<經 id="n2127">THÍCH THỊ YẾU LÃM (QUYỂN THƯỢNG - TRUNG & HẠ ) HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN THÍCH THỊ YẾU LÃM Đời tiền Đường, núi Nguyệt Luân, Sa-môn Thích Đạo Thành dịch Xưa kia đức Phật chúng ta đầy đủ ba thân đoan chính nhiệm mầu, thành tựu bốn trí, tự mình chứng đắc không vào Niết bàn, xoay vần thuyết pháp độ người, trình bày muôn pháp, chỉ chỗ chân thật, dẫn dắt quần sanh, hiểu rõ căn bản không, lập môn Tam muội, trang nghiêm tướng cụ túc, dứt sạch kiến chấp hữu vi, quay về với pháp nhẫn vô sanh, lãnh hội tông chỉ biển giác, có nhiều đồ chúng thanh tịnh, mới nhập Niết bàn. Khi kết tập lời Phật dạy, tổ dùng kinh, luận diễn nói giáo pháp xa vời. Giảng nói rộng thì đạt đến chỗ tột cùng không có giới hạn. Giảng nói lược thì vi tế mà không sai trái, nhìn mà chẳng thấy, cho đến vô số kiếp cũng không thể hoại, hoàn toàn thâu nhiếp vào sự hiểu biết không có lẫn lộn đầu mối, tuy theo kịp mà chẳng chu toàn, thông hiểu tỏ ngộ, chẳng chỗ siêu việt nào mà không đạt đến, chẳng phải do lối tắt mà đạt đến thì phải cần xem rộng vào giáo pháp này vậy, bỏ qua ngọn ngành, không dạo trong pháp tạng để hiểu tiết chế vạn hạnh, cần dứt tùy dụng mà lập quy chế, tu tập biét chỗ hướng đến mà không mê lầm, bao quát thấu triệt, tuyên nói chân đế chứng ngộ như đuốc sáng chiếu soi tất cả. Quyển thượng, quyển hạ đều nói rộng. Như Mặt trời mọc nên vạn vật được nhờ hưởng, nghĩa là chân như chẳng ở nơi cầu nghĩa, vả lại trong tướng không ngại của các pháp mà người không học thì chnẳg biết, người học mới biết. Do cách Thánh đạo quá xa nên sai biệt trái ngược. Tuy kẻ có học, có biết nhưng mà không đủ sức để hành, còn những kẻ chưa biết đến đường hướng mà xa lìa sự học được chăng? Nhớ tâm mà đạt đến quả vị thì phần nhiều là ở công đức. Nay Thành Công học rộng, hiểu nhiều, quyết chí lưu tuyền chính pháp, nương oai lực Phật ghi chép tập hợp những điều chính yếu. Đó là trí tuệ, ai gọi là không sáng suốt. Mùa Thu năm thứ tư niên hiệu Thiên Hỷ đời Tống đã chép xong bài tựa. --------------------------------- THÍCH THỊ YẾU LÃM Hán dịch: Sa-môn Đạo Thành <卷>QUYỂN THƯỢNG Đạo Thành gượng ở kinh đô, mùa Đông quay về quê cũ, ban đầu ở Thiên phủ Vạn Long Hoa, sau ở Lan nhã Nguyệt Luân, trong khoảng mười năm dứt bặt việc đời, chỉ lấy việc đọc kinh là m thời khóa hàng ngày, để báo trả ân ghi chép của người xưa. Nhưng theo văn thì tối ng- hóa, như khát mà uống nước thì chỉ có việc là đầy bụng, không biết được cái thâm thúy rộng lớn trong ấy. Hoặc có kẻ xuất gia biết được đôi điều liền tùy tiện sao chép. Vào mùa Thu năm thứ ba niên hiệu Thiên Hỷ, ân của Hoàng Thượng bao la rộng lớn, đôï khắp thiên hạ cùng thực hành. Do đó ai ai cũng noi theo, là m lợi ích cho mọi nhà như truyện ký, thư sớ, tiết văn, được phân là m hai mươi bảy tập, gom thành ba quyển, đề viết: “Thích Thị Yếu Lãm”. Vì xót thương cho những kẻ mới vào cửa Phật pháp đều chưa biết mà lơ là hoặc coi thường kinh này cho đó là nơi chứa các thần linh thì trọn đời chỉ biết qua loa, còn những bậc học giả uyên bác thì đâu có thể phế bỏ lời giáo huấn này. Đó cũng như lời bậc Thánh nói vậy. Biến mục Theo kinh Hoa nghiêm dạy: Bồ-tát có mười trí. Đó là : Trí biết an lập Trí biết ngôn ngữ Trí biết đàm luận Trí biết quy tắc Trí biết xưng vị Trí biết chế lệnh Trí biết giả danh Trí biết vô tận Trí biết tịch diệt Trí biết nhất thiết không. Do mười trí này được phân là m hai mươi bảy biến nhưng mà văn cú trong kinh, luật, luận, Tiểu thừa và Đại thừa đều bao gồm mười trí này. tính thị – Xưng vị – Cư xứ – Xuất gia – Sư tư – Thế phát – Pháp y – Giới pháp – Trung thực. <詞>tính THỊ Tây Vức ký chép: Dòng họ là truyền thống trăm đời không thay đổi. Họ là phân biệt con cháu được sanh ra Gia phả họ Thích Ca : Dòng họ là nêu nguồn gốc, muốn gợi lại bản chất nên tùy theo vật loại mà đặt tên. - Thiên Trúc có bốn dòng họ: Sát-đế-lợi Bà-la-môn Tỳ-xá Thủ-đà-la. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni của chùng ta thuộc dòng Sát-đế-lợi. Kinh Trường A-hàm dạy:Vào hiền kiếp lúc thế gian mới hình thành chưa có Mặt trời, Mặt trăng, lúc ấy Quang Âm Thiên hạ sanh xuống trần gian, thân có ánh sáng, bay đi tự tại, không có phân biệt nam nữ, sang hèn, thân sơ, ăn vị đất tự nhiên, do ăn vật này nên ánh sáng mất, thần thông diệt, tâm tham bắt đầu nãy sinh, lại ăn vị bánh, đất, dầu mỡ từ đất nên các ác huân tập, thân nam nữ bắt đầu hình thành. Đất sanh ra lúa, sáng gặt thì chiều tối lại mọc, cũng không có mày trấu. Lúc ấy, con người sanh tâm tham đều đem về cất chứa nên lúa không sanh nữa. Họ bắt đầu chiếm ruộng đất, học cách cày cấy. Từ đó gian dối, trọm cắp nỗi lên, không người giải quyết. Trong đó có một người có phẩm chất cao quý, mọi người đều khâm phục nên họ lập người ấy lên là m chủ, hiệu là Ma ha Tam ma kiệt la xà. Mọi người đều nguyện nghe theo lời người ấy. Đó là người thuộc dòng họ Sát-đế-lợi. Có năm dòng họ khác nhau, đức Phật Thích Ca trong ba a-tăng- kỳ-kiếp tu tập lục độ vạn hạnh, hoặc thật báo, hoặc thị hiện giáo hóa đều tùy theo muôn loài nên phân biệt họ vậy. Họ Cù Đàm. Tiếng Phạm là Cù-đáp-ma, lại gọi là Cù-di. Ở đây dịch là Địa Tối Thắng, nghĩa là ngoài cõi Trời ra thì đối với loài người là tối thắng hơn tất cả. Cho nên kinh dạy: Xưa kia vào kiếp sơ, đức Phật là m quốc vương Thiền Vị. Tiên sư Cù-đàm tu đạo, thường dạo trong vườn, bị giặc là m hại. Vị Tiên kia mới đem thi thể cùng máu đi tẩm liệm, dùng bùn để hai bên và dùng vật đậy ở trên rồi càu nguyện đủ mười tháng thì bên trái sanh người con trai, bên phải sanh người con gái, theo mệnh ấy họ Cù Đàm mới có. Họ Cam Giá. Kinh dạy: Xưa kia Chuyển luân vương Đại Tự Tại có con cháu nối dõi tất cả gồm tám vạn bốn ngàn Vua. Vị Vua cuối cùng tên là Đại Mao Thảo đến già mà chẳng có con nên ông giao việc triều chính cho Đại thần rồi cạo tóc, xuất gia, đại chúng gọi là Vương Tiên. Vì già rồi không đi lại được nên lúc các đệ tử đi khất thực, họ dùng lồng cỏ để Vương Tiên vào rồi treo trên cây, sợ hổ, lang, sư tử là m hại. Có một người thợ săn trông từ xa cho là chim trắng nên bắn chết, máu nhỏ giọt xuống đất. Các đệ tử về thấy thầy bị hại nên cùng nhau tẩm liệm thi thể cùng với máu trên đất, sau đó bỗng nhiên sanh ra hai cây mía. Khi Mặt trời đốt nóng nó liền bổ ra: một cây sanh ra người con trai, một cây sanh ra người con gái. Đại thần hay tin liền đến nghinh đón về cung, nuôi dưỡng đến lúc trưởng thành, do thuộc dòng dõi Vua nên chúng được lên ngôi và họ Cam Giá mới có. Họ Nhật Chủng Kinh dạy: Do Vua Cam Giá không thọ thai mà do Mặt trời đốt nóng mới được sanh ra nên gọi là Nhật Chủng. Kinh Đại Bi dạy: Họ Nhật nghĩa là lìa sự tối tăm mà tỏa ánh sáng vậy. Họ Xá Di Vua Cam Giá đuổi bốn Thái tử: Cự Diện Kim Sắc Chúng Tập Ni Câu La. Ban đầu bốn Thái tử đi về phía Bắc núi Tuyết rồi dừng xa giá ở dưới gốc cây có nhiều cành lá sum sê, cho nên gọi là Xa-di-kỳ, nay gọi là Xá-di. Tiếng Phạm là Ngoa-lược. Luật Ngũ phần dạy: Rừng Xá-di gần phía Bắc núi Tuyết dùng để xây thành, cất nhà. Lại nữa, Vua Bình sa hỏi Phật sanh ở đâu? Phật trả lời: “Sanh ở nước Xá-di. Pháp Uyển : Xá-di là dòng quý phái ở bốn phương. 5. Họ Thích Ca Bốn Thái tử kia dùng đức hướng dẫn dân chúng, trải qua năm tháng là m cho đất nước hùng mạnh. Phụ Vương hối hận, mong nhớ con nên sai sứ gọi về. Bốn Thái tử từ chối không trở lại. Phụ Vương mới than rằng: “Con ta là Thích Ca”. Trường A-hàm dạy: Thích Ca, Tần gọi là Năng, lại dịch là trực, nghĩa là vì ở ngay nơi rừng vậy, nay gọi là , nay gọi là tường. Trong bốn Thái tử đều thuộc họ Thích Ca, chỉ có Thái tử thứ tư là Ni Câu La là Phật tổ của chúng ta vậy. Theo kinh dạy: Ni Câu La có người con tên là Câu Lư. Câu Lư có người con tên là Cù Câu lư. Cù Câu lư có người con tên là Sư Tử Hiếp. Sư Tử Hiếp có bốn người con là : Tịnh Phạn, Bạch Phạn, Hộc Phạn, Cam Lồ Phạn. Dòng họ người xuất gia Khai nguyên lục : Từ đời Tần, đời Tấn về trước thì người xuất gia đa số là tùy theo dòng họ của thầy. Về sau Di Thiên Sa-môn Đạo An dạy: Những người cạo tóc, mặc y nhuộm đều thuộc dòng họ Thích Ca, tức không có dòng họ khác, tất cả đều gọi là họ Thích như vậy. Trong kinh Kịp Dịch Xuất A-hàm, đức Phật bảo các Tỳ-kheo: Nước các dòng sông lớn chảy về biển đều không có tên nào khác, đồng gọi là nước biển. Con của các dòng họ theo Phật cạo tóc, xuất gia, mặc ba pháp y thì không có dòng họ nào khác, chỉ gọi là Sa-môn dòng họ Thích. Luật Sa-di-tắc dạy: Các Tỳ-kheo xuất gia có đủ các dòng họ thì đều bỏ dòng họ cũ, đồng gọi là dòng họ Thích. <詞>XƯNG VỊ Sa-môn Pháp sư Triệu nói: Sa-môn là tên gọi những người xuất gia. Tiếng Phạm là Sa-ca-mãn, xưa kia đời Đường dịch là Cần tức, nghĩa là người này cần tu thiện phẩm, dứt bỏ các ác. Tần dịch là Cần hành, nghĩa là cần tu thiện phẩm, hành hướng Niết bàn. Có ng dịch là Sa-môn-na, hoặc gọi là Tăng-môn, đều dịch là người có khuôn phép. Kinh Niết bàn dạy: Sa-môn, ở đây dịch là Thiện giác. Kinh Đại Phương Quảng Bảo Khiếp dạy: Lìa các phiền phức nên gọi là Sa-môn. Kinh Đại Trang Nghiêm dạy: Vượt qua các sự nhiễm trước nên gọi là Sa-môn. Kinh chính Pháp Niệm Xứ dạy: Tâm không đắm trước khoái lạc, tất cả không mong cầu, có thể bỏ các sự tham trước, đó gọi là Sa-môn. Kinh Hoa Thủ dạy: Như hư không không bị ngăn ngại, khói trần không bị ô uế, Ta nói pháp Sa-môn không nhiễm trước cũng như vậy. Kinh Bảo Tích dạy: Sa-môn nghĩa là Tịch diệt, vì có khả năng điều phục, thọ giáo, giới thân thanh tịnh, nghó như thật, đắc giải thoát , lìa ba mươi tám pháp, kiên tâm bất động như đất, hộ trì ý mình và người, không nhiễm trước các hình tướng, như hư không không có ngăn ngại, thành tựu các pháp như vậy gọi là Sa-môn. Kinh Trường A-hàm dạy: Sa-môn nghĩa là xả bỏ ân ái, xuất gia tu đạo, chế ngự các căn, không bị nhiễm dục, từ tâm đối với muôn loài, không là m tổn hại, gặp khổ không buồn, gặp vui không mừng, nhẫn chịu như đất. Luận Du-già dạy: Có bốn loại Sa-môn: Sa-môn thắng đạo tứcc là Phật.v.v Sa-môn thuyết đạo là những vị thuyết giảng chính pháp Sa-môn hoạt đạo là các vị tu các thiện phẩm Sa-môn ô đạo là những người tà hạnh Luật Ngũ phần dạy: Lúc Phật mới thành đạo thì người đời đều gọi là Sa-môn. Tỳ kheo Tiếng Phạm là Tỳ-kheo, Tần dịch là khất só, nghĩa là trên xin giáo pháp của Phật để nuôi huệ mạng, dưới xin thức ăn của thí chủ để nuôi thân mạng. Pháp sư nói: Theo kinh Nhân Quả thì có ba tên gọi: Bố ma tức từ nhân người xuất gia là m cung ma lay động. Khi đạt đến quả vị trên thì gọi là Sát tặc. Trong nhân gọi là Khất só, đạt đến quả gọi là Ứng cúng Trong nhân gọi là Phá ác, đạt đến quả gọi là Vô sanh Kinh Niết bàn dạy: Có khả năng phá trừ phiền não nên gọi là Tỳ- kheo. Phá Ngã v..v. các tưởng, tu giới, định, tuệ, cứu độ ba cõi bốn loài, an ổn không sợ hãi, nên gọi là Tỳ-kheo. Kinh Đại Trang nghiêm dạy: Phá trừ vô minh chồng chất nên gọi là Tỳ-kheo. Luận Du-già dạy: Tỳ-kheo là xả bỏ gia đình, đến chỗ không nhà… đầy đủ biệt giải thoát luật nghi, chúng đồng phận, theo tự tính ấy ứng hợp với hình sắc, siêng năng tinh tấn, đánh dẹp cõi ác nên tự phòng thủ, không bị tổn hại gọi là Tỳ-kheo Luận Tỳ-bà-sa nói kệ: Tay chân chớ vọng phạm Lời nói thuận việc là m Thường vui với thiền định Là Tỳ-kheo chân chính. Kinh Tạp A-hàm nói kệ: Gọi là bậc Tỳ-kheo Chẳng chịu đi khất thực Thọ trì pháp tại gia Đó là Tỳ-kheo gì? Lìa công đức, tội lỗi Tu tập các chính hạnh Tâm không có sợ hãi Đó gọi là Tỳ-kheo. Đại Oai Đức Đà-la-ni : Có một trưởng giả tên là Soạn Trạch, theo Phật cạo tóc, xuất gia. Lúc ấy Tôn giả Sa Nan Đà gọi là trưởng giả Soạn Trạch. Trưởng giả đáp: “Nay tôi xuất gia, đã cạo tóc là Tỳ-kheo, chẳng phải trưởng giả”. Lúc ấy, Sa Nan Đà hỏi: “Không phải cạo tóc mà gọi là Tỳ-kheo, liền nói kệ: Nếu dứt bỏ mong cầu Loại bỏ sạch phiền não Không mong cầu các pháp Tất cả các pháp có Tùy thuận hướng Niết bàn Tùy thuận nơi thanh vắng chính tín đến giải thoát Đó mới thành Tỳ-kheo” - Có bốn hạng Tỳ-kheo: Tỳ-kheo đạt đạo giải thoát, đó là A-la-hán Tỳ-kheo thông suốt đạo, đó là ba quả Thánh Tỳ-kheo thọ trì đạo, đó là Tu-đà-hoàn hướng Tỳ-kheo là m ô đạo, đó là phàm phu phá giới. Bí sô là tiếng Phạm, là tên gọi của loại cỏ ở Tây Thiên, có đủ năm đức nên dùng để dụ cho người xuất gia. Xưa các sư nói: “Bí sô không dịch bởi vì nó bao hàm năm nghĩa vậy: Thể tính nhu nhuyến, dụ người xuất gia có thể chế phục thân, miệng thô tháo. Bò lan khắp nơi, dụ cho người xuất gia truyền bá chính pháp, cứu độ chúng sinh không ngừng nghỉ. Hương thơm bay xa, dụ cho người xuất gia giới đức bay xa mọi người đều biết Có khả năng trị là nh đau đớn, dụ cho người xuất gia hay đoạn trừ phiền não độc hại Hướng đến Mặt trời, dụ cho người xuất gia thường hướng đến ánh sáng Phật pháp. Căn Bản luật Bách Nhất Yết Ma dạy: Có Bí sô tám mươi tuổi, đủ sáu mươi hạ mà đối với kinh Biệt Giải Thoát chưa từng đọc tụng, không hiểu rõ nghĩa thì đó gọi là tiểu Bí sô già. Tăng Tiếng Phạm là Tăng già, Đường dịch là Chúng. Kinh Trung A-hàm dạy: Chúng là gì? Đáp: “Có nhiều dòng họ khác nhau, cạo tóc, mặc y ca-sa, quyết chí bỏ nhà, theo Phật học đạo, đó gọi là chúng. Luật Thiện kiến dạy: Chúng, giới, kiến, trí bình đẳng gọi là Tăng. Nam Sơn sao : Bốn người trở lên, có khả năng giữ gìn Thánh pháp, giải quyết mọi việc, đó gọi là Tăng. Tăng nghĩa là hòa hợp. Hòa hợp có hai loại: 1. Lý hòa: vì đồng chứng trạch diệt. 2. Sự hòa gồm có sáu nghĩa: giới hòa đồng tu, kiến hòa đồng giải, thân hòa đồng trú, lợi hòa đồng phân, miệng hòa không tranh cãi, ý hòa đồng vui. Tăng Sử lược : Bốn người trở lên gọi là Tăng. Nay một người cũng gọi là Tăng, bởi vì từ chúng vậy. Cũng như ở đời hai ngàn năm trăm người là một quân, mà một người cũng gọi là quân vậy. Trừ cẩn nam Kinh Khương Tăng Hội Chú Pháp Kính : Phàm phu tham trước sáu trần như Ngạ quỷ tham ăn, không biết nhàm chán. Nay Thánh nhân đoạn trừ tham ái, dứt sáu tình đói khát nên gọi là trừ cẩn. Luận Phân Biệt Công Đức : Người đời đói khát sắc dục, còn Tỳ- kheo thì trừ tưởng ái đói khát này. Đạo sư Kinh Thập Trụ Đoạn Kết dạy: Gọi bậc Đạo sư nghĩa là là m cho chúng sinh thấy rõ con đường chân chính. Kinh Hoa Thủ dạy:Có khả năng giảng nói con đường không sanh tử nên gọi là Đạo sư. Kinh Phật Báo Ân dạy: Đại Đạo sư nghĩa là dùng con đường chân chính để chỉ dạy. Kinh Niết Bàn dạy: Đạo sư là là m cho mọi người đạt được vô vi, thường lạc. Kinh Đại Pháp Cự Đà-la-ni dạy: Không thối thát đạo Bồ-đề, không đoạn tuyệt đạo Bồ-đề nên gọi là Đạo sư. Kinh Thương Chủ Sở Vấn : Đạo sư là gì? Văn Thù đáp: “An trụ nơi đạo, là m cho chúng sinh được thuần thục nên gọi là Đạo sư. Tổ sư Bảo Lâm truyện : Kỳ Vức Thái thú Dương Huyễn Chi hỏi Đạt Ma: “Tây Thiên truyền thừa gọi Tổ nghĩa là gì?” Đạt Ma đáp: “Rõ tâm tông Phật, hạnh giải tương ưng, gọi là Tổ sư. Thiền sư Kinh Thiện Trú Ý Thiên Tử Sở Vấn : Thiên tử hỏi Văn Thù: “Tỳ- kheo như thế nào thì được gọi là Thiền sư?” Văn Thù đáp: “Đối với tất cả pháp đều hành tư duy, tất cả không sanh tâm, nếu biết như vậy được gọi là Thiền sư. Ngay cả một pháp không chấp thủ, không nắm lấy pháp nào, tất cả đều không chấp đời này, đời sau, không chấp vào ba cõi cho đến tất cả các pháp đều không vướng mắc, nghĩa là tất cả pháp đều không, đối với chúng sinh cũng không chấp giữ thì được gọi là Thiền sư. Không có một chút thủ chẳng thủ, không chấp thủ các pháp, vì hết thảy đều không có chỗ đắc nên không nhớ nghó, nếu không nhớ nghó ấy là không tu, nếu không tu ấy là không chứng nên gọi là Thiền sư. Thiện tri thức Kinh Ma ha Nhã dạy: Có khả năng giảng nói về pháp Không, Vô tướng, Vô tác, không sanh, không diệt và Nhất thiết chủng trí là m mọi người hoan hỷ tin ưa, đó là Thiện tri thức. Kinh Hoa Nghiêm dạy: Có bốn pháp được gọi là Thiện tri thức: Có khả năng là m cho người vào trong thiện pháp. Có khả năng là m chướng ngại các pháp bất thiện Có khả năng là m cho người an trụ trong chính pháp Thường hay tùy thuận giáo hóa Luận Du-già dạy: Thiện tri thức có đủ mười công đức: 1. Điều phục; 2. Tịch tịnh; 3. Hoặc trừ; 4. Đức tăng; 5. Hữu dõng; Kinh phú; 7. Giác chân; 8. Thiện thuyết; 9. Bi thâm; 10. Ly thối. Người mới điều phục là cùng giới tướng do căn điều phục. Tịch tịnh là Nhờ định ương ưng nên nhiếp phục bên trong. Hoặc trừ là Tín niệm dùng tuệ tương ưng nên phiền não đoạn trừ. Đức tăng là đầy đủ giới, định, tuệ. Hữu dõng là lúc là m lợi ích cho người mà không mệt mỏi. Kinh phú là nghe nhiều. Giác chân là hiểu rõ thật nghĩa. Thiện thuyết là không lẫn lộn. Bi thâm là không có mong cầu. Ly thối là đối với tất cả thời đều cung kính. Trưởng lão Kinh Trường A-hàm dạy: Có ba hạng trưởng lão Trưởng lão nhiều hạ lạp Trưởng lão đạt pháp tính Trưởng lão giả danh Bài kệ kinh Thí Dụ: Gọi là bậc trưởng lão Chẳng phải cạo râu tóc Dù tuổi tác đã nhiều Mà không bỏ việc ác. Nếu thấy được chính pháp Không hại loài nhỏ nhiệm Bỏ các hạnh xấu ác Đó gọi là trưởng lão Nay Ta gọi trưởng lão Tức là người xuất gia Tu tập các nghiệp thiện Biết rõ các chính hạnh Nếu người già hoặc trẻ Các căn không phiền não Đó gọi là trưởng lão. Pháp sư Triệu nói: Bên trong có trí đức đáng tôn trọng nên gọi là trưởng lão. Pháp sư Ân nói: Trưởng giả già có đức gọi là trưởng lão. Tông sư Truyện Phật Tâm Tông Sư lại nói: Tông là tôn quý, nghĩa là người này khai mở đạo pháp Không, được mọi người tôn quý. Pháp chủ Kinh A-hàm dạy: Phật là thuyết pháp chủ. Xưa nay đều cho Tăng thuyết pháp, hiểu biết pháp là Pháp chủ. Như Tăng Xán nói với Tăng Đạo: “Nếu đáng vì vạn người để là m pháp chủ thì Tống Hiếu Võ ban cho là m pháp chủ chùa Trấn và chùa Tân An. Đại sư Sư là mô phạm. Đại là lược giản với tiểu. Phật xưng là Đại sư của ba cõi Luận Du-già dạy: Đạo sư là người có khả năng hóa độ vô lượng chúng sanh thoát khổ đạt đến tịch diệt. Lại nói: “ Đánh dẹp tà uế ngoại đạo, xuất hiện ở thế gian nên gọi là Đại sư. Hoặc Tỳ-kheo phàm phu mê muội tự ban sắc hiệu vậy”. Tăng Sử Lược ghi : Vào tiết lễ Diên Khánh, ngày mười bốn tháng mười một năm thứ mười một niên hiệu Triệu Tự Đường Ý Tống Hàm Thông, trong đạo tràng đàm luận, tả vệ Vân hạo phong Đại sư Tam Huệ, hữu vệ Tăng triệt phong Đại sư Tịnh Quang, khả phu phong Đại sư Pháp Trí, trọng khiêm phong Đại sư Thanh Vận, đây là bắt đầu có Đại sư vậy. Luận Du-già dạy: Đại sư có năm đức: Giữ gìn giới hạnh không có lầm lỗi Khéo xây dựng chính pháp Khéo chế ra sở học Trong việc khéo chế, khéo lập đó rồi tùy theo chỗ nghi hoặc đều có thể đoạn trừ. Tuyền dạy pháp . Pháp sư Kinh Tạp A-hàm, hỏi: Thế nào là Pháp sư ? Phật dạy: Nếu đối với sắc mà nói là sanh nhàm chán, muốn diệt tận để đạt đến pháp tịch tịnh gọi là Pháp sư. Hoặc đối với thọ, tưởng, hành, thức mà nói là sanh nhàm chán, muốn diệt tận để đạt đến pháp tịch tịnh gọi là Pháp sư. Luận Thập Trụ Bà-sa dạy: Người hành đúng bốn pháp gọi là Pháp sư: Học rộng hiểu nhiều, nắm vững tất cả ngôn từ, chương cú. Quyết định rõ ràng về tướng sanh diệt của các pháp trong thế gian và xuất thế gian. Đắc trí thiền định, tùy thuận đối với các kinh pháp. Thực hành đúng như lời nói, không thêm, không bớt. Luận Biện Trung Biên về mười pháp sư là : Ghi , cúng dường, bố thí cho người, lắng nghe, tuyên đọc, thọ trì, mở bày diễn thuyết, tụng, tư duy, tu tập. Luật sư Luật Sao Giải Đề , Phật dạy: Giải thích trọn vẹn một chữ gọi là Luật sư. Một chữ ấy là chữ luật. Kinh Bảo Vân dạy: Đầy đủ mười pháp gọi là luật sư: Giải thích đầy đủ về sự sanh khởi trong luật Giải thích đầy đủ về chỗ vi diệu trong luật Giải thích đầy đủ về sự việc vi tế trong luật Giải thích đầy đủ về sự việc này thực hành được, sự việc kia không thực hành được trong luật Giải thích đầy đủ về tính giới trọng trong luật luật Giải thích đầy đủ về phép chế giới trọng trong luật Giải thích đầy đủ về phép chế nhân duyên sanh khởi trong Giải thích đầy đủ về luật Thanh-văn Giải thích đầy đủ về luật Bích Chi Giải thích đầy đủ về luật Bồ-tát Luật Thập Tụng dạy: Người trì luật có bảy công đức: Nắm vững tạng luật của Phật Khéo dứt việc tranh cãi Trì giới Dùng luật để dẹp ngoại đạo Không cần hỏi người khác, thuyết giới ở trong chúng không có sợ hãi Hay dứt trừ những nghi ngờ Có khả năng là m cho chính pháp tồn tại lâu dài. Trong luật Thiện Kiến, Phật dạy: Người trì luật là công đức căn bản. Nhờ căn bản này mà thâu nhiếp các pháp. Xà-lê Ký Quy truyện ghi: Tiếng Phạm là A-giá-lê-da, Đường dịch là phạm quỷ, nay gọi là Xà-lê, bởi lầm lẫn nơi âm Phạm vậy. Luận Bồ-đề Tư Lương dạy: A-giá-lê-dạ, Tùy dịch là chính hạnh. Nam Sơn Sao ghi : Xà-lê là hay cân nhắc chính hạnh đệ tử. Thắng só Kinh Nguyệt Đăng Tam muội dạy: Hay trì giới thanh tịnh gọi là thắng só. Tôn giả Tiếng Phạm là A-lê-di, Trung Hoa dịch là Tôn giả, nghĩa là đầy đủ trí, đức, hạnh, được mọi người tôn quý. Khai só Kinh Âm sớ : Khai nghĩa là đạt, sáng suốt, thông hiểu. Só nghĩa là trượng phu. Trong kinh thường gọi Bồ-tát là Khai só. Tiền Tần Phù Kiên ban cho Sa-môn có đức, hiểu biết hiệu là Khai só. Đại đức Luận Trí Độ dạy: Tiếng Phạm là Sa-đàn-đà, Tần dịch là Đại đức. Trong luật thường gọi Phật là Đại đức. Luật Tỳ-nại-da, đức Phật dạy: Từ nay về sau, các Tỳ-kheo nhỏ nên gọi Tỳ-kheo trưởng bối là Đại đức. Ở đây, Tỳ-kheo là người thông suốt. Tăng Sử lược ghi: Ngày mồng năm tháng tư niên hiệu Đường Đại Tống Đại lịch năm thứ sáu, ban sắc lệnh cho Tăng ni ở kinh thành đều được đăng đàn Đại đức. Mỗi đàn mười vị, dùng theo nghi thức thường. Do sự đăng đàn này mới có hai chữ Đại đức vậy. Tăng Huy ký ghi: Hạnh viên mãn, đức cao dày gọi là Đại đức. Thượng tọa Luật Ngũ phần dạy: Tề Cơ gọi là Thượng tọa. Đức Phật dạy: “Thượng là ở trên hoàn toàn không có người nào gọi là Thượng tọa. Tỳ-ni-mẫu dạy: Từ không hạ đến chín hạ là Hạ tọa. Từ mười hạ đến mười chín hạ là Trung tọa. Từ hai mươi hạ đến bốn mươi hạ là Thượng tọa. Năm mươi hạ trở lên thì tất cả Sa-môn đều tôn kính gọi là Kỳ túc. Luật Tỳ-bà-sa dạy: Có ba hạng Thượng tọa: Sanh niên Thượng tọa tức tôn trưởng kỳ cựu đủ giới nên gọi là chân sanh Thế tục Thượng tọa tức biết pháp phú quý, nhiều của, địa vị cao, dòng tộc lớn, thế lực lớn, quyến thuộc nhiều, dù mới hai mươi tuổi mà được thích ứng là Thượng tọa Pháp tính Thượng tọa tức A-la-hán. Tụng viết: Trạo cử và ỷ ngữ Ý nhiễm, tư duy loạn Tuy trong chùa Chẳng phải chân Thượng tọa. Đủ giới, biết chính niệm Tâm tịch tịnh, giải thoát Năng quán các pháp ấy Là Thượng tọa chân chính. Luật Thập tụng dạy: Đủ mười pháp gọi là Thượng tọa, nghĩa là có trú xứ, không sợ hãi, không phiền não, nghe nhiều hiểu rộng, đầy đủ biện luận, hiểu rõ nghĩa thú, người nghe tin nhận, khéo an tường vào nhà người, hay thuyết pháp cho bạch y, khiến người bỏ ác tu thiện, tự đủ pháp lạc bốn đế, không có khiếm khuyết, đó gọi là Thượng tọa. Trong luật gọi là tăng phường Thượng tọa, Tăng Thượng tọa, trú gia Thượng tọa. Luận Bà-sa dạy: Thượng tọa là tâm an trú, không bị thế gian lay động. Tòa chủ Chích ngôn viết: Có nha môn gọi là tòa chủ. Nay dòng họ Thích lấy người học hiểu thông minh gọi là tòa chủ, nghĩa là chủ một tòa. Xưa, gọi Cao tăng thuyết giảng là cao tòa, hoặc gọi là chủ cao tòa. Thượng só Luận Du-già dạy: Hạnh không lợi mình, lợi người gọi là Hạ só. Tự lợi, không lợi người gọi là Trung só. Lợi mình và lợi người gọi là Thượng só Thượng nhân Kinh Ma ha Nhã dạy: Thế nào gọi là Thượng nhân? Đức Phật dạy: Nếu Bồ-tát nhất tâm hành A-nậu Bồ-đề, tâm không tán loạn, thì gọi là Thượng nhân. Kinh Tăng Nhất dạy: Con người xử sự ở đời, có lỗi biết tự sửa i gọi là Thượng nhân. Luật Thập tụng dạy: Có bốn hạng người: người thô tháo, người độc ác, người bình thường, bậc Thượng nhân. Trong luật Vua Bình Sa gọi đệ tử Phật là Thượng nhân. Xưa, tổ sư nói: Trong có trí đức, ngoài có thắng hạnh, trên hết trong loài người gọi là Thượng nhân. Đạo nhân Luận Trí Độ dạy: Người đắc đạo gọi là đạo nhân. Ngoài ra những người xuất gia chưa đắc đạo cũng gọi là đạo nhân. Bần đạo Luận Trí Độ dạy: Bần có hai loại: nghèo tài sản, nghèo pháp công đức. Luận Du-già dạy: phẩm xuất gia, trí bần, tài bần. Chỉ Quy : Đạo là danh xưng thông vật, đạo thuộc ba thừa Thánh giáo đã chứng, nghĩa là ta có một ít đạo nên gọi là bần đạo. Đầu đà Tiếng Phạm là -đa. Hán dịch là đẩu tẩu, nghĩa là ba độc như bụi trần là m dơ uế chơn tâm mà người này có thể trừ khử, nên nay gọi lầm là đầu đà. Kinh Thiện Trụ Ý Thiên Tử dạy: -đa là thân tâm tham, sân, si về ba cõi và sáu trần. Nếu không chấp, không bỏ, không tu, không đắm trước, chẳng phải không đắm trước thì Ta nói người ấy được gọi là -đa. Đầu-đà có mười hai công đức: Ở chỗ A-lan-nhã Thường khất thực Tuần tự khất thực Ăn một lần Ăn có độ lượng Sau giờ ngọ không ăn Mặc áo thô xấu Chỉ có ba y Ở gò mả Ngồi dưới gốc cây Ngồi ở đất trống Thường ngồi, không nằm Chi lang Là nho nhã xưa nay, thường gọi Tăng là chi lang. Cao Tăng truyện : Đời Ngụy có ba cao tăng: Chi Khiêm, Chi Tiêm, Chi Lượng, ở Trung Khiêm là người nhỏ, cao, đen, gầy. Mắt nhiều tròng trắng mà con ngươi màu vàng, lại thông minh. Lúc ấy Hiền Ngạn nói: “Trong mắt Chi Lang vàng, thân hình tuy nhỏ mà trí tuệ cao siêu. Truy lưu Đây là do màu sắc y phục mà gọi tên vậy. Tăng Sử Lược ghi: Hỏi: Truy y màu sắc như thế nào? Đáp: Màu đỏ thẫm mà hơi đen. Theo Khảo Công Ký : Ba màu nhập lại là hoe hoe đỏ. Năm màu nhập lại là đỏ thẫm. Bảy màu nhập lại là đỏ thâm. Nên biết màu đỏ thâm vốn phát xuất từ màu đỏ sẫm của đầu chim sẽ, tức là màu đỏ thẫm. Cho nên thấy y phục Thánh chúng thanh nhã tinh khiết như quả dâu chín. Đây là màu sắc đỏ nhạt đen đậm. Long tượng Trong kinh Trung A-hàm, đức Phật bảo Sa-môn Ổ-đà-di …: “Từ người đến Trời mà không dùng thân, miệng, ý hại. Ta nói đó là Long tượng” Không môn tử Luận Trí Độ dạy: Niết bàn có ba cửa: Không, Vô tướng, Vô tác. Cửa Không là gì? nghĩa là quán các pháp không có Ngã, Ngã sở. Các pháp từ nhân duyên sanh, không người tạo, không có người thọ. Đó gọi là Không. Nay người xuất gia nhờ cửa này mà vào nhà Niết bàn nên gọi là cửa Không. Tông chủ Tăng Sử Lược ghi: Cuối đời Đường các chùa thành lập đều do A- xà-lê. Nay triều đình chọn vị biết cả luật. Vị tối cao là Tông chủ. Bởi trong đạo hoặc đời khi có việc tranh cãi không phân xử, nên bảo người đủ thẩm quyền quyết đoán để chấm dứt việc tranh cãi. Tăng lục Tăng sử lược ghi : Niên hiệu Khai Thành,Đường Văn Tông lập tả hữu tăng lục, tức đoan bộ pháp sư. Pháp sư Đức Tông được mời vào cung cấm luận nghị với đạo Nho, phong cho áo bào đỏ, lệnh hầu Thái tử ở Đông triều, Thuận Tông coi trọng huynh đệ, Hiến Tông tiếp đãi bạn bè, chưởng nội điện Pháp Nghị là Lục tả vệ Tăng sự. Phó tăng lục Niên hiệu Càn Ninh, Chiêu Tông i Thủ tòa là m Phó tăng lục tức Giác huy. Giảng kinh luận thủ tòa Sử chép: Gọi Thủ tòa tức Thượng tọa, thái độ đoan chính, xử đoán việc tăng, Đường Văn Tông giao coi sóc việc Tăng gọi là Tam giáo thủ tòa. Nay thì chọn người giỏi kinh, luận đảm trách thủ tòa. Tăng chính Sử chép: chính tức là ngay thẳng, tự sửa mình ngay thẳng rồi sửa người đoan chính để khắc chế chính lệnh. Bởi vì Tỳ-kheo không có phép tắc thì giống như ngựa không dây cương, dần dần tiêm nhiễm theo thế tục. Vì giữ gìn phép tắc nên phải chọn người có đức lấy pháp để kiềm chế là m cho quay về nẻo chính, do đó mà gọi là Tăng chính. Ngụy Tần lập Tăng Khế là m Tăng chính. Đến năm thứ sáu đời Lương sắc phong Pháp Vân là m Đại tăng chính. Tăng chủ Niên hiệu Vónh Minh đời Nam Tề, Võ Đế sắc phong Pháp Hiến là m Tăng chủ. Quốc sư Tăng Sử Lược ghi: Xưa kia ở Tây Vức có Ni-kiền-tử học thông tam tạng và đắc ngũ minh, cả nước đều nương theo mới lập ra danh hiệu ấy. Ở đây thì chọn Cao tăng thường diễn giảng Tỳ-ni, Niết bàn, thông pháp thiền, Vua Tề tôn là m Quốc sư. Đời Đường Thần Tú được Tắc Thiên triệu vào phong là m Quốc sư qua bốn triều đại. Tuệ Trung vào triều thuyết thiền, được sắc phong là m Quốc sư qua hai triều đại. Niên hiệu Trung Hòa sắc phong Tri Huyền là Quốc sư Ngộ Đạt. Nếu Bá chủ thì Vua Thục hầu chủ phong là Tăng lục quan nghiệp tức là Hữu thánh Quốc sư. Ngô Việt xưng Thiên Thai Đức Thièu là Quốc sư. Giang Nam Thự Văn Toại là Quốc đại Đạo sư. Ni Tiếng Phạm đầy đủ là Tỳ-kheo-ni , cũng gọi là trừ cẩn nữ. Tây Trúc do Di Mẫu Phật Ma ha Ba-xà-ba-đề là Tỳ-kheo-ni đầu tiên vậy. Nay gọi ni là A-di-sư. Di là do Phật gọi Đại Ái Đạo. Sư cô ni có tám kỉnh pháp, cách Phật đã xa, lại không tuân hành nên phiền không ra. Thức-xoa-ma-na Đây gọi là Học pháp nữ, giống như nay gọi ni là Trưởng sanh. Luật Tứ phần dạy: Đồng nữ mười tám tuổi nên cho học hai pháp, nghĩa là hai năm kiểm thúc thân, dùng sáu pháp để kiểm thúc tâm. Ưu-bà-tắc Tần gọi là Thiện túc nam, nghĩa là giữ giới. Tiếng Phạm là Ổ-ba-sách-ca. Đường dịch là Cận sự nam, nghĩa là thân cận thừa sự Phật pháp. Thiên Trúc gọi là Thanh tín só là danh xưng người đời thọ trì năm giới, tám giới . Luận Du-già dạy: Đầy đủ ba đức: Ý lạc tịnh là xa lìa nghi hoặc đối với Tam bảo, giới pháp viên mãn, mong cầu xuất thế. Thường phụng sự Tam bảo Có khả năng hướng dẫn người đồng học Kinh A-hàm dạy: Viên mãn tám chi: tín, giới, thí, thính pháp, thọ trì, giải nghĩa, như thuyết tu hành. Ưu-bà-di Di tức Nữ thanh tự. Lại gọi là Ổ-ba-tư-ca. Thất chúng Đó là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni, Ưu- bà-tắc, Ưu-bà-di. Luận Bà-sa dạy: Ở đời có bảy chúng duy trì Phật pháp là m cho đạo quả ba thừa nối tiếp không đoạn tận, dùng Ba-la-đề-mộc-xoa là m căn bản. Luận Đại Tỳ-bà-sa dạy: Bảy chúng là Bí-sô, Bí-sô-ni, Thức-xoa- ma-na, Thất-lợi-ma-nã-lạc-ca, Thất-lợi-ma-nã-lý-ca, Ổ-ba-sách-ca, Ổ- ba-tư-ca. Đạo đức Là danh xưng biểu hiện đầy đủ giới đức trong Thất giác chi, chính đạo. Luật Hành ghi : Thành danh gọi là đạo, lập thân gọi là đức. Danh đức Người có danh là thật, thật lập nên danh theo. Trọng Ni nói: Người có danh là quý ở thật danh. Người có đức là đạt vậy. Bên trong thấu đạt lòng mình, bên ngoài thấu đạt lòng người thì thường không bị lỗi, do đó hợp hai chữ lại mà gọi vậy. Kinh A-hàm dạy: Từ Xá Lợi Phất trở xuống là Tỳ-kheo danh đức. Pháp sư Cao tăng truyện : Ít đức có danh mà không cao ngạo. Thật đức tiềm ẩn mà không danh. viên. <詞>TRÚ XỨ Tăng già lam ma Là tiếng Phạm, hoặc gọi là Tăng già la ma. Đay dịch là chúng Luật Ngũ phần dạy: Vua Bình Sa cúng dường Ca Di Lan Đà vườn trúc là m Tăng già lam vậy. Viên là nơi sanh trưởng. Đệ tử Phật ở đây sanh trưởng gốc đạo nghĩa là quả Thánh. Hoặc gọi là Tỳ-ha-la. Ở đây dịch là Du chỉ xứ. Tự Là tiếng Hán, nghĩa là dinh quan.Tự là nơi xử lý sự việc nên Thái tử có đến chín dinh tự. Năm Đinh Mão thứ mười niên hiệu Vónh Bình đời Hậu Hán Minh Đế Phật pháp mới truyền đến nơi này, có hai vị Tăng người Ấn Độ là Ma Đằng và Trúc Pháp Lan dùng ngựa trắng, lạc đà chở kinh tượng đến Lạc Dương, Vua sắp xếp cho Ma Đằng ở dinh quan. Đến năm Mậu Thìn thứ mười một, Vua sắc lệnh kiến lập chùa ngoài cửa châu Ung, láy tên là Bạch Mã tức ngôi chùa ở Trung Quốc do Ngô Tôn Quyền kiến lập đầu tiên. Viện Tiếng Phạm là La-ma. Đường dịch là viện. Tây Vức ký gọi là Ba-diễn-na. Đây dịch là Châu viên lang xá viện. Đạo tràng Triệu gọi là chỗ đóng kín tu đạo nghĩa là đạo tràng. Tùy Dương Đế sắc lệnh i chỗ Tăng ở là đạo tràng. Tinh xá Thích Ca Phổ chép: Chỗ dừng tâm gọi là tinh xá. Nghệ Văn Loại Tập chép: Chẳng phải do nhà ấy tinh diệu mà do sự tinh luyện của hành giả cư trú. Chiêu đề Tăng Huy Ký phạm gọi là Thác-đấu-đề-xa, Đường dịch là vật của Tăng bốn phương, nhưng viết nhầm “thác” thành “chiêu” rồi bỏ chữ “đấu xa” mà giữ lại chữ “đề”, do đó gọi là chiêu đề, nay là tự viện mười phương. Tăng phường Vận lâm chép: Phường là khu đất. Uyển sư nói: Phường là khoảnh đất vậy. Lộc Uyển Lại gọi là vườn Nai ở nước Ba-la-nại. Là chỗ ban đầu thành đạo, đức Phật chuyển pháp luân độ năm Tỳ-kheo: Kiều Trần Như.v.v. Kê viên Do Vua Vô Úy tạo dựng ở nước Ma Kiệt Đà, là chỗ xuất gia của Tiểu thừa Đại chúng bộ, Đại thiên, Tỳ-kheo. Kinh Trung A-hàm dạy: Sau khi Phật nhập diệt, các bậc Tỳ-kheo danh đức cao tôn đều ở vườn Gà. Nhạn tháp Tay vức ký chép: Xưa có Tỳ-kheo thấy bầy nhạn bay liệng liền cười nói, bỗng có một con chim nhạn lao xuống chết mất. Chúng tăng nói: “Con chim nhạn này khuyên răn, biểu dương đức dày. Bấy giờ, họ xây tháp chôn nhạn. Chi đề Tiếng Phạm là Chi-đế-phù-đô, hoặc là Chế-để-chế-đa, đều dịch là linh miếu. Luận Tạp tâm chép: Không có xá lợi gọi là chi đề, lại gọi là nơi diệt ác sanh thiện. Phạm sát Phạm nghĩa là thanh tịnh. Kinh Âm chép: Tiếng Phạm là Thích-sắc-chí. Ở đây dịch là Can, nay lược gọi là sát tức cột phướn. Kinh Trường A-hàm dạy: Nếu Sa-môn ở trong chùa này, người nào tinh tấn tu đắc pháp thì nên lập phướn để mọi người biết. Nay có người ít muốn biết đủ ở đó. Nại uyển Đại đường nội điển lục chép: Ở nước Kế Tan ban đầu Thiền sư Pháp Tú đến Đôn Hoàng lập thiền đường nơi đất trống, trồng ngàn cây nại, người đến như mây, đồ chúng đông đúc. Kim địa Hoặc gọi là kim điền, nghĩa là nước Xá Vệ, trưởng giả Cấp Cô Độc trải vàng mua vườn của Thái tử Kỳ Đà để kiến lập tinh xá thỉnh Phật đến ở. Liên xã Xưa ở chùa Hổ Khê Đông Lâm, Lô Sơn, Pháp sư Tuệ Viễn, người Nhạn Môn chiêu mộ những hiền só di dân: Tông Bỉnh, Lôi Thứ, Tông Trương, Dã Trương, Thuyên Châu.v.v. là m thành hội tu tịnh nghiệp bốn phương. Tự viện ấy trồng nhiều hoa sen trắng. Lại nữa, cõi Phật Di Đà dùng hoa sen phân là m chín phẩm theo thứ tự để tiếp độ người nên gọi là Liên xã. Có người cho rằng: “Do ca ngợi người xã này không vì danh lợi, chẳng nhiễm trong bùn giống như hoa sen nên gọi tên ấy”. Có người cho rằng: “Pháp Yếu, đệ tử Viễn Công khắc cây thành mười hai lá hoa sen, đem trồng trong nước, dùng là m thời gian, cứ ngắt bỏ một lá là một giờ, giông như tính thời giờ theo nước nhỏ giọt, nên việc lễ tụng không sai thời gian, do đó có tên này. Lại gọi là tịnh xã, tức vào đời Nam Tề niên hiệu Cảnh Lục, Văn Tuyên Vương tập hợp Tăng, tục hành tịnh trú pháp. Xã là sau ngày lập Xuân, đến mùa Thu, ngày mông năm là ngày của xã, mọi người là m nông tụ tập đến để cúng tế cầu mong thu hoạch ngũ cốc. Kinh Sở chép: Bốn người cùng kết hợp là m một xã. Bạch hổ thông chép: Vương giả sở dó có xã là do thiên hạ cầu phước báo ân Vua. Người chẳng học thì không xứng đáng. Vì học rộng mà không biết kính nên phong só để lập xã. Nay ngưỡng mộ dòng họ Thích, xuất gia cầu pháp, mong sanh tịnh độ. Tịnh độ bao la, cầu khắp chắc loạn tâm, xác quyết an dưỡng tịnh độ là nơi tinh thần nên gọi liên xã là tịnh xã vậy. Lan nhã Tiếng Phạm là A-lan-nhã, hoặc gọi là A-lan-nhược. Đường dịch là vô tránh. Luật Tứ phần gọi là nơi không tịnh. Luận Tát-bà-đa gọi là nơi nhàn tịnh. Luận Trí Độ gọi là nơi thanh vắng. Kinh Đại Bi gọi A-lan-nhã là lìa xa sự phẫn nộ. Trong kinh Thập Nhị Đầu Đà, Phật dạy: A-lan-nhã là chỗ chư Phật mười phương đều tán thán, vô lượng công đức đều do đây mà phát sanh. Triệu sư nói: Cạnh tranh thì chúng tụ. Không tranh cãi là chỗ không nhàn. Đức Phật khen ngợi người ở nơi Lan-nhã. Kinh Bảo Vân dạy: A-lan-nhã là nơi thanh vắng không người, không bị não loạn, khất thực dễ được, chẳng gần, chẳng xa, có nhiều rừng cây, hoa, quả, nướcc suối trong mát, chỗ ở an ổn. Luận Trí Độ dạy: A-lan-nhã, hoặc viễn ly xứ, gần nhất là hai dặm, thường xa lìa lợi ích, cách thôn một câu-lô-xá. Luật dạy: Cách thôn năm trăm cung. Cung tức là thước đo vậy. Theo pháp Tây Thiên bốn khuỷu tay là một cung. Một khuỷu tay dài một thước tám, tổng cộng là bảy thước hai tấc. Năm trăm cung là một câu-lô-xá, nhân lên bằng ba ngàn sáu trăm thước, thành sáu trăm bộ tức hai dặm. Am Giải thích tên: Cỏ là m thất là am. Am là cái nhà nhỏ, là tự che am vậy. Ở Tây Thiên, phần đông tăng, tục tu hành đều ở am. Thảo đường Tên này có đầu tiên là do Pháp sư La Thập, trước kia ở Trường An khi triều Hán bị sụp đỏ, triều Tần hưng thạnh hơn ba trăm năm, Phật pháp ở thành thị, khoáng dã đều dứt tuyệt, chỉ có một vài chùa còn ít người quy hướng. Đời Diêu Hưng, ngài Thế Thân, Cưu Ma La Thập ở gian giữa trong chùa lớn, dùng cỏ trải ở trong để dịch kinh, do đó mà có tên này. Phương trượng Là phòng nghỉ chính của tự viện. Đầu tiên, Đường Hiển Khánh sắc sai Vệ úy Thừa Lý nghĩa, Tiền Dung Châu, Hoàng Thủy sắc lệnh cho Vương Huyền Sách đến Tây Vức sung sứ. Khi đến thành Tỳ Xá Ly cách hướng Đông Bắc hơn bốn dặm, Duy ma cư só Trạch vội vào trong thất, san nền chồng đá là m thành. Vương Sách Cung đo ngang dọc được mười thẻ nên gọi là phương trượng. Phòng Phòng là bên cạnh, là ở hai bên điện đường. Luật Ngũ phần dạy: Tỳ-kheo xin phép thọ nhận phòng xá của tín thí. Đức Phật liền cho phép. Luận Thập tụng dạy: Phòng thuộc của Tăng, hoặc phòng của một người. Luận Tát Bà Đa dạy: Nếu phòng mới là m xong mà có một thọ giới, giới đức thanh tịnh, vào trong phòng ấy thì thí chủ có tâm cúng dường nên cúng dường cho họ. Nếu xây dựng nhiều phòng trang ng- hiêm cao rộng mà có Tỳ-kheo giữ giới thanh tịnh tạm thời thọ dụng rồi thì nên cúng dường cho họ, vì giới chẳng phải pháp thế gian. Nhạn đường Luật Thiện Kiến dạy: Trong khu rừng lớn ở Tỳ Xá Ly là m điện đường Phật, hình giống như chim nhạn. Thiền thất Kinh Trung A-hàm dạy: Phật vào thiền thất an tọa, lại có người gọi là thiền trai. Trai nghĩa là nghiêm tịnh. Như đạo Nho tịnh trong thất gọi là thư trai, hoặc nơi quan viên phán xử thanh trị gọi là quận trai. Tiêu tự Nay đa số đều gọi nơi Tăng ở là tiêu tự, do Lương Võ Đế tạo chùa dùng họ là m đề vậy. Đời Đường, Lý Ước Tự Cung Chuẩn Nam mua được tấm biển chùa Lương Võ Đế. Con họ Tiêu là Vân Phi Bạch viết lớn chữ tiêu lúc muốn quay về Lạc Hạ Trạch, ở đình nhỏ hiệu Tiêu Tề, rõ biết quân tử là chính trực. Hương thất Tỳ-nại-da luật nghi tịnh tam tạng chú chép: Bốn góc gọi là Phật đường là Kiện-đà-câu-chi. Ở đây dịch là hương thất, không gọi là Phật đường, Phật điện, bởi cung kính Tôn nhan vậy Tạo già lam pháp Đời Tề pháp sư Linh Dụ tạo chùa gồm mười thiên nhưng phương pháp tạo chùa Đời Minh chuẩn theo chính giáo, nghĩa là tránh sự cơ hiềm, nên cách chùa ni và thành thị để sau này khỏi bị hoại. Nam sơn chép: Người đời không hiểu pháp nên tăng chúng phải sáng suốt để chỉ dẫn. Hộ già lam thần Kinh Thất Phật dạy: Có mười tám vị thần hộ già lam: Mỹ Âm, Phạm Âm, Thiên Cổ, Thán Diệu, Thán Mỹ, Ma Diệu, Lôi Âm, Sư Tử, Diệu Thán, Phạm Hưởng, Nhân Âm, Phật Nô, Thán Đức, Quảng Mục, Diệu Nhãn, Triệt Thính, Triệt Thị, Biến Thị. Pháp sư Đạo Thế nói: Tự viện đã có mười tám vị thần hộ vệ, người cư trú phải tự sách tấn, không được biếng nhác, là m trái, sợ mang lấy tội báo hiện tại. Tỳ-kheo kinh doanh tinh xá Trong luật Đại đệ tử Phật đều tự xây dựng tinh xá. Như Đại Ca Diếp tự trộn bùn.v.v. Luận Tỳ-bà-sa chép: Các Đại đệ tử dứt hết lậu hoặc, tại sao lại lo việc xây dựng? Đáp: “Có năm việc: Vì báo ân Phật. Vì nuôi dưỡng Phật pháp Vì diệt tâm cao ngạo của phàm phu Vì đệ tử tương lai chế phục những người hung dữ Vì phát sanh phước nghiệp tương lai. Tự viện tam môn Tất cả các tự viện đều có ba cửa. Vì sao chỉ có một cửa mà cũng gọi là ba cửa? Theo luận Phật địa chép: Cung điện lớn, ba cửa giải thoát là chỗ đi vào. Cung điện lớn dụ như pháp Không Niết bàn. Ba cửa giải thoát là : Không, Vô tướng, Vô tác. Nay tự viện là nơi trì giới tu đạo cầu đắc Niết bàn nên người ở trong đó là do ba cửa mà vào vậy. <詞>XUẤT GIA Xuất gia do. Luận Du-già dạy: Tại gia phiền nhiễu như ở trong nhà bụi, xuất gia nhàn tịnh như ở hư không, cho nên nói xả bỏ tất cả hướng đến nơi tốt đẹp. Trong Tỳ-nại-da nói: Xả nhà hướng đến chỗ không nhà. Luận Tỳ-bà-sa dạy: Tại gia là nhân duyên phiền não . xuất gia là diệt cấu uế trói buộc nên đáng gọi là viễn ly vậy. Xuất gia nan Kinh A-hàm dạy: Có ngoại đạo tên là Diêm Phù Xa hỏi Xá Lợi Phất: Pháp luật Hiền Thánh có việc gì khó? Xá Lợi Phất đáp: Chỉ có xuất gia là khó. Hỏi: Khó cái gì? Đáp: Đó là sự ưa thích. Hỏi: Ưa thích cái gì? Đáp: Ưa thích tu thiện. Hỏi: Thiện pháp là gì? Đáp: Đó là chính đạo. Nếu người xuất gia tu tập pháp này thì mau diệt sạch các phiền não. Kinh Tần Bản Tạp A-hàm dạy: Những người xuất gia gọi là nan đắc. Người khởi tâm ác thì không gọi là nan đắc. Xuất gia dùng tín tâm là m đầu. Trong luận Trí Độ, Phật dạy: Nếu người có lòng tin thì có thể vào trong biển pháp lớn của Ta, có thể đắc quả Sa-môn, không luống uổng việc cạo tóc, mặc áo nhuộm. Nếu người không có lòng tin thì người ấy không thể vào trong biển pháp lớn của Ta, như cây khô không ra hoa kết trái, không đắc quả Sa-môn, dù cạo tóc, mặc áo nhuộm, đọc tụng nhiều kinh điển nhưng khó thành tựu ở trong Phật pháp, không có sở đắc. Do đó ban đầu vào Phật pháp hoàn toàn là dùng tín căn. Luận Khởi Tín dạy: Tín tâm có bốn loại: Tín nguồn gốc là vui nghó đến pháp chân như Tin Phật có vô lượng công đức, thường nghó được gần gũi, cung kính, cúng dường, phát sanh căn là nh, nguyện cầu Nhất thiết trí. Tin pháp có lợi ích lớn, thường nghó đến việc tu tập các Ba-la- mật. Tin Tăng tu hành chân chính, tự lợi, lợi tha, thường ưa gần gũi chúng Bồ-tát, cầu học hạnh chân như. Duy thức luận dạy: Tín có ba loại sai khác: Tín thật hữu: nghĩa là đối với các pháp thì thâm tín nhẫn trong sự lý Tín hữu đức: nghĩa là đối với Tam bảo thì thâm tín lạc trong thật đức Tín hữu năng: nghĩa là đối với tất cả thế gian và xuất thế gian thì tin thật có năng lực thành tựu hy vọng trong pháp thiện thâm diệu. Luận Tỳ-bà-sa dạy: Có lòng tin thì như tay nắm giữ được thiện pháp . Xuất gia việt ngũ đạo Theo kinh Duy Ma, pháp sư Thập nói: Phàm phu có thể ra khỏi bốn đường nhưng không thể ra khỏi cõi Trời. Xuất gia cầu Niết bàn thì vượt qua cả năm đường. Pháp sư Triệu nói: Năm đường chẳng phải là Niết bàn. Xuất gia hỷ Pháp sư Thập nói: hỷ có hai phần: Hiện tại có công đức nên tự nhiên vui mừng Sau đắc Niết bàn nên tâm thường vui vẻ. Pháp sư Triệu nói: Nhiễu loạn là do tâm mong cầu nhiều. Sầu khổ là do không biết đủ. Xuất gia ít mong cầu nên không bị nhiễu loạn, vì trong lòng chứa đầy đạo pháp nên thường hoan hỷ. Xuất gia tam pháp Pháp sư Thập nói: Xuất gia có ba pháp: Trì giới, thiền định, trí tuệ. Trì giới có khả năng chế phục phiền não, khiến chúng mỏng dần. Thiền định có khả năng ngăn chận phiền não, như núi đá ngăn dòng nước. Trí tuệ có khả năng diệt sạch phiền não, hoàn toàn không sót. Trong bài tựa Đại giới, pháp sư Đạo An nói: Giáo pháp đức Thế Tôn thành lập gồm ba phần: giới luật, thiền định, trí tuệ. Ba pháp này là cửa đắc đạo, là cửa chính của Niết bàn. Giới là thanh kiếm báu chặt đứt ba ác. Thiền là dao bén là m tan tác các phiền não. Tuệ là thầy thuốc giỏi dùng thuốc tốt trị bệnh. Phát tâm tức thị xuất gia Kinh Tịnh Danh chép: Người có tâm Bồ-đề vô thượng tức là xuất gia . Pháp sư Thập nói: Dù là người đời mà phát tâm vô thượng thì cũng nhờ tâm ấy mà vượt qua ba cõi. Do đó hình thức tuy có ràng buộc nhưng vẫn là chơn thật xuất gia, đầy đủ giới hạnh. Xuất gia chính nhân Kinh Bảo Vũ dạy: Trong giáo pháp của Như Lai, chính tín xuất gia , chẳng bị thế lực Vua bắt buộc, không bị giặc đè ép, không vì trốn nợ, không sợ hãi, không sống bằng nghề nghiệp tà vạy mà xuất gia chính là mong cầu chính pháp, xuất gia bằng tín tâm. Xuất gia ngũ pháp Kinh Ngũ Đức Phước Điền dạy: Phát tâm xuất gia vì mếm mộ đạo Hủy bỏ hình tốt để thích ứng với pháp phục Xả bỏ thân mạng vì tôn sùng đạo Xa lìa thân thích vì hướng đến chỗ không thân thích Chí cầu Đại thừa vì muốn độ người Quốc Vương phụ mẫu bất thính hứa bất đắc xuất gia Luật Tăng Kỳ dạy: Vua Tịnh Phạn thỉnh Phật: Từ nay về sau nếu cha mẹ không cho phép thì không được xuất gia. Vì sao? Vì cha mẹ mong con nối dõi tông đường. Lúc ấy, đức Phật chế giới: Cha mẹ không đòng ý thì không được xuất gia. Ngũ Bách Vấn kinh dạy: Người xuất gia nếu cha mẹ, pháp nước không cho phép thì có đắc giới không? Đáp: Không đắc. Kinh Lăng Nghiêm dạy: Cha mẹ không cho phép thì không được xuất gia. Tam đẳng xuất gia nhân Kinh Tam Thiên Oai Nghi dạy: Hạnh xuất gia có các nghiệp thượng, trung, hạ. Bậc hạ: dùng mười giới là m căn bản, suốt đời thọ trì, là duyên xa lìa nhà, là m việc như người đời. Bậc trung: xả bỏ các việc, thọ đủ tám vạn bốn ngàn nghiệp thân, khẩu, ý là nhân duyên hướng đạo, chưa có thể thanh tịnh hoàn toàn, tâm phiền não vẫn còn, chưa có thể xuất ly, so với bậc thượng thì không bằng, nhưng hơn bậc hạ. Bậc thượng: căn tâm lợi lạc, xả bỏ phiền não trói buộc, có tuệ lực thiền định, tâm đắc giải thoát, tịnh thân, khẩu, ý, ra khỏi nhà phiền não, ở nhà thanh lương nhàn tịnh. Đó là đệ tử xuất gia bậc thượng. Vấn xuất gia khổ lạc Kinh Trung A-hàm dạy: Phạm chí Sanh Văn hỏi Phật: Tại gia, xuất gia do đâu mà khổ? Phật dạy: Tại gia do không tự tại nên khổ. nghĩa là tiền tài, lương thực, nô tỳ không tăng thêm, do đó mà ưu sầu, không tự tại nên khổ. Xuất gia do tự tại nên khổ. nghĩa là tùy thuận tham, sân, si, không giữ cấm giới, do đó mà ưu sầu nên tự tại là khổ. Hỏi: Tại gia, xuất gia do đâu mà vui? Phật dạy: Tại gia được tự tại là vui. nghĩa là tiền tài, lương thực, nô tỳ được tăng thêm, do đó mà vui nên nói tự tại là vui. Xuất gia không tự tại là vui. nghĩa là học đạo, không theo tham, sân, si, hành theo cấm giới, không tranh cãi, oán ghét, ưu não nên có lợi lạc. Do không tự tại nên được vui. Phật bất định đáp Trong kinh Thúc Ca, Bà-la-môn Thúc Ca hỏi Phật: Cư só tại gia siêng tu phước đức căn là nh có hơn người xuất gia không? Phật dạy: Trong câu hỏi này thì Ta không khẳng định hơn hay không. Nếu người xuất gia mà không tu căn là nh thì không bằng tại gia. Nếu người tại gia mà siêng tu căn là nh thì hơn người xuất gia. Xuất gia hạnh Kinh Niết bàn dạy: Người xuất gia không nên khởi tâm ác, vì than khẩu sẽ thực hành theo. Ta bỏ cha mẹ, vợ con, bạn bè để xuất gia chính là lúc tu thiện, chẳng phải tu bất thiện. Kinh Trang Nghiêm Pháp Môn dạy: Cô gái Kim Sắc thưa Văn Thù: Cho phép con xuất gia. Văn Thù đáp: Bồ-tát xuất gia chẳng phải cạo tóc gọi là xuất gia mà phải phát tâm tinh tấn, vì trừ khổ não cho tất cả chúng sinh, đó mới gọi là xuất gia. Chẳng mặc y nhuộm mà tự trì giớiù gọi là xuất gia mà thường khiến người phá giới được an trụ trong tịnh giới, đó mới gọi là xuất gia. Chẳng phải một mình tư duy ở chỗ A lan nhã gọi là xuất gia mà phải dùng tuệ phương tiện giáo hóa khiến cho nữ sắc bị lưu chuyển trong sanh tử được giải thoát, đó mới gọi là xuất gia. Chẳng phải tự thân giữ gìn giới luật gọi là xuất gia mà phải thực hành bốn tâm vô lượng giúp cho chúng sanh tăng thêm căn là nh, đó mới gọi là xuất gia. Chẳng phải tự thân được nhập Niết bàn gọi là xuất gia mà phải an trí tất cả chúng sinh nhập vào Niết bàn đó mới gọi là xuất gia. Kinh Đại Pháp Cự Đà-la-ni dạy: Xuất gia hành ba việc là nh: Xa lìa tật đố, tùy hỷ chỉ dạy Giúp người đúng lúc, không cầu quả báo Không tổn hoại người thành tựu căn là nh Xuất gia nhân sự vụ Luật Tăng kỳ dạy: Người xuất gia nên ít sự việc, chớ để người đời chê cười mà mất phước là nh của họ. Kinh Tam Thiên Oai Nghi dạy: Ba việc cần là m của người xuất gia: tọa thiền, tụng kinh, khuyến hóa. Nếu thực hành đủ ba việc này thì đúng pháp xuất gia. Còn như không thực hành như thế thì sống chết uổng phí, chỉ là nhân thọ tội. Kinh Quán Phật Tam muội dạy: Tỳ-kheo thường hành bốn pháp: Đêm ngày sáu thời thường sám hối tội lỗi Thường tu niệm Phật, không dối gạt chúng sinh Tu sáu tâm hòa kỉnh, không sân nhuế, ngạo mạn Tu tập sáu niệm, như cứu lửa cháy đầu. Kinh Siêu nhật Minh dạy: Tỳ-kheo có bốn pháp: Thường niệm Như Lai, tạo hình tượng Phật Nghe kinh hiểu nghĩa, tin tưởng phụng hành Tuy không gặp Phật, hiểu rõ các pháp vốn không Biết mười phương Phật là một pháp thân Phật lưu phước ấm mạt thế đệ tử Kinh Phật Tạng dạy: Người xuất gia phải nhất tâm hành đạo, thực hành đúng pháp, chớ nghó đến chuyện ăn mặc và các thứ cần dùng. Tướng sáng công đức ở chặng mày Như Lai tỏa khắp trăm ngàn vạn ức, giữ lại một phần cho đời mạt thế nên đệ tử cũng không cùng tận. Kinh Bồ-tát Bổn Hạnh dạy: Từ nước Ma Kiệt Đà, đức Phật đi đến nước Tỳ Xá Ly, người và chư Thiên cúng dường Phật ba ngàn lọng báu. Phật nhận hai ngàn chín trăm chín mươi chín cái, còn một cái không nhận lấy. Phật dạy: “Đem để che chở cho đệ tử đời sau”. Do đó mà này được sự cúng dường. <詞>SƯ TƯ Sư Là mô phạm Châu lễ sư thị chú chép: Là danh xưng người dạy đạo. Chỉ Sư chép là : Đầy đủ phước hạnh, giáo hóa người khác. Châu lễ chép: Trưởng dưỡng và giáo huấn người có được khuôn phép gọi là sư trưởng. Luận Bảo Tích dạy: Sư trưởng là bậc có khả năng trợ giúp người tăng trưởng thánh thiện. Luật dạy: Hòa thượng đối với đệ tử nên tưởng như con. Đệ tử đối với Hòa thượng nên tưởng như cha, lại gọi là sư phụ. Sư có hai: Thân giáo sư: là vị thầy để nương tựa xuất gia, học kinh, cạo tóc. Tỳ-nại-da cũng gọi là thân giáo. Y chỉ sư: là vị thầy để thọ học tam tạng kinh điển. Ngũ Bách vấn kinh chép: Chư tăng đăng đàn đều được gọi là sư không? Đáp: Không được, vì không theo thọ pháp nên hoàn toàn không gọi là sư. Hòa thượng Chỉ Quy gọi là Úc-ba-đệ-da, ở đây dịch là thường gần gũi để thọ học. học. Phát chính ký gọi là Ưu-bà-đà-ha, ở đây dịch là nương tựa để tu Tỳ-nại-da gọi là Ổ-ba-đà-da, ở đây dịch là thân giáo, vì có khả năng dạy lìa nghiệp xuất thế nên gọi là thọ nghiệp Hòa thượng Pháp sư Thập nói: Tiếng Phạm là Hòa thượng, ở đây gọi là Lực sanh. Xá Lợi phất vấn kinh nói: Người xuất gia xả bỏ nhà sanh tử, cha mẹ, vào trong pháp môn, thọ pháp vi diệu, nhờ năng lực của sư mà pháp thân tăng trưởng, công đức phát sanh, nuôi dưỡng huệ mạng, công ấy chẳng lớn sao? Luật nhiếp Tát-bà-đa dạy: Có hai Hòa thượng: Hòa thượng ban đầu cho xuất gia và Hòa thượng cho thọ giới cụ túc. Luận Tỳ-bà-sa dạy: Hòa thượng có bốn hạng: Có pháp, không có ăn mặc Có ăn mặc, không có pháp Có pháp, có ăn mặc Không có pháp, không có ăn mặc Sư vấn lai xuất gia giả Luật Tăng Kỳ dạy: Người muốn xin xuất gia thì không nên nói việc an lạc, nên nói ăn một bữa, ít ăn uống, thức nhiều, ngủ ít, phải hỏi người ấy có chịu đựng được không. Nếu người kia nói được mới cho xuất gia. Luật bất hứa độ giả Luật Tăng Kỳ dạy: Những người già bảy, tám, chín mươi tuổi, nằm dạy cần người giúp đỡ thì không nên cho xuất gia. Luật Ngũ phần dạy: Tất cả những người tàn tật, hình tướng hung ác, hủy báng Phật pháp đều không được độ. Vua có sắc lệnh ngăn cấm nên là m thầy cần phải thận trọng. Dó mạo trạch sư Luật dạy: Ở trong chúng, Bạt Nan Đà là người có thân hình cao lớn. Xá Lợi Phất hình dáng thấp nhỏ. Có ngoại đạo muốn xuất gia, thầm nghó: “ Trí tuệ của vị Tỳ-kheo nhỏ này rất cao siêu, huống chi vị Tỳ-kheo cao lớn kia”, do đó liền đến xin Bạt Nan Đà xuất gia, thọ giới. Sau hỏi thầy về kinh, luật, luận, thì thầy đều không thông hiểu, ngoại đạo liền bỏ đi mà nói Phật pháp tàn cận, chê trách Tỳ-kheo rồi quay về đạo cũ. Tư Chỉ Quy chép: Tư nghĩa là nắm lấy pháp, trợ giúp mình hiểu rõ và thực hành. Bá Dương nói: Giúp cho người bất thiện trở thành người thiện. Tiểu sư Ký Quy truyện gọi là Đạt-hạt-la, Đường dịch là tiểu sư. Tỳ-nại-da dạy: Tỳ-kheo Nan Đà gọi chúng Tỳ-kheo mười bảy tu- ổi là tiểu sư, cũng là tên gọi chung các Sa-môn. Xưa cao tăng gọi Tăng Đạo là Sa-di. Pháp sư Nghạch thấy là liền hỏi: “Đối với Phật pháp ông còn muốn là m gì”. Đáp:” Muốn là m pháp sư giảng thuyết”. Pháp sư Ngạch nói: “Ông phải vì vạn người mà là m pháp chủ, chứ đâu có thể đối với Dương tiểu sư này” Đệ tử Cầu pháp truyện chép: Tiếng Phạm là thất sái, ở đây dịch là sở giáo, xưa gọi là đệ tử. Nam sơn sao chép: Người học sau ta gọi là đệ, hiểu biết từ ta sanh ra gọi là tử, tức là người học lấy nghĩa cha anh mà thờ thầy nên gọi là đệ tử, lại gọi là đồ đệ là chữ lược của chữ đồ đệ tử. Độ ác đệ tử Ưu-bà-tắc giới kinh chép: Thà thọ giới ác một ngày, đoạn vô lượng mạng căn, chứ quyết không nuôi dưỡng đệ tử hung ác, không thể điều phục. Vì sao? Vì hành vi ác là m ương lụy thân mình. Nuôi đệ tử ác, không thể dạy dỗ, còn khiến cho vô lượng người là m ác, có thể hủy báng vô lượng pháp nghiệm mầu thánh thiện. Bồ-tát Thiện Giới kinh dạy: Độ đệ tử ác tức phá hoại pháp nên gọi là đệ tử ma. Lường xét tọi này sao lại không cẩn thận. Sư tư tương nhiếp Sư: dùng tài pháp định tuệ để chế ngự mình và chế phục người khác, an trụ không mất, do nuôi dưỡng, can ngăn nên cũng gọi là tương nhiếp. Nam sơn sao chép: Phật pháp lợi ích rộng lớn đều do tư sư tương nhiếp chuộng nhau, tài pháp đầy đủ, phước đức lợi ích ngày một sâu dày vốn là do sự nương tựa nhau vậy. Giáo pháp trì trệ, cửa che gió tuệ, ôm lòng chán nãn, là m việc phi pháp đều do sư phụ không có tâm dạy dỗ dẫn đến đệ tử không có chí hướng thực hành. Hai thầy trò bỏ nhau rồi lừa dối, khinh bỉ mà mong được đắc đạo thì đâu có thể đạt được. Sư niệm đệ tử Luật Tăng Kỳ dạy: Thầy nên nghó: “Vì muốn cho đệ tử đắc đạo quả nên ta hóa độ khiến tu các pháp là nh”. Kinh A-hàm dạy: Sư trưởng lấy năm việc để chỉ dạy đệ tử: Thuận theo pháp của Phật Dạy những điều đệ tử chưa nghe Tùy theo điều đã nghe mà khéo giải nghĩa Chỉ dạy cho bạn đồng tu của đệ tử Đem hết điều hiểu biết ra chỉ dạy mà không có hối tiếc Luận Trang Nghiêm dạy: Độ cho xuất gia Cho đệ tử thọ giới Ngăn cấm đoạn dứt việc ác Bảo trì giáo pháp Dùng chính pháp để chỉ dạy Đệ tử sự sư Nhiếp Đại Thừa luận dạy: Suốt đời phụng sự không xa lìa gọi là sự Luật Tứ phần dạy: Đệ tử phải đối với Hòa thượng bằng bốn tâm: thân ái, kính thuận, lo lắng, tôn trọng, tận tình hầu hạ như quần thần phụng sự Vua. Kính trọng chăm lo nhau như thế thì chính pháp được tồn tại lâu dài, là m lợi ích rộng khắp. Kinh Thi Ca Việt dạy: Đệ tử đối với thầy có năm việc: Cung kính Niệm ân Thuận theo lời chỉ dạy Nhớ nghó không quên Nên khen ngợi thầy Kinh Trường A-hàm dạy: Đệ tử nên lấy năm việc để phụng sự sư trưởng: Cung cấp những gì cần đến Lễ cúng dường Tôn trọng kính ngưỡng Kính thuận theo lời sư trưởng dạy Theo thầy nghe pháp ghi nhớ không quên Trong Tỳ-nại-da quyển ba mươi lăm, đức Phật dạy Tỳ-kheo Cao Thắng về việc phụng sự sư trưởng, lược nói là đệ tử phải luôn cung kính nhớ nghó đến sư trưởng, phải có tâm sợ hãi, không vì danh tiếng, không vì lợi dưỡng, phải dậy sớm thăm hỏi sức khỏe sư trưởng, dậy rồi nhẹ nhàng đem tiểu tiện, mỗi nữa tháng phải giặt giũ lau chùi giường, chiếu. Nếu không là m như thế thì mắc tội vượt pháp Trong Tỳ-nại-da dạy: Khi đệ tử vừa thấy sư trưởng thì phải lập tức đến hầu hạ. Nếu gặp thân giáo sư thì phải rời y chỉ sư để hầu thân giáo sư. Giáo ha đệ tử Kinh Bồ-tát Thiện Giới dạy: Là m thầy mà không có khả năng răn dạy đệ tử là phá hoại Phật pháp sẽ đọa Địa ngục Tỳ-nại-da dạy: Đệ tử có năm điều nên quở trách: Bất tín Giải đãi Ác khẩu Không có hổ thẹn Gần bạn ác Phật dạy: chỉ phạm một điều trong năm điều trên đều phải quở trách. Tỳ-kheo hỏi Phật: Quở trách bằng cách nào? Phật dạy: có năm cách quở trách: Không nói chuyện Không chỉ dạy Không cùng thọ nhận Ngăn cấm các việc không cho y chỉ Không cho ở cùng phòng Đồng tử Luận Trí Độ dạy: Tiếng Phạm là Cưu-ma-la-già. Đời Tần gọi là đồng tử. Ký Quy truyện chép: Cư só đến chỗ Tỳ-kheo chuyên tụng kinh Phật, cầu cạo tóc gòi là đồng tử. Phép xuất gia ở Tây Thiên không có ngăn cấm nhưng phải cầu sư chấp thuận và chúng tăng cạo tóc là thuộc hành giả đồng tử. Nay trong kinh gọi Văn Thù, Thiện Tài, Bảo Tích, Nguyệt Quang.v.v. và các đại Bồ-tát là đồng tử, tức chẳng phải trẻ con. Như Trí luận dạy: Giống như Văn Thù Sư Lợi có đủ mười lực, bốn Vô sở úy.v.v. là m đủ Phật sự nên trụ ở Cưu-ma-la-già. Lại nói: Bồ-tát từ sơ phát tâm đoạn dâm dục cho đến Bồ-đề gọi là đồng tử. Nay thì căn cứ theo ở đây giải thích thì gọi là nhi, mười lăm tuổi gọi là đồng, từ bảy tuổi đến mười lăm tuổi đều gọi là đồng tử, nghĩa là thái hòa mạt tán. Độ tiểu nhi duyên khởi Luật Tăng Kỳ dạy: Đức Phật đang ở nước Xá Vệ, A Nan có một người bạn trong thành bị dịch bệnh nên dân chúng đều chết, chỉ còn một đứa trẻ. A Nan đi ngang qua, đứa trẻ theo sau gọi, A Nan không nghe nên bị người đời cơ hiềm: “Sa-môn chỉ thân gần với những kẻ có thế lực khác, do đó thấy đứa trẻ cô độc này nên không muốn nhìn”. Đứa trẻ theo vào tinh xá Kỳ Hoàn. A Nan bạch Phật: “Đứa bé này có độ được không?”. Phật hỏi: “Ông dùng tâm gì để độ?”. A Nan thưa: “Con dùng tâm từ mẫn”. Phật dạy: “Được độ”. Hành giả Luật Thiện Kiến dạy: Có thiện nam cầu xin xuất gia, chưa có y, bát mà muốn nương ở trong chùa nên gọi là Bạn-đầu-ba-la-sa. Nay rõ ràng ở đây gọi là hành giả. Trong kinh đa số gọi người tu hành là hành giả. Hành là tu tập hai hạnh. Giả là năm uẩn giả hợp. nghĩa là người có khả năng tu hành vậy. Từ mười sáu tuổi trở lên nên gọi là hành giả. nghĩa là người con trai từ tám tuổi lên mười sáu tuổi thì dương khí đã đầy đủ, do đó có sự vui thích tin nhận, tu tập phạm hạnh, từ đời Tấn đã có hạng người này. Như đại sư Lâm Viễn sau này có tên là hành giả Tịch Xà <詞>THẾ PHÁT Từ bộ điệp Điệp này phát xuất từ Thượng thơ tỉnh từ bộ nên gọi là từ bộ. Theo Tăng sử lược chép: Trong Đường hội yếu ghi: “Ngày rằm tháng năm niên hiệu Diên Tải, Tắc Thiên ra lệnh cho tất cả dân chúng,Tăng ni đều căn cứ vào từ bộ. Đây là lần đầu tiên, nghĩa là lấy việc là nh để cầu giải ác, lấy việc phước để trừ tai nạn. Tục tăng yếu chép: Tháng năm niên hiệu Thiên Bảo năm thứ sáu, chế sử độ Tăng ni vẫn lệnh cho từ bộ cấp điệp. Đây là lần đầu. Thế phát Trong luật dạy: hủy bỏ hình đẹp, cạo sạch râu tóc, đây là phát nguyện đầu tiên, khiến cho khác người đời nên gọi là xuất gia. Kinh Nhân quả dạy: Chư Phật quá khứ vì muốn thành Vô thượng Bồ-đề nên bỏ vật trang phục đẹp, cạo râu tóc rồi phát nguyện: “Nay Ta cạo bỏ râu tóc vì nguyện đoạn trừ phiền não và tập chướng cho tất cả chúng sinh”. Châu la phát Nay là thân giáo sư, người cạo hết tóc trên đầu lần cuối cùng cho đệ tử. Tiếng Phạm là châu-la. Ở đây dịch là tiểu kiết. Vả lại trong ba cõi chín địa, phiền não, kiến tu sở đoạn có tám mươi mốt phẩm. Phiền não cuối cùng ở địa thứ chín gọi là tiểu kiết, rất vi tế khó trừ. Nay dùng tóc trên đầu dụ như phiền não kia. Chín mươi sáu phái ngoại đạo đều không thể trừ hết được, chỉ có đệ tử Phật mới có khả năng đoạn trừ. Thân giáo sư là người cạo sạch tóc lần cuối, biểu hiện sự đoạn trừ phiền não còn sót lại nên là m cho đệ tử được ra khỏi ba cõi. Phụ mẫu Nam sơn sao, quyển thứ mười hai và Pháp uyển, quyển hai mươi hai đều chép: Người được cạo tóc rồi là m lễ và đi nhiễu Tam bảo, lễ đại chúng và hai sư xong sau đó ngồi vào chỗ ngồi sau cùng. Cha mẹ và thân quyến đều phải đến là m lễ để chúc mừng đạo tâm của người ấy. Đây cũng gọi là du lễ quán: quán là là m lễ. Hễ vào ngày lễ quán đảnh của nhà Vua, nếu Vua gặp mẹ thì mẹ là m lễ , gặp anh thì anh lễ , nghĩa là vì sự trưởng thành mà lễ . Nay con mình xuất gia theo Phật được cạo tóc nên là m lễ vậy. Cha mẹ lễ vì người kia đã là bậc xuất thếnên là m lễ, lại vì pháp phục và giới thể của người ấy mà là m lễ. Đó cũng là gia phong của đức Phật chúng ta. Luật Cẩn án căn bản Tỳ-nại-da ghi: Vua Tịnh Phạn-phụ thân của Phật nghe tin Thái tử đã thành Phật, hiện đang ở tại tinh xá Trúc Lâm, thành Thất La Phiệt. Vua liền thảo thư sai sứ đến đó thỉnh Phật về nước. Vua bảo các Quần thần: “Nhất Thiết nghĩa Thành sắp về quê hương, nên tu sửa thành quách, là m sạch đường sá, dựng một tinh xá ở rừng Quật Lộ Đà”. Bấy giờ Thế Tôn suy nghó: “Nếu đồ chúng của Ta vào thành thì dòng họ Thích sẽ sanh tâm kiêu mạn. Vậy Ta nên dùng thần biến để vào thành. Phật liền cùng các Thanh-văn vọt lên hư không, hiện các pháp thần biến, đến gần thành liền thâu nhiếp thần thông rồi chỉ có Phật cách đất, nương hư không mà đi. Dân chúng tranh nhau xêm, đều nói: “Cha sẽ lễ con hay là con lễ cha?”. Bấy giờ Vua Tịnh Phạn thấy oai nghi tướng mạo của Thái tử khác với người đời liền là m lễ dưới chân Ngài. Do đó dân chúng đều không bằng lòng nên đều nói: “Tại sao cha lại là m lễ dưới chân con?”. Vua nói: “Các người chớ có nghó như thế. Bởi vì lúc Thái tử vừa mới sanh ra không cần người bồng ẩm, liền quay mặt về bốn phương, đi bảy bước. Chính lúc ấy Trẫm liền là m lễ dưới chân Thái tử. Sau đó lúc Thái tử ngồi dưới cây Diệm bộ, khi Mặt trời đã quá ngọ, các bóng cây đều ngã về hướng Đông, chỉ có bóng cây Diệm bộ là đứng yên để che thân Thái tử thì lúc ấy trẫm lại là m lễ Thái tử. Nay là lần thứ ba Trẫm là m lễ vậy”. Lúc ấy Thế Tôn liền vào chỗ ngồi. Nhà Vua lại là m lễ rồi ngồi đối diện và nói với mọi người: “Đây là lần thứ tư Trẫm là m lễ dưới chân con mình vậy”. Từ đó về sau mới có việc là m lễ vậy”. Kinh Bổn Khởi dạy: Phụ vương lễ dưới chân Phật có hai duyên: một là cung kính, hai là thương con. Kinh Ma Gia dạy: Bấy giờ phu nhân Ma Gia quỳ trước Phật, năm vóc gieo sát đất, nói kệ: Cúi đầu kính là m lễ Đấng Pháp Vương Vô Thượng. Sa di Ban đầu là danh xưng sau khi được cạo tóc. Tiếng Phạm là ngoa. Ở đây dịch là tức từ, nghĩa là an ổn trong từ bi. Lại nữa vì người này dứt tất cả vọng tình đắm nhiễm trong thế gian nên thương yêu tất cả chúng sinh. Lại nói: người mới vào Phật pháp vì còn nhiều tình cảm ở đời nên cần dứt ác hành từ. Luận Đại Tỳ Bà Sa gọi là Thất lợi ma nã lạc ca, đời Đường dịch là cần tức nam, nghĩa là vì người này lìa bốn tính tội, sáu giá tội, siêng năng sách tấn nên không phạm lõi và được thanh tịnh. Ký quy truyện gọi là Thất la mạt ni la, đời Đường dịch là cầu tịch. Tịch tức là Niết bàn. nghĩa là nói người này ra khỏi nhà phiền não, hướng đến Niết bàn. Tài thế phát tiện thọ thập giới Ký Quy truyện chép: Nước Tây Thiên khi xuất gia đều có phép Vua. Những người phát tâm xuất gia thì bổn sư liền hỏi các nạn sự. Nếu không có các nạn sự thì cho phép xuất gia. Hoặc trải qua bảy tháng là m cho người ấy dứt các việc đời thì bổn sư liền cho thọ năm giới, mới gọi là Ưu-bà-tắc. Đây là thềm bậc để vào Phật pháp, thuộc vào bảy chúng. Kế đến bổn sư sắm y, bát, đảy lọc nước.v.v rồi thỉnh A-xà-lê cạo tóc. Bổn sư đích thân trao hạ y rồi cho thượng y đội lên đầu để thọ, sau đó thọ bát, thọ mười giới. Như vậy gọi là sa di, mới là đúng pháp, thuộc vào năm chúng. Nếu vọng tiêu của tín thí, hủy phá mười giới thì đại giới không thành, trái với danh xưng cầu tịch. Đã không xứng đáng để nhận của tín thí mà vẫn ở mãi để thọ nhận thì sẽ phải mắc nợ chẳng còn nghi ngờ gì nữa. Vậy cần phải nương theo giáo pháp mà tế độ. Tam phẩm sa di Trong luật Tăng kỳ, đức Phật chế định, chưa đủ mười lăm tuổi thì không nên cho thọ sa di. Sau đó tại nước Ca Duy Vệ, A Nan có gặp hai đứa trẻ trên đường rồi nuôi dưỡng nó. Phật hỏi: “Sao không cho xuất gia ?”. A Nan thưa: “Phật chế không cho tế độ”. Phật hỏi: “Hai đứa trẻ này có thể đuổi quạ được không?”. A Nan thưa: “Dạ được”. Phật dạy: “Cho phép là m khu ô sa di, ít nhất là mười bảy tuổi, ngay cả những người mới mười ba tuổi cũng đều gọi là khu ô sa di. Từ mười bốn tuổi đến mười chín tuổi gọi là ứng pháp sa di. Hai mươi tuổi trở lên gọi là danh tự sa di”. Sa di diệc danh Tỳ-kheo Luật Thiện Kiến dạy: Nếu có thí chủ đến thỉnh Tỳ-kheo thì sa di chưa thọ giới cụ túc cũng được nhập vào số Tỳ-kheo. Đây là danh tự Tỳ-kheo. Kinh Niết bàn dạy: Thí như đứa trẻ, mới được xuất gia tuy chưa thọ giới nhưng cũng được tính vào tăng số. Luật Tứ phần dạy: Chia phòng xá, ngọa cụ theo thứ tự từ đại Tỳ- kheo xuống đến sa di, nếu có lợi dưỡng cũng chia theo thứ lớp. Sa di hạnh Luận Tỳ-ni-mẫu dạy: Sa di phải nên biét tàm quý, khéo phụng sự thầy đúng pháp không được giải đãi, phóng túng, phải cản thận nơi thân, khẩu, hạ mình, kính người, thường ưa trì giới, chớ ham đùa giỡn, không nên ỷ vào tài năng của mình, lại chớ coi thường, phải biết hổ thẹn, không nói những chuyện tạp loạn, chỉ nói những điều hợp lý, biết tịnh và bất tịnh, thường theo hai thầy đọc tụng kinh pháp. Nếu trong chúng có việc thì phải tùy thuận là m theo. Ngũ bách vấn kinh dạy: Sa di dối nói là đại đạo sư nhạn Tỳ-kheo một lạy đó chính là giặc. Kinh Sa di thất thập nhị oai nghi quyển một: Sa di viết thư phải thỉnh thầy kiểm đọc rồi mới gởi đi. lạnh. hèn. <詞>PHÁP Y Y Tức là trang phục, là dựa vào, là chỗ nương tựa để che chở nóng Theo Tả truyện chép: Y phục là để phân biệt kẻ sang, người Bạch Hổ Thông nói: Y là an ổn, nghĩa là là m an ổn thân hình. Văn tử nói: Y phục đủ để che thân thể, ngăn gió rét. Y phục của người xuất gia ở Tây Thiên cưn cứ vào pháp chế trong luật, là m đúng pháp nên gọi là pháp y. Nhị y nghĩa là cho phép chế hai y vậy. Trong luận Du Già, hỏi: Tại sao trong Tỳ-nại-da đức Phật khai cho tất cả các vật thọ dụng hiện có đều không nhiễm không? Tại sao trong Tỳ-nại-da đức Phật lại ngăn cấm tất cả tự tính tội pháp, trái với vô tội pháp. Tam y Pháp y có ba: Tăng-già-lê, Uất-đa-la-tăng, An-đà-hội. Kinh Tuệ Thượng Bồ-tát dạy: Y năm điều gọi là trung trước y. Y bảy điều gọi là thượng y. Đại y là tên gọi y khi tập chúng. Luật Tứ phần dạy: An-đà-hội luôn mặc trên thân thể. Tăng-già- lê, Uất-đa-la-tăng khi vào chúng mới đắp mặc. Tăng huy ký chép: Tên ba y không thể dịch, vì đều là định rõ số lượng, nghĩa là thấy y An-đà-hội có năm bức liền gọi là y năm điều, thấy y Uất-đa-la-tăng có bảy bức liền gọi là y bảy điều, thấy Đại y điều số nhiều liền gọi là tạp toái y. Đại y là y chủ trong ba y, rất tối thượng thù thắng nên thường dùng lúc vào cung Vua, lúc vào thôn xóm. Y bảy điều gọi là y trung giá, nghĩa là không đắc như đại y, không rẻ như y năm điều, được gọi là y . Y năm điều gọi là hạ y, nghĩa là ít điều hơn y bảy điều, được dùng lúc hành đạo là m các việc chúng. Kinh Tạp A-hàm dạy: cần tu bốn tâm vô lượng và cạo tóc mặc ba pháp y Luật Tăng Kỳ dạy: Ba y là biểu tượng của Sa-môn Hiền Thánh vậy. Luật Tứ phần dạy: Ba đời Như Lai đều mặc y này. Luận Trí Độ dạy: Đệ tử Phật trụ nơi trung đạo nên mặc ba y. Luận Tát-bà-đa dạy: Vì muốn hiện pháp chưa từng có nên chế ba y này. Chín mươi sáu phái ngoại đạo không thể có ba tên gọi này. Vì muốn khác với ngoại đạo nên mặc ba y này. Kinh Pháp Hoa dạy: Vì muốn xả ly tam độc. Kinh Giới Đàn dạy: Y năm điều đoạn tham thuộc về thân nghiệp. Y bảy điều đoạn sân thuộc về khẩu nghiệp. Đại y đoạn si thuộc về ý nghiệp. Trong Tăng huy ký, hỏi: Sao không tăng lên bốn, hoặc giảm xuống hai mà chỉ có ba. Số ba là thuộc về dương. Dương mới có khả năng sanh ra vạn vật. Nay chế ba y là biểu hiện sanh ra muôn điều là nh, là lấy nghĩa là m lợi ích vật vậy. Thống danh Ca sa là tên gọi màu sáng suốt. Tiếng Phạm nói đủ là ca-la-sa- duệ, ở đây dịch là bất chính sắc. Luật Tứ phần dạy: Tất cả màu sắc đẹp không được dùng, nên hoại đi để là m màu ca sa, nay lược nói tiếng Phạm nên gọi là ca sa. Theo Nghiệp sớ nói: Xưa gọi là ca sa, đến Lương Cát Hồng lại bày thêm y gọi là đạo phục vậy. Biệt danh Kinh Đại Tập dạy: Ca sa là tên gọi pháp phục lìa nhiễm ô. Kinh Hiền Ngu gọi là y phục xuất thế. Kinh Như Huyễn Tam muội gọi là y vô cấu, lại gọi là giáp nhẫn nhục; lại gọi là y hoa sen, nghĩa là không bị nhiễm bùn; lại gọi là tràng tướng, nghĩa là không bị tà yêu là điên đảo; lại gọi là y điền tướng, nghiõa là không là m cho người trông thấy sanh điều ác; lại gọi là y tiêu sấu, nghĩa là mặc y này thì phiền não bị tiêu mòn; lại gọi là y ly trần, y khử uế, lại gọi là chấn việt. Đại y hữu tam phẩm cửu loại Luận Tát-bà-đa dạy: Tăng-già-lê có ba phẩm: y chín điều, mười một điều, mười ba điều gọi là y hạ phẩm, đều do hai miếng dài, một miếng ngắn tạo thành; y mười lăm điều, mười bảy điều, mười chín điều gọi là y trung phẩm, đều do ba miếng dài, một miếng ngắn tạo thành; y hai mốt điều, hai ba điều, hai lăm điều gọi là y thượng phẩm, đều do bốn miếng dài, một miếng ngắn tạo thành. Tăng huy ký, hỏi: Y bảy điều thuộc về phẩm nào? Đáp: thuộc hạ phẩm, do hai miếng dài và một miếng ngắn tạo thành. Ngũ bộ y sắc Trong Xá Lợi Phất Vấn Kinh, bộ Ma ha Tăng Kỳ dạy: Người siêng học các kinh, tuyên giảng chân nghĩa, do đó trong chỗ đang ở nên mặc y màu vàng. Bộ Đàm Vô Đức dạy: Người thông đạt lý đạo, khai mở sự lợi ích, tuyên dương thù thắng thì nên mặc y màu đỏ. Bộ Tát-bà-đa dạy: Người thông suốt thấu đạt, đem pháp giáo hóa thì nên mặc y màu đen. Bộ Ca-diếp-di dạy: Người tinh cần dõng mãnh, nhiếp hộ chúng sanh thì nên mặc y màu mộc lan. Bộ Di-sa-tắc dạy: Người thiền định vào chỗ vi tế, thấu suốt thâm sâu thì nên mặc y màu xanh. Vấn ngũ bộ y đắc thủ thứ trước phủ (Hỏi: năm bộ y có được thọ nhận để thay y đắp mặc không?) Đáp: Trong Xá Lợi Phất Vấn Kinh dạy: Có Tỳ-kheo La Tuần vì phước mỏng nên khất thực không có gì. Sau đó nhờ năm bộ y lại thay i mặc nên vị ấy khất thực được nhiều thức ăn uống. Cho nên đức Phật dạy: Trong pháp xuất gia của Ta toàn mặc y phục tệ mạt, do nhân duyên La Tuần nên Ta cho phép nhận nhiều y. Tử y Đây không phải năm bộ y nhưng vì triều đình ban cho Sa-môn nên nay còn tồn tại vậy. Tăng sử lược chép: Theo sách đời Đường, dưới triều Tắc Thiên có chín vị Tăng: Pháp Lãng.v.v dịch xong kinh Đại Vân nên đều được Vua ban cho ca sa màu đỏ, đảy bằng bạc hình rùa. Y phục này được Vua ban lần đầu. Từ đó các triều đại sau theo đó mà thực hành. Đến đời Đại Tống niên hiệu Thái Bình Hưng lúc mới lên ngôi cho phép Tăng khắp nơi vào cung đình, trước ở chỗ tỷ thí tam học, sau ở phủ Khai Phong, sai Tăng chứng nghĩa kinh, luật, luận, do thông cả mười điều nên mới ban cho y đỏ gọi la thủ biểu tăng, dùng tay mắt để biểu hiện vậy, nhờ vào công đức tấu trình. Nay thiên hạ một nhà nên không cần thủ biểu. Vào ngày lễ giáng sinh, Hoàng đế, thân vương tể phụ, tiết độ cho đến chính thứ sử được dâng biểu tiến cử những tăng đạo được mặc y đỏ, chỉ có lưỡng vệ tăng lục được tiến cử vào nội cung, ngày ấy được nhận môn hạ điệp và được cấp cho y đỏ, cúng dường tứ sự, gọi là liêm tiền tử là chức vinh quang nhất. Bởi y này nhờ ân Vua nên được mặc, thật không phải là chuyện dễ, hình tướng của y được phân đều. Căn cứ vào Đông quán tấu ký chép: niên hiệu Đại Trung, tăng tu ở chùa Đại An biết pháp chế, tài năng hơn người. Một hôm Văn Đế đến xin y đỏ, nói: “Không phải đối với ông quái đản mà xem ông có được Vua ban cho chưa và ban cho trở về chùa”. Bỗng nhiên ông ta bệnh nặng rồi qua đời. Gần đây cũng có nhiều người như vậy. Nhiễm sắc Trong luật có ba màu để hoại sắc: xanh, đen, mộc lan. Theo Sớ sao chép: Xanh là màu xanh đồng; đen là màu bùn; mộc lan là màu vỏ cây. Vật thể Theo trong luật có mười loại nhưng không ngoài ba loại gai, tơ, lụa cần nó để che kín thân. Ngũ Bách vấn kinh chép: Ba y được dùng tơ sống để là m không? Đáp: Tất cả vật sống nhưng không thấy thân thì được dùng. Điền tướng duyên khởi Luật Tăng Kỳ dạy: Đức Phật đang ở thành Vương Xá, lúc ấy Ngài đi kinh hành trước hang đá, trông thấy ruộng lúa có bờ ngăn những thửa ruộng rõ ràng liền nói với A Nan: “Chư Phật quá khứ dùng y giống như vậy. Từ nay nương theo đây mà may y. Tăng Huy ký chép: Thửa ruộng giữ nước, sanh trưởng mầm giống để nuôi thân mạng. Thửa ruộng pháp y, có nước thấm nhuần bốn loài, tăng mầm ba thiện căn dùng để nuôi dưỡng pháp thân huệ mạng. Tác pháp Tỳ-nại-da dạy: Tăng-già-lê được là m hai lớp. Nếu là m đến ba lớp thì mắc tội Ác tác. Luật Tứ Phần dạy:Đại y có bảy điều, phải cắt rọc để may. Nếu y năm điều thì được may mỏng nhẹ. Theo luật may đại y trong năm ngày thì hoàn thành, y bảy điều được may trong bốn ngày, y năm điều được may trong hai ngày thì hoàn thành, nếu quá thời gian quy định mà không hoàn thành thì Tỳ-kheo-ni phạm tội đọa, Tỳ-kheo phạm đột-kiết-la, vì không tự mình may y. Luật Tăng Kỳ dạy: Nếu may y có người khác là m giúp, hoặc sợ quá thời gian quy định mà không thành thì nên may đường chỉ thưa, may xong liền thọ trì, sau đó may đường chỉ nhặt lại. Trong chương phục nghi Đại sư Nam Sơn dạy: Theo các luật khi may thành y thì tùy theo số điều y nhiều hay ít mà giới bổn chế định. Như y tăng-già-lê muốn cắt rọc đến hai mươi lăm điều, hoặc vải ít thì tùy theo đó mà giảm dần số điều lại, cho đến chín điều, bảy điều. Lại nữa, Bất túc nãi mạn lại chép: Nay chúng sanh đa số đều thích y tốt, đẹp, đường chỉ may dày tất phải cần đến công của người, chỉ mong sao cho đường may đẹp chứ chẳng kể tiền công cao thấp, hoặc có người đã từng phung phí trả tiền may gấp đôi là m trái phạm vậy. Minh khổng Có người nói như lỗ để cho nước vào ruộng lúa. Trong Căn bản Bách nhất Yết ma, Tịnh tam tạng dạy: Ở Thiên Trúc thì ba y đều do cắt rọc may thành, chỉ ở Đông Hạ khai cho không may, xét kỹ trong luật thì không có phép khai này. Mạn y Tiếng Phạm là Bát-tra, đời Đường dịch là mạn điều tức một tấm vải, trong ba y thì y không điều tướng là mạn y vậy. Khi Phật pháp truyền đến đời nhà Hán, trải qua một trăm tám mươi bảy năm nhưng những người xuất gia chưa biết cách cắt may nên chỉ mặc y này. Thiếp tướng Pháp này phát sanh từ mạn điều. Luật Thập tụng dạy: Tỳ-kheo sống ở núi rừng đồng trống, cho phép mặc mạn y, không cho phép mặc vào thôn xóm, phải mặc các y trên để thấy tướng phước điền. Lại nữa, Tỳ-kheo nghèo thiếu y không có vải để cắt may thì nên kiếm vải tùy theo các loại y trên mà may, hoặc năm điều, bảy điều, chín điều, hoặc quá mười lăm điều. Nạp y Lại gọi là ngũ nạp y, nghĩa là y có năm loại vậy. Luật Thập Tụng dạy: Y có thí chủ Y không có thí chủ Y vãn hoàn Y người chết Y phấn tảo. Ở đây lại có năm loại: Y vứt bỏ trên đường Y nơi chỗ phấn tảo Y vứt bỏ bên sông Y do kiến cắn hư Y thuộc vải vụn hư Lại có năm loại: Y bị lửa cháy Y ngâm trong nước Y chuột gặm Y bò nhai Y người sanh con vứt bỏ Các loại vải trên do người Thiên Trúc vứt bỏ vào ngày húy kî không dùng đến nữa, nghĩa giống như phấn tảo chắp vá thành y nên gọi là y phấn tảo. Theo luật dạy: Tất cả các loại y trên không được dùng màu sắc chính, phải nhuộm là m màu ca sa. Nay nói thuế tức là lông nhỏ là m y vậy. Luận Trí Độ dạy: Ý của đức Phật là muốn cho các đệ tử tùy thuận hành đạo, vì bỏ sự vui ở đời vậy. Đức Phật tán thán mười hai hạnh đầu đà như lần hóa độ đầu tiên, năm Tỳ-kheo bạch Phật nên mặc loại y nào? Phật dạy, nên mặc y vá nạp. Luật Thập Tụng dạy: Nếu y vá nạp không đủ tướng phước điền thì không nên lừa dối để vào thôn xóm. Y này có mười điều lợi: Mặc y thô xấu Ít sự mong cầu Tùy ý mà ngồi Tùy ý mà nằm Tắm rửa dễ Ít trùng Dễ nhuộm Khó hư Lại không dư y Không mất việc cầu đạo lại nữa, vì là vật hèn mọn nên lìa được tâm tham, vì không bị kẻ trộm tham lấy nên thường che thân thể, vì ít muốn nên để giúp thân khô gầy, do đó mà bậc thượng só mặc y này. Trước y công quá Phật bảo A Nan: Y có hai loại là khả thân, bất khả thân. Nếu mặc y đẹp thì tăng thêm đạo tâm của người. Đây gọi là khả thân. Nếu là m tổn đạo tâm của người thì gọi là bất khả thân. Cho nên có kẻ hoặc từ y đẹp mà đắc đạo, có người hoặc từ y xấu mà đắc đạo, sự chứng ngộ là do tâm mình, không nên câu nệ vào y phục. Trong luận Trí Độ, đức Phật dạy: Từ nay nếu có Tỳ-kheo nhất tâm cầu Niết bàn, xả bỏ thế gian thì Ta cho phép mặc y giá trị mười vạn lượng vàng, ăn đủ trăm món. Ca sa ngũ chủng công đức Kinh Bi Hoa dạy: Đức Phật ở trước bảo tạng của Phật, khi Ngài phát nguyện thành Phật, ca sa có năm công đức: Nhập vào trong Phật pháp: người phạm trọng tội Tà kiến nhưng chỉ trong một niệm phát tâm tôn trọng Phật pháp thì sẽ được thọ ký trong Tam thừa. Nếu Trời, rồng, người, quỷ cung kính đối với một chút ca sa thì sẽ được quả Tam thừa không thối lui. Nếu quỷ thần, loài người có được ca sa chỉ bốn tất thì các vật ăn uống được sung túc. Nếu chúng sinh thường hay chống đối nhau mà biết nhớ nghó đến ca sa thì sẽ sanh tâm bi. Nếu giữ một phần ca sa, cung kính tôn trọng thì thường được thù thắng hơn người. Tám pháp tin trọng Ca sa là biểu thức của Thánh nhân, tùy thuận hạnh Tịch diệt, tâm từ bi, người ly dục dùng để đắp mặc. Cho nên người xuất gia thân khoác ca sa nếu chưa đắc quả Sa-môn thì nên dùng tám pháp kính trọng. Tám pháp ấy là : nên tưởng xây tháp, tưởng tịch diệt, tưởng từ bi, tưởng như Phật, tưởng tàm quý, khiến cho tôi đời sau được lìa tham, sân, si, tưởng bậc Sa-môn. Thọ trì y pháp Tỳ-nại-da gọi là tăng-già-quăng (đại y) là y chủ trong các y cho nên phải tùy nơi mà mặc dùng, hoặc lúc vào thôn xóm, hoặc lúc đi khất thực, lúc thọ trai, lúc , lúc là m lễ chế để, lúc nghe pháp, lúc lễ hai sư và lễ đồng phạm hạnh, đều có thể mặc đại y. Y ốt-đa-la-tăng (y bảy điều) nên đối với nơi thanh tịnh mà đắp mặc và nơi lễ tụng. Y an-trớ-bà-sa (y năm điều) ở nơi nào cũng tùy ý đắp mặc, không phạm. Ngũ bách vấn nói: Nếu không có y giữa (y bảy điều) thì được đắp đại y lên giảng, lễ , y năm điều cũng được mặc lúc vào chúng ăn, lễ .v.v. Luật Thập Tụng dạy: Mặc đại y thì không được ngồi trên đá, đất, cây, cỏ và quét đất; trải tọa cụ, ngọa cụ thì không được dùng chân đạp, không được kéo lê trên đất. Nếu đi đến thôn xa thì nên mang y trên vai, gần thôn có ao sâu rộng thì dùng nước rửa tay chân, không có nước thì dùng cỏ, lá cây phủi bụi rồi đắp y. Bối trước ca sa Tức là dùng phía trước ra sau. Tăng ở phương Bắc đa số đều như vậy. Trong luật Ngũ phần, đức Phật dạy: Nếu đi ra ngoài thôn, hoặc đi vào thôn bị cỏ, cây móc rách y, gió thổi bụi đất vào điều tướng y, vì sợ dễ hư hoại y thì cho phép giữ gìn y nên khi vào thôn xóm được lật y lại để đắp mặc, hoặc y mau hư thì cho phép lộn y lại để đắp mặc, trên dưới phải khâu nút lại. Câu nữu Trong luật Tăng Kỳ, phần Nữu tiết tập yếu chép: Trước mặt là câu. Sau lưng là nữu. Trước không có vật này nhưng do Phật chế ni-sư- đàn che dưới cánh tay tức trên vai để trần, không chỉnh tề, lúc đi khất thực bị gió thổi bay nên đức Phật cho phép khâu nút. Phật chế tất cả tất cả vàng bạc vật báu không được là m nút khâu, chỉ cho phép các loại thuộc về ngà, xương, gỗ thơm. Phi đản Xá Lợi Phất vấn kinh chép: Lúc nào thì che hai vai, lúc nào thì bày vai phải? Phật dạy: “Tùy theo lúc cúng, hoặc lúc ăn nên bày vai phải để tiện là m việc. Lúc tạo phước điền nên che hai vai để hiện tướng phước điền”. Tác ích Tăng Kỳ dạy: Nếu người đời muốn lấy một miếng ca sa của Tăng Ni có giới đức để mong trừ khỏi tai họa thì cho phép cho họ một miếng nhỏ. Thiên sam Xưa Tăng y theo luật chế chỉ có tăng-kỳ-chi (áo lót) che vai trái và nách phải, do che thân bằng ba y là nghi ở Thiên Trúc vậy. Trúc đạo đản ngụy lục chép: Người trong cùng Ngụy thấy Tăng mặc ca sa để lộ khuỷu tay bên trái nên không cho đó là điều tốt đẹp nên mới cho may áo lót để che bên trái , do đó gọi là thiên sam. Quần Từ này ở đây là do Châu Văn Vương chế ra. Tây Vức ký gọi là nê-phược-ta-na, Đường dịch là quần. Căn bản bách nhất yết ma chép: Tiếng Phạm là nê-phạt-tán-na, Đường dịch là quần. Các bộ luật xưa dịch là Niết-bàn-hoàn-tăng, hoặc dịch là nội y, hoặc gọi là thùy-y Tọa cụ Tiếng Phạm là ni-sư-đàn, ở đây dich là tùy tọa y. Căn bản Tỳ-nại-da gọi là ni-sư-đản-na, Đường dịch là tọa cụ. Pháp sư Tịnh nói: theo văn gọi là tọa cụ, đây chính là phu cụ, dùng để nằm, ngồi đều được. Phật chế dùng để nằm tạm, sợ có sự tổn hại nên không dám dùng đến việc khác. Luật Ngũ phần dạy: Vì hộ thân, hộ y, hộ giường nệm tăng chúng nên chế tọa cụ. Tăng Kỳ dạy: Nếu đi đường thì được để đại y, thất y vào trong đảy, đến nơi rồi thì đem ra mà ngồi. Tùy theo hạn lượng đã chế ra ở trong luật mà là m, dài hai khuỷu tay Phật, rộng một khuỷu rưỡi. Luật gọi là cánh tăng, tức hướng về bốn góc đều có lợi ích, phù hợp với bốn duyên, tức là m phép vậy, không cho là m một lớp. Nếu may y mới thì nên dùng y cũ bọc vào trong để bảo vệ khỏi bị hoại. Nếu không có y cũ, lại không có chỗ để xin thì không mang theo cũng không có lỗi. Ký chép: Trước Phật cho phép mang y che vai trái nhưng do có ngoại đạo hỏi một Tỳ-kheo: “Vai ông che tấm vải tên là gì, để là m gì?”. Tỳ-kheo đáp: “Là ni-sư-đàn, dùng để ngồi”. Hỏi: “Ông đã mang y tên là gì, có công đức gì?”. Đáp: “Là y nhẫn nhục, có đủ tướng Tam bảo, trên ngăn chặn thiên ma, dưới hàng phục ngoại đạo”. Hỏi: “Y này có công đức như thế thì đâu có thể dùng như miếng vải để ngồi lên trên. Nếu ông tự là m như vậy thì thầy ông đâu có chỉ dạy. Nếu thầy ông chỉ dạy thì pháp này không đáng để tôn trọng”. Tỳ-kheo bạch Phật, do đó Phật chế che tay trái. Kinh Giới đàn đồ dạy: Ni-sư-đàn (tọa cụ) giống như tháp có nền móng , nay ông thọ trì thì thân là tháp ngũ phần pháp thân, bởi vì ngũ phần pháp thân do giới sanh ra vậy. Lạc tử Hoặc gọi là quải tử, do các vị tăng trước là m ra, các tăng sau bắt chước lại quên mất tên y. do thấy mang ở trên thân nên lấy đó mà gọi tên vậy. Nay các thiền tăng ở phương Nam đèu mặc khi là m các công việc. Od tướng không như pháp nên ở trong các luật đều không có tên gọi, nguy hại đến người lưu truyền sai. Trong quyển thứ mười của Căn bản bách nhất yết ma dạy: Y năm điều có ba loại: Y lớn thì dài ba khuỷu tay, rộng năm khuỷu tay. Y nhỏ thì giảm bớt mỗi bề một nữa khuỷu tay. Do ở bên trong nên gọi là trung. An-đà-hội có hai loại: một là dài ba khuỷu tay, rộng năm khuỷu tay. Hai là dài hai khuỷu tay, rộng bốn khuỷu tay. Ở đây gọi là thủ trì y, hạn lượng ngắn nhất là che từ rốn đến đầu gối, do không rõ hạn lượng nên gọi là lạc tử. Nếu may thì chỉ có năm bức: một ngắn, một dài gọi là an- đà-hội, nghĩa là tránh khỏi sự chê bai, được mặc không mọi lúc hợp với luật, không có lỗi. Miệt Sớ sao chép: Cái bí tất cũng là y. Luật Tứ phần dạy: Trời lạn thì cho mang bí tất. Luật Ngũ phần dạy: Ngoại đạo hỏi y, Tỳ-kheo không biết nên bị cơ hiềm: “Sa-môn có gì đặc biệt, còn không biết tướng y thì là m sao biết tâm, do đó mà y theo văn trước để để chú thích vậy. <詞>GIỚI PHÁP Giới Luận Trí Độ dạy: Tiếng Phạm là thi-la, Tần dịch là tính thiện, xưa sư gọi là thi-la, ở đây dịch là giới, nghĩa luật là dừng dứt lỗi lầm, phòng điều sai quấy. Tăng huy ký chép: giới là cảnh tỉnh, nghĩa là sách tấn ba nghiệp lìa xa lỗi lầm. Trong kinh Ưu-bà-tắc giới dạy: giới là phép chế, nghĩa là chế ngự tất cả pháp bất thiện. Luận Bồ-tát tư lương gọi là thi-la, có các nghĩa: Thanh lương: vì lìa xa tất cả phiền não nóng bức. An ổn: vì là m nhân an lạc cho đời sau. An tịnh: vì được xây dựng bằng chỉ, quán. Tịch tịnh: vì là nhân an lạc của Niết bàn. Hai giới Tỳ-ni-mẫu dạy: giới có hai: giới thế gian, giới xuất thế gian. Giới thế gian là m nhân cho giới xuất thế gian nên gọi là tối thắng. Lại gọi là : giới thuộc thân, miệng; giới thuộc tâm. Do nương vào giới ở thân, miệng mà đạt được giới ở tâm. Ba giới Giới tại gia, giới xuất gia, giới chung của tại gia và xuất gia. Hai quy giới Luật Ngũ phần dạy: Lúc Phật mới thành đạo thì hai người buôn và nữ Tu-xà-đà cùng năm Tỳ-kheo đều thọ hai quy, chưa có Tăng. Tam quy giới Luật Ngũ phần dạy: Đức Phật ở vườn Nai hóa độ năm anh em Kiều Trần Như nên lúc ấy có sáu La Hán. Sau đó, cha mẹ Da xá được thọ tam quy lần đầu tiên. Quy, nghĩa là hướng về; y, nghĩa là nương tựa. Luận Tát-bà-đa dạy: Do Tam bảo là chỗ nương tựa, vì cứu đọ là m cho cõi dục không bị hư tổn. Luận Hiển Tông gọi là cứu tế, nghĩa là nhờ quy y Tam bảo nên dứt được vô lượng nỗi sợ hãi, khổ đau và sanh tử. Tỳ-ni-mẫu dạy: Có năm loại thuộc tam quy: 1.Chuyển tà. 2.Năm giới. 3. Tám giới. 4. Mười giới. 5. Giới Cụ túc. Trong luận Tát-bà-đa chép: Hỏi: Nếu người không thọ tam quy thì có được thọ năm giới không? Đáp: Không được. Trước tiên phải thọ tam quy, sau đó mới thọ năm giới. Kinh A-hàm dạy: Đối với việc thọ quy giới thì trước tiên phải sám hối, sau đó mới thọ tam quy, chính là giới thể được nương tựa sau ba lần kết dạy. Trong kinh Ưu-bà-tắc giới, trưởng giả Thiện Sanh bạch Phật: “Có người đến xin thọ giới thì tại sao trước tiên phải dạy họ về tam quy, sau đó mới cho họ thọ giới?”. Phật dạy: “Vì phá các khổ, đoạn phiền não, thọ nhận sự an lạc Vô thượng tịch tịnh, do nhân duyên đó nên trước tiên phải thọ pháp quy y vâïy. Tam quy là : Đức Phật có khả năng hoại diệt phiền não để được chính giải thoát; chính pháp là hoại diệt phiền não để được chân thật giải thoát; Chư tăng là người thọ nhận việc phá phiền não để được chính giải thoát. Kinh Hy Hữu Giảo Lượng Công Đức dạy: Nếu có người dùng tứ sự cúng dường Như Lai trong tam thiên đại thiên thế giới đầy như lúa, mè, tre, lau suốt hai vạn năm và sau khi chư Phật diệt độ lại xây tháp, dùng các thứ hương hoa.v.v cúng dường thì phước đức tuy nhiều nhưng không bằng phước đức của người dùng tâm thanh tịnh quy y Tam bảo. Ngũ giới nghĩa là có năm giới: 1.Không giết hại. 2.Không trộm cắp. 3. Không tà dâm. 4. Không nói dối. 5. Không uống rượu. Pháp Uyển Châu Lâm, quyển tám mươi tám chép: Thế gian còn chuộng nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Người trí còn bỏ sự giết hại, trộm cắp, dâm dục, nói dối, uống rượu. Đạo, đời khác nhau nhưng sự chỉ dạy thông nhau vậy. Cho nên người có lòng nhân thì không giết hại; người có nghĩa cung phụng thì không trôïm cắp; người giữ lễ thì không dâm dục; người coi trọng chữ tín thì không nói dối; người có trí thì không uống rượu. Đây là sự giáo hóa nhất thời. Sự giáo huấn trong chính pháp lấy nhân là m đầu, nhân tức là năm lỗi trước. Đây chính là thật pháp, chỉ ra sự thật, không giả dối trau chuốc, giả danh hiện ý, theo đây mà tu thì không cầu quả mà chứng quả, không tham vui mà được vui. Nếu lấy gần để mong xa, bỏ ít để ôm nhiều thì không có chỗ quay về vậy. Nay thấy người giữ gìn không giết hại thì không cầu nhân mà có được lòng nhân; người không trộm cắp thì không mong nghĩa mà nghĩa rộng khắp; người không dâm dục thì không cúng lễ mà lễ tự có; người không nói dối thì mộ tín mà tín tự dương; người không uống rượu thì không hành trí mà trí tự sáng, có thể gọi là tam cương ngũ thường thì công đức gì mà không tăng thêm. Phí trưởng phòng soạn tùy khai hoàn tam bảo lục, dẫn tống điển chép: Vào niên hiệu Khai Hạ, Văn Đế hỏi Hòa thượng trong chùa: Phạm Thái tạ linh, vận số.v.v đều nói: “Lục kinh vốn là cứu độ thế tục”. Nếu tính linh chân yếu thì dùng kinh Phật để là m kim chỉ nam, như cõi nước kia đều thuần thiện theo sự giáo hóa này mới đưa đến thái bình vậy. Tại sao? Đáp: Thần nghe khi qua sông rồi, Vua noi theo tể phụ cai quản Châu Đầu, Vương Mông tạ ơn đạo só thượng nhân, Quách Siêu, Vương Mịch, Vương Thản, Vương Cung hoặc là Tuyệt Luân, hoặc là Độc Bộ, Tạ Phu, Tải Quỳ, Phạm Uông, Tôn Xước đều để tâm giao nhau giữa Trời người, chẳng phải là không có những kẻ só tài ba, thanh tịnh đều dạy bảo theo giáo lý họ Thích, không nơi nào đều không như vậy. Nếu một là ng gồm trăm nhà mà có mười người giữ năm giới thì mười người được thuần hậu, trăm người tu thập thiện thì trăm người hòa kính, truyền dạy giáo hóa đến khắp trong một quận thì người có lòng nhân nhiều đến trăm vạn. Nếu thường hành một pháp thiện thì bỏ được một pháp ác, bỏ một pháp ác thì dứt được một hình phạt, một hình phạt được chấm dứt ở trong nhà thì trăm hình phạt được chấm dứt trong một nước, do đó Bệ Hạ chỉ ngồi không mà hưởng thái bình. Luận Đại Tỳ-bà-sa dạy: Năm giới này gọi là học xứ, nghĩa là những người phật tử phải nên học; lại gọi là học tích, vì người nào đến đây thì liền được lên điện trí tuệ vô thượng; lại gọi là học lộ, vì đây là con đường tắt của tất cả luật nghi, diệu hạnh thiện pháp đều được tăng trưởng; lại gọi là học bản, vì đây là pháp căn bản nên ai cũng phải nên học. Trong kinh Đại Trang Nghiêm thuộc ngũ đại thí Di Lặc vấn kinh luận chép: Năm giới là người đại thí, vì dùng để nhiếp thủ vô lượng chúng sinh, vì thành tựu vô lượng sự an lạc cho chúng sinh, vì hay tăng trưởng vô lượng công đức. Bát giới Tức năm giới trước. Không nằm ngồi giường cao, rộng, lớn. Không đeo vòng hoa, anh lạc, không dùng hương dầu thoa thân, xông ướp y phục. Không tự ca múa, không được đến xem nghe. Không ăn phi thời. Tám giới này gọi là bát quan trai giới. Nói quan nghĩa là ngăn, cấm, vì ngăn cấm tám tội nên không phạm. Luận Tỳ-bà-sa dạy: Trai là do không ăn phi thời là m thể, do tám sự việc trợ giúp thành trai thể; cùng các chi phần giữ gìn gọi là bát chi trai pháp, do đó mà nói tám chứ không nói chín. Văn Thù vấn kinh chép: Giới Bồ-tát ở thế gian là tám giới vậy. Kinh Bồ-tát xứ thai chép: Tám giới quan trai là cha mẹ của chư Phật. Luận Tỳ-bà-sa dạy: Tám giới gọi là cận trụ, nghĩa là gần địa vị La Hán; lại gọi là trưởng sanh, nghĩa là nuôi dưỡng căn là nh mỏng manh của hữu tình là m cho căn là nh ấy tăng trưởng thêm nhiều, ví như giới thứ sáu dạy: “Không được nằm ngồi giường cao, rộng, lớn”. Trong kinh A-hàm dạy: “Chân giường cao thước sáu chẳng phải là cao, rộng bốn thước chẳng phải là rộng, dài tám thước chẳng phải là lớn, chỉ quá hạn lượng gọi là cao, rộng, lớn. Luật Tăng Kỳ dạy: Giường có hai loại: cao lớn gọi là cao; tốt quý gọi là cao; lại có tám loại giường là : giường vàng, bạc, ngà, sừng, Bích Chi, La Hán và giường Tăng. Hỏi: Người đời thọ giới này thì mang y phục gì? Đáp: Luận Bà-sa dạy: “Được dùng y phục thường ngày”. Hỏi: Người này thuộc chúng nào? Đáp: Kinh Báo Ân dạy: “Do không thuộc giới giữ trọn đời nên không gọi là Ưu-bà-tắc, chỉ gọi là người trung gian (Dưới bảy chúng, trên người đời), lại gọi là cận trụ. Thuận chính lý luận chép: Bốn giới trước thuộc về chi giới, vì nhờ đó mà lìa được tính tội. Chi thứ năm là không buông lung, nghĩa là nếu uống rượu thì tâm buông lung nên không hộ trì được các chi giới. Các chi giới sau là phòng tâm phóng dật theo tâm nhàm chán nên chứng được luật nghi gọi là tám chi giới. Mười giới Có hai loại: Một là mười giới Sa di theo luật Tăng Kỳ là : Lìa giết hại Lìa trộm cắp Lìa phi phạm hạnh Lìa nói dối Lìa uống rượu Lìa chỗ giường cao, rộng, lớn Lìa tràng hoa, anh lạc, hương thoa thân, ướp y phục Lìa việc ca múa và đi xem nghe, cất chứa nhạc cụ. Lìa cất chứa vàng, bạc, tiền của Lìa ăn phi thời. Hai là mười giới của Bồ-tát gồm năm giới trước Không khen mình, chê người Không nói lỗi của Bồ-tát tại gia hay xuất gia Không tham Không sân Không phỉ báng Tam bảo Tam tụ giới Tức giới Bồ-tát Đại thừa: Nhiếp luật nghi giới, nghĩa là lìa các việc ác, sanh khởi đạo hạnh là nhân của Đoạn đức tu thành quả Pháp thân. Nhiếp thiện pháp giới, nghĩa là tích tập pháp thiện tức thân, miệng, ý đều thiện và văn, tư, tu tuệ, mười Ba-la-mật, tám vạn bốn ngàn trợ đạo hạnh là nhân của Trí đức tu thành quả Báo thân. Nhiếp chúng sinh giới; lại gọi là nhiêu ích hữu tình giới, nghĩa là độ tất cả chúng sinh, phát khởi đạo bất trụ là nhân của Ân đức tu thành quả Hóa thân. Luận Trang Nghiêm dạy: Giới đầu tiên lấy sự cấm ngăn là m thể; hai giới sau lấy sự tinh cần dõng mãnh là m thể. Thọ Bồ-tát giới hữu ngũ lợi Kinh Phạm Võng chép kệ: Người trí huệ dõng mãnh Có thể giữ giới này Dù chưa được thành Phật Mà được năm điều lợi: Một là Phật mười phương Thường thương nhớ hộ trì Hai là khi lâm chung chính kiến tâm hoan hỷ Ba là sanh nơi nào Đều là m bạn Bồ-tát Bốn là chứa công đức Giới pháp đều thành tựu Năm, đời này, đời sau Đủ tính giới phước huệ phần: Cụ túc giới Tức hai chúng xuất gia đã thọ giới. Cụ túc là gì? Theo luận Quyết định tạng chép: Giới Tỳ-kheo bao gồm bốn Thọ cụ túc do bạch tứ yết ma Tùy cụ túc: vì từ đây về sau tùy theo từng giới nên thường được giữ gìn che chở. Bảo hộ hoàn bị tâm người khác: Tỳ-kheo đầy đủ một phần oai nghi gọi là hộ tâm người khác. Giữ giới cụ túc: nghĩa là đối với một lỗi nhỏ lo sợ không dám phạm. Nếu có phạm thì đều nói ra. Giới cụ tíc này gồm có sáu tụ. Tỳ-kheo có hai trăm năm mươi giới điều. Tỳ-kheo-ni ccso ba trăm năm mứơi giới điều. Lần lược sẽ giải thích sau. Ngũ thiên Ba la di Tăng già bà thi sa. Ba dật đề Đề xá ni Đột kiết la Bất định Diệt tránh. Thất tụ Như ngũ thiên trên, phần sáu thêm Thâu lan giá, phần bảy thêm Ác thuyết. Lục tụ Tăng huy ký chép: Néu kết đúng tội danh thì nhận lấy đúng quả, năm thiên thì quá ít, không nói đến Thâu lan giá; bảy tụ thì quá nhiều, thừa phần ác thuyết. Ác thuyết đồng với tội Đột kiết la nên thọ quả như nhau. Nay ở trong năm thiên thêm Thâu lan giá; ở trong thất tụ trừ phần ác thuyết nên chỉ còn lại sáu vậy. Ba-la-đề-mộc-xoa Trung Hoa dịch là Biệt giải thoát. Nói Biệt giải thoát tức là do giới cảm quả. Ký chép: Đạo giới danh giải thoát: tức bảy chi, không biểu hiện ở tư, do đoạn hoặc mà thành tựu vậy. Sự giới danh giải thoát: tức Tăng, Ni thọ giới nên đối với việc giết hại.v.v thì không là m, do không tạo nhân, nên không thọ quả. Cho nên gọi là biệt biệt giải thoát. Tỳ Ni mẫu chép: Ba-la-đề-mộc-xoa nghĩa là tối thắng. Gốc của các điều thiện lấy giới là m căn bản nên các điều thiện được phát sanh. Chế giới thập ích nhị ý Trong luật Tăng Kỳ, Xá Lợi Phất bạch Phật: Có bao nhiêu lợi ích nên vì đệ tử mà chế giới? Phật dạy: Có mười lợi ích: Vì nhiếp hộ Tăng Vì hết lòng nhiếp hộ Tăng Vì khiến cho chúng Tăng an ổn Vì chế phục người không hổ thẹn Người có hổ thẹn thì được sống an ổn Người không tin thì khiến được tin Người chính tín thì tăng thêm lợi ích Ngay trong pháp hiện tại phiền não được dứt sạch Người chưa sanh phiền não khiến cho không sanh chính pháp được tồn tại lâu dài, vì Trời, người mà khai mở cửa cam lồ. Nhiếp Đại thừa luận chép: Như Lai chế giới có hai ý: Vì Thanh-văn tự độ Vì Bồ-tát tự độ và độ người. Thọ giới thứ đệ Trong kinh Báo Ân, Ưu Ba Ly hỏi Phật: Nếu không thọ năm giới, mười giới mà thọ ngay giới có được không? Đức Phật dạy: Một lúc có thể được thọ ba giới. Hỏi: Nếu như vậy, thì sao lại gọi là thứ tự: trước thọ năm giới, kế đến thọ mười giới, sau cùng là thọ giới cụ túc? Đức Phật dạy: Nhiễm tạp Phật pháp nên phải theo thứ tự, nghĩa là trước tiên thọ năm giới để tự điều phục, dần dần tin ưa; kế đến thọ mười giới là m cho căn là nh được thâm sâu; sau cùng là thọ giới cụ túc mới kiên cố khó thối lui. Như vượt qua biển lớn, dần dần vào chỗ sâu; vào biển Phật pháp cũng lại như vậy. Đắc giới Trong luận Bà Sa, hỏi: Biệt giải thoát giới do tâm nào đạt được? Đáp: Do tâm không tổn hại chúng sinh tuộc ý nghiệp thiện của hữu tình phát sanh. Huân giới chủng tử Theo tông Đại thừa và Tiểu thừa so ra thì đều chung một nghĩa. Hơn nữa trong kinh bộ Tiểu thừa chép: Khi thọ giới có bốn loại tư: Thẩm lự tư Quyết định tư Hai loại tư này thuộc về ý nghiệp: bên trong tự tư duy, thẩm định nên phát khởi tâm tăng thượng. Cần thân tư tức là thân nghiệp Phát ngữ ý tức trần từ Hai loại tư này thường phát ra ở sắc dẫn đến hoàn thành yết ma thẩm định về hai loại tư trên; huân thành tâm chủng tử đối với hai tư cần, phát trên huân thành sắc chủng tử, thông cả bốn tư trên; huân thành sắc tâm chủng tử. Theo tông Đại thừa có ba loại tư: Thẩm lự tư Quyết định tư Phát khởi thắng tư Ba tư này đều thuộc về ý nghiệp. Hai tư trước thuộc về gia hành; một tư sau thuộc về căn bản. Do phát khởi thắng tư này nên đầy đủ sự tăng thượng thù thắng, tức ở trên tư này mà huân thành chủng tử. Thể của nó có công năng phòng ác, sanh thiện. nghĩa huân, theo luận Hiển thức chép: Giống như đốt hương xông y, thể hương mất mà mùi hương đang ở nơi y. Thể hương này không thể nói là đã mất, hay không mất, vì mùi hương vẫn còn ở tại y. nghĩa chủng tử, theo luận nói: Do sự biến hoại liên tục mà cảm thành quả báo vị lai. Đó là nghĩa chủng tử. Nếu tương tục mà không biến i, hoặc biến i mà không tương tục thì đều chẳng phải là chủng tử. chỉ có tương tục mà biến i không lìa nhau mới thành chủng tử. Giới thể Còn gọi là tính Tỳ-kheo. Tiếng Phạm là tam-bạt-la. Các luận Câu Xá.v.v đều dịch là hộ tức là vô biểu sắc. Kim Cang sao nói: Xuất giới thể có ba: Khắc tính xuất thể tức một pháp vô biểu tư, thông cả chủng tử hiện hành Tương ưng xuất thể tức một lúc mà hai mươi hai pháp đều có công năng phòng ác, phát thiện Quyến thuộc xuất thể tức ba nghiệp thiện thuộc thân ,miệng, ý. Nhiếp luận chép: Giới Bồ-tát dùng ba nghiệp thân, miệng, ý là m thể. Giới Thanh-văn dùng hai nghiệp thiện của thân, miệng là m thể. Tỳ-kheo xứng lương phước điền Kinh Báo Ân dạy: Chúng tăng là phước điền ra khỏi ba giới, nghĩa là Tỳ-kheo có đủ giới thể. Giới là căn bản của vạn điều thiện cho nên người đời quy tín gieo phước cúng dường như ruộng lúa phì nhiêu sanh nhiều lúa mạ gọi là ruộng phước tốt. Vấn đản chế thất chi Ưu-bà-tắc giới kinh chép: Tất cả pháp thiện, bất thiện đều do tâm là m căn bản. Bởi tâm là m căn bản, các Tỳ-kheo phạm lỗi do hai ng- hiệp: thân phạm và miệng phạm nên chỉ chế bảy chi (thân: ba; miệng: bốn) Di Lặc vấn kinh luận chép: Tạo tác là nghiệp. Luận Đối Pháp chép: Nghiệp của bảy chi thuộc thân, miệng là nghiệp tự thể; ba nghiệp thuộc về ý chỉ là tâm tương ưng. Giới quả Ưu-bà-tắc giới kinh chép: Quả của giới có hai: Sự an lạc ở cõi Trời Sự an lạc ở Niết bàn Người trí mong cầu Niết bàn, không mong cầu sự an lạc ở cõi Trời. Kinh chính Pháp Niệm Xứ chép: Nếu người trì giới mà tâm niệm sự an lạc ở cõi Trời thì người ấy là m ô uế tịnh giới như nước độc tạp nhạp. Do sự an lạc ở cõi Trời rất vô thường, khi chết rồi phải trở lại thọ khổ đau. Do đó mà cầu Niết bàn. Thọ giới thỉ Pháp căn bản của Đại giới từ đầu năm Nhâm Dần đời Tào Ngụy Hoàng thứ ba đã chấp thuận nhưng do việc nước bề bộn nên mãi đến năm thứ ba mươi ba khi phế truất và đăng vị Vua mới vào năm Giáp Tuất niên hiệu Nguyên Nguyên thì sửa i. Luật sư Thiên Trúc, Thượng thư Đàm Ma Ca La mới chấn hưng lại việc thọ giới. Lập đàn thỉ Ở Kỳ Viên Tây Thiên, Tỳ-kheo Lâu Chí thỉnh Phật lập đàn cho các Tỳ-kheo thọ giới Như Lai, ở hướng Đông Nam ngoài viện lập đàn lần đầu tiên. Vào năm Canh Ngọ niên hiệu Nguyên Hạ đời Tống, tăng só Cầu Na Bạt Ma đến chùa Nam Lâm- Dương Đô lập đàn trước vườn trúc cho Tỳ-kheo thọ giới lần đầu tiên. Nay gọi là phương đẳng đàn. Tăng sử lược chép: Do giới đàn vốn phát xuất từ giáo lý Tiểu thừa. Trong giáo lý Tiểu thừa, người đáng được lãnh thọ giới pháp phải nhất nhất y luật. Nếu có một chút sai quấy thì người thọ không đắc giới, còn người trên lên đàn phạm tội. Nay theo pháp phương đẳng thuộc giáo lý Đại thừa tức không chấp vào căn thiếu duyên sai, chỉ cần phát tâm dõng mãnh lãnh thọ thì đắc giới, có thể gọi là bình đẳng quảng đại rộng khắp nên có tên là bình đẳng hoặc gọi là cam lồ đàn. Cam lồ tứcc dụ cho Niết bàn. Giới là cửa đầu tiên vào Niết bàn, từ quả hiện rõ tên. Nay nói là đàn tràng: đàn tức ra đất là m nền, tràng tức là m cho đất bằng phẳng. Nay có người gọi lẫn lộn bởi vì hiểu nhầm vậy. Thọ giới quỷ nghi Kinh Giới Đàn dạy: Người muốn thọ giới thì trước hết phải đến chỗ người có trí phát tâm giáo hóa muôn loài, vì đã khởi tâm từ để cứu độ Luận Bà Sa dạy: Do cứu độ hết thảy hữu tình nên khởi ý tốt và tâm không tổn hại thì đắc giới, hoặc khi tập tăng, là m pháp sự nên nói: phát tâm thượng phẩm, đắc giới thượng phẩm. Sa Di chưa được nghe nên là m sao hiểu tâm thượng phẩm này. Đây do Trời nổi mây sấm, mưa vàng liên tục rơi xuống mặt đất. Trì giới tam lạc Bài kệ trong Tứ phần luật bổn có viết: Người trí khéo giữ giới Thì được ba điều lợi Danh dự và lợi dưỡng Chết được sanh cõi Trời. Trì giới tam tâm Luận Du Già dạy: Một, nhàm chán tâm hữu vi Hai, hướng đến tâm Bồ-đề Ba, bi mẫn với hữu tình. Phá giới ngũ suy Kinh Trung A-hàm dạy: Cầu tài không được Nếu có được thì dễ tiêu mất Mọi người không yêu kính Tiếng ác truyền đi Chết vào Địa ngục Hộ giới sự nghiệp Kinh Phương Đẳng dạy: Không được tế lễ quỷ thần, không được khinh lờn quỷ thần, không được hủy hoại quỷ thần. Nếu có người tế lễ thì cũng không được khinh khi người ấy, cũng không được qua lại với người ấy. Vấn tục nhân thọ tam quy hậu vi thất Hỏi: Nếu người đời sau khi thọ Tam quy mà tế lễ quỷ thần thì có mất quy giới không? Đáp: Trong kinh Ưu-bà-tắc giới có dạy: Nếu người thọ Tam quy rồi nhưng vì muốn bảo hộ nhà cửa và thân mạng mà tế lễ quỷ thần thì không mất giới. Nếu chí tâm lễ quỷ thần ngoại đạo thì mất giới. Lúc tế lễ thì không nên giết hại sinh mạng. Xả giới tứ duyên Suốt đời giữ luật nghi, do bốn duyên sau gọi là xả: Xả giới Sanh hai hình Đoạn căn là nh Khi chết Hoặc do sáu duyên cũng đồng như vậy. Vấn xả giới dó cánh đắc xuất gia phủ Luận Câu Xá dạy: Nếu đã xả giới không cho xuất gia lại vì đã hủy hoại công dụng, từ đó chính pháp diệt tận vì yết ma không còn, lại không được người mới thọ giới bảo hộ. <詞>TRUNG THỰC chính thực Luật Tứ phần dạy: Tiếng Phạm là bổ-xà-ni, ở đây gọi là chính thực. Ký huy truyện chép: Một nữa là bổ-thiện-na, Đường dịch là ngũ đạm thực, đó là các món ăn như: bánh.v.v Nam sơn sao gọi là thời dược nghĩa là dùng bảo trì thân mạng như thuốc, nên đói khát gọi là chủ bệnh, cũng gọi là duyên bệnh do đó mà mỗi ngày thường ăn như uống thuốc vậy. Thuận chính lý luận chép: thân mạng nương vào việc ăn uống mà tồn tại, ăn rồi có thể là m cho thân tâm an vui. Luật Tăng kỳ gọi là thời thực, nghĩa là lúc được ăn; phi thời thì không được ăn. Nay nói trung thực là dùng lúc Mặt trời đúng ngọ thì được ăn, vì đúng giữa trưa nên gọi là trung thực. Bát chính thực Luật Tứ phần gọi là khư-xà-ni, ở đây gọi là bất chính thực. Ký huy truyện chép: Một nữa gọi là kha-đản-ni, ở đây gọi là ngũ tước thực, đó là gốc, cành, lá, hoa, quả. Nếu ăn năm món trước thì không ăn năm món sau; nếu đã ăn năm món sau thì không ăn năm món trước. Trai Kinh Khởi thế nhân bản gọi là ô-bô-sa-đà, Tùy dịch là tăng trưởng, nghĩa là thọ trì pháp trai nên tăng trưởng căn là nh. Phật giáo lấy quá giờ ngọ không ăn gọi là trai. Trai chính thời Kinh Tỳ la Tam muội dạy: đức Phật nói về bốn lúc được ăn cho Bồ-tát Pháp Tuệ nghe: Buổi sáng là Trời ăn Buổi trưa là thực. Lúc ấy, Phật muốn đoạn nhân sáu đường ác như các đức Phật trong ba đời nên chế thêm buổi trưa là pháp thực đúng thời. Tăng huy ký gọi lúc đúng ngọ mà bóng Mặt trời nhích qua như sợi tóc trong nháy mắt tức là phi thời. Chúc Cũng thuộc vào bất chính thực. Luật Tăng kỳ dạy: cháo ra khỏi nồi thì không thành miếng mới gọi là bất chính thực. Tăng huy ký chép: tiểu thực là dùng cháo. Đọc văn trong năm bộ luật thì thấy duyên khởi của cháo có ba. Luật Tăng kỳ chép: Phật ở nước Xá Vệ, mẹ của Nan Đà nấu nồi cháo ép nước để uống mà được là nh bệnh, liền nghó “Thầy ta là người ăn một bữa, phải nên có cháo”. Bà dùng nhiều nước, ít gạo nấu còn hai phần, ssau đó thêm một ít gia vị, đựng đầy trong bình đem đến chỗ Phật rồi thưa: “Xin nguyện Thế Tôn cho phép các Tỳ-kheo dùng cháo”. Đức Phật chấp thuận, Ngài liền nói kệ. Luật Tứ phần dạy: Đức Phật ở tại nước Na Tần Đầu, Nhân Liệt Sa cúng dường cháo, Phật thọ nhận. Luật Thập tụng dạy: Bà-la-môn Vương A Kỳ Đạt cúng dường tám thứ cháo: sữa, mè, đậu.v.v. Đức Phật thọ nhận. Chúc chính thời Luật Tứ phần dạy: Khi minh tướng bắt đầu xuất hiện thì được ăn cháo, ngoài ra đều là phi thời. Luận Bà Sa dạy: Minh tướng có ba: Mặt trời chiếu đến thân cây Thiệm bộ là lúc Trời màu đen. Mặt trời chiếu đến lá cây là lúc Trời màu xanh. Mặt trời chiếu qua khỏi cây là lúc Trời màu trắng. Trong ba màu, lấy màu trắng là chính thời, cần dang tay để thấy rõ mới được ăn cháo. Thực thể Dùng ba pháp hương, vị, xúc là m thể. Thực tướng Dùng sự biến hoại là m tướng, nghĩa là khi vào bụng thì biến hoại, có lợi ích cho đại chủng các căn mới thành thực tướng. Thực sự Luận Bà Sa dạy: có hai việc để gọi là ăn: Lúc mới ăn có thể trừ đói khát Lúc tiêu hóa có thể là m lợi ích cho đại chủng các căn Thực nghĩa Luận Phật địa gọi bảo trì là ăn, nghĩa là có khả năng bảo trì sắc thân không bị hủy hoại, tăng trưởng pháp là nh. Lại có nghĩa là lợi ích. Nếu chưa ăn mà nuốt vào bụng, chưa tiêu hóa liền bị bệnh đều không thành nghĩa ăn. Khi qua miệng vào bụng tiêu hóa, đi vào ngũ tạng, lan khắp bốn chi, bổ khí lợi da mới thành nghĩa ăn. Thực tam đức Mềm dịu Tinh khiết Như pháp . Lục vị Đắng, cay, chua, ngọt, mặn, lạt Bát vị Sáu vị trên, vị rít và không rõ vị. Thí thực ngũ thường báo Trong kinh Ngũ phước đức, Phật dạy: người đem thức ăn dâng cúng Tăng thì có được năm lợi ích: nhan sắc, sức lực, thọ mạng, an ổn, biện luận. Nếu Thượng tọa cúng dường thì nên tụng kệ: Người thí và người nhận Đều đạt được ngũ thường Sắc, lực, mạng, an ổn Và biện tài vô ngại Chúc thập lợi Luật Tăng kỳ dạy: Do mẹ Nan Đà cúng dường cháo cho chúng tăng, đức Phật nói kệ: Người trì giới thanh tịnh Được phụng sự cung kính Hành giả tùy thời dùng cháo cúng dường sẽ được mười lợi ích: nhan sắc, sức lực, thọ mạng, an lạc, từ hòa, thanh tịnh, biện luận, chứa thức ăn, là nh bệnh, trừ đói khát. Cháo là thuốc hay. Đức Phật đã dạy muốn được sanh là m Trời, người hưởng thọ an lạc thì phải nên dùng cháo cúng dường chúng tăng. Thực tiền xướng mật ngữ Đệ tử ngoại đạo Thi Lợi Chất Đa tức vợ chồng trưởng giả Thọ Đề Ca dùng độc hòa thức ăn rồi thỉnh Phật và chúng tăng đến thọ trai. Đức Phật biết mà vẫn nhận lời. Phật bảo đại chúng đợi xướng “tăng bạt” sau đó rồi ăn. Do đó mà đọc không thể là m hại. Kinh Phạm Ma Nan Quốc vương dạy: muốn cúng dường thức ăn thì phải bình đẳng, không hỏi lớn nhỏ. Lúc ấy, Phật bảo A Nan đến chỗ trai phạn xướng “tăng bạt”. Tăng bạt là chúng tăng ăn đều bình đẳng. Ký huy truyện gọi là tam-bát-la-khư-đa, xưa dịch là tăng bạt ngoa. Ngũ quán Kể công nhiều hay ít, suy nghó phẩm vật kia từ đâu đem đến Xét đức hạnh của mình đày đủ hay thiếu khuyết để nhận của cúng dường Phòng hộ tâm để xa lìa tham, sân, si là chính Chính là vị thuốc hay trị bệnh khô gầy Vì việc thành đạo nên thọ thức ăn này. Thực pháp Kinh Phạm Ma Nan Quốc vương dạy: khi muốn ăn cũng giống như người bệnh uống thuốc mong cầu là nh mạnh, không được tham đắm. Luận Ma Đức Ca dạy: Nếu khi được ăn thì mỗi miếng đều nghó, ăn chừng ba muỗng: muỗng thứ nhất niệm thầm “nguyện đoạn tất cả điều ác”; muỗng thứ hai niệm “nguyện tu tất cả điều thiện”; muỗng thứ ba niệm “nguyện đem căn là nh đã tu tập hồi hướng cho tất cả chúng sinh đều thành Phật đạo”. Thực lượng Kinh Tăng Nhất A-hàm dạy: Nếu ăn quá no thì thân đầy, thở gấp, trăm mạch không đều là m cho tâm trì trệ, ngồi nằm không an. Nếu ăn ít thì thân ốm yếu, tâm lơ lửng, ý nghó không vững chắc. Kệ tụng: Ăn nhiều phải khổ bệnh Ăn ít khí lực suy Người ăn phải vừa đủ Như cân không cao thấp. Kinh dạy: người ăn nhiều có năm điều khổ: Đi cầu nhiều Đi tiểu nhiều Ngủ nhiều Thân nặng nề không muốn tu tập Nhiều bệnh, khó tiêu hóa. Bài kệ trong kinh Đại Tát Giá: Thực giới Người ăn uống thái quá Thân nặng, càng biếng nhác Đời này và đời sau Thân này mất lợi lớn Ngủ nghỉ tự chịu khổ Là m phiền hà người khác Mê muội khó thức tỉnh Phải lượng sức lúc ăn. Kinh Tần Tất Để dạy: Một ngày ăn một lần, không được ăn lại, không được bỏ ăn, lúc ăn có nghi ngờ thì không nên ăn. Xuất sanh Luật dạy: thức ăn cho chúng sinh tức là quỷ tử mẫu. Tỳ-nại-da dạy: mẹ của Ha Lợi Đế tìm cầu người con yêu quý của mình, Phật cho thọ Tam quy, Ngũ giới rồi. Quỷ liền thưa: từ nay con ăn thức ăn gì? Phật dạy: chớ có lo buồn, ở cõi Thiệm Bộ châu có đệ tử của Ta mỗi lần ăn đều xuất sanh thí cho ngươi là m cho người được no đủ. Theo Sao ghi: Xuất sanh: hoặc phép cúng cô hồn trước hoặc sau thì tùy đó mà sắp đặt. Nay nói rõ nếu thức ăn do lúa gạo, lúa mì là m thành thì mới có thể xuất sanh, hoặc các thứ rau cỏ không dùng, do vật loại không ăn nên thành đồ bỏ. Như kinh Ái Đạo dạy: xuất sanh bánh chỉ lớn bằng đầu ngón tay. Lại nữa, kệ xuất sanh chép: Chúng quỷ thần các ngươi Nay ta đem vật thí Bảy hạt khắp mười phương Quỷ thần đều cùng hưởng. Thí thực Kinh Niết bàn dạy: đức Phật giáo hóa quỷ thần Khoáng dã thọ năm giới rồi. Nó liền thưa Phật: Con và quyến thuộc chỉ ăn máu tanh, nay trong giới của Phật không cho giết hại thì là m sao con giữ được mạng sống? Phật dạy: từ nay chỗ nào có đệ tử Thanh-văn tu hành thì đều bố thí thức ăn cho ngươi. Lúc ấy, đức Phật chế giới: từ nay các Tỳ-kheo phải thường cúng thí thức ăn cho quỷ thần Khoáng dã. Nếu người ở trú xứ nào không cúng thí thì đó chẳng phải là đệ tử của Ta. Khất thực Luật Thiện kiến gọi là phân vệ, ở đây dịch là khất thực. Luật Tăng kỳ gọi là khất thực. Phân thí cho tăng ni; vệ hộ để tu đạo nghiệp, nên gọi là khất thực. Theo Pháp tập chép: người xuất gia vì muốn thành tựu đạo hạnh nên đi khất thực để phá tất cả kiêu mạn. Kinh Thập nhị đầu đà dạy: phép thọ thực có ba: 1.Thọ thỉnh thực; 2.Chúng tăng thực; Thường khất thực. Hoặc hai phép ăn trước sanh nhân duyên phiền não. Vì sao? Phép thọ thỉnh thực: nếu người được thỉnh mời liền nói “ta có phước đức hơn người”; người không được thỉnh mời liền giận người kia, hoặc tự khinh bạc mình là pháp ưu sầu ngăn đạo. Phép chúng tăng thực phải bỏ pháp theo chúng, phụng sự mọi người, lo liệu việc tăng thì tâm tán loạn, bỏ phế việc hành đạo. Do có các nhân duyên phiền não như vậy nên thọ pháp khất thực. Kinh Bảo vân dạy: khất thực được phân là m bốn phần: chia cho người đồng phạm hạnh, cho người ăn xin nghèo khó, cho các quỷ thần, chia cho mình ăn. Kinh Bảo vũ dạy: thành tựu mười pháp gọi là khất thực: Vì nhiếp thọ các hữu tình Vì thứ tự Vì không mệt mỏi Tri túc Vì sự ban bố Vì không ham thích Vì biết độ lượng Vì phẩm thiện hiện tại Vì thiện căn viên mãn Vì lìa chấp ngã Pháp sư Triệu dạy: khất thực lược nói có bốn ý: Vì phước lợi quần sanh Vì chế phục kiêu mạn Vì biêt thân có khổ Vì trừ bỏ sự vướng mắc. Trường thực Ma-đắc-lặc-già dạy: nhà dân sáng sớm dậy là m thức ăn xong, không ăn trước mà đợi người xuất gia đến cúng dường, đó gọi là trường thực. Kinh Ưu-bà-tắc giới dạy: nếu có người nói muốn là m việc trọng yếu thì trước hết nên cúng dường thức ăn cho chúng tăng, sau đó mới tự ăn, là m như vậy là không lỗi lầm. Đó chính là nhân duyên của trí tuệ vi diệu. Đó chính là thí chủ tối thượng trong những người cúng thí, cũng được gọi là thí chủ tối thượng. Phó thực Nghi thức phó thỉnh, việc hành hương, định chỗ ngồi đều do Pháp sư Đạo An bố trí. Trong Nam sơn sao có là m bài phó thỉnh, văn dài nên không chép ra đây. Đại khái khi đến nhà thí chủ gặp họ, nếu họ chưa an trí tượng Phật và chỗ ngồi của Thánh tăng thì nên bảo họ an trí. Các Tỳ-kheo đều phải hỏi nhau về tuổi hạ, phân biệt lớn nhỏ theo thứ tự mà ngồi. Luật Tăng kỳ dạy: ngồi xong, Thượng tọa cần thay mặt hỏi thăm cuộc sống của thí chủ. Luật Thập tụng dạy: Thượng tọa ngồi ở nhà thí chủ nên quan sát đồ chúng, chớ để các căn tán loạn, đùa giỡn, cần thanh tịnh giữ gìn oai nghi là m cho đàn việt sanh tín tâm, thọ trai xong nên tán thán phẩm vật, chú nguyện như pháp, phải cảm tạ thí chủ: việc cúng dường nồng hậu như pháp, bần đạo không có đủ đức để thọ nhận. Luật Tăng kỳ dạy: có hai phép thỉnh: thỉnh tăng theo thứ tự, thỉnh riêng. Hoặc có được các phẩm vật của người cúng thí, nếu thỉnh tăng theo thứ tự thì người ấy đem về cho tăng, còn thỉnh riêng thì người ấy đem về cho mình. Ngôn ngữ tî húy Luật dạy: có một trưởng giả đời trước là m nghề ép dầu. Ông ta thỉnh Tỳ-kheo Thiện Pháp đến thọ trai, có một chút không vừa miệng, Tỳ-kheo liền đọc kệ: Món ăn thì rất ngon Chỉ thiếu ít dầu mè Vì đã đụng chạm đến tên húy của trưởng giả nên ông ta không vui. Do đó Phật chế giới. Luật Tăng kỳ dạy: ở nhà thọ trai phải cẩn thận chớ nói giỡn, chụm đầu nói chuyện phiếm, bàn việc thế gian. Pháp uyển dạy: nay trông thấy nhà người con hiếu đau buồn, Tỳ-kheo ngồi vào tiệc rượu, buông thả nói chuyện tiếu, bàn việc thế gian, bị người đời chê cười, ai cũng nghi kî. Trai bất thỉnh cường vãn Thời nay gọi là xuyết trai. Tỳ-nại-da dạy: đức Phật du hành đến Vương Xá, có các trưởng giả chỉ thỉnh một hoặc hai vị Tỳ-kheo thọ trai, những vị không được thỉnh mời cũng tự đến bốn năm người. Các trưởng giả chê cười. Do đó, Đức Phật chế giới: người không được thỉnh mời mà gượng đến, phạm Ba-dật-đề. Hành hương Nam sơn sao ghi: nghĩa này do Pháp sư Đạo an đặt ra. Kinh Hiền ngu day: Vì rắn đem vàng để là m bữa trai thực khiến cho các vị tăng hành hương cầm trong tay. Tăng nhất A-hàm dạy: có một thí chủ thiết lễ cúng dường, tay bưng lư hương thưa “đã đến giờ”. Phật dạy: hương là xứ giả của Phật nên phải là m như vậy. Trong Kinh Phổ Đạt vương, đức Phật dạy: xưa kia, có một người con nhà quyền quý, vì cha mà cúng dường tam bảo, khi cha mất, người con chỉ mang lư hương đi. Kinh Đại di giáo dạy: khi Tỳ-kheo muốn thọ thực thì phải đốt ba cây hương, tán dương việc bố thí. Trong luật dạy: người hành hương thì không cho phép cùng ngồi thọ trai. Kinh Tam thiên oai nghi dạy: vì người nữ mà hành hương, sợ chạm đến tay sanh nhiễm tâm nên cho phép ngồi ăn. Bài kệ thọ hương: Giới hương và định hương Tuệhương, giải thoát hương Giải thoát tri kiến hương Biến khắp mười phương cõi Hương thơm bay phảng phất Xin nguyện khói hương này Cũng là m việc Phật sự Khắp vô lượng vô biên Phạm âm Tiếng Phạm là nặc, Trung Hoa dịch là chỉ đoạn. Do đó, ngoài việc dừng, đoạn rồi thì tâm mới thanh tịnh, đảm nhiệm pháp sự. Lại nói chư Thiên nghe tán tụng thì tâm hoan hỷ nên cần phải là m vậy. Luật Thập tụng dạy: Tỳ-kheo Bạt Đề là vị có âm thanh tán tụng bậc nhất. Kinh Trường A-hàm dạy: âm Phạm có năm loại: Âm thanh chính trực Hòa nhã Thanh thoát Thâm sâu Vang xa cùng khắp. Pháp uyển chép: là âm thanh tán tụng, ngâm vịnh nên thanh thoát mà không mềm yếu, hùng tráng mà không thô tháo, trôi chảy mà không vượt quá, lắng đọng mà không trì trệ, xa nghe thì mênh mang, tao nhã, gần thì lồng lộng, oai nghiêm, âm thanh ấy là hơn hết. Xưa kia, Ngụy Trần Tư Vương Tào du hành khắp đó đây, bỗng nghe âm thanh của Phạm Thiên giữa không trung, trong trẻo, uyển chuyển, là m cảm động trong lòng, liền đứng nghe hồi lâu, mới mến mộ âm tiết nên hết lòng cung kính lễ Phạm thiên. Liệt âm là âm sau này. Phạm âm kia là âm đầu tiên. Nay khai kinh Phạm viết: là m sao đem kinh này để rộng nói cho chúng sinh? Ở thế giới như hoa sen hết lòng đãnh lễ đấng Vô thượng. Khai giới luật Phạm viết: Đứng đầu, Ưu Ba Ly ……………………………………….. Các Hiền thánh cùng nghe . Người ngũ thông thần biến …………………………………………………… Cúi đầu lạy chư Phật. Biểu bạch Tăng sư lược cũng gọi là xướng đạo. Ban đầu là Thượng tọa ở Tây Vức khi phó thỉnh thì chú nguyện để là m vui lòng đàn việt. Xá Lợi Phất có nhiều biện tài, từng là m Thượng tọa, hết lòng xưng tán đạo nên hàng bạch y rất hoan hỷ. Đây là việc thay i biểu bạch. Lương Cao Tăng truyện chép: người xướng đạo được tôn trọng cần có bốn đặc điểm: âm thanh, biện luận, tài năng, học rộng. Nếu không có âm thanh thì lấy gì để dạy chúng. Nếu không có biện luận thì không xử lý thích hợp. Nếu không có tài ăn nói thì không thể biện luận. Nếu không học rộng thì lời nói không có căn cứ. Sớ tử Tức văn chú của Phật, bởi sớ thông cả thần ý của thí chủ. Lời của chú sớ không dám lấy nhỏ là m lớn nên phải tu từ, tức phải xác thực, không nói viễn vông, hư ngụy, tự răn dạy thân thích. Nam sơn sao chép: so với thế gian những việc lưu truyền hoàn toàn trau chuốc, nói quá sự thật, kẻ hèn mọn thì phô trương thành quý tộc, người bần tiện thì tán thán thành giàu sang; tâng bốc việc hư ngụy chỉ tăng thêm sự dối trá. Hành tịnh thủy Luật Tăng kỳ dạy: khi tụng kinh, ăn cơm phải rửa tay sạch. Sấn tiền Tiếng Phạm là đạt-sấn-nã, ở đây gọi là tài thí, nay nói lược là đạt-nã, hoặc chỉ gọi là sấn. Luật Ngũ phần dạy: thọ thực xong thì họ cúng dường y vật gọi là đạt-sấn. Kinh Chuyển Luân Ngũ Đạo dạy: chuyển kinh không được sai người, ngay cả lúc thọ trai dùng đạt-sấn là m thường pháp thì được phước. Chú nguyện Nay gọi là niệm tụng hồi hướng cho thí chủ. Luật Thập tụng dạy: nên vì thí chủ mà tán thán và chú nguyện. Nếu Thượng tọa không là m thì vị kế tiếp có thể là m. Thuyết pháp Luật Tỳ Bà Sa dạy: thọ thực xong thì Thượng tọa thuyết pháp. Thuyết pháp có bốn việc lợi ích: Vì tiêu vật của tín thí Vì báo ân Vì thuyết pháp là m cho họ hoan hỷ, thành tựu căn là nh. Tại gia thực hành tài thí, người xuất gia nên thực hành pháp thí. Trong kinh Tăng Nhất, A Nan nói: trong một kệ có đủ ba mươi bảy phẩm và các pháp. Ca Diếp hỏi: thế nào là một kệ? A Nan đáp: Chớ là m các việc ác Nên là m các việc là nh Tự thanh tịnh ý mình Là lời chư Phật dạy. Vì sao? Vì “chớ là m việc ác” thì đầy đủ giới cấm, hành động thanh bạch. “Là m các việc là nh” thì tâm ý thanh tịnh. “Tự thanh tịnh ý mình” thì trừ sạch điên đảo tà vạy. “Đó là lời các pháp dạy”. Bỏ ngu si, bỏ vọng tưởng, giới thanh tịnh thì ý đâu có sanh khởi bất tịnh. Ý thanh tịnh thì không điên đảo. Do không điên đảo, ngu hoặc vọng tưởng mất nên thành tựu ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Do thành đạo quả chính là các pháp vậy. Thực hậu sấu khẩu Trong Căn Bản Bách Nhất Yết ma, đức Phật dạy: không nên là m lễ Tỳ-kheo hữu nhiễm; Tỳ-kheo hữu nhiễm cũng không nên là m lễ người khác, nếu là m trái thì mắc tội việt pháp. Ưu Ba Ly bạch Phật: thế nào là hữu nhiễm? Phật dạy: nhiễm có hai loại: bất tịnh nhiễm, ẩm thực nhiễm. Ẩm thực nhiễm là ăn uống mà chưa súc miệng. Hoặc súc miệng bằng bàn chải còn có nước dơ bẩn khác, đó gọi là hữu nhiễm. Nếu cùng là m lễ nhau thì mắc tội. Cho nên việc cần là m sau khi ăn xong là đánh răng, súc miệng. Tước dương chi Luật Tăng kỳ gọi là tăm xỉa răng, tước một đầu nhỏ ra dùng để xỉa thức ăn còn đọng lại trong răng. Tỳ-nại-da dạy: xỉa răng có năm điều lợi ích: Miệng không đắng Miệng không hôi Trừ phong Trừ nhiệt Trừ đờm Lại có năm lợi ích khác: Trừ phong Trừ nhiệt Là m ăn ngon nhiều chất bổ Tiêu hóa thức ăn Mắt sáng Luật Tăng kỳ dạy: nếu miệng có nhiệt và sanh nhọt thì nên xỉa răng, súc miệng. Bách Nhất Yết ma dạy: xỉa răng phải ở chỗ khuất, không được ở nơi mọi người qua lại, sau đó trở về chỗ thanh tịnh. Khi vứt bỏ tăm xỉa răng phải dùng nước để rửa rồi tằng hắng hoặc khảy móng tay báo hiệu rồi mới vứt ở chỗ vắng. Nếu là m khác thì mắc tội việt pháp. Chế nhất thực Luật Tăng kỳ dạy: Như Lai chỉ dùng một bữa nên thân thể nhẹ nhàng, sống an lạc. Các Tỳ-kheo cũng nên ăn một bữa. Do ăn một bữa nên thân thể nhẹ nhàng, sống an lạc. Lại nữa, Phật chế ăn một bữa có bốn ý: Vì phá trừ sự tham ăn của ngoại đạo. Vì nuôi sống các trùng trong thân. Vì thí chủ là m phước mà thọ dùng. Vì nuôi dưỡng sắc thân đại chủng tiến đạo. Trung hậu bất thực đắc ngũ đức Trong kinh Xứ Xứ, đức Phật dạy: sau giờ ngọ không ăn có năm phước đức: Ít dâm dục Ít ngủ Được nhất tâm Không đánh rấm Thân được an lạc, cũng không bị bệnh. Do vậy Sa-môn biết phước thì không ăn. Tuyệt thực Kinh Phật Bổn Hạnh Tập dạy: do không ăn mà được phước lớn. Các loại dã thú nếu không ăn cũng được phước lớn. Trung thực luận Trong Hoằng minh tập, Nam Tề Thẩm Ước tự Hưu Văn soạn luận viết: sở dó người không đắc đạo là do tâm thần hôn muội. Tâm thần hôn muội là do vật bên ngoài quấy nhiễu quá nhiều. Việc ấy có ba: Danh tiếng, thế lực, lợi dưỡng. Sắc đẹp Thức ăn ngon ngọt béo bổ. Danh tiếng vẽ vang thì đối với tâm không có tội lỗi nào mà không là m. Nhan sắc tuyệt đẹp mới lấy đó mà chải chuốc thêm. Ngon ngọt béo bổ là m khổ lụy đến mọi người. Mọi việc đều do ba điều này là m cành nhánh. Thánh nhân biết mà không đoạn ba việc này thì cầu đạo không từ đâu mà đắc, không kiến lập pháp dễ đâu mà đạt được. Nếu trực nhận ba việc là gốc mê hoặc thì nên cấm tuyệt. Nhưng ba điều này đã mê hoặc thâm sâu vào lòng người, tâm trạng khó đổi, tuy có cấm ngăn nhưng việc khó thành. Thí như thuyền vừa sang sông thì mong đến bờ kia, thuyền mới sang sông không lý lại đến bờ, không thể không bị dòng nước chảy ngược, lâu lắm mới đến được bờ nên sự mong muốn nhanh chóng là khó vậy. Ngăn ba điều này tuy có phiền phức sao người lại phải tham ăn, không thể chấm dứt tính ấy. Nếu ba điều này không thể chịu được thì dùng việc ăn tối chung vào việc ăn trước ngọ, sau ngọ hoàn toàn không ăn. Do vô sự nê tâm lý được nhẹ nhàng. Mới đầu chưa chuyên, lâu rồi tự tập, lúc ấy kiểm thúc được tám chi, ngăn lòng để giữ giới . mong muốn nhan sắc thì không do danh tiếng mà đổi được. Cho nên nói: xưa kia chư Phật quá ngọ không ăn, bởi vì đỏi sự khổ lụy để mong được đạo quả. Nếu kẻ mê hoặc không ăn thực hiện theo chí hướng mê lầm thì là người không biết đường đi vậy.  <卷>QUYỂN TRUNG Lễ số- Đạo cụ- Chế thính- Úy thận- Cần giải- Tam bảo- Ân hiếu- Giới thú- Tập học. <詞>LỄ SỐ Thiên trúc cửu nghi Tây Vức ký chép: Thiên Trúc rất coi trọng về nghi thức, gồm có chín nghi: Chào hỏi Cúi đầu cung kính Cúi đầu vòng tay Chắp tay cung kính Quỳ gối Quỳ dài. Lạy xuống đất Năm vóc sát đất Năm chi của thân thể lạy gieo xuống đất. Chín cách lễ này cuối cùng là một lạy. Hiệp chưởng Giống như ở đây chấp tay vậy. Pháp Uyển chép: nếu các ngón tay khít vào nhau mà lòng bàn tay không khít là do tâm kiêu mạn và lòng tán loạn. Vậy ngón tay và lòng bàn tay phải khít vào nhau, không để trống rỗng. Vấn tấn Sách Nhó nhã gọi là thăm hỏi. Thiện kiến dạy: Tỳ-kheo đến chỗ Phật, thăm hỏi: “Thế Tôn! Có được ít bệnh, ít não, tu tập an lạc chăng?”. Luật Tăng kỳ dạy: lễ không được là m như người câm, cần phải thăm hỏi nhau. Luận Địa trì nói: nên vui vẽ nhìn bằng tâm hòa nhã chính niệm, đối diện nhau để thăm hỏi. Tăng sử lược chép: giống như Tỳ-kheo gặp nhau thì chắp tay chào hỏi là lời hỏi thăm. Theo văn trong luật người thấp hèn hỏi người tôn quý thì nói “Không biết người có được ít bệnh, ít não, đi đứng có được khinh an không?”. Nếu người trên an ủi người dưới thì nói “Không biết người có được khỏi bệnh, khỏi não, khất thực dễ được chăng, chỗ ở không có bạn ác chăng?”. Người nhỏ phải xét kỹ lời nói của mình rồi mới nói “Không biết…. những câu sau đại khái giống như trước”, cần phải hiểu rõ vái chào thăm hỏi mới thành lễ vậy. Trừu tọa cụ Ở phương Nam dùng việc kéo tọa cụ ra là m lễ, văn luật không có. Theo Tăng sử lược chép: gần thì trải tọa cụ là lễ vậy, được dùng theo luận bàn. Xưa Phạm tăng đến chỗ kia đều trải tọa cụ, chính là là m lễ. Đời sau than phiền, Tôn giả mới ngưng việc trải tọa cụ, liền tập họp và hỏi thăm, lại trải tọa cụ giống như lạy lần hai. Tôn giả lại ngưng việc ấy chỉ đem tọa cụ nghó rằng trải ra là là m lễ nên gọi là ngồi lễ. Cung kính như thế không phải là quá đơn giản lắm sao nhưng cũng tùy theo từng địa phương mà là m cho thanh tịnh, không được không là m. Lễ bái thức Thanh luận gọi là ban-na-tẩm hoặc gọi là bàn-đạm, Trung Hoa dịch là lễ. Luận Địa trì gọi là năm vóc sát đất. Kinh Trường A-hàm dạy: hai khuỷu tay, hai đầu gối và đỉnh đầu gọi là ngũ luân. Luân nghĩa là vòng trong. Năm luân cũng gọi là năm thể. Phép lễ bái thì trước tiên phải đứng đoan nghiêm, chấp tay cúi đầu, dùng tay vén y. Đầu tiên quỳ gối phải xuống đất, rồi đến gối trái, để hai khuỷu tay sát đất, để hai lòng bàn tay quá trán, rồi từ từ kính lễ, để đầu sát đất một lúc mới thành một lạy. Hoặc dùng ngón cái để vào trong, hoặc dùng lòng bàn tay úp lên mặt, hoặc ấn tay xuống đất đều chẳng phải là nghi lễ. Luận Trí Độ dạy: lễ có ba phẩm: Miệng chỉ xưng Nam Mô là lễ của hạ phẩm Quỳ gối sát đất, đầu không sát đất là lễ của trung phẩm. Năm vóc sát đất là lễ của thượng phẩm. Lại gọi cách lễ của hạ phẩm là vòng tay, trung phẩm là quỳ gối, thượng phẩm là đầu mặt sát đất. Tam bái Bạch Hổ Thông chép: sở dó người ta vái chào nhau là để biểu thị tình cảm, ý người nhỏ chào người lớn. Lạy là phục tùng. Người đời lạy hai lạy, bởi họ quan niệm theo pháp âm dương. Nay dòng họ Thích dùng ba lạy để biểu hiện ba nghiệp quy kính. Luận Trí Độ dạy: trong phép lễ bái đại khái chỉ nói về nghiệp thân, khẩu. Phật pháp dùng tâm là m gốc, dùng thân, miệng là m ngọn nên ba lạy là số của phép lễ. Khể thủ Khể thủ nghĩa là cúi đầu sát đất, cũng gọi khể là đầu sát đất, lạy xuống một lúc vậy. Đây là cách lạy đầu tiên trong chín cách lạy trong Châu lễ. Khể tảng Còn gọi là tảng ngạch nghĩa là cúi trán sát đất là cách lễ thứ năm trong Châu lễ. Đốn thủ Tức đầu cúi xuống, cong mình mà không sát đất, là cách lễ thứ hai trong Châu lễ. Bái thủ Tức lạy nằm, là cách lễ thứ ba trong Châu lễ Ấp Là cách lễ thứ chín trong Châu lễ, lại thuộc trong pháp lễ hạ phẩm. Sách ghi: vòng tay và nghiêng mình sấp xuống. Nếu thân đứng thẳng, ngẩng đầu, chấp tay lơ đãng là biểu hiện sự kiêu mạn. Cho nên Khổng Tử nói: “Là m lễ mà không cung kính ta thì lấy tư cách gì để học hỏi ta” Cung kính Trong luật Tứ phần có dạy: này các Tỳ-kheo! Các ông đã xuất gia trong giáo pháp của Ta cần phải cung kính nhau thì Phật pháp có thể được lưu truyền. Trong Tỳ Ni Mẫu, Phật dạy: sau khi Ta diệt độ, các ông phải hành trì theo giới luật, moi người phải khiêm nhường nhau để trừ bỏ kiêu mạn. Theo giới bổn dạy: Tỳ-kheo nào không cung kính, phạm tội Ba- dật- đề. Luận Địa Trì dạy: nếu gặp bậc trưỡng lão phước đức thù thắng thì phải đứng dậy đón rước, lễ bái, thưa hỏi. Nếu gặp người có đức bằng mình thì trước hết phải hỏi han, khiêm nhường, nhỏ nhẹ, không được sanh tâm kiêu mạn. Nếu gặp người phước đức kém hơn mình thì nên nhỏ nhẹ, không nên khinh thường, hoặc họ có tội cũng không được chê trách. Khiêm hạ hoạch tứ chủng công đức Trong kinh Văn Thù Phật Sát dạy: người khiêm nhường đạt được bốn công đức: Xa lìa cõi ác, không bị sanh vào loài lừa, lạc đà, trâu, ngựa…và các loại bàng sanh. Không bị người khinh chê Bạn ác, oán địch không thể xúc phạm Thường được Trời, người cung kính Trưởng ấu tự Theo thứ tự lớn nhỏ trong dòng họ Thích thì không căn cứ vào già, trẻ, sang, hèn mà căn cứ tuổi hạ nhiều hay ít. Luận Tỳ Bà Sa dạy: Tỳ- kheo thọ Đại giới là được sanh trong nhà Phật. Cho nên phải lễ người thọ giới trước mình. Trong luật Thập tụng, đức Phật dạy: từ nay trở đi, người thọ giới trước dù chỉ trong khoảnh khắc thì người ấy nên ngồi ăn ở trước… Bai kệ trong kinh Nguyệt Đăng Tam muội: Nên hỏi tuổi hạ họ Nếu là bậc kỳ túc Phải cung kính cúng dường Cúi đầu lạy sát chân. Kinh Phạm Võng dạy: nếu là đệ tử Phật thì phải như pháp mà ngồi theo thứ tự. Người thọ giới trước thì ngồi trước, không kể già, trẻ, sang, hèn, chớ như pháp của binh nô, ngoại đạo. Nếu Bồ-tát không thực hành như pháp thì phạm tội đáng quở trách. Kinh Đại Trang Nghiêm dạy: Nan Đà-em Phật có một người hầu tên là Ưu Ba Ly theo Phật xuất gia thọ giới, sau đó y pháp của Tăng theo thứ tự ngồi. Vương tử Nan Đà đến xuất gia sau theo thứ tự là m lễ đến lúc lễ Ưu Ba Ly, Nan Đà nghó “Đây là người hầu của ta, ta không nên là m lễ”. Bấy giờ, đức Phật bảo Nan Đà: “Phật pháp như biển dung chứa trăm dòng, đều đồng một vị, chỉ căn cứ vào việc thọ giới trước hay sau, không căn cứ vào sang, hèn. Bốn đại giả gọi là thân, trong ấy đều không tịch, vốn không có ngã của nên nghó về pháp của bậc Thánh, chớ sanh kiêu mạn. Bấy giờ Nan Đà bỏ tâm kiêu mạn, là m lễ. Ứng biến lễ Luật Ngũ phần dạy: có Tỳ-kheo thường trụ không lễ Tỳ-kheo khách, Tỳ-kheo khách không lễ Tỳ-kheo thường trụ. Có Tỳ-kheo đến một ngôi chùa kia, không lễ Tỳ-kheo thường trụ, Tỳ-kheo thường trụ hỏi “Ông từ đâu đến”. Nên biết hai Tỳ-kheo kia đều kiêu mạn như nhau, do đó họ bạch Phật. Đức Phật dạy: nên tùy theo đó mà ứng biến. Không là m lễ, phạm Đột-kiết-la. Trai hội lễ bái Theo Ký quy truyện chép: đại chúng theo thứ tự tụ tập nơi trai hội chấp tay tức là kính lễ, cũng không cần phải là m lễ nhau, là m lễ là trái pháp. Hỗ quî Quỳ gối là nghi của Thiên Trúc, nghĩa là hai đầu gối đều quỳ xuống đất. Cho nên dòng họ Thích đều quỳ gối phải, hoặc nói hồ quî là âm lệch vậy. Trường quî Tức quỳ hai gối sát đất, cũng trước tiên quỳ gối phải là m lễ. Trong kinh Thần Túc Vô Cực dạy: Thiên tử Nguyệt từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa y phục, quỳ gối chấp tay. Tỳ-nại-da dạy: ni chúng thân thể yếu đuối, quỳ gối phải sợ không vững nên đức Phật cho phép quỳ cả đầu gối sát đất. Thiên đản Để trống vai trái là nghi của Thiên Trúc. Phép lễ này có từ đời Tào Ngụy cho đến ngày nay. Trong luật dạy: thiên lộ hữu kiên tức là để trống vai phải vậy. Luật dạy: tất cả pháp cúng dường đều mặc y để trống vai, để tiện cho việc chấp tác. Cũng như Trọng Ni nói: phép mặc áo bày vai phải để tiện là m công việc. Nếu lúc vào xóm là ng, vào nhà người đều thường dùng ca- sa để mặc. Kiết gia phu tọa Luận Tỳ Bà Sa dạy: kiết già phu tọa nghĩa là tướng an tọa viên mãn. Thanh luận nói: dùng hai chân ngồi kiết già như tướng rồng nằm. Hiếp tôn giả gọi đó là dáng ngồi an là nh. Kinh Niệm Tụng dạy: ngồi kiết già là Như Lai ngồi. Ngồi bán già là Bồ-tát ngồi. Đại lễ Là cách lạy theo phong tục Trung Quốc truyền lại. Luật Thập tụng dạy: đệ tử đi du hành khắp nơi, Hòa thượng biết người ấy là người có Thánh tượng danh đức. Hòa thượng muốn là m lễ người kia. Người đệ tử ấy phải đứng nghiêng mình một bên nhận Hòa thượng lễ. Dòng họ Thích gặp nhau, lúc đi thì nói “xin giữ gìn sức khỏe”. Như người Trung Quốc nói “an trí”. Nói giữ gìn sức khỏe tức là bảo trọng. Nếu người nhỏ đến chỗ các bậc tôn quý mà tôn trưởng đang ngồi thọ trì kinh thì sau khi đi không nói sư giữ gìn sức khỏe, chỉ chấp tay, cúi đầu cung kính. Tàm quý Kinh Đại Vân dạy: tàm quý là y phục của mọi điều là nh. Duy thức luận dạy: tàm là nương vào pháp lực của mình, tôn trọng sự hiền thiện, tính của nó là xấu hổ với điều ác. Quý là nương vào năng lực thế gian, ngăn sự bạo ác, tính của nó là hổ thẹn với lỗi lầm. Luận A-tỳ- đạt-ma dạy: tàm nghĩa là đối với các điều ác, thể của nó là xấu hổ với mình. Nghiệp của nó chấm dứt điều ác. Quý là đối với các điều ác thì thể của nó hổ thẹn với người. Nghiệp của nó là chấm dứt điều ác. Trong kinh Tăng Nhất A-hàm, đức Phật dạy các Tỳ-kheo: có hai pháp tốt là nh ủng hộ thế gian, đó là : tàm và quý. Này các Tỳ-kheo, nếu không có hai pháp này thì ở thế gian không biết phân biệt cha mẹ, anh em, vợ con, bạn tốt, tôn trưởng, lớn nhỏ tức đồng với loài Súc sanh vậy. Tỳ-kheo nên tu tập có tàm, có quý. <詞>ĐẠO CỤ Đạo cụ Kinh Tăng Nhất A-hàm dạy: là vật che chở, nuôi thân tấn đạo, là vật tăng trưởng pháp là nh. Kinh Bồ-tát giới dạy: vật nuôi sống thuận đạo. vậy. Thập vật Kinh Âm Sớ dạy: thập là các thứ lặt vặt, chính là tất cả đồ dùng. Bách nhất vật Là từ đại khái. Luận Tát-bà-đa dạy: trăm vật đều có thể chứa một Lục vật Đó là ba y, tọa cụ, bát, đảy lọc nước. Bát Tiếng Phạm là Bát-đa-la, ở đây dịch là ứng khí, nay lược nói là bát, lại gọi là bát vu tức là gọi chung cả tiếng Hoa lẫn tiếng Phạm. Bát chính là ba căn của người, là vật nuôi thân chính yếu. Đức Phật cho phép dùng hai loại bát như sẽ chú thích ở sau Ngõa bát Đức Phật ở thôn Tôn Bà Bạch Thổ. Lúc ấy, Thiên thần Hệ Bà bạch Phật: Đức Phật quá khứ đều thọ dụng bát bằng gốm này. Đức Phật liền cho phép Tỳ-kheo thọ dụng bát gốm. Thiết bát Đức Phật trụ ở thành Vương Xá, trong lúc đi xem các phòng thì thấy một Tỳ-kheo nằm gát tay lên trán. Thế Tôn biết mà vẫn hỏi: “ông có được an lạc không?”. Đáp: “sở dó con gát tay lên trán là vì sơ ý là m bát rơi xuống đất bị vỡ nên không an lạc”. Đức Phật dạy: cho phép dùng bát thiết. Theo luật có chế cho phép dùng bát đủ lượng, văn nhiêu không phiền chép. Ngũ chuyết Luật Ngũ phần dạy: Tỳ-kheo chứa bát dưới năm đường hàn, không chảy mà cầu bát mới, vì muốn tốt đẹp, Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề. Theo Pháp uyển chép: sau khi Thế Tôn thành đạo ba mươi tám năm, Quốc vương thành Vương Xá thỉnh Ngài thọ trai xong. Thế Tôn sai La Vân rửa bát. La Vân sơ ý đánh rơi bát là m vỡ thành năm mảnh. Ngày ấy cũng có nhiều Tỳ-kheo bạch Phật họ đều là m vỡ bát thành năm mảnh. Đức Phật dạy: đây là biểu thị sau khi Ta diệt độ năm trăm năm có các Tỳ- kheo ác phân tạng luật ra thành năm bộ vậy. Đức Phật đích thân dùng thiết dán lại. Bát có năm đường nứt nên gọi là ngũ chuyết. Hàng long bát Xưa kia Phật dạy Ca Diếp thu phục rồng trong bát nên có tên gọi này. Gần đây vào năm thứ mười một niên hiệu Kiến Nguyên, Trường An bị đại hạn, cao tăng Thiệp Công dùng bùa chú thỉnh rồng mưa xuống. Chỉ trong khoảnh khắc, rồng ở trong bát của cao tăng Thiệp phun mưa xuống. Đến namthws mười sáu cao tăng Thiệp viên tịch. Vào năm thứ mười bảy, từ tháng giêng đến tháng sáu Trời không mưa, nhiều lần cầu mưa mà không thành. Kiên vị trung thư Châu Sam nói: “nếu Thiệp Công còn sống thì ta đâu phải khổ tâm đối với việc cầu mưa như vậy”. Bát khí đại tiểu số Luật Thập Tụng dạy: Bát lớn bằng đại-kiện-tư, bát nhỏ bằng tiểu- kiện-tư. Luật Tứ phần dạy: kiện-tư thuộc bát nhỏ, bát nhỏ nằm trong bát trung, bát trung nằm trong bát lớn. Bát chi Luật dạy: bát để không vững nên phải là m chân bát Bát đại Luật dạy: nên là m đãy đựng bát bằng vải màu xanh. Bát cái Luật dạy: có bụi, nên là m khăn che bát. Tích trượng Tiếng Phạm là khích-khí-la, ở đây dịch là tích trượng, do khi nhất lên thì nghe tiếng kêu của những vòng thiết. Luật Thập Tụng gọi là thanh trượng. Trong kinh Tích Trượng, đức Phật bảo các Tỳ-kheo: Các ông phải giữ gìn tích trượng. Vì sao? Vì chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai đều giữ gìn nó. Lại còn gọi là trí tích, đức tích vì đó là gốc thực hành công đức, sáng tỏ trí tuệ, là cờ biểu của Thánh nhân, là minh ký của Hiền só, là tràng phan của đạo pháp. Ca Diếp bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vì sao gọi là tích trượng? Đức Phật dạy: Tích là giản dị, nương dựa là trượng. Vì đoạn trừ phiền não, ra khỏi ba cõi nên gọi là tích minh. Vì được trí tuệ sáng suốt nên gọi là tích tỉnh. Vì tỉnh ngộ khổ, không và phiền não của ba cõi nên gọi là tích sơ. Vì người giữ gìn nó thì đoạn trừ được năm dục. Nếu ba đường sáu vòng là Phật Ca Diếp chế. Nếu bốn đường mười hai vòng là Phật Thích Ca chế. Kinh Tam Thiên Oai Nghi dạy: cầm tích trượng thì không được vào chúng, khi biết rồi thì không được cầm vào, không được mang trên vai. Ngũ Bách Vấn chép: cầm tích trượng có nhiều việc vì để báo cho thú dữ trùng độc biết. Giải hổ tích Ban đầu nhân các thiền sư ccao tăng ở nước Tề tu thiền ở núi Vương Ốc tại Hoài Châu nghe hổ đánh nhau liền đến và dùng tích trượng để ngăn ra, các con hổ đều tự bỏ đi do đó mà có tên gọi này. Phất tử Trong luật dạy: Tỳ-kheo sợ cỏ sanh trùng, Phật cho phép dùng phất trần. Luật Tăng Kỳ dạy: Phật cho phép là m phất trần bằng bông giạ và cán bằng nhánh cây. Nếu phất trần là m bằng lông đuôi mèo, trâu, ngựa và cán được trang trí vàng bạc thì không được cầm. Trần vó Theo Âm nghĩa Chỉ Quy chép: vườn lớn nuôi hươu gọi là trần, bầy hươu lấy bụi trần ấy là m chuẩn để di chuyển đến chỗ cần đến. Nay người cầm cái hình tượng ấy để chỉ huy. Ngũ Bách Vấn dạy: Tỳ-kheo cầm thì phạm tội đọa. Như ý Tiếng Phạm là a-na-luật, Tần dịch là như ý. Chỉ Quy chép: xưa gọi là tay gậy được là m bằng xương, sừng, trúc, cây giống như ngón tay người, có cán dài ba thước. Nếu ngứa lưng mà dùng tay gãi không đến thì dùng gậy để gãi đúng như ý người nên gọi là như ý. Từng nghe những vị dịch kinh tam tạng rành tiếng Phạm như đại sư Thanh Chiểu, Thông Tuệ, đại sư Vân Thắng đều nói: chế gậy như ý là biểu hiện tâm ý vậy nên Bồ-tát đều cầm nó, hình trạng như vờn mây, lại giống như chữ triện ở đây, như Bồ-tát Văn Thù cũng cầm đâu để gãi ngứa. Lại nói, nay tăng thuyết giảng thường cầm, đa số là để ghi nhớ văn từ khỏi bị quên mất. Lúc chính yếu thì tay cầm mắt nhìn như ý của người nên gọi là như ý. Như các quan cầm bản khai để phòng khỏi quên mất gọi là cái hốt vậy. Như Tề Cao tổ ban cho các ẩn só, cao tăng cầm gậy trúc, Lương Võ Đế ban cho Thái tử Chiêu Minh gậy tê giác, Vua Luân Đôn- Thạch Quý đều cầm gậy thiết, đây tức là tay gậy. Do đó mà luận bàn có hai loại như ý, tên thì đồng mà công dụng khác nhau. Thủ lô Pháp Uyển chép: Thiên nhân Huỳnh Quỳnh nói về lò hương của Phật Ca Diếp, lược nói trước có mười sáu sư tử, bạch tượng là hai loại thú đứng đầu dùng là m lò hương ở đài Liên Hoa, sau có sư tử ngồi xổm, trên đỉnh có chín con rồng có nhiều hoa vàng vấn quanh. Trong hoa có đài vàng đựng đầy hương báu. Khi Phật thuyết pháp thường xông lò hương này. So với đời nay chế ra bưng lư hương là có một chút bắt chước vậy. Sổ châu Kinh chú Mâu-lê-mạn-đà-la chép: tiếng Phạm là bát-tắc-mạc, đời Lương dịch là sổ châu. Đây chính là hướng dẫn thời khóa cho kẻ hạ căn tu tập. Kinh Mộc Hoạn Tử chép: Xưa kia có Vua Ba Lưu Lê bạch Phật: Nước con bờ cõi nhỏ hẹp, suốt năm thường bị dịch bệnh, mất mùa, nhân dân khốn khổ nên con thường bất an. Do đó, đối với kho tàng giới pháp thâm sâu của Phật chúng con không được hành trì. Xin nguyện Thế Tôn nhũ lòng thương xót ban cho chúng con pháp yếu của Ngài. Phật dạy: Nếu Đại Vương muốn diệt trừ phiền não thì xâu một trăm lẻ tám hạt mộc hoạn, thường mang theo bên mình, chí tâm xưng niệm “Nam mô Phật Đà! Nam mô Đạt Ma! Nam mô Tăng Già!” rồi lần qua một hạt, cứ niệm như thế cho đến ngàn vạn lần, có thể đến hai mươi vạn biến, thân tâm không loạn thì trừ được những điều uẩn khuất, sau khi qua đời được sanh lên cõi Trời Diệm Ma. Nếu niệm đến trăm vạn biến thì sẽ trừ được một trăm lẻ tám điều oán kết, thường được an lạc. Vua thưa: Con sẽ phụng hành. Kinh Mạn Thù Thất Lợi Giảo Lượng Sổ Châu chép: thể của sổ châu đủ loại so lường không cùng, ngay cả lần một biến hạt chuỗi thì được phước gấp ngàn lần, lần bằng hạt sen thì được phước gấp vạn lần, lần bằng thủy tinh thì được phước gấp ngàn ức lần, nếu hạt bồ đề đeo vào tay hoặc cầm thì được phước vô lượng. Phiến Ở Tây Thiên thường dùng, như trong kinh A-hàm chép: A Nan và La Vân đều cầm quạt hầu Phật. Khi Ưu Ba Ly kết tập luật tạng, Vua Ba Tư Nặc cầm quạt bằng ngà voi đứng hầu tụng luật. Xưa kia, khi cao tăng Tuệ Vinh thuyết giảng thì thường có người hầu quạt. Tùy Dương Đế ban cho cao tăng Cảnh Thoát cây quạt trúc rộng ba thước khi ngài vào cung giảng kinh, luận. Quải trượng Trong luật Thập Tụng, Phật cho phép chứa gậy. Kỳ Tán dùng thiết là m gậy bền chắc để mang hành lý. Trong Tỳ-nại-da, Phật cho phép chứa gậy quải có hai nguyên nhân: Vì người già yếu, không có sức lực Vì người bệnh khổ Tùy Dương Đế cầm gậy linh thọ tiễn thiền sư Pháp Tạng đến nước khác. Sách chép: mỗi khi cầm gậy là nhớ Vua ban. Tịnh bình Tiếng Phạm là quân-trì, ở đây dịch là bình, thường dùng chứa nước, luôn mang bên mình để rửa tay. Ký Quy truyện nói có hai loại tịnh bình. Nếu bình là m bằng đồ gốm hoặc ngói thì dùng dùng chung. Nếu bình là m bằng đồng thiết thì dùng riêng. Cái Nón có hai loại: nón tre và nón lá. Ký Quy truyện chép: Tăng só Ấn Độ đội nón tre hoặc che dù. Vào đời Lương cao tăng Huệ Thiều có người thỉnh mời thì tự cầm gậy, đội nón. Đời nay tăng só đội nón tre, hoặc nón cọ. Khi nón rách thì bỏ đi nhưng nay lại có thoa thêm dầu. Đời Đường Mã Châu đội nón cói để che mưa rất có công dụng. Giới đao Tăng Sử Lược chép: giới đao đều là đạo cụ. Theo trong luật cho phép chứa dao để cắt vải. Nay Tỳ-kheo cất dao gọi là giới. bởi vì Phật không cho phép chặt phá tất cả cỏ cây là m hoại chỗ ở của quỷ thần. Đối với cỏ cây mà còn răn dạy như vậy huống chi là đối với những người khác. Lự thủy nan Tăng Huy Ký chép: xét về túi lọc nước tuy tầm thường nhưng công dụng thì rõ rệt. Vì bảo hộ mang sống bằng tâm từ bi nên công dụng ở đây vậy. Tăng só Trung Hoa ít có thọ trì. Nay căn cứ theo luật dạy giữ sẵn để dùng khi có người hỏi đến. Căn Bản Bách nhất Yết Ma dạy: thủy la có năm loại: Phương la Pháp bình Quân trì Chúc thủy la Thủy giác la Khuôn mẫu theo Nam Sơn Sao thì văn nhiều nên không chép ra đây. Đạo cụ theo trong luật thì có rất nhiều khuôn mẫu, chẳng phải như ngày nay sử dụng nên không chú giải. Chế thính Trong luật dạy: Tỳ-kheo Bạt Nan Đà che dù lớn mà đi, cư só trông thấy từ xa tưởng là quan nhân nên đều tránh đường, đến gần hóa ra là Tỳ-kheo. Họ liền cơ hiềm. Do đó mà Phật chế giới, không được che dù lớn, trừ lúc Trời mưa. Họa phòng bích Luật Tăng kỳ dạy: Tỳ-kheo là m phòng ở, muốn vẽ tranh. Đức Phật cho phép vẽ tranh thuộc về núi, rừng, người, ngựa, không được vẽ hình nam nữ hòa hợp. Xưa kia, Cảnh Lục Văn Tuyên Vương- Nam Tề treo tranh vẽ về các bậc Hiền nhân ở phòng đọc sách, giữa phòng thì treo tranh vẽ về cô gái. Lúc ấy, có người khách nói: “Vua vẽ cô gái giống như háo sắc, không mến đức vậy”. Văn Tuyên liền tháo bỏ và tạ ơn. Nhà Vua ở đời mà còn như thế đấy. Huyền hương Trong luật Tứ Phần dạy: phòng Tỳ-kheo có mùi hôi, đức Phật cho phép dùng bùn để trét. Nếu có mùi hôi, Phật dạy nên treo hương thơm ở bốn góc. Xuất nhập mễ Luật Tăng kỳ dạy: Tỳ-kheo chứa lúa gạo nên nghó: “Ta nhờ vào nó mà được tụng kinh, tọa thiền, hành đạo. Gặp lúc lúa gạo khan hiếm, nếu chứa nhiều quá thì nên xuất ra để là m công đức. Tài thọ Tỳ Ni Mẫu dạy: nếu Tỳ-kheo vì việc Tam bảo nên trồng ba loại cây để lấy: quả, hoa, lá mà dùng thì chỉ có phước, không có lỗi. Dưỡng cẩu Luật Nhiếp Tát-bà-đa dạy: trong chùa lớn vì việc phòng hộ nên cho phép nuôi chó, phải biết pháp mà là m. Nếu chó bới đất tháp và phòng chùa thì nên san bằng lại. Nếu đái, ỉa lung tung thì không được nuôi, không là m như thế thì mắc tội ác tác. Nghiêm sức sàng nhục Theo trong luật thì Tỳ-kheo Nan Đà trang trí giường, nệm nên bị người cơ hiềm: “Ở đây quá lộng lẫy không phải là nơi thích hợp cho Tỳ-kheo”. Do đó, Phật chế giới, không được trang trí giường, nệm quá lượng. Dụng ngoại thư trị Phật kinh Trong luật Tứ Phần, Tỳ-kheo Dõng Mãnh bạch Phật: “Con muốn dùng ngôn luận thế gian để tu sửa kinh Phật”. Đức Phật dạy: “Người ngu đem ngôn luận ngoại đạo xen tạp vào kinh Phật, chính là hủy phá vậy”. Đái số xuyến Luật Thập Tụng dạy: Tỳ-kheo mang đồ trang sức, phạm tội Đột- cát-la. Thâu thuế Luật Thập Tụng dạy: Tỳ-kheo qua cửa ải thuế, vật phải đóng thuế mà không đóng thuế, hoặc đem vật để trốn thuế cho khách buôn, hoặc bảo người trốn thuế, là m mất tiền của quan thuế trị giá năm quan tiền, phạm Ba-dật-đề. Khán đấu Luật Tăng Kỳ dạy: Tỳ-kheo xem voi, trâu, ngựa, gà.v.v.đánh nhau và xem người tranh cải thì mắc tội Việt pháp. Chiếu kính Luật Tăng kỳ dạy: nếu bệnh mới là nh, mới cạo tóc, hoặc trên đầu, trên mặt có mụt nhọt thì soi gương không mắc tội. Nếu vì muốn đẹp mà soi gương thì mắc tội Việt tỳ ni. Ca Giống như điệu hát ngày nay. Trong luật dạy: hát có năm lỗi: Là m cho tâm tham đắm. Khiến cho người khác đắm trước. Nơi vắng vẻ sanh nhiều giác quán Thường bị tham dục che tâm Khiến cho những người trẻ tuổi nghe thì sanh khởi ái dục trái đạo. Ẩm tửu Trong luật dạy: Rượu có hai loại: Do lúc là m ra Do gốc, trái cây là m nên. Trong kinh Niết bàn dạy: rượu là gốc của các pháp ác bất thiện. Nếu dứt bỏ rượu thì xa lìa mọi tội lỗi. Trong luận Thành Thật hỏi: Rượu là kết quả của tội lỗi chăng? Đáp: Không phải. Vì sao? Vì uống rượu là m não loạn chúng sanh nên chính nó là nhân của tội lỗi. Người nào uống rượu là mở cửa bất thiện, là m chướng ngại định và các thiện pháp, như trồng cây không có bờ tường ngăn ngại nên việc uống rượu cũng như vậy. Luật Tứ phần dạy: uống rượu có mười lỗi: Nhan sắc xấu Sức yếu Mắt nhìn không rõ Hiện tướng sân Phá hoại sản nghiệp Tăng thêm bệnh tật Thêm việc tranh cải Tiếng xấu lan truyền Trí tuệ giảm dần Khi qua đời thì sanh vào ba đường ác. Kinh Sa Di giới chép có ba mươi sáu lỗi về rượu: phá nhà, nguy thân, bỏ đạo, mất mạng đều do nơi rượu. Pháp uyển chép: nay có người uống rượu mà không say, không mất thần sắc, cũng không tạo tội. Uống như vậy có tội không? Đáp: chế giới là phòng tội lỗi để sanh sự tốt đẹp. Giới là là m cho thân, miệng đoan chính không trái với duyên giá giới, giá tính nên gọi giới là thiện. Nay người có khả năng uống rượu tuy không rối loạn tinh thần, chưa phá các giới khác nhưng uống rượu là nhân tội lỗi. Chính là trái với trong duyên giá giới nên phạm, mới gọi là có tội. Thực nhục Trong kinh Lăng Già, Bồ-tát Đại Tuệ bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn nói về lỗi ăn thịt? Đức Phật dạy: có vô lượng nhân duyên không nên ăn thịt. Nay Ta vì ông mà lược nói. Tất cả chúng sinh từ xưa đến nay, xoay vần luân chuyển đều là bà con quyến thuộc, đều do khí huyết bất tịnh mà sanh ra. chúng sinh nghe ác khí đều sanh sợ hãi, còn người tu hành do có tâm từ nên không sợ hãi. Vì phàm phu tham mùi vị đắm nên gọi là bất thiện, còn chư Thiên thì xả bỏ. Trong luật dạy: người ăn thịt thì đoạn mất hạt giống từ bi. Các loài ở dưới nước, trên đất liền hay ở không trung mà có mạng sống đều thù oán họ. Trong Pháp Uyển hỏi: rượu là thuốc điều hòa thần khí, thịt là món ăn ngon là m thêm sung sức, xưa nay đều thích dùng, đâu chỉ riêng một mình hạng thô lậu dùng? Giống như Vua ban rượu thịt thì đâu có lỗi gì? Đáp: rượu do gạo là m ra. Rượu có thể là m loạn tinh thần, phóng túng khi giao tiếp nên phải nghiêm cấm, tuy trái lệnh Vua nhưng thuận tâm Phật. Thực tân Kinh Lăng Già dạy: tất cả hành, hẹ, ném, tỏi đều có mùi hôi bất tịnh là m chướng ngại Thánh đạo, cũng chướng ngại nơi thanh tịnh ở thế gian, huống nữa là đất Phật thanh tịnh. Kinh Niết bàn dạy: chính việc ăn hành, hẹ, ném, tỏi nên thường sanh nơi đau khổ. Kinh Lăng Già dạy: năm thứ cay nồng này ăn chín thì phát dâm, ăn sống thì tăng thêm sân giận. Do đó ở thế gian, những người ăn các thứ cay nồng mà tuyên đọc mười hai bộ kinh thì Trời người trong mười phương đều cơ hiềm sợ ô uế ấy, hoặc họ lánh xa, còn các Ngạ quỷ nhân đó lại ăn, liếm môi mép họ. Người ấy thường ở với quỷ, phước ngày một tiêu, suốt đời không được lợi ích. Xả thân Trong kinh Thập Trụ Đoạn Kết, đức Phật dạy: vô số kiếp về thời quá khứ có một nước lớn tên là Bùi Phiến Xà, có cô Đề Vị góa chồng, giàu có mà không con. Lúc ấy, có Bà-la-môn nói: “Sự khốn ách của thân ngày nay là do tội lỗi đời trước của ngươi. Nếu nay người không biết tu phước để diệt tội thì sau này sẽ đọa Địa ngục, dù có ăn năn cũng không kịp”. Đề Vị hỏi: “Con phải là m phước gì để diệt tội?”. Bà-la- môn nói: “Đem củi chất đống để thiêu thân”. Đề Vị nghe theo chất củi lại, đạo nhân Bát Để (Biện Tài) hỏi: “Cô bày củi lửa muốn là m gì vậy?”. Cô ta đáp: “Muốn thiêu thân để diệt tội”. Biện Tài nói: “Tội nghiệp thân trước Đọa do tinh thần Không hợp với thân Nếu tự thiêu mình Sao diệt tội được Với khổ não này Cầu quả thiện chăng? Theo lý chẳng thông Như bò chán xe Mong cho xe hư Xe trước đã hoại Sẽ có xe sau Giá như thiêu hoại Trăm ngàn vạn thân Nhân duyên tội nghiệp Xoay vần không mất.” Theo trong luật, khuyên người chết, phạm tội Ba-la-di Dục Luật Tứ Phần dạy: cho phép thường tắm rửa để sanh pháp là nh. Tỳ Ni Mẫu dạy: Tắm rửa chỉ trừ thân bệnh nóng để được an ổn hành đạo. Tắm có năm lợi ích: Trừ cáu bẩn Thay đổi lớp da bên ngoài Diệt sự nóng bức Ít bệnh Trong kinh Ôn Thất, đức Phật vì thầy thuốc Kỳ Vực nói về việc tắm rửa của tăng cần dùng bảy vật: Đốt lửa Nước sạch Bột tắm Dầu cao Tro Tăm xỉa răng Nội y Tắm trừ được bảy bệnh: Tứ đại an ổn Trừ trúng gió Trừ tê liệt Trừ bệnh thương hàn Trừ bệnh sốt Trừ cáu bẩn Thân thể nhẹ nhàng, mắt sáng tỏ Tắm có được bảy phước: Tứ đại không bệnh, sống an lạc Sống thanh tịnh, nhan sắc đoan nghiêm Thân thể thơm mát, y phục sạch sẽ Da thịt mềm mại, hồng hào Bụi bặm không còn Răng miệng thơm tho, lời nói nghiêm nghị Sanh ra tự nhiên có được y phục Luật dạy: Tỳ-kheo vào phòng tắm phải nhất tâm, nói nhỏ, giữ gìn oai nghi, thâu nhiếp các căn. <詞>ÚY THẬN Úy thận Trong kinh Tạp A-hàm, đức Phật bảo các Tỳ-kheo, thường phải cung kính, thường luôn nhiếp tâm, thường cẩn thận. Vì sao? Nếu Tỳ- kheo không cung kính, không nhiếp tâm, không cản thận mà mong được đầy đủ oai nghi thì việc ấy không xãy ra. Không đầy đủ oai nghi mà muốn học pháp được viên mãn thì việc ấy không thể xãy ra. Học pháp không hoàn mãn mà muốn đầy đủ năm phần pháp thân thì việc ấy không thể xãy ra, năm phần pháp chưa đầy đủ mà muốn đạt được Vô dư Niết bàn thì việc ấy không thể xãy ra. Do đó Tỳ-kheo phải siêng học, cung kính, nhiếp tâm, cẩn thận. Hộ tích phù nan Kinh Niết bàn dạy: Có một người qua biển vứt bỏ phao nỗi, có một Bà-la-môn cũng qua biển nên xin phao nỗi ấy, người kia liền cho nên không qua biển được. Đây là dụ cho người trì giới, giữ gìn giới pháp cẩn thận như người qua biển có phao nỗi, không bị một chút rỉ chảy mới qua biển sanh tử. Hủy phá đức bình Lại gọi là bình cát tường. Luận Trí Độ dạy: giống như có người sợ nghèo nên cúng dường chư Thiên để cầu phước. Đủ hai mươi năm, chư Thiên thương xót lòng chí thành nên ban cho người kia một cái bình và bảo: “Đây là bình công đức. Nếu có cần điều gì thì bình tự đưa ra”. Người ấy lâu nay nghèo hèn bỗng nhiên giàu có. Mọi người đều lấy là m lạ hỏi, người ấy liền lấy bình chỉ cho mọi người thấy các vật từ trong bình xuất ra. Mọi người tranh nhau lấy bình nên đã là m vỡ, các vật đều biến mất. Đây là dụ cho người trì giới nên được sanh lên cõi Trời, được hưởng sự an lạc tự nhiên. Còn người phóng dật buông lung thì như bình bị vỡ, mất hết tất cả. Thị mãi họa mẫu Kinh Tạp Thí Dụ dạy: Có một nước kia lúa gạo dư dật, binh giỏi, không có tai dịch, nhân chúng luôn sống an lạc, nhà Vua liền hỏi quần thần: “Trẫm nghe các nước xung quanh có tai họa như thế nào?”. Đáp: “Thần cũng chưa rõ”. Vua liền sai người đi tìm hiểu xem. Quan thần đi dò la tin tức. Lúc ấy, Thiên Thần hóa là m một vật giống con heo bán ở trong chợ. Quan thần hỏi tên? Đáp: “Mẹ của tai họa. Họa của bốn phương đều do ta sanh ra”. Quan thần hỏi ăn gì? Đáp: “Ngày ăn một thăng kim châm”. Quan thần liền mua về dâng lên Vua. Nhà Vua liền ra lệnh nuôi dưỡng. Khi heo ăn hết kim của nhà nước, liền lấy của dân. Dân chúng không có đủ để nộp nên phải lánh sang nước khác. Một vị thần có trí xin giết, liền đâm chặt mà nó chẳng bị tổn thương; bèn đem đốt thân cháy hực như lửa, nó liền bay lên vào thành, là m cháy rụi tất cả. Mua mẹ của tai họa phải chịu đến nỗi như vậy. Dụ cho Tỳ-kheo không hộ trì giới, bị lửa dục thiêu đốt nên thân danh đều mất. Miêu thôn thử tử Trong kinh dạy: xưa kia có một con mèo há miệng rình bắt con chuột. Chuột vừa ra khỏi hang, mèo liền nuốt chửng nó. Chuột vào sống trong bụng lại ăn lục phủ, ngũ tạng mèo. Mèo đau đớn, mê muội, cuồng loạn cho đến lúc chết. Đây là dụ Tỳ-kheo nương tựa xóm là ng, không hộ căn môn, bị dục là m hại tâm, mê muội, cuồng loạn, không thích ở tinh xá, xả giới, hoàn tục cho đến lúc chết. Miên lý thiết hoàn Trong kinh, Phật hỏi: Thí như hòn sắc cháy đỏ dùng bông quấn bên ngoài thì bông ấy có mau cháy không? Tỳ-kheo bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Bông cháy rất nhanh. Đức Phật dạy: Người ngu si nương theo xóm là ng ở, không biết hộ trì giới, tâm không chính niệm, bị lửa dục thiêu đốt, xả giới hoàn tục. Cho nên, các ông phải hộ trì các căn. Nhật dụng bổn xử Kinh Tạp A-hàm dạy: thí như cây chày hằng ngày giã không dừng mà không biết nó bị mòn dần. Cũng vậy, Tỳ-kheo từ xưa đến nay không giữ gìn căn môn, không siêng tu tập pháp là nh, cầu giác ngộ. Nên biết hạng người ấy ngày một bị tổn giảm. Tiểu ngư vong giáo Kinh Đại Ngư Sự dạy: xưa kia có nhiều cá sống trong ao. Lúc ấy, cá lớn bảo đàn cá nhỏ: “Các con chớ đi đến chỗ khác sẽ bị người ta bắt mất. Bấy giờ, đàn cá nhỏ quên mất lời dặn liền đến nơi khác sắp bị lưới giăng bắt vội quay trở về. Cá lớn hỏi: “Các con thấy gì?”. Cá nhỏ nói: “Chỉ thấy lưới ràng rịt dày đặc”. Cá lớn nói: “Ông cha ta đều bị chết vì lưới ấy. Các con phải cẩn thận chớ đến đó nữa”. Sau đó, cá nhỏ quên mất lời dặn lại đến nên đều bị bắt sạch. Đây là dụ Tỳ-kheo không nghe theo lời dạy tốt nên gặp phải tai họa. Dã can cự gián Luật Tăng Kỳ dạy: Quá khứ có một Bà-la-môn đào giếng ở đồng trống để giúp ích cho người đi đường. Đến tối có một bầy dã can đến giéng uống nước. Dã can chúa liền dùng đầu múc nước trong lọ uống xong đội nó lên cao, đập vỡ rồi bỏ đi. Bầy dã can khuyên chủ: “Như cây lá có thể dùng còn phải thương tiếc. Huống chi đây là vật giúp ích, sao lại nỡ lòng hoại đi”. Dã can chúa nói: “Ta chỉ biết vui đùa thôi. Tổn hại đã sao”. Người cúng thí rất giận liền là m bình bằng máy, đầu vào được mà không ra được đem đặt bên giếng và cầm cây núp ở chỗ khuất. Đến tối, quả nhiên chúng lại đến vui chơi như trước, chui đầu vào bình, muốn đánh vỡ bình nhưng không thoát được. Khi ấy Bà-la-môn cầm gậy đánh chết dã can. Trên hư không có vị thần nói kệ: Bạn tốt từ tâm khuyên Ngang ngược không nghe lời Càn bướng chuốc lấy họa Là m mất thân mạng mình. Cửu hoạnh Trong kinh Cửu hoạnh, đức Phật bảo các Tỳ-kheo: mạng sống chưa hết mà bị chết oan: Vật không nên ăn mà ăn Ăn không có tiết độ Thức ăn không biết đến mà ăn Thức ăn chưa tiêu hóa mà ngồi ăn lại Nín đại tiểu tiện để ăn Không trì giới Gần bạn ác Vào thôn xóm không đúng lúc Đáng tránh mà không tránh Nhập tục xá ngũ pháp Trong luật dạy: có năm pháp vào nhà thế tục: Vào cửa nói nhỏ Nhiếp hộ thân, miệng, ý Cúi mình Khéo giữ gìn các căn Đầy đủ oai nghi, khiến họ sanh căn là nh. Bài kệ trong kinh Hoa Thủ: Tỳ-kheo vào nhà người Không ôm lòng kiêu mạn Tâm tự đại, tự cao Nếu có thì phải diệt Nên bằng tâm từ mẫn Không tham, không mong cầu Rộng thuyết pháp lợi ích Tịnh hạnh nơi thế gian Xả ngũ san Keo kiệt về tài vật Keo kiệt về giáo pháp Keo kiệt về môn đồ Keo kiệt về chỗ ở Keo kiệt về sự tán thán Trừ tam ác Trong kinh Đại Pháp Cự Đà-la-ni, đức Phật dạy: thân người khó được, tuy được thân rồi lại phải chết yểu. Lại có ba điều ác: Tâm tính tồi tệ, không nghe theo lời hay Thường ganh ghét, keo kiệt, sợ người ta hơn mình Nếu có người hơn mình thì hổ thẹn không hỏi Tức tam bạo hại Luật Tăng Kỳ gọi là thân bạo ngược. Tỳ-kheo vào nhà người dắt trẻ nhỏ, đánh, đập, lôi, kéo, phá hoại đồ vật, chặt chân bò, cắt tai dê, đem lúa, gạo, đậu, mè trộn lẫn vào nhau, nếu trong ruộng cần nước liền phá bờ cho nước chảy ra. Người không cần đến lại đục tường chui vào, miệng nói lời thô bạo. Đến chỗ Vua, quan thì nịnh bợ để dèm pha người lương thiện. Thân, miệng bạo ác, núp ở chỗ khuất là m tiếng quái lạ để khủng bố mọi người. Chiêu khinh tiện tam pháp Bài kệ trong luật Tỳ Nại Da: Rãnh không lại nhiều lời Thân mặc y rách rưới Không mời, đến nhà người Ba việc bị người khinh Đắc nhân bất khả ái hữu thập pháp Luật Tăng kỳ dạy có mười điều người ta không thích ý: Không thích hợp mà gần gũi Khinh tiện mà gần gũi Vì lợi mà gần gũi Người kia thích mà mình không thích Người kia không thích mà mình thích Nói rõ mà không biết ghi nhận Thích xen vào việc của người khác Thật không có đức mà muốn người cung kính Thích nói chuyện riêng với người ở chỗ khuất. Nhiều sự mong cầu Mười pháp này là m cho người không thích. Bát giới Kinh Phân Biệt Thiện Ác Sở Khởi dạy: truyền bá lưu thông răn dạy cùng khắp, tin tưởng thọ trì răn dạy kẻ ủng tệ, dõng mãnh quả quyết răn dạy kẻ bạo loạn, nhân ái lương thiện răn dạy kẻ không quyết đoán, quảng đại bao dung răn dạy kẻ hồ nghi, thanh tịnh an nhàn răn dạy đời sau, nghiêm khắc chính yếu răn dạy kẻ trôi nỗi, dùng lời nhiều người răn dạy kẻ không thật. Thành tựu oai nghi tứ pháp Kinh Thập Trụ Đoạn Kết dạy: có bốn pháp thành tựu oai nghi: Không nhiễm ba cõi, biết đó là khổ Ta với người khác đều có sự khổ, vui như nhau Thường hành nhẫn nhục Lớn thì không khinh mạn, nhỏ thì không hổ thẹn Thọ thí tri tiết lượng Trong luận Trí Độ đức Phật dạy: hàng cư só cúng dường sự ăn mặc thì phải nên biết đủ, chớ khiến cho họ phải bần cùng thì họ mới hoan hỷ, không mất tín tâm và người nhận cũng không bị thiếu thốn. Tứ thánh chủng Luận Câu Xá dạy có bốn Thánh chủng: Tùy theo chỗ ở mà được y phục Tùy theo chỗ ở mà được thức ăn Tùy theo chỗ ở mà được mền, nệm đầy đủ như ý Ưa tu tập đoạn phiền não Người xuất gia có hai nhân duyên nên gọi là Thánh chủng: Tâm an lạc Thọ dụng đầy đủ Bốn loại này thường sanh ra thiện vô lậu nên gọi là Thánh chủng. Lại nữa, đức Phật gọi là bốn Thánh bảo tạng hay khiến người an trú được mãn nguyện. Kinh Bản Sanh Tâm Địa Quán gọi là bốn tính không cấu nhiễm, nghĩa là Tỳ-kheo đối với y phục, thức ăn, thuốc men, đồ nằm tùy theo sự thọ dùng thích hợp với tâm ý, xa lìa sự tham cầu. Vì ba mươi bảy phẩm trợ đạo đều từ đây mà sanh ra Cảnh giới Trong Lục Độ Tập kinh, đức Phật nhân nơi tâm địa mà dạy người nghèo: Ta thà giữ đạo nghèo mà chết, chứ không sống phú quýù mà vô đạo. Trong Tả truyện, Trịnh Tử Trương nói: Sống là ở chỗ kính giới chứ không phải ở chỗ giàu có. Quân tử nói: hãy khéo giữ giới! <詞>CẦN GIẢI Cần nghĩa chính cần có bốn là bốn loại tinh tấn. Hai pháp bất thiện và hai pháp thiện. nghĩa là pháp bất thiện đã sanh thì khiến cho đoạn diệt. Pháp bất thiện chưa sanh thì là m cho không sanh. Pháp thiện chưa sanh thì khiến cho sanh khởi. Pháp thiện đã sanh thì là m cho tăng trưởng. Luận Trí Độ gọi là bốn loại tâm tinh tấn: dõng, phát, cần, úy. Vì nhầm lẫn nên chính cần. Thuận chính Lý luận dạy: từ vô thỉ đến nay sở dó không thể thấy được bốn Thánh đế đều do giải đãi nên phải siêng năng đối trị, khiến ưa nghe pháp, tư duy đúng lý về bốn Thánh đế, mau chứng Bồ-đề. Tinh tấn Tức pháp thứ mười một trong mười một pháp thiện của tâm sở. Luận Duy Thức dạy: tính của tinh tấn là dõng mãnh. Sớ chép: dõng mãnh mà không khiếp nhược, tức tự sách tấn vậy. Mạnh mẽ mà không lo sợ tức không ngại sự nhọc nhằn. Kinh Tăng Già Trá dạy: Muốn cầu Niết bàn phải nên tinh tấn. Bài tựa trong luật Thập Tụng dạy: Các Đại đức vì mong cầu đạo giải thoát thì phải nên nhất tâm tinh tấn. Vì sao? Chư Phật do nhất tâm tinh tấn mà chứng đắc Bồ-đề, huống chi là các pháp là nh khác. Luận Trí Độ dạy: có hai sự tinh tấn: Thân tinh tấn là nhỏ hẹp. Tâm tinh tấn là rộng lớn. Đức Phật dạy: ý nghiệp là rộng lớn vậy Giải đãi Kinh Bồ-tát Bản Hạnh dạy: giải đãi thì các hạnh đều bi lụy. Tại gia giải đãi thì ăn mặc không đủ, tài sản thiếu hụt. Xuất gia giải đãi thì không thể ra khỏi khổ sanh tử. Thích Luận chép: xuất gia lười biếng thì mất hết pháp bảo. Phóng dật Kinh chính Pháp Niệm Xứ dạy: tội lỗi phóng dật là lớn nhất trong các tội lỗi. Kệ viết: Ngu si thích buông lung Thường chịu các khổ não Nếu người lìa buông lung Thì thường được an lạc Tất cả các cây khổ Buông lung là cội gốc Cho nên muốn lìa khổ Cần phải bỏ buông lung Hành đúng chính pháp Xa lìa buông lung Thì đóng bít hết Các cửa đường ác. Ma Luận Trí Độ dạy: tiếng Phạm là ma-la, Tần dịch là đoạt mạng. Kinh Ma Nghịch dạy: Phu nhân Đại Quang thưa Bồ-tát Văn Thù: Những loài ma trụ ở nơi nào? Văn Thù nói: trụ nơi tinh tấn Hỏi: vì sao trụ nơi tinh tấn? Văn Thù nói: người tinh tấn mới bị ma đến quấy nhiễu, còn kẻ biếng nhác thì ma đến là m gì? Luận Du Già dạy: Ma nghĩa là đối với lợi dưỡng, cung kính, danh tiếng thì tâm muốn thâu vào. Hoặc là phóng dật, keo kiệt, tham dục, không biết đủ, phẩn hận, phú não, kiêu mạn, dối trá.v.v. đều là ma. <詞>TAM BẢO Tam bảo Là Phật, Pháp, Tăng. Luận Bảo tính dạy: nương vào sáu pháp tương tợ kia đối trị nên gọi Phật, Pháp, Tăng là bảo. Thế gian nạn đắc tương tợ: do các chúng sinh không có căn là nh nên trăm ngàn vạn kiếp không thể thành tựu. Vô cấu tương tợ: vì lìa tất cả các pháp hữu lậu Oai đức tương tợ: do đầy đủ sáu pháp thần thông, bất khả tư nghì, oai đức tự tại. Trang nghiêm tương tợ: do có khả năng trang nghiêm xuất thế gian. động. Thắng diệu tương tợ: do xuất thế gian Bất khả cải dị tương tợ: do pháp vô lậu đối với tám pháp không Kệ viết: Báu hy hữu ở đời Minh tịnh và thế lực Hay trang nghiêm thế gian Tối thượng và bất biến Đồng thể Tam bảo nghĩa là đối với nhất chân như, gồm có ba: Chân như thị giác tính là Phật bảo. Chân như hữu chấp trì nghĩa là Pháp bảo Chân như hữu hòa hợp nghĩa là Tăng bảo Biệt thể Tam bảo Ở đây có hai tông: Theo thuyết của Tiểu thừa: thân vàng trượng sáu là Phật bảo. Giáo lý về Bốn đế, Mười hai nhân duyên, Sanh, Không là Pháp bảo. Bốn quả Duyên Giác là Tăng bảo. Theo thuyết của Đại thừa: ba thân của Như Lai là Phật bảo. Giáo lý về Nhị không là Pháp bảo. Ba Hiền, mười Thánh là Tăng bảo. Tam bảo Hình tượng khắc chạm là Phật bảo. Văn nghĩa ba tạng là Tăng bảo. Cạo tóc mặc áo nhuộm là Tăng bảo. Phật bảo Tiếng Phạm là Phật-đà, hoặc gọi là Phù-đồ, hay Bộ-đa, Mẫu-đà, Một-đà. Năm cách gọi này đều là âm tiếng Phạm ở Thiên Trúc, được dịch là giác. nghĩa là tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn. Nay lược gọi là Phật. Luận Bát Nhã Đăng dạy: thế nào là Phật? Vì đối với tất cả các pháp liễu ngộ chân thật không điên đảo nên gọi là Phật. Trong không thể pháp liễu ngộ tất cả các pháp bình đẳng nên gọi là Phật. Kinh Bồ-tát Bản Hạnh dạy: Phật là đoạn sạch tất cả ác, tâïp hợp tất cả thiện, không có cấu nhiễm, các dục đều diệt, sáu Ba-la-mật đều được viên mãn, dùng phương tiện khéo léo tùy thời giáo hóa, có đại thần thông , thân sắc vàng tía, đủ ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp,thấu triệt lục thông, biết trước vô cùng, thấy kiếp vô cực, hiện tại không gì mà không tỏ rõ, đầy đủ các đức như vậy nên hiệu là Phật. Nhất thân Chỉ có Pháp thân là thể y cứ các nghĩa nên gọi là thân. Nhiếp luận dạy: vì Ứng Hóa thân và tất cả công đức của Như Lai y cứ vào nên gọi là Pháp thân Nhị thân Luận Phật Địa dạy có hai thân: Pháp thân: tức tự thọ dụng thân của Phật Sanh thân: tức tha thọ dụng thân và Hóa thân của Phật. Nhiếp luận dạy: Như Lai có hai thân: Tự tính đắc thân là Pháp thân Nhân công đắc thân là hai thân Ứng, Hóa. Tam thân Pháp thân thanh tịnh: theo Duy Thức luận dạy nghĩa là chư Như Lai thọ dụng pháp giới chân tịnh, lấy sự biến hóa bình đẳng là m chỗ y cứ, lìa tướng vắng lặng, dứt hẳn pháp hý luận, đầy đủ vô biên công đức chân thường. Thật tính bình đẳng của tất cả các pháp này là tự tính, cũng gọi là Pháp thân là chỗ y chỉ cho mọi công đức. Báo thân viên mãn: theo trong luận gồm có hai loại: Tự thọ dụng thân: nghĩa là chư Như Lai trong ba vô số kiếp tu tập vô lượng phước đức để là m tư lương, đã là m vô biên công đức chân thật và viên mãn thanh tịnh thường biến, sắc thân tương tục vắng lặng, đến tận kiếp vị lai thường tự thọ dụng pháp lạc quảng đại. Tha thọ dụng thân: nghĩa là chư Như Lai nhờ trí bình đẳng nên thị hiện thân công đức thanh tịnh vi diệu, ở chỗ Tịnh độ. Bồ-tát Thập địa hiện đại thần thông, chuyển bánh xe chính pháp dứt mọi nghi hoặc cho chúng sinh, khiến họ thọ dụng pháp lạc của Đại thừa, gọi là Báo thân. Biến hóa thân: nghĩa là chư Như Lai do trí thành tựu, biến hiện vô lượng tùy loại hóa thân, ở chỗ tịnh uế. Vì Bồ-tát Đăng địa ở vị lai và chúng sinh nhị thừa, hợp với căn cơ để hiện thàn thông thuyết pháp khiến cho họ đều được lợi lạc. Lại nữa giác tính tức là Pháp thân, do lấy vô tướng là m tướng. Giác tướng là Báo thân, do dùng bốn trí là m thể. Giác dụng là Hóa thân, tức tùy loại mà biến hóa, hình dáng lớn nhỏ không đồng. Theo luận Trang Nghiêm dạy: nên biết ba thân này bao gồm tất cả thân Phật, thị hiện tất cả pháp tự lợi, lợi tha. Tứ thân Kinh Lăng Già dạy có bốn thân: Ứng thân Phật, Công đức thân Phật, Trí tuệ thân Phật, Như như thân Phật. Ngũ thân Kinh Bồ-tát Anh Lạc dạy có năm thân: Như như trí pháp thân Công đức pháp thân Tự pháp thân Biến hóa pháp thân Hư không pháp thân. Thập thân Kinh Hoa Nghiêm dạy có mười thân: Vô trước thân Phật Nguyện thân Phật Nghiệp báo thân Phật thân Phật Niết bàn thân Phật Pháp giới thân Phật Tâm thân Phật Tam muội thân Phật tính thân Phật Như ý thân Phật Các thân trên không đồng mà không cũng ngoài ba thân. Ba thân không đồng mà không lìa một thân nên thân Phật đều viên mãn. Thập hiệu Kinh Bồ-tát Trì Địa dạy: Như Lai có mười danh xưng về công đức, nghĩa là đúng như thuyết nên gọi Như Lai. Đắc nhất thiết nghĩa Vô thượng phước điền, đáng được cúng dường nên gọi là Ứng. Đúng như Đệ nhất nghĩa mà khai ngộ gọi là chính Giác. Đầy đủ pháp chỉ, quán nên gọi là Minh Hạnh Túc. Vượt lên bậc nhất, hoàn toàn không quay trở lại nên gọi là Thiện Thệ. Hiểu đúng về thế giới và chúng sanh giới, tất cả các phiền não và thanh tịnh nên gọi là Thế Gian Giải. Điều phục tâm trí thiện xảo bậc nhất, là bậc đại trượng phu của tất cả thế gian nên gọi là Vô Thượng Só Điều Ngự Trượng Phu. Vì có bốn loại trí chân thật hiểu nghĩa pháp chân thật, vì hiển thị bất liễu nghĩa, vì nương vào nhất thiết nghĩa, vì đoạn tất cả nghi hoặc, hiển thị sự thanh tịnh sâu xa, vì là m bậc thầy của tất cả các pháp nên gọi là Thiên Nhân Sư. Đầy đủ ba tụ, bình đẳng khai ngộ cho tất cả chúng sinh nên gọi là Phật. Hoại tất cả quân ma nên gọi là Thế Tôn. Lục đức Tiếng Phạm là Bà –già-bà, hoặc gọi là Bạc-già-phạm. Ở đây thì đủ sáu nghĩa: Tự tại Xí thạnh Đoan nghiêm Danh xưng Cát tường Tôn quý. Thân Quang Bồ-tát tạo Phật Địa luận thích dạy: vì Như Lai hoàn toàn không bị lệ thuộc vào các phiền não nên có nghĩa tự tại; vì lửa trí dõng mãnh được tôi luyện nên có nghĩa xí thạnh; vì đủ ba mươi hai tướng tốt để trang nghiêm thân nên có nghĩa đoan nghiêm; vì tất cả công đức thù thắng viên mãn, thông suốt tất cả nên có nghĩa danh xưng; vì được tất cả thế gian gần gũi cúng dường, hoặc xưng tán nên có nghĩa cát tường; vì đủ phước đức thường dùng phương tiện là m lợi ích, an lạc cho tất cả chúng sinh mà không phế bỏ nên có nghĩa tôn quý. A-nậu- đa- la Tam- miệu Tam Bồ-đề Ở đây dịch là Vô Thượng chính Biến Tri Thích Ca Mâu ni Luận Trí Độ dạy: Tần dịch là Năng nhân tịch mặc. Thiên trung thiên Là một danh xưng của Phật. Trong kinh Bổn Hạnh, Vua Tịnh Phạn nói: sau khi sanh Thái tử thì các việc đều thành tựu, xứng đáng với tên Tát-bà-át-tha-tất-đà(Tất Đạt Đa). Lại nữa, những người thích danh vọng, kiêu mạn, nhiều lời mà gặp Thái tử thì đều im lặng nên Vua nói: Con Trẫm xứng đáng với tên Mâu Ni. Lại nữa, một hôm bế Thái tử gặp Thiên thần, Thiên thần liền là m lễ dưới chân Thái tử nên Vua nói: Đối với trong Thiên thần thì con Trẫm tôn quý nhất xứng đáng với tên Thiên Trung Thiên. Xưa kinh có danh xưng Phật là Đại Tiên nhưng Đại Tiên đây chẳng đồng với Đại Tiên. Luận Bát Nhã Đăng dạy: Bồ-tát Thanh-văn cũng gọi là Tiên. Trong đó Phật là Tối Thượng nhất vì đã có tất cả Ba-la-mật-đa, công đức, thiện căn, đến bờ giải thoát nên gọi là Đại Tiên. Lại nữa, luận Đại Tỳ Bà Sa tôn xưng Phật là Chân Nhân vì Phật đã di thục nhân, chứng pháp chân thật nên gọi là Chân Nhân. Lại nưa, Kinh Bản Hạnh Tập tôn xưng Phật là Long, nghĩa là xa lìa ái nhiễm ở thế gian, giải thoát các phiền não, các lậu đã dứt sạch nên gọi là Long, hoặc gọi là Na-già, nghĩa là ở tại định, không có lúc nào mà không ở trong định. Pháp bảo Tiếng Phạm là Đạt-ma, Trung Hoa dịch là pháp, nghĩa là chấp trì, tức nhậm trì tự tính, quỷ sanh vật giải (tự giữ lấy tính cách của nó là m mẫu mực phát sanh sự nhận biết) Luận Bát Nhã Đăng dạy: Pháp là gì? Nếu người muốn được sanh vào cõi thiện như: Trời, người và được giải thoát thì Phật biết được căn tính của chúng sanh không có điên đảo nơi dục nên Phật nói về đạo Trời, người và đạo Niết bàn. Đó gọi là pháp. Lại nữa, mình cùng người khác có huân tập hay không huân tập phiền não, oán tặc đều bị phá hủy cả nên gọi là pháp. Nay pháp bảo được phân là m ba: kinh, luật, luận. Kinh Tiếng Phạm là Tố-đát-lãm, hay Tô-đát-la, Trung Hoa dịch là tuyến, bởi vì nó xâu giữ các nghĩa vậy. Lại nữa, tiếng Phạm là Tu-đa-la, hay Tu-đố-lộ, Tần dịch là khế, nghĩa là trên khế hợp với chân lý, dưới khế hợp với căn cơ. Nay thì gọi là kinh, có đủ ba nghĩa là cửu, thông, do. Triệu dịch nghĩa chữ kinh là thường. Tạ Linh Vận dịch nghĩa chữ kinh là do, là tân, là thông. Lời là do lý sanh. Lý là do lời hiển bày. Học giả thông hiểu là từ lý dạy mà thông. Điển Là kinh, là thường, là pháp. Giáo Tiếng Phạm là A-hàm , ở đây dịch là giáo. Luận Duy Thức dạy: A-hàm là giáo pháp chư Như Lai đã nói. Bài tựa kinh A-hàm dạy: A-hàm, Tần dịch là pháp quy, nghĩa là rừng, là vực gom chứa vạn điều thiện. Lại gọi là A-cấp-ma. Tất cả các kinh đều dùng bốn pháp: thanh, danh, cú, văn là m thể, dùng âm thanh vô lậu thật dụng của Phật là m thể nên gọi là thanh giáo Luận Trí Độ dạy: Như khổ hạnh đầu đà, đầu đêm, giữa đêm, cuối đêm chuyên tâm thiền quán mà đắc đạo là giáo lý của Thanh-văn. Như quán pháp tướng, không trói không mở, tâm được thanh tịnh là giáo lý của Bồ-tát. Thập nhị phần giáo Cũng gọi là mười hai bộ kinh: Tu-đà-la (Khế kinh) Kỳ-dạ (Ứng tụng) Hòa-già-la (Thọ ký) Già-tha ( Phúng tụng) Ni-đà-la (Nhân duyên) Ưu-đà-na (Tự thuyết) Y-đế-mục-đa (Bổn sự) Xà-đà-già (Bổn sanh) Tỳ-phật-lược (Phương quảng) A-phù-đạt-ma (Vị tằng hữu) Bà-đà (Thí dụ) Ưu-ba-đề-xá (Luận nghị) Theo Tiểu thừa chỉ có chín bộ, không có Tự thuyết, Thọ ký, Phương đẳng Luật Tiếng Phạm là Tỳ-ni, ở đây dịch là luật, luật pháp. Từ nơi giáo lý mà đặt tên có nghĩa là đoạn, cát, khinh, trọng, khai, giá, trì, phạm. Kinh Thanh tịnh Tỳ-ni gọi là điều phục phiền não, vì phiền não nên gọi là tỳ-ni. Phạm ngữ mới gọi là Tỳ-nại-da, Đường dịch là điều phục, nghĩa là hiển bày luật nghi để điều phục sáu căn. Luận Tát-bà-đa dạy: Tỳ-ni có bốn nghĩa: Phật pháp bắng phẳng như đất nên muôn điều thiện đều do đây mà sanh trưởng. Tất cả đệ tử Phật đều nương vào giới mà ở, tất cả chúng sanh đều nương vào giới mà có. Là cửa ngõ đầu tiên để đến Niết bàn Là pháp anh lạc trang nghiêm Phật pháp. Ngũ bộ luật Xuất Tam Tạng ký dạy về năm bộ luật: Ba-phần-phú-la (Tăng kỳ) Tát-bà-đa (Thập tụng) Đàm-vô-đức (Tứ phần) Di-sa-tắc (Ngũ phần) Ca-diệp-ni ( chưa đến ở đất Lương) Luật danh thỉ Xưa nay dịch kinh đều ghi: đầu tiên vào năm Canh Tuất niên hiệu Kiến Ninh thứ hai đời Hán Linh Đế, An Thế Cao mới dịch nghĩa được một quyển luật trước tiên. Sau đó có vị Tỳ-kheo cũng dịch một quyển luật nữa. Đến đời Tào, Ngụy ở Thiên Trúc có vị tăng Đàm-ma-ca-la (Pháp Thời) đến Lạc Dương thấy tăng só ở đây hoàn toàn không có luật nghi. Do đó vào giữa niên hiệu Gia Bình vị tăng ấy cùng với Đàm-đế dịch Yết ma Tăng Kỳ, Giới Tâm Đồ ký, tức tên luật bắt đầu có vậy. Luận Tiêng Phạm là A-tỳ-đàm, ở đây dịch là Vô tỷ pháp, Phân biệt tuệ. Luận gồm có bốn tên gọi: Tiếng Phạm là Ma-đát-lý-ca, ở đây dịch là cội gốc sanh ra các nghĩa. Tiếng Phạm là Xa-tát-đát-la, ở đây dịch là nghi luận, nghĩa là luận về sự có, không; bàn về sự thật, giả. Tiếng Phạm là Điểu-bà-nhó-xá, ở đây dịch là cận thuyết, nghĩa là lược nói nghĩa quan trọng trong kinh mà không cần theo thứ tự. Tiếng Phạm là A-tỳ-đạt-ma, ở đây dịch là đối pháp, nghĩa là luật về năng đối và sở đối. Lại có hai luận cũng bao gồm hết thảy bốn luận trước: Tông luận: tức tông được tạo ra ở kinh Đại, Tiểu thừa Thích luận: tức giải thích kinh Đại, Tiểu thừa. Đại thừa Tiếng Phạm là Ma-ha-diễn, ở đây dịch là Đại thừa. Đại: lớn đối lại với nhỏ. Thừa: nghĩa là vận chuyển. Trong Thập Nhị Môn luận, Bồ- tát Long Thọ hỏi: Ma-ha-diễn là gì? Đáp: là tối thượng của nhị thừa. Vì đối với pháp tối thắng của chư Phật, thừa này có thể đạt đến. Vì các bậc đại nhân của chư Phật nương vào thừa này mới có thể thấu triệt đến chỗ tận cùng của các pháp. Do đó mà gọi là Đại thừa. Kinh Bồ-tát Trì Địa dạy: có bảy điều to lớn nên gọi là đại: Pháp đại: tạng Phương quảng tối thượng hơn hết. Tâm đại: phát tâm Bồ-đề Vô thượng Giải đại: thông suốt tạng Bồ-tát phương đẳng Tịnh tâm đại: vượt qua tâm hành giải Chúng cụ đại: phước đức đầy đủ Thời đại: ba A-tăng-kỳ kiếp Đắc đại: chứng đắc Vô thượng Bồ-đề Tiểu thừa Tiểu: chẳng lớn. Như Lai quán biết căn cơ của chúng sanh mà dùng phương tiện để giáo hóa. Trong kinh Văn Thù vấn, Bồ-tát Văn Thù bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Sau khi Thế Tôn nhập Niết bàn thì các đệ tử vị lai lam sao phân biệt được các bộ kinh? Đức Phật dạy: vào thời vị lai, đệ tử của ta có mười hai bộ kinh, có thể là m cho các pháp tồn tại và được đắc bốn quả. Tam tạng giáo pháp đều như nhau không có thượng, trung, hạ. Giống như nước biển, cùng một vị mặn; như một người có hai mươi người con đồng yêu không thiên lệch. Lời của Như Lai đã nói là chân thật, căn bản là hai bộ từ Đại thừa sanh ra, từ Bát nhã Ba-la-mật sanh ra. Thanh-văn, Duyên-giác, chư Phật đều từ Bát nhã Ba-la-mật-đa sanh ra. Tam tạng Ba tạng là : kinh, luật, luận. Lại nữa, tạng Phật, tạng Bồ-tát, ta- ïng Thanh-văn là ba tạng. Tạng là thâu nhiếp, nghĩa là thâu nhiếp con người, thâu nhiếp các pháp. Luận Trang nghiêm nói là bao gồm tất cả nghĩa nên biết. Bài kệ trong kinh Nhân Vương: Biển Phật pháp gồm ba tạng báu Mọi công đức thâu nhiếp trong đây. A-tỳ-đạt-ma tập luận dạy: vì sao Như Lai kiến lập ba tạng? Vì muốn đối trị phiền não si mê nên kiến lập tạng kinh; vì muốn đối trị nhị biên tùy phiền não nên kiến lập tạng luật; vì muốn đối trị tà kiến chấp thủ tùy phiền não nên kiến lập tạng luận. Bát tạng Kinh Bồ-tát Xứ Thai dạy có tám tạng: Tạng thai hóa Tạng trung ấm Tạng Đại thừa Tạng giới luật Tạng Bồ-tát Thập trụ Tạp tạng Tang Kim cang Tạng Phật Đây là kinh pháp được Phật Thích Ca Văn trình bày đầy đủ. Ngày nay thì gọi là nơi cất giữ kinh, luật, luận.Tạng: tiếng Phạm là câu-xá, ở đây dịch là tạng là tên gọi chung cho chỗ cất chứa. Pháp môn Triệu dịch pháp là lời dạy cho thế gian; môn là chỗ Thánh hiền noi theo. Luận Trí Độ dạy: người trí thâm nhập ba pháp môn, quán biết tất cả lời Phật nói đều là thật pháp, không có sai trái. Tỳ-lặc môn (khiếp tạng) A-tỳ-đàm môn Không môn. Nhập Tỳ-lặc môn thì luận nghị không cùng; nhập A-tỳ-đàm môn là Phật tự thuyết danh nghĩa các pháp, các đệ tử đều tạp hợp luận giải; nhập Không môn nghĩa là chúng sanh không, pháp không. Nếu theo nghĩa Đại thừa thì đối với tất cả các pháp, tự tính thường không, không dùng trí tuệ phương tiện quán nên gọi là không. Tám vạn bốn ngàn pháp môn: theo kinh Hiền Kiếp Vương dạy: Đầu tiên Phật tu hành các pháp Ba-la-mật cho đến cuối cùng phân bố thể Ba-la-mật của Phật gồm ba trăm năm mươi độ, mỗi độ đều đầy đủ sáu Ba-la-mật. Như vậy, cả thảy gồm hai ngàn một trăm pháp đối trị tham, sân, si.v.v.; phân ra thành tám ngàn bốn trăm pháp trừ bốn đại chủng, sáu trần đã sanh lỗi lầm nên có tám vạn bốn ngàn pháp môn để đối trị. Pháp luân Trong luận Đại Tỳ-bà-sa, hỏi: pháp luân là gì? Đáp: vì là chỗ thành tựu pháp, vì là tự tính của pháp nên gọi là pháp luân. Như thế gian gọi kim luân… là nghĩa chuyển động không dừng, bỏ đây, lìa kia, hay điều phục oán địch; lại có nghĩa viên mãn tức là căm, trục, vành xe đều đủ. Thể pháp luân là Tám thánh đạo. Trước tiên hiểu rõ bánh xe pháp của Tiểu thừa: vì lấy giới là m đầu nên dùng chính ngữ, chính nghiệp, chính mạng là m trục xe; trục xe là căn bản. Vì nương vào giới thì sanh định nên dùng chính định, chính tinh tấn, chính niệm là m vành xe; vành xe giữ hết căm xe. Vì nương vào định mà phát tuệ nên dùng chính kiến, chính tư duy là m căm xe. Kế đến là bánh xe pháp của Đại thừa: lấy trí tuệ là m đầu nên dùng chính kiến, chính tư duy là m trục xe; vì trí tuệ là căn bản. Kế đến, dùng chính ngữ, chính nghiệp, chính mạng là m vành xe; vành xe dựa vào trục xe mà đứng vững, vì giới nhờ trí mà được thanh tịnh. Sau cùng là dùng chính định, chính tinh tấn, chính niệm là m vành xe; vì giới nhờ định kết lại. Nhị đế Tục đế lại gọi là an lập đế Chân đế lại gọi là phi an lập đế, hoặc thắng nghĩa đế. Theo luận Bà Sa dạy: Đế nghĩa là : thật, chân, như, không điên đảo, không hư dối. Theo Khế kinh dạy, tất cả pháp Phật đã thuyết giảng đều thuộc về hai đế. Tứ đế Khổ đế, tập đế, diệt đế, đạo đế. Luận Tỳ-bà-sa dạy: bức bách lưu chuyển là tướng khổ; sanh trưởng chuyển nghiệp là tướng tập; tịch tịnh dừng dứt là tướng diệt; xuất ly hoàn diệt là tướng đạo. Lại nữa, tất cả Như Lai tuyên thuyết pháp tứ đế khai thị để cứu khổ chúng sanh ra khỏi sanh tử. Nếu ai muốn ra khỏi sanh tử thì tự mình siêng năng tu tập chứ không do người khác tu thay. chính pháp Luận Bà Sa dạy: chính pháp có hai: Thế tục chính pháp là danh, văn, cú, thân tức kinh, luật, luận. Thắng nghĩa chính pháp là Thánh đạo tức vô lậu, căn, lực, giác chi, đạo chi. Phật pháp thọ mạng Trong kinh Pháp Trụ, đức Phật bảo A Nan: sau khi Ta Niết bàn thì thời kỳ chính pháp là một ngàn năm nhưng vì người nữ xuất gia nên giảm mất năm trăm năm; thời kỳ tượng pháp là một ngàn năm; thời kỳ mạt pháp là một vạn năm. Theo Sao viết: chính pháp có hai: Chứng chính pháp: ước theo Thánh đạo nói, thời chính pháp cũng như chứng đạo vậy. Giáo chính pháp: văn tự nội điển gọi chung là chính giáo, được thuyết vào thời tượng pháp và mạt pháp. Thời chính pháp có giáo pháp, có người tu hành, có người chứng quả. Thời tượng pháp thì tương tợ: có giáo pháp, có người tu hành như thời chính pháp nhưng người chứng quả rất ít. Còn thời mạt pháp thì không có giáo pháp, không có người tu hành. Trong luận Đại Tỳ-bà-sa, đức Phật dạy: có hai hạng người có thể giữ gìn chính pháp: người thuyết giảng và người hành trì. Nếu có người hành trì giáo chính pháp thì chính pháp được truyền thừa không mất, có thể là m cho kinh, luật, luận tồn tại lâu dài. Nếu người hành trì chứng chính pháp thì chính pháp được tiếp nối không mất có thể khiến cho Thánh đạo vô lậu tồn tại lâu dài. Có hai hạng người hành trì chính pháp: Người hành trì giáo pháp: đọc tụng, giảng nói kinh, luật, luận. Người hành trì chính pháp: có khả năng tu chứng thánh đạo vô lậu. Phật pháp tiên hậu Trong kinh Báo Ân hỏi: Phật lấy pháp là m thầy. Phật từ pháp sanh ra. Pháp là mẹ của Phật. Phật nương vào pháp mà tồn tại. Vậy mà trong Tam bảo, tại sao không lấy pháp là m đầu? Đức Phật dạy: pháp tuy là thấy của Phật nhưng không có Phật thì giáo pháp không được lưu truyền, bởi vì đạo do người truyền bá, do đó mà lấy Phật là m đầu, pháp sau vậy. Tăng bảo Theo Pháp Uyển Châu Lâm chép: luận về Tăng bảo là giữ cấm giới, oai nghi chân chính, ra khỏi thế tục, phát tâm tu tập, xả bỏ thế gian để đứng vững trong Phật pháp; vinh quang chẳng lay động tâm ý, quyến thuộc không phiền lụy đến tư tưởng; hoằng bá đạo pháp để đền trả bốn ân, nuôi dưỡng đạo đức để là m tư lương trong ba cõi; vượt qua Trời, người; hơn hẳn vương báu nên gọi là Tăng bảo. Theo Thuận chính Lý Luận chép: tăng có năm hạng: Tăng không biết hổ thẹn: hạng hủy phá cấm giới mà mặc pháp phục Tăng như dê câm: đối với giáo lý tam tạng thì không hiểu biết, không nghe thuyết giảng Tăng bè đảng: thích bàn tán về doanh nghiệp, đấu tránh, kết cấu xảo quyệt. Ba hạng này đa số là là m điều phi pháp. Tăng thế tục: cùng với chúng sanh tạo điều chính pháp, phi pháp Thắng nghĩa tăng: bốn quả Sa-môn, hạng này không là m điều phi pháp . Theo kinh Thập Luân, tăng có hai hạng: Thắng nghĩa tăng tức Phật, Bồ-tát, Thanh-văn. Luận Bát Nhã Đăng dạy: hạng tứ quả là hợp với giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến gọi là Tăng. Bồ-tát Bồ-tát nói đủ là Bồ-đề-tát-đỏa, Đường dịch là Giác hữu tình. Giác alf quả sở cầu; hữu tình là đối tượng được độ. Ma-ha-tát: ở đây dịch là Đại hữu tình tức có khả năng cầu chứng và độ người. Luận Trì Địa dạy: Tát-đỏa nghĩa là dõng mãnh, tinh tấn; vì cầu đại Bồ-đề nên gọi là Ma- ha-tát. Thanh-văn Luận Du-già nói về Thánh giáo của chư Phật: Thanh là thượng thủ, được nghe từ thầy, bạn. Nhờ âm giáo này mà lần lượt tu chứng, ra khỏi thế gian đạt được hạnh, quả kém hẹp nên gọi là Thanh-văn. Độc Giác Tiếng Phạm là Tất-lặc-chi-để-ca, Đường dịch là Độc Hành. Ở đây lại có hai nghĩa: bộ hành, lân du. Theo luận Du-già dạy: thường ưa tịch tịnh, không muốn ở chỗ tạp nhạp, tu gia hạnh viên mãn, không nhờ thầy, bạn chỉ dạy mà tự nhiên một mình vượt ra khỏi thế gian đúng hành, đúng quả nên gọi là Độc Giác. Hoặc quán nhân duyên mà ngộ đạo thì gọi là Duyên Giác. Kinh Pháp Hoa dạy: vì thượng phẩm Thập thiện đạo tu tập thanh tịnh, không do người khác mà tự giác ngộ, vì Đại Bi phương tiện Phật đầy đủ, vì ngộ giải pháp nhân duyên sâu xa. Hai hạng tăng , căn cứ theo Cao Tăng truyện gồm có mười khoa: Dịch kinh Giải nghĩa Tu thiền Hiểu luật Hộ pháp Cảm thông Di thân Đọc tụng Tăng phước Danh đức Phước điền Ngạn Tông pháp sư phước điền luận dạy: phước điền là gì? Là Tam bảo. Công thành diệu trí, đạo chứng viên giác là Phật. Huyền lý thâm u, chính giáo tinh thành là Pháp. Cấm giới thủ túc, oai nghi xuất tục là Tăng. Tam bảo là bậc đạo sư của bốn loài, là thuyền bè của sáu đường. Cúng dường Tam bảo Kinh Đại Phương Quảng Cảnh Giới Bất Tư Nghì dạy: cúng dường Phật thì được phước đức lớn, mau chứng đắc Vô thượng Bồ-đề, khiến cho tất cả chúng sanh đều được an lạc. Cúng dường Pháp thì tăng trưởng trí tuệ, chứng pháp tự tại, có thể hiểu rõ thật tính của các pháp. Cúng dường Tăng thì tăng trưởng vô lượng phước đức để là m tư lương, đạt đến Phật đạo. Cúng dường Phật Trong kinh Bảo Tích, Tiên nhân Quảng Bác hỏi: sau khi Phật diệt độ thì chúng con phải là m gì để được phước báo? Đức Phật dạy: Pháp thân của Như Lai nếu còn ở đời, hoặc đã diệt độ mà những ai đến cúng dường thì sẽ đạt được phước đức không có sai khác. Hỏi: phước là do tích tụ mà có chăng? Đức Phật dạy: thí như cây mía khi chưa ép thì không thể được nước. Trong một đốt, hai đốt của nó tìm nước tích tụ thì hoàn toàn không thấy, nhưng nước ấy không phải từ bên ngoài mà có được. Cũng vậy, phước đức quả báo không phải ở trong tay, trong tâm, trong thân thí chủ, cũng không lìa những thứ ấy mà có, nó như bóng theo hình. Trong kinh Đại Tập, Thiên tử Thương Chủ hỏi: Phật còn ở đời, hằng ngày cúng dường thì Thế Tôn thọ nhận nên thí chủ được phước. Vậy sau khi Thế Tôn diệt độ mà cúng dường hình tượng thì ai là người thọ nhận? Đức Phật dạy: Pháp thân của chư Phật nếu còn ở đời, hoặc đã diệt độ mà ai cúng dường thì đạt được phước đức không có sai khác. Trong kinh Thiện Sanh, đức Phật dạy: Như Lai tức là tạng Nhất thiết trí. Cho nên người có trí phải nên chí tâm siêng tu cúng dường sanh thân Phật, hoặc xá lợi, hình tượng, tháp miếu; cúng dường dường rồi thì trong tâm mình chớ có tư tưởng khinh lờn; đối với Tam bảo cũng nên như vậy. Nếu Như Lai còn ở đời hoặc đã Niết bàn đều như nhau, không có sai khác. Trong Ưu-bà-tắc Giới kinh, đức Phật dạy: có người nói: “Cúng dường tháp, tượng không được sống lâu, sắc đẹp, sức lực, an lạc, biện tài”. Thật ra thì không phải như vậy. Nếu người tín tâm cúng dường thì thường được năm việc phước báo. Thí như Tỳ-kheo tu tập tâm từ, thật ra không có người thọ nhận nhưng cũng đạt được vô lượng quả báo. Tán Phật Trong kinh Bồ-tát Bản Hạnh, A Nan bạch Phật: nếu có người dùng bốn câu kệ tán thán Như Lai thì được bao nhiêu phước đức? Đức Phật dạy: Giả sử trăm ngàn vạn ức na-do-tha chúng sanh đều đạt Bích Chi Phật đạo mà người nào cúng dường những vị ấy đầy đủ các thứ: y phục, thức ăn, giường nệm, thuốc thang đến trăm năm thì phước đức có nhiều không? A Nan thưa: Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Đức Phật dạy: nếu người dùng bài kệ bốn câu với tâm hoan hỷ mà tán thán Như Lai thì đạt được phước đức nhiều hơn phước đức trên đến trăm ngàn vạn lần, không thể lấy gì để thí dụï được. Luận Trí Độ dạy: Nếu người nghe công đức chư Phật với tâm tôn trọng, cung kính, tán thán, biết tất cả phước đức chúng sanh không ai có thể sánh bằng nên gọi là tôn. Tââm kính phục, là m lợi ích đối với Vua chúa, cha mẹ, sư trưởng nên gọi là trọng. Khiêm tốn kính phục nên gọi là cung. Nêu cao trí đức nên gọi là kính. Công đức hoàn hảo nên được khen ngợi gọi là tán. Khen ngợi không đủ lại còn xưng dương gọi là thán. Niệm Phật Luận Trí Độ dạy: chỉ xưng một tiếng “Nam mô Phật”thì người ấy cũng được hết khổ và có phước đức vô tận. Hỏi: Tại sao chỉ xưng danh hiệu Phật mà hết khổ và được phước bất tận? Đáp: vì người này từng nghe công đức Phật hay cứu độ người thoát khỏi già, bệnh, chết; hoặc lúc nhỏ cúng dường và xưng danh hiệu Phật nên được phước vô lượng, cũng được hết khổ. Trong kinh Lăng Già, Bồ-tát Đại Thế Chí hỏi: Siêu Nhật Nguyệt Quang Như Lai dạy con niệm Phật Tam muội. Thí như có người chuyên nhớ nghó đến một người khác thì cả hai người ấy dù gặp hay không gặp, thấy hay không thấy cũng thường luôn nhớ đến nhau. Ngay cả đời này hoặc đến đời khác thì họ vẫn như hình với bóng không có trái ngược nhau. Mười phương Như Lai nghó đến chúng sanh như mẹ nhớ con. Nếu con bỏ đi thì có nhớ nghó cũng chẳng là m được gì. Khi con nhớ mẹ như mẹ nhớ con thì trãi qua nhiều đời mẹ con vẫn gặp nhau không có xa lìa. Nếu tâm chúng sinh nghó đến Phật, niệm Phật thì hiện tại hoặc tương lai nhất định sẽ gặp Phật, cách Phật không xa, không cần đến phương tiện mà tâm tự khai mở. Như người nhuộm hương thì thân tự có mùi hương. Từ xưa con đã dùng tâm niệm Phật nên đạt đến vô sanh nhẫn. Nay ở nơi đây con lại dạy người niệm Phật để được trở về Tịnh độ. Quán Phật Trong kinh Hộ Quốc, đức Phật hỏi Vua Ba Tư Nặc: ông lấy tướng gì để quán Như Lai? Nhà Vua thưa: quán thật tướng nơi thân và quán Phật như nhau, không có trước, sau, ở giữa; không trụ ba đời, không lìa ba đời, không trụ năm uẩn, không lìa năm uẩn, không trụ bốn đại, không lìa bốn đại, không trụ sau căn, không lìa sáu căn, không trụ ba cõi, không lìa ba cõi, cho đến không thấy, nghe, hay, biết, diệt chỗ tâm hành, dứt đường ngôn ngữ, đồng với pháp tính chân đế.v.v.Con dùng tướng ấy để quán Như Lai. Đức Phật dạy: Này Thiện Nam! Như lời ông nói: Như Lai có đủ lực, vô úy.v.v. hà sa công đức, các pháp bất cọng đều như vậy. Người tu Bát nhã Ba-la-mật-đa nên quán như vậy. Nếu người quán khác đi thì gọi là tà quán. Lễ Phật Trong kinh Đại Phương Quảng Bảo Khiếp, Tỳ-kheo trí Đăng hỏi Văn Thù: thế nào là lễ Phật? Văn Thù đáp: nếu thấy pháp thanh tịnh gọi là thấy Phật thanh tịnh; hoặc thân, hoặc tâm không thấp, không cao, chính trực mà trụ, không động, không lay, tâm luôn tịch tịnh, hành hạnh tịch tịnh, đó gọi là lễ Phật. Theo Pháp Uyển chép: vào đời nhà Tề, có tam tạng Lặc-na người Thiên Trúc dịch ra bảy pháp lễ: Ngã mạn lễ: đứng theo vị thứ, tâm không cung kính, tâm chạy theo cảnh bên ngoài, năm vóc không sát đất giống như chày giã gạo. Xướng hòa lễ: cử chỉ thô tháo, tâm không tịnh, thấy người thì vội vàng lễ lạy, người đi thì thân tâm mệt mỏi; bởi vì tâm tán loạn mà miệng xướng lễ. Thân tâm cung kính lễ: nghe xướng danh hiệu Phật liền nghó đến tướng Phật, thân tâm cung kính, không có giải đãi. Phát trí thanh tịnh lễ: thấu suốt cảnh giới Phật, tùy tâm hiện tại, lễ một đức Phật là lễ tất cả Phật, lạy một lạy tức lạy tất cả pháp giới, bởi vì pháp thân Phật dung thông tất cả. Biến nhập pháp giới lễ: tự quán thân tâm bình đẳng như pháp giới, từ xưa đến nay không lìa pháp giới; Phật và ta bình đẳng như nhau, nay lễ một đức Phật tức là lễ khắp pháp giới chư Phật. chính quán lễ: lễ Phật nơi tâm mình, không lễ Phật khác. Vì sao? Vì tất cả chúng sinh đều có Phật tính, chính Giác bình đẳng. Thật tướng bình đẳng lễ: trước là có lễ, có quán, tự tha khác nhau. Nay lạy một lạy, không có tự, tha, phàm Thánh nhất như, thể dụng bình đẳng. Văn Thù nói: năng lễ sở lễ tính đều vắng lặng. Lễ Phật thì phải tự trải tọa cụ, không được sai người khác trải. Nếu lên điện, tháp mà phía trước có khoảng đất rộng thì lên là m lễ; bằng không thì không được đứng lâu trên chiếu, trên giường là m lễ. Lên là m lễ phải cởi bỏ giày dép, chớ để mất oai nghi mà phải chuốc lấy tội nặng. Thân cận Phật Thắng Tư Duy Phạm Thiên Vấn kinh chép: Phạm Thiên hỏi Văn Thù: Tỳ-kheo là m thế nào để thân cận Phật? Đáp: nếu Tỳ-kheo đối với các pháp mà không thấy có pháp hoặc gần, hoặc xa, đó gọi là thân cận Phật. Kinh Đại Tập dạy: không thấy tướng vi tế của một pháp mới có thể biết rõ Như Lai xuất thế, thường gặp chư Phật. Nhất thiết cung tín Lễ Phật thì trước khi xướng lễ phải thâu nhiếp các tâm không cho nó chạy tán loạn. Nhất là lời nói phổ cập. Thiết là dùng lời tận đáy lòng . Cung là trong lòng kính mến. Tín là tâm tâm không có sai khác. Luận Trí Độ dạy: nhất thiết có hai loại: Danh tự nhất thiết Thâït nhất thiết. Nay đem danh tự để quy về thật lý vậy. Có người hỏi: lễ bái là m sao để thâu nhiếp ba nghiệp? Đáp: lễ bái thông cả ba nghiệp: năm vóc sát đất là thân nghiệp; xưng danh hiệu Phật là khẩu nghiệp; duyên tưởng cảnh Thánh, chuyên chú không tán loạn là ý nghiệp. Nam mô Trong kinh Bi Hoa, đức Phật dạy: Nam mô là lời quyết định danh hiệu của chư Phật Thế Tôn. Theo Duy Thức sao dạy: tiếng Phạm là Nam mô, ở đây dịch là danh tức có nghĩa hướng về. Có người gọi là Na ma, Nẵng mô đều là dùng trại của tiếng Phạm. Nhiễu Phật Lại gọi là toàn nhiễu, ở đây gọi là hành đạo Tây Vức ký chép: Tây Thiên tùy theo tông phái, sau khi lễ đều phải đi nhiễu quanh để tỏ lòng quy kính vậy. Theo của Phật là đi nhiễu bên phải: Pháp Uyển gọi là thuận đường đi của Trời. Số vòng đi thì không nhất định: ba vòng là tiêu biểu cho ba nghiệp, bảy vòng là tiêu biểu cho bảy giác chi. Như trong kinh dạy trăm vòng, ngàn vòng, hoặc vô số vòng là chỉ cho số nhiều, biểu thị sự cung kính cùng cực. Theo kinh Hiền Giả Ngũ Giới dạy: đi nhiễu quanh tháp ba vòng là biểu thị sự cung kính Tam bảo nên diệt được ba độc. Trong kinh Đề Vị hỏi: rải hoa, xông hương, đốt đèn, lễ bái là để cúng dường, còn đi nhiễu quanh thì được phước gì? Đức Phật dạy: có năm phước: Đời sau thân hình đẹp đẽ, đoan chính. Âm thanh tốt Được sanh lên cõi Trời Được sanh vào nhà Vua chúa Đắc đạo giải thoát. Kinh Tam Thiên Oai Nghi dạy đi nhiễu quanh có năm việc: Cúi đầu nhìn xuống đất. Không được đạp trùng Không được nhìn ngó hai bên Không được khạc nhổ trên đất. Không được nói chuyện với người khác. Tạo tượng Kinh Đại Thừa Tạo Tượng Công Đức dạy: Lúc tạc tượng Phật, đầu đêm Vua Ưu Đà Duyên suy nghó: “Những hình tượng Phật là tượng ngồi hay tượng đứng?”. Lúc ấy, một vị quan thần có trí tâu: Nên là m tượng ngồi. Vì sao? Vì chư Phật đắc đại Bồ-đề cho đến chuyển pháp luân, hiện thần biến đều ngồi. Do đó nên tạc tượng Phật ngồi kiết già. Tạc tượng xong, Vua mang tượng đến chỗ Phật rồi thưa: Thân Như Lai tối thượng vi diệu không ai sánh bằng. Con đã tạo tượng không giống Như Lai, thiết nghó đây là một tội lỗi rất lớn. Đức Phật dạy: chẳng có lỗi gì. Ông đã là m vô lượng lợi ích, không ai sánh bằng. Nay đối với Phật pháp ông là người đầu tiên là m khuôn phép cho đời vị lai, những người có tín tâm y theo Vua để tạo hình tượng Phật nên đạt được phước đức lớn. Kinh Phật Tại Kim Quan Kính Phúc dạy: người tạo kinh tượng bất luận thuê người thợ nào thì người thợ ấy không được uống rượu, ăn thịt. Nếu không nương theo Thánh giáo thì dù có tạo kinh tượng mà phước cũng rất ít. Nếu người thợ tạo tượng không đủ tướng tốt thì năm trăm vạn đời các căn đều không đủ. Kinh Ngũ Bách Vấn dạy: khi sống phá giới mà có được tài vật nên tạo tượng Phật còn không thoát khỏi Địa ngục, huống chi là mong có phước. Kinh Tội Báo Quyết Nghi dạy: hàng xuất gia hay cư só nều tự đem tài vật hoặc khuyên được tài vật rồi nghó sẽ là m tượng. Sau đó họ lại đem số tiền ấy là m hình chim, thú rồi để trên bàn Phật. Tính theo giá trị năm tiền thì phạm tội nghịch, hoàn toàn không được sanh lại là m người; một kiếp đọa vào Địa ngục A-tỳ. Nếu dùng số tiền ấy mua hương, dầu cúng dường thì không phạm. Tuyên luật sư dạy: vào đời Tống, Tề đều tạo tượng môi dày, mũi cao, mắt dài, má đầy, tướng cao lớn như bậc trượng phu. Từ đời Đường đến đời Triệu, các thợ đều tạo tượng dung mạo đẹp đẽ mềm yếu như kỹ nữ. Cho nên ngày nay người ta khen ngợi người đẹp như Bồ-tát vậy. Lại nói, người ngày nay theo tình mà tạo tượng chứ chẳng biết đến nguồn gốc chân thật, được ở chỗ tín kính mà mất đi pháp thức. Nếu luận theo thước tất dài ngắn thì không hỏi đến toàn thân, có kẻ còn tranh nhau để được tiền lợi, xét thì cung kính mà không có hậu, thết đãi rượu thịt, thân không thanh khiết đến nỗi tôn tượng tuy được thờ lên mà chẳng có oai linh. Ngay cả việc sao chép kinh điển, tuy là việc dễ là m nhưng bút mềm, giấy thô thành ra người thợ không cung kính rồi sanh tâm kiêu mạn. Bởi sự dễ dãi này nên pháp nghi bị giảm mất. Nếu như đạo đời đều biết pháp, là m tượng chim thú còn không dám là m xấu, huống chi là tượng người. Sư tử tòa Trong luận Trí Độ dạy: thế nào là tòa sư tử, là vì Phật là m ra hay là vì sư tử thật, hay là do vàng, bạc, gỗ, đá mà là m thành? Đáp: gọi là tòa sư sử chẳng phải thật. Phật là sư tử trong loài người nên chỗ Phật ngồi là giường hoặc đất đều gọi là tòa sư tử. chỉ có sư tử ở trong loài thú là vượt qua mọi sợ hãi, có thể điều phục tất cả. Cũng vậy, đức Phật đối với chín mươi sáu học phái ngoại đạo và tất cả cõi Trời, người đều điều phục tất cả, đắc vô sở úy nên gọi là sư tử trong loài người. Liên hoa tòa Luận Trí Độ dạy: các loại giường đều có thể ngồi, sao phải dùng hoa sen? Đáp: các loại giường là pháp cư só ở đời ngồi, hơn nữa hoa sen thanh khiết nhu nhuyến nên muốn hiện thần lực đều ngồi trên đó mà hoa không bị hoại. Lại nữa, hoa sen dùng để trang nghiêm tòa diệu pháp. Hỏa diễm Kinh A-hàm dạy: lúc đức Phật ở trong núi Tỳ Đà tại nước Ma- kiệt, Ngài nhập Tam muội Hỏa diễm. Lại nữa, xưa kia lúc đức Phật ở am Bà La thuộc nước Xá Vệ, Ngài cũng nhập Tam muội Hỏa diễm. Ngày nay cũng như vậy. Điêu tượng thỉ Trong kinh Tăng Nhất A-hàm, Vua Ưu Điền dùng gỗ Ngưu đầu chiên đàn để tạc hình tượng Phật, cao năm mét. Đây là lần tạc tượng đầu tiên. Chú tượng Kinh dạy: khi nghe tin Vua Ưu Điền tạc tượng bằng gỗ thơm, Vua Ba-tư-nặc liền dùng vàng ròng đúc tượng Phật, cũng cao năm mét. Đây là lần đúc tượng đầu tiên. Họa tượng Đường nội điển lục chép: năm thứ bảy niên hiệu Vónh Bình, Hậu Hán Minh Đế sứ giả Tần Cảnh đến nước Nhục Chi được Vua Ưu Điền sai vẽ tượng Phật thứ tư. Khi đến Lạc Dương, Tần Cảnh vâng lệnh vẽ cửa thành Tây Dương và được Hiển Tiết Lục dâng cúng đất này lần đầu tiên. Dục Phật Trong kinh Ma-ha Sát Đầu, đức Phật bảo đại chúng: mười phương chư Phật đều chọn giờ Tý, nữa đêm ngày mồng tám tháng tư để ra đời. Vì sao? Vì đó là thời điểm giao nhau giữa mùa Xuân và mùa Hạ, tai ương đều dứt, vạn vật sanh trưởng, khí độc chưa hành hoành, không nóng, không lạnh, khí hậu ôn hòa. Nay đến ngày Phật đản sanh, mọi người đều nhớ đến công đức Phật mà tắm hình tượng Phật. Trong kinh Thí Dụ, đức Phật dùng ngày mồng tám tháng tư để hiện thần biến, điều phục phái lục sư ngoại đạo. Phái lục sư bị thua và tan rã, liền nhảy xuống nước mà chết. Những đồ đảng còn lại được Phật thuyết pháp mà khai ngộ, nên đồng bạch Phật: “Thế Tôn dùng nước chính pháp tẩy rửa tâm dơ bẩn của con. Nay con xin Phật, Tăng tẩy rửa thân dơ bẩn của con”. Trong kinh Dục Phật Công Đức, Bồ-tát Thanh Tịnh Tuệ bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Như Phật còn ở đời hoặc sau khi diệt độ, chúng sinh trong đời vị lai tắm tượng bằng cách nào? Đức Phật dạy: không nghó tưởng đến có, không; đối với các phẩm thiện tâm luôn khác ngưỡng, không sanh mệt mỏi. Vì sao? Vì thành tựu Pháp thân và Báo thân Như Lai. Này Ta sẽ vì ông mà nói pháp tắm tượng Phật là thù thắng nhất trong các pháp cúng dường; dùng nước hương thơm nóng đựng trong bình sạch, trước đó là m đàn vuông, trải sàng tòa đẹp rồi an trí Phật trên đó, dùng nước hương từ từ tắm tượng, dùng hết nước hương lại dùng đến nước sạch ngâm rửa hình tượng. Mọi người lấy một ít nước tắm Phật để lên đầu mình. Trước khi để tượng ngâm vào trong nước nên tụng bài kệ này: Nay con tắm tượng đức Như Lai Phước trí trang nghiêm đủ công đức Nguyện cho chúng sinh lìa trần cấu Pháp thân thanh tịnh đồng Như Lai . Kinh Ma-ha Sát Đầu dạy: tắm Phật mà được tiền thì nên phân là m ba phần: phần thuộc Phật, phần thuộc Pháp, phần thuộc Tăng. Tiền Phật thì dùng là m tượng Phật. Tiền Pháp thì dùng là m chùa, lầu, tháp, phòng, nhà, rào, tường trong ngoài. Tiền Tăng thì chia cho Tỳ-kheo. Tam bảo vật Vật của có bốn loại: Phật thọ dụng vật: điện chùa, y phục, giường, màn.v.v. không được dùng lẫn lộn. Nếu biết vật dùng cho Phật thì chỉ được đem cúng dường trong tháp, không được sử dụng lẫn lộn. Ngũ Bách Vấn kinh dạy: cột ở điện Phật bị hư mà có thí chủ tu sửa rồi đem cúng cho Tăng thì Tăng không được dùng. Thí thuộc Phật vật: Ngũ Bách Vấn kinh dạy: vật của Phật không được đem đến chùa khác, nếu là m trái thì phạm tội. Nếu tất cả chúng Tăng đều cho đem đi thì nên thưa với Tăng, Tăng cho đem đi thì không tội. Lại nữa, vật của Phật được mua, bán, lấy cúng dường. Luật Thập Tụng dạy: vì Phật mà xuất vật của tháp thì cho phép. Cúng dường Phật vật: luật Tăng Kỳ dạy: hoa cúng Phật nhiều quá thì cho phép đem bán, hương, dầu nhiều cũng cho đem bán; chứa tài vật vô tận của Phật. Ngũ Bách Vấn kinh dạy: cờ Phật nhiều mà muốn là m việc khác, nếu thí chủ không đồng ý thì không được Hiến Phật vật: Trong luật dạy: thức ăn cúng dường nơi tháp Phật thì người giữ tháp được ăn. Luật Thiện Kiến dạy: thức ăn cúng dường trước Phật thì Tỳ-kheo hầu Phật được ăn, hoặc cư só hầu Phật cũng được ăn. Kinh Trà Tỳ dạy: sau khi Phật diệt độ thì tất cả vật cúng dường Phật nên dùng là m tượng Phật và y phục, tràng phan, bảo cái, mua dầu, hương để cúng dường Phật, ngoài ra không được dùng vào các việc khác; nếu dùng thì phạm tội trộm. Vật của Pháp như hòm, hộp, rương, tráp vốn là vật đựng kinh, không được thay đổi, dùng vào việc khác. Vật của Tăng: nếu hai vật thường trú của trú xứ này thì không được đem đến trú xứ khác. Lại nữa, trong điện Phật lại là m phòng Tăng, kinh điển, tượng Phật để trong phòng Tăng, trở ngại việc sử dụng của Tăng, đều do việc dùng lẫn lộn. Do ngôi vị Tam bảo khác biệt nên phân ra rõ ràng. Nếu không trở ngại mà tạm an trí thì không tổn hại. Ngũ Bách Vấn kinh dạy: xưa là điện Phật nay là m thêm phòng Tăng, Tỳ-kheo cùng Phật ở trong ấy, nếu có ngăn che thì không phạm, bởi vì khi Phật còn ở đời, Ngài và đệ tử cùng ở một phòng. Đạo Tam bảo vật kết tội xứ Luận Đại Tỳ-bà-sa dạy: nếu trộm vật của Phật, tháp thì kết ng- hiệp đạo căn bản ở đâu? Đáp: ở chỗ Quốc vương, thí chủ và ở chỗ Trời, người giữ gìn mà kết tội. Có thuyết nói: ở bên Phật mà kết tội, vì vật này thuộc về Phật. Nếu người trộm vật của Tăng mà đã tác pháp Yết ma thì đối với trong chúng Yết ma mắc tội. Nếu như người tác Yết ma phổ biến khắp tất cả các nơi nói pháp thì mắc nghiẹp đạo căn bản. Thọ dụng tự thể vật phúc Luận Bát Nhã Đăng dạy: thế nào là tự thể thọ dụng? Đó là các vật đàn việt cúng dường như: phòng, nhà, vườn rừng, y phục, phẩm vật, mền nệm, thuốc thang, các vật nuôi thân. Thế nào là phúc? nghĩa là tìm kiếm; thấy chúng sanh chìm nỗi trong sông phiền não nên khởi tâm Đại Bi cứu ra khỏi sanh tử, đặt lên bờ Niết bàn, đó gọi là phúc. Linh Phật pháp tốc diệt hữu năm pháp Trong luật Tứ phần, trưởng lão Ba Ma Na bạch Phật: do đâu mà chính pháp của Như Lai mau diệt, không được tồn tại lâu dài ở đời? Đức Phật dạy: có năm nhân duyên, nếu Như Lai diệt độ rồi mà Tỳ-kheo không kính Phật, Pháp, Tăng, Giới, Định cho nên chính pháp không được tồn tại lâu dài. Nam Sơn sao viết: tượng Phật, kinh giáo, , linh nghi đều là việc chúng ta phải tôn trọng. Nay, đa số Tăng, Ni không có sùng phụng Phật pháp, trong lòng không chính tín, sự hiểu biết không cao xa, mất hết khí tiết; hoặc ở trước hình tượng, lại cùng nhau đùa giỡn, nói lời phi pháp, đảo mắt, khua tay, chỉ khắp tượng Thánh; hoặc ngồi thiền xấc xược, tâm không sợ hãi, tuy thấy kinh tượng vẫn không đứng dậy cung phụng, đén nỗi là m cho người đời khinh chê, là m tổn hại chính pháp; đã biết nhiều tội lỗi nên phải hết sức cẩn thận. Khi đến tháp, thấy hình tượng, tất phải khép nép, cung kính như đến gặp Vua, quan vậy. <詞>ÂN HIẾU Đệ tử Phật sớm tối đem hương hoa lễ Phật, ngay cả là m một việc thiện nhỏ như đầu sợi lông cũng đều hồi hướng bốn ân, ba cõi. Bởi vì tâm báo ân quảng đại là chí hiếu vậy. Ân Có bốn ân: Ân cha mẹ Ân sư trưởng Ân đất nước Ân thí chủ Trong Đại Thừa Bản Sanh Tâm Địa Quán Kinh, đức Phật dạy: thế gian có bốn ân: Ân cha mẹ Ân chúng sinh Ân Quốc vương Ân Tam bảo Bốn ân này tất cả chúng sinh đều như nhau. Ân cha mẹ: cha có ân từ, mẹ có ân bi. Nếu Ta còn ở đời thì có trải qua một kiếp cũng không nói hết ân này. Ân chúng sinh: vô thỉ đến nay, tất cả chúng sinh luân chuyển trong năm đường, thay đổi là m cha mẹ đều có ân rất sâu nặng Ân Quốc vương: Quốc vương là người phước đức tối thắng, tuy sanh trong nhân gian nhưng được tự tại. Trời ba mươi ba thường dùng thần lực hộ trì cõi nước, núi sông, đất đai của Quốc vương. Cho nên Đại thnáh vương đem chính pháp giáo hóa là m cho chúng sanh đều được an lạc. Kinh Hoa Nghiêm dạy: đất nước mà có Vua thì dân được an lạc. Vua là cội nguồn an lạc của chúng sinh. Tại gia hay xuất gia chuyên tâm hành đạo đều nhờ Quốc vương mà được tồn tại. Việc khai hóa truyền bá nếu không nhờ năng lực của Vua thì công hạnh không thành, pháp diệt không còn, huống nữa là mong cứu tế lợi ích. Cho nên, một trong sáu phần của việc tu công đức là thuộc Quốc vương. Nguyện Vua mà lớn như núi, sự tôn sùng kiên cố thì Phật pháp khó hoại diệt. Kinh Tát Giá dạy: Vua là cha mẹ của muôn dân, dùng pháp để bảo hộ chúng sanh được an lạc. Lại nữa, khi lễ Phật thường nguyện chư Thiên, Long thần ủng hộ cho mưa thuận gió hòa, văn võ bá quan thường hưởng bổng lộc. Tây Vức ký chép: Đại thần là người trấn giữ đất nước, nông dân là m ra thực phẩm nuôi sống đất nước: không trấn giữ đất nước thì nguy, không ăn thì chết. Lại nữa, Phật pháp phó chúc Quốc vương, đại thần nên thường phải buộc tâm, chú nguyện. Ân Tam bảo: Phật, Pháp, Tăng bảo đầy đủ vô lượng thần thông biến hóa, lợi lạc hữu tình, không hề dừng nghỉ. Kinh chính Pháp Niệm dạy: Như Lai là bậc tối thắng nhất trong ba cõi, độ thoát sanh tử, ân này khó báo đáp được. Nếu đối với Phật pháp bằng tâm sâu xa, đắc bất hoại tín gọi là báo ân. Bài kệ trong kinh Hoa Nghiêm: Như Lai vô số kiếp Cần khổ vì chúng sinh Tại sao người thế gian Không báo đáp ân Ngài. Kinh Báo Ân dạy: cha mẹ là ruộng phước tối thắng nhất trong ba cõi. Luật Tỳ-nại-da dạy: cha mẹ đối với con cái có nhiều lao nhọc, bảo hộ, nuôi dưỡng, giúp cho bú mớm. Nếu như một vai cõng mẹ, một vai cõng cha trải qua trăm kiếp tự chịu nhiều khổ nhọc, hoặc đem bảy báu cúng dường để cha mẹ được giàu có, sung sướng cũng không báo đáp được ân cha mẹ. Nếu cha mẹ không có tín tâm mà khiến cho sanh khới tín tâm, hoặc không giữ giới mà là m cho giữ giới, hoặc keo kiết mà là m cho biết bố thí, hoặc không có trí tuệ mà là m cho có trí tuệ; con cái mà có khả năng như vậy mới gọi là báo ân. Kinh Bất Tư Nghì Quang dạy: chẳng phải đem phẩm vật ăn uống và của báu mà có thể báo đáp ân cha mẹ. Dẫn dắt hướng đến chính pháp chính là cúng dường cha mẹ. Trong luật Sa Di Tắc, đức Phật dạy: từ nay cho phép Tỳ-kheo suốt đời tận tâm cúng dường cha mẹ, nếu không cúng dường thì phạm tội trọng. Ta cho phép năm được miễn giữ giới để cúng dường cha mẹ, sư trưởng, thân giáo sư, quỹ phạm sư, người bệnh. Lại nữa, người xuất gia đối với cha mẹ phải nên cúng dường cung cấp, ngoài ba y ra thì các vật dư khác, hoặc xin nơi thí chủ, hoặc được Tăng chia phần, hoặc phần ăn thường có trong Tăng thì nên giảm bớt một nữa để cung dưỡng. Nếu vật thường khất thực thì cũng nên lấy một nữa phần của mình để nuôi dưỡng cha mẹ. Trong kinh Trung Tâm, đức Phật dạy: biết ân sư trưởng thì gặp sư trưởng liền phải hầu hạ, không gặp thì nên suy tư về lời dạy bảo như người con hiếu nghó đến cha mẹ, như người nghó đến việc ăn uốngv.v. kinh Đại Phương Quảng Bất Tư Nghì Cảnh Giới dạy: nên cúng dường cha mẹ, Hòa thượng, và những người đã giúp ích hoặc nhờ cậy ở thế gian. Đối với ân ấy nên nghó phải báo đáp gấp bội lần. Vì sao? Vì người biết ân tùy ở trong sanh tử cũng không mất thiện căn; người không biết báo ân thì thiện căn bị đoạn diệt. Do đó, chư Phật khen ngợi người biết báo ân. Có người hỏi: việc phụng sự bốn ân, đối với ân Quốc vương, cha mẹ thì có thể biết, còn ân sư trưởng và ân thí chủ thì sao? Đáp: người dạy kinh, luật, nghề nghiệp, hoặc bảo tránh ác là m là nh đều là sư trưởng. Sư là danh xưng của người dạy đạo. Nếu người đem tài vật cứu khổ giúp sự an lạc đều là thí chủ. Bố thí có ba loại: Tài thí: cho người tiền của Tâm thí: bằng tâm từ bi giúp người an lạc Pháp thí: thuyết pháp là m lợi ích cho người. Hiếu Sách Nhó nhã chép: khéo phụng sự cha mẹ là hiếu. Thụy Pháp chép: từ ái không biết khổ nhọc gọi là hiếu. Tạp Ký chép: dưỡng đức thuận lý, không nghịch thời thế gọi là hiếu. Trong kinh Tứ Thiên Vương, đức Phật bảo các đệ tử: các ông khéo giữ tâm niệm, không thọ năm dục, xả tình bỏ cấu, lấy sự không mong cầu là m đầu, bên trong thanh tịnh, bên ngoài phải hết lòng hiếu kính. Kinh Phạm Võng dạy: đức Phật ban đầu ngồi ở gốc cây Bồ-đề thành Vô Thượng chính Giác, đầu tiên kết giới Bồ-tát lấy việc hiếu thuận cha mẹ, sư tăng Tam bảo là pháp đạt đến đạo, hiếu gọi là giới. Kinh Vu Lan Bồn, đức Phật dạy Tỳ-kheo vì bảy đời cha mẹ mà thiết lập trai đàn cúng dường Phật và chư Tăng. Pháp Uyển dạy: trì giới tức là hạnh hiếu, nghĩa là tất cả chúng sinh đều đã từng là m cha mẹ, quyến thuộc nên nay trì giới không giết hại, không trộm cắp.v.v. gọi là hạnh hiếu. <詞>GIỚI THÚ Giới gồm ba cõi. Thú gồm sáu đường. Hựu pháp sư tự viết: ba cõi định vị, sáu đường phân chia, thô tế khác nhau, khổ vui sai biệt, quán nguồn gốc ấy không lìa sắc tâm, xét chỗ quy tụ đều là sanh diệt, sanh diệt luân hồi, đó là vô thường. Sắc tâm huyễn hóa, đó là gốc khổ nên dụ Niết bàn như biển cả, Pháp Hoa mới nói Thánh nhân siêu vượt nhà lửa, bỏ giả để trở về cội nguồn, ra khỏi ba cõi, sau đó vào đạo. Tam giới Giới là gì? Luận Du Già nói nghĩa giới là chủng tính, là nhân, là . Luận Bà Sa nói nghĩa giới là phân giả. Thanh luận nói nghĩa giới là thú. Luận Câu Xá nói nghĩa giới là chủng tộc. Do nhân quả không đồng nên có ba. Dục giới Dục có bốn loại: tình, sắc, thực, dâm dục. Vì cõi này mong cầu đầy đủ bốn dục nên gọi là dục giới. Ở đây có sáu tầng Trời: Tứ Thiên, Đao Lợi, Dạ Ma, Đâu Suất, Hóa Lạc, Tha Hóa Tự Tại. Sắc giới Luận Bà Sa chép: có sắc có thể thấy, có thể trình bày nên gọi là Sắc giới. Sắc giới có mười tám tầng Trời: Sơ thiền có ba cõi Trời: Phạm Chúng, Phạm Phụ, Đại Phạm; Nhị thiền có ba cõi Trời: Thiểu Quang, Vô Lượng Quang, Quang Âm; Tam thiền có ba cõi Trời: Thiểu Tịnh, Vô Lượng Tịnh, Biến Tịnh; Tứ thiền có chín cõi Trời: Phước Sanh, Quảng Quả, Vô Tưởng, Vô phiền, Vô Nhiệt, Thiện Hiện, Thiện Kiến, Sắc Cứu Cánh. Vô Sắc giới Luận Bà Sa viết: không sắc có thể thấy, có thể trình bày nên gọi là Vô sắc. Có bốn cõi Trời: Không Xứ, Thức Xứ, Vô Sở Hữu Xứ, Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ. Cửu địa Ngũ thú tạp cư địa Ly sanh hỷ lạc địa Định sanh hỷ lạc địa Ly sanh diệu lạc địa Xả niệm thanh tịnh địa Không xứ địa Thức xứ địa Vô sở hữu xứ địa Phi tưởng phi phi tưởng xứ địa Địa có bốn nghĩa: trụ, xứ, nhiếp, trị. Tam hữu Dục hữu, sắc hữu và vô sắc hữu. Hữu là gì? nghĩa là tất cả pháp hữu lậu. Do đó đức Phật nói: ng- hiệp có thể khiến cho đời sau nối tiếp là hữu. Lại nói vì sanh diệt nên gọi là hữu; rơi vào trong khổ, tập đế nên gọi là hữu. Nhị thập ngũ hữu Theo A-tỳ-đàm dạy: cõi Dục có mười bốn: bốn đường ác, bốn châu, sáu cõi Trời dục; cõi Sắc có bảy: bốn cõi Trời ở bốn tầng thiền, trong Sơ thiền có Đại Phạm thiên, trong Tứ thiền có Ngũ Tịnh Cư thiên và Vô Tưởng thiên; cõi Vô Sắêc có bốn: bốn định xứ. Pháp Uyển chép: chưa biết nghĩa hữu là gì nhưng trong Sơ thiền lập riêng là m hữu? Đáp: người ngoại đạo chấp vào thường cho rằng Đại Phạm Thiên Vương là chủ sanh ra vạn vật. Nếu ai là m trái thì bị sanh tử, là m thuận thì được giải thoát. Lại nữa, Địa Phạm Thiên Vương cũng tự chấp vài thân mình có thể là m chủ tạo hóa, là thường, là chân giải thoát. Đức Như Lai vì phá bỏ kiến chấp ấy nên lập ra một hữu. Lại nữa, Vô Tưởng Thiên vì các chúng sanh ở cõi Trời kia mà định thọ báo không thân năm trăm kiếp. Ngoại đạo chấp Niết bàn chân thật nên đức Như Lai muốn phá kiến chấp kia mà trình bày chẳng Niết bàn và lập riêng một hữu. Lại nữa, Ngũ Tịnh Cư Thiên là m chủ cõi Trời Ma Hê Thủ La. Ngoại đạo chấp đó là chủ tạo hóa, quay trở về tức đắc chân Niết bàn. Đức Phật vì muốn kiếp chấp kia nên lập ra một hữu. Lại nữa, cõi người ở trong bốn châu lập ra một hữu, nghĩa là chúng sinh ở trong bốn đường khổ nhiều, vui ít nên lập riêng ra một hữu. Cõi người hơn các cõi kia thì tham trước sâu dày. Do bốn châu thọ báo không đồng nên lập ra một hữu. Tam thiên đại thiên thế giới Là hóa cảnh của Phật Thích Ca Mâu Ni. Thế giới nghĩa là gì? Theo kinh Lăng Nghiêm: thế là biến đổi; giới là lập theo phương. Lại nữa, Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn góc, trên, dưới gọi là giới; quá khứ, hiện tại, vị lai gọi là thế. Theo Văn Thù Vấn kinh chép: có hai thế: chúng sanh thế tức tất cả chúng sinh; hành thế tức trụ xứ của chúng sinh. Kinh Trường A-hàm và kinh Khởi Thế Nhân bổn dạy: tâm địa bốn châu tức núi Tu di. Núi này có tám núi vây quanh bên ngoài. Có núi Đại Thiết Vi bao quanh và một ngày, một đêm Mặt trời, Mặt trăng xoay chuyển chiếu sáng khắp bốn châu thiên hạ gọi là một quốc độ; một ngàn quốc độ là một tiểu thiên thế giới; một ngàn tiểu thiên thế giới là một trung thiên thế giới; một ngàn trung thiên thế giới là một đại thiên thế giới; do ba ngàn đại thiên chồng chất nên gọi là ba ngàn đại thiên thế giới . Thú Tức năm đường: Trời, người, Địa ngục, Súc sanh, Ngạ quỷ. Còn A-tu-la có trong bốn đường nên nay khai thêm một đường gọi là sáu đường. Thú nghĩa là gì? Theo luận Tỳ-bà-sa nghĩa là chỗ đến: các loài hữu tình thích hợp sanh đến đó nên gọi là thú. Theo luận Tỳ-đàm nghĩa là hướng đến: nghiệp nhân thiện ác kia có thể khiến hữu tình đến sanh xứ ấy. Lại có nghĩa là con đường nên gọi là sáu đường. Thiên thú Luận Tỳ-bà-sa dạy: các đường tối thắng thì ánh sáng chiếu soi lẫn nhau như cõi Trời vậy. Luận Trí Độ dạy: có bốn tầng Trời: Sanh thiên: từ cõi Trời Tứ Thiên Vương trở lên Danh thiên: tức Vua gọi Thái tử Tịnh thiên: các Thánh nhân sanh trong loài người Sanh tịnh thiên: các Thánh nhân sanh ở cõi Trời. Sanh thiên nhân Kinh Nghiệp Báo Sai Biệt dạy: tu tập đầy đủ Thập thiện tăng thượng thì được sanh cõi Trời Tán Địa ở Dục giới; nếu tu Thập thiện hữu lậu tương ưng với định thì được sanh cõi Trời Sắc giới; nếu tu lìa sắc, lìa thân, khẩu tương ưng với định thì được sanh ở cõi Vô sắc. Theo kinh chính Pháp Niệm Xứ dạy: do ba điều thiện của việc trì giới không giết hại, không trộm cắp, không dâm dục nên được sanh ở cõi Trời. Kinh Biện Ý Trưởng Giả Tử dạy: có năm việc được sanh Thiên: Không giết hại sanh mạng, khiến cho chúng sinh được an lạc. Hiền lương, không trộm cắp, bố thí, không tham, cứu giúp những người nghèo, ăn xin. Trinh khiết, không phạm ngoại sắc nam nữ, tinh tấn giữ giới, trì trai. Thành tín không dối gạt, giữ bốn lỗi của miệng. Không uống rượu. Nhân thú Luận Đại Tỳ-bà-sa dạy: tiếng Phạm là mạt-nô-sa, do có khả năng dùng ý tư duy, quán sát để thực hành, hoặc quá kiêu mạn, hoặc ý tịch tịnh nên gọi là người. Luận A-tỳ-đàm dạy: vì sao cõi người lại gọi là ma-đồ-sa. Nó có tám nghĩa: Thông minh Tối thắng Ý vi tế chính giác Trí huệ tăng thượng Phân biệt hư thật Pháp khí Thánh đạo Thông minh nên là m chủ được nghiệp Nhân nhân Kinh Nghiệp Báo Sai Biệt dạy: do trước kia tạo nghiệp tăng thượng hạ phẩm, than, miệng ý tạo diệu hạnh nên sanh ở cõi người. Kinh Biện Ý dạy: có năm việc được sanh ở cõi người, được người tôn quý: Bố thí rộng khắp. Kính lễ Tam bảo và các bậc trưởng thượng Nhẫn nhục không sân Nhu hòa khiêm nhượng Nghe hiểu giới kinh. Lại nữa, có năm việc được sanh ở cõi người: Bố thí cho người nghèo Trì giới không phạm mười điều ác Nhẫn nhục không loạn động Tinh tấn khuyến hóa Hết lòng trung, hiếu. Có năm việc này thì được sanh trong cõi người, có phước, sống lâu, oai đức, đoan chính, được người kính ngưỡng. Lại có năm việc được sanh trong loài người nhưng thuộc hạng hèn hạ: Kiêu mạn Đối với cha mẹ thì cứng cõi không cung kính Buông lung, không kính lễ Tam bảo Trộm cắp là nghề sinh sống Nợ nần không trả Lại có năm việc được sanh trong loài người có hơi miệng thơm tho, thân tâm an lạc, được người khen ngợi, không bị chê bai: Chí thành không dối gạt người Tụng kinh Hộ giới Dạy người lánh ác là m là nh Không tìm lỗi của người Lại có năm việc được sanh trong loài người nhưng thường bị người chê bai, bị người oán ghét, thân hình xấu xí, tâm ý không an, thường luôn sợ hãi: Thường không chí thành, dối gạt người khác Thấy người thuyết pháp trong chúng hội mà chê bai họ. Thấy người đồng học thì khinh khi họ Không thấy việc của người khác mà chỉ muốn tạo ác Tranh cãi, đâm thọc. - Ở cõi người có ba điều tối thắng: Dõng mãnh Nhớ nghó Phạm hạnh Người có ba điều tối thắng này thì được sanh lên cõi Trời. Nhân đạo thập khổ Trong Bồ-tát Giới Kinh dạy: con người bị mười điều khổ bức bách: Sanh Già Bệnh Chết Sầu Oán Thọ khổ Ưu Não Luân chuyển - Nhân Thai Tạng Bát Vị Du Già luận dạy: Yết-la-giám: tợ như giọt sương Át- bộ-đàm: như sữa Bế-thi: như huyết đông Kiện-nam: tượng hình Bát-la-xa: chi phần hiện rõ Mao-phát-trảo-vị: hiện rõ lông, tóc, móng Căn-vị: các căn hiện rõ Bát-la-xa-khư: hiện rõ thân hình. Lại có mười giai đoạn: Giai đoạn màng mỏng Giai đoạn bọt nước Giai đoạn nước đọng Giai đoạn như cục thịt Giai đoạn đủ năm căn Giai đoạn trẻ thơ Giai đoạn đồng tử Giai đoạn thiếu niên Giai đoạn trưởng thành Giai đoạn già yếu Phàm phu Kinh Đại Oai Đức Đà-la-ni dạy: lưu chuyển mê hoặc trong sanh tử, trụ đạo bất chính nên gọi là phàm phu. Tiếng Phạm là Bà-la đọa ngôn mao đạo, nghĩa là thực hành với tâm bất định, giống như lông nhẹ bay theo hướng gió hoặc Đông, hoặc Tây. Lại có hai hạng phàm phu: Phàm phu trẻ nhỏ: không có trí tuệ Phàm phu ngu ám: ngu độn không thể dạy Luận Phật tính dạy: phàm phu lấy thân kiến là m tính Nhân hữu vi tứ tướng Theo kinh Trường A-hàm có bốn tướng hữu vi: Sanh: năm ấm cùng sanh khởi rồi có mạng căn Già: mạng sống gần hết, không biết còn bao lâu. Bệnh: các khổ bức bách, sự sống chết không có kỳ hạn. Tử: nghĩa là chấm dứt: trước phong, sau hỏa rồi đến các căn bại hoại, sống chết khác đường. Nhân gian tứ sự tất định biệt ly Kinh chính Pháp Niệm dạy: Thiếu niên An ổn Thọ mạng Giàu có Bốn pháp này nhất định phải xa lìa mà người trí thường tu quán sát vậy. Địa ngục thú Luận Lập Thế chép: tiếng Phạm là nê-lê-da, ở đây dịch là không được hỷ lạc. Luận Ty-bà-sa gọi là nê-lê-ca, Tần dịch là chỗ không nên đến. Luận Đại Tỳ-bà-sa gọi là nại-lạc-ca, ở đây dịch là không thể vui. Trong luận hỏi: thế nào gọi là nại-lạc-ca? Đáp: Vì trong ấy luôn bị ràng buộc nên gọi là nại-lạc-ca; vì các hữu tình không vui, không ái, không vị, không lợi, không hỷ lạc nên gọi là na-lạc-ca. nay gọi là Địa ngục. Địa là đáy, là dưới cùng, nghĩa là đối với vạn vật thì nó ở dưới cùng hết. Ngục là co quắp, nghĩa là bị trói co quắp, không được tự tại. Kinh Tam Pháp Độ Nhân dạy: Địa ngục có ba loại: Địa ngục nóng có mười tám sở. Địa ngục lạnh có mười tám sở Địa ngục vây quanh, lại gọi là khinh phược, lại gọi là cô độc lại có ba chỗ khác nhau: giữa núi, trong nước, ở đồng trống. Lạc Địa ngục nhân Luận Bà-sa dạy: do đời trước là m việc bạo ác mạnh mẽ, thân, miệng, ý nên là m hạnh ác nên nay sanh vào Địa ngục lạnh giá. Trong kinh Biện Ý dạy: có năm việc sau khi chết thì vào Địa ngục: Không tin Tam bảo và thường phỉ báng, khinh chê Thánh đạo. Phá hoại chùa Phật Thường luôn phỉ báng, không kể tội phước Không có kính thuận, không có đạo lý Vua tôi, cha mẹ Đã được vào đạo mà không nghe lời thầy chỉ dạy, lại cống cao ngã mạn, khinh bỉ thầy tổ. Súc sanh thú Luận Lập Thế chép: tiếng Phạm là để-lật-xa, ở đây dịch là Súc sanh. Theo luận Đại Tỳ-bà-sa thì gọi là Bàng sanh nghĩa là thân hình hôi hám. Súc sanh nhân Kinh Nghiệp Báo Sai Biệt dạy: tạo đủ mười nghiệp thì sanh vào Súc sanh: Thân là m ác Miệng nói ác Ý nghó ác Từ tâm tham mà là m việc ác Từ tâm sân mà là m việc ác Từ tâm si mà là m việc ác Hủy nhục chúng sinh Não hại chúng sinh Cho vật bất tịnh Tà dâm Kinh Biện Ý dạy: có năm việc thì sanh vào Súc sanh: Phạm giới ăn trộm Nợ nần mà không trả Giết hại Không muốn nghe thọ kinh pháp Thường gây khó khăn với trai hội Tam đồ Tây Vức ký dạy: thơ Xuan Thu có ba đường là chỗ nguy hiểm nên xưa đã dùng danh từ này vậy. Đồ nghĩa là con đường, chẳng phải nghĩa lầm than. Nếu theo tiếng Phạm là a-ba-na-già-đê, ở đây dịch là đường ác. Đạo sự thật là nhân do hành vi đã tạo ra. Bát nạn Địa ngục Ngạ quỷ Súc sanh Châu Bắc Vô Tưởng thiên Sanh trước Phật hoặc sau Phật Thế trí biện thông Mù, điếc, câm, ngọng Tu-la thú Kinh Hải Long Vương gọi là a-tu-luân, ở đây gọi là vô thiện thần. Đại Tỳ-bà-sa gọi là A-tố-lạc, ở đây gọi là phi thiên. Lại nữa Tố-lạc nghĩa là đoan chính; A nghĩa là không, nghĩa là thân hình không đoan chính. Kinh Lăng Nghiêm dạy: hoặc ở trong loài quỷ nhờ có năng lực hộ trì chính pháp, tự tại nhập không, được sanh ra bằng trứng thuộc vào loài quỷ; hoặc ở trong cõi Trời thiếu đức nên bị rơi vào nơi ấy, ở gần Mặt trời, Mặt trăng, được sanh ra bằng thai thuộc vào loài người; hoặc có năng lực giữ gìn thế giới, không có sợ hãi, thường cùng tranh quyền với Phạm vương và Thiên Đế Thích, Tứ thiên vương, nhân biến hóa mà sanh trong cõi Trời, có một hạng thấp kém sanh ở trong biển lớn, chìm đắm trong nước, sớm dạo hư không, tối về nước ngủ, do sanh ở chỗ ẩm thấp nên thuộc vào loài Súc sanh. Tu la nhân Đa số trong các kinh, luận đều nói do ba nhân: sân, mạn và nghi nên sanh trong loài Tu la. Diêm la vương Tiếng Phạm là Diêm-ma-la, ở đây dịch là ngăn chặn, nghĩa là ngăn chặn không cho là m các việc ác. Trong luận Du Già, hỏi: Vua Diêm ma có khả năng là m tổn hại, có khả năng là m lợi ích nên gọi là pháp vương? Đáp: do là m lợi ích cho các chúng sinh nên các chúng sinh nghó nhớ đến Vua thì Vua liền hiện thân giống như họ và bảo: “Các người đã tự tạo nhân nào thì nhận lấy quả ấy; do cảm ứng với Địa ngục, ng- hiệp mới lại không tích chứa nên khi hết nghiệp thì được thoát khỏi Địa ngục. Do đó, Diêm ma có khả năng là m lợi ích chúng sinh nên gọi là pháp vương. chúng sinh Tiếng Phạm là Bộc-hô-thiện-na, ở đây dịch là chúng sinh, nghĩa là nhờ các duyên mà sanh ra. Hựu pháp sư dạy: gồm nhiều duyên mà sanh ra ở đời nên gọi là chúng sinh. Tam tạng đời Đường dịch là hữu tình, nghĩa là tất cả vật vô tình đều do các duyên giả hợp mà sanh ra, nay lược bỏ vô tình nên nói hữu tình. Kinh Chứng Khế Đại Thừa, hỏi: chúng sinh nghĩa là gì? Đức Phật dạy: là tình và tưởng hòa hợp, đó là địa, thủy, hỏa, phong, không, thức, danh, sắc, giới, nhập duyên khởi và nhân, nghiệp, quả hợp lại mà sanh ra. Tất cả chúng sanh lấy vô minh là m căn bản, do ái nên đọa lạc luân hồi. Tâm Tiếng Phạm là chất-đa, hoặc gọi là tức-đa, ở đây dịch nghĩa là duyên lự. Luận Duy Thức dạy: tập khởi gọi là tâm, tức tám thức. Bài kệ trong kinh Trung Ấm dạy: Tâm là gốc căn bản Thiện, ác tùy theo tâm Hành thiện đến cõi là nh Là m ác đọa đường ác. Kinh chính Pháp Niệm Xứ dạy: Hành là m chủ các pháp Đích thực là tâm vậy Lại nói: Pháp thiện và bất thiện Tâm là gốc căn bản. Tâm địa: Đức Phật dạy trong ba cõi đều do tâm là m chủ. tâm của chúng sanh như đất; ngũ cốc và hoa quả đều từ đất mà sanh ra. Cũng vậy, tâm pháp sanh ra thế gian và xuất thế gian, thiện, ác, năm đường, ba thừa. Do nhân duyên đó, ba cõi đều do tâm nên gọi là tâm địa <詞>CHÍ HỌC Học nghĩa là bắt chước. Bạch Hổ Thông nói: “Học là bắt chước để hiểu biết những điều chưa biết”. Trung luận dạy: bậc quân tử ngày xưa thành tựu đức độ mới ra lập nghiệp. Dù thân bị mai một nhưng danh thì bất hủ. Vì sao? Vì những bậc học giả lấy thần để thấu đạt, lấy tình để trị tính là nhiệm vụ quan trọng của bậc Thánh nhân. Học như vật trang sức, không có vật trang sức thì người xem không thấy đẹp. Người không học thì không có đức hoan hỷ. Chí là học theo bậc thầy. Học giả lo chí khí mình không kiên cố. Tăng Sử lược chép: đối với việc học thì sự sự mênh mông, có những điều không thể biết đến được, bởi sự thiếu khuyết vậy. Các cao tăng ở đây có thể nhiếp phục các giáo phái khác đều do sự học hỏi uyên bác vậy. Nhị học Trong Tỳ-nại-da, đức Phật dạy có hai hạng học nghiệp: đọc tụng và thiền tư. Theo Sao chép: năm hạ trở xuống thì phải nương theo thầy để học luật tạng. Năm hạ trở lên thì tự học pháp vô nhân ngã. Tam học Luật Tăng Kỳ dạy: học có ba hạng: Tăng thượng giới học. Tăng thượng định học Tăng thượng tuệ học. Lại nữa, học có ba hạng: kinh, luật, luận. Khai ngoại học Trong Tỳ-nại-da, do Xá Lợi Phất nhiếp phục hết thảy các phái ngoại đạo. Do đó đức Phật cho phép Tỳ-kheo học luận bên ngoài nhưng phải là bậc thông minh, nhớ dai thì mới có thể phân một ngày ra là m ba thời: hai thời sáng, trưa đọc tụng kinh Phật, đến chiều tối đọc sách bên ngoài. Cho nên trong Kỳ Viên có thư viện. Trong ấy an trí đủ các văn thư khác nhau của đại thiên giới. đức Phật cho các Tỳ-kheo đọc để chế phục ngoại đạo, nhưng không cho nương theo kiến giải ấy. Luận Địa Trì dạy: néu có người thông minh trí tuệ, thọ học mau lẹ thì trong ngày thường dùng hai thời học Phật pháp, một thời học kinh sách ngoại đạo. Học thư Luật Ngũ Phần dạy: Tỳ-kheo không biết thư ký, đức Phật cho phép học, không được vì muốn đẹp mà phế bỏ đạo nghiệp. Nhị trí Kinh Bát nhã dạy: thiền học là khai trí; giảng học là diễn trí. Thị nhục Trong Pháp Uyển, Trang Tử nói: người mà không học thì như cục thịt; học mà không hành thì như cái đảy rách. Phủ khố Cao tăng Tăng Phạm đời Tề thông hiểu các kinh sách nên hiệu là phủ khố. Trí nan Ngô Chi Khiêm, tự là Cung Minh, hiệu là Trí Nan. Theo Cao Tăng truyện, ba ngàn tăng ở chùa Kỳ hoàn đều hiệu Trang pháp sư tức là túi trí. nghĩa long Cao tăng Huệ Vinh đời Trần giảng giải rành rẽ ở khắp nơi nên hiệu là nghĩa Long. nghĩa hổ Cao tăng Đạo Quang ở Giang Đông nghiên cứu thấu suốt tận cùng nghĩa lý nên hiệu là nghĩa Hổ. Luật hổ Cao tăng Pháp Nguyện thông suốt tạng luật, ngôn từ biện luận sáng tỏ những câu nạn vấn của đối thủ nên hiệu là Luật Hổ Tăng anh Cao tăng Trí Diễm cùng với pháp sư An và tam tạng Biến Tri kết giao, tuệ giải đáp ứng với đối thủ nên hiệu là Tam Anh. Tăng kiệt Cao tăng Tăng Tuệ cùng với pháp sư Xướng thường giảng về tam tạng nên hiệu là Nhị Kiệt. Cao tăng Kính Thoát đời Đường hiệu là Tăng Kiệt. Di thiên thích Pháp sư Đạo An ở Tương Dương, nhan tu tập đã rành rỏi gặp Xỉ đến, nói: “Bốn biển đều rạch ròi”. Xỉ đáp: “Thích Đạo An dời Trời” Thích môn thiên lý câu Trường An và Thường Biện là hai pháp sư tài trí nhất, thường khen pháp sư Trang: “Ông xứng đáng là bậc tài trí nhất trong dòng họ Thích”. nghĩa thiên Luận Bà Sa dạy: hiểu rõ nghĩa các pháp, thấy nghĩa không của các pháp gọi là nghĩa Thiên. Học hải Cao tăng Đàm Hiển ở Sơn Đông, Giang Biểu hiệu là Học Hải. Kinh tứ pháp tướng Cùng với năm học giả ở Ấn Độ đều xứng danh là pháp sư nỗi tiếng. Thích môn hô liễn Pháp sư Hổ Khưu Tuệ Tụ đời Tùy hành hóa ở Nam châu được sự khen ngợi. Huệ uyển lâm trịnh Là hiệu của cao tăng Chí Niệm đời Tùy, bậc hữu học có danh tiếng thời bấy giờ. Tả bình truyền khí Kinh dạy: A Nan lãnh thọ Phật pháp như rót nước từ bình này sang bình khác, hoàn toàn không có đổi khác. Bình thì có nhiều loại khác nhau nhưng nước thì không khác. Truyền đăng Triệu pháp sư nói: tự tại hành hóa ở kia tức tăng thêm công đức và ánh sáng chính pháp không dứt, cũng gọi là đèn sáng vô tận. Đầu châm Tây Vức ký chép: Ca-na-Đề-bà là vị tổ thứ mười lăm ở Tây Thiên, ban đầu đến yết kiến, Long Mãnh Thủy sai đệ tử hướng dẫn. Đề-bà thấy vậy im lặng lấy cây kim ném, người đệ tử kia liền chụp lấy cây kim ném lại. Long Mãnh hỏi: “Người kia nói gì?”. Đáp: “Chỉ im lặng mà ném kim”. Long Mãnh nói: “Đó là bậc trí tuệ, người mau dẫn vào trong chúng hội” Tam tuyệt Cao tăng Pháp An, thân cao tám mét, có ba điều kỳ tuyệt: Oai phong đặc biệt Giải nghĩa cùng thâm Tinh tấn thanh bạch Tứ tuyệt Cao tăng Hồng Yển học vấn uyên bác cả nội điển lẫn ngoại điển. Những tác phẩm mà cao tăng trước tác đều niêm phong nhập vào lầu các bí mật. Bấy giờ gọi là tứ tuyệt: mạo, nghĩa, thi, thư. Ngũ bị La Thập trả lời với pháp sư Viễn: tài sản có năm thứ dự sẵn: phước, giới, bác văn, biện tài, thâm trí. Nếu có đủ năm thứ ấy là bậc đạo long. Nếu chưa đủ đó là trì trệ. Nhân giả dự sẵn các thứ ấy chứ. Bát bị Pháp sư Ngạn Tông đời Tùy nói: tham gia vào việc phiên dịch có tám điều dự sẵn và có đủ mười điều: Thành tâm thọ pháp, với chí hướng lợi người Thực hành theo pháp thù thắng, giữ giới bền chặc Thông suốt ba tạng, rõ nghĩa năm thừa. Nương theo văn sử gắn liền với điển từ, không quá vụng về. Vững tâm tha thứ, độ lượng, bao dung, không quá chuyên chấp, chìm trong đạo thuật, chẳng màng đến danh lợi, không có cao ngạo. Phải biết tiếng Phạm Không rơi vào việc học vấn Uyên bác từng trải, giỏi về văn chương, rành âm thô nhã. Mười điều: Câu, vần Hỏi đáp Danh nghĩa Kinh luận Ca tụng Chú thuật Phẩm đề Chuyên nghiệp Bộ chữ Thanh chữ Nhân nhân hiển danh Pháp sư Cáo Hữu đời tấn từ Vónh Gia đến Giang Tả gặp thừa tướng của Vua. Đạo Nhất thấy sự việc kỳ lạ, liền cho là m đồ đệ của mình. Do đó mà hiển danh. Chỉ quý như ngọc Cao tăng Vô Cấu Nhãn, lại gọi là luật sư Thanh Nhãn, ban đầu dịch luật Thập Tụng. Tăng ni kinh thành tranh nhau ấn tống luật. Ngạn nói: “ Đều phải nhờ người viết lại rõ ràng, chỉ quý như ngọc. Phiêu lãnh Tăng Duệ năm hai mươi hai tuổi đã uyên bác về kinh, luận, thiền quán, có khả năng giảng thuyết. Ty đồ Diêu Sùng tôn trọng ông ta. Lúc ấy, Diêu Hưng chưa biết nên hỏi Diêu Sùng: “ Tăng Duệ như thế nào?”. Diêu Sùng nói: “Như cây tùng, cây bách”. Đến lúc gặp mặt hỏi han luận bàn mới biết là pháp khí biện tài. Diêu Hưng nói: “ Đúng là tư hải phiêu lãnh” Lãnh thần Cao tăng Huệ Ước học hỏi thấu đạt tận cùng cả nội điển lẫn ngoại điển sao còn không được kính trọng? Lúc Cánh Lục Văn Tuyên Vương đi tuần xét ở Vũ Huyệt, có tăng só nỗi tiếng tại tòa thuyết pháp, xem ra đang còn trẻ tuổi. Vua thấy rồi liền khiêm cung hết lễ, quần chúng thấy vậy thì không vui. Vua nói: “Bậc thượng só này chính là lãnh thần dòng họ Thích” Bát đạt Cao tăng Chi Học Long uyên bác cả nội điển lẫn ngoại điển. Các danh só như Nguyễn Đảm.v.v. đều coi cao tăng như tri kỷ nên gọi là Bát Đạt. Bát năng Cao tăng Chân Quán có tám khả năng: đạo, thư, thi, biện, lễ mạo, thanh, kỳ(cờ tướng). Biện đỉnh Đạo An hiệu là Thích Di Thiên, học thông cả nội điển lẫn ngoại điển. Nơi bức phù liên ở ruộng chùa có một cái đỉnh lớn, một bên có chữ Triện. Người triều đình không biết mới hỏi Đạo An. Đạo An nói: “Lỗ Tương Công đã đúc cái đỉnh này. Kiên Sắc tam quán có nghi ngờ gì đều hỏi Đạo An. Đảm bút Cao Tăng Kính Duyệt lúc đi du học cầm cây bút dài bằng ba cánh tay. Có người xin thơ, chữ lớn, chữ nhỏ đều tùy theo cây bút mà có, chư hoàn toàn không do sư tạo ra. Người ngắm không nhàm chán. Khôi hài thượng thủ Chi Thuần tự là Đạo Lâm. Tần Ai Đế thỉnh mời đến chùa Đông An. Khích Siêu, Tôn Xước.v.v. các danh só đều giao du bên ngoài. Một hôm vào trong thất mới biết được Chi Thuần là người khôi hài bậc nhất. nghĩa giải danh tri Cao tăng Pháp Khai dùng nghĩa giải biết tên thiên hạ, cùng kết giao với Tạ An Vương.v.v. là m bạn văn học. Tôn Xước nói: “Thông suốt cả nội điển lẫn ngoại điển, tài hoa phong phú, tất cả những điều ấy đều có ở nơi Pháp Khai. Hàn tùng Huệ Long học hỏi thấu cùng nghĩa lý. Vào thời Tống đa số bạn bè là các bậc danh hiền, mà khí tiết dung mạo Huệ Long như cây tùng vào mùa rét. Lúc ấy, Chu Khỏa coi pháp sư Huệ Long như sương rơi trên tùng, trúc; lá rụng giữa rừng thưa. Bích vân Huệ hưu họ Thang, là vị quan phong nhã, thường ngâm thơ, sớm tối hợp Bích Vân, giai nhân mãi chưa đến Lập tuyết Tổ thứ hai ở Trung Quốc tên là Thần Quang, còn gọi là Huệ Khả, ban đầu đến tham yết Đạt Ma thì tổ phải đứng trong tuyết. Tản bị Cao tăng Huệ Thiều học với Xước công, giữ phận nghèo ở nhà chuyên viết sách luận, chịu lạnh nghe giảng, hiểu rõ văn nghĩa. Ủng trần Đạo Siêu chịu khổ học hành, ở riêng một thất, dùng kinh điển của Nho Phật xoay quanh tòa ngồi, tay không rời sách, bụi đất đầy phòng. Lúc ấy, trung thư Ngô Quần hỏi: “Trùng kêu bụi đầy, sao không vui?”. Đạo Siêu đáp: “Tiếng trùng vang vọng ở khắp nơi, bụi đất đầy phòng chưa rỗi quét”. Nghó thư Cao tăng Pháp Nhã thông thạo cả nội điển lẫn ngoại điển. Nhiều học só đến tham học người dùng nghĩa kinh giải thích, rồi mới dùng sách ngoài để cắt nghĩa. Đức hương Hương vi diệu có ba loại: hương đa văn, hương giới, hương thí. Ba loại hương này dù thuận gió hay nghịch gió đều nghe mùi thơm tối thắng không gì sánh bằng. Đạo phong Truyện Bảo Lâm chép: Tổ sư Nan Đề đến ở nước Ma Đề. Một hôm có ngọn gió từ phương Tây thổi đến, Tổ nói: “Gió thổi đường này, chắc có đạo nhân đến”. Quả nhiên Già Da Xá Đa đến. Biến giới Pháp Uyển chép: năm thứ ba niên hiệu Hoằng Thủy, Diêu Hưng trồng hành trong vườn. Một hôm nó đều biến thành kiệu. Ông ta đoán: “Chắc có người trí đến”. Quả đúng là pháp sư La Thập đến. Học giả nhị hoạn Pháp sư Triệu nói: “Tuy hiểu nghĩa sâu xa nhưng chưa dụng tâm, tôn trọng mình, khinh mạn người thì không có ích gì. Đây là mối lo bên ngoài của học giả. Nhờ sự hiểu biết ấy lại chấp vào tướng phân biệt, tuy nói là thông hiểu nhưng chưa hợp với sự thông hiểu chân thật. Đây là mối lo bên trong của học giả. Vô tiền quyết hóa Pháp Uyển chép: Luận Hành nói: “Trong tay không có tiền mà đến chợ mua hàng hóa thì chủ hàng dứt khoát không bán. Trong tâm không có học thì cũng giống như trong tay không có tiền”. Bỉnh chúc Trong sách Pháp Uyển, Tần Bình Công hỏi sư Khoáng: tôi đã bảy mươi tuổi mà muốn học, e muộn quá rồi?”. Đáp: muộn rồi sao không thắp sáng sáng ngọn nến lên. Thần nghe: “Nhỏ mà học là như ánh Mặt trời mới mọc. Đến lúc trai tráng mà học thì như ánh sáng Mặt trời giữa trưa. Già mà học thì như ánh sáng của ngọn nến. Ai mà cùng đi với người mê? Bình Công nói: hay thay. Giới Pháp Uyển chép: nay có người học hành nông cạn lại tự cho mình là bậc xuất chúng, rồi khởi tâm kiêu mạn, phóng đảng, hủy diệt tất cả, tung hoành khắp Trời đất, ngồi ngông ngáo trước mặt sư trưởng, đứng quát tháo bên cạnh tôn sư. Gốc đạo là hòa hợp; cung kính thuận phục là Tăng. Tâm đã trái nghịch như thế thì đâu thành ngôi báu. Hãy cẩn thận thay!  THÍCH THỊ YẾU LÃM <卷>QUYỂN HẠ Thuyết thính- Táo tịnh-Tránh nhẫn--Trạch hữu--Tạp kỷ-Chiêm bệnh-Tống chung. <詞>THUYẾT THÍNH Thuyết Luật Tỳ-nại-da dạy: thuyết nghĩa là khai hóa hướng dẫn, nay gọi là giảng. Thuyết văn nói: giảng hòa với giải, luận bàn. Quảng Nhã gọi là đọc. Vua Cố Dã nói: giải nói là đàm luận, giáo huấn vậy. Thính Luận Duy Thức cho rằng: nhó căn tiếp xúc, thức lãnh thọ gọi là thính, tức là ý suy nghó thuộc về nhó căn. Pháp uyển nói: có ba phẩm: dùng thần nghe là thượng căn; dùng tâm nghe là trung căn; dùng tai nghe là hạ căn. Thuyết thính nhị nạn Luận Trung Quán dạy: chân pháp hợp với người thuyết, người nghe rất khó có được. Kinh Niết bàn dạy: 1. Ưa nói pháp là khó; 2.Ưa nghe pháp là khó. Pháp sư thăng cao tòa Luận Thập Trụ Bà Sa dạy: muốn thăng tòa thuyết pháp thì trước tiên phải cung kính lễ đại chúng, sau đó mới thăng tòa. Pháp sư tâm Kinh Đại Pháp Cự Đà-la-ni dạy: là pháp sư thì phải dụng tâm suy nghó: “Chỗ ngồi của ta bây giờ là tòa sư tử của Như Lai nên yên tónh từ mẫn, ái ngữ, khiêm hạ, bảo hộ tâm đại chúng. Nếu ôm lòng sân giận, ganh tî, tâm chấp hơn thua thì mắc tội nặng. Từ tâm thuyết pháp thì được công đức lớn, có thể là m cho Phật pháp tồn tại lâu dài ở đời, hễ sanh đến chỗ nào cũng thường được gặp Phật. Nếu được hưởng thọ tất cả các sự cúng dường, phải biết hổ thẹn, chớ sanh tâm tham, không được ngã mạn, không là m mất đi thiện căn của thí chủ. Pháp sư bát chủng ngôn Luận Du Già dạy: tám ngôn từ của pháp sư: Lời hỷ lạc Khéo khai sáng Biết nạn vấn Khéo phân biệt Khéo tùy thuận Biết dùng dẫn chứng Biện tài thù thắng Tùy theo tông phái Ngữ hữu bát chi Luận Hiển Dương dạy: đáp lại có tám chi: Lời tốt đẹp Rõ ràng Dễ hiểu Người muốn nghe Không mong cầu Lời như thật Khéo dùng phương tiện Lời tối thượng Thuyết giả quá lỗi Kinh Phật Tạng dạy: tự mình chưa chứng biết pháp mà ngồi trên tòa giảng pháp cho người nghe thì đọa Địa ngục. Luật Thập Tụng dạy: nếu tự mình chưa hiểu rõ, có chỗ nghi ngờ giáo pháp thì không được giảng nói cho người nghe, sợ có chỗ sai lầm, lưu truyền sai quấy, tất cả đều mắc tội. Kinh Pháp Hoa dạy: có người đối với pháp sâu xa thì sanh tâm bỏn xẻn; có khả năng giáo hóa mà không thuyết giảng cho người nghe; hoặc có người khi được lợi dưỡng, cung kính,cúng dường thì dù có phi pháp mà vẫn gượng thuyết. Tự đại kiêu nhân Kinh Vị Tằng Hữu dạy: nếu có được chút ít phước đức mà tự đại, kiêu mạn với người thì cũng giống như người mù cầm đuốc mà tự họ không được trông thấy. Hộ thuyết tam ích Luận Thập Địa dạy: thuyết pháp lợi người có ba thời: Lúc nghe Lúc tu hành Lúc chuyển sanh nh: Thuyết giả ngũ phúc báo Kinh Hiền Giả Ngũ Phúc dạy: thuyết pháp được năm điều tốt là Sống lâu, vì người nghe pháp rồi thì không giết hại Giàu sang, vì người nghe pháp rồi thì không trộm cắp Đoan chính, vì người nghe pháp rồi thì luôn hòa vui Danh dự, vì người nghe pháp rồi thì biết quy y Tam bảo Thông minh, vì người nghe pháp rồi thì thông hiểu sáng tỏ. Giảng đường chế Kinh Phật Bản Hạnh dạy: lúc bấy giờ, các Tỳ-kheo tập hợp trong một giảng đường nghe hai Tỳ-kheo thuyết pháp nên chướng ngại nhau. Họ liền chia ra hai giảng đường nhưng vì gần kề nhau nên họ lần lượt đi qua lại lộn xộn là m loạn động chúng. Do đó, đức Phật dạy: từ nay về sau không được thuyết trong cùng một giảng đường, hoặc hai giảng đường gần kề nhau; người nghe pháp bên giảng đường này cũng không được sang giảng đường kia, người nghe pháp bên giảng đường kia cũng không được sang giảng đường này; không được chê bai pháp môn nào. Giảng đường trí Phật tượng Kinh Đại Pháp Cự Đà-la-ni dạy: khi pháp sư thuyết pháp, có nữ La-sát tên là Ái Dục thường đến mê hoặc là m tâm pháp sư tán loạn. Cho nên, chỗ thuyết pháp thường phải an trí tượng Như Lai, dùng hương hoa cúng dường chớ có bỏ bê. Nữ La-sát kia trông thấy rồi thì sẽ mê loạn, không thể là m chướng ngại. Giảng xứ niệm kinh Pháp sư Tăng Yến đời Lương giảng nói trong chúng: xưa kia Di Thiên Đạo An mỗi lần thuyết giảng, ở sau pháp tòa thường bảo Đô Giảng khiến cho các hàm linh được nghe kinh. Sự việc này lâu ngày rồi phế bỏ đi. Vì muốn giáo hóa đại chúng nên các nơi đều tụng kinh Quán Âm một quyển. Do đó, tất cả chỗ có giảng kinh đều như thế, xa gần cùng tụng tập, nay thì niệm Phật. Học tứ Tứ: là bày biện hàng hóa để mua bán. Do vào đời Hậu Hán, Trương Khai học trò Tự Siêu tùy tùng đến ở chợ nên nay chỗ học gọi là tứ. Tỉnh Giòng họ Thích gọi học viện là tỉnh. Cao tăng truyện chép: Phật Đà Da Xá lần đầu đến. Diêu Hưng lập tỉnh mới riêng biệt để tiếp đãi ở vườn Tiêu Diêu, chú âm là tỉnh thự. Giáng trướng Giáng là màu đỏ. Sách Phạm, Hoa đời Hậu Hán chép: Mã Dung Đạt bình sanh tính khí nho nhã thường ở tòa cao để viết trên bức trướng đỏ. Đồ chúng theo học trước đây, về sau đều gọi là bức trướng của họ Mã. Lại nữa, sách đời Tấn chép: Tuyên Văn Quân Tống Thị tức là mẹ Vi Sính tạo lập giảng đường, dùng màn lụa đỏ để ngăn cách đồ chúng khinh mạn. Long môn Cao tăng Huệ Trì là em pháp sư Viễn tính cách thanh tú, giải ha- ïnh tinh cao, thâu nhận đồ chúng đến ngàn người. Phàm những lúc thăng đường thuyết pháp, hoặc nhập thất thì đều gọi là lên cửa rồng. Trù thất Bảo lâm truyện chép: Ưu Ba Cúc Đa là vị Tổ thứ năm ở Tây Thiên, có cái thất bằng đá, bề dài mười tám khủy tay, bề rộng mười hai khủy tay. Những người đến thọ học có một vị đắc đạo, Tổ liến ném một cái thẻ tre bốn tấc ở trong thất. Đến lúc thẻ ném đầy thất, Ưu Ba Cúc Đa diệt độ liền lấy thẻ trong thất đem đi trà tỳ. Hàm trượng Khúc lễ chép: khách chẳng ăn uống trong chiếu rộng mười thước. Đô giảng Tức pháp sư người Đối Dương. Mẹ Lương Võ Đế mỗi lần thỉnh sư đến giảng kinh ở chùa Chỉ Viên đều sai Pháp Bưu hầu Đô Giảng. Bưu trình qua Võ Đế rồi mới đánh trống lúc hùng hồn, lúc thanh thoát tùy theo từng câu hỏi đáp. Đời Tấn, Chi Thuần đến nước Việt, nhà Vua thỉnh sư giảng kinh Duy Ma, sai Hứu Tuân hầu Đô Giảng. Tuân hỏi một câu. Đại chúng đều cho rằng sư không đáp được. Chi Thuần đáp một nghĩa, đại chúng cho rằng Tuân không thể hỏi vặn lại được. Nay đối với Đô Giảng thì chỉ có xướng kinh văn mà bỏ việc hỏi đáp công kích. Giảng tăng thỉ Giảng kinh: tức vào thời Tào Ngụy, Chu Só Hành giảng đạo hạnh Bát nhã đầu tiên. Ni giảng: vào đời Đông Tấn, Đạo Hinh giảng hai kinh: Pháp Hoa, Duy Ma đầu tiên. Giảng luật: vào đời Nguyên Ngụy, Thế Pháp Thông giảng luật đầu tiên. Thông chỉ xem lướt qua là đã phô dương được cả luật Tứ Phần. Có môn nhân Đạo Phú vừa nghe, vừa chép dần dần tạp hợp hành sớ sao. Giảng luận: tức La Thập truyền trao cho pháp sư Tung luận Thành Thật lần đầu tiên. Pháp khí Luận Quảng Bách dạy: phải đủ ba đức mới gọi là pháp khí: Bẩm tính nhu hòa, không có thiên vị, thường tự thẩm sát, không tham lợi về mình. Thường muốn thông hiểu, cầu pháp không chán, không bảo thủ mình mà phải hoan hỷ Vì tính thông tuệ, đối với lời nói thiện hay ác thì hiểu biết chính đáng, phân biệt được mất. Nếu không như thế thì dù có ba đức mà thầy trò đều không có lợi ích. Nhân trung sư tử Lời bạt của kinh Trị Thiền chép: phái Đại thừa ở Thiên Trúc có Sa-môn Phật-đà-Tư-na là bậc thiên tài kỳ đặc, là người học hiểu rộng các sách nội điển và ngoại điển của các nước, không sách nào mà Sa- môn không học đến. Người đời đều gọi là nhân trung sư tử. Pháp tượng Đời Tề, Cao tăng Tăng Ấn giảng rành rành về kinh,luận nên gọi là Pháp Tượng. nghĩa thiếu Pháp An mới mười tám tuổi mà đã giảng kinh Niết bàn. Trương Vónh hỏi đến tuổi tác, rồi khen: xưa có Phù Phong Chu Bột mới mười hai tuổi mà đã là m thơ nên mọi người gọi là thần đồng. Nay Pháp An có thể gọi là nghĩa thiếu. Tứ hải luận chủ Là danh xưng của cao tăng Kính Thoát vào đời Tùy. Tam quốc luận sư Là hiệu của Tăng Xán, đời Tề Tỳ-đàm khổng tử Đời Tây Tần, Huệ Tung khéo giảng luận A-tỳ-đàm, được người tôn trọng nên có hiệu Khổng tử Tỳ-đàm. Thọ quang học só. Đời Lương, Huệ Siêu học kinh, luận, hiểu rõ, thông đạt, uyên bác cả nội điển lẫn ngoại điển. Do đó, Võ Đế ban cho hiệu là thọ quang điện học só. Kinh luật nguyên tượng Đời Lương, Tăng Thạnh giảng các kinh, luận là thời nguyên tượng, đặc tinh nên các đạo Nho đều khiếp sợ. Bồ-tát giới sư Huệ Xước là giới sư của Lương Võ Đế. Giảng kinh thiên hoa đọa Đời Lương, Pháp Vân giảng kinh thì hoa Trời rơi xuống. Lại nữa vào đời Đường, lúc Đạo Tông giảng kinh ở chùa Thắng Quang-Tây kinh, hoa Trời liền xoay quanh giảng đường, rồi bay vào cửa nhưng không héo, một lúc sau thì biến mất. Thuyết luật sơn phong lạc Trí Văn giảng luật rất hay nên mới nâng lông nai thì hai ngọn núi đều sụp đổ. Thông minh thích tử La Thập nói với Diêu Hưng: Dung là người thông minh của dòng họ Thích. Phiêu biểu đạo nhân Diêu Hưng lễ trọng Đàm Ảnh vì thấy sư siêu việt nhất trong nhóm kẻ só nên thường nói với La Thập: “Pháp sư Đàm Ảnh là đạo nhân phong lưu tiêu biêu trong nước này vậy” Ưu thưởng Tây Vức ký chép: giảng thông suốt một bộ luật mới được miễn là m tri sự; giảng hai bộ luật thì cho thêm phòng ở và đồ dùng; giảng ba bộ luật thì ban thêm sai người hầu cận, phụng sự; giảng bốn bộ luật thì ban thêm tịnh nhân; giảng năm bộ luật thì ban thêm xe cộ. Kim sư tử tòa Đời Tần gọi Cưu Ma La Thập là Đồng Thọ. Xưa kia, Vua Quy Tư là m tòa sư tử bằng vàng, Đại Tần trải nệm gấm bằng phẳng rồi thỉnh La Thập ngồi thuyết pháp. Học giả vì tứ sự đọa lạc Kinh Pháp Luật Tam muội dạy: Học mà không biết dùng phương tiện khéo léo, khinh mạn thầy, bạn, không có nhất tâm, ý luôn thay đổi Học mà không tinh tấn, không có đạo lực, chỉ tham danh dự, mong người cung kính, hầu hạ. Học phụng thờ thầy, không nghó đến sự cần khổ mới được thành tựu mà lại hư dối, cống cao. Học mà ưa phản đạo, đem pháp thuật khác để so sánh với kinh Phật thậm thâm rồi nói các đạo đều giống nhau. Kinh Bồ-tát giới dạy: vì danh dự mà tụ hội yheo đồ chúng thì gọi là đệ tử ma. <詞>TÁO TỊNH Tham Luận Du Già dạy: đối với các cảnh giới mà khởi tâm đắm trước gọi là tham. Trong các phiền não thì tham là đứng đầu. Luận A-tỳ-đạt- ma dạy: tham: thể của nó trong ba cõi là ái; nghiệp của nó đối với chúng sinh là khổ. Pháp Uẩn Túc Luận, đức Phật dạy: nếu các ông đoạn dứt một pháp thì Ta bảo nhiệm chắc chắn rằng các ông sẽ đắc quả Bất hoàn. Một pháp ấy là tham. Lục Độ Tập kinh dạy: đức Phật từng là m chim chúa Bồ câu, dạy trong đàn: “Giới kinh Phật dạy, tham là đứng đầu. Tham để đạt đến vinh hiển giống như đói được món ăn độc đắc chí khoái lạc, chỉ trong khoảnh khắc các khổ đến rồi thời còn yên được không? Dục nghĩa là mong cầu. Trong kinh Tạp A-hàm, đức Phật dạy: tất cả chúng sinh sanh đau khổ đều do sự mong cầu là m gốc. Luận Du Già dạy: trong các phiền não thì tham là hơn hết; trong các sự tham muốn thì tham dục là hơn hết, vì nó sanh ra các khổ. Tập luận dạy: khi pháp này sanh khởi thì không được tịch tịnh. Do pháp này sanh nên thân tâm đều không được tịch tịnh. Xuất gia nhân tam dục Kinh Niết bàn dạy về ba việc tham cầu của người xuất gia: Ác dục: Tỳ-kheo đứng đầu trong chúng muốn cho tăng chúng tùy thuận mình, để cho bốn chúng đều cúng dường, cung kính, khen ngợi, tôn trọng mình, hoặc là thuyết pháp cho họ tín thọ khiến cho mình được y phục, thức ăn, phòng xá.v.v. Đại dục: Tỳ-kheo sanh tâm mong cầu khiến cho bốn chúng biết ta đắc sơ trụ cho đến bốn trí vô ngại, vì sự lợi dưỡng. Dục dục: Tỳ-kheo muốn sanh cõi Phạm thiên cho đến Đao Lợi thiên, vì muốn được tự tại. Ngũ dục Là sắc, thanh, hương, vị, xúc. Trí luận gọi năm dục là mũi tên hoa. Lại gọi là năm mũi tên, vì nó phá hoại tất cả việc là nh. Hành giả nên than trách: “Than thay! chúng sinh thường bị năm dục là m não loạn mà vẫn mong cầu không bỏ nên sẽ rơi vào hầm lớn, chịu khổ kịch liệt, như ghẻ hơ lửa. Năm dục không có lợi ích, như chó gặm xương. Năm dục tăng thêm sự tranh cãi, như chim giành giựt thịt. Năm dục thiêu cháy người, như cầm đuốc đi ngược gió. Năm dục hại người, như đạp rắn độc. Năm dục không thật, như được trong mộng. Năm dục không bền lâu, như giả tạm trong chốc lác. Năm dục này được vui tạm thời, hết rồi thì khổ lớn”. Trong kinh Tạp A-hàm, phạm chí Văn Đà hỏi A Nan: vì sao ông xuất gia trong Phật giáo? A Nan đáp: vì đoạn ác, sanh thiện. Hỏi: đoạn ác gì? Đáp: đoạn tham dục, sân giận, ngu si. Hỏi: chúng có tội lỗi gì? Đáp: nhiễm trước dục ái thì sẽ sanh não loạn, đời hiêïn tại tăng trưởng pháp ác; ưu sầu, khổ não do đây mà sanh. Trong đời vị lai cũng lại như vậy. Khổ tính của nó là bức bách. Do tham dục kia mà sanh ra khổ. Luận Phật Địa dạy, việc ác có hai: chúng sinh và đất đai. chúng sinh có tám khổ: Sanh Già Bệnh Chết Thương yêu mà xa lìa Mong cầu mà không đạt được Oan gia mà gặp nhau Ưu sầu Đất đai: như nói cõi nước quá nóng, quá lạnh, không được cứu hộ, quá đói, nhiều bệnh.v.v. Kinh Pháp Cú dạy: khổ trong thiên hạ chẳng qua là vì có thân nên đói, khát, nóng, lạnh, sân giận, sợ hãi. Oán họa sắc dục đều do nơi thân. Thân là gốc của các khổ, là nguồn của họa hoạn, lao tâm khổ nhọc, ưu sầu trăm mối. Các loài ngọ nguậy bị khổ tàn hại lẫn nhau. Chúng sanh bị khổ trói buộc, sanh tử không dứt đều do thân tham dục. Lìa đời để cầu tịch diệt, nhiếp tâm chính niệm, mặc nhiên vô tưởng thì có thể đắc Niết bàn. Đay là sự an lạc tối thắng. Bài kệ khổ về thân: Vì đi xe mệt mỏi Ngũ úy Nên tìm cầu chỗ đứng Vì đứng lâu mệt quá Nên tìm cầu chỗ ngồi Vì ngồi lâu mệt quá Nên tìm cầu chỗ nằm Các khổ theo đó sanh Trước vui sau thì khổ Thay đổi trong nháy mắt Ngồi nằm hoặc đứng đi Các việc đều là khổ. Luận Phật Địa dạy về năm điều đáng sợ: Sợ không hoạt bát Sợ tiếng xấu Sợ chết Sợ hứng thú Khiếp sợ Diệu Sắc Tam kinh dạy: Do ái sanh sầu ưu Do ái sanh sợ hãi Ai thoát khỏi tham ái Không sầu, không sợ hãi. Thất tình hỷ, nộ, ưu, cụ, ái, tắng, dục Bát phong Lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc. Luận Phật Địa dạy: việc được như ý gọi là lợi; việc không như ý gọi là suy; nói xấu việc đã qua gọi là hủy; khen ngợi việc đã qua gọi là dự; khen ngợi việc hiện tại gọi là xưng; chê bai việc hiện tại gọi là cơ; thân tâm bức bách gọi là khổ; thân tâm vui vẽ gọi là lạc. Thiểu dục tri túc Bồ-tát Sư Tử Hống hỏi: ít muốn biết đủ có gì sai khác? Đức Phật dạy: người ít muốn thì không mong cầu, không chấp thủ. Người biết đủ thì ít muốn nên không hối hận. Kinh chính Pháp Niệm Xứ dạy: điều thù thắng nhất trong pháp Sa-môn là biết đủ. Luận Bà Sa dạy: Phật pháp lấy ít muốn là n căn bản; vì mong cầu lợi nơi thế tục nên lợi đạo không thành. Kinh Di Giáo dạy: Tỳ-kheo nên biết, người tham muốn nhiều thì cầu lợi nhiều nên khổ não cũng nhiều. người ít tham muốn, không cầu không thủ thì không có lo lắng; ít muốn thì sanh ra các công đức vì không nói quanh co với người khác. Người ít muốn thì tâm thản nhiên, không có lo sợ gặp phải các việc. Vì giải thoát các khổ đau nên Tỳ-kheo phải quán pháp biết đủ thì sẽ được vui sướng, an lạc. Tứ hoan hỷ pháp Hoan hỷ tiết chế có thể đưa đến an lạc ít muốn Hoan hỷ tích tập phạm hạnh có thể đưa đến an lạc viễn ly Hoan hỷ hối lỗi có thể đưa đến an lạc thiền định Hoan hỷ ưa đoạn ác, ưa tu thiện có thể đưa đến an lạc chính giác. Thích tử tu tín Tướng phần trong Duy thức ghi: phàm phú quý, bần tiện, đẹp, xấu, được, mất đều do chủng tử quá khứ đã tạo nghiệp thiện hay ác. Quả thuộc y báo hay chính báo giống nhau hay khác nhau đều do sự biến hiện thuộc tướng phần của thức thứ tám. Cho nên nói rằng: tướng phần đã định thì quỷ thần không thể thay đổi. Ưu-bà-tắc giới kinh ghi: người trí biết rõ nghiệp quả, tại sao nói thời tiết, tinh tú đều do Trời tự Tại tạo ra? Nếu là nhân duyên theo thời tiết, tinh tú thì thiên hạ đồng thời cùng sanh, tại sao một người chịu khổ, một người hưởng vui, một người là nam, một người là nữ? Kinh chính Pháp Niệm dạy: nghiệp thiện, bất thiện là chúng sanh tự tạo, chẳng do tinh tú tạo ra. Tónh Luận Năng Đoạn Kim Cang dạy: Định gọi là tónh. Do đó đắc thiền gọi là tịch tónh. Tịch tónh có hai loại: thân tịch tónh và tâm tịch tónh. Nay thì phân ra thành bốn: Thân tịch tónh mà tâm không tịch tónh: Tỳ-kheo tham dục tọa thiền trong rừng. Tâm tịch tónh mà thân không tịch tónh: Tỳ-kheo không tham, sân mà ở gần Vua, quan. Thân, tâm đều tịch tónh: các bạc Thánh nhân. Thân, tâm đều không tịch tónh: phàm phu. Tam ma đề Trí luận dạy: tất cả thiền định thâu nhiếp tâm đều gọi là Tam- ma-đề. Tần dịch là chính tâm hành xử: tâm ấy từ vô thỉ đến nay thường quanh co không ngay thẳng. Khi đắc chính tâm hành xử thì tâm được ngay thẳng. Giống như con rắn nằm trong ống trúc. Thiền Luận A-tỳ-đàm hỏi: thiền là gì? Đáp: chính quán đoạn các kiết sử gọi là thiền. Tọa thiền Kinh Tam Thiên Oai Nghi dạy: ngồi thiền có mười việc: Phải tùy thời: bốn thời Được ngồi trên giường: thiền trên giường Tòa mềm: tòa bằng lông mịn Chỗ vắng vẻ: dưới gốc cây giữa núi rừng Có được thiện tri thức: bạn tốt Có đàn việt tốt: không tìm cầu bên ngoài Ý hoàn hảo: năng quán An lạc: điều phục tâm ý. Có thuốc uống: không nghó đến vạn vật Trợ duyên tốt: cất đồ ngồi thiền. Thiền đái Là đồ dùng để tọa thiền. Kinh dạy: dùng da để là m, rộng một thước, dài tám thước, đầu có cái móc từ sau chuyển đến trước, bắt vào hai đầu gối là m cho không lay động. Bởi vì mới ngồi thiền thì dễ mệt nên dùng nó để kiểm thân trợ lực gọi là thiện trợ; dùng xong cất vào chỗ vắng. Thiền trấn Là tấm ván, hình giống như cái hốt, có lỗ ở giữa, dùng vòng xâu dưới lỗ tai, đội trên đầu cách trán bốn ngón tay. Nếu người ngồi thiền ngủ gật đầu xuống thì tự tỉnh dậy. Ỷ bản Nay gọi là thiền bản. Tỳ-nại-da nhiếp tụng ghi: ghế ngồi là trừ mệt mỏi nên cá nhân hoặc chúng đều cho phép chứa. Cốt nhân Luận Trí Độ dạy: người ngồi thiền quán xương người tức là ngày nay dùng bức tranh xương khô vậy. Thiền trượng Là m bằng cây trúc, bao một đầu, sai người hạ tọa cầm đi, thấy người ngồi thiền ngủ gật thì dùng nó đánh nhẹ trên đầu Thiền cúc Quả bóng da dùng để nếm vào người ngủ là m tỉnh giấc. Yến tọa Lại gọi là yên tọa. An là yên nghỉ. Kinh Minh Đăng Tam muội dạy ngồi yên tỉnh có mười lợi ích: Tâm không vẫn đục Không có buông lung Được chư Phật nghó đến Tin hạnh chính Giác Không nghi ngờ về trí Phật Biết ân Không chê bai Khéo ngăn ngừa Đạt đến chỗ điều phục Chứng trí vô ngại Phật pháp nhị trụ Luận Tỳ-bà-sa dạy: Phật pháp có hai chỗ an trụ thì có thể giữ gìn Phật pháp: học vấn và tọa thiền. <詞>TRÁNH NHẪN Tránh hữu tứ chủng Luật Thập Tụng dạy có bốn loại tranh cãi: Tranh cãi Trợ giúp tranh cãi Phạm tội tranh cãi Thường muốn tranh cãi. Tỳ-ni-mẫu dạy: hai người cùng cạnh tranh nhau gọi là đấu. Đồ đảng trợ giúp gọi là tránh. Đến trình bày cho tăng chúng rõ gọi là ngôn. Nói rõ lý lẽ gọi là tụng. Tránh căn bản hữu lục Tỳ-ni-mẫu dạy có sáu loại tranh cãi căn bản: Sân giận: biến đổi sắc mặt là m cho người khác phải sợ. Não hại: là m hại người khác để họ phải áo não. Huyễn ngụy: dối trá San tật: tham vật đêm về cho mình, không cho người khác gọi là san; thấy người thành đạt thì muốn não hại họ gọi là tật. Kiến thủ: những điều mình là m và thấy biết đều đúng, còn việc là m và sự thấy biết của người khác đều sai. Biên kiến, tà kiến: thấy sự tồn tại là thường còn; thấy sự đoạn diệt là mất hẳn, đó là biên kiến. Phỉ báng không có nhân quả là tà kiến. Bỉ dụ Trong kinh Pháp Cú, đức Phật dạy: Sa-môn không chuyên niệm tinh tấn, giữ gìn ba đọc nơi thân, miệng, ý thì cấu uế tràn ngập trong tâm, giống như nước rửa chân thì không thể dùng được. Lại nữa, dù là Sa-môn mà miệng không thành tín, tâm tính ngông cuồng, thường nhận tiếng ác thì cũng như đồ đựng nước rửa chân thì không thể chứa thức ăn. Ác báo Căn bản Tỳ-nại-da dạy: có hai Tỳ-kheo cùng tranh cãi về nghĩa lý. Tỳ-kheo nhỏ mắng Tỳ-kheo lớn. Tỳ-kheo lớn không cho Tỳ-kheo nhỏ vào phòng, do bị lửa sân thiêu đốt nên liền qua đời, là m con rắn độc, muốn đến đốt Tỳ-kheo nhỏ. Lúc ấy, đức Phật dùng tâm đại bi đến trong phòng ấy bảo Tỳ-kheo nhỏ sám hối: “Ông có thể xem đó là Tỳ-kheo ngày xưa để là m lễ”. Phật lại thuyết pháp cho rắn độc: “Này hiền thủ, ngươi đã ở chỗ Ta, đã tu tịnh hạnh, đáng được sanh lên cõi Trời nhưng bị lửa sân thiêu đốt nên phải là m rắn độc. Ngươi nên biết, các hạnh vô thường, các pháp vô ngã, Niết bàn tịch tónh”. Rắn độc nghe pháp rồi liền qua đời, sanh lên cõi Trời. Kinh Thụy Ứng dạy: Đua khổ thay người trong thế gian tranh cãi không dứt. Do việc cực ác này nên thân chịu khổ muôn phần để mong cầu giải thoát mà không đạt được, luống uổng sự lao nhọc của thân tâm, chết đọa vào biển khổ, tự mình phải gánh chịu, chứ không ai thay thế. Nam Sơn sao ghi: muốn trách người thì trước tiên phải tự xem lại tâm mình đang hoan hỷ hay sân giận. Nếu có hiềm hận thì nên đè nén, nhẫn chịu, vì lửa từ trong sanh ra thì trước tiên là tự thiêu đốt mình. Tranh hữu ngũ quá Luật Ngũ Phần dạy có năm lỗi tranh cãi: Hung ác Sau hối hận Nhiều người không ưa thích Tiếng ác vang xa Chết rơi vào đường ác Nhẫn Thế nào là nhẫn? Tự mình không có giận dữ, không báo oán người khác nên gọi là nhẫn. Do hai nhân duyên những người xuất gia phải gắng sức thọ trì để mau chứng được nghĩa lợi của Sa-môn. Hai nhân duyên đó là : nhẫn nhục và nhu hòa. Nhẫn nhục là đối với người oán mà mình không trả báo lại. Nhu hòa là tâm không sân giận, tính không não hại người khác. Luận Nhiếp dạy: nhẫn có thể là m cho mình và người khác được an hòa; tự thân không bị nhiễm lỗi lầm, sân giận tức là tự mình được an hòa; đã không sân giận thì không là m khổ người khác tức là người káhc được an hòa. Lục Độ Tập kinh dạy: nhẫn là nguồn của vạn điều phước. Kinh chính Pháp Niệm Xứ dạy: nhẫn là pháp thiện bậc nhất, thanh tịnh bậc nhất, được Phật khen ngợi. Nhẫn có hai loại: Pháp nhẫn: duyên pháp đạo hạnh để tư duy về bạch pháp thiện đạo thù thắng nên có khả năng nhẫn. Sanh nhẫn: muốn khởi sân giận thì nhẫn nhục là m cho không sanh khởi vì biết sân giận là tội lỗi. Dó nhẫn chỉ tránh Trong kinh Trung A-hàm, đức Phật bảo các Tỳ-kheo: nếu dùng sự tranh cãi để chấm dứt tranh cãi thì rốt cuộc không thể ngăn chặn được, chỉ có dùng nhẫn nhục mới ngăn chặn được sự tranh cãi. Nhẫn nhục là pháp tôn quý nhất. Trong kinh Trường A-hàm, Trời Đế Thích nói: Ta thường nghe nói: “Người trí không nên tranh cãi với người ngu. Người ngu mắng nhiếc mà người trí im lặng thì đó chính là người ngu bị thất bại”. Diệt sân ngũ quán Luận Nhiếp dạy nhờ quán năm nghĩa mà diệt được sân: Quán tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay có ân huệ đối với ta. Quán tất cả chúng sinh thường diệt trong mỗi niệm. Quán chỉ có pháp mà không có chúng sanh thì tại sao lại có người là m tổn hại và người bị tổn hại? Quán tất cả chúng sinh đều chịu phải chịu khổ, tại sao lại là m cho họ thêm khổ? Quán tất cả chúng sinh đều là con của ta, tại sao ta lại muốn là m hại? Hành nhẫn ngũ đức Kinh Tạp Bảo Tạng dạy: người thực hành nhãn nhục thì có năm đức: Không hận Không trách mắng Mọi người đều yêu mến Có được tiếng tốt Sanh vào đường là nh. Trị nhất thiết phiền não pháp Kinh Hiền Ngu dạy: Tỳ-kheo đối với mười hai nhập tư duy về vô lượng sanh tử vô thường, lại tư duy về sự khổ ở Địa ngục và sự tàn hại lẫn nhau của loài Súc sanh, các khổ bức bách, đói khát ở loài Ngạ quỷ; tư duy về sự rong ruỗi tìm cầu khắp bốn phương thuộc loài người, sự bại hoại ở cõi Trời. Những sự khổ về thân tâm trong năm đường như thế, không có chỗ nào được an vui. Quán về năm ấm thì vô thường, khổ, không, vô ngã, không thật, giống như thôn xóm trống không không có người ở. Như vậy, năm ấm đều không, không có ngã, bị lửa vô thường thiêu đốt thế gian. Đệ tử chư Phật thường quán như vậy thì là m sao mà các phiền não có thể sanh khởi. Họa tùng khẩu sanh Kinh Báo Ân dạy: tai họa của người đời là từ miệng sanh ra nên phải bảo vệ như con đỏ, vì nó con hơn cả lửa lớn. Lửa lớn có thể thiêu cháy một đời, còn miệng nói ác thì thiêu cháy nhiều đời. Lửa lớn thiêu cháy tài vật ở thế gian, còn miệng nói lời ác thì thiêu cháy bảy thứ tài vật của bậc Thánh. Do đó họa của tất cả chúng sinh từ miệng sanh ra. Miệng lưỡi như búa bổ thân. Giam khẩu thận tâm Pháp Uyển ghi: hận thì sanh ra phỉ báng nên tự mình thêm bị lầm than. Môi như cái cung, tâm suy nghó như dây cung, âm thanh là mũi tên, suốt đời không thể nói lời vô ích để luống nhiễm thân miệng. Cần phải tự dè dặt: ngậm miệng, giữ tâm. <詞>NHẬP CHÚNG Du hành nhân gian Nay gọi là hành khước. Trong luật Tỳ-nại-da, đức Phật dạy:thành tựu năm pháp, đủ năm hạ thì được lìa y chỉ đi lại các nơi. Năm pháp đó là : Biết phạm Biết không phạm Biết tội nhẹ Biết tội nặng Đối với kinh, luật biết được phép khai, ngăn, có thể trì tụng. Ưu Ba Ly hỏi Phật: có người đủ bốn hạ, rành về năm pháp thì có được đi khắp nơi không? Đức Phật dạy: không được. Vì năm hạ là quy định. Hỏi: người đủ năm hạ, chưa rõ năm pháp thì có được đi khắp nơi không? Đức Phật dạy: không được. Vì thành tựu năm pháp là quy định. Phi tích Nay tăng du hành thì khen là phi tích. Cao tăng ở đây ẩn cư trong núi, du hành ở Ngũ đài. Theo Tây Vức thì cao tăng bỏ tích trượng, bay trên không mà đi. Hoặc cao tăng đắc đạo ở Tây Thiên đi lại đa số là không cần tích trượng. Hải chúng Kinh Tăng Nhất dạy: chúng tăng như nước biển lớn. Nươc tất cả các dòng chảy về biển đều bỏ tên gốc mà cùng gọi là nước biển. Nhập chúng ngũ pháp Trong luật Ngũ Phần, đức Phật dạy: nhập chúng phải biết năm pháp: Khiêm nhường Từ tâm Cung kính Biết thứ tự Không nói việc ngoài Nhập tự vấn chế Chế tức là quy chế của tòng lâm. Tỳ-nại-da dạy: Tỳ-kheo khách vào chùa nên hỏi Tỳ-kheo cũ trong chùa xem trong tăng chúng có quy chế gì không. Nếu không hỏi thì mắc tội Đột-kiết-la. Tỳ-kheo cũ trong chùa không trả lời thì cũng đồng tội. Án tân đáo y bát Luật Thập Tụng dạy: Tỳ-kheo khách đến thì nên là m lễ rồi mang y bát vào chùa. Nhập đường ngũ pháp Nam Sơn sao ghi: trước tiên đứng ở ngoài cửa, giữ tâm an tịnh. Luật dạy có năm pháp: Từ tâm Phải tự khiêm hạ như vải lau bụi Biết chỗ nên đứng, ngồi. Nếu gặp Thượng tọa thì không được ngồi. Nếu gặp hạ tọa thì không cần đứng dậy. Ở trong tăng thì không nên nói chuyện tạp loạn của thế tục, phải tự mình nói pháp hoặc thỉnh người nói pháp. Thấy trong tăng có việc không vừa ý, tâm không an thì nên im lặng. Quải tích Nay tăng dừng ở nơi nào thì gọi là quải tích. Ở Tây Thiên, Tỳ- kheo đi du hành là phải cầm tích trượng. Cầm tích trượng có hai mươi lăm oai nghi. Vào phòng thì không được đặt tích trượng xuống đất, phải móc trên móc tường nên gọi là quải tích. Oai nghi Trong kinh luật đều lấy bốn việc đi, đứng, nằm, ngồi gọi là oai nghi. Tất cả các cử động khác đều thuộc trong bốn việc này. An cư Nam Sơn sao ghi: thân tâm thanh tịnh gọi là an. Ở trong một thời gian gọi là cư. Theo quy ước ba thời luật chế trong tháng Hạ: Không việc mà đi du hành thì như tu nghiệp xuất thế Tổn vật hại mạng trái với tâm từ Việc là m đã sai trái nên bị người đời chê bai. Trong pháp Yết ma của luật Tứ Phần, luật sư Tuyên dạy: Ba tháng an cư đó là tháng trước,tháng giữa và tháng sau. Trong luật có Tỳ-kheo muốn an cư mà ngày mười sáu tháng tư không đến, ngày mười bảy mới đến. Đức Phật cho phép hậu an cư tức là vào ngày mười sáu tháng năm. Luận Minh Liễu dạy, không có năm lỗi thì được an cư: Quá xa thôn xóm, mong cầu khó được Quá gần thành thị, ngại việc tu đạo xuất thế. Nhiều trùng, kiến thì mình và chúng đều bị thương tổn. Không có người y chỉ. Không có thí chủ cung cấp y phục, thuốc men Tất cả các chỗ trên đều không được an cư. Hạ lạp Là pháp tính năm hạ của dòng họ Thích. Người lớn hoặc nhỏ đều căn cứ vào hạ lạp, nhiều hạ là lớn hơn. Cho nên Thiên Trúc xét theo tuổi hạ vậy. Kinh Âm Sớ Tăng Huy Ký đều căn cứ vào hạ lạp vậy. Tiền an cư được chế đến ngày rằm tháng bảy là ngày thọ tuổi hạ giống như tuổi đời tính đến ngày hết năm cũ vậy. Đến ngày mười sáu là ngày năm phàn pháp thân sanh dưỡng gọi là năm mới. Chín tuần của mùa hạ gọi là tuổi pháp. Tự tứ Luật Thập Tụng dạy: tốt, xấu chỉ bảo nhau bằng ba cách gọi là tự tứ: thấy, nghe, nghi. Sao ghi: trong ba tháng, vì người mê muội nhiều, không tự thấy lỗi của mình nên cầu mong đại chúng từ bi chỉ bảo. Nếu nói ra tội của mình rồi thì chúng tăng nêu lỗi mà trong lòng không có trắc ẩn, bên ngoài có lẫm lỗi ở thân miệng nên cầu người khác chỉ cho gọi là tự tứ. Ca đề Tiếng Phạm nói đủ là Ca-lặc-đề-ca tức tháng chín được ngủ lại đêm: Ở Tây Vức an cư ba tháng, đến mười sáu tháng chín thì giải hạ. Sau an cư Tỳ-kheo đi hành hóa nên mong được ở lại đêm. Kinh hành Ở Tây Vức đất ẩm thấp, đường được lót nhiều lớp gạch để đi qua lại trong đó giống như đường vải bố nên gọi là kinh hành. Luật Thập Tụng dạy kinh hành có năm lợi ích: Khỏe mạnh Có sức lực Không bệnh Tiêu thức ăn Ý kiên cố. Tam Thiên Oai Nghi dạy: Có năm chỗ để kinh hành: Nơi thanh vắng Trước cửa Trước giảng đường Dưới tháp Dưới gác Tại gia an lạc hạnh pháp Luận Du Già dạy: tại gia suốt đời không được cười giỡn quát tháo, khinh thường lộng hành đối với người khác là m cho người khác không hổ thẹn, không sống an ổn; suốt đời không được hủy nhục những người đáng yêu, khen ngợi những người đáng ghét; là m bạn với người không có tình nghĩa, không nói lời thành thật, không có hy vọng, biết đủ mà nhận, hoặc trước đã hứa cho người khác thức ăn.v.v. nhưng rốt cuộc không cho. Kinh Long Vương dạy: có ba việc thường được an ổn: không ương ngạnh; không dè siểm, nịnh hót, trừ bỏ tham lam, tật đố; thấy người được cúng dường thì mình hoan hỷ. Tảo địa Đức Phật ở rừng Thệ Đa thấy đất không sạch, muốn cho chúng sinh được phước lạc, gieo trồng tịnh nghiệp thù thắng nên Phật liền cầm chổi muốn quét. Lúc ấy, các đại Thanh-văn ttrông thấy đều cầm chổi cùng quét. Đức Phật dạy: “Quét đất có năm lợi ích: Tự tâm thanh tịnh Là m cho tâm người khác thanh tịnh Chư Thiên hoan hỷ Gieo trồng nghiệp đoan chính Sau khi qua đời được sanh lên cõi Trời. Trong kinh A-hàm, đức Phật dạy Châu-lợi-bàn-đặc đọc chữ “quét bụi” và dạy cầm chổi quét. Phật dạy: “Ông tụng chữ này vì mục đích gì? Chữ quét bụi này lại có nghĩa là trừ dơ”. Bàn-đặc suy nghó: “Dơ là tro, ngói, đá; trừ là thanh tịnh. Đức Phật dùng chữ này dạy ta tư duy: phiền não là dơ, trí tuệ là trừ. Nay ta có thể dùng trí tuệ để tẩy trừ phiền não dơ uế”. Do đó Ban-đặc liền chứng quả A-la-hán. Kinh Tăng Nhất dạy: quét bụi có năm việc không được phước: không biết ngược gió, không biết thuận gió, không nhóm lại một chỗ, không hốt phẩn, không thanh khiết. Luật Tứ Phần dạy: ngược gió mà quét thì không biết chỗ đã quét; không hốt dọn phân dơ thì không nên quét chỗ ấy. Kinh chính Pháp Niệm dạy: nếu quét tháp Như Lai thì sau khi qua đời sẽ được là m thân Ý Táo thiên có mùi hương lan đến trăm dặm. Đồng lực thu xả Luật Tăng Kỳ dạy: lúc đại hội đem ra nhiều tràng phan, bảo cái mà gặp Trời mưa, gió thì cùng nhau thu cất, không được lơ là cho mình là bậc phạm hạnh, đức lớn.v.v. mà phải nên tùy theo phòng nào gần đó rồi đem để vào; không được đóng cửa phòng, nên nhiệt tình thu xếp. Nhiên đăng Không được đột ngột đem đèn vào phòng, phải đứng bên ngoài nói: “Các đại đức, tôi mang đèn vào”. Khi tắt đèn cùng không được tắt thình lình, trước tiên dùng tay che đèn rồi nói: “Xin tắt đèn”. Nếu mọi người im lặng mới tắt; không được dùng miệng thổi, phải dùng chiếc đũa để tắt. Lễ bái kî Luật Tăng Kỳ dạy: khi người khác lễ Phật, tụng kinh, chép kinh, thọ trì kinh đều không được là m lễ. Lại nữa, là m lễ người khác thì không được đứng đối diện với Phật; đêm tối hoặc chỗ khuất thì không được là m lễ, vì sợ người đi qua cơ hiềm. Luật Ngũ Phần dạy: hai người sân giận nhau thì không được lễ bái ở chỗ khuất. Luật Tứ Phần dạy: lúc ăn uống, thuyết pháp, súc miệng, xỉa răng, cạo tóc, lộ hình, đại tiểu tiện đều không được là m lễ. Hướng hỏa thất quá Luật Tăng Kỳ dạy, đến chỗ lửa có bảy lỗi: Tổn hại mắt Hủy hoại nhan sắc Thân thể gầy Dơ y phục Hư ngọa cụ Sanh duyên phạm giới Tăng thêm chuyện thế gian Sí Luật Tăng Kỳ dạy: nêu ở trong tăng mà hắc hơi thì không được lớn tiếng, phải dùng tay che miệng, chớ để nước miếng là m dơ người ngồi bên cạnh. Tiễn trảo Kinh Niết bàn dạy: móng tay dài là tướng phá giới . Văn Thù Vấn kinh ghi: cho phép để móng tay dài một hạt thóc để gãi ngứa. Thế phát Kinh Niết bàn dạy: tóc dài là tướng phá giới. Văn Thù Vấn kinh ghi: tóc dai hai ngón tay phải cạo. Cạo tóc theo thứ lớp có bốn: Thượng tọa Người tóc dài Nếu tóc đều dài thì cho người đi tắm cạo trước. Người có công việc. Ngoài bốn hạng người trên thì nên theo thứ tự mà cạo tóc, nhường cho người đến trước. Ngọa pháp Kinh Bảo Vân dạy: muốn nằm thì thân hướng về bên phải, chồng chân lên nhau, dùng pháp y che thân, chính niệm chính tri, khởi tưởng sáng suốt, chỉ vì trưởng dưỡng đại chủng các căn. Luận Du Già hỏi: tại sao lại nằm nghiêng bên phải? Đáp: giống như pháp nằm của chúa sư tử trong loài thú: dõng mãnh, bền chắc, tối thượmg bậc nhất. Cũng vậy, Tỳ-kheo phát tâm tinh tấn, dõng mãnh, bền chắc, tối thượng bậc nhất. Do nhân duyên đó nên nằm giống cách sư tử nằm. Cho nên, khi nằm thân không nghiêng qua lại, không mất chính niệm, ngủ không mệt mỏi, không thấy mộng ác. Thụy miên Nằm ngủ. Tâm sở này là một pháp trong bốn pháp bất định, là m cho người không được tự tại, tính của nó mê muội, nghiệp của nó là chướng ngại. Kinh Phát Giác Tâm dạy ngủ có hai mươi lỗi: Uể oải Thân thể nặng nề Ngoài da không sạch Trong da thô nhám Nhiều sự dơ dáy, oai đức giảm bớt Ăn uống không tiêu Thân thể sanh mụt nhọt Lười biếng Thêm si mê Trí tuệ kém Mệt mỏi Thường nghó đến việc đen tối Mọi người không cung kính Bẩm tính ngu si Nhiều phiền não Đối với việc thiện thì không vui Giảm pháp là nh Nhiều lo sợ Thấy người tinh tấn thì hủy nhục Bị mọi người khinh rẻ. Luật Thập Tụng dạy: nếu buồn ngủ thì đi kinh hành. Nếu không hết buồn ngủ thì nên ngủ ở chỗ khuất, không được là m phiền đại chúng. Luật Tăng Kỳ dạy: nều Tỳ-kheo ban đêm ngủ say là m động chúng, khi tỉnh dậy nói không có ý là m phiền hà thì không có tội. Phát thùy duyên Luận Tạp Tập ghi duyên sanh buồn ngủ là : ốm yếu, mệt mỏi, thân tâm nặng nề, tư duy mờ mịt, bỏ hết mọi việc, hoặc theo thói quen, hoặc bị chú thuật dẫn dắt, hoặc giò thổi, quạt mát.v.v. Họa tiểu miên Luận Trí Độ dạy: cuối mùa Xuân, đầu mùa Hạ, thời tiết nóng bức nên ít ngủ, bỏ ăn. Tại sàng kî thất việc Kinh Tam Thiên Oai Nghi dạy: không được cười nói, lớn tiếng quát tháo, bàn việc thế gian, không được dựa vách, muốn đứng dậy tức khắc, nếu ý không định thì phải tự trách mình, lập tức dạy đi kinh hành. Tiểu hành Đi tiểu tiện gọi là đi việc riêng. Tỳ-ni-mẫu dạy: không được tiểu tiện trong chùa, phải tiểu ở chỗ vắng, hoặc trong lu, trong thùng, trong lỗ đất dùng đồ đậy lên trên, chớ để bay mùi hôi. Luật Ngũ Phần dạy: cho phép đem đồ đi tiểu vào trong phòng, để kín một chỗ trong phòng và có chứa nước. Kinh Ưu Bát Kỳ Vương dạy: trong chùa đầy nước đại tiểu tiện thì năm trăm đời đọa vào Địa ngục bạt bà, hai mươi kiếp sau thường không có khủy tay, cầm đất dơ dáy. Bình xí Là chỗ vắng vẻ, dịch là xí tạp tức là các thứ tạp nhạp ở trên đó, hoặc gọi là chỗ dơ dáy, hoặc gọi là chuồng xí, là chỗ ô uế. Vì muốn cho được sạch sẽ. Kinh Tam Thiên Oai Nghi dạy lên nhà xí có hai mươi lăm pháp : Muốn lên nhà xí thì phải đi ngay, không được ở giữa đường là m lễ người. Không được nhận lễ người Nhìn thẳng xuống đất mà đi Đến ngoài cửa thì gõ ba cái Có người bên trong thì không được hối thúc. Đã lên nhà xí rồi phải khảy móng tay ………………………………………… Không được dùng cỏ vẽ trên đất Không được dùng cỏ vẽ trên tường, hoặc viết chữ Từ số 19 về sau là pháp tẩy tịnh. Lại nữa, nếu thấy cỏ, đất hết thì nên nói với người chủ về việc ấy, hoặc tự mình đi lấy thêm thì tốt. Kinh Hư Không Tạng dạy: nếu người có tội sám hối mà là m nhà xí tám trăm ngày thì hết tội. Tẩy tịnh Luật Tứ Phần gọi là tẩy uế. Bách Nhất Yết Ma ghi: như Thế Tôn nói về nghĩa thù thắng tẩy tịnh có ba loại: tẩy thân, tẩy miệng, tẩy tâm. Tại sao trong đây chỉ nói về bất tịnh nhiễm ô, dạy phải rửa sạch? Đức Phật dạy: vì muốn trừ bỏ ô uế để sống an lạc Đức Phật lại dạy: Tỳ-kheo nhiễm ô thì không được lễ bái người, không được nhận người lễ bái. Nếu là m trái là mắc tội việt pháp. Nhiễm có hai loại: ẩm thực nhiễm và bất tịnh nhiễm. Bất tịnh nhiễm là phẩn, đất, nước dãi ô uế và đại tiểu tiện chưa rửa sạch mà đi lại. Phật dạy: các Tỳ-kheo phải nên rửa sạch. Kinh Tam Thiên Oai Nghi dạy: Tỳ-kheo đại tiểu tiện mà không rửa thì phạm tội Đột-kiết-la, và cũng không được ngồi trên giường, tòa của tăng, không được lễ Tam bảo, cũng không được nhận người lễ bái. Trong luật dạy: khi tẩy tịnh mà dùng nước thì tay phải cầm bình, tay trái rửa; ra bên ngoài thì trước tiên dùng tro xoa vào tay rồi dùng nước rửa, lại dùng đất sét. Rửa ba lần rồi dùng bột xà phòng đều rửa khuỷu tay trước. Trong luật Tỳ-nại-da, Phật dạy Tỳ-kheo: các ông nên biết đầy là pháp thường hành, thường phải giữ ý. Như thế, tẩy tịnh có lợi ích lớn, là m cho thân thanh tịnh, được chư Thiên kính phụng. Cho nên, các ông nếu nương vào Ta là m thầy thì đều phải tẩy tịnh. Nếu không tẩy tịnh thì không nên lễ tháp, lễ Phật, tụng kinh, không được lễ bái người, không được nhận người lễ bái, không nên ăn cơm, ngồi giường tăng, không được vào trong chúng, vì thân bất tịnh nên là m cho chư Thiên trông thấy thì không hoan hỷ; có trì chú thì cũng không linh nghiệm. Nếu là m sai trái thì mắc tội ác tác. Thiện phẩm quy tắc Luận Hiển Dương Thánh Giáo dạy: đọc tụng kinh điển, hòa kính sư trưởng, tu nghiệp thừa sự, chăm sóc bệnh hoạn, luôn khởi từ tâm, thưa hỏi nghe pháp, tinh cần không lười biếng, đồng phạm hạnh với các bậc thông tuệ, đích than cung phụng, khuyến khích người khác tu hành phẩm thiện và tuyên thuyết pháp thâm diệu, vào nơi thanh tịnh ngồi thiền. Kinh Địa Bát nhã dạy thường tu bảy việc: Vui vẻ hài hòa như nước với sữa. Thường cùng tập họp giảng nói kinh, luận Hộ trì giới cấm, không có ý tưởng phạm Cung kính đối với sư trưởng hoặc các bậc thượng tọa Kính yêu chăm lo các Tỳ-kheo ở chỗ vắng vẻ. Khuyến hóa đàn việt lo cho trụ xứ Tam bảo Cần phải tinh tấn giữ gìn Phật pháp. Nếu Tỳ-kheo hành trì theo bảy pháp này thì công đức và trí tuệ ngày một tăng thêm Lục hòa kính Pháp sư Triệu nói: dùng từ tâm khởi nơi thân nghiệp, dùng từ tâm khởi nơi khẩu nghiệp, dùng từ tâm khởi nơi ý nghiệp. Nếu được lợi dưỡng thì hưởng chung với người khác. Trì giới thanh tịnh, tu trí lậu tận mà hành sáu pháp này thì mọi người hòa thuận, không có tranh cãi. Thiện ngôn Kinh Pháp Cú dạy: nếu dùng lời ác mắng nhiếc mạ nhục người thì sự ganh ghét luôn đeo theo bên mình. Nếu dùng lời khiêm nhường hòa nhã, tôn kính mọi người, bỏ phiền não, nhẫn nhục thì sự ganh ghét, thù oán tự nó tiêu diệt. Do đó dùng ngôn ngữ để cho mình không bị tai họa, cũng không ép chế người thì cần phải nói lời tốt đẹp. Tại chúng ác báo Kinh Tạp A-hàm dạy: đức Phật ở tại nước Xá Vệ, tôn giả Mục Liên thấy một chúng sanh thân hình to lớn, giống như Tỳ-kheo, mặc áo bằng lá sắt, lửa cháy toàn thân, dùng bát sắt đựng hòn sắt đỏ để ăn nên tôn giả liền hỏi Phật. Đức Phật dạy: vào thời Phật Ca Diếp, chúng sanh này đã là m Tỳ- kheo nhưng lại thích tranh cãi, là m loạn chúng tăng, dùng miệng lưỡi là m mất sự hòa hợp. Do đó những người đến trước nhàm chán mà bỏ đi, còn những người chưa đến thì không muốn đến. Vì tội nghiệp nhân duyên ấy nên sau khi qua đời liền đọa vào Địa ngục, chịu vô lượng khổ đau. Khi hết tội mới thọ thân này. <詞>TRẠCH HỮU Trạch hữu Luận Thuận chính ghi: bạn tốt là gốc của muôn hạnh. Kinh Hoan Dự dạy: bạn hiền là nền tảng căn bản của vạn phước: hiện tại khỏi vào lao ngục của Vua, khi chết thì không vào cửa ba đường ác. Được lên cõi Trời hay đắc đạo đều là do sự trợ giúp của bạn hiền. Luận Đại Trang Nghiêm dạy: nếu người thân gần bạn tốt thì có thể khiến cho thân tâm trong ngoài đều được thanh tịnh. Đây gọi là trượng phu chân thiện. Trong Tỳ-nại-da, A Nan bạch Phật: thiện hữu tri thức là nữa phần phạm hạnh mà các hành giả tu tập nhờ năng lực của bạn là nh mới có thể thành tựu? Đức Phật dạy: thiện hữu tri thức là toàn phần phạm hạnh. Nếu ở cùng bạn tốt thì có thể đạt đến Niết bàn, không có việc gì mà không thành tựu. Cho nên gọi là toàn phần phạm hạnh. Tứ phẩm hữu Trong kinh Bột, Phật bảo nhà Vua: bạn cso bốn hạng: Bạn như hoa: hoa đẹp thì tranh giành, hoa xấu thì vứt bỏ ở đất; thấy giàu sang thì kề cận, nghèo khó thì là m lơ. Bạn như cân: vật nặng thì đầu chúc xuống, vật nhẹ thì dỗng lên; có của để cho thì cung kính, không có của để cho thì khinh mạn. Bạn như núi: thí như núi vàng thì chim thú tụ tập lại, lông cánh sáng chói; sang thì nhiều người đoanh vây, giàu có đồng vui. Bạn như đất: trăm thứ tài vật đều nhờ cậy, cung cấp nuôi dưỡng, thân hậu không dứt. Minh hữu tam yếu Kinh Nhân Quả ghi: Bà-la-môn Ưu-đà-di thông minh, trí tuệ nên Vua Tịnh Phạn sắc phong là m bạn Thái tử, nói với Thái tử: bạn bè có ba pháp cần yếu: Thấy bạn có lỗi lầm thì liền can ngăn. Thấy bạn có việc tốt thì sanh tâm vui mừng theo. Lúc gặp nguy khốn thì không bỏ nhau. Đắc thiện hữu Thường hành bốn pháp theo kinh Long Vương dạy: Không ngạo mạn, không siểm nịnh, thường cung kính Nhu hòa, cẩn thận nơi lời nói Không tự đại Thường nghe lời chỉ dạy. Thân hữu thất pháp Luật Tứ Phần dạy: đủ bảy pháp mới thành bạn thân: Việc khó là m mà là m Của khó cho mà cho Điều khó nhẫn mà nhẫn Nói điều bí mật cho nhau Giữ bí mật lẫn nhau Gặp khổ không bỏ Nghèo hèn không khinh Thị bằng hữu ngũ sự Kinh Thi Ca Việt ghi: Biết là m việc ác thì đến chỗ khuất để can ngăn Có việc gấp thì phải vội vàng giíp đỡ Có nói việc riêng tư thì không nói lại với người khác. Thường kính nhau Có là m việc tốt là nh thì nên tham dự vào nhiều hay ít Dung nhân Sách Âm nghĩa ghi: thường ngu hèn, tâm không cẩn trọng, miệng nói không đúng pháp, là m bạn với người ác. Đây là người ngu hèn. Nhiễm tập Trong kinh Phật Bản Hạnh ghi: đức Phật và Nan Đà đi đến nơi bán cáù. Đức Phật bảo Nan Đà bắt lấy cá, một lúc sau thì tay bị hôi. Đức Phật liền hỏi Nan Đà. Nan Đà thưa: chỉ có mùi tanh hôi. Đức Phật và Nan Đà lại đi đến tiệm hương có đầy giấy thơm. Đức Phật bảo cầm lấy giấy thơm một lúc, rồi hỏi Nan Đà. Nan Đà thưa: chỉ nghe hương thơm. Đức Phật dạy: bạn là nh, bạn ác tập nhiễm cũng như vậy. Nếu thân bạn là nh thì nhát định sẽ được tiếng tốt vang xa. Sát gian mưu Căn Bản Tỳ-nại-da dạy: là bạn thân thì không nên vì lời nói của người khác mà phải xa nhau. Nếu khi nghe lời nói của người khác thì phải xét lại. Thiền Phục đỗ thánh triều ban tứ đại Tống truyền đăng lục ghi: quy định trong cửa thiền là do thiền sư Đại Trí Hoài Hải ở núi Bách Trượng, Hồng Châu sáng lập. Lược nói như sau: do thiền tông từ Thiếu Thất-Tào Khê đến nay đa số là sống theo luật trong chùa, tuy ở các tự viện khác nhau nhưng đối với việc nói về pháp thì chưa có quy định. Do đó Giới Hoài lập ra quy chế để là m khuôn phép vậy. Sư liền sáng lập chỗ tông thiền. Những bậc đầy đủ đạo nhãn, có đức độ, đáng tôn kính là trưởng lão. Vị hóa chủ ở phương trượng nhà tịnh hạnh, chẳng phải là chỗ ngủ riêng tư. Viện không chỉ là chỗ tôn trí điện Phật mà còn là nơi giảng pháp. Tất cả học chúng không kể lớn nhỏ, sang hèn đều được vào trong tăng, được sắp đặt theo hạ lạp, giao giường, giá móc áo, mền nệm, gối kê, dùng để ngồi thiền lâu thì nằm nghỉ phải đủ bốn oai nghi. vào phòng xem những ai siêng năng, lười biếng. Sáng tham thiền, chiều tập chúng, trưởng lão lên tòa thuyết pháp, chủ trì đồ chúng nghe hiểu. Khách chủ hỏi đáp, xiển dương tông yếu an trụ vào pháp. Hai thời cơm cháo cần ở chỗ thực hành tiết kiệm mà biểu hiện pháp thực của thiền tông. Là m pháp thỉnh là phân theo năng lực cao thấp, gồm có mười việc. Về phòng xá, mỗi liêu cso mmọt người trưởng liêu lãnh đạo tất cả những người trong liêu, hoặc có người gọi là những việc hỗn loạn để chúng được thanh tịnh; hoặc là những người là m ồn ào, náo loạn thì thường là vị Duy na kiểm điểm đưa ra khỏi chỗ ngồi, ghi tên đuổi ra khỏi viện để chúng được thanh tịnh; hoặc những người phạm tội nặng thì dùng gậy đánh, đốt y, bát, tọa cụ cho ra khỏi thiền môn để sỉ nhục. Rõ ràng một điều chế này có bốn lợi ích: Không là m ô nhiễm chúng thanh tịnh vì muốn người khác sanh tâm kính tín Không hủy báng tăng vì tuân theo quy chế của Phật Không nhiễu loạn thiền môn vì tránh khỏi Địa ngục Không chạy theo ngoại đạo vì hộ trì tông môn Chủ sự Có bốn tên gọi: Theo Lam Tự Cổ Yếu ghi: già lam là tên gọi chung. Do đó không gọi là chủ tự viện nên chỉ tôn xưng là trưởng lão Duy na: ở đây gọi là Duyệt chúng, Tỳ-nại-da gọi là Thọ sự Điển tòa: theo luật Tăng Kỳ ghi: tùy theo thứ tự mà giao giường tòa. Đây là một việc trong chín việc của tăng. Trực tuế: theo kinh Tam Thiên Oai nghi ghi: đủ mười đức… Thiền Luận Trí Độ ghi: đời Tần gọi là tư duy tu. Theo luận A-tỳ-đàm ghi: vì đoạn phiền não nên gọi là thiền. Thiền Yếu Tự ghi: không thiền thì không trí, không trí thì không thiền, nhưng mà thiền không nhờ trí thì không sáng tỏ, sáng tỏ mà không nhờ thiền thì không thành. Lớn thay, thiền và trí không thể tách rời nhau. Luận Bà-sa ghi: thiền, ở đây gọi là phổ trí, nghĩa là có thể đắc đạo, cũng có thể trừ bỏ phiền não. Đây là dụng của thiền. Hoặc có thiền mà không có thiền dụng như đại sư Tuệ Viễn đời Lương. Thiền Tu Hành Phương Tiện Kinh tự ghi: hễ ba nghiệp hưng khởi thì dùng thiền trí là m tông, tuy tinh thô khác nhau nhưng có thứ tự vậy. Cho nên, cái xe đi ra đường cái thì vô số vết xe lẫn lộn. Đổi đời thành có ích thì không cần đợi sự tích lũy. Thanh tịnh là nguyên nhân thì đầu mối sâu kín cũng thành vi tế, chỗ thâm sâu khó xét nhưng lý không mờ tối. Theo tông chỉ có thể lược nói: thiền mà không trí thì không thể đạt đến chỗ tịch tịnh; trí mà không thiền thì không thể quán chiếu đến chỗ thâm sâu. Cho nên, cốt yếu của thiền trí là chiếu soi tịch tịnh, chúng cùng hỗ trợ nhau. Chiếu không lìa tịch, tịch không lìa chiếu, cảm ứng qua lại đồng hướng đến một mục đích trưởng dưỡng vạn pháp vi diệu, cân nhắc mọi người mà không có khuếch đại, không không mà chẳng phải rỗng không, không suy nghó, không là m mà chẳng phải không là m, tìm xét thấu triệt đến chỗ vi tế cùng tận. Tăng Sử Lược ghi: thiền là tên gọi thông cả định tuệ, là chỗ rõ tâm đạt lý. Xưa kia Bồ-đề Đạt Ma xét thấy cơ duyên ở vùng đất này có thời rối rắm nên mới nói: “Không lập văn tự” để bỏ sự chấp chặt vào văn tự, “Chỉ thẳng tâm người thấy tính thành Phật” tức liền thấy rõ lý vô sanh, tùy theo căn cơ mà nói về lý sâu xa. Người tiệm tu thì tăng thêm sự chê bai. Thiền tăng hành giải Tống Giám Lục ghi: thiền tăng hành giải có mười hạng: Thấu rõ kiến tính: như người họa só thấy sắc Gặp duyên đối cảnh: thấy sắc, nghe âm thanh, dỡ chân, hạ chân, mở mắt, nhắm mắt… đều thấy rõ tông chỉ tương ưng với đạo Biết rõ giáo lý và lời nói của tổ sư, hiểu sâu, không lo sợ, không có ngăn ngại. Giải các loại cật vấn sai biệt, có thể đoạn trừ sự nghi ngờ cho người khác Đối với tất cả thời gian, tất cả nơi chỗ đều sáng suốt không bị vướng mắc, không bị một pháp nào là m chướng ngại. Đối với cảnh thuận hay nghịch đều quyết định được. Khi tâm cảnh khởi thì biết rõ chỗ khởi, không bị sanh tử, căn trần là m mê hoặc. Trong bốn oai nghi: đi, đứng, nằm, ngồi luôn lễ kính; mặc áo, ăn cơm tương ưng với đạo. Nghe nói có Phật hay không có Phật, có chúng sinh hay không có chúng sinh, hoặc khen hoặc chê thì cũng nhất tâm bất động. Đối với trí sai biệt đều có thể thấu suốt, tính tướng đều thông, lý sự không vướng mắc, không có một pháp nào mà không rõ đến nguồn gốc. Thiền môn biệt hiệu Thiền môn có nhiều tên gọi khác nhau như: tòng lâm, tào khê, thiền tứ, thanh lâm, thiền quật, thiếu lâm thiếu thất, nại viên. Thập phương Trong luật có nói: tứ phương tăng vật. Sao ghi: thập phương thường trú. Có sư giải thích: bốn tức bao gồm cả phương, góc. Mười tức bao quát cả phàm lẫn Thánh. Tất cả các vật ở trụ xứ này tuy thuộc về một cõi này nhưng thể thuộc tất cả tăng già mười phương. Tất cả các vật ấy đối với bất luận phàm hay Thánh, thân hay sơ, hễ đến thì không ngăn cản, hễ đi thì không chướng ngại. Vị tri sự trưởng lão đều không được đem dùng cho đệ tử bổn xứ. Đối với biển chúng mười phương chọn những vị có đạo nhãn, đức hạnh, thỉnh là m trưởng lão để thuyết pháp dạy chúng, hoặc chọn người có tài năng, sợ nhân quả có đạo tâm có khả năng là m tri sự thì nên đánh kiền chùy tập chúng là m pháp thỉnh mời lên địa vị ấy. Nếu người đạo đức không có, tài năng cũng không, cử chỉ tệ ác thì nên bạch chúng xin chối bỏ, chỉ nên thỉnh vị có khả năng độ đệ tử. Trưởng lão chỉ có một vị duy nhất, còn chư tăng thì vô số phân ra là m mọi vịêc. Nếu là việc của tăng thì tất cả đồng là m, mỗi người một tay. Nếu có lợi dưỡng thì phân chia cho tất cả. Do đó mà gọi là thập phương thường trụ. Trưởng lão tuần liêu Nay là pháp thức của thiền môn. Theo luật Tăng Kỳ ghi: Thế Tôn vì năm việc nên cứ năm ngày thì đến xem xét phòng tăng một lần: Sợ đệ tử đắm trước việc hữu vi Sợ tham trước luận bàn việc thế tục Sợ tham ngủ Vì muốn thăm bệnh tăng Khiến cho Tỳ-kheo nhỏ thấy được oai nghi của Phật mà sanh tâm hoan hỷ. Thị giả Là người hầu cận trưởng lão. Pháp sư Triệu gọi là : cung kính thuận mệnh hầu hạ. Kinh Bồ-tát Tùng Đâu Suất Hạ Sanh ghi: thị giả đủ tám pháp: Tín căn kiên cố Tâm siêng học hỏi Thân không bệnh Tinh tấn Đầy đủ tâm niệm Tâm không kiêu mạn Có khả năng thiền định Đầy đủ sự nghe, hiểu Phổ thỉnh Luật ghi: do Phật dạy việc quét bụi là tối thắng nên lúc ấy các Tỳ-kheo trưởng lão kỳ túc bỏ việc thiền định mà quét bụi. Đức Phật liền ngăn và nói: “Ta vì người tri sự mà nói việc tri sự, chứ không lấy việc quét bụi để phổ biến”. Đức Phật liền ra lệnh đánh kiền chùy tập tăng. Đây là phổ thỉnh là n đầu. Tăng thứ Trong chùa sai tăng đi phó trai mà bỏ qua khách tăng gọi là vượt thứ tự. Trụ xứ kia không có danh tăng nên do việc bỏ qua này mà khách chủ không hòa hợp. Luật Hoặc đồng pháp đồng lợi dưỡng, hoặc đồng pháp lợi dưỡng riêng. Cho nên, chủ sự tam viên gọi là tam cương giống như giường lưới to lớn thì các dây chắc chắn: Thượng tọa Tự chủ Yết ma Bố tát Là pháp thức trong luật. Ở đây dịch là cọng trụ, lại gọi là tịnh trụ. Tỳ-nại-da gọi là bầu tửu đà, đời Đường dịch là trưởng dưỡng tịnh, nghĩa là trừ bỏ sự phá giới và trưởng dưỡng thanh tịnh. Như vậy cứ nữa tháng thì phải nhớ đã phạm tội gì để đối trước người không phạm tội mà trình bày để sửa đổi. Một là ngăn lỗi lầm hiện tại; hai là ngăn lỗi là m vị lai. Luận Tỳ-ni-mẫu ghi: thế nào là Bố-tát? Đáp: đoạn trừ gọi là Bố-tát, nghĩa là đoạn trừ phiền não và các pháp bất thiện. Do đó lại nói: thanh tịnh là Bố-tát. Hành trù Tiếng Phạm là xá-la, ở đây dịch là trù. Có Bà-la-môn hỏi Tỳ- kheo ở rừng Thệ Đa hiện trú bao nhiêu người. Tỳ-kheo không biết. Phật dạy: nên phát thẻ đếm. Doanh sự Tỳ-kheo Trong kinh Bảo Tích, đức Phật dạy: Ta cho phép hai hạng Tỳ- kheo được nuôi chúng: Hạng trì giới Hạng biết nghó đến đời sau. Lại có hai hạng: Biết nghiệp báo Có tàm quý và tâm hối hận. Những hạng người như thế thì được phép nuôi chúng, không có lỗi lầm, vì ủng hộ người khác là việc khó. Xuất lực Tỳ-kheo Luật Thập Tụng dạy: xuất lực nghĩa là nếu cư só muốn là m việc ác ở chùa hoặc quấy rối Tỳ-kheo thì vị ấy nên chịu khó chế phục họ, hoặc đến chỗ Vua quan trình bày sự việc để họ dừng là m việc ác. Thủ tự Tỳ-kheo Trong luật Thiện Kiến, đức Phật dạy: Tỳ-kheo phải giữ chùa. Tăng sử Nếu hai chùa sai hành pháp sự thì chủ, khách,thị giả đều là tăng sử. Luật Tứ Phần dạy: đầy đủ tám pháp mới sai việc: Biết lắng nghe Biết giảng nói Tự mình thông hiểu Khiến cho người khác hiểu biết Có khả năng lãnh thọ Có khả năng ghi nhớ và giữ gìn Không lẫn lộn Phân biệt được lời thiện ác. Tụng viết: Thường trụ Nếu ở trong đại chúng Tâm không có khiếp nhược Lời nói không tăng thêm Thọ nhận không giảm bớt Nói năng không nhầm lẫn Hỏi đến không bối rối Tỳ-kheo được như vậy Có thể là m tăng sử. Theo Sao ghi: vật của tăng có bốn loại: Thường trụ thường trụ: nghĩa là trong tăng xá giữ mười vật: cây cối, ruộng vườn, nô bộc, lúa gạo.v.v. Thể thuộc bổn xứ không thông các chỗ khác mà được thọ dùng nhưng không được đem phân chia hoặc bán nên gọi là thường trụ. Thập phương thường trụ: là tất cả các phẩm vật ăn uống.v.v. cúng dường trong một chùa. Thể thông mười phương mà chỉ thuộc bổn xứ sử dụng. Luật Thiện Kiến ghi: không đánh chuông mà thọ thực thì phạm tội ăn trộm. Hiện tiền thường trụ: có hai loại: một là vật hiện tiền, hai là người hiện tiền. Vì vật này chỉ cúng dường cho tăng hiện tiền ở trú xứ này. Thập phương hiện tiền thường trú: vị tăng qua đời, thể của vật thí thông mười phương nhưng chỉ phân chia thuộc tăng hiện tiền ở bổn xứ. Kì đãi tục só Luật Tăng Kỳ dạy: Quốc vương, Đại thần đến chùa thì cho phép đem vật của tăng ra tiếp đãi. Ngay cả những người thợ thầy, giặc ác có ích hoặc không có ích đối với tăng Phật cũng cho phép đem vật của tăng tiếp đãi, không có tội. Tuy là người cũng thọ nhận cũng được tiêu nhưng vì tri sự không tiếp đãi, sợ là m hao tổn của Phật pháp. Theo luật Ngũ Phần dạy: người đời vào chùa gặp tăng thọ thực mà không cho họ ăn nên họ phỉ báng. Phật cho phép cho họ ăn nhưng phải dùng vật tốt để đựng thức ăn. San tích tăng vật ác báo Phó Pháp Tạng ghi: tăng già Da Xá du hành ven biển đến một trụ xứ có nhiều lầu đài tráng lệ, các Tỳ-kheo đánh chuông tập chúng thọ thực. Ăn xong thì tất cả thức ăn đều biến thành máu mủ nên họ dùng bát đánh nhau là m cho máu chảy khắp đầu thân và họ đều nói: “Tại tiếc vật của chúng nên nay phải chịu khổ này”. Da Xá liền hỏi thì có người đáp: “Vào thời Phật Ca Diếp, tất cả chúng tôi cùng ở một chùa. Lúc có khách Tỳ-kheo đến thì chúng tôi đều sân giận, đem cất tất cả thức ăn, không cho khách. Do nhân duyên đó nên nay chịu khổ này”. Tẩn trị Trong luật Ngũ Phần gọi là Phạm-đàn-trị. Theo Sa Di Tắc gọi là Phạm-phạt. Ở đây có hai pháp: Mặt tẩn: tất cả mọi người không được lui tới, nói chuyện.v.v. Diệt tẩn: theo luật dạy: người phạm tội nặng, tâm không hổ thẹn thì chúng không chứa họ, không thể cùng ở nên đem đến trong tăng chỉ tội rồi đuổi đi. Đa luận ghi: thật phạm tội mà đại chúng biết, không cần người ấy tự nói ra mà phải đuổi đi gọi là quý an thiện nhân. Luận Du Già ghi: khu tẩn do ba nhân duyên: Vì hộ người khác Vì họ không phải là pháp khí cao thượng. Vì họ không có oai đức trong tăng. Hỏi: nay trong tăng có có người mới bị đuổi ra khỏi chúng, sau đó lại xin vào chúng nên chưa biết thế nào? Đáp: cùng có như thế. Vì sao? Theo luận Du Già dạy: phạm lỗi thuộc hạ phẩm, trung phẩm nhưng vì giáo giới cho người khác nên phương tiện đuổi đi, sau đó cho trở lại. Nếu phạm lỗi thuộc thượng phẩm, tội đáng đuổi đi thì suốt đời không cho tu trở lại. Kiết giới Theo luật Tăng Kỳ dạy: không Yết ma thì không được là m các tăng sự. Nếu là m thì mắc tội Việt pháp. Theo Tứ Phần San Bổ Yết Ma dạy: giới có ba: Nhiếp tăng giới: bao gồm những người đồng ở, khiến không mắc tội biệt chúng Nhiếp y giới: giữ y của mình, khiến không mắc tội lìa y. Nhiếp thực: ngăn tăng khiến không mắc tội tàng trữ thức ăn. Lại nữa, đại giới có ba loại: Người và pháp cùng chung Pháp và lợi dưỡng cùng chung Pháp chung, lợi dưỡng riêng: ban đầu tuy đồng chế nhưng sau tùy duyên khai riêng ra. Già lam lập miếu Luật Tứ Phần ghi: trong chùa có lập miếu thờ thần. Theo truyện ghi: trước tiên lập miếu quỷ, kế đến lập miếu thổ địa, rồi lập miếu Thánh tăng. Tịnh nhân Tỳ-nại-da dạy: vì tạo nghiệp tịnh nên gọi là tịnh nhân, hoặc bảo vệ trụ xứ gọi là thủ viên dân, hoặc gọi là sử nhân. Nay chùa ở Bắc Kinh gọi là gia nhân. Duyên khởi: luật Thập Tụng ghi: Vua Bình Sa thấy Đại Ái Đạo tự trộn bùn sửa phòng. Về sau, Vua bắt được năm trăm giặc cướp, Vua hỏi: “Các ngươi có thể giúp Tỳ-kheo thì Trẫm sẽ ân xá cho”. Họ đều chấp thuận. Vua liền sai họ đến Kỳ Hoàn là m tịnh nhân, nghĩa là là m việc thanh tịnh cho tăng, nhờ tăng mà thoát khỏi tội lỗi nên gọi là tịnh nhân. Lại nữa, tiếng Phạm là cật-lật-đa, đời Đường dịch là tặc nhân. <詞>TẠP KỶ Tự viện họa bích Tỳ-nại-da ghi: trưởng giả Cấp Cô Độc tạo dựng chàu xong rồi suy nghó: “Nếu không có tranh ảnh thì không trang nghiêm”. Do đó ông ta liền đến bạch Phật. Phật dạy: tùy ý Thưa: con chưa biết vẽ tranh gì? Phật dạy: Hai bên cửa nên vẽ tranh dược-xoa cầm gậy. Kế đến một bên vẽ đại thần biến, một bên cảnh sanh tử luân hồi trong năm đường, dưới nên vẽ chuyện bổn sanh. Hai bên điện Phật vẽ dược-xoa tóc dài. Giảng đường vẽ tranh thuyết pháp. Nhà ăn vẽ tranh dược-xoa cầm bánh. Cửa nhà kho vẽ tranh dược-xoa cầm châu báu. Nhà chứa nước vẽ tranh Long vương cầm bình nước tắm. Nhà bếp vẽ tranh thiên sứ (sanh, già, bệnh, chết và lao ngục hiện tại). Nhà đọc kinh pháp vẽ tranh Bồ-tát và Địa ngục đối nhau. Nhà bệnh vẽ tranh Phật đích thân chăm sóc Tỳ- kheo bệnh. Nhà xí vẽ tranh tử thi. Nhà tăng vẽ tranh xương trắng. Ngũ thú sanh tử luân Căn Bản Tỳ-nại-da, quyển ba mươi bốn ghi: đức Phật ở trong vườn trúc Yết-lan-đạc-ca-trì tại thành Xá Vệ. Lúc ấy, Đại Mục Kiền Liên đi vào trong năm đường, từ mẫn quán sát, đến Địa ngục thấy các chúng sanh chịu vô lượng khổ. Bốn chúng đều hỏi A Nan Đà: “Trong tất cả mọi nơi thường có Mục Liên sách tấn các Tỳ-kheo. Đối với bức tranh ở cửa chùa vẽ sự sinh tử luân hồi thì phải tùy theo lớn nhỏ, vẽ hình luân hồi thành vòng tròn. Ở giữa là trục xe, rồi đến năm vành xe, biểu hiện năm đường. Dưới trục xe vẽ Địa ngục, hai bên vẽ Bàng sanh và Ngạ quỷ, phía trên vẽ Trời, người. Trong cõi người chỉ vẽ bốn châu. Trên trục xe tô màu trắng, ở giữa vẽ đức Phật; trước đức Phật vẽ ba loài vật: đầu tiên vẽ con bồ câu, biểu thị sự tham muốn nhiều; thứ đến vẽ con rắn, biểu hiện sự sân giận nhiều; sau cùng vẽ con heo, biểu hiện sự ngu si. Ở võng lưới nên vẽ nước, bình nước, trong vẽ tượng hữu tình sanh tử: sanh thì nước ra ở đầu, chết thì nước ra ở chân. Trong năm đường ấy đều có hình tượng nên vẽ mười hai chi sanh diệt: vô minh, vẽ hình La sát; hành, vẽ thợ đồ gốm; thức, vẽ hình con khỉ; danh sắc, vẽ hình người chèo thuyền; lục xứ, vẽ sáu căn; xúc, vẽ hình nam nữ vỗ về nhau; thọ, vẽ hình nam nữ thọ khổ, vui; ái, vẽ hình nữ ôm nam; thủ, vẽ hình trượng phu múc nước; hữu, vẽ hình Đại Phạm thiên; sanh, vẽ hình người nữ mang thai; lão, vẽ hình nam nữ già yếu; bệnh, vẽ hình người bệnh; tử, vẽ hình người chết; ưu, vẽ hình nam nữ ưu sầu; bi, vẽ hình khóc lóc; khổ, vẽ hình nam nữ chịu khổ; não, vẽ hình trượng phu kéo lạc đà. Trên đỉnh bánh xe, vẽ quỷ vô thường to lớn, tóc dài, miệng rộng, duỗi hai tay kéo võng lưới. Hai bên đầu quỷ, vẽ hai già-tha: một là người đang càu xuất ly, siêng năng tu tập giáo pháp của Phật, hàng phục quân sanh tử như voi đạp nhà tranh; hai là thường luôn thực hành pháp luật, không buông lung, có thể tát cạn biển phiền não, qua khỏi bờ khổ. Kế đến, trên đầu quỷ, vẽ khoảng trắng, biểu hiện Niết bàn thanh tịnh. Do đó mà có tên bánh xe sanh tử trong năm đường. Tu sức họa tượng Trong luận Căn Bản Mục-đắc-ca, đức Phật dạy: nếu hình tượng Phật bằng đất bị hư hoại, Tỳ-kheo do dự không dám tu sửa. Phật dạy: hoặc có thể là m lớn hơn, hoặc có thể là m tương tợ, tùy ý mà là m. Các màu sắc vẽ bị mờ thì có thể quét bỏ để vẽ mới lại. Ca tỳ la thần tượng Vào niên hiệu Nguyên Gia, thiền sư Pháp Tú bắt đầu đến Kiến Nguyệt, nghỉ ở chùa Kỳ Hoàn vẽ tượng thần này, ngày nay họ bắt chước theo. Kiền chùy Xuất Yếu Luật Nghi ghi: càn là phiên thiết của chữ cự hàn; chùy: âm địa. Xuất Yếu Luật Nghi dịch là tiếng khánh. Luật Ngũ Phần ghi: ngói, gỗ, đồng, thiết có tiếng kêu đều gọi là kiền chùy. Kinh Âm Sớ ghi: kiền: âm xứ; trỉ là phiên thiết của chữ trực lợi, ở đây dịch là âm thanh của đánh gỗ. Trong luật Ngũ Phần, Tỳ-kheo hỏi: lấy gỗ gì để là m kiền chùy? Đức Phật dạy: trừ cây gỗ sơn ra, các loại gỗ còn lại có âm thanh đều cho phép là m. Trí Luận ghi: Ca Diếp ở trên đỉnh núi Tu Di dùng đồng là m kiền chùy. Kinh Tăng Nhất ghi: A Nan lên giảng đường đánh kiền chùy là tín hiệu của Như Lai. Tự viện kích cổ Luật Ngũ Phần ghi: khi các Tỳ-kheo Bố-tát mà chúng không tập hợp một lúc. Đức Phật dạy: “đánh kiền chùy, hoặc đánh trống, thổi sừng ốc; hoặc đánh lúc ăn cơm”. Kinh Lăng Nghiêm ghi: lúc ăn, lúc là m việc đánh trống, lúc tập chúng đánh chuông; hoặc đánh lúc thuyết pháp. Luật Tăng Kỳ ghi: Đế Thích có ba hồi trống, lúc lên pháp đường thuyết pháp đánh trống ba lần. Tự viện trưởng sanh tiền Luật gọi là tài vật vô tận, bởi vì mẹ con sanh trưởng nên gọi là vô tận. Lưỡng Kinh Ký ghi: trong chùa có chứa tài vật vô tận. Lại nữa, trong Kinh Tắc Thiên ghi: đem tài vật dành chứa của song thân cúng dường nhị sư, chớ đem vào của chiêu đề tăng, hoặc đem sung vào của vô tận. Luật Thập Tụng dạy: dùng vật của tháp Phật xuất ra để có lợi tức, Phật cho phép. Luật Tăng Kỳ dạy: hoa cúng dường Phật nhiều quá thì cho phép bán đổi; hương, dầu nhiều quá thì cho phép bán để vào tài sản vô tận của Phật. Vu lan bồn Hàng Thích tử hiếu kính, báo ân, mục đích là cứu khổ, do Mục Liên cứu mẹ lần đầu tiên. Tiếng phạm là Vu-lan, ở đây dịch là cứu đảo huyền. Bồn thì ở đây gọi là phương khí. Đề mục của kinh này thì Hoa, Phạm đều như nhau. Hoặc từ Phạm ngữ, chữ vu không có bộ huyết là viết sai lầm vậy. Theo nghĩa Tịnh nói: Vu lan là âm của Tây Vức, ở đây dịch là cứu đảo huyền. Khỏi sự cơ cẩn khốn khổ gọi là cứu đảo huyền. Bồn là âm Đông Hạ, ở đây dịch là vật cứu khổ. Vì nhờ ân đại chúng cứu khỏi sự treo ngược quẫn bách. Từ nghĩa này mà lập ra tên gọi. Các sư xưa dịch bồn là bát. Nhưng nay tùy theo thế tục mà dịch là chậu. Chậu và bát đều là vật đựng. Trong kinh dạy: đệ tử Phật tu hạnh hiếu thuận nên trong tâm niệm thường nhớ nghó đến cha mẹ, nghó đến cả cha mẹ bảy đời. Vào rằm tháng bảy mỗi năm đều là m lễ Vu lan bồn, cúng Phật và tăng để báo ân sanh thành dưỡng dục của cha mẹ. Vào đời Tấn, Sa- môn Huệ Đạt, họ Lưu, tên Tát Hà, đến năm hai mươi mốt tuổi thì chết đột ngột. Do tim còn nóng nên mọi người chưa liệm ngay, qua bảy ngày thì sống lại. Ông ta nói: “Trong chỗ tối tăm thấy một người cao hơn hai trượng, tướng tốt trang nghiêm, thân sắc vàng ròng, sư giả nói đó là Bồ-tát Quan Thế Âm. Huệ Đạt là m lễ xong thì Bồ-tát thuyết pháp. Lại nói, vì người chết mà là m phước thì là m ở chùa hoặc trong nhà. Vào ngày rằm tháng bảy là ngày Sa-môn thọ tuổi hạ thì là m lúc này là tốt nhất, hoặc đem vật dụng để cúng dường. Phiêu Đề ghi: Mỗ, giáp cúng dường để là m phước cho người chết của Mỗ. Trong kinh lại ghi: ngày rằm tháng bảy là ngày chúng tăng tự tứ nên vì cha mẹ bảy đời và cha mẹ hiện tiền đang chịu nguy khốn mà sắm đủ trăm vị thức ăn, năm món hoa quả, chậu nước hương, dầu, đèn, giường, tọa cụ, ngọa cụ, các thức ăn thơm ngon để trong bồn để cúng dường mười phương đại đức tăng. Lại nữa, khi vừa nhận thức ăn thì trước tiên phải dâng lên Phật, chúng tăng chú nguyện rồi mới thọ thực. Giải hạ thảo Nay ngày giải hạ chúng tăng ngôi kiết già trên đá. Do dùng tơ năm màu sai đàn việt kết lại nên gọi là cỏ giải hạ. Nay cỏ này dùng để là m topà cho năm phần pháp thân nên có tên là cỏ kiết tường. Căn Bản Bách Nhất Yết ma ghi: Bí-sô thọ tự tứ nên dùng cỏ này để là m tòa cho chúng tăng. Các Bí-sô đều ngồi trên tòa cỏ này. Tam trưởng nguyệt Kinh Bất Không Cốt Sách ghi: là tháng thần thông của chư Phật. Trí Luận ghi: Thiên Đế Thích dùng gương báu lớn, từ tháng giêng chiếu Nam Diệm bộ châu. Tháng hai chiếu Tây châu. Tháng năm đến tháng chín đều chiếu Nam châu để soi xét người là m ác. Nhiều người trong Nam châu vào tháng này đều tìm thức ăn nên tu thiện. Trong kinh dạy: mỗi năm có ba lần trường trai. Lại có một chủ thuyết nói: ở phương Bắc, Thiên vương Tỳ-sa-môn đi tuần sát việc thiện ác trong bốn châu. Tháng giêng đến Nam châu, cũng như gương chiếu … đến tháng năm, tháng chín đều thị sát Nam châu. Ký họa Người đời nay thương yêu con trẻ liền dùng vải tăng mang cho nó để tránh họa. Đời Đại Đường, niên hiệu Khai Nguyên, Thích Giáo Lục ghi: ban đầu Nhân Trung Tông Hiếu và Hoàng Đế mới sanh có điềm kỳ lạ, ánh sáng chiếu khắp, trước sân có đuốc Trời, do đó mà đặt tên là Phật Quang Vương, liền thọ Tam quy, mặc y ca-sa. Đến ngày mồng năm tháng mười hai thì đầy tháng, sắc lệnh vì Phật Quang Vương mà độ bảy tăng, thỉnh pháp sư Huyền Trang cạo xuống tóc cho Vua. Thanh trai Nay người ở thế gian từ sáng uống một chén nước, suốt ngày không ăn gọi là thanh trai. Luận Trí Độ dạy: vào thời kiếp sơ, có Thánh nhân dạy người trì trai, tu thiện tránh ác, trọn một ngày không ăn gọi là trai. Sau khi Phật xuất hiện ở đời, dạy người quá giờ ngọ không ăn gọi là trai. Đây là chính pháp. Pháp khúc tử Trong Tỳ-nại-da ghi: ở phía Nam thành Vương Xá, có một nhạc só là Lạp Bà Thủ dùng tám tướng Bồ-tát để đánh lên ca khúc là m cho người chính tín nghe thì sanh tâm hoan hỷ. Nay kinh sư Tăng Niệm ở Lương châu nói về tám tướng thường dẫn ba quy y. Lại nữa, ở phương Nam thiền sư là m ngư phủ đánh đàn bằng mái chèo, xướng đạo ca đều là m cho gió lay động. Liễu chi tịnh thủy Theo phong tục ở đây thì mỗi khi đến trọng ngọ, có nhiều khí độc của Mặt trời cho nên phải dùng bồn đựng đầy nước và đặt nhành dương vào trong rồi để ở trước cửa trừ điềm xấu. Theo kinh Quán Đảnh ghi: xưa, dân chúng ở thành Duy-na-lê bị dịch bệnh, có một Tỳ-kheo niên thiếu tên là Thiền Đề vâng theo lời Phật dạy trì thần chú Ma-ha Bát- nhã đem đến để trừ dịch bệnh, mọi người đều là nh. Lúc ấy, Thiền Đề ở nước kia suốt hai mươi chín năm và nhân dân đều được an lạc. Đến khi Thiền Đề đi giáo hóa ở nơi khác thì nơi này lại gặp dịch bệnh. Dân chúng đều nhớ đến Thiền Đề liền đi đến trú xứ kia trông thấy cây tăm xỉa răng ném dưới đất thành đống, ở dưới có nước. Dân chúng múc nước ấy, bẻ nhành dương vẩy nước là m cho những người bệnh đều được là nh mạnh, khí độc tiêu mất, dứt trừ mọi tai ác nên mọi việc đều được an là nh. Thóa không Người đời đi trong đêm tối thì tay lạnh, tâm run, vì nghi có quỷ nên khạc nhổ khắp nơi. Theo Pháp Uyển ghi trong truyện Liệt Dị kể: Nam Dương Tống Định Bá lúc nhỏ đi một mình trong đêm tối, gặp một con quỷ. Quỷ hỏi, Định Bá nói dối rằng: “Ta là quỷ”. Quỷ lại hỏi: “Đi đâu?”. Đáp: “Đi Uyển Thị”. Quỷ hỏi: “Chúng ta có thể đổi nhau cõng đi”. Định Bá nói: “Tốt quá”. Quỷ cõng Định Bá trước và than quá nặng. Định Bá nói: “Ta mới chết nên nặng”. Đến lược Định Bá cõng quỷ quả nhiên rất nhẹ. Định Bá hỏi quỷ: “Ta mới chết không biết phải sợ vật gì?” Quỷ nói: “Chỉ sợ người ta nhổ nước miếng”. Khi đến gần chợ, Định Bá vôi vàng nhổ nước miếng. Quỷ liền hóa thành con dê. Định Bá dắt vào chợ bán được năm trăm đồng. Lúc ấy, Thạch Sùng nghe, đến thăm nói: “Định Bá bán quỷ được năm ngàn đồng tiền”. Chỉ tiền thải quyên Đường Sử Bộ thượng thư Đường Lâm soạn Minh Báo Ký ghi: Đường Mục Nhân Thiến là người nước Triệu, thuở nhỏ học kinh, không tin quỷ thần. Một hôm trên đường ông ta đi thấy một người y, mão, xe ngựa và hơn năm mươi người hầu liếc nhìn ông ta. Mười năm luôn gặp như thế. Bỗng một hôm gặp nhau, người ấy liền dừng xe, mời Mục Nhân: “Ta đã từng gặp ông, trong lòng rất cảm mến nên muốn dạo chơi cùng ông”. Mục Nhân hỏi: “Ông là người nào?”. Đáp: “Ta là quỷ, họ Thành, tên Cảnh Bổn là người Hoằng Nông, là m quan biệt giá ở Tây Tấn, nay là thái sử nước Hồ”. Mục nhân nói: “Nước Hồ ở đâu?” Đáp: “Từ Hoàng Hà phía Bắc là thủ đô chính, có nhiều lâu đài ở trong đùn cát phía Tây Bắc. Vua là Triệu Linh Vương. Mỗi tháng sai ta lên núi triều tấu”. Do đó, trên đường đi, Mục nhận lời. Quỷ bày tiệc rượu, rồi đem tiền, lụa tặng để tỏ bày lòng tốt. Lúc tạ từ lại nói: “Tiền quỷ sử dụng là tiền giấy, hoặc tơ lụa cũng là m bằng giấy, bạc là giấy bạc, vàng là giấy vàng”. Tam mục trai Người phương Bắc mất đến ngày thứ ba là là m trai tăng, nghĩa là kiến vương trai. Trong Pháp Uyển, Lang Nguyên Hưu ở núi Đường Trung soạn Minh Báo Xả Di Ký ghi: Quan Bắc Tề, họ Lương, lúc sắp chết, ông ta bảo vợ mình: “Người hầu và con ngựa được ta yêu mến đều đem chôn theo ta”. Khi quan chết, trong nhà liền dùng đất ép chôn người hầu. Đến ngày thứ tư, người hầu sống lại, nói: “Địa phủ thấy Lương chủ bị xiềng xích, có người canh giữ. Ông liền bảo tôi: “Ta bảo ngươi đồng chết để ta sai sử nên dặn chôn ngươi theo ta. Nhưng nay mỗi người tự thọ nhận nghiệp của mình nên bảo thả tôi trở về. Nói xong liền đuổi vào trong phủ”. Người hầu núp bên ngoài nghe ngóng. Quan hỏi thị vệ: “Hôm qua đè ép bao nhiêu chi”. Đáp: “Tám đấu”. Quan nói: “Hôm nay đè đá sáu thước rồi khiên ra”. Đến sáng ngày thấy sắc tươi nhuận liền bảo người hầu: “Ngày nay phải bảo thả ông vào phủ”. Người hầu lại nghe ngóng. Thị vệ nói: “Người này chết đã ba ngày, nhờ vợ con thiết trai cúng dường, chúng tăng chuyển đọc tôn kinh nên xiềng xích họ Lương liền gãy, đè ép không được”. Quan bảo khéo tìm cách để phóng thích. Do đó, ông liền dặn vợ con, vì ông mà thiết trai, cúng vong linh để thoát khỏi khổ lớn. Nếu như chưa được thoát hẳn thì lại bảo thiết trai, là m phước cứu giúp, cẩn thận chớ sát sanh để cúng tế, lại không được ăn ,chỉ tăng thêm tội lỗi cho ta. Lũy thất trai Người chết cứ đến bảy ngày thì phải là m trai cúng vong linh, ng- hóa là bảy lần như thế; lại nói: thiết trai bảy lần. Theo luận Du Già ghi: người chết đang ở thân Trung hữu, chưa có duyên được thác sanh thì cứ trải qua bảy ngày, nếu có duyên được thác sanh tức bất định. Nếu đến bảy ngày chết rồi lại sanh. Như vậy sanh tử cứ xoay vần cho đến bốn mươi chín ngày. Từ đây về sau mới quyết định được sanh. Lại nữa, thân Trung hữu qua bảy ngày chết rồi sanh. Nếu đối với loại này nhờ nghiệp khác có thể chuyển chủng tử thân Trung hữu liền sanh Trung hữu loại khác. Nay xét ở trong kinh quá thiện, ác thì không có Trung hữu. Đã thọ thân Trung hữu tức thuộc về nghiệp thiện, ác của trung phẩm và hạ phẩm. Vì thế, trong luận ghi: có thể chuyển nghiệp vậy. Như ở đời mỗi tuần(bảy ngày) thiết trai là m phước, vì thân Trung hữu sanh tử liên tục nên là m việc thiện để trợ giúp cho chủng tử Trung hữu không chuyển sanh vào cõi ác. Do đó, những ngày là m phước này không thể bỏ thiếu. Trai thất phiên tử Theo phong tục phương Bắc thì người chết cứ mỗi tuần là m trai một lần đều sai người chủ trai tăng, cắt giấy từng đoạn rồi tùy theo giấy mà là m cờ hiệu. Theo kinh chính Pháp Niệm Xứ dạy: có một trăm mười bảy thân Trung hữu, nghĩa là khi chết, nếu sanh ở cõi Trời thì thấy thân Trung hữu như lông tơ hạ xuống. Thần thức người ấy thấy rồi đưa tay quơ lấy liền thọ thân Trung hữu ở cõi Trời, người. Cho nên, nay bốn mươi chín ngày là ngày thân Trung hữu sanh tử, dùng chỉ trắng là m tràng phan để giúp họ nhìn thấy vậy. Như thế, người này dùng tơ lụa gọi hồn rất hợp với ý chỉ trong kinh. Vô thường chung nghiệm Cao Tăng truyện đời Đường ghi: ở chùa Đại Trang Nghiêm, Thích Trí Hưng thường đánh chuông. Trong chùa ấy vị tăng có anh là Tùy Dương Đế đến Dương châu, bị chết trên đường đi. Một hôm người vợ nằm mộng thấy ông ta về nói với vợ con: “Ta đến Bành Thành bị bệnh mà chết, đầu tháng nay nhờ tiếng đánh chuông của thầy Trí Hưng ở chùa Thiền Định mà được cứu tế nên những người thọ khổ ở Địa ngục đều được thoát ra. Ta cũng nằm trong số đó. Vậy các người có thể đem mười xấp vải lụa đến dâng cúng thầy Trí Hưng và nói lại ý ta”. Bà ta y theo lời chỉ dặn đến dâng cúng. Thầy Trí Hưng không nhận mà đem bố thí khắp. Chủ chùa cung kính hỏi thiền sư: “Sư dựa vào pháp gì mà biết có linh nghiệm như thế?”. Thầy Trí Hưng đáp: “Ta thấy truyền Phó Pháp Tạng, Vua nước Kế Tân thọ khổ, nghe tiếng chuông thì dứt nghiệp liền y theo pháp đánh chuông trong kinh Tăng Nhất A-hàm”. Dự tu trai thất Trong kinh Quán Đảnh, Bồ-tát Phổ Quảng bạch Phật: Nếu thiện nam, tín nữ hiểu rõ giới pháp, biết thân như huyễn, khi đang còn sống, tu bảy việc: đốt đèn, treo tràng phan, bảo cái, thỉnh tăng chuyên đọc tôn kinh thì phước đức có được nhiều không? Đức Phật dạy: phước đức vô lượng. Thành môn thượng thiên vương Tăng Sư Lược ghi: vào năm Nhâm Tý, đầu niên hiệu Thiên Bảo, đời Đường, năm nước Tây Phồn đến cướp bóc ở An Tây. Ngày mười một tháng hai, Tần dẫn binh viện trợ trải qua vạn dặm suốt mấy tháng liền mới đến nơi. Cận thần đem chiếu Vua Tần thỉnh tam tạng Bất Không vào nội thành trì niệm Huyền tông và xông hương. Tam tạng Bất Không tụng Nhân Vương Hộ Quốc Đà-la-ni. Mới tụng mười bốn biến, Vua bỗng thấy vị Thần và năm trăm viên quan mặc áo giáp, cầm binh khí đứng trước điện đường. Vua nói: “Bất Không”. Đáp: “Đó là con thứ hai của thiên vương Tỳ Sa Môn rất dõng mãnh, đến giúp Bệ hạ cứu An Tây. Tháng tư năm ấy, ở An Tây qua ngày mười một tháng hai, Tần cách thành Đông Bắc ba mươi dặm, mây che mù mịt, trung hữu thần đều đánh chiếm đến Giáp Dậu, trống loa vang lên inh ỏi, lay núi, động đất. Trải qua hai ngày, giặc Phồn thua trận chạy tán loạn. Khi tu sửa thành có ánh sáng Thiên vương hiện hình nên Tiết trấn sở châu phủ thuộc thành Tây Bắc đều đặt tượng Thiên Vương. Ngay cả các chùa cũng sắc lệnh an trí. Sa bà thế giới Chính là sắc-ha. Lại nữa, trong kinh Tự Thệ Tam muội gọi là sa-ha. Hán dịch là nhẫn, hoặc gọi là kham nhẫn, nghĩa là chúng sinh ở quốc độ này cứng cõi khó nhẫn, tức là do sự mà đặt tên. Diêm phù đề Lại gọi là Diệm bộ. Vì châu này ở phía Nam núi Di lô nên gọi Nam Diêm phù đề. Theo kinh Trường A-hàm ghi: do cây Diêm phù đề nên đặt tên vậy. <詞>CHIÊM BỆNH Chiêm bệnh chế Trong luật Tăng Kỳ ghi: có vị Tỳ-kheo bị bệnh lâu ngày, nhân đức Phật đi xem xét chúng thấy vậy, Ngài cùng A Nan tắm rửa và giặt giũ y phục, ngọa cụ xong, thuyết pháp cho người bệnh nghe. Đức Phật hỏi: “Ông có từng chăm sóc bệnh không?” Đáp: “Dạ chưa”. Đức Phật dạy: “Ông không chăm sóc ai thì ai sẽ chăm sóc ông?”. Do đó, đức Phật chế giới: từ nay về sau nên chăm sóc Tỳ-kheo bệnh. Nếu muốn cúng dường Ta thì nên cúng dường người bệnh. Chiêm bệnh nhân ngũ đức Luật Ngũ Phần dạy: người chăm sóc bệnh có đủ năm đức: Biết thức ăn người bệnh có thể ăn hay không ăn được. Không chê người bệnh dơ mà khạc nhổ Có từ tâm, không vì việc ăn, mặc. Biết sử dụng thuốc Có khả năng thuyết pháp cho người bệnh là m cho họ hoan hỷ, tăng trưởng pháp là nh. Chiêm bệnh nhân lục thất. Trong kinh Tăng Nhất A-hàm ghi: sáu lỗi của người chăm sóc bệnh: Không rành thuốc men. Lười biếng Ưu ngủ, hay sân. Chỉ tham việc ăn, mặc Không vì pháp cúng dường Không cùng người bệnh nói chuyện, vui đùa. Đắc bệnh thập duyên Trong Phật Thuyết Y kinh ghi: có mười duyên sanh bệnh: Ngồi lâu Ăn không có liều lượng Nhiều ưu sầu Mệt mỏi Dâm dục Sân giận Nín đại tiện Nín tiểu tiện Ngăn hắc hơi Ngăn đánh rấm. Hoạnh tử cửu pháp Luật tăng Kỳ dạy có chín pháp bị chết bất ngờ: Biết thức ăn không lợi ích mà ăn Ăn không có độ lượng Ăn chưa tiêu mà ăn lại Ngăn ói mửa Thức ăn đã tiêu muốn đi ngoài mà ngăn lại Ăn không tùy bệnh Tùy bệnh mà không trù lượng Lười uống thuốc Không có trí tuệ không biết điều chế tâm. Bệnh tăng đắc sổ sổ thực Trong luật Tăng Kỳ, Phật hỏi bệnh Tỳ-kheo. Tỳ-kheo thưa: “bệnh của con không tổn hại lắm, chỉ việc ăn nhiều lần thì thân được an lạc”. Đức Thế Tôn vì người bệnh không tổn hại mà chế giới. Đức Phật dạy: cho phép Tỳ-kheo bệnh được ăn nhiều lần. Đắc dó tửu vi dược Trong luận Phân Biệt Công Đức ghi: tại Kỳ Viên có Tỳ-kheo bệnh đã sáu năm, Ưu Ba Lê đến hỏi cần những thứ gì? Đáp: “Chỉ cần rượu”. Ba Lê nói: “Đợi tôi đến thỉnh ý Phật”. Ưu Ba lê liền đến Kỳ Viên thưa Phật: “Có Tỳ-kheo bệnh muốn dùng rượu là m thuốc không biết có được không?” Đức Phật dạy: “Pháp của Ta chế ra là để trừ bệnh khổ”. Ưu Ba Lê lại đi tìm rượu cho người bệnh uống là nh mạnh, rồi lại thuyết pháp là m cho người bệnh đắc quả A-la-hán. Đức Phật khen ngợi Ưu Ba lê: “Ông thưa hỏi việc này không những là m cho Tỳ-kheo bệnh được là nh mạnh mà còn được đắc đạo quả. Vô thường viện Truyện Tây Vức chép: phía Tây Bắc Kỳ hoàn chỗ Mặt trời lặn là viện Vô thường. Người nào có bệnh thì được an là nh. Trong ấy vì những người phàm với lòng tham đắm phòng nhà, y, bát, đạo cụ, sanh tâm quyến luyến không biết nhàm chán mà chế giảng đường này kh- iến người nghe đến tên gọi thì liền tỉnh ngộ: tất cả các pháp đều vô thường. Đường nội trí Phật Theo Nam Sơn Sao ghi: trong nhà vô thường an trí một tượng tô màu vàng nhạt, mặt hướng về phía Tây. Trong ngón tay trái quấn cờ năm màu nối đến cẳng chân kéo dài xuống đất. Người chăm sóc bệnh nên lau rửa, thay y cho Tỳ-kheo bệnh và an trí sau tượng, tay trái cầm cờ hiệu là m theo Phật, ý là mong vãng sanh. Người chăm sóc bệnh nên đốt hương, rải hoa, thỉnh tăng tụng niệm cho đến tùy theo căn cơ mà thuyết pháp. Hoặc người bệnh thì không được di động chỉ ở sau tượng đợi để đợi qua đời. Nếu có khạc nhổ, đái ỉa thì người chăm sóc bệnh tùy lúc mà dọn bỏ đi thì không có tội. Vị bệnh nhân niệm tụng Bài kệ về phẩm Bồ-tát Hiền Thủ thứ mười lăm trong kinh Hoa Nghiêm ghi: Lại phóng ánh sáng Gọi là thấy Phật Khi ánh sáng này Bị ẩn mất đi Tùy sự nhớ nghó Được thấy Như Lai Sau khi mạng chung Được sanh Tịnh độ Vậy người sắp chết Cần phải niệm Phật An trí tôn tượng Cung kính lễ bái Nương theo đức Phật Thâm tín quy ngưỡng Cho nên được thành Như ánh sáng này Gọi là thập niệm Tức là mười hiệu Đức Phật Di Đà Thuyết pháp thi đạo Luật Thập Tụng dạy: nên đến thăm bệnh đúng lúc, vì họ mà nói pháp đầy là đạo, đây là phi đạo để họ phát sanh trí huệ, hoặc tùy theo đó mà tán thán sự tu tập của người khác khiến cho người bệnh hoan hỷ. Đến lúc sắp qua đời người bệnh bị vọng nghiệp lấn áp, không có chí khí. Đó là một thời thiện ác chìm nỗi cách biệt thì nên đem quyển kinh nói rõ đề mục, lại dùng tượng Phật để đối diện để họ chiêm ngưỡng, thường luôn nói pháp, niệm Phật, cản thận chớ bàn chuyện thế gian. Xả đọa Nay có Tỳ-kheo bệnh đem y, bát bán cho tăng, gọi là xả đọa. Đây chỉ dùng trên danh nghĩa mà không được dùng thật. Theo Xuất Yếu Ng- hóa ghi: tiếng Phạm là Ni-tát-kỳ, xưa dịch là xả đọa, tức là một tội trong sáu tụ, do chứa nhiều tài vật mà sanh tâm kiêu mạn, tham đắm nên tạm chế xả bỏ vào tăng. Theo Thanh Luật dịch là tận xả, nghĩa là xả tài, xả tâm, xả tội. Nếu không xả bỏ hết thì lại sẽ bị đắm nhiễm. Đả vô thường khánh Tăng Huy Ký ghi: khi chưa mạng chung thì nên đánh khánh liên tục khiến cho họ nghe tiếng mà sanh thiện tâm, được sanh cõi là nh. Đại sư Trí Giả khi lâm chung nói với Duy na: “Khi mạng người sắp mất được nghe tiếng khánh sẽ tăng thêm chính niệm, tiếng khánh phải liên tục và dài chớ đẻ dứt mất cho đến lúc người tắt hơi thở. Phong đao Kinh chính Pháp Niệm ghi: khi mạng chung, gió đao đều thổi như ngàn mũi dao nhọn đâm vào thân. Nếu có nghiệp thiện thì không bị khổ não. Theo luận Hiển Tông ghi: vì người mà thích nói: “đâm chết người kia”, dù thật hay không thật cũng là m thương tổn tâm người. Do đó thường phải chịu khổ gió đao. Mạng chung tâm Duy Thức Sao ghi: khi tâm mạng chung thì khởi lên bốn sự thương tiếc tức là can bản để thọ thân chúng sinh thiện ác: Đối với tự thân thì hiện khởi có ái. Đối với quyến thuộc thì khởi tâm tham đắm, thương yêu cùng hoạt động Đối với ruộng vườn, tài sản thì khởi tâm yêu tiếc. Đối với đời tương lai thì hậu khí có ái. Vả lại trong bốn ái, ba ái trước là trợ duyên để thác sanh, ái sau là quyết định thác sanh, nghĩa là đối với tâm sanh tương lai cũng gọi là tâm thọ sanh. Khi tâm này có được người khéo léo sách tấn, nghe danh hiệu Phật, nghe tiếng khánh thì sẽ chuyển từ sự trói buộc đến cảnh giới bậc Thánh, vì không bị điên đảo nên tùy nguyện mà vãng sanh đến cõi là nh. Muộn tuyệt vị Tiếng Phạm là mạt-ma, ở đây dịch là tử huyệt, hoặc tử tiết, do bệnh cảm ứng đến nơi này nên tâm muộn tuyệt sanh. Vì thế dù đã chết mà tim, đầu còn nóng, do thức thứ tám chưa xả. Tử vị Luận Du Già gọi là thọ mạng chấm dứt. Kinh Tạp A-hàm ghi: ba pháp: thọ mạng, hơi ấm, thức đèu xả gọi là chết. Theo Duy Thức Sớ ghi: thân hoại mạng hết, đi vào tướng diệt mới gọi là chết. Theo tông Đại thừa thì tướng diệt thuộc về quá khứ. Theo kệ kinh chính Pháp Niệm xứ dạy: bát luận giàu hay nghèo, trai trẻ hay già nua, tại gia hay xuất gia đều bị chết. Vấn xả giới Hỏi: trong ba vị thì giới xả ở đâu? Đáp: luận Đại Tỳ-bà-sa dạy: khi sắp chết thân lực suy yếu, hoặc dứt mạt-ma nên khổ não liền mất chỗ thọ thân, ngữ. Luật nghi là nơi trọng yếu, đến sát na mạng chung sau cùng thì tâm và luật nghi cùng mất, tâm duyên, tâm dẫn khởi, tâm phát sanh đều xả nên giới theo đó mà xả. Vô thường Luận Nhiếp Đại Thừa dạy, vô thường có ba loại: Niệm niệm hoại diệt vô thường Hòa hợp ly tán vô thường Tất cánh như thị vô thường - Duy Thức Sớ Thích ghi: vô thường có hai nghĩa: Có thể sanh diệt là vô thường Không khác thường nên gọi vô thường Sa-môn bất ưng úy tử Luận Bà Sa dạy: tiếp nhận sự chết như gởi khách đi, như đến đại hội. Vì tích tập nhiều phước đức nên khi xả bỏ thân mạng thì không sợ hãi. Lại nữa, nên nghó: “Niệm tùy theo chỗ mà thọ thân, tâm cuối cùng diệt là chết. Nếu như mỗi tâm niệm diệt đèu sợ hãi thì chẳng phải tâm cuối cùng diệt mà sợ hãi. Sa-môn dó tịch diệt vi lạc Luật Tăng Kỳ dạy: muốn cầu vui tịch diệt nên học pháp Sa-môn. Kinh Niết bàn dạy: Các hành vô thường Là pháp sanh diệt Sanh diệt diệt rồi Tịch diệt là vui. Trong luận dạy: tịch diệt là vui. Có người nói: “diệt pháp là vui”, nghĩa này không đúng. Vì sao? Vì có pháp hiện tại diệt là pháp quá khứ đã diệt. Vì pháp tàn hại lẫn nhau nên có sự hủy diệt thì chẳng vui. Hoặc có người nói: “diệt pháp đang sanh hiện tại là vui”, nghĩa này không đúng. Vì sao? Vì có pháp vị lai sanh là pháp hiện tại sanh. Vì pháp tàn hại lẫn nhau nên có sự hủy diệt thì chẳng vui. Có người nói: “pháp vị lai sanh là thường”, nghĩa này không đúng. Vì sanh là có diệt nên chẳng vui. Nếu muốn cho pháp vị lai sanh diệt mà nó không sanh mới có thể gọi là vui vậy. Đây chính là nghĩa đúng. Nghiệm lai quả Luận Du Già dạy: hữu tình này chẳng phải sắc, chẳng phải tâm, giả gọi là mạng. Các luận sư tương truyền: “người tạo nghiệp thiện: la- ïnh từ dưới lên trên rốn còn ấm, rồi tắt hơi thở thì sanh trong loài người; nếu lạnh lên đến đầu, mặt, sau đó trên đỉnh đầu còn ấm rồi tắt hơi thở thì sanh ở cõi Trời. Người tạo nghiệp ác: từ trên lạnh xuống đến eo lưng còn ấm rồi tắt hơi thở thì sanh vào Ngạ quỷ; từ eo lưng trở xuống từ đầu gối trở lên còn ấm rồi tắt hơi thở thì sanh vào loài Bàng sanh, từ đầu gối trở xuống đến chân còn ấm rồi tắt hơi thở thì sanh vào Địa ngục. Thánh nhân vô học nhập Niết bàn thì tim hoặc đỉnh đầu đều ấm. <詞>TỐNG CHUNG Sơ vong Dòng họ Thích chết gọi là Niết bàn, viên tịch, quy chơn, quy tịch, diệt độ, thiên hóa, thuận thế, đều cùng một nghĩa nhưng tùy trường hợp mà gọi tên, bởi khác với thế tục. Kham tử Là chỗ để dòng họ Thích điều phục tâm, hình dáng giống như cái tháp nên gọi là khám. Theo Nam Sơn Sao gọi lụa quan tài che người chết, đây vì không có cái khám cho nên chế thuyền, dùng trúc là m người chết, lấy lụa trắng căng ra bốn góc. Theo Châu Lễ ghi: thây chết gọi là quan. Quan là nhà rộng, giải thích chữ quan là đóng. Bạch Hổ Thông nói: “Bởi vì có quan tài để đóng kín thân người chết” An khám cửu Bạch Hổ Thông nói: “Quan là quan tài, hoặc gọi là cửu cứu, cửu, bất phục chương. Thích Danh gọi cửu cứu, được tạo ra để đưa người chết, đều chuẩn bị sẵn. Dòng họ Thích gọi là thiết-lợi-la, ở đây dịch là cốt thân, tức toàn thân xá lợi. Dòng họ Thích an trí trong quan tài không giống tập tục thế gian. Hoặc như nghi lễ đại sư tập hợp ở Ngũ Sam, nếu giảng đường có ba gian thì đặt quan tài ở phía Tây gian giữa, mặt hướng về phía Nam, phía trước đặt một cây đèn, một bình hoa mà thôi. Trong gian đó dùng màn trắng treo từ phía Nam đến phía Bắc, cột màu vàng. Ba mặt từ phía Đông đến phía Nam đều che trướng, trong đó thiết trí giường dây treo chân ảnh, cúng dường hương hoa, thức ăn, dùng chỉ trắng là m hoa sa-la. Để tám cây quanh giường dây biểu hiện giường ở song lâm. Phía Tây thiết riêng một giường để đồ, an trí đạo cụ lúc bình sanh đặt sau giường dây. Trong màn phía Bắc gọi là tử lập, tức là chỗ đệ tử thọ lễ tang. Pháp thỉnh của đệ tử phổ thông nhất đúng với nghi lễ tang của đại sư Viễn theo tang lễ của Ngũ Sam. Một là tránh những người biết lễ cười chê. Hai là sanh thiện tâm cho thế gian. Phục chế Tang phục dòng họ Thích: theo kinh Niết bàn và các luật đều không chế định. Nay căn cứ theo Tăng Huy Ký, Dẫn Lễ ghi: tang phục có ba loại: chính phục, nghi phục và giáng phục. Bạch Hổ Thông nói: đệ tử đối với Thầy giống như đạo Vua tôi, cha con, bạn bè: sống thì tôn trọng, thân cận; chết thì đau buồn, thương tiếc. Vì ân thâm nghĩa trọng nên chịu tang. Thích Thị Táng Nghi chép: nếu Hòa thượng bổn sư thì giống như cha mẹ, ân sâu dưỡng dục thì ba năm chịu tang. Nếu Thầy y chỉ dùng pháp giáo huấn thì tùy theo tang phục. Ngũ Sam ghi: tang phục của nhà sư đồng với pháp phục, bằng vải thô sơ nhuộm vàng. Tăng Huy ký ghi: chỉ nhuộm màu xanh loang lỗ, hơi khác thường lệ, có người gọi mặc y phục màu đen là áo tang, bởi sự mờ tối. Áo tang , theo Tục Lễ Tang Phục truyện ghi: trên tay áo lại có thêm tay áo như đuôi chim yến. Đai áo một thước, phụ bản.v.v. đồng gọi là tang phục. May áo tang thì dùng vải bố dài sáu tấc biểu tượng cho lục phủ, diềm bốn tấc biểu tượng cho bốn thời. Cổ áo rộng đến tim ý nói người chịu tang rất đau thương, giống như người con hiếu đau thương nhớ nghó đến người thân, còn gọi là áo tang sổ gấu. Áo vốn không có tên là áo tang nhưng do từ vải bố mà đặt tên. Mặc áo tang này đến tiểu tường mới thôi. Màu đen thì trong phần pháp y có giải thích. Trượng Gậy có hai loại: Tang cha gọi là trảm suy, tư trượng, tư ố, dùng tre là m vậy. Như Yêu kinh ghi dài bảy tấc hai phân. Tinh nghĩa chép: tư trượng dùng tre là m, bởi vì hình dáng nó tròn, thẳng là muốn nói rõ tấm lòng người con hiếu rất đau thương, tự nhiên tròn đầy, có chết trong buồn đau mà có dùng tâm giết hại. Người cho nên hiếu trường trai, tâm tự thành phục đến ngày đại tường mới xả tang. Trai suy: đoạn gậy, đoạn tức là giết, nói mẹ hoặc cha bị chết đèu dùng cây gậy vông. Tinh nghĩa ghi: vót gậy bằng cây vông bởi vót để khỏi bỏ gai vậy, chỉ vót bên ngoài thôi. Đau xót trong tâm là tự thành phục, đúng mười ba tháng là m, tiểu tường thì hết chịu tang phục. Bạch Hổ Thông nói: sở dó có cây gậy là vì người con hiếu bị mất cha, mệ nên đau buồn, khóc than ba ngày không ăn, thân thể đau ốm. Do đó dùng gậy chống đỡ để không đến nỗi vì đau thương mà chết ngất. Trong sách Lễ ghi: phụ nữ, trẻ con không dùng gậy, do họ không thể bệnh. Nay người xuất gia, tâm hình khác người đời, hiểu rõ vô thường, tuy chịu tang cha, mẹ, sư trưởng nhưng đau có bỏ ăn uống mà thành bệnh thì cần gì phải dùng gậy, chẳng phải là bất hiếu cũng như phụ nữ và trẻ con vậy. Vì luật lễ tông môn không đồng nên không dùng gậy không có lỗi. Đầu cân Tăng Huy Ký ghi: theo Tăng Vô Quan thì dùng khăn bịt trên đầu là dùng vải thô màu vàng, họ Đỗ gọi là mũ vải, là m bằng vải năm thước ba tấc: sau lưng dài hai thước năm tấc, trước mặt dài hai thước tám tấc, gấp hai mép phía sau may là m đôi may hai góc, trên tròn, mặt trước ước lượng từ trán, mở ra thẳng xuống mắt, mũi, miệng, không được may dính vào, lại không được chừa quá nhỏ, phải may thắt lưng. Khấp Kinh Niết bàn ghi: khi đức Phật diệt độ, các đệ tử Thanh-văn đều khóc, những vị chưa ly dục đều lăn lôn trên đất, đấm ngực khóc la. Mọi người đều rất đâu khổ, không kiểm soát được thân mình. Luật Tứ Phần dạy: Ni đấm ngực khóc la, mỗi lần phạm một Ni-tát-kỳ; Tỳ-kheo phạm Đột-cát-la. Ngũ Bách Vấn ghi: Thầy mất, Tỳ-kheo không được lớn tiếng khóc la, nên khóc nhỏ thôi. Người xuất gia bị mất Thầy, hoặc cha mẹ thì lòng rất đau xót, sao lại không khóc nhưng không được gào thét, lăn lộn, kêu Trời là thuộc về tội nghịch, dù chỉ một lần cất tiếng kêu than. Tế điện Thượng Thư Đại truyện ghi: tế là sát, sat chí, ý nói người nhà đối với thần. Thích Danh ghi: điện đình, nói đình là lâu vậy. Tang lễ của người xuất gia không giống thế tục, có thể dùng thức ăn, hương hoa để cúng dường. Hành điếu Điếu là chí vậy. Theo Kinh Thi gọi là thần điếu. Trong Ngũ Thải Tập thì nghi điếu rất rõ có thể là m theo. Nam Sơn Sao ghi: người nhỏ đi điếu người mất thì phải đến cửa để là m lễ, sau đó cầm tay người đệ tử mà an ủi, rồi đến chỗ sư, theo pháp phúng điếu mà là m. Khúc Lễ ghi: biết an ủi đối với người sống, biết đau xót đối với người chết. Kinh Niết bàn ghi: khi đức Phật diệt độ, Trời, người, đại chúng đều than: “Sao đau khổ thế này! Sao đau khổ thế này!” Đây là sự thương tiếc vậy. Nếu nhà người đời mà phụ nữ, cô quả mất, chẳng phải là họ hàng thân thích thì không thể đau thương nhưng họ đến dự lễ tang để khỏi bị hiềm nghi. Thọ điếu Nam Sơn Sao ghi: Hòa thượng, A-xà-lê soạn giường ngồi bên ngoài để khách đến viếng thăm. Đồng học còn nhỏ thì mặc áo cỏ mà đứng, còn người lớn thì ngồi tòa cỏ. Táng Nghi chép: đệ tử đích thân độ đứng trong màn khóc, đệ tử thọ học khóc ngoài màn. Khách tăng đến viếng thì khóc mà là m lễ phúng điếu. Người đến thăm viếng thì chỉ khóc mà không là m lễ. Nếu Tỳ-kheo mất thì cha mẹ đến để thọ lễ phúng điếu. Nghi này thì không thể bỏ. Đối với bạn bè thì mặc áo cỏ đứng bên ngoài màn, hoặc tiến cúng rồi ngồi mặt hướng về hướng Đông. Nếu có người đến viếng thì cung thủ, cúi đầu, buồn thương mà khóc, không là m là tội nghịch. Nếu không có người đến viếng thì tụng kinh, niệm Phật. Bôn táng Dòng họ Thích bôn tẩu lễ táng là Đại Ca Diếp là m đầu. Đức Phật vào Niết bàn bảy ngày rồi, Ca Diếp dẫn đồ chúng mới đến Song lâm. Trong kim quan, Phật thò hai chân ra để cho biết. Theo Sao ghi: nếu bôn tẩu lễ táng thì đặt thi thể để lễ bái, khóc than rồi theo thứ tự mà ngồi. Tăng Huy Ký ghi: bôn táng là ở bên ngoài mà sư viên tịch thì những người chí tín, bạn bè sắp xếp chỗ để an trí linh vị, sau đó đem về chỗ ở để cử lễ táng rồi nhanh chóng đem xá lợi về bổn viện. Nếu kim quan đã đưa về tháp thì trước tiên đến tháp lễ bái, hết lòng đau buồn, đi nhiễu bên phải mấy vòng rồi trở về viện cùng với pháp quyến là m lễ điếu. Theo Sao ghi: bậc cao hạnh, siêu quần, trác tuyệt khác với người đời thì với tình hỷ nộ tùy theo sự chìm nỗi của thế tục. Hoặc cha mẹ, hai thầy mất mà giữ Hạ không đến, tuy có đến mà không đau buồn thì đạo cũng giống tục vậy. Táng pháp Thiên Trúc có bốn pháp: Thủy táng: ném thi thể xuống sông là m thức ăn cho cá, ba ba Hỏa táng: chất củi đốt thi thể Thổ táng: chôn thi thể bên bờ để mau thối nát. Lâm táng: bỏ thi thể giữa rừng tuyết là m thức ăn cho các loài cầm thú. Xà duy Hoặc gọi là trà tỳ, da duy trà tỳ. Tiếng Phạm là xà-tỷ-đa, ở đây dịch là phồn thiêu. Theo luật Thập Tụng ghi: Tỳ-kheo nghi hỏa táng giết chết tám vạn bốn ngàn vi trùng trong thân. Đức Phật dạy: người chết thì trùng cũng chết. Chỉ quả Nguyệt Thượng hỏi Xá Lợi Phất: đệ tử Phật sẽ trụ chỗ nào? Đáp: sẽ trụ ở Niết bàn, vì Tỳ-kheo đã cạo tóc, mặc pháp phục. Tiếng Phạm là thất-la-mạt-ni, đời Đường dịch là cầu tịch diệt, tự thọ giới. Lại gọi là ổ-ba-tam-bát-na, đời Đường dịch là cận viên, viên tịch đều là Niết bàn. Chỗ trở về của hàng Thích tử khi viên tịch là quả Niết bàn. Tống táng Tỳ-na-mẫu ghi: Hạp Tự Tịnh Tống Táng nói rằng do quán vô thường mà sanh nhàm chán. Tỳ-nại-da ghi: tống táng Bí-sô thì sai người có năng lực tụng kinh Vô thường và Già tha rồi chú nguyện cho vị ấy. Kinh Tịnh Phạn Vương Niết bàn ghi: Vua Tịnh Phạn băng hà, liệm bằng kim quan bảy báu. Đức Phật cùng Nan Đà cung kính đứng khiêng ở trước, A Nan và La Hầu La khiêng ở phía sau. Đức Phật nghó: “Đời tương lai những kẻ hung bạo, không biết báo đáp thâm ân của cha mẹ” nên Ngài đích thân khiêng kim quan. Lúc ấy, đại thiên thế gian chấn động sáu cách, Tứ Thiên Vương thay Phật để khiêng kim quan. Đức Phật liền bưng lư hương, đi trước kim quan để dẫn đường. Xá lợi Vật này chính là giới, định, tuệ do công đức tu hành nhẫn nhục huân tập thành. Tiếng Phạm là thiết-lợi-la. Nay lược nói nhầm thành xá lợi. Trung hoa dịch là cốt thân. Sở dó không dịch là sợ lẫn lộn với hài cốt phàm phu. Lại gọi là đà-đổ, nghĩa là vật này không hoại. Có hai loại xá lợi: toàn thân và toái thân. Toái than có ba: 1.Xá lợi của xương màu trắng; 2.Xá lợi của thịt màu hồng; 3.Xá lợi của tóc màu đen. Chỉ có xá lợi của đức Phật là có đủ năm màu thần biến, không gì là m hoại được. Lập tháp Tiếng Phạm là tháp-bà, ở đây dịch là cao hiển. Nay lược gọi là tháp. Lại nữa, tiếng Phạm là tô-thâu-bà, ở đây dịch là bảo tháp. Tiếng Phạm là tốt-đổ-ba, ở đây dịch là phần mộ. Tiếng Phạm là đẩu-tẩu-bà, ở đây dịch là tán hộ. Tiếng Phạm là phù-đồ, ở đây dịch là tụ tướng. Theo Tây Vức ký ghi: Lập Biểu Ỷ Quy truyện gọi là tát-câu-la đều là dùng gạch, đá là m nên, hình như tháp nhỏ, trên không có bảo cái tròn. Vả lại việc xây tháp có ba ý nghĩa: 1. Tiêu biêu hơn người; 2. Khiến người khác sanh tín tâm; 3.Vì việc báo ân. Tuy nhiên, tháp có nhiều thềm bậc: chứng quả thứ nhất là một bậc, chứng quả thư hai là hai bậc, chứng quả thứ ba là ba bậc, chứng quả thứ tư là bốn bậc (biểu hiện vượt hơn quả thứ ba), tháp Phật Bích Chi mười một bậc là biểu hiện chưa vượt qua một chi vô minh, tháp Phật mười ba bậc là biểu hiện vượt qua mười hai nhân duyên. Nếu Tỳ-kheo, phàm phu có đức hạnh cũng được xây tháp mà không có bậc cấp. Luật Tăng Kỳ dạy: Tỳ-kheo trì luật, pháp sư, Tỳ-kheo có đức nuôi chúng đều nên xây tháp. Trong Ngũ Bách Vấn, hỏi: “được dùng vật của mình để xây tháp cho sư viên tịch, còn vật của sư thì dùng được hay không?” Có minh ký thì không xây tháp. Đời nay, căn cứ theo kinh Phật Bản Hạnh Tập dạy: “Sau khi Phật Ca Diếp diệt độ, Vua nước Ba-la-nại là Cát-lợi-thi thâu lấy xá lợi, dùng bảy báu xây tháp, rồi là m bài minh ký tên là đạt xá bà lăng ca tùy nói về mười tướng”. Chí thạch Trong Đổ Thị, Tinh nghĩa chép: căn cứ theo lễ thì không có văn bia, từ đời Ngụy, ty đồ Sam Tập cải táng cha mẹ bèn khắc lên đá để ghi nhớ. Lại nữa, vào đời Tống, năm thứ mười một niên hiệu Nguyên Gia, Vương Cầu mất mới dựng đá để ghi nhớ, Nhan Duyên là m vì ông ta mà là m văn. Do đó, những kẻ só bắt chước theo đó. Lại nữa, Bằng Giám Tục Sự Thỉ ghi: căn cứ vào Tây Kinh Tạp Ký đời Tiền Hán, Đổ Tử lâm chung là m văn khắc lên đá rồi chôn vào phần mộ, trước quyết định sau e ngại vậy. Theo Bạch Thị Lục Chiêm ghi: Khổng Tử là m văn mai táng Tử Xích, Tử Trương là m văn mai táng Minh Nghi. Lại nữa, minh là các vị tổ xưa có đủ đức hạnh là m ra. Bậc quân tử xem bài minh thì không những thấy cái hay của bài minh mà còn khen ngợi người đã là m ra bài minh. Minh là nói về cái dẹp, không nói về cái xấu. Các vị tổ xưa đối với việc không tốt đẹp mà khen ngợi là sai lầm, có đẹp mà không sáng suốt, biết mà không truyền trao là bất nhân. Ba việc này, bậc quân tử đều lấy là m hổ thẹn. Nay, hai sư của dòng họ Thích thật có đức hạnh, tiếng tốt thì cũng nên biết để là m, vì tăng mà lưu truyền nguồn gốc. Xưng cô Theo Khúc Lễ ghi: cô tử đang ở nhà cha mẹ nghĩa là chưa đầy ba mươi tuổi. Trai tráng có gia đình, có thể là m thay cha mẹ thì không gọi là cô. Nay thấy dòng họ Thích gọi là cô thì đệ tử không vừa ý. Theo Ngũ Sam gọi là hiếu viện tiểu sư là thích hợp vậy. Hiếu là người con hiếu để tang ở chùa. Hoặc thế tục gọi là hiếu đường thì chẳng phải là tự thay ngôn ngữ. Nếu ở chùa viện lớn cũng có thể gọi như vậy. Xướng y Trong luật dạy: vật tàm thường của tăng thì sai một vị có đủ năm đức phân chia cho tăng hiện tiền. Vì phân không cân bằng nên đức Phật cho phép tập chúng, trước tiên bạch chúng, hòa hợp thì có thể bán rồi cùng phân. Theo luật Thập Tụng ghi: y đem bán chưa xướng đến ba lần, Tỳ-kheo thêm giá, sau đó thì tâm hối tiếc, do dự đoạt lấy y kia. Đức Phật dạy: chưa xướng ba lần mà thêm giá, không phạm. Theo Mục-đắc- ca ghi: khi mới đem y ra thì có thể nói đúng giá, chớ nói quá mất hoặc quá rẻ, không nên đợi giá y quá cao rồi mới bán. Hoặc không muốn người mua nên tăng giá, phạm tội ác tác. Theo luật Đại Tỳ-bà-sa, hỏi: vì sao được phân chia y, bát.v.v. của Tỳ-kheo đã mạng chung? Đáp: những vật ấy trước đây tăng từng phân chia cho họ. Như vậy, đối với tài vật ấy, ngày nay họ đã mạng chung thì phải phân chia trở lại. Theo Tăng huy Ký ghi: đức Phật chế: nguyên nhân phân y là ở ý vì khiến cho người còn sống thấy vật người chết phân cho chúng tăng nên suy nghó: “Người kia đã như thế thì ta cũng như thế”. Do việc đối trị sự tham cầu của họ. Nay không biết xét về việc này, dịch là xướng bán rồi tranh giá cao thấp, tranh giành ồn náo lấy là m khoái chí. Thật là sai lầm qua đáng! Nhân giả nghi kî. Phú mộ Chôn ba ngày sau lại đến chỗ mộ gọi là phú mộ. Đổ Thị ghi: không cần lam lễ tụng kinh, chỉ bảo người con hiếu đem vật đến dâng, là m đường trước mộ, trong lòng nghó đến việc mồ mả chưa xong lại đến xem xét. Nay dòng họ Thích đến cũng không có lỗi, bởi vì đến xem xét vậy. Lễ sư trủng Ngũ Bách Vấn ghi: được là m lễ ở mộ sư vì để báo ân đức vậy. Kî nhật Ngày rằm tháng hai là ngày đức Phật nhập Niết bàn, tăng tục trong thiên hạ đều đem vật đi cúng dường là việc của ngày kî vậy. Lễ thế tục là hiếu của bậc quân tử nuôi dưỡng trọn đời tức ngày kî, lại gọi là ngày không vui, vì không uống rượu. Hoặc gọi là húy nhật, viễn nhật. Dòng họ Thích, sư mất thì gọi là ngày sư tịch, bởi vì dòng họ Thích không kî húy. Sớ tử Là lời bạch với Phật. Bởi ý nghĩa của sớ là cứu tế vậy. Tuy tôn trọng sư tịch nhưng đối với Phật cũng phải đọc tên. Sách Lễ ghi: ở trước Vua thì không được gọi tên húy, trước cha mẹ thì gọi tên con, không dám gọi tên húy trước bậc tôn trưởng. Như trong luật khi Xá Lợi Phất diệt độ, sa di đệ tử Quân Đề đến bạch Phật: “Hòa thượng Xá Lợi Phất của con đã diệt độ”. Theo Ngũ Sam ghi: tiểu sư … vì hòa thượng … trai tăng hiện tiền.v.v. dùng những hư từ để trang sức nên tự chuốc lấy tội vọng ngữ. Hàn thực thượng mộ Đổ Thị ghi: vào năm thứ hai mươi niên hiệu Khai Nguyên, đời Đường, nhà Vua sắc lệnh nhà Só Thứ ăn cơm lạnh trên mộ cùng lễ bái, quét dọn. Nay dòng họ Thích không theo người đời là muốn tránh khỏi tiệc rượu nam nữ xen tạp, để lại sự cơ hiềm. Nếu mộ của cha mẹ phải dời đi thì đốt hương, hoặc chú nguyện thổ thần để giải mộ, hoặc lớn tiếng niệm Phật …khiến cho âm hồn được lợi ích tức không cho ngồi cùng cốt nhục để vui cười, ăn uống. Vấn phần trủng gian tinh thần hữu vô Trong kinh Quán Đảnh, A Nan bạch Phật: nếu người qua đời, tạo lập phần mộ thì tinh phách của người ấy có ở trong đó không? Đức Phật dạy: cũng có, cũng không. Vì sao? Nếu người lúc sống không tạo căn là nh, không biết Tam bảo, không thích nhận phước, không ghét nhận tai ương, không gặp thiện tri thức để tu phước thì tinh phách của người ấy ở trong mộ, vì chưa có chỗ sanh. Nếu người lúc sống tu tạo nhiều phước thiện, tinh cần hành đạo, hoặc sanh cõi trời, người, do đó Ta nói là không ở trong phần mộ. Nếu người lúc còn sống không tin Phật, lừa dối mọi người, tạo các nghiệp ác thì đọa vào Súc sanh, Ngạ quỷ, Địa ngục, chịu khổ não, do đó Ta nói không ở trong phần mộ. Hỏi: nay con tập hợp những điều quan trọng, chỉ muốn lợi người và cũng muốn lợi mình nên sao lược chân giáo, thêm bớt lời của bậc Thánh thì có lỗi không? Đáp: lời bậc Thánh nhân nói ra là vì những ai chứng biết. Theo kinh Phật Bản Hạnh ghi: có các Tỳ-kheo nắm lấy yếu nghĩa trong kinh rồi thuyết pháp cho người khác mà không cần thứ tự, vì sợ nên bạch Phật. Đức Phật dạy: “Đối với các kinh, Ta cho phép tùy ý chọn lấy nghĩa chính yếu lựa lấy văn cú để giảng nói cho người khác nhưng nghĩa được lấy trong kinh chớ hoại căn bản của kinh. Kinh Tạp Thí Dụ ghi: có người phàm giải nghĩa một câu kinh sâu xa, miệng tụng, tâm niệm nên ba độc, bốn ma, tám vạn cửa ô nhiễm trong thân không thể an ổn. Huống chi hiểu rõ các pháp, là m cầu đưa người sang sông ư? Tỳ-kheo Hạnh Diệu kính cẩn ghi <篇> <大>卐 LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 200