<經 id="n2116">BIỆN NGỤY LỤC (QUYỂN 1 ~ 5) HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN LỜI TỰA BIỆN NGỤY LỤC Triều Nguyên Hàn Lâm trực Học Só phụng huấn Đại Phu tri chế cáo Đồng tu Quốc Sử Trương Bá Thuần kính soạn. Trời không che riêng, đất không chở riêng, Nhật Nguyệt không soi chiếu riêng. Đó là điều nói trong Biện Ngụy Lục. Tốt lành đến thế, lớn thay Thánh triều, tiếp nối theo trời mà lập cực, luận đạo kinh bang. dùng tâm Phật nuôi dưỡng muôn dân, dùng chánh pháp thấm nhuần bốn biển. Đầu mùa xuân Năm Tân Mão, niên hiệu Chí Nguyên, Trưởng lão Mại Cát Tường ở chùa Đại Vân Phong, kính vâng mạng lệnh của Hoàng Đế, soạn thuật “Chí Nguyên Biện Ngụy Lục”, tấu lên cùng Hoàng Đế, xét xem thấy sâu sắc, bèn ban hành nhập tạng để lưu thông. Với nguyên nhân phát xuất là từ khoảng năm Ất Mão (1 2 5 1), các đạo só Khâu Xử Cơ, Lý Chí Thường v.v… phá hủy miếu “Thiên Thành” thờ Khổng Tử ở phía Tây kinh đô đề làm “Văn Thành Quán”, phá hủy tượng Phật Thích-ca, tượng Quán Thế Âm bạch ngọc trắng và các tháp báu thờ xá- lợi, mưu mô chiếm đoạt bốn trăm tám mươi hai cơ sở chùa viện truyền bá sự dối bày Lão Tử có tám mươi mốt Hóa Đồ của Vương Phù, làm mê loạn thần dân. Bấy giờ, ở chùa Thiếu Lâm có Trưởng lão Lâm Dụ dẫn Sư Đức vào cung tấu trình. Tiên triều là Hoàng Đế Mông Kha tuyên ban chiếu dụ đến ngay cung điện để đối biện việc hóa Hồ là chân hay ngụy, đích thân Hoàng Đế lâm triều chứng kiến. Các Đạo só Lý Chí Thường v.v.. đuối lý, vâng theo thánh chỉ thiêu đốt ngụy kinh, có mười bảy người bỏ đạo làm Tăng, trả lại ba mươi bảy ngôi chùa Phật. Bọn bè đảng chiếm đoạt đang ở các chùa khác lại nảy sinh tệ hại rất nhiều. Mùa Thu năm Đinh Tî (1 2 5 7), trưởng lão Lâm Dụ ở Thiếu Lâm lại tấu trình, tiếp tục vâng theo luân chỉ lần thứ hai thiêu đốt ngụy kinh. Chư tăng phục hồi lại hai trăm ba mươi bảy ngôi chùa. Kể từ năm Ất Mão đến năm Tân Dậu, cả thảy chín năm ( 1 2 5 5 - 1261) mà các đạo só ấy như bọn chuột rúc chưa chịu chừa bỏ tà thuyết, ton hót lưu hành ở những vùng vắng, còn vọng khinh lờn ý vua. Do đó, đến mùa Đông niên hiệu Chí Nguyên thứ 18 (1 2 8 1), kính vâng Thánh chỉ ban khắp trong nước, ngoài Đạo Đức kinh, các thứ kinh văn dối láo khác thảy đều thiêu hủy, các đạo só ưa thích kinh Phật thì cho xuất gia làm tăng, còn ai không làm tăng só hay Đạo só thì trở về cưới vợ làm dân. Lúc bấy giờ, tại Giang Nam, Thích Giáo Đô tổng thống Vónh Phước Dương Đại sư Liên Chân đang ở đó mở mang giáo hóa, từ mùa Xuân niên hiệu Chí Nguyên thứ 22 đến mùa xuân niên hiệu Chí Nguyên thứ 24, trong vòng ba năm ( 1 2 8 5 - 1287), khôi phục lại được hơn ba mươi ngôi chùa Phật, như: Tứ Thánh Quán, xưa kia là chùa Cô Sơn vậy. Đạo só Hồ Đề Điểm v.v…, bỏ tà về chánh bỏ Đạo làm tăng, chẳng những thế mà có đến bảy, tám trăm người treo mũ trên xà Điện Vónh Phước Đế Sư. Các sách xưa ở núi Nam Nhạc vì những người phụng thờ tà ngụy mà răn cấm. Thử xét lại điều đó, kể từ khi Đại giáo từ trời Tây truyền lại, Hán Minh Đế đón rước hai vị pháp sư Ca-diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan ở thành Lạc Dương, Đạo só ở Ngũ Nhạc như Trữ Thiện Tín v.v… dâng biểu dèm pha phá hủy Phật pháp, khi ấy lập đàn để thiêu đốt kinh điển Phật giáo và Đạo giáo, Đạo kinh đều biến thành tro bụi, còn kinh Phật phát ra ánh sáng không hư tổn gì. Tôn giả Ma-Đằng bay lên hư không hiện mười tám thứ thần biến. Loài cáo chẳng phải sư tử; ánh sáng của đèn không như của mặt trời, mặt trăng và các Đạo só cạo đầu làm tăng nhiều không thể tính kể, như Khấu Khiêm Chi kiêu ngạo sai lầm. Thôi Hạo mê hoặc Ngụy Thái Võ mà cuối cùng Thôi Hạo bị giết cả dòng họ. Đàm mô chiết phục Khương Bân, khiến Khương Bân phải ẩn mình ở ấp mã. Đàm Hiển đời Tề làm cho Lục Tu Tónh hổ thẹn. Vào niên hiệu Tổng Chương thứ nhất, đời Đường, Pháp Minh biện biệt rõ sự dối trá trong Hóa Hồ kinh, vu ban sắc tịnh thu tất cả Hòa Hồ kinh trong nước đem đốt hết. Từ xưa đến nay nhiều đời Đế Vương chế định như thế, có đâu thảng thốt vậy ư? Bởi vì, Đức Thế Tôn xem chúng sinh trong ba cõi đều như con một. Vậy mà trái bỏ Đức Đại giác tức là con trái nghịch cha mẹ vậy. Con trái ngược với cha tức tự mình mê mờ tánh thiên nhiên của mình vậy. Vả lại, hai thiên Đạo Đức kinh của Lão Tử lấy sự thanh tịnh đạm bạc dứt bặt việc đời, xả bỏ mưu trí để lập nên Tông, ẩn cư để cầu chí khí, tiêu nhiên vô vi. Mà nay bọn trộm danh, kêu réo bè đảng giả lập áo mũ, làm suy sụp cung quán, chạy theo lợi dưỡng ở đời. Đâu phải là dụng ý của Lão Tử. Huống chi Lão Tử có nói rằng: “Tranh biện chẳng bằng im lặng, khôn khéo chẳng bày vụng về. Kẻ tranh biện thì chẳng tốt, người tốt thì không tranh biện. Chớ ghét chớ đánh, lấy một làm khuôn phép cho mọi người”. Vậy mà chiếm đoạt phá hủy chùa Phật, trộm kinh ngụy bày việc Hóa Hồ, đó là chẳng bằng vụng về; chẳng bằng im lặng ư? Đó là người tốt lành không tranh luận ư? Bắt chước Lão Tử mà trái phạm tính cách của Lão Tử ấy cũng là trái ngược với Tự Tông vậy. Như Đích Sư đối với Lão Tử thì chẳng làm vậy, qua về cuối dòng vậy. Tuy nhiên, Kỳ Lân là loài thú chạy, Phụng Hoàng là loài chim bay, Lan Huệ là loại huân du, Chiên Đàn là loại xú uế, nhưng đời không bỏ điềm lành của Phụng Hoàng Kỳ Lân, mùi hương của Lan Huệ Chiên Đàn, mà thường thỏa ý thú chạy chim bay, nhơ bẩn của huân du xú uế. Lòng người lý trời thương ghét đều đồng. Cớ sao lúa đậu chưa phân rõ ràng mà cam phụng thờ giáo điển luống dối chẳng thật? Lại khoe dối phù từ, khinh thường bậc Đại giác, vu báng hủy hoại Chí Thánh, mà chẳng sợ chìm đắm trong ba đường ư? Đó là chánh danh giáo của Biện Ngụy Lục. Tạo lý sâu xa, bài bác bắt bẻ khó tinh minh. Lẫm liệt thay! Chống cự sự kinh tháo của áng mây, thản nhiên đi trên đường chánh của Vương đạo, làm bờ đê đề phòng sự chìm đắm bởi sự xâm đoạt của người sau. Nói như vậy rất là chí lý. Bởi vì có ngụy thì có biện, không ngụy thì không biện. Đâu phải là ham thích biện luận! Mở rộng Tứ vô ngại biện là đức của trưởng lão Mại Cát Tường vậy. Người nói thế không tội, người nghe đủ để răn. Nên Hoàng thượng từ miệng vàng khẩu nói lời dụ rằng: “Thí như năm ngón tay đều từ bàn tay mà có. Phật giáo như bàn tay, ngoài ra đều như ngón tay”. Tin ư, lời vua nói như tơ, ảnh hưởng ra như sợi lớn. Rõ hơn cả mặt trời mặt trăng, bền chắc hơn cả vàng đá. Làm gương soi sáng cho muôn đời, thì Biện Ngụy Lục này đâu phải là ít bổ ích ư! … -------------------------------- <詞>LỜI TỰA BIỆN NGỤY LỤC Nghe rằng: Năm vận chưa hình thành, vốn không có tên gọi người và vật, ba tài đã lập mới bắt đầu có sự thấp cao. Triệu Phân Lục Hào, mới họa Bát Quái mà có thư khế, đặt ra huấn chương. Phụng Triệu; Quy Đồ; Kim Đằng; Ngọc Tự, trăm nhà khác vết, muôn quyển phân khu, tuy lý rốt ráo tinh vi, lời nói đáng làm khuôn mẫu cho chúng sinh, ghi tình bỏ tánh chưa vượt ngoài Hoàn Vũ, từ đầu đến cuối, há gồm hết Hóa nội. Huống gì pháp thân vô tướng cao vượt trước đế tượng, chân đế không thể xưng gọi, thoát ra ngoài sự suy nghó, bàn luận. Mưu tài tốt thật, đời có người vậy. Trưởng lão Như Ý, vốn dòng họ Hồ Diên, người ở Thái Nguyên, là con cháu của Diên Tán, làm quan truyền từ đời này đến đời khác, dời đến Quận Đại nhân vì làm nhà. Chín tuổi xuống tóc, theo thầy học đạo. Ngọc lìa kinh trụ, quý giá bởi đức sáng cao, quế bỏ núi sâu, hương thơm gió thoảng bay xa. A sư (= như ý) trong thì thấu suốt nghóa sâu của ba Tạng, ngoài thì nghiệm xét nguồn gốc của chín học phái. Danh quan tại Trung Hoa, tiếng vang khắp triều đình đến thôn dã. Vận dụng lời nói của Đàm Thiên, thi thố tài năng đời không sánh kịp. Ngào ngạt giữa đường chỉ của gấm thêu, uy hùng kinh động khí Lăng Vân. Châu ngọc của Ban Mã chưa thể đồng năm, văn chương của Cố Lục sao ngang hàng được. Đến như học thuyết của Trang Tử, Mặc Tử; sách của Hoàng Lão, Lý Lão, văn của Tam Thanh báng đạo, luận của Thập Dị cửu mê, bí mật của Hỗn Nguyên Ẩn Nguyệt, nghi quỹ của Linh Bảo Xích Thư. Sáng như Não Ưng, rõ tợ chỉ bàn tay. Thêm nữa, tham học thiền tông nơi năm phái, bên cạnh đó, xem đọc các thứ sách vở. Đã có tài hùng bút lớn, đặc chuyên soạn thuật, vận ngoài nghó suy, cấp dẫn không cùng. Dẹp tà thí có công của Hống Thạch, nâng chánh thì có đức của Tiên Thi. Hẳn dùng tài ngang bằng Đạo An; Tuệ Viễn, học vượt xa Đạo Sinh; Đạo Dung, thật là vãy rồng trong biển giác, mới là cột trụ chống đỡ trong cửa Phật. Nhân thấy toàn chân đạo só: Khâu Xử Cơ, Lý Chí Thường, Sử Chí Kinh, Linh Hồ Chương v.v… học nghiệp tầm thường cạn cợt, sự hiểu biết chẳng dài xa, đều là những ngôn từ thô bỉ dùng để hủy báng chánh pháp, gõ trống vãi thô mà trộm so bì sấm nổ, khiến hàng trung lưu hạ lưu đều sinh tà kiến. Kính phụng Tiết thiền Thánh Minh Hoàng Đế phát tâm đại bi, thương kẻ mù lòa, sợ nó đọa vào địa ngục, ban lệnh chế cấm luận ấy, mở mang biển pháp, dẹp bỏ từ ngữ sắc bén kia, móng vuốt như gà Bích mà tranh chạy rong, loang lổ như ngựa vàng mà giành hoang ruổi. Hình dáng như lò lớn mà đốt mảy lông, còn như hơi nóng mặt trời mà soi băng mỏng. Ai kẻ hơn thua ngay đó thấy rõ. Tạm quy về từ định để phá quân ma. Ngày 20 tháng 10, niên hiệu Chí Nguyên thứ 18 (1 2 8 1), lại kính vâng thánh chỉ của Tiên Hoàng Đế, ban lệnh khắp trong nước, tất cả ngụy kinh đồng một lúc đốt hết. Từ đó, mặt trời Phật lại sáng soi nơi Bích Hán, mây pháp bủa khắp cõi Diêm-phù. Biện Ngụy Lục do Như ý (= Mại Cát Tường) soạn, Văn Phú chú giải lời tựa tứ kinh, Hàn văn biệt truyền tánh Hải Phú v.v… tại thời đó đã truyền, nhưng luận này gồm năm quyển hơn hai trăm trang, suốt cùng cội nguồn của Phật giáo, Lão giáo, chia ra hơn kém chánh tà. Bởi vì đề xướng càng cao thì người họa càng ít. Thật đáng thẹn thay! Tôi, văn thật xấu hổ với Ỷ Lệ, học chẳng bằng Thông Viên, thấy lời hay đẹp của luận này, kính phục sự che chở lớn lao của Hoàng thượng, không kềm được nỗi mừng vui, gắng làm lời tựa này, liền dùng dây tơ nối liền ngọc khuê, ngọc chương. Mong rằng các bậc quân tử học rộng thanh nhã muốn hiểu tỉ mỉ xin cùng xem duyệt vậy! Trú trì chùa Đại Vân Khang, Sa-môn Tập Tổ Tuyết Hề Dã lão Quý Cát Tường kính soạn. Chú thích: với tiêu đề “Biện Ngụy Lục”, tôi có nhã ý muốn dịch là “Nhận chân sự dối bày của đạo giáo”, song ý thì rõ mà lời vượt quá xa nguyên tác, nên đành giữ nguyên tiêu đề cũ. Và ở quyển một, quyển hai trong đây có đưa ra như Ngụy một, ngụy hai v.v… và luận viết, mà tôi đành phải để “Ngụy bày” hay “biện luận rằng”. Đó là muốn để sát chữ với tiêu đề, chứ cảm thấy chưa vừa ý lắm. ---------------------------------- BIỆN NGỤY LỤC Đời Nguyên, Sa-môn Tường Mại ở chùa Vân Phong, núi Đạo Giả, vâng sắc thực lục kính soạn <卷>QUYỂN 1 Nghe rằng: đấng Pháp Vương ngự thế mở mang chánh đạo để giúp thời, bậc minh chúa lâm triều mở mang Hoàng cực mà cứu vật, xô ngã tà ngụy, nâng dậy chánh pháp, quý trọng đạo đức và phân biệt sự sai lầm. Nên vua Nghiêu giết sạch bốn hung mà tám hoàng đạo thái bình, Đức Phật hàng phục sáu chúng mà năm miền Ấn độ quy tâm, đều do sửa đổi lầm loạn, cứu chữa sự thiêu đốt, mở dẫn mắt tai. Đức Thế Tôn chúng ta thành Phật đã nhiều kiếp, vì chúng sinh mà ứng hiện ở thế gian, vốn “vô sinh” mà bày sinh, lợi khắp cõi nước đại thiên, vốn “dứt tướng” lại hiện tướng, đốn ngộ cho trăm ức chúng sinh. Như vầng trăng giữa hư không, ngàn sông đều ứng hiện, như tiếng gió rít dài muôn người nghe tiếng. Dụ dẫn kẻ si mê đến thừa nhất cực, đưa người lạc lối vào đường Bát Chánh, xua tan nóng bức của năm thứ vẩn đục, dẹp bỏ rào giậu của bốn đảo điên, chỉ hạt châu sáng nằm trong chéo áo, vạch bày kinh điển dưới bụi nhơ. Phá quân ma dưới cây Đạo, chẳng hạ mếu đường, diệt ngoại đạo tại kim hà, gãy sạch không ngoài, ân lưu muôn nước, thấm khắp bốn loài, mây từ bủa khắp trời Hữu Đảnh, mưa pháp đượm cùng pháp giới không bờ mé. Những chúng sinh không cảm được Đức Đại thánh trở về chân, các bậc Thánh triết tiếp nối duy trì phát huy khuông phép cao mầu thì có ngài Mã Minh; Long thọ khôi phục giềng mối giáo pháp ở Tây thiên, Đề-Bà; Ái Hiền dựng lập cờ pháp tại Nam Ấn, Thế Thân chuyên Đức đánh thây, Trần Na thẳng là rống đá. Bẻ dẹp ngoại đạo một thời, lưu truyền tiếng tốt từ muôn xưa đến nay. Nhuần nhã thay! Trung hoa mộng thấy Kim Dung, tây vức ngựa quý truyền đến, Ma Đằng hiển chánh ở Lạc Dương, kinh sách Đạo giáo đều cháy sạch, Tăng Dung phá tà ở trong cung, Phạm Chí đuối lý không nói được. Treo mặt trời Phật giữa đường tăm tối, thổi gió từ khắp nơi cư ngụ. Anh mao tiếp võ, Tuấn ngạn tiếp nối danh thơm, nên có Đại Thống (Pháp sư Pháp Thượng đời nhà Tề) đa năng, chiết phục Khương Bân tại cung nhà Ngụy, pháp lâm hiểu rộng bài phá Phó Dịch ở triều Đường. Đức lớn vượt cao ở đương thời, vang động tiếng tốt trong đời loạn suy. Chỉ vì cách thánh càng xa, ma ngụy bức hiếp chánh chân, màu tím thật loạn mầu son, đá mân thường lẫn trong ngọc, tự chẳng có các bậc thượng trí trừ khắp minh xét, do vậy kẻ tầm thường lạm danh, khắp mọi người chỉ một sang hèn, gà phụng hình dáng khác nhau, rõ ràng kẻ tục mê mờ phải quấy, nên có giữ văn khúc lưu, chống đối cho là thuyết dị đoan, khéo nói tà đạo, dẫn làm đồng thuyết của mình. Tuy chí đạo không tổn hại mảy may, nhưng ngụy thuyết có vô số kẻ thấy nghe, do đó mà đường tối dễ rơi vào, cửa thánh khó bước đến vậy! Đất nước mà ta vốn có, chúc mừng kim luân, điềm lành đúng với Ngọc lịch, sang bằng sáu hợp mà sáng ngời yên định, thống nhất muôn nước để nắm giữ cương giới; đông tới bàn đào, tây cùng tế liễu, phía nam dời đỉnh vàng, phía bắc tận Ngọc Hành. Từ các đời Tôn Lư Hách Tế trở đi, sáu đời Tần, Hán, Tùy, Đường, chưa có đời nào thịnh như đương triều vậy. Các vị Thái tổ Thái tông ban minh chiếu mà che chở giúp đỡ, Nguyên Đế, Minh Đế bỏ vàng ngọc để tu kính, tâm đều lo nghó phó chúc, dạy cùng kính ngưỡng từ bi, miễn bỏ thuế dịch, mở mang phong hóa. Nay, Thượng Hoàng Đế, lòng nhân sâu trí sáng, thể đạo khoan dung, gánh vác nghiệp lớn của bốn Thánh, biên soạn sự mạnh mẽ của trăm vua, muôn dịp nhàn rỗi, mến đoái hoài cửa Phật, đọc lời văn vàng ngọc của trăm ngàn tạng, mở thắng hội với số muôn vị tăng, trồng phước vườn giác ngộ, xây dựng chùa miếu, chính sách mến chuộng khoan dung, nhân từ thấm khắp dân đen. Tìm giúp kẻ hèn kém, cất nhắc người hiền ngu, thấu rõ sự cạn sâu của Phật giáo và Đạo giáo, thông suốt sự hơn kém giữa chánh tà. Các đạo só không biết nên coi khinh quốc gia, xem thường dễ kẻ ở phương bắc, phóng tứ biện luận ức đoán riêng, như Khâu Xử Cơ vọng nói xiểm nịnh với kẻ trên, Lý Chí Thường kiêu sức a dua, nhóm bọn tội đồ trốn dịch, kết thành ngụy điển bài xích Phật giáo, khiến Cô Chương thủ biên vọng thuyết, Sử Chí kinh lại rộng bày văn tà. Bắt chước Đức Như Lai có tám mươi hai khám, tạo thành Lão Tử có tám mươi mốt hóa đồ, xưa nay không biện luận, kinh sử chẳng làm thông, trộm cắp sách Phật lấy làm Đạo giáo, lấy điều tốt của Đức Thích-ca làm điều tốt của Lão Tử, đổi họ thay tên, lấy phúc lành của Phật làm phúc lành của Lão, tự chuyên lấy làm đức của mình, trong tà ngụy lại sinh tà ngụy, trên hư dối lại thêm hư dối. Đặt bày Lý Đam xuất hiện trước thời trống không rỗng rang, khuất phục Đức Thích-ca đản sinh vào đời Chu Trang Vương. Lập truyền đồ tượng, thực hành ấn bản lưu thông, giúp Y Hỷ thành Phật, tôn xưng Lão Đam là Tổ của Phật Thích-ca, Phục Hy trao truyền chỉ dạy. Cao Bá Dương là thầy Phục Hy Thần Nông, Hoàng Đế Hiên Viên hỏi đạo ngài Quảng Thành, cho là Lão Tử, vua Văn Vương coi Lã Vọng là thầy, Nữu là Lão Quân. Chu Công Đán quỳ gối trước giường (Lão Tử đem kinh Tuyền Cơ mà chỉ dạy). Khổng Tử gục đầu dưới tòa (để hỏi Lễ), diệt cả tam giáo mà riêng bày, vượt cả ngàn thánh mà ở ngôi tôn quý, riêng cao trước năm vận, làm thầy trong trăm đời. Trong địa vức chỉ riêng mình Thánh, còn có ai đâu? Khéo điểm tô trăm mối hoàn toàn không một điều thật. Thế đủ rõ âm mưu ấy vậy, ý muốn dứt bỏ trăm họ riêng chuyên một tông, khỏa lấp Thánh công của Phục Hy; Hiên Viên, diệt bỏ khuôn phép của Thích-ca và Lão Tử. Đầu tội ác lớn, người đời không biết. Tuy có làm loạn chính sách nhà Hạ, vương mãng xem thường nhà Hán, cũng chưa đủ quá vậy! Nếu Chúa thượng chẳng phải là bậc Minh thánh sáng soi không sai lầm, thì ai có thể giám xét biện biệt chơn ngụy, hay biết phải quấy? Do đó mà đặc biệt xuống chiếu kén chọn chuẩn định hư thật, muôn năm hung tài một lúc nhổ sạch, bèn có thọ giáo ở Tôn sư Hoà Thượng thiếu lâm là trụ sở Tổ đình là rường cột trong phạm vũ. Ngài với tư chất ngay thẳng mà vô tư, tánh sâu lắng nhưng sâu rộng, thương kẻ ngu mù mênh mang giữa cồn bãi mê mờ, quét sạch yêu khí giữa trường không, dựng cao mặt trời Phật mà soi sáng. Tường Mại tôi nghe luận ấy, không thể tiếc lời, mừng sức thần minh của thánh Chúa, vui sự đối đáp tao nhã của Hòa thượng Thiếu lâm, nhờ vào chánh điển phá dẹp tà đàm, lấp cội nguồn luận thuyết, luống dối, xô ngã rừng rậm núi tà. Khiến Đại la ngọc đế kinh hồn trong cửu thiên, Nguyên Thỉ thiên tôn khiếp đảm trên tam thanh, giáo chủ vạn Thiên thẹn thùng, khó phân bua cho phải lẽ. Chín phủ động tiên hổ thẹn kinh hoàng không đất dung thân. Vả lại, điều chương số mục phân biệt nêu bày cùng chung mẫu mực, khiến vàng thau mỗi màu tự phân rành đục trong. Nước ngọc rưới lòng, khiến mê bóng nhoáng mà gột tan. Mũi vàng gọt mạc, khiến mắt sáng để phân minh, làm ánh sáng ban đêm soi nhà tăm tối, làm gương trong sáng chiếu rọi đường mờ. Nhưng bậc thông minh đạt só biết đạo ấy vậy. Niên hiệu Chí Nguyên thứ 2 (1 2 6 5) - tháng Tính kỷ Dương Phục, năm Chiêu Mông Long tập. Viết xong tại Lan nhã vạn thọ. <詞>Ngụy Bày: Vọng Dựng Lập Thiên Tôn Trong hóa đồ thứ nhứt nói: Đạo là cha mẹ của muôn sự biến hóa, là cực tôn của tự nhiên. Ở trong u huyền vi diệu ấy sinh ra không động (rộng rãi mà trống không), không động tức là thuần nhất vậy. Sau khi khí của thuần nhất hóa sinh trải qua chín mươi chín muôn ức chín mươi chín năm mới hóa sinh thượng tam khí. Tam khí ấy lại trải qua chín mươi chín muôn ức chín mươi chín năm, tam hợp thành đức cùng sinh vô thượng; là hư hoàng thiên tôn. Lại trải qua số năm như trên mới sinh trung tam khí, tam hợp thành đức mới sinh huyền lão; tức là Nguyên thỉ thiên tôn vậy. Lại trải qua số năm như trên mới sinh hạ tam khí, tam hợp thành đức cùng sinh Thái thượng; tức Thái thượng đạo quân vậy. Từ đó về sau, mỗi lại sinh tam khí, mỗi khí cách nhau tám mươi mốt muôn ức, tám mươi mốt muôn năm tam hợp thành đức cùng sinh Lý lão quân. Tuy bốn thánh lần lượt xuất hiện, mỗi vị chẳng nhân nhau, gọi đó là Độc hóa, Lão Quân ra đời, sau đó mới sinh Ngũ vận; tức là Thái Dịch, Thái Sơ, Thái Thỉ, Thái Tố và Thái Cực. Trong hóa đồ thứ năm nói rằng: Lão Quân là tổ tông của hỗn độn. Là cha mẹ của trời đất, nên có khả năng phân bố trong đục, mở đóng đất trời. Biện luận rằng: Nghe rằng: Trong văn của Long Đồ Điểu Triện, trong điển Quy Thư Khoa Đẩu, trong ký Ngọc Bản Ngọc Mưu, trong thư Kim Đằng Kim Quỹ, trong chương Tần Hán Ngụy Tấn, trong giản Tống Tề Lương Trần, ghi sự ghi sử, viết thẳng nói thẳng, chẳng thấy tên của Hư Hoàng, không nghe danh hiệu Nguyên thỉ, sao có tay cầm ngọc khuê, thân mang áo vàng, đảnh xõa tóc trắng, đầu đội mũ vàng, biệt hiệu là Thiên Tôn, cao kính trên tam thanh, riêng xưng giáo chủ, thống ngự ở cung cửu hoa. Giả sử có tên gọi Thiên Tôn đều là trộm cắp lời Phật. Trong kinh xưa, gọi danh hiệu Phật là Thiên tôn, không quan hệ gì đến việc của Lão Quân. Trộm từ tôn xưng quý đẹp của người vọng tự tôn nghiêm mình. Lấy niềm tin đối với người thông bác, ấy là lời sai lầm. Xét các bộ “Liệt tử” và “dịch câu mạng quyết” đều nói: “Trước lúc trời đất chưa sinh, có Thái Dịch, có Thái Sơ, có Thái Thỉ, có Thái Tố, có Thái Cực”. Thuyết giả đều nói: Thái Dịch là chưa thấy khí vậy, Thái Sơ là ban đầu của khí, Thái thỉ là ban đầu của hình, Thái tố là ban đêm của chất, Thái Cực là chất hình đã đủ, hỗn độn chưa phân. Sau Thái Cực mới sinh lưỡng nghi, tức là trời đất. Phàm Danh từ Thật sinh, Thật từ Danh khởi, Danh thật đã có thì đạo mới hành hóa. Trước Thái Dịch, mịt mờ không động, mây mù mênh mang, vốn không âm dung, sao dối bày được? Cửu khí vọng sinh bốn người, trên hư lại sinh hư, dường như gõ không mà cầu âm hưởng, trong Ngụy sinh Ngụy, như đuổi bóng mà tìm dấu vết. Sao không suy nghó: đã lập danh thì phải có hình thể, đã lập hình thể thì phải có dòng họ. Vả lại, đạo Hư Hoàng Nguyên thỉ ai là người sinh ra? Thuộc dòng họ gì? Cư trú tại đâu? Nếu có nguồn gốc thì xuất xứ từ sách nào? Nếu không có nguyên do tức là dối bày. Thêm nữa, trước khi không động, vốn không có số năm, nay nêu số năm, càng thấy rõ sự dối bày. Bởi vì, số mục phát xuất từ thời Phục Hy, từ năm giáp tý xưng gọi Hoàng Đế. Đem việc ngày nay, ghi chuyện ngày xưa, điên đảo sao nhiều thế! Vả lại, tam tôn ở trên là hữu hình hay là vô hình? Nếu là hữu hình, chẳng ở trên Thái Dịch, nhờ từ cha mẹ mà sinh, tức phải có năm tháng, ngày giờ, nơi chốn, dòng họ tên gọi. Ở trên nói: “Tam khí hợp đức mà sinh” vậy thì dùng khí sinh khí, cùng với khí không khác, đâu có hình tướng, tên gọi? Nếu là vô hình, tức vốn không sinh vị, sao ở hóa đồ thứ bảy nói: ngày mồng 02 tháng 09 niên hiệu Thượng Hoàng thứ nhất, Lão Quân đi đến Tây Hà, gặp Nguyên Thỉ Thiên Tôn ngồi xe ngọc tám cảnh, trên rồng đen chín màu, các tiên theo nhau, tay cầm tràng hoa, sư tử hạc trắng, hót ca hòa reo cùng lên trên Tây Hà, trao ngọc phù cho Lão Quân động Huyền. Đó là ai? Tới lui tìm cầu cả hai nơi đều không chuẩn đích, cho nên biết Hải Táo hư đàm, có danh không thực, vẽ băng khắc tuyết, uổng phí từ chương. Chỗ mà núi biển chẳng thâu, hư không chẳng nhận, dung ngu xảo trá phô bày đâu đáng tin. Lão Quân suy ở thời Trụ sử nhà Chu, cuồng bày là tổ tông của hỗn độn, lánh loạn thời Chu mà qua Hàm Quan, vọng nói là cha mẹ của trời đất. Đã tự nói trái nhau, sao chứa tên để đánh nhau? Bít tai trộm chuông, muốn ẩn càng lộ. Trong chương đạo đức nói: “Ta (Lão Quân?) có ba thứ báu, do quí báu nên phải giữ gìn nó, đó tức: một là từ, hai là kiệm và ba là không dám làm trước mọi người”. Vậy mà Lão Quân hiến dâng vợ con vua Hồ, đánh nhau với lính Hồ, vậy làm gì có Từ? Cỡi xe ngọc hành, ngồi trong cửa vàng, mặc áo ly la chín màu, che lọng thêu hạc chín sắc sáng ngời, vậy làm gì có kiệm? Sinh từ vô thỉ, khởi từ vô nhân, làm trước muôn đạo, làm Tổ của Nguyên khí, xét hỗn độn từ lúc chưa chia, xem đục trong từ thuở chưa phân, làm thầy của Đế Vương, làm mẹ của trời đất, vậy làm gì mà không dám làm trước mọi người? Ông Cao Hiến tự là Trọng Thường ở Liêu Dương đến Bạch Hạc Quán ở Đông Kinh, thấy tượng Tam Thanh, bèn chỉ tượng bên phải và hỏi: “Đó là tượng ai?” Quán chủ đáp: “Tượng Đức Lão Quân”. Hỏi: “Người thuộc thời đại nào?” Đáp: “Thời Chu Định Vương”. Lại chỉ tượng bên trái hỏi: đó là tượng ai? - Quán chủ đáp: “Tượng Đạo Quân”. Hỏi: “Người ấy thuộc thời đại nào?” - Quán chủ bàng hoàng chưa đáp, Cao Kiến chỉ tượng đứng giữa và hỏi: “vả lại, phải chăng đó là Nguyên Thỉ Thiên Tôn?” người nghe đều cười. <詞>Ngụy Bày: Sáng Lập Niên Hiệu Kiếp Vận. Trong hóa đồ thứ ba nói: Ban đầu thì khí của Thái Hư, khí ấy đánh nhau, bắn nhau qua lại rối loạn, sau trăm ức muôn khí, khí ấy mới thong thả lưu hành qua lại, là khí tự nhiên (đây là trộm sự phong luân xoay lại khi thế giới mới hình thành trong sách Phật). Lại gọi là khí của Di la vạn phạm, lại trải qua chín muôn chín ngàn chín trăm chín mươi chín ức khí, kết khí cát tường thành một bậc thánh, tự lấy hiệu là Nguyên Thỉ Thiên vương, đồng thời sinh ra Ngũ Lão (đứng đầu Ngũ Hành) kiếp ấy hiệu là Diên Khang, niên hiệu Long Hán. Lại trải qua số khí như trên mới sinh ra Đạo Quân, thời kiếp ấy hiệu là Xích Minh, năm cũng hiệu Xích Minh, đồng thời sinh ra Cửu Lão, chia làm chín trời. Lại trải qua số khí như trên, mới sinh ra Lão Quân, kiếp tên là Thanh Vận, niên hiệu là Thượng Hoàng. Lúc ấy sinh ra Bát Công, lại lập ra Ngũ Vận là Thái Dịch, Thái Sơ v.v… Lão Quân mới lấy hai khí âm dương kết thành hỗn độn mà phân bố trời đất muôn vật mới cùng khắp vậy. Biện luận viết: Nghe rằng: trong Chí của Ban Cố Luật dịch, trong sách sử ký Thiên Quan, Đế Niên của Hoàng Phủ Bật, Đế Kỷ của Đào Ẩn Cư chưa nghe trước Ngũ Vận từng có niên hiệu, trong Tam khí luống lập ra tên kiếp, đã chưa hình thành đục trong, chỉ là một khí rộng lớn, sao có Lão Quân nguyên thỉ; Ngũ Lão; Ngũ Thiên? Tuy bắt chước theo Phật đặt ra tên kiếp mà chẳng hiểu rõ số thành hoại. Tiếng Phạn gọi là “kiếp-ba” Hán dịch là thời phần, thời tuy có dài ngắn đều đặt ra tên kiếp. Hiểu lầm tiếng Phạn, mê hoặc thể tướng. Khi Phật giáo chưa truyền đến xứ này, chỉ có kiếp sát và kiếp tặc, nên trong “thuyết văn” của Hứa Thận nói: “Đem binh hiếp người gọi là kiếp”. Lại nữa Tào Mạt, tướng nước Lỗ cướp đoạt hoàn công trên đàn, tìm chỗ xâm chiếm đất, đó là bức hiếp cướp đoạt gọi là kiếp, đâu có nói kiếp vận ư? Nay bày lời này là thấy rõ vọng trộm vậy. Phàm danh vị đã có, niên hiệu đã bày, sắp dùng thống lãnh muôn phương, chỉnh tề bốn biển, hỗn đồng chín cõi, đồng một xe sách. Thiên tử chí tôn được lập niên hiệu, kẻ không danh vị chẳng dám lập vậy. Như Đức Khổng Tử tuy là sau đặt ra sách vở tiết lễ, phân biệt vua tôi, vì không phải là hiền vị nên chỉ là Tố Vương. Huống hồ Lão Đam liệt vào hạng bề tôi ở thời Trụ sử nhà Chu, mà dám trộm danh Đế Vương, vọng kiến lập niên hiệu ư? Thứ nữa, huống gì trước thời Hiên Hoàng, vốn không có tên năm Giáp tý (thần Đại Nhiêu ở thời Hoàng Đế tạo lập tên năm Giáp tý) ở thời Hán Võ mới lập niên hiệu (Võ Đế mới lập niên hiệu). Đem việc xưa nêu bày việc xưa, cũng đâu là ngụa. Hoặc có người nói rằng: “Lão Tử sinh ra trước trời đất, lập riêng niên hiệu đâu có gì sai trái?” - Đáp rằng: đã ở trong trời đất, mới là trước Thái Dịch, thế giới chưa thành hình, vua tôi không dấu vết, mịt mờ vắng lặng, chỉ là một khối mênh mông, vậy kiến lập niên hiệu để thống lãnh người nào? Như thế, rõ biết trộm lấy ý nghóa kiếp Trang Nghiêm, kiếp Hiền, kiếp Tịnh Tú của Phật mà lập danh mục Diên Khang, Xích Minh và Thanh Vận này. Trong đạo Phật nói rõ ba đời, ở đây chỉ nói một thời. Chính là đồng rợ Khương trên núi trộm áo của vua, mê hoặc đảo điên, trên dưới mất cả thứ lớp. Trở xuống lại nói: “Lão Tử sinh ra Thiên Cương Lý Cốc, tự là Quang Minh”. Vậy thì sau thời Tam hoàng, Lão Quân đâu thể dùng hai khí âm dương kết làm hỗn độn mà phân bố trời đất ư? Hai môi đầu đuôi xuyên tạc thấy rõ vậy. <詞>Ngụy Bày: Chia Phân Ba Cõi Trong hóa đồ thứ năm nói: trời đất có hình thể rất lớn, Thái Thượng Lão Quân là tổ tông của hỗn độn, là cha mẹ của trời đất, nên có khả năng phân bố đục trong, mở đóng trời đất. Vận huyền nguyên thỉ tam khí mà thành, trên trời là thanh ba cảnh, tức thỉ khí là Ngọc thanh cảnh, nguyên khí là Thượng thanh cảnh, và huyền khí là Thái thanh cảnh. Lại đem khí ba thanh, mỗi khí sinh ra ba khí, cộng chung thành chín khí mà làm chín trời: một là trời Uất đơn, hai là trời Thượng thiền thọ vô lượng thọ, ba là trời Phạm lam tu diên, bốn là trời Đâu-suất vắng lặng, năm là trời Ba la ni mật bất kiêu lạc, sáu là trời Động huyền hóa ứng thanh, bảy là trời Linh hóa Phạm phụ, tám là trời Cao hư thanh minh, chín là trời Vô tưởng vô ái. Chín tầng trời này mỗi tầng trời sinh ra ba khí, mỗi khí là một trời, cộng chung thành hai mươi bảy trời, cộng với chín trời trên thành ba mươi sáu trời, thì trên cùng ba cõi, bốn dân thượng cực Tam thanh, là số ấy vậy. Bắt đầu từ dưới là sáu tầng trời cõi Dục, tức: 1/ trời Thái Hoàng, 2/ trời Thái Minh, 3/ trời Thanh Minh, 4/ trời Huyền Thai, 5/ trời Nguyên Minh, 6/ trời Thất Diệu. Kế đến là mười tám tầng trời cõi Sắc: 1/ trời Hư vô, 2/ trời Thái cực, 3/ trời Xích Minh, 4/ trời Cung Hoa, 5/ trời Diệu Minh, 6/ trời Hoàng giá, 7/ trời Linh Minh, 8/ trời Đoan tónh, 9/ trời Nguyên Minh, 1 0/ trời Cực Diêu, 1 1/ trời Nguyên Tải, 12/ trời Thái an, 1 3/ trời Cực phong, 1 4/ trời Thỉ hoàng, 1 5/ trời Thái hoàng, 1 6/ trời Vô Tư, 1 7/ trời Nguyễn lạc và 1 8/ trời Đàm Thệ. Kế đến là bốn tầng trời cõi Vô Sắc: 1/ trời Tiêu khánh, / trời Nguyên Đồng, 3/ trời Diệu thành, 4/ trời Cấm thượng. Hai mươi tám tầng trời này gọi là Tam giới (= 3 cõi Dục, Sắc và Vô Sắc). Trên đó lại có bốn tầng trời gọi là Chủng nhân thiên: 1/ trời Thường dung, 2/ trời Ngọc long, 3/ trời Phạm độ, 4/ trời Cổ Dịch, bốn tầng trời này vượt ngoài ba cõi. Lại nói rằng: ba tầng trời trên là cảnh ba thanh cảnh: 1/ trời Thái Xích, / trời Vũ Dư, 3/ trời Thanh Vi, và trên cùng là trời Đại La. Bao gồm tầng các trời cùng cực cao vô thượng, Huyền Đô Ngọc kinh trấn giữ ở trên đó, là chỗ của Tam Tôn vậy. Lại nữa, trong Thái Tiêu Ẩn thư chép: Đại Đạo Quân trị ở trên năm ươi lăm tầng trời vô cực trong Đại La trên Ngọc kinh, Huyền Đài bảy báu, giường vàng ghế ngọc, chỗ Kim Đồng Ngọc Nữ hầu hạ, trú ở trời ba mươi hai; ngoài ba cõi. Biện luận rằng: Nói rõ ràng: phám sách của Thân rắn (Phục Hy) Đầu trâu (Viêm Đế), Điển của Long sư (Thái Hạo), Phụng Kỷ (Thiếu Hạo), cáo của Đàm Thiên (Trâu Diễn), Luận Thiên (Hoàng Liêu), Đồ của Quát Địa (Địa Chí), Dư Địa (Địa Đồ), Cam thị Tinh kinh trương Hành Linh Hiến, chẳng nói hiệu của Tam Thanh, chẳng phải nghe tên của Đại La đều là nương vào kinh Phật, sửa đầu đổi đuôi, lượm lặt danh tướng của người ta trang sức chải chuốt sách mình. Vả lại, cội nguồn của Đạo giáo, bắt nguồn từ thời Hoàng Đế, mà Lão Tử, Quyên Tử, Liệt Tử, Trang Chu, Hạt Quan, Y Văn, chia những điều các nhà Hiền Triết phân làm chỗ của Đạo giáo nói, đồng thời không nói đến việc trời, chỉ trong Linh Bảo Kinh do Trương Đạo Lăng góp nhặt, mới nói ba mươi hai tầng trời. Bắt chước thần chú của Phật mà tạo mật ngôn, từ đó về sau, sách của Đạo giáo cổ xúy lẫn nhau, không cành dẫn lan, chỉ là luống dối hạng hạ tục. Phật giáo chưa truyền đến, sao gọi là không nói? Kinh Phật truyền bá rộng mới đề xướng tên gọi ấy, rõ danh, tu tónh tăng thêm ba trương vọng xiển, chó trộm chuột cắp có gì đáng quý? Nhó Nhã lập bốn hiệu ước, gồm có bốn thời. Thuyết chín trời của Thái Huyền y cứ vào chín hữu, chẳng giống như Đạo gia dối thêm số mục. Trời vốn định thể, đâu có ít nhiều? Nay các thuyết khác nhau, rõ ràng biết là vọng lập. Xet do ba cõi, ba nghiệp trong kinh Phật chiêu cảm nên, tổng cộng có hai mươi tám, ở cõi Dục có sáu, cõi Sắc có mười tám và cõi Vô Sắc có bốn. Đầy đủ các dục hấp dẫn, gọi là cõi Dục. Hình sắc siêu tuyệt gọi là cõi sắc và căn thức cả hai đều mất gọi là cõi Vô Sắc. Vượt đó mà đi gọi là ra khỏi sinh tử, xả bỏ thân sau của phần đoạn. Dứt tuyệt hình danh mà không nương gá, lám sao có cảnh của Huyền đô, núi của Ngọc kinh, việc của Kim Đồng Ngọc Nữ giao tạp và trang sức của xe quỳnh trướng ngọc? Vọng trộm chẳng thật, ngay đó thấy rõ vậy. Thử hỏi các đạo só: Ba cõi từ đâu mà lại? Do công gì cảm nên? Thích danh biện tướng, toàn bộ chẳng thể biết. Vả lại, cùng cực Tông chỉ của Đạo giáo chỉ đều sinh lên cõi trời. Linh Bảo huyền diệu, kỳ tham vũ hóa. Khó lánh bốn tướng sao khỏi được năm suy? Nổi trôi trong sóng nghiệp, trôi lăn trong sinh tử, giả sử nghiệp thức mịt mờ, chứa nhóm nguồn khổ mênh mang, trôi lăn mãi chẳng trở lại, đâu thể dứt than sao! Như Uất-đầu-lam-phất, lấy đó làm kinh nghiệm vậy. <詞>Ngụy Bày: Tùy Thời Đại Mà Làm Thầy Đế Vương. Trong Hóa Đồ thứ 11 nói: Lão Quân ở thời Phục Hy, hiệu là Uất Hoa Tử, nói kinh Nguyên Dương, dạy cho Phục Hy, bắt đầu cho nhân luân họa vẽ bát quái. Ở thời Chúc Dung, hiệu là Quảng Thọ Tử, nói Án ma thông tinh kinh, dạy cách dùi gỗ ra lửa, nung đúc đồ dùng. Ở thời Thần Nông, hiệu là Đại thành tử, nói Thái nhất nguyên tinh kinh, dạy cách gieo trồng ngũ cốc, bào chế các loại thuốc. Ở thời Hoàng Đế hiệu là Quảng thành tử, để dạy đạo giữ thần giữ tính. Ở thời Thiếu Hạo, hiệu là Tùy Ứng Tử, nói Trang kính kinh để dạy Điểu quan làm theo lý, phân bố chín hỗ để thống lãnh trăm ti. Ở thời Chuyên Húc, hiệu là xích tinh tử, nói những lời vi mật. Ở thời Đế Khốc, hiệu là Lục Đồ Tử, nói Huỳnh đình kinh. Ở thời vua Nghiêu, hiệu là Vụ thành tử, nói Tuyên Hóa kinh. Ở thời vua Thuấn, hiệu là Y Thọ tử, nói thông huyền kinh gồm bảy mươi quyển, lại nói đạo đức kinh một ngàn hai trăm quyển. Ở thời Hạ Võ, hiệu là Chân Hành tử, nói Nguyên Thỉ kinh gồm sáu mươi quyển. Ở thời vua Thang nhà Ân, hiệu là Tích tắc tử, nói trường sinh kinh hai mươi quyển. Ở thời Chu Văn Vương, hiệu là Tiết ấp tử, nói xích tinh kinh, để dạy đạo nhân hiếu. Cho đến nói rằng các bậc quân vương thời thượng cổ đều thọ giáo với Lão Tử, sau đó mới tạo tác mọi vật vậy. Biện luận rằng: Phàm các bậc Hiền và Thánh, danh vị khác nhau, các bậc hiền triết xưa nay chỗ xuất xứ đều khác. Trang Chu nói rằng: “muôn đời mới có một lần gặp được bậc Đại Thánh, giống như sớm chiều qua đi” đó là nói số bậc Thánh ra đời phô bày điềm lành, ứng theo thời kỳ cả ngàn năm, thích hợp với thời vận, riêng bày đặc tú khác hẳn thường lưu, nên được làm thầy các bậc Đế vương, các nước chư hầu lễ trọng. Muôn năm gặp một lần, còn như sớm chiều, đâu có mỗi thời đại xuất hiện? Lý Nhó là người lui về tónh lặng, trong sử ký gọi ông là Ẩn Quân tử. Lánh loạn qua cửa, ở dưới lành Hòe, dấu thân dưới trụ, vốn là kẻ bề tôi. Phẩm vị chưa qua Thượng Giai, danh tiếng chưa ghi ngang Thai phụ, sao bèn cất nhắc lên địa vị bậc Thánh, làm thầy Đế Vương được? Dối trá chẳng kinh hãi mắt tai của người, đống đất mà muốn ngang hàng núi Tung Hoa, ai chịu nương tựa. Ao nước đọng mà nghó rộng như bể cả mênh mông, là điều khó tin vậy. Đâu có sau khi khai thiên lập địa hơn muôn ức năm, trong suốt thời gian ấy, không một ai siêu xuất khác thường, chỉ có Lão Tử làm thầy Đế Vương vậy? Ba phần (= Phục Hy, Thần nông, Hoàng Đế) năm điển, tám Sách, chín Khâu, Khổng Tử viết sách Xuân thu, khâu minh quốc ngữ, các thuyết khác nhau của trăm nhà hiền triết, tạp đàm của chín học phái… đều không nói Lão Tử làm thầy. Chỉ do đời sau, các đạo só vô tri vọng soạn lời ấy, muốn làm cho mình Lão Tử vượt cao trên các Thánh, tốt đẹp thì thật là tốt đẹp mà hư dối cũng rất hư dối. Vả lại, Phục hy Thần nông đều có Thánh Đức, Hiên Hoàng, Nghiêu Thuấn đều được tôn xưng là minh quân. Hoặc có vị từ thuở nhỏ đã có khả năng ăn nói, mới sinh ra đã biết Đạo mầu, há còn nhờ cậy Lão Tử dạy bảo, sau đó mới tạo tác mọi vật ư? Huống hồ trong sách truyền ghi chép, sử xưa có nói rõ (có các bộ sử xưa khảo cứu cùng các bộ hiện thời đều nói rõ nguồn gốc của tạo vật) như là: Nguời nước Toại dùi lửa, Phục Hy họa quẻ, Viêm Đế cấy cày, Nữ Oa tạo Hoàng (= kiên), Hoàng Đế xây cung thất, Hiên Viên miện lạc có ao Hàm, chuyên húc làm lục anh, vua Nghiêu có Đại Chương, vua Thu- ấn có Đại Thiều và làm cờ vậy, vua Võ có Đại Hạ, vua Thang có Đại Hoạch, vua Văn có Tịch Ung, vua Võ có Hạ Võ Cổn làm thành quách, Xuất Vưu làm binh khí, Kỳ Bá làm thuốc, Dũ Phụ có Mạnh kinh, Linh Luân chế luật, Lệ Thư làm toán, Dung Thành làm lịch, Đại Nhiêu tạo ra giáp tý, Hề Trọng làm xe, Tào Hồ chế áo, Bá Dư chế Xiêm, Ư Tắc làm giày, Cộng Cổ làm thuyền chèo, Cự Huy làm cung, Di Lao làm tên, Hoàng Ung Phụ làm cối chày, Mạnh Trang Tử làm móc sắt, vua Triệu Võ Linh làm giày, Tô Uy Công làm sáo, Bạo Tân làm huyên, Tôn Thúc Quân của Hậu Tắc làm cày, Mông Điền làm bút, Thái Luân làm giấy, Hạ Côn Ngô Thị làm ngói. Các vị trên đây mỗi vị đều có vua của họ, các sách ghi rõ, đâu được tự khoe nhận mình tạo? Lại nữa, Chu Dịch hệ từ, Khổng Tử thuật lại, nói rõ việc của các bậc đế vương thời xưa chế tạo, như nói vua của Bào Hy Thị là thiên hạ, xem hình tượng ở Thiên phủ xét ở đất, gần thì lấy ở các thân, xa thì lất ở các vật, mới họa vẽ bát quái để thông với đức của thần minh, để giống với tình của muôn vật, thắt dây để kết thành lưới, để làm ruộng; đánh cá, bởi lấy quẻ ly, họ thần nông chế tác lưới cày để lại, vì làm lợi cho muôn dân, nên giữa ngày làm chợ, đổi chác có không, cho đến hoàng đế Nghiêu, Thuấn rủ áo Xiêm cai trị nhân dân, bởi lấy ở trời đất. Trình bày pháp dịch tạo vật như thế, chẳng nói là do Lão Tử tạo nên vậy. Trộm công nghiệp của người khác làm của mình, khoe danh tự cao, người quân tử không làm như vậy. Lại nói rằng: “Lão Tử vào thời vua Nghiêu hiệu là Vụ Thành Tử” xét theo “Hậu Hán ứng thiệu phong tục thông” nói rằng: Đông Phương Sóc là Thái Bạch Tinh Tinh, ở thời hoàng đế là Phong Hậu, thời Đế Nghiêu là Vụ Thành Tử, thời nhà Chu là Lão Đam, ở thời Việt là Phạm Lãi, ở thời Tề là Si Tử. Vậy thì Vụ Thành Tử là Đông Phương Sóc không can hệ gì đến Lão Tử đã rõ ràng quá, sao lại vọng thêm câu dẫn xướng Lão Tử là người thầy ư? Xét theo Lỗ Ai Công hỏi Tử Hạ rằng: “Năm Đế ba Hoàng đều có thầy chăng?” Tử Hạ đáp: “Có! Thần nghe rằng: Hoàng đế học với Thái Chân, Chuyên Húc học với Duyên Đồ, Đế Khốc học với Xích Tùng Tử, vua Nghiêu học với Y Thọ, vua Thuấn học với Vụ Thành Phụ, vua Vũ học với Tây Vương Quốc, vua Thang học với Uy Tử Bá, vua Văn Vương học với giáo thời Tử tư, vua Võ học với Quách Chính, Chu Công học với Thái Công Lã Vọng. Trên đây dẫn trích văn rất rõ ràng mà nói Lão Tử tùy theo thời đại mà làm thầy các bậc đế vương, sao nói ra lời ngông cuồng bồng bột như vậy! Xảo ngôn sao lắm như Hoàng Nhan vậy. Vả lại, Lão Tử suy từ sử thời nhà Chu, sử có ghi văn rõ ràng, vốn là kẻ bề tôi. Trái lại làm thầy các bậc đế vương ở thời thượng cổ, đạp mũ đội dép, sao điên cuồng quá lắm vậy? Thêm nữa, như văn trên nói: “các bậc quân vương ở thời thượng cổ đều thọ giáo với Lão Tử”. Vậy thì, Kiệt Trụ bất nhân, U Lệ vô đạo, vua Tần hung bạo, Vương Mãng soán nghịch, cũng bởi Lão Tử dạy nên. Đã như vậy thì Lão Tử đứng đầu việc bội nghịch, tạo nên đại loạn. Bất trung bất hiếu cũng do Lão Tử gây ra, bất nghóa bất nhân đều bởi Lão Tử chủ trương. Làm bậc thầy chẳng thấy xấu hổ ư? Lão quân đã nói tùy theo thời đại mà làm thầy, mà từ thời nhà Tần, nhà Hán về sau cho đến triều đại hiện nay, không hiện một lần nào vậy. Nay đã là không thì xưa cũng chỉ hư dối. Vả lại Hán Văn Đế cần kiệm, Hiếu Võ Đế anh minh, Hiếu Minh Đế đạt thì lễ nhạc, Hiếu Chương Đế kiêm đạo nho nhã, Ngụy Văn Đế phong lưu văn tảo, vua Thế Tổ đời Tấn Minh đạt khoan nhân, Tống Văn Đế rất mực sửa trị thanh bình, Lương Võ Đế văn võ song toàn, Tùy Cao Tổ hòa đồng bốn biển, Đường Thái Tông hỗn đồng một xe sách. Thời ấy chẳng nhờ cậy sự giáo hóa của Lão Tử mà đều được tiếng vàng âm ngọc. Vậy đủ biết dẫn hợp dối bày, uống phí từ chương, chỉ có thể luống dối kẻ dốt nát quê mùa, khó thể tin ở bậc đạt só, tô son điểm phấn, người thấy càng cười chê, cô gái bên cạnh bắt chước nhăn mày, người cùng làng chẳng quý (Ai Công hỏi Tử Hạ họ Văn thời xuân thu cũng có thấy Lưu Hương mới bày Lữ Văn không thứ lớp vậy). <詞>Ngụy Bày: Lão Tử Lưu Xuất Tam ĐỔNG LINH BẢO Trong hóa đồ thứ 9 nói: ngày mồng 1 tháng 3 niên hiệu Trung Hoàng thứ nhất, Thái Thượng Lão Quân ở tại Ngọc Thanh Thiên Kim Quyết Thượng Quan, soạn tập Linh Thiên, lấy làm kinh báu gồm ba trăm quyển, Phù Đồ có bảy ngàn chương, Ngọc Quyết chín ngàn thiên. Lão Quân lúc ở Thượng Tam Hoàng xuất hiện, làm Pháp sư của muôn trời, hiệu là Pháp sư Huyền Trung. Niên hiệu Long Hán thứ nhất, trao cho Thượng Tam Hoàng Động Chân kinh mười hai bộ, đem đạo vô cực xuống dạy người đời, lúc đó con người thọ đến chín muôn tuổi, lúc ở tại Trung Tam Hoàng, hiệu là Cổ tiên sinh, niên hiệu Xích Minh thứ nhất trao cho Trung Tam Hoàng Đổng Huyền kinh mười hai bộ, dùng đạo lý vô thượng chánh chân để dạy người, lúc đó con người thọ đến sáu muôn tuổi. Lúc ở Hạ Tam Hoàng ra làm thầy, hiệu là Kim Quyết Đế Quân, niên hiệu Khai Hoàng thứ nhất, trao cho Hạ Tam Hoàng Động Thần kinh mười hai bộ, dùng đạo lý thái bình để dạy người, lúc đó con người là thọ đến muôn vạn tám ngàn tuổi. Phàm Động Chân, Động Huyền và Động Thần, mỗi vị có mười hai bộ, cộng chung là ba mươi sáu bộ Tôn Kinh vậy. Biện luận rằng: Trọng Ni nằm mộng, đạo mười dực mới tuyên bày, Bá Vương qua ải, giáo pháp hai thiên mới mở rộng. Hữu danh là đầu muôn vật, vô danh là trước trời đất. Cuồn cuộn dò tìm, diệu mà đồng huyền, sợ nhục sủng ái mà nhất trí. Thần hang không chết, nhìn lâu sống mãi, dẹp bỏ sự sắc bén giải phân, nhún nhường khiến tự chăn dắt, đó là yếu chỉ của Lão Giáo vậy. Ngoài ra, các thứ giáo điển đều là ngụy thư, chế tạp phàm lưu, chỉ chuộng khoe khoang cạnh tranh, lượm nhặt lời Phật, đổi thể đặt tên. Phỏng theo ba cõi mà lập tam thanh, bắt chước ba đại mà lập ba Động, luống nhọc giấy mực, vọng trang sức từ chương. Vì sao biết được? Vào thời nhà Hán, Trương Đạo Lăng soạn Linh Bảo kinh, Vương Bao soạn Đổng Huyền kinh, Cát Hiếu Tiên thời nhà Ngô soạn Thượng Thanh kinh. Vương Phù thời nhà Tấn soạn Minh uy hóa Hồ kinh, Bảo Tónh soạn Tam Hoàng kinh; sau đổi là Tam Thanh kinh. Trần Hiển Minh thời nhà Tề soạn Lục thập tứ chân bộ Hư kinh. Đào Hoằng Cảnh thời nhà Lương soạn Thái Thanh kinh. Phụ Tuệ Tường cuối thời nhà Tùy đổi Niết-bàn thành Trường An kinh. Về sau, sự việc bị phát giác nên bị giết chết. Căn cứ theo “Tiếu Đạo Luận” của Chân Loan nói: “Các Đạo gia vọng chú giải ba trăm năm mươi quyển của các nhà Hiền triết làm kinh của Đạo giáo”. Rõ ràng như thế, đời đời xuyên tạc, người người vọng chế, lượm nhặt của Phật giáo, nêu làm sách của Đạo giáo. Hoặc nói từ động tiên bay đến, hoặc nói Lão Tử tái hiện. Các bậc hiền nhân không thấy, đạo só riêng truyền. Xem thường vua đương thời, chẳng sợ triều hiến. Nên Pháp sư Lâm đời Đường đối trước Hoàng Đế Thái Tông nói: Nếu căn cứ theo những lời bàn luận cung kính ôn hòa thì Đạo giáo chỉ có hai thiên Đạo đức. Nếu y cứ Hán Minh Giảo lượng thì ứng hơn bảy trăm quyển. Theo thuyết của Cát Hồng thần tiên thì chỉ có một ngàn. Theo trong mục lục do Tu Tónh dâng vua thì hơn trước chín mươi. Lại kiểm xét Huyền Đô mục lục thì lại trở nên càng nhiều. Ấy đã là trước sau chẳng đồng, rõ biết người đời sau vọng soạn, tăng thêm pho quyển, bổ túc thiên chương. Nương vào kinh Phật, thay đổi đầu đuôi. Hoặc nói từ danh sơn xuất hiện, có lúc đề xướng từ động tiên bay đến. Sao chỉ Hoàng lónh riêng biết, bậc Anh hiền ít thấy? Sách vở chẳng ghi, lịch sử chẳng nghe? Thử hỏi các Đạo só hiện nay: tìm xét các kinh có ra sau này, đó là Lão Tử bày riêng hay là Thiện Tôn nói lại? Nếu là nói lại thì nên có thời gian nơi chốn, thầy trò trao nhận, vậy thì vào năm nào, tháng nào, nước nào, đời nào? Nếu từ trên trời mà nói thì người nào truyền lại? Nếu từ Tây Vức mà đàm luận thì ai là người dịch ra? Nếu họ có chứng cứ thì được lưu hành. Còn nếu là vọng nói, đúng lý là phải xé bỏ thiêu đốt. Thêm nữa, vào thời nhà Hán, nhà Tấn, tăng só Phật giáo gọi là Đạo só, Khấu Khiêm Chi đắc chí, mạo dụng danh xưng ấy. Nay gọi Pháp sư, càng là kiêu sức. Danh hiệu pháp sư, xuất xứ từ kinh Phật. Vạn quyển của trăm nhà hiền triết vốn không có danh từ ấy. Là thầy của Pháp gọi là Pháp sư, Pháp tức là Sư gọi là Pháp sư. Danh nghóa chẳng biết, vọng đặt hiệu mình! Xét từ đầu kiếp hiền về sau, có ba đức Phật xuất thế. Lúc Đức Phật đầu tiên ra đời, tuổi thọ con người là sáu muôn năm. Lúc Đức Phật thứ hai ra đời, tuổi thọ con người là bốn muôn năm. Lúc Đức Phật thứ ba ra đời, tuổi thọ con người là hai muôn năm. Vì sao sửa đổi Tam Hoàng kia vọng hợp số ấy? Lại nữa, ở trước nói: “Trong ba khí trên có hiệu Long Hán xích minh”. Lúc ấy, năm vận còn không có, chỉ là một khí, sao có Quân vương của Tam Hoàng, số thọ con người ư? Giả sử ở thời thượng cổ có Năm Rồng; bốn Họ; chín Đầu; mười Kỷ cũng không có Tam Hoàng kiến lập niên hiệu. Thử hỏi: Long Hán; Xích Minh; Thượng Hoàng; Khai Hoàng là niên hiệu của vua nào? Nếu nói có thuyết nói vậy, sao sử sách không có văn ghi rõ. Nếu nói không có bằng chứng, thì không thể vọng lập. Hợp cả hai mối, thì rốt cuộc chẳng có một thật. Thứ nữa, trước thời Phục Hy, văn tự chưa có, sao có ra thiên chương của Tam Động Linh Bảo, và danh từ mười hai Bộ vốn xuất xứ từ kinh Phật. Một đời giáo hóa của Đức Phật, kinh sách được chia thành mười hai bộ loại, các đạo gia không biết danh nghóa, cớ sao vọng đặt vào sách mình? Như giũa ngọc đẹp để làm đồ sành, tuy chịu khổ nhọc, nhưng người hiểu biết thấy thì chê cười. <詞>Ngụy Bày: Lão Quân Du Hóa Ở Chín Tầng Trời Trong Hóa Đồ thứ 26 nói: Lúc ấy, Lão Quân ở tại Đại Hội Thanh Dương, dẫn Y Hy Nhiễm Nhiễm bay lên không trung. Đầu tiên đến tầng trời thứ nhất, thấy Ba-lợi Thiên Đế ngồi xe Cửu quang nguyên linh, che lọng Thất Nguyên giao thần, dựng tiết năm mầu Nhiếp ma, kim đồng ngọc nữ có chín muôn người, đón rước Lão Quân vào cung Đại Hữu, thỉnh hỏi đạo Tự nhiên. Cứ như thế, các trời Ma-Di, trời Phạm Bảo, trời Hóa Ứng, trời Bất kiêu lạc, trời Đâu-suất, trời Tu-diên, trời Thiền Thiện, trời Uất-Đơn… tùy theo chỗ vua trời nào cũng đều cùng kim đồng ngọc nữ đón rước kính lễ Lão Quân, thưa hỏi pháp yếu. Đến các cung trời đều thiết bày các thứ Quỳnh tương, Bích lễ, Đơn dịch, lưu huân, lan tu, bát triệt, linh chi, trân quả. Biện luận rằng: Thuở xưa, Đức Thế tôn lúc mới thành Chánh giác, chẳng rời cây đạo mà lên khắp các cõi trời. Một thân chẳng phân mà cùng khắp tất cả, ngay nơi nhiều là một; ngay nơi một mà nhiều, giống như trăng sáng giữa không gian mà bóng chia khắp các mặt nước. Trời đất hơi than, muôn lổ tức giận kêu vang, lớn nhỏ đều khắp, xa gần không ngăn cách. Vô tâm mau ứng, đâu chỉ có chín tầng trời. Trụ sứ của Bá Chu, Y Hy Hàm Cốc, thân ở địa vị thấp hèn, khó ngang bằng vết chân bậc thánh, muốn làm đức của mình. Bởi khéo trộm cắp, quỷ thần không biết, đã bị người biết thì chẳng phải tay giỏi. Lìa dục nên được bay lên nhẹ nhàng, thiền định chiêu cảm thần thông. Lão Tử đã không có công ấy, sao có thể bay bổng lên trời? Ngày xưa, Liệt Tử ở đất Trịnh, vợ chồng đều quên nhau, tai mắt chẳng phân, tiêu nhiên dứt gởi, tâm định thân tan, xương cốt đều dung hóa, sau đó, thân như lá cây khô, theo gió thổi bay khắp đông tây, muôn dặm chỉ trong khoảnh khắc, hơn tuần lễ mới trở lại. Vậy mà Trang Chu chê trách rằng “còn có chỗ đợi chờ”, huống gì Lão Đam chẳng dứt tuyệt vợ con (con của Lão Tử tên là Tông, con của Tông tên là Chú, con của Chú tên là Cung theo hầu Ngụy văn Hầu), chưa kịp hình mất, qua ải cỡi xe mỏng mảnh, kinh của Đạo giáo nói về hoạn có thân, há có thể bay lên trời, đạp sương cỡi hạc lướt mây, bắt chước theo Đức Thích-ca mâu ni mà khoe là mình hơn. Vả lại, bố thí nên được phước lớn, giữ giới nên cảm sinh lên cõi trời. Ngươi còn chẳng đạt được nhân đó, làm sao nói pháp cho các vị trời nghe? Ở cõi dục vốn chỉ có sáu mà vọng nói có chín tầng trời, ở cõi Sơ thiền toàn là người nam mà nói có Ngọc Nữ, hư cấu xiển ngụy khéo nói nhiều mối. Vả lại, Sơ thiền đã vượt lên trên thuyền duyệt là thức ăn, định sinh hỷ lạc, xả niệm thanh tịnh, sao dùng quỳnh tương, Bích lễ, lan tu, bát triệt ư? Cho rằng trên trời đồng với nhân gian, ham thích sự tanh hôi của rượu thịt, tranh giành uế trược của cá hôi, giống như cú mèo đắm thích chuột chết bèn cho rằng ngon đồng với thịt Phụng Hoàng. Trộm nghe chẳng thật, xin bày nói cả nỗi lòng. Cùng quê lắm quái, ít học nhiều lời. Lời nói ấy đáng tin ư?  BIỆN NGỤY LỤC <卷>QUYỂN 2 Ngụy Bày: Trộm Kinh Giáo Của Phật. Trong Hóa Đồ thứ ba mươi nói: Vua Hồ thấy đồ chúng của Thái Thượng quá đông, nghi là thấy quỷ mî, bèn chất củi để đốt. Lửa bốc cao lên trời, từ thân Lão Quân phát ra ánh sáng, ở trong lửa dữ, giảng kinh Kim Quang Minh cho vua nghe. Vua Hồ càng thêm tức giận, bỏ Lão quân vào trong cái vạc lớn, nấu suốt ba ngày, Lão Quân ở trong cái vạc nóng, hoa sen mọc lên, ngồi trên hoa sen, nói kinh Niết-bàn. Lại nói: Lão Quân bảo Y Hy làm Phật, làm thầy cho vua Hồ mà sám hối ba nghiệp sáu căn năm nghịch mười ác, mới chỉ dạy năm giới mười điều lành và kinh Tứ Thập Nhị Chương. Biện luận rằng: Kỳ lân đánh nhau nên mặt trời mặt trăng khuyết, cá nghê cá kình chết mà sao chổi hiện, núi Đồng sụp đổ mà chuông Lạc vang động, tro lau thiếu nên vầng trăng tàn. Bởi vì cảm ứng đạo giao, nên có giáo tương hòa, lòng người khát ngưỡng, mưa pháp thơm tho. Chỉ bày cởi bỏ trình trần cho kẻ kia, mở mang sự ngu muội cho người khác. Nên Khổng Tử nói: “Không phấn chí không mở mang, không hứng chí không phát sinh ý kiến hay”. Đó là nói rõ đợi hỏi mà nói vậy, huống gì các bậc Thánh thiết giáo quyền biến nhiều cách, đâu khiến người khác sinh lòng tức giận đến nỗi mình phải bị lửa đốt và nhận chìm dưới nước? Thật hoàn toàn không biết xấu hổ? Gượng nói với người khác, đâu biết đạo hư đi thực lại. Đục khoét tự dạng khéo hợp tên kinh. Đã ngồi trên lửa dữ, giảng Kinh Kim Quang Minh, ngồi trên hoa sen nói kinh Liên Hoa thì, hai thiên Đạo Đức hẳn là ngồi ngoài đường mà nói, ba bộ Động Huyền vốn đàm luận trong hang nước. Đây đã chẳng thế, kia sao như thế? Vả lại, kinh Kim Quang Minh tánh tướng hiển nhau, kinh Pháp Hoa phá quyền về thật, kinh Niết-bàn nói rõ Phật tánh chân thường, kinh Tứ thập nhị chương là trích từ các kinh mà biên tập thành. Hạng chẳng phải rễ sâu bám chặt, trộm nghe vọng nói. Chỉ miệng nói thẹn, ra đâu dễ dàng, khó mê hoặc hàng thượng trí, chỉ luống dối kẻ hạ ngu. Thứ nữa, các kinh nói trên, đã là do Lão Tử trình bày, các Đạo Só phải nên theo đó để học Phật, cớ sao hợp khí làm đạo chuyên môn, phúng tụng Linh Bảo? Thử hỏi: văn trong ba kinh nói rõ nghóa gì? Kinh tạng Đạo giáo đã chẳng thâu nhiếp đạo só lại chẳng thông sáng. Trộm giáo điển của bậc Đại Thánh làm cực xướng của Lão Quân, thật phù hợp với thí dụ trộm trâu của kinh Niết-bàn, lại đồng với người mù đi lầm vào hang vàng, tuy được vật báu đó nhưng không biết sử dụng thế nào! Lại nói rằng: “Sám hối ba nghiệp cho đến năm tháng trai pháp”, nếu là như vậy thì các Đạo só phải nên thông suốt. Thử hỏi: Sám hối là lời nói gì? Nay đây sám hối là sự sám hay là Lý sám? Nói về pháp môn công đức mà diệt tội hay nói về tâm ngược dòng sinh tử mà diệt tội ư? Tâm năng sám nên có mấy thứ? Tội sở sám an bài ở đâu? Nguyên do của hai chữ “Sám hối” còn ít biết được thì khuôn phép của ba nghiệp, sáu căn, năm nghịch, mười ác, năm giới, mười điều lành, danh từ năm tháng trai pháp nhất quyết không hiểu rõ. Nếu là lời Lão Tử nói thì các Đạo só nên biết đủ cả, nhưng một chữ chẳng thông, thì biết rõ trộm của Phật mà bàn luận càn quấy. Đó là đồng như trộm cắp vật của người, bị chủ bắt được, còn chẳng nhận chịu mà lại biện bác chống cự, đến nỗi đốt kinh thiêu bản mới biết hổ thẹn, người quân tử thận trọng dè chừa trước thì đâu đến nỗi như thế. <詞>Ngụy Bày: Lão Tử Kết Khí Thành Chữ Trong Hóa Đồ thứ tám nói: Thánh kỷ kinh nói rằng: Ngày xưa, Thái Thượng Lão Quân, vào khoảng niên hiệu Long Hán, theo Nguyên Thỉ Thiên Tôn ở tại nước Trung Ương Đại Phước Đường, nói 10 bộ kinh Linh Bảo, đưa ra pháp độ người. Lại ở tại nước Đông cực Đại Phù Lê, đưa ra pháp độ người, dùng bút viết ở rừng Không Thanh. Lại ở cõi Nam cực Thiền Ly, dùng lửa luyện chân văn, oánh phát hình chữ. Lại ở thế giới Tây Cực Vệ La, nước Bắc cực Uất Đơn, đều bày pháp độ người. Lão Quân dùng tinh chân khí ở năm phương kết thành chữ báu, vuông vức một trượng tám, rủ cỏ gai làm hình vân triện, hình dạng chim bay, để lập văn chương. Lại nói rằng: “Phần điển tự ta mà có ra, kinh tịch từ ta mà sinh ra”. Biện luận rằng: Phàm nguồn gốc văn tự vốn từ thời thượng cổ, Phục Hy là vua của muôn dân, ban đầu họa vẽ bát quái, tạo thư khế để thay chính sách thắt dây. Do đó, sinh ra sổ sách, nên có văn khắc trên đá của Thanh Khâu Tử Phủ Tam Hoàng, chữ của Lục Kiểm dây vàng lục giáp linh phi. Về sau, có Thương Hiệt nhân đó mà chế thêm, đại triện phát xuất từ Sử Trứu; Tiểu Triện có ra từ Lý Tư, Phi Bạch bắt đầu từ Thái Ấp, Lệ Thư thay đổi do Trình Mại. Sách Tần có tám thể, chữ Hán có sáu hình. Vàng xấu, vàng đống, rủ mây rủ móc, Thái Diệp, Long Trảo, nhan thể, Pha thư đều theo xưa mà thêm thành, gần đây thay đổi pháp chế, đâu nhờ chân khí mà kết, đâu liên quan gì Lão Tử mà truyền đến? Bít lấp trộm lấy tài năng người khác, phô bày rao bán cho là đức của mình, buông thư trắng mắt, chẳng xấu hổ với bậc danh só! Ở trên nói rằng: “Long Hán sinh khởi từ sơ khí”. Vậy đâu có Lão Tử mà sinh? Đã nói là bút tía rừng sách; mới chỉ sau Mông Điềm. Dắt nay dẫn xưa, xem thường các bậc hiền của ta! Khổng An Quốc nói: sách của Phục Hy, Thần Nông, Hoàng Đế, gọi là ba phần, nói về đại đạo. Sách của Thiếu Hạo, Chuyên Húc, Cao Tân, Đường Nghiêu, Ngu Thuấn, gọi là Năm Điển, nói về thường đạo. Sách dịch thì ba vị Thánh mới định thành, kinh thi là lời của các bậc anh triết, sách Xuân Thu do Khổng Tử sửa chữa nên, sách lễ do Chu Công Đán định thành, sách Nhó Nhã do Chu Công Đán biên soạn, sách Quốc Ngữ do Khâu Minh thuật lại, Lưu Hy có thích danh, Hứa Thận có Thuyết Văn. Bì thương có Quảng Nhã, Quế Uyển có Châu Tòng, Ngọc Thiên của Cố Dã Vương, thiết vận của Lục Pháp Ngôn, mỗi bộ sách đều có liên hệ nguồn gốc, chẳng quan hệ gì đến Lão Đam mà nói là “Phần Điển từ ta mà có ra, kinh sách từ ta mà sinh ra”. Đó cũng do như Thượng Lâm nói: “Quýt đen mùa hạ chín, cây dương lớn mạnh do suối ngọt phú cho, Ngọc thọ mùa đông tươi tốt”. Nghe lời ấy thì mênh mang vui đẹp tai, nhưng cứu xét về việc ấy thì mịt mờ không biết do đâu truyền, huống hồ dối bày tên nước, vọng lượm nhặt trong sách người khác, từ “Đại Phước Đường” đổi thành “Đại Đường” mà lấy tên, “Đông Phù Lê” phỏng theo “Phù Tang” mà lập hiệu. “Nam Thiền Lê” đổi “trùng lê” mà nêu tự, “Tây Vệ La” là trộm ở chữ “Ca Duy-la-vệ”, bắc phương lấy đủ tên “Uất Đơn Việt”. Không thuộc mười châu, thần dị, trong địa lý không ghi, trong địa đồ chẳng có hình danh. Rỗng không phô bày năm xe, rõ ràng không một thật. Trộm chuông bịt tai, ấy chính là vậy. <詞>Ngụy Bày: Ở Thời Chu Văn Vương Làm Trụ Hạ Sử. Trong Họa Đồ thứ 19 nói: Vào thời Chu Văn Vương, Lão Quân là Tiếp Ấp Tử, bấy giờ, vua Trụ hoang dâm bạo ngược, dân chúng lầm than, bèn ngồi xe phi tiễn, Phong Bá dẫn đường, Bành Tổ ngồi bên cạnh bay đến phía nam núi kỳ. Tây Bá nghe vậy, trao cho chức quan Thủ Tạng. Võ Vương Khắc Thương đổi làm Trụ Hạ Sử, soạn Xích Tinh kinh, dạy cho vua văn Vương về đạo nhân nghóa, soạn truyền ki kinh để trao cho Chu Công, đời vua Thành Vương, Khương Vương đời đời làm Trụ Hạ Sử. Vào thời Chiêu Vương có điềm lành khí đen (đây là sự phá Phật sinh ra ban đêm có mười hai vầng cầu vồng vào suốt Thái Vi). Lão Quân trao ẩn văn của tám trời cho Chiêu Vương. Chiêu Vương không sử dụng. Về sau chịu nạn của Giao thuyền. Biện luận rằng: Nghe rằng: Ký của Cửu Đầu Ngũ Long, sách của Trọng Đồng Tứ nhũ, văn của Kim Tần Hỏa Hán, Điển của Hoàng Ngụy Bạch Tấn, chẳng nghe Văn Vương bắt chước Lão Tử, Tuyền ki giáo huấn Chu Công. Chỉ nói rằng: Văn Vương bắt chước Thái Công, Võ Vương bắt chước Cơ Đán. Các sách đều ghi lời đàm luận của các vị tiên nho, sao trái lệ của trăm nhà Hiền triết riêng bày lông mắt, rối tâm xướng lòa, liếc mắt sinh linh. Phàm muốn làm bậc Thánh, thì nên chuyên sự thật, còn bàn nói không căn cứ, thì tự chuốc lấy sự cười chê của người đời! Theo Sử ký biệt truyện thì Lão Tử sinh vào thời Định Vương, kế tiếp Lão Tử, cớ sao vọng nói sinh ở thời Tây Bá ư? Đã là bậc Thánh, thấy vua Trụ hoang dâm, nên gắng sức tìm cách can ngăn, chỉ sợ không kịp. Trái lại phó mặc, cỡi xe bỏ đi mà trốn xa. Là một kẻ tôi trung, lại như thế ư? Ngày xưa qua ải, thuê từ giáp để ngồi, cỡi xe bạc phản, nay thì ngồi xe phi tiễn, có Phong Bá dẫn đường, Bành Tổ ngồi bên cạnh. Sao tự cao như thế mà chẳng sửa ư? Huống hồ, thời ấy Bành Tổ đã chết, Phong Bá chẳng chịu dẫn đường. Từ đời Văn Vương Từ Công Lưu về sau, đời đời chứa nhóm nhân hiếu, mỹ hóa đi khắp giang hán, nhân từ đến cả Hành Vi, đâu đợi thọ giáo của xích tinh ư? Chu Công Đán chế lễ soạn nhạc, thay thế thiên hạ, thiết lập kim đằng nói lên thệ nguyện, chế tác chu lễ mà để lại khuôn phép, sao phải dùng giáo nghóa tuyền ki ư? Chiêu Vương, đương thời tôn xưng là bậc Minh Quân, sử không ghi chép biến loạn khí đen, vọng đổi điềm lành cầu vồng mầu trắng mà gọi là “khí đen”. Viện dùng Ẩn Văn, lại thành thuyết của Mạnh Lãng. Ở trước nói rằng: Lão Quân là Kim Quyết Đế Quân giáo chủ cả chín tầng trời, bày ra mũ Thất Diệu, mặc áo choàng chín màu, ngồi xa ngọc tám cảnh, cỡi rồng thần năm mầu, ở trong cửa vàng, ngồi trong trướng ngọc, tiên đồng hầu hạ bên trái, ngọc nữ phục dịch bên phải, muôn thánh ủng hộ tùy tùng, ngàn linh kính giúp vâng theo. Lão Tử đã có địa vị cao quý như thế, sao không bằng lòng yên ở, trái lại, đi giữ chức Thủ tạng, cúi mình làm tôi, đứng ở dưới trụ hầu bên cạnh vua, sáng dẫn đường chiều bái lạy, cầm hốt đứng hầu. Bỏ tiên quý trên cây cao, gieo đất tiện chốn hang vắng, thay trên đổi dưới, cớ sao sai lầm vậy? Danh hiệu Tiếp Ấp trong chu thư chẳng chép, kim quyết đế quân, vốn từ đạo só dối bày. Có danh không thực, ai chấp nhận truyền tin cho? Gieo gió tìm hình, trồng điện chớp tìm rễ. Đó chính là vậy. Nếu vì Chiêu Vương không tin nên chiêu cảm nạn giao thuyền thì Tần Thỉ Hoàng tìm tiên, đích thân ra giữa biển, sóng gió dập dồn muôn vàn hiểm nguy, mong gặp thần tiên. Hư tưởng danh cầu an, chẳng thấy mặt cửa tham. Sa Khâu Đạo chết no hôi thối xông người. Hán Võ ưa thích Tiên, thân mặc áo lông người, miệng uống sương thiên biểu, thao túng lời nói quỷ quyệt của Loan Đại, tin thuật dối trá của Thiếu Quân mà thân vùi đáy mộ, không hề bổ ích gì. Ngụy Thái Võ tin theo thuyết của Khấu Khiêm Chi, dựng xây thiên cung Tónh luân, phế sạch nhọc người, cuối cùng thân mang bệnh hủi. Chu Võ Vương miệng uống đơn dược, thân mặc áo vàng, nóng phát Tấn Dương thất âm mà chết. Đường Võ Tông bắt chước Triệu Quy Chân ngậm thuốc kim đơn, trong khoảng niên hiệu Hội Xương bất mãn sớm dẫn đến vong thân. Gần đây, Tống thượng Hoàng tin Lâm Linh Tố đi đến nguyệt cung, tụng chương Thái cực, đeo kiếm đuổi tà ma, mất nước phá nhà thân chết tại Đông Hàn. Số các vị Quân vương này, đều nghiêng thành một chí trông hưởng ngàn năm, mà gặp hoạn Di Lưu, cuối cùng không một kinh nghiệm. Chê cười vì nạn giao thuyền, không phải là vọng tìm lỗi người ư! Mừng vui khi thấy người gặp nạm, bậc quân tử chẳng làm vậy. Ngụy Bày: Trước Sau Lão Quân Giáng Sinh Chẳng Đồng. Trong Hóa Đồ thứ nhất nói: “Lão Tử sinh trước Năm Vận. Trong Hóa Đồ thứ hai nói Lão Tử sinh trong Hạ tam khí. Trong Hóa Đồ thứ sáu nói Lão Quân họ Lý; Húy là Hoằng Nguyên Diệu linh; tự Quang Minh, lấy niên hiệu Thượng Hòa thứ bảy - vào giờ Mão, ngày mồng ba tháng chín năm Canh Thìn. Lúc mới sinh ở trong hang Lý Cốc, núi Thiên cương Linh Cảnh, phía Bắc nước Huyền Ngọc. Vào đêm Huyền Linh thánh mẫu sinh ra, có ba mặt trời mọc ở phía Đông, chín con rồng phun nước, Nguyệt Phi rải hoa, Nhật Đồng tụng mây mầu. Đến năm năm tuổi thể đạo ngưng chân, năm hai mươi tuổi có dáng dấp vàng ngọc, lìa bỏ gia đình; xa lìa người thân, dấn bước phong trần. Sau cảm được Nguyên Thỉ chỉ dạy, trao cho Uất Nghi, Thái Chương, Thái Đấng chân kinh. Tử vi Thiên đế Ngọc Thanh Quân đem xe quỳnh xuống đón rước, ban cho ấn đỏ phù thư, làm Thượng Thanh Kim Quyết, sau Thánh Đế Quân nắm giữ mười trời, thần tiên sông biển. Trong Hóa đồ thứ 11 nói: ngày mồng một tháng bảy niên hiệu Thanh Hán thứ nhất, Lão Quân gá thần ở Huyền thần Ngọc Tinh, giáng sinh ở Thái Nguyên Ngọc Nữ một ngàn ba trăm năm, hiệu là Vô Thượng Lão Tử, hiệu khác là Đại Thiên pháp Vương. Trong Hóa Đồ thứ 12 nói: niên hiệu Thanh Hán thứ nhất, Lão Quân gá ở Cửu Thiên Phi Huyền Ngọc nữ trong tám mươi mốt năm, hiệu là Cao Thượng Lão Tử. Trong Hóa Đồ thứ 13 nói: niên hiệu Thanh Hán thứ nhất, ngày mồng chín, tháng chín, năm Giáp ngọ, Lão Quân giáng ở Nguyên Tố Ngọc nữ bảy mươi ba năm, hiệu là Cửu Linh Lão Tử. Trong hóa đồ thứ 10 nói: Đời vua thứ mười tám nhà Ân, tức Dương Giáp, tháng năm năm Canh dần, Lão Tử vào trong miệng Huyền Diệu Ngọc Nữ tám mươi mốt năm, đến niên hiệu Võ đinh thứ 0 9 - ngày 15 tháng 2 năm Canh Dần, Thánh mẫu vạch hông bên trái, vịn cây lý mà sinh, vừa mới sinh, liền đi 09 bước, dưới mỗi bước chân có mọc hoa sen, có chín rồng phun nước, có bảy mươi hai tướng tốt tám mươi mốt vẻ đẹp, tay trái chỉ lên trời, tay phải chỉ xuống đất mà nói: trên trời dưới trời, chỉ có đạo là cao quý hơn cả, ta sẽ mở mang đạo pháp vô thượng, độ khắp tất cả”. Lại nói rằng: Lý Linh Phi đắc đạo tu sinh, trời Chân Thê, họ Thủy y ở Lệ Hương nằm ngủ ban ngày, thấy Thái Thượng từ trên trời bay xuống, hóa thành Huyền Châu, bèn ngậm mà có thai, tám mươi mốt năm, vừa mới sinh ra mà đầu đã bạc trắng nên gọi là Lão Tử. Sinh dưới cây lý, tức chỉ “Lý” là họ. Biện luận rằng: Phàm sao chuyển động suốt mão, thật nêu điềm lành của văn mạng (= văn vương) điện chớp sao rơi, là hiện niềm vui của Hiên Hoàng, cầu vòng chuyển động bãi hoa; Sa Hạo bấy giờ ứng kỳ, Tinh Quan Nguyệt Luân; Chuyên húc vì thế ứng theo điều lành. Xích Long bịt mắt nói biểu thị vua Nghiêu, mây nhóm nung nấu, thật bày Hán Tổ. Đó là các thứ Thần dị của bậc Thánh, trong các tờ gia phả đều ghi rõ. Chưa nghe việc Lão Tử mới sinh ba ngày cùng đi khắp chín bước, Nguyệt Phi rải hoa, Nhật Đồng tung mây mầu. Vả lại, sao rơi như mưa, mặt trời có nhật thực, trong sách xuân thu cho đó là việc lạ. Lý Nhó nếu có hiện điềm, vì sao Khổng Tử không ghi chép ư? Thêm nữa, Lỗ Dương khua gươm mà trái mặt nhật. Hoài Nam Tử có cảnh công khéo nói mà hết hoa mắt (Lưu Hướng tân văn). Nhị sư rút kiếm mà suối chảy (trong Tiền Hán Thư), Cảnh Cung lạy xuống giếng mà nước tuôn (trong Hậu Hán thư). Nếu có tướng lạ, sách vở bàn luận tốt lành. Lão Tử đã không chữ nào, sự việc hẳn là nêu bày luống dối, dựa nhờ Đại thánh lấy làm thần kỳ. Phàm các bậc Thánh hiện tướng, tuy có nhiều đường, thác hóa; đản sinh, việc không hai thể. Đức Thế tôn có trăm ức hóa thân, khắp đại thiên thế giới đồng một lúc hiển hiện, hóa duyên đã xong thì nhập Niết-bàn, còn Lão Tử tùy thời đại mà giáng sinh. Vì sao sai lầm quá lắm vậy? Vốn là Lý Nhó vọng đổi húy của ông ta là “Lý”, Bá Dương mà gọi là Quang Minh. Che giấu tên gốc mà thêm danh hiệu đẹp. Trong “Sử ký chân văn” một từ chẳng chép, Đạo thư ngụy nói trăm thứ trang sức khỏa lấp. Hai Hóa đồ ở trước nói “sinh trước Thái Dịch”, mười lớp sau ghi là “sinh sau Phục Hy”. Tìm hư nhặt Ngụy, luống dối người sau. Trước nói: “Năm tuổi ngưng chân, hai mươi tuổi nhập đạo”, sau thì tám mươi mốt năm sinh ở Hạo Thủ, tự nói mâu thuẫn, đâu đợi người khác công kích. Lệ Hương ở Hào Châu thật mà chẳng nhận, phía Bắc nước Huyền Ngọc dối mà vọng truyền. Đam Nhó bạc đầu, lầm nói có bảy mươi hai tướng tốt. Giữa đồng phối hợp hoài thai, ton hót rằng đi chín bước. Lượm nhặt những điều hay trong Phật giáo lấy làm tướng lạ của Lão gia. Đem thứ Huân Du này làm xáo trộn Lan Chỉ kia. Chỗ núi biển phía Bắc nước Huyền Ngọc chẳng ghi, nơi Lý Cốc Thiên cương; Địa lý không rõ ràng. Vương Kiệm Bách gia (Thái úy Vương Kiệm có gia phả trăm nhà Hiền triết) chẳng nghe danh Ngọc Nữ, sao dòng họ uyển Hãn nói dòng họ Huyền diệu? Xét theo lời tựa bộ “Cao Đạo Truyện” của Đạo só Cổ Thiện Tường nói: “Bá Dương bắt đầu dấu vết từ Cơ Chu”, đã nói bắt đầu dấu vết từ Cơ Chu thì là Lão Tử, chẳng tại nhà Thương vậy. Rõ ràng thời của Dương Giáp vốn không có Lý Nhó. Khoảng thời Chu suy mới thấy Lão Đam (Hồ Hội nói rằng: bảy Hùng giáo mác loạn như mè, bốn bể không ai được ở nhà, Lão Tử lại nghó đi Tây Trúc, bèn nhờ từ giáp vượt sa mạc. Vậy, đã rõ là người ở cuối thời nhà Chu vậy) lánh loạn chạy đến đất Tần, chết an táng lành Hòa, Tần lén điếu viếng khóc than ba lần rồi ra. Đó là chứng cứ rành mạch, sao còn nghi ư? Trong sử ký bổn truyện chẳng biết cuối cùng ông mất ở đâu. Trong “Hoá Hồ lãng ngữ” nói vượt qua sa mạ, đem điềm lành của Đức Như Lai lúc đản sinh hợp với khí của Lão Tử qua ải, ông tuy khéo góp nhặt ngụy nói bày, có ai y cứ, theo “Đôn Hoàng Thật lục”nói: Chu Hoàn Vương năm thứ 39, may rảnh rỗi dự đình, cùng các quan đối luận xưa nay. Chu Hoàn Vương nói; “Lão Đam, cha là người như thế nào vậy?” Sách Hoãn trong Thiên Thủy Thái thủ đáp rằng; “Cha của Lão Đam họ Hàn, tên là Càn, tự là Nguyên Tỳ, bị gù lưng bại liệt, thấp kém nên thai không có tai, một mắt không sáng, cô đơn xin ăn, năm sáu mươi hai tuổi không có vợ, cùng người hàng xóm là Ích Thọ, trong nhà nuôi heo, Lão Lý Tử nói: “Tinh phu”, giữa đồng phối hợp mà mang thai, năm tám mươi mốt tuổi mới sinh ra đời. Lão Tử vừa mới sinh mà tóc đã bạc trắng, nên gọi là Lão Quân”. Đó vốn thật là dấu tích hèn tệ nên chẳng truyền bá, trộm cắp tài năng của người khác mà phô bày Lão Thánh. Nhà có chổi cùn mà hưởng ngàn vàng. Lời đó tin được ư ! <詞>Ngụy Bày: Ba Lần Thành Phật. Trong Hóa Đồ thứ 34 nói: Lão Quân nói với Hồ Vương rằng: kh- iến đệ tử ta thành Phật, ông phải bắt chước đó. Liền sai Y Hỷ biến thân thành Phật; làm thầy cho người Hồ. Bảo làm Tang môn, trao cho pháp của Phù-Đồ, giảng kinh Tứ Thập Nhị Chương. Lại nói rằng: “Lão Quân đến nước Xá-Vệ, tự hóa làm Phật, ngồi trên tòa bảy báu. Thân cao trăm ngàn muôn trượng đầy khắp hư không”. Lại nói rằng: “Lão Quân muốn chỉnh đốn lại Phật giáo, nên vào năm thứ 09 thời Chu Trang Vương, Phạm Thiên bảo vua phiền Đà (đệ tử của Lão Quân) nương nguyệt tinh gá vào thai của Phu nhân Ma-da ở Thiên Trúc. Đến ngày mồng 08 tháng 4 năm thứ 10, từ bên hông phải mà Đản sinh, sau vào núi tuyết tu hành sáu năm, thành đạo giống Phật-đà; các hiệu cuối của Mâu-ni. Đến năm Khuông Vương thứ tư, giải hóa mạng Thái Thượng, bay lên trời Cổ Dịch, làm Thiện Tuệ tiên nhân. Biện luận rằng: Phàm cây rễ sâu quả tươi tốt, nguồn xa dòng rộng dài. Hổ gầm gió động, rồng ngâm sương móc sinh. Các bậc Thánh lợi kiến đều có cội nguồn sâu xa. Ngày xưa gieo trồng nhân lành, nay được cảm diệu quả. Đức Phật Thế Tôn của chúng ta trong ba vô số kiếp chứa nhiều công hạnh, không bỏ Lục Độ mà cầu Bồ-đề. Vất bỏ thân mạng như cát sông Hằng, bỏ nước thành như số bụi nhỏ, trang nghiêm thế giới, dẫn dụ quần sinh, sau đó, ứng theo dự ký của Phật Nhiên Đăng, bổ xứ tiếp thừa ngôi vị của Phật Ca-diếp, hạ sinh ở xứ Trung Ấn-độ, thát hóa tại cung vua, bảy bước đi khắp, tay chỉ đất, tay chỉ trời nói chỉ riêng ta tôn quý, ba mươi hai tướng tốt sáng như mặt trời, mặt trăng, bốn vị Thiên vương uâng gót vượt khỏi bụi trần, sáu năm hạnh mãn mà thành đạo, hiện thân khắp trăm ức cõi nước, nói pháp suốt bốn mươi chín năm, truyền bá thanh giáo ở trời người, đuổi ngoại đạo nơi song thọ, việc hóa duyên hoàn tất; trở lại vô vi, ứng vật thích thời, thị hiện như thế. Đâu đợi Lão Tử bảo Y Hỷ biến thân? Lấp bít thần công người khác, khoe trương mình hơn! Đức Phật đản sinh vào thời Chu mục vương, Lão Tử ra đời thuộc triều Định Vương, đời cách mười bảy vị vua, năm xa hơn ba trăm năm. Việc giáo hóa đã cùng khắp thiên hạ, giáo hóa đã xong ở cung rồng, gia đình kính ngưỡng phong cách nhân từ, nước nhà tôn sùng khuôn phép họ Thích. Đâu nhờ Lý Nhó chỉnh đốn, Phiền-đà tái hiện ư? Vin trước bày sau, luống dối kẻ hèn ngu. Ngày xưa qua ải, nhờ Từ giáp mà làm theo, đâu có trời người hầu hạ che chở? Cỡi xe gỗ nai, đâu có tòa bảy báu? Trán rộng sứt tai, sao có thân cao muôn trượng ư? Xảo quyệt chẳng sửa, xem thường hiền thánh. Cá côn hóa chim bàng bởi duyên tự biến, rắn thích làm tró chẳng nhờ công người khác. Đó đều là vật lý tự nhiên, âm dương chiêu cảm, đợi thời mà phát, chẳng phải kẻ khác sai sử. Lão Tử vốn là người phàm, thân làm bề tôi, sao có thể riêng sinh thần thánh? Lại sai Y Hỷ làm Phật, tự mờ mịt tâm mình lại làm mù mắt người khác, bội lễ khinh mạn thánh hiền, ương báo rút lưởi. Tiên nhân Thiên Tuệ sắp lên Bát địa, gặp Phật Nhiên Đăng được thọ ký Vô sinh. Đó là hiệu của Đức Thế tôn ở đời quá khứ, đã là thành Phật đức công thành quả mãn, việc hóa duyên hoàn tất vào cảnh Niết-bàn, dời thần đến chỗ thường lạc, vónh viễn vào cảnh vô vi. Há có thể việc làm Phật hoàn tất trở lại làm tiên nhân Thiện Tuệ? Đem sau bày trước, một thứ lầm lạc. Vọng trộm chẳng thật, làm sai lạc sự thấy nghe của người. Làm trời, người tuy vui, nhưng cuối cùng cũng luân hồi, chẳng khỏi cái họa ba tai, khó trốn khổ khổ năm suy. Bậc Thánh vượt khỏi sinh tử, khổ vui đều hết, vượt cao đến bờ ba cõi, riêng bước ngoài cảnh sáu trần, sao trở lại cõi trời vào chốn huyên trần, tạp nhơ thánh nhân, khi thường Đại giác. Việc ấy giống như bỏ sự tôn nghiêm của vua mà mến thích sự thấp hèn của Tư Dưỡng, bỏ nhà lớn cao đẹp mà vui chòi tranh lụp sụp. Ông vui thích sự vinh hoa của Cổ Dịch, ta xấu hổ sự nhục nhã của đất phẩn! Ở đời nhà Tùy, quan đại thần Sở quốc Công Dương Tố đến Kinh Lâu Quán, thấy trên đường vách có vẽ tượng, bèn hỏi Đạo só ở đó rằng: “ấy là hình vẽ gì vậy?” - Đạo só đáp: “đó là hình vẽ Lão Tử giáo hóa người Hồ thành Phật”. Dương Tố nói: “tôi nghe Lão Tử giáo hóa người Hồ, người Hồ không tin nhận, Lão Tử bèn biến thân thành Phật, người Hồ mới tin nhận. Vậy thì thật có khả năng giáo hóa người Hồ, đạo không thể hóa, sao nói Lão Tử giáo hóa người Hồ vậy?” Vị đạo só không thể trả lời: lành thay, lời của Dương Tố. Đó là cách biện luận của người thông minh. Nếu người Hồ trước không biết có Phật, há chấp nhận sự giáo hóa của Phật ư? Lấy đó để khảo sát thì ở Ấn Độ trước đã có Phật vậy, thế mà nói là Y Hỷ thành Phật, Lão Tử mới biến. Sau khinh thường chúng tôi quá vậy? (Lâu quán là nhà xưa của Y Hỷ, ở phía Nam ải, hiện nay đạo só vẫn còn ở tại đó). <詞>Ngụy Bày: Mạo Danh Tiến Thánh Trong hóa đồ 48 nói: thời nhà Thương, quan Thái Tể hỏi Khổng Tử rằng: “Phu Tử có phải là bậc Thánh không?” - Khổng Tử đáp: “Thánh thì Khâu tôi đâu dám, nhưng Khâu tôi thì học rộng biết nhiều vậy?” - Thái Tể hỏi: Tam Vương là bậc Thánh phải không?” - Khổng Tử đáp: “Tam Vương là những người khéo léo trí tuệ mạnh mẽ, còn phải thánh không thì Khâu tôi không biết”. Thái Tể hỏi: “Ngũ Đế có phải là bậc Thánh không?” - Khổng Tử đáp: “Ngũ Đế là những người khéo léo nhân nghóa, còn có phải thánh không thì Khâu tôi không biết”. Thái Tể hỏi: “Tam Hoàng có phải là bậc Thánh hay không?” - Khổng Tử đáp: “Tam Hoàng là những người khéo léo, nhân thời, còn có phải là Thánh không thì Khâu tôi không biết”. Thái Tể lấy làm lạ hỏi: “Vậy thì ai là bậc Thánh ư?” - Khổng Tử nhíu mày giây lát nói: “Khâu tôi nghe người ở phương Tây có bậc Thánh, không trị mà chẳng loạn, không nói mà tự tin, không giáo hóa mà tự thực hành. Rộng rãi thay! Chẳng thể gọi tên, Khâu tôi nghi đó là bậc Thánh”. Trong “Tử Chí kinh” nói rằng: “Khổng Tử ở nước Lỗ, nhìn về đất Lạc Dương của Chu, nên thuộc về phương Tây, là chỉ Lão Tử tức bậc thánh ở phương tây vậy. Lúc Khổng Tử hỏi về Lễ, trước hết có khen ngợi của Do Long, nên ở đây chỉ cho Lão Tử vậy”. Biện luận rằng: Phàm tự khoe tự mưu là hạnh xấu của người nữ, chẳng ghét chẳng đánh là điều hay của bậc Thánh. Vì vậy, vua Thuấn tốt lành, vua Vũ công lớn, mừng có hun đúc mà chẳng cạnh tranh, Khổng Tử xứng danh, Mạnh phản lại (phản của Mạnh) còn lui về mà sống đơn sơ, cho nên tiếng thơm vang mãi ngàn thu, gương sáng nhún nhường soi khắp bốn bể. Trích dẫn trên đây thấy ghi rõ trong thiên “liệt tử Trọng Ni”. Xưa nay, các luận thông thường đều cho rằng đó là lời Khổng Tử suy tôn Đức Phật là bậc thánh ở phương Tây (biểu tấu của pháp sư lâm đời Đường đối biện trước vua Thái Tông, Trương thừa tướng soạn hộ pháp luận đều dẫn văn đó, là Phật tức bậc Thánh ở phương Tây vậy). Chứ không nghe nói Lão Tử ở đất Chu, còn Khổng tử ở nước Lỗ nên chỉ Lão Tử là bậc Thánh ở phương Tây. Trộm danh mạo thánh, sao xem thường ta quá, tiến bậc Thánh là kẻ vô trí bất nhân nói lời trái lý. Vả lại, tổ của nguồn đạo pháp xuất từ hoàng đế, chẳng can hệ gì đến Lão Tử, Lão Tử bắt chước Dung Thành Tử diễn bày năm ngàn bài văn. Giả sử nói Thánh cũng chưa thể vượt qua Hiên viên. Tam Hoàng Ngũ Đế, Khổng tử chẳng suy tôn là thánh, trái lại chỉ Lão Tử mà cho là bậc Thánh, cũng chẳng sai lắm ư? Đức Thế Tôn Công tròn muôn hạnh, quả chứng mười thân, sáng soi khắp các cõi nước như bụi, phân thân cùng các cõi nhiều như cát, chẳng thể lấy việc người mà suy lường được, cũng chẳng thể lấy nơi chốn mà tìm cầu. Thật là bậc đạo sư của ba cõi, là cha lành của bốn loài sinh. Trong cõi trần hoàn riêng bước, làm vua pháp trong các vị vua, riêng vượt lên cõi thế, một mình tôn quý, là đại thánh trong các thánh. Nên có khả năng mở rộng trường giác ngộ, uy đức khắp muôn nước. Giả sử Chu Công Đán có thể chế Lễ làm Nhạc, Khổng Tử thuật lại Chu Dịch, sinh định kinh thi, văn chương cua Bốc Tu, tài nói năng của Đoan Mộc, tài biện bác của Mã Tiên, khả năng cai thông của Cát Hồng, Huyền Đàm của Phụ Tự, thần hóa của Tả Từ, đều chỉ rong ruổi trong địa vức, lời chưa thể vang khắp phương xa, có thể là cao lưu trong thiện thế, khó thể làm bậc thánh xuất trần. Xét lại Thiên Trúc là nơi của các bậc Thánh, là chỗ các bậc hiền nhóm tụ, trong quá khứ, các Đức Phật đều đản sinh ở đó. Trong “Phạm Hoa Hán Thư” (Hậu Hán Tây Vức truyện sử luận văn) nói: “Nước đó thịnh như Trung Hoa, Ngọc chúc hòa xướng, chỗ linh thánh giáng sinh nhóm họp, nơi Hiền Ý đản sinh, cho nên thuở xưa, bậc Hiền Năng thường đến đó”. Trong “Lão Tử Tây Thăng” kinh nói: “Nghe nói ở Tây Càn (= trời Tây) (được đổi thành khai đạo ở Trúc Càn) có Cổ Hoàng tiên sinh khéo vào vô vi, không đầu không cuối, tồn tại mãi mãi. Vì vậy, nên ta đi đến Tây Càn”. Lại nữa, trong “Hóa Hồ kinh bản xưa” nói: “Ta sinh sao muộn vậy, Nê-hoàn sao sớm thế! Chẳng thấy Phật Thích-ca, lòng rỗng không buồn bã”. Đó là Lão Tử tự chỉ Phật là bậc Thánh ở phương Tây vậy. Lại nữa, Hoàng Đế nằm mộng thấy đến nước Hoa Tế, nước đó ở phía tây Yểm Châu. Vương Thiều chú thích “Đó là chỉ thiên trúc ở phương Tây”. Lại nữa, thời Chu Mục Vương nghe nói ở phương tây có bậc đại Thánh ra đời, trong lòng đất lo sợ, bèn sai Tháo Phụ cỡi ngựa Hoa Lưu là một trong tám con ngựa giỏi, thẳng đến phương Tây, lên núi Côn Lôn xem chỗ mặt trời lặn để yếm khí đó. Lại nữa, ở tây Cực có Hóa nhân đến, hay dời trời đổi đất, thánh lực vô phương, ngàn biến muôn hóa không thể cùng cực. Mục Vương kính trọng như thần, bèn xây dựng Trung Thiên Đài để ở. Hóa nhân dẫn thần thức Mục Vương đi, chỉ trong chốc lác mà đã như mấy năm. Lại nữa, năm thứ 52 thời Chu Mục Vương, Đức Thế tôn diệt độ, ở phương Tây có mười hai vòng cầu vồng, nối liền nam bắc, suốt đêm không tan. Vua hỏi thái sử Hỗ Đa: “Đó là điềm làm gì?” - Hỗ Đa đáp: “Ở phương Tây có bậc đại Thánh, suy tướng hiện vậy”. Mục Vương vui mừng nói: “Trẫm thường sợ ở đó, nay không còn lo nữa vậy”. Vậy thì Trúc Càn; phương trời thù thắng, bậc Thánh ở đó, nên được Hiền Vương đi đến phương Tây mong thỉnh cầu hóa nhân đến phương Đông. Lại nữa, Trương Khiên vâng phụng đi sứ phương Tây khắp cùng Hà Nguyên, đến nơi Đại Hạ, nghe nói phía Nam núi Tuyết có nước Thân- độc, người ở đó kính thờ Phù-đồ (= Phật-đà) nên không giết hại, cỡi voi mà chiến đấu. Thân-độc tức là Ấn-độ ngày nay vậy. Thế thì phong hóa nhân từ, rõ ràng trong Hán Sử vậy. Các trích dẫn trên đều chỉ Ấn-độ là phương Tây, Phật sinh ở đó, nên chỉ Phật là bậc Thánh phương Tây. Đâu nói Lạc Dương cho là phương Tây. Vậy Lão Tử là bậc Thánh ư? Lại nói rằng: “Khổng Tử trước có khen ngợi Do Long, nên Thánh đức ở đây chỉ cho Lão Tử vậy”. Ý muốn đem việc Khổng Tử hỏi lễ, bèn cho là đệ tử của Lão Tử. Khổng Tử nói: Ta không có thầy thường, chủ yếu lấy điều thiện làm thầy, ba người cùng đi chắc chắn trong đó có thầy ta”. Nên học đàn cầm với Sư Nhượng, hỏi Nhạc với Trành Hoằng, hỏi việc quan với Đàm Tử. Vào Thái Lang mỗi mỗi việc đều hỏi. Có khi hỏi về cách thức cấy lúa làm ruộng, nói rằng: tôi không bằng người Nông dân. Có khi hỏi về cách thức trồng rau làm vườn, nói rằng: tôi không bằng người làm vườn. Điều đó nói lên Khổng Tử muốn nhận lấy điều thiện, hết lòng đối với đạo vậy. Đâu phải có một việc là muốn làm thầy ư? Bởi vì lúc bấy giờ, Lão Tử làm quan Thủ Tạng, coi xét lễ điển của Chu Công, nên Không Tử hỏi về lễ, nếu vì hỏi lễ, mà Lão Tử làm thầy của Khổng Tử thì người làm ruộng và người làm vườn cũng là thầy của Khổng Tử ư? Chắc chắn không phải vậy. Bán danh khoe đời, mong làm thầy người, bậc quân tử không làm như thế. <詞>Ngụy Bày: Hợp Khí Thành Đạo. Trong Hóa Đồ thứ 23 nói: ngày 12 tháng bảy năm thứ 23 thời vua Chiêu Vương nhà Chu, Lão Tử đến ải Hàm Cốc, Y Hỷ đã thấy ung dung trở về nhà cũ, nói đạo đức kinh, gồm hai thiên, hơn năm ngàn lời. Y Hỷ cúi đầu nói: “Xin trao cho yếu nghóa ấy”. Lão Quân nói: “Khéo vì hiểu yếu nghóa của đạo đức và nói: đạo là Nê-hàn, Nê-hoàn là đức của trời vậy. Lý ở trong đầu người. Tử khí giáng xuống, xuống đến đơn điền. Danh đổ nghóa là lá lách, lá lách là trung hoàng thái nhất vậy. Hoàng khí vận chuyển trong lý trung cung, mẹ của muôn vật chính là đơn điền vậy; đơn điền huyền tẫn vậy, ở trong hạ nguyên. Lúc nửa đêm, một khí giáng xuống, khắp cùng ba cung đồng xuất mà khác tên gọi là tinh vậy. Một là tinh, hai là mồ hôi, ba là máu, bốn là nước dịch nên gọi là tên khác. Huyền lại thêm huyền, nghóa là hai quả thận bên phải bên trái. Cửa của các diệu, đạo có thể nói; nghóa là sáng sớm ăn thức ăn ngon, chẳng phải là thường đạo; nghóa là chiều tối trở thành phẩn tiểu. (Đây là y theo Trương Đạo Lăng giảng giải, Trương Đạo Lăng nói như vậy), có vô tướng sinh ra, nghóa là miệng và bụng, khó dễ thành cho nhau, nghóa là tinh và khí vậy. Đó là Lão Tử trao cho Y Hỷ tiết yếu vậy. Lại trao cho Y Hỷ thần đơn kinh, Kim Dịch kinh và bí quyết tám lần luyện chín lần trở lại đơn phục hỏa. Ở đó nói: kim Dịch Hoàn đơn, tiên hoa chuyển động bay cao, mây liệng quanh lên trời, hợp khí thành xích hoàng (= đỏ, vàng) trong khoảnh khắc sẽ được phân loạn trống mái. Châu có thể đằng biến, cho đến hành trì Linh Đồng Ngọc Nữ. Ta vì thế vào ra không gián đoạn. Thiên Đồng phù chân tinh ngưng sương khéo chìm nổi. Ông hãy quý kính đó chắc chắn trở lại nhàn tản. Lại trao cho tên của Cửu Đơn và ca rằng: Tròn ba năm ( 0 3 - 05) Tấc một phân Miệng bốn tám Môi hai tất Dài hai thước Dầy mỏng đều Bụng ba ngang Ngồi rủ ấm Âm ở trên Dương buông dưới Đầu đuôi võ Ở giữa văn Thỉ bảy mươi Chung ba tuần Trong hai trăm Khéo điều quân Âm lửa trắng Vàng quặng chì Hai gom nhóm Giúp đỡ người Ông ở cung Được yên ổn Nhàn tới lui Không ra cửa. Biện luận rằng: Đạo quý ở chỗ thanh tịnh, đức chuộng ở chỗ vô vi. Điềm đạm trong giữ, nhún nhường giúp tự chăn, chẳng nương đạo ấy riêng xướng nhiều mối, chỉ lấy hành khí vận công mà cho là tu dưỡng, mất thuần túy của đạo đức, trái với cửa mầu tự nhiên, hư bày lời xảo, vọng thêm xuyên tạc, bảo Đơn Điền là chí đạo, giữ gìn hai quả thận là Trọng Huyền, bỉ uế thô phù, luống dối làng xóm, bọn Vương Kiều tiện môn chẳng ưa phương ấy, kẻ đá trắng thông đỏ không nương đạo này. Đơn kinh, bí quyết luyện chẳng thấy lâu năm, ăn bánh thơm ngon, ít gặp lâu thấy. Chu Võ uống đơn mà câm ngọng, Đường Võ uống đơn mà chết sớm. Lầm kẻ khác có ít nhiều hiền lương, chẳng giữ ý chỉ của Lạc Thiên. Đã là đạo đức chân thật quyết lý cùng cực ở đây, thì trong đạo tạng các văn khác chẳng đáng quý, các đạo só ngày nay lại ưa thích các thuật nông cạn, hoặc có nâng loan mà loạn sách, chỉ tham uống đêm, hoặc có đuổi tà mà đoạn quỷ, dối người trừ hung. Hoặc có câu thúc quanh tường mà trong giữ, đó gọi là tọa trì, hoặc có khi tiếc lời nói mà chẳng thực hành, đó gọi là si mặc, hoặc có gấu kinh mà chim dẫn, bắt chước Bành Tổ mà sánh vai, hoặc có uống khí mà dứt thần, bắt chước rùa hạc mà lão thọ, hoặc có khi vận tinh mà lên não, đó gọi là xe kéo sông. Hoặc có khi làm đơn điền bền chắc mà trong bít, đó gọi là bảo dưỡng, hoặc có khi hợp khí mà làm đạo, cha con nhóm bụi, hoặc có khi đoạt tinh mà nhặt thần, nam nữ lẫn lộn, gõ răng, gọi đó là trống trời. Nuốt nước dãi gọi là rượu bọt, gọi nam căn là Kim hành, chỉ làm cho cứng mạnh, gọi Nữ Khiếu là Ngọc Hộ, tiềm ẩn tên xấu, gọi Đồng Nữ là Chân Nhân, gọi Giao Cấu là rồng cọp, Anh nhi Xá nữ luyện đan sa thủy ngân. Nên nói: mở cửa mạng, ôm Chân Nhân, đứa trẻ đoái nhìn rồng cọp đùa vui, ba năm bảy chín thiên la địa võng, nên trong hoàng thư, Trương Đạo Lăng nói: “nam nữ có pháp hòa hợp, ba năm bảy chín là đạo giao tiếp”. Đạo ấy thật bí quyết ở đan điền, tức ngọc môn vậy, chỉ lấy cấm kî làm việc gấp, không cho tiết ra nơi đạo lộ, đạo lộ là lỗ tiểu. Thêm nữa, triều luật trong Đạo gia” nói: lễ pháp nam nữ đến ngày mùng 1, 15, hầu thầy vào phòng riêng, đến chỗ thầy lập công đức, âm dương đều dâng, ngày đêm sáu thời thường lập công đức. Không được mất bày của kẻ hầu ở trong, không được tham ngoại đạo, bỏ mất đạo ngự trị bên trong, không được lấy trước bày sau, bỏ mất thứ lớp, cũng không được ghét xấu, ưa tốt. Lại nói rằng: vào ngày mùng 1, 15, hầu thầy trong phòng riêng, tình ý gần nhau, nam nữ giao tiếp, khiến bốn mắt hai mũi trên dưới đối nhau, hai miệng hai lưỡi kia đối nhau, âm dương đã tiếp tinh khí liền thông, nên Lão Tử nói rằng: Thầy ta dạy ta Kim Đơn kinh Bảo ta chuyên tâm dưỡng Ngọc Hành Ba năm bảy chín hoàn âm tinh Hít thở Ngọc trì nhập Huyền Minh Hành đạo bình đẳng lên Thái Thanh. Các ca quyết này, nghóa đồng như thế, đem sự trai gái qua lại ấy cho là chân tu, chẳng nghó lời quy căn phục mạng, chỉ hành thuật hợp khí thấp hèn, lấy đó cầu đạo, uổng hại nhân luân, lấy đó để siêu thăng, trọn đời không thể được, lấy đó để diệt tội, tội chẳng thể tiêu, lấy đó để dứt tai, tai không thể lùi, lấy đó để cầu phước, khước không thể sinh, lấy đó để xuất gia, nhà phiền não không thể ra khỏi, đâu khác gì nấu cát muốn thành cơm, chỉ luống mệt nhọc, trong gương tìm hình thật không bao giờ được! Than ôi! Bỏ ngọc ngựa ô mà lượm vòng đá vụn, hạ đảnh mà tiện khang, tự làm sai lầm, làm kẻ khác sai lầm, chết chìm biển khổ. Thương thay! Thương thay! <詞>Ngụy Bày: Trộm Thần Hóa Của Phật Trong hóa đồ thứ 42 nói: Lão Tử đến nước Ma-kiệt hiện tướng ít có để giáo hóa vua xứ đó, đặt ra tên gọi Phật giáo gọi là thanh tịnh, Phật hiệu Mạt Ma-ni, đến nước Xá-Vệ, tự hóa thành thần từ trời mà xuống, người trời theo hầu, hiện thân cao trăm ngàn muôn trượng. Lại đến nước Kế-tân hàng phục Hồ Vương và Vương Tử, lửa không đốt cháy được, vạc sôi không nấu được, nước không nhận chìm được, Hồ binh có trăm muôn, cung tên kiếm kích đồng một lúc bắn xuống, chớp bay tám đường như sấm sét, người ngựa sợ ngã. Bắc Quách tiên sinh từ không trung tụng tán. Lại nữa, đến nước Điều Chi, tay đánh tan núi lớn. Đến Câu-tát-la, hàng phục chín mươi sáu thứ ngoại đạo. Đến nước Ca-di-la, tay trái nắm mặt trời, tay phải nắm mặt trăng giấu ở trong đầu, đất trời tăm tối, núi bay đá nứt, sông biển chảy ngược dòng, núi sông không hành. Lại đến Vu-điền, ở núi Nam Cự chỉ dạy Hồ Vương. Bảo Y Hỷ hóa thành người vàng, thân cao trượng sáu, vầng ánh sáng tròn bao quanh, chân đứng trên hoa sen từ không trung xuống lễ bái. Lão quân bảo Hồ Vương rằng: Đệ tử của tôi đây là thầy của ông. Lại để lại thần khiến được pháp vị. Lại ở thành Tỳ-ma, đất biến thành sắc vàng, phát ra ánh sáng chín màu chiếu khắp các cõi nước nhiều như cát bụi, liền có Xích linh Chân Nhân, Trung hoàng trượng Nhân, Thái nhất chân quân, Cửu Kinh lục đỉnh, Bát quái thần quân, Thanh Long bạch hổ, Ngọc Nữ rải hoa, ngồi trên mây nổi bay đến. Lão Quân ngồi trên tòa bảy báu, đốt hương do trăm thứ hương hòa lại, tấu trỗi nhạc trời. Lại có các vua, cung phi hoàng hậu của hơn tám mươi nước đều đến nghe pháp. Để Y Hỷ ở lại làm Phật và để bát ở thành Tỳ-ma. Lại bay lên trời. Lão Quân lại đến thông lãnh hàng phục rồng dữ, đi khắp năm xứ Ấn-độ ở núi Kỳ-xà, dưới cây độc mộc hóa thành tòa ngọc, cùng vua nói Phù-đồ để độ tạng môn, có hai ngàn năm trăm người thọ giới luật. Lại trong Hóa Đồ thứ 66 nói: Các chùa ở thành Tỳ-ma nước Vu- điền là nơi Lão Quân giáo hóa người Hồ thành Phật. Ở đó có cây cột đá ghi khắc việc ấy rằng: “Có vị Thánh ở phương Đông, hiệu là Lão Quân đến giáo hóa nước ta”, phía dưới vẫn nêu tên tám vị Học só bàn chứng sự tích ấy. Biện luận rằng: Căn cứ theo Hậu Hán, Tây Vực truyện, Tam Quốc Chí, Ngụy Tùy Thư, Tây Vực Chí (Đồ sáu mươi quyển, Chí bốn mươi quyển, công chung thành một trăm quyển, tức Tây Vực Chí) đều ghi ở trời Tây năm xứ Ấn-độ có Thánh tích của Phật. Hoặc cột hoặc trụ đều khắc việc ấy, không nói Lão Quân có để lại tên gọi. Đầu tiên, Trương Khiên đến phương Tây mới truyền danh hiệu Phù-đồ, đến đời nay, sứ của nước qua lại gồm cả trăm người đều không thấy thuyết của Lão Quân đến phương Tây giáo hóa. Xưa kia, Cốc Hoàng Đế tây chinh tận biển, chỗ đất Ngài đến chỉ có Phật tăng gần Tây Bắc biển, có một cõi nước, trong thành tháp Phật trang nghiêm như rừng. Nước đó, Quân Vương chỉ là Hòa-thượng. Lại nữa, vào đời Đường, Vương Huyền Sách vâng lệnh đi sứ sang phương Tây, đến nước Ma-kiệt-đà, vào núi Kỳ-xà-quật và nơi Phật thành đạo, đều thuật bi minh ca ngợi sự giáo hóa của Phật thánh, không nghe nói có sự tích của Lão Quân (Bia Ký ca ngợi nói trên trong truyện Vương Huyền Sách). Lại nữa, cư só Trạm Nhiên theo cùng Thái Tổ tây chinh Vu-điền và nước Khả-phất-xoa. Vượt Thiên Sơn qua Tuyết Lãnh, phong hóa đều rõ ràng cũng chưa biết có sự tích của Lão Tử. Ngày nay, đại vương Hú Liệt là em ruột của hoàng đế Đại vương trấn giữ Tây Vực, tại đó đi lần về phía Tây nam và phía Nam núi Tuyết, sứ mạng đến đi qua lại không dứt, hỏi thăm về việc giáo hóa của Lão Tử đều nói không nghe, vậy thì thần dị của Lão Tử là trong đạo thư ngụy bày. Đã không luận bàn thông suốt, đâu đáng tin ư? Phàm hiển bày là rõ được thần thánh đến con người. Chuột trộm chó cắp, trẻ con gian xảo quỷ quyệt. Vả lại, sự lập giáo của bậc Thánh là, từ gần mà cảm hóa sau đó mới đến xa. Nên sách bắt đầu từ Thạnh Đức của vua Nghiêu, trước gần chín họ, sau mới bình trị bá tánh, bá tánh rõ ràng, sau đó mới hiệp hòa cả muôn bang, nên có thể sáng soi bốn bể phô bày khắp trên dưới. Đức Như Văn Vương trước hình phạt từ vợ con, sau mới lắng trong bốn biển, nên phương xa kính mến chín dịch mà đến. Lúc Lão Quân làm Trú sử, Chu Đạo không lớn mạnh, các nước chư hầu chuyên quyền, quan đại phu chấp chính, trên lấn lướt dưới chiếm đoạt, khắp các châu thổ ngày một bức ngặt. Lý Nhó đã có thần thánh, liền hợp nhau cứu giúp suy đồi yếu kém làm cho nước giàu dân an, làm cho vua tôi mỗi vị không tiếm đoạt nhau, sao lại bỏ xa cửu châu một mình trốn đến phương Tây? Nếu ngay ở nhà quê mình hiển hiện được linh dị, thì chín họ rạng rỡ, một cửa mừng vui, vậy chẳng là mầu nhiệm ư? Mà suốt tám mươi bốn năm không một điều lạ lùng, nhờ người giá xe đi đến phương Tây vượt ải Hàm Cốc, thân chết tại Phù Phong (ngày nay tại làng Hòe thuộc Phù Phong có phần mộ của Lão Tử), Ngụy nói đi về phía Tây mới đặt chân tới Khương Hồ, tức là có thần thông, trong Thần châu vốn hoàn toàn chẳng hề có một ứng nghiệm, chỗ không người thấy chỗ bèn tung tin lắm điều, trộm cắp năng lực cao siêu của Phật, khéo nói xuôi theo, sự Thần dị của Phật, kinh điển ở phương Tây ghi đủ, nay có thánh tích. Lão quân linh biến sao sách sử phương Đông chẳng chép? Lấy đó để nghiệm rõ sự luống dối, thật đã thấy vậy. Hỡi các bậc quân tử có mắt sáng! Hãy lắng nghe căn do: Đức Thế tôn lên tầng trời Đao-lợi, vì báo ân mẹ nên nói pháp ba tháng. Lý Nhó cũng phỏng theo đó mà lên Thái Cực, Đức Thế tôn thành Phật không rời cây Đạo mà lên sáu tầng trời Dục, Lão Tử mô phỏng theo cũng lên chín tầng trời. Đức Thế tôn ngồi dưới cội Bồ-đề, thị hiện hàng ma, cung tên đều biến mất. Lão Tử cũng bẻ gãy kiếm kích. Đức Thế tôn đi đến nước Câu-thi-na, giữa đường nâng tảng đá lớn. Lão Quân cũng đẩy ngọn núi lớn. Đức Thế tôn nói kinh “Đại Tập” đồng thời nhóm họp các vua. Lão Quân cũng hội hơn tám ngàn nước. Đức Thế Tôn đi đến phương Bắc nhiếp phục Long Vương Abala và để lại hình bóng. Lão Quân ở núi tuyết cũng hàng phục rồng dữ. Trong kinh “Bản Hạnh” Đức Thế Tôn nói có chín mươi sáu thứ ngoại đạo. Lão Tử cũng hàng phục chín mươi sáu thứ ngoại đạo. Đức Thế tôn hiện năng lực thần thông rộng lớn làm cho núi Diệu Cao vọt lên, chìm xuống, ngửa lên, cúi xuống. Lão Quân cũng có núi bay, đá vỡ, sông biển ngược dòng. Đức Thế tôn để lại bát thần để phước cho chúng sinh, Lão Quân cũng để lại bát thần. Đức Thế tôn từ hông phải sinh. Lão Quân cũng vạch nách trái sinh ra. Đức Thế Tôn đi đủ bảy bước nói lên tròn đầy bảy thánh tài. Lão Tử mới đi chín bước, vọng hợp số cực dương. Đức Thế tôn có ba mươi hai tướng tốt tám mươi vẻ đẹp. Lão Quân cũng có bảy mươi hai tướng tốt tám mươi mốt vẻ đẹp. Đức Phật nói hai thứ chân thân và ứng thân nói lên hai thứ quyền và thật. Lão Quân cũng nói chân thân và pháp thân. Phật nói: thân có bốn thứ, tức là pháp thân, báo thân (chia ra tự báo thân và tha báo thân) và hóa thân. Lão Quân cũng nói: Hư Hoàng Nguyên Thỉ, Đạo quân và Lão Quân. Phật nói ba cõi. Lão Quân cũng nói Tam Thanh. Phật nói 3 luân trì thế. Lão Quân cũng nói ba khí hạ vận. Thanh Long, Bạch Hổ, Tương bỉ Kim Cương. Pháp sư Huyền trung cậy ở bậc Thánh, học thiền đình mà lập phương trượng, nương chùa Phật mà dựng pháp đường, cho đến các bài văn ca tán kệ tụng, các thứ trang nghiêm tiết lễ như chuông trống, vân bảng, cúng tế tiên linh ma chay đám đình, sám hối tiêu tai. Cửu u sám văn, hai mươi bốn nguyện giới (hoàn toàn y cứ Thập bất thiện pháp trong phẩm Nhập pháp giới của kinh Hoa Nghiêm mà tập thành). Xét thấy hễ thứ gì Phật có thì kia liền dựng lập, ở Phật nếu không có thì Lão cũng không chế, vậy thì rõ biết trăm thứ thiết lập hoàn toàn lấy từ cửa Phật. Đời đời xuyên tạc, người người vọng khởi. Vàng thau lẫn lộn, người trí khó phân, vốn muốn đổi thành để trang điểm nhà mình, hỗn độn đục khoét mắt tai đầy đủ, chân thần vùi lấp, vinh hạnh chân văn của đạo đức, thâu lượm hay dở ngụy bày, chiết trung giáo môn, tội ai chịu ư? Vả lại, Bắc Quách tiên sinh vốn hầu Hán Võ, nay theo Lý Lão càng thấy sau thêm. Thêm nữa, núi Nam Cừ và thành Tỳ-Ma vốn là Thánh tích Phật giáo, vọng hợp việc ấy khuất cùng phụ theo. Sợ mọi người không biết nay cũng xin nói rõ là căn cứ theo: “Tây Vực Ký” nói: “cách phía Tây nam thành vua nước Vu-điền hơn hai mươi dặm, trong núi Cù (nay đổi là “Cừ”) thất-lăng-già, có ngôi chùa, trong đó có tượng Phật thường luôn rực sáng. Xưa kia, Đức Phật đến đó lược nói pháp yếu cho trời, người nghe. Phía bên phải núi có một cái thất, hiện có vị La- hán nhập định diệt tận để đợi chờ Đức Từ Thị Di-lặc ra đời”. Thế thì Lão Quân chẳng biết vậy. Lại nói rằng: “cách phía Đông thành vua hơn ba trăm dặm, có thành Tỳ-Ma, ở đó có pho tượng Phật đứng được chạm trổ cao hơn hai trượng, rất nhiều điềm linh, thường phát ra ánh sáng, hễ người nào bị bệnh tật đến cầu nguyện thì liền hết. Tượng đó vốn do vua Ưu-điền tạo ra, sau khi Đức Phật diệt độ pho tượng này, vượt không trung đến đất phước này. Đến lúc giáo pháp của Đức Thích-ca diệt hết, tượng sẽ xuống cung rồng”. Lời bình rằng: căn cứ theo “Tây Vực ký” đó, văn nói rất rõ ràng. Thành tích của Phật mà muốn lấy làm thánh tích của Lão, các ông tuy khéo góp nhặt nhưng phải cân nhắc cho kỹ, xe bốn ngựa không thể chạy kịp tất lưỡi của người; ông nên ghi nhớ điều ấy. Nói tám vị học só bàn luận chứng nghiệm đều là người đời Đường. Song, Đường Thư Liệt truyện không có tên tuổi một ai, huống là những gì bàn luận chẳng đưa vào yếu sách. Tìm xét tới lui đều không chứng cứ, dù muốn luận biện rộng, cũng uổng phí từ chương. Đạo só hư bày chẳng nhọc phiền đầu mối. Tuy có người giữ nửa ngàn danh truyện, mà không có “Hóa Hồ kinh”, bàn luận rõ đó là ngụy kinh, xưa nay đều bác bỏ. Đời Đường, vua Trung Tông cấm nó ở đời trước (xem Lưu Hú cựu Đường Thư), nay vua Thế Tôn dứt nó ở triều sau (xem Ngộ Liễu Nhiên phá Hóa Hồ trạng). Nếu thật là chân văn, thì ai dám trừ diệt? Mà các Đạo só chẳng hay biết mãi nối gót theo dấu vết ấy, làm cho Lão Tử mang lấy tội tiếm thánh, khiến các đạo nhân chuốc lấy tội phỉ báng Phật! Vương Phù đã ở tại địa ngục, sử chí kinh lại gieo quanh nhà Lão Tử vốn muốn ẩn trốn, chí kinh đổi ra sân nhà, rũ bỏ bổn tâm về gốc, chuyển dòng sóng đến cõi khác. Chấp mê chẳng tỉnh lại, hư vọng bền bỉ khó trừ. Đồng như sự cứng ngắt của đá, dường như sự mê man của rượu thuốc. Nay đây, biện chiết cốt yếu để phá tâm cuồng, trở lại chánh đạo đến thuần nguyên, dẫn bọn tà đến đoạn đường bằng phẳng, biết đạo đức là lời của hiền giả, hiểu việc giáo hóa người Hồ là lời luận đàm của yêu quái, mở rộng phong cách khiêm nhường vắng lặng của Lão Tử, dẹp bỏ tệ hại của đạo só khoe khoang, đều tuân theo lời dạy ấy để đạo thanh nhã mãi hưng thạnh. Nếu chẳng được thế, lật xe cùng ấy vậy. Luận rằng: đại đạo truyền đến Trung quốc có hơn ngàn năm, suốt thời gian ấy các đời quân vương kính tin hay phá hủy, trải qua suy thạnh. Tà chánh tranh giành chưa từng thắng Phật giáo, mà đạo só làm tăng trước sau có đến ba đời. Đầu tiên, Hán Minh đế đêm nằm mộng thấy người vàng bay đến điện đình, trên cổ có vầng ánh sáng như mặt trời, bèn sai sứ đến phương Tây tìm cầu, Phật pháp từ đó mới truyền đến Lạc Dương, đã vẽ đồ ở trên gò hiển tiết. Thêm nữa, kinh dịch trong Thất Lan Đài mà các đạo só khoe trương tài năng muốn thích Bạc kỹ. Tôn giả Ma-đằng tạm hiền thần dị, không ai chẳng quy tâm, giáo điển của Phật luyện lại thêm tinh, kinh sách của Đạo bị đốt cháy hết. Do đó bỏ tà theo chánh, cạo tóc làm tăng. Ở thời Bắc Tề, Cao Tổ Văn Tuyên hoàng đế, đầu thành Phật lý rõ ý pháp môn, mà các đạo só không hiểu biết tha hồ làm theo sự tức giận riêng tư của mình, ánh lửa đom đóm muốn bít lấp ánh sáng đuốc rồng, Văn Tuyên xét thử, không một chứng nghiệm, chẳng lẽ Hoàng Thượng ban cho tấc đạo, đạo só Tu Tónh nạp khoản nơi cửa quan, cạo đầu bỏ mũ, tất cả đều làm tăng. Thánh triều ta; Mông Cổ hoàng đế, nhân sâu suốt thánh, thể đạo đa năng, mưu sáng quạt khắp tám huyền, uy tắc chiếm khắp muôn nước, lưu tâm trong Phật lý, hiểu khắp chánh tà, nghiên cứu thơ phù của Đạo giáo, thấu đạt yếu diệu của Thích Tông, trước tiên ban hành minh chiếu đặc cùng quét trừ, khâm vâng theo Thượng hoàng đế, bẩm chất thái dịch thái sơ, vốn linh của Thiên Hoàng, Thiên Đế, Đạo khế hợp với trăm vua, gieo thuần phong mà dưỡng đức, trí biết cùng muôn vật, mở rộng sửa trị để giúp thời. Như Ngọc Ma-ni đâu nhận mảy trần dơ uế, tợ gương hiên viên đâu chứa miếng bụi hoặc mờ? Nên hay không sáng tỏ độc đoán, lượng xét phải quấy, dứt trừ tiếng hư dối của đạo só, rõ biết thật lý của tăng đồ. Kính vâng tiên chế, lại cùng biện minh, vời cả hai tông để rõ ràng hơn kém. Cờ trận chưa giăng, hàm bích trở giáo. Không đàm mưu của Lục Thao, chẳng giúp cái mát mất của ba đời, cởi áo cạo đầu, giao hết cho cửa Phật. Bởi vì tà pháp dễ xô bỏ, chân này khó diệt. Nếu không qua sự luyện rèn sao hiển được vàng ròng? Yêu khí từ đó mà vắng bặt tiêu tan, mặt trời Phật từ đó chiếu sáng cao vời, giúp kẻ lạc đường từ đó trở lại nẻo chánh, kẻ biết vùi lấp chìm đắm biết được lối đi. Làm cán cân cho đời nay, để gương sáng cho đời sau. Chỉ có Phật giáo nhân từ vốn không cạnh tranh, bọn tà ngông cuồng hẹp hòi nói dối lắm điều. Vì các ông bất bình khiến tôi phân biệt. Nên Khổng Tử nói rằng: “hẳn là chánh danh vậy” tất tại đó vậy. Phàm Nho; Đạo và Phật ở đời gọi là Tam giáo. Nói về sự răn ác khuyên thiện thì cả Tam giáo đều có thể tuân hành, so về tông thú sâu cạn thì chẳng thể không có sự hơn kém. Từ đời Hán, đời Đường về sau, cố nhiên đã có lập luạân quyết định, không đợi người khác vọng sinh cao thấp. Phật giáo từ bi lấy lợi sinh làm gốc. Lão giáo khiêm nhường lấy xa rời tổn hại làm công. Nho pháp cứu dân lấy trung hiếu làm đầu. Trung hiếu được thực hành thì có thể đem toàn nước nhà đổi lấy thân mạng. Khiêm nhường được thực hành thì có thể cởi mở sự phân tranh, dứt trừ hậu hoạn. Từ bi được thực hành thì có thể cứu vớt sinh linh cùng tánh mạng. Ven theo từ cạn đến sâu, trong ngoài cùng cứu. Cũng như giữa trời có 3 thứ ánh sáng (mặt trời, mặt trăng và các sao) thay nhau chiếu soi. Đảnh có ba chân chung sức nâng đỡ. Nhưng mà Đạo giáo có lắm ngụy bày, riêng đề xướng khuôn phép, muốn khỏa lấp xưa nay, riêng vượt hẳn Nho giúp Phật giáo. Nhưng các bậc hiền triết trước sau mỗi vị đều có soạn sách, đều tuân theo Phật, chẳng nói Lão Thánh. Xét văn tự nghiệm, đâu cần gì phải tranh luận. Đức Khổng Tử nói với Thái Tể rằng: “Khâu tôi nghe phương Tây có bậc thánh, không trị mà chẳng loạn, không nói mà tự tin, không giáo hóa mà tự thực hành, người dân rộng lớn thay, rộng rãi thay! Chẳng thể gọi thay, không thể gọi tên (đây là xuất xứ từ thiên Liệt Tử Trọng Ni)”. Lão Tử nói: “Thầy ta du hóa Thiên Trúc, khéo vào Nê-hoàn (xuất xứ từ Lão đàm kinh). Đó là Khổng Tử, Lão Tử tôn xưng Phật là bậc thánh vậy. Phù Tử (tức Phù Lãng) nói: “Thầy của Lão Tử là Phật Thích-ca”. Mâu Tử thời Hậu Hán nói: “Phong hóa của vua Nghiêu, vua Thuấn, Chu Công, Khổng Tử, Lão Tử, Trang Tử so với Phật thì giống như kỳ lân so với nai trắng vậy”. Thượng thư lệnh Hám dịch nói với Ngô Chúa rằng: “Nếu so sánh Khổng giáo, Lão giáo với Phật pháp thì xa lại càng xa vậy. Tại sao biết thế? Vì Khổng Tử, Lão Tử lập giáo, là dựa theo pháp chế của trời, không dám trái với trời. Còn các Đức Phật lập giáo, thì các trời vâng làm không dám trái Phật. Do đó mà nói thì thật chẳng thể so sánh. Ngô chúa khéo thay thêm thái tử thái phó (xuất xứ cựu Ngô thư)”. Thời Bắc Tề Quang Lục đại phu Nhan Chi Thôi nói rằng: “việc ba đời của nhà Phật, tin mà có thể răn, muôn hạnh đều kết quy về không, ngàn cửa đều quy về thiện, đâu nhọc rộng rãi như lục kinh trăm họ ư? Nghiêu, Thuấn, Chu, Khổng, Lão, Trang chẳng bằng được”. Đời Đường, bí thư Giám Ngu Thế Nam nói trong “Đế ký sử luận” rằng: nghóa của Lão Tử là Cốc Thần chẳng chết, Huyền Tẩn còn mãi, Lâu xem trường sinh cỡi mây ngồi hạc, đó là giáo pháp trong cõi này vậy. Còn cáo của họ Thích, chẳng dính mắc “có, không”, nhân; ngã đều mất, vượt khỏi sinh tử, trở về vắng lặng. Đó là lời bàn luận vượt ngoài muôn tượng vậy”. Thời Hậu Chu, Vương Bao Đình nói rằng: bộ “Thích Đạo Thập dị” của Lý Tư Thận đời Đường, chỉ thú sâu sắc, chẳng nhọc phiền trích ra, người trí biết vậy (cáo chương của Vương Bao Đình thời Hậu Chu trích trong Lương Hoằng Minh Thập Dị, lại ở trong Hoa Nghiêm đại giáo của ngài Thanh Lương)”. Nay thượng hoàng đế thường nói rằng: “Người đời gọi Khổng Tử, Lão Tử và Phật là Tam thánh, lời đó là hư vọng vậy. Lời dạy của Khổng Tử, Lão Tử chỉ là trị thế ít dùng, không thấu đạt tánh mạng, chỉ nói ở đời hiện tại. Nên chỉ có thể tôn xưng là hiền nhân (âm, phù, ban cố v.v… chín người xếp Lão Tử vào giai vị hiền nhân và tân tôn Mạnh Cơ “Lão Tử phi đại hiền luận văn” tại Quảng Hoằng Minh tập vậy). Lời dạy răn của Phật cùng tận cội gốc tử sinh thiện ác, là đạo thâm đạt tánh mạng sáng suốt tối tăm, ngàn muôn biến hóa, thần thánh vô phương. Đó thật là bậc đại thánh vậy. Từ nay về sau, đồ tượng Tam giáo, không được xếp ngang hàng với Phật. Trong Tam Giáo Thế của Lý Thương Ẩn (tự là Nghóa Sơn) đời Đường có ca ngợi tam giáo rằng: “Thầy của đạo Nho ta là Trạng Ni - người nước Lỗ, thầy của Trọng Ni là Đam Long. Ta không biết thầy của Đam Long ở Trúc Càn khéo vào vô vi, kính lạy bậc Chánh giác, Đức Phật là thầy của Lão Tử, (Lão Tử) là thầy của Khổng Tử, (Khổng Tử) là thầy của ta vậy”. Lấy đó suy nghiệm lại, cao vời khác lạ, lấy đó để cầu tìm, Tông Lan Cảo tự biện. Vả chưng, dòng ấy dễ hiểu, sự trả lời với Thiên Phần (đối với việc Ngô Chúa) của Hám Dịch, lý ấy rất khó mê hoặc, văn Hải Tiệt của Tư Thận (Lý Tư Thận Thích Đạo lập dị văn), Trứ luận của Ngu Thế Nam, Nhạc trỉ uyên thuần (Đế Vương thông kỷ), Thuật thiên của Nham Chi Thôi. Mây tan trời sáng tỏ, chỉ vì cách Thánh thời gian quá xa, ma ngụy loạn chân, nếu chẳng là người ấy đạo chẳng dối bày vậy. Nay, cúi mong Thượng Hoàng Đế nhận Phật phó chúc, không quên che chở giữ gìn, muôn cớ duyên có thừa, để tâm vào kinh Phật, là bậc tài đức ở Tây thiên, là minh sư nơi đông độ, thường hỏi lời của Tam Tạng, nhiệm mầu thấu suốt ý chỉ Nhất thừa, riêng vui nghị luận, lại kính chuộng Tỳ-ni, thông suốt cội nguồn tánh tướng, thấu đạt sự hơn kém giữa Phật giáo và Đạo giáo, rồng rắn dễ rõ, mắt trời khó mờ, cuốn khí độc ở chín từng trời, rải mây từ khắp cả bốn biển, đốt lại đuốc tuệ, thắp sáng đèn trí, làm rường cột của ngôi nhà giáo pháp, làm mặt trời mặt trăng giữa bầu trời Phật giáo. Tường Mạo tôi được sinh trong thời tượng quý, mừng gặp lúc hưng thạnh. Mỗi khi có Nhã đàm, dự nghe cuối tòa, vô cùng mừng vui, thuật bài tụng rằng: Nhị Nghi vừa phân Tam tài mới chia Dựng vua lập nước Cứu giúp dân chúng Hy hiên trở lại Ngũ vận tiếp theo Kim triều chính suy Huyền thiên nối vết Thái tổ dẹp loạn Thế Tông hưng thạnh Dốc sinh sau ta Nối dấu đẹp trước Nhận Nghi Nam Tống Nghe hiến trời tây Leo núi vượt biển Muôn nước chầu vương Trời ban thông minh Vừa sinh rõ đạo Dựng chùa Long Đình Tụng kinh Quỳnh đảo Đạo só dung ngu Si bày lão thánh Mờ mắt cá kia Che gương vàng này Thánh minh soi gương Nói ra lời cuồng Một lời đuổi bắc Muôn đời Tư nam Phật nhật treo cao Mây pháp bủa rộng Chín cõi sáng soi Bốn sinh được đạm phước Giữ long đồ mà bền chắc Mừng phụng lịch để mới thêm, Hợp kim luân mà sáng mãi Điều đuốc ngọc để sống hoài. Vời hồng danh ở sách trời Rực báu lớn giữa trời xanh Gieo hoàng uy nơi nhung hạ, Đồng bền thật với đất trời Dẫn dân đem đến nơi thọ Hưởng thiết đãi của các nước Chuộng phẳng bằng của Vương đạo Hợp hiền nhân của cháu con, Thánh hoàng trường thọ muôn tuổi Ý hậu hưởng lạc nghìn năm Bốn Tam hoàng mà sáu Ngũ đế, Đâu đáng như đời Hán, đời Đường. Lời ghi ở sau: Ngày trước, tôi thấy người đời Đường chê trách Đạo só rằng: “mở miệng nói lời dơ uế cuồng vọng chẳng chân thật, khiến người kính phụng kẻ bất nhân bất hiếu, gia đình sinh con loài kiêu kính, vô lễ vô thân, ở đời xuất hiện kẻ sói lang”. Lại thấy đạo só mới xuống tóc mắng nhiếc nhà Trường Xuân Cung rằng: “giáo môn không việc gì, các ông được vinh hạnh, giáo môn có bị hại, ta đây phải bị nhục”. Tôn xưng chưởng giáo cầm mặc áo lam, ngày không chay tịnh, tháng có tiệc ngon, chia ra đen trắng, đầy mắt hoan hô, trán đẹp mày ngài, trọn đêm riêng hưởng lạc, hưởng cổ ngon trên kẻ khác, nhận cung kính khánh triết người kia, mờ trời dối lòng, ngày nay tự chiêu cảm, chợt nghe lời ấy, cho là chẳng đúng, ngày nay xét lại, chưa là quá lắm. Lão tử sinh tại làng Lệ Dương, qua đời tại làng Hòe, phần mộ bỏ phế mà chẳng ai tu sửa, mặc tình gai góc quạnh hiu, cho loài cáo dẫm đạp, quanh năm tắt lửa, ai nghe đạo só đoái hoài, dâng tuế ngày thu, chẳng thấy nữ quan cúng tế! Người đi đường vì thế mà rơi lệ, người thấy vì vậy mà buồn thương. Thế mà buông tuồng nói lời yêu quái giáo hóa người Hồ trôi dạt đến nước khác chẳng trở lại. Vương Phù phát ra các lỗ, chí kinh lại vẫy gió hôi, khiến cho Diệu Môn của Lão Tử lại thêm huyền, đến đó quét đất mà gột rửa hết. Vả lại, ngày nay trong tám mươi mốt Hóa Đồ có hơn năm mươi Hóa Đồ trộm của Phật, bắt chước nheo mày, hơn hai mươi Hóa Đồ nói Lão Tử trao cho Y Hỷ đạo đức chân quyết. Toàn đem hợp khí vận tinh mà lập công, chẳng lấy thanh tịnh làm tâm, chuyên lấy giao cấu làm đạo. Lấy đó cầu phúc, phước làm sao sinh? Lấy đó tống khứ tai họa, tai họa làm sao hết? Tường Mại tôi ngưỡng đội ân Thượng Hoàng lại thêm phần Thích Tử, khắc lòng giữ đạo, đóng cửa ở nhàn, đợi tàn hết hơi tức giận ở Tang Du, không cầu phân biệt ở chánh tà. Giận căm gian xảo của Lý Chí Thường, mừng vui chân chính của Thiếu Lâm, rửa gột uế đàm của việc giáo hóa người Hồ, trả lại chùa viện đã chiếm cứ. Sáng ngời khuôn phép nhà Phật phụ giúp chân thừa, công che giúp trời, nghiệp lớn lập cực. Tuy Tôn giả Ma-đằng thấy rợ Khương ở triều Hán, sư Pháp Thượng nổi tiếng ở đời Tề (Pháp Thượng tức Đại Thống thời Bắc Tề tranh luận với đạo só, đạo só thua bèn xuống tóc). Lấy nay so xưa đâu có gì đáng nói ư? Thêm nữa, Chúa thượng minh thánh, hiểu suốt Phật tâm, biết sự khác nhau giữa ngọc và đá, xét rõ mùi khác nhau giữa thơm và hôi. Phật là bậc đại thánh trong các thánh, Lão Tử là bậc đại hiền trong các hiền. Đã khác xa như trời xanh, cũng khác giá như Ngọc và Đá. Do đó riêng xoay trời, vén mắt xem xét thật hư, ngăn gió độc kia, soi mặt trời tuệ này. Tường Mại tôi dự hội vui ấy, tâm linh hớn hở, ít có hiến thay sự thanh trần của đời trước, tôn kính khuôn phép của bậc tiên triết, bèn nương sách cũ phá dẹp mưu nay, nhổ tận gốc rễ của nói dối, bẻ gảy biện xằng của chí kinh. Gốc nghiêng cành ngã, ngói vỡ băng tan. Đâu chỉ khuôn phép ngàn năm, cũng bày việc là một thời, chẳng dám phụ ở Long tạng, cũng có thể tiếp tục ở Hoằng Minh, xương lời này mà không hổ thẹn, mong sáng suốt mà biết kẻ thường nhặt hoa ta, khó cùng ngôn luận vậy. Niên hiệu Chí Nguyên, đầu mùa Xuân năm Đơn Át (?) dừng bút. Tỳ-kheo tu hạnh rưới quét ở núi Đạo giả là Tường Mại ghi chép. Kính vâng Thánh chỉ cấm đoán Đạo tạng ngụy kinh, ở khoảng dưới (hễ thấy thì liền đốt bỏ). Hóa Hồ kinh (Vương Phù soạn) Do long truyện Thái thượng Thật lục (Tạ Thủ Hạo đời Tống soạn) Thánh kỷ kinh Tây thăng kinh Xuất Tái ký Đế vương sư lục Tam Phá Luận (Trương Dung - người đời Tề giả mượn họ khác) Thập Dị cửu mê luận (truyền dịch Lý Huyền Khanh) Minh chân Biện Ngụy Luận (Ngô Quân) Thập tiểu luận (Ngô Quân) Khâm Đạo Minh chứng luận (Viên Bán Thiên, đời Đường giả mượn họ khác) Phụ Chánh trừ Tà luận (Ngô Quân) Tịch tà quy chánh nghị (Đỗ Đình) Hột tà luận (Lương Khoáng) Biện Tiên luận (Lương Khoáng) Tam Quang liệt ký Báng Đạo Thích kinh (Phá đại Tạng kinh, Lâm Linh Tố, Đỗ Quang Bình soạn) Ngũ công vấn Hư vô kinh Tam giáo căn nguyên Đồ (Đại kim thiên trường Quán, đạo só Lý Đại Phương thuật) Đạo tiên sinh tam thanh kinh Cửu thiên kinh Xích thư kinh Thượng thanh kinh Xích thư độ mạng kinh Thập tam hư vô kinh Tạng đại ẩn nguyệt kinh Nam đẩu kinh Ngọc vó kinh Linh bảo nhị thập tứ sinh kinh Lịch đại ứng Hiện đồ Lịch Đại Đế vương sùng đạo ký Thanh Dương cung ký Kỷ thắng phú Huyền nguyên nội truyện Lâu quán tiên sinh nội truyện Cao thượng Lão Tử nội truyện Đạo Phật tiên hậu luận Hỗn nguyên Hoàng Đế Thật lục. Trường sinh thiên khí lực thay phước lớn chở che thay Thánh chỉ của Hoàng Đế nói cùng các quan Trung thư tỉnh khu mật viện Ngự sử Đài Tùy lộ Tuyên úy Ty, Án sát ty, Đạt Lỗ Hoa xích Quản Dân quan Quản Quân trạm nhân tượng v.v… và các ông trong Thánh chỉ của hoàng đế Mông Kha trước kia, vào năm Mậu Ngọ (1 2 5 8), Hòa-thượng tiên sinh thường phân tích chứng minh Phật pháp, tiên sinh thường chuyển đến cùng, Thượng Đầu Giáo v.v… cả thảy mười bảy vị đều xuống tóc. Hòa-thượng lại đem Hóa Hồ kinh v.v… và các ân bản của các ông dối làm thiêu đốt hết. Trong tùy Lộ Quán Viện, họa vẽ tám mươi mốt hóa đồ trên bia đá và các chiếc đỉnh thảy đều thiêu đốt phá bỏ hết. Ma đạo đến như nay Đô Công Đức Sứ ty trình tấu: Tùy lộ các ông mỗi vị đem nhóm hủy hết kinh văn và ấn bản, đến nay vẫn còn tàng trữ, lại chưa hề phá hủy, vẫn còn giữ kỹ. Ở các nơi như Chân Định, Thái Nguyên, Bình Dương, Hà trung phủ vương, tổ sư am đầu, Quan Tây v.v… có đạo tạng kinh bản. Đó là các ông Thượng Đầu Giáo, Trương Bình Chương, Trương Hữu Thừa, Tiêu Thượng Thư, Tuyền Tổng Thống, Hốt Đô Vu Tư, các học só trong Hàn Lâm Viện, Trung Thư Tỉnh, khách tỉnh sứ đô, Trung thư tỉnh tuyên sứ khổ tốc Đinh Uyên, Tăng lục Chân Tạng, tăng phán chúng giảng chủ Trưởng Lão v.v… trình tấu. Các Ông Trương Thiên Sư, Kỳ Chân Nhân, Đỗ Chân Nhân, mỗi mỗi đều ở trong Trường Xuân Cung phân chọn tới lui. Như nay các ông Trương Bình Chương v.v… thường tự trở lại trình tấu. Tạng kinh nhà các ông, trừ Đạo đức kinh là yếu chỉ chân thật kinh của Lão Quân, ngoài ra đều do người đời sau tạo ra và giảng nói, phần nhiều là hủy báng Phật giáo, trộm cướp lời Phật, lại còn thâu thập ở sách của các nhà âm dương y dược, các nhà Hiền triết. Thường thường là sửa đổi danh hiệu, truyền bá chú thích sai lầm, làm mất gốc thật. Ngụy tạo bùa chú vọng bảo đeo nó, khiến người buôn bán có lợi gấp bội, vợ chồng hòa hợp như uyên ương, con cháu nối dõi đông nhiều không dứt, nam sống lâu, nữ trinh tiết. Lừa dối muôn dân chẳng chỉ một mối, ý muốn tham mưu tài lợi, dụ dỗ vợ con. Đến nỗi dạy người vọng đeo bùa ở cánh tay, nam làm vua, nữ làm Hậu Phi, xuống nước không chìm, vào lửa không cháy, đao kiếm không thể làm thương tổn hủy hoại v.v… Đến lúc bảo Trương Thiên Sư, kỳ chân nhân, Lý chân nhân, Đỗ chân nhân đến thử lửa, thì tất cả đều cầu xin tha mạng, tự nói hư ngụy gian dối, không dám thử nghiệm. Nay đây bàn luận, được trừ “Lão tử đạo đức kinh” ra, tùy lộ chữ có Đạo tạng nói dối kinh văn và ấn bản, đều nên đốt bỏ hết. Lại căn cứ Kỳ chân nhân, Lý chân nhân, Đỗ chân nhân, v.v… trình tấu; báo cho biết căn cứ trong Đạo tạng kinh, trừ “Lão Tử Đạo đức kinh” ra, còn lại đều do người sau bùa theo, văn tự chẳng thật, tình nguyện đốt bỏ hết. Ta đây cũng gạn sạch chuẩn tấu, từ nay về sau các ông mỗi người đều y cứ theo “Lão Tử đạo đức kinh” mà thực hành. Nếu có ai yêu thích kinh Phật thì cho làm hòa thượng, còn ai không làm tăng só, đạo só thì cưới vợ làm dân. Trừ “Đạo đức kinh” ra, các thứ đạo tạng kinh văn dối bày và ấn bản, đều đem đốt bỏ hết. Nay sai các Lộ Thích giáo tuyền Tổng thống, trung thư tỉnh, khách tỉnh Sứ Đô Lỗ đi trước, ngày thánh chỉ đến thì không vì bất cứ quan lại nào. Các ông Đạo Cô tú tài, quân dân, thầy thợ, phòng ốc chim ưng đánh bắt các sắc nhân v.v…, nên có chỗ cất giữ tất cả kinh văn của đạo gia. Đạt Lỗ Hoa xích quản dân, cơ quan thêm khí lực, dụng tâm bắt soát, thấy thường phân chia giao phó, sai quan đem đốt bỏ hết. Lại thấy trong viện họa vẽ tám mươi mốt Hóa đồ trên bia đá, trên đỉnh, đều phá hủy hết. Từ lúc tuyên dụ về sau, nếu có chỗ nào ẩn dấu Đạo gia, tất cả các thứ hùa theo nói dối, hủy báng Phật giáo, trộm cắp lời Phật, dòm ngó mưu cầu tài lợi, dụ dỗ vợ con. Các thứ bùa chú văn tự lừa dối trăm họ như vậy cùng các loài kinh văn lớn nhỏ của Đạo gia. Nếu các quan ty sở tại không ra sức bắt soát, cùng với người ẩn dấu, thì tất cả phạm tội nặng. Ngoài ra văn thư của các nhà y dược phải tự có bản gốc, không thuộc trong cấm ngăn hạn chế. Y cứ theo đây. Niên hiệu Chí Nguyên thứ 18 (1 2 8 1), ngày 20 tháng 10. <篇>  BIỆN NGỤY LỤC <卷>QUYỂN 3 Phàm giáo lý của ba bậc Thánh đều được xếp của Trung Quốc, như chân đỉnh vững vàng để giúp Hoàng Đế cai trị. Nhân nghóa mà Khổng Tử nói chính là khuôn phép cho kẻ só vô đạo. Sự khiêm nhường mà Lão Tử nói chính là sự dập tắt cho những người hơn thua. Tánh mạng mà Phật giáo nói chính là muốn khiến trở lại cội nguồn vậy. Thế nhưng, Thúc Diệp phân luận chỉ thấy riêng cho y kiến mình là độc tôn, tự khoe tự cho mình hơn, mê gốc lầm tông, bởi không rõ đường đạt đạo. Rất không biết nhân nghóa được thực hành thì người người dẫm bước trên đường của quân tử, khiêm nhường được thực hành thì người người lấp được sự mong cầu tham lận. Và tánh mạng được rõ ràng thì người người đạt đến cội nguồn Đạo mầu. Còn không như vậy sao gọi là Đạt só Quân tử ư? Điều mà Trọng Ni nói: “Từ Tề một biến là đến Lỗ, từ Lỗ một biến là đến Đạo”, gần như vậy mà các đạo só đời sau chuyên chuộng khoe dối. Lấy sự khoát lát chưa trải qua làm điều khác lạ, cho sự luống dối chẳng thật là cửa mầu. Bỏ thuần nồng của nhị thiên, xen tạp uế thuật của Tam Trương, Vương Hại Phong lấy điên cuồng làm chí đức, không rõ cội nguồn của đạo. Khâu Xử Cơ lấy Hành loan làm thần kỳ, mất chỗ yếu diệu của toàn chân. Đi đến phương Tây muôn dặm, không biết bàn luận cùng Chúa Thượng, trở lại phương Đông ba năm, tình cờ nêu sự khác lạ ấy, khinh người dối Thánh, khoe khoang tự cao. Ban đầu thì bàn có quạ, cuối thì thánh thuyết không phải, xưa nay kiểu vọng vả lượt chẳng nói, nay chầu hành sự lại bày mấy đoạn. Đức Thái Tổ thành Cát Tư Hoàng Đế của ta, rồng bay đồng bắc, hổ rảo bước ở trung nguyên, ứng với Bảo Lịch để giúp mưu, tới kỳ hưng thạnh mà tư thâu, thuận trời đổi mạng, dẹp loạn định công. Quân nước tuy phiền, song để tâm ở đường giác, đầu tiên ban ân chiếu giữ gìn che chở cửa Phật, Đại Thánh thần hóa không thể đo lường, ngay tại hình nghi, không được tổn hoại, tùy chỗ chùa miếu, chỗ có ruộng đất, nước tưới trên đất, nước lăn nước mài, chùa dùng các vật lặt vặt, phàm xâm phạm đến chỗ Phật đều bảo hoàn trả, không được xâm chiếm. Các thứ khoa dịch lớn nhỏ, trạm ngựa chỉ nên, đồng thời ngưng xuất. Vị tăng xuất gia là đệ tử Phật, cùng con con cháu cháu trong Hoàng gia ta đây, những người niệm kinh cầu trời giúp đỡ tu phước. Phàm là vị tăng đi ở tự tại không có ngăn ngại, có kẻ tồi xấu thường cậy sức mạnh khuấy nhiễu chùa Phật, tấu đem họ tên lại, để các bậc Minh Quân đời sau đều tuân theo thể thức đó. Vậy mà Ma biện bác chân vọng sinh cao thấp, đều nói Khâu Xử Cơ mở nềng móng của Tam giáo làm đất gốc của Nho giáo, Phật giáo. Thử từ đầu đến cuối, xin giấu kỹ chăng? Ban đầu, sự hưng thạnh của toàn chân, việc chẳng khơi dậy xưa cũ. Căn cứ theo văn bìa “Trùng dương chân nhân” của Nguyên Dụ nói: Ngay lúc nhà Kim đang lớn mạnh, thì có Vương Thế Hùng là người ở Tam phụ vậy. Thuở nhỏ được gọi là hào hiệp, đến tuổi trung niên, bỗng có sở đắc, bèn bỏ việc nhà, trôi nổi nơi quán rượu, đủa bỡn lãng xao không tiết chế, càn rỡ liều lónh vọng hành, ôi không cười một mình. Người thời bấy giờ cho là bệnh cuồng, cho nên Mục Vương hại phong vậy. Về sau, gặp hai đạo só mặc áo dạ cừu, dẫn nước uống rượu, cuồng túng càng thêm quỷ quyệt khó lường. Tại huyện Đông, đào mồ để ở, để làm mắt người chết sống lại, ở đó hai năm, sau dời đến am Lưu Tương, dại chúng không nhóm đến ba người, am không liền với hai nhà, từ đó, ở hoài trong hang đất, chỗ nương tựa đã cùng đường, xé rách áo lông cừu để đắp thân, cầm gậy mang bình đi xin ăn tự sống. Bắt chước giữ sự im lặng của những người si thiền, ngồi xoay mặt vào tường mà tự bó buộc. Thường nói rằng các vị Thiền tăng tuy thấu đạt tánh mà không rõ mạng, còn các Nho só bàn về mạng mà chẳng nói đến tánh, còn ta thì gồm cả hai mà tu, nên hiệu là Toàn chân. Đi xin ăn ở phía Đông đến tận Ninh Hải Quân, có được bảy đệ tử như Khâu Xử Cơ, Lư Đầm Hác v.v… Giáo pháp của Toàn chân từ đó lan rộng ra vậy. Sau đó bọn Phan Chí Nguyên v.v… tìm đến, Phạm Quân mạc phủ đến đó. Vương Quân viết số mạng, Nguyên Dụ thuật văn bia ca ngợi. Đức Dụ dẫn dắt, Cát Hồng Tró xuyên ở đời Tấn, Đào (Hoằng Cảnh), Trinh Bạch ở đời Lương, Khấu Phụ Chân (khiêm chi) ở đời Ngụy, Tư Mã Tử Vi ở đời Đường, Trần Đô Nam (bác) ở đời Tống, từ đó, bắt đầu các vị hiền só đều không sánh kịp, tạo thành sự tốt đẹp ấy mà bọn Toàn chân gọi là không sáng tỏ, nên Văn Lập thích hỏi mà lại hủy bỏ bọn ấy. Lại phát hiện ở tháp báu Đỗ Thuận liên hoàn xương vàng, vùi chôn trong huyệt mã Thế Hùng, làm xá-lợi của Vương Hại Phong vậy. Đạo só Khâu Xử Cơ, tự là Thông mật, người xứ Thê Hà thuộc Đăng Châu, hiệu là Trường Xuân Tử, bắt chước Vương Hại Phong, tiếp nối đề xướng Toàn chân, vốn không có đạo thuật. Có Lưu Ôn tự là Trọng Lục, lấy làm gọi là Đích hạnh ở Thái Tổ, đầu tin hẹp nói A ý Cam ngôn, dâng y dược lên Hoàng Thượng và nói: Khâu Xử Cơ nay đã hơn ba trăm tuổi, có thuật bảo duỡng sống lâu, mới tấu cử đến. Vào năm Mậu Dần, nên triệu đến phương Bắc, Khâu Xử Cơ mỏi mệt trong việc đến đi, nghe thượng hoàng đi đánh dẹp phương Tây, bèn dâng biểu xin đợi trở lại sứ trung thư Trạm Nhiêu Ôn Chiếu vời lại, Khâu Xử Cơ bèn đi. Ban đầu, đến hướng Tây đánh dẹp Đại Thạch Lâm nha và nước Khả-phất-xoa, đến cùng đất ấy mới toát mồ hôi, chiếm đoạt đánh phá khắp nơi, quân ngựa mạnh mẽ, y cứ có Thành Tầm Tư Can nghe Thượng Hoàng đánh dẹp phương Tây, bèn chạy về phương Nam vào cửa sắt, trốn ở phía Nam núi Đại tuyết, lén vượt đến Ấn-độ. Thượng Hoàng đem quân đuổi theo đánh úp, dựng đóng quân ở phía Nam núi Đại Tuyết. Ngày 18 tháng 11 mùa Đông năm Tân Tî, Khâu Xử Cơ đến thành Tầm tư Can, vì núi Tuyết, có tuyết lớn đến hai trượng, sâu không thể đi nên dừng ở trong thành. Đến ngày mồng năm tháng tư mùa hạ năm Nhâm ngọ, mới qua núi tuyết đến ở Hàng cung. Đến trước Hoàng thượng bái chào rồi lui mình rất cung kính, lễ bái xong, sau đó vào trướng. Hoàng thượng hỏi: “Có thuốc sống lâu gì để giúp thân thể trẫm chăng?” Khâu Xử Cơ lùi lại cúi mình đáp: “Có đạo vệ sinh chứ không có thuốc sống lâu”. Hoàng Thượng cho đó là nói thật bèn ban cho sữa ngựa. Lúc trở về lui Hột Sơn, có giặc loạn ở Mật Nhó, vả lại bảo Khâu Xử Cơ về lại thành Tầm Tư Can, kỳ hẹn đến tháng mười sẽ vời lại. Vào khoảng hậu tuần tháng 8, Khâu Xử Cơ lại đến Hàng cung, hễ có điều gì đối đáp đều nói tiếng trầm trầm, không thể nghe được. Hỏi về tuổi tác đã được bao nhiêu thì giả bộ nói không biết, hỏi về cốt yếu của Thần tiên thì chỉ luận bàn cố tinh dưỡng khí, ra thần vào mộng, cho đó là rốt cùng của đạo. Mỹ Lâm Linh Tố thần du, ưa thích việc nhập mộng của Vương Hại Phong. Lại cử Mã Đơn Dương Hằng nói: thường mong thánh hiền dắt dẫn, chân tánh được ngao du ở cõi khác. Lại cảnh lắm ác mộng chẳng phải của nhà thiền, bởi do phước mỏng nên không thể đến cảnh mộng tốt lành vậy. Lại hỏi cư só Trạm Nhiên về ý nghóa ca ngợi Quán Âm, Trung thư xem thường nên chẳng đáp, nhưng có biết nghe đến, không ai chẳng hoàn toàn đảo ngược. Lúc đã trở lại phương Đông, dâng biểu cầu xin bia phù, tự nêu danh hiệu của thầy, riêng cấp biển ngạch Đạo Quán, tự điền Thánh chỉ, dối lừa Chúa thượng, riêng miễn khoa dịch cho môn nhân của Khâu Xử Cơ, chẳng cùng các vị tăng và các đạo chúng khác, việc làm từ xưa không hề có thể lệ, tự ý muốn thi hành. Điều Hoàng Thượng nói, cư só Trạm Nhiên biên vào trong: “Tây Du Lục”. Rõ đủ mười sự sai lầm của Khâu Xử Cơ. Trở về đến các châu như Tuyên Đức v.v… được các vị tăng đón rước. Sau đến thành yên, hai bên đánh trống ngợi khen năng lực xâm chiếm, khiến các đạo đồ Vương Bá Bình dẫn đường theo mấy mươi, treo bảng ra vào, rong ruổi khắp các châu, muốn quản lý cả tăng ni, Khâu Xứ Cơ tự đến Kế Châu, riêng mở Thánh chỉ, bức hiếp, muốn truy tìm nhiếp phục Hòa-thượng Cam Tuyền Bổn Vô Huyền, muốn ngài khuất tiết, nhưng cuối cùng không thể được. Ở phía Tây thành Kinh Thiên, miếu thờ Đức Phu Tử bị phá làm Văn thành Quán, ở Cảnh Châu, chiếm đoạt núi Long Giác, cổ tiên sinh đổi thành Xung Hư Quán. Về sau, chư tăng muốn lấy lại, Khâu Xử Cơ gửi thư cho cư só Lạc bào chữa lỗi lầm của mình. Ở huyện Bình Cốc, ba tôn tượng nơi chánh điện chùa Thủy Cốc đều do Lưu Loan chặt tay đánh vào trong khe, đổi thành Quán và ở đó. Ở phủ Thái Nguyên, đệ tử của Khâu Xử Cơ là Tống Đức Khương chiếm núi tịnh cư, đục đá làm động, đổi thành đạo viện, lập bia dựng bảng hiệu. Ngôi chùa xây dựng vào đời Tùy, Đường ở núi Hoàng Hoa, Tương Châu, bia khắc vẫn còn, bị các đạo só chiếm định. Chùa Bản Sùng Phước ở Hỗn nguyên Tây Đạo viện bị các đạo só chiếm hẳn. Mấy ngôi Phật Điện ở Loan Châu Hạ Huyện, các đạo só phá hủy xong đều hủy các tượng Phật. Ở Đàn Châu, chùa Linh Nham ở núi Thử Cốc, xưa kia, là nơi Trâu Diễn mở mang luật học, Điện Đường mái hiên thảy đều hoàn bị đầy đủ, khi Toàn Chân Cổ Chí qua đời, Vương Chí Khâm cậy vào khí lực của Khâu Xử Cơ, đập bỏ hết tượng Phật, vẽ họa Tam Thanh, dựng cột đá, đẩy vào trong khe, có các ruộng vườn, chiếm ruộng làm chủ, đổi tên là Đại Đồng Quán. Chánh điện, chùa Mộc Lâm ở Đàn Châu có xây tường bao quanh, năm Nhâm Tý, Toàn Chân Hứa Tri Quán hủy phá tượng Phật đắp họa, đổi thành Tam Thanh, lấy hiệu là Cung Thiên Bảo Vạn Thọ. Chùa Hưng Thiền ở thôn Trương Tạ, ở hướng đông nam huyện Lương Hương, đất đai vườn cây, rừng cây táo đều bên ngoài hết sạch, đệ tử của Khâu Xử Cơ là Khổng Chí Đồng cưỡng chiếm làm ruộng, khinh thường ni chúng. Những trường hợp như thế có đến mấy trăm. Tuy đàng điếm đầy tràn trái ngược ở Nam Kinh, trộm cướp hung tợn ở Đông Lỗ, so với thời cướp bóc này cũng không hơn. Chẳng lấy đạo đức làm tâm, chỉ lấy cướp đoạt làm việc chính. Về sau, bệnh lî phát tác, nằm trong nhà xí suốt bảy ngày, đệ tử vào dời ra ngoài như chịu, đau đớn khốn cùng, mới nói dối rằng: “Nằm rạp ở đây so với ngủ đâu khác gì?” Lại qua hai ngày nữa, cuối cùng nằm trong nhà xí mà chết. Thế nhưng các đệ tử bên ngoài nói dối với mọi người rằng: “Sư phụ cầu phước”, soạn biên thành “Khâu Công lục” (do Lý Hạo Nhiên soạn tập), ngay giữa ban ngày lên Bảo Quang mà hóa, hương thơm khác lạ khắp phòng. Việc ấy, mọi người đều biết mà còn nói khác như thế. Ngoài ra, những thứ bất công khác đại lược đều như vậy nên người thời bấy giờ đều nói rằng: “Một nắm hình hài thân gầy ốm Xuân dài một sớm hóa thành thu Hòa tuy mang phẩn, chết nhà xí Một đạo lưu truyền, hai dòng đạo.” Ấy là chứng minh rõ ràng vậy (lời của Đại Đạo Tứ Tổ), tức ngày mồng chín tháng bảy năm Đinh Hợi (1 2 8 7) Sau đó, đạo só Chí Thường tự là Hạo Nhiên, hiệu là Chân Thường Tử, cắm mũ tự chỉnh tiếp nối lại dấu vết trước, thâu góp tài sản của đạo só, mua chuộc ý của Vương thần, du đảng xảo sức, dua nịnh thời lưu, dối mạo danh hiệu Toàn chân, chẳng thực hành đạo đức chân thật, như chim kêu chánh đạo, hổ nhìn nhà Phật. Cậy tà làm oai xâm chiếm chùa Phật, men theo vết ngụy của Khâu Xử Cơ, cuốn thổi gió thừa của giặc hèn hạ, thao túng kẻ dưới cướp đoạt, tùy tình riêng mà hủy phá, đập phá tượng Phật mà thờ tượng Lão, phế bỏ Bồ-tát dựng lập Thiên tôn, tham được quên nhân, dòm ngó tìm cầu vô độ, xứ khác xa xôi sợ người không chỗ nương. Vả lại, từ kinh thành cho đến trong các châu huyện, chiếm đoạt chùa viện, xâm lấn trồng trọt ruộng vườn, mài hủy bia cờ, đập phá tượng Phật, lược nêu một vài trường hợp, nghiệm lại liền biết hư thật. Chánh điện viện Quán Âm ở ải kinh thông huyền, có ba gian nhà họa vẽ đầy đủ, Lý Chí Thường sai đạo chúng trong bổn viện phá hủy hết các thánh tượng trong bổn viện, đắp vẽ tượng Tam Thanh, tuy thường dâng kháng chiếu trình bày tố cáo nhưng chẳng cho, nay tuy đổi chánh nhưng ở ngã tư phía Tây viện, nhà gần ba mươi gian vẫn chưa phân giao. Chánh điện chùa Tịnh Ân ở kinh đô và liêu phòng, phương trượng, kho, nhà hơn năm mươi gian, trong chánh điện tôn tượng Phật Vô Lượng Thọ, tượng thập lục quán, toàn bằng vàng ngọc sáng lòa mắt, Nữ quan đổi làm Tu Chân Quán, vónh viễn chiếm ở. Tại kinh đô, Đông tháp chùa Mẫn Trung, viện đại đạo bị tín đạo cô chiếm giữ để ở. Cung Trường xuân thuộc viện từ thánh ở kinh đô, bị Tịch đạo lục đổi thành Huyền Đô Quán chiếm giữ để ở. Thiên Trường quán thuộc viện kinh tạng, chùa Bảo Tháp ở kinh đô ban cho đạo cô Phước Đồng chiếm định để ở. Chùa Tư Thánh ở kinh đô, vào thời Đường Liêu xem đó là ngôi chùa cổ, đường thông trước sau, có hơn ba mươi mẫu đất, có hơn một trăm gian phòng, Toàn Chân Củng Chí Lãng cải đổi làm Bảo Chân Quán và chiếm định để ở. Tại kinh đô, phía ngoài cổng cảnh hoa có chùa Kim Kiều, trong chánh điện, tôn tượng Đức Phật Thích-ca đúc bằng vàng ròng, Toàn Chân Trương Tri Quán phá hủy đại điện, sang bằng nền móng, an trí phần mã của Khâu Xử Cơ, đổi thành đất chôn cất. Tại kinh đô, viện kiến phước ở phường Đồng Mã, Toàn Chân Bằng Đầu Trương tiên sinh chiếm đổi để ở. Tại kinh đô, phía Tây phường Xuân Đài, viện hoằng giáo ở phường Vạn Doanh, Chánh Điện, Thánh Đường, liêu phòng chúng tăng, nhà trù, nhà kho, vườn trồng rau, bia đá đều bị phiền tiên sinh đập phá, sau đó, liền đem cây đá từ ngoài lang trạch mang vào phía Đông che làm miếu thiên tề thánh nhân. Tại góc Tây bắc kinh đô, cung Trường Xuân, thuộc viện Cát Tường bị chiếm làm Diêu Đàn (= lò) để luyện Đan kinh, nay thánh chỉ đã quyết định mà còn chưa giao trả. Viện Diệu Phong ở làng Bắc thuộc huyện Ngọc Điền, đạo só Toàn Chân Vinh đều phá hủy hết, ruộng nhà đều bị Đạo Cô, Lộ Đạo Cô ở Nữ Quan Dương chiếm ở. Ở Thông Châu, trước sau chánh điện nhà trù, nhà kho, tăng phòng viện Quán Âm, Toàn Chân Trần Hòa Đồng đập phá tôn tượng Quán Âm trong thành, đổi lại đắp họa Lão Quân và đổi tên là Thông Tiên Quán. Chùa Linh Lục ở thôn Trại Đường tại huyện Uyển Bình,, Toàn Chân Lưu Tri Quán bán tượng Thái Tử Thích-ca cho người khác, đốt phá bia đá, cất giấu chuông đồng, đập phá điện Phật, lại đập phá tháp báu xá-lợi, sang bằng khu tháp mộ, đổi thành Thông tiên Quán, và đắp họa tượng Tam Thanh. Viện Thiết Tế tại Thành Trác Châu, có tháp Xá-lợi cao hơn năm mươi thước, Toàn Chân Cổ Tiên Sinh nửa đêm đập phá đỉnh tháp nhọn, các quan sở tại hỏi han quở trách, bên trốn bỏ đi, vào năm Giáp dần, đổi thành Tề Tiên Quán. Điện Quán Âm của chùa Hạnh Mãn ở Trác Châu có tôn tượng Quán Âm bằng ngọc thạch màu trắng ngồi cao ba thước, có Khang Thiền nghe lời Chí Kiên, nửa đêm đập nát tất cả mười một khối, đồng thời chiếm lấy chùa viện, đổi thành Vónh Ninh Quán và ở đó. Ở chùa Quảng Nhân, các vị thường trú tại cựu đường đều đầy đủ, Toàn Chân Lương Tiên Sinh đổi thành Thập Phương Quán và ở đó. Tại chùa Lịch Tây ở huyện Bình Cốc, trong chánh điện có các tôn dung Thánh tượng, Toàn Chân Vương Tri Quán đập phá tôn tượng đắp họa, chiếm làm vườn trồng giẻ, mài phá bia đá, cày phá đất đai. Tại trang trại văn gia, chùa Thủy Cốc, điện vũ ba cửa, Vân Đường, phòng kho, nước lăn cối nghiến giã bằng sức nước, đất vườn, Toàn Chân Vương Tri Quán đập phá tượng đắp và đắp lại tượng Lão Quân, đồng thời ở chùa Độc Ba, phá hủy chánh điện, chiếm làm vườn trồng giẻ, đổi thành đạo viện. Chùa Niên Phong Long Tuyền ở Thuận Châu, đất trồng cây gai, vườn táo, ngoài ra đều hết sạch, đều bị Mã pháp sư chiếm định và đổi thành Đại Đạo Quán. Chùa Bắc Đài tại huyện An Thứ, Toàn Chân Dương Bì Lý chiếm làm ruộng, chùa Phổ Từ, Dương Đạo Cô chiếm đoạt. Hạ viện chùa Đài Sơn tại huyện Tuân Hóa, vườn cây giẻ ở núi Linh Ứng, Lưu tiên sinh chiếm đoạt. Vườn cây giẻ của hang La Văn ở viện Tịnh Nhân bị Trương tiên sinh chiếm đoạt. Đại điện viện Bát-nhã ở phía Đông bắc huyện Thực và Vân Đường chùa Trung Đồng, Vân Đường ba cửa của cốc Tịnh Gia đều bị Trương tiên sinh phá hủy, che làm khai Dương Quán. Đất đai vườn cây giẻ chùa Thiên Hương ở Kế Châu đều bị Vương đạo Chính chiếm làm ruộng, tháp báu xá-lợi cao bốn mươi thước, bị Vương đạo Chính phá hủy, trụ sắt trên tháp cũng tự xô ngã, lại phá hủy mười ba ngôi tháp mộ. Tại hạ viện núi Cam Tuyền một cối nghiến giã bằng sức nước, Tôn tiên sinh cưỡng hành chiếm mất. Tại chùa Báo Quốc, vườn cây giẻ ở Hạ Viện, bị Cổ tiên sinh chiếm đoạt. Ruộng đất vườn cây giẻ ở Hạ viện núi Không Đồng, Ngô tiên sinh che quán và chiếm giữ. Các trường hợp trên đâu phải đã đầy đủ. Ngoài ra, tại các con đường ở Đông Bình, Tế Nam, Ích Đô, Chân Định, Hà Nam, Quan Tây, Bình Dương, Thái Nguyên, Võ Sóc, Vân Trung, Bạch Tập, Liêu Đông, Phì Thủy, v.v… đều bị đập phá chiếm đoạt làm hư nát trụ phướn, mài xóa văn bia, khó thể nói hết, chỉ lược biết về tên gọi có hơn năm trăm chỗ, đều do Lý chí Thường chủ trương thực hiện. Lại tự xét về sự cống hiến tiền, gạo, trái cây, mật đường, trà, gừng, phương tiện xe ngựa tới lui, đủ để mỗi năm đút lót trên dưới mà cầu vinh hiển, chẳng lấy sự khiêm nhường làm tâm, chỉ lấy khoe danh làm chính. Trong năm Nhâm Thìn, ít cùng với Hoàng Đế viếng thăm dân Lạc Nhiễu, hỏi tội Biện Lương, gấp ở bên ngoài chinh chiến chưa nhàn rỗi để chỉnh đốn bên trong, mà Lý Chí Thường gian tâm dòm ngó, muốn khinh thường Phật giáo, xem thường triều đình, dám làm điều không đúng với phép tắc. Thừa lúc quân nước Nhiễu nhương, đương khi Vũ Hịch giằng co, nên thao túng bọn tầm thường, viết làm các sách không có căn cứ. Nay cô chương đứng đầu góp nhặt Ngụy nói Sứ Chinh kinh, lại truyền bá Tà văn, lúa đậu chẳng phân, xưa nay không rõ, lượm nhặt lừa dối của Vương Phù lấy làm lời bàn luận bỉ ổi của Tây thăng. Bắt chước theo nhà Phật nói có tám mươi hai tướng tốt, lẫn lộn làm nên Lão Tử có tám mươi mốt hóa đồ, muốn hợp số chín mươi chín, mê hoặc phong hóa của Nhị Thiên (Đạo Đức kinh), mới nêu Lý Nhó sống trước Hư vô, đem Đức Thích-ca đản sinh vào thời Chu Trang Vương, trộm ý của Phật giáo, bày vẽ lắm điều. Muốn cao hơn Đức Thích-ca mới nói Lý Nhó sinh vào năm Dương Giáp, muốn vượt lên trên Nho giáo, mới lập chín năm trước Thái Dịch. Muốn đồng thuyết năm Phương Như Lai của nhà Phật mới nói ở năm phương lưu xuất giáo pháp độ người. Bắt chước theo kinh Phật nói thế giới lúc mới hình thành phong luân thổi xuống, mới nói khí bay qua lại biến thành khí di-la, những việc như thế mỗi việc khó trình bày rõ ràng. Chỉ muốn hỗn tạp tự mình vẫn đục, lưu lạm dòng trong mát kia, vàng thau lẫn lộn, đục, trong khó phân. Lừa dối thánh hiền, che mờ mọi người, lòa mắt người khác tự mờ tâm linh, yêu cấm cửa Phật, khơi ngòi chánh đạo, ngạo mạn luật nước, chẳng sợ triều chương, khiến cho đạo chúng ở Trần Châu mờ mịt sự lưu truyền các phương xa phát dương, muốn chướng ngăn chỉ tự hại. Nếu chẳng gặp Minh Thánh thì thật giả ai phân, trong lúc Phật pháp hưng thạnh đợi thời mà xuất hiện. Nếu chẳng là vị ấy thì đạo chẳng dối truyền. Thánh thượng Mông Kha Hoàng Đế chúng ta được tôn xưng là Kỳ là Nghi, là Thánh là Minh, ban bố chính sách đơn giản nhưng nghiêm mật, thông đạt thần võ, tu chỉnh lệnh điển của Tổ Tông, nối tiếp khuôn phép lớn lao của đời trước, dẫn nguyên do từ chương cũ chẳng quên ngoại hộ. Đầu tiên đúc của báu quốc gia trước hết khen ngợi cửa Phật. Phàm là vị tăng đều không bắt thuế. Thánh Chỉ đặc ban cho Quốc sư Na-ma hai ngàn định vàng trắng tu phước cửa Phật (tính ra hai mươi muôn lượng). Lại ban lệnh cho Thắng am chủ phát năm trăm lượng vàng rồng, một muôn lượng vàng trắng ở chùa Hạo Thiên làm Phật sự lớn (bảy ngày mới mãn sự cúng dường trai phạn, hơn một muôn vị tăng). Trong lúc đó thì môn nhân của đạo só Lý Chí Thường khắc bảng tám mươi mốt hóa đồ đã hoàn thành, ban bày bản ấy. Nếu chẳng xa gần đều ban bố thì làm sao biết được sự tốt đẹp của Lý Lão Quân. Nên trước tiên dâng lên triều đình thì các thứ còn lại tự nhiên thô suốt mà tổn hại, mới sai Kim Pha Vương tiên sinh, đạo nhân Ôn Đích Hãn mang rãi bản ấy khắp các quan của triều đình, ở Thổ Lỗ cho đến Khất Đài, Phổ Hoa v.v… đều truyền bản ấy. Bấy giờ, Trưởng Lão Dụ ở Thiếu Lâm đang xây dựng chùa Cốt Lâm là người được Hoàng-thượng kính trọng, vì thấy bản ấy hủy báng Phật giáo nên sai học só An Tạng dâng trình Đại vương A-lý-Bất-Ca và tố cáo đó là luống dối, Đại vương bèn giở Hóa Đồ ra kiểm nghiệm nghóa lý, xem xét thật hư mới tâu lên vua trình bày rõ đủ sự dối trá giả mạo phá diệt Phật pháp, làm bại hoại phong hóa, vua vẫn chưa rõ là thật hay dối, nên sai mời Trưởng Lão Dụ ở Thiếu Lâm và đạo só Lý Chí Thường đến dưới lầu Vạn An trong đại nội, cùng thừa tướng Bát Thích Hải, các thân vương quý thích v.v…, dịch ngữ Hợp Lạt, Hợp Tôn và học só An Tạng, Hoàng Đế ngồi ở giữa còn hai bên đối diện nhau cùng khảo xét. Căn cứ theo Hóa Đồ mà gạn hỏi. Lý Chí Thường chỉ một lời không dối, khoanh mình xoa tay và chỉ nói “Khất Nhi không biết” mà thôi, suy lấy sự không biết, Trưởng Lão Dụ khiêm nhường hỏi: “Ông đã không biết, lại sao lại làm chưởng giáo?”, Chí Thường lại im lặng không nói. Trưởng Lão Du nhân đó nói: “Đạo só xem thường nước nhà, dám làm điều không đúng phép tắc. Nay đây, trong Hóa Đồ nói Lý Lão Quân sinh trước thời Ngũ vận, lời luống dối ấy từ đâu mà có? Vả lại, trong sử ghi rõ Lão Tử và Khổng Tử đồng thời xuất hiện vào lúc đang suy biến. Nên đầu đời Đường, tú tài Hồ thường ngâm vịnh sử thi rằng: Thất hùng giáo mác loạn như mè Bốn biển không ai được ở nhà Lão Tử sợ, nghó đến Tây vực Bèn nhờ từ giáp, vượt sa mạc. Như vậy, Lão Tử là người ở vào cuối thời nhà Chu, mọi người đều biết tại sao vọng tạo ra thuyết ấy để dối gạt Chúa thượng ư ? Lý Chí thường nói: “Đó là do người xấu ở mặt dưới làm ra, Đệ tử thật không biết”. Trưởng Lão Dụ lại nói: “Lão Tử đã là bậc đại hiền, đáng ra nên giúp nước an dân phò vua còn chưa đủ, tại sao ngồi nhìn loạn lạc rồi bỏ đi đến phương tây vượt qua sa mạc, nhẫn tâm không cứu giúp ư? Ở ngay quê nhà mà không thể sửa sang, trái lại muốn đi xa mà hóa độ Khương Hồ, cũng chẳng là sai lầm ư? Đó đồng như lửa cháy trên đầu mà không thể tự dập tắt mà lại muốn đi xa cứu lửa ở núi khác! Giả sử là người ngu cũng biết đó là luống dối vậy!” Lý Chí Thường khoanh tay im lặng không nói được gì, mặt đỏ rần toát mồ hôi. Trưởng lão Dụ lại tấu rằng: “Đạo só khinh mạn triều đình, ở chốn xa xôi, cậy lắm tiền của, mua chuộc nhiều quan dân để lừa dối nhân tình, ỷ cậy phép thuật hung dữ, bướng bỉnh chiếm cướp chùa Phật, đập phá tượng Phật, phá nát tháp đá. Ở núi Ngọc Tuyền, có tôn tượng Quán Thế Âm bằng đá ngọc trắng, ông đã đập phá, tùy chỗ có các trụ đá làm phướn ông đều xô gãy, chiếm trồng vườn nhà chùa, vườn trái cây lê, giẻ, nước đất, ruộng… nói chung thì biết được tên gọi có đến hơn năm trăm chỗ, nay đối trước Thiên tử, cần phải trả lại”, và Chí Thường tình nguyện trả lại, mà không nói gì. Trưởng Lão Dụ lại nói: “Hóa Hồ này vốn là ngụy tạo, nếu không đốt bỏ bảng khắc thì khó dập lấp nguồn tà”. Lý Chí Thường chỉ nói: “Xin tình nguyện đốt bỏ hết” và không thêm lời nào cả. Thượng Hoàng nói: “Ta là Hoàng đế, lúc chưa lên ngôi, xưa nay có đặt ra những gì thì y như xưa mà thực hành. Sau khi ta đã lên ngôi, những gì mà trước sau chưa đặt ra thì không nên bày thêm. Đã là nói dối, đạo nhân mới biên tập nên không được lưu hành”. Khi ấy, Thắng giảng chủ, trừng mắt mắng rằng: “Chỉ có loài súc vật, mới lù lù không đáp lại”. Thượng Hoàng nói với các quan rằng: “Đạo só cụt lý nên không dám đối đáp vậy”. Ngày hôm sau, Trưởng Lão Dụ lại dâng biểu tấu rằng: “Hòa Lâm thượng đô bắc Thiếu Lâm tự nối pháp tổ tuyết đình dã nhân vô cùng lo sợ, cúi đầu kính cẩn xin thưa: nghe rằng nên trình bày ngay thẳng lầm lộn để khiến mọi cong vạy được ngay thẳng. Nêu trình bày các thứ cong vạy để khiến cho các thứ ngay thẳng trở thành cong vạy. Đó là hai thứ cội nguồn của việc thưởng phạt, là cơ sở để trị loạn, không trường hợp nào chẳng xuất xứ từ trong ấy vậy, từ thủa sinh dân cho đến nay, thuần phác chưa tan, nên Ba Hoàng năm Đế, đều khoanh tay nhìn về hướng nam, các chính giáo ấy không cung kính mà thành, không nghiêm khắc mà bình trị, bởi vì các bậc thánh nhìn thiên văn để xem xét thời biến, nhìn nhân văn để hóa thành thiên hạ vậy, suốt ba đời cứu xét nhật băng để trừ gian. Nên thánh hiền giáng sinh ứng thời lập giáo, hoặc dùng đạo đức để rửa sạch hoặc ban cho nhân nghóa, để phòng ngừa tệ hại nhỏ nhiệm ở đời sau vậy. Từ đó, Đức Đại Giác Thích-ca Thế Tôn chúng ta đã đản sinh tại Thiên Trúc vào thời vị chúa tể thứ năm thời nhà Chu là Chiêu Vương năm thứ 2 4 - ngày mồng 08 tháng 04 năm giáp dần, cha là Hoàng Đế Tịnh Phạn, mẹ là Thánh Hậu Đại-thuật (= Ma gia) bà mộng thấy voi trắng cỡi vầng mặt trời bỗng nhiên rơi vào bụng, khi tỉnh giấc thì mang thai. Gần đến ngày sinh, thánh mẫu tay vịn cành cây, từ hông phải thần hóa mà sinh, các vì sao cùng giúp sen hồng, chín rồng phun nước hương thơm để tắm rửa. Thân được trang nghiêm bằng ba mươi hai tướng tốt, kèm theo tám mươi vẻ đẹp. Tay chỉ trời, tay chỉ đất để xưng tôn, hiện điềm tốt lành mà ra đời, ra bốn cửa thành nhìn thấy cảnh khổ, nửa đêm vượt thành xuất gia, sáu năm tu khổ hạnh để viên thành nhân của nhiều kiếp, muôn đức khắp thân để khắc quả của nhiều đời. Giảng nói giáo pháp hơn ba trăm hội, hóa độ mở mang tám muôn pháp môn, nhận lời cầu thỉnh của ma Ba-tuần mà vào Niết-bàn, thuận theo căn cơ chúng sinh mà thị hiện viên tịch. Do đó, Đạo vượt thánh phàm, hóa khắp trời người, phàm thanh giáo lưu truyền, không đâu chẳng thấm nhuần, không phong hóa nào chẳng y theo, nên xếp vào địa vị thì đứng đầu trong các thánh. Những ai học theo đạo ấy thọ trì năm giới thì hoàn bị được năm thường, tu tập mười điều lành thì lấp bít mười điều ác. Người sống thì an ổn đối với Vương đạo. Kẻ chết thì thác sinh lên cõi trời, cõi người. Cao xa hơn thì mau dứt bởi cội nguồn sinh tử, riêng vượt ngoài thánh phàm. Kế tiếp sau đó là các bậc Hiền xứ Hoa Hạ ở phương Đông (= Trung Quốc) có Lão Quân, vào đời vua thứ 22 thời nhà Chu, tức năm thứ hai của Chu Định Vương - Ngày 14 tháng 09 năm Bính Dần, Lão Quân sinh tại nước làng Khúc Nhân, xóm Lệ, huyện Quốc Khổ, nước Sở. Cha tên Hàn Càn, mẹ tên là Tinh Phu, mang thai tám mươi mốt năm và sinh dưới gốc cây lý, do đó lấy họ Lý, tên là Nhó và tự là Bá Dương. Thân cao một trượng sáu tấc, trán vồ, mày thô, môi lận, mũi gãy, vai nhọn, đùi rộng, tai vẹt, đầu bằng. Vừa mới sinh ra mà đầu đã bạc trắng nên gọi là là Lão Đam. Lấy đạo nghi riêng kín giữ trong tâm, lấy đức Tam Bảo giúp ích cho sở dụng, đó gọi là Từ, là Kiệm, là không dám ở trước thiên hạ. Đến năm thứ hai vua Giản Vương, làm quan với chức Thư tạng, mười bốn năm sau đổi làm Thái sử. Đến năm thứ 23 thời vua Cảnh Vương tức năm Ất Mão, vì Thất Hùng phân bá, dân chúng nhiễu nhương, Lão Tử không nỡ ngồi nhìn sự tệ hại ấy. Có luồng khí mầu tím nổi lên ở cửa ải, nên muốn tìm về hướng Tây, vượt qua sa mạc mà hỏi thăm đến Hàm Cốc, gặp được quan lệnh Y Hỷ, liền trao cho hai Thiên “Đạo đức kinh” và rất thâm thiết tạo thành Lý của Diệu Đạo, và rồi chẳng vượt qua được sa mạc, chết tại Hòe Lý, đồng thời an táng ở đó, tức nay là xứ Hưng Bình thuộc Kinh Triệu. Về sau, các người học theo đạo ấy, tâm rỗng lòng thật, chỉ đi trong đạo đức bỏ mặc sự thông minh, bước đi trên mây khói, sớm vượt ngoài trần thế. Tiếng tăm, lợi dưỡng không thể làm nhụt chí, hình phạt thế lực cũng chẳng thể đổi dời. Tuy thời gian của hai bậc thánh hiền có cách nhau trước sau, giaó lý có sâu cạn, nhưng xét về tâm của các bậc thánh hiền thì không hề có ngăn cách. Kể từ lúc hoàng triều Thánh tổ khai mở đại thống về sau thì trong thời gian binh lửa, có học giả bắt đầu khai mở pháp môn ấy, đó gọi là Toàn Chân, đội mão mặc áo của Bá Dương, tự xưng là đồ đảng của Bá Dương mà lại bỏ tông miếu của Bá Dương, phản bội đạo đức của Bá Dương, xâm lạm bốn phương không thể tính kể, hủy phá chùa am, đập phá thánh tượng, ngụy bày hóa đồ, vọng lập điển chương, buông lung lắm điều để liên quan đến thời cuộc, mê hoặc mọi người. Tàn hại đạo lý của bậc thánh, liền đem những lời không chứng cứ tự khắc in vào tạng, gọi là kinh, thật đáng cười vậy. Như mới góp nhặt “Lão Tử tám mươi mốt Hóa Đồ Hóa Hồ kinh” v.v… nói cả trăm điều khiến người hiểu biết hễ đọc thì răng lạnh, hễ nghe thì bịt mũi. Như trong Hóa Đồ nói rằng: “Vào năm Canh Thân niên hiệu Dương Giáp, đời vua nhà Ân thứ 18 Chân Diệu Ngọc Nữ ngủ ngày, mộng thấy mặt trời cỡi chín con rồng bay xuống hóa thành hạt châu năm mầu, bà ngậm viên châu ấy mà có thai suốt tám mươi mốt năm, đến vua Võ Đinh - ngày 15 tháng hai năm Canh thìn đời vua thứ 21, bà mẹ của Lão Quân tay vin cây lý, vạch nách trái sinh ra, bước đi chín bước; dưới chân mọc hoa sen nâng đỡ và đi khắp bốn hướng. Nhật Đồng nâng đỡ, Nguyệt Phi rải hoa, Thất Nguyên giữ ảnh, mây lành che mát, Tứ linh kính giữ, Ngọc nữ bưng án. Bà mẹ vịn cành cây, muôn chim Hạc liệng quanh giữa không trung, chín con rồng phun nước. Thân có bảy mươi hai tướng tốt và tám mươi mốt vẻ đẹp, tay chỉ lên trời tay chỉ xuống đất và nói: “Chỉ có đạo là tôn quý hơn cả, đến lúc khôn lớn làm quan lại Thủ tạng dưới thời Văn Vương. Đến niên hiệu Thành Khang thì làm Trụ Hạ sử, bỏ tước của nhà Chu”, không biết thuyết này từ đâu mà có? Lại nói: “Vào ngày mồng 8 tháng 04 năm thứ 24 thời vua Chu Chiêu Vương, Lão Quân bay lên Thái Vi, lại sinh ở thành đô trong nhà họ Lý cùng gặp Y Hỷ, lại bay đến Tây Trúc, bảo Y Hỷ làm Phật để hóa độ người Hồ, cạo bỏ râu tóc làm tăng, và sau khi chết trở về trời lại”. Vài điều sai lầm như vậy đều là lời của bọn trẻ nít đùa bỡn vậy. Than ôi! Phật sinh vào thời Chu Chiêu Vương, Lão Tử sinh vào thời Định Vương, Y Hỷ thọ nhận Đạo đức kinh vào năm Kỷ Mão thời Cảnh Vương, cách nhau năm trăm lẻ bảy năm. Vậy, sao nói Y Hỷ làm Phật ư? Như thế, ngày nay thích vượt mà xưa đến thế, chẳng phải là quá dối ư? Phàm trước sau cuộc đời của Lão Tử đều ghi đủ trong Chu sử mà nay cho là Chân Diệu Ngọc Nữ sống vào niên hiệu Dương Giáp đời nhà Ân sinh ra. Song, Chân Diệu là phàm hay thánh? Nếu là thánh thì Lão Tử sao lại làm quan đời nhà Chu? Nếu là phàm thì thuộc dòng họ nào? Huống hồ, thánh như Lão Quân có muôn thứ tốt lành mà người đời há lại là không biết, mà cho là quan lại ư? Tại sao bỏ sự sáng suốt mà hướng về sự tối tăm như thế? Có thể chẳng hổ thẹn ư! Huống gì hiện nay ở làng Hòe phần mộ còn đó, mà họ cho rằng Lão Tử giữa ban ngày bay lên không trung, thì sao lại có phần mộ? Mới để cho cỏ gai lan tràn mà không cúng kiến. Đó đều là những điều không đáng làm của những người các căn đầy đủ. Như Trang Tử, Liệt Tử cũng là những người có danh tiếng trong đời; là Á thánh của Bá Vương vậy, mà con của Trang Tử nói Lão Đam chết, Tần Dật đến điếu viếng gào khóc ba lần mà ra, không hề nói việc bay lên Thái Vi vậy. Con của Liệt Tử tuy khéo quan hệ với Y Hỷ mà một mực bác bỏ điều đó. Bên cạnh đó, đáng mừng lời đáp của Trọng Ni là “ở phương Tây có bậc đại thánh”. Đó là lời nói rốt cùng vậy, không hề nói đến việc giáo hóa người Hồ. Lược nêu hai việc ấy thì những điều sai lầm tự nó đã rõ ràng vậy. Vì các điều nói ra trước sau so với bản sử hoàn toàn trái ngược, dường như chẳng phải Lão Đam. Nhưng mà, ngoài Lão Đam còn có Thái Thượng Lão Quân thành thánh nữa ư? Sao dối bày là chẳng phải thánh như vậy. Vả lại, ở đời cũng có những kẻ rất không ra gì, nhưng đứng thẳng như những người hái củi, chăn trâu sao dám liền than như thế, huống hồ là bậc Thánh ư? Trọng Ni nói rằng: “Chẳng phải bậc Thánh thì không noi theo, đó là đạo của đại loạn vậy!” Thêm nữa, Hứa Xướng Tân làm bia của tam giáo, an trí Lão Tử ngồi giữa, Phật và Khổng Tử phụ ở hai bên, cũng rất là chẳng xét xem ngọn nguồn vậy. Vả lại, địa vị trong tam giáo, từ đời nhà Hán đến nay đã hơn ngàn năm, như đường chỉ trên lòng bàn tay, ngắn dài phải trái, cố nhiên đã có cố định sẵn, đâu phải những kẻ nam nữ tầm thường mà làm khác lại được? Xem đó, bắt chước bọn nhăn mặt quên gốc, đó là muốn hủy diệt đạo của đấng Đại giác, chẳng phải hủy mà diệt được, thật tiếc thay đạo của Bá Vương chỉ là quét đất, làm sao còn như cây đằng, cây la nhờ nương cây tùng cao, cành lá tốt nhiều che râm cả mẫu đất, những kẻ hái củi, chân trâu đi ngang qua đó ngửa mặt mà than rằng: “Lớn lao thay, sự rậm rạp đó là sự tốt tươi và lớn mạnh của cây đằng”. Như vậy mà không nói gốc lớn của cây tùng, cây bá vậy, đã là cây tùng mà không nhờ cành lá nó thì khô héo, khô héo thì tuyệt nhiên dây leo, cây la, sà xuống đất không chỗ nào chẳng lan đến. Tuy rễ sâu mún chặt mà lại muốn trông nó ở vân hán, cũng chẳng phải xa ư? Đối với đạo của Bá Vương đùa giỡn, nó cũng như vậy mà thôi. May gặp chúa thượng anh hùng, tiếp nối Thánh hiền, thông triết, ngự trời, ngồi làm gương sáng soi chiếu suốt tám phương như mặt trời vua Thuấn soi khắp bốn biển, xét từng mảy may mà không che giấu, vào Đại thống bằng sự vô tư, ngưỡng mong ngay chính điển mô của Tam giáo mà răn dạy các bảo hiệp đại hòa, làm khuôn phép chuẩn mực cho muôn đời hẳn không ít lợi ích, chỉ vì kẻ có phước đức, không chịu trông trời nhìn thánh. Vô cùng lo sợ, cúi đầu kính cẩn tỏ bày. Tức tháng tám năm Ất Mão (1 2 5 5). Hoàng Đế đã đề xem thị phi biết hết tốt xấu rồi, mới truyền thánh chỉ rằng: Đại sư Na-ma, Trưởng Lão Dụ ở thiếu lâm tấu lại, các ông hủy hoại hết kinh giáo của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni và làm ra kinh điển giả dối. Hủy hoại tượng đắp Đức Phật Thích-ca Mâu-ni và đặt trước tượng Lão Quân. An trí tượng đắp Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ngồi dưới bên mặt của Lão Quân, cùng với Lý Chân Nhân đồng một chỗ đối chứng hỏi đáp. Lý Chân Nhân nói: “Ta đều không có lý hiểu được”, nay giao cho Bố Chỉ Nhi đứng đầu các quan xử đoán công việc. Người nào tạo kinh giả và in bản mộc, bất kể là ai có cội gốc, đều gọi cùng đối chứng qua. Nếu thật mới soạn thuyết ấy kinh ấy thì giao cho Đại sư Ma- na. Các ông nào tạo kinh giả, Bố Chỉ Nhi là vị quan đứng đầu các vị xử đoán công việc cùng một chỗ thẳng mặt đối chứng trái lúc, quyết đoán tội lỗi thích đáng nặng nhẹ, Đại sư Na-ma đều biết. Lại nữa, phá hủy tôn tượng Đức Phật Thích-ca và tượng Quán Thế Âm, đổi lại đắp vẽ hình tượng Lão Quân, dạy nào các ông phải y như cũ trước đây mà đắp vẽ tượng Phật Thích-ca và tượng Quán Âm, đắp sửa hoàn tất thì phân giao cho các Hòa-thượng, các ông nào phá hoại Phật, phải y theo lý mà xử tội thích đáng. Đoán sự quan đứng trước để chứng kiến giao cho Đại sư Na-ma xét biết. Còn nếu Hòa-thượng mà phá hoại tượng Lão Tử, để đắp vẽ tượng Phật, cũng y như thể lệ trước mà xử tội thích đáng. Tức ngày 29 tháng 09 năm Ất mão. Bọn Não Nhi thực hành Thánh chỉ ấy, Đại sư Na-ma vin theo thánh chỉ ấy, thấy các ông ở chùa Phụng Phước xâm chiếm các tự viện khác, các ông không chịu giao phó, cho đến Tôn tượng Quán Âm ở núi Ngọc Tuyền, các ông đập phá mà không chịu bồi thường trả lại, khiến Trưởng Lão Dụ ở Thiếu Lâm, Trưởng Lão Kim Đăng cùng đến phủ Đức Hưng đối chứng với kim thượng Hoàng Đế, tuyên cáo thánh chỉ trước kia thì phải bồi thường thích đáng. Trưởng Lão Dụ ở Thiếu Lâm trước cùng chấp kết, quyền giáo Trương Chí Kính vọng muốn chống lại ta, không chịu giao phó, Kim Thượng tức giận khiến Trung Thị Lưu Hoạt nghó bắt đánh mắng nó, đầu mặt chảy máu, nhưng hoàn toàn không xấu hổ. Năm sau, sai khiến Hồ Đổ Tôn xuống lại y theo bổn ý Thánh chỉ của Hoàng Đế, thảy đều quy định đoán việc, dựng ranh giới tường rào, giao cho chùa Phụng Phước, đại diện thay thế thánh chỉ đầu tiên của Mông Kha Hoàng Đế, giao cho Bố Chỉ Nhi làm chức quan đứng đầu trong các vị xử đoán công việc, tùy đường cùng lui, các ông đang ở trên đất của chùa viện gồm ba mươi bảy chỗ đều bảo giao lại cho Phật giáo mà Lý Chí Thường không y cứ theo mà xử đoán, sai đạo só Phiên Đạo Lục, lại tấu thánh chỉ sinh tình kiến riêng, y theo Hồ Đổ Hổ Na Diễn, sao số về sau không chịu sửa đổi. Tuy tấu như vậy, nhưng Kim Thượng Hoàng Đế chưa chấp thuận, mà đạo só Phiên Chí Ứng những hướng đến các xứ Khất Đài Phổ Hoa để nói, tự tiện dối truyền thánh chỉ của Hoàng Đế, một mực từ khước, đều chiếm đoạt, lại xô ngã tường rào ranh giới. Tháng 5 năm Bính Thìn (1 2 5 6) Đại sư Na-ma lại cùng với Trưởng Lão Dụ ở Thiếu Lâm. Trưởng Lão Phụng Phước Hanh, Am chủ thống nhiếp Ôn, Trưởng Lão Thượng Phương Vân, giảng chủ Tư Phước Lãng, Trưởng Lão Khai Giác Mại, Trưởng Lão Đại Danh Tân, Đại sư Tháp tất tiểu tô ma thất lợi, trung sơn Đề lãnh yếu a thất chân định dịch âm mông cổ đải đều đến Hợp Lạt, cốt lâm dự đợi Lý Chí Thường v.v… cùng đối chứng giữa triều đình, thường cùng các ông thực hiện cuộc biện luận lớn. Định ngày 16 tháng bảy, ra mắt Hoàng Đế ở phía Nam thành cốt lâm; xưa là Thích hành cung. Hoàng Đế dẫn các sư vào đại nội, ôn hòa tiếp rước, đều ban cho vàng lụa, chỉ đợi các đạo só biện minh chân ngụy mà Lý Chí Thường sợ không dám đến. Tự suy nghó trước đây đối với vua chỉ nói là “không biết”, nay lại chống đối, lo sợ thua cuộc, mới sai Quyền giáo Trương Chí Kính (tự là Nghóa Hương), Ngụy Trọng Bình, Ôn Đích Hãn v.v… dời việc đến chậm, do xét chư tăng xa gần không bao giờ ra mặt, rình nghe các sư lui triều liền đến trình. Thiên tử A-lý- Bất-Ca Đại Vương biết các đạo só là vô lý, tuy lại lắm lời mà chẳng hề nói với họ. Song, Lý Chí Thường thấy chư tăng đến thực hành, tiến thối nương nhau, sầu lo uất kết, biến thành bệnh ung thư não, lòng sợ hồn kinh, lại cảm thấy sấm sét, nhân đó mà chết, nên người thời bấy giờ vì thế mà làm thơ vịnh rằng: “Quán tra tử có thuốc không chết, Lão Khâu truyền lại lý chân thường Ba ngàn Ngọc nữ, trường xuân quán, Mười hai lầu Quỳnh nhà ngắm trăng, Uống khí biến thành cơn tắt thở Nuốt ráng hóa thành ung thư não Toàn chân nghiệp suốt tròn năm tháng Sấm sét xốc vánh, tội Ngọc Hoàng”. Người nghe đều cho đó là lời thật (tức vào tháng sáu năm Mậu ngọ (1 2 5 8)). Hoàng đế vì các vua mở đại hội lo việc ban thưởng, tha thiết đối với việc chư tăng và đạo só đối đáp biện luận. Vả lại, bảo A-lý-Bất-Ca đại vương tán hành thưa hỏi tất cả các sự kiện mỗi mỗi đều tấu lên để biết. Chùa Trung Bàn Pháp Hưng ở trên núi Sơ Bàn, khoảng năm Hợi năm Tý (?) thiên binh mới qua, có ít vị tăng. Ở Hải sơn vốn không nối thờ Lão sư, Trưởng lão Chấn Công đầu tiên ở thượng phương, chuẩn bị hạt dẻ để làm lương thực sống qua ngày. Bọn Toàn chân cậy thế lực của Khâu Xử Cơ, mưu chiếm Trung Bàn, mới đến chỗ Chấn Công giả nói xin ở tạm. Chấn Công cho rằng Đạo nhân ở lại qua đêm còn hơn để hoang vắng, trái lại ra lệnh quyền dừng ở đã lâu bèn thành lệ định cư vónh viễn. Vương đạo chính Trần Tri Quán, Ngô Tiêu Sinh v.v… bèn sửa đổi mái điện, đập hết tượng Phật,, lại mạo tấu cùng quốc mẫu thái hậu nương nương, lập bia đổi biển ngạch là “Thê Vân Quán viện”, bên trong có ngôi tháp báu xá-lợi Phật xưa, cao hai trăm thước thì san bằng cả, ảnh đường chánh Điện, Vân đường ba cửa, thảy đều đập phá, chư tăng đòi lại mà không được. Năm Ất mão (1 2 5 5), thánh chỉ quyết định ban cùng hòa thượng nhưng không chịu giao, sau đó, Trưởng lão Vân Công ở thượng phương tức giận điều vô lý ấy bèn đập nát văn bia, tấu báo cùng kim thượng hoàng đế. Lại cùng Đại sư Na-ma, Trưởng lão Dụ ở Thiếu lâm vào triều hầu Mông Kha hoàng đế, trình bày rõ ràng việc ấy. Thánh chỉ ủy phó cho kim thượng hoàng đế, sửa đổi tệ hại ấy, liền làm tăng viện, tức là ngày mồng bốn tháng chín năm Mậu ngọ (1 2 5 8). Chùa Thủy Cốc ở Phủ Đức Hưng, xưa nay tượng Phật và tượng mười sáu vị La-hán đều tạc bằng đá, kỳ công tuyệt đẹp. Sau thời binh lửa không có chư tăng coi ngó giữ gìn, nên các đạo só chiếm trộm ở đó, trải qua lâu ngày, lo sợ chư tăng đòi lại nên phá hết các dấu vết ấy, bèn đập phá các tượng lấp vùi dưới ao nước. Về sau, chư tăng đòi lại, sợ vốn là đạo viện, chư tăng tìm soát tượng ra, các đạo só bèn giấu. Tại Thượng Phương, Đề Lãnh Vân, Trưởng Lão mang tượng Phật bị nát đầu đến tấu triều đình, A-lý-Bất-Ca Đại Vương thấy vậy mà thương cảm, liền gọi Kim Pha Vương tiên sinh đến, nói người nương vào pháp lục, cho dùng tên bắn nó, dùng đá chọi nó, đầu của đạo só đều chảy máu. Nói với đạo só rằng: “Chân thân của Phật mịt mờ dứt điềm, giống như hư không, không thể phá hoại, mắt còn không thấy vậy làm sao hủy hoại được? Chỉ vì các ông không biết mới gieo nhân địa ngục. Giả sử ngươi; tà ngu trong đời ngươi hủy hoại được, nhưng đâu thể tổn hại được chân thân của Phật ư?” Vậy rõ biết các đạo só xâm chiếm chùa Phật, phá hoại tượng Phật, hẳn không phải là lời nói luống dối. Thêm nữa, tại yên bắc, núi Ngọc Tuyền, xưa có tôn tượng Quán Thế Âm bằng đá ngọc màu trắng, bị đạo só đập phá, thân đầu lìa nhau, đục nát tháp đá, xuyên thủng vách đá làm hang động, phía trong khắc chạm đạo tượng, còn dua nịnh triều đình, nói vì quốc gia mà làm nơi tu tạo phước lành. Gieo giản phước địa, muốn chiếm đoạt vónh viễn, sợ người sau này chiếm đoạt, nên sau khi Lý Chí Thường bị bệnh ung thư não đã phát, lại bị sấm sét mà chết, bèn giả chôn quan tài, làm nấm mồ thật lớn, cây gậy của ông chôn ở Ngọc Tuyền, mà thật là thây chôn ở trong Ngũ Hoa Quán. Âm mưu muốn dời năm, thay đổi cách an táng, chỉ lộ bày hòm không, vọng đợi chờ truyền bá, bắt chước như Tổ Sư Đạt-ma thây giải tiên đi, mà thần chẳng dung kẻ gian lận, muốn ẩn lại càng bày. Nhân Tái Điển Xích sai người cải táng, trình bày việc ấy. Phiên Hán nghe vậy, mỉa mai cười trách gian lận. Hoàng đế của đại vương nghe việc dối trá ấy, mới chê trách với Hoàng Đế rằng: các đạo só, từ xưa đến nay xem thường quốc gia, năm xưa nói là gieo giản đất phước, ngày nay lại vùi chôn thây thối, nếu thật như thế thì không thể tha thứ”, bèn sai lính trạm Hà Hội Tất Xà Xích và A Tư Lan đến đào bới, quả thật phơi bày chiếc hòm rỗng, xét hỏi thì thật là thây chôn trong Ngũ Hoa Quán, dở ra xem thì đã thối nát. Các việc dối trá hư vọng như vậy, mọi người đều biết, mà đạo só khắc chạm trong Hóa Đồ nói là xuất thần bay lên trời. Và, trong Thiên Trường Quán, một ngàn cái vân bản tự nhiên bị nứt, đánh không kêu, chiếc vạc chứa cả muôn người bất chợt nứt nẻ, gác lớn bằng lưu ly bỗng nhiên bị sụp đổ, mọi sự bất tường khó thể nói hết. Đó cũng chính do sự chứa nhóm hư nguy khinh thường mà chiêu cảm ra! Núi Ngọc Tuyền, đất nước, thánh chỉ giao hết cho Đại sư Na-ma, đạp bờ, lên trên dòng suối, xây dựng Quán Âm trùng các, bên trong đắp họa tượng Ngài, thếp vàng thêu lụa, rất khéo léo đẹp đẽ, trở lại có Phật. Hoàng Đế nói cùng các sư rằng: “Đất nước ta đây nương nhờ năng lực Phật sáng soi làm nền tảng lớn. Thánh chỉ của Phật chẳng dám không vâng, mà các ông mỗi lúc thấy Hoàng Đế ta đây, mọi người trong nhà đều quy y Phật pháp nên sinh tâm ganh ghét, rộng muốn đạo các ông ngăn ngại Phật giáo, chữ Phật giáo, Đạo giáo hai đường đều chẳng ngại nhau. Chỉ vì muốn bành trướng nhà mình mà ngăn cấm cửa nhà người, đó chẳng phải thông luận vậy. Nay các ông nói Đạo giáo tối cao, các vị tú tài nói Nho giáo là bậc nhất, đắp đổi vụn vặt, người kính phụng càng mất, quở trách rằng nói được sinh lên trời, được mất cậy thế làm càn rỗng giữa không trung, tạ trời ban thưởng cho. Suy xét một cách tinh tế, căn bản đều khó ngang bằng với Phật, khi ấy, Hoàng Đế đưa cánh tay lên mà thí dụ rằng: Thí như năm ngón tay đều từ trong bàn tay mà ra. Phật giáo như bàn tay, ngoài ra đều như các ngón tay, không nhìn chính gốc ấy mà mỗi giáo tự khoe khoang, đều là bọn người mù sờ voi mà nói vậy”. Bấy giờ, đang mùa Đông giá lạnh mà cá ông ấy chẳng hề chịu bước lên trên đường chỉ ngâm mình trong nước. Hoàng Đế nói với các sư: “Đạo gia đã không chịu đến thì chắc chắn đoản nên không dám cùng đối luận”, bèn ban lệnh cho tăng chúng cỡi ngựa trở lại đất Yên. Tức ngày mồng 10 tháng 09 năm Bính Thìn. Vào tháng 8, mùa thu năm Đinh Tî (1 2 3 7), Trưởng Lão Dụ ở Thiếu Lâm, Trưởng Lão Kim Đăng lại cùng đến triều đình. A-lý-Bất- Ca Đại Vương đặc biệt ban truyền thánh chỉ: “Đạo gia từ trước đến nay làm ra 81 Hóa Đồ phá hoại Phật pháp và các thứ văn tự cũng như bản mộc phỉ báng Phật pháp, đều đốt bỏ hết, hoặc có đắp trước hay họa vẽ các hình tượng, khắc chạm trên trụ đá … Các ông mỗi mỗi đều chẳng y theo thể lệ thời xưa, đều cho phá hủy và chà rửa sạch. Người mài giao cho Kim Thượng Hoàng Đế như pháp thực hành rồi. Đế nghó rằng: “Ở đây đã định là đất Hán, không biết nêu chẳng đến kia, nhóm họp rộng rãi để đối biện do vì cạn lời mà tự thua, mới tố tụng quốc gia cưỡng bức chiết phục, khi Kim Thượng Hoàng Đế xây dựng thành ở Thượng Đô, vì nước nhà mà ban thánh chỉ của Hoàng Đế khắp trời đông, để lại cho tương lai. Ra lệnh nhóm họp các vị danh só của chín học phái lại cùng khảo luận, khiến cho Phật giáo, Đạo giáo hai đường tà chánh phân rõ. Kim Thượng Hoàng Đế nương Thánh chỉ trước, mời khắp cả Phật giáo Đạo giáo hai tông, Trưởng Lão Dụ ở Thiếu Lâm đứng đầu tăng chúng, Hòa-thượng mỗi Trương Chân Nhân đứng đầu đạo chúng. Các ông mỗi mỗi vào cung thượng đô dưới đại các, ngồi trước đối luận, trong chúng thì có Quốc sư Na-ma, quốc sư Bạt-hợp-tư bát, Tây Phiên Quốc Sư, các vị tăng nước Hà Tây, Ngoại ngũ lộ Tăng, các vị tăng nước Đại Lý, Hán Địa trung Đô Viên Phước Siêu trưởng lão, Phụng Phước Hanh trưỡng lão, bình loạn lộ khai giác mại Trưởng lão, Đại danh Tân Trưởng Lão, Đại sư Tháp Tất Tiểu, Đề-Điểm-tô-ma-thất-lợi dịch âm là Chân Định, Mông Cổ Đãi Bắc Kinh Tuân giảng chủ, Đại Danh Khuê Giảng chủ, Trung Đô thọ tăng lục, Tư Phước Lãng giảng chủ, Long môn dục giảng chủ, Thái Bảo Thông Công v.v… hơn ba trăm vị tăng. Nho só Đậu Hán Khanh, Diêu Công Mậu v.v…, Thừa tướng mông tốc tốc Liêm Bình Chương, Thừa tướng Một Lỗ Hoa Xích, Trương Trọng Khiêm v.v… hơn hai trăm vị cùng làm người chứng nghóa. Đạo só Trương Chân Nhân, Man Tử Vương, tiên sinh Đạo Lục, Phiên Chí Ứng, đạo Phán Ngụy Chí Dương, giảng sư Chu Chí Lập v.v… hơn hai trăm vị cùng với chư tăng biện luận, Kim Thượng Hoàng Đế hỏi rằng: “Đạo gia tạo ra tám mươi mốt Hóa Đồ và các thứ văn tự phỉ báng Phật giáo, Lý Chí Thường trước kia đối diện trước Mông Kha Hoàng Đế biện luận với Trưởng Lão Dụ ở Thiếu Lâm, đã bị thua và kinh sách bị đốt bỏ hết. <篇> <卷>QUYỂN 4 Kim Thượng Hoàng Đế hỏi rằng: “Đạo gia tạo ra tám mươi mốt Hóa Đồ và các thứ văn tự phỉ báng Phật giáo, Lý Chí Thường trước kia đối diện trước Mông Kha Hoàng Đế, biện luận với Trưởng Lão Dụ ở Thiếu Lâm, đã bị thua và kinh sách đã bị đốt bỏ hết, Hoàng Đế sợ các ông mỗi người trong lòng vẫn chưa khuất phục nên đặc biệt ban truyền thánh chỉ để lại cho tương lai, bảo phải bàn luận kỹ càng, nếu là Phật giáo hay Đạo giáo hai bên, ai thua thì phải trị phạt thế nào?”, chư tăng nói: “Ở Tây Thiên có điều lệ; nếu người thua lý thì chặt đầu để tạ lỗi”, còn các đạo só nhìn nhau không dám trả lời. Hoàng Đế nói: “Không cần phải như vậy, chỉ cần chư tăng không có chứng cứ thì để tóc đội mũ, còn đạo só thua nghóa thì cạo đầu làm tăng”. Khi ấy, tiên sinh mỗi người như le nhảy hạc bay, mũ lam áo gấm, rối rít giành trước. Chư tăng nói: “Phật giáo, Đạo giáo tranh biện về nguồn gốc sinh khởi việc giáo hóa người Hồ, nay thảo luận từng việc từ đâu, tháng như ở đề sách các ông nói: Thái Thượng hỗn nguyên Thượng Đức Hoàng Đế minh uy Hóa Hồ thành Phật kinh, nếu biện luận đầy đủ rõ ràng thì sợ thành phiền toái, nên có thể nêu bày đại ý để thử bình luận, hỏi rằng: Nay Hóa Hồ kinh văn có thật do Lão Tử nói chăng?” - Đạo só nói: “Là do Lão Quân nói”. Chư tăng nói: “Nếu thật do Lão Quân nói thì trong Hóa Hồ kinh nói về việc chúng tăng cạo đầu thọ giới, ông phải biết đó. Vậy hãy nói rõ ràng về nghi quỷ thọ giới”. Đạo só nói: “Việc của ông (= chư tăng), chúng tôi không quản lý”. Chư tăng nói: “Thọ giới là việc nhỏ, ông còn không biết, vậy đủ rõ kinh văn Hóa Hồ đều là trộm trong kinh Phật mà làm ra”. Các đạo só im lặng không đáp lại. Chư tăng lại hỏi: “Giáo hóa người Hồ thành Phật. Vậy Phật nghóa là gì?”. Đạo só nói: “Phật là người tốt lành bậc nhất trên thế gian”. Chư tăng nói: “Từ xưa đến nay có biết bao nhiêu người tốt lành, sao không tôn xưng là Phật? Ý nghóa sâu sắc về Đức Phật các ông vốn không biết”. Đạo só nói: “Phật nghóa là Giác”. Chư tăng nói: “Giác cái gì?”. Đạo só nói: “Giác sát giác ngộ”. Chư tăng nói: “Thế nào là năng giác và thế nào là sở giác?”. Đạo só nói: “Giác thiên, giác điïa, giác âm, giác dương, giác nhân, giác nghóa, giác tri, giác tín, … không gì chẳng giác, đó nghóa là Phật vậy”. Chư tăng nói: “Phật là bậc Đại thánh, đạo tận cùng tánh mạng, đâu chỉ giác về nhân nghóa ư? Đó là giáo điển ngũ thường dùng để dạy đời, là điều nói của Đức Khổng Tử. Nếu Phật chỉ biết như vậy, tại sao Khổng Tử không được tôn xưng là Phật?” Đạo só không trả lời được. Trưởng lão Viên phước hỏi Diêu Công Mậu rằng: những từ ngữ nhân nghóa v.v… là lời của Lão Tử hay là lời của Khổng Tử?” Diêu Công Mậu nói: “đó là lời dạy của Khổng Tử”. Viên Phước nói: “Đạo só từ trước đến nay trộm kinh Phật để làm sách của Đạo. Nho giáo chỉ có nói nhân tín, các ông xem lấy bất định, cũng bị các đạo só trộm lấy trước mặt”. Hoàng đế hỏi các Nho só rằng: “các từ ngữ nhân nghóa đều do Khổng Tử nói phải không?” Diêu Công Mậu v.v… đều đáp rằng: “đó là do Khổng Tử nói”. Hoàng đế nói: “đã là do Khổng Tử nói, tại sao cho là Phật nói, vậy đủ biết lời của Đạo gia đều là lời nói dối”. Các đạo só không trả lời được, mới tấu trình các sách như Lão Tử Hóa Hồ kinh, sử ký v.v… lên hoàng đế. Hoàng đế nói: “không cần các ông phải nói nhiều, chỉ lấy văn tự để làm chứng. Vậy đây là sách của ai?”. Đạo só nói: “đó là tại đất Hán từ xưa đến nay đã có tên tuổi hoàng đế, tập Đại Thành đặt sử ký xưa nay để làm bằng chứng”. Hoàng đế hỏi: “Từ xưa Hoàng đế chỉ xuất hiện tại đất Hán? Hay xứ khác cũng có?”. Đạo só đáp: “nước khác cũng có”. Hoàng đế lại hỏi: “hoàng đế ở nước khác cùng với hoàng đế tại đất Hán là cùng một loại phải không?”. Đạo só đáp: “Là cùng một loại”. Lại hỏi: “đã là một loại, vậy ngôn ngữ của hoàng đế ở nước khác và ngôn ngữ của hoàng đế tại đất Hán đều được dùng như nhau phải không?”. Đạo só đáp: “Đều sử dụng như nhau”. Hoàng đế nói: “Đã sử dụng như nhau, tại sao Lão Tử ở tại xứ khác không hề hành hóa mà văn tự, sử ký ấy chủ trương Lão Tử giáo hóa người Hồ. Ấy chẳng phải là văn tự nói dối ư? Nên loại sử ký ấy đều nên gom lại đốt bỏ, không đánh kính tin, nương tựa”. Các đạo só đều không một lời đáp lại. Quốc sư Na-ma lấy gậy chỉ thẳng mặt các đạo só mà quở rằng: “hạng người như lừa ngựa ấy, mọi việc đều không hiểu, cùng các tiên sinh ấy bày ra cái gì?” Bạt-hợp-tư-bát quốc sư hỏi: “Lão tử để lại kinh giáo căn bản gọi là gì?”- Đạo só đáp: “Có Đạo Đức kinh thật là căn bản chính”. Lại hỏi: “trừ kinh ấy ra còn có kinh giáo căn bản gì nữa không?” - Đáp: “Chỉ có Đạo Đức kinh là kinh nguyên bản”. Lại hỏi: “Vậy trong đạo đức kinh có nói đến việc giáo hóa người Hồ không?” Đáp: “Không có việc ấy”. Hỏi: “trong ấy không có, vậy từ đâu nói ra?” - Đáp: “Tại đất Hán mà văn tự sử ký nói việc giáo hóa người Hồ”. Ở trước hỏi các ông nói sử ký ở nước khác cùng với sử ký tại đất Hán cùng là một loại, thì ở Tây thiên có vua Tần-Bà-Sa-la ngôn ngữ trong sử ký có bằng chứng không?” Đáp: “Đều là sử ký, đâu dám không tin bằng chứng”. Lại hỏi: “Đã vậy bằng chứng tin sử ký kia nói: “Trên trời, dưới đất không ai bằng Phật, thế giới mười phương cũng chẳng ai sánh ví”. Đó là sử ký Tây thiên nói lại như thế, đã trên trời dưới đất không ai bằng Phật, vậy xứ nào lại xuất hiện Lão Tử giáo hóa người Hồ thành Phật? Thế đủ rõ lời của các ông đều là lời nói hư dối dua nịnh”. Các đạo só không trả lời. Quốc sư lại hỏi: “Sử ký kia lại nói: dưới trời có người trần tục để râu tóc lễ bái một sa-di nhỏ tuổi. Lời nói ấy trong sử kia nói lại, chứ không hề thấy Lão Tử độ người, các ông có nghe chăng?” Đạo só đáp: “Không hề được nghe”. Hoàng thượng giận nói: “riêng sử ký ấy, các ông chưa từng được nghe, vậy sử ký đất Hán riêng các ông được nghe ư?” Diêu Công Mậu nói với các Đạo só rằng: “kẻ só vụn vặt chỉ giữ góc cạnh, khó có thể bàn luận các việc lớn, chỉ vì chấp trước sử ký đất Hán, lời nói tự trái nhau, nhìn lại lời trước đều là sử ký đâu dám chẳng tin bằng chứng ư? Sử ký Tây thiên đã nói như thế thì Phật là bậc Thánh vậy, nay đã trộm lấy, lại còn hủy bỏ chứng cứ”. Các đạo só im lặng, hoàng đế nói: “tên của Lão Quân chỉ nghe ở xứ này, danh hiệu Phật nghe khắp thiên hạ, thì làm sao ngang bằng với Phật ư?” lời nói của đạo só đã không chứng cứ, mặt đỏ bừng, đuối lý. Trước đây trưởng lão Dụ ở Thiếu Lâm dâng biểu lên Mông Kha hoàng đế biện luận Đạo giáo không chân thật, nên ở trong đây có một đạo só không dằn nổi cơn tức giận nên lớn tiếng nói trưởng lão Dụ rằng: “văn biểu của ông phỉ báng Lý Lão Quân, nói Lão Tử chết thật, vọng dẫn Trang Tử Tần Dật đến viếng Lão Tử. Đó là truyện ngụ ngôn của Trang Chu làm sao có thể tin được?” Trưởng lão Dụ nói: “sách của Trang Tử, đạo gia tôn sùng kính chuộng, đã là ngụ ngôn thì lời của Đạo Tạng đều là lời nói không thật”. Các đạo lại chịu thua. Hoàng đế hỏi Trương Chân Nhân: “Tâm ông còn cần giữ lập luận chăng?” - Trương Chân Nhân đáp: “Không dám giữ lập luận”. Hoàng đế nói: “Ông thường nói, trong các đạo só có nhiều vị thông đạt phương pháp cấm chú, như nhảy vào lửa không bị cháy, hoặc giữa ban ngày bay lên trời, hoặc thâu hồn trả lại người, hoặc xua đuổi yêu quỷ, hoặc uống khí không già, hoặc cố tinh nhìn lâu… các phương pháp như thế ngày nay đều nên thể hiện ra”. Trương Chân Nhân đều không đáp lại. Khi đó, mặt trời gần lặn vào chỗ tối tăm. Hoàng đế nói: “Đạo só nói ra là luống dối cướp trộm, phải y theo sự ước định trước, là cởi bỏ mũ mão, cùng một lúc xuống tóc. Ngay lúc kháng luận ấy có tất cả mười bảy người. Tranh luận vừa dứt, đại sư Na-ma sai Tây Kinh Minh Đề Lãnh, Yên Kinh Định Tăng Phán, Ngọc Điền Trương Đề Điểm, Đức Hưng Phủ Sủng Tăng Lục Và Tùy Độ Tăng Quan, coi giữ phòng đưa đến Yên Kinh. Khi đã vào cửa đô thành thì đại sư Tháp-tất Tô-ma-thất-lợi bảo các đạo só đem mũ sao áo bào treo trên chiếc sào dài, đồng thời thông báo rõ cho quần chúng biết và những nơi đã xâm chiếm như chùa miếu núi rừng đất nước, tất cả là bốn mươi tám chỗ, đồng thời bảo giao cho Phật giáo. Cho đếnTrường Xuân cung chùa Phụng Phước ở Yên Kinh bị chiếm, hư hoàng đại các liền giao cho Trưởng lão Kim Đăng, tám mươi mốt hóa đồ nói trên, các ngụy kinh và các bản mộc điêu khắc, đều bảo đốt bỏ hết. Những văn bản khắc trên biavà tượng đắp họa, Đạo gia không được để lại mà phải đập phá. Trưởng lão Dụ ở Thiếu lâm bàn với chư tăng rằng: “Nếu thực hành đúng theo yêu cầu, sợ sẽ cơ hiềm và cậy vào thế lực, nên để lại cho hai trăm tám mươi chỗ, chỉ lấy hai trăm lẻ hai chỗ mà thôi”. Mọi người lớn nhỏ đều khen ngợi Phật giáo rất nhường nhịn. Kim Thượng hoàng đế bèn ban thánh chỉ: “y cứ thánh chỉ của Mông Kha hoàng đế để xử đoán, trước đây trưởng lão Dụ ở Thiếu Lâm cáo xưng, Lý Chân Nhân đứng đầu các ông để khắc chạm các văn thư nói dối như: hóa hồ kinh, thập dị cửu mê luận, phục thuần hóa luận, Minh Chân biện ngụy luận, Biện chánh Báng đạo Thích kinh, Tịch tà quy chánh nghị, tám mươi mốt hóa đồ. Trên vâng phụng thánh chỉ ý giao phó cho tương lai, ta đây mỗi giữ góp nhặt lại, hòa thượng các ông chỉ nói dối trá, hóa hồ kinh có nhiều văn thư và các bản khắc đều đốt bỏ hết. Đó là loại kiên bỏ vậy. Sợ người khác tìm soát không cùng khắp nên sai Trương Chân Nhân tự thực hành việc sai người đi các nơi tìm lấy lại các thứ kinh văn bản mộc, hạn định nội trong hai tháng đem giao về giao cho Yên Kinh, góp nhặt lại để đốt bỏ hết. Đồng thời y cứ văn thư dối trá ấy chuyển khắc trên bia, cốt và đắp họa trên vách tường, thấy được bất cứ ở đâu các ông phải liền mài phá bỏ. Cạo bỏ xong, các ông không được che giấu, nếu có che giấu các thứ ấy mà có người tố giác ra, thì các ông ấy phạm tội rất nặng”. Lúc đó là ngày 11 tháng 7 năm Mậu ngọ (1 2 5 8), Trương Chân Nhân nghe đọc xong bèn sai người đến Vân Đài quán, tìm lấy ngụy kinh dối trá, hóa hồ kinh, tám mươi mốt hóa đồ v.v… các thứ bản mộc. Và tùy theo các chỗ cung quán có đặt để ngụy kinh, đưa xe chở đến Yên Kinh, ở phía Tây nam chánh điện chùa Đại Mẫn Trung, đối trước các quan đều cùng đốt bỏ. Hòa-thượng Vạn Thọ Gián nhìn xuống lửa và nói: “Kính nghe: triệu của Tam Nguyên Ngũ vận, sách của trăm nhà hiền triết, không đâu chẳng nói thuần phong của Nhân Luân tín nghóa, thuật lại đạo của vua Nghiêu, Thuấn, Chu, Khổng, tất cả mọi cốt yếu đều chưa thấu đạt cội nguồn chân tục, trình bày nghóa lý thì chưa vượt khỏi cấm vức “hữu vô”, đâu như trí Tam Đạt vô ngại, trăm thần không cùng lũ, mười lực tôn quý chẳng ai bằng, ngàn thánh chẳng thể sánh ví. Phạm thiên kính ngưỡng, Đế-thích tôn làm thầy, đạo cứu giúp bốn loài, hóa độ khắp ba cõi. Viên âm một khi xướng lên thì ngoại đạo nhiếp phục, trống pháp tạm đánh thì thiên ma cúi đầu, nên tôn xưng Phật là thầy của trời người, là bậc Đại pháp vương vô thượng, há có thể cùng với Lão Tử ở thời nhà Chu suy thoái mà so sánh công đức hay sao? Chỉ vì dòng pháp dần xa, ma quân ngoại đạo thêm nhiều, nên có Toàn Chân biên tập Đạo tạng, ngậm đầy ích kỷ, không nhiều phương pháp tu luyện, đắp an đầy kho, mạn nói thuật đạo dẫn. Dài năm xa cách Lão Tử từ xưa hư truyền, Vũ Hóa sống lâu đến nay có mấy, không ngại cúng rượu, đạo só Vương Phù học chí kinh, nhận trí dòm khe hở hổ thẹn xoáy lường, khoe cánh chim trắng, trông nhìn núi Thái, mang ánh lửa đóm tranh với mặt trời, mặt trăng. Hả lòng chỗ mình lay động, trái với lời khen, vọng nói hóa hồ, lầm xưng thập dị, lời tà hoặc chánh, ma biện bức chân. Trộm cướp kinh Phật, nhiễu loạn thánh điển, hoàn toàn không kiêng sợ, buông lung ý ngông cuồng, đạp nước mà nói Niết-bàn, rõ không bằng chứng, dẫm lửa mà bàn pháp mầu, có loại bài ưu. Dùng Phạm làm Đường, đem mũ thêm chân, văn nhiều sai lầm, nghóa có sai trái. Dối trá tự chương sao dệt nói. Đã chẳng phải do Lão Tử, đặt ra hủy nó đi thì có ích cho chúng sinh, huống hồ là lời nói của người thấp hèn, trừ nó đi thì sáng ngời tiên triết, cúi vâng thánh triều thế chủ, hiền vương nước lớn của ta, ứng kỳ ngàn năm, an vận cửu ngũ, ân đức trừ ách cứu đời cao trội một mình, hơn cả Thang Võ, công lao giết hung dứt bạo nổi bật hơn hẳn Hán Đường, mênh mông cao vợi, thánh đức khó nói cùng! Lại thêm, lưu tâm họ Thích chú ý cửa Phật, chí muốn hoàn toàn thuần hóa, tình còn dứt bỏ ngụy lý. Kẻ lẫn lộn việc trái tuy thân thích nhưng phải trừ, người đáng nêu danh tuy xa lạ song hẳn cử. Gần đây nghe tùy các chỗ đạo quán vọng truyền sách ngụy giáo hóa người Hồ và các truyện ký khác, thuộc từ loại thấp hèn đến nỗi không đáng nghe, tuôn lời ác như tiếng chim ưng, chim kiêu, buông lung tham độc như đuôi bò cạp, thuật yêu vọng mê hoặc tâm người, truyền sách dâm làm loạn tánh người, làm lành thì ít, làm ác thì nhiều, điếm nhục khuôn phép của tiên hiền, bại thương phong hóa của Nhân luân. Như thánh chỉ đến ngày bắt soát từ trước lại ở Yên Kinh, trước mọi người đông đảo thảy đều đốt bỏ, dứt bặt nguồn tà. Nếu ai chứa riêng, chuẩn chế khoa tội. Từ đó lá rơi cành gãy, mây thâu sương cuốn. Giống như lò lớn đốt sạch mảy lông, như cảnh hơi nóng bốc lên sáng rực khinh băng. Ai người hơn thua từ đó thấy rõ. Tạm trở về từ định phá dẹp ma quân, nương nhờ dao tuệ gọt bỏ tà giáo. Đáng gọi là mở rộng hoàn vũ trong lành, phấn phát ngọn gió huyền. Mặt trời Phật từ đó thêm sáng ngời, mây pháp do đây mà lan rộng. Mong nhờ hoàng gia mở rộng đường chánh giác, giúp dân đen thoát lối tà kiến, chính ngày hôm nay đã tròn một năm, tương lai hãy đốt bỏ cùng một lúc. Vả lại, sau khi kinh sách của Đạo giáo bị đốt về sau thành được việc lắm, mọi người trở lại Uỷ-tất-ma, gió tây cũng biết chê bai bừa bãi, thổi sạch tro Đạo giáo ngay trong năm (ngày mồng 7 tháng 9 năm Kỷ mùi (1 2 5 9), dựng đài trước chùa Trung Mẫn ở Trung Đô, nhóm họp tất cả chư tăng, đạo só, các quan liêu, thứ dân đến tại thành, thiêu đốt Đạo tạng kinh, truyện ký từ các nơi đưa đến và các thứ ấn bản khắc hành đều đốt bỏ, quét sạch vết tà. Tại các đạo quán không được chứa để, nếu ai trái phạm thì trị tội). Nay xây dựng thượng đài dùng ghi chỗ ấy, như trong nước chiếm dụng các chùa viện cũng phải sửa đổi ngay, tất cả tinh quan áo bào, rải khắp tây phiên. Bồi hồi Đại lý, cả nước đều nghe. Thấy các đạo só cạo đầu ở rải rác khắp các chùa, không ai bỏ trốn, nếu ai bỏ trốn thì đồng tội với giặc”. Lúc biện luận vừa xong, có một Đạo só giấu tên họ, không dằn được cơn tức giận, bèn đứng dậy nói: “Ba trăm tám mươi năm nhờ sống lâu để khuynh động các vị tăng”. Hoàng Thượng mời đến hỏi: “Ông đã sống nhiều năm, vây ở thời Thượng Hoàng đầu đời Tống, chư tăng có lỗi gì mà bắt đội mũ?” Đạo só đáp: “Tôi vốn ở trong núi ra không biết việc đó”. Hoàng Thượng nói: “Đã nói sống ba trăm năm, sao lại nói không biết? Đã là không thể biết việc ấy tức là người nói dối”. Bèn sai Liêu tả Trương trọng Khiêm Nguyên học só xem xét kỹ tuổi tác, thì thật mới hơn ba mươi, vốn người ở Hình Châu vậy. Hoàng Thượng tức giận Đạo só không thành thật, ban đầu thì cho làm việc nặng nhọc, cuối cùng thành loài báo tử. Than ôi! Làm công đức, tâm nhàn rỗi, ngày nghỉ ngơi, làm việc ngụy tâm khổ nhọc, ngày càng vụng về. Lời ấy đáng tin ư? Đầu tiên, Khâu Xử Cơ đi đến phương Tây, vào niên hiệu Nhân Niên thấy vua Thái Tổ, chỉ bảy mươi bốn hoặc bảy mươi lăm tuổi, đến khi thiên hóa, mới gần tám mươi, mà Lưu Ôn nói dối vua Thái Tổ rằng: Khâu Xử Cơ hơn ba trăm tuổi. Đến lúc Thái Tổ hỏi về niên giáp, thì nói dối không biết. Nên cư só Trạm nhiên biên lời đó vào trong “Tây du lục”, nêu rõ sự lừa đảo Chúa thượng. Đạo nhân ngày nay lại dẫm lên vết trước, một lời đã nói ra khỏi miệng, thì dẫu xe bốn ngựa cũng khó đuổi theo, tha hồ buông lung nói cuồng, cuối cùng vùi thân trong bụng báo. Bị bệnh nặng dữ mà chẳng chữa trị, tâm đồng với đá chai nên khó trở lại. Xe trước đã vấp ngã, mà xe sau lại chẳng lánh vết, yêu tà ngụy vọng nhiều đời thường sinh khởi. Nay lược nêu vày ba sự việc để nêu rõ sự gian lận. Ban đầu, vào thời Hậu Hán, Trương Đạo Lăng vốn người Đất Bái, làm khách đến đất Thục lên ở trên núi Hộc Minh, biên soạn đạo thư, sáng lập điều nghi, ở trên đỉnh núi My Hạc, dụ dỗ dân quê, người nào tôn sùng kính đạo thì ban thưởng cho năm đấu gạo, bấy giờ xưng hiệu là “Mễ tặc”, về sau bị rắn lớn ăn nuốt, thân vùi trong bụng trăn, mà đệ tử nói dối là toàn thân bay lên hư không. Vào thời Hậu Ngụy, có Khấu Khiêm Chi, tự là Phụ Chân, tự lấy hiệu là Thiên sư, nịnh hót mê hoặc vua Thái Võ ở trên núi Tung, xây dựng Tịnh luân Thiên cung. Thái võ đích thân nhận phù lục, cờ xí cũng chọn màu xanh để hợp với màu sắc của đạo gia, mong mỏi được sống lâu mà Thái võ thân bị bệnh dịch, còn Khấu khiêm Chi cũng chết sớm, phiền nhiễu khổ nhọc muôn dân, không hề có ích lợi gì! Đạo só ở kim lăng là Lục Tu Tónh có tài lợi khẩu chế thêm phù Chương, vọng bày ba pháp cứu thế nhương hung, gặp Lương Võ Đế bỏ việc, Lý Lão chiếu hành, nên đạo Thiên hạ không thể hưng thạnh, bèn dẫn môn đồ đệ tử đi về hướng Bắc Cao Tề, rộng ban vàng lụa, khắp rải vương công, mong hành đạo pháp, chỉ nương vào thuật cạn, muốn được nổi tiếng. Văn tuyên đế bèn thử nhưng chẳng có hiệu nghiệm gì. Nói bay lên trên không lại rơi xuống đài, vào lửa thì cháy rụi lông mày. Diệp Tónh đời Đường yêu thuật loạn chúa, ban đêm dẫn vua Huyền Tông đến nơi Nguyệt cung, Lộc Sơn dắt họa, gần như mất nước, Đạo só Triệu Quy Chân nói năng khéo léo lấy danh dự, làm hoặc loạn Võ Tông, thực hành hợp khí uế thuật uống vàng, đá, thuốc độc, sống lâu chưa hiệu nghiệm, mà thuốc khô đã chết trước. Lâm Linh Tố ở đời Tống, khoe thẳng chút nghề nhỏ mọn, cốt yếu được vinh hạnh đối với vua, ban đêm dẫn Thượng Hoàng mộng du đến trời cao, lừa bịp tai mắt, xưng hiệu là Thiên Sư, nước sông biện dân tràn vùi lấp người dân, Hoàng Thượng Bảo Lâm Linh Tố cúng tế mà hoàn toàn không hiệu nghiệm, sóng lớn vọt cao lên đến Thiên tân, khắp triều đình và thôn dã đều kinh hoàng, không nơi khống cáo, Thượng Hoàng đốt hương cầu Phật, tạ lỗi trách mình, cảm được Tăng-già Đại Thánh ở Tứ Châu hiện thân, mây sóng tự dứt, muôn dân vui mừng, Lâm Linh Tố trốn mất. Cuối đời Kim có Ô Cốt Luân tiên sinh, thường đắp mền gai, nhọc đi trong hang cùng ngõ hẻm, quát tháo mắng chúng, trá hiệu thần tiên, bọn ngu dốt tầm thường cũng có kẻ tin. Vua Ai Đế cảm mến rất tin thuật thấp hèn ấy, mặc tình đạo só tâm tình dữ dằn, hành pháp nhàm nhở của thế gian, đạo só thân dính mắc nơi hiến võng, Ai Đế cũng qua đời ở Thái Châu. Gian ác hung tàn như thế đời nào cũng có, đầu thì họa lan nơi thôn xóm, sau thì tràn khắp cả nước nhà. Như Bá Cô đó là tốt lành, còn rắn hổ thì tiết độc, dùng quái sinh quái, đem hư nắn hư, người nghe thì đầy tai mênh mông, kẻ tìm cầu thì bắt gió buộc hình, tan mất tính chất thuần túy của đạo đức, quạt cơn gió tà thổi khắp, ô nhục nhân luân, bại thương vương hóa, mà lại ban cho ngu mù, chẳng sợ triều chương, điều lành vô thượng, như nước hay có hạng hạ ngu ham ăn háu uống đi qua, xâm lấn đất tốt của Dân đen, chiếm đoạt màu mỡ của họ Thích, mua tình người bằng quyền thế, ngăn chánh đạo nơi cửa Phật. Đầu lạm xúc nơi Khâu Xử Cơ, mới vỡ lỡ tại Lý Chí Thường, tuy buông lung gian tâm, rốt cùng bị người hiểu biết cười chê! Khéo thay trong sách của cư só Trạm nhiên! Trong “Tây Du Lục” nói rằng: “Khách hỏi cư só: người xuất gia ngày nay, phần nhiều trốn tránh việc nặng nhọc, mưu cầu ăn mặc, nếu cạo tóc thì khó trở về thế tục, nên người làm tăng thì ít mà kẻ vào đạo thì nhiều. Từ khi bình lửa xảy ra về sau, tịnh xá chùa viện danh lam đều chưa đến đổ vỡ hư hoại, nếu đạo só không chiếm lấy thì cũng thành sở hữu của những kẻ có quyền thế, nếu triệt xuống để làm củi thì đâu có ích gì?” - Cư só nói: “Người thông minh đặc đạt thì không cần làm như vậy, vượt khỏi hữu vi này, đó là người ngu hèn, sao lại lấy ư? Đã gọi là người xuất gia, trái lại làm việc của kẻ tiểu nhân. Đổi chùa hủy tượng chiếm đoạt núi rừng. Do đó, người quân tử chê trách hiền giả. Bọn này ban đầu ở viện không có tôn tượng, sau phá hủy chùa có tôn tượng. Ban đầu thì chiếm đoạt tịnh xá ở núi rừng, há không có ý mong mỏi thành quách, chùa chiền ư? Từ xa đến gần, từ ít đến nhiều, sâu còn có trí bao la, cũng chỗ âm mưu chẳng cạn vậy. Dù có gò mã xa xưa, người ưa thích sự hùng vó tráng lệ nơi núi non, sự tươi đẹp nơi bờ rừng, bèn nghó rằng: “Gò mả này ta không chặt phá thì người sau này cũng chặt phá. Ta vứt bỏ hài cốt nơi đó ngoài hào rãnh mà chôn cất cha mẹ ta”. So với tình người thì như vậy là thế nào nhỉ? Người xưa tốt đẹp ở chỗ suốt sáu tháng mặc áo lông dê, lông cừu mà chẳng lượm vàng của kẻ khác đánh rơi. Đã là đạo nhân thì nỡ lòng nào làm sự cường hào chiếm đoạt ư? Đó là bọn ban đầu lấy sự sửa chữa chùa viện tịnh xá cứu hộ thánh tượng làm danh, ở đó lâu rồi thì dần dần đập phá tôn tượng, tìm cách cải đổi tên gọi biển ngạch, lớn thêm nữa thì có ý hủy diệt Phật giáo. Họ sửa chữa cứu hộ chùa viện tịnh xá mà như vậy ư? Nếu như muốn mở mang bổn giáo, thì nên chọn đất kết duyên, xây dựng cung quán, chẳng phải là làm sáng ngời đạo môn sao? Bậc đại trượng phu trộm cướp chùa miếu, tịnh xá của người, hủy phá tổ tông của người, lấy đó làm tài năng của mình. Vậy đâu khác gì việc làm của loài chuột cướp, chó trộm ư? Nhân người khác thành đạt, há chẳng xấu hổ ư? Việc binh lửa ở đời có lúc phế, lúc hưng vẫn không hề có sự kiện đổi chùa thành quán. Chống cự xem thường triều đình mà dám làm việc trái khuôn phép này ư? Xưa kia, Lâm Linh Tố nương gá thần quái, được nhà Tống trọng dụng, có thể gọi là đầu ác tội lớn vậy, còn chưa dám đổi chùa thành quán, hủy tượng thành đạo. Nay thì việc làm của bọn này vượt xa quá xa Lâm Linh Tố. Đâu phải thần minh tức giận mà rút ngắn tuổi thọ của Khâu Xử Cơ? Phàm vật mau thành thì mau hoại, chậm xong thì bền bỉ. Xưa kia, Phật giáo từ phương Tây truyền đến, tới nay đã hơn hai ngàn năm, các vị minh quân hiền tướng không ai chẳng tôn sùng kính ngưỡng, cao tăng kỳ só tùy theo đời đại mà xuất hiện, những vị làm quốc sư ở đời nào mà không có, như Phật Đồ Trừng, Hậu Triệu Quốc Sư, Vệ Đạo An được Phù Tần kính trọng. La-thập thì Diêu Tần khát ngưỡng tôn xưng là thầy, Pháp Quả là gia sư của Nguyên Ngụy, Lãng Công thì các nước đều kính phụng, Bắc Tề kính sùng Đại Thống, đời Tùy xem trọng ngài Thiên Thai, Đại Đường thì có ngài Lão An, Tuệ Trung, Bắc Tông Thần Tú, Quốc Sư Thanh Lương, Tam Tạng Bất Không, Quốc Sư Đại Liêu Trúc, Quốc Sư Đại Kim Viên Thông Thiện, các danh sư như thế, chưa có ai đổi quán thành chùa, do đó, đạo của Phật tổ gốc sâu bám chặt, xác thực nên không thể nhổ lên. Nếu họ Thích đắc chí chiếm đoạt đạo quán, đạo só được quyền mà phá hủy chùa Phật thì làn gió đấu tranh không có ngày chấm dứt. Phàm hiến chương của đất nước là chính sách xa xưa từ thời Hán, thời Đường, chẳng phải là pháp luật của một đời vậy, mà thật là pháp luật của muôn đời. Thời đại quân chủ đều sự dụng, nếu là khuôn phép của bậc Đại sư thì không thể hủy phá vậy. Trong tạp luật có hình phạt nghiêm khắt đối với tội đập phá tượng, khắc điều ghi rõ phương thức cấm tà. Nay, bọn ấy đập phá miếu thờ Tuyên Thánh, đập phá tượng Đức Thích-ca. Hạng người tay không về đông như chợ, hạng khách ăn chực nhóm tụ một nhà, chẳng phân có che giấu hay chăng, nhất loạt thâu nạp hết. Đó chính là vực sâu bụi rậm cho những kẻ trốn nợ vậy. Hội quán không đánh phá mà tự thua. Ôi! Kẻ só ở chốn Lâm Tuyền chẳng cạnh tranh với vật, dấu danh ẩn vết, người còn xấu hổ. Huống hồ tự chuyên bùa ấn, ức chế quyền của quan thự, chiếm đoạt dân của quan thự, tự xem cống hiến treo bài trên dưới để dua nịnh nhân chủ, đâu được dung chứa ở đời ư? Lấy đó mà chứng minh việc làm sai trái quỷ quyệt chẳng có khuôn phép, mọi người đều biết, đâu phải đợi lời nói quê hèn của tôi! Mông Kha Hoàng Đế, đầu tiên vào mùa xuân năm Nhâm tý (1 2 5 2) ban chiếu chỉ, đến khi Kim Thượng Hoàng Đế chinh phạt các nước Thổ Phiên và Hoa Mã, Đại lý v.v… Hoàng Thượng đến nước Đại Lý, được xá-lợi và ngôi tháp bằng vàng ròng, cao đến hai thước, sớm tối lễ bái phụng thờ làm đầu, trở về đến núi Lục Bàn, nay am chủ là Ôn Công làm thống nhiếp giáo môn. Nhóm họp các danh tăng trong nước đến núi Thanh Lương, mở thắng hội một trăm ngày, hưởng cúng đức đại Thánh Văn-thù, các quan cung cấp mọi thứ cần dùng. Điềm lành tuyệt diệu không thể ghi hết. Hoàng Thượng trên đường trở về Tần Xuyên, thấy Tam giáo đường có thờ tượng Lão Quân ở giữa, tượng Phật đứng hầu bên cạnh, mới nói cùng mọi người chung quanh rằng: “Lão Tử là bậc hiền trong người đời, giáo điển của ông ít dùng chưa thấu đạt lý của bậc Thánh, khó vượt bến sinh tử, cùng ngồi ngang Phật, so về lý còn chưa thể được, huống gì chiếm đoạt tôn vị, càng không thể được. Năm sau đến núi Nhật Nguyệt, bảo Trưởng lão Chí Công chùa Càn Minh ở phủ Trung Sơn kính vâng chiếu chỉ cỡi ngựa tùy đến các nơi để cải chính, Trưởng lão đi khắp bốn mươi chín chỗ, thấy tượng đắp họa thì bị đập nát, tượng vẽ thị bi bôi xóa. Các chỗ trái với thể thức thảy đều sửa đổi. Ở bốn phủ Hà Trung, Kinh Triệu, Ráng Châu, Bình Dương đều dựng bia để nói lên sự ngụy vọng ấy. Ở đây góp nhặt sao lại những gì trong ấy, nói rằng: Người xưa bảo “rễ sâu quả tốt, nguồn xa dòng dài” lời đó thật đáng tin cậy, xưa kia, đấng Phápvương chúng ta trải qua ba A-tăng-kỳ kiếp chứa nhóm công đức, đạo quả viên thành, sau đó mới ở khắp trăm ức thế giới, đồng một lúc hiện thân, suốt bốn mươi chín năm nói pháp, độ thoát trăm ngàn muôn ức, Phạm Vương Đế-thích cúi đầu cung kính, ngoại đạo thiên ma đạp sừng, bẻ gan, nhóm muôn thánh trong đạo tràng Bồ-đề, hàng phục sáu vị giáo chủ ngoại đạo bên bờ sông Bạt-đề. Việc hóa duyên đã mãn trở lại Liên Hoa Đài tạng, tám vị đại quốc vương giành chia xá-lợi, năm trăm vị La-hán kết tập lời vàng. Giáo hóa khắp trời người, pháp truyền khắp các cõi nước như số cát sông Hằng, gió vô vi thổi đến, giáo hóa không lời thực hành đến thế, mãi đến thời tượng quý văn ấy còn chẳng mất. Mã Minh, Long Thọ toát yếu lời vàng, Vô Trước; Thế Thân truyền bá di sản đẹp, vang lời trong khắp bốn biển, bay tốt thật cả tám phương. Trúc-Pháp-Lan, Khương Tăng Hội mang kinh sách truyền về phương Đông; Tuệ Viễn, Đạo Lâm phấn phát ngọn gió mát ở các nước phía nam, Phật Đồ Trừng tay soi ngàn dặm, A- mục-khư bị đổ máu bọn hung, Vệ Đạo An chú giáo khoa kinh, ngài Trí Giả đời Tùy chia tông lập điển. Cứu sinh linh nơi tro bụi, cởi mở ách nạn treo ngược, nhổ ra bến sinh tử, đặt cao trên bờ Niết-bàn. Vòi vọi mênh mông không đức nào không khen ngợi, sáng sủa rực rỡ có chúng sinh cậy nhờ. Minh quân ủng hộ bên ngoài, thạc đức giữ gìn bên trong, nhiều đời đế vương kính ngưỡng mở rộng khuôn phép bậc Thánh. Do đó Hán Minh đế sai sứ đến Tây Trúc thỉnh cầu, họa tượng dịch kinh. Tấn Minh Đế miệng tụng lời vàng tay vẽ tượng Phật. Giản Minh đế thường suy nghó pháp vị, Hiếu Minh đế bẩm thọ giới chương, Tống Văn đế thọ huấn ngài Bạt-ma, Tề Võ đế khâm sùng Tăng Viễn, Lương Võ đế giảng kinh, giữ giới, Trần Tuyên nói pháp trong pháp đường, Tuyên Võ đế rộng cúng dường chư tăng. Tề Văn Xương chỉ nhờ Phật lực, Tùy Văn đế quỳ gối trước Đàm Diên, Huyền Tông chú giải chân văn Bát- nhã, Túc Tông tụng Kinh Nhân Vương, Đức Tông; Hiến Tông đón rước xá-lợi cúng dường, Tuyên Tông; ý tông khôi phục giác lộ để hưng hành. Lương Tấn giành cân mưu hay chưa nghỉ, Viên Tống nhận mạng giao phó chẳng quên, Đại Liêu thì nghiêng nước thờ Phật, nhà Kim thì từ đầu đến cuối tôn sùng họ Thích, Đại Nguyên mở vận ghé ý pháp môn, Thái Tổ thì minh chiếu ban mở mang đạo này, Thái Tông thì thử kinh, xây chùa, khắc giúp kinh tạng. Cốc và Hãn thì khiến Tăng Hỗ Tùng thường tụng kinh Phật. Mông Kha hoàng đế thì cúng tăng viết kinh, xây tháp báu cao, Kim Thượng hoàng đế thì cúng cơm chư tăng, xây chùa, tạo tượng, nấu vàng đúc trượng, xả bỏ của báu rộng rãi, tụng đọc tạng giáo của đấng vô thượng, tôn ngài Bạt-hợp-tư-bát làm thầy cả nước, mắt tai biết đủ chẳng là luống dối, không ai chẳng dựng điện lớn để an trí tượng ấy, nối hiên dài để đồ chúng yên ở, nếm mùi đạo mà tánh dung thần, tôn người ấy mà lưu lại thể thức, chẳng thể tiếp sáng ở đạo vua, cũng hợp sức ngợi ca nền tảng của Hoàng đế. Trở lại thấm khắp nơi nguồn ròng, dẫn dân đen đến thọ vực, gia đình biết khổ của sự chứa nhóm điều ác, mọi người hướng về đường lành. Ban đầu là thói đẹp ở triều đình, cuối cùng lan tràn khắp só nữ, nếu chẳng là huyền diệu sao thực hành được bền lâu. Thuở xưa, tốt lành như Công Tôn; Long tổ là những người trong sạch, học trò ở đất Điền Ba bị Tô Khâu bàn luận thuế hạ, chẳng phải ba Hoàng phá diệt năm thường, ngôn từ khéo léo chiết phục ngàn người mà chẳng lưu truyền cho đời sau. Vì không có đạo thật đáng truyền? Phật giáng sinh tại Tây Trúc, giáo pháp lưu truyền hưng thạnh ở Đông Độ, tướng hiền vương triết nối gót giữ gìn, đạo ấy có thể bắt chước được sao? Nên Hòa-thượng Đại Diên nói với Hàn Dũ rằng: “Từ đời Hán đến nay, trải qua nhiều đời lâu dài như vậy, vua quan só dân đông đảo như vậy, trời đất thần kỳ sáng tỏ như vậy mà lời Phật nói vẫn thực hành theo trong đó, mọi người tín ngưỡng mà tin theo, không dám bàn luận mà xóa bỏ. Đây chắc hẳn là có chống cự với trời đất nên không xấu hổ, liên quan với trăm thánh mà không hổ thẹn? Diệu Lý tồn tại suốt thời gian ấy, sau đó mới đến thời nay. Ông sao suy nghó sâu sắc thế?”, đó là đối luận vậy. Các đạo só ngày nay chỉ trau chuốt dối nói sức trời chẹt bít nhà người, buông lung tâm gian, che mờ giác lộ. Chẳn g đội ân lớn khoan dung của nước nhà, lại tự ý soạn tập văn chương phỉ báng. Lời không thích hợp với sự dẫn giải thánh, văn có luống dối loạn chân, trộm thánh giáo của Phật, vọng loạn ngụy thư, tâm buông lung càn bướng không nghó gốc gác, thấy kinh Pháp Hoa liền nói ở trong hoa sen, thấy kinh Kim Quang Minh bèn bảo ngồi trên lửa dữ, hoàn toàn mê mờ nghóa lý, khéo hiểu tên kinh. Lời xấu tợ chim kêu, bạo ngược quá hơn chó cắn, trái lời loạn đức, lừa dối mọi người, điếm nhục hiến chương, hại thương phong hóa. Nếu như chẳng cắt bỏ, thì giống ác càng thêm, kính mong Kim Thượng hoàng đế, đạo hợp cùng hạ vũ, nghiệp lớn như Chu Văn, tiếp nối cơ đồ lớn lao của ba hoàng năm đế, an định ngôi báu cửu ngũ, tinh thần bên trong sáng suốt, trí soi chiếu ngoài tỏ tường. Đối với người có đức tuy là thù oán mà vẫn phong ban, hàng người không công dù là thân thích cũng quyết phạt. Đạt rõ bốn mắt, u uổng đều thông, uy động chín Phục, gian tà cắt dứt. Thể nhận thật lý của tăng đồ, biết rõ hư danh đạo só. Triệu vời cả hai giáo (Phật giáo và Đạo giáo) biện rõ tông thú, đạo só muốn phô bày mắt cá, dùng để chiếm đoạt châu sáng, ngựa ô lóa mắt đạp vũng nước giành nhiều biển xanh, cẩu thả nêu đề cương mục, cứng lưỡi hết lời. Thử thăm dò cội nguồn tông chỉ, đành ngậm ngọc quy phục. Binh lớn dàn bày, Lý Hạo Nhiên thất bại từ trước, tướng nhỏ trở giáo, Trương Chí Kính ngậm miệng về sau. Tuy Le rão mà Hạc bày, rốt cùng ngói vỡ đất tan, ném tinh quan mà mặt hổ thẹn, cởi áo cừu mà tình thẹn. Phật thật, Đạo dối từ đó rõ bày. Năm uế hung gian, sáng nay bại lộ. Do đó, mây thâu chiếu cuốn, lá rụng cành lìa, như mặt trời hừng xuyên suốt băng mỏng, tợ lò lớn nấu tiêu lông nhẹ, bọ ngựa lấp vết há gọi là có khả năng chịu đựng? Trùm giun ra oai trọn thành bột mịn! Ngày xưa, Minh đế kiểm nghiệm sự chân ngụy, tử thư đều đốt bỏ hết, nay thượng hoàng trừ khí yêu tà, Đạo kinh đều thành tro bụi, giáo hóa người Hồ ra ải lại chết trong hư không báng đạo trừ tà, tùy theo gió tan. Phí thúc tài đương lúc ấy tức giận mà chết, Lý Chí Thường gan vỡ mất thân, oai linh như một ngày chạy đến năm ngàn, hiện giờ ở đâu? Thần biến như bùa bay làm thây chết đứng dậy, lúc này chẳng nghe, phương pháp thần diệu trốn trên trời, ẩn dưới đất, hoàn toàn không một nửa linh nghiệm, bí thuật dời núi kéo đẩu, chẳng hiện mảy may nực cười. Bọn tầm thường trong xóm vắng, giao đầu xấu hổ thẹn thùng theo chịu loạn. Một bề tuôn ra nhỏ xấu, ngàn năm khó xóa mờ. Tuy khéo nói như rót trọn để lại dáng mặt dạn dày. Nên bị thánh thượng thâu quyền, triều thần đổi quán. Mặt trời Phật từ đó lại lên cao, mây pháp do đây mà bủa khắp, mở rộng trời đất, thổi mạnh gió mát. Phá bỏ rừng rậm tà kiến, mở đường chánh của Đấng pháp vương. Hoan hô hoàng thượng, nhảy múa khắp xóm làng, đức lớn chiếu soi, tiếng vui vang xa. Than ôi! Bầu trời trong sạch mà mây mê dấy khởi, Đại thánh xa đời mà ngoại đạo nhiễu nhương, dị học loạn chân, từ xưa vốn có, chẳng phải do các ông tranh luận ấy mới hiển bày tông thú của ta. Chỉ vì ông bất bình nên sinh ra ta bất bình, đạo của các ông nếu bình thản thì ta tự bình vậy. Chánh đạo như biển lớn, ông có thể vùi lấp chăng? Chánh đạo như hư không, ông có thể hủy diệt được ư? Ngữa mặt phun nước miếng lên trời, chỉ tự nhơ mặt mình! Nhọc khởi tranh biện một khía cạnh đối với các ông làm sao bù đắp nổi? Hớn hở vui mừng không kềm chế được, kính cẩn tỏ bày khen ngợi rằng: Chánh pháp Phật-đà Khắp năm Thiên-trúc, Giáo chỉ là lành Tông vốn quên lờ. Thánh triết kính nương Ngu phu cười lớn, Đạo không dứt luân Chẳng phải yếu diệu Dị đạo ngoan cố Nhiễu thánh vô lễ Minh chúa khó lầm Vài lời chiết phục. Tà khó giúp chánh Ngụy chẳng bít chân Mây ma tan hẳn Phật nhật sáng mãi Thánh thọ muôn năm Tiếng tốt ngàn xưa Mừng vui che chở Vui hưởng lộc trời Biển lớn có cạn Hư không có cùng Mở mang khuôn phép Mãi mãi vô cùng Pháp vương lớn mạnh lạ thay, Riêng cao xa cách xưa nay Mở năm thừa làm phạm vi Vận sáu thông để vân du Bình thản trên đường bát chánh, Chứa nhóm mười trí bao kềm Cỡi bốn đại mà vượt bộ Đứng đầu trăm dân hào hùng Nương cương giới cả đại thiên Giúp khó nhọc của bốn loài Gió từ vượt dấu chân lân Nhân hóa vượt xa Thước Sào Ngang bằng trời đất chở che Đồng với tạo hóa luyện đúc Người trí biết thì kính mến, Kẻ ngu mê thì lánh xa, Than ôi! Thánh vận thấm nhỏ, Bùi ngùi đường chánh sinh cỏ, Mừng thay Hoàng Đế sáng suốt, Sáng soi thấu suốt mảy may, Phơi bày Toàn Chân ngụy tạo, Muốn như chó kiệt sủa Nghiêu, Từng là một lời chưa chỉnh Đều cởi áo mão lông cừu Núi cao sụp đè trứng mỏng Lò lớn nấu đốt mảy lông. Xua tan mây ma Tám Biểu, Nâng Phật nhật ở chín cao. Chí đạo tốt lành mở mang, Chân thừa xoay chuyển thấm nhuần Đẹp thay văn ấy chưa vùi Gieo đức lớn dựng cờ tinh… Tên họ mười bảy vị Sư đức nắm giữ lập luận đối đáp cùng các đạo só: Tại Yên Kinh: Trưởng lão Tùng Siêu chùa Viên Phước Trưởng lão Đức Hanh chùa Phụng Phước Trưởng lão Tùng Luân viện Dược Sư Trưởng lão Viên Dận chùa Pháp Bảo Thống nhiếp Chí Ôn chùa Tư Thánh Trưởng lão Minh Tân ở phủ Đại Minh. Tại Kế Châu: Trưởng lão Bổn Liên ở núi Cam Tuyền Trưởng lão Đạo Vân ở Thượng Phương Tại Loan Châu: Trưởng lão Tường Mại chùa Khai Giác Tại Bắc Kinh: Giảng chủ Liễu Tuân chùa Truyền Giáo Giảng chủ Khánh Quy chùa Pháp Hoa, phủ Đại Danh Giảng chủ Hạnh Dục ở huyện Hàng thuộc Long Môn. Tại Đại Đô: Giảng chủ Đạo Thọ chùa Diên Thọ Luật chủ Tương Duệ chùa Ngưỡng Sơn Giảng chủ Thiện Lãng chùa Tư Phước Tại Ráng Châu: Duy thức giảng chủ tên Tổ Khuê Giảng chủ Nguyên Nhất ở Thục Châu Tên họ mười bảy vị đạo só nắm giữ lập luận bị khuất phục nên xuống tóc làm tăng: Tại Thiên Trường Quán ở Đại Đô, có mười hai đạo só: Đạo lục Phiền Chí Ứng Đạo phán Ngụy Chí Dương Đề Điểm Hoắc Chí Dung Giảng sư Chu Chí Lập Giảng sư Chu Chí Toàn Giảng sư Trương Chí Nhu Giảng sư Lý Chí Hòa Giảng sư Vệ Chí Ích Giảng sư Trương Chí Chân Giảng sư Thân Chí Trinh Giảng sư Quách Trạch Thiện Mã Chí Ninh (đợi chiếu). Giảng sư Triệu Chí Tu ở Thần Tiêu Quán, phủ Chân Định Giảng sư Trương Chí Minh ở Khai Nguyên Quán, Tây Kinh. Giảng sư Lý Chí Toàn ở Huyền Đô Quán, đường Bình Dương. Giảng sư Thạch Vónh Ngọc ở Đại Đường Thắng Ninh Quán. Vu Chí Thân, là chủ Long Hưng quán ở Phủ châu (Tịch Đạo lục và đạo só Lý Đường Tế, ở trong tối đã trốn bớt một số vị, danh sách mười bảy đạo só đây, trước đây những bài Đồng Dao có nói rằng: “Mười bảy vị đạo só đổi đầu đến đó kiểm nghiệm vậy”). Cuối cùng, có bài rằng: Bài thứ nhất: Đáng cười Toàn Chân nói Hóa Hồ Kịp đến luận bàn đều thành dối Lời hết, đuối lý cởi áo mão Buồn thua, đầu cúi, cạo tóc râu. Chiều lạy danh Phật thẹn tiếp hòa, Sớm dự tăng chúng, dối thở dài Kể từ đời Hán đốt kinh giáo Bỏ đạo, làm tăng đến hai lần. Bài thứ hai: Toàn Chân luận đạo, miệng ngậm câu Quy phục làm tăng biệt Lão Đam, Hôm qua nắm tay, đầu còn cúi Sáng nay chắp tay lại kính lễ Áo mão thất tinh vừa vất bỏ Ba y, bình bát hẳn chưa quen Tự bày việc ấy, xưa nay chê Khâu; Lưu tuy chết cũng hổ hèn. <卷>QUYỂN 5 Văn bia: Thánh chỉ đốt bỏ Đạo tạng kinh ngụy tạo ở các con đường. Các quan: Đường Phương, Dương Văn Úc, Vương Cấu, Lý Khiêm, Diêm Phục, Lý Đào, Vương Bàn v.v… ở Hàn lâm viện kính vâng chỉ dụ biên soạn Tháng 3, niên hiệu Chí Nguyên thứ 21 (1 2 8 4). Chiếu sai Tư Đức đại phu tổng chế viện sứ kiêm lãnh đô Công Đức sứ ty sự tướng ca dụ Hàn lâm viện: Năm mậu ngọ (1 2 5 8) chư tăng và đạo só biện luận với nhau, đến ngày 20 tháng 10 niên hiệu Chí Nguyên thứ 18 (1 2 8 1) đốt bỏ từ đầu đến cuối Đạo tạng ngụy kinh, có thể viết lại việc ấy ở sau. Thần tôi Vương Bàn v.v… căn cứ theo sự tích ghi trong Thích giáo tổng thống hợp Đài Tát Lý, thì xưa kia, dưới triều đại vua Hiến Tông, Đạo gia có truyền bá quyển sách với nhan đề “Lão Quân Hóa Hồ thành Phật kinh” và tám mươi mốt Hóa Đồ, khắc in bản gốc truyền bá khắp bốn phương, trong đó lời văn thấp kém, gian dối với ý đồ khinh thường Phật giáo, đề cao tông giáo mình. Đại sư Lan-ma; người nước Kế-tân coi sóc chung, Trưởng lão Phước Dụ ở Lâm tấu trìnhviệc ấy lên triều đình để xét biết. Bấy giờ, Thượng Hoàng đang ở trong dinh, Hiến Tông có chỉ dụ bảo cả tăng só và Đạo só cùng đến để biện bạch phân minh. Cả hai bên đều giao ước: Nếu đạo só thắng thì chư tăng đội mũ lên đầu để làm đạo só, còn tăng só thắng thì đạo só phải cạo đầu làm tăng. Chư tăng hỏi đạo só rằng: “Sách của các ông tên là Hóa Hồ thành Phật kinh. Vậy, Phật nghóa là gì?” - Đạo só trả lời: “Phật là giác. Nghóa là giác thiên, giác địa, giác âm, giác dương, giác nhân, giác nghóa”. Tăng só nói: “Vậy đâu phải. Nói giác tức là tự giác, giác tha và giác Hạnh viên mãn, ba giác tròn sáng nên được tôn xưng là Phật-đà. Đâu chỉ giác thiên, địa, âm, đương, nhân, nghóa mà thôi?” Thượng Hoàng nói với các quan đứng hầu rằng: “Tâm ta cũng biết nhân nghóa là lời của Khổng Tử. Cho rằng Phật giác nhân, giác nghóa, nói thế chẳng đúng vậy”. Đạo só lại mang các sách sử ký để dâng vua, muốn đem nhiều thuyết cầu may giành phần thắng. Bạt-Hiệp-tư-bát là đế sư biện luận hỏi rằng: “Đó gọi là sách gì?” - Đáp: “Sách của Đế Vương đời trước”. Thượng Hoàng nói: “Nay nắm giữ lý luận về giáo pháp, sao lại dính líu đến Đế Vương đời trước?” Đế sư nói: “Ở Thiên Trúc ta cũng có sử ký, ông có nghe chăng?” - Đáp: “Chưa nghe”. Đế sư nói: “Ta vì ông mà nói vua Tần-bà-sa-la ở Thiên Trúc khen ngợi công đức Phật có nói: “Trên trời, dưới thế không ai bằng Phật Các cõi mười phương cũng chẳng ai sánh. Tất cả thế gian, ta đều thấy hết, Không có một ai bằng được như Phật!” Lúc, vua Tần-bà-sa-la nói lời ấy thì Lão Tử ở đâu? “Đạo só không trả lời được. Đế sư lại hỏi: “Trong sử ký của ông có thuyết giáo hóa người Hồ không?” - Đáp: “Không”. Hỏi: “Vậy thì Lão Tử lưu truyền lại những kinh gì?” - Đáp: “Đạo đức kinh”. Hỏi: “Ngoài Đạo đức kinh ra còn có kinh gì nữa?” - Đáp: “Không”. Đế sử hỏi: “Trong Đạo đức kinh có việc giáo hóa người Hồ không?” Đế sư nói: “Trong sử ký đã không, trong đạo đức kinh lại chẳng chép. Vậy việc giáo hóa người Hồ là Ngụy vọng đã rõ ràng vậy”. Đạo só đuối lý. Thượng Thư Diêu Khu nói: “Đạo só thua rồi”. Thượng Hoàng bảo y như lời giao ước mà hình phạt, sai sứ thần Thoát Hoan dẫn mười bảy vị như Phiền Chí Ứng v.v… đến chùa Long Quang, cạo đầu làm tăng, đốt bỏ ngụy kinh gồm bốn mươi lăm bộ. Các ngôi chùa Phật trong nước bị đạo só chiếm là hai trăm ba mươi bảy ngôi, đến đó thảy đều bàn giao trả lại. Cam Chí Tuyền với chức sắc Đề Điển trong Đạo giáo, ở tại viện Cát Tường, đó là một cơ sở chiếm đoạt mà không chịu giao trả lại. Tháng 4, mùa hạ, niên hiệu Chí Nguyên thứ 17 (1 2 8 0) Tăng nhân lại bị bắt bẻ giáo lý, các Đạo só ở Trường Xuân muốn mưu hại Tăng Lục Quảng Uyên. Nhóm hạp đồ chúng bắt bớ đánh đập tăng chúng, tự đốt nhà kho rồi vu cáo Quảng Uyên sai bảo tăng nhân phóng lửa. Vả lại, trong lời vu cáo nói thiêu đốt gạo hơn ba ngàn chín trăm thạch và những vật khác cũng như thế. Sự việc đưa đến Trung Thư tỉnh biện rõ việc vu cáo ấy, Cam Chí Tuyền, Vương Chí Chân thảy đều hùa theo, vua ban chiếu sai Khu Mật Phó sứ Bột-la và các quan đại thần xét lại, vẫn không lời khác. Chí Tuyền, Chí Chân bị phạt xẻo mũi chặt chân, có một số chạy trốn thoát khoảng mười người. Y cứ theo lời nói gạo và các vật đúng như số gom về. Tăng chúng biết đạo gia ngụy kinh vẫn còn nên nói với các Hoàng Thái Tử biết. Tháng 9, niên hiệu Chí Nguyên thứ 18 (1 2 8 1) Đô Công Đức Ty là Thoát Nhân Tiểu Diễn Xá tâu rằng: “Các ngụy kinh bản gốc hóa đồ của đạo gia đã đốt bỏ năm trước, phần nhiều vẫn còn cất giấu chưa đốt bỏ. Các loại sách của Đạo tạng đều mắng nhiếc hủy báng Phật giáo, ăn cắp lời Phật và thêm phần phân biệt”. Lúc ấy, vua ra lệnh xu khu mật phó sứ cùng với tiền Trung Thư tỉnh Tả Thừa Văn Khiêm, bí thư Giám Hữu Trực, thích giáo Tổng thống hợp Đài-tát-lý, Thái Thường Khanh Hốt Đô Vu Tư, Trung Thư Tỉnh, Khách tỉnh sứ đô Lỗ ở tại kinh đô, Tăng Lục Ty giáo thiền chư tăng và các quan v.v… đến Cung Trường Xuân vào thềm cấp điện vô cực. Các vị Đạo só như Chánh nhất Thiên Sư Trương Tông Diễn, Toàn Chân Chưởng giáo Kỳ Chí Thành, Đại Đạo chưởng giáo Lý Đức Hòa, Đỗ Phước Xuân Ký v.v… khảo chứng ngụy chân, xem duyệt cả tuần, tuy pho quyển có đến số ngàn nhưng nghiên cứu về gốc ngọn thì chỉ hai thiên đạo đức là do Lão Tử soạn, còn lại đều do Trương Đạo Lăng đời Hán, Khấu Khiêm Chi đời Hậu Ngụy. Ngô Quân, Đỗ Quang Đình đời Đường, Vương Khâm đời Tống v.v… các vị ấy soạn tập giảng nói. Nương gá vào những việc không có để mắng nhiếc hủy báng Phật giáo, vọng tự tôn sùng mình. Lại có người vì ưa thích những lời đó mà trộm làm của mình. Mượn âm dương thuật số để nói lên sự sâu xa, góp nhặt của các thầy thuốc để khoe sự hiểu biết rộng rãi, thường sửa đổi danh hiệu, truyền bá chú giải sai lầm, lẫn lôïn đánh mất gốc chân. Lại ghi phù chú vọng bảo đeo mang, khiến người buôn bán ham bội lợi, con cháu đông nhiều, hòa hợp sánh đôi như uyên ương. Dùng lời mai mối, dâm dục mà mưu cầu của cải. Đến nỗi có khi dạy người đeo bùa vào cánh tay thì nam làm quân tướng, nữ làm hậu phi, nhảy xuống nước không chìm, bị xô vào lửa không cháy, dao kiếm không thể làm tổn hại v.v… nó ngụy vọng lẫn lộn như thế, bọn chúng để lại để mê hoặc hàng ngu tục, trừ Đạo Đức kinh ra, đều nên đốt bỏ, chúng thần đồng lời tấu trình để Thượng Hoàng xét biết. Thượng Hoàng nói: kinh văn của Đạo gia truyền bậy dẫn bạ chẳng phải chỉ trong một ngày. Nếu vội vàng đốt bỏ thì bọn chúng chưa hẳn đã tâm phục. Trong kinh sách ấy có nói bị xô vào lửa không cháy, nhảy xuống nước không chìm, có thể lấy đó làm đầu mối để thử xem, đợi những điều ấy không thật sự linh nghiệm rồi hãy đốt bỏ cũng chẳng muộn vậy. Vua bèn bảo Khu Mật Phó sứ Bột-la là quan Thủ ty Đồ Hòa Lễ, Hoắc Tôn v.v… bảo Trương Tông Diễn, Kỳ Chí Thành, Lý Đức Hòa, Đỗ Phước Xuân v.v… trong các vị ấy chọn ra một người đeo bùa nhảy vào lửa để tự thử xem việc đó. Cả bốn người đều tâu: “Đó là thuyết luống dối, chúng tôi nhảy vào lửa chắc chắn sẽ thành tro bụi, thật không dám thử, xin đốt bỏ Đạo tạng, ngõ hầu tắm gội cho chúng tôi đỡ tội”. Thượng hoàng chấp nhận lời tấu ấy. Bèn ban chiếu chỉ bảo khắp dân chúng trong nước rằng: “Trong các kinh sách của Đạo gia chỉ có thể để lại hai thiên Đạo đức kinh. Ngoài ra, các thứ văn tự và bản gốc hóa đồ, thảy đều đốt bỏ, ai cất giấu sẽ bị tội. Trong dân gian, khắc in truyền bá các loại sách về thuốc của các nhà Hiền triết thì không nằm trong cấm chế. Từ này về sau, các Đạo gia đều phải tuân theo pháp của Lão Tử. Còn ai thích theo Phật thì cạo tóc làm tăng. Những người không muốn làm tăng só và đạo só thì cho về làm dân. Đến tháng 10 Nhâm tý, nhóm họp các quan đến chùa Mẫn Trung, đốt bỏ Đạo tạng ngụy kinh và các sách khác, sai sứ đi đến các ngã đường bảo phải tuân hành”. Chúng thần là Vương bàn, v.v… nghe rằng: “Đạo của Lão Tử lấy thanh tịnh làm tông, vô vi làm gốc, lấy khiêm nhường chan hòa để xử sự, tự mình không chèn ép kẻ dưới, không có sự tham dục háu thắng. Về sau, phân chi lập phái, đồ chúng đông nhiều, theo nhau làm bậy, trở thành hư ngụy, dối trá, sinh ra trăm thứ, khiến thanh tịnh biến thành ô uế, vô vi biến thành không gì chẳng vi. Như Văn Thành Ngũ Lợi đời Hán dốc mình cầu tiên, hoảng hốt dối huyễn, trên lụa trắng dối viết là ăn ngọ, nói dối vàng ròng có thể thành, một mai bại lộ, bị Võ Đế giết chết. Bọn ba người họ Trương dùng quỷ đạo mê hoặc quần chúng, xúi giục dân chúng trong nước làm loạn, bị Hoàng Phủ Tung Tào Ngụy dẹp tan. Tống Vương Tử, xưa kia ở tại Thượng Thanh Bảo Lục Cung cùng với Nữ Quan làm gian. Lâm Linh Tố tự xưng là thần, Tiêu Tử Phủ Tiên Khanh cầu nước lớn không được ứng nghiệm, đều bị vua Huy Tông giết chết. Đến cuối năm này có hai người là Ma-Bị và Thiết-lạp-lý dùng mưu gian bí kế vào ra cửa thời quý, tha hồ làm việc dâm ô, đều bị giết chết. Nhiều đời về sau, các loại như thế không thể tính kể. Truy tìm cội nguồn của họa loạn, đều gốc từ gian trá quỷ quyệt. Nhất định đều mượn Phù lục để thần tượng hóa giáo điển của mình, nương gá ngụy kinh đề kính giữ phong tục, buông lung xảo trá, làm những việc lạ lùng, mắng hủy thánh giáo, trộm cắp nội điển, hẳn đã trái ngược với sự ngăn cấm không tranh giành, không trộm cướp của Lão Tử vậy, cho đến vùi lấp luật hình nhà vua, đều là chồi con từ trong làm bướng. Vậy tội ấy thuộc về ai? Vả lại, phàm là giáo điển của họ Thích mở rộng tốt đẹp rộng lớn, các giáo phái khác không bằng được. Trải trăm ngàn đời, các bậc Thánh Đế Minh Vương không ai chẳng tôn sùng. Các xứ Đông mạo, Phù tang, Tây cực, Muội cốc, Băng thiên, Quế hải, núi sông đất đai, côn trùng cây cỏ, các loài thấp sinh, thai sinh, noãn sinh, hóa sinh, hữu tình vô tình v.v… trăm ngàn muôn loài, đều nhờ Phật chở che mà sinh sống, động tónh ở trong trời đất, nên trên trời, dưới thế chỉ có Phật là tôn quý hơn cảm, ra khỏi ngoài vòng tử sinh, về đến cùng cực chân thật vô ngại. Trí tuệ phủ khắp ba cõi, thần diệu bao trùm các nơi, thấm nhuần khắp đại thiên, công dụng chẳng ai hơn. Sự lớn lao như thế ấy, chỗ thuyền từ ghé đến, không ai bị chìm đắm mà chẳng cứu vớt, chỗ mưa pháp thấm nhuần hữu tình đều thấm đượm. Thương người đời nổi trôi trên biển huyễn, điên đảo đắm đuối trong bờ mê, nên xoay vần nhiều đời, trải qua kiếp, dẫn dắt cho thoát phàm trông ngóng đến thánh, bỏ tệ sùng chân, nên Thần quang phá cửa trầm hối, Đại giác chỉ nẻo vô sinh. Đức nhân như thế, vì sao cuồng mưu mà sinh ganh ghét? Dù có chứa nhóm, thiêu hủy cốt chúng, xông ấm núi Lật, pháp thể viên thành vẫn không mảy may sức mẻ. Thí như người mù không thấy mặt trời mặt trăng, đâu làm thương tổn ánh sáng của mặt trời mặt trăng ư? Như con ếch nhỏ ở đáy giếng, đem thả xuống sông biển, đâu có tổn mất sự rộng lớn của sông biển. Thật thấy nhiều mà không biết vậy. Kính mong thánh Thiên tử biết vượt bốn đế, đạo ham thích ba thừa, dự vào chân không vô hình tướng; truyền tâm ấn của Pháp vương. Do đó, kính lễ tôn sùng, thành tâm quy hướng, nẳn sửa trăm ngụy để theo chân, gạt bỏ các tà mà về chánh, có thể chẳng dung chẳng nghiêm được chăng? Huống gì loại bút mực khuyến dâm, yêu thuật lừa đời, buông lung lừa dối, xách động những kẻ ngu. Nếu chẳng sửa đổi hoàn toàn thì tà thuyết tha hồ lưu hành, đạo tà vạy mê hoặc dân chúng, trong dân chúng ở đời sau sẽ thế nào? Phàm lý của thiên hạ có thiện có ác, có chánh có tà, có chân có ngụy, thường hỗn nhiên mà đồng xứ, tạp nhiên mà đều thực hành, tự chẳng phải bản chất của thượng thánh vừa mới đản sinh mà biết được tánh, trí xuất ra nhiều vật, chiếu soi tình thức chúng sinh thì hồng tía loạn với đỏ, oa dâm biến đổi hòa nhã, vậy ai biện rõ được ư? Cho nên nói rằng: “Thánh Thiên tử cứu giúp chân đồ, nâng đỡ đại pháp, công thật rất lớn, đại lược các thánh không thể thêm được vậy. Đến như đục thông tai mắt của hàm Linh, mở mang đường chánh bị hoang uế, khiến ánh sáng của trí tuệ mãi mãi soi chiếu vô số kiếp, trùm khắp các thế giới nhiều như số cát sông Hằng. Kéo dài thánh thọ không ngằn mé, chứa nhóm lâu dài phước lợi của Đế Quân, đảnh lộc lâu đến cả ức muôn năm, công có đã thế, nên có thể thuật lại như vậy”. Chúng thần Vương Bàn tôi v.v… kính vì soạn thuật, để tặng người sau, giúp những ai học đạo Lão Tử có được sự cảnh giác ấy! Thảng 3, niên hiệu Chí Nguyên thứ 21 (1 2 8 4). Trong thánh chỉ Hoàng Đế nói: Trung thư tỉnh đóng gần cung Trường Xuân, Đạo só Vương Chí Chân v.v… tố cáo Tăng Lục sứ Quảng Uyên chùa Phụng Phước sai bảo tiểu hòa thượng Mã Giới Hiển phóng lửa thiêu đốt kho lẫm, phòng nhà của bản cung, đồng thời bị cháy gạo thóc lương thực hơn ba ngàn chín trăm thạch và các thứ dầu mì muối bột. Việc công quy hỏi được xác đáng. Ban đầu vốn là do Cam Đề Điểm xúi giục Mã Giới Hiển ở Giao Chỉ do Tăng Lục Quảng Uyên sai lệnh phóng lửa, Vương Chí Chân sai khiến Bằng Đạo Đồng dẫn Mã Giới Hiển phóng lửa và bị giặc bắt, đồng thời dối làm tên gọi tri cung, Bằng Đạo Đồng xúi bảo. Đó là ngôn ngữ của người viết cáo trạng. Lại hỏi được nguyên cáo, lương thực không hề bị cháy, đó chỉ vì danh, ở chỗ mọi người, cầu xin thí lợi tiền vật, lấy mỗi việc ấy để chiêu phục. Ngày 22 tháng 6, có các vị quan tên Bột-la, Phó Khu Trương Bình Chương, Trương Hữu Thừa, Tiêu Thượng thư, Cảnh Tham Chánh, Tho- át Nhân, Thoát Lý, A Lý Thượng Thư v.v… kính vâng thánh chỉ tiết cai. Trong thời gian các đạo só cùng với Hòa-thượng tranh đoạt quán viện, nhóm đến năm trăm cái, đạo só nắm gậy đánh hòa thượng. Thường mỗi lần đến, trong mỗi giáo pháp ấy chẳng thực hành theo Hồ Tố, trách mắng trong đó có thể lệ ấy. Trước kia trong địa phận phủ Kinh Triệu, Vương Tổ Sư Am Đầu nhóm nhiều người, bọn sinh tâm tồi đến. Như nay, các đạo só ấy thường lại có loại Hồ hành đó. Các đạo só ấy thường rõ ràng vời đến, Thượng Đầu đứng đầu bọn, giết cả hai cái vậy. Riêng một cái là cắt tai, một cái xẻo mũi và riêng một cái là đánh đập. Ngoài ra, giao bắt làm quân. Loại ấy đoán được xong xin kính vâng trừ diệt. Nay đem số người đã đoán định khai đủ ở khoảng dưới và đem thủ cấp của Đề Điểm Cam Chí Tuyền đến cửa bổn cung, buộc vào đầu cây tre và thường xuyên treo như vậy, mang hợp hành, dựng bia đá, để công chúng được biết, chánh hai tên điển hình. Giáo lệnh hư chỉ Tăng Lục Quảng Uyên phóng lửa là phạm nhân Đề Điển Cam Chí Tuyền. Dối bắt Mã Giới Hiển làm kẻ giặc phóng lửa là Tri Cung Vương chí chân, một người cắt tai xẻo mũi. Người ghi thêm tình tiết của cáo trạng là Đề Điểm Thái Chí Tường, đày đi nơi xa sáu tên. Người nhóm chúng hành hung là Ân Hạc Đồng, Trần Đạo Quảng. Người lên đô tiên cáo trạng là Vương Chí Ngọc, Trần Chí Dụng. Người kiểm ghi cáo trạng là Lan Đức Nghóa. Người dối báo lương thực bị thiêu đốt là Lý Đức Trinh. Người xử đoán tha ba người là Sứ Lệnh Vương Chí Thân, người cáo trạng Đề Điểm Thái Chí Hy và người đồng cáo trạng là Phó Cung Chu Đạo Toàn; Giả Chí Nhu. Nay niêm yết để mọi người cùng biết. Tháng 6, niên hiệu Chí Nguyên thứ 17 (1 2 8 0). Dựng lập bia đá. Thánh chỉ đưa đến chùa Đại Mẫn Trung ở Đại Đô, về việc đốt bỏ ủy Đạo tạng ngụy kinh, trừ Đạo Đức kinh, tất cả đều đốt bỏ. Bèn bảo niêm hương châm lửa tạ ân đã xong xuôi. Trong bài Niêm Hương nói rằng: “Thiên tử tâm Phật thương chúng sinh, sợ rơi hố tà kiến ba đường, trong đó rất không riêng khu xứ, nhưng mà đỏ tím phải rõ ràng. Vì thế, Đạo Thánh soi chiếu vô tư, máy trời chẳng thể lường được. Đã là trọng đức, đâu dám chẳng nhớ ân. Hương này, chính vì kính chúc Thế chủ triều chính Đại Nguyên đương kim Hoàng Đế thánh thể muôn năm, muôn năm, muôn muôn năm! Kính mong: Kim Luân và Pháp Luân cùng quay. Phước vượt cả ba kỳ, mặt trời Thuấn và mặt trời Phật cùng soi sáng. Thọ đến ức kiếp”. Và trong lúc châm lửa có nói rằng: “Nhớ xưa kia, đương thời Minh Đế đã từng nhờ lửa dữ để biện rõ tốt xấu, nay Đại Nguyên Thiên tử đây cũng tiếp nối khuôn phép ấy, nâng chánh xô tà ai chẳng biết. Than ôi! Đạo giáo như sâu mọt, ngầm gặm sách Phật, từ xưa đến nay, tạo lầm nắn ngụy, trộm cắp ngôn cú kinh Phật, đồ mưu Bối diệp đề tên, phỉ báng Như Lai, vu oan bậc Thánh trước, từ xấu, lời ác, sao có thể nói ư ? không vướng cuồng đàm thật khó nêu khắp. Ban đầu từ Trương Đạo Lăng, Đỗ Soạn chẳng tuân theo huyền ngôn của Lão Tử, lầm soạn tiếu thư và góp nhặt linh bảo. Dối đạo theo không được nói dối, Thái thượng đích thân trao truyền ba trang Quỷ pháp để mê hoặc người ngu, bày năm vận thần phù mà yểm gian thất phụ. Lấy đó mà xem xét thì Cát Hiếu trước kia nhọc sưu tầm yếu diệu, Đào Hoằng Cảnh dối thuật lời hư, Đỗ Quang Đình nêu lời khéo trộm, không khác gì kiếp giặc! Lục Tu Tónh ngoài tốt lành trong yếu hèn, nói khách khác gì. Nếu chẳng ngậm đắng, chẳng cam tranh bằng, nói tốt nói xấu, bảo tónh bị giết còn có thể, Vương phù chiêu báo chẳng nhẹ nhàng, phó Dịch Khương Bân chẳng kham ghi chép, Trương Sinh nhóm bọn đâu đáng luận bàn. Khấu Khiêm Chi miệng lưỡi lật lọng, hại người lợi mình. Lâm Linh Tố cơ mưu xảo trá dua nịnh, nước mất nhà tan, hủy phá tổ tông của người, nhất định bị nhục một thời, diệt bậc hiền lương, chắc chắn vời lấy ương họa ba kiếp, Nhân quả không sai, báo ứng nhất định. Than ôi! Thương thay pháp lâm không gặp mà gặp bọn biếm gièm. Bùi ngùi đạo đời tuy trở lại mà khó thực hành, đến nỗi khiến cho Thích tử phải thương tâm, may được hoàng thiên mở mắt. Kính mong Đại nguyên Thế chủ thánh minh hoàng đế bệ hạ chúng ta đây bỏ tà về tánh, dứt ngụy còn chân, sợ chúng sinh mãi đoạ trên bến mê, giúp mọi người đều lên đường giác. Rửa sạch oan khiên đã xong nên cảm tạ ân đức hoàng thượng, thân nát xương tan, chẳng thể báo đáp, bèn dùng lửa đuốc quay một vòng tròn nói với tất cả: “mọi người chỉ như Tam Đổng linh văn, lại có thể chứng được hỏa quang Tam-muội này chăng? Nếu ngay đây có thể hội được thì mọi nhà đều có bắc đẩu, luống uổng dạy người, miệng chẳng an ổn? Nếu chưa được vậy thì theo hơi khói tro này khi tàn rụi theo hơi đến chỗ mách cùng thiên tôn; trong phúc chốc sẽ thấy rõ trước mắt!” Ngày 20 tháng 10, niên hiệu Chí nguyên thứ 18 (1 2 8 1). Trưởng lão Cát Tường - Bậc só Lâm Tuyền chùa Báo Ân ở Đại Đô vâng phụng sắc ban châm lửa. <詞>HƯ CHUNG THỌ KHẤU TẬP Trưởng lão Như Ý đời Nguyên vâng Chiếu kính soạn. Thuật lại việc: Như Ý tôi trả lời cùng Thạch Giới về sự quái lạ. Đời Tống, có Thạch Giới tự là Thủ Đạo, tạo nên thuyết quái lạ, vu báng Phật giáo và Lão giáo, bít lấp tai mắt kẻ khác, người thông minh không bị mê hoặc, chỉ có thể luống dối hàng ngu phu. Ông nói rằng: “Trung Quốc là nơi bậc Thánh cai trị, là nơi thường ở của bốn dân (só, nông, công, thương), là chốn nhóm họp của áo mão, dòng họ Thích cạo bỏ râu tóc, đắp y vai phải, chẳng phải só, chẳng phải nông, thật là một nửa rợ Di vậy. Thậy là quái lạ ở Trung Quốc vậy. Phàm tại Trung Quốc là chỗ trị của đạo đức, là chỗ thực hành thể nhạc, là nơi hoàn bị năm thường, vậy mà buông lung, giáo hạnh chẳng sửa, là chỗ đủ thứ yếu quái dối trá huyễn hoặc, thật đáng quái lạ vậy”. Lại nói rằng: “người quân tử thấy lúc nhật thực, một vị sao băng, mưa gió không đúng mùa, cây cỏ không gieo trồng được thì cho đó là sự quái lạ của trời đất. Những kẻ kia diệt đạo vua tôi, dứt tình cha con, bỏ đạo đức, trái lễ nhạc, phá hoại năm thường, dời đổi bốn dân, hủy bỏ áo mão của người Trung Quốc, bỏ sự cúng tế tổ tông. Trái lại chẳng biết đó là quái lạ mà lại kính phục. Lúc người thấy một con cáo đẹp, một chim le kêu ngoài đồng trống, chim thước hót vang, trẻ con chạy vào, thì người lấy đó làm quái lạ, mà cách biệt cha con, tập theo di quỷ, có hơn ngàn năm, lại chẳng cho là quái lạ ư?” Tôi xin trả lời: “Hễ tốt thì đồng, xấu thì khác là thường tình của con người. Chẳng thấu đạt cội nguồn của đạo, mà bàn biện sự khác nhau của hình tướng và y phục, thật đó là biết đá mà chẳng biết ngọc vậy! Phàm các bậc thánh ra đời làm lợi ích cứu giúp chúng sinh rất sâu xa, bởi vì căn khí khác nhau nên lập giáo cũng có khác nhau. Hoặc rõ được sự giáo huấn trong khu vực, thì nói pháp năm thừa hoặc mở mang phong hóa của tượng ngoại, riêng nêu Nhất thừa cùng cực, phá tự nhiên mà đàm luận nhân quả, duyên hợp mà sinh, vì trệ ngại nơi hữu nên giảng nói chân không, các pháp vô tánh, ứng với bệnh mà cho thuốc, nên có nhiều phương pháp rốt ráo quy về một tông, chẳng có một pháp. Vậy mà kẻ ngoan cố ngu tục khoác lác miệng lưỡi, chẳng hiểu thấu đúng sai vọng bày ra biện luận mà chẳng nghó chỗ giống là đạo, chỗ khác là phục (điều phục hình tướng). Vả như nhân nghóa mà Khổng Tử nói thì nhà Phật gọi đó là từ ái, còn huyền diệu mà Lão Tử nói thì nhà Phật gọi là vắng lặng. Chỗ chí lý chẳng khác như văn từ có biến đổi chút ít. Vả lại, Phu Vũ vào nước Khỏa, cởi bỏ áo mão, là thuận theo phong tục ở đó vậy. Thái Bá chạy đến đất Ngô thì vẽ mình cạo tóc để hợp nghi ở đó vậy. Há như thế là quái lạ ư? Biến đổi tập tục để vì hợp với đạo nên bỏ y phục đẹp của vua quan, chẳng phải trái lễ vậy. Dứt bỏ tình thân để vì xóa đi hệ lụy, vì thế quên tình vợ con, chẳng phải xem thường tập tục vậy. Tử Lăng từ chối lễ nghi của Quang Võ, càng thấy tôn nghiêm. Dật Dân chẳng thờ Vương hầu là ý cao thượng. Chẳng rõ cội gốc, lầm bài xích cho là rợ Di. Cũng như Sở Linh mắng trời, trời đâu có giận; Tử Cống khen trời, trời đâu có vui, vui giận chẳng liên can gì mà mắng khen tự chuốc lấy nhục. Phàm bậc Thánh ở cõi trời chẳng cầu cõi người, chỉ lưu lại điển giáo mà rải khắp thần châu. Hóa chẳng nói mà tự hành, gió vô vi mà tự tốt đẹp. Chùa chiền giăng bày như sao, già lam nhóm rải, lập tượng yên người, dâng hoa rưới nước, vua tôi kính lễ trọng vọng, thường dân khâm phục tôn sùng. Nếu như không có công lớn thì ai bằng lòng sùng phụng ư? Vả lại, từ đời Hán đến nay, năm tháng trải qua nhiều như thế, vua tôi só dân, chúng đông như vậy. Trời đất thần minh linh thiêng đến thế, các bậc ấy đáng khinh thường ư? Quyết chẳng vu oan vậy. Phàm, đạo làm người, phải lường sức tự biết. Thạch giới chỉ là gã học trò, trí nhỏ như hạt cải, đem sự không thấu đạt của chính mình mà hủy báng bậc Thánh một cách còn bậy, thật giống như chim yến mà cười chê cá côn, chim bằng, như loại triều khuẩn mà khinh Tồng Bá vậy. Hỏa Hoán của Ngụy Văn vào lửa càng tươi, kiếm của Côn Ngô khắc ngọc càng bén, đâu thể không thấy mà bèn trách là sai lầm ư? Trí của Thạch Giới so với Tôn Xước là nhỏ, tài của Thạch Giới sánh với Chiếu Minh thì cạn. Luận của Thạch Giới ví với Vương Thông khó gần, văn của Thạch Giới so với Liễu Tử thì hiếm, vị của Thạch Giới trông với Ngụy Trưng thì cách xa như trời với đất. Sự học của Thạch Giới sánh với Tô Thức thì như vũng ao và biển cả. Thơ của Thạch Giới so với Đỗ Phủ thì như vàng và sắt. Tài luận nghị của Thạch Giới hợp với Lục Chí thì như chó và lân. Các bậc quân tử trên đều tin Phật, tài lượng của ông, có hơn ai mà vọng ý dèm pha chê trách bài bác Đại Thánh, Phật như mặt trời mặt trăng, ai có thể hơn ư? Xưa kia, Điền Ba biện luận càn quấy, miệng lưỡi hơn người song không nhiếp phục được tâm người. Miệng chê ba Hoàng ngồi chẳng bằng năm Đế, đến nay nghe thế, người còn lạnh răng. Huống hồ, Đức Phật có cả sáu thông sáng soi, muôn xưa chẳng ai bằng, vậy mà ganh ghét thánh hiền, môi lưỡi tôi tớ, buông lung miệng mồm. Thật là thấy được nhiều mà không biết lượng vậy. Trong “Lục thiếp” ghi sớ viết tay của Ngu Thế Nam cúng dường trai phạn ngàn vị tăng thì nói: “Đệ tử Ngu Thế Nam cúi đầu kính lạy mười phương Tam Bảo. Đệ tử lúc còn bé, thường gặp bệnh nặng, liền vận tâm nguyện nhờ năng lực Phật, đến ngày lành bệnh kính bày thiết trai cúng dường ngàn vị tăng. Nay kính cẩn đến đạo tràng, dâng cơm rau cúng dường trăm vị tăng. Mong chờ nguyện lực này, hy vọng đời đời kiếp kiếp thường không bệnh tật khổ não, đồng thời cha mẹ bảy đời, kẻ oán người thân trong sáu đường, đều đồng được như ý nguyện hôm nay!” Lại đọc trong “Đế Kỷ” biết được sử Thế Nam biện luận về việc niên hiệu Kiến Đức thứ ba (5 7 4) vua Võ đế nhà Chu là Vũ Văn Ung, phá diệt Phật giáo và Đạo giáo, có người hỏi rằng: “Vũ Văn Ung phế diệt Phật giáo và Đạo giáo là đúng hay sai?” Thế Nam trả lời: “Là sai, xin cùng bàn luận điều đó. Pháp của Phật giáo chẳng vướng kẹt không - hữu, nhân ngã đều quên, dứt rễ sinh tử, bặt lụy hoạn lớn, danh lợi không màng, trở về vắng lặng. Đó là lời bàn tượng Ngoại vậy. Nghóa là Lão Tử thì cốc thần bất tử, nhiệm mầu thường còn, cầu diệu đồng huyền, cỡi rồng gá hạc. Đó là giáo trong khu vực vậy. Đến như thắng tàn dứt sát, chỉ tranh chuộng nhân từ, đều có ích cho vương hóa, không trái ngược khuôn phép. Giả sử người có khuyết thiếu, đối với pháp đâu thể gạt bỏ. Nay vì tăng đồ phạm luật, đạo só trái kinh, bèn cho rằng giáo đó có thể bỏ, đạo ấy có thể dứt. Đâu khác gì trách Đào Ngột mà phế vua Nghiêu, oán Hữu Miêu mà bỏ Vũ, thấy Biếm lạm của Hồ Tử bèn lấp nguồn sông, trông lửa dữ của Côn Nhạc liền ném đồ lấy lửa! Từng chẳng nghó đức của Nhuận Hạ lợi tế rất sâu, dụng của Biến tinh, công ấy rất rộng lớn. Ếch ngồi đáy giếng trông nhìn biển cả thường tự chẳng biết, ve sầu chim cưu liệng quanh cây du, xấu hổ gặp phải cánh chim đại bàng. Tự hạn cuộc nơi lượng nhỏ mà mờ ám nơi phương trời rộng lớn, luân hồi mê suốt đêm dài, tự để lại khổ chìm đắm, nghi lầm người sau, thật đáng thương thay!” Tôi đọc được văn ấy mới biết Ngu Thế Nam thật là người kỳ lạ. Đường Thái Tông thường khen ngợi Ngu Thế Nam có bốn thứ tuyệt diệu: “Một là đức hạnh, hai là trung tín, ba là văn chương và bốn là bút lễ”. Hễ người có đức hạnh khác thường thì chắc chắn có khả năng khác thường, có khả năng khác thường chắc chắn có tài năng khác thường. Xét Ngu Thế Nam làm người như vậy, là thờ vua trung hậu, chơi bạn ngay thẳng tin thực, đức cao hơn mọi vật, học cùng tận trượng phu, thấu cùng tông yếu sâu mầu của Thích Tôn; Lão Tử, thành đạt ý thú diệu huyền của các bậc Thánh. Tên “tự” cao một đời, công hạnh xuyên suốt bốn khoa, lên Doanh Châu của Hàn Uyển, chiếm chiếu tựa của văn trường. Dốc lòng kính tin Phật đà, tôn thờ sùng phụng chư tăng. Thầy giúp Dương Lâm Công làm khế ước kim lan. Đâu cùng với Hàn Vũ, Thạch giới bướng bỉnh cầu danh. Ngồi đáy giếng nhìn trời, mù nói chẳng phải thánh, không vào luận của người thông triết, lạm dựng dòng dõi nho nhân, hạ ngu chẳng đổi, nói thế xác đáng vậy!. Văn bia: Thánh chỉ đặc biệt xây dựng tháp Thích-ca xá-lợi Linh Thông Trưởng lão Như Ý đời Nguyên vâng sắc kính soạn. Nghe rằng: Đức Thích Tôn tam kỳ luyện hạnh, chứng pháp thân chân tịnh, tu nhân sáu độ, Quả Diệu Giác viên dung, không sinh không diệt, dứt đến đi trong ba đời, chẳng tối chẳng sáng, lìa dấu vết của Bách Phi, chỉ dùng lòng chân từ đổi vật, xưa nguyện nay đáp, Phụng liệng Ca-duy, rồng bay cây đạo, vô tướng hiện tướng, mau rõ trăm ức thân, thường danh chẳng phải danh, truyền ứng thế giới Đại thiên. Trên pháp tòa phá diệt mười quân, vang động chín tầng trời. Nhóm các thánh nơi Trường Giác, sáng ngời khắp muôn nước. Nắm giữ ba luân mà phó cảm, xa gần đều khắp. Treo bốn biện để đàm luận, trùm khắp thánh phàm. Mở rộng mười hai thể loại kinh, mở khai tám muôn bốn ngàn pháp môn. Chứa túi mười trí, biết lại giấu đi. Vận gương thần sáu thông, suốt cổ cùng kim. Xâu mười hiệu để xưng tôn, vượt ba cõi mà riêng bước, trí cùng mé chân. Thập thánh mừng được sáng nghe, nhiệm mầu thêm huyền. Sáu vị giáo chủ ngoại đạo cam nhận tối chết, nhổ nóng bức nhà lửa, dẫn giải thoát đến mát mẻ, không nhọc mưa dầm dề truyền nói, cứu giúp bốn loài nơi sáu đường chẳng nhờ soi chiếu của mặt trời, mênh mông bảy thú tối tăm, mây từ che trời Hữu Đảnh, mưa pháp nhuần bủa vô cương, vạn linh kính giữ. Như các sao quay đầu hướng bắc, năm Ấn nghiêng tâm, tợ trăm sông xuôi chảy biển đông, đâu chỉ mang Ngu Dưỡng Hạ, đúc Ân nắn Chu! Thật là đè ép chín dòng, giam nhốt muôn loại, giả như Chu Công chế lễ tác nhạc, Trọng Ni khen dịch sửa sách, Trang Lão đàm huyền, Kha Hùng luận đạo, Trương Hoa biết rộng mọi vật, Phủ Từ suốt thông, Quách Phát học rộng, Tả Từ thần hóa. Duỗi hướng biển sâu vàng ngọc, ngựa ban áo lễ Hà Hán, đều là loanh quanh ở vức nội, lời chưa đạt đến phương trời rộng lớn, nên làm Cao Hiền trị đời, khó làm giáo chủ xuất trần! Nếu chẳng phải là Lý bao trùm muôn tượng, đạo vượt Hoàn Vũ, che trùm các thánh mà chẳng hổ thẹn, đứng đầu trăm nhà mà vượt lên mọi người thì sao có thể gồm thâu các diệu ấy mà tập đại thành sách này ư? Đến lúc hóa duyên sắp mãn, đoái dạy tha thiết, chánh pháp giao phó A-nan, tâm ấn truyền cho Ca-diếp. Sau đó treo y nơi Song thọ, bỏ dép ở Kim hà, thoát khỏi lồng chậu của hai thứ sinh tử, vui vắng lặng trong tâm. Nhưng mà lòng từ lớn chẳng keo lận, tình lợi vật thâm sâu, phàm thân kim cương bất hoại, lưu cốt xá-lợi thông linh, sắc ngậm ngọc sáng, bền ví vàng ròng. Long Vương, Thiên Đế, đều phân chia xây cất ở cung mình. Ấn-độ Diêm-phù đua nhau kính thờ dựng xây tháp báu. Sau đó trăm năm, kính phụng càng thêm, có đại vương A-dục thống nhiếp châu Thiệm-bộ ở phía nam, xây khắp tám muôn bốn ngàn tháp báu. Từ đó, vết thần lan khắp năm Ấn, thánh hóa đi cùng bốn biển. Đến lúc, Hán Minh Đế nằm mộng thấy, thanh giáo được giảng nói, dịch phạm bối ở trong thất lan đài, họa kim dung trên gò Hiển tiết. Ban đầu, sóng gợn nơi Đế Kỷ, cuối cùng gió thoảng khắp xóm thôn. Do đó, Ngô Vương mở đầu ở kiến sơ, Tùy chúa thạnh hành nơi kinh lạc. Từ thành đô đến thôn dã rải khắp chùa miếu, khắp đồng xanh, núi đẹp bày các ngôi tháp, không đâu chẳng mâm vàng sáng rực, cùng tiên chưởng để cùng cao, chuông báu gió khua, vùng vang đến âm trời. Tầng mái xếp lớp, trên vượt suốt đại thanh, hàng hàng lưới bày, bèn xoay mặt trời, mặt trăng, trụ son nhạn liệt, ngói biếc ương phân, rồng vàng đổi dạng nơi rường đẹp, phụng ngọc rong chơi ở cửa thêu. Bỗng như long cung hóa ra, hoảng nghi trên trời dời đến. Đó đều xuất phát từ lòng tin, chẳng phải dụ dỗ mà vòng làm. Nhà Đại Nguyên ta có được đất nước, nhân dân từ Tông Nghiêu tổ thuấn, Vũ gót Thang nền. Thánh đạo hiệp ở kim luân, Minh Đức sáng ngời Ngọc lịch, ứng trời đổi mạng, có võ công này. Âm thanh lớn vang động cả trăm man, oai linh thêm lớn nơi muôn nước. Tám hoang vào cống, chín phục đến mừng. Nhóm mưu lớn của bốn thánh, ứng kỳ vận cả ngàn năm, làm khuôn phép xa cả ức triệu, mở mang bờ cõi của đời lớn. Ngang võ dọc văn, chế lễ soạn nhạc, xây thành đảnh định, dựng quyết lập cung. Vì rằng không lớn lao rực rỡ chẳng lấy gì hiển bày tôn nghiêm, không oai hùng trang nghiêm chẳng lấy gì làm uy cùng dân chúng trong nước. Bèn mới mở rộng cửa chính, dẫn lớn điện đài, dựng gác lạ, giá cung tía, dùng màu xanh đỏ để trang sức, họa vẽ gấm lụa nhiều màu, vàng đề trụ ngọc, trên dưới chiếu sáng lẫn nhau, vẽ chuyết chạm rường, dọc ngang rải sắc, khuôn mẫu dung mạo hành thương, oai nghi dáng võ rão bộ. Bày chuông trống để thiết đãi vua quan, nhóm trăm quan để chầu muôn nước. Dẫn dắt cứu giúp hòa mục sáng ngời, thật là lễ lớn của vua. Những lúc nhàn rỗi triều chính, để tâm cửa Phật, vâng tuân theo cựu chương của tổ tông, thực hành chiếu chỉ khoan nhân. Phàm là Phật tử thảy đều được an vui, thường mời danh tăng, giảng nói sự sâu xa của Phật pháp, tâm thành đối với Phật pháp, tụng lời vàng của trăm tạng, nghiên cứu học hỏi điều chưa nghe, lãnh hội được nghóa mầu của ba thừa. Hằng nghó thành mới đã xây nên ba năm dài, lấy phước làm nền không gì hơn xây tháp. Mong sự phù hộ của long thần giúp xã tắc được lâu dài, liền ở ngay trong thành đô, cạnh đất vườn riêng, nối rộng mênh mông cao ráo phẳng bằng, mài ngọc, đá để dựng xây tháp báu. Đầu tiên ở phía bắc cửa Thông Huyền nơi thành cũ, có chùa Vónh an, điện đường đều hoang phế, chỉ còn ngôi tháp, xem biển ngạch đề là tháp xá-lợi Phật Thích-ca, khảo xét bia đá có khắc: “Ngày 15 tháng 3 niên hiệu Thọ xương thứ hai (1 0 9 6) đời Liêu, Pháp sư tu hiển mật viên thông là ngài Đạo Chân xây dựng”. Trong có xá-lợi giới châu hai mươi viên, hai ngàn tháp nhỏ Hương nê. Năm bộ kinh Đà-la-ni như Vô cấu tịnh quang v.v…, trục bằng thủy tinh, nhân gặp binh lửa hoang tàn phá hại, những lúc đêm vắng thường phát ra ánh sáng, ở gần hoảng sợ nghi là các mũi tên lửa, ngước mặt nhìn xem, khói lửa đều không có mới biết là oai linh của xá-lợi, người người bắt đầu kính lễ, tâu lên vua điềm lành ấy. Hoàng thượng nghe rất kính tin. Muốn thêm phần nguy nga tráng lệ, bảo mở tháp cũ để xem cho tận tường, quả thật có ngôi tháp nhỏ Hương nê. Ban mở hòm đá, bên trong có ngôi tháp sắt, phía trong nữa lại có chiếc bình đồng, nước thơm đầy tràn, sáng sách mới đẹp màu trắng như Ngọc tương, xá-lợi cứng tròn sáng như vàng báu, phía trước có hai long vương quỳ hầu giữ gìn. Năm bộ kinh trên bàn vẫn như cũ không hư tổn. Vàng ngọc bảy báu, mười thứ quả trái khác thường sắp bày cúng dường. Dưới đáy bình có một đồng tiền đồng, trên đúc bốn chữ “Chí nguyên thông bảo” mới biết rằng các bậc thánh chế pháp đã dự định trong âm thầm, đợi thời trình bày mở rõ ý trời. Ngày 25 tháng 3 niên hiệu Chí Nguyên thứ 08 (1 2 7 1), Đế Hậu xét xem, càng thêm tôn trọng, liền đón rước xá-lợi đó mà xây dựng tháp báu này. Đem quân gìn giữ, nghi giá tượng treo đà đô, khánh diệu kỳ công sâu cùng khắc chạm, Quỳnh Dao trên bịt, dưới vũ phu thành biểu pháp. Bày mô tòa, khắc chạm cầm thú bốn góc rũ xuống, gậy ngọc; thềm bày đá, lan can treo diềm, vòng hoa quấn thân, lưới ngọc chuông quý đón gió mà vọng âm, mâm vàng hướng về mặt trời mà soi chiếu. Dong dỏng cao vời xa rọi nơi cung tía, nguy hiểm không an trên gò ở Bích lạc. Phép tắc hay khéo, xưa nay ít có, nhân có Quốc sư Ích Lân Chân giả vốn người Tây phiên, thông minh thần giải, khí thuộc sâu xa, Hiển giáo Mật giáo đều thông dung, Đại thừa Tiểu thừa thảy đều tỏ ngộ, thắng duyên phù hội, đức chọn lòng vua, thường nghó đến Hoàng Gia tin Phật, công phu xây dựng tháp báu linh thiêng, ích nước an dân phải nhờ thần chú, bèn y cứ vào Mật giáo, bài bố trang nghiêm, tôn trí Như Lai, ba nghiệp thân, ngữ, ý, trên dưới giáp vòng, điều có thứ lớp: Thứ nhất chỗ thân nương tựa là trước tiên dưới đáy tháp phô bày hòm đá, khắc tượng Phật năm phương, tượng đá ngọc trắng tùy chỗ sắp bày, bên cạnh tôn trí tám đại quỷ vương, tám quỷ mẫu luân, và hình tượng ấy dùng có cố định, kế đến tầng dưới; ở trên tòa đá Tu-di, khắc tượng các thần hộ pháp; chủ tài bảo thiên, tám đại thiên thần, tám đại phạm vương, tứ vương cửu diệu và tượng trời rồng ủng hộ mười phương. An trí ở phía sau thân bình Đồ Tượng Đồ Ấn các vị thánh, tức các Đức Phật mười phương, các đấng Điều ngự trong ba đời Bát-nhã Phật mẫu, tàng lọng lớn màu trắng che Phật tôn nghiêm vô cấu tịnh Quang Ma- lợi-chi Thiên, Bồ-tát Kim Cương Thủ, Văn-thù, Quán Âm lần lượt vây quanh. Thứ hai chỗ Ngữ y cứ là Đà-la-ni, tức là Phật Đảnh vô cấu bí mật Bảo khiếp Bồ-đề trường trang nghiêm Ca la sa bạt Ni tràng đảnh ng- hiêm quân quảng bác lâu các tam ký cú chú, Bát-nhã tâm kinh, kệ các pháp nhân duyên sinh, hơn trăm bộ kinh lớn như thế, mỗi mỗi lại tạo ra hơn trăm ngàn bộ, cắp đầy đồng sắt nghiêm chỉnh phô bày. Thứ ba chỗ ý y cứ là sự vậy. Ở ngoài thân bình khảm tượng các Đức Phật ở năm phương, nói lên tự tiêu biểu của pháp hiển bày, phương Đông một cái chày, phương nam Châu báu, phương Tây hoa sen, phương Bắc hai cái chày giao nhau, ở khoảng tứ duy, có khí vật do tượng bốn vị đại thiên cầm nắm. Lại thấy ở phương Tây chỗ Phật thành đạo dưới tòa kim cương là đất thật béo vàng và ở phương này các nơi Đông tây Ngũ Đài, đại nhạc danh sơn, các chỗ thánh tích, lấy đất ở đó, cùng với các thứ hương long não, trầm tiên, tử bạch chiên đàn, tô hợp, uất kim v.v… vàng, bạc, châu báu, san hô, bảy chất báu, cùng trộn chung với bột hương, làm tháp hương nhỏ một ngàn lẻ tám cái, lại dùng các thứ hương An tức, kim nhan, Bạch giao, huân lục, đô lương, cam tùng v.v… hòa tạp bột hương, làm tháp hương nhỏ mười ba muôn cái. Đều tôn trí trong tháp, uyển chuyển như Tam bảo thường trú bất diệt, Thần Công Thánh Đức không giới khó lường, giữ quốc giúp dân, ở đó có cả. Trộm bàn luận rằng: từ xưa đến nay các bậc hiền triết, chi ghi tên suông, so sánh về linh tích, tối tăm không dấu vết, như mộ của Hoàng Đế trên núi cao, dối chôn áo mão, lăng của Ngu Thuấn nơi Thương Ngô, không ủy thiều nhạc. Phục Hy chỉ còn bát quái, văn mạng chỉ bày ở cửu trù, đâu nghe thật là bất hủ, huống gì thấy xương cứng chắc. Há như Mâu-ni xá-lợi thần hóa vô phương, càng luyện càng tinh, càng đập càng cứng. Vàng bền ngọc nhuận xưa nay thường truyền, Thánh đế minh vương, nhiều triều đại kính thờ. Nên đời Đường, Hoàng Đế Thái Tông có khen ngợi rằng: “Công thành nhiều kiếp dấu ấn ngay Chẳng là núi nam được sự khó Mắt trông nhiều lớp sắc vàng nhuận Tay nâng một phiến ngọc sáng bày. Lúc luyện trăm lửa tinh thần thấu Cất giấu ngàn năm ánh chẳng phai. Nhất định Huân tu chân bí mật, Vững tin chớ tưởng rỗi nhàn bày!” Hoàng Đế Nhân Tông đời Tống có bài kệ khen ngợi tháp xá-lợi ở chùa Phụng Tường Pháp Môn rằng: “Cốt vàng răng linh thể hiện bày Hào quang chiếu sáng suốt trời mây, Chày sắt mang đánh thêm nhọc sức Trăm lửa đốt thiêu, sắc sáng thay! Quân Vương nhiều đời từng cúng dường, Thiên tử lắm triều dâng hương hoa Hằng năm chỉ nghe mở xá-lợi Đâu từng đầu đội cốt lão quân!” Hoàng Đế Nhân Tông đời Tống, chiêm ngưỡng lễ bái xá-lợi, thu- ật lại bài kệ khen ngợi rằng: “Ba hoàng vùi thân thành tro bụi Năm đế lấp hình hóa mãy trần, Khổng Tử khắp nơi tôn xưng Thánh Lão Đam mọi giới đều gọi Chân, Chôn thân chỉ thấy mồ không trống Nơi nào cất giấu chỉ người sau? Chỉ có thầy ta lưu xá-lợi Trăm lần đốt luyện vẫn nguyên màu!” Xét xem những lời cùng cực này, có thể như là mai rùa làm gương soi sáng. Luận Đại Trí Độ của Bồ-tát Long Thọ có chép: “Xá-lợi đức Như Lai làm lợi ích mọi vật sắp mãn, sẽ biến thành Luân vương như ý Bảo Châu, vẫn làm lợi ích lớn cho chúng sinh, thì Chân Linh không thể hết, phước đời làm sao cùng”. Nay, vua không quên lời phó chúc, thường giữ ý ngoại hộ, dốc lòng kính tin lý Phật, khi ăn lúc nghỉ chẳng đổi dời. Phàm điện đường mới xây thành, phải mời chư tăng đốt hương giảng pháp. Thành đô vừa thành tựu, trước tiên xây dựng tháp này, nhờ sự năng lực chở che của Phật, mong vận báu vónh viễn lâu bền, bảo vệ sự hưng thịnh của nghiệp lớn, hưởng lộc trời suốt nhiều năm. Lo gò đổi mà hang biến, sợ lửa dữ mà không truyền, sao chiếu chỉ bảo cuối đời Thích phát huy đạo này. Tôi đây, tài chẳng như Pháp Lâm, Tuệ Viễn, học thẹn với Đạo sinh, Đạo Dung, gắng sức phô bày mảy may, thiếu tám chữ của Tào Nga, hết tình cạn nghó, nhọc năm thần của Dương Hùng, khâm phục tâm của vua ta Hoằng Tán, mừng sự tốt đẹp thêm sáng của xá-lợi, tay vỗ chân nhảy, kính cẩn buộc khắc lời minh, vàng ẩn, mây rũ ngọc nhị hoa thơm. Nhiệm mầu thay! Ngàn Phật kiếp hiền hiển hiện cát tường, thánh tổ Thích-ca Mâu-ni là vị thứ tư ra đời. Mây nổi nơi trời Ma-kiệt-đà, gió liệng ở thành Ca-tỳ-la-vệ. Trời nâng lọng báu, rồng phún bồn vàng, đông tây riêng bước, trên dưới xưng tôn. Đạo thành ở xứ Ma-kiệt-đà, trí tỏa khắp trường giác ngộ, như sen xanh hé nở gặp ánh trăng soi, thanh giáo vang khắp các phương như bụi nhỏ, pháp màu truyền rộng các cõi như cát sông Hằng. Vô vi mà hóa, chẳng nói mà hiểu, vạch quyển kinh trong bụi nhỏ, chỉ hạt châu trong chéo áo, khiến người mê biết được nẻo quay về, người ngu ôm hoài mến đạo. Bày giáo ba thừa, vốn chỉ một thừa, việc lớn đã chu toàn, quy thần thường vắng lặng, giới định huân tu, để lại xá-lợi, phước giúp trời người, ân nhuần động vật thực vật. Ban đầu phát khởi tại Tây Trúc, sau truyền rộng đến Đông Châu. cửa vua cung rồng lễ cúng không thôi. Khương Tăng Hội cảm được linh ứng, Ngô Tôn Quyền dựng lập đầu tiên. Ngụy Hậu chân thành, Vónh Ninh mở mang. Cung kính vua ta ôm ấp chánh đạo, làm tường hào cửa Phật, phụ giúp pháp bảo, dựng thành vàng này, xây tháp ngọc ấy, dùng ngọc bích nước sở treo quanh, đem ngọc mân xứ yên rải khắp, diềm khuynh núi xa, cửa ánh rừng cao, gió tùng vi vu, bóng quế phẳng lặng. Chí nguyên gọi chung, thánh ý khó lường, trong tháp hiện ra, mới thấy điều lành. Chỉ hằng mong phước đức tạo dựng này phò trì Hoàng Đế ở đời, lâu dài đồng với trời đất, muôn xưa chẳng đổi dời. BIỆN NGỤY LỤC (Trọn bộ)  LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 194