết giảm, của đã đem cho không có tiếc rẻ, liền viên mãn Giới ba-la-mật. Do nhân duyên đó, chưa từng trụ ở tội hay không tội, cũng sẽ viên mãn Nhẫn ba-la-mật, khởi tâm không sân hận, nên học Tinh tấn ba-la-mật, liền được thọ ký. Từ thân ý ấy, phát khởi tinh tấn, không khởi các lậu, sẽ viên mãn Thiền ba-la-mật, do đó, chẳng mong cầu gì. Đức Phật dạy: –Này Xá-lợi-phất! Nếu Đại Bồ-tát an trụ Bát-nhã ba-la-mật thì tự đầy đủ bốn Ý chỉ; phát sinh cái không phát sinh sẽ được đầy đủ, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo đều khiến đầy đủ; Tam-muội Không, Tam-muội Vô tướng, Tam-muội Vô nguyện nhất định đầy đủ; bốn Thiền, bốn Đẳng, bốn Tam-muội Vô sắc và tám môn giải thoát dần dần đầy đủ. Khi tu chánh định thì dùng những pháp này để giải thoát, không nghó tưởng gì khác, không tưởng trong, hoặc tưởng cúng dường, hoặc tưởng ánh sáng, không tưởng sắc đỏ, không tưởng mục nát, không tưởng màu xanh, không tưởng cắn xé lở lói, cũng không tưởng lẫn lộn, không tưởng xương khô, không tưởng phân tán, không tưởng nơi chốn, lìa bỏ hết các tưởng, luôn luôn niệm Phật, niệm kinh điển, niệm chúng Tăng, niệm giới cấm, niệm bố thí, niệm chư Thiên, niệm hơi thở ra vào, niệm tử vong; tưởng vô thường, tưởng khổ vui, tưởng vô ngã, tưởng chung thủy, tưởng tất cả thế giới đều không an vui, tưởng các tập khởi, tưởng sự diệt tận, tuệ đạo, tuệ tận, tuệ thanh lương, tuệ không chỗ khởi, tuệ pháp, đối với các kinh pháp cũng không có tuệ thuộc về ngã, không có tuệ ngã, không có tuệ bên trong, chỉ có tuệ ý vi diệu hiểu rõ các tuệ. Như cái gọi là tuệ là đều dùng Tam-muội tư niệm sở hành; không tưởng, không niệm, không hành định thì không có gì khác. Các căn thì khác, mà căn khác thì hành khác. Lại nữa, hễ có hành thì khó đạt được mười Lực Như Lai, bốn Vô sở úy, bốn phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật, đại Từ, đại Bi. Muốn hiểu rõ tất cả duyên này thì Đại Bồ-tát nên hành Bát-nhã ba-la-mật. Muốn có đầy đủ các đạo tuệ thì Đại Bồ-tát nên hành Bát-nhã ba-la-mật. Muốn hiểu rõ các tuệ, đầy đủ trọn vẹn các thông tuệ thì nên hành Bát-nhã ba-la-mật. Các Đại Bồ-tát nếu muốn tiếp cận được và dứt trừ tất cả phiền não thì Đại Bồ-tát nên hành Bát-nhã ba-la-mật. Này Xá-lợi-phất! Như vậy, các Bồ-tát phải tu học Bát-nhã ba-la-mật. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Nếu Đại Bồ-tát nào muốn vào tónh lặng thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Đại Bồ-tát nào muốn vượt qua địa Thanh văn, Bích-chi-phật, an trú địa vị không thoái chuyển thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Đại Bồ-tát muốn có sáu thần thông thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Đại Bồ-tát muốn biết ý hướng của tất cả chúng sinh hữu tình thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Đại Bồ-tát muốn vượt trí tuệ các Thanh văn, Bích-chi-phật thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Đại Bồ-tát muốn đắc môn đại tổng trì, khuyến giúp thiện nam tử bố thí, siêu vượt Thanh văn, Bích-chi-phật thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Đại Bồ-tát muốn vượt qua tâm ý khuyến trợ cấm giới của Thanh văn, Bích-chi-phật thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Nếu muốn đầy đủ Tam-muội, trí tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến thì Đại Bồ-tát nên học Bát-nhã ba-la-mật. Đại Bồ-tát muốn thành tựu thiền định Tam-muội, khuyến trợ, tập hợp, hiểu rõ tâm niệm thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Đại Bồ-tát nếu muốn khuyến trợ bố thí, phân biệt sự thành tựu công đức là vô hạn, vô lượng thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Nếu muốn thành tựu đầy đủ vô hạn vô lượng, giới, nhẫn, tinh tấn, nhất tâm, trí tuệ thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Đức Phật lại nói với Xá-lợi-phất: –Nếu có Đại Bồ-tát nào kiến lập đầy đủ các hạnh Thí ba-la-mật, Giới ba-la-mật, Nhẫn ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Thiền ba-la-mật, Trí tuệ ba-la-mật, sinh ra bất cứ chỗ nào cũng được gặp Phật, tự đạt thành Phật thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Muốn thành tựu ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp, đầy đủ tánh Bồ-tát, hoặc muốn làm bậc đồng chân, ngay tức khắc không rời chư Phật Thế Tôn, hoặc tâm ý muốn đem các căn lành công đức cúng dường Như Lai, phụng trì giáo huấn của Ngài và muốn nguyện thành tựu hoặc muốn đáp ứng đầy đủ tâm mong cầu của tất cả chúng sinh như ăn uống, y phục, xe cộ, hương hoa, hương tạp, hương xoa, giường nằm, đèn lửa, khăn tay, giày vớ… và muốn có được đầy đủ của cải đó thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Nếu có Đại Bồ-tát nào muốn khuyến hóa an lập trọn vẹn hằng hà chúng sinh vào Thí ba-la-mật, Giới ba-la-mật, Nhẫn ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Thiền ba-la-mật, thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Nếu Đại Bồ-tát nào muốn dùng một gốc thiện, thuận với đức của Như Lai không có hao tổn, cũng không khuyết giảm cho đến khi thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Nếu Đại Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật thì chư Phật Thiên Trung Thiên ở tám phương trên dưới đều cùng ca tụng công đức của vị ấy. Trong khoảng một niệm, nếu muốn du hành đến hằng hà sa cõi Phật ở phương Đông và đến mười phương thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Muốn dùng tất cả âm thanh nói với chư Phật ở hằng hà sa cõi nước phương Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn phía trên dưới thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Nếu Đại Bồ-tát muốn kiến lập cõi nước của chư Phật để không đoạn tuyệt, muốn an trú pháp nội không, hoặc ngoại không, hoặc nội ngoại không, hoặc không không, hoặc pháp đại không, hoặc cứu cánh không, sở hữu không, vô hữu không, hữu vi không, vô vi không, chân như không, pháp chân không, pháp vô từ tự không, pháp vô nhân duyên không, pháp nhân duyên không, tự nhiên tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, Vô sở hữu không , tự nhiên không, vô hình tự nhiên không, pháp oai thần nhân duyên không; nếu muốn đạt đến các hành tướng này thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát muốn được gần gũi tất cả Đức Như Lai, muốn quán rõ tất cả các pháp, muốn hiểu tận nguồn gốc của các pháp, thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Này Xá-lợi-phất! Như thế, Đại Bồ-tát muốn thành tựu Bát-nhã ba-la-mật nên trụ như thế. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát muốn tính toán biết số cát, đá, cây, hoa, tất cả các bụi trần, những nghi ngờ không quyết chắc của tam thiên đại thiên thế giới thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Muốn biết số lượng ít nhiều, bao nhiêu giọt nước của biển lớn, sông ngòi, dòng nước, suối nguồn trong tam thiên đại thiên thế giới mà không làm thương tổn đến loài trùng sống trong đó thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Giả sử lửa có trong tam thiên đại thiên thế giới nhất thời bùng cháy như kiếp thiêu, nếu muốn nhất thời dập tắt, làm cho hết cháy thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Giả sử các loại gió trong tam thiên đại thiên thế giới thổi bay cả quốc độ trong đó, làm ngã đổ tan nát các núi Tu-di không còn gì, giống như tro bụi, tan biến hết, như đốt các thứ cỏ dại, nếu Đại Bồ-tát muốn dùng một ngón tay, một ngón chân khiến lửa trong ba cõi diệt hết, thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Hư không của cả tam thiên đại thiên thế giới, nếu Đại Bồ-tát muốn dùng thân ngồi trùm khắp cả hư không ấy thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Nếu muốn biến hóa tự tại, không gần, không xa, không lớn, không nhỏ thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Nếu Đại Bồ-tát muốn nắm lấy các núi Tu-di trong tam thiên đại thiên thế giới, rồi dùng một tay nâng chúng đặt vào vô lượng thế giới chư Phật khác biệt mà không khởi tưởng tới lui, không tăng không giảm, thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Nếu Đại Bồ-tát muốn trong cùng một lúc tập hợp chư Phật Thiên Trung Thiên, Thanh văn, Bích-chi-phật trong hằng hà sa thế giới chư Phật ở phương Đông để cúng dường, thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát nếu muốn cùng lúc tập hợp chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và chúng Thanh văn để cúng dường y phục, hoa hương, hương bột, hương xoa, lọng lụa, cờ phướn và quy y phụng sự thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát nếu muốn an lập chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới ở Giới ba-la-mật, Tam-muội, trí tuệ, giải thoát tri kiến, quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm cho đến trụ Niết-bàn vô dư để nhập Niết-bàn, thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, nếu bố thí thì Bố thí ba-la-mật, nên học như thế. Bố thí như vậy thì đạt được quả báo lớn. Bố thí như vậy thì sinh vào nhà dòng họ Quân tử, dòng họ lớn Phạm chí, Trưởng giả. Bố thí như thế thì sinh lên cõi trời Tứ Thiên vương, trời Đao-lợi, trời Đâu-thuật, trời Ni-ma, trời Ba-la-ni-mật. Người bố thí như thế nương vào bố thí này mà tư duy thiền thứ nhất, thiền thứ hai, thiền thứ ba đến thiền thứ tư, định hư không vô lượng, định ý thức vô lượng, định vô sở hữu, định vô tưởng hữu tưởng. Bố thí như thế thì hưng khởi tám con đường Thánh, đắc quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, quả A-la-hán, quả Bích-chi-phật. Nếu hiểu rõ như thế thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật thường dùng trí tuệ phương tiện trong việc bố thí nên đầy đủ Thí ba-la-mật, Giới ba-la-mật, Nhẫn ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Thiền ba-la-mật, Tuệ ba-la-mật. Ngài Xá-lợi-phất bạch Phật: –Thế nào là Đại Bồ-tát đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật? Đáp: –Vị thí chủ nào mà không chấp trước việc bố thí người nhận, cũng không quên ân đó là Thí ba-la-mật. Không có gì trái phạm, không dùng cấm giới mà tự làm đẹp, đó là Giới ba-la-mật. Thường giữ tâm nhẫn nhục, không có tâm sân hận hướng đến chúng sinh, đó là Nhẫn ba-la-mật-đa. Tinh tấn chẳng biếng lười, muốn độ tất cả, đó là Tinh tấn ba-la-mật. Nhất tâm tónh lặng, không rối loạn, đó là Thiền ba-la-mật. Trí tuệ rõ ràng, không chấp tôi, chấp ta, đó là Trí tuệ ba-la-mật. Nói tóm lại, giải thích lại lần nữa, đối với tội, vô tội cũng không tội, đó là Giới ba-la-mật. Không có sân hận, đó là Nhẫn ba-la-mật. Thân tâm tinh tấn không mệt mỏi, đó là Tinh tấn ba-la-mật. Làm phát khởi sự tónh lặng, không tưởng việc gì, đó gọi là Thiền ba-la-mật. Hiểu rõ tất cả pháp nhưng không chấp trước, đó là Trí tuệ ba-la-mật. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Nếu Đại Bồ-tát muốn thành tựu ý nghóa công đức của chư Phật Thế Tôn quá khứ, vị lai, hiện tại thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Muốn siêu vượt các pháp hành hữu vi, vô vi, pháp quá khứ, vị lai, hiện tại cho đến vô thủy, đối với sự hưng khởi của các pháp không khởi bản tế, muốn đạt những pháp này, tất cả pháp Thanh văn, Bích-chi-phật, các Bồ-tát; muốn theo chư Phật Thế Tôn để cúng dường, muốn được đầy đủ quyến thuộc, vô lượng người tháp tùng của chư Phật, muốn có được bạn hữu của Bồ-tát, muốn được phước đức rốt ráo thanh tịnh của Thế Tôn, muốn đạt sự bố thí tâm không chấp thọ, không khởi tưởng phạm giới, tâm không sân nhuế, tâm không lười biếng, không muốn phát khởi tâm tán loạn, lại không khởi tâm ngu si thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát muốn an lập chúng sinh ở đức bố thí, trì giới, trí tuệ, để khuyên họ tu hành và làm phát khởi phước đức đã thọ hưởng thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát muốn làm phát khởi năm nhãn thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Những gì là năm nhãn? Đó là Nhục nhãn, Thiên nhãn, Tuệ nhãn, Pháp nhãn và Phật nhãn. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát muốn thấy chư Phật Thế Tôn trong hằng hà sa cõi nước ở phương Đông và tám hướng, trên dưới và muốn dùng Thiên nhó nghe kinh pháp đã thuyết, lại muốn biết được tâm niệm của chư Phật Thế Tôn, thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Nếu Đại Bồ-tát muốn liên tục nghe chư Phật Thế Tôn ở khắp mười phương thuyết pháp cho đến khi đạt Vô thượng Chánh đẳng giác thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Nếu Đại Bồ-tát muốn thấy chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác quá khứ, muốn thấy cõi nước của chư Phật vị lai, muốn thấy cõi nước của chư Phật trong hiện tại ở mười phương thế giới, thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Mười hai thể loại kinh mà Như Lai đã nói là kinh văn, kinh phân biệt, kinh tụng, kinh thi ca, kinh sơ, kinh thử ứng, kinh sinh, kinh thọ, kinh phương, kinh vị tằng hữu pháp, kinh thí dụ, kinh chú giải chương cú là những kinh mà Thanh văn chẳng nghe được Đại Bồ-tát muốn biết, muốn tụng đọc, học tập, nghiền ngẫm thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát muốn nghe kinh pháp mà Như Lai tám phương, trên dưới đã thuyết, ghi nhớ không quên mất và muốn chấp trì, đã được chấp trì và vì chúng hội khác thuyết giảng thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát muốn thưa hỏi Phật ý nghóa kinh đã nói trong quá khứ và sẽ nói trong vị lai, đã được nghe rồi, nói lại cho người khác thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát muốn dùng ánh sáng chiếu soi nơi mịt mù tăm tối không thấy ánh sáng mặt trời mặt trăng trong hằng hà sa thế giới chư Phật ở phương Đông và thế giới ở mười phương thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát muốn được khai hóa cho kẻ ngu si mê muội, chưa từng nghe danh hiệu Phật, chưa được nghe kinh và chưa gặp chúng Tăng trong hằng hà sa thế giới chư Phật ở phương Đông và thế giới ở mười phương, muốn khai hóa các loài chúng sinh, đưa họ vào chánh kiến, khiến cho gặp Phật, được nghe kinh pháp và gặp Thánh chúng thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát muốn khiến chúng sinh trong hằng hà sa thế giới chư Phật ở phương Đông và thế giới chư Phật mười phương, những người mù được thấy hình sắc, người điếc nghe được, người điên tỉnh trí, người không có y phục có y phục, người đói được ăn, khát được uống và nguyện cho họ có sức để nhận ân này, thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát muốn gia ân khiến cho các loài chúng sinh trong các đường ác địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh ở trong tam thiên đại thiên thế giới được giải thoát và hằng hà sa thế giới ở tám phương, trên dưới cũng như vậy, thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát muốn an lập chúng sinh trong hằng hà sa thế giới chư Phật vào cấm giới, Tam-muội, trí tuệ, giải thoát, giải thoát tuệ tri kiến, chứng quả Tu-đà-hoàn, quả Tu-đà-hàm, quả A-na-hàm, quả A-la-hán, Bích-chi-phật cho đến thành Vô thượng Chánh đẳng giác, lại muốn họ tu oai nghi lễ tiết của Như Lai thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật nên quán thế này: Giả sử cái mà thân ta không thấy được mà muốn quán sát nó, thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Giả sử thân ta dùng chân đi cách đất bốn tấc, không đâu là chẳng khắp từ cõi trời bốn Thiên vương, cõi Dục, cõi Sắc, trời A-ca-nị-tra và có vô số ức trăm ngàn cai quyến thuộc vây quanh, đi đến cây Bồ-đề, ngồi ở đạo tràng, thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát hoặc ngồi dưới cội Bồ-đề, trên cõi trời Tứ Thiên vương, trên chỗ chư Thiên, loài người cho đến cõi trời Tịnh cư cũng đều đầy đủ bố thí không gì sai khác, hoặc sẽ thành tựu Vô thượng Chánh đẳng giác, đến đâu, hoặc đứng lại, ngồi, nằm thì đất nơi đó tự nhiên thành kim cương, muốn được như vậy thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, quán thế này: “Ngày nào ta sẽ bỏ nước bỏ nhà ra đi thì ngay ngày ấy sẽ thành Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, đắc thành quả Phật và tức khắc chuyển pháp luân. Do chuyển pháp luân nên các loài chúng sinh vô số không thể kể xiết xa trần, lìa cấu, đắc Pháp nhãn thanh tịnh, vô lượng, vô hạn loài chúng sinh đắc ý giải, lậu tận, không còn khởi nữa, vô lượng vô hạn hữu tình thành tựu Vô thượng Chánh đẳng giác không thoái chuyển”, thì Đại Bồ-tát ấy nên học Bát-nhã ba-la-mật. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát tâm niệm: “Ta muốn khi đắc thành Vô thượng Chánh đẳng giác, có vô số thánh chúng Tỳ-kheo, Thanh văn, Học giả, chỉ một lần nghe diễn nói kinh pháp là chứng đắc A-la-hán, có các Đại Bồ-tát đều đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác không thoái chuyển, có vô số các chúng Bồ-tát không thể hạn lượng, không thể kể xiết, thọ mạng vô lượng, ánh sáng chiếu xa không biên giới”, thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát muốn đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thành quả Phật, muốn làm cho quốc độ của Phật đó không có danh từ dâm, nộ, si, khiến cho tất cả chúng sinh đều đạt được cảnh tượng như thế, thành tựu đầy đủ Bát-nhã ba-la-mật, bố thí trọn vẹn, điều thuận thông suốt, trí tuệ vi diệu, khéo tu phạm hạnh, thuận hành Thánh đạo, không ở trong chúng sinh, được an lạc, thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát nào nguyện: Khi ta đạt thành quả Phật viên mãn rồi, sẽ dùng tài sản chánh pháp làm giàu thiền định tịch tónh, thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Nếu Bồ-tát nguyện: Ta làm thanh tịnh Thanh văn khiến cho các loài chúng sinh trong hằng hà sa thế giới đạt được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thì nên học Bát-nhã ba-la-mật.  <詞 id="81581546">Phẩm 2: Thuận không Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Khi Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật làm hưng khởi đức này thì Tứ Thiên vương tức thời hoan hỷ nói: “Chúng ta sẽ làm bốn chiếc bát.” Rồi bốn vị Thiên vương đến trước dâng lên cúng. Chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở quá khứ cũng được người học đạo pháp dâng cúng. Khi ấy trời Đao-lợi, trời Diệm, trời Đâu-thuật, trời Ni-ma-la, trời Ba-la-ni-mật cũng vui mừng nói: “Chúng ta phải phụng sự cúng dường thiện nam tử này, vì vị này sẽ làm tăng trưởng hàng chư Thiên và làm tổn giảm hàng A-tu-luân.” Chư Thiên trong thế giới tam thiên đại thiên lên đến trời A-ca-nị-tra đều vui mừng nói: “Chúng ta sẽ khuyến thỉnh Ngài chuyển pháp luân.” Này Xá-lợi-phất! Khi Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, làm tăng trưởng trọn vẹn sáu pháp Ba-la-mật thì thiện nam tử, thiện nữ nhân hoan hỷ vui mừng nói: “Chúng ta sẽ làm cha mẹ hiền, vợ con, thân thuộc, bằng hữu, thân cận… của vị này.” Cha mẹ, anh em, vợ con, thân cận, bằng hữu thương kính ưa nhìn vị ấy. Bốn vị Thiên vương, trời Đao-lợi, trời Diệm, trời Đâu-thuật, trời Ni-ma-la, trời Ba-la-ni-mật, cho đến trời A-ca-nị-tra không để cho Bồ-tát tiếp giáp dục trần, họ phát tâm đi đến phụng sự lễ bái Bồ-tát và nói với nhau: “Chúng ta sẽ làm cho vị này thanh tịnh hạnh Phạm thiên, lìa hạnh uế truợc, không theo thói dâm dục, được sinh Phạm thiên, dùng không phóng dật buộc phóng dật. Người có sắc dục thì không thể tiến đến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vì vậy Bồ-tát dùng phạm hạnh thanh tịnh, vứt bỏ gia nghiệp mới đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chứ không dùng uế trược mà đắc Phật đạo.” Hiền giả Xá-lợi-phất bạch Đức Phật: –Bạch Thế Tôn! Pháp của Bồ-tát cần phải có cha mẹ, vợ con, thân cận bạn bè chăng? Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Nếu có Bồ-tát thì nhất định phải có cha mẹ chứ không nên có vợ con. Hoặc có vị từ khi mới phát ý thanh tịnh tu phạm hạnh là đồng chân cho đến thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, hoặc có Bồ-tát dùng phương tiện thiện xảo tập theo năm dục, về sau mới xuất gia đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Thí như nhà huyễn thuật tài giỏi và đệ tử học giỏi huyễn thuật, hóa ra năm dục rồi tự vui với năm dục đó. Xá-lợi-phất, theo ý ông thì sao, nhà huyễn thuật ấy có tập quen theo năm dục chăng? Hiền giả Xá-lợi-phất thưa: –Bạch Đức Thiên Trung Thiên, không! Đức Phật dạy: –Đại Bồ-tát cũng như thế, dùng phương tiện thiện xảo, tập quen năm dục, để khuyến hóa chúng sinh nhưng Đại Bồ-tát ấy không bị năm dục làm ô nhiễm. Đại Bồ-tát dùng vô số sự việc ta thán ái dục, hoặc chê bai năm dục là đốt cháy, ái dục là tội lỗi nhơ nhớp, dục là oán cừu, dục là thù địch. Như thế, này Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát vì cứu độ chúng sinh mà phân biệt năm dục này. Xá-lợi-phất bạch Phật: Bạch Đức Thiên Trung Thiên! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật như thế nào? Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, chẳng thấy Bồ-tát, cũng chẳng thấy danh tự Bồ-tát, cũng chẳng thấy danh tự Bát-nhã ba-la-mật, cũng chẳng thấy chẳng hành. Vì sao? Vì danh tự Bồ-tát tự nhiên không. Trong không ấy không có sắc, không có thống dương thọ, tư tưởng, sinh tử (hành), thức. Lại nữa, không chẳng khác sắc; cái không chẳng khác thọ, tưởng, hành, thức. Như sắc là không; thọ, tưởng, hành, thức cũng không. Đã là không thì sắc không, thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy. Vì sao? Vì cái gọi là Bồ-tát chỉ là giả hiệu, cái gọi là đạo cũng là giả hiệu, cái gọi là không cũng là giả hiệu. Pháp tự nhiên ấy chẳng khởi chẳng diệt, cũng không trần lao, không chỗ nương tựa, không điều tranh tụng. Nếu có Bồ-tát hành như thế thì không thấy chỗ sinh khởi, cũng không thấy chỗ hoại diệt, không thấy chỗ nương tựa, không thấy điều tranh tụng. Vì sao? Vì dối trá lập nên danh tự, do vọng tưởng nên chạy theo khách trần, hoặc do tưởng niệm mà tạo nên pháp ấy. Do đâu mà lập nên danh tự? Chỉ là mượn hư ngôn mà thôi. Hiểu rõ như vậy, nên Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, chẳng thấy có tất cả danh hiệu. Đã không có đối tượng để thấy, cũng chẳng phải không thấy, không chỗ nương tựa là hành Bát-nhã ba-la-mật.  <詞 id="81581547">Phẩm 3: Hành không (Phần 1) Đức Phật lại bảo Xá-lợi-phất: –Khi Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật nên quán thế này: “Danh hiệu Bồ-tát, danh hiệu Phật cũng là giả hiệu thôi. Cái gọi là sắc, thọ, tưởng, cũng là giả hiệu, tất cả đều do cái ngã. Cái gọi là ngã thì không thật có, không ngã, không nhân, không mạng, không thọ và các loại máy động có máu không tâm, không ý cũng không. Nếu đã tạo tác các việc thì tự nhiên tập quen, thay đổi, hiểu biết. Các loại như thế đều chẳng thể nắm bắt được, rỗng không, không chỗ dính mắc, đều là giả hiệu, chỉ có hư ngôn.” Đại Bồ-tát như thế là hành Bát-nhã ba-la-mật, không thấy chúng sinh. Giả sử không có cái thấy, cũng không có thấy, thì cũng không có ngôn thuyết. Đại Bồ-tát đã hành như thế là theo lời dạy hành Bát-nhã ba-la-mật của Đức Như Lai. Trừ Đức Như Lai ra, trí tuệ của Bồ-tát vượt qua các Thanh văn, Bích-chi-phật, phát khởi việc hành không, không còn mê hoặc. Vì sao? Vì việc tu hành của vị ấy không thấy có danh tự, chỗ nương tựa. Đại Bồ-tát tu hành như thế là hành Bát-nhã ba-la-mật. Đức Phật dạy: –Giả sử các Tỳ-kheo như Xá-lợi-phất, Đại Mục-kiền-liên… đầy cả Diêm-phù-đề giống như tre, lau, lúa, mè, rừng cây đầy đủ trí tuệ thì cũng không bao giờ có thể bì kịp với việc hành Bát-nhã ba-la-mật của Bồ-tát. Dù gấp trăm lần, gấp ngàn lần, gấp vạn lần, gấp ức lần ở trước cũng không bì kịp. Vì sao? Vì mục đích của trí tuệ Bồ-tát là muốn độ tất cả các loài chúng sinh. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật chỉ một ngày, thì trí tuệ cũng đã vượt qua số Thanh văn, Bích-chi-phật đã nêu ở trên. Trí tuệ các Tỳ-kheo như Xá-lợi-phất, Đại Mục-kiền-liên… đầy cả Diêm-phù-đề ra, giả sử các Tỳ-kheo có trí tuệ như Xá-lợi-phất, Đại Mục-kiền-liên … thì cùng khắp cả tam thiên đại thiên thế giới thì cũng không bằng sự tu hành của Đại Bồ-tát. Trí tuệ của các Tỳ-kheo như Xá-lợi-phất, Đại Mục-kiền-liên đầy cả thế giới đại thiên, giả sử trí tuệ của các Tỳ-kheo như Xá-lợi-phất, Đại Mục-kiền-liên cùng khắp cả hằng hà sa cõi nước của chư Phật ở phương Đông và khắp cả mười phương thì cũng không bằng trí tuệ của Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật trong một ngày. Trí tuệ ấy đã vượt qua trí tuệ của tất cả Thanh văn, Bích-chi-phật dù gấp trăm, gấp ngàn vạn ức lần cũng không sánh kịp. Khi ấy Hiền giả Xá-lợi-phất bạch Đức Thế Tôn: –Bạch Thế Tôn! Trí tuệ của Thanh văn, Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi-phật và trí tuệ của Bồ-tát, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, so sánh tất cả những trí tuệ này không có phá hoại, không có tranh tụng, không có sinh khởi, tự nhiên, rỗng không. Thưa Đấng Thiên Trung Thiên, cái không phá hoại, không tranh tụng, không sinh khởi, tự nhiên, rỗng không đó thì đâu có thể đưa đến nhiều sự sai khác được. Vậy tại sao trí tuệ tu hành một ngày của Bồ-tát lại vượt qua trí tuệ của tất cả Thanh văn, Bích-chi-phật? Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Này Xá-lợi-phất! Theo ý ông thì sao, việc tu hành Bát-nhã ba-la-mật của Bồ-tát thế nào? Trong một ngày, sự tu tập trí tuệ, sự kiến lập hành nguyện, sự tu tập phương tiện để hành Từ bi của Bồ-tát đều vì tất cả loài chúng sinh, biết rõ các pháp dùng để hóa độ quần manh, muốn làm cho họ diệt độ. Các Thanh văn, Bích-chi-phật có thể khởi lập duyên trí tuệ như thế chăng? Ngài Xá-lợi-phất đáp: –Bạch Đức Thiên Trung Thiên, không! Đức Phật dạy: –Này Xá-lợi-phất! Theo ý ông thì sao, các Thanh văn, Bích-chi-phật có nghó là: “Chúng ta sẽ đạt Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, giáo hóa chúng sinh đạt đến cảnh giới Niết-bàn, khiến họ diệt độ” chăng? Đáp: –Bạch Đức Thiên Trung Thiên, không! Đức Phật dạy: –Do vậy nên biết trí tuệ của tất cả Thanh văn, Bích-chi-phật này, dù gấp trăm, gấp ngàn, gấp vạn ức lần, không bao giờ sánh kịp trí tuệ của Bồ-tát. Theo ý ông thì sao? Thanh văn, Bích-chi-phật có nghó: “Chúng ta sẽ hành sáu pháp Ba-la-mật, giáo hóa chúng sinh làm nghiêm tịnh cõi Phật, đầy đủ mười Lực của Như Lai, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng, đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, độ thoát các loài chúng sinh vô lượng, vô hạn không thể kể xiết” chăng? Đáp: –Bạch Đức Thiên Trung Thiên, không! Đức Phật dạy: –Đại Bồ-tát phát tâm niệm rằng: “Ta sẽ phụng hành sáu pháp Ba-la-mật, đầy đủ tất cả pháp, thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, độ thoát các loài chúng sinh không thể kể xiết.” Đức Phật dạy: –Thí như mặt trời phát ra ánh sáng, đồng thời chiếu khắp cõi Diêm-phù-đề, không đâu là không sáng. Như vậy, này Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát hành sáu pháp Ba-la-mật, đầy đủ mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật, đắc thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, khai hóa, độ thoát các loài chúng sinh vô lượng vô hạn không thể kể xiết. Hiền giả Xá-lợi-phất bạch Phật: –Đại Bồ-tát vượt qua địa Thanh văn, Bích-chi-phật để đạt đến địa vị không thoái chuyển, tịnh tu Phật đạo như thế nào? Đức Phật dạy: –Này Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát từ khi mới phát tâm hành sáu pháp Ba-la-mật, qua khởi pháp Không, Vô tướng, Vô nguyện là đã siêu vượt địa Thanh văn, Bích-chi-phật, trụ địa không thoái chuyển. Hiền giả Xá-lợi-phất lại bạch Phật: –Tại sao Đại Bồ-tát đối với tất cả Thanh văn, Bích-chi-phật là bậc tôn quý nhất? Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Đại Bồ-tát từ khi mới phát tâm hành sáu pháp Ba-la-mật, đến khi ngồi ở cội Bồ-đề luôn đối với Thanh văn, Bích-chi-phật là bậc tôn quý nhất. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát nếu hiện đến thì tự nhiên làm hưng khởi pháp chân diệu, đầy đủ mười điều thiện, lại thành tựu năm giới, lập tám đẳng sự và tám quan trai, bốn Thiền, bốn Đẳng tâm, bốn Định vô sắc, bốn Ý chỉ, bốn Ý đoạn, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo. Bồ-tát hiện ở thế gian mới có mười Lực Như Lai, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Phật bất cộng của Phật. Các pháp như thế và các đức lành xuất hiện ở đời thì mới phân biệt dòng dõi Quân tử, Phạm chí, Trưởng giả, dòng họ thế lực và sinh cõi trời Đao-lợi, cõi trời Tam thập tam, trời Tưởng vô tưởng, quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi-phật, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Nhờ pháp này mà phân biệt biết có những sự việc ấy. Ngài Xá-lợi-phất bạch Phật: –Tại sao Đại Bồ-tát phước đức rốt ráo thanh tịnh? Đức Thế Tôn dạy: –Đại Bồ-tát đối với phước đức không rốt ráo thanh tịnh. Vì sao? Vì rốt ráo không thì Đại Bồ-tát mới thành tựu phước đức. Vì sao? Này Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát là người bố thí thì bố thí cái gì? Bồ-tát dùng thiện pháp để khai hóa chúng sinh. Những gì là thiện pháp? Đó là mười điều thiện, năm giới, sáu pháp Ba-la-mật, mười Lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Bất cộng của Phật. Bồ-tát là người bố thí và khai hóa Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi-phật, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Ngài Xá-lợi-phất lại bạch Phật: –Kính bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát tu theo hạnh nào là hành Bát-nhã ba-la-mật? Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Nếu khi Bồ-tát hành sắc không tức là hành Bát-nhã ba-la-mật. Nếu hành thọ, tưởng, hành, thức không là hành Bát-nhã ba-la-mật. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát biết nhãn là không, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý không, là hành Bát-nhã ba-la-mật. Hiểu rõ pháp sắc là không, pháp thanh, hương, vị, xúc, pháp là không thì đó là hành Bát-nhã ba-la-mật. Hiểu rõ nhãn giới là không, thì đó là hành Bát-nhã ba-la-mật. Hiểu rõ sắc giới, nhãn thức giới, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý giới là không thì đó là hành Bát-nhã ba-la-mật. Hiểu rõ nhó và sự nhận thức của nhó về âm thanh, tỷ và sự nhận thức của tỷ về mùi thơm, thiệt và sự nhận thức của thiệt về vị, thân và sự nhận thức của thân về sự mịn màng, trơn láng, ý và sự nhận thức về mong muốn của ý là không, thì đó là hành Bát-nhã ba-la-mật. Hiểu rõ khổ là không, tập cũng là không, tận (diệt) cũng là không, tám chánh đạo cũng là không thì đó là hành Bát-nhã ba-la-mật. Hiểu rõ vô minh (hiệt) là không, hành cũng là không, thức cũng là không, danh sắc cũng là không, lục nhập cũng là không, xúc (sở cánh) cũng là không, thọ (thống dương) cũng là không, ái cũng là không, thủ (sở thọ) cũng là không, hữu cũng là không, sinh lão tử cũng là không, thì đó là hành Bát-nhã ba-la-mật. Hiểu rõ tất cả pháp là không thì đó là hành Bát-nhã ba-la-mật. Có khả năng hiểu rõ các pháp tự nhiên, hữu vi, vô vi đều là không thì đó là hành Bát-nhã ba-la-mật. Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, hiểu rõ bản tịnh là không, chí tánh cũng vậy thì đó là hành Bát-nhã ba-la-mật. Này Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật hiểu rõ bảy không thì đó là hành. Dùng bảy không này mà hành Bát-nhã ba-la-mật, chẳng khởi quán sắc tương ưng hoặc chẳng tương ưng, hành hoặc chẳng hành, chẳng quán thọ, tưởng, hành, thức tương ưng hoặc chẳng tương ưng, hành hoặc chẳng hành, chẳng quán pháp sắc có chỗ khởi, có chỗ diệt, chẳng quán pháp thọ, tưởng, hành, thức có chỗ khởi, có chỗ diệt, chẳng quán pháp sắc có pháp nương tựa, có chỗ tranh tụng, chẳng quán pháp, thọ, tưởng, hành, thức có pháp nương tựa, có chỗ tranh tụng. Chẳng thấy cùng với sắc hòa hợp, chẳng thấy cùng với thọ, tưởng, hành, thức hòa hợp, chẳng thấy cùng với sinh tử hòa hợp, cũng chẳng thấy không cùng với sinh tử hòa hợp. Vì sao? Vì vónh viễn không có pháp tương ưng, duyên khởi thì có sự việc, nhưng bản tính là không. Này Xá-lợi-phất! Sắc tức là không thì không có sắc; thọ, tưởng, hành, thức tức là không thì không có thọ, tưởng, hành, thức. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Cái gọi là không thì không có khởi, không có diệt. Giả sử sắc là không thì không có sắc. Giả sử thọ, tưởng, hành, thức là không thì không có thọ, tưởng, hành, thức. Giả sử sắc là không thì không có thấy. Giả sử thọ là không thì không có họa hoạn. Giả sử tư tưởng là không thì không nhớ nghó. Giả sử hành là không thì không tạo tác. Giả sử thức là không thì không phân biệt. Vì sao? Này Xá-lợi-phất, sắc thì không khác cũng không đồng với không, không thì không khác sắc, không phân biệt. Sắc tự nhiên không, sắc tức là không; thọ, tưởng, hành, thức không khác, không cũng không khác. Nếu không không khác thì thức cũng không khác. Thức tự nhiên không, thức tức là không. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Cái gọi là không thì không khởi, không diệt, không có nương tựa, không có tranh tụng, không có tăng, không có giảm, không quá khứ, không vị lai, không hiện tại. Nó cũng không có sắc, thọ, tưởng, hành, thức cùng nhãn, nhó, tỷ, thiệt, thân, cũng không sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp sở dục. Nó không vô minh, không diệt vô minh, không hành, không thức, không danh sắc, không lục nhập, không xúc, không thọ, không ái, không thủ, không hữu, không sinh, không lão, không bệnh, không chết, cũng không diệt trừ sinh, già, bệnh, chết. Nó cũng không khổ, không tập, cũng không sở tận (diệt), cũng không sở do (đạo). Nó cũng không đắc, cũng không có thời. Nó không có quả Tu-đà-hoàn, không có quả Tư-đà-hàm, không có quả A-na-hàm, không có quả A-la-hán, không có Bích-chi-phật, cũng không đắc đạo, cũng không Phật đạo. Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật như thế là Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật. Bồ-tát không thấy Bát-nhã ba-la-mật tương ưng hay không tương ưng, hành hay không hành; không thấy Thí, không thấy Giới, không thấy Nhẫn, không thấy Tấn, không thấy Thiền, không thấy Trí, không thấy đó là sáu pháp Ba-la-mật; không thấy sắc, thọ, tưởng, hành, thức tương ưng hay không tương ưng, hành hay không hành; không thấy nhãn tương ưng hay không tương ưng, hành hay không hành; không thấy nhó, tỷ, thiệt, thân, ý tương ưng hay không tương ưng, hành hay không hành; không thấy sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp tương ưng hay không tương ưng, hành hay không hành; không thấy bốn Ý chỉ tương ưng hay không tương ưng, hành hay không hành; không thấy bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo tương ưng hay không tương ưng, hành hay không hành; không thấy mười Lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Bất cộng của Phật tương ưng hay không tương ưng, hành hay không hành; không thấy Như Lai, trí Nhất thiết tương ưng hay không tương ưng, hành hay không hành. Này Xá-lợi-phất! Đó là Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, như thế mới nên hành. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật thì không chẳng chống trái với không, không chẳng cùng hành với Không; chống trái với Vô tướng, Vô tướng không cùng hành với Vô tướng; Vô nguyện không chống trái với Vô nguyện, Vô nguyện không cùng hành với Vô nguyện. Không chẳng tương ưng với Không, Vô tướng chẳng tương ưng với Vô tướng, Vô nguyện chẳng tương ưng với Vô nguyện. Vì sao? Vì Không thì không có hành nào mà không hành, Vô tướng thì không có hành nào mà không hành, Vô nguyện thì không có hành nào mà không hành. Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật có thể hành như thế mới gọi là hành. Đức Phật nói với Xá-lợi-phất: –Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật thì tướng tự nhiên của các pháp đều đắc không, đã đắc không rồi không tranh với sắc, cũng không chỗ hành, không tranh với thọ, tưởng, hành, thức, cũng không chỗ hành. Không tranh với sắc quá khứ, cũng không thấy sắc quá khứ; không tranh với sắc vị lai, cũng không thấy sắc vị lai; không tranh với sắc hiện tại, cũng không thấy sắc hiện tại. Không tranh với thọ, tưởng, hành, thức quá khứ, cũng không tranh với thọ, tưởng, hành, thức vị lai và hiện tại, thì cũng không thấy thọ, tưởng, hành, thức quá khứ, vị lai và hiện tại. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật không tranh với quá khứ, vị lai; không tranh với vị lai, quá khứ; không tranh với hiện tại, quá khứ, vị lai; không tranh với quá khứ, vị lai, hiện tại, không thấy ba đời cùng với “không” hành Bát-nhã ba-la-mật. Hành như thế mới là hành. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật nên hành như đã hành như thế, không hành sự tranh tụng với trí Nhất thiết quá khứ, cũng không thấy trí Nhất thiết quá khứ ở đâu thì đâu có hành sự tranh tụng với trí Nhất thiết quá khứ? Không hành sự tranh tụng với trí Nhất thiết vị lai, cũng không có chỗ hành, cũng không thấy trí Nhất thiết vị lai thì đâu có hành sự tranh tụng với trí Nhất thiết vị lai? Cũng không hành sự tranh tụng với trí Nhất thiết hiện tại, cũng không thấy trí Nhất thiết hiện tại thì đâu có hành sự tranh tụng với trí Nhất thiết hiện tại? Lại nữa, Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, không hành trí Nhất thiết của sắc, cũng không thấy trí Nhất thiết của sắc; không hành trí Nhất thiết của thọ, tưởng, hành, thức, cũng không thấy trí Nhất thiết của thọ, tưởng, hành, thức; không hành trí Nhất thiết của nhãn, cũng không thấy trí Nhất thiết của nhãn; không hành trí Nhất thiết của nhó, tỷ, thiệt, thân, ý cũng không thấy trí Nhất thiết của nhó, tỷ, thiệt, thân, ý; không hành trí Nhất thiết của sắc, cũng không thấy sắc, cũng không hành trí Nhất thiết của thanh, hương, vị, xúc, pháp, cũng không hiện khởi. Đức Phật nói với Xá-lợi-phất: –Hành Bát-nhã ba-la-mật như thế mới là hành. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật cũng không tuân theo trí Nhất thiết của Thí ba-la-mật, cũng không thấy Thí ba-la-mật; Giới ba-la-mật, Nhẫn ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Thiền ba-la-mật cũng lại như thế. Cũng không hành trí nhất thiết của Bát-nhã ba-la-mật, cũng không thấy trí nhất thiết của Bát-nhã ba-la-mật; cũng không tuân theo trí Nhất thiết của bốn Ý chỉ, cũng không thấy trí Nhất thiết của bốn Ý chỉ; cũng không tuân theo trí Nhất thiết của bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo, cũng không tuân theo trí Nhất thiết của mười loại phương tiện, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của Phật, cũng không thấy trí Nhất thiết của bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo, mười loại phương tiện, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, cũng không thấy các pháp lực trí Nhất thiết của Như Lai. Hành Bát-nhã ba-la-mật như thế mới là hành. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật không hành trí Nhất thiết của Phật, Phật cũng không hành trí Nhất thiết; không hành trí Nhất thiết của đạo, đạo cũng không hành trí Nhất thiết. Vì sao? Vì Phật tức là trí Nhất thiết, trí Nhất thiết tức là Phật; đạo tức là trí Nhất thiết, trí nhất Thiết tức là đạo. Mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của Phật cũng lại như thế. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Hành Bát-nhã ba-la-mật, có thể hành như thế mới là hành. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật không hành cái có của sắc, cũng không hành cái không có của sắc; không hành cái có của thọ, tưởng, hành, thức, cũng không hành cái không có của thọ, tưởng, hành, thức; không chấp cái thường của sắc, cũng không chấp cái vô thường của sắc; không chấp cái khổ của sắc, không chấp cái vui của sắc; không chấp cái ngã của sắc, không chấp cái vô ngã của sắc; năm ấm, sáu suy, cũng lại như vậy. Không chấp năm ấm là không hay chẳng không, không chấp năm ấm là có tướng hay vô tướng, không chấp năm ấm là hữu nguyện hay vô nguyện. Khi hành Bát-nhã ba-la-mật, Bồ-tát nghó: “Việc tu hành của ta hôm nay cũng không có sự lãnh thọ, cũng không có cái để hành, cũng không có đối tượng nắm bắt, không có tu hành, cũng không không tu hành, không có thọ, cũng không phải không thọ, không có nắm bắt, cũng không phải không nắm bắt.” Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật mà có thể hành như thế mới là hành. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, không dùng Thí ba-la-mật, Giới ba-la-mật, Nhẫn ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Thiền ba-la-mật mà hành Bát-nhã ba-la-mật; không dùng địa vị không thoái chuyển để giáo hóa chúng sinh mà hành Bát-nhã ba-la-mật; không dùng việc làm thanh tịnh cõi Phật mà hành Bát-nhã ba-la-mật; không dùng mười Lực của Như Lai mà hành Bát-nhã ba-la-mật; không dùng bốn Vô sở úy, bốn phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của Phật mà hành Bát-nhã ba-la-mật; không dùng pháp cứu cánh không, không dùng pháp nội không, không dùng pháp ngoại không, không dùng pháp nội ngoại không, không dùng pháp không không, không dùng pháp đại không, không dùng pháp chân không, không dùng pháp hữu vi không, không dùng pháp vô vi không, không dùng pháp cứu cánh không, không dùng pháp không phẩm không, không dùng pháp bản tịnh không, không dùng pháp tự nhiên tướng không, không dùng pháp nhất thiết pháp không, không dùng pháp không không khởi, không dùng pháp không không diệt, không dùng pháp không vô hình, không dùng pháp không tự nhiên, không dùng pháp không hữu hình vô hình, không dùng vô bổn, không dùng pháp giới, không dùng bản tế mà hành Bát-nhã ba-la-mật. Vì sao? Vì khi Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, đối với các pháp không có sự phá hoại cũng không có sở kiến. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, không dùng thần túc mà hành Bát-nhã ba-la-mật, không dùng Thiên nhãn, không dùng Thiên nhó, không dùng Tha tâm thông, không dùng Túc mạng thông mà hành Bát-nhã ba-la-mật. Vì sao? Vì khi hành Bát-nhã ba-la-mật cũng không thấy Bát-nhã ba-la-mật, huống là thấy các thần thông của Bồ-tát! Hành Bát-nhã ba-la-mật mà hành được như thế mới là hành. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Khi Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, tâm không nghó: “Ta sẽ dùng thần túc đi đến hằng hà sa thế giới ở phương Đông để yết kiến lễ bái chư Như Lai”, cũng không tự nghó: “Đến tám phương, trên, dưới, cũng giống như vậy, không có gì sai khác.” Hành Bát-nhã ba-la-mật mà có thể hành như vậy mới là hành. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, không tự nghó: “Pháp mà chư Phật Thế Tôn giảng thuyết, ta sẽ dùng Thiên nhó nghe hết, ta sẽ quán sát thấy những điều mà tâm chúng sinh nghó, sẽ nhớ đời sống trong quá khứ. Ta dùng Thiên nhãn thấy các chúng sinh ngay nơi họ ở.” Đức Phật dạy: –Hành Bát-nhã ba-la-mật mà có thể hành như thế mới là hành. Như vậy, này Xá-lợi-phất! Người hành như vậy thì độ thoát được vô số các loài chúng sinh không thể kể xiết. Đại Bồ-tát có thể như thế thì ma và quyến thuộc không thể thuận tiện. Lại nữa, nhân dân các thế giới khác nhìn thấy và xa nghe đức của Bồ-tát đều làm lễ. Lại nữa, Thế Tôn ở hằng hà sa thế giới chư Phật ở phương Đông, thế giới chư Phật tám phương, trên, dưới đều ủng hộ Bồ-tát ấy, không bao giờ để rơi vào địa Thanh văn, Bích-chi-phật. Bốn vị Thiên vương cho đến trời A-ca-nị-tra đều ủng hộ vị Đại Bồ-tát ấy, không cần phải cầu tìm mà được sự thuận tiện. Khởi phát làm việc gì sẽ làm được, được phước hiện tại. Vì sao? Vì dùng tâm từ hướng đến chúng sinh. Như vậy, này Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật mà có thể hành như thế mới là hành. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật dùng chút ít lao nhọc đắc môn tổng trì và môn Tam-muội, mau chóng gần gũi Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác này, sinh ra bất cứ ở đâu cũng thường gặp Phật, không rời chư Phật, cho đến khi thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Đức Phật dạy: –Hành Bát-nhã ba-la-mật mà có thể hành như thế mới là hành. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, không tự nghó: “Chắc chắn là có các pháp. Đã gọi là pháp thì tất cả là ứng hợp hoặc không ứng hợp, là bình đẳng hay không bình đẳng.” Vì sao? Vì khi ấy hành giả không thấy các pháp nên hoặc không nên hành hoặc không hành, bình đẳng hoặc không bình đẳng! Đức Phật dạy: –Hành Bát-nhã ba-la-mật mà có thể hành như thế mới là hành. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, không tự nghó: “Ta sẽ mau chóng hiểu rõ cảnh giới các pháp, cho đến thành Phật, cũng không thành Phật. Vì sao? Vì đạt đến cảnh giới của pháp cũng không có cái giác.” Hành Bát-nhã ba-la-mật mà có thể hành như vậy mới là hành. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật không thấy các pháp và pháp giới có các tật bệnh cùng rỗng lặng. Hành Bát-nhã ba-la-mật mà có thể như thế mới là hành. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, không tự nghó các pháp và pháp giới có biết bao sự khác biệt, không thể kể xiết. Hành Bát-nhã ba-la-mật mà có thể hành như vậy mới là hành. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, không tự nghó đây là các pháp và cùng với pháp giới, quán cùng chẳng quán, thấy cùng chẳng thấy. Vì sao? Vì vị ấy không quán thấy các pháp sở hữu có thể giữ gìn, các pháp có thể phân biệt vậy. Hành Bát-nhã ba-la-mật mà có thể hành như thế mới là hành. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, không nghó pháp giới lo hành việc không, việc không không lo pháp giới. Hành Bát-nhã ba-la-mật mà có thể hành như thế mới là hành. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, không nghó nhãn giới là không của không, cũng không lo nhãn giới. Sắc không lo không, không không lo sắc. Sắc giới không lo không, không giới không lo sắc. Nhãn thức giới không lo không, thức giới không lo không của nhãn thức. Nhó, tỷ, thiệt, thân, ý, thanh, hương, vị, xúc, pháp cũng vậy. Tâm giới không lo không, không giới không lo tâm. Pháp giới không lo không, không giới không lo pháp. Thức giới không lo không, không giới không lo thức. Đức Phật dạy: –Này Xá-lợi-phất! Đó là đệ nhất hành, gọi là hành “không”. Đại Bồ-tát có thể hành không thì không rơi vào địa Thanh văn, Bích-chi-phật, có thể làm thanh tịnh cõi Phật, khai hóa chúng sinh, mau chóng đạt quả Phật Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Kể các hành về Bát-nhã ba-la-mật thì hành Bát-nhã ba-la-mật là hành tôn quý hơn hết, là lâu dài, là trên hết, là không đáy, là không sánh bằng. Vì sao? Vì hành Bát-nhã ba-la-mật là hành vô thượng, là hành Không, Vô tướng, Vô nguyện. Đại Bồ-tát nên hành như thế, nên giữ gìn như thế thì mau được đến gần chỗ thọ ký. Đại Bồ-tát mà hành hạnh này thì khai hóa cứu độ làm lợi ích cho vô số chúng sinh chẳng thể kể xiết. Nếu không nghó là ta hành Bát-nhã ba-la-mật thì chư Phật Thế Tôn sẽ thọ ký. Cũng không nghó là ta gần được thọ ký, ta sẽ làm thanh tịnh cõi Phật và sẽ được thành Phật Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, sẽ chuyển pháp luân. Vì sao? Vì vị hành giả ấy không chấp trước pháp giới, cũng không ở trong tịch tónh, không thấy pháp nào khác, chỉ hành Bát-nhã ba-la-mật. Không chấp trước là chư Phật Thiên Trung Thiên thọ ký cho ta chứng đắc quả Phật Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật không khởi tưởng nhân, không khởi tưởng ngã, không khởi tưởng thọ, không khởi tưởng chúng sinh, không khởi tưởng tri kiến. Vì sao? Vì nói về ngã, chúng sinh thì không khởi, không diệt, lại nói về nhân thì vốn không khởi, không diệt. Với cái không khởi không diệt ấy, chỗ nào hành Bát-nhã ba-la-mật? Đại Bồ-tát là người có thể hành như thế, không khởi sở thuộc, là hành Bát-nhã ba-la-mật. Chúng sinh là không, chúng sinh không đắc, chúng sinh tónh lặng là hành Bát-nhã ba-la-mật. Này Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát tu theo không là hạnh đệ nhất. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật mà có thể hành như thế thì có thể siêu vượt tất cả các hành, đặt mình vào chỗ đáng làm theo là hành đại Từ, hành đại Bi. Đại Bồ-tát hành pháp này thì không bao giờ khởi tâm tham lam, ganh ghét, không có tâm hủy giới, không có tâm sân hận, không có tâm lười biếng, không có tâm tán loạn, không có tâm tà trí. KINH QUANG TÁN <卷 id="81581548">QUYỂN 2 <詞 id="81581549">Phẩm 3: Hành không (Phần 2) Hiền giả Xá-lợi-phất bạch Phật: –Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật ấy từ chỗ nào qua đời mà sinh đến đây? Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật ấy từ cõi Phật ở phương khác qua đời sinh đến đây, hoặc trên cõi trời Đâu-thuật sinh trở lại nhân gian này, hoặc trong loài người sinh trở lại, nhanh chóng hành Bát-nhã ba-la-mật ấy. Người hành Bát-nhã ba-la-mật mà ngay đời này được thành tựu thì người ấy mau tiếp cận pháp môn thâm diệu, rồi sau đó đạt rốt ráo Bát-nhã ba-la-mật thường gặp chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, ở tại quốc độ của chư Phật, không rời các Ngài. Hoặc có Đại Bồ-tát nhất sinh bổ xứ từ cõi trời Đâu-thuật hóa thân vào đây. Không mất sáu pháp Ba-la-mật, sinh ra ở đâu đều đầy đủ tất cả môn tổng trì, mau chóng tiếp cận môn Tam-muội. Đức Phật dạy: –Này Xá-lợi-phất! Hoặc có Bồ-tát từ trong cõi người mạng chúng sinh trở lại nhân gian. Vị Bồ-tát này là Bồ-tát không thoái chuyển. Người nào thấy vị Bồ-tát này thì các căn định tónh nhưng không thể mau đạt định hành Bát-nhã ba-la-mật, cũng không được tiếp cận với các môn tổng trì, không có môn Tam-muội. Xá-lợi-phất lại hỏi: –Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật ấy khi mạng sống kết thúc thì sinh vào nơi nào? Đức Phật dạy: –Vị ấy mạng chung ở đây, thì sẽ du hành từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, có mặt ở chỗ chư Phật Thế Tôn, chưa từng rời các Đấng Thiên Trung Thiên. Hoặc có Đại Bồ-tát không có phương tiện thiện xảo, tu thiền thứ nhất cho đến thiền thứ tư, hành sáu pháp Ba-la-mật. Do pháp thiền này, nên sinh lên cõi trời Trường thọ. Giả sử, sau khi từ đó mạng chung được làm thân người, được chư gặp Phật Thế Tôn, các căn định tónh, nhưng không thông minh. Phật bảo Xá-lợi-phất: –Hoặc có Đại Bồ-tát hành thiền thứ nhất cho đến thiền thứ tư, hành Bát-nhã ba-la-mật nhưng không có phương tiện thiện xảo, nên sau đó xả thiện sinh vào cõi Dục. Đại Bồ-tát ấy tuy các căn định tónh nhưng không thông minh. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Hoặc có Bồ-tát hành thiền thứ nhất cho đến thiền thứ tư, không rời Bát-nhã ba-la-mật, quán không tuệ (Không vô biên xứ) mà nhập định, quán thức ý tuệ (Thức vô biên xứ) mà nhập định, quán vô dụng tuệ (Vô sở hữu xứ) mà nhập định, cho đến quán hữu tưởng vô tưởng (Phi tưởng phi phi tưởng xứ) mà nhập định. Vượt quá bốn trời đó, tu bốn Ý chỉ, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo, hành đại Từ bi, có phương tiện thiện xảo, sinh ra ở chỗ nào cũng không theo thiền giáo, không theo Từ, Bi, Hỷ, Hộ (xả), không thuận thiền Sắc giới, tự tại đối với chỗ sinh ra, thường gặp Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hiện tại, không lìa Bát-nhã ba-la-mật, trong kiếp Bạt địa (hiền kiếp) sẽ đắc thành quả Phật Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Hoặc có Đại Bồ-tát hành thiền thứ nhất cho đến thiền thứ tư, hành bốn Đẳng tâm, vượt qua bốn trời ấy, tu bốn Ý chỉ, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo, hành đại Từ bi, có phương tiện thiện xảo, nhưng không thiền định ở chỗ sinh ra, không được tự tại. Vị ấy sẽ sinh lại trong cõi Dục này ở dòng Quân tử, Quý nhân, Phạm chí, Trưởng giả để giáo hóa chúng sinh có được lợi ích. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Hoặc có Đại Bồ-tát hành thiền thứ nhất cho đến thiền thứ tư, hành bốn Đẳng tâm, quán không tuệ, thức tuệ, vô dụng tuệ, hữu tưởng vô tưởng, vượt khỏi bốn cõi trời ấy, tu ba mươi bảy phẩm, hành đại Từ bi, phương tiện thiện xảo, không theo thiền giáo, nếu có thác sinh thì vị ấy liền sinh lên cõi trời bốn đại Thiên vương, trời Đao-lợi, trời Diệm, trời Đâu-thuật, trời Ni-ma-la, trời Ba-la-ni-mật, sinh vào các cõi ấy để giáo hóa chúng sinh, làm nghiêm tịnh cõi Phật, gặp chư Phật Thế Tôn, không rời đạo giáo. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Hoặc có Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, có phương tiện thiện xảo, tu thiền thứ nhất, hành bốn Đẳng tâm, đến lúc mạng chung, sinh lên cõi trời Phạm thân, cõi trời Phạm cụ, cõi trời Phạm độ trước, cõi trời Đại phạm, ở cõi trời Phạm và Đại phạm kia, đi từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, ở cõi của chư Phật thành Phật Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác chuyển pháp luân. Vị Đại Bồ-tát ấy khuyến trợ chư Phật chuyển pháp luân. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Hoặc có bậc Đại Khai só nhất sinh bổ xứ, hành Bát-nhã ba-la-mật, dùng phương tiện thiện xảo hiện hành thiền thứ nhất đến thiền thứ tư, Tam-muội Từ, Bi, Hỷ, Xả, cho đến không tuệ, thức tuệ, vô dụng tuệ, hữu tưởng vô tưởng, vượt qua bốn cõi trời ấy, tu ba mươi bảy phẩm, hành đại Hỷ, hành Tam-muội Không, Tam-muội Vô tướng, Tam-muội vô nguyện. Vị Đại Khai só ấy du hành tự tại, diện kiến chư Phật Thế Tôn tại nơi mình sinh ra. Ở chỗ chư Phật đó, tịnh tu phạm hạnh, sinh lên cõi trời Đâu-thuật, ở nơi đây làm thầy mở đường dẫn lối làm việc độ thoát như con thuyền, các căn không tỳ vết, thường an vui tịch định, được vô số ức trăm ngàn cai chư Thiên quyến thuộc vây quanh, đều xuống nơi đây, đắc thành đạo Chánh chân vô thượng, thành bậc Chánh giác tối thượng. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Đại Khai só đắc sáu thần thông, không sinh vào cõi trời Dục, trời Sắc, trời Vô sắc, từ cõi Phật này du hành đến cõi Phật khác kính lễ chư Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Đại Khai só đắc sáu thần thông tự lấy làm an vui, từ cõi Phật này du hành đến cõi Phật khác. Ở cõi Phật sở tại, vị ấy không nghe tiếng Thanh văn, Duyên giác, cũng không nghe tên. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Đại Khai só đắc sáu thần thông tự lấy làm an vui, du hành khắp mười phương, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác. Ở cõi Phật mà vị ấy đã đến, thọ mạng cực kỳ dài lâu, không thể kể hết hạn lượng số kiếp. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Đại Khai só đắc sáu thần thông tự lấy làm an vui, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác. Ở cõi Phật đã đến, nếu không có Phật pháp và Thánh chúng thì vị ấy vì chúng sinh ở đó ca tụng, phân biệt, giảng giải các việc công đức của Phật pháp và Thánh chúng. Chúng sinh ngay khi nghe âm thanh Phật pháp và Thánh chúng, tâm ý vui mừng, sau khi mạng chung, đều sinh vào quốc độ hiện đang có Đức Phật Thế Tôn. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Đại Khai só từ khi mới phát tâm, không đắc thiền thứ nhất cho đến thiền thứ tư, bốn Đẳng phạm hạnh, bốn Định vô sắc, bốn Ý chỉ, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của Phật, chưa bao giờ sinh vào cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc, chỗ vị ấy sinh ra là nơi chúng sinh cầu danh dự. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Đại Khai só hành sáu Độ vô cực, từ khi mới phát ý, đạt đến tịch diệt, được không thoái chuyển, trụ địa Bất động chuyển, sẽ đạt đến đạo Vô thượng chánh chân, thành Chánh Giác tối thượng. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Đại Khai só từ khi mới phát ý, đắc đạo Vô thượng chánh chân, thành Chánh giác tối thượng, liền chuyển pháp luân, vì vô số loại chúng sinh không thể kể xiết, mở đường chỉ lối làm tăng thêm lợi ích, sau đó, đạt đến cảnh giới Vô dư Nê-hoàn, rồi nhập Nê-hoàn. Sau khi nhập Nê-hoàn, pháp của vị ấy trụ một kiếp, hoặc hơn một kiếp. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Đại Khai só từ khi mới phát ý hành Bát-nhã ba-la-mật vô cực, cùng với vô số ức trăm ngàn cai các Khai só, từ cõi Phật này du hành đến cõi Phật khác, nơi cõi Phật mà vị ấy sinh ra cảnh giới nghiêm tịnh. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Đại Khai só hành Bát-nhã ba-la-mật vô cực đạt đến bốn Thiền và bốn Đẳng tâm, định Vô sắc, tự lấy làm an vui. Vị ấy đắc thiền thứ nhất, từ thiền thứ nhất xuất, nhập định tịch nhiên, rồi từ định tịch nhiên xuất, cho đến thiền thứ tư; từ thiền thứ tư xuất, nhập định tịch diệt; từ định tịch diệt xuất,… cho đến thiền không vô lượng; từ thiền không vô lượng xuất, nhập thiền định diệt; từ thiền định diệt xuất cho đến nhập thiền định hữu tưởng vô tưởng; từ thiền định hữu tưởng vô tưởng xuất, nhập thiền định tịch diệt. Này Xá-lợi-phất! Đó là Đại Khai só hành Bát-nhã ba-la-mật vô cực, dùng phương tiện thiện xảo mà hiện việc hành định Tam-muội. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Đại Khai só đắc bốn Ý chỉ, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của Phật, nhưng không đắc quả Lưu bố, quả Vãng lai, quả Bất hoàn, quả Vô trước, quả Duyên giác. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Trí tuệ của quả Thanh văn, Duyên giác đó so với bậc Khai só đạt được pháp nhẫn thì biết Khai só là không thoái chuyển hành Bát-nhã ba-la-mật vô cực. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Đại Khai só hành sáu pháp Ba-la-mật vô cực, trụ sáu pháp Ba-la-mật vô cực, ở tại trời Đâu-thuật đầy đủ các không rốt ráo, vị Khai só ấy đều biết hết. Trong hiền kiếp, vị ấy ở trong số Đại só sẽ thành Phật. Phật bảo Xá-lợi-phất: –Đại Khai só đã đắc bốn Thiền và bốn Đẳng tâm, bốn Định vô sắc, bốn Ý chỉ, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý cho đến tám Thánh đạo, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của Phật. Có người hành Phật đạo nhưng không chứng đắc bốn đế, thì vị Đại Khai só ấy vì họ mà ứng tại Nhất sinh bổ xứ. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Đại Khai só hành sáu pháp Ba-la-mật vô cực, từ cõi Phật này qua cõi Phật kia, du hành khắp các cõi, đến nơi nào cũng giáo hóa chúng sinh, khiến trụ Phật đạo. Vị Đại Khai só ấy trải qua vô số kiếp chẳng thể kể xiết, đạt đến đạo Chánh chân vô thượng, thành bậc Chánh giác tối thượng. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Đại Khai só trụ sáu pháp Ba-la-mật vô cực, thường vì chúng sinh tuân tu tinh tấn, chưa từng phát ý, miệng nói việc vô ích. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Đại Khai só hành sáu pháp Ba-la-mật vô cực, thường tinh tấn muốn cứu chúng sinh, từ cõi Phật này du hành đến cõi Phật khác, khai hóa quần manh, khiến vượt khổ não, dứt sự tra khảo trong đường ác. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Đại Khai só trụ sáu pháp Ba-la-mật vô cực, hành Bố thí ba-la-mật vô cực, quyến thuộc vây quanh, dẫn dắt điều phục chúng sinh, khiến hướng đến an vui vónh viễn. Vị ấy đối với người đói thì cho ăn, người khát thì cho uống, không có y phục cho y phục, không có hương cho hương tạp, hương bột, cho giường nằm, nô tỳ, xe cộ, vàng bạc, bảy báu, hễ cầu xin thứ gì phục vụ cho sự sống không bao giờ trái ý người, mà theo nhu cầu của họ. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Đại Khai só hành Bát-nhã ba-la-mật vô cực, tự hóa thân mình giống như Như Lai nhập vào địa ngục, vì người trong ngục giảng nói kinh pháp. Và đối với hàng súc sinh, ngạ quỷ cũng phân biệt giảng nói ý nghóa. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Đại Khai só hành sáu pháp Ba-la-mật vô cực tự hóa thân tâm giống như hình Phật, qua hằng hà sa cõi Phật ở phương Đông, vì các chúng sinh giảng nói kinh pháp, kính lễ Như Lai làm tịnh cõi Phật. Người nghe kinh đều phát ý đạo, khắp cả mười phương thế giới chư Phật cũng giống như thế, Bồ-tát quán sát cõi nước chư Phật, chọn lấy cõi vừa ý rồi tự làm thanh tịnh, khiến cho nơi đó có năm sự vi diệu hơn cõi Phật kia. Đại Khai só thành tựu đầy đủ Nhất sinh bổ xứ. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Đại Khai só hành sáu Độ vô cực, tức thời đầy đủ ba mươi hai tướng Đại nhân, các căn vô cùng đẹp đẽ và đều thông đạt, do các căn đẹp đẽ này mà mọi người nhìn thấy đều ái kính, khiến cho vô số loài chúng sinh khởi tâm vui mừng, dần dần làm cho người ở trong tam độ được diệt độ. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Đại Khai só hành Bát-nhã ba-la-mật vô cực sẽ làm thanh tịnh thân, khẩu, ý. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Đại Khai só hành sáu pháp Ba-la-mật vô cực, các căn vô cùng đẹp đẽ, hình sắc đoan chánh, chẳng tự khen ngợi mình và không nói lỗi người khác, thường xét lỗi mình, chẳng nói khuyết điểm của kẻ khác. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Đại Khai só từ khi mới phát ý, hành Bố thí ba-la-mật vô cực, Trì giới ba-la-mật vô cực, đã được an trụ hai độ vô cực này, đã nắm giữ địa vị cực tôn quý là Chuyển luân thánh vương nhiều không thể kể xiết. Chuyển luân thánh vương ở chỗ nào cũng gặp vô số trăm ngàn chư Phật, cung kính đảnh lễ, phụng sự cúng dường chư Phật Thế Tôn. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Đại Khai só trụ sáu Độ vô cực, vì chúng sinh diễn bày sáu pháp để họ soi chiếu, rồi dùng ánh sáng chưa từng diệt mất này cho đến khi đạt đạo Vô thượng chánh chân, thành bậc Chánh giác tối thượng. Này Xá-lợi-phất! Như thế, Đại Khai só đã soi chiếu nhiều giáo pháp của chư Phật. Vì vậy, này Xá-lợi-phất! Đại Khai só hành Bát-nhã ba-la-mật vô cực thường nên tinh cần tu tập giữ gìn thân, khẩu, ý, khiến thân, khẩu, ý không có gì sai phạm. Hiền giả Xá-lợi-phất thưa: –Kính bạch Thế Tôn! Dựa vào đâu Đại Khai só tinh tấn tu các hạnh, giữ gìn thân, khẩu, ý không có điều gì sai phạm? Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Đại Khai só tâm tự nghó: “Đó là việc làm của thân, sự khởi tạo của thân có sự lập nên, đó là lời nói, đó là sáu tâm. Hễ tâm móng khởi là có sự thành lập.” Đó là Đại Khai só giữ gìn thân, khẩu, ý. Đại Khai só hành Trí tuệ vô cực, không thủ đắc thân, không thủ đắc lời nói, cũng không thủ đắc tâm. Giả sử Đại Khai só hành Bát-nhã ba-la-mật vô cực mà thủ đắc thân, khẩu, ý, bám chặt vào thân, khẩu, ý thì có tâm tham lam ganh ghét, lại cũng khởi tâm phạm giới, tâm sân hận, tâm lười biếng, tâm tán loạn, tâm tà trí. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Như thế, hành giả đó không xứng đáng được gọi là Khai só. Đại Khai só hành sáu pháp Ba-la-mật vô cực làm thanh tịnh sự cấu uế của thân, làm thanh tịnh sự cấu uế của miệng, làm thanh tịnh sự cấu uế của tâm, khiến không khuyết giảm mới gọi là Khai só. Hiền giả Xá-lợi-phất bạch Phật: –Thế nào là Đại Khai só làm thanh tịnh sự cấu uế của thân, miệng, ý? Đức Thế Tôn đáp: –Này Xá-lợi-phất! Giả sử Đại Khai só không tự đắc thủ thân, lại cũng không thủ đắc lời nói, ý nghó thì như thế Đại Khai só ấy đã làm thanh tịnh sự cấu uế của thân, khẩu, ý. Giả sử thân, khẩu, ý xấu ác thì đó là vì lợi dưỡng. Nếu làm cho Đại Khai só từ khi mới phát tâm, hướng về sự phụng hành mười điều thiện báo ứng, không phát ý Thanh văn, Duyên giác thì Đại Khai só như thế trừ sạch sự cấu uế của thân, khẩu, ý. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Đại Khai só hành Bát-nhã ba-la-mật vô cực mà muốn cầu Phật đạo, thì hành Bố thí ba-la-mật vô cực, Trì giới ba-la-mật vô cực, Nhẫn độ vô cực, Tinh tấn ba-la-mật vô cực, Nhất tâm độ vô cực. Ngài Xá-lợi-phất bạch Phật: –Thế nào là Đại Khai só muốn cầu Phật đạo? Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Giả sử Đại Khai só không thủ đắc việc làm của thân, lời nói của miệng và ý nghó của tâm, không thủ đắc Bố thí ba-la-mật vô cực, Trì giới ba-la-mật vô cực, Nhẫn độ vô cực, Tinh tấn ba-la-mật vô cực, Nhất tâm độ vô cực, Bát-nhã ba-la-mật vô cực, không thủ đắc Thanh văn, Duyên giác, không thủ đắc Khai só, không thủ đắc Phật đạo, thì đó là Đại Khai só cầu Phật đạo, vì đối tất cả pháp không có sở đắc. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Đại Khai só hành sáu Độ vô cực rồi, có chỗ đạt đến, không chỗ đạt đến cũng không thể được tiện lợi. Ngài Xá-lợi-phất bạch Phật: –Tại sao Đại Khai só hành sáu Độ vô cực rồi, có chỗ đạt đến, không chỗ đạt đến, cũng không thể được tiện lợi? Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Đại Khai só khi hành sáu Độ vô cực, không nghó sắc, không nghó thọ, tưởng, hành, thức; không nghó nhãn, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý; không nghó sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không nghó nhãn, không nghó sắc, không nghó nhãn sắc thức; không nghó nhó, không nghó thanh, không nghó nhó thanh thức; không nghó tỷ, không nghó hương, không nghó tỷ hương thức; không nghó thiệt, không nghó vị, không nghó thiệt vị thức; không nghó thân, không nghó tế hoạt, không nghó thân tế hoạt thức; không nghó ý, không nghó pháp, không nghó ý pháp thức; không nghó bốn Ý chỉ, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo; không nghó Bố thí ba-la-mật vô cực, Giới, Nhẫn, Tinh tấn, Nhất tâm, Bát-nhã ba-la-mật vô cực; không nghó mười Lực Như Lai, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật; không nghó Lưu bố, Vãng lai, Bất hoàn, Vô trước, Duyên giác, đạo Chánh chân vô thượng thành bậc Chánh giác tối thượng. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Đại Khai só hành như thế có thể đầy đủ sáu Độ vô cực, lợi ích dài lâu thì chỗ đạt đến, hay không chỗ đạt đến cũng không có thể tiện lợi. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Hoặc có Đại Khai só trụ Bát-nhã ba-la-mật vô cực, đầy đủ trí tuệ thông đạt, nhờ trí tuệ đó mà ý nghóa của việc làm không bao giờ lệch lạc, cho đến khi đạt đến vô dư, mọi người thấy không ghét bỏ, cũng không nghèo thiếu, cũng không chết mà là thọ sắc thiện, sở dó chết là tự hủy hoại thân Trời, Người, A-tu-luân. Ngài Xá-lợi-phất bạch Phật: –Cái gì là tuệ của Đại Khai só? Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Đại Khai só đã dùng thừa tuệ thấy hằng hà sa Đức Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác ở phương Đông, nghe kinh pháp các Ngài thuyết và thấy Thánh chúng, thấy cõi nước chư Phật thanh tịnh và pháp thanh tịnh. Sở dó Đại Khai só thuận theo tuệ ấy, không có tưởng Phật, không có tưởng Khai só, không có tưởng Thanh văn, không có tưởng Duyên giác, không vì thân mình mà có tưởng cõi Phật. Vì sao? Vì Đại Khai só hành Bố thí ba-la-mật vô cực, mà không thủ đắc Bố thí ba-la-mật vô cực; hành Giới, Nhẫn, Tinh tấn, Nhất tâm, Bát-nhã ba-la-mật vô cực mà không thủ đắc Giới, Nhẫn, Tinh tấn, Nhất tâm, Bát-nhã ba-la-mật vô cực, cho nên trí tuệ đạt được bốn Ý chỉ, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật. Đó là trí tuệ của Đại Khai só. Do trí tuệ này đầy đủ tất cả căn bản Phật pháp, đối với tất cả pháp cũng không nhớ nghó. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Bát-nhã ba-la-mật vô cực của Đại Khai só làm thanh tịnh năm nhãn. Những gì là năm nhãn? Đó là Nhục nhãn, Thiên nhãn, Tuệ nhãn, Pháp nhãn, Phật nhãn. Ngài Xá-lợi-phất bạch Phật: –Kính bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Khai só làm thanh tịnh Nhục nhãn? Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Hoặc có Đại Khai só dùng Nhục nhãn thấy bốn ngàn dặm, hoặc có Đại Khai só dùng Nhục nhãn thấy tám ngàn dặm, hoặc có Đại Khai só dùng Nhục nhãn thấy cả cõi Diêm-phù-đề, hoặc có Đại Khai só dùng Nhục nhãn thấy cả hai Diêm-phù-đề, hoặc có Đại Khai só dùng nhục nhãn thấy bốn thiên hạ, hoặc có Đại Khai só dùng Nhục nhãn thấy ngàn đại thiên thế giới, hoặc có Đại Khai só dùng Nhục nhãn thấy hai ngàn đại thiên thế giới, hoặc có Đại Khai só dùng Nhục nhãn thấy tam thiên đại thiên thế giới. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Đó là Đại Khai só đã đắc Nhục nhãn thanh tịnh. Ngài Xá-lợi-phất lại hỏi: –Thế nào là Đại Khai só đắc Thiên nhãn thanh tịnh? Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Cõi trời bốn đại Thiên vương với Thiên nhãn đều biết hết, trời Đao-lợi, trời Diệm, trời Đâu-thuật, trời Ni-ma-la, trời Ba-la-ni-mật, cho đến trời A-ca-nị-tra, Đại Khai só đều biết hết. Thiên nhãn của Đại Khai só ấy, từ cõi Tứ Thiên vương lên đến cõi trời A-ca-nị-tra, Khai só đều biết hết. Thiên nhãn của Đại Khai só, dùng Thiên nhãn này thấy chúng sinh trong hằng hà sa cõi Phật ở phương Đông, sau trước đều biết hết, cho đến có thể thấy hết sự sinh tử của chúng sinh trong thế giới chư Phật ở mười phương. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Đó là Thiên nhãn thanh tịnh của Đại Khai só. Ngài Xá-lợi-phất lại hỏi: –Kính bạch Thế Tôn, thế nào là Tuệ nhãn thanh tịnh của Đại Khai só? Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Tuệ nhãn của Đại Khai só không nghó pháp có sở hữu, hữu vi, vô vi, hữu hình, vô hình, pháp thế gian, độ pháp thế gian, hữu lậu, vô lậu. Tuệ nhãn của Đại Khai só thấy các pháp, đều thấy nghe vô lượng, vô số. Đó là Tuệ nhãn thanh tịnh của Đại Khai só. Ngài Xá-lợi-phất hỏi: –Kính bạch Thế Tôn! Thế nào là Pháp nhãn thanh tịnh của Đại Khai só? Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Đại Khai só dùng Pháp nhãn phân biệt biết người nào hành Tín, người nào hành Pháp, người nào hành Không, người nào hành Vô tướng, người nào hành Vô nguyện. Do môn giải thoát ấy mà đắc năm Căn, đắc Tam-muội Vô kiến. Đã đắc Tam-muội Vô kiến rồi thì khởi phát Bát-nhã ba-la-mật, đã đắc Bát-nhã ba-la-mật thì đoạn ba kết. Những gì là ba? Một là tham thân, hai là hồ nghi, ba là hủy giới. Đó là ba kết. Có khả năng trừ tham thân, không có hồ nghi, không hủy cấm giới thì không có kết, không có kết là bậc Lưu bố, vị này được đi trên đường Thánh. Đoạn trừ dâm dục, sân hận, nộ si mỏng thì gọi là người Vãng hoàn. Do con đường Thánh này gia tăng siêng năng, dâm dục, sân hận, dâm, nộ, si dứt, gọi là bậc Bất hoàn. Vị này ở trên đường thánh gia tăng siêng năng, ít sắc dục, không có sắc dục, vô minh, đoạn trừ, kiêu mạn, gọi là bậc Vô trước, là bậc hành không vậy. Hành môn giải thoát không mà đạt được năm Căn, đạt Tam-muội Vô kiến thì dùng Tam-muội Vô kiến, hưng phát tuệ độ, đạt đến Duyên giác. Vị này hành môn giải thoát Vô tướng đạt được năm Căn. Nói tóm lại vị này đạt đến vô trước. Đó là Pháp nhãn thanh tịnh của Đại Khai só. Giả sử Khai só có thể phân biệt hiểu rõ, hễ pháp có hợp hội thì đều trở về không rốt ráo, đã thấy các pháp hoàn toàn không thì đắc năm Căn. Đó là Pháp nhãn thanh tịnh của Khai só. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Đại Khai só phân biệt như thế này: Đây là Khai só mới phát ý, hành Bố thí ba-la-mật vô cực, Trì giới ba-la-mật vô cực, Nhẫn độ vô cực, Tinh tấn ba-la-mật vô cực, Nhất tâm độ vô cực, Bát-nhã ba-la-mật vô cực và (hành) tín căn, tinh tấn căn và căn đã hành đầy đủ phương tiện thiện xảo, thân mình thường trụ nơi căn bản thiện đức. Vị Khai só ấy sinh vào dòng dõi Quân tử, Quý tộc, Phạm chí, Trưởng giả, sinh lên cõi trời Tứ Thiên vương, trời Đao-lợi, trời Diệm, trời Đâu-thuật, trời Ni-ma-la, trời Ba-la-ni-mật. Sinh vào những cõi trời đó, ở nơi đâu cũng biểu hiện việc khai hóa chúng sinh, khiến cho quần manh đều nhập vào hạnh an lạc, làm thanh tịnh cõi Phật, trực tiếp gặp Đức Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác cúng dường phụng sự, không rơi vào địa Thanh văn, Duyên giác cho đến khi đạt đạo Chánh chân vô thượng thành Tối chánh giác. Đó là Pháp nhãn thanh tịnh của Đại Khai só. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Đại Khai só phân biệt thế này: Khai só nào đã được thọ ký đắc đạo Vô thượng thành Tối chánh giác, vị Khai só nào chưa được thọ ký đạo Chánh chân vô thượng, vị Khai só nào không tạo lập gì, vị Khai só nào là không thoái chuyển, vị Khai só nào chẳng phải không thoái chuyển, vị Khai só nào đầy đủ thần thông, vị Khai só nào chưa đủ thần thông, vị Khai só nào đầy đủ thần thông đi đến hằng hà sa cõi Phật ở phương Đông kính lễ chư Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác cúng dường phụng sự, vị Khai só nào chưa đắc thần thông, vị Khai só nào sẽ đắc thần thông, vị Khai só nào ở cõi Phật có thể làm thanh tịnh, vị Khai só nào ở cõi Phật không thể làm thanh tịnh, vị Khai só nào sẽ giáo hóa chúng sinh, vị Khai só nào không giáo hóa chúng sinh, vị Khai só nào được chư Phật Thế Tôn khen ngợi, vị Khai só nào sẽ được chư Phật Thế Tôn đứng gần ở trước, vị Khai só nào mà chư Phật Thế Tôn không hiện ở trước, vị Khai só nào thọ mạng có hạn lượng, vị Khai só nào thọ mạng không hạn lượng, vị Khai só nào có chúng Tỳ-kheo có hạn lượng, vị Khai só nào có chúng Tỳ-kheo không hạn lượng, vị Khai só nào đắc đạo Vô thượng Chánh chân thành Tối chánh giác dùng chúng Khai só làm Tăng, vị Khai só nào khi làm Phật không có chúng Khai só, vị Khai só nào sẽ do hạnh cần khổ mà thành, vị Khai só nào sẽ rốt ráo chung thủy cùng tận, vị Khai só nào không rốt ráo chung thủy cùng tận, vị Khai só nào sẽ ngồi dưới cây đạo tràng, vị Khai só nào không ngồi dưới cây đạo tràng, vị Khai só nào sẽ có ma thử thách, vị Khai só nào không có ma thử thách, vị Khai só nào như vậy… Này Xá-lợi-phất! Đó là Pháp nhãn thanh tịnh của Đại Khai só. Xá-lợi-phất bạch Phật: –Thế nào là Phật nhãn thanh tịnh của Đại Khai só? Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Cái nhân và đạo ý vô thượng mà Đại Khai só đã dùng là chánh thọ Tam-muội Kim cang dụ, đầy đủ tất cả các tuệ thông đạt: mười Lực của Như Lai, bốn Vô sở úy, bốn phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật, đại Từ, đại Bi, cho con mắt của Đại Khai só thông đạt hết tất cả Phật pháp, đối với tất cả Phật pháp, không có pháp nào là không thấy, không có pháp nào là không nghe, không có hạn lượng, không có gì là không thông đạt. Này Xá-lợi-tử, khi Đại Khai só đạt đến đạo Vô thượng Chánh chân thành Tối chánh giác mới có thể đầy đủ Phật nhãn thanh tịnh. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Như thế, Đại Khai só muốn đắc năm nhãn phải phụng hành sáu Độ vô cực. Vì sao? Vì sáu Độ vô cực đều nhập vào tất cả các pháp đức thiện, đều hiểu rõ pháp Thanh văn, pháp Duyên giác, pháp Khai só. Vì vậy, này Xá-lợi-phất! Hành giả hành pháp này, muốn đạt tâm bình đẳng phải gồm thâu tất cả các pháp, phải quán Bát-nhã ba-la-mật vô cực. Bát-nhã ba-la-mật vô cực là mẹ của năm nhãn. Đại Khai só học năm nhãn đó để đạt đến đạo Chánh chân vô thượng thành Tối chánh giác. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Hoặc có Đại Khai só tu thần thông, đạt đến Độ vô cực, có vô số việc nhân duyên thần thông trụ ở cõi này, dùng một thân biến hóa biết bao nhiêu hình, rồi trở lại làm một thân. Khi ấy vượt qua sự cách ngăn của tường vách, đồi núi cao không chướng ngại như trong hư không, đi trong nước như đi trong mây. Giống như chim bay trong bầu trời, vào ra đất không có kẻ hở như đi vào nước, đi trên nước như đi trên đất, thân tuôn ánh sáng như lửa lớn, oai thần lồng lộng của ánh sáng mặt trời, mặt trăng khó sánh kịp, dùng tay sờ mặt trời, mặt trăng và nắm bắt ánh sáng một cách tự tại, thân cao đến trời Phạm không vì thần túc mà tự cao ngạo, ý không khinh mạn cũng không nhớ nghó đã sở đắc thần túc, cũng không kiêu mạn buông lung, khi khởi lên cũng không có tưởng, cũng không nhớ nghó, cái không tự nhiên hưng khởi. Cái tự nhiên đó là tịch mịch. Cái Tự nhiên không đó cũng không có chỗ khởi. Lại như thế thì không phát thần túc và hạnh thần túc, chỉ có chuyên nghó các việc tuệ thông đạt. Đó là nguyên do chứng đắc Thần túc tuệ độ vô cực của Đại Khai só. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Thiên nhó thanh tịnh của Đại Khai só ấy vượt qua tai của trời người, nghe được tất cả các âm thanh của trời người, mà cũng chẳng tưởng nghó về loại Thiên nhó ấy, chẳng nghó rằng ta nghe tiếng, cũng không thủ đắc, cái không tự nhiên, tự nhiên vắng lặng. Cái tự nhiên ấy không chỗ khởi, cũng không chỗ đắc, cũng không chỗ nghó, cũng không tự nghó là ta đắc Thiên nhó, chỉ có chuyên nghó các việc thông đạt. Đó là Đại Khai só hành Bát-nhã ba-la-mật vô cực chứng đắc hạnh tuệ thần thông Thiên nhó. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Vị Khai só ấy biết sự hướng đến hư, thật của tâm niệm các chúng sinh khác, là có tâm dục, không có tâm dục; có tưởng dục, không có tưởng dục; có tâm sân hận, lìa tâm sân hận; có tưởng sân hận, lìa tưởng sân hận; có tâm ngu si, lìa tâm ngu si; có tưởng ngu si, lìa tưởng ngu si; có tâm ân ái, lìa tâm ân ái; có sở thọ, không sở thọ; hoặc đề cao, hoặc hạ thấp; tâm vội vã, tâm an tường; hoặc tâm rộng rãi, hoặc tâm nhỏ mọn; hoặc tâm định, hoặc tâm bất định; hoặc tâm giải thoát, hoặc tâm không giải thoát; tâm đã ô nhiễm, hay vừa, sẽ ô nhiễm; tâm đã nhiễm tưởng, hay vừa, sẽ nhiễm tưởng. Như sự việc xét biết rõ ràng, phân biệt hư thật. Có tâm vô thượng thì nghó đến vô thượng, cũng không có sở niệm, cũng không có sở tưởng. Vì sao? Vì do sự phát khởi của các tâm vô tâm. Các tâm không nghó tưởng thì lại nhớ nghó đời sống quá khứ. Nhờ trí tuệ soi sáng nên bằng thần thông biết đời quá khứ, gọi là túc mạng, tuệ sở chứng minh thần thông (túc mạng trí chứng thần thông). Với loại thần thông này, một niệm biết sự việc trăm ngày, sự việc trăm tháng, sự việc trăm năm, sự việc một kiếp, trăm kiếp, vô số kiếp, vô số trăm kiếp, vô số ngàn kiếp, vô số ức trăm ngàn cai kiếp thảy đều nhớ biết tận nguồn gốc, ở chỗ nào tên là gì, thuộc chủng tánh nào, cuộc sống như vậy, ăn uống như vậy, sống lâu như thế, thọ mạng dài ngắn, khổ lạc, thiện ác, từ nơi kia chết sinh đến nơi nọ, chúng sinh này, chúng sinh kia đã nói như thế… Khai só có thể nhớ biết vô số đời sống quá khứ nhưng cũng không nghó tưởng thần thông đã chứng đắc. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Bát-nhã ba-la-mật vô cực của Đại Khai só có khả năng nhớ biết như thế, đó là Túc mạng trí chứng thần thông. Đó là Hạnh tuệ thần thông. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Vị Đại Khai só ấy dùng Thiên nhãn thấy chúng sinh sinh tử, trước sau, căn lành, căn ác, điều họa, điều phúc, điều thiện, điều ác, hướng đến an lành, hướng đến khổ đau, vi diệu, ô uế, nguyên do tạo tác đều rõ biết hết. Thương những kẻ thân làm ác, miệng nói ác, tâm nghó ác, tạo đủ hạnh ác, bài báng Hiền thánh, phụng sự tà kiến. Do nhân duyên ấy khi tan thân mất mạng, hướng đến nơi khổ cực, đọa vào địa ngục. Hàng chúng sinh nhân từ, hiền thiện thì thân làm lành, miệng nói lành, tâm nghó lành, tạo đủ các hạnh tốt, không bài báng Hiền thánh, tuân phụng chánh kiến. Do duyên hạnh này cho nên khi thân hoại mạng chung, hướng đến nơi an ổn, sinh lên cõi trời. Rồi lại nhìn thấy tám phương, trên, dưới. Rõ thật đáng thương những kẻ thân làm ác, miệng nói ác, tâm nghó ác, tạo đủ các hạnh ác, bài báng Hiền thánh, phụng sự tà kiến. Do nhân duyên này, khi thân hoại mạng chung, hướng đến chỗ khổ cực, đọa vào địa ngục. Nhưng hàng chúng sinh nhân từ hiền thiện thì thân làm lành, miệng nói lành, tâm nghó lành, tạo đủ các hạnh lành, không bài báng Thánh hiền, tuân phụng chánh kiến. Do nhân duyên hạnh này, khi thân hoại mạng chung, hướng đến nơi an ổn, sinh lên cõi trời nhìn thấy tám phương, trên, dưới. Khi đã đạt thần thông thì tự nhiên nhìn thấy mười phương, không có gì ngăn che. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Vị Đại Khai só ấy đã đạt đến chỗ biết tâm niệm của người một ngày, trăm ngày, một năm, trăm năm, một kiếp, trăm kiếp, ngàn kiếp, vạn kiếp, ức kiếp, vô số kiếp, vô số ức ức trăm ngàn kiếp, cho đến vô hạn. Vô lượng tâm niệm chẳng thể kể xiết trong các cõi Phật ở nơi mười phương thế giới, đều biết hết không ngăn che đó gọi là Túc mạng trí chứng thần thông biết tâm niệm người khác của Đại Bồ-tát. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Vị Đại Khai só tự biết thân từ đâu đến một đời, trăm đời, ngàn đời, vạn ức đời, vô số ức đời, một kiếp, trăm kiếp, ngàn kiếp, vạn kiếp, ức kiếp, vô số ức kiếp, thiện ác, họa phúc, chỗ thiện ác hướng đến, cha mẹ, anh em, dòng họ, vợ con, thế lực, tôn quý, giàu có, an vui, nghèo hèn, khốn khổ, ngu, trí, bế tắc, thông đạt, tên, dòng họ. Đó là Túc mạng trí chứng thông, biết thân từ đâu đến của Đại Khai só, tự nhiên xem thấy năm đường trong mười phương không bị ngăn che. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Đại Khai só đạt Lậu tận tuệ chứng thần thông không rơi vào địa Thanh văn, Duyên giác, cũng không tưởng nghó pháp khác, cũng không tưởng nghó ta sẽ đạt đạo Chánh chân vô thượng thành Tối chánh giác, cũng không dựa vào Tuệ thần thông lậu tận mà khởi niệm kiêu mạn, buông lung. Nếu hiểu mười Lực của Như Lai, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật, mười hai nhân duyên không có cội gốc, ba mươi bảy phẩm không manh mối mà giáo hóa tất cả, thì này Xá-lợi-phất! Như vậy là đầy đủ Thần thông Bát-nhã ba-la-mật vô cực của Đại Khai só, đã đầy đủ rồi thì có lợi ích lâu dài, mới đạt đến đạo Chánh chân vô thượng thành Tối chánh giác. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Hoặc có Đại Khai só hành Bát-nhã ba-la-mật vô cực, trụ Bố thí ba-la-mật vô cực, thấy có thể làm nghiêm tịnh các con đường thông suốt chân không cứu cánh. Từ sự hưng thọ đó mà hành ân đức. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Hoặc có Đại Khai só hành Bát-nhã ba-la-mật vô cực, trụ Trì giới ba-la-mật vô cực, làm nghiêm tịnh hoàn toàn thông đạo chân không rốt ráo, điều không tin thì chẳng tin, việc không khởi thì chẳng khởi, hưng lập ý nghóa vónh viễn không chỗ sinh. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Hoặc có Đại Khai só hành Bát-nhã ba-la-mật vô cực, trụ Nhẫn độ vô cực, làm nghiêm tịnh hoàn toàn các thông đạo chân không rốt ráo, hưng khởi nhẫn nhục, không có sân hận, hiểu rõ vốn không, tất cả đều không. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Hoặc có Đại Khai só hành Bát-nhã ba-la-mật vô cực, trụ Tinh tấn ba-la-mật vô cực, làm nghiêm tịnh hoàn toàn các thông đạo chân không rốt ráo, thân ý tinh tấn chuyên chú vào một nghóa, việc thực hiện tinh tấn không có các lậu, hưng lập sự tinh tấn này. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Hoặc có Đại Khai só hành Bát-nhã ba-la-mật vô cực, trụ Nhất tâm độ vô cực, làm nghiêm tịnh hoàn toàn các thông đạo chân không rốt ráo, tâm ý không loạn động, không cao, không thấp, không khởi, không diệt, hưng lập thiền này. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Hoặc có Đại Khai só hành Bát-nhã ba-la-mật vô cực, trụ Bát-nhã ba-la-mật vô cực, làm nghiêm tịnh hoàn toàn các thông đạo chân không rốt ráo, trừ tâm tà kiến, khuyến phát vô trí, hưng lập cái không cho. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Như vậy là Đại Khai só hành Bát-nhã ba-la-mật vô cực, trụ sáu pháp Ba-la-mật vô cực, làm nghiêm tịnh hoàn toàn các thông đạo chân không rốt ráo, đến hay không đến như không đến đi, cho không người nhận, không bố thí, không tham lam, không giới, không phạm, không nhẫn không giận, không tinh tấn, không biếng lười, không thiền không loạn, không trí không ngu, vật bố thí rồi, không nghó đến, cũng không tưởng nhớ, bố thí, tham lam; trì giới, phạm giới; nhẫn nhục, sân hận; tinh tấn, biếng lười; nhất tâm, tán loạn; trí tuệ, ngu si; không nghó đến mắng nhiếc, chẳng nhớ đến khen ngợi, có làm việc gì cũng không nghó tưởng, không phát khởi, không sân hận, không nhục mạ, cũng không nghó tưởng lời lẽ đã nói, chẳng nghó có, cũng chẳng nghó không. Đức Phật dạy: –Này Xá-lợi-phất! Đại Khai só ấy được tôn xưng là danh đức hành Bát-nhã ba-la-mật vô cực. Thanh văn, Duyên giác không thể sánh kịp. Khai só đầy đủ những đức này rồi, giáo hóa chúng sinh, làm nghiêm tịnh cõi Phật, hành đại Từ, đại Bi, đắc các tuệ thông đạo. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Đại Khai só hành Bát-nhã ba-la-mật vô cực, thường phát tâm bình đẳng hướng đến chúng sinh, đã có thể phát tâm bình đẳng hướng đến chúng sinh rồi thì đạt đến bình đẳng đối với các pháp, đã có thể đạt được sự bình đẳng đối với các pháp rồi thì có thể lập được sự bình đẳng với các chúng sinh. Ngay tức khắc tất cả các pháp đều hiện hữu, được chư Phật Thế Tôn nhìn thấy thương mến và các Khai só, tất cả Thanh văn, Duyên giác trông thấy khâm phục. Lại nữa, những nơi sinh ra, mắt chưa từng thấy việc chẳng nên, tai chưa từng nghe tiếng ác, mũi chưa từng ngửi mùi hôi, miệng chưa từng nếm vị dở, thân không thô cứng, tâm không pháp tà. Đại Khai só hành Bát-nhã ba-la-mật vô cực có thể như thế thì không bao giờ quên mất đạo Chánh chân vô thượng. Khi Đức Phật nói về phẩm Bát-nhã ba-la-mật vô cực này, có ba trăm vị Tỳ-kheo tu hành dùng anh lạc rải cúng dường chư Phật, phát tâm đạo Chánh chân vô thượng. Bấy giờ Đức Phật mỉm cười. Hiền giả A-nan liền rời chỗ ngồi đứng dậy, sửa y phục, gối phải quỳ xuống đất, chắp tay bạch Phật: –Vì nhân duyên gì mà Ngài cười? Đã cười thì chắc có ý! Đức Phật bảo A-nan: –Ba trăm Tỳ-kheo này sáu mươi mốt kiếp nữa sẽ đắc quả Phật, hiệu là Đại Anh Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, thiện Thiện Thệ, Vô Thượng Só, đạo pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật Chúng Hựu. Ở đây, họ mạng chung, sẽ thường sinh vào cõi nước của Đức A-súc Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác. Sáu vạn trời Dục hành sẽ ở vào thời Phật Di-lặc xuất gia làm Sa-môn, thừa Thánh chỉ của Phật, vào thời đó, tìm thấy ngàn Phật du hành trong chúng sinh, tám phương, trên dưới cũng lại như vậy, đều thấy ngàn Phật và các cõi nước. Lại thấy thế giới Kham nhẫn này nghiêm tịnh không nhơ bẩn như thế giới của chư Phật Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác. Khi ấy hàng vạn người đều tự phát nguyện: –Hiện nay chúng con phát khởi ý muốn du hành nước Phật hiện tại. Lúc đó, Đức Phật biết tâm niệm của các thiện nam tử kia, lại mỉm cười. Ngài A-nan lại quỳ xuống hỏi Đức Phật: –Do nhân duyên gì mà Ngài mỉm cười? Ngài cười chắc chắn là có ý! Đức Phật bảo A-nan: –Hiện ông có thấy vạn người lập nguyện chăng? Đáp: –Dạ có! Thế Tôn bảo: –Vạn người này khi mạng chung sẽ sinh về nước Phật, họ chưa từng xa rời chư Phật Như Lai, về sau đắc quả Phật, hiệu là Nghiêm Tịnh Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác.  <詞 id="81581550">Phẩm 4: Thán Đẳng Khi ấy Hiền giả Xá-lợi-phất, Đại Mục-kiền-liên, Đại Ca-diếp, ba vị này và vô số Tỳ-kheo thánh thông minh đạt khác, cùng các Đại Bồ-tát, thiện nam, tín nữ đều bạch Phật: –Kính bạch Thế Tôn! Hành như thế là hành Ba-la-mật đại độ vô cực vi diệu không ai hơn của Đại Bồ-tát, là Ba-la-mật tối siêu không ai có thể vượt qua, là Ba-la-mật rất tôn quý có người hành trì, là Ba-la-mật thế lực danh tiếng không gì có thể sánh kịp, là Ba-la-mật vô thượng không gì có thể vượt qua, là Ba-la-mật không gì so sánh sở độ vô cực, là Ba-la-mật vô song không độ vô cực của Đại Bồ-tát. Kính bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ấy đã dùng tướng làm không mà đến bờ giác, dùng Ba-la-mật vô tưởng mà đạt vô niệm, dùng Ba-la-mật vô nguyện mà đạt vô trước. Tất cả các pháp là không, vì tất cả đều tự nhiên vô sở hữu. Ba-la-mật không vì tự nhiên không. Tất cả đức đầy đủ Ba-la-mật-đã độ vô cực. Kính bạch Thế Tôn! Tất cả đức của các Đại Bồ-tát đều đầy đủ Bát-nhã ba-la-mật, không ai có thể sánh được. Ba-la-mật vô sở hành là Ba-la-mật của Đại Bồ-tát. Khi ấy Đại Bồ-tát có thể ngang bằng bậc vô đẳng, ban cho bất cứ cái gì cũng đều đầy đủ. Như vậy là đã đạt đến Ba-la-mật-đẳng vô đẳng, đã có thể đạt được Đẳng vô đẳng rồi thì đạt Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Thí ba-la-mật có thể đưa về Đẳng vô đẳng, Giới, Nhẫn, Tinh tấn, Thiền, Bát-nhã ba-la-mật là việc phải làm giống như Bồ-tát hành Thí ba-la-mật. Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Chẳng những chỉ có Bát-nhã ba-la-mật mới có thể đạt được Đẳng vô đẳng mà còn chân pháp như sắc, thọ, tưởng, hành, thức, hoặc chuyển pháp luân Đẳng vô sở đẳng. Chư Phật Thiên Trung Thiên quá khứ, chư Phật vị lai, hiện tại đều hành Bát-nhã ba-la-mật, là những bậc chuyển pháp luân Đẳng vô đẳng. Vì vậy, bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát muốn vượt qua tất cả hiện tướng của các pháp thì nên hành Bát-nhã ba-la-mật. Đại Bồ-tát vì người hành Bát-nhã ba-la-mật mà làm lễ. Chư Thiên, loài người, A-tu-luân đều vì người hành Bát-nhã ba-la-mật mà cúi đầu làm lễ. Bấy giờ Đức Phật liền bảo với vô số các Thanh văn, Đại Bồ-tát: –Đúng vậy, đúng vậy! Thiện nam tử, nên đảnh lễ Đại Bồ-tát. Nếu có ai hành Bát-nhã ba-la-mật thì chư Thiên, loài người, A-tu-luân đều đến quy mạng. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Hoặc Đại Bồ-tát hiện thế gian, hiện làm người thế gian, hoặc ở cõi trời, hiện dòng họ Quân tử, Phạm chí, Trưởng giả, hoặc hiện làm Chuyển luân thánh vương, bốn Thiên vương, trời Đao-lợi, trời Diệm, trời Đâu-thuật, trời Ni-ma-la, trời Ba-la-ni-mật, trời A-ca-nị-tra, hoặc hiện xuất thế gian như Tu-đà-hoàn, Tu-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi-phật, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hiện ra ở thế gian. Đức Phật dạy: –Vì vậy, này Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát mà hiện đến đâu, nếu có được đồ ăn uống, y phục, giường, đồ nằm, nhà cửa, đèn sáng, ngọc châu minh nguyệt, thủy tinh báu, lưu ly, ngọc bích, vàng bạc, san hô, hổ phách, xa cừ, mã não đều dùng để cấp phát cho chúng sinh. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Bồ-tát không chỉ vì vậy mà xuất hiện thế gian, lại còn dùng lời nói cứu hộ thế gian khiến được an ổn. Những cuộc hội họp kỹ nhạc của chư Thiên, nhân gian đều là do Đại Bồ-tát mang đến thể hiện. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát có đối tượng hành trì là sáu pháp Ba-la-mật thì an trụ sáu pháp Ba-la-mật, muốn khuyên chúng sinh bố thí thì tự mình Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Nhất tâm, Trí tuệ cũng lại như thế. Vì vậy, này Xá-lợi-phất! Để khuyên quần manh tu Bát-nhã ba-la-mật, Đại Bồ-tát tạo sự an lạc tất cả loài chúng sinh.  <詞 id="81581551">Phẩm 5: Thọ Ký Bấy giờ Đức Thế Tôn đưa lưỡi ra che khắp cả tam thiên đại thiên thế giới. Từ lưỡi ấy phát ra vô số ánh sáng rực rỡ, chiếu soi thế giới chư Phật ở phương Đông. Ngay khi đó hằng hà sa cõi nước chư Phật ở phương Đông, có vô số các Đại Bồ-tát, chẳng thể tính biết, thấy ánh sáng ấy. Ở nơi cõi Phật của mình, ai nấy đều tự đi đến thưa hỏi chư Phật Thế Tôn về ý nghóa này: –Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Đó là oai thần gì mà khiến cho cõi nước này ánh sáng chiếu khắp? Khi đó chư Như Lai ở nước ấy đều bảo với các Đại Bồ-tát: –Này thiện nam! Muốn biết sự biến hiện này thì hãy nghe, ở phương Tây, cách đây hằng hà sa thế giới chư Phật, có một cõi Phật tên là Kham nhẫn, Đức Phật hiệu là Thích-ca Văn Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đưa lưỡi ra và ánh sáng chiếu đến hằng sa thế giới của Thế Tôn ở phương Đông và làm cho chiếu sáng khắp mười phương. Sở dó như vậy là bởi Phật vì chư Đại Bồ-tát giảng Bát-nhã ba-la-mật. Khi ấy các Đại Bồ-tát ở nước đó đều bạch Phật: –Kính bạch Đại Thánh! Chúng con muốn đến đảnh lễ quy mạng Đức Thích-ca Văn Như Lai và các Đại Bồ-tát, cũng muốn nghe Bát-nhã ba-la-mật. Đức Phật đó bảo: –Hãy đi đi! Các thiện nam, điều mong muốn của các ông đã chọn đúng lúc. Các Đại Bồ-tát thưa thỉnh và Đức Phật chấp thuận. Mỗi vị tự cầm các lọng, cờ phướn, hương hoa, đồ trang sức, hương tạp, hương bột, hoa vàng, hoa bạc, đi đến chỗ Thích-ca Văn Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác cúi đầu sát chân Phật, rồi dùng các lọng, cờ phướn, hương hoa, đồ trang sức, hương tạp, hương bột, hoa vàng, hoa bạc đã mang theo tung rải lên Đức Phật và các Bồ-tát, Thanh văn. Tám phương, trên dưới, vô số các Đại Bồ-tát chẳng thể tính biết, ở ngay trong cõi nước của mình đều cùng bạch Phật: –Ánh sáng oai thần này từ đâu chiếu đến? Chư Phật bảo: –Có Đức Phật hiệu là Thích-ca Văn Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác phát ra đức ánh sáng nơi lưỡi, chiếu sáng hằng hà sa cõi nước chư Phật trong mười phương. Đó là ánh sáng oai thần của Ngài. Khi ấy các Bồ-tát đều thưa với Phật kia là họ muốn đến kính lễ Thích-ca Văn và gặp gỡ các Bồ-tát, các Đức Phật ấy nói: –Các thiện nam, hãy đi đi! Các ông đã chọn thời điểm đúng như ý muốn! Các chúng Bồ-tát đều cùng mang theo đồ cúng dường đi đến chỗ Thích-ca Văn Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác cúi đầu làm lễ, dâng đồ cúng dường lên, rồi lui ngồi bên nghe Phật dạy. Khi ấy các Thiên nhân trên cõi trời Tứ đại Thiên vương, trời Đao-lợi, trời Diệm, trời Đâu-thuật, trời Ni-ma-la, trời Ba-la-ni-mật, cho đến trời A-ca-nị-tra đều mang hoa trời, hương trời, hương bột trời, hương tạp, hoa sen xanh, hoa sen hồng, hoa sen vàng, hoa sen trắng, dùng toàn hương hoa vi diệu cõi trời, ai nấy đều cầm trên tay đi đến chỗ Phật. Khi ấy chư Thiên và các vị Bồ-tát đều mang hương hoa, hương tạp, hương bột rải lên cúng dường Đức Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác. Hương hoa rải cúng ở trên hư không hóa thành cung điện ở bốn phương trong hư không, hướng về bốn mặt, vi diệu phân minh, đều làm bằng các thứ báu mà ai cũng ưa thích. Hội chúng cả ức trăm ngàn cai đều cùng chắp tay tự quy mạng Phật, rồi hỏi Thế Tôn: –Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Thân chúng con vào thời vị lai, nguyện được pháp lợi cũng như vậy, như Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, các chúng Thanh văn cũng sẽ như vậy, vì các chúng hội giảng thuyết kinh pháp như hôm nay Ngài đã diễn nói. Bấy giờ Thế Tôn biết tâm niệm của các thiện nam tử, thấy tất cả pháp vónh viễn không chỗ khởi, cũng không chỗ hành, tất cả các pháp không chỗ đạt được, thấy sự chịu đựng của tâm, Ngài liền mỉm cười. Hiền giả A-nan tiến tới trước bạch Phật: –Vì sao Đức Phật cười? Ngài cười chắc có ý! Đức Phật bảo A-nan: –Nay tại chúng hội này, có ức trăm ngàn cai người đều đạt được pháp Nhẫn bất khởi. Vào thời vị lai, hơn sáu mươi tám ức kiếp họ sẽ thành Phật, hiệu là Giác Hoa Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, kiếp tên là Hoa sự, thế giới tên là Nghiêm hoa.  <詞 id="81581552">Phẩm 6: Phân Biệt không Bấy giờ Đức Phật bảo Hiền giả Tu-bồ-đề: –Ông có thể vì các Đại Bồ-tát mà tuyên nói Bát-nhã ba-la-mật. Các Đại Bồ-tát nhờ đó được phát sinh. Khi ấy các chúng Đại Bồ-tát, Thanh văn và Thiên nhân đều nghó: “Tu-bồ-đề tự dùng biện tài của mình vì các Đại Bồ-tát nói Bát-nhã ba-la-mật hay là nương Thánh chỉ của Đức Phật mà nói?” Hiền giả Tu-bồ-đề biết được tâm niệm của các chúng Đại Bồ-tát, Thanh văn, chư Thiên và người nên nói với Hiền giả Xá-lợi-phất: –Đệ tử của Phật có nói ra điều gì phân biệt rõ ràng, tất cả đều nương vào oai đức của Như Lai. Pháp mà Đức Như Lai đã nói ra, tất cả pháp đó vốn không tranh cãi. Các thiện nam tử nên học pháp này. Người chứng được pháp học này thì đều thuận theo cảnh giới tuệ chứng của Như Lai. Các Đại Bồ-tát nói Bát-nhã ba-la-mật chẳng phải cảnh giới của Thanh văn, Bích-chi-phật. Vì sao? Vì nói pháp đúng lúc thì không ai là không vui mừng. Xá-lợi-phất nói với Tu-bồ-đề: –Đó gọi là Bồ-tát. Khi ấy Tu-bồ-đề bạch với Thế Tôn: –Bạch Đức Thiên Trung Thiên! Vì sao gọi Bồ-tát là Bồ-tát? Ở trong pháp này, do nhân duyên gì mà có tên gọi Bồ-tát? Con cũng chẳng thấy pháp Bồ-tát, sao gọi là Bồ-tát. Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên, con mãi không thấy Bát-nhã ba-la-mật và Bồ-tát thì làm sao nói Bát-nhã ba-la-mật của Đại Bồ-tát? Phải dùng nghóa nào để các Đại Bồ-tát giảng nói Bát-nhã ba-la-mật nhằm khai mở dẫn dắt? Đức Phật bảo Hiền giả Tu-bồ-đề: –Gọi Bát-nhã ba-la-mật và Bồ-tát chỉ là giả hiệu mà thôi. Cái danh ấy là vô danh. Cái danh ấy chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở giữa, hai bên. Ví như người mà Tu-bồ-đề thấy chỉ là giả hiệu tạm mượn. Người ấy cũng không có tên, pháp ấy không khởi, không diệt, do nhân duyên hòa hợp, tùy theo thế tục mà gọi tên. Nhưng âm thanh, ngôn ngữ và ngã, nhân, thọ mạng, các loài chúng sinh bò bay máy động, việc làm ra, việc tạo lập, việc hưng khởi, khuyến trợ, cái nhìn, cái thấy, cái biết, cái quán sát, tất cả đều là pháp giả hiệu, tất cả đều không khởi, không diệt. Những lời có thể dạy bảo cho chư Thiên con người cũng như vậy. Này Tu-bồ-đề! Như thế kể cả cái tên gọi Bát-nhã ba-la-mật và Bồ-tát đều là giả hiệu, đều không khởi không diệt, cho đến cái tên gọi Thiên Trung Thiên cũng như vậy không khác. Này Tu-bồ-đề! Ví như cái có bên trong cùng sắc thân của ta đây cũng là pháp giả danh, vì giả mượn tạo ra cái danh tự đó vậy. Pháp giả hiệu đó không khởi không diệt. Muốn được rõ sự hòa hợp nhân duyên này thì có tiếng nói. Pháp thọ, tưởng, hành, thức là giả hiệu, danh của pháp ấy chẳng khởi chẳng diệt. Như nhờ nhân duyên biểu hiện giả mượn mà có ngôn ngữ âm thanh. Này Tu-bồ-đề! Như thế thì gọi Bát-nhã ba-la-mật và Bồ-tát thì tên gọi Bồ-tát pháp ấy cũng chẳng khởi chẳng diệt. Gọi là Bát-nhã ba-la-mật của Bồ-tát và tên Bồ-tát đều là nương vào nhân duyên, nương vào danh hiệu khác mà có tên gọi đó. Nhãn thì mơ màng hư tịch cho đến pháp giả danh là cái chữ mượn, cũng đều chẳng khởi chẳng diệt, do nhân duyên mà giả gọi có ngôn ngữ âm thanh, cho nên gọi nhãn là không. Nhãn ấy không ở trong, không ở ngoài, không ở giữa. Nhó, tỷ, thiệt, thân, ý cũng lại như vậy. Pháp là giả mượn, pháp ấy chẳng khởi chẳng diệt, do nhân duyên hòa hợp mà có ngôn ngữ âm thanh. Cái mà gọi là tâm đó thì nó chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, cũng chẳng ở giữa. Gọi là sắc thì, này Tu-bồ-đề! Đó là pháp giả hiệu, chẳng khởi, chẳng diệt, cũng chẳng ở trong, ngoài, chẳng ở giữa. Cái nhãn giới ấy cũng là giả hiệu, do pháp mà mượn danh. Gọi nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới, nhó giới, thanh giới, nhó thức giới, tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới, thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới, thân giới, tế hoạt (xúc) giới, thân thức giới, ý giới, pháp giới, ý thức giới, đều là do pháp giả hiệu mà có ngôn ngữ âm thanh. Pháp ấy không trong, không ngoài, cũng không ở giữa. Này Tu-bồ-đề! Như vậy, gọi Bồ-tát và Bát-nhã ba-la-mật là do pháp mà mượn tên gọi. Tên gọi đó chẳng khởi chẳng diệt, do sự nhờ mượn làm tên mà có ngôn ngữ âm thanh. Bát-nhã ba-la-mật và Bồ-tát, danh hiệu ấy không trong, không ngoài, cũng không ở giữa. Này Tu-bồ-đề! Vhí như gọi thân của ta là do chữ cái đầu, mà cái tên ấy chỉ là ngôn ngữ âm thanh. Lại có tên như là cổ, ót, năm ấm, hai tay, lưng, rốn, sườn, hai đầu gối, hai chân… đều chỉ là mượn tên thôi, nhờ pháp nhân duyên âm thanh ngôn ngữ “đầu” làm tên, pháp mà nói ra đó chẳng khởi chẳng diệt, những cái sở hữu kể ra đó đều là giả mượn rồi lập nên ngôn ngữ âm thanh, cái tên mà kể ra đó chẳng khởi, chẳng diệt, không trong, không ngoài, cũng không ở giữa. Này Tu-bồ-đề! Như vậy là cái tên Bát-nhã ba-la-mật ba-la-mật, Bồ-tát đều là giả hiệu, pháp ấy chẳng khởi, chẳng diệt, không trong, không ngoài, không ở giữa. Này Tu-bồ-đề! Ví như ở ngoài có cỏ cây, nhánh lá, hoa quả. Tất cả những thứ nêu ra đó đều là giả hiệu mà có ngôn ngữ âm thanh. Cái danh ấy là vô danh, cái danh ấy chẳng khởi, chẳng diệt, giả mượn làm danh mà có ngôn ngữ âm thanh. Cái danh nêu ra đó không trong, không ngoài, cũng chẳng ở giữa. Này Tu-bồ-đề! Như vậy chữ Bát-nhã ba-la-mật và Bồ-tát, tất cả đều là pháp giả hiệu. Pháp ấy chẳng khởi chẳng diệt. Cái danh ấy không trong, không ngoài, chẳng ở giữa. Này Tu-bồ-đề! Ví như chư Phật Thế Tôn quá khứ đều cùng giả truyền danh hiệu, vị lai, hiện tại cũng như vậy. Này Tu-bồ-đề! Ví như âm vang của tiếng gọi. Lại như ảnh trong gương, huyễn hóa, huyễn cảnh. Như Lai giảng nói tất cả các pháp đều giống như hóa, chỉ giả có danh hiệu. Cái danh hiệu ấy chẳng khởi, chẳng diệt, nương mượn làm danh mà có âm thanh ngôn ngữ. Cái danh ấy không trong, không ngoài, cũng chẳng ở giữa. Này Tu-bồ-đề! Như vậy, gọi Bát-nhã ba-la-mật của Bồ-tát chỉ là giả hiệu thôi. Danh hiệu ấy chẳng khởi, chẳng diệt, không trong, không ngoài, cũng chẳng ở giữa. Này Tu-bồ-đề! Như vậy, gọi Bát-nhã ba-la-mật của Đại Bồ-tát là do nhân duyên hòa hợp nên danh hiệu hư giả. Cái danh hiệu thiện quyền, cái danh hiệu pháp đều là giả mượn. Hành Bát-nhã ba-la-mật nên học thế này: Chẳng trụ danh sắc, cũng không thấy gì, chẳng trụ thọ, tưởng, hành, thức; chẳng trụ danh, chẳng thấy danh sắc chẳng thường, chẳng thấy danh sắc an lạc, chẳng thấy danh sắc khổ não, chẳng thấy có cái danh sắc bên trong, chẳng thấy có cái danh sắc bên ngoài, chẳng thấy có cái danh sắc không, chẳng thấy danh sắc biến đổi vô tướng, chẳng thấy danh sắc làm việc vô nguyện, chẳng thấy danh sắc lặng yên, chẳng thấy danh sắc mơ màng, chẳng thấy danh sắc có dục trần, chẳng thấy danh sắc tranh tụng, chẳng thấy danh sắc có sự phát khởi, chẳng thấy danh sắc có sự hoại diệt; thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như thế. Nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới, nhó giới, thanh giới, nhó thức giới, tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới, thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới, thân giới, tế hoạt (xúc) giới, thân thức giới, ý giới, pháp giới, ý thức giới, tất cả đều vậy; do nhân duyên hợp thành mà có năm ấm ấy, đều là giả hiệu. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật và hạnh Bồ-tát đều là danh hiệu, có, chẳng không, chẳng ở cảnh giới hữu vi, chẳng ở cảnh giới vô vi, cũng không thấy gì. Vì sao? Này Tu-bồ-đề! Vì Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, đối với tất cả pháp không có tưởng niệm, không có tương ưng hoặc chẳng tương ưng, cũng không tưởng niệm là hành Bát-nhã ba-la-mật; ở trong pháp vô tưởng, hành các ý chỉ, tu Bát-nhã ba-la-mật, cũng chẳng thấy Bát-nhã ba-la-mật, chẳng thấy danh Bát-nhã ba-la-mật, cũng chẳng thấy hiệu Bồ-tát, cũng chẳng thấy mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của Phật. Khi hành Bát-nhã ba-la-mật, chẳng thấy Bát-nhã ba-la-mật, cũng chẳng thấy tên Bát-nhã ba-la-mật, cũng chẳng thấy Bồ-tát, cũng chẳng thấy danh Bồ-tát, thì ai thấy Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật? Đại Bồ-tát hiểu rõ, phân biệt căn bản của các pháp, tướng của các pháp. Xét căn bản của các pháp, tướng của các pháp nhưng không chấp trước, cũng không tranh tụng. Này Tu-bồ-đề! Như thế, Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật không nương dựa vào danh, vì pháp tạo ra danh. Pháp ấy đối với Phật đạo cũng dựa vào danh hiệu nhưng không vì giả mượn mà hiểu rõ hết, vì không dựa vào sắc, không dựa vào thọ, tưởng, hành, thức; không dựa vào nhãn, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý; cũng không dựa vào nhãn sắc thức, không dựa vào nhó thanh thức, không dựa vào tỷ hương thức, không dựa vào thiệt vị thức, không dựa vào thân tế hoạt thức, không dựa vào ý pháp thức, không dựa vào việc nhãn tập năm ấm, không dựa vào đâu, không khởi cảm thọ không khổ, không vui, chẳng không khổ vui, cho đến nhân duyên mà ý thức tập quen thì có cảm thọ khổ, vui, không khổ, không vui. Hành giả đối với chúng hoàn toàn không nương dựa, cũng chẳng nương dựa vào cảnh giới hữu vi, cũng chẳng nương dựa vào cảnh giới vô vi, cũng chẳng nương dựa vào Bố thí ba-la-mật, cũng chẳng nương dựa vào Tinh tấn ba-la-mật, cũng chẳng nương dựa vào Thiền ba-la-mật, cũng chẳng nương dựa vào Bát-nhã ba-la-mật, cũng chẳng nương dựa vào tướng, cũng chẳng nương dựa vào thân Bồ-tát, cũng chẳng nương dựa vào Nhục nhãn, cũng chẳng nương dựa vào Thiên nhãn, cũng chẳng nương dựa vào Tuệ nhãn, cũng chẳng nương dựa vào Pháp nhãn, cũng chẳng nương dựa vào Phật nhãn, cũng chẳng nương dựa vào Tuệ độ vô cực, cũng chẳng nương dựa vào Ý thần thông sở độ vô cực, cũng chẳng nương dựa vào bên trong, cũng chẳng nương dựa vào bên ngoài, cũng chẳng nương dựa vào trung gian, cũng chẳng nương dựa vào pháp nội không, cũng chẳng nương dựa vào pháp ngoại không, cũng chẳng nương dựa vào duyên vô hình, cũng chẳng nương dựa vào pháp tự nhiên không, cũng không nương dựa vào việc khai hóa chúng sinh, cũng không nương dựa vào việc làm nghiêm tịnh cõi Phật, cũng không nương dựa vào phương tiện thiện xảo. Vì sao? Vì tất cả pháp đều không sở hữu. Chính cái nương dựa ấy cũng không chỗ nương dựa, cũng không sở hữu. Nên thọ trì như thế. Này Tu-bồ-đề! Như thế, Đại Bồ-tát đối với tất cả các pháp mà không chấp trước thì việc hành Bát-nhã ba-la-mật, Thí ba-la-mật, Giới ba-la-mật, Nhẫn ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Thiền ba-la-mật, Bát-nhã ba-la-mật, liền được tăng trưởng lợi ích, nhập vào tịch tónh, đắc đạo Bồ-tát, nhập không thoái chuyển, đầy đủ thần thông. Thần thông đã đủ thì du hành các cõi Phật, giáo hóa chúng sinh. Đã giáo hóa chúng sinh rồi cúng dường chư Phật Thế Tôn, thì có thể làm nghiêm tịnh cõi nước chư Phật. Đã có thể làm nghiêm tịnh cõi nước chư Phật rồi, chư Phật Thế Tôn đều trông thấy. Khi ấy Bồ-tát cũng lại từ xa trông thấy chư Phật Đại Thánh, cũng muốn đạt được gốc thiện công đức, bèn cúng dường chư Phật Thế Tôn, cúi đầu quy mạng nên tự nhiên đạt vô lượng đức. Gần gũi chư Phật, được theo nghe kinh điển đã nói. Đã được nghe pháp chưa từng gián đoạn, đạt đến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đắc các môn tổng trì, các môn Tam-muội. Này Tu-bồ-đề! Như vậy Đại Bồ-tát hành hạnh Bát-nhã ba-la-mật phân biệt, hiểu rõ tất cả các pháp là nhân duyên giả hiệu. Này Tu-bồ-đề! Theo ý ông thì sao, sắc là Bồ-tát chăng? Thọ, tưởng, hành, thức là Bồ-tát chăng? Ngài Tu-bồ-đề đáp: –Bạch Đức Thiên Trung Thiên, không. –Này Tu-bồ-đề! Thế nào? Nhãn là Bồ-tát chăng? Nhó, tỷ, thiệt, thân, ý là Bồ-tát chăng? –Bạch Đức Thiên Trung Thiên, không. –Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp là Bồ-tát chăng? –Bạch Đức Thiên Trung Thiên, không. –Này Tu-bồ-đề! Theo ý ông thì sao, nhãn sắc thức là Bồ-tát chăng? Nhó thanh thức, tỷ hương thức, thiệt vị thức, thân tế hoạt (xúc) thức, ý pháp thức là Bồ-tát chăng? –Bạch Đức Thiên Trung Thiên, không. –Này Tu-bồ-đề! Theo ý ông thì sao, yếu tố đất là Bồ-tát chăng? –Bạch Đức Thiên Trung Thiên, không. –Các yếu tố nước, lửa, gió, không, thức là Bồ-tát chăng? –Bạch Đức Thiên Trung Thiên, không. –Này Tu-bồ-đề! Theo ý ông thì sao? Vô minh là Bồ-tát chăng? –Bạch Đức Thiên Trung Thiên, không. –Hành, thức, danh sắc, lục nhập, sở tập, ái, thống, thọ, hữu, sinh, già, bệnh, chết là Bồ-tát chăng? –Bạch Đức Thiên Trung Thiên, không. –Này Tu-bồ-đề! Theo ý ông thì sao? Chắc có sắc khác là Đại Bồ-tát chăng? –Bạch Đức Thiên Trung Thiên, không. –Chắc có thọ, tưởng, hành, thức khác là Bồ-tát chăng? –Bạch Đức Thiên Trung Thiên, không. –Chắc có nhãn, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý khác là Bồ-tát chăng? –Bạch Đức Thiên Trung Thiên, không. –Chắc có sắc, thanh, hương, vị, tế hoạt (xúc), pháp khác là Bồ-tát chăng? –Bạch Đức Thiên Trung Thiên, không. –Chắc có nhãn sắc thức, nhó thanh thức, tỷ hương thức, thiệt vị thức, thân tế hoạt (xúc) thức, ý pháp thức khác là Bồ-tát chăng? –Bạch Đức Thiên Trung Thiên, không. –Chắc có mười hai nhân duyên khác từ vô minh đến già, bệnh, chết là Bồ-tát chăng? –Bạch Đức Thiên Trung Thiên, không. –Này Tu-bồ-đề! Theo ý ông thì sao, vô bổn của sắc là Bồ-tát chăng? –Bạch Đức Thiên Trung Thiên, không. –Vô bổn của năm ấm, sáu suy, mười tám chủng, bốn đại, mười hai nhân duyên là Bồ-tát chăng? –Bạch Đức Thiên Trung Thiên, không. –Này Tu-bồ-đề! Theo ý ông thì sao? Chắc có vô bổn khác là Bồ-tát chăng? –Bạch Đức Thiên Trung Thiên, không. Đức Phật bảo Tu-bồ-đề: –Này Tu-bồ-đề! Theo ý ông hiểu nghóa này như thế nào? Dùng những quán sát nào mà trả lời? Đức Phật dạy: –Sắc chẳng phải Bồ-tát, thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải Bồ-tát. Sáu suy, mười tám chủng, bốn đại, mười hai nhân duyên từ vô minh cho đến già, bệnh, chết chẳng phải Bồ-tát. Cái vô bổn ấy chẳng phải Bồ-tát. Hoặc cái vô bổn khác cũng chẳng phải Bồ-tát. Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật: –Bạch Đức Thiên Trung Thiên! Ngã, nhân, thọ cũng chẳng thể nắm bắt được thì làm sao gọi là Bồ-tát? Làm sao gọi cái họa chung chỉ cho năm ấm, sáu suy, mười tám chủng, bốn đại, mười hai nhân duyên là Bồ-tát? Làm sao gọi sắc khác, thọ, tưởng, hành, thức khác là Bồ-tát? Làm sao gọi sáu suy, mười tám chủng, bốn đại, mười hai nhân duyên là Bồ-tát? Làm sao gọi sự vô bổn là Bồ-tát? Làm sao gọi vô bổn khác là Bồ-tát? Ở đây không có việc ấy. Đức Phật dạy: –Hay thay, hay thay! Này Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật nên quán chúng sinh, nhân vật không có sở hữu, chẳng thể nắm bắt được Bát-nhã ba-la-mật cũng không có sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, Bồ-tát nên học như thế. –Này Tu-bồ-đề! Theo ý ông thì sao, miệng nói sắc là Bồ-tát chăng? –Bạch Đức Thiên Trung Thiên, không. –Miệng nói thọ, tưởng, hành, thức là Bồ-tát chăng? –Bạch Đức Thiên Trung Thiên, không. –Cho sắc là thường; cho thọ, tưởng, hành, thức là thường là Bồ-tát chăng? –Bạch Đức Thiên Trung Thiên, không. –Này Tu-bồ-đề! Theo ý ông thì sao, cho sắc là vô thường, cho thọ, tưởng, hành, thức là vô thường là Bồ-tát chăng? –Bạch Đức Thiên Trung Thiên, không. –Này Tu-bồ-đề! Theo ý ông thì sao, miệng nói sắc vui, thọ, tưởng, hành, thức cùng vui là Bồ-tát chăng? –Bạch Đức Thiên Trung Thiên, không. –Này Tu-bồ-đề! Theo ý ông thì sao, miệng nói sắc khổ, thọ, tưởng, hành, thức đều khổ là Bồ-tát chăng? –Bạch Đức Thiên Trung Thiên, không. –Này Tu-bồ-đề! Theo ý ông thì sao, miệng nói sắc là ngã sở, thọ, tưởng, hành, thức là ngã sở là Bồ-tát chăng? –Bạch Đức Thiên Trung Thiên, không. –Này Tu-bồ-đề! Theo ý ông thì sao, miệng nói sắc chẳng phải ngã sở, thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải ngã sở là Bồ-tát chăng? –Bạch Đức Thiên Trung Thiên, không. –Này Tu-bồ-đề! Theo ý ông thì sao, miệng nói sắc không, thọ, tưởng, hành, thức không là Bồ-tát chăng? –Bạch Đức Thiên Trung Thiên, không. –Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, miệng nói sắc vô tướng, thọ, tưởng, hành, thức vô tướng là Bồ-tát chăng? –Bạch Đức Thiên Trung Thiên, không. –Này Tu-bồ-đề! Theo ý ông thì sao, miệng nói sắc vô nguyện, thọ, tưởng, hành, thức vô nguyện là Bồ-tát chăng? –Bạch Đức Thiên Trung Thiên, không. –Này Tu-bồ-đề! Theo ý ông thì sao, miệng nói sắc chẳng không, chẳng vô tướng, chẳng vô nguyện, thọ tưởng, hành, thức chẳng không, chẳng vô tướng, chẳng vô nguyện là Bồ-tát chăng? –Bạch Đức Thiên Trung Thiên, không. –Này Tu-bồ-đề! Theo ý ông thì sao, năm ấm, sáu suy, mười tám chủng, bốn đại, mười hai nhân duyên không sở hữu là Bồ-tát chăng? –Bạch Đức Thiên Trung Thiên, không. Đức Phật bảo Tu-bồ-đề: –Ông thấy nghóa gì mà bác lại điều miệng nói cái họa chỉ chung của năm ấm, sáu suy, mười tám chủng, bốn đại, mười hai nhân duyên, khổ vui, thiện ác, Không, Vô tướng, Vô nguyện, có, không đều chẳng phải Bồ-tát? Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật: –Bạch Đức Thiên Trung Thiên! Rốt ráo cầu sắc chẳng thể nắm bắt được, huống gì Ngài lại nói sắc là Bồ-tát? Thọ, tưởng, hành, thức cũng vậy. Rốt ráo cầu cái thường mà chẳng thể nắm bắt được, huống là vô thường mà có thể nắm bắt được và cho là Bồ-tát ư? Rốt ráo khổ, vui chẳng thể nắm bắt được, huống gì miệng nói khổ, vui là Bồ-tát ư? Rốt ráo tìm cái ngã sở chẳng thể nắm bắt được, huống là miệng nói ngã, chẳng phải ngã là Bồ-tát chăng? Sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy. Rốt ráo cái sắc sở hữu chẳng thể nắm bắt được, huống gì miệng nói sắc không là Bồ-tát? Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như thế. Rốt ráo tìm cái tướng chẳng thể nắm bắt được, huống gì miệng nói sắc vô tướng là Bồ-tát? Thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như vậy. Rốt ráo tìm cái nguyện chẳng thể nắm bắt được, huống gì miệng nói sắc vô nguyện là Bồ-tát? Thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như thế. Đức Phật dạy: –Hay thay, hay thay! Tu-bồ-đề, Đại Bồ-tát muốn học Bát-nhã ba-la-mật, nên học thế này: Cái mà miệng nói sắc, thọ, tưởng, hành, thức chẳng thể nắm bắt được, cái không, vô tướng, vô nguyện, chẳng thể nắm bắt được thì đó là học Bát-nhã ba-la-mật. Vừa rồi Tu-bồ-đề đã, nói trong pháp ngã vónh viễn không nhìn thấy là Bồ-tát. Này Tu-bồ-đề! Nên biết pháp chẳng thể thấy pháp, pháp chẳng thể thấy pháp giới, pháp giới chẳng thể thấy pháp; sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như vậy. Sắc giới chẳng thấy pháp giới, pháp giới chẳng thấy sắc giới. Nhãn giới chẳng thấy pháp giới, pháp giới chẳng thấy nhãn giới; nhó, tỷ, thiệt, thân, ý cũng lại như vậy. Ý giới chẳng thấy pháp giới, pháp giới chẳng thấy ý giới. Mười tám chủng giới chẳng thấy pháp giới, pháp giới chẳng thấy mười tám chủng giới. Hữu vi giới chẳng thấy vô vi giới, vô vi giới chẳng thấy hữu vi giới. Hữu vi giới thì chẳng thể chia hai, vô vi giới thì cũng chẳng thể gọi tên. Vô vi thì chẳng thể chia hai, hữu vi thì chẳng thể gọi tên. Này Tu-bồ-đề! Như vậy, người hành Bát-nhã ba-la-mật mà có thể hành như vậy, thì đối với tất cả pháp vónh viễn không còn phân biệt. Đã không còn phân biệt thì không sợ, không lo, không hãi, tâm không khiếp nhược, cũng không hận. Vì sao? Này Tu-bồ-đề, vì đã không thấy sắc, thọ, tưởng, hành, thức; không thấy nhãn, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý; chẳng thấy sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, chẳng thấy sắc dục cho đến pháp dục cũng chẳng thấy; chẳng thấy tham, nộ, si, chẳng thấy vô minh, cho đến hành, thức, danh sắc, lục tập, sở cánh (thủ), thống (xúc), ái, thọ, hữu, sinh, già, bệnh, chết cũng chẳng thấy; chẳng thấy vô ngã, chẳng thấy nhân, chẳng thấy thọ mạng, chẳng thấy cõi Dục, chẳng thấy cõi Sắc, chẳng thấy cõi Vô sắc; chẳng thấy Thanh văn, Bích-chi-phật, chẳng thấy Bồ-tát, cũng chẳng thấy pháp, chẳng thấy chúng Bồ-tát. Đã chẳng thấy tất cả pháp thì không kinh, không sợ, không nạn, không hãi, tâm không khiếp nhược. Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật: –Kính bạch Thế Tôn! Vì sao Đại Bồ-tát tâm không khiếp nhược, không chấp trước? Đức Phật bảo Tu-bồ-đề: –Đại Bồ-tát chẳng chấp chặt pháp mà tâm nhớ nghó, cũng không thấy. Vì vậy Đại Bồ-tát tâm không khiếp nhược cũng không chấp trước. Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật: –Tại sao Đại Bồ-tát không kinh sợ? Đức Phật bảo Tu-bồ-đề: –Bồ-tát chẳng chấp trước tâm sợ, cũng không thấy, vì vậy Đại Bồ-tát không kinh sợ. Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật: –Tại sao Đại Bồ-tát đối với tất cả pháp không chấp chặt mà hành Bát-nhã ba-la-mật? Đức Phật bảo Tu-bồ-đề: –Tất cả sự tu hành Bát-nhã ba-la-mật của Đại Bồ-tát cũng không đắc Bát-nhã ba-la-mật, lại cũng không đắc tâm Bồ-tát. Điều đó, ở đây chính là lời dạy cho hàng Bồ-tát. KINH QUANG TÁN <卷 id="81581553">QUYỂN 3 <詞 id="81581554">Phẩm 7: Liễu không Khi ấy ngài Tu-bồ-đề bạch Phật: –Đại Bồ-tát muốn đầy đủ Thí ba-la-mật thì nên học Bát-nhã ba-la-mật; muốn đầy đủ Giới ba-la-mật, Nhẫn ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Thiền ba-la-mật thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Đại Bồ-tát muốn dứt trừ sắc thì nên học Bát-nhã ba-la-mật; muốn dứt trừ thọ, tưởng, hành, thức thì nên học Bát-nhã ba-la-mật; muốn dứt trừ nhãn, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý thì nên học Bát-nhã ba-la-mật; muốn dứt trừ thanh, hương, vị, xúc, pháp thì nên học Bát-nhã ba-la-mật; muốn dứt trừ nhãn sắc thức, nhó thanh thức, tỷ hương thức, thiệt vị thức, thân tế hoạt (xúc) thức, ý pháp thức thì nên học Bát-nhã ba-la-mật; muốn dứt trừ nhãn xúc, nhó xúc, tỷ xúc, thiệt xúc, thân xúc, ý xúc thì nên học Bát-nhã ba-la-mật; muốn dứt trừ tập khí nhân duyên của sắc xúc, thọ xúc, tưởng xúc, hành xúc, thức xúc thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Đại Bồ-tát muốn dứt trừ tham, dâm, sân hận, ngu si thì nên học Bát-nhã ba-la-mật; muốn dứt trừ tham, thân kiến thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Đại Bồ-tát muốn dứt trừ hồ nghi, phạm giới thì nên học Bát-nhã ba-la-mật; muốn dứt trừ dục, các sự đắm trước sắc dục, vô sắc dục thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Đại Bồ-tát muốn dứt trừ nhân duyên trói buộc, đắm trước đối với tưởng cảm thọ thì nên học Bát-nhã ba-la-mật; muốn dứt trừ bốn quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Đại Bồ-tát muốn dứt trừ bốn ưu, bốn trước, bốn hung thọ, bốn điên đảo thì nên học Bát-nhã ba-la-mật; muốn dứt trừ năm cái, sáu nhập, bảy thức, tám tà, chín não, mười ác, nghiệp tội phước thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Đại Bồ-tát muốn dứt trừ mười điều thiện, bốn Thiền, bốn đế, năm thần thông, muốn dứt trừ bốn Ý chỉ, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Đại Bồ-tát muốn dứt trừ mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, bốn Đẳng tâm, bốn Định vô sắc, tất cả các ý chỉ, mười tám pháp Bất cộng của Phật thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Đại Bồ-tát muốn định rõ Tam-muội giác ý thì nên học Bát-nhã ba-la-mật; muốn phân biệt Tam-muội Hư không tuệ, Tam-muội Thức tuệ, Tam-muội Bất dung tuệ, Tam-muội Hữu tưởng tuệ, Tam-muội Vô tưởng tuệ, định Chánh thọ diệt thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Đại Bồ-tát muốn thành tựu Tam-muội Sư tử ngu lạc, Tam-muội Sư tử chấn hống, muốn đạt được môn tổng trì thì nên học Bát-nhã ba-la-mật; muốn đắc Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm, Tam-muội Bảo hải, Tam-muội Chánh thọ Tuệ ấn thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Đại Bồ-tát muốn đắc Tam-muội Nguyệt diệu, Tam-muội Nguyệt tràng, nhập tất cả các pháp Tam-muội Chánh thọ thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Đại Bồ-tát muốn đắc Tam-muội Đổ minh ấn, Tam-muội Sinh chư pháp, Tam-muội Chánh thọ xuất ư khuyến từ tràng phan ác thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Đại Bồ-tát muốn đắc Tam-muội Kim cang dụ, Tam-muội Nhập nhất thiết chư pháp môn, Tam-muội Định ý vương, Tam-muội Chánh thọ Đế vương ấn thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Đại Bồ-tát muốn đắc Tam-muội Thế lực thanh tịnh, Tam-muội Siêu chư bình đẳng, Tam-muội Thuận sinh chư pháp sở qui nhập, Tam-muội Chánh thọ nhập nhất thiết chư pháp ngôn thanh thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Đại Bồ-tát muốn đắc Tam-muội Quán thập phương, muốn đắc Tam-muội Nhất thiết chư pháp tổng trì môn ấn, Tam-muội Nhất thiết chư pháp bình đẳng ấn tạo ấn, Tam-muội Chánh thọ trụ ư không xứ thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Đại Bồ-tát muốn đắc Tam-muội Nghiêm tịnh, Tam-muội Đạo tràng, Tam-muội Chánh thọ siêu việt thần thông thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Đại Bồ-tát muốn đắc Tam-muội Phản xuất, Tam-muội Đẳng tràng hộ anh, Tam-muội Chánh thọ dục trí thị và các môn Tam-muội khác thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Bạch Đức Thiên Trung Thiên! Lại nữa, Đại Bồ-tát muốn khiến cho tất cả loài chúng sinh được đầy đủ nguyện thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Bạch Đức Thiên Trung Thiên! Lại nữa, Đại Bồ-tát muốn được đầy đủ gốc công đức, do đầy đủ gốc lành ấy mà không đọa vào cõi ác, không sinh về chốn ti tiện, không rơi vào địa Thanh văn, Bích-chi-phật, chẳng tranh tụng với thượng pháp Bồ-tát thì nên học Bát-nhã ba-la-mật. Hiền giả Xá-lợi-phất hỏi Hiền giả Tu-bồ-đề: –Thế nào là Đại Bồ-tát chẳng tranh tụng thượng pháp? Hiền giả Tu-bồ-đề trả lời Hiền giả Xá-lợi-phất: –Đại Bồ-tát không khởi phương tiện thiện xảo, không khởi “không từ đâu sinh” mà dùng phương tiện thiện xảo hành sáu pháp Ba-la-mật, hiểu rõ Không, Vô tướng, Vô nguyện, không từ đâu sinh, mang đến môn Tam-muội, không rơi vào Thanh văn, Bích-chi-phật, cũng không độ người diệt định Bồ-tát. Đó gọi là Bồ-tát sinh chẳng thuần thục. Hiền giả Xá-lợi-phất hỏi Hiền giả Tu-bồ-đề: –Sao gọi là Bồ-tát sinh chẳng thuần thục? Hiền giả Tu-bồ-đề trả lời Hiền giả Xá-lợi-phất: –Sở dó nói không thuần thục là vì tham vướng nơi pháp. Thưa Hiền giả Xá-lợi-phất, Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, đứng trên cái không của sắc mà biết tưởng thức có chỗ nương dựa. Thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như vậy, đứng trên không mà biết tưởng thức có chỗ nương dựa. Đó gọi là Đại Bồ-tát tham vướng nơi pháp nhẫn nhu thuận, sinh ra chẳng thuần thục. Lại nữa, thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát đứng trên sắc vô tướng mà biết tưởng thức có chỗ nương dựa, đứng trên sắc vô nguyện mà biết tưởng thức có chỗ nương dựa. Đó là Đại Bồ-tát tham vướng nơi pháp nhẫn nhu thuận. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như vậy, đứng trên không sở hữu mà biết tưởng thức có chỗ nương dựa. Nhãn sắc thức, nhó thanh thức, tỷ hương thức, thiệt vị thức, thân tế hoạt (xúc) thức, ý pháp thức, cũng đứng trên mặt này mà biết tưởng thức có chỗ nương dựa. Đó là Đại Bồ-tát tham vướng nơi pháp nhẫn nhu thuận. Sắc vô thường, thọ, tưởng, hành, thức vô thường. Sắc khổ, thọ, tưởng, hành, thức khổ. Sắc vô ngã, thọ, tưởng, hành, thức vô ngã cũng đều đứng trên mặt này mà biết tưởng thức có chỗ nương dựa. Thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Đó là Đại Bồ-tát tham vướng nơi pháp nhẫn nhu thuận, sinh ra không thuần thục, nên đoạn sắc, thọ, tưởng, hành, thức ấy. Sắc này chẳng phải sắc thì trừ sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng vậy, đó là diệt tận. Còn thiết lập sự chứng đắc, đó chẳng phải diệt tận mà là tạo lập sự chứng đắc. Nên tu theo con đường trước ấy, nên tập hành theo việc ấy. Còn điều này sau là nhiễm trần tranh chấp, đừng tập hành theo. Một bên là việc nên làm của Bồ-tát, một bên chẳng phải là việc Bồ-tát nên làm, một bên là đạo Bồ-tát, một bên là Bồ-tát học giới không nên học: Nào là Thí ba-la-mật của Bồ-tát, nào là Giới ba-la-mật của Bồ-tát, nào là Nhẫn ba-la-mật của Bồ-tát, nào là Tinh tấn ba-la-mật của Bồ-tát, nào là Thiền ba-la-mật của Bồ-tát, nào là Bát-nhã ba-la-mật của Bồ-tát, nào là Bồ-tát có phương tiện thiện xảo, nào là Bồ-tát không có phương tiện quyền xảo, nào là Bồ-tát nhập tịch nhiên, nào là Bồ-tát sinh khởi không thuần thục. Hiền giả Tu-bồ-đề nói với Hiền giả Xá-lợi-phất: –Nói Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, trụ trên sự kiến lập các pháp như thế này để biết tưởng thức có chỗ nương tựa. Đó gọi là Đại Bồ-tát tham vướng nơi pháp nhẫn nhu thuận, sinh ra không thuần thục. Hiền giả Xá-lợi-phất hỏi Hiền giả Tu-bồ-đề: –Sao gọi là Đại Bồ-tát tịch nhiên? Hiền giả Tu-bồ-đề trả lời Hiền giả Xá-lợi-phất: –Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật chẳng thấy pháp nội không, chẳng thấy pháp ngoại không, chẳng thấy pháp nội ngoại không, chẳng thấy pháp không của nội ngoại không, nhưng pháp không không có pháp nội ngoại không, pháp không chẳng thấy pháp nội ngoại không, chẳng thấy pháp không của đại không, pháp không của pháp đại không chẳng thấy pháp không, pháp không của pháp đại không chẳng thấy pháp chân cứu cánh không, pháp chân cứu cánh không chẳng thấy pháp đại không, pháp chân cứu cánh không chẳng thấy pháp hữu vi không, pháp hữu vi không chẳng thấy pháp vô vi không, pháp vô vi không chẳng thấy pháp hữu vi không, pháp vô vi không chẳng thấy pháp vô thỉ vô chung không, pháp vô thỉ vô chung không chẳng thấy pháp vô vi không, pháp vô thỉ vô chung không chẳng thấy pháp không vị phân biệt, pháp không vị phân biệt chẳng thấy pháp không rộng lớn dài lâu, pháp không vị phân biệt chẳng thấy pháp bản tịnh không, pháp bản tịnh không chẳng thấy pháp không vị phân biệt, pháp bản tịnh không chẳng thấy pháp tự nhiên tướng không, pháp tự nhiên tướng không chẳng thấy pháp bản tịnh không, pháp tự nhiên tướng không chẳng thấy pháp nhất thiết chư pháp không, pháp nhất thiết chư pháp không chẳng thấy pháp tự nhiên tướng không, pháp nhất thiết chư pháp không chẳng thấy pháp vô sở hữu không, pháp vô sở hữu không chẳng thấy pháp nhất thiết chư pháp không, pháp vô sở hữu không chẳng thấy pháp không tự nhiên, pháp tự nhiên không chẳng thấy pháp vô sở hữu không, pháp không của tự nhiên không chẳng thấy pháp vô sở hữu không, pháp vô sở hữu không chẳng thấy pháp không của không tự nhiên. Thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Như thế Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật có khả năng như thế thì Bồ-tát đã đạt tịch nhiên. Lại nữa thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát muốn hành Bát-nhã ba-la-mật thì nên học thế này, nên thuận theo như thế này: Chẳng nên nghó sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng như thế. Đối với thức chẳng nên nghó thức, chẳng nên nghó nhãn, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý; chẳng nên nghó sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; chẳng nên nghó Thí ba-la-mật, Giới ba-la-mật, Nhẫn ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Thiền ba-la-mật, Bát-nhã ba-la-mật; cũng chẳng nên dựa vào bốn Ý chỉ, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, bốn Đẳng tâm, mười tám pháp Bất cộng của Phật. Như vậy, thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật chẳng nên nghó Đại Bồ-tát, mà nên nghó tâm bình đẳng vô đẳng, nhập tâm vi diệu. Vì sao? Vì tâm ấy vô tâm, tâm ấy bản tịnh. Tâm bản tịnh là tự nhiên mà vui, trong sáng mà tịnh. Hiền giả Xá-lợi-phất hỏi Hiền giả Tu-bồ-đề: –Thế nào là tâm trong sáng mà tịnh? Hiền giả Tu-bồ-đề trả lời Hiền giả Xá-lợi-phất: –Giả sử tâm không hợp với dục cũng không lìa dục, không hợp với sân cũng không lìa sân, không hợp với si cũng không lìa si, không trụ nhân duyên, không có ràng buộc, không bị ràng buộc, cũng không không ràng buộc, đối với tất cả nghi, sáu mươi hai kiến, không hợp không lìa, không hợp với tâm hành của Thanh văn, Bích-chi-phật, cũng chẳng lìa hợp, thì thưa Hiền giả Xá-lợi-phất, đó là tâm của Đại Bồ-tát vốn thanh tịnh trong sáng mà tịnh. Hiền giả Xá-lợi-phất hỏi Hiền giả Tu-bồ-đề: –Có tâm này chăng? Tâm ấy vô tâm mà! Hiền giả Tu-bồ-đề hỏi lại Hiền giả Xá-lợi-phất: –Thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Thế nào là có tâm? Đâu có tâm này mà có thể biết là có tâm, vô tâm? Có thể thủ đắc chăng? Có thể nắm bắt được chăng? Đáp: –Không, thưa Hiền giả! Thưa Hiền giả Xá-lợi-phất, giả sử tâm ấy chẳng thể biết có cùng không có thì cũng không thể thủ đắc, cũng không thể nắm bắt. Lại có điều này, do nhân duyên mà có lời này là có cái “tâm có tâm vô tâm” này. Hiền giả Xá-lợi-phất hỏi Hiền giả Tu-bồ-đề: –Thưa Hiền giả Tu-bồ-đề! Thế nào là vô tâm? Đáp: –Không có cái tạo tác, không có điều nhớ nghó, đó là cái vô tâm vô niệm đối với tất cả pháp. Hiền giả Xá-lợi-phất hỏi Hiền giả Tu-bồ-đề: –Thưa Hiền giả Tu-bồ-đề! Thế nào? Người phát tâm không có cái tạo tác, không có điều nhớ nghó chăng? Giả sử sắc không có tạo tác thì nhớ nghó, thọ, tưởng, hành, thức cũng như thế. Giả sử không tạo tác, không nhớ nghó thì cho đến ý Thanh văn, Bích-chi-phật, trên đến Bồ-tát đều là vô tâm, vô niệm chăng? Đáp: –Thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Tâm như thế là không tạo tác, không nhớ nghó. Hiền giả Xá-lợi-phất khen Hiền giả Tu-bồ-đề: –Hay thay, hay thay! Hiền giả Tu-bồ-đề, Hiền giả chính là con của Đức Thế Tôn, từ pháp sinh ra, thường tùy thuận pháp, được pháp hóa sinh, nhờ pháp mà hưng phát, nhưng không vì sự vinh hiển, do nhân duyên tự nhiên mà chứng pháp thân. Hiền giả là người hành pháp Không đệ nhất. Thế Tôn khen Hiền giả là người rõ nghóa Không hơn hết, khó bì kịp. Khó bì kịp! Thưa Hiền giả Tu-bồ-đề! Như thế, Đại Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật thì nên theo như thế, nên quán như thế. Người vì địa không thoái chuyển mà muốn học địa Thanh văn thì nên học Bát-nhã ba-la-mật, nên lắng nghe, nên thọ trì, đọc tụng, thường nên suy nghó. Người muốn học địa Bích-chi-phật thì nên học Bát-nhã ba-la-mật, nên lắng nghe, nên thọ trì, đọc tụng, thường nên suy nghó. Người muốn học địa Bồ-tát thì nên học Bát-nhã ba-la-mật, nên lắng nghe, nên thọ trì, đọc tụng, thường nên suy nghó. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật này rộng khắp đầy đủ cả ba thừa, đó là Bồ-tát, Thanh văn, Bích-chi-phật. Bồ-tát đều học thông suốt không có gì ngăn ngại.  <詞 id="81581555">Phẩm 8: Giả Hiệu Khi ấy Hiền giả Tu-bồ-đề bạch Phật: –Kính bạch Thế Tôn! Như điều Ngài đã dạy cho Đại Bồ-tát, con chẳng thấy cũng chẳng có thể chứng đắc. Hành giả như con không thấy, không đắc thì đối với Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật nên nói thế nào? Dạy hành Bát-nhã ba-la-mật như thế nào cho các Bồ-tát đây? Giả sử con nói tất cả pháp mà có thể đắc thì đó là cái chữ tạo ra danh hiệu Bồ-tát. Nếu như thế thì sẽ rơi vào hồ nghi. Lại nói cái danh hiệu ấy thì cũng không sở hữu, cũng không chỗ đứng. Vì sao? Vì từ vô minh mà đưa đến cái danh này, cái danh ấy như thế cũng không có nơi chốn, cũng không có trụ. Đã không có nơi chốn, cũng không có trụ mà gọi là sắc, là ngã sở thì chẳng thể nắm bắt được, gọi thọ, tưởng, hành, thức là ngã sở thì cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì giả danh vậy. Vì vậy cho nên nhân duyên và cái danh hiệu nêu ra đó cũng không có chỗ trụ, cũng không không trụ. Vì sao? Vì từ vô minh mà đưa đến danh hiệu này thì cái danh hiệu ấy cũng không trụ, không không trụ. Kính bạch Thế Tôn! Con quán nhãn, vónh viễn chẳng thể nắm bắt được cái gọi là ngã sở, nhó, tỷ, thiệt, thân, tâm cũng lại như vậy, quán sát tâm cũng không thể nắm bắt được cái gọi là ngã sở. Đã quán nhãn, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý mà vónh viễn không nắm bắt được ngọn ngành gốc rễ cái gọi là ngã sở thì dựa vào đâu để lập danh hiệu Bồ-tát? Lại quán sát nhãn ấy là hư vô, lờ mờ thì danh ấy không trụ cũng không trụ. Vì sao? Vì từ vô minh mà lập giả hiệu rồi đặt ra cái danh ấy. Cái giả như thế cũng không trụ, chẳng không trụ. Kính bạch Thế Tôn! Con tìm gốc ngọn ngã sở của hình sắc mà hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được. Sáu tình cũng vậy, tìm cầu gốc ngọn phát xuất của danh hiệu mà nói là ngã sở ấy, vónh viễn không nắm bắt được. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy, tìm gốc ngọn của cái gọi là ngã sở cũng chẳng thể nắm bắt được. Như vậy, đối với nhãn sắc thức, nhó thanh thức, tỷ hương thức, thiệt vị thức, thân xúc thức, ý pháp thức, quán sát gốc ngọn cái gọi là ngã sở mà hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được. Sáu tình (căn), sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, mười tám chủng cũng lại như vậy. Thế thì sẽ dựa vào đâu để lập danh hiệu Bồ-tát? Nhãn, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý, sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, mười tám chủng ấy, xét ra không có danh, cũng không có chỗ trụ, cũng không không trụ. Vì sao? Vì do vô minh mà có danh tự. Lại quán sát danh tự, cũng không chỗ trụ, không không trụ. Nhãn xúc, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý, xúc cũng lại như vậy. Từ lúc nhãn tiếp xúc với đối tượng duyên đến khi tâm hành, sắc, thọ, tưởng, hành, thức tiếp xúc đối tượng duyên cho đến cảm thọ, quán sát gốc ngọn cái gọi là ngã sở, vónh viễn chẳng thể nắm bắt được. Sáu tình (căn), sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, sắc, thọ, tưởng, hành, thức và mười tám chủng, quán sát gốc ngọn cái gọi là ngã sở, vónh viễn chẳng thể nắm bắt được, cũng không có danh tự. Cái giả hiệu ấy cũng không chỗ trụ, không không trụ. Do vô minh mà khởi lên như thế, cái ngã sở ấy hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được. Hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh lão bệnh tử, quán sát gốc ngọn cái gọi là ngã sở, hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được, cũng không chỗ trụ, không không trụ. Vô minh diệt, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh lão bệnh tử diệt, quán sát gốc ngọn cái gọi là ngã sở diệt, hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được. Dâm, tật, sân, nộ, ngu si, quán sát gốc ngọn cái gọi là ngã sở, hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được, do từ danh tự ấy mà khởi lập như vậy. Xét cái danh ấy cũng không chỗ trụ, cũng không không trụ. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức; nhãn, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý; sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, mười tám chủng diệt hết trừ xong, quán sát tìm cầu gốc ngọn của cái gọi là ngã sở, vónh viễn chẳng thể nắm bắt được, do từ danh hiệu mà khởi lập như thế. Lại cái danh hiệu ấy cũng không chỗ trụ, cũng không không trụ. Thí ba-la-mật, Giới ba-la-mật, Nhẫn ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Thiền ba-la-mật, Bát-nhã ba-la-mật, quán sát gốc ngọn cái gọi là ngã sở, vónh viễn chẳng thể nắm bắt được, do từ danh hiệu mà khởi lập như thế. Lại quán sát cái ngã để biết gốc ngọn của cái gọi là ngã sở thì cũng do từ danh hiệu, cái giả hiệu ấy hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được, cũng không chỗ trụ, cũng không không trụ. Nhân, thọ mạng, cái tạo tác, cái quán sát, cái thấy cũng lại như thế, quán sát gốc ngọn của cái gọi là ngã sở, vónh viễn chẳng thể nắm bắt đuợc, do từ danh hiệu mà khởi lập như thế. Lại danh hiệu ấy cũng không chỗ trụ, cũng không không trụ. Bốn Ý chỉ, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo, quán sát gốc ngọn cái gọi là ngã sở, vónh viễn chẳng thể nắm bắt được, do danh hiệu này mà khởi lập như thế. Lại cái giả hiệu ấy cũng không chỗ trụ, cũng không không trụ. Không, Vô tướng, Vô nguyện, quán sát gốc ngọn của cái gọi là ngã sở, vónh viễn chẳng thể nắm bắt được, do từ danh hiệu mà khởi lập như thế. Lại cái giả hiệu của nó cũng không chỗ trụ, cũng không không trụ. Bốn Thiền, bốn Đẳng tâm, bốn Tam-muội chánh thọ vô sắc, quán sát gốc ngọn cái gọi là ngã sở, hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được, do từ danh hiệu mà khởi lập như thế. Lại danh hiệu ấy cũng không chỗ trụ, cũng không không trụ. Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Thánh chúng, niệm thức, niệm thí, niệm bác văn, niệm xuất nhập thủ ý, niệm lão bệnh tử, quán sát gốc ngọn cái gọi là ngã sở hoàn toàn không thể nắm bắt được, cũng chẳng thể thấy, do từ danh hiệu mà khởi lập như thế. Lại cái giả hiệu ấy cũng không chỗ trụ, cũng không không trụ. Mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của Phật, quán sát gốc ngọn cái gọi là ngã sở, hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được, do từ danh hiệu mà khởi lập như thế. Lại cái giả hiệu ấy, cũng không chỗ trụ, cũng không không trụ, chẳng thấy gốc ngọn, không có xứ sở, cũng không thể nắm bắt được thì làm thế nào để lập danh hiệu Bồ-tát mà gọi là Bồ-tát? Giả sử có danh hiệu ấy cũng không chỗ trụ, cũng không không trụ, do từ vô minh mà đưa đến danh tự. Lại cái danh tự ấy cũng không chỗ trụ, cũng không không trụ. Xét danh hiệu ấy cho đến năm thạnh ấm, quán sát gốc ngọn của nó, cũng chẳng thể nắm bắt được, do từ danh hiệu mà khởi lập như thế. Lại danh hiệu ấy cũng không chỗ trụ, cũng không không trụ. Quán sát sắc thọ, tưởng, hành, thức; nhãn, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý; sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; mười tám chủng, mười hai nhân duyên như vang theo tiếng kêu, như bóng, ảo ảnh, trăng dưới nước, huyễn hóa. Quán sát năm ấm và năm thạnh ấm cũng lại như vậy để biết gốc ngọn cái gọi là ngã sở, hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được, do từ danh hiệu mà khởi lập như thế. Lại cái danh hiệu của nó cũng không chỗ trụ, cũng không không trụ, là hư vô mờ mịt. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức, Không, Vô tướng, Vô nguyện, quán sát gốc ngọn của cái gọi là ngã sở thì hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được, do từ danh hiệu mà khởi lập như thế. Lại cái danh hiệu ấy cũng không chỗ trụ, cũng không không trụ, giống như vang của tiếng, hình bóng, ảo ảnh, cây chuối, trăng dưới nước, huyễn hóa, quán sát gốc ngọn của nó thì hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được, không khởi, không diệt, giống như bóng dưới nước, không nhiễm ô, cũng không sân hận. Nhãn, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý, sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, mười tám chủng, mười hai nhân duyên, pháp giới, bản tế, pháp, chỗ hướng đến của pháp, pháp tịch nhiên, danh của các pháp thiện ác, họa phúc, pháp hữu vi, pháp vô vi, có tạo tác, không tạo tác, hữu lậu, vô lậu, quán sát gốc ngọn nơi phát xuất của pháp, hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được, cũng không chỗ trụ, cũng không không trụ, giống như vang của tiếng, hình bóng, trăng dưới nước, ảo ảnh, cây chuối, huyễn hóa. Pháp của quá khứ, vị lai, hiện tại, quán sát gốc ngọn của nó, cũng chẳng thể nắm bắt được, cũng không chỗ trụ, cũng không không trụ. Pháp quá khứ, vị lai, hiện tại, không thể thấy nguồn gốc. Sao gọi là pháp không sở hữu? Cái gọi là pháp không sở hữu là không có quá khứ, vị lai, hiện tại. Tìm cầu, quán sát gốc ngọn của pháp vô vi, hoàn toàn chẳng thể thấy. Kính bạch Thế Tôn! Con quán sát, xem xét gốc ngọn của hằng hà sa thế giới chư Phật ở phương Đông, vónh viễn không thể thấy. Lại quán sát, xem xét gốc ngọn của chúng Bồ-tát và chúng Thanh văn, Bích-chi-phật của Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, hoàn toàn không thấy. Xem xét gốc ngọn của chúng Bồ-tát và chúng Thanh văn, Bích-chi-phật của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở chín phương: phương Nam, phương Tây, phương Bắc, phương Đông nam, phương Tây nam, phương Tây bắc, phương Đông bắc, phương Trên, phương Dưới, hoàn toàn không thấy, thì chỗ nào là Bát-nhã ba-la-mật của Bồ-tát. Nương vào cái gì mà nói danh hiệu Bồ-tát? Lại danh hiệu ấy cũng không chỗ trụ, không không trụ. Vì sao? Vì loài chúng sinh từ tâm vô minh mà giả mượn danh hiệu, hành, thức, danh sắc, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, già, bệnh, chết cũng lại như vậy, giả mượn mà có danh tự, gốc của danh tự đó, hoàn toàn không chỗ trụ, cũng không không trụ. Vì sao? Kính bạch Thế Tôn, vì tất cả pháp đều không có cội gốc. Vì vậy cho nên tìm cầu cội gốc của nó, hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được. Vậy thì dựa vào nhân duyên nào mà vì Bồ-tát lập danh hiệu? Lại nữa, kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Cái không cội gốc ấy không danh, không trụ, cũng không không trụ. Vì sao? Vì chúng sinh vô minh, từ tâm vô minh mà đưa đến danh tự này. Lại danh tự này cũng không chỗ trụ, cũng không không trụ. Pháp nhân duyên hợp nên có giả hiệu, gọi là Bồ-tát. Nó không có ngôn thuyết, không có các ấm, các chủng, các nhập, vô minh, mười tám chủng, mười hai nhân duyên và các pháp Phật. Duyên là giả hiệu. Kính Đức bạch Thế Tôn, xin dẫn thí dụ: Bóng, tiếng vang, ảo ảnh, cây chuối, huyễn hóa, chỉ có giả hiệu hoặc như hư không, rỗng không, không tên. Ví như tên địa, thủy, hỏa, phong, không, thì địa thủy hỏa phong tự nó không có tên. Sở dó gọi là giới, định, tuệ, giải thoát, tri kiến, Tu-đà-hoàn, Tu-đà-hoàn, A-na-hàm, A-la-hán, thì chỉ có danh hiệu. Thanh văn, Bích-chi-phật cũng lại như thế, chỉ có giả hiệu. Cái gọi là Bồ-tát và danh tự Bồ-tát chỉ là giả hiệu thôi. Cái gọi là Phật và pháp của chư Phật cũng không có tên thật, chỉ là giả hiệu thôi. Thiện, ác, họa, phúc, hoặc thường, vô thường, khổ, lạc, hoặc ngã, phi ngã, tịch mịch, đạm bạc, có phước, không có phước, hoặc thường, vô thường, khổ, lạc, con quán những nghóa này nên gọi đó là do nhân duyên. Giả sử sẽ vì Đại Bồ-tát mà lập danh hiệu thì đối với tất cả pháp tất có hồ nghi, quán sát gốc ngọn của nó, cũng chẳng thể nắm bắt được. Kính bạch Thế Tôn! Có danh hiệu ấy thì không có pháp giới, cũng không có chỗ trụ. Vì sao? Vì loài chúng sinh từ tâm vô minh mà đưa đến danh tự này. Cái danh hiệu ấy cũng không có chỗ trụ, cũng không không trụ, cũng không có nơi chốn. Hiền giả Tu-bồ-đề bạch Phật: –Bạch Đức Thế Tôn! Đại Bồ-tát giả sử nghe nói chủng loại và hiện tướng như thế của Bát-nhã ba-la-mật mà không kinh, không khiếp, không sợ, không băn khoăn, tâm không lo lắng thì nên biết là Đại Bồ-tát ấy đã trụ quả không thoái chuyển, trụ không chỗ trụ, hành không chỗ hành. Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Lại nữa, Đại Bồ-tát chẳng nên trụ sắc, chẳng nên trụ thọ, tưởng, hành, thức; chẳng nên trụ nhãn, chẳng nên trụ nhó, tỷ, thiệt, thân, ý; chẳng nên trụ sắc, chẳng nên trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp; chẳng nên trụ nhãn sắc thức, nhó thanh thức, tỷ hương thức, thiệt vị thức, thân xúc thức, ý pháp thức; chẳng nên trụ nhãn xúc, chẳng nên trụ nhó, tỷ, thiệt, thân, ý xúc; chẳng nên trụ thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, chẳng nên trụ thọ do nhó, tỷ thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra; chẳng nên trụ địa, thủy, hỏa, phong; chẳng nên trụ không; chẳng nên trụ các chủng thức; chẳng nên trụ vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, ái, thọ, thủ, hữu, sinh lão bệnh tử. Vì sao? Bạch Đức Thiên Trung Thiên! Vì sắc tức là không; thọ, tưởng, hành, thức cũng không. Cái nói là không đó chính là sắc không chứ chẳng phải gọi cái không nào khác. Sắc ấy là không. Không nương vào sắc. Đại Bồ-tát muốn cầu tưởng tự duyên mà hành Bát-nhã ba-la-mật thì nên trụ sắc, nên trụ thọ, tưởng, hành, thức; nên trụ nhãn, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý, sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, mười tám chủng, mười hai nhân duyên. Vì sao? Vì sắc, thọ, tưởng, hành, thức là không, mười hai nhân duyên cũng không. Mà mười hai nhân duyên, nguồn gốc sinh tử, không có không nào khác, không có chỗ trụ nào khác. Lão bệnh tử trong mười hai nhân duyên đó chính là không thì mười hai nhân duyên… sinh lão bệnh tử tự nhiên là không, không vốn tự nhiên. Vì vậy cho nên, kính bạch Đức Thiên Trung Thiên, chẳng nên trụ sắc, thọ, tưởng, hành, thức, nhãn, nhó, tỷ thiệt, thân, ý, sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, mười tám chủng, là đầu mối của mười hai nhân duyên vậy. Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Lại nữa, Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, chẳng nên trụ bốn Ý chỉ. Vì sao? Vì quán bốn Ý chỉ cũng lại là không, chẳng phải có cái không nào khác bốn Ý chỉ, chẳng có không khác. Bốn Ý chỉ ấy tự nhiên là không. Cũng không nên trụ bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của Phật. Vì sao? Vì pháp bốn Ý chỉ, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật ấy cũng lại là không. Mười tám pháp Bất cộng của chư Phật tự nhiên là không, không có cái không khác. Mười tám pháp Bất cộng của chư Phật bản tánh là không, không có cái không khác. Vì sao? Vì xét về Phật pháp thì lại là không. Không cho nên gọi là Phật pháp. Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Vì vậy cho nên Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, chẳng nên trụ năm ấm, sáu suy, mười tám chủng, mười hai nhân duyên, ba mươi bảy phẩm, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật. Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Lại nữa Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, chẳng nên trụ Thí ba-la-mật, Giới ba-la-mật, Nhẫn ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Thiền ba-la-mật, Bát-nhã ba-la-mật. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật cũng lại là không. Nếu Bát-nhã ba-la-mật là không thì chẳng phải cái không khác Bát-nhã ba-la-mật. Vì sao? Vì không có cái không nào khác Bát-nhã ba-la-mật. Tự thân Bát-nhã ba-la-mật là không. Bát-nhã ba-la-mật tự nhiên không, chỉ dùng văn tự làm giả hiệu mà thôi. Văn tự là không mới là Bát-nhã ba-la-mật. Vì vậy, Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, thì đối với Bát-nhã ba-la-mật không trụ. Năm ấm, sáu suy, mười tám chủng, mười hai nhân duyên, ba mươi bảy phẩm, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của phật, người hành Bát-nhã ba-la-mật chẳng nên trụ trong đó. Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật chẳng nên trụ văn tự, chẳng nên trụ Văn tự thuyết, chẳng nên trụ một bữa ăn, hai bữa ăn, ba bữa ăn, bốn bữa ăn, ăn bằng nắm vắt, ăn bằng tâm, ăn bằng thức. Vì sao? Vì gọi văn tự thì văn tự là không, không có cái không khác. Văn tự tự nhiên là không. Cái không ấy không có văn tự. Văn tự vốn không. Cái gọi là không đó không có tên gọi. Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Lại nữa Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, chẳng nên trụ thần thông. Vì sao? Vì loại thần thông ấy là thần thông tự thân không, thần thông vốn không, không có thần thông khác mà là cái không, thần thông là không, không có cái không khác. Thần thông là cái không tự không. Kính bạch Thế Tôn, vì vậy cho nên Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật chẳng nên trụ thần thông. Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Lại nữa Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, chẳng nên trụ tưởng sắc, chẳng nên trụ tưởng thọ, chẳng nên trụ tưởng tưởng, chẳng nên trụ tưởng hành, chẳng nên trụ tưởng thức. Vì sao? Vì chúng vô thường, mà vô thường là không. Cái vô thường ấy tự nhiên là không thì cái không vô thường không khác vô thường mà là không, không có cái không khác. Vô thường tự không. Cái không ấy không có vô thường. Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên, vì vậy, Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật chẳng nên trụ không của sắc, chẳng nên trụ không của thọ, tưởng, hành, thức; chẳng nên trụ vô thường của sắc, chẳng nên trụ vô thường của thọ, tưởng, hành, thức; chẳng nên trụ vô thường của nhãn, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý; chẳng nên trụ vô thường của sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; chẳng nên trụ vô thường của mười tám chủng, mười hai nhân duyên chung thủy; chẳng nên trụ khổ, chẳng nên trụ lạc; chẳng nên trụ ngã sở và phi ngã sở của sắc; chẳng nên trụ ngã sở và phi ngã sở của thọ, tưởng, hành, thức; chẳng nên trụ cái không của sắc, cái không của thọ, tưởng, hành, thức; chẳng nên trụ cái không của nhãn, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý; chẳng nên trụ không của sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; chẳng nên trụ không của mười tám chủng, mười hai nhân duyên là hoạn của sinh tử; chẳng nên trụ hữu vi, vô vi; chẳng nên trụ pháp bản tế; chẳng nên trụ sự tịch nhiên của sắc, chẳng nên trụ sự tịch nhiên của thọ, tưởng, hành, thức; chẳng nên trụ cái hư vô mịt mờ của sắc, chẳng nên trụ cái hư vô mịt mờ của thọ, tưởng, hành, thức. Sáu suy, mười tám chủng, mười hai nhân duyên cũng lại như thế. Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Lại nữa, Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, chẳng trụ vô bổn. Vì sao? Vì cái vô bổn ấy rốt ráo không có sở hữu, cũng lại là không. Vô bổn không khác, vô bổn là không, không có cái không khác, mà không có cái không khác là vô bổn vậy. Vô bổn tự nhiên không. Không cũng là vô bổn. Vì vậy, Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật chẳng trụ vô bổn. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng trụ vô bổn. Cho đến các pháp và các pháp giới, các pháp tịch nhiên cho đến bản tế cũng không chỗ trụ. Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Lại nữa, Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, chẳng trụ tất cả các môn Tổng trì, cũng chẳng trụ tất cả các môn Tam-muội. Vì sao? Cái gọi là môn Tổng trì thì môn tổng trì ấy cũng lại là không. Cái gọi là môn Tam-ma-địa thì môn Tam-ma-địa ấy cũng lại là không. Môn Tam-muội, môn Tổng trì tự nhiên là không, không có không khác. Tự nhiên không là không có cái không khác. Môn Tổng trì, môn Tam-muội là bản tịnh, mà bản tịnh là không, tánh tự nhiên không. Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Ví như Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật không có phương tiện thiện xảo, nghó là có ta, đó là ngã sở. Mà nghó như thế là trụ sắc, ở trong sắc có hành tạo tác sinh tử, trụ thọ, tưởng, hành, thức, trong đó có cái tạo tác là hành. Không trừ cái nhân tạo tác sinh tử mà trở lại thọ Bát-nhã ba-la-mật, không chịu tinh cần hành Bát-nhã ba-la-mật thì không đủ điều kiện phát sinh Bát-nhã ba-la-mật-đạt đến trí Nhất thiết. Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Ví như Đại Bồ-tát không có phương tiện thiện xảo, vị ấy nghó việc tôi ta, thị phi, sắc, thọ, tưởng, hành, thức, khổ, lạc, thiện ác, môn Tổng trì, môn Tam-muội thì không thể tu hành môn tổng trì, cũng không thể thuận theo môn Tam-muội, không thể tạo hành vô tưởng để thọ Bát-nhã ba-la-mật, cũng không thể tinh cần hành Bát-nhã ba-la-mật. Vì không đầy đủ Bát-nhã ba-la-mật nên không thể thành tựu trí nhất thiết. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật mà không có phương tiện thiện xảo thì chẳng nên thọ sắc, chẳng nên thọ thọ, tưởng, hành, thức nhưng vị Bồ-tát ấy ngược. Lại nữa, thọ sắc, mà sắc thì bản tịnh, rõ ràng là không. Lấy đó mà suy thì nếu thọ thọ, tưởng, hành, thức, như đã nói là bản tịnh thì cũng lại là không, chẳng thọ các môn Tổng trì, các môn Tam-muội. Nếu chẳng thọ môn Tam-muội, môn Tổng trì thì có thể hưng lập bản tịnh là không, cũng chẳng thọ Bát-nhã ba-la-mật. Do biết bản tịnh là không nên Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật. Như thế thì quán sát các pháp, bản tịnh là không, nên trụ quán này, chẳng nghó pháp ngã sở là hạnh, đó là Đại Bồ-tát làm mà không thọ nhận, gọi là Tam-muội vô thọ. Đạo tràng đầy đủ, rộng khắp không có biên giới, không có hạn lượng. Tất cả Thanh văn, Bích-chi-phật chẳng thể sánh kịp. Lại chẳng thọ trí Nhất thiết. Còn quán sát nội không, ngoại cũng không, có cái nội ngoại không, cầu không cũng không tức là không lớn, mới là cái không chân không, cái không có sở hữu, cái không không sở hữu, cái không hoàn toàn rốt ráo, cái không xa rộng, cái không có sở tạo, cái bản tịnh không, cái tự nhiên tướng không, cái không tất cả chư pháp, cái không không sở hữu, cái không tự nhiên, cái không do từ tự nhiên phát khởi. Vì sao? Vì vừa hướng đến cái hóa thì cái hóa ấy là trần lao. Sao gọi là hóa? Sao gọi là tưởng? Sắc là hóa, thọ, tưởng, hành, thức là tưởng. Mười tám chủng, mười hai nhân duyên, môn tổng trì, môn Tam-muội, đó là tưởng trần lao. Nên tiếp nhận làm theo, không có cái nương dựa, không có cái dưỡng dục. Thanh văn, Bích-chi-phật không tin trí Nhất thiết. Sao gọi là tin ưa? Tin là Bát-nhã ba-la-mật, dốc lòng ưa thích, không nghi ngờ, tư duy, phân biệt. Quán yếu nghóa của nó thì không tưởng, hành trì cũng không tưởng. Cho nên không thọ tưởng, chuyên nhất nương tựa, hoan hỷ ưa thích hành trì, dốc hết lòng tin thì đối với cái bản tịnh không ấy sẽ được đạt đến, không trở lại thọ sắc, cũng không thọ thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì tướng tự nhiên ấy hiện tại là pháp không. Cái không đã thọ ấy cũng không có đối tượng chứng đắc. Vì sao? Vì cái bên trong của định Tam-muội ấy chẳng thể nắm bắt được, gọi là thời tuệ, chẳng ở ngoài, chẳng ở trong, chẳng ở trong ngoài mà có thể nắm bắt được. Thời tuệ ấy cũng không thấy được, trong ngoài đều không. Trừ nhân duyên ấy thì sở học, niềm tin giống như ngoại đạo. Bồ-tát ưa thích pháp này rồi thì dốc hết lòng tin, cho nên gọi là trí Nhất thiết. Dùng giới hạn các pháp, xét tất cả pháp, hoàn toàn không nắm bắt được cái nguyên ủy của nó. Khởi lòng tin như thế rồi thì không có thọ pháp lại chẳng tưởng niệm cái có, cũng chẳng có thể nắm bắt được vô số pháp. Ngay đối với cái đang thọ, thì thọ hay không thọ cũng lại không nghó. Cái mà con người có thể dùng để tu tập là đối với tất cả pháp không niệm gì hết. Đó là Bát-nhã ba-la-mật của Đại Bồ-tát. Các vị cũng không khứ lai, độ không có sở độ mà lại đi cùng khắp. Sở dó được như vậy vì chẳng thọ sắc, chẳng thọ thọ, tưởng, hành, thức. Đối với tất cả pháp, cũng không thọ, cũng không thọ các môn Tổng trì, không thọ các môn Tam-muội. Đối với tất cả pháp không thọ sự phát khởi, cũng không trung gian mà nhập Niết-bàn, dùng đầy đủ hết mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của Phật, bốn Ý chỉ, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo. Vì sao? Vì bốn Ý chỉ ấy là dừng không chỗ dừng, bốn Ý đoạn ấy là đoạn không chỗ đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo cũng đều như vậy. Mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật, giác ngộ các pháp ấy là không có chỗ giác ngộ. Xét pháp ấy cũng chẳng phải là pháp. Đó là Bát-nhã ba-la-mật của Đại Bồ-tát, không thọ sắc, cũng không thọ thọ, tưởng, hành, thức, cho đến môn Tổng trì, môn Tam-muội như vậy, không có gì khác. Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Lại nữa Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật nên nghó thế này: Chỗ nào là Bát-nhã ba-la-mật? Vì sao gọi là Bát-nhã ba-la-mật? Cái gì là Bát-nhã ba-la-mật này? Duyên cớ gì có Bát-nhã ba-la-mật ấy? Dùng Bát-nhã ba-la-mật ấy cũng là không có cái chứng đắc, cũng không có cái thấy, cũng không có cái không thấy. Đó là Bát-nhã ba-la-mật của Đại Bồ-tát. Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Lại nữa, Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, nên tư duy thế này: Cái pháp không sở hữu đó cũng không thể nắm bắt được, cũng không có Bát-nhã ba-la-mật. Hiền giả Xá-lợi-phất hỏi Hiền giả Tu-bồ-đề: –Thưa nhân giả! Pháp nào gọi là không sở hữu cũng chẳng thể nắm bắt được? Đáp: –Pháp Bát-nhã ba-la-mật không sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt được. Thí ba-la-mật, Giới ba-la-mật, Nhẫn ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Thiền ba-la-mật, Bát-nhã ba-la-mật cũng lại như thế, không sở hữu cũng chẳng thể nắm bắt được, vì ở trong không, ở ngoài cũng không, trong ngoài cũng không. Cái không đó đạt đến cái không lớn, đưa đến chân không, vô sở hữu không. Do cái không này đưa đến không có không, vô thường cũng không, sợ hãi cũng không, hữu vi không, bản tịnh cũng không, tự nhiên tướng không, nhất thiết pháp không, tự nhiên cũng không, sở hữu tự nhiên cũng không. Vì duyên cớ đó nên sắc không sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt được, thọ, tưởng, hành, thức cũng không sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt được. Cái nội không ấy cũng không sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt được, cái sở hữu không, cái vô sở hữu không, cái tự nhiên không đều không sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt được. Bốn Ý chỉ ấy cũng đều không sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt được. Bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo cũng đều không sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt được. Mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật cũng đều không sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt được. Sáu Thần thông cũng đều không sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt được. Cái vô bổn ấy cũng không sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt được. Cái gọi là pháp trụ ở pháp, hoặc pháp tịch nhiên, xét bản tế cũng đều không sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt được. Cái gọi là Phật đó cũng không sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt được. Trí Nhất thiết cũng không sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt được. Nhất thiết cụ tuệ cũng không sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt được. Tất cả trong cũng không, xét ngoài cũng không, trong ngoài cũng không, sở hữu cũng không. Thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật tư duy như thế, quán sát như thế. Tư duy như thế rồi thì không thể thấy tâm, tâm không đắm trước, không nhiễm ô, không sợ, không hãi, không khiếp, không lo, không xấu hổ, nên biết đó là Đại Bồ-tát không lìa Bát-nhã ba-la-mật. Hiền giả Xá-lợi-phất hỏi Hiền giả Tu-bồ-đề: –Thế nào là Đại Bồ-tát biết điều đó thì không lìa Bát-nhã ba-la-mật? Hiền giả Tu-bồ-đề trả lời Hiền giả Xá-lợi-phất: –Cái gọi là lìa sắc là lìa cái tự nhiên của sắc, cái gọi là lìa thọ, tưởng, hành, thức là lìa cái tự nhiên của thọ, tưởng, hành, thức. Cái gọi là lìa Thí ba-la-mật là lìa cái tự nhiên của Thí ba-la-mật, cái gọi là lìa Giới ba-la-mật, Nhẫn ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Thiền ba-la-mật, Bát-nhã ba-la-mật là lìa cái tự nhiên của Giới ba-la-mật, Nhẫn ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Thiền ba-la-mật, Bát-nhã ba-la-mật. Cái gọi là lìa Ý chỉ, Ý đoạn, Thần túc, Căn, Lực, Giác ý, tám Thánh đạo là lìa cái tự nhiên của ba mươi bảy phẩm. Cái gọi là lìa mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật là lìa cái tự nhiên của pháp Phật. Cái gọi là lìa các môn Tổng trì, các môn Tam-muội, bản tế là lìa cái tự nhiên của các môn tổng trì, các môn Tam-muội và bản tế. Hiền giả Xá-lợi-phất hỏi Hiền giả Tu-bồ-đề: –Sao gọi là tự nhiên của sắc? Sao gọi là tự nhiên của thọ, tưởng, hành, thức? Sao gọi là tự nhiên của mười hai nhân duyên, ba mươi bảy phẩm, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật? Hiền giả Tu-bồ-đề trả lời: –Đã không sở hữu nên gọi là tự nhiên. Sắc không sở hữu nên gọi là sắc tự nhiên, thọ, tưởng, hành, thức không sở hữu nên gọi là thọ, tưởng, hành, thức tự nhiên. Cho đến bản tế không sở hữu nên gọi là bản tế tự nhiên. Thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Vì vậy người khởi quán này thì biết lìa sắc là tự nhiên của sắc, biết lìa thọ, tưởng, hành, thức là tự nhiên của thọ, tưởng, hành, thức. Năm ấm, sáu suy, mười tám chủng, mười hai nhân duyên, ba mươi bảy phẩm, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật cho đến bản tịnh không sở hữu nên gọi là bản tịnh tự nhiên. Cái gọi là lìa sắc là lìa bản tướng của sắc, cái gọi là lìa thọ, tưởng, hành, thức là lìa bản tướng của thọ, tưởng, hành, thức. Tất cả các pháp và các Phật pháp lìa bản tế là lìa tướng của bản tế. Tướng tự nhiên của sắc là tướng tự nhiên nên gọi là tướng tự nhiên mà được xa lìa. Hiền giả Xá-lợi-phất hỏi Hiền giả Tu-bồ-đề: –Phải chăng Đại Bồ-tát nào học pháp này đều hướng về trí Nhất thiết? Hiền giả Tu-bồ-đề trả lời Hiền giả Xá-lợi-phất: –Đúng vậy, đúng vậy! Hiền giả! Ai học pháp này đều hướng về trí Nhất thiết. Vì sao? Vì tất cả pháp đều không có chỗ khởi, không chỗ diệt. Hiền giả Xá-lợi-phất hỏi Hiền giả Tu-bồ-đề: –Thưa Hiền giả Tu-bồ-đề! Vì sao tất cả các pháp không khởi, không diệt? Đáp: –Thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Gọi sắc thì sắc ấy là không, vì vậy nên chẳng khởi chẳng diệt, cũng chẳng thể nắm bắt được. Thọ, tưởng, hành, thức cũng là không, vì vậy nên chẳng khởi, chẳng diệt, cũng chẳng thể nắm bắt được. Nhãn, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý, sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, mười tám chủng, mười hai nhân duyên, ba mươi bảy phẩm, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật, các môn Tổng trì, các môn Tam-muội cho đến bản tế đều chẳng khởi, chẳng diệt, cũng chẳng thể nắm bắt được. Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật có thể được như thế thì tiếp cận với trí Nhất thiết. Giả sử có thể tiếp cận với trí Nhất thiết thì thân, khẩu, ý tự nhiên thanh tịnh. Các tướng thanh tịnh tự nhiên đầy đủ. Thân, khẩu, ý đã có thể thanh tịnh, đầy đủ các tướng đạt đến thanh tịnh thì ngay khi ấy Bồ-tát liền chẳng còn khởi tâm dâm, nộ, si. Tâm dâm, nộ, si đã thanh tịnh rồi thì không có kiêu mạn, sân hận, tham lam, lại cũng không khởi sáu mươi hai kiến. Các tâm tà, nghi, tham, giận, đã không khởi thì có thể trừ sáu mươi hai kiến, các điều ý nghi ở các chỗ sinh ra không tạo thường kiến, chỗ sinh ra là cõi nước của chư Phật, từ cõi Phật này du hành đến cõi Phật khác, giáo hóa chúng sinh, làm nghiêm tịnh cõi Phật, luôn luôn chuyên nhất, không rời chư Phật Thế Tôn cho đến khi đạt Vô thượng Bồ-đề thành Đẳng Chánh Giác. Như vậy là Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật. KINH QUANG TÁN <卷 id="81581556">QUYỂN 4 <詞 id="81581557">Phẩm 9: Hành Bấy giờ Hiền giả Tu-bồ-đề bạch Phật: –Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Giả sử Đại Bồ-tát không có phương tiện thiện xảo mà hành Bát-nhã ba-la-mật thì hoặc hành sắc là hành tưởng, hành thọ, tưởng, hành, thức là hành tưởng; hoặc hành sắc thường là hành tưởng, hoặc hành thọ, tưởng, hành, thức thường là hành tưởng; hoặc hành sắc vô thường là hành tưởng, hoặc hành thọ, tưởng, hành, thức vô thường là hành tưởng; hoặc hành sắc khổ là hành tưởng, hoặc hành thọ, tưởng, hành, thức khổ là hành tưởng; hoặc hành sắc vui là hành tưởng, hoặc hành thọ, tưởng, hành, thức vui là hành tưởng; hoặc hàznh sắc ngã sở là hành tưởng, hoặc hành thọ, tưởng, hành, thức ngã sở là hành tưởng; hoặc hành sắc chẳng phải ngã sở là hành tưởng, hoặc hành thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải ngã sở là hành tưởng; hoặc hành sắc hư vô là hành tưởng, hoặc hành thọ, tưởng, hành, thức hư vô là hành tưởng. Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Hoặc giả sử Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật mà hành sắc tịch mịch là hành tưởng, hành thọ, tưởng, hành, thức tịch mịch là hành tưởng. Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên, giả sử Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật mà không có phương tiện thiện xảo thì hành bốn Ý chỉ là hành tưởng, hành bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo là hành tưởng; hoặc mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật là hành tưởng. Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Giả sử Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật mà tự nghó là ta hành Bát-nhã ba-la-mật thì Đại Bồ-tát ấy trở lại hành tưởng. Giả sử Đại Bồ-tát tự nghó, hành như thế tức là hành Bát-nhã ba-la-mật thì cũng là hành tưởng. Đó là Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật không có phương tiện thiện xảo. Hiền giả Xá-lợi-phất hỏi Hiền giả Tu-bồ-đề: –Đại Bồ-tát nên hành Bát-nhã ba-la-mật như thế nào mới đắc Bát-nhã ba-la-mật? Hiền giả Tu-bồ-đề trả lời Hiền giả Xá-lợi-phất: –Thưa Hiền giả! Giả sử Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật mà thiết lập sắc tưởng thì không tin hiểu. Nếu lập sắc thì không thoát tưởng là hành tưởng sinh tử. Nếu hành sắc tưởng thì không thoát được vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh lão bệnh tử, sầu lo khổ não. Đại Bồ-tát ấy vì không hành Bát-nhã ba-la-mật nên không có phương tiện thiện xảo mà thiết lập nhãn tưởng thì chẳng tin giải thoát. Giả sử Đại Bồ-tát thiết lập các tưởng nhó, tỷ, thiệt, thân, ý thì chẳng tin giải thoát. Thiết lập các tưởng, nhãn sắc thức, nhó thanh thức, tỷ hương thức, thiệt vị thức, thân xúc thức, ý pháp thức thì chẳng tin giải thoát. Hoặc đối với nhãn xúc, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý xúc mà lập các tưởng ấy thì chẳng tin giải thoát. Giả sử lập tưởng bốn Ý chỉ, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo thì chẳng tin giải thoát. Thiết lập tưởng mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật thì chẳng tin giải thoát mà đối với Phật pháp, niệm hành trước tưởng. Mà niệm tưởng hành thì chẳng tin thoát khỏi hoạn khổ não mười hai nhân duyên. Đại Bồ-tát ấy chẳng xứng đáng chứng Thanh văn, Bích-chi-phật, huống gì chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác là chỗ chẳng thể đạt đến! Thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Như vậy là Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật mà không có phương tiện thiện xảo. Hiền giả Xá-lợi-phất hỏi Hiền giả Tu-bồ-đề: –Thế nào là Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật mà có phương tiện thiện xảo? Hiền giả Tu-bồ-đề trả lời Hiền giả Xá-lợi-phất: –Giả sử Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật mà chẳng hành sắc, chẳng hành thọ, tưởng, hành, thức; chẳng hành tưởng sắc, chẳng hành tưởng thọ, tưởng, hành, thức; chẳng hành sắc thường, chẳng hành thọ, tưởng, hành, thức thường; chẳng hành sắc vô thường, chẳng hành thọ, tưởng, hành, thức vô thường; chẳng hành sắc khổ, chẳng hành thọ, tưởng, hành, thức khổ; chẳng hành sắc vui, chẳng hành thọ, tưởng, hành, thức vui; chẳng hành sắc là ngã sở, chẳng hành thọ, tưởng, hành, thức là ngã sở; chẳng hành sắc chẳng phải là ngã sở, chẳng hành thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải là ngã sở; chẳng hành sắc là hư vô, chẳng hành thọ, tưởng, hành, thức là hư vô; chẳng hành sắc là Không, chẳng hành thọ, tưởng, hành, thức là Không; chẳng hành sắc Vô tướng, chẳng hành thọ, tưởng, hành, thức là Vô tướng; chẳng hành sắc là Vô nguyện, chẳng hành thọ, tưởng, hành, thức là Vô nguyện; chẳng hành sắc là tịch mịch, chẳng hành thọ, tưởng, hành, thức là tịch mịch; chẳng hành sắc là vô tưởng, chẳng hành thọ, tưởng, hành, thức là vô tưởng. Vì sao? Vì sắc là không, sắc chẳng khác không, sắc tức là không, không tức là sắc, sắc tự nhiên không. Thọ, tưởng, hành, thức là không, thọ, tưởng, hành, thức chẳng khác không. Thọ, tưởng, hành, thức tức là không; không tức là thọ, tưởng, hành, thức. Thọ, tưởng, hành, thức tự nhiên không. Bốn Ý chỉ, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo là không, không có khác không. Ba mươi bảy phẩm cũng là không, không khác biệt không. Ba mươi bảy phẩm là không, không đó là ba mươi bảy phẩm. Mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật là không, không có khác không. Phật pháp là không, không có cái khác không. Không đó là pháp. Pháp đó là không. Thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Như thế Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật là thành tựu phương tiện thiện xảo. Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật như thế thì đạt được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật rồi, không sở thọ, không sở hành, chẳng thọ chẳng hành, chẳng hành chẳng thọ, chẳng có sở hành, cũng chẳng phải chẳng hành. Vì vậy không sở thọ, cũng không có sở thọ. Hiền giả Xá-lợi-phất hỏi Hiền giả Tu-bồ-đề: –Vì sao Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật rồi không sở thọ? Hiền giả Tu-bồ-đề đáp: –Bởi vì Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật tự nhiên chẳng thể nắm bắt. Do vậy cho nên Bát-nhã ba-la-mật là không sở hữu, tức là tự nhiên. Thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Vì vậy, Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật không sở thọ, không sở hành, chẳng thọ chẳng hành, chẳng hành chẳng thọ, chẳng có sở hành, cũng chẳng phải chẳng hành. Vì vậy, không sở thọ, cũng chẳng có sở thọ. Vì sao? Vì tất cả các pháp là không sở hữu tức là tự nhiên. Vì vậy không chỗ đến, không chỗ sai phạm. Đó gọi là định Tam-muội nhất thiết bất thọ, Đại Bồ-tát phổ biến rộng rãi sâu xa vô lượng, là điều mà Thanh văn, Bích-chi-phật chẳng thể sánh kịp. Đại Bồ-tát dùng Tam-muội ấy mau chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Hiền giả Xá-lợi-phất hỏi Hiền giả Tu-bồ-đề: –Đại Bồ-tát chẳng thể lìa Tam-muội ấy mau chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, lại có Tam-muội nào khác chăng? Hiền giả Tu-bồ-đề trả lời Hiền giả Xá-lợi-phất: –Lại có Tam-muội khác nữa mau chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Hiền giả Xá-lợi-phất hỏi Hiền giả Tu-bồ-đề: –Hành loại Tam-muội nào khác mà Đại Bồ-tát mau chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Hiền giả Tu-bồ-đề trả lời Hiền giả Xá-lợi-phất: –Đại Bồ-tát hành Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm mau chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Hiền giả Tu-bồ-đề lại nói với Hiền giả Xá-lợi-phất: –Lại có Tam-muội tên là Bảo ấn, lại có Tam-muội tên là Sư tử ngu lạc, lại có Tam-muội tên là Nguyệt diệu, lại có Tam-muội tên là Nguyệt tràng anh, lại có Tam-muội tên là Nhất thiết ấn, lại có Tam-muội tên là Vô năng kiến đảnh, lại có Tam-muội tên là Liễu pháp giới, lại có Tam-muội tên là Phân biệt tràng anh, lại có Tam-muội tên là Dụ kim cang, lại có Tam-muội tên là Nhập pháp ấn, lại có Tam-muội tên là Lập định ý vương, lại có Tam-muội tên là Ấn vương, lại có Tam-muội tên là Thế lực tinh tấn, lại có Tam-muội tên là Siêu đẳng, lại có Tam-muội tên là Nhập ứng thuận phân biệt, lại có Tam-muội tên là Nhập biện ư thập phương giới, lại có Tam-muội tên là Tổng trì ý, lại có Tam-muội tên là Độ vô vi, lại có Tam-muội tên là Đẳng ngự chư pháp hải ấn, lại có Tam-muội tên là Phổ châu hư không, lại có Tam-muội tên là Kim cang đạo tràng, lại có Tam-muội tên là Chấp anh tràng, lại có Tam-muội tên là Đế anh như môn khổn, lại có Tam-muội tên là Khởi bổn, lại có Tam-muội tên là Sư tử hống, lại có Tam-muội tên là Tinh tấn lập, lại có Tam-muội tên là Thắng bảo. Lại có Tam-muội tên là Chiếu minh, lại có Tam-muội tên là Bất huyến, lại có Tam-muội tên là Bất trụ ư hạ, lại có Tam-muội tên là Quyết liễu, lại có Tam-muội tên là Đăng minh quảng khổ, lại có Tam-muội tên là Quang tạo, lại có Tam-muội tên là Hữu sở chiếu diệu, lại có Tam-muội tên là Trung nghiêm tịnh, lại có Tam-muội tên là Ly cấu quang, lại có Tam-muội tên là Hữu sở tạo lạc, lại có Tam-muội tên là Điển đăng minh, lại có Tam-muội tên là Tận sách, lại có Tam-muội tên là Oai thần tích, lại có Tam-muội tên là Ly tận sách, lại có Tam-muội tên là Vô năng thắng, lại có Tam-muội tên là Khai đạo, lại có Tam-muội tên là Đăng minh, lại có Tam-muội tên là Ly đăng cấu, lại có Tam-muội tên là Nghiêm tịnh biện tài, lại có Tam-muội tên là Hữu sở quang diệu, lại có Tam-muội tên là Tạo sự, lại có Tam-muội tên là Tuệ anh, lại có Tam-muội tên là Trụ duy, lại có Tam-muội tên là Phổ minh, lại có Tam-muội tên là Thiện lập, lại có Tam-muội tên là Bảo tích, lại có Tam-muội tên là Siêu chư pháp ấn, lại có Tam-muội tên là Phổ pháp, lại có Tam-muội tên là Thắng ngu lạc, lại có Tam-muội tên là Độ pháp đảnh, lại có Tam-muội tên là Hữu sở hủy hoại, lại có Tam-muội tên là Nhất thiết minh cú, lại có Tam-muội tên là Đẳng tự sở tác, lại có Tam-muội tên là Thú tự, lại có Tam-muội tên là Đoạn nhân duyên, lại có Tam-muội tên là Vô sự, lại có Tam-muội tên là Vô tường, lại có Tam-muội tên là Quyết liễu nhập hiệu, lại có Tam-muội tên là Vô ty hành, lại có Tam-muội tên là Trì minh, lại có Tam-muội tên là Tu hành tích, lại có Tam-muội tên là Vô động, lại có Tam-muội tên là Quảng giới, lại có Tam-muội tên là Quyết nhất thiết đức, lại có Tam-muội tên là Trụ vô tâm, lại có Tam-muội tên là Tịnh ư nghiêm chỉnh, lại có Tam-muội tên là Độ giác ý, lại có Tam-muội tên là Vô lượng đăng minh, lại có Tam-muội tên là Đẳng bất đẳng, lại có Tam-muội tên là Độ nhất thiết, lại có Tam-muội tên là Đoạn chư sự, lại có Tam-muội tên là Ly ý liễu trừ, lại có Tam-muội tên là Ly kiến lập, lại có Tam-muội tên là Nhất thắng, lại có Tam-muội tên là Hành chư sự, lại có Tam-muội tên là Nhất sự, lại có Tam-muội tên là Trừ oán sự, lại có Tam-muội tên là Diệt chư sở hữu bất đương, lại có Tam-muội tên là Nhập tùy nhân duyên âm, lại có Tam-muội tên là Thanh tích ngôn vô tập độ, lại có Tam-muội tên là Oai thần tích, lại có Tam-muội tên là Quang diệu xí thạnh, lại có Tam-muội tên là Thanh tịnh thọ, lại có Tam-muội tên là Thanh chứng nhi nhàn, lại có Tam-muội tên là Nhất thiết thắng, lại có Tam-muội tên là Bất nhạo nhất thiết chư khổ lạc, lại có Tam-muội tên là Vô tận sự, lại có Tam-muội tên là Tổng trì cú, lại có Tam-muội tên là Đẳng ư chánh tà sư tử tòa, lại có Tam-muội tên là Nhập hưởng ly hưởng, lại có Tam-muội tên là Vô hưởng đắc hưởng, lại có Tam-muội tên là Ly cấu minh, lại có Tam-muội tên là Ngự tích, lại có Tam-muội tên là Mãn nguyệt ly cấu quang, lại có Tam-muội tên là Điển đỉnh quang, lại có Tam-muội tên là Đại nghiêm tịnh, lại có Tam-muội tên là Phổ chiếu thế gian, lại có Tam-muội tên là Phổ định ý, lại có Tam-muội tên là Ưng vô nhiễm ly nhiễm, lại có Tam-muội tên là Ngự không nhất thiết đẳng ngự, lại có Tam-muội tên là Vô thanh bất thanh bảo, lại có Tam-muội tên là Lập vô bổn niệm, lại có Tam-muội tên là Thân thời đệ nhất, lại có Tam-muội tên là Ngôn thời trừ không niệm, lại có Tam-muội tên là Thoát hư không ngại diệt hộ. Thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát hành các môn Tam-muội đó mau chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Và vô số không thể kể xiết các môn Tam-muội, các môn tổng trì khác mà Đại Bồ-tát học thì sẽ mau chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Khi ấy ngài Tu-bồ-đề vâng theo lời dạy của Phật nói: –Thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Nên biết, chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác quá khứ đã thọ ký cho các Đại Bồ-tát này và chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hiện tại ở mười phương thế giới đều đã thọ ký cho những Đại Bồ-tát này. Khi những vị Bồ-tát này hành Tam-muội ấy, chẳng thấy Tam-muội, cũng chẳng nghó Tam-muội, cũng không có đối tượng Tam-muội, cũng không tưởng ta được Tam-muội, cũng không nghó ta trụ Tam-muội không. Đó là Đại Bồ-tát không tưởng niệm. Hiền giả Xá-lợi-phất hỏi Hiền giả Tu-bồ-đề: –Đại Bồ-tát trụ Tam-muội ấy được chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác quá khứ thọ ký chăng? Đáp: –Không, thưa Hiền giả Xá-lợi-phất. Vì sao? Thưa Hiền giả Xá-lợi-phất, vì Bát-nhã ba-la-mật và Tam-muội chẳng khác, Đại Bồ-tát cũng chẳng khác. Đại Bồ-tát tức là Tam-muội, Tam-muội tức là Đại Bồ-tát. Hiền giả Xá-lợi-phất hỏi Hiền giả Tu-bồ-đề: –Như nhân giả đã nói, Đại Bồ-tát, Bát-nhã ba-la-mật và các môn Tam-muội chẳng khác nhau. Bồ-tát tức là Tam-muội, Tam-muội tức là Bồ-tát. Như vậy tất cả pháp đều bình đẳng thì không biết Tam-muội. Thưa Hiền giả Xá-lợi-phất, vì vậy nên đối với Tam-muội ấy, thiện nam tử cũng không biết, cũng chẳng rõ. Ngài Xá-lợi-phất lại hỏi: –Vì sao chẳng biết, chẳng rõ? Đáp: –Vì dùng vô minh mà làm Tam-muội. Vì vậy Bồ-tát không biết, không rõ. Bấy giờ Đức Thế Tôn khen Hiền giả Tu-bồ-đề: –Hay thay, hay thay! Tu-bồ-đề, đúng như ta đã khen ông là bậc tối tôn, hành không bậc nhất. Đại Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật nên học Thí ba-la-mật, Giới ba-la-mật, Nhẫn ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Thiền ba-la-mật, Bát-nhã ba-la-mật, bốn Ý chỉ, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật như thế. Hiền giả Xá-lợi-phất bạch Phật: –Phải chăng Đại Bồ-tát học như thế là học Bát-nhã ba-la-mật chăng? Đức Phật dạy: –Đúng vậy, Đại Bồ-tát học như thế là học Bát-nhã ba-la-mật. Cái học đó cũng không sở đắc. Thí ba-la-mật, Giới ba-la-mật, Nhẫn ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Thiền ba-la-mật, Bát-nhã ba-la-mật cũng lại như thế. Bốn Ý chỉ, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật tự nhiên đầy đủ, tuy có sở đắc cũng không sở đắc. Hiền giả Xá-lợi-phất bạch Phật: –Đại Bồ-tát học như vậy, thực hiện cái học ấy là học Bát-nhã ba-la-mật, đắc Bát-nhã ba-la-mật chăng? Đức Phật dạy: –Học như thế là học Bát-nhã ba-la-mật, đắc cái không đắc. Hiền giả Xá-lợi-phất lại bạch Phật: –Thế nào là đắc cái không đắc? Đức Thế Tôn đáp: –Không đắc tôi ta, không đắc nhân, thọ mạng cũng không đắc cái thấy. Năm ấm rốt ráo gốc ngọn thảy đều thanh tịnh, cũng chẳng thấy đắc. Ấm, chủng, các nhập, rốt ráo gốc ngọn cũng đều thanh tịnh như thế, cũng chẳng đắc. Cội gốc của vô minh gốc ngọn rốt ráo đều thanh tịnh. Hành thức, lục nhập, danh sắc, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh lão bệnh tử, gốc ngọn rốt ráo thảy đều thanh tịnh. Nếu không sở đắc thì gốc ngọn rốt ráo thảy đều thanh tịnh. Con đường tập tận, cũng chẳng thể nắm bắt, gốc ngọn rốt ráo đều thanh tịnh. Cõi Dục cũng chẳng thể nắm bắt được, gốc ngọn rốt ráo thảy đều thanh tịnh. Cõi Sắc, cõi Vô sắc cũng chẳng thể nắm bắt được, gốc ngọn rốt ráo thảy đều thanh tịnh. Bốn Ý chỉ, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật cũng chẳng thể nắm bắt được, gốc ngọn rốt ráo thảy đều thanh tịnh. Sáu pháp Ba-la-mật cũng chẳng thể nắm bắt được, gốc ngọn rốt ráo thảy đều thanh tịnh. Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi-phật, cũng chẳng thể nắm bắt được, gốc ngọn rốt ráo thảy đều thanh tịnh. Bồ-tát cũng vậy, cũng chẳng thể nắm bắt được, gốc ngọn rốt ráo thảy đều thanh tịnh. Phật, cũng chẳng thể nắm bắt được, gốc ngọn rốt ráo thảy đều thanh tịnh. Hiền giả Xá-lợi-phất bạch Phật: –Thanh tịnh chỗ nào? Thế Tôn đáp: –Không chỗ khởi, không chỗ sinh, không chỗ đắc, không chỗ hành tức là thanh tịnh. Ngài Xá-lợi-phất hỏi: –Kính bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát học như thế là học pháp gì? Đức Phật dạy: –Đại Bồ-tát học như thế là học pháp vô sở học. Vì sao? Này Xá-lợi-phất! Vì các pháp ấy, nếu nêu ra cái sở hữu của nó thì phàm phu ngu si sẽ nương dựa vào đó. Ngài Xá-lợi-phất bạch Phật: –Kính bạch Thế Tôn! Ai đạt pháp ấy? Đức Phật dạy: –Đúng như không sở đắc, vì vậy nên đắc cái đắc như thế. Cho nên gọi là không sở đắc. Lại hỏi: –Bạch Thế Tôn! Cái gì không sở đắc mà có sở đắc? Đức Phật dạy: –Sắc không sở đắc, bên trong cũng không, bên ngoài cũng không, trong ngoài cũng không, cái gọi là sở hữu tự nhiên, không, có đều là không. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng không bên trong, không bên ngoài, trong ngoài cũng không, sở hữu tự nhiên, không, có đều không. Bốn Ý chỉ, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật cũng không trong, cũng không ngoài, cũng không trong ngoài, sở hữu tự nhiên, không, có đều không. Phàm phu ngu si kia theo vô minh sai khiến nương tựa đắm tham vướng nơi ái mà có tưởng niệm. Vì nương vào vô minh, bị mù cả hai mắt nên chẳng biết và không thấy gì. Đã không biết không thấy thì họ có nghó tưởng cũng chẳng thể nắm bắt được. Danh sắc lại gắn liền Phật pháp. Đã có chỗ nương tựa mà muốn hiểu rõ pháp không sở hữu nên chẳng biết chẳng thấy. Chẳng biết chẳng thấy cái gì? Sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng biết, chẳng thấy. Mười hai nhập, mười tám chủng, ba mươi bảy phẩm, mười hai nhân duyên, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật cũng lại chẳng biết, chẳng thấy. Do đó nên gọi là ngu. Họ chẳng xả bỏ. Chẳng xả bỏ cái gì? Chẳng xả bỏ cõi Dục, chẳng xả bỏ cõi Sắc, chẳng xả bỏ cõi Vô sắc, chẳng xả bỏ địa Thanh văn, Bích-chi-phật. Họ chẳng dốc lòng tin. Chẳng tin gì? Chẳng tin sắc là không, chẳng tin thọ, tưởng, hành, thức là không; chẳng tin mười hai nhập, mười tám chủng, mười hai nhân duyên, ba mươi bảy phẩm, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật là không. Họ chẳng có thể kiến lập, kiến lập Thí ba-la-mật, Giới ba-la-mật, Nhẫn ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Thiền ba-la-mật, Bát-nhã ba-la-mật, chẳng trụ địa vị không thoái chuyển. Lại chẳng kiến lập pháp của chư Phật. Vì vậy nên gọi là ngu. Họ nương tựa vào nhãn, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý. Nương tựa vào các chủng, các ấm, nhập. Nương tựa, tìm cầu dâm, nộ, si. Nương tựa, mến mộ các nghi, tà kiến. Nương tựa, mến mộ Phật đạo. Hiền giả Xá-lợi-phất bạch Phật: –Đại Bồ-tát học như thế là chẳng học Bát-nhã ba-la-mật chăng? Không sinh trí Nhất thiết chăng? Đức Phật dạy: –Đại Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật như thế thì chẳng đắc trí Nhất thiết. Hiền giả Xá-lợi-phất bạch Phật: –Kính bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát học như thế vì sao chẳng đắc trí Nhất thiết? Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Đại Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật như thế là không có phương tiện thiện xảo vì có tưởng nghó, có nương tựa vào Thí ba-la-mật, Giới ba-la-mật, Nhẫn ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Thiền ba-la-mật, Bát-nhã ba-la-mật. Đã tưởng nghó mong cầu, nương tựa vào sáu pháp Ba-la-mật, ba mươi bảy phẩm, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật, lại tưởng nghó mong cầu trí Nhất thiết, đã tưởng nghó mong cầu trí Nhất thiết mà lại nương bám vào thì, này Xá-lợi-phất! Vì vậy Đại Bồ-tát chẳng học Bát-nhã ba-la-mật, chẳng đắc trí Nhất thiết. Hiền giả Xá-lợi-phất bạch Phật: –Đại Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật như thế là chẳng học Bát-nhã ba-la-mật, là chẳng hành trí Nhất thiết chăng? Đức Thế Tôn dạy: –Đúng vậy, Xá-lợi-phất! Học Bát-nhã ba-la-mật như thế là chẳng đắc trí nhất thiết. Hiền giả Xá-lợi-phất lại hỏi: –Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Đại Bồ-tát nên học Bát-nhã ba-la-mật như thế nào để thuận tiện với việc học đắc trí Nhất thiết? Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: –Giả sử Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật mà chẳng thấy Bát-nhã ba-la-mật thì như thế là Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, là học Bát-nhã ba-la-mật, đắc trí Nhất thiết, đắc vô sở đắc của vô sở đắc, cũng lại chẳng đắc Thí ba-la-mật, Giới ba-la-mật, Nhẫn ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Thiền ba-la-mật, Bát-nhã ba-la-mật, cũng chẳng đắc Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi-phật, Bồ-tát, Phật, lại cũng chẳng đắc trí Nhất thiết. Như thế, này Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát hành như thế là hành Bát-nhã ba-la-mật, là học Bát-nhã ba-la-mật, đắc trí Nhất thiết, đắc vô sở đắc. Hiền giả Xá-lợi-phất bạch Phật: –Sao gọi là vô sở đắc? Đức Thế Tôn đáp: –Ở trong cũng không, ở ngoài cũng không, trong ngoài cũng không, tất cả pháp đều không.  <詞 id="81581558">Phẩm 10: Huyễn Khi ấy Hiền giả Tu-bồ-đề bạch Phật: –Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Giả sử có người hỏi: “Người huyễn học Bát-nhã ba-la-mật muốn đắc trí Nhất thiết được chăng?”, với câu hỏi như thế, con sẽ trả lời như thế nào? “Huyễn só ấy lại học Thí ba-la-mật, Giới ba-la-mật, Nhẫn ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Thiền ba-la-mật để muốn đắc trí Nhất thiết, học bốn Ý chỉ, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo để muốn đắc trí nhất thiết được chăng?” Giả sử có người đến hỏi như thế con sẽ trả lời thế nào? Đức Phật bảo Tu-bồ-đề: –Nay ta hỏi ông. Theo sự hiểu biết của ông mà trả lời. Này Tu-bồ-đề! Theo ý ông thì sao, sắc khác, huyễn khác chăng? Thọ, tưởng, hành, thức khác, huyễn khác chăng? Hiền giả Tu-bồ-đề trả lời: –Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên, không. –Này Tu-bồ-đề! Theo ý ông thì sao, huyễn khác, nhãn khác chăng? Nhó, tỷ, thiệt, thân, ý khác, huyễn khác chăng? Nhãn sắc thức, nhó thanh thức, tỷ hương thức, thiệt vị thức, thân xúc thức, ý pháp thức khác, huyễn khác chăng? Nhân duyên tạo thành lạc thọ khác, huyễn khác chăng? –Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên, không. –Này Tu-bồ-đề! Theo ý ông thì sao, bốn Ý chỉ khác, huyễn khác chăng? Bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo khác, huyễn khác chăng? Không, Vô tướng, Vô nguyện khác, huyễn khác chăng? –Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên, không. –Này Tu-bồ-đề! Theo ý ông thì sao, huyễn khác, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật khác chăng? –Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên, không. –Này Tu-bồ-đề! Theo ý ông thì sao, huyễn khác, đạo khác chăng? –Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên, không. Huyễn chẳng khác, sắc cũng chẳng khác. Sắc tức là huyễn, huyễn tức là sắc. Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên, huyễn chẳng khác, thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng khác. Thọ, tưởng, hành, thức tức là huyễn, huyễn tức là thọ, tưởng, hành, thức. Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Huyễn chẳng khác, nhãn, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý cũng chẳng khác. Nhãn, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý tức là huyễn, huyễn tức là nhãn, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý. Nhãn sắc thức, nhó thanh thức, tỷ hương thức, thiệt vị thức, thân xúc thức, ý pháp thức tức là huyễn, huyễn tức là nhãn sắc thức, nhó thanh thức, tỷ hương thức, thiệt vị thức, thân xúc thức, ý pháp thức. Nhân duyên tạo thành lạc thọ chẳng khác, huyễn cũng chẳng khác. Lạc thọ tức là huyễn, huyễn tức là lạc thọ. Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Huyễn chẳng khác, bốn Ý chỉ cũng chẳng khác. Bốn Ý chỉ tức là huyễn, huyễn tức là bốn Ý chỉ. Bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo tức là huyễn, huyễn tức là bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo. Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên, huyễn chẳng khác, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật cũng chẳng khác. Mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật tức là huyễn, huyễn tức là mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật. –Này Tu-bồ-đề! Theo ý ông thì sao, cái gọi là huyễn đó là có trần cấu và sân hận chăng? –Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên, không. –Này Tu-bồ-đề! Theo ý ông thì sao, cái gọi là huyễn đó có chỗ khởi, có chỗ diệt không? –Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên, không. –Này Tu-bồ-đề! Theo ý ông thì sao, đối với cái chẳng khởi chẳng diệt ấy, Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật rồi, chứng đắc trí Nhất thiết, có đạt đến tất cả đại Từ, đại Bi chăng? –Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên, không. –Này Tu-bồ-đề! Theo ý ông thì sao, từ đó phát khởi tư tưởng hiểu biết, theo tập tục giáo hóa, nhân nơi năm thạnh ấm làm Bồ-tát chăng? –Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên, đúng vậy. –Này Tu-bồ-đề! Theo ý ông thì sao, có tư tưởng biết, tùy theo tập tục mà phát ra lời dạy bảo, do năm thạnh ấm mà có chỗ khởi có chỗ diệt, có thể lại bị trần lao sân hận chăng? –Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên, không. –Này Tu-bồ-đề! Theo ý ông thì sao, cái không có tư tưởng, không có tập tục, không có ngôn giáo, không có khởi lập, không có danh hiệu, không có thân, không có việc của thân, không có nói không có việc của lời nói, không có ý và không có việc của ý, chẳng khởi chẳng diệt, không có trần lao, không có sân hận, lại dùng sự việc này để học Bát-nhã ba-la-mật, thành tựu trí Nhất thiết chăng? –Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên, không. Đức Phật dạy: –Đúng vậy, Tu-bồ-đề, Đại Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật như thế để thành tựu trí Nhất thiết thì không có việc đó. Hiền giả Tu-bồ-đề bạch Phật: –Đại Bồ-tát nếu muốn học Bát-nhã ba-la-mật và học Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì nên biết như huyễn. Vì sao? Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên, nên quán năm ấm như người huyễn. –Này Tu-bồ-đề! Theo ý ông thì sao, năm ấm này học Bát-nhã ba-la-mật thành tựu trí Nhất thiết chăng? –Kính bạch Thế Tôn, không. Vì sao? Vì năm ấm ấy tự nhiên không sở hữu. Cái có tự nhiên không sở hữu ấy cũng chẳng thể nắm bắt được. –Này Tu-bồ-đề! Theo ý ông thì sao, giả dụ tự nhiên năm ấm như mộng thì học Bát-nhã ba-la-mật thành tựu trí Nhất thiết chăng? –Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên, không. Vì sao? Vì xét về mộng thì tự nhiên không có. Mà đã tự nhiên không có thì chẳng thể nắm bắt được. –Này Tu-bồ-đề! Theo ý ông thì sao, âm vang của tiếng kêu dụ cho năm ấm, lại ví như ảnh trong nước. Ảo ảnh, sự biến hóa dụ như năm ấm, học Bát-nhã ba-la-mật có thành tựu trí Nhất thiết chăng? –Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên, không. Vì sao? Vì âm vang của tiếng kêu, ảnh trong nước, ảo ảnh, sự biến hóa tự nhiên không có. Mà đã là tự nhiên không có thì chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên, vì phân biệt rõ sắc giống như huyễn, thọ, tưởng, hành, thức, mười tám chủng, sáu căn, năm ấm và năm thạnh ấm tự nhiên như mộng. Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên, sắc thọ, tưởng, hành, thức, mười tám chủng, sáu căn, năm thạnh ấm giống như mộng thì bên trong là rỗng không, chẳng thể nắm bắt được. Mà đã tự nhiên không tức là rỗng không, hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được. Hiền giả Tu-bồ-đề bạch Phật: –Nay thuyết Bát-nhã ba-la-mật này, pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát tân học nghe thuyết như thế thì không còn sợ sệt, kinh hãi lo lắng. Đức Phật bảo Tu-bồ-đề: –Giả sử pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát mới học đối với Bát-nhã ba-la-mật, không biết phương tiện thiện xảo, không gần gũi thầy lành thì sẽ hoặc sợ, hoặc kinh, hoặc lo lắng. Hiền giả Tu-bồ-đề hỏi Phật: –Kính bạch Thế Tôn! Sao gọi là Đại Bồ-tát gần gũi thầy lành hành Bát-nhã ba-la-mật có phương tiện thiện xảo, thì Đại Bồ-tát ấy chẳng kinh, chẳng sợ, chẳng lo lắng? Đức Phật dạy: –Đại Bồ-tát này hành Bát-nhã ba-la-mật, tâm ý tinh chuyên về trí Nhất thiết chẳng quán sắc vô thường, sắc cũng chẳng thể nắm bắt được, chẳng quán thọ, tưởng, hành, thức vô thường; thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng thể nắm bắt được, tâm chí quán trí Nhất thiết, chẳng thể quán sát vô thường, cũng chẳng thể nắm bắt được. Đó là Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật có phương tiện thiện xảo. Lại nữa Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát ý chí chuyên chú trí Nhất thiết, chẳng quán sắc là khổ, cũng chẳng thủ đắc sắc. Chẳng quán thọ, tưởng, hành, thức là khổ, cũng chẳng thủ đắc thọ, tưởng, hành, thức. Chẳng quán sắc là ngã sở, cũng chẳng thủ đắc ngã sở. Chẳng quán thọ, tưởng, hành, thức là ngã sở, cũng chẳng thủ đắc ngã sở. Chẳng quán sắc chẳng phải ngã sở, cũng chẳng thủ đắc cái chẳng phải ngã sở. Chẳng quán thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải ngã sở, cũng chẳng thủ đắc cái chẳng phải ngã sở. Lại nữa Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát chú tâm học trí Nhất thiết, quán sắc là không, cũng chẳng thủ đắc không. Quán thọ, tưởng, hành, thức là không, cũng chẳng thủ đắc không. Chẳng quán sắc là thường, cũng chẳng thủ đắc thường. Chẳng quán thọ, tưởng, hành, thức là thường, cũng chẳng thủ đắc thường. Chẳng quán sắc chẳng phải thường, cũng chẳng thủ đắc vô thường. Chẳng quán thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải thường, cũng chẳng thủ đắc vô thường. Quán sắc là tịch mịch, cũng chẳng thủ đắc cái tịch mịch của sắc. Quán thọ, tưởng, hành, thức là tịch mịch, cũng chẳng thủ đắc cái tịch mịch của thọ, tưởng, hành, thức. Quán sắc là hư vô, cũng chẳng thủ đắc cái hư vô của sắc. Quán thọ, tưởng, hành, thức là hư vô, cũng chẳng thủ đắc cái hư vô của thọ, tưởng, hành, thức. Đó là Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật có phương tiện thiện xảo. Lại nữa Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát chẳng quán vô thường, cũng không sở đắc. Khổ, không, vô ngã, phi thân, cũng không sở đắc. Chẳng quán vô thường, cũng không sở đắc. Không, Vô tướng, Vô nguyện, tịch mịch, hư vô, cũng không sở đắc. Thọ, tưởng, hành, thức chẳng quán vô thường, cũng không sở đắc. Nhãn, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý, sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp chẳng quán vô thường, cũng không sở đắc. Phi thường, khổ, không, vô ngã, phi thân, Không, Vô tướng, Vô nguyện, tónh lặng, hư vô. Quán những pháp ấy rồi nhưng không có sở đắc. Bồ-tát ấy vì chúng sinh khởi ý thế này: “Ta vì tất cả loài chúng sinh thuyết pháp vô thường, vì người điên đảo khiến chẳng mê hoặc. Lại phân biệt pháp, là khổ, vô ngã, Không, Vô tướng, Vô nguyện là tịch mịch, hư vô, vì người điên đảo khiến chẳng mê hoặc.” Đó là Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật có phương tiện thiện xảo. Lại nữa Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật học hạnh trí Nhất thiết, tư duy ý nghóa đó, chẳng quán sắc vô thường, chẳng rơi vào điên đảo, cũng không sở đắc. Chẳng quán thọ, tưởng, hành, thức là vô thường, chẳng rơi vào điên đảo, cũng không sở đắc. Chẳng quán vô thường, khổ, vô ngã là không; Không, Vô tướng, Vô nguyện là tịch mịch, hư vô, chẳng rơi vào điên đảo, cũng không sở đắc. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức lìa bốn pháp: Vô thường, Không, Vô tướng, Vô nguyện là tịch mịch, hư vô. Quán các pháp này, chẳng khiến điên đảo, cũng không sở đắc. Giả sử, đối với trí Nhất thiết tưởng niệm không xả thì đây gọi là Đại Bồ-tát Tinh tấn ba-la-mật. Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật, tâm chí chẳng nghó đến việc của Thanh văn, Bích-chi-phật, cũng chẳng nghe tâm chí khuyên theo việc làm ấy. Đó là Đại Bồ-tát hành Thiền ba-la-mật chẳng kinh, chẳng sợ, cũng chẳng lo lắng. Lại nữa Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, nên khởi quán này. Không vì sắc không mà cho là không, sắc tức là không, không tức là sắc. Sắc ấy tức là không. Thọ, tưởng, hành, thức chẳng chỉ là không; thọ, tưởng, hành, thức tự nhiên không, thọ, tưởng, hành, thức tức là không, không tức là thọ, tưởng, hành, thức. Nhãn chẳng chỉ là không; nhãn tự nhiên không; nhãn tức là không, không tức là nhãn, nhãn chẳng chỉ là không. Nhó thanh thức, tỷ hương thức, thiệt vị thức, thân xúc thức, ý pháp thức chẳng chỉ là không; nhó thanh thức, tỷ hương thức, thiệt vị thức, thân xúc thức, ý pháp thức tự nhiên không, nhó thanh thức, tỷ hương thức, thiệt vị thức, thân xúc thức, ý pháp thức tức là không, không tức là nhó thanh thức, tỷ hương thức, thiệt vị thức, thân xúc thức, ý pháp thức. Các lạc thọ do nhân duyên tạo ra tức là không, các lạc thọ do nhân duyên tạo ra tự nhiên là không, các lạc thọ do nhân duyên tạo ra, quán chúng là không, tâm ấy tự không, các lạc thọ do nhân duyên tạo ra cũng là không. Bốn Ý chỉ chẳng chỉ là không, nên bốn Ý chỉ là không, do vậy nên không, bốn Ý chỉ ấy tự nhiên là không. Bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo chẳng chỉ là không. Ba mươi bảy phẩm tự nhiên là không, không tức là ba mươi bảy phẩm, ba mươi bảy phẩm là không. Mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật chẳng chỉ là không, các pháp ấy là tự nhiên không. Không tức là Phật. Pháp tức là không, không tức là pháp. Đó là Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật chẳng kinh, chẳng sợ, cũng chẳng lo lắng. Hiền giả Tu-bồ-đề bạch Phật: –Thầy lành của Đại Bồ-tát ở đâu mà thuyết Bát-nhã ba-la-mật có sự ủng hộ để khi nghe chẳng kinh, chẳng sợ, cũng chẳng lo lắng? –Này Tu-bồ-đề! Thầy lành của Đại Bồ-tát là người khi thuyết pháp chẳng bàn luận sắc là vô thường, sắc cũng chẳng thể nắm được, cũng không chấp trước. Với gốc đức ấy chẳng dùng để khuyến khích hỗ trợ tạo lập địa Thanh văn, Bích-chi-phật mà thường tạo lập trí Nhất thiết. Lại nữa Tu-bồ-đề! Thầy lành của Đại Bồ-tát là người khi thuyết kinh pháp chẳng bàn sắc là khổ, sắc chẳng thể nắm bắt được, cũng không chấp trước. Thọ, tưởng, hành, thức chẳng thể nắm bắt được, cũng chẳng chấp trước. Sắc là ngã sở, chẳng phải ngã sở. Thọ, tưởng, hành, thức là ngã sở, chẳng phải ngã sở, chẳng thể nắm bắt được, cũng không chấp trước. Trái lại nữa, thuyết pháp bàn sắc là Không, Vô tướng, Vô nguyện, chẳng thể nắm bắt được, cũng chẳng chấp trước. Thọ, tưởng, hành, thức là Không, Vô tướng, Vô nguyện, chẳng thể nắm bắt được, cũng không chấp trước. Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp và mười tám chủng, ngã sở, chẳng phải ngã sở, chẳng thể nắm bắt được, cũng không chấp trước. Lại nữa, Tu-bồ-đề! Thầy lành của Đại Bồ-tát là người khi thuyết pháp, bàn sắc là tịch mịch, hư vô, chẳng thể nắm bắt được, cũng không chấp trước. Thọ, tưởng, hành, thức là tịch mịch, hư vô, chẳng thể nắm bắt được, cũng không chấp trước. Với gốc đức ấy, chẳng dùng để khuyến khích hỗ trợ địa Thanh văn, Bích-chi-phật mà thường dùng khuyến khích hỗ trợ trí Nhất thiết. Này Tu-bồ-đề! Đó gọi là thầy lành của Đại Bồ-tát. Lại nữa, giảng thuyết nhãn là tịch mịch, hư vô, chẳng thể nắm bắt được, cũng không chấp trước. Nhó, tỷ, thiệt, thân, ý là tịch mịch, hư vô, chẳng thể nắm bắt được, cũng không chấp trước. Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp là tịch mịch, hư vô, chẳng thể nắm bắt được, cũng không chấp trước. Nhân duyên cảm thọ do nhãn tạo thành, nói là pháp vô thường. Nhân duyên lạc thọ do nhãn sắc thức, nhó thanh thức, tỷ hương thức, thiệt vị thức, thân xúc thức, ý pháp thức tạo thành, nói là pháp vô thường, tịch mịch, hư vô, chẳng thể nắm bắt được, cũng không chấp trước. Với gốc đức này, chẳng dùng để khuyến khích hỗ trợ địa Thanh văn, Bích-chi-phật mà thường dùng để tạo lập trí Nhất thiết. Đó là thầy lành của Đại Bồ-tát. Lại nữa Tu-bồ-đề! Thầy lành của Đại Bồ-tát là người thuyết pháp chẳng bàn về vô thường, bốn Ý chỉ, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo. Điều mà vị ấy nói là vô thường, khổ, vô ngã là không. Không, Vô tướng, Vô nguyện là tịch mịch, hư vô. Tuy nói pháp này, nhưng chẳng thể nắm bắt được, cũng không chấp trước. Với gốc đức này, chẳng dùng để khuyến khích hỗ trợ địa Thanh văn, Bích-chi-phật mà thường dùng để kiến lập trí Nhất thiết. Đó là thầy lành của Đại Bồ-tát. Lại nữa, Tu-bồ-đề! Thầy lành của Đại Bồ-tát là người thuyết pháp mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật, chẳng bàn về vô thường, khổ, không, phi thân (vô ngã), Không, Vô tướng, Vô nguyện là tịch mịch, hư vô, nhưng chẳng thể nắm bắt được, cũng không chấp trước. Đó là thầy lành của Đại Bồ-tát. Với gốc đức này, chẳng dùng để khuyến khích hỗ trợ việc của Thanh văn, địa Bích-chi-phật mà thường dùng để tạo lập trí Nhất thiết. Đó là thầy lành của Đại Bồ-tát. Lại nữa Tu-bồ-đề! Thầy lành của Đại Bồ-tát là người giảng pháp, thị hiện nói sắc là vô thường, khổ, không, vô ngã. Thị hiện nói nhãn, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý là vô thường, khổ, không, vô ngã. Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp là vô thường, khổ, không, vô ngã. Nhãn sắc thức, nhó thanh thức, tỷ hương thức, thiệt vị thức, thân xúc thức, pháp ý thức là vô thường, khổ, không, vô ngã. Thị hiện nói vô minh là vô thường, khổ, không, vô ngã. Hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão, bệnh, tử là vô thường, khổ, không, vô ngã. Sắc, ngã sở, chẳng phải ngã sở là tịch mịch, hư vô. Thọ, tưởng, hành, thức, ngã sở, chẳng phải ngã sở là tịch mịch, hư vô. Tuy nói pháp này để khai hóa cho người, nhưng không thủ đắc, cũng không chấp trước. Với gốc đức này chẳng dùng để khuyến khích hỗ trợ việc của Thanh văn, Bích-chi-phật mà thường dùng để tạo lập trí Nhất thiết. Đó là thầy lành của Đại Bồ-tát. Lại nữa Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát vì người nói kinh pháp, thị hiện luận bàn bốn Ý chỉ, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo là vô thường, khổ, không, vô ngã. Không, Vô tướng, Vô nguyện, ngã sở, chẳng phải ngã sở là tịch mịch, hư vô. Với gốc đức này, chẳng dùng để khuyến khích hỗ trợ việc của Thanh văn, địa Bích-chi-phật mà thường dùng để tạo lập trí Nhất thiết. Đó là thầy lành của Đại Bồ-tát. Lại nữa Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát vì người thuyết pháp, thị hiện luận bàn mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật, sắc là vô thường, khổ, không, vô ngã, thọ, tưởng, hành, thức là vô thường, khổ, không, vô ngã. Ngã sở, chẳng phải ngã sở, Không, Vô tướng, Vô nguyện là tịch mịch, hư vô. Với gốc công đức này, chẳng dùng để khuyến khích hỗ trợ địa Thanh văn, Bích-chi-phật mà thường dùng để tạo lập trí Nhất thiết. Đó là thầy lành của Đại Bồ-tát. Khi ấy ngài Tu-bồ-đề bạch Phật: –Sao gọi là Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã ba-la-mật không có phương tiện thiện xảo, gần gũi thầy ác nên nghe nói Bát-nhã ba-la-mật này thì hoặc kinh, hoặc sợ, hoặc lo lắng? Đức Thế Tôn bảo Tu-bồ-đề: –Đại Bồ-tát ấy lìa hạnh trí Nhất thiết, không tiếp cận Bát-nhã ba-la-mật. Giả sử gặp Bát-nhã ba-la-mật này thì tâm chấp trước Thiền ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Nhẫn ba-la-mật, Giới ba-la-mật, Thí ba-la-mật. Nếu làm được việc bố thí nào đó thì tâm niệm cứ chấp trước vào việc bố thí ấy. Đó là thầy ác của Đại Bồ-tát. Lại nữa, Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát lìa trí Nhất thiết, cũng chẳng chịu an trú các thông tuệ mà trái lại đối với bên trong nghó sắc là không, sắc không có sở hữu, chấp trước tư duy sắc tự nhiên không. Đối với thọ, tưởng, hành, thức, nghó bên trong là không, tâm chí trụ ở thọ, tưởng, hành, thức, nhưng không sở hữu, nghó tự nhiên không. Và đối với pháp nội không thủ đắc pháp nội ngoại không, đạt đến pháp không tự nhiên, không sở hữu thấy có cái đạt được, tưởng nghó cái sở đắc. Nghó cái không bên trong của nhãn, đạt đến không sở hữu, tự nhiên là không, nghó cái “không” đạt được, tưởng là có sở đắc. Nhó, tỷ, thiệt, thân, ý cũng lại như vậy, nghó cái nội không tư duy chấp tưởng, đối vô sở hữu, tự nhiên đắc không. Đó là thầy ác của Đại Bồ-tát. Lại nữa Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, nghó bốn Ý chỉ, rồi thủ đắc bốn Ý chỉ, tức là tự chấp trước rồi nắm bắt cái đó. Nghó bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo, rồi thủ đắc ba mươi bảy phẩm, tức là tự chấp trước rồi nắm bắt cái đó. Đó là thầy ác của Đại Bồ-tát. Lại nữa Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát hành mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật, tự cho là đã đạt được pháp của chư Phật, đã có vọng tưởng, lìa trí Nhất thiết, tâm bị dính mắc vào sự suy nghó. Đó là Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật không có phương tiện thiện xảo, nghe nói Bát-nhã ba-la-mật thì hoặc kinh, hoặc sợ, hoặc lo lắng. Lúc đó ngài Tu-bồ-đề bạch Phật: –Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Đại Bồ-tát bị thầy ác câu thúc như thế nào mà làm theo lời dạy của vị ấy, nghe nói Bát-nhã ba-la-mật thì hoặc kinh, hoặc sợ, rồi sinh ra lo lắng? Phật bảo Tu-bồ-đề: –Này Tu-bồ-đề! Khi ấy thầy ác của Đại Bồ-tát là người ngăn cản hành giả, làm cho không được học Bát-nhã ba-la-mật, Thiền ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Nhẫn ba-la-mật, Giới ba-la-mật, Thí ba-la-mật, mà trái lại bảo họ không nên dạy sáu pháp Ba-la-mật này, nói là chẳng phải lời dạy của Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác mà do con người tập hợp tai họa ngang trái tạo ra kinh này, chẳng nên nghe, chẳng nên thọ trì, đọc tụng, cũng chẳng nên tư duy và nói cho người khác. Đó thầy ác của Đại Bồ-tát. Lại nữa Tu-bồ-đề! Thầy ác của Đại Bồ-tát là người chẳng chịu phân biệt sự giác ngộ, chẳng làm cho thấy rõ tội lỗi xấu xa của ma. Do đó ma Ba-tuần tệ ác hóa làm hình Phật đi đến chỗ Đại Bồ-tát khống chế Bồ-tát, làm cho chẳng tu học sáu pháp Ba-la-mật, nói: “Này thiện nam, học Bát-nhã ba-la-mật này làm gì? Học Thiền ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Nhẫn ba-la-mật, Giới ba-la-mật, Thí ba-la-mật này làm gì? Phụng hành để làm gì?” Nên biết, đó là thầy ác của Đại Bồ-tát. Lại nữa Tu-bồ-đề! Khi ấy, tệ ma hóa làm hình dáng của Phật, nói kinh Thanh văn, Bích-chi-phật cho Đại Bồ-tát, giảng rằng nên vứt bỏ bố thí, phân biệt giảng giải ý nghóa mục đích, phô diễn bằng danh từ hoa mỹ làm cho xa lìa pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát, rơi vào địa Thanh văn, Bích-chi-phật. Nên biết, đó là thầy ác của Đại Bồ-tát. Lại nữa Tu-bồ-đề! Khi ấy, tệ ma hóa làm hình dáng của Phật, đi đến chỗ Đại Bồ-tát, nói: “Này thiện nam, chỗ học hiện nay của ông chẳng phải là đạo tâm, chẳng phải là không thoái chuyển. Cái sở học của ông không bao giờ đạt đến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.” Hình dạng và tội duyên của ma như thế, chẳng thể quán sát, cũng chẳng thể hiểu biết được. Đó là thầy ác của Đại Bồ-tát. Lại nữa, Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát thực hành hạnh tinh tấn. Khi ấy tệ ma hóa làm hình dạng của chư Phật đi đến chỗ Đại Bồ-tát, nói: “Này thiện nam, biết nhãn tức là không, đó là lời dạy của ta, cũng là thân ta. Nhó, tỷ, thiệt, thân, ý cũng là không, đó là lời dạy của ta, cũng là thân ta, vì ông mà nói pháp. Sắc tức là không, đó là lời dạy của ta, cũng là thân ta. Thọ, tưởng, hành, thức cũng là không, đó là lời dạy của ta, cũng là thân ta. Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp là không, đó là lời dạy của ta, cũng là thân ta. Cảm thọ do nhãn xúc làm duyên tạo ra tức là không, đó là lời dạy của ta, cũng là thân ta. Lạc thọ do nhó, tỷ, thiệt, thân, ý làm duyên tạo ra, mười tám chủng tức là không, đó là lời dạy của ta, cũng là thân ta. Thí ba-la-mật, Giới ba-la-mật, Nhẫn ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Thiền ba-la-mật, Bát-nhã ba-la-mật tức là không, đó là lời dạy của ta, cũng là thân ta. Bốn Ý chỉ, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý. tám Thánh đạo tức là không, đó là lời dạy của ta, cũng là thân ta. Mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật tức là không, đó là lời dạy của ta, cũng là thân ta.” Dùng những lời này để mong cầu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác chăng? Vị Bồ-tát ấy chẳng phân biệt sự phát khởi của hình dạng ma như thế, dù có phân biệt nói ra, cũng chẳng hiểu rõ. Đó là thầy ác của Đại Bồ-tát. Lại nữa Tu-bồ-đề! Tệ ma lại biến hóa làm hình dạng của chư Phật đi đến chỗ của Đại Bồ-tát, nói: “Này thiện nam, chư Phật Thế Tôn và các Bồ-tát, Thanh văn, Bích-chi-phật ở phương Đông và chư Phật, Thanh văn, Bích-chi-phật ở mười phương thế giới không có.” Ai đối việc phát khởi ma sự như thế, chẳng thể phân biệt, cũng chẳng biết rõ thì nên biết đó là thầy ác của Đại Bồ-tát. Tệ ma Ba-tuần lại hóa làm hình dạng của Thanh văn, đi đến chỗ Đại Bồ-tát, nói: “Chúng tôi đây đời trước đều tinh tấn học trí Nhất thiết, tư duy pháp không, lại cũng tu học việc của Thanh văn, Bích-chi-phật, tư duy phân biệt mà thấy được sự dạy bảo trao truyền.” Chẳng phân biệt được việc ma như thế nào thì nên biết, đó là thầy ác của Đại Bồ-tát. Lại nữa Tu-bồ-đề! Tệ ma Ba-tuần hóa làm hình dạng Hòa thượng, đi đến chỗ của Đại Bồ-tát, cho là hành Bồ-tát là không tịch, chí chuyên tinh tấn tu trí Nhất thiết, tư duy rỗng không, tịch mịch. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức là rỗng không, tịch mịch. Nhãn, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý cũng rỗng không, tịch mịch. Mười tám chủng, mười hai nhân duyên, bốn Ý chỉ, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo cũng rỗng không, tịch mịch. Mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật cũng tịch mịch, Không, Vô tướng, Vô nguyện. Rồi dạy bảo trao truyền cho Bồ-tát: “Này thiện nam, hiểu rõ pháp ấy là ở địa Thanh văn chứ tìm cầu chỗ nào nữa? Chẳng bằng ngay nơi đó mà cầu diệt độ. Cần gì đến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.” Nên biết, đó là thầy ác của Đại Bồ-tát. Lại nữa Tu-bồ-đề! Thầy ác của Đại Bồ-tát là tệ ma Ba-tuần hóa làm hình dạng cha mẹ, đi đến chỗ Đại Bồ-tát, nói: “Thiện nam này đã chứng được quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, quả A-la-hán mà còn tinh tấn hành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác làm gì. Vào những đời quá khứ vô số kiếp không thể kể xiết xoay vòng trong sinh tử bố thí tay chân, tu hạnh tinh tấn không phân biệt, làm những hình thức như thế nào có ích gì!” Nên biết, đó là thầy ác của Đại Bồ-tát. Lại nữa Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát do đó, dựa vào những hình dáng đó để quán xét thầy ác. Đã thấy rồi, dùng cái thấy ấy để mà xa lìa, rồi phân biệt nói khổ, không, vô thường, vô ngã, vô tướng, vô nguyện là tịch mịch, đó là việc phân biệt điên đảo, có tư duy. Bốn Ý chỉ, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo cũng không có sở đắc. Mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật là không giải thoát. Pháp như thế là pháp do ma hưng khởi, phụng sự, chẳng rõ ràng. Nên biết, đó là thầy ác của Đại Bồ-tát. Cho nên, Đại Bồ-tát có mười hai duyên thầy ác như thế, thường phải từ bỏ, huống gì các duyên khác! KINH QUANG TÁN <卷 id="81581559">Quyển 5 <詞 id="81581560">Phẩm 11: Ma-Ha-Tát Khi ấy Hiền giả Tu-bồ-đề bạch Phật: –Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Ý nghóa của danh hiệu Bồ-tát là gì? Hướng đến chỗ nào? Đức Phật bảo Tu-bồ-đề: –Không có ý nghóa là danh hiệu của Bồ-tát. Vì sao? Bồ-tát ấy không có dấu vết của ý nghóa, không có tôi ta, cho nên nói không có ý nghóa là danh hiệu của Bồ-tát. Này Tu-bồ-đề! Ví như chim bay trong hư không không có dấu chân. Này Tu-bồ-đề! Như thế, muốn cầu ý nghóa của Bồ-tát là không thể có. Ví như trong mộng không có dấu vết. Này Tu-bồ-đề! Như vậy, muốn cầu ý nghóa Bồ-tát cũng không có cái để nắm bắt, giống như huyễn biến, ảo ảnh, tiếng vang, hình bóng. Sự biến hóa của Như Lai không có dấu vết. Này Tu-bồ-đề! Như thế, muốn cầu ý nghóa của Bồ-tát là không thể có. Này Tu-bồ-đề! Giống như cái mà không có cội gốc thì không có dấu vết. Lại quán sát pháp giới thì cũng không có cội gốc. Pháp của pháp ấy tịch nhiên không có dấu vết. Như vậy, Bồ-tát không có ý nghóa, giống như bản tế không có ý nghóa. Này Tu-bồ-đề! Bồ-tát không có ý nghóa, giống như người do nhà ảo thuật biến hóa ra, người ấy không có dấu vết. Người biến hóa ấy không có sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Này Tu-bồ-đề! Như thế, Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật là Bồ-tát không có ý nghóa, ví như người huyễn không có nhãn, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý, tâm không dấu vết, sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp cũng lại như thế, không có ý nghóa của Bồ-tát. Này Tu-bồ-đề! Ví như, muốn cầu pháp nội không thì không có dấu vết. Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, quán sát Bồ-tát không có ý nghóa, ngã sở, chẳng phải ngã sở, khổ lạc, thiện ác. Nếu có cái có tự nhiên không thì cái hành ấy không có dấu vết Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật chẳng có thể đạt đến ý nghóa của Bồ-tát. Thí như nhà ảo thuật hóa hiện bốn Ý chỉ, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật không có dấu vết. Này Tu-bồ-đề! Như thế, Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật không có ý nghóa Bồ-tát. Ví như hóa thân của Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác không có dấu vết. Này Tu-bồ-đề! Như thế, Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật thì không có ý nghóa Bồ-tát. Này Tu-bồ-đề! Ví như Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác không có dấu vết của pháp nội không. Này Tu-bồ-đề! Như vậy, không có ý nghóa của Bồ-tát. Này Tu-bồ-đề! Ví như ngã sở, chẳng phải ngã sở, khổ lạc, thiện ác và cái không sở hữu tự nhiên ấy không có dấu vết. Này Tu-bồ-đề! Như thế, Đại Bồ-tát không có ý nghóa Bồ-tát vậy. Này Tu-bồ-đề! Ví như Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật không có ý nghóa Bồ-tát. Này Tu-bồ-đề! Ví như Đức Như Lai không có bốn Ý chỉ, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật. Này Tu-bồ-đề! Như thế, Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật như vậy không có ý nghóa của Bồ-tát. Này Tu-bồ-đề! Ví như cảnh giới vô vi, cảnh giới vô vi ấy không có dấu vết, còn cảnh giới hữu vi, cảnh giới hữu vi ấy cũng không có dấu vết. Này Tu-bồ-đề! Như thế, Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật cũng lại như thế, không có ý nghóa Bồ-tát. Này Tu-bồ-đề! Ví như chỗ không sinh khởi, không có dấu vết. Như thế, Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật cũng lại như thế, không có ý nghóa của Bồ-tát, cũng không có hành, không có tác giả, không có dấu vết. Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật cũng lại như thế, không có ý nghóa của Bồ-tát. Giống như cái không thể nắm bắt được, không có trần lao, không có sân hận, không có dấu vết, Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật cũng lại như vậy, không có ý nghóa của Bồ-tát. Ví như cái không chỗ phát khởi, chẳng có nơi chốn, không có dấu vết, Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật cũng lại như thế, không có ý nghóa của Bồ-tát. Ví như không có tranh tụng, chẳng bị sân hận, không có dấu vết, Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật cũng lại như thế, không có ý nghóa Bồ-tát. Hiền giả Tu-bồ-đề bạch Phật: –Sao gọi là không có sắc, không có chỗ phát khởi, không có dấu vết? Đức Phật dạy: –Sắc không có chỗ khởi; thọ, tưởng, hành, thức không có chỗ khởi thì không có dấu vết, Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật cũng lại như thế, không có ý nghóa của Bồ-tát. Ví như sắc không có trần lao, cũng không có sân hận, không có dấu vết, Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật cũng lại như thế, không có ý nghóa của Bồ-tát. Ví như nhãn, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý; sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, các chủng, suy, nhập vốn không chỗ hướng đến, không có dấu vết, Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật cũng lại như thế, không có ý nghóa của Bồ-tát. Ví như bốn Ý chỉ, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo không có dấu vết, Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật cũng lại như vậy, không có ý nghóa của Bồ-tát. Ví như mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật không có dấu vết, Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật cũng lại như vậy, không có ý nghóa của Bồ-tát. Ví như bốn Ý chỉ tự nhiên rốt ráo, vô vi đạt đến thanh tịnh, Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật cũng lại như thế, không có ý nghóa của Bồ-tát. Ví như bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo, tự nhiên rốt ráo, vô vi đạt đến thanh tịnh, Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật cũng lại như thế, không có ý nghóa của Bồ-tát. Ví như mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật tự nhiên rốt ráo, vô vi đạt đến thanh tịnh, Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật cũng lại như thế, không có ý nghóa của Bồ-tát. Ví như thân thanh tịnh thì không có sở hữu, cái tôi ta ấy là hư vô, không có thật, Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật cũng lại như vậy, không có ý nghóa của Bồ-tát. Ví như không biết, không thấy tức là thanh tịnh, không có dấu vết, thì cái không biết không thấy là hư vô không có, Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật cũng lại như thế, không có ý nghóa của Bồ-tát. Ví như mặt trời trên hư không chiếu đến chỗ tối tăm, không có dấu vết, Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật cũng lại như thế, không có ý nghóa của Bồ-tát. Ví như khi lửa nổi lên trong kiếp thiêu, phá hoại đất trời thành tro bụi, tất cả vạn vật đều chẳng còn gì, chẳng biết dấu vết chỗ nào, Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật cũng lại như thế, không có ý nghóa của Bồ-tát. Ví như Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tuân theo giới pháp không có hủy cấm, Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật cũng lại như vậy, không có ý nghóa của Bồ-tát. Ví như Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có Tam-muội định chí không rối loạn, Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật cũng lại như thế, không có ý nghóa của Bồ-tát. Ví như Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác được giải thoát, không có dấu vết không giải thoát, Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật cũng lại như thế, không có ý nghóa của Bồ-tát. Ví như Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác giải thoát tuệ tri kiến, không có dấu vết không giải thoát tuệ tri kiến, Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật cũng lại như vậy, không có ý nghóa của Bồ-tát. Ví như đối với ánh sáng của Như Lai thì ánh sáng của mặt trời, mặt trăng đều không dấu vết, Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật cũng lại như thế, không có ý nghóa của Bồ-tát. Ví như ánh sáng của bốn Đại Thiên vương, trời Đao-lợi, trời Đâu-thuật, trời Diệm không có dấu vết, Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật cũng lại như thế, không có ý nghóa của Bồ-tát. Ví như ánh sáng của trời Ni-ma-la, trời Ba-la-ni-mật và cảnh giới ma đối với ánh sáng của Như Lai, đều không có dấu vết, Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật cũng lại như thế, không có ý nghóa của Bồ-tát. Ví như ánh sáng của trời Phạm, trời Phạm Ca-di, trời Phạm cụ, trời Hữu quang, trời Thiểu quang, trời Vô lượng quang, trời Quang âm, trời Thanh tịnh, trời Thiểu tịnh, trời Vô lượng tịnh, trời Nan cập tịnh, trời Thiện kiến, trời Sở kiến thiện, trời Ư thị kiến, trời Nhất thiện, đối với ánh sáng của Như Lai, không có dấu vết, Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật cũng lại như vậy, không có ý nghóa của Bồ-tát. Vì sao? Này Tu-bồ-đề! Gọi đạo tâm và Bồ-tát, có ý nghóa là danh hiệu của Bồ-tát là đối với tất cả pháp, không có thuận hay chẳng thuận, không có nên hoặc chẳng nên, không có có hoặc chẳng có, không có sắc nào mà chẳng thấy, cũng không có đối tượng nắm bắt, đó là nhất tướng, gọi là không có tướng. Đại Bồ-tát đối với tất cả pháp mà muốn không có sự chấp trước thì nên học như thế. Đại Bồ-tát đối với tất cả pháp, chẳng nên hiểu biết ý nghóa tất cả pháp. Hiền giả Tu-bồ-đề bạch Phật: –Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Tất cả pháp là gì? Tại sao Đại Bồ-tát đối với tất cả pháp không có chỗ chấp trước thì nên học? Tại sao Đại Bồ-tát chẳng nên hiểu biết ý nghóa các pháp? Phật bảo Hiền giả Tu-bồ-đề: –Gọi tất cả pháp tức là các việc thiện hoặc việc bất thiện, có thể phân biệt việc thế gian, việc xuất thế gian, có các lậu, không có các lậu, hữu vi, vô vi, có oán địch, không có oán địch. Này Tu-bồ-đề! Đó gọi là tất cả pháp. Đại Bồ-tát đối với các pháp ấy, chẳng nên có sự chấp trước, do đó phải học. Đó là Đại Bồ-tát rõ tất cả pháp mà không hiểu biết. Hiền giả Tu-bồ-đề bạch Phật: –Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Pháp nào là pháp thiện ở thế gian? Đức Phật bảo Hiền giả Tu-bồ-đề: –Pháp thiện ở thế gian là hiếu thuận cha mẹ, phụng sự Sa-môn, Phạm chí, tôn kính người già cả, bố thí công đức, tu theo giới kinh, khuyên niệm công đức, có sự tu tập, thiện quyền phương tiện. Mười điều thiện là căn bản việc làm trong thế gian, các định tưởng như tưởng về sự hư rã, tưởng về uế trược, tưởng về sự tan hoại, tưởng về sự nuốt ăn, tưởng về sự rối loạn, tưởng về sự không vững chắc, tưởng về sự thiêu đốt. Rồi khởi quán: bốn Thiền, bốn Đẳng, bốn Định vô sắc, niệm Phật, niệm Pháp và niệm Thánh chúng, niệm cấm giới, niệm bố thí, niệm Thiên, niệm hơi thở ra vào tónh lặng, tâm chí đặt ở thân, niệm già, bệnh, chết. Này Tu-bồ-đề! Đó là pháp thiện thế gian. Những gì là pháp bất thiện thế gian? Sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, hai lưỡi, nói ác, thêu dệt, tham, ganh ghét, tà kiến là mười việc ác. Đó là pháp bất thiện thế gian. Những gì là pháp chẳng phân biệt? Đó là chẳng có thể phân biệt việc làm của thân, chẳng có thể phân biệt lời nói của miệng, chẳng có thể phân biệt ý nghó của tâm, chẳng có thể phân biệt gốc của bốn đại, chẳng có thể phân biệt nguồn gốc của năm Căn, chẳng có thể phân biệt chỗ ở của sáu suy, chẳng có thể phân biệt việc của sắc ấm, các chủng, các nhập, chẳng phân biệt được chỗ quay về của thiện ác. Đó là pháp chẳng phân biệt, gọi là pháp thế gian. Sự việc của năm ấm và mười hai nhập, mười tám chủng, mười việc thiện, bốn Thiền, bốn Đẳng tâm, bốn Định vô sắc. Đó là pháp thiện thế gian. Những pháp nào có thể gọi là pháp vượt thế gian? Đó là bốn Ý chỉ, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo và ba pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện. Không có pháp đặc thù và sai biệt nào khác hơn là căn dị căn và các biệt căn, Tam-muội Sở niệm sở hành, Tam-muội Vô niệm sở hành chí thú, Tam-muội Vô niệm vô hành, dùng tuệ giải thoát, tâm được an tường. Tâm niệm tùy thuận tám môn giải thoát. Những gì là tám? Quán sắc trên các sắc, đó là môn giải thoát thứ nhất. Bên trong không có tưởng sắc mà quán sắc bên ngoài, tuy trụ không mà không giải thoát, thì chẳng thể vượt tất cả các tưởng, đó là môn giải thoát thứ hai. Đắc các tưởng ngay nơi cội gốc, không có nhiều tạp niệm, đó là môn giải thoát thứ ba. Hành hư không là vô lượng, thành tựu hư không, đó là môn giải thoát thứ tư. Vượt qua được hết tất cả hư không, trí hư không trụ ở việc hành tuệ thức vô lượng và được thành tựu, đó là môn giải thoát thứ năm. Vượt qua được trời trí tuệ vô lượng và trụ ở tuệ vô hữu vô lượng, thành tựu các hạnh, đó là môn giải thoát thứ sáu. Vượt qua tất cả, không dùng tuệ vô lượng, trụ ở hữu tưởng thành tựu các hạnh, đó là môn giải thoát thứ bảy. Vượt qua tất cả hữu tưởng vô tưởng, dứt bỏ các tưởng, an trú hạnh tịch nhiên, đó là môn giải thoát thứ tám. Đó là tám môn giải thoát. Không theo thiền, cũng chẳng học định, dần dần tiến tới nhập vào Tam-muội. Sao gọi là dần dần tiến tới nhập vào Tam-muội? Tịch nhiên đối với dục, dứt trừ các pháp ác bất thiện có tưởng có hành tịch mịch được an. Hành tầng thiền thứ nhất, trừ tưởng niệm, không tưởng không niệm, bên trong an tường, vắng lặng được an. Hành tầng thiền thứ hai, thường được an ổn, không có tỳ vết, việc lập hạnh không trái với Thánh hiền, hoan hỷ an vui. Hành tầng thiền thứ ba, dứt khổ, trừ an mà trước đây đã từng tiếp xúc, ý an hay ý hoạn, các việc có thể hay chẳng thể đều diệt hết, không khổ, không an, tâm chí tịch nhiên, thanh tịnh. Hành tầng thiền thứ tư, ngay khi ấy vượt qua tất cả tưởng sắc, trừ các niệm tưởng đã có, không còn các nghó tưởng nào khác. Khi ấy đối với tuệ vô lượng hư không, đầy đủ hạnh, vượt qua tất cả các tuệ hư không, đối với tuệ vô lượng thức, đầy đủ hạnh, vượt qua tất cả hạnh tuệ vô lượng thức, đối với tuệ vô hữu vô lượng bất dụng, đầy đủ các hạnh, vượt qua tất cả tuệ vô lượng bất dụng rồi, đối với xứ hữu tưởng vô tưởng vô lượng, đầy đủ các hạnh, vượt qua tất cả hạnh hữu tưởng vô tưởng vô lượng rồi, dứt trừ các tưởng, thành hạnh tịch diệt, siêu việt ngã sở, chẳng phải ngã sở, không khổ không vui, tất cả sự xúc phạm, Khổ, Tập, Diệt, Đạo, bốn Ý chỉ, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo cho đến pháp Tự nhiên không vô sở hữu, mười Lực của Như Lai, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật. Những gì là pháp các lậu chưa hết? Năm ấm, mười hai nhập, mười tám chủng, mười hai nhân duyên, bốn Thiền, bốn Đẳng tâm, bốn Định vô sắc, đó là các pháp chưa hết lậu. Những gì là pháp vô lậu? Bốn Ý chỉ, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật, đó là pháp vô lậu. Những gì là pháp hữu vi? Đó là cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc và các việc khác chẳng thể phân biệt, chẳng tận cội nguồn căn bản của các pháp. Ở đây sao gọi bốn Ý chỉ, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật là pháp hữu vi. Sao gọi là pháp vô vi? Pháp ấy chẳng khởi chẳng diệt, cũng không tạo tác, cũng không chỗ trụ, không có nghóa khác. Dâm, nộ, si hết tức là vô bổn. Cái vô bổn ấy tức là không có pháp khác, nó là pháp giới, là tịch nhiên, xét bản tế của nó là pháp vô vi. Những gì là pháp oán địch? Bốn Thiền, bốn Đẳng tâm, bốn Định vô sắc là pháp oán địch. Những gì là pháp không oán địch? bốn Ý chỉ, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật là những pháp không oán địch. Khi ấy đối với thân mình, Bồ-tát tưởng “không”, không có pháp chấp trước, hiểu rõ không có đối tượng chấp trước nên chẳng thể dao động. Đối với tất cả pháp, pháp môn để hướng đến không có hai. Do không hiểu rõ các pháp nên không dao động. Hiền giả Tu-bồ-đề bạch Phật: –Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Vì nhân duyên gì mà gọi Bồ-tát là Đại Bồ-tát? Đức Phật bảo Tu-bồ-đề: –Đại Bồ-tát là bậc trừ các tích tụ đạt được rốt ráo, là bậc Tối tôn có sự thành tựu. Vì vậy gọi là Đại Bồ-tát. Hiền giả Tu-bồ-đề bạch Phật: –Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Sở dó được gọi là Đại Bồ-tát là do lìa tích tụ mà đạt được rốt ráo. Vị Đại Bồ-tát ấy là bậc Tối tôn có sự thành tựu. Đức Phật bảo Tu-bồ-đề: –Đối với Đại Bồ-tát, các tích tụ là chủng tánh, gồm tám hạng người: Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi-phật, Bồ-tát mới phát tâm cho đến trụ địa không thoái chuyển. Vị Đại Bồ-tát kia ở trong cái rốt ráo của các tích tụ ấy làm hạnh Bồ-tát, ở trong đó là bậc Tối tôn có sự thành tựu. Đại Bồ-tát du hành và ở trong đó, có sự phát khởi nào thì tâm như kim cương. Đại Bồ-tát ấy ở trong sự rốt ráo của các tích tụ là bậc Tối tôn có sự thành tựu, cho nên gọi là Đại Bồ-tát. Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật: –Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Sao gọi là tâm như kim cang? Đức Thế Tôn bảo Tu-bồ-đề: –Đại Bồ-tát phát tâm thế này: “Ở trong sinh tử không có kỳ hạn, trang nghiêm bằng thệ nguyện rộng lớn, bỏ tất cả sở hữu mà chẳng bỏ. Ta sẽ dùng tâm bình đẳng đối với tất cả loài chúng sinh này, phát chí bình đẳng, sẽ dùng ba thừa đưa tất cả chúng sinh nhập Niết-bàn. Diệt độ cho tất cả loài chúng sinh rồi, cũng không thấy con người nhập Niết-bàn. Ta nên hiểu rõ tất cả các pháp, không có chỗ phát khởi nhưng nên tiếp cận trí Nhất thiết, tâm vẫn luôn giữ sáu hạnh Ba-la-mật, học khắp tất cả mà chỗ nương tựa là trí tuệ, phải học trọn vẹn, nên phân biệt hiểu biết pháp nhất thừa. Lại nên, hiểu rõ không thể kể xiết các âm thanh nhập từ đâu.” Học các pháp này, đó là Đại Bồ-tát phát tâm Kim cang. Chỗ trụ của Đại Bồ-tát mà được rốt ráo thì đó là bậc Tối tôn có sự thành tựu, không còn điên đảo, cũng không sở đắc. Lại nữa, Tu-bồ-đề! Bồ-tát phát tâm thế này: “Có chúng sinh nào ở chốn địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh bị tra khảo đau đớn khổ sở, thì ta sẽ vì loài chúng sinh này mà chịu khổ nạn ấy, để cho họ được an ổn.” Đại Bồ-tát ấy sẽ phát tâm này: “Thân ta vì tất cả mọi người ở chốn địa ngục chịu nỗi khổ khảo tra đau đớn trải qua trăm ngàn ức kiếp mà không cho là kịch liệt. Ta phải làm cho những người đó đạt đến cảnh giới Vô dư Niết-bàn để được diệt độ. Dùng phương tiện, vì tất cả loài người và chúng sinh chịu biết bao nỗi khổ không bao giờ dừng nghỉ, khiến cho mọi người đạt đến cảnh giới Vô dư Niết-bàn để được diệt độ. Sau đó, thân ta cũng vì người khác mà trồng các gốc đức, ở trong ngàn ức kiếp đạt đến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.” Này Tu-bồ-đề! Đó là Đại Bồ-tát phát tâm Kim cang. Chốn an trú của Đại Bồ-tát ấy, đối với các tích tụ mà được rốt ráo là bậc Tối tôn có sự thành tựu. Lại nữa, Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát thường nên tu tập tạo lập tâm vi diệu, nên dùng tâm này khiến chúng sinh đạt đến chỗ tôn quý. Cái gọi là tâm vi diệu của Đại Bồ-tát kia là từ khi mới phát tâm, chưa từng khởi tâm dâm dục, lại cũng chẳng khởi tâm sân hận, lại cũng chẳng sinh tâm ngu si, tâm không khởi điều gì, không phát khởi tâm Thanh văn, Bích-chi-phật. Này Tu-bồ-đề! Đó là Đại Bồ-tát tu hành, tạo lập tâm vi diệu, khiến cho các chúng sinh thành bậc Tối tôn, có sự thành tựu nhưng cũng không nghó đến. Lại nữa, Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát thường nên tạo lập tâm khiến không dao động. Tâm của vị Đại Bồ-tát kia bất động rồi thì cái tâm tư duy về trí Nhất thiết cũng chẳng nghó đến. Đó là tâm chẳng dao động của Đại Bồ-tát. Lại nữa Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát tâm chí đặt ở tất cả loài chúng sinh, muốn làm cho họ được an lạc. Đại Bồ-tát đối với tất cả chúng sinh tạo lập sự an lạc rồi, muốn cho họ không bỏ ba thừa, cũng không nhớ nghó, cũng không khinh mạn. Này Tu-bồ-đề! Đó là Đại Bồ-tát đối với các chúng sinh, tạo lập tâm an lạc. Này Tu-bồ-đề! Đó là Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, khiến các chúng sinh đạt đến sự thành tựu tột bậc. Lại nữa Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát nên mến pháp, ưa pháp, thích pháp, dùng tinh tấn làm hạnh. Sao gọi là mến pháp? Nếu đối với các pháp không sợ, không phá hoại thì đó là mến pháp. Sao gọi là ưa pháp? Chí ưa kinh điển, chẳng lìa sự ưa thích ấy, đó là ưa pháp. Sao gọi là thích pháp? Tư duy về pháp, phân biệt nhiều, nghe rộng, đó là thích pháp. Này Tu-bồ-đề! Đó là Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật gọi là Đại Bồ-tát, đối với các tích tụ đạt đến rốt ráo, là bậc Tối tôn có sự thành tựu, không có điên đảo, cũng không sở đắc. Lại nữa, Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật trụ ở pháp nội không, trụ ở pháp ngoại không, trụ ở pháp nội ngoại không, cũng không có nội ngoại, cho đến pháp tự nhiên vô sở hữu không, gọi là Đại Bồ-tát, đối với các tích tụ đạt được sự rốt ráo, là bậc tối tôn có sự thành tựu, không có sự điên đảo, cũng không sở đắc. Lại nữa, Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, trụ bốn Ý chỉ, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật. Trụ ở những pháp này gọi là Đại Bồ-tát, đối với các tích tụ đã đạt được rốt ráo, là bậc Tối tôn có sự thành tựu, không bị điên đảo, cũng không sở đắc. Lại nữa Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát kiến lập và trụ Tam-muội Kim cang, siêu việt vô lượng không tuệ, vô lượng thức tuệ, vô lượng bất dung tuệ, vô lượng hữu tưởng vô tưởng, cho đến hư vô vi không, vô sắc, các bậc định Tam-muội giới, định, tuệ, giải thoát tri kiến, Tam-muội trụ độ, gọi là Đại Bồ-tát, đối với các tích tụ đạt được cứu cánh, là bậc Tối tôn có sự thành tựu, chẳng bị điên đảo, cũng không sở đắc. Đức Phật dạy: –Này Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát trụ những pháp này rồi, đối với sự tích tụ đạt được cứu cánh, là bậc Tối tôn có sự thành tựu, gọi là Đại Bồ-tát.  <詞 id="81581561">Phẩm 12: Đẳng Vô Đẳng Bấy giờ Hiền giả Xá-lợi-phất bạch Phật: –Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên, con có thể giảng nghóa Đại Bồ-tát và do đâu mà gọi là Đại Bồ-tát chăng? Đức Thế Tôn dạy: –Được, ông cứ nói! Hiền giả Xá-lợi-phất nói: –Vứt bỏ tất cả kiến chấp, kiến chấp tôi ta, người, thọ mạng, việc phàm phu, loài hữu tình, có tạo tác, không tạo tác, chấp chặt với quan điểm thường, chấp chặt với quan điểm không, chấp chặt với quan điểm ấm, chấp chặt với quan điểm chủng, chấp chặt với quan điểm suy, chấp chặt với quan điểm nhập, chấp chặt với quan điểm hư, chấp chặt với quan điểm thật, chấp chặt với quan điểm mười hai nhân duyên, chấp chặt với quan điểm bốn Ý chỉ, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật, hoặc chấp chặt với quan điểm giáo hóa chúng sinh, chấp chặt với quan điểm làm thanh tịnh trang nghiêm cõi Phật, chấp chặt với quan điểm Phật đạo, chấp chặt với quan điểm giác ngộ, chấp chặt với quan điểm chuyển pháp luân. Dứt trừ tất cả sự chấp chặt đối với các quan điểm này mà thuyết pháp, thì gọi là Đại Bồ-tát. Hiền giả Tu-bồ-đề hỏi Hiền giả Xá-lợi-phất: –Thưa Hiền giả! Vì sao Đại Bồ-tát chấp chặt với quan điểm về sắc, thọ, tưởng, hành, thức, nhãn, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý, sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, tôi, ta, người, thọ mạng, bốn chủng, suy, nhập, mười tám chủng, bốn Ý chỉ, Ý đoạn, Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật? Hiền giả Xá-lợi-phất trả lời: –Thưa Hiền giả! Đại Bồ-tát này hành Bát-nhã ba-la-mật không có phương tiện thiện xảo, khi tiếp xúc sắc phát khởi chấp chặt quan điểm cho là có sở đắc. Nhãn, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý; sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; tôi, ta, người, thọ mạng, bốn chủng, suy, nhập, mười tám chủng, ba mươi bảy phẩm, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật, khi đã tiếp xúc với những pháp này, rồi phát khởi các chấp chặt với quan điểm cho là có sở đắc. Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, kinh qua những pháp ấy, dùng phương tiện thiện xảo trừ các chấp chặt quan điểm, vì họ thuyết pháp, khiến cho xa lìa điên đảo, chẳng cầu sở đắc. Hiền giả Tu-bồ-đề bạch Phật: –Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Con có thể nói danh hiệu Đại Bồ-tát và mục đích ý nghóa của Đại Bồ-tát chăng? Đức Thế Tôn dạy: –Được, ông cứ nói! –Vâng lời dạy của Thế Tôn, theo con hiểu thì tâm của Bồ-tát bình đẳng không ai bằng, không có tâm oán địch, tâm của các Thanh văn, Bích-chi-phật không thể sánh kịp. Vì sao? Vì tâm trí Nhất thiết không có các lậu, cũng không nhân duyên. Giả sử tâm trí Nhất thiết không có các lậu, cũng không nhân duyên như thế, thì đối với tâm ấy, không có chỗ chấp trước. Cho nên gọi Đại Bồ-tát là giả hiệu Đại Bồ-tát. Ngài Xá-lợi-phất hỏi ngài Tu-bồ-đề: –Vì sao cái gọi là tâm của Đại Bồ-tát bình đẳng không ai bằng, tâm không oán địch, tâm của các Thanh văn, Bích-chi-phật không thể sánh kịp? Tu-bồ-đề trả lời Xá-lợi-phất: –Thưa Hiền giả! Đại Bồ-tát ấy từ khi mới phát tâm chưa từng thấy phát khởi, phát diệt, không từ đâu đến, chẳng tăng, chẳng giảm, không có trần cấu, cũng không kết hận. Thưa Hiền giả! Giả sử cái chẳng khởi, chẳng diệt, không từ đâu đến, chẳng tăng, chẳng giảm, không có trần cấu, cũng không kết hận, không có tâm Thanh văn, Bích-chi-phật, không có tâm Bồ-tát, cũng không có tâm Phật thì, thưa Hiền giả Xá-lợi-phất, đó là tâm Đại Bồ-tát, bình đẳng không ai bằng, tâm không oán địch, tâm Thanh văn, Bích-chi-phật chẳng thể sánh kịp. Ngài Xá-lợi-phất nói với ngài Tu-bồ-đề: –Thưa Hiền giả Tu-bồ-đề! Hiền giả không chỉ giảng tâm Thanh văn, Bích-chi-phật chẳng thể sánh kịp, mà còn giảng tâm chẳng chấp trước Thanh văn, Bích-chi-phật, lại chẳng nên chấp trước sắc là đối tượng tìm cầu, thọ, tưởng, hành, thức là đối tượng tìm cầu. Hiền giả Tu-bồ-đề trả lời: –Thưa Hiền giả Xá-lợi-phất, đúng vậy! Thật chẳng chấp trước sắc thọ, tưởng, hành, thức; cũng chẳng chấp trước nhãn, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý; sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; chẳng chấp trước mười tám chủng, các suy, nhập, mười hai nhân duyên; chẳng chấp trước bốn Ý chỉ, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo. Chẳng chấp trước mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật. Ngài Xá-lợi-phất nói với ngài Tu-bồ-đề: –Như vừa rồi, Hiền giả Tu-bồ-đề đã giảng luận, tâm Trí nhất thiết ấy không có các lậu, cũng không nhân duyên, thì thưa Hiền giả, tại sao tâm phàm phu ngu si cũng chẳng vô lậu, không có nhân duyên, bản tịnh là không, cho đến tâm của Thanh văn, Bích-chi-phật, Thế Tôn không có các lậu, không có nhân duyên sao? Hiền giả Tu-bồ-đề trả lời: –Đúng vậy! Hiền giả Xá-lợi-phất lại hỏi: –Thưa Hiền giả Tu-bồ-đề! Sắc cũng chẳng là vô lậu sao? Không nhân duyên sao? Bản tịnh là không sao? Thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng là vô lậu sao? Không nhân duyên sao? Bản tịnh là không sao? Hiền giả Tu-bồ-đề trả lời: –Đúng vậy! Hiền giả Xá-lợi-phất lại hỏi: –Thưa Hiền giả Tu-bồ-đề! Nhãn, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý; sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, mười tám chủng, bốn đại, suy, nhập, mười hai nhân duyên chẳng là vô lậu, không nhân duyên, bản tịnh là không sao? Bốn Ý chỉ, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, Năm năn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo chẳng là vô lậu, không nhân duyên, bản tịnh là không sao? Mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật, vô vi, vô lậu, không nhân duyên, bản tịnh là không sao? Tu-bồ-đề trả lời: –Thưa Hiền giả Xá-lợi-phất, đúng vậy! Đúng như Hiền giả đã nói, tâm phàm phu ngu si, tâm Thanh văn, Bích-chi-phật cũng vô lậu, cũng không nhân duyên, bản tịnh là không. Ấm, chủng, nhập, bốn đại, mười hai nhân duyên, ba mươi bảy phẩm, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật cũng vô lậu, cũng không nhân duyên, bản tịnh là không. Ngài Xá-lợi-phất nói với ngài Tu-bồ-đề: –Đối với các tâm này, không nên chấp trước. Lại chẳng nên chẳng chấp trước không có sắc và sắc sao? Chẳng nên chẳng chấp trước không có thọ, tưởng, hành, thức và thọ, tưởng, hành, thức sao? Lại nữa, thưa Hiền giả Tu-bồ-đề, chẳng nên chẳng chấp trước không có Ý chỉ và Ý chỉ sao? Không có Ý đoạn và Ý đoạn sao? Không có thần túc và thần túc sao? Không có năm Căn và năm Căn sao? Không có năm Lực và năm Lực sao? Không có bảy Giác ý và bảy Giác ý sao? Không có tám Thánh đạo và tám Thánh đạo sao? Không có mười Lực và mười Lực sao? Không có bốn Vô sở úy và bốn Vô sở úy sao? Không có bốn Phân biệt biện và bốn Phân biệt biện sao? Không có mười tám pháp Bất cộng và mười tám pháp Bất cộng sao? Ngài Tu-bồ-đề đáp: –Thưa Hiền giả Xá-lợi-phất, đúng vậy! Chẳng nên chấp trước không có sắc và sắc, chẳng nên chấp trước không có thọ, tưởng, hành, thức và thọ, tưởng, hành, thức. Chẳng nên chấp trước không có nhãn, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý và nhãn, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý. Chẳng nên chấp trước không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp và sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Chẳng nên chấp trước không có bốn đại, suy, nhập và bốn đại, suy, nhập. Chẳng nên chấp trước không có mười hai nhân duyên và mười hai nhân duyên. Chẳng nên chấp trước không có ba mươi bảy phẩm và ba mươi bảy phẩm. Chẳng nên chấp trước không có mười Lực và mười Lực. Chẳng nên chấp trước không có bốn Vô sở úy và bốn Vô sở úy. Chẳng nên chấp trước không có bốn phân biệt biện và bốn phân biệt biện. Chẳng nên chấp trước không có mười tám pháp Bất cộng của chư Phật và mười tám pháp Bất cộng của chư Phật. Thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Vì vậy cho nên Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật với tâm đạo, không có tâm oán địch. Tâm các Thanh văn, Bích-chi-phật đều không sánh kịp, cũng chẳng tưởng nghó Thanh văn, Bích-chi-phật, không chỗ nương tựa, chẳng theo điên đảo, cũng không sở đắc. Vậy nên thành tựu tất cả các pháp.  <詞 id="81581562">Phẩm 13: Đại Thừa Khi ấy Hiền giả Phân-nậu-văn-đà-ni-phất bạch Phật: –Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên! Con có thể giảng luận về mục đích ý nghóa danh hiệu Đại Bồ-tát chăng? Đức Thế Tôn dạy: –Được, ông cứ nói! Ngài Phân-nậu-văn-đà-ni-phất nói: –Trang nghiêm bằng thệ nguyện rộng lớn, mặc áo giáp đại đức, Đại Bồ-tát vì chí Đại thừa chăng? Vị ấy là nguời nương Đại thừa. Kính bạch Đức Thiên Trung Thiên, vì vậy Đại Bồ-tát hiệu là Đại Bồ-tát. Ngài Xá-lợi-phất hỏi ngài Phân-nậu-văn-đà-ni-phất: –Vì nhân duyên gì mà gọi Đại Bồ-tát là trang nghiêm bằng thệ nguyện rộng lớn Đại thừa không thoái chuyển? Ngài Phân-nậu-văn-đà-ni-phất đáp: –Thưa Hiền giả! Đại Bồ-tát chẳng vì sự tu học riêng cho một loài chúng sinh nào mà trụ Thí ba-la-mật để có việc bố thí mà vì tất cả các loài chúng sinh nên trụ Thí ba-la-mật để có việc bố thí. Chẳng vì sự tu học riêng cho một loài chúng sinh nào mà trụ Giới ba-la-mật để thành tựu cấm giới mà vì tất cả các loài chúng sinh nên trụ Giới ba-la-mật để thành tựu cấm giới. Chẳng vì riêng cho việc tu học của một loài chúng sinh nào mà trụ Nhẫn ba-la-mật để có nhẫn mà vì tất cả các loài chúng sinh nên trụ Nhẫn ba-la-mật để hành nhẫn nhục. Chẳng vì sự tu học riêng cho một loài chúng sinh nào mà trụ Tinh tấn ba-la-mật để thực hiện tinh tấn mà vì tất cả các loài hữu tình nên trụ Tinh tấn ba-la-mật để tinh tấn. Chẳng vì sự tu học riêng cho một loài chúng sinh nào mà trụ Thiền ba-la-mật để không loạn ý mà vì tất cả các loài chúng sinh nên trụ Thiền ba-la-mật để được nhất tâm. Chẳng vì việc tu học riêng cho một loài chúng sinh nào mà trụ Bát-nhã ba-la-mật để hành trí tuệ mà vì tất cả các loài chúng sinh nên trụ Bát-nhã ba-la-mật để tuân theo trí tuệ. Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật chẳng vì dứt hết loài chúng sinh hoặc giới hạn chúng sinh mà trang nghiêm bằng thệ nguyện rộng lớn rằng: “Ta sẽ diệt độ ngần ấy chúng sinh, chẳng diệt độ ngần ấy chúng sinh, an lập ngần ấy người vào Phật đạo, không an lập ngần ấy người vào Phật đạo.” Mà Đại Bồ-tát vì tất cả các loài chúng sinh, trang nghiêm bằng thệ nguyện rộng lớn và tự nghó: “Ta sẽ tự thành tựu viên mãn Thí ba-la-mật, khuyến trợ chúng sinh khiến nhập vào tất cả nghiệp Thí ba-la-mật, Giới ba-la-mật, Nhẫn ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Thiền ba-la-mật, Bát-nhã ba-la-mật. Ta sẽ thành tựu viên mãn việc hành Ba-la-mật, khuyến trợ tất cả chúng sinh, khiến nhập vào Bát-nhã ba-la-mật vô cực.” Lại nữa, thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Giả sử Đại Bồ-tát hành Thí ba-la-mật thì cái có thể cho tất cả là trí Nhất thiết để tu sửa tâm ý. Bồ-tát ấy xem các chúng sinh là bè bạn, là con của mình, còn khuyến trợ họ đạt Vô thượng Chánh đẳng giác. Thưa Hiền giả! Đó là Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật trang nghiêm bằng thệ nguyện rộng lớn. Lại nữa, thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát hành Thí ba-la-mật, cái có thể cho là trí Nhất thiết để tu sửa tâm ý. Đối với người đã phát tâm, chẳng vì họ mà vẫn khuyến trợ địa Thanh văn, Bích-chi-phật. Thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Đó là Đại Bồ-tát hành Thí ba-la-mật trang nghiêm bằng thệ nguyện rộng lớn. Lại nữa, thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát hành Thí ba-la-mật, cái có thể cho là trí Nhất thiết để tu sửa tâm ý. Bồ-tát ấy thường suy nghó, giữ gìn cấm giới, không để có điều trái phạm, chẳng dùng để khuyến trợ địa Thanh văn, Bích-chi-phật, mà khuyến trợ đạt được Vô thượng Chánh đẳng giác. Đó là Đại Bồ-tát hành Giới ba-la-mật trang nghiêm bằng thệ nguyện rộng lớn. Lại nữa, thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát hành Thí ba-la-mật, cái có thể cho là trí Nhất thiết để tu sửa tâm ý. Bồ-tát ấy thường suy nghó, nhẫn chịu các pháp, dùng nhẫn nhục để khuyến khích chúng sinh, xem họ là bè bạn, là con mình. Dùng nhẫn nhục để khuyến trợ họ, chẳng vì Thanh văn, Bích-chi-phật mà vì đạt được Vô thượng Chánh đẳng giác. Đó là Đại Bồ-tát hành Nhẫn ba-la-mật trang nghiêm bằng thệ nguyện rộng lớn. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát hành Thí ba-la-mật, cái có thể cho là trí Nhất thiết để tu sửa tâm ý. Bồ-tát ấy thường thực hiện tinh tấn, chẳng bỏ chuyên cần, việc làm tinh tấn không có thiếu sót, chẳng dùng để khuyến trợ Thanh văn, Bích-chi-phật mà để đạt được Vô thượng Chánh đẳng giác. Đó là Đại Bồ-tát hành Tinh tấn ba-la-mật trang nghiêm bằng thệ nguyện rộng lớn. Lại nữa, thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, cái có thể cho là trí Nhất thiết để tu sửa tâm ý. Bồ-tát ấy không nghó gì khác, chỉ tư duy nghiệp trí nhất thiết tuệ, tư duy không bỏ, chẳng nghe hạnh Thanh văn, Bích-chi-phật, chỉ cầu đạt được Vô thượng Chánh đẳng giác. Đó là Đại Bồ-tát hành Thiền ba-la-mật trang nghiêm bằng thệ nguyện rộng lớn. Lại nữa, thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát hành Thí ba-la-mật, cái có thể cho là trí Nhất thiết để tu sửa tâm ý. Bồ-tát ấy thường làm theo trí tuệ, lìa tà tuệ, dùng nghiệp trí tuệ khai phát tất cả, không có các lậu, chẳng dùng để khuyến trợ địa Thanh văn, Bích-chi-phật mà cầu đạt được Vô thượng Chánh đẳng giác. Đó là Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật trang nghiêm bằng thệ nguyện rộng lớn. Lại nữa, thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát hành Thí ba-la-mật, cái có thể cho là trí Nhất thiết để tu sửa tâm ý. Khi cho khởi tâm huyễn hóa, không có gì để cho, cũng không có người cho, cũng không có người nhận. Đại Bồ-tát bố thí như thế, không vì khuyến trợ Thanh văn, Bích-chi-phật mà vì cầu đạt được Vô thượng Chánh đẳng giác. Đó là Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật trang nghiêm bằng thệ nguyện rộng lớn. Ngài Phân-nậu-văn-đà-ni-phất nói với ngài Xá-lợi-phất: –Giả sử Đại Bồ-tát tâm tôn sùng trí Nhất thiết thì đối với các Ba-la-mật không có tưởng cầu, cũng không sở đắc. Đó gọi là thệ nguyện rộng lớn của Đại Bồ-tát. Lại nữa, thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát hành Giới ba-la-mật, tâm tôn sùng trí Nhất thiết để bố thí, tôn sùng tâm trí nhất thiết để cứu độ chúng sinh tức là để khuyến trợ tâm Vô thượng Chánh đẳng giác. Đó là Đại Bồ-tát hành Giới ba-la-mật vì Thí ba-la-mật. Lại nữa, thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Khi hành Giới ba-la-mật, đối với những việc làm mà không ai nhẫn được, chẳng thể nhẫn được, Đại Bồ-tát không gì là chẳng nhẫn được. Đó là Đại Bồ-tát hành Giới ba-la-mật vì Nhẫn ba-la-mật. Lại nữa, thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát hành Giới ba-la-mật, thì tự nhiên phát khởi việc tinh tấn không có lười biếng bỏ bê. Đó là Đại Bồ-tát hành Giới ba-la-mật vì Tinh tấn ba-la-mật. Lại nữa, thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát hành Giới ba-la-mật, tâm tôn sùng trí nhất thiết, suy nghó việc làm, chẳng tin tâm Thanh văn, Bích-chi-phật, tâm thường chuyên nhất, tư duy thiền định không có loạn. Đó là Đại Bồ-tát hành Giới ba-la-mật vì Thiền ba-la-mật. Lại nữa, thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát hành Giới ba-la-mật, đối với tất cả các pháp sở hữu, quán niệm như huyễn, cũng chẳng nghó giới, cũng không sở đắc, chẳng tin tâm Thanh văn, Bích-chi-phật, phân biệt trí tuệ vi diệu. Đó là Đại Bồ-tát hành Giới ba-la-mật vì Bát-nhã ba-la-mật. Như thế, thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát hành Giới ba-la-mật tức là bao gồm đầy đủ hết các Ba-la-mật. Đó gọi là thệ nguyện rộng lớn của Đại Bồ-tát. Lại nữa, thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát hành Nhẫn ba-la-mật mà có sự bố thí, tôn sùng phát khởi tâm trí Nhất thiết, chẳng tin tâm Thanh văn, Bích-chi-phật, có thể nhẫn nhục hết, không kết hận, để khuyến trợ quả Chánh đẳng giác. Lại nữa, thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát hành Tinh tấn ba-la-mật mà có sự bố thí, tôn sùng phát khởi tâm trí Nhất thiết, chẳng tin tâm Thanh văn, Bích-chi-phật, thường hành tinh tấn, chẳng tiến chẳng thoái thì đạt đến Chánh đẳng giác. Lại nữa, thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát hành Thiền ba-la-mật, mà có sự bố thí, tôn sùng phát khởi tâm trí Nhất thiết, chẳng tin tâm Thanh văn, Bích-chi-phật, tâm thường định, không bị loạn động, không loạn nào mà chẳng loạn, cũng chẳng thấy loạn, chẳng thấy định ý. Lại nữa, thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, tôn sùng phát khởi tâm trí Nhất thiết, chẳng tin tâm Thanh văn, Bích-chi-phật, tâm ý to lớn không có gì mà chẳng thông, chẳng tại sinh tử, chẳng ở diệt độ. Lại nữa, thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát dùng định vô sắc để hành Tam-muội, chẳng theo Thiền giáo mà có chỗ phát sinh. Đó là Đại Bồ-tát có phương tiện thiện xảo Bát-nhã ba-la-mật. Lại nữa, thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Giả sử Đại Bồ-tát hoặc hành Thiền định, hay bốn Đẳng tâm mà dùng Tam-muội định vô sắc thì chẳng mất Thiền định và bốn Đẳng tâm, Tam-muội vô sắc. Đó là Đại Bồ-tát dùng phương tiện thiện xảo Bát-nhã ba-la-mật. Lại nữa, thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát lại tu thiền tư, hành bốn Đẳng tâm, Tam-muội vô sắc. Ở trong sự tónh lặng quán thấy Không, Vô tướng, Vô nguyện. Thấy như thế rồi thì đó là Đại Bồ-tát trang nghiêm bằng áo giáp Bát-nhã ba-la-mật. Thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Như thế, gọi là Đại Bồ-tát được trang nghiêm bằng thệ nguyện rộng lớn. Thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Như thế, Đại Bồ-tát giả sử mặc áo giáp này thì chư Phật Thiên Trung Thiên ở thế giới chư Phật trong tám phương, trên dưới đều có thể tuyên dương lời dạy vi diệu, khen ngợi công đức bằng âm thanh thông suốt, rằng ở thế giới đó có Đại Bồ-tát mặc áo giáp đại đức, giáo hóa chúng sinh, làm nghiêm tịnh cõi Phật. Xá-lợi-phất hỏi ngài Phân-nậu-văn-đà-ni-phất: –Sao gọi là Đại Bồ-tát không thoái chuyển ngang bằng Đại thừa? Ngài Phân-nậu-văn-đà-ni-phất trả lời: –Thưa Hiền giả! Đại Bồ-tát hành sáu pháp Ba-la-mật, tịnh trừ các dục, diệt bỏ các pháp ác bất thiện, thuận theo tưởng hữu hành mà trụ tịch nhiên, chỉ còn sự an ổn, có thể thành tựu tầng thiền thứ nhất. Đã lìa dục, không có các ác, dứt bỏ các tưởng có thể nghó đến, tịch nhiên an ổn, có thể thành tựu tầng thiền thứ hai. Dứt bỏ các tưởng, không nghó không tưởng mà tâm tự tu như lời dạy của Thánh hiền, chẳng trái với sự minh đạt, được vui vẻ an ổn, thì liền đắc tầng thiền thứ ba. Dứt an, bỏ khổ, đối với các việc thiện ác đã tiếp xúc, vừa ý, hoặc không vừa ý, cũng không khổ không vui mà an trú tịch nhiên, được vui vẻ, an ổn thì liền thành tựu tầng Thiền thứ tư. Hành, bốn Đẳng tâm, tâm Từ luôn thương yêu không oán, không kết, cũng không điên đảo, rộng lớn vô cùng, tốt lành vô lượng, chỗ tâm hành trong khắp các thế gian, đều không rời nó. Tâm Bi, Hỷ, Hộ (xả) cũng giống như thế. Tâm Xả thường có mặt, không oán không kết, cũng không điên đảo, rộng lớn vô biên, tốt lành vô lượng, chỗ tâm hành trong khắp các thế gian đều không rời nó. Đó là thiền tư của Đại Bồ-tát. Đại Bồ-tát dùng thiền tư này hành bốn Đẳng tâm, dùng điều tốt đẹp này hành định Tam-muội. Sau khi hành pháp này rồi, dùng để khuyến trợ trí Nhất thiết. Đó là sáu pháp Ba-la-mật của Đại Bồ-tát mà Thí ba-la-mật là gốc, Giới ba-la-mật, Nhẫn ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Thiền ba-la-mật, Bát-nhã ba-la-mật, tất cả đều như thế. Đó gọi là trang nghiêm bằng thệ nguyện rộng lớn của Đại Bồ-tát. Lại nữa, thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát cùng với tâm Từ rộng lớn cùng khắp nhưng không có hai, không có ranh giới, không có ràng buộc mà cũng không ở tại một chỗ. Tin thiền thứ nhất, thiền thứ hai, thiền thứ ba, thiền thứ tư cũng giống như thế, cho đến ở dưới không ranh giới, trên không giới hạn, tám phương trên dưới không đâu là chẳng khắp, đầy đủ bốn Thiền. Đó là Tam-muội của Đại Bồ-tát. Giả sử Đại Bồ-tát tôn sùng tâm ấy ở trí Nhất thiết, hành thiền thứ nhất để cứu độ tất cả chúng sinh, thì khuyến trợ họ đắc các thông tuệ. Đại Bồ-tát ấy đầy đủ trí Nhất thiết mà phát tâm tuệ rồi mới dùng phương tiện diễn bày thông suốt ý nghóa, vì người nói kinh. Đó là Thí ba-la-mật của Đại Bồ-tát. Lại nữa, Đại Bồ-tát, tâm đạt đến trí Nhất thiết, tư duy tu theo thiền thứ nhất. Giả sử có thể trụ ở thiền thứ nhất thì lại chẳng tin ưa phát tâm nào khác, chẳng theo tâm Thanh văn, Bích-chi-phật. Đó là Đại Bồ-tát chẳng phạm Giới ba-la-mật. Giả sử Đại Bồ-tát, tâm chí đặt ở trí nhất thiết, tuân tu tư duy, liền tự phát sinh ý nghóa khiến cho tất cả loài chúng sinh diệt trừ khổ cực, vì họ thuyết kinh pháp, tùy theo tâm niệm ưa thích của họ, quán căn nguyên của họ để khai hóa. Đó là Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật. Giả sử Đại Bồ-tát, tâm tu theo trí Nhất thiết, khuyến trợ tất cả gốc công đức, đối với các thông tuệ chẳng thấy chỗ hướng tới của tinh tấn. Đó là Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật. Giả sử Đại Bồ-tát, tâm tu theo trí Nhất thiết, từ thiền thứ nhất cho đến thiền thứ tư lại quán sát vô thường, khổ, không, vô ngã, Không, Vô tướng, Vô nguyện. Đó là Đại Bồ-tát hành Thiền ba-la-mật. Giả sử Đại Bồ-tát, tâm tôn sùng trí Nhất thiết, quán tất cả pháp giống như huyễn hóa, không có ba cõi mà vì người thuyết kinh thì đó là Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật. Thưa Hiền giả Xá-lợi-phất, Pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát tạo lập tất cả bốn Ý chỉ, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo. Lại tạo lập đầy đủ tất cả Tam-muội Không, Tam-muội Vô tướng, Vô nguyện, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng. Đó là pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát. Lại nữa, thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát chẳng bảo là không cầu hai địa này là địa Thanh văn và địa Bích-chi-phật, tâm chỉ ưa trí Nhất thiết. Đại Bồ-tát ấy hành không phóng dật, thực hiện bốn Đẳng tâm, thành tựu Nhẫn ba-la-mật. Giả sử Đại Bồ-tát, tâm tu theo và tự hưng phát trí tuệ thương yêu tất cả, việc làm vô hạn, không gì phá hoại. Đó là Đại Bồ-tát hành Tinh tấn ba-la-mật. Giả sử Đại Bồ-tát đối với bốn Vô đẳng tâm mà hành thiền định, chẳng do thiền định và bốn Đẳng tâm mà có điều quên mất, thì đó là Đại Bồ-tát hành bốn Đẳng tâm không phóng dật có phương tiện thiện xảo. Lại nữa, thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát hành Tam-muội Từ tâm: “Ta nên cứu hộ tất cả chúng sinh”, liền tu theo Tam-muội Bi, thương xót chúng sinh thực hiện lòng bi thuận theo hướng này. Thực hiện Tam-muội Hỷ: “Ta sẽ độ thoát các loài chúng sinh”, dần dần tiến tới Tam-muội Hộ (xả) giúp cho chúng sinh đạt đến lậu tận. Đó là Đại Bồ-tát hành bốn Đẳng tâm không có phóng dật có Thí ba-la-mật. Giả sử thiền tư không phóng dật hành bốn Đẳng tâm, duyên vào điềm lành, không dùng để khuyến khích hỗ trợ địa Thanh văn, Bích-chi-phật, mà thuận theo tuệ thương yêu tất cả. Đó là Đại Bồ-tát hành bốn Đẳng tâm, không trái phạm Giới ba-la-mật. Lại nữa, thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát hiểu rõ pháp nội không chẳng rơi vào điên đảo, cũng không cầu gì, chẳng có sở đắc về khổ vui, thiện ác, có sở hữu cái không tự nhiên. Đối với các thông tuệ, cũng không sở đắc, không có trong, ngoài, chẳng có trung gian. Đó là pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát. Lại nữa, thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát đối với tất cả pháp không có loạn, cũng không có tuệ Tam-muội. Đó là pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát. Lại nữa, thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát luôn có chí hướng Đại thừa, trí tuệ của họ tự do, trí tuệ ấy chẳng trụ tại thường, chẳng trụ tại vô thường, chẳng chấp khổ hay chẳng khổ, vui hay chẳng vui, điều ấy chẳng do trí tuệ trụ ở ngã sở hay chẳng phải ngã sở. Đó là pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát vì không sở đắc nên chẳng rơi vào điên đảo. Lại nữa, thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát, trí tuệ của họ tự do chẳng ở tại quá khứ, chẳng ở tại vị lai, chẳng ở tại hiện tại, chẳng ở tại ba đời, không có chỗ của trí tuệ. Đó là pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát thường không sở đắc, chẳng rơi vào điên đảo. Lại nữa, thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát, trí tuệ của họ chẳng buộc ràng vào cõi Dục, chẳng buộc ràng vào cõi Sắc, chẳng buộc ràng vào cõi Vô sắc mà là trí tuệ tự tại, biết hết cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc một cách tự tại, cũng không sở đắc, cũng chẳng rơi vào điên đảo. Đó là pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát. Lại nữa, thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát, trí tuệ tự tại, chẳng đồng trí tuệ thế gian, cũng chẳng chìm trong trí tuệ thế gian, chẳng ở tại hữu vi, chẳng ở tại vô vi, chẳng ở tại hữu lậu, chẳng ở tại vô lậu. Pháp tuệ này tự do, biết hết trí tuệ thế tục, trí tuệ vượt thế tục, chẳng phải chẳng biết. Biết hết pháp hữu vi, vô vi, chẳng phải chẳng biết, cũng không sở đắc, chẳng rơi vào điên đảo. Đó là pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát. KINH QUANG TÁN <卷 id="81581563">QUYỂN 6 <詞 id="81581564">Phẩm 14: Nương theo Đại Thừa Hiền giả Xá-lợi-phất hỏi Hiền giả Phân-nậu-văn-đà-ni-phất: –Thế nào là Đại Bồ-tát nương ở Đại thừa? Phân-nậu-văn-đà-ni-phất trả lời: –Thưa Hiền giả! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật nương vào Thí ba-la-mật, cũng lại chẳng thủ đắc Thí ba-la-mật, cũng không có Bồ-tát, chẳng thấy có người nhận, chẳng có sở đắc, cũng không có kết quả gì. Nương vào Thí ba-la-mật thì gọi là Đại Bồ-tát. Giới ba-la-mật, Nhẫn ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Thiền ba-la-mật, Bát-nhã ba-la-mật ba-la-mật, nương Bát-nhã ba-la-mật thì cũng chẳng đắc Bát-nhã ba-la-mật, cũng chẳng đắc Bồ-tát, cũng không có kết quả gì, cũng không sở đắc. Đó là Đại Bồ-tát nương Bát-nhã ba-la-mật. Lại nữa, thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát cũng chẳng hủy mất tâm tu theo trí nhất thiết, tức là phụng hành bốn Ý chỉ, đối tượng để niệm là vô niệm, đối tượng để hành trì là không hành trì, đối với những nghóa này cũng không sở đắc. Đó là Đại Bồ-tát nương Đại thừa. Lại nữa, thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát cũng chẳng hủy mất tâm tu theo trí nhất thiết, tức là phụng hành bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo, đối với những nghóa này cũng không sở đắc. Đó là Đại Bồ-tát nương Đại thừa. Lại nữa, thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát cũng chẳng hủy mất tâm tu theo trí Nhất thiết, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật, đối với những nghóa này đều không sở đắc. Đó là Đại Bồ-tát nương theo Đại thừa. Lại nữa, thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát phân biệt rõ điều này: Gọi là Bồ-tát đó là giả hiệu, tùy theo thế tục, muốn cầu người cũng chẳng thể nắm bắt được, cũng không có chỗ phát khởi. Gọi là sắc đó chỉ là giả hiệu thôi, cũng chẳng thể nắm bắt được, cũng không có chỗ phát khởi. Gọi là thọ, tưởng, hành, thức chỉ là giả hiệu, cũng chẳng thể nắm bắt được, cũng không có chỗ phát khởi. Gọi là nhãn, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý chỉ là giả hiệu, cũng chẳng thể nắm bắt được, cũng không có chỗ phát khởi. Gọi là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp chỉ là giả hiệu, cũng chẳng thể nắm bắt được, cũng không có chỗ phát khởi. Gọi là bốn Ý chỉ, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo chỉ là giả hiệu, cũng chẳng thể nắm bắt được, cũng không có chỗ phát khởi. Gọi là mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật chỉ là giả hiệu thôi, cũng chẳng thể nắm bắt được, cũng không có chỗ phát khởi. Gọi là pháp nội không, pháp ngoại không và pháp không không chỉ là giả hiệu, cũng chẳng thể nắm bắt được, cũng không có chỗ phát khởi. Gọi là pháp sở hữu không, pháp tự nhiên không, pháp sở hữu tự nhiên không, chỉ là giả hiệu, cũng chẳng thể nắm bắt được, cũng không có chỗ phát khởi. Gọi là pháp của Như Lai, pháp vô bổn, cảnh giới của các pháp, pháp ấy tịch nhiên và bản tế, cái bản tế ấy cũng chẳng thể nắm bắt được, cũng không có chỗ phát khởi. Gọi là Phật đạo có sở giác, thì Phật đạo ấy cũng chẳng thể nắm bắt được, cũng không có chỗ phát khởi. Đó gọi là pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát. Lại nữa, thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát từ khi mới phát tâm đã đầy đủ thần thông. Bồ-tát này khai hóa chúng sinh, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, cúng dường phụng sự chư Phật Thế Tôn, ân cần gần gũi chư Phật Thế Tôn để nghe kinh pháp cầu thừa Bồ-tát. Vị ấy đối với hạnh Bồ-tát của Đại thừa, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, làm nghiêm tịnh cõi Phật, giáo hóa chúng sinh, cũng không tham vướng cõi nước chư Phật, cũng không có tướng nhân, trụ chỗ vô nhị, dùng sức tự thân, thường vì chúng sinh dẫn dắt làm lợi ích cho họ. Sao gọi vị ấy là tự thân có sự thu nhận, vì tâm chưa từng rời thừa như thế, để đạt đến trí Nhất thiết. Đã đạt được trí Nhất thiết rồi thì liền chuyển pháp luân. Đã chuyển pháp luân thì tất cả Thanh văn, Bích-chi-phật, Trời, Rồng, Quỷ thần và người thế gian đều có thêm sự lợi ích. Khi ấy chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở tám phương, trên dưới đều cùng khen ngợi tuyên dương: “Có Đại Bồ-tát ấy, ở thế giới ấy, nương vào Đại thừa, đắc trí Nhất thiết. Đã đắc trí Nhất thiết rồi thì liền chuyển pháp luân.” Thưa Hiền giả Xá-lợi-phất! Đó là Đại Bồ-tát nương theo Đại thừa.  <詞 id="81581565">Phẩm 15: Vô Phược Hiền giả Tu-bồ-đề bạch Phật: –Tại sao gọi Đại Bồ-tát mặc áo giáp đại đức là trang nghiêm bằng thệ nguyện rộng lớn? Phật bảo Tu-bồ-đề: –Khi Đại Bồ-tát mặc áo giáp giới đức, hành Thí ba-la-mật, Giới ba-la-mật, Nhẫn ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Thiền ba-la-mật, Bát-nhã ba-la-mật thì gọi là trang nghiêm bằng thệ nguyện rộng lớn. Mặc áo giáp bốn Ý chỉ, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật. Mặc áo giáp pháp nội không, pháp ngoại không, pháp chư sở hữu tự nhiên không, mặc áo giáp trí nhất thiết. Mặc áo giáp trang nghiêm bằng hình tượng Phật rồi, liền dùng ánh sáng chiếu sáng tam thiên đại thiên thế giới, tám phương trên dưới cũng lại như thế, ánh sáng ấy không đâu mà không khắp. Lại có khả năng làm chấn động cả tam thiên đại thiên thế giới, cho đến hằng hà sa các cõi Phật ở phương Đông, tám phương trên dưới cũng lại như thế, không đâu là không chấn động. Đại Bồ-tát ấy dùng ánh sáng này trụ Thí ba-la-mật, mặc áo giáp đại thệ nguyện Đại thừa, biến tam thiên đại thiên thế giới đều thành lưu ly biếc. Vừa biến tam thiên đại thiên thế giới thành lưu ly biếc xong, lại biến làm Chuyển luân thánh vương. Đã biến thành hình dạng trang nghiêm của Chuyển luân thánh vương, liền bố thí rộng rãi, người đói thì cho ăn, người khát thì cho uống, không có y phục thì cho y phục, không hương cho hương. Các loại trang sức, hương tạp, hương bột, xe cộ, voi ngựa, tôi tớ, người giúp việc, đều thỏa mãn theo ý người xin. Nhà cửa, chỗ cư ngụ hiện có, nghề nghiệp sinh sống và các thứ khác, theo ý của mọi người muốn có đều làm cho họ có được. Đồ ăn thức uống, y phục, hương hoa, voi ngựa, nhà cửa đang sở hữu đều bố thí cho mọi người. Làm cho mọi người có được những vật theo ý muốn rồi, liền vì họ phân biệt thuyết pháp, nói nghóa đầy đủ, làm cho tu theo sáu pháp Ba-la-mật. Các loài chúng sinh theo thuyết pháp rồi liền theo sự hướng dẫn hành Ba-la-mật, khiến cho đạt đến Vô thượng Chánh đẳng giác. Đó là pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát trang nghiêm bằng thệ nguyện rộng lớn. Này Tu-bồ-đề! Ví như nhà ảo thuật thông minh và đệ tử thông minh ở tại ngã tư đường hóa làm mọi người đang làm ăn sinh sống. Vì sao? Vì pháp của các nhà ảo thuật tự hiện ra như thế. Rồi nhà ảo thuật dùng các thứ huyễn này bố thí cho vô số người thiếu thốn như là đồ ăn uống, y phục, hương hoa, các đồ trang sức, voi ngực, nhà cửa… Này Tu-bồ-đề! Theo ý ông thì sao? Nhà ảo thuật ấy có sự ban phát cho mọi người chăng? –Bạch Đức Thiên Trung Thiên, không. Đức Phật dạy: –Này Tu-bồ-đề! Như thế việc Đại Bồ-tát mặc áo giáp thệ nguyện rộng lớn hành sáu pháp Ba-la-mật, ba mươi bảy phẩm, pháp nội không, pháp ngoại không, pháp nội ngoại không và pháp chư sở hữu tự nhiên không; mặc áo giáp thệ nguyện rộng lớn hành mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật và mặc áo giáp thệ nguyện rộng lớn trí nhất thiết; mặc áo giáp đại đức hóa làm hình dạng Phật, ánh sáng chiếu khắp tam thiên đại thiên thế giới và hằng hà sa cõi nước chư Phật ở phương Đông, cùng tám phương trên dưới, không đâu là chẳng khắp, hằng hà sa cõi nước chư Phật trong mười phương chấn động sáu cách, dùng ánh sáng lớn trụ Thí ba-la-mật, theo nhu cầu của mọi người, cho thức uống, y phục, hương hoa, đồ trang sức, voi ngựa, nhà cửa, nghề nghiệp sinh sống, tuy là hóa hiện sự bố thí đã xong, nhưng không cho gì hết. Tuy mọi người có đến nhận lãnh vật dụng sinh sống, nhưng không có người cho, cũng không có người nhận. Vì sao? Này Tu-bồ-đề, vì các pháp như thế cũng lại như huyễn, huyễn chẳng lìa pháp. Đó là Đại Bồ-tát trang nghiêm bằng thệ nguyện rộng lớn. Lại nữa, Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát trụ Giới ba-la-mật, muốn dùng để cứu hộ các loài thọ sinh cho nên hiện làm dòng Chuyển luân vương. Vị này khi đã được lập nên ngôi Chuyển luân vương rồi, liền dùng mười điều thiện để xây dựng và khai mở chúng sinh tu bốn Thiền, bốn Đẳng tâm, bốn Định vô sắc, bốn Ý chỉ, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật vì các chúng sinh nói kinh điển rộng khắp, chưa từng làm cho chúng sinh lìa đạo nghóa ấy, có khả năng khiến cho họ an ổn đến được Phật đạo. Đó là Đại Bồ-tát trang nghiêm bằng thệ nguyện rộng lớn. Này Tu-bồ-đề! Ví như nhà ảo thuật tài giỏi, hoặc đệ tử thông minh, ở ngã tư đường, hóa ra vô số người chẳng thể kể xiết, rồi vì các người đó giảng thuyết kinh pháp, tạo lập mười điều thiện, ba mươi bảy phẩm, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật. Này Tu-bồ-đề! Theo ý ông thì sao? Thật có người trụ mười điều thiện, ba mươi bảy phẩm, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật chăng? Trả lời: –Bạch Đức Thiên Trung Thiên, không. –Này Tu-bồ-đề! Như thế, Đại Bồ-tát khai hóa chúng sinh, khiến trụ mười điều thiện, ba mươi bảy phẩm, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật, cũng không có sự khuyến hóa chúng sinh. Vì sao? Này Tu-bồ-đề! Vì cái gọi là các pháp ấy cũng lại như huyễn, huyễn chẳng lìa pháp. Này Tu-bồ-đề! Như thế là pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát trang nghiêm bằng thệ nguyện rộng lớn. Lại nữa, Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát trụ Nhẫn ba-la-mật, khai hóa tất cả các loài chúng sinh xây dựng Nhẫn độ vô cực. Sao gọi là Bồ-tát trụ Nhẫn ba-la-mật, khai hóa tất cả các loài chúng sinh xây dựng pháp Nhẫn nhục ba-la-mật vô cực? Này Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát từ khi mới phát ý, mặc áo giáp đại đức mà tự thệ nguyện: “Giả sử tất cả các loài chúng sinh dùng đao gây hại ta thì ta là Đại Bồ-tát, chẳng nên phát khởi ý sân hận, dù trong giây lát, cũng lại giáo hóa tất cả các loài chúng sinh khiến an lập ở nhẫn này.” Này Tu-bồ-đề! Ví như nhà ảo thuật tài giỏi và đệ tử thông minh, ở ngã tư đường, hóa làm vô số người chẳng thể tính đến, rồi liền dùng gậy đánh. Dùng đao chặt gây hại. Như vậy, thật có sự đánh đập và chặt phá gây hại không? Ngài Tu-bồ-đề trả lời: –Bạch Đức Thiên Trung Thiên, không. Đức Phật dạy: –Này Tu-bồ-đề! Như vậy, Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, nếu có đao gậy gây hại thân mình thì đều nhẫn chịu. Lại giáo hóa chúng sinh khiến an lập nhẫn này, không có người đánh, cũng không có người nhẫn chịu. Này Tu-bồ-đề! Đó là pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát trụ Nhẫn ba-la-mật, trang nghiêm bằng thệ nguyện rộng lớn. Lại nữa, Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát trụ Tinh tấn ba-la-mật khuyến hóa tất cả các loài chúng sinh, khiến đều an lập ở Tinh tấn ba-la-mật. Sao gọi là Đại Bồ-tát an lập chúng sinh ở Tinh tấn ba-la-mật vô cực? Này Tu-bồ-đề! Khi Đại Bồ-tát, tâm ý tu theo trí Nhất thiết mà phát đạo ý, thì cũng không tưởng nghó, cũng không tinh tấn, khuyến khích chúng sinh khiến đi theo hạnh ấy. Này Tu-bồ-đề! Ví như nhà ảo thuật tài giỏi và đệ tử thông minh, ở tại ngã tư đường, hóa làm vô số người chẳng thể tính đếm, rồi khiến họ hành tinh tấn, giữ gìn thân, khẩu, ý, thì thực ra cũng không có người, cũng không có thân, khẩu, ý, cũng không có việc hành trì. Này Tu-bồ-đề! Cũng như thế, Đại Bồ-tát tạo lập Tinh tấn ba-la-mật, khuyến hóa tất cả các loài chúng sinh, khiến hành tinh tấn thì không có tưởng tinh tấn, cũng không có việc hành trì, cũng không có khai hóa các loài chúng sinh an lập tinh tấn. Đó là pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát trụ Tinh tấn ba-la-mật trang nghiêm bằng thệ nguyện rộng lớn. Lại nữa, Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát trụ Thiền ba-la-mật, khuyến hóa tất cả các loài chúng sinh hành Thiền ba-la-mật. Này Tu-bồ-đề! Thế nào là Đại Bồ-tát trụ Thiền ba-la-mật? Bồ-tát bình đẳng trụ các pháp thì các pháp không loạn, cũng chẳng thấy các pháp phiền não. Đại Bồ-tát có thể dùng sự an trụ này, đối với Thiền ba-la-mật bình đẳng tại vô bổn, khuyến khích trợ giúp chúng sinh đối với pháp bình đẳng mà vị ấy đã giáo hóa, chưa từng trái nghịch, xa rời lời dạy của chư Phật, cho đến khi đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cũng không thấy đạt đến Vô thượng Bồ-đề. Thí như nhà ảo thuật tài giỏi và đệ tử thông minh, ở ngã tư đường, hóa làm vô số người chẳng thể tính đếm, rồi khiến đều ngồi thiền, định tónh tâm ý, nhưng thật không có định, cũng không có loạn. Này Tu-bồ-đề! Cũng vậy, Đại Bồ-tát khuyến hóa chúng sinh, khiến hành pháp như thế, nhưng chẳng thấy các pháp có người nhất tâm hoặc có người loạn ý. Đó là pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát trụ Thiền ba-la-mật trang nghiêm bằng thệ nguyện rộng lớn. Lại nữa, Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát trụ Bát-nhã ba-la-mật khuyến hóa các loài chúng sinh, khiến họ đều trụ ở Trí độ vô cực. Sao gọi là tự trụ Bát-nhã ba-la-mật, khuyến hóa chúng sinh trụ Trí độ vô cực? Này Tu-bồ-đề! Như vậy, Đại Bồ-tát cũng không có pháp để hành, cũng không có kết quả đạt được. Đại Bồ-tát ấy trụ Bát-nhã ba-la-mật rồi, cũng dùng pháp này khai hóa tất cả các loài chúng sinh, khiến đạt đến chỗ không chướng ngại. Thí như nhà ảo thuật tài giỏi và đệ tử thông minh, hóa làm vô số người chẳng thể tính đếm, có trí tuệ biện tài, phân biệt nhiều sự việc, thật ra không có trí tuệ, cũng không nói điều gì. Này Tu-bồ-đề! Theo ý ông thì sao? Thật có nói có nghe chăng? Đáp: –Bạch Đức Thiên Trung Thiên, không. Đức Phật dạy: –Đó là pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát trang nghiêm bằng thệ nguyện rộng lớn. Lại nữa, Tu-bồ-đề! Pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát trang nghiêm bằng thệ nguyện rộng lớn, tự trụ pháp tự nhiên, khai hóa hằng hà sa chúng sinh, khiến đều thật hành Thí-ba-mật, Giới ba-la-mật, Nhẫn ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Thiền ba-la-mật, Bát-nhã ba-la-mật, vì họ giảng thuyết pháp. Giả sử chúng sinh được nghe sáu pháp Ba-la-mật này, thì chẳng bao giờ lìa sáu pháp Độ vô cực, cho đến khi đạt Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Tất cả mười phương đều như thế. Giống như cõi nước chư Phật ở phương Đông, tất cả mười phương đều như thế, không có gì sai khác. Này Tu-bồ-đề! Ví như nhà ảo thuật tài giỏi và đệ tử thông minh, ở ngã tư đường, hóa làm vô số người không thể tính đếm, thật hành việc Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Nhất tâm, Trí tuệ, nhưng thật ra cũng không Bố thí, cũng không Trì giới, cũng không Nhẫn nhục, cũng không Tinh tấn, cũng không Nhất tâm, cũng không Trí tuệ. Này Tu-bồ-đề! Như thế là pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát trang nghiêm bằng thệ nguyện rộng lớn. Lại nữa, Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát không thoái chuyển tâm chí tôn sùng trí Nhất thiết chưa từng khởi phát tâm niệm nào khác, cũng không tin điều gì, không nghe thọ gì, hoặc khai hóa người an lập ở Thí ba-la-mật, hoặc khai hóa người an lập ở Giới ba-la-mật, hoặc khai hóa người an lập ở Nhẫn ba-la-mật, hoặc khai hóa người an lập ở Tinh tấn ba-la-mật, hoặc khai hóa người an lập ở Thiền ba-la-mật, hoặc khai hóa người an lập ở Bát-nhã ba-la-mật, hoặc khai hóa người đạt đến không chỗ an lập, không chỗ khai hóa. Hoặc khai hóa một số người an lập ở bốn Ý chỉ, khai hóa một số người an lập ở bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo, khai hóa một số người an lập ở mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật, hoặc chẳng khai hóa. Hoặc khai hóa người an lập ở quả Tu-đà-hoàn, hoặc khai hóa người an lập ở quả Tư-đà-hàm, hoặc khai hóa người an lập ở quả A-na-hàm, hoặc khai hóa người an lập ở quả A-la-hán, hoặc khai hóa người an lập ở quả Bích-chi-phật. Hoặc có một số người chẳng thể khai hóa, hoặc an lập một số người ở trí Nhất thiết, hoặc một số người chẳng nên khai hóa. Có một số loài chúng sinh nhiều chẳng thể đếm biết, chẳng thể hạn lượng nên khai hóa an lập họ ở Thí ba-la-mật, Giới ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Thiền ba-la-mật, Bát-nhã ba-la-mật, bốn Ý chỉ, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật. Khai hóa chúng sinh nhiều chẳng thể tính đếm, chẳng thể hạn lượng an lập ở trí Nhất thiết. Này Tu-bồ-đề! Theo ý ông thế nào? Bồ-tát khai hóa một số người chẳng thể tính đếm đều có chỗ hướng đến, đều có chỗ phát khởi, đều khiến được độ. Vậy thật có chỗ phát khởi, có người được độ chăng? Đáp: –Bạch Đức Thiên Trung Thiên, không. Đức Phật dạy: –Như vậy, Đại Bồ-tát dùng sáu pháp Ba-la-mật có sự khai hóa ba mươi bảy phẩm và các Phật pháp, bốn Đạo, Duyên giác cũng không có chỗ hướng đến, cũng không có chỗ độ thoát. Này Tu-bồ-đề! Đó là pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát trang nghiêm bằng thệ nguyện rộng lớn. Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật: –Bạch Đức Thiên Trung Thiên! Nếu con nghe pháp, quán sát ý nghóa trong đó, thường quán Đại Bồ-tát thì chẳng phải trang nghiêm bằng thệ nguyện rộng lớn. Vì sao? Vì từ không mà hưng khởi các tướng tự nhiên. Vì vậy cho nên, bạch Đức Thiên Trung Thiên, quán sát các sắc thì sắc là không, các thọ, tưởng, hành, thức là không. Quán sát nhãn thì nhãn là không; nhó, tỷ, thiệt, thân, ý là không. Quán sát nhãn sắc thức, nhó thanh thức, tỷ hương thức, thiệt vị thức, thân xúc thức, ý pháp thức, mười tám chủng cũng đều là không. Nhãn xúc, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, sở xúc của sáu tình ấy, cũng lại như vậy, đều là không, tất cả đều không, pháp sở tập cũng không. Bạch Đức Thiên Trung Thiên! Thí ba-la-mật cũng không, Giới ba-la-mật, Nhẫn ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Thiền ba-la-mật, Bát-nhã ba-la-mật cũng đều là không. Quán sát bên trong cũng không, cái nội không cũng không, cái tự nhiên vô sở hữu cũng không, cái không ấy cũng không. Bốn Ý chỉ cũng đều là không, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo cũng đều là không. Mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật cũng đều là không. Cái gọi là Bồ-tát cũng không, trang nghiêm bằng thệ nguyện rộng lớn cũng không. Bạch Đức Thiên Trung Thiên! Vì vậy nên quán Đại Bồ-tát là không trang nghiêm bằng thệ nguyện rộng lớn. Đức Phật bảo Tu-bồ-đề: –Đúng vậy, đúng vậy! Này Tu-bồ-đề, đúng như lời ông nói. Trí Nhất thiết có tạo tác mà không có đối tượng tạo tác, cũng chẳng phải chẳng tạo tác, cũng không sở hữu. Tất cả chúng sinh cũng không tạo tác, cũng không sở hữu. Đại Bồ-tát vì chúng sinh nên trang nghiêm bằng thệ nguyện rộng lớn, cũng không tạo tác, cũng chẳng phải chẳng tạo tác, cũng không sở hữu. Tu-bồ-đề bạch Phật: –Bạch Đức Thiên Trung Thiên! Vì sao trí Nhất thiết không tạo tác, cũng chẳng phải chẳng tạo tác, cũng không sở hữu? Loài chúng sinh này cũng không có tạo tác, cũng chẳng phải chẳng tạo tác, cũng không sở hữu? Và sự trang nghiêm bằng thệ nguyện rộng lớn của các Đại Bồ-tát cũng như thế? Đức Thế Tôn trả lời: –Có tạo tác, có sở đắc thì có sự hưng khởi, nhưng trí nhất thiết thì không tạo tác, cũng chẳng phải chẳng tạo tác, cũng không sở hữu. Các chúng sinh ấy cũng không có sự tạo tác, cũng chẳng phải chẳng tạo tác, cũng không có sở hữu. Vì sao? Vì sắc không có sự tạo tác, cũng chẳng phải không tạo tác, cũng không có sở hành, cũng không có sở tác. Thọ, tưởng, hành, thức cũng không có sự tạo tác, cũng chẳng phải không tạo tác, cũng không có sở hành, cũng không có sở tác. Nhãn cũng không có sự tạo tác, cũng chẳng phải không tạo tác, cũng không có sở hành, cũng không có sở tác. Nhó, tỷ, thiệt, thân, ý cũng không có sự tạo tác, cũng chẳng phải không tạo tác, cũng không có sở hành, cũng không có sở tác. Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp cũng không có sự tạo tác, cũng chẳng phải không tạo tác, cũng không có sở hành, cũng không có sở tác. Mười tám chủng, các thọ do sáu tình tiếp xúc làm duyên sinh ra cũng không có sự tạo tác, cũng chẳng phải không tạo tác, cũng không có sở hành, cũng không có sở tác. Này Tu-bồ-đề! Tôi, ta không có sự tạo tác, cũng chẳng phải không tạo tác, cũng không có sở hành, cũng không có sở tác. Và có cái biết, cái thấy, cũng không có sự tạo tác, cũng chẳng phải không tạo tác, cũng không có sở hành, cũng không có sở tác. Vì vậy cho nên, rốt ráo gốc ngọn không có căn nguyên, cũng chẳng thể nắm bắt được. Chúng sinh và mộng cũng không có sự tạo tác, cũng chẳng phải không tạo tác, cũng không có sở hành, cũng không có sở tác. Vì sao? Vì rốt ráo gốc ngọn không có căn nguyên, cũng chẳng thể nắm bắt được, giống như tiếng vang, trăng trong nước, trò huyễn hóa, ảnh ảo, cũng không có sự tạo tác, cũng chẳng phải không tạo tác, cũng không có sở hành, cũng không có sở tác. Vì sao? Vì rốt ráo gốc ngọn không có căn nguyên, cũng chẳng thể nắm bắt được. Này Tu-bồ-đề! Pháp nội không cũng không có sự tạo tác, cũng chẳng phải không tạo tác, cũng không có sở hành, cũng không có sở tác. Pháp ngoại không cũng như vậy. Pháp tự nhiên không có sở hữu ấy cũng không có sự tạo tác, cũng chẳng phải không tạo tác, cũng không có sở hành, cũng không có sở tác. Ba mươi bảy phẩm, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật cũng không có sự tạo tác, cũng chẳng phải không tạo tác, cũng không có sở hành, cũng không có sở tác. Vì sao? Vì rốt ráo gốc ngọn không, có căn nguyên, cũng chẳng thể nắm bắt được. Này Tu-bồ-đề! Cái vô bổn ấy cũng không có sự tạo tác, cũng chẳng phải không tạo tác, cũng không có sở hành, cũng không có sở tác. Vô bổn cũng lại như thế, cũng không có pháp khác. Các loại pháp ấy trụ ở pháp giới, các pháp tịch nhiên. Cái bản tế ấy cũng không có sự tạo tác, cũng chẳng phải không tạo tác, cũng không có sở hành, cũng không có sở tác. Vì sao? Vì rốt ráo gốc ngọn không có căn nguyên, cũng chẳng thể nắm bắt được. Bồ-tát ấy cũng không có tạo tác, cũng chẳng phải không tạo tác, cũng không có sở hành, cũng không có sở tác. Trí Nhất thiết tuệ, nhất thiết ai tuệ cũng không có sự tạo tác, cũng chẳng phải không tạo tác, cũng không có sở hành, cũng không có sở tác. Vì sao? Vì rốt ráo gốc ngọn không có căn nguyên, cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy cho nên, này Tu-bồ-đề, trí Nhất thiết không có sở tác, cũng chẳng phải không tác. Chúng sinh cũng vậy, không có sở hành, cũng không có sở tác, cũng chẳng phải chẳng tác. Pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát nương vào sự trang nghiêm bằng thệ nguyện rộng lớn. Này Tu-bồ-đề! Vì vậy cho nên, nên quán sát pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát cũng không có trang nghiêm bằng thệ nguyện rộng lớn. Hiền giả Tu-bồ-đề bạch Phật: –Như vậy, Thế Tôn dạy phân biệt ý nghóa con xin phân biệt ý nghóa: sắc không trước, không buộc, không thoát. Thọ, tưởng, hành, thức không trước, không buộc, không thoát. Phân-nậu-văn-đà-ni-phất hỏi Tu-bồ-đề: –Thưa Hiền giả! Có phải sắc không trước, không buộc, không thoát? Có phải thọ, tưởng, hành, thức không trước, không buộc, không thoát? Ngài Tu-bồ-đề trả lời ngài Phân-nậu-văn-đà-ni-phất: –Thưa Hiền giả, đúng vậy! Sắc không trước, không buộc, không thoát. Thọ, tưởng, hành, thức không trước, không buộc, không thoát. Ngài Phân-nậu-văn-đà-ni-phất lại hỏi: –Thưa Hiền giả Tu-bồ-đề! Vì sao sắc không trước, không buộc, không thoát? Vì sao thọ, tưởng, hành, thức không trước, không buộc, không thoát? Hiền giả Tu-bồ-đề trả lời: –Sắc tự nhiên, không trước, không buộc, không thoát. Thọ, tưởng, hành, thức tự nhiên, không trước, không buộc, không thoát. Sắc như tiếng vang, không trước, không buộc, không thoát. Thọ, tưởng, hành, thức như tiếng vang, không trước, không buộc, không thoát. Sắc như ảnh ảo, không trước, không buộc, không thoát. Thọ, tưởng, hành, thức như cảnh ảo, không trước, không buộc, không thoát. Sắc như huyễn, không trước, không buộc, không thoát. Thọ, tưởng, hành, thức như huyễn, không trước, không buộc, không thoát. Sắc như hóa, không trước, không buộc, không thoát. Thọ, tưởng, hành, thức như hóa, không trước, không buộc, không thoát. Sắc quá khứ, không trước, không buộc, không thoát. Thọ, tưởng, hành, thức quá khứ, không trước, không buộc, không thoát. Sắc vị lai không trước, không buộc, không thoát. Thọ, tưởng, hành, thức vị lai không trước, không buộc, không thoát. Sắc hiện tại không trước, không buộc, không thoát. Thọ, tưởng, hành, thức hiện tại không trước, không buộc, không thoát. Sắc không thật, không trước, không buộc, không thoát. Thọ, tưởng, hành, thức không thật, không trước, không buộc, không thoát. Sắc tịch mịch, không trước, không buộc, không thoát. Thọ, tưởng, hành, thức tịch mịch, không trước, không buộc, không thoát. Sắc không chỗ sinh, không trước, không buộc, không thoát. Thọ, tưởng, hành, thức không chỗ sinh, không trước, không buộc, không thoát. Thưa Hiền giả Phân-nậu, sắc thiện không trước, không buộc, không thoát. Thọ, tưởng, hành, thức thiện không trước, không buộc, không thoát. Sắc bất thiện không trước, không buộc, không thoát. Thọ, tưởng, hành, thức bất thiện không trước, không buộc, không thoát. Sắc vô ký, không trước, không buộc, không thoát. Thọ, tưởng, hành, thức vô ký, không trước, không buộc, không thoát. Sắc không phân biệt, không trước, không buộc, không thoát. Thọ, tưởng, hành, thức không phân biệt, không trước, không buộc, không thoát. Thưa Hiền giả Phân-nậu, sắc thế tục, không trước, không buộc, không thoát. Thọ, tưởng, hành, thức thế tục, không trước, không buộc, không thoát. Sắc siêu thế, không trước, không buộc, không thoát. Thọ, tưởng, hành, thức siêu thế, không trước, không buộc, không thoát. Sắc hữu lậu vô lậu, không trước, không buộc, không thoát. Thọ, tưởng, hành, thức hữu lậu vô lậu, không trước, không buộc, không thoát. Hư vô không trước, không buộc, không thoát. Hoảng hốt không trước, không buộc, không thoát. Tất cả pháp không trước, không buộc, không thoát. Không sở hữu không trước, không buộc, không thoát. Tịch nhiên không trước, không buộc, không thoát. Thí ba-la-mật không trước, không buộc, không thoát. Giới ba-la-mật không trước, không buộc, không thoát. Nhẫn ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Thiền ba-la-mật, Bát-nhã ba-la-mật không trước, không buộc, không thoát. Phát chí thật không trước, không buộc, không thoát. Phát chí tịch mịch không trước, không buộc, không thoát. Pháp nội không không trước, không buộc, không thoát. Pháp ngoại không không trước, không buộc, không thoát. Pháp sở hữu tự nhiên không không trước, không buộc, không thoát. Bốn Ý chỉ không trước, không buộc, không thoát. Bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo không trước, không buộc, không thoát. Mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật không trước, không buộc, không thoát. Từ hư không khởi không trước, không buộc, không thoát. Phật đạo không trước, không buộc, không thoát. Trí Nhất thiết không trước, không buộc, không thoát. Học đạo Bồ-tát không trước, không buộc, không thoát. Từ hư không sinh không trước, không buộc, không thoát. Tịch nhiên không sinh khởi không trước, không buộc, không thoát. Vô bổn không trước, không buộc, không thoát. Lại cái không khác vô bổn, thuận theo pháp trụ, không trước, không buộc, không thoát. Pháp tịch định không trước, không buộc, không thoát. Bản tế và vô vi không trước, không buộc, không thoát. Sự hưng khởi không thật không trước, không buộc, không thoát. Không tịch không có sự hưng khởi không trước, không buộc, không thoát. Thưa Hiền giả Phân-nậu, đó là Đại Bồ-tát không trước, không buộc, không thoát Ba-la-mật. Thí ba-la-mật, Giới ba-la-mật, Nhẫn ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Thiền ba-la-mật, Bát-nhã ba-la-mật không trước, không buộc, không thoát. Trí Nhất thiết, vô bổn tuệ, nhất thiết ai tuệ thúc đẩy thăng tiến cũng đều không trước, không buộc, không thoát. Thúc đẩy sự thăng tiến Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Nhất tâm, Trí tuệ không trước, không buộc, không thoát. Thúc đẩy sự thăng tiến trụ trí Nhất thiết tuệ, Nhất thiết ai tuệ không trước, không buộc, không thoát. Giáo hóa chúng sinh không trước, không buộc, không thoát. Nghiêm tịnh cõi Phật không trước, không buộc, không thoát. Phụng sự chư Phật Thế Tôn không trước, không buộc, không thoát. Lắng nghe kinh điển không trước, không buộc, không thoát. Chưa từng rời chư Phật không trước, không buộc, không thoát. Chưa từng quên mất thần thông không trước, không buộc, không thoát. Chẳng lìa năm Căn không trước, không buộc, không thoát. Chẳng bỏ tổng trì không trước, không buộc, không thoát. Chẳng bỏ Tam-muội không trước, không buộc, không thoát. Phát lòng thương đạo không trước, không buộc, không thoát. Trí nhất thiết tuệ không trước, không buộc, không thoát. Chuyển pháp luân không trước, không buộc, không thoát. Khai hóa chúng sinh trụ ở ba thừa không trước, không buộc, không thoát. Thưa Hiền giả Phân-nậu-văn-đa-ni-phất, đó là sáu pháp Ba-la-mật của Đại Bồ-tát không trước, không buộc, không thoát. Hiểu rõ tất cả các pháp Chánh giác từ hư không sinh khởi, tịch mịch đạm bạc cùng với không từ đâu sinh. –Thưa Hiền giả Phân-nậu! Đó là pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát trang nghiêm bằng thệ nguyện rộng lớn không trước, không buộc, không thoát.  <詞 id="81581566">Phẩm 16: Tam-muội Hiền giả Tu-bồ-đề bạch Phật: –Bạch Đức Thiên Trung Thiên, sao gọi là thệ nguyện rộng lớn của pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát ? Sao gọi là pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát? Người học Đại thừa thệ nguyện gì đối với thừa? Thừa trụ chỗ nào? Từ đâu sinh? Trong thừa, ai là người thành tựu thừa? Phật bảo Hiền giả Tu-bồ-đề: –Như lời Tu-bồ-đề hỏi, sao gọi là pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát? Sáu pháp Ba-la-mật tức là pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát. Những gì là sáu? Thí ba-la-mật, Giới ba-la-mật, Nhẫn ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Thiền ba-la-mật, Bát-nhã ba-la-mật. Sao gọi là Thí ba-la-mật? Này Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát phát tâm tôn sùng trí Nhất thiết mà hành Bố thí. Tất cả sở hữu trong ngoài đều không tiếc, dùng chúng cấp pháp cho chúng sinh để cho họ được vững vàng an ổn, chẳng đề phòng oán địch, tức là dùng để khuyến khích hỗ trợ Vô thượng Chánh đẳng giác. Đó là Thí ba-la-mật của Đại Bồ-tát. Sao gọi là Giới ba-la-mật của Đại Bồ-tát? Đại Bồ-tát phát tâm tôn sùng trí Nhất thiết, thân tự phụng hành mười điều thiện. Lại dùng mười điều thiện đó khuyến khích trợ giúp người chẳng theo điên đảo, cũng không sở đắc. Đó là Giới ba-la-mật của Đại Bồ-tát, không quên mất, chẳng rơi vào điên đảo, cũng không sở đắc. Hiền giả Tu-bồ-đề bạch Phật: –Bạch Đức Thiên Trung Thiên! Sao gọi là Nhẫn ba-la-mật của Đại Bồ-tát? Đức Phật bảo Hiền giả Tu-bồ-đề: –Đại Bồ-tát tự thân đã viên mãn Nhẫn nhục, giáo hóa cho người đối với Nhẫn nhục không rơi vào điên đảo, cũng không sở đắc. Đó là Nhẫn ba-la-mật của Đại Bồ-tát. Hiền giả Tu-bồ-đề bạch Phật: –Bạch Đức Thiên Trung Thiên! Sao gọi là Tinh tấn ba-la-mật của Đại Bồ-tát? Đức Phật bảo Hiền giả Tu-bồ-đề: –Đại Bồ-tát phát tâm tôn sùng trí Nhất thiết, đối với năm pháp Ba-la-mật chẳng lơ là xa cách, dùng năm pháp Ba-la-mật giáo hóa chúng sinh, chẳng rơi vào điên đảo, cũng không sở đắc. Đó là Tinh tấn ba-la-mật của Đại Bồ-tát. Ngài Tu-bồ-đề lại hỏi Thế Tôn: –Bạch Đức Thiên Trung Thiên! Sao gọi là Thiền ba-la-mật của Đại Bồ-tát? Đức Phật bảo Tu-bồ-đề: –Đại Bồ-tát phát tâm tôn sùng trí Nhất thiết, tự thân thường dùng phương tiện thiện xảo hành Thiền Tam-muội, chẳng tùy thuận theo Tam-muội mà sinh, cũng dạy người khiến học thiền định, chẳng rơi vào điên đảo, cũng không sở đắc. Đó là Thiền ba-la-mật của Đại Bồ-tát. Hiền giả Tu-bồ-đề bạch Phật: –Bạch Đức Thiên Trung Thiên! Sao gọi là Bát-nhã ba-la-mật của Đại Bồ-tát? Đức Phật bảo Tu-bồ-đề: –Đại Bồ-tát phát tâm tôn sùng trí Nhất thiết, đối với tất cả pháp, không nương tựa, quán các pháp, tất cả vốn là thanh tịnh, chẳng rơi vào điên đảo, cũng không sở đắc. Đối với tất cả pháp, không chấp trước. Vì quán các pháp, tất cả vốn là thanh tịnh nên dùng pháp này để giáo hóa chúng sinh, chẳng rơi vào điên đảo, cũng không sở đắc. Đó là Bát-nhã ba-la-mật của Đại Bồ-tát. Đó là pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát. Lại nữa, Tu-bồ-đề! Pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát là trong không, ngoài cũng không, trong ngoài đều không, không cũng không, cho đến hoàn toàn không, chân diệu không, thanh tịnh không, hữu vi không, vô vi không, tướng tự nhiên không, tất cả pháp không, không sở đắc không, không có không, tự nhiên không, hữu sở kiến không, vô sở kiến không. Sao gọi là trong không? Đó là pháp bên trong: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Cái gọi là mắt và những gì mà mắt thấy cũng đều là không, chẳng thể làm thương tổn, chẳng thể hoại, khởi. Vì sao? Vì vốn thanh tịnh. Tai và những điều tai nghe cũng là không, chẳng thể làm thương tổn, chẳng thể hoại, khởi. Vì sao? Vì vốn thanh tịnh. Mũi và những mùi mũi ngửi cũng là không, chẳng thể làm thương tổn, chẳng thể hoại, khởi. Vì sao? Vì vốn thanh tịnh. Lưỡi và những vị mà lưỡi nếm cũng là không, chẳng thể làm thương tổn, chẳng thể hoại, khởi. Vì sao? Vì vốn thanh tịnh. Thân và những xúc chạm của thân cũng là không, chẳng thể làm thương tổn, chẳng thể hoại, khởi. Vì sao? Vì vốn thanh tịnh. Tâm và những ý nghó của tâm cũng là không, chẳng thể làm thương tổn, chẳng thể hoại, khởi. Vì sao? Vì vốn thanh tịnh. Đó là trong không. Sao gọi là ngoài không? Pháp ngoài là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Đã là sắc thì sắc cũng là không, chẳng thể làm tổn thương, chẳng thể hoại, khởi. Vì sao? Vì vốn thanh tịnh. Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp ấy là không, chẳng thể làm tổn thương, chẳng thể hoại, khởi. Vì sao? Vì vốn thanh tịnh. Sao gọi là pháp trong ngoài không? sáu nhập bên trong, sáu nhập bên ngoài là pháp trong ngoài không, chẳng thể làm thương tổn, chẳng thể hoại, khởi. Vì sao? Vì vốn thanh tịnh. Đó là pháp trong, pháp ngoài đều không. Sao gọi là không cũng không? Nghóa là tất cả pháp là không, các pháp là không, không này cũng không. Đó là không không. Sao gọi là hoàn toàn không? Nghóa là phương Đông cũng không, phương Nam, phương Tây, phương Bắc, phương Đông nam, phương Tây nam, phương Tây bắc, phương Đông bắc, phương Trên, phương Dưới cũng đều không, chẳng thể làm tổn thương, chẳng thể hoại, khởi. Vì sao? Vì vốn thanh tịnh. Đó là hoàn toàn không. Sao gọi là chân diệu không? Nghóa là vô vi, cái vô vi ấy cũng không, chẳng thể làm tổn thương, chẳng thể hoại, khởi. Vì sao? Vì vốn thanh tịnh. Đó là chân diệu không. Sao gọi là sở hữu không? Sở hữu không là cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc cũng đều không, chẳng thể làm tổn thương, chẳng thể hoại, khởi. Vì sao? Vì vốn thanh tịnh. Đó là sở hữu không. Sao gọi là vô vi không? Gọi là vô vi không là chẳng khởi, chẳng diệt, cũng chẳng tự tại, cũng không chỗ trụ, chân đế thường tại. Đó là vô vi không. Đã gọi là vô vi không thì cái vô vi đó chẳng thể làm thương tổn, chẳng thể hoại, khởi. Vì sao? Vì vốn thanh tịnh. Sao gọi là rốt ráo không? Rốt ráo không là chẳng thể đạt tới bến bờ. Vì sao? Vì vốn thanh tịnh. Đó là rốt ráo không. Sao gọi là quảng viễn không? Nghóa là chẳng thấy đến, cũng không sở đắc. Vì sao? Vì vốn thanh tịnh. Đó là quảng viễn không. Sao gọi là không phân biệt không? Đó là pháp không thể bỏ, cũng không chỗ trụ. Vì sao? Vì vốn thanh tịnh. Đó là không phân biệt không. Sao gọi là bản tịnh không? Có khả năng hiểu rõ tất cả các pháp vốn là thanh tịnh, hữu vi, vô vi chẳng phải là pháp Thanh văn tạo ra, chẳng phải là pháp Bích-chi-phật tạo ra. Đó là bản tịnh không. Sao gọi là tất cả pháp không? Tất cả pháp, nghóa là sắc thọ, tưởng, hành, thức, nhãn, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý; sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, nhãn sắc thức, nhó thanh thức, tỷ hương thức, thiệt vị thức, thân xúc thức, ý pháp thức, nhãn xúc, nhó tỷ thiệt thân ý xúc, các thọ, pháp hữu vi, vô vi. Đó là tất cả pháp không. Pháp không của các pháp chẳng thể làm thương tổn, chẳng thể hoại, khởi. Vì sao? Vì vốn thanh tịnh. Đó là tất cả pháp không. Sao gọi là tướng tự nhiên không? Gọi là tướng của sắc mà sắc thì không có tướng sở hữu. Tướng thọ tưởng tạo ra tướng hành. Biết tướng hành, thức thì thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy. Nhãn, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý; sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, mười tám chủng, tất cả xúc, tướng của pháp hữu vi, tướng của pháp vô vi, tất cả pháp là tướng tự nhiên không. Sao gọi là chẳng thể nắm bắt được không có sở hữu không? Tất cả các pháp cũng chẳng thể nắm bắt được, không thể hủy hại, chẳng thể hoại, khởi. Vì sao? Vì vốn thanh tịnh. Đó là chẳng thể nắm bắt được không có sở hữu không. Sao gọi là không sở hữu không? Tìm cầu hình dáng sở hữu nhưng chẳng thể nắm bắt được. Đó là không sở hữu không. Sao gọi là tự nhiên không? Không hợp hội là tự nhiên. Đó là tự nhiên không. Sao gọi là không sở hữu tự nhiên không? Cái tự nhiên ấy không có hợp hội. Đó là không sở hữu tự nhiên không. Lại nữa, Tu-bồ-đề! Cái sở hữu ấy là sở hữu không, cái vô sở hữu ấy là vô sở hữu không. Tự nhiên là tự nhiên không. Vì người khác nên người khác cũng không. Sao gọi là sở hữu của sở hữu là không? Đó là năm ấm. Sở hữu của năm ấm ấy là sở hữu không. Đó là sở hữu của sở hữu là không. Sao gọi là vô sở hữu của vô sở hữu là không? Đó là vô vi. Cái vô vi ấy là vô vi cho nên không. Đó là vô sở hữu của vô sở hữu là không. Sao gọi là tự nhiên của tự nhiên là không? Cái không ấy tức là không có tướng, cũng không có tạo tác, cũng không có cái thấy. Đó là tự nhiên không. Sao gọi là vị tha cho nên không? Giả sử Đức Như Lai xuất hiện, hoặc Như Lai không xuất hiện thì pháp ấy vẫn thường trụ. Pháp giới ấy cũng tịch diệt cho nên vốn không, mà cái vốn không ở đây tức là bản tế. Cái ấy đối với cái này là vị tha không. Đó là vị tha cho nên không. Này Tu-bồ-đề! Đó gọi là pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát. Lại nữa, Tu-bồ-đề! Pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát là Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm, lại có Tam-muội tên là Thật ấn, có Tam-muội tên là Sư tử ngu lạc, có Tam-muội tên là Thiện nguyệt, có Tam-muội tên là Nguyệt tràng anh, có Tam-muội tên là Nhất thiết pháp siêu thượng, có Tam-muội tên là Quán đảnh, có Tam-muội tên là Phân biệt nhất thiết pháp, có Tam-muội tên là Liễu tràng anh, có Tam-muội tên là Kim cang dụ, có Tam-muội tên là Nhập pháp ấn, có Tam-muội tên là Phóng quang vô sở đoạt, có Tam-muội tên là Định ý vương, có Tam-muội tên là Thiện trụ, có Tam-muội tên là Phóng quang, có Tam-muội tên là Lực tinh tấn, có Tam-muội tên là Đẳng siêu, có Tam-muội tên là Phân biệt tùy thuận, có Tam-muội tên là Nhập chư ngữ, có Tam-muội tên là Chiếu chư phương diện, có Tam-muội tên là Tổng trì ấn, có Tam-muội tên là Vô sở đoạt, có Tam-muội tên là Đẳng ngự chư pháp hải ấn, có Tam-muội tên là Phổ biến hư không, có Tam-muội tên là Kim cang đạo tràng, có Tam-muội tên là Thắng chư bảo, có Tam-muội tên là Chiếu minh, có Tam-muội tên là Bất huyến, có Tam-muội tên là Trụ bất cứu cánh, có Tam-muội tên là Quyết liễu, có Tam-muội tên là Ly cấu đăng minh, có Tam-muội tên là Vô lượng quang, có Tam-muội tên là Quang tạo, có Tam-muội tên là Phổ chiếu, có Tam-muội tên là Tịnh ngự định, có Tam-muội tên là Ly cấu minh, có Tam-muội tên là Vi ngu lạc cố, có Tam-muội tên là Tuệ đăng, có Tam-muội tên là Vô tận, có Tam-muội tên là Oai thần cụ, có Tam-muội tên là Trừ tận, có Tam-muội tên là Vô đặc, có Tam-muội tên là Khai thông, có Tam-muội tên là Nhựt đăng minh, có Tam-muội tên là Nguyệt ly cấu, có Tam-muội tên là Tịnh chiếu minh, có Tam-muội tên là Hữu sở chiếu diệu, có Tam-muội tên là Tác đương sở tác, có Tam-muội tên là Tuệ anh, có Tam-muội tên là Thí kim cang, có Tam-muội tên là Thiện kiến chí, có Tam-muội tên là Bảo tích, có Tam-muội tên là Siêu pháp ấn, có Tam-muội tên là pháp phổ, có Tam-muội tên là Thắng ngu lạc, có Tam-muội tên là Độ pháp đảnh, có Tam-muội tên là Hữu sở phá hoại, có Tam-muội tên là Phân biệt chư cú, có Tam-muội tên là Đẳng tạo tự, có Tam-muội tên là Ly văn tự, có Tam-muội tên là Trừ đoạn duyên, có Tam-muội tên là Ly sở tác, có Tam-muội tên là Vô sở tác, có Tam-muội tên là Hành bất sử liễu, có Tam-muội tên là Trừ minh, có Tam-muội tên là Hành tích, có Tam-muội tên là Vô động, có Tam-muội tên là Độ cảnh giới, có Tam-muội tên là Quyết nhất thiết đức, có Tam-muội tên là Quyết sở trú, có Tam-muội tên là Thanh tịnh nghiêm hoa, có Tam-muội tên là Giác ý cú, có Tam-muội tên là Vô lượng đăng minh, có Tam-muội tên là Đẳng vô đẳng, có Tam-muội tên là Độ nhất thiết pháp, có Tam-muội tên là Đoạn tuyệt cố, có Tam-muội tên là Ly sở tác, có Tam-muội tên là Ly sở trụ, có Tam-muội tên là Nhất nghiêm tịnh, có Tam-muội tên là Ngự hành sự, có Tam-muội tên là Nhất sự cố, có Tam-muội tên là Chế chư sự, có Tam-muội tên là Trừ yểm nhất thiết sở tác, có Tam-muội tên là Nhập duyên hợp tượng âm, có Tam-muội tên là Thoát âm giáo văn tự ngôn, có Tam-muội tên là Quang hiểm xí thạnh, có Tam-muội tên là Tướng nghiêm tịnh, có Tam-muội tên là Vô tướng, có Tam-muội tên là Tạo nhất thiết chư cụ, có Tam-muội tên là Bất duyệt nhất thiết khổ lạc, có Tam-muội tên là Vô tận cố, có Tam-muội tên là Tổng trì cú, có Tam-muội tên là Ái hộ nhất thiết chánh tà, có Tam-muội tên là Nhập nhất thiết chư sắc vô sắc, có Tam-muội tên là Vô âm đoạn âm, có Tam-muội tên là Ly cấu diệu, có Tam-muội tên là Ngự cố yếu, có Tam-muội tên là Ly cấu mãn nguyệt, có Tam-muội tên là Đại nghiêm tịnh, có Tam-muội tên là Nhất thiết quang thế minh cố, có Tam-muội tên là Phổ minh, có Tam-muội tên là Ngự không, có Tam-muội tên là Đẳng ngự, có Tam-muội tên là Vô thanh cứu cánh vô sở ngu lạc, có Tam-muội tên là Cứu cánh vô bổn trụ, có Tam-muội tên là Thân thời an tường, có Tam-muội tên là Khẩu ngôn thời quyên trừ hư không niệm, có Tam-muội tên là Thoát hư vô sắc vô sở trước. Tất cả là một trăm mười định. Sao gọi là Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm? Định ý ấy đều nhập vào hạnh của tất cả các Tam-muội. Đó gọi là Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm. Sao gọi là Tam-muội Thật ấn? Dùng định ý này ấn tất cả Tam-muội. Đó gọi là Tam-muội Thật ấn. Sao gọi là Tam-muội Sư tử ngu lạc? Khi trụ định ý này đều làm vui vẻ tất cả định ý. Đó gọi là Tam-muội Sư tử ngu lạc. Sao gọi là Tam-muội Thiện nguyệt? Khi trụ định ý này, tất cả đều bình đẳng, không có sở hữu. Đó gọi là Tam-muội Thiện nguyệt. Sao gọi là Tam-muội Nguyệt tràng anh? Khi trụ Tam-muội định ý ấy, thì dùng định ý nắm hết tất cả các Tam-muội tràng. Đó gọi là Tam-muội Nguyệt tràng anh. Sao gọi là Tam-muội Siêu nhất thiết pháp thượng? Khi trụ định ý ấy, tất cả đều đạt đến sự bình đẳng. Đó gọi là Tam-muội Siêu nhất thiết pháp thượng. Sao gọi là Tam-muội Quán đảnh? Khi trụ định ý ấy, thì liền quán thấy các đảnh định ý của tất cả Tam-muội. Đó gọi là Tam-muội Quán đảnh. Sao gọi là Tam-muội Phân biệt pháp giới? Khi trụ định ý ấy, thì có thể phân biệt các pháp giới. Đó gọi là Tam-muội Phân biệt pháp giới. Sao gọi là Tam-muội Quyết liễu tràng anh? Khi trụ định ý ấy, thì tất cả định ý rốt ráo chấp tràng. Đó gọi là Tam-muội Quyết liễu tràng anh. Sao gọi là Tam-muội Kim cang? Khi trụ định ý ấy, thì tất cả đều bình đẳng, không thể phá hoại. Đó gọi là Tam-muội Kim cang. Sao gọi là Tam-muội Nhập pháp ấn? Khi trụ định ý ấy, thì liền được nhập tất cả pháp ấn. Đó gọi là Tam-muội Nhập pháp ấn. Sao gọi là Tam-muội Thiện trụ vương? Khi trụ định ý ấy, thì tất cả các Tam-muội pháp vương đều được tạo lập. Đó gọi là Tam-muội Thiện trụ vương. Sao gọi là Tam-muội Phóng quang minh? Khi trụ định ý ấy, thì tất cả các Tam-muội đều phát ra ánh sáng. Đó gọi là Tam-muội Phóng quang minh. Sao gọi là Tam-muội Tinh tấn lực? Khi trụ định ý ấy, thì sức tinh tấn của tất cả các Tam-muội đều phát khởi. Đó gọi là Tam-muội Tinh tấn lực. Sao gọi là Tam-muội Đẳng hộ? Khi trụ định ý ấy, thì tất cả các Tam-muội đều đạt đến sự bình đẳng. Đó gọi là Tam-muội Đẳng hộ. Sao gọi là Tam-muội Thuận nhập ngôn giáo? Khi trụ định ý ấy, thì đều được nhập khắp âm thanh thuận ý. Đó gọi là Tam-muội Thuận ngôn giáo. Sao gọi là Tam-muội Nhập chư ngôn giáo? Khi trụ định ý ấy, thì tất cả đều theo ngôn giáo của Tam-muội. Đó gọi là Tam-muội Nhập ngôn giáo. Sao gọi là Tam-muội Chiếu chư phương diện? Khi trụ định ý ấy, thì đều chiếu tất cả các phương diện định ý. Đó gọi là Tam-muội Chiếu chư phương diện. Sao gọi là Tam-muội Tổng trì ấn? Khi trụ định ý ấy, thì bao gồm tất cả ấn Tam-muội tổng trì. Đó gọi là Tam-muội Tổng trì ấn. Sao gọi là Tam-muội Vô sở đoạt? Khi trụ định ý ấy, thì tức khắc chẳng quên tất cả định ý. Đó gọi là Tam-muội Vô sở đoạt. Sao gọi là Tam-muội Đẳng ngự chư pháp hải ấn? Khi trụ định ý ấy, thì hành việc bình đẳng, thâu nhiếp tất cả. Đó gọi là Tam-muội Đẳng ngự chư pháp hải ấn. Sao gọi là Tam-muội Phổ biến hư không? Khi trụ định ý ấy, thì tất cả các Tam-muội đều biến khắp hư không, không chỗ nào là chẳng khắp. Đó gọi là Tam-muội Phổ biến hư không. Sao gọi là Tam-muội Kim cang đạo tràng? Khi trụ định ý ấy, thì gồm thâu hết tất cả định ý đạo tràng. Đó gọi là Tam-muội Kim cang đạo tràng. Sao gọi là Tam-muội Thắng chư bảo? Khi trụ định ý ấy, thì dứt hết tất cả các dục trần cấu, chẳng còn dấu vết. Đó gọi là Tam-muội Thắng chư bảo. Sao gọi là Tam-muội Chiếu minh? Khi trụ định ý Tam-muội ấy, thì đạt được tất cả sự bình đẳng với các đường, không đâu là không chiếu sáng. Đó gọi là Tam-muội Chiếu minh. Sao gọi là Tam-muội Bất huyến? Khi trụ định ý ấy, thì đối với các Tam-muội chẳng cầu các pháp. Đó gọi là Tam-muội Bất huyến. Sao gọi là Tam-muội Bất cứu cánh trụ? Khi trụ định ý ấy, thì chẳng thấy sở trụ của các pháp ba cõi. Đó gọi là Tam-muội Bất cứu cánh trụ. Sao gọi là Tam-muội Quyết liễu? Khi trụ định ý ấy, thì không tâm không niệm pháp hướng đến. Đó gọi là Tam-muội Quyết liễu. Sao gọi là Tam-muội Ly cấu minh? Khi trụ định ý ấy, thì tất cả các Tam-muội chuyển tướng chiếu sáng. Đó gọi là Tam-muội Ly cấu minh. Sao gọi là Tam-muội Vô lượng quang? Khi trụ định ý ấy, thì ánh sáng đó không chỗ nào là không chiếu. Đó gọi là Tam-muội Vô lượng quang. Sao gọi là Tam-muội Tạo sở vi quang? Khi trụ định ý ấy, thì tất cả định ý Tam-muội đã đắc, đều phóng ánh sáng. Đó gọi là Tam-muội Tạo sở vi quang. Sao gọi là Tam-muội Phổ chiếu? Đạt được Tam-muội này, thì tất cả các môn Tam-muội tự nhiên chiếu sáng. Đó gọi là Tam-muội Phổ chiếu. Sao gọi là Tam-muội Ngộ chư tịnh? Khi trụ định ý ấy, liền đạt được tất cả các Tam-muội đều thanh tịnh. Đó gọi là Tam-muội Ngộ chư tịnh. Sao gọi là Tam-muội Ly cấu quang? Khi trụ định ý Tam-muội ấy, thì đối với các Tam-muội trừ hết tất cả cấu, khiến tiêu tan hết. Đó gọi là Tam-muội Ly cấu quang. Sao gọi là Tam-muội Sở ngu lạc? Khi trụ định ý ấy, thì ưa thích tất cả Tam-muội. Đó gọi là Tam-muội Sở ngu lạc. Sao gọi là Tam-muội Tuệ đăng minh? Khi trụ định ý ấy, thì chiếu sáng tất cả Tam-muội. Đó gọi là Tam-muội Tuệ đăng minh. Sao gọi là Tam-muội Vô tận? Khi trụ định ý ấy, thì đối với tất cả Tam-muội cũng không tận, cũng không không tận, lại cũng không thấy tận và chẳng tận. Đó gọi là Tam-muội Vô tận. Sao gọi là Tam-muội Oai thần cú? Khi trụ định ý ấy, thì tất cả ánh sáng oai thần lồng lộng bình đẳng chiếu xa. Đó gọi là Tam-muội Oai thần cú. Sao gọi là Tam-muội Trừ chư tận? Khi trụ định ý ấy thì thấy các Tam-muội tất cả đều vô tận, thấy mà không cội gốc, mà không chỗ thấy. Đó gọi là Tam-muội Trừ chư tận. Sao gọi là Tam-muội Vô đặc dị? Khi trụ định ý ấy thì tất cả bình đẳng không trước không niệm, không có, không có hoạ khổ, cũng không nhân duyên. Đó gọi là Tam-muội Vô đặc dị. Sao gọi là Tam-muội Khai thông? Khi trụ định ý ấy thì chẳng thấy các pháp có chỗ thông đạt, cũng không điên đảo. Đó gọi là Tam-muội Khai thông. Sao gọi là Tam-muội Nhật đăng minh? Khi trụ định ý ấy thì khai phát tất cả các môn Tam-muội, làm phát ánh sáng. Đó gọi là Tam-muội Nhật đăng minh. Sao gọi là Tam-muội Ly nguyệt cấu? Khi trụ định ý ấy đối với các Tam-muội dùng sáng trừ tối. Đó gọi là Tam-muội Ly nguyệt cấu. Sao gọi là Tam-muội Thanh tịnh đăng minh? Khi trụ định ý ấy thì đối với các Tam-muội đạt được tất cả bốn phân biệt biện. Đó gọi là Tam-muội Thanh tịnh đăng minh. Sao gọi là Tam-muội Hữu sở chiếu diệu? Khi trụ định ý ấy thì đều chiếu sáng các môn Tam-muội. Đó gọi là Tam-muội Hữu sở chiếu diệu. Sao gọi là Tam-muội Sở tạo tác? Khi trụ định ý ấy thì đi đến sự thành tựu tất cả các Tam-muội hiện có. Lại khi lập định ý của các Tam-muội Sở tạo tác, thì thấy hết tinh anh trí tuệ của tất cả các Tam-muội. Đó gọi là Tam-muội Sở tạo tác. Sao gọi là Tam-muội Kim cang dụ? Khi trụ định ý ấy thì diệt trừ tất cả các pháp tạo ra, lại chẳng thấy các hoạn khổ não. Đó gọi là Tam-muội Kim cang dụ. Sao gọi là Tam-muội Tâm trụ? Khi trụ định ý ấy thì tâm không dao động, cũng chẳng mở, đóng, cũng chẳng chiếu sáng, cũng chẳng thấy chỗ khởi, cũng chẳng nghó là có tâm này. Đó gọi là Tam-muội Tâm trụ. Sao gọi là Tam-muội Phổ thế? Khi trụ định ý ấy thì thấy khắp tất cả các định Tam-muội, không đâu là không chiếu. Đó gọi là Tam-muội Phổ thế. Sao gọi là Tam-muội Thiện chí trụ? Khi trụ định ý ấy thì tất cả các Tam-muội đều an lập. Đó gọi là Tam-muội Thiện chí trụ. Sao gọi là Tam-muội Bảo tích? Khi trụ định ý ấy thì thấy khắp tất cả các Tam-muội đều chứa báu. Đó gọi là Tam-muội Bảo tích. Sao gọi là Tam-muội Thắng pháp ấn? Khi trụ định ý ấy thì đều ấn chứng các pháp, nếu chưa gặp ấn chứng thì đều được thấy ấn chứng, ấn chứng rồi đều có thể rốt ráo. Đó gọi là Tam-muội Thắng pháp ấn. Sao gọi là Tam-muội pháp bình đẳng? Khi trụ định ý ấy thì chẳng thấy các pháp bình đẳng hoặc hiểm trở. Đó gọi là Tam-muội pháp bình đẳng. Sao gọi là Tam-muội Thắng ngu lạc? Khi trụ định ý ấy thì hàng phục tất cả các pháp lạc. Đó gọi là Tam-muội Thắng ngu lạc. Sao gọi là Tam-muội Độ chư pháp đảnh? Khi trụ định ý ấy thì điều định tất cả các thượng pháp, đều vượt qua các Tam-muội khác. Đó gọi là Tam-muội Độ chư pháp đảnh. Sao gọi là Tam-muội Hoại trừ? Khi trụ định ý ấy thì trừ tất cả pháp hoại các Tam-muội. Đó gọi là Tam-muội Hoại trừ. Sao gọi là Tam-muội Phân biệt các pháp? Khi trụ định ý ấy thì đều có thể phân biệt các Tam-muội, hiểu rõ ý nghóa của tất cả các pháp. Đó gọi là Tam-muội Phân biệt các pháp. Sao gọi là Tam-muội Đẳng tạo văn tự? Khi trụ định ý ấy, thì phân biệt hiểu rõ văn tự, đạt đến Tam-muội. Đó gọi là Tam-muội Đẳng tạo văn tự. Sao gọi là Tam-muội Trừ chư văn tự? Khi trụ định ý ấy thì đối với các Tam-muội không có một văn tự nào, cũng không sở đắc. Đó gọi là Tam-muội Trừ chư văn tự. Sao gọi là Tam-muội Trừ đoạn nhân duyên? Khi trụ định ý ấy thì đoạn các duyên Tam-muội, không có các loạn động. Đó gọi là Tam-muội Trừ đoạn nhân duyên. Sao gọi là Tam-muội Vô sở tác? Khi trụ định ý ấy thì chẳng bị sự tác động của các pháp, cũng không tạo tác. Đó gọi là Tam-muội Vô sở tác. Sao gọi là Tam-muội Ly sở tác? Khi trụ định ý ấy thì chẳng bị sự tạo tác của các pháp nhân duyên. Đó gọi là Tam-muội Ly sở tác. Sao gọi là Tam-muội Bất cứu cánh hành? Khi trụ định ý ấy, thì chẳng phải hành đến rốt ráo biên tế của tất cả các Tam-muội. Đó gọi là Tam-muội Bất cứu cánh hành. Sao gọi là Tam-muội Trừ chư minh? Khi trụ định ý ấy thì tất cả Tam-muội trừ các tăm tối, diệt hết các loạn động, khiến đạt đến thanh tịnh. Đó gọi là Tam-muội Trừ chư minh. Sao gọi là Tam-muội Hành chư cú? Khi trụ định ý ấy thì thấy hết tất cả hạnh của Tam-muội. Đó gọi là Tam-muội Hành chư cú. Sao gọi là Tam-muội Vô động? Khi trụ định ý ấy thì thấy tất cả các Tam-muội có sự chấn động. Đó gọi là Tam-muội Bất động. Sao gọi là Tam-muội Độ chư giới? Khi trụ định ý ấy thì tất cả Tam-muội vượt qua các tà vạy, cũng không sai lầm, thuận theo nghóa chân chánh. Đó gọi là Tam-muội Độ chư giới. Sao gọi là Tam-muội Phân biệt chư đức? Khi trụ định ý ấy thì quyết định tất cả các pháp, hiểu rõ Tam-muội chúng sinh. Đó gọi là Tam-muội Phân biệt chư đức. Sao gọi là Tam-muội Sở trụ cứu cánh? Khi trụ định ý ấy, thì đối với tất cả định cầu tìm cội gốc của tâm, chẳng thể nắm băt được. Đó gọi là Tam-muội Sở trụ cứu cánh. Sao gọi là Tam-muội Tịnh hoa nghiêm sức? Khi trụ định ý ấy, thì được trang nghiêm bằng tất cả hoa thanh tịnh của các Tam-muội. Đó gọi là Tam-muội Tịnh hoa nghiêm sức. Sao gọi là Tam-muội Giác ý cú? Khi trụ định ý ấy, thì tất cả Tam-muội nhanh chóng đạt giác ý. Đó gọi là Tam-muội Giác ý cú. Sao gọi là Tam-muội Vô lượng biện? Khi trụ định ý ấy, thì lập tức đạt được vô lượng biện tài, tùy hạnh phân biệt. Đó gọi là Tam-muội Vô lượng biện. Sao gọi là Tam-muội Đẳng vô đẳng? Khi trụ định ý ấy, thì tất cả định đạt được Tam-muội Đẳng vô đẳng, có khả năng làm cho các tà đều đạt bình đẳng. Đó gọi là Tam-muội Đẳng vô đẳng. Sao gọi là Tam-muội Độ nhất thiết chư pháp? Khi trụ định ý ấy thì đều có thể vượt qua ba cõi. Đó gọi là Tam-muội Độ nhất thiết chư pháp. Sao gọi là Tam-muội Đoạn chư sở tác? Khi trụ định ý ấy, thì thấy định Tam-muội của tát cả pháp đều dứt hết. Đó gọi là Tam-muội Đoạn chư sở tác. Sao gọi là Tam-muội Vô ý vô hủy? Khi trụ định ý ấy, thì đạt được các định, rõ các pháp đều trở về hoại diệt. Đó gọi là Tam-muội Vô ý vô hủy. Sao gọi là Tam-muội Vô sở trụ? Khi trụ định ý ấy, thì chẳng thấy các pháp có chỗ trụ. Đó gọi là Tam-muội Vô sở trụ. Sao gọi là Tam-muội Nhất thanh tịnh? Khi trụ định ý ấy, thì chẳng thấy các pháp có hai việc. Đó gọi là Tam-muội Nhất thanh tịnh. Sao gọi là Tam-muội Ngự chư sự hành? Khi trụ định ý ấy, thì chẳng thấy các pháp có quan hệ nhân duyên. Đó gọi là Tam-muội Ngự chư sự hành. Sao gọi là Tam-muội Thắng chư sự? Khi trụ định ý ấy, thì đối với tất cả Tam-muội chẳng thấy hai việc, cũng không có cái thấy. Đó gọi là Tam-muội Thắng chư sự. Sao gọi là Tam-muội Trừ diệt nhất thiết sở hữu đoạn chư căn? Khi trụ định ý ấy, thì đối với tất cả các Tam-muội diệt trừ các việc, đạt đến tuệ sở, nhập vào chỗ không có sự gặp gỡ. Đó gọi là Tam-muội Trừ diệt nhất thiết sở hữu đoạn chư căn. Sao gọi là Tam-muội Nhập hợp tùy âm? Khi trụ định ý ấy, thì chẳng theo các âm thanh Tam-muội. Đó gọi là Tam-muội Nhập hợp tùy âm. Sao gọi là Tam-muội Độ chư ngôn tự âm thanh? Khi trụ định ý ấy, thì đều độ thoát tất cả việc các hành văn tự, cũng không sở kiến. Đó gọi là Tam-muội Độ chư ngôn tự âm thanh. Sao gọi là Tam-muội Xí thạnh quang diệu? Khi trụ định ý ấy, thì ánh sáng chiếu khắp lấn át ánh sáng mặt trời. Đó gọi là Tam-muội Xí thạnh quang diệu. Sao gọi là Tam-muội Chư tướng nghiêm tịnh? Khi trụ định ý ấy, thì trang nghiêm tất cả các tướng công đức. Đó gọi là Tam-muội Chư tướng nghiêm tịnh. Sao gọi là Tam-muội Vô tướng? Khi trụ định ý ấy, thì đối với tất cả Tam-muội, vónh viễn chẳng thấy tất cả tướng. Đó gọi là Tam-muội Vô tướng. Sao gọi là Tam-muội Nhất thiết cụ túc? Khi trụ định ý ấy, thì tất cả điều mong cầu đều được đầy đủ. Đó gọi là Tam-muội Nhất thiết cụ túc. Sao gọi là Tam-muội Bất duyệt khổ an? Khi trụ định ý ấy, thì chẳng thấy tất cả khổ, an của Tam-muội. Đó gọi là Tam-muội Bất duyệt khổ an. Sao gọi là Tam-muội Vô tận cố? Khi trụ định ý ấy, thì đối với tất cả Tam-muội không có sự cùng tận, cũng không thấy được. Đó gọi là Tam-muội Vô tận. Sao gọi là Tam-muội Tổng trì cú? Khi trụ định ý ấy, thì nắm giữ hết tất cả sự của các Tam-muội. Đó gọi là Tam-muội Tổng trì cú. Sao gọi là Tam-muội Hộ chư chánh tà? Khi trụ định ý ấy, thì đối với các Tam-muội, vónh viễn chẳng thấy chánh ngang bằng tà. Đó gọi là Tam-muội Hộ chư chánh tà. Sao gọi là Tam-muội Diệt trừ chư thanh sắc vô thanh vô sắc? Khi trụ định ý ấy, thì đối với các Tam-muội, tất cả đều chẳng thấy có thanh sắc, vónh viễn không thanh sắc. Đó gọi là Tam-muội Diệt trừ chư thanh sắc vô thanh vô sắc. Sao gọi là Tam-muội Vô âm đoạn âm? Khi trụ định ý ấy, thì thấy tất cả pháp không tiếng, không âm. Đó gọi là Tam-muội Vô âm (Đoạn âm). Sao gọi là Tam-muội Ly cấu minh? Khi trụ định ý ấy, thì chẳng đắc cái quang minh hoặc cấu uế của tất cả Tam-muội. Đó gọi là Tam-muội Ly cấu minh. Sao gọi là Tam-muội Yếu ngự? Khi trụ định ý ấy, thì chẳng thấy các Tam-muội có quan trọng hoặc không quan trọng, có chế ngự hoặc không chế ngự. Đó gọi là Tam-muội Yếu ngự. Sao gọi là Tam-muội Mãn nguyệt ly cấu minh? Khi trụ định ý ấy, thì tất cả bình đẳng, đầy đủ trọn vẹn phước công đức. Thí như mặt trăng tròn đầy vào ngày rằm. Đó gọi là Tam-muội Mãn nguyệt ly cấu minh. Sao gọi là Tam-muội Đại nghiêm tịnh? Khi trụ định ý ấy, thì tất cả bình đẳng, vô cùng thanh tịnh trang nghiêm đầy đủ. Đó gọi là Tam-muội Đại nghiêm tịnh. Sao gọi là Tam-muội Phổ chiếu thế gian? Khi trụ định ý ấy, thì tất cả đều bình đẳng, đều có thể chiếu sáng tất cả các pháp. Đó gọi là Tam-muội Phổ chiếu thế gian. Sao gọi là Tam-muội Phổ định ý? Khi trụ định ý ấy thì tất cả định không loạn động, cũng chẳng đắc nhất tâm. Đó gọi là Tam-muội Phổ định ý. Sao gọi là Tam-muội Ngự không? Khi trụ định ý ấy thì bình đẳng chế ngự tất cả pháp không an lạc làm cho an lạc. Đó gọi là Tam-muội Ngự không. Sao gọi là Tam-muội Ngự trí nhất thiết không đẳng ngự? Khi trụ định ý ấy thì đối với tất cả sự ngự bình đẳng cũng không chỗ ngự. Đó gọi là Tam-muội Ngự trí nhất thiết không đẳng ngự. Sao gọi là Tam-muội Vô thanh cứu cánh vô lạc? Khi trụ định ý ấy thì chẳng đắc danh hiệu, cũng không có cái đạt được. Đó gọi là Tam-muội Vô thanh cứu cánh vô lạc. Sao gọi là Tam-muội Trụ ư vô bổn vô tâm? Khi trụ định ý ấy thì trụ ở các Tam-muội vào khắp vô bổn, không chỗ chuyển cầu. Đó gọi là Tam-muội Trụ ư vô bổn vô tâm. Sao gọi là Tam-muội Thân thời an tường? Khi trụ định ý ấy thì đối với các Tam-muội vónh viễn không sở đắc, cũng không thấy thân. Đó gọi là Tam-muội Thân thời an tường. Sao gọi là Tam-muội Khẩu ngôn thời hoại trừ hư không niệm? Khi trụ định ý ấy thì tất cả Tam-muội chẳng đắc chỗ hướng tới của lời nói. Đó gọi là Tam-muội Khẩu ngôn thời hoại trừ hư không niệm. Sao gọi là Tam-muội Thoát hư vô vô sắc? Khi trụ định ý ấy thì đạt được vô số tất cả pháp tịch hư vô vi không. Đó gọi là Tam-muội Thoát hư vô vô sắc. Này Tu-bồ-đề! Đó là Bát-nhã ba-la-mật của pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát. KINH QUANG TÁN <卷 id="81581567">QUYỂN 7 <詞 id="81581568">Phẩm 17: Quán Đức Phật bảo Tu-bồ-đề: –Pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát là bốn Ý chỉ. Thế nào là bốn Ý chỉ? Tự quán trong thân, chẳng cùng thân tương ưng, cũng chẳng tưởng niệm, cũng chẳng đắc thân. Quán ngoài thân, chẳng cùng thân tương ưng, cũng chẳng tưởng niệm, cũng chẳng đắc thân. Khi ấy an tường điều ngự tâm ý, thấy thế gian là vô minh sầu não. Quán thọ (thống dương) tâm, pháp bên trong, khi ấy an tường điều ngự tâm ý, thấy thế gian là pháp vô minh sầu não. Quán thọ bên ngoài chẳng cùng thọ tương ưng, cũng không tưởng niệm, cũng chẳng đắc thân. Quán tâm (tư tưởng) bên trong chẳng cùng tâm tương ưng, cũng không tưởng niệm, chẳng đắc tâm (tư tưởng). Quán tâm bên ngoài, chẳng cùng tâm tương ưng, cũng không tưởng niệm, cũng chẳng đắc tâm. Quán pháp bên trong, chẳng cùng pháp tương ưng, cũng không tưởng pháp, cũng chẳng đắc pháp. Quán pháp bên ngoài, chẳng cùng pháp tương ưng, cũng không nghó pháp, cũng chẳng đắc pháp. Khi ấy tịch nhiên điều ngự tâm ý, thấy thế gian là pháp vô minh sầu não. Này Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát quán trong thân như thế nào? Khi ấy Đại Bồ-tát biết sở hành của tâm; hoặc đứng, hoặc đã đứng, cũng biết; đã ngồi, sẽ ngồi, cũng biết; đi, nằm, đã sẽ đi, nằm cũng như thân đang ở đâu, đến đâu đều biết hết. Đó là Đại Bồ-tát quán nội thân. Khi đó an tường điều ngự tâm ý thấy thế gian là pháp vô minh sầu não. Lại nữa, Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát đi lại an tường, quán sát, nhìn xem chẳng vội vàng. Bước, dừng, co, duỗi, mặc y, mang bát, ăn uống, nằm ngủ, nghỉ ngơi đều hành theo luật. Đi lại, ngồi xuống, đứng lên, ngủ, dậy, nói năng, thong thả, đàng hoàng, ưa ở chỗ thanh vắng, tâm không rong ruổi. Này Tu-bồ-đề! Đó là Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật tự quán nội thân, chẳng thể nắm bắt được. Lại nữa, Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát chuyên nhất tâm ý, quán hơi thở ra vào, hơi thở dài, hơi thở ngắn cũng đều biết hết; hơi thở gần hoặc xa cũng đều biết hết; hơi thở chậm hoặc nhanh cũng đều biết hết; hơi thở dồn dập hoặc điều hòa cũng đều biết hết. Ví như Chuyển luân thánh vương biết cõi nước dài ngắn, rộng hẹp. Ví như thợ gốm làm ra đồ đựng biết bao lớn nhỏ, sâu rộng. Này Tu-bồ-đề! Cũng như thế, Đại Bồ-tát biết hơi thở ra vào, dài ngắn, chậm nhanh, cương nhu. Đại Bồ-tát quán nội thân như thế biết an tường điều ngự tâm mình khiến thuận pháp giáo. Này Tu-bồ-đề! Đó là Đại Bồ-tát quán nội thân, chế ngự tâm ý thấy thế gian là pháp vô minh sầu não. Lại nữa, Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát tự quán bốn phần đại chủng trên thân mình: thân này có các thứ đất, nước, lửa, gió. Giống như người đồ tể cầm dao bén giết chết trâu, chặt làm bốn đoạn, rồi ngồi quan sát, thì thấy không có trâu, mà do nhân duyên hợp thành. Này Tu-bồ-đề! Cũng như thế, Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, tự quán thân mình, thân có những thứ này tức là đất, nước, lửa, gió. Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, tự quán nội thân cũng chẳng thấy thân, cũng không thể nắm bắt được. Lại nữa, Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát tự quán sát thân mình từ đầu đến chân: Có thân tóc, tủy, não đầy dẫy sự nhơ nhớp bất tịnh. Có thân này thì có tóc, lông, móng, răng, da, gân, mạch, xương, đốt, ruột, bao tử, bụng, gan, phổi, tim, thận, ngũ tạng, máu, thịt, mỡ, tủy, nước mắt, nước miếng, đại tiện, tiểu tiện nhơ nhớp bất tịnh. Thí như nhà nông dùng bao đựng đủ loại ngũ cốc như mè, gạo, thóc, đậu, đại mạch, tiểu mạch, lúa. Người sáng mắt đổ ra trên đất, phân biệt biết hết: Đây là mè, đây là gạo, đây là đậu, thóc, đây là lúa… Này Tu-bồ-đề! Cũng như thế, Đại Bồ-tát biết thân này từ chân đến đầu gồm có tóc, lông, móng, răng, da, gân, mạch, xương đốt, ruột, bao tử, bụng, gan, phổi, tim, thận, ngũ tạng, máu, thịt, mỡ, tủy, nước miếng, đại tiện, tiểu tiện dơ bẩn bất tịnh. Này Tu-bồ-đề! Như thế, Đại Bồ-tát quán nội thân, điều ngự tâm ý, thấy thế gian là pháp vô minh sầu não, cũng chẳng thể nắm bắt được. Lại nữa, Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát nay quán thân người chết tiếp xúc lạnh nóng, hoặc đã một ngày, hoặc ba bốn ngày, năm ngày. Thân ấy sình chướng, sắc da biến thành màu xanh, thối vữa, máu mủ chảy ra. Xét thân này chẳng thể lìa pháp vô thường. Này Tu-bồ-đề! Như thế, Đại Bồ-tát tự quán nội thân, biết rồi, an tường điều ngự tâm ý, thấy thế gian là pháp vô minh sầu não, cũng chẳng thể nắm bắt được, cũng không thấy có. Lại nữa, Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát nay quán người chết tiếp xúc lạnh, nóng, mặt trời thiêu đốt, gió thổi. Sau khi chết một ngày, hoặc hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày, bảy ngày, bị chim quạ mổ ăn, chồn, sói, gấu, hổ, báo, cú vô, chó ăn thịt, vô số loài trùng từ thân sinh ra rồi lại rúc rỉa thân thể. Vị ấy tự quán sát chỗ mà thân đi đến thì thấy vô thường, phân tán ly biệt, không ai thoát được điều này. Tự quán thân nội, điều ngự tâm ý, thấy thế gian là pháp vô minh sầu não, cũng không thấy có. Lại nữa, Tu-bồ-đề! Giả sử Đại Bồ-tát quán thân người sau khi chết (vô thường), tiếp xúc lạnh, nóng, mặt trời thiêu đốt, gió thổi, sình chướng, xanh bầm, chim thú mổ xẻ, hôi thối bất tịnh, trở lại quán thân mình cũng sẽ như vậy, điều ngự tâm ý, thấy thế gian là pháp vô minh sầu não, cũng chẳng thể nắm bắt được, cũng không thấy có. Lại nữa, Tu-bồ-đề! Giả sử Đại Bồ-tát quán thân người sau khi chết, tiếp xúc nóng, lạnh, mặt trời thiêu đốt, gió thổi, chỉ còn xương đốt dính liền, giống như vòng xích, thịt bủn, máu đông, gân buộc, da che, rồi tự quán thân mình, điều ngự tâm ý thấy thế gian là pháp vô minh, sầu não, cũng chẳng thể nắm bắt được, cũng chẳng thấy có. Lại nữa, Tu-bồ-đề! Giả sử Đại Bồ-tát quán thân người sau khi chết, chỉ còn xương trắng liền nhau, trước kia cũng có máu mạch, da thịt, gân tủy. Nay quán thân thể này cũng chỉ như thế, phân tán biệt ly, đó là pháp vô thường, không ai thoát khỏi. Này Tu-bồ-đề! Như thế, Đại Bồ-tát quán thân rồi, điều định tâm ý, thấy thế gian là pháp vô minh sầu não, cũng chẳng thể nắm bắt được, cũng chẳng thấy có. Lại nữa, Tu-bồ-đề! Giả sử Đại Bồ-tát quán thân người thấy xương tủy gân tan nát, phân tán, hòa trộn với đất, quán sát như thế thấy thân thể này cũng giống như vậy. Tự quán nội thân, điều ngự tâm ý, thấy thế gian là pháp vô minh sầu não, cũng chẳng thể nắm bắt được, cũng chẳng thấy có. Lại nữa, Tu-bồ-đề! Giả sử Đại Bồ-tát quán thấy xương phân tán trên mặt đất khắp cả Đông, Tây, Nam, Bắc, xương chân một nơi, xương đầu gối, bánh chè, cổ, nhực, sườn, đầu sọ mỗi thứ mỗi ngã. Quán sát như thế, biết nay thân thể này cũng giống như thế, chân tay phân tán, biệt ly, đây là pháp vô thường, không ai thoát khỏi điều này. Bồ-tát quán nội thân, điều ngự tâm ý, thấy thế gian là pháp vô minh sầu não, cũng chẳng thể nắm bắt được, cũng chẳng thấy có. Lại nữa, Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát lại quán thân chết đã lâu, xương tan trên đất, trải qua nhiều năm chẳng thể tính đếm, cũng khó suy lường xương xanh tan nát, lẫn lộn với bụi đất. Nay thân này cũng giống như thế, phân tán biệt ly. Đây là pháp vô thường, không có ai thoát khỏi. Này Tu-bồ-đề! Như thế, Đại Bồ-tát tự quán thân, điều định tâm ý, thấy thế gian là pháp vô minh sầu não, cũng chẳng thể nắm bắt được, cũng chẳng thấy có. Quán thọ, tâm, pháp cũng lại như thế, rồi hộ trì hướng dẫn, sách tấn người mới phát tâm, thực hiện phép quán vô thường, dần dần nhập pháp không mới biết vô bổn. Người vì phát ý thành đạt thì quán nội ngoại thân, cũng không có thân. Quán nội ngoại tâm (tưởng), cũng không có tâm. Quán nội ngoại pháp, cũng không có pháp, cũng không có đối tượng quán sát, cũng không thấy có, đạo chẳng lìa tục, tục chẳng lìa đạo, cả hai đều không, cũng không nắm bắt được. Lại nữa, Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát hành Đại thừa là bốn Ý đoạn. Những gì là bốn Ý đoạn? Đó Đại Bồ-tát đối với các việc ác bất thiện chưa phát sinh, nếu phát sinh thì chận đứng khiến không sinh, ân cần tinh tấn nhiếp phục tâm ý, làm cho dứt trừ các điều xấu. Các việc ác bất thiện, phi pháp vừa móng khởi, liền dứt trừ, ân cần tinh tấn, tự nhiếp phục tâm, khiến cho bình đẳng loạn trừ. Các gốc thiện đức nếu phát khởi mà bị cắt đứt thì phải cần tinh tấn cứu giúp tâm ấy, bình đẳng giải thoát. Pháp thiện đã phát sinh thì giữ vững không để mất, tư duy đầy đủ, rộng khắp khiến càng thêm lợi ích an lạc, ân cần tinh tấn nhiếp hộ tâm ấy, bình đẳng giải thoát, có sở đắc, không sở đắc cũng đều không thấy. Này Tu-bồ-đề! Đó là pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát. Lại nữa, Tu-bồ-đề! Pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát là năm Căn: Tín căn, Tinh tấn căn, Ý căn, Định căn, Tuệ căn. Đó là Đại Bồ-tát hành Đại thừa, có sở đắc, không có sở đắc, cũng chẳng thể nắm bắt được. Lại nữa, Tu-bồ-đề! Pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát là năm Lực. Những gì là Năm Lực? Tín lực, Tinh tấn lực, Ý lực, Định lực, Tuệ lực. Đó làø Đại Bồ-tát hành Đại thừa, có sở đắc, không có sở đắc, cũng chẳng thể nắm bắt được. Lại nữa, Tu-bồ-đề! Pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát là bảy Giác ý. Những gì là bảy Giác ý? Này Tu-bồ-đề, đó là Đại Bồ-tát chuyên tu Tư giác ý, nương vào sự tónh lặng, không có tham dục, cũng không chỗ nương, dứt tranh tụng, bỏ các pháp. Đó là Tư giác ý. Lại hành Tinh tấn giác ý, nương vào sự tónh lặng, không có tham dục, cũng không chỗ nương, dứt tranh tụng, bỏ các pháp. Đó là Tinh tấn giác ý. Lại hành Duyệt dự giác ý, hành Tín giác ý, hành An giác ý, hành Định giác ý, hành Quán giác ý, nương vào sự tónh lặng, không có tham dục, cũng không chỗ nương, dứt tranh tụng, bỏ các pháp. Đó là pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát hành bảy Giác ý, có sở đắc, không có sở đắc, cũng chẳng thể nắm bắt được. Lại nữa, Tu-bồ-đề! Pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát là tám Thánh đạo. Những gì là tám Thánh đạo? Chánh kiến, Chánh niệm, Chánh ngữ, Chánh trị, Chánh nghiệp, Chánh phương tiện, Chánh ý, Chánh định. Đó là tám pháp Thánh đạo, có sở đắc, không có sở đắc, cũng chẳng thể nắm bắt được. Đó là pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát. Lại nữa, Tu-bồ-đề! Pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát là Ba phẩm Tam-muội. Những gì là ba? Tam-muội Không, Tam-muội Vô tướng, Tam-muội Vô nguyện. Sao gọi là Tam-muội Không? Pháp tướng là không. Không là môn giải thoát tức là Vô tướng. Cái Vô tướng ấy tức là môn giải thoát. Cái có sở hành ấy là không có sở hành. Đó là môn giải thoát Vô nguyện. Này Tu-bồ-đề! Đó là pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát. Đã đạt được pháp này rồi, cũng không sở đắc, cũng không nắm bắt được. Lại nữa, Tu-bồ-đề! Pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát nên phân biệt, hiểu rõ Tập để quyết đoán Diệt tận, hiểu rõ thánh đạo. Biết sự diệt tận thì biết không chỗ khởi, hiểu rõ các pháp, phân biệt vô ngã, hiểu rõ sự kết cuộc nhu hòa, tự biết tâm mình biết tâm người. Đó gọi là tuệ. Sao gọi là phân biệt? Đối với khổ biết khổ, không từ đâu sinh, cũng không chỗ khởi. Đó là phân biệt Khổ. Sao gọi là hiểu rõ Tập? Đó là diệt trừ nguyên nhân, khiến chẳng sinh lại. Sao gọi là quyết đoán Diệt tận? Đó là khổ đã hết, khiến không còn gốc rễ. Sao gọi là biết rõ Thánh đạo? Đó là pháp tám Thánh đạo. Sao gọi là biết sự diệt tận? Đó dâm, nộ, si, diệt. Sao gọi là biết không chỗ khởi? Đó là trí tuệ không từ đâu sinh khởi. Sao gọi là hiểu rõ pháp tuệ? Đó là trí tuệ dứt sinh tội phước do năm ấm tạo ra. Sao gọi là phân biệt vô ngã? Đó là sắc vô thường; thọ, tưởng, hành, thức vô thường; nhãn, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý chẳng phải là sở hữu của ngã; sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp chẳng phải là sở hữu của ngã; nhãn sắc thức, nhó thanh thức, tỷ hương thức, thiệt vị thức, thân xúc thức, ý pháp thức cũng chẳng phải là sở hữu của ngã. Sao gọi là hiểu rõ kết cuộc nhu hòa? Đó là có sự than thở thì có nhiều sự phát sinh. Sao gọi là tự biết tâm mình? Đó là tự biết căn nguyên xưa nay. Sao gọi là biết tâm người? Đó là có thể phân biệt được tâm niệm của người khác, của chúng sinh. Sao gọi là Như sở tuệ tâm? Đó là trí Nhất thiết của Như Lai, là trí Nhất thiết Như Lai đã đắc, cũng không nắm bắt được. Lại nữa, Tu-bồ-đề! Pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát là ba căn. Đó là Dị nhân căn, Dị căn, Biệt căn. Sao gọi là Dị nhân căn? Đó là có các học só chưa đắc bình đẳng về Tín căn, Tinh tấn căn, Ý căn, Định căn, Tuệ căn. Đó gọi là Dị nhân căn. Sao gọi là Dị căn? Các học só ấy không có niềm tin khác với Tín căn, Tinh tấn căn, Ý căn, Định căn, Tuệ căn. Đó là Dị căn. Sao gọi là Biệt căn? Đó là người chưa học mà đã phát ý lớn về Tín căn, Tinh tấn căn, Ý căn, Định căn, Tuệ căn. Đó là Đại Bồ-tát có biệt căn Đại thừa, có sở đắc, cũng không sở đắc, cũng không nắm bắt được. Lại nữa, Tu-bồ-đề! Pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát là định bình đẳng. Định này có ba là Tam-muội hữu tưởng hữu hành, Tam-muội vô tưởng hữu hành, Tam-muội vô tưởng vô hành. Sao gọi là Tam-muội hữu tưởng hữu hành? Thoát khỏi các dục, tịch nhiên diệt trừ các pháp ác bất thiện, có tưởng, có hành, hành tịch tónh thứ nhất. Đó là Tam-muội có tưởng có hành. Sao gọi là Tam-muội vô tưởng hữu hành? Đó là trong tâm không tưởng có hành, cũng không chấp trước, đạt đến tịch tónh thứ hai, cũng không trong ngoài. Đó là Tam-muội vô tưởng hữu hành. Sao gọi là Tam-muội vô tưởng vô hành? Vượt qua tịch tónh thứ hai, thứ ba, vượt qua định vô lượng hữu tuệ, vượt qua định vô lượng thức tuệ, vượt qua định vô lượng bất dung tuệ, vượt qua định vô lượng hữu tưởng vô tưởng, thì đó là vô tưởng vô hành. Này Tu-bồ-đề! Đó là pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát. Lại nữa, Tu-bồ-đề! Pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát là hành mười niệm. Những gì là mười niệm? Đó là niệm Phật, niệm Pháp, niệm Thánh chúng, niệm Giới, niệm Bố thí, niệm Thiên, niệm Thiện, niệm không chỗ khởi, niệm thân, niệm tử vong. Đó là pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát, có sở đắc, cũng không sở đắc, cũng không nắm bắt được. Lại nữa, Tu-bồ-đề! Pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát là bốn Thiền, bốn Định vô sắc, bốn Đẳng tâm, tám môn giải thoát, định chưa từng nếm trải vị thiền. Này Tu-bồ-đề! Đó là pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát, có sở đắc, cũng không sở đắc, cũng không nắm bắt được. Lại nữa, Tu-bồ-đề! Pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát là mười Lực của Như Lai. Sao gọi là mười Lực của Như Lai? Đó là biết người khác, các loài chúng sinh đúng đạo lý, chẳng đúng đạo lý, có giới hạn, không có giới hạn; như thật biết rõ nhân duyên tội, phước trong quá khứ, vị lai, hiện tại sẽ đi về đâu, sẽ có báo ứng thế nào; như thật biết rõ người thế gian có bao nhiêu loại hình thể bất đồng; như thật biết rõ con người và chúng sinh có bao nhiêu tâm niệm ưa thích khác nhau; như thật biết rõ căn nguyên, mục đích của con người và chúng sinh, gốc ngọn khác nhau; như thật biết rõ chỗ quy về sau, trước của tất cả năm đường; như thật biết rõ tâm hành giả, chúng sinh, căn, lực, giác ý, nhất tâm giải thoát môn, Tam-muội chánh thọ, các việc ràng buộc, sân hận, đấu tụng có thể dùng trí tuệ phân biệt; như thật biết rõ vô số tịch nhiên, biết việc vô số ức kiếp trong quá khứ, biết vô số ức đời sống chúng sinh ở quá khứ, biết chỗ sinh về sau khi chết, dùng đạo nhãn nhìn khắp cõi nước tất cả chư Phật trong mười phương, sự sinh tử, họa phúc, thiện ác, khởi diệt, chung thủy trong năm đường; như thật biết rõ các lậu đã hết, không có trần cấu, vượt qua tưởng niệm, dùng trí tuệ thoát qua nghiệp hiện tại, tự dùng thần thông chứng biết các hạnh, sinh tử đã đoạn, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, biết người chưa độ. Này Tu-bồ-đề! Như thế, pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát có sở đắc, cũng không sở đắc, cũng không nắm bắt được. Lại nữa, Tu-bồ-đề! Pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát là bốn Vô sở úy. Sao gọi là bốn Vô sở úy? Nay ta đã thành Bình đẳng giác, nếu có Sa-môn, Phạm chí, chư Thiên, loài người, hoặc dị thiên, hoặc người ở học phái khác đến muốn tranh luận để tìm sở đoản của ta để cho là ta không thành Bình đẳng giác. Họ chẳng thấy điềm lành, dám khởi ý đương đầu với Như Lai, nhưng không dám bộc lộ ý nghó đó, cho nên Như Lai an ổn với việc làm của mình, không bị vấn nạn, cũng không sợ, dũng mãnh tiến bước, không có chấp trước, vì người khác rống tiếng rống sư tử, giảng thuyết phân biệt pháp luân thanh tịnh. Sa-môn, Phạm chí, chư Thiên, Ma, Phạm thiên ở cõi trời, nhân gian không ai có thể sánh kịp ý nghóa đạo pháp. Như Lai, các lậu đã hết, không còn sinh tử nên Sa-môn, Phạm chí, chư Thiên, Ma, Phạm trên cõi trời, ở nhân gian, muốn tìm sở đoản của Như Lai để nói là chẳng đúng như thế vì các lậu chưa hết nhưng hoàn toàn chẳng thấy ai bộc lộ tâm tìm sở đoản, cho nên Như Lai an ổn, không có sợ hãi, vì mọi người rống tiếng rống sư tử. Như Lai biết hết nội pháp không có nội, ngoại, chẳng thấy tôi ta, nên Sa-môn, Phạm chí, chư Thiên, Ma, Phạm của trên cõi trời, ở thế gian muốn tìm sở đoản của Như Lai để nói là không đúng như thế, chẳng biết nội pháp, chấp có tô ta nhưng hoàn toàn chẳng thấy ai bộc lộ tâm tìm sở đoản, cho nên Như Lai an ổn, không có sợ hãi, vì mọi người rống tiếng rống sư tử, giảng thuyết Hiền thánh làm cho người chẳng hiểu hiểu được, người chẳng đạt đạt được, rồi dùng bình đẳng trừ hết khổ não, chẳng bao giờ tìm được sở đoản của Như Lai. Vì phụng sự pháp nên chẳng trái với nghóa đạo, dũng mãnh không sợ hãi, vì người giảng thuyết pháp luân thanh tịnh, làm sư tử hống. Này Tu-bồ-đề! Đó là pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát có sở đắc, cũng không sở đắc, cũng không nắm bắt được. Lại nữa, Tu-bồ-đề! Pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát là bốn phân biệt biện? Những gì là bốn? Một là phân biệt nghóa, hai là phân biệt pháp, ba là phân biệt chỗ quy thuận, bốn là phân biệt biện. Này Tu-bồ-đề! Đó là pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát có sở đắc, cũng không sở đắc, cũng không nắm bắt được. Lại nữa, Tu-bồ-đề! Pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát là mười tám pháp Bất cộng của chư Phật. Những gì là mười tám? Đó là Như Lai không có lầm lỗi, nói ra đúng lúc, không có tâm hẹp hòi, không quên mất, không có các tưởng, không có tâm bất định, không có gì là không phân biệt, phân biệt đối tượng quán chiếu, không có gì ưa thích, tinh tấn không dứt mất, không bao giờ thất niệm, trí tuệ không tổn giảm, giải thoát không khiếm khuyết, giải thoát tri kiến không giảm, tất cả việc của thân không gì là chẳng đạt, tất cả lời là do miệng nói ra không gì là chẳng thông, tất cả đều đúng chỗ, dùng tâm trí tuệ biết hết cội nguồn của tất cả tâm niệm, lại dùng trí tuệ thấy biết hết việc của vô số kiếp chẳng thể tính biết ở quá khứ, lại dùng trí tuệ thấy biết hết việc của vô số kiếp chẳng thể tính biết trong vị lai, lại dùng trí tuệ thấy biết hết việc của vô số kiếp chẳng thể tính biết trong hiện tại. Này Tu-bồ-đề! Đó là pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát có sở đắc, cũng không sở đắc, cũng không nắm bắt được. Lại nữa, Tu-bồ-đề! Pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát là môn Tổng trì. Sao gọi là môn Tổng trì? Các văn tự bình đẳng, lời nói bình đẳng là chỗ vào văn tự của môn văn tự. Sao gọi là chỗ vào văn tự của môn văn tự? Môn nhân duyên là tất cả các pháp, vì từ quá khứ cũng không có chỗ khởi. Sự tạo tác của môn ấy là môn La; pháp lìa các cấu ấy là môn Ba; phân biệt các nghóa là môn Giá; đạt đến hành của tất cả các pháp cũng không sở đắc, cũng không mất đi, cũng không chỗ sinh ra là môn Na; tất cả pháp lìa danh hiệu, xét cái bản tịnh chẳng thể nắm bắt được, đó là môn Ra; siêu vượt tất cả pháp ân ái, báo ứng, nhân duyên của thế gian, đó là môn Đà; tất cả các pháp đều là vốn không, không có đoạn tuyệt là môn Ba; mở hết sự trói buộc của các pháp. Đó là môn Tra; đốt hết các pháp, đạt đến thanh tịnh là môn Sa; tất cả các pháp không có chướng ngại, chẳng đắc các việc là môn Hòa; đoạn trừ tất cả dấu vết hướng đến, cú, âm thanh của tất cả các pháp là môn Đa; tất cả pháp không có cội gốc, chẳng thể dao động là môn Kế; tất cả pháp không chỗ sinh khởi là môn Tra; tất cả pháp đạt đến cứu cánh là môn A; tất cả các pháp hiện đang thực hiện đều đạt được là môn Ba; tất cả các pháp đều dùng thời gian để được thông suốt, chẳng bị trở ngại là môn Ma; hiểu biết các pháp từ tôi ta sinh khởi là môn Ca; tất cả các pháp đạt đến sự ủng hộ là môn Đản; tất cả các pháp đạt đến đạo lý của các pháp là môn Xà; tất cả các pháp không có chỗ là môn Ba; tất cả các pháp sinh khởi là môn Đà-ha; tất cả các chủng loại của các pháp không chỗ sinh khởi là môn Xa; tất cả các pháp tịch nhiên chẳng khởi là môn Khư; tất cả các pháp giống như hư không không có chỗ sinh là môn Xoa; tất cả các pháp đều diệt tận, chẳng thể nắm bắt được là môn Thi-đản; tất cả các pháp đứng vững nơi tự thể, chẳng thể động, cũng chẳng thể nắm bắt được là môn Nhã; tất cả các pháp tuệ chẳng thể nắm bắt được là môn Tra-ha; tất cả các pháp đạt được sở trì là môn Phi-hà; tất cả các pháp đã đắc nhàn tịnh là môn Xa; tất cả các pháp đều đã thiêu đốt là môn Na; tất cả các pháp đạt được chí tín là môn Ta; tất cả các pháp đều đắc tận diệt là môn Ca-hà; tất cả các pháp có sở trụ đắc vô sở trụ là môn Na; tất cả các pháp chẳng đến chẳng đi, chẳng đứng chẳng ngồi, chẳng nằm chẳng ngủ, không ứng nào chẳng ứng, không tưởng nào chẳng tưởng là môn Phả; tất cả các pháp chẳng thể trình bày là môn Thi-ca; tất cả các pháp chẳng đắc năm ấm là môn Tha; tất cả các pháp chẳng đắc tha niệm là môn Y-đà; bỏ tất cả pháp, không có sở đắc là môn Đa; tất cả các pháp rốt ráo ranh giới, tận cùng nơi chốn không sinh, không tử, không có, không tạo tác, dẹp bỏ thuyết âm thanh, văn tự. Vì sao? Vì chán các chướng ngại, nên không ngôn từ, không danh hiệu, không nơi chốn, cũng chẳng thể nắm bắt được, cũng chẳng thể nói, cũng chẳng thể tận, cũng chẳng thể thấy. Này Tu-bồ-đề! Ví như hư không rỗng không, tất cả các pháp cũng đều như thế. Này Tu-bồ-đề! Đó là nhân duyên văn tự phân biệt chỗ vào Tổng trì. Có Đại Bồ-tát nào biết tất cả nhân duyên văn tự như thế, phương tiện phân biệt thì chẳng chấp trước vào âm thanh, ngôn thuyết, có thể lần lượt hiểu rõ chỗ hướng về của các pháp.  <詞 id="81581569">Phẩm 18: Thập Trụ Đức Phật bảo Tu-bồ-đề: –Như ông đã hỏi, sao gọi Đại Bồ-tát là Đại thừa không thoái chuyển? Này Tu-bồ-đề! Như thế, Đại Bồ-tát hành sáu pháp Ba-la-mật nhập đạo địa. Thế nào là Bồ-tát nhập đạo địa? Nhập vào tất cả các pháp không từ đâu đến cũng chẳng đi đâu, không đi, cũng không hoại, tất cả các pháp, chẳng thể biết nơi chốn, cũng không tưởng niệm. Hành mười đạo địa mà chẳng thấy đạo địa. Sao gọi là Bồ-tát hành mười đạo địa? Đại Bồ-tát ấy hành trụ thứ nhất nên hành mười việc. Những gì là mười? Tu sửa tâm tánh chẳng bị điên đảo; tu sửa lòng thương trừ bỏ các tưởng; tâm bình đẳng đối với chúng sinh chẳng thủ đắc chúng sinh; hành việc bố thí, người nhận không khác; kính Thiện tri thức không có khinh mạn; cầu pháp là sự nghiệp nhưng không thủ đắc; ân cần xuất gia tu học mà không luyến mộ; cầu thân Phật không tưởng tướng hảo; mở mang pháp sự cho chúng sinh mà không mong cầu; dứt bỏ cao ngạo đối với các pháp không chấp trước, lời nói chí thành của miệng là nghiệp. Này Tu-bồ-đề! Đó là mười việc của Đại Bồ-tát hành đạo địa thứ nhất. Lại nữa, Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát hành trụ thứ hai nên hành tám pháp. Những gì là tám? Giới thanh tịnh, luôn luôn tri ân và báo ân, an trụ nhẫn nhục, thường lành hoan hỷ, chẳng bỏ chúng sinh, siêng hành đại Từ bi, nghe theo lời dạy bảo của người trên, xem người xuất gia như là Thế Tôn, hành ba-la-mật tìm cầu phương tiện thiện xảo. Đó là tám việc. Lại nữa, Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát hành trụ thứ ba nên hành năm pháp. Những gì là năm? Học hỏi nhiều không chán, chẳng chấp trước văn tự, khai mở pháp thí, không tưởng y phục, làm thanh tịnh cõi Phật, khuyên làm các công đức, cũng không mong cầu. Đó là năm việc. Lại nữa, Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát hành trụ thứ tư nên hành mười pháp, không bao giờ bỏ. Những gì là mười? Chẳng bỏ chỗ thanh vắng, tâm ít tham cầu, biết đủ, chẳng rời thiền tọa, chẳng hủy cấm giới, nhàm chán chẳng thọ dục, chẳng diệt độ, tất cả sở hữu, bố thí không tiếc, chẳng khiếp nhược, không ham muốn các sở hữu. Đó là mười. Lại nữa, Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát hành trụ thứ năm nên bỏ tám việc. Những gì là tám? Vứt bỏ nhà cửa, xả Tỳ-kheo-ni, xả bỏ dòng họ, chẳng tham công đức, bỏ ngủ nghỉ, lìa tranh cãi sân si, chẳng tự khen mình, chẳng chê bai người. Đó là tám việc. Lại nữa, Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát hành trụ thứ sáu nên đủ sáu pháp. Những gì là sáu? Đó là sáu pháp Ba-la-mật, chẳng làm sáu pháp: chẳng cầu Thanh văn, không tưởng Duyên giác, chẳng nghó việc nhỏ, thấy người nghèo xin, tâm diện hòa vui, có cho vật gì thì không lo rầu tâm không hối tiếc. Đó là sáu pháp. Lại nữa, Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát hành trụ thứ bảy nên lìa hai mươi pháp. Những gì là hai mươi? Không thọ nhận, không tôi ta, chẳng chấp nhận, chẳng có mạng, chẳng nghó tuổi thọ, chẳng nghó thường, chẳng chấp đoạn diệt, không có các tưởng chấp trước, lìa kiến chấp nhân duyên, chẳng dựa vào các ấm, chẳng mộ các chủng, xả bỏ các chủng, không tưởng ba cõi, chẳng chấp trước Phật, chẳng chấp trước pháp, chẳng chấp trước Thánh chúng, hộ cấm giới, bỏ kiến chấp, chẳng dựa vào niệm không, bỏ các tà kiến, không có nhiễm ô. Đó là hai mươi pháp. Lại nên đầy đủ hai mươi pháp sự. Những gì là hai mươi? Hiểu rõ không, chẳng chứng vô tướng, biết không sở nguyện, thanh tịnh ba nghiệp, thương xót chúng sinh, chẳng thấy chúng sinh, không có khinh mạn, bình đẳng quán các pháp, hiểu thấu pháp nghóa, không có phân biệt, hiểu rõ chân chánh, cũng không chấp trước, đạt vô sinh nhẫn, giảng thuyết nhất phẩm, diệt trừ các tưởng, vứt bỏ trần lao, vắng lặng lìa tà, tâm ý điều hòa định tónh, không rời trí tuệ, không có vội vã. Đó là hai mươi. Lại nữa, Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát hành trụ thứ tám nên đầy đủ bốn pháp. Những gì là bốn? Nhập vào tâm chúng sinh, dùng thần thông tự vui; hiện ở các cõi Phật, tùy theo chỗ mà quán sát; thành tựu đầy đủ cõi nước của mình; đảnh lễ chư Phật, dùng chân đế quán thân chư Phật. Đó là bốn pháp. Lại nữa, Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát hành trụ thứ chín nên đầy đủ bốn pháp. Những gì là bốn? Hiểu rõ các căn, thành tựu cõi Phật, ân cần tu theo Tam-muội huyễn, tùy thuận hóa độ chúng sinh, khiến cho việc tạo gốc đức của họ đạt đến thuần thục, vì chúng sinh thị hiện đủ loại thân để nói đạo nghóa. Đó là bốn. Lại nữa, Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát hành trụ thứ mười nên đầy đủ mười hai việc. Những gì là mười hai? Vì vô lượng nơi chốn mà thiết lập sự ủng hộ, theo ý nguyện của số đông, đều làm cho thỏa mãn, những điều đã nói ra, chư Thiên, Long thần, Kiền-đạp-hòa, A-tu-luân, Ca-lầu-la, Chân-đà-la, Ma-hưu-lặc nghe âm thanh ấy đều hiểu rõ biện tài như thế, thì các việc bào thai, dòng họ tôn quý, chỗ sinh ra, quyến thuộc, cõi nước, bỏ nước, bỏ nhà, đi đến cây Bồ-đề thanh tịnh hoàn toàn, tất cả danh đức đều đầy đủ. Đó là mười hai. Lại nữa, Tu-bồ-đề! Trụ thứ mười của Đại Bồ-tát tức là Phật. NgàiTu-bồ-đề bạch Phật: –Sao gọi là Đại Bồ-tát tu theo chí tánh? Đức Phật dạy: –Đối với việc gầy dựng gốc đức, tâm đều khuyến trợ trí Nhất thiết. Sao gọi là tâm bình đẳng của Bồ-tát? Với tâm trí Nhất thiết, thật hành bốn Đẳng tâm Từ, Bi, Hỷ, Hộ (xả). Sao gọi Bồ-tát là sự nghiệp bố thí? Vì bố thí cho tất cả mà không tưởng nghó. Sao gọi Bồ-tát kết Thiện tri thức? Vì khuyến hóa tất cả, khiến lập chánh đạo, lễ phép thăm hỏi, tin tưởng, cung kính bậc Tôn trưởng. Sao gọi là Bồ-tát cầu pháp đầy đủ? Vì đối với các việc cầu pháp, tâm thường đặt ở trí Nhất thiết, không rơi vào địa Thanh văn, Bích-chi-phật. Sao gọi là Bồ-tát ân cần xuất gia? Vì đối với nơi chốn sinh ra, đời đời bỏ nghiệp, không bị hủy hoại, theo lời dạy của Như Lai, vị ấy xuất gia tu hạnh vô thượng. Sao gọi là Bồ-tát theo yêu cầu thân Phật? Vì nếu thấy thân Phật tâm vị ấy chưa từng rời Phật, khi ấy mới đạt đến trí Nhất thiết. Sao gọi là Bồ-tát khai mở các pháp? Giả sử hiện tại thấy Phật nhập Niết-bàn, Bồ-tát vì chúng sinh giảng nói kinh pháp, lời đầu cũng thiện, lời giữa cũng thiện và lời cuối cũng thiện, ý nghóa hoàn bị vi diệu, đầy đủ hạnh thanh tịnh, đủ cả mười hai bộ loại: Kinh Văn, kinh Đức, kinh Thính, kinh Phân biệt, kinh Thị hiện, kinh Thí dụ, kinh Sở thuyết, kinh Sở sinh, kinh Phương đẳng, kinh Vị tằng hữu, kinh Chương cú, kinh Sở hành, đó là mười hai bộ loại kinh điển khai mở các pháp của Bồ-tát. Sao gọi là Bồ-tát dứt bỏ tâm kiêu mạn? Chưa từng ôm lòng tự đại, không bao giờ sinh vào nhà dòng họ thấp kém. Sao gọi là lời nói của Bồ-tát chí thành? Nếu đã nói ra thì lời nói và hành động tương xứng. Đức Phật bảo Tu-bồ-đề: –Đó là Đại Bồ-tát hành địa thứ nhất mà phụng hành mười việc. Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật: –Sao gọi là Bồ-tát giới phẩm thanh tịnh? Đức Phật dạy: –Tâm chẳng nghó cầu thừa Thanh văn, Bích-chi-phật, cũng chẳng chê bai các Bồ-tát. Nếu có người phạm giới thì khuyến dụ khiến không đọa lạc. Sao gọi Bồ-tát là người luôn luôn biết tri ân và báo ân? Giả sử khi Bồ-tát hành đạo Bồ-tát đối với người bố thí ít còn chẳng quên, huống gì đối với người bố thí nhiều. Sao gọi là Bồ-tát trụ Nhẫn lực? Đối với chúng sinh thường không có tâm loạn động, không ôm lòng làm hại. Sao gọi là Bồ-tát tâm sắc hòa vui? Nghó việc giáo hóa chúng sinh không trái chánh hạnh. Sao gọi là Bồ-tát không bỏ chúng sinh? Luôn luôn cứu giúp, hộ trì tất cả mọi người. Sao gọi là Bồ-tát gần đại Bi? Giả sử khi Bồ-tát hành đạo, tâm tự nghó, vì thấy tất cả mọi người trong hằng hà sa số kiếp ở tại địa ngục, bị tra khảo, thiêu nấu, nên không bao giờ ta giải đãi, nên khiến cho họ thành tựu Phật thừa để được diệt độ. Đối với tất cả các loài chúng sinh cũng như thế, tâm Bồ-tát cũng tự khuyến khích vi diệu như thế. Sao gọi là Bồ-tát tiếp nhận sự dạy bảo của bậc Tôn trưởng? Thầy người xuất gia hoặc thầy mình thì xem họ như là Phật. Sao gọi là Bồ-tát cầu Ba-la-mật? Đó là Bồ-tát không nghó việc khác, không nghó pháp khác, không khinh mạn, chỉ cầu giải thoát. Sao gọi là Bồ-tát nghe rộng không chán? Những lời mà chư Phật Thiên Trung Thiên đã giảng nói và những điều mà từ miệng chư Phật mười phương đã diễn nói, Bồ-tát đều tuân phụng thọ trì. Sao gọi là Bồ-tát nói pháp thí không tưởng áo cơm? Vì đối với pháp thí này mà tâm niệm như thế thì chẳng nghó đến Phật đạo. Sao gọi là Bồ-tát làm thanh tịnh cõi Phật? Vì Bồ-tát trồng cội phúc đức đều dùng để khuyến khích trợ giúp làm nghiêm tịnh cõi Phật. Sao gọi là Bồ-tát chẳng ngán sinh tử? Vì luôn muốn đầy đủ tất cả công đức, thành tựu gốc lành, khai hóa chúng sinh, làm tịnh cõi Phật, chưa từng mệt mỏi, cho đến khi làm cho đầy đủ trí Nhất thiết. Sao gọi là Bồ-tát biết xấu hổ? Vì luôn không có tâm Thanh văn, Bích-chi-phật. Sao gọi là Bồ-tát chẳng bỏ nơi thanh vắng? Vì không nhập vào địa Thanh văn, Bích-chi-phật. Sao gọi là Bồ-tát chí ít tham cầu? Vì hành đạo Bồ-tát không tham cầu gì, chí tại Phật đạo. Sao gọi là Bồ-tát biết đủ? Vì để thành tựu trí Nhất thiết. Sao gọi là Bồ-tát chẳng bỏ tiết hạn? Vì luôn phân biệt hiểu pháp sâu sắc. Sao gọi là Bồ-tát không bỏ học giới? Vì việc trì cấm giới chẳng buông thả. Sao gọi là Bồ-tát nhàm chán chẳng thọ dục? Vì tâm Bồ-tát chưa từng khởi tham dục. Sao gọi là Bồ-tát tâm chẳng diệt độ? Vì đối với tất cả pháp tâm không chuyển động. Sao gọi là Bồ-tát sở hữu tất cả? Vì luôn dùng bố thí giúp đỡ tất cả, không tham các pháp trong, ngoài. Sao gọi là Bồ-tát chí không khiếp nhược? Vì chưa từng phát tâm Nhị thừa. Sao gọi là Bồ-tát quán các sở hữu mà không tham? Vì đối với vạn vật không tưởng nghó. Sao gọi là Bồ-tát bỏ nước bỏ nhà? Vì từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, sinh ra ở chỗ nào cũng cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, hiện làm Sa-môn. Sao gọi là Bồ-tát lánh xa Tỳ-kheo-ni? Dù trong khoảnh khắc cũng chẳng cùng họ làm việc. Đối với họ nếu có duyên sự, tâm không móng khởi. Sao gọi là Bồ-tát từ bỏ dòng họ? Vì Bồ-tát thường nghó làm cho chúng sinh ở chỗ an ổn để tự nhiên an, nếu có ai thấy cũng không khởi tâm ganh ghét. Sao gọi là Bồ-tát vứt bỏ các tham và sự ngủ nghỉ? Giả sử Bồ-tát ở trong hội chúng mà có người khởi tâm Thanh văn, Bích-chi-phật thì chẳng nên làm việc với họ. Sao gọi là Bồ-tát lìa sân hận? Vì chẳng theo tâm sân hận nguy hại, không có ý đấu tranh, không có kiện tụng. Sao gọi là Bồ-tát chẳng tự khen mình? Vì chẳng thấy nội pháp có đối tượng quán chiếu. Sao gọi là Bồ-tát không chê bai người khác? Vì đối với tất cả ngoại pháp, không thấy có. Sao gọi là Bồ-tát vứt bỏ mười ác? Vì làm theo đạo Hiền thánh, là hạnh cao thượng làm thanh tịnh thân, khẩu, ý. Sao gọi là Bồ-tát vứt bỏ khinh mạn? Vì việc làm như thế chẳng thấy các pháp có kiêu mạn. Sao gọi là Bồ-tát vứt bỏ tự đại? Vì việc làm chẳng thấy hình mạo và sở hữu. Sao gọi là Bồ-tát lìa điên đảo? Vì quán sát các sở hữu chẳng thể nắm bắt được. Sao gọi là Bồ-tát bỏ dâm, nộ, si? Vì vónh viễn chẳng nhìn thấy sự tồn tại của dâm, nộ, si, cấu uế. Sao gọi là Bồ-tát đầy đủ sáu pháp? Vì địa thứ sáu thì phải đầy đủ sáu pháp. Sao gọi là sáu? Đó là sáu pháp Ba-la-mật nên đầy đủ. Sao gọi là đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật? Vì trụ sáu pháp Ba-la-mật thì có thể siêu việt Thanh văn, Bích-chi-phật. Sao gọi là Bồ-tát không khởi tâm Thanh văn, Bích-chi-phật? Vì những hạnh này chẳng xứng là đạo, người hành Tiểu thừa chẳng thuận Phật đạo, nếu họ thấy người cầu xin thì lòng khiếp nhược. Người hành Bồ-tát nên có tâm xả ly, không lo lắng. Vì sao? Vì những hạnh này là chẳng ăn nhập với đạo. Từ khi mới phát tâm thường hành bố thí, tâm chẳng quên xả. Vì sao? Vì Bồ-tát chẳng tự tham thân, vì vậy suy tìm gốc ngọn không có tôi ta, xét về nhân, thọ mạng cũng lại như thế. Vì sao? Vì tâm quán sát kỹ không có sở hữu. Sao gọi là Bồ-tát chẳng rơi vào kiến chấp diệt tận? Sở dó như vậy vì tất cả pháp cũng không có chỗ sinh khởi. Sao gọi là Bồ-tát chẳng chấp có thường? Sở dó như vậy vì tất cả pháp đều không có chỗ sinh khởi nên không có thường. Sao gọi là Bồ-tát không có tưởng chấp trước? Sở dó như vậy vì nếu xét như thế thì không có trần lao, không có kiến chấp nhân duyên. Sở dó như thế vì kiến chấp ấy chẳng thấy các kiến chấp. Sao gọi là Bồ-tát chẳng dựa vào danh sắc? Sở dó như thế vì tất cả các việc làm đều không sở hữu. Sao gọi là Bồ-tát chẳng chấp trước các ấm, chẳng dựa vào các chủng, chẳng mộ các nhập? Sở dó như thế vì hành giả làm như thế thì đều là tự oán, không có sở hữu. Vì vậy cho nên chẳng nên dựa vào ấm, chủng, các nhập. Sao gọi là Bồ-tát chẳng dựa vào ba cõi? Ba cõi ấy tự nhiên vô hình, tuy ở trong ba cõi nhưng không chỗ nương dựa. Sao gọi là Bồ-tát chẳng trụ sở hữu? Vì nó chẳng có hạn kỳ mà là hư không, tất cả sở hữu đều là vô sở hữu. Sao gọi là Bồ-tát thấy Phật mà chẳng chấp trước? Vì chẳng dựa vào cái thấy cho là thấy Phật. Sao gọi là Bồ-tát chẳng tranh với không? Vì tất cả các pháp đều là không, chẳng không, chẳng loạn, rỗng không, không có chỗ tranh. Sao gọi là Bồ-tát đầy đủ không? Thân tướng hư không tức là Bồ-tát đầy đủ không. Sao gọi là Bồ-tát chẳng chứng vô tướng? Đối với tất cả tướng không nghó đến. Sao gọi là Bồ-tát nhớ tuệ vô nguyện? Vì đối với ba cõi không sở hành. Sao gọi là Bồ-tát làm thanh tịnh ba nghiệp? Vì luôn luôn đầy đủ mười đức lành. Sao gọi là Bồ-tát thương yêu tất cả các loài chúng sinh? Vì luôn luôn hành đức đại Từ bi vô cực. Sao gọi là Bồ-tát chẳng khinh thường chúng sinh? Vì muốn viên mãn cõi Phật. Sao gọi là Bồ-tát bình đẳng quán các pháp? Vì quán sát các pháp không cao không thấp. Sao gọi là Bồ-tát quán kỹ các địa? Vì đối với tất cả các pháp không gây nhân, không dao động. Sao gọi là Bồ-tát đạt pháp nhẫn Vô tùng sinh? Vì tất cả các pháp đều không chỗ sinh khởi, cũng không chỗ diệt, nhẫn không sở hữu. Sao gọi là Bồ-tát tuệ không chỗ sinh? Vì đối với danh sắc, Bồ-tát ấy không phát khởi tuệ. Sao gọi là Bồ-tát nói một phẩm? Vì chẳng hành hai việc. Sao gọi là Bồ-tát chẳng nhập các niệm? Vì đối với tất cả pháp không có đối tượng nhớ nghó. Sao gọi là Bồ-tát vứt bỏ các kiến chấp? Vì luôn xả ly địa Thanh văn, Bích-chi-phật. Sao gọi là Bồ-tát diệt trừ trần lao? Vì nguyên nhân của tất cả các lậu ngừng lại, dục ô uế dứt hết. Sao gọi là Bồ-tát tịch tónh xa lìa cái thấy biết? Vì có khả năng thành tựu trí Nhất thiết. Sao gọi là Bồ-tát có tâm điều hòa? Vì đối với ba cõi không còn hoạn nạn. Sao gọi là tâm tịch tónh? Vì có khả năng chế ngự sáu căn. Sao gọi là Bồ-tát chẳng bỏ trí tuệ? Vì có khả năng đạt được minh nhãn. Sao gọi là Bồ-tát không có sự vội vàng? Vì quán sáu nhập không nhiễm trước. Sao gọi là Bồ-tát tâm có chỗ vào? Vì tất cả tâm thấy hết các ý nghó của chúng sinh. Sao gọi là Bồ-tát dùng thần thông tự vui? Vì từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, những nơi đi đến, không tưởng nghó cõi Phật. Sao gọi là Bồ-tát thấy các cõi Phật? Vì trụ ở cõi Phật này thì thấy vô lượng cõi Phật ở mười phương, đối với các cõi Phật cũng không vướng mắc. Sao gọi là Bồ-tát quán sát đúng như thật? Vì thấy các cõi Phật viên mãn nghiêm tịnh, đến bất cứ đâu trong ba ngàn thế giới đều làm Chuyển luân vương. Sao gọi là Bồ-tát lễ kính chư Phật cúng dường phụng sự quy mạng? Vì phân biệt ý nghóa của tất cả kinh pháp. Sao gọi là Bồ-tát thường quán sát kỹ thân chư Phật? Vì nhìn một cách chân chánh chư Phật chính là Pháp thân. Sao gọi là Bồ-tát hiểu rõ các căn? Nếu có thể trụ mười Lực của Như Lai thì có thể hiểu rõ cội gốc các căn của tất cả chúng sinh. Sao gọi là cõi Phật thanh tịnh của Bồ-tát? Chúng sinh thanh tịnh tức là cõi Phật thanh tịnh. Sao gọi là Tam-muội như huyễn của Bồ-tát? Vì trụ Tam-muội này thì Bồ-tát có thể biến hiện khắp tất cả không chỗ nào là không vào, tâm không trụ một chỗ nào. Sao gọi là Bồ-tát ngang bằng Tam-muội? Vì Bồ-tát đối với Tam-muội không mong cầu. Sao gọi là Bồ-tát có thể giáo hóa chúng sinh? Tùy theo gốc đức đã tạo và việc làm của họ mà khai hóa. Đại Bồ-tát dùng sự chí thành để hộ trì thân mình, tùy theo chúng sinh mà khai hóa, cứu độ họ. Sao gọi là Bồ-tát chí thành? Tự nhiên có sự khuyến phát muốn độ thoát tất cả chúng sinh. Sao gọi là Bồ-tát chắc chắn có thể đạt được chí nguyện? Vì Bồ-tát thường đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật. Sao gọi là âm thanh mà Bồ-tát phát ra, chư Thiên, Long thần và Kiền-đạp-hòa nghe âm thanh ấy đều hiểu được mà làm theo sự giáo hóa? Vì có đại Từ bi nhuận khắp trong âm thanh đó. Sao gọi là Bồ-tát nhập vào bào thai? Đại Bồ-tát đời đời sinh ra mà không chỗ sinh. Sao gọi là Bồ-tát ở vị tôn quý? Bồ-tát sinh ra ở chủng tánh nào thì có thể giáo hóa chủng tánh ấy. Sao gọi là Bồ-tát chỗ sinh ra đầy đủ? Giả sử Bồ-tát ở dòng Quân tử, ở dòng Phạm chí, ở dòng Cư só thì có thể khuyến hóa dòng đó. Sao gọi là Bồ-tát ở dòng tôn quý? Vì ngang bằng dòng của chúng Bồ-tát quá khứ, không sai khác. Sao gọi là Bồ-tát đầy đủ quyến thuộc? Vì các quyến thuộc theo làm thị giả Bồ-tát không thiếu. Sao gọi là cõi nước của Bồ-tát nghiêm tịnh? Vì khi mới sinh ánh sáng chiếu sáng vô số thế giới. Ai nhờ ánh sáng đó đều được an ổn. Sao gọi là Bồ-tát bỏ nước, bỏ nhà? Khi Đại Bồ-tát bỏ nhà học đạo, giáo hóa vô số ức trăm ngàn người đi theo, có thể khiến cho họ an lập ở ba thừa. Sao gọi là Bồ-tát đến cây Bồ-đề? Cây ấy, gốc, thân, cành, lá, hoa, quả đều là bảy báu, màu vàng tía, chiếu vô số cõi Phật trong mười phương đều chói sáng. Đó là Bồ-tát đi đến cây Bồ-đề nghiêm tịnh. Sao gọi là Bồ-tát đầy đủ tất cả danh đức? Giả sử Bồ-tát thanh tịnh thì cõi Phật cũng thanh tịnh. Đó là Bồ-tát đầy đủ danh đức. Sao gọi là Bồ-tát trụ mười địa thành Như Lai? Đại Bồ-tát đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật, chứng đắc trí Nhất thiết, dứt trừ trần lao, không có chướng ngại thì đó là Bồ-tát trụ mười địa thành Như Lai. Này Tu-bồ-đề! Như thế là Đại Bồ-tát dùng phương tiện thiện xảo hành sáu pháp Ba-la-mật, Ý chỉ, Ý đoạn, Thần túc, Căn, Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo, ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật, tịch nhiên lìa kiến, hiện nhập chủng tánh địa Bát đẳng, nếu có nơi chốn thì lìa địa Dục, địa Sở tác biện, lìa địa Thanh văn, Bích-chi-phật, địa Bồ-tát. Đó là Đại Bồ-tát vào trụ thứ chín ở Phật địa. Đó là Đại Bồ-tát hành trụ thứ mười. Đó là Đại Bồ-tát không thoái chuyển. KINH QUANG TÁN <卷 id="81581570">QUYỂN 8 <詞 id="81581571">Phẩm 19: Sở Nhân Xuất Diễn Đức Phật bảo Tu-bồ-đề: –Như lời ông hỏi, thừa phát xuất từ đâu? Thừa trụ nơi nào? Ai là người thành tựu thừa? Từ ba cõi sinh, trụ trí Nhất thiết. Nếu có cái vốn không sinh thì không có khởi thủy sẽ sinh. Vì sao? Vì Đại thừa, trí Nhất thiết, hai pháp này là pháp không hợp cũng không tan, không sắc, không thấy, không có thủ, xả, chỉ có một tướng tức là vô tướng. Vì sao? Vì pháp vô tướng ấy không chỗ xuất sinh, pháp có sinh là muốn làm cho pháp giới xuất sinh. Pháp vô tướng đó mà có sinh là muốn làm cho cái vốn không xuất sinh. Pháp vô tướng ấy không sinh mà muốn làm cho sinh tức là muốn khiến cho chân bản tế sinh. Nếu muốn khiến cho pháp vô tướng xuất sinh tức khiến cho pháp giới chẳng thể nghó bàn xuất sinh, muốn khiến cho pháp vô tướng sinh tức là muốn khiến cho sự chuyên tinh tu hành xuất sinh. Muốn khiến cho pháp vô tướng sinh tức là muốn khiến cho “đoạn giới” xuất sinh. Này Tu-bồ-đề! Nói tóm lại, tức là muốn khiến cho “Ly dục giới” sinh. Muốn khiến cho pháp vô tướng sinh tức là muốn khiến cho “Diệt độ giới” sinh. Này Tu-bồ-đề! Đó là muốn khiến cho pháp không tịch nhiên không xuất sinh. Nếu muốn khiến cho pháp vô tướng của sắc, thọ, tưởng, hành, thức xuất sinh tức là muốn khiến cho pháp hữu tướng xuất sinh. Vì sao? Vì sắc tức là không, từ ba cõi sinh, trụ ở trí Nhất thiết. Thọ, tưởng, hành, thức cũng không có tức là rỗng không, từ ba cõi sinh, trụ trí Nhất thiết, tức là không chỗ trụ. Vì sao? Vì nếu hiểu sắc tức là không, hiểu thọ, tưởng, hành, thức tức là không, nhãn, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý cũng là không là muốn khiến cho xuất sinh thì tức là muốn khiến cho hư không xuất sinh. Nhãn sắc thức, nhó thanh thức, tỷ hương thức, thiệt vị thức, thân xúc thức, ý pháp thức, mười tám loại nhân duyên vừa nêu đó tức là không, không muốn khiến cho xuất sinh tức là muốn khiến cho pháp vô tướng sinh. Vì sao? Này Tu-bồ-đề! Vì cái mà mắt trông thấy đều là không, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý cũng như vậy đều là không. Này Tu-bồ-đề! Ba cõi là không, cái mà mắt trông thấy cũng là không, từ ba cõi sinh, trụ trí Nhất thiết tức không chỗ trụ. Sáu tình cũng không, từ ba cõi sinh, trụ trí Nhất thiết tức không chỗ trụ. Sự thọ nhận và tạo tác của sáu tình đều là không, không có tướng, nếu muốn khiến cho sinh tức là muốn khiến cho mộng huyễn xuất sinh. Vì sao? Vì mộng huyễn, trăng dưới nước, cây chuối, cảnh ảo, tiếng vang trong núi sâu thảy đều tự nhiên. Việc tự nhiên là sự giáo hóa của Như Lai. Ba cõi tự nhiên tức là không có chỗ sinh, trí Nhất thiết thì không chỗ trụ. Vì sao? Này Tu-bồ-đề, như mộng tự nhiên thì không sở hữu. Việc huyễn hóa cũng là như thế. Này Tu-bồ-đề! Nếu muốn Thí ba-la-mật, Giới ba-la-mật, Nhẫn ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Thiền ba-la-mật, Bát-nhã ba-la-mật xuất sinh tức là muốn khiến cho pháp vô tướng xuất sinh. Vì sao? Này Tu-bồ-đề! Vì sáu pháp Ba-la-mật đều tự nhiên, từ ba cõi sinh, trí Nhất thiết không chỗ trụ. Vì sao? Này Tu-bồ-đề! Vì sáu pháp Ba-la-mật tức là tự nhiên. Cái tự nhiên ấy tức là không. Nếu muốn khiến cho pháp vô tướng sinh tức là muốn khiến cho pháp nội không, pháp ngoại không, pháp không hữu, pháp không vô, pháp không gần, pháp không xa, pháp không chân thật xuất sinh. Vì sao? Này Tu-bồ-đề! Vì bảy pháp không ấy tức là tự nhiên. Vì tự nhiên nên từ ba cõi sinh, trí Nhất thiết thì không chỗ trụ. Vì sao? Này Tu-bồ-đề! Vì bảy pháp không là tự nhiên cho nên gọi là không, vì không là không. Này Tu-bồ-đề! Nếu muốn khiến cho pháp vô tướng sinh tức là muốn khiến cho bốn Ý chỉ, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo. Vì sao? Vì đều là tự nhiên không, do ba cõi sinh, trí Nhất thiết không chỗ trụ. Này Tu-bồ-đề! Nếu muốn khiến cho ba mươi bảy phẩm xuất sinh tức là muốn khiến cho pháp vô tướng sinh. Vì sao? Này Tu-bồ-đề! Vì ba mươi bảy phẩm tức là tự nhiên, chẳng sinh từ ba cõi, trí Nhất thiết thì không chỗ trụ. Vì sao? Vì ba mươi bảy phẩm là tự nhiên không, vì rỗng không cho nên gọi là không. Này Tu-bồ-đề! Nếu muốn khiến cho mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật đều là tự nhiên không, vì không cho nên gọi là không. Nếu muốn khiến cho Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi-phật, cho đến Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác sinh tức là muốn khiến cho pháp vô tướng sinh. Vì sao? Này Tu-bồ-đề! Vì ba thừa ấy lại cũng tự nhiên, chẳng xuất ra từ ba cõi, trí Nhất thiết thì không chỗ trụ. Vì sao? Vì A-la-hán tức là tự nhiên, vì tự nhiên cho nên không, nên gọi là không. Như Lai tức là tự nhiên, vì tự nhiên cho nên rỗng không, nên gọi là không. Này Tu-bồ-đề! Nếu muốn khiến cho danh hiệu sinh tức là muốn khiến cho pháp vô tướng sinh; Không, Vô tướng, Vô nguyện cũng giống như thế. Nếu muốn khiến cho nhân duyên, ngôn từ sinh tức là muốn khiến cho pháp vô tướng sinh. Vì sao? Này Tu-bồ-đề! Cái danh hiệu ấy là không, chẳng sinh từ ba cõi, trí Nhất thiết không có chỗ trụ. Vì sao? Vì danh hiệu là rỗng không, vì danh hiệu là rỗng không cho nên gọi là không. Nhân duyên ngôn từ, các xứ sở đều là không, các pháp xứ rỗng không cho nên gọi là không. Nếu muốn khiến cho không chỗ sinh tức là muốn khiến cho pháp vô tướng sinh. Vì sao? Vì pháp vô tướng là không, không có xứ sở, xứ sở là không cho nên gọi là không. Nếu muốn khiến cho không diệt, không tưởng, không trần, không sân, không sở hữu sinh tức là muốn khiến cho pháp vô tướng sinh. Vì sao? Vì các pháp này là không, vì không cho nên gọi là không. Danh hiệu, nhân duyên, ngôn từ, xứ sở, ba mươi bảy phẩm, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật cũng giống như thế. Này Tu-bồ-đề! Vì vậy cho nên, Đại thừa từ ba cõi sinh là không chỗ sinh, sinh trí Nhất thiết, sinh cũng không chỗ sinh, không có chỗ động. Lại như Tu-bồ-đề hỏi, trụ ở nơi nào? Tâm không chỗ trụ, thừa không có chỗ. Vì sao? Vì không chỗ trụ. Tất cả các pháp cũng không chỗ trụ. Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Chỗ trụ của thừa là trụ không chỗ trụ. Pháp giới ấy cũng không chỗ trụ, trụ không chỗ trụ. Thừa cũng như thế, trụ không chỗ trụ. Như trên, hư không không chỗ chuyển đổi, thừa cũng như thế, trụ không chỗ trụ. Lại nữa, ví như vô sinh trụ không chỗ trụ, thừa cũng như vậy, trụ không chỗ trụ. Ví như không diệt, không trần, không sân và không sở hữu, trụ không chỗ trụ, thừa cũng như vậy, trụ không chỗ trụ. Vì sao? Vì pháp giới tự nhiên, trụ không chỗ trụ. Vì sao? Pháp giới tự nhiên, vì tự nhiên nên tự nhiên là không và cùng bảy không đều không sở hữu, tự nhiên là không, không không có sở hữu cho nên gọi là không. Này Tu-bồ-đề! Vì vậy, thừa không chỗ trụ, trụ không chỗ trụ nên không động chuyển. Tu-bồ-đề hỏi là trụ từ chỗ nào để thành tựu thừa? Thừa không chỗ sinh. Vì sao? Vì không có cái từ trong sinh ra, không có cái đầu mối sinh ra. Tất cả các pháp đều không sở hữu, vì vậy nên không có. Tất cả các pháp cũng như thế thì có pháp nào sẽ sinh. Vì sao? Vì ngã, nhân, thọ mạng cũng giống như thế, cũng không có như, cũng không sở kiến, cũng không sở đắc, xưa nay thanh tịnh. Vì vậy ngã, nhân, thọ mạng, như, kiến, pháp giới đều chẳng thể nắm bắt được, xưa nay đều không. Vì vậy, Như Lai cũng chẳng thể nắm bắt được. Cái bản tế ấy, cũng chẳng thể nắm bắt được, xưa nay đều thanh tịnh. Vì vậy, các cảnh giới chẳng thể nghó bàn, đều chẳng thể nắm bắt được, xưa nay đều thanh tịnh. Vì vậy, ấm, chủng, các nhập đều chẳng thể nắm bắt được, xưa nay đều thanh tịnh. Sáu pháp Ba-la-mật đều chẳng thể nắm bắt được, xưa nay đều thanh tịnh. Vì vậy, bảy không cũng chẳng thể nắm bắt được, xưa nay đều thanh tịnh. Ý chỉ, Ý đoạn, Thần túc, Căn, Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo, ba mươi bảy phẩm, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật, cũng chẳng thể nắm bắt được, xưa nay đều thanh tịnh. Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi-phật cho đến Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, đều chẳng thể nắm bắt được, xưa nay đều thanh tịnh. Pháp ba thừa, trí Nhất thiết, chẳng thể nắm bắt được, xưa nay đều thanh tịnh. Cái không có sinh đó chẳng thể nắm bắt được, xưa nay đều thanh tịnh. Không diệt, không trần, không sân, không tranh, các cái không sở hữu và các sở hữu, đều chẳng thể nắm bắt được, xưa nay đều thanh tịnh. Các việc quá khứ, vị lai, hiện tại, sự qua lại, chỗ ở, chỗ dừng, chỗ sinh, đều chẳng thể nắm bắt được, xưa nay đều thanh tịnh. Sự tăng thêm, sự tổn giảm, đều chẳng thể nắm bắt được, xưa nay đều thanh tịnh. Ai là người sẽ đạt được cái chẳng thể nắm bắt? Cái pháp giới ấy cũng chẳng thể đạt được, không có ai đạt được. Vì sao? Vì muốn đạt được pháp giới thì cũng chẳng thể nắm bắt được. Nếu cầu A-la-hán, Bích-chi-phật, Như Lai mà muốn đắc pháp này thì đều chẳng thể nắm bắt được. Nếu có người muốn đắc ba mươi bảy phẩm, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật thì cũng chẳng thể nắm bắt được, không ai có thể đạt được. Nếu có người muốn đạt được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác đều chẳng thể nắm bắt được; bản tế đều không, chẳng thể nắm bắt được. Sáu pháp Ba-la-mật và bảy Không cũng lại như thế, đều chẳng thể nắm bắt được. Hễ không chỗ sinh thì cũng không chỗ diệt; không trần, không sân, không sở hữu, đều chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì quán sát một cách chân chánh thì đều không sở hữu, đều chẳng thể nắm bắt được. Ai muốn đạt được trụ thứ nhất thì cũng chẳng có thể nắm bắt được, cho đến trụ thứ mười cũng chẳng thể nắm bắt được, xưa nay thanh tịnh. Chỗ nào có trụ thứ nhất? Nếu ai thanh tịnh quán sát và thị hiện địa chủng tánh Bát đẳng là địa Sở hữu, địa Ly dục, địa Sở tác biện, địa Bích-chi-phật, địa đạo Bồ-tát, địa Chánh đẳng giác và địa Đệ nhất thì đều chẳng thể nắm bắt được. Bảy pháp không ấy, chẳng thể nắm bắt được. Xét pháp nội không cho đến mười trụ đều chẳng thể nắm bắt được. Bảy không, mười trụ đều không sở hữu, đều chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Này Tu-bồ-đề, trụ thứ nhất ấy chỉ có danh tự mà thôi, thì chẳng thể nắm bắt được. Cho đến trụ thứ mười cũng giống như thế, giả sử có sở đắc thì cũng chẳng thể nắm bắt được, xưa nay thanh tịnh. Vì chúng sinh nên giảng thuyết pháp nội không chẳng thể nắm bắt được; tất cả chúng sinh cũng chẳng thể nắm bắt được; vì chúng sinh nói việc bảy phẩm không, điều mà có thể nói đó đều chẳng thể nắm bắt được, xưa nay thanh tịnh. Vì pháp nội không nên cõi Phật thanh tịnh, đều không có sở đắc. Bảy không là tự nhiên, tự nhiên là không cho nên cõi Phật thanh tịnh đều chẳng thể nắm bắt được, xưa nay thanh tịnh. Vì vậy pháp nội không và năm nhãn đều chẳng thể nắm bắt được, đều không sở hữu tự nhiên, tự nhiên không là năm nhãn ấy, đều không xứ sở, xưa nay thanh tịnh. Này Tu-bồ-đề! Vì vậy, Đại Bồ-tát đối với tất cả đều không sở đắc, tức là đạt đến sự thành tựu trí Nhất thiết không thoái chuyển Đại thừa.  <詞 id="81581572">Phẩm 20: Vô Khứ Lai Bấy giờ Hiền giả Tu-bồ-đề bạch Phật: –Bạch Đức Thiên Trung Thiên! Cái gọi là Đại thừa đó là ý nghóa hướng đến của Đại thừa. Ở trên cõi trời, trong cõi người thế gian nó là tôn quý hơn hết, không ai là không quy ngưỡng thừa và không bình đẳng. Thí như hư không dung chứa, che chở vô lượng, vô số người, không ai là không được che chở. Bạch Đức Thiên Trung Thiên! Đại thừa cũng giống như vậy, Đại Bồ-tát che chở vô số người chẳng thể tính đếm, đều nhờ đó mà được độ. Đại thừa là khi đến chẳng thấy, lúc đi chẳng hay, chẳng thấy ở đâu. Bạch Đức Thiên Trung Thiên! Như thế Đại thừa là chẳng thấy ở quá khứ, vị lai, hiện tại, cũng không thấy ở trung gian, cũng không sở đắc. Tên của nó ngang bằng ba cõi, cho nên gọi là thừa và vì vậy cho nên là Đại thừa. Bấy giờ Thế Tôn bảo Tu-bồ-đề: –Đúng vậy, đúng vậy! Cái gọi là Đại thừa đó là sáu pháp Ba-la-mật: Thí ba-la-mật, Giới ba-la-mật, Nhẫn ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Thiền ba-la-mật, Bát-nhã ba-la-mật của Đại Bồ-tát. Này Tu-bồ-đề! Đó là Đại thừa của Đại Bồ-tát. Lại nữa, Tu-bồ-đề! Đại thừa của Đại Bồ-tát đó là tất cả các môn Đà-la-ni, các môn Tam-muội, Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm, Tam-muội không đẳng, Tam-muội Giải thoát, Tam-muội Vô trước, Tam-muội Tịch tónh. Đó là Đại thừa của Đại Bồ-tát. Lại nữa, Tu-bồ-đề! Đại thừa của Đại Bồ-tát là hiểu rõ bảy không, ba mươi bảy phẩm, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật. Đó là Đại thừa của Đại Bồ-tát. Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Nói là Đại thừa là vì trên cõi trời và dưới chốn nhân gian, nó là tối thượng không ai là không quy ngưỡng. Này Tu-bồ-đề! Ví như cõi Dục vốn không nhưng không vốn không, nó là pháp bình đẳng không có khác, chẳng thể phân biệt, không có điên đảo, thành thật tự nhiên, lâu dài vững chắc, không có phân ly, không hợp, không tan, chưa từng có mặt. Đó là Đại thừa, trên cõi trời, dưới nhân gian không ai là không quy ngưỡng. Này Tu-bồ-đề! Giả sử khi tiếp tận thiêu đốt, Bồ-tát sẽ thị hiện giáo hóa tất cả, khiến biết vô thường, không có dài lâu, không vững chắc, đều không sở hữu. Vì vậy, Đại thừa, ở trên cõi trời, dưới chốn nhân gian, là tôn quý không ai là không quy ngưỡng. Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Cõi Dục cũng như thế, như nhau không có khác, là pháp không có điên đảo, thành thật tự nhiên, lâu dài vững chắc, không có biệt ly, không có nhân duyên, không sở hữu, không bao giờ sở hữu. Đó là Đại thừa, trên cõi trời, dưới nhân gian, là tôn quý hơn hết. Này Tu-bồ-đề! Giả sử, cõi Dục có tưởng thì là vô thường, điên đảo, hiện bị phá hoại, tất cả đều là pháp vô thường, không có lâu dài, chẳng thể vững chắc, biệt ly, không sở hữu. Này Tu-bồ-đề! Vì vậy, Đại thừa ở cõi trời, chốn nhân gian đối với cõi Vô sắc cũng giống như thế. Này Tu-bồ-đề! Giả sử các sắc vốn không, đều không sở hữu, cũng giống như thế, như nhau không sai khác là pháp không có điên đảo, thành thật tự nhiên, lâu dài vững chắc, không biệt ly. Nó không có, chẳng thể làm cho có. Đó là Đại thừa, trên cõi trời, dưới nhân gian, nó là tôn quý hơn hết. Này Tu-bồ-đề! Giả sử đối với sắc có niệm tưởng nên đáng lẽ thanh tịnh thì lại bị điên đảo, khiến cho đầy dẫy, đều là pháp vô thường, không có dài lâu, chẳng được vững chắc, biệt ly, không sở hữu. Vì vậy, đối với Đại thừa, sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng giống như thế. Nhãn, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý như nhau không có khác. Nhãn sắc thức, nhó thanh thức, tỷ hương thức, thiệt vị thức, thân xúc thức, ý pháp thức như nhau không khác, đều không sở hữu, có thể phân biệt, chí thành, chân thật. Nếu chấp có thường, lâu dài bền vững thì chẳng phải là Đại thừa vì tập theo sáu việc, tâm có tưởng niệm, nhân duyên tạo tác, mê hoặc cầu nhiều, để tự no đủ. Tất cả pháp ấy đều vô thường, không có tồn tại lâu dài, chẳng thể vững chắc. Vì vậy, trên cõi trời, dưới nhân gian, Đại thừa là tôn quý hơn hết. Này Tu-bồ-đề! Giả sử sở hữu của pháp giới đều không sở hữu thì đó là Đại thừa, trên cõi trời, dưới nhân gian, nó là tôn quý hơn hết, vững chắc không có chỗ sinh. Này Tu-bồ-đề! Như sở hữu của pháp giới đều không sở hữu, hành không sở hữu. Vì vậy, trên cõi trời, dưới nhân gian, Đại thừa là tôn quý hơn hết. Này Tu-bồ-đề! Giả sử sở hữu hiện có của Như Lai đều không sở hữu, cái sở hữu của cảnh giới chân bản tế chẳng thể nghó bàn ấy đều không sở hữu, thì đó là Đại thừa. Trên cõi trời, dưới nhân gian, nó là tôn quý hơn hết. Này Tu-bồ-đề! Giả sử cái sở hữu của các cảnh giới chẳng thể nghó bàn đều không sở hữu thì đó là Đại thừa. Trên cõi trời, dưới nhân gian, nó là tôn quý hơn hết. Này Tu-bồ-đề! Giả sử sở hữu của sáu pháp Ba-la-mật đều không sở hữu, cũng lại không không, thì đó là Đại thừa. Này Tu-bồ-đề! Giả sử pháp nội không chẳng có, chẳng không, tự nhiên, rỗng không, chẳng có, chẳng không, thì đó là Đại thừa. Này Tu-bồ-đề! Vì vậy, pháp nội không ấy tự nhiên không có, có rồi không, chẳng có, chẳng không, cho nên gọi là Đại thừa. Này Tu-bồ-đề! Giả sử ba mươi bảy phẩm, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật chẳng có, chẳng không, cũng chẳng không không, thì đó là Đại thừa. Này Tu-bồ-đề! Giả sử pháp chủng tánh ấy chẳng có chẳng không, vì pháp chủng tánh chẳng có chẳng không, cũng chẳng không không, thì đó là Đại thừa. Này Tu-bồ-đề! Giả sử pháp Bát đẳng ấy chẳng có chẳng không, pháp Tu-đà-hoàn, pháp Tư-đà-hàm, pháp A-na-hàm, pháp A-la-hán, pháp Bích-chi-phật, pháp chư Phật chẳng có, chẳng không, vì chẳng có chẳng không, cũng chẳng không không, thì đó là Đại thừa. Này Tu-bồ-đề! Giả sử pháp Bát đẳng ấy và chư Phật chẳng có, chẳng không, cũng chẳng không không, thì đó là Đại thừa. Này Tu-bồ-đề! Vì các chủng tánh chẳng có chẳng không, cũng chẳng không không, vì các Bát đẳng chẳng có chẳng không, cũng chẳng không không. Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi-phật, cho đến Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng có chẳng không, cũng chẳng không không, cho nên đó là Đại thừa. Này Tu-bồ-đề! Vì muốn biết các Bát đẳng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng có chẳng không, cũng chẳng không không cho nên gọi là Đại thừa. Này Tu-bồ-đề! Giả sử chư Thiên, loài người, A-tu-luân trong thế gian chẳng có chẳng không, cũng chẳng không không, vì chư Thiên, loài người, A-tu-luân trong thế gian chẳng có, chẳng không, cũng chẳng không không cho nên là Đại thừa. Này Tu-bồ-đề! Giả sử Đại Bồ-tát từ khi mới phát ý cho đến khi ngồi gốc Bồ-đề tại đạo tràng, trong khoảng trung gian phát tâm chẳng có, chẳng không, cũng chẳng không không thì, này Tu-bồ-đề, đó là Đại thừa. Này Tu-bồ-đề! Giả sử Đại Bồ-tát trí tuệ giống như kim cương chẳng có, chẳng không, cũng chẳng không không, thì đó là Đại Bồ-tát hiểu rõ, thấy rõ tất cả các chướng ngại và các trần lao, đắc trí Nhất thiết. Này Tu-bồ-đề! Vì Đại Bồ-tát rõ các chướng ngại, tất cả trần lao đều không có sở hữu nên đắc trí Nhất thiết, cho nên gọi là Đại thừa. Này Tu-bồ-đề! Giả sử Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, ba mươi hai tướng đại nhân của Ngài chẳng có, chẳng không không, cũng chẳng không không, vì vậy cho nên Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, ở trên cõi trời, dưới chốn nhân gian, là bậc Tôn quý hơn hết, oai thần thánh đức, ánh sáng vi diệu, không đâu là không chiếu đến, không có gì sánh bằng. Vì vậy Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác oai thần rạng rỡ, Thánh đức quang minh chiếu hằng hà sa thế giới chư Phật ở mười phương và chư Thiên trên cõi trời, loài người chốn nhân gian, các A-tu-luân, ánh sáng đều soi khắp, vì chẳng có, chẳng không, cũng chẳng không không, cho nên Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ánh sáng chiếu hằng hà sa thế giới mười phương. Lại nữa, Tu-bồ-đề! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có tám bộ âm thanh chẳng có, chẳng không, cũng chẳng không không, vì vậy cho nên âm thanh của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác truyền khắp vô số vô lượng thế giới trong mười phương. Tám bộ âm thanh của Như Lai chẳng có, chẳng không, cũng chẳng không không, cho nên có tám loại âm thanh truyền khắp vô lượng thế giới chẳng thể tính đếm được trong mười phương. Lại nữa, Tu-bồ-đề! Sự chuyển pháp luân của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng có, chẳng không, cũng chẳng không không, đó là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chuyển pháp luân. Sa-môn, Bà la môn, các chúng Phạm thiên, trên cõi trời, dưới chốn nhân gian không ai có thể làm được, đều khiến đúng như pháp, đều đúng căn cơ. Vì vậy, Như Lai chuyển pháp luân, Sa-môn, Bà-la-môn trên cõi trời, con người dưới chốn nhân gian không ai có thể làm được. Lại nữa, Tu-bồ-đề! Tất cả chúng sinh chẳng có, chẳng không, cũng chẳng không không, vì vậy Như Lai thường chuyển pháp luân, khiến cho các chúng sinh chẳng đạt đến cảnh giới Niết-bàn vô dư. Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Các chúng sinh này chẳng có, chẳng không, cũng chẳng không không. Rõ như thế rồi, Như Lai chuyển pháp luân, vì vậy chúng sinh đạt đến cảnh giới vô dư, ở cảnh giới Niết-bàn mà nhập Niết-bàn.  <詞 id="81581573">Phẩm 21: Diễn Dữ không Đức Phật bảo Tu-bồ-đề: –Như lời ông nói thì thừa và không bình đẳng. Đúng thế, đúng thế! Quả đúng như lời ấy. Thừa với không bình đẳng. Thí như hư không, chẳng thể tính biết số dặm ở phương Đông, phương Nam, phương Tây, phương Bắc, bốn góc, trên, dưới, cũng chẳng thể biết, không xa, không gần, không có giới hạn. Trí tuệ của Như Lai cũng vậy, chẳng thể cùng tận tám phương, trên dưới, không có giới hạn, không có xa gần, trí tuệ chẳng thể cùng tận. Ví như hư không không dài, không ngắn, không có góc cạnh, không tăng không giảm, trí tuệ của Như Lai cũng như thế, không dài, không ngắn, chẳng tròn, chẳng vuông, chẳng tăng, chẳng giảm. Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Ví như hư không không có quá khứ, vị lai, hiện tại. Thừa cũng như vậy, không có quá khứ, vị lai, hiện tại. Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Ví như hư không không thể tăng, không thể giảm, thừa cũng như vậy, chẳng tăng, chẳng giảm. Cho nên nói thừa cùng với không bình đẳng. Lại nữa, Tu-bồ-đề! Ví như hư không không có trần lao, không có sân hận, không có tăng, cũng không có giảm, cũng không chỗ trụ, cũng chẳng phải không trụ, cũng không chỗ nghó, thừa cũng như vậy. Cho nên nói thừa cùng với không bình đẳng. Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Ví như hư không không có thiện ác, không có ngôn từ, cũng chẳng phải không ngôn từ, thí như hư không không thấy, không nghe, không nghó, không biết, thừa cũng như vậy. Vì vậy, nói thừa cùng hư không bình đẳng. Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Ví như hư không cũng không có khác, cũng chẳng phải không khác, cũng không chỗ đoạn, cũng không chỗ trừ, cũng không chỗ chứng đắc, thừa cũng như vậy. Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Ví như hư không không có pháp dục, chẳng lìa pháp dục, không có pháp sân hận, chẳng lìa pháp sân hận, không có pháp ngu si, chẳng lìa pháp ngu si, thừa cũng như vậy. Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Ví như hư không chẳng cùng cõi Dục phối hợp, chẳng cùng cõi Sắc, cõi Vô sắc phối hợp, cũng chẳng lìa ba cõi, thừa cũng như vậy. Lại nữa, Tu-bồ-đề! Ví như hư không không có phát ý ban đầu từ trụ thứ nhất, thừa cũng như vậy, không có mười trụ. Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Ví như hư không không có thanh, trược, không chỗ quán thấy, không có xứ sở, không có địa chủng tánh, không có địa Bát đẳng, không có địa Thị hiện, không có địa Ngã sở, không có địa Sở dục, không có địa Sở tác bất tác, thừa cũng như vậy. Lại nữa, Tu-bồ-đề! Ví như hư không, không có quả Tu-đà-hoàn, không có quả Tư-đà-hàm, không có quả A-na-hàm, không có quả A-la-hán, thừa cũng như vậy. Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Thí như hư không, không có địa Thanh văn, không có địa Bích-chi-phật, không có địa Chánh đẳng giác, thừa cũng như vậy. Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Ví như hư không, không có hình dạng, cũng chẳng phải không hình, cũng không có thấy, cũng chẳng phải không thấy, không nhận không xả, không hợp không tan, thừa cũng như vậy. Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Ví như hư không, không có thường, cũng chẳng phải không thường, không khổ, không vui, không ngã, chẳng ngã, thừa cũng như vậy. Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Ví như hư không, không có không, cũng không có chẳng phải không, không có khác không, cũng có tướng, cũng chẳng phải không tướng, cũng không có nguyện, cũng chẳng phải không nguyện, thừa cũng như vậy. Cho nên nói thừa cùng không bình đẳng. Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Ví như hư không, không có vắng lặng, cũng chẳng phải không vắng lặng, không có buồn, cũng chẳng phải không buồn, thừa cũng như vậy. Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Ví như hư không, không có ánh sáng, cũng không có bóng tối, thừa cũng như vậy. Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Ví như hư không, không chỗ đạt đến, cũng chẳng phải không đạt, thừa cũng như vậy. Vì vậy nên nói thừa cùng với không bình đẳng. Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Ví như hư không, không ngôn không thuyết, cũng chẳng phải không ngôn, thừa cũng như vậy. Vì vậy cho nên nói thừa cùng với không bình đẳng. Này Tu-bồ-đề! Vì vậy hư không bình đẳng, thừa cũng bình đẳng, như lời Tu-bồ-đề nói, thí như hư không, không có giới hạn phủ che vô số người không thể tính kể, thừa cũng như vậy, làm an lạc vô số người chẳng thể tính kể. Này Tu-bồ-đề! Như thế, thí như hư không phủ che vô số người, chẳng thể tính đếm, thừa cũng như vậy, hộ trì vô số người chẳng thể tính đếm. Ví như hư không chẳng thể nắm bắt được cái hữu không vì không có, Đại thừa cũng như thế. Này Tu-bồ-đề! Vì vậy, Đại thừa làm an lạc, hộ trì cho vô số người. Vì sao? Vì con người, hư không và Đại thừa, tất cả pháp này, hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được. Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Con người chẳng thể tính đếm, không cũng chẳng thể tính đếm, hư không cũng chẳng thể tính đếm, Đại thừa cũng chẳng thể tính đếm. Vì vậy, nên Đại thừa che chở vô số người chẳng thể tính đếm. Vì sao? Này Tu-bồ-đề! Vì con người cùng hư không và Đại thừa đều chẳng thể tính đếm, đều chẳng thể nắm bắt được. Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Vì chẳng thể tính đếm, nên Đại thừa che chở hộ trì vô số người chẳng thể tính đếm. Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Con người không sở hữu, pháp cũng không sở hữu, tất cả các pháp cũng không sở hữu, cho nên nói hư không cũng không sở hữu. Người cùng hư không và Đại thừa đều không sở hữu, vô số không sở hữu, vô lượng không sở hữu, không có bờ đáy không sở hữu. Vì vậy nên Đại thừa che chở hộ trì vô số người chẳng thể tính đếm. Vì sao? Vì pháp giới chúng sinh cùng Đại thừa và vô số chẳng thể hạn lượng, không có bờ đáy, đều chẳng thể nắm bắt được. Lại nữa, nàyTu-bồ-đề! Con người không sở hữu, Như Lai cũng không sở hữu, hư không cũng không sở hữu, Đại thừa cũng không sở hữu, vô số cũng không sở hữu, chẳng thể tính đếm cũng không sở hữu, không đáy cũng không sở hữu, tất cả các pháp cũng không sở hữu. Này Tu-bồ-đề! Vì vậy, Đại thừa vì vô số người chẳng thể tính đếm hạn lượng, thiết lập sự ủng hộ. Vì sao? Vì Như Lai, hư không, chúng sinh, Đại thừa, vô số, chẳng thể tính đếm, không có bờ đáy đều chẳng thể nắm bắt được. Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Tôi ta không sở hữu, cái biết, cái thấy cũng không sở hữu, bản tế không sở hữu, nên hiểu là bản tế không sở hữu cho đến chẳng thể tính đếm và vô lượng, vô số cũng không sở hữu, vì không sở hữu nên tất cả các pháp cũng không sở hữu. Vì vậy cho nên Đại thừa che chở hộ trì vô số vô lượng người chẳng thể tính đếm. Vì sao? Này Tu-bồ-đề! Cái biết, cái thấy của tất cả chúng sinh và bản tế đến vô lượng, vô số chẳng thể tính đếm đều chẳng thể nắm bắt được. Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Tôi ta và con người đều không sở hữu, cái biết, cái thấy cũng không sở hữu, cảnh giới chẳng thể nghó bàn cũng không sở hữu, sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng không sở hữu, hư không cũng không sở hữu, Đại thừa cũng không sở hữu, vô số cũng không sở hữu, chẳng thể tính đếm cũng không sở hữu, vô ương số cũng không sở hữu, tất cả các pháp cũng không sở hữu, cho nên Đại thừa che chở hộ trì cho vô số người chẳng thể tính đếm. Vì sao? Này Tu-bồ-đề! Vì như tôi ta, tất cả các pháp đều chẳng thể nắm bắt được. Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Tôi ta và con người đều là hư không, cái biết, cái thấy cũng là hư không, nhãn cũng là hư không, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý cũng là hư vô, vì hư không, hư vô cũng hư vô, vì không hư vô nên Đại thừa cũng hư vô, vì cả hai hư vô nên vô số, vô ương số, chẳng thể tính đếm cũng lại hư vô, vì chẳng thể tính đếm hư vô nên tất cả các pháp cũng lại là hư vô. Vì vậy nên Đại thừa che chở vô số người chẳng thể tính đếm. Vì sao? Này Tu-bồ-đề, tôi ta và con người, tất cả các pháp đều chẳng thể nắm bắt được. Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Tôi ta không sở hữu, cái biết, cái thấy cũng không sở hữu. Vì cái biết, cái thấy không sở hữu, nên Thí ba-la-mật cũng không sở hữu. Giới ba-la-mật, Nhẫn ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Thiền ba-la-mật, Bát-nhã ba-la-mật cũng không sở hữu. Vì Bát-nhã ba-la-mật không sở hữu nên hư không cũng không sở hữu, Đại thừa cũng không sở hữu. Vì vậy nên Đại thừa che chở hộ trì vô lượng, vô số người chẳng thể tính đếm. Vì sao? Này Tu-bồ-đề, tôi ta và thọ, tất cả các pháp đều chẳng thể nắm bắt được. Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Tôi ta và con người không sở hữu, cái biết của thế gian, pháp nội không, pháp ngoại không, pháp không gần, pháp không xa, pháp chân không, pháp sở hữu không cũng không sở hữu. Vì bảy chẳng không có nên hư không cũng không sở hữu, Đại thừa cũng không sở hữu, vô ương số, vô lượng chẳng thể tính đếm, cũng không sở hữu, tất cả các pháp cũng không sở hữu. Vì vậy nên Đại thừa che chở hộ trì vô lượng, vô số người chẳng thể tính đếm. Vì sao? Vì ngã, con người, thọ, tất cả các pháp đều chẳng thể nắm bắt được. Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Tôi ta, con người, tri kiến đều không sở hữu. Ý chỉ, Ý đoạn, Thần túc, Căn, Lực, Giác ý, tám Thánh đạo, ba mươi bảy phẩm cũng không sở hữu. Mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật cũng không sở hữu. Hư không, Đại thừa cũng không sở hữu. Vì vậy nên Đại thừa che chở, hộ trì vô lượng, vô số người chẳng thể tính đếm. Vì sao? Vì tôi ta, con người, tất cả các pháp đều chẳng thể nắm bắt được. Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Tôi ta, con người, tri kiến đều không sở hữu. Chủng tánh, các pháp cũng không sở hữu. Vì địa sở tác không sở hữu nên hư không cũng không sở hữu, Đại thừa cũng không sở hữu, vô lượng, vô số người chẳng thể tính đếm, tất cả các pháp cũng không sở hữu. Vì vậy cho nên Đại thừa che chở, hộ trì vô lượng, vô số người chẳng thể tính đếm. Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Tôi ta, con người, tri kiến đều không sở hữu. Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi-phật cũng không sở hữu, tất cả các pháp cũng không sở hữu. Vì vậy cho nên Đại thừa che chở, hộ trì vô lượng, vô số người chẳng thể tính đếm. Vì sao? Vì tôi ta, con người, tất cả các pháp đều chẳng thể nắm bắt được. Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Thanh văn, Bích-chi-phật cho đến Như Lai cũng không sở hữu, trí Nhất thiết cũng không sở hữu, tất cả các pháp cũng không sở hữu. Vì vậy cho nên Đại thừa che chở, hộ trì vô lượng, vô số người chẳng thể tính đếm. Vì sao? Vì tôi ta, con người, tất cả các pháp đều chẳng thể nắm bắt được. Này Tu-bồ-đề! Cảnh giới Niết-bàn che chở hộ trì vô số người chẳng thể tính đếm, Thừa cũng như vậy. Vì vậy cho nên thừa cùng hư không bình đẳng, che chở, hộ trì vô số người chẳng thể tính đếm. Còn Đại thừa, theo lời ông hỏi thì khi đến cũng chẳng thấy, lúc đi cũng chẳng thấy, cũng chẳng thấy chỗ trụ, thừa cũng như thế. Vì sao? Vì tất cả các pháp chẳng thể chuyển động. Vì vậy nên không có cái trụ, không có cái đến, cũng không chỗ trụ. Vì sao? Này Tu-bồ-đề! Vì sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng không từ đâu đến, cũng không đi về đâu, cũng không chỗ trụ. Này Tu-bồ-đề! Sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng thanh tịnh, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không chỗ trụ. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức là không cội gốc, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không chỗ trụ. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức là tự nhiên, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không chỗ trụ. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức là tướng tự nhiên, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không chỗ trụ. Nhãn, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý là tướng tự nhiên, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không chỗ trụ. Đất, nước, lửa, gió, không, các thứ ấy không có, thanh tịnh, cũng không không cội gốc. Cái tự nhiên ấy cũng không có địa chủng, cái tướng tự nhiên ấy không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không chỗ trụ. Các thứ nước, lửa, gió, hư không, thức cũng giống như thế. Như Lai không cội gốc, tự nhiên và tướng tự nhiên, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không chỗ trụ. Này Tu-bồ-đề! Bản tế thanh tịnh, bản tế không có cội gốc, vốn tự nhiên, vốn là tướng tự nhiên, là cảnh giới thanh tịnh chẳng thể tính bàn, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không chỗ trụ. Tướng tự nhiên của cảnh giới không sở niệm chẳng thể nghó bàn, không cội gốc và cảnh giới tự nhiên chẳng nghó bàn, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không chỗ trụ. Này Tu-bồ-đề! Sáu pháp Ba-la-mật cũng thanh tịnh. Bát-nhã ba-la-mật cũng không không cội gốc, cũng không tự nhiên, tướng tự nhiên, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không chỗ trụ. Ba mươi bảy phẩm, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật là đạo đức thanh tịnh. Phật và Chánh Giác không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không chỗ trụ. Cái không sở hữu, không cội gốc và cái vô vi ấy chẳng phải tự nhiên, cái vô vi ấy là tướng không tự nhiên, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không chỗ trụ. Như Tu-bồ-đề đã nói, Đại thừa quá khứ chẳng đắc, vị lai chẳng đắc, hiện tại chẳng đắc, ba đời bình đẳng. Đại thừa chỉ có danh tự mà thôi. Như lời Tu-bồ-đề nói thì Đại thừa không có quá khứ, vị lai, hiện tại, ba đời bình đẳng. Đại thừa chỉ có danh tự thôi. Vì sao? Này Tu-bồ-đề! Vì quá khứ cũng không, vị lai cũng không, hiện tại cũng không, ba đời bình đẳng, ba đời rỗng không bình đẳng. Đại thừa cũng rỗng không, bình đẳng. Bồ-tát cũng không. Cái không ấy không một, không hai, không ba, không bốn, chẳng nhiều, chẳng ít. Vì vậy cho nên gọi là ba đời bình đẳng, là công đức chói lọi của Bồ-tát Đại thừa, không ai sánh bằng, không chánh, không tà, cũng chẳng dục, cũng chẳng lìa dục, cũng chẳng sân hận, chẳng lìa sân hận, cũng chẳng ngu si, chẳng lìa ngu si, cũng chẳng kiêu mạn, chẳng lìa kiêu mạn, chẳng tham lam ganh ghét, cũng không lìa chúng, chẳng đắc pháp thiện, pháp ác, chẳng đắc hữu thường, vô thường, chẳng đắc khổ, vui, chẳng đắc ngã, vô ngã, cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc cũng chẳng thể nắm bắt được, chẳng vượt qua cõi Dục, chẳng vượt qua cõi Sắc, chẳng vượt qua cõi Vô sắc. Vì sao? Vì chẳng đắc tự nhiên. Sắc quá khứ không, sắc vị lai không, sắc hiện tại không. Thọ, tưởng, hành, thức cũng giống như thế. Sắc, chẳng thể nắm bắt được vì sắc quá khứ, vị lai, hiện tại là không, chẳng nắm bắt được cái không cho nên gọi là không. Không, chẳng thể nắm bắt được, huống gì nghó không hay có quá khứ, vị lai, hiện tại. Thọ, tưởng, hành, thức cũng giống như thế. Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Sáu pháp Ba-la-mật chẳng đắc quá khứ, chẳng đắc vị lai, chẳng đắc hiện tại. Này Tu-bồ-đề! Sáu pháp Ba-la-mật cũng chẳng thể nắm bắt được, vì ba đời bình đẳng nên sáu pháp Ba-la-mật cũng chẳng thể nắm bắt được. Cái bình đẳng ấy không có quá khứ, vị lai, hiện tại, vì bình đẳng vậy. Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Ba mươi bảy phẩm, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật cũng chẳng thể nắm bắt được, vì quá khứ, vị lai, hiện tại, ba đời bình đẳng. Ba mươi bảy phẩm, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, pháp của chư Phật cũng chẳng thể nắm bắt được. Cái bình đẳng ấy không có quá khứ, vị lai, hiện tại. Mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật không có quá khứ, vị lai, hiện tại, vì bình đẳng cho nên gọi là bình đẳng, huống gì ba mươi bảy phẩm, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại đã bình đẳng mà có thể nắm bắt được sao? Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Quá khứ, vị lai, hiện tại, phàm phu cũng chẳng thể nắm bắt được. Ba đời bình đẳng cho nên phàm phu bình đẳng. Vì sao? Vì suy tìm con người, vónh viễn chẳng thể nắm bắt được. Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi-phật, Bồ-tát, Như Lai cũng chẳng thể nắm bắt được. Vị lai, hiện tại cũng giống như vậy, ba đời bình đẳng, nên Thanh văn, Bích-chi-phật, Bồ-tát, Như Lai cũng chẳng thể nắm bắt được. Suy tận cùng nguồn gốc con người, chẳng thể nắm bắt được. Này Tu-bồ-đề! Vì thế cho nên Đại Bồ-tát trụ Bát-nhã ba-la-mật, hiểu rõ ba đời, dùng đầy đủ trí Nhất thiết đó là Đại Bồ-tát, vì Đại thừa ba đời bình đẳng. Đại Bồ-tát vì trụ như thế nên trên cõi trời, dưới chốn nhân gian là tôn quý hơn hết, vì phát sinh trí Nhất thiết. Tu-bồ-đề bạch Phật: –Bạch Đức Thiên Trung Thiên, hay thay, hay thay! Đại thừa là thừa mà Đại Bồ-tát theo học. Đại Bồ-tát quá khứ cũng nhờ học thừa này mà đắc trí Nhất thiết. Đại Bồ-tát vị lai cũng nhờ học thừa này mà đắc trí Nhất thiết. Các Đại Bồ-tát hiện tại ở vô lượng, vô số thế giới chẳng thể tính đếm cũng học Đại thừa này mà đắc trí Nhất thiết. Bạch Đức Thiên Trung Thiên, đó là Đại thừa của Đại Bồ-tát. Đức Phật bảo Tu-bồ-đề: –Đúng vậy, đúng vậy! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác quá khứ, vị lai, hiện tại đều học pháp này mà đắc trí Nhất thiết. KINH QUANG TÁN <卷 id="81581574">QUYỂN 9 <詞 id="81581575">Phẩm 22: Phân-mạn-đà-ni-phất Bấy giờ Hiền giả Phân-mạn-đà-ni-phất bạch Phật: –Đức Phật bảo Tôn giả Tu-bồ-đề nói Bát-nhã ba-la-mật, nhưng mới nói việc làm của Đại thừa. Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật: –Bạch Đức Thiên Trung Thiên! Con nói Đại thừa nhưng vẫn không lỗi. Đức Phật dạy: –Không lỗi! Ông nói Đại thừa là theo lời dạy của Bát-nhã ba-la-mật. Vì sao? Này Tu-bồ-đề! Các pháp thiện hiện có như pháp Thanh văn, Bích-chi-phật, pháp Phật Chánh giác đều từ Bát-nhã ba-la-mật xuất sinh, gốc từ giáo pháp ấy. Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật: –Bạch Đức Thiên Trung Thiên! Tại sao các pháp thiện như pháp Thanh văn, Bích-chi-phật, pháp của chư Phật và pháp của Bồ-tát đều từ Bát-nhã ba-la-mật xuất sinh, đều từ giáo pháp ấy? Đức Phật bảo Tu-bồ-đề: –Thí ba-la-mật, Giới ba-la-mật, Nhẫn ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Thiền ba-la-mật, bốn Ý chỉ, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo, Không, Vô tướng, Vô nguyện, các môn giải thoát, mười Lực Như Lai, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật, đại Từ, đại Bi, pháp không quên mất, Từ, Bi, Hỷ, Xả, pháp hiểu rõ đạo phẩm để thi hành, pháp Thanh văn, Bích-chi-phật, pháp Bồ-tát, tất cả các pháp đều từ Bát-nhã ba-la-mật xuất sinh, đều từ giáo pháp ấy. Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Bát-nhã ba-la-mật và năm ba-la-mật của Đại thừa; sắc thọ, tưởng, hành, thức; nhãn sắc thức, nhó thanh thức, tỷ hương thức, thiệt vị thức, thân xúc thức, ý pháp thức, nhân duyên tiếp xúc, nhân duyên huân tập, các loại huân tập vừa ý hay không vừa ý, bốn Ý chỉ, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật, Không, Vô tướng, Vô nguyện, các môn giải thoát, tất cả pháp thiện, hữu lậu, vô lậu, có sở hữu, không sở hữu, hữu vi, vô vi, khổ, tập, tận, đạo, cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc, pháp nội không, pháp ngoại không, pháp không gần, pháp không xa, pháp chân không, pháp sở hữu không, pháp không sở hữu không, tất cả đều bình đẳng và các môn Tam-muội, Đà-la-ni, pháp Như Lai đã hiểu, tự đạt đến thành tựu, pháp giới của chư Phật, bản tế của Như Lai, cảnh giới chẳng thể nghó bàn, hoặc hợp, hoặc tan, không hợp, không tan, có sắc, không sắc, có thấy, không thấy, có hình, không hình, có tướng, không tướng, tất cả các pháp đó đều từ Đại thừa xuất sinh, đều thuận theo giáo pháp Bát-nhã ba-la-mật. Vì sao? Này Tu-bồ-đề, Đại thừa Bát-nhã ba-la-mật bình đẳng không khác, sáu pháp Ba-la-mật cũng không khác, mười Lực, vô úy, pháp của chư Phật cũng không có khác. Vì vậy, Đại thừa, pháp của chư Phật không có khác, cũng không có hai, cũng không có nhiều. Này Tu-bồ-đề! Vì vậy nên cái gọi là Đại thừa tức là nói Bát-nhã ba-la-mật.  <詞 id="81581576">Phẩm 23: Đẳng Tam Thế Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật: –Bồ-tát cũng chẳng nghó quá khứ, cũng chẳng nghó vị lai, cũng chẳng nghó hiện tại. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng không có biên giới, Bồ-tát cũng không có biên giới. Sắc và Bồ-tát đều không sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt được. Thọ, tưởng, hành, thức và Bồ-tát đều không sở hữu cũng chẳng thể nắm bắt được. Bạch Đức Thiên Trung Thiên! Như thế, tất cả Đại Bồ-tát đều chẳng thể nắm bắt được, vậy nên dạy Bát-nhã ba-la-mật cho Đại Bồ-tát như thế nào? Nên nói Bát-nhã ba-la-mật thế nào để dạy Bồ-tát? Bồ-tát mà có hiệu là Bồ-tát thì chỉ có danh tự thôi. Thí như người tự nói ta có ngã, nhưng tìm cầu gốc ngọn đều không sở hữu. Các pháp là tự nhiên thì chỗ nào sinh sắc mà sắc đã sinh? Chỗ nào sinh thọ, tưởng, hành, thức mà thọ, tưởng, hành, thức đã sinh? Bạch Đức Thiên Trung Thiên! Nếu không chỗ sinh thì không có sắc cũng không có thọ, tưởng, hành, thức. Vậy có gì đâu mà nói Bát-nhã ba-la-mật? Và nên dạy Bồ-tát như thế nào về việc cũng không có chỗ khác, cũng không có xuất sinh, cũng chẳng thể nắm bắt được, Bồ-tát cũng chẳng thể hành đạo, để Bồ-tát nghe như thế mà chẳng kinh, chẳng hãi, chẳng sợ để Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật? Ngài Xá-lợi-phất hỏi ngài Tu-bồ-đề: –Tại sao Bồ-tát chẳng thể nắm bắt được quá khứ, vị lai, hiện tại? Vì sao sắc không có biên giới? Thọ, tưởng, hành, thức cũng không có biên giới? Bồ-tát cũng không có biên giới? Sắc, thọ, tưởng, hành, thức đều không sở hữu cũng chẳng thể nắm bắt được? Tất cả Bồ-tát đều chẳng thể nắm bắt được thì dạy Đại Bồ-tát Bát-nhã ba-la-mật như thế nào? Chỗ nào nói tôi ta hoàn toàn chẳng thấy? Bồ-tát cũng chẳng thể nắm bắt được, làm thế nào dạy Bát-nhã ba-la-mật cho Đại Bồ-tát? Vì sao nói Đại Bồ-tát chỉ có danh tự thôi, cầu tìm tôi ta mà không có gốc ngọn? Các pháp là tự nhiên thì sắc từ đâu sinh? Thọ, tưởng, hành, thức từ đâu sinh? Bạch Đức Thiên Trung Thiên! Hễ đã không có chỗ sinh thì không có sắc, đã không có chỗ sinh thì không có thọ, tưởng, hành, thức. Vừa rồi, Tôn giả Tu-bồ-đề nói, không chỗ sinh thì sẽ dạy Bát-nhã ba-la-mật thế nào? Vì sao nói cũng không chỗ khác? Nếu có chỗ sinh thì có thể đắc Bồ-tát chăng? Thưa Tôn giả Tu-bồ-đề, người hành đạo tại sao nói lời này: “Đại Bồ-tát nghe lời ấy mà tâm chẳng kinh sợ tức là hành Bát-nhã ba-la-mật”? Ngài Tu-bồ-đề trả lời ngài Xá-lợi-phất: –Con người không sở hữu nên quá khứ Bồ-tát chẳng thể nắm bắt được. Chúng sinh đều rỗng không, vì vậy nên quá khứ Bồ-tát không chỗ thọ. Chúng sinh không thật, vì vậy nên quá khứ Bồ-tát không chỗ thọ. Sắc không sở hữu, vì vậy nên Bồ-tát chẳng thọ quá khứ. Thọ, tưởng, hành, thức là rỗng không, không sở hữu, vì vậy nên Bồ-tát chẳng thọ cái thọ quá khứ. Sắc quá khứ là rỗng không; thọ, tưởng, hành, thức cũng rỗng không. Sắc không thật; thọ, tưởng, hành, thức cũng không thật. Sắc tự nhiên, thọ, tưởng, hành, thức cũng tự nhiên. Vì vậy nên Bồ-tát chẳng thọ quá khứ. Thí ba-la-mật, Giới ba-la-mật, Nhẫn ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Thiền ba-la-mật, Bát-nhã ba-la-mật đều không sở hữu. Vì vậy nên Bồ-tát chẳng đắc quá khứ. Vì sao? Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Vì nếu đã là rỗng không thì chẳng thể nắm bắt quá khứ, vị lai, hiện tại, không có cái khác không, không có Bồ-tát, không có quá khứ không, Bồ-tát và quá khứ đều không hai, không nhiều. Vì vậy nên Bồ-tát chẳng thọ quá khứ; vị lai, hiện tại cũng lại như thế. Nói tóm lại, Thí ba-la-mật cũng lại không thật, Thí ba-la-mật tự nhiên, Giới ba-la-mật, Nhẫn ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Thiền ba-la-mật, Bát-nhã ba-la-mật cũng đều là rỗng không. Bát-nhã ba-la-mật cũng lại không thật tức là không tự nhiên. Vì vậy Bồ-tát chẳng thọ quá khứ. Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Cho nên cái gì đã là rỗng không thì không có quá khứ, vị lai, hiện tại. Không, Bồ-tát và quá khứ đã qua cũng không có hai, cũng không có nhiều. Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Vì vậy, Bồ-tát chẳng thọ quá khứ. Bảy không ấy cũng không sở hữu, vì vậy Bồ-tát chẳng thọ quá khứ. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Ý chỉ, Ý đoạn, Thần túc, Căn, Lực, Giác ý, tám Thánh đạo, ba mươi bảy phẩm cũng là không, cũng là không thật. Bảy không ấy cũng lại như thế. Vì vậy, Bồ-tát chẳng thọ quá khứ, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật đều rỗng không, không thật. Vì vậy, Bồ-tát chẳng thọ quá khứ. Sáu pháp Ba-la-mật cũng không sở hữu, cũng không thật, cũng không tự nhiên. Vì vậy, Bồ-tát chẳng thọ quá khứ. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Tất cả Tam-muội đều không sở hữu, môn Đà-la-ni cũng đều rỗng không, cũng lại không thật. Các môn Tam-muội, môn Đà-la-ni đều không tự nhiên. Vì vậy, Bồ-tát không thọ quá khứ. Sáu pháp Ba-la-mật cũng lại như vậy. Lại nữa, thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Các pháp giới cũng không sở hữu, pháp giới đều rỗng không, pháp giới không thật, pháp giới tự nhiên, pháp giới cũng không có bảy không. Vì vậy, Bồ-tát chẳng thọ quá khứ. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Như Lai cũng không sở hữu, cũng đều không có cội gốc, không có cội gốc không thật, không có cội gốc cũng rỗng không. Cái vốn không ấy cũng không tự nhiên. Vì vậy, Bồ-tát chẳng thọ quá khứ. Cái bản tế ấy cũng không sở hữu, bản tế đều rỗng không, bản tế không thật, cũng không tự nhiên, chẳng thể nghó bàn. Tất cả các cõi cũng không tự nhiên. Vì vậy, Bồ-tát chẳng thọ quá khứ. Lại nữa, thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Các Thanh văn, Bích-chi-phật, Như Lai cũng không sở hữu. Như Lai rỗng không, không thật cũng không tự nhiên. Vì vậy, Bồ-tát chẳng thọ quá khứ. Đạo không sở hữu, không thật cũng không tự nhiên. Vì vậy, Bồ-tát chẳng thọ quá khứ. Vì sao? Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất, vì không và không thật, quá khứ, vị lai, hiện tại cũng như thế, chẳng thể nắm bắt được. Bồ-tát, cũng chẳng thể nắm bắt được. Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Vì vậy, không, không thật, quá khứ, vị lai không có hai, cũng không có nhiều. Vì vậy, Bồ-tát chẳng thọ quá khứ. Lại nữa, thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Tôn giả đã hỏi là tại sao sắc không có biên giới, thọ, tưởng, hành, thức cũng không có biên giới? Bồ-tát cũng không có biên giới? Thọ, tưởng, hành, thức như hư không rỗng không. Ví như hư không không có biên giới; không có khoảng giữa, không có bờ đáy, hư không chỉ có danh tự. Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như thế, không có biên giới, không có khoảng giữa, không có bờ đáy, vì sắc rỗng không. Nếu đã là rỗng không thì không biên giới, không có khoảng giữa, không có bờ đáy, chẳng thể nắm bắt được. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như thế. Vì vậy, thưa Tôn giả Xá-lợi-phất, sắc không có biên giới, thọ, tưởng, hành, thức cũng không có biên giới. Bồ-tát cũng không có biên giới, đều không sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy, sắc và Bồ-tát cũng không sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt được. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như thế. Lại nữa, Xá-lợi-phất! Sáu pháp Ba-la-mật rỗng không nên gọi là không, pháp nội không cũng không, pháp ngoại không cũng rỗng không. Vì không cho nên không. Pháp không gần, pháp không xa, pháp chân không,… Bảy không, ba mươi bảy phẩm, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật cũng đều rỗng không. Vì không cho nên không, không có bản tế, chẳng thể nghó bàn. Tất cả các cõi cũng lại là rỗng không. Vì không cho nên không. Các môn Tam-muội, môn Đà-la-ni cũng lại là rỗng không. Trí Nhất thiết cũng lại là rỗng không. Đạo tuệ hiểu rõ đạo phẩm cũng lại là rỗng không. Vì không cho nên không. Pháp ba thừa cũng lại là rỗng không. Như Lai cũng lại là rỗng không. Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Cho nên Như Lai là rỗng không, cũng không sở hữu, sắc cũng chẳng thể nắm bắt được. Sắc và Bồ-tát cũng không sở hữu, đều chẳng thể nắm bắt được. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như thế. Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Theo Tôn giả hỏi thì vì sao tất cả Bồ-tát đều chẳng thể nắm bắt được? Bồ-tát nói Bát-nhã ba-la-mật thế nào? Sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng thể nắm bắt được. Sắc chẳng thể nắm bắt được; thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng thể nắm bắt được. Cái tưởng về tưởng cũng không sở hữu, cái tưởng về thọ cũng không sở hữu, cái tưởng về hành cũng không sở hữu, cái tưởng về thức cũng không sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt được. Cái biết về thức cũng không sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt được. Cái biết về sắc, cái biết về thọ, cái biết về tưởng, cái biết về hành đều không sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt được. Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Sáu tình cũng không sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt được. Nhãn, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý đều không sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt được. Nhó không sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt được. Nhó và nhãn đều không sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt được. Nhó và tỷ đều không sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt được. Tỷ và sự ngửi đều không sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt được. Tỷ và nhãn đều không sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt được. Tỷ và thiệt đều không sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt được. Xét thiệt, không sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt được. Thiệt, nhãn, nhó, tỷ đều không sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt được. Hương và thân đều không sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt được. Thân cùng với thân đều không sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt được. Ý cùng với ý đều không sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt được. Nhãn, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý đều không sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt được. Nhãn sắc, nhó thanh, tỷ hương, thiệt vị, thân xúc, ý pháp, sáu tình, sáu thức, sáu vị, mười tám nhập, nhân duyên, tất cả các sự việc đều không sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt được. Sắc trong, sắc ngoài, thọ… các pháp cũng lại như thế. Sáu pháp Ba-la-mật và bảy không, ba mươi bảy phẩm, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật, các môn Tam-muội, môn Đà-la-ni, chủng tánh, các pháp, pháp A-la-hán, pháp Bích-chi-phật, pháp Như Lai, pháp Bồ-tát, pháp mười trụ, trí Nhất thiết và các đạo tuệ cho đến Như Lai và Bồ-tát đều không sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt được. Bồ-tát và Bát-nhã ba-la-mật đều không sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt được. Lại nữa, Bát-nhã ba-la-mật đối với Bát-nhã ba-la-mật đều không sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt được. Bát-nhã ba-la-mật và Bồ-tát đều không sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt được. Bát-nhã ba-la-mật không ngôn, không thuyết, không giáo, không hóa, cũng không sở hữu, cũng không nắm bắt được. Đối với Bồ-tát, không ngôn, không thuyết, không giáo, không hóa, cũng không sở hữu, cũng không nắm bắt được. Bát-nhã ba-la-mật cũng không sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt được. Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Vì vậy, tất cả các pháp cũng không sở hữu, cũng không đắc, cũng chẳng thể nắm bắt được. Đại Bồ-tát cũng chẳng thể nắm bắt được, cũng không ngôn thuyết. Như Tôn giả Xá-lợi-phất đã hỏi, sao gọi là danh tự mà danh tự Bồ-tát từ đâu mà ra? Danh tự ấy ở chỗ nào là Bồ-tát, vì vậy gọi là Bồ-tát? Nói Bồ-tát chỉ dùng danh tự thôi thì từ đâu mà đến! Sắc thọ, tưởng, hành, thức, chỉ dùng danh tự thôi. Chỉ có danh tự thì danh tự vướng mắc vào ngôn từ, nhưng không có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì danh tự cũng rỗng không, danh tự tự nhiên rỗng không, chẳng vì danh tự ấy cho nên gọi là Bồ-tát, nhưng không có danh tự cho riêng mình là Bồ-tát. Lại nữa, thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Sáu pháp Ba-la-mật chỉ dùng danh tự thôi, chẳng dùng danh tự cho nên gọi là sáu pháp Ba-la-mật. Cái gọi là Bồ-tát chỉ dùng danh tự thôi. Vì vậy, nói Bát-nhã ba-la-mật, chỉ dùng danh tự thôi, chẳng dùng danh tự cho nên gọi là Bát-nhã ba-la-mật. Bát-nhã ba-la-mật không có danh tự. Vì sao? Vì danh tự cùng Bát-nhã ba-la-mật, hai pháp đó đều rỗng không, chẳng thể nắm bắt được. Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Cái gọi là Bồ-tát chỉ là giả hiệu. Cái gọi là pháp nội không, pháp ngoại không, pháp không gần, pháp không xa, pháp chân không, pháp sở hữu không, pháp không sở hữu không chỉ dùng danh tự thôi. Bảy không ấy, chẳng dùng danh tự thì rỗng không. Vì sao? Vì chẳng dùng danh tự cho nên gọi là rỗng không. Cái rỗng không này chẳng thể nắm bắt được. Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất, vì vậy, cái gọi là Bồ-tát chỉ là giả hiệu. Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Cái danh tự này là giả hiệu. Ý chỉ, Ý đoạn, Căn, Lực, Giác ý, tám Thánh đạo, ba mươi bảy phẩm, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật chỉ là giả hiệu thôi. Vì chẳng dùng danh tự, nên là pháp của chư Phật, mà pháp của chư Phật là rỗng không. Vì vậy, thưa Tôn giả Xá-lợi-phất, cái gọi là Bồ-tát chỉ là giả hiệu. Các môn Tam-muội, môn Đà-la-ni, Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi-phật, Bồ-tát cho đến Phật cũng là giả hiệu thôi, vì chẳng dùng danh tự làm danh tự. Cái gọi là tôi ta, ngã sở, suy tìm gốc ngọn của nó cũng không sở hữu, cũng không thành tựu, tôi ta chẳng thể nắm bắt được, huống gì đối với đạo mà có cái sở đắc. Cái biết, cái thấy cũng chẳng thể nắm bắt được, huống gì muốn khiến cho có sự thành tựu. Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Gốc ngọn của sắc thọ, tưởng, hành, thức, chẳng thể nắm bắt được, huống gì muốn khiến cho sắc, thọ, tưởng, hành, thức có sự thành tựu. Nhãn và các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý… chỗ nhập của sáu tình cũng chẳng thể nắm bắt được. Gốc ngọn của sáu pháp Ba-la-mật, bảy không cũng chẳng thể nắm bắt được, huống gì muốn khiến cho thành tựu. Ba mươi bảy phẩm, mười Lực, bốn Vô úy, pháp của chư Phật, suy tìm gốc ngọn cũng chẳng thể nắm bắt được, huống gì muốn khiến cho có sự thành tựu. Các môn Tam-muội, môn Đà-la-ni, suy tìm gốc ngọn, đều chẳng thể nắm bắt được, huống gì muốn khiến cho có sự thành tựu. Thanh văn, Bích-chi-phật, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy, thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Cái gọi là tôi ta đều không có sở hữu, tất cả các pháp cũng không có sở hữu, đều là tự nhiên. Vì sao? Vì tự nhiên không hợp, không tan. Ngài Xá-lợi-phất hỏi ngài Tu-bồ-đề: –Sao gọi là tự nhiên không hợp, không tan? Trả lời: –Sắc, thọ, tưởng, hành, thức vì tự nhiên nên không hợp, không tan, sự tập hợp của các thọ do sự tiếp xúc của sáu tình: nhãn, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý sinh ra đều là tự nhiên, không hợp, không tan. Sáu pháp Ba-la-mật cũng không hợp, không tan, đều là tự nhiên. Vì vậy, thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Tất cả các pháp đều không sở hữu, đều là tự nhiên. Lại nữa, thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Tất cả các pháp cũng vô thường, cũng không chỗ đến. Ngài Xá-lợi-phất hỏi lại ngài Tu-bồ-đề: –Sao gọi là tất cả các pháp vô thường, không chỗ đến? Tu-bồ-đề đáp: –Sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng vô thường, không có chỗ hướng đến. Vì sao? Vì cái vô thường ấy hoàn toàn không sở hữu, cũng không có nhãn. Vì vậy, tất cả các pháp đều vô thường, không có chỗ đến. Các pháp sở hữu cũng lại như thế, đều vô thường, không có chỗ hướng đến. Tất cả các lậu cho đến vô lậu, pháp có thể nói, không thể nói, cái hữu thường ấy đều là không sở hữu, cũng không có nhãn. Vì vậy, thưa Tôn giả Xá-lợi-phất, tất cả vạn vật đều vô thường, không có chỗ đến. Lại nữa, thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Tất cả các pháp không chỗ tích tụ, cũng không hủy hoại. Ngài Xá-lợi-phất lại hỏi ngài Tu-bồ-đề: –Thế nào là tất cả các pháp cũng không tích tụ, cũng không hủy hoại? Đáp: –Sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng không tích tụ, cũng không hủy hoại. Vì sao? Vì thanh tịnh vậy. Các pháp thiện, bất thiện, pháp sở hữu, không sở hữu, pháp hữu lậu, vô lậu đều không tích tụ, cũng không hủy hoại. Vì sao? Vì thanh tịnh vậy. Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất, vì vậy, tất cả sở hữu đều không sở hữu. Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Trả lời câu hỏi sắc từ đâu sinh, đó là sắc không chỗ sinh; thọ, tưởng, hành, thức cũng không chỗ sinh. Vì sao? Vì sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng không sở hữu. Hiểu rõ hành thì không có sắc, cũng không chỗ sinh. Thọ, tưởng, hành, thức cũng không chỗ sinh. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng không sở hữu. Vì sao? Vì hiểu rõ hành thì không có nhãn, nhãn không sở hữu. Vì sao? Vì hiểu rõ hành thì không có sở hữu. Sáu tình cũng như vậy. Lại nữa, thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Tất cả các pháp đều không sở hữu. Vì sao? Vì hiểu rõ hành thì không tạo sở hữu. Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất, vì vậy sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng không chỗ sinh. Lại nữa, thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Theo lời Tôn giả hỏi thì, sắc không có chỗ sinh thì chẳng phải là sắc; thọ, tưởng, hành, thức không có chỗ sinh thì chẳng phải là thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì sắc thanh tịnh, rỗng không, không khởi diệt, cũng không chỗ trụ, cũng không sai khác. Vì thọ, tưởng, hành, thức cũng thanh tịnh, vì rỗng không, thanh tịnh, cho nên gọi là thanh tịnh, cũng không khởi diệt, cũng không chỗ trụ, cũng chẳng thể phân biệt. Tất cả sở hữu cũng lại thanh tịnh, vì rỗng không, thanh tịnh cho nên gọi là thanh tịnh, cũng không chỗ khởi, cũng không chỗ diệt, cũng không chỗ trụ, chẳng thể phân biệt để biết. Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Vì vậy, sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng không chỗ sinh. Như Tôn giả Xá-lợi-phất đã hỏi là vì sao nói những pháp này đều không chỗ sinh thì do đâu mà nói Bát-nhã ba-la-mật? Vì sao? Bát-nhã ba-la-mật cũng không chỗ sinh. Nếu không chỗ sinh thì Bát-nhã ba-la-mật cũng không chỗ xuất, không có hai pháp, cũng không có nhiều. Vì vậy thì điều nên nói ở đây là sẽ từ đâu mà nói Bát-nhã ba-la-mật! Tôn giả Xá-lợi-phất đã hỏi: Chẳng từ chỗ khác xuất sinh mà Bồ-tát đắc đạo hạnh là vì sao? Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật chẳng từ chỗ khác sinh, cũng lại chẳng thấy khác. Bát-nhã ba-la-mật lại cũng chẳng phải chỗ sai khác, đều thấy như nhau, các hạnh Bồ-tát cũng không chỗ sinh. Lại nữa, Bồ-tát không có hai pháp, cũng không có nhiều, cũng chẳng thấy sắc, thọ, tưởng, hành, thức có chỗ khác sinh. Vì sao? Vì vô sinh cho nên sắc không có hai, cũng không nhiều, cũng chẳng từ cái khác mà có chỗ sinh, cũng chẳng thấy, sắc từ chỗ khác sinh. Vì sao? Vì sắc không chỗ sinh, thức không có sinh, cũng không có nhiều. Mười tám chủng, ba mươi bảy phẩm, pháp của chư Phật, bảy không, pháp ba thừa chẳng thấy chỗ sinh. Vì sao? Vì không có chỗ sinh, không có hai pháp, cũng không có nhiều. Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Vì vậy, Bồ-tát chẳng nắm bắt được cái có chỗ khác sinh mà hành đạo. Lại nữa, thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Vừa rồi Tôn giả hỏi: Giả sử Đại Bồ-tát nghe nói như thế mà không sợ, không kinh, không hãi tức là Bát-nhã ba-la-mật là vì sao? Vì Đại Bồ-tát quán tất cả các pháp đều như mộng, như huyễn, cảnh ảo, cây chuối, bóng, vang. Vì vậy cho nên, thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát nghe như thế chẳng kinh, chẳng sợ, cũng chẳng hãi. Đó là hành Bát-nhã ba-la-mật. Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật: –Bạch Đức Thiên Trung Thiên! Khi Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, quán pháp như thế, chẳng thọ sắc thọ, tưởng, hành, thức, cũng chẳng xả, cũng không trụ, cũng không chấp trước. Bát-nhã ba-la-mật thì không có sắc thọ, tưởng, hành, thức, cũng chẳng thọ, cũng chẳng xả, cũng không trụ, cũng không chấp trước, không phân biệt, cũng chẳng thọ nhãn, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý, chỗ nương tựa của sáu tình, chẳng thọ tôi ta, cũng chẳng thọ Thí ba-la-mật, cũng không xả, cũng không trụ, cũng không chấp trước, chẳng trụ tôi ta. Giới, Nhẫn, Tinh tấn, Thiền, Bát-nhã ba-la-mật, cũng chẳng thọ bảy không, cũng không xả, cũng không trụ, cũng không chấp trước, chẳng trụ tôi ta. Bạch Đức Thiên Trung Thiên! Lại nữa, người hành Bát-nhã ba-la-mật, đối với ba mươi bảy phẩm, mười Lực, bốn Vô sở úy, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật cũng lại như thế, cũng không thọ, cũng không xả, cũng không trụ, cũng không chấp trước, cũng chẳng trụ tôi ta. Bạch Đức Thiên Trung Thiên! Lại nữa, Bồ-tát chẳng thọ tất cả các môn Tam-muội, môn Đà-la-ni cũng không thọ, cũng không xả, cũng không trụ, cũng không chấp trước, chẳng trụ tôi ta. Vì sao? Vì Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật chẳng thấy sắc thọ, tưởng, hành, thức, chẳng thấy mười tám chủng, ba mươi bảy phẩm và bảy không, Thanh văn, Bích-chi-phật, cho đến Phật và trí Nhất thiết cũng không thấy. Vì sao? Vì không có sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng không chỗ khởi, cũng không có sắc thọ, tưởng, hành, thức. Sáu tình không chỗ khởi, cũng không có sáu tình. Sáu pháp Ba-la-mật cũng không chỗ khởi, cũng không có sáu pháp Ba-la-mật. Bát-nhã ba-la-mật cũng không chỗ khởi, cũng không có hai, cũng không có nhiều. Pháp nội không, pháp ngoại không cũng không chỗ khởi. Pháp không gần, pháp không xa, pháp chân không, pháp sở hữu không, pháp không sở hữu không cũng lại như thế. Vì sao? Vì bảy pháp không ấy cũng không chỗ khởi, cũng không có hai, cũng không có nhiều. Bạch Đức Thiên Trung Thiên! Vì vậy, bảy pháp không ấy, ba mươi bảy phẩm, mười Lực, bốn Vô úy, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật cũng không chỗ khởi, cũng không có hai, cũng không có nhiều. Vì sao? Bạch Đức Thiên Trung Thiên! Vì không chỗ khởi cho nên không hai, không ba, không có nhiều. Pháp của chư Phật đều không chỗ khởi, chẳng phải là Phật pháp. Bạch Đức Thiên Trung Thiên! Cái không cội gốc ấy cũng chẳng thể nghó bàn. Cảnh giới của các pháp cũng không chỗ khởi, cảnh giới chẳng thể nghó bàn ấy không có hai, cũng không có nhiều. Bạch Đức Thiên Trung Thiên! Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi-phật, Bồ-tát cho đến trí Nhất thiết đều không chỗ khởi, cũng không sở hữu. Cho nên trí Nhất thiết không có chỗ khởi. Vì sao? Vì không có tinh tấn, đó là không hai, không ba, cũng không nhiều. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức là diệt tận, cũng không có sắc. Vì vậy thức cũng diệt tận, không có hai, cũng không nhiều. Vì sao? Bạch Đức Thiên Trung Thiên! Vì cái tinh tấn ấy không một, không hai, không ba, cũng không nhiều. Cái thức tinh tấn ấy cũng không có thức, đó là Thí ba-la-mật, cũng không chỗ khởi, cũng không tinh tấn, không hai, không ba, cũng không nhiều. Giới, Nhẫn, Tinh tấn, Thiền, Bát-nhã ba-la-mật cũng lại như vậy. Bảy không, ba mươi bảy phẩm, mười Lực, bốn Vô úy, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật cũng lại như vậy. Bạch Đức Thiên Trung Thiên! Nói không chỗ tinh tấn ấy ở trong hành là điều không thể kể ra. Năm ấm, sáu pháp Ba-la-mật, pháp ba thừa cho đến trí Nhất thiết cũng lại như vậy.  <詞 id="81581577">Phẩm 24: Quán Hạnh Bấy giờ ngài Tu-bồ-đề hỏi ngài Xá-lợi-phất: –Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật quán các pháp như thế nào? Sao gọi là Bồ-tát hành đạo vì tất cả mọi người mà nói? Bồ-tát mà hiểu rõ tất cả đạo pháp, đối với tất cả pháp không chấp trước, hiểu rõ các pháp thì hiểu rõ sắc, thọ, tưởng, hành, thức, nhưng đối với việc của sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng không chấp trước, hiểu rõ ba mươi bảy phẩm, mười Lực, bốn Vô úy, pháp của chư Phật cũng không chấp trước, thì sao gọi là việc của tất cả các pháp? Tu-bồ-đề trả lời Xá-lợi-phất: –Bồ-tát quán hình dạng, hiện tượng, sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp của các pháp, hình dạng, hiện tượng của các pháp trong, ngoài, hữu vi, vô vi, sở hữu, không sở hữu, hiểu rõ là không nhân duyên thì đó là quán pháp. Lại nữa, thưa Tôn giả Xá-lợi-phất, Tôn giả hỏi, sao gọi là Bát-nhã ba-la-mật? Rốt ráo không có gì ưa thích là Bát-nhã ba-la-mật. Sao gọi là rốt ráo không có gì ưa thích? Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Chẳng ưa thích ấm, chủng, các nhập, chẳng ưa thích sáu pháp Ba-la-mật: Thí, Giới, Nhẫn, Tinh tấn, Thiền, Bát-nhã ba-la-mật, chẳng ưa thích bảy không, chẳng ưa thích ba mươi bảy phẩm, mười Lực, bốn Vô úy, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật, đó gọi là rốt ráo không có gì ưa thích, đó là Bát-nhã ba-la-mật. Đối với trí Nhất thiết cũng không có gì ưa thích, đó là Bát-nhã ba-la-mật, đó là rốt ráo không có gì ưa thích. Đó là Bát-nhã ba-la-mật. Sao gọi là quán? Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật, chẳng quán sắc thường hay vô thường, chẳng quán sắc khổ hay vui, chẳng quán sắc có ngã hay không ngã, chẳng quán sắc có không hay không không, có tướng hay không tướng, có nguyện hay không nguyện, chẳng quán sắc tịch tónh hay chẳng tịch tónh, chẳng quán sắc không thật hay chẳng phải không thật. Thọ, tưởng, hành, thức và bảy không cùng Ba môn giải thoát cũng lại như vậy. Chẳng quán ba mươi bảy phẩm, Ý chỉ, Ý đoạn, Thần túc, Căn, Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo, pháp của chư Phật là khổ vui, thiện ác, hữu ngã vô ngã, hữu thường vô thường, các môn Tam-muội, môn Đà-la-ni. Trí Nhất thiết là hữu thường vô thường, khổ vui, thiện ác, hữu ngã vô ngã, có không không không và ba môn giải thoát. Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Đó là Đại Bồ-tát quán hành Bát-nhã ba-la-mật. Ngài Xá-lợi-phất hỏi ngài Tu-bồ-đề: –Vì sao nói sắc, thọ, tưởng, hành, thức không có chỗ khởi là không có sắc thọ, tưởng, hành, thức? Căn, Lực, Giác ý, ba mươi bảy phẩm, bảy Không, bốn pháp phi thường, trí Nhất thiết đều không có chỗ khởi? Trí Nhất thiết thì không sở hữu? Ngài Tu-bồ-đề trả lời ngài Xá-lợi-phất: –Sắc, bảy không, đã là không thì không có hình, vì vậy sắc không có chỗ khởi, thì không có sắc; thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như thế. Sáu pháp Ba-la-mật là không, đã là không thì chẳng phải là Bát-nhã ba-la-mật. Trí tuệ không chỗ khởi. Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Vì vậy, Bát-nhã ba-la-mật không chỗ khởi thì chẳng phải Bát-nhã ba-la-mật. Bảy không, ba mươi bảy phẩm, mười Lực, Vô úy, pháp của chư Phật, các môn Tam-muội, môn Đà-la-ni, trí Nhất thiết cũng lại như vậy. Sắc không chỗ khởi tức là không có sắc; thọ, tưởng, hành, thức cho đến trí Nhất thiết cũng lại như thế, không chỗ khởi tức là không có trí tuệ. Ngài Xá-lợi-phất hỏi ngài Tu-bồ-đề: –Vì sao nói sắc, thọ, tưởng, hành, thức cho đến trí Nhất thiết là không có hai? Ngài Tu-bồ-đề đáp: –Đúng vậy, đúng vậy! Nó không hai, sắc thì không có hai. Thọ, tưởng, hành, thức, tất cả pháp không có hai. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức không hợp không tan, không sắc, không thấy, không có thủ, xả. Tướng như thế tức là không tướng. Bảy không, ba mươi bảy phẩm, bốn pháp phi thường, trí Nhất thiết cũng lại như thế. Năm ấm, sáu suy cho đến trí Nhất thiết đều không có hai. Ngài Xá-lợi-phất hỏi ngài Tu-bồ-đề: –Vì sao nói sắc không có hai, thanh tịnh không chỗ đến? Thọ, tưởng, hành, thức cho đến trí Nhất thiết cũng như vậy? Ngài Tu-bồ-đề trả lời ngài Xá-lợi-phất: –Đúng vậy, đúng vậy! Sắc chẳng khác cái không chỗ khởi, cũng lại không khác sắc không chỗ khởi. Thọ, tưởng, hành, thức cho đến trí Nhất thiết cũng lại như thế. Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Như thế, sắc không có hai, năm ấm, sáu suy cho đến trí Nhất thiết cũng không có hai, tất cả đều thanh tịnh không từ đâu đến. Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật: –Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật quán tất cả các pháp, thấy tất cả sắc cũng không chỗ khởi, xưa nay thanh tịnh. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như thế. Tôi ta, tri kiến đều không chỗ khởi, xưa nay thanh tịnh. Thí, Giới, Nhẫn, Tinh tấn, Thiền, Bát-nhã ba-la-mật cũng lại như thế, đều không chỗ khởi, xưa nay thanh tịnh. Bảy không, ba mươi bảy phẩm, Căn, Lực, Giác ý, mười Lực, Vô úy, pháp của chư Phật, chẳng thấy chỗ khởi, xưa nay thanh tịnh. Quán các môn Tam-muội, môn Đà-la-ni, trí Nhất thiết, chẳng thấy chỗ khởi, xưa nay thanh tịnh. Quán pháp phàm phu, thấy pháp phàm phu đều không chỗ khởi, xưa nay thanh tịnh. Quán Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Thanh văn, Bích-chi-phật và Bồ-tát, thấy các pháp này đều không chỗ khởi, xưa nay thanh tịnh. Quán tất cả Phật pháp, chẳng thấy chỗ khởi, xưa nay thanh tịnh. Ngài Xá-lợi-phất hỏi ngài Tu-bồ-đề: –Những điều nói đó nên hiểu như thế nào? Năm ấm, sáu suy, pháp Ba thừa và trí Nhất thiết đều không chỗ khởi, cũng không có năm đạo, cũng không có Đại Bồ-tát, cũng không đắc thần thông. Thưa Tôn giả Tu-bồ-đề, nếu tất cả các pháp đều không chỗ khởi thì vì sao để thành tựu Tu-đà-hoàn phải đoạn trừ ba kiết tu hành đạo? Tư-đà-hàm cũng đoạn trừ ba kiết, dâm, nộ, si mỏng, tu hành đạo? A-na-hàm vứt bỏ gánh nặng, đoạn trừ các kiết, tu hành đạo? A-la-hán đoạn trừ các kiết và năm Căn, không còn sinh tử mà tu hành đạo? Bích-chi-phật vì nhân Duyên giác ngộ mà tu hành đạo? Vì sao Bồ-tát siêng tu đạo khổ hạnh vì vô số chúng sinh mà chịu khổ? Vì sao khi thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác rồi chuyển pháp luân? Ngài Tu-bồ-đề trả lời: –Tôi không muốn khiến cho pháp không chỗ khởi mà có chỗ chứng đắc, cũng không muốn khiến cho pháp không chỗ khởi mà đạt đến Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi-phật, cũng lại như thế, tôi cũng chẳng khiến cho Đại Bồ-tát siêng tu khổ hạnh, chẳng khiến cho Bồ-tát tinh cần khổ hạnh. Vì sao? Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Vì chẳng riêng nghó việc khổ cực nên độ vô số người chẳng thể tính đếm. Lại nữa, thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Người hành đạo Bồ-tát nên độ vô số người chẳng thể tính đếm, nghó họ như cha, nghó họ như mẹ, nghó họ như con, nghó họ như bản thân mình, việc làm cũng không chỗ khởi. Bồ-tát nên nghó: “Tìm cầu tôi ta đều không sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt được.” Quán pháp trong ngoài nên hiểu như thế. Nếu khởi tưởng thì chẳng nghó khổ cực, cũng không khởi tưởng. Vì sao? Tất cả các pháp đều không chỗ khởi, cũng chẳng thể nắm bắt được. Lại nữa, thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Tôi cũng chẳng muốn khiến cho Như Lai không có chỗ khởi, Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cũng chẳng muốn khiến chuyển pháp luân, cũng chẳng muốn khiến đắc pháp không chỗ khởi. Ngài Xá-lợi-phất hỏi Tôn giả Tu-bồ-đề: –Nói là muốn khiến có khởi mà đạt được pháp và nói là không khởi thì chẳng đạt các pháp là thế nào? Ngài Tu-bồ-đề đáp: –Chẳng vì không khởi mà chứng đắc các pháp, cũng chẳng vì khởi mà chứng đắc các pháp. Ngài Xá-lợi-phất lại hỏi ngài Tu-bồ-đề: –Thế nào là pháp không chỗ khởi, cũng chẳng không khởi mà chứng đắc pháp? Ngài Tu-bồ-đề đáp: –Tôi chẳng muốn khiến cho không chỗ khởi sinh mà chứng đắc các pháp, cũng chẳng muốn khiến cho không không chứng đắc. Ngài Xá-lợi-phất hỏi: –Thưa Tôn giả Tu-bồ-đề! Theo ý Tôn giả thì sao? Không có chứng đắc không thành đạo chăng? Ngài Tu-bồ-đề trả lời: –Có chứng đắc, có thành đạo, thật không có hai. Lại nữa, thưa Tôn giả Xá-lợi-phất, chứng đắc, thành đạo là đứng về mặt thế tục mà nói. Cái gọi là Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi-phật đều là do giáo hóa thế tục mà có những danh hiệu này. Suy tìm gốc ngọn thì không có chứng đắc, không có thành đạo, không có Ba thừa. Ngài Xá-lợi-phất hỏi Tôn giả Tu-bồ-đề: –Phải chăng sự chứng đắc thành đạo là dựa vào mặt thế tục? Như vậy, năm đạo đứng về mặt thế tục mà nói thì hễ có, tất cả phải hoại, chẳng phải là chân đế? Đáp: –Đúng như vậy! Do thế tục mà nói có chứng đắc thành đạo. Năm đạo cũng vậy, đứng về mặt thế tục thì hoại hết, chẳng phải chân đế. Vì sao? Vì muốn thành chân đế thì không có thiện ác, chẳng khởi chẳng diệt, không có các trần lao, cũng không sân hận mới là chân đế. Ngài Xá-lợi-phất hỏi ngài Tu-bồ-đề: –Pháp vô sinh ấy sinh khởi chăng? Hay là pháp sinh sinh khởi? Ngài Tu-bồ-đề trả lời: –Pháp vô sinh cũng không sinh, mà pháp sinh cũng lại không sinh. Ngài Xá-lợi-phất hỏi: –Thế nào là muốn khiến cho pháp không sinh có chỗ sinh? Ngài Tu-bồ-đề trả lời: –Sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng không chỗ sinh, tự nhiên rỗng không chẳng muốn khiến sinh. Thanh văn, Bích-chi-phật trên cho đến Phật đạo đều không sinh, tự nhiên rỗng không, chẳng muốn khiến sinh. Ngài Xá-lợi-phất hỏi: –Pháp sinh ấy lại có sinh chăng? Pháp không sinh khởi sinh chăng? Ngài Tu-bồ-đề trả lời: –Pháp sinh ấy cũng không sinh, pháp không sinh ấy cũng không sinh. Vì sao? Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Vì sinh, không sinh, hai pháp này không hợp, không tan, không sắc, không thấy, không chỗ nắm bắt tức là nhất tướng, không có tướng sở hữu. Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất, vì vậy, sinh là không sinh. Pháp không sinh ấy lại cũng không sinh. Ngài Xá-lợi-phất hỏi: –Pháp nào có thể tương ưng pháp không sinh? Thưa Tôn giả Tu-bồ-đề, pháp không sinh ấy không chỗ sinh. Pháp không chỗ sinh cũng không sinh? Ngài Tu-bồ-đề trả lời: –Pháp không sinh ấy là pháp không sinh, vì không sinh có thể tương ưng pháp không sinh, không chỗ sinh. Vì sao? Vì pháp không sinh, không chỗ sinh ấy và biện tài đều không sinh. Tất cả các pháp này không hợp, không tan, không sắc, không thấy, chẳng thể nắm bắt, tức là nhất tướng, không có tướng sở hữu. Ngài Xá-lợi-phất nói: –Không chỗ sinh, không biện luận về chỗ sinh, pháp không chỗ sinh cũng không sinh, vì vậy có thể tương ưng. Ngài Tu-bồ-đề nói: –Đúng vậy, đúng vậy! Vì không sinh nên không biện luận về chỗ sinh, pháp không sinh cũng không chỗ sinh mới là tương ưng. Vì sao? Vì sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng không chỗ sinh. Sáu tình là nhãn, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý cũng không chỗ sinh. Thanh văn, Bích-chi-phật cho đến Phật cũng không chỗ sinh. Vì vậy, thưa Tôn giả Xá-lợi-phất, không biện luận về chỗ sinh, không không chỗ sinh, pháp không chỗ sinh, cho nên hành trạng của nó là không chỗ sinh. Như thế mới có thể tương ưng pháp không sinh. Ngài Xá-lợi-phất nói với Tu-bồ-đề: –Hiền giả Tu-bồ-đề là bậc Thuyết pháp đệ nhất. Vì sao? Vì nếu có ai hỏi thì tùy theo câu hỏi mà giải đáp, nhưng đối với tất cả các pháp không vướng mắc. Ngài Xá-lợi-phất nói tiếp: –Thế nào là đối với tất cả pháp không vướng mắc? Ngài Tu-bồ-đề trả lời: –Sắc, thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh, rỗng không, cũng không vướng mắc, cũng không trong ngoài, cũng không trung gian. Sự tiếp xúc của sáu tình, mười tám chủng cũng rỗng không, thanh tịnh, chẳng vướng mắc trong ngoài, cũng không trung gian. Sáu pháp Ba-la-mật và bảy không, ba mươi bảy phẩm, mười Lực, bốn Vô sở úy, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật cũng thanh tịnh, rỗng không, chẳng vướng mắc trong ngoài, trung gian. Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Đối với tất cả các pháp ấy không vướng mắc, Đại Bồ-tát hành sáu pháp Ba-la-mật, thì đối với sắc, thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh, cho đến trí Nhất thiết đều thanh tịnh. Ngài Xá-lợi-phất hỏi: –Sao gọi là Đại Bồ-tát thuần hành sáu pháp Ba-la-mật mà làm thanh tịnh đạo Bồ-tát? Ngài Tu-bồ-đề trả lời: –Thí ba-la-mật ấy, có thí thế gian, chẳng vượt thế gian. Giới ba-la-mật, Nhẫn ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Thiền ba-la-mật, Bát-nhã ba-la-mật cũng có trí thế tục và trí vượt thế tục. Ngài Xá-lợi-phất hỏi: –Sao gọi là Thí ba-la-mật thế tục? Thí ba-la-mật vượt thế tục? Ngài Tu-bồ-đề trả lời: –Đại Bồ-tát bố thí nhiều cho Sa-môn, Bà-la-môn, người nghèo cùng, kẻ ăn xin. Đối với người đói cho ăn, người khát cho uống, hương hoa, âm nhạc, nhà cửa, bảy báu, nghề nghiệp sinh sống, thuốc thang trị bệnh, tất cả đều thỏa mãn theo ý muốn, kể cả vợ con nam nữ, đầu mắt, da thịt, thân thể, những cái mà con người ham muốn, nhưng Bồ-tát chẳng thương tiếc, mở lòng ban cho, theo nhu cầu mà trao tặng, không có bỏn sẻn. Tự nghó: “Ta là thí chủ buông bỏ tất cả, theo lời Phật dạy, hành Thí ba-la-mật.” Thí như thế rồi, nhưng nếu có vông tưởng, đối với các chúng sinh, tâm chí còn điên đảo cho là chắc thật, đem sự bố thí này, khuyến trợ Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Dùng sự bố thí này khiến cho quần sinh hiện thế an ổn cho đến đạt cảnh giới Vô dư Niết-bàn. Bồ-tát ấy có ba việc mà thấy có bố thí. Những gì là ba? Tưởng về mình, tưởng tôi ta, tưởng có quả báo khi bố thí cho người khác. Đó là Thí ba-la-mật thế gian, chẳng phải vượt thế gian. Thế nào là Thí ba-la-mật thế gian, chẳng phải vượt thế gian? Ở tại thế gian chẳng dời đổi, chẳng được độ thoát đạt đến vô chướng ngại, đó là Thí ba-la-mật thế gian. Có thể làm thanh tịnh ba phẩm. Những gì là ba? Đại Bồ-tát có bố thí nhưng chẳng thủ đắc tôi ta, chẳng thấy người nhận, có sự nhận lấy cũng chẳng tưởng nghó báo đáp. Đó là Đại Bồ-tát làm thanh tịnh ba phẩm. Lại nữa, thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát bố thí cho chúng sinh nhưng cũng không thấy có người, vì để khuyến trợ Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nên không có các tưởng, đều không thấy có, đó là Thí ba-la-mật vượt thế gian. Cho nên gọi là Thí ba-la-mật vì vượt thế gian nên chẳng vướng mắc thế gian. Giới, Nhẫn, Tinh tấn, Thiền, Bát-nhã ba-la-mật cũng lại như thế, nếu có vọng tưởng thì là trí thế gian, không có vông tưởng là trí vượt thế gian. Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Đó là Đại Bồ-tát thuần hành sáu pháp Ba-la-mật thành đạo Bồ-tát. Ngài Xá-lợi-phất lại hỏi ngài Tu-bồ-đề: –Sao gọi là Đại Bồ-tát thành tựu đạo Bồ-tát? Ngài Tu-bồ-đề đáp: –Ý chỉ, Ý đoạn, Thần túc, Căn, Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo, mười Lực, bốn Vô úy, mười tám pháp Bất cộng, Ba môn giải thoát: Không, Vô tướng, Vô nguyện, bảy không, tất cả các môn Tam-muội, môn Đà-la-ni, bốn phân biệt biện, đại Từ, đại Bi, đó là đạo của Đại Bồ-tát. Ngài Xá-lợi-phất khen: –Hay thay, hay thay! Thưa Tôn giả Tu-bồ-đề! Cái gì làm cho ba-la-mật thành dũng mãnh, là đệ nhất trong việc độ thoát? Ngài Tu-bồ-đề trả lời: –Nhờ ân của Bát-nhã ba-la-mật dũng mãnh mà được độ thoát. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật là mẹ của tất cả các pháp, hộ trì, độ thoát cho Thanh văn, Bích-chi-phật, vì khiến thành tựu được Bồ-tát nên gọi là Bát-nhã ba-la-mật. Bát-nhã ba-la-mật đều nhập trong Tam thừa. Chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác quá khứ, vị lai, hiện tại, trong mười phương thế giới đều nhờ Bát-nhã ba-la-mật mà đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thành bậc không thoái chuyển. Nếu có Đại Bồ-tát nghe nói Bát-nhã ba-la-mật mà không hồ nghi, chẳng do dự thì nên biết Đại Bồ-tát ấy tùy thuận tất cả chúng sinh, vì tất cả, không có gì tiếc nuối, bố thí hết, không điên đảo. Như thế là chẳng lìa hạnh Đại Bồ-tát. Như vậy điều tưởng niệm là tư duy về đại Bi rộng lớn. Tôn giả Xá-lợi-phất nói với Tôn giả Tu-bồ-đề: –Đại Bồ-tát ưa tư duy về đại Từ, đại Bi tức là xả ly tất cả chúng sinh. Vì sao? Vì tất cả chúng sinh chẳng lìa niệm. Ngài Tu-bồ-đề nói: –Hay thay, hay thay! Hiền giả Xá-lợi-phất! Nay tôi khen ngợi lời nói của Hiền giả là chân là thật. Con người không sở hữu, điều nghó tưởng ấy cũng không sở hữu, con người không tự nhiên, điều nghó tưởng ấy cũng không tự nhiên. Con người cũng rỗng không, niệm cũng rỗng không, con người không thật, niệm cũng không thật, thân người rỗng không, vô niệm cũng rỗng không, không có con người, không có sự giác ngộ, niệm cũng không giác ngộ. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng không sở hữu, niệm cũng không sở hữu, bảy không cũng không sở hữu, sắc không sở hữu, rỗng không, không thật. Sắc không giác, niệm cũng không giác. Mười tám chủng, địa, thủy, hỏa, phong, thức, giới; Thí, Giới, Nhẫn, Tinh tấn, Thiền, Bát-nhã ba-la-mật, ba mươi bảy phẩm, mười Lực, Vô úy, pháp của chư Phật, tất cả các môn Tam-muội, môn Đà-la-ni, trí Nhất thiết, hiểu rõ những pháp đó đều là không sở hữu thì đó là đạo. Sở niệm không sở hữu, con người không giác, sở niệm cũng không giác, hiểu rõ điều đó rồi mới thành Chánh giác. Đại Bồ-tát nên hành như thế. Đại Bồ-tát chẳng lìa niệm ấy mới thành Chánh giác. Bấy giờ Đức Phật khen ngợi Tu-bồ-đề: –Hay thay, hay thay! Đại Bồ-tát nên nói như thế. Bát-nhã ba-la-mật-đa như ông đã nói là đều nương vào oai thần của Như Lai. Đại Bồ-tát nên hành Bát-nhã ba-la-mật như thế. Khi Hiền giả Tu-bồ-đề nói Bát-nhã ba-la-mật thì trong tam thiên đại thiên thế giới, sáu thứ chấn động, các phương Đông, Tây, Nam, Bắc trên dưới đều chấn động. Khi ấy Đức Phật mỉm cười. Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật: –Bạch Đức Thiên Trung Thiên! Vì sao hôm nay Ngài cười? Chắc là có lý do? Đức Phật bảo Tu-bồ-đề: –Đúng! Hôm nay ta ở cõi Nhẫn này, nói Bát-nhã ba-la-mật, thì các Đấng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hiện tại trong mười phương cũng đều nói Bát-nhã ba-la-mật. Khi Phật nói lời ấy có mười hai triệu chư Thiên, con người đều đắc pháp nhẫn không từ đâu sinh, ngay khi ấy thấy hết chư Phật mười phương đều nói Bát-nhã ba-la-mật. Và Đức Phật khi nói lời ấy, vô số vô số người đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. KINH QUANG TÁN <卷 id="81581578">QUYỂN 10 <詞 id="81581579">Phẩm 25: Vấn Bấy giờ Thích Đề-hoàn Nhân, bốn Thiên vương, các trời Diệm, các trời Đâu-thuật, các trời Ni-ma-la, các trời Ba-la-ni-mật, các trời Phạm, các trời Ca-di, các trời Thủ-đà-vệ, cùng vô số ức trăm ngàn thiên nhân trong tam thiên đại thiên thế giới, chư Thiên nhân này do phước đức đời trước nên ánh sáng rực rỡ, nhưng so với Như Lai thì ánh sáng của Ngài gấp trăm ức ngàn ức vạn lần, gấp hơn ức vạn lần. Ngài là bậc Tôn quý, là bậc Cao thượng, là bậc không ai sánh bằng, là bậc không ai so sánh, không gì là chẳng thông đạt. Bấy giờ Thích Đề-hoàn Nhân thưa với Hiền giả Tu-bồ-đề: –Nay bốn Thiên vương, chư Thiên Thủ-đà-vệ… đều đến dự đại hội, muốn nghe Hiền giả Tu-bồ-đề nói pháp Bát-nhã ba-la-mật. Đại Bồ-tát an trụ trong Bát-nhã ba-la-mật như thế nào? Nên hành như thế nào? Ngài Tu-bồ-đề nói với Thích Đề-hoàn Nhân: –Chư Thiên tử muốn nghe, tôi sẽ nói. Ngài Tu-bồ-đề nương oai thần của Đức Phật, nhờ ân Đức Phật trợ giúp để nói Bát-nhã ba-la-mật, ứng với sự lập hạnh của các Bồ-tát. Ngài Tu-bồ-đề nói: –Vị Thiên tử nào chưa phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác thì nay nên phát. Vị nào vào chánh kiến Thanh văn thì chẳng thể phát tâm đại đạo. Vì sao? Vì đã bít lấp đường sinh tử. Nhưng tôi chính thức khiến cho những người này hành đạo Bồ-tát. Tôi nhân danh niềm vui của họ để khuyến trợ làm cho họ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Tôi không bao giờ đoạn mất công đức của họ. Tôi muốn làm cho họ chọn pháp trung đạo tôn quý, chính là muốn cho họ đạt Phật đạo vô thượng. Ngài Tu-bồ-đề nói với Thích Đề-hoàn Nhân: –Vừa rồi, ông hỏi, Bồ-tát an trú trong Bát-nhã ba-la-mật như thế nào? Tâm trí Nhất thiết của Đại Bồ-tát chẳng chấp sắc có thường hoặc vô thường, hoặc khổ hoặc vui, hoặc ngã hoặc vô ngã, chẳng chấp họa hoạn về bệnh tật lo sầu, có hại, không hại, có ràng buộc, không ràng buộc, có độ thoát, không độ thoát, hoại diệt sự sợ hãi thường gặp, đạt đến thân rỗng không, rốt ráo không còn tin gì, không tranh tụng, cũng không nhớ nghó, không có điên đảo. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như thế. Đối với nhãn, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý; địa, thủy, hỏa, phong, không, thức chẳng thấy có thường, vô thường, có ngã, vô ngã, hoặc khổ, hoặc vui và các hoạn nạn tật bệnh lo sầu. Đối với các loại thanh sắc, không nhớ nghó, cũng không điên đảo. Năm ấm, sáu suy và các thức chủng tịch nhiên, không thật. Các điều tưởng nghó, xét theo Phật pháp, đều là điên đảo. Lại nữa, này Câu-dực! Đại Bồ-tát muốn tương ưng tâm trí Nhất thiết để hành Thí ba-la-mật thì không chấp trước, hành Giới, Nhẫn, Tinh tấn, Thiền đều không chấp trước. Lại nữa, này Câu-dực! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, quán sát các pháp, biết rõ các pháp, biết rõ các pháp lần lượt là nhân duyên thành tựu cho nhau, được đầy đủ rồi, lần lượt hình thành sự hiểu biết về các pháp là không có tôi ta, cũng không có thân. Bồ-tát dùng điều đó để khuyến trợ đạo tâm. Cái đạo tâm ấy cũng không sở hữu. Ngài Tu-bồ-đề nói với Câu-dực: –Khuyến trợ đạo tâm biết không sở hữu tức là biết đạo tâm. Mà không sở hữu thì chẳng thể nắm bắt được. Nếu khuyến trợ đạo tâm, chẳng nắm bắt được thì, này Câu-dực! Đó là Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, quán tất cả các pháp chẳng thấy các pháp là cái có thể nắm bắt được. Thích Đề-hoàn Nhân hỏi Tôn giả Tu-bồ-đề: –Thế nào là khuyến trợ đạo tâm mà không sở hữu? Thế nào là khuyến trợ đạo tâm mà chẳng thể nắm bắt được? Thế nào là khuyến trợ đạo tâm không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được? Ngài Tu-bồ-đề trả lời Thích Đề-hoàn Nhân: –Này Câu-dực! Tâm khuyến trợ ấy cùng với tâm vốn là đạo tâm. Như vậy thì không có tâm nào khác. Không có tâm thì dùng không tâm mà khuyến trợ, không có không niệm, dùng không niệm để khuyến trợ. Nếu không tâm thì dùng không tâm, không có niệm thì dùng không có niệm tức là Bát-nhã ba-la-mật của Đại Bồ-tát. Đức Phật dạy: –Hay thay, hay thay! Này Tu-bồ-đề! Nếu có thể khuyến trợ Đại Bồ-tát thì mới nói Bát-nhã ba-la-mật như vậy. Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật: –Bạch Đức Thiên Trung Thiên! Con đem thân mình báo đáp công ân của Phật, hành sự nhiều lần. Vì sao? Vì chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác quá khứ khiến các đệ tử vì các Bồ-tát nói Bát-nhã ba-la-mật. Thuở quá khứ, chư Phật vì các Bồ-tát khuyến trợ giảng nói sáu pháp Ba-la-mật, các Ngài tuần tự khen ngợi, dẫn dụ tiến tới, khuyến hóa kiến lập đạo phẩm ấy. Thuở ấy, Thế Tôn vốn cùng với các Bồ-tát hưng khởi sáu pháp Ba-la-mật, đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thành không thoái chuyển. Bạch Đức Thiên Trung Thiên! Nay con cũng như thế, sẽ khuyến trợ các Đại Bồ-tát phát khởi sự tin ưa thọ trì sáu pháp Ba-la-mật, khai hóa kiến lập Phật đạo. Con đã thọ trì rồi, đã khiến họ ưa thích rồi, ân cần khuyến lập sẽ khiến cho Đại Bồ-tát mau thành tựu Vô thượng Bồ-đề không thoái chuyển. Ngài Tu-bồ-đề nói với Thích Đề-hoàn Nhân: –Này Câu-dực! Hãy lắng nghe! Vừa rồi ông hỏi, Bồ-tát an trú trong Bát-nhã ba-la-mật thế nào mà không chỗ trú? Này Câu-dực! Cái gọi là sắc thì sắc đó tức là không. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại là không. Cái gọi là Bồ-tát thì Bồ-tát là không. Vì sắc là không cho nên Bồ-tát là không, không có hai, cũng không nhiều. Vì thọ, tưởng, hành, thức là không nên Bồ-tát cũng là không, không có hai, cũng không nhiều. Này Câu-dực! Đó là Đại Bồ-tát an trú trong Bát-nhã ba-la-mật. Lại nữa, này Câu-dực! Cái gọi là nhãn thì nhãn tức là không. Nhó, tỷ, thiệt, thân, ý cũng lại như thế. Cái gọi là Bồ-tát thì Bồ-tát cũng là không. Nhãn, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý là không cho nên Bồ-tát cũng là không, không có hai, cũng không có nhiều. Địa, thủy, hỏa, phong là không vì vậy Bồ-tát cũng là không. Sáu sự trong thân đều không sở hữu, gốc ngọn đều là không, cũng không có hai, cũng không có nhiều. Này Câu-dực! Như vậy là Đại Bồ-tát an trú trong Bát-nhã ba-la-mật. Lại nữa, này Câu-dực! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, hiểu rõ si là không, sắc, lục nhập, cánh, lạc, thống, ái, thọ, hữu, sinh lão bệnh tử cũng lại là không. Vì mười hai nhân duyên diệt hết cho nên gọi là không. Mười hai nhân duyên là không cho nên Bồ-tát cũng là không, không có hai, cũng không có nhiều. Này Câu-dực! Như vậy là Đại Bồ-tát an trú trong Bát-nhã ba-la-mật. Lại nữa, Câu-dực! Vì Thí ba-la-mật là không nên Bồ-tát là không. Giới, Nhẫn, Tinh tấn, Thiền, Bát-nhã ba-la-mật cũng lại là không. Vì sáu pháp Ba-la-mật là không nên Bồ-tát là không. Đó là Đại Bồ-tát an trú trong Bát-nhã ba-la-mật. Lại nữa, này Câu-dực! Pháp nội không, pháp ngoại không, pháp không gần, pháp không xa, pháp chân không, pháp sở hữu không, pháp không sở hữu không đều là không cho nên Bồ-tát cũng là không. Bốn Ý chỉ, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo, mười Lực, bốn Vô sở úy, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật, tất cả các môn Tam-muội, môn Đà-la-ni đều là không cho nên Bồ-tát là không. Sáu pháp Ba-la-mật, ba mươi bảy phẩm đều là không, bảy không là không, pháp của chư Phật là không, các môn Tam-muội là không, môn Đà-la-ni là không, không có hai, cũng không có nhiều. Này Câu-dực! Đó là Đại Bồ-tát an trú trong Bát-nhã ba-la-mật. Lại nữa, này Câu-dực! Trí Nhất thiết là không. Vì trí Nhất thiết là không nên Bồ-tát cũng là không. Trí Nhất thiết là không và Bồ-tát cũng là không cho nên đều không có hai, không có nhiều. Này Câu-dực! Đó là Đại Bồ-tát an trú trong Bát-nhã ba-la-mật. Bấy giờ Thích Đề-hoàn Nhân hỏi Tôn giả Tu-bồ-đề: –Đại Bồ-tát an trú trong Bát-nhã ba-la-mật như thế nào? Ngài Tu-bồ-đề trả lời: –Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật chẳng nên trụ trong sắc, chẳng nên trụ trong thọ, tưởng, hành, thức, chẳng nên trụ trong nhãn xúc. Nhó, tỷ, thiệt, thân, ý cũng lại như thế, không xúc, không trụ. Địa, thủy, hỏa, phong cũng không xúc, cũng không trụ. Chẳng nên trụ Ý chỉ, Ý đoạn, Căn, Lực, Giác ý, tám Thánh đạo. Chẳng nên trụ trí Nhất thiết. Chẳng nên trụ Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi-phật và Phật đạo. Chẳng nên trụ có thường, vô thường của sắc. Chẳng nên trụ có thường, vô thường của thọ, tưởng, hành, thức. Chẳng nên trụ khổ, vui của sắc. Chẳng nên trụ tịnh, bất tịnh của sắc. Chẳng nên trụ ngã sở, chẳng phải ngã sở của sắc. Chẳng nên trụ không, bất không của sắc. Chẳng nên trụ tịch tónh, bất tịch tónh của sắc. Chẳng nên trụ không thật, không không thật. Chẳng nên trụ có Tu-đà-hoàn, không có Tu-đà-hoàn. Chẳng nên trụ có Tư-đà-hàm, không có Tư-đà-hàm. Chẳng nên trụ có A-na-hàm, không có A-na-hàm. Chẳng nên trụ có A-la-hán, không có A-la-hán. Chẳng nên trụ có Bích-chi-phật, không có Bích-chi-phật. Chẳng nên trụ có Phật, không có Phật. Chẳng nên trụ bốn đạo Thế Tôn, Bích-chi-phật, Phật Thế Tôn. Lại nữa, này Câu-dực! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật chẳng nên trụ trụ địa Bồ-tát thứ nhất, thứ hai, thứ ba, thứ tư, thứ năm, thứ sáu, thứ bảy, thứ tám, thứ chín, thứ mười, từ lúc mới phát tâm cho đến không thoái chuyển, cũng không chỗ trụ. Bồ-tát chẳng nên trụ đầy đủ Thí ba-la-mật, Giới, Nhẫn, Tinh tấn, Thiền, Bát-nhã ba-la-mật cũng lại như thế; chẳng nên trụ ba mươi bảy phẩm, mười Lực, bốn Vô sở úy, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật. Đại Bồ-tát chẳng nên nghó thế nào? Đó là “Ta nhập pháp Bồ-tát. Ta nhập địa không thoái chuyển.” Chẳng nên khởi trụ như thế. Đại Bồ-tát chẳng nên trụ năm Thần thông, cũng chẳng nên trụ năm Thần thông của Bồ-tát. Đã đắc năm thần thông rồi đến vô số vô số cõi nước chư Phật, chiêm ngưỡng chư Phật Thiên Trung Thiên, cúi đầu làm lễ, lắng nghe thuyết pháp, như pháp đã thọ, nói lại cho hội chúng. Đại Bồ-tát chẳng nên khởi trụ này: “Như cõi nước mà Đức Phật Thiên Trung Thiên đã biến hiện, ta sẽ hóa hiện thế giới như thế.” Đại Bồ-tát chẳng nên khởi trụ thế giới này: “Ta sẽ khai hóa tất cả chúng sinh. Chẳng nên nghó: “Ta sẽ trụ ở vô số vô số thế giới, chiêm ngưỡng chư Như Lai, cúng dường hoa hương, hương bột, hương tạp, cờ phướn, lọng lụa.” Chẳng nên nghó: “Ta sẽ khai hóa vô số vô số người, khiến khởi tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.” Bồ-tát chẳng nên nghó thế này: “Ta sẽ thành lập năm nhãn đầy đủ. Những gì là năm? Đó là Nhục nhãn, Thiên nhãn, Tuệ nhãn, Pháp nhãn, Phật nhãn.” Chẳng nên nghó: “Ta sẽ khởi lập tất cả bình đẳng mới có thể thành tựu các môn Tam-muội, để dùng chúng tự vui.” Chẳng nên nghó: “Đắc môn Đà-la-ni, mười Lực của Như Lai, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, bốn sự bất hộ, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật.” Chẳng nên nghó: “Ta sẽ đầy đủ đại Từ, đại Bi.” Chẳng nên trụ ba mươi hai tướng, đầy đủ tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm thân. Chẳng nên trụ pháp Bát đẳng, dốc lòng tin thọ trì. Chẳng nên trụ Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi-phật. Chẳng nên trụ Tu-đà-hoàn bảy lần chết, bảy lần sinh để giải thoát. Chẳng nên trụ “Phược kỳ” là một hạng chân nhân đứng đầu, hết các trần lao. Chẳng trụ trong Niết-bàn của Tu-đà-hoàn. Chẳng nên trụ Tư-đà-hàm. Vì sao? Vì tới lui trong thế gian để dứt hết khổ, vào diệt độ. Chẳng nên trụ quả chứng A-na-hàm. Vì sao? Vì thành A-na-hàm rồi liền ở trên cõi trời vào Niết-bàn. Chẳng nên trụ quả chứng A-la-hán. Vì sao? Vì thành đạo A-la-hán rồi liền trụ trong Vô dư Niết-bàn. Chẳng nên nhập Niết-bàn cho nên chẳng nên trụ. Niết-bàn của Bích-chi-phật vượt qua Niết-bàn địa Thanh văn, mhưng chẳng thể sánh kịp Niết-bàn của Phật. Vì vậy, chẳng nên trụ trong đạo của Bích-chi-phật. Chẳng nên trụ việc đạo, ở trong đạo tuệ mà không chấp trước. Chẳng nên trụ trí Nhất thiết. Vì sao? Vì trí Nhất thiết hiểu rõ tất cả pháp, thành Đẳng chánh giác, dứt các kiết trần lao chướng ngại. Vì sao? Vì Như Lai thành Đẳng chánh giác liền chuyển pháp luân, tức là làm Phật sự độ vô số người chẳng thể tính đếm, khiến nhập Niết-bàn. Vì vậy, chẳng nên trụ trong Phật, trụ bốn Thần túc, dùng Tam-muội sắc tượng, loại Tam-muội vượt qua và tồn tại hằng hà sa số kiếp. Chẳng nên trụ thọ mạng vô số. Chẳng nên trụ ba mươi hai tướng mà mỗi tướng cả trăm công đức được thành tự. Chẳng nên trụ hằng hà sa thế giới chư Phật. Chẳng nên trụ cõi Phật ở Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn phía, trên dưới và một cõi Phật. Chẳng nên trụ mười phương cõi Phật là một cõi. Chẳng nên trụ ngồi dưới cây Bồ-đề, vì cây ấy phát ra mùi hương, khiến cho chúng sinh nghe mùi hương này đúng như hương vị của nó, thì không bị dâm, nộ, si ràng buộc, chẳng phát ý Thanh văn, Bích-chi-phật mà đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Bất kỳ chúng sinh nào nghe mùi hương này rồi thì thân, khẩu, ý đều không bệnh. Ở cõi Phật đó, cũng không chỗ trụ, tức không có âm thanh của sắc, không có âm thanh của thọ, tưởng, hành, thức. Chẳng nên trụ âm thanh của Thí, Giới, Nhẫn, Tinh tấn, Thiền, Bát-nhã ba-la-mật. Chẳng nên trụ âm thanh của bốn Ý chỉ, bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Thánh đạo, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật. Chẳng nên trụ âm thanh Niết-bàn của Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi-phật, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thành Đẳng Chánh Giác. Này Câu-dực! Như trên là Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, chẳng nên trụ vào những âm thanh vướng mắc này. Bấy giờ Hiền giả Xá-lợi-phất, tâm tự nghó: “Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật như thế nào?” Ngài Tu-bồ-đề biết tâm niệm của Xá-lợi-phất, liền nói với Xá-lợi-phất: –Theo ý ông thì sao? Như Lai trụ ở chỗ nào? Ngài Xá-lợi-phất trả lời ngài Tu-bồ-đề: –Như Lai không chỗ trụ, chẳng phải không trụ. Phật không tâm, không sắc, chẳng trụ ở sắc; chẳng trụ thọ, tưởng, hành, thức, chẳng trụ cảnh giới hữu vi, chẳng trụ cảnh giới vô vi, chẳng trụ các Tam-muội không, ba mươi bảy phẩm, mười Lực, Vô úy, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật, chẳng trụ trí Nhất thiết. Ngài Tu-bồ-đề khen Xá-lợi-phất: –Đúng vậy, đúng vậy! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật nên trụ như thế. Chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác cũng chẳng có trụ, Đại Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật nên trụ không có chỗ trụ như thế. Bấy giờ trong hội các Thiên tử… đều nghó: “Lời nói, ý nghó của các Duyệt-xoa đều có thể hiểu rõ điều âm thanh phát ra. Nhưng lời nói của Tôn giả Tu-bồ-đề chẳng thể hiểu được.” Tu-bồ-đề biết tâm niệm của các Thiên tử, bảo họ: –Chẳng biết ư? Các Thiên tử trả lời: –Dạ, chẳng biết! Khi ấy Tôn giả Tu-bồ-đề vì các Thiên tử phân biệt nói: –Không có một loại văn tự để có thể nói, chẳng thể phân biệt, cũng không người nghe. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật không có văn tự để nói, cũng không người nghe. Vì sao? Vì Như Lai không văn tự. Này các Thiên tử! Ví dụ như Đức Như Lai hóa làm hóa nhân. Có hóa nhân rồi, hóa làm bốn bộ chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di. Rồi vì bốn bộ chúng ấy nói pháp. Theo ý các Thiên tử thì sao? Có người nói, có người hiểu chăng? Trả lời: –Thưa không! Ngài Tu-bồ-đề nói: –Này các Thiên tử! Như thế tất cả các pháp cũng hóa hiện ra, không có người nói, không có người nghe. Ví như trong mộng nghe Phật nói kinh. Thế nào? Có người nói, có người nghe hiểu chăng? Đáp: –Thưa không! Ngài Tu-bồ-đề nói: –Tất cả các pháp đều như mộng, không có người nói, không có người nghe, không có người biết. Ví như hai vị Thiên tử đứng ở cửa địa ngục, khen ngợi Phật, Pháp, Tăng. Âm thanh của hai người cùng phát ra. Thế nào? Hai âm thanh ấy có hình thành âm thanh thứ hai chăng? Đáp: –Thưa không! Ví như nhà ảo thuật ở ngã tư đường, hóa làm Như Lai nói pháp cho bốn bộ chúng. Thế nào? Có người nói pháp, có người nghe hiểu chăng? Các Thiên tử lại nghó: “Bát-nhã ba-la-mật mà Tu-bồ-đề đã nói rất sâu xa, rất sâu xa, đạt đến chỗ thâm diệu!” Ngài Tu-bồ-đề biết ý nghó của các Thiên tử, bảo với họ: –Sắc chẳng phải chẳng sâu xa, chẳng phải vi diệu? Thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải chẳng sâu xa, chẳng phải vi diệu? Sắc chẳng phải chẳng tự nhiên, sâu xa, vi diệu? Thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải chẳng tự nhiên, sâu xa, vi diệu? Nhãn, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý cũng lại như thế. Thí, Giới, Nhẫn, Tinh tấn, Thiền, Bát-nhã ba-la-mật chẳng phải chẳng tự nhiên, sâu xa, vi diệu? Pháp nội không, pháp ngoại không, pháp không gần, pháp không xa, pháp chân không, pháp sở hữu không, pháp không sở hữu không, mười Lực, bốn Vô sở úy, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật, tất cả các môn Tam-muội, môn Đà-la-ni, trí Nhất thiết chẳng phải chẳng phải tự nhiên, sâu xa, vi diệu? Khi ấy các Thiên tử nghó: “Người nói pháp chẳng quyết định sắc, thọ, tưởng, hành, thức chăng? Chẳng quyết định sáu pháp Ba-la-mật, bảy không, ba mươi bảy phẩm, mười Lực, Vô úy, pháp của chư Phật chăng? Chẳng quyết định Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi-phật chăng?” Ngài Tu-bồ-đề biết tâm niệm của các Thiên tử, liền nói với họ. Này các Thiên tử, đúng vậy! Phật đạo không chứng đắc. Như Lai cũng chẳng thuyết pháp, cũng không có người nghe, cũng không có người hiểu. Ai muốn đắc quả chứng Tu-đà-hoàn, quả chứng Tư-đà-hàm, quả chứng A-na-hàm, A-la-hán thì đừng rời trí nhẫn. Quả Bích-chi-phật cũng như vậy. Này các Thiên tử! Như vậy, Đại Bồ-tát sơ phát tâm trụ Bát-nhã ba-la-mật không có nói năng, tức cũng chẳng nghe.  <詞 id="81581580">Phẩm 26: pháp Sư Như Huyễn Bấy giờ các Thiên tử suy nghó: “Tôn giả Tu-bồ-đề nói pháp như thế, thì nên dùng gì để nghe?” Ngài Tu-bồ-đề biết ý nghó của các Thiên tử, bảo với họ: –Pháp sư như huyễn, người nghe như hóa, những điều nghe được cũng chẳng tác chứng. Các Thiên tử lại nghó: “Tại sao Tu-bồ-đề nói người như huyễn, Pháp sư như huyễn, người như hóa, người nghe như hóa?” Ngài Tu-bồ-đề nói: –Này các Thiên tử! Đúng vậy, đúng vậy! Người như huyễn, pháp sư như huyễn, người như hóa, pháp sư như hóa, tôi ta như mộng. Sắc cũng như thế, thọ, tưởng, hành, thức cũng như mộng. Nhãn sắc như mộng, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý cũng lại như thế. Các xúc cũng lại như mộng. Pháp nội không, pháp ngoại không, pháp không gần, pháp không xa, pháp chân không, pháp sở hữu không, pháp không sở hữu không cũng đều như mộng. Ba mươi bảy phẩm, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Phân biệt biện, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật cũng lại như mộng, như huyễn, như hóa. Quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán cũng như huyễn mộng. Bích-chi-phật lên đến Chánh đẳng Chánh giác cũng như huyễn mộng. Các Thiên tử hỏi Tôn giả Tu-bồ-đề: –Cho đến Phật đạo phải chăng cũng là như huyễn mộng? Ngài Tu-bồ-đề đáp: –Cho đến Niết-bàn cũng là như huyễn mộng. Các Thiên tử hỏi ngài Tu-bồ-đề: –Cho đến Niết-bàn, mà Niết-bàn cũng như mộng chăng? Ngài Tu-bồ-đề đáp: –Niết-bàn là pháp xưa nay rất tôn quý, nhưng không sở hữu. Tôi gọi nó như huyễn như mộng. Vì sao? Vì huyễn mộng và Niết-bàn không có hai, cũng không có nhiều, rỗng không, không sở hữu. Khi ấy Hiền giả Xá-lợi-phất, Ma-ha Mục-kiền-liên, Ma-ha Câu-hy-la, Ma-ha Ca-chiên-diên, Bân-nậu Văn-đà-phất, Ma-ha Ca-diếp và vô số chúng Bồ-tát hỏi Tôn giả Tu-bồ-đề: –Bát-nhã ba-la-mật ấy rất sâu xa khó hiểu, tịch nhiên, vi diệu, ai là người có thể lãnh thọ pháp thâm diệu khó đạt ấy? Ngài Tu-bồ-đề trả lời các đệ tử Phật và các Bồ-tát: –Đại Bồ-tát không thoái mới có thể lãnh thọ hạnh uyên thâm, vô niệm, không nghó bàn ấy. Nó phát xuất từ chỗ huyền viễn, tịch nhiên vời vợi, khó đạt, khó hiểu. Chỉ có bậc Hiền thánh thông tuệ mới có thể lãnh thọ Bát-nhã ba-la-mật này. Bậc Kiến đế là A-la-hán, chí nguyện đầy đủ, đối với Phật quá khứ đã tạo hạnh, cúng dường vô số trăm ngàn chư Phật, trồng các cội đức, được Thiện tri thức hộ trì, thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy mới có thể lãnh thọ Bát-nhã ba-la-mật sâu xa. Họ lắng nghe, lãnh thọ lời dạy này, hiểu biết sắc là rỗng không, chẳng tưởng. Sắc là rỗng không, chẳng tưởng thì thọ, tưởng, hành, thức cũng rỗng không, chẳng tưởng. Thần thức là rỗng không, chẳng tưởng, chấp sắc cũng chẳng tưởng. Nếu nghó không có sắc thì chẳng nghó năm ấm vô tướng, chẳng nghó thần thức vô tướng, chẳng nghó thức vô nguyện, chẳng nghó sắc vô nguyện. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy. Chẳng nghó năm ấm vô tưởng, chẳng nghó năm ấm không vô tưởng, chẳng nghó sắc không chỗ sinh, cũng chẳng nghó sắc không chỗ diệt, chẳng nghó tịch nhiên, không thật. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như thế. Chẳng nghó nhãn, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý không chỗ sinh, không chỗ diệt, tịch nhiên, không thật. Chẳng nghó các xúc do các duyên sinh khởi. Đối với Thí, Giới, Nhẫn, Tinh tấn, Thiền, Bát-nhã ba-la-mật, chẳng nghó chỗ sinh, cũng không chỗ diệt, tịch nhiên, không thật. Cho đến bảy không, ba mươi bảy phẩm, mười Lực, bốn Vô sở úy, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật, tất cả các môn Tam-muội, môn Đà-la-ni cũng lại như thế, chẳng nghó chỗ sinh, cũng không chỗ diệt. Quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán và Bích-chi-phật, trí Nhất thiết, đều biết rõ là rỗng không. Trí Nhất thiết chẳng tưởng niệm không, trí Nhất thiết cũng không sở nguyện. Cái không sở nguyện ấy cũng chẳng tưởng niệm trí Nhất thiết. Cái sở hữu ấy chẳng tưởng không, cái không ấy cũng chẳng tưởng sở hữu. Vô nguyện, vô tướng cũng lại như vậy. Cảnh giới vô vi chẳng tưởng không, không cũng chẳng tưởng cảnh giới vô vi. Vô nguyện, vô tướng cũng lại như vậy, không chỗ sinh, cũng không chỗ diệt, cũng không tịch nhiên, cũng không thật, đều không tưởng niệm. Ngài Tu-bồ-đề nói với các Thiên tử: –Bát-nhã ba-la-mật sâu xa, vi diệu chẳng phải là pháp mà bậc Hiền thánh minh trí được lãnh thọ. Vì sao? Vì pháp ấy không phải pháp để lãnh thọ, cũng không phải pháp để nghe, cũng không nói rõ. Nếu không người nghe, thì không người nói. Do đó, tức là không có người, không đối tượng lãnh thọ. Ngài Xá-lợi-phất hỏi ngài Tu-bồ-đề: –Bát-nhã ba-la-mật này chẳng phải nói rộng ra cho tất cả các thừa A-la-hán, Bích-chi-phật, Chánh đẳng Chánh giác sao? Bát-nhã ấy sẽ hộ trì cho hạnh Đại Bồ-tát từ khi mới phát ý đạo Bồ-tát cho đến đạt được thập Trụ, sáu pháp Ba-la-mật, ba mươi bảy phẩm, mười Lực, Vô úy, pháp của chư Phật. Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật phát sinh thần thông, không quên mất pháp thuận. Như thế, gốc đức đã đạt từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, Bồ-tát muốn được cúng dường chư Phật Thế Tôn, đúng như lòng mong muốn, đều được toại nguyện. Cúng dường xong, theo chư Phật nghe thọ kinh pháp, chưa từng quên mất, tự đạt thành trí Nhất thiết, thường định tâm Tam-muội, chưa hề tán loạn, chưa từng tư niệm, biện tài vô ngại, nói ra điều gì không ai có thể cắt đứt nửa chừng, biện tài đúng với nghóa lý cao siêu mầu nhiệm, vượt qua tất cả sự thông minh của thế gian. Ngài Xá-lợi-phất nói với ngài Tu-bồ-đề: –Đúng vậy, đúng vậy! Đúng như Tôn giả đã nói: Bát-nhã ba-la-mật giải nói cho ba thừa tức là trí tuệ biện tài của Đại Bồ-tát vượt qua thế gian, tôn quý không thể bì kịp, tâm không chấp trước, tự hiểu rõ thân, không có điên đảo, cũng chẳng chấp vào sở kiến, đó là sở kiến đối với sắc, thọ, tưởng, hành, thức, cũng chẳng chấp vào sáu pháp Ba-la-mật, chẳng chấp vào bảy không, ba mươi bảy phẩm, mười Lực, Vô úy, pháp của chư Phật, cũng chẳng chấp trước trí Nhất thiết. Ngài Xá-lợi-phất hỏi Tôn giả Tu-bồ-đề: –Vì lý do gì mà đem Bát-nhã ba-la-mật nói rộng cho ba thừa thì Đại Bồ-tát đạt được biện tài Bồ-tát, vượt qua tất cả thế gian mà không chấp trước? Ngài Tu-bồ-đề trả lời Xá-lợi-phất: –Vì pháp nội không, pháp ngoại không nên nói rộng ba thừa. Bảy không cũng lại như vậy, đều không sở hữu nên nói ba thừa. Đại Bồ-tát hiểu rõ các pháp không nên giảng thuyết pháp này cho hành giả. Vì vậy cho nên biện tài của Bồ-tát vượt qua tất cả thế gian, rất tôn quý mà không vướng mắc.  <詞 id="81581581">Phẩm 27: Mưa pháp Bảo Bấy giờ Thích Đề-hoàn Nhân tự nghó: “Những điều Tôn giả Tu-bồ-đề đã nói hôm nay là mưa pháp báu cho cả tam thiên đại thiên thế giới, từ cõi trời Tứ Thiên vương lên đến trời A-ca-nị-sất. Pháp mà Tu-bồ-đề đã nói hôm nay là mưa pháp báu. Ta nên biến hóa ra hoa để rải lên Đức Phật, Bồ-tát và Thánh chúng cùng ngài Tu-bồ-đề. Thích Đề-hoàn Nhân và chúng chư Thiên cả tam thiên đại thiên thế giới đều biến hóa ra hoa rải lên Đức Thế Tôn, các Đại Bồ-tát, Thánh chúng Tỳ-kheo và ngài Tu-bồ-đề để cúng dường, tự quy về Bát-nhã ba-la-mật. Vừa rải hoa xong, hoa này biến khắp ba ngàn cõi Phật, ở trên hư không hóa làm lầu gác vời vợi cao ngất, nhanh không thể tưởng. Tôn giả Tu-bồ-đề tự nghó: “Xưa kia ta từng dạo khắp các cung trời nhưng chưa được thấy các loại hoa này. Hoa vừa rải cúng đó là hoa biến hóa, chẳng phải từ cây sinh. Loại hoa mà các Thiên tử vừa rải cúng là từ cây tâm sinh ra chứ chẳng phải từ cây thường sinh.” Thích Đề-hoàn Nhân nói với Tu-bồ-đề: –Hoa này không từ đâu sinh, chẳng từ cây tâm sinh. Ngài Tu-bồ-đề nói: –Như Câu-dực nói thì hoa này không từ đâu sinh, chẳng từ cây tâm sinh, nếu như lời Câu-dực nói không từ đâu sinh thì chẳng phải là hoa. Thích Đề-hoàn Nhân trả lời ngài Tu-bồ-đề: –Quả thật hoa không từ đâu sinh thì sắc không từ đâu sinh; thọ, tưởng, hành, thức không từ đâu sinh. Ngài Tu-bồ-đề nói: –Này Câu-dực! Hoa này chẳng phải không từ đâu sinh. Sắc không chỗ sinh, mà không chỗ sinh thì không có sắc. Thọ, tưởng, hành, thức không chỗ sinh, mà không chỗ sinh thì không có thọ, tưởng, hành, thức. Nhãn không chỗ sinh, mà không chỗ sinh thì không có nhãn. Nhó, tỷ, thiệt, thân, ý cũng lại như thế. Thí ba-la-mật cũng không chỗ sinh, mà không chỗ sinh thì không có Thí ba-la-mật. Giới, Nhẫn, Tinh tấn, Thiền, Bát-nhã ba-la-mật cũng không chỗ sinh, mà không chỗ sinh thì không có Giới, Nhẫn, Tinh tấn, Thiền, Bát-nhã ba-la-mật. Bảy không, ba mươi bảy phẩm cũng không chỗ sinh, mà không chỗ sinh thì không có bảy không, ba mươi bảy phẩm. Mười Lực, Vô úy, pháp của chư Phật cũng không chỗ sinh, mà không chỗ sinh thì không có mười Lực, Vô úy, pháp của chư Phật. Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi-phật, trí Nhất thiết cũng không chỗ sinh, mà không chỗ sinh thì không có Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi-phật, trí Nhất thiết. Thích Đề-hoàn Nhân tự nghó: “Tôn giả Tu-bồ-đề đã nhập trí tuệ sâu xa nên pháp đã nói ra đều không có chỗ tranh biện, cũng không lầm lẫn.” Khi ấy Đức Phật bảo Thích Đề-hoàn Nhân: –Này Câu-dực! Đúng vậy. Tu-bồ-đề đã nhập trí tuệ sâu xa. Do đã thâm nhập tuệ nên kinh pháp đã nói ra đều không có chỗ tranh biện, cũng không lầm lẫn. Thích Đề-hoàn Nhân bạch Phật: –Tôn giả Tu-bồ-đề thâm nhập trí tuệ thế nào mà do sự thâm nhập trí tuệ ấy, kinh pháp Tôn giả nói ra đều không chỗ tranh biện, cũng không lầm lẫn? Đức Phật bảo Thích Đề-hoàn Nhân: –Chỗ thâm nhập đó là sắc, nhập pháp này rồi thì pháp được nói ra, đều không có chỗ tranh biện, cũng chẳng lầm lẫn. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như thế. Vì sao? Vì đúng như pháp, không hòa không tranh. Pháp Tu-bồ-đề đã nói cũng lại như thế, chẳng động, chẳng loạn. Sáu pháp Ba-la-mật cũng lại như thế. Và bảy không, ba mươi bảy phẩm, mười Lực, Vô úy, pháp của chư Phật, chẳng đồng, chẳng loạn. Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi-phật, trí Nhất thiết cũng lại như thế, chẳng đồng, chẳng loạn. Vì sao? Vì pháp mà Tu-bồ-đề nói chẳng hòa, chẳng tranh mà không có hòa, tranh thì không có chỗ tranh. Này Câu-dực! Như thế, Tu-bồ-đề do thâm nhập trí tuệ nên pháp nói ra vi diệu sáng chói như thế. Ngài Tu-bồ-đề nói với Thích Đề-hoàn Nhân: –Như Thế Tôn đã dạy tất cả pháp, Đại Bồ-tát hiểu rõ như thế, lý giải tất cả các pháp, học Bát-nhã ba-la-mật cũng nên như vậy. Đại Bồ-tát học như thế là chẳng học sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì chẳng thấy sắc, chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức. Đại Bồ-tát học như thế là chẳng học Thí, Giới, Nhẫn, Tinh tấn, Thiền, Bát-nhã ba-la-mật. Vì sao? Vì chẳng thấy học Bát-nhã ba-la-mật. Chẳng học Bảy không, ba mươi bảy phẩm. Vì sao? Vì chẳng thấy Bảy không, ba mươi bảy phẩm. Chẳng học mười Lực, bốn Vô sở úy, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật. Chẳng học Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi-phật, trí Nhất thiết. Vì sao? Vì chẳng thấy học trí Nhất thiết. Thích Đề-hoàn Nhân hỏi Tôn giả Tu-bồ-đề: –Thưa Tôn giả Tu-bồ-đề! Vì sao chẳng thấy sắc thọ, tưởng, hành, thức, bảy không, ba mươi bảy phẩm, Thanh văn, Bích-chi-phật, Trí Nhất thiết? Ngài Tu-bồ-đề đáp: –Vì sắc rỗng không; thọ, tưởng, hành, thức rỗng không, cho đến trí Nhất thiết cũng rỗng không. Này Câu-dực! Vì sắc rỗng không nên chẳng học sắc không. Vì thọ, tưởng, hành, thức rỗng không cho nên chẳng học thọ, tưởng, hành, thức không. Cho đến trí Nhất thiết cũng lại rỗng không cho nên chẳng học tuệ không. Này Câu-dực! Đó là vì không, vì cái không ấy cho nên chẳng học không. Nếu học không thì chẳng phải một pháp mà là hai pháp. Nếu học sắc không lên đến trí Nhất thiết thì chẳng phải một. Nếu học tuệ thì chẳng phải một. Này Câu-dực! Vì vậy sắc, thọ, tưởng, hành, thức là không, tức là không có hai, lên đến trí Nhất thiết cũng đều là không, cho nên không có hai. Sáu pháp Ba-la-mật cũng lại như thế, đều không có hai. Bảy không, ba mươi bảy phẩm, mười Lực, bốn Vô sở úy, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật, Thanh văn, Bích-chi-phật lên đến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cũng không có hai. Trí Nhất thiết cũng không có hai. Ai có thể học trí Nhất thiết của Phật tức là học được vô số pháp chẳng thể tính đếm. Đã có thể học vô số Phật pháp thì chẳng học sắc có tăng có giảm. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy, lên đến trí Nhất thiết chẳng tăng chẳng giảm. Học năm ấm chẳng tăng chẳng giảm rồi thì có thể học trí Nhất thiết. Đã có thể học trí Nhất thiết chẳng tăng chẳng giảm rồi thì chẳng thọ học sắc, cũng không để mất, chẳng thọ học thọ, tưởng, hành, thức, cũng không để mất, chẳng thọ học Thanh văn, Bích-chi-phật lên đến trí Nhất thiết cũng không để mất. Ngài Xá-lợi-phất nói với ngài Tu-bồ-đề: –Đại Bồ-tát học như thế thì chẳng vì thọ học, cũng không để mất. Ngài Tu-bồ-đề nói: –Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất, đúng vậy! Đại Bồ-tát học như thế là chẳng vì thọ học sắc, thọ, tưởng, hành, thức, cũng không để mất, chẳng thọ học trí Nhất thiết, cũng không để mất. Ngài Xá-lợi-phất hỏi ngài Tu-bồ-đề: –Sao gọi là Đại Bồ-tát chẳng thọ học năm ấm, cũng không để mất, chẳng thọ học trí Nhất thiết, cũng không để mất? Ngài Tu-bồ-đề trả lời: –Sắc không sở hữu, chẳng thể thọ trì nên không thọ sắc. Thọ, tưởng, hành, thức, trí Nhất thiết đều không sở hữu, chẳng thể thọ trì nên không thọ thọ, tưởng, hành, thức, trí Nhất thiết. Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất, đó là Đại Bồ-tát đối với tất cả pháp đều không thọ, thành tựu trí Nhất thiết. Xá-lợi-phất hỏi ngài Tu-bồ-đề: –Đại Bồ-tát học như thế là học Bát-nhã ba-la-mật, làm phát sinh trí Nhất thiết chăng? Ngài Tu-bồ-đề trả lời: –Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất, đúng vậy! Đại Bồ-tát học như thế là học Bát-nhã ba-la-mật làm phát sinh trí Nhất thiết, đối với tất cả pháp không thọ. Ngài Xá-lợi-phất nói với ngài Tu-bồ-đề: –Đại Bồ-tát học như thế, đối với tất cả các pháp không thọ học, cũng không để mất. Đại Bồ-tát học như thế là làm phát sinh trí Nhất thiết. Ngài Tu-bồ-đề nói: –Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật, chẳng thấy sắc có sinh, cũng không có diệt, chẳng thọ, chẳng xả, không trì, không tranh, chẳng tăng, chẳng giảm. Vì sao? Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Vì sắc tự nhiên cho nên không có sắc, thọ, tưởng, hành, thức, chẳng thấy sinh, cũng không diệt, chẳng thọ, chẳng xả, không trần lao, không sân hận, không buông thả, cũng chẳng phải không buông thả, không tăng, không giảm. Vì sao? Vì trí Nhất thiết tức là tự nhiên, không sở hữu. Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất! Vì vậy, Đại Bồ-tát đối với tất cả pháp, không sinh, cũng không diệt, không thọ, không xả, không trần lao, không sân hận, không buông thả, cũng chẳng phải không buông thả, không tăng, không giảm, học Bát-nhã ba-la-mật rồi, phát sinh trí Nhất thiết, tức là dùng vô học nên không sinh. Thích Đề-hoàn Nhân hỏi Tôn giả Xá-lợi-phất: –Đại Bồ-tát nên cầu Bát-nhã ba-la-mật ở đâu? Ngài Xá-lợi-phất đáp: –Này Câu-dực! Nên cầu ở Tôn giả Tu-bồ-đề. Thích Đề-hoàn Nhân hỏi ngài Tu-bồ-đề: –Do oai thần của Tôn giả, do sự kiến lập của Tôn giả nên khiến cho Tôn giả Xá-lợi-phất nói thế này: Tôn giả Tu-bồ-đề nói Bát-nhã ba-la-mật thì nên theo Tôn giả mà cầu. Tu-bồ-đề nói với Thích Đề-hoàn Nhân: –Chẳng phải do oai thần của tôi kiến lập đâu. Lại hỏi: –Vậy do oai thần của ai mà tạo lập? Đáp: –Này Câu-dực! Nhờ ân oai thần của Như Lai mà tạo lập. Thích Đề-hoàn Nhân hỏi Tu-bồ-đề: –Tất cả các pháp đều không chỗ lập, như vậy tại sao gọi là do oai thần của Như Lai kiến lập? Cũng không do chỗ khác kiến lập? Chấp vào các pháp thì chẳng đắc Như Lai! Tôn giả Tu-bồ-đề trả lời Thích Đề-hoàn Nhân: –Này Câu-dực! Đúng vậy. Như Lai thì không chỗ trụ, cũng không chỗ khác. Cái có thể trụ thì không khác Như Lai, hễ có sở đắc thì chẳng lìa trụ. Như Lai cũng không chỗ trụ, nhưng đối với tất cả các pháp chẳng lìa chỗ trụ, chẳng cho sắc là Như Lai, chẳng cho không cội gốc là Như Lai, chẳng cho sắc không cội gốc là Như Lai, chẳng cho Như Lai là không cội gốc, sắc là không cội gốc, sắc pháp là Như Lai, chẳng cho Như Lai là không cội gốc. Vì pháp không cội gốc cho nên các sắc không cội gốc, vì thọ, tưởng, hành, thức không cội gốc nên Như Lai không cội gốc, chẳng cho Như Lai là không cội gốc, chẳng cho thọ, tưởng, hành, thức là không cội gốc, chẳng cho thọ, tưởng, hành, thức không cội gốc là pháp của Như Lai, chẳng cho pháp của Như Lai là pháp của thức, chẳng cho Thanh văn, Bích-chi-phật lên đến trí Nhất thiết, Như Lai là không cội gốc, chẳng cho Như Lai là không cội gốc, trí Nhất thiết là không cội gốc, chẳng cho pháp trí Nhất thiết là pháp của Như Lai, chẳng cho pháp của Như Lai là pháp của trí Nhất thiết. Lại nữa, này Câu-dực! Như Lai đối với pháp không hợp không tan, đối với pháp thọ, tưởng, hành, thức không hợp không tan, đối với cái khác năm ấm chẳng có hợp có tan, đối với Như Lai chẳng có hợp có tan, đối với pháp trí Nhất thiết chẳng có hợp có tan, đối với trí Nhất thiết của Như Lai không hợp, không tan, đối với pháp trí Nhất thiết chẳng có hợp có tan, đối với cái khác trí Nhất thiết, Như Lai chẳng có hợp có tan. Lại nữa, này Câu-dực! Đối với các pháp này chẳng hợp chẳng tan. Dùng oai thần này kiến lập mà có chỗ trụ. Vừa rồi Câu-dực hỏi rằng: Đại Bồ-tát sẽ cầu Bát-nhã ba-la-mật ở đâu? Chẳng cầu ở sắc, chẳng cầu khác sắc, chẳng cầu ở thọ, tưởng, hành, thức, chẳng cầu khác thọ, tưởng, hành, thức. Bát-nhã ba-la-mật đối với sắc, thọ, tưởng, hành, thức, tất cả các pháp không hợp, không tan, không sắc, không thấy, chẳng thể thọ trì, chỉ có một tướng, tức là tướng không sở hữu. Lại nữa, này Câu-dực! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật lên đến trí Nhất thiết đều không có sự mong cầu, chẳng đối với nơi khác mà cầu trí Nhất thiết. Vì sao? Vì cầu trí Nhất thiết của Bát-nhã ba-la-mật, đối với tất cả các pháp không hợp, không tan, không sắc, không thấy, chẳng thể thọ trì, tức là chỉ có một tướng, là tướng không sở hữu. Vì sao? Này Câu-dực! Vì Bát-nhã ba-la-mật không có sắc, cũng không có cái khác sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức, cũng không có cái khác thọ, tưởng, hành, thức. Thức chẳng khác Bát-nhã ba-la-mật, cũng không có khác trí Nhất thiết, chẳng phải Bát-nhã ba-la-mật không khác trí Nhất thiết. Bát-nhã ba-la-mật của Như Lai không sắc, cũng không khác sắc, cũng không khác thọ tưởng, hành thức. Bát-nhã ba-la-mật cũng không khác thức. Trí Nhất thiết chẳng phải Bát-nhã ba-la-mật, Bát-nhã ba-la-mật không khác trí Nhất thiết. Bát-nhã ba-la-mật của Như Lai không sắc, cũng không khác sắc. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như thế, không khác thọ, tưởng, hành, thức, cũng chẳng phải không cội gốc. Bát-nhã ba-la-mật không có pháp sắc, cũng không có pháp khác sắc. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như thế. Bát-nhã ba-la-mật không sắc, không có cội gốc, cũng không khác sắc, không không cội gốc. Bát-nhã ba-la-mật không có pháp sắc, cũng không có khác pháp sắc. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như thế. Thanh văn, Bích-chi-phật, lên đến trí Nhất thiết cũng lại như thế, không có pháp sắc trí Nhất thiết cũng không khác pháp sắc trí Nhất thiết. Bát-nhã ba-la-mật không có trí Nhất thiết, không có cội gốc, cũng không khác trí Nhất thiết, chẳng phải không cội gốc. Ngài Thích Đề-hoàn Nhân nói với Tu-bồ-đề: –Đó là Bát-nhã ba-la-mật của Đại Bồ-tát không khác ba-la-mật vô hạn. Pháp mà Đại Bồ-tát có thể học là Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi-phật, Bồ-tát, Phật theo đó mà học. Nếu Đại Bồ-tát học pháp này dùng để khai hóa chúng sinh, làm nghiêm tịnh cõi Phật thì sẽ chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Ngài Tu-bồ-đề nói với Thích Đề-hoàn Nhân: –Này Câu-dực! Đúng vậy. Đó là Bát-nhã ba-la-mật của Đại Bồ-tát không khác ba-la-mật vô hạn. Nên học như thế. Vì ba thừa đều do đó sinh Đại Bồ-tát tự đạt đến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thành bậc Đẳng Chánh Giác. Sắc không có biên giới, đó là Ba-la-mật vô cực của Đại Bồ-tát. Vì sao? Vì chẳng thể nắm bắt sắc quá khứ, cũng chẳng thể nắm bắt sắc hiện tại, cũng chẳng thể nắm bắt sắc vị lai. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như thế; thọ, tưởng, hành, thức không có biên giới, Ba-la-mật vô cực. Vì sao? Vì chẳng thể nắm bắt thọ, tưởng, hành, thức quá khứ, cũng chẳng thể nắm bắt thọ, tưởng, hành, thức vị lai, cũng chẳng thể nắm bắt thọ, tưởng, hành, thức hiện tại. Thanh văn, Bích-chi-phật cho đến Phật không cùng cực, không biên giới, cũng lại như vậy. Này Câu-dực! Đó là Ba-la-mật vô cực của Đại Bồ-tát. Sắc không có hạn lượng, Bát-nhã ba-la-mật cũng không có hạn lượng. Vì sao? Vì sắc chẳng thể nắm bắt được hạn lượng. Này Câu-dực! Thí như hư không chẳng thể nắm bắt được giới hạn, sắc không có hạn lượng, cũng lại như thế. Hư không không có hạn lượng cho nên sắc không có hạn lượng. Sắc không có hạn lượng cho nên Bát-nhã ba-la-mật không có hạn lượng, lên đến trí Nhất thiết cũng không có hạn lượng, cho nên Bát-nhã ba-la-mật không có hạn lượng. Đó là hạnh của các Đại Bồ-tát. Vì sao? Này Câu-dực! Vì trí Nhất thiết, chẳng thể nắm bắt được biên giới. Thí như hư không chẳng thể nắm bắt được biên giới, trí Nhất thiết cũng lại như vậy. Hư không không có giới hạn nên trí Nhất thiết cũng không có giới hạn. Trí Nhất thiết không có giới hạn nên Bát-nhã ba-la-mật cũng không có giới hạn. Này Câu-dực! Vì vậy Bát-nhã ba-la-mật không có giới hạn. Đó là các Đại Bồ-tát như hư không vô biên. Sắc không cùng tận, Ba-la-mật không cùng tận. Vì sao? Này Câu-dực! Vì sắc không biên giới, cũng không trung gian. Thọ, tưởng, hành, thức cũng không biên giới, cũng không trung gian. Vì vậy ba-la-mật của các Đại Bồ-tát không có biên giới, không cùng tận. Vì sao? Vì Thần túc, chẳng thể nắm bắt được cái cùng tận, không có trung gian, lên đến trí Nhất thiết cũng không cùng tận, Ba-la-mật cũng không cùng tận. Đó là hạnh của các Đại Bồ-tát. Vì sao? Này Câu-dực! Vì trí Nhất thiết, chẳng thể nắm bắt được biên giới, cũng không có trung gian. Ba-la-mật không cùng tận. Đó là sắc của Đại Bồ-tát không cùng tận cho nên trí Nhất thiết cũng không cùng tận. Lại nữa, này Câu-dực! Sự việc không cùng tận, ba-la-mật không cùng tận. Có thể hiểu như thế tức là Đại Bồ-tát. Thích Đề-hoàn Nhân hỏi Tu-bồ-đề: –Vì sao sự việc không cùng tận, Ba-la-mật không cùng tận? Ngài Tu-bồ-đề trả lời: –Này Câu-dực! Vì sự việc của trí Nhất thiết không cùng tận, cho nên ba-la-mật của các Đại Bồ-tát cũng không cùng tận. Lại nữa, Câu-dực, pháp không cùng tận, cho nên Ba-la-mật của các Đại Bồ-tát cũng không cùng tận. Thích Đề-hoàn Nhân lại hỏi Tôn giả Tu-bồ-đề: –Vì sao pháp không cùng tận, ba-la-mật của các Đại Bồ-tát cũng không cùng tận? Ngài Tu-bồ-đề trả lời: –Vì pháp giới không cùng tận cho nên Ba-la-mật của các Đại Bồ-tát cũng không cùng tận. Lại nữa, này Câu-dực! Vì sự việc không cội gốc đều không cùng tận nên ba-la-mật của các Đại Bồ-tát cũng không cùng tận. Thích Đề-hoàn Nhân hỏi ngài Tu-bồ-đề: –Vì sao việc không cội gốc đều không cùng tận nên ba-la-mật của các Đại Bồ-tát cũng không cùng tận? –Này Câu-dực! Vì không cội gốc, không cùng tận nên không cùng tận. Vì sự việc không đầu mối, không cội gốc, không cùng tận, nên không cội gốc, không cùng tận. Vì sự việc không cùng tận, vì không cùng tận cho nên Ba-la-mật của các Đại Bồ-tát cũng không cùng tận. Lại nữa, vì con người không cùng tận cho nên ba-la-mật của các Đại Bồ-tát cũng không cùng tận. Thích Đề-hoàn Nhân hỏi ngài Tu-bồ-đề: –Vì sao con người không cùng tận nên ba-la-mật của các Đại Bồ-tát cũng không cùng tận? Ngài Tu-bồ-đề trả lời: –Này Câu-dực! Theo ý ông thì sao? Trong pháp nào có dạy cái gọi là Đại Bồ-tát chăng? Thích Đề-hoàn Nhân trả lời ngài Tu-bồ-đề: –Thưa ngài Tu-bồ-đề! Không có trong giáo pháp cũng chẳng phải không có trong giáo pháp. Đây là danh tự, từ duyên ngoài đến, đều không sở hữu, không cội gốc, hình tượng, chỉ là tương tự giả danh. Cái gọi là con người, thật ra không có nhân duyên chính mà chỉ là danh tự giả lập. –Này Câu-dực! Ông hiểu về Bát-nhã ba-la-mật như thế nào? Có phải là thuyết minh về con người chăng? Trả lời: –Thưa không phải! Ngài Tu-bồ-đề nói: –Này Câu-dực! Nếu chẳng nói về con người thì đâu không cùng tận. Này Câu-dực! Vậy tại sao Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác sống lâu số kiếp nhiều như số cát sông Hằng mà ai ai cũng nói? Có phải Ngài là người có sinh có diệt chăng? –Thưa Tôn giả Tu-bồ-đề, không phải! Vì sao? Vì con người vốn thanh tịnh. –Này Câu-dực! Vì vậy con người không cùng tận, Bát-nhã ba-la-mật không cùng tận. Bồ-tát học, phải biết như vậy, hành pháp Bát-nhã ba-la-mật như vậy.