<經 id="n2118">LUẬN CHIẾT NGHI (QUYỂN 1 ~ 5) HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN LUẬN CHIẾT NGHI BÀI TỰA Tiến só Bạch Thủy Khuất Bàn ở Hồng Kông soạn. Pháp sư tên là Tử Thành, tự Ngạn Mỹ, hiệu Diệu Minh, người ở Bá Lăng, Kinh Triệu, thuở nhỏ học theo Nho, đến tráng niên theo Phật, tánh ưa sách sử, thích văn chương, muốn du học, giỏi soạn thuật. Thường cùng các bậc hiền só đại phu xướng hòa thi từ. Mỗi câu mỗi vế bỏ lại trong cuộc vui, mọi người lưu truyền nhau khá nhiều, như trong bài thơ “Chim oanh vũ” viết: Học được tiếng người khá rõ rành Biết dùng lời khéo tỏ tâm tình Không biết thân ở trong lồng nhỏ Vẫn thường thỏ thẻ với trời xanh. Bài thơ “Ngủ ngày” viết: Trong mơ chẳng quản tay ôm sách, Một túi “Nam Hoa” cạnh giường nằm. Bài thơ “Nhàn du” viết: Nhà nhà trăng tỏ phần ai thiếu Chốn chốn non xanh ta có duyên. Bài thơ “Đình Thủy Tâm” viết: Nước biết, sen xanh, hương đầy ao, Khắp Đình lặng lẽ ánh lưu ly Hiên cao, giường thấp, nghe mát lạnh Nằm nhìn sóng xanh gợn ly ty. Tất cả các thứ thơ văn, dẫu trường thiên hay đoản kệ, đều như thế, rất là suốt thấu ý chỉ Phật pháp. Ngày trước, tôi thường cùng quan huyện Đại phu Trương Mão thỉnh chú giải Tâm Kinh, trong năm ngày thì hoàn tất, tất cả gồm mười hai ngàn chữ. Ngôn từ nghóa lý tình tường xác đáng, nhưng không vì thế mà cho là vừa ý, lại còn soạn thuật “Bản sắc Pháp sự văn tập” gồm hai trăm bài. Lời lẽ mạnh mẽ, ý chỉ hùng hồn, mà rất hàm súc, cất giữ trong đấy không hề bày ra, cho là khó được và không có ý muốn loan truyền. Bỗng chốc, bởi chiến tranh loạn lạc, bèn ẩn náu nơi núi rừng, thường tiếp khách đến thăm hỏi các nghi ngờ, giải thích cho hiểu mọi sự đuôi đầu, bèn viết thành sách, lấy tên là “Luận Chiết Nghi”, gồm hai mươi chương, chương đầu là “Tự vấn”, chương cuối là “Giải quyết tên gọi”. Lời giản đơn nhưng lý xác đáng, văn sơ lược mà nghóa dồi dào. Bao gồm ngụ ý trong sáu kinh, lược đủ sử sách của các nhà Hiền triết. Trong mỗi chương, dẫn loại minh chứng, giải quyết dứt nghi, lý rất sáng tỏ. Nếu chẳng phải là người đầy đủ biện-tài tam muội, thì ai có thể đạt được như thế ư? Tôi và Diệu Minh là bạn không mời, có được một thời gian gần gũi, phàm soạn được tác phẩm gì, đều không dấu diếm tôi. Nên lời tựa này không đợi mời mà viết vậy. Ngày mồng 8 tháng 8 năm Tân Mão Kính ghi -------------------------------- CHIẾT NGHI LUẬN Tỳ-kheo Sư Tử, người Tây Vức, ở chùa Đại Từ Ân tại Kim Đài thuật lại và chú giải. <卷>QUYỂN 1 Cong nên chặt bỏ, gọi là “Chiết”, chần chừ không nhất quyết, gọi là “Nghi”. Bình phẩm bàn bạc điều khó rõ ràng, gọi là “Luận”. Luận này, nhân Pháp sư Diệu Minh lúc ở chùa có khách riêng đến thỉnh hỏi để giải quyết những điều nghi ngờ. Pháp sư Diệu Minh dẫn lời trong tam giáo để giải đáp, bèn ghi chép thành, nên gọi là Chiết Nghi. <詞>CHƯƠNG THỨ NHẤT: TỰ VẤN Tự: là thuật lại nguyên nhân. Vấn là hỏi về sự nghi ngờ. Đệ (= thứ) là thứ tự. Nhất (= một) là đứng đầu trong các số. Pháp sư Diệu Minh: Người ở Hoa Châu huyện Vị Nam, xuất gia ở chùa Hồng Phúc, gặp được Ngư Nham lão nhân tướng công mà đắc pháp, mở rộng kinh luật luận Đại thừa. Khoảng niên hiệu Chí Chính đời nhà Nguyên, được chiếu phong. Truyền giới Đại thừa, và được ban tặng hiệu là Tử Nhuận Đại quốc sư. Ở nơi Thạch thất: Sau về núi Chung Nam, ẩn cư nơi thạch thất. Có khách đến thăm hỏi, Diệu Minh mời khách ngồi và hỏi rằng: “Ngài đến có việc gì” Nghóa là khách có việc gì mà đến đây. Khách nói: “Có điều muốn hỏi nên đến đây” Người khách nói do có điều nghi ngờ mà đến xin hỏi. Diệu Minh nói: “Tôi ở núi này gần mấy năm mà người đời ít ai biết”. Ngô là tôi (= Ngã) Kỷ là gần, Hãn là ít. Nghóa là tôi ở tại núi này gần mười năm mà người đời ít ai biết. Thêm nữa núi cao lơ lững, dốc đá cheo leo nguy hiểm, không dấu chân người. Sàm, là núi cao nguy hiểm. Nham là chỗ đất đá hiểm yếu. Kiệu là núi cao mà nhọn. Hiểm là hiểm nguy. Gia dó là thêm nữa. Huyền thạch nghóa là đá chồng chất rất đáng sợ. Nghóa là chỗ nguy hiểm khó đi, ít có người lui tới, nên nói là không dấu chân người. Nhân giả (= Ngài) từ xa xôi nhọc mệt đến đây vậy. Đường xa nhọc mệt phiền hà ngài đến đây một lần vậy. Khách nói: Tiếng sấm sét không muốn đến tai người nghe mà tai người tự nghe. Ông Hoài Nam nói: “Sấm là tiếng Âm và dương đụng nhau, cảm là sấm, kích là sét. Tiếng sấm đâu cần được nghe ở tai người, mà là do tai người tự nghe”. “Âm thanh tiêu sáo chẳng có ý làm vui lòng người, mà là do lòng người tự vui”. Nhạc Phổ nói: “Quản là ống sáo, Thược tợ như ống sáo, có ba lỗ, nhỏ và ngắn hơn. Âm thanh của tiêu sáo không muốn làm cho hân hoan lòng người chỉ bởi người nghe tự vui vẻ hân hoan mà thôi”. Bá Di, Thúc Tề ẩn tích ở Thủ Dương, không muốn khoe đức với người, mà người tự biết đức của hai vị. Trong sử ký nói: “Bá Di, Thúc Tề là hai vị quan, được nhường ngôi nhưng không nối ngôi, muốn đi đến Tây Nam, gặp Võ đế đánh Trụ, liền đón rước mà thối thác chẳng theo, ở ẩn nơi núi Thủ Dương, thề không ăn một hạt mì, cuối cùng phải nhịn đói mà chết vậy. Sào Phủ, Hứa Do ẩn dấu nơi Kỳ Tụ, chẳng phô dương đạo ở đời, mà đời tự khen ngợi đạo của hai vị. Thao là chôn vùi dấu cất. Trong Chương Nhượng Vương của Trang Tử nói: “Vua Nghiêu nhường đất nước cho Hứa Do, Hứa Do không nhận, về ở ẩn trong núi Kỳ Tụ”. Ông ở nơi núi non cũng giống như vậy, sao người đời không biết cho được. Khách lấy cái đức của Bá Di, Thúc Tề, Hứa Do để sánh ví đồng loại, sao người đời không biết được. Diệu Minh nói: Điều ông muốn hỏi, tôi có thể nghe được không? Đây là lời thử hỏi. Khách nói: Xin không trái ý. Không lời cấm chỉ. Ông không cản trở và cấm đoán. Diệu Minh nói: Tử Trương nói: người quân tử quý Hiền mà dung chúng, khen ngợi điều thiện mà thương xót người không khả năng. Đại hiền như tôi, đối với người không chỗ nào chẳng dung, chẳng hiền như tôi, người sắp chống ta cớ sao chống người vậy. Trong Luận Ngữ nói: học trò của Tử Hạ đến thăm hỏi Tử Trương. Tử Trương hỏi: “Tử Hạ nói thế nào?” Đáp: “Tử Hạ nói nếu được thì cùng chung với họ, còn không được thì chống cự họ”. Tử Trương nói: “Lạ thay điều ta nghe; người quân tử quý hiền mà dung chúng v.v… Bởi vì lời của Tử Hạ là bức hiếp, Tử Trương chê Tử Hạ là như vậy. Chữ dung mà Tử Trương nói chính là để phá chữ cự (= chống cự) của Tử Hạ vậy. Biết thì không chống cự. Đây là lời hứa đáp vậy. Khách nói: Ôi! Ôi là lời buồn than. Tôi cùng với ông đều là nhà Nho. Tôi cùng với ông đều từng là Nho só vậy. Ngày trước, tôi thường cùng ông là bạn phương ngoại. Dư là tôi. Tích giả là ngày trước, thường là từng vậy. Bỏ đi bờ rào vượt ngoài bản hiệu của lưu tục, gọi là phương ngoại, cùng đồng chí hướng gọi là bạn. Chỉ vì loạn lạc binh lửa, không được ở cùng một chỗ, thật đáng thương vậy. Độc là một mình, nói riêng chỉ vì binh lửa mà trốn lánh phân tán vậy. Trốn lánh không được ở chung. Thật đáng cũng là lời buồn thương vậy. vậy. Ông xuống tóc, xa lìa thế tục được mấy năm vậy? Ông cắt tóc xuất gia làm Tăng xa bỏ tục gia được bao nhiêu năm Thường muốn đến ra mắt một lần mà không được như ý muốn. Từng muốn đến đây một lần để được thấy mặt mà chưa được như ý muốn. Nhân khoảnh khắc cởi bỏ trần tập, bỏ qua việc người, tạm thừa dịp rảnh rỗi trong chốc lát, bèn đến nơi cao cư này, muốn xoá tan điều nghi ngờ, chẳng biết có thể được chăng? Phất âm phủ, là lời thử hỏi. Khoảnh là thời gian trong chốc lát, dó là dùng vậy. Thuế giá là dụng cụ của nhà nông. Nhân khoảnh khắc… nghóa là phóng hạ (= buông xuống). Trần tập là thói quen việc nhà, bác trí là để bỏ một bên. Việc người tức là việc lui tới giao tiếp vậy. Tạm nhân một thời gian rảnh rỗi ngắn, bèn đến chỗ ở cao kín này, muốn để xoá tan những điều nghi ngờ, không biết có được phép chăng! Diệu Minh nói: xin cứ nói điều đó. Xin cứ nói điều nghi ngờ ấy ra. Khách nói: người ta nói. Mượn lời của người khác. Trước kia, lúc Diệu Minh đang là một nhà Nho, chưa từng đọc kinh Phật. Nẵng là ngày trước. Nói ngày tháng trước kia, lúc chưa thường đọc kinh Phật. Ngày nay theo Phật, say đắm nhân quả, bảo rằng Phật giáo là thuyết vắng lặng. Nay xuất gia đầu Phật như tham mê tửu sắc, tâm ý mê say như đắm chìm mà chẳng tỉnh, mới vọng đặt ra luận thuyết nhân duyên quả báo hư vô không tịch. Bỏ đi sách của Chu, Khổng, Hoàng, Lão, không biết gì vậy. Di, luống bỏ vậy. Nghóa là luống bỏ kinh sách của các vị Chu, Công, Khổng Tử, Hoàng Đế và Lão Đam. Diệu Minh nói: Tử Tống nói rằn: “Người quân tử đối với một lời nói lấy làm biết, một lời nói lấy làm không biết” nên lời nói không thể không thận trọng vậy. Tri (= biết) đều âm là trí, trong Luận ngữ nói: “Trần Tử Cầm nói với Tử Cống: “Ông là cung, Trọng Ni há là bậc Hiền đối với ông ư?” Nói: “cung” nghóa là cung kính là tôn trọng thầy ông vậy. Tử Cống bảo: “Người quân tử đối với một lời nói lấy làm biết v.v…”. Đó là trách Tử Cầm không thận trọng trong lời nói. Bởi vì một lời nói Thiện là Trí, một lời nói bất thiện là chẳng phải trí. Trí không biết lệ thuộc ở lời nói, không thể không thận trọng vậy. Tất cả mọi vật phải từ nhỏ đến lớn, duyên từ cạn đến sâu. Vi là nhỏ nhặt. Trước là rất nhỏ cho đến rất lớn. Tất cả mọi vật phải từ rất nhỏ đến rất lớn. Duyên nghóa là Do. Thí như người xuống biển đi từ cạn đến chỗ sâu. Thí như leo lên núi nhạc cao muôn nhận, không thể một bước mà đến được, phải từ chỗ thấp lên chỗ cao. Sách xưa nói: bảy thước là một nhận. Núi Nhạc là núi cao lớn. Thí như có người leo lên núi Nhạc cao muôn nhận, không thể chỉ một bước là đến nơi mà phải từ nơi thấp dần dần lên cao. Đã lên tới đỉnh, các núi đã bước qua, đâu gọi là bỏ. Đã lên đến đỉnh rất cao, nhìn lại các núi đã qua, thảy đều thấp cả, không hề bỏ qua vậy. Tôi ban đầu học sách của Chu, Khổng, Hoàng, Lão, tưởng là đã đến chỗ cùng cực: Lúc ban đầu tôi học các sách của các vị Chu Công Đán, Khổng Tử, Hoàng Đế, Lão Đam, tưởng rằng đã đến chỗ cùng cực. Kế đến xem đọc kinh Phật, mới biết Thánh Đạo có quyền, thật vậy. Thứ đến, nhờ xem đọc kinh sách Phật, mới biết Thánh đạo có Lý Quyền giả chân thật vậy. Nay tôi đem sách của Cơ, Khổng, Hoàng, Lão làm các núi. Cơ là họ của Chu Văn Vương. Nghóa là sách của bốn vị Thánh Chu Công Đán, Khổng tử, Hoàng đế và Lão Đam được thí dụ như các núi. Đem kinh Phật đệ nhất nghóa đế làm tuyệt đỉnh: Đệ nhất nghóa đế tức là bàn đến chỗ cùng cực của giáo thừa vậy. Đã đạt đến Thánh vị gọi là chân đế, chưa thoát khỏi phàm tình gọi là tục đế, đến lúc chân tục chẳng còn lập, tình kiến, phàm Thánh đều hết, chẳng chấp hai biên, chỉ còn trung đạo, nên gọi là Đệ nhất nghóa đế. Lấy đó để dụ cho đỉnh núi tuyệt cao. Đã lên tới đỉnh tuyệt cao, nhìn lại các núi kia tự xa, đâu bỏ nó ư? Đã rõ được kinh sách Phật, như lên đỉnh núi tuyệt cao, nhìn lại sách của Chu Khổng mà như các núi mà tự xa vậy, đâu hề luống bỏ nó? --------------------------------------- <詞>CHƯƠNG THỨ HAI : THÁNH SINH Chương này nói về sự tích Phật Đản sinh nên gọi là Thánh sinh. Khách hỏi : Nơi Phật Đản sinh ở tại nước nào, giòng dõi cao quý và hình dáng, đức tướng, cũng như các pháp yếu Phật nói, có thể được nghe chăng? Cả nước nơi Phật Đản sinh, giòng họ gia tộc và hình tướng, cùng với Pháp mầu Phật nói cũng có thể nghe được chăng? Diệu Minh nói: Quý thay lời hỏi! Với câu hỏi rất sâu xa rộng lớn, nên nói Quý thay lời hỏi: Tôi tuy không được thông minh nhưng sẽ lược nói điều biết được để trả lời cho ông hiểu. Tôi tuy không phải là người thông minh rành rẽ, nhưng lược đem chút ít sự hiểu biết để trả lời câu hỏi của ông. Từ đất Hán đi về hướng Tây khoảng vài vạn dặm. Từ đất Hán tức chỉ về đất Hán Trung Hoa. Chi là đi. Từ đất Hán đi về hướng Tây ước chừng khoảng vài muôn dặm đường. Có nước tên Ca-duy-la. Ở đó có nước tên là Ca Duy La, là Trung Quốc nơi Phật Đản sinh. Vua dòng họ Thích-ca. Giòng họ Thích, nguyên gốc tiếng Phạn là Thích-ca, Hán dịch là Năng nhân. Cha tên là Tịnh Phạn. Tiếng Phạn gọi là Thủ-đầu-đà-la, hoặc Duyệt-đầu-đàn, Hán dịch là Tịnh Phạn. Đại phu nhân tên là Ma-da. Tiếng Phạn là Ma Da, Hán dịch là Đại thuật. Phật vốn ở tại cung trời Đâu-suất. Tiếng Phạn là Đâu-suất-đà, cũng gọi là Đổ-nhất-sử-đa, Hán dịch là Tri Túc. Sau khi Phật Ca-diếp nhập niết-bàn, Phật sẽ bổ xứ, tên là Hộ Minh. Tiếng Phạn gọi đủ là Ma-ha bát Niết-bàn-na, Hán dịch là Đại diệt độ, cũng gọi là Đại tịch diệt. Từ sau khi Phật Ca-diếp nhập Niết bàn, Phật phải bổ xứ một nơi, riêng đợi lúc xuất hiện. Thật vì tu nhân ba A-tăng-kỳ kiếp đã mãn. Tất cả các Đức Phật đều tu nhân trong ba đại A-tăng-kỳ kiếp vậy. Tam kỳ tức là ba đại A-tăng-kỳ kiếp vậy. Quả muôn đức đã tròn đầy. Các Đức Phật đều đủ muôn đức mới là đầy đủ Đạo quả. Nhưng túc nguyện chưa xong. Đời trước có nguyện chưa hoàn thành, nên sinh ở nhân gian. Hiện bày sinh diệt. Thị hiện thọ thân sinh diệt . Gá Nhật Luân cỡi Hương tượng, thác ấm nơi cung vua. Lúc mới đầu thai, hóa hiện trong vầng mặt trời cỡi hương tượng vào thác thai mẹ ở cung vua. Tôn đại Phu nhân Ma-da làm mẹ. Vào ngày mùng 08 tháng 04 năm Giáp Dần, nhằm năm thứ 24 thời vua Chu Chiêu Vương. Đương thời nhà Chu, ngày Tý tháng Giêng, tức nay là ngày mùng 08 tháng 02 vậy. Tại vườn Lâm-tỳ-ni, từ hông phải Mẹ sinh ra. Sinh từ bên hông phải, là nói lên khác với người thường. Trong sách “Chu thư Dị Ký” nói: “Ngày mùng 08 tháng 04 năm thứ 24 thời vua Chiêu Vương ở tại Trung Hoa sông suối nổi sóng, quả đất rúng động, ánh sáng xuyên suốt soi chiếu từ phương Tây. Vua lấy làm lạ hỏi các quan, khi đó, Thái sử Tô Do tấu trình rằng: ở phương Tây có bậc Đại Thánh ra đời.Vua hỏi? Như vậy là thế nào? Tô Do đáp: không việc gì. Đến ngàn năm sau, giáo Pháp lưu truyền, khi đó bèn khắc bia ở ngoại ô phía Nam của nước để kỉ niệm ghi nhớ”. Khi ấy, mặt đất rung chuyển sáu cách. Sáu cách rung chuyển là: động, dũng, chấn, khởi, hống, kích. Lay động không yên, gọi là động, đất đai lồi lõm gọi là Dũng. Mịt mù có tiếng nổ gọi là Chấn. Từ thấp lên cao gọi là Khởi. Đá kêu loảng choảng gọi là Hống, mọi vật va chạm nhau gọi là Kích. Nhưng có ba thứ: trực tiếp rung chuyển gọi là Động, từ thiên hạ rung chuyển gọi là Biến Động. Khắp Đại Thiên đều rung chuyển gọi là Đẳng biến động. Còn năm thứ khác cũng như vậy. Trời rải bốn thứ hoa Vũ âm là Dụ, là rơi xuống. Bốn thứ Hoa là: Hoa mạn-thù-sa, Hoa Đại mạn-thù-sa, Hoa Phân-đà-lợi và Hoa Câu-vật-đầu. Thần nâng chậu tắm bằng vàng. Thần Đất nâng giữ chậu tắm bằng vàng. Rồng phun nước thơm. Chín con rồng phun nước thơm để tắm thân Thái tử. Liền bước đi bảy bước. Xoay quanh bước đi bảy bước, dưới bảy bước chân đều có hoa sen nở. Bảy bước là nói lên bảy thứ Tịnh Tài, cũng gọi là bảy Đức Tài, tức là: Tín, Tấn giới, Tàm quý, Văn xả, Định và Huệ. Mắt ngước nhìn bốn phương. Mắt ngước nhìn bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc. Trong kinh Bản hạnh nói: phương Đông nói lên Niết-bàn tối thượng, phương Nam là nói lên lợi lạc cho chúng sinh, phương Tây nói lên sự giải thoát, và phương Bắc là nói lên dứt hẳn luân hồi. Một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất và nói: “Trên trời, dưới nhân gian, chỉ có ta là tôn quý nhất”. Mắt ngước nhìn bốn phương, tay chỉ trên tay chỉ dưới. Một là khác với người thường, hai là chỉ bày Đại Sự nhân duyên, nghiền ngẫm trong khoảng thời gian động dụng, tức liền tiêu dứt. Có ba mươi hai tướng tốt của bậc Đại Nhân. Trong luận A-tỳ-đàm nói: ba mươi hai tướng tốt là: tướng tiếng nói như phạm thiên, tướng lông trắng giữa hai đầu chân mày, tướng nhiệm mầu Ô-sắt-ni, tướng mắt như trâu chúa, tướng mắt xanh biếc, tướng lưỡi rộng dài, tướng thức ăn biến thành thượng vị, tướng răng trắng sạch, tướng răng bằng và khít, tướng đủ bốn mươi hai chiếc răng, tướng má như sư tử, tướng thân đứng thẳng tay sờ tới đầu gối, tướng vai và bắp tay tròn đầy, tướng thân như sư tử, tướng rộng lớn thẳng, tướng các chỗ đều tròn đầy, tướng da dẻ mịn màng, tướng thường phát sáng một tầm, tướng thân sắc vàng ròng, tướng lông trên thân xoay về phía hữu, tướng mỗi lỗ chân lông chỉ mọc một sợi lông, tướng lông trên thân xoay lên trên, tướng thân phần tròn đầy, tướng ẩn mật tàng, tướng bắp đùi như nai đầu đàn, tướng mu bàn chân đầy tròn, tướng ngón tay có màng mỏng, tướng tay chân nhỏ mềm, tướng gót chân tròn đầy, tướng màng mỏng dài sáng sạch, tướng lòng bàn chân có bánh xe ngàn căm, tướng lòng bàn chân bằng phẳng, no đầy. Và tám mươi vẻ đẹp tùy hình. Tám mươi vẻ đẹp là: móng tay màu hồng đỏ, móng tay nhô lên, móng tay sạch sẽ, móng tay đầy đặn, móng tay tụ nhóm tròn, móng tay mỏng thẳng, giữa các ngón tay khít kín, tay sạch sẽ, tay chân no tròn, tay chân hồng đỏ, tay chân bằng đầy, chỉ tay hiện sâu, vân tay ngay thẳng, vân tay mỏng dài, tay chân mát sạch, vân tay không loạn, mắt cá nơi chân ít lồi, đầu gối tròn đầy, đầu gối lần lượt đầy, bước đi ngay thẳng, như sư tử, bước như ngỗng đầu đàn, tướng như rồng đi, tướng đi như trâu đầu đàn, đi không ngoái nhìn, bước đi không loạn, nửa thân ngay thẳng, thân Phật cao hơn người, tất cả đều đầy đủ, thân Phật đều tốt đẹp, thân thể bằng phẳng, thân thể khắp đủ, thân thể ngay thẳng, thân thể trơn láng, thân thể sạch sẽ, thân thể khôi ngô, thân theo thứ lớp lớn nhỏ, các căn chân chánh, thân mầu không đen, thân thể không nám, lông trên mình sạch sẽ, tướng bụng tròn đầy, bụng không lằn rộng, thân thể sáng sạch, rốn ngay tròn sâu, lỗ rốn nhóm tụ, lằn rốn xoay về phía hữu, lỗ rốn không lõm, lỗ rốn không dài, lỗ rốn không ngắn, lỗ rốn không liền, được tướng răng rồng, răng không quá môi, bốn răng nhóm tụ, bốn răng bén nhọn, bốn răng bằng khít, lưỡi dài mềm mại, tròng mắt đen sáng, lưỡi màu đỏ đẹp, tiếng như phạm âm, tiếng như voi đầu đàn, tiếng như chim ca-lăng-tần-già, răng môi tròn đầy, lỗ mũi sạch sẽ, mũi không rũ xuống, mũi cao mà dài, mũi cao vuông lớn, mắt rộng sạch sẽ, lông mi mọc thứ lớp, lông mày như nữa vầng trăng, lông mi đen mướt, lông mi sáng suốt, tai dài rũ xuống, tóc nâu đầu nhỏ mịn. Vua mời Tiên nhân A-tư-đà đến xem tướng. Vị tiên ở phương Tây có khả năng xem tướng lành dữ tốt xấu. Tiên thưa: Thái tử có tướng tốt trên thân rực rỡ như hoa phân-đà- lợi: Thân tướng Thái tử như hoa Phân-đà-lợi mới nở xinh đẹp rực rỡ thơm tho. Nếu sống tại gia thì làm vua Chuyển luân, xuất gia thì thành Đạo Vô Thượng. Ở tại gia thì nhất định làm kim luân thánh vương, xuất gia chắc chắn thành đạo quả vô thượng. Theo sự thấy biết của thần, thì chắc chắn Thái tử không ở tại gia vậy. Tiên nhân nói rằng Thái tử nhất định sẽ lìa bỏ ngôi vua. Bèn rơi lệ, nói: Thái tử thành Phật, chắc chắn sẽ ban bố đại pháp, nay thần đã già yếu, mất lợi lớn ấy, thật đáng buồn thương! Khóc có nước mắt mà không ra tiếng, gọi là khấp. Tiên nhân biết Thái tử thành Phật, giảng nói Đại pháp. Vì già không được nghe nên mới rơi lệ. Ngày mồng 08 tháng 02 năm Nhâm thân, lúc ấy Thái tử đã mười chín tuổi. Ngày Tý tháng Giêng thời nhà Chu, ngày mồng 08 tháng 02 tức nay là ngày mồng 08 tháng 12 vậy. Gọi Xa nặc thắng yên cương ngựa. Xa-nặc, là người sống trong nhà của Phật, Chu tông là tên ngựa. Dạo chơi bốn cửa thành, khi gặp được vị tăng, rõ được pháp, không còn vui thích chốn cung vua, gấp muốn tu tâm. Nhân dạo chơi bốn cửa thành, đến cửa Đông thấy một người già nua suy yếu, đến cửa Nam thấy một người bệnh, đến cửa Tây gặp một đám tang, đến cửa Bắc gặp một vị Tỳ-kheo; đó là do vị trời Tác Ngõa hóa hiện. Thái tử hỏi: Ông là ai? Vị Tỳ-kheo đáp: Thế gian là vô thường, Ta do tu hành đạo thánh, vượt đến bờ kia. Nếu ai tu được như vậy cũng đều được như thế. Nói xong liền bay lên hư không biến mất. Thái tử nhân thấy già, bệnh, chết, khổ rất sợ hãi, gặp vị Tỳ-Kheo, càng khởi tâm lành, nhàm chán chốn cung vua mà gấp muốn cầu được xuất gia tu hành. Vua sinh lo buồn, sợ không có người kế thừa ngôi vua, bèn tăng thêm người hầu hạ ca nhạc để vui lòng Thái tử, nhưng Thái tử chẳng vui. Vua biết tâm Thái tử muốn xuất gia, lo sợ không có người kế thừa đất nước, bèn tăng thêm các thể nữ hầu hạ, lại thêm đàn ca xướng hát để Thái tử được hân hoan vui vẻ, nhưng Thái tử chẳng lấy làm vui thích. Đợi đến nửa đêm. Đãi là đến, ương là một nửa. Đến nửa đêm đó. Người ở cõi trời Tịnh cư. Người ở cõi trời Tịnh cư là người giúp cho Thái tử xuất gia vậy. Dùng năng lực phức đức cõi trời, hiện bày hình tướng xấu xa của các người hầu hạ, chín lỗ chảy tràn các thứ bất tịnh, ruồi lằn bu nhóm, thật đáng chán bỏ. Xú là xấu xa dơ uế. Người cõi trời Tịnh cư, vận dụng thần lực phước báu cõi trời, hiển bày thân tướng của các người hầu hạ, thể nữ thảy đều ngủ say, hiện tướng thây chết, ở mỗi người, hai mắt, hai tai, hai mũi, miệng, đường đại tiểu tiện v.v… khắp chín lỗ đều tuôn chảy vật bất tịnh. Ruồi lằn bu nhóm. Thái tử càng sinh tâm nhàm chán, xa lìa. Nữa đêm, giờ tý, người cõi trời Tịnh cư báo rằng: Thái tử hãy rời khỏi cung, bây giờ đã đúng lúc. Người cõi trời bảo với Thái tử: Đã từ cung trời Đâu-suất xuống đây, muốn viên mãn túc nguyện, cần phải rời cung vua, bây giờ đã đúng lúc. Khi ấy, Thái tử cỡi kiền-trắc. Kiền trắc là tên ngựa. Cùng với người hầu cận Xa-nặc. Xa nặc là người hầu cận đi theo. Người cõi trời nâng chân ngựa. Người cõi trời nâng đỡ chân ngựa kiền-trắc. Bay đi trong không gian. Bay giữa khoảng không vượt thành ra đi. Đến núi tuyết, ngồi kiết già trên tảng đá. Đã đến núi tuyết, ngồi trên tảng đá Bàng-đà. Thiền quán vắng lặng sáu năm, mới thành Phật quả. Trong “Chánh Tông Ký” nói: Trước tiên đến núi Di-lâu, tập hành bất dụng xứ định, kế đến, tới chỗ Uất-đầu-lam-phất, tập hành Phi phi tưởng xứ định. Lại đến núi Tượng Tỷ, khi nhìn thấy sao mai ló dạng liền ngộ đạo. Sáu năm vắng lặng thiền quán, mới thành Phật quả. Không điều ác nào chẳng bỏ, không điều thiện nào chẳng đủ. Khử là dứt bỏ, các điều ác đều dứt hết, muôn điều lành đầy đủ. Đầu tiên, đi đến rừng Nai, ba lần chuyển Pháp Tứ Đế, và Ma-ha- Nam v.v… cả thảy năm người đều đắc Đạo. Năm người là, lúc Phật mới vào núi, bên giòng họ cha có ba người: A-thấp-bà, Bà-đề và Ma-ha-nam-câu-lợi. Bên giòng họ mẹ có hai người: Kiều-trần-như và Thập Lực Ca-diếp đi theo hầu Phật, Phật không sử dụng, năm người ấy đều tu phạm hạnh. Lúc Phật đã thành Đạo, đầu tiên đến Lộc Uyển, vì Kiều Trần Như v.v… Ba lần quay bánh xe pháp Tứ Đế. Ba chuyển là: thị tướng chuyển, khuyếân tu chuyển và tác tướng chuyển. Thị chứng chuyển tức là dạy: “Đây là khổ, đây là Tập, đây là Diệt, đây là Đạo”. Khuyến tu chuyểân tức là dạy: “Đây là khổ các thầy phải biết, đây là Tập các thầy phải đoạn, đây là Diệt các thầy phải chứng và đây là Đạo các thầy phải tu”. Biết được nhân khổ quả khổ ở thế gian và nhân an vui, quả an vui của xuất thế gian. Tác chứng chuyển là dạy: “Đây là khổ ta đã biết, đây là Tập ta đã đoạn, đây Diệt ta đã chứng và đây Đạo ta đã tu”. Kiều Trần Như v.v…, nghi ngờ hỏi: “Đức Như Lai còn trở lại thế gian với nhân khổ quả khổ, nhân an vui quả an vui nữa chăng?” Đức Phật đáp: “Ta đã biết, ta đã dứt, ta đã tu và ta đã chứng”. Năm người nghe nói pháp ấy rồi mỗi người tự đắc Đạo quả. Ban đầu, nói Pháp nhỏ. Tức là ba chuyển pháp Tứ Đế Thứ đến nói về không tông, do đó, đến các nơi như Thành Thất- la-phiệt, tinh xá Kỳ-hoàn v.v… Với tám bộ bát nhã, lần lượt giảng nói. Thành Thất-la-phiệt tức là thành của nước xá-vệ, Tinh xá Kỳ- hoàn tức là nơi vườn cây của Thái tử Kỳ-đà, tinh xá do Cấp Cô Độc xây dựng. Tám bộ bát nhã là: Đại phẩm bát nhã, Trung phẩm bát nhã, Phóng quang bát nhã, Quang tán bát nhã, Đạo hạnh bát nhã, Kim Cương bát nhã, Thắng thiên vương bát nhã, và Văn-thù bát nhã. Tám bộ bát-nhã, phần nhiều là phá “hữu” quy “không”, nên gọi là Không Tông. Sau cùng, ở núi Linh Thứu, giảng nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa, hội ba quy về một, bỏ quyền theo thật. Linh Thứu là tên núi. Núi ấy hình dáng giống như chim thứu, nên gọi là Linh Thứu. Núi cao hang rộng bóng lộn có thể dung chứa cả muôn người. Phật trú tại đó giảng nói nhiều pháp sâu mầu. Nhân vì trước kia, đến vườn nai, nói các pháp hữu nên thảy đều chấp hữu, kế đến giảng nói tám bộ bát-nhã, vì nói không nên thảy đều chấp không, cho nên cuối cùng ở tại núi Linh Thứu, giảng nói kinh pháp hoa, hội ba quy về một tức là nhóm hội ba thừa kết quy về một thừa. Bỏ quyền theo thật tức là từ cạn đến sâu, bỏ tiểu mà quy về đại vậy. Và ở những nơi như Điện Phổ Quang Minh, đạo tràng Bồ-đề, các tầng trời cõi Dục, cõi sắc, Thệ Lâm v.v… giảng nói kinh Đại Hoa Ng- hiêm, tiếng pháp sâu mầu. Kinh ấy có ba bộ: bộ thượng có mười ba ngàn Đại thiên vi trần số kệ, cả thảy một tử thiên hạ vi trần số phẩm. Bộ Trung có bốn trăm chín mươi tám ngàn tám trăm kệ, tất cả một ngàn hai trăm phẩm. Bộ hạ có mười muôn kệ tụng, tất cả bốn mươi tám phẩm. Hiện nay lưu truyền có ba mươi chín phẩm. Tổng cộng bốn mươi lăm ngàn bài tụng. Ở bộ tịch đời đường ra còn có chín phẩm chưa thuộc loại hạ bộ kinh này vậy, kinh này, Đức Phật ở bảy nơi mà giảng nói chín hội, đủ cả tám giáo: thiên, viên, đến, tiệm, không, hửu, quyền, thật, xuyên suốt cả huyền lý của ba thừa năm giáo. Nên gọi là kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm vậy. Không sự gì chẳng cùng, không lý gì chẳng tận. Kinh ấy cùng sự đại tiểu, hết lý cạn sâu Thánh phàm đều thấu suốt, chủ bạn cùng tham. Viên mãn năm giáo, xuyên suốt ba thừa, bao trùm mười phương, thâu nhiếp tất cả, hội nhóm cả phàm, thánh quy về một thể, suốt cả chân tục để hòa lẫn ấy vậy. Không và hữu đều hiển bày rõ ràng Như giữa không gian mà hiện ảnh. Sắc và tâm đều vào. Chiếu và cảnh đều vắng lặng. Như đèn thay nhau soi chiếu, giống như kiếng phản chiếu lẫn nhau, lớn nhỏ bao hàm lẫn nhau, mật nhiều không ngại. Soi chiếu lẫn nhau vậy, là tổng kết ý văn trên là diệu dụng của Phật, thì hoặc lớn hoặc nhỏ thảy đều dung chứa lẫn nhau, hoặc một hoặc nhiều cũng là vô ngại. Đây là nói lên việc Thánh phàm đều thấu suốt, chủ bạn cùng tham, không chướng ngại. Như đèn và đèn soi chiếu lẫn nhau, kiếng và kiếng dung chứa lẫn nhau. Mười đời đồng trong một niệm: Nên trong Kinh Hoa nghiêm có bài kệ rằng: “Một niệm quán khắp vô lượng kiếp. Không đi không đến không an trú. Rõ việc ba đời như thế ấy. Vượt qua phương tiện đủ mười lực”. Chỉ trong Sát na hiện đủ trong một chân lông. Diệu dụng của Đức Như Lai gom nhiếp cả cõi nước đại thiên, đặt để trong một lỗ chân lông, trong đầu một sợi lông mà chứa khắp đại thiên sa giới, đó là các Đức Phật, Bồ-tát viên dung tất cả cảnh giới Hoa nghiêm vậy. Vì chẳng Hữu huyễn hữu của Hữu thật vô mà thành ra Tông Diệu hữu của Hữu Năng hữu Hữu sở hữu. Vì chẳng không chân không của không ngoan không mà hiệu cảnh chất chân pháp giới nơi không năng hiệu không sở hiệu. Chính vì không Hữu chẳng lập, nên nhị đế thường tồn. “Chân” thì không chỗ lập, “Vọng” vốn là không, chẳng tức chẳng ly, nên hai đế thường còn. Tịch chiếu đều mất, chân tục đều bày. Khi ấy, thể dụng đều mất, hai đế đều hiển bày. Ngay nơi Hữu mà hiện ra không Hữu: Ngay nơi Hữu mà quán không Hữu Tức không mà hiện ở Hữu không: Ở tại không mà Quán Hữu không Bao gồm các tên gọi Đồng Dị trong pháp giới Như biển tiếp nhận nước ở nhiều dòng khác nhau, Đều gọi là Phương Quảng Tợ như trăm sông mà đồng rộng lớn Cộng hết tên gọi khác nhau của các giáo Gồm thâu nhiếp tên của Ba thừa năm giáo Mà gọi chung là Hoa Nghiêm. Bổn giáo: Tiểu, thỉ, chung, đốn đều không ngoài Viên giáo này, nên nói gọi chung là Hoa Nghiêm. Thật là khuôn phép lớn tròn đầy: Thật là khuôn phép lớn đầy đặn tròn đủ. Mới là Diệu thuyết của chân thường. Chẳng phải “Giả” là “Chân”, chẳng phải “ Biến” là “Thường”. Bàn luận về Lý chân thường, nên gọi là Diệu thuyết. Thật lớn thay. Khen ngợi sự rộng lớn của Viên giáo. Đạt đến cùng cực, không thể suy nghó, bàn luận. Pháp không có lớn nhỏ, trước sau, y cứ theo căn có mà gọi tên, vượt ngoài tâm tưởng, nói năng suy nghó, đều không thể được. Tình thức danh ngôn không thể diễn tả được, nên cùng cực không thể nghó bàn, và tận cùng trong giáo pháp. Cho nên, Phật làm lợi ích chúng sinh vô cùng rộng lớn, Cố (= nên) là từ chỉ cho Nghóa, nêu bày như thế, độ khắp tất cả chúng sinh, đồng chứng diệu quả Nhất thừa, nên nói là rộng lớn. Thấm nhuần muôn vật khắp nơi. Tâm lợi ích cứu giúp, như trời mưa tuôn, muôn vật đều được thấm nhuần, nên nói là thấm nhuần muôn vật khắp nơi. Phương tiện khéo léo cứu độ ức kiếp chúng sinh. Trong Kinh Hoa nghiêm chép: Vung lưới Đại giáo, bắt tất cả cá trời người đem về bờ Niết bàn. Cứu vớt vô biên nỗi khổ. Tùy loại hóa đạo, cứu vớt kẻ đắm chìm, thảy đều lìa khổ được vui. Nhưng dùng sinh của vô sinh mà hiện sinh ở Hữu sinh. Đức Như Lai diệu thể chân tịnh, xưa nay vốn vô sinh, nhưng thấy tất cả chúng sinh qua lại trong sáu đường, không lúc nào ngừng dứt, cho nên vì chỉ bày thể của vô sinh, mà hóa hiện ở loài của hữu sinh. Dùng tướng của vô tướng mà hiện ra tướng của Hữu tướng. Tướng chân thật, gọi là vô tướng, dùng lý vô tướng mà hóa hiện ra hữu tướng, mới là tướng hóa độ chúng sinh. Khách im lặng suy nghó hồi lâu không nói. Khách nghe nói pháp môn viên dung mầu nhiệm của Phật như vậy, tự lắng đọng tâm tư suy nghó hồi lâu không nói. Diệu Minh hỏi: Với những lời tôi nói, Ông chẳng trả lời được hay sao? ấy ư? Nay ông nghe tôi nói pháp yếu, chẳng thể tự giải quyết được lý Khách nói: Tôi sợ ông dùng những từ lớn lao, những câu Thánh thiện mà khinh thường tôi. Tôi sợ ông dùng những từ ngữ hay khéo, những câu nói cao siêu mà khinh thường lừa dối tôi. Diệu Minh nói: Không. Không phải như vậy. Ngày xưa, trong pháp hội Hoa nghiêm, các vị Thánh Nhị thừa đều là những vị lậu tận Đại A la Hán. Tiếng Phạm là A-la-hán, Hán dịch là Vô học. Xưa kia, trong pháp hội Hoa nghiêm, lúc Phật nói kinh này, các tiểu thánh Nhị thừa Thanh văn Duyên giác, các lậu hoặc đã hết sạch, đều là những bậc Đại A la Hán không còn phiền não, có đủ tám Pháp giải thoát, tùy ý vô ngại, trần lao không thể ràng buộc, nên gọi là giải thoát. Tám thứ ấy là: Trong có sắc quân, ngoài có sắc giải thoát. Trong không sắc quán, ngoài sắc giải thoát. Tịnh giải thoát. Không vô biên xứ giải thoát. Thức vô biên xứ giải thoát. Sở hửu xứ giải thoát. Phi tưởng xứ giải thoát. Tưởng thọ diệt xứ giải thoát. Được sáu thứ thần thông. Hoạch (= được). Sáu thứ thần thông gồm: Thiên nhãn thông. Thiên nhó thông. Tha tâm thông. Thần cảnh thông. Túc mạng thông. Lậu tận thông. Lúc mới nghe chỉ dạy giáo pháp Hoa nghiêm viên mãn. Bậc Thánh nhị thừa ấy, lúc đầu trong pháp hội Hoa nghiêm nghe Phật chỉ dạy đạo lý viên giáo này. Mắt không nhìn thấy thân Phật. Đổ là thấy, không thấy thân Phật. Tai không nghe tiếng Phật nói. Văn là nghe, tai không nghe lời Phật nói pháp. Tâm không rõ nghóa pháp. Tâm không rõ biết nghóa vị của giáo pháp Phật nói. Thần ý mê say. Đồng như giải thích ở câu dưới. Trí mờ tình mê. Tâm thần những vị ấy như không biết Đông, Tây, Nam, Bắc, mê mờ chân như. Như người mắt sáng đi vào chỗ tối tăm, tánh tình họ hôn mê mịt mờ, chẳng tự rõ biết. Mịt mờ tự mất, là không biết gì cả, mơ màng mà tự mất thân mạng. Đều không hay biết gì là vì đối với Viên giáo ấy, chỉ có Bồ-tát Đại thừa mới biết được, hàng Nhị thừa tiểu thánh nghe pháp yếu ấy, đều như mù như điếc, nên nói là thường không hay biết. Đến sau nói phẩm Nhập Pháp Giới, mới lãnh hội được. Cẩn là mới. Đến khi Phật nói phẩm Nhập Pháp Giới, chỉ mới tỉnh ngộ chút ít. Vả lại, họ bị che lấp, sau đó trí tuệ phát sinh hiểu biết là vì sao? Vì ba mươi tám phẩm trước, phải là người có căn tánh. Chep lấp không thông thì sẽ bị ngăn ngại, nghóa là trước bị bít lấp, ngăn ngại mà không biết, nhưng sau trí tuệ phát sinh lãnh hội được, là vì sao? Vì người căn tánh thấp kém không thể mau lãnh hội được Đại pháp. Hơn nữa vì ba mươi tám phẩm trước là dành cho người có đủ căn tánh lớn, nên hàng Nhị thừa không thể rõ biết. Chỉ có Bồ-tát nhập địa, lý vi diệu, lời cùng cực chẳng gần với thường tình. Duy là chỉ có, chỉ có người bước vào Địa vị Bồ-tát, mới thấu được ngôn từ rất vi diệu ấy. Nên không thể dùng tình thức cạn cợt tầm thường mà suy lường được. Chẳng phải cảnh giới của bậc Thánh nhị thừa nên không thể được nghe. Pháp ấy thật chẳng phải cảnh giới của bậc Tiểu thánh nhị thừa Thanh văn Duyên giác, nên không thể được nghe. Có ít vị Bồ-tát lặp lại ví dụ, nhưng các vị ấy ức chế không tin. Phả là ít, có các Bồ-tát lặp lại thí dụ để trình bày, nhưng các bậc Thánh ấy tuy đè nén mà còn không thể tin. Các bậc Thánh còn vậy, huống chi là ông ư? Nhó là ngữ trợ từ, bậc Thánh nhị thừa đối với các thứ thí dụ như thế còn chẳng biết chẳng tin, huống chi đối với ông? Khách nói: Bậc Thánh còn không rõ, làm sao ông biết được? Hê là sao. Khách lại nói rằng: Các bậc Thánh còn không biết thì làm sao ông có thể biết được ư? Diệu Minh nói: Dùng trí bậc Thánh mà nói thì Đại phàm không bằng tiểu thánh. Trí bậc Thánh tức là bậc tiểu Thánh nhị thừa, khéo có thần biến, tự tại vô ngại. Do say đắm vào đó nên đối với Nhị thừa không thể tu hành. Người phàm phu đại tâm, do không có thần thông nên không sánh bằng bậc Tiểu thánh. Nói theo căn tánh thì bậc Tiểu thánh không bằng đại phàm. Phàm phu thượng căn thượng tín, thực hành hạnh Bồ-tát tu đạo Đại thừa, không lập giai vị, thẳng đến chánh giác, đó là Tiểu thánh không bằng đại phàm. Do căn cơ có lớn nhỏ, tánh có dày mỏng. Người thượng căn, ý khí cao xa, kẻ hạ căn ý khí nhỏ kém. Nên có chia ra lớn nhỏ dày mỏng. Tôi do rất mực kính trọng tin đạo, nên rất nhịn chịu dục lạc, đối với Đại pháp có thể lược biết chút ít. Tôi do tin đạo lý này, tôn kính sâu dày, do vậy rất nhẫn nhịn dục lạc thế gian, răn dè mà chẳng tham. Lại đối với pháp Đại thừa lược biết chút ít. Như muốn giải thích rộng ra hãy đợi nghe nhiều. Nếu có trích dẫn rộng rãi và rõ ràng nghóa ấy thì hãy đợi bàn rộng nghe nhiều. ----------------------------------- <詞>CHƯƠNG THÚ BA: HỎI VỀ ĐỨC PHẬT Chương này, vì trong chương hai, nói về Phật đã có họ tên, vì sao không gọi, nên nói là hỏi về Đức Phật. Khách hỏi: Kia đã có họ, sao bỏ không gọi, lại gọi là Phật. Nghóa ấy thế nào? Diệu Minh nói: Đó là Thụy hiệu của bậc Đại thánh. Trong sử ký nói: Thụy pháp tức là dấu vết của hạnh, hiệu là phô bày công lao, người có công lớn thì xưng thụy hiệu. Hễ nói về hiệu thì có mười: Như Lai phỏng đồng với tích trước. Ứng cúng kham nhận làm ruộng phước, Chánh biến tri thấu suất cả chân ngụy. Minh Hạnh Túc quả được từ nhân Thiện thệ khéo đạt được giác ngộ. Thế gian giải, Vô thượng só, cùng tận Pháp giới. Điều ngự trượng phu giáng sinh thành đạo, Thiên nhân sư ứng cơ nói pháp, Phật Tam giác viên minh, Thế Tôn Độc tôn xuất thế. Dùng hiệu mà xưng nên gọi là Phật, do từ thời Tam Hoàng và Ngũ Đế xưng hiệu mà không xưng họ. Tam Hoàng là Phục Hy, Thần Nông và Hiên Viên, Ngũ Đế là Thiếu Đạo, Chuyên Húc, Cao Tân, Đường Nghiêu và Ngu Thuấn. Đều có họ tên mà chỉ xưng hiệu. Phật, nghóa là Giác. Tiếng Phạm là Phật-đà, Hán dịch là Giác Giả. Nghóa ấy có ba: Tự giác, giác tha và giác hạnh viên mãn. Tự giác là tự lợi, giác tha là lợi tha và giác hạnh viên mãn là tự tha đều lợi. Vì Ba kỳ đã mãn. Tiếng Phạm gọi là Kỳ, Hán dịch là Kiếp, chư Phật đều tu ba vô lượng kiếp, mới được công hạnh tròn đầy. Ra khỏi ba cõi. Không bị bó buộc ở cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc nên gọi là ra. Đủ ba thân. Thanh tịnh pháp thân, viên mãn báo thân và tùy loại hóa thân. Ba thân đã tròn đủ nên gọi là đủ. Sáng ba trí. Trí sinh không trí Pháp không và trí câu không, ba trí đã sáng, nên gọi là sáng. Đủ ba đức. Bát-nhã, Pháp thân và Giải thoát đều đủ, nên gọi là đủ. Sáng ba giác. Tự giác, giác tha và giác hạnh viên mãn, ba giác đều soi suốt, nên gọi là sáng. Đủ ba thường Thường bất động, thường bất đoạn và thường hóa thân tức là ba thân; pháp thân, báo thân và hóa thân, cả ba thường đầy đủ nên gọi là đủ (= bị) vậy. Tròn mười lành: 1/ không giết hại, 2/ không trộm cướp, 3/ không tà dâm, 4/ không nói lời đôi chiều, 5/ không nói lời thô ác, 6/ không nói lời thêu dệt, 7/ không nói lời luống dối, 8/ không tham dục, 9/ không sân nhuế, 1 0/ không tà kiến. Lìa mười thứ ác ấy thì thành mười điều lành, nên gọi là tròn (= viên) vậy. Đủ mười độ: Bố thí, giữ giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ, phương tiện, đại nguyện, đại lực, đại trí, đầy đủ mười độ ấy nên gọi là đủ (= mãn) vậy. Vượt mười Địa : Hoan hỷ Địa, Ly cấu Địa, Phát quang Địa, Diệm tuệ Địa, Hiện tiền Địa, Viễn hành Địa, Bất động Địa, Thiện tuệ Địa và Pháp vân Địa. Vượt qua mười địa, chứng Đẳng giác, Diệu giác, nên gọi là vượt vậy. Đủ mười thân: Bồ đề thân, Nguyện thân, Hóa thân, lực trì thân, tướng hảo thân, oai thế thân, ý sinh thân, phước đức thân và trí thân, đủ mười thân ấy nên gọi là đủ (cụ) vậy. Đủ mười lực: Thị xứ phi xứ trí lực, tri nghiệp lực, tam muội lực, tri căn lực, tri dục lực, tri tánh lực, đạo lực, túc mạng lực, thiên nhãn lực, vô lậu lực, mười lực đầy đủ, nên gọi là đủ vậy. Mười trí sáng tỏ: 1/ thế tín trí, 2/ pháp trí, 3/ loại trí, 4/ khổ trí, 5/ tập trí, 6/ diệt trí, 7/ đạo trí, 8/ tha tâm trí, 9/ tận trí, 10/ vô sinh trí. Mười trí ấy soi suốt nên gọi là sáng tỏ. Mười hiệu oai nghiêm: 1/ Như Lai, 2/ Ứng Cúng, 3/ Chánh Biến Tri, 4/ Minh Hạnh Túc, 5/ Thiện Thệ, 6/ Thế Gian Giải Vô Thượng Só, 7/ Điều Ngự Trượng Phu, 8/ Thiên Nhân Sư, 9/ Phật, 1 0/ Thế Tôn. Oai trọng tôn kính nên gọi là nghiêm vậy. Mới gọi là Phật: Tổng kết ý văn trên, đủ các công đức như thế, nên gọi là Phật. Phật có ba thân, ở đây là nói về Báo thân, Hóa thân. Vì đây, chỉ nói về Báo thân và Hóa thân. Về Pháp thân thì ông chẳng nghe được. Nếu nói về lý của pháp thân thì ông không nghe được. Khách nói: Nhân muốn nghe điều ấy: Khách nhất định muốn được nghe vậy. Diệu minh nói: người tha thiết muốn nghe về pháp thân: Dưới đây là hình dung về sự nhiệm mầu của pháp thân. Nghóa là các Đức Như Lai chân tịnh pháp giới: Chân tịnh pháp giới tức là lý pháp thân. Gốc của thần minh, cội gốc của tạo hóa: Gốc của thần minh tức là bản thể của chân tịnh Diệu minh. Cội gốc của tạo hóa tức là cội nguồn của chí thánh thần hóa. Đó là cảnh giới của các Đức Phật vậy. Un đúc lưỡng nghi, rèn luyện muôn hữu: Ở đây thí dụ tạo hóa là xưởng đúc lớn. Trang tử lấy trời đất làm lò lớn, lấy tạo hóa làm xưởng đúc lớn, như nung chảy mà đúc. Lưỡng nghi là Lý Âm Dương thăng giáng, tức là pháp một động một tónh, cũng như người thợ đúc các vật dụng, phải dùng các thứ lò, bệ, kềm, búa làm các đồ dùng, đều từ từng khoảng tất vuông mà phát sinh. Đó là dụ về mặt sự của pháp thân. Lớn mà không ngoài: Lý pháp thân bao trùm trời đất, nên gọi là không ngoài. Nhỏ mà chẳng trong: Pháp thân nhiệm mầu, nhỏ như hạt bụi gần như hư không cũng không ở trong ấy. Rộng mà không đầu mối: Khoáng là chiếu sáng nghi rộng lớn và lý Pháp thân, tuy chiếu sáng rộng lớn nhưng không có đầu mối để quán sát. Mịt mờ vắng lặng mà không gì sánh đối: Yểu là hiện tượng sâu xa lặng lẽ. Diệu dụng của pháp thân tuy mịt mờ sâu lắng nhưng không gì sánh đối bằng. Nguyên nhân sinh ra muôn tượng: Các loại muôn tượng đều từ pháp thân sinh ra. Là chỗ hình thành năm thứ âm thanh: Trong Nhạc Tinh Đồ Phổ nói: Năm thứ âm thanh là: cung, thương, dốc, chủy, vũ. Nếu phối hợp với năm hành thì: Cung thuộc Thổ, Thương thuộc Kim, Dốc thuộc Mộc, Chủy thuộc Hỏa và Vũ thuộc Thủy. Năm thứ âm thanh và năm hành cũng từ lý ấy sinh ra. Sinh mà không đầu mối: Lý chân như vốn không có điểm khởi đầu. Thành mà không có chỗ cuối cùng. Thể của Diệu hữu cũng không có chỗ cuối cùng. Không có chỗ khởi đầu, không có chỗ cuối cùng: Tổng kết hai câu trên, lại dẫn từ sau, đã không điểm khởi đầu, cũng không chỗ cuối cùng. Không sáng tỏ, không tối tăm. Lý pháp thân chẳng sáng, chẳng tối. Không hình tượng, không ứng điềm: Bản thể rỗng sáng linh thiêng, không phô bày hình tượng, ứng hiện các điềm. Không tên gọi, không dấu vết. Về lý Vô tướng thì không có tên gọi và không có dấu vết. Không dọc không ngang. Pháp thân chân thật của Phật như hư không, đâu có dọc nam bắc, ngang đông tây, đâu có bốn phương để nghó ngợi so sánh. Không cao không rộng: Viên thông lớn như hư không, trùm khắp mọi chốn, đâu thể bị bó buộc bởi chiều cao, chiều rộng ư. Không phương không duy: Chân không diệu hữu trùm khắp tất cả chỗ, đâu thể so lường ở bốn phương, bốn duy. Không nhỏ không lớn: Bản nhiên thanh tịnh bao trùm pháp giới, đâu thể đồng đẳng lớn nhỏ ư? Vô tướng vô tánh: Sự nhiệm mầu của pháp thân, không tướng để thấy được, không có tánh để y cứ được. Không diệt không sinh: Diệu lý chân không vốn không sinh diệt. Không nhiễm, không tịnh: Diệu thể chân không đâu có nhiễm tịnh. Xưa nay vắng lặng: Vốn thường xưa nay lai như như, nên gọi là vắng lặng. Tự tánh Niết-bàn: Chân thường vắng lặng, không tùy vật chuyển hóa, nên gọi là tự tánh Niết bàn. Chẳng phải quá khứ: Nhưng hiện Niết-bàn vốn không lay động, nên gọi là chẳng phải quá khứ. Chẳng phải vị lai: Trong Văn kiến lục nói: “Thiệu Tử nói: “Thân có sau trời đất, tâm có trước trời đất, đất trời từ ta sinh, những thứ còn lại không đáng nói” vậy há có lý vị lai chăng?”. Chẳng phải hiện tại: Người xưa nói: “Ba đời tìm tâm, tâm chẳng có, tâm chẳng chỗ có, vọng vốn “không”. Chỗ vọng vốn “không” tức Bồ-đề, Niết-bàn sinh tử vốn bình đẳng”. Nếu vậy thì hiện tại cũng không chỗ có vậy. Chẳng ràng buộc cũng chẳng lìa ràng buộc: Từ đây về sau nói về sự nhiệm mầu của pháp thân, pháp thân chẳng dính mắc do sự trói buộc, cũng không phải chẳng dính mắc so sự trói buộc. Không ràng buộc, không giải thoát: Đã không dính mắc do sự trói buộc cũng không dính mắc đối với sự giải thoát. Chẳng phải khổ, chẳng phải vui: Về lý thật tế thì chẳng dính mắc một mảy trần, làm gì có khổ có vui ư? Chẳng phải không khổ, chẳng phải không vui. Cũng chẳng dính mắc nơi không khổ, cũng chẳng dính mắc nơi không vui. Chẳng phải sắc, chẳng phải tâm. Bản giác rộng lặng linh thiêng chẳng thuộc về sắc tướng, cũng chẳng thuộc về Tâm tướng. Chẳng phải không phải sắc, chẳng phải không phải tâm. Lý Pháp thân, vắng lặng tợ như vô, động thì lại có. Tuy như vậy nhưng cũng chẳng dính mắc nơi không sắc, không tâm. Chẳng phải lý, chẳng phải sự. Không phải là lý, không phải là sự. Chẳng phải không lý, chẳng phải không sự. Không gì chẳng là lý, không gì chẳng là sự. Chỉ là một vị. Tâm, Phật và chúng sinh, ba thứ ấy không khác nhau, tợ như biển cả thâu nhận nước cả trăm dòng mà chỉ một vị mặn. Mà chẳng phải một vị. Cũng chẳng phải chấp đắm đối với một vị. Trùm khắp tất cả mọi nơi. Pháp thân như hư không, không nơi nào chẳng có, nên nói là trùm khắp tất cả mọi nơi. Mà chẳng phải tất cả mọi nơi. Mà cũng chẳng phải trùm khắp tất cả mọi nơi. Diệu thể thường tròn đầy. Diệu thể chân thường, ở phàm không bớt, ở Thánh không thêm, đứng vững mà thường tròn đầy. Nhưng chẳng phải thường tròn đầy. Mà cũng chẳng chấp đắm thường tròn đầy. Vắng lặng như hư không. Lý Pháp thân lắng đọng như hư không. Mà chẳng nghó tưởng như ngoan không. Thanh tịnh vô vi. Thanh tịnh bản nhiên, vốn không hành vi tạo tác. Mà chẳng phải không thi vi tạo tác. Pháp thân thường vắng lặng, vì độ sinh nên cũng như có tạo tác. Hữu tình vô tình. Hữu tình là tất cả hàm linh, vô tình là xiển-đề, xiển-đề cũng là hữu tình, nhưng vì không rõ chân lý nên cũng giống như vô tình. Bình đẳng đều có. Tóm kết nghóa câu trên Kinh Kim Cương nói: “Pháp ấy bình đẳng”. Dùng vô lượng hành tướng như thế. Dùng như các đều nói trên, thí dụ cho vô lượng hành tướng. Mà chẳng phải hành tướng. Tuy dùng vô lượng hành tướng để thí dụ đó, nhưng thật không dính mắc các hành tướng. Phải biết đúng như thế mới gọi là Phật Pháp thân. Tổng kết ý văn trên, phải hiểu biết đúng đắn như trên mới gọi là Phật Pháp thân. Khách hỏi: Nghóa Pháp thân Phật cùng tận đó ư? Ý nghóa của Pháp thân chỉ có bấy nhiêu thôi sao? Diệu Minh nói: Tạm thôi, chưa phải vậy. Chỉ tạm như thế, mà chưa thật cùng tận. Nói đến Pháp thân Phật, thì Dưới đây lại nói đến sự nhiệm mầu của Pháp thân Lìa bốn câu, dứt trăm phi. Bốn câu là: có, không, cũng có cũng không, chẳng có chẳng không, trăm phi là từ bốn câu nhân bốn (4x 4) thành mười sáu, lại nhân với ba đời (16x 3) thành bốn mươi tám, lại nhân hai thứ đã khởi và chưa khởi (48x 2) thành chín mươi sáu, cộng thêm bốn câu căn bản, thành trăm (1 0 0) pháp. Chỉ dính mắc một pháp là phi, nên gọi là trăm phi. Động niệm thì cách biệt. Động niệm thì tình sinh, tình sinh thì trí cách biệt. Cưỡng nói thì sai trái. Cưỡng nói thì không hợp lý, chỉ dính mắc sự nói năng thì trái lìa vậy. Thoát khỏi thanh trần. Vượt khỏi nhó (tai) giới và thanh (âm thanh) trần. Lìa văn tự, và Lìa bỏ lời nói, tên gọi. Nói, nín, động, tịnh đều không thật có mà gần gũi. Có lời tức nói, không lời là im lặng, thể lay động là động, tâm vắng lặng nhiên gọi là tịnh. Trong khoảng nói, nín, động, tịnh ấy đều không thật có mà gần gũi vậy. Bởi vì Pháp thân xa lìa sự nói năng. Tổng kết ý văn trên, đại khái Pháp thân xa lìa hẳn sự nói năng, như nói chẳng đắm trước đối với sự thấy, nghe, hay biết vậy. Nhưng lìa nói năng cũng chẳng phải Pháp thân vậy. Nếu sự lìa nói năng mà tìm cầu Pháp thân, cũng chẳng phải Pháp thân, như nói chẳng lìa thấy, nghe, hay, biết vậy. Ông rất muốn học đạt đến đạo xa lìa, không xa lìa nói năng này ư? Ông rất ít muốn học Đạo mầu xa lìa, không xa lìa nói năng này ư? Khách nói: Muốn chứ! Duy, âm là vó, là từ ngữ trả lời. Diệu Minh nói: muốn tốt được việc làm, thì trước tiên dụng cụ để làm phải bén nhọn. Trong luận ngữ chép: “Tử Cống nói: “Người thợ muốn làm ra vật dụng tốt đẹp, trước tiên vật dụng để làm phải sắc bén”. Muốn làm việc nhân nghóa thì nên gần gũi người hiền nhân. Muốn học đạo Thánh hiền, thì trước phải lập chí, như vậy thì thánh đạo mới để sáng tỏ vậy”. Nay ông trước nên học phương tiện để xa lìa, không xa lìa, phương tiện nói năng ư? Khéo léo dễ làm, gọi là phương tiện. Khách nói: Vâng! Xin được nghe. Mau chóng đáp lại, gọi là nghe theo mệnh lệnh. Diệu Minh nói: Muốn đạt được đạo xa lìa, không xa lìa nói năng. Dưới đây là hình dung sự nhiệm mầu của đạo. Trước phải quán sát tất cả pháp Muốn học đạo ấy cần phải quán sát tất cả các pháp sinh diệt trong thế gian. Chẳng phải thật, chẳng phải hư: Chớ cho là hư là thật mà sinh ra chấp đắm. Không có ta, không có người: Chớ sinh kiến chấp có nhân, có ngã. Không dơ không sạch: Bản tánh vắng lặng, vốn không dơ sạch. Gạt bỏ thông minh: Bỏ trí gọi là truất (= gạt bỏ). Nghóa là gạt bỏ sự thông minh ở đời. đại. Buông rơi chi thể: Lìa hình hài gọi là trụy (= buông rơi). Nghóa là lìa chi thể bốn Buông thả thói đời: Buông bỏ thói quen ở đời. Dứt niệm lự: Bình âm là bỉnh, nghóa là dứt bỏ vọng niệm tư lự. Quét sạch tình dục: Bổ phá tình riêng, dứt trừ ưa dục. Diệt trí ngưng thần: Dứt bỏ thế trí, ngưng hết tâm thần. Bặt quên hoài bảo, lắng đọng tâm tư: Không ghi nhớ tình cảm nghó ngợi, lắng đọng sự suy tư. Nếu bỏ được những việc nói trên thì gần với đạo vậy. Sau đó, mắt như tai, tai như mũi, mũi như miệng, miệng như tai: Phàm người học đạo đến lúc tâm đã ngưng, thân đã bặt thì sáu căn đều trở về một nguồn. Thân tâm chỉ một không hai. Đã vậy thì đối với sáu trần; sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp tâm đều không lay động. Thân tâm hòa quyện lẫn nhau, thể trí viên dung: Tóm kết ý văn trên, sáu căn đã không nhiễm thì thân tâm hòa quyện lẫn nhau, viên thông một thể. Xuyên suốt luôn cả thân sơ: Không biết thân với mình, cũng chẳng sơ với vật. Quên cả vật và ta: Chỉ đạo không thật có. Dùng tình để cầu tình của vật ngã ấy, đều không thể không quên vậy. Hết vinh nhục: Tính chất vui với vinh, xấu với nhục đều diệt sạch hết. Dứt phải quấy: Thị (= đúng) và chẳng thị (= sai) đều dứt bặt hết. Thâu ngắn tầm nhìn, nghe lại chính mình: Thâu xét mắt mình, soi lại cội nguồn. Hư dó minh chân: Không hư ngã hữu, minh khế bản chân. Trăm thứ meo móc có ra từ miệng: Quên cả nói năng. Cỏ xanh mọc nơi đầu lưỡi: Rất giống người chết. Ngàn thánh gọi chẳng quay đầu: Tâm linh thiêng dứt bặt sự đối đãi. Trăm chim đều không tìm chỗ: Dứt tướng lắng thần. Hình đồng như cầu gỗ: Hình thể đồng như cây cầu gỗ khô, chẳng sinh ý. Tâm như tro tàn: Tâm như tro nguội lạnh, không còn khởi niệm. Trí nhàn ở nơi núi cao xa nước: Trang Tử nói: cái nhàn của người đại trí, nhàn là từ dung mạo mà tự được. Có thể nói là nơi núi cao xa nước, tuy có hình mà nắm bắt không được vậy. Tánh lặng như trăng soi trong đầm lạnh: Tánh thể vắng lặng, như bóng trăng dưới nước trong đầm lạnh, tuy động mà không gợn sóng và không mất đi. Vậy sau đều hợp với đạo lý xa lìa, không xa lìa nói năng. Tổng kết ý văn trên, nếu được như vậy, sau đó có thể là đạo lý xa lìa, chẳng xa lìa nói năng. Khách choàng đứng dậy nói rằng: Quyết là dáng mạo bỗng nhiên đứng dậy, Hưng là lời nói phát ra. suốt. Tâm ý tôi buồn sợ: Mộng là buồn lo và tánh mờ tối, Đổng là tâm mê không sáng Tinh thần hoảng hốt ngu muội: Hoảng là hoảng hốt, mỗ là ngu tối. Đối với lời Ông nói, không biết vào từ chỗ nào: Tổng kết ý văn trên, do buồn lo tánh mờ tối, tâm mê không sáng suốt, hoảng hốt ngu muội. Đối với Diệu Lý pháp thân của Ông nói, đều không biết vào từ chỗ nào. Diệu Minh nói: vì sao hoảng hốt vậy? Có gì mà hoảng hốt vậy ư? Lúc ban đầu, tôi tưởng Ông là người mẫn đạt, giờ sao ông yếu kém đến thế ư? Ban đầu thấy Ông là người thông đạt, giờ lại hoảng hốt, không biết gì cả. Há chẳng hèn mọn mà đến thế ư? Ông ngồi yên, tôi sẽ nói cho ông nghe. Cư (= ở) như tọa (= ngồi). Nghóa là tôi sẽ nói lý ấy cho ông nghe. Ngày trước, tôi học với Ngư Nham lão nhân: Ngư nham là tên núi, Lão nham tức Diệu minh tử, giữ trao pháp yếu cho sư Tường công vậy. Trong ba năm giữ lễ làm đệ tử: Suốt thời gian ba năm, giữ lễ Đệ tử mà hầu hạ kính thờ. Không dám dùng một lời hỏi về nghóa ấy: Không dám khinh dùng một lời hỏi nghóa lý ấy. Mà Ngư nham cũng chẳng nói cho tôi nghe vậy: Ngư nham cũng không chỉ bảo cho tôi vậy. Sau năm năm chăm lo làm việc, không gì chẳng theo ý thích: Năm năm sau, nhờ chăm lo làm lụng mọi công việc, không điều gì chẳng theo ý nguyện và theo ý thích vậy. Mới được Ngư nham dẫn dắt cùng ngồi một chiếu, chỉ bày đạo lý ấy, mới có tỏ ngộ chút ít: Khi ấy mới được ngồi chung một chiếu, chỉ bày cho ít đạo lý, mới hơi được khai ngộ rõ biết. Sau đó, mỗi ngày đến hỏi nhưng không tiếc lời nói với tôi. Từ đó về sau, mỗi ngày đến hỏi, không hề keo lận mà không nói cho tôi nghe. Nay ông tâm ý thúc bách, mà dễ dãi đối với đạo ư? Há chỉ vì tâm ý bức bách hối thúc dễ dãi mà liền được đạo ấy ư? Khách hỏi: Nếu vậy thì nghóa ấy thế nào? Như vậy là thế nào? Diệu Minh nói: Thôi vậy, thôi vậy! Thôi là từ cấm ước, lập đi lập lại thì bị can ngăn. Hễ càng đi thì dấu chân càng nhiều: Hễ là hô khởi từ, số là âm vọng. Có nghóa là bước đi càng nhiều thì dấu vết càng lắm. Nói càng nhiều thì đạo càng xa: Nói càng nhiều thì đạo thay đổi mà chẳng còn hợp nữa. Nếu chẳng vào bóng râm và bặt dấu, quên lời mà thể hội với đạo vậy: Trang Tử nói: “Vào chỗ râm thì không còn bóng, vào chỗ vắng thì mất dấu tích”. Ít ngôn từ thì đạo tự gần vậy. Hướng đến điều tôi nói thì ban đầu dùng lời nói để nói cái lời nói. Hướng đến điều tôi nói, thì dùng lời nói để nói đạo lý ấy. Kế đến, dùng lời nói để nói cái không lời nói: Lời nói kế sau thì dùng lời nói để nói về đạo lý không lời nói. Nhưng chưa kịp dùng không lời nói để nói cái không lời nói. Như vậy thì còn chưa lìa lời của không nói không năng vậy. Khách nói: Xin được nghe đạo lý không lời. Muốn nghe đạo lý không lời. Diệu Minh im lặng để chỉ bày: Im lặng giây lát để chỉ bày đạo lý không lời. Trong giây lát: Trong khoảng thời gian ngắn. Khách hỏi: Ấy là đạo lý lìa lời nói ư? Chỉ thế, có thể gọi là đạo lý lìa lời nói ư? Diệu Minh không đáp lại, bèn gõ ghế ca rằng: Gõ tay vào ghế và hát mấy câu: “Trúc dài, gió lay chừ, cửa nhà thấm lạnh Đầm vắng, trăng soi chừ, ngàn sao lấp lánh Đàn không dây chừ, khúc ca lảnh lót Núi cao, nước tuôn chừ, róc rách thay đàn”. Như Thiệu Tử có bài thơ: “Trăng soi ở lòng trời, gió lay cây gợn bóng, khắp nơi đều êm dịu, liệu được mấy ai hay”. Tự gõ tay vào ghế và ca những lời ấy chính là nói lên đạo lý không lời. Hát xong, nằm xuống gối: Đó là nói lên toàn bộ đạo lý không lời. Người học, ngay lúc ấy có thể tự vui mà thưởng thức và tự tiêu tan phiền não. Khách cũng rời khỏi chiếu bước ra khỏi nhà, giây lát vào lại, đến chỗ Diệu Minh và nói: Lý rất sâu kín ấy chẳng gần nhân tình, xin đừng nói nữa: Lìa khỏi chiếu, ra ngoài cửa, chốc lát trở lại nói: Nếu hướng về lời nói, ngôn từ hỏi đáp ấy, thì nghóa lý rất sâu mầu, chẳng gần với hạng người tình ý tầm thường, hãy thôi chớ nói điều ấy nữa. Xin hỏi: Phật đến núi Tuyết tu đạo, sao không thành Tiên mà lại nói thành Phật, nghóa ấy thế nào? Nghóa là, dám xin hỏi lại: Phật tu đạo ở núi Tuyết, chẳng gọi là thành Tiên mà gọi là thành Phật, nghóa ấy thế nào? Diệu minh nói: Đạo nghóa là dẫn dắt. Dẫn dắt người đạt đến vô vi. Đó là ý nghóa của sự dẫn dắt: Nghóa là dẫn dắt chúng sinh đến chỗ vô vi vậy. Khách hỏi: Vô vi là thế nào? Lý của vô vi là thế nào? Diệu Minh nói: vừa rồi không nói ư? Pháp thân Phật tức là vô vi. Nói pháp thân Phật tức là diệu lý vô hình vô tướng, vô tác, vô vi vậy: Nhưng về vô vi: Văn sau là nói về diệu lý vô vi. Dẫn nó thì không trước: Như Nhan Tử nói: Bỗng nhiên ở sau vậy. Dắt nó thì chẳng sau: Như mịt mờ phía trước vậy. Giở lên thì không trên: Như ngước mặt càng cao vậy. Đè nó thì không dưới: Như đè nén mà không có vật gì dưới vậy Đón nó mà chẳng đầu: Muốn đón rước mà xem nó, thì không đầu mối. Theo nó thì chẳng cuối: Theo để nhìn nó, thì chẳng có cái cuối cùng. Nhìn nó thì không hình: Bày xem mà không thấy được hình tướng nó. Nghe nó mà không tiếng: Lắng nghe mà không nghe được âm thanh ấy. Đục mà chẳng đục: Hổn và quật đều nghóa là đục, nghóa là đục mà chẳng đục. Lóng mà chẳng trong: Lắng đọng trong sạch vậy, nghóa là trong mà chẳng trong. Không thể dùng lời để nói: Lý pháp thân, khởi niệm thì liền trái, nên không thể nói năng. Không thể dùng ý thức để nghó suy biết được: Thức tình mỗi khi khởi động thì liền chướng ngại chân như, nên không thể nói năng bàn luận được. Mênh mông bát ngát. Hồng là nguyên khí tự nhiên, dụ cho pháp thân. Mông là mưa phun nhẹ, dụ pháp thân dường như có mà không. Bát ngát là như nước lớn, dụ pháp thân như nước mênh mông không có bờ đê ngăn chặn vậy. Chỉ có trí Như như mới có thể thầm hiểu. Chỉ có trí Như như thông đạt, mới có thể biết và thầm hiểu.  LUẬN CHIẾT NGHI <卷>QUYỂN 2 CHƯƠNG THỨ TƯ: NÊU BÀY THÍ DỤ Chương này nhân nói kinh Phật nhiều mà không thiết yếu. Vì vậy, lấy thí dụ để chỉ bày. Nên nói nêu bày thí dụ. Khách nói: Ánh sáng rất quý báu mà không hoa huyễn. Vật hết sức quý báu có bóng láng mà không hình sắc hư huyễn. Lời lẽ rất tốt đẹp mà không phù phiếm. Lời lẽ chí lý tốt đẹp thuần thiện, mà không trang sức. Lời đơn giản mà rất hay khéo. Lời rất dón gọn mà hết sức bóng bẩy. Sự đơn sơ mà lý đạt phân minh rõ ràng. Sự tuy ít mà lý thông đạt rõ ràng. Nên châu ngọc tuy ít mà quý. Tóm kết ý văn trên, dùng châu ngọc dụ cho sách của Nho giáo tuy ít nhưng rất quý. Ngói sỏi tuy nhiều mà rất rẻ. Ngói, sỏi, sạn dụ cho kinh Phật, nhiều mà rẻ mạt. Các bậc thánh soạn ra sáu kinh, không quá năm mươi muôn lời. Sáu kinh là: kinh dịch, kinh thư, kinh thi, xuân thu, lễ ký. Nay thấy kinh Phật, có hằng muôn quyển, lời thì ức muôn, khả năng một người chẳng thể đọc xiết, bởi nhiều mà không thiết yếu vậy. Nói rằng: kinh Phật, rộng cả muôn quyển, nhiều lời đến ức muôn, chẳng thể dùng năng lực của một người mà đọc xem hết được, bởi quá nhiều mà không đơn giản, thiết yếu. Diệu Minh nói: Mạnh Tử nói rằng: nước sông biển khác với sự rộng sâu của các vũng nước trên đường đi. Hàng lạo tức là nước mưa đọng lại trên đường đi, vốn không phải là nguồn nước vậy. Nước sông biển rất sâu rất rộng, so với nước đọng trên đường đi có khác vậy. Núi Thái khác so với gò đồi là nó cao lớn vậy. Khâu (= gò) là nơi đất nhóm lại vậy, Lăng (= đồi) là ụ đất lớn mà cao vậy. Núi Thái rất lớn rất cao, so với gò đồi chắc chắn có khác. Nếu nước sông biển lớn sâu không khác nước đọng vũng trên đường đi thì trẻ con sẽ tắm ở những vũng nước đó. Nhụ tử, Thuyết văn gọi là Nhũ tử. Nếu như sự rộng sâu của sông, và rộng lớn của biển mà không khác các vũng nước ở đường đi thì hạng người đang còn bú sữa cũng có thể tắm giặt ở những vũng nước đó. Cao không vượt quá gò đồi thì dê què cũng vượt qua được đỉnh. Chữ lăng trên tức là đồi đất, chữ lăng dưới là xem thường. Ý muốn nói sự cao lớn của núi Thái mà không hơn gò đồi, thì dê què cũng có thể xem thường đùa giỡn trên đỉnh núi. Loài chim vung cánh chọc trời, đâu đậu trên cành lau cỏ. Về chim vung cánh chọc trời, trong chương Trang Tử Tiêu Dao nói: ở bể bắc có con cá tên là Côn, hóa thành con chim tên là bằng. Mỗi khi tức giận nó bay đi, cánh nó dang ra như mây trời rủ. Nó đặp cánh thì nước bắn lên ba ngàn dặm, nó đánh tát thì cao lên chín muôn dặm. Cành lau sậy nhỏ bé, như chim đại bàng vung cánh chọc trời, há trên cành nhỏ bé ấy mà đậu được ư? Loài cá nuốt được thuyền bè đâu sống trong ao lạch. Trang Tử nói: loài cá côn lớn không biết bao nhiêu dặm, nuốt cả thuyền bè không lấy làm khó, đâu thể sống nơi lạch cạn ao ít nước ư? Mổ xẻ bung trai hến, để tìm Ngọc Minh Nguyệt. Ngọc Minh Nguyệt tức là ngọc Dạ Minh, chỉ ở dưới cổ rồng mới có, ban đêm chiếu sáng như ban ngày. Nếu mổ bụng loài trai hến tìm ngọc minh nguyệt, thì không sao có được. Dò tìm trong đám gai quét để mong lấy trứng chim loan, chim phượng. Quýt đem đến trồng ở Hoài Bắc thì trở thành cây chanh gai, gai trong ổ chim trên cây chanh gai mà muốn tìm để lấy trứng chim loan phượng, chẳng khó ư? Chắc chắn là khó được vậy, vì sao? Đây là tóm kết văn trên mà dẫn lời ở dưới. Bởi vì, nhỏ không dung chứa được lớn mà lớn lại không ở nơi nhỏ vậy. Nên, với cái đỉnh chứa muôn hộc, không thể đổ nước của chén vào mà đầy được. Năm đấu gọi là một hộc. Cái đỉnh có hai quai ba chân. Nói đầy cái đảnh muôn hộc, há có thể đổ nước của một cái chén, cái bát vào mà đầy được ư? Cái chung một quân không thể dung chứa nước cả dòng suối. Cứ ba mươi cân là một quân. Như cái chung ba mươi cân mà muốn chứa nước của cả dòng sông, thì không thể được vậy. Cây lớn ôm hai người, đâu thích hợp dùng làm chòi khoai từ. Hai người ôm choàng quanh, gọi là hợp bão, mão từ tức mão thảo (= khoai từ). Thích nghóa là thích hợp. Ý nói cây gỗ lớn hai người ôm, đâu thích hợp dùng để làm chòi khoai? Cái gai cỡ tầm xích, đâu thể chống đỡ nhà lớn? Sáu thước (= xích) là một tầm. Kinh tức là kinh cức (cây gai). Quảng hạ là ngôi nhà lớn. Nói cây gai sáu thước đâu có thể chống nổi nhà lớn. Cho nên đồ vật có rộng hẹp. Khí tức khí mãnh (= đồ vật). Tóm kết văn trên nói các thứ hộc, đảnh, chung và chén vậy. Lượng có lớn nhỏ: Cũng tóm kết văn trên, nói các thứ hộc, đảnh, chung, chén mỗi thứ có lượng lớn nhỏ của nó. Nguyên liệu làm ra có xấu tốt: Cũng tóm kết văn trên như cây lớn hai người ôm dùng làm chói khoai. Gai cỡ tầm xích dùng chống đỡ nhà lớn. Nên đều cơ sự lớn; hơn, nhỏ; kém khác nhau vậy. Vật có nhẹ nặng: Tóm kết văn trên, ý nói các vật nặng như đảnh, cây, nhà. Vật nhẹ như chung, chén, từ, gai vậy. Đức có dày mỏng: Vài việc nêu trên, để dụ cho Đức của các Thánh, dày dụ cho Đại thừa, mỏng dụ cho Tiểu thừa. Đạo có cạn sâu: Đạo của đại Thánh thì sâu xa, đạo của tiểu Thánh thì cạn cợt. Pháp có quyền thật. Quyền là tạm bày ra, thật là chân chất chuẩn mực. Cơ có nhỏ lớn. Giáo lý quyền, thật mỗi thứ đều có căn cơ lớn nhỏ vậy. Nên chỗ phân chia, không hề sai trái vậy. Quai là sai đối với lý. Lại tóm kết ý văn trên. Ý nói các thứ lượng như rộng hẹp, hơn kém, nhẹ nặng, dày mỏng, sâu cạn, quyền thật, lớn nhỏ v.v… phân chia ở các chỗ mà không thể có sự trái ngược vậy. Vả lại kinh Phật như vậy. Trước dùng thí dụ nhưng sau hình dung nghóa lớn của kinh. Trước nói việc trong ức kiếp: Như trong kinh nói: việc của ngàn muôn ức kiếp ở quá khứ. Sau nói điều cần yếu của muôn đời: Đạo là nói: sau nói chỗ cốt yếu nhiệm mầu của muôn đời. Đến cả năm thỉ chưa khởi sự. Trong chương Thiên Thụy của Liệt Tử nói: “Vốn lúc đầu trời đất chưa chia có Thái dịch, Thái sơ, Thái thỉ, Thái biểu, Thái cực”. Nghóa là trước lúc trời chưa phân chia, là lúc năm thỉ còn hỗn độn chưa phát khởi vậy. Khi nhị nghi mới thành hình. Triệu nghóa là mới; lúc ban đầu. Trong Kinh Dịch nói: “Thái cực sinh lưỡng nghi” nghóa là lúc mới phân chia. Nó xa vời không thể suy lường. Điều mà Phật nói, với kiếp số lâu xa không thể suy nghó đến cùng. nổi. Việc ấy không thể ghi chép. Những sự tích ở kiếp Không về trước cũng không thể ghi chép Nó nhỏ nhiệm không không thể nắm bắt. Lão Tử nói: “Tát bắt mà không được, gọi là nhỏ nhiệm, nên không thể nắm bắt”. Nó mỏng manh không thể vào: Nó nhỏ nhiệm, vi diệu không vào đến tận cùng. Phật thảy đều trùm khắp luân lý vượt ngoài sự rộng lớn ấy: Tất nghóa là cùng tận, Di là trùm khắp, Luân là luân lý vậy. Tóm kết ý văn trên nói như năm thỉ, hai nghi, không thể suy nghó đến cùng, không thể ghi chép, nắm bắt, đi vào. Chỉ có Phật mới đều tận cùng các lý nêu trên, vượt ngoài trời đất vậy. Mổ xẻ phân tích trong sự sâu xa kín mầu ấy. Bổ chiết nghóa là phân phá. Chỉ có Phật mới có khả năng mổ xẻ phân tích, ở trong sự sâu xa kín mầu ấy. Trên thì cao đến trời vô cực. Trên đến cõi trời phi phi tưởng. Dưới đến chỗ đất dày không cùng. Dưới đến mé nước kim luân. Không gì chẳng thể chỉ bày ở đó vậy, như chỉ tay trong lòng bàn tay. Thị là chỉ bày, chư là ở, tư là đó. Tổng kết ý văn trên. Nói công dụng nhiệm mầu của Phật vượt ngoài trái đất rộng lớn, trong sự sâu mầu, trên cả trời cao, dưới cả đất dày, hễ có sự lý gì, không gì chẳng biết đến cùng. Nên nói chỉ bày ở lý ấy, như chỉ vật nắm trong lòng bàn tay vậy. Với chỗ thấy rõ ràng rộng rãi thì văn kinh đâu phải là nhiều. Tóm kết ở trước nói tính hàng muôn có ức số lời. Việc Phật đã thấy rõ ràng rộng lớn vô cùng như vậy thì kinh văn đâu phải là nhiều. Quyển có hằng muôn, lời có hằng ức, cũng chưa phải là nhiều. Lập lại lời khách nói: quyển có hằng muôn, lời có hằng ức, cũng chưa phải là nhiều. Sao có sự không giản yếu ư? Với những việc rõ ràng nói trên sao cho rằng có sự không đơn giản thiết yếu ư? Đâu riêng dùng sức một người mà chịu nổi, nhưng sau lại cho là được. Không thể dùng sức một người mà làm được, nhưng sao xứng hợp được sự đơn giản thiết yếu vậy. Thí như người khát uống nước biển, no rồi tự cho là đủ, cần gì biết đến những gì còn lại ư. Lại tóm kết ý văn trên, nghóa là kinh văn có đến muôn quyển muôn lời. Thí như người quá khát nước, vốc nước dưới biển cả uống no mới thôi, cần gì phải biết ngoài ra nó rộng lớn thế nào. ------------------------------ <詞>CHƯƠNG THỨ NĂM: TÔN THỜ KÍNH TRỌNG THẦY Chương này nói xưa nay các bậc đế chúa hiền só điều tôn thờ kính trọng thầy, nên nói là tôn thờ thầy vậy. Khách nói: như điều ông nói Phật đạo cao cả, thanh hư, rất tôn quý rất rộng lớn, sau hai đế ba vua đều chẳng tu theo. Phật đã là cao cả thanh hư, rất mực tôn quý rộng lớn, vua Nghiêu, vua Thuấn, cho đến ba chúa Hạ, Thương, Chu, sao chẳng tu theo đạo của Phật. Khổng Tử, Lão Đam sao chẳng truyền bá đạo Phật? Đức phu tử và Lão tử sao không truyền bá đạo của Phật? Trong sáu kinh không ghi lại lời nào của Phật. Trong kinh sách Nho giáo, không thấy ghi chép lời của Phật. Các nhà hiền triết chẳng ghi lại lời nào của Phật. Những sách vở của các nhà hiền triết đạo Nho, cũng không thấy nói đến. Lại nữa, trong sách vở của các bậc tiên hiền cổ triết, cũng không thấy nghe ai thực hành đạo ấy, mà riêng mình ông ham thích cái dị đoan ấy ư? Tóm kết văn trên, nói trong kinh của các bậc thánh triết tiên hiền ngày xưa trong sách của các nhà hiền triết v.v… đều không tôn sùng quý kính Phật. Sao chỉ riêng mình ông ham thích giáo lý dị đoan ấy ư? Diệu Minh nói: ông chấp chặt quá lắm. Ông thiên chấp như thế, cho nên tệ lắm vậy. Sách không hẳn lời của Khổng Tử, hễhợp nghóa thì theo. Khổng Khâu tức là Khổng Tử. Nhưng sách của Khổng Tử, lý sâu nhiệm, lời lẽ cùng cực vẫn có điểm chưa đạt cũng không nên nhất định phải dùng. Chỉ cần hợp ý nghóa, thì cũng đều phải thuận theo vậy. Thuốc không hẳn là phương thức của Biện Thước, chỉ lành bệnh là tốt. Theo Danh y Truyện, Biện Thước là thầy thuốc giỏi ngày xưa đã từng trị lành bệnh Thái tử, cũng không hẳn nhất định dùng theo. Chỉ lành được bệnh thì cũng là tốt vậy. Muôn điều lành tuy khác đường mà cùng về một. Tuy là muôn điều lành chẳng cùng một đường nhưng điều lành ấy chỉ là một vậy. Có trăm điều suy nghó mà chỉ là điều lành. Suy nghó có đến cả trăm điều, mà chỉ là một việc lành vậy. Làm lành tuy khác nhau, mà đồng quy về sửa trị: Làm lành hẳn nhiên chẳng phải là một mối, mà không gì chẳng là lành. Có chỗ thành nhuần nhã thì đồng gọi là trở về thiện trị vậy. Người quân tử chứa nhóm các việc lành giúp ích cho thân mình. Quân tử tức là kẻ só thành đức. Tất cả mọi việc làm của người quân tử chỉ chứa nhóm các điều lành mà để giúp cho tự thân mình vậy. Và làm gì có sự coi thường thầy ư? Trong luận ngữ nói: triều đại Công Tôn Vệ Hàn Đại Phu hỏi Tử Cống rằng: Trọng Ni sao lại học? Tử Cống nói: đạo của văn võ, chưa rơi nơi đất, ở người hiền thì biết đó là lớn, ở kẻ chẳng phải hiền thì biết đó là nhỏ. Không gì chẳng có đạo của văn võ vậy. Phu tử sao không học và cũng sao mà có sự coi thường thầy được. Xưa kia, Ngu Thuấn chính là Vụ Thành, Đường Nghiêu chính là Doãn Thọ. Tôi căn cứ bộ Lão Tử Liệt Tiên Truyện, Hóa Quy Thật Tích, thì thời Đế Thuấn là Vụ Thành, Đế Nghiêu là Doãn Thọ vậy. Hán Văn Đế đảnh lễ Hà thượng Công: Đời nhà Hán, vua Văn Đế đảnh lễ Hà Thượng Công mà cầu đạo đức hai chương vậy. Hoàng đế kính lạy Quảng Thành. Hoàng đế ở núi Không Đồng, kính lạy cầu đạo sửa thân ở Quảng Thành Tử. Võ Đinh nhận lời răn dạy ở Truyền Nham. Truyền Nham tức là truyền thuyết vậy. Võ Đinh tức là Cao Tông thời nhà Thương. Trong chương Duyệt Mạng của sách Thượng Thư nói: sớm tối tiếp nhận lời răn dạy đạo đức được tăng cao. Thái Giáp đầu thành nơi Y Doãn. Trong thượng thư nói: Thái Giáp là Thang Tôn; người rất tối tăm. Thang Tôn ba lần tìm Y Doãn làm tướng. Sau vì sự tín nhiệm của A Hành, bèn đuổi bỏ Thái Giáp ra khỏi từ cung. Vua hối hận lỗi lầm mà tu đức, sau khi thành công bèn lấy hiệu là Thái Tông vậy. Văn Vương tôn thờ Lã Vọng. Trong sử ký nói: Văn Vương sống vào thời Tây Bá, một hôm nằm mộng thấy con gấu, bèn bói điềm ấy, biết được ở phía Bắc sông Vị Thủy sắp có bậc Đại Đức, trời giúp cho vua bậc thầy để giúp đỡ. Vua liền ban lệnh chay tịnh ba ngày. Đến sông Vị Thủy quả thật gặp được Lã Vọng, vua khổ nhọc thưa hỏi, bèn mời lên xe mời về cung, lập làm Thái Công Vọng. Trọng Ni học ở Lão Đam. Thiên Thích Chu trong bộ Gia Ngữ nói Khổng Tử hỏi lễ ở Lão Đam, hỏi nhạc ở Trành Hoằng. Khi sắp đi, Khổng Tử nói với Nam Cung Kính Thúc rằng: “Thầy của ta là Lão Đam, là người thông hiểu mọi việc xưa nay vậy”. Đâu chỉ thấy ghi chép trong sáu kinh, sau đó bèn noi theo để học vậy. Đây là lập lại lời của khách để tóm kết văn trên. Ý nói như các bậc Thánh nói trên đều có thầy của họ. Đâu chỉ đợi thấy ghi chép trong sáu kinh mới học theo đó. Đức Phật đản sinh vào thời Chu Chiêu Vương, sự giáo hóa bằng chánh pháp chưa đến Trung Quốc. Mãi đến niên hiệu Vónh Bình thứ 10 thời Hán Minh Đế, Thanh giáo mới dần dần bắt đầu truyền vào Trung Hoa: Trong sử ký nói: ngày mồng 08 tháng 04 niên hiệu Vónh Bình thứ ba, vua Minh Đế đời Hậu Hán, nằm mộng thấy người vàng cao trượng sáu tỏa ánh sáng rực rỡ, hôm sau vua hỏi các quan, Thừa tướng Hàn Hiến tâu rằng: đó là điềm có bậc Thánh ở phương Tây. Chu Triều Bị nói: Một ngàn năm sau, Phật giáo sẽ truyền đến nước này. Vua vui mừng, sai mười tám vị như Thái Âm v.v… mang chiếu đến Tây Vức, tìm hỏi Thánh điển. Đi đến Châu Sa gặp Ca-diếp Ma-đằng và Trúc-pháp- lan từ Bạch Mã Đà mang hòm kinh đến. Vào tháng 10 niên hiệu Vónh Bình thứ 10 về đến Lạc Dương, vua rất vui mừng, lại ban sắc dịch kinh. Từ đó, Phật giáo mới truyền bá đến Trung Hoa. Vả lại, hai đế ba vua, so với Phật, thời đại khác nhau, cách biệt nơi chốn, nên họ không tu theo Phật. Thời thế của hai đế ba vua không đồng với thời Phật, lãnh thổ cách xa, nên không tu theo đạo Phật vậy. Trọng Ni và Bá Dương, xét không tiếp nhận khí phần, biết mà không truyền vậy. Trọng Ni là Phu tử, Bá Dương là Lão Tử, cả hai vị Thánh ấy xét không tiếp nhận khí phần của đạo nên không thể truyền được, vì thế nói là biết mà không truyền vậy. Các nhà hiền triết chưa thấu đạt, đâu dám mở lời. Thời đại Chu; Tần, Phật giáo chưa truyền đến, các nhà Hiền triết đâu dám vọng truyền. Đã vậy thì, truyền tập ghi chép của hai đế ba vua, Khổng Tử, Lão Đam làm sao có được ư? Tóm kết ý văn trên. Sau đó, có kinh từ Bạch Mã truyền đến. Và trong thời kỳ Xích Ô có tăng só đến. Theo Tam Quốc Chí, niên hiệu Xích Ô thứ tư thời Ngô Vương, có vị Sa-môn người nước Khương Cư tên là Tăng Hội đến, hiển bày thần thông rộng lớn, vua bèn đảnh lễ kính thờ. Ca-diếp Ma-đằng và Trúc-pháp-lan mở mang Đạo Phật ở thời Minh Đế. Trong Tam Bảo Lục chép: thời vua Minh Đế nhà Hán, có hai vị Ca-diếp Ma-đằng và Trúc-pháp-lan, đến niên hiệu Vónh Bình thứ 14, các đạo só ở Ngũ Nhạc xúi giục các thiện tín v.v… dâng biểu phá dẹp đạo Phật. Vua ban lệnh cho hai tôn giáo đến chùa Bạch Mã, cho kinh sách của hai tôn giáo vào hai lò rồi châm lửa đốt. Kinh sách của Đạo giáo đều cháy rụi, chỉ có kinh Phật không cháy, khi ấy vua và các quan đều kinh ngạc và càng kính trọng hơn. Đức của Tăng Hội bao trùm Tôn Quyền. Theo Tam Quốc Chí, Tôn Quyền là vua nước Ngô. Lúc Khương Tăng Hội đến, truyền bá rộng lý huyền diệu của Như Lai, vua xin Xá- lợi, lập đàn cầu nguyện trong ba tuần. Cho đến khi vua thử là thật hay giả, như dùng lửa đốt, dùng chày để đập, đều không hư hao sứt mẻ, vua mới xây dựng tháp để thờ. Tùy Văn Đế đảnh lễ Đàm Diên: Trong tùy sử Cao Tăng truyện nói Đàm Diên là vị tăng ở chùa Tây Cung núi Trung Điều, Tùy Văn Đế mời cùng ngồi chung xe. Vua đảnh lễ tôn xưng làm thầy và phong làm Quốc sư. Lương Võ Đế đầu thành Bảo chí. Trong lương sử, nói về Tăng Bảo. Chí tức là Chí Công. Vua Lương Võ Đế lễ tôn xưng ngài Chí Công làm thầy. Lý Thế Dân đời Đường tôn thờ ngài Huyền Trang. Trong Từ Ân Truyện chép: ở đời Đường, khoảng niên hiệu Trinh Quán thời vua Thái Tông, Pháp sư Huyền Trang thỉnh kinh từ Tây Vực trở về, vua đích thân đón rước ở điện Nghi Phụng, nói ở phương Tây cảnh Thánh, bèn vâng chiếu ở chùa Hồng Phúc phiên dịch kinh sách. Vua cùng thần dân cả nước đều tôn kính lễ bái. Diêu Tần lễ bái ngài La-thập. Trong Thích Thị Thông Giám nói. Diêu Tần tức là Diêu Hưng, đóng đô ở Trường An, nhân đánh nước Quy-tư gặp được La-thập ở núi Chung Nam. Ban chiếu lập vườn Tiêu Dao, phiên dịch kinh sách, vua đem hương hoa đến kính lễ trọng đãi, vua tôi cùng cả nước đều kính lễ. Phù Kiên lễ kính Đạo An. Trong Ngũ Đại Sử Tăng Bảo Truyện nói: Phù Kiên chinh phạt đất Tương Dương, gặp được Pháp sư Đạo An, thỉnh cùng ngồi xe trở về, tôn xưng làm thầy, kính lễ ân đức thấm đượm sâu dày. Chúa Tề kính trọng tôn sùng Thượng Thống. Trong Tề Sử Tăng bảo Truyện nói: Đời nhà Tề vua Thế Tổ Võ Thành Đế, khoảng niên hiệu Đại Ninh thứ 3, tiếp nhân Pháp sư Thượng Thống, các đại thần trong triều không ai chẳng kính lễ, đồng thời xây dựng chùa Báo Đức, thỉnh ngài an trụ. Bùi Tướng biết rõ nguồn tâm, nhờ Hoàng Nghiệt. Trong Truyền Đăng nói: Bùi tướng húy là Hưu, tự Công Mỹ, người ở kinh triệu làm quan Thứ sử Thụy Châu, đến chùa Cao An, nhân hỏi Hoàng Nghiệt: “Người đứng cách vách là ai?” Hoàng Nghiệt nói: “Cao Tăng Chân nghi”. Bùi Hưu nói: Chân Nghi thì thấy được, còn cao tăng ở đâu? “Hoàng Nghiệt lớn tiếng gọi “Ông Bùi”. Bùi Hưu nói “Dạ”. Bùi Hưu liền có tỏ ngộ. Xướng Lê cầu pháp với Đại Điên. Trong Thích Thị Thông Giám nói: Xướng Lê tức là Hàn Dũ, tự là Thối Chi, làm chức quan Hình Bộ Thị Lang. Đời Đường, vua Hiến Tông đến chùa Hộ Quốc ở phủ Phụng Tường, tức nay là chùa Pháp Môn, đón rước cốt Phật vào cung cúng dường. Hàn Dũ dâng biểu phỉ báng Phật. Vua bèn muốn giết Ông, nhưng Bùi Độ v.v… can ngăn, bị đày đến Triều Châu, nghe danh Đại Điên bèn đến cầu pháp, thưa rằng: “Đệ tử ở quân Châu, bận nhiều việc, có điềm tỉnh yếu, xin Đại sư chỉ bày”. Giây lâu, Hàn Vũ chẳng thi thố gì, Thị giả là Tam Bình gõ vào giường thiền bước xuống. Đại Điên hỏi: “Làm gì vậy”. Tam bình đáp: “Trước lấy Định để động, sau dùng trí để nhổ lên. Hàn Dũ nói: Môn phong của Sư thật cao vợi”. Ở nơi chỗ thị giả mà có được lối vào. Lý Cao hỏi Đạo với Dược Sơn. Trong Truyền Đăng nói: Lý Cao tự là Tập Chi, là một hiền thần đời Đường, ra trấn giữ Phong Châu, nghe Đạo Phong của Thiền Sư Dược Sơn Duy Nghiễm, một ngày nọ, đến ra mắt nhưng Duy Nghiễm không thèm để ý tới. Lý Cao nói: “Thấy mặt chẳng bằng nghe danh”, bèn thối lui. Duy Nghiễm bảo: Thượng thư sao được Tôn quý như thế mà lại hèn vậy?” Lý Cao liền quay lại đảnh lễ và hỏi: “Thế nào là Đạo?” Duy Nghiễm đưa tay chỉ vào tịnh bình hỏi: “Hiểu không?” Lý Cao đáp: “Không hiểu”. Duy Nghiễm nói: “Mây trên trời xanh, nước trong bình”. Lý Cao từ lời nói ấy mà có phần tỉnh ngộ. Sơn Cốc tham thiền với Phật Ấn: Trong Truyền Đăng nói: Hoàng Đình Kiên, tự là Lỗ Trực, hiệu là Sơn Cốc Đạo nhân. Khoảng niên hiệu Nguyên Hựu vua Triết Tông thời nhà Tống, ở nhà tại Đinh ưu đến núi Hoàng Long, nơi Thiền Sư Hối Đường ở một ngày, nói chuyện về Khổng Tử với học trò: Nhị Tam Tử, cho rằng ta ở ẩn ư? Ta không ở ẩn vậy, Ta không làm gì mà không cùng như Nhị Tam Tử đó là chuyện của Khâu Tử vậy, đồng thời xin Hối Đường giải thích. Hối Đường im lặng không nói gì, Sơn Cốc tức giận buồn rầu… Hối Đường hỏi: “Ông nghe mùi hoa mộc tró không?” Đáp: “Nghe”. Hối Đường nói: “Ta không an ổn như vậy. Sơn Cốc bỗng nhiên có sự lãnh hội”. Tấn Chúa cung kính Huệ Viễn: Trong Tấn Sử Thích Giám nói: Vua Hiếu Võ Đế đời nhà Tấn, khoảng niên hiệu Đại Nguyên, nghe đồn đạo phong của Pháp sư Tuệ Viễn, vua bèn đến chùa Đông Lâm trên núi để kính lễ Pháp sư Tuệ Viễn. Tống Văn Đế cung kính ngài Cầu-na-bạt-ma: Trong Thích Giám nói: Thời Ngũ Đại, vua Văn Đế nhà Tống khoảng niên hiệu Nguyên Gia, vua đến ra mắt Pháp sư Cầu-na-bạt-ma, thưa rằng: “Đệ tử thường muốn trai giới mà không được toại nguyện, xin Pháp sư chỉ dạy cho, Cầu-na-bạt-ma nói: Thanh danh của Đế Vương so với thất phu khác nhau. Thất phu tôi thân hèn danh kém, còn đế vương lấy bốn biển làm nhà, làm vua cả muôn dân, cái đức không giết hại cũng đã quá lắm vậy”. Vua nói: “Lời Pháp sư nói thật là mở bày tâm người, thấu đạt lý vật vậy”. Vua rất kính ngưỡng. Tiêu Diễn đến chùa Xả thân. Trong sử ký. Diễn tức tên của vua Lương Võ Đế, vua ba lần vào chùa Xả thân, các quan dùng trăm muôn thứ vàng ngọc để chuộc vua về lại triều đình. Đơn Hà quay đường chọn Phật Truyền Đăng chép: Đơn Hà sống khoảng thời vua Văn Tông nhà Đường. Nhân ứng cử Nho vị ở Trường An, gặp vị tăng nói: “Chọn làm quan không bằng chọn Phật”. Đơn Hà đến Giang Tây, Mã Tổ đã đến nói rằng: Duyên tại Thạch Đầu đã đến bảo Chấp Linh sau ba năm cạo tóc đắp y, sẽ tỏ rõ ý Tổ vậy. Ấy là nói Đơn Hà trước là nhà Nho, sau tìm về cửa Phật, kết quả là thành đạo vậy. Vậy mà ông lại bảo rằng: “Chưa nghe ai thực hành đạo ấy”, sao tệ quá vậy! Tệ là chướng (= ngăn che). Từ thời vua Nghiêu, vua Thuấn về sau đến nhà Hán, nhà Đường, Tống cho đến nay, các bậc Thành Quân, hiền Thần cao só minh nho thực hành Đạo Phật lược nêu để hiểu việc ấy. Ông sao không nghe mà tự chướng ngăn vậy. Từ xưa, các bậc Hiền triết, không ai chẳng dấu tích nơi sách Phật gắn lòng nơi Thánh Đạo, sao riêng mình ông ưa thích cái khác vậy. Từ xưa đến nay, các bậc hiền năng Thánh triết không ai chẳng ẩn náu dấu vết nơi kinh sách Phật, lắng để tâm ý nơi Tổ Đạo, sao nay riêng mình ông ưa thích cái khác vậy ư? --------------------------------------- <詞>CHƯƠNG THỨ SÁU: THÔNG TƯỚNG Chương này nói rõ chung về các tướng mầu của Phật nên gọi là Thông tướng. Khách nói: Ông nói Phật có đủ ba mươi hai tướng tốt tám mươi vẻ đẹp, sao quá khác người thế? Khách suy nghó điều nói trong chương thứ 2 nên nêu bày lại điều nghi ngờ. Đem lời nói dồi dào phú của ông nói ấy chẳng thật vậy sao? Đãi = tương, nghóa là Đem lấy. Khách nói: ông đem lời nói dồi dào của ông nơi đó để đáp, chẳng là thành thật vậy sao? Diệu Minh nói: không phải. Không phải nói thế. Ngày xưa, Phục Hy thân như rắn. Phục Hy Ngoại Truyện chép: Phục Hy sinh ra, thân có vảy như rắn. Trâu. Thần Nông đầu như trâu (= bò). Thần Nông Ngoại Truyện nói: Thần Nông, đầu mọc hai sừng như Vua Nghiêu lông mi tám mầu. Nghiêu Ngoại Truyện nói: Hoài Nam nói lông mi vua Nghiêu có tám mầu. Mắt của vua Thuấn, có hai lớp con ngươi. Thuấn Ngoại Truyện nói: Hoài Nam nói mắt vua Thuấn có hai lớp tròng. Văn Vương có bốn vú. Văn Vương Ngoại Truyện nói: Ngực Chu Văn Vương có bốn vú. Chu Công Đán lưng gù. Chu Công ngoại truyện nói: lưng của Chu Công bị gù. Miệng Cao như miệng ngựa. Miệng Cao Đào Ngoại Truyện nói: hiền thần vua Thuấn miệng giống miệng ngựa. Vua Võ nhà Hạ, mũi như mũi cọp. Hạ Võ Ngoại Truyện nói: Hạ Võ mũi như mũi cọp. Trọng Ni là người trời phú cho đức tốt. Khổng Tử Ngoại Truyện nói: Trọng Ni là tên tự của Khổng Tử, là bậc hiền tốt lành mạng trời, là người đầy đủ đức bậc Thánh. Lông my như vua Nghiêu, mắt như vua Thuấn, lưng như vua Võ. Lão Tử đời trước chứa nhóm hình chất quái dị, nên mới sinh ra đã bạc đầu. Lão Tử Ngoại Truyện nói: Lão Tử đời trước chất chứa hình chất quái dị, nên vừa mới sinh mà đã bạc đầu. Già lão mà hình dáng trẻ con. Tóc bạc vì già, nhưng nhan sắc, dung mạo thì trẻ con. Tai đầy mà lớn, vành tai không tròn: Tai đầy dài lớn, mà không vành tai nên tên hèm là Đam. Đó đều là tướng trạng của người khác, sao chỉ hỏi về tướng riêng khác của Phật? Như các điều trích dẫn trên, các bậc thánh hiền trong nhiều đời đều có tướng trạng khác thường. Sao chỉ nghi ngờ tướng khác của Phật mà hỏi vậy ư? Do đó, các bậc Thánh đều có tướng trạng khác thường và có đức khác thường. Xem xét lại, thì các bậc thánh hiền đều có tướng trạng khác người thường và cũng có đức hạnh khác người thường vậy. Đâu cùng loại với hàng thất phu thất phụ trên thế gian vậy. Đâu riêng cùng hàng ngu phu, ngu phụ trên thế gian, đồng loại người thường mà nêu bày vậy. Và điều Ông hỏi, có thể nói là hạn cuộc vậy. Như điều Ông hỏi có thể gọi là thiên chấp cục bộ vậy. --------------------------------------- <詞>CHƯƠNG THỨ BẢY: LUẬN VỀ HIẾU Chương này hoàn toàn nói về hiếu, nên gọi là luận về hiếu. Khách nói: trong hiếu kinh lấy bốn sự không hủy hoại làm cội gốc của đức: Bốn sự ấy là: Thân, thể, tóc, da. Một thân, bốn thể, lông tóc, da dẻ của con người, đều là do cha mẹ sinh ra, không dám hủy hoại thương tổn. Các hạnh của con người không gì lớn hơn hiếu, nên nói là cội gốc của đức vậy. Luận ngữ lấy ba sự không trái làm đầu của hiếu. Mạnh ý Tử hỏi về hiếu. Khổng Tử nói: “Không trái”. Mạnh ý Tử đại phu nước Lỗ hỏi đạo hiếu ở Phu Tử, Phu Tử nói không trái, nghóa là không trái lý vậy. Phiền Trì là học trò của Phu Tử, đang cầm Quân. Phu Tử lo ngại ý tử chưa thấu đạt, nên nói với Phiền Trì để cởi mở cho. Phiền Trì nói: “Vậy là thế nào” Phu Tử nói: “Lúc sống lấy lễ để phụng thờ, lúc chết lấy lễ để mai táng và cúng tế cũng phải lấy lễ mà thực hành”. Nên sống thì phụng thờ, chết thì cúng tế mới là phụng thờ cha mẹ từ đầu đến cuối được đầy đủ vậy. Đó là hạnh đứng đầu của đạo hiếu vậy. Nên Tăng Tử có bệnh sắp chết, gọi học trò đến, bảo: “mở tay tôi ra, mở chân tôi ra” Cố = nên, là từ chỉ nghóa. Khải = khai, là mở. Tăng Tử bị bệnh lúc sắp chết, bảo học trò kéo bỏ chăn đắp, để nhìn chân tay. Vì ông có thân thể từ cha mẹ, không dám làm hủy hoại thương tổn, nên bảo học trò kéo chăn đang đắp mà nhìn nó và nói: “Cha mẹ sinh con ra toàn vẹn, con phải giữ toàn vẹn mà quy (= chết). Như vậy mới gọi là hiếu”. Các vị Sa-môn ngày nay. Tiếng Phạn là Sa-môn, Hán dịch là Cần Tức. Cạo bộ râu tóc, không giữ toàn thân. Sao làm điều bất hiếu trái với thánh đạo vậy? Diệu Minh nói: không đúng: Lý luận như vậy không đúng. Thuở xưa, Thái Bá cắt tóc vẽ mình, có thể gọi là hủy hoại thương tổn vậy, nhưng Trọng Ni Tôn xưng đó là bậc Chí Đức. Thái Bá là con trai trưởng của Chu Thái Vương, từ chối không kế thừa ngôi vị, cắt tóc vẽ mình đi đến đất Ngô của người em là Trọng Ưng. Trong luận ngữ nói: “Thái Bá là người đáng gọi là Chí Đức vậy. Ba lần đem đất nước mà nhường ngôi. Dân vô đức mà xưng vậy ư?” Thái Bá cắt tóc vẽ mình, sao Khổng Tử không trách ông ta bất hiếu mà lại tôn xưng đó là Chí Đức. Dự Nhượng sơn thân: Sử ký nói Dự Nhượng người nước Tấn, trước thờ Phạm Trung Hàng, sau thờ Trí Bá. Triệu Tương Tử giết Trí Bá, Dự Nhượng muốn báo thù, sơn thân làm kẻ mắc bệnh hủi, ăn than để đổi tiếng, năm lần giết Triệu Tương Tử mà không trúng, sau tự đâm kiếm vào cổ mà chết. Kinh Kha vì nghóa mà chết. Theo Thích Khách truyện thì Kinh Kha người nước Tề, đi đến đất Yên. Thái tử Đan nước Yên Đại Kinh Kha đến nước Tần làm thích khách, không trúng, bèn chết ở đất Tần. Giới Tử thiêu mình. Tấn Văn Công đã lên ngôi, Tử Thôi không tước vị, bèn bỏ vào núi Văn Công, mời không ra, người bèn dùng lửa thiêu đốt núi rừng, nghó rằng sẽ bị nóng bức mà ra. Nhưng Tử Thôi giữ kỷ tiết tháo, chịu lửa cháy mà chết. Bá Di, Thúc Tề tự nhịn đói mà chết, hủy hoại đến thế, mà trong sáu kinh hay tử sử không nghe chê họ là bất hiếu. Đem Thái Bá, Dự Nhượng, Kinh Kha, Tử Thôi, Bá Di, Thúc Tề v.v… đều là những người tự hủy hoại thân mình mà xem trong sáu kinh, sách sử của các nhà hiền triết đều không thấy nghe trách họ bất hiếu. Trái lại tôn xưng họ là chí đức là tại sao? Hiếu gọi là thuận vậy. Thuận theo chánh lệnh của cha mẹ, gọi đó là hiếu thuận. Khéo vâng thờ cha mẹ đó là hiếu. Chỉ có khéo vâng thờ cha mẹ, ấy là hiếu vậy. Nguyên khí hỗn độn, hiếu ở trong đó. Khi trời đất chưa phân, một khối hỗn độn, trước lúc nguyên khí chưa chia thì lý hiếu đạo đã có sẵn trong ấy. Lấp cả trời đất, ngang đầy bốn biển. Sau khi trời đất đã phân, hiếu đạo có khắp khoảng không gian của trời đất, dọc ngang trong bốn biển. Không đâu chẳng đến, thuần toàn hiếu đạo: Võng = vô, nghóa là không. Thuần là thuần hậu. Trong khoảng không gian giữa con người và trời đất, không đâu chẳng là thuần hậu hiếu đạo vậy. Phát khởi từ vô thỉ. Nên đạo hiếu phát khởi từ thời vô thỉ. Đạo lý thân thân, liên quan đến hữu vi. Chữ thân trên nghóa là tôn ái (mến yêu tôn kính), chữ thân dưới là chỉ cho cha mẹ. Nên đạo lý tôn thờ cha mẹ mà liên quan đến hành vi tạo tác vậy. Ngày xưa, ở thời Bao Hy, lấy vô vi làm đạo giáo hóa làm lợi ích khắp dân chúng trong nước. Sử ký nói: Bao Hy tức là Phục Hy. Nghóa là từ thời tam hoàng thượng cổ, dùng vô vi vô tác, để giáo hóa người dân trong nước. Mà dân chất phác. Người thời xưa chất phát đôn hậu. Không biết đạo lý đi thưa về trình, nghi tắc mùa đông sưởi ấm mùa hè quạt mát. Cáo âm là cô, trình bày văn trên, trong lễ ký nói lúc ra đi phải thưa, để biết đi đâu vậy, lúc trở về phải trình với cha mẹ, không dám để cha mẹ trông mong. Vậy mùa đông thì sưởi ấm giường chăn của cha mẹ, mùa hè thì dùng quạt để quạt mát giường chiếu, từ thời xa xưa đều không có nghi tắc ấy. Đâu có thể tròn ba việc không trái phạm, bốn thể không hủy hoại tổn thương ư? Tóm kết văn trên nói Thái Bá, Dự Nhượng, Kinh Kha, Tử Thôi, Bá Di, Thúc Tề v.v… đều ghi chép trong sách sử, tôn xưng bằng đức hạnh của thánh hiền, chưa từng giữ gìn ba việc bốn thể ấy, mà khen ngợi vậy sao? Mà các bậc tiên thánh, hậu thánh, không nơi nào, lúc nào cho rằng những người dân ấy bất hiếu vậy. Lại tóm kết ý văn trên. Tiên thánh, hậu thánh là chỉ ở thời thượng cổ trung cổ mà nói. Nghóa là trong sáu kinh các sử đều không thấy nói sự bất hiếu của những người dân ấy. Khổng Tử nói: Hiếu là cội gốc các Đức, Đức nghóa là Phước tuệ nhân từ. Đức nghóa là thành đạt được, nghóa là được tôn xưng thiện mỹ, chánh đại thuần nhất, phước nghóa là an hưởng hiển vinh bách thuận vậy. Tuệ nghóa là tánh thông, lý giải và hiểu đạt vậy. Nhân là lý của đức từ ái của tâm, từ là nhu hòa, khéo khoan dung đối với mọi vật vậy. Lại nói: Hiếu để vậy, đó là gốc của điều nhân vậy. Luận ngữ nói: Khổng Tử có nói khéo kính thờ cha mẹ, đó gọi là Hiếu, khéo vâng kính người anh lớn, đó gọi là Để. Làm điều nhân ng- hóa, còn gọi là hành nhân. Nhân là lời tôn xưng đối với sự thương người lợi vật, lại nữa, nhân là nhẫn nhục vậy. Ưa thích sự sống, chán ghét sự giết hại, thiện ác đều chịu đựng, gọi đó là Nhân. Sách Trung Dung nói: “Nhân là người”. Mạnh Tử nói: “Nhân là tâm người”. Lại nữa ham thích sự sống, chán ghét sự giết hại, đó gọi là nhân, ưa thích sự sống là ưa thích mến thương mọi vật. Chán ghét sự giết hại là hiềm ác vậy. Thấy giết hại thì bất nhẫn đối với sự giết hại loài vật. Chịu đựng là nhân vậy, bởi vì lòng nhân tích chứa lâu ngày và rộng lớn, tất cả mọi sự thiện ác đều không thể làm lay động tâm ấy. Đó gọi là chịu đựng. Đây là thấu suốt sâu sắc về lý của nhân. Như lưới dày không tung xuống vào ao dơ, búa rìu đợi thời mới mang vào rừng núi. Mạnh tử, số âm xúc, ô là dơ, số = mật là dày; kín. Cố là lưới. Ngày xưa làm lưới thì làm mắt ô khoảng bốn tấc. Cá chưa đủ thước thì ở chợ không bán. Cỏ cây điêu tàn, sau đó mới có thể mang vác búa rìu vào rừng núi. Không phải thời, chặt một cây tức là chẳng phải hiếu, không phải thời giết một con vật cũng là chẳng phải hiếu vậy. Trong lễ ký, Tăng Tử nói: “Cây gỗ phải đợi thời mới chặt, cầm thú cũng phải đợi thời mới giết”. Khổng Tử nói: “Đoạn âm đoản. Chặt một cây, giết một con thú, không phải thời là chẳng phải hiếu vậy”. Nên tâm của người quân tử rộng lớn nhân ái, đối với cây cỏ, cầm thú, còn không nỡ sát hại, huống gì đối với người? Vì vậy, người quân tử đối với cầm thú, thấy nó sống mà không nỡ thấy nó chết, nghe tiếng nó kêu than mà không nỡ ăn thịt nó. Mạnh Tử nói: ở thời Tề tuyên Vương Hấn chung dùng dê đổi bò. Hai là được toàn mạng cả hai, đều không hại, vì tôn xưng làm việc nhân nghóa vậy. Tiếng kêu nghóa là lúc sắp chết tiếng nó kêu than buồn thảm. Bởi vì con người cùng với cầm thú cùng sống mà khác loài, nên dùng nó để lấy lễ, mà tâm không nỡ, không thể giết hại khi thấy nghe nó kêu than. Đến như Khổng Tử chỉ câu mà không chài lưới. Luận ngữ nói: Cương là dây lớn của lưới. Thuộc âm là độc, giăng lưới ngăn dứt dòng nước mà bắt cá vậy. Khổng Tử thửa nhỏ gia đình nghèo khó, vì bảo tồn sự sống và cúng tế, hoặc bất đắc dó (chẳng đặng đừng) mà đi câu vậy! Ân, Thang sửa đổi lời cầu nguyện. Theo Sử ký, Thương Thang ra đồng, thấy giăng lưới khắp bốn phía, cầu nguyện rằng: Từ thiên hạ bốn phương đều vào trong lưới của ta. Thang nói rằng: “Ôi!”: Ôi là từ than ôi vậy, bỏ bớt đi ba phía, các nước chư hầu nghe vậy, nói: vua Thang, tỏa đức khắp cùng, đến cả loài cầm thú vậy. Tuy dung mạo đều là chịu đựng, mà còn chưa sánh bằng với tâm đại từ che khắp sinh linh vậy. Khổng Tử chỉ câu mà không chài lưới, Ân thang sửa đổi lời cầu nguyện, Mạnh Tử thấy nó sống nghe tiếng nó v.v… đều có sự chịu đựng, còn chưa thể sánh bằng tâm đại từ bi che khắp cứu giúp tất cả sinh linh của Đức Phật ta vậy. Mà Bậc Đại thánh nhân ở Thiên Trúc. Cãn là thiên (= trời) vậy, trời tây có năm: đông, tây, nam, bắc và trung ương vậy. Bậc Đại thánh chỉ cho Phật. Ngài nhân từ chịu đựng, riêng biệt vượt hẳn người thường. Đặc = Dị, nghóa là riêng biệt, việt = quá, nghóa là vượt qua. Lòng nhân từ chịu đựng của Phật vượt hẳn loài người tầm thường. Vì trong bốn phương sáu hợp: Đông, tây, nam, bắc gọi là bốn phương, cộng thêm phương trên và phương dưới gọi là sáu hợp. Trong tám hoành chín vi. Về tám hoành, Hoài Nam Tử nói: Ngoài chín châu có tám Di; Di tức là duyên liền. Ngoài tám Di có tám hoành. Tám Hoành tức là bốn phương bốn duy. Trong “Văn tuyển” chú thích: “Hoành là cương, là kỷ, là giềng mối phương vị trong thiên hạ. Hoành của phương đông là tang dã, hoành của phương đông nam là chúng an, hoành của phương nam là Phản thanh, hoành của phương Tây nam là Hỏa thổ, hoành của phương Tây là yêu dã, hoành của phương Tây bắc là sa sở, hoành của phương Bắc là ủy vũ, hoành của phương đông bắc là phương thổ. Chín vi là chín châu của võ công, tức là ký, duyên, thanh, từ, dương, kinh, dự, lương và ung vậy. Các loài bay trên trời, chạy dưới đất. Loài bay trên trời tức là chim, loài chạy dưới đất là thú. Có đủ tình thức. Bốn loài sinh trong sáu đường đều có tình thức. Móng vảy lông cánh. Móng vảy tức là loài rồng, cá và rắn vậy, cánh là loài chim, lông là loài thú vậy. Thuộc chủng loại khí huyết. Bất luân lớn nhỏ, loài có tình thức đều thuộc phẩm loại khí huyết. Thảy đều từ bi bình đẳng, giữ gìn không giết hại. Tóm tắt văn trên, tất cả loài hữu tình thảy đều từ bi bình đẳng, gìn giữ mà không giết hại. Cho nên Kinh Phạm Võng chép: “Tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ là mẹ ta”: Phật quán tưởng tất cả người nam người nữ là cha là mẹ. Ta đời đời, đều thọ sinh từ những người nam người nữ ấy: Ý Phật dạy là đời đời kiếp kiếp đều từ cha mẹ sinh ra, nên quán tưởng tất cả người nam, người nữ đều như cha mẹ vậy. Nên tất cả chúng sinh trong sáu đường đều là cha mẹ: Sáu đường tức là trời, người, A-tu-la, địa ngục, quỷ đói, và súc sinh. Mọi người nam, người nữ trong sáu đường, e rằng đã từng làm cha mẹ trong đời trước, nên đều khởi tưởng đó là cha mẹ vậy. Mà giết mà ăn đó, tức là giết hại cha mẹ của ta, và cũng là giết hại thân đời trước của ta vậy. Tức “Giết hại cha mẹ của ta”, nghóa là giết hại cha mẹ trong nhiều đời kiếp đến nay đã sinh ra ta vậy, hoặc do nghiệp báo đời trước mà đọa vào các loài ấy, nếu ngày nay giết mà ăn nó thì sợ rằng như vậy. “Cũng là giết hại thân trước của ta”, nghóa là hoặc giết thân ta đời trước đã từng đọa làm các loài ấy, nay nếu giết nó cũng như giết hại thân trước của ta vậy. Người xuất gia, giới luật có ghi chép rõ ràng, đối với cỏ xanh còn không giết hại, huống gì đối với loài hữu tình ư! Trong luật nói: Thuở xưa, có vị Tỳ-kheo bị giặc cướp đoạt hết y áo. Giặc biết người đệ tử Phật không phá hoại cỏ xanh, giữ giới không giết hại. Sợ bị đuổi theo, bèn trói vị Tỳ-kheo lại để trên cỏ, vị tăng ấy suốt ngày không dám cử động, sau gặp được người đến cởi trói mà đi. Đối với loài cỏ xanh, còn như vậy, huống gì đối với loài hữu tình ư? Lấy đó mà luận bàn thì đức hạnh thô tế đã hiển nhiên. Đức hạnh thô sơ là như lời của Mạnh Tử v.v…, đức hạnh tinh tế là hạnh của Như lai. Và đạo lý quyền thật đã rõ ràng. Ý của quyền thật, chú thích, xem ở trước. Phàm, con hiếu nuôi nấng cha mẹ già, lấy sự dưỡng chí làm đầu, vui thích theo tâm cha mẹ tức là không trái tâm của cha mẹ, nên vui mà không buồn vậy. Chí thì phát động của tâm, có sở dục (= điều ưa muốn) vậy, nên lại phải trước lấy ý chân thành, không để trái nghịch, vui vẻ để hỏi, do đó vui tai cha mẹ, mềm dịu ôn hòa, do đó vui mắt cha mẹ. Giúp cho cha mẹ nghó ngơi yên ổn. Lễ ký nói: Tối viếng là an sự nghó ngơi, sớm thăm là an sự yên ổn. Để cha mẹ thọ hưởng đức hiếu trung dưỡng trọn đời của con. Lễ ký nói: Hiếu trọn đời là trọn đời người con. Trọn đời ấy chẳng phải trọn đời cha mẹ mà là trọn đời mình vậy. Lễ ký nói tự trọn đời mình vậy. Cho nên, điều ưa thích của cha mẹ cũng nên ưa thích điều đó, Điều kính trọng của cha mẹ cũng nên kính trọng điều đó, còn đối với chó ngựa đều như vậy, huống gì đối với người ư? Lễ ký nói: đối với vật mà cha mẹ đang yêu thương mến thích, như chó ngựa còn không dám khinh thường, huống hồ cha mẹ là người cha mẹ kính mến ư? Công Minh Nghi. Học trò của Tăng Tử. Hỏi Tăng Tử rằng: Thầy. Tôn xưng Tăng Tử. Đáng gọi là Hiếu, Tăng Tử nói:“Sao ông nói như vậy? Sao ông nói như vậy?” Tăng nghe Công Minh Nghi nói: “Thầy, đáng gọi là hiếu” Tăng Tử còn chưa dám nhậnmình làm tròn đạo hiếu. Phàm ý hạnh trước của cha mẹ, phải tiếp nhận thuận theo ý chí khí ấy. Tiên âm là tuyến. Ý hạnh trước tại cha mẹ, Thừa tức là thừa thuận chí của cha mẹ. Chỉ bày cha mẹ sống với đạo mới được gọi là hiếu. Chỉ bày đạo lý của bậc Thánh cho cha mẹ thực hành, thì được gọi là hiếu. Tăng Sâm tôi kính dưỡng cha mẹ như vậy, đâu được gọi là hiếu? Sâm là tên của Tăng Tử. Tăng Tử tự xưng tên mình. Tăng Sâm tôi phụng thờ cha mẹ như thế. Phàm hiếu là tôn kính nghiêm phụ phối hợp với Đạo Trời mới dám xưng là hiếu. Mà các vị Sa-môn, chỉ bày cha mẹ làm việc phước lành. Chỉ bày cha mẹ làm việc phước lành, là nền tảng để thành Đức. Khuyên thực hành việc phước lành không thôi. minh. Không thôi, nghóa là làm mà không dừng nghỉ. Dần dứt sinh tử, bỏ hẳn luân hồi. Dần dần dứt bỏ nhân sinh tử, xa lìa hẳn khổ luôn hồi. Con sông ân ái, khô biển phiền não. Dần cạn sông phan duyên ân ái, làm khô cạn biển phiền não vô Thoát khỏi thân giả hợp, được quả báo chân thật. Thoát khỏi thân tướng huyền hóa, thể chất luống dối, khí huyết nhóm tụ, mà chứng được quả vị Vô thượng thiện quả chân tịnh thực tế. Há ít bổ ích ư ? Thoát khỏi sự giả hợp, liễu đạt chân thật như trên, há gọi đó là ít bổ ích ư? Vả lại, cha mẹ có điều không phải, mà con có thể can ngăn, khiến khỏi rơi vào bất nghóa, cũng được gọi là hiếu. Trong Hiếu kinh chép: cha mẹ có được người con biết can ngăn thì thân không rơi vào bất nghóa, chính là nói ý này vậy, người con ấy vẫn được tôn xưng là hiếu. Huống gì thoát khỏi đường ác, hoặc chứng thiện quả mà thôi. Tóm kết ý văn trên, giúp cha mẹ khỏi rơi vào bất nghóa, còn được tôn xưng là hiếu, huống gì khuyên cha mẹ làm điều lành, thoát khỏi đường ác, chứng được quả lành ư? Nay, các vị Sa-môn cắt tóc cạo râu, dứt bỏ danh lợi: Cạo bỏ râu tóc nghóa là xả bỏ hình tướng thế gian, dứt bỏ hư danh, xa lìa lợi dưỡng mong manh. Xa lìa vinh nhục, dứt bỏ phù hoa: Có vinh thì có nhục, nên xa lìa vinh nhục và xả bỏ phù hoa hư ngụy ở thế gian. Mến đạo vô vi, tâm thong dong ngoài muôn vật: Tu đạo tự nhiên; ưa mến vô vi, vô tác, tâm biểu lộ tự tại đối với muôn vật. So với những người đốt thân tự hại, cũng xa lắm vậy: Phương = tỷ, nghóa là so sánh. Nếu như Sa-môn cạo bỏ râu tóc mà là bất hiếu, thì so với Tử Thôi, Dự Nhượng, Kinh Kha, Thái Bá, Bá Di, Thúc Tề v.v… đốt thân tự hại, đã xa lại càng xa lắm vậy. Tử Trương nói: kẻ só bị ách nạn đến nỗi phải chết: Trong luận ngữ, Tử Trương nói kẻ só bị ách nạn đến nỗi phải chết là đối với chỗ đáng chết mới phải chết. Ý nói chết vì nghóa: Quên thân mạng, giữ lấy nghóa. Không mến tiếc thân mình: Đã quên thân, giữ nghóa, nên không mến tiếc thân vậy. Do đó, đạo của người quân tử, làm việc không mang kết quả, chỉ cần có nghóa mà thôi. Chỉ cần giữ gìn nghóa khí vậy. Nếu bó buộc nơi đạo nhỏ mà bỏ đi đức lớn, là việc mà các bậc hiền só không làm vậy. Thuở xưa vua Thọ nhà Thương. Trong Thương Thư nói: Thọ là tên của vua Trụ, vì tánh nết hung tàn bất nghóa, tổn thiện, nên gọi là Trụ. Vô đạo, hung tàn, bạo mạn, khốc ngược: Đại Học nói: “Người làm vua phải giữ lấy lòng nhân”. Do không thực hành chính sách nhân nghóa gọi là vô đạo. Bạo ác thương hại là hung tàn, cưỡng đoạt bạo ngược là bạo mạn, pháp luật hà khắc, lạm xử hình phạt là khốc ngược. Mổ bụng phụ nữ có thai: Mổ bụng vợ Tỷ Can để xem thai nhi. Thiêu đốt hiền só trung lương: Chẳng kể hiền só trung lương, đốt lửa mà thiêu sống. Hành hình bằng cách đốt nướng áp lửa: Dựng cột đồng, bôi mỡ vào, dưới có than lửa, bắt người tội leo lên, mà vua Trụ và Đắc Kỷ lấy làm rất vui vẻ. Đó gọi là hành hình bằng cách đốt nướng áp lửa. Chặt cẳng chân người tội sáng sớm lội qua nước lạnh: Trạc âm là chước. Mùa đông sáng sớm xem những người tội bị bắt lội qua nước mà sợ lạnh. Cho rằng cẳng chân cốt tủy chưa đầy, nên chặt chẻ ra để khám nghiệm. Rượu chứa đầy hồ, thịt treo đầy rừng: Rượu chứa thành ao, treo thịt thành rừng, nam nữ thân thể lõa lồ đuổi bắt nhau trong đó. Trong mê đắm sắc dục: Trong cung lập ra chín chợ, sủng ái Đắc Kỷ, mê loạn dâm sắc, uốn rượu suốt đêm, trăm họ oán trách than van, các nước chư hầu có kẻ phản lại. Ngoài bỏ phế việc cai trị sửa đổi nước nhà: Phế là hoại (= phế bỏ hư hoại) vậy. Chính là chánh. Dùng chánh lý mà lập ra phép tắc thường pháp thì gọi là chánh. Do trong mê loạn bởi sắc dục mà ngoài phế hoại việc cai trị sửa đổi nước nhà. Giàu sang cùng cực trong nhân gian: Giàu sang dục lạc cùng tận trong nhân gian vậy. Buông lung kiêu xa ngoài thân: Tự do buông lung ngoài thân trội phần xa xỉ kiêu đãi. Vi Tử giả điên bỏ đi: Vi Tử là anh thứ của vua Trụ, vì vua Trụ vô đạo, mấy lần can ngăn không nghe theo, nên Vi Tử giả điên bỏ đi. Cơ Tử vì đó mà làm tôi tớ: Cơ Tử là bác ruột của Trụ, con của Đế Ất nhà Ân, can ngăn mà không nghe, bèn bứt tóc giả điên mà làm tôi tớ. Thần thúc Tỷ Can hết lòng trung thực can ngăn, bèn mổ bụng mà chết: Tỷ Can là chú ruột của vua Trụ, dùng lời ngay thẳng can ngăn vua Trụ. Vua Trụ bảo: “Tôi nghe tim của bậc Thánh có bảy lỗ”, bèn mổ bụng xem tim mà chết. Đó cũng là không giữ toàn thân, sao bất hiếu vậy mà không trách ư? Như Tỷ Can v.v… bứt tóc mổ bụng, cũng là không giữ toàn thân, sao không khiển trách là bất hiếu ư? Trong khi Khổng Tử y cứ theo đức nhân mà tôn xưng họ vậy: Phu tử đều tôn xưng họ là người nhân đức. Đâu thể nào y cứ vào sự giữ gìn râu tóc của thân mình mà tôn xưng ấy là người hiếu hạnh ư? Tóm kết ý văn trên. Đây thể lấy ngay râu tóc đầy đủ nơi thân mình mà tôn xưng đó là hiếu hạnh ư. Vì vậy, các bậc thánh do từ sự mà lập chế, lý không thường giữ: Từ xưa các bậc thánh y cứ vào sự mà lập ra chế độ, lý ấy tuy bày nên, cố nhiên không thường giữ gìn vậy. Khổng Tử nói: Quân tử bất khí. Luận ngữ nói: Kẻ só thành đức, không đắm trước khí lượng vậy. Nói khí, tức mỗi mỗi tự hoàn bị diệu dụng của nó: Như xe không thể làm thuyền, thuyền không thể làm xe vậy. Còn bậc quân tử không gì chẳng làm được: Kẻ só thành đức, thể không gì chẳng đủ, dụng không gì chẳng hoàn bị, riêng chẳng một tài một nghệ mà thôi. Quân tử sở dó không đắm trước khí lượng, là vì không tạo tác. Luận ngữ nói: Rất sợ bùn: Luận ngữ nói: Tử Hạ nói bùn là không thông. Đường lớn càng xa càng thông, đường nhỏ rất xa mà tắt nghẽn bởi bùn vậy. Đó là căn bệnh của bậc Thánh vậy: Bệnh là hoạn. Do đó, bậc thánh buồn lo việc bùn không thông. Như bốn vị là Mạnh Tôn v.v… cùng hỏi về đạo hiếu, câu hỏi tuy giống mà lời hỏi thì khác nhau. Luận ngữ nói: Mạnh Ý Tử hỏi đạo hiếu, Khổng Tử dạy: “Không trái”. Mạnh Võ Bá hỏi đạo hiếu, Khổng Tử dạy: “Cha mẹ chỉ lo bị bệnh”. Tử Du hỏi đạo hiếu, Khổng Tử dạy: “Hạnh hiếu ngày nay là kính thờ nuôi nấng, đến như chó ngựa đều dưỡng nuôi được, bất kính đâu khác gì ư?” Tử Ưu hỏi đạo hiếu, Khổng Tử dạy: “Nạn sắc, có đệ tử phục dịch lao nhọc của nó, có rượu quý thức ăn ngon thì kính dâng cha mẹ ăn. Hiểu được thế, đó là hiếu”. Đây là câu hỏi về đạo hiếu đều giống nhau, mà chỗ trả lời của thiên tử có khác nhau. Bởi vì tùy khí lượng mà trao truyền đạo. Luận ngữ nói: Khổng Tử nói với Mạnh Ý Tử tức là dạy chung mọi người vậy. Nói với Mạnh Võ Bá là vì người ấy có nhiều sự đáng lo. Nói với Tử Du là phụng thờ nuôi nấng mà hoặc đánh mất sự kính trọng. Nói với Tử Du là hay thẳng nghóa mà hoặc thiếu sắc mặc ôn hòa. Mỗi người vì tài khí cao thấp, đối với điều mất mát của họ mà dạy nên có khác nhau. Do đó, tùy khí lượng của họ mà trao truyền đạo. Sao lại vì nhất thể mà tự hạn cuộc vậy ư? Các bậc thánh trong tam giáo, mỗi vị đều tự lập ra môn phong, sự thực hành khác nhau. Do đó, đạo tùy căn khí con người mà trao truyền. Sao lại lấy một thể mà có thể tự cục lượng vậy ư? Vì vậy, bậc tri só, những bậc hiền, không đắm trước, danh cú. Trí tuệ đạt só, đức hạnh người nhân, không nhất định chấp trước danh tướng ngữ cú, vì thiên chấp là thuộc loại cục lượng. Như lời Ông hỏi, thật là thấp kém vậy: Như điều ông hỏi, thành thật mà nói thì quá thấp kém vậy. --------------------------------- <詞>CHƯƠNG THỨ TÁM: CHỐNG CỰ SỰ HỦY HOẠI Chương này, nhân có điều thắc mắc, vì cự tuyệt điều đó nên gọi là “Chống cự sự hủy hoại”. Khách nói: kéo dài phước đức không gì hơn nối dõi về sau. Tội bất hiếu chẳng gì bằng không có con cái: Mục = vô là không. Muốn kéo dài phước đức, không gì có thể vượt qua sự nối dòng con cháu về sau. Muốn khỏi bị gọi là bất hiếu, không gì bằng đừng để không có con cháu nối giòng. Chưa dọn đẹp đẽ không gì bằng châu ngọc, trang sức diễm kiều không gì qua lụa là gấm vóc: Vua ưa ham thích tốt đẹp, chẳng gì hơn châu báu vàng ngọc, trang sức đẹp đẽ chẳng gì bằng lụa là gấm vóc. Đó là từ ngữ dẫn dụ. Khổng Tử nói: “Cha mẹ sinh con tiếp nối dòng giống, chẳng gì lớn bằng”. Tức cha mẹ sinh con, truyền thể nối nhau, đạo của con người không gì lớn bằng. Đạo lý của con người, tiếp nối dòng giống về sau là lớn hơn cả. Nay thấy các vị Sa-môn lìa vợ con, vất bỏ của cải. Vất bỏ vật chất gia tài. Sao trái ngược với hạnh phước hiếu, xa lìa đạo giúp thân vậy ư? Nhân sao lại trái ngược với hạnh lành phước đức hiếu thuận, xa lìa đại đạo giúp thân vậy ư? Diệu Minh nói: Ông nói quá, vợ con là vật dư ngoài thân, của cải là đồ thừa đối với đạo vậy: Vợ con là vật dư ngoài thân, của cải là đồ thừa đối với đạo. Vì vậy, ái niệm tình dục là cái hại của thân. Vợ con của cải mà vọng niệm yêu riêng, động tình kéo theo dục, không ích lợi mà lại có tổn hại, cho nên là họa hoạn của thân vậy. Lắng đọng gương lòng trong sạch là sự nhiệm mầu của Đạo. Trừng giám là gương sáng. Nơi tâm nếu thanh tịnh như gương sáng, thì thật là chỗ nhiệm mầu của chí đạo. Như trước thì có vàng ngọc, mà sau thì có con Hủy con Hổ. Hẳn lòng người sẽ bỏ mà đi, không dám đến lấy vàng ngọc. Vì sao? Vì trước phải quý mạng sau mới lấy cái lợi vậy: Hủy âm là Tự (= con tê giác cái), giống như con bò một sừng, thân nặng ngàn cân, bắt cọp mà ăn, là loài thú hung dữ làm tổn hại người. lại dụ như trước mặt tuy có vàng bạc châu ngọc nhưng ở phía sau hoặc có loài hủy, hổ, nên người chắc chắn bỏ đi, không dám lấy vàng ngọc trước mặt ấy. Vì sao? Vì trước tiên phải yêu tiếc tánh mạng, sau đó mới có thể vui với tài lợi vậy. Lão Tử nói: thân mạng và của cải, cái nào quan trọng? Muốn thân được an vui, thì phải xem thường cái lợi. Được và mất, cái gì sinh bệnh: Muốn dứt trừ bệnh, trước tiên phải quên cái được (= đắc). Cho nên, càng mến thích sâu đậm thì phải phế bỏ nhiều: Mến thích nó càng nhiều thì sự phế bỏ nó càng lớn. Cất chứa nhiều thì mất càng nhiều. Đã cất chứa nhiều thì chắc chắn có họa hoạn mất mát cũng lắm. Biết đủ thì không nhục, biết dừng thì không nguy: Đãi là nguy, có thể làm, có thể dừng thì không nguy hại đến thân. Nên nói: “Biết đủ thì không nhục”. Hán Sớ Quảng nói: “Bậc hiền mà lắm của cải thì tổn hại chí, kẻ ngu mà lắm của cải thì càng thêm lỗi lầm”, nên nói: “Biết dừng thì không nguy”. Và có thể lâu dài vậy: Thấu đạt được ý nghóa của các câu trên đây, thì có thể giữ gìn thân mạng được lâu dài. Lại nói: Tội không gì lớn bằng chấp nhận tham dục: Khả là chấp nhận, Dục là tham dục. Tâm Dục đã sinh, bao giờ mới đủ, chỉ được là chính như vậy. Chấp nhận tham dục thì tội ấy không gì lớn bằng như thế. Họa chẳng gì lớn bằng không biết đủ: Tham của bất nghóa, mà không biết thỏa mãn thì họa hoạn không gì hơn như vậy. Tai vạ không gì lớn bằng muốn được: Cửu là ương cửu (= tai vạ) vậy, Khổng Tử nói: “Răn đe ở cái được (= đắc), được là tham dục vậy, tham dục không thôi, thì tai vạ sẽ sinh. Nên cái “đủ” của sự biết đủ là thường đủ vậy. Lại nói: “Vàng ngọc đầy nhà, chẳng phải do tham thì mới giữ được”. Vàng ngọc đầy nhà chẳng phải tham ái mà có được, nên người xưa nói: Tham của cải không bằng chẳng tham của cải, vì tham của cải thì trời giáng tai họa, của cải do tham mà được, nó đến với người tồn tại không lâu. Sao bằng người không tham của cải ư? Giàu sang mà kiêu ngạo là tự chuốc lấy lại tai vạ ấy: Kiêu căng buông lung là tai vạ. Phàm ở địa vị giàu sang, chẳng gìn giữ bổn phận mà rong ruổi luông tuồng. Giàu sang kiêu ngạo là tự phế bỏ địa vị của mình mà chuốc lấy tai vạ vậy. Riêng mình Ông không nghe vậy ư? Vả lại tánh mạng con người nặng hơn so với núi Thái: Trong khoảng trời đất, muôn ngàn loài vật, quý trọng nhất là tánh mạng con người, nên được dụ như núi Thái. Vợ con của cải đối với con người nhẹ hơn lông chim thu: Hào = mao, là lông vậy. Chỉ có lông chim thu rất nhỏ nhiệm, vợ, con, của cải chẳng phải không quý vậy. Có ta thì nên dùng, Ta đã mất rồi thì vợ, con, của cải chẳng phải là cái của ta nữa, nên thí dụ nó nhẹ như lông chim thu vậy. Lắng đọng gương sáng thanh tịnh thì ái niệm tình dục cũng fiống như thế: Tóm kết ý văn trên, vì khi đã lắng đọng gương tâm trong sáng thì ái niệm tình dục cũng cùng một loại. Vì vậy, các bậc thánh gấp rút việc lớn, hòa hoãn việc nhỏ, trước lo cái nặng, sau tính cái nhẹ vậy: Gấp rút việc lớn tức lắng đọng gương tâm trong sáng, hòa hoãn việc nhẹ tức là ái niệm tình dục, trước lo cái nặng tức là tánh mạng, nên xem trọng tánh mạng như núi Thái, sau tính cái nhẹ là vợ con, của cải, nên xem nhẹ vợ, con, của cải như lông chim thu vậy. Ai là người hiểu biết mà bỏ mạng sống sâu dày, hướng đến chút lợi mỏng manh ư? Thú là hướng đến. Ý nói ai là người hiểu biết thì đâu thể bỏ tánh mạng sâu dày mà chạy theo chút lợi mỏng manh. Mạnh Tử nói rằng:“Ham thích của cải riêng lo vợ con là bất hiếu vậy”. Các vị Sa-môn lìa vợ con, bỏ của cải, so với đạo lý ấy, có thể gọi là phù hợp vậy. Đâu thể cho là bất hiếu mà bị khiển trách vậy! Phàm người học Phật, phải hiểu được thế đạo là phao nổi và rõ mọi điều thiện ác. Tạng là lành, phủ là ác, luống dối không thật gọi là bao. Nghóa là người học Phật trước tiên phải hiểu biết thế đạo là không thật, không bền chắc, sau đó soi xét cái lý lành dữ, chính đáng trong đương thời. Tôn sùng quả đức, đi vào Thánh đạo. Thành thật, kính tin quả Đức, thì chân bước lên con đường thánh. Bỏ ác lập thân. Khử = trừ là bỏ. Nặc là Ác. Như dứt bỏ ác để lập thân. Dứt bỏ hung bạo để thực hành từ nhẫn. Dứt bỏ hung bạo ngạo mạn, mà thực hành từ hòa, mềm mỏng. Không ai chẳng khuyên người bước đến tốt đẹp an lành, để đạt vô vi. Mạc = vô là không . Ngự = Tấn là bước đến. Tán kết mấy câu văn tròn. Nếu y cứ vào đó mà thực hành thì không ai chẳng khuyên người bước đến tốt lành mà thông đạt đạo lý vô vi tự nhiên. Nương vào Phước Hiếu để vượt hữu lậu Bằng = y thác, là nương tựa. Siêu = việt, là vượt, Lậu = Sấm lậu là thấm chảy. Nêu sở hành ở ý văn trên, thì y vào đó để có phước đức và Hiếu đạo, sẽ vượt qua và đạt đến quả vị vô lậu. Gần thì làm tỏ rạng Tổ nể: Gần thì tỏ rạng vinh hiển tổ tông tiên nể. Xa thì đạt đến Bồ-đề: Lịch = cận tháo, là gần đạt đến. Xa thì đến gần Bồ-đề. Sự lớn lao của phước hiếu ấy, không gì vượt hơn: Dũ = việt, là vượt, hơn. Đầu mối lớn lao của phước đức hiếu đạo, không gì hơn làm tỏ rạng tổ nể, đạt đến quả vị Bồ-đề cùng cực vậy. Có gì là mê hoặc ư? Như điều đã nói trên, thì có gì là mê hoặc ư? Ngày xưa Bá Di, Thúc Tề, không người nối dõi, Sào Phủ, Hứa Do không có con cái. Bá Di, Thúc Tề chết đói ở Thủ Dương, Sào Phủ, Hứa Do ẩn tích nơi Kỳ Trụ, đều không có con cái tiếp nối dòng dõi. Mà Trọng Ni tôn xưng các vị ấy là bậc hiền: Luận ngữ nói: Tử Cống hỏi: “Bá Di, Thúc Tề là người thế nào?”. Khổng Tử nói: Đó là những bậc hiền só thuở xưa. Không hề nghe chê trách họ chẳng phải hiếu. Ngày nay các vị Sa-môn, vất bỏ sự ràng buộc của trần tục, chuộng lấy đạo lý thanh hư vượt ngoài mọi vật: Chư tăng ngày nay vất bỏ sự ràng buộc của bụi đời oan trái, chuộng đạo lý vô vi thanh hư vượt ngoài muôn vật. Hướng về phương trời không qua không lại: Đến phương trời rộng lớn chân tịnh không qua không lại. Mong cầu điệu lý không diệt không sinh: Để cầu diệu lý không diệt không sinh. So với đạo lý của Bá Di, Thúc Tề, Sào Phủ, Hứa Do cũng không cao xa. Tóm tắt ý văn trên. Như đạo lý tu hành của các vị Sa-môn, nếu so sánh với đạo lý của Bá Di, Thúc Tề, Sào Phủ, Hứa Do đã sống, thì cũng không cao xa vậy. Vậy thì đâu trái với hạnh phước đức và hiếu đạo ư? Với đạo lý tu hạnh như thế đâu có trái ngược đối với phước đức hiếu đạo? <篇> LUẬN CHIẾT NGHI <卷>QUYỂN 3 CHƯƠNG THỨ CHÍN: BÀN VỀ LỄ NGHI Chương này bình luận về kiểm chế của lễ nghi, nên gọi là “Bàn về lễ nghi”. Khách nói: Hoàng đế rũ áo mà tấn thân ăn mặc. Để lại ở đời mà làm lợi cho dân chúng vậy. Nên áo mão, đầu tiên được chế ra từ hoàng đế. Tố Vương chế lễ mà hình dáng cung kính. Tố là không vậy. Nói Khổng Tử có đức làm vua mà không ngôi vị vua. Lời tựa của Tả truyện nói: Phu Tử sáng tác Xuân Thu là Tố Vương. Tả Khâu minh truyện Xuân Thu là Tố Thần. Nên lễ nhạc bắt đầu có ra từ Khổng Tử. Phục (mặc) là đứng đầu trong ba đức Trong Hiếu kinh nói: “Chẳng phải pháp phục của tiên vương thì không dàm mặc. Chẳng phải đức hạnh của tiên vương thì không dám làm. Chẳng phải pháp ngôn (= lời nói) của tiên vương thì không dám nói. Ba đức ấy, phục (mặc) là đầu nên nói là sơ (= trước tiên = đứng đầu). Mạo đặt là đầu trong năm việc. Thượng thư nói: Năm việc: 1/ mạo, 2/ ngôn, 3/ thị, 4/ thính, 5/ tư. Chú thích rằng: mạo là cung, ngôn là tùng, thị là minh, thính là thông và tư là duệ. Cung làm túc, tùng làm hựu, minh làm triết, thông làm mưu và duệ làm thánh. Trong năm việc ấy, mạo liệt đứng đầu tiên, nên gọi là trước tiên (= đầu tiên = thủ). Tử Lộ gặp nạn, không quên thắc giải mũ: Anh là giải buộc mũ. Tử Lộ gặp nạn Thái tử Vệ, còn thắt dãi chỉnh mũ mà chết, tuy khốn cùng mà chẳng bỏ mũ miện ấy. Nguyên Hiến tuy nghèo mà chẳng lìa mũ đẹp: Nguyên Hiến người nước Lỗ, nghèo không nhà ở, thường hay đội mũ. Tử Cống đi ngang qua, nói: “Sao bệnh quá thế!” Nguyên Hiến nói: “Tôi nghe kẻ không có của cải là nghèo, có đạo lý mà không thực hành là bệnh,” tôi đây là nghèo chứ không phải bệnh. Ngày nay các vị Sa-môn, cạo bỏ râu tóc, mặc áo nhuộm: Âm y nghóa là mặc, truy là màu đen, bào là đại y. Ngoài không dung nghi quỳ đứng, trong không lễ phép ôn cung, vậy đối với pháp chế của tiên vương, không là trái ngược ư? Ngoài là đối với vua quan, không lễ nghi quỳ lạy. Trong là đối với cha mẹ không có lễ mạo ôn hòa cung kính. Không thực hành pháp của các bậc tiên triết hiền vương chế định, vậy mà không trái ngược ư? Diệu Minh nói: Ông rất không thông đạt lý ấy! Quá lắm là trách lời khách hỏi, rất không thông hiểu lý ấy. Ngày xưa, các vua thân rắn mũi cọp, các Thánh đầu trâu vảy rồng: Phục Hy thân như rắn, vảy như rồng, Võ Vương mũi như hổ, Thần Nông đầu như trâu, đều là những bậc thánh, vua. Ăn tanh uống thối Đạm = thực là ăn. Thiên = tinh là tanh. Xú = thối là thịt đã hủy hoại. Trước kia con người chưa tìm được lửa, nên ăn thịt sống uống máu tươi, ngày nay dùng vật sống để cúng tế. Mặc bằng lông da Từ thời hoàng đế về trước, chưa có quần áo, đều dùng lông da của cầm thú làm đồ mặc. Mùa hè ở trên ổ như chim Tăng âm là tăng, là ổ chim. Thời thượng cổ, các bậc thánh không có nhà, mùa hè thì ở trên ổ chim. Mùa đông thì ở trong hang động. Doanh là tạo tác, mùa đông thì đào hang động để ở. Luận về đạo thì tôn sùng chất phác Luận về đạo thì tôn kính. Luận về đức thì mến chuộng thanh hư Luận về đức thì tôn trọng, mến chuộng thanh hư vô vi. Chưa biết lễ nghi ôn hòa, cung kính, bái quỳ, không biết cái đẹp của chương phủ tấn thân. Chương phủ, lễ quan Cho nên phục hy quấn đầu mà chân chẳng mang giày Quấn tóc trên đầu và chỉ đi chân không Thần nông để đầu trần, không đội mũ Đầu không đội mũ miện Vào thời ấy đâu có phục sức trâm cài, giải thắt, áo mũ vậy ư? Tóm kết văn trên, các vua thánh đức, hành đạo vô vi, làm lợi cho dân chúng đâu có các thứ trâm anh, mũ miện để trang sức vậy. Mà trong sáu kinh và các nhà hiền triết đều tôn xưng họ là chí đức, không hề nghe vì thiếu mũ miện mà trách họ phi lý vậy! Ngày xưa, Lỗ Ai Công hỏi Khổng Tử: “Vua Thuấn đội mũ gì?”: Hỏi vua Thuấn đội mũ như thế nào? Khổng Tử không trả lời. Lỗ Ai Công hỏi: “Quả nhân có hỏi mà ông không nói, ấy là có ý gì?” Quả là ít vậy, là ngôn từ khiêm nhượng, nói tôi ít đức vậy. Khổng Tử nói: “Câu hỏi của Ông không lớn, mới suy nghó lời để đáp” đáp. Nhân thấy Lỗ Ai Công hỏi lời ấy không lớn, mới suy nghó lời để Lỗ Ai Công bảo: “Sao là chẳng lớn?” Lỗ Ai Công nói: Sao là không lớn? Khổng Tử nói: vua Thuấn làm vua là đức của Người ưa thích sự sống, chán ghét sự giết hại Ác là chán ghét. Thuấn làm vua, lấy đức trị dân, ưa thích sự sống, trở thành chán ghét sự giết hại. Chính sách của vua Thuấn là tín nhiệm người hiền, mà loại bỏ kẻ chẳng ra gì. Người chẳng ra gì là không phải người hiền. Hành chánh thì chọn lựa người hiền đức, loại bỏ người không hiền đức. Đức tỏ sáng như mặt trời, mặt trăng Đức tỏ sáng ví như mặt trời, mặt trăng. Hóa hành như thần Phong hóa đại hành, cảm ứng như thần. Rùa phượng tượng trưng cho điều lành, lân rồng kêu là điềm tốt. Rùa, phượng, lân, rồng, gọi là bốn con vật linh thiêng là điềm tốt lành của vua. Nước nhà có bậc thánh vương minh chúa, thì bốn con vật này xuất hiện. Ông chỉ hỏi về mũ miện, nên chẳng phải lớn. Như chỉ hỏi về mũ miện, thì chẳng phải là việc lớn của Quốc chính vậy. Như vậy, thì Đạo Đức Lễ nhạc do con người làm ra. Bởi vì, Đạo Đức Lễ nhạc, đều do các vua đương thời chế ra vậy. Chẳng phải mũ miện của chương phủ làm ra, nên Lão tử nói: “Mất Đạo thì sau đó dùng Đức”: Đạo là tự nhiên, Đức là còn cái được. Nên Đạo suy thì dùng Đức để cai trị, nên nói mất Đạo thì dùng Đức. Mất Đức thì sau đó dùng Nhân: Nhân là tâm có sự mến thương, lợi lạc. Cho nên Đức suy thì thực hành Nhân, vì thế nói mất Đức thì dùng Nhân. Mất Nhân thì dùng Nghóa: Nghóa là tâm có đoán chế. Tâm Nhân suy thì thực hành Nghóa, cho nên nói mất Nhân thì dùng Nghóa. Mất Nghóa thì dùng Lễ: Lễ, có ý nghóa là cưỡng dân. Do nghóa suy mà dùng Lễ, nên nói mất Nghóa thì dùng Lễ. Phàm, Lễ là sự mỏng manh của trung tín mà đứng đầu mọi loạn lạc: Nói Lễ tức chẳng hợp với Đạo vô vi. Nên Lão tử nói Lễ là sự mỏng manh của trung tín mà đứng đầu mọi hoạn lạc. Bởi nó không phải việc chính bên trong mà chỉ là sự trang sức bên ngoài, nên từ Lễ phát sinh ra sự luống dối của con người. Vì vậy, các vua Thánh Đức dùng Đạo vô vi để cai trị làm lợi ích cho dân chúng. Ngày xưa, có Đạo, nên các vua Thánh Đức dùng Đạo vô vi vô tác mà giáo hóa cho dân chúng được tốt đẹp. Do Đạo suy, Đức mất, mà chuộng đến Nhân. Do Nhân mất thì nghóa mất, lại chuộng đến Lễ. Nên Lão Tử nói Lễ là sự luống dối trang sức ngoài thân. Đâu nên câu thúc nơi lễ tiết ư! Sao lại chấp trước sự trang sức của Lễ mạo tiểu tiết ấy ư? Lễ là cung kính mà thôi! Lễ là Dung nghi cung kính mà thôi. Kinh xuất phát từ tâm: Nên sự kính Lễ xuất phát từ bản tâm. Mà chẳng phải ở mũ miện. Chẳng phải mũ mạo sinh ra kính lễ vậy. Phàm đạo của bậc Thánh đâu hạn cục ở nghi tiết mà thôi ư: Các bậc thánh ngày xưa dùng thật chất thuần đức, hành đạo để giáo hóa chúng sinh, đâu hạn cuộc nơi mũ mạo nghi tiết mà thôi vậy. Nên Khổng Tử nói: “Lễ ư, Lễ ư, Ngọc lụa gọi là Lễ ư? Nhạc ư, nhạc ư, chuông trống gọi là nhạc ư?”. Kính mà lấy đó dùng Ngọc lụa thì là Lễ, Hòa mà phát đó dùng chuông trống thì là Nhạc. Nếu bỏ mất gốc mà chỉ lấy ngọn nhành đâu thể gọi là Lễ nhạc. Lễ chủ yếu là kính. Không chỉ tôn trọng Ngọc lụa, mà quý ở chỗ trên an để trị dân: Lễ là rõ ràng an định trên dưới để trị dân. Nên trên an mà trị Dân, chẳng cần thêm lễ. Nhạc chủ yếu là Hòa, không chỉ ở chuông trống, mà quý ở chỗ sửa đổi phong tục vậy: Nhạc sở dó nhờ trị mà hòa được tiếng của dân, cho nên sửa đổi phong tục không cần phải thêm Nhạc. Vì thế, Quân tử không thể cho cái biết nhỏ là lớn vậy. Quân tử là lời tôn xưng đối với Bậc Thành Đức, không thể lấy cái biết nhỏ nhặt mà có thể chấp nhận, cho đó là lớn. Nhưng sự chế tác của các Bậc thánh đã trải qua nhiều đời phục sức, để cho người Dân Trung Quốc thực hành theo Lễ của Trung Quốc. Tuy không thể phế bỏ: Từ Hoàng Đế chế tác y phục, chu công chế tác lễ nhạc, lấy đó mà trang sức, làm lợi cho người Dân của Trung Quốc, thực hành theo Lễ của Trung Quốc, tuy nhiên không thể phế bỏ nó. Nhưng những kẻ só lìa trần tục, vượt ngoài vạn tượng, sống với cao hạnh, đâu có thể bắt chước theo đó ư? Nếu là những bậc cao só vượt ngoài trần tục, ra ngoài vạn tượng mà thực hành công hạnh cao xa, sao lại bắt chước theo lễ nghi khúc cung, mũ miện ấy để hạn cuộc ư? Vả lại, Lịch Sinh chẳng vái chào Đế cao: Hán Cao Tổ có ra lệnh gọi Ẩn só Lịch Sinh tên Thực ở đất Tần đến ban thưởng, xong rồi, thấy thị nữ rửa chân cho vua, cho rằng vua không tôn trọng người Hiền, bèn không vái chào; mà nói rằng: “Cảm ơn Người ngồi giữa trong chiếu”. Hứa Do từ chối mệnh lệnh của Đế Nghiêu: Trang Chương Nhượng Vương, Trang Tử nói: Vua Nghiêu nhường ngôi cho Hứa Do, Hứa Do từ chối không nhận lấy. Hà Thượng Công ngồi nhìn Hán Văn Đế: Liệt Tiên truyện chép: Hán Văn Đế ưa mến đạo đức, sai sứ đến thưa hỏi Nghóa lý đối với Hà Thượng Công. Hà Thượng Công nói: “Đạo cao đức quý, không thể từ xa mà nghe được”. Sau, vua đích thân đến tận am của Hà Thượng Công, Hà Thượng Công ngồi nhìn vua đến. Gia cát Khổng Minh nằm ngủ khinh ngạo tiên chúa: Trong Sử ký chép: Gia Cát Khổng Minh ẩn cư ở am Nam Dương, Từ thứ tâu cùng Tiên chúa, Tiên chúa đến xem, Khổng Minh vẫn nằm ngủ không dậy. Đó đều là những vị đạo đức sáng soi bốn biển, đức trùm khắp mọi nơi, từ xưa đều tôn xưng, cho là cao thượng, cũng không vì thiếu quỳ lạy mà trách cứ là trái Lễ nghi: Đây là nêu điều hỏi ở trước. Nghóa là những người nêu trên, cũng không vì thiếu quỳ lạy mà trách cứ là trái với Lễ nghi. Các vị Sa-môn ngày nay, với đạo thì tôn sùng chữ tín, ý chí mến mộ vô vi: Chư tăng ngày nay, noi theo phong tục của Phật tổ, đạo thì tôn sùng cao xa mà đôn hậu tín thật. Quyết chí mến mộ sâu sắc đạo vô vi. Trong nhà thì không bái lạy mẹ cha: Gia quân là cha vậy. Ở ngoài thì không lạy vua chúa. Nhân chủ là Quốc vương vậy. So với những người như Hà Thượng Công, cũng giống như vậy: Những bậc Cao tăng hữu đức so với những người như Hà Thượng Công v.v… cũng đều giống nhau. Y cứa vào đó mà xét, thì từ xưa, những bậc hiền đức vẫn có ở vị ở trên cao hay trong tỉnh lý, hoặc thong dong cùng mây núi. Mạnh tử nói: chín trăm mẫu là tỉnh điền, năm lân là lý. Kể từ xưa, các bậc hiền nhân đức só, mến mộ Đạo, hoặc cao ẩn nơi tỉnh lý, hoặc tiếu ngạo lánh đời mà ẩn cư giữa khoảng mây núi. Đối với thiên tử chẳng được làm tôi, với vương hầu chẳng được làm bạn. Trong lễ ký, chương nho hành nói: “Nhà Nho có người trên không làm quan cho vua, dưới không phụng sự chư hầu”. Trong Trang Tử, chương Thiên Đạo nói: “Tăng Tử ở nước vệ, vua không có quan, chư hầu không được phản”. Nên người dưỡng chí thì quên mình, dưỡng thân thì quên lợi, chí Đạo thì quên tâm. Chế độ lễ nghi không thể được ép buộc. Tóm kết văn trên. Vua không có quan, chư hầu không có bạn. Với ý nghóa ấy thì đâu thể bó buộc nơi chế độ lễ nghi được ư? Huống gì là Thánh giáo vượt ngoài vạn tượng ư? Huống gì là Sa-môn, Thánh giáo thoát trần vượt ngoài vạn tượng vậy. Vì thế, quân tử tùy theo sở nghi, chẳng thích hợp thì không dùng. Cho nên, quân tử chỉ theo nghóa, và chỉ có sở nghi, còn không thích hợp thì không dùng. Đâu có khư khư nơi mũ miện lễ nghi mà ngăn cấm. ------------------------------- <詞>CHƯƠNG THỨ MƯỜI: NÊU BÀY THÍ DỤ ĐỂ HỎI Chương này nêu bày thí dụ việc khác mà hỏi, nên gọi là “Nêu bày thí dụ để hỏi”. Khách nói: Lý Lộ hỏi việc quỷ thần. Lý Lộ tức là Tử lộ. Khổng Tử nói: “Chưa thể làm việc người, sao làm được việc của quỷ”. Lý Lộ nói: “Muốn hỏi chuyện chết”. Khổng Tử bảo: “Chưa biết được sự sống, làm sao biết được sự chết”. Luận ngữ chú thích rằng: Ngày đêm là đạo sống chết. Biết được đạo của sự sống thì biết được đạo của sự chết. Rõ được đạo lý của việc người, thì rõ được đạo lý của việc quỷ. Sống, chết; người, quỷ tuy một mà hai, tuy hai mà một”. Hoặc nói: “Khổng Tử không trả lời, Tử lộ không biết”. Đó là sự chỉ bảo sâu xa. Đó là điểm cùng tuyệt của bậc Thánh. Đó là việc mà Khổng Tử là bậc Thánh tuyệt đối không nói. Nay, Phật giáo thì nói việc sinh tử đến đi và việc quỷ thần báo ứng. Nay Phật giáo chỉ nói những việc sinh tử đến đi luống dối. Tôi sợ đó chẳng phải lời của bậc Thánh triết vậy. Mạnh Tử nói: “Đại mà hóa, gọi đó là Thánh”. Kinh thư nói: “Biết điều ấy gọi là Minh, Triết nghóa là biết Đạo vậy”. Nên khách nói tôi sợ Đạo của Phật đây không phải là lời nói chân thành của bậc Thánh Triết. Phàm người hành đạo, phải hòa hợp uẩn tố. Phàm người thực hành Đạo ấy, cần phải bao hàm xung hòa uẩn tích thuần tố. Chỉ thuần nhất Đức tin, chuyên làm việc chân thật. Đốc là thuần hậu, Tín là thành thật, vụ là chuyên tâm nơi việc làm, và Thành là thành tín không luống dối. Nghóa là chỉ thuần hậu thành tín mà chuyên làm việc chân thật. Cần gì phải nói sinh tử để bị loạn tâm, nói quỷ thần mà mê hoặc ý chí ư? Nếu như hòa hợp uẩn tố, chỉ thuần đức tin, chuyên làm việc chân thật, thì cần gì nói đến sinh tử, khiến cho loạn tâm, bàn về quỷ thần làm mê hoặc ý chí. Diệu Minh nói: Như điều ông nói có thể gọi là thấy được bên ngoài mà chưa thấy bên trong. Diệu Minh trách người khách rằng: Ông có thể thấy trong giáo lý của ngoại giáo nói về việc sinh tử quỷ thần, mà chẳng thấy trong giáo lý mình đang tôn sùng cũng có chỗ nói. Như trong Trung Dung, Khổng Tử nói: “Quỷ Thần tức là Đức vậy”. Trong Thái Cực Đồ nói: “Nguyên thỉ phẩn chung, nêu biết thuyết sinh tử”. Và chú thích rằng: “Chỗ gọi Thỉ đó là sống, ý nói lúc ban đầu của sự sống. Chỗ gọi chung tức là dó, ý nói nhất định phải chết. Tìm cái gần, mà không tìm cái xa, chỉ tìm việc cạn cợt, mà không tìm cầu Lý sâu xa. Vì Tử Lộ tánh khí cứng rắn nóng nảy, hổ dữ qua sông, chẳng khéo nhiếp phục sự sống. Nên Khổng Tử nói: “Chưa biết được sự sống, làm sao biết được sự chết”. Vì Tử Lộ tánh tình thô tháo, dỏng khí cứng rắn, mạnh mẽ, bạo ngược, không sùng phụng mà đả phá. Như người qua sông mà không có thuyền thì không qua được, chẳng khéo quyền biến tu bổ sự sống nên nói: “Chưa thể biết được việc của người, làm sao biết được việc của quỷ, chưa biết được sự sống làm sao biết được sự chết”. Đó là lời khiển trách của Khổng Tử đối với Tử Lộ. Hông ngực sinh khởi. Nghóa là trong lòng Tử Lộ sinh khởi sự buông lung. Nói năng không dè dặt, nhường nhịn. Việc con người còn chưa biết được, làm sao biết được việc của quỷ thần. Đó là Khổng Tử ức chế mà can ngăn, chứ đâu phải lời nói hoàn toàn thật sự như vậy. Ý Khổng Tử là đè nén, dứt bặt, chứ đâu phải không nói đến quỷ thần. Khổng Tử nói: chẳng phải là quỷ mà cúng tế họ, đó là dua nịnh. Trong Luận Ngữ, Khổng Tử nói: Chẳng phải là quỷ, nghóa là không cần phải cúng tế, nhưng cứ vẫn cúng tế. Ấy là dua nịnh, bợ đỡ. Thần người gọi là quỷ: Duỗi ra mà sống gọi là thần, co lại mà chết gọi là quỷ. Quỷ là nói quay trở về vậy: Đến mà duỗi ra gọi là thần, trái lại trở về gọi là quỷ. Nơi hồn phách con người trở về: Xuân Thu Tả Truyện nói: “Nhân sinh mới hóa thành hồn, đã sinh phách dương gọi là hồn”. Hoài Nam Tử nói: “Khí trời làhồn, khí đất là phách”. Trong lễ ký nói: khí hồn trở về trời, thể phách còn trong đất. Bởi vì Hồn là Thần, là Dương, là Khí. Phách là Tinh, là âm, là hình. Tóm kết văn trên nói Hồn phách của người có chỗ trở về mà qua lại vậy. Ý nói chẳng phải là tổ khảo Quỷ thần mà cúng tế thì đó là dua nịnh mong cầu. Ông và cha, khi đã chết đều gọi là khảo. Ý nói nếu không phải hồn thần tổ khảo của mình, mà cúng tế thì đó là dua nịnh mong cầu. Lại nói: Nên vì cúng tế nơi Tông miếu để Quỷ thọ hưởng. Người chết, chôn đã ba năm, lập thần chủ ở gia miếu, cúng tế theo lễ Quỷ thần vào mùa xuân mùa thu mà hưởng thọ. Cúng tế vào mùa xuân mùa thu, do vì thời tiết mà cảm tư hiếu đạo. Mưa mốc mùa xuân đã mãn, mưa mốc mùa thu đã xuống, đều nên thiết lễ cúng tế. Do sự biến đổ nóng lạnh mà cha mẹ cảm kích hiếu hạnh. Lại nói: Sống thì thương kính. Cha mẹ còn sống thì thương kính phụng thờ. Việc chết thì buồn bã. Cha mẹ đã chết thì phụng thờ bằng sự đau buồn thương tiếc. Lại nói: việc tang thì rất đau buồn. Cha mẹ chết, chịu tang thì rất đau buồn. Việc cúng tế thì rất trang nghiêm: Theo thời tiết hằng năm mà cúng tế, phải rất mực nghiêm túc. Lại nói: Chu Công cúng tế Hậu Tắc Giao để phối hòa với trời. Hậu Tắc là Thỉ tổ của Chu Công. Ngày xưa Chu Công nhiếp chính, nhân hành lễ cúng tế giao thiên, còn Thỉ Tổ Hậu Tắc thì phối hòa với trời mà hưởng thọ. Cúng tế Văn Vương nơi Minh Đường, để phối hòa với thượng Đế: Văn Vương là cha của Chu Công. Minh Đường là cung điện, của vua Bố Chánh. Chu Công nhân cúng tế thượng Đế nơi Minh Đường, mới tôn xưng là cha để phối hưởng. Đó là Tông miếu cha của vua Văn Vương, để phối hợp với thượng đế. Lại nói: Còn sống thì gần gũi, an ủi. Từ vua đến dân thường, đều được hân hoan vui vẻ, thì cha mẹ sống được an vui vinh hiển. Cúng tế thì Quỷ hưởng thọ. Cha mẹ chết mà làm Quỷ thì được hưởng sự cúng tế của con cái. Lại nói Trời Đất xét rõ, thần minh rõ ràng: Thờ trời mà xét rõ thì cha mới hợp với Đạo Trời. Thờ Đất mà xét rõ thì mẹ mới hợp với Đạo Đất vậy. Đã có hiếu như vậy thì lý trời đất thần minh tự rõ ràng vậy. Lại nói: nơi tông miếu hết mực chí kính thì Quỷ thần linh ứng vậy. Nếu rất mực tôn kính nơi tông miếu, thì lý quỷ thần Tông miếu rất rõ ràng linh hiển. Rất mực hiếu Để thì thông cảm đến thần minh. Đạo hiếu để thực hành đạt đến điểm rất mực u huyền thì có thể cảm thông với thần minh. Lại nói: Lúc sống thì phụng thờ bằng lễ. Cha mẹ còn sống thì lễ là yêu kính. Cha mẹ đã chết thì mai táng bằng lễ. Cha mẹ chết, thì mai táng bằng lễ. Cúng tế bằng lễ cha mẹ chết, thì cúng tế bằng lễ. Lại nói: Đối với vua Võ, ta không vạch bày khuyết điểm, giảm bớt sự uống ăn mà rất mực hiếu kính với Quỷ thần. Khổng Tử nói: Đối với việc làm của vua Võ, ta không chỉ điểm sai sót. Có thể rất hiếu kính Quỷ thần, Nghóa là hưởng sự cúng tế rất dồi dào tinh khiết. Giảm bớt sự uống ăn, để cúng tế Quỷ thần hậu hó. Trong Lễ ký có nghi quỹ cúng tế, chỉ nói đạo lý phối hòa với trời cúng tế Thượng Đế, Tổ phụ cùng hưởng, phụng thờ thần quỷ: Tóm kết ý văn trên. Trong Lễ ký có nói rõ về nghi Quỹ cúng tế, ở đây trích dẫn để làm chứng. Riêng chỉ nói đạo lý cúng tế thượng đế, tổ tông cùng hưởng, đạo cúng tế thần quỷ là sai. Đó là chỉ trích chê trách Tử Lộ tánh khí cứng rắn nóng nảy, không thể nói những lời hòa dịu khiêm nhường thành ý vậy. Đâu phải không có người phụng thờ Quỷ thần mà biết được sống chết ư? Sao riêng Ông không biết việc ấy? Trách người khách riêng mình là người không biết lý ấy. Chỉ vì lời nói của Khổng Tử có sự phảng phất tương tợ: Chỉ vì lời nói của Khổng Tử, hơi có phảng phất tương tợ mà thôi. Đức Như Lai phân tích sự sâu kín nhiệm mầu, phát minh rõ ràng nhân quả, chỉ bày bảo ứng. Làm lành thì hưởng phước, gây ác thì chịu ương báo, dạy chúng sinh thực hành điều lành. Giáo lý của Đức Như Lai phân tích rõ ràng sự thật của nhân quả. Gieo trồng nhân lành ở nơi sâu xa kín đáo thì tôn kính sự ứng đáp của phước báo. Gieo trồng nhân xấu ác thì tự chuốc lấy sự ứng đối của tai ương. Lấy đó mà phân chia mọi việc trong thiên hạ, thì ai cũng quy hướng về đường lành. Trong kinh thư nói: “Làm điều lành thì trăm điều tốt lành đến, làm điều ác thì trăm sự tai vạ đến”. Trong Chu Dịch nói: “Người gom chứa điều lành thì có hưởng phước thừa, người gom chứa điều bất thiện thì chắc chắn có tai ương”. Đó là nói về thiện ác báo ứng rất rõ ràng vậy. Đâu thể cho rằng chỉ có nhà Phật ưa thích nói việc Quỷ thần? Tóm kết ý văn trên, đâu thể cho rằng chỉ có Phật giáo thích nói những việc báo ứng của quỷ thần thiện ác. Và như vậy thì, đâu có sự trái ngược giữa Nho giáo và Phật giáo ư? Như trên đều là do Khổng Tử dạy rõ đạo lý vâng thờ lúc sống khi chết, phối hòa cùng trời, cúng tế thượng đế, ông cha, thờ phụng quỷ thần v.v… Nếu như vậy thì Phật giáo và Nho giáo đâu có sự trái ngược không hợp với nhau? ------------------------------------ <詞>CHƯƠNG THỨ MƯỜI MỘT: GIẢI THÍCH VỀ ĐỊA VỨC Chương này vì phân biệt địa vức giữa Trung Hoa và các vùng mọi rợ mà khác nhau, nên gọi là “Giải thích về Địa vực”. Khách nói: Khổng Tử nói rằng: Dẫu các vùng mọi rợ có vua, chẳng bằng ở Trung Hoa không có. Trong Luận Ngữ nói: Nếu như ở vùng mọi rợ có Quân trưởng, không bằng ở Trung Hoa đang tiếm loạn phản nghịch, không phân trên dưới. Bởi vì Khổng Tử đương thời vua bị loạn lạc mà than như vậy, vì tuy có vua mà không thực hành đạo vua, chẳng bằng không có. Mạnh Tử nói: Tôi nghe nói biến Trung Hoa thành mọi rợ, chứ chưa nghe nói biến để mọi rợ. Đó là trách Trần Tướng Hứa Hành dùng lễ nghi của Trung Hoa để biến thành mọi rợ. Vả lại, Ngày trước, Ông và tôi học đạo với hai đế Ba vua, học sáu kinh và sách của các nhà Hiền triết, trái lại, nay học ngôn giáo của Tây Vực, chẳng phải là thấp kém sao? Trái lại học ngôn giáo của Phật ở Tây Vực, ấy chẳng phải là thấp kém sao? Diệu Minh nói: Ngày trước, lúc tôi chưa thấy được tôn chỉ nhiệm mầu của bậc Đại Thánh, cũng có nói lời ấy, sự thấy biết không cách xa với ông, nay thì không như vậy, nếu ông nói biết được phù hoa của Lễ nhạc mà che khuất cái chân thật của đạo đức, thấy được ánh sáng của đóm lửa mà không thấy được ánh sáng của mặt trời mặt trăng. Nay ông có thể hiểu biết được sự tươi đẹp của Lễ nhạc và mê mờ khuất lấp cái chân thật của đạo đức, thì đâu khác gì. Trang Tử nói: mặt trời đã lên vậy mà đóm lửa chưa tắt, thì nơi nó soi chiếu được cũng khó vậy. Nghóa là sự thấy biết của khách chỉ bằng đóm lửa chứ không thấy ánh sáng của mặt trời, mặt trăng. Điều Khổng Tử nói là thương vua thời ấy phá bỏ lễ nghi. Mạnh Tử chê trách sự chuyên nông của Trần tướng, ý có chủ lý chứ chẳng phải tự nhiên. Nghóa là Khổng Tử thương các vua thời ấy lọan lạc mà phá bỏ lễ nghi. Điều Mạnh Tử nói là chê trách cái thấy của Trần Tướng lại biến thành mọi rợ. Ngày xưa Khổng Tử muốn sống ở Cửu Di: Luận Ngữ chú thích rằng: Phương Đông có chín loại mọi rợ. Trong hậu Hán Dông Di truyện, nói: Quyến Di, Phương Di, Ư Di, Hoàng Di, Bạch Di, Xích Di, Huyền Di, Phong Di, Dương Di. Muốn ở đó nên mới có ý thả bè trôi giữa biển. Có người nói: Sao hẹp hòi như thế? Khổng tử bảo: Quân tử ở đó, làm gì có hẹp hòi xấu xa? Quân tử ở đó thì sửa đổi tốt lành, làm gì có hẹp hòi xấu xa. Đến lúc, Khổng Tử đi khắp trong nước, mà vua thời ấy không ai thực hành theo đạo của ông. Đến lúc Khổng Tử đi khắp hơn bảy mươi nước, muốn thực hành đạo lý Nhân chính của Tiên vương. Nên vua các nước đương thời không ai thực hành đạo lý của ông. Mạnh Tử suy nghó muốn cứu giúp dân thời ấy, mà các vua chư hầu không nghe lời Mạnh Tử. Mạnh Tử cũng đi khắp các nước, rao truyền chánh sách các vua thực hành nhân nghóa, muốn cứu giúp dân chúng thời ấy, các chư hầu cũng không nghe theo thuyết của Mạnh Tử. Đâu xấu xa hẹp hòi gì đối với giáo thuật của Tây Vực mà chẳng dùng ư? Như Khổng Tử thương các vua đương thời phá bỏ lễ nghi, Mạnh Tử chê trách sự chuyên nông của Trần Tướng, nên chư hầu không nghe lời ông nói. Các giáo lý của Tây Vực đâu xấu xa gì mà chẳng dùng? Như Cơ Văn, Tự Võ là những vị vua Thánh Đức, Nhật Bi, Do Dư là các hiền thần, họ đều sinh ra từ những vùng mọi rợ. Cơ là họ của Văn Vương, Tự là họ của Võ Vương. Văn Vương sinh ở Tây Bân, Võ Vương sinh ở Thạch Điền. Hai vị Thánh ấy đều sinh ở xứ mọi rợ, ở Trung Quốc làm vị vua thực hành nhân từ, lấy lòng nhân mà nhiếp chính, không hề nghe nói họ phá bỏ quốc chính. Kim Nhật Bi là bậc tôi trung thời Hán Văn Đế, có đức hiền nhân, Do Dư vào làm sứ ở đất Tần thời Tần Thỉ Hoàng, cũng là bậc hiền. Như Văn Vương, Võ Vương, Kim Nhật Bi, Do Dư v.v… là những bậc Minh Quân hiền thần đều là những người của Di Địch vậy. Thái Khang, Chu U là những vị vua hoang đãng: Sử ký nói: Thái Khang là con của Khải, là cháu của Võ Vương, rất ham thích săn bắn. Trong Thương thư nói: trong các thứ đam mê hoan lạc sắc dục, ngoài ưa thích săn bắn cầm thú, mua vui chén tạc chén thù, ham thích ca vũ, khoét tường, thì rất hoang dâm. Nếu vậy nước ấy không khỏi chẳng mất vậy. Sử ký nói: Chu U Vương sủng ái Bao Tự, vì Bao Tự biếng cười, U Vương vì đốt lửa, đánh trống và ban lệnh rằng: Nếu có giặc đến sẽ nổi lửa thì hãy đến cứu. Sau đó U Vương nổi lửa đốt núi, chư hầu thảy đều đến nhưng không có giặc, Bao Tự cười lớn, U Vương lấy làm hả dạ. Về sau giặc Hồ kéo đến, U Vương đốt núi, chư hầu không tin có giặc, ý cho rằng đó chỉ lấy làm vui nên không đến, giặc bèn giết U vương tại chân núi Lịch và bắt lấy Bao Tự. Thạch Triệu, Doanh Tần là những vị vua bạo ngược: Sử ký nói: Thạch Triệu chính là Thạch Lặc, là người sống vào thời Đông Tấn Nguyên Đế, chuyên giết hại. Sử ký nói: Doanh Tần tức Thỉ Hoàng, tung hoành vô đạo, hung bạo thôn tính đất nước. Triệu Cao, Lý Tư là những bầ tôi dua nịnh: Triệu Cao làm quan, Lý Tư làm tướng, cả hai đều là kẻ tôi của Tần Thỉ Hoàng, giết thái tử Phù Tô và Nhị Thế Hồ Hợi. Hầu Cảnh, là kẻ tôi bội ngược của vua Lương Võ Đế, làm cho Vương Võ Đế khốn khổ ở Đài Thành mà chết. Vũ Văn là kẻ tôi bội ngược của Tùy Dạng Đế, giết Dạng Đế ở Lạc Kinh. Những người đó đều sinh tại Trung Hoa: Từ Thái Khang… trở xuống đều sinh ra tại Trung Hoa, lấy đó mà xem xét, đâu có thể bưng bít ngay địa vức mà hạn định kẻ ngu người hiền, và có văn hóa hay thấp kém ư? Đâu có thể ngăn cách bởi địa vực mà bàn luận sự hạn cuộc về hiền; ngu hay có văn hóa hoặc là thấp kém hạn hẹp ư? Vả lại, Văn Mạng sinh ra ở Tây Khương mà là bậc Thánh triết: Thượng thư nói: Văn Mạng trải đều khắp bốn biển, là đức hiệu của Võ Vương. Tây Khương là vùng đất mọi rợ nay thuộc vùng Nhung Châu. Cổ Du sinh ra ở Trung Hoa mà ngu càn dối trá: Cổ Du là cha của Thuấn, tâm không thực hành theo phép tắc đức nghóa của Tiên Vương, là ngu Càn, kế mẫu của Thuấn, miệng không nói lời trung tín là dối trá. Văn Vương sinh ở Tây Ban mà tu nhân: Văn Vương sinh ở biên giới Tây Bân, mà thực hiện chính sách nhân từ để tu đức. Ân Trụ đều sinh ở Đông Lạc mà buông lung hung ác tàn bạo. Ân Trụ, Húy pháp, tàn hại nhân nghóa, tổn thương người hiền thiện, gọi là Trụ, đều là sinh ở Lạc Vương, tại vùng Trung Nguyên mà buông lung hung ác tàn hại vô đạo vậy. Hoàng Đế nói hâm mộ Hoa Tư: Liệt Tử nói: Hoàng Đế an ở Đại Đình để an tâm phục hình, ba tháng không tham gia chính sự. Ban ngày ngủ mộng thấy đến nước Hoa Tư, sau đến ở Hoa Tư trị vì. Lão Tử nghóa học ở Thiên trúc: Chương Tôn Thích nói: ở Thiên Trúc, thầy Cổ Hoàng, tức thầy của ta, khéo vào nê-hoàn, du hóa tại Thiên trúc. Nay đã trở thành Thần, về với vô danh, dứt bặt thân hình, vô thỉ vô chung, tồn tại mãi mãi, ta nay đến đó vậy. Mục Vương qua Chung Bắc mà quên trở về, tự hiềm chê Chu Thất không bằng ở Chung Bắc. Liệt tử nói: Chu Mục Vương, theo hướng bắc đến nước ấy, ba năm quên trở về Chu Thất, vì mến mộ nước ấy, tuyệt nhiên tự mất, không tiến cống rượu thịt, chẳng triệu tôn ngự. Mấy tháng trở lại, khi đã về Chu Thất, hiềm chê sự bình trị ở nước Chu không bằng như ở nước phương Bắc. Tề Hoàn đi đến Liêu Khẩu mà quên về, tự nghó nước Tề không bằng như ở đó: Liệt Tử nói: Quản Trọng Miễn Tề Hoàn Công, nhân đến Liêu Khẩu, đều đi đến nước ấy. Cơ Khắc Cử Thấp đến can ngăn, nói rằng: Vua bỏ nước Tề rộng lớn, dân chúng đông nhiều. Nhìn núi sông đồi thực vật và nói: Ta tự nghó nước Tề không bằng ở đó vậy. Thứ nữa, Thần của bắc tinh: Trước bảy sao bắc đẩu, có năm sao. Thiên văn bộ thiên ca nói: ngôi thứ nhất tên là sao Tử Vi, ngôi thứ hai tên là sao Thái Tử, ngôi thứ ba tên là sao Thứ Tử, ngôi thứ tư tên là sao Hậu Cung, ngôi thứ năm tên là sao Thiên Xu. Nói theo tên sao thì tức là Bắc thần vậy. Ở giữa trời: Cũng trong Thiên bộ ca nói: nói giữa trời, có ba khu vực, nếu sắp xếp theo thứ tự thì khu vực một là Tử vi, khu vực hai là Thái vi và khu vực ba là Thiên thự. Ngoài ra, còn có hai mươi tám sao phân vị cùng các sao khác. Như y cứ theo lý thì Bắc Thần chính là ở giữa trời vậy. Tức thuộc phía Bắc của nước Tề, lấy đó mà xem xét thì các địa vức như Tề, Lỗ, Hán, Ngụy chưa chắc là ở trung tâm: Nói sao Thần Bắc Tinh ở phía bắc của địa vức nước Tề. Như vậy thì các nước Tề, Lỗ, Ngụy v.v… chưa phải là ở giữa vậy. Như ở đây mà cho kia là Tây Nhung thì kia chắc chắn sẽ cho đây là Đông Di vậy: Giả sử ở đây nhìn nước Thiên trúc kia mà cho là Tây Nhung, thì ở nước kia chắc chắn sẽ chỉ nước này cho là Đông Di vậy. Và như vậy, thì ai là ở giữa? Nếu quả thật như vậy thì lấy nước nào là nước trung tâm? Từ sự che trùm của trời cao, sự nâng đỡ của đất dày, núi sông rộng rãi, bang vức có nhiều, không thể ghi chép bằng số muôn ức. Theo toán số, thì mười muôn là một ức. Nói trong khoảng đất trời, núi sông rộng lớn, bang vức rất nhiều, nên không thể ghi chép bằng số lượng muôn ức. Lại sao biết đây là chính giữa, kia là một bên? Nếu nói như vậy, thì làm sao biết ở đây là nước chính giữa mà nước kia là nước bờ mé ư ? Vả lại, trong kinh Phật lấy Tam thiên Đại Thiên thế giới, làm cõi nước của một vị Hóa Phật giáo hóa ở đó. Ba ngàn tiểu thiên thế giới là một trung thiên thế giới, ba ngàn trung thiên thế giới là một Đại thiên thế giới, ba ngàn Đại thiên thế giới là khu vực của một một vị Hóa Phật giáo hóa. Tôi vì tôn kính như thế nào mà Học và chấp nhận theo cái rộng lớn ấy: Tôi do tôn kính mà học theo đó và thuận theo theo cái rộng lớn của Phật vậy. Phàm, vàng ngọc không thương hại nhau. Các báu vàng ngọc, mỗi thứ đều có cái quý riêng, sao làm thương hại nhau. Mầu xanh và mầu ngọc bích, có gì phải chướng ngại nhau ư ? Mầu xanh và mầu ngọc bích, mỗi thứ có chỗ dùng của nó, đâu chướng ngại nhau. Thứ nữa, nếm một giọt nước của biển lớn thì đã đủ mùi vị của trăm sông: Dụ như một giọt nước của biển lớn tức có đủ mùi vị của trăm sông. Tuy trăm sông lẫn lộn chảy về biển cả, mà mùi vị chỉ là một. Với Đạo lý xuất thế, thì biết rất ít, nhưng đối với Đạo lý thế gian, không cần phải khổ nhọc mà biết được vậy: Chỉ cần biết rất ít về Đạo lý xuất thế gian thì Đạo lý thế gian không cần phải khổ nhọc nghó suy mà vẫn biết được. Và như vậy thì, Đạo lý của Chu Công Đán, Khổng Tử đâu có bỏ ư, và Thánh hiền chẳng hạn cuộc nơi mọi rợ hay Trung Hoa, mà con người tự là mọi rợ hay Trung Hoa vậy. ----------------------------------------- <詞>CHƯƠNG THỨ MƯỜI HAI: GIẢI THÍCH VỀ SỰ HỦY BÁNG Chương này giải thích về sự nghi ngờ hủy Báng, nên gọi là “Giải thích về sự hủy báng”. Khách nói: Tôi nghe người giữ giới phải là ngăn ngừa tất cả việc ác, phát huy tất cả mọi việc lành, trong sạch không nhuốm bẩn, không ăn mặn và các thứ tanh nồng: Khách dẫn Pháp luật của Phật giáo nói: Tôi nghe nói người giữ giới, thì tất cả mọi việc ác đều phải dứt bỏ không được làm, tất cả mọi việc lành đều phải làm. Quyết phải phát huy sự trong sạch không nhuốm bẩn, lại không được dùng năm thứ rau tanh nồng, cho đó là khó. Nay thấy các vị Sa-môn xúc nhiễm Phạm hạnh, đam mê ham thích, các chất rượu: Tiếng Phạn gọi là Phạm, Hán dịch là Tịnh. Khách nói nay thấy chư tăng nhuốm bẩn tịnh hạnh, ưa thích rượu chè… Cân, lường, buôn, bán, đổi chác của cải: Cân bằng đồ vật là cân, đo đạc là lường, đi là buôn, ngồi là bán, trao đổi đồ vật ở chợ gọi là đổi, thay biến vô thường gọi là chác, giao hàng hóa gọi là của, chứa nhóm đồ vật gọi là cải. Xét theo đó, há không phạm ư? Lấy đó mà xem xét, há không trái phạm giới luật ư? Diệu Minh nói: điều ông nói, lược gần mà quên xa, lấy nhỏ mà bỏ lớn. Trách khách rằng: điều nói của Ông như lược cái việc cạn cợt mà bỏ quên cái sâu xa và chỉ lấy cái vụn vặt mà bỏ mất cái to lớn. Phàm mặt trời, mặt trăng dù cao xa vẫn bị che khuất. Trong Âm Dương chí nói: mặt trời là nguồn sáng lớn nhất, mặt trăng là tinh túy của các vì sao. Nói theo khoảng cách thì mặt trời, mặt trăng cách mặt đất hơn bốn muôn do-tuần. Một Do-tuần bốn mươi dặm. Cao như vậy mà cũng vẫn bị nạn che khuất. Ngọc Khuê Bích dù quý vẫn có vết: Khuê Bích là Ngọc. Trong thuyết văn nói: hình dạng nó trên tròn dưới vuông. Mỗi lúc vua thăng triều, thì cầm theo. Nó là thứ báu quý nhất trong các vật báu. Hà (= vết) tức ngọc có sắc đỏ là vết. Vật rất mực quý trọng còn chưa khỏi có tỳ vết. Công Du có khả năng trao khuôn thước cho người, nhưng không thể khiến người khéo sử dụng: Công Du là tay thợ giỏi người nước Lỗ. Quy là đồ vật hình tròn, củ là đồ vật hình vuông. Có thể trao cho người cái khuôn thước, nhưng không thể khiến người vụng về sử dụng nó được. Bậc Thánh có khả năng trao giới luật cho người, mà không thể ép buộc người thực hành theo. Phật thánh tuy có khả năng trao truyền luật nghi giới pháp cho người, nhưng chắc chắn không thể khiến người bền giữ không phạm. Cao Đào tuy khéo trị tội kẻ trộm cướp quậy phá, nhưng không thể dạy người trở thành Bá Di, Thúc Tề: Cao Đào là bề tôi hiền của vua Thuấn, tuy có tài trừng trị những kẻ tội, nhưng không thể khuyến hóa những kẻ trộm cắp quậy phá trong ngục tù trở thành nghóa nhượng như Bá Di, Thúc Tề. Lã Hình tuy giỏi trừng phạt kẻ dữ dằn, nhưng không thể khuyên kẻ ác trở thành như Tăng Sâm Mẫn Tử: Chương Lã Hình trong Thượng Thư nói: Lã Hầu là ty khấu của vua Chu Mục Vương ban lệnh hình phạt truyền khắp bốn phương, mà không thể tự giáo hóa sửa đổi việc ác của con mình trở thành hiếu hạnh như Tăng Sâm, Mẫn Tử Khiên. Bậc Thánh triết như Đường Nghiêu, không thể sửa đổi sự ngu muội của Đan Chu: Thượng Thư nói: Đan Chu là con của vua Nghiêu, vì quá ngu dốt, nên Nghiêu nhường ngôi cho vua Thuấn. Nhân Hiền như Trạng Ni, không thể ngăn can sự bạo ác của Đạo Chích: Trang Tử nói: Đạo Chích là em của Liễu Hạ Huệ, vô đạo bạo ngược, khuấy phá dân chúng, nước lớn thì giữ thành, nước nhỏ thì vào lũy. Khổng Tử đến khuyên dạy, đến lúc trở về, nói cùng Liễu Hạ Huệ: Nó không khỏi cái nạn miệng hổ. Nhân Đức như vua Thuấn, nhưng không thể thấm nhuần Thương Quân: Ý pháp. Nhân thánh rất sáng gọi là Thuấn. Thương Quân là con của Thuấn, không có đức của bậc Đại nhân, nên Thuấn truyền ngôi cho Võ. Ân Đức như Chu Công, không thể đượm nhuần Quản Thái: Quản Thái là chú hai của Thành Vương, phỉ báng Chu Công. Đâu phải hình pháp không cao và đạo đức không hoàn bị. Tóm kết văn trên. Hình pháp của Cao Đào, Lã Hình đâu phải không cao hiểm. Thuấn, Nghiêu, Chu, Khổng đâu phải không đạo đức mà còn không thể phạt trộm cắp, dối trá, sửa đổi kẻ hung tàn, ngu si, để dạy con em đều thực hành hạnh hiền hiếu vậy. Đâu riêng chỉ vì việc ăn mặn hay ham thích rượu chè mà bị chê trách vậy ư? Sao chỉ đem việc các Sa-môn ăn mặn uống rượu mà chê trách là sai quá vậy. Ngày xưa, Nghiêm Lăng câu cá. Nghiêm Quang, tự là Tử Lăng, người ở Nam Dương, là bạn cũ của Quang Võ, vì loạn Vương Mãng, nên ẩn câu nơi Thất Lý. Tử Nha duỗi thẳng móc câu: Tử Nha, họ Khương tên Thượng. Vì vua Trụ vô đạo nên ẩn cư nơi vị Tân, Văn Vương đi săn gặp được, bèn mời về làm Thái Công vọng, phá vua Trụ mà lập nhà Chu. Thần Chu Mại vác củi: Thần Chu Mại, nhà rất nghèo, thường vác củi đọc sách, về sau làm quan Thái Thú ở Cối Kê. Côn Ngô un đúc nghề gốm: Côn Ngô là người làm nghề gốm thời nhà Hạ, sau được hiển vinh. Võ làm ngòi tháo nước: Võ dẫn nước trăm sông xuôi chảy về biển đông, muôn họ khỏi bị nạn cá (?), nên công lao ấy lưu lại đời sau. Thuấn cày đất núi Lịch: Lịch Sơn là tên khác của núi Trung Điều, ở phía Đông của sông, khi vua Thuấn chưa gặp thời, từng cày đất ở đó. Tướng Như Lâm Ngang mà tự nấu rượu: Lâm Ngang là tên vùng đất. Tư Mã Tương Như lúc chưa gặp thời, ở tại Lâm Ngang nấu rượu bán, sau hiển danh, ngồi xe tứ mã. Chu Hợi chưa gặp thời, tự thân làm nghề mổ thịt: Chu Hợi lúc chưa gặp thời, tự thân từng làm nghề mổ thịt, sau gặp Phong Tín Lăng quân. Đó là những bậc quân tử thành đạt thì cứu giúp cả nhân dân, không thành đạt thì tự tu tỉnh bản thân: Như Nghiêm Lăng, Tử Nha, Chu Mại, Côn Ngô, Võ, Thuấn, Tướng Như, Chu Hợi v.v… đều là những vua thánh, tôi hiền, thân đã thông đạt thì Đạo giúp cả thiên hạ, thân chưa thông đạt thì giữ mình cho tốt. Loài linh thiêng nhất trong mọi loài, chính là con người. Trời sinh ra muôn vật đều gọi là Hữu sinh, trong đó loài người linh thiêng quý giá nhất. Con người, đâu phải là quả bầu, sao treo mãi mà không ăn ? Luận ngữ nói: Bào qua còn gọi Hỗ qua, tức là quả bầu. Quả bầu thì chỉ treo một nơi mà không ăn, con người thì không phải như vậy. Thân chẳng phải gỗ đá, sao lại lõa lồ không mặc quần áo ? Tuy tay chân mạnh mẽ nhưng không đủ để trốn lánh sự đói khát, cần phải ăn uống để nuôi dưỡng thân mạng. Lông tóc tuy kín đầy, nhưng không đủ để chống ngăn sự giá lạnh, cần phải mặc áo để che kín thân thể. Nên biết ăn mặc có công năng nuôi dưỡng thân mạng. Thân mạng có thể dùng để giúp ích cho đạo nghiệp: Ăn mặc đầy đủ thì sẽ nuôi dưỡng thân mạng. Thân mạng đã an ổn thì có thể giúp ích cho đạo nghiệp. Nếu ăn mặc không đủ thì đạo nghiệp sẽ bị phế bỏ. Ngạn ngữ nói: con người không ăn có uống căn bản, thành thật mà nói nếu con người không ăn mặc thì chắc chắn thân mạng chấm dứt. Thân mạng đã chấm dứt, thì đạo nghiệp làm sao không phế bỏ được? Vả lại, người tu đức không thích ngồi ăn không của người: Tổ sư của ta có dạy: “Một ngày không làm một ngày không ăn”. Lại muốn tự tìm cái ăn mặc cho mình, trải qua các gian khổ, mới biết sự cực nhọc của thế đạo. Các Tổ của chúng ta muốn tự tạo sự ăn mặc, để trải qua các thứ gian nan khổ nhọc, mới biết được đạo lý gian khổ của những người cày ruộng dệt vải, nhờ đó tiết kiệm bớt sự tiêu dùng. Sự chua cay của người dân: Tân toan nghóa là cay chua đắng xót, dáng mạo đổ mồ hôi sôi nước mắt. Đàn ông cày ruộng, đàn bà dệt vải đều khổ nhọc đắng cay hao mòn sức lực. Sau đó tiến bước trên đường thánh thiện, cắt đứt sinh tử: Đã biết sự nhọc nhằn của thế đạo, thì mọi thứ cần thiết phải tự hoàn bị, sau đó mới có thể cắt dứt việc sinh tử. Bởi vì nó được xuất phát từ tâm hổ thẹn và chí hàng phục tánh kiêu mạn: Không phải để thất tiết, gọi đó là hổ. Tâm không sử dụng sai quấy, gọi là thẹn. Phàm đối với mọi vật dụng ăn mặc, đại khái cần phải biết chỗ có ra rất khổ nhọc thì có tâm hổ thẹn và chí hàng phục tánh kiêu ngạo ngã mạn. Cũng chẳng phải là việc làm bất thiện. Tóm kết ý văn trên. Như điều nghi ở trước, thì những việc đong lường buôn bán v.v… cũng chẳng phải là việc bất thiện. Đâu chỉ vì buôn bán của cải mà chê trách. Há chỉ vì những việc làm buôn bán của cải mà chê trách họ sao? Vì vậy, Đạo của Quân tử, hoặc đi, hoặc ở, hoặc nín, hoặc nói, đáng sử dụng thì thực hành, đáng bỏ xả thì dẹp đi. Cho nên đạo lý tu hành của người Quân tử, đối với việc nói năng hay im lặng, động hay tịnh, đáng tiến hành thì tiến hành, đáng ngừng nghỉ thì ngừng nghỉ. Không hẹp hòi tình ý: Việc làm của quân tử, không vì hẹp hòi tình ý. Không quá lắm tâm tánh: Cũng không dâm đãng tánh nết. Đạo ấy quý ở chỗ sử dụng thích hợp: Ý chí quyết định thực hành theo gọi là Thích, Đạo của Quân tử, không thể, không không thể, nên nói thích hợp với chỗ dùng mà thôi. Đâu chỉ một đường mà cùng tận ư? Đạo của bậc Thánh có muôn ngàn khác nhau, nhưng điểm đến chỉ là một, đâu chỉ hạn cuộc một lối đi mà có thể cho là tận thiện tận mỹ. ------------------------------------- <詞>CHƯƠNG THỨ MƯỜI BA: BÀN LUẬN VỀ XẢ THÍ Chương này biện luận về xả thí nên gọi là “Bàn luận về xả thí”. Khách nói: Khổng Tử nói: Vừa giữ lễ vừa xa xỉ, chẳng bằng tiết kiệm. Lễ là ở chỗ được cái vừa chừng, vừa giữ lễ vừa xa xỉ chẳng bằng tiết kiệm mà không có giữ lễ, xa xỉ. Lại nói: xa xỉ thì không thuận theo, tiết kiệm thì chắc chắn. Cùng với không thuận theo thì chẳng bằng chắc chắn. Tốn là thuận theo, hẳn nhiên hạn hẹp và xa xỉ đều mất trong đó, song, cái hại của xa xỉ thì lớn vậy. Lão tử nói: Vì thế, bậc Thánh bỏ cái quá lắm, bỏ cái xa xỉ, bỏ cái thái quá. Điều Lão Tử nói là quá lắm, xa xỉ và thái quá đều là sai quấy không đúng đạo nghóa, nên bậc Thánh dứt bỏ hết. Quá lắm về âm nhạc, xa xỉ sự ăn mặc, và thái quá về nhà cửa, nếu không có ba thứ ấy thì hợp với vừa chừng. Ngày xưa, Sở Linh Vương ham thích xa xỉ, cuối cùng thì mất thân: Sử ký nói: Sở Linh Vương, nhân xây dựng Đài Chương Hoa, khiến dân suy khổ, về sau bị Ngô Vương đánh bại đến nỗi mất thân. Tần Chính thích xa xỉ, cuối cùng mất nước: Tần là Quốc hiệu, Chính là tên của Thỉ Hoàng, Thỉ Hoàng là khi Trang Nhượng Vương thâu nạp vợ của Lã Bất Vi thì Hữu Cơ đã có thai mà sinh ra Chính. Vì vậy người đời nói Thỉ Hoàng là Lã Chính, đến lúc lên ngôi, thôn tính sáu nước, thống nhất đất nước, tự cho mình có đức của cả tam hoàng, công trội vượt hơn Ngũ đế, và lấy hiệu là Hoàng Đế, nên gọi là Thỉ Hoàng Đế, chuyên nhất hình uy mà lập nước, đốt sách chôn học trò, bạo ngược vô đạo, ưa thích xa xỉ, ra tận biển Đông tìm tiên, sau chết ở Sa Khâu, chưa đầy ba năm thì nước mất. Ngày nay nhà Phật xả thí thân mạng, cho đó là Phước cao nhất. Bố thí thân mạng thì được phước rất nhiều. Xả thí bảy báu, cho đó là phước cao thứ hai. Bố thí bảy báu như vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, trân châu, v.v… thì đều là phước cao thứ hai. Dùng thiện ác để dẫn dụ người: Dùng thí dụ để chuyển hóa người, thì dùng thiện để trừng trị ác. Dùng nhân quả để khiến người hiểu rõ: Thí dụ để dẫn dắt người hiểu rõ thì dùng Nhân để rõ Quả. Khiến người dốc sạch kho lẫm đem hết của cải bố thí để cầu phước. Vì làm việc lành sinh lên cõi trời, làm việc ác đọa xuống địa ngục chỉ rõ lý nhân quả, khiến tất cả mọi người dốc hết tư tài của cải, vi cầu phước mà khuyên người làm việc lành. Rồi mà xây dựng chỗ ở rộng rãi tráng lệ, sửa sang không thôi, lầu cao gác lớn, vàng ngọc lấp lánh, chẳng là thái quá ư? Nghóa là chư tăng, tự mình xây dựng nhà cửa chỗ ở cao rộng đẹp đẽ, quanh năm sửa sang không thôi, như lầu cao gác lớn, trang hoàng bằng vàng ngọc mầu sắc lấp lánh, như vậy cũng chẳng là xa xỉ quá lắm sao? Diệu Minh nói: Điều mà Ông hỏi, chỉ biết được lưu truyền ma không biết được cội gốc. Trách khách chỉ biết sự lưu truyền của bậc thánh mà không biết cội gốc của bậc Thánh. Chỉ thấy cải cạn cợt mà không thấu đạt cái sâu xa. Trọng Ni không thích sự xa xỉ buông lung của vua đương thời: Trọng Ni trả lời câu hỏi của Lâm Phóng là: “Vừa giữ lễ vừa xa xỉ chẳng bằng tiết kiệm”. Đó là không thích sự xa xỉ buông lung của các vua đương thời nên nói như vậy. Lão Tử cảnh tỉnh sự mê mờ dâm đãng của Nhân chúa đương thời: Lão Tử nói những từ bỏ quá lắm, bỏ xa xỉ v.v… là cảnh tỉnh sự mê mờ dâm đãng của Nhân chúa ở đương thời. Đâu phải lời nói bảo đừng bố thí? Lúc Lão Tử, Khổng Tử nói những lời trên thì Phật giáo chưa truyền bá đến nước này. Đâu phải nói bố thí. Ngày xưa, Ngu Thuấn cày đất ở Lịch Sơn, Ân Trạch chưa nhuần thấm nơi bạn bè bà con, cho đến sự ăn mặc còn chưa đầy đủ cho cha mẹ. Vua Thuấn nước Ngu. Vua Thuấn lúc đầu cày đất ở núi Lịch, làm người câu cá ở Lôi Đầm, luyện nghề gốm ở Hà Tân, Trắc Lậu lúc ng- hèo đói khốn khổ, đối với chỗ bạn bè thân thích, cũng không biết lấy gì để đượm nhuần cha mẹ, cũng chẳng cấp dưỡng đầy cơm ăn áo mặc v.v… Như vậy là tại sao? Chỉ bởi chưa gặp thời vậy. Thái Công câu cá ở sông vị Thủy, của cải không đủ để chu cấp cho vợ con, đâu có để giúp cho bà con xóm giềng: Thái Công lúc chưa gặp thời, câu cá ở bờ sông Vị Thủy, đối với vợ con, còn chưa chu cấp đủ, thì làm sao giúp đỡ xóm giềng. Đến lúc lên ngôi cửu ngũ (lên ngôi vua): Trong sách dịch quẻ Càn tên là Hào. Quẻ 91 là rồng ẩn tiềm là chớ dùng, Thuấn đang ở tại Trắc Lậu, tức là rồng ẩn tiềm. Quẻ 92 thấy rồng ở dưới ruộng, vua Thuấn câu cá ở đồng ruộng, quẻ 93 là can càn, quân tử suốt ngày, danh đức vua Thuấn đang nổi lên vang vọng. Quẻ 94 là vọt lên cao từ vực sâu, Thuấn đến núi Lịch để thử thời. Quẻ 95 là rồng bay giữa trời, Thuấn lên ngôi vua, nên gọi là lên ngôi cửu ngũ. Ứng mộng gấu bay: Sử ký nói: Tây Bá sắp đi săn, bốc quẻ nói: gặp được chẳng phải là con gấu, con bi, con man, con cọp. Sư giúp đỡ của Bá vương quả gặp được Lã Thượng ở bờ sông Vị Thủy, cùng nhau nói chuyện rất vui vẻ, bảo: từ Tiên Quân Thái Công tôi có nói là sẽ có bậc Thánh giúp nhà Chu. Thái Công trông Ông lâu lắm, nên hiệu là Thái Công vọng, tôn xưng làm thầy, về sau giúp cho Võ Vương diệt Trụ, để muôn dân được sống yên ổn khốn khổ lấm mình tro bụi. Đó là chẳng phải điềm mộng thấy gấu. Tuệ thấm nhuần tám phương, ân đức thấm đượm bốn biển: Tuệ là lợi ích của Bố thí, trạch là nhuận trạch, nghóa là thấm nhuần vậy. Khi Thuấn làm vua, tuy không làm gì nhưng dân chúng được bình trị. Thái Công giúp Võ diệt trừ bạo ngược của Trụ. Tám phương tức bốn phương và bốn duy, bốn biển tức là bốn biển đông nam tây bắc. Nên trong tám phương bốn biển, nhân dân đều được đượm nhuần ân đức của Thuấn. Nhưng nhiều của cải thì quý trọng việc Tuệ thí: Những bậc vua Thánh tôi hiền có được nhiều của cải thì giúp ích dân chúng. Nghèo thiếu thì quý trọng sự hành đạo: Lũ tức là nghèo nàn túng thiếu. Đã nghèo lại không địa vị thì quý trọng sự an nhiên, mà thực hành đạo ấy. Khổng Tử nói: Giàu có mà không bố thí, đến lúc nghèo khổ không ai cứu giúp. Nếu như người giàu có mà không bố thí của cải thì khi nghèo khổ không ai cứu giúp mình. Thuở xưa, Triệu Thuẫn biếu thức ăn cho Linh Chiếp, sau cùng cảm được sự báo đáp giúp đỡ xe đi: Sử ký: Triệu Thuẫn là quan nước Tấn, thường lui tới trong vườn dân, thấy người đói khổ bèn đem thức ăn cho. Triệu Thuẫn ưa can ngăn thẳng. Một hôm, vua Tấn bảo rang khô mà ăn, lại dự định muốn tháo bỏ xe của Thuẫn đang đi, bỏ mất một bánh xe, xe ngựa bốn con, bớt hai con, đến lúc Thuẫn lên xe không đi được, chợt có người đến đẩy xe giúp mà đi thì thoát khỏi nạn ấy, bèn hỏi: người đẩy chiếc xe ấy là ai? Đáp: “Tôi là người đói ở trong vườn dân, vì báo ân một bữa ăn nên giúp Ngài”. Phiêu Mẫu biếu cơm cho Hàn Tín, về sau được đáp trả bưng mâm vàng. Sử ký nói: Phiêu Mẫu tức là Phiêu Nhứ, thời Hàn Tín còn mặc áo vải, thường ngồi câu ở dưới thành, Phiêu Mẫu mỗi lần mang cơm đến, thì biếu cho Hàn Tín trước, về sau làm vua Tề, hồi hương dùng bưng mâm vàng ròng để báo ân của Phiêu Mẫu. Âm thầm bố thí không hề để ý, mà quả báo đến rõ ràng như ban ngày. Âm là tối tăm = âm thầm, Dương là hiển hiện. So sánh như Triệu Thuẫn, Phiêu Mẫu, lúc đem cơm bố thí hoàn toàn vô tâm, sau gặp được quả báo đẩy giúp xe, bưng mâm vàng ròng, đó là dương báo rõ ràng như ban ngày. Huống gì dốc hết gia sản, phát tâm lành, phước lợi mà họ được, cao như núi Thái, thấm nhuần khơi thông như sông biển. Khuynh là đảo phúc; dốc hết vậy, tuấn là thâm sâu thấm trầm, như Triệu Thuẫn, Phiêu Mẫu chỉ chút ân qua bữa cơm mà còn được quả báo, giúp đỡ đẩy xe, bưng mâm vàng ròng, huống gì dốc hết gia tài của cải, phát tâm lành để bố thí thì được phước lợi đâu chẳng cao lớn như núi Thái, thâm sâu như sông biển. Cho nên có tâm lành thì sẽ được ứng đáp tốt lành, cậy ác thì sẽ có tai ương báo ứng. Trồng lúa nếp mà gặt lúa mì, làm họa mà được phước, là điều không bao giờ có. Làm điều lành được phước, làm điều ác bị tai ương, nhất định không thể thay đổi. Nên trồng lúa nếp mà gặt lúa mì, làm ác mà được phước, thì việc ấy không bao giờ có. Ngày nay, các vị sa môn dùng phước giúp người, dùng điều lành khuyên người. Lấy phước để giúp đỡ cho người, dùng điều lành để khuyên nhủ người. Khiến người bố thí cái cầu, cái nhà, một cây hương, một bông hoa, như bóng theo hình: mất. Khuyên người bố thí một vật, như bóng theo hình, không bao giờ Quả lành sẽ trang nghiêm ở đời sau: Quả lành ấy chắc chắn sẽ trang nghiêm ở đời sau. Đâu chỉ ở trong ngôi nhà đẹp hoa mà hưởng lạc ư? Đã khuyên tất cả mọi người làm lành, thì mỗi người đều được an vui, đâu chỉ vì mình ở trong phòng ốc đẹp lệ mà hưởng lạc. Vả lại, sự xa xỉ của Linh Vương, xây dựng đài thất ở chương hoa, giàu sang cùng tận nhân gian, vàng châu ngọc bội, trang sức tươi sáng trong đó, vui chơi ca múa với người, phế bỏ việc nước buông lung kiêu xa, thì làm sao chẳng mất thân mạng. Nếu tham dâm, ưa đắm dục lạc, không dẫn đến phế bỏ nước nhà tan thân mất mạng thì làm sao được. Tần Chính xây dựng cung điện, chứa cả muôn người: Tần Chính, tức là Thỉ Hoàng, đóng đô ở Hàm Dương, xây dựng cung thất chứa cả muôn người. Tại thành của A Phòng, từ đông sang tây đến năm trăm bộ, từ nam sang bắc đến năm mươi trượng. Trong thành A Phòng có cung điện, bốn phía điện có phòng cao rộng, trên có thể ngồi được muôn người, dưới có thể dựng trụ cờ cao năm trượng. Phía đông đến Ly Sơn, chỉ 50 dặm, trong khoảng đó, cứ mười bộ là một tòa lầu, năm bộ là một gác. Phía đông đến Ly Sơn, phía Tây đến Hàm Dương trong khoảng năm mươi dặm, trừ cung điện chứa cả muôn người ra, cứ mười bộ, năm bộ, đều có xây dựng lầu gác. Xe giá qua lại, không ngại mưa gió, nó cao rộng, rực rỡ hùng vó, lớn như thế chỉ biết thao túng sự ham muốn của tai mắt, mà không biết sự khổ nhọc của người dân làm việc nặng nhọc. Chỉ tự do, kiêu ngạo, xa xỉ, không sửa đổi quốc chính thì không mất nước làm sao được, nay các vị Sa-môn, tuy ở nhà đẹp thất xinh, chỉ vì chuông sớm mõ chiều, theo gió thoảng vang xa, khen ngợi lời Phật để sinh phước đức sinh lên cõi trời, cõi người: Ngày nay, các vị sa môn tuy sống như thế, chỉ dùng sáng chuông tối mõ để khen ngợi trì tụng kinh điển, trên thì cầu chúc Hoàng Vương thánh thọ, dưới thì cùng với dân chúng cầu phước lâu dài, mở mang đến phong tục tốt lành. Chỉ như thế mà thôi, đâu bằng cùng Tấn Sở xa hoa thường ngày mà nói ư? Mạnh Tử nói: Như đạo ấy, tuy vua Thuấn nhận ngôi báu của vua Nghiêu, chẳng lấy làm thái quá: Như vua Thuấn lúc còn nghèo nàn khổ cực, vì có đạo đức nên vua Nghiêu trao cho hai người nữ để làm vợ, trao thiên hạ bốn biển và cả ngôi vị cho, không phải là quá lắm vậy. Nếu chẳng phải Đạo ấy, thì tuy chỉ một miếng thức ăn cũng không thể thọ nhận của người được: Nếu không khế hợp với lý đạo đức, thì tuy có thức ăn chỉ một miếng, cũng không thể thọ nhận của người được. Đâu phải là lời luống dối. <篇> <卷>QUYỂN 4 CHƯƠNG THỨ MƯỜI BỐN: SỰ THẤY BIẾT KHÁC NHAU Chương này nhận sự thấy biết khác nhau nên có khác nhau, vì thế gọi là sự thấy biết khác nhau. Khách nói: Như lời ông nói thì Phật đạo cao quý, không Thánh nào trên: Đây là do ở chương hai và chương ba, nói Pháp thân của Phật rộng lớn, Quả Thánh cực tôn, vì thế mà hỏi vậy. Hoặc có người nói: Giáo lý của Phật, văn từ dồi dào, luận thuyết sâu xa, nghóa cú rộng lớn, chỉ thú kín mầu, mênh mông trùm khắp, khó tin khó dùng, do vậy mà phỉ báng, thì tại vì sao? Nghóa là Phật dạy như vậy rất khó tin khó dùng, do đó mà có sự phỉ báng, là tại sao vậy. Diệu Minh nói: mùi vị ngon nhất khó điều thích cho vừa miệng mọi loài, âm thanh của nhiều loại nhạc khó hợp với tai quần chúng. Như loài giun ăn đất nên cam chịu sống dưới đất, đâu biết có sự hòa hợp của năm vị. Chó heo ăn phẩn thì thấy phẩn ngon, đâu biết có mùi vị của sự lên men. Thật thương xót cho người không biết, nếu biết thì chắc hẳn không ăn. Nếu giun đất cho ăn năm vị, chó heo cho ăn phẩn lên men, nên chắc chắn nó sẽ phản đối và cho đó là chất độc, vì sao? Vì không thích hợp với sự bổ dưỡng của nó. Như loài giun mà thả vào ao dơ nước bẩn, loài chó heo mà cho nó bả rượu nước gạo, nhất định nó sẽ chuyển mình cựa quậy, vẩy đuôi phấn chấn, rất là vui thích. Tại sao? Bởi vì hợp với sự nuôi dưỡng chúng nó: Chuyển mình cựa quậy tức dáng mạo loài giun chuyển động, vẫy đuôi hớn hở là bộ dạng vui thích của loài heo chó. Vả lại, Thừa Vân là nhạc hoàng đế, Hàm Trì là nhạc vua Hạ, Cửu Thiều là nhạc vua Thuấn, Đại Hoạch nhạc vua Than, Đại Võ là nhạc vua Chu Võ, v.v… là những thứ nhạc rất hay. Nếu điều thích phối hòa cả năm âm, khởi tấu những khúc nhạc hay của cửu thành, ca vinh những nét đẹp của tiên vương, như mến luyến chim phụng vây quanh, mừng vi mây nổi, rưới nước cam lô, suối nguồn ngọt ngào tuôn chảy, các thứ chim phụng hoàng bay lại, cầm thú đua nhau nhảy múa: Vua Nghiêu bảo ông quỳ khải tấu khúc nhạc, đánh gõ đá, trăm thú kéo nhau nhảy múa, thổi ống tiêu thiều chim phụng hoàng bay lại. Nếu muốn xướng họa, hẳn không biết ứng đối thế nào? Vì sao? Vì trái với những gì đã nghe. Như năm thứ nhạc nói trên muốn ứng họa, thì không thể được. Vì trái khác với những gì thường nghe. Nếu khúc nhạc dùng bằng âm điệu của Trịnh Vệ, ca vinh theo phong cách thế tục, khúc hợp thường quen, vận hiệp với Ba Ca. Khiến người nghe hẳn không đợi chỉ dạy mà tự biết ứng họa. Vì sao? Vì thích hợp với những gì đã nghe. Ca khúc của Trịnh Vệ là những âm tiết dâm đãng, hợp với thói quen của thế tục, như Ba Ca biết ứng họa càng nhiều. Vì sao? Vì thuận theo những gì đã biết. Lại nữa, vua Thuấn, vua Võ, đáng tôn xưng là bậc Thánh, nhưng Dương Chu vẫn theo báo thù vậy. Trong Liệt Tử nói: Dương Chu nói: Thuấn cày đất ở Hà Dương, đào luyện ở Lôi Trạch, tay chân còn không được tạm nghỉ, miệng bụng không có được thức ăn ngon, không được cha mẹ thương, anh em khó gần gũi, năm ba mươi tuổi, không trình mà cưới vợ. Đến lúc nhận ngôi của vua Nghiêu, thì tuổi đã lớn trí đã suy, không tài buôn bán, bèn trao ngôi cho Võ, sống an nhàn đến khi chết, đó là cùng độc của trời, người vậy. Cổn trị đất, nước, công tục chẳng thành, giết các chim rừng. Võ dựng nghiệp giữ gìn danh dự, chỉ khổ lòng do đất, sinh con không tên tự, qua cửa chẳng vào, thân thể khô gầy, tay chân mệt nhọc, đến lúc nhận ngôi của vua Thuấn, làm nên cung thất, sống an nhàn đến chết. Đó là sự buồn khổ của Trời, người. Đức như Trọng Ni, đáng tôn xưng là bậc hiền, nhưng Hoàn Đồi vẫn theo để hại. Luận ngữ nói: Hoàn Đôi muốn hại Khổng Tử, Khổng Tử nói: Trời sinh Đức ở ta, Hoàn Đồi sao bằng ta được. Tang Thương người nước Lỗ hủy báng Mạnh Tử. Mạnh Tử nói: ông họ Tang làm sao khiến cho ta không gặp? Công Bá Liêu mách bảo Trọng Do: Công Bá Liêu người nước Lỗ, Trọng Do tức Tử Lộ. Luận Ngữ chép: Bá Liêu mách bảo Tử Lộ với Lý Tôn. Những người ấy như ngửa mặt phun nước bọt lên trời, chỉ luống làm dơ mặt mình: Đem việc Dương Chu báo thù, hủy báng vua Thuấn, vua Võ, Hoàn Đôi hại Khổng Tử, Tang Thương hủy báng Mạnh tử, Bá Liêu mách bảo Tử Lộ v.v… dụ như sự hủy báng Phật của khách, đâu khác gì ngửa mặt phun nước bọt lên trời, chỉ luống tự làm dơ mặt mình. Hễ người nghe nhạc, nghe thanh thương mà cho đó là cung chủy, lỗi chẳng do gẩy dây đàn mà vì nghe nhưng không chịu xét, người tìm ngọc thấy Hòa Bích mà cho đó là võ phu, giá rẻ chẳng phải tại vật báu nơi cửa ải mà vì người thấy không biết rõ. Hòa Biùch. Sử ký nói: Tạp hòa được ngọc Phác ở Kinh sơn, đem dâng Sở Văn Vương và Võ Vương, cả hai vua đều chặt chân, sau đem dâng Thành Vương, bảo người thợ làm ngọc dũa mài, quả thật được ngọc đẹp, gọi là của báu Liên thành. Võ phu là tên loại đá giống như ngọc. Nếu cho Hòa Bích là võ phu, thì chẳng can hệ gì ngọc giá rẻ, mà là do người thấy không biết rõ. Thần rắn có thể chặt đứt rồi nối liền lại được, nhưng không thể làm cho người chẳng chặt: Trong Dị vật chí nói: thần rắn bị chặt đứt mà nối liền lại được. Rùa linh xét biết được họa phước của người, nhưng tự mình không tránh khỏi tai họa bị mổ xẻ. Liệt Tử nói: Tống Nguyên Quân mộng thấy một người tóc bạc nói: “Tôi là người đánh cá ở Thanh Giang hà bá, xin anh cứu giúp”. Tỉnh giấc đi tuần ra ngoài quả thấy nộp được con rùa trắng tròn năm thước, ông muốn nó sống để bốc xem, bèn nói: rùa có bảy mươi hai vòng, dùng để bói tốt xấu. Như vậy thì tuy có thể bói được sự tốt xấu của người, nhưng không thể tự thoát khỏi tai họa bị mổ xẻ. Chí đạo rộng lớn, các bậc Thánh cực lực đề xướng, kinh sách sâu mầu xuất thế, người thế tục chẳng thể biết được. Vì khen ngợi thì quý, phỉ báng thì khinh rẻ. Giáo điển của bậc Đại Thánh, những hạng người dưới ca ngợi thì quý, phỉ báng thì khinh thường. Thực hành hay không thực hành đều có thời. Thực hành hay không thực hành đều có thời vận của họ, như Khổng Tử không có ngôi vị làm thầy vua. Tin hay không tin cũng tùy cơ hội. Tin hay không tin chỉ tại nơi cơ hội, như Đạo Chích không vâng theo sự chỉ dạy của Khổng Tử. Thí như vác kim để san bằng núi Thái Hành, vác sỏi đá để lấp biển sâu, ấy thật rất tốn công và nhọc sức. Sự hủy báng Phật của khách, thí như có người mang vác kim châm, muốn san bằng núi Thái Hành, vác sỏi đá mà lấp biển lớn, công lực như thế thật là khổ nhọc, khó khăn. ---------------------------------- <詞>CHƯƠNG THỨ MƯỜI LĂM: TÙY NGHI Chương này nhân tùy thuận hợp nghi mà đáp nên gọi là “Tùy Nghi”. Khách nói: ông nói Phật giáo, nghóa cao như núi Thái, Lý thông suốt như sông biển, văn tợ như chọn gấm, câu như lựa vàng, vậy sao không dùng kinh Phật để trả lời những điều tôi hỏi, mà lại dùng kinh thi kinh thư, trích lấy điểm dị đồng mà trả lời như thế? Diệu Minh nói: Mâu Tử bảo rằng: người khát nước không cần phải xuống sông, xuống biển mà uống, người đói không cần phải ăn mới no. Đạo là do người có trí tuệ lập nên, biện luận là do người thấu đạt mà thông suốt, sách là do người hiểu mà truyền bá, tôn thờ là do người thấy được tỏ rõ. Tôi biết ông hiểu ý ấy, nên trích dẫn mà trình bày. Nếu nói lấy kinh Phật trả lời với ông thì thí như người mù mà chỉ cho thấy vật năm mầu, người điếc mà khởi tấu khúc nhạc năm âm vậy. Vả lại, Sư Nhượng thầy của Sư Văn, Bá Nha Hồ ba thúc Dạ. Những người khéo đánh trống, gảy đàn thời xưa, họ học tuy khẩn thiết, nhưng không thể thành khúc nhạc không dây. Hồ Ba trống đàn mà chim múa cá liệng. Sư Nhượng là thầy của Sư Văn chỉ vỗ đàn, đang mùa xuân, đánh dây thương đề với lại Nam Lã tiết tháng tám, gió mát chợt thổi đến, cỏ cây thành thật, đến mùa thu mà đánh dây chủy để đóng giáp chung, mới tiết tháng hai mà gió ấm từ từ trở về, cỏ cây tươi tốt, đang giữa mùa hè mà đánh dây vũ để vời Hoàng Chung. Đến tháng 11, sương tuyết giao rơi, sông ai chảy xiết, đến đông mà đánh dây trưng để kích Sinh tân, đang tiết tháng 5, nắng nóng gay gắt, băng cứng chảy tan, sắp chung mạng thì đánh cung mà gồm cả bốn dây thì mến luyến, gió vây quanh, vui mừng mây ùn đến, cam lồ rưới xuống suối nước ngọt tuôn trào. Tuy khéo thao tác như thế nhưng chẳng thể thành khúc điệu không dây. Cam Tháo, Phi Vệ, Kỷ Xương Phùng Mông, Bố Thả là những người giỏi bắn cung tên ngày xưa, tài nghệ của họ tuy như Thần, nhưng không thể dương cung không dây. Liệt tử nói: Cam Tháo là người tài giỏi bắn cung ngày xưa, hễ dương cung là thú gục chim rơi. Học trò là Phi Vệ học ở Cam Tháo mà khéo giỏi hơn thầy. Kỷ Xương lại học bắn cung ở Phi Vệ, về sau có tiến bộ trong nghề nghiệp, Kỷ Xương muốn giết Phi Vệ, hai người cùng dương cung bắn lẫn nhau, hai mũi tên trúng nhau rơi giữa đường… Họ tuy giỏi bắn cung tên như thần, mà không thể dương cung không dây vậy. Hồ Hạc tuy ấm nhưng không thể sưởi ấm người chết. Lông da Hồ Hạc tuy ấm áp nhưng không thể sưởi ấm người chết. Nước, đất tuy thấm nhuần nhưng không thể thấm nhuần cây không có rễ. Nước đất tuy thấm nhuần, nhưng khó thấm cây không rễ. Phật pháp tuy tốt đẹp tinh nhuần, nhưng không thể rót vào tai người không có niềm tin. Phật Pháp tuy là hay ho, nhưng không thể giáo hóa dắt dẫn vào tai người không tin. Ông chưa dốc lòng tin đạo nên có lắm sự mê mờ nghi hoặc. Tôi đâu dám đem diệu chỉ của bậc Đại Thánh để trả lời điều ông hỏi! Ngày xưa, Công Minh Nghi khảy đàn tai trâu. Thanh giác là tai trâu, tai trâu không nghe tiếng được, chỉ dùng sừng để nghe, nên nói khảy đàn tai trâu. Nó vẫn cúi đầu ăn như cũ, chẳng phải trâu không nghe, mà là chẳng hợp với tai nó vậy. Trâu ấy vẫn cúi đầu gặm cỏ như cũ. Bèn chuyển sang làm tiếng côn trùng, tiếng trâu nghé kêu. Chuyển làm tiếng loài trùng nhặng bay lại, tiếng trâu nghé kêu gọi tìm mẹ. Trâu liền vẫy đuôi vểnh tai, dẫm đạp chân mà nghe. Vì sao? Vì thích hợp với cái biết của nó. Trâu nghe tiếng ấy, bèn vẫy động đuôi, vểnh dựng hai tai, bốn chân lay động dẫm đạp, để nghe tiếng ấy. Vì sao như vậy? Đại khái là thuận theo cái biết của nó nên như vậy. Chính vì thế, nên tôi đem kinh thi, kinh thư để trả lời đế giúp ông dễ hiểu vậy. Không đem kinh Phật để trả lời. Nhân vì ông thông hiểu sáu kinh, sách của các nhà hiền triết, cho nên trích dẫn đó, giúp ông được dễ hiểu vậy. ---------------------------------- <詞>CHƯƠNG THỨ MƯỜI SÁU: PHÂN BÀY HƠN KÉM Chương này, nhân khách nêu Vương Kiều, Tiêu Sử cùng với Ca- diếp Ma-đằng và Trúc-pháp-lan để so sánh hơn kém nên gọi là “phân bày hơn kém”. Khách nói: Vương Kiều và Tiêu Sử là hai vị tiên. Vương Kiều, người sống vào thời Hậu Hán, làm Diệp Huyện lệnh, mỗi khi hiển bày thần dị, cỡi le le mà bay qua lại. Tiêu Sử là người ở thời Tần Mục Công, giỏi thổi sáo, vợ chồng theo chim phượng hoàng mà bay đi. Ma-đằng và Trúc-pháp-lan là hai vị tăng. Đạo phong của họ bằng nhau chăng? Ý khách hỏi: Đạo Đức của hai vị tiên và hai vị tăng ấy có bằng nhau chăng? Diệu Minh nói: Hãy thôi, đừng nói điều ấy. Mong được an nhiên, tôi không muốn đất bằng phẳng mà dậy cơn sóng gió cao ngàn trượng. Không đáng được nên gọi là mong. Mong hãy để bình yên vô sự, bỏ đi sự luận bàn cao thấp hơn kém, không thì chính là không gió mà nổi sóng. Khách nói: Mong lược nên điều giống nhau để khai mở chỗ ngu tối cho tôi. Ý khách nói: lược nêu bày một vài điều giống nhau để khơi mở sự bế tắc trong đầu tôi vậy. Diệu Minh nói: Phàm đi thuyền phải biết nước cạn sâu: Người đi thuyền cần biết chỗ sâu cạn của thế nước. Ngồi xe phải biết sự cao thấp của đất. Người lái xe phải biết rõ sự cong thẳng cao thấp của mặt đất. Người học đạo phải biết sự hơn kém của người: Người học đạo phải biết sự hơn kém của người làm thầy, nếu không phân biệt hơn kém thì khó rõ chánh tà. Tôi là kẻ tầm thường mặc chiếc áo vuông làm Thích tử: Tôi chỉ là một vị tăng tầm thường vậy. Sự thấy biết rất hạn hẹp như nhìn qua ống sáo. Như nhìn qua ánh sáng trong lỗ ống sáo ống tiêu, rất hạn hẹp, không đủ sáng suốt. Như vách tường không hay biết: Không học không biết như vách tường. Chỉ là ánh sáng đóm lửa nhỏ không thể chiếu xa. Chước hỏa nghóa là đóm lửa nhỏ, lời nói khiêm nhường: Tôi chỉ như đóm lửa nhỏ, ánh sáng ít, dùng để soi chiếu trong đêm đen thì không thể soi rọi xa được. Đâu dám bình phẩm Đạo phong cao thấp của các bậc Tiên Đức? Đã như đóm lửa nhỏ soi qua lỗ ống tiêu, ống sáo, đâu dám bàn luận về đạo đức của các bậc Tiền bối? Nhưng vì Bồ Lao ngậm tiếng, bởi có hình dài khuấy động, thì chớ nên buồn phiền vì tiếng ấy. Ở biển có cá lớn tên là Kình, cũng trong biển có con thú lớn tên là Bồ Lao. Bồ lao rất sợ cá Kình, mỗi lần cá Kình vẫy đạp thì Bồ lao liền rống lớn tiếng. Vì thế, trên quả chuông làm hình Bồ lao, và trên mõ làm hình cá Kình. Nên người hỏi như cá Kình, và người đáp như sự lớn tiếng của Bồ lao. Thương thay! Chó của Kiệt Trụ đáng để sủa vua Nghiêu: Dực thiện Bác Thánh gọi là Nghiêu. Lại nói khéo thực hành Đức nghóa gọi là Nghiêu. Thương thay là lời than. Kiệt và Trụ là hôn chúa, Nghiêu Thuấn là Thánh quân. Chó của Kiệt Trụ tuy biết chủ của nó, mà không biết sự hôn mê của chủ. Tuy Nghiêu Thuấn là bậc Minh triết, chó không biết được sự thánh minh ấy cho nên sủa. Phật dụ như Vua Nghiêu, người phỉ báng Phật dụ như chó. Bọn Dương mặc đủ để phỉ báng vua Thuấn, và những kẻ thế tục ngày nay, phần nhiều là đồng bầy chạy theo, không thẩm xét Thánh Đạo giai vị cao thấp mà phỉ báng vậy: Nhân Thánh oai minh gọi là Thuấn, Dương Chu phỉ báng Thuấn. Nay Phật được dụ như Thuấn, và kẻ phỉ báng Phật dụ như Dương Chu. Bọn thường tục sống ngày nay như bầy chó. Cho thấy chủ mất đi vùi thành khối bèn cong đuôi chạy theo. Nói khách không thể bình luận thẩm xét Thánh đạo có giai cấp, trên dưới khác nhau, cũng như yên ổn được sự ngang bằng của yếu kém. Mịt mờ không thể biện luận: Tâm mịt mờ và không thể biện biệt được sự cao thấp. Giả sử có có sự trong sáng mà bình luận để đi đến sự thật, mà chỉ theo sự mê hoặc, đâu thể vâng theo ư? Giả sử như ngày nay có người thấu đạt như gương sáng, bình luận để đi đến chỗ chân thật không luống dối, mà theo chúng bọn cho đó là mê hoặc, thì làm sao có thể vâng tin và đạt được đại đạo của bậc Thánh? Hãy ngồi yên, tôi sẽ nói cho ông nghe. Mời khách ngồi mà nói với họ. Ma-đằng là một vị tăng, đối với Đạo thì thông đạt rõ tứ Đế, trí thì đầy đủ ba Minh. Trí tuệ soi sáng minh bạch thì có ba: thấy rõ đời kiếp trước, thấy rõ mọi sự sinh tử và thầy rõ các lậu hết sạch. Đạt được sáu thứ thần thông, đầy đủ tám pháp giải thoát, có khả năng bay đi qua lại, thay đổi hình thể. Bay đi qua lại tức là thần thông, thay đổi tức là biến hóa. Hình thể là thân hình tướng mạo. Hoặc biến thành già nua. Thuyết văn nói: bảy mươi tuổi gọi là Lão, khúc lễ nói tám mươi - chín mươi tuổi gọi là mạo. Hoặc hiện hình dáng như Nhụ Hài. Thuyết văn nói: Biết đi mà ăn bú sữa gọi là Nhụ, mới sinh gọi là Hài. Hoặc diệt hoặc sinh Hoặc hiện chết đi, hoặc hiện sống còn. Dài ngắn tự tại. Diên là dài, xúc là ngắn, đã có thần thông thì dài ngắn tùy ý. Lại có khả năng lay động trời đất. Lay động thì động đến trời đất. Dời đổi núi non. Thay đổi chuyển đời núi non. Ngăn lấp sông biển. Ngăn sông lấp biển. Nhảy vào nước lửa. Xuống nước không bị chìm, nhảy vào lửa không bị cháy. Ngàn muôn biến hóa, không thể cùng tận. Tuân Tử nói: “Thay đổi chất cũ gọi là biến, biến đổi hình mạo gọi là hóa”. Có đến muôn ngàn sự biến hóa như vậy, không cùng tận. Do năng lực thìên Định giúp sức, không gì không làm được. Thần thông diệu dụng ấy là do năng lực của định huệ, không việc gì không làm được. Nếu ai gặp được mà cúng dường thì hiện đời có đầy đủ của cải, tuổi thọ và sang trọng. Đối với sức diệu dụng của Ma-đằng và Trúc Pháp Lan, tất cả chúng sinh gặp được mà cúng dường thì hiện đời này đầy đủ các thứ của báu, sống lâu và giàu sang. Đâu chỉ cùng với cỡi chim le, ngồi lưng chim phụng, đồng ngày mà nói. Thần thánh như thế, đâu chỉ cùng như ngồi giá chim le, cỡi lưng loan phụng, lũ quỷ ngàn năm không chết, so sánh mà luận bàn. Tam Hoàn mà so sánh với Tam Vương. Lấy đây mà so sánh. Sử ký nói: Tam Hoàn tức Mạnh Tôn, Quý Tôn và Thúc Tôn vậy, đều là con cháu của Hoàn Công. Tam Vương gồm Hạ, Thương và Chu là ba đời vua Thánh. Vương Kiều và Tiêu Sử được dụ như Tam Hoàn, Ma Đằng và Trúc Pháp Lan dụ như Tam Vương. Năm Bá sánh ví với năm Đế. Sử Ký nói: Năm Bá tức là Tề Hoàn Công, Tấn Văn Công, Tần Mục Công, Tống Nhượng Vương và Sở Trang Vương. Năm Đế tức là Thiếu Hạo, Hiên Viên, Cao Tân, Đường Nghiêu và Ngũ Thuấn vậy. Năm Đế được dụ như Ma-đằng và Trúc-pháp-lan. Năm Bá được dụ như Vương Kiều và Tiêu Sử. Đó đều là những vị vua, mà không có giai cấp? Tuy năm Bá năm Đế đều là vua cả, nhưng chẳng lẽ không có giai cấp cao thấp ư? Dương Hóa sánh với Trọng Ni. Dương Hóa là bề tôi của nhà họ Quý. Khổng Tử là Tổ của văn chương ngàn năm, là thầy của muôn đời vua chúa. Dương Chu, Mặc Địch sánh với Tuân Tử, Mạnh Tử. Mạnh Tử nói: Dương Chu chỉ biết mến thân mà không biết nghóa tạo nên thân, nên không vua vậy. Mặc Địch thì kiêm ái mà không sai khác. Xem người thân cũng như mọi người không khác, đó là không cha vậy. Nên không cha, không vua thì đạo làm người đã dứt mất. Đó điều là những nhà Nho, mà không thứ lớp ư? Từ Phước sánh với Hà Thượng. Tần Kỷ nói: Từ Phước là Đạo Só luyện tập tu tiên. Tần Thỉ Hoàng bảo đem đồng nam, đồng nữ ra biển để tìm thuốc thần tiên bất tử, thuyền ra giữa biển đến nỗi bị chìm. Hà Thượng tức Hà Thượng Công, là người mà Hán Văn Đế tôn thờ làm thầy. Quan Doản sánh với Lão Đam. Sử Ký và Liệt Tiên Truyện nói: Doãn Hỷ ở ải Hàm Cốc là quan Đại Phu của nhà Chu, Lão Tử đi về hướng Tây, tới cửa ải thì thọ học hai chương đạo đức với Doãn Hỷ. Đó đều là những đạo só, mà không cấp bậc ư? Từ Phước, Doãn Hỷ sánh với Hà Thượng Công. Lão Tử đều nói là kẻ só có đạo, chẳng lẽ không có cấp bậc cao thấp ư? Gò đống mà sánh với núi Thái. Điệt là đất ùn đống do kiến dồn lại, núi Thái là một trong năm núi lớn ở Trung Quốc. Sánh đạo đức của Vương Kiều và Tiêu Sử với Ma-đằng và Trúc-pháp-lan, cũng như so sánh gò đất do trùng kiến ùn lại với núi Thái. Vũng nước trên đường mà sánh với sông biển. Vũng nước trên đường là nước không nguồn, đâu thể sánh với nước sông biển được. Các loài thú chạy mà so với Kỳ Lân. Các loài thú như nai hươu đâu thể sánh ví với Kỳ Lân Các loài chim bay mà sánh với Phượng Hoàng. Những loài chim như se sẻ… đâu thể sánh bằng với Phụng Hoàng. Đó đều là loài vật, mà không sai khác ư? Da dê mà sánh với da cọp. Vãi sợi loang lổ mà sánh với tơ lụa gấm vóc. Ban trữ là vải bố loang lổ màu trắng. Miên tú, theo khảo Công Ký nói: kim tuyến dệt vẽ gọi là miên, năm mầu có đủ gọi là tú. Đó đều là văn vẽ, chẳng lẽ không khác nhau ư? Hễ là thánh hay phàm. Phàm thánh hai đường không thể lẫn lộn. Mạnh Tử nói: Lớn mà hóa gọi là Thánh, Vận Nghóa nói: khinh nhỏ thường tục gọi là phàm. Nên phàm thánh hai đường, không thể xen lẫn, lộn lạo nhau. Cho nên có Đại Thánh, tiểu thánh, thượng phàm, hạ phàm. Phàm, thánh đều có đẳng cấp. Đại thánh thì quy về Giác Hoàng. Giác Hoàng tức là Phật, nên tôn xưng Phật là Đại Thánh. Tiểu thánh thì còn ở ứng chân. Tức bốn quả thánh nhỏ vậy. (= bốn quả Thanh Văn). Ma-đằng, Trúc Pháp Lan ta tôn sùng là Tiểu thánh. Ma-đằng và Trúc Pháp Lan là Tiểu Thánh trong Phật giáo. Phàm, là danh từ để gọi những ai chưa phải là thánh. Thượng Phàm thì gồm cả các trời. Thượng phàm là dân chúng ở các cõi trời. Hạ phàm thì chỉ cho triệu dân. Mười ức gọi là triệu, là chỉ cho nhân dân trang thế gian. Tuy Vương Kiều, Tiêu Sử có thể giữa ban ngày mà bay bỗng nhẹ nhàng, nhưng chưa thể xếp vào các trời, giả sử có xếp vào cũng chẳng phải là Thánh. Dám lấy đạo đức phàm tình ấy mà sánh với bậc Thánh ư? Nếu quả thật lấy việc cỡi loan, ngồi lưng phụng mà tôn xưng đó là thánh, thì Trọng Ni Lão Đam chẳng phải là thánh. Bởi vì thánh là thông vậy. Đã là bậc Thánh thì tất cả đều thông đạt. Chẳng phải đối với ai hễ cỡi ngồi trên lưng chim, loan phụng thì tôn xưng đó là thánh. Phàm là thường vậy. Phàm thường là phàm tục tầm thường. Vắng lặng bất động, cảm mà bèn thông, biến hóa không thể sánh ví, oai linh chẳng thể so lường. Gọi đó là Thánh. Hệ Từ nói: Vắng lặng Bất Động là lý của tâm, cảm mà bèn thông là dụng của thể. Mịt mờ mà sinh. Nghóa là sinh mà không biết từ đâu đến. Mê man mà chết. Nghóa là chết mà chẳng biết đi về đâu. Lo toan việc ăn mặc. Doanh doanh là qua lại không thôi. Nghóa là người tham lam ăn mặc. Lo lắng việc danh lợi. Luận ngữ nói: Quân tử luôn bình thản, tiểu nhân thường lo toan. Dáng mạo lo lắng không thôi. Nghóa là người tham danh tham lợi. Đều là sống, đều là chết. Thường tục ở đời vì tham danh lợi ăn mặc, nên đều sống trong sinh tử. Xem thường việc sống chết. Coi sống chết là việc tầm thường. Nên gọi đó là phàm. Do đó mà gọi là phàm. Vả lại, người ở cõi trời sắp chết, năm tướng suy hiện và có sự tức giận trên nét mặt. Kinh Nhân Quả chép: Người ở cõi trời thân sạch, không dính bụi dơ, có ánh sáng rực rỡ, tâm thường vui vẻ, không gì chẳng thích ý. Đến lúc Phước hết thì năm tướng suy hiện, đó là: - Hoa trên mũ héo rụng, - Hai nách đổ mồ hôi, - Không thích chỗ ngồi, - Quyến thuộc chia lìa, và - Ánh sáng trên thân tự biến mất, nên nét mặt nổi lên tức giận, nghóa là phiền não tức giận hiện trên nét mặt. Đều gọi đó là tham danh lợi cõi trời mà không sửa đổi xả bỏ. Tất cả các vị trời đều do tham danh lợi sung sướng ở các cõi trời ấy mà không thể sửa đổi xả bỏ. Thì sao chẳng là phàm phu cho được. Than ôi! Kia là những kẻ ít nghe biết, trí hẹp hòi. Lễ Ký nói: Học một mình không bạn bè, gọi là cô đơn ít học. Trên đây đều là những người sống ở cõi trời, đều xếp họ vào hàng thánh. Song trong Phật giáo thì chỉ mới cởi bỏ áo thế tục để mặc áo nâu sồng, không ai chẳng vỗ tay mà cười sự sai lầm ấy. Trong đạo Phật của ta thì chỉ mới cởi bỏ chiếc áo thế tục và mặc vào chiếc áo nâu sồng nhỏ bé. Không ai chẳng vỗ tay cười sự bàn luận sai lầm ngông cuồng ấy. ------------------------------- <詞>CHƯƠNG THỨ MƯỜI BẢY: BÀN VỀ VIỆC BIẾT TRƯỚC Chương này, nhân dự biết ở Tây Vức có Phật ra đời nên gọi là: Bàn về dự biết trước. Khách nói: Như Ông nói về Đức Phật, đạo Ngài rộng lớn như thế. Vậy xin hỏi trước giấc mộng của Hán Minh Đế, còn ai biết nữa chăng? Trước lúc Hán Minh Đế mộng thấy người vàng bay vào nơi sân điện, thử hỏi còn ai biết phươn Tây có Phật nữa không. Diệu Minh nói: Ông hỏi thật là xa xôi. Liêu là xa thẳm; xa xôi vậy. Xưa kia, vào thời vua Chu Chiêu Vương năm thứ 24, ngày mồng 08 tháng tư năm Giáp Dần, ban đêm thấy có ánh sáng rực rỡ chiếu soi ở sân cung điện, vua bèn hỏi Thái tử Tô Do rằng: Thái tử là quan thông hiểu về các hiện tượng trong trời đất. “Đêm qua thấy có ánh sáng chiếu soi ở sân cung điện, đó là điềm lành gì vậy?” Tô Do đáp: “Ở phương Tây có vị thánh mới ra đời. Đó là điềm linh hiển hiện”. Vua hỏi: Vậy ở nước ta có chuyện gì chăng? Ở tại nước ta, không biết có chuyện xấu tốt gì chăng. Tô Do đáp: “Nay thì hoàn toàn vô sự, một ngàn năm sau thì giáo pháp của vị thánh ấy truyền khắp cõi này”. Tô Do nói: Một ngàn năm sau, các kinh giáo đã nói được lưu truyền đến nước này. Vua bèn ghi khắc việc đó vào bia đá. Về sau, bèn khắc sự việc đó vào bia đá. Và dựng ở đền Nam Giao. Chôn dựng tại đền Nam Giao, nơi cúng tế trời để đợi sự kiểm nghiệm. Đến thời Hậu Hán vua Minh Đế, năm Giáp Tý, nhằm niên hiệu Vónh Bình thứ bảy, chỉ mới một ngàn năm. Tập sự ghi: Niên hiệu Vónh Bình thứ tư nhằm năm Tân Dậu, vua Minh Đế mộng thấy Phật, đến năm Mậu Thìn, tức niên hiệu Vónh Bình thứ 11 thì Đạo Phật truyền đến Trung Hoa. Đó là điều biết trước thứ nhất. Điều nói rõ trên đây là việc biết trước thứ nhất. Lại nữa, thời vua Chu Mục Vương năm thứ 52, vào giữa tháng 02 năm Nhâm Thân, có cầu vồng soi suốt từ Nam chí Bắc, suốt đêm không tan. Ánh sáng cầu vồng, ánh sáng ấy xuyên suốt cả Nam Bắc, ngày đêm không tan. Vua hỏi Thái Tử Hỗ Đa rằng: “Đó là điềm lành gì vậy?”. Hổ Đa đáp: Ở phương Tây có bậc Đại Thánh diệt độ nên hiện tướng ấy vậy. Tập sự ghi: Mục Vương tên là Mãn, con của Chiêu Vương, làm vua 55 năm. Năm Nhâm Thân là năm thứ 52, ngày rằm tháng 02 năm ấy, Đức Thế Tôn nhập Niết-bàn. Vua nói: ta thường lấy đó làm lo, nay đã diệt mất rồi. Ta đâu còn gì phải lo nữa? Hỗ Đa nói: Vua đâu cần phải lo gì. Ở thời trước Thái Tử Tô Do đã từng khắc ghi ở bia đá, nói rằng một ngàn năm sau, thanh giáo mới lưu truyền khắp Trung Quốc, đến nay, mới chỉ bảy mươi chín năm. Vua đâu phải lo gì? Đó là điều biết trước thứ hai. Thương Thái Tể hỏi Khổng Tử rằng: Thầy có phải là Thánh không? Hỏi Khổng Tử có phải là bậc thánh hay chăng. Khổng Tử nói: Thánh thì Khâu tôi đâu dám. Khâu là tên của Phu Tử. Đâu dám là lời khiêm nhường. Khâu tôi là người học rộng biết nhiều. Lại hỏi: Ba vua là thánh phải không? Khổng Tử đáp: Ba vua là người khéo nhậm trí dũng. Khéo hay nhậm dụng trí dũng để trị đời. Còn có phải thánh chăng, thì Khâu tôi không biết. Thánh hay chẳng phải thánh, Khâu tôi không biết. Lại hỏi: Năm Đế là Thánh có phải không? Khổng Tử đáp: Năm đế thì khéo nhậm nhân nghóa. Khéo hay nhậm dụng nhân nghóa để cái trị dân trong nước. Còn có phải thánh chăng, thì Khâu tôi không biết. Còn có phải thánh hay chăng, Khâu tôi không biết. Hỏi: Ba Hoàng là Thánh có phải không? Ba hoàng là Phục Hy, Thần Nông và Hiên Viên. Khổng Tử đáp: Ba Hoàng khéo nhậm nhân thời. Khéo nhậm dụng nhân thuận thời cơ. Còn có phải thánh chăng, thì Khâu tôi không biết. Thánh hay không phải thánh Khâu tôi cũng không biết. Thương Thái Tể giật mình nói: Vậy thì ai là bậc thánh? Thái Tể cho rằng: Ba Hoàng, năm Đế, ba Vương đều chẳng phải là bậc Thánh, vậy ai là bậc Thánh, do đó mà giật mình. Khổng Tử mấp máy giây lát. Động dung (= mấp máy) là im lặng mà tâm nghó tưởng, dáng bộ mắt mày giao động mà thân yên tónh. Nói: ở phương Tây có bậc thánh, không trị mà không loạn. Đây là nói điềm lành lớn vô vi của Đức Như Lai. Nghóa là không dùng pháp độ để trị mà tự không rối loạn. Không nói mà tự kính tin. Chẳng dùng ngôn giáo để khuyến hóa mà tự kính tin. Không giáo hóa mà tự thực hành. Chẳng phải giáo hóa mà tự thực hành theo đạo ấy. Mênh mông thay! Mọi người chẳng biết gọi là gì. Mênh mông là hình ảnh rộng lớn thênh thang. Nên Diệu đạo của Đức Như Lai mọi người không biết gọi là gì? Khâu tôi nghi đó là bậc thánh, không biết thật là bậc thánh hay thật không phải thánh? Phu Tử có ý suy tôn, chữ vi (= là) ở đây là từ bất định. Đó là điều biết trước thứ ba. Thời Doanh Chính tức Tần Thỉ Hoàng Đế, có hai mươi bảy vị Phạm tăng như Thất-lợi-phòng v.v… đến đất Tần. Lúc ấy, Thỉ Hoàng Đế mới gấp việc thôn tính thất hùng tranh thắng. Thất hùng là: Tần, Tề, Yên, Triệu, Hàn, Ngụy và Sở. Đang lúc binh pháp đánh nhau, không rãnh để tôn sùng kính tin. Đang lúc binh lính mặc áo giáp đánh trận, không rãnh rỗi mà tôn sùng kính tin. Trái lại cho là quỷ quyệt hư dối. Chúa Tần trái lại cho đó là quỷ quyệt lọc lừa luống dối. Bèn đem Thất-lợi-phòng v.v… giam giữ và cấm đoán. Bèn dẫn Thất-lợi-phòng v.v… đến bệ lao mà ngăn cấm. Tối lại, có vị thần nhân mặc áo giáp vàng từ trên không trung xuống, dùng chày vàng đánh và dùng cái khóa để dẫn các vị tăng đi. Đó là điều biết trước thứ tư. Hán Hộ Tả Đô Thủy Sứ Lưu Hướng nói: Tôi xem xét tàng thư, lục tìm Thái Sử khắc vẽ đồ hình các vị tiên. Từ thời Hoàng Đế về sáu tới đời thứ sáu cho đến nay, thành đạt đạo tiên có hơn bảy trăm vị, xét thật đạt thì có một trăm bốn mươi sáu vị, trong đó có bảy mươi bốn vị đã thấy kinh Phật. Đó là điều biết trước thứ năm. Thời Tiền Hán Võ Đế, niên hiệu Nguyên Thú thứ ba, ở phía Tây nam thành Trường An, đào hồ Côn Minh: Vua muốn đánh nước Tỳ Minh, người nước đó giỏi đánh đường thủy, nên đào hồ để tập trận. Gặp tro đen, hỏi Đông Phương Sóc. Đông Phương Sóc nói: Vấn đề ấy thần không biết. Bệ hạ có thể hỏi các vị tăng Ấn độ ở Tây Vực, thì sẽ biết rõ. Vua bèn sai người đi hỏi. Vị tăng đáp: Đó là tro chứa nhóm từ thời kiếp hoại. Đó là điều biết trước thứ sáu. Vả lại, Khổng Tử sinh ở Đông Chu, Đức Phật thì sinh ở Tây Vức, cách nhau xa vời, song sự hiểu biết âm thầm sâu kín, kiểm nghiệm như đích thân thấy. Nếu chẳng phải đồng thanh tương ứng thì ai có thể dự biết xa vời như thế ư? Quẻ văn trong Chu Dịch nói: Quả chín mươi lăm là rồng bay giữa trời, người căn tánh bén nhạy thấy được bậc đại nhân. Vậy là thế nào? Khổng Tử nói: “Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”. --------------------------------- <詞>CHƯƠNG THỨ MƯỜI TÁM: TÔN KÍNH PHẬT Chương này, nhân vó khách mới kính tin Phật, nên gọi là: “Tôn kính Phật”. Khách hỏi : Trọng Ni trong lòng hiểu rõ về bậc Năng nhân (đức Phật). Thức có âm là chí, nghóa là biết rõ, tuy không nói ra song trong nội tâm hiểu biết rất rõ. Tiếng Phạm là Thích Ca. Trung Hoa dịch là Năng nhân. Thương Thái tể hỏi Phu Tử có biết về Phật. Đã được nghe như vậy, xin hỏi: Lão Đam có biết Tây Vực có bậc Thánh như thế hay không? Lại xin hỏi Lão Tử có biết ở phương Tây có Phật thánh hay không? Diệu Minh nói: Tốt thay, lời ông hỏi! Ngày trước, tôi thường đến cung Hoa Thanh. Ở huyện Lâm Đồng tại núi Quắc Bảo có cung Hoa Thanh. Đạo só Hồng Mông Lão Nhân mời tôi lên gác Ngọc Nữ. Mở kho kinh, đem hòm đựng đạo tịch lục ra xem, thấy được một quyển tên là “Tây Thăng kinh”, đọc văn trong đó có viết: “Thầy ta đến giáo hóa ở Tây Trúc, khéo nhập nê-hoàn”. Nê-hoàn tức là Niết-bàn. Tôi hỏi Hồng Mông: Có phải chỉ cho Đức Phật không? Hồng Mông nói: “Tôi không dám quả quyết như vậy”. Tôi nói: “Nếu chẳng phải chỉ cho Đức Phật thì ai là thầy của Lão Tử”. Lại được Cổ Đạo Nguyên Hoàng Lịch nói: Ở Tây Vực có Cổ Hoàng tiên sinh, tức là thầy của ta. Nếu nói như thế thì đều chỉ cho Đức Phật. Bởi vì, Lão tử biết Tây Trúc có bậc thánh, nên ba lần tôn xưng như thế. Khéo vào nê-hoàn, đến giáo hóa ở Thiên Trúc. Nhân khéo vào Nê-hoàn mà đến giáo hóa năm trước ở Thiên Trúc. Nay đã trở về với nguyên thần, trở lại vô danh. Nói Phật nhập Niết bàn nơi rừng Ta-la song thọ, nay đã trở về với cội nguồn, phục hồi nhiệm mầu vô danh. Dứt mất thân hình, không đầu không cuối. Dứt mất thân hình là trở về với lý vô thỉ vô chung. Dài dẳng còn mãi, nay ta nên đi tìm. Dài dẳng còn mãi, nên Lão Tử nói: nay ta nên đi, đó chính là lúc đi đến ải Hàm Cốc. Lại gặp được “Đạo Só Pháp Luân Kinh” chép: “Nếu thấy Sa-môn, suy nghó vô lượng, nguyện sớm hiện thân, để tu tập chân Phật. Nếu thấy hình tượng Phật, suy nghó vô lượng, nên mong cầu tất cả đều vào pháp môn, thông hiểu pháp độ, được đạo như Phật”. Lại gặp được “Linh Bảo Tiêu Hồn An Chí Kinh” chép: “Đạo lấy trai giới làm đầu, siêng năng thực hành sẽ thành Phật, nên lập ra chiếc cầu pháp lớn, độ khắp các chúng sinh”. Chữ chư (= các) là trợ từ “ư”. Lại gặp được “Kim Khuyết Triều Nguyên Kinh” chép: “Nguyện hái hoa Ưu-đàm, nguyện đốt hương chiên đàn cúng dường ngàn Đức Phật, Đảnh lễ Phật Định Quang, Con sao sinh quá muộn, Phật sao Diệt Độ mau, không thấy Đức Thích-ca, trong lòng thường buồn khổ. . .” Lúc tôi ở tại Bắc Kinh, ở cung Đàm Tế tại hiên Tây bắc có bức họa đồ trên vách, thấy một vị tăng ngồi và một người đang đảnh lễ. Tôi hỏi các đạo só ở cung ấy bức họa đồ ấy có ý nghóa thế nào? Vị Đạo Só nói: Đó là Đàm Tế chân Quân, nhờ đó đảnh lễ Phật Định Quang làm thầy. Thầy trong Đạo Nho chúng ta là Trọng Ni người nước Lỗ, thầy của Trọng Ni là Lão Đam. Trong chương Khổng Tử gia Ngũ thương chu, Khổng Tử nói: thời chu có Lão Đam thông rõ nay là thầy của ta. Đã hỏi lễ và khen ngợi rằng: Lão Tử còn tôn kính. Tôi không biết thầy của Lão Đam ở trời tây, khéo vào vô vi. Năm xưa tôi chưa rõ việc này, không biết Lão Đam tôn kính thầy ở trời tây khéo vào vô vi, tức là Phật. Cúi đầu đảnh lễ Đấng Chánh Giác. Tiếng phạn gọi là Tam-bồ-đề, Hán dịch là Chánh Giác, tức là Phật. Thầy của tôi, là bậc thầy trong các thầy. Nên cúi đầu đảnh lễ đấng Chánh giác Thế tôn, là thầy của tôi, bậc thầy trong các thầy. Đối với lời nói này phải hiểu cho đúng đắn. Nói như vậy, cần nên hiểu rõ ý ấy. Lão Đam cũng biết cõi nước ở trời Tây có Phật là bậc Thánh, được gọi là sáng tỏ. Sao riêng ông không biết ư? Lão Đam Thái thượng sinh ở phía đông Trung Hoa, Đức Phật Thích Ca thị hiện ở trời Tây. Lão Tử sinh ở phía Đông Trung Quốc, Đức Phật sinh ở trời Tây. Địa vức cách nhau hơn năm muôn dặm, thời gian năm tháng cách biệt gồm mười sáu đời vua. Thời Chu Định Vương năm thứ hai, nhằm ngày rằm tháng hai năm Bính Thìn, Lão Tử ra đời. Đã trải qua mười sáu đời vua là Lịch cung, ý, Hiếu, Di, Lệ, Định, U, Bình, Hoàn, Trang, Hy, Tuệ, Tương, Hạng, Khuông, tất cả là ba trăm bốn mươi lăm năm. Tuy địa vực khác nhau và thời đại cũng cách biệt mà ra đời. Với sự âm thầm khế hội, miên mật như thế, nếu chẳng phải là trí tuệ của bậc thánh thì sao có thể soi xét tới đạo đức huyền diệu tương đồng, ai có thể sánh như vậy được ư?  <卷>QUYỂN 5 CHƯƠNG THỨ MƯỜI CHÍN: BÀN VỀ SỰ PHÙ HỢP. Chương này nói về nghóa lý hợp nhau giữa ba tôn giáo nên gọi là: “Bàn về sự phù hợp”. Khách nói: Đối với đạo lý khác nhau cũng như hợp nhau giữa Phật giáo và Nho giáo, hoặc tạm biết được đại khái. Đạo lý hợp nhau hay khác nhau giữa Phật giáo và Nho giáo, hoặc tạm đã biết được đại khái. Chẳng hay lời của Lão Tử và lời của Phật giáo và Nho giáo, xin hỏi có giống nhau không? Diệu Minh nói: Có. Chỉ vì thời thế có thuần túy có khinh bạc, căn cơ có lớn nhỏ, tùy sự thích hợp. Giáo lý có cạn sâu, tuy không thể hoàn toàn giống nhau, nhưng cũng có những lời giống nhau. Khổng Tử nói: “Người căn tánh bậc trung trở lên có thể nói chuyện của người bậc thượng, còn người căn tánh bậc trung trở xuống, không thể đem chuyện của bậc thượng để nói”. Ý nói để dạy người cần phải tùy sự cao thấp ở người mà dạy, thì lời nói ấy dễ vào và không có cái tệ vượt qua. Lão Tử nói: người bậc thượng nghe đạo thì siêng năng thực hành, người bậc trung nghe đạo thì hoặc còn hoặc mất, người bậc Hạ nghe đạo thì cười lớn. Người bậc thượng toàn là người hiểu biết, chẳng phải người ngu nên siêng năng thực hành theo đạo, người bậc trung nghe đạo chì hoặc tiến lên hoặc thối lùi, người bậc hạ chỉ có người ngu chẳng có người hiểu biết, nên trở lại cười thánh đạo. Cho nên, người bậc thượng thì ngộ, người bậc trung thì nghi còn người bậc hạ thì hoàn toàn mê mờ. Phật dạy: Thân lớn, cành lớn và lá lớn, thân cây bậc vừa, cành vừa lá vừa, thân cây bậc nhỏ cành nhỏ, lá nhỏ. Kinh pháp hoa chép: ba bậc thượng, trung, hạ tức ba thừa. Đạt Ma chín năm không nói. Tổ sư Đạt-ma đến chùa Thiếu Lâm bằng đường biển, ngồi xoay mặt vào tường suốt chín năm. Nhan Hồi suốt ngày như ngu. Khổng Tử nói: Ta nói chuyện với Nhan Hồi suốt ngày, song chẳng trái như ngu. Lão Tử nói: Nói nhiều thì số sẽ hết, chẳng bằng giữ bậc trung. Đạo không thuộc nơi lời nói, nói nhiều thì tầng số và hơi sẽ hết, không bằng giữ đạo bậc trung. Quý Khang Tử lo sợ trộm cướp, bèn hỏi Khổng Tử, Khổng Tử đáp: Nếu ông không ham muốn, dù đem thưởng cho cũng không lấy. Nếu không tham dục thì dù có đem thưởng cho dân khiến họ trộm cướp, dân vì biết xấu hổ nên họ không trộm cướp. Lão Tử nói: Không quý của cải khó được, khiến dân chẳng làm kẻ trộm cướp. Phật dạy: không được cất chứa vàng bạc và vật quý như vàng bạc, trong Thượng thư nói: Chỉ cần ông chẳng khoe công thì mọi người chẳng có ai tranh giành công lao với ông. Nếu chẳng khoe mình có công thì mọi người không ai tranh đoạt công lao với ông. Chỉ cần ông không tự kiêu thì mọi người không ai tranh đoạt khả năng với ông cả. Thái thượng nói: tự thấy thì không sáng suốt, tự cho là phải thì không tỏ rõ, tự khoe thì không công lao gì và tự kiêu thì không lâu dài. Tự chuyên chỗ thấy của mình thì chắc chắn không rõ được đạo, tự nói mình là phải thì đạo đức chắc chắn không hiển bày, tự khoe khoan thì chẳng có công lao gì, tự kiêu căng tài năng không được lâu dài. Trong kinh Phật dạy: Không được cố ý tự khen mình chê người, tức giống như ở đây nói. Kinh dạy: Không được khen ngợi khoe khoang mình mà phỉ báng người khác. Các thứ như thế. Những lời nói giống như vậy rất nhiều. Vì thế các bậc thánh, tuy ở khác địa vực, nhưng cơ phong hoàn bị đồng một chỗ nên như từ một miệng nói ra. Các bậc thánh của ba tôn giáo, tuy thời đại và cõi nước khác nhau, nhưng cơ duyên được hóa độ giống nhau, nên như từ miệng một người nói ra. Chỉ vì bệnh có nặng nhẹ, thuốc có khác nhau, mà trị liệu bệnh khổ mong cầu bình an thì việc ấy chỉ có một. Tóm kết ý văn trên, chỗ thiết lập của ba tôn giáo có sự cạn sâu khác nhau, chỉ là bệnh khổ, Ngôn giáo của ba vị Thánh chính là thuốc, tuy nhiều phẩm loại khác nhau bất đồng. Song việc chữa trị bệnh khổ và mong cầu sự an lạc thì cùng một lý. Riêng vì ở thời Chiến Quốc mọi sự tung hoành, không có những người căn khí lớn, nên hai vị thánh Khổng Tử và Lão Tử không nói những kinh sách vượt ngoài thế tục. Chỉ đem đạo lý ba cương, năm thường, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ mà giáo hóa làm lợi ích cho dân chúng, còn kinh sách xuất thế nhiệm mầu thì không nói. ------------------------------------ <詞>CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI: GIẢI THÍCH TÊN GỌI Chương này giải thích tên gọi của các bậc Thánh trong ba tôn giáo, nên gọi là “giải thích tên gọi”. Khách nói: Nghóa lý giống nhau và khác nhau của các bậc Thánh trong ba tôn giáo thiết lập giáo pháp, thì đã được nghe và được hiểu như vậy, xin hỏi về đạo lý từ nguyên thỉ cho đến chung cùng của các bậc Thánh, có thể được nghe chăng? Vốn từ đầu biết được chỗ phát sinh, đến điểm chung cùng biết được sự chết. Đạo lý ấy, có thể cho phép được nghe chăng. Diệu Minh nói: Sâu xa thay, câu hỏi của ông! Đó là khen ngợi câu hỏi của khách. Tôi là hạng tầm thường theo chúng ăn cơm cháo: Lời nói khiêm nhường, tôi là hạng tầm thường hằng ngày tùy theo chúng vào trai đường ăn cơm cháo. Đâu thể thấu rõ được mọi sự từ khởi đầu cho đến tận cùng của các bậc thánh, nhưng theo sự hiểu biết, tôi xin nói với ông: Xưa Phật ở tại cung trời Đổ-sử-đa. Tiếng Phạn gọi là Đổ-sử-đa, còn gọi là Đâu-suất-đà, Hán dịch là Tri Túc. Nêu tên là Bồ-tát Hộ Minh: Thời ấy Phật hiệu là Bồ-tát Hộ Minh, cũng gọi là thiên tử Thắng Thiện. Giáng thần nơi cung vua Tịnh Phạn, nước Ca-duy-la, vào thời vua Chu Chiêu Vương năm thứ 24, nhằm ngày mồng tám tháng tư năm Giáp dần, ở dưới gốc cây Ba-la-xoa, trong vườn Tỳ-bà-ni-lam sinh ra từ hông phải của hoàng hậu Ma-da. Đến năm mười chín tuổi vượt thành xuất gia thành Phật, đức tướng tốt đẹp, trụ thế bảy mươi chín năm, giảng nói kinh pháp, gồm ba trăm năm mươi lần: Đức Phật từ lúc Đản sinh đến khi diệt độ nơi Sa-La song thọ, là bảy mươi chín năm. Từ sau ngày thành đạo trải qua bốn mươi chín năm, giảng nói kinh pháp hơn ba trăm hội. Đến năm Chu Mục Vương thứ 52 nhằm ngày rằm thánh hai năm Nhâm Thân thì Ngài nhập Niết-bàn, đạo của Ngài vốn chia rõ thành hai pháp sắc và tâm. Phật giảng nói giáo pháp ba thừa, đạo ấy vốn được chia rõ thành hai pháp sắc, tức chân đế và tục đế. Chỉ bày nhân quả, nêu lên hành vi. Chỉ điểm vạch nói, trước nhân sau quả, tùy đến chỗ rốt cùng mà chứng bày năm mươi hai hành vị giai cấp. Rõ thoát sinh tử, vượt khỏi bốn dòng nước xoáy: Suốt thấu giải thoát mọi sự sinh tử, vượt khỏi bốn dòng nước xoáy bạo ngược đó là: Dòng tham dục, dòng hữu nghiệp, dòng tà kiến và dòng vô minh. Vượt ra ba cõi, đạt đến bờ kia. Vượt khỏi ba cõi là: cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô Sắc. Tiếng Phạn gọi là Ba-la, Hán dịch là Bỉ ngạn (bờ kia). Xả bỏ phàm phu, tu theo thánh đạo, đắc đại Bồ-đề. Tiếng Phạn gọi là Bồ-đề, Hán dịch là “Giác”. Xả bỏ phàm phu mà chứng Đại Giác Bồ-đề. Sau cùng, đưa lên cành hoa, cho đại chúng thấy, riêng truyền ngoài kinh giáo, chẳng lập văn tự, chỉ thẳng tâm người, xưa nay vốn là Phật”, truyền trao Chánh Pháp Nhãn Tạng, Niết bàn Diệu Tâm cho Tôn Giả Ẩm Quang. Tiếng Phạn là Ca-diếp, Hán dịch là Ẩm Quang. Ngài Đạt-ma đến Trung Quốc, riêng phát huy Pháp ấy. Tiếng Phạn là Bồ-đề Đạt-ma, Hán dịch là Giác Pháp, ở Tây Vực, từ Ca-diếp làm Sơ Tổ, tương truyền đến Đạt-ma là Tổ thứ 2 8.Đạt-ma đến Đông Độ phát huy đạo lý từ ban đầu cho đến cuối cùng. Ngài đến truyền đạo, như mặt trăng hiện ở sông Tâm. Tổ sư đến Đông Độ, chứng truyền Tâm ấn như trăng hiện sông Tâm. Ngài thị tịch, như mặt trời khuất bóng trên đảnh núi cao. Như Tử Cống nói: phu tử hiền như vua Nghiêu, vua Thuấn. Phân thân truước lúc âm dương còn hỗn độn, truyền giáo trước lúc có thái cực. Phật Tổ và tất cả chúng sinh vốn có từ trước khi còn là thái cực hỗn độn vô cực, thì đã có đạo lý ấy. Do đó truyền giáo từ lúc ban đầu của thái hư vậy. Không sinh không diệt. Bản thể vắng lặng xưa nay vốn không sinh diệt. Vượt khỏi chín tầng trời trùm khắp tất cả. Theo sách dịch, số chín (0 9) là chỗ tận cùng của Lão Dương. Đạo vượt khỏi trên chín tầng trời ấy. Không đi không đến. Bản thể như như đâu có đến đi. Vượt khỏi tám hướng, hình chất cõi đất. Vượt khỏi bốn phương bốn duy, hình chất cõi đất. Lớn thay, rộng thay! Sâu thay, rộng thay, vòi vọi như thế không thể suy nghó bàn luận. Đó là khen ngợi đạo mầu của Phật tổ, như biển lớn sông rộng, lại như núi Ngũ nhạc cao vời, không thể suy nghó bàn luận. Kinh Đại Quyền Bồ-tát chép: “Lão Tử là Bồ-tát Ca-diếp hóa hiện đi đến phương Đông”. Trong “Hưng Chánh Lục” chép: Thời vua Chu Định Vương năm thứ hai nhằm ngày rằm tháng hai năm Bính Thìn, Lão Tử giáng thần ở đất Bạc. Lão Tử sinh tại Lý Nhân, Hương Lại, huyện Khổ, quận Trần, nước Sở. Mẹ Ngài mang thai suốt tám mươi mốt năm, sinh Ngài dưới gốc cây lý, nên lấy họ là Lý. Cha của Lão Tử họ Hàn, tên là Càn, tự là Nguyên Ty. Mẹ tên là Trịnh Phu, mang thai tám mươi mốt năm, sinh dưới gốc cây lý, bèn lấy họ là Lý, tên là Nhó, tự là Bá Dương. Thân cao bốn thước sáu tấc, trán lồi mắt to, môi lận mũi gãy, mông nhọn, khố rộng, tai lớn đầu vẹt, nên gọi là Lão Đam. Mới sinh ra đầu đã bạc trắng. Mới sinh ra mà đầu đã bạc. Làm quan Trụ Hạ sử thời nhà Chu Trụ Hạ Sử là Quan Chưởng Lễ thời nhà Chu. Đạo đức thời nhà Chu đã suy, đến lúc thời Chiến Quốc tung hoành Nếp sống thời nhà Chu đã suy đồi, phong tục thối hóa, vương đạo không hưng thạnh, đang lúc đến thời mất nước. Phải đi xe trâu, nghó muốn đến Thiên trúc, qua ải Hàm Cốc được quan Lệnh Doãn Hỷ dạy cho hai chương đạo đức, đi dần về hướng Tây đến Lưu Sa và chết tại làng Hòe. Lưu sa là địa danh, ải Hàm Cốc tức nay là ải Hồng, làng Hòe cũng là địa danh. Đạo lý của Lão Tử vốn chuyên nơi khí dẫn đến thành đạt nhu hòa, ôm giữ nhất chân, lòng thật, tâm rỗng không. Đạo của Lão Tử chuyên giữ tinh khí, khiến không tán loạn thì hình thể ứng hiện mà thường thuận phục. Nên sẽ đạt đến sự nhu hòa. Ôm giữ nhất chân, có nghóa là đạo tự nhiên vô vi. Nhất là nói duy nhất (= chỉ một), vốn không hai. Nên ôm giữ một thứ tinh khí và cố giữ bổn chân. Trong Đạo Đức Kinh nói: “Lòng chân thật là mến đạo, ôm giữ nhất khí và giữ tinh thần chân thật ấy, Tâm rỗng không là dứt trừ mọi sự ham thích và loại bỏ các thứ phiền não”. Bớt suy nghó, ít ham muốn. Không có tâm riêng tư che lấp ít ham muốn. Thấy mà như không thấy. Đạo Đức Kinh nói: Thấy mà như không thấy, gọi đó là Di, Di ng- hóa là không hình sắc. Đạo ấy không có hình sắc thấy được. Nghe mà như không nghe. Đạo Đức Kinh nói: Nghe mà như không nghe, gọi đó là Hy, Hy nghóa là không âm thanh. Nên đạo ấy không âm thanh nghe được. Vắng lặng vậy mênh mông. Tịch (= vắng lặng) là không tiếng và không vang. Liêu (= mênh mông) là vô hình mà không. Như kinh thi nói thích lên trời không âm thanh, không trời xanh. Độc lập mà không thay đổi. Độc lập nghóa là đạo ấy không có hai, không thay đổi là thường hóa mà vẫn có thường. Biến hành khắp nơi mà không nguy ngại. Đã rõ đạo không hình không ảnh này thì biến hành khắp thiên hạ mà không có gì nguy ngại. Sau đó, lập ra sự hóa giáo vô vi. Sáng tỏ đạo chuyên nhất ôm giữ tinh khí, sau đó có thể gọi là sự giáo hóa vô vi. Thực hành giáo lý vô ngôn. Đã rõ được Đạo mầu thì có thể thực hành giáo lý không lời không nói. Có thể đủ để đổi già thành trẻ. Có thể chứng được lý, thay đổi già nua thành trẻ thơ. Ngồi trên xe loan xe phụng, được sống mãi. Ngồi trên xe loan xe phụng gọi là Vũ Giá. Bản thể bất diệt ấy gọi là đạo lý sống mãi nhìn lâu. Cùng với âm dương để tối sáng. Âm dương tức chỉ cho mặt trời mặt trăng, cùng với âm dương mà cùng tối cùng sáng. Cùng với trời đất mà lâu dài, chẳng hàm dưỡng trung hòa, chứa nhóm thuần chân trong sạch, quên đi tình dục, giữ gìn diệu đạo duy nhất như gà ấp trứng, thì không thể đủ để luận bàn về đạo đức này. Nếu chẳng phải hàm dưỡng trung hòa, chứa nhóm thuần chân, giữ gìn duy nhất sự ấp trứng của gà, chăm chăm mà hành đạo, thì không đủ để luận bàn về đạo đức này. Mâu Tử nói: Trong kinh Thanh Tịnh Pháp Hạnh nói: “Người ở nước Chấn đán (= Đông Độ, Trung Quốc) khó dạy bảo, trước nên đưa ba vị thánh đến đó mà giáo hóa họ. Đoạn văn này trích từ Phá tà luận, trong Đại tạng kinh, hộp chữ “ký” quyển thượng. Bồ-tát Đại Ca-diếp xưng là Lão Tử, Bồ-tát Đồng Tử Tịnh Quang xưng là Trọng Ni, và Bồ-tát Nho Đồng xưng là Nhan Hồi. Phật Thuyết Không Tịch Sở Vấn Kinh và Thiên Địa Kinh, đều chép: “Đệ tử ta, Ca-diếp đến đó là Lão Tử, hiệu là Vô Thượng Đạo, Tịnh Quang đến đó hiệu là Trọng Ni làm Thiên Tử dần dần giáo hóa. Nho Đồng đến đó hiệu là Nhan Hồi”. Trong kinh Tu Na chép: “Sau khi ta diệt độ khoảng ngàn năm, giáo pháp sẽ truyền bá đến Đông Độ, vua và nhân dân mọi nhà đều kính trọng giới và tu pháp lành vậy”. Trích từ Đại Tạng kinh hộp chữ “minh”. Trong Hưng Chánh Lục chép: “Ngày mồng bốn tháng 11 năm thứ 21 thời vua Chu Linh Vương, là ngày Khổng Tử ra đời”. Trong Niên Phả chép: Triều đại nhà Chu, đời thứ 22 là chúa Linh Vương, ngày mồng 04 tháng 11 năm thứ 21, Khổng Tử sinh tại Lý Khuyết Đảng, Hương Bình, ấp Châu, Châu Duyện. Tập sự ký chép: Chu Linh Vương làm vua 27 năm. Ngày mồng 04 tháng 11 năm Canh Tuất là năm thứ 21, năm ấy Lão Tử đã năm mươi lăm tuổi, Khổng Tử ra đời tại Lý Tấn Xương, ấp Châu, Châu Duyện nước Lỗ. Mới sinh đã có râu, thân cao chín thước sáu tấc, eo rộng mười vi, tay dài quá gối, mắt trong như sông, miệng rộng như biển, tướng mạo như rồng, trán vuông, nghiêm trang như phụng, cổ tợ yến, nhìn như hổ, nói như sấm rền, có đức trung hòa, ăn mặc trang nghiêm, sắc mặt ôn hòa mà nghiêm lệ, như thế gia nói. Cha là Thúc Lương Hột, mẹ là Nhan Thị Trưng. Sử ký thế gia chép: Trước kia là người nước Tống. Gặp lúc đạo đức nhà Chu đã suy vi, thuần phong giảm sút, nên đi khắp trong nước. Đi khắp trong nước để hành hóa dẫn dắt. Đức cao vợi nhưng không địa vị. Khổng Tử có đức làm vua, nhưng không ngôi vị vua. Đến nước Tống thì đàm đạo dưới gốc cây đã chặt. Khổng Tử thường đàm đạo tại nước Tống thì ở dưới gốc cây mà người nước Tống đã chặt. Người nước Vệ bôi xóa vết chân. Khổng Tử đến nước Vệ, thì người nước Vệ bôi xóa dấu chân. Bị nhục ở Dương Hóa. Dương Hóa nói với Khổng Tử rằng: “Nhường cái quý báu mà mê lầm cả đất nước, đáng gọi là nhân ư? Khéo rõ ràng mọi việc luôn thất thời, đáng gọi là trí ư? Bị cười chê ở Tiếp Dư. Người cuồng nước Sở là Tiếp Dư thấy Khổng Tử bèn hát rằng: “Phượng chừ, phượng chừ, sao đức suy vậy. Đi qua không thể can ngăn, trở lại còn có thể đuổi theo. Đã mà, đã mà, nay theo gốc chính, nguy mà. Sợ người ở đất Khuông. Khổng Tử đến đất Khuông, người nước Tống vây quanh mấy vòng, Khổng Tử gãy đàn cầm không nghỉ. Tử Lộ vào, trông thấy bèn nói: “Thầy sao cứ vui vậy? Người nước Tống muốn giết hại thầy đó”. Khổng Tử thôi đàn, nói với Tử Lộ: Nguyên nhân ta nói với ngươi, ta kî sự cùng kiệt đã lâu lắm vậy, mà không tránh khỏi mạng. Ta mong cầu sự tương thông đã lâu lắm vậy mà không gặp thời. Đương thời vua Nghiêu, vua Thuấn, dân chúng không cùng diệt mà người chẳng biết được vậy. Đương thời của Kiệt Trụ, dân chúng không được tương thông, ngươi chẳng biết là mất vậy. Cuộc đời là thế vậy. Phàm đi trên nước thì chẳng tránh né giao long, đó là sức mạnh của người đánh cá. Đi trên đất liền không tránh né tê giác, cọp beo, đó là sức mạnh của người thợ săn. Mũi nhọn trắng lòe bay trước mặt, thấy chết như thấy sống. Đó là sức mạnh của liệt só vậy. Biết cùng kiệt là có mạng, biết tương thông là có thời, lâm vào đại nạn mà không khiếp sợ. Đó là sức mạnh của bậc thánh. Cho nên, nay ta tuy gặp nạn ở đây mà không lo sợ, nên đánh đàn cầm mà vui vậy”. Trong luận ngữ nói: Khổng Tử nói: “Trời sinh đức nơi ta, người đất Khuông sao bằng ta ư?”. Gặp phải khốn khổ ở Trần thái. Luận ngữ nói: Khổng Tử ở Trần Thái, hết lương thực, từ đó mà bệnh không thể thuyên giảm. Hết lời khuyên bảo Đạo Chích, chịu sự hủy báng ở Hoàn Đồi. Hoàn Đồi là Tư Mã đời Tống, muốn hại Khổng Tử. Khổng Tử nói: “Trời đã ban cho ta cái đức như thế, Hoàn Đồi làm gì được ta ư?”. Năm bảy mươi ba tuổi, Khổng Tử mất tại nước Lỗ. Khổng Tử sống đến năm bảy mươi ba tuổi, mất tại nước Lỗ, an táng ở phía Bắc thành, nay là xứ Khổng Lâm. Đạo lý của Khổng Tử vốn là Đạo, Đức, Nhân, Nghóa, Lễ và Nha- ïc. Khổng Tử thực hành đạo của ông, vốn là đạo đức tự nhiên vô vi của vua Nghiêu, vua Thuấn. Phàm Nhân tức là đức của tâm và lễ của kính ái. Nghóa là trí của tâm và mọi thích nghi của sự. Lễ là tiết văn của lẽ trời. Nhạc là thay đổi phong tục mà chủ yếu chú trọng ở hòa vậy. Cung, kiệm, ôn, lương, từ, nhượng. Cung là trang nghiêm cung kính, kiệm tức là sự tiết chế, ôn là hòa hậu vậy. Lương là dễ dàng ngay thẳng. Từ là nhân mà có ái với mọi người. Nhượng là khiêm tốn. Văn, hành, trung, tín. Khổng Tử dùng bốn pháp để dạy đó là: văn, hành, trung và tín. Dạy người dùng học văn, tu hành lưu giữ sự trung tín, trung tín là cội gốc làm người vậy. Bắt chước theo vua Nghiêu, vua Thuấn. Xa thì bắt chước theo đạo lý của vua Nghiêu, vua Thuấn. Giữ gìn theo pháp luật văn võ. Gần thì giữ lấy pháp luật văn võ. Gạn lọc kinh thi, kinh thư. San (= gạn lọc) là gạt bỏ, bôi xóa, định ra năm tháng. Quý thị cưỡng chế chiếm đoạt, ở Dương Hổ thì làm loạn chuyên chính, Khổng Tử bèn thối lui, bôi xóa gạch bỏ ngôn từ sai khác và câu văn rườm rà trong kinh thi, ba phần ba điển trong kinh thư. Đặt ra lễ nhạc. Chương Phu Tử Thích Vấn chép: Khổng Tử học lễ với Lão Đam, học nhạc với Trường Hoằng, sau đó đặt ra lễ nhạc. Ca ngợi đạo lý Chu Dịch. Khen ngợi Chu Dịch mà giảng rõ đạo trời và nói Quẻ văn ngôn hệ từ v.v… Bổ chú sách Xuân Thu. Hàn Tuyên tử đến nước Lỗ, thấy Khổng Tử nói: Dịch tượng và Xuân thu nước Lỗ là sách xưa cũ của nhà Chu, sao không sửa chữa nó. Vì sử sách của nước Lỗ viết thành văn, bèn dùng bút bôi xóa và bổ thích thêm vào đó là khôi phục nhân đạo và hoàn bị tương đạo. Soạn ra Hiếu kinh. Tức là những lời dạy bảo, nói với tăng tử. Sửa trị y khí. Khổng Tử xem ở miếu của Lỗ Hoàn Công có chiếc ghế dựa, bèn hỏi người giữ miếu ấy rằng: “Đó là vật gì vậy?”. Người giữ miếu đáp: đó là vật ở chỗ ngồi rộng rãi. Khổng Tử nói: Ta nghe vật ở chỗ ngồi rộng rãi, hễ hư thì là y, trung thì chánh và mãn thì phúc. Bậc Thánh cho là chí thành, nên thường đặt bên cạnh chỗ ngồi. Khổng Tử xoay lại bảo học trò thử đổ nước vào xem, khi đổ nước vào quả nhiên trung thì chánh, đầy thì úp, Khổng Tử bùi ngùi than rằng: “Than ôi! Phàm vật có đầy mà không úp như vậy ư? Tử Lộ đi đến hỏi: “Xin hỏi giữ đầy có đạo gì ư? Khổng Tử nói: Bậc thông minh thánh trí thì giữ vẻ ngu khờ, người công lao trùm thiên hạ thì giữ vẻ khiêm nhường, người có sức mạnh chấn động thế gian thì giữ vẻ khiếp sợ, giàu sang khắp bốn biển thì giữ vẻ cẩn thận. Đó gọi là đạo lý, đã tổn hại lại càng tổn hại. Học đạo với Ngư Phủ. Sự việc như ở chương Trang Tử Ngư Phủ. Hỏi Lễ với Lão Đam, chính là ba Cương. Ba Cương tức là cha con, vua tôi, chồng vợ. Rõ ràng ngũ kỷ. Ngũ kỷ tức là: nhân, nghóa, lễ, trí, tín. Phối hợp với trời, cúng tế vua, ông và cha mẹ, tôn thân đồng hưởng. Việc này xuất xứ từ hiếu kinh. Kẻ tớ nàng hầu hết lòng vui vẻ. Hiếu kinh chép: Trị gia, không dám thiếu sót khuyết đối với tôi, thiếp, huống gì đối với vợ con ư? Nên được tâm tư vui vẻ của người. Thần tôi, con cái dốc lòng trung hiếu Thờ cha mẹ dốc hết sức lực, thờ vua tôi chẳng tiếc tự thân. Ở nhà dùng đạo lý bình trị thì lớn nhỏ đều thuận hòa theo nhau. Hiếu Kinh chép: Ở nhà sử dụng đạo lý nên bình trị thì có thể biến đổi đến vua, thờ anh em nên thuận hòa có thể thay đổi ở người lớn. Thân gánh vác đạo sáng như trời trăng. Yết là gánh vác. Ý nói thân gánh vác đạo ấy sáng đồng như mặt trời mặt trăng. Đạo trải qua nhiều đời vững chắc như trời đất. Đạo đức của Khổng Tử trải qua nhiều đời vẫn được giữ gìn tốt đẹp như sự vững bền của trời đất. Đây là khái lược sự thật về Khổng Tử. Đây là lược ít mà nói những sự tích thật có về Khổng Tử. Nhưng, đạo của bậc Thánh, ngửa mặt nhìn lên, đã cao lại càng cao vời vợi. Luận ngữ chép: Nhan Hồi bùi ngùi than rằng: đạo của bậc Thánh, ngửa mặt nhìn lên, đã cao lại càng cao vời vợi. Khoan đâm thủng nó, lại càng bền chắc. Khoan đâm mà bền chắc nên không thể vào. Nhìn nó ở trước mặt, bỗng nhiên lại ở sau lưng. Ở trước ở sau, hốt nhiên không thể cho là hiện tượng. Đó là Nhan Tử hiểu biết sâu sắc về đạo của Khổng Tử không cùng, không tận, không hình, không thể, nên than như vậy. Ở thì đất lành, tâm thì nghó lành, đón rước nó thì không đầu mối, thuận theo nó thì không cuối cùng. Đạo thể của Lão giáo mầu nhiệm mà không gì bằng. Sinh mà không sinh, diệt mà không diệt. Là đạo lý không sinh không diệt của Phật giáo. Lìa tướng, vắng lặng, dứt bặt mọi lý luận. Đây là hình dung đạo thể của Phật giáo nhiệm mầu không gì bằng. Vả lại, ai có thể biết được đạo lý ấy cao thấp, ẩn hiện nguyên từ đầu đến đến cuối. Đây là tổng kết sự nhiệm mầu của ba tôn giáo và bằng lời lẽ kh- iêm nhường rằng: vả lại, ngày nay, ai dám nói biết hết mọi sự cao thấp tối sáng, vốn từ khi mới phát sinh cho đến điểm chung cùng ở đạo ấy vậy ư! Khách cúi đầu lễ bái, nói: chẳng phải điều ông nói, thì tôi không được nghe chỉ đạo của bậc Thánh rộng lớn như thế.  LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 194