<經 id="n2126">ĐẠI TỐNG TĂNG SỬ LƯỢC (QUYỂN THƯỢNG-TRUNG &HẠ) HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN ĐẠI TỐNG TĂNG SỬ LƯỢC <卷>QUYỂN THƯỢNG Tu Lạc, Trùng Cánh năm thứ 2 niên hiệu Hàm Bình 1- Niên đại Phật giáng sanh 2- Tăng nhập Chấn Đán (Trung Hoa) 3- Kinh tượng truyền đến Trung Quốc 4- Tạo lập Gài Lam (Dục Phật hành tượng phụ) 5- Dịch kinh Dịch luật Dịch luận Đông Hạ xuất gia Cách thức trang phục 1 0- Lập đàn đắc giới 1 1- Nguyên do Ni đắc giới 1 2- Pháp thọ trai sám 1 3- Sự phát triển biến đổi nghi lễ 1 4- Chú kinh 15- Tăng giảng 16 Ni giảng 1 7- Tạo sơ khoa kinh 1 8- Giải luật Giải luận Đô giảng Truyền thiền quán pháp Tăng ở Trung Quốc tham học ở Ấn Độ Truyền Mật Tạng Lập ra chỉ 60 môn, lấy bỏ nhóm thành truyện và ghi chép những điều nghe được để nói sự bắt đầu của trăm việc trong Phật pháp từ Đông Độ truyền qua đến nay. -------------------------- <詞>NIÊN ĐẠI PHẬT GIÁNG SINH Xét ngày Phật giáng sinh có nhiều thuyết khác nhau: Một là ứng hiện khác thường, gặp duyên liền hiện, cho nên thấy nghe không đồng. Hai là các vị Tăng từ Ấn Độ đến, nơi sinh ra có thủ đô, thành phố, thôn, làng; truyền sự thì có bộ, loại, tông cho nên mỗi thuyết khác nhau. Ba là bên Tây Vức chép giản dị sơ lược, ít có thể ghi chép nhiều việc, rộng, chậm, còn không, nhiều ít, cho nên lưu truyền không đồng. Nay căn cứ các truyện ký ở Trung Quốc vavf các kinh luật đã nói mà có dẫn ra nhiều thuyết khác nhau. Xét trong bộ truyện “Thượng thống truyện Hán pháp bổn nội”, kinh Tạp A Hàm đều chép ngày rằm tháng 7 năm thứ 23 đời Châu Chiêu Vương hiện điềm lành có voi trắng xuất hiện giáng xuống chui vào hông của bà Ma Da phu nhân, rồi bà có thai. Đến ngày mồng 8 tháng 4 năm sau ở dưới cây Ba La vườn Lâm Tỳ Ni, Ngài từ hông bên phải mà đản sanh. Quyển “Thơ Dị Ký” của nhà Châu có chép rằng: Ngày mồng 8 tháng 4 năm Giáp Dần năm thứ 24 Chiêu Vương, nước các ao, hồ, suối, sông đều đầy tràn và vọt lên, cung điẹn chấn động. đêm đó có ánh sáng năm màu soi suốt ở Thái Vy, chiếu khắp ở phương Tây làm thành màu xanh, hồng. Lúc bấy giờ ma hỏi Thái Sử Tô Do, Thái Sử Tô Do đáp rằng: Có vị đại thánh nhơn xuất hiện ở phương Tây, cho nên có hiện ra điềm đây. Vua hỏi: Có tổn hại đến nước ta không? Thái Sử đáp: Một ngàn năm sau danh tiếng và giáo pháp của Ngài sẽ có lợi cho nước ta. Lại xét trong Ngũ Vận Đồ có chép rằng: Phật giáng sanh năm Mậu Ngọ, năm thứ 48 Bình Vương thời Đông Châu, thuyết đây không có chứng cứ vậy. Lại nữa y theo sự ghi chép của Ngài Đạo An La Thập và bài Minh trong cột đá chép rằng: Phật giáng sanh năm Ất Sửu năm thứ 5 vua Chủ Hoàn đời nhà Châu thứ 18, thuyết đây cũng không phải. Lại nữa trong “Phí Trường Phòng Khai Hoàng Tam Bảo Lục” có chép rằng: Phật giáng sanh ngày mồng 8 tháng 4 năm Giáp Ngọ năm thứ 10 Châu Trang Vương, lấy sao thường không xuất hiện làm chứng minh. Lại nữa trong “Pháp Hiển Hội Du Tây Vức” có chép: Phật sanh trong thời đại Thương Vương, hiển nhơn thấy Sư Tử Quốc tháng 3 đưa ra răng Phật, trước khi cúng dường cho vua, ông nói rằng: Phật diệt độ được 1497 năm, hiển rõ lấy giữa niên hiệu nghĩa Hy đời nhà Tấn xét ngược lại, thì biết Phật sanh vào thời nhà Thương; Lại trong quyển “Lô Sơn độ Luật Sư Chúng Thánh Điển ký” có chép: Phật sanh năm Giáp Tuất năm thứ 2 Trinh Định Vương thời nhà Châu. Pháp Bảo Đại Sư hoàn toàn không lấy ở đây. Lại trong Cảm Thông truyện có nói là thời nhà Hạ Kiệt thấy được dấu tích của Phật để lại vậy. Lại nữa, các thuyết ở trên vương đại khác nhau; một là cuối đời Hạ; hai là cuối đời Thương; ba là thời Châu Chiêu Vương; bốn là thời Bình Vương; năm là thời Hoàn Vương; sáu là thời Trang Vương; bảy là thời Trinh Định Vương, đều căn cứ trong các truyện ký ở phương Tây (Trung Quốc) đã ghi chép. Nếu xét trong Kinh Luật, trong Kinh Dục Phật có chép rằng: Tất cả đều sanh ngày mồng 8 tháng 4, trong Kinh Thuî Ứng cũng nói ngày mồng 8 tháng 4, mà trong luận Tát Bà Đa lại nói là ngày mồng 8 tháng 2, thế thì trong nội giáo còn có 2 thuuyết không đồng. Nay nói Phật sinh thời nhà Hạ tức là ngày nay lấy ngày mồng 8 tháng 4.Nếu sanh trong thời nhà Thương tức là ngày nay lấy ngày mồng 8 tháng Thìn (tháng 3). Nếu sanh thời nhà Châu thì tức là lấy ngày mồng 8 tháng Mão (tháng 2). Lại căn cứ bộ “Nam Sơn Tuyên Luật Sư Vấn Nhơn Thiên” có chép: Ở Trung Quốc truyền ngày Phật giáng sanh hoặc nói là thời nhà Thương, hoặc nói là thời Châu Chiêu Vương, hoặc là đời Lỗ Trang Công, thì làm thế nào mà chỉ cho người biết được. Đáp: đều có lý do, đệ tử sanh thời Hạ Kiệt, Trời thấy được giáo của Phật để lại. Song Phật có ba thân, Pháp thân và Báo thân trời người không thể thấy được. Chỉ có Hoá thân Phật hiện khắp 3 ngàn đại thiên thế giới, có trăm ức Phật Thích Ca, tuỳ theo cơ cảm mà hiện trước sau không nhất định, không đáng để nghi vậy. Nay Đông Lương lấy ngày mồng 8 tháng chạp tắm Phật nói là ngày Phật giáng sanh. Xét trong kinh “Kỳ Hoàn Đề” nói trong chùa có con sư tử bằng pha lê, hình lớn như Quyền Hứa, miệng nói ra lời diệu âm, Bồ tát nghe được tiếng đó đều được vượt lên gnôi vị, mỗi khi đến ngày mồng 8 tháng chạp, nam nữ trong thành Xá Vệ tranh nhau cúng dường hương hoa, đến nghe pháp âm, không nói là ngày Phật giáng sanh nghi là bên Thiên Trúc lấy ngày mồng 8 tháng chạp làm ngày lễ mà thôi. Lại nghi là luận “Dụng Đa” nói ngày mồng 8 tháng 2, tháng chạp chính là tháng 2 nhà Châu, do vì bên Đông bên Tây xa xôi cho nên có nhiều sai khác. Lại Giang Biểu lấy ngày mồng 8 tháng 4 ngày nay làm ngày Phật đản. Theo kinh “Thụy Ứng: nay dùng tháng giêng nhà Châu thì hợp với mồng 8 tháng 2 ngày nay. Nay dùng tháng Tî chính là tháng 6 nhà Châu rõ ở đây vậy. Lạm dụng tháng Tî có 2 ý: Một là khi nghe tiếng liền dùng không tìm tòi sự thật, hai là phần nhiều dùng tháng giêng nhà Hạ, cho nên ở đây lầm mà thôi. Nếu như trong bộ “Nam Sơn” nói rằng đều do chúng sinh nghe thấy khác nhau, cho nên thời tiết cũng không giống, không nên cố chấp. Song hai nước tiếp thọ lẫn nhau, Tam Tạng sở truyền lấy Phật giáng sanh thời Châu Chiêu Vương, lý đây là hay hơn. Nói lại rằng trước nói ngày mồng 8 tháng 4 là Đông Hạ hay Tây Vức, nếu tìm cành mà thấy gốc, theo nước mà tìm nguồn thì không có sự nào không chu toàn, về lý có chỗ để xuyên suốt. Vả lại các thuyết nói về đầu năm của Tây Vức (Ấn Độ) khác nhau, trong Cao Tăng Truyện ngài Huệ Nghiêm nói với ngài Hà- Thừa- Thiên- Tranh- Trung- Biên rằng: Tây Vức lập tháng Thìn làm đầu năm. Trong truyện lại nói rằng ngày 30 tháng 12 gọi là tháng đại thần biến, tức là ngày 15 (rằm) tháng giêng ở Trung Hoa, đây là chỉ tháng giêng nhà Hạ, mà dùng ngày 16 ngày sanh hồn là ngày mồng 1 của tháng, nay chưa rõ. Lập tháng Thìn là lấy tháng 3 ngày nay mặt trăng sanh mặt trời làm đầu năm, là phần chuẩn của giữa tháng. Bên Tây Vức không có tên tháng giêng, hai, ba chỉ lấy sao thẳng (gặp) với mặt trăng làm một tháng. Như tháng Côn Xá Khư, tháng Ca Đề đó vậy. Lại nữa các nước Lãnh ở phía Bắc lập tháng Mùi là tháng giêng, hoặc xuân tế là hạ an cư. Cho nên biết tuỳ cõi nước, tông tính có sai khác, huống gì là kinh nói ở Tây Vức, các vị La Hán ở Trúc Càn tạo luận đều không chỉ ra tháng ở Chấn Đán Động Độ. Nói ngày mồng 8 tháng 4 là ngày mồng 8 tháng 4 bên Tây Vức để sự phù hợp với ngày hiện điềm lành là ngày mồng 8 tháng 4 đời Châu Chiêu Vương trong quyển “Thơ Dị Ký” nhà Châu vậy. Nghi là khi phiên dịch ghi lại theo vọng nhận là tháng giêng nhà Hạ, chỉ có ngày rằm tháng 7, trong kinh “Lạp Pháp” là dùng văn ở phương đây, khiến cho người mê lầm cho nên giữ lại cả hai vậy. <詞>TĂNG NHẬP CHẤN ĐÁN (TRUNG HOA) “Ngũ Vận Đồ” chép rằng: Linh tính thánh giáo đời Châu và vua A Dục tạo tháp để ở phương đây (Trung Hoa) hạp có truyện ky. Bởi do Tần Thuỷ Hoàng đốt sách, các sách đây cũng bị cháy theo, cho nên nay không có chỗ để tìm tòi. Xét thời Tần Thuỷ Hoàng có 18 bậc đại hiền như Sa môn Thích Lợi Phòng… mang kinh đến giáo hoá. Tần Thuỷ Hoàng không tin, bèn cấm nhốt các ngài, ban đêm có vị thần nhơn phá ngục dẫn ra. Lại nữa thời Hán Thành Đế, ông Lưu Hướng xem sách ở gác Thiên Lục, thường thấy có kinh Phật và trước tác”Lệ Tuyên Truyện”. Có 136 người, có 74 người thấy kinh Phật. Lấy đây xét kỹ thì biết thời nhà Châu, Tần đã có Sa môn Phật giáo, chỉ có chưa được hưng thạnh mà thôi. Đến năm thứ bảy niên hiệu Vónh Bình Chủ Minh Đế thứ hai đời Hậu Hán, vua nằm mộng thấy có người bằng vàng, bèn sai Tần Cảnh, Thái Âm, Vương Tuân đến Tây Trúc rước Phật giáo về. Đến cuối tháng thì các ông gặp được 2 vị Sa môn Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan vào Đông Hạ, nên nay lấy việc này làm khởi thí việc có tăng vào Trung Hoa. Lúc ấy Phật pháp tuy đã đến Trùng Hoa nhưng chưa được lưu truyền và người tin thọ chưa rộng, truyền trao thực hành chưa khắp. Có vị Khương Tăng Hội vốn là người nước Khương Cư, trong cuốn niên hiệu Xích Điểu bắt đầu giáo hoá nước Nam. <詞>KINH TƯỢNG LƯU TRUYỀN Ở TRUNG HOA Bởi vì Phật đạo khó nghó bàn, không thể lấy thường tình mà so sánh được, không thể dùng các thí dụ mà bàn cầu được như có vị Tăng đến Đông Hán, ông Lưu Hướng gặp được kinh ở Phạn sách, vua A Dục khởi tháp hiện ở triều Tần, sớm có linh ứng rồi. Xét trong bộ Thích Lão Chí có chép rằng: Học giáo lý đạo Phật nghe đã có thời Tiền Han, trong niên hiệu Nguyên Thú Võ Đế, ông họ Hoặc chữa bịnh được người vàng Tỳ Da Vương vua cho là đại thần, đặt ở cung Cam Tuyền, đốt hương lễ bái, lúc này là Phật pháp mới bắt đầu lưu truyền qua Trung Quốc và ở thành Khai Tây sai Trương Khiên làm sứ Đại Hạ, trở về nói rằng: “Thân độc có giáo pháp của Phù Đồ, trong niên hiệu Nguyên Thọ Ai Đế, Cảnh Hiến đến Nguyệt hi khẩu tọdc kinh Phù Đồ, song chưa tin một cách chân thành, đạo chưa thông hành cũng như đầu nguồn của sông lớn, cũng như ngọn của cây lớn. Nay lấy kinh “Tứ Thập Nhị Chương” do hai vị Sa môn dịch và bức tượng hoạ trên tấm bạch diệp đời Hán Minh Đế làm bắt đầu. Lại như trong truyện “Cảm Thông” Châu Mục Vương xây chùa Linh An, tháp vua A Dục ở Thạch Hoa Bỗng- Vónh Châu… há chẳng phải là trước thời Đông Hán ư? Đây chính là suy nghó mãi cũng không ra, bàn bạc cũng không đạt đến được, ngoài sự đặt để đo lường. Nay chỉ căn cứ sự tích có thể suy nghó, có thể bàn bạc được là lấy niên hiệu Vónh Bình làm mốc bắt đầu. <詞>DỰNG LẬP GIÀ LAM. Kinh tưởng đến tư duy, tăng chúng dứt tội lỗi, thì cái đó chỗ ở ắt phải là nơi sạch sẽ, do pháp luân chuyển cần phải nương vào chỗ, cho nên cần phải lập chùa chiền. Hai người Ma Đằng và Trúc Pháp Lan sức lực thù thắng, Minh Đế vui mừng. ban đầu mời về ở chùa Hồng Lê làm lễ với các Ngài. Chùa Hồng Lê vốn là cái nhà tiếp các nước ở xa. Sau vua tìm người sai riêng chọn xây một Tinh xá ở ngoài cửa Tây Hùng thành Lạc Dương. Do vì dùng ngựa trắng chở kinh đến cho nên đặt tên chùa là Bạch Mã. Chùa là đạo Phật gọi là chùa nối truyền, trị sự là nối tiếp nhau ở trong đó, vốn là Chữ đi, do các vị Tăng bên Tây Vức mới đến tạm ở chỗ công, sau dời về chỗ riêng không quên gốc kia lại nêu tên chùa, tên chùa Tăng mới bắt đầu lúc này. Tăng Già Lam dịch là Chúng Viên nghĩa là mọi người chung ở, vườn tược để ở, là chỗ để sinh sôi, đệ tử Phật thì sinh sản mầm đạo quả thánh. Cho nên trong kinh nói có vườn Ca - Lan - Dà - Trúc; vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc đều là chùa bên Tây Vức. Như các di tích không thể nghó bàn kia như Châu Mục Vương xây chùa Hiển Tế, đây khó mà căn cứ cho đúng, nên mới gọi là việc khó nghó bàn. Năm đầu niên hiệu Thỉ Quang Thái Võ Đế đời Hậu Ngụy sáng lập ra Già Lam là tên của Chuyên Đề, giữa niên hiệu Đại Nghiệp Tuỳ Dương Đế đổi chùa của thiên hạ thành đạo tràng, đến đời nhà Đường lấy lại tên chùa. Xét trong bài “Tự Cáo” của Pháp Sư Linh Dụ, làm chùa có 16 tên: Một là chùa (nghĩa chuẩn theo giải thích tên). Hay gọi là Tịnh Trụ (người uế trược không ở chung). Ba gọi là Pháp đồng xá (pháp và thực đồng giới). Bốn là nhà xuất thế (nghĩa là chỗ tu hành ra khỏi thế tục). Năm là Tinh Xá (nghĩa là chẳng phải chỗ thô bạo). Sáu là vườn thanh tịnh) nghĩa là chỗ không nhiễm ba nghiệp). Bảy là Kim Cang Sát (nghĩa là cõi nước bền chắc cho người tu đạo ở). Tám là đạo tràng tịch diệt (Kỳ Viên có thế giới Liên Hoa Tạng dùng bảy báu trang nghiêm, gọi là đạo tràng tịch diệt, Phật Lô Xá Na nói kinh Hoa Nghiêm ở đó). Chín gọi là Viễn Ly Xứ (nghĩa là người vào trong đó xa lìa được phiền hoặc, gần với tên vui tịch diệt). Mười là Thân Cận Xứ (như hành hạnh an lạc, do vì ở trong đó gần pháp). Mười tên ở nước đây là nương theo kinh (Kỳ Hoàn Viên), giải thích tướng mỗi mỗi đều có nghĩa, như trong bộ “Tự Cáo” kia vậy. Nay nghĩa có sáu thứ: Một gọi là hang, như đời Hậu Ngụy đục núi làm cái hang để tượng Phật và cho Tăng ở đó vậy. Nay chùa Thiên Trúc ở Long Môn - Lạc Dương có hang đá, có cái hang như Na La Diên Kim Cang Phật.v.v …Hai gọi là Viện (nay những vị Trụ trì bên Thiền Tông thường dùng tên này. Ba gọi là rừng (lâm) (trong luật nói có rừng Trụ Nhứt, trong kinh nói có rừng Thệ Đa). Bốn là miếu (như miếu Cù Đàm trong luận Thiện Kiến). Năm là Lan Nhã (không phải tướng viện). Sau là phụ thông (nay núi Ngũ Đài có nhiều chỗ) lại xét khi Hán Minh Đế băng có xây một cái Kỳ Hoàn ở trên cái đồi, từ đó phần mộ của bá tính có một số người làm thành tháp (rút ra trong “Già Lam Ký” của Dương Huyền). Ở Lạc Dương từ niên hiệu Vónh Bình đời nhà Hán, đến niên hiệu Vónh Gia đời nhà Tấn chỉ có bốn mươi hai trường, và các thành thị làng xã đời Hậu Ngụy nhân dân tin Phật giáo rất thịnh, tôn sùng xây dựng nối tiếp nhau, quan dân tranh nhau xây chùa có hơn một ngàn cái. Về sau Triệu Đô Nghiệp xây chùa hơn tám trăm nơi, nay những nơi để lại có lẽ vẫn còn. Tắm Phật, Ngài nghĩa Tịnh Tam Tạng đời nhà Đường tự mình tham học bên Ấn -Độ, thấy mỗi ngày mỗi Ngu - Trung duy na đánh chuông, ở trước sân nhà đem các tượng đồng, đá v.v…để ở trong cái thau, trỗi âm nhạc, dùng ma hương nước nê quán, lấy vải lau tượng. Sau đó đưa hai ngón tay rỏ nước từ trên đảnh xuống, gọi đó là nước kiết tường, mong cầu điều thắng lợi. Hỏi rằng tắm Phật tiêu biểu cho điều gì. Đáp rằng: Phật khi sanh có rồng phun nước thơm tắm rửa thân Phật, song mỗi ngày tắm rửa thì chẳng phải là ý của ngày sinh. Nghi rằng Ngũ Trúc rất nóng, Tăng cũng đã tắm nhiều lần thì Phật cũng nên tắm vậy. Đông Hạ còn là mồng tám tháng chạp hoặc tháng hai. Mồng tám tháng tư chính là ngày sinh của Phật Hành Tượng: Tự khi Phật nhập Niết-bàn, các vua thần rất hận chính thân mình không đựơc gặp Phật, do đó lập tướng Phật giáng sanh, hoặc là tác tượng Thái tử đi du hành. Đời nhà Tấn ngài Pháp Hiểu thành Ba-liên-phất, thất ở đó lấy ngày mồng tám tháng Mão làm tượng Phật, lấy xe kết thắt làm thành năm tầng, cao khoảng hai tượng, giống như cái tháp, họa vẽ hình chư thiên, các báu làm khám, Phật ngồi Bồ tát đứng hầu, khoảng hai mươi xe, mỗi xe trang sức giống nhau, Bà-la-môn tử thỉnh Phật. Kế đến vào trong thành ở lại đêm đó, suốt đêm cúng dường, mỗi nước đều như vậy. Vua và các trưởng giả xây nhà thuốc, chữa bệnh phước đức. Phàm những người nghèo mắc bịnh đến đó, thầy thuốc săn sóc bịnh lành rồi mới đi. Lại nữa chùa ở thành Đông Hoang nước Quy Tử - Lãnh Bắc (chữ nôm không rõ nét) trong mười ngày. Tăng đồ của một nước phải dự đại hội năm năm (Tây Vức gọi đó là Bàn-giá-vu-sắc). Quốc Vương và nhân dân đều bỏ việc đời, đến thọ kinh nghe pháp, trang nghiêm tượng Phật, dùng xe chở gọi đó là hành tượng. Nước Vu Điền thì hành tượng ngày mồng một tháng tư đến ngày mồng bốn tháng tư mới xong, vua và phu nhơn mới trở về hoàng cung. Nay ở Linh Võ - Hạ Đài ngày mồng tám tháng hai mỗi năm, Tăng đội mang tượng Phật, hầu theo nhiễu xung quanh, tràn phan, lọng ca nhạc dẫn dắt, gọi đó là “tuần thành”, lấy từ trong thành phố đi trong thành phố làm giới hạn, nhân dân nhờ việc đó mà được tiêu tai. Lại nữa ở đây (Trung Quốc) sau khi an cư xong, Tăng chúng đem hoa cầm quạt, thổi lối đánh não dẫn đi song song gọi là xuất đội ca đề (lấy tháng ca-đề đặt tên). Trong bộ “Thích Lão Chí” nói rằng các tổ đời nhà Ngụy vào ngày mồng tám tháng tư, đi lên các đường lớn, vua đến hầu ngọ môn xem sái hoa đãnh lễ. Lại nữa khi đúc xong cho ra tượng vàng ở chùa Ni Cánh Hưng, triệu tập một trăm võ lâm kéo xe trỗi kỹ nhạc đều do nội cấp. Lại nữa an cư xong ngày mai, tập trung hết lại nhiễu quanh thôn xóm thành thị, lễ các chỗ để, che trần trên xe để tượng Phật, cờ hoa khắp trời gọi là Tam-ma- ly, đây chính là cách hành thành của Thần Châu. <詞>DỊCH KINH: Ngày xưa ông Lưu Hướng xem sách ở Thiên lục thấy có kinh Phật, biết lúc đó chưa có người dịch truyền, ắt còn trong cặp chữ Phạn. Nếu như ông Lưu Hướng hiến một chữ phạn mà nói hàng “tiên” có hơn bảy mươi người thấy kinh Phật. Lại cho ngài Bồ tát Văn Thù cũng gọi là hàng tiên ư? Bởi vì ông Lưu Hướng học rộng toàn tài, sự học cao sâu thì tự có thể biết được. Xem cặp chữ Phạn kia lại dịch tiếng Hoa, tìm nhận ra có hơn bảy mươi người thấy kinh Phật. Nếu luận về phiên dịch thì Ngài Ma Đằng là người đầu tiên dịch ra kinh “Tứ Thập Nhị Chương”, và Ngài Pháp Lan đồng dịch các kinh “Thập Địa Phật”; “Bổn Sanh Pháp”; “Hải Tạng Phật Bổn Hạnh”.v.v…là đầu tiên hết. Kế đến thì các Ngài An Thanh, Chi Sấm; Chi Kiêm tiếp nhau dịch thuật. Cuối đời nhà Hán đầu đời nhà Ngụy, truyền dịch dần dần được hưng thạnh, hoặc dịch Phật thành Chúng Hựu, hoặc dịch Bích Chi Phật thành Cổ Phật. Ngài Chi Sấm dịch quyển kinh “Thủ Lăng Nghiêm có chép rằng. Phật ở trên đỉnh núi Linh Thứu thành Vương Xá, còn, không khác nhau, dung nhà đều khác, đây chính là cách uyển chuyển của người dịch kinh vậy. <詞>DỊCH LUẬT Phật chế Tỳ-ni để ngăn chặn tội lỗi trong chúng, như hình pháp của một nước, vẽ thành phép tắc, chưa hết ai đem Tỳ-ni dịch thành hiệu luật. Xét năm Canh Tuất thứ ba niên hiệu Kiến Ninh đời Hán Linh Đế, Ngài An Thế Cao cho ra một quyển luật “nghĩa quyết”, kế đó cho ra một quyển Tỳ kheo Chư Cấm luật (Các điều luật cấm của Tỳ kheo. Đến đời Tào Ngụy Ngài Tam Tạng Đàm-ma-ca-la (Trung Hoa dịch là Pháp Thời) xót thương Tăng đời Ngụy không có luật làm phép tắc, vì vậy trong niên hiệu Gia Bình cùng với Ngài Đàm Đế dịch Tứ Phần Yết ma và Tăng Kỳ Giới, Tâm Đồ Kỷ.v.v… phương đây mới bắt đầu có luật. <詞>DỊCH LUẬN; Đời Hiến Võ nhà Tấn có vị Sa môn Tăng-già-bạt-trừng ở nước Kế Tân dịch Tạp Kỳ Đàm Bà Sa mười bốn quyển. Kế đó có Ngài La Thập đời Diêu Tần dịch các luận Đại Trí Độ và Thành Thật. Đây là người đầu tiên dịch luận. Ngài Đạo An Lục và Tăng Hựu cho ra bộ Tam Tạng Ký, Đồng Tự Giai Thuật. Lại Ngài Đơn - danh - lính - bà - sa là con trai của Gia - ca - chiên - đàn, rút ra những nghĩa cốt yếu dẫn kinh giải thích, làm ra bộ Tỳ Đàm bốn mươi bốn phẩm, đây cũng là luận. <詞>ĐỜI ĐÔNG HẠ CÓ CHÚNG XUẤT GIA Phàm người ngu nhờ già lam mà sanh tâm lành, sự học của Mãnh Kha Lân tiềm tòi học hỏi nho phong đời nhà Lương. Phật phá đã được lưu hành, nhân dân đều được giáo hóa, há lúc bấy giờ không có được người tu hành giải thoát ư? Hán Minh Đế cho các ông Dương Thành Hầu, Lưu Tuấn v.v…xuất gia, bắt đầu có Tăng. Phụ nữ A Phan .v.v…ở Lạc Dương xuất gia, từ đấy bắt đầu có Ni. <詞>CÁCH THỨC TRANG PHỤC: Xét đời Hán, Ngụy người xuất gia phần nhiều là mặc Tăng-già- lê bằng vải bố màu đỏ, bởi do ở Ấn Độ không có tơ lụa, lại còn có màu mộc lan và màu càn-đà, thì áo vải bố mà nhận thành mà đỏ như vậy. Màu áo bên Tây phương cũng tùy theo bộ loại khác nhau, bộ Tát-bà- đa y màu đen, bộ Đàm-vô-đức y màu đỏ thẫm, bộ Di-sa-tắc màu xanh. Mặc y màu xích (đỏ thẫm) chính là bộ Đàm-vô-đức từ trước cho đến đời Hán mà thôi, sau có đời Lương có Ngài Huệ Lãng pháp sư thường mặc áo nạp màu xanh, Ngài Chí Công dự ký rằng: Chùa Hưng Hoàng có vị Đại só mặc áo xanh rộng hành đại thừa, đến khi có Ngài Huệ Lãng thì quả là phù hợp với lời nói kia vậy. Nói rộng về mặc phục như trong kinh Oai Nghi Sớ Phục. Nay ở Giang biển có nhiều người đắp y màu đen, màu đỏ thẫm, lúc bấy giờ có màu giữa xanh và màu vàng (trọn màu xanh và vàng lại) gọi là màu hoàng hạt, thạch liên hạt vậy. Ở Quan Phu Dông Kinh còn có người đắp y màu nâu, và bộ U Châu thì đắp y màu đen. Nếu y màu đen thì thật là phi pháp. Vì sao? Vì màu đen là một trong năm màu sắc chính của năm phương vậy. Hỏi truy y là màu nó như thế nào? Đáp rằng màu tía mà đen lợt chẳng phải là màu sắc chính. Xét trong Công ký nói rằng: Nhộm ba lần thành màu đen (…), nhộm năm lần thành màu đỏ sẫm, nhộm bảy lầ thành màu lam đen (truy…). Do nhộm lại màu đen thành màu đỏ sẫm, màu đỏ sẫm lại còn gọi là tước đầu, nhộm lại lần nữa mới thành màu lam đen vậy. Cho nên Tịnh Tú Ni thấy màu y thánh chúng đắp giống nhau như cây Tang Thục Thậm, chính là màu đỏ lợt và màu đen đậm. Nay màu y của Tỳ kheo ở Mạt lăng là bắt chước theo màu truy y ở Tây Trúc. Về sau nhà Châu kî nghe lời cấm áo đen, bèn bỏ màu đen đắp y màu vàng, y màu vàng là bắt đầu vào nhà Châu. Lại nữa ngoài ba y ra còn có Duệ nạp bá, hình như phú kiên y, rút ra trong Ký Quy Truyện. Giảng viên tự lập duệ nếu giảng một quyển thì là duệ một chi, giảng hai, ba quyển thì tùy theo bài quyển giảng mà tính số duệ, như nạp bá đó vậy. Lại cung nhơn đời Hậu Ngụy thấy Tăng Tự Tứ trịch bày vai bên phải bèn cúng chi kiêm y gọi là kiêm sam, toàn bộ cái áo có hai cánh tay, là thể của “thất kỳ chi”. Từ đời Ngụy mới bát đầu có. Lại nữa Ký Quy Truyện nói rằng, bên Tây Vức có người cầm cái lọng bằng trúc hoặc cái dư. Đời nhà Lương có vị cao Tăng tên Huệ Thiều khi gặp có người thỉnh, thì tự mình mang gậy và nón lá, nay Tăng đội nón trúc rất nhiều, thiền sư thì có nón, và cầm họp đựng nước rửa, đãy lược nước, tích trượng, giới dao, búa (rìu), ống đựng kim, những thứ đây đều là đạo cụ. Gần đây có người (Tăng) mặc y màu trắng, lỗi đây rất lớn vậy. Phật thọ ký rằng áo Cà sa biến thành màu trắng không chịu nhộm, đây chẳng phải như vậy sao? Hoặc có người biết như pháp, có ý đoạt lấy mà hoại màu đó, chơn thật là lực thắng só có sức lực hộ pháp. Xưa cuối đời Đường ở Dự Chương có thiền sư Quán Âm, thấy các thiền khách phía Nam phần nhiều mặc áo nạp màu trắng, Ngài thường lấy bình thuốc nhộm để khuyên họ nhộm, nay thiên hạ đều cho rằng áo nạp màu vàng là áo nạp của Ngài Quán Âm, vị sư từng lấy việc nghe học hộ pháp làm tình đến nay vẫn còn khen ngợi Ngài. <詞>LẬP ĐÀN ĐẮC GIỚI: Tăng vốn có từ đời Hán; Ngụy, tuy cắt tóc nhộm y mà thành hình, nhưng giới pháp chưa được đủ, lúc bấy giờ có hai chúng chỉ thọ tam quy. Tự niên hiệu Vónh Bình nhà Hán đến đầu nhà Ngụy đến nay, đại Tăng và Sa di không phân biệt. Có Ngài Đàm-ma-ca-la Tam Tạng và Trúc- luật-viên-duy-kỳ-nan.v.v… đều truyền nghĩa của luật. Trong năm đầu niên hiệu Gia Bình Ngài Ca-la cùng với Ngài Đàm-đế ở Lạc Dương cho ra quyển Tăng Kỳ Giới Tâm, lập pháp đại Tụng yết ma, ở đông Độ lập đàn bắt đầu từ đây. Xét Mạn-la đại để cách làm không giống nhau, hoặc là trên gò đất lớn, hoặc là lấy cây kết lại thành tầng hoặc đắp bùn chia ra thành từng cấp đều gọi là “dân”. Quét trừ đất bụi thì gọi là “thiện”, “Đàn”; “tràng”; “thiện” ba chữ khác nhau đều là Mạn-tra-la ở Tây Vức. Nếu căn cứ theo Luật tông thì cần phải kiết góc, phân giới hạn, theo tự nhiên kia sống ở đó tác pháp. Nghó lại triều Ngụy vốn nên làm ở những nơi hoang mạc, làng xóm. Như phương Tây thọ giới thì Châu Sỹ là thực hành đầu tiên. Trong niên hiệu Vónh Minh Nam Triều, năm đầu của Tam Ngô tạo giới đàn, đây lại bắt đầu từ trong triều Ngô. Đầu nhà Đường ở chùa Linh Cảm Ngài Nam sơn Tuyên Luật sư theo pháp lập đàn, cấm có hàng mi dài (tức than Ngài Tân Đàu Lô) tùy hỷ khen ngợi, lập đàn đúng pháp chớ có vượt qua đây. Ngài Tuyên luật sư soạn một quyển giới Đàn Kinh, nay còn lưu hành ở đời. Tôi từng thương xót Nam Sơn không đàn đệ tứ tẳng phụ phủ hình nghi lễ, cho nên vết ra quyển Phú Phủ Hình Nghi, người ưa đọc nên tìm đọc để giúp cho việc mở rộng tri thức. Nay bộ Hựu Nhai Pho Tăng Lục, Ngài Quảng Hóa Đại sư chơn thật giới thiệu trước quên mộ ở ấp xã. Ở chùa Hưng Quốc ở Đại-Bình-Đông Kinh, lập giới đàn đá, một là tuân theo Giới Đàn Kinh của Ngài Nam Sơn, hằng trang nghiêm làm cho tuyệt đẹp ở thiên hạ vậy. <詞>LÝ DO NI ĐẮC GIỚI Sơ duyên của Ngài Ái Đạo há đâu phải dễ dàng, A Phan xuất tục lại là việc kỳ lạ ít có, ban đầu theo thọ tam quy vốn chưa hoàn toàn ở trong hai chúng. Xét trong Ngũ Vận Đề nói rằng từ năm Đinh Mão niên hiệu Vónh Bình nhà Hán, đến giữa năm Giáp Tuất niên hiệu Nguyên Gia nhà Tống cách nhau ba trăm sáu mươi bảy năm, bên Ni mới thọ Cụ giới. lại trong Tát-Bà Đa Sư Tư Truyện nói rằng mùa xuân năm thứ mười một niên hiệu Nguyên gia nhà tống, mười người Sư Tử Quốc Ni, Thiết Tố La.v.v… thọ giới trên giới đàn chùa Nam Lâm, Kiến Khang Cảnh phước Ni tự cô Huệ Quả, Tịnh Âm.v.v… ở trong hai chúng làm pháp sự thọ giới, trong mười hai ngày độ được hơn ba trăm người, phương đây Ni giới ở trong hai chúng thọ giới Cô Huệ Quả là người đầu tiên vậy. Nên biết các cô A Phan v.v… chỉ thọ tam quy mà thôi. Lại nữa trong niên hiệu Hàm Khang nhà Tấn, các Ni thanh tịnh tập trung lại ở một chúng được giới pháp, việc này cũng chưa được hoàn toàn. Và trong niên hiệu Kiến Võ các Ni ở Giang Bắc vẫn phải đến chùa Tăng thọ giới, nhiều triều đại vẫn không bỏ lệ này. Gần đây do Thái tổ ra lệnh không cho các Ni đến trong Tăng thọ giới, từ đó Ni hoàn toàn ở trong một chúng (Ni chúng) mà được giới pháp của mình, mà giới phẩm trọn không được viên mãn. Nay bực thánh anh minh hiểu rõ đoán được, những bực hộ pháp tâu xin vẫn thực hành như cũ để khỏi làm cho chính pháp mau hủy diệt. <詞>PHÁP THỌ TRAI SÁM: Từ khi Phật pháp truyền qua Đông độ (Trung Quốc), sự phần nhiều bị mê mờ, cho nên trong Cao Tăng Truyện nói rằng thiết lập trai sám giống như cúng tế. Đời nhà Ngụy, nhà Tần, Tăng đều mặc vải bố mang dép cỏ, mà ăn, uống, đứng, ngồi, oai nghi, xướng tụng, dẫn dắt, khai hóa sơ sài không có quy cũ. Đến đời Đông Tấn có pháp sư Đạo An nước Ngụy Tần, có trí tuệ hiểu biết rộng, mới tìm tòi nghiên cứu kinh luật làm ra các nghi thức, phó thỉnh Tăng bạt, tán lễ, niệm Phật.v.v… phàm có ba điều lệ, thứ nhứt đó là hành hương, ngồi định. Bài “Phó thỉnh Thiết Tắc”, Đại Minh Nguyệt Tắc của Ngài Tuyên luật sư, là đệ tử của Phật nếu không xem đọc bị chê là tiêu phí lúa thóc, mà mình vẫn để đó ư? Gần đây nghe nói có một vị khách buôn bán ở Tây Giang muốn tạ ơn buôn bán phát đạt mà trai Tăng. Trước khi trai Tăng ông đưa ra bài văn sớ, có vài vị Tăng đọc không được, bị ông khách buôn đuổi đi. Không phải là đáng cười lắm sao? Người đời sau nghe việcđây nên phải thức đêm ra công học tập, một thì không luống thọ của tín thí; hai thì che chở được chúng Tăng; ba thì làm cho tiếng tăm của chúng Tăng được vang dội khắp nơi vậy. <詞>SỰ PHÁT TRIỂN BIẾN ĐỔI LỄ NGHI: Pháp lễ bên Tây Vức có nhiều cách, như trong truyện có nói rõ. Lễ bái là cong mình. Nhiễu vòng quanh là luyến mộ. Thiên đản cũng gọi là nhục đản (bày vai hữu). Bỏ giày dép là không dám an. Hòa nam là trước hết là ý hỏi thăm. Tránh đường là cung kính. Các ví dụ trên thường nghe không ra nhiều. Nếu Ni lễ Tăng, từ trong truyện có tám pháp. Tỳ kheo được tôn kính lạy chạm chưng đến ba lần là tỏ lòng rất cung kính, như việc trên khiến cho được trường tồn. Gần đây lấy trải tọa cụ liền làm lễ. Xưa có vị phạm Tăng đến cõi đây đều trải Ni-sư-đàn liền lên đó làm lễ, về sau tránh phiền phức, Tôn giả vừa thấy mở Ni-sư- đàn ra liền ngăn lại, bèn nói chuyện thoả mái, sau lại mớ ra rồi lại cũng dạy, Tôn giả lại ngăn, do đây lấy việc trải Ni-sư-đàn để định cho việc lễ bái, số lễ bái đều gọi là bái đó vậy. Như phương đây lập ra việc cung kính há không phải là rất dón gọn ư! Song tùy theo nơi và làm cho thanh tịnh, không được không làm. Lại như Tỳ kheo gặp nhau cúi mình chắp tay miệng nói không biết như thế nào? Đây là ba nghiệp quy ngưỡng vậy. (Thân cúi mình chắp tay miệng thốt ra lời thăm hỏi, nếu tâm không sanh lòng tôn trọng, há có thể động thân khẩu ư?) gọi là thăm hỏi đó vậy. Người nhỏ hỏi bực tôn túc thì nên hỏi Ngài có được ít bịnh ít não, đi đứng ở yên được nhẹ nhàng chăng có được an ổn chăng, không biết không bịnh, phiền não, ăn uống dễ dàng chăng, chỗ ở không có bạn ác, trên bờ dưới nước không có vi trùng chăng, người đời sau tỉnh ngộ lời tạ từ kia, chỉ nói là không biết, lớn như ngừng lầu sau vậy. Lại như khi sắp ra đi thì từ tạ nói rằng “trân trọng” là như thế nào? Đây là đã gặp nhau rồi, tình ý đã thong, chúc nhau rằng “trân trọng”, cũng như nói khéo bảo trọng, xin thêm tự yêu thích. Tin tức tốt thì nên giữ gìn tôn quý. Như bên Tây Vức gặp nhau thì chắp tay nói hòa nam, hoặc nó là Bàn-trà-vị. Lâu không gặp nay gặp lại làm bàn lễ. Như tôn nghiêm sự tượng, thì vừa gặp nhau liền làm lễ. Nay người xuất dùng tình người Hoa mà học việc của người Phạn mà thôi, điều gọi là nửa hoa nửa phạn, cũng phải mà cũng chẳng phải, tìm sớ khởi kia thì đều là pháp của Ngài Đạo An để lại, thì ở đã khác với người thế tục, thực hành các điều khoản của luật nhiên cũng khác. Hoặc nói rằng Tăng dâng lên biểu sớ nên bỏ đi hai chữ khấu đầu, do nó có liên quan đến cửu bái chúc tông. Tôi thấy Ngài Lô Sơn Viễn Công và Ngài Thái Sơn lãng công làm văn phúc đáp cho vương thần đều gọi tên xưng khấu đầu. Ngài Viễn Công giảng lễ, giảng thánh hiền chọn lựa nghĩa há là lạm dụng ư? Vả lại khấu đầu là cúi xuống mà bái vậy. Nay nói khấu đầu mà thân không kham xuống thì sao gọi là bái. Lại nữa người tu khi gặp nhau, chắp tay cúi đầu mà nói khế thư (cúi đầu) cũng giống như vậy. Song người cầm bút trách đó là rất thông minh vậy. <詞>CHÚ THÍCH KINH: Đầu tiên phiên dịch pháp ngữ chưa thông suốt phàm tình, đã dịch lại mới thấy thông, văn cứu cánh mà lý thông suốt cho nên chú giải pháp nghĩa ẩn sâu có chỉ bày mới hết. Trong Ngữ Vân Đề có nói rằng Ngàn Khương Tăng Hội trong niên hiệu Xích điểu nhà Chu Chú Kinh Pháp Cảnh, đây là người đầu tiên chú giảng kinh. Lại nữa Ngài Đạo An chú giảng lại bộ kinh Bổn Sanh Tử.v.v… đây là đầu tiên chú giảng kinh. Đầu nhà Ngụy có Ngài Chi Cung minh ở Hà Nam cũng có làm chú giải. Như vậy thì ở phía Nam (nước Việt Nam bấy giờ) có Ngài Khương Tăng Hội ở đầu tiên, còn ở phía Bắc (Trung Quốc) thì Ngài Chi Cung Minh chú giảng kinh là lần đầu tiên hết. <詞>TĂNG GIẢNG KINH: Chu Só Hành người Vónh Xuyên, chí nghiệp ở nơi chính pháp học ít biết rộng, thoát ly trần tục. Sau khi xuất gia chuyên đọc kinh điển, thường giảng đạo hạnh bát nhã, than dịch lý chưa cùng tột. Năm thứ năm niên hiệu Cam Lộ nhà Ngụy; Ngài phát tâm từ Trường An vượt qua Lưu sa đến Vu Điền được chin mươi bài bản chính chữ phạn. Người nước đó phần nhiều là học tiểu thừa, người nước đó dèm pha với vua rằng: Sa môn người Hán muốn đem sách Bà la môn hoặc bạn chính pháp, vì sao không ngăn Ngài lại, đất Hán đui điếc là lỗi của vua, vua bèn không cho mang kinh về Đông Độ (Trung Quốc). Ngài Só Hành nhơn đó xin đốt để làm linh nghiệm. Lúc bấy giờ Ngài chất củi ở trước điện, Ngài thệ nguyên xong rồi đốt, các kinh đó quả nhiên không bị tổn hại, vua bắt đầu mới tin phục, Ngài Só Hành gởi kinh về nước. ngài Trúc-pháp-lan, Vô-la-xoa dịch kinh được phóng quang Bát - nhã. Ngài Đuệ pháp sư nói rằng ông Só Hành ở Lạc trung giảng tiểu phẩm thường không thông, vượt qua Lưu sa cầu đại phẩm trở về dịch ra thành âm nhà Tấm. Ngài Só Hành thời Tào Ngụy là người giảng đạo hành kinh, là vị Tăng giảng kinh đầu tiên đó vậy. <詞>NI GIẢNG KINH: Năm Mậu Thìn năm thứ ba niên hiệu Đại hòa Đông Tấn Phế Đế, ở chùa Đông Lạc chương có vị Ni tên Đạo Thinh tục là họ Dương, khi còn là Sa di tụng thông thuộc hai bộ kinh Pháp Hoa và Duy Ma. Sau hi thọ đại giới nghiên cứu cùng tột nghĩa lý, một phương đạo học cùng chung sư tông. Vị Ni giảng kinh đầu tiên tên là Cô Dạo Thinh vậy. <詞>TẠO SỚ KHOA KINH: Kinh giáo truyền qua phương Đông ban đầu thì Ngài Chu Só Hành giảng nói chưa thành văn tự, phân khoa chú giải là Ngài Đạo An pháp sư. Ngài Đạo An chú kinh thường sợ không hợp với ý Phật, nằm mộng thấy có vị đạo nhơn nói họp lý tức là Tân Đầu Lô. Có người nói rằng chú thích và tạo sớ hoàn toàn khác nhau, vì sao lại xem Ngài Đạo An là đầu tiên? Đáp rằng chú là giải thích kinh, cùng với việc riêng làm sớ nghĩa khác tên gọi mà thật hành đồng, huống chi chia ra khoa tiết làm cho không dài dòng để giải thích, đây là ý của Ngài Đạo An. Kế đó có Ngài Tăng Duệ (Nhuệ) làm sớ kinh Duy Ma, cả đời sớ các kinh Duy Ma, Pháp Hoa, Nê Hoàn Tiểu phẩm, người đời rất là coi quý. <詞>GIẢI LUẬT: Pháp sư luật sư thông hiểu pháp vốn là Ngài Đàm Vô Đức yết ma đắc giới mà thường học Tăng kỳ. Một hôm Ngài tự ngộ mà than rằng: Thể đã có bốn phần mà thọ, sao lại có bộ khác để rõ, lúc ấy Ngài bèn bỏ giảng Kỳ luật, tay mở mắt xem xiển dương tứ phần. Có môn nhơn (đệ tử) tên là Đạo Phúc lần lựa chép hết dần dần thành nghĩa sớ. Ngài Đạo Phúc là người đầu tiên giải tứ phần. Đến giữa niên hiệu Nguyên gia nhà Tống Ngài Huệ Tuân giỏi thông bộ Tăng Kỳ Thập Tụng liền chế ra điều chương, tức là người giải bộ Nhị Luật đầu tiên. Nay chùa phía Bắc núi Ngũ Đàn tương truyền rằng có vị sư thông minh giảng luật nay còn dấu tích của Ngài. <詞>GIẢI LUẬN Tỳ Đàm là huệ học, đói pháp là mạng gia, tuy thấy phiên dịch lưu truyền trể mà lại mau thành trí mẫu, các loại ban đầu tra cứu nhiều hơn sớ văn, duy có một tông Thành thật nhiều pháp tướng nhất. Phía Bắc thì có bộ giảng lược của Ngài La Thập trao phó cho Ngài Tung pháp sư. Cho nên năm thứ mười niên hiệu Chủ đại hòa đời Hâụ Ngụy. Ở chùa Bạch Tháp - Hành Từ Châu, có bài chiếu nói rằng, gần đây chùa này có một danh Tung pháp sư, thọ bọ Thành Thật với Ngài La Thập sau đó trao cho Ngài Uyên pháp sư. rồi sau đó lại trao cho hai pháp sư Đăng Và Ký. Trẫm mỗi khi xem bộ Thành Thật nói, ông Đạo Đăng từng truyền luận ở trong sự nhẫn nhục. Đây là bắt đàu có từ thời Bắc triều. Lại nữa Tăng đạo, thiền, kinh, luật, luận mỗi mỗi đều rất tinh thông thời Diêu Hưng đồng chớ về hoàng cùng làm ra bộ Thành Thật Tam Luận nghĩa sớ. Đây lại là có trước tiên. Ở phía Nam thì có Tăng Nhu giảng dạy tuyên dương, cho nên rút ra trong Tam Tạng Ký có nói rằng: Tháng mười năm thứ bảy niên hiệu Vónh Minh nhà Tề Văn Tuyên Vương triệu tập năm trăm danh Tăng học rộng ở kinh sư, thỉnh Tăng Nhu ở chùa Định lâm giảng tại chùa, Huệ Hân giảng ở chùa Phổ Hoằng. Đây là người giảng luận đầu tiên ở Nam triều. Lại nữa các sư Triệu Nhuệ .v.v… giảng các luận Trung Bá Thập Nhị Môn .v.v… các sớ nghĩa nối tiếp nhau sanh không thôi. <詞>ĐÔ GIẢNG Người tuyên dương là do có người kinh phát, chẳng phải có người khác khởi đầu mối, thì khó mà ở trên toà riêng khởi. Cho nên Lương Võ giảng kinh, lấy ông Pháp, chùa Bửu Tích Viên làm đô giảng. Ông Pháp Bửu trước hỏi một câu gạn tới gạn lui theo lời hỏi mà đáp đây là đại thể của đô giảng. Lại nữa ông Chi đến Cối kê, Vương nội Sử thỉnh giảng Duy Ma, ông Hứa Tuân là đô giảng. Ông Hứa hỏi một câu hỏi, chúng cho rằng ông Chi không thể trả lời được. Ông Chi đáp một nghĩa, chúng cho rằng ông không cho là khó. Như vậy hỏi đáp liên tục không dứt. Do đó nên biết đô giảng thật khó với người kia. Lại Tăng Già Bật Đà La là tựu giảng, đệ tử Pháp Dõng truyền dịch Tăng niệm là đô giảng. Lại ông Tăng Đạo là người kinh triệu. Khi còn làm Sa di, ông Tăng Nhuệ cũng thấy làm lạ hỏi rằng ông muốn làm gì trong Phật pháp, ông trả lời muốn làm pháp sư là đô giảng. Ông Nhuệ nói rằng: ông làm pháp chủ của muôn người, há lại xưng là tiểu sư ư? Đây là thế kỷ Diêu Tần đã có đô giảng. Đô giảng ngày nay không nghe có người kích hỏi, cứ xướng văn kinh, đâu giống như đo giảng ngày xưa. <詞>TRUYỀN THIỀN QUÁN PHÁP Thiền quán bắt nguồn từ đây, đời nhà Tần Ngài Tăng Nhuệ pháp sư tự là Quang trung cho ra bộ Thiền kinh. Văn kia hướng đến chỗ minh tâm đạt lý. Song thí như ban đầu có phương thuốc, chưa có thể dung họp, không thể chữa trị bịnh, chỉ nói trong sách y. Huống gì đại pháp đã phô bày, những lực anh tài phân giảng. Người chú thích đã khai diễn từ nghĩa kia, người phân khoa cũng đã khéo léo phân chia. Nhưng còn chấp trần theo ngón tay, chỉ còn nương vào những bậc căn cơ ứng biến, sắc bén nhanh nhẹn. Chỉ xem những người dao trí bén nhọn, quên cả sớ thuyên, không cầu xuất ly Ngài Giang Biểu Viễn Công thương xót cho thiền pháp chưa được phô diễn, ở đó khổ cầu mà được. Ngài Bồ-đề-đạt- ma quán sát thấy có duyên nước này, đối với một thời kỳ rối ren mà tuyên nói không lập văn tự, bỏ chấp văn tự chìm đắm tiểu trần. (Tiên nói: Không tuân theo sự giáo hoá của vua gọi là phản thần, không tiếp theo sự dạy dỗ của cha gọi là nghịch tử. Không theo lời Phật dạy gọi là đệ tử của ma. Cho nên pháp của ba đời chư Phật không có dị thuyết, chư thánh mười phương thọ học cùng văn. Kinh gốc của đức Thích Ca, lời nói ngọn của Ngài Viễn Công, Đạt ma, bỏ gốc theo ngọn thật đáng thương xót. Tập khí ngu muội dường như đồng loạt, bực căn lá bối hỏi khắp tam tạng từ Tây lai, vẫn xem cầu pháp xưa nay ghi trong văn, thiền định bên Thiên Trúc vẫn tuân theo giáo thừa. Do đó người nhập chính vị là nối gót nhau, ngũ thiên bởi nương pháp theo thật mà hành. Phật nói thánh pháp không làm lầm người hậu học. Dám bảo người đồng chí hướng học Phật tu thiền ngõ hầu mong ra khỏi biển khổ, lên được bờ bên kia (bờ giác ngộ), không lấy việc lợi khẩu để khi dối người, tự che dấu tính linh. Kinh nói rằng nếu muốn đắc đạo phải nương theo lời Phật dạy, nếu trái lời Phật mà chứng đắc thì không có lẽ đó, có thể là bịa chuyện sao? <詞>RIÊNG LẬP THIỀN CƯ Đạo của Đạt Ma đã được thực hành, những bậc căn cơ sắc bén gặp nhau có người xướng cũng có người hòa, song chứng giáo hóa được chỉ tùy theo chùa viên mà ở không có quy chế riêng. Ngài Đạo Tín thiền sư ở chùa Đông lâm, Năng thiền sư ở chùa Quảng quả, Ngài Đàm thiền sư ở chùa Bạch Mã, mỗi vị có luật nghi riêng. Chỉ có người tham học là thực hành y Đỗ đa, y phấn tảo, y ngũ nạp là khác mà thôi. Sau đó Ngài Hoài Hải Bá trượng sơn thiền sư bắt đầu có ý kinh luận riêng lập ra thông đường, trải các liên sang khuyên người ngồi thiền, gồi xong mang để trên cái gường cao nghiên làm cái giá. Phàm một trăm đạo cụ đều treo ở trên đó, đều gọi là long nha dặc thượng đó vậy. Có lẽ sáng tham chiều thỉnh tùy theo tiếng khách bằng đá hay bằng gỗ làm tiết độ. Người đáng tôn kính thì gọi là trưởng lão, người đi theo thì gọi là thị giả, người chủ sự thì gọi là viên ty, người cộng tác thì gọi là phổ thỉnh. Hoặc có người bị lỗi người chủ sự dạy dùng cây, gậy, đốt y bát gọi đó là giới phạt (phạt răn đe). Phàm các quy tắc mới gọi là tòng lâm không giống với luật, vậy từ Ngài Bá Trượng là đầu tiên. (Sách Tiên nói: Lễ nhạc khoa trương do Thiên tứ chế ra, thì đạo của vua mới hưng thạnh, quy tắc của Tăng ở chùa Phật nương theo lời dạy của Như Lai thì chính pháp mới trụ lâu đời). <詞>TĂNG NƯỚC NÀY THAM HỌC ẤN ĐỘ Than ôi! Giương cao hiến pháp tuy chính đã được nêu bày, chỉ vì khai hoang mà vâng theo lệnh. Các Ngài Ma Đằng và Trúc-pháp-lan đã đến Trung Hoa nhưng chưa có người khắc chí cầu kinh. Cũng như để một khi vỡ thì nước trong đã chảy ra, nước ở bên ngoài cũng chảy vào, rồi sau đó mới bình mặt nước. Ngài Chu Só Hành ở Lạc Dương nhà Ngụy thệ đến Tây Thiên tìm cầu kinh Bát Nhã, Ngài Tăng Hựu cho rằng đây là vị Tăng ở trung Hoa đầu tiên đi qua Tây Vức. Song Ngài chỉ đến Thông Lãnh phía Bắc nước Vu Điền mà thôi. Đời nhà Tấn Ngài Pháp Hiển kêu gọi và mươi người cùng chí hướng đi du hoc Ấn Độ, lên núi Linh thứu, đây chính là người đầu tiên đến miền Ấn Độ. Sau đó có Ngài Giao Kiên tiếp nối theo dấu vết kia. Đến như có vị Tăng riêng ở Đông Hạ chùa Hán, nói rõ quết đề có thể nghiệm biết. Nếu luận về người truyền dịch thì đa sớ là chỉ giỏi tiếng của một nước, ít người nghe mà thông hiểu. Chỉ có Ngài Trang (Táng) tam tạng là nghiên cứu âm nghĩa của hai nước, học hết các vị học thức ở khắp các nơi mới dịch hết được ý kinh. Kế đến có Ngài nghĩa Tịnh tự mình du học cõi nước kia, khéo thông đạt Tỳ ni, về sau sửa những điều mê vọng trong luật phạm, chú thích mật ngôn dẫn chứng hòa hợp, bèn được có người thọ trì có kinh nghiệm lưu bố không ngại. Vốn là đời Hậu Hán đến nay, những người phiên dịch cứ tương tục. Từ năm giữa niên hiệu Nguyên Hòa đời nhà Đường. Sau khi dịch xong kinh Bổn Sanh Tam Địa một trăm sáu mươi năm sau không nghe đến việc dịch kinh nữa. Tống Thái Tổ từng cho hơn một trăm vị Tăng qua Tây Vức để cầu pháp. Năm thứ bảy niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc đời Thái Tống, có mời lập viện dịch kinh ở phía Tây chùa Thái bình hưng quốc Đông kinh, triệu tập vài vị phạn Tang như Tam-tạng; Thiên-tức-tai.v.v… và soạn lưỡng giai Minh nghĩa học Tăng, đổng dịch kinh mới, như vậy việc dịch kinh được hưng thạnh giữa thời đại Tống. <詞>TRUYỀN MẬT TÔNG Mật tông là pháp Đà-la-ni, là pháp bí mật chẳng phải là cảnh giới của hàng nhị thừa, là nơi thường dạo đi của chư Phật Bồ tát. Xưa dịch là trì, nay dịch là tính, nguồn gốc của nó vốn là pháp tính vi diệu, hình của nó là mẹ của Đà-la-ni, xét về âm của nó thì là thanh minh, nghiên cứu về văn thì là tự giới duyên, rút ra trong tam tạng ký có chép thần chú là tổng trì, vi mật trì vậy. Trong Cao Tăng truyện chép Ngài Bạch- thi-lại-đa-la vốn là người Tây Vức. Đầu đời Đông Tấn Ngài đến hành đạo, Vương Đạo; Chu Bá Nhơn; Dữu lượng đều khâm phục và kính trọng Ngài. Ngài hay trì chú thuật, những điều hồi hướng đều có nhiều linh nghiệm. Lúc bấy giờ ở Giang Đông chưa có chú pháp, mật chú xuất hiện từ Khổng Tước Vương chú, đây là chú pháp đầu tiên vậy. Thời Bắc Ngụy thì có Tung Sơn, Bồ-đề-lưu-chi, Thúc Tónh Thọ.v.v… trì chú co nhiều linh nghiệm hiệu dụng. Đời nhà Đường có Ngài Chí Thông pháp sư rất tinh thông cấm chú. Kế đó có Ngài Bất Không tam tạng ở chùa Hưng thiện đất Kinh đại dịch rất nhiều giáo pháp tổng trì, lập nhiều mạn-trà-la, thần thuật có có thể hết được. Quán đảnh thần pháp dắt đầu nơi Ngài Bất Không, trong niên hiệu Vónh Thái Đại Tông sắc lệnh chỗ đạo tràng quán đảnh, chọn hai mươi bảy người làm quốc trưởng tụng chú Phật Đảnh và Miễn Sai Khoa Địa Thế.v.v… Cuối đời Lương và hậu Đường, Ngài Đạo-hiền-xà-lê-giả một hôm chim bao thấy đi dạo Ngũ Thiên Trúc, gặp Phật chỉ dạy tụ lạc của nước nào đó, đến sáng sớm đốn ngộ Ngũ ấm ngôn ấm không sai một ly, nay sư truyền phán đàn pháp và tông đây là Phượng Tường A-xà-lê đó vậy. Vua Thanh Thái đời Hậu Đường rất thích theo đạo đó, về sau theo giá vào Lạc mà qua đời, nay tháp ông ở Long Môn. Gần phía Nam Đông Kinh có một đại sư người Nhật thường diễn mật tạng cho Vương Công Đại Nhơn. Đến nay đệ tử của Ngài rất nhiều, người truyền sự nghiệp của Ngài gọi là tam tạng, hoặc có người gồm giảng cả kinh luật luận thì gọi là truyền hiển Mật tạng. <詞>NGOẠI HỌC Phàm học không nhàm chán rộng nhiều, có những điều không biết sẽ che lấp nước thiếu sót của mình, tôn của ta rất xa xăm dung pháp tam thừa mà chuyên chở. Nhưng nếu bị ma chướng xâm lấn thì cần phải chống trả lại. Cái thuật chống trả lại không gì bằng nếu biết được tình hình địch. Người biết được tình hình địch bên Tây Trúc thì có Ngài Vi Đà, bên Đông Hạ thì có Ngài Kinh Tịch. Cho nên trong chùa Kỳ Hoàn có bốn viện Vi Đà, ngoại đạo lấy làm rất tôn thờ. Lại có thư viện, tất cả nước sách khác nhau trong đại thiên thế giới đèu có chứa trong đó, Phật đều cho đọc hết, vì hang phục ngoại đạo mà không cho nương theo kiến giải của họ. Những bực cao cổ đức ở cõi đây có thể nhiếp phục được các tôn phái khác đều là do học rộng đó vậy. Thí như nước người di dịch ngôn ngữ không thông, cách ăn uống khác nhau, thì ai có thể hiểu được chí nguyện của họ. Hoặc có người hiểu được một ít tiếng Hồ liền có thể thuần phục và giải hòa người kia được. Do đó Tập Tạc xỉ Đạo An dùng nói năng khéo léo để mà điều phục. Bộn ông Tông Lôi, Ngài Huệ Viễn dùng thơ để khuyến dụ. Quyền không hai, lấy lễ để biện hoặc mà nhu nhuyến. Lục Hồng, Tiêm Giảo Nhiên dung thi mà được thân cận. Đây là điều không thực hành thuật gì khác mà chỉ là thông ngoại học mà thôi. Đạo Nho và Lão lý sâu xa, hàng Thích tử đã tinh tông giáo lý của đạo mình rồi, thì ngại gì mà không ra sức học hỏi mở rộng thêm thấy nghe, chớ có trệ ở một bên. ĐẠI TỐNG TĂNG SỬ LƯỢC (HẾT QUYỂN THƯỢNG).  ĐẠI TỐNG TĂNG SỬ LƯỢC (Năm thứ hai niên hiệu Hàm Bình, Trùng canh Phỉnh lý). Hữu Nhai Tăng Lục Thông Huệ Đại sư Tán Ninh phụng sắc chỉ soạn. <卷>QUYỂN TRUNG Tăng tục lập điều chế. Hành hương xướng đạo Nguyên được tán tụng Cương lãnh chùa Tăng Lập Ni chính Tăng chính (phụ) Tăng thống Sa - môn đô thống Tả Hữu Nhai Tăng Lục Tăng chủ viên phó Chủ toà giảng kinh luận Quốc sư Các chức vụ khác Tăng chính nhận bổng lộc Quảng thúc Tăng Ni Lớp, ngôi vị Tăng Ni và Đạo só Nội đạo tràng Tăng tịch có lợi có căng --------------------------- <詞>TĂNG TỤC LẬP ĐIỀU CHẾ. Phật pháp lưu hành tuỳ thời mà chế giềng mối đoạn hợp Tỳ-ni, chịu sự lượng của pháp khác, cần phải theo pháp khác. Cho nên Phật quở Tỳ kheo rằng: Hay tránh điều chế của ta tạo các tội, lúc đó Ngài bèn lập ra Tỳ-ni mới, sau khi Niết-bàn lập giáo giới cho đời vị lai: cho rằng mô phạm của luật không tròn, thiên khoa không chép hết được, thì so sánh phụ mà cầu đó, do đó ngoài “thiên” “tụ” ra còn có Tăng chế. Ngày nay Tỳ kheo hoặc ở trong rừng, hoặc ở trong chùa đều cùng chung chúng lập điều lệ, để ràng buộc hành vi của mình để giúp không mắc phải những lỗi lầm. Ngài Đạo An pháp sư đời nhà Tấn thương cho giới luật chưa được đầy đủ, xót cho oai nghi còn thiếu nhiều, cho nên che dấu khuyết điểm, ngăn ngừa dòng chảy kia, lập ra điều lệ đặt thành chương, khiến cho một lúc mà sanh niềm tin. Các pháp: Một, hành-hương-đinh toà-thượng giảng; Hai, sáu thời lễ sám; Ba, Bố tát. Nếu có người vượt qua pháp đây thì phải riêng lập ra điều lệ để ngăn ngừa. Đệ tử của Ngài Đạo An tên là Pháp Ngộ, giảng pháp dạy chúng ở Kinh Châu, lúc bấy giờ có người học trò uống rượu, Ngài Pháp Ngộ phạt mà không chịu bỏ. Ngài Đạo An ở Nhượng Chương nghe được việc đó, gói một cây roi nhỏ gởi cho Ngài Pháp Ngộ. Ngài Pháp Ngộ hiểu được ý thầy, bèn nhóm chúng dạy bảo, sai người trị nhật đánh Ngài Pháp Ngộ hai mươi roi, rồi gói cây roi gởi ại cho Ngài Đạo An. Cho nên Ngài Tập Tạc xỉ cùng với Tạ An Thơ nói rằng: “Ngài đạo An có thể làm yên được trong chúng. Ba điều lệ trên khắp thiên hạ đều cùng nhau vâng làm. Lại nữa Ngài Chi Độn lập “chúng Tăng Tập Nghi Độ; Ngài Huệ Viễn lập “Pháp Xã Tiết Độ”; đến như Ngài Tuyên Luật Sư lập “Minh Chung Quỷ Độ”, chi ra “Ngũ Chúng Vật Nghi”; “Chương Phục Nghi” và quy kính nghi”. Những ghi đây điều tuỳ thời nương theo giáo pháp mà nối tiếp nhau ra đời. Phát rừng khai hoang thì Ngài Đạo An là người đầu tiên chế ra điều lệ cho Tăng. Vua Thế Tông Tuyên Võ Đế khi lên ngôi liền ra chiếu rằng: Kẻ tục người tu đã có phần, pháp luật cũng có khác. Đạo lý giáo pháp xen nhau hiển rõ, những điều cấm ngăn hay khuyên răn đều có chổ thích nghi, vị Tăng phạm tội sát nhơn thì phải y theo pháp luật thế tục mà xử đoán, còn phạm các tội khác đều giao cho Chiêu huyền, do vì trong luật của Tăng đã có chế định rõ ràng rồi. (Đế Tân soạn trong niên hiệu Cảnh minh). Thời Ngụy và thời nhà Lương thông suốt hài hòa, rất quý sai người theo sứ giao dịch, chỉ có ông Thôi Xiêm từng nhờ vị Sa môn Minh Tạng trước tác Phật luận mà ông ký tên, ông mến Phật pháp như đây vậy. Trước đây pháp Tăng Ni rất lộn xộn, ông Xiêm dâng biểu tâu lên thiết lập lại Khoa, điều, thiên trong pháp Sa môn dâng lên Chiêu huyền đô, để kiểm ướt đó. Lại nữa ở năm tế Văn Tuyên Vương làm một quyển Tăng chế. Ông Lương Đổ xây chùa Quang Trạch mời Ngài Pháp Vân làm chủ chùa sang lập Tăng chế dung làm mô phạm cho đời sau. Xem đời Bắc Ngụy, Nam Triều người đời thay đổi làm Tăng chế văn rất uyển chuyển mà không quá nhiều: Do lưới khinh pháp, có người ác xuyên qua hang sót lại mà bị rớt xuống, không đến đổi phải bị hình phạt giết chết, có thể được ư? Làm Tăng nếu chưa có thể tu hành, chỉ có thể tránh được lỗi hình phạt, thì cũng là lực thượng só tiêu diêu lắm rồi vậy. <詞>HÀNG HƯƠNG XƯỚNG ĐẠO. Hương là trừ mùi hôi, giữ lại mùi thơm, khiến cho người thích ngữi, vốn người Châu tôn sùng mùi kia, thầm họp với trùng hương bên Tây Vức. Phật ra đời vào thời Cổ, ở xa mà là khế họp. Trọng kinh nói trưởng giả muốn thỉnh Phật đêm trước phải lên lâu gác tay cầm lư hương để tỏ tín tâm của mình, ngày mai khi đến giờ ăn Phật liền đến, cho nên hương là sứ giả của sự tín tâm. Trong kinh Đại Di Giáo viết, Tỳ kheo khi sắp ăn cơm trước phải đốt hương tụng kinh. Lại trong kinh nói: Xà Hô Tỳ kheo tự nói túc duyên của mình khiến cho người sám hối: Tương Tiên Đế đến Thủ Ngã hành hương, ở phương đây giáo pháp đã được thực hành, kinh tạng đã được lưu truyền. Trong ba điều lệ của Ngài An pháp sư, thứ nhất là hành hương, định tòa, thượng giảng. Đây chính là có việc hành hương đầu tiên thời Trung Hạ. Hậu Ngụy và Giang Biểu đềi trọng rải hương mà không theo lịch trình nào. Đến triều Đường Cao Tông, ông Tiết Nguyên Khởi; Lý nghĩa Phủ vâng sắc lệnh nhà vua, cúng trai Tăng hành hương làm phước cho Thái Tử, nhơn đó mà lễ bái Ngài Trang Tam tạng . Lại nữa vua Trung Tôn lập trai đường vô giá, tiệu các quan hàng ngũ phẩm trở lên đi hành hương, hoặc đốt hương xông tay, hoặc đem bột hương rải khắp nơi, gọi việc làm đó là hành hương. Về sau Ngài Bất Không Tam Tạng tâu lên Thái Tông Cao Tổ ngày kî của bảy vị thành lập trai đàn hành hương, vua sắc chỉ nên y theo ý kiến của Ngài, vì tin nhơn có nhiều cho nên không trai Tăng chỉ hành hương mà thôi. Triều Văn Tông Trung Thơ Thôi Lãi dâng sớ nói rằng: Ngày kî giỗ của nước nhà lập trai đàn, trăm quan hành hương sự không có kinh để căn cứ, cúi xin vua đình chỉ và bỏ đi. Vua sắc chỉ rằng: Lời tâu của ông Thôi Lãi tìm gốc ngọn, lễ văn linh thức từng không rõ ràng. Châu phủ khắp thiên hạ hai kinh thành kia trong ngày kî giỗ của nước ở chùa xem hành hương đều nên bải bỏ. Thử bàn luận xem, ông Thôi Lãi nói không có kinh căn cứ. Xà Chi hành hương há không có trong kinh sao? Ngài An Công dẫn giáo lập nghi, há lại không có căn cứ ư? Sắc chỉ rằng xin tìm gốc ngọn lễ văn linh thức từng không rõ ràng: Lễ Cửu Tam Đại không phải đã từng nói ăm cơm Thích Tử mà hành hương ư? Vả lại linh thức chỉ là pháp luật thay đổi phát triển của nhiều đời. Như điều cảnh sau đại tông, há không nêu trong linh thức, cuối đời Tùy đầu thời Đường ư?. Huống chi lễ là xuất phát từ nhà Nho, lẽ nào lại lấy sách đạo Phật làm căn cứ. Sự nhơn nới đạo Phật, không nên láy sách nho làm căn cứ, chính là thể chứng, mới gọi là họp lý. Nhà nho lại không đồng ý lại dẫn sách nho,khác gì người trong tù khởi kiện mà mời người thân của mình làm chứng, nếu muốn trừ bỏ người kia cũng không từ chối. Phàm người con hiếu thờ tổ tiên chỉ giỏi việc chôn cất không có ích cho đời sau vốn nên bỏ đi vậy. Hành hương là giới thiệu với những nơi tối tăm hoang vắng, biết rằng không nơi nào không xem xét. Văn Tông khinh thường tổ tông, nên ông chỉ ngồi nhờ mà thôi. Hoặc có người nói rằng cần gì phải hành hương làm cho thông. Nói rằng như ông Châu Chi còn ngửi mùi cúi, máu, mỡ, cỏ, ông tiêu đốt, nói rằng trời còn thích mùi đó vậy. Trời đâu có ăn khí máu; mỡ, cỏ cây, do vì người ngửi mùi đó, do ngửi mà thành việc trời. Nếu như vậy Phật giáo trọng hương lẽ nào có thể đoạt mất đi? Huống gì bá quan hành hương là thay vua, bá quan thờ tổ tông cũng là thần tử, nếu muốn bỏ đi thì làm sao là bực trung hiếu được. Tuyên Tông lên ngôi hưng khởi lại đạo đây. Đại Tung năm thứ năm sắc chỉ kinh thành và các châu phủ bên ngoài, ngày giỗ của nước phải hành hương và phải thanh khiết, không được đem rượu thịt vào chùa nấu nướng, đã mất tâm cung kính lại trái với đạo dâng cúng. Từ đây đến An Đế hành hương như cũ. Châu Lương Phế nhà Đường, bảy tiều mới dừng, năm thứ ba niên hiệu Khai Bình, trong tiết Đại Minh các quan vào chùa hành hương chúc thọ, sau trở về cúng tổ tiên, hành hương đến nay không dứt. Năm thứ năm niên hiệu Thiên Phước, Đậu Thinh Cố dâng tấu nói ngày giỗ của nước, tế thần quỳ đốt hương, bá quan bày tòa. Nay quỳ thắp hương, bá quan đứng hai bên, sau khi hành hương xong cúng dường trai phạn cho trăm vị Tăng, thường lấy việc này làm nghi thức thường. Năm thứ ba niên hiệu Thuần Hòa vua Đại Tông nhà Tống, ngu bệ viên ngoại lang Lý Tông Nột tâu lên vua ngày giỗ của nước thỉnh các quan Tể thần trở xuống hành hương, sau đó cấm ăn thịt, uống rượu để tiêu biểu cho sự tinh khiết của ngày đó. Sắc Hạ Ngự Sử Đài y theo đó mà thực hành. Xướng đạo: Dầu tiên là bên Tây Vức vị thượng tọa nhận người thế tục đến thỉnh, chú nguyện rằng bực nhị túc thường an lạc, bực thứ túc cũng an lạc, trong tất cả thời đều được kiết tường.v.v… để làm vui lòng người đàn-việt. Ngài Xá-lợi-phất nhiều biện tài, khen ngợi dẫn dắt rất giỏi, người bạch y rất vui mừng, đây là tiêu biểu cho. Trong Cao Tăng Truyện luận của đời Lương có nói rằng: điều quý báu của xướng đạo là việc đó có bốn điều: Một là tiếng; hai là biện; ba là tài; bốn là rộng. Chẳng phải tiếng thì không lấy gì răn nhắc chúng, không phải biện thì không họp thời, chẳng phải tài thì nói không hay, chẳng phải rộng thì ngôn ngữ không có chỗ để nương tựa, đây là đại thể của xướng đạo. Căn cứ trong “Ký Quy Truyện” có nói rằng: Đốt hương hồ quỳ khen ngợi tướng hảo của Phật, nên quỳ bên đạo sư hoặc là ngài chỉ dạy trực tiếp, hoặc là dẫn dắt chỉ dạy. Lại nữa, bên Tây Vức, phàm khi yết kiến quốc vương. Cách này lưu truyền đến Đông Hạ, người nhận việc đó rất quan trọng. Như thấy đại quan yết kiến vu cần phải luyện cho thành thục, thông rồi mới hỏi thăm, rồi kế đó mặt tình mà khen ngợi phong hóa. Đây cũng là việc xướng đạo. Tề Thánh Lục Vương có làm văn xướng đạo. Đời nhà Lương ngài Tăng Hựu có làm “Trai chủ tán thán tuyệt ký” và “Chư sắc chú nguyện” văn. Trần Tùy, Thế Cao Tăng xem thấy được sự khéo léo sâu xa của đạo đây có làm tập “Đạo văn”. Từ đời Đường đến nay, pháp nay đường thịnh hành ở các đại. <詞>NGUYÊN DO TÁN TỤNG Nguyên thỉ của tán tụng. Xét trong “Thập tụng luật” Câu Chí Nhỉ (tức Ức Nhỉ) làm “Tan khiết thinh” để khen ngợi Phật, kia người có thể tụng để hiểu. Trong kinh A Hàm Thiện Hoà La làm Thiện Phúng Tụng khiến cho voi ngựa của Ảnh Thắng đại Vương không đi được, Ở cõi đây thì có Ngài Khương Tăng Hội truyền Nê Hoàn Tán Bối, Chi Khiếm chế Liên Câu Phạn Bối. Lại Khai Só Pháp, Thắng Thiện, A-tỳ-đàm-tâm riêng soạn hai trăm lẻ năm bài kệ để làm yếu giải gọi là Tâm, kia là tụng tiếng vậy. Nhược Linh Thược tự phát nghi Hìng Quần phẩm, “Xúc vật hữu ký”, một cái ngậm một cái vịnh trạng như chim bước thú đi vậy. Một cầm một dẫn giống như vật tình, tình và loại thay đổi, thì tiếng tuỳ theo chin lần biến mà thành ca, khí họp với số thì năm âm hiệp lực mà chung làm, phụ kim thạch thì trăm thú múa theo, tấu thêm sáo, đờn thì nhơn thần đồng cảm, đây chính là sự khéo léo cùng tột của âm thinh. Ngụy Tử Kiến từng dạo Ngư Sơn mà cảm âm, dịch kia uyển chuyển đồng hợp với tiếng tụng của Sa - môn. Nam Tề Cảnh Lục, Vương Tử Lương đem kệ trong kinh khế hợp với tiêu dứt, điều âm khúc rất hay làm một quyển “tán Phạn Bối Kệ Văn”. Lại nữa Bạch Pháp Kiều rất giỏi tụng tiếng Phạn, trong Cao Tăng truyện người giỏi tụng kia rất nhiều ở đây không chép hết ra. Về sau trong niên hiệu Thạch Lặc Kiến Bình nhà Triệu có vị thần giáng xuống An Ấn để phán xét chính sự, đọc ngâm âm kinh bảy ngày mới dứt. Tăng có viết theo tiếng phạn, hoặc gọi là tiếng phạn Bối đây đâu có ích gì. Thông rằng: Một là Phật đạo pháp lạc, âm vận đây tuy nghe thương xót mà không tổn hại, tuy vui mà không dâm, chiết trung trung hòa nên gọi là pháp lạc. Hai là chư thiên quỷ thần nghe đều hoan hỷ. Ba là thường pháp chư Phật, mười phương cõi nước đều do đây mà vui vẻ. <詞>CƯƠNG LÃNH CHÙA TĂNG Phàm nói đến chùa là nơi thừa kế. Trị sự là nối tiếp nhau ở trong kia. Đã dùng tên làm chỗ công sở (quan ti) thì không thiếu nghiệp Phật sự. Cho nên con tiếp tục việc của cha mình, giúp theo gót thầy, đây là thừa kế nối gót, nên phải khắc phục siêng năng mà việc thành vậy. Xét bên Tây Vức vị Tăng trị sự gọi chung là Yết-ma-đà-na dịch là trị sự cũng gọi là duyệt chúng, nghĩa là người biết việc và xem xét chúng, Ngài Ẩm Quang nhiếp chúng ở Linh Thứu, Ngài Thân Tử lo việc ở Trúc Lâm, và Đạp-bà-ma-la mới mười sau tuổi đã chứng ứng nhơn, về sau nghó thân không bền chắc thỉnh làm trị sự Tăng, ban đêm xuất quang chia tọa cụ cho Tăng, cho nên Phật khen rằng đệ tử của ta làm Tăng biết phòng xá khác nhau. Kế đó thỉnh thọ thực thì Ngài Đạp-bà-ma-la- tử là thứ nhất, như phó thỉnh quần tập ai họp thọ thứ nhất về nước, sau quá ẩm thực. Phật nói lấy vị tuổi lạp cao nhất làm việc đó, gọi vị đó là thượng tòa. Phật giáo giữa Đông Tiệm, Hán Ngụy như có viềng mối mà chưa lập viềng mối, như thuyền mà chưa hạ. Gần như đời Diêu Tần người xuất gia mười nhà mà có hết nửa nhà. Ngài La Thập vào cửa, ông Doanh Lương theo chân, người đến có tới ba ngàn. Tần chủ sắc soạn Đoạn Khiết pháp sư làm Tăng Thánh, Huệ Viễn là duyệt chúng, pháp Khâm Huệ làm chép việc Tăng, cấp cho xe cộ, chăm sóc trong việc Tăng chính trật tự phục vụ nhau, còn các việc khác thì… Cõi đây lập Tăng quan Ngài Đạo Kiết đời Tần là đầu tiên. <詞>LẬP TĂNG chính Chúng Tăng sang lập tinh chúng nói rằng: Tề Sở Thọ quan phương trọn đời theo Phật giáo, từng nói Tăng chính là cái gì? Là ngay thẳng vậy. Tự mình ngay và làm ngay ngắn cho người khác, giành lại chính lệnh cho nên nói như vậy. Bởi do Tỳ kheo không có pháp như ngựa mà không có dàm và dây cương, như trâu không có xỏ dây mũi, dần dần nhiễm thế tục, bèn trái với mẫu mực phép tắc, cho nên lập ra người có đức trong mong dùng pháp để mà ngăn chặn khiến cho họ quay về con đường chính, cho nên gọi là Tăng chính. Đây là Ngài Tăng Khiết (nay gọi là Đạo Kiết) đời Ngụy Tần là đầu tiên. Thiên đô đời Đông Tấn ít nghe chức đây, cho đến đời Tống mới lập ra cơ quan của Sa môn, lại lấy Ni-bảo-hiền là Tăng chính, Văn Đế Hiếu Võ rất tôn trọng. Kế đó có danh hiệu là pháp chủ như Ngài Thích Đạo Du là đệ tử của ngài Sanh Công. Văn Đế hỏi ngài Huệ Quán rằng: nghĩa đốn ngộ ai học tập được? Đáp rằng: ông Đạo Du, ông Hiếu Võ bèn triệu Ngài vào. Đến khi ông Hiếu Võ lên ngôi mới sắc cho Ngài ở chùa Tân An, làm pháp chủ ở trấn Tự, lại sắc pháp Viện làm Pháp chủ chùa Tương Cung. Xét các chùa đồng tên nghi là không có người đảm nhận việc thống chính. Lại trong niên hiệu Thăng minh lập pháp trì làm Tăng chính, trong hiệu Đại Minh lập Ngài Đạo Ôn làm Đô ấp tăng chính, trong niên hiệu Vónh Minh sắc Ngài Huyền Xướng và Pháp Hiếu làm Tăng chủ chùa Trường Can, chia đảm nhiệm việc hai bờ Nam Bắc. Sau Ngài Huyền Xướng được sắc đến Tam Ngộ thống nhiếp hai chúng. Cuối đời Tề lập Ngài Pháp Duyệt làm Tăng chủ, trụ trì chùa chính giác. Ông Lương Tổ tâm quy y Phật giáo, thâm nhập nghĩa trọ yếu vi diệu, thận trọng lựa chọn người có đức để làm Tăng thủ, Pháp Siêu làm đô ấp Tăng chính. Đời nhà Tấn luôn sáu năm sắc Ngài Pháp Vân làm Đại Tăng chính, sức cai quản đầy đủ. Lại Ngài Huệ Linh cũng có đảm nhiệm chức đây (đại tự khác mà thôi). Đều gọi là Tăng chủ cũng như là quan Tăng. Bởi các nơi còn có tên Tiểu chính, Tiểu Thống, như Xà-na-quật-đa, Trung Hoa dịch là Chí Đức, người Bắc Ấn Độ. Triều Châu Tiêu Vương Vũ, Văn Kiệm Trấn Thục mời đồng hành đến kia nhậm chức Tăng chủ ở Ích Châu trụ trì chùa Long Uyên. Thời Nam Triều ngài Huệ Cơ họ Ngẫm người tiền Đường, theo ngài Cầu Na tam tạng thọ giới ở Thái Châu, sau đó đi giáo hóa qua nước Việt tìm sắc làm Tăng chủ. Thưởng Nhậm Thập Thành là người đầu tiên làm Tăng chủ ở Đông độ (Đông độ tức là giữa Ngô Hội). Trải qua các thời, phần nhiều là các chư hầu lập Tăng chính. Đời Lương tuy là đại quốc gia cùng dung tên đây, chỉ thêm đại từ là khác. Ngày nay khắp nơi mỗi Châu đều đặt một vị, lựa chọn người đức hạnh mới có thể đảm nhiệm được, nếu không như vậy thì rất thiếu sót vậy. <詞>PHỤ NI chính Ở Bắc Triều lập chế phần nhiều là Tăng phụ, ở đất Nam có quy tắc mới riêng hành Ni chính. Năm thứ hai niên hiệu Thái Chí đời nhà Tống, sắc Ni Bảo Hiền làm Ni Tăng chính, lại lập sư Pháp Tịnh làm Lương Ấp Ni Đồ duy na. Đây chỉ tạm thời lập ra, nhà Lương, Trần, Tùy; Đường ít nghe việc đây. Nước Thiên Bá thường nghe có tên Ni thống, Ni chính. <詞>TĂNG THỐNG Những tòa nhà rộng lớn của Đế Vương ắt phải tìm người trông coi, hoặc thay dễ nhạc hoặc đổi quan ti, dung Thái úy thay Tư mã. Sao thường có đó? Lấy đây là đầu Vua Tần chế trong quan lập Tăng chính làm Tông thủ, Ngụy Tôn đất Bắc đổi Tăng thống lãnh đạo chúng xuất gia, tuy phát ra đề mục mới nhưng cũng là đưa ra chức cũ. Trong niên hiệu Hoàng Thỉ Hậu Ngụy, Sa môn Pháp Quả ở Triệu Quận giới hạnh rất tinh chuyên, khai diễn pháp tịch, Thái Tổ tôn làm Sa môn thống, nói chuyện đạo rất nhiều vua rất vừa lọng và cúng thí rất hậu. Thái Tôn càng tôn sung tin hơn vua trước. Trong niên hiệu Vónh Hưng trước sau trao cho chức Quốc nghi thành tử trung tín hầu, lại gọi là An thành công, Ngài đều cố nhường đó. Quan người thế tục lại có thêm Tăng, mới nghe nơi đó vua muốn đến đó ở, chê cửa kia chật không xhứa được xe giá, lại mở rộng lớn thêm. Ngài hơn tám mươi tuổi qua đời, vua đến tang Ngài bèn ban cho danh “Lão thọ tướng quân triệu quân Hồ linh công” (nay ban cho “Lão thọ tướng quân đều là xuất phát từ sắc lệnh thời này. Biết giúp nước trước là tướng quân, hai chữ Hồ linh là thụy hiệu). Ngài Pháp Quả xuất gia năm mười bốn tuổi, còn có tên là Mãnh, chiếu theo lệnh Ngài Pháp Quả tiếp tục duy ttrì chức mà vua ban cho. Chức Sa môn thống Ngài Pháp Quả là đầu tiên. Lại có Sa môn Sư Hiền ở Kế Tân, vốn là dòng họ nhà vua…., lại đến Lương Hạ gặp lúc bãi Phật pháp, Ngài bèn tạm thuật mà giữ đạo không bỏ, đến ngày trùng hưng lại Phật pháp làm Sa môn lại, những người đồng tu với Ngài có năm người, vua Ngụy đích thân dự lễ xuống tóc, chiếu cho Ngài Sư Hiền làm Tăng thống. Quan Tăng thống từ Ngài Sư Hiền là đầu tiên. Đời nhà tùy rất hưng Phật đạo, thay đổi Châu phong, triệu Ngài Tăng Mãnh trụ trìchùa Đại hưng thiện, làm đại thống nước Tùy. Ngài Mãnh họ Hà, người Kinh dương, giảng kinh Bát Nhã, Thập Địa.v.v…. (nhà Tùy dung chữ đại là khắc nhà Châu). lại có hiệu chính Sai di, ban đầu là đất Lạc nhậm chức Quốc Tăng đô (đô tức là Sa môn đô). Sau triệu vào đất Nghiệp dẹp yên có công chuyển làm Quốc thống (Tăng thống của một nước. Đời Tống theo Đường chế bỏ Tăng thống) lập Tăng tục (Chỉ có cung nhơn xuất gia thì sắc cho Ni lục, Ni thống có đến mười chữ sư danh, so với ấp hiệu của hai nước có rất nhiều. <詞>SA MÔN THỐNG ĐÔ Chúa Ngụy dời đô, vẫn theo họ ban đầu, trang phục nhà họ Lỗ ắt phải thay đổi theo kiểu lệ người Hoa. Lại ở cửa Trúc Phạn làm nhiều thay đổi. Hiếu Văn Đế một ngày hạ chiếu chỉ rằng: Môn hạ gần đây nhận được biểu tấu của Lục Công.v.v… biết sớm định Sa môn thống tìm người có đức lựa người hiền, ngủ nghỉ có giờ tâm siêng năng, kế thừa nhiệm vụ của Phật, đâu biết nương nhờ vào ai. Hoặc có người đạo cao tuổi lớn, lý không ràng buộc, hoặc có người là bực khí thức (hiểu biết rộng) xông xáo vào nơi trần lao, nay lấy chủ pháp sư Tăng Hiển chùa Tư viễn, có thể sắc làm Sa môn Đô thống. Xét rõ Văn Đế nhà người sắc Ngài Đàm Dực (Dược) làm Sa môn Đô thống, Ngài Dực Công làm đầu tiên. Ngài tức là người vua để làm thầy hiệu là Chiêu Huyền Sa môn Đô thống, may mắn gặp thời trung hưng Phật pháp, khắc đá tạo tượng, dịch kinh Tịnh Độ Tam Muội và Phó Pháp Tạng truyện là sư đây. Đời Tề thì pháp Thượng làm Chiêu Huyền thống, pháp Thuận làm Sa môn đô. Song nói Đô là ta chung gồm hết) mà ban xuống chung là một. Lại Ô Trường Quốc Tăng, Na-đê-da-xá tôn xưng, trước kia ở nước Tề cũng là Chiêu Huyền thống. Đời Cao Tề vì sao mà đặt chức Thống và Đô nhiều như vậy? Đáp rằng: khi đó đặt mười vị, một vị thống, một vị Đô, một vị chính, một vị phó cho nên nhiều. Đời Đại Tùy thọ mạng cũng dung tên thống. Ban đầu lập Ngài Đàm Diêu làm Sa môn Đại Chiêu Huyền Thống (riêng thêm chữ đại), kế thì Ngài Linh Tạng pháp sư làm trụ trì chùa Đại Hưng Thiện. Tầm Thị Chiêu Huyền Đô, tháng giêng nhuần đầu niên hiệu Nguyên hòa vua Mục Tông nhà Đường, ông Tăng chùa Long Hưng tên Duy Anh mạo xưng Hàn lâm đãi chiếu kiêm Lưỡng giai Tăng thống, Duy Anh thông kết trong ngoài mượn bói toán để mê hoặc người cho nên có lệnh đó. Ngài Tầm Thự cho là quấy nên bãi bỏ. từ đời Chu, Lương sau đó đời Đường, Tấn, Hán, Châu đến nay do Đại Tống đều dùng Lục mà không dùng Thống, riêng xưng bá các đạo hoặc có công sở riêng. Như Ngô Việt lập Linh Nhơn làm Tăng Thống, riêng hùng các đạo hoặc có công sở riêng. Như Ngô Việt lập Linh Nhân làm Tăng Thống, sau đó tránh lỗi vượt qua bổn phận. Tránh sự mạo xưng là dối trá các nước đều trị có hiệu Tăng Thống. <詞>TẢ HỮU NHAI TĂNG LỤC: (Tả hữu nhai bắt đầu là trí công đức sớ thuộc) Tăng trị lục để ghi chép công đức lại mỗi mỗi đều trực thuộc: và trí Tăng lục, hay dùng tả Hữu Nhai. Từ khi có nhà Đường có thiên hạ, lúc đầu Phật pháp rất suy sụp trì trệ. bởi vì giáo lý hưng thịnh, vật không có hai cái lớn. Truyền Dịch dâng sớ nêu những sai lầm của đạo Phật, Thần Nghiêu đều bị đạo đó mê hoặc, kế đến Tuân hạnh. Đông lục. Thái Công Chiến Tăng Ni ở sau đạo lão Cao tông lên ngôi muốn khiến cho mọi người bái quân thần thì mọi người quy tâm về cửa Phật, lại khiến cho Tăng ở trên đạo, Thế Vy của Trung Duệ càng phát huy. triều Huyền Tông thường tôn sùng đạo, chùa Tăng chỉ lập Tam cương mà thôi, Chiêu Huyền Thống chính thay đổi mà không theo, quan Tăng vụ gạt bỏ không phát khởi. Đến trong niên hiệu Khai thành vua Văn Công mới lập “Tả Hữu Nhai Tăng lục”, người kia tức Ngài Đoan Phủ pháp sư, Ngài họ thế tục là họ Triệu, vua Đức Tông triệu Ngài vào cung cấm, luận bàn với đạo Nho, Lão, vua ban cho áo bào màu tía, khiến hầu Thái tử ở triều Đông. Vua Thuận Tông rất trọng Ngài, cư xử như huynh đệ, ân lễ rất sâu. Vua Hiến Tông thường đến viện kia, đối đãi Ngài như bạn mới. Thưởng Nội Điện Pháp Nghi, Lục Tả Nhai Tăng sự, tiêu biểu tịnh chúng mười năm tức niên hiệu Nguyên Hòa. Vậy xét nguyên do này thì biết Tăng lục bắt đầu từ Ngài Đoan Phủ. Ngài Đoan Phủ qua đời trong niên hiệu Khai thành vua Văn Tông. Sau niên hiệu Khai thành thì Ngài Vân Đoan làm Tăng lục. Ngài Đoan Công phụng sắc chỉ, muốn bỏ đạo Phật, trước hạ chiếu rằng: Từ xưa đến nay hưng suy thì có gì nêu bày, nên kính trọng Lưỡng nhai Tăng Lục và các Tăng Tam học, ghi chép sự việc…. Pháp Bảo đại sư huyền Sướng thuật lời tựa sắp xếp thứ tự. Ngài Huyền Sướng bèn soạn Tam Bảo Ngũ Vận Đồ, nói rõ niên đại Phật pháp lưu truyền thực hành, giống với tam Bảo Lục trong niên hiệu Khai Hoàng của Phí Trưởng Phòng. Kế đó đến triều Tuyên Tông Ngài Linh Yến và Biện Chương làm Tăng Lục, đồng tấu thỉnh kinh thiên Bát Đại Giáo Vương vào trong tạng kinh (Hai Ngài Linh Yến và Biện Chương khi thọ Tăng Lục gặp Ngũ Vận Đồ). Năm thứ tám niên hiệu Đại Trung, ra chiếu chỉ sửa chùa tổng trì đã bị hư bỏ, sắc Tam giáo thư tòa Biên Chương chuyên lo việc sửa chùa, hộ Quân Trung Úy Phiên Kỳ, Vương Nguyên Hựu. Ngài Biên Chương từ Thủ tòa đảm nhiệm Tả Nhai Tăng Lục, kế đó Tịnh Quang Đại Sư Tăng Triệt đảm nhiệm Hữu Nhai Tăng Lục. Ngày mười bốn tháng mười một năm thứ mười hai niên hiệu Hàm Thông vua Ý Tông, tiết Diêm Khánh Lưỡng Nhai Tăng Đạo Phó giảng luận ở điện Lân đức, hữu Nhai Tăng Lục San Sớ được ban cho tên là Minh Triệt Đại sư, Tả Nhai Tăng Lục Thanh lan được ban là Tuệ Chiếu Đại sư. Triều Kỷ Tông có Ngài Giác Huy làm Tăng Lục. Khi giặc vào nổi loạn Tăng Lục Vân Hạo cùng các vị đồng thầy như Uy Nghị, Đỗ Quang Đình cầm hương án.v.v… theo xa giá mặc áo vàng sẫm mang vớ đi, đến Võ Công thì chân bị đau hết và khi thâu phục kinh sử theo trở về mới sắp xếp ghi chép lại việc trước. Không biết lúc đó vị Tăng đạo dẫn xa giá nghi thức cầm hương án như thế nào? Nói lục (ghi chép) là có Tấn Tống lục, ghi chép các việc kinh pháp lưu truyền và người phiên dịch, cho nên vua Ngụy có chiếu chỉ rằng: Gần đây có các vị lục công tiêu biểu. Lục Công chính là Tăng chúng Tổng lục, cũng còn gọi là Lục sư. Nhà Ngụy Tần ban đầu lập Tăng chính thì lập hai Ngài Pháp Khâm và Tuệ Võ giữ chức Tăng Lục: Nhà Đường có sự thay đổi chữ “chính” là sai, các Lục thì dung, bởi lễ nhạc từ Thiên Tử chế ra vậy. Lúc ấy đã là nhân vật cao không có người cạnh tranh, mặt tình khién cho “Thống” nhà Ngụy như cỏ, “chính” nhà Tần như rừng, đều quy về trong phạm vi Lục của nhà Đường. thí như Thượng Hiền, Thượng Xỉ thuộc về thời đại Thượng Hiền, thì Xỉ dùng làm gì? Thượng Bạch, Thượng Thanh thì vua là Thượng Bạch, Thanh không phải là trước tiên. <詞>TĂNG CHỦ VIÊN PHÓ Diêu Tần lập chính, tuy không có tên phó chính mà có ý chia hai, cho nên lập Ngài Huệ Viễn làm Duyệt chúng, hai Ngài pháp Khâm và Tuệ Võ giữ chức Tăng lục, đây chính là chia giai cấp đồng thành Tăng vị mà không nói rõ hai chữ chính phó. Và đời nhà Ngụy gọi Tăng thống dung làm chính viên, sắp Sa - môn đô để phân phó, thì là Đô Duy na đó vậy. Cho nên Hiếu Văn Đế chiếu rằng: Phó nghi hai việc đen trăng đều đồng.. Trước đây nhơn Ngà Đàm Lực làm Tăng thống riêng giúp việc bèn bỏ chức vụ đây. (biết ngài Đàm Lực trước từng lập chức phó) Nay muốn cầu người giúp việc đức khen ngợi điều lành, Pháp sư Tăng nghĩa chùa Hoàng cữu hành cung kính rất thông suốt, ôn hòa thông minh, cẩn thận chân chính, cần mẫn đạo đức, đảm đương giúp đỡ người khác, đáng đảm nhận Đô Duy Na làm đồ chúng của Ngài Quang Hiền. Vậy nên biết nhà Ngụy lấy Duyệt chúng làm phó, vậy biết Ngài Tuệ Viễn đời Diêu Tần là phó vậy. Nếu như vậy thì đời hậu Ngụy cũng dùng chức phó của nhà Diêu Tần chế ra, mà Tăng Truyện không nêu ra, chỉ vì từ nghĩa không rõ ràng mà thôi. Lại nữa lúc đó mỗi chùa đều riêng lập ba quan, vậy Đô Duy na của chùa không phải là có hơi quá ư? Đáp rằng điều này có hai việc không quá: Một là sắc chỉ sắp xếp khiến cho Chiêu Huyền Tăng Thống không làm phó; hai là từ Chiêu Huyền xuống Đô Duy Na há có đồng với Duyệt chúng của chùa ư? Thời Nam Triều, Tống Hiếu Võ Đế rất trọng Ngài Tuệ Cừ, Ngài Tuệ Cừ từng xướng đạo ở trước vua trong hội trai Tăng và bố thí vạn người, mà sắc chỉ Ngài làm Kinh Ấp Đô Duy Na. Ở đây dùng hai chữ Kinh Ấp rất đơn giản vậy, có người không lập. Giang tả lập chính, có người lập phó, có người không lập. Và Tùy Nhất Thống, y theo Bắc triều dùng Thống làm chính, dùng Đô làm phó. Đến giữa niên hiệu Nguyên Hòa và Trường Khánh nhà Đường mới lập Tăng Lục, Lục Tả Hữu Nhai Tăng cũng không có hai chức. Kế đó có Tam giáo Thủ Tòa, trong niên hiệu Càng Ninh nhà Đường mới lập Tăng Lục, Lục Tả hữu Nhai Tăng cũng không có hai chức. Kế đó có Tam giáo Thủ Tòa trong niên hiệu Càng Ninh vua Chiêu Tông đổi Thủ Tòa làm phó Tăng Lục. Nhà Chu, Lương, Hậu, Đường, Tấn, Hán, Châu hoặc đặc để, hoặc tỉnh lược, ra vào không nhất định. Nay năm thứ sáu niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc nhà Đại Tống sắc lập Hữu Nhai phó Tăng Lục, nên biết Hữu nhai giáo môn sư vậy. <詞>CHỦ TÒA GIẢNG KINH Tên chủ tòa tức là Thượng tòa, là bực đứng đầu trong chúng, người cao nhất trong Tăng, cho nên nói như vậy. Xét đời nhà đường sắc Ngài Biện Chương làm Kiểm hiệu tu tự, vua tuyên Tông ban cho Ngài là Công Thư tam giáo Thủ tòa. Trong niên hiệu Nguyên Hòa Ngài Bộ Chỉ xưng Tam giáo đàm luận, bởi do gặp lễ chúc mừng nhân ngày mừng sinh nhật của vua Ngài lên chính điện tán dương lễ Phật, bàn bạc với các tôn phái khác, cho nên nêu chữ tam giáo chưa chắc là gồm thông hết hai thiên Lục tich; Bắc Tông, thông các khoa của bổn giáo, điều khiển quần hiền, là bực kiệt xuất trong chúng, hoặc giỏi khắp các tông khác và tinh thông giáo pháp của mình, đối với vua quan không sợ, ngăn cản sự cố chấp trì trệ mà có công, nhận danh hiệu này thì không hổ thẹn. Về sau người học kinh luận đặc cho tên là Thủ tòa, tam giáo Thủ tòa thì Ngài Biên Chứng là đầu tiên, từ nhà Chu, Lương đến nhà Châu hoặc bỏ hoặc lập đều tùy thời. Đại Tống ngày nay có vị Thủ tòa giảng kinh giảng luận chính là một chức lập riêng biệt ngoài chức Tăng lục. <詞>QUỐC SƯ Pháp bên Tây Vức, tôn trọng một người nội giáo hay ngoại giáo đều đồng, chính đạo hay tà đạo đều có. Ngày xưa Ni-kiền-tử tin pháp Bà-la-môn, Quốc vương phong cho làm Quốc sư. Nội giáo thì học thông tam tạng, gồm thấu suốt được Ngũ Minh, nếu cả nước quy y, bèn bày cái hiện đây. Tiếng pháp bên Đông Hạ lần lần kém, chỉ có Bắc Tề có vị cao Tăng Pháp Thường đầu tiên giảng Tỳ-ni (luật) có tiếng ở Nghiệp Hạ, sau giảng kinh Niết-bàn và thọ thiền số, vua tề tôn sùng làm Quốc sư, hiện Quốc sư bắt đầu từ Ngài Pháp Thường. đến đời Trần, Tùy có Ngài Trí Khải (nghỉ) Thiền sư tông Thiên Thai, làm giới sư Bồ tát giới cho Trần Tuyên, Tùy Dạng (Dương), cho nên lúc đó gọi Ngài là Quốc sư (tức không có phong cho). Đến triều Tắc Thiên ngài Thần Tú dẫn chúng đi Kinh Châu triệu vào kinh sư, Trung Duệ (Nhuêh) Huyền tứ triều đến gọi Ngài là Quốc sư. Về sau đó Ngài Tuệ Trung trong thiền môn, thời Túc Đại vào trong cung cấm thuyết pháp thiền quán, cũng gọi Ngài là Quốc sư. Niên hiệu Nguyên sắc cho Ngài Tri Huyền là Ngộ Đạt Quốc sư. Như nước Thiên Bá thời sau Thục, vua ban cho Hữu Nhai Tăng Lục Quang Nghiệp là Hựu Thánh Quốc sư, Ngô Việt gọi Ngài Đức chiêu là Quốc sư. Giang nam đường quốc ban cho Ngài Văn Toại làm Quốc Đại đạo sư (Tên đạo sư gồm có hai nghĩa: Như trong kinh pháp Hoa, người đi buôn bạch với đạo sư, vậy đạo sư ở đây là chỉ cho người dẫn đường. Nếu là sự xướng đạo thì đây là chỉ cho người bày tỏ. Hoàng Dương Vương nhà tống Trấn Giang Lục, nhơn có hội trai đàn mà không có người chỉ dạy, thỉnh Ngài Đàm Quang làm người chỉ dẫn. Và Minh Đế thiết trai thấy Ngài Đàm Quang xướng đạo rất tài bèn sắc ban cho ba y và bình bát. <詞>CÁC CHỨC VỤ KHÁC Sự sắp xếp trong chùa cũng lập tam cương, như cái lớn thì giềng mối phải cứng chắc, cho nên nói như vậy. Tiếng phạn là Ma ma đế tất thế na yết ma dà đà. Trung Hoa dịch là “ngôn tự chủ thượng tòa duyệt chúng. Nói rõ chủ chùa bắt đầu từ chùa Bạch Mã thời Đông Hán, chùa là chỗ người ở ắt phải có chủ. Lúc đó tuy không có tên chủ chùa, mà có người trị sự. Đến đời Đông Tấn đến nay, chức đây mới thịnh hành. Cho nên Hầu cảnh nói coi ông Túc Diễn làm chủ chùa Thái Bình. Về sau nhà Châu thì có chủ chùa Trắc Hộ, tự sắc phong cho mình. Nhà Tùy có chủ chùa Đại Hưng Thiện. Nhà Đường có Thái Bình công chúa tâu lên xin cho Ngài Hồ Tăng Tuệ Phạm làm chủ chùa Thánh Thiện, và phong them cho tước tam phẩm. Võ Tắc Thiên lập Bính Hoài nghĩa làm chủ chùa Bạch mã. Còn các đạo khác chỉ ba năm một đời mà thôi. Phàm Thượng tòa có ba bực: Tập Dị Túc Tỳ Đàm có chép rằng: Một là xuất gia tuổi lớn, hai có tài danh và quý tộc ở đời, (như Tiết độ sứ Lưu Thoát xuất gia ban cho hạ lạp); ba là thọ giới trước chứng quả trước (đây là tên thù thắng nhất). Từ xưa đến nay lập vi đây đều lấy người có nhiều năm và có đức độ. Người có tài năng phẩm chất đầy đủ, trong cao Tăng truyện chép nói rất nhiều, được sắc phong làm Thượng tòa chùa đó. Ngài Đạo Tuyên được sắc phong làm Thượng tòa chùa Tay minh. Còn các nước khác ngoài chủ chùa, Duy na; trong Ngũ Vận Đồ người được sắc bổ có ghi ra. Đò Duy Na; trong Ký Quy truyện chép rằng Đồ Duy Na là nêu cả tiếng Hoa và tiếng Phạn, “Duy” là cương là tiếng Hoa “ma” là lược tiếng phạn (Na yết ma đà) bỏ bớt ba chữ Yết-ma-đà chỉ lấy chữ na. Hiếu Văn nhà Ngụy lập Tăng nghĩa pháp sư chùa Hoàng Cữu làm kinh ấp Đô duy na, thì sắc bổ vậy, đó chính là Chiêu Huyền Đô duy na mà thôi. Nay trong chùa lập ra như Ngài Huyền Xướng sắc làm Duy na thị địa của chùa Tổng trì. Kế đó là Điểu tòa, nghĩa là người trông coi giường tòa cho chúng. Phàm việc nêu là tòa, là một màu để thâu nhiếp hết, và chung coi biết luôn cả những việc khác, hoặc lập trực một năm thì trực một năm, hoặc trực một tháng, trực nửa tháng, trực một ngày đều là duyệt chúng. Tùy theo địa phương mà lập khác nhau, đều gọi là “tam cương”, nhận các việc khác gọi là Tăng cương. Đời Đường ban đầu không lập Tăng chủ, mỗi chùa đều lập tam quan mà thôi, đến giữa niên hiệu Nguyên Hòa Trường Khánh lập Tả Hữu Nhai Tăng lục, Tổng Lục Tăng Ni, nếu có việc thì trước bạch với Lục ti, sau mới báo quan địa phương. Đời Chu,Lương, hậu Đường, Tấn, Hán, Châu đến Đại Tống ngày nay đều theo chế xưa. Lại nữa đời Tống Tề từng lập một vị pháp chủ, cho nên ông Đạo Du sắc làm pháp chủ trấn tự chùa Tân An, Pháp viện làm pháp chủ chùa Tương Cung. Đến cuối đời Đường lập ra nhiều chức vị, một vị thọ y chỉ xà lê cũng gọi là pháp chủ. Triều nay vẫn y theo luật, vị tối cao gọi là “tôn chủ” cũng đồng vậy. Y chỉ xà lê hoặc sắc lệnh thêm. Bởi do giữa đạo và người đời có sự tranh chấp không phân sai trái, bảo người kia phân đoán sự việc khiến cho người dứt sự tranh chấp, cho nên mới có hiệu đó. Giữa đời Châu và Tùy cí vị Pháp Đạo chuyên tinh luật, vua Bắc Tề đã kính pháp môn, năm chúng nhơn đây mà được thạnh, nếu có người phạm luật, vua bảo Ngài Pháp Đạo xử lý, bèn sắc làm Sa - môn đoán sự. Lúc bấy giờ có vị Tăng Thanh Tề kiện tụng, vua sắc khiến ngày đoạn việc trên, các việc tranh chấp từ đó được dứt diệt. Đến đời Tùy vua mới chiếu chỉ cho Ngài ở chùa đại hưng thiện. Tên đoán sự Ngài Pháp Đạo là đầu tiên (sau lên làm Thống). Thích Sản Tông chùa Nhật Nghiêm nhà Tùy làm bộ “Tăng Quan Lu- ận”, ắt sẽ nói rộng chức Tăng nhưng tìm bổn kia chưa được. <詞>TĂNG chính NHẬN BỔNG LỘC Tăng thiểu dục vân họp với từ bỏ vinh hoa, phép tắc của Phật chỉ khiến thay nhan giữ gìn. Nếu như không tôn trọng vua quan thì thật là khó, hoặc do có nhơn lành đời trước thầm nhận của người đàn việt tín tâm, đây lại là ý nghĩa của mỗi thời khác nhau. Cho nên ở chùa Na lan - đà có người học thông các bộ, ra vào cỡi ngựa thọ thực do quan cúng, phương đây ngày mà trong đạo được tôn trọng yêu thương thọ huỳnh kim. Từ Diêu Tần sai Tăng Khánh làm Tăng chính, địa vị đồng với Thị trung, đây là đầu tiên được nhận thức ăn và bổng lộc. Đến đời Ngụy Hiếu Văn về sau, mỗi năm thí cho nhơn đạo ưng thông lụa là Chiếu rằng: Ưng thông là bực đáng kính ngưỡng vì nối tiếp theo các bậc tiều triết, tiếp tục theo phép tắc của đạo môn. Trưng Trữ Huyên Phạm, Xung Du Thị Thác, nay đã dẻ danh ở đời đúng lý phải nên cung riêng, có thể lấy nghĩa Bát giải, mỗi năm cúng cho tám trăm xấp vải, chuẩn theo bốn bực mà cúng cho, tùy theo bốn mùa mà cung cấp, có thể y theo thứ lớp quan triều mà nên cúng mỗi tháng, đến như qua đời cũng phải trai Tăng, giới thiệu Tăng quan để được thời, đó là trong thời Hiếu Văn Đế vậy. Đại Tông đời Đường sai tính toán đồ trong kho mà cấp cho nội đạo tràng Tăng: Lại nữa Đường Từ Bộ chuản theo bực đạo só thông hai thiên thì cấp cho ba mươi mẫu rộng, Tăng thông kinh tạng y theo trêm mà cấp cho ruộng. Luận rằng: Tây Vức Ngài Ẩm Quang (Ca-Diếp) đắp y phấn tảo mà làm gương cho đồ chúng, Bắc Tề Ngài Thượng Thống mặc vải bố mà đến cửa quan. Nếu còn đạo tình thì kẻ phàm ngu không sợ, hoặc nhiều giàu sang thì người đố kî tìm cách mưa hại.Làm quan há lại không thể không được bổng lộc, nhưng chứa nhiều thì người ác ăn trộm ghen ghét, trái với thừa pháp giữ ngọc báu, lập ra nhiều cách để hại mình, lại làm tổn hại đến pháp môn. Khổng Tử nói: ban cho xa xỉ đâu bằng sống tiết kiệm, nên lấy đạo đức để mến phục người mới có thể được vậy. <詞>PHỤ NI Đời Dông Tấn, Hà Sung Thủy đổi nhà thành chùa, nuôi Ni chúng ở trong đó, đèu là bực thầnkỳ anh hung kiệt xuất làm cho đạo minh hiển nghĩa vậy. Cô Bảo Hiền đời Tống là Kinh Áp Ni Tăng chính, Văn Đế tứ sự cúng dường, Hiến Võ mỗi tháng cấp cho một vạn tiền. Ni chính nhận bổng lộc cô Bảo Hiền là người đầu tiên. <詞>QUẢN THÚC TĂNG NI Giáo pháp truyền sang thời Đông Hán, đến triều Ngụy người tín hướng đến chưa đạt được chỗ tốt đẹp, già lam còn ít, Tăng đã có số thị sự việc cũng nhiều, và khi lời nói trái lại với trước thì cần phải trình lên trên. Trình lên trên là ở chỗ nào, ở chùa Hồng Lô, cho nên biết Sa môn ban đầu lệ thuộc vào Hồng Lô. Đời Tây Tấn không nói đến. Đời Hạu Ngụy có nói rằng: Ban đầu lập già phước Tào để thống nhiếp đội ngũ Tăng đồ, tìm lại thì là chùa Chiêu Huyền cầm nắm giáo pháp nhà Phật, Thự đại Thống một người, thống một người, Đô Duy na ba người, sắp xếp một nhân viên Công Tào Chủ Bộ, để quản các Sa - môn ở các Châu, bộ, huyện về sau đổi lại thành Sùng Huyền Thự. Tăng Hựu đời Lương có nói giống như chùa Đồng Văn ngày nay. Nhơn ghi đời Tề, Lương từng lập chùa Đồng Văn làm chủ Tăng vụ, nhưng chưa thấy văn đó. Khi có việc gì đều kêu quan cho nên gọi là Chiêu Huyền Đại Thống. Đến đầu đời Đường thì không có tên gọi này, Tăng Ni đều lệ thuộc vào Ti Tân. Xét Hội Sái (Yếu) có chép rằng: Ngày rằm tháng giêng năm đầu niên hiệu Diên Tái vua TắcThiên sắc Tăng Ni khắp nơi lệ thuộc vào từ bộ, không cần phải thuộc vào Ti Tân, biết rằng trước Thiên Hậu thuộc Ti Tân, đây chính là đầu tiên lệ thuộc vào Từ Bộ này, nghĩa là lấy việc thiện bỏ điều ác làm phước trừ tai nạn. Năm thứ mười bốn niên hiệu Khai Nguyên vua Huyền Tông, Trung Thơ môn hạ tau Tăng Ni bỏ thuộc chùa Hồng Lô, từ tháng giêng năm thứ mười lăm, sắc Tăng Ni khiến Từ bộ kiểm soát, Đạo só nữ quan hệ thuộc vào chưa Tônh chính, bởi do Lý Tông đã nhập Hoàng tịch vậy. Tháng hai năm thứ hai niên hiệu Nguyên Hòa chiếu Tăng Noi Đạo só hoàn toàn lệ thuộc vào Tả Hữu Nhai Công đức sử, từ đó Ty phong Từ bộ không trở lại cửa quant au nữa. Hộ Sái (Yếu) có chép rằng: Năm mười bốn niên hiệu Đại Lịch sắc nội ngoại công đức sứ nên bãi bỏ. Nếu như vậy thì triều Đại Tông sớm đã lập công đức sứ, nhưng nội ngoại chỉ khác tên với Tả Hữu Nhai mà thôi. Trong niên hiệu Nguyên Hòa gọp Ty phong Từ bộ mà đặt tên là Tả Hữu Nhai công đức sứ. Thổ Đột Thừa Thôi Lũy lập quân có công cho nên trao cho tên đây, Tăng Đạo thuộc ở đâu. Trong niên hiệu Bảo Lịch hộ quân Trung Úy Lưu Quy cũng đảm nhận chức sư đây. Đến năm thứ năm niên hiệu Hội Xương bãi bỏ chùa tượng Phật, sắc Tăng Ni không nên lệ thuộc Từ bộ, họp thuộc chủ khách làm chỗ nương khiến Hồng Lô Tự thâu về quản lý, nên chia chẻ người tâu đến, Tăng Ni khắp nơi từ khi có Quốc triều đén nay đều lệ thuộc chùa Hồng Lô, đến năm thứ ba niên hiệu Thiên Bảo thì lệ thuộc vào Từ bộ (Khác với thời Diêu Tái). Các thần căn cứ Lục Điển của Đại Đường, Tư bộ giữ cúng tế tông miếu thiên địa cùng với việc Tăng không khác mấy. Lại nữa khả vụ căn bổn họp quy về Thượng thơ tỉnh lộ thuộc Hồng lô tự chưa thoả đáng. Lại Lục Điểu giữ đồ triều cống hơn bảy mươi nước, nước Ngũ Thiên Lệ ở trong số đó. Đạo Phật xuất phát từ Thiên Lệ , nay Bệ hạ cho Đạo Phật chẳng phải là số của Trung Quốc. Đã có sư chỉnh lý thay đổi danh tịch Tăng Ni, liền khiến cho lệ thuộc vào chủ khách không lệ thuộc vào Từ Bộ và Hồng lô tự. Từ tháng năm năm thứ sáu chế Tăng Ni y theo trước, khiến Lưỡng Nhai Công đức sứ thâu về cai quản, không nên lệ thuộc vào Chủ khách, những Tăng độ được vẫn khiến từ bộ cấp chứng điệp. Vua Tuyên Tông xiễn dương Đạo Phật Tăng Ni được độ lại thuộc Tả Hữu Nhai Công đức sứ, cho nên ông Dương khâm nghĩa đảm nhận Tả Nhai công đức sứ, tuyên tông sai bắt đạo só Triệu qui chơn. Triều Chiêu Tông, Tể quan Thôi Mổ tâu giết hoạn quan các ty, sứ tất cả bãi bỏ đều quy về chùa tỉnh. Công đức sứ tể Chấp Đới chi, nhà Lương thay đổi nhà Đường lên, đạo só không vào tông chính, Tăng Ni trở lại thuộc Từ bộ. Cuối đời Lương năm đầu niên hiệu Long Đức cấm các nơi riêng độ Tăng Ni, người nào có nguyện xuất gia bắt buộc phải vào kinh thi, sau Từ bộ mới dâng sớ lên xin. Đời Hậu Đường không nghe có việc đây. Đời Tấn lập Dương Quang Viễn làm Thiên hạ công đức sứ, sau khi Duy Thanh không theo phép tắc, không lập công đức sứ đây. Đến Đại Tông nay Tăng Ni đạo só đều thuộc Công đức sứ, người xin xuất gia thì cho độ, đôn đốc thi kinh kệ thì Công đức quan Từ bộ mới cho chứng điệp, hệ thuộc vào Nhi Tào. Luận viết rằng: Hồng lộ tự là nơi thiết đãi những người khách ở nơi xa tới. Khi giáo pháp mới đến cần phải nhờ vào chùa này, tuy phát khởi chùa Bạch Mã nhưng cuối cùng thuộc vào ty đây. Xưa nói rằng Tăng Ni lệ thuộc vào Hồng lô tự là đó vậy. Và ai đã từng ném nước tương mà khen ngon, mang giày da mà hơi đẹp thì tứ hải đều là một nhà, dù nhà vua cũng không ngoại lệ. Cho nên đời hậu Ngụy bố trí Lam Phước Tào, Chiêu Huyền Tự, Sùng Huyên Thự. Thiết lập quan bố cúc để thống nhiếp Tăng Ni, ăn tương rau mà sống ở nước ta, mang giày da mà nhận trang phục người Hoa cho nên triều Đường bắt buộc quy về Từ bộ. Đã nhơn nơi sự chỉnh lý thay đổi tùy theo sự thạnh suy của triều đại, lập công đức sứ để bao gồm hết. Thời Trung Tông lập Sa môn Quách Thanh làm Tu Công đức sứ, quan đến điện trung lam nói ra sự đột khá của quân, sự dung chứa của quân công không có gì thưởng, triều đình bàn bạc dung chức Công đức sứ để ban cho cho là sự vinh hạnh, chẳng phải chuyên chỉ cho Tăng và đạo só vậy. Lúc bấy giờ Thượng thơ tỉnh ty, phong tuyên thuộc trong đó, do đó không ra quân. Đến cuối đời Đường Hành Viên Chiêu bị giết, chức trở về Tể chấp, hoàng triều phục hưng lại chức đây, cũng là sự may mắn cho Tăng Ni và đạo só. <詞>TỪ BỘ ĐIỆP PHU (Ngôi Vị lớp Tăng Ni và Đạo Só) Từng nghe Tăng được coi như là quan ngũ phẩm nhưng chưa thấy sự mệnh lệnh và cách thức vả lại chỉ nghe là tương truyền (Lại từng thấy Tăng ngũ phảm, chớ chẳng phải quan ngũ phẩm) Căn cứ vị Tăng tụng kinh đạt tiêu chuẩn, thì vị thông thì vị Tăng Ni được tuyển chọn, cạo tóc mặc Ca sa, vị đây thuộc người tu trong Đạo Phật. sắc, thọ, hình đều là “về tác giới pháp” đây là ngôi vị quan. Người giảng giáo pháp Tam tạng và đảm nhận sự sứ giả của Như Lai, giáo hóa dẫn dắt chúng tại gia và xuất gia, khiến ch họ bỏ ác hướng thiện quan tâm đến dân. Vì quốc hành đạo bảo hộ dân không có tai nạn, đây là bài học tốt nhất. Nếu không so sánh với giai phẩm của vị quan thì xem vị Tăng kia chức bằng với chức quan, vị kia đáng được biểu dương là quân tử pháp môn đời sau, vua xin giáng chỉ sắc rõ cho phép so sánh quan nào đó, phẩm vị nào đó là đầu mối của việc tốt trong thời tượng pháp, mạc pháp, tự sức của ta không phải là tốt sao. Nếu ông muốn tra cứu về quê quán, thì Nam truyền có (thấy trong cao Tăng truyền) chỉ vì tra khám tán dương liền có danh tịch, quan hệ có hạn cuộc, ắt có nguyên do căn cứ, nguyên do căn cứ tức là bộ điệp. Xét tục hội yếu tháng năm năm thứ sau niên hiệu Thiên Bảo chế Tăng Ni theo sự thao quản của Lưỡng Nhai Công đức sứ trước mà không cần lệ thuộc vào Chủ, khách, Tăng Ni độ được vẫn để từ bộ cấp chứng điệp (Điệp Từ bộ nhà Đường đều là lụa trắng, gấm trắng, tiền có trục, lọng, chẳng phải quan cho là cái gì) cấp điệp bắt đầu từ triều Huyền Tông. Và trong niên hiệu kiến Trung Công triều Đức Tông sắc cho Tăng Ni khắp nơi người nào chết hay hoàn tục, ngày đó phải ngưỡng tam cương, trình chứng điệp ở huyện mình, mỗi tháng phải trình châu, phủ, triều, gồm lại khiến trình thỉnh và có truình cho người đưa tiễn. Chú ý thích nếu huỷ ở kinh thành phải trình cho Từ bộ nạp cáo điệp (Cáo thân tức là giới điệp) Lớp, vị thứ Tăng Ni và đạo só: Phật pháp thông hành trải qua các thời đại chưa hoàn toàn thành cái đảnh vững chắc, sắp xép mà chớ bàn luận, và khi động vua thì vào cung sẽ gặp ghen ghét, lại thêm vào đó khi Tăng thừa chói rọi pháp nhơn nơi sự mà xa lìa, bằng chống đối khán cự với Huyền môn, nhơn đó mà có sự tranh cải cho nên bằng kết đản phải, do kết đản phái mà sanh ra ưa ghét. Trong kinh không cho gần gũi Quốc Vương, đại thần vương tử.v.v… Lại nói rằng: pháp của ta là phó chúc cho Vương thần là sao vậy, nếu chỉ chưa vào sức mình không gần gũi mà có thể được ư? Nếu gây ra tai ương mà muốn thân được vinh hiển, người kia khỏi được ư? Xem cuối các thời đại đó cấu nặng tình dời đổi, chỉ lo thân mình mà thôi, ít nghe vì pháp mà gần gũi Quốc Vương, đại thần. người thoát tục ở chốn Lan Nhã, không màng đến triều chính, ai lại gượng mà hỏi ư? Ai lại chia ra đặt để thì làm sao có phân lớp ngôi vị? Song chỉ nghó đến việc thì ngăn được nhiều mối, thì Vương hầu làm sao biết đến được, người có sức mạnh làm thế nào có thể giúp đỡ cho nên cần phải chia ra làm ngôi vị mà thực hành lẫn nhau, bỏ lấy hai tình đều ý. Ngày xưa giáo pháp truyền sang đời Đông Hán, Ngụy thì còn mờ mịt, từ thời Tần, Tông đều nay nghe giáo pháp rất được hưng thịnh. Nếu đạo Lão nhiệm màu, thì Tông phong của đạo Lão thời Hán, Ngụy chỉ là sự còn mất mà thôi. Sao mà biết? Như Mã Thiên làm sử, đem Lão tử với Hàn Phi truyền chung có thể là đời Hán chưa tôn sung. Phàm lập truyện Đông Khoa mượn sự hứng thú ngoài tướng bằng nhau thì sử quan từng mà ngẫu xuất. Như vậy biết được đạo Bá Dương trước đời Hán chưa được vinh hiển mấy, đến đời Đông Hán hoàng đế dời vào trong cung cúng tế cầu phước. Năm thứ ba Hoàng Sơ nhà Ngụy hạ sắc chỉ rằng, báo cho thứ sử Dự châu lão Đam Hiền nhơn chưa chắc là trước Khổng Tử, không biết lão Quận lập miếu cho Khổng Tử xong chưa. Hoàng đế đời Hán không có thấy thánh tháp, do đó vì sủng ái thần dân mà thờ lão Tử muốn để cầu phước. Thật đáng buồn cười. Vậy sự cúng tế này hưng khởi bắt đầu từ Hoàng đế. Võ Hoàng đế cho Lão Tử Hiền nhơn không hủy đạo đây, Trẫm cũng dùng đây đặt ngay ngắn bên đường, người đi qua lại nhất định sẽ đến chiêm ngưỡng mà trong lầu ốc thảng như trong khoảnh khắc chật cả người cho nên khiến tu chỉnh lại, buổi tốt đi qua nhìn rất chỉnh đốn. Sợ hàng tiểu nhân cho đây là thần vọng đến cúng tế cầu khẩn mà phạm thường cấm, cho nên tuyên cáo quân dân đều hay biết, do đó mà phải quan sát. Giữa đời Hán, Ngụy chưa xuất hiện người nỗi bậc, đến đời Đường có xuất hiện Dương giác, đạo đó có chỗ hưng thạnh nhận làm tổ tông, sách là hiệu vua, vua đây gọi là hùng thì ai không hung. Nếu sử Mã Thiên vào đời Đường, ắt sẽ đổi lại niên kỷ của vua. Do Trọng Ni Đồng Truyền cũng gọi là Hồng Mao Bất Địch Quân Thạch, há Hàn Phi vọng tham gia trà trộm bậy bạ? Người Hán, Ngụy xem sử Mã Thiên há không có kinh sợ ư? Người kinh sợ là không có luân lý, tình cận thế. Song vật tùy theo đảng mà có khác, sự dời đổi theo thời. Người có ba việc cung kính cũng không khởi lúc xưa có sai lầm, người có muôn nước há lại không có ý mới? Nhà Chu; Lương cải cách sửa cung Thái Thanh ở Bậc Châu làm miếu Lão tử. Bởi do đời vua không nhất định, ưa ghét khácnhau, đạo Phật tuy từ Tây độ đến Tấn, tong, Tề, Lương, Trần, hậu Ngụy, Bắc Tề, hậu Châu; đại tùy Tăng đều ở trên Hoàng Quan. Lương Võ bỏ đạoLão không nói đến huyền môn, đệ tử Hoàng (huỳnh) Quan vốn khó mà tranh với trưởng lão. Năm mười hai niên hiệu Trinh Quán xa giá đến Lạc Dương, đạo só trước đó có người bàn luận với Tăng, nghe được việc đó vua Thái Tông chiếu rằng: Nay đảnh vàng khắc phục hưng thịnh, đã nượng sự chúc mừng của bực thượng đức, thiên hạ đại định cũng nhờ vào công vô vi, nên xiễn dương rộng huyền hóa này, từ nay về sau trái cúng đều lập thực hành, đến như xưng gọi, đạo só nữ quan đều có thể ở trước Tăng Ni. Những người chân thành phản bổn, thông suốt cữu hữu, để lại vạn kinh. Lúc bất giờ bậc trí thành thật ở các kinh ấp dâng sớ trình bày can gián nhưng vua không nghe, từ nay chư Tăng đứng ở dưới. Đến năm hứ mười lăm, vua đến chùa Hoằng phước, ban cho năm vị đại đức rằng: Trẫm để Tông Lý ở trước, các vị đại đức lẽ ra rất hạn, do vì để Tông ở trước Trẫm thấy công đức tu hành chưa từng riêng tạo đạo quán, đều tôn sung chốn chùa chiền. Vua nói ra lời an ủi như vậy làm cho lòng chư Tăng vui mừng. Và đến triều Cao Tông có vị Trực Đông Đài Xá nhơn nương thần đức dâng sớ xin vẫn để cho Tăng Ni ở trước đạo sỹ như trước, và giống như trước không bái cha mẹ, bỏ bớt những phiền phức không chép, Tăng đứng trước đạo sỹ nữ quan. Tháng hai năm đầu niên hiệu Cảnh Vân vua Duệ Tông chiếu rằng do kinh điển đạo Phật, lý Huyền Tông để lại dấu tích có sai khác nhưng công thì bằng nhau, từ nay về sau mỗi khi có duyên về pháp sự nhóm họp, Tăng Ni đạo só nữ quan nên đều tập hop hai bên (đây không phân trước sau đều đi hai bên). Luật viết rằng: Phật pháp khinh khi giáo pháp của ta, nếu việc cỏn con như vậy mà đã từng lên chính điện lượng thuật ba giáo. Đạo nho ở trước, đạo Phật ở sau, đạo Lão trên cùng do đó mà xuất hiện trước của vô danh. Gần đây có Thẩm Công làm bài Ngao thơ có câu rằng: Chỉ nghe nói đến hai đạo, không nghe nhắc đến đạo Phật đây là gieo giống A Tỳ địa ngục mà lời thánh nhơn răn dạy. Cho nên khi Thác Bạt Hố vào chốn u minh, thấy Châu Võ chịu tội và gởi lời về nói Tùy Thiên Tử cứu khổ cho ông ta. Văn đế bằn quyên góp thiên hạ xuất tiền làm phước cứu giúp cho ông ta. Vả như Phật vô ngã, gặp những tượng bị hư hại mà không có tâm tu sửa, bởi do muốn tàn hại kia, thì ắt trước sẽ thiêu đốt nơi tâm, tâm là nhơn của khổ thì tâm sẽ gặp quả báo, tự làm tự chịu có thể không sợ ư? Xưa Khanh Hiếu Tự làm bài :Thất Lục Trung” cho Phật giáo và ngoại thiên, một là giới luật; hai là thiền định; ba là trí tuệ; bốn là nghi tợ; năm là luận lý, nhơn đó gọi là lý Phật là sách từ ngoài đến (phương ngoại), nên gọi là phương ngoại giáo từ Hiếu Tự là đầu tiện. Điều gọi là phương ngoại là đồng với Trang Lão vậy. Giáo pháp trong thành mà bị trói buột cũng không bì kịp, xim dung mắt trí quán chiếu sự sâu cạn kia thì trong, ngoài; trên, dưới tự có sai khác vậy. Nếu không có huệ nhãn đem ngọc và đá đi đốt, có thơm có thối cùng đựng chung vào một giỏ, biết lại làm gì? Nhớ lại nhà Châu phá diệt, nhà Tùy phục hưng, mới gọi là lẫy lừng, tìm lại vi diệu kia. Đời Đường đôn đạo Lão đạo Phật thì bị trì trệ, hoặc ép bái quân thân, hoặc phân ban trên dưới, bởi do pháp hữu vi làm sao tránh khỏi bốn tướng dời đổi Thí như lửa đốt, trong lửa lan bèn lui, hưng lâu thì ắt có ngày suy tàn, suy tàn đến cùng tột thì lại hưng khởi, thạnh suy tìm nhau chưa hẳn là có cùng tột. Trong Cảnh Vân có chép, khiến cho Tăng ở phía Tây, đạo sỹ ở phía Đông, đứng bằng hàng mà đi tới. Đời Chu, Lương lại đổi vị trí. Nay Đại Tống mỗi khi nhóm triều thì Tăng trước đạo sỹ sau đều đứng sân điện. Tăng Đông, đạo sỹ Tây ở giữa xen chức phó, nếu gặp lúc ở ngoại ô thì Đạo sỹ hữu Tăng tả, chưa biết được thỉ khởi vậy. <詞>NỘI ĐẠO TRÀNG Nội đạo tràng khởi xướng từ đời Hậu Ngụy, mà được tên vào thời Tùy. Dương đế do Ngã là xưa sửa đổi nhiều việc, đổi chùa thành đạo tràng, đổi đạo quán thành phương đàn. Nếu bên trong hành việc Tăng thì gọi đó là đạo tràng. Triều ngày nay có điện Tư Phước.v.v… để tượng Phật kinh tạng, lập chuông sát thinh gọi là nội tự. Năm thứ hai niên hiệu Thỉ Quang Đại võ Hoàng Đế lập Chí Thần đạo tràng. Năm thứ tư niên hiệu Thần Gia sắc các Châu, thị trấn đều lập đạo tràng bởi vì vua sanh ngày này (tìm văn ngày sinh nhật đó tạm dựng pháp hội). Sau tháng giêng năm đầu niên hiệu Thiên Nguyên Đại Thành chiếu rằng: Tạo lập Huyền phong, tôn trọng Tam Bảo, nên phải tu hành xiễn dương giáo hóa pháp, giáo lý cao xa đáng quay về tôn sung, những vị Cao Tăng đức hạnh trong các Sa - môn kỳ vựu có bảy người, ở phía Tây điện chính võ sắp xếp tu hành. Đây là lúc đầu tiên có nội đạo tràng. thời Nam triều hoặc để Ni ở bên trong trì tụng. Lại nữa trong điện thọ Quang Chư Tăng nhóm họp bàn pháp sự, hoặc tập họp các học sỹ, hoặc giảng dạy, hoặc chú giải kinh điển, hoặc giảng giải thiền yếu, đều ở trong cung cấm và nội đạo tràng. Đời Đường Võ Tắc Thiên ra lệnh cho các vị đại đức Tăng pháp, Huệ Nghiểm. Hạnh Cảm, Tuyên chính. v.v… ở trong đạo tràng tụng niệm (Còn một câu) Vua Tắc Thiên ở đại nội ở Lạc Kinh sắp xếp làm nội đạo tràng, vua Trung Tông và Duệ Tông vẫn theo chế đây không thay đổi. Vua Đại Tông ban đầu thích cúng tế chưa trọng đạo Phật, mà các quan thần tể tướng Nguyên Tái, Đỗ Hồng Tiệm, Vương Tấn v.v… đều quy hướng Phật Tăng (Vương Tấn xây chùa Bảo Ứng). Vua Đại Tông từng hỏi việc phước nghiệp báo ứng, ông Nguyên Tái nhơn đó mà trình tâu do đó mà vua rất tin, thường sai hơn trăm vị Tăng ở trong cung thiết lập tượng Phật kinh điển mà tụng niệm, gọi đó là đạo tràng, cúng dường cho Tăng đồ rất quý, ra vào cho cởi ngựa, tính đồ trong kho mà cấp cho. Mỗi khi Tây phiên vào xâm lược đều sai chúng Tăng giảng tụng kinh nhơn Vương đế mong bài trừ sự xâm lược của ngoại tộc, may mắn giặc kia thối lui thì vua sẽ ban thưởng cho. Ngài Bất Không Tam Tạng làm quan đến chức Khanh lam được phong làm Quốc công, ở trong cung cấm thông hết các kinh sách. Lại chiếu cho các quan trong thiên hạ không được đánh đập Tăng Ni. Lại ngày rằm tháng bảy ở trong đạo tràng làm lễ Vu Lan bồn, dung vàng ngọc trang sức, xây bảy tòa thần miếu Cao tổ, mỗi tòa viết thần hiệu để biết mà nghinh tiếp, ra vào trình bày nơi tự quán, dẫn đạo phồn thịnh, mỗi năm lấy việc này làm thường. Đến trong niên hiệu Kiến Trung vua Đức Tông sắc từ Quảng Đức Vónh Thái đến nay, nhóm Tăng ở cung cấm lập đạo tràng đều khiến cho thông suốt. Trong Di Xuất Tăng chúng có nói rằng triều Thuận Tông làm nghi pháp trong nội điện Đoan Bổ Chưởng, cũng là làm việc đây. Vua Huệ Tông, Mục Tông, Văn Tông đều làm pháp sự trong nội điện Đoạn Bổ Chưởng. Ngày hai mươi sáu tháng tư thứ chin niên hiệu Đại Hòa vua Văn Tống sắc dung nội Trường sanh điện đạo tràng. Vua Võ Tông năm đầu lấy tiết sanh nhật Đức Lương lại lập Nội Trường sanh điện đạo tràng và thiết lập nội trai, Tăng và Đạo sỹ đều được mừng thọ. Về sau cùng với đạo sỹ Triêu Qui Chơn hoặc loạn, giận dữ tìm lỗi của Tăng, đến năm thứ tư Hội Xướng, chiếu chỉ dừng nội trai và nội đạo tràng, ác ý nhăn nhúm từ đây. <詞>PHỤ SANH NHỰT ĐẠO TRÀNG Sanh nhựt là tên gọi của tiết lễ, bắt đầu từ vua đời Đường Huyền Tông. Ngụy Thái Võ Đế lập đạo tràng năm thứ hai niên hiệu Thỉ Quang. Đến năm thứ tư niên hiệu Thần gia sắc các Châu, trấn đều phải lập đạo tràng mừng ngày sanh của vua. Niên hiệu Thỉ Quang là đầu tiên vua tôn sùng phước. Trong niên hiệu Thần gia là đầu tiên các quan thần chúc thọ vua, từ đó về sau các quan chọn ngày tốt chúc mừng sắm sửa trai Tăng đọc kinh, gọi là sinh thần tiết đạo tràng, đến nay rất thịnh hành. <詞>TĂNG TỊCH CÓ LƠI CÓ CĂNG Người đắc quả dầu phải là liều thuốc bổ vô hạn, kẻ xuất gia há có do giữ cho tồn tại. Đã là triều văn vật, cần phải lập giềng mối, người thấy sự ưu nhàn mà tranh nhau vào, sợ lao dịch mà chạy trốn, thì ông mạo danh, thật chẳng phải là bực cao sỹ, luật của Tăng há có thể điều phục được những người buông lung, ương ngạnh, cho nên lập Tăng cuộc để cai quản, lập danh bạ để lập kỷ luật. Đời nhà Chu, Tùy không biết được, đến nhà Đường chủ trương mới nghe lệ thuộc. Tháng giêng năm thứ tư niên hiệu Đại Hòa vua Văn Tông, quan Từ Bộ mới hết. Tăng Ni các nơi chỉ mạo danh mà không phải được độ chân chính, trình với tỉnh, mỗi người được cấp chứng điệp của tỉnh, nương theo đó mà vào sổ bộ tính ra có bảy mươi vạn ( 7 0 0 0. 000). Như vậy ghi chép vào sổ bộ bắt đầu từ năm thứ hai niên hiệu Đại Hòa. Nếu như vậy thì trước đó không có ghi vào sổ ư? Xét Phước Tào Chiêu Huyền Tự tôn sùng Huyền thụ, làm sao thống lãnh sứ đoán việc của Tăng đoàn. Đáp rằng: Xét về việc lập sổ bộ Tăng thể độ không giống, hoặc xét theo từng chùa mà biết chung, hoặc tùy theo Châu mà ghi chép riêng, hoặc ghi riêng chuyển sổ, hoặc ghi văn bản sửa đổi thêm vô cho nên không giống nhau. Song khi làm việc gặp thời vua tốt vua xấu, bèn ghi chép vào sổ mà bỏ từng tờ. Ngày nay Đại Tống dùng sự xoay tròn mà hiển đức cho có hệ thống, ba năm làm một lần, để vào trong luật khiến cho biết. <卷>QUYỂN HẠ 4 1- Đản thìn bàn luận 4 2- Ban tử y cho Tăng 43- Ban hiệu cho sư 4 4- Nội cung phụng và dẫn giá 4 5- Phong trao quan phô 4 6- Giới đàn Phương đẳng 4 7- Kiết xả pháp tập Ban hạ lạp Xưng gọi với vua 5 0- Đến đàn pháp vị 51- Quy lợi độ Tăng 5 2- Ban thuî hiệu Bồ tát Tăng Đắc đạo chứng quả (Ni phụ) 5 5- Đại thái mạt ni Giá đầu giường Thành Xà Thiên Vương Phóng đăng thượng nguyên (rằm tháng riêng) 5 9- Tổng Luận. ------------------------------------ <詞>ĐẢN THÌN BÀN LUẬN Xưa Hán Tổ sanh chung ngày với Lư Oản, có dâng rượu ngon cho nhau, đây là tạm khởi mừng sanh. Sau thì bó lụa rượu ác, đứa trẻ ăn chơi để thêm chúc mừng. Lớn thì ngọc lụa ý sanh trưởng lâu thấy, thuộc bao nhiêu đồ vật, dùng làm giàu lễ mừng sanh và nghe trọng Phật pháp có thuyết dừng tai ương kéo dài mạng sống thì lấy Phật sự làm mừng. Đời Nguyên Nguî, Hậu Chu, nhà Tuỳ phần nhiều gọi các Tăng nổi tiếng rộng học cùng nho đạo luận đối vui xem vương đạo cũng là việc đẹp mừng sanh nhật. Đường Cao Tôn gọi là Giá Công Sản ở trước ngai cùng đạo só, Sa môn giảng nói nghĩa kinh. Đức Tôn ngày đản sanh ngự điện Lân Đức, lịnh Hứa Mãnh Dung… thăng toà cùng tín đồ Thích lão giảng luận. Ngày sinh nhật tháng tư hiệu Trinh Quán năm thứ mười hai, ngự ở điện Lân Đức gọi cấp sự trung đồ Đại Binh bộ lang trung Triệu Nhu và Hứa Mãnh Dung vó Cự Mâu cùng đạo só Cát Tham Thành, Sa môn Đàm đàm Diên… hai mươi người giảng kinh Tam Giáo, Cừ Mâu rất biện cấp. Sinh nhật Văn Tôn vào tháng chín, vua gọi Bạch Cư Dị cùng Tăng Duy Trừng, đạo só Triệu Thường Doanh ở điện Lân Đức bàn luận, Cư Dị luận khó bén, lời biện như suối, vua nghi túc cấu rất than thở đó. Đời Trang Tông có Tăng Lục Huệ Giang cùng đao môn Trình Tử Tiêu bàn luận, xen nhau thiết tha bàn bạc đùa ghẹo để vui lòng vua. Trang Tông tự ưa ngâm xướng, tuy làm trong doanh quân, cũng dắt Pháp sư bàn lu- ận, hoặc khi ngự triều thường lập bày trai Tăng thì trong điện bàn nghĩa minh tôn. Thời Thạch Tấn, Tăng Lục Vân biện nhiều bàn luận ngày sinh nhật, Hoàng Đế chính thân ngồi xem bàn luận. Đến triều Thái Tổ đại Tống thiên hạ nhiều việc bèn bỏ việc đây, chỉ trọng Tăng giảng, ba học là hơn, đây không chính Thái hậu trọng mà trinh thật ư? <詞>NỘI TRAI PHỤ Ngày đản sanh Hoàng đế, chiếu soạn Cao Tăng Truyện, vào nội điện ban ăn uống và gấm vóc, tìm văn khởi ở khoảng Hậu Nguî, phần nhiều kéo dài thượng đạt để kích cầu phước thọ. Nhà Đường từ Đại Tôn, đặt trong đạo tràng, mỗi năm giáng thánh tiết xuống chiếu gọi Danh Tăng vào cúng trai tăng gọi là nội trai. Đến Văn Tôn hiệu Đại Hoà năm thứ bảy vào tháng mười sửa khánh thành tiết ra lệnh ngừng việc tăng đạo nội trai, đến năm đầu Võ Tông lại đặt nội đạo tràng và lập nội trai, tăng đạo chúc thọ. Hội Xương năm thứ tư vào tháng sáu dừng nội trai và nội trường sanh đạo tràng. Tuyên Tôn lên ngôi, ngày hai mươi hai tháng sáu năm đầu ra lệnh lại đặt nội trai, cho Tăng đạo chúc thọ. Nhà Lương cổ hiệu Khai Bình năm thứ ba, ngày tiết Đại Minh vua ngự điện văn minh lập trai tăng, Tể Quan, Hân Lâm học só dự đó. Hoàng Đế Đại Tống của ta ở lễ sinh nhật, hai bên có Tăng Lục, Đạo Lục thủ toà và Công Hiến hai bên chia Tăng ban tử y và hiệu, rõ lại đồng ban trai. Lại nghe sinh nhật của vua Tấn, Hán, Chu lập cả trăm Tăng, sau lượng diệt chỉ còn vài người mà thôi. <詞>BAN TỬ Y CHO TĂNG Xưa quý tên và món đồ, cho người y phục, tột cùng là màu đỏ, xanh và vàng là hàng thứ kế, cho nên nói là gia tử thọ, hẳn được kim chương. Nay Tăng chỉ nhận tử kia mà không lấy vàng. (Phương bào (áo vuông) chẳng phải dâydaij). Tìm ở các sử, áo Tăng màu đỏ vàng đen xanh… không nghe chu tử (châu đỏ). Xét sách nhà Đường thì thiên triều có Tăng Pháp Lãng… trùng dịch kinh đại Vân, bày phù hợp lời mạng thì trời là Di Lạc hạ sanh làm vua Diêm Phù Đề. Đời Đường hợp vi, cho nên do đó Cách Phách xưng Chu (Kinh Tân Đại Vân nói: “Rốt sau sanh cung Di Lặc” không nói thì trời là Di Lặc, Pháp Lãng Phách Hoài nghĩa chín người đều phong quan huyện, ban cho vật có sai khác, đều cho ca sa tía, đai rũa bạc. Kinh Đại Vân kia tụng ở chùa Thiên Hạ, đều cất một bản, khiến lên toà giảng nói, ban cho tử y bắt đầu từ đây. Quán Tân Đường thơ nói: Đại Vân là kinh nguî là sai. Kinh đây triều Tấn đã dịch bổn xưa lại nói rằng Nữ Vương. Lúc này đâu có Thiên Hậu ư? Bởi vì dịch lại, có Hậu Vượt Gia dùng Hiệp Phách Hoài nghĩa ở giữa kia gây ra cơ hiềm, thì sau vua trong tôngtriều lấy công Hồ Tăng chùa Huệ Phạm Tu phong quan huyện, không hành tử y. Thời Duệ Tôn cũng không có. Huyền Tông Hữu Ái vừa đến, do Ninh Vương bệnh sai Trung Sử dâng thuốc, tìm chạy mấy hôm chỉ có Tăng dâng hiệu thuốc, vua vui lòng ban cho phi bào đại ngư (áo đỏ túi cá) (ban áo đỏ túi cá chỉ cho một người). Lại trong tháng chín năm hai mươi hiệu Khai Nguyên, Vua ba tư sai đại đức Tăng và liệt chí đường (và Liệt Tăng Danh) sắc lệnh ban cho ca sa tía một bức lụa năm mươi thất cho trở về bổn quốc. Thời Thiên Bảo Mạt, Sa môn Đạo Bình ở chùa huyện Kim Thành gặp giặc núi nghịch loạn, Huyền Tông ở Tân Thục, Túc Tông qua chùa Đạo Bình khẩn thiết khuyên bàn binh linh võ thâu lại được Trường An, Túc Tông đem binh giao cho, phong là Tả Kim Ngô đại Tướng Quân, đến khi gặp giặc đại chiến luî về công vị, sau trở lại xin làm Tăng, vua ra lệnh phối hợp hai chùa Sùng Phước và Hưng Khánh, ban tử y vào cung nội tấu đối làm thường. trong năm Đại Tong Vónh Tần, Tăng chùa Chương Kỉnh là Sùng Huệ cùng đạo só đọ tài thuật, trong khi báo hơn quan Củng Đình Ngọc tuyên ban tử y một bức (các túi cá). Kế, Phạm Tăng Kỷ Đà ở chùa Trấn Quốc sáu trăm tuổi, lúc gần chết sai đệ tử dâng y bát lên Hoàng Đế, vua ban tử y. Đức Tông quy tâm nơi đạo Phật, gọi Pháp sư Đoan Phổ vào nội điện cùng Nho đạo bàn nghĩa ban áo vuông đỏ, Võ Tông đều làm ban tử y đây (tìm tên Tăng chưa thấy). đông Quán Tấn Ký nói: “Đại Trung Trung chùa Đại An Quốc Thích Tu Hội hay thơ thường nên chế, mơi suy nghó thanh bạt, một ngày tâu vua xin tử y, vua bảo: “Không ở nơi ông ư? Xem như tướng có thiếu vậy, cho nên chư cho”. Và ban cho về chùa, sau bạo bệnh mà chết. Đại Trung năm thứ tư ngày hai mươi hai tháng sau là lễ sinh nhật, nội điện thiền Đại Đức và ban tử y, sai chủ Phước Viện là Tông Chỉ cũng ban tử y. Kế có Sa Châu Tuần Lễ Tăng Ngộ Chơn đến kinh và Đại đức Huyền Sướng Cú ngay tạng kinh đầu ban tử y. Lại chùa Pháp Càn nghiệm Tăng đồ theo lịnh ban tử y. Vua đến chùa Trang Nghiêm lễ răng Phật, Linh Huệ Luật sư được ban tử y. Chùa Sùng Phước Dueej Xuyên được ban tử y. ý Tông giảm bốn năm, có Tăng Pháp Tín ở Tây Lương dâng Bách Pháp Luận Sớ Sao, khám thật ban tử y. Lễ sinh nhật ngày mười bốn tháng mười một năm thứ mười một, hai bên Tăng, Đạo đến trong, ở điện Lân Đức giảnh luận đáng tín nhiệm ban tử y. Lại Tăng nước Nhật Bản Viện Tải ở chùa Tây Minh từ tạ về bổn quốc, ban cho tử y rồi sai trở về. Lễ diên khánh năm thứ mười hai vào điện giảng bàn, tả vệ Thanh Vận, Tư Lễ, Vân Khanh… năm người, hữu vệ Huyễn Chương, Huệ Huy Thanh Viễn… bốn người đều ban tử y (tìm vệ phân đều ban tử y, tự giảm thông ban đầu). Hỷ Tông, Chiêu Tông ban các đạo chỗ dâng tử y Tăng rất nhiều không chép được. Lương Tổ vào tháng mười một năm đầu hiệu Càn Hoá, có người Hồi Hột vào triều là Tăng Nghó Lư, Nghi Lý tư Nghi Diên Tiễn… đều ban tử y trở về nước. Lại đàm Châu có Tăng Pháp Tư, Khuê Châu có Tăng Quy Chơn diện kiến xin ban tử y, Trang Tông vui mừng ban cho Tăng tử y, đời Tấn Hán, Chu đều vậy. Nay đại Tống chỉ ban vào lễ sinh nhật. Kia hoặc trong đạo tràng Tăng đã đắp tử y,lại ban tử y duy nương ba việc gọi đó là trùng tứ. Như các nước xa xôi ban cho cũng đồng. Thời Nguî Thục, nước Vân Nam sai nội cúng dâng chủ chùa Sùng Thánh ban cho tử y và bát vàng, Tăng sung thông sử tốt. Sau Loan Só có vua ban cho bát vàng, giống như Trung Quốc ban cá bạc. Nước Oa thì ban cho Tăng hiuệ Truyền Đăng Pháp Sư, ở Cao Ly ban Tăng tử y thì lấy vàng bạc đính trên vải để phân biệt cao thấp. <詞>BAN HIỆU SƯ Hiệu Sư nghĩa là ban hiệu Đại sư gì đó. Xa khởi đời Lương Võ đế hiệu Thê Ước Pháp Sư, kế Tuỳ Dương Đế hiệu Trí Khải Thiền sư và là Trí Giả mà không có hai chữ Đại sư. Đường Trung Tôn hiệu Vạn Hồi là Pháp Vân Công (thêm chữ công). Huyền Tông trong hiệu Khai Nguyên có Huệ Nhựt Pháp sư. Triều Trung Tông được độ Sư nghĩa Tịnh, dạo đi Tây Vức trở về dâng chơn dung Phạm hiệp vua đẹp lòng ban hiệu Từ Mẫn, cũng chưa hành chữ đại Sư. Triều Mục Tông, Thiên Bình Quân Tiết Độ Sứ Lưu Tổng tâu xin xuất gia ban cho tử y và hiệu đại Giác Sư (chỉ một chữ Sư) đến Ý Tông, vào tiết Diên Khánh ngày mười bốn tháng mười một năm thứ mười một hiệu Hàm Thông,hoặc nhơn bàn luận, tả vệ Vân Hạo ban hiệu Tam Huệ đại sư, hữu vệ Tăng Triệt ban cho hiệu Tịnh Quang Đại Sư, đáng tín nhiệm Pháp trí đại Sư lại khiêm ngường Thanh Liên Đại Sư. Ban hiệu cho Sư bắt đầu triều Ý Tông. (Rõ ràng nói Đại Sư gidf đó, thấy ở Ngũ Vận Đồ). Hỷ Tông triều có Tăng Lục Vân Hạo Đại Sư, triều Chiêu Tông có Viên Minh Đại Sư. Lương Cách Đường mạng ban Linh Võ Đạo Diễn Vu… vì chứng Huệ Đại Sư, ban cho nước Ngô Việt đường Tác qua núi Hồng Nhân, là Pháp Tề đại Sư. Đến hiệu Long đức năm đầu không cho Tăng vọng cầu hiệu Sư và tử y. Sau Đường, Hán, Tấn, Chu đều đồng. Nay Đại Tống dừng hành hiệu Sư và tử y, mà hiệu Đại Đức cho ty Tăng Lục chọn đặc. Trước là hiệu Khai Bảo đến Thái Bình Hưng Quốc năm thứ tư sắp về trước cho Tăng khắp nơi vào sân điện xin thi ba học, sau pgủ Khai Phong công đức sử sai tăng chứng nghĩa Kinh Luật Luận mười điều toàn thông ban cho tử y, hiệu là Thủ Biểu Tăng do kia diện kiến dâng biểu. Tầm Nhơn Công Đức sử tâu “Thiên hạ một nhà không cần thủ biểu, cầu soạn sắc nương”, từ đây thường thông lễ sinh nhật của Hoàng Đế, chính thân Vương Tể phụ, Tiết Độ Sứ đến Thứ Sử được dâng biểu tâu điều đã biết. Tử y, hiệu Sư cho Tăng đạo chỉ hai vệ Tăng Lục, Đạo Lục, dâng tiến được vào nội cung. Đây ngày trao điệp môn hạ gọi đó là Liêm tiền Sư hiệu, cấp tử y bốn việc, hiệu Liêm- tiền- tử- y, đây rất là vinh quán. Kia ngoài Vương Hầu tiến, giữa ngày mới ra tiết chế liêm vấn thâu thủ chuyển hàng mà ban cho. <詞>PHỤ ĐỨC HIỆU Khởi đức hiệu có ra từ lâu xa. Đời Nguî Tấn, phiên dịch bổn luật Yết Ma trong văn đều nói là “Đại Đức Tăng”. Kinh nói rằng: “Vì đại Đức Thiên Sanh”. Luận nói: “Các Đại Đức có thần thông” và các truyền kỷ tư gọi Tăng Trung Hiền Ngạn, phần nhiều nói là “Đại Đức”, chẳng phải quốc triều thêm vào. Đến Đường Đại Tông, nội xuất hương một hợp đưa đến chùa Tây Minh cho nên thượng toà đại Đức đạo Tuyên Chưởng Nội bắt đầu thấy ở Sử Truyện. Lại đại Tông hiệu đại Lịch năm thứ hai, chùa An Quốc, Luật đại Đức Thừa Như tâu vật sắc Tăng chết, xin y Luật đoán khinh trọng, nên nương xem văn đây, tợ sắc chỉ thêm vào. Nhưng hoặc chiếu sắc trung rằng: “Trưởng lão (mỗ)…” há là thêm đặt sai, bởi suy sức một thời kỳ. Đại Đức đạo Tuyên Luật Đại Đức Thừa Như cũng đồng đây. Đại Lịch năm thứ sáu năm Tân Hợi ngày mồng năm tháng tư, ra lịnh Tăng Ni ở kinh thành, đến đàn mà có hai chữ Đại Đức, chính là bắt đầu quan thêm hiệu đức. Triều Hiến Tông, Đoan Phổ là dẫn giá đại Đức, đây mang dẫn giá làm mục. Tuyên Tông hiệu Đại Trung năm thứ tư vào ngày sinh nhật ở tháng sáu. Nội điện Thiền Đại Đức Biện, Triệu hai người đây mang thiền học mà được tên. Lại đại Trung Trung ra lịnh tu bổ chùa Thánh Thọ đến đàn Đại Đức ban cho tử y. Huệ Linh làm thượng toà chùa Tổng Trí, chùa Sùng Phước Đại Đức giảng luận ban cho tử y, Duệ Xuyên chủ chùa Sung, đến đàn đại Đức chùa Phước Thọ ban tử y, Huyền, Sướng Sung đều là duy na. Đại Trung năm thứ mười Huyền Sướng Soạn Thượng toà Đại Đức chủ chùa, bền tin làm vui lòng chúng, đều từ sắc chỉ thêm vào, sắc chỉ thêm hiệu càng rõ ràng. Vua Ý Tông, hiệu Hàm Thông năm thứ sáu, phủ Tây Lương có Tăng Pháp tín nhận bổn đạo Tiết Độ Sứ Trương nghĩa Triều dâng biểu ho Thừa Ân Pháp Sư soạn Bách Pháp Luận Sớ Sao, lưỡng vệ rõ định có thể làm, do sắc chỉ nên nương. Pháp Tín được ban tử y, sung bổn đạo Đại Đức. Lại vua Chiêu Tông, hiệu Văn Đức ban đầu sanh thìn hiệu Gia Hội tiết, chiếu chỉ hai vệ Tăng Đạo giảng bàn đến chiều và đều ban cho vật dùng bằng bạc, Tăng đạo ban hiệu Sư, hữu vệ hai người, tử y đều bốn người, đức hiệu cho mười người. Châu, Lương Hậu Đường, Tấn, Hán, Chu, hoặc làm hoặc không làm. Nay triều đại Tống rất ít làm đức hiệu. Trong hiệu Khai Bảo, tả hữu vệ Tăng Lục chuẩn sắc chỉ xưa được chọn đặt danh đề ba học tạp khoa Tăng, hoặc nói rằng Thiền Đại Đức, hoặc giảng Kinh Luật Luận, dâng biểu bạch thinh tán, y thuật các khoa, nên cho hai chữ Đại Đức, gần Tăng lục đạo rất không theo khoa mục, phần nhiều vọng bày văn chữ ý đẹp làm đề, đến bốn chữ mười chữ chỉ nạp quà biếu mà sau làm. Hai bên bờ Giang Nam, có đến mười tự viện, trong không trường hành có thể sung Tăng dịch. <詞>NỘI CÚNG PHỤNG VÀ DẪN GIÁ Nội cúng dâng cho Tăng, từ đời Đường Túc Tông nhóm binh ở Linh Võ đến năm Đức Nguyên Xa đến Phù Phong, Tăng Nguyên Hiệu nhận khẩu sắc, sắp đặt đạo tràng Dược Sư, khiến theo xa giá vào phó hội thỉnh Công, đến phủ Phụng Tường, chùa Khai Nguyên ngự đạo tràng Dược Sư, hai mươi mốt người sáu thời hành đạo. Bấy giờ trong đạo tràng bỗng sanh một lùm cây lý, phụng sắc chỉ sai kiểm thật, cây lý có bốn mươi chín cành, Nguyên Hiệu dâng biểu đáp điềm cây lý là nước Phồn Tư hưng thạnh, sanh trong gài lam thì biết mặt trời Phật pháp càng hưng thạnh, nên cảm điềm lành đây. Vua cùng Sư đồng mừng. Lại nước Lý Nhượng tuyên sắc chỉ rằng: Sắc chỉ nội cúng dâng Tăng Nguyên Hiệu. Đặt quan đây, bắt đầu từ thời Nguyên Hiệu. Kế có Tử Lân người Châu Tuyền, kế nhận chức đây. Triều Hiến Tông, điềm trăng bổ hạo đậu tướng trăng kế ứng mệnh, Châu, Lương, Hậu Đường, Tấn, Hán, Chu, Đại Tống ta đều không nghe chức đây. Làm Đại Đức dẫn giá, chỉ có điềm bổ xưng, đây hẳn sắc chỉ bổ. Thảng như tự hiệu riêng đặt đâu có thể xưng. Mệnh đây gần đây cũng không nghe. Nhưng Xe giá đi tuần trở về kinh Răng đạo hẳn phải đủ phan lọng ốc tù và xa rước Tăng Lục, Đạo Lục cưỡi ngựa dẫn giá mà không dám tự xưng là người dẫn giá. Thái Tổ Anh Võ, Thánh Văn Thần Đức Hoàng Đế cho lưỡng vệ Tăng đạo đều đủ oai nghi rước giá, nay cho là thông thường. <詞>PHONG TRAO QUAN TRẬT Phàm người xuất gia, trông năm vị để thăng cấp. Người đắc đạo chuyển hai vị mà đến quả, dám nói thứ kia. Duyên Giác ứng chơn dùng bốn quả một đời mà chứng thành, qua ba đời trăm kiếp mà bày hiệu, đây là phẩm trật Thánh Hiền. Nên sửa soạn nghiệp có thể thủ khoa liệu, kia có Hoa Phong ở Chấn Đán, Mỹ Hiền ưa tước, nhơn kia quý mà cho là quý. Xưa Hậu Nguî dùng Triệu Đô Sa môn Pháp Quả làm thống lãnh Sa môn cúng thí không đủ. Lại quan phẩm bèn trao Phủ Quốc Nghi Thành Tử Trung Tín Hầu tín dâng công tước nói rầngn Thành, Thích Tử được phong quan bắt đầu từ Pháp Quả. Triều Lương lấy Huệ Siêu làm học só điện Thọ Quang, lại lục pháp và kham nhận vị quan cao. Hậu Chu chọn người học vấn ưu tú trong Tăng Đạo sung vào đạo quán học só, vẫn đổi sắc phục. Triều nhà Tuỳ lấy Ngạn Tông làm Học só Phiên kinh quán. Đường Trung Tông hiệu Thần Long năm thứ hai, làm chùa Thánh Thiện, Thanh Huệ, Phạm Huệ, Trân pháp Tạng Đại Hành Hội Tịch Nguyên Bích Nhơn Phương Sùng… trước tiến cử vào nước chín người, thêm năm phẩm và triều tán Đại phu huyện công, phòng nhà đồ dùng các vật, nhứt như chính viên quan cấp, do công sửa Đại tượng, tìm thêm Huệ Phạm chính nghi Đại phu, vua bổ Quận Công chủ chùa, Thánh Thiện, đến Ngân Thanh Quang Lộc Đại phu bổng lộc liệu phòng gác một việc sắp lên đồng chức quan cấp. Lại Tăng Vạn Tuế chủ chùa An Lạc them triều tán Đại phu phong quan huyện, Duy na chùa Thánh Thiện bổng lộc cũng đồng chức quan mà cấp do lo làm xong tượng. Lại Sa môn Quách Thanh sung tu công đức khiến giám trong điện Kiểm Hiệu, kia kế Huyền Tông nội nạn Bấc Bình, Tăng Thanh Nhuận được phong ba phẩm quan, Y Ninh Vương Tật dụ như Tăng ban cho phi bào, Đại Tông thêm bất không ba tạng, đến khai phủ nghi đồng ba ty Túc Quốc Công, giai tước đó cực chỉ bất không. Luận rằng: Sân triều còn làm tước trật, Thích Tử vẫn tranh ở bậc quan, bậc quan chớ hết kỳ, tham ái không đầy phần. Hồ không nuôi vợ con quỳ lạy vua, nào khác chức nữ bảy lần làm xong giữ trâu mang ách, có người hiểu biết ở đây không lấy. Không đồng Lục Pháp Hoà Thích Đạo Bình có thể thí công vệ xả dám có mục giả quan. <詞>GIỚI ĐÀN PHƯƠNG ĐẲNG Cõi đây có giới đàn khởi ở Nam triều, Cầu Na Bạt Ma Tam Tạng là Tỳ kheo nước Tống, ở núi Ngạn Châu Thái đầu tiên thọ giới, từ đó nam bắc nối nhau lập đàn mà không có tên riêng. Sau có giới đàn Nam Lâm, thời vua Cao Tông hiệu Càn Phong năm thứ hai, non Chung Nam Đạo Tuyên Luât Sư lập giới đàn Linh Cảm, ở tinh xá nơi thôn Thanh Quản, các danh đức trong thiên hạ đều đến càng thêm giới phẩm, dựng đàn mới thành, có Tăng Ni dài ở trước đàn khen ngợi tức là Tân Đầu Lô. Đời Tống ngày 28 tháng 3 năm Vónh Thái sắc lệnh chùa Đại Hưng Thiện, giới đàn Phương Đẳng ban cho tất cả quan cúng chỗ cần, đến tháng tư ra lệnh Tăng Ni kinh thành đến đàn Đại Đức đều đặt mười người hằng lâm cách thức thường. Nói giới đàn Phương Đẳng bởi do đàn pháp vốn rút ra ở các Luật, Luật tức tiểu thừa giáo, trong tiểu thừa giáo cần mỗi mỗi như pháp, có chút sai trái thì người thọ không được đắc giới, người đến đàn phạm tội, cho nên gọi là luật giáo. Nếu giáo Đại thừa phương đẳng tức không câu hạn thiếu duyên sai khác, đều được thọ nhưng khiến phát đại tâm mà lãnh nạp. Phương Đẳng tức ng- hóa cùng khắp. Luận Chỉ Quán nói: “Phương Đẳng hoặc nói quảng bình, nay gọi phương là pháp. Như Bát Nhã có bốn món phương pháp, tức bốn cửa vào ao thanh lương nên đây là phương. Chỗ gọi là khế lý tức bình đẳng đại huệ cho nên nói là đẳng. Bẩm thuận văn phương đẳng mà lập giới đàn cho nên gọi là đàn phương đẳng. đã không cấm kî câu nại nhỏ nhít, rộng lớn mà bình đẳng lại có thể gọi là rộng bằng. Tuyền Tông sau dùng hội xướng sa thải, Tăng ni lại được xuất gia. Sợ ở trong tục, đâu không có lỗi, bèn khiến trước sám hối tội sâu, sau đàn giới phẩm. Nếu chẳng là phương đẳng há cho lại vào, lấy sự bao dung trùm khắp nên nói là phương đẳng giới đàn, thoát hoặc mộc tôn quy phạm của luật không nghe lỗi nhỏ, vào tăng giới pháp bốn món đều như, thì không thể xưng là phương đẳng. Nhưng tràn ái thì người ưa lăng phạm, nghiệm khắc thì vật tự nghiêm túc. Đời Mạt trụ trì nên nghiêm luật kia mà ít ái thì có thể vậy. <詞>KIẾT XẢ PHÁP TẬP Đời Tấn Tống có pháp sư Huệ Viễn ở Lô Sơn hoá hành ở Tầm Dương, Cao Só Dật người Bức Tấu ở Đông Lâm đều nguyện kết lửa thơm. Bấy giờ Lôi Kế Tôn, Tông Bình, Trương Thuyên, Lưu Di Dân, Chu Kế… cùng kết Bạch Liện Hoa Xã lập tượng Di đà, cầu nguyện vãng sanh nước An Dưỡng gọi đó là Liên Xã, tên Xã bắt đầu từ đây. Tề Cảnh Lăng, Văn Tuyên Vương mộ tăng tục làm pháp tịnh trụ, cũng là tịnh trụ xã. Nhà Lương, Tăng Hựu hội soạn pháp xã, dựng ấp công đức, hội văn nhiều đời cho nên thành tựu chùa Tăng là pháp hội xã. Pháp của xã lấy nhiều kinh thành một trọng, giúp việc thành công, mộ gần nơi xã. Nay kết xã cùng làm nhưng phước, đều ước nghiêm minh, càng ở công pháp, người thực hành xen nhau khuyến khích siêng tu chứng, thì xã có công lớn sanh thiện. Gần đây nghe ấp ở Chu Quách xã phần nhiều kiết giữ hội canh giáp. Ban đầu nhóm kêu nạo bạt xướng Phật khen ngợi, mọi người niệm Phật hành đạo, hoặc động tơ trúc, một đêm không ngủ để tránh ba kẻ tâu lên vua, khỏi chú tội cướp đoạt, Nhưng đây thật pháp của nhà đạo, thường thường có Thích Tử vô tri, vào hội mưu đồ lợi nhỏ, hội không xét cội gốc kia, lầm hành tà pháp rất đáng đau xót. <詞>BAN HẠ LẠP Triều Thiên Hậu, đạo só Đỗ Hựu hồi tâm cầu xin làm tăng, vua ra lệnh cho cạo tóc nhuộm y, phối chùa Phật thọ ký, pháp danh Huyền Nghi, sắc chỉ ban cho 30 hạ, do kia mới vào dòng pháp cần ở vị dưới, nếu ban cho lạp hư dối thì liền làm bậc lão thành, ban hạ lạp bắt đầu từ đây. Kế ở hiệu Trường Khánh năm đầu tháng 3 Thiên Bình Quân Tiết Độ Sứ Lưu Thống, lấy châu U Tư đệ làm chùa Phật, xuống chiếu đặt tên là báo ân, bèn sai Trung Quan Tiêu Tiền Thành, lấy bức hoành của chùa ban cho đó, gồm để giúp cha nơi chốn tối tăm tinh thần mờ mịt, cho nên làm chùa. Sau tâu vua xin độ làm tăng, vua sắc ban hiệu Đại Giác Sư, bèn thêm 50 hạ lạp, đây là ưu tiên khác người, muốn cho vào pháp ở vị cao. Vả lại Luật dạy cho ba người đồng dẫn thọ giới, đắc pháp nhất thời còn suy đầu tên làm lớn. Đâu chia con em của đại tộc cúa vua, triều đình cho họ Lưu từ lâu cứ nơi châu U, gồm đẹp mới biết thuận lý, gia cát ban đó để an ủi ý kia. Nhà Lương trong hiệu Khai Bình, Ngô Việt Vương Tiễn tâu khiến Lý Nam xuất gia, pháp danh Linh Nhơn, sắc chỉ ban tử y hiệu Pháp Tướng Đại Sư, thêm ba mươi lạp. Từ đây dứt, nay không nghe làm phép đây. Nói lạp, trong kinh luật lấy ngày 16 tháng 7 là ngày đầu năm phần pháp thân của Tỳ kheo, thì ngày 15 tháng 7 là ngày lạp trừ. Tỳ kheo xuất tục, không lấy năm tục tính tuổi mà lấy số hạ lạp, kinh luật lại cho ngày 15 là ngày Phật lạp. <詞>XƯNG GỌI KHI ĐỐI VỚI VUA Tây Vức từ khi mới lập tên đến cuối không đổi, như A Nan là sanh ra đêm Phật thành đạo hiệu là Khánh Hỷ và thọ ký kết tập cũng hiệu A Nan, các chỗ đều hiệu đây. Gần đây thấy Phạm Tăng đến phần nhiều tên là Ca Diếp, Văn Thù… cõi Tây không hiềm chê, cũng như Đông Hạ loại tử cống giống nhau. Xét Ký Quy Truyện nói: “Phương Tây thọ giới, 10 hạ về trước xưng là tiểu sư, 10 hạ xưng trụ vị. Thông kinh luận, phần nhiều gọi là đa văn cầu tịch, đây đều là thông xưng. Nếu riệng nói rằng Tăng, thì bốn người sắp lên mới được gọi. Nay chia xưng là Tăng, lý cũng không sai. Như một muôn hai ngàn năm trăm người là quân, hoặc riêng một mình, cũng xưng là quân. Tăng cũng đồng đó. Nam Sơn Luật Sư nói: “Sa môn thì phàm thánh đồng xưng”. Đạo khác ở Tây Thiên cũng hiệu Sa môn cho nên giải thích chữ để phân biệt. Hai loại chung xưng dụ như phương đây người xưng tước xóm và tính họ, nhưng tính thì đồng. Nếu dùng tên riêng, tên chỗ riêng độc, riêng thì gọn rõ. Từ Nguî, Tấn đến nay, Sa môn phần nhiều theo họ thầy, như Chi Đạo Lâm họ Quang mà theo họ Chi của thầy, Đạo An họ Vệ theo Phật Đồ Trừng lấy họ Bạch. An Độc Ngộ nói: “Theo thầy đâu phải lỗi của Phật, Phật vốn họ Thích”. Bèn thông nay Tỳ kheo họ Thích, Đông Hạ xưng họ Thích là bắt đầu An Độc Ngộ. Sau kinh A Hàm bổn tiếng Phạm đến dịch ra, quả nhiên có văn bốn sông chảy về biển không lấy lại tên cũ, bốn họ xuất gia đều xưng họ Thích, rất phù hợp nhau. Tân dịch Bí Sô là do cỏ Bí sô có năm đức, nhơn đó mà gọi, Tỳ kheo là lầm tiếng Phạm. Lại xưa nói là trừ cẩn. Kinh Chú Pháp Cảnh, Ngài Khương Tăng Hội nói: “Phàm phu ở cảnh lục tình như người đói mộng thấy ăn”, người xuất gia trừ bỏ sáu tình gọi là trừ cẩn (đói). Lại Tập Thạc Xó gọi Đạo An Là Đạo Só, người Tây Vức phần nhiều xưng “ngã”, kẻ thấp xưng với người cao cũng không hiềm chê, cho nên A Nan nói rằng: “Như thị ngã văn”. Nếu phương đây đối với vua, như Hán, Ngụy, Lưỡng Tấn đều xưng tên, hoặc nói là ngã, hoặc nói là “bần đạo”, cho nên Pháp Khoáng Thượng thơ đối với Tần Giảng Văn xưng “bần đạo”, Chi Tuần Thượng- thơ xin Quy Diệm cũng xưng bần đạo, Đạo An can gián Phù Kiên tự xưng là bần đạo, gọi Kiên là đàn việt, bấy giờ chưa định cách thức. Lại Bạt Đà đối với Tông Hiếu Võ nói: “Theo bộ hạ xin thuận” đây thấy gọi Bệ Hạ. Đến thời Nam Tề, Pháp Hiếu, Huyền Sướng hai người chia làm tăng chính, đối vua nói: “Luận xưng tên mà không ngồi”. Sau nhơn chùa Trung Hưng, Tăng Chung trả lời xưng bần đạo, vua hiềm chê, hỏi Vương Kiệm: “Trước bọn Sa môn nói với vua xưng thế nào? chính điện trở lại ngồi chăng?” Kiểm đáp: “Thời Hán, Ngụy Phật pháp chưa hưng thịnh, không thấy ghi truyền. Từ nước Nguî xưng thạnh đều xưng là bần đạo, cũng nghe cho ngồi và nhà Tấn ban đầu cũng vậy”. Thời Trung Đại có Dữu Thuỷ, Hoàn Huyền… đều muốn khiến Sa môn đều lễ bái, triều đình bàn tán xôn xao, sự đều thôi. Trong triều Tống cũng khiến chí lễ, tìm lại không làm. Từ đó đến nay phần nhiều dự ngồi mà xưng bần đạo. Vua nói: “Sướng, Hiến hai tăng đạo nghiệp như vậy, còn tự xưng tên huống gì người khác chỉ chấp tay xá thì thái thậm xưng tên cũng không hiềm. Do đây Sa môn đều xưng tên với vua bắt đầu từ Sướng, Hiến. Những triều gần đây người đạo mỏng trái xưng gọi là biểu chương, xưng quan đốn thủ, phàm đốn thủ là bái vậy, xưng quan tî là tột tìm chỗ khởi kia không ngoài thời Đường. Thời Tuỳ chùa Đại Hưng Thiện, Sa môn phiên dịch kinh là pháp kinh… dâng mục lục các kinh còn chưa xưng thần, chỉ nói rằng: “Các Sa môn Pháp Kinh… cẩn bạch Hoàng Đế đại đàn việt. Sau đời Chu Thích Đàm Tích dâng biểu can gián sa thải cũng chỉ xưng tên, bạch Hoàng Đế đại đàn việt, sau xưng đàn việt. Nếu Hậu Chu”. Thích Nhậm Đạo Lâm đối Võ Đế chiếu rằng: “Lại xưng quan” là rõ thời kia. Lâm hình phục đã đổi, riêng pháp môn của Phật Đồ Trừng là Vương Minh quảng đồng. Như làm Tăng Đạo Lâm hẳn không xưng thần. Đời Đường, Sa môn Huyền Tắc chùa Tây Minh trong tựa sau của Thượng Huyền Lâm Diệu Ký chỉ xưng hai chữ “Tăng đẳng” cho nên tựa nói rằng: “Bèn dùng các vật dư thân, vòng ý chỉ, cuối của chính danh đặc biệt đề Thiện Gia, Tăng Đẳng gánh vác ân dung thí”. Giam Đàm Thiệu Long nói rằng: “Đường Tam Tạng thỉnh ngự tự khế kinh, xưng Sa môn Huyền Trang”, đáp chiều rằng: “Sắc Trang còn mà không tên”. Trong hiệu Trinh Quán chiếu tăng Ni ở dưới đường, ấp kinh Sa môn Trí Thật dâng biểu luận ban vị cũng chỉ xưng tên. Cao Tông sắc chỉ Tăng đạo hai giáo, khi lạy vua, tuy mâu bàn trạng rằng: “Không bất hiếu nào hơn tuyệt tự, sao không chế lấy hôn nhân. Bất trung không gì lớn hơn không thần (tôi), sao không khiến xưng thần”, do đây biết đó, ba điệp của nhà Đường còn chưa xưng thần. Túc Tông hiệu Thượng Nguyên, ngày 8 tháng 3 năm đầu, giáng ngự trác sai Trung Sử Lưu Sở Giang thỉnh Lục Tổ ở Tào Khê truyền y bát vào cung và chiếu gọi đệ tử Linh Thao, Thao dâng biểu từ chối vì tuổi già, sai đệ tử là Minh Tượng dâng biểu xưng thần, thấy ở Sử Truyện, từ đây bắt đầu, Hoặc nói rằng: “Pháp Lâm dâng biểu, luận đạo cư tăng tâu rằng: “Thần tuổi bức bách, nương cây du mới gặp đời thái bình, hình mạo như bồ liễu, do đâu triều Cao Tông tuy mậu bàn rằng: “Bất trung không gì lớn bằng không thần”, sao không xưng thần? Nếu hoặc Lâm Công đã xưng, tuy mậu hẳn không có câu đây”. Đáp: “Tuyên Luật Oai Tú… đều không xưng thần, sợ Pháp Lâm nguy bách tình thiết, chợt xưng đó vậy. Triều đình chưa trước nơi linh thức, chúng không đông xưng cho nên ty mâu nói là sao không khiến xưng thần vọng”. Kế kia lại nghi người chép truyện lầm lộn. Căn cứ thuyết đây thì Pháp Lâm xưng thần lại ở đầu. Túc Tông hiệu Chí Đức năm thứ hai, theo xa giá kiểm hiệu đạo tràng Dược Sư, nội cúng phụng Tăng Nguyên Hiệu, tâu trong đạo tràng sanh cây lý 49 cành, trong biểu nói rằng: “Thần đẳng thêm là thần tử”. Đến hiệu Thượng Nguyên năm đầu vào ngày mùng 8 tháng 9 sắc chỉ khiến Tăng ni triều hội đều không cần xưng thần và lễ bái. Đây là nhơn trong hiệu Khai Nguyên sai Tăng Đạo khi lạy đều xưng thần, đến đây mới khỏi. Hiệu đại Lịch năm thứ 8 Hựu Phóng Nguyên ngày đông chí triều giá bội vị, bởi do đời Đại Tông vua tôi trong biểu đều trọng không môn, đây cũng ô lâu thì giáng đã phủ cuối tấu. <詞>ĐẾN PHÁP ĐÀN Trên đàn viên vị chuẩn Luật, giữa nước thì Tăng 10 người, Ni trong 20 người thọ giới. Vùng biên giới khó có được sư rõ Tỳ ni thì tăng là 5 người, ni thì 10 người là đắc giới (Tỳ kheo 5 người, ni 5 người) đây là lời thánh có thể làm định lượng. Gần đây ni chỉ ở trong bổn chúng, 10 ni thọ chỉ được bổn pháp mà thôi, giới đây nguyệt phương (mặt trăng) 12, 13 sắp trong chưa tròn, hẳn cần trong hai bộ tăng mới được thành tựu. Xét trong đời Đại Tông hiệu Vónh Thái, sắc chỉ kinh thành đặt tăng ni đến đàn Đại Đức đêu 10 người, liền nương trong Luật là ở giữa nước thì 10 người, hằng làm thông thức, thiếu thì điền vào. Bèn soạn rõ luật người đức hạnh ưu tú thì sung vào đó, đến đàn Đại Đức khoa mục bắt đầu từ đây. Thời Đức Tông, hiệu Trinh Nguyên năm thứ 12, sắc chỉ chùa Vónh Thái đặt giới đàn độ tăng. Đến trong hội xương Đại Trung, Huyền Xướng thông rõ luật giáo, sung trong ngoài đến đàn Đại Đức rõ tên trong ngoài kia, trước Sướng Công đã nên có. Xưa Tiết Đạo Hoành nữ đức thơm lừng có tài học, ở trong cung Thái Tông, sau xin xuất gia, vua làm chùa Nội Hạt Lâm thỉnh 10 vị Đại Đức vào nội cung thọ giới. Đây tức nội lâm đàn. Đến Ý Tông dựng đàn ở điện Hàm Thái độ chùa ni Nội Phước Thọ thọ đại giới, hai bên ni tăng Đại Đức 20 người vào Huyền Sướng dự toà pháp đây cho nên thêm Nội Lâm Đàn. Hiệu Hàm Thông năm thứ 3, ngày mùng 1 tháng 4 năm Nhâm Ngọ sắc chỉ hai bên tăng ni, bốn chùa đều đặt giới đàn Phương Đẳng, hữu vệ Thiên Bức, Diên Đường hai chùa độ người đều 21 ngày, Sương Công lại dự số đây, cho nên nói là nội ngoại đến đàn Đại Đức. Nay có người chưa đến nội đàn mà tự xưng nội ngoại lâm đàn, thật đáng buồn cười. Lại nghe lúc đó hoặc lấy tăng lục làm Tông chủ không vậy thì người luật tông cực cao gọi là tông chủ. Tăng lục thì thêm mục đến đàn soạn luyện. Lương Hậu Đường, Tấn, Hán, Chu chỉ làm 10 sư pháp, bao nhiêu có ngoài đàn, viên vị lại năm sáu người thôi. Suy theo Tần, Tống, Bắc Tề, Bắc Nguî, Chu, Tuỳ, Lương, Trần nhiều đời vua chúa thảy đều độ tăng, chỉ Đường Tuyên Tông trọn đàn Tẩy Sám Phương Đẳng, độ tăng không ít. Đại Tống ta hiệu Thái Bình Hưng Quốc năm đầu và năm thứ bảy độ tăng hơn 17 vạn, xưa kia chớ sánh, bọn áo đen Khổng Chức ở đây ư? <詞>QUY LỢI ĐỘ TĂNG Miên tưởng triều nối nhau độ Tăng khai đàn pháp thảy đều vì lợi tha, chợt có lúc rưới nhiễu chính là cầu lợi nước, tuy là chế quyền đàn, trọn chiêu lấy chỗ thua. Nay nương chút điềm để ngăn đời sau. Đường Túc Tông ở Linh võ, tân lập trăm lần chỉ khó, rất thiếu quân cần, nhơn thành mưu kế, khi tể quan Bùi Miện theo xa giá đến Phù Phong, tấu hạ khiến mua quan Dục độ Tăng, Ni, đạo só, lấy quân trữ làm vụ việc, người có không muốn, liệu khiến đến đó, giá kia càng việc càng thành tệ, Dục Độ Tăng đạo bắt đầu từ Bùi Miện. Sau các chinh trấn vưu mà hiệu. Như Vương Trí Hưng Châu Từ tâu đặt giới đàn ở chùa Lâm Chuẩn Phật, trước nạp tiền sau cho độ, đến có người biếu hối hộ, sau không người thọ giới. Lý Đức Hựu ở Châu Nhuận tâu đủ việc kia rằng: “Từ cuối đời Đường trở về sau chư hầu riêng lập, hơi thiếu quân cần thì chiếu độ Tăng, Ni, đạo só, trước nạp tiền tài gọi đó là tiền hương thuỷ”. Sau cấp công điệp rằng: “Nghó đây là việc xấu lại, huỷ pháp môn than thay!” <詞>BAN THỤY HIỆU Tăng theo vạn hạnh cho nên có dấu vết. Hạnh tốt thì thụy để thêm danh giá. Hạnh xấu thì người đều khinh bỉ là do Lục Quần Tỳ kheo trọn chẳng hiệu thơm tho, Lục- hoà- thắng- só mới có tên như cờ dễ phất. Từ Hán, Ngụy, Tấn, Tống không nghe lễ đây. Hậu Ngụy trọng Cao Tăng Pháp Quả sống đặt đó dùng quan, chết mừng đó mà lâm (khứ thinh) bèn sai ban tặng Hồ Linh Công, ban thụy cho Tăng bắt đầu từ đây (Quả làm Thống Sa môn, phong tước Công được tặng thụy là Hồ Linh) nguyên đây phát xuất ở chùa Thái Thường. Hậu Chu, đời Tuỳ, đầu nhà Đường đều không làm, đến triều Thiên Hậu có Bắc Tông Thần Tú châu Kinh, hiệu Thần Long năm thứ hai, chiếu chỉ ban thụy Đại Thông Thiền Sư. Lại có Bồ Đề Lưu Chi ở Tây Vức vào năm Trường Thọ thứ hai đến Lạc Dương dừng ở chùa Thọ Ký, Thần Long năm thứ hai theo xa giá đến Tây Kinh trụ ở chùa Sùng Phước dịch Kinh. Trung Tông, Duệ Tông từng chính thân trao bút. Giữa hiệu Khai Nguyên năm 156 sưcá chỉ ban Hồng Lư Khanh, chết được ban thụy Nhất Thiết Biến Tri Tam Tạng. Lại Sa môn Nhất Hạnh chết được thụy Đại Huệ Thiền Sư. Triều Văn Tông thụy cho Đoan Phủ là Đại Đạt Pháp Sư. Tuyên Tông ban thụy cho Lô Sơn Huệ Viễn là Đại Giác Pháp Sư. Ý Tông ban thụy cho Nam Sơn Đạo Tuyên là Trừng Chiếu Đại Sư. Sau đây các đạo tâu nên danh Tăng dật só, triều đình ban thụy, nhiều đời đều có. <詞>BỒ TÁT TĂNG Xưa triều Hán, Ngụy, Tấn, danh hiệu Sa môn dùng hay bỏ khác nhau, cho nên có hiệu Trúc Pháp Hộ là Đôn Hoàng Bồ tát và Thiên Trúc Bồ tát, Trúc Phật Sóc, Nguyệt Chi Bồ tát, Chi Sám… nước Ngụy không nghe thuyết đây. Hậu Chu, Thái Võ Hoàng Đế bỏ hai giáo Thích, Đạo. Hiệu Kiến Đức năm thứ ba, chiếu chỉ chọn người danh đức của đạo Phật và đạo Lão riêng lập đạo quán, sửa hình phục làm học só, vua ban hốt Tiểu Đạo An Nha, vị dùng triều nên không thành. Đến khi Võ Đế băng hà, Thiên Nguyên Tuyên Đế lên ngôi, ý muốn dần hồi chấn hưng Phật giáo chưa tiện bỏ chế của vua trước. Hiệu Đại Tượng năm đầu sắc chỉ rằng: “Thái Võ Hoàng Đế chuyện dơ xấu, bỏ mà không lập, trẫm chọn tăng học nghiệp kỳ cựu 220 người, chớ cạo tóc huỷ hình ở chùa Trắc Hổ hai kinh Đông, Tây vì nước hành đạo, cấp cho rồi dùng, khi có Cao Tăng Trí Tạng họ Tuân, năm Kiến Đức thứ hai ẩn ở Chung Nam ngọn Tử Cát. Đến thời Tuyên Đế ra yết kiến, vua ra lệnh để tóc dài làm Bồ tát Tăng, làm chủ chùa Trắc Hổ. Năm Đại Tượng thứ hai, Tuỳ Văn làm tướng Trí Tạng yết kiến, nhờ đó được cạo tóc. Lại Thích Ngạn Tông không muốn làm học só Thông- đạo- quán, do Bồ tát tăng kia cần đội mũ hoa, áo anh lạc, tượng tướng Bồ tát, cao tăng ghét làm hình đây, chẳng phải Phật chế. Ban đầu lập viên Thông Đạo Quán đặt 120 người chọn môn nhơn Thích Lý người danh hạnh lúc bấy giờ, mang áo mũ hốt giày làm học só Thông Đạo Quán (bấy giờ tăng đạo hỗn lộn phần lớn chọn là kiến tăng huỷ giới vào đạo) có tiền Sa môn Phạn Phổ Khoáng ràn rụa chê cười, vua rất trọng, rước vào Thông Đạo, lui thường cắt tóc để râu, vua hỏi đáp rằng: “Thần học Bệ Hạ hai giáo tuy trừ, vẫn còn Thông Đạo, râu là trang sức thế tục cho nên giữ, tóc chẳng phải thế tục cho nên bỏ”. Vua nói: “Kẻ tục có để tóc, thêm mũ, sao nói là chẳng dạy”. Khoáng nói: Người không tóc há là không dạy ư? Thần xin đội mũ có tổn gì? Từ đó thường sạch tóc đội mũ anh, người hỏi thì đáp: “Ta sợ nóng”. Lại Linh Cán ban đầu chọn vào Tăng Bồ tát, sau mới cạo tóc. Xét tâm kia bởi nơi lý Phật, hành thiết khổ không, rất chứng thánh lên đất để, thì không hình Sa môn, Phật pháp ở thạnh, vua tôi chế tác, gặp rước sắc chỉ kia nào lại ngại gì, phàm trăm học xem lại suy nghó đây. <詞>ĐẮC ĐẠO CHỨNG QUẢ Hỏi rằng: Trúc Càn hoá cảnh người chứng quả nhiều, dùng gì pháp giúp Trung Hoa dịu dàng không dấu vết. Đáp: Giáo pháp của ta dùng tín giải tu chứng làm giai cấp. Nếu tin lời Phật thì hiểu ý Phật, sẽ tu thánh hạnh hẳn lên chứng quả. Lại dùng giáo, lý, hạnh, quả bốn món kiểm nghiệm thì thời có chính pháp, tượng pháp, cách Phật như gần, bốn món vẫn toàn vẹn, trông thánh vừa xa, bốn món thiếu nhiều. Hoặc nói: Uống ăn trai giới trị bệnh mình, bệnh tổn liền uống quyết được sống lâu, sống lâu không thôi thì mặt trời lên cao, há chẳng phải mắt chạm. Sao Thích môn ít nghe nghiệm đây ư? Đáp: Thí như gieo giống, thu thành đều khác kia do cửa mở bay lên là cùng tột. Ta thì đoạn chướng xuất triền, do hiền nhập thánh, nhưng sau dạo đi thần thông mà làm Phật sự giáo hoá lợi ích hữu tình, há đồng tự mình rõ tự rời mà làm tột sự. Như kia cần biết lược bày đại khái. Xét Hán Pháp Bổn Nội Truyện, Ma Đằng sừng pháp đã thắng, vọt thân lên hư không nói kệ…, đây bắt đầu hiện thần thông kiểm quả chứng. Lại An Thanh vượt ( ) dừng nơi hồ rắn, rõ nghiệp chết ba đời. Kế thì Thiên Hậu bay tích trượng, dưa bước chén nổi, Chân Đế trải toạ cụ mà qua sông, Đồ Trừng mở bụng kéo ruột rửa sạch, Đạo Khai ăn đá no, xin Tăng rượu dê mà vẫn còn, Pháp Tiến chân lìa đất mà đi, Bạt Ma đạp chiếu hoa mà sạch, Pháp Vân Công ngày đi muôn dặm, Tăng Già Sư thân hiện Tứ Tân, các sư như vậy còn đắc quả chăng? Trong Tông ta trọng sống cho nên gọi là sanh luận, một sống vốn không sống cho nên được quả lớn. Tông khác trọng sanh cho nên gọi sanh sanh thân trái cương rường cột gì là cùng tột, không do ban ngày mặt trời lên cao, ít cho tu luyện mà so sánh nghiệp vô lậu, giúp hiện thần thông bày biến hoá, sao nói là ít thấy nghe ư? Tự tai mình điếc chẳng phải sấm mất tiếng. <詞>NI PHỤ Đời Tấn có Ni Tịnh Kiểm, phương đây người nữ đắc giới thượng thủ. Một sớm trong sân có ánh sáng, trên thuộc ở trời, như hình trạng cầu vồng trong có thiên nữ gặp nhau vui mừng nắm tay, kiểm dẫn đệ tử đạp ánh sáng mà đi. Lại Hoàng Tuyên Võ rình ni vào nhà tắm, thấy kia cắt xẻ đáng sợ, lúc ra không khác, bởi do răn dè Tuyên Võ điềm đạm, do đây diệt ngạo mạn kia. Lại theo Ni Trí Tiên biết Văn Đế làm Thiên tử, thông biến không ngờ tới, quyết đồ thật nhiều, lược nêu người giỏi nhất, ni nữ còn vậy huống gì Thích Tử trượng phu ư? <詞>ĐẠI TẤU MẠT NI (Hồ Thần, quan phẩm khiến có hiện chính). Hoả Hiên (hỏa tiêu thiết) giáo pháp chưa khởi lớn ở nước Ba Tư, hiệu Tô Lổ Chi, có đệ tử tên Huyền Chơn học pháp của thầy ở nước Ba Tư đại thống dài như núi lửa, sau hành hóa ở Trung Quốc, hiệu Trinh Quán năm thứ năm có Truyền Pháp, Mục Hộ, Hà Lộc đem Hiên Giáo đến khai hóa. Vua sắc chỉ khiến phường Sùng Hoá ở Trường An lập chùa Hiên hiệu chùa Đại Tấu, gọi là chùa Ba Tư, hiệu Khai Nguyên năm thứ hai mươi ngày 15 tháng 8, sắc chỉ Mạc Ni vốn là tà kiến, vọng xưng Phật giáo dối hoặc lê dân, do Tây Hồ…đã là pháp sư nay nơi thân tự hành không cần liệu phạt. Đến hiệu Thiên Bảo tháng 7 năm thứ 4, Ba Tư sắc chỉ kinh giáo xuất ra từ Đại Tấu Truyền Tập mà có, lâu hành Trung Quốc, viện chùa Sơ Kiến lấy đó làm tên, toan muốn bày người hẳn theo bổn kia. Hai bên chùa Ba Tư nên sửa là chùa Đại Tấu, các châu quận trong thiên hạ có chuẩn đây. Hiệu Đại Lịch năm thứ 3 vào tháng 6, sắc chỉ chùa Hồi Hột Trí, nên ban bản chùa là Đại Vân Quang Minh. Tháng giêng năm thứ 6 lại sắc chỉ các châu Kinh, Việt, Hồng đều đặt chùa Đại Vân Quang Minh một chỗ. Võ Tông hiệu Hội Xướng năm thứ 3 sắc chỉ chùa Ma Ni trong thiên hạ đều bỏ vào cung, nữ Ma Ni kinh thành 72 người chết và ở nước đây, Hồi Hột các Ma Ni…Phối dòng các đạo, người chết hơn nửa, năm thứ 5 lại sắc chỉ Đại Tấu, Mục Hộ, Hoả Hiên…hơn 2000 người đều phải hoàn tục, nhưng mà chưa hết gốc rễ, lúc ấy chia bò lan. Nhà Lương hiệu Trinh Minh năm thứ 6, châu Trần đảng loại Mạt Ni lập Mẫu Ất làm thiên tử, phát binh chinh phạt sanh cầm Mẫu Ất các đảng cùm đưa cửa dưới tạm ở đô thị. Ban đầu châu Trần thôn tục mừng tập tả đạo, nương giáo Phù Đồ tự lập một Tông , hiệu thượng thượng thừa không ăn mặn, dẫn dạy giáo hoá họ Dung, lẫn lộn dâm uế, đêm nhóm ban ngày tan, nhơn Thứ Sử Huệ Vương Hữu có thể động nhiều bất pháp, do đây yêu tặc gọi nhóm, luî đánh dẹp chưa yên bình. Đến trong hiệu Trinh Minh, chém đoạn mới hết, Hậu Đường thời Thạch Tấn lại lần lần hưng thạnh, suy cử 1 người làm chủ, trăm việc bẩm theo, hoặc vẽ một ma vương ngồi toà Phật làm rửa chân cho kia…Phật chỉ là Đại Thừa, đây chính thượng thượng thừa. Bởi núp bóng bên Phật giáo nên gọi là đạo tương tợ, hoặc có Tỳ kheo bi đói lạnh cho nên thường thường theo hiệu Lợi, kẻ hiểu biết còn xa lìa, pháp đây dạy người thẳng vào địa ngục, thật cần cẩn thận. <詞>GIÁ ĐẦU SÀNG Án bảy báu đầy kinh sách, chế độ kia lấy vòng báu tạp trấn ở giữa mà thành đó. Khoảng chân kia cao hơn thành kia, chỗ đặt kinh tức Nhơn Vương Hộ Quốc, khăn đậy trên lụa hồng đậm, khiến trung quang trung hậu thật thà, trên ngựa bình trì dủi từ mà xin đi, nương theo kiệu có thể trăm bước dùng làm tiền đạo. Nghi chế đây chưa biết đầu mối như tâu dịch kinh rằng: “Làm bàn bảy báu, để kinh lên trên, nếu khi vua đi, thường ở trước kia, đầy đủ trăm bước, khiến trong ngàn dặm bảy nạn không khởi. Nếu vua trụ lại làm trướng bảy báu đặt kinh, cúng dường như thờ cha mẹ, như thờ Đế Thích”. Bổn dịch đời Đường nói: “Án (bàn) báu để kinh, nếu khi vua đi thường dẫn đường phía trước, chỗ vua trụ làm trướng bảy báu” các văn phần lớn đồng. Nay nghi hạnh đây là tà Hậu Tần, là tà đời Đường, chí hưng phục không văn, sử các triều chép thiếu, nhưng thì đã mất minh cứ, có thể dùng lý cầu, bởi Đường Đại Tông trong hiệu Vónh Thái chăng không ba tạng trùng dịch để sau, chẳng không thường tụng chú trong kinh đây, cảm con Thiên vương lãnh binh thần giải vây rợ Khương Hồ cho thành An Tây, lại cầu mưa rất nhiều ứng nghiệm. Bấy giờ có thể thỉnh vương kinh đặt án để tượng ở trước mà nghiệm bí mật việc kia họ sử đâu biết. Đường Kỷ nói: Trong hiệu Vónh Thái biên cương giặc Khương Hồ, kinh thành giới nghiêm, lại nhơn tinh tú biến đổi, trong xuất kinh Nhơn Vương hai quyển, giao cho hai chùa Phật là Tư Thánh và Tây Hồ, mở đạo tràng Nhơn Vương trăm toà, kiểm đây biết, bắt đầu từ Vónh Thái. Lại hoặc khi trăm toà Pháp Diên, chính thân vua ngự đến, trong đàn nghi hợp dùng án báu đặt kinh dẫn giá, nhờ đó mà không bỏ. Có người nói: “Huyền Tông vất vả đặt trăm toà đạo tràng, chớ khởi ta trong hiệu Khai Nguyên”, nay gọi là Minh Hoàng mỏng ở họ Thích, khó làm pháp đây.Nhưng tuy mỏng ở họ Thích mà lại dày nơi hảo ỷ, trong hai thuyết cùng Đại Tông kia có thể vậy. Lại chưa biết kinh là bổn nào, nếu là dịch xưa thì Huyền Tông sắp về trước, như dùng kinh mới thì Đại Tông là bắt đầu. Các vị vua sau hoặc lập mà không làm, thì nói trên án không có kinh, hoặc để mà chớ bàn, thì nói rằng nghi chú hợp dùng, đây bởi phí biết mà không thêm trịnh trọng. Nay đại Tống pháp vật khắc toàn dùng dẫn dắt mọi người, ngưỡng trông thấy đây, biết giá gần trăm bước, nói công kia vậy, cùng xe bầy ác khác hình mà cùng mối. <詞>THÀNH LẦU THIÊN VƯƠNG Phàm cửa thành đặt Thiên Vương làm người hộ đời. Đời Đường hiệu Thiên Bảo năm đầu là năm Nhâm Tý, Tây Phiên, Đại Thạch, Khương Cư… năm nước đến làm giặc ở An Tây, vào ngày 11 tháng 2 năm đó, tâu thỉnh binh giải viện, Huyền Tông gọi Phát Sư tính hơn muôn dặm, mấy tháng mới đến. Khi gần lời thần, lại có thể gọi hỏi Bất Không Tam Tạng, vua y tấu chiếu gọi vào nội cung, trì niệm thỉnh Thiên Vương, vì cứu vua bưng lò hương, Bất Không tụng Nhơn Vương Hộ Quốc Kinh đà La Ni 14 biến, vua bỗng thấy thần nhơn khoảng 500 vị mang giáp đeo giáo ở trước điện. Vua kinh nghi hỏi Bất Không đáp: “Đây là người con thứ hai của Tỳ Sa Môn riêng lãnh binh đến, là hẳn hợp ý Bệ Hạ đến cứu An Tây, cho nên đến từ tạ, xin lập ăn bỏ sót. Tháng 4 năm đó An Tây tâu rằng: Ngày 11 tháng 2 về sau, thành đông bắc 30 dặm, mây mù mờ mịt, trong có người đông có thể dài hơn trượng đều mặc giáp vàng, khi đến tây trống sừng kêu lớn tiếng chấn động 300 dặm, đất động núi nghiêng qua 2 ngày. Đại Thạch Khương Cư…năm nước, ngay khi bôn vọt giữa các lều bạt có chuột lông vàng, cắn đứt dây cung và khí trượng, đều không kham dùng, đây cần trên lầu thành có ánh sáng, Thiên Vương hiện hình không đâu chẳng thấy, cẩn vẻ giống Thiên Vương theo biểu tiến trình, vua nhơn đó ra lệnh các đạo tiết độ, chỗ ở châu phủ nơi thành tây góc bắc đều đặt hình tượng Thiên Vương, một phần theo cúng dường, đến nơi chùa Phật cũng ra lệnh riêng viện sắp đặt, đến nay ngày sóc trên châu phủ hương, hoa đồ ăn ngon , ca múa gọi đó là nhạc Thiên Vương cùng nước Vu Điền rất có nhân duyên, riêng nhiều ứng hiện nước Vu Điền là bộ phận Tỳ Sa cho nên hiệu là Tỳ Sa Môn Thiên Vương, như nói Thiên Vương nước Vu Điền, cũng như Quán Âm Bồ Tát chỗ hiện hình mà riêng nói là Bảo Đà Lạc Sơn Quán Âm đồng. <詞>PHÓNG ĐĂNG LỄ THƯỢNG NGUYÊN Xét Hán Pháp Bổn Nội Truyện nói: “Phật giáo lúc mới đến cùng đạo só thử tài, đốt kinh tượng không cháy mà còn phát sáng. Lại ngày 30 tháng 12 ở Tây Vức là ngày 15 tháng giêng ở phương đây gọi là tháng đại thần biến. Hán Minh ra lệnh đốt đèn nêu ánh sáng lớn Phật pháp. Một thuyết nói rằng: “Đây do Hán Võ Đế thần ty năm thời suốt đêm bày sáng rỡ, bởi lấy ty Châu Lễ họ Quyền đốt đèn chiếu sáng tế tự, sau lãnh làm việc cũ”, nhưng thì vốn ở ty quyền nêu lửa cúng chức tế tự. Đến Đông Hán, dùng đó nêu sáng lớn Phật pháp, để thêm nhiều triều phát triển biến đổi hẳn phí quy tắc thường. đồi Đường hiệu Tiên Thiên năm thứ hai, Tăng Sa Đà ở Tây Vức thỉnh lấy ngày 15 tháng giêng đốt đèn, ngày 14 tháng giêng năm 28 hiệu Khai Nguyên, sắc lệnh thường lấy ngày mùng 1 tháng 2, ngày 18 tháng 6 năm thứ 6 hiệu Thiên Bảo, chiếu rằng: “Trọng môn khai đêm, do đạt khí dương các ty triều yến vui ở lúc hoà, chúc ở thượng nguyên thường tu trai lục, kia ở hội thưởng hẳn đủ đồ mặn tanh hôi, so đến nhơn theo hơi toan chẳng tiện. Từ nay về sau thường đến tháng giêng nên lấy đêm ngày 17, 19 mở phố chợ để làm thức thường, tìm lại trùng nương đêm 15 phóng đăng. Đức Tông hiệu Trinh Nguyên năm thứ ba, sắc chỉ ngày 15 tháng giêng đốt đèn, là Hán Minh Đế nhơn Phật pháp mới đến cũng đạo só thi pháp ra lệnh khiến đốt đèn tiêu biểu phá ám tối nói rằng Đường Hy Tông đến đất Thục, trở về Trung Nguyên nhiều việc, đến chiêu suy đều bỏ. Nhà Lương hiệu Khai Bình năm thứ hai chiếu rằng: “Mấy năm gần đây do phong tục chưa thái binh đao lại nhiều, lệ tháng giêng đốt đèn bỏ đã lâu. Nay sau 3 đêm cửa phố chợ, cửa cônh tư đốt đèn cầu phước”, Trang Tông vào lạc việc kia lại khởi, các triều sau hoặc đốt hoặc không. Đại Tống của ta hiệu Thái Bình Hưng Quốc năm thứ 6 sắc chỉ Hạ Nguyên cũng đốt đèn, ba đem vì quân dân mà cầu phước, cúng dường trời đất thờ tượng Phật đạo, ba nguyên đều đốt đèn thả đêm bắt đầu từ đây, chấp ở các lệnh. <詞>TỔNG LUẬN Hỏi: Lược Tăng Sử tìm đầu mối sự việc kia là cớ gì? Đáp: Muốn trùng hưng đạo Phật khiến chính pháp được ở lâu. Nói rằng: Mới ngày nay Thiên tử trọng đạo Phật sùng huyền môn, hành Nho thuật có ra thái bình, đã trung hưng, một giới Tỳ kheo sức luân nào chuyển mà nói trung hưng Phật đạo ư? Đáp: Lại muốn giúp trung hưng kia, nếu con họ Thích không biết pháp, hoặc tu hành, không siêng học tập, không rõ gốc khởi, há có thể giúp vua chúa hưng đạo ư? Hoặc nói: Ông có sức gì khiến chính pháp được ở lâu? Đáp: Phật dạy “Biết pháp, biết ma di, hộ trì nhiếp thọ, có thể kh- iến pháp không dứt”. Lại nói: Các Sư đã rộng trước thuật nào đợi ông làm ư? Đáp: Người xưa trước thuật dụng tắc thiếu như, từng không biết ba giáo tuần hoàn đầu lại là đuôi. Một người ở trên cao mà không nguy, lý có một người cho nên phụng khởi ba giáo, có ba giáo cho nên giúp một người, lại phò Nho. Ba vua do hạ cố thì tuyên dùng mà hợp nghi là đạo vậy. Trước Ngũ Đế thầm phù hợp ở bất tể. Xưa giả Mã Sử tuỳ đạo mà ở trên chín lưu, Ban Thơ nhổ Nho đứng đầu nghề văn. Ông lâu muốn ngược kia đến mà lại thật thà ấy, còn đạo vua vậy. Mãnh Kiên suy nghó vốn lòng nhơn kia mà là tổ của nghĩa hạnh vương đạo kia. Từ Hạ, Thương, Chu cho đến nay đã mấy trăm năm, nếu dùng Huỳnh Lão. Do đây nhơn nghĩa mỏng mà lễ hình sanh, vượt lễ kia mà vọt hình kia thì nhà Nho chắp tay, môn nhơn họ Thích khắp thí dùng kia. Lấy từ bi đổi bạo ác, lấy hỷ xả đổi san tham, lấy bình đẳng đổi oán thân, lấy nhẫn nhục đồi sân hại, biết người chết mà thần minh không diệt, biết cõi đến mà nhận nghiệp hườn sanh, thưởng đó lấy thiên đường, phạt đó dùng địa ngục. Như phép thoát cõi, hoặc mô phạm đúc vàng, phạm tà lậu mô vẽ vật định thành đồ xấu, mô tốt phạm gia truyền hình hẳn tạo hình đoan nghiêm, việc chẳng miệng bàn, người đều mắt thấy, đây do vua chúa phụng tin, nhân dân quy tâm, trên có gió lật rồi mà nằm ngửa, mà có thể ở bên nương hệ Lão gồm nhờ nhà nho, thành trí dụ như đợi nơi ba ngu, là ban hợp tôn nơi các Thánh, thành sư tiến lên của thiên hạ. Lại trọn ngày luống uổng đó ở nghị vật, như cánh tay nối liền bàn tay, bàn tay liền với ngón tay, hoặc nắm hoặc buông đâu thường không dấu ư? Phàm như vậy thì ba giáo là vật một, muôn thừa (xe) là quân của một nhà, thấya nhà không nên riêng mến, riêng mến thì tranh sống, tranh sống thì ẩn giáo, rồi ở trong đó tự nhiên không an. Và đã không an thì tổn giáo kia. Không muốn tổn giáo thì chớ như không thiên. Ba giáo đã hoà cho nên pháp được ở lâu. Vã lại như Tần Thuỷ Hoàng đốt chôn đạo Nho, việc rút ra do Lý Tư. Hậu Ngụy chém giết Sa Môn bởi do Thôi Hạo dèm pha. Chu Võ bỏ Phật, đạo hai giáo là sự tự khoe thông minh của Huyền Kỷ, bởi trièu không có chính nhơn. Đường Võ Tông hủy trừ chùa tượng, đạo só tiêu quy, chơn suất Lưu Huyền Tónh, đồng lực vu báng. Lý Thu, Thôi Ảnh giúp bốn vua đầy, các công báo nghiệm nào quá mau. Phụng khuyên Ngô Tào răn nhắc ngăn ngừa lẫn nhau chớ mắc lỗi lầm, vua chúa không dung , pháp từ đâu lập huống gì đạo lưu giữ báu không làm trước thiên hạ Sa Môn nào ngự hiểu lễ để hoà, phải hợp lời Phật tất cả cung tin, tin nơi Lão Quân Tiên Thánh, tin ở Khổng Tử Tiên Sử, chẳng phải hai thánh đây thì đâu có thể hiển bày đạo Phật. Cùng nhau đồng làm đến nỗi vua ở trên nghi hoàng, nếu phí lời đây, thí như không nhờ con em không có đầu mối đấu tranh. Nhiều cha mẹ phá sản gặp hình, rồi thì tổn ba giáo pháp rất lớn chính là lỗi nhỏ nhất thời, lõi ăn ngày tháng nào tổn minh quân. Không thấy Tần đốt sách Bá Gia, thánh nhơn dự đã chôn vách các nhà, hảm hại khiến trừ dứt. Dương, mã hai năm kế nhau mà sống, nào từng không tiêu loại ư? Lương Võ bỏ đạo, Hậu Ngụy Bột Hưng, Thác Bạt giết Tăng, con cháu lại chấn hưng. Hậu Thu Thủy hai giáo, Tùy kéo lại đó. Võ Tông hãm hại thích môn, đi chưa xoay gót, Tuyên Tông mười lần hưng khởi so tay, hà có thể cắt giòng sông Hán, mở ra nắm đắm không thể ngăn sức mạnh của mãnh hổ, huóng gì là Tăng đâu như Đạo An. An cùng Tập Thạc Xó giao du tôn sùng Nho; là Tăng đâu như Huệ Viễn, Viễn đưa Lục Tu Tónh qua suối hổ trọng Đạo. Từ, mộ hai cao Tăng ưa Nho trọng Đạo. Thích tử vấn chẳng phỉ đó. Ta đã trọng người, người há khinh ta, xin tin việc làm của Huệ Viễn kia khả pháp Thi nói rằng: “ Chặc cán búa, chặc cán búa ” kia thì không xa. Mạnh Tử nói: “ Thiên thời không bằng địa lợi, địa lợi không bằng nhơn hoà” là nghĩa đây” ĐẠI TỐNG TĂNG SỬ LƯỢC (QUYỂN HẠ HẾT) -------------------------------- <詞>VĂN TỰ TRIỀU THIỆU HƯNG SẮC CHỈ CẢI THÁNH BAN TĂNG ĐẠO (MỘT TẬP) Pháp Đao…phục thấy Đại Tống Tăng Sử Lược, chép Tăng Đạo ban kế đó, thường ngay triều tập. Tăng trước Đạo đều đứng trước san điện, Tăng đông Đạo tây, phàm gặp giao thiên, Đạo tả Tăng hữu, lâu làm định chế, bởi xuất từ bổn triều Tổ Tông Thành Hiến, dùng làm quy tắc muôn đời không đứt. Mới rồi duyên Tùng Quán đó sau Đạo Só tham thấy phẩm, như bọn Vương Tư, Tức Lâm, Linh Tố, Vương Tùng Đạo, thấy người hai phủ rất nhiều, nhân đây khởi thỉnh, nên áp ban Tăng, nương thế huỷ hoại Tổ Tông chổ định nên phước, sự thể chẳng phải một, căn cứ Thích Giáo đã chở, mấy năm gần đây tai biến đến ở trong xã tắc là điềm sinh linh đồ thán, bởi cũng nhơn đây. Lầm nước mất trên đâu đây là thậm, phục thấy chiếu Tỉnh Khang Kiến Viêm đến nay chổ có Đạo Só thấy quan đã hành trốn hủy, đã không trốn bóng mát, kia ở ban bệ, tự hợp dẫn nương chế xưa của Tổ Tông. Nay đến đạo só thiên hạ, thường gặp nước mất hành hương, thuần phàm vào chùa viện, xem yết thị nhóm hội, không chừa cho nên thấi độ ngạo nhiên tranh gió, tất cả chiêm thượng, toàn trái lễ pháp khách chủ, rất có hại nơi phong giáo rất là chưa tiện, cúi trông triều đình rõ giáng chỉ huy đặt biệt ban cho cải chính, nên nay sau hành hương lập ban các chổ nhóm họp đều xin theo nương Tổ Tông thành vẫn xin ban hành, trong thiên hạ dùng chính pháp phong tục ngỏ hầu đuợc hỏi theo bổ pháp khôing hoại phong giáo. ------------------------------ <詞>HỮU CẨN ĐỦ TRÌNH PHỤC LẤY QUÂN CHỈ (Ngày tháng 2 trụ trì chùa Long Thiền là Đại Bình Hưng ở rừng đông non Lô Sơn nơi Châu Giang truyền pháp Tây Thiên đặc biệt ban hiệu Bảo Giác Viên Thông Pháp Tế Đại Sư Pháp Đạo Tráp Tử.) Phủ Lâm An, Tăng Thánh Huệ Thông Vô Ngại Đại Sư Phạm An… Hữu, Phạm An…phục vì trước cùng Lô Sơn Đông Lâm Thái Bình Hưng trụ trì chùa Long Thiền, Bảo Giác Viên Thông Pháp Tế Đại Sư Pháp Đạo Đồng Trình Tráp Tử, xin nương pháp Tổ Tông cải chính quốc kî hành hương ban thứ Tăng Đạo. Lo mong tỉnh bộ và chùa Đại Thường lấy hội chiếu, khiến văn tự cúng báo trước bỏ đủ giáp triều đình đều đã tròn đủ. Đến nay chưa mong ban hành cải chính…Phục thấy tam triều dạy giám xa giá cầu xin, trước vào chùa Tăng, đến hiệu Thiệu Hưng sắc lịnh điều đã làm Tăng Đạo, kêu ngước rõ hạng trước, quốc triều huấn sắc chính cùng Đại Tống Tăng Sử Lược đồng. Nhưng nay Đạo Só mạo chiếm lâu ngày, thói quen đã thành phong tục, toàn không theo Tổ Tông Thành Hiến, trộm thấy Thích giáo tàng kinh để chép, mấy năm gần đây tai biến mảy may không sai, bởi duyên Đạo só nương thế khởi thỉnh, đố hoài Tổ Tông, chổ định nên phước, tàn hoại Phật pháp, sự thể chẳng phải một, đến nỗi được thiên thùy tai biến hoạ loạn ngang dọc, hại nước nhà như đây, còn chưa sửa chữa gấp, xin đủ trạng khoác cáo Tham Thính Tướng Công, Tham Thính Tướng Công, Bổng Tạ Tướng Công, cúi xin quân từ đặc biệt ban cho mở tấu, sớm làm cải chính, ngỏ hầu được cảnh cáo đồ Đạo, tuân theo chế xưa, ngước lên hợp ý trời, cúi xuống thuận lòng dân, vì nước đẩy tai ương, lại an thiên hạ, chưa dám chuyên đàn, phục hầu quân chỉ. Ngày tháng 9 năm thứ 3 hiệu Thiệu Hưng (phủ Lâm An, Tăng Thánh Hụê Thông, Vô Ngại Đại Sư Phạm An…) trạng. Hành ở trong bộ Thượng Thơ Chuẩn đô tỉnh, phê chuẩn đưa trạng cáo của Tăng Thánh Huệ Thông Vô Ngại đại Sư Phạm An…ở phủ Lâm An, vì sửa quốc kỳ hành hương việc lập ban Tăng, Đạo. Sau đưa lễ bộ khám xứ, Thân Thượng Thơ Tỉnh Kiểm Hội, trước nương phê chuẩn đưa xuống Châu Giang cho Thái Bình Hưng trụ trì chùa Long Thiền ở Đong Lâm, Lô Sơn truyền pháp Tây Thiên đặc biệt ban cho hiệu Bảo Giác Viên Thông Pháp Tề Đại Sư Pháp Đạo…trát tử, tra xét sự lý kiện trên hội, sau đưa lễ bộ khám xét Thân Thượng Thơ Tỉnh bổn bộ tìm kiểm điều kiện dưới và chổ có ra trạng xứng chùa Thái Thường. Nay xem rõ Tăng Sử Lược Nội Xứng thường ngay triều nhóm họp, tăng trước đạo sau, đều đứng sân điện Tăng Đông Đạo Tây, xen tạp chức phó, và nhơn cách lễ Chùa Thái Thường, cửa Tuyên đức, việc cũ quán xá, đạo bên trái Tăng bên phải, sự kiện trước kia đều có văn y cứ, nên chép đều hợp tuân theo, chỗ có Tăng Đạo thường gặp quốc kî hành hương tìm kiểm Chiếu Gia Hựu biên sắc và nội điều sách mới ( hiệu) Thiệu Hưng và chép Tăng Đạo Tự Quán lập văn làm thứ lớp. Nay đến Tăng Pháp đạo lý thường hành hương lập vị, bổn tự nay khám xét, muốn so sánh điều pháp Hỷ Hựu, Thiệu Hưng để Tăng ở bên trái, lại hợp lấy tự triều đình chỉ huy thân bộ bổn bộ, tham chiếu Hy Hựu biên sắc đều chép Tăng Đạo, kia chinh hoà hải hạnh chỉ xưng Đạo Tăng và có đạo só tựa vị ở chính điều trên Tăng. Duyên nay đến trong sách mới Thiệu Hưng, bỏ nương pháp xưa lấy Tăng Đạo lập văn và san bỏ. Tựa Đạo só vị ở trên Tăng chính điều không hành, bổn bộ nay khám xét, muốn nương chùa Thái Thường khám xét, đến khi hành đạo lý lại hợp lấy tự triều đình chỉ huy đã ở ngày mồng 4 tháng 4 năm nay nối liền nguyên trạng và một quyển Tăng Sử Lược, đủ thân đô tỉnh chưa mong chỉ huy, nay lại nương phê chuẩn Hạ Tăng Phạm An…trạng chỉnh sự kiện trên hội, đủ bày đô tỉnh, cách sau mông triều chỉ phê xuống ngày 14 tháng 11 đưa lễ bộ nương điều thi hành, cần đến Phù Hạ. Tăng sử lược nay Đại Tồn thường ngay triều nhóm Tăng trước Đạo sau, đều đứng sân điện Tăng đông Đạo tây giữa xen tạp phó chức. Nếu gặp giao thiên, Đạo bên trái Tăng bên phải chưa biết ban đầu khởi. Thái Thường nhơn Cách Lễ, hiệu Càn Đức năm thứ 6 cửa Tuyên Đức, việc cũ quán xá, Đạo bên trái Tăng bên phải, Gia Hựu điều nội sắc chỉ và gồm chép Tăng Đạo Tự Quán, lập văn làm thú. Chinh Hoà Hải hành điều nội đều gồm chép Tăng Đạo Tự Quán, lập văn làm thứ và có chính điều tựa các đạo só vị ở trên Tăng, Nữ Quan ở trên các Ni. Chiêu Hưng Hải hành điều nội và gồm chép Tăng Đạo Tự Quán, lập văn làm thứ, tựa Đạo só kia vị ở trên Tăng…trước điều đã bỏ bớt không làm, hữu sai thân thờ quan Trịnh Ngạn, cáo thị cấm Phạm An, Pháp Đạo…đuổi Tăng biết uỷ mình. Phụng triều chỉ phê chuẩn giáng,y điều cải chính để Tăng ở bên trái và phù hợp chùa Thái Thường phủ Lâm An Châu Giang đi hết, bèn đủ biết văn trạng liền bày không được trụ trệ. Ngày 21 tháng 11 năm thứ 3 hiệu Thiệu Hưng, sau Pháp Đạo phục vì trước cùng Tăng chính, Phạm An… ở phủ Lâm An đồng trình tráp tử lý hội, xin nương pháp Tông Tổ cải chính việc quốc kî hành hương ban Tăng Đạo, cúi mong ti bộ Thượng Thơ cáo thị rồi, phụng sắc chỉ triều đình phê giáng nương điều cải chính để Tăng ở bên trái cáo thị thi hành và đã phù hợp chùa Thái Thường phủ Lâm An Châu Giang bỏ xong. Pháp Đạo cúi thấy tỉnh bộ kiểm toạ định trước sau sắc chỉ điều lệ và đã bỏ bớt Chinh Hoà Pháp Nội , đạo só tựa ở trên Tăng, Nữ Quan ở trên Ni…điều lệ trước không làm. Trong một hạng Thái Thường nhơn cách lễ hiệu Càn Đức năm thứ 6 cửa Tuyên Đức việc cũ quán xá, hệ đạo bên trái Tăng bên phải Pháp Đạo ngước rõ điều kiện trên lễ pháp Thái Thường và trước sau sắc điều tham chiếu được chính, cùng Đại Tống Tăng Sử Lược đồng, thường ngay triều nhóm Tăng trước Đạo sau và đứng sân điện Tăng đông Đạo tây, nếu gặp giao thiên Đạo bên trái Tăng bên phải bởi là tự đến gặp lễ giao tế xong, xa giá trở về liền ngự cửa Tuyên Đức quán xá ban vị hệ là một việc các lúc khác lập quan đều là Tăng bên trái, trong Tăng Sử Lược ý đã bao quát. Lại xin làm sau chiếu hội chùa Thái Thường, ngoài các xứ đã có châu huyện muốn xin phò đưa theo đường ty chuyển vận đi khắp thiên hạ, nên ở quốc kî hành hương đi xứ quý được văn quỷ khắp đồng sự thành thuận lời. Tăng, Đạo trong thiên hạ đặt chia tu hành. Trong hiệu Vónh Phước Hưng Khôi phục ngôi, (ngày 24 tháng 11 năm Quý Sửu trình xong thì ngày 28 tháng đó khắp thi hành trong thiên hạ) hành ở ty bộ Thượng Thơ. Mùa Đông năm thứ 13 hiệu Thiệu Hưng, nhơn quan Cảnh Linh lập ban, vậy tỉnh phù hành cáo thị, phủ Lâm An quản nội Chưởng Văn Tạ, đạo só Lưu Nhược Khiêm… Ngày mồng 1 tháng 10 năm 13 hiệu Thiệu Hưng, Thượng Thơ Tỉnh Trần Trạng xin tựa Đạo só vị ở trên Tăng, ngày 12 tháng đó đến cung Cảnh Linh, phụng đặt thần ngự Tổ Tông, Đạo só từ tựa Đàn Tránh Chiếm ban ở đông dối xưng riêng được triều đình chỉ huy. Lúc ấy trước đô chính Phổ Trừng, Chơn Tịnh, Huệ Tề Đại Sư, Thiện Đạt, Tăng chính, Giới Nguyệt… bèn đủ bày lệ, ngày 21 tháng đó, sắc chỉ triều đình phê giáng nương pháp xưa Tổ Tông định trước. Gia Hựu biên sắc sách mới Thiệu Hưng để Tăng ở bên trái hàng sau hành ở ty bộ Thượng Thơ. Chuẩn đô tỉnh phê đưa xuống trạng bổn bộ, chuẩn đô tỉnh phê đưa xuống phủ Lâm An, đô đạo chính Lưu Nhã Khiêm… trạng là lý hội. Nay đến quán xá Tăng đạo lập việc vị ban tựa, sau phê chuẩn ngày 15 tháng 10 đưa lễ bộ, hạn năm ngày xem rõ bày bổn bộ Thượng Thơ Tỉnh. Xét hàng sau chùa Thái Thường xem rõ bỏ sau. Nay căn cứ bổn tự bày kiểm, chuẩn hiệu Thiệu Hưng ngày 14 tháng 11 năm thứ 3, đô tỉnh phê trạng chỉ huy. Nương đô tỉnh phê chuẩn đưa xuống lễ bộ, phục chuẩn đô tỉnh, phê chuẩn đưa xuống phủ Lâm An, Tăng chính Huệ Thông, Vô Ngại Đại Sư, Phạm An… trạng, vì chỉnh hội quốc kî hành hương Tăng Đạo lập ban… các việc, sau phê chuẩn đưa lễ bộ khám xét. Thân Thượng Thơ tỉnh xét hội, trước chuẩn đô tỉnh phê chuẩn đưa xuống Thái Bình Hưng trụ trì chùa Long Thiền ở Đông Lâm Lô Sơn Châu Giang truyền pháp Tây Thiên đặc biệt ban cho hiệu Bảo Giác Viên Thông Pháp Tế Đại Sư Pháp Đạo… trát tử, sửa lý sự kiện trên hội. Sau phê chuẩn đưa lễ bộ khám xét, Thân Thượng Thơ tỉnh bổn bộ tìm nghiệm hội hạng dưới. Tăng Sư Lược nay Đại Tống thường nhóm ngay triều, Tăng trước Đạo sau và đứng ở sân điện Tăng đông Đạo tây, giữa xen lộn phó chức, như qua giao thiên đạo bên trái Tăng bên phải, chưa biết bắt đầu từ đâu. Thái Thường nhơn cách Lễ, hiệu Càn Đức năm đầu của Tuyên đức việc cũ quán xá, đạo bên trái Tăng bên phải, Gia Hựu biên điều nội sắc chỉ và gồm chép Tăng Đạo Tự Quán, lập văn làm thứ, Chinh Hoà Hải hành điều nội đều gồm chép Tăng Đạo Tự Quán lập văn làm thứ và có chính điều, các đạo só tựa vị trên Tăng, Nữ quan ở trên Ni, khám hội điều trước đã bỏ không làm và lấy đến chùa Thái Thường, trạng xứng nay xem rõ Tăng Sử Lược nội xưng, thường nhóm ngay triều, Tăng trước Đạo sau và đứng sân điện thì Tăng đông Đạo tây, giữa xen tạp phó chức và chùa Thái Thường nhơn Cách Lễ cửa Tuyên Đức việc cũ quán xá đạo bên trái Tăng bên phải, sự kiện trước kia đều có văn y cứ, gồm chép và hợp tuân theo, ngoài chỗ có Tăng Đạo thường gặp quốc kî hành hương. Tìm kiểm chuẩn Gia Hự biên sắc chỉ và điều nội sách mới Thiệu Hưng đều gồm chép Tăng Đạo Tự Quán, lập văn làm kế. Nay đến ban Pháp Đạo lý hội hành hương, bổn tự nay khám xét, muốn so Gia Hựu biên sắc và điều nội của Thiệu Hưng để Tăng bên trái, lại nên lấy từ triều đình chỉ huy. Thân bộ nay tham xét Gia Hựu biên sắc và chép Tăng Đạo. Kia chính Hoà Hải làm liền xưng Đạo Tang và có Đạo só tựa vị ở trên Tăng chính điều. Duyên nay đến trong sách mới Thiệu Hưng lại nương pháp xưa để Tăng Đạo lập văn và bỏ tựa đạo só vị ở trên Tăng, chính điều không làm. Bổn bộ sai khám xét, muốn nương khám xét của chùa Thái Thường đến sự lý thi hành, lại hợp lấy tự triều đình chỉ huy. Đã ở ngày mồng 4 tháng 4 năm nay, Chước Liên Tiên Trạng và Tăng Sử Lược một bộ, đủ bày đô tỉnh chưa phụng chỉ huy. Nay lại nương phê xuống Tăng Phạm An… các trạng, chỉnh sửa lý sự kiện trên hội. Nay khám xét muốn nương bổn bộ đã khám xét sự lý thi hành, lại nên lấy từ triều đình chỉ huy Thân Thượng Thơ tỉnh, sau phê chuẩn ngày 14 đưa lễ bộ, nương điều thi hành, bổn tự nay xem rõ, phủ Lâm An đô chính Lưu Nhã Khiêm… nêu bày Tăng đạo lập vị nên nương điều trên. Đã giáng phê chuẩn trạng chỉ huy thi hành chỗ có quán xá lập ban, nên nương Thái Thường nhơn Cách Lễ cửa Tuyên Đức việc cũ quán xá, Đạo ở bên trái Tăng ở bên phải. Lại nên lấy từ triều đình chỉ huy, cúi xin tỉnh lại ban rõ chỉ huy thi hành. Thân bộ bổn bộ nay xem rõ, muốn nương chùa Thái Thường bày đến sự lý thi hành. Lại nên lấy từ triều đình chỉ huy, thân bô xét. Sau phê chuẩn ngày 21 tháng 10 đưa cho bộ lễ nương xem rõ đến sự lý thi hành,cần đến chỉ huy, hữu sai người Trịnh Ngạn ngước nhìn cáo thị Đạo Chính Lưu Nhã Khiêm… rõ đây biết. Vẫn lấy biết, văn trạng liền bày. Ngày tháng 10 năm 13 hiệu Thiệu Hưng bèn ở phủ Phù Quân hành xuống ty Tăng, trừ quán xá cửa Tuyên Đức ra các lúc khác lập ban và Tăng ở bên trái xong. Phật hiệu là Thiên Nhơn Sư, xưng là cha từ bi, là bậc Thánh trong hàng Thánh, đạo vượt trước ngàn Thánh. Đế Thích, Phạm Thiên muốn rước đó, trong một hoá cảnh của Phật ba ngàn cõi chớ không phải tôn phụng ở Phật. Như Thiên Tử đi tuần du đến nước chư hầu há có quan liệt só không sớm ở muôn xe. chính yếu chi trước sau kia, lý nên biện rõ cao thấp, nếu biết đạo phàm thánh sai khác, quý khỏi vàng thau đồng giá trị. Đạo thuật không cao nơi vạn dặm, tâm Phật rộng hoá trần sa, phải lấy thì ở đạt cõi thông người, chế cố chấp ở người ngu nhìn ống, mà so sánh Phật trước đạo sau đủ chép ở các sách. Phật Thánh, Đạo phàm xưa nay chung hết, ông nên dứt vọng quy chơn, bỏ tà theo chính, hồi tâm học Phật tu hành chơn chính, tiêu trừ duyên huyễn vọng, giải thoát khổ luân hồi, trong hội Phật thường làm lành, bạn đường bồ đề cùng kết chơn tu cao vượt biểu đời mà xuất phàm, khế chứng chơn như mà nhập Thánh. Không do ngã mạn tự cao, vắng chấp tà vọng mà sống luống chết uổng, nhiều kiếp thăng trầm không thể tự cứu thương thay! Triều Thiệu Hưng sắc chỉ cải chính ban lệ Tăng Đạo văn tự một tập (xong).