<經 id="n2131">PHIÊN DỊCH DANH nghĩa TẬP HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN PHIÊN DỊCH DANH nghĩa TẬP LỜI TỰA (Của Tống Duy Tâm cư só, Kinh Khê Châu Đôn nghĩa soạn). Tôi xem Đại Tạng từng có bắt chước quí chuộng Tổng Mục Văn. Nắm lấy yếu nghĩa của kinh xem là Tổng mục của Nội điển. Thấy trong các kinh thường dùng chữ Phạm thì góp nhặt tra xét kinh giáo dịch đủ các âm nghĩa mà đưa ra làm thành một bảng riêng, nhưng chưa xong thì đã quá già. Ngài Hiển Thân Thâm Lão chỉ đưa cho tôi bảng phiên dịch Danh nghĩa của ngài Phổ Nhuận Đại sư Pháp Vân ở chùa Cảnh Đức tại Bình giang. Tôi xem qua thì vui mừng bảo rằng đây thật là ý tôi! Ngày nào Tổng mục thành thì Biệt lục (phần chép riêng) mới có thể ngưng. Tôi đến Bình giang thì Pháp Vân ra gặp nhờ tôi viết lời Tựa. Tôi nghó sách này không có công giúp người đọc kinh Phật mà cũng có thể giữ gìn ý căn của người chê bai Phật pháp. Ngài Đường Huyền Trang luận có năm thứ không dịch: Một là Bí mật, như Đà-la-ni (thần chú). Hai là bao gồm nhiều nghĩa, như Bạt-già-phạm có sáu nghĩa. Ba là cõi này không có như cây Diêm tịnh, ở Trung Hạ (Trung Hoa?) thật không có cây này. Bốn là thuận theo xưa, như A-nậu Bồ-đề đều có thể thể dịch, từ ngài Ma-đằng đến nay thường dùng tiếng Phạm. Năm là sanh thiện, như Bát-nhã thì tôn trọng, còn trí tuệ thì xem thường mà thất mê chi tác. Bèn gọi Thích-ca Mâu-ni là Năng Nhân nhưng nghĩa của Năng Nhân lại kém hơn Chu Khổng. Chữ A-nậu Bồ-đề gọi là chính biến tri. Song ở cõi này thì giáp của Lão Tử có trước mà đạo Vô Thượng chính Chân thì không có gì là lạ. Bồ-đề Tát-đỏa gọi là Đại Đạo Tâm Chúng Sanh, tên ấy kém cõi nên để yên mà không dịch. Phàm tiếng tôn xưng Tam bảo người dịch giữ nguyên tên mà nêu ra thành lời chê bay. Khiến người đọc sách này không dung được lời lẽ (trác?) ấy - Song Phật pháp vào Trung Quốc, kinh luận ngày càng nhiều. Từ Pháp sư Đạo an đời Tấn đến ngài Trí Thăng đời Đường làm Mục Lục Đồ Kinh có hơn mười người. Nay các kinh Đại Tạng cũng đều lấy Khai Nguyên Thích Giáo Lục của Thăng Pháp sư làm chuẩn. Người sau chỉ tăng thêm Tông Giám Lục, Pháp Uyển Châu Lâm. Ở ngoài Tạng như có bốn quyển kinh Kim Quang Minh, luận Ma Ha Diễn và Chứng Đạo Ca ở cõi này thì còn nhiều thứ không vào tạng. Nước ta vua sai các quan giúp việc dịch kinh nhuận văn do đó mà rất lưu thông Phật pháp. Riêng chưa có một người nào nối ngài Thăng Pháp sư sau phiên dịch lâu xa lưu truyền tan mất thật giả lẫn lộn, không có chỗ nào y cứ thật đáng trách than. Vân tuy đã già nhưng vẫn còn cố gắng thay. Năm Thiệu Hưng Đinh sửu. Ngày Ngọ - Kính Tựa. Ngài Tuyết Sơn Đại só xin nghe nửa kệ mà thí thân, ngài Pháp Ái Phạm Chí kính bốn câu kệ mà chẻ xương kẻ chìm bể khổ đã lâu nay gặp thuyền tư quyết chí kính thành mà góp nhặt kinh luận nên ở trước tượng Phật mà thắp hương lễ bái, dứt hết tạp niệm trần lao, dạo chơi rừng pháp Bát-nhã, hết quyển xếp pho nhiếp tâm ngồi yên mà chiếu xét Bản thể nguyên minh là tính vốn thường tịch, tuy vạn vật có bày ra nhưng một không mà dứt hết. Vô Cơ Tử Pháp Vân kính gắng sức. ***** <詞>LỜI KÝ VỀ HẠNH NGHIỆP CỦA NGÀI PHỔ NHUẬN ĐẠI SƯ Ở CHÙA CẢNH ĐỨC TẠI TÔ CHÂU Phổ Nhuận Đại sư tên là Pháp Vân, tự Thiên Thoại, tự xưng là Vô Cơ Tử, họ Qua. Đời ở Trường châu làng Thái vân. Cha mẹ khi cầu con với Phật thì mộng thấy có một Phạm tăng bảo ta muốn gởi kinh ở đây. Kịp khi sanh ra thì mặt mày giống người thấy trong mộng. Tướng Ngài riêng khác. Tuổi còn nằm nôi (quấn tả) thấy Tăng đến thì rất mừng muốn chạy đến như được đồ chơi quí báu. Năm tuổi thì từ thân lễ ngài Từ Hạnh Bàng (Phưởng) Công làm thầy. Trước từ Đình Huấn, Thần Phong đã mạnh phát qua năm sau thì thuộc làu Diệu Pháp Liên Hoa kinh bảy quyển. Chín tuổi cạo tóc, hai mươi tuổi thọ Cụ giới lấy pháp đã nhận mà lên tòa Hòe vì chúng nói giới, nối Thánh bốn (?) đến các phương tham cứu. Trước gặp ngài Thông Chiếu Pháp sư mà học tập Đại Giáo Thiên Thai, kế theo ngài Thiên Trúc Mẫn Pháp sư lắng nghe Huyền Đàm. Sau cùng đối đáp đồng lúc mà đắc pháp với ngài Nam Bình Thanh Biện Đại Pháp sư. Thay cầm như ý vì chúng mà giải bày. Rồi đức phong vang danh bốn cõi tiếng khen xa gần. Lúc đó là năm Chính Hòa bảy. Quận Hầu vi, Du Các Trực Học só. Thông Nghị Đại phu, Ưng An Đạo lạy thỉnh sư trù trì ở Đại giác giáo tự tại Tòng giang nhưng vẫn tiến tích kim hiệu mà người học chen nhau đến như sông chảy về Đông. Đến năm Chính Hòa tám thì giảng Pháp Hoa, Kim Quang Minh, Niết-bàn Tịnh Danh Đại Tiểu Bộ, nối bóng mặt trời đợi sáng núi (biển) từ mênh mông, tiếp nối nhân Từ Mẫu tuổi cao nghó việc báo ân sâu cha mẹ bèn bỏ việc mà quay về thăm, cất nhà tranh bên phần mộ tổ tiên gọi là Tàng Vân. Tuy ở nơi gò bụi mà dạo bước rất nhiều giả đạo học hỏi rất đông ở ngoài cửa. Sư lại tạo tượng ba Thánh Tây phương mà khuyến hóa mọi người. Mẹ sư sau có bệnh nhẹ, sư ở bên giường đêm giảng tâm kinh niệm Phật A-di-đà, Phật phóng ánh sáng vàng vào mẹ và khắp bốn phương không chỗ nào chẳng thấy, điềm lành đã tốt lạ khi lâm chung rất vui vẻ. Khi hỏa thiêu xong thì có nhiều xá-lợi sáng như viên châu (ngọc châu tròn). Trải mấy ngày sau thì hiện hai cành hoa sen đó là chỗ sanh có thể biết vậy do đây mà biết phương ấy. Đại nghĩa Độ Đầu là đạo (đường thoát sanh là nghĩa lớn) giống như cao tột. Song chí nhân đích lý đi đâu chẳng theo. Cho nên Đức Thế Tôn ta khi lên trời Đao-lợi nói pháp để báo ân, Chỉ Man Tỳ-kheo khắp làm hạnh từ. Năm Thiệu Hưng Giáp tý Tăng trong chùa dẫn chúng cùng đến Vân am thỉnh sư về chùa, bạch chúng y chỉ sư nhận lời sang năm cùng cùng các đồ đệ đón tượng vào chùa, đem gác hoa làm nhà. Rồi lập Liên Xả Thắng Hội tập họp cả ngàn người hết khóa Quán kinh, niệm Phật Bổn tính Duy Tâm. Lại lập hội Bát Quan Trai và Kim Quang Minh và Pháp Hoa, Đại Bi, Viên Giác, Kim Cang v.v… và soạn Tây Tư, só phu danh hiền. Thiện tín bốn chúng kính ngưỡng cao phong của sư người đến đầy nghẹt đường xá cùng tranh nhau đến trước trọn thành siêu việt. Như Tiến só Vương Linh ở Cẩm giang, Cống nguyên Trương Khải ở Võ lâm, Quốc lục Ngô Ngạn Anh ở Tam cù, Gia yểu Đăng Só, Kim Đình Khuê Ngô, người ở Hội an, Tiền Thị v.v… những người này đều sanh Tịnh độ. Pháp sư làu thông kinh sử, bao quát cổ kim đủ tài năng tám bị, chứa đức thiện mười điều, biên tập phiên dịch Danh nghĩa, chú giải kinh Kim Cang và Tâm Kinh, sớ sao Trứ tức Ấm Tập v.v… đều lưu hành ở đời, không gì là chẳng hiển chương thánh hóa cổ súy sơn gia, tự lợi lợi tha đều làm hết các việc. Một hôm sư tắm gội thay áo ngồi nghiêm hướng về Tây, gọi đệ tử bảo rằng: Các ông nên nghó lửa vô thường thiêu đốt thế gian, sớm cầu tự độ, cẩn thận chớ nên biếng lười. Rồi viết kệ rằng: “Cây quỳnh tột trời cao Tử kim đài cao vút Vô sanh sanh nước ấy Bất động chẳng mảy may.” Các ông giữ lời này và viết sao ra trao khắp các tri thức. Ta cuối cùng vì thỉnh Định Tuệ Đường Đầu, Bảo Tràng Pháp chủ y đây mà nâng khám nổi lửa, ngoài ra không gì khác”. Nói xong thì im lặng mà thoát. Đêm đó chuông trống xa nghe, mùi hương lạ đầy nhà. Khi đã liệm sư vào khám mà chúng vẫn còn nghe miệng sư niệm danh hiệu Phật lãng vãng bên tai. Lúc đó là năm Thiệu Hưng 28, ngày 21 tháng 9 thọ 71 tuổi, được 61 lạp. Củi thơm bừng lên bày lợi vô cùng. Ôi vùng bể nhỏ không đủ dung sóng to vút khoảng không, sa mạc hé không đủ cách vượt trời cao. Nay Pháp sư phát ra tướng lưỡi rộng dài ở bề Tát-bà-nhã lay động sừng dê (?) ở Đệ nhất. Tuy là Cổ cao Tăng không cần trách (khiêm nhượng?) nhiều nhanh chóng nắn đắp tượng pháp sự. Được đệ tử là Văn Biện Đại sư nêu rõ Hành Tàng sư ở Tượng mong chẳng so lường không giống mạo sửa văn tự để làm khác lạ, bởi muốn nêu cao đức thiện của Tổ tông, để con cháu biết mà nối truyền. Sinh năm Đại Đức 5, tuổi Tân sửu ngày 9 tháng 9 nối Tổ trụ trì, vónh định giáo tự (ở chùa Vónh Định Giáo). Cát Tường Hùng Biện Đại sư phổ họp làm bày ký. Bài ký này đặt trước phiên dịch Danh nghĩa để nhiều người biết cái cao quí của người soạn. ****** PHIÊN DỊCH DANH nghĩa TẬP Cô Tô - chùa Cảnh Đức - Phổ Nhuận Đại sư Pháp Vân biên soạn. <卷>QUYỂN 1 Phàm phiên dịch là dịch tiếng Phạm thành tiếng Hán, âm tuy giống khác nhưng nghĩa thì đồng nhau. Tống Tăng Truyện nói như lật đổi bức thêu trái mặt đều có hoa, chỉ hai bên trái phải không đồng mà thôi. Dịch nghĩa là đổi. nghĩa là đem cái có đổi cái không có, cho nên đem kinh cõi này mà hiển bày pháp cõi kia. Lời Châu Lễ nắm bốn phương đều có các quan. Phương Đông thì gọi là ký, phương Nam thì gọi là tượng, phương Tây thì gọi là địch đề, phương Bắc gọi là dịch. Bởi nhà Hán phần nhiều thờ phương Bắc mà quán dịch gồm giỏi tiếng phương Tây. Cho nên khi ngài Ma Đằng mới đến mà dịch kinh Tứ Thập Nhị Chương, nhân đó gọi là dịch. Nói về Danh nghĩa thì Năng thuyên gọi là Danh, do đó làm nghĩa, gọi Năng thuyên thì Hồ và Phạm âm khác nhau, từ đời Hán đến đời Tùy đều bảo Tây Vức là nước Hồ. Đời Đường có Ngạn Tông Pháp sư riêng phân Hồ và Phạm. Từ Thông lãnh trở về Tây đều thuộc giống Phạm. Ở bên tả của Thiết môn đều thuộc quê hương của Hồ. Nói Phạm âm (tiếng Phạm), từ kiếp sơ rộng đến trời Quán Âm, các thiên thần giáng xuống làm Tổ loài người nói ra tiếng Phạm. Nên Tây Vức Ký nói về văn tự do Phạm thiên chế ra làm phép tắc đầu tiên bốn mươi bảy tiếng mượn vạn vật họp thành, tùy việc mà đổi dùng truyền ra các chi phái mà gốc nó rộng dần. Nhân đất tùy người mà có chút ít sửa đổi, lời nói bắt chước nhau chưa khác với nguồn gốc. Nhưng tiếng nói ở Trung Ấn Độ là đúng và rõ, lời nói hòa nhã cùng giống với tiếng Trời, khí vận thanh cao, làm khuôn phép cho người. Có người hỏi Huyền Trang Tam Tạng nghĩa Tịnh Pháp sư đi Tây du đến nước Phạm, đông dịch tiếng Hoa, chỉ rõ dịch xưa là sai, há có thể Bậc Sơ Địa Long Thọ luận tiếng Phạm mà chẳng thân (như gọi kỳ xà là thứu, quật là đầu, trang cho là sai, nay gọi là cô lật la cự tra). Ngài Tam Hiền La Thập dịch tiếng Tần mà chưa đúng (Thập dịch La- hầu-la là Phú chướng, Tranh dịch La-hộ-la là chấp nhật). Đã đều lẫm lẫn sao được cảm thông. Dịch kịp xưa nay của phước sáng tối. Nay thủ dịch rằng nước Tần Sở Bút Duật tên khác, thời Ân Hạ, văn chất thể khác, huống là năm cõi Ấn Độ cách xa nhau ngàn năm. Thời gian đổi thì phong tục thay đổi, tiếng nói tên gọi cũng đổi thay. Đến như truyện mới ở Lương Đường mà bản dịch xưa đời Tần Tấn lại khác nhau. Nếu ý đã hiểu sao lại bó sát (đóng kín) lời. Bày nôm tuy khác mà được cá nào khác. Pháp Vân tôi mười tuổi không biết gì, ba y lạm mặc (mặc càng), sau học Thánh giáo rất dốt tiếng Phạm, do đó mà suy nghĩa nghó loại, tùy thấy tùy chép. Chỉ vì văn kinh luận rải khắp, sớ ký nghĩa rộng, trước sau thêm bớt trong mười hai năm soạn được bảy quyển sáu mươi bốn thiên mười hiệu ba thân nêu rõ trước mặt, bốn châu bảy thú sáng rõ như chỉ trong bàn tay khỏi công cực nhọc kiểm duyệt, xin chứng tốt cho lòng thành chỉ thẹn nghĩa thiên rộng lớn, nhìn ống thấy sao khắp, biển giáo sâu kính mọt đục ngang sao hết. Nếu có các thiếu sót mà nghi ngờ riêng đợi các nhà học rộng bổ túc. Nay là thời Đại Tống, năm Thiệu Hưng 13 Quí hợi, ngày tối trời tiết Trọng thu (tháng 8) ở tại viện Di-đà, ôm bịnh kính lời. Gồm mười ba mục sau đây: Mười thứ thông hiệu Tên riêng của các Phật Ba thân chung riêng Tên riêng của Thích Tôn Ba thừa thông hiệu Tên riêng của Bồ-tát Độ năm Tỳ-kheo Mười đệ tử lớn của Phật Gồm chung các Thinh văn Tống Thích luận chủ Tống phiên dịch chủ Bảy chúng đệ tử. Tên chúng Tăng già. <詞>MƯỜI THỨ THÔNG HIỆU. Phước Điền luận nói Tam bảo rằng: Công Thành Diệu Trí, Đạo Chứng Viên Giác gọi là Phật. Huyền lý sâu kín, chính giáo tinh thành gọi là pháp. Giữ gìn giới cấm, chơn oai nghe xuất tục gọi là Tăng. Đây đều là người đứng đầu dẫn dắt bốn loài, thuyền ghe của sáu thú nên gọi là Bảo. Vô Cơ tôi hỏi rằng: Như kinh Niết-bàn nói: Thầy của chư Phật gọi là pháp thì nên lập giáo cử pháp làm đầu, cớ sao lại nêu Phật ở trước. Giải thích rằng: Người hay hoằng đạo chứ không phải đạo hay hoằng người. Người có công diễn giảng pháp, chứ pháp không có sức tự bày. Cũng như giấu mép phải có người chỉ ra, cho nên trước phải nêu Phật, sau mới nêu pháp. Phật có vô lượng đức, cũng có vô lượng tên. Cho nên nay tập hợp ở đây trước nêu mười hiệu. Mười hiệu là: 1/ Hiệu bắt chước dấu trước. 2/ Hiệu kham làm ruộng phước. 3/ Hiệu khắp biết pháp giới. 4/ Hiệu quả hiển nhân đức. 5/ Hiệu giỏi đến Bồ-đề. 6/ Hiệu Đạt ngụy thông chân. 7/ Hiệu nhiếp hóa người theo đạo. 8/ Hiệu Ứng cơ trao pháp. 9/ Hiệu giác ngộ quí (về) chân. 1 0/ Hiệu 3 cõi tiêng tôn quí. Tiếng Phạm là Đa-đà-a-già-đà (Tathàgata) cũng gọi là Đát- thát-a-kiệt. Sau (Hậu?) Tần dịch là Như Lai kinh Kim Cang nói: Không chỗ đến (không từ đâu đến) cũng không chỗ đi (không đi về đâu), nên gọi là Như Lai. Đây là lấy pháp thân mà giải thích. Luận Chuyển Pháp Luân nói: Đệ nhất nghĩa đế gọi là Như, chính giác gọi là Lai. Đây là lấy Báo thân mà giải thích. Thành Thật luận nói: Theo đạo Như Bảo, Lai (đến) thành chính giác nên gọi là Như Lai. Đây là lấy Ứng thân mà giải thích. A-la-ha (Arhat-Arahan), Tần dịch là Ứng cúng (đáng được cúng dường). Đại Luận nói: Đáng nhận được sự cúng dường của tất cả trời đất chúng sinh. Cũng dịch là Sát tặc, Bất sinh. Quán kinh sớ nói: Thiên Trúc 3 tên này gần nhau A-la-ha dịch Ứng cúng, A-la-hán dịch là Vô sanh, A-lư-hán dịch là Sát tặc. Tam-miệm Tam-phật-đà (Samy a ksambuddha) cũng gọi là Tam-da-tam-bồ, Tần dịch là chính biến tri. Đại Luận nói: Ấy là khắp biết tất cả pháp ngài La-thập gọi chính biến giác. Pháp không sai khác nên gọi là chính, Trí đều cùng khắp nên gọi là Biến, ra khỏi mộng sanh tử nên gọi là Giác. Diệu Tông nói: Ba hiệu này tức vời ba đức. Nay ở chỗ xem nghĩa hợp với ba đế thì chính biến tri tức là Bát-nhã chân đế. Ứng cúng tức là Giải thoát tục đế, Như Lai tức là Pháp thân trung đế. Cho nên Duy-ma nói: Này A-nan, nếu ta rộng nói ba cú nghĩa này thì ông suốt kiếp chẳng biết hết được. Bệ-xỉ-già-la Na-tam-bát-na (Vidyàcara nasampanna) Tần dịch là Minh Hạnh Túc. Đại Luận nói: Tức mạng, Thiên nhãn, Lậu tận gọi là ba Minh. Ba thừa tuy được ba Minh, nhưng Minh lại chẳng đầy đủ, còn Phật thì đầy đủ, đó là sự khác nhau. Tu-già-đà (Sugata) - Tần dịch là Hảo khứ (đi tốt, chết tốt). Đại Luận nói: các thứ ở sâu trong Tam-ma-đề vô lượng trí tuệ mà đi. Hoặc gọi là Tu-già-độ, dịch là Thiện Thệ. Kinh Địa Trì Bồ-tát nói: Bay lên lần thứ nhất (bậc nhất?) vónh viễn như trở lại nên gọi Thiện Thệ. Lộ-già-bị (Lokavid) - Đại Luận nói: Ấy gọi là Tri thế gian, biết hai thứ của thế gian là chúng sanh và không phải chúng sinh. Và tướng như thật, biết của thế gian. Kinh Trì Diệt Xuất Thế Gian, Đạo Xuất Thế Gian. Kinh Trì Địa nói: Biết chúng sinh giới thế gian tất cả thứ phiền não và thanh tịnh, gọi là Thế gian giải. A-nậu-đa-la (Anuttara) - Tần dịch là Vô thượng. Đại Luận nói: Như trong các pháp, Niết-bàn là Vô thượng trong chúng sanh Phật cũng Vô thượng. Kinh Địa Trì nói: Chỉ một Trượng phu gọi là Vô thượng só. Đại kinh nói: Còn có chỗ đoạn dứt gọi là Thượng só, không còn chỗ đoạn dứt gọi là Vô thượng só. Phú-lâu-sa-đàm-miệu Ta-la-đề (Purusadamy asàràthi) - Tần dịch là Khả Hóa Trượng Phu Điều Ngự Sư. Đại Luận nói: Vì Phật dùng đại từ đại trí, có lúc nói lời êm ái, có lúc nói gắt gỏng, có lúc nói tạp (lộn xộn?) khiến cho đừng mất đạo. Nếu nói Phật là Điều Ngự Sư của người nữ là không tôn trọng, nên nói Trượng phu tất cả đều nhiếp. Xá-đa Đề-bà-ma-nậu Xá-nẩm (Sàstà Devamanu Syànam). Dịch là Thiên Nhân giáo sư (thầy dạy trời người). Đại Luận nói: Phật chỉ bày cái gì nên làm, cái gì chẳng nên làm, cái gì là thiện, cái gì là bất thiện, là tùy người mà dạy làm. Lại nói độ chúng sanh các đạo khác là ít, độ chúng sinh trời người là nhiều. Phật-đà (Buddha) - Tần dịch là Tri giả (người biết) biết số chúng sanh và chẳng phải chúng sinh ở quá khứ, hiện tại và vị lai, có thường hay vô thường v.v… tất cả các pháp. Ở dưới cội Bồ-đề hiểu biết sáng suốt nên gọi là Phật-đà. Hậu Hán giao tự chí bảo: Bán gọi là Giác. Giác đủ ba nghĩa: Một là Tự giác, là ngộ tính chân thường dứt hoặc hết (mê lầm) hư vọng. Hai là Giác tha là vận vô duyên từ mà độ hết hữu tình giới. Ba là Giác hạnh viên mãn là nguồn thấu đáy, hạnh đầy quả tròn. Kinh Hoa Nghiêm nói tất cả các pháp có tính không sanh cũng không diệt, kỳ lạ thay Đại Đạo sư, Tự giác và hay Giác tha. Triệu sư nói: Giấc ngủ say dài sanh tử không thể tự thức, tự thức mà biết rõ thì chỉ có Phật vậy. Diệu Lạc Ký nói: Đây gọi Tri tức là Giác vậy (người biết tức là kỷ giác). Đối với mê nên gọi là Tri, đối với ngu nên gọi là Giác. Phật Đại Luận nói: Đủ Nhất thiết trí, Nhất thiết chủng trí lìa Phiền não chướng và Sở tri chướng, đối với tất cả pháp, tất cả chủng tướng có thể tự hiểu rõ (khai giác) cũng có thể khiến tất cả hữu tình đều hiểu rõ, như ngủ mộng thức dậy, như hoa sen nở nên gọi là Phật. Lộ-ca-na-dã (Lokanàtha). Đại Luận nói: Dịch là Thế Tôn. Thành Luận nói: Đủ cả chín hiệu trên được vật kính trọng nên gọi là Thế Tôn. Trên trời cõi người đều tôn kính. nghĩa mười hiệu này nếu gồm lược giải thích thì không có hư vọng nên gọi là Như Lai, là ruộng phước tốt nên gọi là Ứng Cúng, biết pháp giới nên gọi là chính Biến Tri, đủ cả ba minh nên gọi là Minh Hạnh Túc, chẳng trở lại nên gọi là Thiện Thệ, biết chúng sinh cõi nước nên gọi là Thế Gian Giải, không có ai ngang bằng nên gọi là Vô Thượng Só, điều phục tâm người khác nên gọi là Điều Ngự Trượng Phu, làm mắt cho chúng sinh nên gọi là Thiên Nhân Sư, biết đủ ba phụ nên gọi là Phật. Đầy đủ mười đức này Thế Gian Tôn. Sớ Niết-bàn nói A-hàm và Thành luận họp hai tên Vô Thượng Só và Điều Ngự Trượng Phu làm một hiệu, cho nên đến Thế Tôn số mười mới đủ. Kinh Niết-bàn và Đại luận thì chia Vô Thượng Só và Điều Ngự Trượng Phu làm hai hiệu. Mà bộ hành thì nói Đại luận họp Vô Thượng Só và Điều Ngự Trượng Phu làm một câu thì đây là lầm, người học nên biết. Bà-già-bà (Bhagavat - Bhagavàn). Ưng Pháp sư nói: Bạt-già- phạm gồm các đức là tên được ưa chuộng nhất. Đại Luận nói: Một là gọi có đức, hai là khéo phân biệt các pháp, ba là có danh tiếng không có được danh tiếng như Phật, bốn là hay phá dâm nộ si. Mới gọi là Bạt-già- phạm phải đủ sáu nghĩa. Phật Đại Luận nói: Tiếng Bạt-già-phạm y sáu nghĩa mà chuyển: Một là Tự tại, hai là Xí thạnh, ba là Đoan nghiêm, bốn là Danh xưng, năm là Cát tường, sáu là Tôn quí. Tụng rằng: Tự tại, Xí thạnh và Đoan nghiêm, Danh xưng, Cát tường và Tôn quí. Như thế nghĩa của sáu đức đầy đủ, nên gọi là Bạt-già-phạm. nghĩa nó thế nào? Tức nói Như Lai vónh viễn không bị các phiền não ràng buộc nên đủ nghĩa tự tại, được lửa trí mạnh mẽ đốt luyện nên đủ nghĩa Xí thạnh. Có ba mươi hai tướng Đại só để trang sức nên đủ nghĩa Đoan nghiêm. Tất cả công đức thù thắng đều đầy đủ không gì chẳng biết nên đủ nghĩa Danh xưng. Tất cả thế gian gần gũi cúng dường đều khen ngợi nên đủ nghĩa Cát tường. Đủ tất cả đức, thường khởi phương tiện lợi ích an lạc tất cả hữu tình không lười bỏ nên đủ nghĩa Tôn quí. Ngài Trang Pháp sư đời Đường nói năm thứ chẳng dịch: Một là bí mật nên chẳng dịch như Đà-la-ni (thần chú…), hai là bao gồm nhiều thứ nên chẳng dịch như Bạt-già-phạm gồm sáu nghĩa, ba là cõi này không có nên chẳng dịch như cây diêm-phù, bốn là thuận xưa nhưng vì từ ngài Ma-đằng trở đi vẫn giữ nguyên tiếng Phạm, năm là sanh thiên nên chẳng dịch như Bát-nhã thì tôn trọng còn trí tuệ thì hèn kém khinh nhờn, vì khiến người tôn kính nên chẳng dịch. <詞>TÊN RIÊNG CỦA CHƯ PHẬT. Ngước thì bày Chân pháp, cúi thì lập Tục hiệu. Tên tuy khác lạ nhưng nghĩa thông nhau. Cho nên Pháp Uyển nói: Như Thích-ca dịch là Năng nhân há có một Phật nào không phải là Năng nhân. A-di-đà gọi là Vô Lượng Thọ, há có một Phật nào chẳng là trường thọ. Chỉ vì tùy (đâu) cơ mà bày hóa, tùy đời mà lập ta. Đề tên thì công năng tuy khác, hiển nghĩa thì lực dụng đều ngang nhau. Mới biết vô lượng tên ba đời hiểu đủ vô lượng đức của chư Phật. Thích-ca Văn (Sàky a muni) - Tịnh Danh sớ nói: Tiếng Thiên Trúc Thích-ca là Năng, Văn là Nhu, nghĩa của tên là Năng Nhu. Đại Luận nói: Thích-ca Văn Phật, đời trước là thợ gốm (ngõa sư?) tên là Đại Quang Minh khi ấy có Phật tên là Thích-ca Văn, đệ tử tên là Xá-lợi- phất, Mục-già-liên, A-nan. Phật cùng các đệ tử đến nhà thợ gốm nghỉ một đêm. Khi ấy thợ gốm bố thí tòa cỏ, đèn sáng và đường ngọt (nước mật) và lời thì rằng: Con ở đời sau sẽ làm Phật có tên như Phật này, tên của các đệ tử cũng như Phật này. Ưu-bà-tắc Giới Kinh nói: ta ở thời Phật Thích-ca phát tâm đầu tiên, ở với Phật Ca-diếp đủ ba tăng kỳ. Phải biết đủ ba tăng kỳ thì là thời Phật Thắng Quan. Nay nói Ca-diếp là gồm đủ một trăm kiếp. Đại Luận nói: Trong A-tăng-kỳ đầu thì tâm chẳng tự biết ta sẽ làm Phật hay chẳng làm Phật, ở tăng kỳ thứ hai thì tâm tuy biết ta ắt làm Phật mà miệng thì không nói ta sẽ làm Phật. Ở tăng kỳ ba thì biết rõ được Phật, miệng tự nói không hề sợ sệt: Ta ở đời sau sẽ được làm Phật. Từ đời quá khứ Phật Thích-ca Văn đến Phật Thích (Thứ)-na- thi-khí là ở A-tăng-kỳ đầu, khi làm Bồ-tát thì lìa hẳn thân nữ. Từ đời Phật Thích (Thứ)-na-thi-khí đến Phật Nhiên Đăng là ở tăng kỳ thứ hai, lúc ấy làm Bồ-tát đem bảy cành hoa sen xanh cúng dường Phật Nhiên Đăng, cởi áo da nai trải tóc che bùn, liền được thọ ký là ông sẽ làm Phật tên là Thích-ca Mâu-ni. Từ Phật Nhiên Đăng đến Phật Tỳ-bà-thi là tăng kỳ thứ ba, qua ba tăng kỳ gieo trồng nghiệp ba mươi hai tướng. Kế-na-thi-khí (Ratnazikhin), tên này trích ra ở Cu-xá Đại luận, thì tên Thích (thứ?) na-thi-khí, dịch là Bảo Kế hay Bảo Đảnh. Phật Thế Tôn ta khi vừa hết A-tăng-kỳ đầu thì gặp Phật này, cùng với Phật-thi- khí thứ hai trong bảy Phật, cách hai A-tăng-kỳ mà người trước bảo là đồng nên nay luận là khác. Đề-hoàn-kiệt hoặc Đề-hòa-kiệt-la (Dipamkara), dịch là Nhiên Đăng. Đại Luận nói: Khi Thái tử sanh thì toàn thân sáng như đèn nên gọi là Nhiên Đăng cho đến thành Phật cũng gọi là Nhiên Đăng. Chữ Đăng trong thuyết văn nói từ Kim. Du Huyễn nói trong chữ Đónh có chúc (đuốc) nên gọi là Đăng (đèn). Thinh loại nói có túc (chân) thì gọi là Đónh, không túc thì gọi là Đăng. Nên Thụy Ứng kinh dịch là Đónh Quang. Già Hoa nói Đónh đọc là Định thuộc Đăng (đèn). Xưa nay phiên dịch hồi văn chẳng đồng hoặc gọi Nhiên Đăng hoặc gọi Đónh Quang, người khác mà nghĩa đồng, cho nên phải từ kim. Thích Tôn tu hành khi tên Nhu Đồng hết tăng kỳ hai thì gặp Phật Nhiên Đăng và được ký biệt. Tỳ-bà-thi (Vipazyin) - Cũng gọi là Duy Vệ, dịch là Thắng Quán. Cu-xá nói: Khi ba vô số kiếp hết rồi đi ngược lại thì gặp Phật Thắng Quán, Nhiên Đăng, Bảo Kế và Phật Thích-ca Mâu-ni xưa. Đây do Thích Tôn ở đời Phật Thắng Quán trước gieo trồng tướng hảo cho nên Tỳ-bà- thi đứng đầu bảy Phật, vì khen Phật Phất Sa Tịnh Tấn Lực nên vượt chín Đại kiếp cho đến nay đã qua chín mươi mốt Đại kiếp. Thi Khí (Sikhin) - Cũng gọi là Thí Khí. Đại luận dịch là Hỏa y. Phật Danh kinh nói: Đã hơn ba ngàn kiếp. Tỳ-xá-phù (Visvabhù) - Dịch là Biết Nhất Thiết Tự Tại. Kinh Dương Vương Dược Thượng nói: Là Phật cuối cùng ở trong kiếp Trang nghiêm. Câu-lưu-tôn (Krakucchamda) - dịch là Sở ưng đoạn (chỗ nên đoạn dứt). Lại dịch là Tác Dụng Trang Nghiêm Hiền Kiếp thứ chín giảm còn sáu vạn tuổi thì ra đời thành Phật đạo, đứng đầu một ngàn Phật. Câu-na-hàm Mâu-ni (Kanakamuni) - Dịch là Kim Tịch. Đại Luận gọi là Ca-na-ka Mâu-ni. Tần dịch là Kim Tiên Nhân, khi còn bốn vạn tuổi thì Phật này xuất hiện ở Diêm-phù. Ca-diếp-ba (Kazyapa) - Dịch là Ẩm Quang. Khi còn hai vạn tuổi thì ra đời thành chính giác. Khi còn một trăm tuổi thì Thích-ca Mâu-ni ở cung trời Đâu Suất bốn thứ xem đời. Cho nên Đại Luận nói: Một là xem thời, người sống một trăm tuổi thì Phật mới ra đời. Hai là xem đất đai, luôn ở trung tâm các nước. Ba là xem dòng giống, phải thuộc dòng Sát-lợi có thể lực lớn, dòng Bà-la-môn có trí tuệ lớn, tùy lúc ở nơi nào tôn quí thì Phật sanh vào đó. Bốn là xem chỗ sanh, những ai là mẹ có thể mang thai Na-la- diên Lực Bồ-tát (Bồ-tát sức Na-là-diên) cũng hay tự giữ gìn Tịnh giới. Như thế mà xem xong thì chỉ ở giữa nước Ca-tỳ-la-bà, Hoàng hậu của vua Tịnh Phạn có thể mang thai Bồ-tát. Như thế mà siêng năng xong thì ở cung trời Đâu Suất giáng xuống chẳng mất chính huệ mà vào thai mẹ. Di-lặc (Maitreya) - Tây Vức ký gọi là Mai-rị-lệ-da. Đường dịch là Từ Thị, tức là họ. Xưa gọi Di-lặc là sai. Ngài La-thập nói là họ, A-dật-đa (agita) là tự, là con của Bà-la-môn ở Nam Thiên Trúc. Tịnh Danh sớ nói: Có nói từ họ lập tên. Nay bản không phải là họ, e là tên. Vì sao? Vì Di-lặc đây dịch là Từ Thị, quá khứ là vua tên là Đam-ma- lưu-chi, hiền từ nuôi nấng người trong nước từ đó đến nay thường gọi là Từ Thị. Trước A-dật-đa dịch là Vô Năng Thắng (không ai hơn được). Có người nói A-dật-đa là tên thì không thấy được chính văn chưa thể định chắc được. Xét kinh Hạ Sanh nói: Lúc đó tu Phạm Ma cho con lập tự (đặt tự cho con) gọi là Di-lặc. Bảo-hưu-lan-la (Prabhùtaratna) - Hán gọi là Đại Bảo tức là Phật Đa Bảo, trích từ kinh Tất Vân Phân Đà Lợi. Phất-sa (Puwya) - Chính gọi là Phú sa. Thanh Lương nói: Cũng gọi là Bột Sa, dịch là Tăng Thạnh, tức hiểu rõ Thắng nghĩa. Chủng loại Để-sa hay Đề-xá. Dịch là Minh, lại gọi là Thuyết Độ, tức nói pháp độ người vậy. Ngài La-thập giải Phất-sa Bồ-tát là tên gọi sao Quỷ trong hai mươi tám sao, lúc sanh ra hợp với sao Quỉ tú nhân đó lấy làm tên hoặc gọi là Phất Tinh, hoặc gọi là Bột Tinh. Lâu-di-hoàn-la (Lakezvara-rajan) - Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác kinh dịch là Thế Nhiêu Vương. Kinh Vô Lượng Thọ dịch là Thế Tự Tại Vương. Đam-ma-ca (Dharmàkara) - Dịch là Pháp Tạng Tỳ-kheo. Bởi khi Phật Vô Lượng Thọ làm Nhân thì tên là A-di-đà (Amitayus - Amitàbha) Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác kinh dịch là Phật Vô Lượng Thanh Tịnh. Kinh Vô Lượng Thọ dịch Phật Vô Lượng Thọ. Kinh Tịnh Độ Xưng Tán nói trong đó Thế Tôn tên là Vô Lượng Thọ và Vô Lượng Quang. A-súc (Aksobhya) - Kinh Tịnh Danh nói: Có nước tên là Diệu Hỷ, Phật hiệu là Vô Động. Sớ nói: A là Vô, Súc là Động. Thích (Thứ?)-na-na-già-la (Ratnakàra) - Dịch là Bảo Tích vì vô lậu, căn. Lực, giác, đạo v.v… các pháp báu nhóm họp nên gọi là Bảo tích. Hỏi: Nếu thế thì tất cả Phật đều đáng gọi là Bảo Tích. Đáp: Chỉ Phật này lấy báu này làm tên. Lâu-chí (Ruci) - Dịch là Đề Khấp (khóc lóc). Lại gọi là Lư-giá hay Lỗ Chi, dịch là Ái lạc. Bệ-nộ-bà-phụ (Visvabhù) - Đại Luận nói: Tần dịch là Nhất Thiết Thắng. Đề-hòa-la-da (Devaràya) - Tấn gọi là Thiên Nhân Vương, Phật thọ ký cho Điều Đạt làm Phật có hiệu như thế. Tu-phiến-đa (Suzànta?) - Cũng gọi là Tu-phiến-đầu, dịch là Thậm Tịnh. Đệ tử chưa thuần thục liền vào Niết-bàn lưu làm hóa Phật một kiếp. <詞>BA THÂN CHUNG RIÊNG. (Riêng nêu Thích-ca. Chung thông các Phật). Vạn vật trầm mê ở trong ba đạo mà lưu chuyển, mười lực siêu ngộ chứng ba thân làm Viên thông. Do đó mà ba đế một cảnh hợp gọi là pháp thân, đây bày một tính, ba trí một tâm họp gọi Báo thân, ba thoát một thể họp gọi Ứng thân. Đây là hiển tu, vì Định tuệ này cùng nghiêm cho nhau. Nếu như Pháp thân viên hiển, cảnh trí ngầm hợp, ứng theo vật mà hiện hình, ba thân sáng tỏ vậy. Tỳ-lư-giá-na (Vairocama) - Phù Hành nói: Đây gọi là Biến Nhất Thiết Xứ, thể phiền não vốn tịnh, các đức đều đủ, thân và độ xứng nhau khắp tất cả chỗ. Luận Duy Thức nói: Một thân tự tính, nghĩa là các Như Lai chân tịnh pháp giới, là chỗ nương nhờ của thọ dụng biến hóa bình đẳng, lìa tướng mà vắng lặng, dứt hết các hý luận, đủ vô biên tế chân thật công đức. Đó là thật tính bình đẳng của tất cả pháp. Tức tự tính này cũng gọi là pháp thân. Quang Minh Huyền nói: Pháp gọi là phép tắc đáng theo, chư Phật theo phép tắc ấy mà được thành Phật. Nên kinh nói: Thầy của chư Phật là pháp. Luận Ma-ha-diễn nói: Khắc phục tự thể chân thật của pháp thân, trống vắng (trong veo) dứt lo nghó vắng lặng gọi là Đoạn, hay làm chỗ nương nhờ cho sắc tướng. Nay hỏi vắng lặng gọi là đoạn dứt sao gọi pháp thân. Đáp: Pháp thật tướng không tên gọi tùy cơ mà nói luận, vời thể vắng lặng cưỡng gọi là pháp thân. Hỏi thể trạm trạm (trong veo?) thường đồng với thái hư (hư không). Đáp: Phàm có tướng đều là tướng thị phi, biết 5 âm như tiếng vang trong hang vắng, biết thật là không có tiếng, hiểu rõ vạn vật như hình trong mộng, thấy đều là chẳng phải sắc. Không và có chẳng hai, trung đạng sáng tỏ. Chẳng thể nghe không mà bảo không là dứt mất. Lô-xá-na (Ro-ca-na) - Hiền Thủ trong Phạm Võng sớ nói: Tiếng Phạm là Lô-xá-na dịch là Quang Minh Biến Chiếu (sáng suốt khắp chiếu). Chiếu có hai nghĩa: Một là trong dùng ánh sáng trí mà chiếu xét chân pháp giới, đây là ước theo nghĩa Tự thọ dụng. Hai là ngoài dùng ánh sáng của thân mà chiếu ứng Đại cơ, đây là ước theo nghĩa Tha thọ dụng. Tịnh giác, Tạp Biên gọi là Lô-xá-na, kinh Bảo Lương dịch là Tịnh Mãn, vì các ác đều dứt hết nên gọi là Tịnh, các đức đầy đủ nên gọi là Mãn. Đây phần nhiều đều từ Báo Tự Thọ Dụng mà được tên. Hoặc dịch là Quang Minh Biến Chiếu đây phần nhiều từ Báo Tha Thọ Dụng mà đặt tên. Nếu luận về sắc tâm thì đều được Tịnh Mãn, thân và trí đều có ánh sáng, thì hai tên đều thông Tự Tha Thọ Dụng. Luận Duy Thức nói: Hai thân thọ dụng này có hai thứ: Một là Thân Tự Thọ Dụng. nghĩa là các Như Lai ba vô số kiếp (ba A-tăng-kỳ kiếp) tu tập vô lượng phước đức làm của cải chỗ khởi vô biên chân thật công đức. Lại sắc thân rất viên tịnh thường biến, tiếp nối trong suốt đến hết vị lai, thường tự thọ dụng pháp lạc rộng lớn; Hai là Thân Tha Thọ Dụng. Do Bình đẳng trí mà thị hiện ra thân Diệu tịnh công đức, thuần ở tất cả, vì Bồ-tát trụ ở Thập địa hiện đại thần thông, Chuyển chính pháp luân, xé toang các lưới nghi khiến họ thọ dụng pháp lạc Đại thừa. Họp hai thân này gọi là Báo thân - Ma-ha-diễn nói: Gọi Báo thân là đủ Nhân thắng diệu nên nhận quả Cực lạc (rất vui), tự nhiên tự tại, quyết định được an lạc xa lia các tướng khổ, nên gọi là Báo. Thích-ca Mâu-ni (Saky a muni) - Giá Hoa nói: đây gọi là Năng Nhân Tịch Mặc. Tịch Mặc (vắng lặng) nên chẳng ở sanh tử, Năng Nhân (hay làm nhân từ) nên chẳng ở Niết-bàn. Bi trí đều vận lấy đây mà xưng tên. Phát Chẩn nói: Kinh Bản Khởi dịch Thích-ca là Năng Nhân. Khi Bản Hạnh dịch Mâu-ni là Tịch Mặc. Năng Nhân là họ, Tịch Mặc là tự (tên). Họ do từ bi lợi vật, tên thì lấy trí tuệ ngầm lý vì lợi vật nên chẳng ở Niết-bàn, vì ngầm lý nên chẳng ở sanh tử. Trường Thủy nói: Tịch là hiện tướng vô tướng, mặc là bày lời không nói. Đây thì tức ứng với chân. Năng Nhân là họ thì Trường A-hàm nói: Xưa có Luân vương họ Cam-giá nghe lời dèm pha của thứ phi mà đuổi bốn Thái tử (Thái tử thứ tư?) đến phía Bắc núi Tuyết để tự lập thành quách mà ở. Thái tử lấy đức qui tụ người chẳng mấy năm mà thành một cường quốc. Vua cha hối hận nhớ con liền sai Sứ mời về, bốn con tạ lỗi chẳng trở về. Vua cha ba lần than thở. Con ta là Thích-ca nhân đây mà lập thọ. Lại nói ở dưới rừng trực thọ, lại gọi là (có hiệu) là Thích-ca. Đã ở rừng lập nước thì lấy rừng làm họ. Do đây mà Thích-ca dịch là Trực Lâm. Tịch Mặc là tên (tự), thì kinh Bản Hạnh nói lại dòng họ Thích lập họ kiêu mạn nhiều lời khi thấy Thái tử thì đều im lặng. Vua bảo phải đặt tên (tự) là Mâu-ni. Kinh Xưng Tán Tịnh Độ gọi là Thích-ca Tịch Tịnh. Lại gọi Thích-ca Mâu-ni dịch là Độ Ốc Tiêu. Như kinh Cựu Hoa Nghiêm phẩm Danh Tự và Thập Trụ Bà sa đã nêu rằng trong biển lớn có đá tên là tiêu, vạn dòng nước tưới rót mãi đến khi đá mòn hết. Do đó nước biển lớn chẳng tăng thêm chúng sanh trôi giạt cũng như tiêu thạch (hòn đá tiêu) năm dục tưới rót mà không chán đủ, chỉ có Phật mới vượt qua (độ?) nên lấy đây làm tên. Thích-ca Mâu-ni là thuộc Ứng thân - Ma-ha-diễn nói: Nói Ứng là tùy thuận căn cơ mà chẳng trái nhau, tùy thời tùy chỗ tùy Thú xuất hiện không phải tường an lạc nên gọi là Ứng. Mà Ứng thân này khắp hết trên ngàn hoa lại hiện ngàn Thích-ca. Một hoa có trăm ức nước, một nước có một Thích-ca, cho nên mời Thích-ca Mâu-ni gọi là Thiên Bá Ức Hóa Thân. Duy Thức luận nói: Ba thân biến hóa, nghĩa là các Như Lai do trí thành sự biến hiện vô lượng, tùy loại hóa thân, ở độ Tịnh uế vì vị lai Đăng Địa Bồ-tát và Nhị Thừa Dị Sanh, xứng với cơ nghi ấy mà hiện thần thông nói pháp. Nếu ở Ứng thân mà khai mở biến hóa thì thành bốn thân. Vì hiện đồng trước sau nên gọi là Ứng. Không mà chợt có nên gọi là Hóa. Song pháp của ba thân này, hoặc chấp nghĩa sanh thì liền mất ba thân, hoặc chấp lìa nghĩa thì trái nhau một thể. Nay ước ba nghĩa thì chung mà luận: Một là Thể và dụng, Trí cùng Thể ngầm họp hay khởi Dụng lớn. Tự Báo trên ngầm họp với thể của pháp tính thì gọi là chân thân. Tha Báo dưới phó cơ duyên với Dụng thì gọi là Ứng thân. Nên kinh Quang Minh nói: Chân pháp thân của Phật cũng như hư không, ứng với vật mà hiện hình như trăng trong nước mà Quán Thế Âm phổ môn thị hiện khiến vô biên người được ngầm hiểu hai thứ lợi ích là do hai thân này vậy - Hai là Quyền và Thật, Quyền gọi là Quyền tạm, Thật bảo là Thật lục. Vì bày Quyền nên từ cao quí mà khởi hèn kém, một Phật lìa minh, vì hiển Thật nên từ hèn kém mà khởi cao quí, chỉ là một thân, nên nói: Ta nay thân này tức là pháp thân. Lại nói: Pháp thân vi diệu tịnh đủ ba mươi hai tướng. Thế nên biết thuận cơ thì quyền bày ba thân. Ở Ứng bèn (chính là) Thật chỉ là một Phật - Ba là Lý và Sự. Quán Kinh sớ nói: Phật vốn không thân không tuổi thọ cũng không có hình tướng. Tùy thuận thế gian mà luận ba thân. Thế thì ngước xem chí lý vốn thật không có hình, cúi tùy vật cơ tích thùy hóa sự. Cũng như gương sáng, hình ảnh vốn hư dối, như trăng trong nước ảnh vốn không thật. Nếu ở Tích sự mà khởi chấp chặt thì giống như khỉ ngu rớt giếng mà chết. Người học pháp xuất thế phải nên răn dè. <詞>TÊN HỌ CỦA THÍCH TÔN. Thế Bản nói: Nói tính (họ?) là ở trên, nói thị (là tên) là ở dưới. Tây Vức Ký nói: Họ (tính) là do đó buộc ràng trăm đời chẳng khác. Tên là do đó riêng con cháu sanh ra. Tộc và tính khác nhau, có bốn dòng (giai cấp): Một là Bà-la-môn là Tịnh hạnh, giữ đạo, khí tiết trinh khiết. Hai là Sát-đế-lợi là dòng vua, rạng rỡ ở đời chí có Nhân Nộ. Ba là Phệ-xà là thương buôn, trao đổi hàng hóa lợi ích xa gần. Bốn là Tuất- đà-la là nông dân, mở mang ruộng vườn siêng năng trồng trọt. Trí Độ Luận nói: Tùy lúc quí chuộng mà Phật sanh vào đó. Thích-ca xuất hiện lúc đời cang cường (hung ác dữ dằn) thác sanh vào dòng vua để có oai quyền thế lực. Ngài Ca-diếp khi sanh rất thiện thuận bèn ở trong dòng Tịnh hạnh (Bà-la-môn) mà nêu đức. Cho nên các văn nói họ Phật có sáu: một là Cù-đàm, hai là Cam-giá, ba là Nhật chủng, bốn là Thích-ca, năm là Xá-di, sáu là Sát-lợi. Nay giải thích đủ. Một là họ Cù-đàm (Gautama) hoặc gọi Kiều-đàm-di hay Câu- đàm. Tây Vức ký gọi là Kiều-đáp-ma. Xưa gọi Cù-đàm là sai. Xưa dịch là Cam-giá, là Nê Thổ v.v… Nam Sơn nói là không phải. Cù-đàm là tên ngôi sao từ sao mà lập tên cho đến nhiều đời sau đổi họ là Thích-ca. Từ Ân nói Thích-ca là quần vọng. Văn Cú nói: Cù-đàm dịch là Thuần thục. Ứng Pháp sư dịch là Địa tối thắng, nghĩa trừ trời ra thì dòng họ này là cao quí nhất trong loài người, như Thập Nhị Du kinh đã nói ro. Cách đây A-tăng-kỳ (tử rất xa) có vua Đại Mâu Thảo bỏ ngôi giao cho đại thần thờ thầy Bà-la-môn bèn nhận họ ấy tên là Tiểu Cù-đàm. Xa từ quá khứ gần từ dân chủ (lúc làm vua). Hai là họ Cam-giá, Bồ-tát Bản Hạnh kinh nói: Vua Đại Mâu Thảo được thành vua Tiên, thọ mạng dài lâu chẳng già. Lúc đó các đệ tử đi khất thực xin ăn, bèn lấy lồng thanh tiên (nhốt nhiều tiên?) treo trên cành cây. Thợ săn ở xa nhìn thấy cho là chim liền bắn, máu rơi xuống đất mọc thành hai cây cam-giá (mía). Mặt trời hung nóng nở ra thành một trai và một gái. Thầy bói đặt tên đứa trai là Thiện Sanh, lấy nước tưới trên đầu gọi là vua Cam-giá. Đứa gái tên là Thiện Hiền là Hoàng hậu. Ba là Nhật chủng, kinh Bản Hạnh nói: Lại do mặt trời nung đốt Cam-giá nở ra nên gọi là Nhật chủng. Bốn là họ Thích-ca, xem bài đủ ba thân. Năm là họ Xá-di (Sàkì?) Văn Cú nói Xá-di là quí tính (họ sang trọng cao quí?) đây gọi sai, gọi đúng là Xà-di-kỳ-da, kinh Bản Hạnh nói: Vì Thích-ca ở dưới rừng Đại Thù um tùm cành lá nên gọi là Xa-di- kỳ-da. Đây là chỗ lập họ nên nước tên là Xá-di. Sát-đế-lợi (ksatriya). Triệu gọi là Dòng Vua, Tần gọi là Điền chủ. Ở kiếp sơ người ăn vị đất rồi đổi ăn gạo tự nhiên, sau tính người dần dần dối trá đều có phong thực (đất ruộng riêng) bèn lập người có đức mà công bình xử phân ruộng đất, từ đó có vua đầu tiên. Nên nối nhau gọi tên vua, người này tôn quí tự tại, có khi cường bạo thích ý làm càng chẳng chịu ôn hòa. Ngài La-thập nói tiếng Phạm ở Trung A-hàm có hai nghĩa: Một là nhẫn nhục, hai là giận dữ. Là nói người này quyền thế lớn hay giận dữ, hay nhận chịu đau khổ (nhẫn nhục) cang cường khó điều phục. Do đó mà lấy làm họ. Tất-bà-tất-đạt (Sarvàrthasiddha). Đường gọi là Đốn cát, vì khi Thái tử sanh thì các điềm cát tường đều đầy đủ, nên Đại luận dịch là Thành lợi. Tây Vức ký gọi là Tát-bà hạt Thích-tha-tất-đà, Đường gọi là Nhất Thiết nghĩa Thành. Xưa dịch là Tất-đạt là sai, đây là tên nhỏ của Thế Tôn. Ma-nạp-phược-ca (Mànavaka) hoặc gọi Ma-na-bà. Đoan Ứng dịch là Nho Đồng, Bản Hạnh dịch là Vân Đồng. Lại dịch là Thiện Huệ hoặc Niên Thiếu Tịnh Hạnh (Bà-la-môn trẻ) là hiệu của Bồ-tát ở thời Phật Nhiên Đăng. Nay xin hỏi Thụy Ứng nói xưa là Ma-nạp hiến hoa cho Phật Nhiên Đăng. Các văn dẫn chứng này ở tăng kỳ thứ hai, vì sao Diệu Huyền chứng là nhân chung các hạnh. Đáp: Trong kinh đã nói được Bất Khởi Pháp Nhẫn. Ba tạng do phục hoặc mà không có pháp nhẫn này nên chứng là Thông giáo, mà trong các văn chứng là tăng kỳ thứ hai, vì Thụy Ứng là ba Tạng. nghĩa trong Tịnh Danh sớ lấy tăng kỳ một là phục, tăng kỳ hai, ba là thuận, trăm kiếp là vô sanh, ba mươi bốn tâm là Tịch diệt. Chứng trong các văn nói là tăng kỳ thứ hai (các văn dẫn chứng là tăng kỳ thứ hai). Phát Chẩn hỏi: Nếu Thông Biệt Viên vì sao Diệu Huyền nói là Thông giáo? Đáp: Không phải chỉ thông (chung) mà cũng thông (chung ba tạng, tùy giáo chỗ nói ra cạn sâu không đồng. Một khi ở Thụy Ứng phần nhiều đều thuộc nghĩa thông, vì được nhẫn nên khác với ba tạng trước, chẳng nói Hạnh nhân tướng chẳng thể nghó bàn, khác với Biệt viên sau huống lại nói thuộc thông ắt gồm hai thứ sau. Lại nói: Các kinh khác nói gặp Phật Nhiên Đăng là Bát địa chính là Bích Chi Phật Địa của Thông giáo vậy. TAM THỪA THÔNG HIỆU. (Hiệu chung của ba thừa) Phật dạy Thuyên Lý, chuyển hóa tâm của vật để vượt người phàm mà lên bậc Thánh. Nếu người biết khổ mà luôn ôm lòng chán lìa, đoạn Tập để dứt hẳn sanh ra, chứng Diệt mà họp với vô vi tu đạo chỉ cầu tự độ thì đây là thửa Thinh văn. Nếu người quán vô minh là vọng đầu tiân, biết các hạnh là nguồn huyễn, đoạn hai nhân trói chặt dứt năm quả buộc ràng, đây là thừa Duyên giác. Nếu người xem tất cả là con một mà khắp độ quần (đám) mê, nương tâm bốn thề lớn, vận chuyển phạm hạnh sáu độ, thì đây là thừa Bồ-tát. Nói là qua sông thì duy voi, ngựa, thỏ khác nhau, nhưng luận về ra khỏi nhà thì thật là xe dê nai trâu không khác. Bồ-tát (Bodhisattva). Triệu nói gọi đúng là Bồ-đề Tát-đỏa, là gọi Bồ-đề Phật đạo vậy. Tát-đỏa, Tần gọi là Đại tâm ca. Có Đại tâm mới vào Phật đạo. Gọi Bồ-đề Tát-đỏa là dịch không đúng. An Sư nói là người mở đầu. Ngài Kinh Khê nói: Là người mới phát tâm ban đầu. Tịnh danh sớ nói: Bản xưa dịch là Cao só, đã dịch khác bất định nên phải giữ nguyên tiếng Phạm. Chỉ vì các người dịch chẳng đồng. Nay y vào Đại Luận mà giải thích thì Bồ-đề gọi là Phật đạo, Tát-đỏa gọi là Thánh chúng sinh. Ngài Thiên Thai giải rằng: Dùng các Phật đạo mà thành tựu chúng sinh nên gọi là Bồ-đề Tát-đỏa. Lại Bồ-đề là tự hành (tự độ) Tát-đỏa là hóa tha (độ người). Tự tu Phật đạo lại hóa tha (độ người khác). Ngài Hiền Thủ nói: Bồ-đề gọi là Giác, Tát-đỏa gọi là chúng sinh, tức đem trí trên cầu Bồ-đề, dùng bi dưới cứu chúng sinh. Cưu-ma-la-già (Kumaraka- Kumarabhùta) hoặc gọi là Cưu-ma- la-đà hoặc Cứu-ma-la-phù-đa, dịch là Đồng chơn, Hào đồng, Đồng tử. Huân Văn nói: Trong chứng chân thường mà không chấp trước, như đồng tử (trẻ con) ở đời tâm không nhiễm ái (ham thích chấp dính) tức gọi là Pháp vương tử- Đại Luận nói: Lại như Vương tử (con vua) nên gọi là Cưu-ma-la-già. Phật là Pháp vương (vua pháp) Bồ-tát vào Pháp chính vị cho đến Thập địa, nên đều gọi là Vương tử, đều được làm Phật như Văn Thù Sư Lợi, mười lực, bốn vô sở úy đều đầy đủ Phật sự, nên trụ vào Cưu-ma-la-già địa. Phật Địa luận rằng: Từ miệng Thế Tôn chính pháp sanh ra, nối tiếp thân Phật chẳng để dứt mất, nên gọi là Pháp vương tử. Quán Kinh sớ nói: Dùng pháp hóa độ người gọi là Pháp vương tử. Thập Trụ Tịnh Danh nói: Diệu Đức dùng pháp thân đi du phương chẳng biết chỗ nó sanh ra. Lại bổ sung vào chỗ Phật, cho nên nói là Pháp vương tử. Ngài Kinh Khê hỏi: Kinh gọi Văn Thù là Pháp vương tử, vậy các Bồ-tát người nào chẳng phải là Pháp vương tử? Đáp: Có hai nghĩa: Một là trong các Vương tử thì đức cao quí nhất là Văn Thù, hai là trong các kinh thì Văn Thù là đứng đầu chúng Bồ-tát. Bích-chi-ca-la (Pratyekabuddha). Cô Sơn dịch là Duyên giác, quán mười hai duyên mà ngộ đạo, cũng dịch là Độc giác, vì ra đời không có Phật, không có thầy mà tự ngộ. Nay kinh Lăng Nghiêm lại có vô lượng Bích-chi là không phải phương khác cõi không có Phật, Đại quyền dẫn thật mà đến hội này. Tiêu Xuyên nói: Hoặc Phật biết chúng này được ích lớn, dùng oai thần nhiếp đến chẳng được ư? Độc giác gọi là Lân dụ, tên này lấy từ Câu-xá, gọi là tê giác cũng quán mười hai nhân duyên, cũng có thể gọi là Duyên giác, chỉ ước vào căn thì có lợi độn chỉ khác nhau gặp Phật và chẳng gặp Phật, phân làm hai loại. Tất-lặc-chi-để-ca (Pratyekabuddha). Dịch là Các Các Độc Hành. Âm nghĩa nói: Độc giác thì đúng nghĩa hơn. Trong nghĩa Sao hỏi: Độc giác có thọ (giữ) giới chăng? Giải rằng: Cũng được ra đời không có Phật, duyên với các thứ khác mà được thoát cũng được Biệt giải thoát (Tự giải thoát một mình?). Nếu giới này Phật ra đời mà có, khi ra đời không có Phật thì làm sao có giới được? Đáp rằng: Biệt giải thoát có hai, một là các giới ở tại gia, hai là xuất gia Biệt giải thoát. Lại Thiện Kiến nói: Năm giới, mười giới tất cả thời đều có, cho đến ki Phật không ra đời (đời không có Phật). Bích-chi, Luân vương v.v… cũng có giáo thọ (dạy dỗ đặt ra giới…) Diệu Huyền nói: Nay nói ba tạng ba thừa không chúng khác chẳng được riêng có giới của Bồ-tát hay Duyên giác. Tu-đà-hoàn (Srota-àpanna). Kim Cang Sớ dịch là Nhập lưu, lại gọi Nghịch lưu. Đoạn ba pháp, là ước Nghịch mà nói, tức trong bốn lưu thì thấy Nghịch lưu. Được quả chứng là ước Nhập lưu mà nói, tức vào dòng (lưu) Bát thánh đạo. Nay Kinh nói: Gọi là Nhập lưu. Lại nói chẳng vào sắc thinh hương v.v…, cũng chẳng hai nghĩa ư? Tứ Giáo nghĩa dịch là Tu Tập Vô Lậu Khan chính giải thích rằng: Là người mới thấy chân lý. Tư-đà-hàm (Sakrdàgàmin), dịch là Nhất vãng lai (một lần trở lại). Kim Cang Sớ nói: Người này từ cõi này chết rồi thì một lần lên trời, một lần trở lại cõi người, mà được hết các khổ. Đại Luận gọi Tức- kî-già-di, Tức-kî là một, Già-di là trở lại nên gọi là Nhất lai. Tứ Giáo nghĩa dịch là Bạc, là trước đoạn đã nhiều, chỗ chưa đoạn còn ít, nên gọi là Bạc. A-na-hàm (Anàgàmin), dịch à Bất lai (chẳng trở lại) Kim Cang Sớ nói: Người này ở trong Dục giới chết rồi thì sanh lên Sắc và Vô sắc giới, ở đó lậu hết, chẳng còn trở lại nữa. Đại Luận gọi là A-na-già-di, A-na là Bất, Già-di là lai. Tứ Giáo nghĩa dịch là Bất hoàn (đều chẳng trở lại). A-la-hán (Arhat - Arhan). Đại Luận gọi A-la là tặc (giặc), Hán là phá, tức tất cả giặc phiền não đều phá. Lại A-la-hán là tất cả lậu đều hết, nên đáng được tất cả trời người thế gian cúng dường. Lại A là bất, La-hán là sanh, tức trong đời ấy lại chẳng còn sanh, nên gọi A-la- hán. Pháp Hoa Sớ gọi là A-bạt, Kinh gọi là Ứng chân, Thụy ứng gọi là Chân nhân, đều là vô sanh (không sanh) là giải thích La-hán. Hoặc gọi nguyên tiếng Phạm không dịch vì gồm ba nghĩa: Thoát vỏ trấu vô minh, đời sau ở trong mộng không còn chịu quả báo sanh tử nữa, nên gọi là Bất sanh (vô sanh), chín mươi tám sử phiền não đều hết nên gọi là Sát tặc. Đủ trí đoạn công đức kham việc làm ruộng phước (phước điền) cho trời người nên gọi là Ứng cúng. Bao gồm ba nghĩa này nên giữ nguyên tiếng Phạm. Ma-ha-na-già (Mahànàga). Đại Luận nói: Na-già hoặc gọi là Long (rồng), hoặc gọi là Tượng (voi), đó là năm ngàn A-la-hán, là có sức mạnh lớn nhất trong số các La-hán, do đó gọi như Long như Tượng (rồng voi). Đi trong nước thì rồng có sức mạnh nhất, đi trên bờ thì voi có sức mạnh nhất. Kinh Trung A-hàm nói: Phật bảo Ổ-đà-di: Nếu Sa- môn từ người đến trời không dùng thân khẩu ý hại ta thì gọi đó là Long Tượng (rồng voi). Tịnh Danh Sớ nói: La-hán nếu được siêu việt (vượt lên) gọi đó là Ma-ha-na-già, tâm điều phục nhu nhuyến, ba thừa Sự Định ngang đây là cùng cực. Ký nói: Như Niết-bàn Thán Đức nói là rồng trong người vậy. A-ly-dã (Àrya), dịch là Thánh giả (bậc Thánh) cũng dịch là xuất khổ giả (người thoát khỏi khổ). Khổng Thị Truyện nói: Đối với sự thông suốt thì gọi là Thánh. Khổng Tử nói với Lỗ Ai Công rằng: Gọi bậc Thánh là Trí thông đại đạo, ứng biến chẳng cùng, tính thình thương vật. Thương Thái Tể Hỷ hỏi Khổng Tử rằng: Phu Tử phải là Thánh chăng? Đáp: Khâu tôi chỉ biết rộng nhớ dai, không phải là Thánh nhân. Ba Vương có phải là Thánh chăng? Đáp: Ba vương khéo dùng trí dõng, Thánh không phải chỗ khâu này biết được. Năm đế là Thánh chăng? Đáp: Năm Đế khéo dùng nhân tín, Thánh không phải chỗ khâu này biết được. Ba Hoàng là Thánh chăng? Đáp: Ba Hoàng khéo dùng thời chính, Thánh không phải chỗ khâu này biết được. Thái Tể sợ quá bảo rằng: Vậy ai là Thánh nhân? Phu Tử đổi sắc mặt mà đáp rằng: Tây phương có Thánh vậy, chẳng tự mà không loạn, chẳng nói mà tự tin, chẳng hóa mà tự làm, thênh thang người ấy không thể gọi tên. <詞>TÊN RIÊNG CỦA BỒ TÁT. Văn Thù Sư Lợi (Mamjuzri). Dịch là Diệu Đức. Đại Kinh nói: rõ ràng thấy Phật tính cũng như Diệu Đức v.v… Tịnh Danh Sớ nói: Nếu thấy Phật tính tức đủ ba đức, chẳng dọc chẳng ngang nên gọi là Diệu Đức. Vô Hạnh Kinh gọi là Mạn Thù Thi Sư Lợi hoặc dịch là Diệu Thủ. Quán Sát Tam-muội Kinh nói: cùng Đại Tịnh Pháp Môn Kinh gọi là Phổ Thủ Tăng Mục Khư Kinh, Phổ Siêu Kinh gọi là Nhu Thủ. Vô Lượng Vi Mật Kinh gọi là Kỉnh Thủ. Tây Vức Ký gọi là Mạn Thù Thất Lợi. Đường dịch là Diệu Cát Tường. Kinh Thủ Lăng Nghiêm nói ở quá khứ cách vô lượng A-tăng-kỳ kiếp có Phật hiệu là Long Chủng Thượng Tôn Vương Phật. Ương-quật Kinh nói: Hiện tại ở phương Bắc tại Thường Hỷ Thế Giới, có Phật Hoan Hỷ Tạng Ma Ni Bảo Tích. Từ Ân Thượng Sanh Kinh Sớ dẫn kinh nói rằng: Văn Thù ở vị lai thành Phật tên là Phổ Hiện. Bí (bất)-thâu-bạt-đà (Samamtabhadra) hoặc gọi Tam-mạn-bạt- đà, dịch là Phổ Hiền. Kinh Bi Hoa nói: Hạnh Tàu dịch là quan yếu hơn các Bồ-tát. Phật Bảo Tạng nói: Vì nhân duyên đó nay đổi tên ông là Phổ Hiền. Văn Cú nói: Nay nói cái đảnh của phục đạo cái nhân của nó cùng khắp nên gọi là Phổ, cái hậu của đoạn đạo gần với Cực thánh nên gọi là Hiền. Tuy Lý nói: Hạnh cùng khắp pháp giới nên gọi là Phổ, vị gần Cực thánh nên gọi là Hiền. Thỉnh Quán Âm Kinh Sớ nói: Bạc-đà gọi là Hiền Thủ. Đẳng giác là vị cùng cực của các Hiền. Phật là đứng đầu cùng cực các Thánh. Quán Kinh Đại Luận đều dịch là Biết Cát. Viên Giác Lược Sớ nói: Một là ước tự thể, thể tính cùng khắp nên gọi là Phổ, tùy duyên mà thành đức thì gọi là Hiền. Hai là ước các vị, Khúc tế không trái thì gọi là Phổ, gần tột với Á Thánh nên gọi là Hiền. Ba là ước với đương vị (vị hiện tại), đức không gì chẳng khắp thì gọi là Phổ, Điều nhu thiện thuận nên gọi là Hiền. Biểu hiện ở Lý Hạnh Thanh Lương Quốc sư chế ba Thánh Hoa Nghiêm viên dung quán trung. Trước nói hai Thánh ba Đối Biểu Pháp: Một là Phổ Hiền tức là Sở Tín Như Lai (Lý Thú Bát-nhã nói tất cả chúng sanh đều là Như Lai Tạng). Phổ Hiền Bồ-tát tự thể cùng khắp. Hội Đầu liền vào Như Lai Tạng thân Tam- muội vậy). Văn Thù tức là Tâm Năng Tín (Kinh Phật Danh nói: Tất cả chư Phật đều nhân Văn Thù mà phát tâm, nên Thiện Tài mới thấy liền phát đại tâm). Hai là Phổ Hiền biểu thị cái sở khởi của vạn hạnh, còn Văn Thù là biểu thị cái giải (hiểu) của năng khởi (Tứ Thị nói: Ông trước được thấy các Thiện tri thức, nghe hạnh Bồ-tát vào cửa giải thoát đều là sức của Văn Thù). Ba là Phổ Hiền biểu thị cái chứng ra khỏi sự ràng buộc của pháp giới, còn Văn Thù biểu thị cái năng chứng Đại trí. Song hai Thánh này đều dung nhiếp nhau. nghĩa là y vào thể mà khởi hạnh, hạnh có thể hiển lý. Cho nên ba Phổ Hiền mà là một thể. Tín nếu không giải (hiểu rõ) là tín vô minh. Giải nếu không tín là giải Tà kiến. Tín giải phải chân chính thì mới hiểu rõ Bổn nguyên (nguồn cội) mà thành cực trí (trí cao tột) cực trí phản chiếu chẳng khác sơ tâm (tâm ban đầu). Cho nên ba Văn Thù cũng là một thể. Lại hai Thánh cũng dung nhau, hai mà chẳng hai, mất đồng quả hải. Tức là Tỳ-lô-giá-na. Ấy là ba Thánh. Cho nên Bồ-tát này thường làm (là?) một đối. A-na-bà-lâu-cát-đê-thâu (Avalokitezvara). Văn Cú gọi là Bà- lâu-cát-đê-thuế. Biệt Hành nói. Đây dịch là Quán (Quan) Thế Âm. Năng sở viên dung có không gồm đủ. Chiếu cùng chính tính, xét hết gốc ngọn, nên gọi là Quán. Thế Âm là cảnh được quán. Vạn vật lưu động sai cách chẳng đồng, dị khẩu đồng tâm đều mong lìa khổ, thì Bồ- tát vận Từ lớn cùng lúc khắp cứu, đều khiến giải thoát, nên gọi là Quán Thế Âm. Ứng Pháp Sư gọi là A-bà-lo-cát-đê-xá-bà-la, dịch là Quán Thế Tự Tại. Tuyết Sơn đến nay kinh bản đều gọi Ta-bà-la, thì dịch là Âm. Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh gọi là Lô-cưu-lâu Tuyên (hoàn?) dịch là Quán Thế Âm. Tây Vức Ký gọi là A-phược-lô- chỉ-đa Y-thấp-phược-la, Đường gọi là Quán Tự Tại họp chữ liền tiếng lời Phạm như trên, phân đại tán âm tức A-phược-lô-chỉ-đa thì dịch là Quán, Y-thấp-phạt-la thì dịch là Tự Tại. Xưa dịch là Quang Thế Âm hay Thế Tự Tại. Đường Trang Tam Tạng nói: Quán có mà chẳng trụ có, quán không mà chẳng trụ không, nghe tên mà không mê lầm ở tên, thấy tướng mà không mất ở tướng. Tâm chẳng thể động, cảnh chẳng thể tùy. Động tùy chẳng loạn chân ấy, có thể gọi là Vô Ngại Trí Tuệ. Ma-ha-na-bát (Mahàsthàmapràpta). Dịch là Đại Thế Chí. Tư Ích nói: Chỗ ta bước xuống (đặt chân) chấn động cả ba ngàn đại thiên thế giới và các cung điện ma cho nên gọi là Đại Thế Chí. Quán Kinh nói: Lấy ánh sáng trí tuệ mà khắp chiếu tất cả, khiến lìa ba đường dữ mà được sức vô thượng. Thế nên gọi là Bồ-tát này là Đại Thế Chí. Duy-ma-la-cật (Vimalakirti). Ngài La-thập nói tần gọi là Tịnh Danh. Thùy Dụ Ký nói: Tịnh tức là Chân thân, Danh tức là Ứng thân. Chân tức là Lý được chứng, Ứng tức là thân hiện ra. Sanh nói đây gọi là Vô Cấu Xứng. Vì từ chối năm dục siêu nhiên (vượt lên) vô nhiễm (không nhiễm), tiếng lành khắp gần xa nên được tên như thế. Đại Kinh nói: Oai đức không cấu nhiễm đáng là vua Ưu-bà-tắc. Tây Vức ký gọi là Tỳ-ma-la-cật. Đường dịch là Vô Cấu Xứng. Xưa dịch là Tịnh Danh. Song Tịnh thì vô cấu, Danh thì là xưng gọi. nghĩa tuy đồng nhưng tên gọi có khác. Xưa gọi là Duy-ma-cật (?) Thuần Đà (Cumda). Xưa nói: Vốn tên Thuần Đà, sau đại chúng khen đức nên gọi là Diệu Đức. Bổ Chú nói: Chẳng ứng với hai phần Danh-Đức, Thuần Đà là tiếng Tây Vức, Diệu nghĩa là tên cõi này. A-ca-vân (Bhaisajyaràjan). Đây gọi Dược Vương. Quán Dược Vương Dược Thượng Bồ-tát Kinh nói: Quá khứ có Phật hiệu là Lưu Ly Quang Chiếu, sau khi diệt độ thì có Tỳ-kheo tên là Nhật Tạng tuyên bày chính pháp. Lúc đó có Trưởng giả tên là Tinh Tú Quang nghe thuyết pháp bèn đem Ha-lê-lặc và các thuốc dâng lên Nhật tạng cùng đại chúng. Nhân đó mà lập tên là Dược Vương, sau sẽ làm Phật tên là Tịnh Nhãn. Em của Tinh Tú Quang tên là Điển Quang Minh vì nghe nói pháp bèn đem Đề Hồ và thuốc tốt nhất mà cúng dường. Nhân đó mà lập tên là Dược Thượng sau sẽ làm Phật hiệu là Tịnh Tạng. Văn Cú nói: Nếu suy nghĩa này thì Tịnh Quang sau khi vui gặp từ khi bỏ thuốc phát thệ đến nay tên là Dược Vương. Bản Thảo Tự nói: Con thầy thuốc họ Vy tên Cổ, tự là Lão sư, nguyên là nước Thúc Lặc được Đạo nhân thân mặc áo lông, lưng đeo mấy trăm cai hồ lô đầu đội khăn lụa tay cầm gậy lê, luôn dắt theo một con chó đen, sống hơn năm trăm tuổi. Từ năm Khai Nguyên tháng Mạnh Hạ (4), có người bịnh hoạn rất đau đớn. Sư phát nguyện giữ tâm nhắm mắt tưởng bèn cho thuốc thì bịnh liền hết. Bèn vẽ tượng Ngài mà cúng dường. Hoàng đế kính lễ là Dược Vương Bồ-tát. Lại Thần Tiên Truyện nói: Xưa thời Nghiêu Thuấn, đời Ân Thang Châu Tần trở về sau từ Đại Hán đến Đường có đến năm lần hóa thân cứu độ kẻ nghèo hèn bịnh hoạn. Con chó mực ấy hóa thành rồng đen trên lưng có mang theo Lão sư xông lên trời mà bay mất. Bạt-đà-bà-la (Bhadrapàla). Đại Luận dịch là Thiện Thủ. Kinh Tư Ích nói: Nếu chúng sanh nghe tên Ngài thì cuối cùng ắt được tâm Bồ-đề, nên gọi là Thiện Thủ - Cô Sơn nói: Hiền Thủ là tự giữa được Đức Hiền, lại giữ được chúng sinh. Hoặc gọi là Hiền Thủ, vì vị ở Đẳng giác, đứng đầu các Hiền. Cũng gọi là Bạt-đà-hòa dịch là Hiền Hộ. Diệu Lạc nói: Thiện tức là Hiền Vương Thành ở tại nhà Bồ-tát. Tát-đà-ba-luân (Sadàvilàpa). Đại Luận nói: Tần gọi là Thường Đề là Bồ-tát cầu Phật, buồn rầu khóc lóc bảy ngày bảy đêm, nên gọi là Thường Đề. Uất-già-đà-đạt-ma (Udgatadharma). Đại Luận nói: Uất-già-đà Tần dịch là Thạnh. Đạt-ma là pháp, nên gọi là Pháp Thạnh (Thạnh pháp?) Thi-lê-già-na (Srigana). Đại Luận dịch là Hậu Đức. Hòa-tu-mật-đa (Vasmitra), cũng gọi là Bà-tu-mật-đa. Tây Vức Ký gọi là Phạt-tô-tu-mật-tô-đa. Đường gọi là Thế Hữu xưa gọi là Hòa- tu-mật-đa. Quán Pháp Sư nói: Cũng gọi là Thiên Hữu, theo đời tùy trời người mà hóa. Càn-đà-ha-đề (Gamdhahastin). Dịch là Bất Hưu Tức (không nghỉ ngơi) niệm niệm lưu nhập vào (biển) Tát-bà-nhã Hải từ đầu không nghó ngơi. Cù Diệu (Ghosa). Tây Vức Ký gọi là Âm. Cù Sư (Ghosin). Đây gọi là Mỹ Âm. Đề-bà-bạt-đa (Devadatta). Cũng gọi là Điều Đạt, Đề-bà-đạt- đâu. Pháp Uyển nói: Bản Khởi Kinh gọi là Đề-bà-đạt-đa. Tề dịch là Thiên Nhiệt, vì khi ông mới sanh các chúng trời người tâm đều nóng nảy. Vô tính Nhiếp Luận nói: Đường gọi là Thiên Thọ, Thiên Dữ (trời trao, trời cho) nghĩa là tư trời xin mà được. Nhập Đại Luận hỏi: Đề-bà- đạt-đa kia đời đời làm kẻ thù của Phật, vì sao mà nói là Đại Bồ-tát? Đáp: Nếu là kẻ thù vì sao lại đời đời gặp nhau. Như hai người đi Đông đi Tây khác nhau, bước bước xa dần há được là Bạn. Lại gọi là Tân- già-la Bồ-tát. Thương-mạc-ca (Samaka) dịch là Thiện. Tây Vức Ký nói xưa gọi là Viêm ma Bồ-tát là sai. A-sai-mạt (Aksayamati). Dịch là Vô Tận Ý. Ngài Thiên Thai nói: Vì biết tất cả pháp tính vô tận (không hết), Bồ-tát phát tâm vô tận. Bát-nhã-câu-la (Prajókùla), dịch là Trí Tích. Tịnh Danh Sớ nói: Quán thật tướng trí tuệ chứa nhóm. Bạc-đà-bà-la Dư-tắc-ca (Bhadraàlaziksaka). Kinh Hạ Sanh nói: Tần dịch là Thiện Giáo. Na-la-diên (Nàràyanạ). Kinh Duy-ma gọi là Na-la-diên Bồ-tát. Niết-bàn Sớ dịch là Kim cang. <詞>ĐỘ NĂM TỲ KHEO. Kinh Pháp Hoa nói: Liền đến Ba-la-nại vì năm Tỳ-kheo mà nói các nguyên do. Khi Thái tử vào núi vua cha nhớ thương sai gia tộc ba người là A-bệ, Bạt-đề, Câu-lợi và hai người cậu là Trần Như và Ca- diếp, tìm hỏi chỗ ở của Thái tử mà hầu hạ. Hai người đắm mê ngũ dục. Thái tử trước ăn mè gạo bèn thối lui. Ba người kai mê khổ hạnh Thái tử về sau nhận ăn cháo sữa, nên liền bỏ đi. Từ khi mới thành quả Phật bèn nghó ai đáng độ trước. Trước nghó hai Tiên thì đã mất rồi. Lại nghó năm người bèn đến độ trước. Cho nên Phật đến thành Ba-la-nại, một Hạ điều căn. Trước vì Trần Như nói bốn Đế mà được đạo, kế vì A-bệ, Bạt-đề nói Bố thí sanh lên trời hưởng phước vui đồng thời chứng quả, sau đó vì Ca-diếp, Câu-lợi cũng nói như trước mà đều được Thánh đạo. Ấy là ba phen độ năm Tỳ-kheo vào đạo trước, nên nêu đầu tiên. A-nhã Kiều Trần Như (Àjóàtakaumdinya). Cũng gọi Câu Lân. Pháp Hoa Sớ nói: A-nhã là tên, dịch là Tri (biết) hoặc gọi Vô tri. Vô tri là không gì chẳng biết. Lại dịch là giải (hiểu rõ). Lăng Nghiêm nói: Ta đầu tiên gọi là giải. Gọi đủ là Giải Bổn Tế - Cô sơn nói: Là người hiểu pháp bậc nhất vậy. Kiều Trần Như là họ, dịch là Hòa khí, dòng Bà-la- môn, trước thờ lửa do đó lập làm Tộc (bộ Tộc, họ?). Át-bệ (Azvajit), cũng gọi là A Thuyết Thị dịch là Mã Thắng. Cũng gọi là Mã Sư, cũng gọi là A-thâu-ba-du-kỳ đảnh lễ Mã Tinh. Bạt-đề (Bhadrika) Cũng gọi là Bà-đề. Bản Hạnh Tập gọi là Bạt- đề-lê-ca, dịch là Tiểu Hiền. Văn Cú cũng gọi là Ma-ha-nam. Theo Ngũ Phần Luật và Bản Hạnh Tập thì Bạt-đề và Ma-ha-nam khác nhau. Thập Lực Ca-diếp, cũng gọi là Bà phu. Câu-lợi Thái tử, như Niết-bàn Sớ thì Ma-ha-nam và Câu-lợi là một người. <詞>MƯỜI ĐỆ TỬ LỚN. Xá-lợi-phất là trí tuệ. Mục-kiền-liên là thần thông Đại Ca-diếp là đầu đà (khổ hạnh), A-na-luật là thiên nhãn, Tu-bồ-đề là hiểu không, Phú-lâu-na là nói pháp, Ca-chiên-diên là luận nghĩa, Ưu-ba-ly là trì giới, La-hầu-la là mật hạnh, A-nan-đà là đa văn. Tịnh Danh sớ nói: Mười vị đệ tử này đều giữ một pháp. Người lấy loại mà họp vật vì đông mà phân. Tùy chỗ ưa thích đều có một pháp môn thù làm quyến thuộc. Tuy đều nắm một pháp sao Tăng chẳng đủ mười đức, tự có riêng giỏi nên gọi là bậc nhất. Lại Tăng nhất A-hàm nói một trăm Tỳ-kheo đều có tốt giỏi riêng, vì thiện đồng nên bày ra như thế. Xá-lợi-phất (Sàriputra). Đại Luận nói: Có Bà-la Luận nghĩa Sư (Thầy luận nghĩa) tên là Bà-đa-la vương v.v… vợ đẻ một con gái mắt giống mắt chim Xá-lợi, nên đặt tên là Xá-lợi v.v… Mọi người thấy Xá- lợi mới sanh nên cũng đặt tên là Xá-lợi-phất. Phất Tần nói là con, kinh Niết-bàn nói: Như Xá-lợi-phất mẹ tên là Xá-lợi nên lấy tên mẹ đặt tên, nên gọi Xá-lợi-phất. Lại dịch là Thân Tử. Văn Cú nói: Cô gái này thân hình rất đẹp, vì thân sanh ra nên gọi Thân Tử. Cũng gọi là Thu Tử vì mắt mẹ sáng sạch như mắt chim thu lộ (cò?). Đại Mục-kiền-liên (Mà-Maudgalyàyana). Ngài La-thập nói Mục-liên là họ Bà-la-môn, tên là Câu-luật-đà tức tên cây Câu-lợi-đà, vì cầu thần cây mà sinh con nên lấy đó đặt tên. Thùy Dụ Ký hỏi: Đại Kinh nói: Mục-kiền-liên tức là họ, nhân họ mà lập tên Mục-liên, vì sao lại gọi là Câu-luật-đà? Đáp: vốn tự có tên nhưng người thời ấy chỉ ưa gọi họ, nên Đại Kinh nói thế. Tịnh Danh Sớ nói: Văn Thù Vấn Kinh dịch là Lai Phục Căn, vì cha mẹ thích ăn nên lấy đặt tên con. Chân Đế Tam Tạng gọi là Vật-già-la dịch là Hồ Đậu, màu xanh (đậu xanh). Người xưa thích ăn đậu này nên lấy làm họ. Gọi đúng là Ma-ha Một- đặc-già-la, mới dịch là Biện (Thái) Thục Thị, Thục cũng là đậu. Tây Vức ký gọi là Một-đặc-già-la. Xưa gọi là Mục-kiền-liên. Ma-ha Ca-diếp-ba (Mahà Kàzyapa). Văn Cú nói dịch là Đại Qui Thi (rùa lớn). Đời trước học đạo, rùa linh mang hình tiên mà ứng, theo đức mà lập họ nên gọi là Qui Thi. Người thời ấy phần nhiều đều gọi Họ, kỳ thật là có tên. Tên là Tất-bát-la, cha mẹ vì cầu thần cây Tất-bát-la mà sanh con nên đặt là Tất-bát-la. Nói đại là ước chỗ nêu bày, hoặc nhân trí, đức và tâm của Ngài rất lớn nên gọi là Đại Ca-diếp. Nếu ước về sự mà giải thích thì trong số đệ tử Phật có rất nhiều Ca-diếp, như Thập Lực chấn động, đồng họ nhưng Ngài là già nhất cho nên nêu Đại ở trước cho gọn. Ca-diếp hoặc dịch là Ẩm Quang. Văn Cú nói: Ca-diếp có thân sáng làm lóa mất vật. Chân đế dịch là Quang Ba. Người tiên xưa có thân sáng rực rỡ hay lấn át (lóa mắt) các sáng khác. A-na-luật (Aniruddha), hoặc gọi A-na-luật-đà, dịch là Vô Diệt. Xưa do phước thí thực mà được vui trời người đến nay không mất. Tịnh Danh Sớ nói: Hoặc gọi Ni-lô-đậu hoặc A-nậu-lầu-đà. Dịch là Như Ý hoặc gọi Vô Bần, vì quá khứ đời đói từng lấy cơm mà thí cho Bích Chi Phật nên suốt chín mươi mốt kiếp ở trong trời người mà hưởng vui như ý, nên gọi là Như ý. Từ đó đến nay không hề thiếu hụt, nên gọi là Vô Bần là em họ của Phật. Tây Vức Ký gọi là Ni-luật-đà. Xưa gọi A-na- luật. Tu-bồ-đề (Subhùti). Tịnh Danh Sớ nói: dịch là Thiện Cát cũng gọi Thiện Nghiệp, Không Sanh. Vì ngày sanh ra ông nhà đều trống không. Cha mẹ sợ quá hỏi thầy bói. Thầy bói xem quẻ đáp đây là tướng tốt nên đặt là Thiện Cát. Bẩm tính Ngài từ thiện chẳng tranh giành (cãi) vật. Đến khi xuất gia thấy không mà được đạo, gồm tu Từ Tâm được Vô Tránh Tam-muội. Do đó thường hay giúp giữ vật tâm nên gọi là Thiện Nghiệp. Do lúc sanh nhà cửa đều trống không nên đặt tên là Không Sanh. Nhà cửa đều trống không tức biểu thị cho tướng giỏi Hiểu Không Sanh nói: Vô Tránh Tam-muội là Hiểu Không mà không có chỗ luận tranh cãi (tranh luận). Tây Vức Ký gọi là Tô-bộ-để Đường dịch là Thiện Hiện. Xưa gọi là Tu-phà-đề hay Tu-bồ-đề, dịch là Thiện Cát. Huân Văn nói: Nên biết tướng thiện chẳng chỉ không vật mà cũng hay cảm vật. Nên Kinh Thí Dụ nói: Ở nước Xá-vệ có Trưởng giả tên là Cưu- lưu, đẻ con, đặt tên là Tu-bồ-đề, có phước báo tự nhiên. Bình đựng thức trống không, không mong ước mà đầy. Vậy thì không ấy chẳng phải là đoạn không, biểu thị cho diệu hữu không mất. Chân Đế nói là Phật Đông Phương Thanh Long Đà. Lại Tăng Nhất A-hàm nói: Ngài thích mặc áo tốt mà bản hạnh thanh tịnh, nên gọi là Thiên Tu-bồ-đề. Nên biết cửa Phật có hai Tu-bồ-đề (?). Phú-lâu-na Di-đa-la-ni-tử (Dùrnamaitràyanìputra), Văn Cú nói: Phú-lâu-na dịch là Mãn Nguyện. Di-đa-la dịch là Từ, Ni là con gái. Cha ở trên sông cầu Phạm thiên xin con lúc nước lớn. Lại mộng thấy bình đựng đầy bảy báu chui vào bụng mẹ mà có thai. Cha được toại nguyện nên gọi là Mãn Nguyện. Di-đa-la-ni dịch là là Từ Hạnh, cũng gọi là Tri Thức. Bốn Vi-đà có phẩm này. Bà mẹ đọc nên lấy đó làm tên. Hoặc gọi là Di-thất-tử, dịch là Thiện Tri Thức. Chi Khiêm dịch Độ Vô Cực Kinh gọi là Mãn Chúc Tử nghĩa là cha ở sông nước lớn cầu Phạm thiên mà được con. Tây Vức Ký gọi là Bố Thích Noa Mai trở Lệ Diễn Ni Phất Trớ La, Đường dịch là Mãn Từ Tử. Xưa dọc là Di-đa-la-ni Tử. Ma-ha Ca-chiên-diên (Mahà kàtyayàna). Ngài La-thập nói là họ Bà-la-môn ở Nam Thiên Trúc, rất giỏi hiểu Khế Kinh (kinh). Tịnh Danh Sớ nói: Dịch là Bất định, hoặc gọi Phiến Thằng. Có người nói văn trau chuốt chưa biết ai đúng. Có người nói đây gọi là lìa có không mà phá tâm ngã mạn. Ổ-ba-ly (Upàli). Có người dịch là Hóa sanh hoặc Thượng Thủ, vì trì luật làm kỷ cương cho chúng, nên gọi là Ưu-ba-li hoặc dịch Cận chấp. Vì khi Phật còn làm Thái tử ông đã làm quan Chấp sự gần gũi. Người xưa gọi là gia nhân (người nhà) của Phật là sai (?), gọi là Ưu-ba- li. La-hầu-la (Rahula). Ngài La-thập nói A-tu-la ăn mặt trăng thì gọi là La-hầu-la. Tần dịch là Phú chướng, tức là che mất ánh sáng của mặt trăng. La-hầu-la sáu năm ở trong thai mẹ mà bị che đậy nên lấy đó làm tên. Tây Vức Ký gọi là La-hộ-la xưa gọi là lgl, lại gọi La Văn, đây dịch Chấp Nhật. Tịnh Danh Sớ nói: Có dịch là cung sanh. Vì khi Thái tử xuất gia thì Thái phi ở trong cung sao được có thai. Phật cùng vua Tịnh Phạn sau có chứng cớ là con của Thái tử thì chính là sanh ở cung nên gọi là cung sanh. A-nan (Ànainda). Đại Luận nói: Tần gọi là Hoan Hỷ. Là khi Phật thành đạo thì nhà Hộc Phạn sai Sứ đến thông tin với vua Tịnh Phạn là em đã sinh quí nam tâm vua rất vui, bảo ngày ấy là rất tốt, bèn bảo Sứ về tâu vua đặt tên con là A-nan. Cả nước đều vui mừng nên đặt là Khánh Hỷ, có Dự lưu Vô nhiễm, tuy tàn tư (các suy nghó thừa) chưa hết mà theo Phật vào trời người và cung rồng thấy con gái mà tâm không đắm nhiễm. Huyền nói là người giữ giáo ba tạng. A-nan-bạt-đà (Ànain dabhadra), dịch là Hỷ Hiền. Huyền gọi là giữ (trì) Thông giáo. A-nan Ca-la (Ànain dasàgara). Dịch là Hỷ Hải. Huyền gọi là giữ (trì) Viên giáo. Giao phó phap tạng có ba: Một là A-nan, dịch là Khánh Hỷ tạng tiếng đã nghe truyền. Hai là A-nan-bạt-đà, dịch là Hỷ Hiền là trì tạng Viên giác. Ba là A-nan Ca-la, dịch là Hỷ Hải là trì tạng Bồ-tát Viên Giác Lược sớ nói: Tóm lại là một người, tùy đức mà gọi tên khác nhau. <詞>GỒM CÁC THANH VĂN. Pháp Hoa Luận nói: có bốn thứ Thinh văn: Một là quyết định Thinh văn, nhất định vào vô dư. Hai là tăng thượng mạn Thinh văn, vì chưa chứng bảo là chứng. Ba là thối Bồ-đề Thinh văn, là thối đại mà lấy tiểu. Bốn là ứng hóa Thinh văn là trong giấu ngoài hiện. Luận tự giải thích rằng: Hai thứ sau cùng ký (cho thọ ký), hai thứ trước chẳng ký (chẳng thọ ký) vì căn độn chưa thuần thục. Ngài Thiên Thai có thêm cái thứ năm là Phật đạo Thinh văn, là theo các kinh thì dùng tiếng Phật đạo khiến tất cả đều nghe. Ước nghĩa theo người mới vào lại dùng quyết định Thinh văn và thối Bồ-đề mà gọi là trụ quả. Ngài Kinh Khê căn cứ vào ba thứ gặp cái thứ ba chỉ luận gặp tiểu mà không luận gặp đại gọi là nguyên trụ tiểu, cho nên nghĩa Thinh văn rất nhiều không phải một. Tân-đầu-lô (Piôdola bharadvàja) dịch là Bất Động là tên Phả-la- đọa là họ. Chân đế dịch là Kiện (Tiệp?) tật (nhanh chóng) cũng gọi là Lợi tướng (căn?) hay là Quãng Ngữ. Bản Hành Tập dịch là Trọng Đổng. Bà-la-môn có đến mười tám họ, họ này ở hàng đầu (là một). Hoặc gọi là Tân-độ-la Bạt-la-đọa-xà. Cảm Thông Truyện nói: Nay có người làm tượng Thánh tăng Tân-đầu-lô lập phòng riêng cúng dường cũng là một cách, song cần phải bày một tòa trống ở trước đặt một bình bát, đến giờ Tăng ăn thì mời một đại tăng đến nhận (ăn), không được ở nhà Tăng mà bày mâm chén vì phàm thánh Tăng thì rất không đụng đến chén bát của Tăng. Nếu là nhà tục thì tùy tục mà bày cúng sợ Tăng không biết nên ghi điều này. Bạt-câu-la (Vakkala). Văn Cú dịch là Thiện dung, mặt mày đẹp đẽ đoan chính. Theo kinh Hiền Ngu thì dịch là Trọng tính (họ Trọng?). Trung A-hàm Dị học lại hỏi ông trong tám mươi năm có khởi dục tưởng chăng? Đáp: Chẳng nên hỏi như thế, ta tám mươi năm chưa từng khởi dục tưởng, còn chưa từng khởi một niệm cống cao, chưa từng nhận y của cư só, chưa từng cắt y, chưa từng mượn y người khác, chưa từng may y, chưa từng nhận lời thỉnh mời, chưa từng đến đại gia khất thực (nhà giàu có xin ăn), chưa từng tựa vách, chưa từng nhìn mặt người nữ, chưa từng vào phòng ni, chưa từng cùng ni thăm hỏi nhau, cho đến ở ngoài đường cũng không chuyện trò với họ, ngồi suốt tám mươi năm. Kinh Khê nói nhóm người hoằng pháp hãy soi gương này. Nan-đà (Naôda). Văn Cú nói: Cũng gọi là Phóng Ngưu Nan-đà, dịch là Thiện Hoan Hỷ, cũng gọi Hân Lạc, Văn Cú nói từ xưa mộ đạo mà đặt tên, cao quí nhất trong vui mừng nên gọi là Thiện Hoan Hỷ. Ly-bà-đa (Revata), gọi đúng là Hiệt-lệ-phạt-đa, cũng gọi là Ly Việt, dịch là Tinh Tú hoặc Thất Tú, vì cầu sao là được con. Ma-ha Ca-hy-la (Maha kauwỉhilya). Đại Luận nói: Tần gọi là Đại Tất-ma-đà-la, kế sanh một con xương gối rất to nên gọi là Câu-hy- la, là cậu của Xá-lợi-phất cùng chị là Xá-lợi nghị luận không bằng, nên Câu-hy-la suy nghó bảo rằng: Chẳng phải là sức của chị, ắt vì mang thai người Trí nên mượn miệng mẹ mà nói. Khi chưa sanh đã như thế, khi lớn lên thì sẽ như thế nào, cho nên bỏ nhà đi làm Phạm Chí, vào Nam Thiên trúc thề không cắt móng tay, đọc mười tám thứ kinh. Kiều-phạm-bát-đề (Gavàôpati) hoặc gọi Kiều-phạm-ba-đề hay Già-phạm-bát-đề, Cấp-phòng-bát-để, dịch là Ngưu Ty (trâu rống). Pháp Hoa Sớ nói: Xưa năm trăm đời ông từng làm trâu chúa, trâu sau khi ăn thường nhơi dư báo chưa hết nên người thời ấy gọi là Ngưu Ty. Lăng Nghiêm nói: Vì ở đời quá khứ ông chọc ghẹo phá Sa-môn nên đời đời có bịnh trâu nhơi. Lại dịch Ngưu Vương, Ngưu Tướng. Tất-lăng-già-bà-tha (Piliindavatsa) dịch là Trừ tập, năm trăm đời làm Bà-la-môn dư khí còn cao, qua Hằng thủy (sông Hằng?) quát Tiểu Tỳ dừng lại, không phải ông ấy thật tâm mà bởi do tập khí. Hoặc gọi là Tất-liến-đà-đà-phạt-tha, dịch là dư tập, năm trăm đới có tính ác nói năng hung dữ, nay được dư tập. Tôn-đà-la-nan-đà (Suôdara nainda). Tôn-đà-la dịch là Hảo Ái là tên vợ, hoặc gọi Tôn-đà-la-lợi, dịch là Diệu Thiện, Nan-đà nên gọi tên vợ. Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp (uruvilvàkàsyapa). Văn Cú dịch là Mộc Hoa Lâm, vì ở gần rừng này. Cô Sơn nói: đây dịch là Mộc Qua Lung, vì ở trước ngực có gù (bứu?) như quả dưa hấu (mộc qua?). Lại nói cầu ở Thần rừng này mà sanh nên lấy đặt tên. Già-da Ca-diếp (Gàyàkàzyapa). Cô Sơn nói Già-da là tên núi tức là núi tượng đầu (đầu voi) Văn Cú dịch là Thành vì ở gần núi này, nhà ở gần thành Vương-xá phía nam cách bảy do tuần. Na-đề Ca-diếp (Nadìkàzyapa). Na-đề dịch là sông. Tây Vức Ký gọi là Nại-địa Ca-diếp Ba, xưa gọi là Na-đề Ca-diếp. Viết tân các Ca- diếp không nêu chữ Ba là tóm gọn (gọi tắt). Thời Phật Tỳ-bà-thi cùng cây sát trụ có duyên anh em. Kiếp-tân-na (Kapphina), dịch là Phòng Tú, vì cha mẹ cầu với sao Phòng mà có con. Xưa gọi là Kim-tỳ-la, dịch là Oai Như Vương. Nặc-cự-la (Nakula) dịch là Thử Lang Sơn. Đề-bà-tê-na (Devazcna), Tây Vức Ký nói Đường gọi là Thiên quân. Ưu-ba-đề-xá (Upatisya), Đại Luận gọi Ưu-bà, Tần dịch là Thỉ (heo). Đề-xá là tên sao, tức tên cha của Xá-lợi-phất. Ưu-bà-tư-na (Upasena), Bản Hạnh Tập nói: Tùy gọi là Tối Thượng Chinh Tướng. Ốt-trớ-ra (Uttara), Tây Vức Ký nói: Đường gọi là Thượng A-chiết-la (Àeàra) Tây Vức Ký nói Đường gọi là Sở Hành (chỗ làm) Ca-lưu-đà-di (Kalo dàyin), dịch là Hắc Quang ánh sáng đen) cũng gọi là Thô Hắc vì nước da ông rất đen (mặt đen). Ưu-đà-di (Udàyin). Dịch là xuất hiện, vì khi mặt trời mọc thì sinh ông Ưu-bà-ni-sa-đa (Upanisada) Tư Trung dịch là Trần tính, vì xem Trần tính (tính bụi bặm) vốn không mà được đạo, cũng gọi là là Ưu- pa-ni sát đàm. Châu-đà (Cùdapainthaka). Hoặc gọi Châu-đà-lợi, dịch là Đại Lộ biên sanh (sanh bên đường lớn). Phật Bản Hạnh Kinh nói bà mẹ là con gái của Trưởng giả, theo chồng ở nước khác lâu mà có thai gần đẻ con thì về thăm, đi đến giữa đường mà sanh con. Như thế hai lần phần gần đẻ thì về như thế mà đẻ con, lại lấy Đại Tiểu mà phân biệt. Đại tức là Châu-đà, Tiểu tức là Sa-già-đà. Sa-già-đà (Svàgata). Hoặc gọi Bàn-đà-già, đây chỉ cho Tiểu lộ biên sanh (sanh bên đường nhỏ) lại dịch là Kế Đạo, lấy cớ là em kế sanh bên đường, nên gọi Kế Đạo. Ba-thấp-phược (Pàrzva). Tây Vức Ký nói: Đường gọi là Hiếp (cái hông). Do tự thề rằng: Nếu ta không thông lý ba tạng không đoạn dứt Dục ba cõi được sáu thần thông, đủ tám giải thoát thì trọn hông không dính chiếu, nên gọi Hiếp Tôn giả. Tu-bạt-đà-la (Subhadra), dịch là Hảo Hiền. Tây Vức Ký nói: Đường gọi là Thiện Hiền. Xưa gọi là Tô-bạt-đà-la, là Phạm Chí ở thành Cưu-thi-na, một trăm hai mươi tuổi. Nê-hoàn Kinh nói: Tu-bạt rất thông minh nhiều trí, Tụng bốn kinh Tỳ-đà (Phệ-đà) tất cả sách luận đều thông suốt, được mọi người đều tôn kính. Nghe tin Phật sắp Niết-bàn mới đến chỗ Phật nghe tám Thánh đạo, tâm ý mở mang bèn được Sơ quả, từ Phật xuất gia, lại vì rộng nói bốn đế mà thành La-hán. Ca-đa-diễn-ni-từ (Kàtyàyaniputra), Tây Vức Ký gọi là Ca-đà- diễn-na, sau khi Phật diệt độ ba trăm năm thì mới ra đời, tạo ra Phát Trí luận. Xưa dịch là Ca-chiên-diên (sai) Mạt-điền-địa (Madhyàưtica) cũng gọi Ma Điền Địa, Ma Điền Đề. Dịch là Trung. A-nan-độ năm trăm người tiên, ở trong sông mà được gới nên gọi là Ma-điền-địa. Tây Vức Ký nói là trong sông Đạt-lê- la, có Đại già lam ở bên có tượng gỗ Tự Thị Bồ-tát cao hơn trăm thước Mạt-điền-để-ca-la-hán đã dắt thợ chạm khắc lên trời Sử Đa mà xem thấy Diệu tướng, đi về ba lần mới làm xong. Ưu-ba-cúc-đa (Upagupta) hoặc gọi Ưu-ba-quật-đa, dịch là Đại Hộ hoặc gọi Cấp-đa. Phật diệt độ một trăm mới ra đời mà được quả Vô Học (La-hán), Tây Vức Ký gọi là Ổ-ba-cúc-đa, Đường dịch là Cận Hộ, ở phía Đông cách thành nước Mạt-thế-la năm, sáu dặm, trong núi có hang đá cao hơn hai mươi thước rộng hơn ba mươi thước, có chứa thẻ nhỏ bốn tấc trong đó. Tôn giả Cận Hộ nói pháp độ người, vợ chồng đều chứng quả La-hán, bèn ném xuống một thẻ. Họ khác nhà khác tuy chứng vẫn không ghi. Thất-lâu-đa-tần-thiết-để-cu-chi (Sruta vìm zatikoti). Tây Vức Ký nói Đường gọi là hai trăm ức, xưa dịch là Ức nhó, là Trưởng giả giàu sang tuổi già cần có kẻ nối dòng. Lúc đó có người báo rằng bèn bội ban cho hai trăm ức đồng tiền vàng, nhân đó mà đặt tên con là nghe hai trăm ức. Khi lớn lên thì chưa từng đạp đất nên bàn chân có lông dài hơn một thước lông mềm mại tươi sáng. Tây Vức Ký nói: Giàu một ức thì có tiền một lạc xoa, lỗ tai đeo châu kéo dài ra mọi người đều biết là giàu. Hoặc nói Lỗ tai có vòng châu giá trị một ức. Ma-ha Bà-xà-ba-đề (Mahàprajàpati) dịch là Đại Sanh Chủ lại gọi là Đại Ái Đạo, hay Kiều-đàm-di, dịch là chúng sinh (chúng chủ?) Tây Vức ký gọi là Bát-la-xà-bát-để, đường dịch là Sanh chủ. Xưa dịch là Ba-xà-và-đề. Da-du-đà-la (yasodharà). Dịch là Hoa sắc, cũng gọi Danh Văn là thứ phi (vợ lẻ?) của Tất-đạt, trời người đều biết, xuất gia làm chủ ni chúng. TÔNG THÍCH LUẬN CHỦ (nhóm luận chủ) Đám quần sanh mãi ngủ mê trong đêm dài mù mịt, bậc Tiên giác cảnh giác đời, mặt trời huệ rực rỡ, nên Tây Vức Ký nói bốn mặt trời chiếu sáng đời. Đông có Mã Minh, Nam có Đề-bà, Tây có Long Mãnh, Bắc có Đồng Thọ. Hoặc thông Tông các điển (giải thích chung các sách), hoặc riêng giải một kinh. Đã phân chiếu bốn phương bèn đều phá các đám mù cho nên đây tập nêu Luận chữ. A-thấp-phược-củ (lũ?) Sa (Azvaghosa) hoặc gọi A-thấp-sự-sa Tây Vức Ký nói Đường gọi là Mã Minh. Ma-ha-diễn Luận nói: Khắc ở bản kinh (nếu theo gốc là Bồ-tát nội trụ vị vị đệ tám địa?) là Đại Quang Minh Phật. Nếu luận về Nhân thì trong đã ở Vị-đệ-bát-địa Bồ-tát sanh ở Tây Thiên Trúc. Cho là Lô-già, mẹ là Cù-na cùng sống lợi ích. Ở đời quá khứ có một Đại vương tên là Luân-đà có một ngàn con ngựa trắng đều hý tiếng rất tốt khi có chim hót thì Đại vương tăng đức, nếu chim không hót thì Đại vương tổn đức. Như thế các chim khi thấy ngựa trắng thì đều hót vang, còn không thấy thì không hót. Khi ấy Đại vương khắp tìm ngựa trắng trọn ngày mà không được, bèn bảo rằng: Nếu chúng ngoại đạo mà chim này kêu thì liền phá bỏ Phật giáo. Như đệ tử Phật mà chim này kêu thì sẽ phá hết ngoại đạo mà riêng tôn riêng tín Phật pháp. Bấy giờ Bồ-tát dùng sức thần thông hiện ra một ngàn con ngựa trắng làm một ngàn chim trắng hót lên mà nối thạnh chính pháp khiến không dứt. Thế nên Thế Tôn gọi là Mã Minh. Luật Tông Thống Yếu Sao nêu ra điều lạ này, học giả nên kiểm lại. Na-già-hạt-thọ-na (Nàgàrjuna) dịch là Mãnh (Nàgar là long, Juna là mãnh?). Đây là trích trong Long Thọ Khuyến Giới Vương Tụng (hòm chữ Thái) Tây Vức ký gọi là Na-già-át-thích-na. Dịch là Long Mãnh. Xưa gọi là Long Thọ. Ngài La-thập bảo Bản Truyện nói: Bà mẹ thọ sanh Long Thọ nhân thấy A-chu-na, A-chu-na là tên của cây. Phù Hành nói: Thọ học rộng là, vô địch trong thiên hạ, muốn chê kinh Phật mà tự làm pháp, biểu thị ta là không thầy. Rồng tiếp vào cung suốt một Hạ chỉ đọc kinh bảy Phật mà biết Phật pháp đã diệu. Do đó đi xuất gia hàng phục các vua, chế ngự các ngoại đạo. Ngoại đạo hiện thần thông hóa làm ao hoa mà ngồi trên hoa sen. Thọ hóa làm voi mà nhổ hoa sen đánh ngoại đạo. Ngài làm ba luận: Một là Đại Bi Phương Tiện Luận, nói thiên văn địa lý, làm thuốc báu lợi ích chúng sinh. Hai là luận Đại Trang Nghiêm nói về tu tất cả pháp môn công đức. Ba là Đại Vô Úy luận nói Đệ nhất nghĩa, Trung Quán luận chỉ là một phẩm. Đại Thừa Nhập Lăng Dà nói: Đại Từ, ông nên biết. Sau khi Phật Niết-bàn rồi ở đời vị lai sẽ có người thọ trì (vâng làm) pháp ta. Người đó là một Đại Tỳ-kheo danh đức của Nam Thiên Trúc, ấy là Long Thọ, hay phá các tông Hữu vô, hiển bày pháp Đại thừa Vô Thượng của ta ở thế gian, được Sơ Hoan Hỷ Địa vãng sanh nước An Lạc. Đề-bà (Deva) dịch là hiên là đệ tử của Long Thọ, là Tăng Thành Ba-tra-ly, chế phục kinh ngoại đạo mười hai năm chẳng đánh kiền chùy. Đề-bà trạng thanh tồi phục dị đạo. Đề-bà nhân vào miếu Đại Tự Tại, miếu vàng (lấy vàng của miếu) làm tượng, tượng cao sáu trượng lưu ly làm mắt, thần rất linh hiển cầu gì được nấy. Đề-bà trợn mắt giận dữ bảo rằng: Thần là thần, vốn đem tinh linh dạy vật mà lại giả dùng vàng ròng lưu ly ra uy với đời sao thấp hèn đến thế. Rồi liền lên thang móc mắt thần. Mọi người đều bảo: Thấy ấy bị khuất phục rồi. Đề-bà nói: Muốn biết trí Thần vốn tâm không kiêu mạn, Thần biết tâm ta sao lại chịu nhục. Đêm ấy hậu cúng. Sáng ngày tế thần thì thần hiện ra nhục thân mà không có mắt trái. Đến lúc Tế Thần than rằng: Việc như thế thật là hiếm có, mà ta không mắt sao không cho ta mắt. Đề-bà liền khoét mắt mình mà cho. Khoét ra rồi liền có nữa, thí đến cả vạn mắt. Thầt rất vui mừng hỏi muốn cầu gì? Đề-bà nói: Ta chẳng cầu gì hết, chẳng biết được không? Thần nói: Sẽ thỏa nguyện, rồi biến mất. Thầy lý giao thông thảy đều tin phục. Cưu-ma-la-la-đa (Kumaralabdha) Tây Vức Ký dịch là Đồng Thọ. Thất-lị-la-đa (Srilabdha) Tây Vức Ký và Đường gọi là Thắng Thọ. Khởi Tín Luận Sớ nói: Minh Ngũ Nhật Luận sư, lấy đó làm Luận chủ, nổi tiếng ở Bắc Ấn Độ. Ha-lê-bạt-ma (Harivarman). Tống dịch là Sư Tử Khải. Chín trăm năm sau khi Phật Niết-bàn rồi thì ông mới sanh ra Trung Thiên Trúc, con dòng Bà-la-môn. Xưa nương Tát-bà-đa-bộ mà xuất gia. Ông tạo bộ Thành Thật Luận. A-tăng-già (Asaiưga) Tây Vức ký và Đường gọi là Vô Trước, là Dơ Địa Bồ-tát, em của ngài Thiên Thân. Một ngàn năm sau khi Phật diệt độ, thì ông từ Sa-di-tắc bộ mà xuất gia Tam Tạng Truyện nói: Ban đêm ông lên Đổ Sử Đà Thiên ở chỗ cùa ngài Từ Thị mà nhận các bộ Du Già Sư Địa Luận, Trang Nghiêm Đại Thừa Luận, Trung Biên Phân Biệt Luận. Ban ngày thì hiện xuống vì chúng nói pháp. Bà-tẩu-bàn-đậu (Vasubamdhu) Tây Vức Ký gọi là Phạt-tô-bạn- độ, Đường gọi là Thế Thân. Xưa dịch là Bà-tẩu-bàn-đậu, dịch Thiên Thân là sai. Nói Thiên Thân Bồ-tát thì chính là Tỳ Sửu Thiên Thân, nên gọi Thiên Thân ở Nhất Thiết Hữu Bộ mà xuất gia, vốn từ Bắc Ấn Độ mà đến ở đây (là đâu?). Vô Trước sai người nhà ra đón, Sư đến già lam này gặp mà không biết là đệ tử của Vô Trước, chỉ đứng ở ngoài cửa. Đến nửa đêm Vô Trước tụng kinh Thập Địa, Thế Thân nghe rồi cảm ngộ hối hận Thậm Thâm Điệu Pháp từ xưa chưa được nghe. Tội chê bay nguyên phát ở lưỡi, lưỡi là gốc tội nay phải cắt đi, rồi cầm dao bén, khi sắp cắt thì thấy Vô Trước đã đứng bên cạnh bảo rằng: Phàm Giáo Đại Thừa là lý chí chân chư Phật khen ngợi các Thánh đều theo. Ta muốn khuyên ông, ông nay đã tự ngộ đã đúng lúc, thật tốt biết bao. Thánh giáo chư Phật cắt lưỡi là không phải hối cãi. Xưa đã dùng lưỡi để phá Đại thừa thì nay lại dùng lưỡi để khen Đại thừa, bỏ lỗi đổi mới còn tốt hơn. Bụng miệng dứt lời thì lợi ở đâu. Nói xong bỗng biến mất. Thế Thân tuân lời bèn không cắt lưỡi. Lại đến chỗ Vô Trước mà học Đại thừa. Do đó mà suy tư viết ra bộ Đại Thừa Luận hơn một trăm bộ đều lưu hành rộng ở đời. Phật-đà-tăng-ha (Buddhariinha) Tây Vức Ký và Đường gọi là Sư Tử Giác, là đệ tử của Vô Trước, mật hạnh khó lường biết, nổi tiếng tài cao. Hai, ba bậc Bảo Triết bảo rằng pháp tu hạnh nghiệp nguyện gặp Từ Thị. Nếu ai chết trước được toại ý nguyện thì về báo lại cho biết chỗ đến. Sư Tử Giác chết trước ba năm không báo Thế Thân Bồ-tát tiếp đó thì mất. Trải sáu tháng cũng không tin báo. Lúc đó các Dị học đều chê trách cho là đã sanh vào đường dữ nên không linh ứng. Sau đó Vô Trước Bồ-tát vào nửa đêm mới vì đệ tử trao dạy Định pháp. Đốt đèn lân thì bỗng tắt. Trên không trung có tiếng nói lớn: Có một Thiên Tiên từ trên trời giáng xuống tiến đến trước sân kính lễ Vô Trước. Vô Trước nói: Ông sao đến muộn thì đáp rằng: Từ khi chết rồi đến trời Đổ Sử Đa (Đâu Suất), chúng của Từ Tịnh đều sanh trong hoa sen. Hoa sen vừa nở thì Từ Thị khen rằng: Hãy đến đây Quảng Huệ, đi quanh khắp hết vòng liền về báo tin. Vô Trước hỏi nay Sư Tử Giác đang ở đâu? Đáp: Tôi đi khắp một vòng thì thấy sư Từ Giác ở trong ngoại chúng còn đắm trước năm dục không rảnh gặp nhau. Vô Trước hỏi: Từ Thị tướng thế nói pháp gì? Đáp: Từ Thị tướng tốt không thể diễn tả, nói Diệu pháp nghĩa chẳng khác cõi này. Song Diệu âm của Bồ-tát thật hòa nhã, khiến người nghe quên mỏi mệt. Trần-na (Dignàga - Diínàga) Tây Vức Ký nói: Đường gọi là Đồng Thọ. Diệu Cát Tường Bồ-tát chỉ dạy truyền trao. Như Từ Ân nói: Nhân Minh Luận vốn do Phật nói, răn rộng nghĩa tan đầy khắp các kinh. Cho nên Địa Trì Luận nói: Bồ-tát cầu pháp sẽ cầu ở đâu, phải ở tất cả chỗ Ngũ Minh mà cầu. Cầu Nhân Minh là để phá Tà luận mà an lập chính đạo, đề mục của kiếp sơ, đầu tiên ra chân tơ. Kịp khi Thế Thân lại trình bày quỉ thức thì tuy kỷ cương đã bày mà chỗ sâu tối chưa phân. Cho nên khiến chủ khách đối nhau lập ra qui tắc nghi phá thì có Trần- na Bồ-tát gọi là mạng thế là một trong ngàn Phật Hiền kiếp. Ngài ẩn thân vào hang núi ngưng ý đẳng trì, làm ra lợi hại về quán thuật mà xét về hệ ước của văn nghĩa. Lúc đó trong hang núi ầm ầm chấn động mây khỏi biến tan, sơn thần nâng chân Bồ-tát cao hơn mấy trăm trượng, bảo rằng Phật nói Nhân Minh luận đạo xin thỉnh rộng truyền. Bồ-tát bèn phóng thần quang chiếu đuốc cơ cảm. Lúc đó ở Nam Ấn Độ, vua nước An-đạt-la thấy phóng ánh sáng liền nghi là vào Kim Cang Dụ Định, xin chứng quả vô học. Bồ-tát nói vào định quán sát giải thích các kinh sâu tâm hẹn Đại giác (tâm ma thành Phật) chẳng phải cầu quả nhỏ. Vua nói quả vô học, các Thánh đều kính, thỉnh Tôn giả mau chứng. Bồ-tát muốn làm toại ý vua) thì Diệu Cát Tường Bồ-tát liền khảy móng tay thưa rằng: Sao (nào) bỏ đại tâm mới hưng tiểu chí, vì rộng lợi ích nên sẽ chuyển pháp Du già của ngài Từ Thị đã nói, khuông chính đồi cương có thể tạp Nhân Minh trọng thành qui cũ. Trần-na nghe lời chỉ dạy mà đi nhiễu quanh một vòng rồi suy tìm nghiên cứu mà làm ra. Nhân Minh chính Lý Môn Luận. Lại Phụ Hành nói: Tiên Ca-tỳ-la sợ thân chết, bèn lân cung trời Tự Tại hỏi. Trời sai đến núi Tần-đà lấy dư cam tử ăn rồi thì sống dài lâu. Khi ăn rồi thì hóa thành giường đá rất rộng hơn các giường khác. Bèn viết bài kệ hỏi đá. Sau bị Trần-na Bồ-tát chê bèn viết kệ xé rách (phá) đá. Tân-già-la (Piưgara). Tựa Trung Luận nói các nước thọ trì, đọc tụng những ai dám dự học đều thưởng ngoạn luân này cho cho là hầu khâm (quan trọng?) nó nhộm bút giải thích không ít. Chỗ sanh ra là Phạm Chí ở Thiên Trúc tên là Tân-già-la (luận này do Phạm Chí Thiên Trúc tên là Tân-già-la tạo ra). Tần gọi là thanh mục chi sở thích (?) là người này tuy tin hiểu pháp rất sâu, mà biện luận cũng thanh nhã. Trong lúc những người thừa tịch phiền trọng thì Pháp sư đều có giúp chút ít. Bà-tỳ-phê-già (Bhavaviveka) Tây Vức Ký nói Đường gọi là Thanh Biện. Tịnh Nhi Tư nói: Không phải Từ Thị thành Phật thì ai quyết nghi cho ta, bèn ở trước tượng Quán Âm Bồ-tát mà đọc Tùy Tâm Đà- la-ni, trải qua ba năm Bồ-tát hiện thân bảo Luận sư rằng: Cần gì? Đáp rằng: Nguyện lưu thân này đợi thấy Từ Thị. Bồ-tát nói: Mạng người khó giữ, phải tu Thắng Thiện để sanh lên Đổ Sử Thiên (trời Đâu Suất) mới thấy Từ Thị. Thưa rằng: Chí quyết không đổi. Bồ-tát nói: Nếu thế, phải đến nước Đà-na-yết-kiệt chỗ hang núi thần chấp Kim cang ở phía Nam thành, mà chí thành tụng trì Kim cang Đà-la-ni, bèn toại nguyện này. Luận sư do đó đến mà tụng. Sau ba năm thì thần hiện ra hỏi: Nguyện ấy thế nào? Luận sư đáp: Nguyện giữ thân này đợi Từ Thị. Thần bảo trong hang đá núi này có cung Tu-la đúng như pháp mà thỉnh thì vách đá sẽ mở. Mở rồi vào liền có thể thấy Thần lại bảo: Khi Từ Thị ra đời ta sẽ báo cho. Luận sư nghe lời chuyên thỉnh tụng trì. Trải qua ba năm mới khấn giới tử mà gỏ vách đá thì vách đá liền mở. Luận sư bèn cùng sáu người vào trong vách đá. Người vào vách đá rồi vẫn nguyên như cũ. Đạt-ma-ba-la (Dharmapàla). Tây Vức Ký và đường gọi là Hộ pháp, thần phụ viễn độn nhân đó xuất gia với Thanh Biện Luận sư, ngoài mặc áo Tăng, trong dạy Long Mãnh. Nghe Hộ Pháp Bồ-tát ở dưới cây Bồ-đề tuyên bày pháp giáo, bèn sai học trò đến thăm hỏi rằng: Ngưỡng mộ đức độ hư tâm đã từ lâu song vì nguyện trước chưa xong nên đến lễ hỏi cây Bồ-đề thrể chẳng thấy không, thấy đây có chứng gọi là thầy trời người. Hộ pháp Bồ-tát bảo rằng: Đời người như huyễn, thân mạng như bọt nổi chưa luận bàn đá chẳng còn thấy nhau. Cù-ma-bát-loại-bà (Gunaprabha), Tây Vức Kývà Đường gọi là Đức quan, làm Biện Chân Đẳng Luận hơn một trăm (quyển?). Luận chủ chưa hiểu tột chỗ huyền áo của Đại thừa. Nhân xem luận Tỳ-bà- sa mà bỏ theo học với Tiểu thừa làm hơn mười bộ luận để phá cương võng Đại thừa thành Tiểu thừa chấp trước. Nghiên cứu tuy lâu nhưng nghi tình chưa dứt. Lúc đó có Đề-bà-tê-na La-hán qua lại cõi trời Đổ Sử (Đâu Suất). Đức Quang nguyện gặp Từ Thị để học hỏi quyết nghi. Thiên quân dùng sức thần thông đưa lên cung trời. Khi gặp Từ Thị thì chỉ đứng xa mãi mà không lạy. Thiên Quân nói Từ Thị Bồ-tát sẽ nối vị Phật, sao dám chẳng kính lạy mới muốn học sao chẳng khuất phục. Đức Quang đáp lời của Tôn giả thành thật chỉ dạy, song tôi đủ giới Tỳ- kheo, chỉ làm đệ tử người chính giác. Còn Từ Thị Bồ-tát hưởng phước trời không phải bạn của xuất gia, nay muốn đảnh lễ sợ không hợp cách Bồ-tát biết là tâm ngã mạn không phải là pháp khí, qua lại ba lần mà không được quyết nghi. Đạt-ma Trở-đa-la (Dharmatràla) Tây Vức Ký và Đường gọi là Pháp Cứu. Xưa gọi là Đạt-ma-đa-la. Y-thấp-phạt-la (Izvara) Tây Vức Ký và Đường gọi là Tự Tại. Phật-địa-la (Bodhila) Tây Vức Ký và Đường gọi là Giác Thủ. Bố-thích-noa (Dùrna) Tây Vức Ký và Đường gọi là Viên Mãn. Tăng-già Bạt-đà-la (Saưghabhadra) Tây Vức Ký và Đường gọi là Chúng Hiền. Bạt-đà-đà-ta (Buddhadàsa) Tây Vức Ký và Đường gọi là Giác Sử. Hiền. Huệ Thi-la Bạt-đà-la (Sila bhadra) Tây Vức Ký và Đường gọi là Giới Cù-na-mạt-đệ (Gunamati) Tây Vức Ký và Đường gọi là Đức Bạt-la-lũ-chi (bhadraruci) Tây Vức Ký và Đường gọi là Hiền Ái người Tây Ấn Độ rất giỏi nhân minh, là một Tôi Đại Mạn Bà-la-môn nên đang sống mà bị đọa địa ngục. Thân-na-phất-đát-la (Jinaputra) Tây Vức Ký và Đường gọi là Tối Thắng Tử. Ông soạn ra Du Già Sư Địa Thích Luận. Mạt-nổ-hạt-lợi-tha (Manorhita) Tây Vức Ký và Đường gọi là Như Ý tức là Bà-sa Luận sư. Bát-nhã-yết-la (Prajóakra) Tây Vức Ký và Đường gọi là Huệ Sanh. Đạt-ma-tất-lợi (Dharmapriya) Tây Vức Ký và Đường gọi là Pháp Ái Đạt-ma-yết-la (Dharmakara) Tây Vức Ký và Đường gọi là Pháp tính sứ Quân A-lê-da-đà-ta (Àryadàsa) Tây Vức Ký và Đường gọi là Thánh A-lê-tư-na (Àryasena) Tây Vức Ký và Đường gọi là Thánh A-lê-da-phạt-ma (Àryavarman) Tây Vức Ký và Đường gọi là Thánh Vị. Mạt-nô-nhã-cù-sa (Manojóaghowa) Tây Vức Ký và Đường gọi là Ý Thinh. Đạt-ma-uất-đa-la (Dharmottara). Dịch là Pháp Thượng. Phật diệt độ tám trăm năm thì ra đời, tạo ra tập Tỳ-đàm. TÔNG PHIÊN DỊCH CHỦ (nhóm phiên dịch) Ngạn Tông Pháp sư nói: Phàm dự phiên dịch phải có tám bị, mười điều: Một là thành tâm học pháp chí lợi ích cho người. Hai là đạt đến chỗ cao quí trước phải nhốt mình trong giới. Ba là văn thuyên (nêu) ba Tạng nghĩa suốt năm thừa. Bốn là bàng thiệp (ngoài bàn) văn sử công nối điển từ, chẳng lỗi thô vụng. Năm là giữ chặt Bình thứ, khí rộng tự hư không, không nêu riêng chấp. Sáu là chìm sâu trong đạo thuật, nhạt với danh lợi không muốn viễn vong. Bảy là cần biết tiếng Phạm không rơi vào cái học ấy. Tám là Truyền duyệt thương nhã, biết rõ tiện lệ mà không mê văn này. Mười điều là: Một là câu vần, hai là vấn đáp, ba là danh nghĩa, bốn là kinh luận, năm là ca tụng, sáu là chú công, bảy là phẩm đề, tám là chuyên nghiệp, chín là tự đô, mười là tự thinh. Tống Tăng Truyện nói: Quán Dịch Trương Kinh lập quan phân chức được nghe chăng? Việc này do sở ty: - Một là Tông thích chủ tức là đem lá viết ba tạng, minh huyện Hiển mật hai giáo. - Hai là người Bút thọ ắt phải thông lời Hoa Phạm học Tông Hữu hỏi nhau biết rõ, rồi sau mới viết ra. Đời Tây Tấn Ngụy Tần đến nay lập ra Viên quan này (Bụt Thọ) tức Sa-môn Đạo Hàm Huyền. Trách Diêu tung Niếp xa nối cha con cho đến đế vương cầm bút liền hưng tông trong Lương Vọ Thái hậu. Lại bảo là nối văn. - Ba là Độ ngữ nói đúng là Dịch ngữ, Truyền ngữ tức là đổi cho hiểu như Phiên Hiển Thức Luận, Sa-môn Chiên-đà dịch tiếng, là đó. Ba là người Chứng phạm bản, cầu họ suy lường ngầm chứng biết lời nói không sai, chỗ bày không nhầm. Như cư só Y-xá-la chứng dịch Tỳ-nại-da bản tiếng Phạm vậy. Đến lập một quan chứng Phạm nghĩa, nói rõ nghĩa Tây Trúc được mất, quí nhất là khiến tiếng Hoa chẳng mất nghĩa Phạm. Hoặc lập một quan Chứng thiền nghĩa. Sa-môn Hội Thông từng làm qua. - Bốn là người Nhuận văn, số không nhất định, lấy người học thông trong ngoài sung vào chức ấy, làm chất dầu cho Bút thọ. Văn ngôn há không ly tục, nếu chẳng ý Phật sao hỏi cắt mà làm cho đúng cho nên Trường dịch của ngài nghĩa Tịnh có Lý Kiêu Vi Từ (Đền (vi) lý kiêu) lập Lô Tàng Dụng v.v… hơn hai mươi người. - Năm là văn Nhuận Sắc. - Sáu là người Chứng nghĩa, là chứng lời văn đã dịch nói đúng với nghĩa. Như dịch Bà-sa luận, có Huệ Tung Đạo Lãng v.v… ba trăm người khảo chứng văn nghĩa. Nhà đường lại phục lễ lụy trường bổ sung nhiệm vụ. - Bảy là có sách Phạm (Phạm Bối) chiếu pháp (toà pháp) mở mang, sách Phạm xưa rất nhiều dùng làm tiển dung (biểu thị cho Phật xưa) khiến mọi người đều thiện. Trong năm Đường Vónh Gia mới nghe có chức quan này (thuộc phòng phiên dịch). - Tám là Giáo khám thanh (khảo xét lại) theo Phúc sớ Văn nghĩa của Ngạn Tông, vì đây là việc rất thận trọng. - Chín là Giám Hộ Đại Sứ, ngài Chu Bình Cao Công Hầu Thọ làm Tổng Giám Hiệu, Hiệu (giảo?), Đường Phòng Lương Công là Trang Sư Giám Hộ Tướng (là tướng Giám hộ của Trương Sư). Kế lại Quán Dương Thận Giao Đổ Hành Khải v.v.. mà sung vào, hoặc dùng Tăng ở chức này tắc Tùy Dó Minh Mục Đàm Thiên v.v… mười người nắm vững việc phiên dịch, thuyên định tông chỉ, dịch kinh Đồ Kỷ. Chỉ có Hiếu Minh Hoàng đế, năm Vónh Bình thứ ba (Canh thân). Vua mộng người vòng cổ có nhật quang (ánh sáng mặt trời) bay đáp xuống sân. Vua đem việc hỏi quần thần Thái tử Truyền Nghị tâu rằng: Thần nghe Tây Vức có Thần gọi là Phật. Bệ hạ mộng chắc là đó. NămVónh Bình bảy (Giáp tý) vua ra lệnh cho Lang Trung Tế Âm, Trung Lang Tướng Tần Cảnh Bác Só Vương Tôn v.v… mười tám người đi Tây Vức tìm Phật pháp. Đến nước Ấn Độ thỉnh kinh và Ma Đằng Trúc Pháp Lan, dùng ngựa trắng chở về, cũng đem theo tượng khác và hình vẽ Phật Thích-ca. Năm Vónh Bình mười (Đinh Mão) thì về đến Lạc dương vua rất vui, cho tạo chùa Bạch Mã, dịch kinh bốn mươi hai chương. Đến ngày đầu năm Vónh Bình mười bốn thì Ngũ Nhạc Đạo Só Trử Thiện Tín Đẳng (v.v…) có ý không vui. Nhơn sau buổi triều chính dâng biểu xin khảo thí. Vua ra lệnh cho Tàu Thượng Thơ khiến Tây Tường dẫn vào cung Trường Lạc. Vua bảo ngày 15 tháng này tất cả đều tập hợp tại chùa Bạch Mã ở cửa Nam. Ngày ấy Tín Đẳng lấy các kinh Linh Bảo đặt tên đàn ở đạo Đông, vua đặt kinh tượng và xá-lợi trên Diệu bảy báu ở đạo Tây. Tín Đẳng đi quanh đàn khóc lóc khải thỉnh Thiên Tôn lời tình rất khẩn thiết, rồi lấy củi chiên đàn mà đốt kinh, chỉ kinh không cháy còn tất cả đều thành tro. Các việc lên trời vào lửa vào nước biến hình trước đây đều không còn nữa, đọac các bùa chú đều không còn ứng nghiệm. Lúc đó Thái Truyện Trương Diễn bảo Tín (Đẳng) rằng: Chỗ thi đua không linh nghiệm tức là dối trá. Vậy phải theo Chân Pháp Tây Vức. Lúc đó Nam Nhạc Đại só, Phí Thục Tài v.v… rất xấu hổ tức giận mà chết. Lúc đó xá-lợi Phật chiếu ánh sáng ngũ sắc thẳng lên không trung rồi tỏa ra như cái lọng che khắp mọi người, lấn át cả ánh mặt trời. Ngài Ma Đằng trước là A-la-hán liền dùng thần túc bay lên hư không đi đứng ngồi nằm thần hóa tự tại. Bấy giờ trời mưa hoa báu và tấu trổi âm nhạc cảm động tình người. Ma Đằng về ngồi. Pháp Lan nói pháp. Lúc đó chúng đều vui mừng được điều chưa từng có. Bấy giờ Hậu Cung Âm phu nhân Vương Tiệp Dư v.v… một trăm chín mươi người xuất gia. Ty Không Dương Thành Hầu Sáng Thiện Tuấn v.v…hai trăm sáu mươi người xuất gia. Tứ Nhạc Đạo Só Lữ Huệ Thông v.v… sái trăm hai mươi người xuất gia. Kinh Đô Trương Tử Thượng v.v… ba trăm chín mươi mốt người xuất gia. Bà con vua và các quan ai xuất gia thì cạo tóc và cúng dường. Trải ba mươi ngày (đến ngày 3 0) tạo chùa ngoài thành bảy chỗ an tăng, ba chùa trong thành để chứa các ni (theo Hán Minh Pháp Bản Nội Truyện). Ca-diếp Ma-đằng (Kàzyapàtaưga) người Trung Ấn Độ dòng Bà- la-môn, tuổi trẻ mẫn ngộ, có phong tư, học rộng đa tài rành rẽ kinh luật, sức nghó tinh nhanh tìm tòi sâu sắc, nêu văn bày lý mà nghĩa thần đều rõ. Ngài từng dạo chơi Tây Ấn Độ. Có một nước nhỏ thỉnh Ma-đằng giảng kinh Kim Quang Minh. Bỗng có nước cạnh bên đem binh đến đánh, nhưng binh không tiến lên được, nghi có thuật lạ, mật sai người rình xem thì chỉ thấy vua quan an vui nghe giảng kinh về pháp Minh Địa Thần Vương Hộ Quốc. Do nước ấy thấy việc thần nghiệm này nên xin hòa cầu pháp. Lúc đó Thái Âm ân thỉnh Ma-đằng. Ma-đằng cùng âm đều đến gặp vua, mùa đông thì về đến Lạc dương. Trúc Pháp Lan (Dharmaraksa (?)), người Trung Ấn Độ, tuổi mà cơ ngộ, yêm nhã bác ái, rất thông Thiền tư, hiểu rõ Tỳ-ni. Tụng kinh hơn trăm vạn lời, học trò hơn ngàn người ở chẳng cầu an luôn ôm lợi lớn cho mọi người giới luật cao nghiêm. Gặp Âm cầu thỉnh liền có ý đi liền nhưng vua không chịu bèn mật ước với Ma-đằng sẽ đến sau. Hai người cùng dịch kinh bốn mươi hai chương sau Đằng tự dịch năm kinh. Đàm-ma-ca-la (Dharmakàla) dịch là Pháp Thời, người Ấn Độ, nhỏ mà tài trí, rành bốn Vi-đà, giỏi năm Minh Luận, Đồ Sám vận biến đều gồm. Tự cho mình là bậc nhất trên đời, từng vào Tăng phòng gặp pháp Đằng Tỳ-đàm ân cần tìm hiểu nhưng không biết chỉ thú than rằng: Phật pháp quá sâu xa. Nhân đó mà xuất gia tụng Đại Tiểu thừa, du hóa ở Hứa lạc - Sự Sao nói: Bắt đầu từ Hán Minh Đế nằm mộng Ca Trúc truyền pháp đến nay rốt cùng ở Sơ Tào Ngụy Tăng chúng rất thạnh chưa bẩm qui giới chỉ vì cắt rụng khác tục. Lại lập trai sám thì giống như tế tự (cúng tế). Sáu có Trung Thiên Trúc Ca-đàm-ma-la tung các bộ Tỳ-ni, năm Ngụy Gia bình thì đến Lạc dương lập yết-ma mà thọ pháp, là bắt đầu giới luật ở Trung Hạ, chuẩn dùng mười tăng rộng làm Phật pháp đổi các vọng tục trước làm Tăng kỳ giới tâm. Lại có Sa-môn nước An Tức Đàm Đế cũng giỏi luận học làm Đàm Vô Đức Yết Ma tức là việc Đại Tăng Thọ Pháp đầu tiên. Khang (Khương) Tăng Khải (Samghavarman), người Ấn Độ học rộng các kinh, nghĩa họp u chỉ. Năm Gia Bình bốn sư ở chùa Bạch mã tại Lạc dương dịch Vô Lượng Thọ kinh. Chi Khiêm (?), là Ưu-bà-tắc nước Nguyệt Thị, thời Hán-mạt đến Lạc dương rành rẽ các kinh và các kỹ nghệ, giỏi tiếng các nước, người thấp ốm da đen mắt nhiều lòng trắng con người vàng. Lúc đó người gọi là Chi Lang Nhãn Trung Huỳnh, hình thể tuy bé nhưng Trí rất sâu. Võ Liệt Hoàng Đế thấy tài huệ của ông bèn phong làm Bác só. Gầm dịch kinh điển lột được nghĩa sâu. Duy-kỳ-nan (Vighna) dịch là chướng ngại, người Ấn Độ học thông ba tạng rất giỏi bốn A-hàm, du hóa làm nghiệp, năm Võ Xương dịch kinh. Khang (Khương) Tăng Hội (?) ở nước Khang Cư, là con lớn của quan Đại thừa Tướng, người Ấn Độ, tuổi nhỏ đã mồ côi cả cha lẫn mẹ, tính rất chí hiếu bèn vào Đạo, đức hạnh thanh cao, giải thông ba tạng, huệ suốt năm minh biện luận tùy cơ lại thuộc văn hàn. Vì nước Ngô mới nhiễm Phật pháp việc đại hóa chưa toàn muốn khiến Giang Tả hưng lập chùa tháp. Nên năm Xích Điểu bốn sư chống tích trượng đến Kiện Khang ở Dương đô mà dịch kinh. Trúc-đàm-ma-la-sát (Dharma raksa) dịch là Pháp Hộ, người nước Nguyệt Thị hiểu biết nhiều, tính thuần ý thích tinh khổ, rất ham học, vạn dặm tầm thầy, đến đây chưa lâu, rộng xem sáu kinh dạo khắp bảy tịch hiểu ba mươi sáu sách cật huấn âm nghĩa đều biết. Ngày đọc vạn lời, qua mắt liền nhớ. Trước ở Đôn Hoàng, sau ở Thanh môn. Đại Châu Mục nói năm Thái Khang bảy dịch Pháp Hoa. Thi-lợi-mật-đa-la (Srimitra) dịch là Cát Hữu là Thái tử ở Tây Vức nhường ngôi cho em mà xuất gia, phong tư cao rộng, phong trần cao xa, dung nghi đẹp đẽ. Đến đây đời Tấn Nguyên Đế dao Kiện Khang, Vương Công đều trọng, đời gọi là Cao Tòa Pháp sư, dịch các kinh Quán Đảnh v.v… Cù-đàm-tăng-già-đề-bà (Gautaưmasamghadeva) hoặc gọi Đề Hòa, dịch là chúng thiên người nước Kế Tân phong thái đang làm gương, nghó sâu bốn thiền, nghiên tìm ba tạng, trước ở nước Phù Tần Đế dịch A-tỳ-đàm-bát-kiền-độ. Tỳ-ma-la-xoa (Vimmalàksa) Dịch là Vô Cấu Nhãn người nước Kế Tân, có chí lắng trong và khổ hạnh. Đời gọi là Thanh Mục Luật sư, giúp ngài La-thập dịch lại mười quyển kinh của La-thập. Phật-đà-bạt-đà-la (Buddha bhadhra) dịch là Giác Hiền người Đại thừa ba quả là miêu duệ của Cam Lộ Phạm Vương, ở đây cùng La-thập gặp nhau, Thập nghi là theo rình. Năm Đông Tấn nghĩa Hy mười bốn ở chùa Tạ Ty không dịch Hoa Nghiêm sáu mươi quyển trước là nhà sau là ao có hai đồng tử (cậu bé) thường từ ao ra mà dâng hương tán hoa. Pháp Hiển (?) họ tập, người ở Võ Dương Bình Dương. Thấy kinh luật thiếu sót thí có chí tím cầu. Năm Tấn An Đế Long An thứ ba (Kỷ Hợi) dạo khắp Ấn Độ. Năm nghĩa Hy 1 (ất Tî) đi thuyền buồm trở về ở Dương Đô mà dịch kinh. Đam-ma-da-xá (Dharmyazas) dịch là Pháp Xưng, người nước Kế Tân nhỏ rất hiếu học lớn càng dốc chí thần sảng cao nhã xem đủ kinh luật, bụng nghó tám thiền dạo tâm bảy giác, sáng ngộ hơn người khổ hạnh cầu quả. Thiên thần bảo rằng sao chẳng xem phương hoằng hóa mà riêng giữ Thiện Tiểu. Do đó mà dạo khắp các nước dịch Sai Ma Đẳng (các) kinh. Cưu-ma-la-la-thập-bà (Kumàrajiva) dịch là Đồng Thọ. Ông nội là người Ấn Độ, cha rất thông minh. Vua Qui Tư nghe tin bèn đem gả con gái cho làm vợ mà sanh ra Thập. Ngày Thập ở trong thai thì bà mẹ thêm nhiều biện huệ, bảy tuổi xuất gia, ngày tụng một ngàn kệ, nghĩa chỉ cũng thông suốt. Đến chín tuổi cùng ngoại đạo luận nghĩa thì rất biện tài tất cả đều khuất phục. Năm mười hai tuổi có La-hán lấy làm lạ bảo mẹ ông rằng: Nên luôn giữ gìn, nếu năm ba mươi lăm tuổi mà không phá giới thì sẽ đại hưng Phật pháp độ số người. Lại học năm minh, bốn vi-đà, âm dương tính toán thì cùng tột chỗ lay, sau chuyển học Đại thừa luôn phá bọn ngoại đạo các nước gần xa đều gọi là thần dị. Mẹ thập sau cùng xuất gia thông minh hơn các ni được quả thứ ba. Thập thọ Cụ giới thì mẹ bảo rằng: Phương Đẳng thâm giáo nên rộng mở ở Tần Đô với thân ông không lợi thế nào? Thập nói hạnh Bồ-tát là lợi vật quên mình, Đại hóa ắt làm lò vạc không hạn chế. Từ đó trở đi thập rộng tụng, Đại thừa rỗng suốt chỗ bi áo. Vua các nước Tây Vức thỉnh thập giảng nói thì mọp lạy bên tòa khiến thập ngồi trên tòa cao. Năm Phù Kiên Kiến Nguyên chín, Thái sử tâu rằng: Có sao đức hiện ở nước ngoài ắt có người Đức trí lớn vào giúp tất cả. Kiên nói: Trẩm nghe ở Tây Vức có La-thập, Tương Dương có Đạo An, đâu chẳng phải người này. Sau sai tướng quân Lữ Quang đem bảy vạn quân đánh nước Quy tư. Quang và Thập đồng đến. Thập ở trên đường nói nhiều điều ứng biến, quang đều dùng hết. Quang chiếm cứ Tây Lương thì cũng mời Thập ở lại. Đến năm Diêu Tần Hoằng Thỉ thứ ba đem quân đánh qui tư thì Thập mới vào Trường An vua Tần ban lễ rất hậu mời vào Tây Minh các và tại vườn Tiêu Dao riêng lập quán để ở. Vua ra lệnh cho Tăng lược v.v… tám trăm Sa-môn học hỏi ý chỉ của Thập, khởi tâm coi nhỏ vạn thừa, tôn giáo Tam bảo. Ở chùa Thảo Đường cùng ba ngàn Tăng tay cầm kinh xưa mà cùng tham định, đều rất tinh cứu rỗng suốt ý sâu. Lúc đó có Tăng Duệ khen ngợi nhất, kinh của Thập dịch Duệ đều tham chính. Song Thập lời lẽ rõ ràng nói ra thành chương thần tình thấu suốt hơn người, ứng cơ hiểu rõ mọi thứ, tính Thập nhân hậu thương người khéo dạy dỗ trọn ngày không mỏi mệt. Nam Sơn Luận sư từng hỏi Thiên Nhân Lục Huyền Sướng rằng: kinh Thập sư một đời phiên dịch đến nay như mời người thọ trì càng đông là sao? Đáp rằng: Người ấy thông minh hiểu rõ Đại thừa, các người dưới Ngài cũng đều tài giỏi là báu vật của một đời, từ trước nay chưa ai bằng, nên chỗ dịch của Ngài lấy ngộ đạt làm đầu mà được di ý của Phật. Lại từ dịch kinh đời Phật Tỳ-bà-thi đến nay. Lại nói: Thập sư vị ở Tam hiền, Văn Thù chỉ trao khiến Sư san định. Phật Đà-gia-xá (Buddhayazas) dịch là Giác Minh, người nước Kế Tân, đức hạnh trinh bạch, giới hạnh kiên cố dáng mạo trang nghiêm giỏi năm minh, bốn vi và ba tạng mười hai bộ biện luận không trệ ngại. Năm đầu Hoằng Thỉ đời Diêu Tần đã đến cô tạng. Thập sự sai người đến mời nếu chịu thì vua (Hưng) ban sắc mời lại có tặng phẩm. Ông cười không chịu bảo rằng: Minh chỉ đã xuống ắt phải thuân hành. Đàn việt đãi tôi rất hậu thoát như chỗ thấy của La-thập thì chưa dám nghe lệnh. Lại nhiều lần khuyến dụ đến Trường An. Vua (Hưng?) tự ra đón, riêng lập chỗ ở mới trong vườn Tiêu Diêu bốn sự cúng dường, Ngài đều chẳng nhận, Ngài chỉ đi khất thực mà thôi. Gia-xá râu đỏ, người thời ấy gọi là Tỳ-sa-môn râu đỏ. Y phục đồ dùng do vua (Hưng) cung cấp để cả ba gian nhà không hề quan tâm đến. Vua bán đi mà tạo chùa. Đàm-ma-sấm (Dharmaraksa) hoặc gọi Đàm Vô Thức, dịch là Pháp Phong, người Trung Ấn Độ ngày tụng đọc vạn lời, trước học Tiểu thừa, năm Minh các luận, sau gặp Bạch Đầu Thiền sư dạy cho Đại thừa, mười ngày tranh luận mới ngộ được Đại chỉ. Sấm lại hiểu rõ chú thuật chỗ làm đều rất linh nghiệm. Tây Vức gọi là Đại Thần Chú Sư. Từ Bắc Kinh năm Tự Cừ Huyền Thủy một, Sư đến Cô Tạng, đem kinh Niết-bàn trước phân làm mười quyển đều là giới Bồ-tát, nghỉ ở Truyền Xá chỉ lo kinh mất mà thành bịnh. Đêm có thần nhân kéo Sấm xuống đất. Sấm bảo là trộm như thế đến ba đêm, bèn nghe trên không trung có tiếng bảo; Đây là Tạng Như Lai giải thoát sao lại nằm ra đó. Sấm nghe liền tỉnh dậy đến nằm chỗ cao. Đêm trộm nâng các vật chẳng được. Sáng ra Sấm cầm lấy rất nhẹ nhàng. Trộm cho là Thánh nhân cùng đến lạy lục. Tuân nghe Sấm bèn mời dịch kinh. Phật-đà-tư-na (Buddhasena) dịch là Giác Quần, thiên tài thông minh, tụng hơn nửa ức kệ kinh, hiểu rõ Thiền Pháp. Các nước Tây Vức gọi là Sư tử trong loài người, miệng tụng tiếng Phạm ở Bắc Kinh dịch Kinh. Phù-đà-bạt-ma (Buddhavarman) dịch là Giác Khải, người Tây Vức, chí cao sáng thông ngộ hơn người lại khắp thông ba Tạng, khắp giỏi Tỳ-bà-sa luận thường tụng bộ này dùng làm tâm yếu. Trí mãnh - Người ở Ung châu, bản tính đoan lệ, minh hạnh thanh bạch, ít mặc pháp phục, tu nghiệp chuyên thành, chí độ cao xạ tình sâu Phật pháp đi về Tây Vức tìm dấu linh. Trong năm Bắc kinh Vónh Hòa đi Tây về lo dịch kinh. Đàm-ma-mật-đa (Dharmamitra) dịch là Pháp Tú, người nước Kế Tân, sanh ra có chân mày liền nhau, huệ sáng, thường có Thiên thần ngầm giúp. Khi đến đến nào thần báo mộng trước với vua lúc đi cũng thế. Năm Tống Văn Nguyên Gia ở Kiến nghiệp mà phiên dịch. Cương Lương Gia xá (Kàlayazas), dịch là Thời Xưng, người Tây Vức tính cương trực, ít ham muốn, hiểu rõ ba tạng, rất giỏi Thiền tư, năm Tống Văn Nguyên Gia một ở Chung sơn phiên dịch, Tăng đều gọi là Bút Thọ. Y-diếp-ba-la (Izvara) dịch là Tự Tại, người Tây Vức giỏi thông ba tạng, hiểu suốt bốn hàm. Năm Tống Văn Nguyên Gia ở Bành thành phiên dịch. Trí Nghiêm, người Kinh châu, đạo hóa đều đủ, u hiển điều phục khi chưa xuất gia từng phạm năm giới thọ Tăng cụ rồi nghi mình chẳng giới bèn ngồi thuyền đến Ấn Độ hỏi La-hán cũng chẳng quyết được. Bèn hỏi Di-lặc, Từ Thị đáp rằng: Được nghiêm giới rất tốt. Được kinh bản tiếng Phạm năm Tống Văn Nguyên Gia ở Dương đô mà phiên dịch. Cầu-na-bạt-ma (Gubavarman) Tống gọi là Công Đức Khải, con út của vua Kế Tân, rỗng suốt chín bộ, rộng hiểu bốn hàm, biết rõ luật phẩm, khéo vào thiền ý, đọc kinh hơn trăm vạn lời. Vua Kế Tân chết chúng thỉnh kế vị. Sợ bị giới chướng bèn trốn vào rừng sâu giả dạng thường dân. Hình nghi cảm vật hễ thấy thì phát tâm. Năm Tống Văn Nguyên Gia đến Kiến nghiệp. Vua nói đệ tử thường muốn giữ trai giới Bất sát, chỉ sợ đem thân mà chết theo vật thì không giữ được chí này. Pháp sư dạy phải thế nào? Sư đáp: Phàm đạo ở tâm chẳng ở tại việc, pháp do mình chẳng phải do người, vả lại chỗ tu của vua chúa với thường dân có khác nhau. Kẻ thường dân thì thân danh thấp hèn, lời lẽ không oai vệ nếu chẳng khắc kỹ khổ cung thì lấy gì làm dụng. Vua chúa lấy bốn biển làm nhà xem dân như con nói một lời tốtthì trai gái đều vui, ra một lịnh thiện thì người thần hòa hợp. Cho nên chém cũng không chết, đánh cũng không sức thì khiến mưa gió đúng mùa, nóng lạnh họp tiết, lúa thóc chín vàng dâu mè xanh ngắt. Lấy đó mà trì trai thì trai cũng lớn, như thế mà chẳng giết thì đức cũng nhiều, sao lại thiếu an nửa ngày mà toàn mạng được một chim gà, sau rồi mới là hoằng trai ư? Vua rất vui nói llời Pháp sư nói: Thật là khai ngộ tâm người, làm sáng lý vật nói hết cõi trời người. Sư sao nói năm Tống Nguyên Gia thứ bảy, sư đến Dương châu dịch Thiện giới các kinh, làm duyên đầu cho Tỳ- kheo Ni thọ Cụ túc giới. Sau có tám mươi Ni nước Sư Tử đến thưa: Đất Tống chưa có kinh đã có Ni, sao được hai chúng cùng thọ giới. Ma nói Ni không làm Bản pháp (pháp gốc?) mà được giới được tội, tìm ý Phật chế thì pháp chế ra cho Đại Tăng, chỉ khiến pháp Tăng thành tựu thì tự nhiên được giới. Do đó trước khiến làm Bản pháp, chính là muốn sanh tín tâm làm phương tiện thọ giới. Đến như chỗ được giới thì sanh ra ở lúc Đại Tăng Yết-ma các Ni khổ cầu thì Sư lại chịu bảo rằng: Tốt lắm! Phàm giới Định huệ từ vi đến trước nếu muốn thêm sáng thì sẽ rất tùy hỷ. Lại khiến Ni Tây Vức học tiếng, lại đến Trung Quốc thỉnh Ni khiến đủ mười số, đến năm Nguyên Gia mười thì có Tăng-già-bạt-ma, dịch là Chúng Khải, hiểu luật tạp tâm, đi từ Lưu sa đến Dương châu. Trước Cầu-na hứa với Ni truyền giới lại, nhưng chưa đủ thì mất. Chợt mà Ni nước Sư Tử đến Thiết-sách-la v.v… ba người đến kinh đủ mười số trước, liền thỉnh chúng Khải làm tầy ở trên đàn vì Ni truyền lại. Bảo Vân, chứng quả thứ 2, người ở Tây kinh, xuất gia từ nhỏ tinh cần học rộng, chí vận tinh khiết khó gặp trên đời cầu pháp khẩn thiết chết vì đạo quên mình. Năm Tấn Long An một đi Tây Vức, qua đồng cỏ La-sát-lợi nghe có tiếng trống trời liền lễ bóng dáng Phật Thích-ca học tiếng La-hán, dạo cõi Tây Vức giỏi nói viết tiếng Phạm. Sau về Trường an lại đến Giang tô. Cầu-na-bạt-đà-la (Gunabhadra) dịch là Công Đức Hiền, người Trung Ấn Độ, thuở nhỏ học năm minh bốn vệ đà luận, tính rất minh mẫn, độ lượng rộng. Sau gặp tạp tâm không lường được ngằn mé mới ngộ Phật pháp đáng kính, rộng thông ba tạng thờ thầy hết mực, bỏ tiểu học đại ngộ được u chỉ. Vua Tống mời ở Kỳ-hoàn, Thứ sử Kinh châu là Nam Tiêu Vương Sáng nghĩa Tuyên từng thỉnh Sư giảng kinh Hoa Nghiêm, Bạt-đà tự thẹn chưa giỏi tiếng Tống, sớm chiều lễ sám cầu Quán Thế Âm, bỗng mộng thấy có người áo trắng cầm kiếm gõ một đầu người đến hỏi Đà rằng: Có lo gì? Đà nói ý mình, bèn bảo chẳng nên lo lắm. Rồi lấy kiếm chặt đầu Đà mà đổi cho đầu mới, hỏi đau chăng? Đáp: không đau. Khi tỉnh rồi thì tâm thần vui vẻ do đó đến giảng thì biện luận trôi chảy. Sau Sư trở về Dương Đô. Thủ đế tập hội các vương công, Đế muốn thử tài hùng biện và việc biết ý người. Đế thầy sư đầu bạc trắng mà bảo rằng: Sư ngày nay chớ phụ ý xa đến, từ ngoài biết gì chỉ có một ở (còn). Hiền liền đáp: mộ hóa từ xa đến Thiên tử cho gặp đã hơn ba mươi năm nay tuổi đã 71, chỉ có một chết là còn Đế rất vui. Đàm-vô-yết (Dharmavikrama) dịch là Pháp Võng, cũng gọi là Pháp Thượng, họ Lý, người ở Huỳnh long, thuở nhỏ làm Sa-di riêng tu khổ hạnh trì giới tụng kinh được thầy quí trọng. Từng nghe ngài Pháp Hiển đã đến nước Phật nên khảng khái thề quên mình, năm đầu Võ Đế Vónh, triệu tập người đồng chí như Tăng Mãnh v.v… được hai mươi lăm người cùng dạo Tây Vức hơn hai mươi năm mọi người đều chết chỉ có Yết một mình trở về. Ở nước Kế Tân được kinh Phạm, bèn ở Dương đô mà phiên dịch. Công Đức Trực, người Tây Vức. Đạo Khế đã rộng, khéo dạy dỗ. Năm Tống Đại Minh, Sư đến Kinh châu dịch kinh sửa chính văn nghĩa, lời ý đẹp kín. Sư duỗi tay ra thì phát mùi hương, trong lòng bàn tay nước chảy thật khó lường biết. Đạt-ma-ma-đề (Dharmamati) Dịch là Pháp Ý, người Tây Vức biết vật tình sâu, tùy phương mở dụ. Năm Tề Võ ở Vónh Minh mà dịch phẩm Đề-bà-đạt-đa. Cầu-na-tùy-địa (Gunavrddhi) dịch là Đức Tiến, người Trung Ấn Độ, tụng Đại Tiểu thừa hai mươi vạn lời, Âm Dương Đồ Sấm đều biết rõ, chống tích trượng giới đồ, oai nghi đoan túc. Năm Tề Võ ở Vónh Minh mà phiên dịch. Đam-ma-lưu-chi (Dharmaruci) dịch là Pháp Hy luy, Pháp Lạc người Nam Ấn Độ, riêng lấy luật tạng mà hoằng đạo, cảm vật mà động. Sư dạo đến Ngụy Lạc dương. Bồ-đề Lưu-chi (Bodhi ruci) dịch là Giác Hy, người Bắc Ấn Độ, khắp thông ba tạng giỏi vào Tổng trì, có chí hoằng pháp. Nam Ngụy tuyên Đế sư ở Lạc dương phiên dịch Na-ma-đề (Ratnamati) hoặc gọi Đề-bà, dịch là Báo Ý, người Trung Ấn Độ. Tụng, ức kệ rộng xem là giàu lý sự gồm thông, hiểu rõ Thiền pháp. Vua Ngụy Tuyên Đế thỉnh giảng Hoa Nghiêm lời nghĩa khai ngộ, bỗng ở trên tòa cao mà thấy đại quan tay cầm hốt bảo rằng: Thiên đế mời sư giảng Hoa Nghiêm. Ý thưa nay cuộc giảng chưa hết, kinh hết sẽ theo. Song pháp chẳng nhồ đô giảng hương lửa, Duy-na-phạm bái thỉnh cũng nhất định. Sứ theo lời thỉnh lúc liễu kiến sẽ đến đón, quả nhiên cùng với đô giảng năm người đều chết ở tòa, đạo tục đều thấy. Mạn-đà-la (Maưdra) dịch là Nhược Thịnh hay Hoằng Nhược, người nước Phù Nam, hiểu biết sức thần thấy rõ sáng tối, không sơ di hiểm chí thích hoằng hóa. Năm Lương Võ ở Dương Đô mà phiên dịch. Ba-la-mạt-đà (Paramàrtha) dịch là Chân Đế, cũng gọi Câu-na- la-đà, dịch là Thân ý, người nước Ưu Thiền Ni thuộc Tây Ấn. Hạnh lắng sáng, người thanh túc thần sáng, chí xa, ràng buộc tạng bộ, nghệ thuật biết lạ đều rành. Năm Lương Võ, vua Tần thỉnh ở điện bảo Vân dịch kinh. Có loạn bèn đến Dự chương bắt đầu hưng thạnh ở Nam khang. Lại lo việc dịch không nối tiếp, bèn ngồi thuyền về Tây, gió thổi trôi giạt về Quảng châu ở chùa Chế Chỉ mà phiên dịch, lúc cuối Trần đầu Trần dịch được năm mươi bộ. Xà-na-quật-đa (Jóànagupta) dịch là Chí Đức, người Bắc Ấn Độ thuộc dòng Sát-đế-lợi. Đi du hóa đến nơi này. Năm Chu Võ Đế dịch Phổ Môn Trùng Tụng. Đạt-ma-cấp-đa (Dharmagupta). Tùy gọi là Pháp Mật, người nước Nam Hiền Đậu. Năm Khai Hoàng mười, đến Qua châu. Vua Văn Đế đón vào Kinh tự, nghĩa lý sửa đúng ý kinh. Sư rất từ thứ, lập thân, cung hòa tâm không ngoại đạo. Đất Địa công bằng mà yên tónh, nước Định sâu kín mà sạch sẽ. Kinh biết gốc chữ, luận rõ ý tiếng. Dung nghi cao chính rất siêng năng, tụng kinh từ sáng đến tối, lời pháp thông trong ngoài ăn ở giản dị ít ham muốn mà dạy dỗ người thì không lười mỏi. Khi Dạng đế định Đảnh ở Đông Đô thì mời sư ở phiên dịch quán. Ba-la-phả-ca-la (Prabhàkara) Đường gọi là Minh Tri Thức hoặc gọi Ba-phả, dịch là Trí Quang, người Trung Ấn Độ, dòng Sát-đế-lợi, thông minh hiểu rõ nội ngoại điển, biết rành đại tiểu, thề truyền pháp hóa không sợ gian nguy, xa đến thông hà, năm Trinh Quán ở đây Huyền Trang, người Hà nam Lạc dương, họ Trần là hậu duệ của Trần Trọng Cung. (Nói về Huyền Trang lời lẽ rắc rối không dịch được. Nhờ vị chứng nghĩa giúp dùm gồm 11x17 = 192 chữ). Già-phạm-đạt-ma (Bhagavaddharma). Trí Thăng Tục dịch kinh Đồ Kỷ nói: Đường gọi là Tôn Pháp, người Tây Ấn Độ, dịch kinh Đại Bi. A-địa-cù-đa (Atigupta), Đường gọi là Vô Cực Cao, người Trung Ấn Độ, học rộng, hạnh cao khiết, biết năm minh hiểu ba tạng. Năm thiên Hoàng Vónh Huy ở Trường An mà phiên dịch. Na-đề (Nadi) Đường gọi là Phước Sanh, gọi đủ tiếng Phạm là Bố-như-yên-phạt-gia, dây gọi tắt là Na-đề, người Trung Ấn Độ, ở chùa Từ Ân mà phiên dịch. Địa-bà-a-la (Divàkara) Đường dịch là Nhật chiếu, người Trung Ấn Độ, hiểu rõ tám tạng, bốn hàm, giới hạnh thanh cao học giỏi, rành chú thuật, biết năm minh, chí muốn lợi sanh đến dịch ở Hoằng phước. Phật Đà-đa-la (Buddhatràta) Đường gọi là Giác Cứu người nước Kế Tân, ở chùa Bạch Mã dịch kinh Viên Giác. Phật Đa-ba-lợi (Buddhapàla) Đường gọi là Giá Hộ, người nước Kế Tân, quên mình chết vì đạo khắp dạo xem Linh tích. Nghe Văn Thù ở núi Thanh lương xa đến Lưu sa đích thân lễ lạy yết kiến. Năm Thiên Hoàng Nghi Phụng một, chống gậy đến Ngũ Đài đảnh lễ Thánh Dung thì thấy một cụ già từ núi đi ra nói tiếng Bà-la-môn bảo Ba-lợi rằng: Cầu gì? Ba-lợi đáp: Nghe nói Văn Thù ẩn trong núi đến muốn chiêm lễ. Cụ già hỏi: Sư có đem Phật Đảnh Tôn Thắng Đà-la-ni kinh đến chăng? chúng sinh cõi này tạo nhiều tội lỗi, chú Phật Đảnh là bí phương trừ tội lỗi, nếu chẳng đem kinh đến cũng vô ích đều thấy Văn Thù làm sao biết được. Nên trở về Tây Vức lấy kinh truyền đến đây, đệ tử sẽ thấy Văn Thù ở đây. Ba-lợi đảnh lễ ngước đầu lên thì không thấy cụ già. Bèn trở về nước lấy được kinh đem đến, bèn làm cáo trạng tấu lên vua, bèn khiến Đổ Hành Khải và Nhật Chiếu Tam Tạng ở trong cung cùng dịch, kinh để lại trong cung. Ba-lợi khóc lóc chí muốn lợi người xin đem lưu hành vua thương chuyên chí bèn giữ lại bản dịch, trả lại bản tiếng Phạm. Ba-lợi đem về Tây Minh và Tăng Thuận trinh cùng dịch Phật Đảnh Tôn Thắng Đà-la-ni kinh, Ý nguyện đã xong, bèn đem bản kinh tiếng Phạm vào núi Ngũ Đài ở đó đến nay không ra. Thật-xoa-nan-đà (Sikwànaưda) dịch là Học Hỷ, người nước Vu Điền trí độ rộng lớn có tâm độ vật, giỏi Đại Tiểu thừa gồm các Dị học, Hoàng hậu mở mang Phật pháp kính trọng Đại thừa. Vì kinh Củ Hoa Nghiêm chỗ hiểu chưa đủ, xa nghe nước Vu Điền có bản kinh tiếng Phạm này nên sai Sứ đến thỉnh. Thật Xoa và kinh cùng đến bàn ở Lạc dương dịch lại. nghĩa Tịnh, người Tề châu, họ Trương, tên Văn Minh. Tuổi nhỏ chữ nghĩa đã giỏi, lại học hỏi các bậc tái cao, rộng hiểu các sách trong ngoài, kim cổ khắp biết. Năm mười lăm tuổi chí muốn dạo Tây Vức, khắp học Đại Tiểu thừa. Việc xong liền trở về quê cũ, phàm du lịch trải qua hơn ba mươi nước, tới lui hỏi Đạo hơn hai mươi năm. Năm Hoàng hậu mất ở Hà lạc mà phiên dịch. Đạt-ma Lưu-chi (Dharma ruci) Đường gọi là Pháp Hy, năm Thiên Hậu (Hoàng hậu) đổi làm Bồ-đề Lưu-chí, Đường gọi là Giác Ái, người Nam Ấn Độ, dòng Bà-la-môn, họ Ca-diếp thông duệ tuyệt luân phong thần sảng dị (thông minh thần trí sáng lạ), mười hai tuổi xuất gia với ngoại đạo. Tự gọi là Cô Hạnh, trêu chọc Tăng nghị luận để nuôi thân. Lúc đó có Gia-xá-cù-sa biết căn ông đã thục bèn cùng tranh luận, chưa vượt cơ quan, từ lý đều khuất phục, mới biết mặt trời Phật sáng lòa không thể đem đèn quỳnh mà sánh được. Biển pháp sâu rộng há đem giọt nước mà so bì bèn cung kính chuyên học Phật thừa chưa quá năm năm thì làu thông ba tạng. Vua xa nghe liền sai sứ đến mời. Sứ chưa kịp về thì mây trắng đã theo kịp. Khi Hoàng (thiên) hậu mất thì đến kinh phiên dịch. Đến khi Hòa Đế Long Hưng thì dịch kinh Bảo Tích, kinh này ngài Huyền Trang xưa dịch được mấy hàng bèn than quần sanh cõi này chưa có cơ duyên mà khí lực tôi lại suy kiệt nhân đó mà bỏ ngang Hòa Đế sai tiếp nối công trang bèn dịch để đời. Bát-thích-mật-đế (Paramiti). Đương gọi là Cực Lượng, người Trung Ấn Độ, ôm phương Đạo quán tùy duyên cứu độ, đi du hóa dần đến Trung Quốc, bèn ở Quảng châu chế chỉ đạo tràng, dịch kinh Thủ Lăng Nghiêm từ Hán đến Đường, phiên dịch Nho Thích đến hai trăm chín mươi hai người. Nay lược nêu người dịch kinh hiện hành. Nếu muốn đầy đủ nên xem Tân Cựu Dịch Kinh Đồ Kỷ. Thích-ca-di-đa-la (Sàkyamitra) dịch là Năng Chi người nước Sư Tử, Trường Thọ Sa-môn là Thánh nhân chứng quả thứ ba. Vua Đường Cao tông rất kính trọng. Di-già Thích-ca (Maghazekha). Thuyết Đế nói Thích-ca là sai, gọi đúng là Thước-khư dịch là Vân Phong. Duệ nói: Dịch là Năng Hàng Phục. <詞>BẢY CHÚNG ĐỆ TỬ. Đại Luận nói: Bảy chúng đệ tử Phật: Một là Tỳ-kheo, hai là Tỳ- kheo Ni, ba là Học giới Ni, bốn là Sa-di, năm là Sa-di Ni, sáu là Ưu- bà-tắc, bảy là Ưu-bà-di. Song trong các kinh nêu bốn chúng, từ xưa đều dùng là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo Ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di Thiên Thai bèn lập phát khởi đương cơ, ảnh hưởng, kết duyên làm bốn chúng. Đây thì bảy chúng tuy khác, bốn chúng đều thông, 7x4 thành 28 chúng (?). Thất-sái (Siwya) xưa dịch là đệ tử, mới dịch là sở giáo. Nam Sơn nói: Học sau ta gọi là đệ, hiểu từ Thầy sanh gọi là tử. Thiên thai nói: Thầy có khả năng giúp thành người tài (tượng). Người học đủ đức Tư bẩm, Tư thì bỏ cha theo Thầy, kính Thấy như cha. Ta cũng xử sự như em. Luật nói Hòa thượng đối với đệ tử sẽ nghi là con, đệ tử đối với Hòa thượng nghó như cha mình. Tư Mã Bưu nói con của đồ đệ gọi là môn đồ đệ tử. Lão tử nói: Người thiện là thầy kẻ bất thiện, kẻ bất thiện là học trò (tư?) của người thiện. Nam Sơn nói: Phật pháp Tăng rộng lớn báu do Sư Tư nhiếp nhau, cùng nhau đôn ngộn, tài pháp giúp nhau, ngày càng lợi ích nghiệp càng sâu, làm lâu đức bền chắc đều nhờ đây vậy. So chân giáo lăng trì, huệ phong yểm phiến, tục ôm khinh khi đạo sanh phi pháp, đều do Thầy không có tâm dạy dỗ dẫn dắt, học trò thì thiếu chí kính thờ, hai bên bỏ nhau vọng trôi trong cảnh bỉ, muốn khiến đạo sáng sao được. Tỳ-kheo (Bhikwuịì). Đại Luận nói: Tỳ-kheo gọi là Khất só, vì thanh tịnh nuôi mạng sống. Lại Tỳ là phá, Kheo là phiền não, vì hay phá trừ phiền não. Lại Tỳ là bố, Kheo là năng, tức hay làm sợ Ma vương và Ma dân. Tịnh Danh Sớ nói hoặc nói có dịch hoặc nói không dịch. Nói có dịch là, dịch là trừ cẩn (trừ đói) chúng sanh bạc phước ở nhân không pháp tự giúp (tư) được báo, nên có nhiều thiếu đói. Xuất gia giữ giới hạnh là phước điền tốt hay sanh các vật thiện là trừ nhân quả đói kém. Nói không dịch là đều gồm ba nghĩa Trí Luận nói: Một là Phá ác, hai là Bố ma, ba là Khất só. - Một là Phá ác như từ đầu được giới tức gọi Tỳ-kheo do ba Yết-ma phát thiện luật nghi, phá ác luật nghi, nên nói là phá ác. Nếu thông ở hạnh giải, giới phòng hình phi, định trừ tâm loạn, tuệ ngộ tưởng hư hay phá ác của kiến tư nên gọi là phá ác. - Hai là Bố ma đã hay phá ác thì ma là nghó rằng người này không phải chỉ đuổi ta ra khỏi cõi nước, nếu có truyền đăng thì lại dạy quyến thuộc ta khiến trống hết cung điện ta, do đó mà sợ hãi. Nói chung ba ma cũng sợ. - Ba là Khất só, khất là xin, só là người xuất gia thanh nhã, trong tu đức thanh nhã ắt phải xa lìa bốn tà, tịnh mạng tự ở phước lợi chúng sinh, phá tâm kiêu mạn mà khiêm nhường tự ti cầu xin nuôi thân để thành đức thanh nhã, nên gọi là Khất só; Lại nói đầy đủ ba nghĩa: Một là Sát-tặc, từ phá ác mà được tên. Hai là Bất sanh, từ bố mà mà được tên. Ba là Ứng cúng nhân khất só mà thành đức. Niết-bàn nói có bốn thứ Tỳ-kheo: Một là Cứu cánh đạo (vô học). Hai là Thị đạo (hai, ba quả). Ba là Thọ đạo (chung cả nội ngoại phàm). Bốn là Ô đạo là người phạm bốn trọng tội. Thiện Kiến luận nói: Thiện Lai được giới, ba y và bát sành đặt ngang mày. Sắc bát như sắc xanh của hoa Ưất-bát-la, ca sa tươi sáng như hoa sen đỏ, kim chỉ búa túi lọc đều đầy đủ. Tỳ-kheo Ni (bhikwuịi) Thiện Kiến nói: Ni là nữ. Văn Cú nói gọi chung các nữ là Ni. Trí Độ luận nói: Ni được vô lượng luật nghi nên ở sau Tỳ-kheo. Phật dùng nghi pháp bất tiện nên đứng sau Sa-môn. Tỳ- kheo Ni A-di-sư-di. Có người nói vì Ni Ái Đạo là dì của Phật nên gọi A-di. Nay mới biết tiếng Phạm gọi A-lê-di, đây dịch là Tôn giả, hoặc dịch là Thánh giả. Nay nói A-di là gọi tắt, Tăng Kỳ nói: A-lê-da Tăng thính là đó. Sự Sao Ni Chúng Thiên nói: Thiện Kiến nói lúc đầu Phật chẳng độ người nữ xuất gia vì làm diệt chính pháp năm trăm năm. Sau vì nói Bát Kỉnh mà cho xuất gia, y giáo mà làm thì lại được một ngàn năm. Thời nay không theo nên tùy chỗ mà pháp diệt. Hội chính Ký nói: Sau khi Phật thành đạo mười bốn năm, Di mẫu xin xuất gia Phật không cho. A-nan xin cho đến ba lần, Phật liền khiến Khánh Hỷ truyền cho tám kỉnh nếu làm được thì mới cho xuất gia, thì đều thưa xin tuân hành. Tám kỉnh là: Một là Tỳ-kheo Ni một trăm tuổi thấy người mới thọ giới Tỳ-kheo phải đứng dậy đón tiếp đảnh lễ hỏi thăm mời ngồi. Hai là Tỳ-kheo Ni không được chê mắng Tỳ-kheo. Ba là không được nêu kể tội của Tỳ-kheo, nhưng Tỳ-kheo được nói tội lỗi của Tỳ-kheo Ni. Bốn là Thức-xoa-ma-na đã học giới, phải từ chúng Tăng mà xin thọ đại giới. Năm là Ni phạm Tăng tàng, phải nửa tháng ở trước hai bộ Tăng làm Ma-na-đỏa. Sáu là trong nửa tháng, Ni phải ở trong Tăng mà cầu người giáo thọ. Bảy là không nên ở chỗ không có Tỳ-kheo mà kiết hạ an cư. Tám là hạ xong phải đến chỗ Tỳ-kheo mà cầu người Tự tứ. Như tám pháp trên phải tôn trong cung kính khen ngợi suốt đời không trái. Nay thuật tụng rằng: Lễ lạy chẳng mắng chê, nêu lỗi, từ Tăng thọ giới làm Ma-na, nửa tháng trong Tăng cầu giáo thọ, an cư gần Tăng thỉnh Tự Tứ. Thức-xoa-ma-na (Siksamànà) dịch là Học pháp nữ, bốn phân mười tám đồng nữ phải hai năm họi giới. Lại nói: Tuổi nhỏ gả chồng năm mười tuổi cùng sáu pháp trong mười tụng. Sáu pháp luyện tâm, giỏi giữ sáu pháp giới cho thọ Cụ. Hai năm luyện thân, có thể biết thai mà không thai. Sự sao nói Thức-xoa-ni học đủ ba pháp: Một là học căn bản tức là Tứ trọng. Hai là học sáu pháp tức là Yết-ma, chỗ gọi tâm nhiễm chạm nhau trộm người bốn tiền, đoạn dứt mạng súc sanh, nói dối nhỏ, ăn phi thời uống rượu. Ba là học hành pháp nghĩa là tất cả giới hạnh của Đại Ni đều phải học. Nếu trong khi học pháp mà phạm thì liền cùng hai năm yết-ma. Tăng Kỳ nói: Ở dưới Đại Ni mà đứng trên Sa-di Ni. Nay thuật tụng rằng: Nhiễm tâm chạm nhau, trộm bốn tiền dứt mạng súc sanh, nói dối nhỏ, cấm ăn phi thời và uống rượu, đó là Thức-xoa học sáu pháp. Sa-di (Sràmanera). Nam Sơn Sa-di Biệt Hạnh nói: Dịch là Tức Từ, nghĩa là dứt tình nhiễm ở đời mà dùng từ cứu quần sanh. Lại nói người mới vào Phật pháp còn nhiều tịnh tục, phải dứt ác làm từ. Âm nghĩa nói hai chữ Sa-di; xưa gọi tắt là sai. Đường Tam Tạng gọi Thất- lợi-ma-noa-lộ-ca, dịch là Cần Sách Nam Ký Qui Truyện nói: Thọ mười giới rồi gọi là Thất-la mười ba tuổi, đều gọi là khu ô Sa-di, từ mười bốn đến mười chín tuổi gọi là Ứng pháp Sa-di, từ hai mươi trở đi đều gọi là Danh từ Sa-di. Sa-di-ni (Sràmanerikà) Trang Tam Tạng gọi là Thất-lợi-ma- noa-lý-ca, dịch là Cần Sách Nữ. Ưu-bà-tắc (Upàsaka). Ưu-bà-di (Upàsikà). Triệu nói nghĩa gọi là Tín só nam, Tín só nữ. Tịnh Danh sớ nói: Dịch là Thanh tịnh só, Thanh tịnh nữ, cũng gọi là Thiện túc nam, Thiện túc nữ. Tuy ở nhà giữ năm giới nhưng nam nữ không cùng ngủ chung, nên gọi là Thiện túc, đây chưa thể dùng nhất định. Kinh Khê nói: Y các kinh văn khác chỉ nói là gần Phật mà được tên Thiện túc, chẳng có định nam nữ chẳng ngủ chung. Sớ Niết-bàn nói: Một ngày một đêm thọ tám giới gọi là Thiện túc. Ưu-bà-tắc Tây Vức Ký gọi là Ổ-ba-sách-ca, Đường gọi là Cận sự nam, xưa gọi là Y Bồ-tát lại gọi Ưu-bà-tắc. Ổ-ba-tư-ca, Đường gọi là Cận sự nữ, xưa gọi Ưu-ba-tư lại gọi Ưu-bà-di. Nói cận sự, là gần gũi hầu hạ phụngsự Phật pháp. Hậu Hán Thư gọi là Y Bồ-tát, tức Ưu-bà-tắc vậy. Trung Hoa dịch là Cận trụ là nói người thọ giới có thể gần gũi chỗ Tăng ở hoặc gọi là Đàn-na. Yếu lãm nói tiếng Phạm là Đà-na-bát-để. Đường gọi là Thí chủ, nay gọi là Đàn-na (lầm Đà thành Đàn) mà bỏ Bát-để giữ lại chữ Na. Tư Đại Thừa Luận nói: Hay phá tham tiếc ganh ghét và khổ bần cùng hạ tiện nên gọi là Đà (Đàn), sau được giàu lớn và phước đức đầy đủ nên gọi là Na. Lại gọi là Đàn việt. Đàn tức là Thí, tức người này làm việc bố thí vượt khỏi biển bần cùng. <詞>CÁC TÊN DÒNG HỌ THÍCH Người xưa xuất gia từ Thầy mà được họ. Như Bạch Pháp Tổ, Trúc Đạo Sanh v.v… Đời Đông Tấn, An Pháp sư thọ nghiệp (học) với Phật Đồ Trừng bèn bảo Thầy không hơn Phật mà tự gọi là họ Thích. Sau Tăng Nhất A-hàm lưu truyền đến đất này, kinh nói Phật bảo các Tỳ- kheo có bốn họ xuất gia, không lấy họ cũ chỉ nói Sa-môn Thích Tử. Vì sao như thế sanh do ta sanh, thành do pháp thành, cũng như bốn sông lớn đều phát nguồn từ suối A-nục. Lại Sa-di-tắc nói: Tỳ-kheo các ông do nhiều loại người mà xuất gia, nên bỏ họ cũ mà xưng là Thích Tử Sa- môn (Sa-môn con họ Thích). Lại Trường A-hàm nói đệ tử của Di-lặc đều Từ Tử tự chẳng phải Đại quyền ứng tích há có thể lập họ cùng kinh phù hợp, cho nên Thiên thần xưng là Ấn Thủ Bồ-tát. Song Tịnh Danh nói: Phàm người xuất gia là pháp vô vi. Thiên thai giải thích rằng: Nếu thấy Phật tính ra khỏi nhà hai chết mới là chân xuất gia, nên đủ bốn câu: Một là hình tâm đều chẳng ra, hai là hình ra mà tâm không ra, ba là hình chẳng ra mà tâm ra, bốn là hình tâm đều ra tức là quán hạnh xuất gia. Nên Nam Sơn nói người chân thành xuất gia rất sợ nhiều khổ bốn oán, chán vô thường ở ba cõi, từ giả sáu thân thân mến, bỏ năm dục nặng sâu, người hay như thế gọi là Chân xuất gia thì có thể nối thạnh Tam bảo độ thoát bốn loài lợi ích sâu xa công đức vô lượng các dòng họ đó nay sẽ phiên dịch. Tăng-già (Saưgha). Đại Luận và Tần gọi là chúng, tức có nhiều Tỳ-kheo ở một chỗ hòa hợp nên gọi Tăng già. Ví như nhiều cây Đại thọ gọi là rừng. Tịnh Danh Sớ nói: Luật gọi bốn người trở lên đều là chúng. Luật Sao nói: đây gọi là Chúng hòa hợp. Hòa hợp có hai nghĩa: Một là Lý hòa nghĩa là đồng chứng trạch diệt. Hai là Sự hòa, riêng có sáu nghĩa: Một là Kiến hòa đồng tu, Kiến hòa đồng giải, Thân hòa đồng trụ, Lợi hòa đồng quân, Khẩu hòa vô tránh, Ý hòa đồng duyệt. Thập Sư nói: Muốn khiến chúng hòa cần phải do sáu pháp: một là dùng từ tâm khởi thân nghiệp, hai là dùng từ tâm khởi khẩu nghiệp, ba là dùng từ tâm khởi ý nghiệp, bốn là ở trong giờ ăn nên bớt cơm trong bát mà cúng dường Thượng tọa một người Hạ tọa một người, năm là trì giới thanh tịnh, sáu là lậu tận trí tuệ. Triệu nói nếu không phải người chân tâm thì không đủ sáu pháp, không có sáu pháp này thì không lấy đâu để hòa các chúng, nếu chúng chẳng hòa thì không phải là đạo kính thuận. Lại Tăng gọi là Lương phước điền (ruộng phước tốt). Kinh Báo Ân nói chúng Tăng là phước điền ra ba cõi, nghĩa là Tỳ-kheo đủ các giới thể, giới là cội gốc của muôn Thiện thế nên người đời qui tín cúng dường, gieo trồng phước như tưới tẩm ruộng tốt khiến mầm mống sanh ra nên gọi là Lương phước điền. Đại Luận nói: Có bốn thứ Tăng: Một là Tăng biết xấu hổ, giữ giới chẳng phá, thân khẩu thanh tịnh hay phân biệt tốt xấu chưa được đạo. Hai là Tăng không biết xấu hổ phá giới, thân khẩu ý chẳng tịnh, không ác nào chẳng làm. Ba là Tăng dê câm, tuy chẳng phá giới, nhưng căn độn không huệ, chẳng phân biệt tốt xấu, chẳng biết khinh trọng, chẳng biết có tội hay không tội nếu có việc Tăng hai người cùng tranh nhau thì không quyết đoán phân xử, làm thinh không nói, như dê trắng bị người giết không thể lên tiếng. Bốn là Thật Tăng: Học hay vô học trụ trong bốn quả làm (hạnh?) bốn hướng đạo, đó gọi là Thật Tăng. Vua Đường Thái Tông từng hỏi Huyền Trang Tam Tạng muốn gieo trồng công đức việc gì có lợi ích nhất? Pháp sư nói: chúng sinh mê lầm không phải Huệ thì chẳng mở được, kéo trồng mầm huệ, pháp là của giúp (?). Hoằng pháp do người, tức độ Tăng là hơn hết. Sa-môn (Sraman) hoặc gọi Tang-môn hoặc Sacaman nẳng đều sai. Gọi đúng là Thất-ma-na-noa hoặc Xá-la-ma-noa, dịch là công lao, là nói tu đạo có nhiều công. Thập Sư nói: Phật pháp và ngoại đạo phàm xuất gia đều gọi là Sa-môn Triệu nói: Xuất gia đều gọi tên ấy. Tần nói: nghĩa dạy siêng năng, siêng năng lấy Niết-bàn - kinh A-hàm nói xa lìa ân ái, xuất gia tu đạo, nhiếp giữ các căn, chẳng nhiễm dục ngoài, Từ tâm với tất cả không hề giết hại, gặp vui chẳng mừng, gặp khổ chẳng lo, nhẫn nhục như đất, nên gọi Sa-môn. Hậu Hán Thư Giao Tự Chí nói: Sa-môn, Hán gọi là Tức tâm, tức cạo tóc bỏ nhà dứt tình bỏ dục mà trở về với vô vi. Thụy Ứng nói dứt tâm thấu nguồn gốc nên gọi là Sa-môn. Hoặc nói gọi đủ là Sa-môn na, dịch là phiếm đạo vì làm ruộng phước tốt nên làm dứt thiếu đói của chúng sinh vì tu tám chính đạo nên hay dứt tất cả tà đạo cho nên Ca-diếp phẩm nói: Sa-môn na tức tám chính đạo. Sa-môn quả, là từ Đạo rộng rãi mà dứt hẳn tham sân si v.v… Đời gọi Sa-môn là thiếu, na là Đạo, như thế là Đạo đoạn dứt tất cả thiếu thốn, đoạn dứt tất cả tà đạo, vì nghĩa đó nên gọi là tám chính đạo, là Sa-môn na là từ trong đạo ấy mà đạt quả, nên gọi Sa-môn quả. Hoặc vì Sa-môn dịch là Cần Tức. Thùy Dụ Ký nói: nghĩa là siêng làm các thiện, dứt hết các ác, dứt ác giới nội là tạng thông Sa-môn; thứ lớp dứt ác nội ngoại giới, riêng dạy Sa-môn một tâm riêng dứt hết các ác nội ngoại là viên dung Sa-môn. Luận Du già nói có bốn thứ Sa-môn: Một là Thắng đạo Sa-môn tức là Phật v.v…. hai là Thuyết đạo Sa-môn tức là người nói chính pháp, ba là Hoạt đạo Sa-môn tức là người tu các Thiện phẩm, bốn là Ô đạo Sa-môn tức là người làm hạnh tà. Bí-sô (Bhiswu). Thầy xưa nói gồm năm nghĩa: Một là thể tính dịu dàng, dụ người xuất gia chiết phục được sự thô dữ của Thân ngữ. Hai là Dẫn Mạn-bàn-bố dụ cho người khác xuất gia truyền pháp độ người mãi mãi chẳng dứt. Ba là hương thơm tỏa xa dụ cho người xuất gia giới đức thơm phức được chúng nghe theo (danh). Bốn hay trị hết bịnh đau, dụ cho người xuất gia hay dứt hết độc hại của phiền não. Năm là chẳng trái ánh sáng mặt trời, dụ cho người xuất gia luôn hướng về mặt trời Phật. Trí Luận nói: Người xuất gia tu nhiều trí tuệ trí tuệ là nhân duyên của giải thoát. Người tục phần nhiều tu phước đức, phước đức là nhân duyên của vui. Tăng Kỳ nói cúng dường xá-lợi, tạo tháp chùa không phải là việc của chúng ta. Cư só và vua nước ấy người ưa phước tự sẽ cúng dường. Việc của Tỳ-kheo là kết tập ba tạng khiến Phật pháp không mau diệt. Hòa thượng (Upàdhyàya) hoặc Hòa-xà - Yết-ma Sớ nói: Từ xưa dịch phần nhiều xen lẫn tiếng Phiên Hồ, Hồ truyền tiếng trời chẳng được tiếng thật, cho nên có sai lầm. Truyện nói: Hòa thượng chính tiếng Phạm gọi là Ổ-ba-giá-ca, truyền đến nước Vu Điền dịch là Hòa thượng mà truyền đến đất này. Thập Sư dịch là Lực Sanh. Kinh Xá-lợi-phất vấn nói: Phàm người xuất gia bỏ nhà cha mẹ sanh tử, vào trong pháp môn học pháp vi diệu. Bởi sức của thầy sanh trưởng pháp thân sanh ra công đức tài, nuôi dưỡng mạng sống trí tuệ công chẳng gì lớn hơn. Lại Hòa thượng cũng dịch là Cận tụng, vì đệ tử tuổi nhỏ chẳng nên lìa thầy nên luôn gần gũi nhận kinh mà tụng. Thiện Kiến nói: Hòa thượng là tiếng ngoại quốc. Hán gọi là biết có tội biết không tội nghĩa Tịnh gọi là Ổ-ba-đà-gia, dịch là Thân giáo sư do hay dạy nghiệp xuất thế. Nên Hòa thượng có hai thứ: một là Thân giáo tức thọ nghiệp (theo học), hai là y chỉ tức bẩm học - Tỳ-nại-gia nói đệ tử học trò khi mới thấy thầy liền phải đứng dậy, nếu thấy thân giáo liền liền phải đứng lên (bỏ y chỉ?). Xà-lê (Àcàrya) hoặc gọi Kỳ-lợi. Ký Qui Truyện nói: Tiếng phạm là A-giá-lê-da, đường gọi là chấp phạm, nay gọi Xà-lê là sai. Bồ-đề Tư Lương Luận nói: A-giá-lê-dạ, tùy gọi là chính hạnh. Nam Sơn Sao nói: Hay nhóm họp chính hạnh đệ tử. Tứ phần luật nói: Thứ A-xà-lê: Một là xuất gia A-xà-thế, là chỗ nương cho người xuất gia. Hai là thọ giới A- xà-lê, là người làm Yết-ma thọ giới. Ba là giao thọ A-xa-lê, là giáo thọ (dạy về) oai nghi. Bốn là thọ kinh A-xà-lê là chỗ theo học kinh hoặc nói nghĩa, cho đến bốn câu kệ. Năm là y chỉ A-xà-lê, cho đến ngủ nhờ một đêm, Hòa thượng và y chỉ nhiều từ mười hạ trở lên, bốn thầy trên đều từ năm hạ trở lên. Đầu-đà (dhùta), mới gọi là Đổ-đa, dịch là đẩu tẩu, cũng gọi là Tu trị, cũng gọi Đào thải. Thùy Dụ Ký nói: Đẩu tẩu (phấn chấn) phiền não vậy. Thiện Trụ Ý Thiên Tử Kinh nói: Đầu Đà là đẩu tẩu (phấn chân) tham dục sân nhuế ngu si, sáu nhập trong ngoài ba cõi, nếu chẳng lấy chẳng bỏ, chẳng tu chẳng chấp trước, ta noi người ấy gọi là Đổ Đa, nay gọi lần là Đầu Đà. Đại phẩm nói: Tu-bồ-đề nói pháp nhận mười hai đầu đà: một là làm A-xà-lê, hai là thường khất thực, ba là nạp y, bốn là ăn một buổi, năm là điều tiết lượng ăn, sáu là sau giờ ngọ không uống tương (nước quả), bảy là ở chỗ gò mã, tám là ở dưới gốc cây, chín là ở bên đường, mười là thường ngồi không nằm, mười một là thứ lớp khất thực, mười hai chỉ có ba y, Đại Luận sáu mươi bảy nói mười hai đầu đà chẳng gọi là giới, chẳng bay làm thì giới trang nghiêm, chẳng hay làm thì không phạm giới. Song luận chỉ y kinh thứ lớp rộng giải thích chẳng phân bộ vị. Các văn dẫn dụng có nhiều lầm lẫn. Cho nên đây nêu ra. Nam Sơn Luật Sao, vị phân làm bốn, bốn hai một là nạp y, hai là chỉ có ba y. Ăn có bốn: một là khất thực, hai là chẳng làm pháp ăn khác, ba là một ngồi, bốn là một súy. Chỗ có năm: Một là Lan-nhã, hai là nghĩa địa, ba là dưới gốc cây, bốn là ngồi bên đường, năm là tùy chỗ ngồi, sáu là luôn ngồi không nằm. Đây là không có khất thực theo thứ tự chỗ thêm thì tùy ngồi. Thông Nguyên Ký dẫn Nam Sơn nói: Cuối đời Phật pháp kính chuộng quan vinh người cầu may vọng sanh bằng dực. Nhiều người nhân lời nói này tự tỉnh thân mình. Đến như điều lợi dưỡng như sợi lông, thấy chu môn như cửa cỏ. Bà-đàn-đà (Bhadaưta) Tần gọi là Đại đức. Tỳ-nại-gia Luật nói: Phật bảo từ nay về sau Tiểu Hạ Bí Xô, nơi tá túc lâu dài (với bậc trưởng túc?) gọi là đại đức. Thể-tỳ-phú (?), dịch là Lão Túc - Tha-tỳ-lợi gọi là Túc Đức. Tất-thế-na (Sthavira) dịch là Thượng tọa. Ngũ Phật luật nói: Bảo trên không có người nên gọi là Thượng tọa. Đạo Minh được vua sắc làm Tây Minh Tự Thượng tọa, là nêu ra trên cả Duy-na chủ chùa. Tỳ-ni mẫu nói: từ không Hạ đến chín Hạ là Hạ tọa, từ mười hạ đến mười chín Hạ là Trung tọa, từ 20 hạ đến bốn mươi hạ là Thượng tọa, từ năm mươi hạ trở lên tất cả Sa-môn đều tôn kính gọi là Kỳ Túc - Tỳ-bà-sa Luận nói: Có ba thứ Thượng tọa: một là sanh niên Thượng tọa, tức là bậc Tôn trưởng, đủ giới xưa gọi là Chân sanh. Hai là Thế Tục Thượng tọa, tức là biết pháp giàu sang nhiều tiền vị ca, dòng họ lớn, thế lực lớn, bà con lớn, tuy tuổi mới hai mươi nhưng đều hòa hợp suy tôn là Thượng tọa. Ba là pháp tính Thượng tọa, tức là A-la-hán. Luận nói Bình Sa Vương xưng là đệ tử Phật, là Thượng Nhân. Kinh Đại Phẩm nói Phật bảo: Nếu Bồ-tát một lòng làm A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề, tâm không tán loạn thì gọi là Thượng nhân. Luận Du già nói: Không tự lợi lợi tha mà làm thì gọi là Hạ só, có tự lợi mà không lợi tha thì gọi là Trung só, có cả hai lợi thì gọi là Thượng só. Ma-ma-đế hoặc gọi Tỳ-ha-ra-sa-nhị (Vihàrasvàmin) dịch là chủa chùa (tự chủ). Tăng Sử Lược nói: Nên biết tự chủ đã có chỗ người ắt làm chủ, lúc đó tùy không có tên chủ chùa mà có người làm việc ấy. Từ Đông Tấn đến nay, chức này càng nhiều. Cho nên Lương Võ Đế tạo chùa Quang Trạch mời Pháp vân làm chủ chùa sáng lập Tăng chế. Duy-na. Nam Sơn nói Tinh Luân dịch là thứ lớp, nghĩa là thứ lớp biết việc Tăng. Ký qui truyện nói: Hoa Phạm gồm nêu. Duy là cương duy (giềng mối?) là tiếng Hoa. Na là tiếng Phạm, cắt bỏ Yết-ma-đà ba chữ vậy. Tăng Sử lược nói tiếng Phạm là Yết-ma-đà-na, dịch là Sự tri hay Duyệt chúng nghĩa là xem sự việc, làm vui chúng kể từ đời Phật ngài Ca-diếp (Ẩm Quang) thống lãnh chúng ở Linh thứu, ngài Thân Tử (Xá-lợi-phất) coi việc ở Trúc Lâm. Âm nghĩa Chỉ Qui nói: Tăng như lưới nhờ người có đức làm dây kéo lưới Tùng Trí Lâm Nhuận Châu Thứ Sứ Lý Hải Du sai Lâm làm Đoán Sự Cương Duy. Khi ấy sau chùa lập ba cương là Thượng tọa. Duy-na và Điển tọa. Đạt-hạt-la. Ký Qui Truyện nói: Đường gọi là Tiểu sư, Tỳ-nại-gia nói Nan-đà Tỳ-kheo gọi Tỳ-kheo mười hạ là Tiểu sư. Như Tăng Duệ bảo Tăng Đạo rằng: Ông là pháp chủ của vạn người há có thể gọi là Tiểu Sư được ư? A-di-hoạt (Aưtevàsi) dịch là mới học cũng gọi là mới phát tâm.  <卷>QUYỂN 2 Gồm các phần sâu đây: Tám bộ Bốn ma Tiên Thú Nhân Luân Trưởng giả Ngoại đạo Lục sư Quỉ thần Súc sanh Địa ngục. <詞> 1 4. TÁM BỘ. Trời, 2. Rồng, 3. Dạ xoa, 4. Càn-thát-bà, 5. A-tu-la, 6.Ca-lầu- la, 7. Khẩn-na-la, 8. Ma-hầu-la-già. Phàm Phật hóa độ đạo cứu trăm linh, truyền pháp ở đời, từ bi với vạn loài. Ra thì Đế-thích dẫn trước, vào thì Phạm thiên theo sau. Tả có Đại tướng do diệt ác mà thành công, Hữu có Kim cang khiến sanh thiện làm đức, ba thừa Hiền thánh đều nghiêm túc qui phục, tám bộ quỉ thần dều cùng đến hộ vệ. Nay xin nêu rõ ra đây. Đề-bà (Deva) Dịch là Trời - Pháp Hoa Sớ nói: Thiên là thiên nhiên, tự nhiên thắng, lạc thắng, thân thắng. Cho nên Luận nói: Thanh tịnh sáng sạch, tối thắng tối tôn nên gọi là Thiên (trời). Nếu không phải do nhân tối thắng sao sanh được vào chỗ tối thắng. Nói Nhân tối thắng. Nói nhân tối thắng gồm có mười: Thân ba, ngữ bốn, ý ba, tức do ba nghiệp ngăn ngừa tội lỗi. Có nghĩa thuận lý, tức gọi mười thiện. Do mười thiện này khiến ra khỏi năm đạo. Mười giới này gọi là Thiên thừa. Nếu riêng tu tập mười thiện Thượng phẩm thì sanh lên cõi Dục giới: Một là Tứ thiên vương, hai là Đao-lợi thiên. Nếu tu mười thiện mà ngồi chưa đến định thì sanh vào ba là Dạ-ma thiên, bốn là Đâu suất thiên, năm là Hóa lạc thiên, sáu là Tha hóa tự tại thiên. Do sức Thiền định nên khiến bốn trời sau đều ở trên không chẳng nưong mặt đất. Nói chưa đến định, tức là chưa đến, tức chưa vào căn bản định. Như Chỉ Quán nói: Nếu ngồi nghiêm nhiếp thân điều hòa hơi thở lắng yên mất, thân như bóng mây, thanh tịnh trống không mà cũng còn thấy có tướng thân tâm, ấy gọi là là Định Dục giới. Từ đây trở đi bỗng nhiên chẳng thấy trong Định Dục giới, thân đầu y phục giường ghế v.v… các thứ cũng như hư không thảnh thơi an ổn. Thân là sự chướng vị lai (chưa đến) chướng bỏ thân không, vị lai (chưa đến) được phát như thế gọi là chưa đến Định tướng. Đó là nhân quả sáu trời Dục giới. Nếu tu căn bản bốn thiền lìa dục thô tán thì sanh cõi Sắc giới. Dong sắc giới này nương vào Tát-bà-đa chỉ mười sáu chỗ. Cu-xá Sớ nói trừ Đại Phạm thiên nghĩa là trong Phạm phụ thiên có lầu các cao gọi là Đại Phạm thiên, một chủ ở đấy không có đất khác. Trừ Vô tưởng thiên nghĩa là trong quảng quả thiên có chỗ cao quí nhất gọi là Vô tưởng thiên không có tất khác. Như y vào kinh bộ mà lập ra mười bảy trời nên tụng giải thích rằng: Nói Đại Phạm vương cùng Phạm phụ v.v… là chỗ tuy chẳng khác song thân hình và tuổi thọ không đồng nhau nên riêng lập Đại phạm, như Thượng tọa bộ gọi là Vô tưởng quảng quả. Nhân quả khác nhau nên lập mười tám trời, phân làm bốn thiền. Sơ thiền có ba trời: một là Phạm chúng thiên là dân được thống lãnh ở đấy, hai là Phạm phụ thiên, tức là quan phụ giúp Phạm vương, ba là Đại Phạm thiên, được Trung gian thiền là chủ thế giới, kiếp sơ thì sanh ra trước, kiếp hết thì mất sau cùng, oai đức cao quí khen tướng gọi là Đại. Nhị thiền có ba trời: một là Thiếu quang thiên, ở trong Nhị thiền có ánh sáng yếu nhất, hai là Vô lượng quang thiên ánh sáng Tăng mạnh không hạn lượng, ba là Quang âm thiên, miệng không nói năng ánh sáng là lời nói, tiếng Phạm là Áp Thiên Tấn gọi là Hữu quang Thọ cũng gọi là Thiểu quang tiếng Phạm là Áp-ba-ma-na, dịch là Vô Lượng Quang tiếng Phạm là A-ba-hội, dịch là Quang Âm. Tam Thiền có ba trời: Một là Thiếu tịnh thiên ý địa lạc thọ lìa mừng tham có ít phần thanh tịnh. Hai là Vô lượng tịnh thiên, tịnh nhiều hơn trước không tính lường được. Ba là Biến tịnh thiên. Tiếng Phạm là Thủ-ha-ký-na, lạc thọ tối thắng (hơn hết), tịnh cùng khắp. Tứ thiền có chín trời: Một là Vô vân, từ Tam thiền trở xuống đều nương mấy mà ở, đến Tứ Thiền này thì mới ở trên không. Hai là phước sanh đầy đủ sức thắng phước mới được vãng sanh. Ba là quảng quả, quả báo đời khác thì cõi này là rất tối thắng, tiếng Phạm là Duy-vu-phả-la mà ba trời này là phàm phu ở. Bốn là Vô tưởng thiên là chỗ ngoại đạo ở kể là Niết-bàn, chỉ là tâm tưởng không làm nên gọi là Vô tưởng. Năm là Vô phiền tức không có kiến tư phiền não xen vào. Sáu là Vô nhiệt, tức ý lạc dịu dàng lìa các phiền não. Bảy là Thiện kiến, tiếng Phạm là Tu-ế-thiên, định hướng nhỏ yếu dần thấy rất sáng suốt. Tám là Thiện Hiện, hình sắc rất cao quí (thắng) khéo hay biến hiện. Chín là Sắc các pháp, tức sắc pháp cực cao quí, là chỗ rốt ráo nhất. Vô phiền v.v… là chỗ Na-hàm ở nên gọi năm trời này là Ngũ Na-hàm. Nếu chán lồng sắc thì tu bốn không định ắt sanh bốn Không thiên gọi là Vô sắc giới: Một là Không xứ. Thiền Môn nói: Định này trước nhất lìa ba thứ sắc, tâm duyên hư không. Đã cùng Vô sắc tương ưng nên gọi là Xứ không định; Hai là Thức định. Thiền Môn nói: Bỏ không duyên thức, lấy Thức làm Xứ, chính là từ chỗ sở duyên mà được tên; ba là Vô sở hữu xứ. Thiền Môn gọi là Bất dụng xứ. Khi tu định này chẳng dùng tất cả trong ngoài cảnh giới, ngoại cảnh gọi là không, nội cảnh gọi là tâm, bỏ hai cảnh này nhân phi mới tu nên gọi là Bất dụng xứ; Bốn là Phi hữu tưởng phi vô tưởng. Thiền Môn nói: Có giải rằng: Trước quán Thức xứ là có tưởng, Bất dụng xứ là Vô tưởng, nay đều trừ hai tưởng trên. Cũng có giải rằng: Ước phàm phu mà nói là phi hữu tưởng (không phải có tưởng) ước Phật pháp mà nói là Phi vô tưởng (không phải không tưởng). Hợp lại mà luận nên gọi Phi hữu tưởng phi vô tưởng. Song bốn không này, Đại Tiểu thừa giáo luận về nghĩa vô sắc lại khác. Vã Tiểu thừa giáo như Cu-xá nói vô sắc vô thân, y đồng phận mạng căn mà khiến tâm tiếp nối. Lại Thế Phẩm nói: Cõi Vô sắc giới đều không có xứ sở, vì phi (không phải) sắc nên pháp không có phương sở. nghĩa là ở xứ đó người được định ấy khi chết rồi ắt là sanh chỗ ấy. Lại Thành Thật Luận nói: Sắc là không, dạy chẳng đến vô sắc. Nay bảo nếu nói đều không xứ sở. Hoa Nghiêm An rằng: Tỷ căn của Bồ-tát nghe mùi hương của cung điện vô sắc giới. Như Đại Thừa Bộ bảo rằng: Chỉ không thô sắc chẳng phải là không tế sắc. Cho nên A-hàm nói: Khi Xá-lợi-phất vào Niết-bàn cõi trời Vô sắc giới trên không trung rơi lệ xuống như mưa phùn mùa xuân, cho nên biết vô sắc chẳng phải là không tế sắc. Đây là Tiểu thừa Tông tính hai thứ khác nhau. Nếu Đại thừa giáo thì như Lăng Nghiêm nói: Trời Tứ không ấy thì thân tâm diệt mất hết, định tính hiện tiền không có nghiệp quả sắc. Cô Sơn giải thích rằng: Không phải nghiệp quả sắc hiển bày có Định quả sắc Cu-xá Toản nói: Không có nghiệp quả sắc không phải là thân dị thục. Như Phụ Hành nói: Từng nghe có một Tỳ-kheo được Định vô sắc, định dậy lại sờ không người hỏi tìm gì thì đáp: Tìm thân ta, người hỏi thân đang ở trên giường, ở đây được định còn chẳng thấy thân, nên nghiệm biết bốn không chẳng có nghiệp quả sắc mà nói hiển có định quả sắc, là hiển bày luận gọi Sắc do Định ttự tại sanh ra, tức là Thắng định lực, là đối tất cả sắc đều được tự tại tức từ định biến khởi năm trần cảnh. Luận nói: Biến thân vạn ức cùng đứng trên đầu lông không lượng địa giới. Trung Ấm kinh nói: Các trời vô sắc lễ bái Thế Tôn. Lăng Nghiêm cũng nói: Vô sắc cúi lạy. Nhân Vương kinh: Trời Vô sắc giới mưa xuống các hương hoa, hương như núi Tu-di, hoa như bánh xe. Kinh Niết-bàn nói: Trời Phi tưởng nếu là vô sắc thì sao được có tới lui qua lại. nghĩa như thế thì cảnh giới chư Phật không phải Thinh văn Duyên giác biết được. Vì kinh Thinh văn nói: Chỗ chứng không bèn gọi là chỗ tột đều là vô sắc. Đại thừa thật nói: Ngoại giới còn thọ sắc pháp tính há là bốn trời này. Chỉ là không không cho nên chê không phải biết của Nhị thừa. Tịnh Danh Sớ nói: Nếu giáo bất liễu nghĩa thì nói Vô sắc giới là không có sắc. Nếu giáo Liễu nghĩa thì nói Vô sắc giới là có sắc. Song Đại Luận nói: Các trời khi sắp chết thì tướng năm tử hiện ra: Một là hoa trên mão héo, hai là nách có mồ hôi, ba là dây cột thân, bốn là lại thấy chỗ mình sẽ sanh, năm là không thích chỗ ngồi cũ. Các trời thấy tử tướng (tướng chết) ấy thì tiếc vui trời thấy sẽ sanh chỗ ác tâm liền buồn khổ. Lại Cu-xá Luận nói: Năm suy ấy có lớn nhỏ khác nhau. Năm suy nhỏ là: Một y phục trang nghiêm phát ra tiếng khó ưa, hai là ánh sáng của thân tự nhiên tối mờ, ba là khi tắm gội thì nước dính thân, bốn là bản tính hiu trì nay lại trệ vào một cảnh, năm là mắt vốn ngưng tịch nay luôn máy động. Năm tướng này hiện không phải mạng nhất định phải chết. Nếu gặp duyên Thắng thiện cũng có thể đổi khác. Lại có năm tướng Đại Suy: Một là y phục dính bụi, hai là hoa cài tóc héo, ba là hai nách ướt mồ hôi, bốn là khí thúi vào thân, năm là không thích chỗ ngồi cũ. Năm tướng này hiện ra nhất định phải chết. Lại Đại Luận nói: Trời luận chung có bốn thứ một là thiên, hai sanh thiên, ba Tịnh thiên, bốn Tịnh sanh thiên - Một gọi là Thiên là như nay vua gọi là Thiên tử, hai Sanh thiên là từ Tứ Thiên vương đến Phi hữu tưởng phi tưởng, ba là Tịnh thiên tức là các Thánh nhân của loài người, bốn là Tịnh sanh thiên, là các Thánh trong ba cõi. Lại kinh Niết- bàn cũng có bốn thiên: Một là Thế gian thiên là như các vua chúa, hai là Sanh thiên là từ Tứ thiên vương đến Phi phi tưởng, ba là Tịnh thiên tức là bốn quả chi Phật, bốn là nghĩa thiên tức là Thập trụ Bồ-tát, vì thấy tất cả pháp là nghĩa không. Như thế các Thiên (trời) tên rất rộng phải nên phân biệt. Đề-đa-la-tra (Phrtaràstra). Đại Luận nói: Tần gọi là Trị quốc, chủ Càn-thát-bà và Tỳ-xá-xà. Quang Minh Sớ nói: Là Nguyên Thủ của Thượng thăng, là trời thứ nhất của Hạ giới, ở nửa núi Tu-di, có Đồng Huỳnh Kim Đỏa Vương tên là Đề-đầu-lại-tra, dịch là Trì Quốc, lại dịch là An dân. Tỳ-lưu-ly (Virùdhaka). Đại Luận nói: Tần gọi Tăng Trưởng chủ cung Bàn Trà và Tiết-lệ-đa. Quang Minh Sớ nói: Nam Lưu Ly Đỏa Vương tên là Tỳ-lưu-lặc-xoa, cũng dịch là Miễn ly. Tỳ-lưu-ba-xoa (Virùpàksa). Đại Luận nói: Tần gọi là Đa văn, chủ Da-xoa và La-sát. Quang Minh Sớ nói: Bắc Thủy Tinh Đỏa Vương tên là Tỳ Sa-môn. Tác Ẩn nói tên phước đức nghe khắp bốn phương, nên dịch là Phổ văn. Phật khiến tay vỗ tháp xá-lợi Phật xưa. Tăng Sử Lược nói: Năm Đường Thiên Bảo một, năm nước Tây thiên đến đánh An tây ngày 11 tháng 02, Tần xin binh cứu viện, đem quân vạn dặm nhiều tháng mới đến, cận thần tâu, lại mời Bất Không Tam Tạng vào cung trì niệm, vua Huyền Tông cầm lò hương, Bất Không tụng Nhân Vương Hộ Quốc Đà-la-ni, mới được mười bốn biến thì vua bỗng thấy năm trăm thần nhân mặc giáp cầm kích ở trước điện. Vua hỏi Bất không, đáp rằng: Đây là Độc Kiên con thứ hai của Tỳ Sa-môn Thiên vương theo tâm ước của Bệ hạ mà đến cứu An Tây. Lúc tâu là tháng tư đến giờ Tî ngày 11 tháng 2 (4) (năm sau) sau đó thì ba một dặm ở phía Đông Bắc thành, có mây mù tối mịt có thần vác gậy dài đều mặc áo giáp vàng, đến giờ dậu thì trống sừng rền vang núi lay đất động, trải hai ngày thì giặc chạy tan, lúc đó trên thành lầu có ánh sáng, Thiên vương hiện hình. Bèn làm biểu dâng lên, vua nhân ra sắc lệnh các đạo châu phủ ở phía Tây Bắc đều đặt hình tượng Thiên vương. Tứ thiên vương này ở lưng núi Tu-di. Cu-xá nói núi Diệu cao có bốn từng cách nhau mười ngàn ( 1 0. 000), mỗi bên có mười sáu ngàn ( 1 6. 000) 8. 4.2000 lượng kiên thủ và trì man, Thường Kiêu, Đại vương chúng, như thứ tự mà ở bốn cấp. Cũng ở bảy núi khác. Bốn tên này gọi là Tứ vương. Tám bộ hoặc nêu hai mươi tám bộ: Một là phương có bốn bộ, sáu phương thì thành hai mươi bốn bộ, tứ duy đều có một hợp lại thành hai mươi tám. Có một thuyết nói: Một phương có năm bộ nghĩa là Địa- Thủy-Hỏa-Phong-Không, bốn phương thành mười (hai mươi) bộ, cùng Tứ vương thống lãnh tám bộ là hai mươi tám bộ. Cảm thông truyện Thiên Nhân Phí Thị nói dưới một Vương có tám tướng quân, bốn vương có ba mươi hai tướng, khắp bốn thiên hạ đến hộ giúp các người xuất gia. Trong bốn thiên hạ thì Châu Bắc Thiên ít có Phật pháp, còn ba thiên hạ kia thì Phật pháp có nhiều. Song người xuất gia phần nhiều phạm giới cấm ít theo đúng pháp. Đông Tây Thiên Hạ thì ít có điểm huệ, phiền não khó dạy. Một châu Nam Phương tuy có nhiều phạm tội nhưng dạy khiến Thiện Tâm dễ điều phục. Phật sắp nhập Niết-bàn dặn dò giao phó khiến giữ gìn chẳng để ma quân quấy nhiễu nếu chẳng giữ gìn như thế là phá giới. Ai có làm giáo pháp ta nên Phật răn dạy chẳng dám chẳng làm tuy thấy người pháp giới thương mà hộ vệ, thấy làm một thiện vạn lỗi đều tha. Vì tướng quân trong ba mươi hai tướng trên thì hộ vệ nhiều nhất, nếu có nhiều ma trai mà gái chọc ghẹo Tỳ-kheo khiến đạo lực suy yếu và làm hoặc loạn thì tướng quân sợ hãi rượt đuổi tùy cơ mà dẹp trừ. Cho nên nếu có việc thì phải đến chỗ Tứ vương, lúc đó Vương thấy đều đứng dậy, vì Vi tướng quân tu hành Đồng chân hộ trì chính pháp vậy. Đao-lợi (Tràyastriưsa) Ứng Pháp sư nói: Tiếng Phạm gọi tắt sai, gọi đúng là Đa-la-dạ-đăng-lăng-xá, dịch là ba mươi ba. Cu-xá Tụng nói: Đỉnh diệu cao tám vạn, trời ba mươi ba ở, bốn góc có bốn ngọn. Kim cang thủ ở đó. Trong cung gọi Thiện Hiện, chu vi vạn Du thiện na, cao một nửa Kim thành, trong có Điện thù thắng, chu vi ngàn thiện na. Thích Đề Hoàn Nhân (Sàkra devà nàmiưdra). Đại Luận nói: Thích-ca Tần gọi là Năng, Đề-bà-tần gọi là Thiên, Nhân Đề Tần gọi là chủ, họp mà gọi là Thích-đề-bà-na-dân hoặc Thích-ca Đề-bà-nhân- đà-la, nay gọi tắt là Đế-thích bởi Hoa Phạm đều gọi. Tạp A-hàm nói có một Tỳ-kheo hỏi Phật vì sao gọi là Thích Đề Hoàn Nhân. Phật đáp khi xưa là người làm Đốn thí thường hay làm chủ nên gọi là Thích Đề Hoàn Nhân. Kinh Anh Lạc nói: Ông nay trời Đế-thích công đức các hạnh cao, ngàn Phật huynh đệ hơn không còn tên hiền kiếp, khoảng giữa đều dứt hẳn. Hai mươi bốn trung kiếp sau có Phật ra đời, cõi nước tên Phổ Nhẫn, Phật ấy sống bảy kiếp, pháp để lại bảy kiếp. Khi pháp ấy mất rồi thì trống rỗng năm kiếp, ông ở cõi nước ấy mà nối ngôi vị Như Lai hiệu là Vô Trước Tôn. Tịnh Danh Sớ nói: Thời gian này là Đế-thích mà xưa lúc Phật Ca-diếp diệt độ có một người nữ phát tâm sửa tháp lại có ba mươi hai người phát tâm giúp sức, công đức sửa tháp là Đao-lợi Thiên chủ (là cõi trời Đao-lợi) còn những ai có công giúp sửa tháp thì là quần thần, vua tôi họp nhau gọi là trời ba mươi ba. Tu-dạ-ma (Suyàma) dịch là Thiện Thời Phân, lại dịch là Diệu Thiện, mới gọi là Tu-diệm-ma, dịch là Thời phân tức luôn luôn ca hát vui vẻ. Hoặc gọi thọ cảnh ngũ dục biết thời phân vậy. Đâu-suất-đà (Tusita). Dịch là Diệu Túc, mới gọi là Đổ-sử-đà dịch là Tri túc. Tây Vức Ký gọi Đổ-sử-đà, xưa gọi Đâu-suất-đa, Đâu- thuật-đà là sai, tức là đối với ngũ dục biết dừng đủ, nên Phật Đại Luận gọi là Hỷ Túc nghĩa là thân sau của Bồ-tát trong giáo hóa tu nhiều hỷ túc. Tu-niết-mật-đà (Sunirmàna) hoặc gọi Ni-ma-la. Đại Luận nói: Tần gọi Hóa Tự Lạc, tức tự hóa năm trần mà tự vui nên gọi Hóa Tự Lạc. Lăng Nghiêm gọi là Lạc Biến Hóa Thiên. Bà-xá-bạt-đề (Paranirmitavazavartin) hoặc gọi Ba-la-ni-mật. Đại Luận nói: Tần gọi Tha Hóa Tự Tại. Trời này cướp cái người ta hóa mà tự vui, nên nói Tha hóa tự tại, cũng gọi Tha Ứng Thinh Thiên. Biệt Hạnh Sớ nói: là đỉnh trời Dục giới nhờ người khác làm để thành cái vui của mình, tức là Ma vương. Đại Phạm (Mahàbrahman). Kinh Âm nghĩa gọi là Phạm ca-di dịch là Thân Tịnh, tức Sơ thiền Phạm thiên. Tịnh Danh Sớ nói: Phạm là tiếng Tây Vức, Tàu dịch là Ly dục, hoặc Tịnh Hạnh. Pháp Hoa Sớ nói: Trừ phiền phức há địa mà bay lên sắc giới nên gọi là Ly dục, cũng gọi Cao Tịnh. Tịnh Danh Sớ nói: Phạm vương là chủ Thế giới Ta-bà trụ Sơ thiền trung gian tức trung gian thiền ở trong Sơ thiền và Nhị thiền hai thứ (doanh). Tỳ-đàm nói: Nhị thiền trở lên không có pháp nói năng nên chẳng lập Vương pháp, Anh Lạc (nói) Thiền Thiền đều có Phạm vương. Nay bảo chỉ tu thêm Vô lượng tâm, báo thắng là vua không có thống ngự (cai trị). Sơ thiền có thấy biết nói năng thì có chủ thống lãnh tức làm vua. Thứ Đệ Thiền Môn nói Phật ở kinh Nhân vương nói có mười tám Phạm, cũng có dân và vua khác nhau. Lại nói ở Tứ thiền có Đại Tịnh vương, mà Phật ở trong ba tạng chỉ nói Sơ thiền có Đại Phạm Thiên vương là vì trong Sơ thiền có tâm thấy biết thì có pháp nói năng, vua thống lãnh chúng sinh dưới đất rất tiện. Chứng chân nói: Khi kiếp sơ thành thì Phạm vương sanh ra trước riêng ở một kiếp không có bạn bè. Sau khởi niệm nghó rằng mong các loài hữu tình đến ở đây. Nghó rồi thì con Phạm liền sanh. Ngoại đạo không lường biết liền chấp Phạm vương là thường mà con Phạm là không (vô) thường. Thi Khí (Sikhin) Đại Luận nói: Tần gọi là Lửa, hoặc dầu lửa. Pháp Hoa Sớ nói: Ngoại quốc gọi là lửa là cây Đề-thi-khí, vua này vốn tu Hỏa định, phá hoặc Dục giới, từ đức mà lập tên. Lại nói: Kinh nêu Pháp vương lại nêu Thi Khí giống như hai người Y Đại Luận thì chính Thi Khí là vương, nay nêu vị mà bày tên, e chỉ một người mà thôi. Triệu nói Thi Khí là tên của Phạm vương, Tần gọi là Đảnh kế. Phạm-phú-lâu (Brahmapurohita) dịch là Tiền Ích Thiên, đi trước Phạm thiên, luận nghó lợi ích cho Phạm thiên cũng gọi là Phạm phụ. Thủ-đà-bà (Suddhàvàsa), Đại Luận nói Tần gọi là Tịnh Cư Thiên, thông cả năm Tịnh Cư. A-ca-ni-tra (Akanistha), gọi đúng là A-ca-ni-sắc-đệ hoặc gọi A- ca-ni-sa, dịch là chất ngại căn cứ thiên. Ma-hê-thủ-la (Mahezvara) Đại Luận nói: dịch là Đại Tự Tại, gọi đúng là Ma-ha-mạc-hê-y-thấp-phạt-la có tám cánh tay ba mắt cỡi trâu trắng. Phổ Môn Sớ nói: Lâu Thán gọi là A-ca-ni-tra, Hoa Nghiêm gọi là Sắc cứu cánh, có người gọi Đệ Lục Thiên, mà các kinh luận phần nhiều đều gọi Đại Tự Tại, là đảnh của Sắc giới. Thích Luận nói: Qua khỏi trời Tịnh Cư có Thập Trụ Bồ-tát gọi là Đại Tự Tại làm chủ cõi Đại Thiên. Kinh Thập Trụ nói: Đại Tự Tại Thiên có ánh sáng hơn hết tất cả chúng sinh. Niết-bàn Hiến Cúng nói Đại Tự Tại Thiên rất cao quí không phải là Đệ Lục Thiên (trời thứ sáu). Quán Đảnh nói: Tên của vua Oai Linh (tự là Oai Linh Đế). Ma-lợi-chi (Màrici) dịch là Dương Viêm, đi trước Tự Tại. Tán-chỉ-tu-ma. Dịch là mật, nghĩa là Danh-Hạnh-Lý-Trí bốn thứ đều mật. Thiên thai gọi là Thiên Đại Tướng Quân bảo rằng: Kim Quang Minh lấy Tán chỉ làm Đại tướng Đại Kinh nói: Tám cánh tay mạnh mẽ là lực só của trời. Đại Luận lại gọi là Cưu-ma-la-già (Kumàraka), dịch là Đồng tử cỡi khổng tước cầm gà đưa lên, cầm mở cầm phan đỏ, lại có cầm gông lớn, dịch là Biến (Biến) văn (khắp nghe?) bốn tay cầm bối, cầm bánh xe, cầm kim sí điểu, đều là Đại tướng của các trời, chưa biết Đại tướng quân này định thị hà đẳng (bằng ai?). Quang Minh Sớ nói: Hai mươi tám bộ đi tuần du thế gian thưởng thiện phạt ác đều là Tán chỉ cai quản. Bạt-xà-la-ba-ni (Vajrapàni) Lương gọi là Kim cang. Ứng Pháp sư gọi là Bạt-xà-la dịch là Kim cang. Ba-ni dịch là Thủ, tức tay cầm gậy Kim cang, lấy đó mà đặt tên. chính Pháp Niệm nói: Xưa có vua và phu nhân sanh ngàn con, muốn thử sau này thứ tự thành Phật, nên Câu-lưu- tôn được thẻ thứ nhất, Thích-ca được thẻ thứ tư, cho đến Lâu-chí được thẻ một ngàn. Phu nhân thứ hai sanh hai con, một người nguyện làm Phạm vương thỉnh ngàn anh Chuyển pháp luân người thứ hai nguyện làm Mật tích Kim cang thần, hộ trì giáo pháp của ngàn anh. Đời cho là hóa thân của Lưu-chí là không phải, đó là Pháp Ý Vương Tử. Căn cứ vào kinh chỉ có một người. Nay thờ ở trước cửa già lam mà có hai tượng, ứng biến vô cùng nhiều thứ cũng không lỗi (Trích từ Tác Ẩn Ký). Ha-lợi-đế-nam (Hàriti) Quang Minh gọi là Ha-lợi-đế-nam, đây là tiếng Phạm tức quỉ thần tử. Thử Hiển Lương Ngôn tên tuy có hai mà người chỉ là một. Nên trong luật nói quỉ tử mẫu, sau tổng kết rằng: Lúc đó người trong thành Vương xá đều gọi là Ha Ly Đế Mẫu Thần. Ký Qui Truyện nói: Tây phương thí chủ thỉnh Tăng cúng trai, trước cúng Thánh Tăng sau đãi chúng Tăng. Ở cuối dãy dọn một mâm để cúng Hạ Lî Đế Mẫu. Tỳ-thủ-yết-ma (Visvakarman) chính Lý Luận âm gọi là Tỳ- thấp-phược-yết-ma, dịch là chủng chủng công nghiệp, người thợ khéo ở Tây Vức thường cúng tế trời này. Biệt-tha-na (Visnu) Lương gọi là Vi, cũng gọi Phệ Suất Nộ Thiên. Kỳ-bà-thiên (Jiva) Trường Thủy nói Kỳ-bà dịch là mạng phong tục Tây Vức đều thờ Trường mạng Thiên thần. Lời này chưa rõ đâu ra. Theo Pháp Hoa Sớ thì Kỳ Vức dịch là hoạt. Sanh lên trời Đao-lợi, đệ tử Mục-liên bịnh dùng thần thông lên hỏi, gặp các trời ra vườn dạo chơi, Kỳ Vức ngồi xe chẳng xuống chỉ chấp tay mà thôi, Mục-liên dừng xe. Vức bảo rằng: Các Trời lo hưởng vui chẳng nhìn thấy, Tôn giả muốn cầu gì? Đáp: Dứt ăn là cốt yếu. Mục-liên thả ra xa bèn đi. Theo đây Kỳ-bà-thiên tức là Y Sư (thầy thuốc) Kỳ Vức. Tô-lị-da (Sùrya) hoặc To-lê-da, Tu-lị, dịch là Nhật thần (thần mặt trời) Nhật là Thất là tình của Thái dương. Khởi Thế Kinh nói: Cung điện của Nhật thiên rộng dài bằng nhau đều năm mươi mốt do tuần, trên dưới cũng thế. Tô-ma (Soma) dịch là Nguyệt thần (thần mặt trăng) Thích Danh nói: Nguyệt là thiếu, nghĩa là đầy rồi vơi. Hoài Nam Tử nói: Nguyệt là tinh của Thái Âm. Khởi Thế Kinh nói: Cung điện của Nguyệt thiên rộng dài bằng nhau đều bốn mươi chín do-tuần. Hỏi vì sao mặt trăng lúc đầu lại thiếu (thuyết không tròn). Đáp: Như kinh Niết-bàn nói: Nguyệt tính thường tròn thật không tăng giảm nhân có núi Tu-di nên có khuyết. Cu-xá Luận nói: Gần mặt trời thì ảnh tự che nên thấy trăng khuyết. Thế Thi Thiết Túc Luận nói: vì cung điện mặt trăng đi gần mặt trời ánh sáng bị xâm chiếu, các bên phát bóng tự che mặt trăng nên lúc đó thấy không tròn. Song một mặt trăng mặt trời khắp chiếu bốn châu. Trường A-hàm nói Diêm-phù-đề mặt trời giữa trưa thì ở Phất-bà-đề mặt trời lặn, ở Cù-da-ni là mặt trời mọc, còn ở Uất-đơn-việt là nửa đêm. Kinh văn thứ lớp bốn phương khắp nói, hai tên này trích ở Đại Khổng Tước Chư Vương Kinh. Na-già (Nàga) Dịch là Long (rồng). Biệt Hạnh Sớ nói: Long có bốn thứ: Một là giữ cung điện trời, cầm giữ khiến không rơi là rồng làm trên mái nhà ở nhân gian. Hai là nổi mây làm mưa làm lợi ích cho nhân gian. Ba là Địa long, quấy nhiễu sông ngòi. Bốn là rồng giữ kho, giữ kho Đại phước của Chuyển luân vương. Rồng có bốn loài, Cu-xá nói: Noãn sanh kim sí điểu hay bắt ăn thịt bốn loài rồng này. Mạ Ý Kinh nói: Đọa làm rồng có bốn duyên: Một là bố thí nhiều, hai là giận hờn, ba là khinh chê người, bốn là tư cống cao. Hoa Nghiêm nói: Rồng làm mưa xuống chẳng từ thân ra, chẳng từ tâm tâm niệm ra không có chứa nhóm mà đều thấy, chỉ do sức của rồng mà mưa lớn khắp xuống thiên hạ, cảnh giới đó chẳng thể nghó bàn. Nan-đà-bạt-nan-đà (Namđa-Upanamda) Văn Cú nói: Nan-đà dịch là Hoan hỷ, Bạt là thiện, anh em thường hộ trì nước Ma-kiệt-đề khi mưa xuống thì nước không đói kém. Bình Sa Vương mỗi năm làm một hội trăm họ nghe đều vui mừng, từ đó mà được tên, Từ Ân nói một tên là Hỷ, hai tên là Hiền Hỷ, hai anh em này khéo hợp lòng người gió chẳng gào thét, mưa chẳng đập phá, trước khiến người mừng lại khiến tính hiền, khiến mừng lại hiền nên lấy làm tên. Đại Luận nói: Có anh em rồng một tên Cật ly, hai tên A-già-hòa-la, mưa xuống đúng lúc. Bà-già-la (Sagara) từ biển mà nêu tên. Hòa-tu-cát (Vasuki) dịch là nhiều đầu. Đức-xoa-ca (Taksaka) dịch là Hiện độc cũng gọi nhiều lưỡi. A-na-bà-đạt-đa (Anavatapta) dịch là Vô nhiệt, từ ao mà được tên, trong ao có năm Trụ đường (nhà ở?) Ma-na-tư (Manasin) dịch là Đại thân, hoặc Đại ý, hoặc Đại lực. Âu-bát-la (Utpala) hoặc gọi Ưu-bát hoặc Ưu-ba-đà, dịch là Đại Sắc Liên Hoa (hoa sen đen) lại gọi hoa sen xanh. Rồng nương đây mà ở, từ ao mà được tên. Y-la-bát (Eraưupattra) Xiển nghĩa Sao nói cũng gọi là Y-la-bạt- la là tên cây Y-la, dịch là khí thúi, Bạt-la dịch là rất. Tức rồng này khi xưa đã phá hại lá cây cực thúi nên phải chui đầu vào cây thúi này nhân đó đặt tên. Ca-lê-ca (Kalika) lại gọi Da-la-da, dịch là rồng đen. Dạ-xoa (Yaksa) dịch là dõng kiện, hoặc Bạo ác. Xưa gọi là Duyệt-xoa. Tây Vức Ký gọi là Dược-xoa. Xưa gọi sai là Dạ-xoa, hay bay trên không trung. La-thập nói Tần gọi là quí nhân, cũng gọi Kinh Tiệp. Có ba thứ: 1/ Ở trên đất, 2/ Ở trên hư không, 3/ Thiên Da-xoa, tức là Đọa Dạ-xoa chỉ có tài thí nên không thể bat trên không. Thiên Dạ- xoa vì thí xe ngựa nên bay đi được. Triệu nói: Thiên Dạ-xoa ở fưới hai trời, giữ thành ao lầu cửa cho trời. Hoa-di-la-hằng-duyệt-xoa (Vajrapàniyaksa) tức Chấp Kim Cang Thần Khả Úy, cũng gọi Bạo ác hoặc La-xoa-bà, dịch là Hộ só, nếu nữ thì gọi là Ra-xoa-tư. Bạt Đa-ba-la Dư-tắc-ca (Bha drapàlasiksaka). Kinh Hạ Sanh nói: Tần gọi là Thiện giáo, đây là Dạ-xoa giữ thành của Di-lặc. Càn-thát-bà (Gamdharva) hoặc gọi Kiện-đà-la. Tịnh Danh Sớ nói: Dịch là Hương Âm cũng gọi là Lăng Không Thần chẳng dám rượu thịt chỉ hưởng hơi hương là Thiên chủ tràng đảo nhạc thần ở phía Nam núi Tu-di trong hang Kim cang. Ngài La-thập gọi là Thiện Nhạc Thần ở trong núi đất Thập Bảo khi trời muốn có nhạc thì thân thần này có tướng lạ hiện ra sau mới lên trời. Mới gọi là tầm hương hành. Ứng Pháp sư gọi là Xú hương. Đồng-lũng-ma (Druma). Đại Luận nói: Tần gọi là cây, là tên của Càn-thát-bà. A-tu-la (Asura) xưa dịch là Vô đoan chính, người nam thì xấu xí, người nữ thì đẹp. Mới dịch là Phi Thiên. Tịnh Danh Sớ nói: Thần này quả báo rất tốt gần bằng các trời mà không phải trời, Tần-bà-sa Luận nói: Chính tiếng Phạm là Tố-lạc, Tố-lạc là trời nó không phải trời nên gọi A-tố-lạc. Tây Vức Ký gọi A-tố-lạc. Xưa gọi A-tu-la, A-tu-luân, A- tu-la đều sai. La-thập nói: Tần gọi bất ẩm tửu, lý do chẳng uống rượu là trích tư Tạo Bảo Tạng. Pháp Hoa Sớ nói: A-tu-la nhặt hái hoa bốn thiên hạ gầy rượu trong biển lớn, nghiệp lực rồng cá vị nó không đổi giận ghét thể dứt nên nói là không rượu. Đại Luận nói: Phật diệt độ đã lâu kinh pháp lưu truyền năm trăm năm sau có nhiều sai khác, hoặc nói năm đạo hoặc nói sáu đạo. Xem các nghĩa kinh đúng là sáu đạo, vì thiện có thượng trung hạ nên có ba thiện đạo, ác có thượng trung hạ nên có ba ác đạo. Nếu chẳng thế thì ác có ba quả báo mà thiện có hai quả báo là việc trái nhau. Nếu có sáu đạo thì nghĩa không trái. Cho nên Tu- la này khi ở nhân thì ôm lòng đố kî tuy làm năm thường mà muốn hơn người khác, nên làm mười thiện hạ phẩm mà cảm thân ở đạo này. Hoa Nghiêm nói như La-hầu-la A-tu-la vương, thân dài bảy trăm do tuần, hóa hình dài mười sáu vạn tám ngàn do tuần, ở trong biển lớn ló ra nửa thân cùng với núi Tu-di bằng nhau. Kinh Lăng Nghiêm nói: Lại có bốn loại A-tu-la, nếu ở quỉ đạo thì dùng đức hộ pháp dùng thần thông bay lên không A-tu-la này từ trứng sanh ra thuộc về loài quỉ. Nếu ở trong trời hết sức đọa xuống tìm chỗ ở gần mặt trời mặt trăng thì A-tu-la này có thai sanh, thuộc về loài người. Có A-tu-la cầm nắm thế giới, sức suốt vô úy hay cùng Phạm vương và Thiên Đế-thích Tứ thiên vương tranh quyền. A-tu-la này nhân biến hóa mà có, thuộc về loài trời. Có một loại A-tu-la kém cõi sanh giữa biển và chìm sâu dưới miệng hang nước, buổi sáng bay lên không, buổi chiều về nước ngủ. Loại A-tu-la này nhân thấp khí (ẩm ướt) mà có thuộc loài súc sanh. Tịnh Giác hỏi: Bốn thứ A- tu-la này đã thuộc bốn loài vậy không có biệt báo đồng phận ư? Đáp: Tuy thuộc bốn thú (loài) nhưng đều là biệt báo. Nay nói chọn chỗ ở gần mặt trời mặt trăng tức là chỗ đồng phận. Lại Trường A-hàm nói Nam châu có núi Kim cang trong đó có cung Tu-la rộng sáu ngàn do-tuần có hàng rào bao quanh và hàng cây, một ngày một đêm ba lần chịu khổ. Khổ đủ rồi lại vào cung ấy. Khinh Khởi Thế nói: Chỗ Tu-la ở cung điện thành quách đồ dùng so với cung trời giống nhau cũng có cưới gã nam nữ giống như cõi người. Kinh chính Pháp Niệm nói; A-tu-la lược có hai thứ: một là thuộc quỉ đạo ma thân ngạ quỉ, có thần thông. Hai là thuộc súc sanh đạo, ở dưới đáy bể bên núi Tu-di. Hỏi: Pháp Hoa nêu có bốn thứ Tu-la, cùng bốn thứ của Lăng Nghiêm là đồng hay khác? Đáp: Tư Trung nói đồng. Tịnh Giác nói: nó thuộc bốn kỳ thì trong bốn thứ này chẳng thể thứ lớp phân loại. Kinh Khê nói: Bốn thứ trong Pháp Hoa nói đều cùng Đế-thích đấu tranh, một lượt xem qua thì chỉ đồng với loại thứ ba trong kinh này mà thôi. Bà-trỉ (Bali) gọi đúng là Bạc-trỉ-ca, dịch là đoàn viên này lầm dịch là Bị phược hoặc gọi năm chỗ bị cột hoặc gọi năm ác vật, là cột cổ chẳng thoát được là bị Đế-thích cột. Kinh Âm nghĩa nói: Làm tiền phong cho Tu-la nên bị Đế-thích cột trói, nhân thì không thoát được nên lấy đặt tên. Khư-la-khiên-đà (Khalaskaưdha) Văn Cú gọi là quảng kiên bi, cũng gọi Ác âm là nước biển phun lên (nhảy vọt). Tỳ-ma-chất-đa (Vimalacitta) Văn Cú gọi là Tịnh Tâm cũng gọi Chủng Chủng Nghi tức là cha của Xá-chỉ. La-hầu (Ràhu). Văn Cú gọi là Chướng Trì, hóa thân dài tám vạn bốn ngàn do-tuần, đưa tay che tối mặt trời mặt trăng. Đời gọi là nhật thực, nguyệt thực. Thích Danh nói: Nhật Nguyệt thiếu gọi là Trùng, thiếu một phần nhỏ gọi là xâm khuy, như trùng ăn lá cây cỏ. Kinh Phòng Dị Truyện nói: Mặt trời mặt trăng đỏ vàng là mỏng (bạc), hoặc nói không giao mà ăn là mỏng (dọc). Vi chiếu nói khí mỏng là mỏng (bạc), Thiếu hư gọi là ăn - Thành Luận nói: Ví như mặt trời mặt trăng trên trời tính nó sáng sạch, nhân mây bụi, mây, mù… năm thứ che tối thì không hiện ra mà lấy tên Tu-la. Phật răn rằng: Tu-la Tu-la ông chớ nuốt trăng, vì trăng phá tối hay trừ các nóng. Ca-lầu-la (Garuda) Văn Cú nói: Dịch là Kim Sí (cánh vàng). Xí (Sí) dịch là kim sắc, hai cánh tay cách nhau ba trăm ba mươi sáu vạn dặm cổ có châu như ý bắt rồng mà ăn. Triệu nói: Thần Kim Sí Điểu. Khẩn-na-la (Kimnara) cũng gọi Chân-đà-la dịch là Nghi Thần. La-thập nói Tần gọi là Nhân phi nhân, giống người mà trên đầu có sừng, người thấy hỏi người hay không phải người do đó mà đặt tên. Cũng là Thiên kỹ thần, nhỏ không bằng Càn-thát-bà. Mới gọi là Ca- thần, là thần tơ trúc (khảy đờn thổi sáo) của trời. Ma-hầu-la-già (Mahoraga). Cũng gọi là Ma-hô-la-già dịch là Đại phúc lành (đi bằng bụng). La-thập nói: Địa long mà đi bằng bụng. Triệu nói Thần rắn lớn đi bằng bụng. Tịnh Danh Sớ nói: Tức thế gian miếu thần (miếu thần thế gian) nhận rượu thịt của người đều vào bụng rắn lớn, vì phá giới tà nịnh nhiều sân ít bố thí ham thích rượu thịt, giới hoãn nên đọa làm quỉ thần, nhiều sân trùng vào thân cắn mổ, cũng gọi là Mạc-hô-lạc. Các kinh gọi Nhân phi nhân. Thiên Thai nói: Đây kết vào số tám bộ. <詞>BỐN MA. Đại Luận nói: Ma có bốn thứ là: Phiền não ma, ngũ chúng ma, Tử ma, Thiên tử ma. Phiền não ma tức một trăm lẻ tám phiền não phân ra có tám vạn bốn ngàn phiền não. Ngũ chúng ma là nghiệp phiền não hòa hợp mà được thân bốn đại và bốn đại tạo sắc nhãn căn v.v… gọi là sắc chúng, một trăm lẻ tám phiền não v.v… các thọ hòa hợp gọi là Thọ chúng, Tiểu đại vô lượng vô sở hữu tưởng (không có tưởng phân biệt hòa hợp) phân biệt hòa hợp, gọi là Tưởng chúng, nhân tâm đẹp xấu phát ra mà hay khởi tham dục, sân giận các tâm tương ưng và bất tương ưng pháp gọi là Hành chúng. Vì sáu tình sáu trần hòa hợp mà sanh sáu thức là sáu thức phân biệt hòa hợp vô lượng vô biên tâm gọi là Thức chúng Tử ma vì nhân duyên vô thường phá thọ mạng năm chúng tiếp nối, lìa hết ba pháp, biết dứt mạng sống nên gọi là Tử ma. Thiên Tử ma là chủ Dục giới, đắm trước vui thế gian dụng có chỗ được nên sanh tà kiến, ganh ghét, Đạo pháp Niết-bàn của tất cả Hiền thánh nên gọi là Thiên Tử Ma. Luận Du Già nói: Do Uẩn Ma có nghĩa đeo đuổi khắp tất cả, Thiên Ma có nghĩa chướng ngại Tử ma và phiền não ma hay cho các khổ chúng sanh sanh tử. Nay bảo phiền não ma là nhân sanh tử Ngũ ấm ma và Tử ma là quả sanh tử, Thiên ma là duyên sanh tử. Lại Mạ Ý kinh nói: Có năm ma: Một Thiên ma, hai Tội ma, ba Hành ma, bốn Não ma, năm Tử ma. Phụ Hành nói: Khổ, không, vô thường, vô ngã bốn thứ là ngoại giới ma, phiền não, năm ấm, tử, Thiên tử bốn thứ là nội giới ma. Tịnh Danh Sớ nói: Hàng ma tức là phá Ái luận, Tồi ngoại tức là Phá kiến luận. Nhưng Ái kiến có hai: Giới nội tức đám Ba-tuần bốn sư, giới ngoại tức Nhị thừa và Thông Bồ-tát. Đại phẩm nói: Tu-bồ-đề Bồ-tát Ma-ha-tát thành tựu hai pháp ma chẳng thể phá hoại. Những gì là hai: Một là quán tất cả pháp không, hai là chẳng bỏ tất cả chúng sinh. Này Tu-bồ-đề, Bồ-tát thành tựu hai pháp này ma chẳng thể phá hoại. - Đại kinh bốn y phẩm nói: Bốn y khu trục ma nói: Phàm Ma-ba-tuần nếu đến thì phải dùng năm Hệ buộc trói ông. Chương An Sớ nói: Hệ có hai thứ: Một là năm Thi hệ, hai là Hệ năm xứ - Năm Thi Hệ là như Bất tịnh quán thì trị Ái ma, năm xứ như lý thì trị Kiến ma. Năm Thị biểu thị cho năm thứ Bất tịnh quán, năm Hê biểu thị cho năm Quán môn. Ma-la (Mara). Đại Luận nói: Tần gọi là Năng Đoạt Mạng. Tử ma thật ra hay cướp mạng sống, các thứ khác thì hay cướp nhân duyên mạng, cũng có thể cướp Trí tuệ mạng, nên gọi là Sát, lại dịch là Chướng là hay làm chướng ngại các Tu đạo. Hoặc gọi là Ác vì có nhiều ái dục. Thùy dụ nói: Hay giết hại các thiện căn xuất thế. Trên cõi trời thứ sáu riêng có Ma-la ở đấy, thuộc Tha hóa thiên. Phụ hành nói: Xưa dịch kinh luận chữ ma từ chữ Thạch, từ Lương Võ đến nay nói Ma hay não hại người nên từ chữ quỉ. Ba-tuần là sai, gọi đúng là Ba-tỳ-dạ (Pàpìyas) dịch là Ác là tên Ma vương khi Thích-ca ra đời vậy. La-thập nói: Tần gọi là sát vì thường muốn đoạn dứt Huệ mạng người cũng gọi là Ác trong ác. Ác có ba thứ: Một là ác, là mình làm ác lại bị báo ác, gọi là ác. Hai là đại ác nếu người không xâm phạm mình mà mình vô cớ hại người thì gọi là đại ác. Ba là ác trong ác, như người đến cúng dường kính trọng mình, không nghó báo ân mà lại hại họ thì gọi là ác trong ác, Ma vương là loại rất ác trong ác. Chư Phật thường muốn khiến chúng sinh an ổn mà ma lại hoại loạn nên gọi là rất. Triệu nói: Tần gọi sát hoặc cực ác, vì đoạn mất thiện nhân của người nên gọi là sát. Trái Phật loạn Tăng tội không gì hơn nên gọi cực ác. Niết-bàn sớ nói: Nương Phật pháp mà được Thiện lợi chẳng nghó báo ân lại muốn phá hại nên gọi là cực ác, cũng gọi là ba-tuần-du, dịch là ác, tức luôn có ác ý tạo thành ác pháp. Ương-củ-lî-ma-la (Aưgulimàlya). Tây Vức Ký nói: Đường gọi Chỉ man. Xưa gọi là Ương-quật-ma-la là sai là giết người lấy ngón tay đội trên đầu làm tràng hoa (tóc?). Ương-quật-ma-man Kinh nói: Thầy dạy giết đủ một trăm người lấy ngón tay xỏ xâu để làm tràng hoa (tóc?) trên đầu. Lại dịch là, Nhất Thiết Thế Gian Hiện. Ma-đằng-già (Màtaưgì) Trường Thủy nói dịch nghĩa là Bản tính. Lăng Nghiêm nói: tính Tỳ-kheo Ni là đó. Lại ở quá là con gái Bà-la-môn tên Bản tính, nay từ hiệu xưa nên gọi là tính Tỳ-kheo Ni. Cô Sơn nói: Vì trước thấy tính tịnh minh thể bèn lập tên tốt ấy. Tịnh Giác nói: Tên là Bản tính trích tư kinh Ma-đằng-già, căn cứ vào Ma Đặng Nữ kinh, tên mẹ của cô gái là Ma-đăng-nhó. Lại gọi Ma-đăng đều là tiếng Phạm. Ứng Pháp sư gọi là Ma-đăng-già, gọi đủ là A-si (đồ)-đa Ma-đăng-kỳ Chiên-đà-la. Ma-đăng-kỳ là tên chung của cô gái. A-đồ-la là tên riêng của cô gái. Cô gái này hèn hạ làm nghề quét chợ để có ăn mặc. Đầu Sư, dịch là Ác Sân, là tên ma thời Phật Ca-diếp. Thất-lî-cúc-đa (Srigupta). Tây Vức Ký nói: Đường gọi là Thắng Mật, uống độc hầm lửa thỉnh Phật muốn hại. <詞>THÚ. Kinh Lăng Nghiêm nói: Lại có từ người chẳng nương chính giác tu Tam-ma-địa, riêng tu vọng niệm còn tưởng, giữ mình dạo chốn núi rừng người chẳng kịp. Có mười thứ Tiên tiếng Phạm gọi là Mâu-nê, dịch là Tiên Thích Danh nói: Già mà chẳng chết thì gọi là Tiên, Tiên là Thiên vậy. Thiên (dời) vào núi cho nên viết chữ nhân bên chữ sơn (?). Trang Tử nói: Ngàn năm chán đời bỏ mà lên tiên. Bảo Phác Tử nói: Người cầu tiên cần phải lấy trung hiếu hòa thuận nhân tín làm gốc. Nếu đức chẳng tu mà chỉ cốt dùng phương thuật, trọn chẳng được trường sanh. Cao Tăng Truyện nói: Thuần Đà người Tây Vức, sáu trăm tuổi chẳng suy yếu. Vua Đường Đại Tông theo cầu Đạo lưu niên. Đà nói tâm thần ưa tịnh nay bị trần cảnh làm chìm đâu thể ngầm tịch. Nếu lìa giản tịnh ngoài mong muốn lưu niên như leo lên cây mà hái phù dung được sao? Bệ hạ muốn sống lâu do giản khiến an thần, thần an thì sống mãi, ít dục thì thân an, thuật này đã qua bần đạo không biết gì nữa. Nói thú thì Bà-sa Tỳ-đàm đều nói: Thú là nghĩa đến, tức là chỗ đến của Tiên nhân. A-tư-đà (Asita) hoặc gọi A-di dịch là Vô Tỷ, lại dịch là đoan chính. Đại Luận nói: Tiên A-tư-đà bảo vua Bạch Tịnh rằng: Ta dùng thiên nhãn nghe chư Thiên quỉ Thần nói Tịnh Phạm vương sanh con có thân tướng Phật cho nên đến xin xem. Vua rất vui mừng ra lệnh người hầu bồng Thái tử ra. Người hầu tâu Thái tử còn ngủ. Lúc đó A-tư-đà nói Thánh vương thường khen tất cả thí ra cam lồ không nên ngủ. Liền từ chỗ ngồi đứng dậy đến chỗ Thái tử ẳm trên tay xem trên dưới. Bỗng khóc lớn vua sợ hãi hỏi thầy tướng có gì chẳng lành mà khóc lóc thế. Tiên nhân đáp: Nếu trời có mưa núi lớn Kim cang thì chẳng động một sợi lông há có điều chẳng lành. Thái tử ắt sẽ làm Phật, tôi nghe tuổi đã xế chiều sẽ sanh lên cõi Vô sắc mà chẳng được gặp Phật không được nghe pháp của Ngài nên rất buồn tủi mà khóc thôi. Sằng-đề (Kwàưti) dịch là Nhẫn nhục tiên. Tây Vức Ký nói: Phía Đông thành Tào-yết-ly có tháp lớn là Nhẫn nhục tiên, bị vua Ca-lợi cắt đứt chỗ ở, phát chẩn hỏi phụ hành dẫn Tam Tạng này tướng nhẫn độ đầy đủ. Kim Cang nói nghĩa thế nào? Đáp: Cắt đứt là đồng, chỉ tùy Tạng diễn nói Nhẫn là khác. Tạng gọi là phục hoặc, chính là tu sự nhẫn, diễn gọi là đoạn hoặc, đạt sự tức không, cũng như Nho Đồng thấy Phật Nhiên Đăng thông cả bốn giáo là tướng Hành nhân. A-la-la Ca-ma-la (Àràđa kàràma) cũng gọi là La-lặc-ca-lam. Uất-đà-la-la-ma tử (Rudraka Ramaptra) cũng gọi là Uất-đầu- lam-phất, dịch là Mãnh hỷ hoặc Cực hỷ. Trung A-hàm La-ma Kinh nói: Khi tôi là đồng tử (trẻ con) tuổi hai mươi chín đến chỗ A-la-la Ca-ma-la hỏi rằng nương pháp ông làm phạm hạnh được chăng? Đáp: không gì chẳng được. Thế nào là pháp tự biết chứng? Tiên nói ta vượt qua Thức xứ, được Vô sở hữu xứ, liền trụ Viễn ly xứ, tu chứng được rồi lại đến chỗ tiên mà thuật chỗ được của mình. Tiên hỏi ông đã chứng Vô sở hữu xứ chăng? Chỗ ta đã được ông cũng được chăng. Liền cùng lãnh chúng. Lại từ nghó pháp này chẳng đến trí tuệ chẳng đến Niết-bàn thì đâu thể tìm chỗ an ổn được ư? Thế nên lại đến chỗ Uất-đa-la-la-ma-tử hỏi rằng: Con muốn học pháp của Ngài. Đáp: Không thể được. Hỏi: Tự biết chứng chăng? Đáp: Ta vượt qua vô sở hữu xứ, được phi tưởng định, ta chứng đắc đã lâu do tu mà được, cho đến ãnh chúng v.v… Lại nghó rằng: Pháp này chẳng đến Niết-bàn, liền đến núi Tượng đầu (đầu voi) thôn Bi-la Phạm Chí bên sông Ni liên thiền thì ngồi chẳng đứng dậy, liền được Vô thượng an ổn Niết-bàn. Bà-tẩu (Vasu) Phương Đẳng Đà-la-ni Kinh nói: Khi ấy Bà-tẩu từ Địa ngục ra, đem chín mươi hai ức tội nhân đến Ta-bà thế giới, mười phương cũng thế. Lúc đó Văn Thù Sư Lợi bảo Xá-lợi-phất rằng: Các tội nhân này khi Phật chưa ra đời đã tạo nghiệp bất thiện mà ở trong thế nên, nhân Hoa Tụ phóng ánh sáng lớn, nương ánh sáng mà ra v.v… Bà là trời, Tẩu là huệ. Vì sao là người Thiên huệ ở địa ngục chịu khổ. Lại bà là rộng, Tẩu là thông, lại Bà là cao, Tẩu là diệu, Bà là đoạn, Tẩu là trí, Bà là cương, Tẩu là nhu, Bà là từ, Tẩu là bi. Khư-lư-sắc-tra (Kharostha) Tùy gọi là Lưu Thần, chính là tên của Đại Tiên. Thù Chí A-la-bà (ta) (Sucirasa). Tùy gọi là quang vị. Bát-nhã Đăng Luận nói: Thinh văn Bồ-tát, cũng gọi là Tiên. Vì Phật là bậc tôn quí nhất đã có tất cả Ba-la-mật-đa công đức thiện căn đến bờ kia, nên gọi là Đại tiên. NHÂN LUÂN (loài người) Cõi trời mê vui, bốn thù trầm khổ cho nên năm đạo này không phải chỗ thành Phật. Do đó chư Phật chỉ xuất hiện chốn nhân gian. Như Trí Luận nói: Nếu Bồ-tát làm Bát-nhã từ mới phát tâm trọn chẳng đọa vào ba Ác đạo, thường làm Chuyển luân thánh vương nhiều đời (sanh nhiều) ở Dục giới. Vì sao thế? Vì số sắc giới vô sắc nên không thể giáo hóa. Còn ở sắc giới thì nhiều đắm mê vui thiền định, vì không chán ác tâm cũng chẳng sanh dục thiên diệu năm dục nhiều cho nên ở trong loài người đời đời dùng bốn sự mà nhiếp chúng sinh. Cho nên, Luận răn rằng: Ba chúng sanh ác đạo chẳng tu được đạo nghiệp, đã được thân người này, phải gắng tự lợi ích. Xem tập này phải rất cảnh giác. Ma-nâu-xá-nẩm (Manusya) Đại Luận nói dịch là người. Pháp Uyển nói: Người là nhẫn. Ở đời với tình trái thuận hay an nhẫn. Khổng Tử nói: Người là nhân. Lễ Ký nói: Người là tâm của trời đất, đầu mối của năm hành. Chu Thư nói: Chỉ có người linh hơn vạn vật. Khổng An Quốc nói: Sanh ra trong trời đất chỉ có người là quí. Nay bảo nếu không có thiện nhân sao cảm được báo tốt. Nói thiện nhân tức là năm giới: Một là không giết hại thường nghó loài hữu tình đều tiếc thân mạng, tha thứ mình thương xót kẻ khác, còn giận dữ lại hại mạng người. Hai là chẳng trộm cắp, chẳng cho là riêng lấy gọi là trộm cắp, nghĩa đã không phải (vật phi nghĩa) thì cầm lấy. Ba là không tà dâm, con gái có ba hộ pháp cũng cấm, phải giữ gìn lễ tự đề phòng nên cấm lưới dục. Bốn là chẳng vọng ngữ, che thật nói dối, dối mình gạt người, tâm phải ngay thẳng, lời nói thành thật. Năm là không uống rượu, vì rượu khiến tối thần loạn tính, rượu là rất độc tăng trưởng (thêm lớn) ngu si nên không được cấm uống. Nguyên năm giới của Phật vốn dạy loài người, cùng nghĩa năm thường của Nho không khác. Chẳng giết là nhân, chẳng trộm là nghĩa, chẳng dâm là lễ, chẳng vọng ngữ là tín, chẳng uống rượu là trí. Cho nên Phạm Ma Dụ Kinh nói: là Thanh Tín Só phải giữ nhân mà chẳng giết hại, tri túc thì chẳng trộm cắp, trinh khiết thì chẳng dâm, giữ tín thì không dối, tận hiếu thì không say sưa, nên hiểu rõ ý chớ chấp tên có khác. Lại Tứ Phần Luật nói: Thọ năm giới có bốn thứ khác nhau. Chỉ thọ ba qui thì gọi là Vô phần Ưu-bà-tắc, nếu thọ một giới thì gọi làThiểu phần Ưu-bà-tắc, nếu thọ hai, ba, bốn giới thì gọi là Đa phần Ưu-bà-tắc, nếu thọ đủ năm giới thì gọi là Mãn phần Ưu-bà-tắc. Nếu năm giới đều không giữ thì không được sanh làm người. Năm giới này là Đại Tiểu thừa thi la căn bản (giới gốc của cả Đại Tiểu thừa). Kinh nói năm giới là cấm kî lớn trong thiên hạ, nếu phạm năm giới thì ở trời trái với năm tinh, ở đất trái với năm nhạc, ở phương trái với năm đế, ở thân trái với năm tạng. Cho nên khi Phật thành đạo chưa Chuyển pháp luân trước đã vì Đề vị mà truyền trao năm giới pháp gọi là Nhân thừa, đứng đầu năm thừa, do năm giới này mà vượt qua ba đường dữ. Do nghĩa vận tải (chở duyên) mà lập tên thừa. Thầy xưa thông mạn gọi là Nhân thiên giáo. Thiên thai nói không công nói lý phá hoặc chẳng được tên là giáo. Tung phụ giáo biên vãng cứu danh nghĩa, lập hai thứ giáo: Một là thế giáo, hai là xuất thế giáo. Chỉ thừa nhận Thiên gọi là Thế giáo, đây buông thả lòng dạ mà lệ Tổ giáo. Nay nói ba giáo lập tên nghĩa ý đều khác. Lại Nho Tông gọi Giáo Nguyên Mạng Bao nói: Giáo là bắt chước lời nói, trên làm dưới bắt chước theo, chỗ pháp bắt chước này gọi là giáo. Đạo gia nói giáo, thì Lão Tử nói: Ở sự vô vi, giáo làm chẳng nói, đây gọi là nhờ giáo mà hiển bày vô vi. Họ Thích nói giáo, nghĩa của bốn giáo là nói lý năng thuyên, hóa chuyển tâm của vật nên gọi là giáo. Hóa chuyển có ba nghĩa: Một là chuyển ác thành thiện, hai là chuyển mê thành giải (hiểu), ba là chuyển phàm thành Thánh. Chỗ nói Thuyên lý, Tạng thông hai giáo là, nói lý chân đế, Biệt Viên hai giáo là nói lý trung đạo. Bởi vì Như Lai y lý mà lập lời bèn khiến quần sanh tu hành mà chứng lý. Cho nên Phật Thánh giáo là pháp xuất thế, chẳng thể dối lập tên Thế giáo. Hỏi: Đạo trong sở thuyên là chỉ pháp nào? Đáp như Phụ giáo nói: Phàm đạo lý là đến Đạo Thường nghĩa là Đại lý này là Bản Thủy hai giác. Nay bình về Bản Thủy hai giác tuy lý trí viên dung, đã gọi là giác thì chính từ trí mà lập. Do đó kinh nói: Bản giác minh diệu. Lại Bản Thủy hai giác phân biệt mà nói thì thuộc sanh diệt môn. Cho nên: Khởi Tín nói tâm ấy sanh diệt là tướng nhân duyên, hay bày ra tự thể tướng dụng Ma-ha-diễn Lý sở thuyên (nói ra) là thuộc chân như môn. Cho nên Khởi Tín Luận nói: là tướng tâm chân như (tâm ấy là tướng chân như?) tức bày thể Ma-ha-diễn. Cho nên đây đối sự mà chọn lý, nếu ước Tức sự mà nói lý, thì lý tính không có thể, toàn y vào vô minh vô minh không có thể là toàn y vào pháp tính, ở nghĩa của tướng này thì chỉ vô minh là lý sở duyên. Do giáo lý này là giềng mối của tông ta, cho nên nhờ Nhân thừa mà luận ngang khái (tóm tắt). Ma-nâu-dư (Manusya) Văn Cú gọi là Ý, xưa Đảnh Sanh vương mới hóa các việc ra làm đều khéo suy tư khéo nhớ nghó tức Vương giáo, các việc ra làm trước phải khéo suy tư nhớ nghó, nên gọi là Ý. Lại người gọi mạn, trong năm đạo có nhiều mạn. Tỳ-đàm Luận nói; vì sao nhân đạo gọi là Ma-nâu-sa. Đây có tám nghĩa: Một là thông minh, hai là thắng, ba là ý vi tế, bốn là chính giác, năm là trí tuệ tăng thượng, sáu là hay phân biệt hư thực, bảy là Thánh đạo chính khí, tám là nghiệp thông minh sanh ra. Bổ-đặc-già-la (Pudgala) hoặc Phước-già-la hoặc Phụ-đặc-già- la, dịch là Số tủ thú, nghĩa là các hữu tình khởi hoặc tạo nghiệp, tức là hay lấy năm thú ở tương lai, gọi là thú. Xưa dịch là thú hướng, trung ấm hữu tình tiến đến đời trước. Cu-xá nói: Chưa đến chỗ phải đến, chỗ phải đến tức là sáu thú vậy. Lại luận rằng: Tử sanh hai Hữu trong năm uẩn gọi là Trung hữu, cho nên gọi là Thú. Niết-bàn nói Trung hữu năm ấm không phải nhục nhãn thấy được, thiên nhãn mới thấy. Luận Du Già nói: Có tám thứ nhân chấp, cái thứ sáu gọi là Bổ-đặc-già-la, tức là thường lấy các thú, hoặc chết đây sanh kia chính hay sanh tức là nhân chấp (làm người?). Lại dịch là hữu tình hay người. Đại Tỳ-bà-sa luận bảo Phật nói có hai thứ Bổ-đặc-già-la. Hay giữ gìn chính pháp tức là người nói người làm, như người giữ giáo khiến tiếp nối không dứt, hay khiến chính pháp thế tục ở lâu trên đời, như trì chứng khiến tiếp nối không dứt thì hay khiến Thắng nghĩa chính pháp ở lâu. Người trì chính pháp có hai: Một là Trì giáo pháp tức là đọc tụng giải nói kinh luật luận. Hai là Trì chính pháp tức là hay tu chứng Thánh đạo vô lậu. Phác-hộ-thiện-na (Bahujana) hoặc Tát-đa-bà, hoặc Thiền đậu, Thiền đậu, dịch là chúng sinh. Ma-ha-diễn nói: Tức là ý và ý thức tất cả các nhiễm tập hội mà sanh nên gọi là chúng sanh mà riêng tự thể chỉ y tâm làm thể. Kinh Đồng tính, Phật nói: chúng sinh là các duyên hòa hợp nên gọi là chúng sinh. Đó là đất nước lửa gió, không thức, danh sắc, sáu nhập, nhân duyên sanh. Vua Lăng Già nói: Thưa Thế Tôn chúng sinh ấy lấy gì làm gốc, nương đâu mà ở, lấy gì làm nhân. Phật bảo: chúng sinh ấy lấy vô minh làm gốc, y ái mà ở (trụ), lấy nghiệp làm nhân. Vua Lăng Già thưa Thế Tôn nghiệp có mấy thứ? Phật nói: Nghiệp có ba thứ là thân khẩu ý - Lại Thích luận nói: chúng sinh có ba nhóm: Một là chính định ắt vào Niết-bàn, hai là Tà định ắt vào ác đạo, ba là Bất định. Hay phá điên đảo gọi là chính định, chẳng thể phá điên đảo thì gọi là Tà định, được nhân duyên thì phá được, không có nhân duyên thì không phá được gọi là Bất định. Bộ-sa (Purusa) hoặc Phú-lâu-sa, gọi đúng là Phú-lô-sa dịch là truyền pháp. Đại Tải Lễ nói: Trượng là lớn dài, phu là nâng là nói lớn chế vạn vật, lấy đạo nâng đỡ tiếp (giúp). Mạnh Tử nói: Phú quí chẳng nên dâm, bần tiện chẳng nên lo, oai vũ nên khuất, đấy gọi là Đại Trượng phu. Lại dịch là Só phu. Truyện nói: Thông cổ kim biện được chăng, đó là só. Số đầu là một, ở cuối là mười. Khổng Tử nói: Suy một họp mười là só. Thi Truyện nói: Só là Sự. Bạch Hổ Thông nói: Só là gọi người nhận sự (lãnh việc) Chu Lễ nói: Thiên tử có Nguyên só, Trung só, Hạ só. Niết-bàn nói là Đại thừa điển có tướng Trượng Phu gọi đó là Phật tính nếu người chẳng biết thì Phật tính ấy không có tướng nam đều gọi người. Ca-la-việt (Grhapati) Đại Phẩm Kinh gọi cư só là đó. Lăng Nghiêm nói: Thích nói danh ngôn, thanh tịnh tự ở Phổ Môn Sớ nói: Chứ nhóm nhiều tiền của, làm nghề giàu sang gọi là cư só. Bà-la (Bàla) Tùy gọi là mao đạo nghĩa là làm tâm bất định cũng như sợi lông nhỏ theo gió bay vô định. Ngụy Kim Cương gọi là Mao đạo phàm phu. Ứng Pháp sư nói: Tiếng Phạm là Phược-la, dịch là mao, Ba-la dịch là ngu. Tiếng Phạm giống nhau nên người dịch lầm lẫn. Gọi đúng là Bà-la-tất lật khác ngật na dịch là ngu dị sanh, là ngu si tối mù không trí tuệ, chỉ khởi ngã kiến chẳng sanh vô lậu. Cũng gọi là Anh ngu phàm phu. Phàm phu là dịch nghĩa, tiếng Phạm là Bà-la-tất-lợi-tha-già- xà-na, dịch là tiểu nhị biệt sanh, vì ngu si như trẻ con chẳng đồng thánh sanh. Ổ-ba-đề-thước (?). Dịch là phụ mẫu. Dương Tử nói: Cha mẹ con (con của cha mẹ là) là trời đất cho, không có trời làm sao sanh (sống?) không có đất lấy gì có hình. Chích hoa nói trời treo tượng, đất chứa hình, cha thọ khí mẹ hóa thành. Thi nói thương thay cha mẹ sanh ta khổ nhọc, không cha thì nương đâu, không mẹ cậy ai, ra thì hàm tuất vào thì mị chí. Cha hề sanh ta, mẹ hề nuôi ta, vỗ về ta nuôi lớn ta, đoái hoài chăm sóc ta, ra vào vì ta muốn báo đáp ân sâu thì kêu trời sao thấu. Kinh Phạm Võng nói: Hiếu thuận với cha mẹ và Sư tăng Tam bảo. A-ma (Ambà) dịch là nữ mẫu. Tô-phất-trất-lị (Sustrì) dịch là Thiện nữ. Ba-đế (Pati) dịch là phu chủ (chồng) Đại luận nói tất cả người nữ không chỗ trình bày thì bị tên ác (xấu) thể của người nữ nhỏ thì theo cha mẹ, lớn thì theo chồng, già thì theo con. Bà-lê-da (Bhàryà) dịch là phụ (đàn bà) Thuyết Văn nói: Phụ (vợ) cùng mình ngang nhau. Phụ là phục, do người nữ cầm chổi quét tước. Hoặc gọi là mệnh phụ là chồng tôn quí vợ để trong nhà sang trọng (tôn vinh là vợ chính). A-na-tha (Anartha) dịch là phi chính kî nhân (không phải là người hầu?). Đế Vương Lược Luận nói quen ở với người chính chẳng thể không chính. Cũng như sanh trưởng ở đất Tề chẳng thể chẳng nói tiếng nước Tề. Quen ở cùng người bất chính chẳng thể không bất chính, cũng như sanh trưởng ở đất Sở chẳng thể chẳng nói tiếng Sở. Dịch nói quân tử do luôn Đức Hạnh quen với giáo sự (việc dạy dỗ) - Tiều Tử nói: Phàm đạo giao nhân cũng như lụa trắng, nhuộm son thì đỏ, nhuộm chàm thì xanh. Đại Đái Lễ nói: Cùng quân tử dạo chơi như vào vườn lan, lâu mà chẳng nghe thơm thì cũng hóa, cùng người bất thiện ở chung thì như vào chợ cá, ở lâu không biết hôi thúi cũng là biến (lạ?) vậy. Cưu-na-la (Kunara), dịch là ác nhân, cũng gọi là bất hảo nhân. Chúa Thục khi lâm chung gọi Thái tử bảo rằng: Chớ thấy ác nhỏ mà làm, chớ thấy thiện nhỏ mà không làm. Khổng Tử nói: Thấy thiện như chẳng bằng, thấy ác như rờ nước sôi. Thượng Thư nói: Bày thiện dấu ác là tiếng gió thổi qua cây (gió có tiếng do có cây?) Tăng tử nói: Người ưa làm thiện, phước dẫu chưa đến thì họa đã đi xa. Người làm ác, hung chưa đến mà phước đã đi xa. Biện Ma Thư nói: Thấy thiện mà nuôi lớn thì như mưa sương thấm cỏ cây, gặp ác mà dứt bỏ thì như điều hâu rượt đuổi chim sẻ. Mạ Ý Kinh nói: Người làm thiện ác có bốn Thần biết rõ: Một là Thần đất, hai là Thiên thần, ba là người bên cạnh (bàng nhân?), bốn là ý mình. Kinh Niết-bàn nói: Có mười sáu thứ ác: Một là vì lợi mình thăn nuôi ăn uống dê nai để mập mình và buôn bán. Hai là vì lợi mua vật về rồi giết mổ. Ba là vì lợi nuôi heo chó cho mập mà đem bán. Bốn là vì lợi mua vật đã bị (về) giết mổ. Năm là vì lợi nuôi lớn trâu bò cho mập rồi đem bán. Sáu là vì lợi mua vật về giết mổ. Bảy là vì lợi nuôi gà vịt khiến mập rồi đem bán. Tám là vì lợi mua về rồi giết mổ. Chín là câu cá. Mười là săn bắn. Mười một là cướp giựt. Mười hai là nem chả. Mười ba là giăng lưới bắt chim bay. Mười bốn là hai lưỡi. Mười lăm là làm ngục tốt. Mười sáu là búa chú. Cứu-ma-la-phù-đa (Kumàrabhùta), Ứng Pháp sư nói là gọi chung người từ tám tuổi trở lên đến chưa cưới gả. Câu-ma-la (kumàra) Tây Vức Ký nói: Đường gọi là Đồng tử. Thích Danh nói: Mười lăm tuổi gọi là Đồng. Cho nên lễ có Dương Đồng. Trâu dê không sừng gọi là đồng, núi không cỏ cây gọi là đồng là nói người chưa độ mũ (chưa trưởng thành). Bát-tra (Paindaka), nên gọi là Bát-trà-ca dịch là Huỳnh Môn Phiến-đê (Samtha - Samda) hoặc Phiến-trà, dịch là Sanh thiên nhiên. Sanh là nam căn chẳng đủ. Lưu-noa. Dịch là kiện hoặc kịch, dùng dao bỏ thế lực. Y-lê-sa-chưởng-noa (Trsya), dịch là đố (ganh ghét) nhân thấy người khác dâm mới có tâm ganh dâm khởi lên. Bán-trạch-ca (Pamdanaksa) dịch là biến, đời này sanh biến Bát-xoa, dịch là nửa tháng nam nửa tháng chẳng nam, đây là trích từ Tứ Phần Luật. Phiến-đề-la (Saưdàli) dịch là Thạch nữ. Không có căn nam nữ. Bàn Đại Từ (Paưđakaputra) đây là trích từ Lăng Già, như Đại Thừa Nhập Lăng Già thì gọi là Thạch Nữ Nhi. Đà-tố-ca (Dàsaka) dịch là nô. Thuyết Văn nói: Nam bị tội gọi là nô, nữ bị tội gọi là tỳ. Phong Tục Thống nói: Luật xưa không có nô tỳ, tức phạm sự tang, thì bị tội tang một nhập quan là nô tỳ. Bắt thì trốn mất, bắt được là nô tỳ. Chiên-đà-la (Camđàla) dịch là Đồ, gọi đúng là Chiên-trà-la dịch là nghiêm xí, nghĩa là nghiệp ác tự nghiêm, khi đi thì phải lắc chuông, cầm gậy trúc có cấm cờ, nếu không thế thì vua bắt tội. Pháp Hiển Truyện nói: gọi là người ác, cùng người ở riêng, vào thành thị thỉ gõ gậy trúc để báo hiệu đề người tránh đi, nếu đụng chạm thì người đều sợ sệt. Lâu-do - dịch là ái, là tên của lực só. Bàm-bà - dịch là người ăn thịt chó. Yết-só-na - dịch là người nấu thịt chó. Tát-câu-lô-đề - dịch là bán họ. Kiên-đê - dịch là Tục (nối) Na-la (Nara) dịch là Thượng kî hý. <詞>TRƯỞNG GIẢ. Ở Tây Vức kẻ hào tộc buôn bán lớn nhiều tiền của đều gọi là Trưởng giả. Cõi này không thế bởi để gọi người có đức. Phong Tục Thông nói: Cuối xuân thu có Trịnh Hiền Nhân làm một thiên hiệu là Trưởng giả, bảo tuổi già thích đức việc lớn gọi đó là Trưởng giả. Hàn Tử nói: Ở trong hậu gọi là Trưởng giả. Thiên Thai Văn Cú nói: Trưởng giả có mười đức: Một là dòng họ sang quí, họ là hậu duệ của Tam Hoàng Ngũ Đế là nha Tả Điêu hữu sáp. Hai là vị cao vị thì phụ bậc, thừa tướng Diêm Mai A Hành. Ba là giàu có lớn, giàu thì lăng đồng hang vàng, phong nhiêu xỉ mị. Bốn là oai mãnh, oai thì nghiêm sương long trọng bất túc mà thành. Năm là Trí Nhiễm Trí thì lòng như võ khố, quyền ký siêu bạt. Sáu là tuổi già, tuổi già thì thương thương lăng lăng vật nghi sở phục. Bảy là hạnh tịnh, hạnh thì ngọc khuê không dấu vết, việc làm đúng như lời nói. Tám là Lễ Dị, lễ thì tiêt độ tường tự, đời thử thách trông vào. Chín là Thượng thán trên thì một người được kính. Mười là Hạ qui, dưới thì bốn biển đều về. Tịnh Danh Sớ nói: Người cao quí trong nước gọi là Trưởng giả, ắt là hàng quí tộc, tuy là quí tộc nhưng tước vị hèn kém chẳng xứng là tính vọng tuy là vị cao, nghèo mà không tài đức, đời chẳng trọng, tuy tiến của chứa đầy mà vô sủng bất oai vật không kính sợ. Tuy có thế lực lớn mà thần dụng án đoản người trí khinh khi. Tuy có thần giải minh giám mà tuổi còn trẻ vật tình chẳng vái chào tuy tuổi già dáng sáng nhưng hạnh trong chứa ác bị người chê khinh. Tuy hạnh không tỳ vết mà ngoài thiếu lễ nghi không thể kính trọng. Tuy tới lui làm nghỉ, nếu người trên chẳng tin thì danh không đồn ca. Tuy hào quí ca vịnh mà vô ân với người dưới thì vật không sùng kính. Cho nên đủ mười đức mới gọi là Trưởng giả. Tu-đạt-đa (Sudatta) cũng gọi là Tu-đạt-đa, Bà Tu-đạt-đa. Tây Vức Ký nói: Đường gọi là Thiện Thí hay Lạc Thí. Xưa gọi là Tu-đạt là sai, gọi đúng là Tô-đạt-đa, tức hơn quân vương đại thần, nhân mà thông mẫn, chứa mà bay tan vì cứu giúp kẻ nghèo đói mồ côi cô độc. Lúc đó khen đức ông gọi là Cấp Cô Độc. Mạnh Tử nói: già mà không vợ gọi là quan, già mà không chồng gọi là quả, già mà không con gọi là độc, nhỏ mà không cha gọi là cô, bốn thứ này là cùng dân trong thiên hạ. Nay Trưởng giả này cấp thí cho người cô độc nên gọi là Cấp Cô Độc. Bân Hằng Trực Ni, gọi đúng là A-na-tha Tân-trà-đa Yết-lị-ha- bạt-để - A-na-tha gọi là vô y (không nơi nương tựa) cũng gọi là cô độc. Tân-trà-đa dịch là Đoàn thí, ưa thích cho kẻ cô độc nên lấy làm tên (Anathapimdada-grapati) Kỳ-bà (Jìvàka)h gọi Kỳ Vực, hoặc Phược-ca dịch là năng hoạt, cố hoạt là con của vua Ảnh Kiên Thiên Kiên các anh do Nại nữ sanh ra, ra thai thì kim ống đồng túi thuốc bị mẹ ghét liền dùng áo trắng mà gói lại bỏ trong ngõ hẻm. Lúc đó Úy vương ngồi xe ở xa trông thấy bèn hỏi. Có người đáp rằng: Đấy là em bé, hỏi chết hay sống. Đáp: Còn sống (cố hoạt). Vua bèn sai người đem sữa nuôi, sau trở lại cho bà mẹ. Tứ Phần Luật nói: Kỳ-bà trước đến nước Bắc-xoa-thi-la họ A-đề-lê tên là Tân-ca-la mà học nghề thuốc trải bảy năm, ông thấy đã dùng lồng và đào hang chứa cỏ thuốc, khiến ở nước Đắc-xoa-thi-la trên khắp một do tuần mà tìm kiếm thảo dược, có thứ không phải là thuốc đem đến Kỳ-bà theo lời dạy khắp một do tuần mà tìm kiếm, thấy cây cỏ đều phân biệt không có cơ nào chẳng phải là thuốc. Thầy bảo ông nay có thể ra đi, nghề thuốc đã thành, ta nếu chết rồi ắt có ông nối nghiệp - Kỳ-bà Kinh nói: Kỳ-bà đồng tử ở đống củi, thì thấy trong bó củi lớn có một cây phát ra ánh sáng rực rỡ gọi là Dược vương nếu người bịnh dựa vào thì chiếu thấy tất cả bịnh trong thân. Cù-ương-la dịch là Thủ hộ tâm, xưa dịch là Cù-sư-la dịch là Mỹ âm. Đô-già (Ygra), dịch là oai đức. Sách-đàn-na, dịch là Hộ Di. <詞>NGOẠI ĐẠO. Câu-xá Huyền nghĩa nói: Học trái đế lý, theo vọng tình kình mà không tự nội giác, gọi là ngoại đạo. Quân Thánh Luận nói: Đám người che lý mê đắm ngoại giáo. Biện chính Luận nói: Có chín mươi lăm thứ nổi tiếng ở Tây Vức, ba mươi sáu bộ làm loạn ở Đông quốc (Trung Quốc) Thùy Dụ nói theo kinh chín mươi sáu ngoại đạo thì một đạo giữa là chính tức là Phật, chín mươi lăm thứ kia đều tà. Hoa Nghiêm Đại Luận nói: Chín mươi sáu thứ đều tà, lấy đại mà bỏ tiểu. Bách Luận nói: Thuận đạo Thinh văn đều tà. Bà-la-môn (Bràhmana) Phổ Môn Sớ nói: Dịch là Tịnh Hạnh là dòng họ từ kiếp sơ ẩn nhàn trong sơn dã, nên người gọi là Tịnh Hạnh. Triệu nói: Tần gọi là ngoại ý, thứ này có kinh thư riêng dời nối nhau học đạo làm nghiệp, hoặc tại gia hoặc xuất gia, cậy nhờ đạo thuật ấy là người ngã mạn. Ứng Pháp sư nói đây là lầm gọi tắc, gọi đủ là Ba-la- hạ-ma-noa, nghĩa là học nối pháp Phạm Thiên, dòng giống ấy tự bảo là sanh ra từ miệng Phạm Thiên, cao quí nhất trong bốn dòng họ (giai cấp) riêng lấy tên Phạm. Chỉ có ở năm Thiên Trúc các nước khác thì không. Phạm Chí trong các kinh tức đồng tên này, dịch đúng là Tịnh Duệ gọi là dòng giống của Phạm Thiên. Nhất-xiển-đề (Icchaưti) Đại Chúng Sớ Vấn phẩm nói: Thuần Đà hỏi Phật: Nhất Xiển Đề là nghĩa gì? Phật bảo Thuần Đà rằng: Nếu có Tỳ-kheo Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di phát ra lời nói thô ác chê bai chính pháp, tạo các nghiệp nặng trọn không hối cãi, tâm không hổ thẹn, như những người này là thuộc (đến với) Nhất Xiển Đề. Nếu phạm bốn trọng tội, làm tội ngũ nghịch, mà tự biết phạm như thế là tội nặng mà tâm đầu tiên không sợ sệt xấu hổ chẳng chịu phát lồ. Đối với chính pháp của Phật không có tâm giữ gìn tạo dựng. Mà khinh khi chê bái nói ra nhiều lỗi lầm. Những người như thế cũng thuộc (đến với) Nhất Xiển Đề. Nếu lại nói năng không có chúng Phật pháp, những người như thế cũng thuộc (đến với) Nhất Xiển Đề - Phạm Hạnh phẩm nói Nhất Xiển Đề là không tin nhân quả, không có xấu hổ, không tin nghiệp báo, không thấy đời hiện tại và vị lai không gần gũi bạn lành, chẳng theo lời răn dạy của chư Phật, những người như thế gọi là Nhất Xiển Đề. Đức Vương phẩm nói: Nhất Xiển là tin, Đề là chẳng đủ. Tin chẳng đủ gọi là Nhất Xiển Đề. Nhập Lăng Già kinh nói: Nhất Xiển Đề có hai thứ: Một là đốt cháy, làm hết tất cả chúng sanh giới nguyên. Đại Huệ hỏi vì sao thiêu đốt tất cả thiện căn, nghĩa là chê bai Tạng Bồ-tát, nói rằng: Không phải là tùy thuận Tu-đa-la Tỳ-ni giải thoát, bỏ các thiện căn nên không được Niết-bàn. Đại Huệ thương xót chúng sinh, làm hết giới nguyện chúng sinh ấy là Bồ-tát. Bồ-tát mới phương tiện làm nguyện. Nếu các chúng sanh chẳng nhậäp Niết-bàn thì ta cũng chẳng vào Niết- bàn. Lại tiếng Phạm gọi là Xiển-để-ca dịch là Đa-tham - A-xiển-để-ca dịch là vô dục, A-điên-để-ca dịch là Cực ác - Duy thức khu yếu nói: Một gọi là Nhất Xiển Đề Ca là nghĩa lạc dục, ưa thích sanh tử. Hai gọi là A-xiển-để-ca là nghĩa chẳng lạc dục, là không ưa Niết-bàn. Ba gọi là A-điên-để ca, gọi là tất cánh (rốt ráo) vì rốt ráo không có tính (vô tính) Niết-bàn, cái khác gọi Nhất-xiển-đề-ca tức là thiêu đốt tất cả thiện căn. Hai là A-xiển-để-ca tức là Bồ-tát Đại Bi. Ba là A-điên-để-ca tức là vô tính xiển đề - Nên khu yếu nói: Du già Duy thức nói ở vô tính một thứ xiển đề (nói là vô tính xiển đề?) Lại nói: Không có chủng tính hiện phải rốt ráo cả hai đều chẳng thành. Ta-tỳ-ca-la - Cũng gọi là Kiếp Tỳ-la (Kapila) dịch là Kim Đầu hoặc Huỳnh Phát, ăn gạo tề ngoại đạo (rún). Ứng Pháp sư nói: Xưa nói là ăn gạo vụn, là ngoại đạo tu khổ hạnh, chắp tay ngón cái và ngón thư ba để cột, vật đến nhà người mà xin gạo giả sàng (xin lấy cám (tấm)) lấy ngón tay nhúm lấy gạo nát (tấm) để trong bàn tay tùy nhiều ít mà làm thức ăn. Nếu nguyên hạt thì không lấy. Cũng gọi là hạnh Phù lưu. Ngoại đạo nhặt gạo như phù cưu đi. Cù-gia-li (kukàlin) cũng gọi Cù-ba-li hoặc Cu-ca-lị, dịch là Ác thời già, là đệ tử của Điều Đạt, nhân chê Thân Tử Mục-liên, vua Phạm cùng Phật quở trách, chẳng chịu thân ghẻ lở mà chết đọa vào địa địa ngục. Duyên rút từ Đại Luận mười ba. Tô-khí-đát-la, dịch là Thiện Tinh, là anh của (thứ huynh) La-vân em họ của Phật. Thứ nhi nên gọi là con. Phật và Ca-diếp đến chỗ Thiện Tinh, Thiện Tinh xa thấy liền sanh tâm tà ác, nên đang sống mà đọa vào ngục A-tỳ. Ly-xa (mleccha) dịch là Bì Bạc, lại gọi Đồng Bi, hiện tại gọi Di- lệ-xa, dịch là Tiên Tộc Vương hoặc Biên Địa Chủ, hoặc gọi Truyền Tập Quốc chính nước ấy nghĩa là nhượng. Năm trăm trượng già kịp làm quốc chủ nên gọi là Truyền Lập Quốc Chính, ra ngoài làm Biên Địa Chủ (chúa vùng Biên Địa) lại gọi là Biên Di, không ai biết - Tây Vức Ký nói tên là Lặc Chiêm Bà Tử, xưa lầm gọi là Ly-xa. Di-lệ-xa (Mleccha) - Hưng Phước gọi là Ác Kiến. Tư Trung nói phải là Biên Tà Bất chính Kiến, chết rồi đọa vào biên địa hạ tiện. Trường Thủy nói: Người này ưa cấu uế, cũng gọi là Miệt-lệ-xa, Di-ly- xa. Diền-nhã-đạt-đa (Yajóadatta) Từ Thọ. Chứng Chơn nói: Người này từ miếu thần xin ăn được, nên gọi Từ Thọ. Ca-tỳ-la (Kapila). Lương gọi là sắc xanh, cũng gọi là Kiếp-tất-la, dịch là sắc vàng. Phụ Hành nói: Dịch là Huỳnh đầu, đầu như sắc vàng ròng. Lại nói đầu mặt đều như sắc vàng ròng. Tạo Tăng Khu Luận đủ như dưới nói. Bạt-xà dịch là tránh. Thiện Kiến Luật nói: Vua Tỳ-xá-ly và phu nhân khi chưa lên ngôi thì cùng trẻ chăn trâu ra thành dạo chơi, bèn lấy chân đạp cậu bé chăn trâu, cậu bé khóc nói với cha mẹ rằng: Đây không cha mẹ con mà chân đạp con. Cha mẹ bảo thì con tự tránh đi. Nhân trò chơi này gọi là Bạt-xà, nên dịch là tránh. Sau khi Phật mất một trăm năm Bạt-xà Tỳ-kheo bố thí mười việc. Xá-na-ca-na Bạch ở bảy trăm đến Tỳ-xá-ly, kết lại Tỳ-ni nêu lỗi Bạt-xà. Tát-giá-ni-càn (Satyanirgraintha). Dịch là Hy Hệ là ngoại đạo tự chịu đói. Ni-càn cũng dịch là Bất Hệ, nhổ tóc ở truồng không chứa nhóm gì. Tiên ni (Senika), cũng gọi Tây Nhó Ca, dịch là ngoại đạo có lính. <詞>LỤC SƯ. Ngài La-thập nói: có ba thứ Lục Sư họp làm mười tám bộ: Một là tự xưng Nhất thiết trí. Tứ Giáo nghĩa nói: Tà tâm thấy lý phát rà tà trí, biện tài vô ngại. Hai là được thần thông. Tứ Giáo nghĩa nói: Được thiền thế gian phát ra năm thần thông, cũng gọi là Tự Bi Nhẫn Lực, dao cắt hương thoa tâm không ưa ghét. Ba là tụng bốn kinh Vi Đà. Tứ Giáo nghĩa nói: Bác học đa văn, thông suốt bốn Vi Đà mười tám đại kinh, kiết hung thế gian thiên văn địa lý thuốc men bói toán không gì chẳng biết. Tịnh Danh Sớ nói: Đem ba thứ này mà ước với sáu sư, một sư có ba, 3 x 6 = 18 thứ ngoại đạo Sư. Phụ Hành nói: Nguyên tổ của Sư là Ca-tỳ-la, phân nhánh khác nhau bèn thành sáu tông, nên nay tập họp lại nêu có sáu Sư. Phú-lan-na Ca-diếp (Pùrama Kàóyapa). Ngài La-thập nói: Ca- diếp là họ mẹ, Phú-lan-na là tên. Người này khởi tà kiến bảo tất cả pháp không có, như hư không, chẳng sanh diệt. Triệu nói người này khởi tà kiến bảo tất cả pháp là đoạn diệt, tính không chẳng đạo vua tôi cha con trung hiếu. Sự Sao nói là sắc không ngoại đạo, vì ngoại đạo dùng sắc phá dục hữu, dùng không phá sắc hữu, gọi là không chí cực (không rốt ráo). Mạt-ca-lê Câu-dư-lê (Makkari-Gosàlìputra) Mạt-già-lê dịch là không thấy Đạo. La-thập nói: Mạt-già-lê là tên Câu-dư-lê là mẹ. Triệu nói: Người này khởi kiến bảo chúng sinh khổ vui không nhân làm mà được, đều do tự nhiên. Tịnh Giác bảo: Cho là tự nhiên thì cũng là đoạn diệt tự nhiên, là đó, tự như thế. Bà-sa nói: Pháp phải như thế không thể sửa đổi, chẳng thể trưng cật, là nghĩa pháp nhó, tự nhiên cùng pháp nhó đồng nhau. Sa-xà-dạ Tỳ-la-chi (Saưjayin-Vairadìputra) Sa-xà-dạ dịch là chính Thắng. Tỳ-la-chi dịch là chẳng làm La-thập nói: Sa-xà-dạ là tên, Tỳ-la-chi là tên mẹ người này khởi kiến bảo phải trải lâu sanh tử qua nhiều kiếp số sau mới tự hết các khổ. Triệu nói: Người này bảo Đạo không cẩn cầu phải trải qua kiếp số sanh tử, tự được khổ hết như quang ổng chỉ tròn từ núi cao hết chỉ thì tự ngừng đâu cần cầu. Sớ lại nói đủ tám vạn kiếp thì tự nhiên được đạo. A-kỳ-đa-xí-xa Khâm-ba-la (Ajita-kézakaưbala). Ngài La-thập nói: A-kỳ-đa-xi-xá là tên, Khâm-bà-la là thô ý (áo xấu), người nay khởi tính không phải nhân mà kể nhân mặc áo da khô, và nhổ tóc đốt hưởi, cùng các khổ hạnh làm đạo. Triệu nói: Xí-xá Khâm-bà-la là áo thô xấu, người này mặc áo xấu, tự nhổ tóc năm nóng đốt thân lấy khổ hạnh làm đạo, bảo thân này chịu khổ sau thân này mới luôn vui. Ca-la-cưu-đà Ca-chiên-diên (Krakuda-kàtyàyana). Ca-la-cưu-đa dịch là ngưu lãnh. Ca-chiên-diên dịch là tiển phát (cắt tóc). Triệu nói: Họ là Ca-chiên-diên tên là Ca-la-cưu-đà. Người này bảo các pháp có tướng cũng không tướng. Ni-kiện-đà-nhã-đề-tử v.v… (Nirgramtha-Jóàtiputa). Ni-kiện dịch là ly hệ. Triệu nói: Ni-kiện-đà là rút từ tên chung xuất gia như Phật pháp xuất gia gọi là Sa-môn. Nhã-đề là tên mẹ. Người này bảo tội phước khổ vui vốn có nhân nhất định, cần phải nhận chịu, không phải làm Đạo mà dứt được. Phụ hành dẫn Triệu và Thập Chú, cùng kinh Niết-bàn để luận đồng khác. Người học sau nên xem kỹ. Thiên Thai Tứ Niệm Xứ nói: Trong A-hàm nói ba thứ niệm xứ gọi là tính cộng duyên, để đối phá ba ngoại đạo này. Có người dịch là tính niệm xứ nghĩa là quán không sanh diệt gọi là tướng, thâm tế quán vô sanh thấy tế pháp đều là khổ đế sanh tử nên gọi là tính niệm xứ. Có người chuyên dùng huệ số duyên với vô sanh không lý mà phát chân đoạn kiết, được Huệ giải thoát La-hán, đối phá tà nhân duyên, không chấp tính nhân duyên điên đảo là Nhất thiết trí ngoại đạo vậy. Cộng niệm xứ là dùng thiền định trợ đạo, chính trợ họp tu cũng gọi là Sự Lý cộng quán, phát được vô lậu ba minh sáu thông, thành cụ giải thoát La-hán, đối phá căn bản ái mạn, được năm thần thông ngoại đạo. Duyên Niệm Xứ, là duyên với ba Tạng mười hai Bộ của Phật cùng văn ngôn và tất cả danh tự thế gian. Chỗ được duyên rất rộng, không phải như chi Phật ra đời không có Phật chẳng học được thinh giáo, chỉ dùng thần thông để làm vui chúng sanh, chẳng thể nói pháp. Người duyên với niệm xứ hiểu rõ căn tính, khéo biết bốn biện tài có thể tập hợp pháp tạng, thành Vô Ngại Đại La-hán, đối phá thế gian Vi Đà ngoại đạo. <詞>QUỈ THẦN. Trịnh Huyền nói: Tinh khí của Thánh nhân gọi là Thần, Tinh Khí của Hiền nhân gọi là quỉ. Thi Tư nói: Thiên Thần (thầm của rơi) gọi là Linh, Địa Thần (Thái của đất) gọi là Kỳ Nhân thần (Thần của người) gọi là quỉ. Quỉ tức là qui (về). Cho nên người xưa lấy người chết là người về. Bà-sa nói: Quỉ là úy (sợ), nghĩa là hư kiếp nhiều sợ. Lại nói là oai là có oai hay khiến người khác sợ. Lại mong cầu gọi là quỉ nghĩa là quỉ đói kia luôn từ người khác mà mong cầu ăn uống để nuôi sống tính mạng. Quang Minh Sớ nói: Thần là tài năng sức lớn thì có thể dời non lấp bể, sức nhỏ thì có thể ẩn hiện biến hóa. Triệu Sư nói: Thần chịu cả báo thiện ác có hình hơn người mà thua trời thân nhẹ khó thấy. Tịnh Danh Sớ nói: Đều thuộc quỉ đạo. chính Lý Luận nói: Quỉ có ba thứ: Một là Vô tài quỉ, cũng không có phước đức, không được ăn uống. Hai là Thiểu tài quỉ là có ăn uống một ít diệu tịnh (ngon sạch). Ba là Đa tài quỉ, có ăn uống nhiều diệu tịnh. Ba thứ này lại đều có ba, loại Vô tài có ba: Một là quỉ có miệng đuốc lớn, nghĩa là đuốc lớn thiêu đốt thường từ miệng ra. Hai là quỉ cổ nhỏ như cây kim, bụng to như núi, cổ nhỏ như lỗ kim. Ba là quỉ miệng thúi, trong miệng lở lói hôi thúi tự chịu khổ dữ quỉ Thiểu tài cũng có ba: Một là quỉ lông như kim, lông như kim bén nhọn luôn đâm vào mình. Hai là quỉ lông thúi lông bén mà thúi. Ba là quỉ có bướu cổ to đầy máu mủ. - Quỉ Đa tài cũng có ba: Một là Khắc khí quỉ, thường được cúng tế các vật dư thừa bỏ đi. Hai là Đắc thất quỉ là thường được ăn đồ dư thừa trong ngõ hẻm bờ đất. Ba là Thế lực quỉ là Dạ-xoa La-sát, Tỳ-xá-xà v.v… rất giàu có vui vẻ giống như trời người. chính Lý Luận nói: Các quỉ bản xứ, các cõi Diêm Ma Vương từ đây mà lần lượt tản mát khắp các phương khác. Trường A-hàm nói: Tất cả nhân dân, ở các nhà cửa trong các ngõ hẻm đường xá trong chợ búa quán xá, ở các lò giết mổ và nới nghĩa địa đều có quỉ thần, không có không (trong). Phàm các quỉ thần đều theo chỗ nương cậy lấy đó làm tên. Nương vào người thì có tên người, nương vào thôn xóm thì có tên thôn xóm, nương vào sông thì có tên, tất cả cây cỏ rất nhỏ như cây trục xe thì đều có quỉ thần nương tựa. Thể Phẩm nói: Quỉ lấy một tháng ở nhân gian làm một ngày, nhân đó mà có tuổi trăng nó sống năm trăm năm ấy là do tâm siễm cuống (nịnh dối) làm tội ngũ nghịch thập ác thấp kém nhấp thì đều cảm lấy thân loài quỉ này. Diêm Ma (Yama) hoặc gọi Viêm La, dịch là Tịnh tức vì hay dứt việc tạo ác và nghiệp bất thiện. Hoặc dịch là giác, tức ngăn không tạo ác. Hoặc gọi Diêm-ma-la. Kinh Âm nghĩa Ứng nói: Dạ-malô-ca, dịch là song (cả đôi) là tổng ty thế quỉ quan, cũng gọi là Diêm-la Diệm Ma là đổi tiếng gọi, cũng gọi là Diêm-ma-la xã, dịch là Song Vương, anh và em gái đều làm chủ địa ngục, anh trị việc nam em gái xét việc nữ nên gọi là Song Vương. Hoặc dịch là khổ vui đều chịu nên gọi là song. - Bà Sa Hiển Dương và chính pháp Niệm đều nói thuộc về quỉ thú, Du già nói nó thuộc về địa ngục. Lại Du Già Luận hỏi: Diêm-ma vương làm tổn hại hay làm lợi ích mà gọi là Pháp vương? Đáp làm lợi ích chúng sinh, nếu các chúng sanh bị bắt đến chỗ vua thì khiến nhớ nghó bèn hiện ra thân giống nó bảo rằng: Ông đã tự làm thì phải chịu quả. Do cảm Na-lặc-ca (?) nghiệp mới lại không chứa nhóm, cho nên nghiệp hết rồi đã thoát Na-lạc-ca mà làm Diệm-ma. Do hay làm lợi ích chúng sanh nên gọi là Pháp vương. Luận nói: Dưới Thiệm Bộ Châu này quá năm trăm du thiện na có nước Diệm-ma vương rộng dài bằng nhau. Thiểm-đa (Pizàca), dịch là quỉ. Lập Thế Luận: Quỉ đạo tên là Thiểm-đa, vì vua Diệm-ma-la tên là Thiểm-đa, nó (loài này) cùng vua đồng loại nên gọi là Thiểm-đa. Xà-lê-di (Carita) dịch là Tổ phụ. Văn Cú nói: Là chúng sinh đầu tiên sanh vào đạo ấy nên gọi Tổ phụ, kẻ sanh sau cũng gọi là Tổ phụ. Diệu Lạc nói: Cũng gọi Tổ phụ của kẻ sanh sau vậy. Tiết-lệ-đa (Preta), Ứng Pháp sư nói: Gọi đúng là Bế-lệ-đa dịch là Tổ phụ quỉ, hoặc gọi ngạ quỉ, ngã quỉ hèn kém kinh Khổng Tước gọi là Tỳ (Bể)-lệ-đa. Phú-đơn-na (Pùtanà) dịch là Xú ngạ quỉ, là quỉ làm bịnh sốt nóng, cũng gọi là Phú-đa-la. Ca-tra-phú-đơn-na (Katapùtanà) dịch là Ký xú ngạ quỉ. Cưu-bàn-trà (Kuưbhàinda) cũng gọi Bàn-tra, Cưu-bàn-tra dịch là Ung hình. Xư gọi là Đông qua, Thần này âm như đông qua, đi thì để trên vai, ngồi thì soẹc ra tức Yểm mị quỉ, tiếng Phạm là Ô-tô-mạn dịch là Yểm. Tự Uyển nói: Yểm mất trong chẳng rõ Thương Hiệt thiên nói: Phục họp lòng người gọi là Yểm Luận Hành nói: Nằm chán chẳng thức dậy. Tự bốn gọi là Yểm, người sau thêm vào chữ quỉ. Tỳ-xá-xà (pisàca) cũng gọi Tỳ-xá-giá hay Tất-xá-giá, hay Tỳ-xá- chi, Tý-xá-chá, dịch là Đạm Tinh Khí ăn nuốt tinh khí người và ngũ cốc. Lương gọi là Điên quỉ. Tỳ-xá-khư (Vizàkla) hoặc Tỳ-xà-khư, dịch là Biệt-chi, tức là Sao Thị (Chi?) ngày sanh lấy sao trong ngày làm tên. Di-lặc-đầu-vi-đà-la, dịch là Diệu Thiện Chủ, yểm trù quỉ. Di-lặc-đầu-kiền-già-tha, dịch là Thiện Phẩm, chủ cổ độc Tả truyện nói mảnh trùng là cổ. Thuyết văn nói: trùng trong bụng. Giá-văn-trà, xưa dịch là Tật đố nữ lại gọi là Nộ Thần tức là Dịch Sứ quỉ. Ô-sô-sắc-ma (Usm?) Tư trung gọi là Hỏa Đầu: Lực só này quán tính lửa mà được đạo nên lấy làm tên. Tần-na-dạ-ca (Vinayaka). Xưa nói Tần-na là đầu heo, Dạ-ca là mũi (vòi) voi là hai Sứ giả này. Ác-kỳ-ni (Agni) hoặc gọi Ta-kiết-lị-đa-da-ni, dịch là Thần lửa. Thư nói đốt nóng vạn vật không gì nóng bằng lửa. Song lửa chứa trong gỗ mà người xưa không biết, cho đến Toại Nhân Thị dùi gỗ làm lửa mà khắp thiên hạ biến sống thành chín. Bà-dữu (Vàyu), dịch là thần gió. Thư nói quấy trộn vạn vật không gì nhanh bằng gió. Cu-xá nói: Khi an lập khí thế gian thì phong luân (lớp gió) ở dưới cùng, thì biết thế giới này nương gió mà đứng vững. Hai thần này rút từ kinh Khổng Tước. Nặc-kiền-na (Nàràyana) dịch là Lộ hình thần, tức là Chấp Kim Cang Lực Só. Bát-kiện-đề, dịch là kiên cố. Bà Lý Hản (Malla) Lương gọi là Lực só. Tiếng Phạm Mạt-na dịch là lực, tức nói lực só. Tiếng Phạm không văn người dịch lập nghĩa. Na-la-diên (Nàràyana) dịch là Câu Tỏa Lực Só. Ma-ni-bạt-đà, dịch là oai phục hành (?) Phú-na-bạt-đà, dịch là Tập chí thành. Kim-tỳ-la, dịch là oai như vua. Tân-đầu-lô-già, dịch là lấp bất động (đứng bất động). Xa-bát-la-bà, dịch là nhẫn đắc thoát Đam-ma-bạt-la, dịch là Học Đế Vương Ma-kiệt-la-bà, dịch là trừ khúc tâm. Tiêu-lî-mật-đa, dịch là có công huân Lặc-na-xí-xa, dịch là điều hòa trung bình. Kiếm-ma-xá-đế, dịch là phục chúng căn (chế phục các căn). Xa-la-mật-đế, dịch là độc xứ khoái Tóc-đa-kỳ-lê, dịch là Đại Lực Thiên Ba-lị-la-hầu, dịch là dõng mãnh tiến Tỳ-ma-chất-đa, dịch là cao xa Viêm-ma-lị-tử, dịch là anh hùng đức. Ba-ha-lê-tử, dịch là oai võ thạnh (nhiều uy võ) Khư-la-khiên-đà (khalaskedha), dịch là Hống như lôi (gầm thét như sấm) Cưu-la-đàn-đề, dịch là chiến vô địch. Hê-ma-bạt-đà (Hemavat), dịch là Ứng Họp Chủ. Địa-kha (Dirgha), Lương gọi là Trường. nghĩa Tịnh Dịch Bản gọi là Địa-lặc-già, dịch là trường đại. Tu-niết-đa-la (Sunetra), Lương gọi là Thiện Nhãn, cũng gọi Tô- nê-đát-la, dịch là Diệu Mục. Phân-na-kha (Pùrnaka), Lương gọi là Mãn. Thiết-đổ-lỗ (Satru) hoặc Thước-đổ-lô dịch là oan gia. Thường-khởi-la (Samkha) cũng gọi Thương-xí-loa, dịch là loa con ốc Ha-lị (Hari) cũng gọi Yết-ly, dịch là Sư Tử. Ha-li-chỉ-xá (Harikeza) cũng gọi Yết-lý-kê-xá dịch là Sư tử phát Ba-la-phó (Paribhù) cũng gọi Bát-rị-bộ, dịch là tự tại. Đà-la-na (Dhàrana), đương gọi là Trì, cũng gọi Thích noa, dịch là năng trì. Thuấn-nhã-đa (Sùnyatà) Cứu sớ nói chưa thấy thành thích phải là Thần Chủ Không - Nhập Lăng Già nói: Sát-ni-ca gọi là không hoặc Khư-đề, Tần gọi là Hư không. Toản Yếu nói: Chỉ thân không tướng thô, cũng có sắc vi diệu. Cho nên Như Lai trong ánh sáng chiếu sáng khiến tạm thấy. Lại Niết-bàn nói: Du hư không bèn lập ba nghĩa: Một là không đổi khác tuyên kim đằng cổ thời di tục hoa, chỉ có hư không này là chẳng biến đổi cho nên Nam Bản ba mươi ba nói: Vì hư không không nên không thuộc ba đời, Phật tính thường nên không thuộc ba đời Thiên Nam Tử Như Lai đã được Tam Bồ-đề, chỗ có Phật tính tất cả Phật pháp luôn không biến đổi là nghĩa đó nên không thuộc ba đời. Hai là vô biên tế (không bờ mé) vật phân trong ngoài, không chẳng trong ngoài cho nên không bờ mé. Ba mươi hai nói ta là chúng sanh được khai giải (hiểu rõ) nên nói Phật tính không trong không ngoài. Vì sao thế, vì phàm phu chúng sanh hoặc nói Phật tính ở trong năm ấm như có quả trong bình, hoặc nói lìa ấm mà có cũng như hư không, thế nên Như Lai nói ở Trung Đạo, Phật tính của chúng sinh không phải ở trong sáu nhập, không phải ở ngoài sáu nhập, trong ngoài hợp lại gọi là Trung đạo. Ba là vô quái ngại, vật thể là chất ngại còn không tính thì hư không (trống không). Ba mươi ba nói: Như chỗ không quái ngại trong thế gian gọi là hư không. Như Lai được Tam Bồ-đề (chính giác) rồi ở trong tất cả các pháp không có quái ngại, cho nên nói Phật tính cũng như hư không. Vô Trước nói: Dụ hư không có ba nhân duyên: Một là khắp tất cả chỗ, nghĩa là ở trong tướng trụ và bất trụ, vì phước sanh. Hai là rộng lớn, cao lớn thù thắng, ba là vô tận, rốt ráo vô cùng. Tịnh Giác nói: Nên dùng khắp mà dụ về giả, rộng dụ cho không, vô tận là dụ cho trung. Lại Lăng Nghiêm nói: Nếu như hư không cũng có tên tuổi hình dạng, hư không là tên, hiển sắc là hình dạng. Cô Sơn giải thích rằng: Như Niết-bàn nói: Không có bốn tên, nghĩa là hư không, vô sở hữu, bất động, vô ngại mạo là thể mạo như tạp tập luận thuyết không một hiển sắc. Cứu Sớ giải thích rằng: Tiểu thừa lấy minh ám làm thể, Đại thừa lấy không một hiển sắc và cực hướng sắc làm thể. Duy-ma Sớ hỏi: Thí dụ hư không này há có chỉ không chẳng thể được khác không? Đáp: Không còn chẳng một há được có hai, nếu ước duyên hết tướng hiển chẳng phải chẳng có khác. Như Đại thừa kinh luận có nghĩa phá hư không, tức có thể lấy thí dụ, chỉ không hiển chẳng thể được không. Ký thích duyên hết, nghĩa là như mây mù duyên hết thì hư không tướng sáng bày ra hoặc thấy vạn tượng hoặc chỉ thấy không, có thể lấy dụ nhưng chẳng chỉ hai thứ chân. Nay hỏi hư không, không giới hai tên dị đồng. Đáp: Hiển Tông Luận nói: Trong ngoài lỗ trống gọi là không giới, lỗ trống sáng tối hiển sắc sai khác gọi là hư không giới, lỗ trống sáng tối hiển sắc sai khá gọi là hư không giới. Kinh nói: Hư không vô sắc, vô kiến, vô đối sẽ nương vào đâu, song nhờ ánh sáng hiểu rõ. Lại nói về sắc được lìa nhiễm thời đoạn hư không giới. Câu-xá Luận lỗ trống gọi là không giới, nghĩa là khoảng trống các xương gân trong thân người, khoảng trống giữa các tạng phủ là hư không - Thành Thật Luận nói: Vi không của bốn đại có thức trong đó nên gọi là người, đây lấy cái không năng y trong thân gọi là không giới cái nội không của cảnh sở y gọi là hư không. Hỏi hư không vô biên khắp tất cả chỗ. Quang Minh sao nói: Hư không phần giới còn có thể hết bờ cõi (bờ cõi hư không có thể hết). Đáp: Như Lăng Nghiêm nói: Phải biết hư không sanh trong tâm ông cũng như mảnh mây điểm trên hư không (thái hư), ấy vì chúng sanh vọng tưởng tính kể, còn thái hư dứt hẳn linh chiếu đã mê vọng mà thành không, cho nên trái giác mà có giới hạn. Như Thiên Thân nói: Có phân biệt và không phân biệt đều gọi là thức. Có phân biệt thi gọi là thức thức, không phân biệt thì gọi là tợ trần thức. Như Lăng Nghiêm tưởng lắng thành cõi nước tức là tợ trần thức, biết rõ chúng sinh tức là thức thức. Nay thuật tụng rằng: Hư không sanh trong tâm ta, Tam ta rộng vô bờ bến, Vụn thay người trong mê, Vì sao tự cột trói? A-la-nan-đà (Ànainda) Lương gọi là Hoan hỷ. Uất-dữu-già-ba-la (Udyogapàla), Lương gọi là Cần Thủ, cũng gọi là Uẩn (ôn) Độc-già-ba-la, dịch là dõng tiến cần hộ. Cát-gia (Krtya) hoặc Cát-giá, gọi đúng là Ngật-lặc-trứ dịch là sở tác (chỗ ra làm) Văn Cú gọi là khởi thi quỉ, hoặc người hoặc dạ xoa đều có quỉ này. Đồn chơn, dịch là Thần nhân. <詞>SÚC SANH. Chứa lâu ngu tình, chìm mất huệ tính, sống nhờ ruộng vườn chịu thân đày ải nơi biên cương, mang lông xanh trắng bay lượn khoảng không, vảy vàng quẩy đuôi dạo chơi sóng nước, hình dạng muôn khác khắp ở năm đạo, nay là bàng sanh khiến tu chính hạnh. Để-lật-xa, dịch là súc sanh, súc là lục súc. Thể ký chú rằng trâu ngựa dê chó heo gà. Phụ Hành nói: nhiếp thú (tới lại) bất tận khắp ở trong năm đạo. Lại dịch là súc sanh. Bà-sa nói: Súc là nuôi dưỡng, nghĩa là nó sanh ngang bẩm tính ngu si chẳng thể tự lập, được người khác nuôi dưỡng nên gọi súc sanh. Đế-lị-da-cù-du-nê-già (Tiryagyonika), dịch là Bàng hành (đi ngang) chúng sinh đạo này có thân đi ngược. Bà-sa nói: hình nó ngang đi cũng ngang. Phán chính làm hạnh bất chính nên chịu quả báo ngang, cõng trời mà đi nên gọi đi ngang. Na-già (Nàga), Tần gọi là rồng. Thuyết Văn nói: Long là loài có vảy mà lớn hay ẩn hay hiện hoặc lớn nhỏ, dài ngăn. Xuân phân thì lên trời, thu phân thì vào đất là thuận. Quảng Nhã nói: Có vảy gọi là Giao long, có cánh gọi là Ứng long, có sừng gọi là Cầu long, không sừng gọi là Ly long, chưa lên trời gọi là Bàn long. Bản Hạnh Tập kinh: Gọi Phật là rồng, nghĩa là thế gian có ái đều xa lìa, các cột trói đều giải thoát, các lậu đã hết nên gọi là rồng. Nên nói Na-già thường ở trong định không có lúc chẳng định. - Trí Luận nói: Như bản thân Bồ-tát từng là Đại Lực Độc Long, nếu chúng sanh ở trước, người thân sức suy kém, mắt thấy liền chết, người thân sức mạnh thì khí hư bèn chết rồng nay thọ giới một ngày một đêm xuất gia cầu tịnh, vào rừng cây ngồi lâu suy tư, biếng lười mà nằm rồng như ngũ thân hình như rắn, thân có lằn nét bảy báu nhiều màu. Thợ săn thấy kinh ngạc mừng rỡ bảo rằng: Da này hiếm có dâng lên vua đi trang sức chẳng phải ư? Rồi lấy gậy đà đầu, lấy dao lột da. Rồng tự nghó sức ta như ý, lật ngược nước này như trở bàn tay, kẻ này là vật nhỏ đâu có thể làm khốn ta. Ta nay vì trì giới nên chẳng kể thân mạng này, phải theo lời Phật do đó mà tự nhẫn nhịn, nhắm mắt chẳng nhìn đóng khí dứt hơi thương xót người này một lòng chịu lột da chẳng hối tiếc. Bị lột da rồi thịt đỏ bày ra đất. Lúc đó trời rất nóng lăn lộn trong đất muốn chui vào nước, thấy các trùng nhỏ kéo đến ăn thịt, vì giữ giới nên chẳng dám cựa mình. Tự suy nghó rằng: Ta nay đem thân này thí cho các côn trùng vì Phật Đạo vậy. Nay thí thịt này để tất cả đều no đủ. Sau này thành Phật sẽ dùng pháp thí mà làm lợi ích cho tâm chúng. Thề xong thì thân khô mạng chết, liền sanh lên trời Đao-lợi. Độc long khi đó là Phật Thích-ca người thợ săn lúc ấy là Điều Đạt và Lục Sư vậy. Các trùng nhỏ là tám vạn chư thiên khi mới Chuyển pháp luân thì được Đạo là đó. Cung-tỳ-la (Kuưbhìra), dịch là giao ? vảy thì gọi là giao long. Bảo Phát Tử nói: Rồng mẹ gọi là Giao, rồng con gọi là Cầu. Sơn Hải kinh nói: Giao giống rắn mà có bốn chân, đầu nhỏ cổ nhỏ. Thúc-thúc-la (Sizumàra) dịch là cầu. Phù Thụy Đồ nói: Thời Huỳnh Đế có cầu long, mình đen không vảy lưng có chữ tên. Tăng-già-bỉ (Simha) hoặc Tợ-đa, dịch là Sư tử. Đại Luận nói: như vua Sư Tử sanh trong dòng giống Thanh Tịnh, ở trong hang sâu núi thẳm, càm vuông xương to thân béo mập đầu lớn mắt to đẹp đẽ sáng sạch, mày cao mà rộng nanh bén trắng sạch miệng mũi vuông lớn đầy đặn, răng chắc kín bén lưỡi trắng miệng đỏ, hai tai vểnh cao bồm tóc nhuận sáng, thần tiên rộng lớn, da thịt rắn chắc, eo nhỏ bụng chẳng hiện, đuôi dài móng bén, thân đứng vững chắc, thân dùng sức mạnh từ chỗ đứng phát ra, uống mình nhăn mày lấy miệng cào đất, hiện oai thế lớn ăn chẳng quá giờ, bày tướng chào buổi sáng biểu thị sức vua Sư tử. Lại Đại Luận nói: Phật nói Bản Sự có Sư tử đến Phật bảo Sư tử ấy từ thời Tỳ-bà-thi Phật làm thầy Sa-môn, thấy Phật nói pháp liền đến chỗ Phật. Khi ấy đại chúng vì nghe pháp nên không cùng nói năng, Sa-môn liền sanh ác niệm liền mắng chửi rằng đám người này khác nào súc sanh chẳng phải người tốt chẳng biết nói năng. Vì nghiệp ác đó nên từ thời Phật Tỳ-bà-thi đến nay đã chín mươi mốt kiếp luôn làm loài súc sanh. Người này lúc đó đáng được đạo nhưng vì ngu si nên phải chịu (tự thọ) sanh tử dài lâu. Nay ở chỗ Phật vì tâm thanh tịnh nên được giải thoát. Tân Hoa Nghiêm nói ví như Sư tử lớn rống lên các sư tử con nghe thấy thảy đều mạnh mẽ, tất cả cầm thu đều trốn lánh xa. Sư Tử Phật rống lên các Bồ-tát nếu nghe tiếng mà khen ngợi tâm Bồ-đề, nuôi lớn pháp thân, vọng thấy chúng sinh, tiềm phục thối tán. Pháp Giới Thứ Đệ nói: Sư tử hăng hái ví như hiển bày pháp. Như Sư Tử ở đời hăng hái là vì hai việc: Một là cào chụp bụi đất, hai là phóng chạy qua lại (chân trước) nhanh nhẹn khác với các thú. Tam-muội này cũng thế. Một là diệt trừ các chướng, định lại các hoặc vi tế vô tri, hai là hay vào địa ngục nhanh chóng. Quảng Nhã nói là phấn chấn. Lại tiếng Phạm gọi Tê là như hình tướng sư tử. Ổ-ba-tăng-ha (Upasimha) hoặc Ưu-bà-tăng-già. Lương gọi là Tiểu sư tử lại gọi là toàn nghê tức sư tử. Nhó Nhã nói toan nghê như tan miêu, ăn như hổ báo chú rằng tức sư tử (rút từ Tây Vức) Đại Luận hỏi: Vì sao gọi là Sư Tử Tòa? Đáp: Gọi Sư Tử thật không phải là Sư Tử, Phật là Sư Tử trong loài người, chỗ Phật ngồi là giường hay đất đều gọi là Sư Tử tòa. Già-đa (Gaja) hoặc Na-già, hoặc Na-tiên dịch là voi. Dị Vật Chí nói voi là thú hình thể cao (sừng sững), thân to gấp mấy trâu, mắt chẳng hơn mắt heo, mũi là miệng dịch vọng đầu như đuôi, dễ dạy hiền lành biết nghe lời, nói liền quì, ngà trắng như ngọc mang vào làm đẹp, mang nặng đi xa. Đường Trang Tam Tạng Truyện nói: Tây Vức có già lam (chùa) so Sa-di coi giữ. Tương truyền xưa có Bí sô cùng bạn đồng học xa đến lễ bái thấy voi đem hoa đặt trước tháp, rồi lấy ngà cắt cỏ lấy vòi tưới nước chúng thấy đều khen. Có một Bí sô bỏ Đại giới nguyện ở lại cúng dường, bảo mọi người rằng: Coi là súc sanh còn biết kính tháp ta là loài người há thấy hoang tàn mà không thờ cúng. Bèn cất nhà ở đất hoang trồng hoa trồng quả nóng lạnh cũng không chán mệt. Nước bên cạnh nghe thấy cùng lập già lam, nhưng không biết việc Tăng bèn làm như cũ. Đại Luận nói: Như voi chúa nếu muốn quay mình thì xem đúng lúc toàn thân đều quay có tướng đại nhân, thân tâm chuyên nhất, nếu có chỗ quán thì thân tâm đều về. Yên-la-na (Erandapattra) Y-la-bát-đa-la hoặc gọi Hương diệp là tên của Đế-thích Tượng Vương, thân dài chín do tuần, cao ba do tuần. Cù-ma-đế (Gova). Dịch là trâu. Dị nói: Cỡi ngựa ngồi trâu chở nặng đi xa. Chú rằng: Giá tường chi tư. Thùy Dụ Ký Xiêm nói: Đại Luận nói Phóng Ngưu Nan-đà hỏi Phật có mấy pháp thành thục hay khiến bầy trâu phiên tức có mấy pháp không thành thục khiến bầy trâu chẳng Tăng chẳng được an ổn? Phật đáp: Thả trâu có mười một việc, tụng rằng: Giải sắc cùng tương ưng, Ma loát phúc sang di Đốt khói và cỏ ngon, An ổn và độ xứ (chỗ đi qua?) Thời nghi (đúng lúc) lưu thủ dư (chăn giữ), Giữ gìn trâu lớn. Tỳ-kheo cũng như thế: Biết bốn đại tạo sắc, khéo phân biệt tướng ngu trí, ma loát sáu tình căn, khéo che mười tướng thiện truyền chỗ tụng làm khói, bốn ý ngăn cỏ ngon, mười hai chỗ an, tám Thánh đạo chỗ qua, chớ nhận lời thỉnh khinh tiện, gọi là biết thời nghi, tri túc là lưu dư, kính hộ là tướng hộ. Mười một việc này tức phụ sự quán tâm của Tiểu thừa. Kinh Thí Dụ nói: Xưa có hai anh em chí và ý nghó khác nhau. Anh bảo em rằng: Ông ham việc nhà cho tiền là quí, ta thích kinh đạo cho huệ là quí, nay ta muốn bỏ nhà qui mạng về phước điền (qui y Phật). Anh bèn xuất gia ngày đêm tinh tấn mà được thành đạo quả. Người em ham việc nhà chết rồi đọa làm trâu mập mạnh to lớn, khách mua về chở muối, vãng hoàn doanh đốn chẳng thể lên trước. Người anh đi trên hư không xa thấy trâu bèn dùng oai thần khiến em tự biết bèn vì trâu mà nói ngọn ngành. Người khách mua trâu bèn thả trâu vào chùa, người anh thường đến nuôi dưỡng, chết rồi sanh lên Đao-lợi. Khiết-già (Gaưda), dịch là tên ngưu. Nhó Nhã nói là vật đẹp ở phương Nam là Tê tượng trên núi Lương. Chú rằng: Tê Ngư có da sừng, voi có ngà xương. Lại nói: Tê giống heo. Chú rằng: hình dáng giống trâu nước. A-thấp-bà (Azva) dịch là ngựa. Hán Thư Tây Vức Truyện nói: nước Đại Uyển có núi cao trên đó có ngựa chẳng thể được nhân lấy ngựa mẹ năm màu đế ở dưới (đem xuống) cùng tập họp cho sanh ngựa con đều là hản huyết (đều mờ h6i máu?) nhân đó gọi ngựa trời. Lý Bạch Lạc tự Tôn Dương đi đến núi Ngu gặp xe muối đến, có một Long mã mà người chẳng biết dùng kéo xe muối, xa thấy Bách Lạc liền đem ghế ngồi đổi ngựa, ngày đi ngàn dặm. Hoài Nam Tử nói: Tân Mục Công bảo Bạch Lạc rằng Ông có sai người tìm ngựa chăng? Đáp rằng: Ngựa chẳng ở hình dung, gân xương là tướng. Ngựa trong thiên hạ hoặc giảm hoặc mất, con của Thần đều hạ tài khả cáo, ngựa của thiên hạ có gánh cột bó củi, chín phương nhân kỳ ư mà không phải bậc dưới của thần. Tìm ngựa ba tháng mà về bảo đã được ngựa, tại gò cát con đực màu vàng, và ngựa đến thì con cái là Ly. Ông bảo Bách Lạc rằng: Ngựa ông tìm về sắc lông đực cái chẳng biết mua bán. Bách Lạc thở dài bảo đến thế này ư? Nhân mà thấy được là Thiền cơ, được cái tinh mà quên cái thô, thấy trong mà quên ngoài, quả là thiên lý mã vậy. Kinh A-hàm, Phật bảo Tỳ-kheo rằng: Có bốn thứ ngựa: Một là thấy bóng roi thì liền sợ, hai là roi chạm lông mới sợ, ba là chạm thịt mới sợ, bốn là thấu xương mới biết. Một là mới nghe có người chết ở xóm khác liền sợ, hai là nghe có người chết ở xóm mình liền sanh chán, ba là như nghe người thân mình chết mà sanh chán sợ, bốn là thân mình bịnh khổ mới sợ. Kinh Niết-bàn đem bốn ngựa dụ cho sanh lão bệnh tử. Hoặc gọi Bà-ha- la dịch là lông dài. Mật-lị-già-la (Mrga) dịch là nai. Mađa (Matr) dịch là mẹ. Bạt-la-bà-đà (Pràsàda) dịch là Đường (nhà). Tất-già-la (Srgàla) dịch là giả can, giống chồn mà nhỏ hơn màu xanh vàng như chó, đi từng bầy ban đêm kêu như sói Quách Phác nói: Xa can ưa duyên (leo lên cân) với cây. Quảng Chí nói: Ở trên ở trên cây cao nhất. Đại luận nói: Ví như giả can nửa đêm vượt thành vào sâu nhà người tìm thịt chẳng được bèn trốn ngủ mà chẳng biết trời sáng sợ quá cho là không thoát khỏi, liền định tâm giả chết nằm lăn ra đất. Mọi người đều thấy. Có một người đến bảo ta cần cái tai của nó nói xong liền cắt đi. Giả can tự nghó cắt tai tuy đau nhưng miễn là còn thân. Có người đến bảo ta cần cái đuôi rồi liền cắt đi, lại có người bảo ta cần răng nó. Giả can tự nghó người lấy càng nhiều nếu lấy đầu ta ắt là không thể sống, liền từ đất chỗi dậy dùng hết trí lực phóng ra cửa mà được thoát. Tâm hành giả cầu thoát khổ nạn cũng như thế, sanh chẳng tu hành như mất tai, già chẳng tu hành như mất đuôi, bịnh chẳng tu hành như mất răng, đến chết chẳng tu như mất đầu. Phù Hành Ký nói: Chồn là thú một tên là giả can, đa nghi khéo nghe. Nhan Sư xưa chú thích Hán thư rằng: Chồn là thú tính rất đa nghi, mỗi khi qua sông băng nghe ngóng rồi mới qua, nên nói là nghi mà gọi là chồn nghi. Thuật Chinh Ký nói: Gió bấc thổi sông băng họp chồn cần phải đi, vật này khéo nghe dưới băng không có tiếng rồi mới qua sông. Thuyết Văn nói: Chồn yêu là thú quỉ kế thừa có ba đức, sắc nó trung hòa trước nhỏ sau lớn, chết thời đầu gò. Quách Thị Huyền trung Ký nói: Chồn ngàn tuổi là dâm phụ chồn trăm tuổi là mỹ nữ. Song Pháp Hoa nói: Chồn, sói, giả can giống như ba thứ khác nhau. Tổ Đình Sự Uyển nói: Giả can mình nhỏ mà đuôi lớn, chồn thì mình to. Thiền Kinh nói: Thấy một chồn hoang lại thấy giả can nên biết là khác. Ma-tư-tra (Markata) hoặc gọi Ma-ca-tra, Mạc-ca-tra. Dịch là Mi hầu (khỉ). Bản Hạnh Kinh nói: Ta nghó thuở xưa trong biển có một Đại cầu (rồng lớn) vợ nó có thai nghó muốn ăn tim khỉ. Chồng bảo việc này rất khó, ta ở trong biển còn khỉ ở trên núi. Nàng ráng nhịn chờ ta đi tìm. Lúc đó rồng lên bờ thấy khỉ trên cây, khéo nói mà kết làm bạn, ta dắt bạn qua biển, bờ bên kia có rừng lớn, có nhiều hoa quả, bạn cứ ngồi trên lưng tôi. Khi nghe theo lời rồng cùng xuống nước. Rồng liền bảo vợ ta mang thai muốn ăn tim bạn nên ta dắt đến đây. Khỉ bèn nói gạt rằng: Sao không nói trước tim ta còn để trên cây ta la chẳng mang theo đây. Bạn đưa ta về đợi ta lấy tim đem đến. Rồng bèn ghé bờ khỉ nỗ lực chạy mau lên cây. Đợi lâu rồng bảo xuống mau khỉ nói kệ rằng: Rồng kia tính toán rộng mà tâm trí nghó rất hẹp, ngươi chỉ nghó theo ý mình, tất cả các loài ai chẳng có tim. Kinh Sáu Độ cho cầu là ba ba. Xá-xá-ca (Sázaka) dịch là thỏ. Hàn Tử nói: Người Tống cày ruộng trong ruộng có cây, thỏ chạy đến đụng cây gãy cổ mà chết. Người này nhân bỏ ruộng mà ôm cây đợi được thỏ. Người đi đường bèn cười chê. Tây Vức Ký nói: Kiếp xưa có chồn, thỏ, khỉ khác loại mà cùng vui. Lúc đó trời Đế-thích muốn chứng nghiệm hạnh tu Bồ-tát bèn hiện thân biến hóa làm một cụ già bảo ba thú rằng: Mấy vị an ổ chứ, không lo sợ gì chứ? Đáp: Dạo chơi cây cỏ xinh tươi khác loài mà cùng vui rất là an lạc. Cụ già nói: Hai mấy vị tình hậu ý kín mà quên già xấu nên tôi từ xa đến tìm. Nay gặp lúc đói kém có gì cho ăn. Đáp rằng: Đợi chút ta sẽ cung cấp. Do đó cùng lên đường tìm kiếm. Chồn theo bờ nước bắt được một con cá tươi, khỉ lên rừng hái hoa quả lạ cùng về đem dâng cụ già, chỉ có thỏ thì về không. Cụ già gọi bảo ta xem thấy ngươi chưa hòa đồng, chồn khỉ đều đồng chí có tâm phục dịch chỉ có thỏ là về không chẳng có gì. Do đó thật biết rõ. Thỏ nghe chê bèn bảo chồn, khỉ rằng: Đa tụ tiều tô mới có việc làm khỉ, chồn tranh nhau đem cỏ cây đã đủ lửa dữ đốt cháy. Thỏ nói: Này nhân giả, thân tôi hèn kém chỗ cầu khó toại lòng, xin đem thân bé nhỏ này hiến, làm một bữa ăn. Nói xong thì nhảy vào lửa mà chết. Lúc đó cụ già hiện lại thân Đế-thích dẹp tro thâu nhặt hài cốt thỏ thương khó rất lâu, bảo chồn, khỉ rằng: Sao đến nỗi này ta cảm động chẳng mất dấu, bèn gởi xương thỏ lên mặt trăng truyền mãi đời sau. Hạt-li-noa (Harina) nói chung về loại nai. Ca-lăng-tần-già (Kalavimka) dịch là Diệu thinh điểu. Đại Luận nói: Như chim Ca-lăng-tần-già còn ở trong trứng chưa nở đã phát ra tiếng hay hơn các chim khác. Kinh chính Pháp Niệm nói: Núi tên khoáng giả trong đó có nhiều chim Ca-lăng-tần-già phát ra những tiếng hay, tiếng hay đó hoặc trời hoặc người Khẩn-na-la đều không bằng được chỉ trừ có tiếng của Như Lai. Ca-lan-đà (Karanidava) dịch là hào thinh điểu, mình như chim thước đậu thành bầy ở Trúc Lâm hoặc gọi là chuột đu như nói sau: Câu-kỳ-la (Kokila) hoặc Câu-xí-la, dịch là hảo thinh điểu, tiếng hay mà mình xấu, lại gọi là tư âu. Tư-na-dạ (Syena) dịch là ưng (chim ưng). Nhó Nhã nói: Ưng chuẩn (cắt) xấu bay giỏi. Huy Chú nói: Vỗ cánh rất nhanh. Khổng Thị Chí Quái nói: Khi Sở Văn Vương còn nhỏ rất thích đi săn bắn, trong thiên hạ có chó nhanh ưng giỏi đều bắt về. Có người hiến chim ưng bảo đây không phải là đám ưng của vua đâu, chợt ở chân mây có một vật trăng trắng nhấp nháy, ưng liền bay vọt lên nhanh như chớp, phút chốc lượn như mây, máu chảy như mưa, lúc sau thì một con chim lớn rơi xuống đất mà chết, đo hai cánh rộng mấy mươi dặm, bên mỏ có màu vàng không ai biết là gì. Khi ấy Bác vật quân tử nói đây là Đại Bàng Sồ, mới biết bay nên bị chim ưng bắt. Văn Vương bèn trọng thưởng người hiến ưng. Lại nói chuẩn (chim cắt), dịch nói Vương Xuyên bắn chuẩn ở cao đường. Khổng Dónh Đạt nói: Chuẩn là chim tham tàn thuôïc loại chiên diêu (chim dữ). Ngọc Thiên nói: Là loài chúc cưu. Nhan Sư Cổ nói: Chuẩn chấp điểu tức nay là chim hộc. Lưu Hướng cho là chuẩn gần với hắc tường là loại tham bạo. Thao-đà (Suka) hoặc gọi Thúc-ca-bà-hy, dịch là anh vũ (chim két) Thuyết Văn nói: Chim nói được. Sơn Hải Kinh nói: Núi Huỳnh và núi Số Lịch có chim này giống như con ngạc, lông xanh mỏ đỏ, có thể nói tiếng người gọi là anh vũ. Khúc Lễ nói: Anh vũ hay nói chẳng lìa chim bay, tinh tinh nói được mà không rời cầm thú, người mà vô lễ cũng tâm cầm thú. Kinh Tạp Bảo Tạng nói: Quá khứ ở núi Tuyết có một anh vũ cha mẹ đều mù thường đem hoa quả mà dang cha mẹ. Lúc đó có điền chủ trước khi trồng lúa nguyện cùng chúng sanh cùng ăn anh vũ ở ruộng thường ăn lúa. Điền chủ đi tuần tra thấy bông lúa bị cắt liền quăng lưới bắt được anh vũ, chim bảo điền chủ rằng: Trước có tâm thí nên mới đến hái sao nay đem lưới bắt. Điền chủ hỏi chim lấy lúa cho ai, đáp có cha mẹ mù nên đem dâng. Điền chủ nói từ nay về sau cứ lấy chớ nghi nan v.v… Phật nói chim anh vũ lúc ấy chính là thân ta đó, điền chủ lúc ấy chính là Xá-lợi-phất vậy. Tăng-ta (Hamsa) hoặc Tuyêàn ta. Đường gọi là nhạn. Lễ Ký nói: Tháng cuối thu hồng nhạn bay đến làm khách. Thi Truyện nói: Lớn gọi là hồng, nhỏ gọi là nhạn. Thành Công Phú nói: Trên bay đến Đơn Hà, dưới nhảy qua thanh tuyền. Tây Vức Ký nói: Xưa già lam này chứa tạm dạy người học Tiểu thừa nên mở cho ăn tam tịnh nhục, mà già lam này tuân thao không đọa, sau tam tịnh tìm chẳng được. Có Bí sô đi kinh hành bỗng thấy bầy nhạn bay lượn bảo đùa: Ngày nay chúng Tăng ăn chẳng no Ma-ha-tát-đỏa biết đúng lúc. Nói chưa dứt thì nhạn bay lui ở trước Tăng gieo mình tự vẫn. Bí sô thấy rồi bạch rõ với chúng Tăng, người nghe đều thương cảm, cùng bảo nhau rằng: Như Lai lập pháp dạy dỗ tùy cơ, chúng ta ngu si mà tuân giữ tạm giáo, Đại thừa là chính lý, phải đổi lỗi trước mà theo thánh chỉ (ý Phật). Chim nhạn này nêu giới để dẫn dắt, phải lập tháp thờ để nêu đức rồi đem nhạn mà chôn trong tháp. Có người gọi là phù nhạn. Nhó Nhã nói: Phù nhạn xấu chân đề đá, giữa có chân có màng để bơi. Cổ Kim Chú rằng: Phù nhạn thường ở bãi cát trên biển ăn cát đá đây không phải là Dương Nhạn. Lý Tuần nói: Ngoài đồng gọi là phù, trong nhà gọi là vụ (vịt trời). Ca-tăng-ám-la (Kapimjala) dịch là trỉ. Nhó Nhã nói: Trỉ có sức, đánh nhau rất dữ phân ra sáu thứ, bốn phương có tên khác nhau. Tấn Võ đóng kho thật kín, trong đó bỗng nghe tiếng trỉ kêu. Trương Hoa nói: Ắt là rắn hóa ra, mở cửa thì thấy bên cạnh có da rắn lột. Đại Luận nói: Có người Diêm-phù-đề chẳng biết lễ kính người xưa có đức. Lúc đó Bồ-tát làm chim Ca-tần-xa-la có hai bạn thân là voi và khỉ cùng ở dưới cây Tất-bát-la, cùng hỏi nhau rằng: Chúng ta chẳng biết ai là lớn. Voi nói: Ta xưa thấy cây dưới bụng ta. Khỉ nói ta từng ngồi soạc tay nắm đầu cây. Chim nói ta từng ở rừng Tất-bát-la ăn quả cây này, hạt theo phân ra mà mọc lên cây này trước sanh đức xưa lễ phải cúng dường. Khi ấy lưng voi lớn cõng khỉ, chim đậu trên khỉ đi khắp một vòng, cầm thú nhân loạithấy đều kính trọng. Đây là Thánh nhân biết đạo đức nhân nghĩa không lễ thì chẳng thành cho nên kính bậc trưởng thượng là lễ thuận thiên hạ. Cứu-cứu-la (Kukkuta) dịch là tiếng gà gáy. Cưu-cưu-tra, dịch là gà. Dị Lâm nói: Tốn là gà, gà gáy đúng thời tiết nhà vui không lo âu. Tây Kinh Tạp Ký nói: Thời Thành Đế nước Giao Chỉ Việt Thường hiến gà gáy tiếng dài để làm đồng hồ, đúng mức không sai Điền Nhiêu Phu nói: Phàm gà đội mão văn, chân mang cựa võ, đánh nhau mạnh mẽ, được (thắng) cũng ăn nhau, gáy chẳng sai lúc. Gà có năm đức, ông cũng nấu mà ăn, là nguyên do gần. Lăng Nghiêm nói: Như gà gáy rồi nhìn về phương Đông đã có tinh sắc. Trường Thủy giải thích rằng: Gà gáy lần hai trời sắp sáng. Cô Sơn Thích nói: Ba đức Niết-bàn gọi là nghĩa Thiên, trước thọ tưởng hết rồi giống chứng còn xa như gà gáy lần đầu, sắc trời cũng còn tối. Nay Hành Ấm hết chỉ còn thức ấm sáng ngộ không còn lâu như gà gáy lần hai, trời có tinh sắc. Tề Nhan Chi suy rằng: Thời nhà Lương có người thường dùng lòng trắng trứng gà để tắm khiến tóc đen mướt khi tắm thì dùng hai, ba mươi trứng. Khi chết chỉ nghe trong tóc có tiếng ò o của mấy ngàn gà gáy. Chiết-ca-la-bà (Cakravàka) dịch là uyên ương, thuộc loài chim, đậu thì gần nhau, bay đi sánh đôi. Điểu Dụ Phẩm nói: Một là Ca-lân-đề, hai là uyên ương đi ngừng đều cùng có nhau không rời xa. Nay Sư Thích nói: Lấy con trống dụ cho thường, con mái dụ cho vô thường, sanh tử có tính thiện, thường tức vô thường như hai chim cùng bay cao ấy thì cao thấp trống mái đều cùng, cùng bay cùng nghó nghĩa nó đều thành. Kỳ-bà-kỳ-ba-ca (Jìvajìvaka) dịch là Sanh Thắng Thiên Vương, gọi là sanh sanh, hoặc dịch là mạng. Pháp Hoa gọi mạng mạng. Tạp Bảo Tạng kinh nói: Núi tuyết có chim tên là cộng mạng, một mình hai đầu, thức thần đều khác, cùng một báo mạng nên gọi là mạng mạng Phật Bản Hạnh Kinh, Phật nói: Thuở xưa núi Tuyết có chim hai đầu một đầu gọi là Ca-lâu-trà (Garuda), một đầu gọi là Ưu-ba-ca-lâu-trà (Upagaruda), có lúc đầu Ưu-ba-ca-lâu-trà nmgủ mê thì đầu kia thức. Có cây Ma-đầu-ca gió thổi hoa rụng bay đến đầu thức kia đầu ấy tự nghó: Tuy riêng ăn hoa nếu vào bụng thì đều được sắc lực, chẳng khiến nó thức bèn làm thinh ăn hoa. Cái đầu ngủ kia thức dậy bụng no đầy ho ợ hơi ra hỏi chỗ nào mà được thức ăn ngon này. Đầu thức kể đủ, đầu ngủ ôm ân. Sau đó đi dạo gặp cây hoa độc nghó ăn hoa này khiến hai đầu cùng chết. Lúc đó đầu Ưu-ba-ca-lâu-trà bảo đầu Ca-lâu-trà rằng: Ông nay ngủ đi để ta thức, đầu kia vừa ngủ, liền ăn hoa độc. Khi Ca-lâu-trà thức biết khí độc hỏi thức ăn nào ác (xấu) thế khiến ta chẳng an đầu Ưu-ba nói ăn hoa độc này nguyện cùng chết. Do đó đầu kia liền nói kệ rằng: Ông ngày xưa khi ngủ Ta ăn hoa có vị ngon ngọt, Hoa ấy gió thổi rơi bên ta, Ông lại nổi giận dữ. Phàm người ngu nguyện chớ gặp, cũng nguyện không cùng người ngu ở chung ở chung với người ngu chẳng có lợi ích gì, tự làm hại mình lại hại người khác. Phật nói chim Ca-lâu-trà từc là thân ta, chim Ưu-ba tức là Đề-bà-đạt-đa vậy. Xá-lị (Sari) dịch là xuân cù, Hoàng Ly. Thi nói: Ra từ hang tối, bay đến kiều mộc. Lại dịch là Thu Lộ. Ngọc Thiên nói là chim nước. Thi nói: Có thu ở Lương Lộ, Nhó Nhã gọi là bạch lộ (cò trắng) đầu cánh lưng đều có lông dài. Thi nói: Ồn ào cò bay. Xá-la (Sala) dịch là bách thiệt điểu. Ca-bố-đức-ca (Kapotaka) hoặc gọi Ca-bộ. Đường gọi là cáp (bồ câu?) Tây Vức Ký nói: Xưa Phật ở đây vì chúng nói pháp. Thợ lưới giăng lưới trong rừng bắt loài có cánh một ngày không bắt được bèn đến chỗ Phật lớn tiếng hỏi rằng: Hôm nay Như Lai ở đây nói pháp, khiến ta bắt không được chim vợ con đói khát, ông lại ngồi yên. Như Lai bảo rằng: Ông nay đốt lửa sẽ cùng (cho) ông ăn. Lúc đó Như Lai hóa làm bồ câu lớn nhảy vào lửa mà chết, thợ lưới đem về vợ con cùng ăn. Sau đó lại đến chỗ Phật, Như Lai phương tiện nhiếp hóa thợ lưới nghe pháp hối lỗi đổi mới, bỏ nhà tu học liền chứng quả Thánh. Nhân đó gọi là Cáp già lam. Ma-du-la (Mayùra) dịch là khổng tước, sè cánh mà lượn Câu-xá nói: Một loài khổng tước là Nhất thiết chủng nhân tướng (là tướng trông ta cả nhân) không phải trí cảnh giới khác, chỉ Nhất Thiết Tư mới biết. Chứng Chân Thích nói: Hữu tình huân từ vô thủy tạo tất cả giới thú chủng tử ở trong bản thức, chỉ co Phật mới biết. Lại chỉ nêu một loại khổng tước còn khó biết thay. A-lê-da. Dịch là si (cú mèo). Nhó Nhã gọi cuống mâu si. Xá nhân gọi là cuống, một tên là mâu si, thích ăn chuột, mắt rất to. Quách Phác nói: Nay là cưu si giống chim ưng mà trắng. Cật-lật-đà (Grdhra) dịch là thứu (chim cắt) hoặc gọi Yết-la-xa, dịch là điêu thứu. Sơn Hải Kinh nói: Cảnh sơn có nhiều thứu. Thuyết Văn nói: Chim thức màu đen có nhiều con. Sư Khoáng nói: Núi Nam có chim tên là khương thứu, đầu vàng cổ đỏ năm sắc đều đủ. Tây Vức có nhiều chim này xanh vàng mắt đỏ ăn thây chết. Tỳ-ranoa-yết-xa-bà (Kacchapa) dịch là qui (rùa). Nhó Nhã nói: Có mười giống rùa. Trang Tử nói: Tông Nguyên Quân nằm mộng thấy người đội tóc bảo: Ta là Thanh giang là Sứ giả của Hà bá, bị người đánh cá là Dự Thả bắt được. Nguyên Quân sai người xem quẻ bảo đây là thần rùa bèn mời Dự Thả. Dự Thả bắt được rùa trắng năm thước bảo đem hiến, bèn mổ ra được bảy mươi toản mà không sót sách. Trọng Ni nói: Rùa báo mộng được với Nguyên Quân mà chẳng thể tránh được lưới của Dự Thả, trí hay bảy mươi Toản mà không sót sách nên chẳng tránh được nạn bị mổ ruột. Như thế thì Trí có do Thần, Trí có chỗ chẳng bằng. Pháp Cú Kinh nói: Xưa có Đạo só ở bên bờ sông học đạo, chỉ nghó sáu trần, tâm không yên nghó rùa từ sông lên bờ, chó liền sủa cắn rùa, rùa thụt cả đầu đuôi và bốn chân vào trong, chó chẳng làm gì được bèn bỏ đi thì rùa lại thò ra, liền bò vào nước. Ta chẳng bằng rùa buông lung theo sáu tình chẳng biết chết đến. Ma-kiệt (Makara) hoặc Ma-già-la, dịch là kình ngư, con đực gọi là kình, con cái gọi là nghê, con lớn dài hơn mười dặm (ca ông?). Đại Luận nói: Năm trăm lái buôn vào biển tìm châu, gặp cá chúa Ma-kiệt hả miệng thuyền đi rất nhanh, chu thuyền hỏi Lâu Thượng Nhân có thấy gì không? Đáp: Thấy ba mặt trời và núi trắng lớn, nước chảy mạnh như lọt vào hố lớn. Chủ thuyền bảo: Ba mặt trời: Một là mặt trời thật, hai là mắt cá, núi trắng lớn là răng cá nước chảy mau là miệng cá, chúng ta gặp chết rồi. Lúc đó người trong thuyền đều nói việc đó không chỗ nghiệm. Trong đó có một Ưu-bà-tắc bảo mọi người rằng: Chúng ta phải nên niệm danh hiệu Phật, Phật là Vô thượng cứu khổ tai ách mọi người cùng nhất tâm niệm Nam mô Phật, vì cá đời trước từng thọ năm giới được túc mạng trí nghe danh hiệu Phật liền tự hối lỗi, cá liền ngậm miệng cứu sống mọi người. Trang Tử nói: Cá nuốt ghe mất nước thì bị kiến mối ăn thịt. Kỳ-di gọi đủ là Đế-di-kỳ-la, dịch là cá thân lớn, có bốn loại, loại nhỏ nhất là kinh Phòng Dị Truyện nói: Ở biển thường thấy cá lớn người tà tiến hiền nhân sơ. Thất-thâu-ma-la (Sisumàra). Thiện Kiến nói: Cá ngạc dài hơn hai trượng, lại dịch là cá giết con, có ở Quảng Châu. Tý-tỳ-lý (Dipìlika) dịch là kiến con. Tấn Thư cha của Ân Trọng Kham bệnh lỗ tai nghe dưới giường có kiến động bảo trâu đấu. Kinh Hiền Ngu nói: Trưởng giả Tu Đạt cùng Xá-lợi-phất đến xem hình tinh xá Tu Đạt tự tay cầm một đầy dây Xá-lợi-phất cầm một đầu cùng đo tinh xá. Lúc đó Xá-lợi-phất vui mừng mỉm cười. Tu Đạt hỏi Tôn giả cười gì? Đáp: Ông trước đây đo đất trong trời Lục Dục cung điện đã thành, tức nhờ Đạo Nhãn mà thấy trời Lục Dục cung điện nghiêm tịnh, lại kéo dây đo. Lúc đó Xá-lợi-phất bỗng nhiên buồn rầu. Liền hỏi Tôn giả vì sao lo buồn. Đáp: Ông nay thấy trong đất này có bầy kiến chăng? Đáp: Thấy Xá-lợi-phất nói ông ở quá khứ thời Phật Tỳ-bà-thi cũng ở đây mà lập tinh xá, mà con kiến này cũng sống ở đó đến nay bảy Phật đã qua, ông đều vì Phật mà tạo dựng tinh xá mà con kiến này cũng ở trong đó. Đến nay đã chín mươi mốt kiếp mà vẫn chịu một thân kiến này không được giải thoát. Sanh tử dài lâu chỉ có phước là cần yếu lại chẳng thể trồng. Nhó Nhã nói: Có chân thì gọi là trùng, không chân thì gọi là trỉ (loài bò sát) hai chân mà có lông vũ thì gọi là cầm (chim), bốn chân có lông mao thì gọi là thú, trùng cá chim thú chủng loại sau cùng, núi nước không đất liền cảnh giới không bờ cõi, xoay vần nhậm nhiễm, trục vật cuồng ngu một niệm sáng lên thì vạn loại đều dứt hết, phải chiếu xét bản tính chớ khởi ý lạ. <詞>ĐỊA NGỤC. Phụ Hành nói: Địa ngục từ nghĩa lập tên, tức là ngục ở dưới đất gọi là địa ngục. Cho nên Bà-sa nói: Dưới Thiệm bộ châu quá năm trăm du thiện na bèn có ngục. Song địa ngục này có lớn có nhỏ. Như Đại Luận nói: Có tám ngục lớn: Một là Hoạt, hai là Hắc thằng, ba là Họp hội, bốn là Kiếu hoán, năm là Đại kiếu hoán, sáu là Nhiệt, bảy là Đại nhiệt, tám là A-tỳ địa ngục, như thế tám địa ngục lớn. Lại có mười sáu địa ngục nhỏ làm quyến thuộc có tám hàng băng (ngọc lạnh) và tam viêm hỏa (ngục nóng). Nói tám Viêm hỏa địa ngục: Một là Thán khanh, hai là Phất niệu (cứt đái), ba là Thiêu lâm, bốn là Kiếm lâm, năm là Đao Đạo, sáu là Thiết thích lâm (rừng gai sắt), bảy là Hàm hà (sông mặn), tám là Đồng tuyết. Tám ngục Hàn băng: Một là Át-phù-đà có ít nhiều lỗ, hai là Ni-la-phù-đà không có lỗ, ba là Ha-la-la là Hàn chiến thinh (lạnh run phát ra tiếng), bốn là A-bà-bà cũng lạnh phát ra tiếng, năm là Hầu hầu, cũng lạnh phát ra tiếng, sáu là Âu-ba-la, địa ngục này băng khiến thành sắc hoa sen xanh, bảy là Ba-đầu-ma, khiến thành sắc hoa sen đó, người tội ở trong đó chịu khổ, tám là Ma-ha ba đầu ma, là ở trong đó chịu khổ tùy theo nghiệp đã làm đều có nặng nhẹ. Chỗ nặng nhẹ nhất là Thượng phẩm ngũ nghịch Thập ác, đều có thân ở Đạo này. Na-lạc-ca (Nàraka) dịch là ác. Na-lạc là người, ka là ác tức người làm ác thì sanh vào đó, đây là nêu chính báo là Nại-lạc-ca hoặc Nại- lạc-ca, đây gọi là không thể vui, cũng gọi là khổ cụ hay khổ khí đây là nêu y báo. Ni-lê-da (Niraya) Văn Cú nói: Địa ngục là tiếng cõi này, tiếng Phạm gọi là Nê-lê, Tần gọi là không có, tức không có vui mừng, không có khí vị, không mừng không lợi, nên gọi là không có. Hoạc gọi thấp kém hay đọa lạc, trung ấm điên huyền, các căn đều hủy hoại. Hoặc gọi là không, tức không chỗ tha tội. A-tỳ (Avìci) dịch là Vô gián. Quán Phật Tam-muội Kinh nói: A là không, Tỳ là cứu. Thành Luận nói: Có năm vô gián: Một là Thú quả vô gián vì bỏ báo thân sanh; hai là thọ khổ vô gián là trong đó không có vui; ba là thời vô gián, nhất định là một kiếp; bốn là Mạng vô gián, trong đó mãi chẳng dứt; năm là Hình vô gián, tức như tướng A-tỳ rộng dài tám vạn do tuần, một người hay nhiều người đều cũng đầy khắp. Át-bộ-đà (Arbuda) Câu-xá gọi là phỏng. Lạnh đụng thân đều làm phòng dộp. Ni-thích-bộ-đà (Nirarabuda) dịch là bào liệt (phòng dộp) lạnh quá khiến thân nứt nẻ (theo tướng). Át-tư-tra (Atata) Hoắc hoắc bà (Apapa-Hahava) Hổ hổ ba (huhu- va-Hahadhara). nghĩa Phủ nói: Vì lạnh quá miệng không mở ra được chỉ động lưỡi làm tiếng tư tra. Đây là ước tiếng chịu khổ mà lập tên. Ốt-bát-la (Utpala) dịch là hoa sen xanh. Bát-đặc-ma (Padma) dịch là hoa sen đỏ. Ma-ha-bát-đặc-ma (Mahapadma) dịch là hoa sen đỏ lớn, đây đều là do lạnh mà thân có sắc hoa sen xanh, đỏ. Tân-tra-la (Pithara) dịch là Tập dục, vừa vào liền ra, tuy ở trong đó mà không đau khổ. A-ba-na-gia-đê chi). Kinh Âm nghĩa nói dịch là ác thú, có ba ác thú cũng gọi Tam đồ. Nói Tam đồ, Chích Hoa nói: Đồ là đạo (đường). Luận Ngữ nói: Gặp các đồ. Xét bốn giải thoát kinh nói: Địa ngục gọi là Hỏa đồ đạo, ngạ quỉ gọi là Đao đồ đạo, súc sanh gọi là Huyết đồ đạo. Đề có hai nghĩa: Một là nghĩa tàn hại, đồ tức là Đồ thán. Như Thượng thư gọi Dân trụy đồ thán. Hai là nghĩa chỗ đến Đồ tức là Đồ đạo. Như Dịch nói: Đồng qui nhi thù đồ (cùng về mà khác đường). Song Xuân Thu nói: Bốn Nhạc ba Đồ. Ứng Pháp sư nói; Xuân thu có ba Đồ là chỗ nguy hiểm, mượn đây làm tên. Thông Huệ nói: Có bản viết đồ ? là sai, phải viết là đố của đồ nê. Người sau dối gọi súc sanh, ngạ quỉ, địa ngục là ba đồ. Phải biết đây riêng chỉ cho địa ngục. Song Chỉ Qui nói: Không phải trái với giáo ta. Kinh bốn giải thoát nói Đao - Huyết - Hỏa ba thứ lại vu cho Ứng Sư Âm nghĩa. Kẻ hậu học kiểm tra tự thấy dối lập. Lại các giáo điển nói tám nạn: Tức ba ác đạo là ba, bốn là Bắc châu, năm là Trường thọ thiên, sáu là sanh trước Phật sau Phật, bảy là thế trí biện thông, tám là các căn chẳng đủ. Nay nói tụng rằng: Ba đồ, Bắc châu, Trường thọ thiên, Các căn chẳng đủ và thế trí, Trước Phật sau Phật cộng tám nạn. Khi chịu tám quả này chẳng được Thánh hóa, nên gọi là nạn. Hoặc Thế trí biện thông gọi là người sanh tà kiến. Tịnh Danh Sớ nói: Có hai thứ tám nạn: Một là phàm phu ở sự tám nạn, hai là Nhị thừa ở lý tám nạn. Sự tức là tám nạn giới nội, Lý tức là tám nạn giới ngoại. Kinh Khê nói: Nếu muốn lược nói thì trong Hữu Dư người có ba mươi tâm là ba ác đạo. Ở pháp vô ngã gọi là Bắc châu, Địa tiền pháp ái như Trường thọ thiên, chưa có Sơ địa mười thứ sáu căn gọi là các căn chẳng đủ. Địa tiền trí cạn như Thế trí biện thông chẳng hiểu rõ tung lý, như trước sau Phật nếu trong Thật báo vị vị trông nhau tiết tiết làm thành. Đây đếu là chướng lý Trung đạo. Thành Luận nói: Bồ-tát nói bốn luận dẹp tám nạn, một khi sanh giữa nước hay dẹp năm nạn, tức là ba đồ, Bắc châu và Trường thọ thiên. Hai là chính nguyện thì dẹp Thế trí biện thông. Ba là trồng thiện nhân, thì dẹp điếc đui câm ngọng. Bốn là gần người thiện thì dẹp sanh trước sau Phật. Muốn dẹp tám nạn phải tập bốn luân này, nên nay nêu ra khiến suy nghó mà tu. <詞>THỜI PHÂN. Tây Vức Ký nói: Thời gian ngắn nhất gọi là Sát-na, một trăm hai mươi sát-na là một Đát sát-na, sáu mươi Đát sát-na là một Lạp phược, ba mươi lạp phược là mâu-hô-lật-đa năm mươi mâu-hô-lật-đa là một thời, sáu mươi thời họp thành một ngày một đêm. Đêm có ba ngày có ba. Theo tục phân ngày đêm có tám thời, ngày bốn đêm bốn. Trăng đầy đến tròn gọi là Bạch phân, trăng từ khuyết đến tối trời (3 0) thì gọi là Hắc phần, có mười bốn ngày hoặc mười lăm ngày có tháng thiếu đủ. Hắc trước bạch sau hợp thành một tháng, sáu tháng gọi là một hành. Mặt trời dạo ở trong gọi là Bắc hành, mặt trời dạo ở ngoài gọi là Nam hành, chung có hai hành họp làm một năm. Lại phân một năm làm sáu thời, ngày 16 tháng giêng đến ngày 15 tháng 3 là Tiềm thục, ngày 16 tháng 3 đến ngày 15 tháng 5 là Thạnh thục, ngày 16 tháng 5 đến ngày 15 tháng 7 là Vũ thời, ngày 16 tháng 7 đến ngày 15 tháng 9 là Mậu thời, ngày 16 tháng 9 đến ngày 15 tháng 11 là Tiệm hàn, ngày 16 tháng 11 đến ngày 15 tháng giêng là Thạnh hàn. Như Lai Thánh giáo nói Tuế (năm) có ba thời. Ngày 16 tháng giêng đến ngày 15 tháng 5 gọi là Thục thời, ngày 16 tháng 5 đến ngày 15 tháng 9 gọi là Vũ thời, ngày 16 tháng 9 đến ngày 15 tháng giêng gọi là Hàn thời. Hoặc chia làm bốn thời: Xuân hạ thu đông, mùa xuân có tháng gọi là tháng Chế-tồ-la, tháng Phục-xá-khư, tháng Thệ-sắc-tra. Từ 16 tháng giêng đến ngày 15 tháng 4 là ba tháng mùa Hạ, tức là tháng Át-sa-trà, tháng Thất-la-phạt-noa, tháng Bà-đạt-la-bát-đà. Từ ngày 16 tháng 4 đến ngày 15 tháng 7 là ba tháng mùa thu, tức là tháng Át-thấp-phược-dữu-xà, tháng Ca-thích-để- ca, tháng Mạt-già-thủy-la. Từ ngày 16 tháng 7 đến ngày 15 tháng 10 là ba tháng mùa đông, tức tháng Báo, tháng Ma-khư, tháng Phả-lặc-lủ-noa. Từ ngày 16 tháng 10 đến ngày 15 tháng giêng lại là thời Đông hạ. Như Nhó Nha nói: Nhà Hạ nói Tuế, nhà Thương gọi Tự, nhà Chu gọi Niên, Đường Ngu gọi Đãi. Chú nói: Tuế là lấy sao Tuế đi một vòng, tự là lấy bốn thời tế tự hết một lượt, Niên là lấy lúa thóc chín trong một năm, Đãi (tải?) là lấy vật mùa đông lại bắt đầu Thượng Thư Đại Truyện nói: Nhà Hạ lấy 13 tháng làm chính (tháng giêng?), sắc còn đen, lấy bình đán làm sóc (ngày mồng một?) nhà Ân lấy 12 tháng làm chính, sắc còn trắng, lấy gà gáy làm sóc. Nhà Chu lấy 11 tháng làm chính, sắc còn đỏ, lấy nửa đêm làm sóc. Bạch Hổ Thông nói: chính sóc có ba. Bàn thiên có ba thống tức là tháng ba vi, ba vi là dương khí mới bản chất, Huỳnh tuyền vạn vật mới động nhẹ mà chưa trước. Thời 11 tháng là Dương khí bắt đầu, nuôi rễ cây, dưới Huỳnh tuyền vạn vật đều đỏ. Đỏ là khí Thạnh Dương. Nhà Chu lấy trời làm chính sắc, vì còn đỏ. Thời 12 tháng thì vạn vật bắt đầu nảy mầm mà trắng, trắng là khí âm dương. Nhà âm lấy đất làm chính sắc vì còn trắng. Thời 13 tháng là vạn vật mới bắt đầu lập phù giá mà ra đều đen, người được gia công, nên Hạ là chính sắc của người, vì còn đen. Bạt-đà-kiếp-ky (Bhadrakalpa). Kiếp kî Đại Luận bảo Tần gọi là phân biệt thời tiết. Bạt-đà, Tần gọi là Thiện có ngàn vạn kiếp quá khứ không có Phật, thì trong một kiếp ấy có ngàn Phật ra đời, các trời Tịnh Cư vui mừng nên gọi là Thiện kiếp. Trong một kiếp này có bốn trung kiếp là Thành trụ hoại không. nghĩa như tôi đã tuyển hình kiếp ba lấy từ Đại Luận. Hỏi: Bồ-tát bao lâu thì trồng được ba mươi hai tướng? Đáp: Chậm lắm là một trăm kiếp, nhanh nhất là chín mươi mốt kiếp. Đây là ước theo Đại kiếp. Song gieo trồng tướng hảo có bốn nghĩa: Một là chỗ trồng tướng, theo Đại Luận thì ở Dục giới, không phải là sắc và vô sắc. Trong năm đạo Dục giới thì ở tại nhân đạo trong bốn thiên hạ ở tại Diêm-phù-đề, trong thân nam nữ thì ở không phải thân nữ, trồng khi Phật ra đời, khi Phật diệt thì không trồng, duyên thân Phật mà trồng không trồng các thứ khác; Hai là nghiệp trồng tướng, theo Đại Luận nói: dùng ý nghiệp mà trồng không phải nghiệp thân khẩu. Vì sao thế? Vì ý nghiệp có lợi (lanh lợi?). Hỏi: Ý nghiệp có sáu thức vậy là thức nào? Đáp: Là ý thức, không phải năm thức kia, vì năm thức chẳng thể phân biệt; Ba là mới trồng tướng (trồng tướng đầu tiên). Có người nói Trúc an lập tướng (tướng chân đứng vững mới trồng?) trồng trước, có người nói tướng mắt xanh biết trồng trước. Đại Luận nói: Tuy có lời nói ấy nhưng không cần thiết. Nếu khi tướng nhân duyên hòa hợp thì liền nói là trồng trước; Bốn là trồng tướng phước, tất cả người phá chính kiến nhưng có một người có thể dạy khiến được tịnh giới chính kiến thì như thế là một phước. Đầy đủ trăm phước thì thành tựu một tướng. Sát-na (Ksana), Lăng Già nói: Thời sát-na không dừng nên gọi là sát-na. Câu-xá nói trong khoảng (một cái) khảy móng tay của tráng só thì có sáu mươi lăm sát-na. Nhân Vương nói: Trong một niệm có chín mươi sát-na, một sát-na trải qua chín trăm sanh diệt. Tỳ-đàm dịch là một niệm Nhật Tạng nói: Ta nay lại nói số của sát-na một ngàn sáu trăm (1 6 0 0) sát-na gọi là một ca-la, sáu mươi ca-la gọi là một mô-hô-luật-đa, ba mươi mô-hô-luật-đa là một ngày đêm Câu-xá Luận nói: Thời gian cực ngắn gọi là sát-na, thời gian cực dài gọi là kiếp. Thông minh cực nhỏ gồm có ba thứ. Câu-xá tụng rằng: Cực nhỏ tên (chữ) sát-na, Sắc danh thời cực nhỏ. Giải thích rằng: Phân tích các sắc đến chỗ nhỏ nhất thì gọi là sắc cực nhỏ, phân tích các danh và thời đến một chữ một sát-na là danh cực nhỏ và thời cực nhỏ. Đát-sát-na (Taksana) Tỳ-đàm dịch là một nháy mắt. Tăng Kỳ nói: Hai mươi niệm là một nháy mắt, hai mươi nháy mắt là một đờn chỉ (một khảy móng tay). Ma-hầu-la (Muhùrta) Tỳ-đàm dịch là Tu-du (phút chốc), một ngày một đêm cộng có ba mươi tu du. Tăng Kỳ nói: Hai mươi la dự gọi là một tu du. Tụng rằng: Một trăm hai mươi sát-na là một đát-sát-na, sáu mươi lạp phược là ba mươi tu du là ba mươi ngày đêm, ba mươi ngày đêm là một tháng, mười hai tháng là một năm, trong đó giảm bớt nửa đêm. Ca-la (Kala) Khán chính Ký gọi là thật thời, nghĩa là trong Tỳ-ni dạy răn đệ tử nghe giờ ăn mà không ăn (ngăn) phi thời thì thật có thời ấy. Cho nên Đại Luận nói: Tỳ-ni kiết giới là trong thế giới thật, không phải là thật trong Đệ nhất nghĩa. Luận lại hỏi rằng: Nếu giờ (lúc) ăn phi thời, giờ (lúc) uống thuốc, giờ (lúc) mặc áo đều là ca-la sao không nói là tam-ma-da. Đáp lời này trong Tỳ-ni kẻ bạch y không được nghe thì ngoại đạo do đâu nghe được mà sanh tà kiến. Các kinh khác đều được nghe, thế nên nói Tam-ma-da khiến không sanh tà kiến. Ta-ma-da (Samaya), Khan chính Ký gọi là giả thời, cũng gọi là thời ngắn thời dài. Luận nói: Vì trừ tà kiến nên nói Ta-ma-da mà chẳng nói Ca-la. Lại có người nói: Tất cả trời đất tốt xấu đều lấy thời làm nhân. Trung Luận rộng ước ba đời vô tướng, thế nên thời pháp không thật, thế nên nói Ta-ma-da khiến không sanh tà kiến. Ta-ma-da là giả (ngụy) gọi là thời, cũng gọi thời giả gọi, cũng gọi là thời dài thời ngắn, chẳng đồng với định chấp của người ngoài, bởi là giả nói dài ngắn mà không có thật, hoặc dài hoặc ngắn đều gọi là Ta-ma-da, thấy Ấm-giới- nhập có sanh diệt mà giả gọi là thời. A-lưu-na (Aruna) hoặc A-lâu-na hoặc Tát-đỏa, Hán gọi là Minh Tướng. Minh Liễu Luận rằng: Đông phương đã đỏ Thông Huệ Chỉ Qui nói: Phương này ước mặt trời chưa mọc trước hai khắc thì sáng, đây là minh tướng, lấy xem thấy chỉ trong bàn tay làm mức là bốn phân minh. Lại Biệt Tông gọi là Đại liễu thời nghĩa là thấy sắc đất rõ ràng. Lại nói: Mặt trời mọc chiếu sáng sắc cây Diêm-phù nên gọi là Minh Tướng. Kinh Hư không Tạng nói: Là mới làm hạnh Bồ-tát (Bồ-tát sơ hạnh) khi sao mai mới mọc thì từ tòa ngồi đứng dậy hướng về sao sáng mà nói thế này Nam mô A-lâu-na thành tựu Đại Bi, nay mới ra ở Diêm-phù-đề nguyện đem Đại Bi che chở con, lại bạch rằng: Đại Bi Hư Không Tạng Bồ-tát trong đêm báo mộng chỉ bày con phương tiện để làm duyên mà hối lỗi chỗ phạm căn bản tội nặng vậy.  PHIÊN DỊCH DANH nghĩa TẬP <卷>QUYỂN 3 Gồm mười bốn mục sau đây: Đế Vương Hoàng hậu Thế giới Các nước Các núi Các sông Rừng cây Năm quả Trăm hoa Các hương Bảy báu Số lượng Các vật Hiển sắc. <詞>ĐẾ VƯƠNG Đế Vương lược luận rằng: Phàm Đế Vương ắt lập đức lập công để được to lớn lâu dài, Kinh thì dùng nhân nghĩa, Vỹ thì dùng văn võ, thâm căn cố đế (rễ thấm sâu xa) để tặng con cháu, một lời nói một hành động đều có khuôn phép suốt đến muôn đời chẳng thay đổi. Do đó trong thành bốn Đại vương cùng ở một chỗ, sức vua chấn động cả muôn nước, oai vua có thể khuất phục được muôn dân. Cho nên Kim Khẩu nhắn nhủ (di chúc) rừng hạc lãnh lệnh, sợ bốn chúng kém yếu, lo Tam bảo suy đồi nhờ oai phong của Quốc vương, thế lực của vua chúa mà cậy nhờ gửi gấm Đế Vương khiến mau lưu thông. Nhân-đà-la (Indra) dịch là Đế hay Thiên chủ, là đời vua Thụy Pháp nói: Đức tượng trưng cho trời đất nên gọi là Đế, Nhân nghĩa từ đó sanh ra gọi là vương. Hán gọi Thiên Tử (vua) là Hoàng đế, gọi Đích từ (con nối giỏi) là Hoàng Thái tử, các con nối dõi của Vương Hầu gọi là Thế Tử. Bạch Hổ Thông nói: Hoàng là tiếng gọi chung về lớn đẹp, sáng sủa người không trái,. Chẳng phiền một người, chẳng phá khuấy một kẻ cho nên gọi là Hoàng. Thái Hạo Phục Hy Thị, Viêm Đế Thần Nông Thị, Huỳnh Đế Hữu Thái Thị gọi là ba Hoàng. Thiếu Hạo Kim Thiên Thị, Chuyên Húc Cao Dương Thị, Đế Khốc Cao Tân Thị, Đế Nghiêu Đào Đường thị, Đế Thuấn Hữu Ngu Thị gọi là năm Đế. Hoàn Tử nói: Ba Hoàng dùng đạo mà trị, năm Đế lấy đức mà hóa, ba Vương do nhân nghĩa, năm Bá dùng quyền trí. Vương Tiêu nói: Vương tuy gọi Đế mà chẳng được gọi Thiên Đế mà gọi Thiên tử, là con của trời, con cùng cha tôn ti cách xa nhau. Kim Quang Minh Kinh nói: Vì trời che chở lại xưng là Thiên tử. Trang Tử nói: Phàm đức của Đế Vương lấy trời đất làm tông, lấy đạo đức làm chủ, lấy vô vi làm thường. Dật Só Truyện nói: Thời Đế Nghiêu có cụ già gõ đất bên đường bảo: Ta mặt trời mọc thì làm, mặt trời lặn thì nghỉ, đào giếng mà uống cày ruộng mà ăn. Đế có làm gì ta. Giá-duyệt-na (Ràja) hoặc gọi Yết-ra-xa, dịch là Vương Tát-giá Kinh nói: Vua là cha mẹ của dân, dùng pháp mà nhiếp hộ chúng sanh khiến được an vui. Bạch Hổ Thông nói: Vua là đến, chỗ thiên hạ theo về. Hồng Phạm nói: Không thiên (riêng) không đảng (bè đảng) Vương đạo mênh mông, không đảng không Thiên vương đạo bình sinh. Khổng Thị Truyện gọi là Biện tự. Vua Ngô Sở tiếm hiệu xưng Vương, Trọng Ni chính danh lấy Chu Thiên Tử làm Thiên vương. Nên Xuân Thu nói: Vương tuần thú ở Hà Dương. Hàn Thi Ngoại Truyện nói: Quân là quần (vua hợp quần). Ban Cố nói: Đó là vua thiên hạ: nóng như mặt trời, oai như thần, chứa như biển, nuôi dưỡng như mùa xuân, cũng như cây cỏ trồng núi rừng, chim cá nuôi sông đầm, tham trời đất mà bày hóa há nói việc người dày mỏng ư? Họ thích lấy tự tại gọi là vua. Diệu Huyền nói: Chuyển luân thánh vương bốn cõi tự tại. Chước-ca-la-phạt-lạt-để-hạt-la-xa (Cakravartiràja) hoặc gọi Giá- ca-việt-la dịch là Chuyển luân vương. Câu-xá nói: Từ người châu này sống vô lượng tuổi cho đến tám vạn tuổi, có Chuyển luân vương sanh ra, khi giảm còn tám vạn tuổi lúc đó hữu tình giàu vui, tuổi thọ giảm dần các ác nhiều dần, không sợ đại nhân nên không có Luân vương. Do bánh xe quay dần nên dẫn (đem) oai phục tất cả gọi là Chuyển luân vương, nói đầy đủ có bốn là Kim Ngân Đồng Thiết Luân khác nhau, như thứ lớp mà hơn kém có thượng, trung, hạ mà thống lãnh một, hai, ba, bốn châu. Khế Kinh từ hơn nên chỉ nói Kim Luân, nên Khế kinh nói nếu vua sanh ở dòng Sát-đế-lị, mà nối ngôi quán đảnh. Vào ngày 15 (rằm) khi thọ trai giới tắm gội đầu thân thọ trai giới lên đài cao, các quan vây quanh. Đông phương bỗng có Kim Luân Bảo hiện ra, bánh xe ấy ngàn xe đầy đủ vành xe các tướng viên tịnh, như thợ khéo làm thành, phóng ra sáng rỡ mà đến chỗ vua. Vua này nhất định là Chuyển kim luân vương, chuyển các Luân vương khác nên biết cũng thế. Bốn thứ Luân vương oai định các phương, cũng có sai khác. nghĩa là Kim luân thì vua các nước nhỏ tự đến đón rước thưa rằng: Nước chúng tôi đất đai rộng lớn phì nhiêu an ổn giàu vui nhiều dân chúng. Rất mong Thiên Tôn thân đến dạy dỗ, chúng tôi đều là vây cánh của Thiên Tôn. Nếu Ngân Luân Vương thì tư đến nước ấy, oai nghiêm đến gần các quan đều khâm phục. Nều Đồng Luân Vương thì đến nước ấy rồi thì phải ra uy tranh đức mới được suy tôn. Nếu Thiết Luân Vương thì cũng đến nước ấy hiện oai đánh trận thắng mới thôi. Tất cả Luân Vương đều không bị thương hại nên được thắng, ai nấy đều ngồi yên mà khuyên dạy khiến tu Thập Thiện Nghiệp Đạo. Nên Luân vương chết rồi thì nhất định sanh lên trời. Từ Ân nói: Kim Luân Vương nhìn oai phong liền theo, Ngân Luân Vương phải sai sứ mới hàng, Đồng Luân Vương ra uy mới phục, Thiết Luân Vương đánh cướp mới yên. Ma-ha-tam-ma-hạt-la-xà (Mahàsaưmataràja) dịch là Đại Bình Đẳng Vương, là chúa dân ở kiếp sơ. Thủ-đồ-đà-na (Suddhodana) hoặc gọi Duyệt Đầu Đàn dịch là Tịnh Phạn hoặc Chân Tịnh hay Bạch Tịnh. Đô-lô-đàn-na (Dronôdana) dịch là Hộc Phạn. Tát-phược-đạt (Sarvada). Tây Vức Ký nói Đường gọi là Nhất Thiết Thí, là hiệu xưa của Như Lai khi tu hành Bồ-tát, trốn địch bỏ nước lén đến đây, Ma-ha-phạt-na già-lam. Đường gọi là rừng lớn, gặp Bà- la-môn nghèo đến xin, bèn khiến trói cột vua địch xưa nhờ lấy tiền mà đem bố thí. Thi-tỳ-ca (Sivika) Tây Vức Ký nói Đường gọi là cho xưa gọi Thi- tỳ, là gọi tắt. Ca-lị (kali) hoặc gọi Ca-lị hay Ca-lam-phù, dịch là ác thế hay ác sanh, hay vô đạo. Tây Vức Ký gọi là Yết-lị Vương. Đường gọi là đấu tranh. Xưa gọi là Ca-lị là sai. Tần-bà-ta-la (Bimbisàra) hoặc gọi Bình Sa Vương, dịch là Mô Thật vì thân rờ có thật, lại dịch là Hình lao hay ảnh kiên, Hình tức là hình ảnh đều lấy nghĩa thể phần cương trang. Tần-bà hoặc gọi là Tần- tỳ dịch là nhan sắc, Ta-la dịch là đoan chính (đẹp đẽ) hoặc dịch là Sắc Tượng Thù Diệu Vương (vua có hình dáng đẹp?). Ba-tư-nặc (Prasenagit) hoặc gọi Bất-lê-tiên-ni, dịch là Hòa duyệt. Tây Vức Ký gọi là Bát-la-tư-na-đặc-đa. Đường dịch là Thắng quân. Kinh Nhân Vương gọi là Ba-tư-nặc Vương. Vì đời quá khứ mười ngàn kiếp làm Tứ địa Bồ-tát trong pháp của Phật Long Quang vương. Ưu-điền (Udayana) Tây Vức Ký gọi là Ngoa (bảo là sai). Gọi đúng là Ổ-đa-diễn-na Vương. Đường gọi là Xuất Thọ. Tỳ-lư Thích-ca (Virùdhaka) Tây Vức Ký nói: Xưa gọi là Tỳ Lưu Ly Vương là sai. Tỳ-la-tiện-na (Virasena) Tần gọi là Dõng quân. A-xà-thế (Ajàrazatru) dịch là vị sanh oan. Diệu Lạc nói: Ngày mẹ có thai đã có ác tâm, đối với vua Bình Sa chưa sanh đã ghét, nên nhân đó đặt tên. Hoặc gọi Bà-la-lưu-chi, dịch là vô chỉ. Diệu Lạc nói: Hồi mới sanh tướng đã hung, vua khiến đem lên lầu đánh chết, chỉ gảy có một ngón tay nên lấy đó đặt tên, người trong nhà che chở gọi là Thiện kiến. A-dục (Asoka) hoặc gọi Du-ca hay A-du-kha, dịch là Vô Ưu Lương. Bổ-thích-noa-phạt-ma (Pùranavarman) Tây Vức Ký nói: Đường gọi là mãn vị, là cháu cuối của Vô Ưu Vương. Thi-la-a-dật-đa (Sìrôiditya) Tây Vức Ký nói: Đường gọi là giới nhật, thương nuôi bốn loài, hưng sùng Tam bảo voi ngựa uống nước lượt rồi mà sau mới cho uống, ở ngôi hơn năm mươi năm, dã thú quen nhờn. Nhương Khư Vương (Samkharàja) cũng gọi Sương Khư, dịch là bối, tức là kha bối vậy. La-xà-đờn-na (Ràjavardhana) Tây Vức Ký nói: Đường gọi Vương Tăng. Ma-ha-nhơn-đà-la (Mahendra) Tây Vức Ký nói: Đường gọi là Đại Đế là em vua Vô Ưu khoang hình sáu ngày (mặt trời?) được quả xuất gia. Kỳ-đà (Jetri) hoặc gọi Kỳ-hoàn, dịch là chiến thắng. Khi sanh thì cha là Ba-tư-nặc đánh thắng nước ngoài. Tây Vức Ký gọi là Thệ Đa, Đường gọi là Thắng Lâm xưa gọi là Kỳ-đà là sai. Các kinh nói: Kỳ Thọ Tây Vức Ký nói: Lúc đó Cấp Cô Độc nguyện cất Tinh Xá Phật khiến Xá-lợi-phất tùy chỗ đo lường, thì thấy chỉ có vườn đất của Thái tử Thệ Đa là thích họp, bèn tìm đến Thái tử nói rõ mọi việc. Thái tử nói đùa đem vàng lót hết đất sẽ bán cho. Nghe xong liền mở kho vàng đem vàng lót đất, có một vài chỗ chưa lót vàng đủ. Thái tử ngăn lại bảo Phật là ruộng tốt chúng ta phải gieo trồng giống thiện. Rồi nơi đất trống mà lập tinh xá. Thế Tôn bảo A-nan rằng: Từ nay trở đi đất này là rừng Thệ Đa vườn Cấp Cô Độc. Đề-lê-noa Thái tử, Đại Luận nói: Tần gọi là Hảo Ái. Tây Vức Ký gọi là Tô-đạt-noa (Sudàna). Đường gọi là Thiện Nha, cũng gọi là Thiện Dũ. Xiễn-thích-ca (Chamdaka) Tây Vức Ký nói: Xưa gọi là Xa-nặc là sai cũng là dòng họ Thích. Khi Thái tử xuất gia khiến Xa-nặc dẫn ngựa Kiền-trắc, goi đúng là kiền-tha-ca dịch là nạp. Kinh Âm nghĩa nói: Xa- nặc vốn là tên gọi người giữ ngựa. Tịnh Danh Sớ nói: Nó tự ỷ dòng vua khinh các Tỳ-kheo Tăng. Pháp sư lúc đó khinh cười rằng: Giống như lá rụng gió thổi gom lại một chỗ cần gì bình luận. Phật pháp đời sau cũng không tự sửa đổi. Phật khiến làm Phạm Đàn tức làm thinh mà đuổi đi. Cũng gọi là Pháp trị tội của Phạm thiên riêng lập một đàn, người phạm pháp khiến vào đàn ấy, các phạm chẳng được cùng nói năng với người ấy. <詞>HOÀNG HẬU. Chu Lễ nói: Thiên tử lập Hậu sáu cung. Trịnh Thi Chú rằng: Một cung trước, năm cung sau. Năm cung là Hậu một cung, ba phu nhân một cung, chín tần một cung, hai mươi bảy thế phụ một cung, tám mươi mốt ngự thê một cung. Hậu chính vị cung vi, thể đồng với Thiên tòa. Mao Thi nói: Quan quan thư cưu tại hà chi châu, yểu điệu thục nữ quân tử hảo cầu. Làm thi quan thư này bởi để khen đức Hậu phi của Văn Vương. Hậu phi có đức quan thư là cô gái u nhàn trinh chuyên, phải là người quân tử mong cầu. Ma-la Ma-gia (Maha maya) Tây Vức Ký nói: Đường gọi là Đại thuật hoặc Đại huyễn. Tấn Hoa Nghiêm nói: Ma-gia phu nhân. Đáp Thiện Tài nói rằng: Ta đã thành tựu đại nguyện Trí huyễn pháp môn, được pháp môn này nên làm mẹ Lô-xá-na Như Lai ở thành Ca-tỳ-la tại Diêm-phù-đề ở cung Tịnh Phạn Vương từ hông hữu sanh ra Tất-đạt-đa Thái tử, hiển hiện thần lực tự tại bất khả tư nghì. Bản Hạnh Kinh nói: Khi Thái tử sanh ra vừa đầy bảy ngày thì mẹ Thái tử là Ma-gia phu nhân bèn mạng chung. Kinh Nhân Quả nói: Di mẫu của Thái tử là Ma- ha-ba-xà-ba-đề nuôi dưỡng Thái tử như mẹ không khác. Cù-di (Gopi) dịch là Minh nữ. Ngũ Mộng Kinh nói: Là con gái của Xá-di Trưởng giả. Trưởng giả tên là Thủy Quang, vợ tên là Dư Minh. Vợ ở gần thành khi sanh con gái, mặt trời sắp lặn mà chiếu ánh sáng vào nhà đều sáng rỡ, nhân đó đặt tên là Cù-di, tức là vợ cả của Thái tử. Vợ hai của Thái tử sanh ra La-vân gọi là Gia Đàn, cũng gọi Gia-du, cha tên là Di Thí Trưởng giả, vợ ba tên là Lộc Giả, cha tên là Thích Trưởng giả. Thái tử vì có ba vợ nên vua Bạch Tịnh Phạn lập ra điện ba mùa. Đại Luận nói: Thích-ca Văn Bồ-tát có hai phu nhân, một tên là Cù-tỳ- da, hai tên là Dia-du-đà-la, là mẹ của La-hầu. Cu-tỳ-gia là bảo nữ nên không có thai. Vi-đề-hy (Vaidechì) dịch là Tư duy. Quán Kinh nói: Cúi mong Thế Tôn dạy con tư duy, dạy con chính thọ (thiền định). Ma-lị (Màlì) hoặc gọi Mạt-lị, dịch là man, là hậu của Nặc Vương, Tây Vức Ký gọi là Nại, nhân vì cho mít mà được báo. Con gái tên Thắng Man là phi của của Du Ám Vương. Bán-thi-ca, cô gái này, Thập Tụng nói: Có sắc đẹp, lời bình là hết cả nước Bán-thi-ca vì người muốn sao đoạn (có thể làm cả nước Bán-thi-ca phải chao đảo) nên khiến sai Sứ vào Tăng mà thuyết giảng thay. <詞>THẾ GIỚI. Lăng Nghiêm nói: Thế là Thiện lưu, giới là phương vị. Ta nay phải biết: Đông Tây Nam Bắc, Đông Nam Tây Nam, Đông Bắc Tây Bắc, trên dưới là giới, quá khứ hiện tại vị lai là Thế. Thế giới có hai thứ: Một là chúng sanh thế giới là chính báo, hai là khí thế giới là y báo. Nêu Lăng Nghiêm nói: Do đây mà vô thủy chúng sinh thế giới bị ràng buộc với khí thế gian chẳng thể siêu việt (thoát được). Đại Luận nói: Có ba thứ thế gian: Một là năm ấm, hai là chúng sinh, ba là cõi nước. Gian cùng giới tên khác mà nghĩa đồng. Gian là khoảng ngăn cách khác nhau, giới là bờ cõi đã rõ ràng. Giới có hai thứ: Một là mười giới, hai là ba giời. Mười giới là địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, tu-la, nhân thiên đây gọi là sáu phàm, Thinh văn, Duyên giác, Bồ-tát, Phật gọi là bốn Thánh. Chỉ Nguyệt Sao hỏi: Tên mười giới có gì hiển cứ. Đáp: Đại Luận nói chúng sanh trong chín đạo được thọ ký gọi là ba Thừa đạo, sáu Thú đạo, nên biết chín Đạo tức chín giới vậy, thọ ký làm Phật là mười giới (giới thứ mười). Hai là ba giới một là Dục giới. Dục có ba: Một là ăn uống, hai là ngủ nghỉ, ba là dâm dục, ba việc này mong muốn mà gọi là dục. Nếu có tình giới từ Tha Hóa Thiên đến ngục vô gián hoặc khí thế giới cho đến phong luân đều thuộc Dục giới. Hai là Sắc giới, hình sắc thanh tịnh thân tướng thù thắng, chưa ra khỏi lồng sắc nên gọi Sắc giới. Ba là Vô sắc giới, ở trong giới đó Sắc không có. Lại ba giới này là gồm chung sáu đạo, phân riêng có hai mươi lăm hữu. Kinh Khê Tụng rằng: Bốn châu bốn ác thú, sáu dục và Phạm thiên, bốn Thiên bốn không xứ, vọng tưởng năm Na-hàm. Lại ba giới này có ba thứ tức Tiểu thiên, Trung thiên, Đại thiên. Như Câu-xá nói: Bốn Đại châu nhật nguyệt, Tu Di Lô Dục Thiên, Phạm Thế đều một ngàn, đây gọi Tiểu thiên giới, ngàn lần Tiểu thiên này gọi là một Trung thiên, gấp ngàn thiên này là Đại thiên, đều đồng một Thành hoại. Xưa Nam Sơn Tôn giả hỏi Vi Thiên tướng quân rằng: Tôi nghe một hóa cảnh của Phật có số ba ngàn cõi nước ngày tháng năm hoặc nói trăm ức hoặc nói ngàn trăm ức. Đáp: Như sư hỏi trăm ức ngàn trăm ức là Văn Kinh rõ ràng có ngàn trăm ức hóa thân Thích-ca Mâu-ni Phật. Một hóa Phật một ngày tháng (mặt trời mặt trăng) sao được trăm phần chỉ nói một phần chỉ khi nói sai lầm tóm tắt như thế. Nói chung lại vạn ức ngày tháng (mặt trăng mặt trời?) là một Đại thiên. Huân Văn nói: e số Tây thiên ức có lớn nhỏ nên lấy một trăm tiểu ức làm đại ức, bèn thành trăm ức ngày tháng (một mặt trời mặt trăng). Như thế Đại thiêu đều là hóa cảnh của Thích Tôn. Như Pháp Hoa nói; Như Lai cũng lại như thế thì là cha của tất cả thế gian mà sanh ra ba giới (ba cõi) xem như nhà lửa vì độ chúng sanh sanh già bệnh chết buồn lo sầu khổ ngu si mù tối là lửa của ba độc, giáo hóa khiến được A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề. Tha-na (Sthàna) dịch là xứ. Chơn Đế nói: Trụ xứ (chỗ ở) có hai: Một là cảnh giới xứ, là cảnh du lịch (trải qua) vì hóa độ kẻ tục, hai là y chỉ xứ là thống lãnh chúng xuất gia tức là Kỳ Viên, Bà-sa nói: Nêu Xá-vệ khiến người xa đều biết nước là chung, nêu Kỳ Viên khiến người gần biết vườn là riêng. Tu-ma-đề (Sukhàvati) Đại Luận nói: Dịch là Diệu ý, Hảo trí hay Hảo ý. Kinh Di-đà nói: Cõi nước Phật A-di-đà ở gọi là Tu-ma-đề. Tác-ha (Sahà) Tây Vức Ký gọi Tác-ha là một thế giới ba ngàn đại thiên cõi nước là một cảnh hóa nhiếp của Phật xưa gọi Ta-bà lại gọi Tá-ha đều sai. Lăng Già dịch là năng nhẫn. Bi Hoa nói: Sao gọi Ta-bà là các chúng sinh ấy nhẫn chịu ba độc và các phiền não, hay nhẫn ác này nên gọi nhẫn só. Như Lai riêng chứng tự thệ Tam-muội Kinh nói: Sa-ha, Hán gọi là nhẫn giới (cõi nhẫn) Chân Đế Tam Tạng nói kiếp sơ (xưa) Phạm Vương tên Nhẫn, Phạm Vương là chủ thế giới ấy nên gọi là Nhẫn Độ (cõi nhẫn), có người nói tạp hội thế giới. Trường Thủy nói: Đều là tên kinh đô của Đại thiên thế giới. Cảm Thông Truyện nói: Ta- bà là tên chung của Đại thiên. Cô Sơn nói nêu tên chung không phải chỉ cho Đại thiên. Đông Phất Vu Đãi (Pùrvavideha). Tây Vức Ký nói: Trong biển có thể ở, đại lược có bốn: Một là Thắng, tức Thắng Nam Châu. Lại nói: Trước một ở trước các phương lại dịch là sơ, tức là chỗ mặt trời mới mọc. Câu-xá nói: Đông Tỳ-đề-ha Châu tướng nó như nửa mặt trăng thân dài tám tấc sống hai trăm năm mươi? Diêm-phù-đề (Jambudvipa) nói sai là Viêm-phù, dịch là Thắng Kim. Đại Luận nói: Tên cây Diêm-phù rừng này rất tốt tươi cây này ở trong rừng rất lớn. Đề gọi là châu. Châu này trên có rừng cây này, trong rừng có sông dưới đáy sông có cát vàng tên là vàng Diêm-phù-đàn, vì cây Diêm-phù nên đặt tên châu là Diêm-phù. Châu này có năm trăm châu nhỏ vây quanh, tên gọi chung Diêm-phù-đề. Khan chính nói: Đây thì sông nhân cây mà lập tên, vàng nhân sông mà có tên Trường Thủy nói hoặc gọi nước quả Diêm-phù điểm vật thành vàng nhân chảy vào sông mà nhuộm đá thành vàng sắc nó vàng đỏ lại ánh sắc tím. Tây Vức Ký nói: Nam Thiệm bộ châu xưa gọi là Châu Diêm-phù-đề, lại gọi Viêm Phù Châu là sai. Tạng Sao nói: Thiệm bộ cõi này không có nơi nào tương đương nên không dịch, chỉ có Tây Vức Ký dịch là Uế Thọ. Nam Thiệm bộ châu, Bắc rộng Nam hẹp, ba bên hình như cái xe. Câu- xá nói: Thiệm bộ châu thân người cao nhất là ba tấc rưỡi, người sống (tuổi thọ) không nhất định. Tây-cù-da-ni (Aparagodàniya), dịch là Ngưu hóa, hoặc Thủ dữ. Tạng Sớ nói: Vì nơi đó có nhiều trâu lấy trâu làm hàng hóa. Câu-xá Sao nói: Thời kiếp sơ nhân dưới cây cao có một trâu báu làm hàng hóa đề trao đổi. Tây Vức Ký gọi là Tây-cù-đà-ni châu. Xưa gọi là Cù-na-ni. Lại gọi Cù-già-ni là sai. Câu-xá nói: Tây Ngưu Hóa Châu sống năm trăm tuổi tướng đầy không ốm, cao mười sáu chỏ tay. Bắc Uất-đơn-việt (Uttarakuru) hoặc Uất-đát-việt, dịch là Thắng xứ hay Thắng sanh, ở trong bốn châu thì hữu tình xứ hóa đều rất tối thắng. Cũng gọi là cao thượng xuất ra ba phương khác hình như cái tòa vuông, bốn mặt đều dài ba mươi hai tấc sống đủ một ngàn tuổi. Nên Câu-xá nói các chỗ có trung yểu trừ Bắc Cu-lô-châu, vì tuổi thọ nhất định, vì rất vui, vì chấp chặt nên Thánh nhân chẳng sanh vào đó, là một trong tám nạn. Nếu luận về gặp Phật nghe pháp thì Nam Thiệm bộ châu là nhiều hơn hết. Nên Đại Luận nói: Nam châu ba việc còn hơn các trời huống là Bắc Châu ư? Một là hay đoạn dâm, hai là sức thức niệm, ba là hay tinh tấn. Do đó các Phật chỉ ra đời ở Nam châu. Tây Vức Ký nói: Bắc Cu-lô-châu xưa gọi là Uất-đơn-việt, lại gọi là Cưu-lâu là sai Kim Luân Vương thì hóa khắp bốn thiên hạ, Ngân Luân Vương thì chính cách Bắc Câu-lô, Đồng Luân Vương thì trừ Bắc Cu-lô-châu và Tây Cù- đà-ni, Thiết Luân Vương thí chỉ có Thiệm bộ châu. Phàm Luân Vương sắp ở ngôi lớn tùy phước mà cảm. Có Đại Luân Bảo bay trên không mà đến mà cảm có Kim Ngân Đồng Thiết khác nhau. <詞>CÁC NƯỚC. Xưa các vua dựng nước nuôi dân, độ trời đất rất họp, định âm dương rất hòa. Nhân Vương Kinh nói: Thiệm bộ châu này có mười sáu nước lớn, năm trăm nước vừa, mười vạn nước nhỏ. Kinh Lăng Nghiêm nói: Diêm-phù-đề này có hai ngàn ba trăm ( 2. 300) nước lớn. Kim Quang Minh nói: Diêm-phù-đề này tám vạn bốn ngàn thành ấm xóm làng, song pháp thân không có hình dạng há mượn đất để ở. Nên vật có hình phải tùy nước mà hóa. Do đó Phật sanh ở nước Ca-duy-vệ thành đạo ở nước Ma-kiệt-đề, nói pháp ở nước Ba-la-nại, nhập diệt ở Cu-thi-na. Cho nên bốn chỗ này đều lập tháp mà thờ. Trí Độ Luận nói: Vì báo ân đất sanh phần nhiều đều ở Xá-bà-đề, tất cả chúng sinh đều nghó đất sanh. Như kệ nói: Tất cả Luận Nghị Sư, tự yêu pháp mình biết, như người nghó đất sanh, tuy xuất gia còn tranh cãi, để báo ân đất pháp thân phần nhiều ở Vương-xá thành, các Phật đều ưa pháp thân. Như kệ nói chư Phật quá khứ vị lai hiện tại đều cúng dường Pháp sư kính tôn trọng. Ấn Độ (Simdhu) Tây Vức Ký nói: Tên gọi Thiên Trúc luận bàn lăng xăng. Xưa gọi là Thân Đốc hoặc Thận Đậu. Nay gọi là Ấn Độ. Ấn Độ thì Đường gọi là Nguyệt, Nguyệt có nhiều tên đây chỉ gọi một. Bởi vì cõi ấy thánh Hiền nối khuôn phép dẫn dắt mọi người như trăng chiếu sáng, do có nghĩa ấy gọi là Ấn Độ. Cảnh năm Ấn Độ gồm hơn chín vạn dặm, ba bên có biển lớn, phía Bắc dựa vào núi Tuyết. Bắc rộng Nam hẹp hình như nửa mặt trăng, phân chia bờ cõi thì có hơn bảy mươi nước trời nóng bức có nhiều suối khe. Thành Quang Tử nói: Nước Trung Thiên Trúc phía Đông giáp Chấn Đán năm vạn tám ngàn dặm, phía Nam giáp nước Kim Địa, phía Tây đến nước A-câu-giá, phía bắc đến Hương Sơn A-nậu-đạt cũng đều năm vạn tám ngàn dặm thì biết nó là giữa các nước. Lương Truyện nói: Hà Thừa thiên để mang tên bác vật. Bèn hỏi Huệ Nghiêm rằng: Nước Phật dùng lịch nào. Đáp rằng: Thiên Trúc vào ngày Hạ chí, lúc giữa trưa cắm cọc không bóng lệch gọi là Thiên Trung, ở Ngũ Hành thổ Đức sắc còn vàng, số còn năm, tám tấc làm thước mười lượng đến đất này là mười hai lượng, lập tháng Thìn làm đầu đầu năm và thảo hạch phân chí suy giảo bạc trùng cố bộ quang ảnh, pháp ấy rất rõ, túc độ chương kỷ đều có điều lệ thứa thiên vô sở thố nạn. Sau người nước Bà-lị đến quả đúng như lời Nghiêm nói. Ba-la-nể-tư (Vàrànasi) Tây Vức Ký nói: Xưa gọi là Ba-la-nại là sai thuộc Trung Ấn Độ. Bà-sa nói: Có sông tên là Ba-la-nại cách đó không xa có tạo lập thành vua, dịch là sông bên thành, cũng gọi Lộc Uyển. Ca-tỳ-la-phiên-tốt-đô (Kapilavastu) Ca-tỳ-la dịch là Huỳnh sắc, phiên-tốt-đô dịch là Sở y xứ. Từ Thượng Cổ đã có Tiên gọi là Huỳnh Đầu ở đây tu đạo. Tây Vức Ký gọi là kiếp bí-la-phạt-tốt-đổ, xưa dịch là Ca-tỳ-la-vệ là sai hoặc gọi Ca-duy-vệ, hoặc Ca-di. Dịch là Xích trạch hoặc gọi Bà-đâu dịch là Sưu, dịch là Năng Nhân Trụ xứ (chỗ ở Năng Nhân = Phật) Trúc Pháp Lan đối Hán Minh gọi là Ca-tỳ-la-vệ trong Đại thiên vậy. Tống Sa-môn Huệ Nghiêm cùng Nam Mân Giáo Phủ Hà Thừa Thiên cùng luận nghĩa trong tiếng Hoa Phạm bèn dẫn pháp Trắc Cảnh của Chu Công: cõi nay ngày Hạ Chí còn có dư âm, Thiên Trúc thì không. Nói trắc cảnh là Chu Công năm bốn Nhiếp chính muốn tìm đất mà lập thành vua, cho nên lấy đất mà trắc cảnh tốt thì được Dónh Xuyên Dương Thành, ở đó bèn lập kinh đô, thổ khuê dài một thước năm tấc, ngày Hạ chí vào nửa ngày lập biểu tám thước, biểu Bắc trắc được cảnh một thước năm tấc, cảnh cùng Thổ Khuê v.v… đây là trong đất. Trịnh Tư Nông nói phàm mặt trời bóng ở đất (phàm ngày cảnh ở đất) ngàn dặm mà sai một tấc, phải biết Dương Thành ở đất này là chính giữa. Đã có biểu cảnh há chẳng phải âm khác. Huống đất Đông ra biển lớn, ba phương kia không phải, do đó mà xem thì nghĩa đã bày rõ. Xá-bà-đề (Sràvastì) Tây Vức Ký gọi Thất-la-phiệt-tất-để xưa gọi sai là Xá-vệ, dịch là Văn Vật, vì có nhiều báu vật sanh ra ở thành này. Cũng dịch là phong Đức: Một là đủ tiền báu, hai là có ngũ dục hay, ba là nhiều Đa văn (học giỏi), bốn là có nhiều giải thoát. nghĩa Tịnh dịch Kim Cang nói: Tên gọi là Thành lớn. Chích Hoa nói: Chỉ được nghĩa Văn mà thiếu nghĩa Vật, đây là tên gọi Đô thành nước Kiều-tát-la. Huề Lý Chứng Chân Sao nói là giản Nam nước Kiều-tát-la nên bỏ tên nước mà nêu tên thành. Phát Chẩn hỏi các kinh nói Phật sanh nước Ca-tỳ-la, vì sao Luận Chủ nói: sanh nước Xá-bà-đề? Đáp: Ca-tỳ-la cùng Xá-bà- đề gần nhau cùng là cảnh Trung nhân duyên nên nói thế. Ma-kiệt-đề (Magadha) dịch là Thiện Thắng hoặc Vô Não. Tây Vức Ký gọi là Ma-kiệt-đà. Xưa gọi là Ma-già-đà. Lại gọi Ma-kiệt-đề đều sai, thuộc cảnh Trung Ấn Độ. Văn Cú Ký nói: Đây gọi Bất hại vì kiếp sơ đến nay không có hình hại (giết hại) đến vua A-xà-thế chặt ngón tay mà hình phạt. Sau tự cắn tay thấy đau bèn bỏ hình phạt này. Chỗ đất Phật sanh nên bày trước điềm tốt. Do đó trước đặt tên Bất hại hay Vô hại Văn Cú nói: Đây dịch là Thiên La. Thiên La là tên vua, lấy tên vua làm tên nước, nên tên thành Vương-xá. La-duyệt Kỳ-già-la (Ràjagrha) Tây Vức Ký gọi là Hạt-la-xà-cật- lị-tứ, dịch là Vương-xá thành. Ứng Pháp sư nói: La-duyệt nghĩa là Liệu Lý, lấy vua mà thay, là tên thành nước Ma-già-đà. Đại Luận nói: Xưa có vua Tu-đà Tu-ma, vua này rất tinh tấn trì giới thường y lời chân thật. Sáng sớm ngồi xe đem các thể nữ vào vườn dạo chơi khi ra khỏi của thành có một Bà-la-môn đến xin vua mà bảo rằng: Vua là người Đại phước đức thân tôi nghèo hèn xin Ngài thương xót ban cho ít nhiều vua kính Như Lai bảo rằng: Ta sẽ bố thí giờ. Ta phải trở về. Nói xong thì vào vườn hoa tắm rửa đùa giỡn. Lúc đó vua hai cánh tên là Lộc Túc từ trên không bay xuống bắt vua đem đi. Các thể nữ khóc lóc ồn ào cà vườn trong ngoài kinh thành đều náo động. Lộc Túc đem vua bay lên không trung đến chỗ ở đặt trong chín mươi chín vua khác. Vua Tu-đà Tu-ma nói ta không sợ chết tự hận mất lời hứa, ta từ sanh ra đến nay chưa từng nói dối. Hồi sáng này khi ra cửa thành có một Bà-la-môn đến xin ta, lúc đó ta hứa trở về sẽ bố thí, chẳng sợ vô thường phụ rảy tâm ấy nmà bị tội lừa dối, nên ta khóc đó thôi. Lộc Túc bảo vua rằng: Ý ông muốn thế vì sợ vọng ngữ, ta cho ông bảy ngày trở về để bố thí cho Bà-la-môn rồi trở lại đây, nếu quá bảy ngày thì ta có cánh bắt ông chẳng khó. Vua Tu-đà Tu-ma được trở về nước thỏa lòng bố thí, lại lập Thái tử làm vua. Giữa đại hội nhân dân vua sám tạ (tạ tội) rằng tôi là người thiểu trí, trước lại trị không đúng pháp nên gặp hoạn nạn. Như ngày nay thân không phải của ta có nay phải trở về. Nhân dân cả nước và các thân thích cúi đầu giữ vua ở lại xin vua lưu ý từ bi che chở nước này chớ sợ quỉ vương. Hãy lập nhà sắt hưng binh, Lộc Túc tuy là Thần cũng chớ sợ. Vua nói không được đâu, rồi nói kệ rằng: Lời thật giới thứ nhất, Lời thật thang lên trời, Lời thật là Đại nhân, Lời vọng vào địa ngục. Ta nay giữ lời thật, Thà bỏ thân mạng này, Tâm không hề hối hận. Nghó như thế rồi vua liền đến chỗ Lộc Túc. Lộc Túc ở xa thấy mừng rỡ bảo rằng: Ông là người nói thật chẳng mất uy tín. Tất cả mọi người đều tiếc thân mạng, ông từ chết mà được thoát, giữ được lời hứa, ông là đại nhân. Lộc Túc lại nói: Ông thích lời này nay ta thả ông chín trăm chín mươi chín (9 9 9) vua cũng bố thí như ông tùy ý mà trở về nước mình, do một ngàn ( 1. 000) vua ở đó nên gọi là Vương-xá. Câu-thi-na (Kuzinagara) dịch là Giác thành. Phụ Hành nói: Thành này cỏ ba góc nên gọi là Giác. Tỳ-da-ly (Vaisàri), cũng gọi Duy-da-ly, Tỳ-xá-lệ, Phệ-xá-ly dịch là Quảng Nghiêm. Tây Vức Ký nói nước Phệ-xá-ly xưa gọi sai là Tỳ- xá-ly. Thập Sư nói: Tỳ là đạo (lúa, gạo) là giống ở đất ấy. Ly-da gọi là Quang Nghiêm đất đai bằng phẳng nghiêm đẹp. Tịnh Danh Lược Sớ nói: Dịch là quảng bác nghiêm tịnh, nước ấy rộng mà bằng phẳng nên gọi quảng bác, thành ấp hoa lệ nên gọi là nghiêm tịnh. Có Thầy dịch là Hảo Đạo tức sản xuất lúa gạo ngon hơn các nước khác. Lại nói Hảo đạo, tức nói nước có đạo đức ngay thẳng nên nói Hảo đạo. Nước ấy nhân dân ưa chính đạo, tự đôn nhân nghĩa không cần vua chúa, năm trăm Trưởng giả cùng làm đạo pháp dẫn dắt nhân dân đều vui. Già-da (Gayà) dịch là Sơn thành, cách Bồ-đề đạo tràng khoảng hai mươi dặm. Tây Vức Ký nói: Thành rất hiểm chắc. Thành Tây nam năm, sáu dặm đến núi Già-da, khe núi mịt mờ, ngọn núi cao hiểm. Tục nước Ấn Độ gọi là Linh Sơn, từ xưa vua chúa tự nối nhau cai trị lâu xa, đức lớn hơn đời trước đều lên núi này mà báo cáo thành công. Thành Cự-xa-yết-la-bổ-la (Kusàgàrapura) Tây Vức Ký nói: Đường gọi là Thượng Mâu Cung thành, có nhiều tranh thơm rất cao quí tốt đẹp, ở giữa nước Ma-kiệt-đà, là kinh đô của các vua xưa. Thành Câu-tô-ma-bổ-la (Kusumapura) Tây Vức Ký nói: Đường gọi là Hương Hoa Cùng thành. Cốc Lương nói: Thành dùng bảo vệ dân là thành trời Hoa Nghiêm Bảo Nhãn bảo Thiện Tài rằng: nên giữ gìn thành tâm để lìa sanh tử vậy. Yết-nhã-cúc-xà (Kanyakusja) Tây Vức Ký nói: Đường gọi là khúc nữ thành thuộc Trung Ấn Độ, nơi Đại thọ tiên nhân nhận nương thần nhập định trải mất vạn năm, từ định ra thì thấy một trăm con gái vua đến cung cầu thỉnh, chỉ có người con gái nhỏ nhất thì đưa sứ đến. Tiên nhân nổi giận liền quở độc rằng chín mươi chín cô gái eo cong, từ đó trở đi gọi là khúc nữ thành. Tô-phạt-thích-noa-cù-đát-la (Suvarnagotra) Tây Vức Ký nói: Đường gọi Kim Thị sanh ra Huỳnh Kim Tốt. Đời lấy người nữ làm vua nhân đó lấy gái làm tên nước. Ô-trượng-na (Udyàna). Trang Truyện nói Đường gọi là Uyển xưa là vườn hoa của vua A-luân-ca. Xưa gọi là Ô-trường hoặc Ô-trà đều sai thuộc Bắc Ấn Độ. Kiều-thường-di (Kauzaôbì) Tây Vức nói xưa gọi là Câu-viêm-di là sai thuộc Trung Ấn Độ. Kế Tân (Kubhà - Kazmìra) dịch là Tiện chủng. Tây Vức ký gọi là Ca-thấp-di-la, xưa gọi Kế Tân là sai thuộc Bắc Ấn Độ. Mạt-điền-để-ca đã được đất ấy. Lập năm trăm già lam, ở các nước khác mua bán người nghèo để làm tôi tớ dụng cấp cho Tăng. Sau khi Mạt-điền-để-ca tịch diệt rồi thì các người nghèo hèn lập ra vua ở gần các nước khác, xem là giống hèn hạ không giao tiếp, gọi là Khất-lị-đa, Đường gọi là mãi đắc (mua được). Kiếp Bố-tồ-na (Kapotana) Tây Vức Ký gọi là Tào quốc. Giả-thì (Caji) Tây Vức Ký nói Đường gọi Thạch quốc. Táp-mạt-kiện Tây Vức Ký nói Đường gọi Khang Quốc. Nhị-mạt-ha (Mimaha) Tây Vức Ký nói Đường gọi Mễ quốc. Khuất-sương-nhó-ca (Kagania) Tây Vức nói Đường gọi là Đông An quốc Bổ-bộ (Bukhara) hoặc gọi Bộ-yết. Tây Vức Ký nói Đường Trung An quốc Mậu Địa, Tây Vức Ký nói Đường gọi là Tây An quốc. Yết-sương-na (Kasáưna) Tây Vức Ký nói Đường gọi là Sử quốc A-kỳ-ni (Agni, Akni) Tây Vức Ký nói xưa gọi là Ô-kỳ là sai. Khuất-chi (kuce) Tây Vức Ký nói Xưa gọi là Qui Tư, hay Khâu Tư. Kiện-đà-ra (Gamdhàra) Tây Vức Ký nói xưa gọi là Càn-đà-vệ là sai. Tùy gọi là Hương Hành quốc. Hạt-bộ-đa, Tây Vức Ký nói Đường gọi là Kỳ Đặc. Khư-sa (Srikritati) Tây Vức Ký nói xưa gọi là Sơ-lặc-giả chính là tên thành là sai, gọi đúng là Thất-lị Càn-lặc-đa-để. Chí-na-phác-để (Cinapati) Tây Vức Ký nói Đường gọi là Hán Phong. Hà Tây Phiên chỗ Duy Chất Tử ở, nhân đó đặt tên nước. Cù-tát-đát-na (Kustana) Tây Vức Ký nói Đường gọi là Địa nhũ. Vua chưa có con nối ngôi bèn cầu con ở Tượng Tỳ Sa-môn thì trên trán nút ra có đứa bé chẳng chịu uống sữa người, trước thần bỗng nhiên vọt lên như chất sữa đứa bé liền uống rồi lớn dần, tức lời tục nói nhã, tục bảo là nước Hoán-na. Hung nô gọi là can độn, các Hồ gọi là Khoát Thả, Ấn Độ gọi là Khuất Đơn, xưa gọi là Can Điền là sai. Bạc-khư-la (Buklara), đáng gọi là Nguyệt Chi, ở phía Tây Bắc Tuyết Sơn hoặc gọi Nguyệt Thị. Tăng-già-la (Simhala) Tây Vức Ký nói Đường gọi là Chấp Sư Tử, không thuộc Ấn Độ ở Nam Hải Lộ, ông tổ bắt nhốt Sư tử, cha giết Ưng Vương mộ, vua sợ bạo nghịch trọng thưởng mà thả đi xa, đi thuyền cập bến liền lập nước. Chấn Đán (Cina) hoặc gọi Chơn Đơn, Chiên Đơn. Lâm Pháp sư nói Đông phương thuộc chấn là phương mặt trời mọc, nên gọi là Chấn Đán. Hoa Nghiêm âm nghĩa dịch là Hán địa. Đây chẳng rành tiếng Hoa. Lâu Thán Kinh nói: Th6ng Hà lấy Đông gọi là Chấn Đán vì mặt trời mọc chiếu sáng hướng Đông nên được tên. Chỉ-na (Cina) Bà-sa nói có hai âm: Một là Chi-na dịch là nước Văn Vật tức lời khen cõi này là đất áo mão Văn Vật. Hai là Chỉ-nạn dịch là biên bỉ, tức nơi đày kẻ có tội không phải giữa nước. Tây Vức Ký gọi là Ma-ha-chí-na, tức là Đại Đường. Y-sa-na, Thanh Lương Sớ nói: Dịch là Trường Trực, tức là lý hạng kính vónh biểu thị biết ba bờ gọi là Trường, biểu thị biết thắng nghĩa gọi là Trực. Miệt-lệ-xa (Mleccha) Trang Truyện nói Đường gọi là Biên địa ở phía Bắc Bắc Ấn Độ đều gọi là Miệt-lệ-xa. Thành Càn-thát-bà (Gamdharva-nagara) Đại Luận nói: Khi mặt trời mọc thì thấy cửa thành lâu lỗ cung điện người đi ra vào, khi mặt trời lên cao thì biến mất. Chỉ có mắt thấy mà không có thật gọi là Thành Càn-thát-bà. Tịnh Uyển Hoa Nghiêm Âm nghĩa nói: Tây Vức gọi là Lạc nhân vì Càn-thát-bà ưa dùng huyễn thuật hóa thành quách khiến người vui bỗng chốc thì mất, tức do Long Thận hiện ra Phụ Hành nói Càn Thành tục gọi là Thận khí, Thận là con hàu lớn buổi sáng nổi lên ở biển, ở xa thấy như có, ở gần thì không. <詞>CÁC NÚI Ngũ Nhạc chiếm đất sách Chi-na có ghi đủ. Thất kim hoàn sơn sách Tây Vức cũng nêu rõ. Hoặc hang ẩn cho Thiên long hoặc làm đạo tràng cho Hiền thánh, phiên dịch đã truyền danh nghĩa nêu rõ. Thế-la (Saira) Tây Vức Ký nói Đường gọi là núi. Ổ-ba-thế-la dịch là núi nhỏ. Quảng Nhã nói: Sơn là sản, tức là núi sanh ra muôn vật. Núi cao gọi là nhạc, núi nhỏ gọi là khâu (gò). Tô-mê-lô (Sumeru) Tây Vức Ký nói Đường gọi là Diệu Cao xưa gọi là Tu-di hay Tu-di lâu đều sai, núi này do bốn báu họp thành ở trong biển lớn. Dựa trên Kim Luân mặt trời mặt trăng đi vòng quanh, các trời ở trên đó, có bảy núi bảy biển vây quanh, bốn mặt đều có một sắc, Đông sắc vàng ròng, Nam sắc lưu ly, Tây sắc bạc trắng, Bắc sắc pha lê, tùy theo mỗi mặt nước đồng với sắc núi, Tỳ-đàm Câu-xá nói: Diệu Cao do bảy báu tạo thành nên nói Diệu, cao hơn bảy núi vàng nên nói cao. Quán Kinh Sớ nói: Vượt cao ba trăm ba mươi sáu (3 3 6) vạn dặm, rộng dài đều như thế. Di-lâu (Meru) dịch là quang minh, là bảy núi vàng đó. Sắc vàng sáng lòa. Nếu theo Đệ Nhất nghĩa Pháp Thắng Kinh thì núi Tu-di Lâu là núi Di-lâu, núi Tu-di xưa dịch Câu-xá bảo là Tu-di hay Di-lâu thì tiếng phạm có khác. Nếu theo Pháp Hoa nói trong ngoài núi Di-lâu, Tu- di và Thiết-vi thì thể của núi cũng khác. Chá-ca-la (Cakra) hoặc gọi Chước-yết-la, Chước-ca-la. Ứng Pháp sư nói dịch là Luân Sơn. Xưa gọi là Thiết-vi, vi tức nghĩa luân (vây quanh = vầng, bánh xe), người dịch lập nghĩa. Kỳ-xà-quật (Grdhrakùta) Đại Luận nói: Kỳ-xà là thứu, quật là đầu là đỉnh núi giống con thứu. Tăng Nhất A-hàm, Phật bảo các Tỳ-kheo núi này lâu xa đồng tên là Linh Thứu. Quán Kinh sớ nói: Các thánh tiên nương núi đó mà ở. Tây Vức Ký nói: Phía Đông bắc cung thành đi ba, bốn dặm đến Cật-lật-đà-la-cự-tra, dịch là Thứu phong cũng gọi Thứu đài. Xưa dịch là Kỳ-xà-quật là sai, chim thứu ưa đậu ở đó lại gọi Cao đài. Ứng Pháp sư nói xét tiếng Phạm thì không có nghĩa linh, chim này có linh biết người sống chết nên gọi Linh Thứu. Bà-sa nói: Núi ấy có ba ngọn như Ngưỡng kê túc (móng chân gà), giống như dấu chân con sói, nên gọi Lang Tích, cũng gọi núi Phổ Hiền, núi Bạch Thiện, núi Tiên Nhân, núi Phụ Trọng. Mục-chơn-lân-đà (Muciliưda) hoặc gọi Mục-chỉ-lân-đà dịch là Thạch sơn. Bát-la-cập-bồ-đề (Pragbodhi) Tịnh Danh Sớ nói: Dịch là An minh. Thùy Dụ nói: Vào nước rất sâu gọi là An, cao hơn các núi gọi là minh. Tây Vức Ký nói Đường gọi núi chính giác trước Như Lai sắp chứng chính giác trước lên núi này. Khuất-khuất-tra-bá-đà (Kukkulapadagiri) Tây Vức Ký nói Đường gọi là núi Kê Túc cũng gọi Cũ-lô-bá-đà, Đường gọi là Tôn Túc, cao hơn ba ngọn núi. Ca-diếp đã vào ba ngọn ba ngọn mà ẩn. Sau ba hội nói pháp có vô lượng chúng sanh kiêu mạn. Từ Thị dắt lên núi này phút chốc núi mở ra, Ca-diếp trao y lửa hóa nhập diệt. Nhơn-đà-la-chấp-la-củ-ha (Indrazailaguhà) Tây Vức Ký nói Đường gọi là hang Đế-thích, núi Nam ở ngọn phía Tây có hang đá lớn rộng mà không cao. Phật thường ở trong đó. Lúc đó trời Đế-thích đem bốn mươi hai điều nghi viết lên đá mà hỏi, Phật liền giải thích dấu tích vẫn còn. Lăng-ca (Laưka) Tây Vức Ký nói nước Tăng-già-la ở góc Đông nam có núi Lăng-ca hang sâu núi cao thân quỉ ở đây xưa Phật ở đây nói kinh Lăng-ca (Lăng Già?) xưa gọi Lăng Già là sai? Bổ-đà-lặc-ca (Potalaka) hoặc gọi Bổ-niết-lạc-ca, dịch là Hải Đảo lại gọi là Tiểu Bạch Hoa. Tây Vức Ký nói có núi Đát-lặc-ca, Nam Hải có Thạch thiên cung, là nơi Quán Tự Tại Bồ-tát ở đấy. Ưu-lưu-mạn-đà, cũng gọi là Ưu-lưu-mạn-trà, dịch là Đại Đề Hồ. Kha-địa-la dịch là kha không. Địa-la là phá, gọi là núi phá không. Tỷ-la-bà-lạc (Pìlusàragiri) Tây Vức Ký nói Đường gọi là núi Tượng Kiên, Thần làm hình voi nên gọi Tượng Kiên. Đờn-đa-lạc-ca (Damtalokagiri) Tây Vức Ký nói xưa gọi núi Đàn Đặc là sai. Du-kiền-đạt-la (Yugaưdhara) dịch là Song tích, ngọn núi này có hai lũng đạo giống như dấu xe. Do-càn (Yugaưdhara), dịch là song. Đà-la dịch là Trì, gọi là núi Song Trì. Y-sa-đà-la (Isadhara) dịch là trì tục, hình như cái trục xe. Khư-địa-lạc-ca (Khadraka), dịch là núi Diêm Mộc, là tên cây. Tô-đạt-lê-xá-na (Sudarsana), dịch là Thiện kiến, người thấy ắt khen thiện. Át-ổn-phược-noa (Asvakarna) dịch là núi Mã Nhó vì giống tai ngược. Tỳ-ma-hằng-ca (Vinataka) dịch là núi có Thần chướng ngại Tỳ-dân-đạt-la (Nemimdhara) dịch là núi Địa trì, hình cá giống trong biển. Ma-lê (Malaya) hoặc Ma-la-da, ở Nam Thiên Trúc, núi có nhiều chiên đàn. Ni-dân-đà (Nemimdhara) dịch là Trì biên, bảy vàng ngoài biên (bên ngoài), hộ trì vây quanh sáu núi kia. CÁC NƯỚC. (sông?) Thấm nhuần muôn vật không gì bằng nước, hình là bốn đại, khí đầu năm lành. Thiền Nguyên Thuyên nói: Nêu nước gọi ẩm ướt là thể, lắng thì trong quậy thì đục, đáp thì ngừng, khơi thì chảy. Nay Phật giáo nói nguồn nước chảy cho nên nêu đủ khiến phân biệt rõ. A-già (Udaka) dịch là nước, Thích Danh gọi Thủy chuẩn, là theo mặt nước nằm ngang. Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ Kinh nói: Nước tám công đức: một là lắng sạch, hai là trong mát, ba là ngon ngọt, bốn là mềm mại nhẹ nhàng, năm là nhuận trạch (thấm đượm), sáu là an hòa, bảy là khi uống trừ khát và các binh, tám là uống vào nuôi lớn các căn bốn đại. Tịnh Giác nói: Trong là sắc nhập, không hôi thúi là hương nhập, mềm mại nhẹ mát là xúc nhập, ngon là vị nhập, điều thích là pháp nhập. A-nậu-đạt (Anavatapta) Tây Vức Ký nói: Trong đất Thiệm bộ châu có ao A-na-ba-đáp-đa, Đường gọi là Vô nhiệt não. Xưa gọi A-nậu- đạt là sai. Ở phía Nam núi Hương, phía Bắc núi Đại Tuyết, chu vi tám trăm dặm vàng, bạc, đồng, sắt, lưu ly, pha lê trang sức trên bờ, cát vàng di mạn sóng sanh sáng như gương. Đại Địa Bồ-tát dùng nguyện lực hóa làm Long vương ngầm ở trong đó phun ra nước trong mát. Mặt Đông của ao là Kim Ngưu khẩu (cửa sông Kim Ngưu) chảy ra sông Khắc Già, chảy quanh ao một vòng mà vào Đông Nam Hải. Mặt Nam của ao là Kim Tượng Khẩu chảy ra sông Tín Độ, chảy quanh ao một vòng mà vào Tây Nam Hải. Mặt Tây của ao là Lưu Ly Mã Khẩu chảy ra sông Phược Sô, chảy quanh ao một vòng mà vào Tây Bắc Hải. Mặt Bắc của ao là pha lê Sư Tử Khẩu, chảy ra sông Sỉ Đa, chảy quanh ao một vòng mà vào Đông Bắc Hải. Hoặc nói chảy ngầm dưới đất mà ra núi Tích Sơn tức dòng sông Sỉ Đa là nguồn sông của Trung Quốc (ở giữa nước?) Hiếu Kinh Viện Thần Khế nói: Sông là bác của nước? Tín độ (Sim dhu), xưa gọi là Tân Đầu dịch là Nghiệm hà. Khắc-già (Gaưgà) dịch là Thiên đường lai (từ trên trời xuống) vì thấy từ trên cao đổ xuống, lại nói lấy tên Thần sông làm tên sông. Tây Vức Ký nói: Xưa gọi Hằng Hà, lại gọi là Hằng sa là sai. Chương an nói: Các kinh phần nhiều lấy cát sông Hằng làm số lượng. Có bốn nghĩa: Một là có nhiều người biết, hai là vào đó được phước, ba là vào sông rất lớn, bốn là chỗ Phật sanh, tức bốn tất đàn. Phược-sô (Vaưksu) dịch là Thanh Hà. Tây Vức Ký nói: Xưa gọi Bác-xoa là sai. Sỉ-đa (Sìta) dịch là Lãnh Hà. Tây Vức Ký nói: Xưa gọi là Tư-đà là sai. Sông A-thị-đa-phạt-để (Ajitavatì) Tây Vức Ký nói Đường gọi Vô Thắng. Xưa gọi sông A-li-la-bạt-đề là sai. Sách gọi sông Hê-lạt-noa- phạt-để dịch là sông có vàng, là chỗ sanh ra vàng Diêm-phù. Lương Tống Pháp sư nói: Phật đến bên sông này có ý nhập diệt, dòng sông chảy nhanh như sanh tử mau chóng. Cát vàng chẳng động dụ cho Phật tính thường còn. Lại nhân ở đất này bỏ thân nay đến đó mà nhập diệt, Chương An nói: Có tương truyền rằng Hy Liên Kỳ là Bạt-đề, nay nói không phải thế. Bạt-đề lớn là Hy Liên bé. Có người nói: Rộng bốn trượng hoặc tám trượng ở phía Bắc của thành. Bạt-đề thì ở phía Nam thành cách nha cả trăm dặm. Phật ở khoảng giữa Hy Liên Thiền Ni dịch là sông Bất Lạc Trước. Kinh Độ Nhất Thiết Phật Cảnh Giới nói: Phật bảo bốn dòng, dòng đục có dòng, dòng kiến không nói dòng. Kinh Niết- bàn nói: Nói sáu sông là sông sanh tử, sông Niết-bàn, sông Phiền não, sông Phật tính, sông Thiện pháp, sông Ác pháp. Bà-yết-la (Sàgara) hoặc gọi Bà-già-la, dịch là Hàm Hải (biển muối (mặn)). Thư nói: Giang Hán Triều Tông Vu Hải. Trang Tử nói: Minh Hải là ao trời. Hoài Nam Tử nói: Biển chẳng nhượng nước chứa nhóm thành lớn. Tôn Khánh (liễu) Tử nói: Chẳng chứa dòng nước nhỏ thì không thành biển. Lão Tử nói: Sông biển có thể làm vua trăm hang Thiện là thấp nhất, sóng có hẹn sớm tối, cho nên Ngô Đô có ao sớm tối. Tân Hoa Nghiêm nói: Ví như biển lớn có mười tướng, được tên biển lớn không gì cướp lời: Một là thứ lớp cạn sâu, hai là chẳng nhận thây chết, ba là nước khác vào đó liền mất tên cũ, bốn là khắp đồng một vị, năm là có vô lượng trân bảo, sáu là không thể đến đáy, bảy là rộng lớn vô lượng, tám là chỗ thân lớn ở được, chín là sóng chẳng quá hạn, mười là khắp nhận mưa lớn mà không tràn. Kinh Kim Cang Tam-muội Bất Hoại Bất Diệt nói: Dùng núi Ốc Tiêu biển lớn cũng không tăng dùng Kim Cang Luân biển lớn cũng không giảm, vì Kim Cang Luân này tùy lúc mà chuyển, khiến nước biển lớn đồng một vị mặn. Hoa Nghiêm nói: Trong cung điện Ta-kiệt-la Long vương nước phun vào biển lại gấp bội trước chỗ nước phun ra sắc xanh lưu ly phun ra có lúc. Thế nên biển lớn sóng chẳng không đúng lúc. Đại Tập nói: Như tất cả thân chúng sanh cõi Diêm-phù-đề và các ngoại sắc ở trong biển lớn đều có ấn tượng nên gọi là Hải Ấn, Bồ-tát cũng thế, được Hải Ấn Tam-muội rồi mới phân biệt được tất cả tâm hạnh của chúng sinh, đối với tất cả pháp môn đều được tuệ sáng. Hoa Nghiêm nói: Biển có pháp thù thắng kỳ đặc hay làm tất cả ấn bình đẳng, các báu vật của chúng sinh và các sông khắp được bao dung không chống cự. Vô tận thiền định giải thoát làm ấn bình đẳng cũng như thế, phước đức trí tuệ các diệu hạnh tất cả đều tụ không chán đủ. Ha-ra-đà (Hrada) dịch là ao, nơi chứa nước là ao. Quãng Nhã gọi là Chiểu. Đề (Dvipa) Đại Luận dịch là Châu. Nhó Nhã nói: Trong (giữa) nước có thể ở gọi là Châu. Đại Phẩm nói: Này Tu-bồ-đề, như sông biển kia bốn bên đều là nước thì gọi là Châu. Này Tu-bồ-đề sắc cũng như thế trước sau đều bờ dứt. Đại Luận nói: Châu thế gian như châu kia bốn bên không đất. Sắc v.v… các pháp cũng như thế, trước sau đều chẳng thể được, khoảng giữa cũng thế. Nói Châu đàn gọi là bến. Đại Niết-bàn nói: Ví như kẻ thương buôn đến bãi để lượm báu, không biết đường đi, có người chỉ cho liền đến bãi báu mà được các báu. Đại Niết-bàn dụ đó là báu. <詞>RỪNG CÂY. Tỳ Lam gọi là uyển (vườn) mẹ hái hoa mà giáng sanh. Bồ-đề là giác tràng, Phật quán cây mà hạnh đạo. Ở vườn nai mà nói pháp, ở Hạc Lâm mà nhập Niết-bàn, đều đã nương rừng nên nêu rõ câu khác. Bà-na (Vana) gọi đúng là Phạn-na, dịch là rừng, nhiều cây gọi là rừng. Tạp A-hàm nói: Phật bảo A-nan, ông xa thấy rừng cây sắc xanh chăng. Thưa đã thấy. Chỗ đó tên là núi Ưu-lâu-man-trà, Như Lai diệt độ rồi một trăm năm, sẽ có con người lái buôn tên Ưu-ba-khuất-đa sẽ làm Phật sự, là bậc nhất trong số giáo thọ sư đó. Bồ-đề-thọ (Bodhidruma) Tây Vức Ký nói: Tức cây Tất-bát-la vậy. Khi xưa Phật ở đời cao mấy trăm thước, chặt phá nhiều cũng còn bốn, năm trượng, Phật ngồi dưới gốc mà thành chính giác nhân đó đặt tên là cây Bồ-đề, cành nhánh vàng trắng, lá xanh tươi, mùa đông mùa hạ không rụng chết, xanh tươi không đổi. Mỗi khi đến ngày Niết-bàn thì lá đều rụng (?) khoảnh khắc lại như cũ. Pháp Uyển nói: Cây đạo thọ Thích-ca tên A-phái-đa-la. Ta-la (Sàla) dịch là kiên cố. Bắc Viễn nói: Đông hạ chẳng đổi gọi là kiên cố. Tây Vức Ký nói: Cây ấy loại hộc mà da xanh trắng, lá rất sáng nhuận bốn cây riêng cao Hoa Nghiêm Âm nghĩa dịch là cao xa, vì cây ấy cao vót hơn các cây khác. Hậu phần nói: Rừng cây ta la rộng dài khoảng mười hai do tuần, trời người đại chúng đều khắp chứa đủ, đầu nhọn nhân vô biên chúng không có trống thiếu chẳng che lấp nhau. Đại Kinh nói: Hai cây song song ở phương Đông dụ cho thường và vô thường, hai cây song song ở phương Nam dụ cho lạc và vô lạc, hai cây song song ở phương Tây dụ cho ngã và vô ngã, hai cây song song ở phương Bắc dụ cho tịnh và bất tịnh. Bốn phương đều song song nên gọi là Song thọ, mỗi mặt đều một cây khô một tươi. Hậu Phần nói: Một cặp ở phương Đông ở sau Phật, một cặp ở phương Tây ở trước Phật, một cặp ở phương Nam ở chân Phật, một cặp ở phương Bắc ở đầu Phật. Khi Phật Niết-bàn rồi thì hai cặp Đông tây họp làm một cây, hai cặp Nam bắc cũng họp làm một cây, hai cây họp lại đều rủ che Như Lai. Cây ấy buồn thương mà đều đổi bạc trắng. Tất-lị-xoa (Vrksa) cũng gọi Tất-lạc-xoa, dịch là Cao Hiển Phật ở dưới cây ấy sanh ra thì là cao quí, danh rạng khắp trời người, nên gọi Cao Hiển. Bản Hành Kinh nói: Lúc đó Ma-gia phu nhân đứng trên đất lấy tay nắm nhánh cây Ba-la-xoa thì liền sanh Bồ-tát. A-du-ca (Asoka) hoặc gọi A-du-kha,. Đại Luận dịch là cây hoa vô ưu. Kinh Nhân Quả nói: Ngày 8 tháng 2, phu nhân đến vườn Lâm Tỳ-ni thấy hoa vô ưu bèn đưa tay hữu hái thì từ hông hữu sanh ra. Hậu Hán Pháp Bổn Nội Truyện nói: Minh đế hỏi Ma Đằng Pháp sư rằng: Phật sanh ngày tháng nào biết chăng? Đằng đáp: Năm Chiêu Vương hai mươi bốn Giáp dần ngày 8 tháng 4 ở vườn Tỳ-lam dưới cây Ba-la sanh ra từ hông hữu. Nên Phổ Diệu nói: Khắp phóng ánh sáng lớn chiếu ba ngàn cõi (cõi Tam thiên). Tức Chu Thư Dị Ký nói: Chiêu Vương năm hai mươi bốn Giáp dần ngày 8 tháng 4, sông suối ao hồ đều đầy nước giếng cũng tràn nước ra, cung điện người nhà sông núi đất đai đền chấn động. Đêm ấy tức có khí năm sắc vào suốt Thái vi khắp ở phương Tây làm thành sắc xanh đỏ. Chiêu Vương liền hỏi quan Thái Sử Tô Điền ấy là điềm gì? Tô Điền thưa có Đại Thánh nhân sinh ở phương Tây nên hiện ra điềm ấy. Chiêu Vương nói: Thiên hạ như thế nào? Tô Điền đáp: Lúc này thì không có gì, đến ngàn năm sau thì Thinh giáo khắp hóa chốn này. Chiêu Vương liền sai khắc đá nêu việc ấy chôn ở trước đền Nam Giao. Đời Chu thứ sáu, vua Mục Vương đủ năm mươi hai tuổi (lên ngôi), năm Nhâm thân, ngày 15 tháng 2 thì Phật đủ bảy mươi chín tuổi mới diệt độ. Nên kinh Niết-bàn nói: Ngày 15 tháng 2 khi Phật Niết-bàn thì phóng ra các thứ ánh sáng đất đai chấn động tiếng vang đến trời Hữu Đảnh, ánh sáng chiếu khắp Tam thiên, tức Chư Thư Dị Ký ghi là Mục Vương lên ngôi năm năm mươi hai tuổi năm Nhâm thân buổi sáng ngày 15 tháng 2 có gió dữ nổi lên phá hại người nhà, tổn thương cây cối núi sông đất liền đều chấn động. Vào giờ ngọ mặt trời ẩn mất mây đen nghịt, ở phương Tây có ráng trắng mười hai luồng vắt ngang từ Nam đến Bắc suốt đêm không mất. Mục Vương hỏi quan Thái sử Ấp Đa: Điềm gì thế. Ấp Đa đáp Tây phương có Đại Thánh nhân diệt độ, nên hồn hiện ra như thế. Ngụy Đàm Mô Tối Nấp Đường Pháp Lâm, Bắc Sơn Thần Thanh Pháp Thượng đáp lời Cao Ly hỏi rằng: Triều đại đều đồng. Kinh Khê Phụ Hành cũng nói. Đó là năm Chu Chiêu Vương Giáp dần. Đệ Nhị Tề Vương Giản Tê Thuật Đầu Đà Tự Ký nói rằng: Châu Lỗ nhị trang thân chiêu dụ cảnh chi gián. Kịp Tùy Dịch Kinh Học Só Phí Trường Phòng tuyển Khai Hoàng Tam Bảo Lục. Phật ở Chu Trang Vương năm thứ mười tức là Xuân Thu Tả Truyện nói: Lỗ Trang Công năm thứ bảy tuế thứ Giáp ngọ ngày 8 tháng 4 vậy, tướng sanh đã hiển bày. Cho nên Phổ Diệu nói khắp phóng ánh sáng lớn chiếu sáng cõi Tam thiên tức là Tả truyện nói. Hằng tinh chẳng hiện mà đêm sáng rực. Kinh Thụy Ứng nói: Phất Tinh hiện xuống hầu Thái tử sanh. Nên Tả truyện nói: Sao rơi như mưa. Bản Hạnh Kinh nói: Hư không không mây tự nhiên mà mưa. Tả Truyện lại nói: Mưa khắp. Lại nói Phật thành đạo tức chúa Huệ Vương thứ mười tám. Vào năm thứ mười chín tức Quí hợi, Phật tịch diệt tức nhầm chúa thứ hai mươi mốt Khuông Vương năm thứ năm Quí sửu ngày 15 tháng 2 vậy. Lúc đó Phật đã tám mươi tuổi. Cô Sơn Chú Kinh bốn mươi hai chương nói: Tịnh Giác tạo Thông Nguyên Kỳ y vào đây phí thị triều đại, do Tịnh Danh Sớ nói: Phật ra đời bvào thời Chu, sao rơi như mưa. Pháp Lâm bình rằng: Chỉ căn cứ vào Hằng tinh làm nghiệm mà nói Phật sanh, chưa biết Hằng tịnh là do việc khác. Xét Văn Thù Sư Lợi Bát Niết-bàn nói: Sau khi Phật diệt độ hai trăm năm mươi năm, Văn Thù đến Tuyết Sơn hóa độ năm trăm Tiên xong trở về chỗ cũ, phóng ánh sáng lớn khắp chiếu thế giới mà vào Niết-bàn, điềm Hằng tinh tức là lúc ấy. Lại Phí Trường Phòng nói: Phật thành đạo vào năm Chu Huệ Vương thứ mười chín Quí hợi cũng có lỗi lớn. Vì sao? Vì xét Lưu Hướng Cổ Cựu hai bản nói: Thời Chu Huệ Vương đã dần có Phật giáo một trăm năm mươi năm sau. Lão Tử mới nói Đạo Đức Kinh (năm ngàn lời) nếu lúc Huệ Vương thì chỉ mới thành Phật, không phải kinh giáo đã truyền qua. Thứ ba thời Hậu Chu ngài Đạo An Pháp sư thuật hai giáo luận rằng: Huệ quang chiếu xa, Trang Vương nhân thấy đêm sáng linh dịch phương tâm Linh Đế lấy điềm (cho là) Thần mộng. Chủ rằng Xuân Thu Tà Truyện nói: Lỗ Trang Công năm thứ bảy Giáp ngọ đêm Tân mão tháng 4 Hằng tinh chẳng hiện mà sao rơi như mưa, tức là năm Chu Trang Vương thứ mười phương vậy. Trang Vương Biệt truyện nói: Bèn bói Dịch nói rằng: Ở Tây Vức người da đồng ra đời, do đó đêm sáng, không phải là họa xứ Trung Hạ. Lại ta vào Thập Pháp Sư Niên Kỷ và bài Minh trong Trụ đá thì đều phù hợp với Xuân Thu. Như Lai năm Chu Hằng Vương thứ năm Ất sửu thì Phật sanh, năm Tương Vương thứ 15 Giáp thân thì Phật diệt độ. Pháp Lâm bình rằng: Đạo An làm luận căn cứ vào ký của La-thập. La-thập Ký là theo An Thế Cao. An Thế Cao là thời Hán Hằng Đế (vua Hằng Đế thời Hán) ở Lạc Dương mà phiên dịch. Tin chấp bút là cứ theo thời Hằng đế, chỉ có La-thập thời Tần mới đến, còn Thế Cao đến trước thời Hán, hai Sư cách nhau ba trăm năm, nếu tin họ y nhau làm ký thì không phải An Luận vội vã trình bày nhầm lẫn mà đều là do lỗi người truyền đương thời. Lại Pháp Hiển Truyện nói: Thánh ra đời thời Ân Võ Ất năm thứ hai mươi sáu Giáp ngọ mà sanh. Biện chính bình rằng: Tuy đi các nước ngoài nhưng chỗ truyền không giống (không theo?) năm tháng tục lệ trái nhau như Hà Hán lại Tượng chính Ký thì Định Bình Vương lúc đó là năm Mậu ngọ. Pháp Lâm bình rằng y tượng chính ký hiếm thấy bằng chứng. Xét Thông Huệ Thứu Lãnh Thánh Hiền Lục nói Phật lúc sanh phàm có tám thứ khác nhau: Một là thời Hạ Kiệt, hai là thời Thương Mạt Ất Vỏ, ba là thời Tây (Chu) Chiêu Vương, bốn là thời Mục Vương, năm là thời Đông Chu Bình Vương, sáu là thời Hằng Vương, bảy là thời Trang vương, tám là Triệu Bá Hưu, Lương Đại Chunăm đầu ở Lô Sơn gặp Hoằng Độ Luận sư được Thánh chúng sau Phật diệt độ ngầm ký suy đời Tiền Chu có hai mươi chín vua, năm Trinh Định Vương Hào thứ hai Giáp tuất trước sau chỉ nhau thời đã phức tạp. Cho nên Đường Trinh Quán thứ mười ba, sắc sai Hình Bộ Thượng Thư Lưu Đức Oai v.v… hỏi Pháp Lâm Pháp sư vì sao truyền thuật trái rồi không thể cậy nương, do đó Lâm Pháp sư trước nêu thật, sau bày việc dối bèn định rằng năm Chu Chiêu Vương bính dần là Phật sanh, năm Chu Mục vương nhâm thân là Phật diệt độ. Từ đây mà tính đến nay là năm Thiệu Hưng thứ mười ba Quí hợi, tính chung là hai ngàn không trăm chín mươi bốn ( 2. 094) năm (Đây là y theo Trích Thiền Sư Thanh Qui Tập Toán, nếu y Luật sư Phả thì thiếu mười ba năm). Tây Vức Ký nói: Từ khi Phật Niết-bàn các bộ luận khác hoặc nói đã qua chín trăm năm chưa đủ ngàn năm hoặc nói hơn một ngàn hai trăm năm. Song việc Cổ Kim đã xa, Đông tây cách trở chẳng nên chấp chặt một cái mà không theo các cái khác. Cho nên Nam Sơn Luật sư hỏi Thiên nhân rằng: cõi này thường truyền Phật là thời Âm hay Chu Chiêu Lỗ Trang đều nói không đồng làm sao định ra? Đáp: đều có nguyên do: Đệ tử thời Hạ Kuệt sanh lên trời thấy đủ Phật hóa độ. Lại Phật có ba thân, Pháp Báo hai thân thì người không thấy, đều hóa Đăng Địa trở lên. Chỉ có Hóa thân thì khắp đủ ba ngàn trăm ức thiên hạ. Cho nên có trăm ức Thích-ca tùy chỗ cảm của người mà trước sau bất định. Hoặc ở thời Ân mạt (cuối thời Ân) hoặc thời Lỗ Trang đủ trong Đại thiên, trước sau đều truyền một Hóa, đều thấy tùy cơ trước sau, Pháp Báo thường tự rõ ràng không đáng nghi ngờ. Luận về triều đại xong. Nếu luận về tháng thì như Dục Phật Kinh nói: Tất cả Phật đều sanh ngày 8 tháng 4.Phật sanh ở thành Ca-duy. Còn về tịch diệt thì kinh Niết-bàn nói là ngày 15 tháng Song các văn này nêu ra có khác. Bởi Tây Vức lấy ngày 16 tháng Dần làm đầu năm, ngày 15 tháng Dần là cuối năm, tức có ba vùng (tế) khác nhau, đây lập bốn mùa khác nhau. Lại như Chấn Đán lập tháng giêng thì ba đời có khác. Nhà Hạ lập tháng giêng là tháng Dần, nhà Ân lập tháng giêng là Sửu, nhà Chu lập tháng giêng là tháng Tý. Ngày Phật sanh và mất thì theo sách nhà Chu, thì ngày tháng phải y vào cơ thế (đời nhà Chu). Tam Bảo Ký định tháng 4 là tháng 2 Bắc Sơn nói: Tháng 2 của nhà Chu nay là tháng 12 mà Phật tính theo năm nhà Chu cho nên phải lấy tháng 11 làm tháng giêng khác với đời nay. Đó là tháng. Trời đất không đóng, rồng rắn núp đây, chút dương ngầm bày dưới suối, nảy mầm chưa lên khỏi mặt đất lấy đây mà sanh, là ứng với khí vận mà đến, lấy đây mà diệt là ứng với đại tạ mà đi. Song khảo về tháng 2 Niết-bàn thuộc tháng 12, đây thì rất tốt. Định sanh ra cũng tháng 12 thì chưa tốt lắm. Cho nên Nhị Giáo Luận nói rằng: Chu lấy tháng 11 làm tháng giêng, xuân thu nói tháng 4 thì tức là tháng 2 của nhà Hạ. Y theo Thiên Trúc dùng tháng giêng là cùng nhà Hạ đồng nhau. Lại Tăng Sử Lược nói Giang Biểu lấy ngày 8 tháng 4 nay là ngày Phật sinh, là theo kinh Thụy Ứng vậy. Nếu dùng tháng giêng của nhà Chu thì là ngày 8 tháng 2 ngày nay. Nay dùng Kiến tî bèn là tháng 6 của nhà Chu. Rõ ràng đây là lạm dụng tháng Kiến tî. Do nghe tiếng liền dùng mà chẳng chích thật cầu thời. Lại Nhị Giáo Luận nói: Đỗ Dự dùng lịch nhà Tấn tính là ngày 5 tháng Tân mão. An cùng Đổng thì dùng lịch nhà Lỗ tính là ngày 7 tháng 2, dùng lịch nhà Tiền Chu tức là ngày 8 tháng 2 vậy. Lại nay đất Bắc chuộng (?) tắm Phật bèn thuộc tiết thành đạo. Cho nên Chu thư Dị Ký nói rằng: Chu Mục Vương thứ hai Quí mùi ngày 8 tháng 4 là năm Phật ba mươi tuổi thành đạo chính nay là (?) tám. Tây Vức Ký nói: Bồ- tát lấy tháng Phệ-xá-khư tám ngày nửa sau là mùng 8 tháng 3. Thượng Tọa Bộ thì lấy tháng Phệ-xá-khư là mười lăm ngày nửa sau đúng vào ngày 15 tháng 3 nghe các người trước ghi rằng (ký trước nói): Phật sanh vào mười lăm ngày nửa sau của tháng Phệ-xá-khư thứ tám mươi, còn nhập Niết-bàn đúng vào ngày 15 tháng 3.Thuyết Nhất Thiết hữu Bộ thì Phật lấy ngày tám nửa sau của tháng Ca-lạt (thích)-để-ca mà vào Niết- bàn đúng với ngày 8 tháng 9. Nay rõ Tây Vức như Trạng Sư nói: Kiến dần làm đầu năm thì tháng 2 là kiến mão, tháng 4 bèn thuốc kiến tî. Huống Niết-bàn Thụy Ứng dịch truyền đến đây vừa đúng vào sau Hán Ngụy đều tuân theo lịch nhà Hạ. Do đó thiên hạ truyền nhau lấy tháng Mão làm Niết-bàn, lấy tháng Tî làm giáng sanh nguyên do có khác nhau là vì các văn chép ngày tháng năm có khác nhau. Cho nên đây tập họp nêu rõ để truyền đời sau. Ni-câu-luật-đà (Nyagrodha) lại gọi là Ni-câu-lô-đà, dịch là vô tiết, lại gọi là Túng Quảng, lá như cây thị cõi này quả nó gọi là Đa-lặc, như thùng lớn chứa năm thăng, ăn vào trừ nóng nảy. Chích Hoa nói: Dịch nghĩa là dương liễu vì cây này to mà hạt nhỏ giống như cây dương liễu phương này, nên dịch thế. Tống Tăng Truyện nói lời dịch là đổi, lấy cái có để dịch cái không có. Như cây Câu-luật-đà tức là cây dương liễu ở Đông Hạ, tên tuy khác mà cây là một thứ. Đa-la (Tàla) xưa dịch là Bối đa, đây dịch là ngạn, hình dạng như cây tuân lư (cây cọ) ở phương này, thẳng mà cao, cao nhất tám mươi, chín mươi thước, hoa như hạt gạo màu vàng. Có người nói một cây đa-la cao bảy nhẫn, bảy thước là một nhẫn, vậy cây này cao bốn mươi chín thước. Tây Vức Ký nói: Ở Nam Ấn tại phía Bắc nước Kiến-na-bổ-la không xa lắm có rừng cây đa-la hơn ba mươi dặm, lá nói dài, rộng, sắc nói sáng nhuận, các nước ghi chép đều dùng. Thi-đà (Sìta), gọi đúng là Thi-đa-bà-na, dịch là Hàn lâm, vì rừng nói kín sâu mà lạnh. Tăng Ký nói: Rừng này có nhiều thây chết, người vào đó lành mà sợ. Pháp Hiển Truyện gọi là Thi-ma-dư-na, Hán gọi là Ruộng chôn người chết. Tứ Phần gọi là Khủng úy lâm. Nhiều luận gọi là An đà lâm cũng gọi là Trú ám lâm. Rừng Duệ-sắc tri (Yastivana), Tây Vức Ký nói: Đường gọi là Trượng lâm, vì rừng đó tu kính khắp hết hang núi. Trước có Bà-la-môn nghe thân Phật dài một trượng sáu thường nghi không tin, bèn lấy cây gậy trúc một trượng sáu để đo thân Phật thì thấy đầu gậy luôn hơn một trượng sáu như thế tăng cao không thể biết thật, bèn quăng gậy mà đi, nhân đó mọc rễ mà thành. Bệ(tỳ)-đạt-khư (Vestasa?), Tây Vức Ký gọi Tượng kiên tốt đổ ba, dưới núi Bắc sơn có một suối rồng, là chỗ Như Lai nhận cơm thần xong và A-la-hán ở trong đó súc miệng xỉa răng bằng nhành dương, rồi nhành dương mọc rễ trong đó nay thành rừng lớn. Người sau nhận đây mà lập Già-lam gọi là Bệ-đạt-khư. Đường gọi là Tước Dương Chi. Tỳ-nại-gia nói: Tước Dương Chi. Dương Chi có năm lợi: một là miệng không hôi, hai là miệng không đắng, ba là trừ phong, bốn là trừ nhiệt, năm là trừ đàm nhớt. Tứ Phần nói: Không dùng Tước Dương Chi có năm lỗi: một là hơi miệng hôi, hai là không khéo phân biệt mùi vị, ba là nóng nảy đàm nhớt không tiêu, bốn là không dẫn thức ăn, năm là mắt không sáng. Đờn-đa-ni-sắt-đệ (Daintakàstha), Đờn-đa dịch là răng, đệ là cây, nghĩa là cây xỉa răng. Nếu cây dài thì mười hai lóng tay, ngắn thì sáu lóng tay, thường dùng cây Kiệt-đà-la, phương này không có, phần nhiều dùng nhành dương (dương chi). Ký Qui Truyện nói: Lớn như ngón tay út, một đầu nhai sạch để chà kẽ răng, dùng ngón tay bẻ cong mà nạo lưỡi, năm lần nhai rồi rửa sạch mà bỏ để sâu ăn vào mà chết. Ba-tra-li (Pàtala), Tây Vức Ký nói: Xưa gọi là Ba-liên-phất-ấp là sai, tức cây nữ tư. A-lê, hoặc nói phương này không có nên không dịch, cây đó giống cây lan, cànhnếu rơi thì làm bảy phần. nghĩa Tịnh dịch Kinh Khổng Tước nói đầu bể làm bảy phần cũng như lan hương tiêu. Lại tự giải rằng: Tiếng Phạm là Át-đổ-ca-man-chiết-lị, Át-đổ-ca là lan hương, man-chiết-lị là tiêu đầu. Xưa gọi là A-lê-thọ-chi (nhánh cây A-lê) không biết rõ tiếng gốc lại chẳng biết việc ấy nên không biết từ lâu. Song hỏi ở Tây phương thì không có cây A-lê. Thi-lị-sa (Sirisa), hoặc gọi là Thi-lị-sái, tức cây Họp hôn ở cõi này, có hai thứ: một là Thi-lị-sa lá, hạt đều lớn. Gọi Thi-li-sử thì lá, hạt đều nhỏ. Lại gọi Xá-li-sa, dịch là họp hoan. Toàn-đề, toàn là toàn thảo, có ở núi Côn lôn. Đề là có thể dời đi. Đề là mang xách, thây trong Kinh Ấm nghĩa. Y-lan (Eranda), Quán Phật Tam-muội Hải Kinh nói: Ví như y-lan cùng chiên-đàn đều sanh trong núi Mạt-lî ngưu đầu chiên-đàn sanh trong bụi y-lan, khi chưa kịp lớn lúc ở dưới đất thì mọc nanh cành lá như măng tre Diêm-phù-đề, mọi người chẳng biết nói trong núi này toàn là y-lan không có chiên-đàn mà y-lan thì hôi thúi, thúi như nghêu sò chết xông xa bốn mươi do-tuần, hoa nó sắc đỏ rất dễ ưa thích, nếu ai ăn thì phát điên mà chết. Ngưu đầu chiên-đàn tuy sanh ở rừng này nhưng chưa thành nên chẳng phát ra mùi thơm. Tháng trọng thu trăng tròn cuối cùng sanh từ đất mà thành cây chiên-đàn. Mọi người đều nghe nói ngưu đầu chiên-đàn là hương thơm cao quí nhất ắt vónh viễn không có mùi thúi của y-lan. <詞>CÁC LOẠI TRÁI CÂY. Luật nói có năm thứ quả: Một là Hạch quả (quả có hạt) như táo, hạnh; hai là phu quả (quả có vỏ) như lê, mít; ba là xác quả, như trái dừa, trái hồ đào, thạch lựu; bốn là cối quả, lớp da trấu gọi là cối như trái tùng bách (thông); năm là giác quả, như là đậu lớn nhỏ. Phả-la (Phala), dịch là quả. Am-la (Amrapali), gọi đúng là Am-một-la hoặc Am- la-ba-lị. Triệu chú rằng, đây dịch là nại. Nại, Nữ Kinh nói: Nước Duy-gia-lê, Phạm chí ở trong vườn trồng cây nại này, cây sanh cô gái này. Phạm chí đem về nuôi đến mười lăm tuổi, nhan sắc đẹp đẽ bèn đồn ra nước xa, bảy vua tranh nhau xin cưới. Phạm chí sợ quá bèn giấu cô gái trên lầu cao, bảo bảy vua rằng, đây không phải con ta, mà do cây sanh ra. Nếu gả cho một vua, ắt sáu vua kia nổi giận. Nay ở trên lầu, xin các vua bình nghị nếu ai thắng thì lấy, ta không cản ép. Đêm ấy, vua Bình-sa núp trong đống báu lên lầu cùng ngủ chung với cô gái, bảo cô gái rằng, nếu sanh con trai thì về với ta. Nói xong, bèn cởi chiếc vòng ấn mà trao cho cô gái làm tin. Vua liền ra bảo quần thần rằng, ta đã được cô gái. Quân của Bình-sa vương đều hô vạn tuế, sáu vua kia đều bỏ về. Sau cô gái sanh con trai rồi trở về ở chỗ cũ, đến năm con trai tám tuổi, bèn cầm vòng ấn mà đến gặp vua Bình-sa, vua cho làm Thái tử. Đến hai năm sau thì Xà-thế sanh ra. Chàng trai nhân nhượng rằng: Nay vua đã sanh đích tử nên chọn để nối dòng, rồi nhường ngôi cho. Triệu Sư chú rằng: Quả này giống trái đào mà không phải đào. Lược chú rằng: Cây nại nhất định không phải là nại. Lại dịch là khó phân biệt, quả nó giống đào mà không phải đào, giống nại mà không phải nại, đây cùng Đại Kinh ý đồng. Kinh nói như quả am-la sống khó chín phân đủ như bốn cú rất khó phân biệt. Một là trong ngoài đều sống, hai là ngoài chín trong sống, ba là ngoài sống trong chín, bốn là trong ngoài sống đều chín. Toản Yếu nói: Xưa dịch nại là sai. Quả này có nhiều hoa rất nhỏ, lá nó giống lá liễu mà dài một thước, rộng ba ngón tay, quả giống quả lê mà đáy cúp cong lại, sống chín khó biết, có thể trị lành bệnh, nước ấy gọi là Vương thọ (cây Vua) tức trồng ở thành vua. Am-ma-lặc (Àmra), Triệu nói: hình giống cây cau nên lấy đó làm dụ. Tây Vức Ký nói: Quả Am-một-la có hai giống thứ nhỏ thì sống xanh chín vàng, thứ lớn thì trước sau đều xanh. Ha-lê-lặc (Haridru?), mới dịch là Ha-lê-đát-kê, dịch là Thiên chủ trì lai (trời đem lại). Quả này làm thuốc công dụng rất nhiều không đâu chẳng vào. Tần-bà (Viưba), dịch là tương tư, quả màu đỏ lại nhuận. A-ma-lạc-ca, Tây Vức Ký nói là tên quả thuốc ở Ấn Độ. Bá-ra-sư, đây dịch là hồ đào. Trấn-đầu-ca, dịch là thị (trái thị). Đốc-ca, dịch là lật (quả dẻ). Cư-lăng-ca, dịch là lý (quả mận) Nạt-thọ-ca, dịch là uất bột (?) Ác-xoa-tụ, Tư Trung nói: dây xỏ chổi. Từ vô thủy vô minh huân tập thành giống trồng thì có quả hạt, hạt sanh ra huân tập không dứt. Chân Đế nói: Ác-xoa là tên cây hạt (quả) nó giống hạt (quả) một thạch, sống thì ba hạt dính nhau, dụ cho hoặc - nghiệp - khổ, ba thứ cùng lúc đầy đủ. Nói hoặc - nghiệp - khổ thì hoặc là đường phiền não, nghiệp là đường nghiệp, khổ là đường khổ, mà ba đường này thông với đất (cõi). Cho nên Phụ Hành nói: Phần đoạn ba đạo: tức kiến tư hoặc là phiền não đạo, phiền não nhuận nghiệp là nghiệp đạo, cảm sanh giơi nội là khổ đạo. Phương tiện ba đạo: tức trần sa hoặc phiền não đạo, vì nghiệp vô lậu gọi là nghiệp đạo. Biến dịch sanh tử gọi là khổ đạo. Thật báo ba đạo: tức là vô minh hoặc là phiền não đạo, phi lậu phi vô lậu nghiệp là nghiệp đạo, cõi ấy biến dịch gọi là khổ đạo. Ma-na-đa, dịch là túy quả (quả làm say). <詞>TRĂM THỨ HOA. Kinh Thập Luân nói: Cúng dường có ba: một là lợi tức làm bốn sự v.v…, hai là kính tâm, tức đem hoa bày tỏ tình ý, ba là tu lành, như có trì thuyết thì liền cúng dường. Đại Phẩm nói: Thích-đề Hoàn-nhân và các trời trong Tam thiên Đại thiên thế giới này hóa làm các hoa tung rải hoa trên Phật, Bồ-tát Ma-ha-tát, Tỳ-kheo tăng và Tu-bồ-đề, cũng cúng dường Bát-nhã ba-la-mật. Lúc đó hoa khắp Tam thiên Đại thiên thế giới đều cùng khắp ở trên hư không hóa thành đài hoa đoan nghiêm thù diệu (đẹp đẽ lạ thường). Tu-bồ-đề nghó rằng: Đó là các trời tung rải hoa trên trời chưa từng thấy hoa như thế. Hoa là hóa hoa chẳng phải cây sanh. Hoa của các trời tung ra là do cây tâm sanh ra không phải do cây sanh. Thích-đề Hoàn-nhân biết Tu-bồ-đề nghó thế, bèn bảo Tu-bồ-đề rằng: Nàu Đại đức hoa ấy không phải cây sanh, cũng không phải do cây ý sanh ra. Tu-bồ-đề bảo Đế-thích rằng: Nàu Kiều-thi-ca, cây ấy nếu không phải pháp sanh thì không gọi là hoa. Thích-đề Hoàn-nhân bảo Tu-bồ-đề rằng: Này Đại đức, chỉ là hoa chẳng sanh thì sắc cũng chẳng sanh, thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng sanh. Tu-bồ-đề nói: Này Kiều- thi-ca, không phải chỉ là hoa chẳng sanh thì sắc cũng chẳng sanh, nếu chẳng sanh thì chẳng gọi là sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng lại chẳng sanh, nếu chẳng sanh thì chẳng gọi là thọ, tưởng, hành, thức. Đem hoa như thế cúng Phật như thế thì hiển bày Năng sở chẳng hai, mà bày tỏ y chính không khác gọi là Pháp cúng dường bất tư nghì. Bố-sắc-ba (Puspa), dịch là hoa. Phí-bã-đề (Divyapuspa), dịch là Thiên hoa (hoa trời). Tu-mạn-na (Sumanàs), hoặc gọi Tu-mạt-na hay Tô-ma-ma, dịch là thiện (khéo) nhiếp ý hoặc gọi là xứng ý hoa, sắc nó màu vàng trắng mà rất thơm, cây chẳng cao lớn lắm, khoảng ba, bốn thước rủ xuống như cái lọng, tu-mạn nữ (cô gái tu-mạn) sanh trong hoa tu-mạn. Mạt-lị (Vali), cũng gọi ma-lị, dịch là nại, lại gọi là man hoa, hay làm tràng hoa. Luật Thiện Kiến nói: Quảng châu có dây hoa này. Xà-đề (Jàtikusma), dịch là hoa kim tiền. Ba-la-la (Pàrusaka), dịch là trùng sanh hoa. Bà-lị-sư-ca (Vàrsikì), cũng gọi là Bà-sư-ca hay Bà-sử-ca, dịch là hạ sanh hoa hay vũ hoa, lúc mưa mới sanh nên gọi là vũ hoa. Na-bà (Navamàlikà), dịch là tạp hoa. Ưu-đàm-bát-la (Udambara), dịch là thụy ứng (điềm lành?). Kinh Bát Nê-hoàn nói: Trong Diêm-phù-đề có cây Vua tôn quý (Tôn Thọ Vương) tên là Ưu-đàm-bát có trái (hạt?) mà không hoa. Cây Ưu-đàm- bát có hoa vàng đời bèn có Phật. Thi Thiết Luận nói: Quanh Thiệm bộ châu có đường Luân vương rộng một du-thiện-na. Khi không có Luân vương thì nước biển che lấp không thấy. Nếu có Chuyển Luân Vương ra đời thì nước biển lớn giảm xuống một du-thiện-na thì đường Luân vương này bây giờ hiên ra. Cát vàng trải đầy các báu trang nghiêm, nước thơm chiên-đàn rưới lên trên, Chuyển Luân Thánh Vương đi tuần châu bến cùng bốn thứ binh dạo đầy trên đường này thì hoa này mới sanh. Mới gọi là Ô-đàm-bát-la. Phân-đà-lị (Pundarika), dịch là hoa sen trắng. Duệ Sư nói chưa nở thì gọi là Khuất-ma-la, sắp rụng thì gọi là Ca-ma-la, đang lúc xinh tươi đầy đặn thì gọi là phân-đà-lị. Thể nói thay đổi từng lúc mà có tên theo sắc biến đổi cho nên có ba tên. Ưu-bát-la (Utpala), hoặc Âu-bát-la hay Ốt-bát-la, dịch là hoa sen xanh. Cô gái Ưu-bát-la-bàn-na sanh trong hoa sen xanh. Bát-đặc-ma (Padma), dịch là hoa sen đỏ (hồng?). Ma-ha-bát-đặc-ma (Mahapadma), dịch là hoa sen đỏ lớn. Đại Luận hỏi các giường có thể ngồi sao lại ngồi hoa sen? Đáp giường là chố ngồi của người bạch ý thế gian, lại dùng hoa sen mềm sạch là muốn hiện thần thông hay ngồi trên ấy khiến không hư. Lại là để trang nghiêm Diệu pháp tòa. Lại như đài hoa của hoa này nghiêm sạch thơm quí có thể ngồi. Câu-vật-đầu (Kumuda), cũng gọi Câu-vật-đầu, dịch là Địa hỷ hoa. Cũng gọi là Câu-mổ-đà dịch là hoa sen vàng. Mạn-thù-sa (Mainjùsaka), dịch là mềm mại, lại gọi là hoa đỏ. Nà-la-ka (Kuravaka), hoặc A-ca dịch là hoa trắng. Mạn-đà-la (Maindàrava), dịch là thích ý, lại gọi là hoa trắng. A-đề-mục-đa-già (Atimuktaka), xưa dịch là hoa thiện-tư-di, dịch là cự đằng tử. Cự đằng là hồ ma, lại nói phương này không có nên chẳng dịch, hoặc dịch là long thỉ hoa (hoa rồng biến) cỏ này hình như đại ma (mè lớn?) hoa đỏ lá xanh, hạt ép lấy dầu, cũng làm dầu thơm. Bà-ha-ca-da, Đại Luận gọi là cây hoa đỏ. A-lâu-na (Aruna), hoặc A-lô-na, dịch là hoa thơm màu đỏ hồng như màu đỏ hồng của mặt trời khi mới mọc, tiếng Phạm gọi tướng (màu) ấy là A-lâu-na. Dục-chi (Yogin), dịch là hoa tương tư. Hoa Ba-la-xa (Palàsa), Chương An nói: Đây là tên cây, lá nó màu xanh, hoa có ba màu, mặt trời chưa mọc thì màu đen, mặt trời mọc thì màu trắng, mặt trời lặn thì màu vàng. Nay lấy màu đỏ nghĩa như máu. Kinh Âm nghĩa nói: Cây hoa này nước vắt nó màu rất đỏ dùng để nhuộm áo lông, gọi là tử khoáng (cảnh?). Cu-lan-tra, dịch là hoa sắc hồng. Đại Luận nói: một là hoa sen hơn mười lá (cánh), hai là hoa trời trăm lá (cánh), ba là hoa Bồ-tát ngàn lá (cánh). <詞>CÁC MÙI HƯƠNG. Tịnh Danh Sớ nói: Hương là tên lìa uế mà có dụng thơm, thơm nồng nặc. Cảm Thông Truyện Thiên Nhân Phí Thị nói: Mùi thúi của người xông lên không trung bốn mươi dặm, các trời thanh tịnh đều chán sợ. Chỉ vì thương Phật dặn dò khiến hộ pháp. Vì Phật còn cùng ở với người nên các trời chẳng dám chẳng đến. Cho nên trong Phật pháp, thương là Phật sự. Như Đại Luận nói: Nước Thiên Trúc nóng, lại thân hôi thúi, nên dùng hương mà thoa thân và cúng dường chư Phật và Tăng. Kinh Giới Đức Hương nói A-nan bạch Phật rằng: Thưa Thế Tôn, có ba thứ hương: một là căn hương (rễ thơm), hai là chi hương (nhánh thơm), ba là hoa hương (hoa thơm), ba thứ hương này chỉ có thể theo gió mà không thể ngược gió, nên nay nêu ra ba thứ này. Càn-đà-la-da (Gandhàlaya?), gọi đúng là kiện đạt, dịch là hương. Thương Hoa Bát Vật Chí nói: Có sứ Tây quốc hiến hương, nha Hán ra luật không đủ cân thì không nhận. Sứ bèn riêng đi đeo hương như đại đạu ở trên cửa cung, mùi hương bay xa cách Trường An bốn mặt đều mười dặm trải cả tháng mới hết. Hoa Nghiêm nói: Trong trời thiện pháp có hương tên là Tịnh trang nghiêm, nếu đốt một viên mà xông thì khắp khiến chư Thiên tâm nghó về Phật. Đa-a-ma-la-bạt-đà-la (Tamàlapatra), Đa dịch là tính, A-ma-la dịch là vô cấu, Bạt-đà-la dịch là hiền, hoặc dịch là hoắc diệp hương, hoặc gọi là lá xích đồng. Ngưu đầu chiên-đàn (Gosìrsacamdana), hoặc nói phương này không có nên không dịch hoặc nói nghĩa làm thuốc trị được bệnh. Từ Ân Truyện nói: Thuộc loại cây bách dương, chất nó mát lạnh rắn ưa đen ở. Hoa Nghiêm nói: Ở núi Ma-la-da sản xuất ra hương chiên-đàn gọi là ngưu đầu, nếu thoa và othân thì nếu vào hầm lửa, lửa chẳng thể đốt cháy. chính Pháp Niệm Kinh nói: Châu này có núi tên là Cao sơn, trên ngọn Cao sơn có nhiều ngưu đầu chiên-đàn. Nếu khi các trời cùng A-tu-la đánh nhau bi dao chém bị thương thì dùng ngưu đầu chiên-đàn trị ắt lành, vì ngọn núi này giống như đầu trâu, trong ngọn núi này có cây chiên-đàn nên đặt là ngưu đầu. Đai Luận nói: Trừ núi Ma-lê không có chiên-đàn mà có bạch đàn trị bệnh nhiệt, xích-đàn đuổi được phong thủng (phong làm sưng). Núi Ma-lê dịch là ly cấu ở tại Nam Thiên Trúc. Chiêm-bặc (Caưpaka), hoặc gọi thiệm (đởm) ba, gọi đúng là Chiêm-bạc-ca. đại Luận dịch là huỳnh hoa, cây rất cao lớn. Mới gọi là khổ-mạt-la, dịch là kim sắc, là cây gần bờ biển Tây Vức, kim sí điểu đến liền đậu trên đó. Đa-già-la (Tagara), hoặc Đa-già-lưu, dịch là căn hương. Đại Luận nói: Cây đa-già-lâu là cây thơm. Ba-lị-chất-đa-la (Parijàta), dịch là viên sanh. Đại Kinh nói: Trời ba mươi ba có cây Ba-li-chất-đa-la rễ nó ăn vào đất sâu đến năm do- tuần, cây cao trăm do-tuần, nhánh lá khắp bốn bên năm mươi do-tuần, hoa nó nở ra thì hương thơm cùng khắp đến năm mươi do-tuần. Lại dịch là gian thác trang nghiêm, các hoa có nhiều màu sắc vây quanh trang nghiêm, Pháp Hoa văn chú cho đây cây trời chúa. Câu-tỳ(bệ)-đà-la (Kovidara), dịch là Đại du hý địa, cây thơm. A-già-lâu (Agaru), Đại Luận gọi là cây mật hương. Đâu-la-bà (Turuska), có ở nước quỷ thần, phương này không có nên không dịch, hoặc dịch là cỏ thơm. Xưa gọi bạch mao hương. Ca-bệ, dịch là hoắc hương. Tất-lực-ca, tức là đinh hương. Dốt-lỗ-sắc-kiếm, dịch là Tô họp. Hồng Sa Dẫn Tục Hán Thư nói: Sẩnh ở nước Đại Tần. Họp các thứ hương nấu thành nước gọi là tô họp. Quảng Chí cũng nói sanh ra ở nước Đại Tần hoặc gọi là nước Tô Họp. Người trong nước hái về nấu cô đặc nước hương thành cao, mà bán cái cặn bã. Hoặc nói họp các cỏ thơm nấu làm tô họp chẳng phải là một thứ (?). Đổ-lỗ, dịch là huân lục. Nam Châu Dị Vậy Ký nói: Hình giống đào giao (keo nhựa trái đào, mủ đào?). Tây Vức Ký nói: Nước A-tra-li ở Nam Ấn Độ có cây thơm huan lục, lá nó giống đường lê, cũng sanh ra ở cây hồ tiêu, là cây giống thục tiêu. Nam Phương Thảo Vật Tráng nói: Nó sanh ở nước Đại Tần, cây sống trong cát, mùa hạ thì nhựa cây chảy trên cát. Đột-bà, dịch là mâu hương. Uất (ốt)-thi-la, dịch là mâu hương căn (rễ mâu hương). Tiên-đà-bà, dịch là thạch diêm, vì hương nói giống nhân lấy đó làm tên. Hoa Nghiêm nói: Trên trời Đâu-suất có hương gọi là Tiên-đà- bà. Một khi sanh ra thì lấy cột ở trước tòa ngồi của Bồ-tát, đốt một viên thì nổi mây thơm lớn khắp cùng pháp giới. Niết-bàn gọi là diêm thủy khí mã, một tên là tứ thật. Trí thần biết rõ khi rửa thì dâng nước, khi ăn thì dâng muối, khi uống thì dâng đồ đựng, khi dạo chơi thì dâng ngựa. Đều chỉ nói Tiên-đà-bà đến. Chương An nói: Bốn nghĩa này cũng cùng bốn giáo, bốn môn, bốn cú ý giống nhau, đều theo thứ tự mà đối muối có bốn. Yết-bố-la (Karpura), đây dịch là long não hương. Yết hoặc đọc là kiếp. Tâm Tạng Truyện nói: Thân cây tàng mà khác lá, hoa quả cũng khác. Trước hái cây ướt chưa có hương, khi khô thì thuận lý tách trong đó có hương giống như vân mẫu trắng như băng tuyết. Mạc-ha-bà-già, đây dịch là xạ. Đa-yết-la (Tagara), dịch là linh lăng. Nam Việt Chí nói: Người trong vùng gọi là yến thảo vân hương. Thuyết Vân nói: Vân thảo giống mục thúc. Hoài Nam nói: Vân có thể cứu người chết sống lại (?). A-già-lô (Aguru), hoặc gọi là Ác-yết-lỗ, dịch là trầm hương. Hoa Nghiêm nói: Bên ao A-na-ba-đạt-đa sanh ra nước trầm hương gọi là liên hoa tạng, một viên hương nó như hạt mè lớn, nếu đốt lên thì hương thơm xông khắp con Diêm-phù-đề. Di Vật Chí nói: Sanh ra ở nước Nhật Nam. Muốn lấy trước phải phá hư cây để dưới đất lâu ngày cho lớp ngoài hư mục, bên trong tâm cứng chắc, bỏ trong nước thì chìm gọi là trầm hương. Kế chỗ tâm trắng không tinh chắc lắm, bỏ trong nước thì lình bình không chìm không nổi gọi là tiện hương. Quật-cụ-la (Guggula), hoặc Củ-cụ-la, hoặc cầu-cầu-la, dịch là an tức. Trà-cự-ma (Kuưkuma), dịch là uất kim. Chu Lễ Xuân Quan nói: Người Uất hái lấy về làm rượu. Thuyết Văn nói: Hoa của uất kim thảo do phương xa cống nạp vật thơm, người Uất họp mà gầy rượu để giáng thần tông miếu thường dùng. Kê-thiệt, sanh ra ở Ngũ mã châu. Nam Châu Dị Vật Chí nói: Cỏ này héo có thể họp làm giấy thơm? (hương tiên). Người Hò ở ngoại quốc nói các hương cùng ở một cây ấy, hoa gọi là kế thiệt hương. <詞>BẢY BÁU. Phật nói bảy báu gồm có hai thứ: một là bảy thứ trân bảo, hai là bảy thứ vương bảo. Một là bảy thứ trân bảo lược có bốn văn. Phật Địa Luận nói: 1- Vàng, 2- Bạc, 3- Phệ-lưu-ly, 4- Pha-chi-ca, 5- Mâu-hô-bà-yết-lạc-bà - tức là xa cừ, 6- Át-thấp-ma-yết-bà - tức là mã não, 7- Xích trân châu. Kinh Vô Lượng Thọ nói là: vàng, bạc, lưu ly, pha-lê, san hô, mã não, xa cừ. Hằng Thủy Kinh nói là: vàng, bạc, san hô, trân châu, xa cừ, minh nguyệt châu, ma-ni châu. Đại Luận nói: có bảy thứ báu là vàng, bạc, tỳ-lưu-ly, pha-lê, xa cừ, mã não, xích trân châu. Hai là bảy thứ vương bảo. Hoa Nghiêm Kinh Tấn Dịch nói: Khi vua được đạo thì ở trong chính điện thể nữ vây quanh, bảy báu tự đến: một là Kim luân bảo gọi là Thắng tự tại, hai là Tượng bảo gọi là Thanh sơn, ba là Cám mã bảo gọi là Dõng tật phong, bốn là Thần châu bảo gọi là quang tạng vân, năm là Chủ tạng thần bảo gọi là Đại tài, sáu là Ngọc nữ bảo gọi là Tịnh diệu đức, bảy là Chủ binh thần bảo gọi là Ly cấu nhãn. Được bảy bảo ấy ở trong Diêm-phù-đề làm Chuyển luân vương. Tô-phạt-la (Suvarna), hoặc gọi Tu-bạt-noa, dịch là vàng. Đại Luận nói: Vàng sanh ra núi đá cát đồng đỏ. Hứa Thận nói: Vàng có năm sắc, vàng vàng là lớn nhất, chôn lâu mà không biến đổi, trăm luyện chẳng nhẹ. Chân Đế-thích nói: Vàng có bốn nghĩa: một là sắc không đổi, hai là thể không dính (nhuận), ba là đổi làm các thứ vô ngại, bốn là khiến người giàu, để dụ cho bốn đức thường - tịnh - ngã - lạc của Pháp thân. Bạt-chiết-la (Vajra), hoặc Chước-ca-la. Đại Luận gọi là Việt-xà. Mới gọi là Phược-tả-la. Tây Vức Ký gọi là Phạt-la-xà, dịch là Kim cang. Khởi Cư Chú nói: Năm Tấn Võ Đế thứ mười ba, Đôn Hoằng có người hiến báu kim cương sanh ở trong vàng (?) sắc như tử thạch anh, giống nha kiều mạch, trăm luyện chẳng tiêu có thể cắt đá như bùn. Thập Sư nói: Như có gang tấc kim cương trong vòng mấy mươi dặm, các ngọc đá có hình sắc đều hiện ra. Đại Kinh nói: Như báu kim cương đặt trong mặt trời sắc ắt bất định. Kim cương Tam-muội cũng lại như thế, nếu ở trong đại chúng sắc ắt bất định. Đại Luận nói báu kim cương, Đế-thích cầm đánh với Tu-la nát ra mà rớt xuống Diêm-phù. Tát-giá-ni Càn Kinh nói: Đế-thích cầm báu kim cương hay diệt được A-tu-la, trí nghiền nát núi phiền não hay hoại cũng như thế. Kinh Vô Thường nói: Chày trí kim cương nghiền nát núi Tà, cắt dứt hẳn các ràng buộc nối nhau từ vô thủy. Thước-ca-la (Cakra), bởi nghĩa bền chắc, đồng như kim cương. A-lộ-ba (Rupa), hoặc Nặc-đa, dịch là bạc. Đại Luận nói: Bạc sanh trong đốt thiêu đá. Nhó Nhã nói: Bạch kim (vàng trắng) gọi là bạc, thứ đẹp gọi là liêu. Lưu-ly (Vaidurya), dịch là báu sắc xanh, cũng dịch là không xa nghĩa là Tây Vức có núi cách thành Ba-la-nại không xa núi sanh ra báu này nhân đó đặt tên. Ứng Pháp sư nói: Hoặc thêm chữ phệ hay chữ tỳ hoặc nói Tỳ-đầu từ núi làm tên tức là báu núi xa, núi xa tức là núi Tu- di. Báu này sắc xanh, tất cả báu khác đều không thể làm hư, khói lửa cũng không nấu chảy để đúc được chỉ quỷ thần có sức thần thông mới có thể phá hư. Lại nói là vỏ trứng của kim sí điểu, quỷ thần có được mà bán cho người, hoặc gọi là Cám-lưu-ly. Thích Danh nói: Cám là ngậm, xanh mà ngậm sắc đỏ, chữ xưa chỉ viết lưu ly, cùng kha tuất, người sau mới thêm chữ. San-hô (Pravàda), tiếng Phạm là Bạt-la-ta-phước-la. Ngoại Quốc Truyện nói: Nước Đại Tần ở Tây nam Trường hải khoảng bảy, tám trăm dặm đến Châu San-hô, dưới đáy châu có bàn thạch, san-hô sanh trên đó, người dùng lưới sắt mà lấy. Nhậm Phỏng Thuật Dị Ký nói: Cây san- hô màu biếc (bích?) sanh dưới đáy biển, một cây hơn mấy mươi cành, trong nhánh không có lá, thứ lớn thì cao năm, sáu thước, thứ nhỏ thì hơn một thước (1thước = 0,4m) Ứng Pháp sư nói: Mới một năm sắc sanh, năm thứ hai sắc vàng, năm thứ ba sâu ăn hư hỏng. Đại Luận nói: San-hô sanh ra ở cây đá trong biển. A-thấp-ma-yết-bà (Azmagarbha), dịch là hỏ phách, sắc nó hồng sáng. Bác Vật Chí nói: Nhựa tòng (thông) vào đất cả ngàn năm thì hóa thành phục linh, phục linh ngàn năm thì hóa thành hổ phách. Quảng Chí nói: Sanh ở trong đất thì trên và bên cạnh nó không có thảo mộc, ở sâu bảy, tám thước, to bằng cái hộc, gọt lớp da ngoài thì trong là hổ phách. Mâu-bà-lạc-yết-vị-bà (Musaragalva), hoặc gọi là Mâu-hô-bà- yết-lạc-bà, dịch là thanh bạch sắc bảo (báu có sắc xanh trắng), nay gọi là xa cừ. Thượng Thư Đại Truyện nói: Bối lớn (vỏ sò lớn) vành xe (cừ là vành xe) giống thế nên gọi là xa cừ. Cừ là to, người sau thêm chữ ngọc hoặc thạch vào. Ma-la-già-lê (Musàragalba), dịch là mã não, báu này sắc như não ngựa, nhân đó đặt tên, màu đỏ trắng, mài thành đồ đựng, có vằn như sợi tơ. Tiếng Phạm gọi là Mô-tát-la-yết-la, mô-tát-la dịch là chữ (chày), yết-bà dịch là tàng hoặc gọi là thai. Lấy mã não thật cứng làm tên. Pha-lê (Sphatika), hoặc gọi Tắc-pha-chi-ca, dịch là thủy ngọc tức thương ngọc hoặc gọi thủy tinh. Lại gọi bạch châu. Khan chính Ký nói: Gọi đúng là Tốt-ba-chí-ca, hình dạng nó giống thủy tinh phương này, song có đỏ và trắng. Đại Luận nói: Ví như bưng trải ngàn năm hóa làm pha-lê. Thích-ca-tỳ-lăng-già (Sakrabhilagna(langa?), dịch là Năng thắng. Ma-ni (Mani), hoặc gọi Du-ma. Ứng Pháp sư nói: Gọi đúng là Mạt- ni, tức tên chung của châu. Đây dịch là ly cấu, tức báu này sáng sạch không bị dơ bẩn dính. Hoặc thêm chữ Phạm để chỉ nó sạch sẽ. Lại dịch là tăng trưởng là nơi có báu này tăng trưởng oai đức. Đại Phẩm nói: Như châu ma-ni nếu ở trong nước thì chỉ có một sắc. Nếu để trong vật xanh thì nước sắc xanh, nếu để trong các vật vàng, đỏ, trắng, hồng thì liền có sắc vàng, đỏ, trắng, hồng. Đại Phẩm nói: A-nan hỏi Kiều-thi-ca báu ma-ni ấy là báu trên trời hay ở Diêm-phù-đề? Thích-đề Hoàn-nhân nói: Là ở trên trời, nhưng người Diêm-phù-đề cũng có báu ấy, chỉ vì công đức ít mà không đầy đủ. Đại Luận nói: Có người bảo: báu này từ não Long vương sanh ra, người được châu này độc không thể hại, vào lửa không cháy. Phụ Hành nói: Cũng gọi là như ý giống như Đường Phạm không đồng. Đại Luận bảo: Hoa Nghiêm gọi là như ý ma-ni giống như nêu hai tên như Pháp Hoa gọi ma-ni châu v.v… giống như thể riêng. Đại Trang Nghiêm Luận nói: Có châu ma-ni lớn như tất cái. Đại Luận nói: Châu như ý giống như giới túc. Lại nói châu như ý sẩnh từ xá-lợi Phật. nếu khi pháp mất hết thì các xá-lợi đều biến thành châu như ý. Quán Kinh nói: Như ý là ma-ni. Thiên Thai nói: Ma-ni là như ý. Ma-la-già-đà (Marakata), Đại Luận nói: Châu này từ bên miệng kim sí điểu sanh ra, màu lục hay tránh tất cả độc. Nhân-đà-ni-la (Indranìla), Đại Luận nói: Dịch là Thiên xích quang châu. Phật Địa Luận nói: Do xích trùng sanh ra hoặc châu thể gọi là xích châu. Trí Luận nói: Trân châu sanh ra trong não rắn ở trong bụng cá. Hán Thư nói: Châu là âm tinh trong con làu, tùy tháng âm có đầy vơi. Chân-thúc-ca (Kàcaka), dịch là xích sắc bảo (báu màu đỏ). Tây Vức Truyện nói: Có cây Chân-thúc-ca hoa nó sắc đỏ hình giống như cái tay, sắc báu này giống hoa này nên lấy đó làm tên. Từ Ân Thượng Sanh Kinh Sớ nói: Chân-thúc-ca hình giống như diên khuê giống như xích lưu ly (lưu ly đỏ). Ma-ha-ni-la (Mahanila), Đại Luận nói: Dịch là đại thanh châu. Kinh ngân (Sanh tượng), Sa-di Thập giới có giới thứ chín cấm nắm giữ vàng bạc sanh tượng. Nam Sơn nói: Tiếng Hồ Hán cùng nêu, nghĩa là Hồ thì gọi là sanh tượng, Hán dịch là vàng bạc. Thiện Kiến nói: Sanh sắc nó giống sắc, giống tức là tượng. nghĩa là vàng khi sanh ra là sắc vàng, còn bạc có thể nhuộm giống vàng nên gọi là sanh tượng. Chỉ Quy nói: Huống tiếng Vu Điền cùng tiếng năm Ấn độ nói không giống nhau. Như Luật Tứ Phân đến Vu Điền đã dịch một lần xong, khi kinh đến Đường thì là dịch lần hai (trùng). Cát-do-la (Keyùra), hoặc chỉ do-la, dịch là anh lạc. Di-kha-la (Meklalà), dịch là kim đài (dây lưng vàng). Hạt-lạt-đát-na-yết-bà (Ratnagarbha), dịch là bảo đài, cũng gọi là bảo tạng. Lý thì chẳng số lượng, như hư không chẳng thước tấc. Sự thì pháp độ, cũng như thước tất ước với hư không. Cho nên trong Đại Phẩm Tu- bồ-đề bạch Phật rằng: Vô số, vô lượng, vô biên… có gì tính đến được? Phật nói vô số là tên không rơi vào số, như trong tính hữu vi, trong tính vô vi. Còn vô lượng thì lường đếm không thể được, như quá khứ, hiện tại, vị lai. Về vô biên là các pháp biên chẳng thể được. Tuy tính chẳng tính đếm biết được mà tướng có lượng phân tề. Nay phụ vào đây mà biên ra số lượng. Cu-xá Luận năm mươi hai số đều từ một tăng dần đến mười, tức là một, mười, một trăm, một ngàn, vạn, lạc-xoa (ức), độ- lạc-xoa (triệu), cu-chi (kinh), vị-đà (tỷ), a-dữu-đa (câu), đại a-dữu-đa (nhương), na-dữu-đa (câu), đại na-dữu-đa (giản) bát-la-dữu-đa (chính, đại bát-la-dữu-đa (tải), căng-yết-la (chân-ca-la), đại cang-yết-la, tần- bà-la (tần-bạt-la), đại tần-bà-la, a-súc-bà (a-sô-bà), đại a-súc-bà, tỳ- bà-la, đại tỳ-bà-la, ốt-tăng-già, đại ốt-tăng-già, bà-yết-na, đại bà-yết- na, địa-chí-bà, đại địa-chí-bà, hê-đô, đại hê-đô, yết-cát-phược, đại yết-cát-phược, ấn-đạt-la, đại ấn-đạt-la, tam-ma-bát-chẩm, đại tam-ma- bát-chẩm, yết để, đại yết-để, khô-phiệt-là-xà, đại khô-phiệt-là-xà, lão- đạt-la, đại lão-đạt-la, bạt-lam, đại bạt-lam, san-nhã, đại san-nhã, tỳ-bộ- đa, đại tỳ-bộ-đa, bạt-la-tài, đại bạt-la-tài, a-tăng-xí-da. Toán Kinh nói: Huỳnh Thường làm số pháp có mười, ức, triệu, kinh, tỷ, cai, nhương, câu, giản, vạn sanh ức, ức sanh triệu, triệu sanh kinh, nhương sanh câu, câu sanh giản, giản sanh chính, chính sanh tải. Tải đất chẳng thể chứa. Ức phân bốn cấp: 1- Mười vạn là ức, 2- Trăm vạn là ức, 3- Ngàn vạn là ức, 4- Vạn vạn là ức. Ngu Thư nói: Từ Phục Hy vẽ bát quái do đó số khởi. Luật Lịch Chí dẫn sách nói: Trước tính mạng vốn khởi (bắt đầu) ở số Huỳnh chung, bắt đầu ở một mà ba, ba chứa lịch số mươi hai thần, mười có bảy vạn bảy ngàn một trăm bốn mươi bảy ( 7 7. 147) mà năm số đầy đủ. Về phép toán thì dùng ống tre đường kính một phân sáu tấc, hai trăm bảy mươi mốt mai mà thành sáu cô là một ác. Số ấy dùng dịch mà mở rộng số, năm mươi thì dùng bốn mươi chín thành dương sáu hào, được Chu Lưu Tượng ghi. Luận Ngữ nói: Chu Suy Quan mất, Khổng tử trình bày pháp với Hậu vương nói rằng: Cẩn quyền lượng, thẩm pháp độ, tu phế quan, cù dật dân mà hành chính bốn phương. Hán Thư nói: Hành quyền, thì hành là bình, quyền là trọng. Hành do đó nhậm quyền mà quân vật, bình mà khinh trọng vậy. Đạo ấy như để, để thấy chính (đúng) của chuẩn, thẳng của dây. Tả truyền kiến (thấy) qui, hữu chiết kiến (thấy) cũ là ở trời vậy. Tả trợ toàn ky châm chước kiến chỉ dó tề bảy chính. Cho nên nói ngọc hành (cân ngọc). Quyền là thù, lượng, cân, quân, thạch. Do đó đem cân vật ngang vốn khởi nặng ở Huỳnh chung, một thược chứa một ngàn hai trăm thiêm nặng mươi hai thù, lượng là lượng, hai mươi bốn thù là một lượng, mười sáu lượng là một cân, ba mươi cân là một quân, bốn quân là một thạch. Thổn là mười tám dịch có tượng mười tám biến. Lạc-xoa (Laksa), hoặc Lạc-sa, dịch là mười vạn. Cu-chi (Kotì), hoặc Câu-chí, dịch là một trăm ức. Na-do-tha (Nayuta), hoặc na-dữu-đa, hoặc thuật-na hay na-thuật, dịch là vạn ức. A-tăng-kỳ (Asaưkhyà), hoặc a-tăng-xí-da, dịch là vô ương số. Sở Từ nói: Thời cũng chưa ương. Vương Dật nói: Ương là hết. Đại Luận nói: Tăng-kỳ, Tần gọi là số, a là vô (a-tăng-kỳ là vố số). Hỏi lúc nào gọi là a-tăng-kỳ? Đáp: Người biết toán số trong trời, người thì cực số không thể biết đó gọi là một a-tăng-kỳ. Như 1+1 là 2, 2 lần 2 là 4, 3 lần 3 là 9, 10 lần 10 là 100, mười lần trăm là ngàn, mười ngàn là vạn, mười vạn là ức, ngàn vạn ức là na-do-tha, ngàn vạn na-do-tha là tần-bà, ngàn vạn tần-bà là ca-tha, quá ca-tha gọi là a-tăng-kỳ. Bồ-tát Địa Trì Kinh nói: một là mặt trời, mặt trăng ngày đêm, số năm vô lượng gọi là a-tăng-kỳ, hai là đại kiếp vô lượng gọi là a-tăng-kỳ. Ưu-ba-ni-sa-đà (Upanisada), Thanh Lương Sớ nói: Đây dịch là cận thiểu, nghĩa là vi trần là sắc cận thiểu phần (vi trần là phần sắc một phần nhỏ nhất) cũng dịch là cận đối, nghĩa là tỷ đối thiểu phần tương cận (là phần so sánh nhỏ nhất?). Ứng Pháp sư nói: nghĩa trong luận nói nhân quả không giống nhau, vì trân bảo chỉ được quả báo trong ba cõi còn thiện pháp vô lậu thì được quả Phật. Ca-la phần (Kalà), luận lấy nghĩa dịch là lực thắng, vì thiện pháp vô lậu thắng (hơn) vô lậu. Ca-la (Kalà), Thanh Lương Sớ nói: Dịch là thụ (dựng đứng - dọc) nghĩa là một sợi lông của thân người chia ra một trăm phần rồi lấy một phần thì gọi là ca-la? Bảo-la-na-địa-tà, đây dịch cửu đệ nhị. Khư-lư, mười khư-lư là một khư-lê. Khư-lê, dịch là hộc. Luật Lịch Chí nói: Lượng là thược, họp, thăng, đấu, hộc. Do đó mà tính lường nhiều ít. Thược khởi đầu ở Huỳnh chung dùng số đếm mà xét, kỳ dung dó tử xác cừ thiêm trung giả ngàn có hai trăm là thược ấy (thược là 1200?) lấy nước giếng mà chuẩn ký khái. Họp thược là họp, mười họp là thăng, mười thăng là đấu, mười đấu là hộc mà năm lượng tốt đẹp. Lượng nhiều ít là không lỗi khuê toát. Ba-ha, dịch là thùy. Thạnh cốc viên đồn. Thùy nhận mười hai hộc. Cu-xá Luận nói: Át-bộ-đà thọ lượng như một bà-ha-ma (mè?), trăm năm trừ một cho đến hết. Đây nói một thùy có hao mươi hộc-ma (mè?) trong khoảng trăm năm trừ bỏ một thăng khi trừ hết mè thì át-bộ thọ đã hết. Ca-lị-sa-bát-noa, tám mươi mai bối châu là một bát-noa, mười sáu bát-noa là một ca-li-sa-bát-noa. Du-thiện-na (Yojana), dịch là hạn lượng, lại gọi là họp ứng. Nghiệp Sớ nói: Đây không chính dịch, chỉ là khoảng đường đi tuần thú của Luân Vương mỗi lần đi lúc nghỉ ở nhà trạm (khoảng đường đó gọi là một du- thiện-na?). Tây Vức Ký nói: Phàm số lượng gọi du-thiện-na xưa gọi là do- tuần, lại gọi du-xà-na hay do-diên đều sai. Du-thiện-na là từ xưa Thánh vương một ngày quân hành. Xưa truyền một du-thiện-na là bốn mươi dặm, theo phong tục Ấn Độ thì ba mươi dặm. Thánh giáo có ghi chỉ mười sáu dặm. Đại Luận nói: Do-tuần có ba thứ khác nhau, thứ lớn là tám mươi dặm, thứ trung là sáu mươi dặm, thứ nhỏ là bốn mươi dặm, tức là núi sông chẳng đồng mang hành lý khác nhau mà nêu một số chung. Phân một du-thiện-na là tám câu-lô-xá, một câu-lô-xá là năm trăm cung, một cung là một chỏ, một chỏ là hai mươi bốn lóng tay, một lóng tay là bảy túc lăng. Cho đến chấy rận bụi bặm lông trâu, lông dê, lông thỏ kim thủy thứ lớp bảy phần. Cho đến bụi nhỏ, bụi nhỏ bảy phần là cực tế trần. Cực tế trần là không thể bẻ ra được nữa, bẻ ra là về không, cho nên gọi là cực tế. Cu-xá Tụng nói: Cực vi nhỏ kiam thủy, lông thỏ, dê bụi bặm, chấy rận lăng chỉ tiết, các sau tăng gấp bảy, hai mươi bốn chỉ là một chỏ, bốn chỏ cung lượng, năm trăm cu-lư-xá là vào một du- thiện-na. Một tiên đạo, Gia Tường nói là hai dặm, hoặc gọi thủ tọa đóa là một trăm năm mươi bước, hoặc một trăm ba mươi bước, hoặc hai mươi bước. Hán Thư Luật Lịch Chí nói: Đo dài ngắn chẳng mất hào ly độ là phân, thốn, trượng, xích, dẫn. Sở dó độ dài ngắn, vốn khởi độ dài ở Huỳnh chung, lấy tử cốc cự thiêm trung, độ dài của một Huỳnh chung là một phân, mười phân là thốn, mười thốn là xích, mười xích là trượng, mười trượng là dẫn, mà năm lần xét vậy. Một kiệt thủ, Thông Tục Văn nói: Trương thân kiệt là thước nhà Chu, người một thước, Phật hai thước. Đường ở Chu một thốn tăng lên hai phân, một thước tăng lên hai thốn. Bởi thước nhà Chu là tám tấc. Cổ Lục nói: Tám tấc gọi là chỉ. Nói phu thốn thì bốn lóng tay là một phu, hai lóng tay (ngón tay) là một thốn. Nói lóng tay (chỉ) thì một chỉ của Phật rộng hai thốn. Một chỏ (trửu) của người một thước tám tấc, của Phật ba thước sáu tấc. Nói một vi, thì Trang Tử Âm nói: Đường tròn có đường kính một thước gọi là vi. Nói một nhẫn, thì Thuyết Văn nói: Nhẫn nghĩa là duỗi cánh tay ra một tầm. Sử Ký và Trịch Huyền đều nói bảy thước là một nhẫn. Tiểu Nhã nói bốn thước là một nhẫn là một nhẫn, gấp đôi là một tầm, một tầm dài hai hoằng. Hoặc nói năm thước là một tầm, gấp đôi tầm gọi là thường. Câu-lô-xá (Krosa), dịch là năm trăm cung, cũng gọi là một ngưu hẩu địa (tiếng trâu rống) nghĩa là trâu lớn rống lên ở xa nghe được, hoặc gọi một tiếng trống. Cu-xá nói là hai dặm, Tạp Bảo Tạng nói là năm dặm. Bàn-đà, dịch là hai mươi tám trửu (chỏ tay). Hoa Nghiêm nói số lớn tăng đến một trăm hai mươi lăm. Thấy trong Phẩm A-tăng-kỳ. MỌI VẬT. (các thứ): Kinh Âm nghĩa nói: Thập là mười là nhóm đống, là lộn xộn nhiều thứ. Cũng có tên số, nghĩa là vật tư sanh (giúp sống?). Trang Tử Quan Duẫn nói: Phàm có hình dạng thanh sắc thì đều là vật. Dịch nói Thiên địa nhân vân, vạn vật hóa thuần. Ngọc Thiên nói: Phàm sanh trong khoảng trời đất đều gọi là vật, là sự là loại. Khư-chu-la, dịch là tiểu trường sàng. Hưng-cừ, là sai. Ứng Pháp sư nói: Dịch là ít, gọi đúng là hưng- nghi, sanh từ nước Ô-trà-bà-tha-na, người ấy thường ăn, phương này truyền gọi vân đài là không phải. Đây là nước cây giống như nhựa đào, Tây Vức lấy để ăn. Nay A-ngụy là đó. Từ Mẫn Tam Tạng nói: Rễ như la-bặc sanh ra ở đất cay hôi. Từ Mẫn mùa đông đến nước ấy chẳng thấy mầm. Thương Hiệt Thiên nói: Rau nồng cay, phàm vật cay hôi đều gọi là huân. Ma-thâu (Mrdvika), Đại Luận nói: Rượu có ba thứ: một là rượu gạo nếp, hai là rượu trái cây (quả) như quả cây bồ-bặc a-lê-tra, các thứ như thế gọi là rượu trái cây (quả), ba là rượu thuốc, các thứ dược thảo hòa với men rượu nước đường thì biến thành rượu. Đồng với làm rượu sữa, tất cả sữa nóng có thể làm rượu. Hán Thư nói: Tượu là lộc tốt của trời, do đó nuôi dưỡng thiên hạ, cúng kiến cầu phước, chữa suy nuôi bệnh. Đào Khảng từng nói: Lúc nhỏ có lỗi uống rượu quên thân kiến ước nên chẳng dám uống nhiều. Hoặc nói huân là gầy rượu vậy. Thương Hiệt Thiên nói: Có rượu cặn. Đại Trang Nghiêm Luận nói: Phật nói thân, khẩu, ý, ba nghiệp làm ác do rượu làm gốc lại đọa trong ác hạnh. Thái, Chỉ Qui nói: Na-lan-đà Tăng Cát Tường Nguyệt nói: Tây Vức lập biểu lượng ảnh (đo lường bóng?). Ảnh tiếng Phạm gọi là thái, đây gọi là ảnh. Buổi sáng ảnh nghiêng về Tây, liền dùng bước đi đến số bước của ảnh. Tân Tỳ-nại-da nói: Phật bảo nên làm Pháp Thương Đoản lấy thẻ nhỏ dài hai thước, chặt một đầu bốn lóng tay dựng đứng giữa ngày độ (đo) ảnh dài ngắn, đó gọi là thương đoản. Nói thương đoản là hai thước khuất chiết đầu chuyển, như bóng chân người nên người lạm dụng. Tỳ-phong, cũng gọi là Tỳ-lam, dịch là tấn mãnh phong (gió dữ). Đại Luận nói: Gió bốn phương chẳng thể động núi Tu-di, khi gió tùy- lam đến thì nát như cỏ mục. Phật Địa Luận nói tám gió: 1- Đắc là được danh lợi vừa ý, 2- Thất là suy sụp không vừa ý, 3- Hủy là chê bai điều không có, 4- Dự là khen ngợi điều không có, 5- Xưng là khen ngợi việc có, 6- Cơ là chê bai việc có, 7- Khổ, làm thân tâm khổ, 8- Lạc thân tâm thích ý. Tịnh Danh Sớ nói: Làm từ bền chắc thì tâm như kim cương, thành tâm chân từ, không bị gió nội ngoại giới làm tổn hại. Kinh Khê nói: Ngoài không có tám tướng chỉ là trái thuận chân trung không đồng nên cùng trong khác. Sai-la-ba-ni, hoặc gọi Sám-la-bán-ni, dịch là nước tro. Chu-li-thảo, Đại Luận nói: Tần gọi là giặc. A-già-đà (Agasti), dịch là Phổ khứ (khắp bỏ), tức bỏ hết các bệnh lại dịch là viên dược. Hoa Nghiêm nói: Thuốc A-già-đà, chúng sanh nào thấy thì các bệnh đều dứt hết. Luật Sao nói: Báo mạng chi trì chớ lỗi ở thuốc. Tên thuốc là chung phân làm bốn thứ: Một là thời dược, từ sáng đến trưa Thánh giáo nghe uống, sự thuận pháp ứng, chẳng sanh tội lụy. Hai là phi thời dược, là các loại nước uống đối bệnh mà lập ngoài thời cho phép uống hạn định không trái. Ba là thất nhật dược, ước theo pháp đến hết phân tề, lấy ngày làm hạn dùng trị bệnh có lợi ích lớn. Bốn là tận hình dược, thế lực đã kém nên phải nghe uống lâu mới có thể hết bệnh. Hình có ba thứ: Một là tận dược hình, hai là tận bịnh hình, ba là tận báo hình. Tát-bảo-sát-địa, Tây Vức Ký nói: Đường gọi xà dược. Phật xưa khi làm Đế-thích gặp năm đói kém bệnh dịch đẫy đầy, thuốc trị không công hiệu chết đầy được đt thương xót suy nghó cách cứu bèn biến thành con rắn lớn nằm chết giữa đồng. Trên không trung có tiếng khắp bảo người nghe đều vui mừng tranh nhau đến cắt thịt rắn mà ăn thì đều sống, tự đói lại trị bệnh. Ưu-đàn-na (Mudrà), Diệu Huyền nói: Đây gọi là Ấn, cũng dịch là tông. Ấn là thềm cấp nhất định không được thay đổi. Thích Danh gọi là Ấn tín, do đó đối vật làm nghiệm. Thuyết Văn nói chấp chính được uy tín. Bà-lị (Vadisa), hoặc gọi ương-câu-xa, dịch là khúc câu. Cức-phược-tỉ (Pàdavestanika), hoặc gọi Cách-tỉ, dịch là ngoa (giày ống). Phật xưa ở nước A-(?)-trà bảo phải mang cức-phược-tỉ (giày ống?). Thuyết Văn nói: Bì gọi là lý, ma gọi là lũ. Phú-la (Pùlà), gọi đúng là Phục-la, dịch là đoản ao ngoa (giày mũi cong). Xá-lâu-già, dịch là ngẫu căn (ngó sen?) Huân-tân, huân (hôi nồng) mà không cay. A-ngụy là đó, cay mà không hơn nồng là gừng cải, vừa hôi nồng lại cay là năm tâm. Kinh Phạm võng nói: Chẳng được ăn ngũ tân… Nói ngũ tân là hành, hẹ. Kiệu (riềng?), tỏi, hưng cừ (ngụy) chuẩn theo Kinh Lăng-nghiêm ăn có năm lỗi: một là sanh lỗi, hai là xa trời, ba là gần gũi, bốn là phước tiêu, năm là ma tụ tập. Sanh lỗi: Là Kinh nói là năm thứ cay chín ăn phát dâm, sống ăm thêm giận. Xa trời: Kinh nói người ăn cay dầu hay nói mười hai bộ kinh thì các thiên tiên mười phương ghét mùi hôi hám mà đều lánh xa. Gần gũi: Kinh nói các ngạ quỷ nhân người ấy ăn rồi bèn đến liếm môi mép thường ở cùng quỷ. Phước tiêu: Kinh nói phước mỗi ngày một tiêu, mãi không lợi ích. Ma tụ tập: Kinh nói người ấy cay mà tu Tam-ma-địa, Bồ-tát thiên tiên mười phương thiên thân chẳng theo ủng hộ. Đại lực ma vương thì được phương tiện hiện làm thân Phật mà thuyết pháp, phá bỏ cấm giới giữ dâm, nô, si. Khi chết rồi thì tự làm ba con của Ma vương, chịu phước mà hết rồi thì đọa vào ngũ Vô gián. Lại Kinh Lăng-già, Đại Tuệ hỏi rằng: Các Bồ-tát ấy chí cầu Phật đạo mà rượu thịt và hành hẹ cứ ăn là sao, xin đấng Vô Thượng Tôn thương xót diễn nói. Phật bảo Đại Tuệ rằng: Có vô lượng nhân duyên (lý do) chẳng nên ăn thịt, song ta nay vì ông lược nói: nghĩa là tất cả chúng sanh từ xưa đến nay xoay vần nhau thường làm sáu thân vì nghó người thân nên không ăn thịt, lừa, ngựa, lạc-đà, chồn, chó, trâu, người, thú đều là thịt giết mổ mà bán ra nên không ăn thịt. Do đồ bất tịnh nuôn lớn lên mà chẳng ăn thịt. chúng sinh nghe hơi thì đều sợ hãi như Chiên-đà-la và Đàm-bà, chó thấy ghét sợ mà cả bầy ra sủa nên chẳng ăn thịt. Lại khiến người tu hành chẳng sanh từ tâm nên không ăn thịt. Phàm kẻ ngu ham thích các thứ hôi hám bất tịnh không khéo gọi tên nên không ăn thịt. Vì khiến các chú thuật chẳng thành tựu nên không ăn thịt. Vì người sát sanh thấy hình khởi thức (liền biết) càng mê đắm nên không ăn thịt. Người ăn thịt kia các trời đều bỏ nên không ăn thịt. Có nhiều ác mộng nên không ăn thịt. Ở yên vắng trong rừng sài lang, hổ báo đều nghe mùi nên không ăn thịt. Lại khiến ăn uống không tiết độ nên không ăn thịt. Khiến người tu hành chẳng sanh chán lìa nên không ăn thịt. Ta thường bảo phàm khi ăn uống phải tưởng như ăn thịt con mình, phải nghó đó là thuốc nên không ăn thịt. Cho phép ăn thịt thì không có việc ấy. Lại nữa, này Đại Tuệ, ở quá khứ có vua tên là Sự Tử Tô-đà-bà, ăn các thứ thịt bèn ăn đến thịt người, thần dân không chịu nổi liền tính việc mưu phản, mà cắt đứt bổng lộc. Vì người ăn thịt có lỗi như thế nên không ăn thịt. Tất cả thịt cùng các thứ hành hẹ tỏi nắn, lại buông lung uống rượu mà luôn xa lìa tu hành. Người ăn tỏi để yết hầu được thông, ăn chút ít thì không phạm. Rau thì có gừng cải bầu dưa rau huân đà v.v… Hành hẹ tuy ăn ít mà cũng ghiền, nhà có người ăn nên đuổi đi ra khỏi thành. Ấn, Đại Luận nói: Ấn Phật pháp có ba thứ: một là tất cả pháp hữu vi, niệm niệm sanh diệt đều vô thường, hai là tất cả pháp vô ngã, ba là tịch diệt Niết-bàn. Hành giả biết ba cõi đều là pháp hữu vi sanh diệt, trước có nay không, nay có sau không, niệm niệm sanh diệt nối tiếp, giống như sanh nên có thể thấy, biết như nước chảy đuốc sáng quay nhanh nên giống như tiếp nối, người là một chúng sanh ở trong pháp vô thường luôn điên đảo, bảo đi là luôn ở (còn hoài), đó gọi là tất cả là pháp vô thường ấn, tất cả pháp vô ngã trong các pháp không có chủ, không tác giả, không biết, không thấy. Là vô sanh, là không tạo nghiệp, tất cả pháp đều thuộc nhân duyên, vì thuộc nhân duyên nên không tự tại, vì chẳng tự tại nên vô ngã, ngã tướng không thể được, như trong Phẩm Phá Ngã đã nói, đó gọi là Vô ngã ấn. Tịch diệt là Niết-bàn, ba độc ba suy lửa diệt nên gọi Tịch diệt ấn. Hỏi: Trong Tịch diệt ấn sao chỉ có một pháp chẳng nói nhiều? Đáp: 1- Ở trong Ấn nói năm chúng, 2- Ở trong Ấn nói tất cả pháp đều vô ngã, 3- Ở trong Ấn nói hai ấn qủa là Tịch diệt ấn. Tất cả pháp đều vô thường, thì phá ngã sở ngoài năm dục v.v… Nếu nói vô ngã thì pháp pháp nội ngã tức phá ngã và ngã sở, tức là Tịch diệt Niết-bàn. Luận lại hỏi rằng: Trong Ma-ha-diễn nói các pháp một tướng chẳng sanh chẳng diệt, đó gọi là vô tướng, trong đây vì sao nói tất cả pháp hữu vi là pháp vô thường gọi Pháp ấn, vì sao hai pháp không trái nhau? Đáp: Quán vô thường tức là quán không nhân duyên, như quán sắc niệm niệm vô thường liền biết là không. Sắc quá khứ diệt mất chẳng thể thhấy cho nên không sắc tướng. Sắc vị lai chẳng sanh, vô tác vô dụng, chẳng thể thấy nên không sắc tướng. Sắc hiện tại cũng không dừng trụ, không thể thấy, không thể phân biệt mà biết, nên không sắc tướng tức là không, không tức là không sanh không diệt. Không sanh không diệt và sanh diệt kỳ thật là một, nói có rộng lược. Hỏi: Sắc quá khứ, vị lai không thể thấy nên không sắc tướng, còn sắc hiện tại thì lúc trụ có thể thấy sao nói là không sắc tướng? Đáp: Sắc hiện tại cũng không có lúc dừng trụ. Như trong Tứ Niệm Xứ nói: Nếu pháp sau thấy có tướng hoại thì phải biết trước khi sanh tướng hoại thì đã đuổi nhau rất nhỏ nhặt mà không biết. Như người mang guốc gỗ, ngày đầu tiên mới mà không cũ, sau phải luôn mới không được có cũ. Nếu không cũ thì phải là thường. Thường nên không tội không phước. Không tội không phước thì pháp đạo tục ắt loạn. Lại nữa, tướng sanh diệt thường tùy làm pháp không có lúc dừng, nếu có lúc dừng thì không sanh diệt vì thế sắc hiện tại không có dừng trụ. <詞> 3 8. HIỂN SẮC. A-tỳ-đàm nói có ba thứ sắc: một là có đối sắc có thể thấy, tức một pháp sắc ttần là mắt thấy được, nhờ các thứ cực nhỏ tạo thành nên gọi là có đối; hai là có đối sắc không thể thấy, nghĩa là mắt v.v… năm căn đây là thắng nghĩa căn, thanh v.v… Bốn trần, chín pháp này mắt không thấy được, đều là nhờ các thứ thật nhỏ tạo thành; ba là chẳng thể thấy không đối sắc, tức không có biểu sắc. Duy Thức Tông nói: Thức thứ tám biến ra ba thứ sắc: một là chỉ thô mà không tế tức là núi sông đất liền v.v…; hai là cũng thô cũng tế tức là các phù sắc trần trong thân đối với núi sông v.v… các sắc thì nó tế, nhưng sao với năm căn trong thân thì nó thô; ba là chỉ tế không năm căn thắng nghĩa Đại thừa, vì hay tạo tám pháp, chẳng thể thấy có đối sắc mà là thể tính. Luận Du-già và Luận Năm Uẩn nói ba thức sắc tức là Hiển sắc, Hình sắc, Biểu sắc. Mở (chia) Hiển sắc ra làm mươi ba, đó là xanh, vàng, đỏ, trắng, (ảnh) sang, tối, khói, mây, trần (bụi), mù (vụ), không, là một Hiển sắc. Chia Hình sắc có mười là dài, ngắn, vuông, tròn, thô, tế, cao, thấp, chính, chẳng chính (ngay, xéo?). chia Biểu sắc ra làm tám là lấy, bỏ, co, duỗi, đi, đứng, ngồi, nằm. Cu-xá nói: Không có Biểu sắc tức là không thể nêu bày (biểu chương). Niết-bàn nêu Vô tác sắc nghĩa là không có ladm lụng (vô sở tác vi). Tát-bà-đa nêu Vô giáo sắc, nghĩa là không có dạy (giáo) hay (giáo thị). Sự Sao Thích nói: Giáo (dạy) là làm, không thể dạy bày người khác. Nghiệp Sớ nói: Đây là nói nghiệp thể, một khi phát ra liền nối tiếp hiện mãi không nhờ các duyên, không do dạy (giáo) bày, mới có thành dụng tức thể nhậm vận, hay đáp lại đời sau nên nói không dạy (giáo). Đại Luận nói: Có bốn thứ sắc là Thọ sắc, Chỉ sắc, Dụng sắc, Bất dụng sắc. Nhỏ tiến lên không thành lớn, ngầm khiến người làm, tâm mong thật đạo nghĩa nhiều phương đều ở đây. Cu-lan-tra, đây dịch là sắc. Chất ngại gọi là sắc. Y-ni-diên (Aineya), dịch là kim sắc, gọi đúng là Ê-ni-diên. Đại Luận nói là ba mươi hai tướng thì thứ tám là Y-ni-diên, tức là tướng chân (đùi) nai, đứng sau nó là (???). Tô-lâu-ba (Surùpa), dịch là diệu sắc. Kinh nói: Diệu sắc trống vắng thường an trụ chẳng bị sanh già bệnh chết biến đổi. Ni-la (Nìla), dịch là thanh sắc (sắc xanh). Đông phương Giáp ất tiếc tinh thuộc mộc. A-lô-na (Aruna), dịch là xích sắc. Nam phương Bính đinh, sánh hoặc thuộc hỏa. Lô-hê-đát-ca (Lohitaka), Tây Vức Ký nói: Đường gọi xích sắc (sắc đỏ). Ca-sa-dã (Kasàya), dịch là xích sắc (sắc đỏ). Tiếng Phạm đọc khác nay ghi đủ. Thúc-ly (Sukla), dịch là bạch sắc (sắc trắng), Tây phương Canh tân, Thái Bạch thuộc kim. Ngật-li-sắc-noa (Krsna), dịch là hắc sắc (sắc đen), Bắc phương Nhâm quí thân tinh thuộc thủy. Ca-trà (Kala), hoặc Ca-la, dịch là sắc sắc (sắc đen). Tiếp-đà-la (Pitala), hoặc Kiếp-tân-na, dịch là huỳnh sắc (sắc vàng. Trung ương Mậu kỷ trấn tinh thuộc thổ. La-sai, hoặc Lặc-xoa, dịch là tử sắc (sắc tím). Băng-già-la (Piưgala), Lương gọi thượng sắc (sắc xanh biển). Phàm phu trầm mê bị vật nó chuyển, nghe chẳng ra ngoài tiếng, thấy chẳng vượt sắc. Nay nêu kinh luận khiến thấu biết thanh sắc. Như Trí Luận hỏi: Tâm và tâm sở pháp vô hình, có thể nói là vô biên. Sắc thì có hình có thể thấy sao nói vô biên? Đáp: Không nơi nào chẳng có sắc, có thể tính lường xa gần nhẹ nặng, như Phật nói bốn đại không chỗ nào chẳng có, nên gọi là đại, chẳng thể lấy năm tình mà hạn chế được, chẳng thể lấy đấu cân đo lường nhiều ít nặng nhẹ, thế nên nói sắc vô biên. Lại nữa, sắc ấy ở quá khứ thì mới đầu chẳng thể được (không có), ở vị lai không có hằng hà sa kiếp số hạn định đến hết, thế nên không có bờ sau, bờ trước bờ sau đều không, khoảng giữa cũng không, không có biên giới gọi là sắc tướng, đó là sắc phần được phá tan, bờ bến không thể được nên không có bản tướng. Lại Ma-ha-diễn Bản Nghiêm Kinh nói: Ví như họa só vẽ hình tượng quỷ thần rồi tự sợ. Như thế Ca-diếp, các phàm phu tự tạo sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp trơn láng (xúc) mà trôi lăn trong sanh tử cũng lại như thế. Lại Trí Luận nói: Đại Hoan Hỷ Bồ-tát nghó rằng chúng sinh dễ độ. Vì sao thế, vì chúng sinh mê đắm các thứ đều là hư dối không thật. Ví như người có một con ham thích đùa giỡn trong chất bất tịnh, lấy đất làm lúa gạo, lấy cỏ cây làm chim thú mà mê đắm. Nếu ai cướp lấy thì giận dữ khóc lóc. Người cha biết con mình nay tuy mê đắm nhưng cũng sẽ dễ lìa bỏ mà ngơi nghỉ mãi. Vì sao thế, vì vật này chẳng thật. Bồ-tát cũng thế, quán thấy chúng sanh mê đắm thân bất tịnh hôi thúi và năm dục là các thứ nhân khổ vô thường v.v… Như thế chúng sinh được tín v.v… năm căn khi thành tựu thì liền có thể lìa bỏ. Nếu trẻ con mê đắm thật là vật thật cho đến trăm tuổi thì mê đắm càng sâu cũng không thể lìa bỏ. Vì các pháp đều không, dối trá chẳng thật. Khi được mắt trí tuệ vô lậu thanh tịnh thì liền có thể lìa bỏ các mê đắm mà rất xấu hổ. Ví như khi bệnh điên nổi lên không có pháp làm tỉnh thì không thẹn thuồng mà ngưỡng mong các hậu hiền quán sắc như huyễn ở cảnh nội ngoại mà không mê đắm. <篇> PHIÊN DỊCH DANH nghĩa TẬP <卷>QUYỂN 4 Tập này gồm có các các phần sau đây: Thông minh (nói rõ) Tam tạng. Mười hai phần giáo. Luật phần năm bộ. Luận mở tám nhóm. Nêu pháp ba học. Luận pháp sáu độ. Giải thích mười hai chi. Nói pháp bốn đế. Ba nghĩa Chỉ quán. Các pháp thiện hạnh. <詞>THÔNG MINH (nói rõ) TAM TẠNG. Một là Kinh tạng, hai là Luật tạng, ba là Luận tạng. Kinh tạng thì an định nhân giả, hiểu rốt tính tướng. Luật tạng nêu phép tắc bốn oai nghi, nghiêm giữ ba nghiệp. Luận tạng thì nghiên chân hiểu chính, hặc ngụy tồi tà (bắt tội ngụy tà) đồng ra một âm khác theo bốn tất, dùng để hiển lý Viên minh mở cửa giải thoát. Do đó mà lập ra ba tạng giáo vậy. Tu-đa-la (Sùtra), hoặc gọi tu-đơn-lam hay Tu-đố-lộ. Tây Vức Ký gọi là Tố-đát-lãm. Xưa gọi là Tu-đa-la là sai. Hoặc nói không dich vì gồm năm nghĩa. Chích Hoa nói: nghĩa vị vô tận cho nên suối phun (dũng tuyền) hay sanh diệu thiện, cho nên gọi xuất sanh, chỉ định tà chính nên ví với thằng mặc (dây mực). Hay bày chính lý nên gọi là hiển thị, xuyên suốt các pháp nên gọi là kết man. Vì gồm năm nghĩa đó nên không dịch. Hoặc nói có phiên dịch. Diệu Huyền nói có năm lời dịch: một là Kinh, hai là Luận, ba là Pháp bản, bốn là Tuyến, năm là Thiện ngữ giáo. Thiên Thai dịnh rằng nay lại căn cứ vào một tên xem là dịch chính, cũng chẳng khiến hai nhà oán nhau. Đó là gì, từ xưa nay dịch Phạm ra Hán đều đề là kinh, nếu các thứ khác là dịch đúng sao không đổi là Tuyến khế. Nếu truyền dịch đều thế thì Kinh là chính sáng nhất. Vì phương này giáo của Chu Khổng gọi là Ngũ kinh, cho nên dùng chữ Kinh đi dịch chữ Tu-đa-la. Song các sách đều đề tên Kinh, các Luận chỉ ra đều gọi Khế Kinh. Do gọi Khế lý, Khế cơ thì gọi là Khế Kinh vậy. Chích Hoa nói: Khế lý thì họp với hai đế, Khế cơ thì họp với ba căn. Kinh là dạy (huấn) thường dạy (huấn) pháp. Diệu Huyền nói: Thiên ma ngoại đạo chẳng thể đổi thay làm hoại nên gọi là Giáo thường chân chính không tạp, không thể vượt qua nên gọi là Hành thường, trạm nhiên bất động quyết không đường khác nên gọi là Lý thường. Lại huấn (dạy) pháp thì pháp có thể là khuôn phép, hành có thể là khuôn phép, lý có thể là khuôn phép. Phật Địa Luận nói: Kinh cơ nghĩa là quán nhiếp, có nghĩa là xuyên suốt mà biết, nhiếp từ các chúng sanh đã giáo hóa. Từ Ân nói là thường là pháp là nhiếp là quán. Thường thì đạo quỷ bách vương (đạo làm khuôn phép cho trăm vua), pháp thì đức mô vạn thặng (đức làm mô phạm cho vạn thặng). Nhiếp thì tập họp diệu nghĩa, quán thì ngự bỉ dung sanh. Ngỏ hầu khiến cùng thoát bến khổ, cùng về bờ giác. Tỳ-nại-da (Vinaya), hoặc Tỳ-ni. Thập Sư nói: Tỳ-ni, Tần gọi là Thiện trị (khéo trị) nghĩa là tự trị dâm, nộ, si, cũng là trị các ác của chúng sanh (trị chúng sanh ác?). Viên Giác Sao nói: Đây gọi là điều phục, nghĩa là điều luyện ba nghiệp, chế phục lỗi lầm. Điều luyện thông với ngăn làm, chế phục thì chỉ là ngừng ác. Tựu sở thuyên chi hạnh, chương danh điều phục chi tạng (nêu hạnh mà bày tên điều phục?). Tứ Giáo nghĩa nói: Đây dịch là dịêt, nghĩa là Phật nói giới làm không làm hay diệt các ác của thân, khẩu, ý, thế nên gọi là diệt. Viên Giác Lược Sao nói: Diệt có ba nghĩa: một là diệt nghiệp quấy, hai là diệt phiền não, ba là diệt được quả. Nam Sơn nói: Tỳ-ni, dịch là diệt, từ công năng mà đặt tên không phải là chính dịch. chính dịch là luật. Luật là pháp, là từ giáo mà được tên, cắt đứt trọng khinh khai giá từ phạm phi pháp bất định. Tục có chón dòng, pháp ở dòng một. Cho nên luật pháp ở đời đều ước theo Hình khoa. Đạo cùng tục trái nhau nên Hình bèn gọi Dị (khác?). Đến như chỗ đoạn ắt phải y theo thường pháp. Cốc Hưởng nói: Lấy tên pháp luật phương này mà dịch chữ Nại-da, nước ấy. Luật là thuyên (nơi?) vậy, thuyên lượng nặng nhẹ phạm hay chẳng phạm v.v… Phong Tục Thông nói: Cao Đào Mô Ngu tạo luật, luật huấn (dạy) thuyên huân pháp. Thượng Thư Đại Truyện nói: Phi thiên chi Đại luật, chú nói phụng thiên chi đại pháp, pháp cũng là luật vậy, tên luật ở phương này bắt đầu từ vua Thuấn, Tiêu Hà đời Hán lấy chín chương, dần dần phân nặng nhẹ tường tận. Tây Vức Ký nói: Tỳ-nại-da Tạng. Xưa gọi lầm là Ty-na-da. A-tỳ-đàm (Abhidharma), hoặc gọi A-tỳ-đạt-ma, dịch là Vô tỷ pháp, nghĩa là Vô lậu pháp tuệ là hơn hết. Tứ Giáo nghĩa nói: Vô tỷ pháp là Thánh nhân trí tuệ phân biệt pháp nghĩa. Mới gọi là A-tỳ-đạt- ma, dịch là Đối pháp. Đối có hai thứ: một là Đối hướng, nghĩa là hướng về Niết-bàn vì lấy nhân của Thừa thánh nhân vô lậu, mà cảm đến quả viên lực Niết-bàn; hai là Đối quán, đối quán bốn đế, nghĩa lấy tâm tịnh tuệ mà quán sát pháp bốn đế, nên gọi là đối. Pháp có hai thứ: một là Tháng nghĩa pháp, nghĩa là trạch diệt Niết-bàn v.v…; hai là Pháp tướng pháp, tức là thông bốn Thánh đế v.v… Hỏi: Nếu theo nghĩa này thì họp gọi là Đối pháp tạng, nay giấu tên Đối pháp, chỉ nói Tuệ biện là sao? Đáp: Đây là tiếng tùy phương, tiếng Phạm là Ma-đát-lý-ca (Màtrka), dịch là Bản mẫu. Bản mẫu hay sanh Diệu tuệ, Diệu tuệ nhân luận mà sanh, cho nên lần lượt dịch là Luận. Luận Du-già nói: Hỏi đáp quyết chọn (trạch) tính tướng các pháp nên gọi là Luận. Trang Sư Truyện nói: Xưa gọi là Ưu-bà-đề-xá là sai, gọi đúng là Ổ-ba-đệ-thước (Upadesa), Hậu Phần Kinh gọi là Ma-đạt-ma. Cu-xá (Koza), hoặc gọi Tỷ-tra (Pitaka) hay Trích-ca (Tìkà), dịch là Tạng, tức là nghĩa bao hàm nhiếp trì, không có tạng (kho) thì không thể cất chứa tiền của, không có tạng thì không thể chứa nhóm văn nghĩa. Nên Nhiếp Luận nói sao gọi là Tạng? Đáp: Do nó hay nhiếp, nghĩa là nhiếp tất cả nghĩa phải biết, khiến không phân tán nên gọi Tạng. Tứ giáo nghĩa nói: Nay nói ba tên đều gồm tất cả văn lý nên gọi là Tạng. A-hàm tức Định tạng, Tỳ-ni tức giới tạng, A-tỳ-đàm tức Tuệ tạng. Nay hỏi kinh nói đắm trước ba tạng học Tiểu thừa, mà gọi ba tạng là đã thông Đại Tiểu hai giáo, vì sao Pháp Hoa phán là thuộc Tiểu thừa? Đáp rằng: Ba tạng thuộc Tiểu gồm có hai nghĩa: một là ba tạng tiểu thừa đều do Phật nói. Như Kinh Xuất Diệu nói: Phật ở Ba-la-nại trong vườn tiên nhân lộc dã bảo năm Tỳ-kheo rằng nguồn gốc khổ này vốn chưa nghe, vốn chưa thấy rộng nói pháp này là Khế kinh tạng. Khi Phật ở thành La-duyệt, con của Ca-lan-đà tên là Tu-trần-na xuất gia học đạo đầu tiên phạm luật nên nói giới tạng. Phật ở Tỳ-xá-li thấy Bạc-kỳ-tử nhân duyên trước sau nên bảo các Tỳ-kheo rằng: Các người không có năm tâm sợ giận hận thì chẳng đọa ác thú, cũng lại không sanh vào địa ngục. Rộng nói như A-tỳ-đàm thì biết Tiểu thừa đều là Phật nói. Đây khác với Đại thừa Luận tạng thuộc các Bồ-tát tạo ra; hai là ba tạng Tiểu thừa bộ quyển đều khác với Đại thừa Kinh luật, hai tạng lẫn lộn nhau nên Pháp Hoa phán là Tam tạng thuộc Tiểu thừa. Lại Đại Luận nói: Nơi nơi nói đều dùng (lấy?) Ma-ha-diễn bác pháp ba tạng không phải là Đại Bồ-tát. Các tiên đức vọng phá Thiên Thai lập giáo, đây là do lỗi không nghiên cứu các Kinh luận. Hỏi: Pháp Hoa nói người học ba tạng Đại Luận sao nói khi Phật sống ở đời không có tên ba tạng? Đáp: Phật diệt độ rồi A-nan mới kết tập tạng Tu-đa-la, Ưu-ba-ly hết tập tạng Tỳ-nại-da, Ca-diếp kết tập tạng A-tỳ-đàm thì Pháp Hoa bảo tiếng Phạm không có tên này. Phần nhiều dịch sư thêm tên ba tạng để hiển bày giáo Tiểu thừa. Như nay kinh từ các phẩm khác đều là người kiết tập đặt ra. Hỏi: Nay nêu ba tạng là y vào Thuyên thứ (thuyên thứ = thứ tự của thuyên) nào? Đáp: Tứ Giáo nghĩa nói lúc nói không phải lúc làm. Thứ tự của giáo, A-hàm là trước. Trước của Tu hành thì Mộc-xoa là đầu. Nên Kinh Xuất Diệu bảo thứ lớp nói giáo trước kinh kế là luật sai mới đến luận. Tứ Giáo nghĩa lấy luận ở giữa, vì muốn hiểu kinh phải do luận giải thích, nên trước kinh mà kế là luận. Song xem các văn trước sau không phải một cũng đều tùy người chẳng thể xác chấp (chấp chặt), nếu dùng nghĩa cục thì tự mâu thuẫn. Có người nêu bốn tạng thì Đại Luận gọi cái thứ tư là tạp tạng, hoặc nói có năm tạng, Tây Vức Ký nói bốn gọi là Tạp tập tạng, năm gọi là Cấm chú tạng. Thượng tọa bộ chỉ nêu ba tạng, còn Đại chúng bộ thì có năm tạng. Lại Kinh Âm nghĩa nêu có tám tạng: một là Thai hóa tạng, hai là Trung ấn tạng, ba là Ma-ha-diễn Phương đẳng tạng, bốn là Giới luật tạng, năm là Thập trụ Bồ-tát tạng, sáu là Tạp tạng, bảy là Kim cang tạng, tám là Phật tạng. <詞>MƯỜI HAI PHẦN GIÁO. Trộm nghó lý vượt bốn cú, giáo nhiếp các cơ tung hoa xỏ hoa khác nhau, ứng tụng có tụng riêng khác hoặc có thỉnh để diễn bày, hoặc không hỏi mà tự nói Bổn sự, Bổn sanh, nói lý luận dụ, lao lung vọng thức thống hội chân nguyên, bệnh có vạn thứ, thuốc không phải một. Cho nên giáo bộ phân ra mười hai phần. Phát Chẩn nói: Trường hàng trùng tụng và Thọ ký. Cô Khởi, không hỏi mà tự nói, nhân duyên thí dụ và Bổn sự. Bổn sanh phương quảng vị tằng hữu, luận nghĩa cùng thành mười hai tên. Rộng nêu trong Đại Luận ba mươi ba. Tu-đa-la (Sutra), dịch là Khế kinh có chung có riêng. Chung thì Tu-đa-la đều gọi Thánh giáo. Riêng thì Diệu Huyền nói: Nói thẳng pháp tướng là Tu-đa-la riêng như nói bốn đế v.v… Nói riêng thì Tạp tập luận nói: Tức là Trường hàng chế tập lược nói nghĩa đáng (phải) nói. Kỳ-dạ (Geya), đây gọi là Trùng tụng. diệu Huyền nói tức tụng lại Tu-đa-la đã nói trước đó. Cũng gọi là Ứng tụng, tụng lại trường hàng vậy. Hòa-già-na (Vyàkarana), dịch là Thọ ký. Đạt-ma-uất-đa-la nói: Phật nói năng cũng gọi là Thọ, quả hẹn với tâm gọi là ký. Diệu Huyền nói: Nói chín đạo kiếp số sẽ được làm Phật. Thủ-lăng-nghiêm Kinh nói có bốn thứ ký: một là chưa phát tâm ký hoặc có lưu chuyển sáu đạo đến cõi nhân gian ưa thích Phật pháp quan ngàn vạn ức kiếp sẽ phát tâm qua trăm ngàn vạn ức a-tăng-kỳ kiếp làm đạo Bồ-tát, cúng Phật độ người đều các kiếp như thế sẽ được Bồ-đề; hai là vừa phát tâm liền ký, người ấy lâu trồng thiện căn ưa thích đại pháp, có từ bi, trụ địa Bất thối nên vừa phát tâm liền ký; ba là mật ký, có Bồ-tát chưa được ký mà làm sáu độ, công đức đầy đủ thiên long tám bộ đều nghó rằng: Bồ-tát này khi nào sẽ được Bồ-đề tên kiếp, tên nước và số đệ tử như thế nào. Phật đoạn dứt nghi này liền thọ ký cho cả chúng đều biết, riêng Bồ-tát chẳng biết; bốn là vô sanh hiện tiền lý, ở trong đại chúng hiện tiền được vô sanh hiển bày mà ký cho. Già-đà (Gàthà), dịch là Cô khởi. Diệu Huyền nói chẳng trùng tụng thì gọi là Cô khởi. Cũng gọi là Phúng tụng. Tây Vức Ký nói: Xưa gọi là Kệ, là tiếng Phạm gọi tắt. Hoặc gọi Kệ-tha, là tiếng Phạm gọi sai. Nay gọi đúng là Già-đà. Đường gọi là Tụng. Ưu-đà-na (Udàna), dịch là Vô vấn tự thuyết (không hỏi tự nói). Diệu Huyền nói: Như khi Phật ở Xá-bà-đề, thượng đường ở Tỳ-xá-khư, đi kinh hành nơi đất râm mát (âm địa?) tự nói Ưu-đà-na, gọi là vô ngã (không), vô ngã (không) sở, việc ấy lành thay! Ni-đà-na (Nidana), dịch là nhân duyên. Diệu Huyền nói: Trong Tu-đa-la có người hỏi nên vì nói việc ấy. Trong Tỳ-ni có người phạm việc ấy nên kết là giới. Tất cả lời Phật nói do việc mà khởi đều gọi là nhân duyên. A-ba-đà-na (Avadàna), dịch là thí dụ. Chỉ Quán nói: Trăng ẩn trùng sơn giơ quạt mà dụ, gió dứt thái hư động cây mà dạy. Y-đế-mục-đa-già (Itivuttaka), dịch là Bổn sự. Diệu Huyền nói đây là nói việc ấy. Như Phật đem việc vua Tịnh Phạn và năm trăm người về nước nói kệ ba nhân duyên. Xà-đà-già (Jàtaka), dịch là Bổn sanh, đây là nói hạnh nhân của Bồ-tát vốn từng làm việc ấy. Hiển Dương Luận nói: Bổn sư, là Như Lai nói việc đời trước của đệ tử Phật. bổn sanh là Như Lai nói các việc tu hành của Bồ-tát ở đời trước. Tỳ-phật-lược (Vaipulya), dịch là Phương quảng. Diệu Huyền nói: Đây từ sở biểu mà làm tên. Lý phương quảng, chính lý là phương, bao phú là quảng. A-phù-đạt-ma (Ađbhutdharma), dịch là Vị tằng hữu. Diệu Huyền nói: Phật hiện các thứ thần lực chúng rất lạ lùng vì chưa từng có. Ưu-bà-đề-xá (Upadeza), dịch là bèn phân biệt chỗ nói, dịch nghĩa là luận. Diệu Huyền nói: Đáp câu hỏi, giải thích nguyên do. Tây Vức Ký gọi Ổ-ba-đệ-thước. Xưa gọi sai là Ưu-bà-đề-xá. Nay hỏi như Pháp Hoa nói: Ở pháp chín bộ này, tùy thuận chúng sanh mà nói vào Đại thừa làm bản, vì sao nói tiểu giáo chỉ có chín bộ? Đáp: Đây lấy đại giáo mà hình như tiểu tông thì đoạt Tiểu thừa nghĩa chỉ có chín bộ. Nên Diệu Huyền nói Tiểu thừa hôi đoạn không có thân như ý châu nên không phải phương quảng. Tiểu thừa căn độn nói thì ắt phải nhờ duyên, không phải như trống trời tự kêu mà ít không hỏi tự nói. Tuy có thọ ký song ký làm Phật lại ít, riêng luận tuy không chung nói cũng có. Nên Diệu Huyền nói: Tiểu có nhờ trước sáu đạo nhân quả A-hàm cũng thọ ký Di- lặc làm Phật, cũng tự gọi lành thay. Không hỏi tự nói, Kinh Thanh Văn lấy pháp không làm đại không. Đây chính Tiểu thừa cũng thông mười hai bộ. Lại nữa, nếu lấy tiểu giáo mà hiển bày Đại thừa thì bày nghĩa Đại thừa thì bày nghĩa Đại thừa cũng chỉ chín bộ, vì không có ba bộ nhân duyên, thí dụ, luận nghĩa. Nên Diệu Huyền nói: Có người nói Đại thừa căn lợi không nhờ ba thứ này. Đây cũng là luận riêng. Nói chung Đại thừa sao được không có ba thứ này. Song mười hai phần kinh này xưa gọi là mười hai bộ. Diệu Huyền nói bộ riêng đều có loại theo. Mới dịch e lạm bộ quyển đổi tên làm phần. Hai giáo luận rằng cách ngôn “cùng lý tận tính” ra đời nhập chân chi quỷ triệt. Luận về văn thì bộ phân ra mười hai, nói về chỉ thì bốn thứ tất-đàn, lý diệu vức trung không phải danh hiệu mà kịp được, hóa đàn hệ biểu lại không phải tình trí mà tìm được. Đến như để lụy quên nôm đào thần tận chiếu, gần thì vượt thoát sanh tử, xa thì chứng Niết-bàn, mở rộng năm thừa tiếp dám quần cơ sâu cạn, nói rõ sáu đạo luận giỏi thiện ác thăng trầm. Quỳnh kỳ hẹn ra đời mà pháp không đâu chẳng đâu chẳng khắp. Gần thì so với Vương hóa mà sự không gì chẳng hết hay bác hay yếu, chẳng chất chẳng văn. Tự thiên hạ không quá lo thì là ai có thể cùng giáo này. A-hàm (Agama), gọi đúng là A-cấp-đa, đây dịch là Giáo diệu lạc nói, dịch là Vô tỷ pháp tức là ngôn giáo. Duy Thức Luận nói tức là giáo của các Như Lai nói ra. Bài tựa Trường A-hàm nói: A-hàm thì Tần gọi là pháp qui, gọi đó là vực sâu của muôn pháp, vườn rừng của Tổng trì. Pháp Hoa luận giải về trí tuệ môn là nói nghĩa A-hàm rất sâu. Thiệp Pháp sư nói: A-hàm đây gọi là truyền, là nghĩa nói ra, ấy là hai giáo Đại Tiểu gọi chung là A-hàm mà trong đó Tiểu thừa riêng có bốn bộ: một là Tăng Nhất A-hàm nói nhân quả của trời, người; hai là Trường A-hàm là phá tà kiến; ba là Trung A-hàm lànói các nghĩa sâu xa; bốn là Tạp A- hàm là nói pháp thiền. Dùng bốn A-hàm này để Chuyển pháp luân, lập giáo làm đầu mà riêng được tên Tung bổ giáo biên. Do vị chung riêng còn do dự chưa quyết lời nó rất khéo (lời nó là nhánh)? Thủ-lăng-nghiêm (Suraưgama), Đại Luận nói: Tần gọi là Kiện tướng, là phân biệt biết các Tam-muội hành tướng nhiều ít cạn sâu, như vị đại tướng biết sức binh lính mình nhiều ít vậy. Bồ-tát được Tam-muội ấy thì các ma phiền não và người ma không thể phá hoại. Ví như Chuyển luân thánh vương chủ binh bảo tướng chỗ ở chõ đến đều không ai phục kích phá hoại được nên gọi là kiện tướng Tam-muội. Đại Kinh nói: Thủ- lăng là tất cả việc đã xong, nghiêm là bền chắc, tất cả rốt ráo mà được bền chắc nên gọi là Thủ-lăng-nghiêm. Thế nên Thủ-lăng-nghiêm định gọi là Phật tính, Từ Ân dịch là Kim cang tạng, vì các Bồ-tát chứng định này nên lấy đó làm tên. Lăng-già (Laưkàvatàra), gọi đúng là Lăng-ca. Phật ở bến Nam Hải vào nước Lăng-già, dịch là Bất khả vãng (không thể đến), chỉ có người thần thông mới đến được A-bạt-đa-la, dịch là vào, tức là vào núi này mà nói báu này. Hoặc dịch là Vô thượng, nghĩa là các kinh pháp là báu Vô thượng. Tát-đạt-ma-phân-đà-lị (Saddharpumdarìka), dịch là Diệu pháp liên hoa. Thiên Thai nói: Diệu là nói bất khả tư nghì, pháp là pháp quyền thật mười giới mười như. Liên hoa là dụ pháp quyền thật. Từ Ân nói: Thao Hoằng cang chi cực xướng, tinh nhất bộ chi tô danh pháp gồm quỷ trì quan quần tường dó xứng diệu. Hoa gồm đẹp phát chung các tốt mà bày sen. Bát (ban?)-chu (Pratyutpannabuddhasammukhàvaothitasamàdhi), đây dịch là Phật lập, cũng gọi là kinh mười phương hiện tại Phật đều đứng trước định. Kinh nói trì oai thần Phật ở trong Tam-muội mà đứng. Có ba việc: trì sức oai thần của Phật, trì sức Tam-muội của Phật, trì sức bổn công đức. Dụng ba việc này nên được thấy Phật. Ma-ha-đản-trì (Mahatrưtra), Chỉ Quán dịch là Đại bí yếu, là bí yếu ngăn án làm thiện. Chỉ là thật tướng. Phụ Hành nói: Hiển không thiên tiểu nên gọi là Đại. Tất cả pháp tức một pháp nên gọi là Bí, một pháp nhiếp tất cả pháp nên gọi làyếu. Vu-lan-bồn (Avalaưbana), Vu lan là tiếng Tây Vức, dịch là đảo huyền (treo ngược). Bồn là đồ đựng cơm ở phương này. Tam Tạng nói bồn bày trăm vị xin dâng Tam tôn ngưỡng mong ân quang đại chúng cứu gấp tội bị treo ngược, nghĩa là đồ đựng cứu tội treo ngược. Ứng Pháp sư nói: Vu lan là nói sai, gọi đúng là Ổ-lam-bà-noa, dịch là Cứu đảo huyền. Tu-bạt-noa-bà-phả-bà-uất-đa-ma (Surarnaprabhàsottama), dịch là Minh. Thiên Thai nói: Pháp của pháp tính đáng tôn đáng quí, gọi pháp tính là kim. Pháp tính này tịch mà thường chiếu, gọi là quang. Pháp tính Đại Bi này hay có nhiều lợi ích nên gọi là Minh. Ba chữ này Huyền nghĩa riêng giải thích bèn lập năm khoa, văn tuy sáng tỏ tự người còn mê. Hoặc nói từ pháp mà lập tên, hoặc nói riêng thí dụ làm tên, hoặc văn nghĩa đều dùng vì muốn lợi độn đều cứu giúp. Cung thương cùng tấu, đơn tố đều bày, nếu lầm khác mối ai có thể nhất quán tôi nhân diễn giảng bèn vội luận bàn, xem tên ý (chỉ) này y văn chính ý, chỉ ở tại pháp còn tên chỉ là một bên. Nay nói về dụ chỗ gọi Phật vào thiền-na diệu khế nguyên tịch, bèn nói chân hiệu để đến lợi cơ muốn khiến an trụ trong ấy. Cho nên từ đương thể mà lập tên gọi ấy là y văn. Chỉ ở tại pháp, tuy nghĩa nêu thí dụ không phải một văn mà danh thông thế tượng giống như cùng dụ giống nhau không ngại độn căn mà làm thí giải (thí dụ để giải thích?). Cho nên ở tên mà thông với dụ, tuy lợi độn gồm nhiếp, pháp dụ đều thông là nguyên ý của Phật, là ý chỉ của văn, bảy thứ lâjp tên sẽ là đơn pháp. Hỏi: Sưu Huyền Lục Cứ Huyền nghĩa nói: Nếu người lợi căn tức pháp làm dụ, đã nói làm dụ há là đơn pháp, một nạn (hơi) lớn này chống mà thông được ư? Đáp rằng: Người độn căn dùng Kim quang minh là hiệu vật tượng (tên các vật?) người lợi căn dùng Kim quang minh làm tên pháp tính. Đây là dung hiển thể, kim bảo là chân như bèn biết toàn tính thành tướng, chân như là kim bảo, nên nói tức pháp làm dụ. Đã hiểu? Tức pháp làm dụ thì hiểu toàn sự là lý, do đó lợi người này không cần thí dụ. Nên Diệu Huyền nói: Lợi căn liền gọi hiểu lý không nhờ thí dụ chỉ làm Pháp Hoa mà hiểu. Ý này sâu kín theo lời sao hiểu. Hỏi: Gần đây các bậc thầy giải đề kinh này phân văn nghĩa làm hai đường, định pháp dụ có hai hướng, người đã đều chịu sao riêng không theo? Đáp: Văn là năng hiển nghĩa là sở thuyên, văn năng thuyên ắt mời nghĩa sở thuyên, nghĩa sở thuyên ắt ứng với văn năng thuyên. Nay nếu chống phân chia thì thành nước và lửa, tôi không dùng là do lỗi này. Hỏi: Bậc tiên đạt lập nghĩa tùy cơ để bày tên này đợi người hỏi pháp hay dụ ư? Phải nói rằng là hỏi Lợi căn hay Độn căn. Nếu hỏi Lợi căn thì tức là Đơn pháp, nếu hỏi Độn căn thì tức là Đơn thí. nghĩa này thông các phương đâu cần giải thích lại? Đáp: Tùy cơ tuy như thế, song Phật gọi tên này là y pháp mà lập, làm dụ mà tỏ bày, thì chỉ mong đáp câu hỏi dọc ngang chẳng đoái hoài thích danh lẫn lộn. Hỏi: Tứ Minh Ký Văn nói: Cứ theo kinh định tên lời theo pháp mà lập kịp thích nghĩa rằng nó đủ cho hai căn. Tịnh Giác nói: Tự lời trái nhau, trước sau mâu thuẫn chưa biết chê đây nghĩa thật như thế ư? Đáp rằng: Đây không phải thế sao nói từ pháp mà lập, là chính ý y văn vậy. Nói đủ cả hai căn là từ tên bàn thông vậy. Chỉ vì tên và ý đều gồm bèn thích nghĩa thông phương. Nếu có tì vết chỉ là chẳng họp rằng Thuận Cổ làm dụ, chẳng biết dụ ấy sanh ra từ tên kinh, do vội bày cái thấy hẹp, thô nói đại cương muốn lấp cái nhỏ của trần vụ mà lợi ích cho cái rộng của núi biển bèn phụ ghi vào đây hầu lưu bố khắp bốn phương nhờ người xem mà lấp tình đời. Lâu-thán (Loka hànu?), dịch là thành bại. <詞>LUẬT PHÂN NĂM BỘ. Thế Tôn thành đạo rồi năm 88 tuổi đến thành Vương-xá nước vua khất thực khiến La Vân rửa bát lỡ tay bể thành năm mảnh. Hôm ấy có nhiều Tỳ-kheo đều bạch Phật rằng: Bát bể năm mảnh. Phật nói bát bể biểu thị rằng ta diệt độ rồi năm trăm năm đầu các ác Tỳ-kheo chia Tỳ-ni tạng ra làm năm bộ. Cho nên Ca-diếp, A-nan, Mạt-điền-hòa, Tu- cúc-đa năm sư thể (hiểu) đạo quyền thông nên chẳng phân chia giáo. Các đa có năm đệ tử đều chấp chặt một thấy bèn phân Đại Luận Tạng của Như Lai ra làm năm bộ. Đàm-vô-đức (Dharmagupta), cũng gọi là Đam-ma-cúc-đa, dịch là pháp mật, là che đậy nghĩa kín. Lại dịch là pháp tạng. Đại Tập nói: Ta Niết-bàn rồi, các đệ tử của ta thọ trì mười hai bộ kinh của Như Lai chép viết tụng đọc điên đảo tuyên nói. Vì nói ngược (dùng đảo thuyết) mà che giấu pháp tạng người gọi là Đam-ma-cúc-đa, pháp danh là Tứ Phần, trời gọi là Chiết-đỏa-lý. Tát-bà-đa (Sarvàstika), dịch là Nhất thiết hữu. Bộ này kể ba đời có thật ba tính đều được thọ giới. Đại Tạp nói: Mà lại đọc tụng viết chép ngoại điển, chịu có ba đời và dùng nội ngoại mà phá hoại ngoại đạo, khéo luận nghĩa nói tất cả tính đều được thọ giới, phàm có vấn nạn đều đáp thông suốt, thế nên gọi là Tát-bà-đa, pháp danh Thất Tụng. Ca-diếp-di (Kàzyapì), dịch là Trọng không quán. Đại Tập nói: Nói không có ngã cho đến thọ giả, chuyển các phiền não cũng như thây chết thế nên gọi là Ca-diếp-di, pháp danh là Giải Thoát. Đây có giới bản tướng đồng Ngũ phần. Di-sa-tắc (Mahìzasaka), dịch là Bất trước hữu vô quán. Đại Tập nói: Chẳng làm tướng đất, tướng nước gió lửa hư không, tướng thức, gọi là Di-sa-tắc, pháp danh là Ngũ Phần. Bà-sai-phú-la (Vatsìptrìya), dịch là Tử (con?). thời thượng cổ có tiên nhiễm trâu nghé làm con từ sau đó dòng họ đều gọi độc tử. Bộ này kể có ngã không phải là uẩn cũng không lìa uẩn, mà có thật ngã. Luật Bản không đến Trung Quốc. Đại Tập nói: Đều nói có ngã chẳng nói tướng không cũng như trẻ con, nên gọi là Bà-sai-phú-la. Ma-ha-tăng-kỳ (Mahàsaưghìka), dịch là Đại chúng. Đại Tập nói: Rộng xem khắp năm bộ kinh sách, nên gọi là Ma-ha-tăng-kỳ. Đây có luật bản. Trước Sớ rằng: Chung riêng sáu bộ, tăng-kỳ này hạnh giải hư thông chẳng sanh thiên chấp (chấp riêng) khắp thuận năm kiến, vì thông hạnh cho nên biết là chung. Kinh Di Giáo Tam-muội quyển hạ nói: Khi Phật còn ở đời, chúng tăng chỉ mê đắm áo người chết nhân đó có La-tuần-dụ đi khất thực mà trở về không. Phật biết hạnh xưa bèn khiến chúng tăng phân luận làm năm bộ, sắc phục cũng năm thứ, khiến mỗi ngày theo một bộ mà đi, bèn chế nghi tắc đều cử người trưởng bộ tên gọi theo sắc phục. Bộ Đàm-vô-khuất-đa-ca thông suốt lý vị, dẫn dắt lợi ích mọi người, biểu phát thù thắng đáng mặc y màu đỏ không phải là đỏ của phương Nam. Bột Tát-bà-đa bát thông mẫn đạt dẫn dắt hóa độ đáng mặc áo màu đen, không phải đen của phương Bắc. Bộ Ca-diếp-di tinh cần dõng mãnh quyết nhiếp chúng sinh, đáng mặc áo màu mộc lan. Bộ Di-sa-tắc nghó vào huyền vi hiểu rõ kín sâu nên mặc áo màu xanh không phải màu xanh của phương Đông. Bô Ma-ha-tăng-kỳ siêng học các kinh tuyên giảng chân nghĩa, trong chỗ ở nên mặc áo màu vàng, không phải sắc ở tương giữa từ đó về sau liền được nhiều thức ăn, năm sắc áo này dùng để bày tướng năm bộ. <詞>LUẬN MỞ TÁM NHÓM. Kiền-độ (Khaưda), gọi đúng là Bà-kiện-đồ, dịch là Pháp tụ, như tám Kiền-độ lấy phân một bộ làm tám nhóm, lấy pháp tụ có khí loại theo nhau làm một đoạn, một là nghiệp Kiền-độ nói về ba nghiệp, hai là sử Kiền-độ, nói về một trăm lẻ tám phiền não, ba là trí minh mười trí, bốn là định, nói về tám định, năm là căn, nói về căn tính, sáu là đại, nói về bốn đại, bảy là kiến là phá sáu mươi hai kiến, tám là tạp là pháp Tiểu thừa. Đại Luận hỏi: Tám Kiền-độ ai tạo ra sáu lần A-tỳ-đàm từ đâu sinh ra? Đáp: Khi Phật còn thì không lỗi, sau khi Phật diệt độ một trăm năm thì vua A-luân-kha hội các luận sư nhân đó sanh bộ khác. Có kẻ lợi căn đọc hết ba tạng muốn hiểu (giải?) (mở, chia?) kinh Phật làm tám Kiền-độ. Sau các đệ tử vì người sau chẳng thể toàn hiểu bèn tóm tắt Tỳ-đàm người tạo ra đầu tiên tức là Ca-chiên-diên. Du-già-sư-địa (Yogàcàryabhùmi), dịch là Tương ưng, nghĩa là tất cả thừa cảnh hạnh quả v.v… chỗ có các pháp đều gọi là tương ưng. Sư là ba thừa hành giả do văn tư tu thứ lớp tu hành như thế là Du-già mười bảy địa. Tỳ-bà-sa (Vibhàzà), dịch là Quảng giải, gọi đúng là Tỷ-bà-sa, dịch là Chủng chủng thuyết, lại gọi là Phần phần thuyết, gồm có ba nghĩa là Quảng thuyết, Thắng thuyết, Dị thuyết. Côn (tỳ?)-lặc, dịch là Khiếp tạng. Đại Luận nói: Côn-lặc có ba trăm mười vạn lời. Khi Phật còn ở đời do ngài Đại Ca-chiên-diên tạo ra. Phật diệt độ rồi tuổi thọ người càng giảm, sức nhớ kém chẳng thể rộng tụng. các người đắc đạo tuyển ra ba mươi tám vạn bốn ngàn ( 3 8 4. 000) lời. Luận chưa đến cõi này. Tỳ-bà-xà-bà-đề, dịch là Phân biệt luận. Dục-đa-bà-đề, dịch là Tương ưng luận. Ma-đắc-lặc-già (Màtrka), dịch là Trí mẫn, vì nó sanh trí. Bồ-tát vào Tam-muội này làm luận bày kinh. Nho gia (nhà Nho) lấy chiết lý tình vi gọi là luận. Thích thị (nhà Phật) luận thông tông chỉ gồm thâu các thuyết lập làm mười chi: Một là chi lược bày danh số tức là Bách pháp luận. Hai là chi thô thích thể nghĩa tức là Ngũ uẩn luận. Hai luận này do ngài Thiên Thân tạo ra. Ba là chi bao gồm các chúng (tổng bao chúng) nghĩa tức là Hiển dương luận. Bón là chi tổng nhiếp Đại thừa nghĩa tức là Nhiếp Đại thừa luận, đều do ngài Vô Trước tạo ra. Năm là chi phân biệt danh số tức Tạp tập luận. Sáu là chi ly tích xứ trung tức là Biện trung biên luận. Bảy là cho tồi pháp tà sơn tức là Nhị thập duy thức luận. Chín là chi pháp tràng tức là Tam thập duy thức luận. Chín là chi trang nghiêm thể nghĩa tức là Đại trang nghiêm luận. Mười là chi nhiếp qui quán tức là Du-già luận. Mười nghĩa này sơ lược các luận đều có lưu loại đoán ra có thể thấy. Đó là Tông cực dứt hết nói năng. Hiền thánh cho là trùng mặc, Huyền Chỉ không lời nào chẳng truyền (không nói chẳng truyền?). thích-ca cho là chỉ giáo, đề phòng thân khẩu mà làm luật cấm nói Khế Kinh mà dắt dẫn thiện ác, diễn nói sâu kín luận các pháp tướng. Đây tức là nói ba học: Giới, Định, Tuệ vậy. <詞>NÊU PHÁP BA HỌC. An Pháp sư nói: Thế Tôn lập giáo pháp có ba: một là Giới luật, hai là Thiền định, ba là Trí tuệ. Ba thứ này là cửa vào chí đạo, là quan yếu của Nê-hoàn. Giới là tướng dữ dứt ba ác, Thiền là lợi khí dứt phân tán, Tuệ là thuốc hay cứu bịnh. Nay nói phòng quấy ngăn ác gọi là Giới, dứt duyên Lự Tịnh gọi là định, phá hoặc chứng chân gọi là Tuệ. Thập Pháp sư nói: Trì giới thì hay chiết phục được phiền não khiến nó yếu kém. Thiền định thì ngăn được phiền não như đá núi ngăn dòng. Trí tuệ thì diệt hết phiền não rốt ráo không sót. Nên Di Giáo nói: Y nhân giới này sanh các Thiền định và Trí tuệ diệt khổ. Nam Sơn nói: Việc thân khẩu phát ra dùng Giới mà đề phòng, ba độc nổi lên dùng tâm mà khiến. Nay trước dùng Tuệ mà giết đi. Lý nó như thế xin nói với các người học, do đó mà sơ thần đạt tư di tình tự tính là việc trên hết của thánh nhân. Học cũng như dồi mài, nếu đồ mà không dồi mài thì không đẹp, người không học thì không do đâu mà có y đức. Phàm học ngày càng ích, đạo ngày càng tổn, nếu càng tổn thì đạo nghiệp càng cao, nếu càng ích thì công học càng vượt xa, cho nên hình tướng tục nhân như vónh cách (cách hẳn hình tướng người học?) tâm cùng tình đời trái ngược nhau, mặc chỉ ba y, ăn không hai bữa, theo thầy thì ngàn dặm theo hầu, mộ pháp thì sáu thời siêng gắng, sạch lo nghó ở ao tám giải, thầm vui ở vười bảy hoa. Đến như Đại An, Đạo Dục, Tuệ Viễn, Tuệ Trì, Xích Tý pháp chủ, Thành Nhãn luật sư truyền kinh biện luận giảng dịch dàn thi khai thần duyệt nhó dẹp bỏ nghi trệ bày tên đời sau đàn thiệp đương thời, hoặc cùng Tần Vương ngồi xe, chợt cùng Tấn Đế đồng trướng, bèn khiến Hoằng Huyền lạy không ngừng Hy Triệu, ngàn đấu mà không lời. Ông (như thế) hành nhân đã chính mới hưởng vui khác, bốn phạm cùng đón sáu trời cùng sinh. Phong cơ hiểu mẫu quốc thổ hoa tranh cây ngọc cành quỳnh sen vàng cán ngọc, gió mang vạn phạm suối tuôn vịnh nhã, ao sáng như bạc, đất bằng như gương, diệu hương ngào ngạt, danh hoa giao chiếu, gần thì cảm thân vui, xa thì luôn sống mãi. Đó là nhân tu học ba pháp thân trước ba theo nhân mà hiển đức, sau hai từ quả mà bày năng. Tận chí chính tập đều đoạn gọi là thân giải thoát, vô sanh trí rỡ rỡ giác chiếu gọi là Tri kiến. Nếu muốn chính luận ba học thì phải dùng bảy khoa đạo phẩm điểm qui ba pháp, rộng thì ba mươi bảy phẩm, lược thì chỉ Giới, Định, Tuệ ba thứ. Phải biết sáu độ đều nêu chung, ba học là riêng nói mà xếp loại vào bốn thiền tám định vậy. Vì Bồ-tát gấp ở hóa tha, nên sáu độ thân thí nhẫn tiến, do Thanh văn cầu tự độ mà ba học chỉ là Giới, Định, Tuệ. Cho nên Đại Luận lấy sáu độ cho sáu độ là lược nói, cho ba mươi bảy phẩm là rộng nói. Để hiểu sáu Ba-la-mật kẻ hiếu học nên đúng lý mà nghó suy. Ba-la-đề-mộc-xoa (Pratimoksa), Giới Lưu nói dịch là giải thoát. Như luận đã dẫn Đạo Giới gọi là giải thoát. Sự Giới gọi là Biệt thoát. Tùy phần quả đức nhờ đó mà sáng. Đạo tính hư thông cử pháp loại dị chẳng theo duyên khác, chỉ (nhưng) gọi giải thoát sự giới không phải thế, duyên khác mà sanh, duyên thông vạn cảnh làm cũng theo khắp, cứ lạnh mà lăng phạm tức gọi được thoát các thứ khác không phải, chưa làm chẳng gọi là giải thoát. Lại luật nói mộc-xoa là giới, cứ vào đây thì được quả, dùng chỉ bổn nhân nhân thật là giới không phải là mộc-xoa. Cho nên kinh nói: Giới là gốc chính thuận giải thoát, nên gọi là Ba- la-đề-mộc-xoa, biết đó là quả cho nên Ngũ phần nói là phân biệt danh cú. Ba-la-đề-mộc-xoa là nếu quả chỉ giáo. Ký nói: Đạo giới gọi là giải thoát tức là bảy chi vô biểu tư, do đoạn hoặc mà được tên. Nếu giới sự gọi là giải thoát thì tăng ni thọ giới, tùy sự (việc) đối sát chẳng làm thì biệt biệt vô nhân, biệt biệt vô quả nên gọi là biệt biệt giải thoát. Chích Hoa nói: Đây dịch là Biệt giải thoát, nghĩa là ba nghiệp bảy chi đều phòng quấy, vì biệt biệt giải thoát vậy. Tam-muội (Samàdhi), dịch lá điều trực định, lại gọi chính định, cũng gọi là chính thọ. Khuê Phong Sớ nói: Chẳng thọ các thọ gọi là chính thọ. Viễn Pháp sư nói: Phàm gọi Tam-muội sao gọi là chuyên tư tịch tưởng tư chuyên thì chí một chẳng phân, tưởng tịch thì khí hư thần lãng (khí thần rỗng sáng). Khí hư thì trí điềm (lặng yên?) kỳ chiếu, thần lãng thì không kín nào chẳng hiểu suốt, hai thứ này chính là huyền phù tự nhiên dùng một mà chí dụng. Thế nên tinh cung bế vũ mà cảm vật thông linh, chế ngự tâm chỉ chính, động thì liền vào vi. Đây là nhờ tu để ngưng thần, tích (chứa?) công để tích tính v.v… Lạc các Tam-muội danh chất rất nhiều công cao dễ tiến niệm (nhớ?) Phật làm đầu. Cho nên Thiên Thai Chỉ Quán lược nói bốn thứ: một là thường ngồi, hai là thường đi, ba là nửa đi nửa ngồi, bốn là không đi không ngồi. Thường ngồi, là trích từ Văn-thù nói, Văn-thù hỏi hai Bát-nhã gọi là Nhất Hạnh Tam-muội, thân cho luôn ngồi mà cấm đi, đứng, nằm. Hoặc có thể trong chúng mà riêng ở một chỗ là tốt nhất (di thiện?) ở trong một tịnh thất, ngồi trên một giường dây, chín mươi ngày một hạn định mà kiết già ngồi ngay. Thường đi, trích trong Bát Chu Tam-muội, chỉ chuyên đi quanh chín mươi ngày làm hẹn. Nửa đi nửa ngồi, Phương Đẳng nói đi vòng một trăm hai mươi vòng mới ngồi tư duy. Pháp Hoa nói: Người này hoặc đo hoặc đứng đọc tụng kinh này người ấy hoặc ngồi tư duy (suy nghó) kinh này. Không đi không ngồi, là chung cả đi ngồi. Nam Nhạc gọi là tùy ý mình. Đây là bốn: 1- Ước các kinh, 2- Ước các thiện, 3- Ước các ác, 4- Ước vô ký. Phụ Hành nói: Chỗ nói luôn ngồi cho đến không đi không ngồi là ước thân nghi làm tên. Nếu theo pháp là mtên thì thường ngồi gọi là Nhất hạnh (?), thường đi gọi Phật đứng. Nửa đi nửa ngồi gọi Phương đẳng Pháp Hoa, không đi không ngồi gọi là tùy ý mình. Song bốn thứ Tam-muội này trước thấu suốt sự lý hai quán, phân ra bốn Tam-muội nghĩa cũng khác nhau. Tứ Minh Pháp sư nhân trình lên Tiền Thanh sư gọi là Quang minh huyền thập chủng (mười thứ) ba pháp thuần nói lý quánm chẳng cần nương sự mà quán Pháp trí phá rằng Kinh Khê nói như thường ngồi hoặc chỉ quán lý, tùy theo ý mình là theo ngọn theo sự. Đã nói thuần nói lý quán chính là ba thứ Tam-muội. Chuyên khiến thức ấm tu mười thừa. Văn này thì nêu rõ ngài Tứ Minh lấy ba thứ Tam-muội trên làm lý quán, lại chỉ yếu rằng trong theo ý mình là tu Duy thức quán. Quán nơi khởi tâm, tức ước với biến tạo sự dụng mà nói. Văn này thì ngài Tứ Minh dùng Tam-muội thứ bốn mà tu sự quán. Hỏi: Chuẩn theo Diệu Tông nói: Một thứ thường ngồi dầu quán (thẳng ???) lý, còn ba thứ Tam-muội kia há chẳng gồm sự, căn cứ vào đây thì rõ ràng ngài Tứ Minh lấy ba thứ Tam-muội kia mà tu sự quán chăng? Nay nói văn này này không phải là chính phần chiêm-sát sự lý hai quán. Bởi vì ngài Cô Sơn định nghĩa nêu ba quán pháp đều là lý quán, mười sáu pháp chính là sự quán, bèn chẳng dùng nghĩa nếu ba thứ mà thâu mười sáu quán. Ngài Tứ Minh bèn ước bốn thứ Tam-muội đều trải sự mà quán lý ba đế bèn hiển từ đi trong quán còn có tướng trải sự, đây không phải là chiêm-sát sự quán. Hỏi: Như Diệu Tông nói: Nếu thường ngồi v.v… ở ngay sự ba đạo mà quán ba đế chẳng gồm tu thiện mà buông lung việc ác (dẫu là sự ác), cho nên nhận tên là lý. Cứ theo đây thì không hiển Tứ Minh chỉ cho thường ngồi là quán lý ư? Đáp: Nay nói ba thứ Tam-muội kia trải sự ngoại cảnh nên nhận tên sự. Thường ngồi Tam-muội chỉ quán nội tâm nên nhận tên lý. Hỏi: Tam-muội thứ tư mở ra bốn khoa: một là các pháp kinh hành, đây cần phải thâu đủ chiêm-sát hai quán, vì sao ngài Tứ Minh định là tùy ý mình chỉ tu sự quán? Đáp: Chiêm-sát sự lý hai quán, ba Tam-muội trước đã tu lý quán thế nên cái thứ tư chỉ tu sự quán. Có người nói rằng thường ngồi là lý, ba thứ kia là sự. nghĩa là thường đi là trải sự niệm Phật, Phương đẳng trải sự trì chú tùy ý mình trải sự ba tính. Hoặc nói ba thứ Tam-muội trước cùng các pháp kinh hành thông lý thông sự, chỉ túng nhậm ba tính chuyên tu sự quán. Chuẩn theo ngài Kinh Khê nói như thường ngồi v.v… hoặc chỉ quán lý thì hiển ba thứ Tam-muội trên thông tu sự quán. Đây là do mê lầm tướng hai quán bèn mê hành bốn thứ. Có người hỏi: Chỉ quán là chính tông Pháp Hoa vì sao hành tướng khích thông các kinh? Đáp: Riêng nói hành tướng tuy thông các sách. Hành là tạo tu khai quy Pháp Hoa, cho nên nghĩa nêu rằng là biết bốn thứ Tam-muội đều y thật tướng. Thật tướng là pháp an lạc, bốn duyên là hạnh an lạc. chứng thật tướng rồi thì chỗ được y báo gọi là đại quả, khởi giáo chỉ là khiến chúng sinh khi thị ngộ nhập, chỉ qui chỉ là qui về ba quỷ. Diệu Pháp Bí Tạng do đó trước sau đều y Pháp Hoa, tức là diệu hạnh của Pháp Hoa Tam-muội. Mạt-để (Mati), Tần gọi là Tuệ. Nhã-na (Jỉnàna), Tần gọi là trí. Trí cùng Tuệ có khác có đồng. Nói khác là như Triệu Sư nói: Quyết định xét lý thì gọi là trí, tạo tâm phân biệt thì gọi là Tuệ. Phân biệt thì từ nhân mà lập tên, quyết định thì từ quả mà lập tên. Cho nên Đại Luận lấy đạo tuê đạo chủng tuệ là chung riêng trong nhân Nhất thiết trí, Nhất thiết chủng trí là chung riêng của quả. Phụ Hành nói: Nói chung riêng là nói thẳng đạo tuệ là Nhất thiết trí, nên gọi là chung đều thêm chữ chủng nên gọi là riêng. Ngài Thiên Thai nói: Khéo vào Phật pháp gọi là Tuệ khéo dùng Phật pháp gọi là trí. Triệu Luận Sao nói: Trí là biết, Tuệ là thấy. Đây là ước nghĩa khác. Nếu thông đường nói trí chỉ là tuệ, là đều thông quyền thật cho đến nhân quả. Cho nên tiếng Phạm là Bát-nhã, dịch là Trí tuệ, họp làm một tên chẳng phân hai khác. Nay ở nghĩa khác để nói Tuệ học. Song Tông Cảnh nói: Ngã pháp đều không chỉ từ thức biến. Đệ nhất tâm pháp hay biến có ba: một là đệ tám Dị thục thức biến, hai là đệ bảy Tư lương thức biến, ba là đệ sáu Liễu biệt thức biến. Vì mê nhân không nên khởi cái ngu ngã kiến và chịu vọng sanh tử. Vì mê pháp không nên trái cảnh hiện lượng, chướng tịnh Bồ-đề. Đã Duy thức biến thì ngã pháp đều hư nhân đây hai không mà khế hội Huyền Chỉ. Vì ngã không nên chướng phiền não dứt. Vì pháp không nên chướng sở tri tiêu, vì chướng phiền não dứt nên chứng nhân giải thoát, vì chướng sở tri tiêu nên được đại Bồ-đề. Hạnh mãn nhân môn tâm mờ quả hải, cảnh thức đều dứt chỉ một chân không. <詞>LUẬN PHÁP SÁU ĐỘ Như Pháp Hoa nói: Vì cầu đạo Bồ-tát, nên nói phải sáu Ba-la- mật, đến nỗi (là vì) bố thí mà mạng chết tài tiêu, trì giới thì phòng ngăn hộ tính, nhẫn nhục thì như dao chặt nước, tinh tấn thì biết cứu lửa cháy đầu, thiên-na thì bốn mươi ni nghi yên vắng, trí tuệ thì một niệm viên minh (tròn sáng). Tâm đại nguyện khắp đủ, đạo vô tác khắp thí, vượt dòng sanh tử lên bờ Niết-bàn, nên gọi là sáu độ. Đàn-na (Dàna), Pháp Giới Thứ Đệ nói: Tần gọi bố thí nêu trong có tín tâm ngoài có phước điền có tài vật, ba sự hòa họp, tâm sanh xả pháp hay phá xan tham đó là Đàn-na. Bố thí có hai: một là tài thí, hai là pháp thí. Tài thí: tức các thứ ăn uống, y phục, ruộng nhà, gia súc nô tỳ, trân bảo, tất cả cái mình có, vật dụng của thân và vợ con, cho đến thân mạng thuộc người khác, vì người khác mà tài thí nên gọi bỏ thân mình cũng là thuộc tài thí. Có ai cần gì thì đều thí cho đều gọi tài thí. Pháp thí: là nếu từ chư Phật và các Thiện tri thức nghe nói thiện pháp thế gian và xuất thế gian, hoặc từ kinh luận mà nghe, hoặc tự mình quán hạnh mà biết, dùng tâm thanh tịnh vì người diễn nói đều gọi là pháp thí. Thi-la (Sila), dịch là Thanh lương. Đại Luận nói: Tần gọi là tính thiện, tức thích làm thiện đạo chẳng tự buông lung, đó gọi là Thi-la. Kinh Âm nghĩa nói: Đây là dịch nghĩa, dịch đúng là Chỉ-đắc, nghĩa là chỉ ác đắc thiện (ngăn ác được thiện). Lại sư xưa dịch là giới, giới có nghĩa là ngăn phòng, luật nghi hay phòng ác, không làm buông lung các quấy, ngăn ba nghiệp khở ác nên gọi là phòng chỉ (ngăn phòng). Đại Luận nói: Thế nào là giới. Nếu ngừng ác không làm nữa hoặc tâm sanh hoặc miệng nói hoặc người khác bảo (làm theo người khác), dứt ác thân khẩu đó là giới. Kinh Âm nghĩa nói: Tiếng Phạm gọi Tam-bà-la, dịch là cấm giới. Giới Sớ nói: Giới nghĩa là huấn cảnh, cảnh sách ba nghiệp xa lìa duyên quấy, nói rõ nhâ nấy. Ưu-bà-tắc Giới Kinh nói: Giới gọi là chế hay chế tất cả pháp bất thiện. Lại giới nghĩa là ước có nghĩa là huấn là lặc. Toản Yếu nói: Ước có hai trăm năm mươi giới đều có bốn oai nghi họp làm một ngàn, theo ba đời mà thành ba ngàn. Đem ba ngàn oai nghi phân phối cho thân khẩu bảy chi thành hai vạn một ngàn ( 2 1. 000). lại ước đối trị ba độc và đẳng phần thành tám vạn bốn ngàn ( 8 4. 000). Sằng-đề (Ksàưti), dịch là an nhẫn. Pháp Giới Thứ Đệ nói: Tần gọi là nhẫn nhục, nội tâm hay an nhân ngoại cảnh làm nhục nên gọi là nhẫn nhục. Nhẫn nhục có hai: một là sanh nhẫn, hai là pháp nhẫn. Thế nào là sanh nhẫn, sanh nhẫn có hai: một là trong cung kính cúng dường hay nhẫn mà không đắm trước thì chẳng sanh kiêu ngạo buông lung; hai là sân giận đánh hại hay nhẫn thì chẳng sanh giận hờn sầu oán, đó là sanh nhẫn. Thế nào là pháp nhẫn. Pháp nhẫn có hai: một là phi tâm pháp, nghĩa là gió, mưa, lạnh, nóng, đói, khát, già, bệnh, chết v.v…; hai là tâm pháp, tức là giận hờn lo buồn nghi dâm dật, kiêu mạn, tà kiến v.v… Bồ- tát với hai pháp này hay nhẫn chẳng động thì gọi là pháp nhẫn. Tỳ-lê-gia (Vìrya), Pháp Giới Thứ Đệ nói: Tần gọi là Tinh tấn, ưa thích siêng làm thiện pháp, chẳng tự buông lung gọi là tinh tấn. Tinh tấn có hai: một là thân tinh tấn, hai là tâm tinh tấn. Nếu thân siêng tu thiện pháp, hành đạo lễ tụng giảng nói khuyên giúp khai hóa, đó là thân tinh tấn. Nếu tâm siêng làm thiện đạo, tâm tâm nói nhau, đó là tâm tinh tấn. Lại nữa, siêng tu Thí giới thiện pháp đó là thân tinh tấn, siêng tu nhẫn nhục, thiền định, trí tuệ đó là tâm tinh tấn. Chỉ Quán dẫn xưa nói: Tinh tấn không có thể riêng chỉ dốc làm các hạnh theo nghĩa mà suy thì có thể riêng nêu vô minh thông vào các sử lại riêng có vô minh. Nay lại nhờ tụng kinh siêng khuyên gắng tâm mình mà tinh tấn ngày đêm không thiếu sót bèn được hoạt lợi (trơn nhanh) mà không phải Tam-muội tuệ. Duy Thức Luận nói: Dõng Hãn làm tính. Sớ nói dõng mà không khiếp sợ, là sách phát. Hãn mà không sợ, là tự chịu cực nhọc. Trần Thị nói: Tính (siêng) cái tâm, tấn (gắng) cái chí. Trong Đại Tập Phật nói: Tinh tấn có hai thứ có hai thứ: một là thủy phát tinh tấn, hai là chung thành tinh tấn. Bồ-tát lấy thủy phát tinh tấn mà lập thành tất cả pháp, lấy chung thành tinh tấn mà phân biệt tất cả pháp, không được tự tính. Kinh Pháp Cú nói: Nếu hay tâm chẳng khởi thì tinh tấn không bờ bến. Thiền-na (Dhyàna), dịch là Tịnh lự. Trí Luận nói: Tần gọi là Tư duy tu, nói Thiền ba-la-mật tất cả đều nhiếp. Pháp Giới Thứ Đệ nói: Thiền có hai thứ: một là Thiền thế gian, hai là Thiền xuất thế gian. Thiền thế gian là bốn Thiền căn bản, bốn Vô lượng tâm, bốn Vô sắc định, tức là Thiền của phàm phu làm. Thiền xuất thế gian là Lục diệu môn, mười sáu Đặc thắng, Thông minh, chín Tưởng, tám Niệm mười tưởng, tám Bối xả, tám Thắng xứ, mười Nhất thiết xứ, Luyện thiền, mười bốn Biến hóa nguyện trí đảnh thiền, Vô tránh Tam-muội, ba Tam-muội, Sư tử phấn tấn siêu việt Tam-muội, cho đến ba minh sáu thông. Như thế các thiền đều là Thiền xuất thế gian. Thiền xuất thế gian thượng thượng là tự tính v.v… chín thứ Đại thiền. Tịnh Danh Sớ nói: Phật tâm trí giám (soi) viên minh há nhọc tư duy, rốt ráo vô học há được nói tu. Lại dịch là khí ác, trí Như Lai thuần tịnh ác nào có thể bỏ, cho nên tư duy các nghĩa đều là nhân. Kinh Lăng-già nói: Bốn thứ thiền, người ngu hành thiền gọi Thanh văn, Duyên giác. Ngoại đạo là người tu hành, quán nhân tính vô ngã tự tướng và cộng tướng cốt tỏa, tướng vô thường, khổ, bất tịnh đắm trước làm đầu. Như thế tướng không khác quán trước sau dần lên, tưởng không trừ diệt đó gọi là ngu phu thiền, quán sát nghĩa thiền, tức là nhân vô ngã, tự tướng cộng tướng ngoại đạo tự tha đều vô tính. Đã quán pháp vô ngã nghĩa của địa tướng kia dần dần tăng tiến, đó gọi là Quán sát nghĩa thiền, phan duyên như thiền, Như Lai thiền, nghĩa là vào địa Như Lai hành tự giác thánh trí ba thứ lạc trụ thành biện chúng sinh sự bất tư nghì, đó gọi là Như Lai thiền. Tụng rằng: Phàm phu làm các thiền, Quán sát tướng nghĩa thiền, Phan duyên như thật thiền, Như Lai thanh tịnh thiền. Bát-nhã (?), Pháp Giới Thứ Đệ nói: Tần gọi là trí tuệ. Chiếu rõ tất cả các pháp đều chẳng thể được, mà hay thông suốt tất cả vô ngại, gọi là trí tuệ. Đại Luận nói: Bát-nhã định thật tướng sâu xa rất nặng trí tuệ thì coi nhẹ nên không gọi. Đây vì sanh thiện nên không dịch. Sáu độ này Pháp Tổ dẫn kinh luận để luận tướng của nó cùng lập năm nghĩa: Một là đối trị: Thiện Giới Kinh nói: Gọi xan ác sân đãi loạn si là các xấu phải phá. Hai là tương sanh: Thiện Giới Kinh nói: Tức bỏ nhà trì giới gặp nhục phải nhẫn, nhẫn rồi tinh tấn, tinh tấn rồi điều năm căn, căn điều nên biết pháp giới. Lại Giải Thâm Mật Kinh nói: Hay làm (về) sau sau dẫn phát, nghĩa là chư Phật, Bồ-tát nếu ở thân tài mà không mến tiếc, lại hay thọ trì cấm giới thanh tịnh, vì để hộ giới liền tu nhẫn nhục, tu nhẫn nhục rồi hay phát tinh tấn, phát tinh tấn rồi hay luận tịnh lự, luận tịnh lự rồi liền hay hộ trì được tuệ xuất thế gian. thế nên ta nói Ba-la-mật-đa thứ lớp như thế. Ba là quả báo: Thiện Giới Kinh nói: Giàu sang, sắc lực, sống lâu sao hiện. Lại các kinh khác nói: Báo của thí là giàu, báo của giới là thiện đạo, báo của nhẫn là đoan chính, báo của tấn là thần thông, báo của thiền là sanh lên trời, trí phá phiền não. Vô Trước Luận nói: Có hai thứ quả tức vị lai và hiện tại. Quả ở vị lai thì đàn được phước lớn, Thi-la được tự thân đầy đủ, tức là Thích Phạm v.v… Sằng-đề thì được các quả báo không dứt, thiền thì được thân sống chẳng tổn hoại, Bát-nhã thì được các căn mạnh nhanh và nhiều vui vẻ, ở trong trời, người đại chúng được tự tại v.v…. quả ở hiện tại, thì được tin tưởng cung kính cúng dường và hiện pháp Niết-bàn. Bốn là hỗ nhiếp (nhiếp nhau): Di-lặc Tụng rằng: Đàn nghĩa là nhiếp ở sáu tư sanh vô úy pháp là trong một trăm hai mươi ba gọi là tu hành trụ, đàn này nhiếp sáu độ vậy. Lại Bồ-tát Tư Lương Luận rằng: Đã là mẹ Bồ-tát cũng là mẹ chư Phật. Bát-nhã ba-la-mật là Giác sơ tư lương, Thí giới nhẫn tấn định và ngoài năm thứ này phươngtiện nguyện trí lực đều do trí độ cho nên được Ba-la-mật (nên thuộc Ba-la-mật) nhiếp. Đây là Bát-nhã nhiếp sáu độ, trước sau đã thế thì bốn thứ giữa suy ra mà biết. Năm là thí dụ: Hoa Nghiêm nói: Bồ-tát Ma-ha-tát, vì Bát-nhã ba-la-mật là mẹ, phương tiện khéo léo là cha. Đàn ba-la-mật là nhũ mẫu (bà vú), Thi-la ba-la-mật là dưỡng mẫu (mẹ nuôi), Nhẫn ba-la-mật là trang nghiêm cụ (đồ làm đẹp), Cần ba-la-mật là người nuôi dưỡng, Thiền ba-la-mật là người tắm rửa, Thiện tri thức là giáo thọ sư, tất cả Bồ-đề phận là bè bạn, tất cả thiện pháp là quyến thuộc, tất cả Bồ-tát là anh em. Bồ-đề tâm là nhà, đúng lý tu hành là gia pháp, các đọa là gia xứ, các nhẫn là gia tộc, đại nguyện là gia giáo. Đầy đủ các hạnh là thuận giáo pháp, khuyên phát Đại thừa là nối gia nghiệp pháp thủy quán đảnh (nước pháp rưới trên đầu) thuộc một đời Bồ-tát làm Thái tử con vua. Thành tựu Bồ-đề là hay tịnh gia tộc. Sáu phần khai là sáu độ thông với Đại Tiểu mười độ chỉ ở Đại thừa, một đến (một lượt) cũng thông tạng thông hai giáo. Vì quyền lập ba trí. Nói mười độ là ở trong thiền có nguyện trí lực, cho nên khai (mở ra) nguyện độ, có thần thông trí khai (mở) ra lực độ, căn bản định giữ tên Thiền độ, trong Bát-nhã có Đạo chủng trí, mở ra phương tiện độ có Nhất thiết chủng trí mở ra trí độ, Nhất thiết trí vốn giữ tên Bát-nhã. Ba-la-mật (Pàramità), Đại Luận lại gọi A-la-mật, Tần nói là Viễn ly. Ba-la-mật, Tần gọi Độ bỉ ngạn (qua bờ kia). Hai âm này gần nhau hiểu cùng nghĩa nên đem A-la-mật giải thích Ba-la-mật. Thiên Thai Thiền Môn nói: 1- Trong các kinh luận phần nhiều dịch là Đáo bỉ ngạn, sanh tử là bờ bên này, Niết-bàn là bờbên kia, ở giữa là dòng sông phiền não, Bồ-tát lấy Vô tướng trí tuệ mà ngồi ghe Thiền định, từ bờ sanh tử bên này đến bờ Niết-bàn bên kia, cho nên biết ước lý định để nói Ba- la-mật. 2- Đại Luận riêng dịch là Sự cứu cánh, tức là Bồ-tát Đại Bi vì chúng sinh khắp tu tất cả sự hạnh mãn túc. 3- Kinh Thụy Ứng dịch là Độ vô cực. Thông luận sự lý đều có nghĩa sâu kín xa xôi, họp lại mà nói nên gọi độ vô cực, ước sự lý hạnh mãn này mà nói Ba-la-mật. Ba-la-già (Pàraga), Đại Luận nói: Tần gọi Độ bỉ ngạn. Hoa Nghiêm nói: Vì thuyền Ba-la-mật ở trong dòng sanh tử chẳng nương bờ này chẳng đắm bờ kia, chẳng ở giữa dòng mà độ chúng sanh không ngừng nghỉ. <詞>GIẢI THÍCH MƯỜI HAI CHI. Hoặc nghiệp cùng giúp nhau, nhân duyên chung giúp, ba đời cũng như vòng quay, sáu đạo dụ như bánh xa quay. Phàm phu trầm mê sắc tâm băng chấp, thánh nhân vượt biết sanh tử sương tan, cắt đứt rừng gai gốc, năm nhân liền dứt nhanh dứt hết buộc ràng bảy quả đều mất, cho nên mười hai chi pháp này là đạt quán của Trung thừa. Ni-đà-na (Nidàna), dịch là nhân duyên. La-thập nói: Sức mạnh là nhân, sức yêu là duyên. Triệu nói: Duyên trước sanh nhau là nhân, hiện tướng giúp thành là duyên. Sanh nói: Nhân là trước không có việc ấy mà từ đó sanh ra, duyên là không có phân chia (phần ấy?) mà từ nó khởi lên. Cho nên nhân thì thân mà duyên thì sơ. Duyên giác lợi căn quán thông ba đời, có nhân có duyên gọi là nhân duyên. Trước quán quá khứ vô minh duyên hành. Nói vô minh là chẳng có pháp giới, tà kiến vọng chấp, thường ở trong tối tăm, nên gọi là vô minh. Nhân hoặc phiền não mà khởi ba nghiệp, tạo tác các pháp nên gọi là hành. Do hoặc nghiệp này mà cảm hiện năm quả Thức Duyên Danh Sắc Lục Nhập Xúc Thọ gọi là từ hành sanh tâm mà nhảy vào bụng mẹ, lưu ái làm giống nạp tưởng ở thai phân biệt các pháp gọi đó là Thức. Thức chỉ có tên ngưng hoạt thuộc sắc, bốn đến bảy dần cứng nên gọi Danh sắc, sáu căn mở lớn gọi là Lục nhập. Từ khi ra khỏi thai mẹ đến ba - bốn tuổi, đối duyên lấy trần chưa biết khổ vui gọi đó là Xúc. Từ năm - sáu tuổi đến 1 2 - 13 tuổi nhận biết khổ vui có chứa ba cảnh đã hay phân biệt (biết rõ) nên gọi là Thọ. Lại từ quả báo khởi Ái - Thủ Hữu, ba chi hoặc nghiệp thành nhân hiện tại. Từ 1 4 - 14 tuổi đến 18 19 tuổi tham các thứ cảnh, như khát muốn uống nên gọi là Ái. Từ 19 tuổi trở đi, tuổi càng lớn tham dục càngnhiều, chẳng nhờ thân mạng hay có chỗ lấy nên gọi là Thủ. Ái thủ thể đồng hơn kém có khác, mong cầu các cảnh mà khởi nghiệp thiện ác mà luôn sanh trong ba hữu nên gọi là Hữu. Do có nhân này mà cảm ở vị lai hai thứ quả báo đó là sanh, lão, tử. Ấm sau mới khởi nên gọi là sanh. Ở đời bị suy yếu nên gọi là lão, cuối cùng vị hư hoại nên gọi là tử. Đó là mười hai pháp xoay vần cảm quả nên gọi là nhân, cùng do nhờ mà có nên gọi là Duyên. Nhân duyên tiếp nối nhau thì đi về không bờ bến. Nếu hiểu rõ vô minh thì sanh tử tự dứt. Đó là yếu thuật ra đời của Duyên giác. <詞>NÓI PHÁP TỨ ĐẾ. Pháp Giới Thứ Đệ nói: Nói chung về Đế, đế là nghĩa thẩm thật, pháp Tứ đế này chính là người Thanh văn từ nghe mà sanh hiểu nên ắt phải nhừo giáo thuyên lý chẳng dối nên gọi là Thẩm thật. Nếu do nhân cảm quả thì phải nhân trước mà quả sau. Nay ắt trước quả mà nhân sau. Giáo môn dẫn vật làm tiện. Hai đến trước là pháp thế gian khiến biết khổ mà đoạn dứt tập, nên trước quả mà sau nhân. Hai đến sau là pháp xuất thế gian, khiến vì diệt mà tu đạo, cũng là trước quả mà sau nhân. Phật độ được tám trăm năm thì Như Ý Luận Chủ, vua lễ làm thầy lập nghĩa nhân trước mà quả sau. Nói tập khổ là nhân quả Hữu lậu, đạo diệt là nhân quả Vô lậu. Ngoại đạo phá rằng: Thầy ông ra đời nói khổ, tập, diệt, đạo, vì sao đệ tử lại nói tập, khổ, đạo, diệt có trái với thầy chăng? Như Ý cứu rằng: Khi Phật còn ở đời đối với người không tin nhân quả mà nói quả trước nhân sau. Ta nay thuận nhân quả mà nói thì cũng chẳng trái nhau. Lúc đó ngoại đạo bè đảng rất mạnh, trong chúng không người chứng nghĩa, vua bèn ban cho ngoại đạo bảy mươi lượng vàng, phong cho ngoại đạo luận là Kim thất thập luận, Như Ý bèn thua cắn lưỡi mà chết. Đến năm chín trăm Thế Thân vạch luận ngoại đạo quả thấy Như Ý bị thua, bèn tạo luận quỷ luận thức v.v… dâng lên vua cứu Như Ý Luận Chủ, vua thêm kính nể ban cho Thế Thân bảy mươi lượng vàng, phong làm Thắng kim thất thập luận. Vua cột cỏ đánh thây biểu thị ngoại đạo tà tông thây bèn ra máu, nên người xuất gia cần phải hiểu rõ Tứ đế giáo môn về nghĩa trước sau của hai pháp nhân quả. Đậu-khư (Duhkha), hoặc gọi bốn nhó. Tấn gọi là khổ. Pháp Giới Thứ Đệ nói: Khổ là nghĩa bức não tất cả tâm hành hữu vi thường bị các hoạn nạn vô thường bức não, nên gọi là khổ. Khổ có ba thứ: một là khổ khổ, hai là hoại khôt, ba là hành khổ. Nay nói ba khổ có riêng có chung. Riêng thì ba khổ riêng đối với ba thọ. Khổ thọ từ khổ duyên sanh, tình biết là khổ, tức là khổ khổ. Khi lạc thọ lạc hoại thì sanh khổ, tức là hoại khổ. Thọ chẳng khổ chẳng vui, thường bị vo thường dời động, tức là hành khổ. Nếu luận chung ba khổ thì ba thọ thông có ba khổ. Vì sao thế, vì tâm ba thọ tức là khổ, thông từ khổ duyên sanh, cho nên thông là khổ khổ. Tâm của ba thọ thông bị hoại tướng làm hoại, cho nên thông là hoại khổ. Tâm của ba thọ thông là tướng khởi việc vận động không ngừng, cho nên thồn là hành khổ. Hành lấy dời đổi làm nghĩa. Cho nên Lăng-nghiêm nói: ví như thác dữ nổi sóng liên tục bờ trước bờ sau không vượt qua. Các Cổ đức có tụng hạnh khổ ngầm dời rằng: Như để một lông mi trên bàn tay người chẳng biết, Nếu để trong tròng mắt thì rất đau xốn chẳng an. Người ngu như bàn tay chẳng biết hành khổ dời đổi, Người trí như tròng mắt đau xót mà chán sợ. Trí Luận nói: Vô lượng chúng sanh có ba thứ thân khổ là lão, bệnh, tử, ba thứ tâm khổ là tham, sân, si, ba thứ khổ đời sau là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Kinh Pháp Cú nói: Xưa có bốn Tỳ-kheo luận việc đời khổ. Một người nói dâm dục làm khổ người, một người nói đói khát làm khổ người, người nọ thì nói giận hờn quấy rối người, người kia thì nói sợ sệt đáng sợ, ai nấy đều chấp ý mình cho người là sai. Phật biết bèn hỏi, các Tỳ-kheo trình bày rõ. Phật nói chỗ các ông luận không rốt nghĩa khổ, thân là gốc các khổ, các nạn, phải cầu tịch diệt đay là vui nhất. Tam-mâu-đề-da (Samudaya), hoặc gọi Di nhó, Tấn gọi là tập. Pháp Giới Thứ Đệ nói: Tập lấy nhóm họp (vời lấy) làm nghĩa. Nếu tâm cùng kết nghiệp tương ưng thì ở vị lai sẽ chiêu (vời) lấy các khổ sanh tử, nên gọi là tập. Ni-lâu-đà (Nirodha), hoặc gọi Bàn-na. Tấn gọi là đạo. Pháp Giới Thứ Đệ nói: Đạo lấy hay thông làm nghĩa đạo có hai thứ: một là chính đạo, là thật quán ba mươi bảy đạo phẩm, ba giải thoát môn, chuyên lý tuệ hạnh gọi là chính đạo; hai là trợ đạo, đắc giải quán trung (được trong giải quán) các thứ pháp đối trị và các thiền định, đều là trợ đạo. Hai thứ này giúp nhau hay thông Niết-bàn nên gọi là đạo. Bốn thứ Hoa Phạm này trích từ Kinh Hiền Ngu. Tỳ-đàm nói: Phật vì bốn vua làm thánh ngữ (tiếng Phạm âm?) nói bốn đế, hai vua hiểu, hai vua không hiểu. Lại nói tiếng Tỳ-đa thì vua hiểu một vua không hiểu. Lại nói tiếng Lê-xa thì bốn vua đều hiểu. Cho nên bốn đế gọi là Phi nhất khái. Pháp Tứ đế này nếu dùng như thuốc trị bệnh khu luyện, khổ tập là nhân quả thế gian, đây thuộc về bệnh. đạo diệt là nhân quả xuất thế gian, đây cũng là thuốc. Nếu dùng chân tục mà phân biệt thì có ba nghĩa: Một là bốn đế đều chân: Như Kinh Niết-bàn nói: Ta xưa cùng ông đều chẳng thấy bốn chân đế, thế nên bị chìm lâu trong biển khổ lớn sanh tử. Hai là bốn đế đều tục: Chỉ Quán nói: Diệt còn chẳng chân, ba đế kia thì sao thì sao. Ba là một chân ba tục: Thắng-man nói: Bốn thánh đế này, ba thứ là vô thường, một thứ là thường. Lại nói thế nên khổ đế, tập đến, đạo đế chẳng phải đế đệ nhất nghĩa, chẳng thường chẳng y, một khổ diệt đế. Lìa có tướng là thường. Lại Kinh Niết-bàn nó về bốn đế gồm có bốn thứ: một là Sanh diệt bốn đế, hai là Vô sanh bốn đế, ba là Vô lượng bốn đế, bốn là Vô tác bốn đế. Kinh Thắng-man cũng nói bốn thứ: một là Hữu tác bốn đế, hai là Hữu lượng bốn đế, ba là Vô tác bốn đế, bốn là Vô lượng bốn đế. Nhưng hai kinh này lời có khác chút ít. Kinh Khê hỏi: Vì sao lập bốn thứ bốn đế khác nhau? Đáp: Đế vốn không bốn, đến chỉ là lý, lý còn không một vì sao có bốn. Cho nên biết y quyền thật của Như Lai Tạng đồng thể. Đại bi nguyện lực tùy thuận vật cơ chẳng vì được mình mà dùng, cơ nghi bất đồng đến nỗi pháp có sai khác, từ một thật lý mở ra quyền lý, quyền thật hai lý hay nói giáo khác. Cho nên có bốn thứ khởi, giáo sai khác. Ba tạng nói sanh diệt, thông giáo nói vô sanh, biệt giáo nói vô lượng, viên giáo nói vô tác. Thế nên Thiên Thai nói bốn thứ pháp Tứ đế. <詞>CHỈ QUÁN BA nghĩa. Thật tướng thể vốn vắng lặng, nhân nguyên tịnh bèn gọi là chỉ. Bổn Giác Linh Chiếu do thường sáng nên gọi là quán. Gió vọng chợt động thì nhờ diệu Xa-ma-tha mà chỉ. Tâm châu tối lâu, cần Tỳ-bà-xa- na mà quán. Trong Ma-ha Chỉ Quán Thích Danh Chương nói: Một cộng thông ba đức, hai đều mở ba nghĩa. Nay y vào luận ấy mà nên tiếng Phạm. Một nêu cộng thông. Xa-ma-tha (Samata), dịch là chỉ. Kinh Niết-bàn nói Xa-ma-tha gọi là Năng diệt là hay diệt tất cả các kiết phiền não. Lại gọi là Năng điều, là hay điều phục các căn ác bất thiện pháp. Lại gọi là tịch tịnh là hay khiến ba nghiệp đều vắng lặng. Lại gọi là viễn ly, là hay khiến chúng sanh xa lìa năm dục. Lại gọi là năng thanh là hay khiến trong được ba độc tham dục sân giận ngu si, vì các nghĩa ấy nên gọi là Định thắng. Tỳ-bà-xá-na (Vipazyana), dịch là quán. Kinh Niết-bàn nói: Tỳ- bà-xá-na gọi là chính kiến, cũng gọi là Liễu kiến hay Năng kiến, Biến kiến, Thứ đệ kiến, biệt tướng kiến. Đó gọi là Tuệ. Ưu-tất-xoa (Upeksa), dịch là Chỉ quán bình đẳng. Niết-bàn nói: Ưu-tất-xoa gọi là Bình đẳng, cũng gọi là Bất tranh, Bất quán, bất hành. Đó gọi là Xả. Chỉ Quán nói: Nếu dùng hai chữ cộng thông ba đức, thì chỉ tức là đoạn. Đoạn thông là (với) giải thoát. Quán tức là trí, trí thông là (với) Bát-nhã chỉ quán v.v… gọi là Xả tướng. Xả tướng tức là thông với pháp thân. Khởi Tín Luận nói: Nói về chỉ tức là tướng dừng tất cả cảnh giới, tùy thuận Xa-ma-tha mà quán nghĩa. Nói về quán, nghĩa là tướng phân biệt nhân duyên sanh diệt, tùy thuận Tỳ-bát-xá-na mà quán nghĩa. Vónh Gia Tập nói: Vì dùng Xa-ma-tha nên tuy chiếu mà thường chiếu, vì dùng tỳ-bát-xá-na nên tuy chiếu mà thường tịch, vì dùng Ưu- tất-xoa nên chẳng chiếu chẳng tịch. Vì chiếu mà thường tịch nên nói tục mà tức chân. Vì tịch mà thường chiếu nên nói chân mà tức tục. Vì chẳng tịch chẳng chiếu nên đổ khẩu ở Tỳ-da. Kinh trưởng Giả Tử Lục Quá Xuất Gia nói: Phật bảo Tỳ-kheo Tăng-già-la-ma, ông nên làm hai pháp chỉ quán, Tăng-già-la-ma bạch Phật rằng: Thưa Thế Tôn, con rất hiểu. Phật bảo ta nói tóm tắt vì sao nói rất hiểu. Tăng-già-la-ma nói chỉ là các kiết dứt hẳn, quán là quán tất cả pháp. Phật nói lành thay! Hai là nói đều mở, một nêu ba chỉ. Diêu-xa-ma-tha (Susamta), tức là Thể chân chỉ. Tam-ma (Samaya), tức là Phương tiện tùy duyên chỉ. Thiền-na (Dhyàna), tức là Tức nhị biên phân biệt chỉ, tên trích từ Lăng-nghiêm. Tư Trung nói: Chuẩn theo Kinh Viên Giác thì Xa-ma-tha làm tướng, Thiên-na đều lìa Tịnh Huyễn hai tướng. Song hai kinh này khi Thiên Thai nói thì kinh đều chưa đến mà trong chỉ quán đã dự lập nghĩa ấy. Cho nên chỉ quán hai chữ đều mở ba nghĩa: một là Thế chân chỉ, hai là Phương tiện tùy duyên chỉ, ba là Tức nhị biên phân biệt chỉ. Lại nói tên ba chỉ này tuy chưa thấy trong kinh luận ánh vọng ba quán tùy nghĩa mà lập tên, tướng nó thế nào? Thể vô minh điên đảo tức là chân thật tướng, gọi là Thể chân chỉ. Như thật tướng này ở khắp tất cả chỗ, tùy duyên trải cảnh mà an tâm chẳng động thì gọi Tùy duyên phương tiện chỉ. Sanhtwr, Niết-bàn, tịnh tán đều dứt hết thì gọi Tức nhị biên chỉ. Ngài Cô Sơn giải thích rằng: Nay A-nan tuy chuyên thỉnh cầu ở chỉ, dùng tức một mà ba nêu chỉ này tức là quán cũng tức là Bình đẳng, ba - một dung nhau, do đó gọi là Diệu. Vì diệu nên mới gọi Lăng- nghiêm đại định. Nay ở một chỉ lại có ba tên Xa-ma-tha tức là Thể chân chỉ, chỉ ở Chân Đế (dịch Xa-ma-tha là chỉ, định là tên khác là nghĩa tịch tịnh (vắng lặng) nghĩa là nhiễm tịnh các cảnh tâm không vọng duyên). Tam-ma-đề cũng gọi là Tam-ma-bát-để, dịch là Đẳng trì, tức là Phương tiện tùy duyên chỉ. Chỉ ở Tục đế (Tam-ma-đề, Trí Luận gọi là tất cả thiền định nhiếp tâm đều gọi là Tam-ma-đề. Tần gọi là chỗ chính tâm hành, là tâm từ vô thủy đến nay thường cong vạy chẳng thẳng, được chỗ chính tâm hạnh này thì liền ngay thẳng. Như con rắn bò cong vào ống thì đi thẳng. Dịch là Đẳng trì, nghĩa là lìa các trầm trạo gọi là Đẳng. Khiến tâm trụ vào một cảnh gọi là Trì). Thiền-na, dịch là Tịnh lự, tức là Tức nhị biên phân biệt chỉ, chỉ ở Trung đạo. Kế nói ba quán: Là Không - Giả - Trung (Sunyatà-Prajỉapti-Mad- hyamika). Ngài Kinh Khê khi lâm chung đã dạy chúng rằng: Một niệm vô tướng gọi là Không, pháp chẳng đủ gọi là Giả, chẳng một chẳng khác gọi là Trung. Ngài Chương An nói: Thiên Thai truyền cho Nam Nhạc ba thứ chỉ quán; một là tiệm thứ, hai là Bất định, ba là Viên đốn, đều là Đại thừa, đều là tướng viên thật, đồng tên là Chỉ quán. Tiệm thì mới cạn sau sâu như leo lên thang, chẳng định trước sau lại giúp nhau, như kim cương báu để trong mặt trời. Viên đốn thì trước sau chẳng hai. Như người có thần thông bay lên không, vì ba căn tính nói ba pháp môn. Tuy nói thầy trò truyền nhau nhưng nguyên bản đều lấy từ kinh Phật, cho nên thứ lớp ba quán, như Anh Lạc quyển thượng nói: Từ giả vào Không quán, cũng gọi là hai Đế quán. Từ không vào Giả quán, cũng gọi là Bình đẳng quán, nhân đó hai Không quán làm phương tiện mà được vào Trung đạo đệ nhất nghĩa đế quán. Đây gọi là thứ lớp ba quán. Lại quyển hạ nói: Khi đỉnh đầu Phật phóng ra tất cả ánh sáng, lại tập họp Phật và Bồ-tát ở mười phương trăm ức Phật độ liền ở trong chúng bảo Văn-thù, Phổ Hiền, Pháp Tuệ, Công Đức Lâm, Kim Cang Tràng, Kim Cang Tạng, Thiện Tài Đồng Tử… các ông thấy trong chúng ấy Kỉnh Thủ Bồ-tát hỏi ba quán pháp giới chư Phật tự tính thanh tịnh đạo, tất cả Bồ-tát có tu pháp môn ba quán chăng? Các ông đều lãnh đạo trăm vạn đại chúng đều nên tu học pháp môn như thế. Lại Trung Luận nói: Pháp do nhân duyên sinh ra, ta nói tức là không, cũng gọi là Giả danh, cũng gọi là Trung đạo. Đây đều là văn nói một tâm ba quán. Song đây đều mở ra ba nghĩa toàn khác Niết-bàn, cộng thông ba đức do lộn đồng từ xưa, nên nay phân biệt ra. <詞>CÁC PHÁP THIỆN HẠNH. Bốn tất-đàn bị vật, các thiện tùy nghi, đường bốn môn khác, quả Nhất thừa không sai. Các thứ chính hạnh đều đoạn dứt dây ái muôn kiếp, mỗi mỗi trợ đạo đều phá hết lưới trần ngàn đời. Nay sưu tìm tiếng Phạm lược ghi tiếng Tống, muốn đủ hai thứ trang nghiêm cần trình bốn Hoằng thệ nguyện. Tất-đàn (Siddhàưta), ngài Nam Nhạc nói: Trong Đại Niết-bàn chữ tất-đàn là tiếng Hoa Phạm cùng gọi. Tất là tiếng Hoa, đàn là tiếng Phạm. Tất là khắp, đàn là thí tức Phật dùng bốn pháp khắp thí chúng sinh, nên gọi tất-đàn. Diệu Huyền nói: Thế giới tất-đàn là ích hoan hỷ, vì người tất-đàn là ích sanh thiện. Đối trị tất-đàn là ích phá ác. Đệ nhất nghĩa tất-đàn là ích nhập lý. Diệu Lạc nói: Tiền hai giáo và Biệt địa tiền chỉ thuộc ba tất, còn dẫn vào kinh này là Tất đệ nhất nghĩa. Tăng-na (Saưnàha), dịch là Hoằng thệ. Triệu Luận nói: Phát tâm đầu Tăng-na (trước phát Hoằng thệ) sau dùng Đại Bi để phó nạn. Đây gọi là phát tâm. Nhân Vương nói: Thập Thiện Bồ-tát phát đại tâm, mãi từ biệt (xa lìa) biển khổ ba cõi, đây là tương tự phát tâm vậy. Hoa Nghiêm nói khi mới phát tâm liền thành chính giác. Đây là phần chứng phát tâm vậy. Nói Hoằng thệ, ngài Thiên Thai nói: Duyên rộng khắp gọi là Hoằng, tự chế tâm mình gọi là thệ, chí cầu đầy đủ gọi là nguyện. Bậc đại só rộng mang vận tâm rộng khắp, y cảnh vô tác bốn đế mà khởi bốn tâm Hoằng thệ. Một là Anh Lạc ai chưa vượt khổ đế thì khiến vượt, sáu đạo chịu khổ phần đoạn, ba thừa chịu khổ biến định. Hiểu rõ ấm nhập đều như không khổ có thể bỏ, miệng phát thệ rằng chúng sinh vô biên thệ nguyện độ. Kế y vào Anh Lạc ai chưa hiểu (cởi bỏ?) tập đế khiến hiểu (cởi bỏ?) (cởi bỏ = giải?). bốn trụ phiền não nhuận (thắm nhuần) nghiệp hữu lậu, vô minh phiền não nhuận nghiệp vô lậu. Phải hiểu trần lao vốn sạch, không tập nào có thể trừ mà miệng phát thệ rằng phiền não vô số thệ nguyện đoạn. Ba là y Anh Lạc chưa dan đạo đế khiến an. Thuyền trí tuệ vượt nhanh biển khổ, giới định làm thông kho bí mật yếu đạo. Phải biết biên tà trung không đạo có thể tu mà miệng liền phát thệ rằng Phật đạo Vô thượng thệ nguyện thành. kính mong đấng Đại Giác nhiều kiếp độ sanh đều không mỏi mệt, là nguyện mãn bổn địa vậy. Tăng-niết, một gọi Tăng-na đại thệ, Tăng-niết tư thệ, một gọi Tăng-na ngôn khải (nói là áo giáp). Tăng-niết gọi là mặc, tức mặc áo giáp lớn, cũng gọi là trang nghiêm. Cho nên Đại Phẩm nói: Đại thệ trang nghiêm gọi đúng là San-na-ha, dịch là giáp. Hoặc gọi San-nại-đà, dịch là bị hay y, tức là mặc áo giáp. Tỳ-bạt-da-tư, dịch là bốn Niệm xứ. Niệm tức là quán, xứ tức là cảnh. Trí Luận giải thích: Trước tập thiện pháp không mất (lỗi?) nên gọi là tưởng. Trí quyết định không nghi nên gọi là trí. Đại Kinh nói: Lại có thầy thuốc mới phương xa đến biết tám thứ thuật, gọi là bốn khô bốn vịnh. Nói bốn khô, là người ở trong năm ấm khởi bốn đảo kiến (thấy ngược), ở sắc cho là tịnh, ở thọ cho là sạch, ở tưởng hành cho là ngã, ở tâm cho là thường, cho nên khiến tu bốn Niệm xứ để phá bốn đảo: Một là quán thân bất tịnh: Tất cả sắc pháp đều gọi là thân, mình gọi là nọi thân, quyến thuộc và người khác gọi là ngoại thân, hoặc mình hoặc khác gọi là nội ngoại thân. Ba thứ sắc này Đại Luận gọi là năm thứ bất tịnh: một là sanh xứ (chỗ sanh), là thân bị nhơ uế hôi hám, không trì hoa sen sanh, cũng chẳng từ chiêm-bặc, lại chẳng ra ngoài núi báu. Hai là chủng tử bất tịnh, thân là thứ bất tịnh, không phải là vật diệu bảo khác chẳng do tịnh bạch (trắng sạch) sanh ra, cha mẹ có tà tưởng. Ba là tự tính bất tịnh, là chất đất, nước, lửa, gió hay biến làm bất tịnh, hết nước biển rửa thân này cũng không thơm sạch được. Bốn là tự tướng bất tịnh, các vật bất tịnh đầy dẫy khắp trong thân luôn chảy ra không ngừng như túi lủng đựng đầy vật. Năm là cứu cánh bất tịnh, xét quán kỹ thân này trọn ắt về chỗ chết khó chế ngự không ngược (trở) lại, phụ âm như con nít. Hai là quán thọ là khổ: Ý căn thọ gọi là nội thọ, năm thọ gọi là ngoại thọ, sáu căn thọ gọi là ngộ ngoại thọ, ở một căn có thuận thọ, trái thọ, có chẳng trái chẳng thuận thọ, ở thuận thì sanh lạc thọ, ở trái thì sanh khổ thọ, ở chẳng trái chẳng thuận thì sanh chẳng khổ chẳng lạc thọ. Lạc thọ là hoại khổ, khổ thọ là khổ khổ, chẳng lạc chẳng khổ thọ là hành khổ. Các thọ thô tế đều là khổ. Ba là quán tâm vô thường: Tâm vương chẳng trụ, thể tính lưu động, ngày nay tuy còn, ngày mai khó giữ. Núi sông lựu trác ánh sáng đá lửa, nếu chẳng kịp thời sau hối vô ích. Bốn là quán pháp vô ngã: Pháp gọi là quỷ tắc (khuôn phép?) có thiện pháp, ác pháp và vô ký pháp người đều ước pháp cho là ta (ngã) ngã thì hay làm thiện, làm ác, làm vô ký. Ở trong các pháp này tìm ngã quyết không thê được, chỉ là lông rùa sừng thỏ, nhưng có tên gọi thật chẳng thể được (có). Cho nên kinh nói: Khởi chỉ pháp khởi, dịêt chỉ pháp diệt, chỉ là ấm pháp khởi diệt, vô nhân vô ngã vô chúng sinh thọ mạng, đó gọi là vô ngã. Đây là nói tướng riêng của Niệm xứ. Còn tướng chung của Niệm xứ là duyên một cảnh chung làm bốn quán. Trong đây nên bốn câu lựa chọn: một là cảnh riêng quán riêng, hai là cảnh riêng quán chung, ba là cảnh chung quán riêng, bốn là cảnh quán đều chung. Là tướng chung của Niệm xứ. Nếu làm một thân Niệm xứ quán, hoặc chung hai ấm cho đến chung năm ấm đó gọi là cảnh chung quán riêng. Thọ - tâm - pháp niệm cũng lại như thế. Trong A-tỳ-đàm nói ba thứ Niệm xứ, nghĩa là tính cùng duyên đối phá ba thứ ngoại đạo. Tứ Giáo nghĩa nói: Một là tính niệm xứ: Trí Luận nói: tính niệm xứ là tính trí tuệ. Quán Thân trí tuệ là Thân niệm xứ. Thọ - tâm - pháp cũng lại như thế. Kẻ giải chẳng đồng, có người chỉ lấy tuệ số làm tính trí tuệ, tức là tính niệm xứ. Sư Nam Nhạc giải rằng: Quán lý tính năm ấm gọi là tính niệm xứ. Cho nên Tạp Tâm Kệ nói: Thân ấy tướng bất tịnh, chân thật tính thường định, các thọ và tâm pháp, nói cũng lại như thế. Hai là Công niệm xứ: Trí Luận nói: Quán thân là trước, nhân duyên sanh đạo hoặc hữu lậu hoặc vô lậu, thọ - tâm - pháp niệm xứ cũng lại như thế. Người giải chẳng đồng. Có sư giải rằng: Cộng thiện năm ấm, các thiện tâm số pháp họp nói Niệm xứ. Hoặc sư Nam Nhạc giải rằng: Tức là chín tưởng bối xả thắng xứ các đối trị quán môn, trợ chính đạo mở làm ba giải thoát, nên gọi là Cộng niệm xứ. Cho nên kinh nói: Cũng phải niệm không pháp, tu tâm quán bất tịnh, đó gọi là thuốc cam lồ quán đảnh của các Như Lai. Ba là Duyên niệm xứ: Có sư giải rằng: Thông tất cả cảnh giới được quán đều gọi là Duyên niệm xứ quán. Có người nói cảnh mười hai ns, có người nói cảnh từ bi được duyên. Hoặc sư Nam Nhạc giải rằng: Duyên với giáo Phật nói ra về tất cả Ấm nhập giới, sự lý bốn đế, danh nghĩa ngôn ngữ. Âm từ, nhân quả, thể dụng… quán suốt vô ngại, hay sanh bốn biện tài ở Thích-ca pháp, tâm không chỗ ngại thành vô ngại giải thoát, ấy là nếu y Đại thừa để nói bốn vịnh như sau phân rằng: Này A-nan như chỗ ông hỏi, Phật Niết-bàn rồi thì y vào đâu mà trụ? Này A- nan, y vào tứ Niệm xứ nghiêm tâm mà trụ. Quán thân tính tướng đồng với hư không gọi là Thân niệm xứ. Quán tâm chỉ có danh tự (tên gọi), danh tự tính lìa, gọi là Tâm niệm xứ. Quán pháp chẳng được thiện pháp và bất thiện pháp thì gọi là Pháp niệm xứ. Hoa Thủ Kinh nói: Tất cả các pháp đều gọi là Niệm xứ. Vì sao thế, vì tất cả các pháp tự tính thường trụ (còn hoài) không thể hư hoại. Đây chính tức pháp là tâm, tức tâm là pháp, đều đồng một tính, tính há có thể hoại? Tất-kha-ma-la-a-dật-đa, dịch là chính cần. Đây có bốn pháp. Pháp Giới Thứ Đệ nói: Một là ác pháp đã sanh phải trừ dứt. Một tâm tinh cần khi quán bốn Niệm xứ. Nếu khởi tâm biếng lười thì năm cái phiền não liền che tâm lìa tín v.v… năm thứ thiện căn. Khi các ác đã sanh nhe thế thì phải đoạn dứt, một tâm siêng năng tinh tấn phương tiện trừ đoạn khiến cho hết. Hai là các ác chưa khi quán bốn niệm xứ, tuy tâm biếng lười và năm cái v.v… các phiền não ác pháp chưa sanh, sợ sau này sanh ra sẽ ngăn tín v.v… năm thiện căn, nay phải khiến chẳng sanh, nên một tâm siêng năng tinh tấn phương tiện khiến dừng lại không sanh. Ba là các thiện pháp chưa sanh thì khiến sanh ra, một tâm siêng năng tinh tấn khi quán bốn Niệm xứ, tín v.v… năm thiện căn chưa sanh thì khiến sanh ra, một tâm siêng năng tinh tân phương tiện tu tập khiến tín v.v… các thiện căn sanh ra. Bốn là các thiện pháp đã sanh thì khiến tăng trưởng một tâm siêng năng tinh tấn khi quán bốn Niệm xứ thì tín v.v… năm thiện căn đã sanh phải khiến tăng trưởng. Một tâm siêng năng tinh tấn phương tiện tu tập v.v… các thiện căn khiến chẳng lui sụt mà tăng trưởng thành tựu. Bốn thứ này gọi chung là chính cần, vì nó pháp tà đạo ở trong chính đạo mà siêng năng nên gọi chính cần. Ma-nô-thị-nhã (Mamojỉa), dịch là Như ý. Pháp Giới Thứ Đệ nói: Bốn Như ý túc: một là Dục như ý túc, Dục là chủ, được định đoạn hạnh thành tựu tu như ý túc phần ấy là Dục như ý túc; hai là Tinh tấn như ý túc, Tinh tấn là chủ được định đoạn hạnh thành tựu tu như ý túc phần, ấy là Tinh tấn túc; ba là Tâm như ý, Tâm là chủ được định đoạn hạnh thành tựu tu như ý túc; bốn làư duy như ý túc, Tư duy là chủ, nói chung Như ý túc là trong bốn Niệm xứ là thật trí tuệ, trong bốn chính cần là chính tinh tấn. Tinh tấn và trí tuệ tăng nhiều, sức định không yếu được bốn thứ định nhiếp tâm, cho nên trí định lực v.v… chỗ nguyện đều được, nên gọi là Như ý túc trí định nếu thế hay đoạn các kiết sử, cho nên gọi là đoạn hạnh thành tựu. Bà-la (Bala), dịch là Lực. Ấm Trì Nhập Kinh nói: Lực ấy lấy gì nghĩa? Đáp: Không thể hoại được là nghĩa của lực, có ích là nghĩa của lực, có gan là nghĩa của lực, hay nương được là nghĩa của lực. Tăng Nhất A-hàm nói có sáu thứ lực. Trẻ con kêu khóc là lực, người nữ giận là lực, Sa-môn, Bà-la-môn lấy nhẫn nhục làm lực. A-la-hán lấy tinh tấn làm lực. Lại nhân người có năm lực, Phật quả mười lực. Nhân người năm lực tức là tín, tinh tấn, niệm, định, tuệ. Đại Luận giải thích rằng: Tín căn được lực thì hay quyết định thọ trì chẳng nghi vì lực tinh tấn, thì tuy chưa thấy pháp mà một lòng cầu đạo chẳng tiếc thân mạng chẳng thôi dứt. Vì niệm lực nên thường nhớ thầy dạy, thiện pháp thì nghe vào, ác pháp thì không nghe vào như người giữ cửa định lực thì nhiếp tâm một chỗ chẳng động để giúp trí tuệ. Vì trí tuệ lục, hay như thật mà quán thật tướng các pháp. Phật quả mười lực nay thuật tụng rằng: Xứ và phi xứ hai nghiệp lực, Định căn dục tính chí xứ đạo, Túc mạng, thiên nhãn, mười lậu tận. Giải thích đầy đủ trong Đại Luận quyển 8 8. Luận hỏi: Mười lực của Phật, nếu nói tướng chung thì Phật chỉ có một lực, đó là Nhất thiết chủng trí lực. Nếu nói tướng riêng thì có ngàn vạn ức lực, tùy pháp làm tên, nay sao chỉ nói có mười lực? Đáp: Phật thật có vô lượng trí lực chỉ vì chúng sanh chẳng thể được, chẳng thể làm, cho nên không nói. Mười lực ấy có thể so việc chúng sinh mà luận nói có mười lực. Luận hỏi: Phật có mười lực còn Bồ-tát có không? Đáp: Có. Thế nào là mười: một là phát tất cả trí tâm bền chắc cố lực, hai là đại từ lực chẳng bỏ chúng sinh, ba là đầy đủ Đại Bi lực, bốn là tinh tấn lực tất cả Phật pháp, năm là tư hành thiền định lực, sáu là trừ hai biên trí tuệ lực, bảy là thành tựu chúng sinh lực, tám là quán pháp thật tướng lực, chín là vào ba giải thoát môn lực, mười là vô ngại trí lực. Ni-để (Pranidhàna), dịch là nguyện. Chí cầu đầy đủ gọi là nguyện. Trí Luận nói có hai thứ nguyện: một là Khả đắc nguyện, hai là Bất khả đắc nguyện. Bất khả đắc nguyện (không thể nguyện) như có người muốn đo lường hư không đến hết bờ bến, và tìm bờ bến của thời gian, như trẻ con thấy trăng trong nước thấy vật trong gương, các nguyện như thế đều chẳng thể được. Còn Khả đắc nguyện (nguyện có thể được) là như dùi gỗ tìm lửa, đào đất được nước. Như tu phước được sanh vào trời, người và được quả A-la-hán, Bích-chi Phật, cho đến được các Phật pháp vương. Như thế đều gọi là đắc nguyện. Nguyện có thượng, trung, hạ. Hạ nguyện thì khiến đương đời được vui. Trung nguyện thì khiến đời sau được vui. Thượng nguyện thì cùng vui với nhân Niết-bàn. Trí Luận hỏi: Khi Phật còn tại thế chúng sanh còn có đói khát trời chẳng mưa xuống chúng bị nguy khốn Phật chẳng thể làm mãn nguyện tất cả chúng sinh, vì sao Bồ-tát lại làm mãn nguyện được? Đáp: Bồ-tát trụ ở Thập địa, vào Thủ-lăng-nghiêm Tam-muội, ở Tam thiên Đại thiên thế giới hoặc khi ấy hiện ra người mới phát ý làm hạnh sáu Ba-la-mật cho đến hiện người xuất gia thành Phật mà lợi ích như thế huống là đối với Phật. mà thân Phật có hai thứ: một là Chân thân, hai là Hóa thân. chúng sinh thấy Chân thân Phật thì không nguyện nào chẳng mãn. Trí Luận hỏi: Các Bồ-tát hạnh nghiệp thanh tịnh trị được báo tịnh, đầu cần phải lập nguyện sau đó mới được. Ví như nhà nông được thóc há lại đợi nguyện? Đáp: Làm phước mà không nguyện thì không đứng vững. Nguyện là đạo ngự (dắt dẫn chế ngự) sẽ có chỗ thành. Thí như dây chuyền tùy thợ làm ra còn vàng thì vô định. Lại việc lớn trang nghiêm cõi Phật, riêng mình làm công đức thì chẳng thể thành cho nên cần phải có nguyện lực ví như sức trâu tuy có thể kéo xe nhưng cần phải có người đánh xe mới có thể đến nơi. Tịnh thế giới nguyện cũng lại như thế. Cho nên Cổ đức nói: Có hạnh mà không nguyện thì hạnh ấy ắt cô độc, có nguyện mà không hạnh thì nguyện ấy ắt dối. Tát-ba-ca-ma (Sarvakàma), dịch là ưa muốn vui thích mong cầu. Tịnh Danh Sớ nói: Căn là quá khứ, Dục là hiện tại, tính là vị lai. Nếu thiện căn quá khứ bền chắc thành tựu thì đời nay đối duyên liền khởi. Đây là nhân căn thành dục (ưa muốn). Nếu thiện căn quá khứ không bền chắc, đời nay gặp duyên khởi dục, tập nhiều thành tính. Cho nên nói tính lấy chẳng đổi làm nghĩa. Ngài Kinh Khê giải thích rằng: Tập dục thành tính, là tính ở vị lai, do tính thành dục là tính ở quá khứ. Trí Luận nói: Tùy chỗ muốn mà nói pháp. Chỗ nói thiện dục (dục lành) tùy tâm vì nói như thuyền thuận nước, ác dục dù hết lời dạy bảo như lấy chê mà sanh chê. Thế nên trong téi Phật tất khắp biết không gì có thể hoại, không gì hơn được, Sự Sao nói: Phàm làm pháp sự, ắt phải thân tâm đều tập mới thành hòa họp. Nếu có duyên mà chẳng mở tâm tập thì cơ giáo chẳng đồng lấy gì cứu giúp. Cho nên nghe rồi truyền đến tâm miệng, ải bày trước Tăng sự mới có thể kia đây luận đủ. Duyên đây mà nghe cùng dục nói rằng: Đại đức, nhất tâm niệm, con là Tỳ-kheo tên là… như Pháp Tăng Sự cùng dục thành tịnh. Người thgọ dục phải đến trong tăng mà yết-ma. Nói không đến là nói dục. Tức phải đầy đủ oai nghi mà nói rằng: Đại đức tăng nghe rõ, tôi là Tỳ-kheo tên là… tôi thọ dục ấy thanh tịnh, người ấy như Pháp Tăng Sự cùng dục thanh tịnh. Phù-đàm-mạt, dịch là Chí thành. Kinh Mười Sáu Quán nói: Phát ba thứ tâm thì liền vãng sanh. Những gì là ba tâm: một là tâm chí thành, hai là thâm tâm, ba là tâm hồi hướng phát nguyện. Sớ giải thích tâm chí thành rằng: Tức thật hạnh chúng sinh, chí là chuyên, thành là thật. Giải thích thâm tâm rằng: Phật quả cao sâu, phát tâm cầu đến nên gọi là thâm tâm. Cũng từ lý sâu mà sanh ra, cũng từ hậu lạc (thích sâu) thiện căn mà sanh ra. Diệu Tônh nói nay mới chí thành, sớ dùng chuyên thật mà giải thích, không phải niệm chân như há gọi là chân thật. Giải về thâm tâm. Sớ tuy ba nghĩa này mà chẳng bỏ nhau cầu quả cao sâu phải khế lý sâu, khéo khế lý sâu phải hậu lạc (thích sâu) thiện căn. Đây chính là lập hạnh y lý mà cầu quả. Chẳng ở ngoài việc luận kia nói lạc tập họp tất cả các thiện hạnh vậy. Trải qua tâm hồi hướng phát nguyện, nghĩa ở luận ấy nói Đại Bi cứu khổ. Khởi Tín Luận nói: Tín thành tựu phát tâm, lược nói có ba: một là trực tâm vi chính niệm (nhớ) chân như, hai là thâm tâm, là ưa lạc tập họp tất cả các thiện hạnh, ba là Đại Bi tâm, là muốn cứu tất cả khổ của chúng sinh. Sám-ma (Ksama), dịch là hối quá. Sư nghĩa Tịnh nói: Sam-ma tiếng Tây Vức có nghĩa là nhẫn. Người Tây Vức là xúc thân nói Sám- ma. Ý là xin tha thứ xin chớ giận trách. Phương này lầm truyền từ lâu nên khó sửa lại. Ứng Pháp sư nói: Sám là sai, sách không có chữ sám, gọi đúng là Xoa-ma, dịch là nhẫn, nghĩa là tha thứ tội tôi vậy. Ngài Thiên Thai trong Quang Minh Thích Sám Hối Phẩm nói: Chẳng luận tiếng Hoa Phạm chỉ giải thích thẳng rằng: Sám là thủ, hối là phục. Như người đời bị tội với vua, phục khoán thuận theo chẳng dám trái nghịch chẳng nghịch là phục, thuận theo là thủ. Người tu cũng thế phủ phục dưới chân Tam bảo, chính thuận đạo lý chẳng dám làm quấy nên gọi là Sám hối. Lại sám gọi là Bạch pháp, hối gọi Hắc pháp. Hắc pháp (tội lỗi) cần phải hối mà chớ làm. Bạch pháp (thiện pháp) cần phải ưa chuộng, lấy bỏ họp luận, nên gọi là Sám hối. Lại sám gọi là tu lại (tu mới), hối gọi là cải vãng (đổi cũ). Ngày xưa chỗ làm pháp bất thiện xấu hổ mà ghét nên gọi là hối, ngày xưa chỗ bỏ tất cả thiện pháp, ngày nay trở đi thệ nguyện siêng tu, nên gọi là sám. Bỏ xưa cầu nay nên gọi là Sám hối. Lại sám gọi là vạch bấycc lỗi phát lồ lỗi lầm chẳng dám che giấu. Hối gọi là đoạn tâm nối tiếp, chán hối lìa bỏ, năng tác và sở đều bỏ nên gọi là Sám hối. Lại sám gọi là xấu hổ (tủi), hối gọi là mắc cỡ (thẹn). Xấu hổ (tủi) thì xấu hổ với trời, mắc cỡ (thẹn) thì mắc cỡ với người. Người thấy cái rõ ràng, trời thấy cái mờ ám. Mờ ám là tế, rõ ràng là thô, thô tế đều ghét (xấu ác), nên gọi là Sám hối. Tịnh Danh Sớ nói: Nay nói tội diệt có ba: một là Tác pháp sám, hai là Quán tướng sám, ba là Quán vô sanh sám. Tác pháp sám là diệt trái không làm tội, y Tỳ-ni môn. Quán tướng sám là diệt tính tội, đây là y định môn. Quán vô sanh sám là diệt tội vọng tưởng, đây là y tuệ môn. Lại nữa, trái không làm tội chướng là giới, tính tội chướng là định, vọng tưởng tội chướng là tuệ. Tác pháp sám, là như luật đã nói: Tác pháp thành tựu thì hay diệt tội trái vô tác (không làm) mà tính tội chẳng diệt. Đại Luận nói: Như Tỳ-kheo cắt cỏ và hại mạng, hai tội đồng bài. Tác pháp sám thì hai vô tác diệt mà hại mạng không diệt vì tính tội chưa diệt. Quán tướng sám, là như các Kinh Phương Đẳng nói về hành pháp, thấy tướng thì tội diệt. Bồ-tát Giới nói: Nếu thấy ánh sáng và hoa các thứ tướng hảo thì tội liền diệt hết. Nếu không thấy tướng thì dầu sám cũng vô ích. Nếu thấy tướng đẹp thì vô tác và tính, hai tội đều diệt. Quán vô sanh sám, khi quán này thành thì hay trừ được tội căn bản vọng hoặc như nhổ rễ cây thì cành lá tự diệt. Phổ Hiền Quán nói: Tất cả biển nghiệp chướng, đều từ vọng tưởng sanh, nếu người muốn sám hối, ngồi nghiêm nghó thật tướng, các tội như mù sương, tuệ nhật ắt trừ hết. Địa-để-ca, dịch là biết xấu hổ (hữu quí). Kinh Niết-bàn nói: Chư Phật Thế Tôn thường nói rằng: Có hai Bạch pháp hay cứu chúng sanh: một là tàm, hai là quý. Tàm là tự chẳng làm tội, quý là chẳng bảong khác làm. Tàm là trong tự xấu hổ, quý là phát lồ với người. Kinh Tạp A-hàm nói: Thế gian nếu có hai pháp Tàm quý thì trái vượt đạo (đường) (vượt ngược đường thanh tịnh) thanh tịnh, hướng về sanh già bênh chết. Bách Pháp Sớ nói: tàm là y sức tự pháp (của mình) tôn trọng hiền thiện làm tính, đối trịo với Vô tàm, ngăn dứt ác làm tính đối trị với Vô quý, ngăn dứt ác hạnh làm nghiệp. A-tỳ-đạt-ma Luận nói: Tàm là đối các lỗi ác tự xấu hổ làm thể. Quý là đối với các lỗi ác xấu hổ với người khác làm thể. Kinh Niết-bàn nói: Trí có hai: một là không tạo các ác, hai là làm rồi sám hối. Ngu cũng có hai: một là làm tội, hai là che giấu. Ba-bà-đề-già, hoặc gọi Phạm ma, dịch là thanh tịnh. Đại Luận nói: Tuy vì tất cả chúng sanh mà tâm ấy không thanh tịnh thì không thân mình không có ngã (vô ngã), chẳng biết người lấy vô nhân vô chủ, chẳng biết thật tính của vật thí chẳng thể nói một, chẳng thể nói khác. Đối với ba việc (là người thí, người nhận và vật thí) tâm còn đắm trước, ấy là không thanh tịnh. Bảo tính Luận nói: Một là tự tính thanh tịnh nghĩa là tính thanh tịnh giải thoát. Hai là ly cấu thanh tịnh, nghĩa là chướng hết thì giải thoát. Đại Luận nói: Rốt ráo không tức là rốt ráo thanh tịnh. Vì người sợ không, nên nói thanh tịnh. Yết-ma (Karma), ngài Nam Sơn dẫn Minh Liễu Luận Sớ nói: Dịch là nghiệp, chỗ ra làm là nghiệp. Bách Luận gọi là sự (việc làm?). Nếu lấy nghĩa cầu mà dịch là biện sự, nghĩa là tạo tác ra pháp thì có công thành tựu. Thiên Thai Thiền Môn dịch là tác pháp tất cả yết-ma cần đủ bốn pháp: một là Pháp, hai là Sự, ba là Nhân, bốn là Giới. 1- Pháp là Yết-ma có ba thứ: Một là Tâm niệm pháp, là phát tâm niệm cảnh miệng tự truyền tình. Không phải gọi chẳng nói mà biện việc trước. Hai là Đối thủ pháp, nghĩa là đều cộng mà đối đồng bình pháp. Ba là Chúng pháp, là bốn người trở lên nắm ở Yết-ma, thông trước đơn bạch nên gọi là bạch bốn. Luật nói: Nếu làm yết-ma chẳng bằng Bạch pháp tác bạch, chẳng bằng yết-ma pháp làm yết-ma. Như thế dần dần khiến giới hủy hoại mà diệt chính pháp. Tùy thuận văn cú chớ khiến tăng giảm. Tăng-kỳ nói: Không phải địa Yết-ma chẳng được làm Tăng Sự. Bồ-tát (Upavasatha), Đại Luận nói: Tần gọi Thiện túc. Nam Sơn nói: dịch là Tịnh trụ, tức tịnh thân, khẩu, ý như (đúng) giới mà trụ. Nê- hoàn quyển sáu dịch là Trưởng dưỡng (nuôi lớn). Trưởng dưỡng có hai nghĩa: một là thanh tịnh giới trụ, hai là tăng trưởng công đức. Tạp A- hàm nói: Bồ-tát Bà-đà, nếu gọi đúng là Ưu-bổ-đà-bà. Ưu là đoạn dứt, bổ-đà-bà là tăng trưởng, tiếng gọi không đồng. Luật nói: Bồ-tát pháp một chỗ gọi là Bồ-tát Kiền-độ, tức là nói giới. Ứng Pháp sư nói: Tên này lầm gọi tắt, đáng ra gọi là Bát-la-thường-đề-xá-da-mị, dịch là Đối ngã thuyết, tức là hướng nhau mà nói tội của nhau. Xưa gọi là Tịnh trụ là dịch nghĩa. Sự Sao nói: Nếu chúng đông mà tiếng nói nhỏ quá thì chẳng nghe nói giới, nên khiến chuyển lên tòa cao đứng trên đó mà nói. Đây thì thấy mà chẳng nghe được. Lại như nhiều người nói giới, do đâu mà được thấy mặt người tác pháp. Đây thì nghe mà chẳng thấy. Thiện Kiến nói: Bồ-tát là bỏ các pháp ác bất thiện và các phiền não, có thọ nhận chứng đắc Bạch pháp, vì rốt ráo sự phạm hạnh nên gọi thế. Lại dịch là Bán nguyệt. Là nửa tháng tự xét mình từ nửa tháng trước đến nửa tháng này trong khoảng đó có phạm giới chăng? Nếu có phạm thì đồng ý sám hối. Tỳ-ni Mẫu nói: Nếu phạm bảy chúng thì người bất tịnh trước phải ngừng không nói giới. Tức luật văn nói người phạm không được nghe giới, không được hướng vào người phạm mà nói. Tứ Phần nói: Nếu ngày nói giới mà không thể tụng thì phải đúng pháp Bồ-tát mà hành trù cáo bạch khiến một người thuyết pháp tụng kinh (nói giới?) dạy các người khác tụng dị giáo (dạy sót?) cũng được. Nếu toàn chẳng hiểu thì luật nói ít nhất một kệ: Các ác chớ làm, các thiện nên làm, tự tịnh ý mình là lời chư Phật dạy. Như thế làm rồi chẳng được chẳng nói. Nếu cũng chẳng hiểu thì nói hãy cẩn thận chớ buông lung rồi giải tán. Ấy đều là lời Phật dặn dò như thế. Tăng-kỳ nói: Muốn được năm sự lợi ích, phải thọ trì (giữ gìn) luật này, thế nào là năm: một là kiến lập Phật pháp, hai là khiến chính pháp ở lâu, ba là chẳng muốn có nghi hối thỉnh hỏi người khác, bốn là tăng ni phạm tội làm chỗ nương cậy nhờ, năm là muốn du hóa các phương mà vô ngại. Tứ Phần nói: Người trì luật được năm công đức: một là giới phẩm bền chắc, hai là thiện (khéo) thắng các oán, ba là ở trong chúng quyết đoán không sợ, bốn là có nghi hối thì liền cởi mở, năm là khéo trì Tỳ-ni. Khiến chính pháp ở lâu thì Kinh Ma-gia nói: Ưa thích y phục, buông lung chơi giỡn nô là Tỳ-kheo, tỳ là Tỳ-kheo ni, chẳng thích quán bất tịnh, chê bai Tỳ-ni, áo ca-sa đổi thành màu trắng chẳng chịu nhuộm màu xấu, tham dụng các vật của Tam bảo, đó là tướng pháp diệt. An-cư, ngài Nam Sơn nói: Hình (thân) tâm nhiếp tịnh gọi là An, yếu hẹn ở gọi là cư. Chỗ yên tịnh nghó khuôn phép chính của vi đạo, lý cần ngày rảnh mà gia công, sách tấn, tâm hạnh tùy duyên mượn chỗ chí chỉ. Chuộng ích, chẳng cho tán loạn, phòng đạo làm nghiệp (chẳng theo đạo tán loạn hại nghiệp). Cho nên luật thông chế ba thời ý còn cứ đạo. Văn riêng ước tháng hạ tình ở ba lỗi: một là vô cớ mà du hành là hại nghiệp tu xuất thế, hai là làm hại vật mạng là trái lòng từ rất sâu, ba là chỗ làm đã quấy nên bị đời chê bai, do lỗi này mà giáo hưng thịnh ở đây. Song các nghĩa đều chỉ về hộ mạng, cho nên trong mùa hạ nơi nào cũng có côn trùng nên Kinh chính Pháp Niệm nói: Trong mùa hạ trừ lúc đại tiểu tiện đều phải ngồi kiết già. Sự Sao hỏi vì sao chỉ kiết hạ trong ba tháng? Một là sanh tử có thân nên phải nhờ nuôi dưỡng, nên kiết ba tháng trước, mở sau một tháng vì muốn thành việc cúng y phục cho thân. Hai là nếu bốn tháng kiết hết thì bốn tháng mười sáu ngày (ngày 16 tháng 4 8) được thành nếu có sai mất thì liền không được kiết. Giáo pháp rất gấp khó dùng được chuẩn. Cho nên Như Lai thuận vật bắt đầu từ ngàu 16 đến ngày 16 tháng sau mở ra một tháng, nối kiết khiến thành. nay chỉ ở mùa hạ cũng có ba thời: một là 16 tháng 4 là tiền An cư, ngày 17 trở đi đến ngày 15 tháng 5 gọi là trung an cư, ngày 16 tháng 5 gọi là hậu An cư. Cho nên trong luật có ba thứ An cư tức tiền - trung - hậu vậy. Chỗ ở phải không có năm lỗi: một là quá xa xóm làng, có việc cần dùng thì khó được, hai là quá gần chợ búa hại nghiệp tu đạo, ba là nơi có nhiều ruồi muỗi chích cắn người, hoặc giậm đạp khiến chết, bốn là không có người nương tựa. Người ấy phải đủ năm đức tức cầu nghe khiến nghe, nghe rồi khiến thanh tịnh hay vì mình quyết nghi, hay khiến thông suốt, trừ tà kiến được chính kiến, năm là chỗ không có thí chủ thí cho ăn uống thuốc men. Không có năm lỗi này thì có thể an cư. Sao nói: Phàm ngày thọ nhận điều cần là Tam bảo dạy người sanh thiện diệt ác, nếu cho vì lợi Tam bảo mà làm việc phi pháp phá giới có nạn tuy thọ cũng chẳng thành. Ngũ Bách Vấn nói: Thọ làm bảy ngày, nếu chẳng đủ bảy ngày mà trở về chỗ cũ, sau lại làm thí chẳng cần thọ lại. Đủ bảy ngày rồi thì phải thọ lại. Sao nói: Dẫu khiến việc trước chỉ ngưng một ngày đều phải theo pháp bảy ngày. Luật nói chẳng họp trong ngày trở về thì cho thọ bảy ngày đi. Cuối hạ một ngày ở cũng làm phép bảy ngày. Đối đầu thọ pháp phải đủ nghi đối với Tỳ-kheo mà nói rằng: Đại đức một lòng nghóm con Tỳ-kheo tên là… nay thọ pháp bảy ngày ra ngoài giới để làm việc… sẽ trở lại đây mà trung An cư (nói ba lần) nếu việc trong nửa tháng hay một tháng thì phải yết-ma. Nếu ngày thọ hay nhiều đồng duyên thọ thì hai, ba người phải một lúc yết-ma, Tây Vức Ký gọi là nước Đổ-hóa-la. Xưa lầm gọi là nước Thổ-hỏa-la, Đông có Thông lãnh, Tây giáp với Ba-lạ-tư, Nam có đại Tuyết sơn, Bắc tiếp Thiết môn, khí hậu nóng lên tật dịch rất nhiều, cuối đông đầu xuân, mưa sương nối nhau mà chư tăng lấy ngày 16 tháng 12 vào An cư, đến ngày 10 tháng 3 thì giải An cư. Đây là do có nhiều mưa mà lập giáo tùy lúc vậy. Lại nói tăng chúng Ấn Độ y theo giáo Phật ngồi mưa mà an cư hoặc trước ba tháng hoặc sau ba tháng. Trước ba tháng thì phải từ 16 tháng 5 đến 15 tháng 8.Sau ba tháng thì từ 16 tháng 6 đến 15 tháng 9. Đời trước người dịch kinh luận gọi là Tọa hạ hoặc gọi Tọa lạp. Đây đều theo thói tục nước ngoài chưa thông đến Trung Quốc hoặc theo tiếng địa phương thổ ngữ chưa khắp mà truyền dịch có nhầm lẫn. Lại nói tăng đồ Ấn Độ y theo thánh giáo đều lấy tháng Thất-la-phạt-noa trước nửa ngày mà vào Vũ an cư, tức ngang với ngày 16 tháng 5.lấy tháng Át-thấp- phược-dữu-xà nửa ngày 15 sau mà giải Vũ an cư, tức ngang với ngày 15 tháng 8 vậy. Tên tháng ở Ấn Độ theo tên sao mà lập, xưa nay không đổi, các bộ không sai, bởi vì phương ngôn chưa thông nên truyền dịch có nhầm, phân chia ngày tháng đến nỗi trái khác nhau, bèn lấy ngày 16 tháng 4 mà vào an cư và ngày 15 tháng 7 mà giải an cư vậy. Bát-lạt-bà-lạt-noa (Pravarana), Âm nghĩa Chỉ Quy nói: Dịch là tùy ý. Ký Quy Truyện nói: Phàm lúc cuối hạ hết năm, ngày này phải gọi là tùy ý tức là tùy người khác ở ba việc, mặc tình nói tội để trừ lỗi. Xưa gọi là tự tứ là dịch nghĩa. Song nói tự tứ thì có cả thiện ác, nay chỉ nói về thiện. Cho nên Sự Sao nói: Chín tuần tu đạo tinh luyện thân tâm, người nhiều mê mình chẳng tự thấy lỗi của mình, mặc tình tăng nói lỗi trong tự nêu bày không giấu giếm, ngoài nêu các lỗi lầm tì vết về thân khẩu nhờ người khác nói. Nên gọi là tự tứ. Ma-đắc-đặc-già Luận hỏi: Vì sao khiến phải tự tứ, vì khiến các Tỳ-kheo chẳng cô độc, cho nên đều phải nhớ tội mà phát lồ hối lỗi. Dùng lời đắng để điều phục cho được thanh tịnh, tự ý vui mừng là không tội. Do đó bày ra ở cuối hạ. Còn ở đầu hạ thì lập cam kết chín mươi ngày tu tập đạo xuất ly, nếu trái nghịch mà nêu lỗi và gây oán hận, do đó mà bỏ đạo loạn nghiệp, cho nên chế lập ở cuối hạ để ba tháng cùng khuyên gắng nhau tu tiến đạo nghiệp. Khi mãn hạ rồi thì mỗi người một phương, ắt ác nghiệp chẳng thể riêng nói mà chướng đạo càng sâu. nghĩa không che giấu nên phải thỉnh hối là do đó. Cho nên luật dạy cuối an cư phải tự tứ. Đay là nói người khác mặc tình nói tội, không phải tự tứ là xấu ác. trước nói thời tiết về tháng nhuận, trong Ma-đắc-già nói: Mãn chín mươi ngày thì tự tứ, nếu nhuận tháng 7 phải lấy tháng 7 trước mà tự tứ. Không phải hạ an cư trước thì qua tháng nhuận đủ chín mươi ngày mới tự tứ. Nếu tu đạo an lạc đợi ngày tự tứ được đến 15 tháng 8, song trong luật chỉ nói tự tứ vào ngày 14, 15, và khi cấp thí y thì thứ lớp tăng lên ngày 16, tăng trong ba ngày tự tứ. Tứ Phần nói: An cư xong rồi tự tứ thì lấy ngày 16 tháng 7 làm định. Luật lại nói: Ngày 14 tăng tự tứ, ngày 15 ni tự tứ. Đây gọi là nương nhau hỏi tội, cho nên chế ra khác ngày. Luận về Tác pháp thì ba ngày là thông dụng, nhất định là vào ngày 1 6. nếu có hỏi thì như trong Ngũ Bá Vấn nói: Một tháng tự tứ (tự tứ trong một tháng?). Sự Sao hỏi: Ngày 15 tự tứ rồi được ra khỏi giới không? Đáp: Chẳng được phá hạ lìa y do phần đêm chưa hết. Hỏi: Giới an cư ở đây mà tự tứ ở chỗ khác được không? Đáp: Tăng-kỳ nói không có tội. Lại An Cư Thiên nói: Ngày 16 tháng 4 kiết đến hết nửa đêm ngày 15 tháng 7 thì gọi là hạ xong, đến sáng ra. Lại Tứ Phần nói: Nếu người hậu An cư mà theo người tiền An cư tự tứ thì phải đợi đủ ngày. Sự Sao hỏi: Tự tứ xong được nói giới chăng? Đáp: Minh Liễu Luận nói: Trước nói giới sau mới tự tứ. Tứ Phần nói: Tự tứ tức là nói giới. Hỏi: Tự tứ có được ở trước người chưa thọ cụ giới mà làm chăng? Đáp: Trong luật khiến đến chẳng thấy chỗ chẳng nghe làm yết- ma tự tứ. Nếu chẳng chịu thì tránh đi. Tăng tự đến chẳng thấy nghe chỗ làm. Hỏi: An cư rồi phải lìa chỗ cũ chăng? Đáp: An cư rồi không đi thì phạm tội. Tỳ-ni Mẫu nói: Tỳ-kheo an cư rồi phải dời chỗ khác. Nếu không duyên mà ra giới một đêm lại trở về thì không phạm. Đại Tập Kinh nói: Ta diệt độ rồi Tỳ-kheo không giới đầy khắp Diêm-phù-đề. Người dự bị xuất gia phải rất cảnh giác. Chích Hoa Sao nói: Các kinh luật lấy ngày 16 tháng 7 xem là năm mới sanh của năm phần pháp thân của Tỳ-kheo thì ngày 15 tháng 7 là lạp trừ (đêm trừ tịch, cuối năm) Tỳ-kheo xuất tục nên không kể năm tục, chỉ đến số hạ lạp mà thôi. Tăng Huy nói: Lạp là tiếp, nghĩa là mới cũ giao tiếp nhau. Bái-nặc, hoặc Phạm bối, dịch là chỉ, nếu theo luật văn thì Bái- nặc là như pháp. Xuất Yếu Luật Nghi nói: Dịch là như đây, tiếng nước Uất-bệ(tỳ), dịch là đoạn chỉ (ngăn dứt). Lại gọi là chỉ tức, là do ngoại duyên đã dứt đã đoạn, bây giờ vắng lặng, mặc tình làm Pháp sư. Hoặc gọi Bà-thiệp là sai, tiếng Phạm là Bà-sư, dịch là tán thán (khen ngợi) là tiếng Phạm thiên. Thiện Kiến nói: Cho ông là bái, bái là từ (lời nói). Pháp Uyển nói: Tìm Tây phương có bái, cũng như tán ở Đông quốc. Tán (khen) là từ văn kết thành chương, bái là kệ ngắn làm tụng, so nghĩa và việc thì tên khác mà việc đồng. Bà-sa-ức-nhó lấy tiếng ba khế tụng mà giải pháp. Phật khen lành thay! Chân Lầm Tề Tăng Luận hay làm phạm khế v.rõ ràng Âm nghĩa nói: Chữ khế như nói một tiết, một khoa vậy. Hoằng Minh Tập Tụng Kinh ba khế. Đạo An Pháp sư tập khế Phạm âm. Phật Đạo Luận Hành nói: Trần Tư Vương ấu hàm (tuổi nhỏ được hàm khuê chương), 10 tuổi làm văn, mỗi khi đọc văn kinh thì khóc lóc khen hay, xem là cực tông của chí đạo. Bèn làm tụng bảy tiếng đọc lên ngân nga cao thấp. Đời có Phúng tụng là Hàm Hiến Chương từng dạo Ngư sơn bỗng nghe trên không trung có tiếng Phạm thiên, thanh dương ai uyển tiếng ấy động tâm nghe rất lâu mà kẻ hầu không nghe thấy gì bèn cảm thần lý, Di Ngộ Pháp Ứng bèn mộ tiếng tiết mà soạn văn Phạm bối. Bà-xà-ni-ta-bà-lâm, dịch là thinh âm. Pháp Giới Thứ Đệ nói: Âm là tiếng thuyên lý gọi là âm. Phật lên tiếng, phàm có chỗ nói bàn thì lời lẽ thanh nhã, người nghe không chán, nghe không biết đủ, haylàm tất cả, làm nhân duyên cho vui cứu khổ, không gì bằng lợi ích nghe tiếng tức là dùng từ mà tu miệng. Cho nên có tám âm: một là âm rất hay, hai là âm dịu dàng, ba là âm hòa thích, bốn là âm tôn tuệ, năm là âm chẳng người nữ, sáu là âm không sai lầm, bảy là âm sâu xa, tám là âm chẳng hết. Lăng-nghiêm nói: Chân giáo thể phương này thanh tịnh ở âm thanh, muốn lấy Tam-ma-đề, thật lấy nghe mà vào. Đại Luận nói: Bồ-tát có hằng hà sa số âm thanh, âm thanh Phật cũng vô số. Như Kinh Mật Tích nói: Mục-liên thử tiếng nói Phật, ở cực cùng phương Tây cũng nghe tiếng Phật như ở trước mặt. Hỏi: Nếu thế Phật thường ở tại cõi nước xóm làng thuyết pháp giáo hóa mà người trong cõi Diêm-phù-đề không đến bên Phật thì chẳng được nghe, làm sao biết có nhiều người từ phương xa đến muốn nghe thuyết pháp? Đáp: Âm thanh Phật có hai thứ: một là âm thanh mật khẩu, hai là âm thanh chẳng mật khẩu. Mật khẩu âm thanh như trước đã nói, âm thanh chẳng mật khẩu phải đến bên Phật mới nghe. Cũng có hai thứ đệ tử: một là thánh nhân xuất thế, hai là thế gian phàm phu. Thánh nhân xuất thế như Mục-kiền-liên v.v… hay nghe âm thanh vi mật còn người phàm phu phải đến gần mới nghe. Đại Luận nói: Âm thanh Phật, Bồ-tát có ba thứ: một là đời trước có trồng nhiều thiện âm thanh nhân duyên (nhân duyên tiếng tốt) nên trong cổ họng được bốn đại vi diệu hay phát ra các thứ tiếng hay xa gần (vang xa) một dặm, hai dặm, ba dặm, mười dặm, trăm ngàn dặm cho đến ba ngàn Đại thiên thế giới tiếng đều đầy khắp; hai là sức thần thông cổ họng bốn đại ra tiếng thì cùng khắp đến ba ngàn Đại thiên thế giới và Hằng hà sa thế giới mười phương; ba là âm thanh (tiếng) Phật luôn cùng khắp hư không mười phương. Hỏi: Nếu âm thanh thường hay cùng khắp mà sao chúng sanh ngày nay chẳng được nghe? Đáp: Chúng sanh từ vô lượng kiếp đến nay, bị các ác nghiệp đã làm che bít nên không nghe. Ví như sấm sét ồn ào mà người điếc không nghe, mà tiếng sấm không giảm. Phật cũng như thế thường vì chúng sinh nói pháp, rồng làm tiếng sấm vang xa, chúng sanh vì tội nên tự không nghe. Tiếng có tám chuyển: một là thể, hai là nghiệp, ba là cụ, bốn là vi, năm là tùng, sáu là thuộc, bảy là ư, tám là hô. Bảy chuyển thường dùng, tiếng hô ít dùng, cho nên chỉ nói bảy thứ. Theo phép nước Tây Vức muốn tìm đọc sách vở trong ngoài (nội ngoại) cần phải hiểu tiếng và luận tám chuyển, mới biết văn nghĩa rõ ràng. Một là Bộ-sa, đây là tiếng chỉ thẳng, như người chặt cây chỉ nói người ấy tức kim thể thinh. Hai là Bộ lô-sam, là tiếng tác nghiệp (làm nghề?), như nghề chặt cây. Ba là Bộ lô-tư-noa, là tiếng hay làm đồ, như do búa chặt thì gọi là đồ chặt cây. Bốn là Bộ lô-sa-da, là tiếng chỉ người làm như làm người chặt cây. Năm là Bộ lô-sa-đỏa, là tiếng từ, như người tạo nhà thì gọi là từ, tức là nhân. Sáu là Bộ lô-sát-ta, là tiếng thuộcvề, như nô tỳ thuộc chủ. Bảy là Bộ lô-giới, là tiếng ở, như khách nương chủ, tức là ở, nương. Tám là Khế bộ lô-sa, là tiếng gọi mời, nên gọi là hô. Lại trong các chú, hai chữ họp làm một tiếng thì gọi là nhị họp, như nói ta-tha và đát-đa v.v… Hoặc dùng ba chữ liền nhau họp làm một chữ, đọc nhanh lên thì gọi là tam họp, như độc-lỗ-am và câu-lô-xá v.v… Hán Thư nói: Tiếng là cung thương giốc trũng vũ. Câu Ẩn Đồ nói: Tiếng thuộc dương, luật, thuộc âm. Dương Tử nói: Tiếng sanh bởi mặt trời, luật sanh bởi ngôi sao. Bát-để-bà (Sarasvatì?), dịch là biện tài, tức tài biện thuyết xoay vần không trệ nên biện biệt giỏi, quyết liễu rõ ràng. Phụ Hành nói: Biện có bốn thứ là nghĩa, pháp, từ và lạc thuyết. 1- nghĩa, tức là hiển bày rõ nghĩa các pháp. 2- Pháp, tức là nói tên các pháp. 3- Từ, tức là lời lẽ bàn về các pháp. Tuy có ba thứ này nhưng cần phải ưa nói (lạc thuyết) thật hay về ba thứ trước. Đại Phẩm nói: Từ chỗ chư Phật nghe nhận giáo pháp đến Tát-bà-nhã từ đầu không dứt. Khi chưa lìa Tam- muội sẽ được. Tiệp tật biện, lợi biện, bất tận biện, bất khả đoạn biện, tùy ứng biện, nghĩa biện, nhất thiết thế gian tối thượng biện… Trí Luận nói: Đối với tất cả pháp vô ngại nên được Tiệp tật biện (nhanh chóng). Có người tuy nhanh chóng songvì độn căn nên không thể vào sâu, vì hay vào sâu nên được lợi biện (trôi chảy). Nói các pháp thật tướng vô biên vô tận nên gọi là Lạc thuyết vô tận. Trong Bát-nhã không có các hý luận (bàn chơi), cho nên không thể vấn nạn dứt hết, nên gọi là biện bất khả đoạn (biện chẳng thể dứt). Vì đoạn pháp ái nên tùy chúng sanh cần mà vì họ nói pháp nên gọi là tùy ứng biện. Nói việc lợi ích đến Niết-bàn nên gọi là nghĩa biện. Nói việc tất cả bậc nhất ở thế gian, tức là Đại thừa nên gọi là thế gian tối thượng biện. Lương Tăng Truyện nói: Việc quý của nói dắt có bốn: một là tiếng, chẳng có tiếng thì không thể nhắc nhỏ chúng, hai là biện, nếu không có biện thì không thích thời, ba là tài, nếu không có tài lời không thể biện, bốn là bác, nếu không có bác (biết rộng) thò lời không có y cứ. Sự Sao nói: Xưa nói bác học (học rộng) là cứu nghèo. Hội chính Ký nói: Lời nói cũ xưa. Tăng Truyện nói: Học chẳng chán rộng, rộng thì thông. Khổng Tử nói: Quân tử bác học ở văn, lấy lễ mà ước cũng có thể không bờ bến. Nếu sống mà nghèo thì ở (tối với) học là Nho phu, nếu ở chết mà giàu thì ở (đối với) đạo là quân tử. Thế nên biết bác học là cứu nghèo của kiến thức. Tư Ích nói: Đối với chúng sinh bị đọa lạc nơi tà đạo thì sanh tâm Đại Bi (thương xót) khiến vào chính đạo, không cầu trả ơn, nên gọi là Đạo sư. Bàn-na-mi (Vaưdana), gọi là Thanh luận hoặc Bàn-đàm, gọi là Hòa nam đều dịch là Ngã lễ. Hoặc gọi Na-mô-tất-yết-la, dịch là lễ bái. Nay nói lễ và bái tuy tên có thông, nhưng cục có dài ngắn. Kinh nói lễ là lý, tức tới lui có mức độ, lớn nhỏ có phần, nên gọi là lễ. Lễ Ký nói: Lễ cũng là thể. Thể không đủ thì quân tử nói chẳng thành người. Nên Khổng Tử nói: Chẳng phải lễ chớ nhìn, chẳng phải lễ chớ nghe, chẳng phải lễ chớ nói, chẳng phải lễ chớ động. Thế thì phàm chỗ ra làm đều phải họp lễ. Đây là nêu tên lễ gọi thông. Bạch Hổ Thông nói: Người bái nhau là sao, do đó mà bày tình thấy ý các khuất tiết về tôn ti của lễ sự. Bái tức là Phục. Cho nên Chu Lễ nói chín bái. Đây là nêu tên Bái gọi Cục. Nêu y vào Thích thị như Nam Sơn nói: Bốn oai nghi nếu không pháp nhuận bèn gọi là khô cao chúng sinh. Cho nên ngài Thiên Thai nói: Bốn pháp Tam-muội, thì biết bốn nghi pháp gọi là Lễ, thân nghiệp cung kính gọi là Bái. Đây cũng là lễ thông bái cục vậy (lễ là chung, bái là hạn cục). Nay dịch lễ là bái. Nên Đại Luận nói: Lễ có ba: một là khẩu lễ (miệng lễ), hai là quỳ gối mà đầu không đụng đất, ba là đầu đụng đất. Đó là thượng lễ. Một là Khẩu lễ, là như chấp tay hỏi thăm nhau. Quán Âm nghĩa Sơ nói: Phương này lấy vòng tay là cung kính, ngoại quốc lấy chấp tay là cung kính. Tay vốn ở bên nay họp làm một là biểu thị chẳng tán đản (tán loạn) mà chuyên về một lòng. Tăng-kỳ Luật nói: Lễ bái chẳng được như dê câm, phải hỏi thăm nhau. Nhó Nhã nói: Tấn là nói. Địa Trì Luận nói: Phải an ủi, vui vẻ khi nói, nhìn ngang, hòa sắc chính niệm trước khi hỏi thăm. Thiện Kiến Luận nói: Tỳ-kheo đến chỗ Phật thăm hỏi rằng có ít bệnh ít não, có an lạc chăng. Hai là quỳ gối, tức là quỳ xuống. Âm nghĩa Chỉ Quy nói: Chẳng họp gọi là hồ qui. Bởi Phạm thế là giống còn sót lại (để giống lại?) ở Ngũ Trúc, ở phía Bắc Thông lãnh có các giống rợ Nhung Khương Hồ. Nay kinh luật đã dịch là Hổ quỳ lấy ba chỗ kiêu tủng (còn cao) nên gọi là Hổ quỳ, tức là gối hữu đụng đất. Niết-bàn Sớ nói ba nghĩa: một là gối hữu có sức quỳ yên lâu, hai là gối hữu có sức đứng dậy nhanh, ba là gối hữu cử động hay đụng đất khiến an. Nếu hai gối đều chạm đất thì gọi là Trường quỳ. Tỳ-nại-da nói: Ni nữ thể yếu, hổ quỳ ắt ngã nên Phật cho trường quỳ (quỳ mọp hai gối). Ba là đầu chạm đất, tức năm vóc sát đất. Nên Đại Luận nói: Thân người đầu là cao nhất, chân là thấp nhất, lấy đầu mà lạy dưới chân là cung kính hết mức. Phụ Hành nói: Theo Địa Trì, A-hàm thì đều nói hai gối, hai cùi chỏ và đầu chạm đất gọi là năm thể đầu địa, cũng gọi là năm luận, vì năm chỗ tròn vậy. Lại Lặc-na Tam Tạng nói: Có bảy thứ lễ: một là ngã mạn lễ, nghĩa là ỷ chức tước không có tâm cungkính, hai là xướng họa lễ, là lớn tiếng ồn ào lời câu lộn xộn, ba là cung kính lễ, tức năm luân chạm đất, hai nâng chân ân cần, bốn là vô tướng lễ, là thân nhập pháp tính lìa tướng năng sở (không quán), năm là khởi dung lễ, tuy không năng sở khắp vận thân tâm như ảnh biến khắp lễ chẳng thể lễ (giả quán), sáu là nội quán lễ, làchỉ lễ pháp thân chân Phật trong thân chẳng hướng bên ngoài mà cầu (trung quán), bảy là thật tướng lễ, là hoặc trong hoặc ngoài đồng một thật tướng (ba đế một cảnh). Tây Vức Ký nói: Pháp Chí Kính thì nghi có chín: một là phát lời thăm hỏi, hai là cúi đầu bày kính, ba là giơ cao tay vái chào, bốn là chấp tay vòng hầu, năm là gập gối, sáu là trường quỳ (quỳ mọp hai gối) (sáu và bảy giống y nhau?), bảy là gối đụng đất, tám là năm luân đều co gập, chín là cả năm thể đều chạm đất. Phàm chín thứ lễ này duy nhất chỉ một bái quỳ mà khen đức, gọi là tận kỉnh. Kinh Xá-lợi-phất hỏi nói: Phật bảo: Khi cúng dường phải bày vai mà tiện làm việc. Bậc phước điền thì phải che kín hai vai để bày tướng phước. Bất Bái Vương Luận nói: Có Tín só năm giới thấy, thần chẳng lễ. Vua hỏi: Sao chẳng lễ (lạy)? Đáp: Sợ thần tổn phước. Vua bảo: Cứ lễ đi. Tín só bèn lễ thì tượng thần vỡ tan. Lại vua Ca-ni-sắc-ca thọ năm giới của Phật vào lễ miếu thần thì tượng thần đổ sụp. Sau người giữ miếu làm tượng Phật để trên mão của thần, vua lễ thì không sao, lấy làm lạ hỏi, thì đáp trong mão thần có hình tượng Phật. vua rất mừng, biết Phật là hơn hết mà khoan thứ. Lại Cảm Thông Lục nói: Đường Thục Xuyên có Thích Bảo Quỳnh xuất gia ăn chay đọc tụng Đại Phẩm. Bổn ấp có liên tỷ thập phương (so sánh các thứ) đều thuộc họ gạo nên không đem cúng Phật, Sa-môn không vào làng ấy, cho nên các bà cô không biết chúng ấy (là đông?), Quỳnh nghó cách cứu giúp, đợi khi hội chúng bèn đến ngồi mà không lễ, chúng đạo đều nói không lạy Thiên Tôn không phải là Sa-môn. Quỳnh nói: Tà chính khác đường chỗ thờ đều khác, trời còn lễ ta sao ta được lễ lão quân. Chúng bàn tán phân vân, Quỳnh nói: Nếu ta lễ xuống ắt tặng nhục, rồi lễ một lạy thì tòa ngồi các tượng đềy lay động không yên, lễ một lạy nữa thì rơi ngổn ngang xuống đất. Bèn họp chúng lễ Quỳnh mà đồng tin tưởng. Kinh Phạm Võng nói: Phép người xuất gia chẳng phải lạy vua, chẳng lạy cha mẹ, sáu thân chẳng kính, quỷ thần chẳng lễ. Tây Vức Ký nói: Xưa có Đức Quang luận sư tiếp lên gặp Từ Thị, thì bảo Ngài ấy không mang hình thức xuất gia nên chỉ vái dài mà không lễ. Hỏi vì sao không khinh Tỳ-kheo mà khắp lễ bốn chúng, ngài Kinh Khê giải thích rằng: Bồ-tát hóa duyên không theo một phép chỉ lợi là làm, cho nên bày nghi này. Chúng sanh thấy lý cùng quả lý bằng nhau cho nên lễ chúng sanh hay lễ Phật thì nguồn gốc chẳng khác vì muốn khiến mến mộ quả nguyện, quả nguyện là sao? Chúng ta chỉ là lý họ chuộng nên lễ huống đã chứng quả lý mà không tôn cao ư? Lại nói: Các ông đều làm đạo Bồ-tát ắt sẽ được làm Phật, há không phải là kích ngã (kích thích ta) khiến tu viên nhân. Đây là ước hiện tại mà thuận thọ. Hỏi: Trong ôm giải (hiểu) chẳng khinh ngoài kính cảnh chẳng khinh (ngài Bất Khinh?) sao bỏ chân tính phi cầm mà xao nhãng (chạy theo?) gốc nguồn tẩu thứ? Đáp: Người biết nghĩa mới có thể kích phát dị loại (cầm thú) mà biết uổng nhọc khuyên tin, ý chỉ chẳng lễ là ở đó ư? Chẳng khinh (ngài Bất Khinh?) lễ tục, kính cẩn nghe lệnh. Vì sao trong Phương Trượng Tăng Lễ Duy-ma, cho nên kinh ấy nói: Duy-ma cư só tự vào Tam-muội khiến Tỳ-kheo này tựb túc mạng đã phát tâm Bồ-đề, do đó các Tỳ-kheo này cúi đầu kính lạy dưới chân Duy-ma-cật. Thiên Thai hỏi: Xuất gia sao còn lễ tục? Đáp: Ân sâu khiến vào đạo nát thân cũng khó đáp đền, các Tỳ-kheo này mới làm đại đạo há giữ tiểu nghi. Lại Kinh Niết-bàn nói: Có người biết pháp hoặc già hoặc trẻ nên phải cung kính cúng dường lễ bái. Nhập Đại thừa Luận nói: Mặc pháp phục Bồ-tát phương tiện tùy thuận được lễ kẻ bạch y kính trọng như Phật, đó là pháp chẳng phải một loạt. Sao không thể ở người có ích thì lễ, phải quên thân mình mà phụng pháp có tổn liền thôi, chẳng phải nghịch mang để lợi vua là gì? Hách liên bột bột cứ (bàn cơ) có người ở Hạ châu hung bạo không chán giết người làm vui, vẽ tượng mang vào mình bắt tăng phải lạy, bèn bị trời sét đánh chết. Đây chủ bạo ngược không phải là vua thánh minh chẳng tuân lời Phật dặn dò nên trái lời ký thác. Đâu biết ngàn Thánh lập pháp muôn xưa đồng phong, sao lấy lễ triều đình mà trách người tu hành. Chỉ sợ người sau chưa biết nên nhu hào mà chép bày. Nam-mô (Namas), hoặc na-mô hay nam-ma, dịch là quy mạng. Yếu Luật Nghi dịch là cung kỉnh. Luật Thiện Kiến dịch là quy mạng giác, hoặc dịch tin theo. Pháp Hoa Sớ nói: Nam-mô có nghĩa là Đại hữu, hoặc nói độ ngã. Có thể là nói chúng sinh, nếu Phật đáp chư Phật mà nói là độ ngã thì bất tiện. Kinh Năm Giới gọi là Kỉnh bố. Kỉnh bố có thể chính nói Phật, hiểm nạn sanh tử thật đáng kinh sợ. Đại Phẩm nói: Phật bảo nếu có một người niệm nam-mô Phật cho đến hết khổ thì phước bất tận. Trí Luận hỏi rừng: Vì sao chỉ không mà xưng tên (gọi Phật khống chẳng có tên gì?) mà được hết khổ và phước bất tận? Đáp rằng: Người ấy từng nghe công đức Phật độ được các khổ lão, bệnh, tử, hoặc nhiều hoặc ít cúng dường và xưng danh hiệu thì được vô lượng phước. Hoa Nghiêm nói: Thà chịu khổ địa ngục mà được nghe tên chư Phật, chẳng chịu hưởng vô lượng vui mà không được nghe tên Phật. Do đó từ xưa vô số kiếp mãi bị trôi giạt trong sanh tử vì không nghe tên Phật Đại Phẩm nói: Khi ta được A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề thì chúng sanh trong mười phương qua hằng sa thế giới ai nghe tên ta ắt được A-nậu-đa-la- tam-miệu-tam-bồ-đề. Trí luận hỏi: Có người sanh trong Phật pháp khi Phật còn tại thế hoặc bị đọa địa ngục như Đề-bà-đạt-đa, Cu-ca-lê, Ha- đa-thích-tử (quở trách nhiều thức thử) v.v… ba thứ thiện pháp che tâm mà đọa địa ngục. Trong đây vì sao lại nói chúng sanh trong hằng sa thế giới chỉ nghe tên Phật thì liền được Đạo? Đáp rằng: Có chúng sinh phước đức thuần thục, các kiết sử ở tâm rất mỏng nên sẽ được đạo. Nếu nghe tên Phật liền trì thì được Đạo. Lại nữa, vì oai lực của Phật nên nghe tên thì liền được độ. Ví như mụt ghẻ chín mùi mà không trị khi gặp nhân nhỏ thì liền vỡ ra. Như quả chín nếu không người hái, gặp gió nhẹ thì liền rụng, như vải lụa trắng tinh dễ nhuộm màu. Di-la (Maitri), dịch là Từ. Tịnh Giác nói: Từ gọi là Ái niệm. Quan Âm Huyền nghĩa nói: Vì quán tính Đức Thiện ưa thích vui mừng liền khởi tâm Đại Bi mà muốn cho vui. Đại kinh nói: Từ có ba thứ: Một là duyên với chúng sinh, là quán tất cả chúng sanh như cha mẹ thân thích; hai là Duyên với Pháp là thấy tất cả pháp đều từ duyên sanh; ba là Vô duyên, là chẳng trụ vào pháp tướng và chúng sanh tướng. Trí Luận nói: Có ba thứ Từ: Một là sanh duyên Từ là chúng sinh trong mười phương năm đạo lấy một tâm từ mà nhìn như cha mẹ anh chị em con cháu tri thức, thường cầu việc tốt muốn khiến họ được lợi ích an lạc. Tâm như thế biến khắp trong chúng sanh ở mười phương. Từ như thế gọi là chúng sinh duyên, phần nhiều là chỗ làm của người phàm phu hay người học chưa được lậu tận; hai là Hành pháp duyên, các La-hán lậu tận và Bích- chi Phật là các Thánh nhân đã phá ngã tướng, diệt tướng một và khác, cho nên chỉ quán theo nhân duyên nối tiếp sanh các dục tâm, thương xót (từ niệm) chúng sanh từ nhân duyên hòa hợp tiếp nối sanh ra chỉ không năm chúng tức là chúng sanh nghó là năm chúng vì từ niệm (thương xót) chúng sanh không biết là pháp không mà luôn một lòng muốn được vui. Thánh nhân thương xót khiến tùy ý được vui, là pháp thế tục nên gọi là Pháp Duyên; ba là Vô duyên, Từ ấy chỉ chư Phật mới có, vì sao, vì tâm chư Phật không trụ vào tính Hữu vi vô vi, không nương cậy vào đời quá khứ vị lai hiện tại. Biết các duyên là chẳng thật, điên đảo hư vọng (dối trá) cho nên tâm không duyên đến Phật vì chúng sinh chẳng biết các pháp thật tướng mà qua lại năm đạo, tâm mê đắm các pháp, phân biệt lấy bỏ, đem các pháp thật tướng trí tuệ ấy khiến chúng sinh được nên gọi là Vô duyên. Ca-lâu-na (Karunà), dịch là Bi. Tịnh Giác Ký nói: Bi là mẫn thương (thương xót). Quan Âm Huyền Ký nói: Vì quán tính đức ác độc mà trắc ẩn thương xót khởi tâm Đại Bi muốn cứu khổ ấy. Bi ấy cũng có ba thứ, có tên đồng với ba từ đã nói. Quan Âm Huyền Ký nói: Nếu nói cho tiện thì trước từ sau bi, cũng là bổn hoài (chỗ mong muốn) của Bồ- tát muốn đem đại từ mà ban vui. Đã chẳng được vui bèn lấy Đại Bi mà cứu khổ. Cho nên trước từ sau bi. Nếu theo thứ tự thì trước phải dùng Đại Bi mà cứu khổ rồi sau mới đem đại từ mà ban vui. Nói về hành giả thì trước phải thoát khổ rồi sau mới mong vui. Cho nên trước phải bi rồi sau mới từ. A-đàn (Anàtman) hoặc gọi A-nại-ma, dịch là vô ngã. Thuyết Văn nói: Ngã là gọi thân mình. Hoa Nghiêm nói: Phàm phu không có trí chấp trước ở ngã. Trí luận nói có hai thứ: Một là Tà ngã, hai là Mạn ngã. 1/ Tà ngã là như Phụ Hành nói: Kẻ chư được thiền nếu khởi tập xưa chỗ có phiền não và nhân hiện ấm, mà khởi ngã kiến. Nhưng vẫn thuộc độn sử, sơ quả chỗ đoạn. Đây suy lý kiến (mà thấy) và phát được kiến (thấy) đều gọi là Tà ngã. 2/ Mạn ngã, như Chỉ Quán nói: Như các loài máy động thật chẳng suy lý mà tự nổi giận phùng mang trợn mắt tự đại, xem mọi người là kém cỏi thì đâu từng chấp kiến, đi đứng ngồi nằm luôn khởi tâm ngã. Đây là Mạn ngã. Trong kinh Đại Bảo Tích Phật bảo Ca-diếp rằng: Ví như bịnh nghẹt họng có thể chết. Như thế Ca-diếp, trong tất cả kiến chỉ có ngã kiến tức thời làm chết mạng trí tuệ. Kinh Địa Trì nói: Thọ sanh ở thế gian, đều do đắm trước ngã, nếu lìa đắm trước ngã thì thế gian không có chỗ thọ sanh thân. Vô Trước Luận nói: Lấy tự thể tiếp nối làm ngã tưởng, lấy ngã sở làm chúng sanh trưởng, gọi ngã cho đến thọ trụ làm mạng tưởng, xoay vần đến các thú khác làm Nhân tưởng. Đại Luận nói: Ngã là ấm giới nhập kể là ngã, ngã sở, hoặc tức hoặc lìa. Nhân nghĩa là trong ấm giới nhập gọi ngã là hành nhân. chúng sinh là trong ấm giới nhập hòa hợp kể có ngã sanh. Thọ là ở trong ấm giới nhập kể một kỳ báo hoặc dài hoặc ngắn. Phụ Hành nói: Ngã là tính kể bên trong, nhân là tính kể bên ngoài, chúng sanh là lấy nối trước làm nghĩa. Thọ là lấy thú sau làm năng. Phàm phu đã chấp ngã đảo, Phật vì Nhị thừa nói pháp vô ngã, cho nên Trí Luận gọi là Danh tự ngã. Như Đại Thừa Nhập Lăng Già nói: Tâm mình hiện ra, thân và khí thế gian đều do tạng tâm hiện ra, sát-na tiến nối biến hoại không dừng như dòng nước chảy, như hạt giống, như sáng đèn (lửa), như gió nhanh, như mây nổi, máy động không yên như khỉ vượn ưa chỗ bất tịnh như ruồi lằng chẳng biết chán như lửa dữ dối trá từ vô thủy, tập khí làm nhân trong các thú, trôi giạt mãi không dừng như trục quay kéo nước giếng. Các thứ thân sắc oai nghi (cử chỉ) tới lui ví như thây chết nhờ chú thuật mà biết đi, cũng như người gỗ (con rối) kéo dây mà cử động. Nếu hay ở đây mà biết rõ các tướng thì gọi là Người trí vô ngã. Đại Luận nói: Chỉ ở năm chúng lấy tướng kể có tướng người (nhân) mà sanh ngã tâm vì ngã tâm nên sanh ngã sở, vì tâm ngã sở sanh nên có lợi ích của ta (ngã) mà sanh tham dục cái nào trái nghịch ta thì sanh giận hờn. Kiết sử này không từ Trí sanh mà từ cuống hoặc (mê lầm) sanh ra, đó gọi là si. Ba độc là gốc của tất cả phiền não đều do ngã của ta. Cho nên làm phước đức để sau này Ta sẽ được, cùng là giúp tu đạo pháp ta sẽ được giải thoát. Vì lấy tướng đó nên gọi là tưởng chúng nhân ngã của ta khởi kiết sử và các hạnh lành nên gọi là Hành chúng. Hai chúng ấy là pháp niệm xứ ở trong pháp Tưởng - Hành chúng tìm ngã không thể được. Vì sao thế? Vì các pháp ấy đều từ nhân duyên sanh. Đều là tác pháp (pháp tạo ra) không bền chắc, là pháp không thật ngã, Hành như thân cây chuối lột các bẹ ra bên trong không có gì chắc thật. Tưởng như nhìn xa thấy có ngựa hoang, không có nước mà tưởng như có nước, chỉ đánh lửa ở mắt (ảo giác) mà ngã vốn vắng lặng. Nhị thừa đã chấp bốn khổ, nên Phật ở trong vô ngã mà bày chân ngã. Cho nên kinh Niết-bàn nói tám tự tại: Một là hay hiện một thân hay nhiều thân số như vi trần; hai là trần thân đầy khắp cõi Đại Thiên; ba là đại thân (thân lớn) nhẹ bay (lắc nhẹ) đến rất xa; bốn là hiện vô lượng loài cùng ở một nước; năm là các căn đều dùng cho nhau; sáu là được tất cả pháp tưởng như không pháp; bảy là nói một kệ trải qua vô lượng kiếp; tám là thân như hư không còn mất tùy nghi khôn cùng. A-lan-na (Àranya), Triệu dịch là: Vô tránh hay Tịch tịnh. Kinh Tọa Thiền Tam-muội nói: Vô tránh là hộ trì chúng sinh khiến không đấu tranh nhau. Ngài La-thập chú thịch Tịnh Danh nói Vô tránh có hai: Một là dùng sức Tam-muội hộ trì chúng sanh khiến không khởi tâm đấu tranh; hai là tùy thuận pháp tính không trái không tranh. Đà-na-diễn-na (Dhyàna), dịch là Tịnh lự. Bà Sa Luận nói: Định này định huệ bình đẳng, các định thì thiếu kém chẳng gọi là Tịnh lự. Tịnh tức là định, lự tức là huệ. Mạt-đà-ma, Bản Kinh Chú rằng: Mạt nghĩa là không, đừng. Đà- ma nghĩa là trung, là đừng mê đắm Trung đạo. Tỳ-đát-ca (Vitarka), dịch là Tầm. Tỳ-giá-la (Vicàra), dịch là Từ. Tạng Sớ nói: Tầm nghĩa tìm cầu (kiến), Từ nghĩa rình xét. Tâm thô thì gọi là Tầm, Tâm tế thì gọi Từ. Luận nói: Vào Tam-ma-địa có ba thứ: 1. Có tầm có Từ tức là Sơ thiền đến Vị chí định; 2.Không Tầm chỉ có từ là Trung gian thiền, sáu trời Phạm nhờ sức định trung gian mà cảm được; 3. Không Tầm không Từ, tức là Nhị thiền cận phần cho đến trời Phi Phi Tưởng. Tầm tư cũng gọi là Giác quán. Trí Luận hỏi: Có giác có quán là một pháp hay hai pháp? Đáp: Hai pháp. Thô tâm sơ niệm gọi là Giác, Tế tâm phân biệt gọi là quán. Như đánh chuông tiếng lúc đầu gọi là giác, tiếng lúc sau nhỏ gọi là quán. Hỏi: Vì sao Tỳ-đàm nói: Cõi Dục giới cho đến Sơ thiền trong một tâm giác quán tương ưng nhau, nay lại nói Tô tâm sơ niệm gọi là giác, tế tâm phân biệt gọi là quán? Đáp: Hai pháp tuy ở một tâm nhưng hai tướng khác nhau, khi giác thì quán không rõ ràng, khi quán thì giác không rõ ràng. Ví như mặt trời mọc thì các sao đều biến mất, tất cả tâm tâm số pháp tùy lúc mà được tên cũng như thế. Tam-bạt-la (Saưbhàra), Tần gọi là phát thú hoặc chí tấu, tấu là tiến. Đạt-thấn (Daksinà), Tôn Bà-tu-mật Luận gọi Tác Đàn Thấn, dịch là Tài Thí, giải rằng: Pháp Báo Thí gọi là Đạt-thấn. Dẫn dắt phước địa cũng gọi là Đạt-thấn. Tây Vức Ký nói: Gọi đúng là Đạt-thấn-noa giả hữu (là bên hữu, hoặc gọi Đà-khí-ni, vì dùng tay hữu mà nhận vật người cho là sanh phước ấy. Triệu nói: Phàm hội người ở nơi nào không thể hẹn một lần rồi thôi, phàm đem tiền giúp người không thể một lần mà chu toàn. Ấy vì hội thông vô ngung là Di Luân bà bất lậu. Pháp trạch nmgầm giúp chẳng dễ mà khắp che. Chu-la (Cùdà), Lập Thế Tỳ-đàm nói: Người Diêm-phù y phục trang nghiêm không giống nhau. Có người trên đầu để một búi tóc, các tóc khác đều cạo hết, gọi là Chu-la-kiết (búi tóc Chu-la). Ứng Pháp sư nói: Dịch là tiểu, tức là búi tóc nhỏ. Hoằng Minh Tập nói: Cạo tóc làm xấu hình dung, sự lo cao khiết, từ thân cắt ái ý đến Thánh phương. Bỏ ham muốn ở tâm ban đầu, quên hình hài ở quả cuối, sao quyến luyến ba cõi, há ham hố sáu Đạo ư? Tát-bà-đa nói: Cạo tóc cắt móng là lời Phật dạy. Luật nói: Nửa tháng phải cạo tóc đầy là lệ thường. Niết-bàn nói: Tước ác Tỳ-kheo đầu cổ râu tóc đều dài, là tướng phá giới. Thử xem ở đời rộng nói cương mục vạn hạnh, miễn tưởng khế lý, chỉ nói cương yếu bốn câu. Cho nên mười hai năm tóm tắt giáo dạy rằng: Các ác chớ làm, các thiện nên làm, tự tịnh ý mình, là giáo của Phật. Diệu Huyền giải thích rằng: Các ác tức bảy chi tội lỗi, khinh trọng quấy trái các ác như thế dạy phải phòng ngăn. Các thiện tức là ba nghiệp thiện hoặc tan hoặc tịnh trước sau phương tiện. Chi làm công đức đều là thanh thăng, nên gọi là thiện. Tự tịnh ý mình là phá các tà đảo, hiểu rõ nhân quả thế gian xuất thế gian pháp môn chính trợ, hay trừ tâm cấu, tịnh các hà uế, có gì hơn bể rộng tuệ Phật pháp, đây đều nhiếp hết. Chỉ do quán cơ ưa thích làm thiện chẳng đồng, ứng vật tùy nghi bày Hạnh có khác. Hoặc luận căn tính thì nêu Biệt Viên khác nhau. Vả Lai Căn tính Tín Pháp thì Tát-bà-đa nói: Nhân nghe mà vào ấy là Tín hạnh, nhân nghó mà vào ấy là Pháp hạnh. Đàm Vô Đức nói: Vị ở phương tiện tự thấy pháp ít. Bằng vào sức nghe nhiều sau cần nghe pháp mà được ngộ, thì gọi là Tín hạnh. Bằng vào sức nghe ít, tự thấy pháp nhiều, sau cần phải tư duy mà được ngộ thì gọi là Pháp hạnh. Ngài Thiên Thai xa nói (thảo) căn nguyên, nhiều kiếp nghe học, nhiều kiếp tọa thiện, được làm Tín pháp chủng tử. Kế đó Hành tướng biệt viên, như Diệu Huyền dẫn Niết-bàn nói năm Hạnh: Một là Thánh hạnh, tức là giới định tuệ làm Nhân tự hạnh; hai là Phạm hạnh, nghĩa là Từ Bi Hỷ Xả làm nhân để hóa tha, hai thứ này là Hạnh tu nhân của Địa tiền. Thùy Dụ ký hỏi các văn hoặc nói Thánh Phạm là nhân, vì sao nay nói Phạm hạnh ở quả: Đáp: Thánh phạm hai hạnh đều thông nhân quả. Đối với Thiên hạnh lấy hai thứ làm nhân. Nay nói ở quả sao nghi?; ba là Thiên hạnh tức sơ địa trở lên, chứng Đệ nhất nghĩa thiên, là lý thiên nhiên, do Lý thành hạnh nên gọi là Thiên hạnh. Thùy Dụ Ký hỏi: Trời đã là chứng sao gọi là hạnh. Đáp: Từ thiên khởi hạnh nên gọi Thiên hạnh nên Thiên hạnh vị ở Địa trụ; bốn là Anh nhi hạnh nghĩa là hạnh tu đồng ba thừa bảy phương tiện; nam là Binh hạnh nghĩa là bày thân đồng chín đạo, hiện tướng làm ba chướng. Hai thứ này đều là từ quả khởi ứng hạnh Tịnh Danh Sớ nói: Hạnh Anh nhi từ Đại Từ Thiện Căn mà khởi, hạnh Bịnh từ Đại Bi Thiện Căn mà khởi. Tứ Giáo nghĩa nói: Đồng sanh bên thiện gọi là hạnh Anh nhi, đồng sanh bên phiền não gọi là hạnh Bịnh. Song năm hạnh này nếu gặp ba Đế thì Thánh hạnh là Chân đế, Phạm hạnh, Anh nhi, Bịnh hạnh là Tục đế, Thiên hạnh là Trung đế. Lại y phương pháp giải thích Viên năm hạnh thì kinh nói: Như Lai trang nghiêm mà tự trang nghiêm tức Viên Thánh Hạnh Như Lai Thất tức Viên phạm hạnh Như Lai tòa tức Viên thiên hạnh. Như Lai y thì có hai thứ, Nhu Hòa tức là Viên anh nhi hạnh, nhẫn nhục tức Viên bịnh hạnh. Đại Kinh nói: Lại có một hạnh là Như Lai hạnh tức gọi là Đại Thừa Đại Bát Niết-bàn. Đây là trình bày cương yếu Hạnh Pháp. <篇> PHIÊN DỊCH DANH nghĩa TẬP <卷>QUYỂN 5 Tập (quyển) này gồm sáu phần sau đây: Ba Đức Bí Tạng Pháp Bảo các tên Bốn mươi hai chữ Danh Cú Văn Pháp Tăng số thí dụ Bán mãn thư tịch. <詞>BA ĐỨC BÍ TẠNG. Quang Minh Huyền nói: Pháp thân, Bát-nhã, Giải thoát là ba thứ, Thường Lạc Ngã Tịnh là Đức. Không hai sanh tử là Thường, chẳng chịu hai biên là Lạc, đủ tám tự tại là Ngã, ba nghiệp thanh tịnh là Tịnh. Chương An Sớ nói: Thân pháp thân là phi sắc và phi vô sắc. Vì phi sắc nên không thể thấy hình tướng vì phi vô sắc nên không thể lấy tâm mà tưởng biết. Tuy phi sắc mà sắc đầy khắp mười phương, tuy phi phi sắc cũng có thể tìm cầu, tức đức pháp thân. Còn Bát-nhã Đức thì chẳng phải biết, chẳng phải tự, cũng chẳng phải chẳng biết, chẳng phải chẳng tự v.v… Giải thoát đức là chẳng phải cột chẳng phải thoát, chẳng phải cột mà cột, chẳng phải thoát mà thoát v.v… A Thán phẩm nói: Sao gọi là Bí Mật Tạng. Cũng như chữ y ba chấm nếu cùng ngang hay cùng dọc đều không thành y (y: ?) cũng như ba mắt trên mặt của Ma-hê-thủ-la bèn thành y, nếu ba chấm ràng buộc cũng chẳng thành y. Ngã (Ta) cũng như thế. Pháp giải thích cũng chẳng phải Niết-bàn, thân Như Lai cũng chẳng phải Niết-bàn, Ma-ha Bát-nhã cũng chẳng phải Niết-bàn, ba pháp đều khác cũng chẳng phải Niết-bàn. Ta nay an trụ ba pháp như thế vì chúng sinh gọi là nhập Niết-bàn. Chương An giải thích rằng: Nếu ước giáo xưa thì ẩn giấu nên gọi là Bí, cho đến nên gọi là Tạng. nghĩa là Vô thường che Thường, khiến Thường ẩn trốn nên gọi là Bí Mật Tạng. Kinh nay mở màng che như mặt trăng ở trên không thanh tịnh (trong sáng) hiển bày không như giáo xưa. Chỉ vì chính pháp vi diệu chẳng thể nghó bàn dứt danh lìa tướng, chúng sinh không hiểu nên gọi là Bí mật. Pháp giới bao trùm gồm nhiếp tất cả các pháp dùng mãi không hết nên gọi là Tạng. Nay giải thích văn Bí Mật Tạng có ba: Một là dụ ba điểm, hai là dụ ba mắt, ba là họp lấy ba đức. Ba văn này một lượt mà nói là từ Sự vào Lý, ba điểm là văn tự đây ước chỉ ngôn giáo, ba mắt là mắt trời đây ước với tu hành, ba đức là thầy Phật đây tức ước lý. Lại là Phật Ấn (Ấn của Phật) Ấn tức là giáo hạnh. Phàm có nói năng cùng đây tương ưng thì tức là Bí Mật Giáo, cùng tu tập tương ưng là Bí Mật Hạnh, chứng đắc tương ưng là Bí Mật Lý. Từ Ta nay an trụ trở đi là kết Bí Mật Tạng thứ tư. An trụ ba pháp là kết ba đức, vào Đại Niết-bàn kết Bí Mật Tạng. Chiêm Sát Kinh nói: Lại nữa, tâm ấy gọi là Như Lai Tạng. Nói là đầy đủ vô lượng vô biên nghiệp vô lậu thanh tịnh chẳng thể nghó bàn. Vì pháp thân chư Phật từ đời vô thủy đến nay, không chướng không ngại mà tự tại chẳng diệt. Kinh Thắng Man nói có hai Như Lai Tạng: Một là không Như Lai Tạng, tức là hoặc lìa hoặc thoát hoặc khác tất cả phiền não tạng; hai là Bất Không Như Lai Tạng, nghĩa là đủ qua hà sa Phật pháp chẳng ly chẳng thoát chẳng thể nghó bàn. Nam Nhạc Chỉ Quán nói: Một là Không Như Lai Tạng vì tâm này thể nó bình đẳng, dứt hết tướng nhiễm tịnh, không phải trực tâm thể tự tính bình đẳng nó khởi pháp Nhiễm Tịnh. Lại tự tính cũng chẳng phải có; hai là Bất Không Như Lai Tạng nghĩa là có đủ Nhiễm, Tịnh hai pháp, vì nói bất không. Trong Tịnh pháp lại có hai thứ: Một là đầy đủ tính vô lậu pháp công đức (pháp tính công đức vô lậu), hai là đầy đủ xuất bày tịnh pháp. Nhiễm pháp cùng có hai thứ: Một là đầy đủ nhiễm tính, hai là đầy đủ nhiễm sự. Tịnh Giác Thuyết Đề nói: Phải biết có hai thứ theo nghĩa tại Triền xuất triền mà phân. Nên kinh ấy nói: Nếu ở vô lượng phiền não tạng cột chặt (sở triền) Như Lai Tạng thì không nghi ngờ gì, còn pháp thân thoát ngoài vô lượng phiền não tạng thì cũng không nghi ngờ gì. Cư Thức viên Giác Sớ nói: Không Như Lai Tạng tức không có gốc trụ, Bất Không Như Lai Tạng tức là pháp được lập. Hai thứ này giải thích trái với Nam Nhạc Chỉ Quán. Lại Khởi Tín Luận nói: Một là Như thật không, vì hay rốt ráo hiển thật. Hiền Thủ giải thích: Đây vì trong Như thật trống không vọng nhiễm, không phải nói Như thật tự không, đây thì của Như thật là vọng không bèn có thể hiển bày chân lý, nên gọi hiển thật; hai là Như thật chẳng không, vì có tự thể đầy đủ tính vô lậu công đức. Hiền Thủ giải thích rằng đây có hai nghĩa: Một là khác vọng vô thể, hai là khác hằng sa có sông phiền não. Cho nên Phật tính Luận có kệ rằng: Do pháp trần không mà cùng pháp giới lìa nhau, vì Vô thượng pháp chẳng không mà cùng pháp giới theo nhau. Khuê Sơn Lược Sớ rằng: Ba nghĩa giải thích Tạng: Một (che giấu) ẩn phú mà gọi tạng, hai hàm nhiếp (gồm chứa) mà gọi Tạng, ba xuất sanh (sanh ra) mà gọi tạng. Lại Lược Sao nói năm thứ: Một là Như Lai Tạng, vì ở triền chẳng nhiễm; hai là thứ này là ở vị phàm phu mà nói; ba là Pháp thân tạng, quả vị làm hcỗ nương của công đức; bốn là xuất thế gian Thượng thượng tạng, xuất triền vượt hơn Nhị thừa Bồ-tát, hai tạng này ở Thánh vị mà nói; năm là Pháp giới tạng nghĩa là thông nhân quả, bên ngoài có tất cả nhiễm tịnh hữu vi, nên gọi là pháp giới, bên trong bao gồm tất cả hằng sa tính đức nên gọi là Tạng - Tăng Độc Chú Kim Cang Tam-muội nói: Như Lai Tạng là trụ tự tại tính chân như, trí địa của chư Phật gọi là Như Lai Tạng, hay nhiếp tất cả hữu tình ở trong trí của Như Lai nên gọi là Tạng. Hữu tình bị hoặc nhiễm phiền não vô minh che lấp nên gọi là hữu tình cảnh. Nếu cảnh vô minh hoặc nhiễm trống không, các thức chẳng khởi là cảnh như thì gọi là Như Lai Trí, vì Trí Như tức là Như Lai Tạng. Trường Thụy Giải Thích Lăng Nghiêm nói: Như Lai Tạng có bốn nghĩa dụ như biển: Một là dứt hẳn trăm lỗi (bách phi), dụ như biển sâu thẳm; hai là bao hàm vạn hữu, dụ như biển rộng lớn; ba là không đức nào chẳng đủ, như biển chứa trân bảo; bốn là không pháp nào chẳng hiện, như biển hiện các ảnh. Lại kinh Ni Kiền nói: Vua tên là Nghiêm Xí, có Đại-tát-già vào nước ấy, vua ra xa nghinh đón bèn nói với vua rằng: Đại vương nên biết nương thân phiền não mà quán thân Như Lai. Vì sao thế? Vì thân này tức là Như Lai Tạng, tất cả phiền não các cấu đều ở trong kho (tàng). Phật tính đầy đủ như vàng trong đá, lửa trong gỗ, nước trong đất, lạc trong sữa, dầu trong mè, lúa trong hạt, vàng trong kho, tượng trong mô hình, thai trong bụng chửa, mặt trời trong mây. Thế nên nói trong phiền não có Như Lai Tạng. Niết- bàn Luận nói: Ngoài thân có Phật cũng chẳng bí mật, trong thân có Phật cũng chẳng bí mật chẳng có chẳng không cũng chẳng bí mật, chúng sinh là Phật nên rất bí mật. Kinh Niết-bàn nói: Như bảy báu của người chẳng dùng ra ngoài gọi là Tàng. Người ấy do tích chứa báu này vì vị lai gọi đó là cốc (lúa) quí. Giặc đến đánh nước gặp phải vua xấu bèn lấy chuộc mạng. Lúc tiền của khó được bèn đem ra dùng. Bí tạng của chư Phật cũng như thế. Vì đời vị lai các ác Tỳ-kheo chứa vật bất tịnh vì bốn chúng nói Như Lai rốt ráo (tịch diệt) mà vào Niết-bàn đọc tụng ngoại điển chẳng dạy kinh Phật, các ác như thế khi xã hội ra đời, vì diệt các ác mà nói kinh ấy. Kinh ấy nếu diệt thì Phật pháp liền diệt muốn khiến người học thông suốt tên khác tự biết Bí tạng nên nêu rõ ra đây. Ma-ha Bát-Niết-bàn-na (Mahàparinirvàna), dịch là Đại Diệt Độ. Đại tức là pháp thân, Diệt tức là giải thoát, Độ tức là Bát-nhã. Đại Kinh nói: Niết là chẳng sanh, Bàn là chẳng diệt. Chẳng sanh chẳng diệt gọi là Đại Niết-bàn. Lăng Già nói: Điều ta nói là vọng tưởng thức diệt thì gọi là Niết-bàn. Triệu Sư trong Niết-bàn Luận nói: Tần nói vô vi cũng gọi là diệt độ. Vô vi là hư vô tịch mặc, dứt hết hữu vi. Diệt độ là nói nạn lớn đã dứt hẳn vượt qua bốn lưu. Bởi cảnh tượng này đều về dứt gọi nhà kín. Pháp Hoa và Kim Cang đều gọi diệt độ. Trang Tam Tạng dịch là viên tịch. Hiền Thủ nói: Không đức nào chẳng đủ Dự lưu viên, không chướng nào chẳng hết gọi là tịch. Khuê Sơn nói: chính gọi là tịch diệt. Theo Triệu Công nói: Nê-hoàn Tận Đế há chỉ kiết hết mà thôi, ấy thì sanh tử tịch diệt hằn nên gọi là Tận (hết) hoặc dịch là An lạc. Phàm thánh đại tiểu đều có Niết-bàn hoặc gọi là Bỉ ngạn. Triệu Sư nói: Bờ kia là bờ Niết-bàn. Bớ Niết-bàn kia há có bờ bến, vì ta khác kia nên mượn ta mà gọi kia. Trí Luận nói: bàn gọi là Thú. Niết gọi là Xuất, tức là ra khỏi hẳn các thú nên gọi là Niết-bàn. Hoặc gọi là Nê-hoàn (việt). Như Nghiêm Phật Điều nói: Phật đã Nê-hoàn, vi ngôn dứt hẳn văn mới tiếng Phạm gọi là Ba-lị-nê-phược-nẩm, dịch là Diệt độ. Nhị Giáo Luận nói: Niết-bàn là luôn luôn mát mẻ không còn sanh tử, tâm không thể dùng trí mà biết, thân không thể lấy tượng (vật?) mà lường không biết gọi tên gì cưỡng đặt là tịch, là đến mức là rốt cùng vậy. Mặc tình ở song lâm dứt chiếu mà Linh Trí vẫn còn, thể bày trà trì (xà duy) mà pháp thân luôn có. Song pháp Niết-bàn nếu bàn về nghĩa thì có thể chia làm hữu dư và vô dư khác nhau, lại có thiểu phần và rốt ráo (cứu cánh) hai thứ. Nói hữu dư và vô dư thì Quang Minh Huyền bảo: Nếu phiền não ở ba cõi hết thì là chứng hữu dư Niết-bàn, thân đốt trí tro là nhập vô dư Niết- bàn. Nói thiểu phần thì kinh Thắng Man nói: Biết khổ hữu dư, đoạn tập hữu dư, chứng diệt hữu dư, tu đạo hữu dư gọi là được Thiểu phần Niết- bàn. Được Thiểu phần Niết-bàn gọi là Hương Niết-bàn giới (về cõi Niết-bàn). Rốt ráo (cứu cánh) Niết-bàn, thì Đại Pháp Cổ Kinh nói: Cho đến được tất cả công đức, Nhất thiết chủng trí Đại thừa Niết-bàn thì sau mới rốt ráo. Kinh Pháp Hoa nói: Không kiến có người riêng được diệt độ, đều dùng Như Lai diệt độ mà diệt độ. Mới phát đại tâm phải hẹn rốt ráo. Cho nên Phụ Hành nói: Bồ-tát sơ tâm thường quán Niết-bàn là Từ Hành mới tu vậy, cũng khiến chúng sinh thường quán Niết-bàn là Hóa tha mới tu vậy. Để các con (hạt giống) trong Bí Mật Tạng là Hóa tha vào sau (hậu nhập). Ta cũng chẳng lậu sẽ ở trong đó là Tự Hành vào sau (hậu nhập). Cho nên biết Tự tha sơ tâm thì không gì chẳng tu. Tự tha hậu tâm không gì chẳng vào. Nếu muốn tu vào phải nương bốn pháp. Cho nên Niết-bàn nói có bốn pháp là Niết-bàn cận nhân: Một là gần Thiện tri thức, hai là lắng nghe chính pháp, ba là suy tư về nghĩa ấy, bốn là đúng như lời nói mà tu hành. Nếu nói siêng tu khổ hạnh là nhân duyên gần của Niết-bàn thì không có việc ấy. Gần Thiện tri thức là Chỉ Quán giải thích rằng: Đại Phẩm nói: Phật Bồ-tát La-hán là Thiện tri thức, sáu Ba-la-mật, ba mươi bảy phẩm là Thiện tri thức pháp tính thật tế là Thiện tri thức. Phật Bồ-tát v.v… có oai quang bao trùm nuôi dưỡng tức là ngoại hộ (hộ trì bên ngoài), sáu độ Đạo Phẩm là cửa vào đạo tức kẻ đồng hành. Pháp tính thực tế tức thầy chư Phật là giáo thọ. Lắng nghe chính pháp v.v… ba câu tức là ba tuệ. Hoa Nghiêm nói: Ta hoặc vì chúng sinh nói: Pháp văn tuệ, hoặc vì chúng sinh nói Pháp tư tuệ, hoặc vì chúng sanh nói Pháp tu tuệ. Nên Lăng Nghiêm nói: Tư Văn Tư Tu mà vào Tam-ma-địa. Ngài Chân Đế nói: Tán tâm gọi là phú khí vì không có Văn tuệ. Vọng tâm gọi là lậu khí tuy được mà mất vì không có Tư tuệ. Đảo tâm gọi là uế khí quấy mà gọi là phải vì không có Tu tuệ. Tịnh Danh Sớ nói: Nghe nếu không lắng nghe (nghe kỹ) thì không nhận được Nhuận nhân, nghe kỹ mà không suy nghó thì không vào sâu chỉ thú. Suy nghó mà không tu thì trọn không chứng ý, ba tuệ nếu đủ thì vào đạo chẳng nghi. Kinh Khê giải thích rằng: Niệm trước nghe rồi suy nghó là cảnh (điều phải), rồi phải đúng nghe và siêng năng mà tu hành. Phải biết ba tuệ có ngang có dọc. Ngang thì trên danh tự vị vị đều có. Dọc thì lấy danh tự làm văn (nghe), lấy quán hạnh làm tư (suy nghó), lấy tương tự làm tu. Ba tuệ đầy đủ thì hay được Định tương tự phần chân gọi là Bí tạng. <詞>PHÁP BẢO CHÚNG DANH. Quang Minh Huyền nói: Chí lý đán tôn trọng gọi là Pháp Bảo. Luận nói: Bát-nhã là một pháp, Phật nói các thứ tên là vì loài chúng sinh, tùy duyên mà lập tên khác. Như vàng là một thể mà làm thành nhiều đồ dùng, như vòng kiềng để làm đẹp, bình chén để đựng, có ngăn thứ mà tính vẫn không đổi. Cho nên Nê-hoàn thật pháp báu chúng sinh từ nhiều cửa mà vào. Đạt-ma (Dharma), dịch là Pháp. Đường Minh Duệ nói: Sạch ở tâm sau mới dùng đến pháp. Ở tâm là pháp, ở thân là giáo. Pháp có tự tướng, cộng tướng, giáo có giá thuyên biểu thuyên. Ngài Thiên Thai nói: Pháp có tám thứ: Một là Giáo, hai là Lý, ba là Trí, bốn là Đoạn, năm là Hạnh, sáu là Vị, bảy là Nhân, tám là Quả. Lược nói; Có ba nghĩa là Giáo, Hạnh, Lý. Như Xiển nghĩa nói: Để ước tu hành ba nghĩa gồm thâu, nghĩa là y giáo mà tu hành, hành thành khế lý. Nếu lấy vị mà phân thì ước giáo thuộc danh tự vị. Người nhờ giáo mà sanh giải (hiểu), ước hạnh thuộc quán hạnh tương tợ vì y giải (hiểu) mà tu hành. Ước lý ở sơ trụ vì phần chứng bản lý. Sau ước hạnh lại phải theo dung. Nếu luận tạo tu thì cũng còn ở danh tự. Ước thủ hạnh thành mời gọi là quán hạnh. Phàm phân biệt vị phải biết ý này. Nếu ước năng thuyên sở thuyên thì chỉ nói giáo lý. Nhị Giáo Luận nói: Giáo là gì, tức là nói về lý. Lý là gì, là giáo được nói giáo nếu khác thì há được đồng. Lý nếu được đồng thì giáo đâu được khác. Nôm chẳng hẹn cá, bẫy không vì thỏ, đem gọi là tên. Diệu Lạc nói: Giáo có hai thứ, giáo thuyên lý chẳng hai, giáo biểu hạnh tự phân. Giáo có hai thứ, giáo thuyên lý chẳng hai, giáo biểu hạnh tự phân. Giáo thuyên lý thì bình đẳng chân pháp giới, Phật chẳng độ chúng sinh. Giáo biểu hạnh, là chỉ do vọng trí thân sơ đến nổi khiến mê thành Hậu bạc. Thanh Long Sớ nói: Có giáo hạnh chứng gọi là chính pháp. Có giáo có hạnh mà không chứng thì gọi là tượng pháp. Tượng là giống. Chỉ có giáo mà không cả hạnh chứng thì gọi là Mạt pháp. Hành Sự Sao nói: Giáo điển lý phân ra có hai: Một là Hóa giáo, đây thông cả đạo tục; hai là Hạnh giáo chỉ cũc ở trong chúng. Đại Thừa Nhập Lăng Già nói: Giáo do lý mà thành, lý do giáo mà hiển, nên y giáo lý này chớ nên phân biệt khác. Đạt-ma-đà-đô (Dharmàdhàtu), dịch là pháp giới. Diệu Lạc nói: Không ngoài Sở thuyên (điều nói ra) nên gọi là pháp giới. Hiền Thủ nói: Y pháp sanh Thánh nên gọi pháp giới. Thanh Lương nói: Pháp giới là tất cả bản thể thân tâm của chúng sinh. Khởi Tín Luận nói: Tâm chân như tức là một pháp giới, Đại (thế là) tổng tướng pháp môn đó gọi là tâm tính chẳng sanh chẳng diệt. Tất cả các pháp chỉ y vào vọng (vong) niệm mà có sai khác. Tịnh Danh Sớ nói: Từ gốc vô trụ mà lập tất cả pháp. Thiên Thai giải thích rằng: Nếu mê vô trụ thì ba cõi sáu đạo lăng xăng mà có thì ắt lập tất cả pháp thế gian. Nếu hiểu (cởi bỏ) vô trụ tức là từ vô thủy vô chung phản bổn hoàn nguyên (xét ngược về nguồn) phát chân thành Thánh, cho nên có bốn thứ Thánh pháp xuất thế. Phổ Môn Huyền nói: Thế có ba: Một là năm ấm, hai là chúng sinh, ba là quốc độ v.v… Thế là cách biệt, tức là Thế của mười pháp giới cũng là mười thứ năm ấm, cho đến y báo cách biệt chẳng đồng. Gian là gian sai, ba mươi thứ sai khác thế gian không lầm loạn nhau, nên gọi là gian. Mỗi mỗi đều có nhân, đều có quả nên gọi là Pháp. Mỗi mỗi đều có ranh giới rõ ràng nên gọi là giới. Nay ở một pháp giới đều có mười pháp. Đó gọi là tính tướng Đẳng (là v.v… hay bình đẳng). Mười giới tức có một trăm pháp. Mười giới cùng có với nhau thì có một ngàn pháp, như thế các pháp đều là pháp nhân duyên sanh. Sáu đạo là mê lầm pháp nhân duyên sanh, bốn thánh là hiểu rõ pháp nhân duyên sanh. Các pháp nhân duyên ấy tức là ba đế. Pháp nhân duyên sanh ra, ta nói tức là không, cũng gọi là giả danh, cũng gọi nghĩa trung đạo. Thanh Lương Tân Kinh Sớ nói: Thống chỉ một chân pháp giới bảo là bao gồm cả vạn hữu tức là một tâm, song tâm chứa vạn hữu liền thành bốn thứ pháp giới: Một là sự pháp giới, giới nghĩa là phân, mỗi mỗi sai khác có phần rõ ràng; hai là lý pháp giới, giới nghĩa là tính, vô tận pháp sự đồng một tính; ba là lý sự vô ngại pháp giới, là đủ nghĩa tính và phần, vì tính phần vô ngại; bốn là sự sự vô ngại pháp giới, tất cả phần đều sự pháp, mỗi mỗi như tính dung thông lớp lớp vô tận. A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề (Anuttara-samyak-sambodhi), Triệu Luận nói: Tần gọi Vô thượng chính biến tri đạo. Không gì lớn hơn gọi là Vô thượng. Đạo ấy chân chính không pháp nào chẳng biết gọi là chính biến tri. Uyển Sư nói: A là vô, Nậu-đa-la là thượng, Tam- miệu là chính, Tam là biến là đẳng, Bồ-đề là giác. Cô Sơn Sớ nói: Cực quả siêu nhân nên gọi là Vô thượng, chính là chính quán trung đạo, Đẳng là song chiếu hai biên. Bởi quả trên ba tri. Phát Chẩn nói: Vô thượng là lý, chính đẳng giác là trí. chính là chính trung, tức tướng vắng lặng của Nhất thiết chủng trí. Đẳng là bình đẳng, tức hạnh mạo tướng loại Như thật trí. Bùi Tướng Quốc nói: Tức là diệu đạo tối thượng của chư Phật đã chứng, căn bản Diệu Nguyên của chúng sinh đã mê, cho nên phàm phu trôi nổi trong sáu đạo do chẳng phát tâm Bồ-đề này. Nay được thân người khởi ý mừng vui, cần phải bỉnh tâm đối trước tượng Phật má đốt hương dâng hoa, ba nghiệp cúng dường lập bốn hoằng thệ phát tâm thành Phật. Nên Hoa Nghiêm nói: Tâm Bồ-đề gọi là hạt giống hay sanh tất cả pháp chư Phật. Nên phát tâm này cần biết thể của nó. Thể có hai thứ: Một là Đương thể, hai là Sở y thể. Đương thể, gọi là Bi tâm, Trí tâm, Nguyện tâm ba thứ tâm này chính là Đương thể. Sở y thể là tự tính thanh tịnh viên minh diệu tâm là Sở y thể. tính tự đầy đủ gọi là Như Lai Tạng, hoặc chẳng thể nhiễm, trí chẳng thể tịnh, trống vắng lặng trong chân giác linh sáng hay sanh ra muôn pháp gọi là nhất đại sự (một việc lớn). Chỉ do chúng sanh mê lâu tính này chỉ nhân phan duyên với sáu trần ảnh tượng, chợt khởi chợt mất, lấy niệm hư vọng làm tâm của mình. Một khi mê tâm thì quyết định là sắc trong thân mà không biết sắc ngoài thân, kịp khi núi sông hư không đất đai đều là vật trong Diệu minh chân tâm. Thể của tâm này như Triệu Sư nói: Là vi diệu vô tướng chẳng thể là có, dùng thì di cân chẳng thể là không. Trong kinh Độ Nhất Thiết Trí Nhất Thiết Chư Phật Cảnh Giới, Văn Thù nói: Bồ-đề là không hình tướng vô vi. Thế nào là không hình tướng? Vì chẳng thể dùng sáu thức mà biết được. Thế nào là vô vi? Vì không sanh, trụ, diệt. Bùi Tướng Quốc nói: tính bao gồm muôn đức, thể dứt bách phi (trăm quấy), như vầng trăng sạch tròn đầy không khuyết, mây mê lầm che lấp không tự trang biết. Khi vọng hoặc đã trừ thì chân tâm vốn tinh. tính bao gồm muôn đức cho nên ở Thánh chẳng là được, thể dứt trăm quấy nên ở phàm chẳng là mất. Song muốn phát tâm này thì phải vận từ bi làm tông yếu. Cho nên trong Hoa Nghiêm, Hải Vân Tỳ-kheo bảo Thiện Tài Đồng Tử rằng: Phát tâm Bồ-đề, gọi là phát tâm Đại Bi khắp cứu tất cả chúng sinh, phát tâm đại từ khắp giúp tất cả thế gian. Tất cả quần vựng vốn không sanh tử, gió vọng thổi lên mà ngập chìm biển khổ. Nay phát đại nguyện lưới núi hắc ám thì làm đèn sáng, trong sóng sanh tử thề làm thuyền bè. Đây là khởi tâm bi cứu khổ chúng sinh tất cả phàm phu bản tính vốn đủ tính tịnh công đức. Nay mê kho báu mà nghèo hèn cô độc. Nay mở nguyện lớn cùng quần mê chung vui Phật quả rốt ráo Vô thượng. Nếu một chúng sanh nào chưa thành Phật thì trọn không ở đây mà lấy Nê-hoàn nguyện cất bước đầu trên đường tu nguyện trải chiếu đầu trên núi cả, đức cao nghiệp rộng thề chẳng mệt mỏi. Bồ-đề (Bodhi) Triệu Sư nói: Rốt ráo của Đạo gọi là Bồ-đề Tần không có tiếng để dịch (Tân để nguyên không dịch), các thầy đời sau đêu dịch là đạo. Vì Đại Luận dịch là Phật đạo. Nay hỏi: Như Chu Dịch nói: Đạo lập người gọi là nhân cùng nghĩa đây thì Nho tông, nhân nghĩa làm đạo. Trang Tử nói: Hư tịnh điềm đạm tịch mặc vô vi là trời đất bình mà đạo đức chí, đây là đạo gia lấy hư vô làm đạo. Nay tông Thích Thị lấy gì làm đạo? Đáp: Kinh Ban Chu nói: Chư Phật từ tâm mà được giải thoát tâm là thanh tịnh gọi là vô cấu, năm đạo tươi sạch không nhận sắc. Có hiểu đây thì Đại đạo thành. Thế nên biết giáo ta lấy tâm làm đạo. Tâm là tâm tự tính thanh tịnh, thể nó trạm tịch (trống lặng) tính nó linh chiếu, không danh không tướng, dứt có dứt không, tâm không thể nghó, miệng không thể bàn, bao mỹ gọi là Đệ nhất nghĩa đế. Hoặc có người hỏi: Như ngài Tịnh Danh nói: Bồ-đề là không thể lấy thân mà được, không thể lấy tâm mà được, nay sao lấy tâm làm đạo ư? Đáp: Rốt ráo Bồ-đề không phải thân tâm như Triệu Sư nói: Đạo vô vi há có thể lấy thân tâm mà được. Cho nên kinh Độ Nhất Thiết Phật Cảnh Giới nói: Bồ-đề không thể lấy thân mà biết, không thể dùng tâm mà biết. Vì sao thế? Vì thân là vô tri như cây cỏ v.v…, tâm là hư cuống (dối trá) chẳng thật, thế nên Bồ-đề không phải thân tâm, song Tịnh Danh Trung Kiếp nói: Giải thoát của chư Phật phải ở trong tâm hạnh chúng sinh mà tìm cầu. Ngài Thiên Thai giải thích nay quán tâm hạnh xuyên suốt vào trí bản tính thanh tịnh mà hiểu tận tâm nguyên chúng sinh tức hiển quả giải thoát của chư Phật, như siêng tìm nước thì chẳng được lìa băng, lạnh tuy kết nước thành băng, nóng thì mở băng thành nước. Cho nên, Hoa Nghiêm nói: Nếu hay khéo dùng tâm ấy thì ắt được tất cả công đức thắng diệu. Phàm phu do mê muộn tâm nguyện nên theo vọng niệm, hay ở vọng niệm mà chiếu (xét) sâu tính không bảo là hiểu đại đạo. Cho nên Hoa Nghiêm nói: Thể giải (hiểu rõ) đại đạo phát tâm vô thượng, phát tâm trí này hay làm mẹ Phật gọi là Trí Độ, thế nên Trí Độ cũng gọi là Đại Đạo. Nên Đại Luận nói: Trí Độ đại đạo Phật khéo đến. Như dùng trí này tu tập vạn hạnh thì pháp tu đó cũng gọi là đại đạo. Nên Pháp Hoa nói: vì Diệt đế mà tu hành đạo, do đạo là tâm, tính nó hư thông khắp tất cả pháp không thứ nào chẳng phải là đạo. Như Kim Sắc Nữ hỏi Văn Thù rằng: Sao gọi là Đạo? Đáp: Cô là Đạo vậy. Lại Hỷ Căn nói: Dâm dục tức là đạo, sân si cũng lại như thế. Trong ba việc này là đạo của Vô lượng chư Phật. Nay hỏi việc dâm là dơ bẩn, Phật đạo là thanh tịnh sao chỉ uế sự gọi là tịnh đạo? Đáp: Xem tướng dâm nộ si đồng với trăng trong nước, hiểu rõ tính nhiễm tịnh cũng như hư không, gặp thuận không mê đắm, gặp trái không giận hờn, trong ác cảnh giới mà được giải thoát môn, vì làm (hạnh) phi đạo thông suốt Phật đạo đó gọi là người con người một đường ra khỏi sanh tử. Nếu khởi phàm kiến thì thành nghiệp địa ngục. Như lấy viên vàng nóng ắt cháy tay. Vô vi như thế gọi là Đạo nhân. A-bà-ma (Asamasama), Đại Luận dịch là Vô đẳng đẳng, Phật gọi là Vô đẳng, Bát-nhã Ba-la-mật lợi ích chúng sanh toàn cùng Phật giống nhau, nên gọi là Vô đẳng đẳng. Mục-đế-la (Mukki), dịch là giải thoát. Trí Luận gọi là giải thoát tri kiến. Dụng là giải thoát tri kiến. Tri là một thứ tướng giải thoát là hữu vi và vô vi giải thoát. Biết các tướng giải thoát đó là thời giải thoát, bất thời giải thoát, tuệ giải thoát, cu giải thoát, hoại giải thoát, bất hoại giải thoát, bất khả tư nghì giải thoát, vô ngại giải thoát v.v… phân biệt các tướng giải thoát bền chắc, ấy là giải thoát tri kiến vô giảm (không giảm bớt?) v.v… Hỏi: Giải thoát tri kiến, đã nói tri sao lại còn nói kiến. Đáp: Nói tri nói kiến thì sự được bền chắc, ví như dây xe hai lớp làm một ắt bền chắc. Lại nữa, nếu chỉ nói tri thì chẳng nhiếp tất cả tuệ. Như A-tỳ-đàm nói: Tuệ có ba thứ: Có tri mà không kiến, có kiến mà không tri, có cả tri và kiến. Có tri không kiến là Tận trí vô (không) sanh trí, năm thức tương ưng trí; có kiến không tri là tám nhẫn thế gian chính kiến năm tà kiến; có cả tri và kiến, là các tàn tuệ khác nếu nói tri thì không nhiếp kiến, nếu nói kiến thì không nhiếp tri. Thế nên nói tri kiến thì đầy đủ. A-duy-nhan, Ứng Pháp sư dẫn kinh Thập Địa gọi là Nhất sanh bổ xứ. A-bệ-bạt-chí (Avaivartika) cũng gọi là A-duy-việt-chí, dịch là Bất thối chuyển. Bất thối có ba nghĩa là Nhập không vị bất thối, Nhập giả hạnh bất thối, Nhập trung niệm bất thối. Diệu Lạc nói: Bát-nhã là vị vì lìa hai chết, giải thoát là hạnh vì các hạnh đầy đủ. Pháp thân là niệm, vì chứng thật cảnh. Trí Luận nói: Vô sanh nhẫn pháp là địa A-bệ-bạt-trí. Nị-địa (Niti?), dịch là Y. Pháp Hoa Sớ nói: Lợi vật lấy từ bi vào nhà làm đầu, giao thiệp có nhẫn nhục hay làm ba pháp Đại Giáo nói thông, tức là chỗ nương cậu của thế gian gọi là Pháp sư. Thùy Dụ Ký nói: Đều nói Y vì trong có đạo pháp có thể làm chỗ nương cậy cho trời người. Y là bằng (dựa). Sau khi Phật diệt độ rồi thì dựa vào bốn thứ người mà lấy giải thoát. Kinh Niết-bàn Bốn Y Phẩm nói: Có bốn thứ người hay hô trì chính pháp làm chỗ nương cậy cho đời: Một là Y bậc Tiểu thừa ở trong thân người phàm phu, nên Kinh nói: Có đủ tính phiền não hay biết Bí Mật Tạng của Như Lai; hai là Y người Tu-đà-hoàn; ba là Y người Tư-đà-hàm và A-na-hàm; bốn là Y ở bậc A-la-hán. Ngài Trí Giả nói: Niết-bàn bố Y nghĩa Thông Biệt Viên. Nếu theo nghĩa Biệt thì như thầy xưa có nói Tu-đà-hoàn, y thứ hai là năm địa gọi là Tư-đà-hàm, y thứ ba là bảy địa gọi là A-na-hàm, y thứ tư là từ tám địa đến mười địa gọi là A-la-hán. Nếu theo nghĩa viên so với Biệt giáo thì lấy Trụ tiền làm y thứ nhất. Thập trụ làm y thứ hai. Lại thủy chung mà phán thì năm phẩm sáu căn là y thứ nhất, Thập trụ là y thứ hai, hạnh hướng là y thứ ba, thập trụ Đẳng giác là y thứ tư. Bốn quả mà phối vị thì lệ riêng có thể thấy. Đây là Nhân bốn y; hai là Hạnh bốn y, Luật nói: áo phấn tảo luôn luôn khất thực, ngủ dưới cây hủ lãn dược (thuốc rả mục), đây là bốn hạnh kẻ thượng căn lợi trí đều y theo; ba là pháp bốn y. Kinh Niết- bàn nói: Y pháp chẳng y người, y nghĩa chẳng y lời, y trí chẳng y thức, y kinh Liễu nghĩa chẳng y kinh Bất Liễu nghĩa. Ma-ha-diễn (Mahàyàna), Đại Luận nói: Ma-ha gồm ba nghĩa là: Lớn, nhiều, hơn. Diễn là thừa. Thắng Man nói: Ma-ha-diễn là sanh ra tất cả thiện pháp thế xuất thế gian của Thinh văn Duyên giác. Thế Tôn như ao lớn A-nậu phát ra bốn sông lớn. Khởi Tín Luận nói: Ma-ha-diễn nói chung có hai thứ: Một là pháp, hai là nghĩa. Nói về Pháp, tức là tâm chúng sinh vậy. Tâm thì nhiếp tất cả pháp thế gian và xuất thế gian. Y vào tâm này hiển bày nghĩa Ma-ha-diễn. Đà-la-ni (Dhàranì), Đại Luận nói: Tần gọi Năng trì, là tập hợp tất cả thiện pháp hay giữ gìn khiến không tan mất. Ví như đồ đựng tốt, đựng đầy nước, nước không rò rỉ chảy mất. Các ác bất thiện căn, tâm hay ngăn lại khiến không sanh. Nếu khi muốn làm tội ác thì giữ gìn không làm, đó gọi là Đà-la-ni. Triệu dịch là Tổng trì, nghĩa là giữ thiện không mất giữ ác chẳng sanh. Lại dịch là giá trì. Phụ Hành nói: Thể ngăn ba hoặc, tính giữ ba trí. Huân Văn nói: Ngăn (giá) ác của hai bên, giữ (trì) thiện của trung đạo. Đây là tự tuệ tính mà lập tên. Xiển nghĩa nói: Vậy thì Đà-la-ni đã là tiếng Phạm, chữ chú là tiếng Hoa, tên kinh ghi chung Hoa Phạm là Đà-la-ni Chú. Nếu thế sao dịch Đà-la-ni là giá trì? Đáp: Người xưa thấy bí mật nên chẳng dịch, như phương này nêu các cấm chú (thần chú) bèn lấy tên chú mà dịch, song cũng chẳng mất nghĩa giá trì. Vì sao? Vì chú đã huấn nguyện khấn vái ước nguyện) như bốn nguyện của Bồ-tát: Một là nguyện cứu khổ, tức là nghĩa ngăn ác (giá); hai là nguyện ban vui, tức là nghĩa giữ thiện (trì). Đại Luận nói: Có ba Đà-la-ni: Một là Văn trì Đà-la-ni, là người được Đà-la-ni này thì tất cả lời lẽ các pháp khi nghe qua tai đều không quên mất tức là tên trì; hai là Phân biệt tri Đà-la-ni, là người được Đà-la-ni này thì các pháp chúng sanh lớn nhỏ tốt xấu phân biệt đều biết, nên gọi là phiền não Đà- la-ni tức là nghĩa trì; ba là Nhập âm thinh Đà-la-ni, người được Đà-la-ni này thì nghe tất cả tiếng nói năng không mừng không giận, tất cả chúng sinh như hằng sa kiếp thọ lời ác mắng chửi tâm đều không ghét hận. Tất cả chúng sinh như hằng sa đem lời khen ngợi cúng dường thì tâm không động chẳng mừng vui chẳng mê đắm ấy là Nhập âm thinh Đà-la- ni. Tức là Hành trì. Pháp Hoa nói: Có ba Đà-la-ni: Một là Truyền Đà- la-ni, hai là Bách thiên vạn ức tuyền Đà-la-ni, ba là Pháp âm phương tiện Đà-la-ni. Tịnh Danh Sớ giải thích rằng: Tuyền là chuyển, chuyển giả vào không, được chứng Chân đế. Bách thiên vạn ức, tức là từ không vào giả tuyền chuyển phân biệt, phá hoặc trần sa hiển bày hằng sa Phật pháp. Pháp âm phương tiện tức là hai quán phương tiện được vào Trung đạo. Tát-đát-đa Bát-đát-la, Tư Trung nói: Tương truyền là Bạch tán cái. Dụ cho Như Lai Tạng tính, vốn không nhiễm khắp che loài hữu tình. Tô-lô-đô-ha, dịch là Phạm âm quyết định. Phật Tỳ-bà-thi nói: Một chú này trị một vạn tám ngàn thứ bịnh. Hồ-tô-đa, dịch là trừ tất cả các thứ uất chưng nhiệt não Phật Thi Khí nói chú này. Mật-xa-đâu, dịch là trống vàng. Phật Tùy (Thi?) Khí! Nói chú bốn là Phật Câu-lưu-tần (tôn) nói Kim Cang Tràng Chú; năm là Phật Câu- na-hàm Mâu-ni nói: Danh Thinh Chấn Thập Phương Chú; sáu là Phật Ca-diếp nói: Chẩn Tế Quần Sanh Chú; bảy là Thích-ca Thế Tôn nói: Kim Quang Chiếu Huy Chú. A-mâu-già-bá-dư (Amoghapàza), dịch là bất không quyên tố Đát-nhó-dã-tha (Tadyatha) hoặc Đạt-điệt-tha dịch là Sở vị Ta-bà-ha (Svàhà) hoặc Tá-ha, dịch là Thiện thuyết hoặc Tán khứ. Tát-bà-nhã-đa (Sarvajóatà), Ban Chú gọi là Tát-vân-nhã. Đại Luận nói: Tần gọi là Nhất thiết trí tướng. Nhân thì gọi là Bát-nhã, quả thì gọi là Tát-bà-nhã. Đại Phẩm nói: Tát-bà-nhã là trí của Thinh văn và Bích- chi Phật. Đạo chủng trí là trí của Bồ-tát Ma-ha-tát, Nhất thiết chủng trí là trí của chư Phật. Kinh nói: Muốn dùng Nhất thiết trí đoạn các tập phiền não thì phải tập hạnh Bát-nhã Ba-la-mật. Luận hỏi trong một tâm được Nhất thiết trí, Nhất thiết chủng trí đoạn các tập phiền não, nay sao nói vì Nhất thiết trí đầy đủ mà được Nhất thiết chủng trí, đem Nhất thiết chủng trí mà đoạn các tập phiền não? Đáp: Thật ra khi được Nhất thiết trí ở đây là khiến người tin Bát-nhã Ba-la-mật. Phẩm Thứ Đệ Sai Biệt nói. Nhó-diệm (Jneya) hoặc gọi Nhó-viêm, dịch là Sở tri, Ưng tri hay cảnh giới. Hỏi như Đại Luận nói: Lúc đó qua ý địa đang trụ trong trí nghiệp, Sao Hoa Nghiêm nói: Khắp cứu các hàm thức khiến qua biển Nhó-diệm? Đáp: Do trí năng tri này chiếu mở cảnh Sở tri, thì gọi là qua biển Nhó-diệm. Nên kinh Lăng Già một nói: Trí Nhó-diệm được hướng đây toàn do cảnh ấy mà thành trí gọi là trí trong nghiệp. Đa-già-tiêu hoặc Đa-già-la, dịch là trí căn. Duy-ma nói: Trí độ mẹ Bồ-tát. Tịnh Danh Sớ nói: Trí Độ tức là Thật trí, Thật trí hay hiển bày sức pháp thân như mẹ sanh ra. Thật trí cũng gọi là Như lý trí. Tức chính quán chân đế như lý mà biết thì không điên đảo. Nhiếp Luận nói: Thuận lý thanh tịnh gọi là Như lý trí. Thập Bát Không Luận rằng: NHư lý trí tức là Vô phân biệt trí cũng gọi là chính trí, lại gọi là Chân trí, lại gọi là Căn bản trí. Âu-hòa Câu-xá-la (Upàyakausalya), dịch là phương tiện. Duy-ma nói: Phương tiện xem là cha. Triệu Sư nói: Phương tiện tức là biệt dụng của trrí mà thôi. Trí để thông chỗ kín đáo tối tăm mà quyết định pháp tướng, không biết mà không chẳng biết, gọi là trí. Tuy thấu suốt tước các pháp (pháp tướng) mà hay chẳng chứng, ở chỗ có chẳng mất không, ở không chẳng bỏ có. Ngầm không mà giữ Đức, ta người đều cứu nên gọi là phương tiện. Tịnh Danh Sớ nói: Phương tiện là quyền trí, quyền trí dùng ngoài hay có thành biện. Như cha hay vinh cầu trưởng thanh. Nói về quyền trí cũng gọi là Như lượng trí. Khắp xem tất cả như sự số lượng thì nhiếp tất cả. Thập Bát Không Luận răng: Như lượng trí tức là Vô phân biệt hậu trí, cũng gọi là Biến trí, lại gọi là Tục trí, hay Hậu đắc trí. Phật tính Luận nói: hai trí này có hai thứ tướng: Một là Vô trước, hai là Vô ngại. Nói Vô trước là thấy chúng sinh giới tự tính thanh tịnh là tướng của Như lý trí. Nói Vô ngại là hay thông suốt quán vô lượng vô biên các thế giới, là tướng của Như lượng trí. Lại Như lý trí là nhân, Như lượng trí là quả. Nói nhân, là hay làm nhân cho sanh tử và Niết-bàn. Nói quả, là do lý này nên biết chân tục các pháp của Như Lai. Lai Như lý trí là nhân thanh tịnh, Như lượng trí là nhân viên mãn. Nhân thanh tịnh là do Như lý trí mà ba hoặc diệt hết. Nhân viên mãn là do Như lượng trí mà ba đức viên mãn. Lại Như lý trí tức là thể một tâm làm nhân, Như lượng trí tức là dụng một tâm làm quả. Nhị Giáo Luận nói: Giáo của Thích Thị, lý giàu quyền thật. Hữu dư và bất liễu gọi đó quyền. Thật hai trí này mà lập hai giáo quyền thật. Bắc Sơn nói: Chân đạo đâu có thể lấy tu thân, quyền đạo đâu có thể ngự hóa. Chân đạo chẳng thể tạm bỏ, cho nên trộn lộn mà không cặn. Quyền đạo chẳng thể lập lâu cho nên bỏ mà họp đạo vậy. <詞>BỐN MƯƠI HAI CHỮ. Bài chép về Tự Mẫu Pháp Môn này, Thông nên nói là môn, vì dùng Năng thông làm nghĩa. Diệu Huyền nói: Có bốn thứ môn: 1.Lấy Văn tự làm môn, như Đại Phẩm bốn mươi hai chữ; 2. Lấy Quán hạnh làm môn, như Thích Luận nói: Tu ba thư Tam-muội v.v…; 3.Lấy Trí tuệ làm môn, như Pháp Hoa nói: Trí ấy là tuệ môn; 4.Lấy lý làm môn, như Đại Phẩm nói: Pháp vô sanh không tới không lui. Nói bốn mươi hai chữ thì bổ chú tụng rằng: Tăng ra ba giá na la đà Bà trà sa hòa đa dạ tra Casa ma già tha xà bá Đà xa khư xoa đa nhã đà Bà xa ma hòa ta già tha Noa phà ca sai giá tra trà. Đại Phẩm nói: Bồ-tát Ma-ha-tát Ma-ha-diễn, chỗ gọi là tự là ngữ (chữ, lời…) v.v… các tự pháp môn. Trí Luận nói: Bốn mươi hai chữ là tất cả chữ căn bản. Nhân tự có ngữ có danh, nhân danh có nghĩa. Nếu nghe tự nhân tự cho đến hiểu rõ nghĩa ấy chữ đầu là A, chữ sau là trà, ở đoạn giữa có bốn mươi chữ. Ngài Nam nhạc giải thích tự nói: Pháp Tuệ nói mười trụ, mười phương nói mười trụ đều gọi là Pháp Tuệ cho đến Kim Cang Tạng cũng lại như thế. Nói Ngữ v.v… là mười phương chư Phật nói mười trụ cùng Pháp Tuệ nói v.v… cho đến mười địa cũng lại như thế. Lại tất cả chữ đều là không chữ (vô tự) mà hay làm tất cả chữ đó gọi là chữ v.v… phát ngôn không hai gọi đó là ngữ, tất cả các pháp đều hỗ tương tại (có cho nhau?). Đó gọi là Tự nhập môn v.v… Trước là sự giải thích. Sau đây là lý giải thích, Hoa Nghiêm Thiện Tri Chúng (khéo biết chúng) Nghệ Đồng Tử bảo Thiện Tài rằng: Ta luôn nói trì Tự mẫu này vào Bát-nhã Ba-la-mật môn. Ngài Thanh Lương Sớ rằng: Tự mẫu là hơn các nghê là gốc của Thư thuyết cho nên đây riêng nói. Văn Thù Ngữ Tự Kinh nói: Thọ trì Đà-la-ni này liền vào tất cả bình đẳng mau được thành tựu Ma-ha Bát-nhã, mới tụng một biến như trì tất cả tám vạn bốn ngàn tạng Tu-đa-la. A-đề (Àdi) A-nâu-ba-đà (Anutpatti?), Tần gọi là Bất sanh. Đại Phẩm nói: môn chữ A là tất cả pháp xưa chẳng sanh. Trí Luận nói: Được Tự Đà-la-ni ấy, Bồ-tát nếu trong tất cả tiếng nói nghe chữ A này tức thì thao tùy nghĩa, chỗ gọi tất cả pháp từ xưa đến nay chẳng sanh. Nhị Giáo Luận nói: Vạn hóa vốn ở vô (không) mà sanh, sanh là vô sanh, Tam Tài Triệu ở vô thủy mà thủy (bắt đầu), thủy là vô thủy. Vậy thì vô sanh vô thủy là tính của vật, có hóa có sanh là tụ của người. Trung Luận nói: Các pháp chẳng tự sanh, cũng chẳng từ cái khác mà sanh, bất cộng bất vô nhân (chẳng cùng đều có nhân), đó gọi là vô sanh. Chỉ Quán nói: Nếu tâm cụ, là tâm khởi chẳng dùng duyên. Nếu duyên cụ thì duyên cụ chẳng quan hệ đến tâm. Nếu cộng cụ chưa cộng đều không, khi cộng thì sao có. Nếu lìa cụ, vì đã lìa tâm lìa duyên sao bỗng tâm cụ. Nay hỏi: Phật dạy nhân duyên là tông, luận trái (gót?) cộng sanh nên thuộc chỗ phá chăng? Đáp: Đơn (một) chân chẳng lập, riêng (một) vọng khó thành. Nhân duyên hòa hợp từ điên đảo mà nói. Nay quán thật tướng há có thể thuận mê. Cho nên nói phải chiếu lý thể vốn không bốn tính. Lại còn Tự Hành, tuy lìa bốn chấp, hóa tha không ngại bốn thuyết. Kinh nói tự sanh rằng: Ba cõi không pháp khác, chỉ là một tâm làm ra. Kinh nói: Tha sanh rằng Thiện tri thức là Đại nhân duyên. Hoặc nói: Năm dục khiến người đọa ác đạo. Hoặc nói cộng sanh rằng: Nước bạc hòa vàng ròng có thể thoa các sắc tượng. Hoặc nói Ly rằng: Mười hai nhân duyên không phải Phật làm ra, tính nó như thế. Hoa Nghiêm nói: Khi đọc lên chữ A thì vào Bát-nhã Ba-la-mật môn gọi là nhờ oai lực của Bồ-tát mà vào sai biệt cảnh giới. Sớ nói: A là nghĩa vào vô sanh, Lý vô sanh bao gồm muôn pháp. Bồ-tát được vô sanh này biết các pháp là không đoạn tất cả chướng. La-xà (Rajas), Đại Luận nói: Tần gọi là cấu. Đại Phẩm nói: Môn chữ La là tất cả pháp ly cấu. Hoa Nghiêm nói: Đọc môn chữ Đa vào vô biên môn sai biệt. Sớ nói: Kinh thứ hai (sang qua thứ hai) ấy là chữ La là nghĩa thanh tịnh vô nhiễm ly cấu. Nay nói chữ Đa là người dịch lầm. Ba-la-mạt-đà (Daràmàratha), Tần gọi là Đệ nhất nghĩa. Đại Phẩm nói: Là môn chữ Ba vì tất cả pháp Đệ nhất nghĩa vậy. Lăng Già nói là Đệ nhất nghĩa, là Thánh thích nói năng nghe vào là Đệ nhất nghĩa, không phải lời lẽ là Đệ nhất nghĩa. Đệ nhất nghĩa là Thánh trí tự biết chộ được không phải là chính giác nói nang vọng tưởng mà biết. Thế nên nói: Vọng tưởng chẳng hiển bày đi đứng ngồi nằm. Nói năng (lời lẽ) là giao động sanh diệt lần lượt khởi nhân duyên. Nếu lần lượt khởi nhân duyên thì nó không thể hiển bày Đệ nhất nghĩa. Lại nói như người ngu kia lấy tay chỉ vật người ngu chỉ nhìn ngón tay mà không được nghĩa thật. Như thế người ngu theo lời nói chỉ ra mà giữ gìn chấp trước đến cuối cũng chẳng bỏ thì trọn không thể được, phải lìa lời nói chỉ mới là (được) Đệ nhất thật nghĩa. Kinh Đại Tập nói: Lý thậm thâm chẳng thể nói, Đệ nhất nghĩa đế không có tiếng và chữ. Hoa Nghiêm đọc môn chữ Ba gọi là Phổ Chiếu pháp giới. Số rằng: Các pháp đều bình đẳng tức Phổ Chiếu pháp giới. Giá-lệ-dạ (Caryà), Tần gọi là Hạnh. Đại Phẩm nói là môn chữ Giá, là tất cả pháp trọn không thể được Luận nói: Nếu nghe chữ giá, tức biết tất cả các hạnh đều phi hạnh (chẳng phải hạnh). Nay giải thích thêm rằng: Hạnh trước (thủy) gọi là nhân, hạnh cuối (chung) gọi là quả Hoằng Minh Tập nói: mảy may của ác nhiều kiếp chẳng mất, chút đỉnh của thiện nhiều đời còn hoài, phước thành thì thiên đường tự đến, tội chứa thì địa ngục tự bày, đây là số tất nhiên chớ nghi. Nếu tạo thiện trong tối mà được Báo ở sáng thì đời gọi là âm đức, mọi người đều tin. Tạo ác ngoài sáng được báo trong tối, lý này rõ ràng ssao chẳng tin. Lại nói Thánh nhân nói: Phước để khuyên thiện, bày họa để răn ác. Tiểu nhân gọi thiện vô ích mà chẳng làm bảo ác không hại mà chẳng hối, phàm họa phước đều có răn, chẳng thể không nhân mà vọng nói. Thiện ác đều có báo, ắt không phải ứng mà uổng công. Lại nói vậy thì Pháp vương lập pháp khắp thống thức tâm ba cõi lao tù, ba khoa hiểm ác một tội, hai phước, ba đạo. Tội thì ba độc là nghiệp cột ràng thuộc về quỉ vương. Phước thì bốn hoằng tạo nên ta chắc sẽ thuộc Thiện chủ. Đạo thì hư thông vô ngại (không trên), cứ hạnh mà chẳng mê vô minh, mê thì thừa phân đại tiểu. Trí dính tín pháp sáng thì riêng thấu lý tính, vượt ngoài có không. Lại nói: Phước là gì, là nói cảm lạc thọ mà an thân, lấy vui mà vui tính. Nay luận phước thi bi kính làm đầu, bí thì thương các cay đắng của khổ thú mà nghó cách cứu ra. Kính thì biết Phật pháp khó gặp bèn tin kính mà lắng thần. Duyên cảnh dính dự tình theo lý duy tâm làm gốc, hư hoại chẳng buộc (quan hệ), phước kia ắt về mình người (tự tha). Đảo tưởng chưa dời tạo nghiệp có trái ở sự dụng. Nay xem Hoằng Minh chỗ lập ba khoa tên nó tuy đẹp, giải thích ba nghĩa ý chỉ còn lỗi dùng luận mười giới lộn lạo chẳng phân. Nay bảo mười sử mười ác là thuộc tội gọi là Hắc nghiệp, có báo là bốn ác thú. Còn năm giới mười thiện, bốn thiền bốn định là thuộc phước gọi là Bạch nghiệp, có báo ở trời người. Về ba thừa Ma-ha-diễn là thuộc đạo thì cảm báo bốn thánh. Đây thì cọi phàm Thánh đã phân, viện nhân quả đã định, chỉ ba khoa này là gồm thâu tất cả. Đại Luận nói: Hoặc nói ba hạnh: Thân hạnh khẩu hạnh ý hạnh. Thân hạnh là thở ra vào. Vì sao thế? Vì trước giác quán (thấy biết) sau mới nói năng. Yù hạnh là thọ tưởng. Vì sao thế? Vì thọ khổ vui lấy tướng mà tâm phát, nên gọi là ý hạnh. Tâm số thuộc ái chủ gọi là Thọ, thuộc kiến chủ gọi là tưởng. Thế nên nói hai pháp ấy là: Ý hạnh Hoa Nghiêm nói: Môn chữ giả gọi là Phổ Luân Đoạn Sai Biệt. Sớ nói: Chữ giả là các pháp vô hữu, các hạnh đã không thì khắp kẻ gảy sai khác. Na (Na), Tần gọi là Bất. Đại Phẩm nói: Môn chữ Na là các pháp lìa Danh tính tướng, chẳng Đắc chẳng Thất. Luận nói: Tức biết tất cả pháp chẳng Đắc chẳng Thất chẳng tới chẳng lui. Hoa Nghiêm nói: Môn chữ Na là Đắc (được) vô y môn, Đắc (được) vô y vô thượng. Sớ rằng: Na là các pháp không có tính tướng nói năng văn tự (chữ nghĩa tên gọi). tính tướng đều mất nên gọi Vô y, năng thuyên sở thuyên đều hết nên gọi Vô thượng. La-cầu (Laghu), Tần gọi là khinh. Đại Phẩm nói: Môn chữ La là các pháp độ thế gian cũng ái chi nhân diệt. Luận rằng: Nếu nghe chữ La liền biết tất cả pháp lìa tướng khinh trọng. Hoa Nghiêm nói: Môn chữ La gọi là Ly y chỉ vô cấu. Sớ rằng: Chữ La, là ngộ tất cả các pháp lìa thế gian. Đà-ma, Tần gọi là thiện. Đại Phẩm nói: Môn chữ Đà là các pháp thiện tâm sanh, cũng là tướng bố thí. Luận nói: Tức biết tất cả pháp tướng Thiện - Hoa Nghiêm nói: Môn chữ Đà gọi là Bất thối chuyển phương tiện. Sớ rằng: Ngộ (biết?) tất cả pháp là điều phục tịch tịnh chân như bình đẳng không phân biệt mới là Bất thối chuyển phương tiện. Nam Sơn nói: Khuyên gắng ba nghiệp tu tập giới hạnh có thiện khởi hộ (khởi hộ về thiện) gọi đó là làm (tác), làm mà không phạm gọi là Trì. Âm nghĩa Chỉ Qui nói: Trì là chấp (nắm giữ), chấp trì pháp đã thọ cũng như ôm châu nắm ngọc vậy. Phạm là can, nghĩa là can phạm pháp đã thọ, bỏ mà không giữ tiếc, như châu rụng ngọc rơi vậy. Thiện là thuận. Khởi Tín nói: Vì biết pháp tính thể không xen tham mà tùy thuận tu hành Đàn Ba-la-mật, vì biết pháp tính không nhiễm, lìa lỗi năm dục mà tùy thuận tu hành thí Ba-la-mật. Cho đến vì biết pháp tính thể sáng lìa vô minh, nên tùy thuận tu hành Bát-nhã Ba-la-mật. Vị thiện nghĩa thuận nên người chứa nhóm thiện ắt có nhiều mừng vui. Cho nên thời Thái Mậu Tang Cốc buổi sáng sanh thì chiều to như cũng. Vua sợ, Y Thiệp nói: Thần nghe yêu mị không hơn được đức ắt đức vua có thiếu sót. Thái Mộc theo mà Tang Cốc khô chết, ân đạo trung hưng. Người chứa bất thiện thì ắt có nhiều tai ương. Cho nên thời Đế Tân có chim sẻ sanh một con quạ ở một góc thành. Thái sư chiếm quẻ nói: Lấy nhỏ sanh lớn nước nhà ắt xương thịnh. Đế Tân tàn bạo, chẳng tu thiện chính nước Ân bèn mất. Kinh nói: Chớ bảo tội nhỏ mà không bị tai ương, giọt nước tuy nhỏ nhưng dần đầy lu to. Song nếu giữ đạo tự nhiên, chuyên nói không có báo ứng bởi làm thiện mà bị họa đây cũng có nhiều, làm ác mà được phước đây cũng không ít. Cho nên kinh nói: Người làm thiện gặp việc trắc trở, kẻ làm ác gặp việc hài hòa, đến nỗi khiến người ngu ở thế gian bảo thiện ác chẳng phân. Như Nghiêu Thuấn đức hóa (cái trí bằng đức) mà gặp Hồng Thủy, vua Thang Thiện chính mà gặp cửu kháng. Mân Tổn hạnh hiếu mà nhà nghèo. Nhan Hồi tu nhân mà chết sớm. Bèn bảo sang hèn là từ số mạng, ngu trí đều do trời ban, đẹp xấu vốn tự nhiên, nmghèo giàu không do nghiệp cảm. Bèn bảo ai tiêm gai gốc các cầm thú, ai được núi non và sông suối, gió bảo chợt nổi lại tự ngừng. Vạn vật phải biết là tự nhiên, không tỉnh (biết) tiếng hòa thì vang thuận, đâu hiểu hình thẳng thì bóng ngay. Chẳng rõ ba thứ báo khác nhau, sao biết hạnh muôn kiếp có khác. Nên nói: Làm ác mà được vui là vì ác chưa chín đến khi ác chín thì tự thấy chịu khổ. Tu thiện mà gặp khổ là vì thiện chưa chín khi thiện chín thì tự thấy được vui. Cho nên kinh Đại Niết-bàn nói ba thứ báo: Một là thuận hiện báo nói chủ hiếu từ, huấn thế tắc, mây lành khắp, thọ tinh hiện. Vua nhân, ân đức khắp vật thì suối nước ngọt phun lên, mầm giống tốt. Thiện đã có bằng cớ, ác cũng có chứng nghiệm. Ông Tiều chỉ gấu mà tay rụng, lão rượu ăn thịt mà lạnh da; hai là thuận sanh báo. Đời này tuy làm nhân thiện ác, đời kế mới chịu quả khổ vui. Bình Sa Vương đổi báo ở Tứ Thiên, Hữu tướng đổi đời ở sáu dục; ba là Thuận Hậu báo. Thân này tạo nhân báo ở đời sau. Già tra bảy lần trở lại mà hưởng mừng vui, Na-luật nhiều kiếp mà thọ phước xa. Ba thứ báo này đều gọi là Định nghiệp. Lại Niết-bàn nói: Chưa vào pháp ta gọi là nghiệp quyết định, đã vào pháp ta rồi thì gọi là chẳng quyết định. Đại Phẩm nói: Bồ-tát làm Bát-nhã nếu có tôi nặng thì hiện đời bị báo nhẹ. Trí Luận giải thích rằng: Lại như con vua tuy làm tội nặng cũng bị hình phạt nhẹ, vì sanh trong dòng vua. Bồ-tát cũng thế, hay làm hạnh Bát-nhã thì được thật trí tuệ, tức sanh vào dòng Phật, tuy có tội nặng sao lại chịu hình phạt nặng? Thanh Long Sớ nói: Bất định (chẳng quyết định) có ba, đó là thời định mà báo chẳng định, báo định mà thời chẳng định, Báo thời đều chẳng định. Chỗ chuyển ở đây là câu thứ hai. Vì sao? Do báo nhất định nên chuyển nặng thành nhẹ. Do thời bất định nên nghiệp đáng đọa ác đạo mà ở nhân gian hiện thọ. Còn (ngoài) hai câu kia tất cả đều mất. Thế nên Thích Thị chỉ thế giới hư không đều do tâm mình, khảo báo ứng thiện ác đều do nghiệp mình. Thì biết ba cõi tuần hoàn đây đều do vọng thức, bốn loài qua lại đều bởi tâm mê. Nên Cổ đức nói: Đều do một tâm mà xuyên suốt các pháp. Bà-đà (Baưdha), Tần gọi là phược. Đại Phẩm nói: Môn chữ Bà các pháp môn chữ Bà là lìa. Luận nói: Tức biết tất cả pháp không trói không mở. Hoa Nghiêm nói: thời chữ Ba gọi là Kim Cang Tràng. Sớ rằng: Biết tất cả các pháp lìa trói mở mới vào Kim Cang Tràng. Xà-xà-tha, Tần gọi là bất (Nhiệt?). Đại Phẩm nói: Môn chữ Thà, các pháp chữ Trà là Tịnh. Luận nói: Tức biết các pháp không có tướng Nhiệt. Hoa Nghiêm nói: Thời chữ Trà gọi là Phổ Luân. Sớ rằng: biết tất cả pháp lìa uế Nhiệt kiêu được mát mẻ là nghĩa Phổ tồi. Sa (Waw), Tần gọi là sáu. Đại Phẩm nói: Môn chữ Sa, là các pháp sáu Tự Tại Vương tính thanh tịnh. Luận nói: Tức biết thân người có sáu thứ tướng. Hoa Nghiêm nói: Thời chữ sa gọi là Hải Tạng. Sớ rằng: Biết tất cả pháp không quái ngại như biển chứa (ảnh). Hòa-ba-đà (Vada), Tần gọi là ngữ ngôn. Đại Phẩm nói: Môn chữ Hòa là vào các pháp nói năng đều dứt. Luận nói: Biết tất cả pháp lìa tướng ngôn ngữ. Hoa Nghiêm nói: Thời chữ phược gọi là Phổ sanh an trụ. Sớ rằng: Biết tất cả pháp dứt nói năng. Đa-tha (Tathà), Tần gọi là Như. Đại Phẩm nói: Môn chữ Đa là vào các pháp Như tướng bất động. Luận nói: Pháp ở trong hư chẳng động. Hoa Nghiêm nói: Thời chữ Đa gọi là Viên mãn quang. Sớ rằng: Biết tất cả pháp chân như bất động. Da-tha-bạt (Yathàvat?), Tần gọi là Thật. Đại Phẩm nói: Môn chữ Dạ là vào các pháp như thật chẳng sanh. Luận nói: Các pháp vào trong thật tướng chẳng sanh chẳng diệt. Hoa Nghiêm nói: Thời chữ Dã gọi là siêng năng tích tụ. Sớ rằng: Biết như thật chẳng sanh thì các thừa tích tụ đều chẳng thể được. Tra-bà (Pratistambha), Tần gọi là chướng ngại. Đại Phẩm nói: Môn chữ Tra là các pháp chế phục chẳng thể được. Luận nói biết tất cả pháp không tướng chướng ngại. Hoa Nghiêm nói: Thời chữ Sắc-tra gọi là Phổ quang minh tức phiền não (khắp sáng suốt dứt phiền não). Ca-la (Kara), Tần gọi là tác giả (người làm). Đại Phẩm nói: Môn chữ ca vào các pháp tác giả chẳng thể được. Luận nói: Biết trong các pháp không có tác giả. Hoa Nghiêm nói: Thời chữ Ca gọi là Sai biệt vân. Sớ rằng: làm nghiệp như mây đều không sai khác. Ta-ta (Sarva), Tần gọi là Nhất thiết. Pháp Uyển nói: Nhất là khắp đến khắp, Thiết là cùng bờ mé. Đại Phẩm nói: Môn chữ Ta là vào các pháp thời chẳng thể được, vì Thời các pháp chuyển đi (thay đổi). Luận rằng: Tức biết các (tất cả) Nhất thiết pháp các (tất cả) Nhất thiết thứ chẳng thể được. Nhất thiết có hai thứ: Một là Danh tự Nhất thiết. Như nói tất cả đều sợ chết đều sợ dao gậy. Không sắc không thân thì chẳng sợ dao gậy. Đây là danh tự Nhất thiết; hai là Thật Nhất thiết, Đại thừa hay biết chẳng thể dùng tất cả đạo mà khởi tất cả thứ. Hoa Nghiêm nói: Thời chư Ta gọi là giáng chú đại vũ (mưa to như trút nước). Sớ rằng: Tức tính bình đẳng. Ma-ma-ca-la (Mamakara), Tần gọi là Ngã sở. Đại Phẩm nói: Môn chữ Ma là vào các pháp ngã sở chẳng thể được. Luận rằng: Nếu nghe chữ Ma tức là biết tất cả pháp lìa ngã sở. Triệu nói: Ta là chủ vạn vật, vạn vật là cái của ta (ngã sở). Lại Sanh Công nói: Có ý về ngã thì các pháp bên ngoài đều cho là của ta có. Tịnh Danh Sớ răng: Tâm trong pháp tưởng là ta thì cho mười pháp giới là của ta (vi sở?). Hoa Nghiêm nói: Thời chữ Ma gọi là sông lớn chảy xiết các núi đều cao vót. Sớ rằng: Tức tính ngã sở (cái của ta) mà ngã mạn cất cao ngã mạn thì sông dài sanh tử càng chảy xiết. Già-đà (Gaha), Tần gọi là Để (đáy). Đại Phẩm nói: Môn chữ Già là vào các pháp mất đi chẳng thể được tức biết tất cả pháp đáy chẳng thể được. Hoa Nghiêm nói: Thời chữ Già gọi là khắp an lập. Sớ rằng: Tức tính hành thủ của tất cả pháp. Đà-tha A-già-đà (Tathàgata), Tần gọi là như khứ. Đại Phẩm nói: Môn chữ Tha là vào chỗ các pháp chẳng thể được. Luận rằng: Tức biết bốn câu như khứ (bỏ đi?) chẳng thể được. Hoa Nghiêm nói: Thời chữ Tha gọi là Chân Như Bình Đẳng Tạng. Sớ rằng: Tức là tính Đổ xứ sở. Xà-đề-xà-la, Tần gọi làsanh. Đại Phẩm nói: Môn chữ Xà là vào các pháp sanh chẳng thể được. Luận rằng: Tức biết các pháp sanh chẳng thể được. Luận rằng: Tức biết các pháp sanh lão chẳng thể được nghe. Hoa Nghiêm nói: Thời chữ Xà gọi là vào biển thế gian thanh tịnh. Sớ rằng: Năng sở sanh ra. Bá (Pha). Đại Phẩm nói: Môn chữ Bá là vào các pháp chữ Bá chẳng thể được. Luận rằng: Nếu nghe chữ Thấp Ba (Thóa) tức biết tất cả pháp như chữ thấp ba chẳng thể được. Chữ thấp ba không có nghĩa nên chẳng dịch. Hoa Nghiêm nói: Thời chữ Tỏa gọi là niệm tất cả Phật trang nghiêm. Sớ rằng tức tính an ổn. Đà-ma (Dharama), Tần gọi là pháp tính. Đại Phẩm nói: Môn chữ Đà là vào các pháp tính chẳng thể được. Luận rằng: Tức biết pháp tính trong tất cả pháp chẳng thể được. Chi Thức Luận nói có ba tính: Một là Biến kế sở chấp tính. Hai thức sáu, bảy biến khắp trên nhiễm tịnh của tất cả pháp, kể là pháp thật ngã gọi là Biến kế sở chấp. Như cái dây mà tường là rắn. Tụng nói: Do các thứ biến kế, biến kế các thứ vật, Biến kế sở chấp này, tự tính nó không có; hai là y tha khởi tự tính, các pháp nhiễm tịnh y vào các duyên khác mà sanh khởi nên gọi là y tha. Như sợi gai tưởng là (đến) cái dây. Tụng nói: Y tha khởi tự tính, phân biệt duyên đã sanh, vì các tâm tâm sở y tha khởi, cũng như việc huyễn (ảo thuật) không phải thật có. Vì trái chấp ngoài tâm tâm là thật có cảnh. Nói là chỉ có (do) thức, nếu chấp chỉ do thức (Duy thức) là thật có thì cũng là chấp pháp; ba là Viên thành thật tính, chỉ một chân không viên mãn thành thật, chỉ ma riêng còn. Duy Thức Tụng rằng: Viên thành thật ở kia, Thường xa lìa tính trước, Chứng chân nói ở kia. Tức là ở trên pháp Y tha khởi kia mà xa lìa Biến kế sở chấp, liền gọi là Viên thành thật tính. Sư xưa đều giải thích Viên thành là chân, Biến kế là vọng. Y tha nếu tịnh là đồng với chân, nếu nhiềm là đồng với vọng. Tụng rằng: Ngày trắng thấy dây dây là gai (ma), Ban đêm thấy dây dây là rắn, Trên gai sanh dây cũng là vọng, Sao khan trên dây lại (?) rắn. tính Tông giải thích Viên thành nói: Bản giác chân tâm, Thủy giác hiển hiện, Viên mãn thành thật, Chân thật thường trụ. Ba pháp đều đủ không có, cái đầu tình có lý không, cái kế tướng có tính không, ba thì tình không lý có, tướng không tính có. Nam nhạc nói Tâm thể bình đẳng gọi là Chân thật tính, Tâm thể bi nhiễm tịnh hun đúc (huân), liền theo hai pháp Nhiễm Tịnh gọi là Y tha tính, chỗ hiện ra hư tướng quả báo gọi là phân biệt tính. Duy Thức nói: Tứ y ba tính này, nói ba kia vô tính, trước là tướng không tính, kế là không tính tự nhiên, sau do xa lìa trước chỗ chấp pháp ngã tính, Phật ý kín nói tất cả pháp Phật tính. Lại nói: Nếu khi ở duyên ấy, trí đều không chỗ được, Năng sở nhất như không có hai tướng. Bấy giờ trụ Duy thức lìa tướng hai lấy. Hoa Nghiêm nói: thời chữ Đà gọi là quán sát chọn lựa, tất cả pháp tụ. Sớ rằng: Tức tính hay Trì giới. Dư-đa (Sàmta?), Tần gọi là tịch diệt. Đại Phẩm nói: Môn chữ Dư là vào tất cả pháp Định không thể được. Luận rằng: Tức biết các pháp tướng tịch diệt. Diệu Lạc nói: Đây nói tịch diệt là diệt cái diệt sanh không phải là diệt cái tức sanh, diệt cái tức sanh là chẳng diệt. Như Tịnh Danh nói: Pháp vốn chẳng thể nay thì không diệt là nghĩa tịch diệt. Hoa Nghiêm nói: Thời chữ Xa gọi là tùy thuận tất cả Phật giáo luân quang minh. Sớ rằng: tức là tính tịch tịnh. Khư (Kha), Tần gọi là Hư không. Đại Phẩm nói: Môn chư khư là vào các pháp hư không chẳng thể được. Hoa Nghiêm nói: Thời chữ Khư gọi là tu Nhân địa trí tuệ tạng. Sớ rằng tức như tính hư không. Xoa-da (Ksaya), Tần gọi là Tận (hết). Đại Phẩm nói: Môn chữ Xoa là vào các pháp tận chẳng thể được. Hoa Nghiêm nói: Thời chữ xoa gọi là tức Chư Nghiệp Hải Tạng. Sớ rằng: Tức là tính tận. Ca-đa-độ-cầu-na, Tần gọi là bên việc được lợi gì. Đại Phẩm nói: Môn chữ đa là vào các pháp có có thể được. Luận rằng: Tức biết các pháp biện được lợi gì Hoa Nghiêm nói thời chữ Ta-đa gọi là trừ các hoặc chướng, Khai tịnh quang minh (mở ánh sáng tịnh). Sớ rằng: Tức tính nhậm trì xứ phi xứ khiến chẳng động. Nhã-na (Jnãna) hoặc Xà-na, Tần gọi là Trí - Đại Phẩm nói: Môn chữ Nhã là vào các pháp trí chẳng thể được. Luận rằng: Tức biết tướng Vô trí trong tất cả pháp. Hoa Nghiêm nói thời chữ Nhương gọi là Tác thế gian trí tuệ môn (làm trí tuệ môn ở thế gian). Sớ rằng: Tức tính Năng sở tri. Kinh Phật Địa nói có bốn trí: Một là Đại viên cảnh trí, như y vào gương tròn sáng hiện rõ các hình ảnh. Như thế là nương vào gương trí của Như Lai mà biết các cảnh tượng ở mọi nơi; hai là Bình đẳng tính trí, là chứng được tất cả lãnh thọ duyên khởi bình đẳng pháp tính, viên mãn thành tựu; ba là Diệu quan sát trí, là trụ trì (giữ gìn) tất cả môn Đà-la-ni, môn Tam-ma-địa, vô ngại biện tài nói các Diệu pháp; bốn là Thành sở tác trí là động thân hóa nghiệp hiện bày các thứ, tồi phục các tài khéo dẫn dắt chúng sanh khiến vào Thánh giáo mà thành giải thoát. (Song ki Niết-bàn nói y trì mà chẳng y thức. Ở Thánh thì gọi là Thành sở tác trí, ở phàm thì gọi là năm thức. Ở Thánh thì gọi là Diệu quan sát trí mà ở phàm thì gọi là thức thứ sáu. Ở Thánh thì gọi là Bình đẳng tính trí, ở Phàm thì gọi là thức thứ bảy. Ở Thánh thì gọi là Đại viên cảnh trí, ở phàm thì gọi là thức thứ tám. Tuy Thánh phàm một thể mà Mê ngộ có tên khác nhau, khiến y trí mà chẳng có thức). A-thi (Artha), Tần gọi là nghĩa. Đại Phẩm nói: Môn chữ Thi à vào các pháp thi chẳng thể được. Luận rằng: Nếu nghe chữ Tha tức biết nghĩa tất cả pháp chẳng thể được. Hoa Nghiêm nói: Chữ hạt La-đa gọi là sanh tử cảnh giới trí tuệ luận. Sớ rằng: Tứ tính chấp trước nghĩa. Chấp trước là cảnh sanh tử, nghĩa tức là trí tuệ luận. Bà (Ta)-già (Bhàga), Tần gọi là Phá. Đại Phẩm nói: Chữ Ta vào các pháp phá hoại chẳng thể được. Luận nói: Biết tất cả pháp chẳng được tướng phá. Hoa Nghiêm khi đọc chữ Bà thì gọi là Nhất thiết trí cung điện viên mãn trang nghiêm. Sớ rằng: Tức nói có thể phá hoại tính viên mãn. Bất không dịch là đạo tràng. Già-xa-đề (Gacchati), Tần gọi là Khứ (bỏ đi?) Đại Phẩm nói: Môn chữ xa là vào các pháp Dục chẳng thể được, như ảnh năm chúng cũng chẳng thể được. Luận rằng: tức biết rốt cuộc các pháp chẳng chỗ bỏ (đi). Hoa Nghiêm khi đọc chữ Xa thì gọi là Tu hành phương tiện tạng, đều riêng được viên mãn. Sớ rằng: Tức tính bị dục lạc che đậy. A-thấp-ma (Azman), Tần gọi là thạch (đá). Đại Phẩm nói: Môn chữ Ma, là vào các pháp chữ Ma chẳng thể được. Luận rằng: Tức biết các pháp bền chắc như đá Kim cang. Hoa Nghiêm khi đọc chữ Ta-ma thì gọi là Tùy mười phương hiện thấy chư Phật. Sớ rằng: Tức tính có thể ức niệm (nghó nhớ). Hỏa-dạ, Tần gọi là Hoán lai (gọi lại), Đại Phẩm nói: Môn chữ Hỏa là vào các pháp Hoán chẳng thể được. Luận rằng: Tức biết tất cả các pháp không có tướng âm thinh. Hoa Nghiêm khi đọc chữ Ha-bà thì gọi là quan sát tất cả chúng không không duyên mà phương tiện nhiếp thọ, khiến sanh ra sức vô ngại. Sớ rằng: Tức là tính có thể gọi mời, mời gọi vô duyên khiến có duyên. Mạt-sai-la (Màtsarya), Tần gọi là Xan (bỏn xẻn). Đại Phẩm nói: Môn chữ Sai, là vào các pháp chữ Sai chẳng thể được. Luận rằng: Chữ sai tức biết tất cả pháp tướng không xan không thí. Hoa Nghiêm khi đọc chữ sai thì gọi là Tu hành mà thú nhập vào biển tất cả công đức. Sớ rằng: Tức là tính mạnh mẽ (dõng kiện). Già-na (Ghana), Tần gọi là Hậu (sâu dày). Đại Phẩm nói: Môn chữ già là vào các pháp Hậu chẳng thể được. Luận rằng: Tức biết các pháp chẳng Hậu chẳng Bạc. Hoa Nghiêm khi đọc chữ Già gọi là Trì nhất thiết pháp vân kiên cố hải tạng. Sớ rằng: Tức tính Hậu bình đẳng. Tha-na (Sthàna), Tần gọi là xứ (chỗ ở). Đại Phẩm nói: Môn chữ Tha là vào các pháp Xứ chẳng thể được. Luận rằng: Tức biết các pháp không có chỗ ở. Hoa Nghiêm khi đọc chữ Tra thì gọi là Tùy nguyện khắp thấy chư Phật. Sớ rằng: Tức tính tích tập (chứa nhóm). Noa (na), Tần gọi là bất (chẳng). Đại Phẩm nói: Môn chữ Noa là vào các pháp chẳng tới chẳng lui chẳng đứng chẳng ngồi chẳng nằm. Luận rằng: chúng sinh không pháp không. Hoa Nghiêm khi đọc chữ Noa thì gọi là quan sát tự luận hữu vô tận chư ức tự. Sớ rằng: Tức lìa các tranh cãi ồn ào, không đến không đi không đi đứng ngồi nằm, nghĩa là luôn quán tự luân. Phả-la (Phala), Tần gọi là quả. Đại Phẩm nói: Môn chữ Phả là vào các pháp biến (khắp) chẳng được. Luận rằng: Tức biết tất cả pháp không nhân quả. Hoa Nghiêm khi đọc chữ Ta Phả thì gọi là Hóa chúng sinh cứu cánh xứ. Sớ rằng: Tức đầy khắp quả báo. Ca-đại, Tần gọi là chúng, Đại Phẩm nói: Môn chữ Ca là vào các nhóm pháp chẳng thể được. Luận rằng: Tức biết tất cả năm chúng chẳng thể được. Hoa Nghiêm khi đọc chữ Ta Ca thì gọi là Quảng tạng vô ngại biện quang minh luân biến chiếu. Sớ rằng: Tức là tính chứa nhóm. Ta, Đại Phẩm nói: Môn chữ Ta là vào các pháp chữ Ta chẳng thể được. Luận rằng: Tức biết chữ Ta là không, các pháp cũng thế. Hoa Nghiêm đọc chữ Dã Ta gọi là Tuyên nói tất cả cảnh giới Phật pháp. Sớ rằng: Tức là tính tướng suy lão. Giá-la-địa (Calati), Tần gọi là Động. Đại Phẩm nói: Môn chữ Giá là vào các pháp Hạnh chẳng thể được. Luận rằng: Tức biết tất cả pháp tướng bất động. Hoa Nghiêm khi đọc chữ Thất giả gọi là đối với tất cả chúng sinh giới pháp lôi biển hẩu (sấm pháp khắp gầm thét với tất cả chúng sanh giới). Sớ rằng: Tức tụ tập dấu chân, nghĩa là tụ tập tất cả chúng sinh, pháp lôi tức là dấu chân. Đa-la (Tara), Tần gọi là Ngạn (bờ). Đại Phẩm nói: Môn chữ Trá là vào các pháp khu (đuổi) chẳng thể được. Luận rằng: Nếu nghe chữ Đa tức biết tất cả pháp ở bờ kia đây chẳng thể được. Hoa Nghiêm khi đọc chữ Tra gọi là đem pháp vô ngã khiến chúng sinh hiểu. Sớ rằng: Tức tướng tính đuổi gấp gọi là hiểu vô ngã, tức là đuổi gấp. Bỉ-trà, Tần gọi là Tất (ắt). Đại Phẩm nói: Môn chữ Trà là vào các pháp biên cánh xứ chẳng chết chẳng sanh qua trà không chữ có thể nói. Luận rằng: Tức biết các pháp ắt chẳng thể được. Hoa Nghiêm khi đọc chữ Đà gọi là Nhất thiết pháp luân sai biệt tạng. Sớ rằng: Đây là rốt ráo gồm chứa tất cả pháp luận mới dịch là chữ Trà. Đại Phẩm nói: Một chữ đều vào bốn mươi hai chữ, bốn mươi hai chữ cũng vào một chữ. Nam Nhạc Đại sư nói: Dùng biểu thị bốn mươi hai vị, một là môn chữ A biểu thị Sơ trụ, cuối là chữ Trà biểu thị Diệu giác cho nên nói qua Trà không chữ có thể nói. Vì đời chấp gọi là pháp, các Thánh do đây gọi là môn. <詞>PHÁP DANH CÚ VĂN. Du già nói: Phật Bồ-tát v.v… là Năng thuyết (người nói). Lời là tướng của Năng thuyết. Danh Cú Văn Thân là tướng của Sở thuyết (pháp được nói). Thành Duy Thức Luận nói: Danh là nói tự tính, Cú là nói sai biệt. Văn tức là chữ làm hai sở y (hai chỗ nương). Đây không phải là sắc tâm thuộc Bất tương ưng hành nên gọi là ba già. Bà-sa hỏi: Như thế Phật giáo lấy gì làm thể? Đáp: Một là lấy Ngũ nghiệp làm thể gọi là lời lẽ Phật (lời Phật nói). Xướng (đọc lời) từ, bình luận, ngữ âm, ngữ luận, ngữ nghiệp, ngữ biểu ấy là Phật giáo (giáo của Phật). Đây là Ngữ Nghiệp Sư; hai là gọi danh v.v… làm thể, Danh Thân Cú Thân Văn Thân thứ lớp nêu bày (làm lệ), đặt bày liên họp gọi là Danh Cú Văn, vì sao chỉ lấy Tiếng (thinh) làm giáo thể? Đây gọi là Cú Sư. Ngữ Nghiệp Sư vấn nạn rằng: Danh Cú Văn chỉ hiển bày tác dụng của Phật giáo, không phải là Tự thể. Danh Cú Sư vấn nạn rằng: Thinh là sắc pháp vì sao được là giáo thể, cần phải do có danh, bèn nói là giáo, thế nên thể của Phật giáo tức là Danh Danh hay nói nghĩa, nên gọi Danh là thể. Hai sư có cái thấy khác nhau, chấp chặt chẳng thông, trong lúc lý luận luôn giữ hai nghĩa. Cho nên chính Lý Sao nói: Xét hai thuyết trên đều có sở qui, các luận đều có hai nhà chưa chịu nghe phán quyết. Tây Phương Truyện nói: Đủ bàn không thiếu, là sao? Là nếu lấy giáo nhiếp cô, không có tiếng thì chẳng nghe thấy gì, nếu lấy lời nói mà tìm ý chỉ thì không có danh ắt không có gì bày ra. Cho nên Câu-xá nói: Mâu-ni nói Pháp uẩn, số có tám mươi ngàn, Thể nó Ngữ hoặc Danh, là Sắc hành uẩn nhiếp. Thể tức là giáo thể, Ngữ tức là ngữ nghiệp, Danh là Danh cú. Nói Sắc hành uẩn là do thuộc thinh nên không thể thấy có đối sắc do sắc uẩn thâu, còn Danh cú thuộc bất tương ưng hành do Hành uẩn nhiếp. Thể đã thông ở sắc hành thì hiển bày giáo năng thuyên. Thinh Danh Cú Văn bốn pháp hòa hợp mới là Lý năng thuyên. Lại phải biết Phật còn ở đời và diệt độ rồi hai thể không đồng. Nếu ước theo Phật còn ở đời thì tám âm bốn biện tướng tiếng Phạm âm. Đây là một thật. Danh cú văn thân chính là trên thinh (tiếng) khuất khúc mà lập ra, ba thứ này là Giả. Nếu ước theo Phật diệt độ rồi, các thánh kiết tập với lá bối ở Tây Vức, với tre lụa ở Đông Hạ, viết chép Thánh giáo chứa trong đó, thì Danh Cú Văn Thân đều thuộc Sắc pháp. Đây là theo chính mà phân biệt. Nếu ở bàng (phụ) mà thông nói: Phật còn ở đời thì chính tuy thuộc thinh mà bàng (phụ) cũng thông sắc. Như ngài Ca-chiên-diên soạn ra các kinh Yếu nghĩa trình Phật ấn khả thì đây là thông sắc. Phật diệt độ rồi chính tuy dùng sắc mà bàng (phụ) cũng thông thinh (tiếng). Vì nhờ bốn y mà nói mơi có thể hiểu, phải phân biệt như thế thì giáo thể mới sáng tỏ. Du Già Luận nói: Thể các Khế Kinh lược có hai thứ: Một là văn, hai là nghĩa. Văn là sở y, nghĩa là năng y. Thập Trụ phẩm nói: Văn tùy ở nghĩa, nghĩa tùy ở văn, văn nghĩa tùy nhau thì lý không nhầm mới là chân giáo. Đây nói thể đã xong. Tiện-thiện-na (Vyainjana), dịch là Văn Thân. Từ Ân Sớ nói: Văn Thân là Danh Cú y đó mà hiển sở biểu (điều muốn nêu bày). Hiển có bốn nghĩa: Một là quạt, hai là tướng hảo, ba là căn hình, bốn là muốn mặn. Như kế hiển gió mát người lớn, nam nữ, mùi vị… nên gọi là Hiển kể dụ Văn Thân này có thể hiển lý. Nếu theo xưa dịch thì Văn là vị, chỉ là Sở hiển, không phải Năng hiển. Đại Thừa Nhập Lăng Già nói: Văn Thân, nghĩa là ở đây hay Danh Cú. Lăng Già nói: Hình thân nghĩa là hiển bày gọi là hình thân. Lại hình thân là dài ngắn cao thấp. Chú rằng: Hình thân tức là chữ. Nhập Lăng Già nói: Tự thân tức là tiếng dài ngắn, âm vận cao thấp gọi là tự thân. Hay hỏi văn và tự là khác hay đồng. Nếu chưa sửa đổi đây chỉ là danh tự, nếu đã cải đổi thì văn tức là tự. Ấy thì y loại tượng hình làm tự; hình thành tương xứng gọi là văn. Na-ma (Nàma), dịch là Danh. Lăng Già nói: Danh thân nghĩa là y sự lập tên, gọi là Danh thân. Ba-đà (Pada), Tần gọi là cú. Cú là cú đậu. Đậu là chỗ ngừng (chấm, phết). Đại Luận nói: Ngữ pháp của Thiên Trúc các chữ hòa hợp thành ngữ, các ngữ hòa hợp thành cú. Như Bồ là một chữ, Đề là một chữ, hai chữ (tư) này không hợp thì không có ngữ, nếu hòa hợp thì thành Bồ-đề. Đại Thừa Nhập Lăng Già nói: Cú thân nghĩa là hay hiển nghĩa quyết định rốt ráo (sau cùng). Thành Duy Thức Luận nói: Cú thuyên sai biệt như gọi tên nhãn tức thuyên (nói?) tự tính. Nếu nói Phật nhãn hay Thiên nhãn chính là hiển Cú thuyên sai biệt. A-nậu-tốt-đổ-ba (Anustubha) hoặc A-thâu-lô-ca-ba. Thiên Trúc chỉ sô chữ đủ ba mươi hai tức là một kệ, gọi là A-nậu-tốt-đổ-ba kệ. Uẩn-đà-nam (Uđàna), dịch là Tập Thi Tụng, tức là lấy ít lờu nhiếp tập nhiều nghĩa thành bài tụng trì khác. Bạt-cự (Varga) Pháp Hoa Văn Cú nói: Trung A-hàm dịch là phẩm phẩm là nghĩa loại đồng họp lại ở một đoạn như Phạm Võng, hoặc kiết tập nêu ra như Đại Luận (một bộ Đại phẩm nhà kiết tập chỉ lập ba phẩm) hoặc người dịch thêm vào cho đủ như La-thập (Thập sư thêm thành chín mươi phẩm). Di-để, dịch là chính tượng. Tướng Tông nói: Có ba thứ lượng: Một là Hiện lượng, là chỉ ước Phật quả khởi Hậu đắc trí mà thấy Lý thật tướng, có hai: Một là Định vị, định tâm lắng trong cảnh đều chứng sáng nên gọi là Hiện lượng. Hiện là sáng (minh) hai là tán tâm hiện lượng. Như năm thức khi duyên sắc v.v… thân minh nhi thủ cục phụ cảnh thể phân minh hiển hiện. Hiện là thân; hai là Tỷ lượng chung ước phàm phu đến Đẳng giác do tỷ lượng mà sanh biến. Như ở xa thấy khói biết ở đó có lửa (so mà biết +tỷ lượng) tuy không thấy lửa nhưng nói không sai; ba là chứng ngôn lượng. Như kinh Phật dạy lấy làm chứng. Theo Nhân Minh Luận nói: Năng lập cùng năng phá, và tợ chỉ ngộ tha, hiện lượng cùng tỷ lượng và Tợ chỉ tự ngộ. nghĩa minh có tám (nói nghĩa có tám): Một là Năng lập ba chi, Thí dụ tông nhân, do đây mà thí huống dụ hiểu tông nhân. Tông là nghĩa tông chủ (là loài), nhân là nghĩa sở dó. Từ ngài Thế thân trở về trước tông v.v… đều là năng lập. Từ Trần na trở về sau chỉ lấy một nhân hai dụ làm năng lập. Tông là sở lập; hai là Năng phá; ba là Tợ năng lập; bốn là Tợ năng phá; năm là Hiện lượng; sáu là Tỷ lượng; bảy là Tợ hiện lượng; tám là Tợ hỷ lượng. Nhân Minh Sớ nói: Phán định pháp thể cần phải hai lượng: Hiện lượng thì được cảnh thân minh, tỷ lượng thì cũng độ (tính lượng) nghĩa không lầm, độ cùng tướng cảnh không tà lầm. Tông Cảnh nói: Giáo không trí là chẳng viên, cây không dây thì chẳng thẳng. So sánh thật đáng tin, suy lường có thể định chân thuyên lấp vọng thuyết của cuồng ngu cho nên được chính pháp luân chuyển mãi. Ý chỉ Duy thức rộng lưu hành thì sự có công hiển lý, lời nói có sức định tà. Đô-la, dịch là Hỷ. Thích luận nói: Trong năm trần mà sanh vui thì gọi là Lạc, trong pháp trần mà sanh lạc thì gọi là Hỷ. Trước cầu lạc nguyện khiến chúng sanh được từ lạc mà khiến chúng sanh được hỷ. Lại nói: Thô lạc (vui thô) gọi là lạc, tế lạc (vui tế) gọi là hỷ. Ví như mới uống thuốc gọi là lạc, thuốc thấm toàn thân gọi là hỷ. Trí Luận nói: Chỉ giáo lợi hỷ, chỉ người tốt xấu, thiện, bất thiện, nên làm, không nên làm. Sanh tử là xấu, Niết-bàn an ổn là tốt, phân biệt ba thừa, phân biệt sáu Ba-la-mật gọi là Thi (chỉ). Giáo là nói người bỏ ác làm thiện. Lợi là ngươi chưa được thiện pháp vị tâm liền lui sụt, vì họ nói pháp dẫn dắt khiến ra, người chớ khi ở nhân mà không cầu quả. Ngươi nay tuy quả báo cần khổ khi ra rồi thì được Đại lợi ích, khiến tâm ấy lợi nên gọi là lợi. Hỷ là tùy chỗ người ta làm mà khen ngợi nên gọi là hỷ. Lấy bốn việc này mà trang nghiêm cho pháp. Trí Luận nói ba việc đầy đủ nên gọi đại hoan hỷ: Một là người hay nói pháp thanh tịnh, hai là pháp được nói thanh tịnh, ba là y pháp được quả thanh tịnh. Luận lại hỏi: Các La- hán đã chứng thật tế không còn vui mừng, vui nhỏ còn không huống là vui lớn? Đáp: La-hán đã lìa dục ba cõi chưa được tất cả trí tuệ cho nên đối với các pháp thâm thâm cũng còn nghi chưa hiểu trong Bát-nhã thì liễu rõ các thuyết trừ hết nghi ấy cho nên vui mừng lớn. Ma-ha-la, dịch là vô tri. Trong luật A-na nhiếp chúng không đúng pháp. Ca-diếp quở là trẻ tuổi. A-nan nói: Tôi nay đầu đã bạc sao nói trẻ tuổi. Đáp rằng: Ông chẳng khéo xét sự việc thì đồng với kẻ trẻ tuổi. Lớn tuổi mà ngu pháp há chẳng so đây. Phạm-đàn, dịch là Mặc tần (làm thinh mà đuổi). Phạm-đàn khiến tự tính ác của Xa-nặc. Ngũ Phần nói: Pháp Phạm-đàn là tất cả bảy chúng chẳng đến cùng nói chuyện. Nếu tâm đã điều phục thì vì nói Na- đà. Kinh của Ca-chiên-diên khiến lìa có không mà vào quả Sơ trụ. Văn này là Xiễn Thinh văn chú. Xương-tát (Sadhu), đọc Xương-tát là sai. Đọc đúng là Bà-độ dịch là lành thay! A-hô (À), dịch là lạ thay! Xà-duy hoặc Da-tuần, gọi đúng là Trà-tỳ, dịch là phần thiêu (thiêu thân). Tây Vức Ký gọi Niết Điệp Bàn Na, xưa dịch Xà-duy là sai. Thông Tuệ Âm nghĩa nói: Đích thân hỏi Phạm tăng thì nói chưa nghe tiếng Xà-duy. Đà-kha (ha) (Dahat), dịch là thiêu. Toản Yếu nói: Dùng chiếu thì tối chẳng sanh, dùng thiêu thì vật chẳng sanh. Tăng-kha-lật-đa-nhi (Samskrtam), dịch là hữu vi. Đại Phẩm nói: Một là tướng pháp hữu vi, tức trí mười tám (mười tám trí không?) cho đến trí tám thánh đạo, mười lực, bốn vô sở úy, pháp thế gian, pháp xuất thế gian; hai là tướng pháp vô vi thì không sanh không diệt, không trụ không khác, không cấu không tịnh, không tăng không giảm, các pháp tự tính. Đại Luận giải thích rằng: Tướng Pháp vương là tướng làm trước không nay có, đã có lại trở về không. Trái với tướng trên tức là tướng pháp vô vi. Song hai pháp này nếu ước theo tướng tức như Bát-nhã nói: Phật bảo Thiện Hiện không được lìa hữu vi mà nói vô vi, không được lìa vô vi mà nói hữu vi. Nếu các ước đều lập như Hoa Nghiêm nói: Ở giới hữu vi mà bày lý vô vi chẳng diệt tướng hữu vi. Ở giới vô vi mà bày pháp hữu vi chẳng hoại tính vô vi. Kinh Đạo Trí nói: Gọi đó là một tâm Bản pháp (vốn pháp một tâm) không phải hữu vi nên hay làm hữu vi, không phải vô vi nên hay làm vô vi. Bát-giá-vu-sắc (Daưcaparsad) hoặc Bát-giá-bạc-lị-sa, dịch là năm năm đại hội. Bát-giá-vu-tuần (Paócabhijóa?), dịch là người năm thần thông. Kinh nói: Bát-giá-vu-tuần tức dùng đờn sắc ca tụng Đức của Phật. Tứ-tỳ-xá-la, kinh Niệm Phật Tam-muội nói: Độ thoát năm đạo Tứ-tỳ-xá-la. Chú rằng: Đây hoặc dịch là pháp thí giới, đây là nghĩa không xan tham. Một-lặc-độ (Mrdu), dịch là nhuyến (mềm) vết mềm gọi là nhuyến. Lệ-xế-tỳ, dịch là tế hoạt (trơn láng) Truân-na, dịch là Tôi mạt. Tứ-ma, dịch là biệt trụ (ở riêng). Chỗ tác pháp này không thông với các chỗ khác. Ốt-sắc-ni-sa (Usnisa), dịch là kế (búi tóc). Kinh Vô Thượng Y, từ xương đỉnh đầu nổi lên Uất-ni-sa, tự nhiên thành búi tóc, nên gọi là nhục kế. Ổ-sắc-nị-sa (Usnisa) dịch là Phật đảnh. Mẫu-đà-la (Mùdra). Huề Lý nói: Tay kết ấn. Ca-tư (kasi) hoặc Ca-thi dịch là quang (sáng) tức hay phát ánh sáng. Thích-ca Thế Tôn có viên quang xa một tầm Phật A-di-đà có ánh sáng vô lượng. Trí Luận nói: Vô lượng có hai thứ: Một là thật vô lượng, hai là vô lượng của hữu lượng (thấy ở quyển 7). Xá-lị (Sarica), mới gọi là Thất-rị-la hoặc Thiết-lị-la dịch là cốt thân (xương của thân). Lại gọi linh cốt tức là phần xương còn lại (di cốt), tên thông thường là Xá-lị. Quang Minh nói: Xá-lợi này là giới định tuệ huân tu rất khó được lượng thượng phước điền. Đại Luận nói: Xương nát là xá-lợi của sanh thân kinh quyển là xá-lợi của pháp thân. Pháp Uyển nói ba thứ xá-lợi: Một là xương sắc trắng, hai là tóc xá-lợi sắc đen, ba là thịt xá-lợi sắc đỏ. Bồ-tát La-hán đều có ba thứ. Nếu xá- lợi của Phật thì chày đập không nát, xá-lợi của đệ tử chày đập thử liền nát. Cảm Thông Truyện Thiên Nhân Vương Phan nói: Là Đại Ngô Lan Đài Thần gặp sư mới đến kiến nghiệp. Tôn chủ chưa cho bèn khiến cảm việc hiếm có mà lập pháp phi thường. Lúc đó trời đất thần kỳ đều gia bị hai mươi mốt ngày bèn cảm được xá-lợi. Ngô chủ (Ngô quyền) tay cầm bình đồng đổ ra mâm đồng thì xá-lợi làm lủng mâm, thiêu đốt chày đập đều không hư hại. Vua bèn sùng hưng Phật pháp. Lại Đa Văn Trưởng Tử tên Natra từng đem răng Phật tặng cho Tuyên Luật Sư. Thái Tổ Hoàng đế nghi không phải răng thật bèn lấy lửa mà nung thì chẳng sao. Bèn làm Nguyện văn, Thái Tông Hoàng đế có tụng rằng: Công thành nhiều kiếp ấn mối văn Chẳng phải Nam Sơn chớ (sợ) hỏi han Mắt thấy mấy từng sắc vàng nhuận Tay gõ phiến ngọc lạnh sáng Khi luyện trăm lửa tinh thần thấu Vẫn giữ vẻ ngọc suốt ngàn năm Định quả chân tu thật bí mật chính tâm chớ làm chỉ ngắm xem. Chân Tông Hoàng đế có kệ rằng: Tây phương có Thánh hiệu Ca Văn Từ vi độ vật được đời tôn Thường nguyện tiến tu thêm diệu quả Nhiều phen lợi ích với lê dân. Nhân Tông Hoàng đế có kệ khen rằng: Ba vua giấu chất đều về đất Năm đế ẩn mình đã hóa bụi Khổng Tử trong nước khen là Thánh Lão quân trên đời cũng nói chân Chân thân chỉ thấy không còn gì Biết đem thân nào chỉ người sau Chỉ có thầy ta còn xương vàng Trái đủ trăm luyện sắc vẫn tươi. Huy Tông Hoàng đế năm Sùng Ninh ba ngày Trùng Ngọ từng ng- hinh đón răng Phật Thích-ca vào nội cung cầu xá-lợi cảm ứng, cách hộp thủy tinh sanh ra giọt mưa, thần lực như thế, vui mừng khen ngợi không thôi bèn có kệ khen rằng: Đại só Thích-ca văn Hư không như một trần Có cầu đều phó cảm Cõi nào cũng phân thân Ngọc đẹp ngàn vạn hạt Kim cang trăm luyện vẫn mới Con nay cung kính lễ Khắp nguyện cứu quần sinh. Ma-na-mạt-na (Manomana), dịch là Ý sanh thân. Kinh Lăng Già nói: Có ba thứ ý sanh thân, có ba nhà là Pháp Hoa Huyền, Tịnh Danh Sớ và Phụ Hành Ký nêu rõ nghĩa này, các tên cùng có nói. Kẻ hậu học đọc sách không hiểu ý ấy, do đó chẳng ngại tầm thường bèn vội mở hai môn: Một là giải thích hiệu chung, hai là luận về tên riêng. Nguyện tên chung của Ý sanh, thì ý là tác ý, đây là hiển bày tu nhân đồng cư. Sanh là thọ sanh, đây là nêu cảm quả phương tiện. Cho nên nói: An lạc làm không ý Tam-muội làm giả ý, tự tính làm trung ý. Lại ý là như ý. Ngụy Địch Nhập Lăng Già nói: Tùy đi đi nhanh như (trong một) niệm liền đến không có chướng ngại gọi là như ý thân. Lại ý là ý nhớ. Đường Dịch Đại Thừa Nhập Lăng Già nói: Phật bảo Đại Huệ rằng: Ý sanh thân là ví như Như ý đi nhanh chóng vô ngại nên gọi là Ý sanh thân. Đây tức là từ thí dụ mà gọi Ý sanh thân. Kinh ấy có hai nghĩa: Giải thích tên chung này, một là nói Đại Tuệ ví như tâm ý ở ngoài vô lượng trăm ngàn do-tuần nhớ các thứ vật trước đã thấy niệm niệm liên tục đến nhanh với các vật ấy không bị núi sông vách đá cản trở. Ý sanh thân cũng lại như thế; hai là nói sức Tam-muội như huyễn, thần thông tự tại các tướng trang nghiêm, nhớ xưa vốn nguyện thành tựu chúng sanh cũng như ý đi (ý tưởng) mà sanh trong tất cả các Thánh chúng. Phụ Hành giải thích rằng: Một là nói nhớ chỗ, hai là nói nhớ nguyện. Hai nghĩa này đều là Ý ức sanh (ý nhớ sanh ra) nên gọi là ý sanh. Song tên chung này các tiên đạt giải thích rằng: Sanh phương tiện rồi nhớ các cảnh phàm Đồng cư trước đã thấy, tứ nguyện huân tu tác ý cầu sanh thần thông hóa vật. Nay nói chỗ giải này trái văn sai ý (mất ý chỉ?). lại trái văn thì Tịnh Danh Sớ nói rằng: Ba thứ Ý sanh thân không thể đoạn dứt nên sanh vào Hữu dư thọ thân pháp tính là chỗ Tổ sư giải thích danh từ sau đó đến “sanh thượng…” là Tiên Đạt giải nghĩa. Từ “Thượng Như Lai…” trở đi là nói điên đảo, là trái nghịch văn vậy. Về sai ý thì trong kinh nói: “Nhớ chỗ thấy trước…” vốn là văn dụ, Tiên Hiền mê mà làm pháp giải. Cho nên biết xưa giải thích tên chung chưa khéo. Song Trí Giả Sớ nói: Ý sanh thân vì y vào bản Lăng Già Tống dịch trong kinh Khê Ký gọi là Ý thành thân vì theo bản Lăng Già Đường dịch. Tuy hai kinh tên khác mà nghĩa vẫn là một. Vì kinh dịch sau lấy nghĩa thành tựu mà gọi là Ý thành thân. Nên Ký Chủ nói: Thành và Sanh đều từ quả mà nói. Vậy thì một chữ ý là thuận ở nhân, một chữ sanh là từ quả. Cho nên biết tên này nhân quả cùng lập. Kế luận tên riêng. Pháp Hoa Huyền nói: Một là An lạc pháp Ý sanh thân, đây là muốn định người Nhị thừa vào Niết-bàn ý an lạc vậy; hai là Tam-muội Ý sanh thân. Đây là định Thông giáo xuất giả hóa vật dùng thần thông Tam-muội vậy; ba là Tự tính Ý sanh thân, đây là định biệt giáo tu Trung đạo tự tính ý. Nay giải thích rằng: Một gọi là An lạc, vì kinh xưa nói: An trụ tâm hải (biển tâm an trụ) thức lãng bất sanh (song thức chẳng sanh). Trí Giả lập là pháp An trụ. Đây là dùng nghĩa của kinh mà lập tên; hai là gọi Tam-muội Ý sanh thân, vì kinh xưa nói được Như Huyễn Tam-muội thì vô lượng tướng lực đầy đủ trang nghiêm mà tùy vào Phật sát (cõi Phật). Trí giả lập là Tam-muội ý sanh. Song này tông này ba đế đều chịu tên Tam-muội. Văn này đã lấy thần thông mà giải thích, thì ở Tục Đế Tam-muội như Thích Châm nói: Nếu ở chỗ các tri thức chỉ được Tục đế Tam-muội, chỉ phá vô tri gọi là vô minh. Nay Tam-muội này cùng văn kia đồng; ba là nói Tự tính, vì kinh xưa nói: Biết tất cả các duyên Phật pháp tự được tướng vui. Trí giả lập là Tự tính ý sanh, vì Biệt giáo trung đạo là tự tính các pháp. Tịnh Danh Ký nói: Nếu chẳng thấy Trung ắt chẳng thấy tự tính các pháp. Song huyền nghĩa này chẳng dùng bị tiếp giải thích, chỉ ước vào ba giáo trước để trình bày, đây thì thuận với giáo chỉ. Bởi lấy tên tác ý từ Thiên giáo mà lập do không có công chiếu tính, bèn có hạnh Biệt tu. Do đó Viên giáo không có ý này. Phụ Hành nói: Huyền Văn không nói nhiếp vào ba, là vi quán thắng (hơn) cho nên bỏ mà không luận. Lại tên Ý sanh phải ở giáo đạo. Hai Tịnh Danh Sớ nói: Một là Tam-muội chính thọ Ý sanh thân, e là Thông giáo đồng vào vui chơn không tịch định. Niết-bàn nói: Thanh văn lực định có nhiều mà không thấy Phật tính; hai là Giác pháp tính Ý sanh thân, e là Biệt giáo Bồ-tát tuy chứng thiên chân, mà biết có Trung đạo pháp tính; ba là Vô tác Ý sanh thân, đây e là Viên giáo Bồ- tát, quán Trung đạo vô tác tứ đế, viên phục vô minh. Nay giải thích rằng: Một là gọi Tam-muội, Tổ ta đã dùng chân không tịch tịnh mà giải thích. Đây thì thuộc Chân đế Tam-muội, vì định tâm này yên lặng chẳng động nên gọi chính thọ. Kế nói về vị, như Ký Chủ nói: Nếu ước Thông giáo thì Thất địa trở lên hoặc đến Cửu địa, tên này ban đầu toàn y kinh mà lập; hai là Giác pháp tính, giác là biết, pháp tính chính là lý Thản Trung, lấy vị mà nói như Văn Ký nói: Nói tự tính là biệt trụ đồng thông đáng lấy (ở) Thập hạnh, một tên này cũng y kinh mà lập; ba là nói Vô tác là Viên trung xứng tính hạnh, tu đức đã quên, nên gọi là vô tác, lấy vị mà nói. Như Ký Chủ nói: Viên giáo đã nói: Phục vô minh liền biết là Thất tín. Song Sớ Văn này nếu ước chính tiếp chân minh, đây là dùng một chính của Thông giáo để giải thích tên ban đầu. Lại dùng Biệt viên hai tiếp mà khóa hai nghĩa sau. Nếu ngó Huyền văn trước ắt không có ba Tạng sau bèn thêm Viên giáo. Mà trong văn này trước không có ba tạng là bởi thuận giáo chỉ, vì cõi giới ngoại Tiểu thừa chưa nói. Nói Ý sanh chẳng dùng ba tạng sau lại thêm viên. Đây là thuận nghĩa của vị, vì do Biệt viên giống biểu mà chưa phát chân tu, đều gọi là tác ý. Song Tịnh Danh Sớ nói: Ý sanh thân tuy chỉ cho Thắng Man nhưng khi giải thích lại dùng toàn Lăng Già phải biết Thắng Man chỉ có tên chung mà không có tên riêng; ba là Phụ Hành Ký nói: 1/ Khi vào Tam-muội lạc ý thành thân, cũng gọi là chính thọ tức địa ba, bốn, năm ví tâm tịch chẳng động; 2/ Giác pháp tự tính Ý thành thân tức trong tám địa khắp vào Phật Sát, vì pháp tự tính. Ba loại đều sanh không (vô) tác Ý thành thân, tức liễu liễu rõ pháp Phật chứng. Nay giải thích: Một tên đầu đã chỉ thông giáo ba địa trở đi cùng hai văn trước danh nghĩa đều giống nhau. Như kinh Đường dịch nói: Ba, bốn địa vào Tam-muội lìa các thứ tâm, vắng lặng chẳng động, tâm hải chẳng khởi chuyển sóng thức, hiểu cảnh tâm hiện đều không có. Đó gọi là vào Tam-muội lạc Ý thành thân; hai là gọi giác pháp tự tính Ý thành thân là cùng Diệu Huyền quyển hai, tên khác nghĩa đồng. Song trong Ký Văn đã chỉ tám địa vào giả, bèn lấy pháp giác liễu như huyễn thông đạt tự tại mà gọi là giác pháp tự tính. Cho nên kinh Đường dịch nói: Tức trong tám Địa hiểu rõ pháp như Huyễn đều không có tướng, tâm chuyển sở y trụ như huyễn định và các Tam-muội kia hay hiện vô lượng thần thông tự tại, như hoa nở mau chóng như ý, như huyễn như mộng như ảnh như tượng, không phải tạo sở tạo cùng tạo tương tợ. Tất cả sắc tướng đầy đủ trang nghiêm khắp vào Phật sát, hiểu các pháp pháp tính. Đó gọi là Giác pháp tự tính Ý thành thân. Ba tên chủng loại cù sanh. Vô (không) tác hạnh Ý thành thân, chủng là nghĩa hay sanh, loại là từ lưu loại mà lập tên. Vì quán Trung đạo hay sanh trong cõi Phật, cho nên nhân vị này cùng quả làm loại nên chủng loại Cu sanh. Nói Vô tác, tức là Biệt Thập (mười) Hồi Hướng hiểu pháp Phật chứng nên gọi là vô tác. Cho nên kinh Đường dịch nói: Hiểu rõ các pháp tự chứng pháp tướng, đó gọi là chủng loại cu sanh vô tác hạnh Ý thành thân. Song tên thứ ba tuy ba văn lập tên đều khác, mà đồng đối Trung quán, lại cùng tên thứ hai của Tịnh Danh về nghĩa cũng đồng. Song ngài Kinh Khê tự đoạn ký văn thì nói: Đây ước Thông giáo và lấy Biệt tiếp, thụ phán thứ vị, nên biết Phụ Hành dùng thông một chính và Biệt tiếp. Hỏi rằng: Phàm người làm ký vốn giúp Sớ, vì sao Ký này lại giải thích Ý sanh thân chỉ dùng Thông giáo thụ luận vị thứ thì có khác nghĩa hai sớ của Trí Giả không? Đáp: Theo Ký nêu rằng: Nên biết nay phán cùng kinh ý đồng. Kinh văn chưa nhiếp Biệt vị làm khác. Thế nên biết Kinh Khê khác Trí Giả là vì thuận bản kinh. Hỏi: Theo kinh mà phán vị đã chỉ ở thông vì sao Trí Giả lại dùng bốn giáo mà giải thích? -Giải thoát Chỉ do nghĩa của ý sanh bao gồm chín người (Tạng giáo Nhị thừa, Thông giáo Tam thừa, Biệt ba mươi tâm, Viên thập tín vị) do đó Tổ ta ở nghĩa mà giải thích thích thời có khác. Hỏi: Ngài Thiên Thai đốn ngộ pháp tướng rất sáng tỏ, trong Sớ Tịnh Danh Sao nói: “e là”, trong Pháp Hoa Huyền Sao nói là “muốn định” ư? Đáp: Tịnh Danh Ký nói: đều nói “e là” là tôn trọng Thánh điển gồm bày vô chấp, ba lớp đều giai hàng, nghĩa kinh văn bao gồm là giáo nào. Do đó lập tên đã thông, giải nghĩa khó cục, hoặc dùng Thiên Viên mà giải thích, hoặc ước chính Tiếp mà trình bày, chẳng cố chấp bèn nói muốn định. Hỏi rằng: Tiểu giáo chẳng nói giới ngoại Nhị thừa chỉ nói vô sanh, đâu từng cần tâm sanh phương tiện ư? Đáp: Pháp tính tuy xưa chưa nghe, thân biến dị ở sau sẽ thọ, vì sao? Vì hẹn tâm đến quả nắm chí tu nhân, muốn ra khỏi phương phiền não, nguyện vào cảnh Niết-bàn, chưa mất lấy bỏ lại có tử sanh như thế mà ôm ấp sao tránh được tác ý ư? Người không hiểu bèn nói rằng: Ước Đại thừa mà phán thì rất nhầm. Hỏi: Lúc đó quá ý địa trụ, ở trong Trí nghiệp, ấy thì Đại Luận nói: Ở Thật báo đã là trí sanh, vì sao Tịnh Danh định ở mười địa cũng thông ý sanh? Đáp: Tịnh Danh Ký nói: 1/ Chỉ là vị cực danh ý; 2/ Đới giáo tỏa chi ngôn ý. Hỏi rằng: Bảo tính Luận nói: Nhị thừa ở cõi vô lậu sanh ba thứ ý ấm, chưa xét (biết) ý sanh và ý ấm đồng khác thế nào? Đáp: Thích Châm giải rằng: Nhị thừa ở một trong ba thứ đó, nay nói chung nên nói ba thứ, không phải nói Nhị thừa đủ cả ba. Nói ý ấm là do ý sanh ấm nên gọi là ý ấm. Lại tác ý sanh ấm nên gọi là ý ấm. Lại ý tức là ấm nên gọi ý ấm. Hai thứ trước là giải thích từ nhân mà được tên, một thứ sau là giải thích từ quả mà lập hiệu. Kinh Khê đã nói Nhị thừa ở một trong ba thứ đó, đây tức là An lạc pháp ý, ấy thì kinh cùng luận văn tên tuy hơi khác mà nghĩa thì rất đồng. Xưa nhân giảng nghĩa đã nói rõ ngọn ngành nay phụ vào đây để giúp người hậu học. <詞>TĂNG SỐ THÍ DỤ. Thái Hư trăng nước đều dụ thể không, lông rùa sừng thỏ cũng ví giả danh, nhân động mà trái định, như thuyền đi mà bờ dời. Do vọng mê chơn ví như mây bay mà trăng chuyển. Sáu đạo sanh tử như nhà lựa cũ nát, chư Phật Niết-bàn như bán báu mát mẻ. Nay muốn mở bày bèn tập họp các thí dụ khiến người nghe pháp thấy trăng mà quên ngón tay chỉ, giúp người tu hành đến bờ mà bỏ thuyền bè cho nên dẫn nói ra đầy. ba-đà-na (Avadàna), dịch là Thí Dụ. Văn Cú nói: Thí là tỷ huống, dụ là hiểu huấn. Chí lý huyền vi mà ôm mê chẳng ngộ, Diệu pháp thâm áo, mà chấp tình không hiểu, phải lấy gần mà dụ xa nên lấy kia mà ví đây. Kinh Niết-bàn nói Dụ có tam thứ: Một là Thuận dụ, hai là Nghịch dụ, ba là Hiện dụ, bốn là Phương pháp dụ, năm là Tiên dụ, sáu là Hậu dụ, bảy là Tiên hậu dụ, tám là Biến dụ. Thuận dụ là trời giáng mưa to ngòi rãnh đều đầy, vì ngòi rãnh đầy nên hầm nhỏ đầy. Mưa pháp của Như Lai cũng thế. chúng sinh giới đủ, giới đầy đủ nên bất hối tâm đầy đủ. Nghịch dụ là Biển lớn có gốc là sông lớn, sông lớn có gốc là sông nhỏ v.v… Hiện dụ là tâm tính chúng sinh cũng như khỉ vượn. Phi dụ là Như Lai từng nói với vua Ba-tư-nặc rằng: Có bốn núi từ bốn phương đến muốn hại người. Vua nghe thể phải lập kế gì? Vua đáp: Chỉ phải chuyên tâm trì giới bố thí. Bốn núi tức là sanh, lão, bịnh, tử thường ép bức người cho nên nói là Phi dụ. Tiên dụ, ví như có người mê đắm hoa đẹp khi muốn lấy mà bị nước cuối trôi. chúng sinh cũng thế. Mê đắm ngụ dục bị sanh, lão, bệnh, tử nhận chìm. Hậu dụ: Chớ khinh lỗi ác nhỏ là không tai họa, giọt nước tuy nhỏ nhưng dần đầy lu to. Tiên hậu dụ ví như cây chuối sanh trái rồi chết người ngu được nuôi dưỡng cũng thế, như con La có thai sẽ không còn sống lâu. Biến dụ, trời ba mươi ba có cây Ba-lị-chất-đa rễ nó rất sâu đến năm do-tuần, cành lá bốn bên, là chín thì vàng, các trời thấy rồi tâm rất vui mừng. Khi lá rụng lại cũng mừng, cành đổi sắc cũng rất mừng vui. Các đệ tử ta cũng thế. Lá sắc vàng là dụ đệ tử ta nghó muốn xuất gia. Lá rụng là dụ đệ tử ta cạo bỏ râu tóc. Trong Kinh nói đủ, lấy cây này mà khắp dụ cho đệ tử Phật nên gọi là Biến dụ. Lại quyển năm nói phân dụ rằng: Mặt mày đẹp đẽ trăng rằm, voi trắng sạch đẹp như núi tuyết. Trăng rằm chẳng thể đồng với mặt, núi Tuyết chẳng thể đồng với voi trắng, chẳng thể lấy dụ mà dụ chân giải thoát, vì chúng sinh nên phải dụ như thế. Chiết (chước)-ngật-la (Cakra), dịch là Luân. Tịnh Danh nói: Ba lần Chuyển pháp luân ở Đại thiên. Luân ấy xưa nay vốn thường thanh tịnh. Nói ba chuyển: Một là Thị chuyển, hai là Khuyến chuyển, ba là Chứng chuyển. Nói pháp là quỉ trì thì gọi là pháp. Quỉ nghĩa là phép tắc khiến vật sanh hiểu, Trì là nhậm trì (giữ chắc) không bỏ tự thể. Phụ Hành nói: Luận đủ hai nghĩa: Một là nghĩa chuyển vận, hai là nghĩa tôi niển (đè bẹp). Văn Cú nói: Chuyển pháp hóa tha trong tâm Phật độ vào tâm người khác thì gọi là Chuyển pháp luân. Phù Hành nói: Đem bốn đế luân chuyển độ người, phá hết các hoặc, như báu Luân vương hay phá hoại hay khiến an ổn. Pháp luân cũng thế, phá hoại kẻ thù phiền não, an trụ đế lý. Trí Luận nói: Các pháp luân Phật có hai thứ: Một là Hiển, hai là Mật. Hiển là hiển độ (hiển bày), nói Hiển nghĩa lộ, hiện hiển lộ giáo (tên hiển bày giáo) như ở Lộc uyển. Hiển là vì năm người nói tiểu, mật là vì tám van nói Đại. Mật là bí mật. Tiên Đạt giải thích: Bí phân ra hai thứ: Một là ẩn bí, ở xưa bốn thời, quyền mưa ẩn phúc gọi là bí, Thần dụng tiềm ích gọi là mật; hai là chân bí. Nay ở Pháp Hoa xưa chỗ chưa nói gọi là bí, mở rồi không ngoài là mật. Nay luận bí mật lại có hai thứ: Một là chí lý bí mật, Kinh A-hàm nói: Lý thâm thâm (rất sâu) chẳng thể nói Đệ nhất nghĩa đế, không có tiếng nói và chữ nghĩa. Cho nên Lăng Già nói: Ta ở đêm ấy thành đạo, đêm ấy vào Niết-bàn, khoảng giữa chẳng nói một chữ y vào mật ngữ nào mà nói như thế. Phật nói: Y vào hai mật ngữ, nghĩa là duyên do tự được Pháp và Bản trụ pháp. Phát Chẩn giải thích rằng: Tự được pháp là tu đức, Bản trụ pháp là tính đức. Ấy thì Như Lai ở đạo tràng được thật trí là pháp không thể nghó lường phân biệt mà hiểu được cũng chẳng thể dùng dung thanh (hình dạng và tiếng nói). Nên Pháp Hoa nói: Thôi thôi chẳng cần nói, pháp ta diệu khó lường. Dứt hết nói năng cho nên chẳng cần nói. Chỗ tâm hành diệt mất cho nên diệu khó lường. Do đó mà đè lưỡi Ma-cật để mở bến dứt lời, bịt miệng Tỳ-da để thông được đường ý. Cho nên Đạt-ma ở Tây Vức đến ở Thiếu Lâm quay mặt vào vách. Thần quang đến đó sớm chiều tham thừa. Đêm gặp tuyết lớn quyết đứng bất động đến tuyết quá gối. Sư thương hỏi muốn cầu việc gì? Quang khóc lóc nói: Cúi mong Hòa thượng từ bi mở môn cam lộ. Sư nói: Chư Phật Vô thượng Diệu Đạo nhiều kiếp siêng năng, làm được hạnh khó là, nhẫn được việc khó nhẫn, há có thể đem tiểu đức tiểu trí, khinh tâm mạn tâm mà muốn mong chân thừa thì uổng công khổ nhọc. Quang nghe sư dạy bèn lén lấy dao bén chặt cánh tay tả đặt trước sư, sư biết là pháp khí, bèn nói chư Phật đều tiên cầu đạo vì pháp quên mình. Ông nay chặt đứt cánh tay để cầu trước ta cũng còn đó. Bèn đổi tên là Huệ Khả. Quang hỏi Pháp ấn chư Phật có được nghe chăng? Sư đáp: Pháp ấn chư Phật không phải từ người mà được. Quang nói: Tâm con chưa an, xin sư an cho. Sư nói: Đem tâm đây ta an cho. Quang nói con tìm tâm không được. Sư nói: Ta đã an tâm cho ông rồi đó. Cứ theo Đạt-ma chỉ vì trừ bịnh dứt hết nói năng; hai là Ngôn từ bí mật. Như các thần chú tuy lập ngữ ngôn từ cú nghĩa kín mật người không thể hiểu. Nghiên cứu pháp mật đàm này ý ở chỗ ngăn ác giữ thiện. Cho nên Đà-la-ni dịch là giá trì. Giá là ngăn ác, trì là giữ thiện. Đây giải thích Long Thọ hai thứ Pháp luân. Nếu y vào Thiên Thai bèn luận tám giáo đốn tiệm bí mật bất tịnh bày nghi thức thiết hóa của Phật gọi là Hóa Nghi bốn giáo là Tạng Thông Biệt Viên giải thích pháp môn Hóa vật của Phật. Gọi hóa pháp bốn giáo phương vi đầy đủ, đúng bịnh cho thuốc thì bịnh dữ phiền não tự nhiên tiêu phục. Tông Cảnh hỏi: Đạt-ma lấy tâm truyền tâm chẳng lập văn tự cần gì phải rộng dẫn giáo của Phật Bồ-tát mượn tôm (ếch) làm mắt không lược sức mình. Đáp: Cây không dậy chẳng thẳng, lý không giáo chẳng viên, đem lời Thánh làm định hướng thì tà ngụy khó dời dùng chí giáo làm chỉ nam thì bằng cớ có đủ. Ngài Khuê Phong nói: Kinh là lời Phật, Thiền là ý Phật tâm miệng ắt chẳng trái nhau. Trung Quốc Sư nói: Nên y lời Phật Nhất Thừa Liễu nghĩa khế với Bổn Nguyên tâm địa mà đem truyền trao cho nhau cùng Phật đạo đồng. Ngũ Tổ Đại sư Trang Nghiêm một đời dạy học đồ thường đem lời Duy-ma rằng: Chẳng đắm mê thế gian như hoa sen thường khéo vào hạnh không tịch, hiểu suốt các pháp tướng không quái ngại. Cúi đầu (kính lạy) như hư không chẳng chỗ nương. Lúc đó có người hỏi: Đây là lời Phật, muốn được Hòa thượng tự nói. Sư nói: Lời Phật tức là lời ta, lời ta tức là lời Phật, xin các người trí chớ phân biệt. 1/ Môn - Pháp Hoa nói: Nhà ấy chỉ có một cửa mà lại nhỏ hẹp. Thiên Thai giải thích rằng: Biệt, một là một lý một đạo là chẳng chịu đoạn. Thường bảy phương tiện v.v… giáo lý rộng lớn thì chẳng phải nhỏ hẹp. chúng sinh không thể lấy giáo lý này để tự nhiên thông mà nói là vô cơ, nên nói là nhỏ hẹp mà thôi. Thông, là lý thuần không tạp nên nói là một (nhất), tức Lý năng thông nên nói là môn. Vi diệu khó biết nên nói là nhỏ hẹp. Giáo là mười phương khẩn cầu không có thừa nào khác chỉ một Phật thừa, nên nói là một, giáo này hay thông nên nói là Môn. 2/ Dực (cánh), cũng dụ cho hai luân (bánh xe) lại dụ hai môn. Chỉ Quán nói: Giong ruổi hai bánh xe mà đi xa, dụ cho chỉ quán lấy Hoành Chu Cổ hai cánh mà bay cao, ví cho định tuệ suốt thấu. Cho nên Kinh Khê hỏi Tả Khê rằng: Đêm vào thấy mặc áo tăng nách có hai bánh xe mà bơi trong sông lớn. Tả Khê nói: Ôi! Ông sẽ dùng hai pháp chỉ quán mà độ chúng sinh trong vực sâu sanh tử. Đại Phẩm nói: Phật bảo Tu- bồ-đề rằng: Ví như chim có cánh bay lên hư không mà chẳng rớt tuy ở trong không mà chẳng trụ không. Này Tu-bồ-đề, Bồ-tát Ma-ha-tát cũng thế. Học không môn giải thoát học vô tướng vô tác giải thoát môn cũng chẳng tác chứng cho nên chẳng rơi vào địa Thanh văn Bích-chi Phật. Ví như hai môn, Trí Luận nói: Muốn thành Phật đạo gồm có hai môn: Một là phước đức, hai là trí tuệ. Làm thí giới nhẫn ấy là Phước đức môn. Biết tất cả pháp thật tướng Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật là Trí tuệ môn. Bồ-tát vào môn phước đức thì trừ tất cả tội, chỗ ước nguyện đều được, nếu chẳng được nguyện là vì tôïi cấu ngăn che. Vào môn trí tuệ thì chẳng chán sanh tử chẳng ham Niết-bàn vì hai sự là một. Nay muốn sanh ra Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật thì cần Nhân thiền định môn. Thiền định môn ắt cần sức đại tinh tấn, đây đem sáu độ mà họp thí hai môn, khỏi lần lửa ở đường nhỏ mà thư thái ở đường thông. Bảo tích dụ có hai thứ phước: Một là Kiến phược, hai là Dưỡng phược. Lại dụ hai thứ ung thư: Một là bươi móc lỗi người, hai là che giấu lỗi mình. Lại dụ có hai thứ tên độc cùng bắn vào tim: Một là tà mạng làm lợi, hai là ham hố y bát tốt, ba là song dụ này xem phải tự xét. Trúng (tróng) dây thì gọi là quân từ, không trúng (tróng) dây thì gọi là tiểu nhân. Niết-bàn nói như ba mắt trên mặt Ma-hê-thủ-la. Chương An trong Niết-bàn sớ nói: Ma-hê-thủ-la ở đỉnh trời sắc giới thống lãnh Đại thiên một mặt ba mắt, ba mắt một mặt chẳng thể riêng nói: một, ba dọc ngang hoặc chung hoặc riêng, hay nghiêm nét mặt làm chủ thế giới, suốt chiếu Tam thiên, chẳng dọc chẳng ngang. Nghiêm chủ chiếu (đời) thế, tất cả đều thành, ba đức cũng thế. Dọc ngang chung riêng, Bí tạng chẳng thành, chẳng dọc chẳng ngang, Bí tạng mới thàng. Ngài Thiên Thai nói: Nói đủ ba đức là Niết-bàn. Tuy ba điểm trên dưới mà không dọc, trong ngoài mà không ngang, một chẳng lộn nhau, ba chẳng lìa nhau. Thích Chiêm nói: Trên dưới là nghĩa dọc, tuy một điểm ở trên mà chẳng đồng dọc của điểm nước. Ba đức cũng thế, pháp thân vốn có chẳng đồng Biệt giáo bị hoặc che lấp. Trong ngoài là nghĩa ngang, tuy hai điểm ở dưới chẳng đồng ngang của lửa dữ. Ba đức cũng thế, hai đức tu thành chẳng đồng người Biệt lý thể đầy đủ mà chẳng gồm thâu nhau. Cho nên mượn thí dọc ngang mà hiển bày pháp không phải chung riêng. Đây có thể dụ chung mười thứ ba pháp như Quang Minh Huyền, người học nên xem. 3/ Rắn, Kim Quang Minh nói: Cũng như bốn rắn cùng ở trong một hộp. Bốn rắn lớn tính nó khác nhau. Ngài Thiên Thai giải thích: Hai thứ lên trên (bốc lên) là dương, hai thứ chìm xuống là âm vì sao trái nhau. Ấy là tính riêng. tính riêng sao có thể hòa họp thành thân. Nên Đại Tập nói: Xưa có một người tránh hai voi say (là sanh tử) bám vào một sợi dây (là mạng sống) ở dưới giếng (là vô thường) có hai con chuột đen và trắng (là ngày đêm) cắn cái dây sắp đứt, bên cạnh có bốn con rắn muốn mổ (là bốn đại), dưới có ba con rồng phun lửa giương móng (là ba độc). Người này ngước lên thấy hai con voi say đã đứng trên miệng giếng, lo rầu không chỗ nương cậy. Bỗng có con ong bay qua rớt mấy giọt mật vào miệng (là năm dục). Người này nếm mật mà quên hết nguy hiểm sợ sệt. 4/ Dụ, kinh Kim Quang Minh nói: Bốn Phật đồng dời núi đem sát biển (đếm hạt bụi trên không) con không hết được. Nên không thể kể hết tuổi thọ của Thế Tôn. Thiên Thai giải thích rằng: Nếu từ tín mà nghi thì phải nói tuổi thọ có lượng. Nếu từ bốn Phật mà bỏ nghi thì phải nói tuổi thọ vô lượng. Cô Sơn tác ẩn văn này chưa khéo. Người chấp thì dụ là có lượng, kẻ ngu thì so là vô lượng. Đem ba số vô thường ở dưới mà giải thích tuổi thọ của thân ba thường, báo ứng lộn xộn nghi giải thích điên đảo. Khuyên các hậu học phải nên xét kỹ. 5/ Vị, phẩm Thánh Hạnh nói: Ví như từ trâu cho sữa từ sữa có lạc, từ lạc có sanh tô, từ sanh tô, có thục tô, từ thục tô có đề hồ. Ví như từ Phật có mười hai bộ kinh, từ mười hai bộ kinh có chín bộ có Phương Đẳng, từ Phương Đẳng có Ma-ha Bát-nhã, từ Ma-ha Bát-nhã có Đại Niết-bàn. Đây là Dụ: Một là lấy thứ lớp sanh ra nhau. Trâu dụ cho Phật, năm vị cho giáo. Sửa từ trâu ra, tô từ sữa ra. Hai là tô và đề hộ thứ lớp không rối loạn; hai là dụ về đậm nhạt. Đây là lấy một phen căn tính hạ liệt. Nói về Nhị thừa ở hội Hoa Nghiêm không tin không hiểu không biến đổi phàm tình nên dụ như sữa. Kế đến là ở Lộc Uyển nghe ba Tạng giáo, căn tính Nhị thừa y giáo mà tu hành chuyển phàm thánh, dụ cho chuyển sữa thành lạc. Kế đến thời Phương Đẳng nghe Đàn xích, Thinh văn mộ đại thẹn tiểu được ích Thông giáo, như chuyển lạc thành sanh tô. Kế đến thời Bát-nhã, vâng lệnh chuyển giao tâm dần thông thái được ích Biệt giáo như chuyển sanh tô thành thục tô. Kế đến thời Pháp Hoa ba vòng nói pháp được ký thành Phật, như chuyển thục tô thành đề hộ. Đây mới là ước giáo mà biện dọc (thụ biện). Nếu ước giáo mà biện ngang (hoành?) thì gồm Thản Đối Đới nhiều ít khá biết. Tấn Hoa Nghiêm nói: Ví như mặt trời mọc trước chiếu tất cả các núi chúa lớn, kế chiếu đến các núi lớn, kế chiếu núi Kim Cang Bảo, sau mới chiếu tất cả đất đai. Lại ví dụ rằng: Mặt trời mặt trăng hiện lên thế gian, cho đến hang sâu núi thẳm đều chiếu đến. Đây là dụ trước chiếu núi cao, kế chiếu hang sâu, sau chiếu đất bằng. Ngài Thiên Thai theo kinh Niết-bàn nói năm vị vào thứ ba là đất bằng mở làm ba thời: Phương Đẳng như giờ ăn, Bát- nhã như ngu trung, Pháp Hoa như chính ngọ. Thích Châm hỏi: Lại lấy bản văn Niết-bàn vì sao cướp ngang văn Hoa Nghiêm, không phải chỉ số không tương đương nhau mà e rằng ý văn rất khác. Đáp: Niết-bàn năm vị chuyển biến chỉ là một vị sữa, còn Hoa Nghiêm ba chiếu chẳng đồng mà chỉ là một mặt trời. Nay nói dụ đất bằng là để đối với ba vị sau của Niết-bàn, số tuy không đồng mà nghĩa rõ như nhau. Lại Niết-bàn dùng trâu ví Phật, sữa từ trâu ra là dụ Phật trước nói Đại thừa, sữa ra rồi thì dụ cho thành phần biến đổi. Cho nên văn sau nghĩa lập năm vị đều từ trâu ra. Như Hoa Nghiêm ví mặt trời là Phật, ánh sáng là ví nói pháp. Mặt trời vô duyên. Từ không mọc mà mọc, các cơ được độ không chiếu mà chiếu, cho nên khiến núi cao, hang sâu, đất bằng chẳng đồng, đồng bẩm giáo quang, trọn về đẳng chiếu. Cho nên dùng hai kinh hai nghĩa cùng thành. Phật xuất hiện ở Ta-bà dùng từ cứu quần mê trải năm mươi năm khắp thấm vô phương, mà hai dụ này đầu tiên thấy rõ bèn khiến bày Đạo cảm ứng. Hoa Nghiêm năm dụ riêng ví năm uẩn. Văn thấy trong Tâm Kinh Phụ Trung Ký. 6/ Giặc, tính vốn sáng sạch, do tình mà tối tan. Cuồng tâm nếu hết, chân Phật tự bày. Phải biết Trần Thức là giặc, Chỉ Quán như quân binh, dụ cho khiển binh giết giặc, pháp yếu tức giặc mà thành binh. Như Lăng Nghiêm nói: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, tâm là sáu giặc đến cướp gia bảo. Kim Quang Minh nói: Cũng như người đời đuổi theo các không, cái hai của giặc kẻ ngu không biết tránh. Cũng gọi là sáu Suy Diệu Lạc nói: Suy chỉ là giặc vì hay làm hao tổn. Kinh Pháp Cú nói: Xưa khi Phật còn tại thế, có người ở dưới cây bên sông học đạo trải hai mươi năm chỉ nghó sáu trần tâm không hề dứt. Phật biết độ được bèn hóa làm Sa-môn ở dưới cây cùng ngủ qua đêm. Đêm ấy trăng sáng, có con mà từ dưới sông bò bên con giả can (một loại chồn) muốn cắn ăn. Rùa rụt đầu đuôi bốn chân vào mai. Chồn ăn không được bèn bỏ đi. Rùa lại bò xuống nước. Đạo nhân thấy thế bảo Sa-môn rằng: Rùa có áo giáp hộ mạng, chồn không làm gì được. Sa-môn đáp: Người đời không bằng con rùa này buông lung sáu tình ngoại ma được dịp phá hại. Lại nói kệ rằng: Gấu sáu tình như rùa, Giữ (?) ý như thành, Huệ cùng ma chiến đấu, Thắng rồi không tai họa. Nên biết vô vi giết được giặc ấy. Cho nên kinh An Ban Thủ Ý nói: Có ngoại vô vi, có nội các pháp. Ngoại vô vi là mắt không nhìn sắc, tai không nghe tiếng, mũi không ngửi mùi, miệng không nếm vị, thân lìa trơn láng, ý không vọng niệm. Nội vô vi là Sở Tức Tương Tùy Chỉ Quán Hoàn Tịnh. (Lục Diệu Môn là sở tức, tùy tức, chỉ, quán, hoàn, tịnh). Kinh lại hỏi: Hiện có chỗ nghó (sở niệm) sao được vô vi? Đáp: Thân khẩu là giới, ý hướng về đạo hạnh tuy có chỗ nghó nhưng vốn là vô vi kinh Vô Hạnh nói: Quán thân rốt ráo không, quán thọ trong ngoài không, quán tâm không chỗ có, quán pháp chỉ có tên. Cổ Đức nói: Thấy nghe biết vốn không phải nhân, đương thể hư huyền dứt vọng chân. Thấy tướng chẳng sanh nghiệp si ái, rỗng rang toàn là thân Thích-ca. Vô Cơ Tử lại nói: Một tụng ngắn khắp khuyên: Nhân gian sống ngắn, địa ngục khổ dài, ác ngày càng dứt, thiện ngày càng làm. 7/ Dụ, Tần Kim Cang nói: Tất cả pháp hữu vi, như Mộng Huyễn Bảo Ảnh, như sương cũng như điện, phải nên quán như thế: Một là Dụ mộng là lúc ngủ thần dạo chơi. Liệt Tử phân làm sáu mộng: Một là chính mộng (bình yên), hai là ngạc mộng (kinh ngạc), ba là tư mộng (suy nghó), bốn là ngộ mộng, năm là cụ mộng (sự), sáu là hỷ mộng (mừng). Chu lễ chiếm sáu mộng tốt xấu. Luật Thiện Kiến nói: Có bốn thứ mộng: Một là bốn đại bất hòa mà mộng, mộng thấy núi lỡ, hoặc bay lên hư không hoặc thấy hổ lang sư tử giặc cướp rượt đuổi; hai là trước thấy nên mộng, ngày thấy trắng đen và tướng nam nữ đêm liền mộng thấy; ba là trời người cho mộng, nếu trời người Thiện tri thức bày thiện được thiện, nếu Ác tri thức bày ác được ác; bốn là tâm tường nên mộng. Thân trước tu phước thì nay cảm mộng tốt, đời trước tạo tội nay cảm mộng dữ. Thạch Bích Pháp sư giải thích mộng dụ rằng: Như có một người (một tâm chân như) bỗng nhiên mê ngủ (vô minh bỗng dậy) nằm mộng (nghiệp thức đầu tiên) thấy các việc (thức chuyển hiện) mà khởi tâm phân biệt (sáu trần nổi lên) niệm niệm không dứt với trái thuận (hai tướng tiếp nối) rồi sanh mê đắm (chấp lấy) làm thiện làm ác là thân là sơ (kẻ danh tự tướng). Ở thiện ở thân thì các thứ Huệ Lợi, ở ác ở sơ thì các thứ thương tổn (khởi nghiệp) hoặc có báo ân được vui, hoặc có báo oán bị khổ (sáu nghiệp kể khổ). Bỗng nhiên thức giấc các việc trên đều không (biết chỉ duy tâm). Thích Chiệm luận mộng với ba quán: Như ở trong mộng tu nhân được quả, mộng việc rõ ràng tức giả, tìm mộng chẳng được tức không, tâm tính mộng tức trung. Chỉ Quán nói: Nếu thể biết tâm tính chẳng phải chân chẳng phải giả, dứt duyên với tâm chân giả, gọi đó là chính. Quán kỹ tâm tính chẳng không chẳng giả mà chẳng hoại pháp không giả. Nếu hay như thế mà chiếu liễu (xét biết) thì ở Tâm tính thông suốt Trung đạo, viên chiếu ba đế, hai là Dụ huyễn. Kinh Lăng Già nói: như người làm trò ảo thuật y vào cỏ cây ngói đá làm các thứ ảo thuật (huyễn) như khởi tất cả chúng sanh có hình sắc như thế, khởi lên các thứ vọng tưởng. Thích Chiêm nói: Tên Diệm huyễn thông với Thiên viên nay từ Viên mà nói một tâm ba huyễn. Tịnh Danh Ký nói: Đủ như huyễn hóa, tục đồng chân khác. Một Tục Ba Chân Chỉ yếu lập ba thứ huyễn là Dó tính Đoạt tu huyễn, thản (chỉ là) Lý Tùy Duyên Huyễn, Duyên Sanh Vô Thể Huyễn. Nên Chỉ Yếu nói: tính vốn viên cụ, khắp phát cho huân, lấy tính đoạt tu nên Tạ nhu huyễn. Lại nói: Song đây còn không phải Thản lý tùy duyên huyễn há đồng với Duyên sanh vô thể huyễn, mới biết như huyễn là tên đồng mà nghĩa huyễn thì rất khác; ba là dụ bào, Tịnh Danh Sớ nói: Nước trên nhiễu (?) xuống nước dưới, nước trên là nhân, nước dưới là duyên thì có bọt nổi lên, bọt này tức không; bốn là Dụ ảnh, Nhan Thị Gia Huấn nói: Chữ Ảnh là cảnh của quang cảnh, phàm âm cảnh là nhân ánh sáng mà sanh nên gọi là cảnh. Tiếng Phạm là Tần Bà Trướng, dịch là thân ảnh. Tịnh Danh Sớ rằng: Có vật ngăn sáng thì có ảnh (bóng tối). Vật khác thì ảnh khác, vật động thì ảnh động. Hạnh nghiệp vô minh ngăn ánh sáng lý trí thì có ba ảnh sự Báo thân hiện ra, nghiệp khác từ sanh đến tử lưu động không phải một; năm là Dụ Lộ, Đại Đái Lễ nói: Sương là khí âm dương, khí âm mà thắng thì ngưng thành sương tuyết, khí dương mà thắng thì tan thành mưa mù. Rạng đông vừa chiếu thì mù liền tan (khô). Đời người có bao lâu?; sáu là Dụ Điện, Kinh Luật khác nhau nói bốn Điển sư. Hoặc nói Điện là rồng nháy mắt sanh ra ánh sáng. Ngũ kinh Thông nghĩa nói: Điện là ánh sáng của sấm (?) Cố Khởi Chi nói: Điện là âm dương chạm nhau làm ra sấm sét, xảy ra rất nhanh khiến ngộ pháp ra sấm sét, xảy ra rất nhanh khiến ngộ pháp vô thường. tính người thông suốt phải khởi chí tin tưởng các pháp thí dụ này. Nay thuật tụng rằng: Thế giới biến thành như huyễn hóa Ái tưởng hành khởi giống bọt nổi Pháp trần duyên lự cùng quán ảnh Thân giống hạt sương ở trên cây Qua rồi lại nghó việc như mộng Hiện tiền như điện chớp sáng lòa Phải biết rốt ráo thường không tịch Từ đó không cùng vật duyên nhau. 8/ Luận, kinh Bản Nghiệp Anh Lạc nói: Thiết Luận ở vị Thập tín, Đồng Luân ở vị Thập trụ, Ngân Luân ở vị Thập hạnh, Kim Luân ở vị Thập hướng, Lưu y Luân ở vị Thập địa, Ma-ni Luân ở vị Đẳng giác Diệu giác. 9/ Hoa, kinh Duy-ma nói: Rừng cây vô lậu pháp, Giác Ý Tịnh Diệu Hoa. Ngài Thiên Thai giải thích rằng Giác ý tức là bảy giác chi (một trạch pháp, hai tinh tấn, ba hỷ, bốn trừ, năm xả, sáu định, bảy niệm) bảy giác điều đình sanh nhân trí nhân. Nên Trí Luận nói: Vô Học Thật Giác do bảy thứ này mà đến nên lấy làm hoa. Lại nói nước định trong và đầy, bày ra bảy Tịnh hoa. Ngài Thiên Thai giải thích: Một là Giới tịnh, hai là Tâm tịnh, ba là Kiến tịnh, bốn là Đoạn nghi tịnh, năm là Phân biệt tịnh, sáu là Hạnh tịnh, bảy là Niết-bàn tịnh. Lại Nam mô nói: Ví như có người có bảy con, một đứa trong bảy con có bịnh thì lòng cha mẹ chẳng bình yên, song bịnh tâm là nặng nhất. Chương An giải thích rằng: Hoặc lấy bảy phương tiện căn tính làm bảy con, tức là trời người, Nhị thừa và Tam giáo Bồ-tát. Trong bảy con ấy có đứa gây tội thì tâm là riêng nặng. Lại Trí Luận nói: Trí Độ Đại Đạo Phật khéo đến, Trí Độ Đại Đạo Phật tột đáy, Trí Độ Tướng nghĩa Phật vô ngại. Kính lạy Trí Độ Vô Tử Phật. Người xưa lập bốn nghĩa để giải thích Vô Tử: Một là vô đẳng (không bằng) tất cả chúng sinh không bằng Phật; hai là vô ngại, Phật là Pháp vương (vua pháp) đối với pháp rất tự tại; ba là vô tử, lại có hai nghĩa: một là ở lý, Phật hay thể ngộ vô sanh chân lý nên gọi là vô tử. Hai là ở sự, Như Lai các chủng tử sanh tử đã hết nên gọi là vô tử; bốn là vô tử cũng có hai nghĩa: một là Bát-nhã gọi là mẹ Phật mẹ có bảy con, tức là Phật, Bồ-tát, Bích-chi Phật và người bốn quả trong bảy con này Phật là con trưởng, nên nói là vô tử; hai là Trong tệ vô minh không có chủng tử trí tuệ, nên nói là vô tử. 1 0/ Bè, Quách Phác nói thuyền bè ở trong nước. Luận Công Đức Thí nói: Như muốn qua sông trước phải lấy bè, đến bờ kia rồi liền bỏ mà đi. Trí Luận dẫn kinh Phược Dụ bảo rằng: Các ông nếu hiểu pháp dụ bè của ta lúc ấy dù là thiện pháp cũng phái bỏ đi, huống là không phải thiện pháp (pháp bất thiện). Đây là Yếu thuật vô sở đắc, khiến chẳng ngưng trệ ở vật. Cho nên Phẩm Đức Vương nói: Ví như có vua (là Ma vương) bắt bốn rắn độc đựng đầy một hộp khiến người nuôi dưỡng. Nếu để một rắn nổi giận thì ta sẽ theo pháp mà giết hết. Người này sợ quá bỏ hộp trốn đi. Lúc ấy vua lại khiến năm Chiên-đà-la vác dao theo sau. Một đứa giấu dao giả bộ thân thiện. Người này không tin, đến xóm làng muốn tự ẩn trốn. Khi đã vào làng chẳng thấy có người và vật gì, bèn ngồi ở đất nghe trên không trung có tiếng nói rằng: Đêm nay sẽ có sáu tên giặc cướp đến. Người ấy nghe nói sợ quá lại bỏ mà đi. Giữa đường gặp một sông nước chảy rất xiết bèn lấy tre gỗ làm bè xả nước mà đi. Khi dến bờ bên kia rồi an ổn không hoạn nạn, Bồ-tát cũng thế. Nghe Niết-bàn quán thân như cái hộp có bốn con rắn lớn. Năm tên Chiên-đà- la tức là năm ấm giả bộ thân thiện tức than ái. Làng trống vắng tức là sáu nhập, sáu tên giặc cướp tức là sáu trần, sông tức là phiền não, bè tức là đạo phẩm, đến bờ kia là thường lạc Niết-bàn. Lại dụ tám luân. chính Lý Luận nói: Như bánh xe ở thế gian có bầu xe, vành xe và nan xe. Tám chi thánh đạo giống nó gọi là Luân (bánh xe) chính kiến, chính tư duy, chính cần, chính niệm giống như bầu xe, chính ngữ, chính nghiệp, chính mạng giống như nan xe, chính định giống như vành xe. Ba việc đầy đủ có thể ra đường chạy chở. 1 1/ Kinh phương Đẳng Như Lai Tạng nói: Phật vì Kim Cang Tạng Bồ-tát nói: Một pháp chín dụ, đủ có mười văn. Kinh nói: Ta dùng Phật nhãn quán tất cả chúng sanh trong các phiền não có mắt Phật trí, có thân Như Lai ngồi kiết già sừng sững bất động. Dưới có dịch chín hàng kệ tụng rằng: Ví như Nuy Biến Hoa: Hoa này chưa nở, Thiên nhãn quán thấy (mặt trời thấy) là thân Như Lai Vô Nhiễm. Ví như Nham Thọ Mật (mật cây núi) có hai vô lượng ong bu quanh, muốn phương tiện lấy mật trước phải dẹp trừ bầy ong ấy. Ví như gạo thóc chưa bỏ trấu cám (chưa xay giả) kẻ nghèo cũng như giặc cướp, gọi là vật (đồ) bỏ. Như Vàng ở chỗ bất tịnh giấu kín chẳng thấy, Thiên nhãn mới thấy liền bảo với mọi người biết. Như trong nhà kẻ nghèo có kho châu báu, chủ nhà không biết đã gặp báu lại chẳng thể nói. Ví như quả Am-la có hạt chẳng thể hoại, đem trồng ra đất ắt thành cây lớn. Ví như cầm tượng vàng đi đến phương khác giấu trong áo dơ rách bỏ ở ngoài đồng trống. Ví như cô gái nghèo, sắc mạo xấu xí mà mang thai con quí tướng sẽ làm Chuyển luân vương. Lò đúc lớn có vô lượng tượng vàng ròng. Người ngu bên ngoài ngó vào chỉ thấy đất chính đen thui. Lại Ngụy Dịch Kim Cang nói: Tất cả pháp hữu vi như tinh ế đăng huyễn lộ (mù) bào (hạt) mộng điển (sét) vân (mây), hãy quán như thế. Di-lặc tụng tằng: Thấy (kiến) tướng và ở thức, Khí thân thọ dụng sự, Pháp quá khứ hiện tại, Cũng quán như vị lai. Luận giải thích rằng: Ví như tinh tú (các sao) bị mặt trời chói lòa mà không thấy. Hay thấy tâm pháp cùng như thế. Lại như mắt có bịnh thì thấy có vầng sáng có lông nhỏ. Quán pháp hữu vi cũng như thế, vì thấy điên đảo. Lại như đèn, thức cũng như thế, vì nương nhờ pháp tham ái mà trụ. Lại như huyễn, chỗ nương tựa cũng lại như thế. Vì khí thế gian các thứ sai khác không một thật thể. Lại như Lộ, thân cũng như thế vì ít (thiếu) thời trụ. Lại như bọt, việc thọ dụng cũng như thế vì nhân thọ tưởng ba pháp bất định. Lại như mộng pháp quá khứ cũng như thế, vì duy niệm. Lại như Điện, pháp hiện tại cũng như thế, vì sát-na không trụ. Lại như mây, pháp vị lai cũng thế. Vì ở giờ tý thức A-lê-da vì tất cả pháp làm chủng tử căn bản. 1 2/ Báu, Quang Minh nói: Ta đang ở yên trong thập địa mười thứ trân bảo ở Thập địa, vì quí hơn đất tức là trân bảo dưới chân (làm chân?) là quả Thập địa làm nền nhà nên nói dưới chân (làm chân?) các công đức khác không gì chẳng tu, tùy phần tùy sức chính lấy đàn (bố thí?) làm chân Sơ địa, chân đàn nếu đủ thì được vào Sơ địa (địa thứ mười). Lại như mười Dụ của Pháp Hoa so văn thấy kinh ấy. <詞>BÁN MÃN THƯ TẠ. Niết-bàn nói: Ví như Trưởng giả chỉ có một con tâm luôn nhớ nghó thương xót không thôi dắt đến thầy cho học, sợ không chóng thành bèn dắt về vì thương quá. Ngày đêm ân cần dạy con nửa chữ mà không dạy Tỳ-da-la Luận vì sao thế? Vì còn bé quá chẳng kham nỗi. Ly-khư (Lekha), dịch là thư (sách). Thích Danh gọi là thư khứ (sách chép nhiều thứ?). Bài Tựa Xuân Thu Tả Truyện nói: Việc lớn chép ở sách, việc nhỏ tóm tắt mà thôi. Văn Tuyển chú rằng: Trúc to gọi là sách, trúc nhỏ gọi là giản, bản gỗ gọi là độc. Tựa Thượng Thư nói: Sách của Phục Hy, Thần Nông, Hoàng đế gọi là Tam phần vì nói về đại đạo vậy. Sách của Thiếu Hạo, Chuyên Húc, Cao Tân, Đường Ngu gọi là Ngũ Điển vì nói Đạo Thường. Đời nói ba Cổ thị Phục Hy là Thượng Cổ, Văn Vương là Trung Cổ, Khổng Tử là Hạ Cổ. Sử Ký của Tư Mã Thiên luận sáu tông: Một là Âm dương khiến người bắt mà nhiều sợ, song tựa ấy nói (thứ tư) bốn mùa đại thuận chẳng lỗi; hai là Nho, rộng mà ít yếu nhọc mà ít công, do đó việc ấy khó theo, song thứ tự vua quan cha con của Lễ thì khó thay đổi; ba là Mặc Tử, kiệm mà khó tuân ấy vì việc ấy không thể đi khắp. Song cường bản tiêt dụng không thể bỏ; bốn là Danh, khiến người kiệm mà khéo mắt chân, song cái chính danh chẳng thể chẳng xét; năm là pháp, nghiêm mà thiếu ân song việc phân quần thần trên dưới chẳng thể đổi; sáu là Đạo đức, khiến người tinh thần chuyên nhất mà động họp vô hình ấy là thuật. Nói Âm Dương Đại Thuận, Luận Thiện Yếu của Nho Mặc, cùng thời dời đổi ứng vật biến hóa, lập tục bày sự không chỗ nào chẳng phải, chỉ ước mà dễ làm, sự ít mà công nhiều. Ban Cố Hán Thư nói chín lưu: Một là Nho Lưu, thuận Âm Dương bày giáo hóa, thuật chính của Đường Ngu, tông (gốc) là Đạo Trọng Ni; hai là Đạo Lưu, giữ yếu tự ti, bày đức Tạp Nhượng của Nghiêu Thuấn, thờ khiêm cung của Chu Dịch; ba là Âm Dương lưu, là thuận thiên lịch tượng kính thọ dân thời; bốn là Pháp lưu, nói pháp Thưởng Sắc để thuận Lễ chế; năm là Danh lưu, là Chính danh nêu vị, lời thuận sự thành; sáu là Mặc lưu, thanh miếu tông tự, nuôi già bố thí; bảy là Tung hoành lưu, nghĩa là thọ minh sử chuyên đối quyền sự; tám là Tạp lưu, gồm thuyên (chọn) Nho Mặc, theo huấn của Danh pháp, biết đại thể của nước thì không việc nào chẳng suốt; chín là Nông lưu khuyến khích cày cấy muôi tằm (ăn mặc) nêu bày hàng hóa. Di Thiên nói: Sử thiên sáu dân, Đạo gia là trước, Ban Cố Chín Lưu Nho Tông là trên. Tất-đàm (Siddha), chương Tất-đàm của Tây Vức vốn là Ba-la-ha- ma Thiên tạo ra, từ xưa đến nay lại không có sách khác, chỉ có khoảng điểm hoạch hơi khác. Tất-đàm dịch là thành tựu sở sanh. Tất-đàm chương là cội gốc của Sanh Tự gọi là Bán. Văn tự các chương khác nói đầy đủ là Mãn. Lại mười hai chương (chương mười hai?) đều gọi là Bán, còn các kinh sách ký luận là mãn loại như đây, mới do ba mươi sáu tự mẫu (chữ cái) mà sanh các chữ. Trạch Châu nói: Trong Phạm chương có mười hai chương, chương Tất-đàm là thứ nhất, trong đó họp năm mươi hai chữ, hai chữ Tất-đàm là tên chung của chương. Các chương thể khác (thể các chương khác) gọi là Ác A cho đến Lỗ Lưu Lô Lâu… Tỳ-già-la (Vyàkarana), chương Như Sớ nói: Dịch là Tự Bản. Hà Tây nói là căn bản văn tự của thế gian sách vở luận về âm thinh (tiếng nói) tuyên thông bốn biện quở trách pháp đời, khen ngợi pháp xuất gia, lời nói thanh nhã, nghĩa lý sâu xa. Tuy là ngoại luận mà không có tà pháp, không phải do Thiện Quyền Đại só làm ra. Cho nên đem luận này dụ cho Kinh Phương Đẳng. Tam Tạng Truyện nói: Tên nó gọi không đúng, gọi đúng là Tỳ-da-yết-lặc-nẩm, dịch là Thinh Danh Ký Luận, để rộng nghi các pháp năng thuyên gọi là Thinh Danh Ký. Đều kiếp thành Phạm vương nói một trăm vạn tụng, đầu kiếp Trụ Đế-thích lược bỏ còn mười vạn tụng. Nhiếp-tha-sất-đà (Sabdavidyà), dịch là Thinh minh. Tây Vức Ký nói: Dạy dỗ bọn trẻ trước tuân theo mười hai chương bảy tuổi trở đi dần dạy năm minh. Đại Luận nói: năm minh: Một là Thinh minh là giải thích chỗ khác nhau của Cật Huấn Tự Thuyên Mục Sớ…; hai là Công xảo minh là nói về kỹ thuật cơ quan, âm dương lịch số; ba là Y phương minh nói về các cấm chú nhãn tà, dược thạch châm ngãi; bốn là Nhân minh là khảo định chính tà, nghiên hạch chân ngụy; năm là Nội minh là cứu sướng năm thừa, nhân quả diệu lý. Đại Bát-nhã nói: Năm Địa Bồ- tát biết năm minh. Đây là Nội năm minh. Còn Ngoại năm minh đồng với bốn minh trước, còn cái thứ năm thì gọi là Phù ấn minh. Vi-đà (Veda), cũng gọi là Phệ-đà. Dịch là Trí Luận, biết thư này sanh trí tức là Tà Trí Luận. Cũng dịch là vô đối. Xưa gọi là Tỳ-đà là sai. Vi-đà có bốn: Một là A-do, dịch là phương mạng, cũng gọi là thọ, tức nuôi tính sanh thiện; hai là Dạ thù, tức là cúng tế cầu đảo; ba là Ta-ma (Bà-ma?) nghĩa là lễ nghi chiếm quẻ về binh pháp quân trận; bốn là A-đạt-bà, tức các tài lạ về bùa chú thuốc men. Tác Ẩn dẫn kinh Ma-đằng-già nói: Người đầu tiên tên Phạm Thiên tạo một Vi-đà, kế có Tiên tên Tự Tịnh biến một thành bốn: 1- Gọi là đọc tụng, 2- Gọi là tế tự, 3- Gọi là ca vịnh, 4- Gọi là nhương tai. Kế đó có người tên Phất-sa có hai mươi lăm đệ tử gọi (nói) là một Vi-đà hay rộng phân biệt (đều bảo có thì rộng phân biệt một Vi-đà). Hoặc gọi Vi-đà là Phù Hịch. Hán Thư Cao Kỷ nói: Hịch lấy tre gỗ làm sách (mà viết vào) dài một thước hai tấc dùng để trưng triệu (trưng dụng triệu hồi). Nếu có việc gấp thì cấm thêm lên đó một lông chim để chỉ việc nhanh gấp. Bắc. Khư-lộ-sắc-tra hoặc Khư-lâu (Kuru), gọi là sách người ở phương Tăng-khư-luận (Sàưkhya), chính gọi là Tăng-xí-da, dịch là số thuật hay số luận. Phụ Hành nói: Ca-tỳ-la nói kinh mười vạn kệ gọi là Tăng-khư-luận, dùng hai mươi lăm đế nói trong nhân có quả kể một làm tông. Nói hai mươi lăm Đế: một là từ minh sơ sanh giác, qua tám vạn kiếp trước mù mờ (minh) không biết, chỉ thấy đầu tiên trung ấm mới khởi nhờ sức Túc mạng luôn nhớ tưởng gọi là Minh đế, cũng gọi là Thể tính, nghĩa là chúng sinh thế gian do Minh sơ mà có tức thế gian bản tính. Cũng gọi là tự nhiên vì không chỗ theo. Từ đây sanh giác cũng gọi là đại, tức trung ấm thức vậy; hai là từ giác sanh ngã tâm. Đây là ngã của ngã mạn, không phải là thần ngã, tức đế thứ ba. Từ ngã tâm mà sanh sắc, thanh, hương, vị, xúc. Từ năm tuần sanh năm đại tức bốn đại và không, trần thì tế đại thì thô, họp trần thành đại, nên nói từ trần sanh đại. Song đại này sanh nhiều ít chẳng đồng. Từ thanh sanh không đại, từ sanh xúc sanh phong đại, từ sắc thanh xúc sanh hỏa đại, từ sắc thanh xúc vị sanh thủy đại, năm trần sanh địa đại. Địa đại nhờ trần nhiều nên sức rất mỏng yếu, cho đến không đại nhờ trần ít nên sức nó rất mạnh. Nên bốn luân thành thế giới. Không luân ở dưới nhất, kế là phong luân, rồi hỏa, thủy, địa luân. Từ năm đại mà sanh mười một căn, nghĩa là nhãn v.v… các căn hay biết (tri giác) được nên gọi là căn, gọi năm tri căn. Tay chân miệng lớn nhỏ khiến căn hay hữu dụng nên gọi là năm nghiệp căn, tâm bình đẳng căn họp thành mười một căn. Tâm hay khắp duyên gọi là bình đẳng căn. Nếu năm tri căn đều dùng một đại, nghĩa là sắc trần thành hỏa đại, hỏa đại thành nhãn căn, nhãn căn lại đủ sắc. Không trần thành nhó căn. Nhó căn lại nghe tiếng, địa thành tỷ, thủy thành thiệt, phong thành thân cũng như thế. Hai mươi bốn Đế này tức là ngã sở đều y vào thần ngã gọi là chủ đế, năng sở họp luận tức là hai mươi lăm. Vi-thế-sư (vaizesika), chính gọi là Tỳ tai, dịch là Vô thắng. Ưu-lâu-tăng-khư (Khuka-samkhya?) kế sáu biến tạo. Chỉ nhãn căn hỏa nhiều, cho đến thân căn phong nhiều. Văn thấy ở Kim bảy mươi luận. Phụ Hành nói: Ưu-lâu-tăng-khư, đây gọi là Hưu Lưu Tiên người này ban ngày trốn trong hang núi để tạo kinh sách, ban đêm thì dạo khắp thuyết pháp giáo hóa cũng như chim ấy nên có tên đó. Cũng gọi là Nhãn Túc. Người này ra đời trước Phật tám trăm năm, cũng được năm thông. Nói luận mười vạn kệ gọi là Vi Thế Sư. Lặc-sa-bà, dịch là Khổ Hạnh, lấy toán số làm thánh pháp, tạo kinh mười vạn kệ gọi là Ni Càn Tử, ba tiện này nói Vô Lậu Tận Thông nên chỉ có năm thông. Tông Cảnh nói: Ca-tỳ-la kể (chấp) trong nhân có quả, Tăng-khư kể (chấp) trong nhân không quả, Lặc-sa-bà kể trong nhân cũng có quả cũng không quả. Tỳ-thế (Vaisesika?), dịch Thắng Dị Luận, tức là sáu Cú nghĩa trong Thật Cú nghĩa lại có chín pháp là: Địa thủy hỏa phong không thời Phương Đẳng kế tích cực vi (cực bé) để thành khí thế gian. Đây là ngoại đạo kể cực vi (cực bé) là thường trụ (còn hoài) bất diệt (chẳng mất). Ni-la-tế-trà (Nilaphitaka), Tây Vức Ký nói: Đường gọi là Thanh Tạng. Ký nói là Thư sự các hữu ty tồn (việc sách vở có Hữu Ty giữ) gọi chung về sử cật, nghĩa là Ni-la-tế-trà, nghĩa là thiện ác thấy đều nêu, tai tường đều chép đủ. Tiền Hán Thư nói: Lưu Hâm bảy lược tập (bảy lần tập hợp), lược tập cùng tập đồng. Sư xưa nói: Gọi Tổng yếu các thư, sáu nghệ lược làm sáu kinh: Chư Tử Lược, Thi Phú Lược, Bình Thư Lược, Thuật Số Lược, là sách bói quẻ Phương Kî Lược là sách thuốc, nói hạnh của Uyển Minh Nhân Thần có sáu chính sáu tà: một là Manh Triệu (mầm móng) chưa hiện thấy cơ còn mất thì gọi là Thánh thần; hai là Tiến Thiện Thông Đạo, công qui về vua thì gọi là Đại thần; ba là ty thân tiền hiền cứng cổ hành sự (hạ mình tiến cử người hiền, làm việc theo xưa) để khích lệ ý vua thì gọi là Trung thần; bốn là sáng xét thấy sớm để khỏi lo sau thì gọi là Trí thần; năm là thủ văn phụng pháp ăn uống liêm tiết thì gọi là Trinh thần; sáu là nước nhà hỗn loạn mà vua không chỉ dụ, nghiêm sắc mặt với vua phạm pháp nói lỗi của vua mình chết để nước yên gọi là Trực thần. (Không nhập một đoạn kế tiếp theo đề nghị của tác giả vì đoạn này sửa lung tung). Lạc-già-đa (Lokàyatana), Ứng Pháp sư dịch là Thuận Thế vốn là ngoại đạo Phược-ma-lộ-ca. Thiên Thai nói: Đây gọi là Thiện Luận, hoặc gọi là sư phá đệ tử. Từ Ân nói: Đây dịch là ác đối đáp. Là thuận đời, là chấp theo thói đời ở thế gian. Lưu Cầu nói: Như là Lễ nghĩa danh giáo ở cõi này vậy. Nghịch-lộ-già-da-đà, Ứng Pháp sư gọi là Nghịch-lộ-để-ca dịch là Tả Thế. Thiên Thai nói: Đây là Ác Luận, cũng gọi đệ tử phá sư. Từ Ân nói: Đây dịch là Ác Trừng Vấn. Tả Đạo mê hoặc đời chấp cái ấy mà chẳng luận thế gian. Lưu Cầu nói: Như Huyền Thư của Trang Lão ở cõi này vậy. Cho nên Dương Hùng chê Lão Tử rằng: Chùy đề nhân nghĩa tuyệt giảm lễ học dứt bỏ lễ học) nên ta không lấy. Lại chê Trang Tử rằng: Cùng sanh tử đồng giàu sang, đồng sang hèn nó có sở đâu. Song Nhị thừa Bán Mãn, này riêng hoằng ở Đông Hạ, tà chính hai giáo Tây Vức đều tập. Thế Tôn dự giám để răn người học. Cho nên Thập Tụng nói: Thích làm Văn Tụng Trang Nghiêm chương cú là có thể sợ sệt chẳng được làm. Ngã Phần nói: Là biết sai thứ hội đẳng chẳng được học sách vì khiến bỏ nghiệp, nên chẳng cho xem tướng và hỏi người khác kiết hung. Tứ Phần mở cho phép học Tạng, học sách, học Thế luận. Vì để khuất phục ngoại đạo cho nên trong Tạp pháp Tỳ-kheo mới học được phép học toán pháp. Trí Luận nói: Học ngoại điển như dùng dao chặt bùn, bùn không thành mà dao tự hỏng. Nói ngội ngoại điển thì Nhị Giáo Luận rằng: Giáo cứu hình (thân) gọi là ngoại, sách cứu thân (tâm) gọi là nội. Trí Độ có nội ngoại hai kinh, Nhân Vương phân nội ngoại hai luận Phương Đẳng nói nội ngoại hai luật, Bách Luận nói: Nội ngoại hai đạo. Thông Nguyên Ký phân biệt hai lớp nội ngoại: Một là ước cõi, hai là ước giáo ước cõi thì lấy thế gian làm nội, xuất thế gian làm ngoại. Ước giáo tức là trị tâm làm nội, trị thân làm ngoại. Ấy thì giáo của Nhọ Đạo dẫu nói tự tâm mà lại không lý xuất thế nên thuộc về nội. Còn giáo của Thích Thị tuy có tự thên cũng là nhân xuất thế nên đêu thuộc ngoại. Lương Trần Lưu Xử Só Nguyễn Hiếu Chữ tự là Só Tông Soạn Thất Lục mười hai quyển: một là kinh điển, hai là truyện ký, ba là tử binh thư, bốn là văn tập, năm là thuật kî năm thứ này gọi là nội thiên, sáu là Phật pháp, bảy là tiên đạo hai thứ này gọi là ngoại thiên. Nam Sơn lấy Phật Đạo làm Thiên Phương Ngoại bắt đầu từ đây. Trang Tử Đại Tông Sư nói: Khổng Tử bảo rằng: Ông ấy dạo phương ngoài (ngoại), còn khâu này dao phương trong (nội). Thông Nguyên Ký hỏi: Ông ấy đã lấy đạo làm ngoại nay sao phán (nói) là thuộc nội? Đáp: Ông ấy nói Thần Tiên Đạo Đức không phải như giáo của Chu Khổng trị đời, gọi là ngoại thiên. Nay lấy giáo Phật mà so, kỳ thật là nói về cõi nội. Nói Nho giáo thì Phạm Hoa nói: Đức lớn (Thạc Đức) là Nho. Dương Hùng nói: Thông Thiên Địa Nhân gọi là Nho. Khổng Tử họ Khổng tên Khâu, tự là Trọng Ni, người ở làng Bình Xương Quan, ấp Sô (Trâu), nước Lỗ, làm (vị?) Lỗ Tư Khấu từ nước Vệ trở về Lỗ, san định Thi Thư Lễ Nhạc, sữa Xuân Thu khen Dịch Đạo, dùng sáu kinh làm giáo. Nói về Đạo giáo, thì theo Thư Kinh Tịch Chí (các kinh sách?) nói về chỗ sâu xa của vạn vật, chỗ huyền áo của Thánh nhân. Lão Tử họ Lý tên Nhó tự là Bá Dương, thụy là Đam, là người ở Lý Khúc Nhân, làng Lệ, huyện Khổ nước Sở, làm một quan nhỏ Thủ Tàng Thất ở nhà Chu. Đi về phía Tây vào Lưu Sa vì Hàm Cốc quan Lại Doãn nói: Năm ngàn lời tức là hai kinh Đạo Đức làm giáo. Nói Thích Giáo, thì Lão Tử Tây Thắng Kinh nói: Thầy ta du hóa Thiên Trúc khéo vào Nê-hoàn. Phù Tử nói: Thầy của Lão Tử tên là Thích-ca Văn. Pháp của Thích-ca nói gọi là Thích giáo. Hậu Hán giao Tự Chí nói: Phật giáo lấy tu thiện từ tâm làm chủ, chẳng giết sinh loại, chuyên vụ thanh thượng. Lại cho người chết tinh thần không mất mà phải thọ thân chỗ tạo thiện ác đời sau đều có báo ứng, rất quí việc làm thiện để luyện tinh thần, luyện mãi không thôi cho đến vô sanh mà được làm Phật, có kinh sách mấy ngàn quyển, lấy hư vô làm tông. Bao la tinh thô, không gì chẳng thống lãnh, khéo nói lời thắng đại, chỗ cầu trong một thể, chỗ nói biểu thị thấy nghe, huyền vi sâu xa khó thể lường biết. Cho nên Vương Công Đại Nhân thấy báo ứng sanh tử đếu cứ nhiên tự mất. Luận Bảo Vương nói: Lý của ba giáo tên chưa ắt khác, lý chưa ắt đồng. Vả lại Phu Tử trong bốn tuyệt: Một là vô ngã, nghĩa khiêm quang là vô ngã. Đạo vô ngã trưởng mà chẳng tể là vô ngã. Phật vô ngã, xem năm uẩn đều không là vô ngã. Hai giáo môn trước đều chẳng nói năm uẩn. Ai luận Tứ Đế, Lục Độ Vạn Hạnh, thềm bậc Thánh hiền đều không nghe nói đến. Chỉ có Hòa Quang Đồng Trần, Bảo Thư Thủ Tịnh, đã từ lại kiệm, chẳng dám làm một Thánh trước thiên hạ (một thiên hạ trước làm một Thánh), sao dụng Thương mà xét cạn sâu. Vô ngã của ba giáo đã nói xong. Hoằng Minh Tập nói: Tần Cảnh đi sứ Tây Trúc, Ma-đằng đến cõi Đông Đạo Sướng Hoàng Hán Chi Triều (đạo hợp vua đời Hán), Huấn Giáo Vónh Bình Chi Tự. Trúc Pháp Lan vào Lạc Dương, Khương Tăng Hội đến nước Ngô bày xá-lợi ở nước Nam, dựng chùa tháp ở Đông Độ, Nam Sơn nói: Từ khi giáo pháp vào Đông tiệm cức thiệp Oa Long (truyền nhanh đến Oa Long), ba Bị binh trừ năm tao bái phục. Đây không phải đời Hưu Minh, ấy là vua bạo ngược, cho nên Sử Bố lệnh phi kinh quốc chi mưu, thường chí lương sử chi tiếu sự lý nan phản, hoàn tập cựu tân. Xưa Đông Tấn Thành Đế năm Hàm Ninh Sáu, Dữu Băng Phụ Chính Đế tại Ấu Xung (nhân vua còn bé) đã ra vì vua chiếu khiến Tăng phải lạy vua. Lúc đó Thượng thư lệnh là Hà Sung Tạ Quảng v.v… kiến nghị không nên lạy, ba lần kiến nghị lúc đó bèn thôi. Trong năm Nguyên Sơ đời An Đế Thái Phủ Hoàn Huyền Thượng Thư lại khiến lạy thì Thượng thư lệnh là Hoàn Khiêm, Trung thư Vương Mật v.v… can rằng: Nay Sa-môn có ý kính sâu chẳng cần phải lạy đúng lễ. Tích sung suất thổ nhi thú siêu phương nội ấy là vua ngoại quốc đều giáng (giảm) lễ. Bởi vì Đạo ở Tắc quí không vì sự khinh trọng của người. Tìm Đại pháp Đông Lưu vì nhật lượng cửu (dầu đã lâu ngày), tuy phong đời chính đổi mà Hoằng chẳng đổi thay, há chẳng dùng Hóa độc tuyệt hữu nhật dụng ư Đào Tiềm thanh ước chi phong vô thời hại ư Long Bình giả hồ. Hoàn Huyền lại gởi thư đến Viễn Pháp sư. Viễn làm Luận Sa-môn Bất Kính Vương gồm năm thiên, việc do đó mà dứt, kịp khi An Đế phản chính mà tin thờ Phật. Có Tông Lưu Thị, nam Hiếu Võ Đại Minh sáu tạm bắt Sa-môn phải lạy vua là y theo luật vua năm đầu chính Trung. Ngụy Thái Võ Chân Quân năm thứ bảy có Đạo só Khấu Khiêm Tư Đồ Thôi Hạo nói gièm Phật pháp, vua cho là phải bèn diệt Phật pháp Đào Tăng Đảo Tràm. Sau mời Đàm Thủy đảnh lễ hối lỗi bỏ kinh năm năm vua bị bịnh cùi bèn giết Thôi Hạo mà trùng hưng Phật pháp. Từ đời Tấn thất ngự Trung Nguyên quốc phân làm mười sáu. Đây là các Ngụy Chính tin Phật pháp không thiếu nhưng chỉ vì hách biên bột bột cứ hữu Hạ Châu bung bạo không biết chán lấy giết chốc làm vui, bội tượng (trái tướng) bội thượng (trái vua) khiến Tăng phải lạy. Sau khi trời đánh mà chết, chôn rồi lại bị đánh văng ra. Con là Xương Tập Vị (nối chức) đánh phá Trường An diệt Phật pháp chém Tăng, giết Sa-môn. Đàm Thủy bị chém mà không sao, nhân đó đổi tâm, sau bị Bắc Triều Hậu Ngụy tiêu diệt. Chu Võ Đế lúc đầu tin Phật pháp. Sau nghe lời gièm siễm của Đạo só Trương Tân và tiền Tăng Vệ Nguyên Tung sắp diệt Phật giáo. An Sư bèn làm Nhị Giáo Luận mà can rằng: Giáo của chín Lưu, là giáo ngăn ở thân gọi là ngoại giáo. Giáo của ba thừa dạy tịnh tâm mình gọi là nội giáo. Lạo không phải là giáo chủ dị khiêm sở nhiếp. Vua nghe theo tồn phê lý quai (giữ bỏ trái lý) bèn diệt hết cả hai. Không đầy năm năm chết rồi, Tùy Dương Đế nối ngôi đổi mới triều trước. Tuy khiến kính trọng nhưng Tăng không phải lạy vua. Khi Đường Thái Võ lên ngôi lại đuổi Tăng Ni diệt Phật giáo ra chiếu lịnh phải lạy vua. Oai Tú Đạo Tuyên v.v… dâng biểu, cùng các quan họp cả nước bàn luận không làm. Vỏ Tông năm Hội Xương năm, có Đạo só Lưu Huyền Tịnh Triệu Qui Chân chê bai Phật pháp sa thải Tăng Ni. Năm vua băng hà, Tuyên Đế bèn lại kính Phật, giết Lưu Huyền Tịnh. Thông Nguyên Ký nói: Có người trách Lương Võ Đế kính Phật mà sao lại bị Hầu Cảnh giết, ấy là vì không biết nghiệp thông ba đời, nhân duyên gặp quả báo liền chịu. Trong văn Khổng Tử nói: Thi thư thạnh mà nhà Tần diệt không phải là tội của Trọng Ni. Huyền Hư lớn mà Tấn thất loạn không phải là tội của Lão Trang. Tu trai giới nước Lương mất (Lương Võ Đế) không phải là tội của Thích-ca. Đây nói rõ vậy thuyết này rất sáng tỏ vậy). <篇> <卷>QUYỂN 6 Tập này gồm bốn phần sau đây: Đường phạm tự thể Phiền não hoặc nghiệp Pháp Tâm - Ý - Thức Pháp Ấm - giới - Nhập <詞>ĐƯỜNG PHẠM TỰ THỂ Tây Vức năm Thiên Trúc Kinh chuộc sách Trời. Đông Hạ chín châu tự pháp dấu chân chim từ xưa hiếm thấy. Nhân dịch mới truyền, giữ trong hộp ngọc còn đủ. Tập này lược nêu. Chữ (?), Huân Văn nói: Chí Thành Toản Yếu nói tiếng Phạm là Thất-lị-mạt-sai, dịch là Cát Tường Hải Vân. Ở ngực Như Lai có tướng Đại Nhân hình chữ (?) gọi là Cát Tường Hải Vân. Hoa Nghiêm Âm nghĩa nói: Xét chữ (?) vốn không phải là chữ. Nhà Đại Chu năm Trường Thọ hai. Chú Thượng quyền chế văn này đặt ở Thiên Xu gọi là Vạn, nghĩa là Vạn Đức Cát Tường tập hợp. Trong kinh Trên Dưới căn cứ vào bản chữ Hán có mười bảy chữ đồng gọi là Vạn. Thanh tịnh vào văn tiếng Phạm có hai mươi tám tướng v.v… Chữ (?), Phạm Sư nói đây là chữ Vạn ở Tây Vức, là tướng Cát Tường trước ngực Phật. Chữ (?), đọc là Vạn, là tướng Cát Tường Thắng Đức. Do tóc xoắn về phía hữu mà sanh ra giống như chữ (?). Tiếng Phạm đọc là Tắc- phược-tất-để-ca, dịch là Hữu Lạc. Người có tướng này ắt có an lạc. Nếu (????) chữ Vạn là chữ phương này. Trong Tống Cao Tăng Truyện nói: dịch có bốn lệ: Một là dịch chữ không dịch âm, các lời chú trong kinh là đó; hai là dịch âm không dịch chữ, như chữ (?) trong Hoa Nghiêm là đó. Vì phương này dịch chữ vạn mà tự thể cũng là Phạm thư (sách Phạm?); ba là âm chữ đều dịch, như văn kinh là đó; bốn là âm chữ đều chẳng dịch Tây lai Phạm giáp (?) là đó. Chữ (?), chương An Sớ nói: Gọi là chữ Y. Ngoại quốc mới cũ hai chữ Y. Chữ Y xưa là ngang dọc cắt đứt lìa nhau mược đây mà so kia. Ngang như lửa dữ, dọc như chấm (giọt) nước, đều chẳng nối nhau. Chẳng ngang chẳng đồng lửa dữ, chẳng dọc chẳng đồng điểm nước. Như ở phương này tướng dưới chữ Thảo (? ) các nét nhỏ liền nhau là tướng chữ Y. Chữ Y cũ có thể ví giáo xưa ba đức, pháp thân vốn có, Bát-nhã (do mà) tu thành. Vào Vô Dư rồi mới là giải thoát không còn thân trí. Như đọc điểm nước dọc mà lìa nhau. Lại ước thân ước trí phân được Hữu dư giải thoát. Ngang một lúc có ba pháp đều khác. Như ngang lửa dữ chẳng tương quan chữ Y mới là ví nay giáo ba đức pháp thân tức chiếu cũng tức tự tại. Gọi một thành ba, ba không thể khác (ba tức là một). Cho nên không phải ngang, chẳng trước chẳng sau nên chẳng phải dọc. Một tức ba như điểm lớn, ba tức một như nét nhỏ, mà ba mà một, mà một mà ba. Chẳng thể nói một - ba chẳng thể nghó một - ba. Cho nên nói bất khả tư nghì. Bất khả tư nghì tức là chẳng ba chẳng một, gọi là Bí Mật Tạng như chữ Y ở đời. Cốc Hưởng nói: Phương Tây chữ có mới cũ, cũng như cõi này có chữ Triện Lệ, đều dùng Triện làm chữ cũ, Lệ làm chữ mới. Phụ nói pháp lìa họp của tính và tu. Sát-tam-ma-ta (Satsamàsa), dịch là Ly Họp, muốn hiển ba điểm không có tướng ngang dọc là chỉ tu tính pháp có ly họp ba đạo rất mê, pháp lý tính pháp viên cụ (lý tính thì pháp pháp viên cụ), hai nhân khai ngộ, tu tập thì sự sự viên thông (lý tính thì pháp pháp viên cụ). Khai thì đều lìa thành ba, đối bèn cùng hợp làm một. Đây luận ba điểm thử mở mười môn: Một là Bản văn, hai là Tiêu danh, ba là Thích nghĩa, bốn là Định thể, năm là Thị tướng, sáu là Cứu ý, bảy là Phán giáo, tám là Định vị, chín là Quyết định, mười là Chỉ ngoa. Bản văn, là Đại Kinh nói: Tất cả các pháp bản tính tự không, cũng dùng Bồ-tát tu tập không, thấy các pháp không. Khởi Tín Luận nói: Vì biết pháp tính thể không xan tham, tùy thuận tu hành Đàn Ba- la-mật. Thiên Thai Biệt Hạnh Huyền nói: Nguyên nhân quả căn bản này tức là tính đức duyên liễu. tính đức này vốn tự có, không phải thích kim này mới có). Lại nói vì hai thứ phương tiện tu tập này dần dần tăng trưởng từng chút, được thành tu đức bao trùm cả Đại thụ. Kinh Khê Bất Nhị Môn nói: tính đức chỉ là giới như một niệm, như ba pháp đầy đủ trong giới này. tính tuy vốn có nhưng nhờ trí khởi tu. Đây là văn rõ ràng nói về tu tính. Đại Kinh nói: Pháp giải thoát cũng chẳng phải Niết-bàn, thân Như Lai cũng chẳng phải Niết-bàn, Ma-ha Bát-nhã cũng chẳng phải Niết-bàn. Chương An trong Niết-bàn Huyền nghĩa Thích, Văn nói: Pháp thân cũng không phải, đâu thể riêng làm ba thân mà giải thích Đại. Văn nói: Giải thoát cũng không phải, đâu thể riêng làm ba thoát mà giải thích Diệt. Văn nói Bát-nhã cũng không phải đâu thể riêng làm ba trí mà giải thích Độ. Cho nên biết đơn thích không phải là ý kinh này. Trong ba đức đầu (mỗi mỗi) cầu đều chẳng thể được, ba pháp hợp cầu cũng chẳng thể được. Trí Giả Diệu Huyền nói: Diệu Hành cùng Tiền Cảnh Trí một mà luận ba, ba mà luận một. Kinh Khê nói: Lại hiểu thuận tu đối tính có ly có Họp. Ly nghĩa là tu tính đều ba, Họp nghĩa là tu hai tính một. Vónh Gia nói: Trong Thiên ba thứ phải chọn: Một là có Bát-nhã mà không có giải thoát, pháp thân; hai là có giải thoát mà không có pháp thân, Bát-nhã; ba là có pháp thân mà không có giải thoát, Bát-nhã. Có một không hai nên chẳng viên. Chẳng viên nên chẳng phải tính. Lại trong Thiên phải chọn ba thứ; một là có Bát-nhã, giải thoát mà không có pháp thân; hai là có giải thoát, pháp thân mà không có Bát-nhã; ba là có pháp thân, Bát-nhã mà không có giải thoát. Có hai không một nên chẳng viên, chẳng viên nên không phải tính. Trong viên ba thứ phải đủ: một là pháp thân chẳng si tức Bát-nhã, Bát- nhã không đắm trước tức giải thoát, giải thoát tịch diệt tức pháp thân (hai, ba lệ đây). Đây đều là Bản Văn Ly Họp. Tiêu Danh, Tu nghĩa lập hạnh tiến đến khởi hai nhân chính trợ. Tanh nghĩa là vốn tự thể tính, tức giới như một niệm. Phàm phu mê nên tự chân khởi vọng cũng như gương - bụi - mắt bịnh (gương bụi che màng), duyên liễu chi (sáng về duyên liễu mà) minh tính tự tồn cố (tính tứ còn), đủ đức lý tính vì người tu ngộ. Bội (trái) trần họp giác, giống như gương lau mài thì cảnh tượng xấu đẹp bèn hiện. Cho nên có tu thì đức thành. Thích nghĩa, pháp Ly Họp, Nam Bình Pháp sư từng lập ba ng- hóa để trình bày: một Ly là khác (các), Ly nghĩa là tu tính đều (khác, riêng) ba họp là cùng, Họp nghĩa là tu hai, tính một; hai Ly là khai. Ước tính thì luôn khai (mở). Họp là đối đối tu mới họp; ba Ly là cùng (dữ), cùng (dữ) mà nói. Một tính vốn đủ ở hai tu, hai tu thường tức ở một tính. Họp tức có nghĩa cướp (đoạt), Lý tức tuy đủ Duyên Liễu, cướp (đoạt) mà nói đó. Do chẳng phát tâm, chưa từng gia hạnh, tính duyên liễu ấy chỉ gọi là chính nhân, hai tu tuy đủ pháp thân vì nhân trí chiếu (xét), chỉ gọi là Liễu nhân. Vì do khởi hạnh, họp gọi là duyên nhân. Định Thể, muốn bày giáo tướng ly họp cần tìm pháp thể tu tính. Bởi vì hoặc tính hoặc tu đều dùng ba ngàn tổng tướng làm thể. Nên Khởi Tín Luận nói: Tâm chân như tức là một pháp giới đại tổng tướng pháp môn thể. Đó gọi là tâm tính chẳng sanh chẳng diệt, tâu tuy vốn chân mà bất giác khởi vọng. Kinh nói: Tâm như người thợ vẽ, tạo ác thứ năm ấm. Trong tất cả thế gian không gì chẳng từ tâm tạo, do đây vô minh làm duyên thành pháp chúng sinh. Ngài Duy-ma-cật nói: Ví như người làm trò ảo thuật thấy người huyễn. Bồ-tát xem chúng sinh cũng như thế. Do ngộ lý này nên có Phật pháp. Pháp Hoa nói: Chỉ có Phật cùng Phật mới hiểu hết các pháp thật tướng. Mà ba pháp này đã cùng đủ ở ba ngàn, cũng đều nhiếp ở trăm cõi. Thể nó vốn vắng lặng bèn gọi là Lý cụ. Xét ở khởi tâm thì gọi là sự tạo. Tu tính tuy hai mà ba ngàn thể một. Cho nên Diệu Lạc nói: Chỉ duyên nói lý một. Thế nên tu tính Ly Họp đối nhau. Thị Tướng, ngài Cô Sơn trong Hiển tính Lục nêu tướng ly có nói: Một nhà tu tính chính nghĩa tức ước ba Diệu Huyền Văn trước. Cảnh tức tính ba (ba tính), trí tức trí ba (ba trí), hạnh tức hạnh ba (ba hạnh). Thềm bậc của hạnh tức các ngôi vị. Nếu đến sơ trụ thì gọi là Tùy Phần quả thì phần chứng ba pháp vậy. Nếu ở Họp mà nói thì tức là Họp tính làm một Họp tu làm hai, Họp lý tính ba làm một là chính nhân pháp thân đức, Họp trí ba làm một là Liễu nhân Bát-nhã đức, Họp hạnh ba làm một là Duyên nhân giải thoát đức. Cho nên khai ra đủ chín mà chín chỉ là ba, ba - chín tuy khác mà tính nó vẫn thường một. Nay hiểu rõ thuyết này văn hội (gặp) nghĩa tiện để giải thích nghĩa ly. Văn hội (gặp) thích châm cảnh tức lý tính ba đức. Trí tức giải (hiểu) ba đức, hạnh tức quán ba đức. Khi nói nghĩa họp thì văn hội (gặp) thích châm một gọi (tức) Niết-bàn, ba gọi (tức) ba đức. Nói nghĩa tiện, tức Ly Họp đã là mê ngộ cùng (dữ) đoạt phải ở Trụ Tiền. Nếu đến sơ trụ thì tu tính một Họp không còn phân trương, sao luận cùng đoạt khác nhau ư?; hai là ngài Tứ Minh trong Chỉ Yếu Sao có nói: Như Quang Minh Huyên mười thứ ba pháp, biện lấy tu tính pháp tướng trong các kinh luận nên đủ Ly Họp hai thuyết. Như ba đức của Tam bảo tuy là tột của tu đức nhưng nghĩa ắt gồm tính. Ba thân ba trí, văn tuy ước ngộ mà lý ắt thông mê. Ba thức ba đạo đã chỉ sự tức lý, ắt toàn tính khởi tu thì sáu thứ này há chẳng phải là tu tính đều ba? Ba nhân đã dùng một tính đối trí hạnh hai tu. Ba Bồ-đề, ba Đại thừa, ba Niết-bàn đều dùng một tính đối chứng lý mà khởi dụng hai tu. Bốn thứ này há chẳng phải tu hai tính một. Nay bảo tu tính một môn, vốn y trí hạnh hai diệu. Đối cảnh thì diệu ở tại lý mê. Đối nhau cũng (dữ) đoạt mà luận Ly Họp mười thứ ba pháp bèn hiển quả người được chứng ba đức đều thuộc ngộ, bỏ bản văn này mà xa lấy bộ khác thì đây là văn mê (mê văn). Lại sơn gia Ly Họp có hai nghĩa: một là ước tu tính cùng thành, ở tính thì nói tu thành tính, tính tự có ba. Khởi tu thì toàn tính thành tu, tu tự đủ ba; hai là ước tu tính đối nhau, Ly thì tu tính đều ba, mà Họp thì tu hai tính một. Nay dùng tu tính đều ba mà giải tu sáu tính ba. Đây là môn, hổn tướng thành đối nhau. Lại loạn số sáu pháp, chín pháp. Đây là nghĩa trái (đều); ba là ngài Tịnh Giác trong Tạp Biên có nói: Tôi từng có văn tâm giải, dẫn đủ lời Huyền Châm chú thích, đại ý cùng Cô Sơn không khác. Chỉ lấy Cảnh - Trí - Hạnh ba thứ mà viên đối ba đức, cho nên Tạp biên nói: Như trong ba thân, pháp thân có thể hiểu, Báo tức Bát-nhã, Ứng tức giải thoát. Trong ba Bát-nhã thì thật tướng tức pháp thân, quán chiếu tức Bát-nhã, văn tự tức giải thoát. Trong bố thí giải thoát thì tính tịnh tức pháp thân, viên tịnh tức Bát-nhã, phương tiện tịnh tức giải thoát. Đây giống như họp của chắp tay, họp của chữ xuyên (?). Nếu dùng tính đức Duyên Liễu để tu Báo ứng, thì pháp thân trong tu là họp tính chính nhân. Đây mắt nghĩa cùng và đoạt. Lại vì trái với Kim Bài, tính Duyên Liễu đồng gọi là chính nhân; bốn là ngài Nam bình bỏ hết ly họp đại để có bốn: một là ba - một, Thích Châm nói: một là nói Niết-bàn, ba là nói ba đức; hai là ba - sáu Kim Bài vốn có ba thứ ba lý, nguyên biển đạt (khắp biết) tính thành tu tu ba cũng biến (khắp). Ly tuy có sáu, Họp thì chỉ ba; ba là ba - chín: Ly nghĩa là tu tính đều ba, Họp tức là tu hai tính một; bốn là tính chín tu mười tám, Như Văn nói: Quang Minh mộng thấy trống vàng. Nay nói ba - một, một - chín là là chính nghĩa Ly Họp. Tu ba tính ba là thuộc toàn tính để khởi tu, không phải đối biện ở Ly Họp; năm là Tiên Bẩm Thanh Biện Lão Sư từng phân ra hai nghĩa; một là tu tính đều luận Ly Họp; hai là tu tính đối luận Ly Họp. 1/ Đều luận là Như kim bài nói: Vốn có ba thứ ba thứ Ly nguyên biến (khắp). Đây bèn ở tính thì toàn tu thành tính. tính tự lìa (ly) chín, tự Họp thành ba. Đạt tính thành tu, tu ba cũng biến (khắp), đây bởi khởi tu thì toàn tính thành tu. Tu cùng lìa chín cũng Họp thành ba. Đây là ước với Hoành luận hai lớp Ly Họp. 2/ Đối luận là như Thích Châm nói: Ly nghĩa là tu tính đều ba, tính không thể dời, tu thường rõ như thế. Cho nên có chín pháp. Họp nghĩa tu hai tính một. Đây là Ước Công Lực Cùng Đoạt đối nhau mà luận. Trong Họp tính Duyên Liễu không công chê là một tính, Tu Đức pháp thân thọ huân đoạt gọi hai tu. Đây là ước Thụ Luận một phen Ly Họp. Cứu ý, nay tông bày pháp Ly Họp này là hiển bày pháp thể bất tư nghì. Vì sao? Vì tuy luận Họp ba làm một, nhưng một chẳng nhất định một, một tự luôn luôn ba. Tuy nói Ly một làm ba, mà ba chẳng nhất định ba, ba tự luôn một. Cho nên Chương An nói: Hoành thì càng cao mà Thụ thì càng rộng, Hội thì luôn phân mà phái thì luôn Họp. Phán giáo, Như Kim Bài nói: Luận sanh hai giáo Tợ v.v… sáng đủ, Biệt giáo chẳng nói chủng cụ đẳng nghĩa (nghĩa chủng cụ v.v…) đây không thể kể ra. Cho nên Biệt Phật tính thì diệt kiến chín phương, người viên thì đạt ba đạo chín cõi tức thấy viên ba đức thể khắp. Biệt giáo chẳng nói chung cụ (các thứ cụ), bèn nói Tu tính Tu Hoành. Viên tông do bày thể khắp nên diễn nói Tu tính Ly Họp. Đây là hiển cùng mà chẳng tạp (lộn xộn), lại bày lìa mà chẳng phân. Định vị, giáo đã chỉ viên, vị cần giản lạm: một là thuộc (cục) Trụ tiền, hai là Thông sơ hậu, ba là bày cực quả. 1/ Thuộc trụ tiền, thì Bất Nhị Môn nói: Như gương xưa nay đủ ba, y lý mà sanh giải (hiểu) nên gọi là trí. Trí hiểu dắt hạnh, hạnh hiểu thì khế lý. Sơ trụ đã ba pháp phụ họp nhau, thì cùng (dữ) đoạt, Ly Họp thuộc Trụ tiền vậy. 2/ Thông sơ hậu thì hiển tính lục nói: Một nhà Duyên Liễu vị cạn sâu, dữ đoạt chẳng phải chỉ một đường. Như Pháp Hoa Thọ Lượng Sớ Văn thì Trụ tiền thông là duyên nhân. Sơ trụ chân chính hiển liễu bèn là liễu nhân, vì ước với Thanh văn nghe kinh được ký, liền vào sơ trụ. Đây là ước chân tợ phân duyên liễu. Nếu được Thảo Dụ Sớ thì chỉ thủ cứu cánh (đến tay rốt ráo) gọi là trí ba, trung gian bốn tức đều là hạnh ba. Vì thuận kinh Văn Cứu Cánh đến Nhất thiết trí (tất cả trí). Đây bèn phân cực, phân duyên liễu. Như Pháp sư Phẩm Sớ thì đạo Tiền chân như tức là chính nhân, đạo Trung chân như tức là duyên nhân, cũng gọi là liễu nhân. Đạo Chung chân như tức là viên quả. Ký nói: Đây đem tu đức mà đối với chính nhân kia, trong chính duyên liễu đồng thành chính nhân. Trong tu chính nhân đồng thành duyên liễu. Lại nói đây dùng Bác địa làm Đạo tiền. Phát tâm rồi thì làm Đạo trung, vị phân làm hai. Trụ tiền là duyên, Đăng (lên) trụ rồi bỏ đi là liễu. Đây thì ba nhân này đều thông một giáo. 3/ Nói Cực quả, Niết-bàn Huyền Thích Đại Diệt Độ Văn nói: Pháp thân cũng không phải, đâu thể riêng làm ba thân mà giải thích đại. Văn nói giải thoát cũng không phải, đâu thể riêng làm ba thoát mà giải thích diệt. Văn nói Bát-nhã cũng không phải, đâu thể riêng làm ba trí mà giải thích độ. Tiên Đạt bèn gọi Đại Diệt Độ ba thứ đều mở chín, bèn thành Ly làm hai mươi bảy pháp. Nay bảo Chương An Huyền nói: Tuy một mà ba, tuy ba mà một, tuy là ba - một mà không phải ba - một, tuy không phải ba - một mà ba mà một, chẳng thể nghó bàn nhiếp tất cả pháp. Tổ sư vì hiển ba đức viên dung khác với tung hoành riêng khác. Hậu Duệ phân tích làm hai mươi bảy pháp thì cách đạo rất xa. Quyết nghi, có người hỏi: Trong tính ba pháp nếu khởi hai tu bèn hiển chỉ có một pháp, sao nói họp ba làm một? Nam Bình giải thích rằng: Chỉ một - ba Đức mà nói có khai họp. Nếu từ mê mà luận thì họp ba làm một, nếu từ ngộ mà nói thì khởi tu là hai, như thân và cánh tay nếu cột lại thì họp làm một thân, nếu mở ra thì khai làm ba chỗ. Tiên Sư giải rằng: Trọn ngày tùy duyên, tuy khởi hai tu mà ngại gì trong tính trọn ngày bất biến. Đó gọi là tính không dời, mà tu luôn luôn như thế. 1 0- Chỉ ngoa (chỉ chỗ sai), Quang Minh Sám Hối Phẩm nói: Trong mộng thấy nghe có hai: Một là mộng thấy trống vàng, hai là mộng thấy đánh trống. Thấy trống lại có ba: Một là thấy cái trống, hai là thấy ánh sáng của trống, ba là thấy Phật trong ánh sáng. Mộng thấy trống văn có ba: một là thấy đánh trống, hai là phát ra tiếng lớn, ba là tiếng trống có nói năng. Xưa nói mộng thấy trống vàng ba thân đều ba là chín pháp trong tính. Mộng thấy đánh trống là chín pháp trong tu, bèn nói 3x9=27 pháp. Tân Ký chê rằng: Văn trước thấy trống là ba pháp thân, tức cảnh ba, ba ánh sáng của trống tức trí ba, thấy ba Phật tực dụng ba. Văn này chỉ nói người hay gõ dùng trí mà đánh trống, đâu từng luận ở tu tính hai mươi bảy pháp ư? Lại như Tứ Minh Ký nói: Trống trên biểu thị cho ba quang ba Phật, ba chỉ là một - ba. Nay đối tín tướng cơ trí sở quán họp ba làm một. Chỉ gọi là pháp thân. Đây bèn gương sáng tu tính dung tức. Người học tông này phải biết chữ Y ba chấm … ở đời, ba mắt của chúa trời, tung hoành của Dị Biệt Giáo mà lập viên tông ly họp, bày tu tính Nhất thiết trí, hiểu chúng sanh và Phật đồng nguồn mà dứt hết nghó bàn không còn tính đếm. Cho nên ngài Tịnh Danh từ tang ở Tỳ-da, Thích-ca hết nói ở Ma-kiệt, cho nên gọi là pháp bất tư nghì. <詞>PHIỀN NÃO HOẶC NGHIỆP. Phiền não bình đẳng thể vốn một, Niết-bàn sanh tử thấy có hai. Nếu biết rõ tướng như thật, hiễu rõ tướng huyễn hóa, vì bày từ huệ là để tự tham sân si. Cho nên Đại Tập nói: Xa lìa tất cả phiền não, thanh tịnh vô cấu cũng chân thật, tâm ấy ắt làm ánh sáng lớn, ấy gọi Bảo Cự Đà-la-ni. A-lê-da (Alaya), Khởi Tín Luận nói: Vì y vào thức A-lê-da nên nói có vô minh bất giác mà khởi hay thấy hay hiện hay lấy cảnh giới mà khởi niệm liên tục nên gọi là ý. Đây là nói vô minh làm duyên để sanh ba tế gọi là vô minh hoặc. Cảnh giới làm duyên mà sanh sáu thô, gọi là kiến tư hoặc. Vô minh là căn bản hoặc nó chướng trung đạo lý, nên phải tu trung quán mà riêng phá biệt hoặc này. Không thể là hoặc nhánh lá nó chướng lý chân đế, nên phải tu không quán mà phá thông (chung) hoặc này. Các hoặc thông biệt đều mất thì lý chân trung liền hiện. Tát-ca-da (Svakayadrsti), Tủng Sớ gọi đủ là Tát-ca-da Đạt-lị-sắc- trí, dịch là Thân kiến. Bách Pháp Sớ rằng: nghĩa là ở năm uẩn mà chấp ngã ngã sở tất cả các thấy đến nương tựa làm nghiệp. Đạt-lê-xá-na (Darsana), dịch là kiến, kiến có năm thứ: Một là thân kiến (chấp ngã, ngã sở làm thân), hai là biên kiến (chấp có đoạn thường), ba là kiến thủ (chấp lấy kém làm hơn), bốn là giới thủ (không phải nhân gọi là nhân), năm là tà kiến (chấp không nhân quả). Đủ năm thứ này gọi là kiến hoặc. Chỉ Quán nói: Kiến tức là thấy, thấy lý, thấy thật không lầm. Khi thấy lý thì có thể đoạn hoặc này, từ hiểu (giải?) mà được tên nên gọi kiến hoặc. Lại kiến hoặc không phải chỉ từ hiểu mà được tên, cũng ở đương thể mà được tên, gọi đó là giả. Giả là hư vọng điên đảo nên gọi là giả. Phải biết kiến hoặc có ba thứ: một là Cu sanh kiến, hai là suy (thôi) Lý kiến, ba là phát đắc kiến. 1/ Cu sanh kiến là, Chỉ Quán nói: Năm độn đâu cần phải tham sân, như các loài sâu bọ nhỏ nhặt thật không có suy (thôi) lý mà sừng lông trợn mắt nổi giận. Phàm phu thấp kém đâu từng chấp kiến đi đứng ngồi nằm luôn khởi tâm ngã, cho nên biết năm độn không phải chẳng có lợi. 2/ Suy lý kiến, Chỉ Quán nói: Nay ước vị mà phân khiến chẳng lộn vào nhau. Như người chưa phát thiền thì tuy có thế trí suy (thôi) lý biện thông, nhưng kiến tưởng còn yếu nên có mười sử đồng thuộc ở độn. 3/ Phát đắc kiến, Chỉ Quán nói: Từ Nhân nhất định phát kiến, kiến tâm rất mạnh mẽ, chỗ có mười sử từ cương mà được tên, đều thuộc ở lợi. Lược nói: Có ba kiết, rộng nói có tám mươi tám sử. Lược nói ba kiết, một là thân kiến, hai là giới thủ, ba là nghi sử, lại thêm tham, sân thì gọi là năm phần dưới như Diệu Lạc nói: Nói năm phần dưới là tham tuy thông trên nhưng chẳng phải chỉ trên, chỉ một sân dưới lại chẳng thông trên, các thứ kia khắp nhiềp tất cả kiến hoặc. Nay hỏi kiến thông năm lợi vì sao Câu-xá chỉ nói ba kiết? Đáp: Như Luận Tụng nói: Vì nhiếp căn môn. Nói căn môn, là thân kiến tức khổ môn, giới cấm thủ tức khổ đạo hai môn. Nghi thông với bốn môn gọi là tứ đế. Nói nhiếp căn là biên kiến thân kiến mà chuyển, kiến thủ y giới cấm thủ mà chuyển, tà kiến y nghi mà chuyển. Cho nên ba kiến này tức nhiếp năm kiến. Hỏi: Kiến hoặc đã trải bốn đế ba cõi sao nói ba thứ kia nhiếp khắp tất cả kiến hoặc tuy đã thông trên mà lại kéo dưới sao? Đáp: Đế bị mê tuy thông ba cõi, nhưng hoặc hay kéo chính ở Dục giới. Cho nên nói dẫu đoạn tham sân v.v… cho đến vô sở hữu, thì do thân kiến v.v… phải trở lại Dục giới. Hỏi: Như Diệu Huyền nói: Đoạn hoặc đế kiến mà lại gồm trừ bốn Tư, chưa biết pháp nào là Tư? Đáp: Đây lấy Tư của bốn thú làm bốn Tư. Vì Diệu Huyền nhân minh nhân ích, thế nên vị phàm phu mà trì giới thì phục được nghiệp bốn thú. Sơ quả tu quán thì đoạn được Tư bốn thú. Vì Cu sanh thôi kiến hai Tư tùy kiến mà lạc (đọa lạc) (theo kiến mà rụng) bèn nói là gồm trừ. Nên biết Tư hoặc có ba thứ: Một là Cu sanh tư cùng hình cu sanh (thân cùng) như nam nữ gá thai vọng cha mẹ vượt ái ác tâm. Đây là tà tư lại qui về kiến hoặc; hai là Y kiến tư, Chỉ Quán nói: Năm lợi há chỉ kiến hoặc, đâu từng không nhuế dục ư? Hỏi: Chỉ Quán nói: Nếu trong Lợi mà có Độn, kiến đế chỉ đoạn ở Lợi mà Độn thì cũng còn. Đáp: Theo Chỉ Quán nói: Tỳ-đàm nói Độn trên Lợi gọi là Bối Thượng Sử. Khi kiến đế đoạn thì chính lợi đã bỏ (đi?) Bối Sử cũng bỏ (đi?). Phược Tư ba cõi: Tức là chín phẩm Tư hoặc ba cõi đây gọi là Độn sử, cũng gọi là Sự chướng, gọi chính ba độc. Phàm bảy tình thì Ái nộ (yêu giận) hai thứ sanh mà tự năng. Hai thứ ấy là gốc của tính, là đầu mối của các ác, trẻ con thấy sữa ắt đòi, không được thì khóc. Đó là Ái, Nộ (yêu, giận) với đứa bé cùng sanh vậy. Hỏi: Năm phần trên: Một là Trạo cử, hai là Mạn, ba là Vô minh, bốn là Sắc nhiễm, năm là Vô sắc nhiễm vì sao thượng giới mà không nghi? Đáp: Nghi theo kiến mà rụng, cho nên không có hoặc này. Tịnh Danh Sớ lấy năm cái phối với bốn phần: Tham dục, Sân nhuế, Thùy nghi thuộc si, Trạo tán là ngã thủ. Chỉ Quán nói: Trạo có ba thứ: Một là Thân trạo thân thích chạy nhảy các thứ đùa giỡn ngồi không tạm yên; hai là Khẩu trạo, là thích ngâm vịnh cải cọ phải quấy, nói năng bàn luận thế gian vô ích; ba là Tâm trạo, tâm tình buông lung, mặc ý phan duyên suy nghó van nghệ tài giỏi thế gian và các ác giác quán v.v… gọi là Tâm trạo. Bốn thứ này đều sanh ra hai mươi mốt ngàn ( 2 1. 000). Tân Hoa Nghiêm nói: Tham nhiều hai mươi mốt ngàn, Sân nhiều hai mươi mốt ngàn, Si nhiều hai mươi mốt ngàn, Đẳng phần hai mươi mốt ngàn, hiểu biết như thế đều là hư vọng. Thùy Dụ giải thích mười triền là Tư hoặc. Phẩn nhuế gọi là sân. Tự giấu lỗi mình gọi là phú. Ý thức hôn mê gọi là Thùy, năm tình mờ tối gọi là miên. Đùa giỡn gọi là Hí. Ba nghiệp dao động gọi là Trạo. Chỗ vắng tạo tội chẳng tự xấu hổ gọi là vô tàm. Chỗ có người tạo tội không xấu hổ với người gọi là vô quí. Tiền của tiếc không bố thí gọi là xan. Thấy người khác giàu sướng mà lòng nóng bức gọi là tật (ganh ghét). Câu-xá Tụng nói: Triền tám: Vô tàm quí, tật xa và hối miên cùng trạo cử hôn trầm hoặc mười thì thêm phẩn phú. Lăng Nghiêm nói mười tập: 1- Dâm tập, 2- Tham, 3- Mạn, 4- Sân, 5- Trá tập, 6- Cuống, 7- Oán, 8- Kiến, 9- Uổng, 10- Tụng tập. Ni-diên-để (Nyanti), dịch là thâm nhập, tức tên khác của tham. Người tham có hai thứ: Một là có lực, hai là vô lực. Với cảnh được tham thì Thiền Môn nói có ba thứ: Một là ngoại tham dục, là nam duyên với nữ, nữ duyên với nam; hai là ngoại tham dục, là ngoài duyên với thân tướng nam nữ lại duyên hình dạng trong thân; ba là khắp tất chỗ tham dục, chúng sinh đắm mê mọi chỗ. Câu-xá luận nói có bốn thứ: Một là nhan sắc, tức là xanh vàng đỏ trắng; hai là hình sắc, tức dài ngắn vuông tròn; ba là Diệu xúc (đụng chạm); bốn là cung phụng (săn sóc). Đại Luận nói có sáu thứ: Một là đắm sắc như đỏ trắng vàng đen; hai là đắm mê hình dung như da mịn, tay nhọn mắt mày đẹp; ba là mê đắm cử chỉ (oai nghi), tới lui ngồi đứng lễ bái cúi ngước, nháy mắt, vuốt ve; bốn là mê đắm tiếng nói, dịu dàng lời lẽ ý tứ; năm là đắm mê trơn láng mềm mại da mềm mát rượi; sáu là đắm mê tiếng người hoặc nam hoặc nữ. Yết-tra-tư, dịch là tên khác của ái. Niết-bàn nói: Sông ái chảy ngược giết chúng sinh, vô minh khiến mù không thể thoát khỏi tham và ái. Khuê Phong trong Viên giác có bốn cú giải thích rằng: Một có tham không ái, hai có ái không tham, ba cũng tham cũng ái, bốn không tham không ái. Quản Tử nói: Có lợi ở đó, tuy núi cao ngàn trượng (cho mấy) cũng trèo, khe sâu cho mấy cũng lội. Người buôn bán có lợi liền làm suốt ngày đêm ngàn dặm cũng không xa. Người đánh cá vào biển, biển sâu mấy trăm nhẫn cũng lướt sóng ngày đêm không bỏ ấy là vì lợi ở nước. Ngư phụ có tám lỗi: Một không phải việc của mình chen vào gọi là Tổng. Không ngó mà tiến gọi là nịnh. Theo ý mong muốn dắt lời gọi là Siễm. Không chọn phải quấy mà nói gọi là Du. Ham nói xấu người khác gọi là Sàm. Phá tan tình giao hảo thân thiết gọi là Tặc. Khen ngợi dối trá để phiến ác người gọi là Nặc không chọn thiện phủ lưỡng dong nhan thích thâu bạt kỳ sở dục gọi là Hiểm. Tám lỗi này ngoài thì loạn người, trong thì hại thân mình. Quân tử không có bạn, vua sáng không có tôi. Việc Ngư phụ có bốn nạn: Thích trải việc lớn biến đổi dị thường, để đeo công danh gọi đó là thao chuyên biết chiếm việc xâm phạm người tự chuyên quyền gọi là Tham. Thấy lỗi mà không đổi khuyên ngăn càng làm tới gọi là ngoan (ngoan cố). Người giống mình thì được không giống mình mà thiện cũng là bất thiện thì gọi là căng. Đề-tỳ-sa (Devesa), dịch là sân nhuế. Nhuế độ là hận (giận ngầm là hận = hờn). Thiền Môn nói: Có ba thứ sân: Một là phi lý sân, là người ta không phiền mình mà tự giận; hai là thuận lý sân, là người ngoài đến quấy não mới giận. Cũng như Tịnh độ có chính ba độc; ba là trung tụng sân, pháp mình chấp là phải, pháp ngươi chấp là quấy do đó không thuận mà sanh buồn giận. Mộ-hà (Môha), dịch là si. Thiền Môn nói có ba thứ si: Một là chấp đoạn thường, các pháp quá khứ có mất chăng, các pháp hiện tại không mất chăng. Suy tìm ba đời, nếu mất tức là đoạn, nếu không mất tức là thường; hai là chấp có vô ngã và ấm v.v… chăng, có hay không? Như thế cho đến chẳng có chẳng không; ba là chấp tính đời mà nghó rằng: Do có bụi bặm tức có thật pháp, vì có thật pháp nên có bốn đại. Có bốn đại nên có giả gọi chúng sinh thế gian. Nhân nghó này mà làm tà đạo kinh A-hàm chính Hạnh nói: Phật ngồi suy nghó vì người ngu nên có sanh tử, những gì là si, vốn từ trong si mà đến, nay sinh ;làm người lại si tâm chẳng hiểu (cởi bỏ?) tự chẳng nghe chẳng biết chết rồi đi về đâu? Thấy Phật chẳng hỏi, thấy kinh chẳng đọc, thấy Sa-môn không thờ phụng, không tin đạo đức, thấy cha mẹ không kính trọng. Không nghó thế gian là khổ, chẳng biết trong địa ngục có tính đập, khảo tra. Đó gọi là si, cho nên có sanh tử không thôi. Sanh tử như khoảng hơi thở không hơn một mạng người. Vậy tham sân si này gọi là ba độc - Trung Ấm kinh nói: Nặng của ba độc thì bịnh si là gốc. Lại ba độc này cần phân hai thứ: Một là hoặc ba độc. Biệt Hạnh Ký nói: Mặc tình khởi lên gọi là phiền não. Chỉ Quán nói: Pháp hôn phiền làm não loạn tâm thần, làm phiền tâm khiến tâm bị não; hai là nghiệp ba độc. Biệt Hạnh Ký nói: Chợt khởi quyết định hay động thân khẩu gọi là nghiệp ba độc. Thụy Ứng nói: Tham dục gây già, sân giận gây bịnh, ngu si gây chết. nghĩa thôi đẳng phần gây sanh. Lại cần phải biết nghiệp có nhiếu thứ. Như Trí Luận nói: Hắc nghiệp là nghiệp bất thiện, quả báo là ở địa ngục chịu khổ não. Trong đó chúng sanh rất khổ não nên gọi là Hắc. Chỗ nhận quả báo thiện là các trời trong ba cõi vì họ được vui tùy ý tự tại sáng sở nên gọi là Bạch Nghiệp. Chỗ nhận quả báo thiện và bất thiện là A-tu-la tám bộ, chỗ này chịu vui và khổ, nên gọi là Bạch Hắc Nghiệp. Hỏi: Nghiệp vô lậu phải gọi là Bạch, vì sao lại gọi là phi Bạch phi Hắc? Đáp: Pháp vô lậu tuy thanh tịnh vô cấu, vì không vô tướng vô tác nên không có chỗ phân biệt nên không được nói Bạch. Hắc Bạch là tướng đối đãi. Trong đây không tương đối đãi nên không được nói Bạch. Lại nữa, nghiệp vô lậu hay diệt tất cả các quán, trong quán có phân biệt nên có Hắc Bạch. Trong đây không quán nên không có Bạch v.v… Song Di giáo nói: Ta như thầy thuốc, biết bịnh nói thuốc. Diệu Huyền nói: Làm Đại Ý Vương (vua thầy thuốc) phải biết mạch các thứ bịnh, biết các thứ thuốc, biết các cách trị, được các thứ sai khác. Nhân vương nói: Phật biết chúng sanh có ba thứ bịnh: Một là bịnh tham, hai là bịnh sân, ba là bịnh si. Đã biết các bịnh này thì phải dùng thuốc. Nên Nhân Vương nói: Trị tham, sân, si ba căn bất thiện, khởi thí từ bi ba thứ thiện căn. Trị tham thì dạy bố thí. Nên Quang Minh nói: Bỏ các tay chân chi tiết quí trọng. Tri sân thì dạy cho hành từ bi. Nên Pháp Hoa nói: Luôn nhu hòa hay nhẫn, từ bi đối với tất cả. Trị si thì dạy cho ta trí tuệ. Nên Di Giáo nói: Người thật trí tuệ là thuyền bè chắc chắn vượt qua biển Lão Bịnh Tử, cũng là đèn sáng lớn trong đêm tối vô minh. Tuy có thuốc này uống hay không uống chẳng phải lỗi của thầy thuốc. Cho nên Hoa Nghiêm nói: Thí như thuốc hay tự trị bịnh mình chẳng được. Đối với pháp mà chỉ học nhiều chẳng tu thì cũng thế. A-kỳ-tỳ-già (Ajìvaka), dịch là tà mạng, vì đem pháp tà mà nuôi sống mạng căn. Trí Luận nói: Như trong kinh Xá-lợi-phất vào thành khất thực, được rồi ngó vào vách ngồi ăn. Lúc đó có con gái của một Phạm Chí tên là Tịnh Mục thấy mà hỏi rằng: Sa-môn ăn chăng? Đáp: Ăn. Tịnh Mục hỏi: Cúi miệng mà ăn hay ngửa miệng mà ăn, phương khẩu mà ăn chay bốn duy mà ăn thì đều đáp là không. Tịnh Mục nói: Phép ăn có bốn thứ, tôi hỏi thầy, thầy bảo không, tôi chẳng hiểu. Thầy nên nói rõ. Xá-lợi-phất nói: Có người xuất gia hết thuốc trồng lúa trồng cây… bất tịnh mà nuôi mạng sống thì gọi là cúi miệng (hạ khẩu) mà ăn. Có người xuất gia xem các sao mặt trăng mặt trời gió mưa sấm sét… bất tịnh mà nuôi mạng sống gọi là ngửa miệng (ngưỡng khẩu) mà ăn. Có người xuất gia xua nịnh đám giàu sang thế lực, đi sứ bốn phương, khéo nói xin nhiều, bất tịnh mà nuôi mạng sống thì gọi là phương khẩu mà ăn. Có người xuất gia học các thứ chú thuật bói toán kiết hung như thế mà nuôi mạng sống thì gọi là bốn duy mà ăn. Chị tôi không rơi vào bốn thứ ăn bất tịnh này. Tôi dùng xin ăn thanh tịnh mà nuôi mạng sống. Khi Tịnh Mục nghe nói cách ăn thanh tịnh thì vui mừng tin hiểu. Xá-lợi-phất nhân đó vì nói pháp cho nghe mà được quả Tu-đà-hoàn. Lại Trí Luận giải thích tám chính đạo rằng: Năm thứ tà mạng phải dùng cúng dường trí tuệ mà lìa bỏ, đó là chính mạng. Thế nào là năm thứ tà mạng? Đáp: Một là vì lợi dưỡng mà giả làm việc lạ lùng; hai là vì lợi dưỡng mà tự khoe công đức mình; ba là vì lợi dưỡng mà xem tướng đoán kiết hung; bốn là vì lợi dưỡng mà lớn tiếng ra uy khiến người kính sợ; năm là vì lợi dưỡng mà khen nói chỗ được cúng dường để động lòng người. Tà nhân duyên mà nuôi mạng sống, nên gọi là Tà Mạng. A-la-già (Ràga), dịch là dục, có nghĩa mong cầu. Năm thứ tình ham muốn gọi là Ngũ (năm) dục. Đại Luận nói: Thương thay chúng sinh thường bị Ngũ (năm) dục quấy phá mà mong cầu chẳng thôi. Năm thứ dục náy chuyển mạnh như bịnh ngứa mà hơ lửa. Năm dục vô ích như chó gặm xương, năm dục tranh nhau như chim tranh thịt, năm dục đốt người như cầm đuốc đi ngược gió, năm dục hại người như đạp nhầm rắn độc, năm dục không thật như được vật khi nằm mộng, năm dục không lâu quả có trong phút chốc, người đời mê lầm đắm mê năm dục đến chết không buông, mà đời sau chịu khổ vô lượng. Ví như người ngu tham đắm trái ngon leo lên cây ăn mãi không xuống, người ta đốn cây, cây ngã té xuống, thân đầu dập nát đau đớn mà chết. Song năm dục này phân giới nội ngoại. Như Đại Luận nói: Nhị thừa chỉ đoạn năm dục giới nội, cho nên năm dục thế gian chẳng động được. Biệt hoặc chưa trừ nên còn bị thượng diệu sắc thinh giới ngoại làm ô nhiễm. Cho nên Ca-diếp nói: Năm dục ba giới ta đã đoạn xong không thể động tâm ta được, còn đây là năm dục diệu tịnh của Bồ-tát, ta đối với việc này chẳng thể tự an được. Đây là Ca-diếp bị thinh giới ngoại làm động. Thiên nữ tán hoa Xá-lợi phải đi bảo rằng: Đây là sắc giới ngoại làm động. Lại phân biệt sanh tử Niết-bàn. Có phân biệt khác cũng là Biệt kiến. Đây là bị pháp trần mê hoặc. Xa-tha (Sàthya), dịch là siễm khúc. Võng mạo tha cố kiều thiết dị nghi khúc thuận thời nhân. <詞>PHÁP TÂM - Ý - THỨC. Hoa Nghiêm nói: Các nghiệp hư vọng chứa nhóm gọi là tâm. Mạt- na thì suy lường, ý thức thì phân biệt, nhãn v.v… năm thức kia thì hiểu rõ cảnh chẳng đồng. Phàm phu ngu si chẳng thể hay biết. Sợ già bịnh chết cầu vào Niết-bàn. Sanh tử Niết-bàn hai thứ đều chẳng biết; ở tất cả cảnh mà vọng khởi phân biệt. Lăng Già nói: Lược nói thì có ba thứ thức, rộng nói thì có tám tướng. Thế nào là ba, đó là Chân thức, Hiện thức và Phân biệt sự thức. Ngài Đại Huệ ví như gương sáng chứa các hình ảnh (sắc tượng). Hiện thức hiện xứ (chỗ) cũng lại như thế. Ngài Đại Huệ nói: Hiện thức và Phân biệt sự thức, hai thứ này tướng hoại và bất hoại xoay vần làm nhân (là nhân xoay vần?). Ngài Đại Huệ nói: Bất tư nghì Huân, bất tư nghì Biến là nhân của Hiện thức. Ngài Đại Huệ nói: lấy các thứ Trần và Vô thủy vọng tưởng huân là nhân của Phân biệt sự thức. Lại nói: Ví như sóng lớn biển cả là do gió dữ khởi lên, sóng nhào lộn gầm thét mãi không dứt. Biển Tạng thức thì thường trụ. Cảnh bị gió thổi động, các sóng thức nổi lên nhào lộn mà sanh ra (mà khiến). Lại Lăng Già, ngài Đại Huệ bạch Phật rằng: Cúi mong Thế Tôn lại vì con mà nói Ấm nhập giới sanh diệt, nó không có ngã thì ai sanh ai diệt. Người ngu y vào sanh diệt mà không biết khổ (hết) cũng không biết Niết-bàn. Phật bảo Đại Huệ: Tạng của Như Lai là nhân thiện, bất thiện có thể hưng khởi tất cả thú sanh. Ví như người làm trò ảo thuật (người tài giỏi?) (con hát) biến hiện ác thú. Lìa ngã và ngã sở chẳng biết nó do ba duyên hòa hợp phương tiện mà sanh. Ngoại đạo chẳng biết chấp là có người làm (tác giả) mà bị vô thủy hư vọng ác tập nó hun đúc (huân lấy) gọi là Thức Tạng. Sanh vô minh trụ địa cùng bảy thức đều có như sóng biển sanh mãi không dứt, lìa lỗi vô thường, lìa luận về ngã tự tính vô cấu rốt ráo thanh tịnh. Ngoài ra các thức có sanh có diệt ý ý thức v.v… niệm niệm có bảy nhân, các vọng tưởng chẳng thật, lấy tất cả hình xứ của các cảnh giới mà chấp lấy danh tướng, chẳng biết các sắc tướng là do tâm mình hiện ra, chẳng biết khổ vui, chẳng đến giải thoát. Lại có kệ rằng: Như con hát giỏi, ý như họa hát, năm thức là bạn bè, vọng tưởng chúng xem hát. Đại Thừa Nhập Lăng Già nói: Tâm hay chứa nhóm nghiệp, ý hay rộng chứa nhóm, liễu biệt nên gọi thức, đối hiện cảnh nói năm. Bà-sa hỏi: Ba thứ này sao khác? Đáp: Hoặc khác chẳng khác. Nói chẳng khác là tâm tức ý thức. Như lửa gọi là ánh lửa, cũng gọi là cháy hoặc đốt củi, chỉ là một tâm mà có ba sai khác. Nói có khác là tên tức sai khác. Hoặc nói quá khứ gọi là ý, vị lai gọi là tâm, hiện tại gọi là thức. Hoặc nói: Ở giới gọi là tâm, ở nhập gọi là y, ở ấm ở gọi là thức. Hoặc nói: Tạp sắc gọi là tâm như sáu đạo do tâm. Hệ thuộc gọi là ý như năm căn thuộc ý. Nói tưởng gọi là thức như Phật biệt thuộc thức. Lại Diệu Lạc dẫn Câu-xá nói: Tập khởi gọi là tâm, tư lương gọi là ý, liễu biệt gọi là thức. Ở nó một mực toàn không tức (hiểu) lý. Như trong Đại thừa thức thứ tám gọi là tâm, thức thứ nảy gọi là ý, thức thứ sáu gọi là thức, sáu thức gọi là thức. Giáo đó là mê lại không tức lý cho nên là Thiên tiểu giáo pháp hữu lậu. Toàn vô tính tịnh tức là Lý thường trụ. Rất ít người biết điều này. Trong kinh Đại Bảo Tích Phật nói: Nói về thức, tức là hay hiểu biết. Mắt biết sắc, tai biết tiếng, mũi biết mùi. Lưỡi biết vị, thân biết đụng chạm, ý biết pháp. Đó gọi là thức. Nói về Trí là bên trong vắng lặng, chẳng làm bên ngoài chỉ y vào trí chẳng ở một pháp nào mà sanh phân biệt và các thứ phân biệt. Đó gọi là trí. Trong kinh Đại Thừa Đồng tính nói: Vua Lăng Già bạch Phật rằng: chúng sinh như thế nào bỏ thọ mạng này lấy thọ mạng kia, bỏ thân cũ lấy thân mới? Phật nói chúng sanh bỏ thân này rồi thì sức gió nghiệp thổi lên dời thức đem đi từ chỗ thọ nghiệp mà nhận chịu quả báo. Ngài Khuê Sơn nói: Muốn nghiệm biết lúc lâm chung thọ sanh tự tại hay không tự tại thì chỉ nghiệm biết lúc bình thường tâm mình đối với trần cảnh tự do hay không tự do trong suốt hai mươi bốn giờ mà tỉnh xét. Ô-lậc-đà, phương này dịch là thảo mộc tâm. Hỷ-lậc-đà (Hrd) dịch là Tích tụ tinh yếu tâm. Hất-lị-đà-la (Hrdaya), dịch là Nhục đoàn tâm (trái tim thịt). Như kinh Huỳnh Đình Ngũ Tạng Luận nói. Kinh chính Pháp Niệm nói: Tâm như hoa sen mở khép. Đề vị nói tâm như Đế Vương, đều là nhục đoàn tâm, do sắc pháp nhiếp. Bể-la-thi (Pezi) hoặc Bế thi, dịch là nhục đoàn (cục thịt) thấy trong kinh Âm nghĩa. Chất-đa-la (Citta) hoặc chất đế, hay gọi Ba-trà, dịch là tâm. Huỳnh Đình Kinh năm Tạng luận xem là Thần. Ngoại đạo Tây Vức chấp là ngã. Phật giáo cõi này dịch là Duyên lự tâm. Đây thông tám thức nghĩa là mắt duyên sắc, cho đến thức thứ tám duyên căn thân chủng tử khí thế gian. Cho nên nói: Tập khởi để giải tâm thứ tám riêng gọi là tâm, Duyên lự để giải tâm thức chung gọi là tâm song duyên lự này cũng gọi là lự tri. Bách Pháp Luận Sớ nói: Tâm pháp có sáu nghĩa: 1- Tập khởi gọi là tâm, chỉ thuộc thức thứ tám, tập họp các chủng tử mà khởi hiện hành; 2- Tích tập gọi là tâm, thuộc bảy thức trước chuyển, hay huân tích tập các pháp chủng. Hoặc trước tập khởi thuộc bảy thức trước chuyển vì hiện hành cùng tập huân khởi chủng. Hoặc sau tích tập gọi là tâm thuộc Hàm tàng thứ tám, vì tích tập các pháp chủng. Hai giải trên tuy đều có nghĩa Năng tập Sở tập. Nay chỉ lấy Năng tập gọi là tâm, đúng lý mà suy; 3- Duyên lực gọi là tâm là chỉ hay duyên lự vơiù tự phần cảnh (cảnh của mình?); 4- Hoặc gọi là ý vì không gián cách; 6- Hoặc thức thứ tám gọi là tâm, thức thứ bảy gọi là ý. Sáu thức trước gọi là thức. Nhập Lăng Già nói: Tàng thức gọi là tâm, tính tư lương gọi là ý, hay hiểu rõ các cảnh tướng, nên gọi là thức. Song ý thức thứ sáu có đủ năm thứ: Một là Định trung độc đầu ý thức (riêng ý thức trong Định) là duyên với Định cảnh trong Định cảnh có lý có sự. Trong sự có Cực lược sắc và Cực hướng (quýnh) sắc, và Định tự tại sở sanh pháp xứ các sắc (mà sanh ra các sắc pháp xứ). Như duyên với không hoa (đốm hoa) hình ảnh nét vẽ trong gương mà sanh đều thuộc pháp xứ; ba là Độc đầu (thức) trong mộng, duyên cảnh trong mộng; bốn là minh liễu ý thức nó y vào năm căn môn cùng năm thức trước, đồng duyên với năm trần; năm là loạn ý thức là tán ý thức ở trong năm căn trên, cuồng loạn mà khởi. Như khi bị bịnh nhiệt não (nóng sốt quá) thì thấy xanh thành vàng không phải là nhãn thức thấy, đó là duyên này. Tông cảnh nói thức thứ sáu nói đủ thì có mười tên: Một là từ căn mà được tên nên gọi là thức thứ sáu; hai là hay tính toán phải quấy nên gọi là ý thức; ba là hay ứng thiếp Trần cảnh nên gọi là Phan duyên thức; bốn là hay khắp duyên năm trần nên gọi là Tuần cựu thức; năm là niệm niệm lưu tán nên gọi là Ba lãng thức; sáu là hay phân biệt cảnh trước nên gọi là phân biệt sự thức; bảy là làm hại người khác nên gọi là Nhân ngã thức; tám là nghiệp ái kéo dắt sanh (đời) nên gọi là Trụ thức; chín là Khiến chính giải chẳng sanh nên gọi là phiền não chướng thức; mười là cảm báo chung tận, tâm cảnh hai khác nên gọi Phần đoạn tử thức. Mạt-na (Manas), Duy thức dịch là Ý hoặc gọi chấp ngã, hay phân biệt. Duy Thức Tông nói: Phải gọi đầy đủ là Ngật-rị-sắc-tra-da-mạt-na, dịch là Nhiễm ô ý, tức là ngã si, ngã kiến, ngã mạn, ngã ái bốn hoặc ấy thường có nên gọi là nhiễm ô. Thường xét tư lương nên gọi là ý. Tư lư đê tám độ lượng làm ngã. Như thế tư lương (suy lường) chỉ thức thứ bảy là có còn các thức khác thì không, nên riêng gọi là y. Lại hay liễu biệt (hiểu biết phân biệt) nên gọi là Thức. Sáu thức trước từ căn mà được tên, còn thức thứ bảy này ở thể mà lập hiệu. Thức Luận tụng rằng: Thứ lớp hai năng biến, Là thức tên Mạt-na Y nó lại duyên nó, Tư lương (suy lường) là tính tướng, Bốn phiền não luôn đủ, Là ngã si, ngã kiến Cùng ngã mạn, ngã ái, Và cúc khác đều đủ, Hữu phú vô ký nhiếp (có phú thuộc vô ký). Đại Thừa Nhập Lăng Già, Ngài Đại Huệ hỏi Phật pháp rằng: Vì sao chỉ nói ý thức diệt mà không nói thức thứ bảy diệt? Phật nói này Đại Huệ vì nó làm nhân và sở duyên (chỗ được duyên) nên sanh thức thứ bảy. Này Đại Huệ, ý thức phân biệt cảnh giới, khi khởi chấp trước sinh các tập khí, nuôi lớn Tạng thức. Do đó ý cũng ngã, ngã sở. Chấp chặt suy lượng tuy chuyển không có thể tướng khác. Tạng thức là nhân, làm chỗ duyên chấp trước các cảnh giới hiện ra trong tâm mình, tâm tụ sanh khởi lần lượt làm nhân. Này Đại Huệ, ví như sóng biển tự tâm hiện ra cảnh giới gió thổi mà có khởi diệt. Thế nên ý thức diệt thì thức thứ bảy cũng diệt. Song kinh Lăng Già chỉ nói ba thức không luận thức thứ bảy là chuẩn theo văn nói không có thể tướng khác. Do đó chỉ nói hai thức thứ sáu, thứ tám. Khởi Tín Luận cũng thế. Thông Nguyên hỏi: Hiện thức thuộc thứ tám, Sự thức thuộc sáu thức (thứ sáu) trước vì sao không nói thức thứ bảy? Đáp: Thức thứ bảy gọi là Nhiễm ô ý, đương thời chấp thứ tám làm ngã, thế nên nói thức thứ tám ắt gồm cả thức thứ bảy. Cho nên Du Già Luận nói: Lại-da thức khởi ắt hai thức tương ưng. Lại sự thức khi duyên ngoại cảnh ắt y vào thức thứ bảy, thế nên vững chắc nói. Tông Cảnh hỏi: Thức thứ sáu hay đoạn hoặc mà thành vô lậu, thức thứ bảy không thể đoạn hoặc vì sao cũng thành vô lậu? Đáp: Gọi thức thứ bảy là căn sở y của thức thứ sáu, thức thứ sáu là thức năng y hay y vào thức đã thành vô lậu, thức thứ bảy sở y cũng thành vô lậu. nghĩa là thức thứ sáu khi vào Sanh - Pháp hai không thì trong thức thứ bảy đều sanh Ngã - Pháp hai chấp hiện thành bị phục, khiến chẳng khởi, nên thức thứ bảy thành vô lậu, hỏi vì sao thức thứ tám lại là hữu lậu. Đáp: Thức thứ tám là Tổng báo chủ cầm giữ giống chịu huân, nếu trong nhân liền thành vô lậu, tức tất cả tạp nhiễm chủng tử hữu lậu đều tan mất, cho nên liền tiện thành Phật đâu cần phải hai kiếp tu hành ư? Hỏi: Năm thức đã chẳng phải là Tổng báo chủ vì sao chẳng thành vô lậu. Đáp: Năm căn trước là thân tướng phần của thức thứ tám, đã là hữu lậu, thì năm can sở biến cũng hữu lậu. Năm căn là sở y mà hữu lậu thì năm thức năng y cũng thành hữu lậu. Tông Cảnh nói: Thức thứ bảy có mười tên: một là ở sau thứ sáu nên gọi là Thức thứ bảy, hai là căn trần chẳng gặp nên gọi là Chuyển thức, ba là chẳng biết tập khí bỗng nhiên niệm khởi nên gọi là Vọng tưởng thức, bốn là sanh diệt không ngớt nên gọi là Tương tục thức, năm là chướng lý chẳng sáng nên gọi là Vô minh thức, sáu là phản mê theo chính, hay đoạn bốn trụ phiền não nên gọi là Giải thức, bảy là Dữ thiệp huyền đồ (đi vào đường huyền) thuận lý sanh thiện nên gọi là Hành thức, tám là hiểu sanh tử ba cõi đều là tâm mình không có pháp ngoài nào khác nên gọi là Vô úy thức, chín là chiếu sáng rõ ràng như gương hiện các hình ảnh nên gọi là Hiện thức, mười là pháp đã vọng khởi cậy Trí làm Hoài khiến chân tính chẳng hiển nên gọi là Trí chướng thức. lại-da (Ảlaa) hoặc A-lê-da. Khởi Tín nói: Vì uy thức A-lê-da nói có vô minh bất giác mà khởi hay thấy hay hiện hay chấp lấy cảnh giới. Chân đế từ tên dịch là Vô một thức (thức không chết) lấy bất thất (không mất) làm nghĩa Trang sư dịch nghĩa là Tàng thức là hay gồm chứa chủng tử các pháp (pháp chủng). Lại thể của thức này có đủ ba nghĩa tàng là Năng tàng, Sở tàng và Chấp tàng nên gọi là tàng, nghĩa là cùng với Tạp nhiễm luôn làm duyên cho nhau. Hữu tình chấp là nội ngã của mình, lại hay liễu biệt các chủng tử, căn thân và khí thế gian ba cảnh nên gọi là tàng. Xưa giải rằng: 1/ Năng tàng, tức là nghĩa gồm chứa, cũng như kho tàng hay gồm chứa của quí, nên được tên là Tàng. Vì hay gồm chứa các tạp nhiễm chủng tử nên gọi là Tàng. Cũng nghĩa là Trì (giữ). 2/ Sở tàng tức là nghĩa chỗ nương (sở y), thức này là chỗ nương của các pháp tạp nhiễm. 3/ Chấp tàng là nghĩa giữ chặt chẳng buông, cũng như người giữ chặt kho vàng bạc, chấp làm nội ngã của mình nên gọi là Tàng. Thức này bị nhiễm Mạt-na chấp chặt làm ngã, nên gọi là Tàng. Khởi Tín Sao giải thích rằng: Năng tàng Sở tàng, lại có nghĩa Sở tàng, nghĩa là thể tàng của thức này là chỗ Sở tàng của căn thân chủng tử khí thế gian. Vì căn v.v… là tướng phần của thức này như vật ở trong kho, như thân ở trong nhà. Muốn tìm thấy thức Lại-da thì chỉ ở trong sắc tâm, cũng như muốn tìm châu ma-ni thì chỉ ở trong xanh vàng. Kế là nghĩa Năng tàng, nghĩa là căn thân v.v… các pháp đều chứa trong Thức thân, cũng như hình ảnh trong châu, muốn tìm tất cả pháp ở trong A-lại-da, cũng như muốn tìm tất cả hình ảnh đều ở trong ma-ni châu. Với nghĩa trước cùng làm Năng sở. Cho nên nói: Tự thể năng tàng ở trong các pháp, các pháp ở trong tự thể. Hoặc gọi là Trạch thức hoặc gọi là tâm, do là chỗ tích tập của các pháp huân tập chủng tử. Hoặc gọi là A-đà-na, là nắm giữ chủng tử và các sắc căn khiến không hư hoại. Tông Cảnh hỏi: Khi các căn hoại thức này dời đi bỏ thân cũ riêng thọ thân mới, thức tới lui tướng trạng như thế nào? Đáp: Trong kinh Hiển Thức nói: Phật bảo Hiền Hộ rằng: Thức vận chuyển tới lui cũng như phong đại (gió) không sắc không hình chẳng thể hiện rõ mà hay phát động vạn vật bày các hình trạng, như chấn động cây rừng, bẻ gãy phá nát gây ra những tiếng rất lớn, hoặc làm nóng làm lạnh chạm vào thân chúng sanh tạo các vui khổ. Gió không có tay chân mặt mũi hình dung cũng không trắng đen vàng đỏ các sắc. Này Hiền Hộ, thức giới cũng thế, không sắc không hình không ánh sáng hiển hiện nhân duyên sở huân, hiển bày các thứ công thù thắng. Hoặc gọi Sở tri y, tức hay cùng nhiễm y tịnh sở y các pháp làm chỗ nương (tức làm chỗ nương cho các pháp nhiễm tịnh). Hoặc gọi là chủng tử thức, vì hay khắp trụ trì (giữ gìn) các pháp chủng tử thế xuất thế gian. Duy Thức Luận nói: Tất cả chủng tử bản tính vốn có chăng từ huân sinh (huân tập sanh ra), Động Sơn sức huân tập chỉ có thể làm tăng trưởng. Như Khế Kinh nói: Tất cả hữu tình từ vô thủy đến nay có các thứ giới, như ác-xoa tụ pháp nhó mà có. Giới tức là tên khác của chủng tử, cho nên có như các thứ cây cỏ. Hộ Pháp Ý nói: Chủng tử hữu lậu vô lậu đều có Tân huân bổn hữu hợp sanh hiện hành cũng chẳng tạp loạn nếu tên huân duyên tức từ tân huân sanh, nếu bổn hữu gặp duyên tức từ bổn hữu sanh. Nhiếp Luận nói: Thức A-lại-da này cùng chủng tử như thế cộng sanh, tuy có năng y sở y mà không do thể riêng nên khác. Cho đến Năng là giả không thể, chỗ y ấy là thể có thật, giả thật hòa hợp tướng khác khó phân biệt, vì không hai thể. Thức này trước chưa có công năng, huân tập sanh sau mới có công năng, cho nên khác trước. Thức trước chỉ là quả báo không được gọi là Nhất thiết (tất cả) chủng tử, thức sau hay làm nhân tha sanh nên gọi là Nhất thiết chủng tử. Thức trước chỉ sanh tự tương tục, thức sau hay sanh tự tha tương tục cho nên hơn thức trước. Nhiếp Luận nói: Thức thứ tám từ chủng tử sanh nên gọi là Quả báo thức, hay nhiếp trì các chủng tử nên cũng gọi là Chủng tử thức. Tông Cảnh nói: Bản thức là thể, chủng tử là dụng, chủng tử là nhân, sở sanh là quả. Hỏi: Huân sanh có gì khác? Đáp: Huân là nghĩa từ huân hệ phát, sanh là nghĩa sanh khởi từ Nhân sanh ra. Gọi Bản thức v.v… tuy không có nghĩa sức tư huân hệ phát tự chúng, mà có nghĩa thân sanh tự chủng. Như Bản hữu vô lậu chủng tử tuy có công năng sanh quả, nếu chẳng được tư gia (giúp thêm) hai vị hữu lậu các thiên tư huân hệ phát thì chẳng thể sanh hiện. Lại như trong Bản thức các giống (chủng) thiện nhiễm dẫn thứ hậu tự loại chủng tử tuy có nghĩa sanh mà không có nghĩa tự huân. Như các giống lúa thóc tuy có khả năng nảy mầm nhưng nếu không được nước đất tư huân hệ phát thì cũng chẳng thể sanh ta hiện hành cũng như Bản thức tuy có khả năng sanh chủng song tự lực nó yếu, cần phải nhờ các thức sáu, bảy cùng huân mới sanh, do nghĩa đó nên Bản thức v.v… tuy không có khả năng huân mà có khả năng sanh chủng, cho nên cùng thân chủng được làm nhân duyên. Lại huân là phát, là trí (gây nên?), còn tập là sanh, là gần là số, tức phát trí giả ở trong Bản thức khiến chủng tử sanh cận sanh trưởng. Cho nên huân có hai thứ: Một là Huân tập, nghĩa là huân tâm thể thành nhiễm tịnh các việc; hai là Tự huân, nghĩa là hiện hành tâm cảnh và các hoặc tương tư (giúp nhau) v. v… Nhiếp Luận nói: Chuyển y gọi là pháp thân, do nghe huân bốn pháp mà được thanh: một là Tin ưa Đại thừa là Đại tịnh chủng tử; hai là Bát- nhã Ba-la-mật là Đại ngã chủng tử; ba là Hư không phẩm Tam-muội là Đại lạc chủng tử; bốn Đại Bi là Đại thường chủng tử. Đây nghe huân tập bốn pháp là bốn đức chủng tử. Khi bốn đức viên thì Bản thức đều hết. Bốn đức xưa nay là có, chẳng từ chủng tử sanh. Từ nhân làm tên nên gọi là chủng tử. Nhưng Thiện nhiễm như trầm xạ tỏi nén cho nên chẳng chịu huân, vô ký như lụa trắng nên hay chịu huân, như thiện chẳng chịu ác như trắng chẳng chịu đen. Như ác chẳng chịu thiện như thúi chẳng chịu thơm. Chỉ có hàm tàng của bản thức đồng với sự dung nạp rộng rãi như Thái Hư. Hoặc gọi là Dị thục thức hay dẫn nghiệp sanh tử thiện bất thiện đến quả Dị thục. Hoặc gọi là Hiện thực. Cho nên Duy Thức Luận nói: Nước của thác dữ từ trên đổ xuống, cá cỏ các vật đều theo dòng nước chẳng rời. Thức này cũng thế. Cùng với nội tập khí và ngoại xúc các pháp luôn liên tục chuyển. Ngài Thiên Thai gọi là Vô Một Thức. Hoặc gọi là Tùy Miên. Kinh Bồ-tát Xứ Thai nói: Khi ấy Thế Tôn muốn hiện bày chỗ thức đến, Đạo thức, Tục thức, Hữu vi thức, Vô vi thức, Hữu lậu thức, Vô lậu thức, Hoa thức, Quả thức, Báo thức, Vô báo thức, Thiên thức, Long thức, Quỉ thần, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma- hầu-la-già, Nhân phi nhân thức. Trên đến hai mươi tám Thiện thức, dưới đến Vô cứu địa ngục thức. Khi ấy Thế Tôn tức ở trong thai hiện cốt câu tỏa biến khắp tam thiên đại thiên thế giới v.v… Phật bảo Di-lặc rằng: Ông hãy quán câu tỏa hài cốt, khiến tất cả chúng biết chỗ đến, phân biệt quyết liễu khiến không còn nghi ngờ. Bấy giờ Di-lặc bèn từ chỗ ngồi đứng dậy tay cầm gậy thần Kim cang thất bảo kều trộn xương câu tỏa nghe có tiếng (thành tiếng) liền bạch Phật rằng: Người này khi chết đã kết nhiều giận bị đọa vào loài rồng. Kế khều trộn nữa thì bảo người này đời trước phá giới phạm luật sanh trong địa biện kế khều trộn nữa thì bảo người này đời trước làm đủ mười giới nên được sanh lên trời. Như thế mà khều trộn xương cốt, hữu lậu vô lậu, hữu vi vô vi từ trời hai mươi tám đến Vô cứu địa ngục đều biết chỗ đến của quả báo thiện ác, báo hạnh hắc bạch. Có thân xá-lợi đầy đủ không thiếu. Khi ấy Di-lặc lấy gậy khuấy trộn suy tìm thức này thì không biết chỗ đến, ba lần khuấy trộn như thế rồi bạch Phật rằng: Thần thức người này thật không thể biết, không phải là thân Như Lai sắp nhập Niết-bàn ư? Phật bảo Di- lặc rằng: Ông sẽ nôi ngôi vị Phật ở đời đương lai, sẽ được làm Phật thành Vô thượng đạo, sao khuấy trộn xá-lợi mà không biết chỗ, Di-lặc bạch Phật rằng: Phật bất tư nghì chẳng thể hạn lượng, không phải sức con lường biết được nay còn hồ nghi. Cúi mong Thế Tôn giải nói. Thần thức cả năm đạo đều biết hết cõi Thiện Ác, chẳng có nghi ngờ. Nay xá- lợi này ở chỗ Như Lai không hề thiết sót, xin nói thức này khiến chúng con được biết. Phật bảo xá-lợi chư Phật quá khứ hiện tại vị lai bày khắp không phải sức các ông phân biệt được. Lại thức A-lại-da từ vô thủy đến nay luôn cùng năm tâm sở tương ưng, nó thuộc Biến Hành Tâm Sở: Một là Tác ý, Luận rằng: Tác ý tức là hay cảnh tâm làm tính, với cảnh Sở duyên dẫn tâm làm nghiệp; hai là Xúc, Luận rằng: Xúc là ba hòa phân biệt biến dị, khiến tâm, tâm sở chạm (xúc) cảnh làm tính. Thọ - Tưởng - Tư v.v… sở y làm nghiệp; ba là Thọ, Luận rằng: Thọ là lãnh nạp, cảnh tướng Trái - Thuận. Đều không phải vô ký, làm tính khởi ái làm nghiệp; bốn là Tưởng, Luận rằng: Là đối với cảnh lấy tượng làm tính, bày ra các thứ danh ngôn (tên gọi) làm nghiệp, nên phải an lập cảnh tướng phân tề (rõ ràng) mới có thể tùy khởi các thứ danh ngôn (tên gọi); năm là Tư, Luận rằng: Tư nghĩa là khiến tâm tạo tác làm tính, ở Thiện Phẩm thì dịch tâm làm nghiệp, nghĩa là hay lấy cảnh chính chân v.v… các tướng mà khu dịch tự tâm khiến tạo các thiện. Tông Cảnh hỏi: Trong một trăm pháp, phàm thánh đều có đủ chăng? Đáp: Nếu ở vị phàm phu, ước chung ba cõi chín địa chủng tử thì đều đủ một trăm pháp. Còn ở quả vị chư Phật thì chỉ đủ sáu mươi sáu pháp mà trừ bớt ba mươi bốn pháp là sáu căn bản phiền não, hai mươi tùy phiền não, bốn thứ bất tịnh và bốn bất tương ưng hành. Tông cảnh nói: Thức thứ tám có mười tên: Một là đứng sau thức thứ bảy nên được gọi là Thức thứ tám; hai là chân ngụy xen tạp nên gọi là Hòa hợp thức; ba là chứa nhóm các pháp nên gọi là Tàng thức; bốn là trụ trì khởi phát nên gọi là Huân biến thức; năm là phàm thành thánh nên gọi là Xuất sanh thức; sáu là tàng thể không dứt nên gọi là Kim cang trí thức; bảy là thể không tịch loạn nên gọi là Tịch diệt thức; tám là trung thực chẳng giả nên gọi là Thể thức; chín là tạng thể chẳng mê nên gọi là Bản giác thức; mười là công đức viên mãn nên gọi là Nhất thiết chủng trí thức. Thức này kiến (lập ra) lập hữu tình vô tình, phát sanh nhiễm pháp tịnh pháp. Nếu có tri có giác thì khởi ra chúng sanh giới, nếu không tưởng không lự cõi nước duyên sanh. Nhân nhiễm pháp mà sáu thú xoay vần (quanh quẩn), theo Tịnh pháp mà bốn Thánh lên xuống. Có thể gọi là gốc của phàm thánh, nguồn cội của căn khí. Hiểu rõ Thức nguyên này thì pháp nào chẳng ngộ, chứng tâm tính này thì cảnh nào chẳng chân. Có thể gọi là môn Tuyệt học, nhà Thê thần. Lại nói: Bản thức thứ tám là một tâm chân như rộng lớn vô biên, thể tính vi tế. Hiển tâm nguyên mà không ngoài, bảo tàng tính mà gồm thông, chuyên danh trì chủng, làm chủ Tổng báo, tạo thể hữu tình, lập nhân Niết-bàn. Ở Sơ vị mà gọi (tên) chung Lại-da, ở quả vị mà chỉ gọi vô cấu. Làm đủ Trí Địa Bản Hậu, thành tựu lợi môn Tự tha. Tùy có chấp hay không chấp mà lập nhiều tên, cứ vào nhiễm duyên Tịnh duyên mà làm các thể. Gồm tất cả mà như Thái Hư bao nạp, hiện vạn pháp mà giống đại địa phát sanh, thì pháp nào chẳng thâu, không môn nào chẳng vào. Chỉ vì mê hiểu một chân mà làm quán thứ hai. Nhân ở tâm hiểu rõ giác minh mà phát khởi tướng trần lao trong ngoài ở một viên trạm tách ra căn trần, nhóm bốn đại bên trong làm thân, phân bốn đại bên ngoài làm cảnh. Trong lấy thức tinh làm cấu, ngoài nhân tưởng tướng thành trần. Không niệm mà cảnh quán nhất như có tưởng mà chân thành muôn khác. Nếu hay tâm dung pháp giới cảnh rỗng chân không, thì màng huyễn toàn tiêu một đạo sáng hiện. Có thể gọi là Liêt mê đồ chi trí võng, tụ giác hộ chi trùng quan, tỉnh hôn mộng mà Đại giác thường sáng, hết cuồng tính mà Bản hiển tự hiện. A-đà-na (Adàna), dịch nghĩa là chấp trì (nắm giữ), tức hay nắm giữ các chủng tử căn thân sanh tương tục (nghĩa nối tiếp). Chấp trì có ba: Một là chấp trì căn thân khiến chẳng hư rả; hai chấp trì chủng tử khiến không tan mất; ba là chấp lấy kiết (kết) sanh nghĩa tương tục (nối tiếp), tức hữu tình có thân đến vị cuối. Thức thứ tám ở niệm đầu tiên thọ sanh có nghĩa chấp thủ kiết sanh nối tiếp. Kiết (kết) là trói cột là thuộc. Ở trong bụng mẹ một niệm thọ sanh liền, hệ thuộc vào nócũng như đá nam châm hút sắt sắt như hai điểm (giọt) tinh huyết của cha mẹ. Thức thứ tám như đá nam châm, trong một sát-na liền hút lấy mà trụ (ở), đồng thời các thứ căn trần từ trong thức mình cũng sanh hiện hành (hoạt động) nên gọi là chấp thủ kiết sanh. Nên kinh Lăng Già nói: Đà-na-vi- tế thức, Tập khí như thác dữ, chân chẳng chân, sợ mê, ta thường chẳng diễn nói. Kinh Giải Thâm Mật nói: Đó gọi là thức thứ chín, chính là riêng lấy Tịnh phần của thức thứ tám mà nói. Cho nên Nhiếp Luận nói: Thế Tôn nói pháp phàm có ba thứ: Một là Nhiễm ô phần; hai là Thanh tịnh phần; ba là Nhiễm ô thanh tịnh phần. Ví như khi vòng trong đất có ba: Một là địa giới, hai là vàng, ba là lớp đất. Địa ví như Y tha tính có đủ nhiễm tịnh hai phần tức là thức thứ tám. Đất là ví cho phân biệt tính là sanh tử nhiễm phần, đây là thức thứ bảy. Còn vàng ví cho chân thật tính là Niết-bàn tịnh phần, đây là thức thứ chín vậy. Tông Cảnh nói: Phân biệt các thức khai họp chẳng đồng đều y vào thể và dụng. Nếu ước về Thể thi không sai mà sai vì thể toàn dụng chẳng ngại dụng. Nếu ước về dụng thì sai mà không sai vì dụng toàn thể chẳng mất thể. Như nêu biển thành sóng thì mất biển, nêu sóng thành biển thì không ngại sóng. Chẳng có chẳng không mới tột thức tanh, chẳng một chẳng khác mới là rốt tâm nguyên. Cổ Đức nói Ước các thức môn tuy một nhiều bất định, vì đều là thể dụng duyên khởi gốc ngọn thâu (gồm) nhau. Gốc là chín thức ngọn là năm thức. Tứ gốc hướng ngọn thì tịch mà thường dụng. Từ ngọn hước gốc thì dụng mà thường tịch. Vì tịch mà thường dụng, cho nên tịnh mà chẳng kiết (kết), vì dụng mà thường tịch, cho nên Động mà chẳng loạn. Tịnh mà chẳng kiết (kết) cho nên chân như là duyên khởi. Động mà chẳng loạn cho nên duyên khởi là chân như. Chân như là duyên khởi cho nên không Niết-bàn không sanh tử, tức tám, chín là sáu, bảy. Duyên khởi là chân như cho nên chẳng sanh tử chẳng Niết-bàn, tức sáu, bảy là tám, chín. Không sanh tử chẳng Niết-bàn cho nên pháp giới đều là sanh tử, không sanh tử chẳng Niết-bàn cho nên pháp giới đều là Niết-bàn vì pháp giới đều là Niết-bàn nên sanh tử chẳng tạp loạn. Vì pháp giới đều là sanh tử nên Niết-bàn chẳng tịch tịnh. Sanh tử không tạp loạn nên chúng sanh tức là Phật, Niết-bàn không tịch tịnh nên Phật tức là chúng sinh. Vì pháp giới trái, cho nên nói Niết-bàn là sanh tử, tức lý tùy tình dụng vì pháp giới thuận, cho nên nói sanh tử là Niết-bàn, tức tình tùy lý dụng như đây mà nói thì tình chẳng ngoài lý, lý chẳng ngoài tình. Vì tình chẳng ngoài lý do đó tức thật nói sáu, bảy là tám, chín. Thật đó là thể. Vì lý chẳng ngoài tình do đó tức giả nói tám, chín là sáu, bảy, giả đó tức là dụng. Vì giả - thật vô ngại, cho nên nhân - pháp đều không. Vì thể dụng vô ngại, cho nên không chẳng thể không. Vì nhân pháp đều không cho nên tuyệt đối đãi. Vì không chẳng thể không nên nói là diệu dụng. Như đây mà nói cũng là nói bài tình. Luận về chí thật là chẳng thể dùng danh tướng mà được. Chí cực là chẳng dùng hai đế mà biện. Vì chẳng thể dùng danh tướng mà được nên không phải ngôn tượng mà nói được. Vì chẳng thể dùng hai đế mà biện được nên không phải có không mà nói được. Nên nói là chí lý cô ngôn (không nói năng) Hiền thánh yên lặng. Chính có thể lấy thần mà hiểu không thể lấy tâm mà cầu. Hỏi: Một tâm trạm tịch vì sao lại khởi các sóng thức? Đáp: Chỉ vì bất giác bỗng nhiên sanh. Khởi Tín Luận nói: Vì chẳng như thật biết pháp chân như là một nên bất giác tâm khởi. Ma-ha-diễn luận rằng: Tức là hiển bày căn bản của nhân duyên khởi bất giác. Căn bản bất giác vì nhân duyên vì được khởi mà có? Nhân vi bất như nên được khởi mà có. Trong những pháp nào mà bất như, tức trong ba pháp mà bất như. Nói bất như là có nghĩa gì, nghĩa là trái nghịch. Thế nào là ba pháp? Một là Thật tư pháp, hai là Chân như pháp, ba là Một tâm pháp. Đó gọi là ba pháp: Pháp thật tri, nghĩa là tất cả giác tức trí năng đạt. Pháp chân như, nghĩa là bình đẳng lý tức cảnh sở đạt. Pháp một tâm nghĩa là một pháp giới tức thể sở y. Vì đối với ba pháp này đều trai nghịch, vô minh vốn khởi thế nên nói năng, nghĩa là chẳng như thật biết chân như pháp một nên bất giác tâm khởi. Ba pháp ấy đều giữ một, vì giữa cuối chẳng lìa nên chung gọi là một. Lại Khởi Tín Luận nói: Vì sức huân của vô minh mà bất giác tâm động đầu tiên thành nghiệp ấy. Nhân đây nghiệp thức lại sanh chuyển thức v.v… Luận Thích nói: Bất giác (chẳng biết) đầu tiên gọi là nghiệp tướng thứ nhất Năng kiến Sở kiến không có sai khác. Tâm vương niệm pháp chẳng thể phân tách. Chỉ có nghĩa Tinh cần ẩn lưu nên gọi là nghiệp, như thế mà lưu động chỉ bày bất giác. Thứ hai là chuyển tướng, vi nghiệp tướng niệm làm sở y, cho nên chuyển làm Năng duyên lưu thành liễu tướng. Thứ ba là Hiện tướng, vì liễu biệt chuyển làm sở y, cảnh giới Hý Luận đầy đủ, hiện tiển sở duyên tương phân viên mãn an bố. Y kiên phân này mà hiện tướng phần kia. Lại động tướng, thì động là nghiệp thức, lý rất vi tế, nghĩa là tâm bản giác nhân gió vô minh mà cả thể vi động (động nhẹ). Tướng của vi động chưa thể ngoài duyên tức là bất giác nghĩa là từ bản giác mà có bất giác sanh, tức là nghiệp tướng. Như sóng nhỏ của biển là từ yên lặng động nhẹ, mà chưa từng từ đây chuyển dời bản xứ (chỗ cũ). Tướng chuyển là nhờ sức vô minh giúp cho tướng nghiệp chuyển thành năng duyên có dụng năng kiến hướng ra bề mặt mà khởi, liền gọi là tướng chuyển. Tuy có tướng chuyển mà chưa thể hiện năm trần là cảnh tướng sở duyên như sóng biển nhờ sức gió gồm giúp động nhẹ, từ đây vỗ sóng chuyển dời mà khởi. Tướng hiện là từ tướng chuyển mà thành tướng hiện mới có sắc trần núi sông đất đai khí thế giới thực hành. Kinh Lăng-già nói Đại Tuệ bạch Phật rằng: Thưa Thế Tôn, các thức có mấy thứ sanh trụ diệt? Phật bảo Đại Tuệ rằng: Thức có hai thứ sanh trụ diệt không phải suy lường mà biết được, đó là Lưu chú sanh trụ diệt và Tướng sanh trụ diệt. Chỉ từ thức thức tám, ba tướng vi ẩn chủng hiện chẳng dứt nên gọi là Lưu chú. Do duyên vô minh đầu tiên khởi nghiệp thức, nên nói là sanh. Tiếp nối nhiều kiếp nên nói là trụ. Đến định kim cương đẳng giác một niệm đoạn dứt vô minh, nên gọi là Lưu chú diệt. Tướng sanh trụ diệt, nghĩa là bảy thức kia tâm cảnh thô hiển nên gọi là Tướng. Tuy bảy duyên tám vọng sáu là tế mà có đủ cả bốn hoặc, nên gọi là thô. Y hiện thức kia tự chủng các cảnh duyên họp sanh bảy nên nói là tướng sanh, nhiều kiếp huân tập nên nói là tướng trụ. Từ ngọn đến gốc tiềm phục và đoạn dứt đến bảy địa mãn, nên gọi là tướng diệt. Y vào sanh diệt trước mà lập mê ngộ, y, y vào sanh diệt sau mà lập nhiễm tịnh y. Trước dài sau ngắn sự phân hai khác tức là Lưu chú sanh trụ diệt và Tướng sanh trụ diệt. Kinh Nhân Vương Bát-nhã nói: Song các hữu tình ở nhiều kiếp lâu xa, ở một sát-na đầu thức khác gỗ đá mà sanh nhiễm tịnh, đều tự làm ra vô lượng vô số nhiễm tịnh thức bản từ sát-na đầu trải qua bất khả thuyết kiếp cho đến một sát-na kim cương cuối thì có bất khả thuyết bất khả thuết thức, sanh hai pháp sắc tâm của các hữu tình. Sắc gọi là sắc uẩn, tâm là bốn uẩn kia. Tông Cảnh dẫn cổ (xưa) giải thích rằng: Ở sát-na đầu sắc khác gỗ đá, nghĩa là vì một niệm thức có giác thọ. Khác với gỗ đá, tức hiển trong một niệm trước có mạt tâm (mạt-na thức?) thấy rõ trắng đen hai uế, tức đồng với chủng loại gỗ đá ngoại khí. Khi thức này sanh thì nắm nó làm thân cho nên khác gỗ đá. Hỏi: Đã không phải vô thủy xa xôi, vì sao gọi là Sơ thức? Đáp: Quá khứ, vị lai không có thể, sát-na huân tập nên chỉ thuộc hiện tại. Khi hiện tại chính khởi vọng niệm thì vọng niệm trái chân nên gọi là Sơ thức, không phải là quá khứ có thức khởi đầu tiên, nên gọi là Sưo thức. Cho nên biết Hoành là bao gồm không gian và thụ là thông suốt thời gian đều là tức một tâm hiện tại này mà không có lý nào khác. Đạo Khế Kinh nói: Văn-thù-sư-lợi bạch Phật rằng: Thưa Thế Tôn, thức A-lại-da đủ tất cả pháp nhiều như Hằng sa, như thế các pháp lấy gì làm gốc, sanh ở chỗ nào? Phật nói: Tất cả các pháp hữu vi vô vi sanh chỗ không phải hữu vi không phải vô vi thì pháp hữu vi và vô vi ấy mới có thể sanh. Văn-thù lại bạch Phật rằng: Thưa Thế Tôn, thế nào là chỗ không phải hữu vi không phải vô vi? Phật bảo: Chỗ không phải hữu vi không phải vô vi, nghĩa là một pháp bản tâm vì không phải hữu vi nên hay làm hữu vi, vì không phải vô vi nên hay làm vô vi. Thế nên ta nói sanh chỗ thù thắng chẳng thể nghó bàn. Lại nói: Phải phân làm hai môn mà nói cho rõ ràng: một là Hạ chuyển môn, hai là Thượng chuyển môn. Trong môn sanh diệt chẳng ngoài hai thứ này. Như thế hai môn này khác nhau thế nào? Tụng nói: Các nhiễm pháp có sức, Các tịnh pháp không sức, Ngược gốc chuyển hạ hạ (chuyển không thấp) Gọi là Hạ chuyển môn. Các tịnh pháp có sức, Các nhiễm pháp không sức, Hướng nguồn thượng thượng chuyển (chuyển lên cao) Gọi là Thượng chuyển môn. Thức Luận nói: Vì sao nên biết ý thức sở biến nhờ nói ngã pháp không phải thật có, do đây tất cả chỉ có chỉ thức chăng? Tụng rằng: Các thức ấy chuyển biến, Phân biệt sở phân biệt, Do đây kia đều không, Nên tất cả chỉ thức. Lại các thầy chỗ nói, chung có bốn phần nghĩa: một là Tướng phần, hai là Kiến phần. Duy Thức Luận rằng: Ở Sở duyên mà có dụng liễu biệt, ba là Tự chứng phần, nghĩa là hay thân chứng tự kiến phần và hay duyên với tướng phần không nhầm lẫn vì hay làm chứng, bốn là Chứng trị chứng phần, nghĩa là hay thân chứng tự chứng phấn thứ ba mà duyên với kiến phần không nhầm lẫn từ chỗ chứng mà được tên. Đó là nghĩa bốn phần. Gương như tự chứng phần, gương sáng như kiến phần, ảnh trong gương như tướng phần, gương hậu (??) như chứng tự chứng phần. Bốn phần này có bốn sư lập nghĩa: Một là An Tuệ Bồ-tát lập Nhất phần tự chứng phần. Duy Thức Luận nói: Tự chứng phần này từ Sở duyên sanh vì là y tha khởi nên nói là có. Kiến tướng hai phần chẳng từ duyên sanh, nhân biến kế tâm vọng chấp mà có như thế hai phần là tình có mà lý không, chỉ tự chứng phần là tính y tha khởi, có chủng tử sanh là thật có. Kiến tướng hai phần là không, lại biến khởi ngã pháp hai chấp. Lại là không vì không giống không. Nếu chuẩn theo Hộ Pháp Bồ-tát thì vì hữu giống vô nên kiến tướng hai phần là hữu thể, biến khởi ngã pháp hai chấp là vô thể. Nên An Tuệ dẫn Lăng-già nói rằng: Ba cõi hữu lậu, tâm và tâm sở đều là hư vọng phân biệt làm tự tính. Cho nên biết tám thức kiến tướng hai phần đều là biến kế vọng chấp mà có. Chỉ có tự chứng phần là tính y tha khởi là thật có. Hai là Nan-đà Luận Sư lập hai phần. Thành Duy Thức trowsc nêu: Tông là tất cả tâm sanh đều có kiến tướng hai phần. Kiến tướng hai phần là Năng sở hai duyên. Nếu vô tướng phần kéo tâm thì tâm pháp không do đâu mà được sanh. Nếu không có Năng duyên kiến phần thì ai biết có Sở duyên tướng phần, tức có cảnh có tâm v.v… mà thành duy thức. Kiến phần là Năng kiến, tướng phần là Sở biến, Năng sở được thành cần đủ hai phần. Kiến phần tướng phần là tính y tha khởi. Có lúc duyên với độc ảnh cảnh tức đồng chủng sanh, có lúc duyên với đới chất cảnh tức là biệt chủng sanh. Cho nên không phải là Biến kế. Nếu bất hứa thì chư Phật chẳng ứng hiện thân độ v.v… các thứ ảnh tượng. Ba là Trần-na Bồ-tát lập ba phần. An Tuệ lập một phần chỉ có thể mà không có dụng. Nan-đà lập kiến tướng hai phần chỉ có dụng mà không có thể đều hỗ bất tác. Lập lý, nghĩa là nghĩa lượng quả. Luận nói: Năng lượng và Sở lượng vì lượng quả riêng khác nên tướng - kiến ắt có thể sở y. Tướng phần là Sở lượng, kiến phần là năng lượng tức cần tự chứng phần làm chứng là lượng quả. Dụ như đo lụa, lụa là sở lượng (đo), người và thước là năng lượng (đo), trí ghi số đo gọi là lượng quả. Nay kiến phần duyên với tướng phần chẳng nhầm lẫn, đều do tự chứng phần làm quả. Nay kiến phần của nhãn thức khi duyên với xanh thì nhất không duyên với vàng. Như kiến phần duyên không từng thấy cảnh bỗng nhiên duyên cảnh vàng thì nhất định không duyên với cảnh xanh. Nếu không có tự chứng phần thì kiến phần chẳng thể tự ghi nhớ, cho nên biết phải lập ba phần. Nếu không có tự chứng phần thì kiến phần cũng không. Nếu nói có hai phần thì nhất định phải có tự chứng phần tập luận. Luận tụng rằng: Tự cảnh tướng sở lượng, năng thủ (hay lấy) tướng tự chứng. Giải thích rằng: Tợ cảnh tướng sở lượng, tức là tướng phần giống ngoại cảnh hiện. Năng thủ tướng tự chứng, tức là kiến phần hay lấy tướng phần, nên tự chứng là thể. Bốn là Hô Pháp Bồ-tát lập bốn phần. Lập tông, tức là tâm. Tâm sở nếu phân biệt kỹ thì có bốn phần. Lập lý, nếu không có phần thứ tư thì đem pháp nào để cùng với phần ba làm lượng quả. Trần-na của ông lập ba phần, là kiến phần có dụng năng lượng biết rõ cảnh tức đem tự chứng phần làm lượng quả, tự chứng phần của ông cũng có năng lượng chiếu cảnh, thì đem pháp nào cùng năng lượng tự chứng phần làm lượng quả. Tức phải đem chứng tự chứng phần thứ tư làm lượng quả của phần thứ ba. Dẫn Mật Nghiêm Kinh nói: chúng sinh tâm hai tính, trong ngoài tất cả phần, Sở thủ - Năng thủ cột, kiến (thấy) các thứ sai khác. Phàm là lượng quả cần phải hiện lượng mới là lượng quả, năm thức trước cùng kiến phần của thức thứ tám tuy là hiện lượng nhưng vì là ngoại duyên nên không phải lượng quả. Là lượng quả thì phải đủ hai nghĩa: một là hiện lượng, hai là nội duyên. Lại trong quả sau được kiến phần tuy là hiện lượng. Nội duyên thời biến ảnh duyên nên không phải là lượng quả, tức là tâm thể ấy phải đầy đủ bốn nghĩa: một là hiện lượng, hai là nội duyên, ba là bất biến ảnh, bốn là tâm thể, thì mới là lượng quả. Hỏi: Bốn phần lấy gì thể tính? Đáp: Tướng phần của Sở biến sắc tâm làm thể tính. Nếu nội ba phần tức dùng hiện hành tâm sở làm thể. Tông Cảnh hỏi: Chưa có cảnh không tâm, từng có tâm không cảnh. Phàm thánh luận chung đều có mấy cảnh? Đáp: Đại ước có ba cảnh. Tụng rằng: tính cảnh chẳng tùy tâm, Độc ảnh chỉ từ kiến, Đới chất thông tình bổn, tính chủng đều tùy ứng. Lại rộng giải thích rằng: tính cảnh là hữu thể thật tướng phần gọi là tính cảnh, tức năm thức trước và tâm vương thức thứ tám đều là hiện lượng thức thứ sáu sở duyên các thật sắc được tự tướng cảnh chẳng đeo danh ngôn không tâm trù độ, cảnh này mới gọi là tính cảnh, và khi căn bản trí duyên với chân như thì cũng là tính cảnh, vì không phân biệt nhậm vận (mặc tình? ) mà chuyển. Nói chẳng tùy tâm, là đều có năm thứ Bất tùy: Một là tính bất tùy, là kiến phần năng duyên ấy thông cả ba tính, còn cảnh tướng phần sở duyên chỉ là tính vô kỳ, tức bất tùy năng duyên kiến phần thông cả ba tính. Hai là Chủng bất tùy, tức kiến phần từ tự kiến phần chủng sanh, tướng phần từ tự tướng phần chủng sanh, mà chẳng tùy năng duyên kiến phần tâm chủng sanh, nên gọi là Chủng bất tùy. Ba là Giới hệ bất tùy, là như minh liễu ý thức khi duyên với cảnh của hương, vị thì hương vị hai cảnh ấy chỉ với Dục giới hệ mà không tùy theo minh liễu ý thức thông với thượng giới hệ. Lại như Dục giới thứ tám duyên với chủng tử cảnh thì năng duyên thứ tám chỉ Dục giới hệ, còn sở duyên chủng tử hai thì lại thông ba cõi, tức hai thức thứ sáu, thứ tám có giới hệ bất tùy. Bốn là Ba khoa bất tùy, lại là năm uẩn bất tùy, tức như kiến phần của năm thức là thức chủng gồm thâu, tướng phần của năm trần, tức sắc uẩn gồm nhiếp, ấy là Uẩn khoa bất tùy. Mười hai xứ bất tùy, tức kiến phần của năm thức là ý xứ thâu (là thụoc ý thức), còn tướng phần của năm trần là năm cảnh xứ nhiếp (là thuộc năm cảnh), ấy là xứ khoa bất tùy. Mười tám giới bất tùy, là kiến phần của năm thức là năm thức giới thâu, tướng phần của năm trần là năm cảnh giới nhiếp, đây là ba khoa bất tùy. Năm là Dị thục bất tùy, tức như kiến phần thức thứ tám là tính Dị thục, tướng phần năm trần sở duyên không phải tính Dị thục thì gọi là Dị thục bất tùy. Độc ảnh cảnh, nghĩa là tướng phần cùng kiến phần đồng chủng sanh nên gọi độc ảnh, chỉ từ kiến tức như thức thứ sáu duyên với không hoa sừng thỏ quá vị cập biến ảnh duyên vô vi cùng duyên địa giới pháp, hoặc duyên với giả định quả cực hướng cực lược v.v… đều là ảnh tượng giả. Đây chỉ theo kiến phần biến sanh, tự không có thứ ấy nên nói chỉ tùy kiến. Độc ảnh có hai thứ: một là vô chất độc ảnh tức là thức thứ sáu duyên với không hoa sừng thỏ cập quá vị v.v… tướng phần sở biến, thì tướng phần ấy cùng kiến phần thứ sáu đồng chủng sanh, chẳng có không hoa chất v.v…; hai là hữu chất độc ảnh, tức là thức thứ sáu duyên với năm căn chủng hiện ấy đều mượn chất mà khởi, cho nên tướng phần ấy cũng cùng với kiến phần đồng chủng mà sanh, cũng gọi là độc ảnh cảnh; ba là đới chất, tức tâm duyên tâm là đó. Như thức thứ bảy duyên với kiến phần cảnh của thức thứ tám, ta phần ấy không có biệt chủng sanh, một nửa cùng bản chất đồng chủng sanh. Từ bản chất sanh tức tính vô phú, còn từ năng duyên kiến phần sanh thì tức tính hữu phú, vì hai đầu nhiếp bất định nên gọi thông tình bản. Chất tức năng duyên kiến phần thức thứ bảy, bản tức sở duyên kiến phần thức thứ tám. Lại dùng bốn cú phân biệt: một là chỉ biệt chủng chẳng phải đồng chủng, tức là tính cảnh, hai là đồng chủng không phải biệt chủng, tức là độc ảnh cảnh, ba là đều là, tức đới chất cảnh, bốn là chẳng phải, tức bản trí duyên như, vì chân như chẳng từ kiến phần chủng sanh nên gọi là phi đồng chủng. Lại chân như đương thể là vô vi, chỉ nhân chứng mà hiển được, không phải là sanh nhân pháp sở sanh nên gọi là phi biệt chủng. tính chủng v.v… tùy ứng, tính tức là tính cảnh, chủng là chủng loại, nghĩa là đối trong ba cảnh đều có chủng loại chẳng đồng. Nay đều phải tùy ứng mà nói. Lại ước tám thức phân biệt, là chuyển năm thức trước trong mọi lúc đều chỉ tính cảnh, không chọn hổ dụng hay không hổ dụng, trong hai thứ biến chỉ là nhân duyên biến. Lại vì cùng năm căn đồng cảnh nên ý thức thứ sáu có bốn loại: Một là minh liễu ý thức cũng thông ba cảnh, cùng năm đồng duyên thật năm trần. Trước suất (noi theo?) trong tâm này là tính cảnh, nếu lấy hậu niệm mà duyên với năm trần thương phương viên trường đoản v.v… giả sắc, tức là hữu chất độc ảnh, cũng gọi là tợ đới chất cảnh. Hai là tám vị độc đầu ý thức, thì cũng thông ba cảnh, phần nhiều là độc ảnh thông duyên với pháp có chất hay không chất ba đời. Nếu khi duyên với tự thân hiện hành tâm, tâm sở thì là đới chất cảnh. Nếu duyên với tự thân năm căn và duyên với tâm, tâm sở của người khác thì là độc ảnh cảnh, cũng gọi là tựo đới chất cảnh. Lại độc đầu ý thức, sát-na đầu duyên với năm trần, thiểu phần duyên với thật sắc thì cũng gọi là tính cảnh. Ba là ý thức trong định, thì cũng thông ba cảnh, thông duyên với pháp có chất hay không chất ở ba đời, là độc ảnh cảnh. Lại bảy địa trở về trước hữu lậu định vị cũng hay dẫn khởi năm thức vì duyên năm trần, tức là tính cảnh. Bốn là ý thức trong mộng, thì chỉ là độc ảnh cảnh. Thức thứ bảy chỉ là đới chất cảnh, thức thứ tám tâm vương chỉ là tính cảnh, vì nhân duyên biến nên tương ưng với tác ý v.v… năm tâm sở, là tợ đới chất chân độc ảnh cảnh. Hỏi: Ba cảnh lấy gì làm thể? Đáp: 1- tính cảnh dùng thật năm trần làm thể, đủ tám pháp mà thành. tám pháp, tức là bốn đại: Địa, thủy, hỏa, phong và bốn vi: Sắc, hương, vị, xúc. Đây là ước hữu vi mà nói. Nếu năng duyên vị hữu lậu thì trừ thức thứ bảy, còn bảy thức kia đều dùng tâm, tâm sở của mình làm thể, là độc ảnh cảnh thứ hai. Đem kiến phần giả biến của thức thứ sáu mượn tướng phân làm thể, năng duyên tức tâm, tâm sở của mình làm thể. Đới chất thứ ba tức biến khởi trung gian mượn tướng phần làm thể. Nếu năng duyên trong vị Hữu lậu thì chỉ tâm, tâm sở của hai thức sáu, bảy làm thể. Nhiếp Luận nói: Viễn hành và độc hành không có thân ngủ ở trong hang mà điều phục tâm khó điều, đó gọi là Chân Phạm chí. Bách pháp giải thích rằng: Như Lai y ý căn xứ mà nói viễn hành và độc hành. Tùy ý thức vô minh mà khắp duyên tất cả cảnh nên gọi là viễn hành (đi xa). Lại các tâm nối tiếp mỗi mỗi chuyển không có thật chủ tể nên gọi là độc hành (đi một mình). Không có thân, tức là tâm không hình chất. Ngủ trong hang tức là nương nhờ các căn ngầm chuyển trong thân nên gọi là ngũ trong hang. Ngủ là giấu, chứa. Tức tâm chứa ở trong thân. Ý kệ này là phá ngoại đạo chấp có thật ngã. Thế Tôn nói: Chỉ là tâm độc hành không có chủ tể khác, cho nên nói độc hành. Lại từ vô thủy trải qua cảnh sáu trần nên gọi là viễn hành. Am-ma-la (Amala), dịch là Thanh tịnh thức. Ngài Tăng Độn Chú Kinh Kim Cang Tam-muội gọi là Bạch tịnh vô cấu thức kinh ấy Phật nói: Chư Phật Như Lai thường lấy một giác mà chuyển các thức vào Am-ma-la. Vì sao thế, vì tất cả chúng sinh bản giác thường dùng một giác để giác ngộ các chúng sanh khiến chúng sanh ấy đều được bản giác mà giác các tình thức không tịch vô sanh. Vì sao thế, vì quyết định bản tính vốn không động. Huân Văn nói: Thiên Thai y nhiếp Đại thừa nói Am-ma-la gọi là Vô phân biệt trí quang, tức là tịnh thức thứ chín vậy. Song theo lời các luận nói thì thức thứ tám nếu đến ngã kiến vónh viễn chẳng khởi vị tức bỏ tên Lê-da, riêng được gọi là thanh tịnh, thì quả vị đó gọi là Am-ma-la. Ngài Thiên Thai y nhiếp Đại thừa mà lấy tên thức thứ chín, là chẳng phải không sâu xa. Đây là y theo Nhiếp Luận Bản Lương của ngài Chân Đế dịch. Phụ Hành nói: Chân Đế Tam tạng nói: A-đà-na bảy thức đây gọi là chấp ngã thức. Đây tức hoặc tính thể tức nhân duyên. A-lại-da tám thức, đây gọi là tàng thức. Vì hay giữ gìn trí chủng chẳng mất, thể là vô một vô minh tính vô minh, tính là liễu nhân. Am-ma-la thức thứ chín gọi là thanh tịnh thức, tức là chính chân. Đường Tam Tạng chẳng chịu thức này bảo rằng: Thức thứ chín là tên khác của thức thứ tám. Cho nên Nhiếp Luận bản mới dịch không giữ tên thức thứ chín. Trong Địa Luận cũng không có thức thứ chín, chỉ lấy thức thứ tám đối với chính nhân, thức thứ bảy đối với liễu nhân, thức thứ sáu đối với duyên nhân. Nay y theo ngài Chân Đế mà họp hai thức sáu, bảy gọi là duyên nhân. Vì trong thức thứ sáu là sự thiện ác cũng là hoặc tính, giao giải thích nghĩa thức không phải chỗ luận này. Chỉ vì thể tính ba thức đối với ba đức ba nhân ở lý tức đủ. Luận gia tuy dịch thức là trí mà chẳng tức chiếu ba thức một tâm tức là một tâm ba trí đầy đủ. Quang Minh Huyền nói: Am-ma-la thức là thức thứ chín bất động, nếu phân biệt thì tức là Phật thức. A-lại-da thức tức là vô một thức thứ tám, cũng có tùy miên phiền não cùng vô minh họp, phân biệt ra thì đó là Bồ-tát thức. Đại Luận nói: Ở tâm Bồ-tát thì gọi là Bát-nhã (trí) tức cùng nghĩa vậy. A-đà-na là phân biệt thức thứ bảy, chê ác sanh tử, ham tốt Niết- bàn, nếu phân biệt là Nhị thừa thức. Ở Phật tức là phương tiện trí. Sóng nước là phàm phu thức thứ sáu không đợi phải nói. Tông Cảnh nói mười tên của thức thứ chín: một là tự thể không nên gọi là Chân thức, hai là thể chẳng có không nên gọi là Vô tướng thức, ba là quỷ dụng chẳng đổi nên gọi là Pháp tính thức, bốn là chân giác thường còn chẳng phải ẩn hiển nên gọi là tính chân thức, năm là tính dứt hư giả nên gọi là Thật tế thức, sáu là đại dụng vô phương (vô biên) nên gọi là Pháp thân, bảy là tùy lưu (theo dòng?) chẳng nhiễm nên gọi là Tự tính thanh tịnh thức, tám là Am-ma-la, dịch là Vô cấu thức, chín là thể chẳng khác nên gọi là Chân như thức, mười là thắng diệu dứt đối đãi gọi là Bất khả danh mục thức. Càn-lật-đà-da (Hrdaya), hoặc gọi Mâu-hô-lật-đa, dịch là Kiên thật tâm (tâm bền thật (chắc)). Lăng-già chú rằng: Gọi là Đệ nhất nghĩa tâm. Như cây trinh thật tâm, không phải niệm lự (nghó ngợi), chính là tính bản hữu của quần sanh. Lại Ma-ha-diễn lập mười thức gồm nhiếp hết các thức. Thế nào là mười, tức trong chín thức trước gia thêm Nhất thiết nhất tâm thức. Văn luận ấy nói: Gọi Nhất tâm thức là khắp ở hai thứ tự tại không chỗ nào chẳng an lập. Như Phật bảo Văn-thù-sư-lợi rằng: Ta chỉ lập một (1 1 1) thứ thức mà không lập ra các thức khác. Vì sao thế, vì một thứ thức là gồm nhiều các thức, thức này có các thứ sức, hay làm tất cả thứ danh tự (tên gọi) mà chỉ một thức trọn không có pháp khác. Thế nên ta nói lập ra một thứ thức. Nay gọi Nhất thiết nhất tâm thức là tiếng phương này gọi, còn tiếng Phạm là Càn-lật-đà-da. Hỏi: Nhất thiết nhất tâm thức cùng Am-ma-la khác nhau thế nào? Đáp: Từ lý chư Phật chứng bèn lập ra tên Am-ma-la, nếu ở gốc chúng sanh mê thì gọi là Càn-lật-đà. Vì sao thế, vì kinh nói: “Mà chuyển các thức vào Am-ma-la”. Thế nên biết quả vị gọi là Am-ma-la Nhất thiết nhất tâm thức. Luận nói: Hay làm tất cả các thứ tên, biết đó là gốc mê của quần sanh mà cội luận nghĩa này, các Hậu hiền nên biết rõ. Lễ Ký nói: Người sanh mà tính tịnh thiên, cảm vật mà Dục làm động tính. Đây là nhà Nho lấy Tịch nhiên bất động làm tính, cảm mà bèn thông gọi là tình. Tông ta thì lấy Minh tịnh chân tâm làm tính, là lý cụ vậy, hòn động vọng niệm làm tình là sự tạo vậy. Cho nên Lăng- nghiêm nói: Từ vô thủy đến nay sanh tử tiếp nối đều do chẳng biết chân tâm thường trụ, minh thể tính tịnh mà dùng các vọng tưởng. Tưởng này chẳng chân cho nên có lưu chuyển. Vì tính tình này mà tám thức trước của mười thức đều thuộc tình, chín mươi hai thức bèn là tính. Hỏi: Tâm và tính đồng hay khác? Đáp: Hoặc đồng hoặc khác. Nói đồng, là như Kinh Lăng-nghiêm nói: Chân tâm thường trụ minh thể tính tịnh đây đều là chỉ chân. Quang Minh nói: Tâm thức hai tính theo động chẳng dừng, đây đều là nói vọng. Nói khác là như Lăng-nghiêm nói: Thuấn nhã đa tính có thể tiêu mất, thước-ca-la tâm không động chuyển. Đây là tâm chân mà tính vọng. Đại Ý nói: Vì tùy duyên bất biến nên là tính, vì bất biến mà tùy duyên nên là tâm. Đây là tính chân mà tâm vọng. Sự Trung Quốc nói: Lúc mê thì kết tính thành tâm, khi ngộ thì mở tâm thành tính. Song chân vọng hai tâm kinh luận đã nói rõ đại khái có bốn nghĩa: một là chỉ chân tâm, Khởi Tín Luận nói: Chỉ là một tâm nên gọi là Chân như; hai là chỉ vọng tâm, như Kinh Lăng-già nói: Các thứ thức như sóng trào mà chuyển sanh; ba là từ chân khởi vọng, như Kinh Lăng-già nói: Tạng của Như Lai là nhân thiện và bất thiện hay khắp hưng tạo tất cả thú sanh; bốn là chỉ vọng tức chân, như Lăng-nghiêm nói: Thì ông nay thức tỉnh vốn sáng. Lại Tịnh Danh nói: Lũ phiền não là giống Như Lai. Các văn nêu bày thì bốn thứ này gồm hết. Song các thức này Tây Vức - Đông hạ lăng xăng nói khác nhau. Nay trước nêu chỗ khác nhau, sau kể chỗ hội thông. Chấp khác, là tính tướng hai tông phân chia ở Tây Vức, nhóm Nam Bắc mạnh nhất ở Tề triều, cho nên chùa Lan-đà ở Tây Vức có Đại đức Giới Hiền, nối xa ngài Di-lặc, Vô Trước nối gần ngài Pháp Hộ, Nan-đà, y vào Kinh Thâm Mật và Luận Du-già mà lập tông pháp tướng. Nói pháp tướng là cùng vào nghiệp tướng tám thức xem là gốc sanh khởi các pháp. Cho nên pháp tướng tông lấy thức tướng hành bố làm chỉ. Cũng ở chùa ấy đồng thời có Đại đức Trí Quang xa nối ngài Văn- thù, Long Thọ, gần nối ngài Thanh Mục - Thanh Biện, y vào Kinh Bát- nhã và Luận Trung Quán mà lập tông pháp tính. Nói pháp tính là lấy chân như tùy duyên làm gốc nhiễm tịnh. Một là tính tông thì lấy chân lý dung quán làm môn. Kịp đến Đông hạ thì Nhiếp Luận có đời Lương, đời Đường hai khác. Địa Luận phân Nam - Bắc khác nhau, vì Vô Trước Bồ-tát tạo Nhiếp Đại thừa Luận truyền đến cõi này. Hai là giải thích bất đồng: 1/ Ngài Chân Đế đời Lương lập ra chín thức kể thức thứ tám sanh khởi các pháp, như luận ấy nói mười thứ thắng tướng. Một là y chỉ thắng tướng nói thức thứ tám sanh mười hai nhân duyên; 2/ Ngài Huyền Trang ở đời Đường dịch mới Nhiếp Luận chỉ lập có tám thức, bèn gọi thức thứ chín chỉ là tên khác của thức thứ tám. Đây là Đường - Lương khác nhau. Thiên Thân Bồ-tát tạo Thập Địa Luận, dịch truyền cõi này Nam Bắc đều kể. Nam đạo ở Tương châu kể Lê-da là Tịnh thức, Bắc đạo ở Tương châu kể Lê-da là Vô minh, đây là Nam Bắc khác nhau. Hội thông (giống nhau), Diệu Huyền nói: Nay tôi tâm vô minh chẳng tự chẳng tha, chẳng cộng chẳng vô nhân. Bốn cú đều chẳng thể nghó bàn. Đay là ước tự hạnh pháp kế chấp Nam Bắc chẳng còn. Nếu có bốn tất-đàn nhân duyên thì cũng có thể nói được. Đây là ước Hóa tha. tính tướng đều có đủ. Vì trong A-lê-da có chủng tử sanh tử huân tập tăng trưởng tức thành Phân biệt thức. Nếu trong A-lê-da có chủng tử trí tuệ, văn huân tập tăng trưởng, tức chuyển y thành đạo hậu chân như nên gọi là Tịnh thức, nếu khác hai thức này thì chỉ là A-lê-da thức Đây cũng là một pháp mà luận ba, trong ba mà luận một. Nhiếp Luận nói: Như đất vàng nhiễm tịnh, nhiễm là dụ cho sáu thức, vàng là dụ cho Tịnh thức, đất là dụ cho Lê-da thức. Văn đã rõ ràng cần gì tranh cãi. Lại Tông Cảnh nói: Thức a-lại-da này tức là Chân tâm, chẳng giữ tự tính riêng mà tùy duyên Nhiễm tịnh, chẳng họp mà họp, hay chứa giấu tất cả cảnh giới Chân tục, cho nên gọi là Tặng thức. Như gương sáng chẳng cùng ảnh tượng họp mà chứa ảnh tượng. Đây là ước nghĩa hòa họp mà nói, nếu nghĩa không hòa hợp thì thể thường còn chẳng đổi khác, nên gọi là Chân như, vốn là một Chân tâm trong sáng chẳng động. Nếu có người chẳng tin A-lại-da thức là Như Lai Tạng mà riêng cầu lý Chân như thì như lìa hình ảnh mà tìm gương, đó là ác tuệ, vì chưa hiểu rõ nghĩa bất biến mà tùy duyên tùy duyên mà bất biến mà sanh hai chấp. Lại Tông Cảnh lấy Lý - Lượng hai môn mà gồm thâu hết tất cả tính tướng. Thức tướng Diệu hữu là như Lượng môn, thức tướng chân không là như Lý môn. Hỏi: Chân tâm không hình tướng vì sao biết là có thể bất không thường trụ trạm nhiên? Đáp: Lấy sự nghiệm biết, nhân dụng có thể luận. Sự thì hay hiển lý, dụng thì hay bày thể. Như thấy sóng sanh thì biết là có thể nước. Phải quán môn Lý - Lượng để tạo Đạo tính tướng. <詞>PHÁP ẤM - NHẬP - GIỚI. Trí Luận nói: Trong tất cả các pháp chỉ có danh và sắc, nếu muốn như thật quán, chỉ phải quán danh sắc. Tâm chỉ có tự (chữ?) nên gọi là danh (tên?). Hình chất là pháp ngại nên gọi là sắc, mà người phàm phu mê sắc tâm này có khinh trọng (nặng nhẹ) khác nhau. Cho nên Phật đối cơ mà nói ba khoa pháp Ấm -Giới - Nhập. Hàn-kiền-đà (Skưdha), dịch là Uẩn, uẩn nghĩa là chứa nhóm. Xưa dịch là Ấm, ấm là che lấp. Chứa nhóm hữu vi che lấp châ ntính. Lại Nhân Vương nói: Bất khả thuyết thức sanh hai pháp sắc tâm của các loài hữu tình. Sắc là sắc uẩn, tâm là bốn uẩn kia đều là tính chứa nhóm che giấu chân thật. Đây gọi sắc, thọ, tưởng, hành, thức này là năm uẩn. Âm nghĩa Chỉ Qui nói: Từ đời Hán dịch kinh gọi là Ấm, đời Tấn ngài Tăng Duệ đổi là Chúng, đến Đường Tam Tạng (Huyền Trang) đổi gọi là Uẩn. Bát-la-phệ-xa (Pravésa), dịch là Nhập. Pháp Giới Thứ Đệ nói: Thường gọi là nhập, nghĩa là vào. Căn trần đối nhau thì có thức sanh, thức y căn trần vẫn là Năng nhập, căn trần tức là Sở nhập. Nay mười hai thứ này từ Sở nhập mà được tên. huân Văn nói: Phàm sáu nhập có hai nghĩa: một là căn trần cùng nhập vào nhau, hai là căn cảnh đều là Sở nhập (chỗ vào) của thức, nên các kinh gọi là mười hai nhập. Còn Kinh Lăng-nghiêm chỉ lấy sáu căn làm nhập. Bởi căn có nghĩa thắng (lớn) hay sanh ra thức, lại căn hay nhận cảnh mà hút nắm tiền trần nên riêng gọi là Nhập. Nên gọi là sáu tên giặc mưu cướp của báu trong nhà. Lại gọi sáu nhập là vào sáu thôn làng. Pháp Giới Thứ Đệ nói: Sáu nội gọi là Nhập, vì sáu pháp này thân thiết thuộc bên trong (nội) làm chỗ nương cho giặc nên gọi là Nhập. Cũng gọi là Căn. Căn có nghĩa là hay sanh, vì sáu thứ này đều có công sanh thức nên gọi chung là Căn. Sáu nhập bên ngoài, sáu thứ này ở xa nên thuộc ngoài là chỗ thức dính vào (duyên vào) cho nên gọi là Nhập, cũng gọi là Trần. Trần có nghĩa là nhiễm ô, vì hay làm nhiễm ô tình thức gọi chung là Trần. Lại mười hai xứ, thì Bách Pháp Sớ nói: Xứ có nghĩa là sanh trưởng, tức sáu thức y vào Căn - Trần mà được sanh trưởng, nên gọi mười hai xứ. Đà-đô (Dhàtu), dịch là Giới. Bách Pháp Sớ nói: Giới nghĩa là nhân, sáu thức trung gian nhờ sáu căn mà phát, sáu cảnh kéo dắt cùng thức làm nhân, nên gọi là Giới. Pháp Giới Thứ Đệ nói: Giới có nghĩa là giới biệt (làm sanh giới riêng biệt?) tức mười tám pháp này đều có thể riêng, nghĩa nó không hỗn lạm nhau, nên gọi là mười tám giới. Nếu căn có đối (trần) liền có thức sanh, thức có nghĩa là thức biệt (phân biệt, biết). Thức y vào căn thì hay phân biệt trần nên gọi chung là Thức. Do ba thứ căn - trần - thức đều có sáu pháp mà thành mười tám giới. Cả ba khoa này như Cu-xá nói: Tụ sanh môn chủng tộc (họp nhau sanh bà con?) là nghĩa Uẩn xứ giới. Ngu căn lạc có bà, nên nói Uẩn xứ giới. Giải thích rằng: Ngu ba: một là ngu tâm, tức nói năm ấm thì mở tâm làm bốn, họp sắc làm một; hai là ngu sắc, là nói mười hai xứ, thì mở sắc thành 10,5 xứ (mười xứ rưỡi) nghĩa là 5 căn + 5 trần + ½ pháp trần thiểu phần; ba là ngu tâm và sắc, là nói mười tám giới, thì lại mở tâm làm 7,5 giới (bảy giới rưỡi), nghĩa là sáu thức ý căn + ½ pháp trần thiểu phần. Nói ngu tức là mê vậy. Căn ba, nghĩa là thượng - trung - hạ căn. Lạc ba, nghĩa là rộng trong lược như kế phối ba khoa pháp. Ca-la-la (Kalala), hoặc Yết-la-lam, dịch là ngưng hoạt. Lại gọi là tạp uế, tức giống như ngưng tô (váng sữa đặc). Là năm vị này ở bảy ngày đầu trong thai. Đại Tập Kinh nói: Khi Ca-la-la thì có ba sự: một là Mạng (mạng sống), hai là Hoãn (hơi ấm), ba là Thức. Thở ra vào gọi là Thọ mạng (mạng sống), crnát chẳng thúi gọi là Hoãn, tức là nghiệp giữ hỏa đại và địa, thủy v.v… các sắc mà chẳng rã thúi. Trong đó tâm ý gọi là Thức, tức là tâm hiểu biết từng sát-na vậy lớn lên không tăng giảm, ba pháp hòa họp từ sanh đến chết, giống thức này tức là mạng căn. Cho nên Tông Cảnh dẫn lun nói rằng: Song y thân sanh chủng tử thức này, lấy chủng tử này làm nghiệp lực, nên giữ gìn thân một báo, công năng sai khác khiến được quyết định. Nếu chủng tử này không có công năng này thì thân liền rã nát. Cho nên lấy thân sanh chủng tử làm mạng căn. Phàm mạng căn lày tâm mà giả lập. Mạng là năng y. Tâm là sở y. Sanh Pháp sư nói: Lửa đốt củi quay thành vòng, vòng có mang lửa mà thành sáng. Tình cũng như thế, ắt giúo tâm thành dụng. Nạng y (nương) tâm như tình y (nương) tâm. Át-bộ-đàm (Arbuda), hoặc Tết-bộ-đàm, Át-phù-đà, dịch là Bào, hình dạng như san bào (khối u?) là thai mười bốn ngày. Tệ-thi (Pésì), hoặc Bế-xích, già-na, dịch là ngưng kết, hình dạng giống như tụ huyết hoặc gọi huyết nhục (khối thịt mềm) là thai hai mươi mốt ngày. Kiện-nam (Ghana), hoặc yết-nam, dịch là ngưng hậu hơi cứng, cũng gọi là ngạnh nhục (khối thịt cứng) là thai hai mươi tám ngày. Tuy có thân ý nhưng còn thiếu mắt v.v… bốn căn và sáu xứ chưa hoàn hảo, chỉ gọi là danh sắc. Kinh Niết-bàn Phật nói: Như nói danh sắc buộc ràng chúng sinh. Danh sắc nếu mất thì không có chúng sinh. Lìa danh sắc rồi thì không có chúng sinh khác, lìa chúng sinh rồi thì không có danh sắc khác. Cũng gọi là danh sắc buộc ràng chúng sinh, cũng gọi là chúng sinh buộc ràng danh sắc. Bát-la-xa-khư (Prazàkhà), dịch là hình vị, đã đủ các căn hình, tay chân riêng khác. Cu-xá lấy thai ba mươi lăm ngày gọi là Thai trung năm vị, thai bốn mươi hai ngày gọi là Phát mao trảo xỉ vị, thai bốn mươi chín ngày gọi Cụ căn vị vì năm căn đã đầy đủ. Nói căn là tăng thượng xuất sanh (tăng thượng sanh ra) nên gọi là căn. Năm thức nhờ đó làm tăng thượng duyên mà sanh ra. Lại đủ năm nghĩa sau mà gọi là căn, đó là Nghiêm - Tục - Y - Phát - Biến biệt. Từ thai ba mươi lăm ngày đến chưa chưa sanh ra thì gọi là lục nhập. Nói bào thai thì Thuyết Văn nói: Cái ao thịt bọc đứa bé gọi là thai. Nhó Nhã nói: Thai là thủy dưỡng (nuôi dưỡng ban đầu). Chước-sô (Caksus), Chước là đi (làm?), sô là hết, nghĩa là bay ở các cảnh mà đi hết thấy các sắc nên gọi là Hành tận. Nên Du-già nói: Nhiều lần xem các sắc xem xong rồi bỏ nên gọi là nhãn (mắt) có nghĩa là đuốc chiếu (soi đuốc). Lăng-nghiêm nói: Nhãn như trái nho, hoặc nói nhãn như ao suối mùa thu. Nhãn có năm thứ: một là Nhục nhãn, hai là Thiên nhãn, ba là Tuệ nhãn, bốn là Pháp nhãn, năm Phật nhãn. Nay trước luận chung sau sẽ luận (phân biệt) riêng. Trước luận chung là Đại Phẩm nói: Bồ-tát khi làm Bát-nhã, tịnh ở năm nhãn. Nhục nhãn tịnh thì thấy ba ngàn Đại thiên thế giới. Thiên nhãn tịnh thì thấy trong hằng sa mười phương thế giới chư Phật các chúng sinh chết đây sanh kia. Tuệ nhãn thì Bồ-tát chẳng nghó rằng pháp này là hữu vi hoặc vô vi, là thế gian hoặc xuất thế gian, hoặc hữu lậu hay vô lậu, đó là Tuệ nhãn thì Bồ- tát không pháp nào chẳng thấy, không pháp nào chẳng hay, không pháp nào chẳng biết, ấy là Tuệ nhãn tịnh. Bồ-tát (đây là Phật Thích-ca) pháp nhãn thì biết người ấy vào Tùy tín hạnh, người ấy Tùy pháp hạnh, người ấy Vô tướng hạnh, người ấy làm (hạnh) không giải thoát môn, người ấy làm Vô tướng giải thoát môn, người ấy làm vô tác giải thoát môn mà được năm nhãn. Được năm nhãn cho nên được Vô gián Tam-muội được Vô gián Tam-muội nên được giải thoát trí v.v… Cho đến biết Bồ-tát ấy ngồi được đạo tràng hay chẳng thể ngồi được đạo tràng, biết Bồ-tát ấy có ma hay không ma, thì đó là Bồ-tát (đây là Phật Thích-ca) Pháp nhãn tịnh. Bồ-tát (đây là Phật Thích-ca) vào như Kim cang Tam-muội mà phá các phiền não tập tức thì liền được vô ngại giải thoát của chư Phật, liền sanh Phật nhãn, đó gọi là Nhất thiết chủng trí, mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Vô ngại trí cho đến Đại từ, Đại Bi v.v… các công đức. Đó là Phật nhãn. Đại Luận giải thích rằng: Nhục nhãn thấy gần mà chẳng thấy xa, thấy trước mà chẳng thấy sau, thấy ngoài mà chẳng thấy trong, thấy ngày mà chẳng thấy đêm, thấy trên mà chẳng thấy dưới. Vì các trở ngại đó nên phải cầu Thiên nhãn. Được Thiên nhãn ấy thì gần xa đều thấy, trước sau, trong ngoài, ngày đêm, trên dưới đều thấy không trở ngại. Nhưng Thiên nhãn ấy chỉ thấy hòa họp nhân duyên giả gọi là vật mà chẳng thấy thật tướng. Đó gọi là không, vô tướng, vô tác, vô sanh, vô diệt như trước, giữ sau cũng thế. Vì thật tướng nên cầu Tuệ nhãn. Được Tuệ nhãn thì không còn thấy chúng sinh dứt hết các tướng khác lạ, lìa bỏ các đắm trước chẳng nhận tất cả pháp. Trí tuệ từ bên trong diệt hết (tự nội diệt?), đó gọi là Tuệ nhãn. Nhưng chỉ Tuệ nhãn thì không thể độ chúng sinh, là vì sao, vì không có phân biệt. Thế nên phải sanh Pháp nhãn. Pháp nhãn hay khiến người làm pháp ấy thì được đạo ấy, biết tất cả chúng sinh mà có các phương tiện môn khiến được chứng đạo. Nhưng Pháp nhãn chẳng thể khắp biết tất cả phương tiện để độ chúng sinh, cho nên phảo cầu Phật nhãn. Phật nhãn thì không việc nào chẳng thấy. Đối với người khác thì rất xa nhưng đối với Phật thì rất gần, với người khác rất kín tối nhưng với Phật thì sáng tỏ, với người khác là rất vi tế nhưng với Phật là rất cạn cợt. Phật nhãn ấy thì không việc gì chẳng nghe, chẳng thấy, chẳng biết, không việc gì là khó. Không cần nghó suy, trong tất cả pháp Phật nhãn luôn chiếu sáng. Đó là năm nhãn. Nay lập bốn nghĩa để luận tướng của nói. Ước về người, Tịnh Danh Ký nói: Muốn chỉ Nhục nhãn trong loài người nên nói nhãn bốn thú không bằng trời, người nên bị phá. Đây là một lẽ. Cũng có rồng quỷ hơn Nhục nhãn người song trọn là ác nghiệp. Từ đạo đã phán quyết xong. Lại nói: Dùng Thiên nhãn ở Sắc giới mà phá cõi Dục có Tứ thiền Thiên nhãn, Thanh văn là Tuệ nhãn, Bồ-tát là Pháp nhãn, Như Lai là Phật nhãn. Tịnh Danh Ký nói: Ba nhãn trước thì Nhị thừa hai giáo cũng có được, Pháp nhãn thì Bồ-tát ba giáo cũng có được vì sao năm nhãn đều đoạt là không? Đáp: Tùy giáo y lý tướng nói có khác. Nếu nói chư Phật, Bồ-tát có thì tức là bốn nhãn đới lý, địa tục có được một phần, Phật mới rốt ráo. Cho nên Nhục nhãn một lúc khắp thấy mười phương, Thiên nhãn chẳng dùng hai tướng mà thấy, Tuệ nhãn bèn gọi là Đệ nhất tịnh, cho nên Pháp nhãn, Phật nhãn nguyên lai rất khác nhau. Ấy thì năm nhãn đều đủ ở Phật. Nhị thừa và người thì đều không nhãn, như mù từ mới sanh. Hỏi: Nhục nhãn của Phật và Nhục nhãn của người giống hay khác? Đáp: Phàm phu bị ác nghiệp che nên mù, Phật quả huân công đức nên thanh tịnh. Nên Đại Bát-nhã nói: Nhục nhãn của Phật có thể thấy trong người có vô số thế giới chẳng chỉ chướng nội. Cho nên biết Nhục nhãn phàm phu chỉ thấy chương nội, nghĩa như mù vậy. Hỏi: Nhục nhãn có chướng ngại vì sao khắp thấy? Đáp: Đại Luận nói: Báo sanh thì Thiên nhãn ở trong Nhục nhãn, Thiên nhãn mở thì Nhục nhãn thấy sắc, cho nên thấy cả Đại thiên. Lại nói: Thiên nhãn có hai: một là quả báo mà được, hai là tu thiền mà được. Quả báo mà được thì thường cùng Nhục nhãn họp dùng, chỉ đêm tối thì Thiên nhãn riêng dùng. Hỏi: Phật đủ Nhục nhãn thì cùng Phật nhãn đồng hay khác? Đáp: Tịnh danh Ký nói: Nay lấy chứng lý mà thấy các sắc thô tế ở mười phương cõi và mười pháp giới thì gọi là Thiên nhãn của Phật. Nếu viên thấy ba đế chẳng hai thì gọi là Phật nhãn. Ước dụng mà giải thích. Như Tịnh Danh Sớ nói: Chỉ nhãn là tên chung. Từ dụng mà phân biệt thì có năm thứ: một là Nhục nhãn thấy thô sự sắc, hai là Thiên nhãn thấy nhân quả tế sắc, ba là Tuệ nhãn thấy thô tế sắc tâm lý thiên, chân (thấy sắc thô tế mà tâm thiên về lý chân?), bốn là Pháp nhãn thì thấy sắc tâm thô tế nhân duyên mà giả gọi các pháp tục đế, năm là Phật nhãn thấy ký trung đạo viên chân Phật tính, lại hay song chiếu thô tế nhân duyên sự lý. Hỏi: Thấy chân của trung đạo gọi là Phật nhãn, không biết Bồ-tát phần chứng và Phật cứu cánh thì đồng hay khác? Đáp: Như Phát Chẩn nói: Phần chứng cùng cứu cánh về năm nhãn thì chỉ có sáng tối khác nhau thôi. Ước về đế mà giải thích. Như Tịnh Danh Sớ nói: Viên quán ba đế, quán tục cảnh, phá các ác nghiệp thì gọi là Tịnh Nhục nhãn. Quán tục đế cảnh, phá các loạn tâm thì gọi là Tịnh Thiên nhãn. Nếu quán Chân đế, phá giới nội hoặc thì gọi là Tịnh Tuệ nhãn. Quán nội ngoại tục đế mà phá trần sa vô tri thì gọi là Tịnh Pháp nhãn. Quán trung song chiếu, viên trừ vô minh ấy là Tịnh Phật nhãn. Ấy thì Nhục Thiên hai nhãn là pháp nhân, duyên sanh ra, còn ba nhãn sau là đế ba quán chiếu ra. Ước giáo mà giải thích. Như Tịnh Danh Sớ nói: Ước giáo thì có bốn Phật năm nhãn chẳng đồng. Trong Kim cang Bát-nhã, Phật hỏi Tu-bồ-đề: Như Lai có Nhục nhãn chăng v.v… Chuẩn theo năm nhãn này thì đều thông bốn giáo. Nếu giải thích riêng thì như Tịnh Danh Ký nói: Nếu lấy tướng Thiên viên đối đãi nhau mà gồm nói thì chỉ là Viên Phật nhãn, Biệt giáo Pháp nhãn, Thông Bồ-tát Tuệ nhãn, Tạng Bồ-tát Nhục Thiên hai nhãn. Lại Tịnh Danh sớ nói: Nếu các phàm phu thì Nhục nhãn, Thiên nhãn thấy tướng thô tế. Thanh văn thì chỉ có ba nhãn, Nhục nhãn và Thiên nhãn thấy đồng như trên, còn Tuệ nhãn thì thấy tướng Chân đế, tức là thấy tướng hai đế. Ba nhãn của Tạng Bồ-tát đã chưa dứt hết hoặc nên chẳng thấy tướng Chân đế, chỉ có Nhục nhãn, Thiên nhãn thì thấy thô tướng của Thế đế. Còn Thông giáo Bồ-tát cũng chỉ có ba nhãn, chỉ thấy tướng huyễn hóa của hai đế. Biệt giáo Bồ-tát thì được bốn nhãn, ba nhãn như trên, riêng được Pháp nhãn, thấy giới nội ngoại hằng sa Phật pháp, vô lượng lý bốn đế và là thấy tướng thấy. Nếu Viên giáo Bồ-tát trụ ở vị Thập tín thì tuy có Nhục nhãn mà gọi là Phật nhãn, tương tợ Viên thấy tướng pháp giới, dù hoặc chưa trừ hết cũng gọi là thấy tướng thấy. Nếu vào Sơ trụ, phát chân vô lậu tức là năm nhãn viên khai. Đây đều là luận chung. Kế luận riêng, Tịnh Danh Sớ dẫn Thủ-lăng-nghiêm nói: A-na-luật nói: Khi tôi mới xuất gia thường thích ngủ nghỉ, Như Lai quở trách tôi là loài súc sanh. Tôi nghe Phật quở, khóc lóc tự trách bảy ngày không ngủ mà mất cả hai mắt. Bèn bạch Phật kể hết mọi việc. Phật nói ngủ là mắt ăn, như người bảy ngày không ăn thì sẽ mất mạng, bảy ngày không ngủ thì mắt cũng mất mạng khó thể trị. Phải tu Thiên nhãn để thấy việc đời. Nhân đó tu Thiền mà được bốn đại tịnh sắc nửa đầu mà thấy. Nói nửa đầu là xưa Thần Ngộ nói nửa trên ngang mày như lưu ly trong suốt. Đây là trái với Lăng-nghiêm nói trước thấy sau. Nan Bình nói: Nửa đầu trước thấy Đại thiên giới chỉ thấy trước mà chẳng thấy sau. Nay nói sót (trái?) lời giải này. Tịnh Danh Sớ nói: Na-luật tu thiền được bốn đại thanh tịnh tạo sắc nửa đầu Thiên nhãn, từ nửa đầu trên đều được thấy xem thấy ba ngàn Đại thiên thế giới như trái Am-ma-lặc. Nếu ba tạng Phật được toàn đầu Thiên nhãn, một đầu đều phát tịnh sắc suốt thấy vô ngại. Nay xem hai thuyết thì cũng như cò và trai giữ chặt nhau. Nay nhân tệ ấy mà hội thông. Tịnh Danh Quảng Sớ lấy trên làm phân nửa (bán) chính là chỉ bày cái để Thiên nhãn do báo mà được Thiên nhãn ở trong Nhục nhãn, do tu mà được Thiên nhãn ở ngoài Nhục nhãn. Đã ở ngoài nhãn thì phát sắc nửa đầu. Tuy nửa đầu tịnh mà khi nhìn vật thì chỉ thấy ở trước. Do đó Kinh Lăng-nghiêm ước dụng mà nói. Song chỗ Thanh văn phát Thiên nhãn nửa đầu cùng Phật toàn đầu thì hơn kém rất khác. Lại Phật tùy chỗ nhập định muốn thấy liền thấy, còn Thanh văn phải nhập định có được thì mới thấy cảnh. Lại Phật thì có thể thấy tất cả Phật độ còn Na-luật chỉ thấy Đại thiên. Tịnh Danh Sớ nói: Nhị thừa tuy có Thiên nhãn phải tác ý muốn thấy ngàn cõi cho đến Đại thiên. Còn chư Phật, Bồ-tát có Chân Thiên nhãn chẳng dùng hai tướng mà thấy rõ các Phật độ. Thiên Thai nói: Trung đạo Chân Thiên nhãn, không phải tướng hai đế, mà hay khắp chiếu bốn độ ba thứ sanh tử chết đây sanh kia, y chính đều hiện trong Vương Tam-muội, ấy là Chân Thiên nhãn. Hỏi: Na-luật đã thấy trước sao lại mượn người xuyên kim? Đáp: Vào định thì thấy, ra định thì không biết. Triệu nói: Nhị thừa ở trong định thì thấy, ra định thì không thấy. Kinh Khê Ký nói: Nếu ước Na-luật mất mắt ra quán chỉ đồng với người đời hư căn chẳng thấy. Hỏi: Tạng Thông hai giáo đã chẳng nói trung, lấy gì làm Phật nhãn? Đáp: Biệt Hành Huyền Ký nói: Cho nên nay chính sử và hai Tập khí đồng thời mà hết, cho nên có thể hai đế đều rốt ráo. Phương khác ba thừa đệ tử riêng bày Phật nhãn Phật trí. Lại nữa, Thiên nhãn của Na-luật cùng Thiên nhãn của Đại Phạm vương tuy đồng mà khảo xét có bốn khác: một là Báo - tu khác, Phạm vương do báo mà được ở trong Nhục nhãn, còn Na-luật do tu mà được ở ngoài Nhục nhãn; hai là chung riêng khác, Tịnh Danh Sớ nói: Lại Phạm vương là thấy tướng chung nên thấy không rõ ràng, Na-luật là thấy tướng tiêng nên thấy rõ. Cho đến A-la-hán nhân tịnh thiền mà được thì đều thấy tướng riêng; ba là tự tha khác, Phạm vương do báo được nên từ chỗ ở của mình thì thấy còn phương khác thì không thấy, còn Na-luật do tu căn bản mà được năm thứ Tứ thiền vào sắc thanh tịnh phát Chân Thiên nhãn tùy chỗ đến mà đều thấy Tam thiên; bốn là thông minh khác, Thiên nhãn của Phạm vương là thông mà không phải minh, còn Thiên nhãn của La-hán là thông lại là minh. Lại Tịnh Danh Sớ hỏi: Thiên nhãn của Phạm vương thấy cõi Đại thiên cùng Nhục nhãn của Pháp hoa có gì khác? Đáp: Đại Luận nói: Thiên nhãn do báo sanh thì ở trong Nhục nhãn, còn Thiên nhãn là khai tịch Nhục nhãn thấy sắc nên thấy sắc nên thấy Đại thiên. Đại Phẩm nói: Nhục nhãn của Bồ-tát thấy trăm do-tuần cho đến Đại thiên, quá mức này thì dùng Thiên nhãn. Dùng Nhục nhãn cùng gió trái nhau nên không nói thấy độ (cõi) khác. Như Kinh Pháp Hoa thì sức Nhục nhãn có thể thấy được tất cả các pháp ở Đại thiên. Còn Tam tạng Thiên nhãn, Tuệ nhãn của Nhị thừa chỗ thấy sự lý còn chẳng kịp huống là Phạm vương mà sánh được ư? Cho nên Đại Kinh nói: Người học Đại thừa tuy có Nhục nhãn mà gọi là Phật nhãn, còn người học Nhị thừa tuy có Tuệ nhãn mà gọi là Nhục nhãn. Vì Tuệ nhãn ấy thấy chân đoạn hoặc so với Nhục nhãn của Viên giáo có phần kém hơn. Nhục nhãn của Viên giáo gọi là Phật nhãn vì tuy đủ tính phiền não nhưng lại biết được Bí mật tạng của Như Lai. Ta-lộ-đa-la-tuất-lũ-đa (Srotra), dịch là Năng văn. Du-già nói: Thường chương tiếng ở đây đến mà nghe nên dịch là tai, là nghĩa hay nghe. Lăng-nghiêm tai như quyển sách mới (lá vở), hoặc nói tai như quyển Da Hoa. Già-la-ni-yết-la-noa (Ghràna), dịch là khứu (ngửi). Du-già nói: Do đây mà hay ngửi mùi hương nên gọi là mũi, là nghĩa hay ngửi. Lăng- nghiêm nói: Mũi như hai móng tay úp, hoặc nói mũi như thạnh châm đổng (ống đầy kim). Để-nhã-thì-ngật-phược (Jihva), dịch là năng thường (lưỡi) hay trừ đói khát. Du-già nói: Hay trừ đói khát ốm gầy thường phát nói năng luận bàn kêu gọi nên gọi là lưỡi là nghĩa hay nếm. Lăng-nghiêm nói: Lưỡi như mặt trăng khuyết, hoặc nói lưỡi như yển Nguyệt Đạo. Ca-da (Kàya), tiếng Phạm có bốn tên: một là Ca-da, hai làThiết- lî-la, ba là Đệ-ha (Deha), bốn là Ưng-già (Anga), dịch là Tích tự (chứa nhóm). Du-già nói: Các căn tùy chỗ mà chứa nhóm và nghĩa nương nhờ. Cũng dịch là phần, nghĩa là chi phần. Lăng-nghiêm nói: Thân như lập kích sóc (cái kích dựng đứng?). Kinh An-ban-thủ-ý hỏi: Những gì là thân, những gì là thể, xương thịt làm thân, sáu tình họp làm thể. Hật-lị-đà-da (Hrdaya), dịch là Nhục đoàn tâm (quả tim thịt) tức là chỗ ý căn gá vào. Cho nên nói ý như thấy nhà tối. Phàm nói căn thì có hai nghĩa: một là Phù trần ngoại cặp, hai là Thắng nghĩa nội căn. Nói Phù trần thì bốn đại là năng tạo, bốn vi là Sở tạo. Sắc, hương, vị, xúc là bốn vi hòa họp bèn thành căn. Nên Kinh Lăng-nghiêm nói: Ta nay quán phù căn bốn trần này chỉ ở trước mặt ta. Tư Trung nói: Phù hư chẳng thật che tối Chân tính nên gọi là Phù trần. Phù trần là ngoại căn. Nói Thắng nghĩa tức là bốn đại thanh tịnh. Hồng Mẫn Sao nói: Thắng nghĩa căn này tuy dùng Năng tạo, Sở tạo tám pháp làm thể là không thể thấy được có đối sắc chiếu cảnh mà phát ra thức, là cảnh sở tri (là cảnh chỉ thánh nhân biết) của Thánh nhân, nghĩa nó rất sâu xa, không phải giống như trần cảnh thô cạn, nên gọi là thanh tịnh. Đây là trong nhiễm mà tịnh, không phải là cái tịnh vô lậu diệu minh. Thắng nghĩa này là nội căn vậy. Đại Luận hỏi: Vì sao ba thức sở tri họp làm một. Tỷ, thiệt, thân, thức gọi là Giác, ba thức sở tri riêng (khác?) làm ba. Nhãn gọi là kiến (thấy), nhó gọi là văn (nghe), ý biết gọi là thức? Đáp: Đây là ba thức giúp nhiều đạo pháp, cho nên riêng nói, còn ba thức kia thì chẳng thí nên gọi là họp nói. Ba thức ấy chỉ biết việc của thế gian nên họp làm một, ba thức kia cũng biết việc thế gian và cả việc xuất thế gian, nên riêng nói. Lại nữa, ba thức ấy chỉ duyên với pháp vô ký, còn ba thức kia thì duyên với thiện hoặc bất thiện hoặc vô ký. Lại nữa, ba thức ấy hay sanh nhân duyên ba thừa như mắt thấy Phật và đệ tử, tai nghe pháp, tâm trù tính chính ức niệm, các thứ khác nhau như thế. Thắng Vương Kinh nói: Phật bảo Thiên Vương rằng: Bồ-tát Ma- ha-tát, lấy sức phương tiện, làm Bát-nhã ba-la-mật, đối tất cả pháp tâm duyên tự tại, duyên tất cả sắc nguyện được Phật sắc không thể được. Tâm duyên các tiếng, nguyện được âm thanh vi diệu của Như Lai, tâm duyên các hương nguyện được giới hương thanh tịnh của Như Lai, tâm duyên các vị, nguyện được tướng đại trượng phu bậc nhất trong vị của Như Lai, tâm duyên các xúc nguyện được bàn tay mềm mại của Như Lai, tâm duyên các pháp nguyện được tâm tịch tịnh của Như Lai. Tâm duyên với thân mình, nguyện được thân Phật. Tâm duyên với miệng mình, nguyện được miệng Phật. Tâm duyên với ý mình, nguyện được ý bình đẳng của Như Lai. Thiên Vương Bồ-tát Ma-ha-tát làm Bát-nhã ba- la-mật, chẳng có một tâm một hạnh ở không (không quá?) chẳng hướng vào Tát-bà-nhã. Khắp duyên các pháp mà chẳng đắm trước, quán thấy các pháp đều hướng đến đạo Bồ-đề. Bồ-tát tu tập các hạnh đều nhân ngoại duyên mà được thành lập. Lại như đất bằng ở trên mặt nước, nếu đào ao giếng ắt sẽ được nước dùng. Người không đào thì chẳng do đâu mà thấy. Như thế cảnh giới của Thánh trí ở khắp tất cả pháp. Nếu có siêng tu Bát-nhã phương tiện thì liền được, còn người không tu thì sao có được. Tỷ-cổ-ca (Bhùtaka), dịch là chủng (giống), đây là năm nguyên do sanh ra chúng sinh nên gọi là chủng. Bà-sa hỏi: Sao gọi là Đại chủng? Đáp: Lớn mà là chủng (giống) nên gọi là Đại chủng. Như nói Đại địa và Đại vương vậy. Hay giảm hay tăng, hay tổn (làm tổn hại) hay ích (giúp ích, đó là nghĩa của chủng. Thể tướng hình lượng nó ở khắp các phương cõi hay giúp thành việc lớn đó nghĩa đại. Đại thừa Nhập Lăng-già nói: Tức là hư vọng phân biệt, thấm nhuần Đại chủng thành thủy giới trong ngoài, nung nóng Đại chủng thành hỏa giới trong ngoài, lay động Đại chủng thành phong trong ngoài, sắc phân đoạn Đại chủng thành Địa giới trong ngoài. Viên giác nói: Ta này thân này bốn đại hòa họp đó là tóc, lông, răng, móng, da trong, gân, xương, tủy, não cấu sắc đều qui về địa. Nước mắt, nước mũi, máu mủ, nước miếng, mồ hôi, đàm, tinh khí, phân, nước tiểu đều qui về thủy (nước). Hơi nóng ấm thì qui về hỏa (lửa), chuyển động thì qui về phong (gió). Nhân Vương nói: Kiên trì gọi là địa, tân nhuận (thấm ướt) gọi là thủy, tính ấm gọi là hỏa, khinh động gọi là phong. Tịnh Giác nói: Gọi chung là đại là từ sự mà lập tên. trí Luận nói: Phật nói bốn đại không đâu chẳng có nên gọi là đại. Trường thủy trược lấy tàng tính (tính chứa giấu) mà giải thích đại thì thật là lầm to. Cô Sơn nói: Bốn luân giữ đời, kỳ thật đó là Thổ luân, Kim luân, Thủy luân, Pha luân. Đây chẳng nói Thổ (đất) vì thổ và kim đồng là tính cứng, đều thuộc địa đại. Cho nên đây chỉ nói bốn đại thì đã nhiếp bốn luân. Tịnh Giác nói: Song bốn đại này phong kim là do vọng tâm mà khởi. Hỏa, thủy lại do phong, kim mà khởi. Văn sau kết rằng: Tướng thay đổi (để) làm chủng nghĩa thấy ở đây. Tông Cảnh nói: Đều từ bốn đại hòa hợp mà thành, tất cả đều là một tâm hư vọng biến đổi. Ngài Duy-ma-cật hỏi Văn-thù-sư-lợi rằng: Những gì là Như Lai chủng? Văn-thù-sư-lợi đáp: Có thân là chủng, vô minh hữu ái là chủng, tham nhuế si là chủng, bốn điên đảo là chủng, năm cái là chủng, sáu nhập là chủng, bảy thức xứ là chủng, tám tà pháp là chủng, chín não là xứ chủng, mười bất thiện đạo là chủng. Nói tóm tắt sáu mươi hai kiến và tất cả phiền não đều là Phật chủng. Thiên Thai giải thích rằng: Cho đến không phải chủng là chủng. Vì sao thế? Vì lìa ngoài ba đạo thí không có Như Lai chủng ấy là: 1/ chính nhân tức khổ đạo, 3/ Liễu nhân tức phiền não đạo, 3/ Duyên nhân tức nghiệp đạo. Lại văn trước nói: Ba đạo là ba đức chủng, chủng đã có ba thì Như Lai cũng ba: Một là Pháp Phật Như Lai, hai là Báo Phật Như Lai, ba là Ứng Phật Như Lai. Chủng lấy hay sanh làm nghĩa nếu chẳng thể sanh thì không gọi là chủng. Vì ba chủng này hay sanh ba Phật từ vi đến trước trọn ở Đại quả. Cũng có nghĩa là chủng loại. Nếu ba chủng này không phải là chủng loại Phật thì ngoài đây không có pháp đồng loại. Cũng có nghĩa là chủng tính, tính gọi là không thay đổi. Tức ba pháp này từ đầu đến cuối chẳng đoạn chẳng diệt (chẳng diệt mất) ắt làm nên quả ba đức ba Phật nên gọi là không thay đổi. Nay ước chúng sinh mà nói chủng thì không ngoài ba thứ này. Do phiền não nhuận nghiệp mà thọ thân có khổ. Ba thứ không trước sau, cũng không phải cùng một lúc, chẳng tung (dọc) chẳng hoành (ngang). Cho nên Kim Bài nói: Nếu có chúng sanh chưa bẩm (học?) giáo đến chỗ ông thì trước phải nói rằng: Người từ vô thủy đến nay chỉ có phiền não nghiệp khổ mà thôi. Tức đây toàn là Lý tính ba nhân, do chưa phát tâm, chưa từng gia hạnh (gắng sức tu) cho nên tính Duyên liễu đồng gọi là chính nhân. Lại Diệu Lạc nói: Ba đạo là ba đức, chủng tức là tính chủng. Vì có tính sanh nên gọi là chủng. Khi sanh chủng này thuần biến là tu. Các Văn nói này đều lấy lúc mê làm tính. Sau ngộ gọi là tu. Song tính chủng này Thiên Thai gọi là Tương đối chủng. Ngài Kinh Khê lấy đối địch mà giải thích có chung có riêng. Nếu chung thì lấy sự của ba đạo mà đối lý của ba đức, đây bèn Sự Lý đối địch luận chung. Nếu đối địch luận riêng thì như Ký Chủ nói: Ba thứ này từ riêng, mỗi mỗi đều khác. Khổ đạo ở mê thì thuộc nhân, pháp thân sở chứng là quả, đây bèn nhân quả đối nhau. Phiền não là pháp hôn mê, Bát-nhã là pháp Minh ngộ. Đây bèn mê ngộ đối địch nhau. Làm trái lý là pháp buộc ràng, làm thuận lý là pháp giải thoát. Đây thì buộc và thoát đối địch nhau. Kinh Khê lại đổi Danh tướng mà dịch (đổi) chủng. Ở nhân thì dịch Pháp thân là Khổ đạo. Đến quả thì dịch Khổ đạo và Pháp thân. Lúc mê thì dịch Bát-nhã là phiền não, khi ngộ thì dịch phiền não là Bát-nhã. Buộc thì dịch giải thoát là kết nghiệp, thoát thì dịch kết nghiệp là giải thoát. Trước sau Lý một nên gọi là tính chủng. Như Pháp Hoa Sớ giải thích chư Phật Lưỡng Túc Tôn biết pháp thướng không (vô) tính, con Phật chủng thì từ duyên khởi, thế nên nói Nhất thừa. Ngài Thiên Thai giải rằng: Trung đạo vô tính tức là Phật chủng. Diệu Lạc giải rằng: Lập bản vô tính là Bản tính đức. Cho nên biết chủng này tức là chủng tính gia Tiên Đức nghi rằng: Tịnh Sanh lấy ba đạo làm tính chủng, Pháp Hoa lấy ba đạo làm tính chủng. Xem hai chỗ này văn nghĩa lại khác, bèn lập bốn nghĩa tiêu thông hai văn: Một là Chủng bản, hai là Chủng thể, ba là Chủng duyên, bốn là Chủng quả, bèn nhất định ba đạo của Tịnh Danh là đương thể của chủng, Pháp Hoa ba đức là thể sở y, chính là bản của chủng. Nay nói chủng vì hay sanh làm nghĩa thì chủng tức là Bản (gốc?) há có hai khác. Học giả phải biết rõ hai chỗ Kinh văn đều thuận một nghĩa. Vì Duy-ma chỉ mê khiến ngộ nên lấy ba đạo ở mê làm Phật chủng, chính - Trợ hai tu làm Chủng duyên. Pháp Hoa nói chư Phật lập giáo, nên ở Bình Đẳng Lý tính làm Phật chủng, nghịch thuận hai sự làm Chủng duyên. Tịnh Danh ba đạo bèn ước tức làm chủng cũng như Băng là Thủy chủng (loại của nước). Pháp Hoa ba đức chỉ tính mình làm chủng, như nước là Băng chủng phân biệt như thế thì sẽ sáng tỏ. Lại Pháp Hoa sớ nói: Nếu ở loại mà luận chủng thì tất cả cúi (gật) đầu đưa tay đều là giải thoát chủng, tất cả thế trí ba thừa giải tâm tức là Bát-nhã chủng. Phàm ai có tâm đều sẽ làm Phật, tức pháp thân chủng. Kinh Khê nói: Loại nghĩa là loại lệ tức là Tu đức. Đây bèn thuận tu ba nhân mà hay thành quả ba đức, nên gọi là loại chủng. Đây do Pháp Hoa khắp mở sáu đạo. Cúi (gật) đầu đưa tay, khảy móng tay, tán hoa vốn là phước của trời người. Nay mở tức là duyên nhân Phật chủng, tất cả thế trí ba thừa giải tâm vốn là trí năm thừa, nay mở tức là Liễu nhân Phật chủng. Phàm có tâm thì chẳng biết chính nhân nay mở chúng sinh đều sẽ làm Phật, tức Pháp thân chủng. Diệu Lạc hỏi: Nếu thế Bát-nhã giải thoát có ở chủng loại và lấy đối mà luận (cho đến đối luận) thì pháp thân loại chủng và Đối luận chủng là đồng hay khác? Đáp: Lý một mà nghĩa khác. Nói lý một là chỉ duyên lý một, thí như tu tính đối nhau ly họp. Nói nghĩa khác, là đối bên (với) sanh tử mà gọi là đối nhau, lý thể vốn tịnh gọi là loại chủng. Lại văn năng quán trí gọi là Liễu chủng, nghe (văn) sở duyên lý gọi là chính chủng. Tức là Lý tịnh cùng Sự tịnh là loại. Đây là ước khai hiển minh loại chủng. Xưa Kinh Viên đã cách Thiên, chỉ ước đương giáo ba nhân tự luận loại chủng. Nếu ba giáo trước như Diệu Lạc nói: Biệt giáo chỉ có chủng của chủng loại vẫn Riêng (Biệt), trước sau thường tịnh, chỉ không từ che (phú) nên được tên chủng. Đây cùng Thích châm tuy pháp thân vốn có (bản hữu) chẳng đồng với Biệt giáo bị hoặc nó che, hai văn chống nhau. Diệu Tống giải thích rằng: Biệt giáo pháp thân bị hoặc nó che, là bởi tính bất tri bất giác (chẳng hay chẳng biết), đủ (cụ) đức nhiễm ác. Thế nên nhiễm ác không phải hai đức v.v… Chỉ có Pháp thân, Bản (vốn) giác tùy ở nhiễm duyên mà làm tất cả pháp trong mê, cho đến gọi là bị hoặc che. Đã chỉ che Lý Phật tính (đã che Đản Trung), như người thuần thiện, tất cả việc ác vốn không phải bị người làm ác bức ép khiến làm các ác, nên nói người thiện ác che. Đây là hiển bày cái hoặc hay che (năng phú) còn cái chân như bị che lá lý bất biến, trước sau thường tịnh. Cho nên nói: Chỉ chẳng từ che mà được tên chủng. Hỏi Diệu Huyền nói: Mười hồi hướng mới (Thủy) chính tu Trung, Trung này chỉ Lý chẳng đủ các pháp. Thích Châm thì nói bất đồng, người biệt thì lý thể đầy đủ mà chẳng gồm thâu nhau. Giáng Vỹ Nan nói: người biệt đã có lý tính ba nhân, sao duyên biệt mà tu duyên liễu. Tịnh giác tuy ước lý tính ba nhân đều là đức Đản trung. Đáp: Chưa khế hợp ý Tứ minh, cho nên Diệu tông giải thích nghĩa này nói rằng: Cũng là tính chẳng biết Bản giác, nhiễm đủ ác đức, chẳng thể toàn tính khởi tu nhiễm ác, bèn thánh lý thể hoành đủ ba pháp. Nói chẳng gồm thâu nhau, là vì ba pháp ấy nhất định đều ở tính đều là sở (được) phát, cũng như ba phần đều gọi là vua sao lại có thể nhiếp nhau. Thế nên ba pháp trong tính bất tri thì hai thứ là tu, hai (một) thứ bèn thành hoành nên nói là ba đều là ở tại tính mà chẳng dung nhau (hòa vào nhau). Tạng thông hai giáo toàn không có nghĩa này chỉ ước đương giáo tên ấy chẳng phải không. Nhân thời ba học làm năm phần chủng, đạt phần tức là hai giải thoát chủng. Niệm xứ tức Bát-nhã chủng, phải hiểu có thân là chủng. Nếu chẳng nghe pháp thì ai tự biết chẳng gia công hạnh (chẳng gắng làm) mà bỏ thân rồi thọ thân thì ai được thành tựu Vô thượng Bồ-đề. Bèn chỉ tính loại hai pháp để làm ngón tay chỉ mặt trăng vậy. Nhiếp-đề, dịch là giả thi thiết (giả lập, giả bày ra) giả là ba giả. Phụ Hành nói: Nhân nôi nhân ngoại hòa hợp mới thành, nên pháp được sanh gọi là Nhân thành giả, vì niệm chẳng thật, cho nên niệm trước diệt rồi thì lại sanh, sanh ra thì liền diệt, kể là hay nối tiếp thì gọi là nối tiếp giả. Người khác đối với mình mà giả lập tên người khác, mình đối với người khác mà giả lập tên mình. Đối đãi nhau chẳng thất gọi là đối đãi nhau giả. Luận Thành thật nói: Ba giả phù hư như khói mây bụi mù vậy. Ưu-đà-na (Udàna), Thiên Thai Thiền Môn nói: Dịch là Đơn Điền, cách rốn hai tấc rưỡi (2,5cm) Đại Luận nói: Như khi người nói trong miệng có gió (hơi) ra gọi là Ưu-đà-na gió này ra rồi lại trở vào rốn. Kệ rằng: Gió gọi (tên) Ưu-đà-na, Gặp rốn mà đi lên, Gió ấy gặp bảy chỗ, Đỉnh đầu, lợi răng môi, Lưỡi họng cho đến ngực, Là trong nói năng sanh. Luận rằng: Thở ra vào là thân gia hạnh, thọ tưởng là tâm gia hạnh, tầm từ là ngữ (lời, nói) gia hạnh. Đại Tập Kinh nói: Có gió hay lên có gió hay xuống. Tâm nếu niệm (nghó) gió trên thì tùy tâm mà dắt lên (thở ra), tâm nếu niệm (nghó) gió dưới thì tùy tâm mà dắt xuống (hít vào). Vận chuyển làm lụng đều là tùy tâm mà chuyển làm tất cả việc. Nếu đường gió không thông thì tay chân bất toại, tâm tuy có niệm (nghó) nhưng không cử động được. Ví như người kéo cửa thành tức ảnh kỉ các thứ làm ra, dây kéo cửa dứt rồi thì tay không kéo được. Phải biết đều là nương vào gió mà làm ra. A-na (Àna) cũng gọi Anna, dịch là khiến lai, là hít vào. Ban-na (Àpàna), dịch là khiển khứ, là thở ra. Kinh An Ban Thủ Ý nói: An là thân, Ban là tức; An là sanh, Ban là diệt; An là niệm đạo, Ban là giải kết. Sở dó tiên sổ nhập là ngoài có bảy ác, trong có ba ác, dùng ít mà thắng nhiều là tiên sổ nhập; An gọi là xuất tức (thở ra), Ban gọi là nhập tức (hít thở vào). Tức (hơi thở) có bốn việc: Một là gió, hai là khí, ba là hơi thở, bốn là suyển (hơi thở mau gấp). Có tiếng là gió, không tiếng là khí, ra vào là tức, khí ra vào không thôi (bất tận) là suyển. Thở ra là sanh tử ấm, thở vào là tư tưởng ấm. Hoặc nói tiên sổ (trước khi đếm hơi thở? Sổ là đấm?) xuất tức khí thì chẳng gấp thân chẳng mập đầy thân tâm nhẹ nhàng lanh lợi thì Tam-muội dễ thành. Hoặc nói tiên sổ (trước thường?) thở vào tùy hơi thở mà khâm dị nhập định. Hoặc nói tùy tiện nghi thở ra vào, nếu tâm khinh phù (tán loạn) thì cột tâm ở Đơn Điền mà thở hít vào. Nếu tâm hôn trầm (ngủ gục) thì cột tâm ở đầu mũi mà thường thở ra. Đây đều là chẳng cho hơi thở ra vào đều sổ. Đề-bà Bồ-tát nói: Phật nói môn cam lồ gọi là A-na-ba-na, là Đạo an ổn nhất trong các pháp môn. Ô-ba, hoặc giọi Tát-già (Satya?), dịch là Hữu. Bà-sa nói: Là có nghĩa gì, đó là tất cả pháp hữu lậu vậy. Phật nói: Nếu nghiệp hay khiến đời sau nối tiếp sanh thì gọi là hữu. Hoa Nghiêm nói: Những gì gọi là pháp hữu vi, đó là chúng sinh ba cõi. Bà-sa nói: Lậu là nghĩa gì? Đáp: Trụ là nghĩa lậu, là phàm phu đến đây bị giữ ở lại. Lậu là nghĩa tẩm tí (ngấm thấm). Đến Tam Hữu Đảnh thường tẩm tí. nghĩa lậu là lưu xuất (chảy ra) rủ hết xuống ba hữu lại chảy ra, hoặc có các nghĩa là nắm giữ, say sưa, ở trong, phóng dật (buông lung…) đều là nghĩa lâu cả. Thành Luận nói: Mất đạo (đường) nên gọi là lậu. Luật nói: Người si tạo nghiệp mở các lậu môn. Văn Cú nói: Lậu là ba lậu. Diệu Lạc nói: Một là Dục lậu, nghĩa là tất cả phiền não trong Dục giới, trừ vô minh. Hai là hữu lậu, nghĩa là tất cả phiền não ở hai cõi trên (Sắc, Vô sắc) trừ vô minh. Ba là Vô minh lậu, tức là vô minh ở ba cõi. Lại Phụ Hành giải thích hữu lưu rằng: Hữu tức là ba hữu, lưu là bốn lưu: Một là Kiến lưu, tức kiến có ba cõi; hai là Dục lưu, tức tất cả các hoặc ở Dục giới trừ kiến và si; ba là Hữu lưu, là tất cả các hoặc ở hai cõi trên trừ kiến và si; bốn là Vô minh lưu, tức là si ở cả ba cõi. Ở ba chỗ này nhân quả chẳng mất nên gọi là hữu, vì bốn pháp này chết chìm mãi không thôi nên gọi là Lưu. Niết- bàn nói: Pháp hữu lậu có hai thứ, có nhân quả. Pháp vô lậu cũng có hai thứ, có nhân có quả. Quả hữu lậu thì gọi là Khổ, nhân hữu lậu thì gọi là Tập. Quả vô lậu thì gọi là Diệt, nhân vô lậu thì gọi là Đạo. Tát-ca-da-tát (Anitya?), dịch là vô thường. Cẩu Hương nói: Sô xá (chạy về nhà?) vô định gọi là vô thường. Đường Nhân Minh Chính Lý Luận nói: Xưa không nay có, tạm có lại không nên gọi là vô thường. Tịnh Trụ pháp nói: Sanh ra khó thể giữ chắc (bảo) chỉ muốn lo sanh, chết thì ắt đến, chẳng biết lo chết, huống mạng này nguy, bung biến vô thường, chợt khoảnh khắc bất giác mà chết đến. Nội Đức Luận rằng: Trăm răng dễ rụng hết, năm phước khó thường mạng muôn còn mà điển xẹt, nghiệp thì trời cao đất dày Tam đồ vướng vít mà bước hoài, bốn lưu không bờ mù mịt, ngồi thuyền pháp mà cứu giúp, mược cánh tín mà bay cao, phải chuyển tội thành phước, sao chẳng nghó mà làm càng. chính Pháp Niệm nói: Có người chết từ trong thai, có người sanh ra liền chết có người mới đi liền mất, có kẻ mới chạy bỗng tiêu. Trí Luận nói: Vô thường có hai thứ: Một là tương tục pháp hoại vô thường; hai là niệm niệm sanh diệt vô thường. Tông cảnh nói hai thứ bốn tướng: Một là ước thô quả báo, mới có sanh già bệnh chết. Trường A-hàm nói: Một là tướng sanh, tức năm ấm hưng khởi mà được mạng căn; hai là tướng già, nghĩa là tuổi thọ sắp hết mạng sống không còn bao lâu nữa; ba là tướng bịnh, nghĩa là các khổ bức bách còn mất không hẹn trước; bốn là tướng chết, tức là hết vậy. Gió trước lửa kế các tướng hư hỏng thân mất mà ở thư khác. Lại Tứ Đế Luận rằng: Các khổ nương nhờ gọi là sanh khổ, hay khiến biến đổi hư hoại gọi là già khổ. Bức ép thân khốn đốn gọi là bịnh khổ. Hay diệt các căn gọi là chết khổ. Không phải thương mà cùng nhóm họp nhau thì gọi là oán tắng hội khổ, thương yêu nhau mà phải xa lìa thì gọi là ái biệt ly khổ. Trông mong chẳng hoại thì gọi là cầu bất đắc khổ. Có nhiều tướng khổ thì gọi là Ngũ ấm xí thạnh khổ. Niết-bàn nói: Lại nữa, Bồ-tát tu về Tử quán là thọ mạng thường bị vô lượng oán thú khuấy rối niệm niệm giảm xuống không có tăng thêm, cũng như thác tứ núi cao đổ xuống mãi chẳng dừng, cũng như hạt sương mai dưới ánh nắng không lâu, như tù nhân lên pháp trường bước bước gần cái chết, như dắt trâu dê đến lò giết mổ. Kinh Xuất Diệu Phật nói: Ngày nay đã qua, mạng tùy theo đó mà giảm, như cá cạn nước, nào có vui gì; hai là ước nghiệp tế hoặc mà nói sanh, trụ, dị, diệt. Như Khởi Tín Luận nói: Bất giác tâm khởi gọi là Sanh, hay thấy hay hiện vọng chấp lấy chính giác khởi niệm cho là tiếp nối thì gọi là Trụ, chấp lấy tên gọi là Dị, tạo tác các nghiệp nên gọi là Diệt. Luận Duy Thức nói: Sanh là nói pháp này trước đây không có. Diệt là nói pháp này sau đây không còn. Dị là nói pháp này không ngưng nhiên. Trụ là nói pháp này tạm hữu dụng. Nay giải thích rằng: Từ không mà có thì gọi là Sanh, từ có mà không thì gọi là Diệt, trước sau biến đổi thì gọi là Dị, tạm như thế mà nối tiếp thì gọi là Trụ. Lại Luận nói: Xưa không nay có, vó vị gọi là sanh. Vi sanh tạm dừng liền nói là Trụ. Trụ khác trước sau mà lập tên Dị. Tạm có lại không, không thì gọi Diệt. Ba thứ trước có nên đồng ở hiện tại, một cái sau không nên ở quá khứ. Phụ Hành ký nói: Nói ba tướng là chẳng lập tướng Trụ, cùng dị hợp nói, vì người ở trụ luôn chấp thường còn. Nên Tịnh Danh nói: Tỳ-kheo các ông nay cũng sanh cũng già cũng diệt mất. Già tức là Dị. Ngài Khuê Phong nói: Hai tướng Trụ-Dị đồng là hiện tại nên hợp làm một, phân kỷ tức bốn. Ngài Cô Sơn giải kinh Lăng Nghiêm nói: Trước nêu bốn tướng nay chỉ có hai là dùng Sanh nhiếp Trụ, dùng Diệt thâu Dị. Tông Cảnh nói: Tuy tuổi trăm năm cũng như sát-na, như sóng lớn ở biển Đông, như nắng quái ở trời Tây, như đập đá ánh lửa nháng, như ngựa con phóng qua lỗ, như ngọn đèn nhỏ trước gió, như giọt sương mai đầu cỏ, như cây mục bám vách đá, như ánh sét trước mắt… Nếu không gặp chính pháp ắt vónh viễn đọa chốn u đồ. Xà-đề-xà (âm xã) (Jàtimrtyu?), dịch là sanh tử. Ngật-na hoặc Thiện-na (Janman), dịch là sanh. Du già nói: Năm uẩn mới khởi gọi là Sanh, y xác mà khởi gọi là Noãn sanh. Chứa nhóm mà ra gọi là Thai sanh, giả (mượn) nhuận mà hưng khởi gọi là Thắng sanh không có mà bỗng hiện gọi là Hóa sanh. Như thế là bốn sanh (bốn loài) do nội tâm tưởng nghiệp (do bên trong nghiệp tâm tưởng) làm nhân, bên ngoài có xác thai Tàng chấp nhuận làm duyên. Ước mượn duyên nhiều ít mà thành thứ lớp. Noãn sanh đủ bốn là trước nói: Thai sanh đủ ba, Thấp sanh đủ hai, Hóa sanh chỉ một, tức là Tư nghiệp vậy. Câu-xá nói: Người và bàng sanh đủ bốn, địa ngục và các trời chỉ có Hóa sanh. Quỉ thì chung cả Thai-Hóa hai thứ. Người đủ bốn loài, là như Đại Luận nói: Mẹ Tỳ-xá-khư-di-la sanh ba mươi hai con, Di-già-la là con lớn. Mẹ sanh ba mươi hai trứng mổ ra sanh ba mươi hai nam đều là lực só, mà bẹ ấy được ba đạo. Lại Bà-sa Luận nói: Xưa ở châu này các người lái buôn vào biển được một con hạc mái bèn sanh ra hai trứng nở ra thành hai bé nam đẹp đẽ thông minh, lớn lên xuất gia được A-la-hán, tên đứa lớn là Thế-la, đứa nhỏ tên Ổ-ba sanh. Thấp sanh như An-la-bà- lî dâm nữ Đảnh Sanh Chuyển Luân Thánh Vương. Lại Niết-bàn nói: Đảnh Sanh Vương từ mục phồng trên đầu sanh ra. Hóa sanh, như Đại Luận nói: Như Phật cùng bốn chúng du hành trong chúng Tỳ-kheo Ni có A-la-bà trong đất hóa sanh. Và ở sơ kiếp người đều hóa sanh. Bàng sanh đủ bốn, là chính pháp niệm nói: Hóa sanh kim xí điểm (chim cánh vàng) hay ăn bốn loài rồng. Rồng cùng kim xí điểu đều đủ bốn loài. Thú chạy thì đều là thai sanh, chim bay đều là noãn sanh. Chứng Chân nói: Tình tưởng họp lìa bốn loài đều đủ. Kinh văn lại căn cứ vào một cái hơn mà nói. Mạt-lạt-nẩm (Marana), dịch là chết. Thắng Man nói: Sanh là các căn mới sanh, chết là các căn cũ mất. Kinh chính Pháp Niệm nói: Lúc chết thì bốn đại bị hại, nghĩa là bốn đại chẳng diều hòa. Có bốn thứ chết, nếu phong đại chẳng điều hòa thì tất cả thân phần đều cùng xé rách từ chânn đến đầu phân tan như cát. Lại Nhất Thừa Chương nói: Có hai thứ chết, những gì là hai: Tức là phần Đoạn tử và Bất tư nghì biến dịch tử. Phần Đoạn tử tức là chúng sanh hư dối. Bất tư nghì biến dịch tử, là A-la-hán, Bích-chi Phật, Đại Lực Bồ-tát Ý sanh thân. Vì phần Đoạn tử nên nói A-la-hán Bích-chi Phật trí (biệt) đời ta đã hết được chứng quả Hữu dư, nên nói phạm Hạnh đã lập. Phàm phu trời người không thể luận bảy thứ người học trước chưa từng làm, vì dối trá phiền não đã đoạn hết rồi, nên nói việc làm đã xong. Vì A-la-hán Bích-chi Phật đã đoạn phiền não lại chẳng còn nhận thân sau nữa nên nói chẳng thọ hậu hữu. Nhiếp Đại Thừa nói bảy thứ sanh tử: Một là phần Đoạn tức là quả báo ở 3 cõi; hai là Lưu lai, tức là lúc ban đầu có thức; ba là phản xuất, nghĩa là trái vọng đầu tiên; bốn là phương tiện tức là nhập diệt của Nhị thừa; năm là nhân duyên tức Sơ địa trở lên; sáu là hữu lậu, tức là Thập địa; bảy là vô lậu, tức là Kim cang tâm. Bắc Sử Lý Só Khiêm Tự là Tử Ước khéo nói Danh Lý, từng có khách ngồi chẳng tin nghĩa báo ứng của nhà Phật. Só Khiêm bảo rằng: Làm thiện thì dư mừng vui, làm ác thì dư tai họa. Đây không phải hưu cữu ư? (tốt xấu ư) Kinh Phật nói: Lưu chuyển (trôi nổi?) mãi trong năm đạo không thôi. Đây thì Cổ nghi nói ngàn biến vạn hóa chưa có chỗ rốt cùng bỗng nhiên bị (vì) người gọi bảo. Khi Phật giáo chưa truyền đến các hiền đã biết như thế. Đến như cổn làm gấu vàng, Bảo quân làm rồng, Ngưu Ai làm thú dữ, Bành sanh làm heo, Như Ý làm chó, Đặng Ngại làm trâu. Tiền thân của Dương Hựu (Hộ) là con của Lý Thị. Đây không phải nhà Phật biến hóa dị hình mà nói ư? Ca-ma-la (Kamalà?) hoặc Ca-mạt-la, dịch là Hoàng Bịnh lại gọi là ác cấu, cũng gọi là bịnh cùi. Trí Luận nói: Một là bịnh nhân duyên bên ngoài, là nóng lạnh đói khát binh đao gậy gộc, rơi té hầm hố. Như thế các thứ tai họa bên ngoài gây buồn khổ; hai là bịnh nhân duyên bên trong, là ăn uống chẳng tiết (điều) độ, ngủ thức bất thường, bốn trăm lẻ bốn bịnh gọi là bịnh bên trong. A-tát-xà (Atisàra?), dịch là bịnh chẳng thể trị. Hoằng Minh Tập nói: Bịnh ắt chết dầu Thánh cũng không thể cứu. Bịnh có thể trị thì đợi thầy thuốc mới lành. Cho nên Niết-bàn nói: Có ba thứ bịnh: Một là dễ trị, hai là khó trị, ba là chẳng thể trị. Tịnh Danh Sớ nói: Trị liệu có tổn, một là có từ lúc mới uống thuốc chỉ tăng mà không tổn tron không sai lý đó gọi là tăng tăng; hai là hoặc tuy có khốn đốc trị bình liền lành, đó gọi là Tăng tổn (tổn là giảm bịnh, tăng là tăng bịnh); ba là hoặc có uống thuốc lúc đầu tuy dần tổn mà sau lại tăng đó là tổn tăng; bốn là mới đầu dần tổn cho đến bình phục đó là tổn tổn. Lại giải thích trị bịnh chúng sanh: 1/ Tăng tăng tức là hạng phàm phu thấp kém nhất, nếu vì họ nói pháp họ lại chê bai gây tội xiển đề. Như Thiện Tinh Điều Đạt v.v…; 2/ Tăng tổn như Thi Lî Cúc Đa; 3/ Tổn tăng, như Đại Luận nói: Bốn thiền Tỳ-kheo gọi là bốn quả. Khi lâm chung thấy chỗ sanh chê là không có Niết-bàn thì liền đọa địa ngục. Lại Tỳ-đàm Thành Thật nói người thối pháp (lui sụt pháp) đều là tướng ấy sanh; 4/ Tổn tổn tức là Xá-lợi-phất v.v… các người được đạo. San-nhã-sa (Sanyàsa?), dịch là bịnh phế phong một khi phát thì không khỏi. Trí Luận nói: Bốn trăm lẻ bốn bịnh, là bốn đại làm thân thường xâm hại nhau, trong mỗi mỗi đại thì trăm bịnh nổi dậy. Bịnh lạnh có hai trăm lẻ hai bịnh, do thủy-phong khởi. Bịnh nóng thì có hai trăm lẻ hai bịnh do địa-hỏa khởi. Chỉ Quán nói: Phương pháp trị bịnh đã biết rõ nguồn bịnh khởi phát mà làm thuốc trị bịnh. Phép trị bịnh bèn có nhiều cách, nói tóm tắt là không ngoài Chỉ Quán hai phương tiện. Thế nào là dùng Chỉ trị bịnh. Có thầy nói chỉ an tâm ngưng ở chỗ bịnh, liền có thể trị bịnh. Vì sao thế? Vì tâm là chủ hẹn quả báo. Ví như chỗ nào vua đến thì đám giặc liền tan. Kế có thầy nói: Dưới rốn một tấc gọi là Ưu-đà-na, đây dịch là Đơn điền. Nếu hay ngưng tâm nghỉ ở đây rất lâu không tan thì có chỗ trị. Có Thầy nói: Thường ngưng tâm ở dưới chân, bất luận đi đứng ngủ nằm thì liền có thể trị bịnh. Vì sao thế? Vì người do bốn đại không điều hòa cho nên có nhiều thứ bịnh. Đây là do tâm thức trên duyên khiến bốn đại không điều hòa, nếu an tâm ở dưới thì bốn đại tự nhiều điều thích các bịnh liền trừ. Có Thầy nói: Chỉ biết các pháp không chẳng có gì, chẳng chấp lấy tướng bịnh, tịch nhiên chỉ trụ (vắng yên mà ngưng trụ) thì trị được nhiều. Vì sao thế? Do tâm tưởng nhớ khua làm bốn đại cho nên có bịnh sanh. Dứt tâm vui hòa thì các bịnh liền tiêu. Nên kinh Tịnh Danh nói: Cái là gốc bịnh? Đó là phan duyên (duyên dính), làm sao đoạn được phan duyên, nghĩa là tâm không chỗ được. Như thế các thứ dùng chỉ trị bịnh không phải một (rất nhiều). Cho nên biết tu pháp chỉ thì có thể trị được các bịnh. Kế nói: Quán để trị bịnh. Có thầy nói: Chỉ quán tâm tưởng dùng sáu thứ khí mà trị bịnh, tức là quán hay trị bịnh, những gì là sáu khí: Một là xuy (thổi), hai là hô (gọi), ba là hy (cười hi hi?), bốn là ha (quở trách), năm là hư (hà hơi), sáu là ???. Sáu khí này đều ở trong môi miệng tâm tưởng phương tiện chuyển trắc mà làm, miên vi mà dùng. Tụng nói: Tâm phối (tim) thuộc hạ, thận thuộc xuy, đùi thuộc hô, phổi ??. Người Thánh biết rõ. Can tạng nóng thì hư mà đến, Tam tiêu ủng trệ thì chỉ nói hy. Cao tăng truyện nói: Tăng Thiện bị bệnh nặng, khi sắp mất bảo đệ tử rằng: Ta bịnh trong bụng lạnh kết, vì lúc trẻ tuổi ta ở trong núi làm ăn, gạo thóc đã hết lại làm biếng đi tìm bèn ăn cát đá để no sáng tối, nhân đó có bịnh chết rồi có thể mổ bụng mà xem. Quả nhiên đúng như lời nói. Nam Sơn Sao nói: Chỉ đói khát là bịnh chủ, cũng gọi là bịnh cũ, mỗi ngày thường có, cho nên lấy ăn mà làm thuốc trị bịnh. Tăng Kỳ Luật nói: Khi Phật ở tại nước Xá-vệ. Mẹ Nan-đà làm người nấu cơm, chắc nước cơm mà uống thì biết trong thân phong trừ mà ăn tiêu. Liền nghó rằng các Xà-lê nên ăn cháo, bèn lấy ít gạo nhiều nước mà nấu bỏ đi hai phần sau mới cho bột đậu xay vào đầy bình, manh đến chỗ Phật thưa rằng: Cúi mong Thế Tôn cho phép các Tỳ-kheo ăn cháo Phật chấp nhận và vì nói kệ. Kế Tứ Phần nói: Khi Phật ở nước Na-tần-đầu. Nhân Niễu sa cúng cháo Phật chấp nhận. Lại Thập Tụng nói: Bà-la-môn Vương A-kỳ-đạt cúng bốn Ban cháo, tức Nhũ Lạc Hồ Ma-đậu-ma Sa-nhậm-tô v.v… Phật chấp nhận. Cao tăng Pháp Khai trong năm Thăng Bình đời Tấn, vua Hiếu tông có bịnh. Khai xem mạch biết bất khởi (chẳng ngồi dậy được?) mà không chịu dâng thuốc. Hiến Hận nổi giận thâu lại giao cho Đỉnh Úy, bỗng mà vua băng hà nên được miễn tội. Có người hỏi Pháp sư rằng: Cao Minh Cương Giản vì sao ôm kinh y thuật (học nghề thuốc?). Khai nói: Nói sáu độ để trừ bịnh bốn ma, điều chín hầu để trị bịnh phong hàn. Chẳng cũng là tự lợi lợi tha ư. Tôn Xước nói: Biện tài dọc ngang lấy Số thuật mà thông giáo là ở ông Khai vậy.  <卷>QUYỂN 7 Tập này gồm sáu mục sau đây: Chùa tháp Đàn Tràng Kiền chùy đạo cụ Phục tướng của Sa-môn Trai pháp bốn thực Thiên tụ danh báo Thống luận hai đế. <詞>CHÙA THÁP ĐÀN TRÀNG. Dụ sư ở trên chùa có dán lời cáo thị rằng: Chùa (tự) là cảnh giới Tu đạo nhiếp tất cả chúng tăng mười phương. Pháp vì đải tất cả chúng tăng lui tới, là nơi thọ cúng, không kia không đây, không chủ không khách. Tăng Lý bình đẳng vì đồng hộ trì Phật pháp. Trong tất cả đồ ăn uống đều cúng mười phương phàm thánh đồng có. Gỏ chuông làm pháp khắp tập hội tăng chúng đồng thời cùng thọ cúng, cùng vì đàn việt mà làm ruộng sanh phước, đúng pháp kịp thời đều không ngăn ngại. Ấy phải mở rộng ý xa, dẹp sạch bỏ loài, chẳng tiếc thân tài hộ trì chính pháp. Tây Vức Ký nói: Các Tăng già lam lại cực kỳ chế (đẹp đẽ). Xây cất lầu các nhiều tầng cột kèo chạm khắc cửa lớn cửa nhỏ tường thấp tường cao sơn vẽ nhiều hình. Lương Tăng Truyện nói: Tương truyền các vua ngoại quốc đập phá các chùa chỉ có chiêu đề thì chưa kịp phá hủy. Một đêm nọ ngựa trắng chạy quanh chùa hý vang thảm thiết. Liền vào trình vua, vua liền đình chỉ phá hoại. Nhân đó đổi tên Chiêu Đề thành Bạch Mã. Nên các chùa lập tên đều lấy phép đó. Tăng Sử Lược nói: Chùa Hồng Lô là cái nhà lớn để bốn rợ xa đến hầu vua mà ở. Liền khiến chọn một nơi ngoài cửa Tây thành Lạc Dương mà xây cất. Đó là tinh xá dùng ngựa trắng chở kinh ở Tây Vức về để ở đó, nên đặt tên là Bạch mã. Tự chùa (?) dùng tự nối (?) mà giải thích (?) người trị sự nối nhau nối tiếp ở đấy, vốn gọi là Ty. Tăng Tây Trúc chợt đến quyền do công ty khiến vào ở riêng chẳng quên gốc lại nêu tên chùa. Theo Thiên Nhân Lạc Huyền Sướng nói: Đời Chu Mục Vương, Văn Thù Mục-liên đến giáo hóa. Mục Vương liền theo. Tức Liệt Tử gọi Hóa Nhân là đó. Hóa Nhân dạy Mục Vương cây bốn đài cao là chỗ Phật Ca-diếp nói pháp, nhân đó tạo ba Hội đạo tràng. Lại nói: Chu Mục Vương thân dạo Đại Hạ, Phật bảo cõi ấy có Cổ tháp có thể đến lễ. Vua hỏi ở đâu? Đáp: Ở phía Đông nam của Cao kinh. Lại hỏi: Chu Mục về sau các vua kiến lập chùa tháp, vì sao cõi này ít thấy văn ghi chép. Đáp: lập tháp là do ở tiền duyên phần nhiều thần linh tạo ra, người ít thấy nên văn tự ít truyền. Văn Hùng Lưu Hướng tìm ở Tàng thư thường thấy có kinh Phật. Há chẳng phải trước đời Tần đã có kinh tháp. Hoặc gọi Tăng phường, nhà riêng gọi là phường. Hoặc gọi Tinh xá. Thích-ca Phổ nói: Nơi ở dứt tâm gọi là Tinh xá. Chùa Linh Dụ có thông cáo rằng: Không phải chỗ ở của người thô bạo gọi là Tinh xá. Nghệ Văn Loại nói: Không phải là nhà tinh diệu, mà do là chỗ ở của người tu tinh luyện nên gọi tinh xá. Hoặc gọi đạo tràng. Triệu Sư nói là Trường tu đạo. Vua Tùy Dượng Đế ra lệnh chùa viện trong thiên hạ dều gọi là đạo tràng. Chỉ Quán nói: Đạo tràng là chính giác thanh tịnh. Trị đường năm trụ hiểu biết gạo thật tướng. Hoặc gọi Liên xã. Xã tức lập năm ngày Tuất sau xuân thu gọi là xã. Nhà nông lập hội cúng tế cầu lúa thóc Bạch Hổ Thông nói: Vua, do đó có xã sao vì thiên hạ mà cầu đất phước báo, không có đất thì chẳng có ăn đất rộng thì không thể khắp kính. Cho nên phong đất để lập xã. Vãng Sanh Truyện nói: Đời Đông Tấn có Huệ Viễn Pháp sư ẩn mình ở núi Lô cùng một trăm hai mươi ba người giao kết sanh Tây phương mà cùng có tưởng lập Liên xã. Nay Liên xã do đó mà bắt đầu. Sát-ma (Ksetra), chính âm là Chế-đa-la, dịch là Thổ điền Tịnh Danh Lược Sớ nói: vạn cảnh chẳng đồng cũng gọi là Sát. Thùy Dụ nói: Bởi dùng trang nghiêm sai khác nên gọi là Sát. Đây chỉ cõi nước gọi là sát. Lại còn Già lam phạm sát thì như Phụ Hành nói: Tây Vức dùng gậy biểu thị Sát là chỉ chỗ ở. Tiếng Phạm là Sắt-sắc-để, dịch là gậy tre, tức cột phướng. Trường A-hàm nói: Nếu Sa-môn ở trong pháp này cần khổ được một pháp thì liền dựng phướng để báo bốn phương biết là nay có người thiểu dục. Lại Pháp Hoa nói: Biểu thị tháp cao rộng, đây là do Tháp Bà cao lớn tiêu biểu cho đất vàng (Kim Địa) cho nên lấy chỗ nhóm họp lâu dài mà biểu thị cho Kim sát. Như Pháp Uyển nói: Vua A- dục lấy hoa vàng, phướng vàng trêo trên các chùa tháp các sát. La-ma (Àràma), dịch là Viện. Viện nhỏ có tường bao quanh. Chiêu-đề (Caturdizya), kinh Âm nghĩa nói: Tiếng Phạm gọi là Chiêu-đấu-đề-xa, Đường gọi là bốn phương tăng vật. Chỉ Triệu gọi lầm là Chiêu-đề, dịch là Biệt phòng thí hoặc nói Đối diện thí, hoặc tiếng Phạm là Tăng Man dịch là đối diện thí. Âm nghĩa nói: Thể cảnh giao hiện gọi là đối, bớt phần mình đem cho người gọi là thí. Vua Thái Võ đời Hậu Ngụy năm Thủy Quang một đã tạo già lam và đầu tiên đặt tên Chiêu đề. Tăng-kỳ (Saưghìka), dịch là vật bốn phương tăng. Luật chép có bốn thứ thường trụ: Một là Thường trụ thường trụ, tức là phòng, nhà, chùa, bếp, kho, cây cỏ, ruộng vườn, tôi tớ… của chúng tăng. Vì thể nó chỉ thuộc chỗ ấy, không thông chung các chỗ khác, chỉ được dùng không được bán, nên có hai tiếng thường trụ; hai là Mười phương thường trụ như nhà tăng cúng tăng ăn hằng ngày, thể chung cả tăng mười phương chỉ thuộc chỗ ấy. Hai thứ này gọi là vật Tăng-kỳ; ba là Hiện tiển hiện tiền, nghĩa là vật cho tăng chỉ cho các tăng hiện tiền ở chỗ đó; bốn là Mười phương hiện tiền, như vật riêng dùng của năm chúng đã chết. Nếu chưa Yết-ma mà tăng mười phương xái thì bị tội. Nếu đã Yết-ma thì mười hiện tiền tăng bị tội. Hai thứ này gọi là vật hiện tiền tăng. A-lan-nhã (Aranya) hoặc A-luyện-nhã. Đại Luận dịch là Viễn ly xứ. Luận Tát-bà-đa dịch là Bế Tịnh Xứ Thiên Thai nói: Không làm việc chúng gọi là Nhàn, không ồn ào gọi là Tịnh. Hoặc dịch là Vô tránh, nghĩa là người ở đó không cùng đời tranh cãi, tức chỗ ở xa xóm làng khoảng năm dặm. Triệu nói: Giận hờn giành sống ở chỗ đông, không tranh giành xuất thế chốn không nhàn. Cho nên Phật khen nên ở A-lan- nhã. Ứng Sư dịch là không tịch. Uyển Sư phân làm ba loại: Một là Đạt- ma A-lan-nhã, tức là trước thời Hoa Nghiêm, là nói các pháp xưa nay trống vắng, không khởi làm nghĩa; hai là Ma-đăng-già A-lan-nhã, tức là nơi gò mã, phải cách xa xóm làng một Cu-lô-xá, là chỗ trâu lớn rống mà không nghe; ba là Đàn-đà-ca A-lan-nhã tức là chỗ ở sa mạc. Tăng-già-lam (Saưgha àràma), dịch là chúng viện. Tăng Sử Lược nói: vì chúng làm vườn tược, vườn tược là nơi trồng cây. Đệ tử Phật gây mầm Thánh quả. Na-lan-đà (Nàlaưda), Tây Vức Ký nói: Đường gọi là Thí không biết chán. Phía Nam của Già lam này trong vườn Am-một-la có ao, có rồng tên Na-lan-đà bên cạnh bèn lập già lam nhân đó lấy tên ấy. Thật mà nói: Thí thuở xưa khi Như Lai tu hạnh Bồ-tát, làm vua nước lớn đã lập đô ở đất này. Thường xuyên chúng sanh mà nuôi dưỡng. Lúc đó khen đức tốt của vua nên gọi là Thí không biết chán. Đại Tống Tăng Truyện nói: Chùa Na-lan-đà, chu vi bốn mươi tám dặm, chín chùa một cửa, do chín vua trời tạo ra. Già lam ở Tây Vức không có cái nào rộng như thế. Am-la-viên (Àmra àràma), Xiển nghĩa nói: Am-la là tên một thứ trái cây, trái nó giống trái đào. Hoặc gọi Tợ nại (giống trái mít?). Cây này nở hoa, hoa sanh một cô gái. Người trong nước khen lạ, lấy vườn mà phong cho. Vườn thuộc cô gái, cô gái giữ gìn nên nói vường cây Am-la. Vì ngầm huân thiện xưa nên thấy Phật rất vui mừng mà đem vườn dâng cúng Phật Phật liền nhận mà ở đó. Ca-lan-đà (Karaưđa), Luật Thiện Kiến và kinh Luật Dị Tướng nói là tên núi chuột. Lúc đó vua Tỳ-xá-ly vào núi ngủ dưới gốc cây, có một con rắn độc muốn bò ra cắn vua. Lúc đó dưới cây ấy có một con chuột đến kêu lớn khiến vua thức giấc. Vua cảm ân ấy bèn đem thức ăn một thôn mà cúng cho núi chuột này, và gọi thôn ấy là Ca-lan-đà. Trong thôn này có một Trưởng giả có tiền vàng bốn mươi ức, vua bèn ban cho hiệu Trưởng giả. Do thôn ấy mà gọi Ca-lan-đà Trưởng giả. Tam Tạng Truyện nói: Chủ vườn tên Ca-lan, trước đem vườn này mà cúng cho ngoại đạo, sau gặp Phật lại nghe pháp sâu, hận không lấy lại được vườn mà cúng cho Như Lai. Lúc đó có thần đất biết ý liền hiện tai quái nhát các ngoại đạo mà đuổi ra khỏi vườn. Bảo rằng: Trưởng giả muốn lấy vườn cúng Phật các ông phải đi mau. Ngoại đạo ngậm giận mà đi. Trưởng giả vui mừng lập tinh xá mời Phật đến ở. Lâm-vi-ni (Lumbinì) hoặc gọi Lưu-di-ni, Lam-tỳ-ni. Hay Lam- tỳ-ni, dịch là giải thoát xứ, cũng dịch là Đoạn, hay Diệt. Hoa Nghiêm Âm nghĩa dịch là Lạc Thắng Viên Quang. Do xưa Thiên nữ đến mà lập ra tên này. Mới gọi là Lam-bì-ni. Đây gọi là Lam tức tên cô gái giữ vườn từ thượng cổ. Mạt-tô-phạt-na (Tàmasavasa), Tây Vức Ký nói: Đường gọi là Âm lâm (vườn tối). Ngàn Phật đều ở đất này mà nói pháp. Phật diệt độ rồi ba trăm năm có Ca-đa-diễn-na ở đây mà chế phát (tạo?) ra Trí Luận. A-xà-lý-nị (Àsàlinì), Tây Vức nói: Đường gọi là kỳ đặc. Kê-đầu-ma (Kukkulasamgha Àràma), Tủng Sớ giải thích kê viên dẫn Trí Luận nói: Xưa có lửa hoang đốt rừng. Trong rừng có con chim trỉ chui vào nước giấu cánh để tránh lửa cháy. Toản Yếu nói: Tức chùa Kê-đầu-ma. Tốt-đổ-ba (Stùpa), Tây Vức Ký gọi là Phù-đồ, lại gọi Thâu Bà, Tư Thâu Bá đều sai, đây dịch là phương phần (mà vuông) cũng dịch là viên trũng (mà tròn) hay cao hiển. Dịch nghĩa Linh miếu. Lưu Hy giải thích tên gọi miễu là mạo (hình dạng). Tức hình dạng Tổ tiên ở đó. Lại tiếng Phạm gọi là Tháp-bà. Phát Chẩn nói: Thuyết văn nguyên không có chữ này. Từ Huyền Tân thêm rằng: Là Phù-đồ ở Tây quốc. Nói Phù- đồ thì đây dịch là Tụ Tướng. Giới Đàn Viên Kinh nói: Nguyên chữ Tháp là tiếng của phương này không phải là chữ của Tây Vức. Nếu theo bản tiếng Phạm chỗ chôn giấu xương Phật thì gọi là Tháp-bà. Hậu Phần Kinh nói: Phật bảo A-nan: Phật nhập Niết-bàn trà tỳ xong rồi thì tất cả bốn chúng thâu nhặt xá-lợi để trong bình bảy báu. Ở ngã tư đường trong thành Ca-thi-na mà xây tháp bảy báu cao mười ba tầng trên có luân tướng. Tháp Bích-chi Phật phải mười một tầng, tháp A-la-hán thì bốn tầng cũng dùng các báu mà trang sức. Tháp của Chuyển Luân Vương cũng dùng bảy báu mà thành nhưng không có tần cấp. Vì sao thế? Chưa nói ba cõi có các khổ. Kinh Mười Hai Nhân Duyên nói: Các tháp đều có Lộ bàn. Tháp Phật có tám lớp, tháp Bồ-tát bảy lớp, tháp Bích-chi Phật sáu lớp, tháp bốn quả năm lớp, tháp ba quả bốn lớp, hai quả ba lớp, sơ quả hai lớp, chuyển luân một lớp. Phàm tăng tiêu (đốt) diệp Hỏa châu mà thôi. Chi-đề (Caitya) hoặc gọi Nan-đề Chỉ-đế Chế-để Chế-đa dịch là chỗ có thể cúng dường hoặc chỗ diệt ác sinh thiện. Tạp Tâm Luận nói: Có xá-lợi gọi là tháp, không có xá-lợi gọi là Chi-đề. Văn Cú nói: Chi- đề thì không có xương thân. A-hàm nói: Có bốn chỗ nên làm tháp biểu trưng là chỗ Phật sanh, chỗ Phật đắc đạo, chỗ Phật Chuyển pháp luân, chỗ Phật Nhập Niết-bàn. Xá-ma-xa-na (Savapàsàna), dịch là Trủng (cái mã cao). Tây Vức Tăng chết rồi thì chôn xương dưới đất, trên để nhiều gạch đá giống như Tốt-đổ-ba, chỉ hơi nhỏ thấp hơn. Kiện-đà-cu-chi (Gamdhakuti), nghĩa Tịnh nói: Phương Tây gọi Phật Đường là Kiền-đà-cu-chi, dịch là Hương thất. Tỳ-ha-la (Vihàra) dịch là chỗ Du hành (đi dạo), tức là chỗ Tăng đi dạo. Mãn-trà-la (Mandala), dịch là Đàn. Mới nói gọi đúng là Mạn- trà-la. Nói Đàn thì Trịnh Huyền Chú Lễ nói: Phong Thổ gọi là Đàn, Trừ Địa gọi là Thiện. Phong là khởi thổ giới (nêu ranh giới đất). Đàn là nói Thản (bằng phẳng), Thản là nói mạo (hình dạng). Hán Thư Âm nghĩa nói. Đấp đất cao gọi là Đàn, dọn sạch đất bằng gọi là Tràng. Quốc Ngữ nói: Chỗ quét sạch đất của Đàn gọi là Tràng. Chu Thư nói: Vì ba đàn đồng thiện, thiện là quét sạch đất. Thuyết Văn nói: Là đất đồng. Nhó Nhã nói: Nơi nai ở gọi là tràng. Thi nói: Tháng 9 xây tràng phố. Chú rằng: Xuân hạ làm vườn rau. Thu đông làm tràng. Tràng tức là làm bằng mặt đất trên để lúa thóc. Thoát-xà (Dhraja), Tư Trung dịch là Tràng. Huân Văn nói: Xà có nơi gọi là Độ, dẫn Nhó Nhã nói: Xà là Đài nói thoát là chứa đất bị xoạt ra. Nay không lấy bởi là tiếng Phạm. Câu-tra-ca (Kutaưgaka), dịch là nhà nhỏ. <詞>KIỀN CHÙY ĐẠO CỤ. Bồ-tát Giới Kinh nói: Là đồ giúp đời thuận đạo. Trung A-hàm nói: Chứa vật để giúp thân tiến đạo, tức là đồ làm tăng trưởng pháp lành. Biện chính Luận nói: Sa-môn là biểu tượng của Hạnh vượt tục, tâm dạo ngoài Trần. Cho nên ứng khí không phải trình bày ở làng Miếu, nhuộm áo cho khác với y phục chốn triều đình. Bắc Sơn Lục nói: Phụ quỉ trở đậu chế độ văn chương là đồ của Lễ. Lên xuống trên dưới chu toàn Đản Tập là văn của Lễ. Chuông trống quả khánh vũ thược can thích là đồ của nhạc. Co duỗi cúi ngước chuế triệu thư tật là văn của Nhạc. Bỏ đây thì bỏ Lễ Nhạc. Sửa chép vẽ khắc Đài Hương ghế pháp là đồ của Đạo Đức. Cạo tóc, trịch vai áo lạy, đi nhiễu thiền giảng trai giới là văn của Đạo Đức, bỏ đây thì Đạo Đức yếu. Kiền-chùy (Gantikà-Ganta?) Thinh luận dịch là khánh hay chuông. Tư Trì nói: Như các luật luận đều gọi là kiền-chùy. Tăng Nhất nói: A-nan lên giảng đường gỏ kiền-chùy. Đây là trống hiệu của Như Lai năm phần nói: Các Tỳ-kheo Bồ-tát đúng lúc hoặc không đúng lúc nhóm họp tại phòng Hành đạo. Phật nói: Nếu xướng đến giờ phải đánh kiền-chùy hoặc đánh trống thổi loa. Khiến Sa-di ở lâu và tịnh nhân đánh, không được đánh quá ba tiếng. Nếu xướng giờ thứ hai đến thì cũng khiến Sa-di tịnh nhân xướng ở đông người chẳng nghe khắp thì lên chỗ cao mà xướng, nếu ao chẳng biết thì nói lại cho biết. Nếu không có Sa-di thì Tỳ-kheo đánh cũng được. Sự sao nói: Như việc đánh kiền- chùy bắt đầu bằng những tiếng nhỏ rồi lớn dần cho đến nghe hết mới đánh một tiếng khi Phật còn tại thế chỉ có ba hạ nên Ngũ phần nói đánh ba tiếng. Sau nhân thỉnh người khác (người khác thỉnh) mới có hồi dài. Song khi mới đánh tiếng đầu phải y kinh luận mà lập nêu tâm, ắt cả cảm trưng. Khi đánh chuông lạy Tam bảo xong thì đủ nghi đứng niệm rằng: Ta đánh chuông này để gọi mời Tăng chúng mười phương, những ai được nghe đều đến vân tập, có lợi đồng hòa. Lại chúng sanh chịu khổ ở các ác thú khiến được dừng khổ. Trong truyện Phó Pháp Tạng nói: Vua Kế-nị-tra vì giết hại quá nhiều, chết rồi bị làm cá trăm đầu có cây kiếm chạy quanh thân mà cắt chặt, cắt rồi lại mọc ra. Có vị A-la-hán vì Tăng Duy Na đúng lúc đánh chuông. Khi tiếng chuông đánh lên thì cây kiếm dừng lại trên không chẳng chém chặt nữa. Do nhân duyên như thế mà khiến đánh ngân dài để khổ ta được ngừng lâu. Qua bảy ngày chịu khổ liền dứt. Ở huyện Thượng Nguyên ở Giang Nam có người dân bị bạo bịnh mà chết, tim vẫn còn nóng, ba ngày sau thì sống lại bèn bảo là bị bắt lầm. Tự bảo đến một điện lớn bỗng thấy Chúa cũ bị gông xiềng rất nặng. Người dân kinh hãi hỏi vì sao ông đến nỗi này. Chúa cũ đáp: Ta vì Tống Tề Khâu mà giết lầm kẻ ra hàng ở Hòa Châu hơn 1000 người. Vì kẻ oan tố cáo mà bị tội này. Chúa hỏi người dân ông sao đến đây. Người dân kể chuyện bị bắt lầm Chúa nghe người dân sẽ được sống lại vui mừng khóc lóc bảo ta nhờ ông về nói với vua sau phàm chùa viện đánh chuông nên để ngân dài. Ta chịu khổ chỉ nghe tiếng chuông mà tạm dứt khổ. Có có thể vì ta mà tạo một chuông thì rất tốt. Người dân đáp tôi chỉ là kẻ hạ dân không cớ gì mà được gặp vua. Nếu gặp thì lấy gì làm chứng cớ. Chúa thầm nghó bảo khi ta còn tại vị đã từng giao thiệp với vua nước Vu Điền đã tặng ta một viên ngọc Đoan Thiên vương, ta rất ưa thích thường để trong búi tóc mà nhận bá quan triều kiến. Một hôm vào nhà xí bỏ quên viên ngọc, cảm thấy đầu đau, mộng thấy thần mách bảo đem ngọc để trong tháp Phật hoặc trong thân Phật thì bịnh sẽ lành. Ta liền dắt một người thợ vào chùa Ngõa Quan đục gối trái của Phật để giấu viên ngọc, rồi lấy bùn thơm bít lại không cai biết. Ta lấy việc này để chứng nghiệm. Người dân trở về nhà không dám chậm trễ bèn xin gặp vua kể rõ mọi việc. Quả nhiên vua hỏi lấy gì làm bằng cớ. Bèn đem việc viên ngọc mà trình bày vua bèn đích thân đến chùa Ngõa Quan mổ gối Phật ra mà được viên ngọc. Cảm động khóc lóc. Rồi làm một chuông để ở chùa Thanh Lương, khắc trên đó rằng kính dâng Liệt Tổ Hiếu Cao Hoàng đế mong sớm thoát chốn tối tăm nguy khổ. Rồi dùng tương ngọc mà lập tháp chôn ở Tưởng Sơn. - Tăng Nhất nói: Khi đánh chuông tất cả khổ ở ác đạo đều dừng nghỉ. Ứng Pháp sư nói theo Ni Sao nói: Đến giờ thì tý-tra kiền-chùy. Ứng sư giải thích tiếng Phạm gọi tý-tra, phương này dịch là đánh. Tiếng Phạm gọi kiền-chùy. Phương này dịch là miếng gỗ được đánh hoặc gỗ đàn gỗ đồng, đây không chính dịch vì ở đó không có chuông khánh. Âm nghĩa Chỉ Qui chê rằng: Chỉ như Phạm vương đúc chuông vàng ở chùa Kỳ Hoàn. Lại như Ca-diếp kiết tập tính đồng kiền-chùy, há không có chuông ư? Chỉ Thiên Trúc chưa biết có khánh. Ngũ Phần Luật nói: Tuy có ngói gỗ đồng sắt đánh kêu thì đều gọi là kiền-chùy. Lại trong luật tập hợp Tăng có bảy cách: Một là lượng ảnh, hai là đập ống tre gây tiếng kêu, ba là đốt khói, bốn là thổi ốc, năm là đánh trống, sáu là đánh kiền-chùy, bảy là xướng lớn. Này các Đại dức, Bồ-tát đã đến giờ. Sự Sao nói: Vào pháp đường hải ở ngoài cửa trịch vai áo bên hữu, chắp tay ở tâm hết ý kính thành ngưng tưởng các Tăng trong Đưởng, tưởng đồng với Phật, tưởng đồng với Duyên giác, A-la-hán. Vì sao thế? Vì ba thừa đồng pháp ăn, kế muốn vào Đường. Nếu người ngồi ở cửa Tây thì ở mé ngoài cửa Tây, trước bước chân tả định tâm mà vào. Nếu ra khỏi cửa thì cũng từ phía Tây trước bước chân hữu mà ra. Nếu ngồi ở cửa Đông thì ngược lại như trên nên biết. Chẳng được ở trong cửa mà đi xéo qua. Nếu khi muốn ngồi phải lấy áo che lại chớ để lộ bày hình xấu. Phải biết có năm pháp: Một là phải từ kính trọng pháp tôn người, hai là phải tự ty như cái khăn lau bụi, ba là phải biết ngồi đứng cúi ngước đúng lúc, bốn là ở trong tăng ấy không được nói tạp, năm là việc chẳng nhịn được cũng ráng làm thinh. Phàm oai nghi của đồ chúng phải rất nghiêm túc thanh khiết, quó hạnh (phép tắc) dễ coi thì tạo thiện tâm cho đời, Thiên Long khen ngợi. Hoa Nghiêm nói: Thọ trì đầy đủ oai nghi giáo pháp, thế nên hay khiến Tăng Bảo chẳng dứt. Trí Luận nói: Đệ tử Phật pháp hòa hợp đồng ở: một là Hiền thánh nói pháp, hai là Hiền thánh im lặng. Chuẩn theo chúng đây chỉ có thí hai việc chẳng được tạp nói loại thế luận hay nói ô nhiễm. Lại quí ở yên tịnh không thích ồn ào loạn động. Tụng kinh nói: Pháp ắt phải biết lúc. Thành Luận nói: Tuy là pháp Ngữ nếu nói chẳng đúng lúc thì gọi là Ỷ ngữ Hậu Duệ trụ trì nguyện tuân theo cách này. Xá-la (Sala), Luật Tứ Phần gọi là Trù. Ngũ Phần nói: Trù ngắn nhất cở 5 ngón tay, trù dài nhất khoảng một chỏ tay. To lắm thì không hơn ngón tay út, bé lắm thì không nhỏ hơn đầu đũa. Thập Tụng nói: Vì Đàn việt hỏi tăng không biết số Phật nên khiến làm Trù (cái thẻ) để đếm. Không biết số Sa-di thì làm thẻ mà đếm. Nếu người thí vật Bồ-tát, Sa-di cũng được. Tuy chẳng đến chỗ Yết-ma Bồ-tát là do có nhận thẻ (trù). Luật bốn phần vì người thọ cúng nên phát thẻ (trù) cho Sa-di. Nếu chưa thọ mười giới cũng được lãnh thẻ vì đồng nhận cúng thí. Nghiệp Sớ nói: Có ba cách làm Thẻ (trù): Một là đầu lộ, hai là phú tàng (che giấu), ba là Nhó ngữ (nói nhỏ vào tai khuyên cố gắng). Sự Sao nói: Khiến Tăng trong chùa có sai tăng thứ thỉnh mà bớt khách. Tăng thứ dịch là vượt thứ, tức khiến khách tăng đáng được mà chẳng được, nên chủ nhân phạm tội nặng. Tùy đồng tình, là nhiều ít thông nhau là một trộm (xem như ăn trộm). Kích-khí-la (Khakkhara), dịch là Tích giảo (tích trượng?) do khi rung thì kêu tích tích (xẻng xẻng). Thập Tụng gọi là thinh trượng, tích trượng. Kinh lại gọi là trí trượng hay đức trượng, tức nêu làm cho công đức trí hạnh, là tiêu biểu của Thánh nhân, là minh ký của Hiền só là cái tràng của Đạo pháp. Căn Bản Tạp Sự nói: Tỳ-kheo đi khất thực vào sâu nhà Trưởng giả bèn bị chê bai liền bạch Phật. Phật nói: Có thể lấy tiếng nói để cho họ biết. Các Tỳ-kheo bàn lớn tiếng ha ha ồn ào, lại cũng bị chê bai. Phật cấm không cho. Bèn dùng nắm tay đấm cửa nhưng nhà có mấy người làm lạ ra hỏi vì sao đánh phá cửa nhà ta thì im lặng không đáp. Phật bảo: Nên làm cây tích trượng. Các Bí sô không hiểu. Phật nói: Trên đầu gậy nên để một vòng sắt như miệng cái chén lại để mấy vòng sắt nhỏ, khi lắc động thì có tiếng phát ra khiến biết. Lắc động một, hai lần, nếu không có người thì đi chỗ khác. Ngũ Bách Vấn Luận nói: Cầm tích trượng có lợi nhiều việc như phòng ngừa sâu độc rắn thú v.v… nghĩa Tịnh nói: Tích trượng đều có ba phần: Phần trên là thiếc, phần giữa là gỗ, phần dưới là ngà hoặc sừng. Nếu hai đoạn sáu vòng là của Phật Ca- diếp chế ra, nếu bốn đoạn mười hai vòng là của Phật Thích-ca chế ra. Tề Trù Thiền sư ở núi Vương Ốc tại Hoài Châu nghe hổ đấu nhau bèn lấy tích trượng và giải vây. Nhân đó có tụng rằng: Vốn tự chẳng cầu danh, Chắc chắn danh cầu (tìm) ta. Trước hang can hai hổ, Ắt chướng quả thứ ba. Lại ở ngọn Đặng Ẩn (ngài Đặng Ẩn Phong?) đã phóng tích trượng lên không trung mà giải được hai trận. Lật-yết-tiết (Laguda), dịch là gậy. Có tụng rằng: Lang lật gánh ngang chẳng ngó người, Thẳng vào ngàn núi vạn núi đi. Quân-trì (Kudikà), dịch là Bình. Ký Qui truyện nói: Quân-trì có hai, nếu bằng sành gốm thì gọi là tịnh dụng, nếu bằng đồng sắt thì gọi là xúc dụng. Tây Vức Ký nói: Quân chùy ca tức là rửa bình. Xưa gọi quân-trì là sai. Ở Tây Vức Ni thì chứa bát quân-trì, Tăng thì chứa bát tháo quán (rửa rót) nghĩa là hai miệng cùng rửa rót. Sự Sao gọi là Ứng pháp tháp quán. Tư Trì nói: Một đấu trở xuống. Bát-ly Tát-la-phạt-noa (Paris ràvana), dịch là lọc lượt nước. Hội chính Ký nói: Tây Vức dùng lụa trắng tốt, còn Đông Hạ thì dùng lụa dày. Nếu dùng lụa sống lục thì trùng nhỏ qua được, nếu dùng lụa chín bốn thước nắm biên kéo dài hai đầu đũa nhọn tức hình dáng cái lọc nước. Hai góc làm dây đeo, hai bờ trự câu ở trong đó (giữa) đặt ngang cây gậy trượng sáu, hai biên cột vào gậy dưới có chậu nước. Phải chế nước thấp vào giữa lọc. Nếu không thế thì trùng sẽ theo nước rơi xuống. Rớt xuống đất hay rới trong chậu thì đều chết. Tăng Kỳ nói: Trùng nhỏ phải lọc ba lần (ba lớp lụa?). Tỳ-ni-mẫu nói: Phải làm túi lọc hai lớp, nếu được nên làm ba lớp, không được làm giáp (hai lớp) sợ ở giữa có trùng khó ra. Lọc rồi phải đổ ngược trùng lại nước cũ để hộ sinh. Căn Bản Bách Nhất Yết-ma nói: Có năm thứ lọc nước: Một là Phương-la, là dùng lụa ba thước hoặc hai thước (một thước # 0,4m) tùy lúc lớn nhỏ mà làm; hai là Pháp bình, tức bình âm dương vậy; ba là Quân-trì: Là dùng lụa cột miệng dùng dây treo lên, để chìm trong nước đợi đầy mới dẫn nước (kéo) ra; bốn là Chước-thủy-la; năm là Y-giác-la là chỉ lấy lụa dày vuông một tháp tay hoặc cột miệng bình hoặc để trong bát lọc nước mà dùng. Bát-tắc-mạt (Aksamàlà) hoặc gọi A-rị-tra-ca hai họp đây dịch là sổ châu (niệm chuỗi). Mộc Hoạn Tử kinh nói: Phải xỏ mộc hoạn tử một trăm lẻ tám hạt thường đeo theo mình chí tâm niệm Nam mô Phật-đà, Nam mô Đạt-ma, Nam mô Tăng-già bèn lần qua một hạt đủ như kinh ấy nói. Bát-đa-la (Pàtra), dịch là ứng khí. Pháp Chẩn nói là đồ đựng đúng pháp. nghĩa là Thể-Sắc-Lượng ba thứ đều phải đúng pháp. Thể thì đại yếu có hai: Là bùn đất và sắt. Sắc thì phải xông đốt cho có màu đen đỏ hoặc màu lông cổ chim công hay bồ câu. Lượng lớn nhất thì đựng được ba đấu, nhỏ nhất thì dựng nửa đấu, còn cở vừa thì suy mà biết. Lại dịch là Bạc (cũng) nghĩa là trị vật dày khiến mỏng mà làm đồ đựng này. Nam Sơn nói: Đây là cái đấu của Cơ Chu. Chuẩn theo đấu nhà Đường thì trên bát một đấu, dưới bát năm thăng. Năm phần nói: Phật tự làm Bát để làm mô thức cho đời sau. Khi thọ, theo Thập Tụng nói: Đại đức nhất tâm niệm, Con Tỳ-kheo tên là… Thọ Nhận Bát-đa-la Ứng lượng để thường dùng (nói ba lần). Nếu bỏ chuẩn y thì luật nói: Tỳ-kheo trì bát gỗ, Phật nói không nên trì, vì bát này là pháp ngoại đạo. Kiện-tứ, Mẫu Luận giải thích là Xiển (cạn). Thiết Bát Kinh Âm Sớ nói: Bát nhỏ trong bát nay gọi là Huấn Tử. Thập Tụng Luật nói: Bát bán đại hơi lớn, kiền tư tiểu kiện tư. Tứ Phần Luật nói: Kiền tư vào Tiểu bát, Tiểu bát vào Thứ bát, Thứ bát vào Đại bát. Có khi gọi kiền-thứ hay kiền-từ đều do tiếng Phạm âm nặng nhẹ. Cu-dạ-la, dịch là Tùy bát khí. Pháp Bảo giải rằng: Tức đũa muỗng của bát… Phù-nang (phao nổi), Ngũ Phần Luật nói: Tứ nay cho phép các Tỳ-kheo có Phù-nang hoặc bằng da dê hay da trâu. Truyện nói: Người Tây Vức qua sông biển thường làm nhiều túi lông cánh chim hoặc mang cái bọng đái của con trâu lớn. Khi thuyền biển chìm thì thổi hơi lên làm phao nổi. <詞>SA MÔN PHỤC TƯỚNG. Đại Luận nói: Thích Tử chịu cấm giới là tính, cạo bỏ râu tóc nhuộm áo là tướng. Đạo Tông Sao nói: Oai nghi tức là tướng của Sa- môn, là cạo tóc nhuộm áo, thể là tính của Sa-môn là vô biểu giới pháp. Tăng Kỳ nói: Ba y là tiêu biểu của Sa-môn Hiền thánh. Tứ Phần nói: Ba đời Như Lai đều đắp y như thế. Đại Phẩm nói: Mười hai hạnh đầu đà, y có hai thứ: Một là nạp y. Trí Luận giải thích rằng: Do nhân duyên áo đẹp mà bốn phương đeo đuổi phải rơi vào tà mạng. Nếu nhận áo đẹp của người thì sanh thân trước, còn các đàn việt chẳng thân trước thì nổi hận. Lại áo đẹp thì người chưa đắc đạo sanh ra tham đắm. Nhân duyên áo đẹp gây ra nhiều tặc nạn mà đến cướp mạng sống. Vì có nhiều tai nạn như thế, cho nên chịu pháp nhận nạp y xấu; hai là chỉ có ba y, Trí Luận giải thích rằng: Người tu thiểu dục tri túc, y cốt che thân chẳng nhiều chẳng ít, cho nên chỉ nhận ba y. Kẻ bạch y cầu vui nên chứa nhiều quần áo. Hoặc có ngoại đạo khổ hạnh mà trần truồng không xấu hổ. Thế nên đệ tử Phật bỏ hai biên mà theo Trung đạo. Bắc Sơn nói: Kiều Trần Như áo xấu năm tiền, Tu-bồ-đề phòng hoa trăm báu, đều là Thánh nhân cả. Hành Nhạc trọn đời một áo nạp, Huyền Cảnh khi nắng gắt cởi áo ra đều là cao tăng, khắc chẳng khắc là ở ta, được chẳng được không ở vật. Chấn-việt (Cìvara), Ứng Pháp sư nói: Dịch là Huyền phục phải là ngọa cụ. Thích Danh nói: Áo trên gọi là y, y là nương, do đó để che lạnh nóng. Truyện nói: Y là chương của thân, áo trên gọi là y, áo dưới gọi là thường. Bạch Hổ Thông nói: Y là giấu, thường là che, do đó mà thân hình được che giấu. Niết-bàn nói: Như y thướng (áo quần, y phục) ở đời che giấu thân thể. Ca-sa (Kasàya), gọi đủ là Ca-la-sa-duệ, dịch là bất chính sắc, từ sắc mà được tên. Chương Phục Nghi nói: Nói ca-sa, nhân ở sắc áo, như trong kinh nói là hoại sắc y. Hội chính nói: Theo bản này là tên cỏ có thể dùng nhuộm áo, nên đem tên cỏ kia mà đặt tên y này. Thập Tụng nói: Xem là phu cụ (đồ che) có hình chiếu len. Tứ Phần xem là tọa cụ, là đồng với loại khâm bị (cái mền). Tát-bà-đa nói: Ngọa cụ là tên của ba y. Đại Tịnh Pháp Môn Kinh nói: Ca-sa thì Tấn gọi là Khứ uế. Đại Tập Kinh gọi là: Ly nhiễm phục (áo lìa nhiễm). Hiền ngu gọi là xuất thế phục (áo xuất thế). Chân Đế Tạp Ký nói: Ca-sa là tên ba y của ngoại quốc, tên gồm nhiều nghĩa hoặc tọi Ly trần phục vì đã đoạn dứt sáu trần, hoặc gọi Tiêu dũ phục, do đã cắt đứt phiền não, hoặc gọi Liên Hoa phục, phục là lìa đắm trước, hoặc gọi là Gián sắc phục, vi do sắc như pháp tạo thành. Nói ba sắc thì luật có ba thứ hoại sắc: là xanh, đen, mộc lan. Xanh tức là màu xanh đồng, đen tức màu bùn đen. Mộc lan tức là màu vỏ cây. Nghiệp Sớ nói: Cho phép lấy dao cắt thành y Sa- môn, không bị oán tặc lột ra. Chương Phục Nghi nói: Điều đề chi tướng sự đẳng điền trù như bờ ruộng trử nước mà nuôi mầm lúa. Ví như mặc áo này thì sanh công đức vậy. Phật khiến hình tượng này có nghĩa rất hay. Ngũ Phần nói: Phần dưới y rách nhiều nên lật ngược lại mà đắp để đi ngoài mưa, nước chảy từ lá vào thì phải mặc xuôi. Chương Phục Nghi nói: Tỷ kiến điều diệp bất phu chính nghi phải răng ngựa chân chim mà may lại tức phải thuận phải trái mà điều khai minh khổng nếu không làm tức đồng với mạn y. Nam Sơn hỏi: Tỷ kiến Tăng Tây Vức đến phần nhiều đều may áo lá là sao. Đáp: Sau khi Phật diệt độ hai trăm năm thì ở Bắc Thiên Trúc Tăng cùng ngoại đạo đồng ở chung. Ngoại đạo ganh ghét bèn giấu dao bèn vào áo lá cùng đến chỗ vua ngoại đạo tố cáo trước vua rằng Sa-môn Thích Tử giấu dao trong áo muốn hại vua. Do đó kiểm tra, bèn khắp giết Tỳ-kheo cả nước. Lúc đó Gia-xá A-la-hán khiến các Tỳ-kheo quyền may họp làm tuyệt mạng nạn. Đây là phương ấy gặp việc nên quyền chế không phải do Phật chế. Cho nên Nghi Tịnh nói: Ba y ở Tây Vức đều thứ hợp, chỉ có Đông Hạ mở mà không may. Theo luật may Đại y phải hạn trong năm ngày thì xong y bảy điều phải bốn ngày thì xong, năm điều phải hai ngày thì xong. Nếu số ngày không xong thì Ni phạm tội đọa còn Tỳ-kheo phạm tội Đột-kiết-la. Nghiệp Sớ nói: Nếu có y mà chẳng thọ trì thì phạm Đột-kiết-la. Dưới hai y có cái lớn thì cho may thêm. Bi Hoa kinh nói: Phật ở trước Phật Bảo Tạng mà phát nguyện nguyện khi thành Phật thì áo Ca-sa có năm công đức: Một là vào trong pháp ta mà phạm trọng tội tà kiến v.v… mà trong một niệm kinh tâm tôn trọng thì ắt được thọ ký ở ba thừa; hai là Thiên Long người quỉ nếu hay kính trọng áo ca-sa này dù một phần nhỏ thì cũng được ba thừa bất thối; ba là nếu có quỉ thần các người mà được áo ca-sa cho đến chỉ bốn tấc thì ăn uống no đủ; bốn là nếu chúng sanh cộng tướng trái nhau, mà nghó sức ca-sa thì liền sanh từ tâm; năm là nếu từ chỉ một phần nhỏ mà cung kính tôn trọng thì thường được thắng tha (hơn nó). Kinh Anh Lạc nói: Nếu trời rồng tám bộ đánh nhau nghó đến áo ca sa thì liền sanh tâm từ bi. Kinh Hải Long Vương nói: Long Vương bạch Phật rằng: Như trong biển này có vô số rồng, có bốn kim sí điểu (chim cánh vàng) thường đến bắt ăn, nên nguyện Phật thường ủng hộ khiến được an ổn. Phật liền cởi kích y (có cánh) ra bảo Long vương rằng: Ông lấy y này phân đều khắp các rồng dầu chỉ một sợi thì kim xí điểu cũng không xúc phạm được. Người trì cấm giới, chỗ nguyện được toại. Sưu Huyền Dẫn Đại Tập: Vua hỏi các Tỳ-kheo nói không được bèn xấu hổ té xuống đất, áo Ca-sa biến thành màu trắng. Pháp Tạng Tận Kinh nói: Áo ca-sa của Sa-môn tự nhiên đổi màu trắng, Ứng Pháp sư gọi là Ca-sa. Cát Hồng Tự Uyển đầu tiên đổi Ca-sa thành Y. Tăng-già-lê, Tây Vức Ký gọi là Tăng-ca-chi, xưa lầm gọi là Tăng-già-lê, dịch là Họp hay trùng (lớp), nghĩa là cắt ra nhiều miếng rồi may lại. nghĩa Tịnh gọi Tăng-ca-chi, Đường gọi là trùng phức y. Linh Cảm Truyện nói: Mỗi khi Chuyển pháp luân thì mặc Tăng-già- lê. Nam Sơn nói: Tên ba y này các bộ không dịch, này chỉ dịch nghĩa: Đại y gọi là Tạp toải y vì có nhiều điều. Nếu từ dụng mà gọi tên thì tên là Nhập vương cung tụ lạc thời y (y mặc vào cung vua làng xóm) khi khất thực và nói pháp thì mặc vào. Luận Tát-bà-đa nói: Đại y phân làm ba bậc: Chín điều, mười một điều, mười ba điều hai dài một ngắn gọi là Hạ phẩm; mười lăm điều, mười bảy điều, mười chín điều ba dài một ngắn gọi là Trung phẩm; hai mươi mốt điều, hai mươi ba điều, hai mươi lăm điều bốn dài một ngắn gọi là Thượng phẩm. Hội chính Ký hỏi do đó mà dài thêm ngắn bớt (thiếu). Nghiệp Sớ nói: Pháp phục kính ruộng làm lợi các hữu tình biểu thị cho Thánh tăng mà phàm giảm bớt. Nghiệp Sớ nói: Nay chuẩn theo Thập tụng, Gia Trì Ứng nói: Đại đức nhất tâm niệm con là Tỳ-kheo tên…… Tăng-già-lê này có…… điều, có……. dài,…….. ngắn cắt thành điệp y để trì (ba lần). Hội chính Ký nói: Nếu thiếu đại y, hai y sau có lớn khai cho may thêm cái mới để thọ trì. Nên nói thêm rằng: Đại đức nhất tâm niệm con là Tỳ-kheo tên…….. Y An Đà Hội này có hai mươi lăm điều có bốn dài hai ngắn cắt may thành y để thọ trì. Đại đức nhất tâm niệm, con Tỳ-kheo tên là……… Tăng-già-lê này là số ba y trước đã thọ trì, nay bỏ (nói một lần, hai y kia cũng thế). Uất-đa-la-tăng (Uttaràsưga) hoặc Úc-đa-la-tăng. Dịch là Thượng trước y tức y bảy điều. Nam Sơn nói: Y bảy điều gọi là Trung giá y. Từ dụng mà nói là y mặc khi (nhận chúng thời y) vào chúng lễ tụng trai giảng. Khi thọ trì nên thêm pháp nói rằng: Nay thọ trì Uất-đa-la-tăng bảy điều này hai dài một ngắn cắt nay thành y. An-đà-hội (Amcarvàsaka) hoặc An-đát-la-bà-sa, dịch là Trung túc y tức là cận thân trụ (luôn mặc theo mình). Nam Sơn nói: Y năm điều gọi là hạ y, từ dụng mà nói là y mặc trong nội viện để làm việc. Khi thọ thì nói thêm rằng: Thọ trì y An-đà-hội năm điều này một dài một ngắn cắt may thành y để thọ trì. Kinh Bồ-tát nói: Y năm điều gọi là Trung tước y, y bảy điều gọi là Thượng trước y, Đại y gọi là Chúng tập thời y. Giới Đàn Kinh nói: Năm điều Hạ y đoạn thân tham, bảy điều trung y đoạn sân khẩu (miệng giận), Đại y thượng y đoạn tâm si. Hoa Nghiêm nói: Mặc Ca-sa thì lìa bỏ ba độc. Tứ Phần nói: Con ôm ấp kiết sử chẳng nên mặc áo Ca-sa. Bát-tra (Pataka), Đường gọi là Mạn điều tức là một mảnh liền nhau không có phân thành tướng bờ ruộng. Ba y đều thông mạn. Từ khi Phật pháp đến cõi này một trăm tám mươi bảy năm xuất gia chưa biết gián đoạn chỉ mặc áo này. Ni-sư-đàn (Nisìdana) hoặc Ni-sư-đát-na, dịch là tọa cụ hoặc tùy tọa y. Nghiệp Sớ nói: Phật bảo vì thân làm y làm ngọa cụ cho nên cho phép chứa giữ. Dài 4,5 ngắn 3,5 gang tay (90cm x 70cm). Thiện Kiến nói: Ở nhiều nơi may lớn hơn. Thập Tụng nói: Mới thì may hai lớp, cũ thì bốn lớp. Thập Tụng nói: Chẳng nên nhận một cái, rời đêm thì phạm tội Đột-kiết-la. Giới Đàn Kinh nói: Ni Sư Đàn như tháp có nền, ông nay thọ giới rồi tức là nền của năm phần pháp thân, bởi vì năm phần do giới mà thành. Nếu không có tọa cụ để thân ông ngồi thì năm phần định tuệ không do đâu mà sanh. Thiên thần Hoàng Quỳnh nói: Khi Phật mới độ năm người và anh em ông Ca-diếp thì đều chế mặc áo ca-sa bày vai tả, còn tọa cụ ở phía dưới áo ca-sa… sau độ các chúng thì học trò đông dần, Tỳ-kheo trẻ hình dạng đẹp đẽ vàp thành khất thực phần nhiều bị các cô gái yêu. Do đó mà chế y giác ở tay tả, sau bị gió thổi nên cho dùng Ni Sư Đàn phủ lên vai. Sau có ngoại đạo là Đạt-ma-đa hỏi Tỳ-kheo rằng: Miếng vải trên vai dùng để làm gì? Đáp: Để lót ngồi v.v… Đạt-ma-đa nói: Y này rất là đáng quí có oai linh lớn, đâu nên lấy miếng vải ngồi mà phủ lên. Tỳ-kheo bạch Phật. Do đó Phật lại chế dùng y giác ở cánh tay tả, còn tọa cụ lại làm y dưới nhưng không được kéo dài góc nhọn thành vòi voi tai dê. Ma-đắc-lặc-già nói: Nếu rời đêm thì không cần bỏ (xả). Nghiệp sớ nói: Khi thọ nên nói Đại đức nhất tâm niệm, con Tỳ- kheo tên là… nay thọ trì Ni Sư Đàn này làm đúng thước tấc (nói ba lần như bỏ). Tăng-ki-chi (Saưkaksikà) hoặc Tăng-kiếp-chi. Tây Vức nói: Đường gọi là Am dịch. Xưa gọi là Kiệt chi, gọi đúng Tăng-ca-chí, dịch là phú dịch y (áo che nách) dùng để phủ vai tả, hưu khai tả hợp (mở vai hữu thì đắp vai tả). Trúc Đạo Tổ nói: thời Ngụy thỉnh Tăng ở trong cung mặc tình, người trong cung thấy tăng để bày vai cho là không tốt, bèn may áo này mà cúng tăng. Nhơn đó nối với bên tả phủ trên kỳ chi. Nhân đó được tên tức là Thiên sam hữu biên (miếng phủ trên vai phía hữu?). Nay bỏ tên kỳ chi gọi chung là Lưỡng tụ (hai tay áo). Nói Thiên Sam, nay có may thì cho làm thêm cái cổ áo (đeo lên cổ) để giữ nguyên hình thức cũ. Ni-phược-ta-na (Nivàsana) hoặc gọi Ni-phạt-tán-na. Tây Vức Ký nói: Đường gọi là quần. Xưa gọi Niết-bàn tăng là sai. Không có lai áo gấp áo làm nếp lấy dây buộc lại gấp các bộ đều khác nhau, có sắc vàng đỏ chẳng đồng. Thích danh nói: Quần là quần (bầy) tức liên tiếp nhiều bức (tấm). Xá-lặc (Sànaka), Ứng Pháp sư giải thích gọi là nội y (áo lót). Bán là nói Xá-lặc tướng ngắn giống như cái quần ngắn. Tiểu y luận tuy chẳng chú ý đến hình tướng, nhưng có thể xếp loại thuộc bán nê hoàn. Ca-hy-na (Cathina), Minh Liễu Luận nói: Chỉ gọi Ca-đề, dịch là công đức, vì ngồi các Ha nên có công, có năm lợi nên gọi đức. Tây Vức Ký nói: vì ca-đề dịch là ngang tịnh, vì ngang tịnh trực tháng này. Luật sao Dẫn Minh Liễu Luận nói: Dịch là kiên thật năng cảm thật năng cảm đa y, y vô bại hoại. Lại gọi là nan hoạt. Vì người nghèo lấy sự sống làm khó, bỏ ít tiền vào y này, thì công đức còn hơn dùng y lớn như núi Tu-di mà cúng thí. Hoặc gọi là kiên cố (bền chặc) hoặc gọi ấm phú. Xưa gọi là thưởng thiện phạt ác y thưởng cho người trước an cư. Người an cư rồi không được nhận. Cũng gọi là công đức y. Vì Tăng chúng đồng nhận y này được công đức năm lợi. Trong luật nói thọ y này là nuôi lớn tiền của lìa này ban đêm trái thì thỉnh ăn biệt chúng, trước ăn và sau ăn đến nhà người khác. Tứ Phần nói: An cư rồi phải thọ y công đức, thì người trước an cư ngày 16 tháng 7 thọ đến ngày 15 tháng 12 thì bỏ (xả). Tứ Phần nói: Nếu được y mới hoặc đàn việt thí cho y hoặc y phấn tảo, vật mới thì xếp giữ sạch nếu vật đã giặt rồi thì giặt xong giữ làm sạch, tức ngày đến mà chẳng qua đêm thì không do tà mạng mà được ứng pháp. Bốn phía phải may biên lớn, năm điều chia làm mười biên dụng sắc ca-sa khi thõ khi xả phải đánh chuông mời tăng Yết-ma (Trích đủ trong Tự Tứ Thiên). Kiều-xa-gia (Kạuseyaka), Ứng Pháp sư dịch là Trùng y tức là bông tơ tầm hoang mà dệt thành y. Sự Sao nói: Tức hắc mao ngọa cụ. Ninh Âm nghĩa nói: Phạm gọi là Cao-thế-gia, giải thích là bông tằm hoang. Đông Thiên Trúc có nước tên là Ô-đà, cây lúa tẻ sáp chín lá biến thành sâu, sâu thì ăn gạo, người ta bắt nấu để lấy bông. Như tơ bông đây thì gọi là Ma-ha-bạt-đa, dịch là Đại y. Y rất quí tức y có giá trị lớn. Cảm Thông Truyện nói: Thấy các Phạm tăng từ Tây Trúc đến đều mặc Bố điệp cụ (y vải dảy). Vấn Đáp nói: Nước năm Thiên Trúc không mặc áo tơ tằm. Do đây mà nghó làm chương Phục nghi này. Khuất-thân (Kàrpàsa?), dịch là Đại tế bố, chọn cây bông hoa tâm mà dệt thành, sắc nó xanh đen, tức là y ca-sa của Đạt-ma truyền cho. Đàm(viêm)-bà (Campa), dịch là mộc miên. Kiếp-ba-dục (Karpàsa) hoặc gọi Kiếp-bội tức mộc miên, chính gọi là Ca-ba-la là tên cây này có thể làm vải là tên áo bông của Cao Xương quốc, phía Nam nước Kế Tân lớn thành cây ở đây hình nhỏ giống như cây thổ quì có lớp vỏ nở ra bông như liễu nhự (cây gòn?) có thể dệt làm vải. Ca-lân-đà (Kacilimdika) là Tế miên y. Đâu-la-miên (Tula-Salmala), Đâu-la dịch là tế hương, Uyển Âm nghĩa dịch là Băng hoặc gọi Đâu-sa dịch là sương. Đây đều từ sắc làm tên, hoặc gọi Đố-la-miên là tên cây Đố-la, bông (miên) do cây sanh nhân đó mà đặt tên như Liễu như vậy, cũng dịch là Dương Hoa, hoặc gọi là Đâu-la-nhó, mao là lông tơ mềm. Huân Văn nói: nghĩa là tay Phật mềm mại như tơ lụa trơn giống như bông. Cù-tu-la (Citra), dịch là Đồ tượng. Từ hình cái y mà lập tên, nếu mặc Cù-tu-la thì chẳng mặc Tăng-ca-chí. Ni-vệ, dịch là Lý y (áo trong - trong áo?) Khâm-bạt-la (Kavari) tức là lông. Đầu-cưu-la, dịch là Tế bố (vải mềm mịn). Sô-ma (Ksauma), dịch là ma y (áo gai). Tây Vức Ký nói là loại áo gai. Gai nhỏ như cây kinh giới, lá màu. Tây Vức Ký nói: Gai ít dùng nhiều cỏ, lông dê. Khâm-bát-la (Kambala), Tây Vức Ký nói: Lông dê dệt nhuyễn mịn. Yết-lại-ly (Harali), Tây Vức Ký nói: Dệt lông tơ thú hoang mềm mịn có thể chứa giữ, vì thấy quí mà thường mặc. Đâu-na-ba-tra, dịch là lụa. Cu-tô-ma (Kusuma), dịch là hoa. Ma-la (Màlà), dịch là man (tóc mượt). Uyển Sư nói: Tất cả hoa gọi chung là Cu-tô-ma. Riêng có hoa riêng gọi là Cu-tô-ma thì đây dịch là duyệt ý. Hoa ấy lớn nhỏ như đồng xu sắc rất tươi trắng có nhiều lá nhỏ tròn cùng hợp thành. Ứng Pháp sư nói: Tây Vức có thợt kết chải tóc, cách kết chải rất quen thuộc, nam nữ sang hèn đều làm việc này hoặc đầu hoặc thân để làm đẹp. chính Pháp Niệm Xứ nói: Sanh lên trời thì vành hoa ở trên trán. <詞>TRAI PHÁP BỐN THỰC. Phật Địa Luận nói: Nhậm trì gọi là thực (ăn). nghĩa là hay nhậm trì sắc thân khiến nó không hư hoại, nuôi lớn thiện pháp, thân nhờ ăn mà trụ, mạng nhờ ăn mà còn, chảy vào năm tạng thấp khắp bốn chi, bổ ích khí cơ, thân tâm đều vui thích. Lăng Nghiêm nói: Như thế thế giới mười hai loài không thể tự toàn phải nương vào bốn thực mà sống còn (trụ). Do đó gọi là Đoàn thực, Xúc thực, Tư thực, Thức thực. Thế nên Phật nói: Tất cả chúng sinh đều nương vào ăn mà sống còn (trụ). Huề Lý giải thích rằng: Nói đoàn thực, Đoàn nghĩa là hình đoàn (viên, cục, miếng). Lấy hương, vị, xúc ba trần làm thể, vào bụng biền hoại (nát ra) giúp ích các căn. Cho nên nói Đoàn thực. Nói Xúc thực, Xúc nghĩa là chám đối nhau, lấy sáu thức tương ứng đối nhau với tiền cảnh mà sanh vui mừng, nên gọi là Xúc thực. Nói Tư thực, tư tức là ý nghó, là lấy sáu thức tương ứng với tư và ý cảnh mà sanh hy vọng (trông mong). Nói Thức thực, Thức tức làtướng chấp trì của thức thứ tám do ba thứ ăn trước co thế mạnh giúp sức khiến thức này tăng mạnh có thể chấp trì các căn đại chủng. Nếu ước ba cõi mà luận thì Đoàn thực chỉ ở Dục giới, vì ở Sắc, Vô sắc không có hai trần hương vị. Còn 3 thứ ăn kia thì chung cho cả ba cõi. Đây là nói chung về bốn thực (bốn thứ ăn). Tăng-bạt (Sampràgata), tức xướng pháp của Đẳng cúng. Ký Qui Truyện gọi là Tam-bát-la-khư-đa. Xưa gọi sai là Tăng-bạt. Phạm Ma Mạn Quốc Vương Kinh nói: Phàm người muốn thí thực cần phải bình đẳng chẳng luận lớn nhỏ. Do đó Phật khiến A-na khi ăn phải xướng đọc Tăng-bạt. Tăng-bạt là chúng tăng khi ăn cơm đều bình đẳng. Cho nên Trang Nghiêm Luận nói: Thi-lợi-cúc-đa Trưởng giả nhận lời dặn dò của ngoại đạo nên lấy chất độc trộn vào thức ăn mà thỉnh Phật và chúng tăng. Phật biết trước khiến A-nan đọc Tăng-bạt. Đọc xong mới ăn. Đọc xong thì chất độc tan mất. Sự Sao nói: Huống Tăng ăn khắp đồng mười phương, họ tự lấy phần mình lý đáng tùy hỷ mà tình người hẹp hòi kiêng kî dùng tâm không bình đẳng. Hoặc có kẻ đóng cửa hạn chế khách tăng chẳng là dại dột lắm ư? Đánh chuông (chuông kêu) bổn ý đâu như thế. Xuất gia đãbỏ mê đắm rất không nên như thế. Chỉ sợ nguy hiểm cho thân mà không thể hộ trì chính pháp. Mạng phù du giả dối chẳng chịu xa thông tăng ăn trái lời Phật dạy tổn phước đàn việt, thương hại tình chúng nhất thời lấp hết đường tăng mười phương. Truyền nhầm sau sanh bại xa, sửa mê trước mà trở lại đường xưa, chẳng tốt lắm sao? Có người hỏi việc Tăng có hạn, khách ngoài thì vô cùng, đem cái ăn có hạn mà cúng Tăng vô cùng thì việc chẳng thể vững được. Đáp rằng: Đây là độ lượng cạn cợt thô bỉ, chỗ hoài bảo vụn vặt ngắn ngủn, há có thể gọi là Thanh trí biết sâu kẻ đạt só thấy xa! Phàm tứ sự cúng dường là phước điền Tam bảo cũng như trời đất sinh trưởng nói biển thọ dụng đâu có khi nào hết! Cho nên Phật Tạng Kinh nói: Phải một lòng hành đạo tùy thuận pháp hạn chớ nghó việc ăn uống là cần thiết. Một phần trong tướng Bạch hào của Như Lai cúng cho tất cả đệ tử xuất gia cũng chẳng thể hết. Do đây mà nói thì siêng tu giới hạnh, chí thành hộ pháp, do đạo được lợi vì đạo mà thông dụng (dùng chung) chùa chùa mở cửa, chốn chốn cùng ăn, ắt phải cúng thí đầy đủ, phán là không thiếu hụt, phàm thi thọ thực (ăn cơm) phải làm năm quán: Một là kể công nhiều ít lường vật người đem đến, hai là đức hạnh mình toàn hay khuyết nhiều ít, ba là phòng tâm ngăn lỗi chẳng phạm ba độc, bốn là xem ăn như vị thuốc hay để trị mình gầy, năm là vì thành đạo nghiệp, báo dời không phải là ý mình mong. Sự Sao nói: Ăn không quá ba muỗng: Muỗng một: đọc đoạn tất cả ác; muỗng hai: đọc tu tất cả thiện; muỗng ba: đọc độ tất cả chúng sinh. Tăng Nhất nói: Ăn nhiều thì gây khổ hoạn. Ăn ít thì khí lực yếu, ăn vừa chừng thì bèo không cao thấp. Bộ-sa-tha (Posadha), dịch là ngày trai. Thỉnh Quán Âm Kinh Sớ nói: Trai là tề (ngang, đều) tức ngang nhau về thân khẩu nghiệp, ngang tức chỉ là Trung đạo. Sau (sau giờ ngọ) chẳng được ăn, là biểu thị Trung đạo Phật giáo, ngoài ra chẳng có một pháp khác. Trước trung được ăn mà không phải chính trung. Đây là biểu thị phương tiện trước chỉ giống Trung đạo, được nghĩa có chứng nên được ăn. Cũng là biểu thị ngoài Trung đạo pháp giới còn có pháp. Xiển nghĩa Dẫn Tế Thống nói: Trai nói là tề (ngang đều…?) Tề và bất tề đều gây nên trai. Cho nên quân tử không có Đại sự không có cung kính thì chẳng trai. Chẳng trai thì ở vật không phòng mà ham muốn không ngừng. Kịp khi có trai thì phòng tà vật, dứt ham muốn, tai không nghe nhạc. Nay họ Thích lấy ăn không quá giờ Ngọ làm trai thì cũng là phòng tà dứt ham muốn là nghĩa tề bất tề vậy (làm ngang bằng các thứ chẳng ngang bằng). Kinh Tỳ-la Tam- muội nói: Vua Bình Sa hỏi Phật vì sao Phật ăn giữa trưa? Đáp: Sáng sớm là chư thiên ăn, giữa trưa là ba đời Phật ăn, chiều là súc sanh ăn. Nay ước Lý mà giải cho nên nói trai chỉ là Trung đạo. Sau Trung chẳng được ăn là tức là Phật chế sau trưa (ngọ) chẳng được ăn vậy. Nay biểu thị Sơ trụ, Sơ địa viên chứng Trung đạo, ngoài tâm không pháp, như sau trưa không ăn. Trước Trung (Ngọ) được ăn. Là Phật chế trước Trung không phải là chính thực (bữa ăn chính) nhưng đều được ăn. Tỳ-bà-sa Luận nói: Phàm trai là quá Trung (trưa) không được ăn bàn thể, lấy tám sự giúp thành trai thể, cùng với trì danh (niệm Phật?) và tám chi trai pháp (bát quan trai?). Báo Ân Kinh nói: Nếu không trọn đời giữ giới thì không gọi là Ưu-bà-tắc chỉ gọi là người trung gian. Trí Luận hỏi: Sao phải sáu ngày trai thọ tám giới tu phước đức? Đáp vì các ngày ấy ác quỉ đuổi bắt người muốn cướp lấy mạng sống, bịnh tật hung suy khiến người không tốt. Thế nên kiếp xưa Thánh nhân dạy người trì trai tu thiện làm phước để tránh hung suy. Lúc đó trai pháp chẳng thọ tám giới, trong suốt một ngày chẳng ăn làm trai. Sau Phật ra đời khuyên dạy một ngày một đêm như chư Phật trì tám giới chẳng ăn quá Trung (ngọ), thì công đức ấy đem người đến Niết-bàn. Như trong kinh Tứ Thiên Vương Phật nói: Một tháng có sáu ngày trai. Sứ giả, Thái tử và bốn Thiên Vương xuống Trần xem xét chúng sinh, ai bố thí trì giới hiếu thuận cha mẹ thiếu sót thì lên trời Đao-lợi tâu bày, Đế-thích các trời tâm đều chẳng vui bảo rằng: Chủng A-tu-la càng nhiều, chủng các trời giảm ít. Nếu bố thí trì giới hiếu thuận cha mẹ nhiều thì các trời Đế-thích tâm đều vui mừng bảo rằng: Tăng nhiều các trời mà giảm ít giống A-tu-la. Lại Kinh Đề-vi nói có tám ngày vua. Những gì là tám ngày vua: Tức là lập xuân, xuân phân, lập hạ, hạ chí, lập thu, thu phân, lập đông, đông chí. Đó là tám ngày vua. Trời đất các thần âm dương thay nhau nên gọi là tám ngày vua. Ô-bồ-sa-tha (Upavasatha), dịch là thọ trai, lại gọi là tăng trưởng, nghĩa là thọ pháp trì trai, thêm lớn thiện căn Nam Tề Trầm Ước Tự Hưu Văn Tuyển Luận rằng: Sở dó người chẳng được đạo do vì tâm thần hôn hoặc. Sở dó tâm thần hôn hoặc là do ngoại vật quấy rối. Quấy rối lớn thì có ba việc: Một là vinh danh thế giới, hai là yêu gian mî mạn, ba là cam chỉ phì nồng vinh danh (ngon ngọt nồng béo) tuy nhật dụng ở tâm, thì cần phải không có lụy cữu khắc. Yêu gian mî man mới đã sâu thì cam chỉ phì nồng bị lụy càng cần thiết vạn sự v.v… đều là nhánh lá của phần thứ ba. Thánh nhân biết chẳng thể đoạn dứt ba việc này cho nên cầu đạo không do đâu mà được. Chẳng vì lập háp mà khiến dễ theo, nếu nói thẳng ba việc là gốc mê hoặc đều phải cấm hẳn. Mà ba việc này là tình người rất bị mê hoặc nghó lụy ắt khó tránh, tuy có ý cấm chỉ nhưng việc rốt khó theo. Ví như đem thuyền cứu người há chẳng muốn đến thẳng bờ kia nhưng nước sông chảy siết, gặp lý không cứu ngay thì chẳng được chẳng theo dòng tà mị lâu mà đến được, không cần cầu mau vì việc có khó khăn. Cấm ba thứ này phải có đầu mối, sao cần dứt nhanh việc ăn uống ở người, đối với chỗ lụy của tình tính chớ nhiều, lấy ăn chiều để vào ăn sáng và ăn trưa, buổi ăn chiều nên thanh hư vô sự, nhân vô sự này mà niệm lự được hết mới đầu chưa chuyện nhưng lâu dần sẽ quen. Do đó mà tám chi cấm giới buộc ràng, cái muốn mî man không do đâu mà được trước. Vinh danh các lụy, dần dần theo việc má khiển. Cho nên nói: Chư Phật từ xưa không ăn quá ngọ. Bởi là nôm bẫy để khiển lụy, là đường tắt đến với đạo, mà người mê lầm bảo cấm chẳng cho ăn, đây là mê phương hướng mà chẳng biết đường đi. Nơi nơi khi Phật đều nói không ăn quá ngọ có năm phước: Một là ít âm, hai là ít ngủ, ba là được nhất tâm, bốn là không có hạ phong, năm là thân được an ổn, cũng chẳng gây bịnh. Tứ Phần Giới nói: Nếu Tỳ-kheo ăn phi thời thì Phạm-ba-dật-đề. Bộ-xà-ni (Bhojaniya), Tứ Phần Luật nói: Có năm thứ Bồ-xà-ni, dịch là chính thực tức là miến (miểu) phạn càn phạn Ngư nhục. Tăng Kỳ nói: Thời thực tức là ăn đúng giờ, phi thời thực là sai giờ không được ăn. Đa luận nói: Từ sáng đến trưa là ánh sáng càng mạnh nên gọi là thời, sau trưa (sau Ngọ) ánh sáng yếu dần gọi là phi thời. Nay nói trung thực là mặt trời đúng ngọ thì được ăn. Tăng Kỳ nói: Nếu giờ ngọ qua một nháy mắt, một sợi tóc thì là phi thời. Vua Tống Văn Đế đãi cơm Tăng thì đồng chúng ngồi chung chiếu. Dọn cơm trễ, chúng nghi sắp xế chiều nên không ăn. Vua nói mới bắt đầu giờ Ngọ (Trung) thôi. Sanh Công nói: Mặt trời sáng trên cao, trời nói mới Trung (Ngọ) sao được không phải Trung. Bèn cầm bát mà ăn. Cả chúng liền theo. Vua rất vui. Khư-xà-ni (Khàdanìya), Tứ Phần nói: Có năm thức Khư-xà-ni, dịch là Bất chính trực. Tức là canh lá hoa quả mạt vụn mài ăn. Bán-giả-bồ-thiện-ni (Pamcabhojaniya), Ký Qui Truyện nói: Đường nói có năm thứ ăn, tức là cơm, canh, miến v.v… Bán-giả-kha-đản-ni (Pamcakhàdaniya) dịch là Tước thực tức là rễ thân lá hoa quả. Ký Qui Truyện nói: Nếu đã ăn năm thứ trước ắt chẳng ăn năm thứ sau. Nếu trước đã ăn năm cái sau thì ắt năm cái trước ăn tùy ý. Nay Tăng sau trai chẳng ăn rau quả. Khứ-đà-ni (Khàdanìya) hoặc Khiên-trà, dịch là khả thực vật (vật ăn được) Bát-hòa-la (Pravarana)-pavarana?), Ứng Pháp sư căn cứ vào kinh Tự Thệ gọi là Bát-hòa-lan, cũng là tiếng Phạm đọc nặng nhẹ mà thôi. Dịch là Tự tứ thực. Ứng Pháp sư nói là Tọa lạp lạp bỉnh. Tức là bánh hết hạ hiến Phật, gọi là Phật lạp thực. Lại phương Tây lấy ngày Phật từ trời giáng xuống cung trời mà cúng dường Phật ăn gọi là Phật lạp thực. Hội chính Ký nói: Tức đãi Phật Tỳ-kheo ăn ngày Tự tứ. Phân-vệ (Paimdapàtika pimdapàta), Luân Thiện Kiến nói là Tỳ- kheo khất thực. Tăng Kỳ Luật nói: Khất thực là phân thí tăng ni vệ hộ khiến tu Đạo nghiệp, nên nói là phân vệ. Ấy là luận từ tiếng Phạm, luật từ tiếng Hoa, hai thuyết chưa rõ ràng. Ứng Pháp sư nói: chính là Tân- trà-ba-đa, đây dịch là Đoàn Đọa, là nói ăn cái gì rơi trong bát. Hoặc gọi là Tân-trà-dạ, dịch là Đoàn, Đoàn là thực đoàn, tức là đi khất thực vậy. Thập Nhị đầu Đà nói thường khất thực. Đại Luận giải thích có ba thức ăn: Một là thọ thỉnh thực (được mời ăn), hai là chúng tăng thực, ba là thường khất thực. Hai thức ăn trước là khởi nhân duyên các lậu. Vì sao thế? Vì thọ thỉnh thực nếu được thỉnh thì nghó rằng ta là người phúc đức tốt cho nên được. Nếu không được thỉnh thì ghen hờn người thỉnh, thỉnh người đáng thỉnh. Hoặc tự bỉ bạc, áo mão tự tình mà sanh buồn khổ. Ấy là pháp tham ái hay chướng ngại đạo. Chúng tăng thực, là vào chúng phải tùy chúng pháp đoạn sự khoa lý, tăng sự xử phần sai làm việc, tâm thì tán loạn phòng bỏ hành đạo, có như thế các việc loạn cho nên phải thọ pháp thường khất thực. Phụ Hành nói: Các văn luật luật nói: Pháp khất thực không phải một chỗ mà đủ, vì phước cho người khác nên khiến phải đến bảy nhà. Triệu Pháp sư nói: Khất thực có bốn ý: Một là làm phước lợi cho quần sanh, hai là để bẻ gãy kiêu mạn, ba là vì biết thân có khổ, bốn là trừ bỏ chỗ trệ trước. Bảo Vũ Kinh nói: Khất thực thành tựu mười pháp: Một là nhiếp thọ các hữu tình, hai là làm thứ lớp, ba là làm không mỏi mệt (biếng lười), bốn là biết tri túc, năm là vì phân bố, sáu là khiến không đam mê (mê đắm), bảy là khiến biết lường, tám là thiện phẩm hiện tiền, chín là thiện căn viên mãn, mười là lìa ngã chấp. Bảo Vân Kinh nói: Khất thực chia bốn phần, một phần đấng bậc đồng phạm hạnh, một phần cho người ăn xin, một phần cho các quỉ thần, một phần tự ăn. Phụ Hành nói: Xưa có Trưởng giả tên là Cưu-lưu chẳng tin nhân quả, cùng năm trăm người cùng đi xa thấy đám cây tưởng là có nhà người, đến đó chỉ thấy thần cây đảnh lễ xong nói mình đói khát. Thần liền chỉ năm ngón tay thì liền có nhiều thức ăn hiện ra ngon ngọt khó tả. Ăn xong khóc lớn. Thần hỏi nguyên do thì đáp con có năm trăm bạn cũng rất đói khát. Thần liền gọi lại rồi cho ăn như trước, mọi người đều no. Trưởng giả hỏi: Do phước nào mà được thế. Đáp rằng: ta vốn ở thời Phật Ca-diếp rất nghèo, ở ngoài cửa thành mài gương, mỗi khi có Sa-môn khất thực thì ta thường lấy mấy ngón tay chỉ chỗ khất thực và tinh xá Phật như thế rất nhiều lần, nên chết rồi mà sanh đây. Trưởng giả đại ngộ, ngày đãi cơm tám ngàn Tăng. Nước vo gạo chảy ra ngoài thành có thể đi thuyền được. Đát-bát-na (Tamana), dịch là Miễu, Thông Tuệ Chỉ Qui nói: nghĩa là đem gạo dâm nát mà hong khô. Mẫu Luận nói có hai thứ tán miễu lại bỏ đường mật mà để dành. Hoặc nói Bị cùng miễu chẳng đồng. Hậu Đường nói: Bị là cơm nấu khô cứng (cơm cháy?). Phụ Thiên nói: Lấy cơm khô giả nhỏ rây kỹ mà làm bị. Mạnh Tử nói: Thuấn ăn cơm khô với rau khứu là cơm khô nát. Ca-sư (Krsara), Hậu Đường nói: Đường gọi là Thác mạch, Từ Hòa nói: Người Bắc gọi là Yên mạch, người Nam gọi là Tước mạch. Nam tuyền sao nói: Đem Thác mạch làm đại mạch. Thập Tụng chỉ Ca Sư là cơm tiểu mạch. Sự sao nói: Thác mạch cùng Ca sư là một vật. Tu-đà (Sveta), dịch là Trắng, hoặc gọi Tu-đà là trời ăn. Thiên Thai Thiền sư quán pháp tâm thực đã trải tòa ngồi xong thì nghe Duy-na dâng lên tiếng khánh sau vòng tay cúng dường Nhất thể Tam bảo khắp mười phương làm các Phật sự. Kế xuất cơm cúng thí sáu đạo tức biểu thị cho sáu Ba-la-mật. Rồi sau mới ăn cơm, phàm ăn là ngoài mạng sống chúng sanh. Nếu chẳng vào quán tức là thấm đượm sanh tử. Nếu hay biết nhập quán phân biệt sanh tử hữu biên vô biên, bất luận phân vệ (khất thực) cùng thanh chúng tịnh thực (ăn chung với chúng thanh tịnh) thì đều phải làm quán. Quán là tự sợ thân này các thứ ăn xưa từ lâu đều là vô minh phiền não, thấm nhuần sanh tử. Nay chỗ ăn uống đều là Bát-nhã, tưởng thức ăn xưa từ lỗ chân lông thứ lớp thoát ra. Thức ăn xưa đã ra rồi thì tâm lộ liền mở. Nay ăn thức mới chiếu xét các tối tăm diệt hết mà thành Bát-nhã. Cho nên Tịnh Danh nói: Ở ăn bình đẳng thì ở pháp cũng bình đẳng, ấy là minh chứng. Vì thức ăn này thành thức ăn Bát-nhã hay nuôi dưỡng pháp thân. Nên pháp thân được lập thì liền được giải thoát, ấy là ba đức. Chiếu xét thức ăn này không mới không cũ, do có ăn xưa nên cũ, do có mới ăn nên mới, ấy gọi là giả. Tìm cũ chẳng được cầu mới chẳng được rốt ráo là không tịch (trống vắng) nên gọi là không. Quán thức ăn này từ ai có thể ăn là mới, đã không có thức ăn mới thì ai (sao) có thể được ăn, mà chẳng lìa thức ăn cũ nuôi thân mà thức ăn mới càng lợi ích (càng nhiều), nhân duyên hòa hợp chẳng thể phân biệt trước sau thì gọi là Trung. Chỉ Trung tức là giả. Không, chỉ không tức là Trung giả, chỉ giả tức là không trung chẳng thể nghó bàn nên gọi là Trung đạo. Lại Tịnh Danh nói: Không có phiền não, không lìa phiền não, không nhập định ý, không khởi định ý thì gọi là thực pháp. <詞>THIÊN TỤ DANH BÁO. Tăng Kỳ nói năm thiên: Một là Ba-la-di, hai là Tăng tàng, ba là Ba-dật-đề, bốn là Đề-xá-ni, năm là Đột-kiết-la. Tứ phần nói có sáu tụ, là mở cái thứ ba thêm Thâu-lan-giá. Hoặc nói bảy tụ là mở thêm cái thứ bày là ác thuyết. Nay y theo Sự Sao mà giải thích sáu tụ, không có dịch chính chỉ dùng dịch nghĩa. Ba-la-di (Pàràjikà), Tăng Kỳ nói: nghĩa là cực ác, có ba ý dịch: Một là thối một (lui mất), do phạm giới này mà đạo quả không có phần; hai là chẳng cùng ở chung, không phải chỉ mất đạo mà thôi, không được nói giới yết-ma hai loại tăng này ở chung với nhau; ba là đọa lạc bỏ thân này rồi lại đọa vào địa ngục A-tỳ. Tứ Phần Luật nói: Thí như chặt đầu người không thể mọc lại. Nếu phạm giới này thì không còn là Tỳ- kheo nữa. Nên kệ nói: Những ai làm tội ác, Cũng như cái thây chết, Chúng chẳng thể giữ lại. Vậy phải nên giữ giới. Từ xưa theo phép chung là Tuyệt phần thì dịch là khí (bỏ). Mục Liên Vấn Tội Báo Kinh nói: Phạm tội Ba-la-di như trời Tha Hóa Tự Tại tuổi thọ sáu chục ngàn ( 6 0. 000) năm là thời gian người này trải đọa trong Nê-lê, lấy theo số nhân gian thì người này ở trong địa ngục là chín trăm hai mươi mốt ức, sáu chục ngàn ( 6 0. 000) năm phải đọa xuống Viêm Nhiệt địa ngục. Trời Tha Hóa một ngày đêm bằng nhân gian một ngàn sáu trăm ( 1. 600) năm. Tăng-già Bàthi-sa (Samghà vasesa), Thiện Kiến nói: Tăng-già là Tăng, Bà là mới, nghĩa là Tăng trước che giấu yết-ma. Thi-sa là tàn, tức là cuối cùng phải nêu tội ra với Yết-ma. Nếu phạm tội này Tăng phải làm phép trừ bỏ. Nên từ cảnh làm tên. Tỳ-ni Mẫu nói: Tăng tàn là như người bị người khác chém chặt, hư hết cổ họng nên gọi là tàn, lý phải sớm cứu, tội Tăng-già Bà-thi-sa. Như trời Bất Kiêu có tuổi thọ là tám ngàn ( 8. 000) tính ra nhân gian là hai trăm ba mươi ức mười ngàn ( 1 0. 000) năm, là số thời gian người này phải đọa địa ngục Đại Đại Kiếu. Tính ra trời này một ngày đêm thì bằng nhân gian tám trăm năm. Ma-na-đỏa (Manoratha), Luận nói: Tần gọi là ý hỷ trước tuy tự ý vui mừng cũng có hổ thẹn, cũng khiến chúng tăng vui mừng. A-phù-ha-na (Àvahana), Thiện Kiến dịch là “gọi vào chúng yết- ma”, hoặc gọi bạt trừ tội căn (nhỗ trừ gốc tội). Mẫu Luận nói: Thanh tịnh giới sanh được tịnh giải thoát. Thâu-lan-giá (Sthùlàtyaya), Thiện Kiến nói: Thâu-lan gọi là Đại-già, là nói chướng Thiện Đạo sau đọa ác đạo, thỉ nó là bỉ uế, từ thể bất thiện mà lập tên. Do hay thành hai thứ tội một và hai. Minh Liễu Luận nói: Thâu-lan là thô, giá tức là lỗi. Thô có hai thứ: Một là trọng tội phương tiện, hai là hay đoạn dứt thiện căn. Nói lỗi là y chỗ Phật lập giới mà làm nên gọi là lỗi. Tội Thâu-lan-giá như trời Đâu-suất-đà có tuổi thọ là bốn ngàn tuổi, tính ra ở nhân gian là năm mươi ức sáu chục ngàn ( 6 0. 000) năm, là thời gian người này (phạm Thâu-lan-giá) phải đọa địa ngục Hiếu Kiếu. Trời này một ngày đêm ở nhân gian bằng bốn trăm năm. Ba-dật-đề (Pàpattikà), dịch nghĩa là đọa. Thập Tụng nói: Đọa ở địa ngục đốt nấu che chướng (ngăn), tám ngục nóng cùng nấu đốt, tám ngục lạnh đen tối cùng che chướng (ngăn). Tội Ba-dật-đề như tuổi thọ của trời Dạ-ma là hai ngàn tuổi ở nhân gian tính ra là hai mươi mốt ức bốn mươi ngàn năm ( 4 0. 000) là thời gian người này phải đọa địa ngục chúng họp. Trời này một ngày một đêm là ở nhân gian bằng hai trăm năm. Ni-tát-kỳ (Naisargika), trích trong Yếu Luật Nghi, xưa dịch là Xả đọa. Thinh Luận Ni dịch là Tận. Tát-kỳ là xã. Tứ Phần tăng có một trăm hai mươi thứ phân lấy ba mươi nhân tiền bạc mà phạm tham mạn tâm, cưỡng ép bỏ đi để vào tăng nên gọi là Ni-tát-kỳ. Ba-la-đề Đề-xá-ni (Pratiđezaniya), dịch nghĩa là hướng bỉ hối (hướng vào người ấy (lỗi ấy) mà hối lỗi), từ cảnh đối trị mà lập tên. Tăng Kỳ nói: Tội này phải phát lồ. Tội Đề-xá-ni như tuổi thọ của trời ba mươi ba là một ngàn tuổi so với nhân gian bằng ba ức sáu chục ngàn ( 6 0. 000) năm là thời gian người phạm tội này phải đọa địa ngục Hắc thằng. Trời này một ngày đêm bằng nhân gian một trăm năm. Đột-kiết-la (Duskrta), Đột là ác, kiết-la là tác (ác tác). Thinh Luận nói: chính gọi là Đột-tất-kiết-lật-đa. Tứ Phần Luật Bổn nói: Thức-xoa-ca-la-ni dịch nghĩa là Ưng đương học. Nước Hồ gọi sai là Thi-xoa-kế-lại-ni. Tăng Hồ dịch là thủ giới. Tội này nhỏ nhặt giữ rất khó, cho nên tùy học tùy giữ để lập tên. Thập Tụng nói: Thiên Nhãn thấy Tỳ-kheo phạm tội chạy nhanh dưới mưa, há không phải là chuyên tâm chơi giỡn, nên gọi là Thủ giới. Trong bảy tụ thì phân bộ này làm hai tụ. Thân gọi là ác tác, miệng gọi là ác thuyết. Nhiều Luận hỏi: Sao đây riêng gọi là Ưng đương học? Đáp: các giới khác dễ giữ tội nặng, giới này khó giữ dễ phạm phải luôn nghó học cho nên không nêu tội danh. Chỉ nói Ưng đương học (đáng phải học). Phạm Đột-kiết-la các học giới, tội như tuổi thọ của trời Tứ Thiên Vương năm trăm tuổi đọa trong Nê-lê so với nhân gian bằng chín trăm ngàn ( 9 0 0. 000) năm là thời gian người này bị đọa vào địa ngục Đẳng hoạt. Một ngày đêm của trời này bằng năm mươi năm của nhân gian. Cu-xá Tụng nói: Đẳng hoạt là bằng sáu thứ trên như thứ tự lấy tuổi thọ trời dục làm một ngày đêm, tuổi thọ cùng đồng như thế, ở trong ngục cực nóng nửa kiếp, ở trong ngục vô gián đủ một kiếp, rồi sanh làm loài bàng sanh thấp nhất làm quỉ năm trăm ngày tháng). Tuổi thọ At-bộ-đà như một Bà-ha-ma trăm năm trừ một cho đến hết các bộ sau gấp hai mươi lần. <詞>THỐNG LUẬN HAI ĐẾ. Giáo truyền sang Đông Độ, pháp vốn ở Tây Vức, nghe mùi thơm ắt phải tìm cội gốc. Cho nên theo dòng mà tột nguồn. Luận hiệu Phật- đà Tăng-già hiểu tên Bồ-đề Bát-nhã. Tuy cơ mà nói tuy nói vô biên, chỉ qui ở ý chỉ nói hai đế nay ở tập cuối lược nói bảy môn: Một là Nguyên Tông, hai là Thích Danh, ba là Biện nghĩa, bốn là Bày Thể, năm là Thích Tướng, sáu là Cảnh Trí, bảy là Khuyên Răn. Là Nguyên Tông. Trung Quán Luận nói: Chư Phật y hai đế vì chúng sinh nói pháp: Một là Tục đế, hai là Đệ nhất nghĩa đế. Bởi vì Phật nói pháp lời chẳng uổng phí. Phàm chỗ lập ngôn đều nói Thật lý. Cho nên người nghe pháp đều có chỗ chứng. Vì y vào hai đế làm cơ nói pháp. Như Đại Luận nói: Có hai thứ chúng sinh: Một là biết các pháp giả gọi, hai là mê đắm danh tự (chữ nghĩa). Vì chúng sanh mê đắm danh tự nên nói vô tướng, vì chúng sanh biết các pháp giả gọi nên nói thế đế. Do đó Thế Tục hiển sự điều kiện, các pháp rõ ràng. Cho nên trong môn Phật sự chẳng bỏ một pháp. Đem trung mà khuyên bề tôi (khuyên tôi nên trung với vua), đem hiếu mà khuyên con cái (khuyên con cái nên hiếu thảo), khuyên nước nên trị, khuyên nhà nên hòa, thưởng thiện thì bày cái vui thiên đàng, phạt ác thì nêu cái khổ địa ngục. Đây là một Tục đế, Chân đế thì bày cái lý bản tịch một tính mất hút. Do đó thật tế lý địa chẳng thọ một trần thị phi đều mất, năng sở đều quên, chỉ vạn tượng là chân như, xem Tam thừa là thật tế. Đây là y chân đế. Là Thích Danh: Hai Đế pháp này ở Năng thuyên mà gọi. Nói chân thì nghịch tục, thuận tục thì trái chân vì chân là nghĩa thật, xét thật là chân. Tục là nghĩa giả, xét giả là tục. Cho nên Niết-bàn nói; chỗ người xuất thế biết thì gọi là Đệ nhất nghĩa đế, chỗ người đời biết thì gọi là Thế đế. Bắc Sơn Lục nói: Gặp chỗ quên tình gọi là chân, khởi vi thiệp động gọi là tục. Chân là tính không, Tục là giả có. Giả có mà có nên gọi là Tợ (diệu) hữu, tính không mà không nên gọi là chân không. Đây là ước Sự Lý đối nhau mà giải thích. Chiêu Minh Thái tử nói: Chân đế lìa có lìa không, Tục đế tức có tức không. Tức có tức không đây là giả danh, lìa có lìa không đây là Trung đạo. Đây là ước Trung biên mà phán thích. Là Biện nghĩa: Tông Cảnh hỏi rằng: Một tâm hai đế, Lý sự chẳng hư. Chứng lý tính mà thành chân, xét sự thật mà làm tục, đều đủ nghĩa cực thành, là môn chẳng hoại hai đế. Đại Tiểu Nhị thừa đồng cùng kiến lập. Như thế nào là nghĩa cực thành? Đáp: Chỗ thành quyết định chẳng thể dời đổi, tùy chân tùy tục đều có đạo lý. Du Già Luận nói: Một là có thế gian cực thành chân thật; hai là đạo lý cực thành chân thật. Thế gian cực thành chân thật, là tất cả thế gian đối với mọi việc là tùy thiện giả lập theo thói quen thế tục, ngộ nhập giác tuệ chỗ thấy đồng tính nghĩa là đất là đất mà không phải là lửa v.v… cho đến khổ chỉ là khổ không phải là vui v.v… vui chỉ là vui không phải là khổ. Nói tóm tắt, đây tức như đây không phải chẳng như đây, đó tức như thế chẳng phải chẳng như thế. Quyết định hiểu rõ cảnh sự chỗ làm tất cả thế gian đều từ Bản tế xoay vần truyền lại. Tưởng tự phân biệt mà cùng thành lập, chẳng do tư duy suy lường quán sát rồi sau mới lấy. Đó gọi là thế gian cực thành chân thật. Đạo lý cực thành chân thật, là y chỉ vào Hiện tỷ cho đến giáo lượng mà rất khéo tư duy chọn lựa quyết định mà kiến lập mà bày biện ra các nghĩa. Đó gọi là đạo lý cực thành chân thật. Là Bày Thể: Pháp hai đế là nói Thể sở thuyên. Như Chiêu Minh nói: Chỗ biết của người đời sanh pháp làm thể, chỗ biết của Thánh nhân không sanh làm thể. Do người tuy khác nhưng Thể nó không khác. Cho nên Kinh Khê nói: Chỉ điểm một pháp hai đế rõ ràng. Tục thì trăm cõi nghìn như, chân thì đồng ở một niệm. Lại Khởi Tín nói: Ma-ha-diễn gồm nói có hai thứ. Thế nào là hai: Một là pháp, hai là nghĩa. Đây là lấy một pháp mà phân ra hai nghĩa. Nói thật tướng chẳng hoại giả danh luận sai biệt chẳng phá bình đẳng. Chiêu Minh nói: Chân tức có là không, Tục chỉ không là có. Tông Cảnh nói: Tục đế chẳng được chẳng có, có mà thường tự không. Chân đế chẳng được chẳng không, không mà chỉ suốt có. Cho nên Thập Nghi Luận Chú nói: Tướng mà vạn pháp sum la thật không chỗ được, luận tính mà nhất như tịch diệt chẳng ngại tùy duyên. Chơn là chơn của Tục gia, vạn pháp tự mất. Tục là tục của chân gia, một tính luôn khác. Vì dùng bất hoại giả danh thì kia đây sanh diệt sai khác. Vì nói các pháp thật tướng thì kia đây sanh diệt tự mất. Chỉ ở chỗ không một mà nói chẳng hai. Cho nên Nhân Vương nói: Ở giải thường tự một, ở Đế thường tự hai. Hiểu rõ một, hai này thì chân nhập Thánh nghĩa đế. Cho nên Cổ đức nói: hai đế đều không phải hai, luôn trái chưa từng đều. Hai đội hiển trong mất nghĩa là không chơn không tục một đôi nhạn lẽ vượt đất cao bay, hai con uyên ương bên ao riêng đứng. Lại Tiên Đức nói: Chơn tục hai mất, hai đế luôn còn. Không có hai mất, hai vị luôn hiện thế nên biết đều chấp thì mất lỗu, hỗ dung (dung nhau) thì được, đều chấp thì mất. Như nói hữu vi tuy dối, nhưng bỏ nó thì nghiệp lớn không thành. Vô vi tuy không nhưng trụ nó thì huệ tâm chẳng sáng. Hỗ dung (cùng dung nhau) thì được, như nói: Tuy biết các nước Phật cho đến chúng sanh đều không mà thường tu Tịnh độ giáo hóa các chúng sinh. Cho nên Thập Nghi Luận Chủ nói: Thánh nhân được ý ấy thì ở chỗ tùy duyên nói thể không. Cho nên Kinh Khê nói: Phải biết vạn pháp là chân như, vì do bất biến nên chân như là vạn pháp, vì do duyên, những văn nói này đều luận chân tục là thể một vậy. Là Thích tướng (giải thích tướng) Diệu Huyền nói: Thủ ý tồn lược (lấy ý tóm tắt) chỉ điểm pháp tính là chân đế, vô minh mười hai nhân duyên là Tục đế. Ở nghĩa thì đủ, chỉ vì tâm người thô cạn chẳng biết chỗ thâm diệu. Lại phải khai hộ thì luận bảy thứ hai đế. Thích Châm giải rằng: Song bảy văn này tan khắp trong các kinh không có một chỗ nào nêu đủ. Chỉ có Đại Kinh mười hai lệ tám (nêu tám trtong mười hai thứ hai đế) chương An làm bảy thứ hai đế mà tiêu, cái thứ một là chung, bảy cái kia là riêng. Kinh nói: Chỗ thấy của tâm người xuất thế gọi là Đệ nhất nghĩa đế. Chỗ thấy của tâm người đời gọi là Thế Đế. Sớ nói: Tổng quan các đế, thế tình nhiều thứ bó làm Thế đế, Thánh nhân biết nhiều bó làm Đệ nhất nghĩa đế. Tức là các giáo tùy tình trí. Kinh nói: Năm ấm hòa họp gọi tên này kia đó gọi là Thế đế. Hiểu ấm không ấm cũng không danh tự, lìa ấm cũng không, đó gọi là Đệ nhất nghĩa đế. Sớ nói: Tên không tên tức sanh diệt hai đế. Kinh nói: Hoặc có pháp có gọi (tên) là có thật, đó gọi là Đệ nhất nghĩa đế. Hoặc có pháp có gọi (tên) là không thật, đó gọi là Thế đế. Sớ nói: Thật chẳng thật tức vô sanh hai đế. Kinh nói: Như Ngã, Nhân, chúng sinh, Thọ mạng các tri kiến cho đến như lông rùa sừng thỏ v.v… các ấm giới nhập, đó gọi là Thế đế. Khổ, tập, diệt, đạo đó gọi là Chân đế. Sớ nói: Định, bất định hai đế tức là đơn tục mà phức chân. Kinh nói: Thế pháp có năm thứ, đó là Danh thế, Câu thế, Phược thế, Pháp thế, Chấp trước thế. Đó gọi là Thế đế. Đối năm pháp này tâm không điên đảo, gọi là Đệ nhất nghĩa đế. Sớ nói: Pháp chẳng pháp cũng là nằm trong hai đế. Kinh nói: Thiêu (đốt) hại tử (chốt) hoại đó gọi là Thế đế. Không thiêu hại tử v.v… gọi là Đệ nhất nghĩa đế. Sớ nói: Thiêu chẳng thiêu là phức tục đơn trung. Kinh nói: Có tám thứ khổ đó gọi là Thế đế, không tám thứ khổ là Đệ nhất nghĩa đế. Sớ nói: Khổ chẳng khổ hai đế cũng là phức tục đơn trung. Kinh nói: Thí như một người có nhiều tên (danh tự) y cha mẹ mà sanh đó là Thế đế, y nhân duyên hòa hợp mà sanh đó là Đệ nhất nghĩa đế. Sớ nói: Hòa hợp hai đế, chân tục chẳng hai là phực tục phức trung vậy. Là Cảnh Trí: Khởi Tín sao hỏi: Cảnh - Trí là một hay khác? Đáp: Trí là thể không hai, Cảnh cũng chẳng hai. Trí không hai, thì chỉ là một trí, nghĩa dụng có khác. Ước biết chỗ chân gọi là chân trí, ước biết chỗ tục gọi là Tục trí. Cảnh không hai, nghĩa là sắc tức là không, là Tục cảnh. Do đó khi chứng chân thì đạt (thấu suốt) tục, khi đạt tục ắt là chứng chân. Hiểu tục không tính tức là chân không, há có trước sau ư? Huống là không có cảnh ngoài tâm, sao có tâm ngoài cảnh, tức là tâm cảnh trộn lộn làm một pháp giới. Là Khuyên Răn: Đại Kinh nói: Chỗ nói hai đế kỳ thật có một, phương mà nói hai. Như say chưa ói thì thấy có mặt trời mặt trăng quay, nghĩa là có mặt trời quay và không quay. Còn người tỉnh thì chỉ thấy không quay. Chẳng thấy quay, nghĩa là một chẳng nói một, hai chẳng phải hai. Phải lấy trí mà hiểu chớ lấy tình mà chấp. Cho nên Phật bảo A-nan: Từ xưa ta làm người nghe nhiều cùng Văn-thù-sư-lợi tranh luận nghĩa hai đế. Chết rồi đọa vào Tam đồ trải vô lượng kiếp nuốt hòn lửa nóng. Từ địa ngục ra, gặp Phật Ca-diếp vì ta giải thích có không hai đế. Phật Ca-diếp nói: Tất cả các pháp đều không tính nhất định (định tính) Ông nói có không là nghĩa chẳng thế. Tất cả vạn pháp thảy đều không tịch (vắng không), hai đế này cũng có cũng không. Ông chỉ biết văn mà không hiểu nghĩa của nó. Phải biết hai đế, Tục đế cho nên có, chân đế cho nên không, thể chẳng thể nghó bàn (thể nó bất tư nghì), sao có thể riêng chấp. Người học giáo Phật phải lìa tình tưởng. Cho nên Phật Tạng nói: Dao cắt hại người Diêm-phù-đề tội ấy rất ít, còn đêm tâm sở đắc mà nói thật tướng thì tội rất nặng. Phải biết Phật pháp bất tư nghì, chỉ giáo tướng là khó hiểu. May nhờ các Hậu Hiền ở Phật thánh giáo mà nghiên cứu kỹ lưỡng chớ nên thô lược. <詞>PHIÊN DỊCH DANH nghĩa BỔ SUNG THÊM Khi soạn tập đầu ý còn giản lược hoặc mất phiên dịch hoặc thiếu giải nghĩa. Nhân sau xem kỹ lại nên xin soạn tiếp để bổ sung để Hậu Hiền biết rõ. Bổ sung về mười hiệu. Minh Hạnh Túc (Vidyàcarana Sanyoanna?) là đủ ba minh và sáu thần thông. Trí Luận nói: Một là Như ý, hai là Thiên nhãn, ba là Thiên nhó, bốn là Tha tâm, năm là Thức túc mạng thông, sáu là Vô lậu thông. Nói thông thường thì dịch nói: Âm dương chẳng lường gọi là thần, tịch nhiên bất động cảm mà liền thông. Anh Lạc nói: Thần gọi là Thiên tâm, Thông gọi là Huệ tính. Huệ thiên nhiên suốt chiếu vô ngại nên gọi là thần thông. Một là Như ý thì có ba thứ hay đến chuyển biến Thánh như ý. Hay đến lại có bốn: Một là thân bay như chim vô ngại, hai là dời xa khiến gần chẳng đi mà đến, ba là ẩn đây hiện kia, bốn là niệm liền đến. Chuyển biến là lớn có thể làm nhỏ, nhỏ có thể làm lớn, một hay làm nhiều, nhiều hay làm một, các thứ vật đều có thể chuyển biến. Đám ngoại đạo có thể chuyển biến lâu nhất không quá bảy ngày, còn chư Phật và đệ tử thì chuyển biến tự tại không có lâu gần. Thánh như ý là ngoài sáu trần vật bất tịnh không đáng yêu, có thể quán khiến tịnh, tịnh vật đáng yêu có thể quán khiến bất tịnh. Đó là pháp Thánh như ý, chỉ có Phật là riêng có. Thiên nhãn thông là Nhãn được sắc giới bốn đại tạo sắc thanh tịnh, đó là Thiên nhãn. Thiên nhãn thấy được trên đất và dưới đất các vật của sáu đạo chúng sinh hoặc gần hay xa, thô hay tế, không sắc nào chẳng xét chiếu ấy là Thiên nhãn. Có hai thứ: Một là từ Báo mà được, hai là từ Tu mà được. Trong năm đạo thì Thiên nhãn từ Tu mà được không phải là Báo mà được. Vì sao thế? Vì thường nhớ nghó các thứ ánh sáng mà được….; Thiên nhó thông là Tai được sắc giới bốn đại tạo sắc thanh tịnh, hay nghe được tất cả tiếng, tiếng trời tiếng người tiếng ba ác đạo. Làm sao được Thiên nhó thông, do tu mà được, vì thường nghó nhớ các thứ tiếng. Đó là Thiên nhó thông; Thức túc mạng thông vốn thường nghó nhớ ngày tháng năm vào thai cho đến trong đời quá khứ, một đời mười đời một trăm đời ngàn vạn ức đời. Cho đến Đại A-la-hán Bích-chi Phật, biết rõ tám vạn đại kiếp. Các Đại Bồ-tát và chư Phật biết đến vô lượng kiếp. Đó là Thức túc mạng thông; Tri tha tâm thông là biết tâm người khác hoặc có cấu hoặc không có. Tự quán tâm khi sanh trụ diệt thường nhớ nghó cho nên được. Lại nữa, quán các tướng vui mừng, giận, sợ… của người khác, thấy các tướng ấy rồi sau mới biết tâm. Đó là Tha tâm thông; Lậu tận thông, kinh Như Lai Trang Nghiêm Nhập Nhất Thiết Phật Cảnh Giới nói: Nói lậu tận là lìa bốn lậu tức là Dục lậu, Hữu lậu, Vô minh lậu, Kiến lậu vì chẳng lấy bốn thứ lậu đó bèn gọi là viễn ly các lậu. Trí Luận nói: Thần thông và minh có gì khác nhau? Đáp: Biết rõ việc Túc mạng ở quá khứ gọi là Thông, biết rõ Nhân duyên hạnh nghiệp quá khứ là Minh. Biết chết đây sanh kia gọi là thông, biết rõ nhân duyên chỗ làm sẽ không mất gọi là Minh. Ngay đây dứt hết các kiết sử chẳng biết sanh hay không sanh gọi là Thông. Nếu biết lậu hết chẳng còn sanh lại nữa thì gọi là Minh. Phật-đà (buddha), Triệu nói: Phật là gì? Đó là gọi bậc Đại giác biết rõ cùng tận lý tính. Đạo ấy hư huyền chắc chắn đã dứt cảnh thường, tâm chẳng thể dùng trí mà biết, hình chẳng thể dùng tượng mà lường, đồng vạn vật cùng vi (làm) mà riêng ở cõi bất vi (chẳng tạo tác, làm), trong mấy lời mà chỉ được chỗ không lời không phải có mà chẳng thể là không, không phải không mà chẳng thể là có, tịch mịch hư khoáng (im vắng trống không) vật chẳng thể lường. Chẳng biết gọi tên gì, gượng ép gọi là giác. Thật là chí lý cũng là tột cùng. Vậy thì đồng với đắc, thì đắc cũng được đắc, đồng với thất thì thất cũng được thất. Ấy thì chân thì đồng chân, pháp ngụy thì đồng ngụy. Như Lai ngầm chiếu sáng gồm một thật tướng, tướng của thật tướng là tướng Như Lai. Vô Cơ Tử kể sáu tức Phật rằng: Si thiền nhậm tính, lạm Thượng thánh để căng (ham) cào, cuồng huệ tùy tình ở Hạ phàm mà tự khuất. Do đó Thiên Thai Trí giả Tổ sư nói sáu tức Phật mà phá hai thứ kiến mà sợ lỗi lớn. Việc sáu phần nhân quả khác thâu nó không thâu, tức là hiển lý Thánh phàm bình đẳng. Chìm trong biển sanh tử như báu ở trong tối mà không mất. Lên núi Niết-bàn như vàng ra khỏi quăïng mà không được. Chẳng một chẳng khác đạo ấy rất dung thông không phải không quấy, trí này rất viên diệu. Nay thuật tụng hèn để khen đại hiến, mong ai thấy nghe đều được khai ngộ. Tụng lý tức Phật: Động tịnh lý toàn phải Hành tạng sự đều sai, Mịt mờ tùy vật đi Lặng bặt chẳng biết về. Tụng danh tự tức Phật: Mới nghe khúc vô sanh Mới nghe ca bất tử Nay biết là đương thể Lại hận mình lần lửa. Tụng quán hạnh tức Phật: Niệm niệm chiếu lý thường Tâm tâm dứt trần huyễn Khắp quán các pháp tính Không giả cũng không chân. Tụng tương tợ tức Phật: Bốn trụ tuy thoát được, Sáu trần chưa đều không. Trong mắt cũng có màng, Trong không thấy hoa hồng. Tụng phần chân tức Phật: Rỗng tâm này khai ngộ, Trống vắng tất cả thông, Cùng nguồn cũng chưa hết, Còn thấy trăng mong lung. Tụng cứu cánh tức Phật: Từ xưa chân là vọng, Ngày nay vọng đều chân, Chỉ phục lại tính xưa, Lại không một pháp mới. Vô Lượng Thọ (Amitàyus) Trí Luận nói: Vô lượng có hai: Một là thật vô lượng là các Thánh nhân chẳng thể lường như tính hư không, Niết-bàn, chúng sanh là chẳng thể lường; hai là pháp có thể lường, chỉ sức yếu nên không lường được như núi Tu-di và biển lớn mà chỉ lấy hai giọt nước thì số đo lớn nhỏ chư Phật và Bồ-tát cũng biết được còn các trời người thì không thể biết, cho nên nói là vô lượng. Thế nên ngài Thiên Thai bèn lập bốn cú: Thật có lượng mà nói vô lượng Di-đà là đó. Thật vô lượng mà nói có lượng như phẩm này và Kim quang minh là đó. Thật vô lượng mà nói vô lượng, như Niết-bàn nói chỉ có Phật cùng Phật thọ mạng vô lượng là đó. Thật có lượng mà nói có lượng như tám mươi tuổi nói Diệt là đó. Lại lấy ba thân đối phàm mà lập bốn cú. Cho nên Pháp Hoa sớ nói: Lại nữa pháp thân không phải có lượng không phải vô lượng. Báo thân kim cương trước có lượng, kim cương sau vô lượng. Ứng thân tùy duyên thì có lượng, ứng dụng chẳng dứt thì vô lượng. Chung đường nói lượng ba cứ ở Thánh, một cú thuộc phàm. Có lượng và vô thường đều không phải nghĩa Phật. Ế-thấp-phất-la-bạt-na (Aisvarasvana), dịch là tự tại đại thinh. Ca-la-cưu-thôn-đà (Krakucchamda), dịch là chỗ nên đoạn đã đoạn. Các bài thi: + Đường Thái Tông ở phần kinh Đài có thơ rằng: Trước cửa vắng vẻ đầy rêu xanh Một lúc lên đó lại bồi hồi Trâu xanh bàn mãi Hàm quan đến Ngựa trắng thân từ Ấn Độ đi Xác thật thị phi theo lửa sáng Yếu phần chân ngụy xây đài cao Gió xuân giải hiềm bừa bãi, Thối hết tro đạo giáo năm nay. + Đường nghĩa Tịnh Tam Tạng đề thơ lấy kinh rằng: Tấn Tống Tề Lương Đường thay nhau Cao tăng cầu pháp lìa Trường An Người đi trăm kẻ, mười về được Kẻ sau mới biết khó người trước Dường xa trời biết toàn giá lạnh Sa mạc sông sâu sức héo hon Hậu Hiền nếu nay chưa rõ ý Hãy thường đem kinh mà đọc xem. Đề Hòa Việt, Hán gọi trời đất. Dịch nói: Trời đất bày vị mà trong đó dịch làm. Hệ Từ nói: Dịch cùng trời đất chuẩn, cho nên hay di luận Đạo thiên địa. Ngước thì nhìn Thiên văn, cúi thì xét địa lý. Bạch Hổ Thông nói: Trời nói là chân (trần), vì ở trên cao tự xuống vì người chấn (trấn giữ). Địa là dịch (đổi dời) là nói sanh vạn vật ôm ấp giao dịch biến hóa. - Ca-lưu-bà-đà-thiên (Gajapada), đây là nói dấu vọi tự có mười chỗ. di. Chất-đa-la (Citra), dịch là Tạp địa. Ma-thâu, đây dịch là Mỹ địa, tên ba trời này đều ở bốn đỏa Tu- Năm nghiệp vô gián, Du già thứ chín nói: Một là hại (giết) mẹ, hai là hại (giết) cha, ba là hại (giết) La-hán, bốn là phá Tăng, năm là làm ra máu. Thi-lị-dạ-thần (Sriya) dịch là Cát tường. Anh-nga-la-ca (Amgàraka), dịch là Hỏa tinh. Bộ-đà (Budha), dịch là Thủy tinh. Vật-rị-ta-bạt-để (Vrhapati) dịch là Mộc tinh. Dư-nãi-dó-thất-chiết-la (Sanaiscara), dịch là Thổ tinh. Tuất-yết-la (Sukra), dịch là Kim tinh. Khư-lặc-ca, làm Thiên cốc mạch. Vật-già, đây gọi là Hồ đậu tức đậu xanh. Tắc-tất-lực-ca, đây gọi là Mục tú. Hán Thư nói: Nước Kế Tân có nhiều mục tú. Tát-xà-la-bà hoặc Tát-chiếc-la-bà, dịch là Bạch giao hương. Na-la-đà (Naradhara), Na-la chính Dự lưu Nại-la dịch là người. Đà là Đa-la, dịch là trì. Hoa này rất thơm nên mọi người đều đeo. Nên gọi Người trì hoa. Mạt-lị (Malli, Maliì), dịch là hoa sắc vàng, sắc như vàng ròng. Cự-ma (Gomaya), dịch là Ngưu phấn (phân trâu bò). A-đề-mục-đa-già (Atimukaka), Tông Cảnh dẫn Nhiếp Luận nói: Cừ thắng xưa nay than, từ lâu chôn trong đất biến thành Cừ thắng. Người Tây Vức nếu muốn làm dầu thơm thoa thân thì trước lấy hoa thơm và hạt Cừ thắng gom lại một chỗ mà nghiền thật nát sau mới lấy dầu cừ mà ngâm thì dầu sẽ thơm. Giải thoát (Mahsa), Triệu nói: Mặc tình vô ngại, trần lụy không ràng buộc là giải thoát. Ngài La-thập nói cũng gọi là Tam-muội, cũng gọi là Thần Túc. Hoặc khiến sửa đổi dài ngắn to nhỏ dung nhau mà biến hóa tùy ý, ở pháp tự tại giải thoát vô ngại, nên gọi là giải thoát. Lại nói tâm được tự tại chẳng bị chẳng thể trói buộc, cho nên gọi là giải thoát. Tịnh Danh Sớ nói: Một là chân tính, hai là thật huệ, ba là phương tiện. Cho nên kinh nói: Chư Phật Bồ-tát có giải thoát tên là Bất tư nghì. Nếu Bồ-tát trụ vào giải thoát này thì có thể lấy núi Tu-di cao rộng mà để trong hạt cải bé nhỏ, các thứ biến hiện khó lường, tức là nghĩa ba thứ giải thoát Bất tư nghì. Vì sao? Vì các Bồ-tát có giải thoát tức là chân tính. Nếu Bồ-tát trụ vào đấy, tức là thật huệ có thể lấy núi Tu-di mà để trong hạt cải v.v… tức là phương tiện. Đại Phẩm nói: Tâm được giải thoát tốt, thì tuệ được giải thoát tốt. Thùy Dụ nói: Tâm thoát là Cu, Tuệ thoát là tuệ. Trí Độ (Pràjnaparanita), La-thập nói: Cùng nguồn của Trí nên gọi là độ. Trong tiếng Phạm có nghĩa mẹ. Phương tiện (Upaya), La-thập nói: Trí Độ tuy lấy Minh Chiếu làm thể, thành tế vạn hạnh so với công dụng ấy thì chẳng bằng phương tiện làm cha. Trong tiếng Phạm có nghĩa cha. Phương tiện có hai thứ: Một là hiểu sâu về không mà không lấy tướng thọ chứng, hai là lý thật tướng sâu xa chẳng thể tin nhận nên phải cần phương tiện, dẫn dụ quần sanh khiến họ dần ngộ: Phương tiện nghĩa sâu mà công năng nên gọi là cha. Tịnh Danh Sớ nói: Phương là pháp riêng trí đến được. Tiện là dung quyền xảo của Bồ-tát, hay khéo dùng các pháp, tùy cơ mà lợi vật, nên gọi là Phương tiện. Kinh Khê nói: Trong Pháp Hoa sớ vì hiển thật nên phần làm ba giải thích, nghĩa là Pháp dụng và môn đều bí diệu. Nay đây bỏ hai chì lấy pháp dụng. Môn luận thú nhập, bí diệu khai quyền. Nay chưa khai quyền nên thiếu giải thích sau. Bất Thủ Môn là Bồ-tát có thể vào, Nhị thừa thì thiếu. Trong Bồ-tát lại ước đương phần phục trí truyền nhập, cho nên lại không nói, cứ theo lý cũng họp. Dụng môn một ý lấy đương phần mà vào cùng pháp dụng là đồng, cho nên lại chỉ dùng pháp dụng một ý. Lại thông bí giáo, cũng có thể đầy đủ dụng kia ba ý. Luận Pháp Hoa Phương Tiện Phẩm Nho Thi có sáu nghĩa vì tư vô tư làm chỉ qui. Năm thời Thích giáo Khai Phật Tri Kiến là rốt ráo. Thật là hội cáo của một hóa, thật là cực tông của chư Phật. Giống như Thái Hư mà bao gồm các sắc, như bột giải để nạp các quần lưu. Do đó dùng ống dòm trời, lấy bầu rót pháp hải, thô nghiên vị ở chân thuyên, há Trần bày ở Đạt só. Trước luận Phẩm Đề, kế nói Phẩm nghĩa. Trước luận Phẩm Đề là kinh nói: Pháp chư Phật lâu sau phải nói chân thật. Văn đã bày (bác) phương tiện, thì đề phải gọi là chân thật. Sao dùng quyền danh (tên quyền) mà lập phẩm này như lấy bảng huyện mà để ở cửa châu. Lại Phật khởi Định tức tự nói chư Phật trí tuệ thậm thâm vô lượng. Đây bèn cùng khen quyền thật. Bậc Tiên Đạt bèn nói: Hoa này không có thì thôi nếu có thì hoa quả cùng đủ. Kinh này chẳng nói thì thôi nói thì quyền thật đều luận. Kinh đã nói hai, tên quyền thật sao chỉ riêng nêu phương tiện. Do đây mà nổi nghi. Tiên Đạt nối tiếp cùng lập bảy nghĩa để bày ý đề: Một là quyền có công hiển thật. Pháp vương trước hóa cơ duyên chưa chín thì ẩn thật bày quyền, lấy quyền che thật. Hội Linh sơn khéo nói khắp hội quyền thừa, quyết liễu pháp Thanh văn là vua các kinh. Bí đó bị khai ở đây thành diệu, quyền này đã có công hiển thật, cho nên nhà kiết tập gọi là Thiện Quyền phẩm; Hai là Danh thiên mà nghĩa viên, nếu nêu chân thật thì trái phương tiện. Phẩm này tên quyền tuy Thiên kỳ thật pháp thể là viên cụ, bèn bày quyền thật đều tốt; Ba là Danh thể đều chẳng chuyển. Đây có bốn cú: một là danh chuyển mà thể chẳng chuyển. Như nói chính trực bỏ phương tiện chỉ nói đạo Vô thượng. Cho đến cú bốn là Danh thể đều chẳng chuyển. Như nói chúng ta nay thật là Thanh văn. Danh chẳng chuyển nên gọi là phương tiện phẩm; Bốn là hiển khai quyền dứt đối đãi. Pháp Hoa khai quyền hiển thật, ngoài quyền không thật, pháp dụng hay thông đương thể bí diệu. Nếu nêu chân thật chỉ thành đối đãi nhau, là bày công tuyệt đãi nên gọi là Phương Tiện Phẩm; Năm là bảy giáo nói (thuyên) mê. Tổ nói: Tự không phải kinh nay, ai chịu khen giáo này nói (thuyên) mê. Do chỉ tâm mê nhiễm tức là tụ hành phương tiện, thì biết Đại quyền này có sức nói (thuyên) mê; Sáu là thi khai một chí, lúc xưa chỗ thi đã thi tức quyền của thật, ngày nay chỗ khai lại khai, tức là thật của quyền (quyền tức là thật), bèn thấy Thi Khai chẳng hai; Bảy là chọn khác kinh xưa, Tịnh Danh Báo Ân tuy đều lập tên Phương tiện, đã là quyền ở ngoài thể há là đồng với phẩm này đồng thể phương tiện. Từ xưa chỗ nói đều không ngoài bảy thứ này. Tiên Sư nói: Quán xưa nhiều nghĩa lỗi đến nay. Tự lập văn theo đây nguyên ý có hai nghĩa để nêu phẩm đề: Một là phụ văn là kinh gia lập hẩm phụ văn chỉ thú chung riêng phải phân bố. Vì sao? Vì năm chữ đầu đề, pháp thì quyền thật chung nêu dụ bèn hoa quả cùng nói, do đó ba vòng khai hiển, Bản Tích hai môn, một bộ văn thảy đều chẳng nêu ra (ở ngoài) pháp quyền thật. Phẩm này nếu lại cùng lập để nói quyền thật thì cùng Đề chung không khác; hai là Nguyên ý. Kinh này Khai quyền hiển thật mà ý ở quyền. Cho nên nói: Chư Phật quá khứ đã dùng vô số phương tiện đem các thứ nhân duyên các thứ thí dụ mà vì chúng sinh diễn nói các pháp, pháp ấy đều là một Phật thừa. Không có quyền thì không do đâu mà nói thật được. Cho nên khiến cơ duyên tức ở pháp quyền mà hiểu chân thật. Cho nên nói chẳng chỉ chỗ khai thì không do đâu mà nói thật. Kể rõ Thi quyền ý ở tại khai. Cho nên Ký Chủ giải thích khai phương tiện môn để bày tướng chân thật. Bày (thị) nghĩa là chỉ bày chỉ cái chỗ thấy thật. Lại thấy chỗ thật ở đâu tại ở Thiên quyên phương tiện trước. Ngày nay nói phương tiện này có tướng chân thật phương tiện này đã tức thật bèn khác phương tiện kinh xưa cho nên được gọi là Bí diệu. Thế nên kinh gia đề tên phương tiện mới nói phương tiện tức là chân thật. Cho nên Xá-lợi-phất nghi rằng vì sao ân cần khen ngợi phương tiện. Thì biết phương tiện thật là tên chung của Khai quyền, thật là tên lớn của hiển thật. Có người hỏi: Nay do Khai quyền mà gọi Phương tiện, thì Tịnh Danh đã chứa Khai quyền sao gọi phương tiện, đã gọi phương tiện sao quyền chẳng khai? Đáp: Kinh ấy nói phương tiện, thì Sớ nói: Phẩm này chính nói giúp Phật mở bày quyền mưu khéo léo, tùy cơ lợi vật khiến vào tuệ khởi căn, cho nên gọi là Phương tiện. Tuy nói Phương tiện, song cơ duyên ở đương Tòa sao (đâu) biết chỗ chứng cũng là phương tiện, cho nên tên phương tiện xưa là quyền chưa khai. Kế luận về phẩm nghĩa: Tổ ta dự giải thích phẩm đề bèn lập pháp dụng, hay thông Bí diệu ba thứ phương tiện, nay trước chỉ chung, sau mới nói riêng. Lại chỉ chung, thì ba phương tiện này, hai cái trước là từ giáo xưa, một cái sau là thuộc kinh nay. 1/ Gọi là Pháp dụng, thì phương là pháp, Tiện là dụng, pháp có phương viên, dụng có sai hội. Ba quyền là cũ là phương, một thật là qui là viên. Ký nói: Trước ước năng dụng ba giáo được tên. Pháp là sở dụng, dụng là năng dụng. Tuy pháp và dụng đều thông bốn giáo nhưng chỉ có phương viên sai hội khác nhau. Cho nên phương tiện từ quyền mà lập tên. Quyền chẳng tức thật, cho nên đối biện xưa thành quyền ngoài thể không phải là ý phẩm này. Trong Văn nêu viên, tức thuộc chân thật đối nhau mà đến. 2/ Gọi Năng Thông Sớ nói: Lại phương tiện là môn, môn gọi là Năng Thông, thông ở sở thông phương tiện quyền lược đều là lộng dẫn chân thật làm môn. Chân thật được hiển thì công do phương tiện từ năng hiển mà được tên. Ký nói thứ lớp hai giải thích quyền thuộc Năng thông, ba giáo cũng được tên là phương tiện. Song tuy chẳng tức dùng năng vì viên mà làm thuyên xa. Vì viên của sở thuyên cũng mang cả Năng thuyên làm phương tiện. Cho nên biết đều không phải ý của phẩm này. Lại nói nay dùng ba nói (thuyên) một, ba là vì một thật làm cho nên ba gọi là năng thuyên. Ấy thì ba giáo trước giáo hành nhân lý (thì ba cái trước, giáo giáo v.v…) đều là Năng thuyên. Lại nói chẳng phá chẳng tức, từ quyền vào thật nên được tên tu. Nếu ở tiền hai vị ba giáo lợi căn Bồ-tát là có hiển lộ mà được, còn Nhị thừa hai giáo chỉ bí mật mà được. Vì do được vào nên liền gọi là môn. 3/ Gọi Bí diệu, Sớ nói phương là bí, tiện là diệu, diệu đạt ở phương tức là chơn bí, điểm châu vô giá giấu trong áo cùng với châu trên đầu vua chỉ là một châu, không hai không khác. Như đây mà nói là bí là diệu. Như kinh nói chỉ ta biết tướng ấy, mười phương Phật cũng thế. Thôi thôi không cần nói nữa, pháp ta diệu khó lường. Cho nên dùng Bí mà giải thích phương, dùng diệu mà giải thích tiện, chính là ý của phẩm này. Ký nói: Đến giải thích thứ ba phương bèn là ba quyền tức là một thật chỉ đây tức quyền của thật mới gọi là phương tiện kinh này. Lại nói giải thích thứ ba tức là y của phẩm này. Chỉ hai giải thích trước ở xưa chỉ được tên thiên tên môn. Bí mà không nói, nay khai Thiên môn ấy, tức Viên sở (viên là chỗ vậy?) vậy. Cho nên nói Bí diệu. Hiển lộ bày rõ nên nói là chơn bí. Có người hỏi: Diệu Lạc Ký nói: Tức quyền mà thật làm thể sở y, tức thật mà quyền, làm thể của đương thể. Chẳng xét tên Bí diệu thứ ba, là từ Sở y mà lập tên hay từ đương thể mà được tên. Đáp: Đây do đương thể tức thể sở y cho nên nói bỉ Bí bị khai ở nay thành Diệu. Lại nói: Văn thứ ba cũng khai hai trước không Năng không sở cho đến Năng thông, đều khai thành sở, trong sở khéo léo gọi là phương tiện. Cho nên Diệu phương tiện khác với phương pháp và Năng thông môn. Lại nói: Cho nên cách viên của thiên, cũng có phương tiện trong thể, nên gọi là Bí diệu. Tên Bí diệu giống như đồng cái thứ ba, song ý nó thì khác. Vì sao? Vì cái thứ ba chính dùng khai hiển làm diệu. Trong đây bèn dùng riêng viên làm diệu. Nay chọn xưa nay Bí diệu khác nghĩa. Nghó kỹ Tổ ta kính lập ba giải thích. Nếu không có hai cái đầu, há có thể bày làm sen. Cho nên Hoa dùng Thi quyền nếu thiếu cái thứ ba, sao (há) lại hiển hoa nở sen hiện mà hiển thật. Thể khắp một hóa, diệu bày bảy nhóm không phát tổng trì chỉ nói nghĩa này, tán ngưỡng kiên cao ta thán chẳng đủ. Kế nêu giải thích riêng. Nếu ước Bộ giáo thì hai cái đầu thuộc giáo xưa, pháp dụng năng thông đều khác thể quyền một cái sau thuộc kinh nay. Bí diệu phương tiện gọi là Đồng thể quyền, định Bí diệu phương tiện này tướng phá hiển, tiên đức di huấn hoặc định là sở phá: Một cứ vào Liên Hoa khai dụ (dù hoa sen nở), nguyên ý Phật ra đời là hiển thật, do có chưa kham nổi nên quyền thi giáo xưa. Đây là thí dụ cho hoa đào lý cho đến hoa pháp. Pháp đã thuần viên tuyệt diệu bèn chỉ hoa sen mà lập ba dụ: Một là vì sen nên có hoa ví như vì thật mà thi quyền, bởi bốn thời chưa nói thi quyền. Đây gọi là dị thể. Nay Vô Lượng nghĩa đã nói từ một đạo thanh tịnh mà bày hai, ba, bốn gồm thâu dị thể xưa làm Đồng thể nay. Quyền đã từ thật mà thi, cho nên cùng như vì sen mà có hoa; hai là hoa nở thì sen hiện, đây là khai quyền hoa câu đầu, bèn hiển sen thật câu hai. Cho nên trong năm Phật chương đều có hai khoa Khai quyền Hiển thật. Khai quyền là văn kể giáo xưa xem là chỗ Hiển thật. Cho nên đồng thể với kinh Vô Lượng nghĩa, nay bị hiện tại phá; ba là hoa rụng thì sen thành, đây là dụ bỏ quyền lập thật, đều bỏ tự phần tức quyền của thật. Riêng lập chính tông tức thật của quyền. Kế bằng vào nghĩa quyền tạm dùng thì quyền gọi là quyền tạm. Dụng đã lại bỏ thật gọi là thật lục, rốt ráo chỉ qui thì biết mười đôi quyền đều là sở (lo) phá. Như tâm ý thức đã là sự quyền há thuộc sở hiển ư? Ba là chuẩn theo Tổ sư định giải, như Phụ Hành nói: Hiểu quyền búi tóc của đồng thể cùng với châu sáng của thật tướng. Lại nghĩa lệ rằng: Như dẫn bộ Pháp Hoa chỉ là một Thật văn kể giáo xưa xem là Sở khai. Đã nói bộ chỉ một thật cho nên Đồng thể quyền làm sở phá. Tôi xem các tiên đức phá Đồng thể quyền, một là mê mà lập dụ, hai là muội mà khai quyền. Trước mê lập dụ: là vì sen nên có hoa. Như Đại sư nói: Là mười điệu thì mở ra mười thô như là vì sen nên có hoa. Đây ước pháp Thể dụng ở xưa đều thuộc Thô pháp. Vì sao một mực? Xem là vì sen nên có hoa, đều dụ Diệu pháp. Bèn thấy năng thí lập dụ lộn lạo thứ tự, sở huống là thật. Quyền Thi mới bắt đầu từ Hoa Nghiêm, cuối cùng ở Bát- nhã đều là cách trải ba đế, đều là thật của Pháp Hoa mà thi quyền bốn thời ba giáo, cho nên gọi là Thật thi quyền. Nếu riêng ở câu này dụ kinh Vô Lượng nghĩa thì bày pháp được dụ thiếu sót vật. Hai là muội khai quyền: Bốn thời ba giáo ngoài thể hóa tha, cơ chưa thuần thục, che quyền nói thật nên không rốt ráo. Thuộc dị thể thô đến nay mới chỉ xưa chưa chân thật. Chấp giáo thiên tình đã khiển, tức biết đương thể vốn diệu. Khai pháp hóa tha này toàn là quyền tự hành quyền thật chẳng hai, bèn gọi là Đồng thể. Cho nên Tổ sư nói: Đã hiển thật rồi thì toàn quyền là thật chẳng thể nói quyền không rốt ráo. Huống Tổ sư nói: Ai chịu lấy ba cõi thức tâm hữu lậu mà làm chỗ Phật khen ngợi. Đã là chỗ Phật khen ngợi sao không được hiển. Kế định Sở hiển, là Nam Bình một Tông đều nói: Thế Tôn xưa trù tính lâu mới Chuyển pháp luân, cơ được hóa đã tạp, giáo được thí thì bất nhất (chẳng phải một). Tuy nói ba giáo mà chẳng nói đây là quyền tức thật. Tuy nói viên thừa mà chưa nói đây là thật, tức quyền. Quyền thật đều đậu, lớn nhỏ cách nhau, thế nên giáo xưa gọi quyền dị thể. Sau ở hội Linh Sơn tuyên nói Diệu Pháp Hoa, Khai Pháp Ẩn Bí xưa làm giáo vi diệu nay. Quyền thật viên dung nên gọi là Đồng thể. Pháp đã Thô diệu tương tức Phật hóa sự lý đều viên. Nếu làm sở phá bèn thành khai diệu. Cho nên Văn Ký nói: Giải thích thứ ba tức khai hai thứ trước không năng không sở cho đến Năng thông đều khai thành sở. Có thể chứng Bí diệu mà không Sở khai. Như ba dụ hoa sen là văn của Phụ Hành. Lại có năm sư tiêu thích nghĩa khác: Một là nói Đối luận tự luận có khác. Nếu ước Thiên viên đối nhau. Dị thể là sở phá, đồng thể là sở hiển. Lệ vào ba giáo trước, hoặc hoặc phải đoạn hết, Viên giáo thì ba hoặc chẳng đoạn. Ở viên tự luận thì phải đoạn bốn mươi hai phẩm. Cho nên Đồng thể quyền cũng thuộc sở phá. Nay nói Thiên viên mà đối luận thì ba thứ trước gọi là quyền viên giáo thuộc thật, sao được Đối luận liền dùng Viên giáo gọi là Đồng thể quyền thì chẳng cần phá ư? Lại nay khai quyền hiển thật, khai thiên là viên, chính phải thiên viên đối luận, lại dùng hoa sen ba dụ, gọi đó là Viên giáo tự luận phá Đồng thể quyền, tức hiển kinh nay đều không có sức khai quyền ư? Hai là nói cơ tình Phật ý, cơ tình tuy khai dị thể, Phật ý tức là Đồng thể. Nay nói khoa tiết chỉ ở kinh này. Phật ý không thích kinh nay. Căn cứ theo ý tổ, đối cơ khai hiển tuy nói ở Pháp Hoa. Nhưng mật ý của Phật thì đều khắp bốn thời. Ấy thì cơ tình Phật ý chính ước nói xưa, nếu ước nghĩa xưa để dứt (đoán?). Kinh này, nó cũng muốn đến Hồ Nam diệu hành tắc Bắc, tâm tuy thiết nhưng đường càng xa. Ba là nói pháp tự diệu, thô là do vật tình, tuy khai quyền dị thể, kỳ thật là pháp thể, vốn tự vi diệu tức là Đồng thể. Nay bảo như Ký Chủ nói: Chỉ khai tình ấy lý tự như xưa. Lại nói: Khai chỗ khai nào tức há năng phú. Đã chỉ phá tình năng phú sao từng khai pháp sở mê. Bốn là nói ước khai cánh thuyết, đem Phụ Hành mà giải quyền Đồng thể búi tóc đã điểm Tích môn mà lưu thông kinh. Đây là ước dị thể đã khai thành Đồng thể cánh. Nay bảo An Lạc Hạnh phẩm, văn tuy ở dụ sau bèn hiển đặc điểm trước chính tông khai thô hiển diệu, đây nói vô thỉ là lời hư dối. Năm là nói Đồng thể là sở khai thì ý bày Dị thể cũng chẳng thể phá. Lời này sóng mạnh, ta kinh sợ lời ấy cũng như sông Hán vô cực (mênh mông) vậy. Nay hỏi người xưa, do các sơn gia tối tăm (mê muội), văn nghĩa mà luận khai quyền mà lời rườm lý ít. Nay so sánh các văn, khiến băng tan mà giải thích khác đường cùng về một nơi Giải thích dụ, xưa biện hoa sen hoặc chuyên dụ diệu hoặc gồm so thô. Nay rốt chỗ diệu đã có quyền thật bèn hiển quyền thật cũng thông thô diệu. Nay trước phân sở dụ quyền thật, sau luận năng dụ thô diệu. Phân quyền thật là đề khế (nêu) cương yếu gồm có năm nghĩa: Một là nhân quả, hai là 9.1, ba là xưa nay, bốn là chân tục, năm là bản tích: 1/ Nhân quả mà phân, là trong mười phương giới thì bảy thứ trước thuộc nhân là quyền, hai thứ kế thuộc quả báo là thật; 2/ 9.1 mà phân quyền thật, thì Diệu Huyền nói: Thô dụ các hoa khác là 9 pháp giới, mười thứ (cái thứ mười) là nhân quả. Diệu Dụ hoa này là Phật pháp giới mười thứ là nhân quả; 3/ Ước xưa mà phân, lấy xưa là quyền làm nay là thật. Cho nên Diệu Huyền nói: một là vì sen nên có hoa, thí là thật thì (làm) quyền. Tuy nói các thứ đạo, kỳ thật là Phật thừa; 4/ Ước chân tục mà phân, không trí chiếu chân là thật giả trí chiếu tục là quyền, Trung Trí song chiếu là cũng quyền cũng thật. Trung Đạo song vong là chẳng quyền chẳng thật. Cho nên Diệu Lạc nói: Vì đối xưa nên phải làm bốn cú luận chung về Đại cương pháp tướng tuy như thế……………… Một bán (một nửa) gọi là Phương Tiện Phẩm. 5/ Bản tích mà phân, như bài tựa này nói: Chỉ sen mà dụ cho Bản quả lâu xa, hiểu Viên đạo chẳng hai lấy hoa mà thí dụ. Quyền thật tuy thông năm nghĩa. Nay chỉ ước giới và bộ giáo, để luận Khai Quyền. Kế nói Năng Dụ Thô Diệu. Bài Tựa Huyền nghĩa nói Hoa sen: một là sen nên dụ hoa là thật thì (làm) quyền; hai là hoa nở thì dụ cho Khai quyền, sen hiện là dụ cho hiển thật; ba là hoa rụng là dụ cho bỏ quyền, sen thành là dụ cho lập thật. Thường trải ba dụ dẫn mà nêu ra. Lại phàm dụ hoa sen nói ở kinh nay vốn là ví (huống) với Diệu pháp. Mà ngài Thiên Thai trước lấy vì sen nên có hoa một câu đã dụ là Thật Thi Quyền. Ước pháp thể này dụng ở lúc xưa thì hoa dụ cho thô pháp. Cho nên Diệu Huyền nói: Lại các giáo quyền thật chưa dung là quyền, đã dung khai quyển hiển thật là thật. Do xưa phó cơ mà quyền đè (giấu) ở thật bèn nói là Dị thể. Do đó kinh nay phá thiên tình nay, bèn nói: Tuy nói các thứ đạo kỳ thật là Phật thừa, Thế Tôn đã nói là thật thị (làm) quyền Tổ ta bèn lập dụ vì sen mà có hoa. Căn cứ lời này ở kinh nay mới nói thật thì quyền, bậc lợi căn liền biết quyền này tức thật. Do kinh Vô Lượng nghĩa từng nghe quyền này từ thật sanh ra. Đã phá cái thấy Di thể. Chỉ vì chưa khai hiển nên kẻ độn căn phải nhờ câu thứ hai: Hoa nở dụ cho khai quyền, sen hiện dụ cho hiển thật. Cho nên nói khai phương tiện môn bày tướng chân thật. Ký Chủ giải thích rằng: Chỉ thật là quyền, quyền giấu (am) ở thật gọi là đóng cửa phương tiện. Nay chỉ quyền là thật, ở quyền thấy thật gọi là mở cửa phương tiện. Đây điểm pháp dụng năng thông đều thành Bí diệu. Ba hoa rụng là dụ cho bỏ quyền, sen thành là dụ cho lập thật. Lại nói: chính trực bỏ phương tiện chỉ nói đạo Vô thượng. Đây là do bốn thời ba giáo đương thể bí diệu khai rồi không ngoài Thô pháp chẳng còn, nghĩa phải ở bỏ, ước pháp tuy khai phế (bỏ) đồng thời, ước dụ bèn trước khai sau phế (bỏ), nên phần làm ba cú, nêu trước sau có thứ tự. Giải thích kinh rằng khai cửa phương tiện chỉ tướng chân thật. Người xưa dẫn chứng Khai đồng thể quyền, phải hiểu hai chỗ dẫn dụng của Tổ sư. Sớ chứng phương tiện năng thông. Nay lấy nghĩa môn từ môn Năng thông của ba giáo trước mà vào viên sở, cho nên nói mở môn (cửa) phương tiện. Ký chủ bèn nói: Ở xưa chỉ được tên Thiên tên môn, không phải nói ở đó đã nói khai môn (mở cửa). Như trong Huyền nghĩa đã chứng khai quyền là đã ở phương tiện liền thấy chân thật, cho nên lấy chứng này mà khai tướng quyền. Giải thích Phụ Hành giải quyền búi tóc Đồng thể cùng minh châu thật tướng. Do An Lạc Hạnh ước vua ban thưởng dụ cho Phật trao đạo. Cơ xưa cùng Ma đánh nhau vi có công ấy chỉ ban pháp Thiền định giải thoát, như thưởng ruộng nhà. Pháp Hoa phá lớn lưới ma đến Nhất thiết trí. Như vua mở lấy châu trong búi tóc mà ban cho. Lúc xưa quyền dấu (am) ở thật, như tóc che giấu châu. Ở cơ chẳng biết là quyền, dụ Dị thể đóng lại. Kinh nay phó cơ chỉ quyền pháp của ba giáo xưa toàn là phương tiện bí diệu. Cho nên quyết pháp Thanh văn tức là vua các kinh kinh đã lấy vua dụ Phật, ước Phật khi khai Dị thể không phải là Đồng thể. Cho nên nói mở (hiểu) búi tóc quyền của Đồng thể. Giải thích nghĩa, lệ như dẫn bộ Pháp Hoa chỉ là một thật. Văn kể giáo xưa xem là sở khai. Thiên Trúc (Thiên Thai) dẫn bộ này chỉ một thật chứng mà phá Đồng thể. Nay bảo chỗ kể Thô pháp đã điểm là Diệu. Tướng quyền thật tức năng sở viên dung, cho nên nói Pháp Hoa chỉ là một thật. Giải thích khoa mục, năm chương môn Phật đều có khai quyền hiển thật hai khoa. Bốn thứ trước thì trước khai quyền kế mới hiển thật. Nay Phật bèn trước hiển thật kế mới khai quyền. Thiên Trúc (Thiên Thai) bèn nói khai quyền là văn kể giáo xưa, hiển thật bèn phá quyền Đồng thể. Nay nói khi mới khai quyền thì ý đã hiển thật. Chỉ ước nói thứ lớp. Khai quyền là nói chưa hiển thật, hiển thật mới hiểu là khai quyền. Lập ngôn thùy phạm bèn phân hai khoa cho nên Pháp Minh Giảng Chủ nói: Nói không đều ngoài (ra). Lời không nhanh nói có ý khác chăng? Ta mộ di giáo của Pháp vương, học mà luôn tập luyện, bèn bao quát cả luận Cổ kim để nghiên cứu đạo quyền thật. Tuy chẳng đủ phẩm thao uyên lưu thứ cũng không trái thương xác. Biên soạn này tặng Hậu Hiền nguyện được khai Phật tuệ. Sát-ma (Ksetra), dịch là Thổ (Đô) Điền (ruộng đất). Anh Lạc nói: Thổ là chỗ ở của Hiền thánh. Thiên Thai giải thích Duy-ma Phật quốc nói: Chư Phật lợi vật vô lượng vô biên, nay lược có bốn: Một là Nhiễm tịnh quốc, là phàm thánh cùng ở; hai là Hữu dư quốc, là người phương tiện ở; ba là Quả báo quốc, thuần là pháp thân ở, tức là cõi Nhân-đà-la Võng Vô Chướng Ngại; bốn là Thường tịch quang, tức là chỗ ở của Diệu giác. Tên bốn độ này tuy phát từ Trí giả, nhưng nghĩa của bốn độ vốn chép trong các kinh luận. Nay nêu di giáo lược khai bảy môn: một là Bằng văn, hai là Thích danh, ba là Biện nghĩa, bốn là Định thể, năm là Thị tướng, sáu là Đối thân, bảy là Giải hoặc. Bằng văn (dựa theo văn), kinh Duy-ma nói: Tùy chỗ hóa độ chúng sinh mà lấy Phật độ, tùy chỗ điều phục chúng sinh mà lấy Phật độ, tùy các chúng sanh đáng dùng cõi nước nào mà vào trí tuệ Phật, tùy chúng sanh đáng dùng cõi nước nào mà khởi căn Bồ-tát. Ngài Thiên thai giải thích rằng: Nếu đối bốn độ thì rõ ràng tương tợ. Nếu riêng nêu thì như Tư Ích kinh nói: Cõi nước ở phương Đông có Phật hiệu là Nhật Nguyệt Quang, có Bồ-tát Phạm Thiên tên là Tư Ích bạch Phật rằng: Con muốn đến thế giới Ta-bà Phật bảo: Có thể đến. Ông nên lấy mười pháp mà đến cõi ấy. Đây là Tịnh Thánh dạo cõi uế. Lại Trí Luận nói: Uế độ (cõi uế) trước bày ba thừa sau mới hiển một thừa, Ta-bà là đó. Tịnh độ trước bày thừa sau mới hiển một thừa, An Dưỡng là đó; Hai là cõi Hữu dư, như kinh Pháp Hoa nói; Ta ở các nước khác làm Phật lại có tên khác. Trí Luận nói: Có Tịnh độ Phật ở ngoài ba cõi, mà không có tên phiền não, do đó cõi nước Phật này chỉ nghe kinh Pháp Hoa; Ba là cõi Quả báo, như Nhân Vương nói: Ba Hiền mười Thánh trụ ở cõi Quả báo, chỉ cho một mình Phật là ở Tịnh độ; Bốn là Thường tịch quang, Phổ Hiền Quán nói: Thích-ca Mâu-ni tên là Tỳ-lô-giá-na, chỗ Phật ấy ở gọi là Thường tịch quang. Thích danh (giải thích tên): Một là Nhiễm tịnh Đồng cư độ, Nhiễm tịnh có ba thứ: một là Mê ngộ mà phân, thì chín giới kia là mê nghịch, gọi là Nhiễm. Phật giới là Thuận Ngộ, gọi là Tịnh. Như Diệu Lạc nói: Vì ước tùy duyên, mà duyên thì có Nhiễm tịnh. Lại Bất Nhị Môn nói: Pháp tính cùng vô minh khắp tạo các pháp gọi đó là Nhiễm, vô minh cùng pháp tính khắp ứng các duyên, gọi đó là Tịnh; hai là Tình lý mà phân, Bất Nhị Môn nói: Cho nên biết sát-na nhiễm thể đều tịnh. Chỉ Yếu nói: Nay lấy Nhiễm tịnh ước tình lý mà nói; ba là Phàm thánh mà phân, Tịnh Danh Sớ nói: Sáu đạo bỉ uế nên gọi là Nhiễm, ba thừa thấy chân nên gọi là Tịnh. Ba, sáu cùng trụ ở Nhiễm tịnh Đồng cư. Hỏi: Bất Nhị Môn nói: Trong lý một mà phân tịnh uế, riêng thì có sáu uế bốn thành, chung thì mười thông Tịnh uế, song Nhiễm tịnh tịnh uế này Văn Tâm giải rằng: Nhiễm tịnh là từ Mê Ngộ Thể Dụng mà nói: Tịnh uế ước Phàm thánh giới như mà biện. Nay gọi Tịnh gọi nhiễm, tịnh thì chính ước Phàm thánh mà phân. Vì sao Tịnh Giác liền nói: Tịnh Uế nước phàm thánh giới như mà biện. Lại Thùy Dụ nói: Gọi Nhiễm tịnh mà ước với chính, gọi Nhiễm tịnh mà ước với y. Hai độ phàm thánh cùng ở gọi chung là Nhiễm tịnh. Cõi này cát đá dẫy đầy nên riêng chịu tên uế, còn cõi kia vàng báu trang nghiêm nên riêng được tên tịnh. Nay gọi Tịnh thì Sớ nói bốn thú cùng ở nên gọi là uế, không có bốn thú ở nên gọi là Tịnh. Đây là từ chính báo mà lập tên Y báo. Vì sao Cô Sơn lại nói tên Nhiễm tịnh là ước chính, tên Tịnh uế là ước y. Phải biết Nhiễm tịnh là từ phàm thánh mà lập tên, còn Tịnh uế là ước cảnh Y chính mà lập hiệu. Hỏi: Đã từ Nhiễm tịnh mà lập tên Đồng cư. Lại có cũng từ Tịnh uế mà lập tên Đồng cư ư? Đáp: Nhiễm tịnh là tên chung, Tịnh uế là tên riêng. Cho nên Thùy Dụ nói: Cõi này tức cõi nước tịnh uế An Dưỡng tức là tất cả Nhiễm tịnh. Cho nên biết Đồng cư chính là từ Nhiễm tịnh mà lập. Nếu từ nghĩa chung (thông) như trong Tịnh Danh nói Thân Tử (Xá-lợi-phất) thấy uế, còn Phạm vương thấy Tịnh thì chính là Ta-bà Tịnh uế Đồng cư. Lại Bà-sa nói: Nếu người gieo trồng thiện căn có nghi thì hoa không nở, người tín tâm thanh tịnh thì hoa nở liền thấy Phật. Đây là An Dưỡng Tịnh Uế Đồng Cư, tùy thông nghĩa này nhưng tên không phải chính lập. Cõi Nhiễm tịnh này cũng gọi phàm thánh Đồng cư. Tịnh Danh Sớ nói: Nhiễm tức là phàm, Tịnh tức là thánh. Như Sớ văn nói: Phàm thánh đều có hai. Phàm cư có hai: Một là ác chúng sinh, tức là bốn thú; hai là thiện chúng sinh, tức là trời người. Thánh Cư có hai: Một là thật, hai là quyền. Thật là bốn quả và Bích-chi Phật, Thông giáo sáu Địa, Biệt giáo mười trụ, Viên giáo mười tín. Thông hoặc tuy đã đoạn nhưng báo thân cũng còn; hai là quyền thánh, Phương Tiện Hữu Dư ba thừa chịu thân khắp chân pháp tính, vì lợi kẻ có duyên nguyện sanh cõi Đồng cư dều là quyền cả, các Thánh nhân này cũng phàm đồng ở, nên gọi là Phàm thánh Đồng cư; hai là Phương Tiện Hữu Dư Độ, nói phương tiện, là như Thiền Môn nói: Khéo léo tu tập nên gọi là phương tiện. Đây có ba nghĩa: một là chân trung. Tịnh Danh Sớ nói: Nhị thừa ba thứ Bồ-tát chứng phương tiện Đạo đến ở. Phụ Hành nói: Sở dó ở phương tiện vì đều thuộc không biên; hai là chân tợ, Diệu Huyền nói: Biệt Viên Tợ giải (hiểu) chưa phát chân tu đều gọi là tác ý; ba là Khắp Viên, Diệu Lạc nói: Đều lấy ba giáo mà làm phương tiện. Tuy thông ba nghĩa chính là từ Chứng chân mà lập tên phương tiện. Nói Hữu dư, thì Quán Kinh Sớ nói: Vô minh chưa hết cho nên nói là Hữu dư. Tịnh Danh Sớ nói: Nếu tu hai quán đoạn hết thông hoặc mà hằng sa Biệt hoặc vô minh chưa đoạn, bỏ thân phần đoạn này mà sanh ra ngoài cõi, chịu thân pháp tính, tức có cõi ở cho biến dịch, gọi là cõi Hữu Dư, cũng gọi là Quả báo. Như Phụ Hành nói: Thông có do nhân mà cảm Quả báo chưa vào Thật báo. Lại nói: Văn nay lại nói: Báo cảm được khắp không khắp giả thì chẳng bằng Sơ trụ trở lên ở Quả báo độ. Lại gọi pháp tính, như Trí Luận nói: Chịu thân pháp tính, không sanh phần đoạn; ba là quả Báo độ, Tịnh Danh Sớ nói: Chỗ báo thân ở, Y báo tịnh quốc, gọi là Quả báo độ. Phụ Hành nói: nói Quả báo là từ quả báo mà làm tên, cũng gọi là Thật báo. Quán Kinh Sớ nói: Làm pháp chân thật cảm được Thắng báo (quả báo tốt). Tịnh Danh Sớ nói: Vì Quán thật tướng mà phát chân vô lậu mà được quả báo nên gọi là Thật, cũng gọi là Diệu báo. Như Phụ Hành nói: Chỉ có Biệt viên, Sơ địa, Sơ trụ, là được diệu quả báo, lại gọi là Thắng diệu báo. Như Chỉ Quán nói: Trái tức là Nhị biên quả báo, thuận tức là Thắng diệu quả báo, cũng gọi là Vô chướng ngại. Quán Kinh sớ nói: Sắc tâm chẳng ngại (hại) nhau, nên gọi là Vô chướng ngại. Tịnh Danh Sớ nói: một thế giới nhiếp tất cả thế giới, tất cả thế giới cũng như thế. Đây gọi là Thế giới hải, cũng gọi là thế giới Vô tận tạng; Bốn là Thường tịch quang, Quán Kinh Sớ nói: Thường tức là pháp thân, tịnh tức là giải thoát, quang tức là Bát-nhã. Đây vì chẳng dời chẳng đổi gọi là Thường, lìa có lìa không gọi là Tịch, chiếu tục chiếu chân gọi là quang, cũng gọi là quả báo. Như Văn Cú nói: Đồng cư, Hữu dư tự thể nó đều là chỗ quả báo của Diệu sắc Diệu tâm. Ký nói: Cho nên biết ba độ đều là chỗ Báo sắc tâm chứng đạo. Tịch Quang đã khắp gió na cũng khắp, đây vì quả báo của Diệu sắc Diệu tâm. Hỏi: Như Phụ Hành nói: Nay luận cảm báo, không luận Tịch quang, cứ theo Tịch quang này há gọi là quả báo ư? Đáp: Chỗ nói Tịch quang không phải là quả báo, là vì ba nghiệp đã dứt tột, nghiệp báo đều mất. Do đó Tịch quang Thân độ đều nhất. Tuy không phải là báo hoặc nghiệp mà là quả của nguyện hạnh. Tịnh Danh Sớ nói: Tu nhân hạnh nguyện của Viên giáo, khi Nhân cực quả mãn thì Đạo thành Diệu giác mà ở Thường tịch quang. Hỏi: Như Thùy Dụ nói: Trung Hạ Tịch quang nhiếp ở quả báo, không xét bốn mươi mốt Địa sanh Thật báo độ, vì sao mà được tên Tịch quang? Đáp: Tịnh Danh Sớ nói: Bốn mươi mốt địa trước nếu ước quả báo thì gọi là sanh Thật báo độ, phần kiến chân lý gọi là Thường tịch quang. Lại ký ấy nói: Ước báo mà luận sanh, thế nên hữu biên luận ở quả báo, ước Sở nhập biên thì không phải quả báo. Chỉ Sở nhập biên thì là kiến chân gọi là Thường tịch quang. Biện nghĩa, đây ước Giáo Môn biện nghĩa Độ lại mở năm môn: Một là luận thể dụng: Tịch quang là thể, ba độ kia thuộc dụng. Như Thích châm nói: Chư Phật lý tịch, thần không nơi chốn, cảnh sở y trống vắng nên gọi là Thường tịch quang. Thế nên cát đá hay trân bảo tùy chỗ sanh mà cảm lại Phụ Hành nói: Thường tịch quang độ, pháp thân thanh tịnh không có chỗ trang nghiêm, không thể trang nghiêm. Vì chúng sinh mà lấy ba độ; Hai là luận sự lý. Tịnh Danh Sớ nói: Tịch quang là lý, ba độ kia là sự. Đây bèn đối phân sự lý, nếu đều phân sự lý. Như Tịnh Danh Sớ nói: Các độ không cấu, Tịch quang không tịnh. Rốt ráo không nói mà nói các độ là cấu, Tịch quang là tịnh. Ký nói lý luận bất đương (không đúng). Cầu cùng Tịnh là ước sự mới có, còn Tịch quang thì luôn tịnh; Ba là luận Năng sở. Kinh Khê ký nói: Chỉ lấy Tịch quang mà làm sở thành, tức lấy ba độ mà làm năng thành. Cho nên sở thành chỉ một, năng thành có ba. Ấy thì năng sở là việc riêng; Bốn là luận phàm thánh. Theo Tạp Biên nói mười giới đối độ có hoành có thụ. Nếu thụ mà đối thì đng cư là sáu phàm, Phương tiện là Nhị thừa, Thật báo là Bồ-tát, Tịch quang là Phật quả. Nếu hoành mà đối thì Đồng cư có mười là phàm thánh Đồng cư vậy. Phương tiện có bốn, vì không có sáu phàm. Thật báo có hai vì không có Nhị thừa. Tịch quang chỉ một vì không có Bồ-tát; Năm là luận tịnh uế Tịnh Danh Sớ nói: Các độ là cấu, Tịch quang là tịnh ba hoặc che lấp nên gọi là cấu, ba đức hiển tột nên gọi là Tịnh. Đây ước bốn độ mà đối luận. Nếu đều phân, thì Quán Kinh Sớ nói: Năm trược nặng nhẹ Đồng cư Tịnh uế. Diệu Tông giải thích rằng: Tịnh này rất thông (chung) cần biết ý riêng. Như kẻ giới thiện thì bốn giáo phàm vị đều có thể khiến năm trược mỏng nhẹ. Mà Viên Quán nói: trược nhẹ thì cảm được Đồng cư tịnh, y chính rất tịnh. Như kinh này nói: Địa quán trở đi mỗi mỗi tướng trạng so với các kinh khác tu các hạnh thiện thì cảm được An Dưỡng Độ, tướng nó rất khác các cõi trời. Tạp Biên lại nói: Từng quán ngoài cổ âm tướng độ sáu kinh, kỳ thật là một. Nếu có y báo lớn nhỏ chẳng đồng, nhưng đây là nghĩa Như Lai khéo léo phó cơ tùy thời. Bởi do tâm tưởng phàm phu yếu kém chưa thể quán lớn được nên phương tiện hiện nhỏ làm cảnh phát quán. Nếu sanh độ ấy chỗ thấy đều lớn. Nay hỏi Tiêu xuyên đã thiên sao được thắng quả, không phải riêng bày ngẩu báo của người tu hay cũng nếu Thế Tôn là nói dối. Nhân quả chẳng phải loại nói dối thể khéo vụng Hữu dư Tịnh uế. Khan chính Ký nói: Người thông thể sắc tức không nên khéo. Người Tạng phiến sắc nói không nên vụng. Diệu Tông nói: Thể quán cảm tịnh chẳng chuyên người thông, diễn môn ba giáo đối ba tạng vụng, đều nói thể pháp. Thông chỉ không thể, Biệt thì thứ lớp thể, Viên thì bất thứ thể. Ba người sanh đó đều cảm tướng tịnh. Người viên thì tịnh nhất. Lại Vãng Sanh Ký Dẫn Phụ Hành nói: Kế nói Thể pháp, y môn tu quán cũng phải gồm đủ ba thứ bốn môn. Ba là Thứ đệ đốn ngập Thật báo Tịnh uế. Khan chính nói: Người Biệt dần tu thứ lớp ba quán, đăng địa vào thật nên xem là uế, người viên đốn tu một tâm ba quán, đăng trụ vào thật nên xem là tịnh. Diệu Tông nói: Nếu luận thật chứng thì độ này chỉ có Viên thánh đến ở. Người Biệt Sơ địa chứng thì cùng viên đồng gọi là Thật cảm báo, có ưu giáng gì. Nay ở Giáo đạo Thập địa chẳng chung đến nỗi cảm độ khác người viên. Tạp Biên cùng lấy gọi là Thiên thành phi. Thứ đệ đốn nhập, tức là Biệt viên chỗ tu khéo vụng hai quán. Thật báo Tịnh uế, tức là chỗ thấy dung ngại hai tướng. Bởi do người Biệt tu tập (quên) lâu thứ đệ tuy hồi hướng viên khi tu nhập địa nhưng vẫn thấy phần sắc nhiễm ngại, nên gọi là uế. Người viên trước sau chỉ tu đốn hạnh, khi nhập trụ thì chỉ thấy tướng độ này là dung thông, nên gọi là Tịnh. Vãng Sanh Ký phá ước giáo đạo mà nói thì thấy Thần Trí tự trái Phụ Hành. Người nghĩa học nên nghó kỹ. Bốn phần chứng cứu cánh Tịch quang Tịnh uế. Diệu Tông Sao nói: Nếu ở người Biệt đồng chứng viên thật mà luận Tịch Quang, là chỉ ước chân, nhân đối viên cực quả mà phân Tịnh uế. Nay luận giáo đạo mà nói cực quả, chỉ đoạn mười hai phẩm vô minh, nên Tịch quang cũng là uế. Viên biết phải đoạn bốn mươi hai phẩm thì gọi là cứu cánh tịnh. Vãng Sanh Ký nói: Nay ước phần mãn đối nhau, cho nên họp Trung Hạ chỉ gọi Phần Chứng Tịch Quang cũng là uế. Diệu giác Thượng phẩm chân thường rốt mãn mới là cực tịnh, thỉnh xem văn nay. Các Phật Như Lai dạo ở đâu thì cũng là cực Tịnh độ, há không phải phần được cứu cánh Tịch quang chính ước chân của Viên gia, nhân cực quả mà đối phân Tịnh uế. Ngài Tứ Minh nói: Biệt giáo giáo đạo sâu chẳng thể biết. Khan chính Ký nói: Do phần chứng Tịch quang mới sanh Thật báo. Nay ước phần chúng cũng còn mang vô minh, vì vô minh nên là uế, đoạn hết vô minh rốt ráo nên là tịnh. Tạp Biên hỏi rằng: Nếu thế thì thành uế thuộc Thật báo, Tịnh thuộc Tịch quang. Nay bảo vô minh phần phá chứng thiểu phần vô tướng nên là uế. Vô minh dứt hết chứng cứu cánh vô tướng nên là tịnh. Định thể, các Tiên Đạt chung lấy ba đạo làm ba độ dưới. Thể của đương thể dẫn Phụ Hành nói rằng: Phần đoạn ba đạo tức là kiến tư hoặc là phiền não đoạn, phiền não nhuận nghiệp là nghiệp đạo, cảm giới nội sanh là khổ đạo. Phương tiện ba đạo nghĩa là Trần sa hoặc là phiền não đạo, vì nghiệp vô lậu gọi là nghiệp đạo, biến dịch sanh tử gọi là khổ đạo. Thật báo ba đạo tức vô minh hoặc là phiền não đạo, nghiệp phi lậu phi vô tướng là nghiệp đạo, Độ biến dịch ấy gọi là khổ đạo. Thông lấy ba đức làm Thể sở y, khổ đạo tức là pháp thân, kiết nghiệp tức là giải thoát, phiền não tức là Bồ-đề. Tiên sư bèn bảo hoặc nghiệp là nhân, khổ đạo là quả. Nay thể của độ là trung gian ba đời, chỉ lấy khổ đạo làm cõi nước là thể của một ngàn đương thể. Lại lấy ba đức làm Thể sở y. Cho nên Kinh Khê nói: Đã cho pháp thân ở khắp tất cả chỗ, Báo - Ứng chưa từng lìa pháp thân. Nếu Tịch quang độ, thì Quán Kinh đã ước bốn đức mà giải thích tên, phải lấy ba đức làm Đương thể của độ lý không chỗ còn khắp ở nơi sự. Bèn lấy ba độ làm Thể sở y. Quảng Từ Pháp sư, theo Diệu Lạc nói: Vốn có bốn đức làm sở y, tu đức bốn đức làm năng y bèn chỉ Tu đức ba nhân làm đương thể. tính đức ba pháp làm sở y. Nay bảo Diệu Lạc nhân giải thích Hạ phương không trung Bồ-tát, do đó đem thân biểu thị cho trí, lấy không biểu thị độ, nên nói Thân độ. Nay chỉ biên độ sao được gồm thân. Huống đem tu đức để đối Lý độ, bèn bày nghĩa năng sở điên đảo. Thị tướng, đây ước giáo môn chỉ tướng bốn độ: Một là chỉ tướng một khác, Ta-bà - An Dưỡng, cấu tịnh khác nhau nên gọi là khác. Phương tiện - Hữu dư thuần cảnh thanh tịnh nên gọi là một. Tịnh Danh Sớ nói: Ba thừa đồng lấy vô ngôn nói đạo, phát chân vô lậu, cảm được cõi nước một đến liền đồng, cho nên nói là một; hai là bày tướng dung ngại, Phương tiện tuy là tướng một mà vô minh chưa phá thì quả báo còn cách khác. Tịnh Danh Sớ nói: Nhiễm Tịnh Hữu Dư hai thứ chúng sanh thấy có chướng ngại. Biệt Viên Địa Trụ phần phá vô minh, y chính hổ dung 1- nhiều tương tức nên gọi là dung; ba là nêu tướng Hoành thụ. Xưa giải thích Hoành thụ cú nghĩa lăng xăng, mê loạn người học. Nay phân hai nghĩa rõ ràng dễ hiểu. Một là ở độ tự phân. Như Diệu Huyền nói: Nếu phân biệt mà nói nghĩa là phương tiện ở ngoài ba cõi. Nếu phân biệt mà nói nghĩa là Thật báo ở ngoài phương tiện lệ đây mà phân biệt nghĩa là Tịch quang ở ngoài Thật báo. Cho nên Tịnh Danh ký hỏi: Ở ngoài ba độ có khác gì Thái Hư? Đáp: Khắp đồng lý khác. Nói lý khác là pháp thân tức độ, lìa thân thì không độ, lìa độ thì không thân. Chỉ chân như thật tướng không phải trí không phải cảnh mà nói trí nói cảnh, không phải thân không phải độ mà nói thân nói độ. Ước nghĩa phân biệt này là thụ đó. Nếu ước tương tức thì như diệu Lạc nói: Há lìa Già-da, riêng cầu Thường tịch. Không phải ngoài Tịch quang riêng có Ta-bà. Tịnh Danh Ký nói: Hoành giải là như trước đã dẫn văn kinh Pháp Hoa, chỉ ở độ này mà thầy hai độ trên. Cho nên Tiểu Bị Xích (Tiểu thừa bị chê) thấy tịnh chẳng sợ ngón chân ấn đất là việc ấy. Ước tướng này tức nghĩa thuộc hoành vậy. - Nếu ước tương nhiếp (nhiếp nhau), Tịnh Danh ký nói: Đã một độ nhiếp tất cả độ cho nên được cõi này khắp nhiếp hai độ dưới. Theo đây lấy Thắng nhiếp liệt độ thì cũng là Hoành; Hai là cùng giáo đối phân, Diệu Lạc Ký nói: Hoành luận độ thể cùng giáo tương đương, Thụ luận ước độ dụng giáo nhiều ít. Song thụ luận ấy như Chỉ quán nói: Nếu lấy bốn đế mà thụ đối các độ thì có tăng có giảm. Đồng cư có bốn, phương tiện có ba Thật báo thì hai, Tịch quang chỉ một. Phụ Hành giải thích rằng: Thụ ước bày giáo đối cơ, cơ đã tăng giảm bất đồng đến nỗi khiến giáo có nghĩa sai khác. Bốn đội đối giáo ưu liệt (hơn kém) ít nhiều, nên gọi là Thụ. Đây là tướng độ tuy thụ mà giáo là hoành nói. Cho nên Tịnh Danh Ký nói: Song ước Hoành luận thì Đồng cư đủ bốn, ba độ kia giảm dần. Đồng cư cơ tạp bèn lập bốn giáo. Phương tiện chỉ dùng Đại thừa dạy khiến tu học. Lý tuy Biệt viên, bởi vì bẩm ba Tạng mới sanh phương tiện. Chưa tập thông môn đậu kia là biết cho nên người học bèn nói Thông giáo dó đãng chấp tình. Thật báo ước Hạnh chứng đạo đồng viên. Chỉ ước Hữu dư khi dụng giáo thì giáo đạo hóa cơ nói Biệt khác Viên. Đủ dụng hai giáo mới sanh Thật báo. Tịch quang là thượng phẩm chẳng cần dụng giáo, chỉ bị trung hạ cho nên có tướng Viên thừa lập giáo. Tuy Hoành ở độ tự phân thành thụ. Nếu ước tương tức thì Đồng cư hoành đủ bốn độ thể tướng cùng bốn giáo chỉ (cùng ý chỉ của bốn giáo) luận về tương đương. Ba tạng nói về sanh diệt bèn cùng Đồng cư vô thường tương đương. Thông giáo nói huyễn hóa tức không, bèn cùng phương tiện chứng chân tương đương. Biệt giáo tự sự chịu tên, bèn cùng Thật báo cảm quả tương đương. Viên giáo nói về tính đức bèn cùng Tịch quang Lý thể tương đương. Hoành biện bốn giáo không còn ưu việt nên gọi là Hoành, bốn là bày tướng hữu vô. Diệu Tông nói: Trong kinh luận nói Tịch quang vô tướng chính là đã hết tướng nhiễm ngại, không phải như tướng hư không chẳng có một vật. Bởi do bố thí hoặc đã rốt ráo thanh tịnh, thì y chính sắc tâm rốt ráo hiển sáng. Cho nên Đại Kinh nói: Nhân diệt sắc ấy mà được thường sắc. Thọ tưởng hành thức cũng lại như thế. Nhân vương gọi là năm ấm pháp tính, cũng là tướng thường Pháp Hoa của thế gian. Đại Phẩm nói: Sắc hương đều là trung đạo ấy thì gọi là Lạc Bang rốt ráo, vàng báu rốt ráo, ao hoa rốt ráo, cây ngọc rốt ráo. Lại nữa, đây là bỏ uế tột sạch, được tịnh tận nguồn. Cho nên cõi khổ v.v… phán thuộc ba chướng, Lạc ban vàng báu xem là Tịch quang. Nếu ở Tịnh uế bình đẳng là nói thì rốt ráo (cuối cùng) cõi khổ bún đất mà là Tịch quang. Hai thuyết này chỉ thuận tất đàn đều là viên cực. Lại Tịnh giác soạn Tạp Biên nói: Lại Thường tịch quang, là Diệu tính của thật ba đức, lìa thì là ba pháp, họp thì là một tính, một còn chẳng một, há có tướng khổ vui, hoa thai ư? Phải biết nói vô tướng, lời ấy cũng tóm tắt, nếu nói đầy đủ phải là vô tướng bất tướng. Đó gọi là không có tướng sanh tử, không có tướng Niết-bàn cưỡng ép mà gọi là thật tướng. Nay bàn chỗ luận của hai sư mà nói rằng: Nếu y nói bày mà phân biệt, như Phổ Hiền quán chỉ bày Tịch quang độ, bèn dùng bốn đức mà giải thích pháp ba đức. Cho nên Tổ sư phán Tịch quang là lý, còn ba độ kia là sự. Ước nói này mà phân biệt thì Tịnh giác bèn họp nghĩa mà phân biệt. Nếu ước tương tức thì lý sở y không còn mà khắp ở sự. Cho nên Duy-ma Sớ hỏi: Riêng có Tịch quang độ chăng? Đáp: Không phải thế, chỉ phần đoạn biến dịch tức là Thường tịch quang. Ngài Tứ Minh bèn họp nghĩa tương tức cướp mà nói phân biệt chỉ giải ngoài ba độ riêng có Tịch quang mà mê Tịch quang thì cũng khắp ba độ. Bèn chấp Tịch quang là không không, song thật chẳng khác Thái Hư, cho nên tôi không lấy ý này. Song Tịnh giác trong Tạp Biên hỏi Tứ Minh rằng: Nay hỏi Y chính sắc tâm này là thể hay dụng. Nếu nói là thể thì Diệu Huyền bảo trong Thể dụng quyền thật, thì thể tức là thật tướng không có sai khác, dụng tức là lập tất cả pháp sai khác chẳng đồng. Còn Diệu Lạc thì chỉ tịnh duyên làm tất cả pháp, há không phải Thật thể cũng không có tướng tịnh. Nếu nói là dụng, thì y chính sắc tâm chính là sự của ba độ sau, sao được nhận làm lý của Tịch quang. Nay nói như chỉ yếu rằng: Phàm gọi thể dụng thì vốn là nghĩa tương tức, cho nên phàm nói các pháp tức lý thì toàn dụng tức thể, thì mới có thể nói tức. Phụ Hành nói: Tức thì Nhó Nhã gọi là Họp. Nếu y đây mà giải thích thì vẫn giống như hai vật hợp nhau lại, lý đó cũng còn sơ sài (cạn). Nay lấy nghĩa mà tìm, thể nó chẳng hai nên gọi là tức. Nay bảo toàn thể là dụng mới gọi là chẳng hai. Tức Thích-ca là vua Ta-bà thì tức là Tỳ-lô ở Thường tịch. Cho nên Văn Cú nói: Đồng cư, Hữu dư tự thể nó đều là chỗ quả báo của Diệu sắc Diệu tâm. Kinh Khê giải thích rằng: Tịch quang đã khắp, Giá-na cũng khắp. Đây đều là văn nói rõ sự lý tương tức, vì sao lại bỏ sự mà riêng cầu lý ư? - Tạp Biên lại hỏi: Họ dẫn Diệu Kinh Sớ rằng: Thường tức Đức Thường tịch tức Đức Lạc, quang tức Ngã tịnh, là bốn đức Bí Mật Tạng. Diệu Lạc nói: Bản có bốn đức làm sở y, tu đức có bốn đức làm năng y, năng sở đều có năng y. Y ở năng sở; độ sở y hai nghĩa đều ngang nhau, mới là tướng thân độ của Tỳ-lô-giá-na. Lấy đây làm chứng thì Tịch quang có tướng chẳng thể được ư? Đáp: Người này chỉ nghe tên thân độ liền làm hình tướng giải mà chẳng biết bốn đức là vật gì. Lại nói phải hiểu Giá-na vốn không thân độ, tùy thuận thế gian mà cưỡng ép chỉ Diệu giác cực trí làm thân, lý như như pháp giới làm độ. Nếu tiêu hủy văn Diệu lạc thì phải nói: Bản có bốn đức là lý. Tu đức bốn đức là trí. Năng sở đều có thân năng y. Độ sở y nghĩa là lý của tính đức làm sở y, Trí của Bản giác làm năng y. Lại lý Tu đức là sở y, trí Thủy giác là năng y. Tu tính tuy khác, cự tồn cảnh vạn hữu, Thủy Bản tuy hai, thà lưu giữ hình năm ấm. Cho nên Duy-ma Sớ nói: Pháp thân tức độ, lìa thân không độ, lìa độ không thân. Nay nói giải thích này gồm có hai quấy: Một là năng sở chẳng hiện. Diệu Lạc nhân giải thích hạ phương không trung Bồ-tát, bèn lấy thân Bồ-tát để biểu thị cho Tu đức năng y, lấy hư không độ để biểu thị cho tính đức sở y. Sao được chỉ giải thích sở biểu tu tính mà toàn bỏ Thân độ năng biểu; hai là tu tính bất tức ông ấy lấy lý tính đức làm sở y, Trí của Bản giác làm năng y, Lý của Tu đức làm sở y, Trí của Thủy giác làm năng y, Lý của Tu đức làm sở y, Trí của Thủy giác làm năng y. Nay nói Bản giác so với Tu đều thuộc tính, Tu lý so với tính đều thuộc Tu. Y vào sở giải thì thành, lấy tính làm mất tính, lấy tu mà hội tu, không phải tu tính chẳng hai sao phải nói toàn tính khởi tu. Cho nên Độ sở y tức là Thân năng y. Tịch quang là Ứng thân, toàn tụ ở tính cho nên thân năng y là Độ sở y. Ứng thân là Tịch quang mới hiển thân độ bằng nhau. Bèn thấy sự lý không sai khác. Lại nói: Nếu bảo Tịch quang vô tướng thì liền đồng thiên chân. Cũng như Thái Hư, đây là do chẳng biết đại tiểu hai lý, trí chẳng phải trí khác. Như Duy-ma Sớ nói: Đại thừa pháp tính tức là chân tịch trí tính, chẳng đồng lý thiên chân của Nhị thừa. Nay hỏi: Tịch quang pháp thân đã đủ vô tướng, thì chân tịch trí tính là y pháp nào đã bày trí tính vô y hiển chẳng phải minh giám của trác thức. Tạp biên lại nói nếu căn cứ vào ba thân tướng hổ cụ bốn độ ắt cần phải thân thân tức ba, độ độ đủ bốn. Nếu thế thì pháp thân Tịnh độ há được vô tướng ư? Thông nói: Nay vì ông mà luận bốn độ có nghĩa hỗ cụ. Nếu ước sự lý đối nhau mà luận hỗ cụ, thì tịch đủ ba độ, bèn toàn thể khởi dụng, vô tướng mà tướng. Ba độ đủ tịch, bèn toàn dụng là thể, tướng tức vô tướng vậy. Nay hỏi: Toàn dung là thể có thể được vô tướng, nhưng toàn thể khởi dụng thì phải nói là có tướng sao được một mực nói là vô tướng? Tạp Biên lại hỏi: ba tướng nếu chẳng thể trộm vào nhau. Vì sao Kinh Khê lại hỏi: Mỗi một trần sát hay tất cả trần sát. Đáp: Đây chỉ sát tính khắp thâu, nên nói tất cả. Như kim bài tức nghĩa khắp hẹp, hẹp sao lại khắp, vì hẹp tức là tính. Lại như hạt cải chứa núi Tu-di, hạt cải làm sao chứa, vì hạt cải cũng là tính. Văn này chỉ thấy sự tức là Lý mà chẳng thấy lý tức là sự. Lý chẳng tức sự sao được hạt cải chứa núi Tu-di mà chẳng làm hại cây cỏ, sợi lông nuốt biển lớn quấy nhiễu cá rồng. Tạp Biên lại nói: Nếu không có tướng y chính, đây thì Lý không đủ (chỗ cụ), sự không còn (chỗ tồn) há có thể pháp thân liền đồng tro nát? Đáp: Tiểu thừa vô tướng cũng như lý Thái Hư không sanh pháp. Đại thừa vô tướng cũng như tính gương sáng chứa các hình ảnh. Tượng (ảnh) do hình đối gương không phải tự khác. Không nói gương tính đủ tương (ảnh) liến nói tính đã sai khác. Nay bảo nếu nói chỉ đủ ở tính mà không đủ ở tướng thì sao Quán Âm Huyền nghĩa lại nói ngàn thứ tính tướng ngầm phục (núp) ở tâm. Lại Bất Nhị Môn nói: Lý tức danh tự quán hạnh đã có y chính tướng không hai. Than ôi. Tiêu xuyên tuy lưu ý các sơn gia chỉ giải tướng tu tính là y vào chưa hiểu sự lý có dung tức. Trái pháp chỉ dạy học trò sau này dứt nối. Đối thân, Tịnh Danh Sớ nói: Hai thứ trước là Ứng, tức là chỗ ở của Ứng Phật. Bởi vì Vương cung đản chất (hiện thân). Rừng hạc dấu thần (tịch diệt) hiện tướng sanh diệt, nói ba tạng pháp hóa Đồng cư độ gọi là Liệt ứng thân kịp khi ở Hữu dư độ thì hiện thân pháp tính, cơ có thì Ứng thân có, cơ mất thì Ứng thân mất. Đây khác cõi Ta-bà Thông Phật tro đoạn. Đã không phải quả báo nên gọi là Thắng ứng độ. Thứ ba cũng là Báo cũng là ứng, tức chỗ ở của Báo Phật, vì Tha thọ dụng nên gọi là Thật cảm báo, phó ở Địa trụ Bồ-tát Đại cơ, cho nên Phật độ ấy cũng gọi là Ứng. Một độ sau chót là chân tịnh, không phải Ứng cũng không phải báo là chỗ ở của pháp thân. Đây là ước độ thể, hoàng đối bốn Phật. Nếu Thụ Luận Độ thì phàm thánh Đồng cư hiện đủ bốn thân. Phương tiện chỉ có thắng nên không có Liệt ứng. Kỳ thật báo độ không có người của Nhị thừa chỉ có Phật Biệt viên. Tịch quang vô cơ độc diệu pháp thân. Giải hoặc, có người hỏi: Kinh Duy-ma nói: muốn được Tịnh độ phải tịnh tâm mình, tâm mình tịnh tức Phật độ tịnh. Tâm như hình và tiếng, độ như bóng và vang. Chỉ phải tự tịnh tâm mình sao nhờ riêng cầu Tịnh độ? Đáp: Trước nói tâm tịnh phải biện lý sự: Một là tính tịnh, hai là sự tịnh: 1/ Về tính tịnh thì kinh Đại Tập nói: Tất cả chúng sinh tâm tính vốn tịnh. Vì tâm vốn tịnh cho nên các kiết phiền não chẳng thể nhiễm trước mà cũng như hư không. Đây là chúng sinh và cõi nước đồng một pháp tính, địa ngục cung trời đều là Tịnh độ. 2/ Là sự tịnh, tính tuy vốn tịnh nhưng tâm bỗng mê, một niệm chẳng biết hai chướng che lâu, nên phải tu ba quán để phá ba hoặc. Cho nên Nhân Vương nói: Ba hiền mười Thánh trụ ở quả báo, chỉ có Phật mình trụ ở Tịnh độ. Lên quả Diệu giác mới là rốt ráo tịnh. Thấp nhất là phàm phu cẩn thận chớ thao lạm. Kế nói Tịnh độ cần phải hiểu khó dễ. Luận Bà-sa nói ở thế giới này tu đạo có hai: Một là khó làm ở trong đời ác năm trược, ở trong vô lượng đời Phật mà cầu A-bệ-bạt-trí (bất thối chuyển) thật là khó được, vô số khó này trần sa kiếp cũng chẳng thể nói hết. Hai là đạo dễ làm, nghĩa là tin lời Phật dạy niệm Phật Tam-muội nguyện sanh Tịnh độ, nương sức nguyện của Phật A-di-đà nhiếp trì thì quyết định vãng sanh, nên gọi là Đạo dễ làm. Bảy nghĩa môn này biện các Phật độ. Dẫu số hơn bụi đất thì lý đều đồng cảnh tượng. Duỗi ra tuy có vạn hóa, nhưng cuốn lại thì một pháp cũng chẳng lập. Khi biên soạn đến đây thì đã 64 tuổi rồi, may mà mắt chưa mờ còn viết được chữ nhỏ. Dứt bút rất mừng. Bèn có tụng rằng: Tiếng Phạm phân rành khó khắp cầu Viết bài nêu yếu hội mọi người Tổng trì (nắm vững) ba tạng như xem (chỉ trong) bàn tay Rất mong Hậu Hiền viết tiếp cho. Tập Phiên Dịch Danh nghĩa này là của ngài Phổ Nhuận Đại Sư Pháp Vân ở chùa Cảnh Đức tại Cô Tô biên soạn ra. Sách này đến nước này có năm tháng rõ ràng (có hơn một năm), cho nên thường thường khắc bản in ra mà truyền cho đời cũng rất ưa chuộng. Có bản đời Đường để kiểm điểm. Vì quá rộng nên bản có nhiều chỗ thoát giản. Thế nên khảo đính mà bổ sung chỗ thiếu và lược. Lại Bàn gia uy điểm, thì điểm ấy chẳng phải một chuẩn thỉnh ở mọi nơi trường học có người viết chép ắt biết có chỗ phải cũng có chỗ sai. Rất mong những bậc sáng suốt nên thêm hoặc bớt cho. Liêu mạng công thọ mộc để rộng truyền vậy. Năm Khoang Vónh năm, năm Mậu Thìn, Thượng tuần tiết trọng đông (ngày Thượng tuần tháng 1 1).